Phần 1

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Câu 1: Quan điểm của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam.

Như chúng ta biết, Nhà nước pháp quyền ra đời ở một giai đoạn phát triển nhất định của xã hội. Sự ra đời và phát triển của tư tưởng: "Nhà nước pháp quyền" gắn liền với sự ra đời và phát triển của dân chủ, của tư tưởng loại trừ sự chuyên quyền, độc đoán, vô chính phủ, vô pháp luật. Nhà nước pháp quyền đòi hỏi phải có sự thống nhất giữa tính tối cao của pháp luật với hình thức pháp lý của tổ chức, thực hiện quyền lực Nhà nước. Đó là hai yếu tố không thể thiếu được khi nói đến Nhà nước pháp quyền nói chung.

Nhà nước vốn là "một trong những vấn đề phức tạp, khó khăn nhất",nhưng lại là vấn đề cơ bản, rất mấu chốt trong toàn bộ hệ thống chính trị". Vì thế trong đường lối lãnh đạo của mình ở từng thời kỳ CM, Đảng ta đặc biệt coi trọng việc đề ra đường lối xây dựng và hoàn thiện bộ máy N2 - yếu tố trung tâm của HTCT theo định hướng N2 pháp quyền. Đây là một trong những nhiệm vụ cơ bản để phát triển đất nước. Tuy vậy, khái niệm Nhà nước pháp quyền có nhiều cách tiếp cận khác nhau, nhưng chung quy lại, Nhà nước pháp quyền hiểu chung nhất là Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở pháp luật, trong đó mọi chủ thể kể cả nhà nước đều phải tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật - một hệ thống pháp luật có tính phổ biến cao, phù hợp với ý chí, thể hiện đầy đủ những giá trị cao cả nhất của xã hội, của con người. Bản chất của Nhà nước pháp quyền không phải là một kiểu nhà nước, đó là một phương thức, mô hình tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước trên cơ sở đề cao vai trò của pháp luật và quyền con người và phải quản lý xã hội bằng pháp luật.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ khi ra đời đến nay, Nhà nước ta ngày càng thể hiện rõ những phẩm chất và đặc trưng của một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Đó là một nhà nước hợp hiến, hợp pháp, được xây dựng, tổ chức và hoạt động trên cơ sở những quy định của Hiến pháp, pháp luật và vận hành trong khuôn khổ Hiến pháp, pháp luật. Hiến pháp và hệ thống pháp luật của chúng ta ngày càng được xây dựng, bổ sung và hoàn thiện để không những đáp ứng kịp thời những yêu cầu phong phú và sinh động của công cuộc đổi mới toàn diện đất nước mà còn để phù hợp với hệ thống công ước, thông lệ và pháp luật quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng của đất nước

Dựa trên các Văn kiện của Đảng Cộng sản Việt nam và Hiến pháp nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam, có thể khái quát những đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam như sau:

Một là, nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.

Hai là, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.

Ba là, nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở hiến pháp và pháp luật.

Bốn là, nhà nước tôn trọng, bảo đảm quyền con người, nâng cao trách nhiệm pháp lý của Nhà nước, thi hành dân chủ đồng thời tăng cường kỷ cương, kỷ luật.

Năm là, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo, đồng thời bảo đảm sự giám sát của nhân dân, sự phản biện của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Sáu là, quản lý xã hội bằng pháp luật và đề cao vai trò tối thượng của pháp luật.

Bảy là, tôn trọng và tự nguyện thực hiện các cam kết quốc tế.

Sở dĩ Đảng ta đặt vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam vì: Trước hết bản thân lý luận về nhà nước pháp quyền có những điểm tiến bộ, hợp lý trong việc thực hành quyền dân chủ, trong việc tổ chức, hoạt động của nhà nước và đó cũng là mục tiêu của nhiều quốc gia trên thế giới. Đồng thời đặc trưng của nó có nhiều điểm phù hợp với bản chất của nhà nước ta. Thứ hai, xuất phát từ thực trạng tổ chức, hoạt động của nhà nước ta còn nhiều khiếm khuyết, yếu kém, chưa thực sự là nhà nước tuân thủ pháp luật và thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật, như: bộ máy nhà nước ta chưa thực sự trong sạch, vững mạnh; tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu còn nghiêm trọng, chưa được ngăn chặn; hiệu lực quản lý điều hành còn chưa nghiêm; kỷ cương xã hội bị buông lỏng làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước ta. Tổ chức bộ máy nhà nước còn nặng nề, sự phân công phối hợp giữa cac cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp còn những điểm chưa rõ về chức năng, nhiệm vụ... Thứ ba, xuất phát từ tính tất yếu khách quan của sự phát triển của đất nước theo định hướng XHCN, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng và mục tiêu cơ bản là xây dựng một chế độ: dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Thứ tư, xuất phát từ đặc điểm của thời đại với xu thế toàn cầu hoá. Nhu cầu hội nhập quốc tế đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục đẩy mạnh cải cách nhà nước, cải cách pháp luật, đảm bảo cho nhà nước không ngừng vững mạnh, có hiệu lực để giải quyết các nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, mở rộng dân chủ, củng cố độc lập, tự chủ và hội nhập vững chắc vào đời sống quốc tế.

Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một nội dung lớn, quan trọng trong đường lối đổi mới của Đảng ta. Đây là kết quả của một quá trình thực hiện đường lối đổi mới, tiến hành tổng kết thực tiễn - phát triển lý luận của Đảng. Trong điều kiện hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, cần tiếp tục đổi mới, hoàn thiện để làm cơ sở lý luận - thực tiễn giúp Đảng ta có đủ bản lĩnh và năng lực lãnh đạo nhân dân ta đưa sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước tiếp tục giành được những thắng lợi to lớn hơn. Chính vì vậy, Đảng và nhà nước ta đã sáng suốt khẳng định việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt nam thực sự là nhà nước của dân, do dân và vì dân, dựa trên khối đoàn kết dân tộc mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân - nông dân - trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo là một tất yếu khách quan. Hiến pháp 1992 khẳng định: Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX khẳng định: Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là cách thức cơ bản để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm mọi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; nhà nước pháp quyền XHCN Việt nam là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền lực nhân dân; và qua các kỳ đại hội, đến Đại hội XI Đảng ta tiếp tục khẳng định các quan điểm về xây dựng "Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo", đó là:

1- Xây dựng nhà nước XHCN của dân, do dân và vì dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng do Đảng CSVN lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân.

2- Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đây vừa là một quan điểm chỉ đạo vừa là một nguyên tắc quan trọng cơ bản trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta.

3- Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước: Đây là quan điểm chỉ đạo, vừa là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta.

4- Tăng cường pháp chế XHCN, quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng gíao dục nâng cao đạo đức trong xã hội.

5- Tăng cường sự lãnh đạo cảu Đảng đ/v sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.

Trong 5 quan điểm trên, vấn đề tăng cường pháp chế XHCN, quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng gíao dục nâng cao đạo đức trong xã hội là một quan điểm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, chỉ đạo xuyên suốt quá trình cải cách và xây dựng nhà nước pháp quyền XHCNVN. bởi vì:

- Tăng cường pháp chế XHCN, quản lý xã hội bằng pháp luật. Có nghĩa là: xây dựng nhà nước pháp quyền tất yếu phải xây dựng bằng pháp luật. Không có một nhà nước pháp quyền nào lại từ chối việc quản lý xã hội bằng pháp luật; Quản lý xã hội bằng pháp luật là yêu cầu khách quan của một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, là phương pháp chủ yếu bảo đảm hiệu lực quản lý của nhà nước.

Xây dựng nhà nước pháp quyền và thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật là xây dựng một nhà nước bảo đảm sự thống trị của pháp luật trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, bảo đảm cho toàn xã hội tuân thủ nghiêm ngặt pháp luật. Mặt khác, nhà nước quản lý xã hội bằng nhiều công cụ: pháp luật, đạo đức, tổ chức, thuyết phục, sử dụng tập quán, chính sách. Nhưng trong những công cụ này, pháp luật bao giờ cũng được xác định là công cụ cơ bản nhất. Vì so với những công cụ khác, pháp luật bao giờ nó cũng có ưu thế hơn: Nó là loại quy tắc phổ biến trong toàn xã hội; nó xâm nhập, tác động đến từng cá thể (còn những công cụ khác chỉ tác động đến một số dân cư). Mặt khác, pháp luật bao giờ cũng được thể hiện bằng văm bản, qui định cụ thể, ngắn gọn, không thể hiểu theo nhiều cách, trong khi đó qui phạm đạo đức không thể có; Hơn nữa pháp luật có tính cưỡng chế, nó được đảm bảo bằng sức mạnh của nhà nước nhờ vậy pháp luật có sức mạnh riêng của nó.

Do đó phải tăng cường pháp chế, có nghĩa là tăng cường hoạt động xây dựng pháp luật, xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ, chất lượng cao. pháp luật phải được xây dựng kịp thời, phù hợp với thực trạng KTXH. Có cơ chế xây dựng và ban hành pháp luật hợp lý, vừa bảo đảm ban hành pháp luật kịp thời, vừa bảo đảm chất lượng của các văn bản pháp luật; Tăng cường hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật sao cho đồng bộ, nghiêm minh. Triển khai công tác tuyên truyền, giải thích, hướng dẫn, giáo dục pháp luật bằng nhiều hình thức, biện pháp với sự tham gia của nhiều lực lượng; Tăng cường hoạt động xử lý vi phạm pháp luật. Thực hiện nguyên tắc mọi người bình đẳng trước pháp luật

- Coi trọng giáo dục nâng cao đạo đức trong xã hội. Đây là một sáng rạo của Đảng ta về NNPQXHCN. pháp luật và đạo đức đều là những công cụ để điều chỉnh các quan hệ xã hội phù với ý chí nguyện vọng của nhân dân, kết hợp sự điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ bản không chỉ bằng các quy phạm pháp luật mà còn bằng các quy tắc đạo đức mới, kết hợp hài hoà giữa pháp trị và đức trị.Vì một hệ thống pháp luật cho dù có hoàn chỉnh đến mấy cũng không thể điều chỉnh hết mọi quan hệ xã hội. Đậy là một quan điểm nhằm khắc phục tình trạng nếu tuyệt đối hoá vai trò của pháp luật là một sai lầm.

Tóm lại: Trong công cuộc đổi mới của đất nước, xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân là yêu cầu khách quan của sự nghiệp xây dựng CNXH. Vì vậy, trong đường lối lãnh đạo của mình, Đảng ta đặc biệt coi trọng việc đề ra đường lối xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước - yếu tố trung tâm của HTCT. Để thực hiện mục tiêu đó, phải tăng cường hiệu lực của bộ máy nhà nước, mở rộng dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng và quản lý nhà nước, đồng thời tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trên mọi lĩnh vực. Ngày nay, khi thời đại CMKHKT phát triển như vũ bão, bùng nổ thông tin, sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ đất nước diễn ra trong tình hình thế giới diễn biến nhanh chóng, phức tạp. Trong đk đó, việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền là đòi hỏi KQ và phù hợp với xu hướng chung của thời đại.

.............................................................................................

Phân tích cụ thể 5 quan điểm

(Thầy hướng dẫn chỉ phân tích 1 hoặc cả 5 quan điểm tùy ý)

* Quan điểm 1: Xây dựng nhà nước XHCN của dân, do dân và vì dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng do Đảng CSVN lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân. Thực chất quan điểm này có 2 yêu cầu:

- Xây dựng nhà nước pháp quyền không được làm biến dạng và thay đổi bản chất của kiểu nhà nước ở nước ta hiện nay. Do đó, nhà nước pháp quyền mà chúng ta xây dựng vẫn phải đảm bảo các tiêu chí: Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; Nhà nước vẫn phải là nhà nước XHCN dựa trên nền tảng của liên minh công-nông-trí thức; Nhà nước đó phải do Đảng CSVN lãnh đạo; Đó là nhà nước thực hành dân chủ một cách rộng rãi; Đó phải là nhà nước chuyên chính vô sản.

- Tất cả những thành tựu về xây dựng và hoàn thiện nhà nước từ 1945 đến nay vẫn phải được ttục kế thừa. Đồng thời chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng HCM về nhà nước kiểu mới vẫn phải là kim chỉ nam cho chúng ta cả về lý luận lẫn thực tiễn.

Đảng ta xây dựng quan điểm này dựa trên các cơ sở sau:

+ Về phương diện lý luận: nhà nước pháp quyền không phải là một kiểu nhà nước mà nó là một mô hình quan điểm và kinh nghiệm ttiễn về vai trò của pháp luật trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước và đsống xã hội

+ Về phương diện ttiễn: Bài học về sự sụp đổ của nhà nước Liên Xô có nguồn gốc sâu xa, chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN nếu không được chỉ đạo sâu sắc sẽ bị lợi dụng, bóp méo.

* Quan điểm 2: Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đây vừa là một quan điểm chỉ đạo vừa là một nguyên tắc quan trọng cơ bản trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta.

- Về mặt nội dung, tính chất, mực đích, quyền lực nhà nước trong nhà nước pháp quyền là thống nhất. Trước tiên sự thống nhất trong quyền lực nhà nước bắt nguồn từ sự thống nhất trong chủ quyền của nhân dân, tức là mọi quyền lực của nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân dân là chủ thể duy nhất thực hiện quyền lực nhà nước và cũng là thống nhất của quyền lực nhà nước. Sự thống nhất này là thồng nhất trong mục tiêu thực hiện quyền lực nhà nước, đó là phục vụ nhân dân, cho dù đó là bộ máy lập pháp, hành pháp hay tư pháp.Nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình một cách ttiếp (dân chủ ttiếp) hoặc thông qua đại biểu của mình, biến ý chí của mình thành ý chí nhà nước, thành quy phạm có tính bắt buộc chung đ/v mọi thành viên của xã hội (dân chủ đại diện).

- Bằng sự phân công quyền lực nhà nước, dẫn đến sự chuyên môn hoá từ đó cho phép có được năng suất, chất lượng, hiệu quả cao hơn so với phân công. Nhờ vào phân công lđ quyền lực mà người ta giảm thiểu được tình trạng độc đoán, chuyên quyền, lạm quyền trong bộ máy nhà nước.

- Trong nhà nước pháp quyền cơ quan Nghị viện (QH) là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp, Chính phủ là cơ quan hành pháp, chấp hành của QH và là cơ quan HCNN cao nhất của nước CHXHCNVN, do QH bầu ra, chịu trách nhiệm và báo cáo về hoạt động của mình trước QH có quyền ra các văn bản pháp qui (NĐ,NQ...) TAT và VKSTC là cơ quan tư pháp, thi hành luật pháp và giám sát việc thi hành pháp luật. Nhưng ở VN thì sự phân công quyền hành pháp là cụ thể hoá hiến pháp, luật bằng các văn bản dưới luật để tổ chức thực hiện gọi là quyền lập quy; Quyền HCNN; Quyền làm chính sách.

- Quyền lực khi được phân chia có khả năng làm phát sinh tình trạng mới. Vì vậy, nó có thể bị chia cắt, manh mún. Nó có thể tạo ra sự quay lưng lại với nhau giữa các cơ quan nhà nước ("quyền anh", "quyền tôi") thiếu đi sự phối hợp, dẫn đến lợi ích chung của toàn cục có thể bị ảnh hưởng. Vì thế qui định phối hợp chính là giải quyết nhằm khắc phục mặt thái quá, cực đoan của phân công tức là làm cho các cơ quan phải phối hợp , hỗ trợ với nhau để thực hiện mục tiêu chung của bộ máy nhà nước nhằm khắc phục tình trạng cát cứ quyền lực.

Như vậy, 2 nguyên tắc này kết hợp được 2 yếu tố là đảm bảo tính độc lập tương đối cho mỗi nhánh quyền lực; Phải xác lập được sự liên kết hỗ trợ tạo tiền đề lẫn nhau giữa các nhánh quyền lực để thực thi toàn bộ quyền lực đó. Khi kết hợp quan điểm này cần tránh 2 khuynh hướng: Tuyệt đối hoá sự phân công có thể dẫn tới phân công triệt để, chia cắt quyền lực nhà nước; Tuyệt đối hoá phối hợp dẫn đến tình trạng tập trung quan liêu, tình trạng vô trách nhiệm trong bộ máy nhà nước.

* Quan điểm 3: Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước: Đây là quan điểm chỉ đạo, vừa là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta.

Quyền lực nhà nước phải tập trung thống nhất từ trên xuống, nhưng sự tập trung quyền lực ở đây không phải là độc đoán, quan liêu mà phải có sự bàn bạc thống nhất.

Trong nguyên tắc này "yếu tố quyền lực" là yếu tố gốc, nền tảng, còn dân chủ chỉ là tính chất của sự tập trung.

Nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ thường được thể hiện ở các chế định pháp lý về bầu cử, bổ nhiệm, ra quyết định, mối qhệ giữa cơ quan cấp trên với cơ quan cấp dưới, giữa cá nhân phụ trách với tập thể lãnh đạo.

Khi thực hiện nguyên tắc này cần tránh 2 khuynh hướng:

Nếu tuyệt đối hoá tập trung có thể dẫn đến tình trạng độc quyền, chuyên chế; Nếu tuyệt đối hoá dân chủ sẽ dẫn đến dân chủ quá trớn, vô chính phủ và nó phủ định trách nhiệm cá nhân trong quản lý điều hành.

Khi đổi mới và xây dựng, cần chú trọng tăng cường sự lãnh đạo và điều hành tập trung thống nhất của TW, nhưng đồng thời phải phát huy tính chủ động, năng động của địa phương, khắc phục khuynh hướng phân tán cục bộ và tập trung quan liêu.

* Quan điểm 4: Tăng cường pháp chế XHCN, quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng gíao dục nâng cao đạo đức trong xã hội. Đây là một quan điểm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, chỉ đạo suốt quá trình cải cách và xây dựng nhà nước pháp quyền.

Một là, tăng cường pháp chế XHCN, quản lý xã hội bằng pháp luật.

Xây dựng nhà nước pháp quyền tất yếu phải xây dựng bằng pháp luật. Không có một nhà nước pháp quyền nào lại từ chối việc quản lý xã hội bằng pháp luật.

Quản lý xã hội bằng pháp luật là yêu cầu khách quan của một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh là phương pháp chủ yếu bảo đảm hiệu lực quản lý của nhà nước.Xây dựng nhà nước pháp quyền hoạt động trên cơ sở pháp luật, thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật là xây dựng một nhà nước bảo đảm sự thống trị của pháp luật trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, bảo đảm cho toàn xã hội tuân thủ nghiêm ngặt pháp luật. Mặt khác, nhà nước quản lý xã hội bằng nhiều công cụ: pháp luật, đạo đức, tổ chức, thuyết phục, sử dụng tập quán, chính sách. Nhưng trong những công cụ này , pháp luật bao giờ cũng được xác định là công cụ cơ bản nhất. Vì so với những công cụ khác pháp luật bao giờ nó cũng có ưu thế hơn: Nó là loại quy tắc phổ biến trong toàn xã hội; nó xâm nhập, tác động đến từng cá thể (còn những công cụ khác chỉ tác động đến một số dân cư). Mặt khác, pháp luật bao giờ cũng được thể hiện bằng văm bản, qui định cụ thể, ngắn gọn, không thể hiểu theo nhiều cách, trong khi đó qui phạm đạo đức không thể có; Hơn nữa pháp luật có tính cưỡng chế, nó được đảm bảo bằng sức mạnh của nhà nước nhờ vậy pháp luật có sức mạnh riêng của nó.

Với 3 ưu thế trên không một nhà nước nào không sử dụng pháp luật như là một công cụ để quản lý xã hội. Do đó phải tăng cường pháp chế, có nghĩa là tăng cường hoạt động xây dựng pháp luật, xây dựng hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ, chất lượng cao. pháp luật phải được xây dựng kịp thời, phù hợp với thực trạng KTXH. Có cơ chế xây dựng và ban hành pháp luật hợp lý vừa bảo đảm ban hành pháp luật kịp thời, vừa bảo đảm chất lượng của các văn bản pháp luật;Tăng cường hoạt động tổ chức thhiện pháp luật sao cho đồng bộ, nghiêm minh. Triển khai ctác tuyên truyền, giải thích, hướng dẫn, giáo dục pháp luật bằng nhiều hình thức, biện pháp với sự tham gia của nhiều lực lượng; Tăng cường hoạt động xử lý vi phạm pháp luật. Thực hiện nguyên tắc mọi người bình đẳng trước pháp luật

Hai là, đồng thời coi trọng giáo dục nâng cao đạo đức trong xã hội. Đây là một sáng rạo của Đảng ta về NNPQXHCN. pháp luật và đạo đức đều là những công cụ để điều chỉnh các quan hệ xã hội phù với ý chí nguyện vọng của nhân dân, kết hợp sự điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ bản không chỉ bằng các quy phạm pháp luật mà còn bằng các quy tắc đạo đức mới, kết hợp hài hoà giữa pháp trị và đức trị.Vì một hệ thống pháp luật cho dù có hoàn chỉnh đến mấy cũng không thể điều chỉnh hết mọi quan hệ xã hội. Đậy là một quan điểm nhằm khắc phục tình trạng nếu tuyệt đối hoá vai trò của pháp luật là một sai lầm.

* Quan điểm 5: Tăng cường sự lãnh đạo cảu Đảng đ/v sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN.

Một Đảng cầm quyền không thể không lãnh đạo, sự lãnh đạo của Đảng là một tất yếu khách quan.Vì Đảng là đội tiên phong chính trị của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đại biểu trung thành cho lợi ích của cả dân tộc. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản chính là nhằm bảo đảm tính chính trị, định hướng chinh trị trong hoạt động của nhà nước. Đảng lãnh đạo, thì lãnh đạo như thế nào? Không như trước đây, Đảng không thể cầm tay chỉ việc, bao biện, làm thay do vậy phải đổi mới.

Đảng lãnh đạo nhà nước pháp quyền thông qua việc tăng cường chất lượng tính luận cứ KH trong việc hoạch định đường lối chiến lược trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền, làm cho đường lối, chiến lược phù hợp với cuộc sống, phù hợp với XHVN và phù hợp với thế giới đương đại.. Chất lượng của chiến lược đường lối phải có tính KH, tức là đường lối ctrị phải đúng đắn tạo bầu không khí dân chủ trong xã hội.

+ Đảng lãnh đạo nhà nước pháp quyền thông qua ctác tổ chức CB, đây là một đặc quyền chân chính của một Đảng cầm quyền. Do vậy Đảng có quyền giới thiệu những ĐV ưu tú nhất trong Đảng vào ứng cử những chức vụ trong bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, chân chính nhưng phải tuân thủ qđ pháp luật về tiêu chuẩn, cơ cấu.

+ Đảng lãnh đạo thông qua sự gương mẫu của từng ĐV, từng tổ chức Đảng trong việc tuân thủ và sử dụng pháp luật để bvệ các quyền và lợi ích chính đáng của bản thân của từng người khác hoặc của nhà nước.;

+ Đảng lãnh đạo nhà nước pháp quyền thông qua ctác ktra Đảng. Đảng biết ĐV của các tổ chức Đảng vi phạm đến đâu? Tuân thủ ntn?Thông qua ctác này Đảng nắm được đường lối chủ trương của Đảng đi vào ttiễn cuộc sống đến đâu để điều chỉnh, bổ sung.

...................................................................

Một số kết quả đạt được trong xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam trong thực tiễn.

- Về xây dựng, củng cố, cải cách, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Nhà nước.

Tiếp tục phát huy cao độ bản chất dân chủ của nhà nước, tạo điều kiện cho nhân dân lao động thực hiện ngày càng tốt hơn quyền làm chủ của mình thông qua các hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp, tham gia tích cực vào xây dựng và bảo vệ nhà nước, kiểm tra giám sát hoạt động của nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước.

Kiện toàn một bước bộ máy nhà nước theo hướng tinh gọn, trong sạch, vững mạnh hoạt động có hiệu lực và hiệu quả; nâng cao trách nhiệm của cán bộ, công chức nhà nước trước nhân dân. Các thể chế hành chính nhà nước và tổ chức hành chính nhà nước đều được tăng cường, nền hành chính nhà nước đang đổi mới theo xu hướng dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại hoá.
Đảm bảo và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.

Tiến hành kiên quyết thường xuyên công tác đấu tranh chống tham nhũng, quan liêu, xử lý nghiêm những người vi phạm đồng thời tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật, củng cố kỷ luật trong nội bộ cơ quan nhà nước.

- công tác xây dựng pháp luật được quan tâm hơn, cơ chế xây dựng pháp luật được đổi mới, do đó hệ thống pháp luật đã có những đổi mới quan trọng phù hợp với sự thay đổi cơ chế kinh tế, với tình hình và nhiệm vụ mới của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế.

Hiến pháp được sửa đổi thích ứng với đòi hỏi của tình hình. Các văn bản luật được quan tâm ban hành để điều chỉnh cho hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội. Hệ thống pháp luật phát triển khá cân đối, điều chỉnh cho các lĩnh vực: tổ chức, hoạt động của nhà nước, trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc; trong lĩnh vực kinh doanh, trong bảo vệ quyền của công dân và các chủ thể...

Hoạt động tuyên truyền giáo dục pháp luật được tăng cường. Nhà nước đã dần thực sự dựa vào pháp luật để quản lý nhà nước và quản lý xã hội.

* Những tồn tại cần khắc phục

Tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước vẫn còn cồng kềnh, nhiều tầng, nhiều nấc, chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ, thảm quyền; tiêu chuẩn cán bộ, công chức nhà nước chưa được xác định rõ; hiệu lực và hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước chưa cao.

Hoạt động lập pháp đã bộc lộ một số bất cập trong thiết kế hoàn thiện tổng thể hệ thống pháp luật và trong xác định thứ tự ưu tiên cần thiết của từng văn bản pháp luật cũng như nâng cao tính khả thi và tính hiệu lực của văn bản pháp luật.

Hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước còn bộc lộ không ít những nhược điểm, nhiều mặt còn chưa theo kịp và đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. Tổ chức hành chính chưa thông suốt, còn hạn chế trong việc xử lý mối quan hệ ngang, thậm chí còn hiện tượng cục bộ, bản vị. Chế độ phân cấp trách nhiệm còn thiếu rành mạch. Thẩm quyền cá nhân chưa được quy định rõ. Phong cách làm việc trước dân của cán bộ, công chức còn là vấn đề bức xúc.

Về lĩnh vực tư pháp, tổ chức và hoạt động còn nhiều bất cập, sai sót.

Câu 2: phân tích và chứng minh nhiệm vụ xây dựng văn hóa và xây dựng con người ở việt nam đáp ứng nhu cầu phát triển bền vững đất nước tronng nghị quyết trung ương 9 khóa 11.

Đầu năm 1943, thời điểm Đảng lãnh đạo nhân dân ta chuẩn bị tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân, trong Đề cương văn hóa Việt Nam 1943, Đảng ta quan niệm, văn hóa bao gồm: Tư tưởng, học thuật (khoa học) và nghệ thuật (văn học, nghệ thuật) với vai trò: "Văn hóa soi đường cho quốc dân đi". Cũng vào năm 1943, trong nhà tù của Tưởng Giới Thạch, Hồ Chí Minh đã viết tập thơ Nhật ký trong tù. Cuối tập thơ này, trong mục đọc sách, Bác Hồ đã viết ý nghĩa của văn hóa: "Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng, toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn".

44 năm sau, tháng 11 năm 1987, Bộ Chính trị (khoá VI) ban hành Nghị quyết 05 về lãnh đạo, quản lý văn hoá, văn nghệ. Trong Nghị quyết chuyên đề này, Đảng ta quan niệm: Văn hoá là nhu cầu thiết yếu trong đời sống tinh thần của xã hội, thể hiện trình độ phát triển chung của một đất nước, một thời đại, là lĩnh vực sản xuất tinh thần tạo ra những giá trị văn hoá... Văn hoá Việt Nam kết tinh tâm hồn, trí tuệ, tài năng và đạo lý làm người của dân tộc ta. Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, văn hoá là bộ phận trọng yếu của cách mạng tư tưởng văn hoá, là một động lực mạnh mẽ, là mục tiêu lớn trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Năm 1998, khi ban hành Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII), Đảng ta quan niệm: Văn hóa Việt Nam là thành quả hàng nghìn năm lao động sáng tạo, đấu tranh kiên cường dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam; là kết quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn minh thế giới để không ngừng hoàn thiện mình. Văn hóa Việt Nam đã hun đúc nên tâm hồn, khí phách bản lĩnh Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc. Văn hóa bao gồm các lĩnh vực sau đây: Tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, văn học, nghệ thuật, báo chí truyền thông, di sản văn hóa, văn hóa tôn giáo, giao lưu hợp tác quốc tế về văn hóa... Xác định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu động lực của phát triển kinh tế - xã hội.

Tổng kết 15 năm thực hiện chiến lược văn hóa này của Đảng, chúng ta nhận thức sâu sắc hơn về văn hóa – một lĩnh vực rất rộng lớn, vô cùng phong phú và đa dạng thuộc đời sống tinh thần của xã hội và con người. Vì thế, đã có hàng trăm định nghĩa về văn hóa. Chúng ta có thể có 3 hướng tiếp cận cơ bản quan niệm về văn hóa:

- Theo nghĩa rộng nhất, văn hóa là toàn bộ giá trị vật chất, tinh thần do lao động của con người sáng tạo và tích lũy lại tạo nên bản sắc của từng tộc người, từng dân tộc, từng xã hội. Đó là "thiên nhiên thứ hai" do con người sáng tạo ra làm thành các giá trị vĩnh hằng của nhân loại.

- Tiếp cận từ cấu trúc, yếu tố hàng đầu của văn hóa là sự hiểu biết, khả năng sáng tạo mà con người tích lũy được trong quá trình học tập, lao động và đấu tranh. Nhưng sự hiểu biết chỉ trở thành văn hóa khi nó trở thành nền tảng cho hành vi ứng xử của con người trong các quan hệ của con người với xã hội, với tự nhiên, với bản thân mình.

- Theo quan điểm giá trị văn hóa là trình độ phát triển các quan hệ nhân tính của một xã hội, của mỗi con người, nó được cộng đồng khẳng định thành một hệ giá trị mà chuẩn mực cơ bản là: Chân, Thiện, Mỹ.

Theo chuẩn mực cơ bản này, ta phân biệt được cái gì là văn hóa, cái gì là phản văn hóa, vô văn hóa thể hiện ở ba cặp phạm trù cơ bản: Đúng – Sai, Thiện – Ác, Đẹp – Xấu.

Cốt lõi của các giá trị văn hóa là Hệ tư tưởng (Hệ tư tưởng là sự phản ánh lợi ích giai cấp dưới hình thức lý luận, cho nên nó mang bản chất giai cấp. Hệ tư tưởng là hệ thống những tư tưởng và quan điểm lý luận thể hiện sự nhận thức và đánh giá hiện thực xung quanh xuất phát từ những lợi ích xã hội nhất định. Hệ tư tưởng mang tính lý luận nghĩa là hệ thống hóa một cách duy lý, nó khác với tâm lý xã hội, gắn liền với cảm giác sống của ý thức đời thường. Hệ tư tưởng gồm các tư tưởng và quan điểm về chính trị, kinh tế, xã hội, pháp quyền, tôn giáo, đạo đức, thẩm mỹ, triết học...

Hệ tư tưởng là cốt lõi của các giá trị văn hóa, vì nó giữ vai trò kết dính, định hướng các chuẩn mực giá trị của các cộng đồng văn hóa. Văn hóa biểu hiện trong các giá trị cơ bản, trong các động cơ, niềm tin khi con người ứng xử trong mọi hoạt động, mọi lĩnh vực đời sống. Do đó, ta có thể nói đến: Văn hóa chính trị, văn hóa pháp luật, văn hóa lao động, văn hóa doanh nghiệp, văn hóa doanh nhân, văn hóa giao tiếp, văn hóa thẩm mỹ, văn hóa sinh thái, văn hóa tôn giáo, văn hóa gia đình.

Từ những quan niệm cơ bản về văn hóa trên đây, chúng ta nhận thức sâu sắc bản chất của khái niệm văn hoá.

- Nói văn hoá là nói tới con người, là nói tới việc phát huy những năng lực bản chất của con người nhằm hoàn thiện con người, hoàn thiện xã hội. Do đó, khái niệm văn hoá chứa đựng tính chất nhân văn. Cơ sở của mọi hoạt động văn hoá là khát vọng hướng tới Chân, Thiện, Mỹ. Vì văn hoá là sự phát huy các năng lực bản chất của con người, là sự thể hiện đầy đủ nhất chất người, nên văn hoá có trong tất cả các hoạt động của con người. Cũng từ quan niệm bản chất văn hoá trên, chúng ta nhận thức được vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của văn hóa.

- Văn hóa là mục tiêu phát triển của kinh tế - xã hội và của đất nước. Văn hóa thể hiện trình độ được vun trồng ngày càng cao, ngày càng toàn diện của con người và của xã hội, khiến con người, xã hội ngày càng đổi mới tiến bộ, tiến tới cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc và văn minh. Trong đó, bản chất nhân văn, nhân đạo của mỗi cá nhân và của cả cộng đồng được bồi dưỡng phát huy và trở thành hệ giá trị cao đẹp và chuẩn mực của toàn xã hội. Mục đích này là khát vọng của toàn nhân loại. Đây cũng là mục tiêu lý tưởng phấn đấu của chủ nghĩa xã hội khoa học.

- Văn hóa là động lực phát triển vì văn hóa kết tinh, khơi dậy và nhân lên mọi tiềm năng sáng tạo của con người.

Trong thời đại ngày nay, để phấn đấu đạt mục tiêu dân giàu, nước mạnh không chỉ phụ thuộc vào nhiều hay ít lao động vốn, kỹ thuật, công nghệ, tài nguyên thiên nhiên mà chủ yếu là khả năng phát huy đến mức cao nhất tiềm năng sáng tạo của nguồn lực con người. Tiềm năng sáng tạo này nằm trong các yếu tố cấu thành văn hóa, nghĩa là trong ý chí tự cường và khả năng hiểu biết, trong tâm hồn đạo lý, lối sống, trình độ thẩm mỹ của mỗi cá nhân và của cả cộng đồng. Để văn hóa trở thành động lực thì giải pháp của mọi giải pháp phải hướng vào xây dựng và phát triển nguồn nhân lực; các chính sách, cơ chế cho phát triển phải hướng vào tạo điều kiện, cơ sở cho các yếu tố cấu thành văn hóa thấm sâu vào tất cả các lĩnh vực sáng tạo của con người. Văn hóa trong lãnh đạo, văn hóa trong quản lý, văn hóa trong sản xuất kinh doanh, văn hóa trong giao tiếp, văn hóa sinh hoạt gia đình và ngoài xã hội, văn hóa trong giao lưu và hợp tác quốc tế. Nói cách khác, hàm lượng trí tuệ, văn hóa trong các lĩnh vực của đời sống xã hội con người ngày càng cao bao nhiêu thì khả năng phát triển kinh tế - xã hội, phát triển của đất nước càng trở nên hiện thực bấy nhiêu.

- Văn hóa là hệ điều tiết của sự phát triển. Văn hóa phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của các nhân tố khách quan, chủ quan, của các điều kiện bên trong và bên ngoài đảm bảo cho sự phát triển bền vững của đất nước.

Trong nền kinh tế thị trường, văn hóa dựa vào chuẩn mực của cái đúng, cái tốt, cái đẹp để hướng dẫn và thúc đẩy người lao động không ngừng phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật nâng cao tay nghề sản xuất hàng hóa với năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh ngày càng cao. Văn hóa doanh nhân, văn hóa doanh nghiệp hướng dẫn, động viên các doanh nghiệp cạnh tranh lành mạnh, chủ động liên kết, hợp tác để phát triển với sức mạnh của các giá trị văn hóa, mới có khả năng hạn chế, đẩy lùi tác động tiêu cực của cơ chế thị trường. Trong thời kỳ mở cửa hội nhập quốc tế, văn hóa góp phần tăng cường sự hiểu biết, mở rộng giao lưu hợp tác về nhiều mặt giữa nước ta với các nước khác trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi. Trong lĩnh vực kinh tế, mở cửa hội nhập kinh tế là để tăng cường hợp tác, liên kết, liên doanh với nước ngoài, song mọi yếu tố ngoại sinh như: Vốn, kỹ thuật, công nghệ, kinh nghiệm quản lý và thị trường nước ngoài... chỉ có thể biến thành động lực bên trong của sự phát triển nếu chúng được vận dụng phù hợp với các yếu tố nội sinh như là yếu tố trọng tâm, tức là con người Việt Nam với truyền thống văn hóa, đạo đức, tâm hồn, lối sống dân tộc Việt Nam. Ở đây, văn hóa dân tộc phải đóng vai trò định hướng, điều tiết để mở cửa hội nhập, nhưng vẫn giữ vững độc lập chủ quyền, xây dựng được nền kinh tế độc lập; hợp tác với bên ngoài nhưng không bị người ta lợi dụng biến mình thành kẻ đi vay nặng lãi, thành nơi cung cấp nguyên liệu và nhân công rẻ mạt, thành nơi tiêu thụ hàng hóa ế thừa, thành "bãi rác công nghệ lạc hậu", nơi tiếp nhận lối sống không lành mạnh, trở thành cái bóng mờ của người khác, của dân tộc khác.

Từ nhận thức sâu sắc nội hàm của văn hóa và vai trò của văn hóa trong sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đã tạo cơ sở lý luận cho Đảng ta trong Nghị quyết Trung ương 9 đã bổ sung, phát triển 3 quan điểm chỉ đạo của Nghị quyết Trung ương 5 là:

- Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu động lực phát triển bền vững đất nước. Văn hóa phải đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội.

- Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, với các đặc trưng: Dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học.

- Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân, do Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.

Cũng trên cơ sở nhận thức sâu sắc quan niệm về văn hóa và vai trò của văn hóa trong thời kỳ phát triển mới, trong Nghị quyết Trung ương 9, Đảng ta đã hình thành mới 2 quan điểm chỉ đạo rất đặc sắc – đây là bước phát triển mới trong tư duy lý luận về văn hóa của Đảng ta đó là: quan điểm: Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: Yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết cần cù, sáng tạo và quan điểm: xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, trong đó chú trọng vai trò của gia đình, cộng đồng. Phát triển hài hòa kinh tế và văn hóa, cần chú ý đầy đủ đến yếu tố văn hóa và con người trong phát triển kinh tế.

Sự hình thành hai quan điểm chỉ đạo mới này cũng trên cơ sở nhận rõ những yếu kém, hạn chế trong việc xây dựng con người và xây dựng môi trường văn hóa thời gian qua. Đúng như Nghị quyết Trung ương 9 đã chỉ rõ: "So với những thành tựu trong lĩnh vực chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, thành tựu trong lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng, chưa đủ để tác động có hiệu quả xây dựng con người và xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng và trong xã hội có chiều hướng gia tăng... Môi trường văn hóa còn tồn tại tình trạng thiếu lành mạnh, ngoại lai trái với thuần phong mỹ tục, tệ nạn xã hội, tội phạm có chiều hướng gia tăng". Và đây cũng là một trong những nguyên nhân của "kinh tế phát triển chưa bền vững. Chất lượng, hiệu quả sức cạnh tranh thấp". Nguy cơ tụt hậu xa hơn nữa về kinh tế so với các nước trong khu vực và thế giới chưa được đẩy lùi mà còn có chiều hướng gia tăng.

Hai quan điểm chỉ đạo trên đây, đòi hỏi các cấp ủy, chính quyền và toàn bộ hệ thống chính trị khi triển khai thực hiện phải quán triệt và xử lý tốt mối quan hệ biện chứng giữa xây dựng kinh tế với phát triển văn hóa, phải xây dựng và thực hiện đồng bộ chính sách văn hóa trong kinh tế và chính sách kinh tế trong văn hóa, đảm bảo cho văn hóa thể hiện rõ trong các hoạt động kinh tế, thúc đẩy các hoạt động kinh tế, tạo điều kiện nhiều hơn cho sự nghiệp phát triển văn hóa. Việc xây dựng các mục tiêu giải pháp kinh tế phải gắn với các mục tiêu giải pháp văn hóa, chăm lo con người, nêu cao đạo đức trong sản xuất kinh doanh. Xây dựng văn minh thương nghiệp, văn hóa kinh doanh, văn hóa sinh thái...

Chương trình xây dựng và phát triển văn hóa phải vì mục tiêu phát triển toàn diện con người, hoàn thiện nhân cách con người, với nhiệm vụ trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp với các đặc tính cơ bản: Yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo.

Các hoạt động của hệ thống giáo dục - đào tạo, của hệ thống thiết chế văn hoá, khoa học phải hướng vào việc xây dựng con người Việt Nam có thế giới quan khoa học, gắn giáo dục, rèn luyện đạo đức với thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân, bồi dưỡng tri thức, nâng cao trí lực và kỹ năng sống, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, của kinh tế tri thức và xã hội học tập, của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam.

Phải thực sự coi trọng giáo dục, bồi dưỡng, xây dựng lối sống cao đẹp: "Mỗi người vì mọi người, mọi người vì mỗi người", lối sống có ý thức tự tôn, tự trọng, tự chủ; sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật; ý thức bảo vệ môi trường, lối sống kết hợp hài hoà tính tích cực cá nhân và tích cực xã hội, đề cao trách nhiệm của cá nhân với bản thân, với gia đình và xã hội; biết khẳng định, tôn vinh cái đúng, cái thiện, cái đẹp, cái cao thượng và nhân rộng các giá trị nhân văn cao đẹp. Coi trọng phát triển văn học nghệ thuật và phát huy vai trò của văn học, nghệ thuật trong việc bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm, nhân cách của con người. Tăng cường giáo dục nghệ thuật, nâng cao năng lực cảm thụ thẩm mỹ cho nhân dân, đặc biệt cho lớp trẻ. Bảo đảm quyền hưởng thụ và sáng tạo văn hoá của mỗi người dân và của cả cộng đồng. Thực sự coi trọng giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện nâng cao thể lực, tầm vóc con người Việt Nam.

Do đó, các lĩnh vực văn hóa như: Giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, văn học, nghệ thuật, báo chí truyền thông, di sản văn hóa, thể chế, thiết chế văn hóa, văn hóa tôn giáo, giao lưu văn hóa và tất cả các thành tố của môi trường văn hóa (gia đình, các cơ quan, đơn vị, trường học, bệnh viện, đơn vị lực lượng vũ trang, các bản làng, phường, xã...) trong chương trình hoạt động của mình phải hướng tới hiện thực hóa mục tiêu chung: Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện hướng đến Chân – Thiện – Mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học để văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội; là sức mạnh nội sinh quan trọng, bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh.

4

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro