ban ve tay du ky-ngo thua an

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Title: BanVeTayDuKy

Author: Unknown

CreationDate: Thu Mar 20 20:38:20 GMT+07:00 2008

ModificationDate: Thu Mar 20 20:38:20 GMT+07:00 2008

BanVeTayDuKy

en-usBF9ACBE456

BÀN VỀ TÂY DU KÝ của Ngô Thừa Ân

Tỳ Kheo Thích Chơn Thiện

Tên sách: BÀN VỀ TÂY DU KÝ của Ngô Thừa Ân

Tác giả: Tỳ Kheo Thích Chơn Thiện

Nhà xuất bản Tôn Giáo Hà Nội 2000

Nguồn: Thư viện Hoa sen

Làm ebook: Cotyba

Ngày hoàn thành: 20-03-2008

Lời nói đầu.

Tập: Bàn về Tây Du Ký này viết sau khi đài truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh trình chiếu bộ phim "Tây Du Ký". Dương Khiết đạo diễn. Tập này được soạn giả xe là Hoa Ngọc lan, tập Ba; tiếp theo Hoa Ngọc Lan, tập Một, xuất bản năm 1998. Nhà Xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh; Hoa Ngọc Lan, tập Hai, xuất bản tháng 03 năm 2000, Nhà Xuất bản Tôn Giáo.

Soạn giả chỉ mong rằng khi tập sách này đến tay quý bạn đọc thì chỉ là:

"Lời quê chắp nhặt dông dài,

Mua vui cũng được một vài trống canh".

(Truyện Kiều câu 3253-3254)

Rất mong nhận được sự thông cảm rộng rãi từ quý bạn đọc.

Soạn giả cẩn bút,

Tỷ kheo Thích Chơn Thiện

CHƯƠNG MỘT

I. TỔNG QUÁT

Gần đây Ðài truyên hình hình Thành phố Hồ Chí Minh chiếu bộ phim Tây Du Ký, Dương Khiết đạo diễn, đã đem lại nhiều cảm giác sinh thú cho người xem. Nhiều bài báo, nhiều lời bình phẩm và dư luận và dư luận của quần chúng về bộ phim sôi nổi, đặc biệt của luồng dư luận là sự lẫn lộn giữa giá trị của pháp sư Huyền Trang, thiền sư vừa là nhà Phật học, nhà dịch thuật, với giá trị của Ðường Huyền Trang trong bộ phim Tây Du Ký và Ðường Huyền Trang trong tiểu thuyết Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân. Dư luận cũng lẫn lộn giữa giáo lý Phật giáo đích thực với giáo lý Phật giáo được phản ảnh qua bộ phim hay qua tiểu thuyết Tây Du Ký.

Người viết bài này thiển nghĩ người Phật tử cần xác định nhận thức rằng:

Pháp sư Huyền Trang của lịch sử Phật giáo Trung Hoa là có thực, là một thiền sư thông rõ Kinh, Luật, Luận Phật giáo, là một nhà Phật học lỗi lạc, là một nhà dịch thuật tài danh, đã du học ở Ấn Ðộ và chiêm bái Phật tích tại đó suốt 17 năm, sau đó trở về Trung Quốc dịch các Kinh, Luận trong suốt 18 năm thì mất. Cuộc đời và sự nghiệp xuất thế của Pháp sư có giá trị độc lập với Trần Huyền Trang trong phim ảnh, và độc lập với Trần Huyền Trang trong tiểu thuyết Tây Du Ký.

Không thể căn cứ vào Trần Huyền Trang trong tiểu thuyết hay phim ảnh với nhiều tình tiết hư câu để đánh giá Pháp sư Trần Huyền Trang có thực trong lịch sử. Ổn định nhận thức như thế để người Phật tử khỏi phải phiền não trước những diễn xuất hay diễn đạt kém phần giải thoát của nhân vật Trần Huyền Trang trong phim ảnh hay trong tiểu thuyết.

- Tương tự, người Phật tử cần ổn định nhận thức của mình về sự khác biệt giữa giáo lý Phật giáo đích thực với giáo lý Phật giáo được phản ánh có chỗ thiếu trung thực qua phim ảnh hay tiểu thuyết để khỏi phải băn khoăn trong việc tìm lời lẽ biện minh thế này thế khác.

- Người viết cũng cảm thấy rằng ngay cả khi người Phật tử đã ổn định nhận thức của mình về Pháp sư Huyền Trang đích thực thì vẫn không tránh được cảm nhận khó chịu trước hình ảnh Ðức Phật (diễn xuất trong phim) chụp Ngũ hành sơn xuống mình Tôn Ngộ Không (bấy giờ đã là Tôn Ngộ Không sau ngày thụ giáo vớiTôn giả Tu Bồ Ðề) hơi nặng nề (thiếu nét từ bi) rồi liền xoay lại vui vẻ nhìn Hằng Nga hát múa, và trước hình ảnh Tôn giả Ðại Ca Diếp, Tôn giả A Nan, đại đệ tử của Ðức Phật, lôi thôi độ trái cây và lôi thôi đòi "hối lộ" đầy nét phàm phu. Hai hình ảnh ấy thật là xa lạ đối với Phật giáo và thật khó hiểu đối với người Phật tử hiểu đạo! Hình ảnh hối lộ ấy diễn ra hệt như trong tiểu thuyết của Ngô Thừa Ân, điều mà người viết bài này nghi ngờ không phải là đoạn sáng tác của Ngô Thừa Ân, một tiểu thuyết gia nổi danh có một kiến thức Phật học sâu sắc đã được biểu hiện qua bản truyện Tây Du Ký.

- Trở về tiểu thuyết Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân. Ðọc xong Tây Du Ký, người viết liền khởi tưởng:

* Sự nghiệp du học, phiên dịch và tu hành của pháp sư Huyền Trang là vĩ đại, đã để lại nhiều sự ngưỡng mộ trong quần chúng Phật tử hậu lai, và nhiều hứng khởi trong các nhà nghiên cứu, dịch thuật và sáng tác văn học về sau. Quần chúng ngưỡng mộ pháp sư qua văn học truyền khẩu NGÔ THỪA ÂN đã hứng khởi đến độ dựng thành bộ tiểu thuyết Tây Du Ký bất hủ.

* Ngô Thừa Ân hẳn và viết về những gì trong giáo lý Phật giáo đã tạo nên pháp sự Trần Huyền Trang và sự nghiệp vĩ đại của người. Ðó là con đường tu tập thoát ly mọi nỗi khổ đau trần thế, cái nỗi khổ đau đang đè nặng cuộc đời của Ngô Thừa Ân và xã hội Trung Hoa phong kiến đương thời.

* Tác giả đã biểu tượng hóa lộ trình tu tập giải thoát, theo Phật giáo, bằng hình ảnh bốn thầy trò Ðường Tăng và con ngựa trắng đi Tây Trúc thỉnh kinh với tám mươi mốt khổ nạn.

Trong bài phiếm bàn này, người viết chỉ bàn đến các biểu hiện giáo lý Phật giáo tản mạn qua các nhân vật và các cảnh nạn, mà không đi vào các quan niệm nhân sinh, xã hội và lại càng không bàn đến văn phong bút pháp của tác giả.

II. HÌNH ẢNH GIÁO LÝ PHẬT GIÁO BẮC TRUYỀN ÐƯỢC PHẢN ẢNH QUA TÂY DU KÝ.

1/ Qua các nhân vật chính (tổng quan)

Bảng liệt kê các Kinh, Luật, Luận mà Ðường tăng thỉnh về Trung Quốc, theo Ngô Thừa Ân, là thuộc giáo lý Bắc truyền. Với các nhà nghiên cứu Phật học vững vàng như Ngô Thừa Ân mới nhận ra tư tưởng Bát Nhã là cột sống của giáo lý Bắc truyền. Các bản kinh tiêu biểu và phổ biến nhất của giáo lý Bát Nhã là Bát Nhã Tâm Kinh và Kim Cương Bát Nhã. Vì thế Ngô Thừa Ân đã chọn lựa và giới thiệu các nét giáo lý tinh yếu của hai bản Kinh ấy vào cuốn tiểu thuyết thời danh Tây Du Ký.

* Tạng Kinh Bát Nhã (ngót 700 cuốn) do pháp sư Huyền Trang dịch. Bản Bát Nhã Tâm Kinh là bản Kinh mà pháp sư thường đọc tụng, ngay cả những lúc cấp nạn như tại sa mạc Gobi - theo đúng sử liệu - Bản kinh này là tinh yếu của tư tưởng Bát Nhã đã được tác giả đưa vào tiểu thuyết làm triết lý cho cuộc Tây du.

Hồi thứ 19 (của Tây Du Ký) viết rằng:

"Ðông Vân San, Ngộ Không thu Bát Giới,

Núi Phù Ðồ, Tam Tạng nhận Tâm Kinh".

Ðường Tăng tại đây được thiền sư Ô Sào (hóa thân của Bồ Tát) truyền dạy bài Bát Nhã Tâm Kinh (Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội. 1982) như là vũ khí để chiến thắng vượt qua các ách nạn.

* Ðọc cuộc hành trình Tây du, Ðường tăng thường tụng niệm bản Bát Nhã Tâm Kinh - và thường được Tôn Ngộ Không nhắc nhở - để thắng vượt các sợ hãi, âu lo.

* Cuối đường Tây du, Ðường Tăng được hóa thân Phật dùng chiếc thuyền Bát Nhã (không đáy) chở qua sông mê đến bờ bên kia của Phật cảnh. Bước vào thuyền, Ðường Tăng liền thoát xác: được pháp thân thanh tịnh vô tướng, và để lại chiếc sắc thân, như một xác chết, nổi bềnh bồng giữa sóng nước sinh tử.

* Suốt đường thỉnh kinh, phái đòan Tây du luôn luôn được Bồ Tát Quán Thế Âm theo sát cứu độ. Quán Thế Âm theo là tên của vị Bồ Tát mở đầu bản Bát Nhã Tâm Kinh, vị Bồ Tát do vì thấy rdox Năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức - nghĩa là con người và vũ trụ) là không có tự ngã mà vượt qua hết thảy khổ ách, đi vào sinh tử tự tại cứu đổ chúng sinh.

Như thế, tại đây đã có thể kết luận rằng: Ngô Thừa Ân đã diễn lại nội dung Bát Nhã Tâm Kinh (hay tư tưởng tinh yếu của Bát Nhã) và hành trình để chứng đắc trí tuệ Bát Nhã qua toàn bộ tiểu thuyết Tây Du Ký mà mỗi bước đi của phái đoàn thầy trò Ðường Tăng là mỗi bước đi tiến gần giải thoát.

2/ Các nhân vật chính của phái đoàn thỉnh kinh.

Nếu hiểu mỗi nhân vật của phái đoàn thỉnh Kinh là một biểu tượng độc lập, riêng lẽ thì khó mà nắm được toàn mạch tư tưởng nhất quán của Ngô Thừa Ân, chúng ta sẽ lúng túng trong việc tìm hiểu các ảnh tượng giáo lý Phật giáo trải khắp toàn truyện.

Thực sự cuộc hành trình Tây du là một hành trình giải thoát của mỗi người muốn thoát ra khỏi mọi nỗi khổ đau của sinh tử. Nhân vật thầy trò Ðường Tăng là biểu tượng các phần tố tâm thức của một tâm hồn Ðường Tăng.

Về Ðường Tăng

Ðường Tăng là tiếng nói của hạnh nguyện giải thoát, của bi nguyện độ sinh, và sau hết là tiếng nói của cho tim trần thế.

Tiếng nói ấy là linh hồn của nghĩa sống, như Ðường Tăng là người dẫn đầu đoàn thỉnh kinh. Ðây là không là tiếng nói của trí tuệ, của khối óc, nên thường thiếu khả năng phân biệt chánh tà, hư thực, thường bị mắc vào cạm bẩy của ác ma. Tiếng nói của con tim ấy cần được soi sáng bởi tiếng nói thiền định và giới đức như là Ðường Tăng cần đến ba môn đồ phò tá (sẽ bàn tiếp)...

Về Tôn Ngộ Không (Tôn Hành Giả)

* Tôn Ngộ Không là biểu trưng cho Chánh kiến và Chánh tư duy (Thánh tuệ uẩn của mỗi hành giả, là trí tuệ Vô ngã thấy rõ mọi hiện hữu là Vô ngã, vô thường và dẫn đến tan rã, khổ đau. Trí tuệ ấy khác với trí tuệ sinh diệt. Nó là vô sinh nên tác giả Ngô Thừa Ân giới thiệu Mỹ hầu vương được sinh ra từ trứng đá, kết tinh của tú khí trời đất. Trí tuệ ấy tự biết tìm đường đi ra khỏi sinh tử như Mỹ hầu vương biết tìm đường đến với đại đệ tử của Ðức Phật (Tôn giả Tu Bồ Ðề) để học đạo bất sinh bất diệt.

* Tôn giả Tu Bồ Ðề là đệ nhất ly dục, ly ái (còn có nghĩa là đệ nhất rời chấp thủ hết thảy các ngã tướng) trong hàng đệ tử của Ðức Phật - theo Kinh Kim Cang Bát Nhã - Ðạo và Mỹ hầu vương được truyền dạy thấy rõ Vô ngã tướng (hay không tướng) của vạn hữu và tự tâm rời xa mọi tham ái. Nắm được sở đắc ấy thì liền tự tại, ở ngoài mọi khổ đau. Sự kiện tự tại này đã được Ngô Thừa Ân biểu hiện qua 72 phép thần thông biến hóa của pháp môn Ðịa-sát.

Trí tuệ này là cao nhất để đi đến trí tuệ giải thoát sau cùng, không còn trí tuệ nào khác cao hơn, nên được gọi là Vô sư trí. Vì thế Tôn giả Tu Bồ Ðề cấm Tôn Ngộ Không tiết lộ danh tánh của Thầy dạy đạo cho Tôn Ngộ Không.

Ðạt được trí tuệ xa lìa khổ đau ấy, Mỹ hầu vương nhận được pháp danh Tôn Ngộ Không. chữ Tôn theo lời cắt nghĩa của Tôn giả Tu Bồ Ðề, nếu xóa bộ khuyển bên cạnh thì thành chử Tử (con) và chữ Hệ (trẻ con). Như thế trí tuệ giải thoát sau cùng, mà chưa là trí tuệ giải thoát sau cùng, trí tuệ này cần được tu tập thêm Giới và Ðịnh.

* Trí tuệ, tự thân nó là động, tháo động, vì thế Tôn Ngộ Không mang thân tướng giống khỉ. Cái động của trí tuệ cần được thuần hóa và nuôi dưỡng bằng định tâm và sự thực hành giới hạnh. Ðịnh tâm sẽ rửa sạch cái động của ý, giới đức sẽ rửa sạch cái động của trí tuệ cần được thuần hóa và nuôi dưỡng bằng định tâm và sự thực hành giới hạnh. Ðịnh tâm sẽ rửa sạch cái động của ý, giới đức sẽ rửa sạch cái động của thân, khẩu. Chưa đủ, có những thời điểm manh động của trí cần phải nhờ đến đại định để chế ngự như là Tôn Ngộ Không cần phải đội trên đầu chiếc vòng "Khẩn cô nhi" (còn gọi là vòng "Kim cô" hay vòng "định tâm") và cần được chế ngự bởi "định tâm chú" (hay chú Khẩn cô nhi) của Bồ Tát Quán Thế Âm.

* Khi mà trí tuệ ấy chưa được Giới, Ðịnh chế ngự và nuôi dưỡng thì nó sẽ bị Năm uẩn (hay vũ trụ, cuộc đời) khống chế với vô lượng phiền não. Ðây là hình ảnh mà Tôn Ngộ Không bị Ngũ hành sơn chụp lên mình năm trăm năm mà không trăn trở được. Ðó là cái họa đại náo Thiên cung của Tề Thiên Ðại Thánh, do vì Ðại Thánh thấy rõ cái hư, cái rởm (và cả dỏm nữa) của trên trời và dưới thế, không chịu được mà đại náo, đập phá, đạp đổ.

* Ðường giải thoát chưa dừng lại ở đây. Ngộ Không (hay trí tuệ) cần tiếp tục vào đại định và lòng đại bi, cần phải tu tập nhiều lần nữa.n ghĩa là Ngộ Không phải tinh tấn lên đường thực hành giải thoát. Bấy giờ Ngộ Không có thêm một pháp hiệu nữa là Hành Giả.

* Trí tuệ của Tôn Hành Giả (nặng phần tự độ) cần phải được tu tập cùng với bi tâm độ sinh (phần độ tha của Ðường Tăng) thì mới thiện xảo, mới tiến gần giải thoát tối hậu. Cũng thế, bi tâm cần được trí tuệ Vô ngã dẫn đường, nếu không thì dễ lạc đạo. Tác giả Ngô Thừa Ân diễn đạt điểm giáo lý này qua sự xây dựng hai nhân vật Ðường Tăng và Tôn Hành Giả. Khi nào mà Ðường Tăng không nghe Tôn Hành Giả thì phái đoàn Tây du trở nên buồn bã ảm đạm như một phái đoàn đưa ma (như cảnh quỷ Hoàng Bào hãm hại Ðường Tăng sau khi Ngộ Không bị đuổi về núi Hoa Quả).

* Người tu giải thoát rời xa trí tuệ một bước thì bị họa liền một bước. Cần phải thường xuyên giữ chánh niệm hay "như lý tác ý" để tránh các nạn ở am Mộc "Tiên (hồi 64): Ðường Tăng mắc vào cảnh mê thơ, rượu và tình. Bấy giờ, khi Tôn Hành Giả xuất hiện kịp thời thì ma cảnh liền tan biến, Ðường Tăng ra khỏi sự đắm trước nội thọ và ngoại thọ.

Về Trư bát Giới (Trư Ngộ Năng)

* Theo Phật giáo Bắc và Nam truyền, thiền định để chế ngự cái động của tuệ và của tâm cần được tu tập trên căn bản phạm h ạnh. Vì thế hành trình giải thoát cần có công phu thực hành Thánh giới uẩn, như phái đoàn Tây du cần có mặt Trư Bát Giới (bát giới là tám giới căn bản của người xuất gia).

* Trư Bát Giới vốn là Thiên Bồng Nguyên soái, do vì say men tiên tửu, dục ái trỗi dậy quấy rồi Hằng Nga mà bị đày xuống hạ giới với thân mình thô lậu. Trư Bát Giới quả là hiện thân của dục vọng, của sự buông lung thân, khẩu hành. khi Bát Giới trở thành môn đệ của Ðường Tăng là khi đoàn Tây du thể hiện công phu hành trì giới uẩn để chế ngự dục vọng và tẩy trừ thân, khẩu nghiệp. Tác giả Tây Du Ký đã khéo xây dựng nhân vật Trư Bát Giới tham ăn, tham ngủ nghĩ và nói năng thô lậu như là tập khí sinh tử còn lại để trên con người xuất thế, tập khí này cần được tẩy rửa khỏi Tâm giải thoát và Tuệ giải thoát.

* Tánh của Trư Bát Giới thường không hợp với Tôn Hành Giả là cũng do vì sự có mặt của tập khí sinh tử ấy. Lúc nào Giới được tu tập cùng với Tuệ thì công phu giải thoát ổn định, lúc nào giới rời khỏi tuệ thì công phu giải thoát rối loạn. Hệt như những lúc Trư Bát Giới hòa thuận với Tôn Hành Giả thì phái đoàn Tây du êm ả, những lúc Trư Bát Giới nghịch ý Tôn Hành Giả thì phái đoàn Tây du lâm nạn lớn.

* Nhưng Trư Bát Giới cũng lập được nhiều công trên đường thỉnh Kinh. Ðây là ý nghĩa Bồ Tát Quán Thế Âm đặt pháp danh Ngộ Năng cho Bát Giới. Khi mà dục vọng hướng về giải thoát, thì dục vọng trở thành một sức mạnh giải thoát cần thiết cho hành giả.

* Những đoạn đường tu để chiến thắng dục vọng là những đoạn đường dục ái, hữu ái và vô hữu ái mà hành giả phải vượt qua. Khi Trư Bát Giới theo phò Ðường Tăng là khi dục vọng chuyển thành giải thoát mà khởi đầu là bỏ dục ái (Trư Bát Giới rời khỏi nhà nhạc gia Cao Lão) để tiến đến cắt lìa dục ái, hữu ái và vô hữu ái. Tại đây, hình ảnh của Trư Bát Giới là hình ảnh ái nghiệp còn tồn đọng (tùy miên) trong tâm thức Ðường Tăng hay trong tâm thức của một hành giả trên đường về giải thoát.

Ngô Thừa Ân xây dựng vai trò Trư Bát Giới là nói lên rằng, theo Phật giáo, khi có trí tuệ Vô ngã (chánh kiến và chánh tư duy) và bi nguyện giải thoát độ sinh, hành giả cần phải tu tập Giới uẩn, Ðịnh uẩn và Tuệ uẩn cho đến thời điểm giải thoát sau cùng, tan hết tập khí sinh tử (trừ hết các sanh y).

Về Sa Ngộ Tịnh

* Vai trò của giới là chế ngự cái loạn động của thân hành và khẩu hành; riêng cái loạn động của tâm, trí thì phải cần đến công phu thiền định. Vì thế, phái đoàn Tây du cần kết nạp thêm nhân vật Sa Ngộ Tịnh (Tịnh có nghĩa là định tâm). Ngộ Tịnh là biểu tượng của công phu tu tập Thánh định uẩn. Vì thế, nhân vật Ngộ Tịnh trầm lặng, chuyên chú, cần mẫn và ổn định suốt cuộc hành trình Tây du.

* Nhân dịp tập Giới, hành giả mới có tâm định nên tác giả Tây Du Ký đã kết nạp Ngộ Tịnh sau Ngộ Năng và làm sư đệ Ngộ Năng.

* Sa Ngộ Tịnh vố là Quyển Liêm đại tướng ở nhà trời, do vì chếch choáng rượu trời, đánh mất chánh niệm, làm đổ ly ngọc mà bị đày xuống trần gian (dục giới). Khi đi theo Ðường Tăng là khi Ngộ Tịnh thiết lập lại chánh niệm tỉnh giác, hành trì định uẩn.

* Ðịnh uẩn gắn liền với Tuệ uẩn, theo Phật giáo, không có định thì không có tuệ, không có có tuệ thì không có định. Do vậy, Ngô Thừa Ân đã vẽ nên một tình huynh đệ thắm thiết giữa Ngộ Không và Ngộ Tịnh. Sa Ngộ Tịnh là hình ảnh biểu hiện trạng thái tâm lý ổn định của hành giả trên đường về giải thoát, tạo thêm sự sáng suốt của trí tuệ và tâm thức như có lần Ngộ Tịnh đã mách nước cho Ngộ Không loại trừ Ðường Tăng giả.

Về Tiểu Long Maõ

* Tiểu Long Mã là con Tây Hải Ngao Nhuận (giữa Trời và Ðất), do vì khởi niệm nghịch ý cha, châm lửa đốt ngọc minh châu trên điện, bị thiên đình xử tội chết, sau nhờ Bồ Tát Quán Thế Âm cứu vớt khỏi tội chờ ngày phò tá Ðường Tăng sang Tây Trúc.

* Ðây là một nhân vật ẩn kín của phái đoàn Tây du mà nếu thiếu sự chú tâm, chúng ta sản xuất không phát h iện ra. Khi Tiểu Long Mã lên đường đi Tây du là khi hiếu tâm bắt đầu được tu tập cho đến khi thành bi tâm và giải thoát tâm. Cấu trúc thêm nhân vật Tiểu Long Mã vào phái đoàn Tây du là Ngô Thừa Ân muốn giới thiệu công phu tu tập Giới, Ðịnh, Tuệ được thực hiện trên căn bản hiếu tâm, như giáo lý Phật giáo từng dạy: "Tâm hiếu là tam tu, hạnh hiếu là hạnh tu" và Ðiều thiện lớn nhất là chí hiếu, điều ác cùng cực là bất hiếu".

Với Phật giáo, đại bi tâm chỉ là sự phát triển rộng, sâu của hiếu tâm, vì thế Tiểu Long Mã là con người cưỡi của Ðường Tăng cho đến Lôi Âm tự.

* Qua nhân vật thứ năm này, Ngô Thừa Ân đã nói lên được sự đề cao hiếu đạo của Phật giáo, và sự quan tâm của Phật giáo đến việc xây dựng một nhân cách đạo đức cho một xã hội tốt đẹp cho con người. Tại đây, chúng ta cũng thấy rằng cuộc đời đang cần đến Phật giáo như Tiểu Long Mã cần đến bàn tay cứu độ của Bồ Tát Quán Thế Âm.

Về Lôi Âm Tự và tám mươi mốt ách nạn

* Lôi Âm tự là một danh từ rất biểu tượng. Nó biểu tượng háo một thế giới có ngôn ngữ chân thật nói lên được chân tướng của vạn hữu, như là tiếng sám sét siêu vượt lên trên các âm thanh trần thế - thứ âm thanh của hữu niệm, hữu ngã. Vì thế Tôn giả Ðại Ca Diếp và Tôn giả A Nan thoạt đầu đã trao cho Ðường Tăng các bản Kinh vô tự, bởi vì vô tự mới thực là Chân Kinh. Nhưng khó khăn thay, trần gian không đọc được Kinh vô tự: Như Lai đã phải dạy trao Kinh hữu tự do vậy không nói lên được thực tướng. Hành giả phải hành Giới, Ðịnh, Tuệ và tâm đại bi mới thể nhận được thực tướng. Ðây là công phu đánh thức dậy gaics tính vốn có trong mỗi hành giả như sấm sét đánh thức mình ra khỏi cơn mê của 81 cảnh giới tâm.

81 cảnh giới tâm ấy là gì?

Ngô Thừa Ân đã khéo dựng lên tám mươi mốt cảnh nạn phải vượt qua trên đường Tây du. Theo Phật giáo, có mười cảnh giới hiện hữu, đó là Phật, Bồ Tát, Duyên giác, Thinh văn, Trời, Người, A-tu-la, Ðịa ngục, Ngạ quỷ và Súc sinh. Muốn đến cảnh giới Phật, hành giả phải đi qua chín cảnh giới còn lại. Mỗi cảnh giới có đủ chín cảnh giới tâm còn lại ấy, thành thử có tất cả 81 cảnh giới tâm sai biệt còn lại (9x9). Mỗi cảnh giới tâm này đều che mờ Phật trí, như con suối nước đổ xuống bao che động Thủy Liêm ở Hoa Quả sơn, mà hành giả cần tẩy rửa. Công việc tẩy rửa 81 cảnh giới tâm ấy chính là nỗ lực của phái đoàn Tây du vượt qua 81 ách nạn vậy.

III. CÁC HÌNH ẢNH BIỂU TƯỢNG KHÁC NHAU GIỚI THIỆU PHẬT HỌC TRONG TÂY DU KÝ

Ðọc Tây Du Ký chúng ta bắt gặp rất nhiều hình ảnh biểu tượng và ngôn ngữ biểu tượng, biểu tượng hóa giáo lý Phật giáo. chúng ta sẽ có dịp thích thú chia sẻ với các hứng khởi sáng tác của tác giả.

Trong giới hạn của bài phiếm luận, người viết không có tham vọng trình bày xuyên suốt từ đầu đến cuối truyện các hình ảnh và ngôn ngữ biểu tượng ấy, mà chỉ điểm xuyết vài nét chấm phá gọi là để đáp lễ dư luận của đại chúng sau khi bộ phim Tây Du Ký được chiếu trên màn ảnh nhỏ của Ðài truyền Hình thành phố vừa qua.

1. Về đôi mắt vàng của Tề Thiên Ðại Thánh

- Mỹ hầu vương đặc biệt có đôi mắt vàng sáng chói, chiếu suốt qua các cung Trời làm Ngọc Hoàng rĩng động, kinh ngạc. Ðôi mắt vàng ấy phân biệt rõ chính tà, hư thật. Ðôi mắt vàng ấy đã ràn rụa nước mắt trước cảnh đời vô thường, khổ đau đi tìm đường học đạo bất sinh bất diệt từ Tôn giả Tu Bồ Ðề tại một trú xứ xa xăm. Ðôi mắt vàng ấy đã là linh hồn của cuộc hành trình thỉnh Kinh mà thiếu nó thì tức thời phái đoàn rơi nào ma nạn.

Ðôi mắt vàng ấy là gì, nếu không phải là biểu tượng của trí tuệ Bát Nhã, của giáo lý trí tuệ Bát Nhã của Phật giáo?

- Như giáo lý Phật giáo đã "dựng đứng dậy những gì bị quăng ngã xuống, mở ra những gì bị che kín", đôi mắt vàng của Mỹ hầu vương đã thấy và đã làm cho chúng ta thấy cái sự thật mộng mị, bất toàn, hư dối từ âm phủ đến Thiên cung. Cuộc đại náo của Tề Thiên Ðại Thánh tại Long cung và Thiên cung là sự đánh thức dậy sự thật ấy cho chúng sinh tại đó thấy rõ lối ra khỏi vô thường, không thật để đi vào nguồn giải thoát chân thật. Vì vậy chiếc thiết bổng nặng nghìn cân của Ðại Thánh Tề Thiên, biểu hiện sức mạnh của đôi mắt vàng, là chiếc gậy đánh thức mà không phải nổi loạn, là xây dựng mà không phải đập phá. Chiếc gậy sắt ấy đập phá các nguyên nhân gây ra đau khổ cho cuộc đời và xây dựng an lạc, hạnh phúc của vô sinh. Chỉ đôi mắt vàng tuyệt với kia xuất hiện trong tiểu thuyết hay truyện phim là đủ để chúng ta đánh giá cao tiểu thuyết ấy, phim ấy.

Hầu như suốt thời gian theo dõi cuộc hành trình thỉnh Kinh, chúng ta đã bị cuốn hút bởi cái nhìn chính xác và bởi thái độ tự chủ trước các hiểm nạn và trước mọi cám dỗ của Tôn Hành Giả. Mỗi cái nhìn, mỗi bước đi của Hành Giả như vang lọng lời Kinh Bát Nhã:

"...Dĩ vô sở đắc, cố Bồ-đề-tát-đỏa y Bát Nhã Ba La Mật-đa, cố tâm vô quái ngại, vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết bàn'.

2. Biểu tượng của hồi thứ 14

Ở hồi thứ 14 này, sáu tên cướp đường là "mắt nhìn mừng", "tai nghe giận", "mũi ngữi thích", "lưỡi nếm nghĩ". "thân vốn lo", và "ý thấy muốn" đón Ðường Tăng và Tôn Hành Giả. Tôn Hành Giả đã dễ dàng đánh chết chúng, và đã thẳng thừng thưa sư phụ Ðường Tăng: "Thưa sư phụ, đệ tử không đánh chết chúng thì chĩng sẽ đánh chết sư phụ". Câu này có nghĩa là:

"Nếu đệ tử không đánh chết các tâm phiền não (mừng, giận, ưa thích, ham muốn, lo buồn....) khởi lê từ sáu căn thì đệ tử sẽ đánh mất lý tưởng giải thoát độ sinh".

Sáu tên cướp đường kia là biểu tượng cho sắc, thinh, hương, vị, xúc và pháp. Nếu thiếu giác tỉnh chế ngự chúng, thì chúng sẽ đột nhập sáu căn (tai, mắt, mũi, lưỡi, thân và ý) gây ra giặc phiền não, khổ đau. Ðánh chết chúng là biểu hiện mạnh mẽ quyết tâm giải thoát và nhiếp được phần thô động của thân hành, khẩu hành và ý hành. Ðây là công phu giải thoát bước đầu vậy.

3. Biểu tượng của hồi thứ 26

Tại Ngũ Trang Quán, trú xứ của vị đại Ðịa tiên Trấn Nguyên Tử, Tôn Hành Giả ăn trộm ba quả nhân sâmvà nổi cơn thịnh nộ đánh bật gốc rễ cây nhân sâm vô cùng quý báu của người. Cây nhân sâm là loại kinh căn có mặt từ khi thiên địa mới khai tích, quý nhất trong vườn cây của vị đại Ðịa tiên. Vì thế, Trấn nguyên tử, với thần thông vô lượng, đã bắt giữ trọn phái đoàn Tây du. Tôn Hành Giả phải nhiều phen chiến đấu vất vả, rồi đến Ðông Hải cầu Bồ Tát Quán Thế Âm dùng Cam lồ thủy hồi sinh cây nhân sâm mới thoát nạn.

Tại đây, Ngũ Trang Quán là biểu tượng của Ngũ hành, lúc theien đại khai tích là biểu tượng lúc âm dương mới tượng. Âm dương phối hợp với ngũ hành, theo đạo Nho, sinh ra vạn hữu. Cây nhân sâm vì thế là b iểu tượng cho nguồn gốc của các pháp hữu vi. Thế là, ở đây Tôn Hành Giả, với trí tuệ Vô ngã của mình, đã có khả năng làm bật gốc các pháp hữu vi (Tam giới), nhưng vì tập khí sinh tử còn nhiều nên thân tâm còn phải chịu hệ lụy trong sinh tử, như phái đoàn Tây du đang bị giam giữ tại Ngũ Trang Quán.

Nước Cam lồ của Bồ Tát Quán Thế Âm là biểu tượng cho nước phạm hạnh lấy từ trí tuệ Bát Nhã Ba La Mật của Bồ Tát, là thứ nước dập tắt lửa ái, lửa thủ, vô minh, là thứ nước của vô sinh, siêu vượt sinh diệt. Do vì siêu vượt sinh diệt nên nó thiết lập được sinh diệt, làm hồi sinh được cây nhân sâm.

Pháp Phật cao là ở chỗ này. Pháp Phật thoát ly sinh tử là ở chỗ này.

Xây dựng cảnh nạn Ngũ Trang Quán là Ngô Thừa Ân muốn giới thiệu nét giáo lý đặc thù vô tỉ của Phật giáo và vừa chỉ đường cho hành giả phá đổ tâm sinh diệt của các ngã tưởng (ngã tưởng, nhơn tưởng, chúng sinh tưởng, thọ giả tưởng, pháp tưởng, phi pháp tưởng, tưởng và phi tưởng).

4. Biểu tượng của hồi thứ 27

Tại đây, nữ yêu tinh Bạch Cốt ba lần quyết hại Ðường Tăng, ba lần hóa hiện dân lành để đánh lừa lòng từ bi của Ðường Tăng, nhưng cả ba lần đều bị Tôn Hành Giả phát hiện đánh chết. Sự kiện này khiến Ðường Tăng phẫn nộ Hành Giả. Bát Giới lại xúc siểm với Ðường Tăng, bảo rằng Tôn Hành Giả đã ác ý giết chết ba người lương thiện mà thưa dối với Ðường Tăng là ba con quỷ. Ðường Tăng quyết định đuổi Tôn Hành Giả về Hoa Quả sơn. Ðọc truyện và xem phim đến hòi này ai cũng xúc động đến chảy nước mắt, cũng thở ngắn than dài: Ôi! thật là bi thương! Thật là bi kịch!

Hậu quả của bi kịch trên do Ðường Tăng mê mờ không thấy rõ hư, thật, và do lòng ganh ghét, đố kỵ, xúc siểm của người sư đệ còn đầy vô minh, Trư Bát Giới.

Ðây là chỗ diễn đạt tài tình của Ngô Thừa Ân và diễn xuất tuyệt vời của phim ảnh.

- Nữ ma Bạch Cốt là biểu tượng của các vọng tâm sinh khởi từ tham, sân, si mà giáo lý có khi chỉ nói vắn tắt là ái tâm.

Lần thứ ba, Tôn Hành Giả đánh chết Bạch Cốt Tinh là biểu tượng cho việc tu tập đoạn trừ vọng tâm phải thực hiện nhiều lần (ở Phạn Văn, số ba mới là số nhiều). Lại nữa, trong thiền quán, hành giả chỉ thấy và đoạn vọng tâm khi nó diệt, chưa đủ; thấy và đoạn vọng tâm khi nó tồn tại, cũng chưa ổn; khi cần phải thấy và đoạn vọng tâm khi nó khởi nữa, cho đến lúc này vọng tâm mới thật sự được diệt trừ. Ðây là ý nghĩa rất chuyên môn về Phật học (thiền định Phật giáo).

Dựng nên cảnh bi kịch này, Ngô Thừa Ân muốn nói lên một sự thật giáo lý Phật giáo rằng: nếu hành giả tu tập Giới và tu tập từ tâm mà thiếu trí tuệ giải thoát thì công phu tu tập giải thoát chỉ là các xác sống không hồn, ảm đạm, vô cùng ảm đạm: Không có trí tuệ Vô ngã thì sẽ không có giải thoát và không có đạo Phật.

Tại đây, chúng ta đâu dám nghĩ rằng tiểu thuyết Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân đầy hư cấu là thần thoại, nhảm nhí?

5. Biểu tượng về Hồng Hài Nhi, La sát và Ngưu Ma Vương (Hồi 42, 60 và 61)

Theo dõi hành trình của phái đoàn Tây du, chúng ta thấy rằng cứ mỗi lần vượt qua được một ma nạn, là mỗi lần phái đoàn tiến thêm một bước gần giải thoát sinh tử; mỗi lần kẹt vào một ma nạn là mỗi lần phát hiện ra chỗ ngưng trệ của tâm thức giải thoát của phái đoàn, cũng là chỗ ngưng trệ tâm thức của hành giả tu tập.

- Hồng Hài Nhi đã bắt giam Ðường Tăng, Ngộ Năng, Ngộ Tịnh và Tiểu Long mã. Ngộ Không cũng chiến bại trước vòng xe lửa của Hồng Hài Nhi. Vòng xe lửa ấy biểu tượng của lửa tham và lửa sân, thế lực mạnh nhất của ma giáo. Ngộ Không thì không tham, có trí tuệ, nhưng còn cái động của sân nên đã bị vòng lửa của Hồng Hài Nhi đốt sém, mà không thể dập tắt được vòng xe lửa, dù đã vận dụng nhiều thứ thần thông. Ngộ Không đã phải cầu viện Bồ Tát Quán Thế Âm thu phục Hồng Hài Nhi mới thoát nạn.

Ngang đây, Ngô Thừa Ân đã giới thiệu với người học Phật và hành giải thoát rằng: cần phải vận dụng thiền quán sâu xa về trí tuệ Vô ngã thì hành giả mới dập được tham, sân, si và quyến thuộc của chúng. Cái ngưng trệ của giải thoát tại đây là do hành giả hành Giới chưa thuần (ý nghĩa Bát Giới bị trói), Ðịnh chưa vững (ý nghĩa Ngộ Tịnh bị giam) và Tuệ chưa ổn (ý nghĩa Ngộ Không suýt bị đốt). Từ đây hành giả cần tu tập phát triển mạnh thêm Giới, Ðịnh, và Tuệ.

- Ở hồi mượn quạt Ba tiêu để dập tắt hỏa diệm sơn trên đường Tây du, Ngộ Không bị bà La-sát phất một quạt bị đẩy đi xa mười vạn dặm. Sau nhờ Bồ Tát Văn Thù cho uống "định phong đơn" mới vô hiệu hóa tác dụng của quạt Ba tiêu, mới vận dụng được kế sách chế ngự bà La-sát.

Quạt Ba tiêu là tượng trưng bát phong ở đời (khen. Chê, mừng, giận, danh vọng, lợi dưỡng, được mất). Tám thứ ấy thường làm giao động tâm thức người tu, nếu thiếu giác tỉnh và thiếu định lực. Vì vậy khi uống vào "định phong đơn" nghĩa là khi tâm định đã vững, thì hành giả thoát được nạn quạt Ba tiêu, hàng phục được nhiều thứ vọng tâm.

Qua được nạn này là phái đoàn Tây du đi được nữa đoạn đường giải thoát về Tây Trúc, tự tại được trước các thị phi, bỉ, thử, danh vọng và lợi dưỡng ở đời. Thành quả giải thoát này thật là đáng kể!

- Cũng ở hồi này (60 và 61), sách lược chiến đầu của Tôn Hành Giả là đánh thẳng vào đầu não của ma quân, chui ngay vào bụng La-sát mà quậy phá. La-sát chỉ còn một cách chọn lựa: đầu hàng. Ðây là ý nghĩa thiện xảo của các pháp tu của đạo Phật, luôn luôn loại trừ vọng niệm từ gốc rễ, từ đầu nguồn.

- Ðối với nhân vật Ngưu Ma Vương, Tôn Hành Giả đã hóa ra Ngưu Ma Vương giả để gạt La-sát lấy quạt Ba tiêu, nhưng chính Ngưu Ma Vương đã tương kế tựu kế biến hóa ra Ngộ Năng giả để lấy lại quạt Ba tiêu từ tay Hành Giả. Hành Giả đã phải buông lời than: "mình là người bắt rận thiện xảo lại xui xẻo để bị rắn căn".

Ðây là biểu tượng của pháp tu hành "Tùy quán" của thiền định. Hành pháp này hành giả cần cẩn trọng giữ chánh niệm, hễ thất niệm thì rơi vào vọng tâm và bị trói buộc vào vọng tâm. Cần phải luôn luôn biết rõ tâm mình đang ở đâu và nó là gì (quyến thuộc của tham, sân, si hay vô tham, vô sân, vô si).

6. Biểu tượng của hồi thứ 54, 64 và 72

Một nhà quân sự, khi đánh một đồn, bót địch thì thường phải có kế sách: công đồn, chặn viện. Sau khi chặn viện xong thì công hãm đồn, nếu không thì sẽ lưỡng đầu thọ địch. Cũng vậy, hành giả trên đường giải thoát cần phải dẹp giặc trong và đánh giặc ngoài. Khi hàng phục được giặc "Lục tặc" và "Bát phong" ở ngoài thì hành giả tập trung vào trong để diệt giặc nội. Ðấy là công việc chế phục, loại trừ dục ái, hữu ái và vô hữu ái. Về dục ái, thì có thể dùng định tâm để nhiếp, nhưng còn hữu ái và vô hữu ái, thì phải dùng trí tuệ để trừ. Chúng ta hãy tiếp tục theo dõi cuộc hành trình Tây du.

- Hồi thứ 54 diễn ra cảnh nữ vương nước Tây Lương thiết tha yêu Ðường Tăng. Ðường Tăng đã hoàn toàn tự chủ trước mối tình đẹp và lạ này. Ðây là biểu tượng Ðường Tăng chế phục được Dục ái.

- Hồi thứ 64 xẩy ra cuộc tình thơ mộng giữa thơ, nhạc và tiên tửu của Hạnh Tiên. Mối tình nhẹ nhàng như mỗi tình ở Thiên giới, nhưng hiểm họa cũng khốc liệt. Tại đây Ðường Tăng vẫn tỉnh táo, nhưng xem dra thế tự vệ đã có chiều nguy hiễm, sinh tử thầy gần kề. May nhờ Tôn Hành Giả cứu giá. Ðây là ý nghĩa biểu tượng: chỉ có trí tuệ Vô ngã ở trong thiền định mới cắt đứt được hữu ái. Am mộc tiên (ở hồi 64 này) quả là nơi đáng nhớ của Ðường Tăng!

- Hồi thứ 72 xẩy ra ở động Bà Ty. Tại đây Ðường Tăng một mình tự dấn thân vào sào huyệt của bảy tiên cô nhền nhện tuyệt đẹp, những tiên nương thường tắm gội ở suối trời Trạc Cấu (suối rửa sạch các cấu bẩn của dục ái). Các tiên nương này không nghĩ gì đến chuyện mây mưa mà chỉ muốn ăn thịt Ðường Tăng.

Bảy yêu nhền nhện là biểu tượng cái tinh tế của ái, đó là vô hữu ái. Vì thế, chúng chiến thắng được Ngộ Năng, nhưng bị tiêu diệt bởi Hành Giả.

Bảy yêu nhền nhện cũng là biểu tượng của thất tình (hỷ, nộ, ai, lạc, ái, ố, dục). Với thất tình, công phu của Giới không thể chiết phục (nên Bát Giới bị trói) mà chỉ có trí tuệ loại trừ.

Bảy yêu nhền nhện lại dựa vào sức mạnh của người sư huynh Bách Nhỡn ma quân mà tác quái. Bách Nhỡn ma quân có tà pháp phun ra sức nóng và khói mù che kín cả trời đấy khiến Ngộ Không thúc thủ. Ngộ Không phải cầu cứu Bồ Tát Tỳ Lam dục độc Kim luyện từ ánh sáng mặt trời để chế trị Bách Nhỡn ma quân.

Bách Nhỡn ma quân vì thế là ý nghĩa biểu tượng của vô minh (si mê, phóng ra khói mù chấp ngã và lửa dục, chỉ chịu khuất phục trước trí tuệ thuần phục của Tỳ Lam Bồ Tát (biểu tượng bằng cây kim luyện từ mặt trời).

Ðây là hiểm nạn khó squa của Tôn Hành Giả.

7. Biểu tượng của hồi thứ 58

"Hai lòng xáo trộn cả Càn khôn

Một thế khó tu thành tịch diệt"

Cái cảnh hai Tôn Hành Giả xuất hiện trong ngôn ngữ và hành động giống hệt nhau gây xáo trộn cả trời đất, thiên đình và Bồ Tát đều không phân biết được, chỉ có Như Lai mới vạch rõ chân tướng của Tôn Hành Giả giả.

Ðây là một cảnh diễn đạt về một cảnh tâm rất tế nhị.

Ngô Thừa Ân tại đây đang giới thiệu rằng chân tướng của các pháp chỉ có thể đạt được bằng thật trí, Phật trí và sự thật luôn luôn ở ngoài các ngã tướng, như Kinh Kim Cang dạy: "Phàm cái gì là ngã tướng thì hư vọng" (Phàm sở hữu tướng gia thị hư vọng). Hệt như trường hợp trước hai chú tiểu cuốn sáo, một thiền sư kêu lên: "Một được, một mất".

Hồi thứ 58 này cũng nói lên rằng giá trị chân thật của con người cũng ở ngoài các tướng trạng, rời khỏi tướng " nhị thủ" (chấp có năng và sở). Chấp vào trí tuệ Vô ngã cũng là chấp thủ, sẽ ngăn ngại giải thoát, như phái đoàn Tây du khó xử trước hai Tôn Hành Giả vậy.

8. Kế sách đối trị ác ma.

Dọc cuộc hành trình Tây du, Tôn Hành Giả phải đương đầu với nhiều loại ác ma, đương đầu với nhiều loại vũ khí tàn độc, Tôn Hành Giả vận dụng đủ 72 phép thần thông dựa vào bốn kế sách chính:

- Kế sách khắc chế: Dùng khắc chế để đối trị như dùng nước để dập tắt lửa, dùng gà để diệt rết.

- Vào tận hang cọp để bắt cọp con: Tôn Hành Giả thường chui ngay vào bụng ác ma để quấy phá.

- Tận diệt ác ma để trừ hậu hoạn.

- Khi sử dụng thần thông thất bại thì cầu viện Như Lai, Bồ Tát.

(đây là ý nghĩa vận dụng trí tuệ Bát Nhã thâm sâu).

Bốn kế sách trên cũng là bốn phương pháp mà người tu sử dụng để loại trừ các vọng niệm.

9. Về đạo đức Phật giáo.

- Suốt tập truyện Tây Du Ký, bên cạnh các giáo lý Phật giáo vừa được đề cập ở trên, Ngô Thừa Ân thường nói đến nhân quả, nghiệp báo và khuyến khích hành thiện như trong cảnh vu Ðường du địa phủ, trong hồi 71, vua Chu Tử bị nạn, trong hồi 87 nói về chuyện công chúa bị yêu ma đánh tráo.v.v...

- Tác giả, dưới hình thức nhận diện bổn sinh, thường vạch rõ chân tướng của các yêu, ma, quỷ, quái đều là gốc thú vật cả, là những gì gớm tởm cần được tránh xa.

10. Thêm vài điểm phiếm luận

- Có ý kiến đánh giá rất thấp tiểu thuyết Tây Du Ký chỉ vì tác giả Ngô Thừa Ân xây dựng các nhân vật hoàn toàn là huyền hoặc hư cấu.

Người viết bài phiếm luận này thì đánh giá ngược lại. Không phải vì tính huyền hoặc và hư cấu mà đánh giá thấp cuốn truyện, bởi vì chính huyền hoặc và hư cấu là chất liệu của sáng tác văn học, tiểu thuyết. Ðiều quan trọng là tìm xem cuốn tiểu thuyết có nói lên được những giá trị sống nào không? Câu chuyện lịch sử Việt Nam về Lạc Long Quân và Âu Cơ.v.v... không phải đầy hư cấu, thần thoại đó sao? Các tập Việt Ðiện U Linh Tập và Lĩnh Nam Chích Quái của văn học Việt Nam cũng cùng tính chất hư cấu và thần thoại ấy, ai dám bảo rằng không có giá trị?

- Có ý kiến cho rằng Tây Du Ký là chuyện hoang tưởng, cấu trúc rối rắm, khó nhận ra những gì tác giả muốn nói.

Như chúng ta điều biết, mỗi loại ngôn ngữ chuyên chở một ý nghĩa riêng và một cách diễn đạt riêng. Ngôn ngữ khoa học thì khác ngôn ngữ ngoại giao, khác với ngôn ngữ thi ca, và hiển nhiên là khác với ngôn ngữ tiểu thuyết. Ngôn ngữ tiểu thuyết hiện thực; ngôn ngữ tiểu thuyết Quỳnh Giao thì khác với ngôn ngữ tiểu thuyết kiếm hiệp của Kim Dung, và khác với ngôn ngữ biểu tượng của Tây Du Ký.

Chính dựa vào ngôn ngữ và hình ảnh biểu tượng mang ý nghĩa, Ngô Thừa Ân mới cùng lúc nói lên được nhiều ý nghĩa tôn giáo, xã hội và con người. Ðây là thứ ngôn ngữ phong phú ý tưởng làm cho cuốn tiểu thuyết trở nên hấp dẫn hơn. Cũng chính từ thứ ngôn ngữ này mà dư luận đã dấy lên nhiều cuộc trao đổi, tranh cãi sôi nổi về Tây Du Ký trong mấy tháng qua, và có thể kéo dài trong nhiều tháng đến. Mỗi người có một cái nhìn riêng về Tây Du Ký, và biến hóa bộ truyện Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân thành Tây Du Ký của mình, như là Tôn Ngộ Không phù phép thổi lông biến hóa ra vô số Tôn Ngộ Không vậy. Nói theo thuật ngữ của Phật giáo, hiện nay có đến tám vạn bốn nghìn ý kiến khác nhau về Tây Du Ký.

IV. KẾT LUẬN

Phần bàn trên đây chỉ là vài nét chấm phá, điểm xuyết. Chúng ta có thể tìm thấy ở tiểu thuyết Tây Du Ký của Ngô Thừa Ân có nhiều phản ảnh tư tưởng Phật học có giá trị, nếu hiểu năm nhân vật của phái đoàn Tây du là biểu hiện của chính một con người trên đường về giải thoát sinh tử. Con người đó có thể là Ðường Tăng, có thể là Tôn Ngộ Không, mà cũng có thể là bất cứ một người nào trong quá khứ, trong hiện tại hay trong tương lai. Tất cả các ma nạn đều là cảnh giới của tâm thức, xẩy ra trong tâm thức của hành giả, do tác động từ nội tâm hoặc từ ngoại giới.

Tôn Ngộ Không sau khi học xong đạo vô sinh, từ giả Tôn giả Tu Bồ Ðề trở về động Thủy Liêm là đắc đạo giải thoát ít nhất là quả thứ nhất của dòng Thánh (quả Tu Ðà Hoàn). Quả vị giải thoát này mới đoạn trừ thân kiến, nghi và giới cấm thủ, còn phải tiếp tục tu hành để đoạn trừ bảy kiết sử còn lại: dục, sân, hữu ái, vô hữu ái, mạn, trạo cử và vô minh, như đã được biểu hiện qua các ma nạn trên đường phò Ðường Tăng đến Lôi Âm tự. Với tâm thức này, Ngộ Không đã vượt qua chuyện tái sinh về địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, và không rơi vào dục ái của cõi Người và cõi Trời (trời dục giới). Vì thế tác giả Ngô Thừa Ân diễn đạt quả chứng ấy bằng các cuộc tung hoành hiên ngang của Tề Thiên Ðại Thánh ở Ðịa phủ, Long cung và Thiên đình. Ý nghĩa đại nào là thế chứ không phải là ý nghĩa đập phá mà người đời thường hiểu. Theo phò Ðường Tăng là ý nghĩa Ngộ Không tiếp tục tu tập giải thoát để chứng đắc ba quả thánh còn lại và hành Bồ Tát hạnh theo giáo lý Bắc truyền.

Các hồi còn lại của bộ truyện mà người viết bài phiếm luận này chưa bàn đến cần được ghi nhận là chưa bàn đến. Những hồi ấy có thể lập lại những hồi cũ bàng các sự kiện mới, theo tinh thần huấn luyện tâm lý của Phật giáo: mỗi quả vị chứng đắc cần được tu tập nhiều lần cho thuần thục trước khi đi đến một chứng đắc mới.

Lại nữa, dù bất cứ nội dung giải thoát nào mà Ngô Thừa Ân bàn đến đều được bao gồm vào con đường tu tập Giới, Ðịnh, Tuệ và bi nguyện độ sinh của hàng Bồ Tát, tất cả không thể đi ra khỏi con đường truyền thống giải thoát ấy, như Tề Thiên Ðại Thánh không thể nhảy ra khỏi bàn tay của Ðức Phật.

Ðể kết thúc phần phiếm luận này, người viết xin ghi lại cảm nhận của mình khi đọc truyện Tây du và khi xem phim Tây du rằng: Cả hai thời ấy tôi đều bị chụp phủ lên tâm thức nét buồn bã của Mỹ hầu vương trước cuộc sống vô thường, tôi đều bị ám ảnh bởi các ma nạn mạnh đến độ tôi cứ ngỡ rằng có cái gì thật hư ảo chung quanh các dung sắc và chung quanh cuộc sống của mình, và có một ảnh hưởng nào đó thu hút tôi về phía ngay chính, nhân ái, hiện thực và trí tuệ. Tôi tự nghĩ: cuộc sống sẽ bắt đầu hạnh phúc nơi nào cụm "Ngũ Hành sơn" tung vỡ.

CHƯƠNG HAI

Tư tưởng Phật học và các quan niệm về nhân sinh và xã hội của Ngô Thừa Ân biểu hiện qua Tây Du Ký

(Bàn từng hồi truyện)

Hồi thứ 1

Hồi 1: "Gốc thiêng nẩy nở, nguồn rộng mở

Tâm tánh tu trì, đạo sinh lớn"

I. Tư tưởng Phật học.

- Theo Phật giáo (cả Nam và Bắc truyền), thế giới hệ này gồm có bốn châu thiên hạ: Nam Thiện Bộ Châu, Bắc Câu Lôi Châu, Ðông Thắng Thần Châu và Tây Ngưu Hóa Châu. Bốn châu ấy nằm chung quanh núi Tu-di (Sumeru) rất lớn, sừng sững giữa đại dương. Tác giả Tây Du Ký đã mở đầu truyện giới thiệu nơi sinh của Mỹ Hầu Vương tại núi Hoa Quả tựa như là vị trí núi Tu-di kia, và xem là nơi " mạch Tổ của mười châu". Từ ngữ Hoa Quả là từ biểu tượng quy luật vận hành nhân quả của hiện tượng giới, thế giới sinh diệt của nhị nguyên tính (Dualism), của sự phân biệt rõ ràng giữa đục và trong, chủ thể và đối tượng. Ðây là quy luật vận hành mà giáo lý Phật giáo giới thiệu. Nó thuộc giáo lý trí tuệ, giúp con người phát triển trí tuệ.

Mỹ Hầu Vương sinh ra từ trứng đá như đã được đề cập ấy, bởi vì theo quy luật này thì nhân quả phải cùng loại (đá thì phải sinh ra đá, khỉ thì sinh ra khỉ). Nói khác đi, Mỹ Hầu Vương là biểu tượng của trí tuệ (chánh kiến và chánh tư duy) hay Thánh tuệ uẩn trong giáo lý Phật giáo, mà tiêu biểu là đôi mắt rực sáng làm kinh động đến Thiên đình của Mỹ Hầu Vương. Ðây là đôi mắt thấy rõ sự thật Vô ngã, Vô thường, Khổ và Không của hiện tượng giới. Sự thật đó làm kinh động, đảo lộn cái thấy thường hằng, hữu ngã của chúng sinh ở trên Trời và dưới Thế.

- Trí tuệ Vô ngã đó sẵn có trong tâm của mỗi người, theo Ngô Thừa Ân, mhư một giang sơn đã soạn sẵn trong động Thủy Liêm dành cho Mỹ Hầu Vương. Sự thật Vô ngã, Vô thường, Khổ và Không cũng thế, là sự thật của sinh diệt, nằm ngay hiện tượng giới như động Thủy Liêm như là đang giới thiệu bốn pháp ấn của giáo lý Phật giáo.

- Tại sao con người không thấy được sự thật về bốn pháp ấn ấy nơi thế giới chung quanh mình? Tại sao loài khỉ kia không khám phá ra động Thủy Liêm vẫn thường hiện diện tại đó, trước mắt chúng? - Hỏi tức là trả lời vậy. Chính thác nước đổ mạnh đã che khuất khỏi cái nhìn hời hợt của đàn khỉ, hệt như lòng tham ái, chấp thủ ngã đã che khuất tâm con người khỏi sự thật Vô ngã, Vô thường, Khổ và Không. Ở giáo lý Phật giáo, dòng thác đổ mạnh gọi là dòng bộc lưu, biểu tượng cho dòng nước Ái, dòng thủ, dòng sinh tử. Tại đây, Ngô Thừa Ân đang thật sự kiến trúc động Thủy Liêm theo giáo lý nhà Phật.

Chỉ có Mỹ Hầu Vương sinh ra từ đá, từ tú khí của trời đất, mà không sinh từ dục vọng (hay từ nghiệp), mới có trí tuệ Vô ngã phát hiện ra sự thật vô thường, khổ đau. Mỹ Hầu Vương đã dàn dụa nước mắt, sầu não thấy lửa vô thường đang bốc cháy chung quanh cuộc sống, lo lắng tìm lối thoát ra khỏi khổ đau. Tất cả đàn khỉ còn lại thì vẫn nhởn nhơ với niềm hạnh phúc nhỏ trước mắt. Thấy rõ sự thật Vô thường là dấu hiệu của đạo tâm phát khởi, và là dấu hiệu của sự thấy rõ con đường ra khỏi sự trói buộc của vô thường, như một chú khỉ đã phát biểu muộn màng rằng: "Ðại vương lo xa như thế là đạo tâm ngài đã phát khởi rồi đấy" và đã giới thiệu với Mỹ Hầu Vương hiện nay tại cõi đời này, ở nơi động cổ, núi Tiên có ba đấng Phật, Tiên, Thần Thánh là thoát khỏi sinh diệt, luân hồi (thật ra là Phật, Bồ Tát, Duyên Giác và A-la-hán); từ đó Mỹ Hầu Vương ra đi, tìm đến đại Tôn giả Tu Bồ Ðề, một đại đệ tử của Ðức Phật, để học đạo giải thoát của Tam thừa giáo (Bồ Tát-thừa, Duyên Giác thừa, Thinh Văn thừa) và Nhất thừa giáo (Phật thừa). Ðây là điểm giáo lý rất đại thừa (Phật giáo phát triển).

- Có một nếp sống thanh đạm, rời khỏi phiền não hằng ngày, và hiếu hạnh của một bác tiều phu ở trước cổng vào trú xứ của Tôn giả Tu Bồ Ðề mà Mỹ Hầu Vương ca ngợi, vui mừng khi thấy, như là dấu hiệu của quê hương giải thoát có mặt gần kề. Chính bác tiều phu chỉ được cho Mỹ Hầu Vương đến yết kiến bậc đạo sư. Tại đây Ngô Thừa Ân gián tiếp giới thiệu hiếu đạo cũng là một phần thể hiện của đạo giải thoát, tương ưng với Phật giáo.

- Sự thật mà Mỹ Hầu Vương sẽ học từ Tôn giả Tu Bồ Ðề và sẽ chứng ngộ là sự thật Vô ngã tướng của các pháp (còn được gọi là Vô ngã tính hay Vô tự tính hoặc Không tính). Sự thật ấy được hé mở từ mẫu đối thoại đầu tiên giữa Tôn giả Tu Bồ Ðề và Mỹ Hầu Vương mang đầy hương vị của một cảnh khai tâm của một thiền sư:

"Tôn giả Tu Bồ Ðề hỏi:

- Tính danh ngươi là gì"

- Con không có tính gì cả... Nhất sinh không có tính.

- Không phải là tính tình. Tính danh bố mẹ nhà người kìa?

(Ðây là hỏi về bản lai diện mục)...

Thế rồi, Tôn giả Tu Bồ Ðề cho pháp danh là Tôn Ngộ Không (đã đề cập ở phần tổng luận).

Ðạo giải thoát khỏi cội nguồn của mọi khổ đau mở nguồn từ Ngộ Không này, và đạo ấy có mặt trong tâm của mỗi người, như Tôn giả Tu Bồ Ðề thường có mặt ở "Tà nguyệt tam tinh" động (Tà nguyệt tam tình là chữ tâm gồm có một nét như vành trăng và ba chấm). Tác giả Tây Du Ký đã giới thiệu đúng con đường tu tập của Phật giáo là con đường trở về chính mình để tu tập tâm, huấn luyện tâm và giải thoát tâm. Con đường này rất là nhân bản và rất là hiện thực.

II. Quan niệm của Ngô Thừa Ân về con người

- Nếu về mặt Phật học, phái đoàn Tây du biểu thị các phần tố tâm lý của một tâm thức đi về giải thoát khỏi sinh tử, thì về mặt tương đối của đời sống xã hội phái đoàn Tây du là biểu hiện sự cấu trúc của nhân tính (personality) thể hiện sự hòa điệu giữa tim và óc, giữa tiềm thức, siêu thức và ý thức, giữa cá nhân và xã hội.

Tại đây, Mỹ Hầu Vương là biểu tượng của khối óc (hay lý trí). Lý này vốn có mặt trong tâm mỗi người và có khả năng có thể mở rộng ra vô hạn như ý nghĩa Mỹ Hầu Vương tìm đường đi ra khỏi thế giới hữu hạn của sinh tử. Khả năng vô hạn ấy đã được nền giáo dục hiện đại chứng tỏ.

- Khối óc, hay nguồn hiểu biết của con người, như đạo Nho quan niệm (nói đúng là quan niệm của Khổng Tử) có ba dạng hiểu biết gọi là "sinh nhi tri học nhi tri và khốn nhi tri" biểu hiện ra khác nhau ở mỗi con người. Ở Mỹ Hầu Vương sinh ra là đã tự biết (sinh nhi tri); rồi tìm thầy học đạo (học nhi tri); sau đó là lên đường hành đạo, chiến thắng ác ma (khốn nhi tri)

- Tiếng nói của lý trí là tiếng nói của sự ngay chính, tình đồng loại, của óc tổ chức, của sự dự phòng tốt đẹp cho tương lai, của sự công bằng, và của sự phân biệt minh bạch phải, trái, tốt, xấu, như sự hiểu biết của chính cá nhân Mỹ Hầu Vương. Lý trí giữ vai trò hướng dẫn mọi hành động của con người, như đôi mắt, hệt như Tôn Hành Giả hướng dẫn phái đoàn Tây du. Chúng ta sẽ tiếp tục khảo sát vai trò của lý trí trong các hồi kế tiếp, theo quan niệm của tác giả Ngô Thừa Ân.

III. Quan của tác giả về xã hội.

- Một xã hội tốt đẹp, an lạc, hạnh phúc, theo tác giả phải là một xã hội thái bình (không chiến tranh), độc lập với các sức mạnh thống trị như xã hội khỉ ở động Thủy Liêm.

- Xã hội ấy cần được tổ chức tốt về an ninh kinh kinh tế, như xã hội ở núi Hoa Quả ở trong vị thế an toàn và phong phú thực phẩm.

- Xã hội ấy phải được lãnh đạo bởi người có đủ tài, đức do dân chọn lựa như Mỹ Hầu Vương, mà không phải do tuổi tác hay dòng dõi. Quan niệm này của Ngô Thừa Ân được viết ra từ thế kỷ thứ XVI của xã hội phong kiến Trung Hoa quả là một quan niệm đầy dân chủ và tiến bộ. Ðây là mô hình xã hội mà nhân dân làm chủ, bảo vệ được quyền sống của nhân dân.

Hồi thứ 2

Hồi 2: "Thấu lẽ bồ đề, vào chính quả

Dứt căn ma quỷ, rõ nguyên nhân"

I. Về tư tưởng Phật học.

- Hồi thứ hai là Hồi học đạo và hành đạo của Tôn Ngộ Không. Tôn Ngộ Không đã học, bàn luận, và hành "Tam thừa giáo" và "Nhất thừa giáo" suốt bảy năm liền, như Ngô Thừa Ân giới thiệu:

"...Diễn đủ Tam thừa giáo

Lúc diễn thiền môn, khi giảng đạo

Ba nhà hợp lại nghĩa thêm càng"

Trong thời gian này Tôn Ngộ Không làm công tác của một người xuất gia, chấp tác và thực hành văn tuệ, tư tuệ và tu tuệ để nuôi dưỡng trí tuệ giác ngộ Không tánh (Vô ngã tánh) của các pháp. Ngô Thừa Ân đã vẽ nên thời gian tu tập này rành rẽ hệt như một nhà Phật học chính gốc. Ðộng cơ và nguyện vọng xuất gia của Tôn Ngộ Không là để giải thoát hết thảy phiền não, khổ đau của sinh tử rất tương ưng với giáo lý của Phật giáo. Ngô Thừa Ân đa dẫn dắt Tôn Ngộ Không đi đúng tiến trình Giới, Ðịnh, Tuệ giải thoát khiến cho người đọc Tây Du Ký không còn nghi ngờ giá trị của bộ tiểu thuyết này mà trọng tâm là giới thiệu con đường (hay lộ trình tu tập giải thoát của đạo Phật). Chúng ta hãy tiếp tục theo dõi.

- Sau bảy năm hành đạo, khi Tôn Ngộ Không hiểu rõ đường đi chỗ đến, Tôn giả Tu Bồ Ðề dạy tiếp tục công phu thiền chỉ và thiền quán để chế ngự thân và ý, để điều hòa thân và điều hòa tâm. Tôn Ngộ Không thực hành công phu này trong ba năm thì sáng tỏ tâm và tuệ. Một hôm Tôn giả hỏi Tôn Ngộ Không:

- Người tu đã đắc quả gì rồi?

- Ðệ tử gần pháp tánh, đã rõ căn nguyên, còn phải đề phòng ba tai họa nữa (nghĩa là cần tiếp tục công phu chỉ, quán để vượt qua ba tai họa ấy), điều mà kinh nghiệm giải thoát của Tôn Ngộ Không chưa đặt chân đến được. Do vì thành quả tu tập của Tôn Ngộ Không ngang đây là sắp cướp được quyền sinh diệt của tạo hóa sẽ giáng xuống ba tai họa. Ðó là họa "sét đánh" có thể làm ngưng trệ sinh mệnh giải thoát; họa "âm hỏa" (không phải là lửa trời, cũng không phải là lửa của người) vì họa "bi phong" (không phải là gió trời) rất mạnh cũng gây ảnh hưởng khốc hại đến sự nghiệp giải thoát.

Ngôn ngữ của Ngô Thừa Ân tại đây rất là tiểu thuyết và rất là biểu tượng, nhưng đồng thời cũng diễn đạt các bước đi tu tập giải thoát rất là thiện xảo.

Trong Phật giáo, ba tai nạn đó là gì? Trở về với giáo lý truyền thống Phật giáo, khi hành giả thông rõ pháp tánh là khi đắc pháp nhãn thanh tịnh, bước vào dòng Thánh; bấy giờ còn lại tập khí sinh tử phải trừ, bao gồm bảy kiết sử: dục, sân, hữu ái, vô hữu ái, mạn, trạo cử và vô minh. Nạn sét đánh là biểu tượng của vô minh (hay si). Vô minh ở đây là nội dung của sự việc tâm thức bị rơi vào chấp trước quả đắc (gọi là mạn), lúng túng không thấy lối ra (gọi là trạo cử) mà tự mình không biết (gọi là vô minh). Sự chấp trước này thì rất tế nhị nhưng rất quyết định trong việc làm tắc nghẽn trí tuệ giải thoát sau cùng, tựa như sấm sét nhanh chóng kết liễu sinh mệnh con người. Ðể vượt qua, hành giả cần hành định sâu và thiền định sâu và thiền quán mạnh về Vô ngã để cũng nhanh chóng như tiếng sét cắt đứt ngay sinh mệnh của chấp trước vô minh.

Nạn "âm hỏa" là biểu tượng cho lửa sân, kiết sử, hữu ái và hữu ái); lửa này cũng có khả năng thiêu cháy trí tuệ toàn giác làm héo úa thân huệ mạng.

Nạn "bi phong" là biểu tượng của tâm lay động chao đảo của hành giả do còn chấp pháp, do còn non định lực giải thoát trước bi nguyện độ sinh vô lượng. Ðịnh và tuệ Vô ngã còn hạn lượng của hành giả sẽ không thể đứng vững được trước bi nguyện độ sinh vô hạn lượng. Bi nguyện vô hạn lượng làm choáng ngợp hành giả, khiến hành giả không thể hiện được Bồ Tát hạnh để chứng đắc trí tuệ toàn giác. Chính ba tai nạn này sẽ tái hiện nhiều lần dưới nhiều thể trạng khác nhau đối với hành giả mà các hồi sau chúng ta sẽ có dịp tiếp tục bàn sau.

- Ðể giúp đệ tử Tôn Ngộ Không có điều kiện thoát khỏi ba tai nạn trên, Tôn giả Tu Bồ Ðề đã chỉ dạy sâu thêm công phu tu tập để phát triển mạnh thiền quá Vô ngã, củng cố thêm nhiều cho trí tuệ giải thoát, bằng pháp môn "địa sát" gọi là 72 pháp biến hóa thần thông (thất thập nhị huyền công) và "cân đẩu vân" hầu có đủ mọi cách làm bật lên gốc rễ của vô minh và quyến thuộc vô minh.

Chuẩn bị hành trang giải thoát cho Tôn Ngộ Không kỹ càng như thế quả Ngô Thừa Ân đã nắm vững lộ trình tâm thức giải thoát của Phật giáo, ít nhất là về mặt giáo lý.

Tại đây, Tôn Ngộ Không hẳn đã có trí tuệ, đệ nhất ly thủ, đệ nhất giải Không, trở về Hoa Quả sơn, Tôn Ngộ Không đã dễ dàng dẹp Hỗn Thế Ma Vương, loạn của các ngã tưởng, để bình định lại giang sơn trí tuệ của mình tại Thủy Liêm động.

II. Quan niệm về con Người

- Ở mặt giải thoát thì Tôn Ngộ Không là biểu tượng của trí tuệ cần được tu tập để phát triển giải thoát và để chế ngự các cảm thọ khổ đau. Xây dựng một nhân cách giải thoát là xây dựng Giới, Ðịnh, Tuệ và lòng đại bi cho nhân cách xã hội gồm tri, hành và lòng nhân ái thế nào để thành công, lợi lạc cho mình và người.

Tại hồi hai, vai trò lý trí, được biểu trưng bằng nhân vật Tôn Ngộ Không, là vai trò chỉ đạo mọi hành động của con người cũng cần được huấn luyện, giáo dục. Thường thì mẫu người giáo dục của Trung Hoa được đào tạo theo khuôn mẫu đạo Khổng Nho và được thêm vào một ít Lão, Trang. Ngô Thừa Ân đã rất sáng tạo và rất can đảm giới thiệu một khuôn mẫu giáo dục theo giáo lý nhà Phật. Có lẽ sự chọn lựa này đã đến với Ngô Thừa Ân sau khi Ngô Thừa Ân chứng kiến sự đổ vỡ của xã hội phong kiến Trung Hoa với đầy rẫy những bất công áp bức, chủ nghĩa hình thức, kém nhân bản v.v... và vai trò của Nho giáo không đáp ứng nổi nhiều yêu cầu mới của con người và lịch sử - Như về sau Kim Dung, trong tiểu thuyết kiếm hiệp Tiếu Ngạo Giang Hồ, đã xây dựng mẫu người Lệnh Hồ đại hiệp thay thế quân tử kiếm Nhạc Bất Quần - Tây Du ký ra đời như là tiếng nói rất trí tuệ, hiện thực và nhân bản vọng về từ Tây Trúc. Không phải là chú ý đến sự nghiệp Tây du thỉnh kinh của Ðường Tăng, mà là chú ý đến nhân cách được xây dựng từ giáo lý này: một nhân cách sống vì hạnh phúc an lạc của số đông, sống hiền thiện vì công bằng, bình đẳng, tôn trọng sự thật, trách nhiệm cá nhân và đặc biệt là sống tùy duyên rất là trí tuệ.

- Nhân cách ấy cần được huấn luyện, giáo dục rất thực, mà không phải của từ chương và hình thức - rất vững chắc cả ba mặt hành động của thân, lời và ý, như là Tôn Ngộ Không đã được huấn luyện văn, tư, tu trong bảy năm và khả năng làm chủ chủ tư duy và tâm lý (thiền định) trong ba năm trước khi vào đời để tiếp tục thực hành và học hỏi thực tế của trường hợp.

- Triết lý chỉ đạo cho nhân cách ấy là giáo lý Vô ngã, Vô thường, Khổ, Không của Phật giáo (mà nói tắt là giáo lý Vô ngã). Do thấm nhuần sự thật Vô ngã, người học viên dần dần làm bật lên được gốc rễ chấp ngã, tham lam, sân hận, lừa dối và các sầu bi, khổ, ưu, não; và tại đây, một nhân cách mẫu mực xuất hiện để xây dựng an lạc, hạnh phúc cho bản thân, gia đình và xã hội.

Triết lý hành động của nhân cách ấy là trí tuệ Vô ngã (chánh kiến và chánh tư duy) phân biệt chánh, tà, hư, thực, tốt, xấu; là lòng vị tha và sức mạnh vô úy. Tất cả ấy là con người, vì con người, cho con người hiện thực, và do con người trách nhiệm. Ðây là mẫu nhân cách trí tuệ, nhân bản và sinh động.

Khi mà cá nhân có tự do tâm lý, làm chủ được tâm lý thì cá nhân sáng suốt hơn và có nhiều sáng tạo hơn. Chính yếu tố tâm lý sáng tạo này sẽ đóng góp lớn cho xã hội.

Chúng ta sẽ tiếp tục bàn đến nhân cách này trong các hồi kế tiếp.

Ngô Thừa Ân quan niệm nhân cách giáo dục ấy tốt hơn nhân cách xây dựng từ đạo Nho nhiều, nhưng đồng thời cũng thấy khó khăn trong việc thực hiện trong xã hội phong kiến Trung Hoa, bởi giáo lý Phật giáo nói lên tính bình đẳng, dân chủ, tự chủ, độc lập sẽ lay đổ ngai vàng và quyền lợi của ngai vàng. Ðể bảo vệ quyền lợi của phong kiến, triều đại vua chúa (Trời) sẽ gieo rắc ngay tai họa chết người mà được gọi là nạn "sét đánh", nạn "âm hỏa" và nạn "bi phong". Vì thế Ngô Thừa Ân đã chuẩn bị khá kỹ lưỡng cho Tôn Ngộ Không với một căn bản định, tuệ và "thất thập nhị huyền công" để vận dụng đối phó với các kháng lực đến từ chính quyền phong kiến và từ phía các tà giáo trên đường thực hiện lý tưởng xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, bình đẳng và nhân bản, và xây dựng một nếp tư duy mới về giá trị nhân sinh và xã hội.

- Bước đầu tiên của việc thể hiện lý tưởng mà Tôn Ngộ Không đã được giáo dục là dẹp giặc loạn xâm lược của Hỗn Thế Ma Vương và tiêu diệt toàn bộ thế lực xâm lược này. Hỗn Thế Ma Vương là biểu tượng của dục vọng, ác hại mà Tôn Ngộ Không cần loại bỏ trước khi bắt tay vào việc giáo dục kiến thiết giang sơn Thủy Liêm động.

III. Quan niệm về xã hội.

- Về mặt xã hội, từ đây toàn thể đoàn khỉ đều có họ Tôn của Tôn Ngộ Không và chịu sự lãnh đạo tổ chức của Ngộ Không. tất cả đều bình đẳng về quyền sống trong động Thủy lIêm, núi Hoa Quả tất cả đều đoàn kết thành một khối ở đằng sau Tôn Ngộ Không và cùng có trách nhiệm trong việc xây dựng và bảo vệ xã hội loài khỉ theo hướng phát triển hưng thịnh.

- Tôn Ngộ Không liền tổ chức chặt chẽ an ninh, quốc phòng để bảo vệ thành quả thanh bình của xứ sở. Thành quả xã hội ấy sẽ đến từ nền giáo dục tinh thần trách nhiệm cá nhân, tinh thần độc lập tự cường, tinh thần Vô ngã, vị tha, tinh thần dân chủ và nhân bản. Các tinh thần giáo dục ấy sẽ tạo nên tình đoàn kết keo sơn của xã hội, sẽ tạo nên những công dân tốt, loại trừ được các tệ trạng xã hội như dối trá, cướp bóc, tà hạnh, tham nhũng, áp bức, lười biếng, thủ lợi, sa đọa... Tại đây, xã hội loài khỉ, hiện ra như một xã hội thí điểm mà Ngô Thừa Ân muốn giới thiệu, và mẫu thí điểm này là dành cho xã hội con Người, đặc biệt là xã hội Trung Hoa với nhiều thành kiến. Hẳn nhiên Ngô Thừa Ân đã dự phòng trước các sức mạnh đề kháng từ bên trong và bên ngoài trong việc xây dựng xã hội mới hợp lý hợp tình hơn. Chúng ta hãy chờ xem trong các hồi tới Ngô Thừa Ân sẽ làm gì tiếp cho xã hội mới này?

Hồi thứ 3

Hồi 3: "Bốn bể nghìn non đềusợ nép

Chín u, mười loại xóa tên rồi"

I. Tư tưởng Phật học

- Sau khi dẹp xong giặc Hỗn Thế Ma Vương, Tôn Ngộ Không tiến hành việc tổ chức xã hội khỉ để giữ yên bờ cõi núi Hoa Quả. Bấy giờ có bốn trưởng lão khỉ hỏi về thần thông của Tôn Ngộ Không, Tôn Ngộ Không bảo:

"Ta từ sau khi đắc đạo, có công luyện tập bảy mươi hai phép địa sát và biến hóa, được phép thần thông cân đẩu vân không gì sánh bằng; ẩn mình, tránh mình, cất mình lên, thu hình lại, lên trời cũng có đường, xuống đất cũng có lối, bước vào mặt trời mặt trăng không có bóng, đi vào vàng đá không vướng mắc, nước không thể làm chìm, lửa không thể đốt cháy, chỗ nào mà chẳng đi được".

Như đã đề cập ở hồi hai, tại Tà Nguyệt Tam Tinh động, Tôn Ngộ Không đã đắc pháp nhãn thấy rõ sự vật Vô ngã, do vì sự thật của mọi hiện hữu là Vô ngã nên sự kiện một người có thể theo ý muốn hiện ra nhiều ngã tướng khác nhau. Tất cả hiện hữu đều Vô ngã nên đều nhiếp nhau, không ngăn ngại, nên lửa không thể đốt cháy, nước không thể cuốn trôi, gió không lay, đất không cản v.v...

"Lý" của sự thật là như vậy nên "sự" của sự thật cũng như vậy. Ở cảnh giới Tứ sắc định, hành giả có thể có thần thánh không du hành, biến hóa tự tại. Tâm thức có giải thoát Vô ngã cũng thế, tùy duyên mà thị hiện. Ðây là sự thật như thật được ghi chép trong kinh điển Phật giáo.

Về nghĩa bóng, thì với một người ngộ Vô ngã mà không có thần thông biến hóa, tâm thức họ cũng được tự tại trước mọi sắc tướng như Tôn Ngộ Không tự tại ra vào các cảnh giới mà tâm lý không ai trước, không bị vướng mắc - sẽ thấy rõ hơn về sự thật này ở các hồi sau - Nhưng, để tâm thức an ổn có điều kiện đi sâu hơn vào giải thoát, người ngộ Vô ngã cũng cần tránh các sự quấy rối từ bên ngoài, như giang sơn Thủy Liêm động cần được giữ gìn an ninh. Ðây cũng là một sự thật của hành giả đang còn có nhiều việc phải làm trên đường tới giải thoát tối hậu.

- Về sự kiện trong giấc mơ Tôn Ngộ Không xuống âm phủ đại náo và xóa tên sinh tử của bản thân và của loài khỉ, âm ti phải cử sứ thần lên tấu với Ngọc Hoàng xử trị mà Ngọc Hoàng lại hòa giải với Tôn Ngộ Không, là sự kiện hoàn toàn biểu tượng.

Thực sự, mức độ tâm linh giải thoát của Tôn Ngộ Không bấy giờ tự nó đã xóa sạch nhân sinh tử đi vào các cảnh giới súc sinh, địa ngục và ngạ quỷ, theo giáo lý nhà Phật. Giải thoát của Tôn Ngộ Không bấy giờ có phước báo còn lớn hơn cả vua Trời, dù vua Trời có muốn hại cũng không được. Sự kiện giải thoát ấy là một thành quả lớn đáng kể của công phu tu tập làm kinh động các cảnh giới sinh tử đã khiến cho triều thần các cảnh giới ấy ganh ghét, đố kỵ khi mà tâm thức họ đang đầy ắp chấp thủ các tự ngã.

Quả thật Ngô Thừa Ân đã viết đầu hồi ba ngày:

"Bốn bể nghìn non đều sợ nép

Chín u, mười loại xóa tên rồi"

II. Quan niệm về con người

- Cái nhân cách giáo dục mà Ngô Thừa Ân quan niệm, đã được biểu hiện qua Tôn Ngộ Không; sau khi được đào tạo giáo dục từ hệ thống giáo dục Vô ngã của Tôn giả Tu Bồ Ðề thì liền đi vào xã hội để xây dựng xã hội và con người xã hội.

Với trí tuệ Vô ngã, với nhận thức mọi hiện hữu đều Vô ngã nên soi thấy mọi giá trị trong cuộc sống cũng Vô ngã, cũng đều không có một giá trị nhất định (hay chỉ có giá trị tương đối). Các giá trị ước lệ của xã hội về con người và xã hội chẳng những đã không thể đứng vững mà còn gây xáo trộn cho tâm lý con người và gây xáo trộn xã hội. Tất cả các giá trị ước lệ ấy trở thành trói buộc con người và xã hội, kìm hãm khả năng giải phóng con người và xã hội. Chúng cần được nhận thức mới xét lại, thay thế hay đập vỡ, dù giá trị ấy ở mỗi cá nhân hay tập thể. Ðấy là những gì mà Ngô Thừa Ân đã mượn chiếc thiết bổng nặng hơn vạn cân của Tôn Ngộ Không đập nát loạn Hỗn Thế Ma Vương. Cần phải dọn sạch các giá trị "hỗn thế" ấy, con Người rất Người mới có được một không khí trong lành để sống. Từ đây, con người sống với tâm lý tự do hơn, thoải mái hơn, có nhiều điều kiện sáng tạo hơn và làm được nhiều việc lành, lợi ích hơn cho bản thân, gia đình và xã hội. Ðây là ý nghĩa mà Ngô Thừa Ân đã biểu tượng hóa thành các thần thông tự tại đi vào nước, vào lửa, vào đất, vào không gian của Tôn Ngộ Không.

Từ đây, mỗi người chịu trách nhiệm về hành động của chính mình đối với bản thân, gia đình và xã hội, mà không ai khác quyết định hay bắt ép. Giá trị của con người, và hành động của con người là do tự giác, tự nguyện và tự do chọn lựa của họ, mà không liên hệ gì đến việc thưởng phạt tại Âm phủ, Long phủ hay Thiên đình. Ðây là ý nghĩa mà Ngô Thừa Ân đã lồng vào hình ảnh của Ngô Thừa Ân đã lồng vào hình ảnh Tôn Ngộ Không xóa sạch sổ ghi thiện ác, sinh tử của loài khỉ (xứ sở của Tôn Ngộ Không) ở Âm ty.

- Về cá nhân, mỗi người được giáo dục theo tinh thần Vô ngã sẽ luôn luôn giữ hành động của mình được dẫn dắt bởi tâm ngay chính, nhân ái, trí tuệ và không vướng mắc, luôn luôn kiểm soát tâm mình và giữ tâm lý ở ngoài các niệm thị phi, đố kỵ, sầu, bi, khổ, ưu não. Khi tâm lý được huấn luyện đến cấp độ không vướng mắc (hay ít bị vướng mắc) vào các tâm niệm đó thì tâm lý sẽ ở vào trạng thái tự do. Bấy giờ là thời điểm sáng suốt, sáng tạo và hạnh phúc cá nhân. Ở mặt giải thoát tương đối mà nhìn, thì đây là cảnh giới tâm lý tốt đẹp. Cảnh giới tâm lý tốt đẹp này thường xuất hiện trên đôi mắt của Tôn Ngộ Không mà chúng ta sẽ tiếp tục theo dõi.

III. Quan niệm về xã hội

Các nhà lãnh đạo nếu sống thể hiện tinh thần Vô ngã thì sẽ có sức mạnh vô úy, lòng vị tha, khoan dung, thái độ phóng khoáng, không câu nệ cố chấp, có tinh thần trách nhiệm cao... sẽ thu hút được quần chúng đoàn kết sau lưng mình trong mọi công tác giữ nước và dựng nước, như đàn khỉ quây quần chung quanh Tôn Ngộ Không vậy.

- Nếu mọi người dân được giáo dục Vô ngã, chấp nhận sự thật Vô ngã thì sẽ rời xa các thái độ sống chấp thủ, sẽ dễ dàng đoàn kết thành một khối tạo nên sức mạnh lớn lao cho dân tộc.

- Giáo dục Vô ngã sẽ tạo nên một nền văn hóa Vô ngã. Nền văn hóa này sẽ xóa đi các tư duy chấp thủ gây chia rẽ khối đại đoàn kết của dân tộc. Ðây là một mục tiêu lớn và lâu dài của một xã hội. Tinh thần Vô ngã sẽ thống trị các dị biệt, gom tất cả về một mối phục vụ cho cùng một mục tiêu: xứ sở.

- Khi mà đoàn kết dân tộc được thực hiện tốt, và khi mà nhân dân sống với thái độ không cố chấp thì mọi việc nước sẽ được thực hiện dễ dàng, như Tôn Ngộ Không tự tại đi vào nước, vào lửa..., đất nước sẽ hùng cường khiến các nước lân bang không thể dòm ngó, không thể quyết định vận mệnh của dân tộc ấy. Vấn đề xâm lăng, bảo hộ sẽ không có đất đứng; sẽ bị xóa sạch khỏi lịch sử như Tôn Ngộ Không xóa sổ sinh tử ở Âm ty cho loài khỉ ở Thủy Liêm động.

Hồi thứ 4, 5, 6 và 7

Hồi 4: "Quan phong Bật Mã lòng sao xứng

Tên gọi Tề Thiên dạ chẳng yên"

Hồi 5: "Loạn vườn đạo Ðại Thánh trộm thuốc tốt

Về Thiên cung cá thần bắt yêu quái"

Hồi 6: "Quân Âm đến hội hỏi nguyên do

Tiểu thánh ra oai thu Ðại thánh"

Hồi 7: "Ðại Thánh trốn khỏi lò bát quái

Hầu Vương bị giam núi ngũ hành"

Lược truyện hồi 4, 5, 6 và 7

Từ chuyện Tôn Ngộ Không xuống Long Vương lấy thiếc bổng để thêm khí giới giữ bờ cõi Hoa Quả sơn, đại náo Long cung, vua Trời muốn xử hòa với Tôn Ngộ Không đã không thành thật phong chức giữ ngựa Trời, rồi Tề Thiên Ðại Thánh, rồi giữ chức vườn đào. Các chức ấy đều là hư vị đặt ra do sự dối trá (không thật ý của Thiên đình). Hậu quả của sự dối trá ấy dẫn đến cuộc đại náo Thiên đình của Tề Thiên Ðại Thánh khiến Tề Thiên Ðại Thánh bị giam vào núi Ngũ Hành năm trăm năm.

I. Tư tưởng Phật học

- Như đã được đề cập ở phần Tổng luận, các hồi 4, 5, 6 và 7 là các hồi chiến cuộc xẩy ra giữa Tôn Ngộ Không và Thiên đình. Tất cả chỉ là những hình ảnh biểu tượng nói về Phật học và quan niệm về nhân sinh xã hội của tác giả. Không phải mọi hình ảnh đều chuyên chở ý nghĩa về Phật học được hiểu một cách máy móc. Chúng ta cần để ý đến các nét chính nổi bậc nhất của bối cảnh, rồi tìm hiểu các nét chính nổi bậc nhất của bối cảnh, rồi tìm hiểu các nét chính ấy có mang biểu tượng nào của Phật học?

- Ðể phát hiện các biểu tượng ấy, chúng ta cần phân biệt rõ ràng:

* Các cõi Trời được đề cập đến trong Tây Du Ký này đều là các cõi trời Dục giới. Các cõi ấy là các cõi thiện: nhờ phước báo thiện hạnh của tiền kiếp, tùy theo phước báo lớn nhỏ mà được làm Ngọc Hoàng, Thiên tướng, Thiên quan hay Thiên dân. Các phước báo kia đều thuộc hữu lậu, và các vị Trời kia cũng còn đầy ham muốn, bỉ thử, thị, phi tương tự ở cõi Người (chỉ ở cấp độ thanh cao hơn). Các cảnh giới thuộc trời Dục giới vẫn còn nạn chiến tranh với A-tu-la do bởi các cuộc tranh chấp về quyền hạn, hay đố kỵ về hạnh phúc.

* Quả vị giải thoát của Pháp nhã (Dự Lưu, hay Thất Lai, hoặc Tu-đà-hoàn) như ở cấp độ giải thoát của Tôn Ngộ Không là quả vị ở ngoài các tâm đố kỵ hay tranh chấp.

- Mỹ Hầu Vương, tánh vốn phóng khoáng, lại sống nhập thế tự tại, muốn làm chủ mọi hành động của bản thân mà không câu nệ sự tướng - bởi thấy tất cả đều rỗng không tự ngã - nhưng phía chúng sinh ở cõi Trời, Người thì khác, do vậy xẩy ra các xung đột.

- Tác giả đã vận dụng cuộc đại náo Thiên cung và sự chiến thắng Thiên đình của Tôn Ngộ Không để nói lên rằng tâm thức của Tôn Ngộ Không bấy giờ đã vượt ra khỏi chấp thủ lục đạo (Thiên, Nhơn, A-tu-la, Ðịa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh). Tên gọi Tề Thiên Ðại Thánh vì thế được khoa trương.

- Với đôi mắt thánh thiện của Ðại Thánh, cõi Trời hiện ra cái bản tướng lẩm cẩm của nó; tất cả chúng Trời đang ngủ yên trong dòng nghiệp của Trời, thiếu nhân duyên để thấy đạo, thấy Vô ngã, Vô thường của cảnh trời. Cuộc đại náo có tác dụng đánh thức các cung viện và Thiên chúng, giúp Thiên chúng mở sáng đôi mắt tuệ. Cuộc đại náo, như đã đề cập ở phần Tổng luận, còn có nghĩa là đại náo trong tâm thức của Ngộ Không và của các hành giả.

- Tôn Ngộ Không là biểu tượng của trí tuệ Vô ngã, là thuộc thế giới của thực tướng vô tướng, nên các ngã tướng lửa, nước, gió, đất, không gian, thức đều không hại được. Vì thế, đao chém không dứt (đứt đầu rồi lại liền), lò bát quái (lò hữu vi) đốt không cháy. Nhưng khi đối diện với Ba La Mật toàn giác của Ðức Phật thì trí tuệ của Tôn Ngộ Không trở thành trí tuệ cỏn con bị thu phục. Tại đây, Ðức Phật dạy cho Tôn Ngộ Không rõ trí tuệ của Tôn Ngộ Không chưa hoàn toàn thoát ly sự trói buộc của Năm uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) qua sự kiện Tôn Ngộ Không không nhảy ra khỏi bàn tay Như Lai, và qua sự kiện bị Ngũ Hành sơn chụp phủ 500 năm, như Tôn Ngộ Không đang vướng mắc vào tánh tháo động của tâm, tuệ, vướng mắc vào ngã mạn, tự kiêu, hiếu thắng và vô minh (bị vướng mắc mà tự mình không biết).

II. Quan niệm về con người

- Mở ra cuộc đại náo thiên cung là tác giả muốn phơi bày một sự thật rằng:

* Cái tổ chức trật tự của Thiên cung là sản phẩm của trí hữu ngã (trí của sinh, diệt, mộng ảo). Trí hữu ngã ban cho các hiện hữu một ngã tướng, ngã tính để dễ suy luận, nói năng, truyền đạt, để phân biệt rõ ràng giữa hiện hữu này và hiện hữu khác; đó là tính thiết lập trật tự cho các hiện hữu; chính ý niệm trật tự đã tạo dra xã hội có vua, tôi, quan, dân..., và chính ý niệm ngã đã đặt để việc làm vua suốt đời và làm vua theo dòng họ - quan dân cũng thế - như ngạn ngữ nhân gian đã nói: "Con vua thì lại làm vua...". Mọi giá trị đặt ra của xã hội hữu ngã là sản phẩm của tư duy hữu ngã, là những gì mộng ảo, không thật, bởi vì tư duy thì khác với thực tại. Một xã hội mà sống trong thế giới giá trị mộng mị như thế làm sao có thể sống có hồn nhân bản? Chính các giá trị hữu ngã ấy đã tạo ra cuộc "hỗn thế" mà con người cần phải xây dựng, tổ chức lại theo giá trị Vô ngã và nhân bản.

- Chính vì giá trị ước lệ của hữu ngã đang chế ngự cõi Trời và cõi Người - đây quả là thế lực của đại tà - không đặt để con người tài đức thật đúng vị trí xã hội của nó mà sinh ra đại loạn. Ðể thức tỉnh vua Trời", hay "Như Lai bảo Ngọc Hoàng nhường ngôi cho lão Tôn thì loạn đại náo sẽ yên".

Như thế, mở ra cuộc đại náo Thiên cung làm kinh động cả Trời, Người, là Ngô Thừa Ân muốn giới thiệu một giá trị nhận thức mới: giá trị của Vô ngã, muốn giáo dục con người nhận thức rõ giá trị này. khi mọi người đều nhận thức ấy và sẽ tạo nên một xã hội vắng bóng hết thảy các bất công, áp bức, tham quyền cố vị, tham nhũng, khủng bố, sa đọa... Ở đó, con người sẽ sống đúng giá trị của con người, không còn đánh mất mình nữa (không còn hiện tượng tha hóa).

Như thế, mở ra cuộc đại náo Thiên cung làm kinh động cả Trời, Người, là Ngô Thừa Ân muốn giới thiệu một giá trị nhận thức mới: giá trị của Vô ngã, muốn giáo dục con người nhận thức rõ giá trị này. khi mọi người đều nhận thức như vậy thì sẽ hành động xây dựng bản thân, gia đình và xã hội theo nhận thức ấy và sẽ tạo nên một xã hội vắng bóng hết thảy các bất công, áp bức, tham quyền cố vị, tham nhũng, khủng bố, sa đọa... Ở đó, con người sẽ sống đúng giá trị của con người, không còn đánh mất mình nữa (không còn hiện tượng tha hóa).

III. Quan niệm về xã hội

- Mở ra cuộc "đại náo" là tác giả đã quá rõ ràng muốn nói rằng: Cơ chế tổ chức xã hội phong kiến là không hợp lý, đã lỗi thời, cần tổ chức một cơ chế xã hội mới thể hiện dân chủ, công bằng và nhân bản.

- Tác giả cũng ý thức rõ rằng cuộc cải cách xã hội ấy khó thực hiện, bởi nó xáo trộn xã hội cũ, điều mà thói quen của cuộc sống khó hưởng ứng, và bởi vì đụng chạm quá mạnh đến giai cấp lãnh đạo và quyền lợi của họ và của quần chúng "ăn theo". Vì ý thức như vậy nên tác giả đã để Tôn giả Tu Bồ Ðề báo trước cho Tôn Ngộ Không cẩn thận đề phòng ba tai nạn lớn mà Trời sẽ giáng xuống, và đã để Tôn Ngộ Không làm cuộc "đánh thức" mà không phải cách mạng. Tác giả muốn làm một cuộc thay đổi về văn hóa và giáo dục trước, thực hiện ôn hòa hơn. Nói rõ là tác giả sau khi lường trước tính sau thì chỉ muốn có một cải tổ với quy mô khá lớn để giáo dục cho quần chúng giác ngộ dần và cấp lãnh đạo ý thức được về những đổi thay cần thiết: một xã hội mới tổ chức dưới một giá trị mới và trật tự mới (nếu cần nói như thế), chứ không phải là vô trật tự. Những lý do vì sao sẽ được nói rõ vào các hồi tiếp, chúng ta sẽ tìm hiểu.

Hồi thứ 8

I. Tư tưởng Phật học

- Sau khi hàng phục Tôn Ngộ Không và giữ Tôn Ngộ Không tại Ngũ Hành Sơn (có chú ếm và có thần giữ an toàn cho Tôn Ngộ Không), Ðức Phật trở về Lôi Âm tự. Vừa đặt chân về Lôi Âm tự, Ðức Phật liền dạy:

"Ta đem: Cặp mắt nhìn xa,

Nhìn khắp Tam giới

Cỗi rễ tính xưa,

Thấy đều tịch diệt

Hình thể hư không

Chẳng còn gì hết

Hàng phục khỉ già

Không mấy ai biết

Sống chết rành rành

Ðấy là pháp tướng".

Thế rồi, Ðức Phật liền truyền mở hội Vu Lan ở xứ Phật và tính việc truyền bá ba Tạng kinh Phật đến Nam Thiệm Bộ Châu (từ Tây Trúc đến Ðông Ðộ - Trung Hoa).

- Như đã bàn ở phần Tổng luận, Tôn Ngộ Không có tuệ Vô ngã nhưng vì Giới và Ðịnh chưa tu tập vững nên còn bị trói buộc bởi Năm uẩn (hình ảnh Ngũ Hành sơn chụp phủ lên người 500 năm). Còn bị trói buộc bởi Năm uẩn là còn bị trói buộc bởi các pháp hữu vi, chưa thật sự đi ra khỏi sinh tử, luân hồi. Sự kiện Tôn Ngộ Không không thể nhảy ra khỏi bàn tay của Ðức Phật là bài học Ðức Phật dạy tiếp cho Tôn Ngộ Không rằng cần nhiếp tâm tu mạnh hơn nữa, cần hành trì Giới uẩn, Ðịnh uẩn và Tuệ uẩn sâu xa hơn nữa. Ðây là công phu mới tiếp tục công phu mà Tôn giả Tu Bồ Ðề đã dạy tại núi Linh Ðài Phương Thốn ở động Tà Nguyệt Tam Tinh. Công phu này sẽ bắt đầu tu tập từ khi Ðường Tăng lên đường tỉnh kinh, điều mà Ðức Phật đang sắp đặt tại hội Vu Lan bồn tại Lôi Âm tự.

- Tại Thiên cung thì thường có hội Bàn Ðào để hưởng lạc và để tăng tuổi thọ cho một số cấp lãnh đạo cao tại đó. Sau vụ "đại náo" thì Ngọc Hoàng bày hội "Yên Trời". Tại Phật xứ thì tương phản, bày hội "Vu Lan", còn được gọi là hội "Hiếu Hạnh", để báo đáp ân phụ mẫu, sư trưởng. Cuộc thỉnh kinh về Ðông độ mà Ðức Phật sẽ sắp đặt được mở đầu bằng hội "Hiếu Hạnh" này.

- Ðức Phật hẳn đã dự tính phái đoàn đi Tây Trúc thỉnh kinh từ khi có vụ đại náo Thiên cung và từ khi hàng phục Tôn Ngộ Không. Phật sự thỉnh kinh chính là con đường công phu giải thoát đi đến trí tuệ Ba La Mật của Tôn Ngộ Không mà Ðức Phật bày vẽ; giáo dục, dẫn dắt Tôn Ngộ Không vượt qua ba tai nạn khốc liệt (sét đánh, âm hỏa và bi phong) mà Tôn giả Tu Bồ Ðề đã báo trước.

- Ðức Phật đã chuẩn bị sẵn năm bửu bối để Bồ Tát Quán Thế Âm trao cho Ðường Tăng sau này: một áo cà sa, một tích trượng và ba chiếc vòng (trong đó có một vòng để khống chế tính cứng đầu, loạn động của Tôn Ngộ Không). Cà sa và tích trượng là hành trang giải thoát của một tu sĩ Phật giáo (chỉ thiếu bình bát). Y cà sa là biểu tượng cho phạm hạnh nên có thể giúp hành giả thoát khỏi luân hồi; tích trượng thường được người xưa dùng để chế ngự thú dữ, rắn rít và các kẻ cướp đường; ở đây tích trượng của Phật tự nó khắc chế các ác vật, ác thú.

Bồ Tát Quán Thế Âm là vị Bồ Tát đã đắc trí tuệ Ba La Mật và có đại bi nguyện độ sinh (đệ tử của Bồ Tát là Huệ Ngạn đã là ở bên bờ của trí tuệ giải thoát rồi) được Ðức Phật giao phó sứ mệnh theo dõi phái đoàn thỉnh kinh. Ðây là biểu tượng của đích trí tuệ mà các hành giả nhắm đến.

- Bốn đệ tử mà Bồ Tát Quán Thế Âm thu nạp để phò Ðường Tăng thỉnh kinh là: Tôn Ngộ Không, Tiểu Long Mã, Sa Ngộ Tịnh, và Trư Ngộ Năng (xem Tổng luận)

II. Quan niệm về con Người

Ðức Phật biết rõ tâm tư của Tôn Ngộ Không, Ngài đến Thiên cung hàng phục Tôn Ngộ Không theo lời thỉnh cầu của Ngọc Hoàng, nhưng thực sự là đến cứu Tôn Ngộ Không và giữ yên Tôn Ngộ Không tại một chỗ bình yên như là tạm thời an trí để chờ đến thời điểm tốt hầu tiếp tục hành Phật sự. Hẳn chúng ta còn nhớ lại Tôn giả Tu Bồ Ðề, vị đại đệ tử của Ðức Phật, đã giáo dục Tôn Ngộ Không thành người có trí tuệ chân chính để phục vụ đạo và đời và đã cho hạ sơn trở về Nam Thiệm Bộ Châu. Ðây không phải là việc làm tình cờ, mà đã có chủ ý của Phật. Phương Chi, núi nơi trú xứ của Tôn giả Tu Bồ Ðề có tên gọi là Linh Ðài Phương Thốn (có nghĩa là một tấc đất của Linh Sơn, Lôi Âm tự), phải chăng đây là phân viện giáo dục các Bồ Tát để độ sinh? Ðây là phân viện truyền trao lý tưởng giáo dục độ sinh?

- Giai đoạn đại náo Thiên cung của Tôn Ngộ Không chỉ là giai đoạn đầu của việc truyền bá con đường văn hóa giáo dục Vô ngã (hay Từ bi và trí tuệ Vô ngã), chỉ để gây một tiếng vang đánh thức cuộc đời. Bấy giờ chưa phải là thời điểm cho Tôn Ngộ Không thay thế Ngọc Hoàng. Dù Tôn Ngộ Không không dễ gì truyền bá được liền, và xã hội Thiên cung không hẳn sẽ được yên ổn hơn, mà có thể sẽ có chiến tranh kéo dài để tranh lại ngai vàng đã mất khi Thiên chúng chưa nhận ra lý tưởng cải thiện xã hội tốt đẹp của Tôn Ngộ Không.

Lại nữa, khi thu phục Tôn Ngộ Không tại Ngũ Hành Sơn, Bồ Tát Quán Thế Âm đã dạy: "Nói ra một điều thiện thời ngoài nghìn dặm sẽ ứng theo; nói ra một điều bất thiện thì ngoài nghìn dặm sẽ chống lại". Ðiều này Bồ Tát cố ý nhắc nhở cho Tôn Ngộ Không biết rằng Tôn Ngộ Không đã có lý tưởng tốt đẹp lo gì thiên hạ không nghe theo. Tôn Ngộ Không cần phải biết trầm tỉnh ẩn nhẫn mà hành động. Phải tri thời và phải tri pháp. Người xưa đã nói: trồng cây thì cần 10 năm; trồng người thì phải 100 năm, Tôn Ngộ Không làm văn hóa còn phải cần một khoảng thời gian để kết nạp những người cùng chí hướng xiển dương con đường văn hóa giáo dục mới, thời gian để đối phó với các kháng lực đầy nguy hiểm. Tưởng chúng ta cần biết rằng sau lưng Tôn Ngộ Không chỉ có đám khỉ nhỏ chưa đủ sức để bảo vệ Hoa Quả sơn, sau đó nếu có lực lượng quần chúng hậu thuẫn nhiều thêm thì lực lượng này không thể một lòng một dạ và có quyết tâm như Tôn Ngộ Không, mà: hoặc là bất nhất, dễ bỏ cuộc như Trư Bát Giới; hoặc là tình cảm mềm lòng như Ðường Tăng; hoặc trung thành và có quyết tâm nhưng thiếu dũng lược như Sa Ngộ Tịnh, thì rất khó mà cải tổ nhanh chóng được xã hội trước kháng lực có mặt khắp trong ngõ ngách xã hội như con "bạch tuộc".

- Vấn đề con người luôn luôn liên hệ chặt chẽ với vấn đề trí tuệ (trình độ văn hóa), với vấn đề chánh kiến (các quan điểm chủ trương), vấn đề tâm lý tình cảm, và vấn đề giá trị của con người và xã hội sẽ mở ra một hướng văn hóa, giáo dục mới. Chấp nhận con đường mới ấy không phải chỉ có sự chấp nhận của tư duy mà đủ, mà cần có ý chí, tình cảm và tâm lý chấp nhận nữa. Con đường văn hóa giáo dục này vì thế đòi hỏi cần có thời gian lâu dài để chuẩn bị con người. Tại đây chưa nói đến cơ chế tổ chức xã hội cũ, guồng máy Nhà nước phong kiến cũ rất cũ kỹ và rất cồng kềnh. Con đường văn hóa giáo dục ấy cũng cần có thời gian để cuộc đời trắc nghiệm giá trị. Ðó là các lý do mà Ðức Phật đã chuyển Tôn Ngộ Không qua một hướng hành động khác có tính khoa học hơn và thuyết phục hơn. Thời điểm Tôn Ngộ Không an nghỉ ở Ngũ Hành Sơn là mốc điểm thời gian chuyển hướng, mà không phải là đầu hàng. Ðó là thời gian cần thiết để Tôn Ngộ Không kiểm điểm công tác và định hướng công tác.

III. Quan niệm về xã hội.

- Xã hội và con người cá thể quyện chặt vào nhau như một thực thể. Hai hiện hữu ấy có tác động ảnh hưởng qua lại: khi xã hội văn hóa thay đổi thì cá thể thay đổi theo; ngược lại, khi nhận thức, tư duy của con người thay đổi thì xã hội cũng dần dần thay đổi thời gian. Cả hai đều có tính chất Vô ngã hay bất định, có thể được thay đổi tùy theo các điều kiện sống, môi trường sống. Ý thức như vậy, tác giả Ngô Thừa Ân đã chọn lựa thay đổi nhận thức con người thì bị ràng buộc chặt chẽ với tổ chức của xã hội, nhất là xã hội ấy là một xã hội phong kiến lâu đời. Các giá trị phong kiến đã ăn sâu vào tiềm thức con người và cơ cấu xã hội. Bất cứ một thay đổi nào về giá trị thuộc xã hội phong kiến đều vấp phải một kháng lực có quyền uy rất lớn của vua, tôi, triều thần và quần chúng dưới trướng triều đình. Ðối mặt với sức mạnh này, tất cả sức mạnh này, tất cả sức mạnh của các cá nhân và của các nhóm quần chúng nhỏ đều phải tan vỡ.

- Lại nữa, xã hội phong kiến đã nuôi dưỡng các lực lượng tà phái rất mạnh, tồn tại dựa vào các khuyết điểm của phong kiến; các lực lượng này cũng không muốn thay đổi xã hội phong kiến; bởi vì sự thay đổi ấy đe dọa đến sự tồn tại và phát triển của các thế lực ấy. Các lực lượng này trở thành vật cản đáng kể dưới bước đi của Tôn Ngộ Không.

Tôn Ngộ Không và nhóm chính phải của Tôn Ngộ Không, phải thường xuyên lưỡng đầu thọ địch. Ðấy là chưa nói đến việc có những sức cản nằm trong nhóm quần chúng của Tôn Ngộ Không như vừa đề cập ở mục II, hồi 8 này.

Thực hiện con đường lý tưởng về văn hóa, giáo dục Vô ngã, vì thế Tôn Ngộ Không cần, rất cần, đến sự soi sáng của trí tuệ toàn giác và lòng đại bi bủa ra của trí tuệ toàn giác (biểu tượng bằng sự dẫn dắt của Ðức Phật và Bồ Tát Quán Thế Âm). Nhìn lại lịch sử Việt Nam dưới thời Lý, Trần, chúng ta có thể có một khái niệm về sự chuẩn bị cho công việc thực hiện lý tưởng trên. Vạn Hạnh thiền sư, Khánh Vân thiền sư, và cả Khuông Việt, Pháp Thuận thiền sư đã dốc bao nhiêu tâm lực để tìm ra Lý Công Uẩn và mở dần con đường cho Lý Công Uẩn lên ngôi báu.

Nhân tâm cũng là một yếu tố ảnh hưởng mạnh đến việc thay đổi chế độ xã hội, có thể tạo điều kiện thuận lợi, mà cũng có thể bất thuận lợi. Vì thế con đường sống vị tha, đầy tình người và trí tuệ, cần được mở đầu bằng hiếu đạo, điều mà Ðức Phật đã quan tâm mở ra hội "Vu Lan Bồn" khi chuẩn bị lập thành phái đoàn Tây du.

Chúng ta sẽ dần dần thấy rõ những gì mà Tôn Ngộ Không cần phải vượt qua vào các hồi kế tiếp.

Hồi thứ 9, 10, 11 và 12

Hồi 9: "Trần Quang Nhị nhậm chức gặp nạn,

Sư Giang Lưu trả thù báo ơn"

Hồi 10: "Lão Long Vương vụng tính phạm pháp thiên đình.

Ngụy thừa tướng gửi thư nhờ âm phủ"

Hồi 11: "Qua địa phủ Tái Tôn về dương

Dâng quả bí Lưu Toàn được vợ"

Hồi 12: "Vua Ðường lòng thành kính mở đại hội

Quan Âm hiển Thánh hóa Kim thuyền"

I. Tư tưởng Phật học

- Về con đường đến trí tuệ Ba La Mật, theo Phật giáo phát triển (Ðại thừa), hành giả sau khi ngộ pháp tánh (còn gọi là minh tâm, kiến tánh) cần phát tâm cầu Phật quả và hành sâu giải thoát (Giới, Ðịnh, Tuệ) và tâm đại bi cứu độ chúng sinh thì công đức giải thoát mới sớm thành tựu viên mãn.

Bốn hồi này là phần Bồ Tát Quán Thế Âm sắp đặt cho nhân vật Ðường Huyền Trang xuất hiện với lòng đại bi phát đại tâm đi Tây Trúc thỉnh kinh để cứu độ Nam Thiệm Bộ Châu. Ðây là nhân vật biểu hiện tâm nguyện Bồ Tát cầu giải thoát Vô thượng Bồ đề. Việc thỉnh được Tam Tạng kinh từ Lôi Âm tự về đến Tràng An (Trung Hoa) là biêu tượng cho mục tiêu đắc trí tuệ giải thoát Ba La Mật vậy. Về nhân vật Ðường Tăng đã được đề cập trong phần Tổng luận, ở đây chỉ bàn thêm một ít điểm.

- Ðường Tăng, nhân vật được Bồ Tát Quán Thế Âm chọn (Tây Du Ký) ủy thác trách nhiệm thỉnh kinh là tiêu biểu cho quyết tâm giải thoát và độ sinh của mỗi hành giả. Ðường Tăng tự thân thấy rõ cảnh đời vô thường, khổ đau và ác trược (chứng kiến các oan khổ đến với tự thân, gia đình và xã hội) nên phát khởi đại bi tâm độ sinh. Ðây là điểm giáo lý rất truyền thống của Phật giáo. Chỉ có những tâm thức nào thấy rõ ba pháp ấn, hay bốn pháp ấn là thấy đạo; chỉ những ai thấy đạo mới phát tâm cầu đạo. Sự kiện phát khởi đại bi tâm chỉ thực sự xẩy đến với điều kiện tâm thức như thế, nghĩa là đại bi tâm phát khởi từ trí tuệ giải thoát. Không có sự kiện phát khởi đại bi tâm ngoài trí tuệ. Vì thế hình ảnh Ðường Tăng gắn liền với Tôn Ngộ Không trên suốt cuộc hành trình Tây du. Lúc nào hai hình ảnh ấy, hai tâm thức ấy tách rời khỏi nhau thì tà pháp xã hội (ma nạn đến)... Ðây là đạo.

- Qua việc giới thiệu thân thế Ðường Tăng, bốn hồi truyện này (hồi 9-12) còn giới thiệu một số điểm khác về giáo lý Phật giáo như:

a/ Trạng nguyên Quang Nhị đã phóng sinh con cá vốn được mua để dâng mẹ, và được mẹ khen ngợi. Tại đây tác giả giới thiệu các giá trị tu tập giải thoát: hiếu hạnh là tốt, như tu tập bố thí thì tốt hơn, phước đức nhiều hơn. Phóng sinh cũng thế. Tương tự, công đức trì giới sẽ nhiều hơn nữa; hành thiền định công đức sẽ hơn trì giới; tu tập trí tuệ là tốt hơn cả.

b/ Tác giả nhân đây giới thiệu giáo lý nhân quả Phật giáo rất phân minh: Quang Nhị phóng sinh cá nên về sau (vốn là con cá được phóng sinh) Long Vương cứu Quang Nhị khỏi chết sau khi bị Lưu Hồng ám hại để đoạt vợ và chức Tri phủ.

c/ Việc Ðường Thế Dân du Ðịa phủ chứng kiến sự thật nhân quả: ác nhân thì ác báo, thiện nhân thì thiện báo. Tác giả đã tóm tắt khái quát rằng: "Người làm thiện thì sinh Tiên; người tận trung thì sinh và đường quý; người hiếu hạnh thì sinh vào đường phúc; người công bằng thì sinh vào kiếp Người; người tích đức thì sinh vào đường giàu có; người độc ác thì sinh vào đường quỷ". Giáo lý này hướng dẫn người đời sống ngay thẳng, công bằng và thiện lương đem lại an vui cho bản thân, gia đình và xã hội.

- Chiếc áo Cà sa Phật Tổ ban cho Ðường Tăng (Bồ Tát Quán Thế Âm trao) là biểu tượng lý tưởng giải thoát khổ cho tự thân và giúp cho mọi chúng sinh thoát khỏi hết thảy các khổ ách trong sinh tử. Lý tưởng này là sự nghiệp cao đẹp nên được dệt bằng tơ quý (tiên tơ), bởi bàn tay quý (tiên nga dệt), và được trang trí bằng các hạt trân châu: hạt ngọc "ma ni" là biểu tượng cho hạnh sống thanh bạch, trong sáng, không tỳ vết; hạt "tị trần châu" là biểu tượng cho sống xa lìa hết thảy các trần cấu (các cấu uế của tâm); hạt "định phong châu" là biểu tượng cho hạnh sống nhiếp tịnh tâm thức thoát ly khỏi các ảnh hưởng khen, chê, thị phi, được, mất, danh vọng, lợi dưỡng (bát phong); hạt "dạ minh châu" là biểu tượng cho trí tuệ. Chiếc áo mà Bồ Tát Quán Thế Âm tặng không cho Ðường Tăng là biểu tượng cho công phu hành giải thoát được chứa đựng trong Tam Tạng kinh điển Phật giáo.

II. Quan niệm về con người

- Cho đến hồi thứ 21 này, Ngô Thừa Ân đã phác họa đủ đề cương của một nội dung giáo dục con người tốt phục vụ cho xã hội của nền văn hóa giáo dục Vô ngã. Ðề cương ấy bao gồm nhiều điểm:

1- Giáo dục con người sống phải có mục tiêu, lý tưởng hướng thượng. Lý tưởng đó phục vụ cho an lạc, hạnh phúc của bản thân, tập thể, xã hội, và được biểu tượng qua nhân vật Ðường Tăng.

2- Giáo dục con người có khả năng nhận thức, phân biệt rõ phải, trái, thiện, ác, tốt, xấu, đúng, sai, hư, thật (được biểu trưng qua nhân vật Tôn Ngộ Không).

3- Giáo dục con người biết hướng thiện, sống đạo đức, biết khép mình vào khuôn phép, kỷ luật tự giác (được biểu tượng qua Trư Bát Giới).

4- Gióa dục tâm lý con người, giáo dục ý chí và quyết tâm theo đuổi con đường lý tưởng của mình (biểu tượng qua nhân vật Sa Ngộ Tịnh).

5- Giáo dục đầy tình người (nhân hiếu, trung, tình, nghĩa), biểu tượng qua nhân vật Tiểu Long Mã.

6- Giáo dục con người thấy rõ tính độc đoán, uy quyền, hưởng thụ, bất công (tệ trạng tại Thiên cung) của những người có quyền thế, thấy rõ sự thật khổ đâu ở Âm phủ và cuộc "hỗn thế" ở trần gian để xây dựng một xã hội công bằng, nhân ái, an lạc và hạnh phúc.

- Xây dựng một nhân cách toàn diện qua các mặt:

1. Lý trí và hành động (Tôn Ngộ Không).

2. Về tình cảm, đạo đức, thẩm mỹ (vai trò Ðường Tăng).

3. Về thể lực, bản năng, dục vọng (vai trò Bát Giới).

4. Ý chí kiên định, tâm tư ổn định (vai trò Sa Ngộ Tịnh).

5. Về tương giao xã hội (vai trò Tiểu Long Mã).

Ðó là nội dung giáo dục về trí dục, đức dục, tâm lý và tình cảm, lao động (hành động), và giáo dục một khả năng thực hiện sự hòa điệu các mối tương giao của cuộc sống (Phái đoàn...).

- Nền giáo dục con người toàn diện ấy được xây dựng trên cơ sở sự thật Vô ngã tính của vạn hữu, và trên căn bản niềm tin rằng tâm thức có khả năng chuyển hóa không cùng.

III. Quan niệm về xã hội

- Tác giả lần lượt nêu lên những lý do của một xã hội cần được thay đổi. Sự kiện Trần Quang Nhị, rể của quan thừa tướng Ngụy Trưng đi nhậm chức bị kẻ ác giết chết, chiếm vợ và chiếm cả chức vị Tri phủ kéo dài mười tám năm mà triều đình cũng không hay, chứng tỏ xã hội Trung Hoa bấy giờ tổ chức không hợp lý, không thể bảo đảm an ninh xã hội cho dân chúng, đưa xã hội vào cảnh hỗn loạn, nhân dân không có quyền làm chủ xã hội và cuộc sống.

- Sự kiện Long Vương không tôn trọng mệnh lệnh của Thiên đình, tự do hành xử theo tư ý là sự kiện không thượng tôn pháp luật.

- Sự kiện Lý thị vợ Lưu Toàn, phải tự vẫn khi làm việc thiện là hậu quả của các quan niệm đạo đức luân lý lỗi thời của xã hội Trung Hoa.

- Sự kiện Ðức Phật ủy thác Bồ Tát Quán Thế Âm phật sự thỉnh Tam tạng kinh Phật đến Ðông Ðộ để cứu vớt quần chúng nói lên quá rõ ràng nhân tâm ở đây đã hoạn nạn, đạo đức đã suy đồi.

- Tại giới quan lại, chính trường thì vì danh lợi đã đẩy đưa một số người có tài giúp nước như Lý Ðịnh, Trương Tiêu đến chỗ chán nản rút lui về sống an phận bằng nghề đốn củi, bắt cá, tiêu dao ở vùng non xanh nước biếc.

- Trước cảnh một xã hội, dù không có chiến tranh, đạo đức đi dần vào băng hoại, Ngô Thừa Ân muốn đánh thức nhân dân tỉnh dậy để cùng nhau sửa soạn cho một xã hội dân chủ, công bằng và nhân ái. Xã hội mới sẽ bắt đầu từ ngày Ðường Tăng nhận tấm áo cà sa và chiếc tích trượng từ tay Bồ Tát Quán Thế Âm để Tây du. Cần có một cơn gió lớn đưa hương Vô ngã, trí tuệ và từ bi từ Tây Trúc về xã hội Trung Hoa đương thời.

Ðây là hoài bão của Ngô Thừa Ân về việc xây dựng một xã hội con người rất người và tốt đẹp qua tiểu thuyết Tây Du Ký.

- Công cuộc cải tổ văn hóa, giáo dục mà Tôn Ngộ Không khởi xướng cần được tiến hành nhiều bước hợp lý. Bước đầu tiên là giáo dục, tuyên truyền ý thức nơi quần chúng nhân đân về những hư hỏng của xã hội cũ, và chứng tỏ các ưu thế của nền văn hóa mới. Cánh đổi mới cần có một lực lượng hậu thuẩn mạnh mẽ để có thể đứng vững trước nhiều sức mạnh phản kháng đến từ nhiều phía, đại để có ba sức mạnh phản kháng chính.

- Sức mạnh "sấm sét" của triều đình, quan lại phong kiến và các nhóm ăn theo.

- Sức mạnh "âm hỏa" là sức mạnh tâm lý phản kháng, phản tuyên truyền tác động vào quần chúng và vào phái canh tân.

- Sức mạnh "bi phong" là sức mạnh gây ra sự thiếu lòng tin, nhu nhược, tình cảm thiếu sáng suốt của quần chúng và của phái canh tân.

Ðây là bước chuẩn bị cần thiết để xây dựng một nền văn hóa giáo dục mới kia. Từ đây, Tôn Ngộ Không còn phải giác tỉnh để đối đầu trong từng bước đi cải tổ của mình, mở đầu từ hồi thứ 13, nếu không thì sẽ bị tan xác trước "sấm sét", bị thiêu cháy trong "âm hỏa", hay bị tan rã trước "bi phong".

Hồi thứ 13 và 14

Hồi 13: "Sa hang cọp Kim tinh cứu thoát

Núi Long Hoa Bá Khâm mời sư"

Hồi 14: "Vượn già theo chính

Sáu giặc mất tăm"

I. Tư tưởng Phật học

Sau khi phát tâm cầu giải thoát và phát đại nguyện độ sinh, hành giả bắt đầu hạ thủ công phu giải thoát. Giải thoát không thể đạt được bằng chỉ một tấm lòng mong muốn giải thoát. Tấm lòng hay khát vọng giải thoát chỉ là sự nhắc nhở đến mục đích giải thoát cần phải đến, tự nó chưa có khả năng hình thành một bước đi giải thoát nào. Vì thế Ðường Tăng vừa mới lên đường đã sa vào ngay hang cọp, chúa tể sơn lâm ấy là biểu tượng của tham, sân, si ở nội tâm và ở ngoại cảnh đang thời sung mãn; chúng dễ dàng "thịt" mất chí nguyện giải thoát độ sinh của hành giả. Giai đoạn này nếu không nhờ tha lực của Kim Tinh cứu mạng thì lý tưởng Tây du đã không còn.

- Trước khi lên đường, Ðường Tăng đã ý thức việc tu dưỡng Tâm, nên "lẳng lặng chỉ tay vào bụng mấy lượt" để nói với Tăng chúng tiễn chân rằng: "Tâm sinh thì ma nghiệp sinh, tâm diệt thì ma nghiệp diệt". Vậy khi ma chướng khởi (ma nạn sinh) thì bấy giờ hành giả và chí nguyện giải thoát chính là ma chướng, hay bị khống chế bởi ma chướng. Ma chướng đó là tà niệm, vọng niệm.

Ðối với vọng niệm, lòng khát vọng giải thoát không có đôi mắt để nhìn thấy và cũng không có khả năng để nhưng tiếp phục. Nếu thiếu trí tuệ thì hành giả không thể tu tập giải thoát qua hai công phu chính yếu sau đây:

- Nhận ra đâu là chánh niệm để duy trì và phát triển; chánh niệm nào chưa sinh thì khiến sinh khởi, chánh niệm nào đã sinh thì duy trì và phát triển.

- Nhận ra đâu là tà niệm; tà niệm đã sinh thì cần được tìm cách đoạn diệt, tà niệm chưa sinh thì không để nó sinh khởi.

Ma nạn "hang cọp "này là nạn cảnh giác Ðường Tăng phải tu tập có chánh kiến và chánh tư duy (hay trí tuệ) trước, rồi vận dụng trí tuệ này dẫn đầu các công phu tu tập khác.

Ðây mới là chánh đạo. Do vậy, vào hồi 14 Ðường Tăng cần thu nhận Tôn Ngộ Không phò tá như một vai trò trí tuệ trên cuộc hành trình Tây du.

- Chính nhờ trí tuệ (vai trò Tôn Ngộ Không) nhận ra bạn, thù và có khả năng rất lớn có khả năng đốt cháy, đánh tan các vọng niệm khởi lên do tác động từ trong lẫn ngoài, như Tôn Ngộ Không đã diệt đám giặc cỏ lục tặc ở hồi 14 này, đám giặc thường gây hỗn loạn tâm thức và cuộc đời.

II. Quan niệm về con người

- Ðể xây dựng một xã hội tốt đẹp đúng nghĩa nhất cần có người tốt. Con người tốt là con người được phát triển, giáo dục toàn diện, có khả năng nhận định tốt, xấu, phải, trái, hư, thật và có khả năng để hành xử các việc cá nhân, gia đình và xã hội.

- Con người cần được hiểu một cách thực tế rằng không phải là được sinh ra như một tờ giấy trắng, mà là có đủ một mầm tâm lý tốt, xấu lẫn lộn. Các tâm lý xấu như tham, sân, si, ganh ghét, đố kỵ, kiêu căng, ngã mạn, phóng túng có mặt mạnh hơn là các tâm lý tốt. Ðiều kiện sống ở xã hội phong kiến (và xã hội nói chung) kích động các tâm lý xấu nhiều hơn là các tâm lý tốt. Do vậy, yêu cầu đầu tiên của giáo dục là cần giáo dục con người có một hiểu biết, tư duy phân biệt rõ, tốt, xấu, thực, hư v.v... và có khả năng chỉ đạo tốt các hành vi của con người như Ðường Tăng cần đến sự có mặt của Tôn Ngộ Không trong phải đoàn Tây du.

- Tư duy đúng và hiểu biết đúng cần được giáo dục tế nhị, cần được khéo léo tiếp thu, cần có sự luyện tập nhiều về căn và tư để thắng vượt các thành kiến, định kiến của văn hóa, truyền thống và các tập quán tình cảm, tư duy cũ. Các tập quán này trói buộc con người rất mạnh như biểu tượng Ngũ Hành sơn giam hãm Tôn Ngộ Không dài đến 500 năm. Phá bỏ được các ràng buộc này con người mới có được cái hiểu biết và tư duy sáng tạo và giá trị áp dụng vào đời sống cá nhân và xã hội.

III. Quan niệm về xã hội

- Bước cải tổ xã hội đầu tiên nếu không được lý trí tính toán kỹ thì khó vượt qua được rào cản lớn của các lực lượng chủ đạo của đường văn hóa, xã hội và thể chế cũ (được biểu trưng bằng: mãnh thú sơn lâm hãm hại Ðường Tăng), lực lượng cải tổ sẽ bị tổn hại nặng, có thể bị lâm nguy.

- Lý tưởng cải tổ xã hội không được đánh giá đúng ở mặt thuần lý thuyết mà được dánh giá vào thử thách trong thực tế xã hội để làm sáng tỏ giá trị của nó như là Tôn Ngộ Không đứng dậy khỏi Ngũ Hành sơn, lên đường thực hiện và mang thêm một tên gọi mới là Tôn Hành Giả (hành giả = người thực hiện, hành động)

- Lý tưởng thực hiện cần được hoạt động uyển chuyển, không quá cứng rắn, không quá nôn nóng, vội vàng, như cần phải có cái thắng "khẩn cô nhi" trên đầu Tôn Hành Giả.

- Ðấy là những gì mà chúng ta có thể hình dung về các quan niệm hành động để cải tổ xã hội của Ngô Thừa Ân.

Hồi thứ 15, 16 và 17

Hồi 15: "Núi Rắn Cuốn, mọi thần ngầm giúp

Khe Ưng Sầu, ý mã thắng cương"

Hồi 16: "Viện Quan Âm sư lừa bảo bối

Núi Hắc Phong quái trộm cà sa"

Hồi 17: "Tôn Hành Giả đại náo Hắc Phong

Quan Thế Âm thu phục con yêu quái"

I. Tư tưởng Phật học

- Tại hồi 15, khi mà công phu tu tập được trí tuệ Vô ngã soi sáng thì công phu ấy đún nghĩa là công phu giải thoát. Bấy giờ tâm sẽ khởi lên nhiều niệm lành, giải thoát. Ðây là ý nghĩa của hình ảnh biểu tượng các thiện thần tụ họp tại núi Rắn Cuốn để giúp đỡ Ðường Tăng.

- Ở hồi 14, sau khi Tôn Ngộ Không hàng phục lục tặc - giặc cỏ quấy rối tâm thức - thì tâm thức trở nên an tịnh, vắng lặng. Bấy giờ sơn thần ở Lạc Già sơn, vâng mệnh Bồ Tát Quán Thế Âm trao yên cương để thắng Tiểu Long mã - mà Ngô Thừa Ân gọi là "ý mã thắng cương" - Ðây là hình ảnh biểu tượng khi tâm thức đã được chế ngự, không còn vọng ngoại (hướng ra sáu trần), đã quay về giải thoát (hướng nội) như Tiểu Long mã đã từ bỏ long cung và từ bỏ tâm ngỗ ngịch để theo phò Ðường Tăng.

Khi tâm thức lắng đọng như bấy giờ thì sáu trần được soi tỏ bản tướng, không còn tác loạn tâm ý được nữa, sầu muộn sẽ ra đi, vĩnh viễn từ giả tâm ý. Vì thế không nước tâm trong suốt thì các loài chim không thể bay qua, vĩnh viễn bay xa. Con suối bấy giờ được Ngô Thừa Ân gọi là "Khe Ưng Sầu".

- Ở cấp độ tâm thức này, hành giả không còn bị lòng dục các trần đốt cháy, nên tại Viện Quan Âm (hồi 16) lửa tham dục các trần chỉ đốt cháy sư trú trì trộm áo cà sa quý của Ðường Tăng, mà không thiêu Ðường Tăng và các sư sãi còn lại.

- Tại đây, con ma gấu ở núi Hắc Phong, bạn của sư trú trì Quan Âm Viện, cũng tham lam đánh cắp chiếc cà sa, nhưng hai người ấy có tác ý khác nhau ở hai hoàn cảnh khác nhau, nên gặt hái hậu quả khác nhau. Sư trú trì là kẻ xuất gia sống ở nhà chùa đã hơn 200 năm mà còn lòng tham ấy thì quả là tâm tu quá xấu; với tâm tu ấy thì chỉ cần một lòng tham áo cà-sa là đã đủ để đốt cháy tâm giải thoát. Sư trú trì bị thiêu cháy là thế.

Ma Gấu ở núi Hắc Phong là loài yêu tinh mà thích giao du với nhà chùa là chứng tỏ có một tâm thức hướng thượng. Ma Gấu trộm áo cà-sa và định mở hội cà-sa cũng là hành động với tâm thức hướng về đạo, nhưng hướng về đạo ở cấp độ tâm lý thích nhà chùa và những pháp khí thuộc nhà chùa. Xét kỹ tâm thức này là đang đi lên. Do đó, Bồ Tát Quán Thế Âm không cho hại ma Gấu. Lần đầu gặp ma Gấu, Bồ Tát đã phát biểu "Nghiệt súc chiếm cứ sơn động này cũng có chút duyên đạo", rồi sau đó Bồ Tát đã quy y cho ma Gấu và thu về cho giữ núi Lạc Già ở Nam Hải.

- Khi Bồ Tát Quán Thế Âm biến hóa ra yêu tinh Lăng Hư (bạn của ma Gấu) thì Tôn Ngộ Không liền nói: "Ðẹp quá! Ðẹp quá! Thế Bồ Tát là yêu tinh hay yêu tinh là Bồ Tát?" - Bồ Tát Quán Thế Âm dạy: "Ngộ Không, Bồ Tát, yêu tinh đều là ý niệm, nếu bàn cho đến gốc, đều là không có". Lời dạy này giúp Tôn Ngộ Không tỉnh lòng thêm. Tại đây Ngô Thừa Ân đã diễn đạt một tư tưởng khác của Bát Nhã rằng:

- Tướng thật của Bồ Tát là Vô ngã; tướng thật của yêu tinh cũng là Vô ngã. Vì thế, với tâm thức giác ngộ thật tướng thì yêu tinh và Bồ Tát không khác biệt, đều đồng thể Vô ngã (Bồ Tát = yêu tinh = Vô ngã). Nhưng với tâm thức còn vướng mắc tập khí chấp ngã, thì tướng Bồ Tát khác với tướng yêu tinh. Tôn Ngộ Không tuy lòng đã giác tỉnh Vô ngã từ lâu, nhưng tập khí chấp thủ tướng vẫn còn, nên tâm thức thỉnh thoảng ngỡ ngàng vướng ngại các ngã tướng. Do sự vướng ngại ấy mà Tôn Ngộ Không còn vướng mắc các ma nạn.

Nói tóm, ngã tướng là của ý niệm, của ngã tưởng; nó là hư vọng, mà không phải là thực tại.

Tại đây, Ngô Thừa Ân muốn giới thiệu với đời rằng: Bồ Tát hàng phục yêu Gấu là đánh chết cái tính "yêu" trong con Gấu, chứ không phải giết chết con gấu. Con Gấu tự nó không mang một ngã tính yêu mà bay Bồ Tát gì cả.

II. Quan niệm về con người

- Ngô Thừa Ân mong muốn con người quay trở về chính mình để tu tập tâm và giải thoát tâm, như Tôn Ngộ Không tu tập ở Tà Nguyệt Tam Tịnh động - Mọi giá trị thực là ở tâm thức con người. Khi trí tuệ Vô ngã đã xuất hiện thì tâm thức sẽ dần dần sáng tỏ. Các thiện tâm và giải thoát tâm sẽ sinh khởi. Giáo dục nhân bản là giáo dục giúp con người quay trở về chính minh, chính nguồn sáng bên trong mình. Mọi thứ may mắn, an lạc, tự do, hạnh phúc đều có mặt ở đó, như phái đoàn Tây du có mặt Tôn Ngộ Không. đây là ý nghĩa được biểu tượng bởi hình ảnh các thiện thần đến giúp Ðường Tăng ở núi Rắn Cuốn. Ðây cũng là ý nghĩa mà ngạn ngữ Pháp nói: "Hãy tự giúp mình rồi trời sẽ giúp mình" (Aide-toi, Le ciel t'aidra).

- Vấn đề không phải là buộc người khác làm các điều thiện, mà là giúp người khác nhận thức rõ về điều thiện và giá trị của điều thiện. Khi đã có nhận thức đúng thì tự khắc con người hành động đúng. Tương tự như khi Khe Ưng Sầu trong suốt, thì các loài chim không còn hiện đến. Cũng thế, khi tâm đã lắng, thì các trần không còn xâm nhập quấy phá. Khi một người đã thấy rõ con đường văn hóa Vô ngã, thì các quan niệm về văn hóa hữu ngã sẽ không còn khả năng thuyết phục.

- Về điều thiện ác, con đường văn hóa giáo dục mới cần nói rõ về giá trị của các hành động, việc làm, yếu tố quyết định giá trị của hành động là ở tâm tác động trên hành động có thể có nhiều giá trị khác nhau và chịu các hậu quả khác nhau, điển hình như ma Gấu và sư trú trì Quan Âm Viện đều đánh cắp tấm cà-sa quý mà một người thì bị đốt cháy thân phạm hạnh và thân huệ mạng, người kia thì phát khởi huệ mạng, huệ tâm.

- Theo tinh thần giáo dục Vô ngã và nhân bản thì con người là vô tự tính và hành động là vô tự tính, bởi cả hai đều do các duyên tập hợp mà sinh. Không thật sự có con người xấu. Cả đến hành động, không thật sự có hành động xấu, mà chỉ có các ý niệm xấu tác động trên hành động. vì thế giáo dục mới đặt trọng tâm ở công phu chuyển đổi các ý niệm, chế ngự các ý niệm (gọi là tu tâm), dù hành giả vẫn quan tâm đến các biểu hiện của hành động và hậu quả của hành động. khi ý niệm xấu được chế ngự, thì các hành động xấu sẽ dần dần biến mất. Ðiều này được Ngô Thừa Ân diễn đạt qua hình ảnh ma Gấu được Bồ Tát Quán Thế Âm và Tôn Ngộ Không chế ngự và thu nhận về cảnh giới xuất gia giải thoát ở Nam Hải.

Tại đây, người chủ xướng văn hóa, giáo dục Vô ngã và nhân bản, Tôn Ngộ Không, cần nhận thức rõ sứ mệnh của mình là chuyển hóa tâm thức con người, tiêu diệt các sai lầm, mà không phải tiêu diệt những con người sai lầm (hồi 16, 17).

Dù vậy, người làm giáo dục không được xao lãng đến vai trò tác động của ngoại giới trên tâm thức con người; giáo dục cần vạch rõ khía cạnh nguy hiểm của ngoại giới có thể gieo rắc tai hại đến con người.

Hồi 15, 16, và 17 quả là các hồi đề cập đến đạo đức của Phật giáo, vấn đề giá trị của các hành vi, hành động, và vấn đề đánh giá các giá trị của các hành vi, hành động.

III. Quan niệm về xã hội

- Trở lại vấn đề đã được đề cập, căn bản của việc cải tạo xã hội là vấn đề cải tạo con người, và căn bản của vấn đề cải tạo con người và vấn đề cải tạo nhận thức con người. Khi mà đa số quần chúng đã giác ngộ con đường sống với những giá trị mới thì hẳn nhiên khung sườn xã hội mới sẽ phải hình thành. Khi đã là Khe Ưng Sầu trong suốt, thì chim chóc đến sẽ lâm nạn. Do vì nguy hiểm ấy, chim sẽ không còn đến. Cũng thế, khi tâm thức con người đã sáng giá trị của nền văn hóa giáo dục mới, thì các giá trị lỗi thời sẽ ra đi. Ngô Thừa Ân đưa ra hình ảnh Khe Ưng Sâu là xác định sự thật mà người làm công tác cải tổ văn hóa giáo dục phải chọn lựa, rằng: Văn hóa, giáo dục cần được cải tổ trước, cơ chế xã hội cải tổ sau. Công tác văn hóa giáo dục bao giờ cũng cần thời gian lâu dài. Với xã hội phong kiến Trung Hoa vào thế kỷ 16, khó có một chọn lựa nào khác tốt đẹp hơn.

- Cần tạo điều kiện thuận lợi cho nền văn hóa mới phát triển, các điều kiện sống có ảnh hưởng đến việc khơi dậy các nhận thức mới - tương tự như chiếc áo cà-sa quý khơi dậy lòng tham nơi sư trú trì Quan âm Viện - như hạnh của Bồ Tát Quán Thế Âm thường cứu khổ người đời trước khi nói Pháp cứu khổ. Phương thứcnày sẽ hỗ trợ sự nghiệp giáo dục thuyết phục quần chúng quay về với các giá trị mới.

Hồi 18 và 19

Hồi 18: "Chùa Quan âm, Ðường Tăng thoát nạn

"Nhà Cao Lão, Ðại Thánh trừ ma"

Hồi 19: "Ðộng Vân Sạn, Ngộ Không thu Bát Giới

"Núi Phù Ðồ, Tam Tạng nhận chân kinh"

I. Tư tưởng Phật học

- Bước đầu tiên chế ngự tâm là chế ngự lục căn (hồi 15). Công phu chế ngự này cần được thực hành lâu dài để nhiếp phục cái động của thân và khẩu như đã được đề cập ở phần Tổng luận. Ở hồi 18 và 19, việc thu phục Trư Bát Giới làm đệ tử xuất gia là ý nghĩa của việc hành trì giới luật và chế ngự dục ái, chế ngự các tánh buông lung, lười biếng để thiết lập cơ sở tâm lý vững chắc cho sự thành tựu tâm giải thoát (đại định) và tuệ giải thoát (đại tuệ).

- Ở nguyên bản Tây Du Ký, và ở bản dịch việt ngữ ấn hành năm 1982, nhà xuất bản Văn học Hà Nội, ghi đủ toàn văn bài Bát Nhã Tâm Kinh. Bài tâm kinh này là trái tim của trí tuệ toàn giác mà thiền sư Ô Sào đã trao cho Ðường Tăng để giữ an lòng trên suốt cuộc viễn trình Tây phương. Ðiểm tinh yếu của bản kinh này là: trên cơ sở tâm thức an trú đại định (hay tâm giải thoát) và tâm nguyện độ sinh rộng lớn, hành giả hành sâu thiền quán Vô ngã, thấy rõ hết thảy vạn hữu là rỗng không tự ngã mà vượt qua hết thảy mọi khổ đau trần thế.

Do vì hành giả an trú vào chánh niệm, chánh tưởng Vô ngã mà tâm thức không vướng ngại bất cứ gì; do vì tâm không vướng ngại, hành giả rời xa các thứ sợ hãi, rời xa các tưởng sai lầm và các tình cảm sai lầm; do vì rời xa các ngã tưởng, các điên đảo tưởng, hành giả chøng đắc được sự giải thoát hoàn toàn mọi khổ đau. Trên cơ sở thành tựu này, hành giả tự tại ra vào khổ đau để cứu độ đời.

- Dưới con mắt của trí tuệ Vô ngã, các ngã tướng trần gian là hư huyễn, mộng mị, tạm bợ. Ngô Thừa Ân vì thế gọi cõi đời là "phù đồ" (tương tự như phù thế, phù vân) II. Quan niệm về con người

- Một đường hướng giáo dục con người tốt thì không lúc nào rời khỏi mục tiêu đem lại an lạc, hạnh phúc cho con người. Cảm nhận an lạc, hạnh phúc là phần việc của tâm thức mỗi người. Vì thế, công phu huấn luyện tâm lý là công phu chính, bên cạnh công phu mở mang hiểu biết đúng đắn, mở mang trí tuệ. Con đường giáo dục đích thực và nhân bản không phải là con đường lý thuyết, mà là con đường sống. Con đường đó chỉ rõ rằng con người cần trở về chính mình và làm chủ chính mình ở ba lãnh vực thân, khẩu, ý. Hồi 19 và 20 thì giới thiệu đến phần giáo dục làm chủ các hành động của thân và khẩu, ý. Hồi 19 và 20 thì giới thiệu đến phần giáo dục làm chủ các hành động của thân và khẩu (lời nói), giải thoát (đã được đề cập ở phần Tổng luận).

III. Quan niệm về xã hội

- Một trong những điều kiện cho quần chúng sống với nền văn hóa nhân bản và Vô ngã là tạo với nền văn hóa nhân bản và Vô ngã là tạo nên nếp sống đạo đức cá nhân và đạo đức xã hội. Cá nhân và tập thể cần phải giữ gìn và tôn trọng một số khuôn phép kỷ luật nào đó của xã hội do xã hội đặt ra phù hợp với văn hóa Vô ngã. Nếp sống văn hóa xã hội này được biểu tượng hóa qua nhân vật Trư Bát Giới.

- Về mặt tâm lý quần chúng thuộc hàng ngũ đổi mới được phân ra nhiều thành phần: có thành phần mang dạng tâm lý của Ðường Tăng, có thành phần mang mẫu tâm lý của Tôn Hành Giả, có thành phần thì tâm lý thiếu ổn định dễ trở lui về nếp sống vói các tập tính cũ, như Trư Bát Giới nhiều lần đòi hỏi lại nhà Cao Lão... Xã hội cần tổ chức thành một nếp văn hóa mới, thiết thực và tích cực. Vai trò tích cực trong việc hình thành nếp sống hóa mới, thiết thực và tích cực. Vai trò tích cực trong việc hình thành nếp trong việc hình thành nếp văn hóa mới là vai trò giáo dục thể hiện qua nhiều phương tiện truyền thống. Giáo dục mở hướng đi tới vào thế giới giá trị mới, xa dần các giá trị cũ, như Tôn Ngộ Không kiểm soát, kiềm chế Trư Ngộ Năng vậy.

Hồi thứ 20, 21 và 22

Hồi 20: "Núi Hoàng Phong, Ðường Tăng gặp nạn

Ðón giữa núi, Bát giới lập công"

Hồi 21: "Hộ pháp làm nhà lưu Ðại Thánh

Tu Di Linh Cát bắt Phong Ma"

Hồi 22: "Bát Giới đánh ở sông Lưu Sa

Mộc Xoa vâng lệnh bắt Ngộ Tịnh"

I. Tư tưởng Phật học

- Hành giả tu tập giải thoát nếu chỉ hành trì giới thì khó nhiếp phục được cái động và cái vọng tâm. Tâm động chưa bị hàng phục thì khó đi vào tuệ giải thoát. Công phu tu tập giới là công phu chuẩn bị căn bản giải thoát để tu tập định. Công phu tu tập giới là công phu chuẩn bị căn bản giải thoát để tu tập định. Công phu đến hồi 20 hành giả hẳn là vượt qua ma nạn Hoàng Phong. Ma nạn này là do pháp hữu vi "tam muội thần phong" chắn lối. Tôn Ngộ Không và Trư Ngộ Năng còn non định lực nên bị gió định khắc chế làm tổn hại đến đôi mắt tuệ của Ngộ Không. Phải nhờ đến định lực vững như núi Tu-di (gọi là Tiểu tu-di) của Bồ Tát Linh Cát mới đối trị được quái Hoàng Phong (hồi 20). Sau nạn này, hành giả (phái đoàn Tây du) phải chuyên tâm hành thiền định. Ðây là ý nghĩa phái đoàn Tây du kết nạp thêm Sa Ngộ Tịnh (như đã đề cập ở Tổng luận, hồi 22).

- Phương pháp tu của Phật giáo để chế ngự tâm, điều phục tâm là phương pháp khắc chế. Ngô Thừa Ân giới thiệu phương pháp tu ấy qua các phương cách phái đoàn Tây du chiến tháng các yêu quái. Với "tam muội thần phong" gió độc và mạnh, thì người ta dùng "định phong đan" để trừ. Với đối tượng động thì dùng tĩnh để chế; với đối tượng tĩnh, thì dùng động (của tuệ) để khắc.

II. Quan niệm về con người

- Mức độ cao hơn về giáo dục con người là mức độ "huấn luyện tâm lý", hay thực hành thiền định. Giáo dục có mục đích đem lại cho con người sự ổn định tâm lý và cảm nhận an lạc, hạnh phúc. Giáo dục thiền định vì thế là yêu cầu của học đường, của gia đình và xã hội.

- Trạng thái tâm lý ổn định là trạng thái tự do và sáng tạo, loại bỏ các tâm lý mệt mõi, chán nản, lười biếng và lo âu, và có khả năng nâng cao hiệu năng làm việc, học hỏi hay giảng dạy. Ðây là vai trò chính của ngành Tâm lý giáo dục hiện đại.

III. Quan niệm về xã hội

- Hoàng Phong quái là loại quái vật sinh sống ở cảnh giới Vô ngã, nhưng do tu luyện chưa hết tà khí, chưa an trú vào Giới uẩn, Ðịnh uẩn, nên gặp duyên thì tà niệm phát tán gây nên tai họa lớn về "tam muội thần phong". Ðây là hình ảnh biểu tượng về hậu quả của sự cải tổ văn hóa giáo dục thiếu triệt để và nghiêm túc, và là biểu tượng về hậu quả tai hại của sự áp dụng sai lạc do không thấu triệt chân giá trị của nền văn hóa, giáo dục Vô ngã.

- Ðể tránh hậu quả trên, lực lượng cải tổ xã hội cần được giáo dục kỹ nội dung của văn hóa Vô ngã và sự trung thành quyết tâm thể hiện nên văn hóa này, một nền văn hóa của tinh thần "tùy duyên nhi bất biến". Ðấy là ý nghĩa của hai khí giới mà Như Lai trao cho Linh cát Bồ Tát để hàng phục quái Hoàng Phong gồm có:

- "Ðịnh phong đơn" biểu trưng của tinh thần bất biến.

- "Phi long trượng" (con rồng vàng chín móng) biểu tượng cho tinh thần tùy duyên, vận dụng uyển chuyển và sinh động.

Nếu tinh thần Văn hóa Vô ngã được hiểu một cách khẳng định như văn hóa hữu ngã, thì Vô ngã biến thành ngã vô (tà pháp), và hậu quả của nền văn hóa này sẽ gây nên cảnh "hỗn thế" không khác gì với nền văn hóa hữu ngã của xã hội cũ. Nền văn hóa mới này không đối lập với bất cứ một nền văn hóa nào khác cả, vì thế nó có thể cùng tồn tại bên cạnh nền văn hóa cũ. Giá trị đích thực của nền văn hóa này là ở cái tâm hành động được điều động bởi tâm lý vị tha, nhân ái và bởi trí tuệ không chấp thủ, không tham ái, sân hận. Giá trị của cuộc sống là ở chữ Tâm, như những gì mà Tôn Ngộ Không đã được giáo dục ở lò luyện tâm (Tà Nguyệt Tam Tinh động). vì giá trị nằm ở cái tâm, nên cái tâm con người cần được làm chủ trước, cải thiện trước.

Hồi thứ 23

Hồi 23:

"Tam Tạng không quên gốc

"Bốn thánh thử lòng thiền"

I. Tư tưởng Phật học

- Công phu giải thoát càng vào sâu càng đòi hỏi hành giả phát triển sâu Giới, Ðịnh, Tuệ; càng vào sâu, các tâm lý trói buộc càng tinh tế. Hành giả càng tinh tấn, nỗ lực và giác tỉnh liên tục mới phát triển được định và tuệ giải thoát. Ðiều kiện đòi hỏi trước tiên và ít nhất là: hành giả phải dứt trừ dục ái, vì vậy bốn vị Bồ Tát (Lê Sơn, Quán Âm, Phổ Hiền và Văn Thù) - Lê Sơn biểu tượng của đại nguyện; Phổ Hiền biểu tượng của đại định và đại hạnh; Quán Thế Âm biểu tượng của đại bi và đại trí; Văn Thù là biểu tượng đỉnh cao của trí tuệ giải thoát - thị hiện ra trắc nghiệm phái đoàn Tây du và hỗ trợ cho phái đoàn trước khi đi vào một giai đoạn mới. Qua cuộc trắc nghiệm này, Trư Bát Giới bộc lộ rõ lòng trần (dục ái) chưa sạch, cần được cảnh giác tu tập nhiều hơn.

II. Quan niệm về con người

- Tâm lý tham dục thường che mờ tâm trí con người, đưa đẩy con người vào các sai lầm, đánh mất lý tưởng nhân sinh và xã hội cao thượng. Ðây là điểm tâm lý cần được giáo dục, huấn luyện kỹ để tránh các rối loạn cho cá nhân, gia đình và xã hội. người mà nặng lòng tham, nhất là tham sắc, thì có khuynh hướng sống vị kỷ, gây tổn hai tha nhân, dễ đánh mất nhân cách tốt đẹp của con người và dễ rơi vào phiền não, khổ đau lâu dài.

III. Quan niệm về xã hội

- Do từ tư duy hữu ngã mà chấp thủ ngã tướng sinh và lòng khởi lên tham lam, sân hận, ích kỷ, ganh ghét, đố kỵ... Chính xác tâm lý xấu này sẽ bộc hiện ra các hành động hại mình, hại người.

- Ðể chế ngự tư duy ấy và các tâm lý xấu ấy, con người cần phải thường huấn luyện Văn, Tư, Tu về Vô ngã, vị tha. Ðây là hệ văn hóa giáo dục thực tiễn và thực nghiệm. Xã hội phải có những con người này trước thì công cuộc xây dựng và phát triển đất nước mới thành công tốt đẹp.

Ngô Thừa Ân đã chọn lựa con đường văn hóa này, khảo sát các hồi tiếp chúng ta sẽ rõ.

Hồi thứ 24, 25 và 26

Hồi 24 : "Núi Vạn Thọ, Ðại Tiên lưu bạn cũ

Quán Ngũ Trang, Hành Giả trộm nhân sâm"

Hồi 25: "Trấn Nguyên Tử đuổi bắt người lấy kinh

Tôn Hành Giả làm nhộn Ngũ Trang quán"

Hồi 26: "Nơi Tam Ðảo, Ngộ Không tìm thuốc

Nước Cam Lồ, Bồ Tát chữa cây"

I. Tư tưởng Phật học

Tư tưởng Phật học ở ba hồi này đã được bàn ở phần Tổng luận.

II. Quan niệm về con người

Tư tưởng Nho học vẫn là tư tưởng chủ đạo của nền văn hóa Trung Hoa vào thế kỷ XVI (thế kỷ mà Ngô Thừa Ân sống) và qua hầu như suốt dòng lịch sử Trung Hoa cho đến thế kỷ XIX. Hệ thống tư tưởng này đã xây dựng nên chế độ phong kiến. Con người và nhân cách con người được giáo dục theo khuôn mẫu Nho giáo với công thức đầy ước lệ về Hiếu, Trung, Tình, Nghĩa... hay Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín rất máy móc và rất hình thức. Nhân cách đó đã trói buộc sự phát triển con người và tính nhân bản của con người, và hạn chế cả sự phát triển xã hội. Nhân cách đó quá tù hãm con người, không đáp ứng được các biến động đổi thay của con người và xã hội, cũng không đáp ứng được các yêu cầu mới của lịch sử. Như đã đề cập, Ngô Thừa Ân muốn đi tìm một mẫu nhân cách mới, rất người và đáp ứng được mơ ước của con người của nhiều thời đại. Ngô Thừa Ân đã kín đáo giới thiệu nhân cách ấy qua tiểu thuyết Tây Du Ký. Mở ra cuộc Tây du vĩ đại là tác giả muốn mở bung ra cái xã hội bị khép kín của Trung Hoa, khép kín cả nhận thức và thái độ sống, điều mà ngày nay cả thế giới đều thấy: vì sự khép kín ấy mà nền văn minh và có giá trị của Trung Hoa chậm phát triển.

Dựng nên ba hồi 24, 25 và 26 này là Ngô Thừa Ân muốn nói rõ ra một nhân cách mới cần tạo dựng cho văn hóa Trung Hoa. Tác giả đã để cho Tôn Ngộ Không (tiếng nói của nền văn hóa Phật giáo) đánh bật gốc rễ cây nhân sâm quý giá (có mặt từ lúc trời đất mới khai tích) tại Ngũ Trang Quán - biểu tượng của âm dương và ngũ hành của Nho giáo - và phải nhờ đến nước Cam lồ (của trí tuệ Phật giáo tưới vào mới làm sống lại cây nhân sâm. Tác giả, qua hình ảnh đó, muốn cải thiện bổ sung vào nhân cách của Nho giáo trí tuệ đó mới làm sống lại nhân cách lý tưởng của nền văn hóa truyền thống. Chỉ là công việc chuyển đổi, cải thiện, mà không phải là phế bỏ hay thay thế hoàn toàn. Nhân cách Vô ngã ấy sẽ được phát triển tốt và mạnh trong một xã hội dân chủ, nhân ái và công bằng.

III. Quan niệm về xã hội

- Lại nói về chuyện cây nhân sâm và Ngũ Trang Quán, như được đề cập ở phần Tổng luận, Tôn Ngộ Không đã đánh bật gốc rễ cây nhân sâm, cây nguồn gốc của các pháp hữu vi của hiện tượng giới - cũng là biểu tượng của Nho và Lão, trí tuệ Vô ngã của Ngộ Không chỉ đánh bật gốc rễ của thế giới nhị nguyên, hữu ngã, nhưng chưa có khả năng giải quyết sinh tử. Chỉ có trí tuệ Ba La Mật của Bồ Tát Quán Thế Âm là giải quyết được sinh tử, làm hồi sinh cây nhân sâm.

- Bồ Tát đã lấy nước từ trong cây ấy bằng trí tuệ Vô ngã rồi đem tưới vào cây ấy thì cây liền sống lại. Cũng thế, chân tướng có mặt ở nơi các ngã tướng; vô sinh có mặt nơi sinh diệt; giải thoát có mặt tại cuộc đời, tại phiền não. Trí tuệ Vô ngã của Phật giáo mở ra con mát tuệ cho con người thấy sự thật đó. Chuyện hồi sinh cây nhân sâm là bài thuyết pháp thâm diệu mà Bồ Tát Quán Thế Âm đã giảng bày cho Trấn Nguyên Tử và các Thiên tiên, Ðịa tiên, và phái đoàn Tây du. Ðiều này được làm rõ nghĩa thêm ở hình ảnh một quả nhân sâm rơi xuống đất liền biến mất vào đất, đến lúc hồi sinh thì quả nhân sâm liền trở về lại cây. Với con mắt hữu ngã (sinh diệt) thì bảo là quả nhân sâm đã mất, rồi phiền não, bực bội vì nó, và nghi oan cho Tôn Ngộ Không trộm. Thực sự, Bồ Tát Quán Thế Âm đã cắt nghĩa cho thấy quả nhân sâm chỉ có hay mất dưới cái nhìn sinh diệt của ngã tướng; nhưng, nó là bất sinh bất diệt đối với thực tại như thật, và đối với cái nhìn Vô ngã; Quả nhân sâm từ trên không rơi chạm đất thì liền biến mất là ý nghĩa khi có mặt đủ âm, dương (đất trời) thì thật tướng biến mất (biểu tượng bằng hình ảnh biến mất của quả nhân sâm), nhưng khi có nước cam lồ của trí tuệ Vô ngã rưới vào thì thực tướng xuất hiện (như hình ảnh quả nhân sâm sau khi biến mất lại tái hiện trên cành).

- Tác giả Ngô Thừa Ân muốn giới thiệu cái nhìn Vô ngã này với xã hội Trung Hoa, muốn đưa cái nhìn ấy vào nền văn hóa, giáo dục Trung Hoa để hồi sinh cho nền văn hóa này vốn thường ở trong điều kiện hầu như khủng hoảng. Cái nhìn Vô ngã đi vào một nền văn hóa Vô ngã. Nền văn hóa mới này đến không xáo trộn nền văn hóa cũ, và không phải đến từ nền văn hóa ấy. Nó phát sinh từ trong lòng cuộc sống đang trôi chảy và chuyển hóa cái nhìn nhị nguyên thành cái nhìn Vô ngã về dòng sống đang trôi chảy. Việc xiển dương nền văn hóa, giáo dục này nếu được gọi là cách mạng văn hóa giáo dục, thì cũng không đúng; nhưng nếu không được gọi là cuộc cách mạng văn hóa giáo dục, thì cũng không đúng. Ở đây, chúng ta tạm gọi là một cuộc cải tổ văn hóa, giáo dục theo tinh thần Phật giáo dưới cái nhìn của Ngô Thừa Ân.

Sau khi cây nhân sâm được hồi sinh, Trấn Nguyên Tử, các Phước, Lộc,Thọ tinh, Bồ Tát và phái đoàn Tây du đã hoan hỷ đề huề trong bữa tiệc gọi là hội "Nhân sâm quả'. Trấn Nguyên Tử lại mở thêm một bửa tiệc riêng để làm lễ kết nghĩa huynh đệ với Tôn Ngộ Không. Kết nghĩa huynh đệ với Tôn Ngộ Không là tế nhị nói lên rằng: Trấn Nguyên Tử được xếp vào hàng đệ tử Bồ Tát Quán Thế Âm (vốn Trấn Nguyên Tử là tổ của Ðịa tiên). Sự kiện này nói lên rằng nền văn hóa, giáo dục Vô ngã của Phật giáo sẽ hòa nhập, hay đi song hành, với nền văn hóa giáo dục tại bản xứ, nơi Phật giáo đặt chân đến. Nền văn hóa giáo dục Phật giáo có khả năng sẽ làm thăng hoa hồi sinh nền văn hóa giáo dục cũ.

Tưởng chúng ta cũng cần để tâm suy gẫm đến câu chuyện cây nhân sâm này. chúng ta có cảm tưởng rằn cảm hứng của Ngô Thừa Ân đã bật khởi mạnh mẽ như thế nào về sự nghiệp Tây du và hóa đạo của Ðường Tăng, thì cảm hứng của ông cũng bật khởi mạnh mẽ như thế ấy khi dựng nên hình ảnh cây nhân sâm bật gốc và cây nhân sâm hồi sinh.

Hồi thứ 27, 28, 29, 30 và 31

Hồi 27: "Thây ma ba lượt trên Tam Tạng

Ðường Tăng giận đuổi Mỹ Hầu Vương"

Hồi 28: "Núi Hoa Quả lũ yêu hợp nghĩa

Rừng Hắc Tùng Tam Tạng gặp ma"

Hồi 29: "Thoát nạn Giang Lưu về đất nước

Ðội ơn Bát Giới chuyển sơn lâm"

Hồi 30: "Tà ma phạm chánh đạo

Tiểu Long nhớ Ngộ Không"

Hồi 31: "Bát Giới lấy nghĩa khích Hành Giả

Ngộ Không dùng trí phục Ma Vương"

I. Tư tưởng Phật học

- Hồi 27 đã được bàn đến ở phần Tổng luận. Tại đây, một số điểm sẽ được bàn thêm.

Ðường Tăng suốt cuộc hành trình thì chỉ một chiều trang nghiêm giữ gìn giới tướng, một lòng giữ chặt điều nhân, chỉ tu giới và tu phước mà thiếu hẳn đôi mắt trí tuệ để phân biệt thật, giả, thiếu hẳn đôi mắt của Thánh hữu học để nhận ra các tướng ma quỷ trá hình. Do vì thiếu tuệ nhãn mà Ðường Tăng không biết nghe theo Tôn Ngộ Không, lại nghe tiếng nói đố kỵ, hiềm khích và thiểu trí của Trư Bát Giới, nên vướng ngay vào các thảm họa của các ma nạn:

* Ba lần Ngộ Không đánh chết Bạch cốt tinh là ba lần bị Ðường Tăng quở la và niệm chú "khẩn cô nhi" để hành hạ. Lần cuối thì Ðường Tăng viết giấy dứt tình thầy trò dù Tôn Ngộ Không đã cạn lời phân tỏ. Ngô Thừa Ân đã rất thiện xảo dựng nên cảnh "Bạch cốt phu nhân" để giới thiệu sâu sắc giáo lý Phật giáo: Từ bi, Trí tuệ và Bồ Tát hạnh.

- Từ bi của Phật giáo, như đã bàn, đi đôi với trí tuệ và cần được trí tuệ soi tỏ. Từ bi mà tách rời khỏi trí tuệ thì không còn ý nghĩa từ bi; bấy giờ nó trở thành tương phản với từ bi của Phật giáo.

- Hạnh Bồ Tát, theo Phật giáo, là hạnh biểu hiện ba sức mạnh chính: trí tuệ là linh hồn; thiền định là sức mạnh; và từ bi là sắc thái đặc thù, là sứ mệnh độ sinh. Ðường Tăng thì thiếu mất sức mạnh của định lực và của trí tuệ Vô ngã. Vì thế, thảm kịch trong công phu giải thoát xẩy ra. Ðây là hiểm họa trên đường về giải thoát mà Tôn giả Tu Bồ Ðề gọi là họa "bi phong" thổi mạnh làm tan rã công phu giải thoát của hành giả, và đã căn dặn Tôn Ngộ Không cẩn thận đề phòng! Biến cố cắt đứt thâm tình sư đệ này đã làm tan rã phái đoàn Tây du và làm lạnh buốt cơ thể giải thoát của phái đoàn. Sau khi Tôn Ngộ Không rời phái đoàn, phái đoàn đã kéo lê những bước đi thất thểu, mệt mõi, thê lương! Tại đây, Ngô Thừa Ân đã giới thiệu mạnh mẽ với người đời rằng: không có một hạnh tu nào của Phật giáo, hay không có một công phu giải thoát nào của Phật giáo mà vắng mặt trí tuệ cả. Hễ ánh sáng đi thì bóng tối đến. Nếu vắng mặt Tôn Ngộ Không thì ma "Bạch cốt phu nhân" xuất hiện hãm hại. Ma bạch cốt là biểu tượng của cõi vô minh, âm u của tham, sân, si và quyến thuộc của tham, sân, si.

- Qua hồi 27 đầy bi kịch này, Ngô Thừa Ân cũng nói lên sự thật theo giáo lý nhà Phật rằng: chân lý chỉ có mặt trong trí tuệ giải thoát mà không có mặt trong thiền định, giới luật và lòng nhân đạo, như phái đoàn Tây du chỉ có Tôn Ngộ Không thấy rõ chánh, tà, chân, ngụy, còn Ðường Tăng, Sa Ngộ Tịnh và Trư Ngộ Năng thì không; vì thế mà trí tuệ Ba La Mật là giải thoát tối hậu, và chỉ có trí tuệ này mới thể nhập thực tướng của các pháp theo chân lý Nam, Bắc truyền.

- Ở hồi tiếp theo, hồi 28, tác giả đưa Ðường Tăng, Ngộ Năng và Ngộ Tịnh sa vào nạn thiên ma ở rừng Hắc Tùng để cảnh giác Ðường Tăng, Ngộ Năng và Ngộ Tịnh, vừa như để trừng phạt, cảnh cáo kẻ tu hành thiếu trí, và trừng phạt cách xử sự "hồ đồ" của Ðường Tăng và Bát Giới.

- Tác giả để cho ma vương ở rừng Hắc Tùng biến Ðường Tăng thành con hổ cũng với dụng ý ấy. Ðến cuối hồi 28 này thì Tôn Ngộ Không chiếm lại đạo tình đã mất trong phái đoàn.

- Theo kinh tạng Phật giáo thì chỉ có người trí mới biết ca ngợi ngôi Tam Bảo; chỉ có người trí mới phê phán đúng các việc làm của người trí, do vậy việc hàng phục tà của Tôn Ngộ Không không được Ðường Tăng, Trư Ngộ Năng và Sa Ngộ Tịnh hiểu đúng để rồi xẩy ra các hiềm khích, ngộ nhận.

II. Quan niệm về con người

- Có một vấn đề giáo dục hiện đại mà Ngô Thừa Ân đã đặt ra suốt tập truyện, đặc biệt là trong các hồi từ 27 đến 31, là giáo dục con người thể hiện sự hòa điệu trong tự thân mỗi người: thế nào để điều hòa giữa tim và óc (từ bi và trí tuệ), giữa lý trí, tình cảm, dục vọng và ý chí của con người, như sự hòa điệu giữa các thành viên của phái đoàn Tây du. Khi nào có mặt sự hòa điệu thì cá nhân ổn định, sáng suốt, an lạc và hạnh phúc. Khi nào tâm thức bất hòa điệu thì tâm lý rối loạn, thiếu sáng suốt và phiền não, khổ đau.

Cũng thế, cần có sự thể hiện hòa điệu giữa cá nhân mình và các cá nhân khác trong một tập thể. Khi nào sự hòa điệu trong tập thể được thể hiện, thì tương giao của tập thể trở nên xấu đi, mất đoàn kết, và các cá thể trong tập thể cảm thấy bất an. Ðây là điểm giáo dục tâm lý rất người và rất thiết thực.

Lý trí và tình cảm, đạo đức và dục vọng thường hay chống trái nhau. giáo dục là giúp con người nhận thức sự thật chống trái ấy và thể hiện quân bình tâm thức theo sự soi sáng của lý trí. Cái nhìn và thái độ sống của Ðường Tăng thì khác với cái nhìn và thái độ sống của Tôn Ngộ Không; cái nhìn và thái độ sống của Bát Giới cũng khác như thế. Nghệ thuật sống phải là nghệ thuật thể hiện hòa điệu tâm lý. Ðây là nghĩa sống lớn và thực của con người.

- Nghĩa sống của tương giao cũng quan trọng. Nghĩa sống ấy là tình người chân thật, sự hiểu biết nhau, sự thông cảm nhau, sự chấp nhận, tin tưởng nhau, và sự tôn trọng nhau. Nếu đầy đủ các yếu tố vừa kể thì đã không xẩy ra cảnh ngộ nhận đầy bi kịch giữa Ðường Tăng và Tôn Ngộ Không, giữa Bát Giới và Tôn Ngộ Không như ở hồi Tôn Ngộ Không đánh chết Bạch cốt tinh.

III. Quan niệm về xã hội

- Sức mạnh của tập thể là sự hợp quần. Sức mạnh ấy được phát triển nếu được hướng dẫn bởi tiếng nói trí tuệ. Nếu thiếu sự hợp quần thì tập thể sẽ tan rã, và nếu sự hợp quần không được thực hiện bởi trí tuệ thì tập thể cũng lâm nguy. Ðây là những gì Ngô Thừa Ân muốn nói ở hồi 27 và 28 (Bạch cốt tinh và rừng Hắc Tùng).

- Tiếng nói trí tuệ thiện xảo của tập thể cần được truyền đạt một cách thiện xảo thì mới có tác dụng sâu rộng trong quần chúng. Nếu tiếng nói trí tuệ đó thiếu sự hỗ trợ của kỹ thuật truyền đạt thì tập thể vẫn có thể rơi vào những khó khăn đáng kể làm suy yếu sức mạnh hợp quần như thái độ nói năng và ngôn ngữ diễn đạt của Tôn Ngộ Không thiếu tế nhị, thiếu khế cơ đã gây ra những cú "sốc" tâm lý ở Ðường Tăng và Bát Giới dẫn đến hậu quả tai hại là Ðường Tăng cắt đứt nghĩa thầy trò với Tôn Ngộ Không. Tôn Ngộ Không cần tỉnh ngộ về hậu quả này mới có thể diễn xuất thiện xảo vai trò của mình.

- Ngoài yếu tố trí tuệ, sức mạnh hợp quần còn cần đến tình người như hình ảnh biểu tượng Bát Giới lấy nghĩa sư đệ để khích Tôn Ngộ Không lên đường cứu thầy, và cần đến lý tưởng như chất keo gắn bó, như hình ảnh Bát Giới nhắc đến Bồ Tát Quán Thế Âm để khích Tôn Ngộ Không "tái xuất giang hồ".

Tại đây, Ngô Thừa Ân muốn nói rằng: con đường văn hóa giáo dục mới là cần thiết mà những kỹ thuật vận dụng để thực hiện vào đời còn cần thiết hơn.

Hồi thứ 32, 33, 34 và 35

Hồi 32: "Núi Bình Ðính, cây tào truyền tín

Ðộng Liên Hoa, Bát Giới gặp tai"

Hồi 33: "Ngoại đạo làm mê tính thực

Nguyên thần đến giúp lòng ngay"

Hồi 34: "Ma Vương mưu giỏi khốn Hầu Vương

Ðại Thánh khéo lừa lấy bửu bối"

Hồi 35: "Ngoại đạo ra oai lừa kẻ thẳng

Ngộ Không được báu phục tà ma"

I. Tư tưởng Phật học

- Sau phần tu tập cũng cố từ bi kết hợp với trí tuệ là phần đề cập đến vấn đề Giới tu tập với Tuệ. Giới mà tách rời hẳn Tuệ thì giải thoát bị tù hãm ngay, như Bát Giới đi tuần một mình ở núi Bình Ðính liền bị thiên ma Ngân Giốc và Kim Giốc cầm tù tại động Liên Hoa.

Ngân Giốc và Kim Giốc vốn là hai tiểu đồng của Thái Thượng Lão Quân do Bồ Tát Quán Thế Âm chủ ý mượn để dựng lên cảnh nạn ở động Liên Hoa để củng cố công phu tu tập của hành giả, của phái đoàn thỉnh kinh.

Các bửu bối đều là các sức mạnh rút ra từ đầu nguồn của thế giới nhị nguyên. Qua được cảnh nạn này là hành giả có kinh nghiệm tu tập để thắng vượt một số trói buộc của Tam giới. Tại đây, đúng như giáo lý Phật giáo, tác giả Ngô Thừa Ân xác định vai trò của giới chỉ để chế ngự các hành động của thân và khẩu, và chỉ chế ngự được dục ái mà khó qua được ý nghiệp với nhiều sức mạnh cản trở thuộc thế giới của hữu ái và vô hữu ái (của các cõi Trời sắc và Vô sắc). Ðịnh cũng thế. Với các tâm sắc giới thanh cao, thì khả năng của định chưa sâu cũng khó tránh sự đắm trước chấp thủ chúng, như Ngộ Tịnh dễ dàng bi Ngân Giốc và Kim Giốc cầm giữ. Ở đây chỉ có sức mạnh của trí tuệ Vô ngã là có thể chiến thắng, nếu trí tuệ đó đi đôi với đại định và thanh tịnh giới. Nếu giới yếu và định yếu thì hành giả sẽ rơi ngay vào cảnh nạn trên đường về giải thoát, như trường hợp của phái đoàn Tây du tại núi Bình Ðính này.

- Nếu trí tuệ thiền quán Vô ngã chưa sâu thì sẽ không quán sát rõ khía cạnh nguy hiểm, trói buộc của các tâm Sắc giới và Vô sắc giới, như Tôn Hành Giả tại núi Bình Ðính không hiểu cách sử dụng của sợi dây vàng và đã bị Ngân Giốc niệm chú dùng dây vàng trói Hành giả, và dùng hồ lô thu Hành giả. Nếu người tu có tu tập thiền định thấy rõ được khía cạnh nguy hiểm của các thiền tâm, thì công phu thiền quán Vô ngã sẽ thấy rõ con đường xuất ly khỏi trói buộc của các thiền tâm, như Tôn Hành Giả sau khi bị trói và bị nhốt kín vào hồ lô đã tự kiếm được lối ra và đi đến chiến thắng Kim Giốc và Ngân Giốc.

II. Quan niệm về con người

- Trong nội dung để giáo dục con người phát triển toàn diện có phần quan trọng về giáo dục đạo đức. Nếu giáo dục chỉ chú trọng đến đạo đức mà không dựa vào cơ sở lý trí và trí tuệ - nghĩa là nội dung đạo đức không phù hợp với thực tế con người và thực tế xã hội, lịch sử - thì đó là một nền giáo dục bất toàn, khập khểnh cần được cứu nguy, hệt như Bát Giới (biểu tượng cho giáo dục, kỷ luật, luân lý, đạo đức) đi một mình đến động Liên Hoa thì bị lâm nguy cần được Tôn Hành Giả cứu.

- Có một số vấn đề nội dung giáo dục đức và trí cũng tạo ra một bộ mặt con người nhất thời có giá trị, mà thực ra là kìm hãm sự phát triển nhân cách toàn diện của con người, tù hãm con người. Ðó là nội dung giáo dục sản phẩm của tư duy hữu ngã (nhị nguyên) đầy ước lệ như các khuôn mẫu trung, hiếu, tiết, nghĩa..., và cá giá trị học thuật rất từ chương. Nền văn hóa giáo dục ấy vẫn có khả năng thu hút đông đảo quần chúng, mê hoặc lòng người, nhưng thiếu hẳn giá trị sự thật khách quan của cuộc đời và giá trị nhân bản đích thực. Giá trị của nền văn hóa, giáo dục ấy càn được xét lại. Nói rõ ra, nền văn hóa, giáo dục của xã hội phong kiến Trung Hoa được biểu tượng qua hình ảnh Kim Giốc và Ngân Giốc (biểu trưng cho lưỡng nghi) và năm bửu bối (biểu trưng cho ngũ hành) đã bị đánh bại bởi nền văn hóa, giáo dục nhân bản và trí tuệ của Phật giáo (được biểu tượng bằng hình ảnh Tôn Hành Giả).

Bồ Tát Quán Thế Âm đã mượn năm bửu bối của Thái Thượng Lão Quân và hai tiểu đồng để giàn cảnh vây hãm Tôn Ngộ Không ở động Liên Hoa. Cuộc đọ sức này đã xác định ở đây rằng Tôn Ngộ Không ở động Liên Hoa. Cuộc đọ sức này đã xác định ở đay rằng Tôn Ngộ Không đã thắng điểm tuyệt đối (thật sự là đã Knock-out) Ngân Giốc và Kim Giốc. Không phải Bồ Tát Quán Thế Âm thiếu người và bửu bối mà phải mượn người và bửu bối của Thái Thượng Lão Quân, mà Bồ Tát muốn để cho người đời, và cả Tôn Ngộ Không thấy rõ giá trị của nền văn hóa, giáo dục của Phật giáo (đại diện là Tôn Ngộ Không do Tôn giả Tu Bồ Ðề chỉ dạy) ưu việt hơn nền văn hóa giáo dục của Nho giáo (đại diện là 2 đên tử và năm bửu bối của Thái Thượng Lão Quân). Ðiểm ưu việt thứ nhất là về giá trị nhân bản: con người có khả năng bên trong mỗi người có thể tự vận dụng để giải quyết các vấn đề khó khăn trong cuộc sống. Tự tín và tự lực mà không phải đánh mất mình bằng sự dựa vào sức mạnh b ên ngoài(ngược lại Kim và Ngân giốc dựa vào bửu bối), không để bất cứ sức mạnh nào ở ngoại giới quyết định sinh mệnh mình hay sinh mệnh xã hội mình. Ðiểm ưu việt thứ hai là giá trị về Vô ngã tùy duyên rất thiện xảo, thoát ngoài sự trói buộc của các giá trị cố định của nền văn hóa, giáo dục ước lệ đương thời của Trung Hoa.

Ngô Thừa Ân đã khéo lồng tâm sự và hoài bảo của mình vào tron bốn hồi tiểu thuyết này, và muốn xã hội Trung Hoa chú ý đến mẫu người văn hóa và giáo dục Tôn Ngộ Không được đào tạo từ núi Linh Ðài Phương Thốn (thuộc Linh Thứu sơn, Lôi Âm tự), động Tà Nguyệt Tam Tinh (chữ Tâm) và có kinh nghiệm về Giới và Ðịnh ngang mức độ bấy giờ tại động Liên Hoa.

III. Quan niệm về xã hội

- Song song với công tác văn hóa và giáo dục để giáo dục con người là công tác xây dựng và phát triển xã hội.

- Ở hồi từ 27 đến 31, Tôn Ngộ Không do thiều tinh tế về mặt vận động tâm trí (trí phương tiện) đã tạo ra sự chia rẽ làm tan rã hàng ngũ. Tại đây, Tôn Ngộ Không đã thức tỉnh, không quá ỷ lại vào sức mạnh của trí tuệ Vô ngã của mình, nên đã khéo vận dụng tâm lý Ðường Tăng và Trư Ngộ Năng tạo nên sức mạnh hợp quần trước khi tiến vào mặt trận xây dựng và phát triển xã hội.

- Tại đây, sau khi có sức mạnh hợp quần, và sau khi sức mạnh của kỷ luật và trí tuệ của tập thể được nâng cao, tập thể còn cần đi từng bước tổ chức khéo léo và hợp lý hợp tình như Tôn Ngộ Không đã khéo léo khắc chế được năm bửu bối, Ngân Giốc, Kim Giốc và các yêu động Liên Hoa.

Ðây là vài điểm cần nắm vững trong toàn bộ kế hoạch xây dựng một nền văn hóa giáo dục mới tại một xã hội cũ đầy thành kiến, định kiến sai lầm về con người và xã hội.

Hồi thứ 36, 37, 38 và 39

Hồi 36: "Tâm Viên đứng đắn thắng cơ duyên

Trừ bỏ đạo tà lòe ánh sáng"

Hồi 37: "Vua quỷ đương đêm cầu trưởng lão

Ngộ Không hóa phép dẫn Hài nhi"

Hồi 38: "Trẻ thơ hỏi mẹ hay tà chính

Kim Mộc thăm dò rõ thực, hư"

Hồi 39: "Một hạt kim đơn xin thượng giới

Ba năm vua cũ về dương gian"

I. Tư tưởng Phật học

- Ở hồi 39, trong đoạn đối thoại giữa Bồ Tát Văn Thù và Tôn Hành Giả về thuyết nhân quả của Phật giáo, tác giả Ngô Thừa Ân đã hơi gượng ép trình bày ra thuyết "tiền định" của Nho giáo không phù hợp với nhân quả Phật giáo - không biết có do sự xen kẽ của các người sao chép đời sau không?! - Tuy thế, cũng không hẳn là hoàn toàn xa nhân quả Phật giáo. thuyết "Tiền định" nói: "Nhất ẩm nhất trác giai do tiền định" vẫn có nét na ná với nhân quả Phật giáo, loại định nghiệp.

- Về điểm tác giả trình bày cung Ðâu Suất ở tầng trời Tam Thập Tam, thật ra trời Tam Thập Tam là cõi trời thứ hai của Dục Giới thiên, còn Ðâu Suất là cõi trời thứ tư của Dục Giới thiên. Ðây là một điểm khuyết khuyết nhỏ khác.

- Cũng ở hồi 36, tác giả cho biết rõ thêm rằng: người tu tập giải thoát, hành Bồ Tát hạnh không phải ở đâu trong bất cứ trường hợp nào, việc biểu lộ lòng nhân ái, ôn hòa cũng đúng. Ðối với hạng căn cơ như vị Tăng quan chỉ sợ uy quyền mà xem thường tu sĩ thì phải vận dụng tinh thần "tùy duyên nhi bất biến", phải thị uy như Tôn Ngộ Không đã ra uy mới nhiếp phục được.

- Câu chuyện con sư tử của Bồ Tát Văn thù xuốn trần gian theo chỉ thị của Ðức Phật là để khai sáng thêm cho phái đoàn Tây du. Ðiểm trí tuệ được khai sáng ấy nhắc nhở Tôn Ngộ Không biết cần phải truyền đạt rõ ràng giáo lý nhà Phật hầu quần chúng có một chánh kiến, chánh tư duy dẫn đến chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng chánh tinh tấn, chánh n iệm và chánh định. đây là trí tuệ về nhân quả minh bạch đề cao các hành động thiện và trừng phạt các hành động ác (như câu chuyện của vua nước Ô Kê, hồi 37 và 38); và trí tuệ nhìn thấy rõ giá trị thực của mỗi hành động của mỗi người; giá trị ấy nằm ở cái thật tâm tác động lên hành động, mà không phải là cái tướng trạng biểu hiện ở bên ngòai của hành động, như hình ảnh vua Ô-Kê thật và vua Ô-Kê giả, Ðường Tăng thật và Ðường Tăng giả. Về tâm đại từ, đại bi cũng thế, luôn luôn ở về phía Giới, Ðịnh, Tuệ (có mặt trong Giới, Ðịnh, Tuệ hay an trú trong Giới, Ðịnh, Tuệ), như Ðường tăng thật chỉ có Ngộ Không, Ngộ Năng và Ngộ Tịnh kết hợp mới nhận ra. Vua Ô-Kê giả dù có có pháp thuật biến hóa ra một Ðường Tăng giống hệt về thân hành, khẩu hành thì chân tướng của tâm (ý hành) cũng không thể nào giấu được cái hư giả của nó (vì không biết niệm chân ngộ "khẩn cô nhi"). Mọi thiện nghiệp, ác nghiệp ở đời đều căn cứ vào ý hành mà thẩm định giá trị, như chỉ có hoàng hậu thật của vua Ô-Kê mới có thể nhận ra vua Ô-Kê nào thật hay là giả.

II. Quan niệm về con người

- Trong vấn đề giáo dục con người, cần có kỹ thuật giáo dục cho phù hợp với từng loại tâm lý, tính tình. Kỹ thuật giáo dục này áp dụng linh động cho từng trường hợp cho từng cá nhân khác nhau. với vị Tăng quan (hồi 36) chỉ sợ quyền lực thì cần ra uy để nhiếp. Với vị này, ngôn ngữ và thái độ lịch nhã của Ðường Tăng không đem lại hiệu quả; có khi còn phản tác dụng.

- Giá trị của hành động đạo đức của con người xã hội cần dựa vào tâm chủ động tắc động trên hành động để đánh giá, như phải dựa vào cái tâm cái tình của vua Ô-Kê thật để phân biệt vua Ô-Kê nào là thật, vua Ô-Kê nào là giả, Ðường Tăng nào là thật, Ðường Tăng nào là giả. Nếu tiêu chuẩn giá trị của giải thoát là lòng đại bi và Giới, Ðịnh, Tuệ thì tiêu chuẩn giá trị đạo đức của xã hội phải dựa vào cái tâm thiện, chân thật vì lợi ích, an lạc, hạnh phúc của số đông, như phải dựa vào tấm chân tình của hoàng hậu Ô-Kê để phân biệt vua Ô-Kê thật, giả.

- Cơ sở của đạo đức hay thiện, ác của con người cần dựa vào luật tắc tự nhiên của nhân quả, nghiệp báo: điều thiện là điều phải làm, cần làm cho mình và người vì nó sẽ đem lại an lạc, hạnh phúc cho mình và người trong hiện tại và tương lai. điều ác thì ngược lại. Hành động đạo đức phải là hành động phát xuất từ tâm tự nguyện của mỗi người và từ chính nhận thức và ý chí muốn làm của người ấy, mà không phải vì bị áp đặt hay vì nhân danh một thế lực nào từ bên ngoài. Ðây là hướng đạo đức nhân bản, theo đó, các quy ước về hiếu, trung, tình, nghĩa, đễ... của văn hóa Trung Hoa đương thời cần được xét lại giá trị.

III. Quan niệm về xã hội

- Các giá trị đạo đức, luật pháp của một xã hội cần được thiết lập lại theo hướng văn hóa giáo dục nhân bản và trí tuệ. Theo đó tinh thần trách nhiệm cá nhân được đề cao làm cơ sở để thi hành luật pháp nghiêm minh. Thiếu tinh thần trách nhiệm cá nhân thì luật pháp sẽ không có cơ sở vững chắc để thi hành, xã hội sẽ đại loạn. Cần cai trị bằng luật pháp mà không phải bằng uy quyền của nhà vua, hay bằng hình phạt do nhà vua tùy tiện đặt ra để củng cố ngai vàng. Tinh thần trách nhiệm này nằm gọn trong giáo lý nhân quả, nghiệp báo của Phật giáo.

- Giáo lý nhân quả nghiệp báo được soi sáng bằng trí tuệ Vô ngã sẽ là cơ sở đạo đức cho con người và xã hội. Con người có thể trốn chạy pháp luật để đi vào các hành động sai lầm gây xáo trộn các tổ chức xã hội, nhưng con người không thể chạy trốn lương tâm mình, không thể trốn khỏi sự thật nhân quả. Giáo lý nhân quả, nghiệp báo vì vậy sẽ hữu hiệu hướng dẫn con người vào đời sống lương thiện vì lợi ích của bản thân, và sẽ giúp xã hội gìn giữ công bằng, thi hành luật pháp nghiêm minh.

Biểu hiện của các hành động và kết quả việc làm của con người trong xã hội là quan trọng, nhưng thực chất giá trị của hành động vẫn nằm trong cái tâm thiện, đạo đức (được trí tuệ soi sáng) chủ động hành động. Giá trị sống này sẽ là nhân tố dựng nên một nền văn hóa giáo dục nhân bản và thiết thực - như vừa đề cập ở phần quan niệm về con người. Nhà lãnh đạo xứ sở cần được chính danh: có đủ tài, đức và tinh thần trách nhiệm, như là Tôn Ngộ Không đã đưa vua Ô-Kê thật trở về lại ngai báu. Nhà lãnh đạo có xứng đáng thì các cộng sự mới xứng đáng tương xứng, nhân dân mới sống hiền thiện và có nơi nương tựa tốt đẹp và vững chắc. Nhân dân an cư lạc nghiệp thì xã hội mới hưng thịnh. Phải chăng đây là tâm sự, thao thức về một xã hội Trung Hoa tốt đẹp của Ngô Thừa Ân đã được lồng vào các hồi truyện 36, 37, 38 và 39?

CHƯƠNG BA

Ngô Thừa Ân, hay Tây Du Ký

với vấn đề một nền văn hóa hậu hiện đại.

I. Nhìn chung

Tình người, an lạc và hạnh phúc cho con người trong đời sống hiện tại là mơ ước nghìn thu của cuộc đời. Các văn hào, thi hào, nghệ sĩ, đạo sĩ, các nhà xã hội, văn hóa, giáo dục tư tưởng qua các thời đại vẫn tự nhận cái sứ mệnh nói trên niềm mơ ước rất người ấy.

Ðức Phật Thích Ca đã dạy: "Ta ra đời vì lợi ích, an lạc của Chư Thiên và loài Người". Có lẽ Ngô Thừa Ân nghe được lời dạy ấy vọng lên trên từng dòng kinh Phật nên mới sáng tác bộ tiểu thuyết Tây Du Ký để thể hiện sứ mệnh của một tư tưởng lớn giới thiệu một hướng văn hóa đầy tình người, an lạc và hạnh phúc. Tác giả hâu như đặt trọn niềm tin vào đấng Toàn Giác như một nhà đại giải thoát và đại văn hóa của nhân loại, vừa giới thiệu con đường thoát khổ vừa đề bạt một hướng văn hóa mới cho nhân dân Ðông Ðộ.

Ngày nay, xã hội đã ý thức rằng giáo dục làm nên văn hóa và văn minh, công việc xây dựng một nền văn hóa mới là công việc xây dựng một hệ thống giáo dục mới đòi hỏi có sự hoàn bị về lý thuyết nhân tính (Theory of Personnality) xác định rõ con người như thế nào là câu hỏi về nội dung giáo dục và kỹ thuật giáo dục. Tại đây cần xây dựng một triết lý về con Người, đề cập đến vai trò của nhận thức, tư duy hữu ngã và vấn đề giá trị, đạo đức của đời sống.

Về con Người, nền văn hóa cổ Hy Lạp và La Mã chưa có tiếng nói thuyết phục; nền văn hóa Trung Hoa cũng thế, chưa có một cái nhìn ổn định. Ngô Thừa Ân nhận thấy cần có cái nhìn mới ấy đang ngự trị Lôi Âm tự, vùng văn hóa Tây Trúc. Nền văn hóa này giới thiệu con người là một tập hợp của Năm uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành thức uẩn. Sắc uẩn là phần vật lý; thọ, tưởng, hành, và thức thuộc tâm lý. Bên trong con người Năm uẩn ấy có mặt trong nguồn năng lực và một trí tuệ vô hạn có thể giúp con người chuyển khát vọng hạnh phúc và chân lý thành hiện thực ngay tại đời sống này.

Sắc uẩn gồm có nội sắc (thân vật lý của mình) và ngoại sắc (thân tha nhân và thế giới vật lý). Thọ uẩn gồm có nội thọ (những cảm nhận hỷ, lạc trong thiền định) và ngoại thọ (các cảm nhận hỷ, lạc qua các giác quan bên ngoài). Tưởng uẩn gồm có tưởng về sắc, thanh, hương, vị, xúc và về pháp. Hành uẩn gồm có tư duy (tác ý) về sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Thức uẩn gồm có nhã thức, tỉ, thiệt, thân và ý thức.

Như vậy, con người theo giáo lý nhà Phật và theo quan điểm của nền văn hóa mới, không phải là một ngã thể độc lập với tha nhân, gia đình, xã hội, thiên nhiên, mà gắn liền với các hiện hữu ấy. Thế giới này, xã hội này là chính cơ thể và tâm thức con người cần được bảo vệ tự thân và hạnh phúc của tự thân.

Với nhận thức Duyên khởi, Vô ngã của nền văn hóa mới, tư duy mới (chánh tư duy) con người, gia đình, xã hội và môi trường là một khối nhất thể, không thể tách ly: con người là con người của gia đình, xã hội và môi sinh; môi sinh là môi sinh của con người và xã hội.v.v... Cái nhìn mới này sẽ đưa ra các giá trị mới, thái độ sống mới là một nền văn hóa, giáo dục mới nhằm đem lại hòa bình, an lạc và hạnh phúc lâu dài cho xã hội.

Hạnh phúc không phải là của quan niệm, khái niệm, mà là của sự sống giác tỉnh trong hòa điệu của Năm uẩn. Hạnh phúc vì thế không phải của các ngã tưởng, ngã niệm hay của dục vọng. hạnh phúc và con người là một, và là cái một của tương quan Duyên khởi. Con đường sống của nền văn hóa mới vì vậy là con đường sống của vị tha, của hòa điệu, của sự dập tắt các ngã tưởng (với đời sống xã hội thì chế ngự các ngã tưởng).

Ngày nay, nền văn minh hiện đại đã mạnh mẽ nói lên rằng văn minh vật chất càng phát triển thì cần phải tổ chức tốt nền văn minh tinh thần. Cuộc khủng h oảng về dân số, đạo đức và ô nhiễm môi sinh hiện tại đang đặt ra những thẻ thách lớn. Làm sống ung thư và sida đang ám ảnh con người. Nếu Tất cả (mọi người) đều thấy rõ sự thật của Duyên sinh hay Năm uẩn thì sẽ ý thức rằng khổ đau, rối ren ở chỗ này là khổ đau rối ren của chỗ kia, của toàn trái đất, và sẽ cùng nhau mở đường đi ra khỏi cuộc khủng hoảng cùng nhau bảo vệ trái đất như bảo vệ chính mình. Cái thấy biết sự thật ấy đang trông cậy vào vai trò của văn hóa giáo dục "hậu hiện đại".

Các xã hội nếu được xây dựng trên cơ sở Duyên sinh Vô ngã thì chiến tranh sẽ dần dần biến mất, các tệ nạn xã hội (cướp bóc, tham nhũng...) sẽ dần dần biết mất. Con người nếu rõ Duyên sinh, Vô ngã thì sẽ nhận ra, qua thể nghiệm, dục vọng là khổ đau, vị kỷ là khổ đau, si mê là khổ đau, và sẽ tự động tách rời khỏi chúng. Tại đây con người sẽ sung sướng nhận ra rằng: cuộc sống đang còn nguyên ở đó tràn đầy những âm thành và màu sắc; lẽ sống của mỗi cá nhân không phải là ham muốn; và hạnh phúc phải là thảo mãn các ham muốn, mà là sự biết sống, biết nhìn, biết đủ và biết rằng cuốc sống chính là mình. Mọi sự vẫn tiếp tục trôi chảy; con người tiếp tục sống như đang sống, nhưng sống với sự giác tỉnh nói trên.

Từ đây, từ sự thật Duyên khởi, con người sẽ không bàn đến hệ tư tưởng cho rằng có một đấng toàn năng tạo ra vũ trụ, và giữ quyền thưởng phạt con Người. Từ đây, con người trở về chính mình sống nương tựa mình và nương tựa sự thật Duyên khởi; trở về với sự hòa điệu của tim và óc, của cá nhân và xã hội, của thiên nhiên và con người trở về với sự tách rời khỏi các nhân tố gây ra khổ đau cho mình và người (như chấp ngã, dục vọng, ích kỷ, đố kỵ.v.v...).

Ðấy là một số ý niệm tổng quát, Ngô Thừa Ân đã nở ra một cuộc Tây du vượt qua 81 ma nạn trước khi đặt chân tới Lôi Âm tự, thì nền văn hóa giáo dục hậu hiện đại cũng cần thời gian để giáo dục con người và tổ chức xã hội theo nhận thức, tư duy mới (nhân bản và trí tuệ) để hình thành nếp sống văn hóa mới, phải vượt qua nhiều khó khăn trước khi nhìn thấy quả. Có nhiều việc làm mà chúng ta sẽ lần lượt bàn đến.

II. Sự thật của con người và cuộc đời.

Sự thật và hạnh phúc là vấn đên lớn mà nhân loại mãi tìm kiếm. Còn tìm kiếm có nghĩa là còn chưa thấy. Vì chưa thấy rõ sự thật của cuộc đời nên con người tiếp tục nói về, bàn về cuộc đời. Vì sự thật của con người là khổ đau nên con người khát vọng tìm kiếm hạnh phúc. Tìm kiếm hạnh phúc là vai trò của văn hóa và giáo dục.

Cách đây 26 thế kỷ, thái tử Siddhattha (người xứ Ấn) đã tự mình tìm kiếm lời giải đáp cho hai vấn đề lớn nói trên. Sau một thời gian hành sâu thiền định và sáu năm hành khổ hạnh, thái tử vẫn mịt mờ trước sự thật. Nhưng sau bốn (hay bảy) tuần lễ thiền quán dưới cội cây bồ đề, thái tử đã chứng ngộ sự thật Duyên khởi, thấy rõ gốc của khổ đau và con đường dẫn đến đoạn diệt khổ đau, và thái tử bấy giờ trở thành bậc Toàn Giác, Phật, Thế Tôn.

Sự thật mà Ðức Phật đã chứng ngộ có thể được tóm tắt như sau:

- "Do cái này có mặt nên cái kia có;

Do cái này sinh, nên cái kia sinh.

Do cái này không có mặt, nên cái kia không có,

Do cái này diệt, nên cái kia diệt"

- Do vô minh mà có hành, do hành mà có thức, do thức mà có danh sắc, do danh sắc mà có lục nhập, do lục nhập mà có xúc, do xúc mà có thọ, do thọ mà có ái, do ái mà có thủ, do thủ mà có hữu, do hữu mà có sinh, do sinh mà có lão tử, sầu, bi, khổ, ưu, não. Ðây là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn". (Tương Ưng II, bản dịch của HT Thích Minh Châu, 1982, tr. 4)

Vô minh là chi phần đầu của 12 nhân duyên, nhưng không phải là nguyên nhân đầu tiên; nó cũng do duyên mà sinh. Vô minh đã được Ðức Phật định nghĩa:

"Và này các Tỷ kheo, thế nào là vô minh? Này các Tỷ kheo, không biết rõ về khổ, không biết rõ về khổ tập, không biết rõ về khổ diệt, không biết rõ về khổ tập, không biết rõ về khổ diệt, không biết rõ về con đường đưa đến khổ diệt. Này các Tỷ kheo, đây gọi là vô minh". (sđd. tr.4)

Từ định nghĩa trên, vô minh có thể được hiểu là do không hiểu Tứ đế, không hiểu duyên khởi, hay do chấp thủ các ngã tướng. Giờ chúng ta thử quan sát sự vận hành của vô minh trong mỗi cá nhân hiện tại trong nền văn hóa hiện đại.

1. Nhóm Vô minh và Hành.

Nền văn hóa phổ biến hiện nay của nhân loại là sản phẩm của tư duy hữu ngã. Tư duy này đặt để các ngã tính cho mọi hiện hữu để thiết lập trật tự cho tư duy và cuộc sống. Như vậy ở đó có mặt Vô minh và Hành. Nói khác đi, nền văn hóa ấy đang biểu thị sự vận hành của Vô minh.

Con người chịu ảnh hưởng của văn hóa, tư duy được định hình bởi văn hóa, nên mặc nhiên xem tự ngã như là có thật.

Thế là Vô minh xâm nhập và ngự trị các hành động thân, lời và ý của con người.

2. Nhóm Thức và Danh sắc.

Giáo dục làm nên văn hóa. Văn hóa đã là hữu ngã thì giáo dục cũng mang tính chất hữu ngã thì giáo dục cũng mang tính chất hữu ngã. Giáo dục thì truyền đạt các kiến thức, rèn luyện tư duy, nên kiến thức và tư duy ấy là hữu ngã và là Vô minh. Thức là hữu ngã là là vô minh. Nếp sống của con người Danh sắc hình thành nghiệp thức và mở ra dòng sống à chuyên chở Vô minh và khổ đa.

Thế là, cái gọi là sống của mỗi cá nhân chỉ là sự biểu hiện của những ý niệm hữu ngã, đã đánh mất sự sống.

3, Nhóm Lục nhập, Xúc, Thọ.

Lục nhập, Xúc, Thọ chỉ la sự biểu hiện của Thức và Danh sắc là hiện hành của Vô minh của nền văn hóa hữu ngã. Cái gọi là cá nhân xúc, thọ thật sự chỉ là Vô minh xúc, thọ. Và, vì thế gọi là "tôi khổ đau" chỉ là một vọng tưởng ám ảnh cá nhân.

4. Nhóm Ái, Thủ

Lòng khát sống của cá nhân trước cuộc sống bốc cháy các khát khao ngũ dục lạc (hay dục ái) các khát khao tồn tại (hữu ái) và các khao khát vĩnh cửu (vô hữu ái). Khát khao ấy thúc dục cá nhân nắm chặt đối tượng khát khao. Ðây là Chấp thủ. Hậu quả của Chấp thủ là các cuộc xung đột, chiến tranh, kỳ thị tôn giáo, mà da và phái tính... mở ra một cuộc diện bất an hiện nay.

Lòng khát ái thì dẫn đến các hiện tượng phát triển "sex", kinh doanh "sex", đẩy con người chìm sâu vào các thụ hưởng thấp kém làm rã dần nền đạo đức cá nhân, gia đình và xã hội.

Khi mà Tham ái và Chấp thủ phát triển mạnh, thì các tâm lý vị tha, nhân ái, công bằng, khoan dung phải co mình lại, xã hội lâm vào các nguy kịch của các tệ trạng, của sự tàn phá rừng, biển và ô nhiễm môi sinh, của sự khai thác vô độ lòng dục ái và tinh thần cạnh tranh, tách xa dần hướng giáo dục nhân bản.

Trước sự thật cuộc sống đang đi vào băng hoại ấy, các nhà giáo dục cần cấp thiết mở ra các hướng giáo dục thoát khổ, hướng giáo dục Duyên Khởi vận hành để đoạn trừ Vô minh, như Ðức Phật đã dạy về Duyên Khởi, và đã mở đường rằng:

"Như vậy này các Tỷ kheo, Vô minh duyên Hành, Hành duyên Thức, Thức duyên Danh sắc, Danh sắc duyên Lục nhập, Lục nhập duyên Xúc, Xúc duyên Thọ, Thọ duyên Ái, Ái duyên Thủ, Thủ duyên Hữu, Hữu duyên Sinh, Sinh duyên Khổ, Khổ duyên tín, tín duyên hân hoan, hân hoan duyên hỷ, hỷ duyên khinh an, khinh an duyên lạc, lạc duyên định, định duyên tri kiến như chân, tri kiến như chân duyên yếm ly, yếm ly duyên ly tham, ly tham duyên giải thoát, giải thoát duyên trí về đoạn diệt. (Tương Ưng II, sđd, tr. 37)

Giáo dục cần chỉ cho con người thấy rõ các nguy hiểm của nền văn hóa có chiều hướng đang bị vận hành bởi Vô minh, bởi những ý niệm chấp ngã, chấp "tôi" đê mở lòng tin về một nền giáo dục duyên khởi loại bỏ Vô minh, mở hướng vào an lạc và hạnh phúc trong hiện tại.

5. Nhóm Hữu, Sinh, Lão tử, Sầu, Bi, Khổ, Ưu, Não.

Do Vô minh, nền văn hóa hiện tại đang hiện hành với những hiện tượng xã hội báo động. Ðây là Hữu, Sinh, Lão tử, Sầu, Bi, Khổ, Ưu, Não, là sự sinh khởi của Vô minh và khổ đau.

Con đường xây dựng hạnh phúc cho đời vì vậy cần được vận hành bởi Minh hay chánh kiến, trí tuệ. Ðấy là sự vận hành của nhận thức Vô ngã sẽ mở ra hướng sống nhân ái, vị tha, vì hạnh phúc an lạc của số đông, và sẽ mở ra một nếp sống đạo đức nhân bản, hiện thực và trí tuệ cho cá nhân, gia đình và xã hội..

Suốt hơn bốn mươi năm giáo hóa, Ðức Phật chỉ nói khổ và con đường diệt khổ cho đủ mọi căn cơ xuất gia và tại gia, vì thế toàn tạng Kinh, Luật, Luận của Phật giáo cũng chỉ kiết tập về những lời dạy tập chú về việc trình bày khổ và con đường diệt khổ và nói đến nếp sống, nếp nghĩ thế nào để đạt hạnh phúc trong hiện tại và trong tương lai.

Giáo lý của Phật đã giới thiệu rất nhiều nếp sống phù hợp với mọi căn cơ ở đời đi đến hạnh phúc, nên đạo Phật cần được giới thiệu, phổ biến rộng rãi cho đời, trong thế giới học đường. Ðây là một nội dung mà các hệ thống văn hóa, giáo dục hiện đại đang tìm kiếm.

III. Một nền giáo dục Duyên khởi.

Hơn ba phần tư nhân loại hiện nay không biết đến đạo Phật, hay không nghiên cứu đạo Phật. Số còn lại có sống với, có tìm hiểu, có nghiên cứu hay quan sát sinh hoạt của Phật giáo.

Các nhà xã hội học, các nhà văn hóa, tư tưởng hay giáo dục hiện đại vẫn chưa có nhân duyên tìm hiểu cặn kẽ, sâu xa giáo lý Phật giáo. Với những vị có nghiên cứu sâu thì chỉ nghiên cứu đạo Phật như như một hệ thống tư tưởng triết lý. Với những vị này chỉ thiếu điều kiện thực hành nên cũng khó nhận ra chân giá trị của đạo Phật. Hầu hết cứ đinh ninh rằng Phật giáo là một tôn giáo, vì thế Phật giáo chỉ dành cho lãnh vực tín ngưỡng, mà xa lạ với các nếp sống con người khát vọng tạo dựng hạnh phúc trần gian. Hoặc giả đinh ninh rằng Phật giáo cứ nói mãi về khổ đau thì là tiếng nói bi quan; hay Phật giáo chủ trương ly dục là một chủ trương không thiết thực, xa lạ với con người.v.v... Thật là đầy ngộ nhận! Làm sao người ta có thể tin rằng Phật giáo có thể giới thiệu với đời một đường hướng giáo dục rất thiết thực, nhân bản và trí tuệ?!

Vào thế kỷ XVI, Ngô Thừa Ân, qua tiểu thuyết Tây Du Ký, tin tưởng rằng Phật giáo sẽ giúp cải thiện đường hướng văn hóa, giáo dục của xã hội Trung Hoa, ông đã viết những suy nghĩ của ông thành bộ tiểu thuyết Tây Du Ký bất hủ, nhưng những tâm sự, suy nghĩ, hoài bão của ông vẫn được gói kín trong 100 hồi truyện cho đến ngày nay. Những tư duy phát hiện giá trị đạo Phật đầy trân quý của ông chỉ để giúp đời giải trí sau các ngày giờ làm việc mệt mõi, bởi vì đấy là tiểu thuyết, mà không phải là giáo dục, tư duy và tâm lý. Kinh Phật thì chỉ để dành cho tu sĩ Phật giáo và để tôn quý, bởi vì đó là tôn giáo mà không phải là văn hóa giáo dục. Thật là đáng tiếc!

Giáo dục có hai mục tiêu chính:

1. Giáo dục con người tự thân hiểu mình và biết hướng dẫn đời mình đi đến hạnh phúc ngay trong hiện tại.

2. Giáo dục con người xã hội hiểu biết xã hội mình đang sống và đáp ứng các yêu cầu của xã hội và lịch sử với các mục tiêu tức thời và lâu dài.

Về mục tiêu thứ nhất của giáo dục, thì đạo Phật đáp ứng trọn vẹn, nếu không nói là rất lý tưởng. Về mục tiêu thứ hai của giáo dục là giảng dạy cung cấp cho học viên, sinh viên các kiến thức chuyên môn để xây dựng và phát triển xã hội. Trong mục tiêu này, xã hội và lịch sử còn yêu cầu học đường dạy một tinh thần đòan kết dân tộc kéo sơn thể hiện ngay trong h ọc đường và ngoài xã hội. Về yêu cầu này, học đường cần có một triết lý giáo dục như thế nào vừa nhân bản vừa dân tộc, vừa có thể vượt qua các dị biệt. Hẳn là giáo lý Duyên khởi, Vô ngã đáp ứng yêu cầu này. Duyên khởi là sự thật của vạn hữu, nên không thuộc riêng của ai hay của dân tộc nào, vì vậy nó là của moi người. Vì Vô ngã nên khi một người chấp nhận Duyên khởi, Vô ngã thì dễ dàng hòa hợp với các ngã, với các tư duy tín ngưỡng hữu ngã; do vậy dễ dàng đến với mọi người, dễ dàng hòa hợp đoàn kết. Vì có nhạn thức Vô ngã nên có thái độ sống vô chấp, không bảo thủ, khoan dung, nên cũng dễ dàng đoàn kết, thống nhất với mọi người, mọi khuynh hướng vì đại nghĩa xã hội, dân tộc.

Ngoài hai đóng góp quan trọng trên, Duyên khởi là tòan bộ giáo lý Duyên khởi và toàn bộ giáo lý Giới, Ðịnh, Tuệ của Phật giáo có thể có rất nhiều đóng góp rất hữu ích khac snhau cho giáo dục như giáo dục tinh thần tự tri, tự giác tự trách nhiệm, độc lập, tùy duyên, tự trọng, tinh thần phê phán, tinh thần thiết thực hiện tại, nhân bản, thiền định và sáng tạo, tinh thần khích lệ.v.v...

Về triết lý giáo dục, giáo lý Duyên khởi và Ngũ uẩn có thể giúp học đường xây dựng một lý thuyết về nhân tính ổn định và giá trị. Hai giáo lý này có thể là cơ sở để hình thành nhận thức luận và giá trị luận sáng giá.

Về tâm lý, đạo Phật là con đường đoạn diệt phiền não, lo âu, vốn là vai trò chính của ngành tâm lý giáo dục hiện đại.

Với một số ưu điểm tiêu biểu vừa đề cập, chúng ta có thể đi đến kết luận rằng văn hóa Phật giáo có nhiều điểm thể hiện các giá trị nhân bản phù hợp với các chuẩn mực đạo đức và văn hóa mà chúng ta đang xây dựng.

Kinh nghiệm lịch sử Việt Nam dưới triều đại Lý, Trần (từ thế kỷ XI đến cuối thế kỷ XIV) cho thấy văn hóa Phật giáo làm chủ đạo cho văn hóa Việt Nam thời bấy giờ và đã tạo nên một sức mạnh dân tộc phi thường; Bắc thắng Tống, Nam bình Chiêm dưới triều Lý; ba lần đại phá quân Nguyên Mông dưới đời Trần, đạo quân xâm lược rất hùng mạnh dã đánh bại Trung Hoa và nhiều nước Châu Âu đương thời.

Trong thời kỳ lịch sử cận đại và hiện đại, bên cạnh sự phát triển khoa học, tinh thần giáo lý từ bi và thiền định Phật giáo đã đóng góp rất nhiều cho sự hùng mạnh của nước Nhật Bản.

Vẫn còn rất nhiều bài học hữu ích, giá trị cần thiết cho con người và cho lịch sử dân tộc rút ra từ pt, chúng ta cần công phu nghiên cứu, vận dụng trong sự nghiệp giáo dục văn hóa nước nhà.

IV. Triết lý Giáo dục

Một đường hướng giáo dục, ngoài lý thuyết về nhân tính, còn có triết lý giáo dục của nó để từ đó hình thành một mẫu người giáo dục và nội dung giáo dục.

Có ba vấn đề chủ yếu hình thành một đường hướng triết lý nói chung và triết lý giáo dục nói riêng đó là vấn đề bản thể, vấn đề nhận thức và vấn đề giá trị cần được bàn đến đối với giáo lý Phật giáo.

1. Vấn đề bản thể (ontology)

Hệ tư tưởng Âu, Mỹ chịu ảnh hưởng của tư duy nhị nguyên (tư duy ngã tính) đã nêu ra vấn đề bản thể khi đi tìm hiểu sự thật của con người và cuộc đời. Ðặt ra vấn đề bản thể là đặt vấn đề nguồn gốc của sự vật, hay vấn đề bản chất, hoặc bản tính của sự vật, hoặc vấn đề nguồn gốc hay nguyên nhân đầu tiên.

Sự vật được tìm hiểu ở đây trở thành đối tượng của tìm hiểu mà chr thể tìm hiểu của nó là tư duy của con người hoạt động qua các giác quan giới hạn sự ghi nhận của các giác quan về các hiện hữu vốn giới hạn, khó phản ảnh được sự thật của các hiện hữu. Tư duy thì hoạt động qua nguồn tin tức mà các giác quan cung cấp, cộng thêm vói khả năng phối kiểm tổng hợp đầy ngã tính. Thế nên, dưới cái nhìn trí tuệ như thật của Phật giáo, sự thật của các hiện hữu không có mặt trong các câu hỏi và trong các câu trả lời của hệ thống (cơ cấu) tư duy ấy. Nói khác đi, qua sự thật Duyên khởi đã được Ðức Phật chứng ngộ dưói cội bồ đề, thì vấn đề bản thể, bản chất hay nguồn gốc theo nghĩa "ontology" ấy không phù hợp với giáo lý nhà Phật. Nó thuộc tư duy nhị nguyên, mà không phải của thực tai. Phật giáo phủ nhận các câu hỏi về bản thể, bản chất, nguồn gốc hay nguyên nhân đầu tiên ấy. Câu hỏi đã đi xa khỏi thực tại, thì câu trả lời cho câu hỏi đó càng đi xa hơn khỏi thực tại.

Vì phủ nhận nguyên nhân đầu tiên của các hiện hữu, nên giáo lý Duyên khởi phủ nhận các quan điểm cho rằng có đấng sáng tạo vũ trụ, dấng Thượng đế hay Phạm thiên tạo ra loài người.

Vì là Duyên khởi, Vô ngã, nên giáo lý Phật giáo không chấp nhận, không chủ trương duy tâm, không chủ trương duy vật, duy linh.v.v... Vũ trụ và con người là do duyên sinh. Tâm, Vật, Linh.v.v... là do duyên sinh.

Với Phật giáo, vũ trụ và vạn hữu đang là,là duyên sinh:

"Do cái này có mặt, nên cái kia có.

Do cái này sinh, nên cái kia sinh".

"Do cái này không có mặt, nên cái kia không có,

Do cái này diệt, nên cái kia diệt".

Vì do duyên mà sinh nên mọi hiện hữu dù là ý niệm như lông rùa, sừng thỏ, hay thái dương hệ, đều rỗng không tự ngã và được gọi là Vô ngã, Vô Tánh hay Không Tánh.

Nhưng, vũ trụ, vạn hữu đến vơi mỗi người thì không còn như chúng hiện hữu, đã bị méo mó đi nhiều do sự can thiệp của các giác quan con người, tư duy tình cảm và các định kiến khác. Chỉ khi nào loại ra khỏi cái nhìn của con người các nhân tố can thiệp ấy thì vũ trụ vạn hữu mới xuất hiện như thật, như chúng đang là.

Cái thấy biết ngã tính của con người như vậy là sai lầm (sai với thực tại) và được giáo lý nhà Phật gọi là điên đảo kiến.

Cái tâm của con người hoạt động, tác ý trên các ngã tướng là không thật và được gọi là điên đảo tâm.

Cái niệm tưởng của con người là ngã tính và niệm tưởng về các ngã tướng gọi là ngã tưởng nó sai lầm và được gọi là diên đảo tưởng.

Thói quen tình cảm của con người sống với các ngã tưởng, ngã tướng, sống với các dục niệm khiến trở ngại chánh kiến, chánh niệm nên được gọi là điên đảo tình.

Phật giáo vơi vai trò giáo dục chỉ rõ cho người đời thấy rõ bốn thứ điên đảo ấy và tu tập tâm để thoát ly chúng. Khi bốn thứ điên đảo ấy được nhiếp tịnh, thì vũ trụ và con người chân thật xuất hiện. Vấn đề giáo dục ở đây không phải giới thiệu vũ trụ và con người chân thật là gì, mà là giới thiệu những gì đang ngăn che tâm con người và huấn luyện tâm để làm sụp đổ các ngăn che ấy. Khi các ngăn che sụp đổ, thì các thật tướng xuất hiện. Con người sống đúng nghĩa là sống với thực tại, sống với sự thật ở ngoài các ngăn che.

2. Vấn đề nhận thức (Epistemology)

Tư duy con người hoạt động dựa vào các tin tức được cung cấp từ các giáo quan tại, mắt, mũi, lưỡi, thân và ý căn, dựa vào kinh nghiệm của giác quan và dựa vào kinh nghiệm tư duy gán cho sự vật. Ngã tính ấy là hệ quả của ba nguyên lý căn bản làm nền tảng để tư duy có thể hoạt động. ba nguyên lý đó là:

a/ Nguyên lý đồng nhất: Một vật được gọi là A thì mãi là A như thế thì tư duy mới làm việc được.

b/ Nguyên lý cấm mâu thuẫn: Một vật được gọi là A hoặc được gọi là B, chứ không thể khi thì A khi thì B. Ổn định tên gọi như vậy thì tư duy mới có thể vận động.

c/ Nguyên lý triệt tam: Một vật có thể được gọi là A hay B, chứ không thể vừa là A vừa là B. Có vậy tư duy mới có thể hoạt động. Ba nguyên lý trên hàm ý rằng (hay giả định rằng) mọi hiện hữu đều phải có tên gọi riêng và có ngã tính bất biến. Thế là yêu cầu để tư duy có thể hoạt động là gán cho mỗi hiện hữu một ngã tính. Vậy nên tư duy này được gọi là tư duy hữu ngã, tư duy ngã tính hay tư duy nhị nguyên (chủ thể nhìn và đối tượng nhìn đều có ngã tính độc lập). Trong khi đó, thực tại thì trôi chảy liên tục, bạn không thể đặt chân hai lần trên một dòng nước. Như thế hoạt động tư duy của con người thì khác với thực tại. Ðây là điểm đầu nguồn quyết định thân phận con người, luôn luôn đặt con người ngoài thực tại, mâu thuẫn với thực tại để làm dấy sinh vô số khổ đau, phiền não, tham, sân, si dục vọng và các phiên não đều dấy khởi từ tư duy hữu ngã ấy.

Các căn thì được cấu tạo có điều kiện, khả năng đón nhận sự vật rất hạn chế, đã cung cấp tin tức cho tư duy rất giới hạn, có khi sai lạc hẳn. Ðây là một điểm khác nói lên giới hạn và sai lầm của tư duy.

Nhận thức, hiểu biết của con người là đến tư duy và giác quan giới hạn ấy, nên dẫn con người đến các thấy biết hạn hẹp, sai lầm, che mờ sự thật, sự thật của vạn hữu thực tại. Giáo dục có vai trò chỉ cho con người thấy cái giới hạn của nhận thức, và vạch mở con đường giúp con người thấy sự thật và thấy hạnh phúc tại trần gian.

Phật giáo rất tuyệt với trong việc đảm nhận vai trò giáo dục này. Ðức Phật dạy có năm cấp độ thấy biết thực tại:

a/ Tưởng tri (Sannàjànati: khả năng phân biệt các sự vật hiện hữu, khả năng kinh nghiệm, ghi nhớ và hồi tưởng.

b/ Thức tri (Vinnàjànati): khả năng ghi nhận sự hiện diện của các pháp qua mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý căn.

c/ Tư duy (Mannàjànati): khả năng nối kết, phân tích tổng hợp, phối kiểm và suy luận lên các dữ kiện, tin tức do các giác quan cung cấp.

d/ Thắng tri (Abhijànati): là cái thấy biết sự vật trực tiếp bằng sự quán sát của tâm thức trong thiền định (không có mặt tư duy). Cái thấy biết của thắng tri tương tự như trực giác triết học của phương Tây. Tại đây, con người thấy sự vật như sự vật đang trôi chảy.

đ/ Liễu tri (Parijanàti): Tiếp nối cái thấy biết của thắng tri cho đến khi thật nhuần nhuyễn, khi mà tâm tham, sân, si đều rụng đổ hết, thì cái thấy biết bấy giờ gọi là liễu tri. Liễu tri mới là cái thấy biết sau cùng, như thật, như chân mọi hiện hữu.

Ba cấp độ thấy biết đầu là thuộc nhận thức, tri thức và các tri kiến của con người và của thế giới học đường cũ. Học đường ngày nay, hay nền văn hóa "hậu hiện đại" cần giáo dục con người đi vào hiểu biết thắng tri và liễu tri, và thực hiện thắng tri, liễu tri. Sự thật và hạnh phúc chân thật có mặt trong thắng tri và liễu tri này.

Học đường cũng cần vạch rõ: mỗi loại tri thức đem lại cho con người một loại hiểu biết và được vận dụng vào một lãnh vực xã hội tương ứng. Tất cả đều cần thiết nếu con người không chấp thủ chúng.

3. Vấn đề giá trị, đạo đức.( Axiology)

Nói đến giá trị là nói đến sự đánh giá. Chủ thể của sự đánh giá là nhận thức, tư duy của con người. Như được trình bày ở mục nhận thức trên, nhận thức và tư duy đã là giới hạn và sai lầm nên các giá trị, vấn đề thiện, ác, đạo đức do tư duy ngã tính đặt để cần được xét lại. Giá trị của một hành động là do nhiều nhân duyên kết hợp mà thành gồm sự chủ tâm tác ý, ý chí thực hiện, tình cảm thực hiện và cả kết quả của hành động. nếu chỉ căn cứ vào cái tướng biểu hiện ở bên ngoài mà đánh giá thì rất thiếu sót, dễ sai lầm. Ví dụ như một bà mẹ diễn đạt sự rất âu yếm người con trẻ mà nghiến răng nói rằng: "ta ghét mầy quá!" (như nói với tấm lòng rất đỗi là âu yếm). Nếu căn cứ vào cái tướng và lời diễn đạt kia thì quả khó thấy được giá trị của hành động ấy (ở đây sự âu yếm là động cơ của hành động). Hai người cùng làm một việc giống nhau mà giá trị lại khác nhau. Ví như hai người cùng giúp đỡ một người nghèo một số tiền bằng nhau, nhưng một người giúp vì tình thương, một người giúp vì có ý đồ lợi dụng; như vậy một người là thiện lương, người kia là không thiện lương.

Cùng một con người làm cùng một hành động ở hai hoàn cảnh hay thời điểm khác nhau thì có giá trị khác nhau. Chẳng hạn ăn cơm đúng bữa là tốt, ăn cơm lúc khỏe là bình thường, mà ăn cơm lúc đau thương hàn thì có thể dẫn đến cái chết.v.v...

Do đó, không thể có một bảng liệt kê giá trị ấn định sẵn các giá trị của các hành động con người. Người ta cũng không dễ dàng phê phán đúng hành động của những người khác khi không lên hành động của người đó. Vì thế, giá trị nhân bản là mỗi người tự biết mình, đánh giá mình, và rất cẩn trọng khi đánh giá việc làm của những người khác. Giá trị nhân bản là hành động nhằm đem lại an lạc hạnh phúc cho số đông trong hiện tại và tương lai vì chính con người, mà không phải vì nhân danh một quyền lực hay một đấng thần linh nào khác. Tiêu chuẩn giá trị phải là con người và hạnh phúc của con người. Giá trị chính là đạo đức, và đạo đức chính là hạnh phúc. Ở đâu có đạo đức, ở đó có mặt hạnh phúc; ở đâu có hạnh phúc ở đó có mặt đạo đức. Vì thế, đạo đức và hạnh phúc còn đồng nghĩa với vị tha và từ bi (hay lòng nhân ái); và đi xa hơn, đạo đức và hạnh phúc ocn đồng nghĩa với sự chế ngự chấp thủ bản ngã, với sự chế ngự dục vọng; càng ít dục vọng càng hạnh phúc nhiều. Ðây là loại giá trị của thực tại đòi hỏi con người thực nghiệm để nhận chân giá trị mà không phải là loại giá trị sản phẩm của tư duy tỉnh.

Vấn đề giá trị của nhận thức, vấn dề tư duy và đánh giá các giá trị, hay vấn đề giá trị nói chung, đã được ntga đưa vào nhiều hồi truyện Tây Du Ký và đã được người viết bàn đến nhiều. Hẳn đây là một vấn đề ách yếu của nội dung của nền giáo dục nhân bản và trí tuệ.

Những công thức giá trị mang vẽ ước lệ, hình thức của các nền văn hóa cũ của nhân loại đã gây ra nhiều bi kịch trong cuộc sống mà nhiều văn hào, thì hào nhân bản thế giới đã nỗ lực tháo gỡ (nhưng thiếu tính toàn diện không như Ngô Thừa Ân) như câu chuyện Le Cid (Pháp), các tiểu thuyết kiếm hiệp của Kim Dung, và rất nhiều phim ảnh hiện đại.

Phải chăng đã đến lúc các nhà văn hóa, giáo dục nhân bản cần hình thành một nền giáo dục "hậu hiện đại" đem lại nhiều tình người, trí tuệ và hạnh phúc hơn cho nhân loại?

V. Mẫu người giáo dục của nền giáo dục mới "hậu hiện đại"

Khi nhà giáo dục thấy rõ quy luật sinh diệt của các hữu, thấy rõ duyên khởi trong tất cả hiện hữu, thấy rõ con người ngũ uẩn của tương quan mật thiết với gia đình, tập thể, xã hội và môi sinh, thấy rõ các hiện tượng xã hội hiện hữu tương duyên với nhau, thấy rõ vai trò của tư duy, dục vọng đối với con người và hạnh phúc của con người, thì nhà giáo dục sẽ hình dung ra được một nội dung giáo dục con người như thế nào.

Một nền giáo dục hiện thực và nhân bản phải là một nền giáo dục tạo ra một môi trường và một nội dung giáo dục thế nào để mọi người tiếp thu đêu có điều kiện phát triển kiến thức, tình cảm và trí tuệ tốt nhất nhằm đáp ứng hai yêu cầu chính: cá nhân và xã hội.

Dòng sống là trôi chảy. Con người cũng phát triển không ngừng về tâm thức.

Bên cạnh nội dung giáo dục con người cá nhân như thế, học đường còn hoạch định nội dung giáo dục con người xã hội để đáp ứng các yêu cầu của xã hội và lịch sử. Phần này cần được điều hợp với phần giáo dục ở trên thế nào để thể hiện tinh thần giáo dục rằng: "cá nhân là cá nhân của xã hội, và xã hội là xã hội của cá nhân".

Về văn hóa truyền thống của dân tộc cũng là một vấn đề quan trọng mà nhà giáo dục nhân bản và hiện đại cần quan tâm xét đến.

Giáo dục của một xứ sở cần đáp ứng các yêu cầu lịch sử của xứ sở ấy (yêu cầu phát triển kinh tế, an ninh, quốc phòng...) Cần bảo vệ văn hóa truyền thống và đề cao truyền thống. Nhưng văn hóa truyền thống cũng chỉ là sản phẩm của con người nhằm phục vụ hạnh phúc của cvon người xứ sở, nên không thể đặt con người sau văn hóa truyền thống, mà cần xét định những gì của văn hóa truyền thống tốt đẹp và phù hợp với hướng phát triển của lịch sử thì bảo trì và phát huy, những gì thuộc văn hóa truyền thống mà không còn phù hợp với hướng phát triển của con người và lịch sử thì thay đổi. Ðây cũng là một đặc điểm của nền giáo dục nhân bản và hiện đại.

Có một yêu cầu giáo dục khác, vừa thuộc yêu cầu của các nhân vừa thuộc yêu cầu xã hội, đó là yêu cầu tín ngưỡng. Con người có quyền tự do chọn lựa thức ăn và màu áo cho mình thì cũng có quyền chọn lựa tín ngưỡng như là màu áo của tình cảm, tâm hồn. Xã hội và học đường cần đáp ứng tốt yêu cầu tín ngưỡng này. nhưng các tín ngưỡng dị biệt dễ dàng tách rời các cá nhân xa nhau, đây là vấn đề của xã hội: làm thế nào để các cá nhân có tín ngưỡng dị biệt có thể gần gũi nhau và cảm thông nhau thì yêu cầu giáo dục về đoàn kết dân tộc mới thực hiện được. Học đường hiện đại hay "hậu hiền đại:, vì thế cần có một triết lý giáo dục chung vượt lên trên (hay vượt ra ngoài) các dị biệt ấy để có thể thống nhất các dị biệt. Ngô Thừa Ân, tại Ngũ Trang Quán dã mở ra một b ữa tiệc nhân sâm để Phật giáo (Bồ Tát Quán Thế Âm và phái đoàn Tây du) và Lão trang, Nho giáo (các thiên tiên, địa tiên) thân mật, đề huề; và để Tôn Ngộ Không cùng vị chủ nhân Ngũ Trang Quán kết nghĩa huynh đệ, sau một hồi tranh chấp xung đột. Ðây cũng là một vấn đề lớn của giáo dục. Tất cả đang gặp gỡ nhau, ở địa bàn con người rất người, hạnh phúc con người và cuộc đời (hay môi sinh và xứ sở). Phải chăng đây là cơ sở gặp gỡ của giáo dục để thể hiện mục tiêu giáo dục cảm thông, thương yêu và đoàn kết?

Tất cả đang trông chờ vào vai trò giáo dục ở học đường, tập thể, gia đình và xã hội. Tất cả đang trông chờ vào các phương tiện truyền thông: đài, sách và báo cí, văn nghệ, hội họa... chuẩn bị cho con người của thời đại một nhận thức mới thiết thực, nhân bản và trí tuệ trước hết.

Viết xong ngày 18 tháng 9 năm 1991

Thiền Viện Vạn Hạnh

Tỷ kheo Thích Chơn Thiện

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro