BÀI 3 : ĐẤT NƯỚC ( Trích " Mặt đường khát vọng"- Nguyễn Khoa Điềm )

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

 

 1.Tác giả :  Nguyễn Khoa Điềm là cây bút xuất sắc của văn học Việt Nam thời kì kháng chiến chống Mĩ.

2. Tác phẩm :

 a. Hoàn cảnh sáng tác: 1971 , tại chiến khu Trị - Thiên à Nhân dân, đất nước kháng chiến chống Mĩ cứu nước.

b. Nội dung:

- Tác giả cảm nhận vẻ đẹp của Đất Nước ở các phương diện địa lí , lịch sử, văn hóa.

- Khẳng định, nhấn mạnh tư tưởng Đất Nước là của Nhân dân, của những con người cần cù trong lao động, anh hùng trong chiến đấu và nghĩa tình sâu nặng.

- Tình yêu, niềm tự hào của tác giả về quê hương đất nước Việt Nam.

* Đoạn 1: Lí giải về nguồn gốc đất nước

Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi....Đất Nước có từ ngày đó ...

  - Mở đầu đoạn thơ với giọng nhẹ nhàng, thủ thỉ như lời tâm tình kết hợp với hình ảnh thơ bình dị , gần gũi đưa ta về với cội nguồn  của đất nước . Đất nước có từ ngày tháng năm nào không ai rõ ,chỉ biết rằng:

“ Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi

  Đất Nước có trong những cái “ ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể

  Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

  Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc “

- Thật vậy, Đất nước được hình thành từ rất lâu rồi, từ khi ta cất tiếng chào đời thì đất nước cũng đã trải qua lịch sử tồn tại hơn bốn nghìn năm.

- Khi lí giải về cội nguồn đất nước, tác giả lí giải ĐN gắn liền với mĩ tục thuần phong , với cổ tích truyền thuyết . ĐN với tập tục ăn trầu , búi tóc ; với truyền  thống cần cù lao động ( hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần sàng), anh hùng bất khuất chống giặc ngoại xâm ( ĐN lớn lên khi dân mình biết trồng tre đánh giặc), ĐN được hình thành từ lối sống giàu tình nghĩa “ Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn” à Sự ra đời của ĐN gắn liền với sự hình thành văn hóa , lối sống, phong tục tập quán  và  những truyền thống cao đẹp của con người Việt Nam.

- ĐN không ở đâu xa mà rất gần gũi với mỗi con người, có ngay trong mỗi một gia đình : cái kèo, cái cột, hạt gạo,...

- Lời thơ như lời kể , hình ảnh giản dị, gần gũi và tác giả vận dụng yếu tố văn hóa dân gian để lí giải cội nguồn đất nước. ĐN thân thuộc, gần gũi và có ngay trong mỗi một gia đình à ĐN bình dị, gần gũi nhưng thật thiêng liêng.

- Lí giải nguồn gốc ĐN như thế thể hiện tình yêu, sự gắn bó, niềm tự hào của tác giả về quê hương ĐN.

* Đoạn 2: Cảm nhận Đất Nước về phương diện địa lí ,  lịch sử và  nhắn nhủ ý thức cội nguồn dân tộc

- Về phương diện địa lí , tác giả cảm nhận :

Đất là nơi em đến trường

Nước là nơi em tắm

Đất Nước là nơi ta hò hẹn

Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm

Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc “

Nước là nơi “ con cá ngư ông móng nước biển khơi”

+ Tác giả tách ra từng thành tố để định nghĩa “ Đất là ....., Nước là ..... và tổng hợp Đất Nước là ....

+ Tác giả cảm nhận ĐN là những không gian gần gũi, gắn bó  và là kỉ niệm của mỗi con người : nơi anh đến trường, nơi  em tắm, nơi ta hò hẹn, nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm à Những không gian gần gũi, gắn bó sâu nặng  và không thể nào quên đối với mỗi con người.

+ ĐN còn là không gian rộng lớn bao la, là núi sông rừng biển, là biên cương tổ quốc :

Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc “

Nước là nơi “ con cá ngư ông móng nước biển khơi”

à ĐN  là tất cả những gì gần gũi, bé nhỏ đến hùng vĩ , thiêng liêng hợp nhất, thống nhất toàn vẹn.

- Về phương diện lịch sử: “ĐN là nơi dân mình đoàn tụ “

Thời gian đằng đẵng

Không gian mênh mông

Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ

Đất là nơi chim về

Nước là nơi rồng ở

Lạc Long Quân và Âu Cơ

Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng

 ĐN là không gian sinh sống của cộng đồng dân tộc ta qua bao thế hệ từ thời Lạc Long Quân  và Âu Cơ sinh ra đồng bào ta trong bọc trứng cho đến nay và cả mai sau à ĐN là không gian tồn tại, phát triển của dân tộc ta qua các thế hệ nên ĐN trường tồn theo thời gian đằng đẵng , trải rộng trên một không gian mênh mông. Chính vì thế mà có thế hệ hôm nay,  bởi có thế hệ hôm qua. Từ cách cảm nhận đó nhà thơ nhắn nhủ phải có ý thức cội nguồn dân tộc, hay thế hệ đi sau phải biết nhớ ơn thế hệ đi trước – dù bôn ba ở tận chốn nào , người dân Việt Nam cũng đều hướng về đất Tổ , nhớ đến dòng giống Rồng Tiên của mình.

Những ai đã khuất

Những ai bây giờ

Yêu nhau và sinh con đẻ cái

Gánh vác phần người đi trước để lại

Dặn dò con cháu chuyện mai sau

Hằng năm ăn đâu làm đâu

Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ.

- Với thể thơ tự do,  lời thơ nhẹ nhàng, tình cảm sâu lắng ; Cách diễn đạt bình dị, hiện đại gây  ấn tượng vừa gần gũi vừa mới mẻ cho người đọc và Giọng thơ trữ tình – chính trị tha thiết, sâu lắng , giàu chất suy tư.

à Đoạn thơ là cảm nhận của tác  giả về ĐN ở các phương diện. Khẳng định, tự hào về vẻ đẹp của ĐN và thể hiện tình yêu nước tha thiết của tác giả.

* Đoạn 3: Cảm nhận Đất nước gắn bó thân thiết với mỗi con người VN và lời nhắn nhủ của tác giả

Trong anh và em hôm nay.....Làm nên Đất Nước muôn đời.

* Đất Nước gần gũi và gắn bó thân thiết với anh , với em, với mọi người:

Trong anh và em hôm nay

Đều có một phần Đất Nước

 Với giọng thơ tâm tình , ngọt ngào  như lời của đôi lứa yêu nhau à Tác giả khẳng định Đất Nước có ngay trong mỗi một con người, hay mỗi con người là một phần tử của cộng đồng, đất nước.

Mỗi con người là “ một phần “ bé nhỏ của Đất Nước nhưng biết bao gần gũi, yêu thương và tự hào.

* Ở phần trước nhà thơ cảm nhận :

Đất là nơi em đến trường

Nước là nơi em tắm

Đất Nước là nơi ta hò hẹn

Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm

Đất Nước là những không gian gần gũi, quen thuộc của mỗi con người. ĐN hóa thân trong mỗi con người và mỗi con người sẽ làm nên ĐN.

- Chính vì thế mà

                        Khi hai đứa cầm tay

Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm

Khi chúng ta cầm tay mọi người

Đất Nước vẹn tròn to lớn.

+ Khi “ hai đứa cầm tay” hay hai đứa  giao duyên, yêu thương thì một mái ấm gia đình đã được xây dựng và mỗi một gia đình là ‘một phần” của Đất Nước.

Chỉ khi có tình yêu , hạnh phúc gia đình thì  mới tạo nên sự “ hài hòa nồng thắm” cho Đất Nước.

+ Khi chúng ta cầm tay mọi người – mọi người  có cầm tay nhau, yêu thương giúp đỡ lẫn nhau  - có đoàn kết, yêu thương đồng bào thì mới taọ nên sức mạnh  cho Đất Nước “ Đất nước vẹn tròn to lớn”

  Từ “ hài hòa nồng thắm” đến “ vẹn tròn to lớn” là cả một bước phát triển và đi lên của lịch sử dân tộc và đất nước . ĐN được cảm nhận là sức mạnh của khối đaị đoàn kết dân tộc. Chỉ có đoàn kết mới tạo nên sức mạnh cho ĐN , cho dân tộc.

- ĐN trong anh và em, ĐN trong chúng ta hôm nay và cả mai sau à Nhà thơ nhắn nhủ:

Mai này con ta lớn lên

Con sẽ mang Đất Nước đi xa

Đến những tháng ngày mơ mộng

Thế hệ con cháu mai sau sẽ tiếp bước cha ông xây dựng ĐN ngày càng tươi đẹp, đưa ĐN ngày càng cường thịnh, văn minh . Điều mà mỗi chúng ta “mơ mộng” hôm nay  sẽ thành hiện thực trong tương lai không xa.

- Bốn câu thơ cuối đoạn cảm xúc dâng lên càng mạnh mẽ. Giọng thơ trở nên ngọt ngào, say đắm :

Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình

Phải biết gắn bó và san sẻ

Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở

Làm nên Đất Nước muôn đời.

  Đoạn thơ thật hay, thật trữ tình và sâu lắng . Nhà thơ cất lời gọi yêu thương “ em ơi em” để nhắn nhủ : ĐN là huyết hệ, là thân thể ruột thịt thân yêu của mình , là mồ hôi bxương máu của tổ tiên, của dân tộc ngàn đời. Vì vậy mà “phải biết “ gắn bó, san sẻ, hóa thân cho dáng hình ĐN – phải biết đoàn kết, chia sẻ và cống hiến, hi sinh cho ĐN . Động từ “ phải biết” như một mệnh lệnh

phát ra từ con tim làm cho giọng thơ mạnh mẽ, chấn động . Ngay trong hoàn cảnh chống Mĩ quyết liệt, lời thơ của NKĐ như lời thức giục con tim, ý thức trách nhiệm của mỗi người đối với ĐN.

è Gắn bó, san sẻ, hóa  thân cho ĐN  là nghĩa vụ thiêng liêng, là tình yêu ĐN của anh, của em và của con người Việt Nam.

* Đoạn 4: Cảm nhận đất nước về phương diện văn hóa.

Những người vợ nhớ chồng còn  góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu....

Những cuộc đời đã hóa núi sông ta....

  Đoạn thơ ngợi ca Đất Nước hùng vĩ, khẳng định những phẩm chất cao đẹp của nhân dân ta , dân tộc ta è Tình yêu , niềm tự hào về quê hương đất nước, con người Việt Nam của tác giả..

* Đoạn 8 câu thơ đầu : Hình tượng một ĐN hùng vĩ, một giang sơn gấm vóc đáng ngợi ca, tự hào.

- Khắp nơi trên mọi miền ĐN ta , ở đâu cũng có những danh lam thắng cảnh . Núi Vọng Phu, Hòn Trống Mái  đã đi vào huyền thoại cổ tích. Nguyễn Khoa Điềm đã có một cái nhìn rất nhân văn là núi ấy, hòn ấy là do “ những người vợ nhớ chồng “, hay” cặp vợ chồng yêu nhau” mà góp cho để làm đẹp thêm cho ĐN.

Những người vợ nhớ chồng còn  góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu

Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái

Núi Vọng Phu ở Lạng Sơn, Thanh Hóa , Bình Định ,...Hòn Trống Mái ở Sầm Sơn không chỉ là vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn là biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn của con người Việt Nam . Vợ có nhớ chồng, cặp vợ chồng có yêu nhau thì mới góp cho ĐN những nhúi Vọng Phu, hòn Trống Mái ấy.

 Như  vậy, tình yêu đôi lứa có thắm thiết, tình nghĩa vợ chồng có thủy chung thì  ĐN mới có những hình tượng kì thú, đẹp đẽ ấy.

- Hai câu thơ tiếp theo ca ngợi vẻ đẹp ĐN về mặt lịch sử và truyền thống .

Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại

Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương

+ Cái “ gót ngựa của Thánh Gióng” đã để lại cho ĐN bao ao đầm ở vùng Hà Bắc ngày nay.

+ Chín mươi chín con voi ở Phong Châu đã quần tụ, chung sức chung lòng “góp mình dựng đất tổ Hùng Vương”.

Những từ ngữ “ đi qua còn để lại”, “ góp mình dựng” thật bình dị  mà đáng tự hào biết bao, tự hào về sự thiêng liêng của ĐN với khí phách anh hùng, sức mạnh đoàn kết để xây dụng và bảo vệ ĐN.

-  ĐN có núi cao, biển rộng, sông dài. ĐN có Sông Hồng “ đỏ nặng phù sa”, có Cửu Long Giang với dáng hình thơ mộng, ôm ấp huyền thoại kiêu sa mà tác giả ví như con rồng.

Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm

Những con rồng “nằm im” từ bao đời nay mà người dân Nam Bộ mến yêu có “ dòng sông xanh thẳm” với nước ngọt phù sa, tôm cá,...và biến lúa bốn mùa à Tác giả  ngợi ca giang sơn gấm vóc Việt Nam tươi đẹp, con người Việt Nam tài hoa và chịu thương chịu khó.

- Quảng Nam , Quảng Ngãi  là quê hương của Hoàng Diệu, Phan Chu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng ,...có núi Ấn sông Trà , có núi Bút non Nghiên. Ngắm núi Bút non Nghiên Nguyễn Khoa Điềm không nói đến “ địạ linh nhân kiệt”  mà nghĩ về người học trò nghèo , về truyền thống hiếu học và tinh thần tôn sư  trọng đạo của nhân dân ta.

                        Những học trò nghèo góp cho Đất Nước mình Núi Bút, non Nghiên.

“ Nghèo” nhưng vẫn góp cho ĐN núi Bút non Nghiên làm rạng rỡ nền văn hiến Đại Việt à Tác giả tự hào về trí tuệ, tài năng của nhân dân ĐN.

- Hạ Long trở thành kì quan , thắng cảnh là nhờ có “Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho” , những tên làng tên núi tên sông như Ông Đốc, Ông Trang ,...ở vùng cực Nam ĐN xa xôi đã do “Những người dân nào đã góp tên” . Những người dân đã đem mồ hôi ,xương máu  phá rừng, lấp biển, đào kênh, bắt sấu,...làm nên. à Nhà thơ ngợi ca đức tính cần cù , siêng năng, dũng cảm trong lao động sáng tạo của nhân dân à Khẳng định  nhân dân vô cùng vĩ đại, người chủ nhân “ làm nên ĐN muôn đời”

Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ  Long thành thắng cảnh

Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm

  Tám câu thơ với bao địa danh và cổ tích huyền thoại  được nhà thơ nhắc đến thể hiện niềm tự hào và biết ơn ĐN cùng Nhân dân của tác giả. Các thi liệu – hình ảnh như người vợ, cặp vợ chồng, con cóc, con gà,...dưới ngòi bút của NKĐ mang ý nghĩa biểu trưng cho vẻ đẹp tâm hồn, phẩm chất của con người ĐN: trí tuệ, trung hậu, cần cù, anh dũng,.... Chính những vẻ đẹp của nhân dân làm cho ĐN thêm giàu đẹp.

* Đoạn 4 câu cuối: Giọng thơ vang lên say đắm, ngọt ngào .Từ cụ  thể  đoạn thơ được nâng lên tầm khái quát , tính chính luận kết hợp với chất trữ tình đằm thắm.

Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi

Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha

Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy

Những cuộc đời đã hóa núi sông ta....

“Ruộng đồng gò bãi “ là hình ảnh của quê hương ĐN . Những tên núi, tên sông, tên đồng, tên bãi,...trên khắp ĐN Việt Nam đều mang một  “dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha “. Hình tượng ĐN cũng chính là tâm hồn, phong cách , ước mơ hoài bão của cha ông ta.

Câu thơ “Những cuộc đời đã hóa núi sông ta....” thật hay, là lời ngợi ca tâm hồn Việt Nam, văn hóa Việt Nam. Chính những con người của ĐN , chính  vẻ đẹp tài năng, nhân cách của họ làm nên vẻ đẹp và chiều sâu văn hóa cho ĐN.

* Nghệ thuật :

- Vận dụng sáng tạo chất liệu văn hóa dân gian.

- Kết hợp nhuần nhuyễn yếu tố chính luận và trữ tình.

- Ý tưởng sâu sắc, mới mẻ; chất thơ dạt dào, cảm xúc chân thành  và mãnh liệt

à  Qua  hình tượng ĐN tác giả NKĐ ngợi ca tâm hồn nhân dân, bản lĩnh nòi giống và dáng đứng Vnam. Thể hiện tình cảm của tác giả đối với quê hương đất nước: Yêu mến, tự hào về quê hương đất nước.

* Đoạn 5: Tư tưởng đất nước của nhân dân

                                Em ơi em.......Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi.

- Mở đầu đoạn thơ là lời gọi thân thiết, ngọt ngào “ Em ơi em “ à Tác giả  gọi tha thiết để gởi gắm , nhắn nhủ  “ Hãy nhìn rất xa...Vào bốn nghìn năm Đất Nước

à Nhìn lại quá khứ của nhân dân, ĐN : ĐN với 4000 năm văn hóa gắn liền với  những con người  Việt Nam  cần cù trong lao động và anh hùng trong chiến đấu:

Năm tháng nào cũng người người lớp lớp

Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta

Cần cù làm lụng

Khi có giặc người  con trai ra trận

Người con gái trở về  nuôi cái cùng con

Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh

Giọng thơ vừa tâm tình vừa khẳng định truyền thống cao đẹp của con người Việt Nam : siêng năng , cần cù trong cuộc sống và anh hùng, kiên cường bất khuất trong chống  ngoại xâm.

à Đó chính là những anh hùng của ĐN :

Nhiều người đã trở thành anh hùng

Nhiều  anh hùng cả anh và em đều nhớ 

Những người anh hùng ghi danh  sử sách  rất đáng trân trọng, ngợi ca, tự hào . Lời thơ tác giả không kể rõ nhưng gợi cho người đọc  những tấm gương anh hùng như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh , Hồ Chí Minh,...

- Trong sự nghiệp  xây dựng và bảo vệ ĐN , có những con người đã hi sinh thầm lặng  mà tác gải không bao giờ quên :

Nhưng em biết không

Có biết bao người con gái con trai

Trong bốn nghìn  lớp người giống ta lứa tuổi

Họ đã sống và chết

Giản dị và bình tâm

Không ai nhớ mặt đặt tên

Nhưng họ làm ra Đất Nước

 Chính những con người bình dị nhưng anh hùng ấy làm nên ĐN .

- Chính nhân dân là người có công lớn trong sự nghiệp ĐN hôm qua, hôm nay và cả mai sau:

Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng

Họ chuyền lửa qua mỗi nhà , từ hòn than qua con cúi

Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói

Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân

Họ đắp  đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái

Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm

Có nội thù thì vùng lên đánh bại

à Tác giả sử dụng Phép lặp, hình ảnh cụ thể và giàu sức gợi cảm nhằm nhấn mạnh , ngợi ca  công lao to lớn của Nhân dân trong việc sáng tạo, giữ gìn  những giá trị vật chất và tinh thần của ĐN ; sáng tạo và giữ gìn văn  hóa, phong tục của ĐN à Tác  giả khẳng định  vai trò to lớn của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ ĐN.

- Chính Nhân dân là người làm nên ĐN nên nhân dân  xứng đáng làm chủ ĐN à Tác giả  khẳng định:

Để Đất Nước này là Đất Nước của Nhân dân

Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại

Phép điệp cấu trúc cùng với giọng thơ trữ tình - chính luận sâu lắng à Tác giả NKĐ khẳng định tư tưởng ĐN là của Nhân dân , Nhân dân đóng vai trò chủ thể trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ ĐN.

- Trong hoàn cảnh kháng chiến , NKĐ khẳng định tư tưởng ĐN là của Nhân dân, phải chăng tác giả muốn khơi dậy trong mỗi người dân ý thức trách nhiệm, tinh thần yêu nước và lòng tự tôn  dân tộc à Nhân dân đấu tranh bảo vệ ĐN.

- ĐN của Nhân dân với những truyền thống cao đẹp, đáng tự hào:

Dạy anh “ biết yêu em từ thuở trong nôi”

Biết  quý công cầm vàng những ngày lặn lội

Biết trồng tre đợi ngày thành gậy

Đi trả  thù mà không sợ dài lâu

Vận dụng sáng tạo văn học dân gian  để gợi nhắc và khẳng định các truyền thống cao đẹp của  nhân dân, ĐN ta: say đắm trong tình yêu, sâu nặng nghĩa  tình và anh hùng trong chiến đấu à Chính những giá trị tinh thần cao đẹp ấy làm nên sức mạnh cho ĐN để chiến thắng và tiến lên.

- Nhà thơ ý thức được cội nguồn sức mạnh của nhân dân, ĐN nên nhà thơ  hi vọng, tin tưởng:

Ôi  những dòng sông bắt nước từ đâu

Mà khi về  Đất Nước mình thì bắt lên câu hát 

Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác

Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi.

 Hình ảnh người chèo đò kéo thuyền vượt thác cất cao tiếng hát .... là hình ảnh đẹp , biểu tượng cho sức mạnh nhân dân chiến thắng mọi thử thách , lạc quan tin tưởng đưa ĐN đi tới ngày mai tươi sáng.

è Tình yêu, niềm tự hào và khát vọng  xây dựng, cống hiến cho nhân dân , ĐN của  người trí thức Nguyễn Khoa Điềm.

- Giọng thơ tâm tình tha thiết , vận dụng sáng tạo các yếu tố văn học dân gian , ý tưởng đẹp, cảm xúc chân thành à  NKĐ khẳng định tư tưởng ĐN của nhân dân với tất cả  niềm tự hào, tình yêu tha thiết với quê hương đất nước.

c. Nghệ thuật :

- Sử dụng nhuần nhuyễn và sáng tạo các yếu tố văn học , văn hóa dân gian như ca dao, tục ngữ, truyền thuyết, phong tục tập quán,...

- Cách diễn đạt bình dị, hiện đại gây  ấn tượng vừa gần gũi vừa mới mẻ cho người đọc.

- Giọng thơ trữ tình – chính trị tha thiết, sâu lắng và giàu chất suy tư.

à Phong cách thơ Nguyễn Khoa Điềm : kết hợp  giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng về quê hương đất nước và con người Việt Nam.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro