bài tập lớn tìm hiểu kiến trúc chămpa

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

BÀI TIỂU LUẬN                    LỊCH SỬ NGHỆ THUẬT KIẾN TRÚC

Đề tài:                            KIẾN TRÚC CHĂM PA

II Hoàn cảnh lịch sử, văn hóa xã hội

Vương quốc Chăm Pa (tiếng Chăm: Campapura - đô thị Chăm) hay Nagara Campa- xứ sở Chăm), là một quốc gia độc lập, tồn tại liên tục qua các thời kỳ từ năm 192đến năm 1832 qua các tên gọi Lâm Ấp, Hoàn Vương, Chiêm Thành và cuối cùng làPanduranga-Chăm Pa trên phần đất nay thuộc miền Trung Việt Nam. Cương vực của Chăm Pa lúc mở rộng nhất trải dài từ dãy núi Hoành Sơn ở phía Bắc cho đếnBình Thuận ở phía Nam và từ biển Đông cho đến tận miền núi phía Tây của nước Lào ngày nay.

Vị trí địa lý.

Phạm vi lãnh thổ Champa.

Toàn bộ lãnh thổ ChamPa nằm hoàn toàn trong dải đất Nam Trung Bộ tính từ phạm vi Quảng Bình chạy dài đến hết đất Bình Thuận ngày nay. Tuy nhiên, phạm vi đó không ổn định, mà nó cũng thay đổi gần như song hành với những biến động của lịch sử Champa từ khi hình thành cho đến khi sụp đổ hoàn toàn.        

Từ thế kỷ VII đến thế kỷ XV, lãnh thổ của vương quốc ChamPa có nhiều biến động về biên giới phía bắc với Đại Việt. Lãnh thổ ChămPa ban đầu là vùng mà ngày nay bao gồm các tỉnh từ Quảng Bình cho đến Ninh Thuận, Bình Thuận. Đến năm 1069, vua Rudravarman (Chế Củ) của Chăm Pa đã nhượng ba châu Địa Lý (Lệ Ninh, Quảng Bình ngày nay), Ma Linh (Bến Hải, Quảng Trị ngày nay) và Bố Chính (các huyện Quảng Trạch, Bố Trạch, Tuyên Hòa tỉnh Quảng Bình ngày nay) cho vua Lý Thánh Tông của Đại Việt và lãnh thổ Chăm Pa chỉ còn từ Thừa Thiên - Huế ngày nay trở xuống

Văn hóa Chăm Pa chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ, Campuchia và Java đã từng phát triển rực rỡ với những đỉnh cao nghệ thuật là phong cách Đồng Dương và phong cách Mỹ Sơn A1 mà nhiều di tích đền tháp và các công trình điêu khắc đá, đặc biệt là các hiện vật có hình linga vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay cho thấy ảnh hưởng của Ấn giáo và Phật giáo là hai tôn giáo chính của chủ nhân vương quốc Chăm Pa xưa.

Chăm Pa (chữ Hán: 占婆) hưng thịnh nhất vào thế kỷ thứ 9 và 10 và sau đó dần dần suy yếu dưới sức ép Nam tiến của các vương triều Đại Việt từ phía Bắc và các cuộc chiến tranh với Đế quốc Khmer. Năm 1471, Chăm Pa chịu thất bại nặng nề trước Đại Việt và bị mất phần lớn lãnh thổ miền bắc vào Đại Việt. Phần lãnh thổ còn lại của Chăm Pa tiếp tục bị các chúa Nguyễn thôn tính lần hồi và đến năm 1832 toàn bộ vương quốc chính thức bị sáp nhập vào Việt Nam.

CHƯƠNG II. GIỚI THIỆU VỀ THÁP CHAMPA

I. Tên gọi và Lịch sử Tháp Chăm.

1. Tên gọi.

Tháp Chàm, hay còn gọi là tháp Champa, là một dạng công trình thuộc thể loại kiến trúc đền tháp Champa, thuộc kiến trúc tôn giáo tín ngưỡng của dân tộc Chàm (còn gọi là dân tộc Chăm), sinh sống ở miền Nam Trung Bộ Việt Nam ngày nay. Vị trí phân bố các đền tháp là những nơi từng là nơi ở của người Champa, Theo tiếng Chăm, các đền tháp Champa này được gọi là Kalan, nghĩa là "Lăng". Các Lăng này được các đời Vua Chăm xây dựng để thờ cúng các vị Thần. Các vị Thần được thờ phụng có thể là các vị thần Ấn Độ giáo tiêu biểu như Siva (thần hủy diệt), Ganesha (phúc thần đầu người mình voi)... hoặc đấy còn có thể là các vị Phật. Điều này tùy thuộc vào lòng tin và kính mộ của mỗi vì vua ở các triều đại khác nhau. Ở thánh địa Mỹ Sơn hiện nay phần lớn là công trình kiến trúc tôn giáo thờ các vị thần thuộc Ấn Độ giáo và Bà La Môn giáo. Nhưng ở thánh địa Đồng Dương (thuộc địa phận huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam) đây là kinh đô Phật giáo lớn nhất của Champa.

Từ thế kỷ thứ IV, người Chăm pa đã xây dựng đền thờ tại Mỹ Sơn nhưng không còn tới ngày nay. Các di tích đền tháp còn lại được phát hiện có niên đại sớm nhất cũng là vào nửa sau của thế kỷ VII. Lịch sử xây dựng các đền tháp Champa kéo dài từ cuối thế kỷ VII đến đầu thế kỷ XVII. Trong khoảng thời gian này, những người Champa xưa đã để lại một số lượng lớn các công trình kiến trúc đền tháp, thành luỹ, các tác phẩm điêu khắc. Hiện tại có trên hai mươi cụm di tích kiến trúc đền tháp và rất nhiều phế tích kiến trúc.

III. Đặc trưng của các ngôi tháp Champa

1. Đặc trưng.

+ Tháp Chàm là một khối kiến trúc xây dựng bằng gạch nung màu đỏ sẫm lấy từ đất địa phương, phía trên mở rộng và thon vút hình bông hoa. Gạch có màu đỏ hồng, đỏ sẫm, được nung trước với độ xốp cao, được xây không có mạch vữa và có thể có điêu khắc trực tiếp trên gạch.

+ Có chiều cao lớn hơn vài ba lần so với chiều ngang thân tháp. Tỷ lệ các phần của tháp có tính nhân bản, nghĩa là nó được xuất phát từ con người.

Tháp có phần ngọn được thu nhỏ dần hoặc giật cấp.

+ Các trang trí kiến trúc, điêu khắc có tính nhịp điệu, tính lặp lại và đồng dạng, đăng đối.

+ Mặt bằng tháp đa số là hình vuông có không gian bên trong chật hẹp thường có cửa duy nhất mở về hướng Đông (hướng Mặt Trời mọc), các phía còn lại là cửa giả, được bố trí đăng đối với cửa chính. Trần được cấu tạo vòm cuốn

+ Trong tháp theo nguyên mẫu có thờ thần Siva, biểu trưng là bộ ngẫu tượng Yoni và Linga được làm bằng sa thạch.

+  Tháp thường được đặt tại các vị trí thoáng, gò đồi cao, không gần chỗ người dân sinh sống.

2.  Các công đoạn xây dựng tháp

– Chuẩn bị chất kết dính.

– Đúc gạch theo khuôn đã định sẵn. Nung gạch lần 1.

– Xếp gạch theo mô hình tháp bằng chất kết dính.

– Nung tháp.

– Gọt dũa, trang trí và điêu khắc và hoàn chỉnh toàn bộ khối tháp.

3. Vật liệu xây dựng Tháp.

Ngày 1 tháng 10 năm 2006, Trung tâm Quản lý di tích-di sản tỉnh Quảng Nam chính thức công bố thông tin: các nhà khoa học của Đại học Milan, Ý khi đang làm việc trùng tu nhóm tháp G-thuộc Thánh địa Mỹ Sơn đã nhận biết được loại vật liệu kết dính để xây tháp Champa cách đây vài trăm năm. Đó là loại keo được tinh chế từ một loài thực vật vốn có rất nhiều trong khu vực quanh di sản Mỹ Sơn, mà người dân địa phương thường gọi là cây dầu rái. Ngoài ra, họ cũng đã phát hiện ra một loại hợp chất có nguồn gốc từ thực vật bản địa nói trên có trong gạch sử dụng để xây tháp. Trước đó, một người thợ thủ công tên là Lê Văn Chỉnh (thuộc tỉnh Quảng Nam) cũng đã bỏ nhiều thời gian để nghiên cứu phương pháp xây dựng tháp Chăm đã phát hiện được hợp chất dầu rái trong gạch để xây tháp và chất kết dính, nhưng chưa được ai quan tâm thừa nhận.

II. Đặc điểm Phong cách Tháp Chăm.

Các Tháp Chăm được xây dựng cùng với tiến trình hình thành, phát triển và suy tàn của các Vương triều Vua Chăm, nên cũng là một phần phản ánh tiến trình lịch sử đó của Vương quốc Chămpa. Tháp Chăm được xây dựng nhằm thể hiện lòng ngưỡng mộ, sự sùng bái tôn giáo  của các Vua Chăm và người dân Chăm với các thần có nguồn gốc từ Ấn Độ. Nghệ Thuật Kiến trúc Tháp Chăm là sự đan xen của nghệ Thuật Phật giáo Ấn Độ, kiến trúc Khmer và sự giao thoa Văn hóa với Đại Việt. Song tất cả đều được hòa quyện vào trong Tháp Chăm, mà khi nói tới người ta biết ngay đó là của cộng đồng người Chăm, đã bằng chính trí tuệ và tài hoa của mình tạo nên những ngọn tháp độc nhất vô nhị này. Tháp Chăm được xây dựng vào từng giai đoạn lịch sử khác nhau, gắn liền với các triều Vua Chăm khác nhau, cũng từ đó có những kiểu kiến trúc mang nét riêng cho từng khu vực, từng giai đoạn, thể hiện rõ sự học hỏi ,giao lưu, sáng tạo trong mỗi phong cách.

1. Phong cách Tháp thuộc Giai đoạn nghệ thuật miền bắc: Thế kỷ VII – XI.

Các ngôi đền tháp này thuộc thời gian này cho đến năm 980 đều thuộc cùng một giai đoạn là giai đoạn nghệ thuật miền bắc. Các tháp thuộc giai đoạn này đều đơn giản, làm bằng gạch nung màu đỏ, có chân đế là một khối hình chữ nhật, các mặt tháp đều có bố trí mi cửa ẩn, trừ hướng có cửa chính, trên đó có nhiều hình điều khắc của các vị thần. Mi cửa được đỡ bằng bộ khung các trụ bổ tường cao và hẹp cùng các đầu cột xòe ngang. Cũng chính các trụ bổ tường này đỡ vòm cửa. Trên vòm và trên các trụ bổ tường có chạm khắc các phù điêu theo thần thoại Ấn độ, với các chạm khắc tập trung chính ở đầu cột. Mái tháp thường gồm ba tầng, mỗi tầng đều có bao lơn nhỏ ở phía trên mi cửa. Bên trong tháp đều có bệ thờ với hình ảnh triều đình theo kiểu Ấn độ. Theo các tác giả Philippe Stern (Nghệ thuật Champa, 1942) and Jean Boisselier (Điêu khắc Champa, 1963) được nhà sử học Jean-François Hubert tổng hợp thì có thể phân chia giai đoạn này thành các phong cách sau:

ô  Phong cách Mỹ Sơn E1: Thế kỷ VII – VIII

Phong cách được xác định sớm nhất là Mỹ Sơn E1. Phong cách thời kỳ này phản ánh ảnh hưởng từ bên ngoài của văn hóa tiền Angkor và cả nghệ thuật Dvaravati và miền Nam Ấn độ.

Nhóm hình trên cácTháp tiêu biểu cho phong cách Mỹ Sơn E1

Tiêu biểu cho phong cách Mỹ Sơn E 1 là ở bệ thờ bên trong tháp làm bằng đá cát kết có hình dạng linga tượng trưng cho ngọn núi là nhà của thần Si-va, xung quanh có chạm các tu sĩ đang tu luyện trong rừng núi hay hang động, với các hình dạng như đang chơi các loại nhạc cụ khác nhau, đang giáo hóa cho các loài vật và cả đang thư giãn. Một công trình tiêu biểu nữa là phù điêu ở trên lối vào chính chạm khắc buổi bình minh thời đại theo thần thoại Ấn độ. Thần Vishnu đang nằm ngủ ở dưới đáy biển, trên giường là rắn thần Sesha. Một bông hoa sen từ từ mọc lên từ rốn của thần. Thần Brahma từ từ đứng lên trong bông hoa Sen đó để tạo ra cả vũ trụ này.

ô Phong cách Hoà Lai và phong cách Đồng Dương: Thế kỷ IX – thế kỷ X.

        Những ngôi đền tháp theo hai phong cách này có những hàng cột ốp và những cửa vòm khoẻ khoắn. Những băng trang trí cho công trình có rất nhiều họa tiết.

Yếu tố tiêu biểu nhất cho phong cách Hoà Lai (nửa đầu thế kỷ IX) là các vòm cửa nhiều mũi tròn trùm lên các cửa thật, cửa giả và các khám. Các cột ở khung cửa hình bát giác bằng sa thạch được trang trí bằng một đường các hình lá uốn cong. Khoảng giữa hai cột trụ ốp có trang trí hình thực vật. Ở bên dưới các cột trụ ốp là các hình kiến trúc thu nhỏ trong đó có hình người đắp nổi. Tất cả tạo cho các tháp Hoà Lai một vẻ đẹp trang trọng và tươi mát.

Còn ở phong cách Đồng Dương (nửa sau thế kỷ IX) thì các trang trí cây lá được biến thành những hình hoa hướng ra ngoài. Cái nhận thức cổ điển của nét lượn và tỷ lệ ở phong cách Hoà Lai đã bị biến mất và các tháp Đồng Dương trở nên mạnh mẽ hơn. Các vòm cửa nhiều mũi tròn với các trụ bổ tường hình bát giác làm bằng đá cát kết với các trang trí hình lá uốn cong.

Nhóm Tượng trên Tháp tiêu biểu cho phong cách Đồng Dương.

Đây cũng là điểm khác biệt giữa phong cách Đồng Dương và Mỹ Sơn. Đỉnh cao của phong cách là kiến trúc một tu viện Phật giáo vào cuối thế kỷ IX. Bức tường tu viện dài đến một cây số và có rất nhiều tượng Phật. Rất tiếc là di tích đã bị phá hủy nhưng nhiều học giả cho rằng khi còn nguyên vẹn, di tích này cũng giống như các tu viện Phật giáo ở miền Bắc Ấn Độ. Một số hiện vật thuộc di tích còn được giữ lại ở các bảo tàng cho thấy điêu khắc thời kỳ này có tính uyển chuyển, phong phú và thể hiện những hình khắc gần gũi với chính nguời Chăm hơn là những ảnh tượng của các vị thần. Các bức tượng có mũi và môi dày và không hề cười. Các đề tài là Đức Phật, các vị sư, các hộ pháp dvarapalas, bồ tátAvalokiteshvara (Quán Thế Âm) và nữ thần tình thương Tara, người được xem là vợ của Avalokiteshvara.

ôPhong cách Mỹ Sơn A1: Thế kỷ X - thế kỷ XI.

Ở phong cách này các trụ bổ tường đứng thành đôi một với bức tường hình người ở giữa như trong tháp Mỹ Sơn A1. Các vòm cửa có hình dáng phức tạp nhưng không chạm khắc. Thân tháp cao vút với các tầng dần thu nhỏ lại. Đây là thời kỳ chịu ảnh hưởng của Java và cũng là thời hoàng kim của Chăm Pa2. Phong cách này đặt tên theo tòa tháp có cùng ký hiệu nhưng do hậu quả của chiến tranh đến nay không còn. Các tháp thuộc nhóm B, C và D trong khu di tích thánh địa Mỹ Sơn cũng thuộc phong cách này. Đến thời kỳ này, đối ngược với vẻ khỏe khoắn và có phần dữ tợn của phong cách Đồng Dương, phong cách Mỹ Sơn A 1 có tính động, dường như đang nhảy múa, với vẻ đẹp duyên dáng. Các vũ công là các họa tiết được ưa chuộng của các nhà điêu khắc Chăm thời kỳ này. Bên cạnh đó các linh vật cả trong cuộc sống thực lẫn từ thần thoại cũng là một chủ đề được ưa thích như Voi, Hổ, Garuda:

+ Thần Indra: Thường được thể hiện ở tư thế ngồi trên bệ với tay cầm lưỡi tầm sét, chân xếp bằng và một con voi là vật cưỡi của thần đang phủ phục.

+ Bò Nan-din: Là vật cưỡi của thần Si-va thường thẻ hiện dưới tư thế nằm và thuộc dạng tượng tròn.

+ Ga-ru-da: Là linh vật mà thần Vis-nu thường cưỡi và là kẻ thù của rắn thần Naga. Các phù điêu do vậy thường chạm hình chim thần Ga-ru-da đang nuốt hoặc dẫm lên hoặc đạp rắn thần Naga.

+ Sư tử: Thường là sư tử đực ở tư thế ngồi với hai chân trước đứng.

+ Thần Siva: Thường đươc thờ dưới hình tượng Linga, hay với kiểu tóc búi (Jatanlinga) hoặc trang trí mặt người (Kosa).

 Cũng thuộc phong cách Mỹ Sơn A1 này còn có cả các nhóm tháp ở Khương Mỹ và các di vật ở Trà Kiệu. Các công trình Khương Mỹ nằm trong giai đoạn chuyển tiếp giữa Đồng Dương và Mỹ Sơn A1. Đồng thời chịu ảnh hưởng của Khmer và Java ( 9: tr. 95). Nhiều di vật điêu khắc của Trà Kiệu vẫn được lưu giữ ở các viện bảo tàng đặc biệt là bệ thờ Trà Kiệu. Bệ thờ làm gồm bệ đá với phù điêu và một khối ligam. Các phù điêu chạm các giai đoạn khác nhau của cuộc đời Krisna.

Nhóm Tượng trên Tháp tiêu biểu cho phong cách Mỹ Sơn A1, Khương Mỹ - Trà Kiệu

Ở mỗi góc của bệ thờ có hình sư tử nâng đỡ cả khối kiến trúc nặng bên trên. Cũng thuộc phong cách Trà Kiệu còn có bệ đá chạm vũ công có hình vuông mà mỗi mặt đều có chạm hình vũ nữ apsara đang nhảy múa và các nhạc công gandharva đang chơi nhạc. Bệ đặt trên nền có chạm hình đầu sư tử và hình con makara.

2. Phong cách Tháp thuộc Giai đoạn nghệ thuật Miền Nam:Từ sau thế kỷ XI – đến thế kỷ XV.

Giai đoạn này còn được gọi là phong cách Bình Định hay Tháp Mẫm. Khởi đầu bằng các tháp ở Chánh Lộ có phong cách chuyển tiếp từ Mỹ sơn A1 sang Tháp Mẫm1. Một số hiện vật ở Tháp Mẫm vẫn còn dáng dấp cân đối, nhẹ nhàng nhưng phần lớn các điêu khắc đã trở nên thô với hình khối tròn mang tính bản địa dần dần chiếm lĩnh khắp các hình tượng Ấn giáo ở miền Nam. Các thiết kế kiến trúc với các đường nét sắc sảo nhất là các đường tròn uốn lượn dần dần chuyển sang phong cách mạnh mẽ với các hình khối ít chạm trổ cho thấy ấn tượng mạnh mẽ nhưng dường như không còn nét tinh tế nếu so sánh với phong cách Mỹ Sơn A1.

Ở đây các vòm cửa thu lại và vút lên thành hình mũi giáo. Các tháp nhỏ trên các tầng bên trên cuộn tròn lại thành các khối đậm nhưng khỏe. Các trụ bổ tường thu hẳn vào trong tường thành một khối phẳng. Bề mặt tháp là các bức tường với những đường gân sống. Chỉ có các hình linh vật là có thể so sánh được với phong cách trước. Chạm khắc trong phong cách này đi vào chi tiết trang trí hơn là nhìn vào tổng thể vẻ đẹp và tính động của hình tượng. Một trong các họa tiết của phong cách Tháp Mẫm là chạm trên đá một hàng các bộ ngực phụ nữ xung quanh chân đế của một bệ thờ. Họa tiết này đã thấy ở Trà Kiệu nhưng trở thành điển hình cho phong cách Tháp Mẫm và là một họa tiết độc đáo trong nền nghệ thuật Đông Nam Á.

Nhóm Tượng trên Tháp tiêu biểu cho phong cách Bình Định hay Tháp Mắm

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro