Bài luận môn thanh toán quốc tế

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Bài luận môn thanh toán quốc tế

Tìm hiểu về phương tiện thanh toán quốc tế - Thẻ tín dụng

                   

        Xuất phát từ Mỹ, thẻ tín dụng lan nhanh ra toàn thế giới vì là phương tiện thanh toán tiện dụng nhất,  vượt ra khỏi rào cản khác biệt của tiền mặt .  Điều lý thú nhất là không cần có tiền trong thẻ, bạn vẫn có thể mua hàng,  thậm chí có thể rút tiền mặt xài trước rồi trả sau.

+     Vậy thẻ tín dụng là gì?

Thẻ tín dụng (Credit Card) là loại thẻ được phát hành bởi một tổ chức (là ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng) để cho người tiêu dùng vay tiền để trả cho người bán hàng.

Sau khi mua sắm bằng thẻ tín dụng, người tiêu dùng phải hoàn trả lại sau khoản chi tiêu đó cộng với chi phí là tiền lãi. Các loại thẻ tín dụng thông dụng hiện nay là Visa, Master, American Express, JCB, Amex,…và chúng có hình dạng tương tự nhau, với kích thước theo tiêu chuẩn ISO 7810.

Thủ tục để cấp thẻ nhìn chung khá đơn giản, chỉ cần khách hàng có thu nhập từ 3 triệu đồng/tháng trở lên và có tài khoản lương trong ngân hàng là đã có thể sở hữu thẻ tín dụng. Hạn mức tín dụng sẽ tùy thuộc vào ngân hàng phát hành.

+      Đặc điểm của thẻ tín dụng

•    Biểu tượng của tổ chức phát hành thẻ
•    Bản vi mạch trên thẻ (EMV chip)
•    Ảnh nổi ba chiều
•    Mã số thẻ (16 chữ số)
•    Biểu tượng của loại thẻ
•    Thời gian có hiệu lực của thẻ

Hình ảnh một số thẻ tín dụng phổ biến:

+       Các tiện ích của thẻ tín dụng

Không như thẻ ATM, với thẻ tín dụng cho phép người tiêu dùng có thể mua sắm hoặc rút tiền mặt mà không cần bỏ trước đồng nào vào tài khoản, vì ngân hàng sẽ ứng trước vào đó bằng hạn mức tín dụng dao động từ 10 - 100 triệu đồng tùy theo nhu cầu và mức thu nhập của chủ thẻ. Các ngân hàng còn miễn hoàn toàn lãi vay (0% phí tài chính) đối với khách hàng sử dụng thẻ để thanh toán mua sắm và nộp tiền chi trả cho ngân hàng số phát sinh đúng hạn (dao động từ 15 đến 45 ngày).

Về nguyên tắc khi thanh toán bằng thẻ tín dụng tại các điểm thanh toán POS (Point of Sale), ngân hàng sẽ không tính phí dịch vụ đối với người mua mà tính phí đó cho người bán, nhưng ở Việt Nam, một số điểm thanh toán thường đẩy chi phí này cho người mua, vì vậy bạn nên cân nhắc kỹ và yêu cầu bên bán không được tính phí dịch vụ bạn.
Ngoài ra với thẻ tín dụng, bạn có thể mua hàng trực tuyến trên các website bán hàng có chấp nhận hình thức thanh toán bằng thẻ tín dụng. Bạn sẽ phải cung cấp hông tin như tên chủ thẻ, như mã số an ninh CVV (Card Verification Value, được in ở mặt trước hoặc sau của thẻ), địa chỉ chủ thẻ, mật mã cá nhân (PIN). Do vậy, các thông tin như CVV, PIN và mã số thẻ,… sẽ là những thông tin mà bạn phải bảo quản rất chặt chẽ và bí mật.

Hàng tháng, bạn sẽ nhận được một bảng kê trong đó thể hiện các giao dịch của thẻ, các khoản phí và tổng số tiền nợ. Sau khi nhận bảng kê, bạn có quyền khiếu nại một số giao dịch mà bạn cho là không đúng. Trước ngày đến hạn, bạn phải trả một phần tối thiểu định trước (tại Việt Nam khoảng 10% món nợ), hoặc trả hết món nợ. Nhà cung cấp dịch vụ tín dụng sẽ tính lãi trên phần còn nợ (thường là với lãi suất cao hơn lãi suất ngân hàng) và có thể tự động cắt tiền từ tài khoản ngân hàng của bạn (nếu có đủ tiền) để trả nợ thanh toán và sẽ thông báo lại cho bạn.

Thẻ tín dụng rất thích hợp với những người hay đi công tác nước ngoài. Chủ thẻ sẽ sử dụng hiệu quả tính năng chuyển đổi ngoại tệ của thẻ tín dụng và tránh được rủi ro khi mang quá nhiều tiền mặt theo người. Nếu mất thẻ, chủ thẻ thông báo kịp thời với ngân hàng phát hành sẽ không bị lợi dụng thẻ.

Vì là hình thức “mượn trước trả sau” nên khi mua sắm bằng thẻ tín dụng các bạn cần cân nhắc kỹ vì thói quen mua sắm thoải mái có thể là con dao hai lưỡi nếu bạn không muốn hàng tháng phải è cổ ra trả những khoảng nợ mà khi cao hứng mua sắm bạn không biết.

+      Một số lưu ý khi sử dụng thẻ:

Chú ý trả toàn bộ số tiền chi tiêu đúng kỳ hạn của ngân hàng để tránh bị tính lãi trên toàn bộ số tiền đã chi tiêu trong kỳ.Không nên rút tiền mặt bằng thẻ tín dụng vì phí rút tiền mặt rất cao, từ 2% đến 5% và chủ thẻ phải trả lãi suất vay tính từ ngày rút tiền, không được ưu đãi miễn lãi.Trước khi thanh toán hàng hóa, dịch vụ tại các đơn vị chấp nhận thẻ, tìm hiểu có bị tính phí thanh toán thẻ hay không. Theo quy định của ngân hàng, ngân hàng sẽ thu của đơn vị chấp nhận thẻ chứ không thu của chủ thẻ.Khi thanh toán qua Internet, nên lựa chọn các website uy tín, thông tin dịch vụ rõ ràng để tránh bị lợi dụng thông tin thẻ. Tại Việt Nam, chủ thẻ có thể thanh toán trực tuyến tại hơn 60 website tin cậy đã kết nối với cổng thanh toán OnePAY để đặt tour du lịch trực tuyến, siêu thị trực tuyến...Bảo vệ thông tin thẻ bởi vì thông tin trên thẻ rất dễ bị lộ và sẽ bị kẻ xấu lợi dụng. Chủ thẻ lưu ý bảo vệ bằng cách: luôn giữ thẻ trong ví, không đưa thẻ cho bất kỳ người nào giữ, luôn theo dõi mắt khi nhân viên thu ngân của đơn vị chấp nhận thẻ thực hiện thanh toán, thông báo khóa thẻ với ngân hàng phát hành ngay khi nghi ngờ thẻ bị mất hoặc bị lợi dụng, kiểm tra chi tiết sao kê hàng tháng.Điều kiện mở thẻ tín dụng chỉ phù hợp với những cá nhân có mức thu nhập khá, thường xuyên công tác tại các thành phố hoặc nước ngoài, có nhu cầu chi tiêu cao. Loại thẻ tín dụng quốc tế phổ biến mang thương hiệu Visa, Master, American Express, JCB, Diners Club. Hầu hết các ngân hàng phát hành tại Việt Nam đều áp dụng hai hình thức cấp thẻ tín dụng là ký quỹ và tín chấp theo mức thu nhập như Vietcombank, ACB, Eximbank, Sacombank, Incombank, VIBBank Techombank, Agribank…

+       Những bất cập của thẻ tín dụng tại Việt Nam

Gần đây, dư luận nhiều lần lên tiếng về những bất cập và an toàn trong việc sử dụng thẻ tín dụng (Credit Card) để thực hiện các giao dịch ngân hàng tự động. Mặc dù thị trường ngân hàng Việt Nam đã sôi động hơn nhiều trong những năm qua song vấn đề cố hữu của nó là sự bất tiện (an toàn và tiện lợi) khi thực hiện các giao dịch đã làm nản lòng dân chúng và giúp cho thói quen sử dụng tiền mặt tồn tại dai dẳng hơn.

Những đánh giá chung về các bất cập của việc sử dụng thẻ tại Việt Nam như sau:

Thứ nhất  là việc thu phí chuyển đổi ngoại tệ của các ngân hàng khá cao. Gần như tất cả các ngân hàng đều thu phí chuyển đổi ngoại tệ (Khi dùng thẻ thanh toán hàng hóa/dịch vụ bằng ngoại tệ sẽ bị thu phí chuyển đổi từ VND sang ngoại tệ).

Kể từ đầu năm 2011, hầu hết các ngân hàng đều tăng mức phí này, điển hình như Techcombank ngày 25/1/2011 thu phí 2,5%/tổng số tiền thanh toán, đến ngày 18/3/2011 tới đây tăng lên 4,5%/tổng số tiền thanh toán. Còn tại hầu hết các ngân hàng khác, mức phí dao động từ 2% - 4,5%/tổng số tiền thanh toán và tùy thuộc vào loại thẻ (Visa hay Master card…). Cá biệt, đối với ngân hàng Standard Chartered Việt Nam, mỗi giao dịch nước ngoài thu thêm 10% phí trên tổng số tiền giao dịch (giao dịch 1000$ thu 100$ tiền phí), nếu rút tiền mặt ở nước ngoài thì khách hàng phải nộp thêm 75.000 đồng và phí dịch vụ ở các ngân hàng khác. Với HSBC phí giao dịch ngoại tệ là 7%.

Việc thu phí này khiến nhiều người sử dụng cảm thấy khá bất tiện bởi tính ra, mức chênh lệch 4,5% hoàn toàn không nhỏ. Nếu lấy tỷ giá bình quân liên ngân hàng ngày 16/3/2011 là 20.658 đồng/USD thì tính ra người sử dụng sẽ phải trả với tỷ giá khoảng 21.587 đồng/USD (chênh lệch 4,5% tiền phí). 

Thứ hai là việc đảm bảo an toàn về thông tin, nhất là đối với các khách hàng sử dụng thẻ tín dụng. Việc sử dụng thẻ để thanh toán trên internet cũng dễ bị hacker lấy cắp mã PIN và tài khoản nếu người dùng bất cẩn sử dụng tại các máy tính công cộng hoặc bị gài phần mềm gián điệp tại máy tính mình mà không biết. Mỗi năm thế giới mất hàng tỷ đô la từ các thẻ tín dụng bị tin tặc đánh cắp thông tin.Một số thẻ tín dụng mã PIN được ghi ngay trên mặt sau của thẻ tín dụng, do đó khách hàng phải đảm bảo luôn theo dõi quá trình quẹt thẻ của nhân viên thu ngân, hoặc nếu mất thẻ phải báo ngay lại cho ngân hàng để khóa thẻ.

Thứ ba  việc chứng minh thu nhập để mở thẻ credit (có sao kê bảng lương, chứng minh thu nhập khác, hóa đơn điện nước, hộ khẩu..v..v) là một phiền phức giấy tờ thủ tục với nhiều người . Thông thường, hạn mức đối với thẻ tín dụng gấp đôi thu nhập hàng tháng của khách hàng (đối với khách hàng không có thế chấp).

Thứ tư  khách hàng phải trả phí thường niên quản lý thẻ, ví dụ ở HSBC là 350.000 đồng/năm, ở VCB đối với thẻ Visa hạng Vàng là 200.000 đồng/thẻ/năm, hạng chuẩn là 100.000 đồng/năm, tại ACB Maser card/Visa phí thường niên đối với thẻ chuẩn là 300.000 đồng/năm, thẻ vàng là 400.000 đồng/năm…

Hiện nay, tốc độ tăng trưởng của thị trường thẻ thời gian qua là niềm mơ ước với bất cứ doanh nghiệp nào mỗi khi phát triển sản phẩm mới. Nếu như năm 2004, cả nước chỉ có 700 máy rút tiền tự động (ATM) với 560.000 thẻ thì đến cuối năm ngoái đã có 1.600 máy với hơn 3 triệu thẻ các loại. Nghiên cứu của các tổ chức thẻ quốc tế cho thấy, 10-15 triệu người ở các đô thị Việt Nam có thể là khách hàng tiềm năng.Tuy vậy, theo hội thẻ Việt Nam, ước tính tỷ lệ thẻ “chết” của tất cả các ngân hàng có thể lên tới 20-30% (thẻ “chết” là loại không hoạt động - non active, không có giao dịch rút tiền ra và nạp tiền vào trong một thời gian dài sau khi mở tài khoản). Thực tế cho thấy khâu marketing, tuyên truyền của các nhà phát hành thẻ đang có vấn đề, khiến nhiều khách hàng không biết hết tính năng, tiện ích của thẻ và chủ yếu dùng thẻ chỉ để rút tiền.

+          Một số giải pháp mở rộng kinh doanh thẻ tại Việt  Nam

 

Thực hiện chiến lược Marketing rộng rãi:

Hiện nay thẻ còn là một phương tiện thanh toán tương đối mới ở Việt Nam. Vì vậy, rất cần quảng cáo, tiếp thị cho sản phẩm thẻ đến mọi đối tượng khách hàng hàng khác nhau. Trong khi đó, khâu marketing thẻ của các ngân hàng thương mại Việt Nam  còn chưa hiệu quả. Đại đa số người tiêu dùng và phần lớn người cung cấp dịch vụ, tiện ích trong nước đều chưa quen loại hình thanh toán bằng thẻ thay cho tiền mặt. Thẻ mới chỉ phổ biến trong một số ít dân cư, chủ yếu là cán bộ ngân hàng, quan chức chính phủ, những người có người thân sinh sống, học tập và làm việcở nước ngoài, và một số ít trí thức. Vì vậy, muốn cho thẻ được sử dụng rộng rãi thì rất cần có một chiến lược marketing thẻ với các chính sách tiếp thị, quảng cáo, khuyến mại mạnh mẽ… đến mọi tầng lớp dân cư.

Đầu tư cho quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng (báo chí, đài phát thanh, truyền hình…) hay các panô quảng cáo trên đường phố. Làm các chương trình tìm hiểu cũng như giải đáp thắc mắc về thẻ trên truyền hình, phổ biến kiến thức về thẻ cho mọi đối tượng dân cư. Đồng thời, cũng nên thực hiện các hoạt động tài trợ cho các cuộc thi kiến thức, trò chơi kinh tế…để nhân đó truyền bá về thẻ cũng như các dịch vụ khác của ngân hàng.Ngoài ra, công nghệ thông tin phát triển, Internet cũng là một phương tiện hữu hiệu để quảng cáo cho sản phẩm thẻ.

Tăng cường việc tiếp cận, khuyến mại để quảng cáo về sử dụng thẻ cho những đối tượng khách hàng tiềm năng như các công ty lớn, công ty liên doanh, các văn phòng đại diện nước ngoài ở Việt Nam…, phối hợp với họ để phát hành một số lượng thẻ lớn cho nhân viên của họ với các điều kiện ưu đãi hơn.

Đầu tư cho việc nghiên cứu, đưa ra những sản phẩm thẻ mới: thẻ công ty, thẻ liên kết, thẻ ATM kiêm thanh toán, thẻ có hạn mức tín dụng thấp (hạn mức nhỏ hơn 10 triệu) để chi tiêu trong nước… nhằm phục vụ nhu cầu đa dạng, phong phú của khách hàng đồng thời thoả mãn cả đối với những đối tượng khách hàng có thu nhập trung bình…

 

Hợp lý hoá chi phí sử dụng thẻ:

Hiện nay, chi phí sử dụng thẻ còn nhiều bất hợp lý. Ngoài phí thường niên, chủ thẻ còn phải trả thêm lãi suất cho khoản tín dụng chi tiêu, phí chậm trả, phí rút tiền mặt, phí cấp thẻ lần đầu tiên… Các khoản phí này làm cho việc sử dụng thẻ trở nên đắt hơn nhiều so với chi tiêu bằng tiền mặt. Thêm nữa, lãi suất đối với tín dụng thẻ cao hơn so với lãi suất tín dụng thông thường là một điều bất hợp lý. Vì vậy, hợp lý hoá các loại phí cho sử dụng thẻ là một điều cần chú ý điều chỉnh để mở rộng hơn nữa việc phát hành thẻ.

Thiết lập mối quan hệ chặt chẽ với các ngân hàng tham gia thanh toán thẻ

Thường xuyên giữ mối quan hệ với các ngân hàng thanh toán thẻ để cùng nhau trao đổi, học hỏi kinh nghiệm trong việc thanh toán thẻ. Đặc biệt, khi đã có Hiệp hội các ngân hàng thanh toán thẻ Việt Nam thì việc giữ mối quan hệ này là rất thuận lợi. Nhờ có hiệp hội, các ngân hàng thanh toán thẻ trong nước có thể liên kết với nhau, đề ra đường lối, chính sách chung về phí, quy trình thanh toán… nhằm chống lại sự  cạnh tranh không lành mạnh từ các ngân hàng nước ngoài đồng thời tạo ra sự thống nhất trong hoạt động kinh doanh thẻ ở Việt Nam.

Mối quan hệ chặt chẽ giữa các ngân hàng thanh toán thẻ Việt Nam đã góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động thanh toán thẻ của từng ngân hàng thành viên và của Việt Nam nói chung. Điều này làm cho uy tín của các NHTM Việt Nam tăng lên trên thương trường quốc tế, tăng sự tin tưởng của các Tổ chức thẻ quốc tế cũng như của khách hàng.

Hiệp hội các ngân hàng thanh toán thẻ bằng mối quan hệ chặt chẽ giữa các thành viên đã đề ra được nhiều quyết sách chung cho hoạt động của mình và trình lên ngân hàng Nhà Nước và chính phủ, góp phần làm cho hoạt động thanh toán thẻ ở Việt Nam ngày càng hiệu quả hơn.

 

 

Tăng cường đầu tư cho hệ thống trang bị kỹ thuật phục vụ thanh toán thẻ

Trang bị kỹ thuật phục vụ thanh toán đóng vai trò vô cùng quan trọng. Trình độ kỹ thuật công nghệ là yếu tố quyết định chất lượng dịch vụ thanh toán thẻ và thành bại trong cạnh tranh. Trong đầu tư công nghệ, đầu tư trang thiết bị thanh toán cho hệ thống CSCNT là không thể thiếu. Nhưng với một mạng lưới CSCNT ngày càng rộng thì điều quan trọng là phải đảm bảo một hệ thống quản lý và xử lý thông tin có hiệu quả, đảm bảo cho luồng thông tin và luồng chu chuyển tiền liên quan đến việc sử dụng tiền của chủ thẻ được thông suốt.Hệ thống quản lý và xử lý thông tin bao gồm cả phần cứng và phần mềm. Phần cứng là hệ thống máy móc, trang thiết bị, công cụ để thực hiện. Nhưng phần mềm là các chương trình quản lý và bộ máy nhân sự cũng vô cùng quan trọng.

Việc đầu tư cho công nghệ không đơn giản. Nó đòi hỏi một lượng vốn lớn, thu hồi vốn lâu dài. Do vậy, ngân hàng cần có kế hoạch trích từ quỹ đầu tư phát triển hoặc huy động từ một số nguồn dài hạn khác để phục vụ cho công tác này. Có như vậy, hệ thống quản lý mới phát huy được vai trò đảm bảo cung cấp dịch vụ đạt chất lượng cao cho khách hàng - chủ thẻ, CSCNT và phòng ngừa hữu hiệu các rủi ro, thiệt hại do nạn lừa đảo, giả mạo gây ra.

 

Nâng cao hơn nữa các tiện ích của thẻ

Thẻ thanh toán là một sản phẩm đa tiện ích, nhưng ở Việt nam, các tiện ích của thẻ mới được sử dụng rất hạn chế. Đa số sử dụng thẻ để thanh toán ở các nhà hàng, khách sạn, siêu thị.., Do vậy, nâng cao hơn nữa các tiện ích của thẻ đồng nghĩa với việc mở rộng loại hình CSCNT: các tiệm ăn, nhà nghỉ, cửa hàng sách, trạm xăng… để chủ thẻ có thể sử dụng thẻ ở mọi nơi. Ngoài ra, cũng cần triển khai mạnh dịch vụ rút tiền tự động bằng thẻ, phục vụ 24/24 giờ và triển khai việc thanh toán thẻ đối với các giao dịch điện tử (E-commerce). Đối với chủ thẻ, cũng có thể áp dụng chế độ giảm lãi suất đối những khách hàng có doanh số sử dụng thẻ cao, thưởng điểm cho mỗi lần có số tiền chi tiêu đạt một mức nhất định và dựa vào số điểm đó để có chế độ đãi ngộ đặc biệt…

 

Tăng cường đầu tư cho chiến lược nguồn nhân lực

Con người luôn là chủ thể của quá trình phát triển, đóng vai trò không thể thay thế được và quyết định thành bại của hoạt động kinh doanh. Với kinh doanh thẻ, một lĩnh vực kinh doanh tương đối mới thì nhân tố này đóng vai trò càng quan trọng hơn. Do vậy, để có một chuyển biến mạnh mẽ trong lĩnh vực thẻ, cần mạnh dạn đầu tư cho nguồn nhân lực cả về lượng lẫn về chất. Các cán bộ quản lý điều hành ngoài những nỗ lực của bản thân phải được tham gia các khoá học dài hạn, bài bản, có thời gian thực tập để co kiến thức chuyên sâu và trình độ nghiệp vụ vững vàng trong kinh doanh thẻ.  Cũng cần thương xuyên tổ chức chức các lớp đào tạo, tập huấn nghiệp vụ hoặc cử đi học tại các tổ chức thẻ quốc tế để thường xuyên bổ xung, nâng cao trình độ. Ngoài ra, không thể thiếu các kế hoạch tuyển chọn, bồi dưỡng một đội ngũ cán bộ mới đáp ứng yêu cầu công việc và vận hành tốt những máy móc thiết bị ngày càng hiện đại.

 

Phòng chống rủi ro

Rủi ro là vấn đề không thể tránh khỏi trong kinh doanh. Do vậy, phòng ngừa và hạn chế rủi ro luôn là một vấn đề mà bất cứ ngân hàng nào cũng cần phải quan tâm để đạt hiệu quả trong kinh doanh. Cần thường xuyên giữ mối liên hệ với khách hàng để tránh trường hợp ngân hàng nhận được những thông báo không thật về chủ thẻ, dẫn đến tài khoản của chủ thẻ bị lợi dụng, số thẻ bị lộ. Đặc biệt trong trường hợp giao thẻ cho khách hàng qua đường bưu điện cần có sự xác nhận chính xác của chính chủ thẻ và chỉ thông báo số PIN trực tiếp cho khách hàng khi ngân hàng và khách hàng gặp nhau. Cũng cần thường xuyên cập nhật các thông tin về thẻ giả, thẻ cấm lưu hành, thẻ bị mất cắp, thất lạc… để đưa lên danh sách Bulletin. Đồng thời, kịp thời phát hiện những hành vi lợi dụng nhiều thương vụ có giá trị thanh toán nhỏ hơn hạn mức thanh toán để đạt tổng trị giá thanh toán lớn hơn hạn mức thẻ của chủ thẻ.

+           Một số kiến nghị nhằm mở rộng  hoạt động phát hành và thanh toán thẻ .

 

 Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước:

 

Hoàn thiện các văn bản pháp quy về thẻ

Hoàn chỉnh môi trường pháp lý là vấn đề cần thiết để thẻ trở thành phương tiện thanh toán phổ biến trong xã hội. Thẻ do Vietcombank phát hành hiện nay chịu sự quy định chặt chẽ của Hiệp hội thẻ quốc tế. Nhưng chỉ như vậy là chưa đủ. Cần có một hệ thống văn bản pháp quy hoàn thiện, đầy đủ cho việc phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ. Ở Việt Nam hiện nay mới chỉ có duy nhất một Quy chế của Ngân hàng nhà nước về phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ (ban hành ngày 19/10/1999). Đó chỉ là một văn bản có tính hướng dẫn chung còn về quy trình cụ thể thì lại do từng ngân hàng tự đề ra, chứ không có sự thống nhất chung. Một khi thẻ đã được sử dụng phổ biến và trở thành phương tiện thanh toán hữu hiệu thì rất cần có một pháp lệnh về thẻ thanh toán với những điều khoản chặt chẽ, thống nhất với các văn bản có liên quan đến quản lý ngoại hối, tín dụng chung.

Chính sách quản lý ngoại hối hiện nay có quy định về đồng tiền thanh toán thẻ tại các CSCNT nhưng chưa có phần đề cập đến hạn mức thanh toán và tín dụng của thẻ do các ngân hàng trong nước phát hành. Chính sách quản lý ngoại hối cần phải có quy định riêng cho thẻ thanh toán, nhất là thẻ tín dụng quốc tế nhằm mục đích vừa quản lý tốt việc sử dụng thẻ của khách hàng, tránh việc lợi dụng thẻ để chuyển ngoại tệ nhưng vừa phải tạo điều kiện cho phát hành thẻ của ngân hàng và sử dụng thẻ của khách hàng không bị hạn chế ở mức độ nào đó.

Chính sách tín dụng phải có quy định riêng cho tín dụng thẻ – một loại hình tín dụng mới nhằm tạo điều kiện cho ngân hàng tự chịu trách nhiệm thẩm định, đảm bảo tín dụng cho khách hàng của mình, giảm khó khăn phiền hà cho khách hàng để tăng lượng khách hàng sử dụng thẻ. Không thể quy định điều kiện đảm bảo tín dụng cho khách hàng chủ thẻ như điều kiện đảm bảo tín dụng đối với các khoản vay thông thường mà có thể nới rộng hơn và lưu tâm hơn đến khả năng thanh toán của khách hàng căn cứ vào tính ổn định thường xuyên của thu nhập.

Ngoài ra, cũng cần quy định rõ vấn đề liên quan đến dự phòng rủi ro, quản lý rủi ro cho chủ thẻ và ngân hàng.

 

Hoạch định các chiến lược chung về thẻ cho toàn hệ thống NHTM tránh sự cạnh tranh vô ích.

Ngân hàng nhà nước đóng vai trò to lớn trong việc định hướng chiến lược chung cho các NHTM thực hiện dịch vụ thẻ để tạo ra sự thống nhất về quản lý và bình đẳng trong cạnh tranh giữa các ngân hàng phát hành và thanh toán thẻ trong cả nước. Cùng với Ngân hàng nhà nước, Hiệp hội các ngân hàng thanh toán thẻ Việt nam ra đời đã có những đóng góp đáng kể cho sự phát triển dịch vụ thẻ tại Việt nam.

Hiệp hội các Ngân hàng thanh toán thẻ thường xuyên làm việc với Ngân hàng nhà nước và duy trì mối quan hệ chặt chẽ với các Tổ chức thẻ quốc tế nhằm đẩy mạnh hơn nữa việc phát triển nghiệp vụ thẻ ở Việt Nam. Hội cũng đã thu hút hầu hết các ngân hàng thực hiện dịch vụ thẻ tại Việt Nam tham gia, thống nhất mức phí, áp dụng các chính sách chung nhằm mục đích đảm bảo lợi nhuận cho tất cả các ngân hàng và thị trường thẻ cạnh tranh lành mạnh. Hội cũng nắm bắt những khó khăn, thuận lợi của các ngân hàng trong hiệp hội về phát hành và thanh toán thẻ để cùng nhau đề ra các giải pháp khắc phục, bước đầu thực hiện tiêu chí “diễn đàn hợp tác, trao đổi kinh nghiệm của các ngân hàng thanh toán thẻ tại Việt Nam”. Tuy vậy, hoạt động của hội cũng cần mạnh mẽ, có hiệu quả hơn, có những quy định nghiêm khắc về chế tài, đóng góp tích cực hơn cho sự phát triển dịch vụ thẻ tại Việt Nam. Hội cần tiếp tục là nòng cốt, đi đầu trong việc cải tiến hình thức, phương thức hoạt động kinh doanh thẻ.

Có chính sách khuyến khích mở rộng kinh doanh thẻ

Ngân hàng nhà nước cần khuyến khích các ngân hàng không ngại đầu tư mở rộng dịch vụ thẻ bằng việc trợ giúp các ngân hàng trong nước trong việc phát triển nghiệp vụ thẻ để tạo điều kiện cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài đồng thời có biện pháp xử phạt nghiêm khắc đối với những vi phạm quy chế hoạt động thẻ.

Ngân hàng nhà nước cần cho phép các các ngân hàng thương mại thành lập quỹ phòng ngừa rủi ro cho nghiệp vụ thẻ, thành lập bộ phận quản lý phòng ngừa rủi ro chung cho các NHPH, NHTT thẻ nằm trong trung tâm phòng ngừa rủi ro của Ngân hàng nhà nước.

Ngân hàng nhà nước nên thường xuyên phối hợp với các NHTM tổ chức những khoá học, hội thảo, trao đổi kinh nghiệm về thẻ cho các NHTM cùng tham gia; giới thiệu để các NHTM thu thập thông tin, tài liệu chuyên đề về thẻ; cùng các NHTM trao đổi kinh nghiệm, giải quyết những khó khăn phát sinh trong quá trình thực hiện.

Cho phép các NHTM Việt Nam được áp dụng linh hoạt một số ưu đãi nhất định để đảm bảo tính cạnh tranh của các loại thẻ do ngân hàng Việt Nam phát hành so với các loại thẻ của các ngân hàng nước ngoài hay chi nhánh ngân hàng nước ngoài phát hành.

Ngân hàng nhà nước cần giữ vai trò chủ đạo trong việc xây dựng các đề án, tính toán hiệu quả kinh tế và vốn đầu tư để trên cơ sở đó huy động các nguồn vốn trong và ngoài nước đầu tư cho lĩnh vực thẻ.

 

Kiến nghị với Chính phủ

 

 Đẩy mạnh công tác đấu tranh chống tội phạm về thẻ

Hiện nay, số tội phạm có liên quan đến thẻ ngày càng gia tăng. Ở Việt Nam,  pháp luật thiếu và còn nhiều sơ hở, trang bị kỹ thuật còn thiếu sẽ là mảnh đất lý tưởng cho bọn tội phạm hoạt động. Vì vậy, cần tiếp tục đẩy mạnh xây dựng pháp luật, các văn bản dưới luật về kinh tế, bổ sung các luật hiện hành; bộ luật hình sự nước ta cần sớm đưa ra khung hình phạt cho các tội phạm liên quan đến thẻ như: sản xuất, tiêu thụ thẻ giả, ăn cắp mã số… nói chung và hoạt động ngân hàng nói riêng.

Ngoài ra, các cơ quan chức năng có liên quan như Bộ công an, cảnh sát kinh tế, cảnh sát quốc tế… cũng cần có những biện pháp phối hợp với ngân hàng trong việc phát hiện và xử lý tội phạm trong lĩnh vực này.

 

Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng

Việc đầu tư, xây dựng cơ sở hạ tầng, trang bị kỹ thuật để hiện đại hoá công nghệ ngân hàng không là vấn đề của riêng ngành ngân hàng mà của cả nước ta, nằm trong chiến lược phát triển kinh tế của cả nước. Do vậy, nhà nước cần chú ý đầu tư cho lĩnh vực này, nhanh chóng đưa nước ta theo kịp các nước trong khu vực và trên thế giới về công nghệ ngân hàng.

Riêng đối với lĩnh vực thẻ, nhà nước cần có chính sách khuyến khích các ngân hàng đầu tư phát triển và trang bị các máy móc thiết bị phục vụ thanh toán, phát hành thẻ mà nếu chỉ có ngành ngân hàng thì không thể đáp ứng nổi.

 

 Tạo môi trường kinh tế xã hội ổn định

Một môi trường kinh tế xã hội ổn định luôn là nền tảng vững chắc cho mọi sự phát triển. Phát triển thẻ cũng không nằm ngoài quy luật đó.  Kinh tế xã hội có ổn định và phát triển bền vững thì đời sống của người dân mới được cải thiện, quan hệ quốc tế mới được mở rộng, mới có điều kiện tiếp xúc với các công nghệ thanh toán hiện đại của ngân hàng. Kinh tế xã hội có phát triển thì ngân hàng mới có thể mở rộng được đối tượng phục vụ của mình.

Tóm lại, sự trợ giúp của nhà nước là một vấn đề vô cùng quan trọng đối với mọi ngành, mọi cấp. Nếu có những biện pháp hỗ trợ mạnh mẽ của chính phủ về chính sách thuế, quy định về luật pháp… để các ngân hàng thương mại có định hướng triển khai dịch vụ thẻ thanh toán góp phần phát triển kinh tế xã hội lâu dài thì nhất định dịch vụ này sẽ thu được kết quả khả quan.

 

 

 

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro