Bài 18

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Bài 18.

NHIỄM HIV/ AIDS

    Ts,BsCK1 Nguyễn Lô

Mục tiêu      

1. Tư vấn được cho người nhiễm HIV, thân nhân và những người có nguy cơ nhiễm HIV về

đường lây truyền, cách phòng chống lây nhiễm.

2. Theo dõi và săn sóc có hiệu quả người nhiễm HIV trong mỗi giai đọan

Nội dung

I. ĐỊNH NGHĨA  

Nhiễm  HIV  là  tình  trạng  có  virus  HIV  trong  cơ  thể.  Tuy  chậm,  nhưng  chúng  ngày

càng tấn công một số cơ quan và chức năng của cơ thể, như hệ thần kinh trung ương, và đặc

biệt hệ miễn dịch, làm cơ thể mất dần khả năng miễn dịch và cuối cùng tử vong do nhiễm

trùng hay do chính virus HIV.

Đến nay, là một bệnh chưa có thuốc điều trị thật sự, chỉ kìm hãm được tiến triển của

bệnh,  và  tử  vong  chắc  chắn  khi  không  có  thuốc  hay  sự  kìm  hãm  mất  hiệu  quả  do  nhiều

nguyên nhân khác nhau.

II. SƠ LƢỢC LỊCH SỬ 

Những trường hợp nhiễm trùng cơ hội hay u Kaposi do suy giảm miễn dịch đầu tiên

được ghi nhận chính thức tại Hoa kỳ năm 1981. Năm 1983, Luc Montagnier (Pháp) phân lập

được HIV 1, năm sau 1984, tìm được HIV2.

Bệnh được nhanh chóng lan truyền và phát hiện lần lượt trên thế giới một cách nhanh

chóng, đặc biệt các nước châu Phi, Mỹ và châu Âu trong cuối thập niên 1980, lan đến châu Á

muộn hơn, nhưng hiện nay có nguy cơ tăng nhanh hơn các châu lục khác, sau châu Phi.

Trên lâm sàng, nhiều phương thức để cố gắng hệ thống hóa biểu hiện hết sức đa dạng

của căn bệnh nầy. Những cách xếp lọai của hội nghị Bangui  (1985), của Walter Reed (1986),

của CDC (1987), của WHO rồi của CDC cải tiến (1993) với những ưu và khuyết điểm riêng,

lần lượt ra đời để giúp cho các nhà lâm sàng, dịch tễ và miễn dịch, thống nhất quan điểm,

phân lọai và theo dõi bệnh nhân.

Về điều trị, cũng có những tiến bộ vượt bậc. Thuốc kháng HIV đầu tiên (AZT) được

thử nghiệm (1985) rồi nhanh chóng áp dụng (1987). Tiếp theo các nhóm thuốc kháng HIV

khác lần lượt phát hiện. Kể từ 1995, liệu pháp kết hợp 3 thuốc kháng HIV đã đem lại nhiều

hiệu quả trong việc chận đứng tiến triển của bệnh, thậm chí có hy vọng biến nhiễm HIV thành

một bệnh mạn tính suốt đời. Tuy nhiên do giá thành quá đắt, tác dụng phụ và sự xuất hiện

virus  kháng  thuốc  khi  dùng  lâu  dài  làm  cho  hiệu  quả  áp  dụng  thực  tế  trên  thế  giới  còn  rất

nhiều hạn chế.

III. TÁC NHÂN GÂY BỆNH  và SINH LÝ BỆNH ĐẠI CƢƠNG

Virus HIV hiện nay được phát hiện có 2 lọai HIV1 và HIV2, khác nhau khá nhiều về một số kháng nguyên. Tuy nhiên về cơ chế gây bệnh và diễn tiến lâm sàng không khác nhau lắm. Nhiễm HIV2 có tiến triển đến giai đọan AIDS chậm hơn HIV1. 

Cả hai lọai đều là những Retrovirus, với acid nhân là RNA, chúng có khả năng tổng

hợp thành DNA từ những mã di truyền của RNA nhờ vào một men đặc biệt gọi là men sao mã

ngược (reverse transcriptase, viết tắt là RT). Sự sao mã ngược nầy thường không hòan chỉnh,

hay có sai sót so với nguyên bản ban đầu. Điều nầy, giúp cho virus thay đổi kháng nguyên,

tạo nên nhiều biến chủng khác nhau, giúp cho virus thóat khỏi sự tìm diệt của hệ miễn dịch.

Virus được bọc bởi một lớp vỏ ngòai, gồm các glycoprotein 120 và glycoprotein 41, có khả năng nhận diện các receptor là nhóm CD4 và các coreceptor khác. Hai coreceptor nổi tiếng của HIV là những thụ thể của chemokine, một có cấu trúc dạng –CCR5, một có cấu trúc –CXCR4. Một số người (thường thuộc chủng tộc Cacause, da trắng), không có thụ thể CCR5, nên miễn dịch một phần với virus HIV, điều nầy giải thích những trường hợp nhiễm HIV tiễn triển kéo dài đến 15-16 năm.

Một nhóm men quan trọng của virus là các men tiêu proteine (các protease). Các men

nầy giúp các thành phần virus vừa được tổng hợp, nhóm lại thành những virus hòan chỉnh và

phá vỡ tế bào vật chủ để phóng thích các virus thế hệ sau ra bên ngòai, tiếp tục tấn công các tế

bào đích khác. Ức chế được nhóm men nầy sẽ ức chế được sự nhân lên của virus.

Virus HIV không có khả năng tồn tại lâu ở ngọai cảnh. Chúng bị diệt bởi nhiệt độ > 56

độ  C,  với  cồn,  với  các  chất  tẩy  và  diệt  trùng  thông  thường  như  dung  dịch  cloramin,  nước

Javel, hơi nước nóng.

Tuy nhiên trong cơ thể người nhiễm, virus khó bị tiêu diệt. Chúng tấn công các tế bào

có mang phân tử CD4  cùng với các phân tử có ái tính với chemokin như các tế bào lympho T

giúp đỡ (được gọi là các tế bào CD4+), tế bào Langerhans dưới da, các tế bào đệm (glial cell) ở  hệ  thần  kinh,  các  đại  thực  bào,  các  tế  bào  mono  và  các  tế  bào  lympho  ở  vùng  mầm  của  hạch bạch huyết. 

Chúng ẩn trong các hạch bạch huyết ở giai đọan đầu, khả năng thay đổi kháng nguyên

thường xuyên giúp tránh được các kháng thể và các tế bào giết đang tìm cách diệt chúng. Sau

đó, nhờ vào chức năng trình diện kháng nguyên của các đại thực bào, chúng được tiếp cận với

các tế bào có receptor thích hợp, đặc biệt tế bào T CD4+, xâm nhập và phá hủy tế bào nầy.

Tế bào T CD4+ là tế bào quan trọng trong điều hòa miễn dịch của cả hai hệ miễn dịch thể dịch và miễn dịch trung gian tế bào. Sự giảm dần số lượng T CD4+ làm cơ thể mất khả năng miễn dịch với ngọai cảnh, dẫn đến nhiễm trùng dễ dàng và tử vong.

Bản  thân  virus  HIV  cũng  có  thể  tấn  công  một  số  cơ  quan  có  nhiều  tế  bào  mang

receptor CD4 như tế bào đệm thần kinh, gây nên các biến chứng thần kinh quan trọng.

IV. DỊCH TỄ HỌC 

Từ những phát hiện đầu tiên năm 1981 tại Hoa kỳ, bệnh nhanh chóng lan truyền khắp thế giới theo chân sự nghiện chích ma túy và mãi dâm.Từ đó lan đến cho người hôn phối và trẻ em ra đời từ những người mẹ HIV (+). Một số trường hợp lây qua đường truyền máu và chế phẩm của máu, nhưng đường nầy ngày càng hạn chế  do những biện pháp phát hiện HIV trước khi cho máu ngày càng tốt hơn và hầu như được xử dụng bắt buộc.

Báo cáo của WHO vào 31/12/2007: Uớc tính toàn thế giới có khoảng 65 triệu người nhiễm HIV, tử vong chừng 33,2 triệu, Phân bố theo địa lý như sau

Châu Mỹ : 3. 000.000

Châu Âu:1. 880.000 trong đó đông Âu 1.3 triệu

Châu Phi vùng hạ sa mac Sahara: 25.000.000

Bắc Phi và Trung Đông: 480.000

Châu Úc: 32.000

Châu Á : chủ yếu ở Nam Á và ĐNA: 7.400.000.

Tuy nhiên, số người nhiễm mới ở các nước phát triển như Tây Âu và  Bắc Mỹ ngày

càng  giảm,  trong  khi  đó  tăng  rất  nhanh  ở  các  nước  Đông  Âu  và  Đông  Nam  Á.  Vùng  biển

Caribe và châu Phi vùng hạ sa mạc Sahara vẫn  còn giữ ở mức độ cao. 

Ở Việt Nam, báo cáo của Ủy ban phòng chống HIV/AIDS quốc gia ước tính đến cuối

2007 có khoảng 400.000 nguời nhiễm HIV (tỷ lệ 1/200 dân số). Các tỉnh và thành phố có số

lượng  nhiễm  HIV  cao    :  TP    HCM,  Hà  nội,  An  giang,  Hải  phòng,  Quảng  ninh,  Vũng  tàu,

Đồng tháp, Đống nai, Nghệ an, Cần thơ

Nguồn lây : Hiện nay HIV chỉ có vật chủ là người. Các virus tương tự (như  SIV), có

thể gây bệnh cho một số khỉ, nhưng lại không gây bệnh cho người. Ngược lại, HIV1 và HIV2

cũng không gây bệnh cho các động vật  khác, kể cả các lọai khỉ. Tuy  nhiên, mô hình mắc

bệnh ở khỉ tương tự nhiễm HIV ở người và là  mô hình tốt để nghiên cứu HIV ở người.

Đường lây truyền:  Hiện nay, HIV lây qua ba đường :

- Đường máu: Máu, huyết tương, các dịch cơ thể người nhiễm HIV đưa trực tiếp vào

máu hay qua da và niêm mạc bị xây xát đều có thể lây bệnh. Tuy nhiên, mức độ lây tùy thuộc

vào nồng độ virus. Nồng độ nầy thay đổi tùy theo giai đọan của bệnh nhân, tùy theo lọai dịch.

Các dịch ngọai tiết như mồ hôi, nước bọt, đàm, nước tiểu, phân...có mật độ virus thấp. Chỉ lây

khi có cơ hội tiêp xúc rất lâu hoặc rất nhiều lần và nơi tiếp xúc là da hay niêm mạc đã bị xây

xát. Dịch sinh dục và các dịch kín trong cơ thể (dịch não tủy, dịch khớp, máu, huyết tương...)

có mật độ virus cao. Nhưng trừ quan hệ  tình  dục, đa số lây qua các dịch nầy là tai nạn nghề

nghiệp của ngành y tế.

Trong thực tế, lây truyền qua đường máu chủ yếu xẩy ra ở những  người nghiện chích

ma túy dùng chung bơm và kim tiêm. Lây nhiễm từ truyền máu hay các chế phẩm của máu

ngày càng ít, nhưng không triệt tiêu hẳn vì không thể phát hiện được nhiễm HIV trong thời kỳ

cửa sổ. Các xây xát qua da và niêm mạc do dùng chung những dụng cụ như dao cạo râu, dụng

cụ cắt móng tay, dụng cụ y tế không thanh trùng  kỹ.. là những đường  lây cần lưu ý. Đến nay

chưa có bằng chứng lây qua  các côn trùng hút máu (muỗi, rận, rệp...)

- Ðường tình dục:  Là con đường lây truyền khá  phổ biến và khó ngăn cản do thiếu 

hiếu  biết. Nguy cơ lây lan tùy thuộc vào nhiều yếu tố: Nguy  cơ lớn hơn khi giao hợp qua

đường trực tràng, sang chấn khi giao hợp,  có bệnh hoa liễu khác ở bộ phận sinh dục. Nam

thường gây nhiễm cho nữ  nhiều hơn.

- Lây từ mẹ qua con: có thể lây trong giai đọan thai kỳ, trong  thời gian chu sinh và

trong khi cho con bú dù rằng mật độ virus trong sữa mẹ thấp.

V. CÁC GIAI ĐOẠN NHIỄM HIV 

1. Giai đọan sơ nhiễm

Giai đọan nầy tính từ lúc virus HIV xâm nhập vào đến lúc cơ thể có kháng thể chống

lại    HIV  (chuyển  đổi  huyết  thanh).  Thường  kéo  dài  4-6  tuần.  Trong  giai  đọan  nầy,  mật  độ

virus rất cao, nên rất dễ lây nhiễm. Số  lượng tế bào T CD4+ giảm thấp.

Giai đọan nầy, bệnh nhân có một số biểu hiện lâm sàng của nhiễm virus chung chung

như sốt, đau cơ, nhức đầu, đau khớp, nổi hạch. Có khi  biểu hiện viêm phổi, rối lọan tiêu hóa,

thậm chí những triệu chứng thần  kinh. Những biểu hiện sơ nhiễm có giá trị tiên lượng thời

gian tiến đến  AIDS. Biểu  hiện  càng nặng, càng nhanh tiến đến giai đọan cuối. 

Trong  giai  đọan  nầy,  các  xét  nghiệm  tìm  kháng  thể  đều  âm  tính  vì  cơ  thể  chưa  sản

xuất. Chỉ phát hiện virus (phương pháp PCR) hay các sản phẩm của HIV (gp 20, gp40..). Ở

nước ta, các xét nghiệm nầy chưa phổ  biến.

Cuối giai đọan sơ nhiễm, lượng virus trong máu giảm xuống, và kháng thể kháng HIV

bắt đầu xuất hiện. Lúc nầy các xét nghiệm tìm trực tiếp virus có thể âm tính do lượng virus

quá thấp hay do virus ẩn trong các hạch bạch huyết. Nhưng các xét nghiệm tìm kháng thể vẫn

chưa dương tính. Giai đọan âm tính giả nầy gọi là giai đọan cửa sổ.

Biểu đồ 1: Diễn biến số tế bào T CD4+ và nồng độ HIV ở ngƣời nhiễm HIV

2. Giai đọan tiềm ẩn

Sau thời kỳ sơ nhiễm, cơ thể bắt đầu tạo kháng thể tìm diệt HIV. Trong giai đọan nầy,

virus  thường  khu  trú  trong  vùng  mầm  (germinative  zone)  của  các  hạch  bạch  huyết.  Chúng

thay đổi kháng nguyên và ở trong  các đại thực bào nên tránh được sự tìm diệt của các tế bào

gây độc và tế bào giết. Mật độ virus lúc nầy trong máu thấp, nhưng nguy hiểm vì người nhiễm

không có biểu hiện gì, vẫn tham gia sinh họat bình thường trong xã hội, tiếp tục họat động

tình dục nên làm tăng khả năng truyền bệnh.

Bên trong cơ thể virus tiếp tục sinh sản và hủy họai dần tế bào T4. Sau  một giai đọan

khá dài, thay đổi tùy từng cá nhân (Nhanh nhất là 3 năm, dài nhất có thể đến 16 năm. Trung

bình 10  năm), lượng tế bào T4 không còn khả năng bù trừ sự hủy diệt của virus sẽ có biểu

hiện suy giảm miễn dịch. Nồng độ virus trong máu tăng dần theo thời gian (do đó khả năng

lây càng mạnh hơn). Do được bù trừ, lượng T4 ở giai đọan nầy vẫn nằm trong giới hạn bình

thường. Giai đọan nầy có thể phát hiện nhiễm HIV bằng  các  phương pháp tìm kháng thể,

hiện đang xử dụng ở nước ta.

3. Giai đọan tiền  AIDS  (Trước đây  gọi là  giai đọan có biểu hiện các phức hợp liên quan đến AIDS):

Giai đọan nầy, bệnh nhân thường có các biểu hiện lâm sàng với những hội chứng gợi

ý đến nhiễm HIV: sốt kéo dài, tiêu chảy trên 1 tháng, sụt cân 10% trọng lượng cơ thể MÀ

KHÔNG  TÌM  ĐƯỢC  LÝ  DO  nào  khác  (lao,  cường  giáp,  ung  thư,  đái  đường  không  điều trị...). Bệnh nhân thường bị nấm candida xoang miệng, ở âm đạo, đáp ứng kém với điều trị. Phụ nữ có thể lọan sản hay K cổ tử cung tại chỗ, viêm vòi trứng đưa đến áp xe buồng trứng-vòi trứng.

Zona nhiều vùng trên cơ thể, tái phát nhiều lần là một bệnh hay gặp ở giai đọan nầy.

Giai đọan nầy T4 đã giảm nhưng còn cao hơn 200/mm3.

4. Giai đọan AIDS

Theo  quy  định  của  CDC,  mọi  trường  hợp  có  T4  <  200/mm3  đều  xếp  vào  giai  đọan

AIDS. Hệ miễn dịch lúc nầy không còn có khả năng bảo vệ cơ thể. Trên lâm sàng bệnh nhân

thường mắc các nhiễm trùng cơ hội, một số bệnh ác tính có thể có nguồn gốc virus (K cổ tử

cung xâm lấn, u Kaposi). Một số có các biến chứng do chính virus HIV gây ra (viêm não do

HIV..).Các bệnh nầy được xếp vào nhóm C trong phân lọai của CDC 1993. Các bệnh cơ hội

thường khó chữa, và dễ kháng thuốc. Nếu chữa khỏi thường hay tái phát, đòi hỏi phải uống

thuốc phòng đều đặn và suốt đời. Bệnh nhân lại thường mắc nhiều bệnh nhiễm trùng cùng lúc

cho nên rất khó điều trị và bệnh nhân thường tử vong .

Giai đọan nầy mật độ virus trong máu rất cao. Nhưng do không còn họat động được

nên nguy cơ lây lan cho xã hội giảm nhiều. Chủ yếu lây cho bạn cùng tiêm chích hay do tai

nạn nghề nghiệp y tế.

Trong bối cảnh ở nước ta, người nhiễm HIV thường có những biểu hiện nhiễm trùng

cơ hội. Một số có biểu  hiện ung thư như lymphoma, K cổ tử cung xâm lấn. Nhưng u Kaposi,

dù rất phổ biến ở các nước, ở nươc ta chưa thấy báo cáo. Các bệnh do chính virus HIV thì

chưa có phương tiện để khẳng định. Vì thế, ở đây chỉ đề cập đến nhiễm trùng cơ hội.

VI. NHIỄM TRÙNG CƠ HỘI  (NTCH)

1. Định nghĩa 

NTCH  là  những  bệnh  chỉ  xẩy  ra  trên  những  cơ  địa  suy  giảm  miễn  dịch  (leucemie,

dùng thuốc ức chế miễn dịch, hay nhiễm HIV giai đọan AIDS). Trên cơ thể bình thường các

tác nhân gây bệnh thường bị hệ miễn dịch cơ thể tiêu diệt.

Tuy nhiên, khái niệm nầy hiện nay được mở  rộng gồm cả những bệnh nhiễm trùng ở

những bệnh nhân suy giảm miễn dịch do AIDS mặc dù chúng cũng có thể gây bệnh ở ngừơi

bình  thường  như  lao,  viêm  phổi  vi  khuẫn  thông  thường.  Điều  khác  biệt  là  trên  bệnh  nhân

AIDS, các bệnh nầy thường tiến triển nhanh chóng, đáp ứng chậm với kháng sinh đặc hiệu,

tái phát nhiều lần..

2. Một số bệnh cơ hội hay gặp ở  Việt Nam 

Danh sách bệnh cơ hội trong AIDS rất nhiều, và ngày càng được bổ sung thêm. Nó tùy

thuộc vào môi trường, tập quán, cơ địa của bệnh nhân và vùng bệnh nhân sống. Chúng tôi chỉ

kể đến một số bệnh hay gặp ở nước ta.

2.1. Lao 

Lao  là  bệnh  cơ  hội  hàng  đầu  ở  người  nhiễm  HIV  nước  ta.  Lao  làm  tiến  triển  HIV

nhanh hơn đến giai đọan cuối. Ngược lại, nhiễm HIV làm lao dễ lan tỏa tòan thân, khó điều trị

và làm xuất hiện các chủng kháng thuốc nhiều hơn.

2.2. Nấm Candida 

 Hay xuất hiện ở xoang miệng và âm đạo. Tuy nhiên khi tình trạng miễn dịch giảm,

nấm  lan  đến  thực  quản,  gây  nuốt  đau,  khó  nuốt  hay  lan  vào  nhu  mô  phổi  ...thậm  chí  gây

nhiễm nấm huyết, lan đến các nội tạng khác. Điều trị rất khó.

2.3. Nhiễm nấm Penicillum marnerffei 

 Lọai  nấm  nầy  chỉ  phổ  biến  ở  Đông  nam  Á,  có  nguồn  gốc  từ  chuột  đồng  (Bambou

Rat).  Ở  Thái  Lan  được  báo  cáo  là  NTCH  thứ  ba.  Ở  Việt  Nam,  tuy  chưa  có  công  bố  chính

thức, nhưng đã phát hiện nhiều trường hợp ở cả ba miền. Thường có biểu hiện nhiễm nấm

huyết, phổi và da. Ở da, biểu hiện dễ lầm với u nhầy lây (Molluscum contagium). Điều trị khó

khăn với thuốc kháng nấm. Tử vong cao. Điều trị với Itraconazol tiêm TM 400mg/ngày khi

có nhiễm nấm huyết hay nội tạng. Uống thường cho kết quả chậm hơn. Sau khi điều trị khỏi

phải uống thuốc phòng (Fluconazole suốt đời cùng với thuốc kháng HIV.

2.4. Viêm phổi do P. jeroveci (trước đây gọi là Pneumocystis carinii ) 

Là bệnh cơ hội phổ biến ở các nước Châu Âu và Mỹ. Ở nước ta  báo cáo chính thức

chỉ có 5 trường hợp ở thành phố HCM. Trong thực tế chúng ta có thể gặp nhiều trường hợp

viêm phổi kẽ, không đáp ứng với các kháng sinh phổ rộng và các thuốc kháng nấm, nhưng

đáp ứng với Bactrim liều cao. Có thể  đây là do nhiễm P. jeroveci. Đây là một bệnh phòng

được. Khi bệnh nhân có TCD4+ < 200/mm3. Cần cho dùng thuốc nầy hàng ngày để dự phòng.

2.5 Tiêu chảy 

Do  rất  nhiều  nguyên  nhân.  Với  các  vi  khuẩn  thông  thường,  dù  có  đáp  ứng  với

Fluoroquinolone phối hợp với Metronidazole, bệnh thường tái phát nhiều lần với khoảng cách

rất gần. Có trường hợp chỉ đáp ứng với Bactrim . 

2.6. Viêm màng não do nấm Crytococcus neoformant 

Cần  cảnh  giác  khi  bệnh  nhân  HIV(+)  có  hội  chứng  màng  não.  Cần  cho  xét  nghiệm dịch  não  tủy  (nhuộm  bằng  mực  tàu  để  phát  hiện).  Điều  trị  với  Amphotericine  B  hay Fluconazole.

2.7. Nhiễm Toxoplasma 

Là một bệnh có thể phòng được bằng cách khuyên bệnh nhân không tiếp xúc với mèo

và phân mèo. Có thể phòng bệnh bằng cách xử dụng Bactrim hay Pyrimethamine.

VII. CHẨN ĐOÁN  

1. Chẩn đoán nhiễm HIV 

Do tính chất quan trọng về tính trầm trọng (không chữa được, chắc chắn tử vong) cho

cá nhân cũng như nguy hiểm cho cộng đồng, ảnh hưởng rất lớn đến đời sống bệnh nhân về

mặt thể chất cũng như tâm lý, ảnh hưởng đến uy tín cá nhân và danh dự gia đình, chúng ta

phải hết sức thận trọng khi kết luận một người nhiễm HIV. Chỉ định và kết quả xét nghiệm

còn tùy giai đoạn của bệnh nhân.

1.1 Xét nghiệm phát hiện kháng thể 

Là các xét nghiệm đang được xử dụng phổ biến ở nước ta. Các xét nghiệm nầy không

phát hiện được HIV ở giai đọan sơ nhiễm.  Vì vậy khi âm tính, phải khuyên bệnh nhân xét

nghiệm lần 2, sau 3 tháng không có tiếp xúc với nguồn lây nhiễm nào khác. Nếu vẫn âm tính

mới có quyền kết luận là không nhiễm.

Ngược lại, ở trẻ < 1 tuổi, mẹ HIV (+), nếu xét nghiệm dương tính, vẫn không kết luận

được cháu bị nhiễm, vì đó là kháng thể kháng HIV của mẹ truyền qua. Do đó phải xét nghiệm

lại trong những năm sau từ 18 tháng tuổi trở lên.

Có ba lọai xét nghiệm phát hiện kháng thể kháng HIV đang dùng ở nước ta:

Test Serodia : độ nhạy thấp, nhưng độ đặc hiệu cao. Chỉ có giá trị sàng lọc ban đầu.

Những  người  Serodia  (+)  là  những  người  có  thể  nhiễm,  cần  xác  định  thêm  bằng  các  xét

nghiệm khác trước khi khẳng định. Ngược lại, người Serodia (-) thì rất ít có nguy cơ nhiễm HIV.

Test ELISA : phát hiện một lọai kháng thể tùy theo kit chọn trước. Phản ứng nầy có

độ nhạy cao, > 90%. Độ nhạy và  độ đặc hiệu càng cao với các thế hệ XN sau. Tuy nhiên vẫn

không chắc chắn 100%.  

Test Western  - Blot :  Kết luận chỉ  chắc chắn  100% khi người bệnh  có xét nghiệm

HIV (+) với phương pháp Western - Blot. Phương pháp nầy phát hiện một loạt nhiều kháng

thể đặc hiệu chống nhiều lọai kháng nguyên khác nhau của virus HIV. Do đó lọai trừ được

phản ứng dương tính giả.

Tuy nhiên do xét nghiệm Western-blot rất đắt tiền, không thể xử dụng đại trà mà số

người nhiễm HIV ở nước ta ngày càng cao, hiện nay ngành Y tế quy định : Vẫn xem như là

(+) những trường hợp ELISA (+) 2 lần với 2 lọai kit khác nhau (phát hiện 2 kháng thể

kháng  HIV  khác  nhau  ).    Xác  suất  dương  tính  giả  khi  xét  nghiệm  2  lần  với  2  lọai  kháng

nguyên khác nhau hết sức thấp nên hiếm khi gặp sai  lầm trong thực tế.

1.2. Xét nghiệm tìm trực tiếp virus hay các sản phẩm virus 

Người ta có thể phát hiện trực tiếp sự hiện diện của virus trong máu hay dịch cơ thể

bằng phương pháp khuyếch đại gen (PCR), phương pháp dùng gen mồi thăm dò. Các phương

pháp nầy đặc hiệu, cho phép phát hiện ngay cả trong giai đọan sơ nhiễm. Ngòai ra, còn dùng

để đánh giá hiệu quả của các thuốc kháng virus (đo nồng độ virus trong máu), phát hiện trẻ sơ

sinh có nhiễm HIV hay không. Tuy nhiên do kỹ thuật phức tạp và đắt tiền, hiện nay chỉ xử

dụng ở các trung tâm nghiên cứu quốc gia, chưa áp dụng đại trà.

Các kỹ thuật tìm các protein virus như p24  (Hiện nay test  ELISA thế hệ 4 vừa cho

phép phát hiện kháng thể, vừa phát hiện KN p24) có tính đặc hiệu, nhưng không hằng định.

Phân  lập  virus  HIV  :  chính  xác  và  có  thể  khảo  sát  được  nhiều  đặc  tính  của  virus.

Nhưng chưa thực hiện được ở nước ta.

2. Chẩn đoán giai đoạn của bệnh 

Mặc dầu tiến triển về mặt sinh lý bệnh có 4 giai đoạn, nhưng trên thực tế lâm

sàng, biểu hiện bệnh do nhiễm HIV rất phong phú và đa dạng. Do đó, nhiều phương pháp xếp

loại được đề nghị phù hợp hơn với lâm sàng và dịch tễ học.

Trên thực tế lâm sàng, người ta thường chẩn đoán giai đoạn nhiễm HIV dựa vào một

trong những cách xếp loại được công nhận rộng rãi.

Nổi tiếng nhất là cách xếp loại của CDC 1993 dành cho người lớn nhiễm HIV

Số tế bào T CD4+ /mm3

hay tỷ %

A

B

C

> 500 (>29%)

A1

B1

C1

200 - 499 (14-28%)

A2

B2

C2

< 200 ( <14%)

A3

B3

C3

Bảng 9: Cách xếp loại của CDC 1993 

Những bệnh nhân thuộc vào nhóm C và/hay có chỉ số 3 được xếp vào giai đoạn AIDS. Do khuôn khổ có hạn, chúng tôi không trình bày các bệnh cụ thể các triệu chứng và bệnh được xếp vào các nhóm. Người đọc có thể tìm đọc dễ dàng trong rất nhiều tài liệu liên quan đến phân loại giai đoạn nhiễm HIV trên các sách Y học và trên các trang Web liên quan đến lâm sàng và dịch tễ nhiễm HIV.

Những bệnh nhân  đã xếp vào nhóm thấp hơn, dù sau đó có cải thiện lâm sàng, vẫn không chuyển nhóm.

Phương pháp xếp loại nầy có ưu điểm dễ theo dõi, tiên lượng và dễ cân nhắc xử dụng

thuốc kháng virus HIV cũng như thuốc dự phòng một số bệnh cơ hội. Tuy nhiên tiêu chuẩn

đếm số tế bào T CD4+ khó thực hiện ở đa số các nước nghèo (như Việt nam). Các phương pháp tính gián tiếp số tế bào T CD4+ qua số lượng tế bào lympho ngoại vi, qua các phản ứng bì, được ứng dụng ở một số nơi nhưng kết quả không thống nhất nên chưa được công nhận rộng rãi

Vì  thế,  Tổ  chức  Y  tế  thế  giới  (WHO)  giới  thiệu  một  cách  xếp  loại  khác,  trong  đó

không xử dụng số lượng tế bào T CD4+  mà thay thế bằng mức độ sinh họat của bệnh nhân

trong ngày. Cách chia của WHO chỉ có 4 giai đoạn. Chúng tôi không trình bày đầy đủ bảng

xếp loại theo WHO ở đây vì khuôn khổ bài học . 

Các xếp loại của Tổ chức Y tế Thế giới dễ dàng cho các nước nghèo, thuận tiện cho

dịch  tễ  học.  Tuy  nhiên,  nó  không  giúp  nhiều  cho  các  nhà  lâm  sàng  quyết  định  dùng  thuốc

kháng HIV hay cho thuốc phòng một số bệnh cơ hội.

Đối với trẻ em, do các đặc thù riêng, được có một bảng xếp loại khác của CDC 1993.

Có thể tham khảo trong bài nhiễm HIV ở trẻ em.

VIII. CHĂM SÓC VÀ ĐIỀU TRỊ NGƢỜI NHIỄM HIV 

Do có quá nhiều vấn đề, trong phạm vi bài nầy, chúng tôi chỉ nêu lên một số nguyên tắc chung. Chi tiết xin tham khảo những tài liệu liên quan.

1. Nguyên tắc : 

1.1.Chăm sóc tòan diện : 

Hiện nay chăm sóc toàn diện người nhiễm HIV bao gồm các lãnh vực : chăm sóc thể

chất, chăm sóc tâm lý, chăm sóc tâm linh, chăm sóc xã hội và phòng bệnh.

1.2. Về thể chất 

Khám sức khỏe định kỳ cho bệnh nhân và bất kỳ lúc nào có bệnh. Mục đích theo dõi

gồm có : phát hiện bệnh cơ hội và điều trị sớm. Xác định tình trạng miễn dịch của bệnh nhân

(lý tưởng là đếm số lượng tế bào TCD4+), tình trạng virus (nếu có điều kiện) để khẳng định

hiệu quả của thuốc kháng HIV nếu đang dùng. Khi bệnh nhân sắp rơi vào giai đọan AIDS, có

thể xử dụng thuốc phòng một số bệnh cơ hội như Bactrim (phòng viêm phổi do P. carinii,

Toxoplasma..), các thuốc kháng nấm phòng một số bệnh về nấm..Vấn đề tiêm vắc xanh phòng

một số bệnh như nhiễm phế cầu, cúm, H. influenza.. cho bệnh nhân HIV ở nước ta chưa được

bàn đến. Nếu có chỉ định dùng thuốc ARV, cần tư vấn kỹ và thành lập hợp đồng chặt chẽ với

bệnh nhân, người giám hộ và tổ chức mạng lưới cấp thuốc cho bệnh nhân. Tránh tình trạng

uống  thuốc  ARV  không  đều  đặn  và  không  đúng  giờ,  không  đủ  liều,  tự  ý  ngưng  thuốc  vì

không ích lợi gì cho bệnh nhân mà còn có thể chọn lọc ra các chủng HIV kháng thuốc. Lưu ý

đến các tác dụng phụ của các thuốc xử dụng cho bệnh nhân để có thể điều trị kịp thời

1.3. Chăm sóc tâm lý 

Bệnh nhân phải được tư vấn, tránh khủng hoảng tâm lý vào lúc phát hiện nhiễm HIV.

Tránh các phản ứng tiêu cực nguy hiểm cho bản thân (tự tử) hay xã hội (trả thù bằng cách cố

ý gây lây nhiễm cho người khác). 

Nếu có các biểu hiện trầm cảm nguy hiểm, có thể hội chẩn thêm với chuyên khoa tâm

thần để hổ trợ, thậm chí điều trị bệnh nhân bằng thuốc.

Khi tạm ổn định về tâm lý giai đoạn đầu, cần giúp bệnh nhân vượt qua các kỳ thị và

phân biệt đối xử co xã hội còn hiểu lầm mang lại, giúp họ vươt qua để có một cụôc sống tự tin

và hữu ích hơn.

1.4. Chăm sóc tâm linh

Đứng trước bệnh không chữa được và dễ bị kỳ thị, ban đầu và nhất là lúc sắp tử vong,

bệnh nhân thường lo lắng, suy nghĩ về những vấn đề triết học (dù tự giác hay không tự giác)

như “ Chết là gì? Sau khi chết ta đi về đâu? Có thiên đường, địa ngục không? Có kiếp sau

không? Tôi muốn sám hối, cầu nguyện thì làm thế nào ?”…

Chăm sóc tâm linh giúp người bệnh chấp nhận một cách an bình những đau đớn về

tinh thần và thể xác họ đang chịu đựng khi y học không giúp được, giúp họ tha thứ hay bình

tâm với người thân, người đã gây đau khổ cho họ…

Tùy  theo  tôn  giáo  của  bệnh  nhân  (hay  không  theo  tôn  giáo  nào),  tạo  điều  kiện  cho bệnh nhân gặp gỡ các chức sắc tôn giáo khi họ có yêu cầu, tôn trọng những niềm tin và cầu nguyện của họ ngay cả khi đang ở Bệnh viện, nhưng không để bệnh nhân sa vào mê tín dị đoan và vi phạm nội quy điều trị. Cũng không truyền giáo theo tôn giáo mình đang theo cho bệnh nhân.

1.5. Chăm sóc xã hội

Tạo điều kiện cho bệnh nhân ổn định cuộc sống. Giữ bí mật cá nhân cho bệnh nhân.

Động viên bệnh nhân có ý thức giữ gìn cho bạn tình, các người khác không bị lây nhiễm. (Xin

tham khảo thêm về kỹ thuật tư vấn). Giải thích cho thân nhân và những người liên quan đã

biết bệnh nhân nhiễm HIV để đối xử hợp lý với bệnh nhân, không xa lánh, cách ly không cần

thiết. Không phân biệt đối xử. Giúp bệnh nhân dành lại một số quyền lợi chính đáng theo quy

định của pháp luật mà người nhiễm có thể bị tước đoạt do kỳ thị (quyền thừa kế, di chúc…)

1.6. Phòng bệnh :

Người  săn  sóc  và  thân  nhân  có  thể  sinh  hoạt  với  bệnh  nhân  bình  thường,  ngoại  trừ

quan hệ tình dục không bảo vệ.  Đồng thời phải biết một số đường lây do vô tình (dùng chung

dao cạo râu, bàn chải đánh răng), biết cách phòng hộ cho cá nhân khi phải săn sóc bệnh nhân

ở giai đọan cuối (xử lý bệnh phẩm, áo quần, chăn màn có dính máu, dịch của bệnh nhân..).

chú  ý phòng lây lao phổi nếu bệnh nhân có nhiễm lao như mọi trường hợp nhiễm lao phổi

không nhiễm HIV khác

2.Thuốc kháng virus HIV

Đến nay có 2 nhóm 

2.1. Các thuốc ức chế men sao chép ngược  RT: gồm có

- Các thuốc tương tranh có cấu trúc nucleoside : Gồm AZT (Zidovudine), Didanosine (ddI), Zalcitabine (ddC), Stavudine (d4T), Lamivudine (3TC), Abacavir (ABC).

-  Các  thuốc  không  có  cấu  trúc  nucleoside:  Nevirapine,  Efavirenz,  Delavirdine.  Các

thuốc nhóm nầy dễ bị đề kháng nên không bao giờ được dùng một mình. Nhiều tác dụng phụ.

2.2. Các thuốc ức chế men protease : ức chế giai đọan trưởng thành của virus.

Gồm   :   Indinavir   (Crixivan),   Ritonavir   (Norvir),   Saquinavir   HGC   (Invirase), Saquinavir  SGC  (Fortovase),  Nelfinavir  (viracept),  Amprenavir  (Agenerase),  ABT  378/r (Lopinavir/r : Kaletra).

Một số phác đồ phối hợp 3 thuốc kháng HIV

- AZT + ddI + Indinavir

- AZT + 3TC + Nelfinavir

- d4T + ddI + Ritonavir

- d4T + 3TC + Efavirenz ( hayNevirapine, Abacavir, Lopinavir)

Có thể thay đổi như sau :

- AZT + ddC + Amprenavir

- DdI + 3TC + Saquinavir...

2.2. Chỉ định 

Do những kết quả làm giảm nồng độ virus đáng kể, nhưng không diệt được virus, phối

hợp 3 thuốc được những người giàu có xem như là một cứu cánh, thậm chí không còn cảnh

giác với căn bệnh. Tuy nhiên, trong thực tế, dùng lâu dài đem đến nhiều tác dụng không mong

muốn quan trọng và hiện tượng kháng thuốc, nên chỉ định hiện nay có phần hạn chế hơn so

với chỉ định ở những năm đầu tiên khi liệu pháp này mới ra đời. Chỉ định chung cho tất cả

mọi người nhiễm HIV dù ở giai đọan nào đang có nhiều bàn cãi, và chưa ngã ngũ. Tùy thầy

thuốc và trường hợp cụ thể. Tuy nhiên, những chỉ định sau đây đã được thống nhất :

1. Những bệnh nhân có triệu chứng ( giai đọan B và C theo CDC 1993)

2. Bệnh nhân không có triệu chứng nhưng số lượng T CD4+ < 350/mm3.

3. Bệnh nhân không triệu chứng, 350 < T4 < 500/mm3 nhưng nồng độ RNA HIV > 30.000 copies/mm3. Nếu RNA < 30.000 thì tùy quyết định thầy thuốc.

4. Bệnh nhân không triệu chứng, T4 > 500 :  Hiện nay có khuyến cáo không nên dùng.

3. Điều trị  phơi nhiễm (tai nạn nghề nghiệp)

 Những người có tiếp xúc với nguồn có nguy cơ nhiễm HIV (tai nạn nghề nghiệp của y tế, có quan hệ tình dục với người nhiễm HIV, bị tấn công bời dụng cụ có chứa máu hay dịch người nhiễm.)

Nếu có điều kiện, XN ngay nồng độ HIV nguồn nhiễm và ở người bị nạn. Sau đó xử dụng thuốc kháng HIV (3 thuốc, nếu không đủ, có thể xử dụng hai lọai thuốc) trong vòng 1tháng. Sau khi chấm dứt liệu trình, nên xét nghiệm tìm kháng nguyên p24 sau 15 ngày rồi sau 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng để theo dõi sự chuyển đổi huyết thanh nếu có. Ngoài ra cũng cần tư vấn cho nạn nhân trong giai đọan chờ đợi kết quả (+) hay (-).

IX. PHÒNG BỆNH 

Khi tiếp xúc với người bệnh, không dùng chung những dụng cụ có khả năng gây tổn thương da hay niêm mạc như dao, kéo, dụng cụ làm móng tay, cạo râu, bàn chải đánh răng đặc biệt bơm và kim tiêm.

Trường hợp nhân viên y tế, khi thao tác có khả năng xâm nhập vào bệnh nhân nhiễm HIV, cần mang găng có chất lượng, áo quần, khẩu trang, kính đeo mắt, ủng, áo choàng kín. Thanh trùng ngay sau khi dùng. Không vất bỏ bừa bãi các dụng cụ và bệnh phẩm bệnh nhân sau dùng xong. Dụng cụ phải được ngâm cồn, cloramin T hay hấp hơi nước 100 độ/20 phút. Không quan hệ tình dục với người không biết có nhiễm HIV hay không. Nên nhớ, bao cao su chỉ an tòan khi tiếp xúc tình dục kiếu tự nhiên ( sinh dục-sinh dục), không an tòan khi quá trình tình dục có những hành vi khác (tay bị xây xát sẵn tiếp xúc với dịch sinh dục người nhiễm), tiếp xúc miệng-sinh dục không  an tòan  vì có thể bị xây xát ở lợi, niêm mạc họng, amygdale mà không biết.

Trong truyền máu, tốt nhất là truyền máu tự thân. Truyền máu từ người khác không rõ lai lịch, dù đã được sàng lọc kỹ vẫn không an tòan tuyệt đối vì có giai đọan cửa sổ. Phụ  nữ  nhiễm  HIV  không  nên  có  thai.  Nếu  có  thai,  phải  dùng  thuốc  kháng  HIV  ( AZT,  nevirapine  để  giảm  nguy  cơ  cho  thai  nhi.).  Vấn  đề  phòng  bệnh  cho  thai  nhi  khi  mẹ nhiễm HIV, xin xem chi tiết ở bài HIV và sức khỏe sinh sản. Mẹ nhiễm HIV không nên nuôi con bằng sữa mẹ. Tuy nhiên, tùy bối cảnh xã hội, có nhiều vùng nghèo khổ, nguy cơ trẻ chết vì suy dinh dưỡng do thiếu sữa mẹ còn cao hơn nguy cơ nhiễm HIV thì vẫn phải cho con bú.

Không  nghiện  hút  ma  túy  (rồi  sẽ  đưa  đến  giai  đọan  chích  ma  túy),  không  xử  dụng chung bơm, kim tiêm khi đã lỡ nghiện chích ma túy. Quyết tâm cai ma túy cho cá nhân. Về mặt cộng đồng, tăng cường bài trừ ma túy, giúp đỡ những người nghiện ma túy cai nghiện.  Hạn  chế mãi  dâm. Nếu không hạn chế  được, phổ biến tình dục an tòan  cho những người hành nghề mãi dâm và khách hàng dùng bao cao su.

Câu hỏi ôn tập

1.Ứng dụng các đăc điểm phân bố HIV trong cơ thể người nhiễm để giải thích tại sao không cần cách ly người nhiễm ra khỏi cuộc sống gia đình và cộng đồng ?

2. Các dụng cụ nội soi thường được diệt trùng bằng cách nào để khỏi lây truyền HIV?

3. Tại sao ở việt Nam, không nên xử dụng phản ứng bì tuberculine  để phòng nhiễm lao cho những người nhiễm HIV?

4. Trình bày các nguyên tắc chăm sóc toàn diện người nhiễm HIV

5. Các nhóm thuốc kháng HIV. Ưu và khuyết điểm cho người nhiễm khi dùng thuốc kháng HIV.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro