Trải qua hơn 55 năm trên chặng đường phát triển văn hóa, từ văn
kiện đầu tiên “Đề cương văn hoá năm 1943”, Đảng và nhà nước ta đã tích luỹ kinh
nghiệm thực tiễn và lý luận để lại dấu ấn lịch sử, dấu ấn thời đại về tư duy văn hóa
Không phải ngẫu nhiên mà trong Văn kiện Hội nghị lần thứ 4 của Ban chấp hành
TW khoá VII Đảng ta đã xác định văn hoá không chỉ là kết quả mà còn là nguyên
nhân của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Phát triển quan điểm
trên, Hội nghị lần thứ 10 Ban chấp hành TW Đảng khoá IX tiếp tục xác định mục
tiêu cần phải đạt tới là tạo được sự phát triển đồng bộ về chất lượng văn hoá “Đảm
bảo sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng, chỉnh đốn
Đảng là then chốt với không ngừng nâng cao văn hoá - nền tảng tinh thần của xã
hội; tạo nên sự phát triển đồng bộ của ba lĩnh vực trên chính là điều kiện quyết
định đảm bảo cho sự phát triển toàn diện và bền vững của đất nước” (Văn kiện
Hội nghị TW 10 khoá IX). Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X tháng 4
năm 2006 đã tiếp tục khẳng định: “...Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc, đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội và con người trong
điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Qua hơn 20 năm với đường lối đúng đắn của Đảng, cùng với công cuộc đổi mới
và chủ động hội nhập quốc tế, chúng ta từng bước vững chắc đạt được những
thành tựu rất đáng tự hào như: nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
đang từng bước được xây dựng; nền dân chủ XHCN với nhà nước pháp quyền của
dân, do dân, vì dân đã được thiết định. Bên cạnh việc hội nhập kinh tế, tiến trình
hội nhập văn hóa cũng là một tất yếu khách quan. Tiến trình giữa hội nhập kinh tế
và hội nhập văn, nếu coi nhẹ hội nhập kinh tế thì đất nước sẽ chậm thoát nghèo.
Còn coi nhẹ hội nhập văn hóa đôi khi lại nguy hiểm hơn bởi có thể bị các nền văn
hóa khác đồng hóa. Vì vậy bên cạnh chiến lược phát triển kinh tế, chúng ta cần có
chiến lược phát triển nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc phù hợp với phát triển
kinh tế. Tất nhiên đậm đà bản sắc dân tộc không thể đóng cửa nền văn hóa, mà
chủ động chọn lọc những tinh hoa văn hóa nhân loại để làm phong phú, giàu có
thêm, hiện đại hơn nền văn hóa của dân tộc của đất nước mình.
Văn hóa vốn bao giờ cũng là nền tảng quyết định của xã hội, một văn hóa
cho sự phát triển mạnh mẽ, sâu sắc toàn diện nhất toàn cầu hóa và hôi nhập, toàn
cầu hóa như một tất yếu. Có thể khẳng định: Văn hóa là cốt hồn của dân tộc, một
dân tộc, nếu không giữ được bản sắc văn hóa riêng thì dân tộc đó sẽ bị lu mờ thậm
chí không còn dân tộc đó nữa. Vì thế, xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt
Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc không chỉ là trách nhiệm của ngành văn hoá
mà còn là trách nhiệm của toàn đảng, toàn dân và toàn xã hội, và sinh viên - lực
lượng trụ cột trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước đóng góp một phần không nhỏ vào công cuộc ấy.
Cơ sở lí thuyết
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác Lê – Nin về văn hóa
Văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con
ngườisáng tạo ra bằng lao động và hoạt động thực tiễn trong quá trình lịch sử của
mình. Văn hóa là biểu hiện trình độ phát triển xã hội trong từng thời kỳ lịch sử
nhất định. Khi nghiên cứu quy luật phát triển của xã hội loài người, chủ nghĩa
Mác-Lênin đã khái quát các loại hình hoạt động của xã hội thành hai hoạt động cơ
bản là “sản xuất vật chất” và “sản xuất tinh thần”. Với ý nghĩa như vậy, theo nghĩa
rộng, văn hóa bao gồm cả văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần: Văn hóa vật chất
là năng lực sáng tạo của con người được thể hiện và kết tinh trong sản phẩm vật
chất. Theo nghĩa hẹp, văn hoá được hiểu chủ yếu là văn hoá tinh thần. Văn hóa
tinh thần là tổng thể các tư tưởng, lý luận và giá trị được sáng tạo ra trong đời
sống tinh thần và hoạt động tinh thần của con người. Như vậy, nói tới văn hoá là
nói tới con người, tới việc phát huy những năng lực thuộc bản chất của con người
nhằm hoàn thiện con người, hoàn thiện xã hội. Do vậy, văn hoá có mặt trong mọi
hoạt động của con người, dù đó là hoạt động trên lĩnh vực kinh tế, chính trị - xã
hội, hay trong tư tưởng, tinh thần... Văn hóa trong xã hội có giai cấp bao giờ cũng
mang tính giai cấp.Điều kiện sinh hoạt vật chất của mỗi xã hội và của mỗi giai cấp
khác nhau, nhất là của giai cấp thống trị là yếu tố quyết định hình thành các nền
văn hóa khác nhau. Nền văn hóa là biểu hiện cho toàn bộ nội dung, tính chất của
văn hóa được hình thành và phát triển trên cơ sở kinh tế - chính trị của mỗi thời
kỳlịch sử, trong đó ý thức hệ của giai cấp thống trị chi phối phương hướng phát
triển và quyết định hệ thống các chính sách, pháp luật quản lý các hoạt động văn
hóa. Kinh tế là cơ sở của nền văn hóa còn chính trị là yếu tố quy định khuynh
hướng phát triển của nó, tạo nên ý thức hệ của nền văn hóa. Chính vì vậy, một nền
chính trị lạc hậu tất yếu sẽ không tạo ra một nền văn hoá tiến bộ. Do đó, nền văn
hoá của bất cứ thời kỳ nào của lịch sử cũng đồng thời có sự kế thừa, sử dụng
những di sản của quá khứ và sáng tạo ra những giá trị văn hoá mới. Trong xã hội
có giai cấp và quan hệ giai cấp, các giai cấp thống trị của mỗi thời kỳ lịch sử đều
in dấu ấn của mình trong lịch sử phát triển của văn hoá và tạo ra nền văn hoá của
xã hội đó, hình thành những giai đoạn khác nhau trong lịch sử phát triển văn hoá.
2. Quan điểm của tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa
Hồ Chí Minh được tổ chức UNESCO ghi nhận là Anh hùng giải phóng dân
tộc của Việt Nam, nhà văn hóa kiệt xuất. Ngay từ lúc ra đi tìm đường cứu nước,
Hồ Chí Minh đã nghĩ tới một xã hội mới tự do, hạnh phúc, không có áp bức, bóc
lột, bất công. Trên cơ sở truyền thống tốt đẹp của nền văn hóa hàng nghìn năm
của dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã tiếp thu, chắt lọc tinh hoa văn hóa phương
Đông, phương Tây, văn hóa mácxít, từng bước xây dựng lý luận văn hóa. Tháng
8-1943, khi còn trong nhà tù của Tưởng Giới Thạch, lần đầu tiên Hồ Chí Minh nêu
ra một định nghĩa về văn hóa:
"Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và
phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn
học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các
phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa.
Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của
nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và
đòi hỏi của sự sinh tồn"
Khái niệm trên cho thấy: Văn hóa được hiểu theo nghĩa rộng nhất, bao gồm
toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra; văn hóa là
động lực giúp con người sinh tồn; văn hóa là mục đích cuộc sống loài người; xây
dựng văn hóa dân tộc phải toàn diện, đặt xây dựng "tinh thần độc lập tự cường"
lên hàng đầu. Từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, văn hóa được Hồ Chí
Minh xác định là đời sống tinh thần của xã hội, là thuộc về kiến trúc thượng tầng.
Văn hóa có mối quan hệ mật thiết với kinh tế, chính trị, xã hội, tạo thành bốn vấn
đề chủ yếu của đời sống xã hội.
3. Quan điểm của Đảng về văn hóa, văn hóa học đường
a. Quan điểm của Đảng về văn hóa
Trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã
có những bước phát triển mới trong tư duy lý luận về văn hóa, về xây dựng và
phát triển nền văn hoá; quan niệm về phát triển, về mối quan hệ giữa văn hóa và
phát triển và vai trò của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh tế quốc tế.
Ngay từ những năm 1942-1943, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho rằng: "Vì lẽ
sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh
ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật,
những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử
dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng
hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã
sản sinh ra nhằm thích ứng với nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”.
Điểm mới trong tư duy về văn hóa của Đảng ta thời kỳ đổi mới là việc xác
định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội. Văn hóa không phải là một hoạt
động riêng biệt có tính chất ngành nghề(ngành văn hoá - thông tin...), không phải
là một lĩnh vực hoạt động văn hóa cụ thể, không phải chỉ là học vấn, chỉ là văn
nghệ,... Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, biểu hiện sức sống, sức sáng
tạo, sức phát triển, sức mạnh tiềm tàng và bản lĩnh, cốt cách của dân tộc được thể
hiện qua truyền thống văn hóa dân tộc và hệ giá trị văn hóa. Các giá trị văn hoá
và truyền thống văn hoá được thấm nhuần trong mỗi con người và cả cộng đồng,
dân tộc, được lưu giữ, chắt lọc, kế thừa và phát triển, phát huy qua các thế hệ... trở
thành nền tảng tinh thần của mỗi con người, mỗi cộng đồng dân tộc và xã hội. Các
bộ phận cơ bản nhất cấu thành nền văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội là: Tư
tưởng, đạo đức, lối sống; học thuật; nghệ thuật; thông tin đại chúng, giao lưu văn
hóa; thể chế và thiết chế văn hoá v.v..
b. Quan điểm của Đảng về văn hóa học đường
Văn hóa học đường - cụm từ xuất hiện cách đây chưa lâu và cũng chủ
yếu trên các phương tiện thông tin đại chúng. Hiện nay, các nhà nghiên cứu, tùy
theo góc độ, mục đích nghiên cứu cụ thể đã đưa ra khá nhiều khái niệm về văn
hóa và văn hóa học đường. Nhưng có thể hiểu: “văn hóa học đường là hệ các
chuẩn mực và giá trị giúp cho cán bộ quản lí nhà trường, các thầy cô giáo, các
bậc cha mẹ, các em học sinh, sinh viên có suy nghĩ, tình cảm và hành động tốt
đẹp” (theo Giáo sư, Viện sĩ Phạm Minh Hạc). Mục tiêu chung nhất của văn hóa
học đường là xây dựng trường học lành mạnh - cơ sở quan trọng để đảm bảo chất
Nội dung của văn hóa học đường hiện nay của chúng ta rất phong phú, song
có thể tóm tắt thành ba vấn đề cơ bản: đó là xây dựng cơ sở vật chất trường học
khang trang, đạt chuẩn; xây dựng môi trường giáo dục trong nhà trường, trong ký
túc xá hay nhà trọ, ở gia đình, nơi công cộng; xây dựng "văn hóa ứng xử", "văn
hóa giao tiếp". Văn hóa học đường đang là một vấn đề thời sự nổi cộm không chỉ
trong các nhà trường mà trong cả toàn xã hội chúng ta hiện nay. Hiện tượng sinh
viên, học sinh có những hành vi lố lăng, kệch cỡm, đánh mất vẻ đẹp văn hóa ở
trường lớp, ở nơi công cộng, ở kí túc xá… là khá phổ biến. Khi phát động phong
trào thi đua "Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực", Phó Thủ tướnsg
kiêm Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Thiện Nhân đã nói rõ: phong
trào này nhằm "thiết lập lại môi trường sư phạm với 6 đặc trưng là trật tự kỷ
cương, trung thực, khách quan, công bằng, tình thương và khuyến khích sáng tạo,
hiệu quả". Đây là nội dung rất cơ bản của văn hóa học đường. Tác dụng tích cực
của văn hóa học đường là xây dựng nhân cách cho học sinh, chống lại lối sống tiêu
cực. Chính vì thế, mỗi nhà trường cần có văn hóa học đường của mình.
4. Quan điểm của Đảng về giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc
a. Một là, văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa
là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
Văn hóa có mối quan hệ thống nhất biện chứng với kinh tế, chính trị, xây
dựng và phát triển văn hóa phải nhằm mục đích cuối cùng là văn hóa. Trong mỗi
chính sách kinh tế - xã hội luôn bao hàm nội dung và mục tiêu văn hóa. Văn hóa
có khả năng khơi dậy tiềm năng sáng tạo của con người.
Văn hóa là nền tảng của xã hội
Theo Unessco: “Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát, sống
động mọi mặt cảu cuộc sống diễn ra trong quá khứ cúng như trong hiện tại; nó
cấu thành một hệ thống các giá trị, truyền thống, thẩm mĩ và lối sống mà trên đó
từng dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình”.
Các giá trị nói trên tạo thành nền tảng tinh thần của xã hội vì nó được thấm
nhuần trong mỗi con người và trong cả cộng đồng, được truyền lại, tiếp nối và
phát huy qua các thế hệ, được vật chất hóa và khẳng định vững chắc trong cấu trúc
xã hội từng dân tộc; đồng thời, nó tác động hàng ngày đến cuộc sống, tư tưởng,
tình cảm của mọi thành viên xã hội bằng môi trường xã hội - văn hóa. Văn hóa
xuyên suốt trong lịch sử của dân tộc, nó làm nên sức sống mãnh liệt, giúp cộng
đồng dân tộc vượt qua mọi khó khăn để phát triển. Vì vậy, chúng ta chủ trương
làm cho văn hóa thấm sâu vào mọi lĩnh vực của xã hội để các giá trị văn hóa trở
thành nền tảng tinh thần bền vững của xã hội, trở thành động lực phát triển kinh
tế - xã hội. Đó cũng là con đường xây dựng con người mới, xây dựng môi trường
văn hóa lành mạnh đủ sức đề kháng và đẩy lùi tiêu cực xã hội, đẩy lùi sự xâm
nhập của tư tưởng, văn hóa tiến bộ. Biện pháp tích cực là đẩy mạnh cuộc vận động
toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng
gia đình văn hóa, …
Văn hóa là động lực thúc đẩy sự phát triển
Nguồn lực nội sinh của sự phát triển của một dân tộc thấm sâu trong văn
hóa. Sự phát triển của một dân tộc phải vươn tới cái mới, tiếp nhận cái mới, tạo ra
cái mới nhưng lại không thể tách rời cội nguồn. Cội nguồn đó của mỗi quốc gia
mỗi dân tộc là văn hóa.
Trong nền kinh tế thị trường, một mặt, văn hóa dựa vào tiêu chuẩn của
cái đúng, cái tốt, cái đẹp để hướng dẫn và thúc đẩy người lao động phát huy sáng
kiến, cải tiến kĩ thuật, nâng cao tay nghề,… mặt khác, văn hóa sử dụng sức mạnh
của các giá trị truyền thống, của đạo lý dân tộc để hạn chế xu hướng sung bái lợi
ích vật chất, sung bái tiền tệ,…Văn hóa cổ vũ và hướng dẫn cho một lối sống có
chừng mực, hài hòa, nó đưa ra mô hình ứng xử thân thiện giữa con người và thiên
nhiên vì sự phát triển bền vững của hiện tại và tương lai. Nền văn hóa Việt Nam
đương đại với những giá trị mới sẽ là tiền đề quan trọng đưa nước ta hội nhập
ngày càng sâu hơn, toàn diện hơn vào nền kinh tế thế giới.
Văn hóa là mục tiêu của phát triển
Mục tiêu xây dựng một xã hội Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh” chính là mục tiêu của văn hóa. Trong chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội 1991 – 2000, Đảng ta đã xác định : “Mục tiêu và động lực chính
của sự phát triển là vì con người”. Đồng thời nêu rõ yêu cầu “tăng trưởng kinh tế
phải gắn với tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hóa, bảo vệ môi trường”.
Phát triển hướng tới mục tiêu văn hóa – xã hội mới đảm bảo phát triển bền vững
trường tồn. Để làm cho văn hóa trở thành động lực và mục tiêu của sự phát triển,
chúng ta chủ trương phát triển văn hóa phải gắn kết chặt chẽ và đồng bộ với phát
triển kinh tế xã hội. Việc phát triển kinh tế - xã hội cần đến nhiều nguồn lực, trong
đó, tri thức con người là nguồn lực vô hạn, có khả năng tái sinh và tự sinh, không
bao giwof cạn kiệt. Các nguồn lực khác sẽ không sử dụng hiệu quả nếu không có
những con người đủ trí tuệ và năng lực khai thác chúng.
b.Hai là, nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là một nền văn hóa tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là lí tưởng độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội theo chủ nghĩa Mác Lê – Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh
nhằm mục tiêu vì con người. Tiên tiến về nội dung, hình thức biểu hiện và các
phương tiện chuyển tải nội dung.
Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị văn hóa truyền thống bền vững của
cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắptrong quá tình dựng nước và giữ
nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết,
ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân – gia đình – làng xã – Tổ quốc; đó là lòng nhân
ái, khoan dung, trọng tình nghĩa, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động;
sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống,…Bản sắc dân tộc còn đậm nét
trong cả hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo. Bản sắc dân tộc là tổng
thể những phẩm chất, tính cách, khuynh hướng cơ bản thuộc về sức mạnh tiềm
tàng và sức sáng tạo giúp cho dân tộc đó giữ được tính duy nhất, tính thống nhất,
tính nhất quán trong quá trình phát triển.
Bản sắc dân tộc thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; cách
tư duy, cách sống, cách dựng nước, cách giữ nước, cách sáng tạo trong văn hóa,
khoa học, nghệ thuật,…nhưng được thể hiện sâu sắc nhất là trong giá trị của dân
tộc, nó là cốt lõi của nền văn hóa. Hệ giá trị là những gì mà nhân dân quan tâm, là
niềm tin mà nhân dân cho là thiêng liêng, bất khả xâm phạm.
Bản sắc dân tộc phát triển theo sự phát triển của thể chế, thể chế xã hội và
thể chế chính trị của các quốc gia. Nó cũng phát triển theo quá trình hội nhập kinh
tế thế giới, quá trình giao lưu văn hóa với các quốc gia khác và sự tiếp nhận tích
cực văn hóa, văn minh nhân loại.
Bản sắc dân tộc và tính chất tiên tiến của nền văn hóa phải được thấm
đượm trong mọi hoạt động xây dựng, sáng tạo vật chất, ứng dụng các thành tựu
khoa học, công nghệ, giáo dục, đào tạo,…sao cho mọi lĩnh vực chúng ta có tư duy
độc lập, có cách làm vừa hiện đại, vừa mang sắc thái Việt Nam. Đi vào nền kihn tế
thị trường, mở rộng giao lưu quốc tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phải
tiếp thu những tinh hoa của nhân loại, song phải luôn phát huy những giá trị truyền
thống và bản sắc dân tộc.
Ba là, nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá thống nhất mà đa
dạng trong cộng đồng dân tộc Việt Nam
Hiện nay trên đất nước Việt Nam có 54 dân tộc anh em đang cùng chung
sống, cùng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Mỗi dân tộc đều có bản sắc văn hoá
riêng, giá trị văn hoá đặc thù. Điều này đã làm nên sự phong phú, đa dạng của văn
hoá dân tộc Việt Nam.
Đảng ta chủ trương các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết giúp đỡ
nhau cùng phát triển về mọi mặt trong đó có văn hoá.
Sự phát triển văn hoá của mỗi dân tộc là cơ sở là điều kiện cho nền văn hoá
Việt Nam phát triển phong phú và đa dạng. Tất cả đều hướng tới tạo lập, xây dựng
nền văn hoá thống nhất của dân tộc Việt Nam.
Nét đặc trưng nổi bật của văn hóa Việt Nam là sự thống nhất mà đa dạng,
là sự hòa quyện bình đẳng, sự phát triển độc lập của văn hóa các dân tộc sống trên
cùng lãnh thổ Việt Nam. Mỗi thành phần có truyền thống và bản sắc của mình, cả
cộng dồng dân tộc Viêt Nam có nền văn hóa chung nhất. Sự thống nhất bao hàm
cả tính đa dạng - đa dạng trong sự thống nhất. Không có sự đồng hóa hoặc thôn
tính, kì thị bản sắc văn hóa cá dân tộc.
Bốn là, xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp chung của
toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.
Mọi người Việt Nam phấn đấu vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh đều tham gia sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa
nước nhà. Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp chung của toàn dân. Giai
cấp công nhân, nông dân, trí trức là lực lượng chủ lực, nòng cốt trong xây dựng
và phát triển văn hóa. Sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa nước nhà do
Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lí.
Để xây dựng đội ngũ tri thức, Đảng ta khẳng định: giáo dục – đào tạo cùng
với khoa học và công nghệ được coi là quốc sánh hàng đầu. Khoa học, công nghệ
là nội dung then chốt trong mọi hoạt động của tất cả các ngành, các cấp, là nhân tố
chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, củng cố quốc phòng và an ninh, là nền tảng
và động lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Phát triển giáo
dục – đào tạo, khoa học và công nghệ là sự nghiệp cách mạng của toàn dân.
Năm là, văn hóa là một mặt trận; xây dựng và phát triển văn hóa
là sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải chí ý chí cách mạng và sự kiên trì,
Bảo tồn và phát huy những di sản văn hóa tốt đẹp của dân tộc, làm cho
những giá trị ấy thấm sâu vào cuộc sống, trở thành tâm lí, tập quán tiến bộ, văn
minh là một quá trình cách mạng đầy khó khăn, phức tạp. Trong công cuộc đó,
xây đi đôi với chống, lấy xây làm chính. Cùng với việc giữ gìn và phát huy những
di sản quý báu của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới, sáng tạo, vun đắp
những giá trị mới, phải kiên trì đấu trang bài trừ những hủ tục, các thói hư tật xấu,
chống âm mưu lợi dụng văn hóa để thực hiện diễn biến hòa bình.
Vận dụng quan điểm của Đảng về xây dựng nền văn hóa tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc trong việc xây dựng văn hóa học đường của sinh
viên Đại học Thương mại.
Thực trạng vấn đề văn hóa học đường của sinh viên hiện nay.
Trong giao tiếp giữa sinh viên với giáo viên ngày nay cũng có nhiều thay
đổi. Nếu như trước đây, giáo viên là nhân vật trung tâm trong các buổi học, thì
ngày nay, vị trí trung tâm của bài giảng đã chuyển về phía người học, vì thế mà
vấn đề xây dựng văn hóa học đường lành mạnh , đậm đà bản sắc đân tộc đang rất
được chú ý ở các trường đại học, cao đẳng hiện nay. Do đó chúng ta đi nghiên cứu
văn hóa học đường sinh viên ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI thông qua đó ta sẽ thấy
được thực trạng văn hóa của sinh viên hiện nay.
Về giao tiếp và ứng xử giữa sinh viên với
nhau trong thời gian gần đây đã có nhiều sự thay đổi, nhất là trong cách nói
chuyện với nhau nơi công cộng. Nếu để ý lắng nghe những cuộc đối thoại của
nhiều sinh viên (cả nam và nữ) ta sẽ dễ dàng nhận thấy một điều là ngày nay các
bạn thường sử dụng nhiều từ lóng, tiếng lóng để nói với nhau mà nếu không phải
là người trong cuộc thì khó mà hiểu được. Rồi những câu nói tục, những câu thơ,
đoạn nhạc được cải biên lại luôn luôn xuất hiện, những từ ngữ “đệm” vào nghe
không có ý nghĩa gì trong câu nói cứ được lặp đi lặp lại như là sự mở đầu cho mọi
câu nói. Những câu nói cực ngắn, những câu nói mang đầy tính gợi hình cũng
được tận dụng mọi lúc mọi nơi. Sự cẩu thả trong giao tiếp bằng ngôn ngữ, sự thiếu
tinh tế trong lựa chon ngôn từ, sự sáng tạo ra nhiều từ ngữ mới chẳng những
không làm phong phú thêm vốn từ của cá nhân mà đôi khi còn làm nghèo nàn
thêm vốn ngôn ngữ của chính người sử dụng và sự trong sáng của tiếng Việt đồng
thời cũng như tạo nên một không khí mang tính chất “chợ búa” ngay tại môi
trường giáo dục Đại học. Thói quen được hình thành từ những hành động thường
ngày mà ta không chú ý đến. Thói quen tốt là cả một tài sản vô cùng quý giá. Thói
quen xấu là một trở lực trên con đường dẫn đến thành công. Hơn nữa, thói quen sử
dụng ngôn ngữ đó hoàn toàn không phù hợp với một môi trường giáo dục như
trường Đại học.
Về trang phục và cách ăn mặc của sinh viên hiện nay. Nhìn
chung, hầu hết các bạn có ý thức tốt trong vấn đề ăn mặc kín đáo, lịch sự khi đến
giảng đường. Tuy nhiên vẫn còn một bộ phận sinh viên thích thể hiện mình, mà
nặc những bộ quần áo phải thật khác bạn bè, tóc để quá dài hoặc nhuộm nhiều
màu không tự nhiên. Trang phục đẹp là một nhu cầu hoàn toàn chính đáng. Trang
phục có thể làm cho người ta trở nên đẹp hơn, duyên dáng hơn, che lấp đi một số
khiếm khuyết của cơ thể. Trang phục đẹp không những phù hợp với cơ thể của
người mặc mà còn phải thể hiện được tính chất lịch sự, trang trọng, phù hợp với
môi trường xung quanh, với tính chất công việc và đáp ứng được quan niệm thẩm
mỹ của cộng đồng. “Cái răng cái tóc là gốc con người” và cùng với trang phục nó
thể hiện một phần nào quan niệm thẩm mỹ và văn hóa của một con người.
Trong giao tiếp giữa sinh viên với giáo
viên ngày nay cũng có nhiều thay đổi. Nếu như trước đây, giáo viên là nhân vật
trung tâm trong các buổi học, từng lời nói của giáo viên luôn mang tính giáo dục
cao và luôn là khuôn mẫu về mặt kiến thức cũng như đạo đức cho sinh viên tiếp
nhận. Ngày nay, vị trí trung tâm của bài giảng đã chuyển về phía người học. Sinh
viên không còn là người tiếp thu kiến thức một cách thụ động và thiếu tính phê
phán. Khoảng cách giữa thầy và trò cũng ngày càng được thu hẹp. Quan hệ thầy
trò cũng trở nên bớt mang nặng tính chất một chiều thầy nói trò nghe. Sinh viên
ngày càng thể hiện mình là đối tượng tiếp nhận tri thức một cách chủ động. Bên
cạnh đó vẫn còn một bộ phận sinh viên cũng như giáo viên chưa thật sự có ý thức
tốt trong quan hệ giao tiếp. Nhiều sinh viên còn có thái độ thiếu tôn trọng đối với
giảng viên và bài giảng của họ, cũng như thiếu lịch sự và lễ độ trong giao tiếp với
giảng viên, nhất là đối với giảng viên trẻ. Một số cán bộ giảng viên thiếu nghiêm
túc trong công việc như đến lớp trễ mà không có lý do cũng như không xin lỗi
trước lớp, coi chuyện đó là hoàn toàn bình thường, giảng bài khan mà thiếu sự
chuẩn bị đầu tư, giảng dạy không đúng chuyên môn được đào tạo dẫn đến sự chán
học và thái độ thờ ơ của sinh viên. Sử dụng công nghệ thông tin giảng dạy giáo án
điện tử như một cách thay thế cho viết bảng. Sự cẩu thả trong mọi công việc đều
là điều đáng lên án, sự cẩu thả trong giáo dục lại càng nguy hiểm và đáng lên án
hơn hết. Hơn nữa, giao tiếp trong môi trường giáo dục cần nhiều sự mẫu mực
nhằm thể hiện một không gian văn hóa khác hẳn với những môi trường và thiết
chế văn hóa khác.
Vấn đề thái độ ứng xử của sinh viên với
môi trường và cảnh quan cũng có điều đáng bàn. Để tồn tại và phát triển, con
người không thể tách khỏi hai mối quan hệ cơ bản là quan hệ với môi trường tự
nhiên và môi trường xã hội. Trong quan hệ với môi trường tự nhiên, thông qua
hành vi của mình, con người thể hiện văn hóa của mình đối với môi trường, thể
hiện trình độ nhận thức của bản thân. Đối với học đường đó là thái độ, hành vi đối
với môi trường, cảnh quan. Đó là hành vi không làm hư hỏng hoặc làm sai lệch
cấu trúc của các trang thiết bị cũng như cơ sở vật chất nói chung. Đó là việc không
sử dụng các trang thiết bị của nhà trường sai mục đích, có ý thức trong việc giữ
gìn và bảo quản tài sản của nhà trường. Theo dõi nhiều hoạt động giao lưu, văn
nghệ, thể thao của các bạn sinh viên chúng ta không thể không thấy khó chịu khi
thấy một số bạn hái hoa trong khuôn viên trường một cách tự nhiên để làm quà
tặng. Và nếu hành động đó bị các bạn khác phản đối thì có lẽ vấn đề cũng không
đáng nói ra ở đây. Nhưng ngược lại, hành động đó lại được sự cổ vũ và ủng hộ
của những người khác. Rõ ràng ở đây thể hiện một sự lệch lạc trong quan niệm
của một bộ phận không nhỏ những sinh viên có học thức. Những việc làm sai trái
nếu được lặp đi lặp lại nhiều lần sẽ khiến người ta coi nó là bình thường và người
ta lại không thấy sợ, không thấy xấu hổ về điều họ làm, lâu dần sẽ trở thành thói
quen. Và điều này là vô cùng tai hại.
Giải pháp nhằm nâng cao văn hóa học đường cho sinh viên
- Xây dựng môi trường , cách ứng xử học tập tốt nơi giảng đường.
Môi trường là môi trường xung quanh học đường, đòi hỏi cảnh quan trường học
phải xây dựng thật trong lành, văn hóa. Văn hóa thể hiện ở giáo viên, sinh viên
qua hành động, cử chỉ, ngôn ngữ giao tiếp hàng ngày. Môi trường xung quanh học
đường là ý thức của giáo viên và sinh viên khi bỏ rác đúng nơi quy định, không
bẻ cây, khạc nhổ, vẽ bậy lên tường, bàn học; không hút thuốc lá trong trường học;
không nói tục, chửi thề... Những việc làm tưởng chừng rất nhỏ đó, nhưng là nền
tảng hình thành chuẩn mực đạo đức ban đầu ủa một nhà giáo. hương pháp lao
động sư phạm và giao tiếp ứng xử của những người hoạt động trong học đường
phải được coi là mẫu mực cho xã hội. Văn hóa học đường chính là "Văn hóa giao
tiếp", "Văn hóa ứng xử" của giáo viên và sinh viên "Giáo viên phải là tấm gương
tốt cho sinh viên noi theo", phải "Dùng nhân cách để giáo dục nhân cách", phải
xây dựng mối quan hệ tốt giữa thầy và trò, phải có quan hệ đúng mực, vừa nghiêm
túc vừa thân mật, giản dị và chân thành. Giáo viên phải xác định đúng vai trò,
nghĩa vụ và trách nhiệm đối với việc dạy "chữ" và dạy "người", phải có ý thức
trau dồi chuyên môn, làm cho sinh viên thấy được cái hay, cái đẹp trong kiến thức
được lĩnh hội, truyền cho sinh viên niềm say mê về nghề nghiệp, phát huy tính tích
cực, tự giác làm cho các em trân trọng, yêu quý nghề của mình lựa chọn.
- Phối hợp với các lực lượng giáo dục trong nhà trường, tăng cường xây
dựng kỷ cương, nề nếp trong học tập, sinh hoạt của đoàn viên, sinh viên.
Các tổ chức Đoàn, Hội phát huy vai trò của mình, tổ chức các hoạt động tập
thể mang nhiều ý nghĩa giáo dục như hội diễn văn nghệ, bóng đá, cầu lông... Tổ
chức các chương trình hành động tập thể như "Ngày chủ nhật xanh", "Hiến máu
nhân đạo"; chương trình quyên góp ủng hộ trẻ em khuyết tật, vùng sâu vùng xa...
Qua đó, hình thành ở sinh viên tinh thần đoàn kết, "thương người như thể thương
thân". Nhà trường phải xây dựng văn hóa trường học như đeo phù hiệu khi đến
trường,… nhằm tạo nên một nét văn hóa riêng của trường. Tổ chức các diễn đàn,
hội nghị đoàn viên - sinh viên trao đổi về nếp sống văn hóa, những chuẩn mực
trong nếp sống để xây dựng một văn hóa học đường tiên tiến đậm đà bản sắc dân
tộc, phát động các phong trào thi đua học tập, nghiên cứu khoa học, cam kết văn
minh học đường. Phòng quản lý sinh viên phối hợp với các liên chi đoàn quán
triệt trong sinh viên thực hiện các kỳ thi trung thực, nghiêm túc "Nói không với
tiêu cực trong thi cử và bệnh thành tích trong giáo dục". Các thầy, cô giáo phải xử
lý nghiêm khắc đối với những sinh viên có hành vi tiêu cực trong thi cử để làm
gương cho các sinh viên khác. Trung tâm phục vụ sinh viên phối hợp với các Liên
chi đoàn phát động phong trào xây dựng phòng ở kiểu mẫu trong ký túc xá, xây
dựng giảng đường sạch đẹp. Nhà trường tổ chức sinh hoạt dân chủ, hội nghị dân
chủ để sinh viên bày tỏ tâm tư nguyện vọng của mình. Tăng cường xây dựng các
câu lạc bộ mang tính học thuật ở các khoa giúp sinh viên có điều kiện rèn luyện
kỹ năng giao tiếp, rèn luyện văn hóa nơi giảng đường . Ngoài ra, Đoàn thanh niên,
Hội sinh viên cần kịp thời khen thưởng đoàn viên, sinh viên thực hiện tốt nề nếp
văn hóa, xử lý nghiêm đối với những sinh viên vi phạm.
- Trường học phải có hệ giá trị làm chuẩn mực để lấy đó làm mục tiêu
phấn đấu, thước đo thành quả của trường.
Việc làm này là động lực thúc đẩy sự phát triển của nhà trường, làm cho sinh viên
nhận thức được giảng đường, nơi mình học tập trở thành nơi phấn đấu của nhiều
học sinh, nơi phụ huynh của các em luôn yên tâm về một môi trường đào tạo "Vừa
hồng vừa chuyên". Ngoài ra, trường cần gắn việc giáo dục đạo đức văn hóa với
đạo đức lối sống, lồng ghép chương trình giảng dạy với các hoạt động dã ngoại
cho sinh viên như: thăm các di tích lịch sử, học tập truyền thống cách mạng lịch sử
hào hùng của dân tộc. Qua đó, khơi dậy trong sinh viên lòng tự hào dân tộc, giúp
các em có động cơ học tập tốt.
- Có sự phối hợp giữa gia đình - nhà trường và xã hội trong việc giáo dục
văn hóa học đường cho sinh viên.
Việc kết hợp giữa gia đình - nhà trường và xã hội trong việc giáo
dục cho học sinh phát triển toàn diện về đức, trí, thể, mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã từng dạy: "Phải liên hệ mật thiết với gia đình học trò. Bởi vì giáo dục trong nhà
trường chỉ là một phần, còn cần có sự giáo dục ngoài xã hội và trong gia đình để
giúp cho việc giáo dục nhà trường tốt hơn. Giáo dục trong nhà trường dù tốt mấy
nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng không hoàn
toàn". Nói đến gia đình là nói đến cái nôi sinh thành, dưỡng dục, là nơi định
hướng các giá trị đạo đức, nhân cách của học sinh, sinh viên. Gia đình cũng là nơi
gìn giữ những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Điều đó được ý
thức rất đầy đủ về quan niệm của cha mẹ trong quá trình vào đời của con cái,
trong học tập, phát triển nghề nghiệp tương lai, phát triển nhân cách trong quan hệ
tình bạn và tình yêu, gia đình hạnh phúc và ý thức trách nhiệm công dân. Sự kết
hợp giữa gia đình với nhà trường thể hiện trong việc thường xuyên có sự trao đổi
từ hai phía. Nhà trường thường xuyên thông báo kết quả học tập, văn hóa đạo đức
trường học của sinh viên cho gia đình, định kỳ tổ chức họp phụ huynh để trình bày
rõ quan điểm của nhà trường đối với học sinh, sinh viên. Gia đình cung cấp đầy đủ
thông tin cá nhân, trình bày rõ tính cách, năng lực của học sinh, sinh viên tạo điều
kiện để nhà trường có biện pháp giáo dục, quản lý. Gia đình cũng phải chu cấp
đầy đủ về vật chất, thường xuyên quan tâm, động viên các em bằng những hành
động như gọi điện hỏi thăm sức khỏe, động viên các em cố gắng học tập khi xa
nhà... Có không ít sinh viên thiếu sự quan tâm của gia đình trong cuộc sống xa nhà
mà rơi vào các tệ nạn xã hội. Từ thực tế trên cho thấy, vai trò của gia đình là rất
quan trọng trong việc hình thành phát triển nhân cách của học sinh, sinh viên.
Không chỉ là cái nôi sinh thành, dưỡng dục, gia đình còn là nhân tố quan trọng
trong việc cùng với nhà trường hoàn thiện nhân cách văn hóa cho các em. Các
đoàn thể tổ chức xã hội như khối xóm nơi có sinh viên ở phải thường xuyên kiểm
tra nếp sống văn hóa, tăng cường tuần tra, kiểm tra hiện tượng sinh viên đi khuya
về muộn, để kịp thời thông báo với nhà trường có biện pháp xử lý. Có những hình
thức xử lý thích đáng, với những bộ phận, những đối tượng có mục đích lợi dụng
sinh viên về cả tâm hồn và thể xác. Hạn chế những tụ điểm ăn chơi (nhà hàng, nhà
nghỉ, quán karaoke, quán internet, dịch vụ cầm đồ) xung quanh địa bàn các trường
học. Một môi trường văn hóa học đường được tạo dựng từ sự kết hợp giữa gia
đình - nhà trường và xã hội sẽ có sức đề kháng với những mầm bệnh, loại trừ
được những biểu hiện văn hóa không lành mạnh nảy sinh từ bên trong, góp phần
xây dựng môi trường văn hóa học đường ngày càng hoàn thiện, trong sáng.
Trong những biến động mạnh mẽ của những giá trị chuẩn mực xã hội, nếp
sống của sinh viên có những thay đổi, thay đổi trong nhận thức, hành động, cách
thức suy nghĩ. Có không ít sinh viên sư phạm, thế hệ thực hiện sự nghiệp trồng
người cho dân tộc sa vào các tệ nạn xã hội. Vấn đề này, trở thành tiếng chuông
cảnh tỉnh cho các cấp quản lý của các trường đại học thương mại phải có những
biện pháp thực sự hiệu quả để làm tốt chức năng dạy "chữ", dạy "người", tạo một
môi trường văn hóa trong lành, chân phương trong trường học. Thực hiện đồng
bộ các giải pháp, xây dựng môi trường và ứng xử tốt nơi giảng đường. Phối hợp
với các lực lượng giáo dục trong nhà trường tăng cường xây dựng kỷ cương, nề
nếp trong học tập, sinh hoạt của đoàn viên, sinh viên. Mỗi trường học phải có hệ
giá trị làm chuẩn mực để lấy đó làm mục tiêu phấn đấu, thước đo thành quả của
trường. Có sự phối hợp giữa gia đình - nhà trường và xã hội trong việc giáo dục
văn hóa học đường cho sinh viên, là cơ sở, điều kiện để xây dựng một môi trường
đại hoc "Vừa hồng vừa chuyên", góp phần xây dựng thành công sự nghiệp trồng
người của Đảng và Nhà nước ta, tạo điều kiện xây dựng một nền văn hóa học
đường lành mạnh , tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc trong sinh viên.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro