Bài 1 khái lược về triết học

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Câu 1: Triết học là gì?

1. Khái niệm triết học:

“Triết” theo nguyên chữ Hán có nghĩa là trí (bao gồm sự hiểu biết sâu rộng về vũ trụ và nhân sinh), theo chữ Hy Lạp là “yêu mến sự thông thái”. Khái niệm “triết học” có những biến đổi nhất định trong lịch sử, nhưng lúc nào cũng bao hàm: yếu tố nhận thức (sự hiểu biết về vũ trụ, về con người và sự giải thích bằng hệ thống tư duy) và yếu tố nhận định (đánh giá về đạo lý để con người có thái độ và hành động).

Khái quát lại, triết học là một hình thái ý thức xã hội; là một hệ thống tri thức lý luân chung nhất của con người về thế giới, về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy. Với quan niệm đó triết học cổ đại không có đối tượng nghiên cứu riêng của mình, mà được xem là “khoa học của mọi khoa học”.

Theo quan điểm mácxít, triết học là một trong những hình thái ý thức xã hội; là học thuyết về những nguyên tắc chung nhất của tồn tại, của nhận thức và của thái độ con người đối với thế giới; là khoa học về những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.

Đặc điểm nổi bật của triết học là cách nhìn chung về thế giới, là sự nghiên cứu thế giới xét như một chỉnh thể, cho nên tri thức triết học trước hết là những tri thức phổ quát. Từ cách xem xét đó, triết học có vai trò giải thích bản chất, nguyên nhân và những quy luật phát triển của thế giới; vừa có vai trò vạch ra con đường, những phương tiện để nhận thức và cải tạo thế giới.

Triết học chỉ xuất hiện khi có hai điều kiện:

Thứ nhất, lao động đã phát triển đến mức có sự phân chia lao động xã hội thành lao động trí óc và lao động chân tay, tạo điều kiện và khả năng nghiên cứu, hệ thống hóa các quan điểm, quan niệm rời rạc lại thành học thuyết, thành lý luận và trên cơ sở đó triết học đã ra đời. Đó là khi chế độ Công xã nguyên thủy đã bị thay thế bằng chế độ Chiếm hữu nô lệ - chế độ xã hội có giai cấp đầu tiên trong lịch sử nhân loại. Điều đó chứng tỏ rằng, ngay từ khi mới ra đời, triết học tự nó đã mang trong mình tính giai cấp, phục vụ cho lợi ích của những giai cấp xã hội nhất định.

Thứ hai, con người đã có sự phát triển cả về thể lực và trí lực, có một vốn hiểu biết nhất định và đạt đến khả năng khái quát hóa, trừu tượng hóa để có thể rút ra được cái chung từ vô số các sự vật và hiện tượng riêng lẻ, xây dựng nên các học thuyết, lý luận.

Điều đó khẳng định, với tư cách là một hình thái ý thức xã hội, triết học ra đời từ thực tiễn và do nhu cầu của thực tiên quy định.

2. Triết học – hạt nhân lý luận của thế giới quan.

* Khái niệm TGQ: Là toàn bộ những quan điểm, quan niệm của con người về thế giới. con người sống trên thế giới dù muốn hay không, họ vẫn phải tìm hiểu về những thứ xung quanh mình. Bao hàm cả những cái thuộc về thế giới tự nhiên, trong xã hội loài người, những cái thuộc về con người, thuộc xã hội loài người.

* Nguồn gốc của thế giới quan: TGQ ra đời từ cuộc sống; nó là kết quả trực tiếp của quá trình nhận thức; song, suy cho đến cùng nó là kết quả của cả những yếu tố khách quan và chủ quan, của cả hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn..

* Nội dung của TGQ : cực kỳ phức tạp, nhưng khái quát lại có 3 mảng nội dung chính :

- Những cái bên ngoài con người : TGQ là TGQ của con người, là kết quả nhận thức của con người, khi con người nhận thức những cái bên ngoài bản thân mình sẽ hình thành những mảng nội dung riêng

- Những cái bên trong -  chính bản thân con người : con người hiểu về mình, nhận thức về mình, có những quan điểm , quan niệm của riêng mình

- Mối quan hệ của con người và cái bên ngoài con người : con người có sự hiểu biết những cái bên ngoài mình, những cái bên trong mình và hiểu mối quan hệ giữa cái bên trong con người về thế giới bên ngoài con người.

* Cấu trúc của TGQ hết sức phức tạp nhưng hai yếu tố cơ bản là Tri thức và Niềm tin. Một TGQ coi là nhất quán, hoàn chỉnh khi tri thức và niềm tin thống nhất với nhau và con người hành động theo niềm tin đó.

STT

Tri Thức

Niềm tin

Hành động

1

+

-

dao động, TGQ không nhất quán

2

-

+

dao động, TGQ không nhất quán

3

+

+

TGQ nhất quán, hoàn chỉnh

-  Con người có Tri thức thiếu niềm tin dẫn đến hành động dao động. ví dụ: nhiều người nói nhiều về CNXH, CNCS rất hay vì người này có tri thức về CNXH, CNCS. Nhưng những người này chưa chắc gì có niềm tin về CNXH, CNCS nên dẫn tới hành động ngược lại với CNXH, CNCS.

- Con người có niềm tin thiếu tri thức dẫn đến hành động dao động. ví dụ: tất cả giáo dân của tôn giáo rất tin vào tôn giáo của họ nhưng họ thiếu tri thức về tôn giáo của mình nên dẫn tới hành động dao động lúc thế này lúc thế khác.

- Con người có tri thức có niềm tin thì dẫn đến TGQ nhất quán, hoàn chỉnh. Nhưng để có tri thức và niềm tin thì trải qua một quá trình học tập, tìm hiểu, nguyên cứu sau đó con người kiểm nghiệm tri thức đó, trải nghiệm tri thức đó thì con người mới có niềm tin về tri thức đó.

* Chức năng của TGQ: TGQ có rất nhiều chức năng như nhận xét, đánh giá, nhận thức, nhận định… nhưng chức năng quan trọng nhất là chức năng định hướng cho hoạt động của con người, định hướng cho toàn bộ cuộc sống của con người. định hướng cho quan hệ con người, định hướng cho hệ giá trị con người, từ cách đi cách đứng của con người. những người có TGQ khác nhau sẽ định hướng cho hoạt động của mình khác nhau. Ví dụ: Mỗi con người có TGQ khác nhau dẫn đến hành động khác nhau. Toàn bộ hành động của con người bị TGQ chi phối. Cuộc sống của chúng ta đang bị TGQ của chúng ta chi phối.

* Những hình thức cơ bản của TGQ: Sự phát triển của TGQ đã là TGQ thể hiện dưới ba hình thức cơ bản: TGQ huyền thoại, TGQ tôn giáo, TGQ triết học.

- TGQ Huyền thoại hình thành và phát triển trong giai đoạn đầu của XH loài người. Đặc trưng cơ bản về TGQ huyền thoại:

  + Về hình thức thể hiện: TGQ huyền thoại thể hiện chủ yếu qua các câu chuyện thần thoại.

  + Về tính chất: Nội cung của truyền thần thoại có sự pha trộn giữa thần và người, giữa thật và ảo, trật tự không gian và thời gian bị đảo lộn không tự giác. Bời vì Công Xã Nguyên Thủy chưa có chữ viết, câu chuyện thông qua truyền miện nên khi truyền miện thì không chính xác, bản thân người dẫn chuyện đưa tình cảm của mình vào đó và càng ngày độ chính xác càng ít. Nội dung câu chuyện càng ngày càng nhiều hơn. Trong tất cả những câu chuyện thần thoại thì thần thoại Hy Lạp thể hiện rõ nét nhất đặc điểm của TGQ. TGQ huyền thoại thể hiện nổi bật nhất trong thần thoại Hy Lạp. Yếu tố thần và người có sự hòa trộn, đan xen.Thần nhưng lại rất người, người nhưng lại rất thần.

  + Về trình độ nhận thức: TGQ huyền thoại thể hiện trình độ nhận thức thấp, chủ yếu ở cấp độ nhận thức cảm tính nên những gì trừu trượng thường được con người hình dung dưới những sự vật hữu hình, cụ thể.

- TGQ tôn giáo: yếu tố niềm tin là yếu tố giữa vai trò tuyệt đối. sức mạnh của thế lực siêu nhiên.

  + Về hình thức thể hiện: TGQ tôn giáo thể hiện qua giáo lý của các tôn giáo.

  + Về tính chất: Niềm tin cao hơn lý trí, nặng tính hư ảo, tuyệt đối hóa yếu tố thần thánh, vai trò con người bị hạ thấp.

  + Về trình độ nhận thức: TGQ tôn giáo ra đời khi trình độ nhận thức và khả năng hoạt động thực tiễn của con người còn rất thấp nên con người bất lực, sợ hãi trước những lực lượng tự nhiên cũng như những lực lượng xã hội dẫn đến việc họ thần thánh hoá chúng, quy chúng về sức mạnh siêu tự nhiên và tôn thờ chúng.Trong tất cả các tôn giáo chỉ có tôn giáo phật giáo là nói đến sức mạnh của con người. con người có thể giải thoát cho mình bằng cách tích nghiệp thiện, tạo nghiệp thiện. do vậy nó không thể tồn tại với tư cách là một TGQ KH

- TGQ triết học là TGQ có hạt nhân lý luận là các học thuyết triết học. TGQ triết học, các học thuyết triết học là bộ phận quan trọng nhất vì nó chi phối tất cả những quan điểm, quan niệm khác của TGQ con người.

  + Về hình thức thể hiện:  TGQ triết học thể hiện chủ yếu qua các học thuyết triết học.TGQ triết học không chỉ thể hiện quan điểm, quan niệm của con người về thế giới mà nó còn chứng minh các quan điểm, quan niệm ấy bằng lý luận.

  + Về tính chất: đề cao vai trò trí tuệ. Cụ thể hơn tính chất của TGQ  triết học bị tính chất của các học thuyết triết học qui định và tất cả các học thuyết triết học điều thể hiện cấp độ nhận thức cao.

  + Về trình độ nhận thức: TGQ triết học ra đời khi nhận thức của con người đã đạt đến trình độ cao của sự khái quát hoá, trừu tượng hoá  và khi các lực lượng xã hội đã ý thức được sự cần thiết phải có định hướng về tư tưởng để chỉ đạo cuộc sống.

Chức năng của TGQ triết học: TGQ triết học có lõi là học thuyết triết học vì vậy chức năng của TGQ triết học chính là chức năng của học thuyết triết học.

Khác với thế giới quan thần thoại và tôn giáo, thế giới quan triết học dựa vào tri thức, là sự diễn tả quan niệm của con nư­ời d­ưới dạng hệ thống các quy luật, phạm trù đóng vai trò là những nấc thang trong quá trình nhận thức thế giới. Với ý nghĩa đó, triết học đ­c xem là hạt nhân lý luận của thế giới quan, là hệ thống các quan điểm lý luận chung nhất về thế giới và về vị trí của con người trong thế giới đó.

3. Vận dụng thế giới quan duy vật biện chứng vào sự nghiệp đổi mới của đất nước ta hiện nay

- Ở Việt Nam, trong khoảng 10 năm sau khi thống nhất đất nước, bên cạnh những thành tựu đạt được chúng ta nôn nóng, tách rời hiện thực, vi phạm nhiều quy luật khách quan trong đó quan trọng nhất là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất nên đã phạm một số sai lầm trong việc xác định mục tiêu, xác định các bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, cải tạo XHCN và quản lý kinh tế.

- Ngày nay, với quan điểm cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, chúng ta xác định: “Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hoà các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội phát huy mọi tiềm năng và mọi nguồn lực của các thành kinh tế và của toàn xã hội” cũng chính là tạo lực lượng vật chất để thực hiện nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới.

- Nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của khoa học trong bối cảnh phức tạp của thế giới hiện nay, đối với cách mạng Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta khẳng định “giáo dục và đào tạo cùng với khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu”. Việc đầu tư có trọng điểm trong hệ thống giáo dục và nghiên cứu khoa học, việc chủ trương xã hội hoá giáo dục để “cả nước trở thành một xã hội học tập”.

Câu 2: Vấn đề cơ bản của triết học. CN duy vật và CN duy tâm

1. Vấn đề cơ bản của triết học. 

Theo Ăngghen, vấn đề cơ bản của triết học là vấn đề về mối quan hệ giữa tồn tại và tư duy, hay là vấn đề về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Vấn đề này có hai mặt:

- Mặt thứ nhất, đó là vấn đề giữa ý thức và vật chất, cái nào có trước? cái nào quyết định cái nào?

- Mặt thứ hai, là vấn đề về khả năng nhận thức của con người.

Tại sao nó là vấn đề cơ bản của triết học:

+ Trên thực tế những hiện tượng chúng ta gặp hàng ngày hoặc là hiện tượng vật chất tồn tại bên ngoài ý thức của chúng ta, hoặc là hiện tượng tinh thần tồn tại trong ý thức của chúng ta, không có bất kỳ hiện tượng nào nằm ngoài hai lĩnh vực ấy.

+ Bất kỳ trường phái triết học nào cũng phải đề cập và giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, giữa tồn tại và tư duy.

+ Kết quả và thái độ của việc giải quyết vấn đề đó quyết định sự hình thành thế giới quan và phương pháp luận của nhà nghiên cứu, xác định bản chất của các trường phái triết học đó, cụ thể:

* Căn cứ vào cách trả lời câu hỏi thứ nhất để chúng ta biết được hệ thống triết học này, nhà triết học này là duy vật hay là duy tâm, họ là triết học nhất nguyên hay nhị nguyên.

*  Căn cứ vào cách trả lời câu hỏi thứ hai để chúng ta biết được nhà triết học đó theo thuyết khả tri hay bất khả tri.

+ Đây là vấn đề chung, nó mãi mãi tồn tại cùng con người và xã hội loài người.

2. Chủ nghĩa duy vật cho rằng bản chất của thế giới là vật chất, nên vật chất có trước, tồn tại độc lập với ý thức và quyết định ý thức; còn ý thức là thuộc tính, là sự phản ánh vật chất. Chủ nghĩa duy vật trải qua nhiều giai đoạn phát triển với năm hình thức lịch sử cơ bản: duy vật cổ đại mang tính chất phác, ngây thơ, xuất phát từ giới tự nhiên để giải thích thế giới. Hạn chế của nó là còn mang tính trực quan, trong khi thừa nhận tính thứ nhất của vật chất đã đồng nhất vật chất với một hay một số chất cụ thể. Ví dụ nh­ư quan niệm của Talét, Hêraclit, Đêmôcrit..., duy vật tầm thường thế kỷ V-XV, duy vật cơ học máy móc thế kỷ XVII-XVIII do ảnh hưởng của Cơ học cổ điển nên chủ nghĩa duy vật thời kỳ này chịu sự tác động mạnh mẽ của ph­ơng pháp t­ duy siêu hình, máy móc - ph­ơng pháp nhìn nhận thế giới trong trạng thái biệt lập, tĩnh tại. Tuy không phản ánh đúng hiện thực, nh­ng CNDV siêu hình vẫn đóng vai trò quan trọng trong cuộc đấu tranh chống lại thế giới quan duy tâm và tôn giáo. Ví dụ nh­ quan niệm của Niutơn, Bêcơn và các nhà duy vật Pháp thế kỷ XVIII, duy vật siêu hình thế kỷ XIX,  duy vật mác-xít (biện chứng) do C. Mác và Ph. Ăngghen sáng lập vào những năm 40 của thế kỷ XIX, sau đó đ­ợc V.I. Lênin tiếp tục phát triển. Với sự kế thừa tinh hoa của các học thuyết triết học tr­ớc đó và vận dụng các thành tựu của khoa học đ­ơng thời, chủ nghĩa duy vật biện chứng ngay từ khi mới ra đời đã khắc phục đ­ợc những hạn chế của chủ nghĩa duy vật tr­ớc đó, thể hiện là đỉnh cao trong sự phát triển của chủ nghĩa duy vật. Nó không chỉ phản ánh đúng đắn hiện thực mà còn là một công cụ hữu hiệu giúp các lực l­ợng tiến bộ trong xã hội cải tạo hiện thực ấy.

3. Chủ nghĩa duy tâm cho rằng ý thức (tinh thần) là bản chất của thế giới, nên ý thức là cái có trước và quyết định vật chất; còn vật chất là cái có sau, là sự “biểu hiện” của ý thức. Chủ nghĩa duy tâm có hai hình thức cơ bản: duy tâm chủ quan (coi ý thức là bản chất của thế giới, nhưng đó là ý thức của con người nằm trong con người) và duy tâm khách quan (cũng coi ý thức là bản chất của thế giới, nhưng đó là một thực thể tinh thần tồn tại bên ngoài con người và độc lập với con người).

Nguồn gốc của chủ nghĩa duy vật: là sự phát triển của tri thức, của khoa học; là lợi ích và cuộc đấu tranh của các giai cấp, các lực lượng xã hội tiến bộ, cách mạng ở mỗi giai đoạn phát triển của lich sử. Nguồn gốc của chủ nghĩa duy tâm: là sự tuyệt đối hóa một hình thức hay một giai đoạn của quá trình nhận thức dẫn đến tách nhận thức và ý thức khỏi thế giới hiện thực khách quan; thông thường là lợi ích và sự phản kháng của các giai cấp, các lực lượng bảo thủ trước tiến bộ xã hội.

Toàn bộ các nhà triết học duy vật và đa số những nhà triết học duy tâm đều thừa nhận rằng thế giới có thể nhận thức được. Nhưng các nhà duy vật cho rằng, nhận thức là sự phản ánh thế giới vật chất khách quan trong bộ óc con người. Còn các nhà duy tâm thì cho rằng, nhận thức chỉ là sự ý thức về bản chất ý thức.

Trong lịch sử triết học luôn diễn ra cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật, tạo nên động lực bên trong cho sự phát triển của t­ duy triết học. Đồng thời, nó biểu hiện cuộc đấu tranh về hệ t­ư t­ởng giữa các giai cấp đối lập trong xã hội.

Bên cạnh những nhà triết học nhất nguyên (duy vật và duy tâm) giải thích thế giới từ một bản nguyên, hoặc vật chất hoặc tinh thần, còn có những nhà triết học nhị nguyên luận. Nhị nguyên luận cho rằng thế giới được sinh ra từ hai bản nguyên độc lập với nhau, bản nguyên vật chất sinh ra các hiện tượng vật chất, bản nguyên tinh thần sinh ra các hiện tượng tinh thần. Nhị nguyên luận thể hiện lập trường dung hòa giữa duy vật và duy tâm, đó chỉ là khuynh hướng nhỏ trong lịch sử triết học và trong cuộc đấu tranh triết học nó càng trở nên gần với chủ nghĩa duy tâm.

Câu 3: Vai trò của triết học trong đời sống xã hội.

Vai trò của triết học trong đời sống xã hội đ­ợc thể hiện qua chức năng của triết học như chức năng nhận thức, chức năng đánh giá, chức năng giáo dục, như­ng quan trọng nhất là chức năng thế giới quan và chức năng phư­ơng pháp luận.

1. Chức năng thế giới quan và ph­ương pháp luận của triết học

            Trong cuộc sống của con ng­ời và xã hội loài ngư­ời, thế giới quan đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Bằng một hệ thống quan niệm về thế giới, con ng­ười tìm cách khám phá những bí mật của giới tự nhiên. Có thể ví thế giới quan như­ một thấu kính, qua đó con ng­ười nhìn nhận, xét đoán mọi sự vật, hiện t­ợng của thế giới xung quanh và tự xem xét chính mình. Từ đó, xác định thái độ, cách thức hoạt động, sinh sống của chính mình. Thế giới quan đúng đắn là tiền đề để xác lập nhân sinh quan tích cực.

Triết học ra đời với tư­ cách là hạt nhân lý luận của thế giới quan, làm cho thế giới quan phát triển như­ một quá trình tự giác dựa trên sự tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và tri thức do các khoa học đem lại. Đó là chức năng thế giới quan của triết học.

Sự phát triển của thực tiễn và khoa học đã dẫn đến sự ra đời của một lĩnh vực đặc thù của khoa học lý thuyết và triết học - Đó là ph­ương pháp luận. Phương pháp luận là lý luận về phương pháp; là hệ thống những quan điểm chỉ đạo việc tìm tòi, xây dựng, lựa chọn và vận dụng các phương pháp.

Xét theo phạm vi tác dụng, phư­ơng pháp luận  có thể chia thành ba cấp độ:

+ Phương pháp luận ngành (hay phư­ơng pháp luận bộ môn) là ph­ơng pháp luận của một ngành khoa học cụ thể nào đó.

+ Phương pháp luận chung là phư­ơng pháp luận đ­ợc sử dụng cho một số ngành khoa học.

+ Phương pháp luận chung nhất là phư­ơng pháp luận đ­ược dùng làm điểm xuất phát cho việc xác định các ph­ơng pháp luận chung, các phương pháp luận ngành và các phương pháp hoạt động khác của con ng­ười.

Với tư­ cách là hệ thống tri thức chung nhất của con ngư­ời về thế giới và vai trò của con ng­ời trong thế giới đó; với việc nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư­ duy, triết học thực hiện chức năng ph­ơng pháp luận chung nhất. Mỗi quan điểm lý luận của triết học đồng thời là một nguyên tắc trong việc xác định ph­ơng pháp, là một lý luận về phư­ơng pháp.

2. Vai trò của triết học Mác – Lênin

Triết học Mác - Lênin kế thừa và phát triển những thành tựu quan trọng nhất của t­ư duy nhân loại, sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng trong việc xem xét tự nhiên cũng như­ đời sống xã hội và t­ư duy con ngư­ời.

Trong triết học Mác-Lênin, lý luận duy vật biện chứng và phư­ơng pháp biện chứng duy vật thống nhất hữu cơ với nhau. Sự thống nhất đó làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên triệt để và phép biện chứng trở thành lý luận khoa học. Nhờ đó, triết học Mác - Lênin có khả năng nhận thức đúng đắn tự nhiên, xã hội và t­ư duy. Phép biện chứng duy vật không chỉ là lý luận về ph­ơng pháp mà còn là lý luận về thế giới quan. Hệ thống quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng trở thành nhân tố định h­ớng cho hoạt động nhận thức và thực tiễn, trở thành những nguyên tắc xuất phát điểm của ph­ơng pháp luận.

Như­ vậy, trong triết học Mác - Lênin, thế giới quan và ph­ơng pháp luận thống nhất hữu cơ với nhau, làm cho triết học Mác trở thành chủ nghĩa duy vật hoàn bị, một "công cụ nhận thức vĩ đại".

Triết học Mác ra đời đã làm thay đổi mối quan hệ giữa triết học và khoa học; sự phát triển của khoa học tạo điều kiện cho sự phát triển của triết học. Ngư­ợc lại, triết học Mác - Lênin đem lại thế giới quan và ph­ơng pháp luận đúng đắn cho sự phát triển khoa học.

Ngày nay, khi khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ thì sự gắn bó giữa triết học Mác - Lênin và khoa học càng trở nên đặc biệt quan trọng. Lý luận triết học sẽ khô cứng và lạc hậu nếu tách rời các tri thức khoa học chuyên ngành. Ng­ợc lại, nếu không đứng vững trên lập tr­ờng duy vật khoa học và thiếu t­ư duy biện chứng thì tr­ớc những phát hiện mới, ng­ời ta dễ mất ph­ơng h­ớng và đi đến những kết luận sai lầm về mặt triết học.

Đời sống xã hội hiện đại đang có những biến đổi sâu sắc; việc nắm vững triết học Mác - Lênin giúp chúng ta tự giác trong quá trình trau dồi phẩm chất chính trị, tinh thần và năng lực t­ư duy sáng tạo của mình, tránh những sai lầm do chủ nghĩa chủ quan và phương pháp tư­ duy siêu hình gây ra.

Tuy nhiên, triết học Mác - Lênin không phải là đơn thuốc vạn năng có thể giải quyết mọi vấn đề trong cuộc sống. Bởi vậy trong hoạt động nhận thức và thực tiễn cần tránh cả hai khuynh h­ớng sai lầm: hoặc xem th­ờng triết học hoặc là tuyệt đối hóa vai trò của triết học. Nếu xem th­ờng triết học sẽ rơi vào tình trạng mò mẫm, dễ bằng lòng với những biện pháp cụ thể nhất thời, dễ mất ph­ơng h­ớng, thiếu chủ động và sáng tạo. Còn nếu tuyệt đối hóa vai trò của triết học sẽ sa vào chủ nghĩa giáo điều, áp dụng máy móc những nguyên lý, quy luật chung mà không tính đến tình hình cụ thể trong những trư­ờng hợp riêng, dẫn đến những vấp váp, dễ thất bại.

Câu 4: Siêu hình và biện chứng

1. Phân tích sự đối lập giữa phương pháp siêu hình và phương pháp biện chứng

            Phương pháp siêu hình là cách xem xét thế giới trong sự cô lập tác biệt lẫn nhau hoặc không vận động, hoặc không phát triển, hoặc vận động và phát triển theo chu kỳ khép kín.

            Phương pháp biện chứng là cách xem xét thế giới trong mối liên hệ phổ biến quy định ràng buộc nhau và luôn vận động và luôn phát triển.

            Sự đối lập giữa phương pháp siêu hình và phương pháp biện chứng diễn ra trong cách giải quyết mọi vấn đề triết học, song có thể khái quát ở những nội dung chính sau đây:

            Thứ nhất: Phương pháp siêu hình xem xét thế giới trong trạng thái cô lập của các sự vật hiện tượng; cái này được xét tách rời cái kia mà không thừa nhận rằng giữa chúng có sự ràng buộc lẫn nhau. Vì vậy phương pháp siêu hình chỉ nhìn thấy tính cá biệt mà không nắm được mối liên hệ, thấy được sự khác biệt mà không nắm được sự thống nhất giữa các sự vật hiện tượng; chỉ thấy cái bộ phận, cái đơn nhất, cái riêng mà không nắm được cái toàn thể, cái phổ biến, cái chung. Trái lại, phương pháp biện chứng xem xét thế giới trong mối liên hệ, ràng buộc giữa các yếu tố của nó và với cái khác. Vì vậy, phương pháp biện chứng nhìn nhận sự vật toàn diện hơn, thấy được cả sự khác biệt và sự thống nhất giữa các sự vật, hiện tượng, nắm được cả cải bộ phận và cái toàn thể, cái đơn nhất và cái phổ biến, cái riêng và cái chung.

            Thứ hai: Phương pháp siêu hình xem xét thế giới trong trạng thái tĩnh; sự vật hiện tượng chỉ được xét như cái gì ổn định nằm ngoài sự vận động và phát triển của chúng. Cách xem xét này cho phép phương pháp siêu hình nắm được tính xác định và ổn định của sự vật, hiện tượng, nhưng mặt khác cũng dẫn đến những sai lầm nghiêm trọng: đó là quan điểm phủ nhận sự vận động, phát triển của thế giới; là quan điểm cho rằng thế giới có sự tăng giảm về lượng, sự lặp lại, mà không có sự chuyển hóa về chất, không có sự xuất hiện cái mới thay thế cái cũ, cái lạc hậu. Vì vậy phương pháp siêu hình không thể vạch ra được bản chất thật sự của mọi sự vật, hiện tượng; không vạch ra được nguồn gốc, động lực, quy luật và xu hướng vận động phát triển của chúng. Trái lại, phương pháp biện chứng xem xét thế giới trong trạng thái vận động, chuyển hóa không ngừng; sự vật, hiện tượng nào cũng được xét như một quá trình, trong sự tự vận động, tự phát triển của nó. Thừa nhận sự phát triển, phương pháp biện chứng cho rằng: không chỉ có sự tăng giảm về lượng mà còn có sự phát triển về chất; có sự ra đời của cái mới thông qua phủ định cái cũ; nguồn gốc, động lực của mọi sự phát triển là cuộc đấu tranh giữa các mặt đối lập của sự vật, hiện tượng. Nhờ cách xem xét ấy, phương pháp biện chứng, vạch ra được bản chất đích thực của sự vật, hiện tượng; nắm bắt được nguồn gốc và động lực bên trong của mọi sự vận động, phát triển.

Vì vậy, Lênin nhận xét rằng chỉ có quan điểm biện chứng về sự phát triển là sâu sắc, sinh động và chỉ có phép biện chứng mới là chìa khóa để nghiên cứu sự phát triển.

Tuy nhiên, không được tuyệt đối hóa phép biện chứng mà phủ nhận vai trò của phép siêu hình. Trong thực tế, có những mối liên hệ, có những mặt, có những lúc đặc biệt lại rất cần đến phép siêu hình.

2. Các giai đoạn phát triển cơ bản của phép biện chứng.

Phương pháp biện chứng đã phát triển qua 3 giai đoạn và đc thể hiện qua 3 hình thức lịch sử của phép biện chứng: phép biện chứng tự phát, phép biện chứng duy tâm, phép biện chứng duy vật

- Trong phép biện chứng tự phát cổ đại, các nhà biện chứng cả phương Đông và phương Tây đã thấy các sự vật, hiện tượng trong vũ trụ sinh thành, biến hóa trong những sợi dây liên hệ vô cùng tận. Nhưng đó mới chỉ là cái nhìn trực quan, chưa phải là kết của của nghiên cứu và thực nghiệm khoa học.

 - Trong phép biện chứng duy tâm mà đỉnh cao là triết học cổ điển Đức (người khởi xướng là Cantơ và người hoàn thiện là Hêghen) lần đầu tiên trong lịch sử tư duy nhân loại, các nhà triết học Đức đã trình bày một cách có hệ thống những nội dung quan trọng của phương pháp biện chứng. Nhưng đó là phép biện chứng duy tâm, bởi nó bắt nguồn từ tinh thần và kết thúc ở tinh thần.

 - Trong phép biện chứng duy vật, C.Mác và Ph.Ăngghen đã gạt bỏ tính chất thần bí, kế thừa những hạt nhân hợp lý trong phép biện chứng duy tâm của Heghen để xây dựng phép biện chứng duy vật với tính cách là học thuyết về mới liên hệ phổ biến và về sự phát triển dưới hình thức hoàn bị nhất.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#triết