Bài 5 Những quy luật cơ bản của phép BCDV

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Câu 1: Các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật

1. Khái niệm quy luật

- Quy luật là những mối liên hệ khách quan, bản chất, tất nhiên, phổ biến và lặp đi lặp lại giữa các mặt, các yếu tố, các thuộc tính bên trong mỗi sự vật, hiện tượng hay giữa các sự vật, hiện tượng với nhau.

- Các quy luật của tự nhiên, xã hội và tư duy đều mang tính khách quan. Con người chỉ có nhận thức quy luật để vận dụng chúng chứ không thể tuỳ tiện xoá bỏ quy luật.

- Các quy luật được phản ánh trong các khoa học cũng không phải là sự sáng tạo tuỳ ý của con người mà là sự phản ánh các quy luật khách quan của tự nhiên, xã hội và tư duy.

2. Phân loại quy luật

- Người ta có thể phân loại quy luật theo nhiều cách khác nhau. Căn cứ vào mức độ tính phổ biến chia thành:

+ Những quy luật riêng – tác động trong những phạm vi nhất định

+ Những quy luật chung - tác động trong phạm vi rộng hơn các quy luật riêng

+ Những quy luật phổ biến – tác động trong tất cả các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy (phép biện chứng duy vật nghiên cứu những quy luật phổ biến đó).

- Căn cứ vào lĩnh vực tác động, chia thành:

+ Quy luật của tự nhiên -  nảy sinh, tác động trong lĩnh vực tự nhiên.

+ Quy luật của xã hội – nảy sinh và tác động trong lĩnh vực xã hội.

+ Quy luật của tư duy - nảy sinh, tác động trong lĩnh vực tư duy.

- Với tư cách là khoa học về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển, phép biện chứng duy vật nghiên cứu những quy luật chung nhất, tác động trong toàn bộ các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy của con người. Đó là: quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại, chỉ ra cách thức vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng; quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập chỉ ra nguồn gốc của sự vận động, phát triển của sự vật; quy luật phủ định của phủ định chỉ ra khuynh hướng vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.

Câu 2: Quy luật chuyển hoá từ những sự thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất và ngược lại

1.  Khái niệm chất và khái niệm lượng

- Khái niệm chất: Khái niệm chất dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của các sự vật, hiện tượng; là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính cấu thành nó, phân biệt nó với sự vật, hiện tượng.

- Khái niệm lượng: Khái niệm lượng dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng về các phương diện: số lượng các yếu tố cấu thành, quy mô của sự tồn tại, tốc độ, nhịp điệu của các quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.

2. Quan hệ biện chứng giữa chất và lượng

- Những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất

+ Mỗi sự vật, hiện tượng đều có sự thống nhất giữa hai mặt chất và lượng (chất nào lượng ấy, lượng nào chất ấy).

-> Phân tích khía cạnh này qua một số ví dụ: Về tính thống nhất giữa chất và lượng trong phân tử nước (H2o), “chất”: Sự thống nhất của các thuộc tính khách quan vốn có của “nước”: Không màu, không mùi, không vị, có thể hòa tan muối, axit…, “lượng”: mỗi phân tử “nước” được cấu tạo từ 02 nguyên tử Hyđro và 01 nguyên tử Oxy; tiền nào của nấy;...

+ Giới hạn mà trong đó, sự thay đổi về lượng (tăng lên hoặc giảm đi) chưa làm thay đổi về chất được gọi là độ. Nói cách khác, độ là phạm trù triết học chỉ sự thống nhất giữa lượng và chất, là khoảng giới hạn mà trong đó sự thay đổi về lượng (tăng lên hoặc giảm đi) chưa làm thay đổi căn bản về chất của sự vật

+ Khi lượng thay đổi đến một giới hạn nhất định thì sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất, giới hạn đó chính là điểm nút. Điểm nút dùng để chỉ thời điểm mà tại đó sự thay đổi về lượng đã đủ làm thay đổi về chất của sự vật

+ Sự thay đổi về chất do những thay đổi về lượng trước đó gây ra gọi là bước nhảy. Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn phát triển của sự vật và là điểm khởi đầu của một giai đoạn phát triển mới.

- Những thay đổi về chất dẫn đến những thay đổi về lượng: Chất mới ra đời sẽ tác động trở lại tới sự thay đổi về lượng mới (làm thay đổi quy mô, nhịp điệu, tốc độ... phát triển của sự vật). Như vậy, không chỉ sự thay đổi về lượng gây nên những thay đổi về chất mà cả sự thay đổi về chất cũng gây nên những thay đổi về lượng.

-> Ví dụ: Nhịp điệu vận động, phát triển của xã hội dưới cơ chế thị trường nhanh hơn nhịp điệu vận động của xã hội dưới cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp; hay khi trở thành cử nhân thì tốc độ đọc, hiểu vấn đề sẽ tốt hơn khi còn là sinh viên…

-> Một số vấn đề thực tiễn cần suy nghĩ: Có người cho rằng học ở đại học nhàn hơn học phổ thông; có trường hợp học sinh lớp 7 mà chưa đánh vần thành thạo; bác sỹ thú y không biết cầm kim tiêm, không biết mổ sẻ như thế nào?…-> Phải học thật sự để chất nào lượng ấy, chất mới thì lượng cũng phải mới…

Tóm lại, sự thống nhất giữa lượng và chất trong sự vật tạo thành độ của sự vật. Những thay đổi về lượng dần dần đến giới hạn nhất định thì xảy ra bước nhảy, chất cũ bị phá vỡ, chất mới ra đời cùng với độ mới. Đó chính là cách thức phát triển của sự vật. Quá trình này diễn ra liên tục làm cho sự vật không ngừng vận động, biến đổi.

( * Tính thống nhất giữa chất và lượng trong một sự vật

Chất và lượng là hai mặt thống nhất hữu cơ với nhau. Chất nào có lượng đó; lượng nào có chất đó. Chất và lượng có sự phù hợp với nhau. Sự phù hợp này diễn ra trong một phạm vi, giới hạn nhất định gọi là “độ”. Độ là phạm vi, giới hạn trong đó lượng đổi chưa làm chất thay đổi.

* Quá trình chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất

- Sự phát triển bắt đầu từ sự thay đổi về lượng. Lượng biến đổi trong phạm vi “độ” chưa làm chất thay đổi.

- Vượt quá độ, sự biến đổi về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất. Chất cũ mất đi, chất mới ra đời. Sự thay đổi về chất gọi là bước nhảy. Điểm diễn ra bước nhảy gọi là điểm nút.

* Quá trình chuyển hóa từ những sự thay đổi về chất thành những sự thay đổi về lượng

Chất mới ra đời thúc đẩy quá trình biến đổi về lượng với quy mô và tốc độ cao hơn. Bởi vì, trong phạm vi chất cũ, lượng biến đổi đến một giới hạn nhất định thì bị chất cũ kìm hãm. Do đó, thay chất cũ bằng chất mới là phá bỏ sự kìm hãm đó. Mặt khác, chất mới cần được kết hợp với lượng mới.

* Bước nhảy và các hình thức của bước nhảy

Bước nhảy là sự thay đổi về chất từ chất cũ sang chất mới.

Bước nhảy có nhiều hình thức đa dạng phong phú tùy theo bản chất của sự vật và điều kiện tồn tại của sự vật.

+ Bước nhảy đột biến và bước nhảy dần dần

+ Bước nhảy toàn bộ và bước nhảy bộ phận)

3. Ý nghĩa phương pháp luận

- Vì bất kỳ sự vật, hiện tượng nào đó cũng có phương diện chất và lượng tồn tại trong tính quy định lẫn nhau, tác động và làm chuyển hóa lẫn nhau, do đó, trong nhận thức và thực tiễn cần phải coi trọng cả hai loại chỉ tiêu về phương diện chất và lượng, tạo nên sự nhận thức toàn diện về sự vật, hiện tượng.

- Vì những thay đổi về lượng của sự vật, hiện tượng có khả năng tất yếu chuyển hóa thành những thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng và ngược lại, do đó, trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, tùy theo mục đích cụ thể, cần từng bước tích lũy về lượng để có thể làm thay đổi về chất; đồng thời, có thể phát huy tác động của chất mới theo hướng làm thay đổi về lượng của sự vật, hiện tượng.

- Trong hoạt động thực tiễn cần tránh rơi vào “tả khuynh” – nhấn mạnh bước nhảy khi chưa đủ sự tích luỹ về lượng; bởi lẽ, khi ấy rất dễ rơi vào phiêu lưu, mạo hiểm. Đồng thời, phải tránh “hữu khuynh” – tuyệt đối hoá sự tích luỹ về lượng, không dám thực hiện bước nhảy khi đã tích lũy đủ về lượng, khi ấy dễ rơi vào bảo thủ, trì trệ, ngại khó. Khi tích luỹ về lượng đã đủ thì phải thực hiện bước nhảy.

-> Một số vấn đề thực tiễn: Trái cây ăn non (xanh) hoặc già (chín) quá liệu có ngon hay không? Vừa học đại học năm thứ nhất muốn tốt nghiệp có được không (lượng non)?…

- Vì bước nhảy của sự vật đa dạng, phong phú cho nên trong hoạt động nhận thức và thực tiễnphải vận dụng linh hoạt các hình thức bước nhảy cho phù hợp với từng điều kiện, lĩnh vực cụ thể.

Câu 3: Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập

1. Các khái niệm

- Khái niệm mâu thuẫn dùng để chỉ mối liên hệ thống nhất, đấu tranh và chuyển hóa giữa các mặt đối lập của mỗi sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau.

- Khái niệm mặt đối lập dùng chỉ những mặt, những thuộc tính, những khuynh hướng vận động trái ngược nhau nhưng đồng thời lại là điều kiện, tiền đề tồn tại của nhau.

-> Ví dụ, đồng hoá và dị hoá trong cơ thể động vật; cực bắc và cực nam trong thanh nam châm; điện tích dương và điện tích âm trong một nguyên tử; cung và cầu trong nền sản xuất xã hội...

- Lưu ý: Mâu thuẫn được hình thành từ hai mặt đối lập nhưng không phải bất kỳ hai mặt đối lập nào cũng tạo thành mâu thuẫn. Chỉ khi hai mặt đối lập tồn tại trong cùng một sự vật, trong cùng một thời gian, về cùng một mối liên hệ và thường xuyên tác động qua lại lẫn nhau mới tạo thành mâu thuẫn.

-> Ví dụ, đồng hoá và dị hoá trong cùng một cơ thể động vật, cùng về một mối liên hệ ở đây là cùng về năng lượng (đồng hoá là nạp năng lượng, dị hoá là giải phóng năng lượng), đồng hoá và dị hoá thường xuyên tác động theo nghĩa nhờ đồng hoá mà cơ thể mới có nhu cầu dị hoá, ngược lại, nhờ dị hoá thì cơ thể mới đồng hoá được.

- Sự thống nhất giữa các mặt đối lập là sự nương tựa vào nhau, đòi hỏi có nhau của các mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này là tiền đề cho sự tồn tại của mặt kia; chúng luôn tác động qua lại và đấu tranh lẫn nhau theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau gữa các mặt đối lập.

- Sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập

Khái niệm “thống nhất” trong quy luật mâu thuẫn có nghĩa là 2 mặt đối lập liên hệ nhau, ràng buộc nhau và quy định lẫn nhau, mặt này lấy mặt kia làm tiền đề để tồn tại và phát triển. (ví dụ: đồng hóa và dị hóa, giai cấp vô sản và giai cấp tư sản trong xã hội tư bản chủ nghĩa)

Khái niện “thống nhất” trong quy luật mâu thuẫn còn đồng nghĩa với khái niệm “đồng nhất”, đó là sự thừa nhận những khuynh hướng mâu thuẫn, bài trừ lẫn nhau trong tất cả các hiện tượng, các quá trình của tự nhiên, xã hội và tư duy; song “đồng nhất” còn có ý nghĩa khác, đó là sự chuyễn hóa lẫn nhau giữa các mặt đối lập; và như vậy sự “đồng nhất” là không tách rời với sự khác nhau và đối lập, (ví dụ liên hệ: một vật vừa là nó vừa không phải là nó; quan điểm này hoàn toàn đối lập với quan điểm siêu hình, phiến diện, xem sự vật mang tính đồng nhất thuần túy không có đối lập, không có sự chuyển hóa.

Trong một mâu thuẫn, sự thống nhất của các mặt đối lập không thể tách rời sự đấu tranh bài trừ nhau, phủ định nhau giữa chúng; hình thức đấu tranh được thể hiện trong thế giới vật chất là rất đa dạng, từ thấp đến cao, từ đơn giản tới phức tạp (ví dụ: trong thế giới tự nhiên chỉ là những tác động ảnh hưởng lẫn nhau, trong xã hội đó là những xung đột gay gắt, quyết liệt bằng bạo lực cách mạng mới có thể giải quyết căn bản các mâu thuẫn)

Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập là một quá trình phức tạp, bao gồm nhiều giai đoạn với những đặc điểm riêng của nó; khi mới xuất hiện, mâu thuẫn thường được biểu hiện ở sự khác nhau của 2 mặt có khuynh hướng trái ngược nhau; trong quá trình phát triển của mâu thuẫn, sự khác nhau đó biến thành sự đối lập, khi 2 mặt đối lập xung đột nhau gay gắt, nếu có điều kiện chín muồi sẽ chuyễn hóa lẫn nhau, mâu thuẫn được giải quyết; kết quả là sự thống nhất giữa 2 mặt đối lập cũ bị phá hũy, sự thống nhất của 2 mặt đối lập mới được hình thành cùng mới mâu thuẫn mới.

Bất cứ sự thống nhất của các mặt đối lập cụ thể nào cũng đều có tính chất tạm thời tương đối, nghĩa là nó tồn tại trong trạng thái đứng im tương đối của sự vật hiện tượng; còn sự đấu tranh giữa các mặt đối lập là có tính chất tuyệt đối, nghĩa là nó phá vỡ sự ổn định dẫn đến sự chuyển hóa về chất của các sự vật hiện tượng, làm cho vật chất luôn vận động và phát triển.

2. Mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động và sự phát triển

Những nhà triết học theo quan điểm siêu hình phủ nhận mâu thuẫn bên trong của sự vật hiện tượng, chỉ thừa nhận có sự đối kháng, sự xung đột bên ngoài giữa các sự vật hiện tượng với nhau, nhưng không cho đó là có tính quy luật.

Phép biện chứng duy vật khẳng định rằng, mọi sự vật hiện tượng trong thế giới đều tồn tại mâu thuẫn bên trong; mỗi sự vật hiện tượng đều là một thể thống nhất giữa các mặt, các thuộc tính, các khuynh hướng đối lập nhau, những mặt đối lập nhau nhưng lại ràng buộc nhau nên nó tạo thành mâu thuẫn.

Mâu thuẫn chẳng những là hiện tượng khách quan mà còn là hiện tượng phổ biến; mâu thuẫn tồn tại khách quan trong thế giới tự nhiên, xã hội và tư duy con người; tồn tại phổ biến chẳng những ở mọi sự vật hiện tượng mà còn phổ biến trong suốt quá trình vận động và phát triển của chúng; mâu thuẫn này mất đi thì mâu thuẫn khác lại được hình thành.

3. Phân loại mâu thuẫn

Mâu thuẫn trong tự nhiên, xã hội và tư duy tồn tại rất đa dạng; tính đa dạng được quy định bởi đặc điểm của các mặt đối lập, điều kiện thực hiện sự tác động qua lại giữa các mặt đối lập, bởi trình độ tổ chức của hệ thống mà trong đó mâu thuẫn tồn tại.

- Căn cứ vào quan hệ giữa các mặt đối lập, người ta phân loại thành mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài; trong đó, mâu thuẫn bên trong là sự tác động qua lại giữa các mặt, các khuynh hướng đối lập của cùng một sự vật hiện tượng; mâu thuẫn bên ngoài là mâu thuẫn diễn ra trong mối liên hệ với sự vật, hiện tượng khác (ví dụ: đồng hóa-dị hóa: bên trong; cơ thể-môi trường: bên ngoài); cách phân loại này chỉ mang tính tương đối, các mâu thuẫn tác động lẫn nhau và mâu thuẫn bên trong giữ vai trò quyết định trực tiếp đến sự vận động và phát triển của sự vật hiện tượng (ví dụ: chính sách đối nội-đối ngoại).

- Căn cứ vào ý nghĩa đối với sự tồn tại và phát triển của toàn bộ sự vật hiện tượng, người ta phân loại thành mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản; mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định bản chất của sự vật hiện tượng, quy định sự phát triển ở tất cả các giai đoạn của sự vật hiện tượng, nó tồn tại trong suốt quá trình tồn tại của sự vật hiện tượng; mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn đặc trưng cho một phương diện nào đó của sự vật, nó quy định sự vận động và phát triển một mặt nào đó của sự vật (liên hệ: mâu thuẫn giữa lực lượcng sản xuất với quan hệ sản xuất trong xã hội tư bản chủ nghĩa).

Căn cứ vào vai trò mâu thuẫn được chia thành mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu; mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu trong một giai đoạn phát triển nhất định của sự vật hiện tượng, giải quyết nó tạo điều kiện giải quyết các mâu thuẫn thứ yếu; phân biệt mâu thuẫn chủ yếu với mâu thuẫn thứ yếu chỉ mang tính tương đối, trong cùng một sự vật trong điều kiện này là mâu thuẫn thứ yếu, trong điều kiện khác lại là mâu thuẫn chủ yếu.

Căn cứ vào tính chất các lợi ích đối lập trong xã hội, người ta phân chia thành mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng; mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa những giai cấp, những tập đoàn người, những xu hướng xã hội có lợi ích cơ bản đối lập nhau (ví dụ); mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa những lực lượng, những khuynh hướng xã hội có đối lập về lợi ích những mang tính cục bộ, tạm thời (ví dụ: mâu thuẫn trong các bộ phận công nhân, giữa thành thị-nông thôn). Phân biệt được các loại mâu thuẫn trên sẽ góp phần xác định chính xác phương pháp giải quyết phù hợp: bằng bạo lực cách mạng hay bằng giáo dục thuyết phục.

4. Ý nghĩa phương pháp luận

Phải thừa nhận tính khách quan của mâu thuẫn, yêu cầu này đòi hỏi chúng ta phải biết phân tích các mặt đối lập của mâu thuẫn, nắm được bản chất của sự vật, khuynh hướng vận động và phát triển của chúng.

Hoạt động thực tiển nhằm biến đổi sự vật là quá trình giải quyết mâu thuẫn của nó, muốn vậy phải xác định đúng trạng thái chín muồi của mâu thuẫn, tìm ra phương thức, phương tiện và lực lượng có khả năng giải quyết mâu thuẫn; không nên giải quyết mâu thuẫn một cách vội vàng khi chưa đủ điều kiện.

Mâu thuẫn phải được giải quyết bằng con đường đấu tranh dưới nhiều hình thức khác nhau, tuỳ loại mâu thuẫn mà có phương pháp giải quyết cụ thể. 

Câu 4: Quy luật phủ định của phủ định.

1. Các khái niệm

- Phủ định nói chung là sự bài trừ, bác bỏ sự vật nhất định nào đó. Nói cách khác, phủ định là một quá trình vận động trong đó sự vật, hiện tượng này được thay thế bởi sự vật, hiện tượng khác (đây là sự biến đổi nói chung).

- Có hai loại quan niệm khác nhau về phủ định, là phủ định siêu hình và phủ định biện chứng:

+ Phủ định siêu hình: là sự phủ định chấm dứt sự phát triển.

+ Phủ định biện chứng là quá trình tự phủ định, tự phát triển, là mắt khâu trên con đường dẫn tới sự ra đời của cái mới, cái tiến bộ hơn so với cái tự phủ định. Phủ định biện chứng có đặc điểm:

-> Mang tính khách quan: vì nguyên nhân của phủ định nằm trong bản thân sự vật, hiện tượng, đó là kết quả của quá trình đấu tranh giải quyết mâu thuẫn tất yếu, bên trong của bản thân nó, tạo ra khả năng cái mới ra đời thay thế cái cũ. Vì thế phủ định biện chứng là sự tự thân phủ định.

-> Mang tính kế thừa: Kế thừa những nhân tố hợp quy luật và loại bỏ nhân tố trái quy luật, cái mới ra đời trên cơ sở những hạt nhân hợp lý của cái cũ tạo nên tính liên tục của sự phát triển.

2. Nội dung quy luật phủ định của phủ định

- Tính chu kỳ của sự phát triển: Từ một điểm xuất phát, trải qua một số lần phủ định, sự vật dường như quay trở lại điểm xuất phát nhưng trên cơ sở cao hơn.

+ Số lần phủ định đối với mỗi chu kỳ của từng sự vật cụ thể có thể khác nhau        + Cơ chế của quá trình phủ định của phủ định:

Cái khẳng định        ->     Cái phủ định         ->       Phủ định của phủ định

            A                               (pđ lần 1) B                           (pđ lần 2)  A,

-> Phủ định lần thứ nhất: Làm cho sự vật trở thành cái đối lập với chính nó, tức là chuyển từ cái khẳng định sang cái phủ định

-> Phủ định lần thứ hai (phủ định cái phủ định): Sự vật mới ra đời, đối lập với cái đối lập nên sự vật dường như quay lại cái cũ nhưng trên cơ sở cao hơn, đó là đặc điểm cơ bản của quy luật phủ định của phủ định.

+ Nguyên lý tính chu kỳ của sự phát triển có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng: nếu nắm được chu kỳ phát triển của sự vật, hiện tượng, tất yếu dự báo được tương lai của nó.

- Khuynh hướng của sự phát triển (theo đường "xoáy ốc")

+ Phép biện chứng duy vật thừa nhận, vận động phát triển đi lên là xu hướng chung của thế giới nhưng không diễn ra theo đường thẳng mà diễn ra theo đường "xoáy ốc" quanh co, phức tạp.

+ Lênin đã từng khẳng định: "Nếu quan niệm lịch sử thế giới phát triển đều đặn, không có vấp váp quanh co, không có thụt lùi, là không biện chứng, không khoa học, không đúng về mặt lý luận", sở dĩ như vậy là vì: trong điều kiện nhất định, cái cũ tuy đã cũ nhưng còn có những yếu tố, mặt, bộ phận vẫn mạnh hơn cái mới. Cái mới vì là mới nên còn non nớt, chưa có khả năng thắng ngay cái cũ. Do đó, có lúc, có nơi, cái mới hợp quy luật của sự phát triển nhưng vẫn bị cái cũ tác động trở lại, gây khó khăn, cản trở, cái mới phải tạm thời thụt lùi. Vì vậy, sự phát triển có tính quanh co, phức tạp diễn ra theo đường "xoáy ốc".

3. Ý nghĩa phương pháp luận

- Khi xem xét sự vận động phát triển của sự vật, phải xem xét nó trong quan hệ đối lập: cái mới ra đời từ cái cũ, cái lạc hậu, cái phủ định ra đời từ cái khẳng định. Có như vậy, mới thấy được những nhân tố tích cực ở cái cũ mà cái mới cần phải kế thừa trong sự phát triển đi lên.

- Sự phát triển diễn ra theo đường "xoáy ốc", do vậy phải kiên trì, chờ đợi, không được nôn nóng, vội vàng nhưng phải theo hướng bảo vệ cái mới, ủng hộ cái mới, tin tưởng cái mới, hợp quy luật nhất định sẽ chiến thắng; cần khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, giáo điều, kìm hãm sự phát triển của cái mới.

- Quan điểm biện chứng về sự phát triển đòi hỏi trong quá trình phủ định cái cũ phải theo nguyên tắc kế thừa có phê phán; kế thừa những nhân tố hợp quy luật và lọc bỏ, vượt qua, cải tạo cái tiêu cực, trái quy luật nhằm thúc đẩy sự vật, hiện tượng phát triển theo hướng tiến bộ.

4. Ý nghĩa trong quá trình đổi mới ở nước ta

* Đặc điểm của phủ định trong đời sống xã hội:

- Phủ định trong xã hội là hình thức và kết quả hoạt động của con người do vậy ngoài những đặ trưng mà mọi phủ định biện chứng đều có thì phủ định biện chứng trong xã hội có 2 đặc điểm riêng:

+ Quan điểm biện chứng và siêu hình về sự phủ định:

> Quan điểm siêu hình về phủ định trong xã hội xuất hiện khi xác định không đúng đối tượng, thời điểm, phương thức phủ định.

> Tuyệt đối hoá mặt loại bỏ hoặc mặt giữ lại.

+Phủ định xã hội diễn ra bằng cơ chế khác căn bản với phủ định trong tự nhiên.

* Vì vậy, phương pháp luận rút ra từ quy luật phủ định của phủ định có ý nghĩa:

- Cho ta cơ sở lý luận để hiểu sự ra đời của các mới, cái mới ra đời từ cái cũ, kế thừa những mặt tích cực của cái cũ do vậy cần chống thái độ phủ định sách trơn.

- Phải phát hiện và quý trọng cái mới, phải biết sàng lọc giữ lấy những cái tích cực có giá trị của cái cũ.

- Chống lại thái độ bảo thủ, khư khư giữ những cái cản trở bước tiến của lịch sử



Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#triết