bai chinh tri

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

1. Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện. Trải qua hơn 80 năm phấn đấu, xây dựng và trưởng thành, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, với bản lĩnh của một đảng cách mạng chân chính, dạn dày kinh nghiệm, luôn gắn bó máu thịt với nhân dân, Đảng đã lãnh đạo, tổ chức và phát huy sức mạnh to lớn của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, giành được nhiều thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp cách mạng.

Từ khi thực hiện đường lối đổi mới, Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư các khóa đã ban hành nhiều chủ trương, nghị quyết về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Trên cơ sở đó, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã đạt được nhiều kết quả tích cực; năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng không ngừng được nâng cao; phương thức lãnh đạo của Đảng từng bước được đổi mới; vai trò lãnh đạo của Đảng được giữ vững, niềm tin của nhân dân với Đảng được củng cố; đội ngũ cán bộ, lãnh đạo, quản lý các cấp đã có bước trưởng thành và tiến bộ về nhiều mặt. Đa số cán bộ, đảng viên có ý thức rèn luyện, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, có ý thức phục vụ nhân dân, được nhân dân tin tưởng. Thành tựu 25 năm đổi mới là thành quả của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, trong đó có sự đóng góp to lớn của đội ngũ cán bộ, đảng viên.

2. Bên cạnh kết quả đạt được, công tác xây dựng Đảng vẫn còn không ít hạn chế, yếu kém, thậm chí có những yếu kém khuyết điểm kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ chậm được khắc phục, làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng; nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ. Nổi lên một số vấn đề cấp bách sau đây:

Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc...

Đội ngũ cán bộ cấp Trung ương, cấp chiến lược rất quan trọng, nhưng chưa được xây dựng một cách cơ bản. Công tác quy hoạch cán bộ mới tập trung thực hiện ở địa phương, chưa thực hiện được ở cấp trung ương, dẫn đến sự hẫng hụt, chắp vá, không đồng bộ và thiếu chủ động trong công tác bố trí, phân công cán bộ. Một số trường hợp đánh giá, bố trí cán bộ chưa thật công tâm, khách quan, không vì yêu cầu công việc, bố trí không đúng sở trường, năng lực, ảnh hưởng đến uy tín cơ quan lãnh đạo, sự phát triển của ngành, địa phương và cả nước.

Nguyên tắc "tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách" trên thực tế ở nhiều nơi rơi vào hình thức, do không xác định rõ cơ chế trách nhiệm, mối quan hệ giữa tập thể và cá nhân; khi sai sót, khuyết điểm không ai chịu trách nhiệm. Do vậy, vừa có hiện tượng dựa dẫm vào tập thể, không rõ trách nhiệm cá nhân, vừa không khuyến khích người đứng đầu có nhiệt tình, tâm huyết, dám nghĩ, dám làm; tạo kẽ hở cho cách làm việc tắc trách, trì trệ, hoặc lạm dụng quyền lực một cách tinh vi để mưu cầu lợi ích cá nhân. 

3. Tình hình trên đây có nguyên nhân khách quan do việc thực hiện đổi mới kinh tế phải vừa làm, vừa rút kinh nghiệm, chưa lường hết được những tác động của mặt trái cơ chế thị trường, hội nhập quốc tế; chưa có sự chuẩn bị thật kỹ về lập trường, tư tưởng và cả cách thức tiếp cận mới cho cán bộ, đảng viên. Đặc biệt, còn thiếu những cơ chế, chính sách đồng bộ, khoa học để chủ động ngăn ngừa những vi phạm.

Đất nước ta đang trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, xây dựng, phát triển với quy mô ngày càng lớn, một bộ phận cán bộ lãnh đạo, quản lý nắm giữ khối lượng tài sản, nguồn vốn lớn của tập thể, của Nhà nước; đó là môi trường để chủ nghĩa cá nhân vụ lợi, thực dụng phát triển.

Trong khi đó, các thế lực thù địch không từ bỏ âm mưu và hoạt động "diễn biến hòa bình", thúc đẩy "tự diễn biến", "tự chuyển hóa", tăng cường hoạt động chống phá, chia rẽ nội bộ Đảng và phá hoại mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân, làm suy yếu vai trò lãnh đạo của Đảng.

Nhưng chủ yếu là do những nguyên nhân chủ quan:

Cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện, giảm sút ý chí chiến đấu, quên đi trách nhiệm, bổn phận trước Đảng, trước nhân dân. Việc tổ chức thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, các nghị quyết, chỉ thị, quy định về xây dựng, chỉnh đốn Đảng ở một số nơi chưa đến nơi đến chốn, kỷ cương, kỷ luật không nghiêm, nói không đi đôi với làm, hoặc làm chiếu lệ.

Các nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình ở nhiều nơi vừa bị buông lỏng trong thực hiện, vừa chưa được quy định cụ thể để làm cơ sở cho công tác kiểm tra, giám sát. Việc nghiên cứu, sửa đổi, ban hành cơ chế, chính sách, pháp luật thích ứng với quá trình vận hành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa kịp thời; nhiều văn bản quy định thiếu chế tài cụ thể. Đánh giá, sử dụng, bố trí cán bộ còn nể nang, cục bộ; chưa chú trọng phát hiện và có cơ chế thật sự để trọng dụng người có đức, có tài; không kiên quyết thay thế người vi phạm, uy tín giảm sút, năng lực yếu kém.

Công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống nhiều khi còn hình thức, chưa đủ sức động viên và thường xuyên nâng cao ý chí cách mạng của cán bộ, đảng viên; một số nơi có tình trạng những việc làm đúng, gương người tốt không được đề cao, bảo vệ; những sai sót, vi phạm không được phê phán, xử lý nghiêm minh. Công tác kiểm tra, giám sát, giữ gìn kỷ cương, kỷ luật ở nhiều nơi, nhiều cấp chưa thường xuyên, ráo riết; đấu tranh với những vi phạm còn nể nang, không nghiêm túc. Vai trò giám sát của nhân dân thông qua Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội chưa được phát huy, hiệu quả chưa cao.

III. GIẢI PHÁP:

Cùng với việc tiếp tục thực hiện các chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, các quy định đã có về xây dựng Đảng, cần tập trung thực hiện tốt các nhóm giải pháp sau đây: 

1. Nhóm giải pháp về tự phê bình và phê bình, nêu cao tính tiền phong, gương mẫu của cấp trên

Một là, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chấp hành Trung ương tập trung kiểm điểm, đánh giá làm rõ tại sao những hạn chế, khuyết điểm đã chỉ ra nhiều năm nhưng chậm được khắc phục, có mặt còn yếu kém, phức tạp thêm; làm rõ nguyên nhân trở ngại trong việc lãnh đạo thực hiện các nghị quyết của Trung ương về xây dựng Đảng.

Hai là, các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương tiến hành kiểm điểm, đánh giá liên hệ bản thân về kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao liên quan đến một số vấn đề cấp bách nêu trong Nghị quyết này, đề ra biện pháp khắc phục. Tập trung làm rõ trách nhiệm cá nhân, gương mẫu thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tự phê bình và phê bình, nói đi đôi với làm, nêu gương về đạo đức, lối sống.

Ba là, các đồng chí ủy viên ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy trực thuộc Trung ương, lãnh đạo các ban của Trung ương Đảng, ban thường vụ các tỉnh ủy, thành ủy và cấp ủy các cấp nghiêm túc kiểm điểm, tự phê bình và phê bình, nêu gương bằng hành động thực tế. Trong quá trình kiểm điểm cần liên hệ, gắn với xem xét việc thực hiện các quy chế, quy định; việc giải quyết những vấn đề về tổ chức, cán bộ; về giải quyết những vấn đề bức xúc của ngành, cơ quan hoặc địa phương. 

Trước khi kiểm điểm, cần có hình thức phù hợp lấy ý kiến góp ý, gợi ý kiểm điểm. 

2. Nhóm giải pháp về tổ chức, cán bộ và sinh hoạt đảng 

Một là, mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý kiểm điểm, liên hệ theo chức trách, nhiệm vụ được giao, tự phê bình và phê bình thẳng thắn, dân chủ, nghiêm túc, chân thành, gắn với thực hiện Quy định về những điều đảng viên không được làm, theo cương vị công tác. Làm tốt việc kiểm điểm để có căn cứ xem xét, sàng lọc đội ngũ cán bộ của cả hệ thống chính trị và chuẩn bị quy hoạch cấp ủy, các chức danh chủ chốt các cấp nhiệm kỳ tới. 

Hai là, phát huy dân chủ thật sự trong Đảng, thực hiện nghiêm túc Quy chế chất vấn trong Đảng, nhất là chất vấn tại các kỳ họp Ban Chấp hành Trung ương và cấp ủy các cấp. Đổi mới cách lấy phiếu tín nhiệm để đánh giá, nhận xét cán bộ theo hướng mở rộng đối tượng tham gia. Những người không đủ năng lực, không hoàn thành nhiệm vụ, có tín nhiệm thấp cần được sắp xếp phù hợp, có cơ chế để kịp thời thay thế không chờ hết nhiệm kỳ, hết tuổi công tác. 

Ba là, tiếp tục thực hiện chủ trương bố trí một số chức danh cán bộ chủ chốt ở cấp tỉnh, cấp huyện không phải là người địa phương. Thực hiện nghiêm việc kê khai tài sản theo quy định của Đảng và Nhà nước. Kê khai tài sản phải trung thực và được công khai ở nơi công tác và nơi cư trú. 

Tiếp tục thực hiện thí điểm chủ trương bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch ủy ban nhân dân cấp xã, cấp huyện; gắn với xây dựng quy chế kiểm tra, giám sát, bảo đảm thực sự có hiệu quả, ngăn chặn sự lạm quyền, độc đoán. Sơ kết, rút kinh nghiệm để có chủ trương về việc đại hội đảng bộ từ cấp tỉnh đến cấp cơ sở trực tiếp bầu bí thư cấp ủy có số dư. Triển khai thực hiện quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các chức danh cán bộ lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước nhiệm kỳ 2016-2020; tích cực tạo nguồn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ tham mưu, chuyên gia cấp chiến lược. Thực hiện bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ trì cấp trên nói chung phải qua chức vụ lãnh đạo, quản lý chủ trì ở cấp dưới. Hướng dẫn để sớm thực hiện quy định việc lấy phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn. Quy định việc thực hiện lấy phiếu tín nhiệm hằng năm đối với các chức danh lãnh đạo trong cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể. Những người hai năm liền tín nhiệm thấp, không hoàn thành nhiệm vụ cần được xem xét, cho thôi giữ chức vụ, không chờ kết nhiệm kỳ, hết tuổi công tác. 

Bốn là, thí điểm giao quyền cho bí thư cấp ủy lựa chọn, giới thiệu để bầu cử ủy viên thường vụ cấp ủy; cấp trưởng có trách nhiệm lựa chọn, giới thiệu để bầu cử, bổ nhiệm cấp phó; thí điểm chế độ tiến cử, chế độ tập sự lãnh đạo quản lý; thực hiện quy trình giới thiệu nhân sự theo hướng những người được dự kiến đề bạt, bổ nhiệm phải trình bày đề án hoặc chương trình hành động trước khi cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định.

Năm là, chấn chỉnh tổ chức, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, đảng bộ; thực hiện nghiêm nguyên tắc tự phê bình và phê bình. 

Sáu là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử để nâng cao hiệu quả công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Sớm tổng kết toàn diện công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm; bổ sung, sửa đổi Luật Phòng, chống tham nhũng. Kiện toàn và tăng cường trách nhiệm, nâng cao hiệu quả hoạt động của cơ quan phòng, chống tham nhũng. Xét xử nghiêm những vụ án tham nhũng, trước hết là những vụ nghiêm trọng, phức tạp, được nhân dân quan tâm. 

Bảy là, định kỳ tổ chức để nhân dân góp ý kiến xây dựng Đảng thông qua Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội. 

3. Nhóm giải pháp về cơ chế, chính sách 

Một là, khẩn trương rà soát, loại bỏ các cơ chế, chính sách đã lạc hậu, xây dựng, ban hành đồng bộ các chính sách để đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ. Trọng tâm là đánh giá cán bộ, xây dựng tiêu chuẩn cán bộ theo chức danh, tiêu chí đánh giá cán bộ làm cơ sở cho việc quy hoạch, quản lý, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng đội ngũ cán bộ; quy định rõ thẩm quyền và trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng và cơ quan, đơn vị. Ban hành quy chế để hằng năm Ban Chấp hành Trung ương góp ý kiến, thể hiện sự tín nhiệm đối với tập thể và từng thành viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư; ban chấp hành đảng bộ các cấp góp ý kiến, thể hiện sự tín nhiệm đối với tập thể và từng thành viên ban thường vụ cấp ủy cấp mình. 

Thực hiện nghiêm Luật Cán bộ, công chức, Luật Viên chức và các văn bản pháp luật có liên quan đến công tác cán bộ. Ủy ban kiểm tra các cấp thường xuyên kiểm tra, giám sát đối với cán bộ thuộc diện cấp ủy quản lý trong việc chấp hành các quy định của Đảng và Nhà nước về cán bộ, công chức; hàng năm cần có báo cáo kết quả thực hiện của cán bộ thuộc cấp ủy quản lý trong việc chấp hành quy định của Đảng và Nhà nước về công tác cán bộ, Luật Cán bộ, công chức, Luật Viên chức. Xây dựng, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật để bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch trong công tác cán bộ; loại trừ khả năng để cán bộ và người thân của cán bộ lợi dụng chức vụ, vị trí công tác để trục lợi. 

Hai là, rà soát cơ chế, chính sách và ban hành văn bản quy phạm pháp luật để quản lý, kiểm soát chặt chẽ vốn và tài sản nhà nước. 

Ba là, tích cực thực hiện cải cách hành chính nhà nước và cải cách hành chính trong Đảng. Rà soát, loại bỏ những cơ chế, chính sách không còn phù hợp, cản trở việc thực thi công vụ của cán bộ, công chức; sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới các quy định của Đảng và Nhà nước theo hướng đề cao hơn trách nhiệm và quyền hạn của người đứng đầu trong mối quan hệ giữa tập thể và cá nhân, vừa phải tôn trọng nguyên tắc tập thể, vừa phải phát huy vai trò cá nhân người đứng đầu; khuyến khích, bảo vệ người dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, đặt lợi ích chung lên trên lợi ích riêng. 

Bốn là, đẩy nhanh việc cải cách, thực hiện sớm chế độ tiền lương, nhà ở, chống bình quân, cào bằng; đồng thời chống đặc quyền, đặc lợi; gắn với tinh giảm biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức. 

Năm là, trong năm 2012 ban hành quy chế giám sát (trực tiếp và gián tiếp) của nhân dân đối với cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng và chính quyền các cấp; trong đó có cơ chế giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, việc tổ chức lấy ý kiến đóng góp của các chuyên gia, nhà khoa học; cơ chế để Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền. 

4. Nhóm giải pháp về công tác giáo dục chính trị, tư tưởng 

Một là, tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh theo tinh thần Chỉ thị 03-CT/TW, ngày 14-5-2011 của Bộ Chính trị; tập trung lãnh đạo, chỉ đạo việc làm theo gương Bác một cách thiết thực, hiệu quả.

Hai là, đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên gắn với việc kiểm điểm, đánh giá và biện pháp giải quyết vấn đề cấp bách trong công tác xây dựng Đảng của các cấp theo tinh thần Nghị quyết này, tạo niềm tin trong Đảng và nhân dân. 

Ba là, đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn. Đưa vào nền nếp việc bồi dưỡng lý luận, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, đặc biệt là cấp trung ương.

Bốn là, chấn chỉnh hoạt động thông tin, tuyên truyền; quản lý có hiệu quả hoạt động báo chí theo đúng định hướng của Đảng và Nhà nước. Chú trọng làm tốt hơn việc nêu gương những người tốt, việc tốt; lấy nhân tố tích cực để đẩy lùi tiêu cực; đồng thời phê phán, đấu tranh với những biểu hiện sa sút về tư tưởng chính trị, vô trách nhiệm, vụ lợi cá nhân, vi phạm những chuẩn mực đạo đức, lối sống... Tập trung chấn chỉnh, quản lý thông tin trên mạng Internet, các mạng xã hội và blog cá nhân.

Năm là, cán bộ chủ chốt và cán bộ dân cử các cấp phải thường xuyên tiếp xúc, đối thoại trực tiếp với nhân dân, chủ động nắm bắt tâm tư, đánh giá, dự báo diễn biến tư tưởng của cán bộ, đảng viên và có biện pháp giải quyết kịp thời. Kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Chủ động phòng ngừa, đấu tranh, phê phán những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng. Giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội. 

Tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng

- Thứ nhất: Tên của báo cáo là tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng nhưng nội dung lý thuyết về tái cơ cấu nền kinh tế gắn với mô hình tăng trưởng trình bày trong đề án chưa được rõ, mới đề cập hai giải thích ngắn gọn, chưa làm rõ điều kiện để gắn tái cơ cấu với chuyển đổi mô hình tăng trưởng là gì và cần phải làm gì, làm thế nào để gắn hai phạm trù này trong điều kiện của Việt Nam. Như vậy, về lý thuyết cũng như thực tế là chưa thuyết phục, đề nghị Chính phủ bổ sung và làm rõ hơn về vấn đề này

- Thứ hai: Quan điểm chỉ đạo, báo cáo đề cập đến quan điểm chỉ đạo đối với tái cơ cấu là thực hiện tăng trưởng hợp lý, bền vững và ưu tiên chất lượng tăng trưởng tái cơ cấu kinh tế phải gắn với tiếp tục đổi mới mở cửa, tiếp tục chủ động triển khai đồng bộ ở các ngành, các cấp, các lĩnh vực trên phạm vi cả nước ở từng địa phương, đơn vị cơ sở trong thời gian dài và nhiều năm. Về cơ bản tôi tán thành với những quan điểm trên. Tuy nhiên, cần làm rõ những nội dung sau, thế nào là tăng trưởng hợp lý.

Quan điểm thứ nhất, phải chăng nên xác định tăng trưởng dựa vào nội lực là chính, kết hợp các nguồn lực bên ngoài ở mức cho phép, không quá lạm dụng vốn nước ngoài.

Giải thích rõ hơn quan điểm thứ hai, tái cơ cấu kinh tế phải gắn với tiếp tục đổi mới mở cửa, tiếp tục và chủ động hội nhập. Nên chăng xác định lại tái cơ cấu kinh tế trên cơ sở tận dụng những cơ hội, lợi ích của hội nhập quốc tế là đủ.

Quan điểm thứ ba, chưa làm rõ những khó khăn, phức tạp của tái cơ cấu kinh tế, gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng và trình bày chưa gọn, chưa rõ quan điểm, nên chỉnh sửa lại tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng cần được chỉ đạo liên tục, sát sao của Đảng, Nhà nước, huy động trí tuệ và sự tham gia của các cấp, các ngành và địa phương trên cơ sở nhận thức sâu sắc những yêu cầu, sự đòi hỏi thách thức của quá trình này.

Quan điểm thứ năm là tích cực học tập, tham khảo kinh nghiệm của các nước về tái cơ cấu nền kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng để ứng dụng vào Việt Nam, tránh những sai lầm không đáng có.

- Thứ ba: Định hướng tái cơ cấu chung và định hướng tái cơ cấu từng lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, bổ sung định hướng mới cho phát triển kinh tế Việt Nam hướng tới cơ cấu kinh tế mới, làm căn cứ cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng mới này. Từ xác định lại đến phát triển kinh tế nói chung báo cáo cần cụ thể hóa định hướng phát triển từng ngành, lĩnh vực kinh tế theo các lựa chọn đạt mục tiêu hiệu quả trở thành kinh tế chủ lực hoặc thích ứng với thị trường, đảm bảo tạo việc làm, thúc đẩy chuyển dịch lao động, an sinh và xã hội. Đây là những thách thức đối với báo cáo này nếu không làm rõ rất khó hình dung tái cơ cấu đi đến đâu.

- Thứ tư: Về giải pháp, báo cáo đề cập 11 nhóm giải pháp:

Về nhóm giải pháp quy hoạch thứ nhất: Đây là giải pháp quan trọng nhưng báo cáo chưa làm rõ những vấn đề yếu kém của luật và thực thi quy hoạch. Chính vì vậy, báo cáo cần chỉ rõ những điểm cần lưu ý trong việc lập thực hiện quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở tầm vĩ mô và vi mô, cần chỉ rõ kết quả cần đạt được của công tác quy hoạch. Nên gộp nhóm giải pháp thứ tám để phát huy lợi thế của từng vùng chuyển đổi cơ cấu kinh tế vùng vào nhóm giải pháp này vì có nhiều nội dung liên quan với nhau.

Về nhóm giải pháp thứ hai, đây là nhóm giải pháp cho nhiều mục tiêu, cách trình bày chưa rõ đối với từng mục tiêu, đề nghị làm rõ giải pháp theo các mục tiêu sau:

Tái cơ cấu thị trường tài chính bao gồm những giải pháp gì đối với quy định trần lãi suất, theo tôi cần quy định trần lãi suất cho vay, không cần quy định trần lãi suất tiền gửi, nên để cho các ngân hàng có sự cạnh tranh. Đặc biệt việc thành lập Công ty mua bán nợ quốc gia cần phải phân tích xem xét kỹ lưỡng quyết định này. Ổn định vững chắc kinh tế vĩ mô bao gồm những giải pháp gì, thúc đẩy hỗ trợ tái cơ cấu ngành, vùng kinh tế bao gồm những giải pháp gì.

Về nhóm giải pháp tái cơ cấu đầu tư cần phân định rõ hơn các giải pháp huy động vốn và sử dụng vốn đầu tư vì cả hai nhóm này đều tác động đến mô hình tăng trưởng và tái cơ cấu kinh tế, báo cáo tập trung nhiều vào phân bổ vốn đầu tư nhà nước, đầu tư công mà chưa đề cập đến đầu tư và tái đầu tư khu vực tư nhân.

Về nhóm giải pháp tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước nâng cao chất lượng doanh nghiệp tư nhân và FDI, nhóm giải pháp này liên quan đến hai khu vực doanh nghiệp: doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp tư nhân. Do tính chất sở hữu khác nhau mà báo cáo chỉ đưa ra giải pháp tái cơ cấu doanh nghiệp Nhà nước, điều này có cơ sở. Tuy nhiên đối với doanh nghiệp tư nhân, vấn đề tái cơ cấu cũng đặt ra đó là tái cơ cấu về lĩnh vực hoạt động. Vì vậy, đề nghị bổ sung giải pháp tái cơ cấu lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp tư nhân và FDI. Nên gộp nhóm giải pháp thứ sáu về đổi mới chế độ ưu đãi, khuyến khích đầu tư vào nhóm giải pháp này.

Về nhóm giải pháp thứ năm, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường nên đổi thành sửa đổi hoàn thiện khung pháp lý cho tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng thì phù hợp hơn và có ý nghĩa hơn với mục đích của báo cáo.

Về nhóm giải pháp thứ bảy, thực hiện các chương trình đồng bộ hỗ trợ, đây là giải pháp có ý nghĩa đột phá tạo ra chuỗi ngành sản phẩm, có năng lực cạnh tranh cao, ngành chủ lực, bảo đảm đạt tới yêu cầu của tái cơ cấu kinh tế. Tuy nhiên nhóm giải pháp này rất lớn liên quan đến nhiều vấn đề luật pháp, quy hoạch đầu tư. Vì vậy, trong các nhóm giải pháp trên cần đề cập tới mục tiêu của nhóm giải pháp này. Ở đây chỉ nên đề cập đến quản lý Nhà nước đối với phát triển các vùng sản xuất liên ngành, sản phẩm thì hợp lý.

Về nhóm giải pháp thứ chín, đổi mới phương thức sản xuất nông nghiệp theo hướng tăng quy mô sản xuất, tập trung chuyên khoanh, áp dụng kỹ thuật sản xuất hiện đại, đây cũng là nhóm giải pháp rất lớn nhiều nội dung phức tạp, trong đó liên quan đến quy hoạch vùng sản xuất, Luật đất đai, chính sách đầu tư Nhà nước, Luật kinh tế, khu công nghiệp và huy động đầu tư của khu vực tư nhân vào Nhà nước, chính sách hỗ trợ ứng dụng công nghệ mới, chính sách quản lý chất lượng sản phẩm, chính sách phát triển nông thôn mới đề nghị cần bổ sung đầy đủ hơn.

Về nhóm giải pháp thứ mười hai, giải quyết các vấn đề môi trường và xã hội, báo cáo đề cập hai nhóm giải pháp về bảo vệ và nâng cao chất lượng môi trường sống và chính sách xã hội đặc thù về cơ bản là đủ. Tuy nhiên cần cụ thể hóa thêm các nội dung cụ thể của từng nhóm giải pháp này trong đó đối với nhóm giải pháp bảo vệ và nâng cao chất lượng môi trường sống, cần chú trọng giải pháp phòng chống hơn chữa cháy.

Đối với nhóm giải pháp chính sách xã hội đặc thù cần lưu ý tới giải pháp phát triển kinh tế ở các nhóm đối tượng nghèo, cả hai nhóm này đều cần tới đầu tư của Nhà nước. Vậy, báo cáo cần đề cập tới vốn đầu tư để thực hiện hai nhóm giải pháp này./.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro