bao cap-lenghiabk05

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Cuộc sống Hà Nội thời bao cấp


Tôi đến thăm triển lãm "Cuộc sống Hà Nội thời bao cấp" vào chủ nhật tuần trước, lẽ ra cũng về viết ngay một vài dòng cảm tưởng rồi, nhưng rồi công việc chộn rộn cũng chợt làm mình xao lãng đi. Một ngày chủ nhật ở nhà nghỉ ngơi, dường như mọi thứ lại trở lại, một vài dòng ghi nho nhỏ về một thời đã qua.

Những cảm xúc mà một cuộc triễn lãm về một thời đã qua đem lại không phải là một kí ức to tát gì như tấm bảng treo to đùng ở ngay trước cửa ra vào cuộc triễn lãm: "Bao cấp"– Đó là một thời bi tráng, cũng là một bài học đắt giá về quy luật phát triển của xã hội. Những gì trở lại với tôi là kí ức của một tuổi thơ ngày xa xưa, trong một con phố nhỏ - Hà Nội thời bao cấp...

Con phố tôi ở , nhỏ và hẹp, nằm chơ vơ kẹp giữa phố Hàng Buồm và Hàng Bạc, mà chẳng mấy người biết đến nó. Phố có nhiều cây bàng, những tán lá bàng xanh mướt gắn bó với trong suốt tuổi thơ tôi. Khi mưa đến, cả lũ trẻ trong phố ùa ra ra nhặt quả bàng chặt đôi để lấy ăn nhân trắng. Trẻ con chẳng có gì, chẳng ô mai mơ mận, kẹo ngọt như bây giờ, những quả bàng vàng ươm, ngọt lịm cứ thế theo tôi trong những chiều mưa Hà Nội. Nhà tôi neo người. Bà ngoại chỉ có một mình mẹ, ông ngoại mất khi tôi còn bé xíu 3 tuổi. Trong kí ức non nớt của tôi ngày ấy, ông gầy gò, chống gậy dắt tay tôi ra chợ Đồng Xuân xem vẹt. Tôi chỉ mong mong cuối tuần, thật ngoan để được ông dẫn đi xem chim chóc ở ngoài chợ. Ông mất , bà càng ngày càng yếu đi trông thấy. Khi tôi mới 4 tuổi, mẹ đang làm ở Cục thống kê quận Hai Bà Trưng phải xin nghỉ mất sức, để ở nhà trông bà vì chẳng còn có cách nào khác, dù biết trong thời buổi bao cấp ngày ấy, mất đi một suất cán bộ thì khó khăn đến như thế nào.

Thế là cả nhà chỉ còn chông chờ vào suất bao cấp của bố. Bố làm giáo viên, đồng lương giáo viên còm cõi chẳng đủ ăn, được một vài suất phân phối khi thì thịt heo beo ra một tí, khi thì mớ rau héo quay héo quắt. Bố dạy ở trường Lý Tự Trọng, cách nhà tôi hơn 10 cây số, nên ít khi bố về đựoc cùng trong ngày. Tuần vài bận, bố lại đạp xe về nhà, thỉnh thoảng mang chút thịt heo bọc trong tờ giấy báo, khi thì mớ rau xoăn lên vì héo. Nhìn cái xe đạp còn lại trong triển lãm, tôi chợt nhớ đến bố tôi - ông giáo làng ngày đó vẫn phải nai ngưòi chở thêm một chồng ấm đun, một chồng chậu nhôm đằng sau lên cho mẹ tôi đem đi bỏ mối cho mấy hàng bán lẻ ở chợ Đồng Xuân. Buổi sáng bố dắt xe đạp đi, tôi níu chặt booc-ba- ga đằng sau, khóc ầm ĩ :"Bố ơi bố đừng về, ở lại đây với con..."

Hà Nội ngày bao cấp là những ngày ngăn sông cấm chợ, buôn bán hàng gì động chạm đến lương thực thực phẩm cũng phải lén lút. Chuỗi tuổi thơ của tôi lớn lên trong con phố nhỏ Hà Nội, nghe gió sông Hồng thổi vào mát rượi mà chẳng thể nào xoá đi được những nỗi nhọc nhằn in hằn trên đôi tay nứt nẻ của mẹ trong những ngày gian khó ấy. Mẹ nghỉ làm nhưng cũng chẳng thể nào chạy ra ngoài đường buôn bán gì cho ra tấm ra món, mẹ chỉ có thể bán hàng quanh quẩn ở nhà, vừa bán hàng vừa trông bà. Cho đến bây giờ, nếu đếm trên hết hai bàn tay những gì loại hang mà mẹ đã phải bươn chải trong suốt gần 10 năm chắc vẫn chưa đủ. Cũng chẳng phải là buôn vàng bán ngọc gì. Mẹ giỏi nấu nướng, khéo tay nên chỉ toàn bán hàng ăn – vất vả, cực nhọc, lãi lại chẳng đáng là bao, nhưng cũng chẳng còn cách nào khác. Mẹ chẳng thể bỏ bà, bỏ chị em tôi để đi đâu được. Những tối buổi mùa đông lạnh cắt da cắt thịt, hai chị em, chị lên 6, thằng em mới chỉ lên 5 co ro đứng ở đầu đường suốt buổi tối để trông Công an cho mẹ bán bánh mì , thấy có xe của Công an đến, là ba chân bốn cẳng chạy về, la "Cá, cá..." (Cá tức là gọi tắt của C.A – Công An). Mẹ nghe tiếng, đóng sầm cửa, tắt phụt đèn, cả chủ hàng lẫn khách hàng im thin thít. Khi xe công an phường đi qua, mới bật đèn, bê hàng ra bán trở lại. Để có được chút pate, chút xúc xích bán bánh mì ngày ấy, mẹ phải dậy từ sớm tinh mơ, ra cửa hàng thực phẩm chờ cô bán hang mậu dịch giấu riêng ra cho một góc, bánh mì cũng phải lén lút chờ một cô đưa bánh mì tận nhà, hé cửa đón vào rồi đóng sập cửa lại.

Cũng có đợt , mẹ xoay sang bán cả bánh rán và bánh gối nữa. Thế nên chẳng phải vô cớ mà hồi lớp đại học liên hoan bánh gối, tôi vặn bánh gối đẹp nhất hội. Cam đoan là bánh gối ở phố Lý Quốc Sư bây giờ cũng chẳng ngon bằng bánh mẹ làm khi ấy. Hai chị em buổi tối mất điện, trong ánh đèn dầu tù mù, ngồi dán túi đựng bánh, cái nhỏ đựng vừa 3 cái, cái nhỡ cho 5 cái, cái to để đựoc 10 cái. Dán túi bằng bột nếp quấy đều lên bằng que đóm. Có hôm bán hàng rất đắt hàng, rồi tự nhiên trời đổ mưa, chỉ còn có gần 20 chục cái mà chẳng có ai mua. Ba mẹ con đành phải ngậm ngùi ăn trừ cơm chiều. Mẹ vừa ăn vừa thở dài "Thế là hết cả vỗn lẫn lãi". Bây giờ, đôi khi đi làm về muộn, chiều tối gặp người gánh hàng rong nằn nì mua giúp họ vài cân quả để họ lấy nốt vài đồng lãi, dù không muốn ăn, tôi vẫn nán lại mua được chút nào thì mua, tôi nhớ đến những đồng vốn đồng lãi ít ỏi mà ba mẹ con phải cố gắng ăn hết những buổi chiều mưa ngày ấy...

Bà thì già yếu, hay ốm và khó tính khó chiều, chỉ hơi trái ý một chút là bà giận dỗi và mắng mỏ, bố thì không ở bên cạnh, hai chị em còn nhỏ xíu, chả biết làm gì ngoài mấy việc vặt vặt giúp mẹ. Hồi đi đong gạo, nhà tôi cũng chẳng để cục gạch xí chỗ làm gì và cũng chẳng có ai đi đong gạo thay được. Lúc đó, tôi đã biết đứng xếp hàng, chìa sổ gạo nhận gạo về nhà. Hồi đó bé tẹo, hàng xóm toàn gọi là "Hằng kẹo" vì bé như cái kẹo mút, hì hục kéo cái xe kút kít đẩy đựng hơn chục kg gạo mốc gạo đỏ về nhà cho mẹ.

Mẹ đảm đang, khéo xoay xở nên trong những ngày ấy, dù mẹ phải nhịn ăn nhịn mặc, vẫn lo đủ cho chị em tôi miếng cơm manh áo. Những đồ quần áo của hai chị em ngày ấy, cũng toàn do mẹ cắt may tự thiết kế, rất đẹp. Có một mảnh vải của bố mang về, trông vừa thô vừa xấu, mẹ vô tình nhìn thấy trong quyển album của Liên Xô, có hình một cô gái tươi cười cầm cây vợt tennist, mặc cái kiểu váy trông khá đẹp. Buổi đêm, khi dọn hàng xong, mẹ lôi kéo lôi thước ra may cho tôi cái theo kiểu ấy. Đó là một trong những cái váy mà tôi rất thích mãi, vì nó trông rất điệu đà, có túi to để tôi có thể đút một tay vào túi.

Tôi là một đứa trẻ hạnh phúc vì được sống và lớn lên và đùm bọc trong sự yêu thương và hy sinh của mẹ. Từ lúc học lớp 1 lớp 2, năm nào tôi cũng được làm sinh nhật.Những buổi sinh nhật chỉ có vài cái bánh nhỏ, mấy củ đậu trắng nhưng năm nào cũng vui vì trẻ con hàng xóm tụ tập đông đủ. Trước ngày sinh nhật tôi mấy hôm, mẹ tranh thủ những lúc rảnh tay bán hàng là hì hụi làm cho tôi những cái thiệp mời sinh nhật xinh xinh, tô màu xanh đỏ, hình cún bông, mèo bông...Hàng xóm đứa nào cũng thích những cái thiệp mẹ vẽ, đến khi sinh nhật tụi nó là bọn nó lại sang nhà nhất định đòi mẹ vẽ cho bằng được, phải đẹp như những cái thiệp của tôi mới chịu về. Những cái thiệp sinh nhật xanh đỏ ngày ấy...

Thường khi người ta quá chú tâm để lo lắng cho những nhu cầu cơ bản nhất của cuộc sống thì những điều khác dễ bị lãng quên. Nhưng mẹ đã không quên để cho hai chị em hiểu rằng cuộc sống còn có rất nhiều điều khác nữa đáng phải học, đáng yêu. Sáng sáng, mẹ cũng đèo hai chị em đi học ở Cung thiếu nhi rồi mới quay về nhà bán hàng, ngày mưa cũng như ngày nắng cho đến khi hai chị em có thể dắt tay nhau tự đi được.

Những ngày ấy, nếu chẳng phải là con cái nhà quan chức thì đứa trẻ nào cũng chịu khó khăn chung vậy thôi. Gia đình tôi cũng vậy, nhưng để hai chị em tôi có được một cuộc sống không đến nỗi thiếu ăn thiếu mặc, mẹ đã phải hy sinh rất nhiều, hy sinh niềm đam mê công việc, để lăn xả vào cuộc sống đầy dầu mỡ, thức khuya dậy sớm đủ đường, chỉ cần tâm niệm một điều để hai chị em lớn lên tự tin, mạnh mẽ , biết yêu và trân trọng những giá trị cuộc sống.

Vô tuyến tôi được xem từ rất sớm, có lẽ là ngay từ buổi đầu của truyền hình miền bắc. Năm đó tôi chưa đi học, ở cùng với ba trên đơn vị đóng ở Bưởi, gần Hồ tây. Đơn vị có vô tuyến, lúc đầu gọi đầy đủ như báo chí là vô tuyến truyền hình, sau này gọi ngắn gọn là ti-vi theo kiểu miền nam, Thực ra lúc đó tôi cũng không ấ

n tượng mấy, vô tuyến so với chiếu phim thì kém xa. Có mỗi một cái máy bé tý đặt trên sân khấu hội trường đông hàng trăm người. Hình ảnh thì nhoè nhoẹt, tôi còn bé được các chú bội đội cho ngồi ngay hàng đầu mà xem cũng chẳng rõ. Nội dung cũng không có gì, chủ yếu là chiếu lại những hình ảnh như trên báo. Tôi chỉ nhớ nhất là cái bảng chuẩn tròn tròn thường xuất hiện khi đổi tiết mục hay trục trặc kỹ thuật.


Về khu nhà lá một thời gian tôi lại được xem ti-vi. Thực ra, bây giờ ấn tượng để lại trong chúng tôi có lẽ không phải là nội dung chương trình, mà là kỷ niệm của những cuộc chiến đấu để lọt vào chỗ có ti-vi. Không biết nói "chiến đấu" có quá lắm không nhưng thực sự là có đủ các yếu tố: nghe ngóng, lên kế hoạch, tìm kiếm lực lượng, thực thi các phương án 1, phương án 2, đến phương án thứ n. Trong quá trình này có đủ các chuyện vui buồn, đấu trí, đấu sức…xảy ra. Qua đó, lũ trẻ chúng tôi đã học được khối điều về nhân tình thế thái để mà nhớ, để mà lớn lên.


Thường thì thông tin về chương trình ti-vi đã được chúng tôi bàn tán rôm rả từ chiều (hồi đó ti-vi chỉ phát buổi tối), nhất là những dịp có chiếu các bộ phim nhiều tập hấp dẫn "Trên từng cây số" của Bun-ga-ry, "17 koảng khắc" của Liên xô…Cùng khi đó, trong đầu chúng tôi đã nhanh chóng điểm qua những chỗ có ti-vi có thể đến xem. Ti-vi trong khu tập thể không nhiều, chỉ độ 5-6 cái, của gia đình cán bộ cao cấp - mấy ông tướng - và vài nhà có người đi tây mang về. Lũ trẻ xóm nhà lá thường chỉ dám xem nhờ ở hai dãy nhà lân cận, nhà 5 và nhà 7. Những nơi xa hơn bọn tôi ít dám đến vì không quen bọn trẻ con ở đó. Nhà 5 có nhiều ti-vi nhất, tầng 2 có hai cái của nhà hai ông tướng: ông Vũ và ông Lê, tầng 4 có nhà ông Nguyễn, cũng thiếu tướng. Một cái nữa của nhà ai tôi không nhớ, ở đầu hồi phía xa. Nhà 7 thì nghèo hơn, chỉ có một cái. Do người xem quá đông nên những nhà có ti-vi thường phải đóng chặt cửa.


Chiều tối, sau khi ăn cơm xong, chúng tôi kéo nhau ra sân tụ tập từng đám, mỗi đám chừng 5-7 đứa. Chúng tôi vừa tán phét vừa nghe ngóng xem nên đi hướng nào. Phải chọn điểm nào vừa thuận lợi nhất vừa tránh được những nhóm khác. Nếu mấy nhóm cùng đến một chỗ thì quân số sẽ quá đông, cơ hội được lọt vào là rất ít. Chúng tôi vừa giữ bí mật lựa chọn của mình vừa để ý xem đội bạn sẽ đi đâu. Trời tối hẳn, lũ trẻ tụ tập dưới sân cũng đông dần, đã nghe văng vẳng tiếng nhạc hiệu phát hình. Chúng tôi đã sốt ruột lắm, đã muốn đi lắm, muốn chạy nhào tới chỗ đang phát ra những âm thanh rạo rực kia. Nhưng mà chưa đi được, chưa nên đi, cứ để bọn nó đi trước xem tình hình thế nào? Nhà ông Vũ dễ tính nhất, nhưng thường hôm nào cũng đông. Nhà ông Lê thì phải gần đến lúc chiếu phim mới cho vào, có đến sớm cũng chỉ đứng chờ. Nhà ông Nguyễn thì đừng có hòng, ông ấy có hai đứa con trai lớn, lại ở tận tầng 4, đám bạn của con ông ấy đứng chặn từ tầng 3. Còn nhà 6, nhà 8 thì xa quá, không biết thế nào. Thời gian trôi, đã gần tới lúc chiếu phim, lần lượt từng nhóm rời khoảng sân, chia nhau đi các ngả. Nhóm chúng tôi cũng đi, chưa biết vào đâu, cứ lang thang ngoài đường, mắt ngếch lên các toà nhà. Nhóm chúng tôi có thằng Thành, thằng Vinh "khỉ", anh em tôi và thằng Sơn "gạo" nhà 1. Đi vòng trước cửa nhà 5 hai, ba lượt chúng tôi vẫn chưa dám vào, đứng lảng vảng quanh cửa. Từ xa, có một bọn đi tới, vào cầu thang. Trông thấy trong bọn này có thằng bạn cùng lớp, chúng tôi liền bám theo. Hai nhóm nhập làm một, kéo lên tầng 2. Rẽ phải, bọn này tới nhà ông Vũ. Vừa rẽ vào ngách, bọn tôi đã thấy một dãy dài đang đứng chờ hai bên hành lang. Thì ra cả mấy nhóm lúc nãy, mỗi nhóm một đường giờ kéo cả về đây. Đông quá! Phải đến hai chục đứa đứng ngồi vạ vật như chờ tàu ở nhà ga. Chúng tôi không dám chen lên, chỉ đứng từ xa ngán ngẩm nhìn cánh cửa đóng im ỉm. Chờ một hồi, thằng Thành nói: "sang nhà ông Lê đi", Mấy đứa chúng tôi lại thất thểu đi sang ngách bên kia. Trước cửa nhà ông Lê vắng hơn thật, chỉ có 4-5 đứa đứng chờ, một đứa đang lom khom nhòm vào khe cửa. Chúng tôi vui mừng đứng sát lên trên. Bên trong văng vẳng tiếng ti-vi vọng ra, sắp chiếu phim rồi, sốt ruột quá, sao nhà này chưa cho vào? Có tiếng lao xao, bọn lúc nãy chờ bên nhà ông Vũ lại kéo qua đây. Chúng gườm gườm nhìn chúng tôi rồi chen vào cửa, bọn này cậy gần nhà mà. Chúng tôi đứng dán vào tường nhường đường cho bọn nó nhưng kiên quyết không rời vị trí. Mặc dù không biết cánh cửa bao giờ sẽ mở ra nhưng đám đông vẫn kiên nhẫn chờ đợi. Bỗng một thằng nào đó đằng sau xô nhào về trước, thế là một lũ dúi dụi ngã theo, thằng đứng gần nhất húc đầu vào cánh cửa đánh rầm. Lập tức trong nhà có tiếng quát rồi tiếng dép lẹt xẹt đi ra. Cả bọn nháo nhào chạy ra xa ngó lại. Cửa mở, bà cụ Sầm ló ra: "tụi bay làm cái chi đó, trong ni đông lắm rồi". Chúng tôi đã kịp ngó qua cửa, đông thật, cả một bọn chen chúc ló đầu vào khung cửa nơi đặt ti-vi, chắc chắn là trong phòng không còn chỗ trống.


Lại quay về nhà ông Vũ, không thấy thằng nào ngoài cửa, chúng nó đi chỗ khác hay mới được vào. Chúng tôi tiếc rẻ đứng chờ, trong nhà có tiếng súng bắn vọng ra, chắc là phim đánh nhau đây. Đi dâu xem bây giờ, đứa nào cũng nhấp nhổm như kiến đốt. Cạch ! có tiếng mở cửa, một bác trung niên lách ra ngoài, ngay lập tức, thằng Sơn nhào tới: "Cho chúng cháu vào xem nhờ mấy", cô Lụa, vợ ông Vũ nhìn ra, chắc là thấy chỉ có mấy đứa tôi nên cô hơi lưỡng lự rồi mở cửa, chúng tôi mừng rỡ chui tọt vào.


Trong nhà cũng đã đông chật người, chúng tôi khép nép ngồi ghé dưới chân bàn. Vào sau nên không còn chỗ, góc nhìn rất hẹp, tôi chỉ còn trông thấy cạnh bên của cái ti-vi và một phần màn hình loang loáng. Không phải phim truyện mà là phim tài liệu, một bộ phim về cách mạng tháng 10 Nga. Dù sao cũng tốt rồi, có thể coi là tối nay may mắn.


Các buổi đi xem ti-vi khác đại loại cũng thế, không phải tối nào cũng may mắn như trên, có khi chúng tôi bị đuổi ra, có khi bị bọn lớn hơn bợp cho mấy cái. Cũng có khi chúng tôi phải đi rất xa ra tận đơn vị bộ đội xây dựng ở ngoài cổng khu tập thể.


Vô tuyến trong phòng khách thời bao cấp - ảnh sưu tầm

Vào một buổi không may mắn, sau khi đã vạ vật ở cả mấy chỗ quen thuộc mà không vào được, nhóm chúng tôi đành kéo về sân nhà ngồi hóng mát. Đứa nào cũng sốt ruột vì dạo đó đang chiếu bộ phim hình sự nhiều tập "trên từng cây số" rất hấp dẫn, đi học nghe bạn bè kháo ầm lên mà chúng tôi chưa xem được tập nào. Đang chán thì thằng Sơn đi tới, nghe chúng tôi nói lại tình hình, nó liền bảo: ”Đến nhà thằng Cường “con” đi”. Thằng Cường học cùng khối với tôi nhưng khác lớp. Chị nó là cái Ngọc thì lại học lớp tôi. Thằng Cường bé loắt choắt hay xuống sân chơi với bọn tôi. Nó ở nhà 7 nhưng tít đầu đằng kia, có lần tôi đã đến để mượn truyện. Thì ra nhà thằng Cường có ti-vi ! cũng bởi vì nhà 7 này nghèo, ít ti-vi nên chúng tôi không để ý. “Bố nó mới mua ti-vi”, thằng Sơn thông báo. Chúng tôi liền vội vã kéo đến nhà thằng Cường. Vừa lên khỏi cầu thang tôi đã thấy đám trẻ đông nghịt, đúng là có ti-vi thật, nhưng đông thế này chắc chả hy vọng gì. Mà có điều lạ là bọn trẻ ở đây không tỏ vẻ khó chịu khi thấy chúng tôi xuất hiện, chúng chỉ liếc qua rồi lại quay vào trong. Chúng tôi mạnh dạn tiến gần hơn và chợt hiểu: cửa nhà thằng Cường không đóng ! mở tự do. Mọi người ngồi kéo dài từ trong nhà ra tận ngoài hành lang. Chiếc ti-vi cũng đặc biệt, chỉ nhỏ xíu chỉ bằng nửa những cái ti-vi bình thường khác. Nó được đặt trên nóc tủ, xinh xinh như một thứ đồ chơi, nhưng đúng là ti-vi thật, đang chiếu phim. Từ chỗ chúng tôi đứng thấy mặt người trên màn ảnh bé như cái móng tay. Ngược lại, âm thanh thì được nối từ ti-vi ra một cái máy cát-sét lớn nên nghe rất rõ. Lại có bọn nữa đến đứng đằng sau, chúng tôi chen dần lên, chật ních. Ti-vi không rõ lắm nhưng ở đây có cái không khí của một buổi xem phim bãi. Không phải e dè giữ ý như ở những nhà khác, bọn trẻ tha hồ bình phẩm, reo hò, buồn vui theo những cảnh phim. Đứa nào cũng hể hả. Từ đó cảnh đi xem ti-vi của lũ trẻ xóm nhà lá đỡ khổ hẳn. Không còn những cảnh chầu chực lo âu, hồi hộp, chúng tôi đã có một điểm đến, nhà thằng Cường luôn mở cửa. Chúng tôi cũng đi dạo một vòng quanh các chỗ, nhưng nếu không ở đâu vào được, lại kéo về nhà nó. Ở đấy đông thật, chật chội, ti-vi lại bé tý, nhưng chúng tôi chắc chắn được xem, được bình đẳng như những đứa khác, muốn có chỗ tốt thì đi sớm, thế thôi. Có hôm đến sớm quá, tôi phải ngồi sát chân tủ đặt ti-vi, cả buổi cứ phải ngửa mặt lên xem, cái cổ mỏi ê ẩm đến mấy hôm sau. Sau này nghĩ lại, tôi mới thấy phục cho nhà thằng Cường, cũng chẳng giàu có gì, cố mua cái ti-vi đã là giỏi, tối tối lại chịu khó phục vụ không công cho sự nghiệp truyền bá truyền hình thì lại càng giỏi hơn. Lúc xem, chị em thằng Cường, bố mẹ nó, cả bà nội nữa cùng chịu cảnh chen chúc với lũ trẻ. Có lần đang buổi ti-vi thì có khách đến tìm. Bố thằng Cường phải chen ra ngoài, đưa khách xuống sân nói chuyện. Bọn chúng tôi thì vô tư, nhưng bố mẹ chúng tôi thì ái ngại, mẹ tôi nhắc: “đến lúc nào chiếu phim hãy lên, đừng đến sớm, để nhà người ta còn ăn cơm”. Mỗi lần bà thằng Cường xuống xin nước máy (nhà nó ở trên gác, nước yếu không lên được), bà con xóm nhà lá xúm lại hỏi thăm tíu tít như người nhà.


Mãi tới sau giải phóng, ba tôi đi công tác Sài gòn mua được cái ti-vi gửi ra, rồi lần lượt nhiều nhà khác cũng có, mới chấm dứt thời kỳ xem chực ti-vi.

KỶ NIỆM THỜI BAO CẤP - MỘT DỊP "ĂN CHƠI" 

    Anh Thu tôi ở miền nam ra chơi. Có anh ra, ba má tôi, nhất là má tôi cư xử khác ngày thường, tỏ ra hào phóng hẳn, má tôi đưa anh Thu và hai đứa tôi đi chơi khắp nơi, nhiều chỗ trước đó tôi chưa từng đến. Những bữa ăn ở nhà thịnh soạn - tức là nhiều thịt, cá - hơn. Vài hôm sau, khi anh Thu đã quen với đường phố Hà nội, anh có thể tự dẫn bọn tôi đi chơi. Mỗi lần như thế, má tôi đưa cho anh năm đồng, thậm chí mười đồng, một số tiền trong mơ! Bình thường khi tôi đi chơi thì chỉ được cấp 5 hào, hoặc đi gần thỉ chỉ 2 hào, tức là đủ tiền tàu điện khứ hồi và một cuốn truyện tranh mỏng, nếu không mua truyện thì có thể uống một cốc xi-rô mậu dịch có đá. Chúng tôi dẫn anh Thu, chính xác hơn là anh Thu dẫn chúng tôi, đi công viên Thống nhất, Bờ hồ, Hồ tây…chơi đủ thứ trò chơi: đu quay, ngựa gỗ, bắn súng hơi…rồi cả bơi thuyền. Kiểu thuyền dài, hai đầu thon thon, có hai bơi chèo bồng bềnh giữa hồ mà chúng tôi thường ngắm, theo hiểu biết của chúng tôi thì đây là trò giải trí "lịch" nhất của thanh niên Hà thành bấy giờ. Trong suốt những cuộc đi chơi ấy, tất nhiên là anh Thu không để chúng tôi đói khát: kem Bờ hồ, chanh đá, bánh tai voi, bánh xốp…đặc biệt là nước sen dừa, một thứ chè hạt sen nước đường, có những sợi dừa khô trắng muốt mà ở mậu dịch không có, chỉ có ở các hàng tư nhân. Giá một cốc sen dừa là năm hào hay một đồng gì đó, tôi không nhớ lắm vì ngoài tầm quan tâm của tôi. 

Một buổi trưa đi chơi về, xuống tàu điện ở Ô chợ dừa, anh Thu dẫn tôi và thằng Thái vào cửa hàng ăn uống Hàng bột. Chỗ này thì thỉnh thoảng tôi cũng được vào, món chính là phở thịt lợn, giá năm hào, tự đi mua vé rồi tự đi bưng phở về bàn. Ngoài phở còn có bánh mỳ thịt, mỳ sợi. Buổi sáng, nếu đến muộn, tầm mười giờ, thì có khi chỉ còn phở, không còn thịt, trong dân gian gọi là "phở không người lái". Thực ra còn những món nữa như phở sốt vang, phở áp chảo…giá một đồng rưỡi, tôi thấy đề trên bảng nhưng chưa từng được biết mùi vị. 

   Anh Thu dẫn chúng tôi vào cửa hàng, nhưng không vào chỗ mọi hôm mà rẽ sang gian bên cạnh. Tôi hoảng hồn tưởng anh đi nhầm đường định kéo lại, nhưng anh vẫn tự tin tiến vào, hai đứa tôi líu ríu chạy theo. Gian hàng bên này là một khu riêng, hàng ngày đi qua chúng tôi chỉ thấy một tủ kính lớn chắn ngang cửa, trong tủ bày la liệt những chai bia Hà nội, những chai rượu màu, hôm nay mới được vào bên trong. Trong này sang trọng quá, tường sơn xanh, nền gạch hoa sạch bóng, năm sáu cái bàn trải khăn trắng, trên bàn có lọ hoa, xung quanh bàn có ghế tựa hẳn hoi. Trong phòng không có khách, cô mậu dịch viên ngồi sau quầy ngỡ ngàng nhìn chúng tôi. Hai thằng tôi nghệt mặt còn anh Thu vẫn tỉnh bơ hỏi :"Có chi eng hông ?". Tiếng miền nam, dù chỉ là giọng Quảng ngãi trọ trẹ quê tôi rõ ràng là có tác dụng, cô hàng niềm nở: "Có thịt gà, thịt bò", "mấy đứa eng thịt bò hông?", gật, "Cho một dĩa thịt bò", "thịt bò xào phải không ạ", "ừa, thịt bò xầu". Chúng tôi ra bàn chờ, tôi rón rén ngồi xuống ghế, nhìn qua ô cửa tròn sang bên kia. Cửa hàng buổi trưa đông đúc, người ăn, người đi lại ồn ào như cái chợ, bát đũa rếch rác vương vãi, nhiều người không có ghế phải đứng húp xì xụp. Lúc sau đĩa thịt được đưa ra, một đĩa đầy thịt bò xào hành tây thơm phức. Anh Thu chia đũa bát rồi bảo ăn đi mấy em. Tôi băn khoăn chưa thấy cơm mì gì cả thì đã thấy anh gắp thịt vào bát. Mất một lúc tôi mới hiểu ra vấn đề: Chúng tôi ăn thịt không, ăn vã thịt! Ăn vã thức ăn là một tội lớn. Ở nhà, đến bữa cơm, thằng Thái háu ăn nên tôi phải để ý, nếu thấy nó xúc một miếng thịt hay đậu mà không kèm theo một thìa cơm là tôi la lên: "má, thằng Thái ăn vã kìa" là má tôi lừ mắt ngay, có khi nó còn bị một đũa vào tay. Chưa bao giờ tôi chỉ ăn thức ăn không. Dù đi ăn cưới hay ngày tết thì mâm cỗ cũng phải có cơm. Những khi có nhiều thức ăn thì cũng chỉ dám chừa lại một cục thịt hay cục giò để ăn sau. Còn như chỉ gọi mỗi đĩa thịt để chén vã công khai thế này thì tôi hoảng thực sự. Cảm giác tội lỗi này ảnh hưởng tới khẩu vị, làm tôi ăn không thấy ngon. Đĩa thịt đó giá năm đồng, bằng mười bát phở. Về nhà tôi không dám kể với ai. Cả thằng Thái, vốn hay ti toe chuyện nọ chuyện kia với mẹ mà cũng không thấy nói gì, đó là một bí mật của anh em tôi. 

   Chúng tôi được dẫn đi may quần áo. Má tôi lôi ra những xấp vải, số vải đó do ba má tôi để dành phiếu mua được hay chú Tú, chị Tuyết đi nước ngoài về cho. Vải cũng không nhiều lắm, đủ cho ba anh em tôi mỗi đứa một cái áo rét, loại áo blu-dông có khoá kéo, mặc được cả hai mặt, thời trang nhất bấy giờ. Sau khi tham khảo rất nhiều ý kiến của các bà, các cô trong xóm, một sáng chủ nhật chúng tôi được đưa đến cửa hàng may mặc "Như ý" ở Bờ hồ, gần đền Ngọc sơn. Cuộc đo đạc rất long trọng và tỷ mỷ, những miếng vải mang ở nhà đi được các ông thợ và ba má tôi bàn bạc khá lâu, miếng nào mặt ngoài, miếng nào mặt trong, miếng nào để chéo, miếng nào để thẳng, miếng nào thừa, miếng nào thiếu, ghép chúng với nhau thế nào? Miếng nào làm túi, vâng, tôi nhớ là vải để may túi cũng phải mang tới. Cuối cùng thì phương án cũng được thống nhất, kho vải dành dụm của nhà tôi được chuyển cho cửa hàng.

   Khá lâu sau, chắc là khoảng nửa tháng, chúng tôi mới đi thử áo. Mỗi người một cái, kiểu giống nhau nhưng khác màu. Cái áo của tôi, chắc là để dự trữ mặc vài năm nên rất dài, lụng thụng đến quá mông, làm tôi không vừa ý lắm. Bù lại, nó khá nhiều túi, có khoá kéo cẩn thận, có thể để nhiều loại đồ chơi. Cái áo của anh Thu là đẹp nhất, hai mặt đều bằng vi-ni-lông sột soạt, may cũng vừa vặn. Má tôi phấn khởi hướng dẫn cách lộn mặt áo, cách cài khuy. Lúc mang áo về, mọi người xúm lại khen vải tốt, khen may đẹp làm má tôi càng tự hào. Tuy nhiên anh Thu có vẻ không thích cái áo lắm, đi đâu anh chỉ hờ hững vắt trên vai như mội thứ áo khoác, không xỏ tay, cũng không cài khoá. Trước khi vào nam, anh mang áo cho một người bạn mới quen vì trong nam không rét, anh bảo thế. Nghe tin ấy, má tôi lặng người vì tiếc.

CHÚ CANH 

     Hồi ở Hà nội, xóm nhà lá chúng tôi ở gần bờ ao của trường Nghiệp vụ ngân hàng (ngày nay là Học viện ngân hàng). Ao cá của trường Ngân hàng rất rộng, như là một cái hồ nhỏ. Bờ ao giáp khu nhà lá trước kia có lẽ được xây dựng khá đẹp, nhưng đã bỏ hoang. Dấu tích còn sót là hàng cột điện trơ trụi và hàng dừa ngả bóng xuống mặt nước. Dưới đất cây cỏ mọc um tùm, chẳng mấy khi có ai bước đến. Nơi đó là thế giới riêng của bọn trẻ xóm nhà lá và một người ở góc cuối bờ ao, là chú Canh. Không biết chú Canh làm gì ở cơ quan nhưng buổi tối thì chú là người coi cá, thật ngẫu nhiên mà nhiệm vụ này lại trùng với tên của chú.

     Chú Canh người miền nam, chú thân với ba tôi vì cùng là dân tập kết, rồi dần dần chú quen với cả xóm. Buổi chiều chú thường sang rửa rau, vo gạo rồi xin xô nước xách về. Chú Canh có khuôn mặt hơi dữ tướng với vệt râu quai nón mờ mờ, nhưng cặp mắt lại hiền, lúc nào cũng như đang mơ màng dõi về nơi xa. Sau này khi đọc sách văn học, thấy miêu tả những nghệ sỹ ẩn dật, tôi thường hình dung lại chú. Chú không có gia đình, quanh năm đánh bộ quần áo xanh công nhân, cái mũ công nhân bằng vải, ngày hai buổi cắm cúi đi vòng qua bờ ao về nhà. 

     Nhà chú Canh là một mối quan tâm đặc biệt đối với chúng tôi, khiến chúng tôi vừa tò mò lại vừa sợ. Ngôi nhà rất nhỏ, bằng gỗ, lợp tôn, mỗi bề chỉ rộng chừng 3 mét, xinh xắn như một thứ đồ chơi. Người ta dựng nó ở góc xa nhất của ao cá, sát chân tường, biệt lập, lẫn vào cây dại. Tường rào phía sau ngôi nhà bị dân trộm cá xô đổ, chú Canh rào lại bằng dây thép gai và cành cây khô. Ban ngày chú Canh đi làm, các ô cửa đóng chặt, để chống trộm, các móc khoá cửa, các đinh ốc, nẹp sắt quanh nhà đều có câu điện. Điều này chú Canh đã dặn chúng tôi và còn ghi cả lên vách nhà, nhưng cũng có vài đứa bị điện giật khi vô tình chạm vào những vật kim loại trên tường nhà chú. Chắc là điện cũng không mạnh lắm nên chẳng việc gì, chỉ nhoi nhói chút thôi. 

     Tôi đã vài lần được theo ba vào trong nhà chú. Nếu như ngôi nhà nhỏ xíu với khung cảnh bên ngoài đã đầy chất cổ tích thì trong nhà còn kỳ lạ gấp bội. Đó là bộ sưu tập của những thứ lạ mắt, hệt như một góc lâu đài phù thủy. Cái giường nhỏ, bộ bàn ghế nhỏ bằng gỗ như ở quán chè chén, xoong nồi nhỏ, tích nước nhỏ, cái đài nhỏ và nhiều thứ dụng cụ không tên. Trên trần nhà, mạng dây điện chằng chịt toả đi các nơi - đây là hệ thống bảo vệ nhà chú. Một bóng đèn điện chụp gần kín, chỉ toả vòng sáng vừa khít mặt bàn. Chú đun nước bằng "tàu ngầm" - một dụng cụ tự chế bằng hai lưỡi dao cạo râu nối với hai đầu dây điện, thả vào ca nước - và nấu cơm bằng cái bếp điện con con. Vào thời bấy giờ, đó là những thứ dụng cụ ngốn điện bị cấm tuyệt đối ở các khu gia đình, còn ở nhà chú Canh thì chúng được dùng công khai mà chẳng có ai ngạc nhiên. 

     Chú Canh nói chuyện rù rì, chậm rãi. Qua những lần trò truyện ít ỏi nghe lỏm được, chúng tôi biết quê chú ở xứ Tây ninh, trong miền nam. Vợ con chú ở trong đó, nhưng từ ngày ra bắc, chú không nhận được tin tức gì. Một đôi lần, quanh bể nước, các bà, các cô tỏ ra ái ngại cho cảnh đơn độc của chú, hỏi han, hứa giới thiệu đám nọ, đám kia. Những lúc đó chú lúng túng thấy rõ, chống chế vài câu rồi vội cắp rổ rau, xách xô nước ra về.

Sau giải phóng miền nam, chú Canh buồn hẳn, ít xuất hiện, chỉ lủi thủi đi về. Tôi nghe ba mẹ nói chuyện với nhau là chú đã có tin nhà, nhưng toàn tin buồn, cha mẹ chết, anh em ly tán, vợ chú đã lấy chồng khác, là lính ngụy. Ngôi nhà chú Canh lúc nào cũng đóng cửa. Ban đêm, thấy vệt đèn le lói hắt ra, biết là chú vẫn ở đấy. 

    Một buổi chiều đi học về, tôi nghe mấy đứa nói chú Canh vào nam rồi, người ta phá nhà chú rồi. Tôi vội chạy sang, ngôi nhà đã bị san bằng. Không biết chú đi từ bao giờ, tôn, gỗ, đồ đạc người ta mang đi đâu hết, còn trơ lại cái nền xi măng sạch sẽ.

Ỷ NIỆM THỜI BAO CẤP - NHÀ TẬP THỂ 

   Khu nhà lá đến thời kỳ này đã nát lắm rồi. Thực chất đây là dãy nhà tạm, mái lá, tường toóc-xi, một loại vật liệu là phên tre, bên ngoài trát vữa vôi. Bình thường tuổi thọ của công trình này chỉ 2-3 năm, đến nay nó đã trải qua năm thứ 8 với bao nhiêu lần mưa gió, ngập lụt. Mái nhà đã mòn hết, lớp lá lợp đã mục từ lâu. Để chống dột, người ta lợp đè lên trên mái một lớp giấy dầu, là loại giấy bìa tẩm nhựa đường. Loại giấy dầu này chống dột thì tốt nhưng chịu nóng kém, vào những buổi trưa hè, nhựa đường chảy nhũn ra, toả hơi nóng hầm hập. Được một thời gian, nhà lại dột, người ta lại lợp đè lên lớp thứ hai, cứ như thế đến nay đã là lớp thứ mấy rồi, cộng với đủ loại thanh nẹp, dây buộc, rác rưởi…mái nhà dày xộp lên như một cái mũ nồi rách đội trên đầu thằng ốm đói. Vậy mà vẫn dột, dột một cách vô vọng vì không thể tìm được chính xác chỗ thủng dưới tầng tầng lớp lớp mái nhà. Nước còn đọng lại sau mỗi cơn mưa, tí tách suốt ngày kể cả khi nắng ráo. Cách duy nhất là căng ni-lông cho nước chảy ra ngoài hiên. 

   Trần nhà cũng không còn, nguyên thủy trần nhà làm bằng vỏ bìa thùng đựng hàng, khi còn mới cũng phẳng phiu, đóng nẹp tre ngay ngắn. Tới khi nhà bắt đầu dột thì trần cũng "đi" theo. Giấy gặp nước bục ra từng mảng rớt xuống nhà, rớt cả vào mâm cơm, giường chiếu. Sau mỗi đợt chống dột, nhà nhà lại phải sửa lại trần. Đây là cơ hội thể hiện sự sáng tạo, mỗi gia đình "đì-zai" trần nhà theo một kiểu. Pờ-rồ nhất là nhà cái Hằng, chú Riêm, bố nó, kiếm đâu được nguyên một tấm bạt lớn, căng lên vừa vặn, trần nhà nó phẳng và đẹp như mái rạp xiếc. Các nhà khác thì tuỳ điều kiện mà sắp đặt. Thông thường ở những khu vực quan trọng như giường ngủ hay bàn tiếp khách thì căng ni-lông, những chỗ khác thì gián bìa hay giấy báo. Ba tôi xin được khá nhiều bao ni-lông đóng hàng của Trung quốc, về phá ra thành những miếng lớn gần bằng cái chiếu con. Mất một ngày chủ nhật, nhờ mấy chú trong cơ quan đóng lên mới xong. Trần nhà tôi như thế cũng thuộc loại khá. Sạch sẽ, chống dột, lại hơn nhà khác là có in nhiều chữ Tàu, chứng tỏ hàng ngoại. Nhà thằng Quân độc đáo nhất, sau khi đi sơ tán, nhà nó ở lại trên quê một thời gian dài, đến lúc về Hà nội thì toàn bộ trần nhà đã bị rơi xuống hết, còn trơ lại những ô vuông bằng nan tre. Chú Trí, bố nó, cứ để vậy, không thèm làm trần mới, chỉ căng ni-lông chỗ giường nằm. Bọn tôi sang chơi thấy cũng khoái, nằm ngửa trên giường nhìn mái nhà, thấy cả vì kèo và mạng dây điện chăng ngang, thỉnh thoảng có con chuột chạy qua lại rung lên bần bật như dây đàn.

   Tường nhà cũng bắt đầu mục, chân tường vôi ngấm nước, bở ra, rơi xuống, trơ lớp nan tre. Rồi nan tre cũng mục, vỡ ra. Người lớn lấy giấy bìa vá lại những chỗ thủng, còn bọn trẻ con thì lại dùng bút chì chọc thủng ra để trò chuyện với nhau. Thời đó bố mẹ đi vắng thường nhốt lũ con trong nhà, nhờ những chỗ tường thủng chúng tôi vẫn có thể trò chuyện, bày trò chơi với nhau. Vài năm sau lại có nạn mối xông, từng đàn mối đục rỗng các cây cột gỗ làm các bức tường càng ọp ẹp như đồ hàng mã, khẽ động vào là rung rinh muốn sập. Dân xóm nhà lá không có thói quen dựa lưng vào tường, khách đến chơi thì phải xếp chỗ cho khách và dặn trước "ông (hay bà) khéo khéo đừng dựa vào tường". Rất lâu về sau, khi đã chuyển đi chỗ khác, tôi vẫn không bỏ được thói quen này, ngồi đâu lưng động vào tường là lại giật mình lùi ra. 

   Bên trong nhà đã mục nát, phía ngoài cũng không khá gì hơn. Cái mái nhà đụp 3-4 lớp tôi đã nói ở trên, còn tường nhà mặt trước thì tróc lở. Màu vôi trắng ngày nào đã bay hết không còn dấu tích, thay vào đó là nhằng nhịt hình vẽ, chữ viết bằng gạch, bằng phấn của bọn trẻ con bản địa và cả bọn ở những nơi khác đến. Không biết đứa nào đi viết tên từng gia chủ lên các cánh cửa, mà toàn viết sai chính tả, chú Trí thì viết là chú Chí, bác Trẻ thành bác Chẻ, ông Xuân thành ông Suân…Các cánh cửa cũng xập xệ lắm rồi, lúc đầu là màu đỏ còn sau thì sơn đi, sơn lại mỗi nhà một kiểu. Các chỗ ván ép hỏng được vá víu bằng nhiều loại vật liệu khác nhau. Thềm nhà cũng đã hỏng, sứt mẻ như cóc gặm. Nói chung, nhìn tổng thể cả dãy nhà thật thảm hại và xấu xí.

   Hà nội những năm đó là một đại công trường xây dựng. Trong nội thành, khắp các cửa ô, những khu nhà mới mọc lên với tốc độ chóng mặt. Toàn nhà lắp ghép theo kiểu Liên xô. Những ao hồ, đầm ruộng vùng ven nhanh chóng được san bằng, rồi máy đóng cọc, máy cẩu kéo đến, những đoàn xe tải ùn ùn chở về những mảng bê-tông lớn. Không biết được sản xuất từ đâu, mỗi mảng một kiểu, có mảng có cửa lớn, mảng khác có cửa sổ, ban công, cầu thang…Chúng được cẩu lên, xếp vào nhau như trẻ con xếp đồ chơi, thợ hàn hàn ghép vào, thợ xây xây trét các khe hở. Cứ thế, tuần tự, xe, máy chạy ầm ào suốt ngày, lửa hàn nhay nháy suốt đêm. Hôm trước, hôm sau, chừng nửa tháng đã thấy xong một toà nhà. Cửa rả cũng được chở đến, lắp vào, trang trí nội thất không có gì, quét vôi, lắp điện là xong. Khu Giảng võ, Trung tự, Thành công, Khương thượng…một kiểu giống nhau như cùng một khuôn. Khu Nam đồng cũng có thêm một dãy 5 tầng gọi là nhà B1, rồi san lấp chuẩn bị xây tiếp ở phía sau là khu C, khu D. Bọn trẻ chúng tôi đi học về là quăng sách vở, suốt ngày lang thang ở công trường. Để lấy đất lấp ruộng, người ta đào hồ Xã đàn. Đủ các loại xe xúc, xe ủi, xe cạp lổm ngổm bò như cua, tuần tự khoét dần xuống, moi đất đổ lên bãi. Chúng tôi đu theo xe cạp đất, loại này lớn, đi chậm, êm, có nhiều chỗ bám. Chúng tôi đeo như lũ khỉ, theo xe vòng xuống đáy hồ cạp đất rồi vòng lên, có vậy thôi mà say mê quên cả về ăn cơm. Người lớn cũng đuổi nhưng không xuể. Rồi chúng tôi leo lên các toà nhà đang xây, leo lên cả tháp nước Trung tự cao chót vót lưng trời. Chúng tôi nhặt nhạnh các thứ về chơi: dây may bao xi-măng, những viên sỏi nhiều màu sắc, thanh sắt, mảnh gỗ đẹp…

   Trong cái không khí sôi động đó thì khu nhà lá vẫn an nhiên, tự tại, trông thật ngứa mắt. Bản thân chúng tôi cũng chán, nói gì đến cư dân xung quanh. Người ta đã nhiều lần bàn đến chuyện đập đi, xây mới, nhưng rồi cũng chẳng thấy gì. Người lớn ở xóm nhà lá cũng kêu ca khắp nơi, lâu lâu lại thấy họp bàn, đoàn này, đoàn kia về ngó nghiêng rồi lại đi. Tôi nghe người lớn nói chuyện, đại khái là dãy nhà chúng tôi do cục XYZ làm tạm ở đây chứ không thuộc biên chế của khu Nam đồng, đến nay cái cục XYZ đó đã giải thể, thành ra khu nhà thành con rơi, không ai lo. Mọi nơi khác trong khu tập thể được nâng cấp, sửa sang, thành ra khu nhà lá càng lạc lõng. Không chỉ người lớn mà bọn trẻ chúng tôi cũng thấy buồn. Mỗi lần lên nhà bạn bè ở trên nhà tầng nhìn về nhà mình thấy rếch rác, ngượng quá. Thật ra thì hồi đó nhà chúng nó cũng chẳng sang trọng gì, cả gia đình 7-8 người chen chúc trong căn phòng mười mấy mét vuông cũ kỹ. Nước phải xách từng xô, điện đóm tù mù, nhưng dù sao chúng nó cũng không phải chịu cảnh mưa dột, nước ngập, tường thủng như chúng tôi.

Càng ngày dãy nhà càng xuống cấp, các bức tường đã xiêu xiêu, người ta lại tổ chức mang những cây tre đến chống đỡ. Thế là ngôi nhà tự nhiên mọc thêm hai hàng chân, trông xa hệt như con bọ dừa đang lội bùn.

Có tin bão về, mọi người lo lắng thực sự, có bão thì chắc là đổ nhà rồi, bình thường chỉ có cơn gió to là từ mái đến tường đã rung rinh. Buổi tối Ban quản trị khu xuống họp bàn chống bão, chúng tôi ở ngoài sân thấy cãi nhau to tiếng lắm, mọi người giải tán ai cũng có vẻ căng thẳng. Sáng hôm sau, thấy có nhiều người đến, mang theo những cuộn dây thép to. Họ đóng cọc néo dây thép lên các cột nhà, một số người leo lên mái, buộc những cây tre to đè xuống. Đến chiều thì có thông báo là các gia đình sẽ lên trú bão ở nhà Hội trường của khu tập thể, nhà tôi thì ở trường học. Ba tôi và các chú, các bác ở lại trông nhà.

Ba má con tôi ôm chăn màn quần áo ra trường học. Chập tối mưa gió bắt đầu nổi lên. Nhà tôi ở trong một căn phòng xép khuất sau cầu thang. Cũng thấy gió rít, cửa rả xô loảng xoảng nhưng trong phòng kín đáo không cảm thấy gì. Trong giấc ngủ chập chờn, tôi cứ nghĩ mãi về ngôi nhà mình, lúc chiều mọi người đều quả quyết là nó sẽ không qua nổi đêm nay.

Sáng dậy, tôi chạy ra ngoài, thấy mưa đã tạnh, bầu trời quang quẻ như chưa hề có cơn bão nào đi qua. Mẹ tôi bảo tôi chạy về nhà xem thế nào và mời ba ra ăn cơm. Tôi ra đường mới thấy dấu vết của cơn bão, cây cối xơ xác, lá cây, rác rưởi vương vãi, nước ngập lênh láng các sân nhà. Trên các nhà tầng dây phơi quần áo, màn sáo cửa sổ đổ ngả nghiêng, mọi người đang dọn dẹp í ới.

Tôi lội nước đến đầu nhà 5, chỗ sắp rẽ về nhà tự nhiên thấy hồi hộp, tim đập mạnh, không biết ngôi nhà sẽ xuất hiện với bộ dạng nào đây. Bước lên vài bước nữa, tôi thở phào, dãy nhà vẫn còn. Trái với dự đoán, nó vẫn đứng được nhưng đã bị xô nghiêng. Mặt tường phía trước ngả ra sau, mái nhà tốc lên, nhìn từ phía đầu hồi trông hệt như khuôn mặt một người tóc bù xù, đang ngửa mặt lên trời mà hỏi: "ủa, sao tôi vẫn chưa đổ". 

Sau trận bão ấy, mọi người trở về nhưng cũng biết là không còn ở đây lâu. Những chỗ vá víu sau bão đã bung ra hết, những khe nứt trên tường toác ra từ trên xuống dưới, ngồi giữa nhà mình có thể xem nhờ ti-vi hàng xóm. Những cuộc họp lại tiếp tục triền miên, khi thì kéo nhau đi, khi thì có người về. Có khi được thông báo là các gia đình phải tự đi tìm chỗ tạm trú, có khi thì cư dân xóm nhà lá đòi mượn nhà bạt về căng ở ngoài sân…Cuối cùng thì phương án được chấp nhận là xóm nhà lá sẽ chia đi ở nhiều nơi trong khu tập thể, nhà lá sẽ được dỡ đi xây mới. Chúng tôi chuẩn bị chia tay nhau.

KỶ NIỆM THỜI BAO CẤP - GẠO VÀ LƯƠNG THỰC 

   Thời bao cấp, gạo là vấn đề sống còn, chắc các bạn cũng đã nghe nhiều câu chuyện bị hài về đề tài này. Ví dụ, để mô tả hoàn cảnh trớ trêu của một ai đó, người ta chỉ cần nói hắn "bị mất sổ gạo", là mọi người sẽ hình dung ra ngay nỗi thống khổ của hắn. Gia đình hắn sẽ không có gì ăn, phải đi vay mượn, mà vay mượn ở đâu khi tiêu chuẩn đã định lượng cho mỗi đầu người. Mua gạo ngoài ư, tiền lưong của hắn mua được bao nhiêu, mà mua gạo rồi thì tiền đâu mà mua cái khác. Hắn sẽ phải chạy vạy để xin sổ gạo mới, cái này gian truân lắm đây. Rồi có xin được thì cũng phải mất cả tháng sau, suất gạo tháng đó coi như mất, người ta có sổ đàng hoàng còn chưa mua được. Kho nhà nước tháng nào hết tháng đó, thậm chí ngày nào hết ngày đó, ai để chừa phần cho hắn. Nhưng mà hắn sẽ không chịu mất, hắn sẽ đi kiện cáo, xin xỏ…lại lao vào cái vòng luẩn quẩn, bế tắc, cực nhục, tóm lại là sẽ khổ…như mất sổ gạo!

   Tôi không nhớ rõ định lượng lương thực lúc đó là bao nhiêu, có rất nhiều mức. Ba tôi được nhiều nhất, hình như là 15kg/tháng, má tôi thì 13 kg, trẻ con thì tuỳ theo lứa tuổi, từ 7 đến 9 kg. Đọc đến đây chắc các bạn cũng thấy bình thường, mỗi tháng cả nhà ba bốn chục kí gạo, có gì mà đói. Xin thưa là bây giờ thì đúng thế, nhà tôi mua chục ký gạo, ăn cả tuần không hết, vì sáng đã đi ăn hàng, trong tuần thế nào cũng có vài bữa tiệc, không đám cưới thì đám giỗ, rồi tiếp khách, nhậu nhẹt…đến bữa cơm thì thức ăn đầy mâm, mới ăn lưng chén đã thấy muốn đứng dậy. Nhưng thời đó khác, gạo là nguồn năng lượng chính, ngày ba bữa cơm, thức ăn thì chủ yếu là những thứ đánh lừa vị giác. Mà gạo thì có ra gạo đâu, vừa đen, vừa mốc, vừa sâu, hạt gạo xốp xộp khi vo nổi lên trắng mặt rá. Vì vậy mỗi bữa ăn ba bốn bát là thường. Nhà tôi ít trẻ con, tiêu chuẩn gạo cũng không thấp, mà chưa hết tháng đã phải vét thùng gạo soàn soạt. Từ khi biết nấu cơm, tôi đã biết độn mì, mì sợi ăn độn trừ vào tiêu chuẩn gạo. Hàng tháng độn bao nhiêu phần trăm mì, cửa hàng lương thực thông báo rõ, 30, 40 hay 50%. Ăn mì là nỗi khổ của trẻ con chúng tôi, không biết chất lượng bột, quy trình sản xuất thế nào mà mì vừa đen, vừa hôi, các sợi mỳ bết vào nhau cứng quèo quèo. Những đợt mì nhiều, má tôi phải chế biến, chần hai, ba lượt cho bớt hôi rồi nấu hoặc xào với chút thịt, trứng. Chế biến công phu thế nhưng bữa nào thấy toàn mì là anh em tôi lại xị mặt, kiểu như trẻ con bây giờ bị ép đi ăn cỗ.

   Giai đoạn mà tôi đang kể thì những khó khăn đã lên tới đỉnh cao, đã có lúc tôi bị đói. Vâng, thực sự là từ trước tới đó, dù kham khổ nhưng má tôi chưa bao giờ để tôi bị đói. Nhưng đến lúc này thì má tôi cũng hết cách. Tiêu chuẩn độn đã lên tới 80%, một tháng cả nhà chỉ còn mua được vài kí gạo, mọi người nói đùa là "mì độn cơm" chứ không còn là "cơm độn mì như trước". Đã thế gạo cũng không có đủ phải chia bán nhiều đợt, mỗi đợt 2-3 kí. Hết tháng chưa bán hết sổ, tiêu chuẩn lương thực chuyển sang tháng sau, tháng sau lại chuyển tháng sau nữa, cứ mãi như thế, trên thực tế là bị cắt bớt. Các thứ ăn độn cũng linh tinh, mì sợi đã trở thành hàng cao cấp, người ta độn mỳ hạt (trong nam gọi là bo bo), một thứ ngũ cốc không biết xuất xứ từ đâu, có lẽ là từ một xứ nuôi ngựa nào đó. Mì hạt vừa khô, vừa nhạt và đặc biệt cứng, nấu phải hầm thật kĩ mà khi nhai muốn trẹo răng. Chúng tôi nhiều khi ăn vội nên nuốt chửng, đầy bụng nhưng ọc ạch rất khó chịu, đến khi thải ra thì gần như còn nguyên như kiểu cà phê chồn. Có những đợt thì độn khoai tây, toàn khoai tây bi, củ lắt nhắt gọt không xuể cứ ngâm nước rồi xát cho tróc vỏ. Vừa khéo dịp đó mậu dịch bán mỡ nước thay cho phiếu thịt, mỗi nhà một hộp sắt tây cỡ phải 3-4 lít, ai cũng phấn khởi. Nhưng mà thứ mỡ này khi mở ra có mùi rất lạ, nó gây gây nửa như bơ, nửa như mỡ bò. Mọi người kháo nhau đó là mỡ cừu của Mông cổ viện trợ, tốt lắm, cố mà ăn. Ai cũng cố mà không ăn được, cái đặc sản thảo nguyên đó không hợp với thực phẩm Việt nam, rau xào, cá rán, cơm rang đều đẫm mùi cừu. Tôi cũng không biết mùi cừu thế nào, thấy mọi người bảo vậy, đại khái nó như mùi mỡ bò phi với hành tỏi vậy, rất khó nuốt. Mỡ nhiều không biết làm gì mới đem rán khoai tây (bình thường món này không bao giờ có trong thực đơn vì hao mỡ). Khoai tây rán mỡ cừu có vẻ hợp, chắc vì đều là đồ tây. Thế là công thức được phổ biến, nhà nhà rán khoai, bữa bữa khoai rán, kéo dài cả tháng. Hết đợt đó, không thấy mỡ cừu xuất hiện nữa, nhưng mùi của nó thì còn ở lại, nó nhiễm vào bát đũa, xoong chảo, vào gian bếp của các gia đình, rất lâu sau mới hết hẳn. 

   Rồi khoai tây cũng hết, cửa hàng bán đến ngô xay, khoai lang khô, sắn khô. Những mớ sắn khô đã bốc mùi chua loét, ngâm rửa năm bảy lần mà khi độn vào vẫn làm hỏng cả nồi cơm. Mọi nhà, cả nhà tôi phải tăng nhiều rau, ăn chống đói. Tôi nhớ mâm cơm dọn ra, một đĩa rau muống luộc to tướng, xoong cơm lưng lưng để bên cạnh. Ba tôi đi làm, ba mẹ con, mỗi người được một bát cơm, má tôi cũng xới cơm nhưng chỉ gắp rau ăn. Nhìn xoong cơm mới một lượt xới đã gần hết, tôi huých thằng Thái "ăn chậm thôi mày", tôi cũng ăn từ từ với rau và thức ăn, thằng Thái lúc đầu cũng ăn chậm nhưng loáng cái đã hết bát cơm, đưa bát không cho mẹ. Tôi lại lườm nó "ăn nhanh thế mày", má xới cho nó một bát nữa rồi giục tôi ăn nhanh. Trong nồi còn một nhúm cơm, chắc là phần cho tôi, bát cơm của mẹ vẫn còn nguyên. Thoáng chốc thằng Thái đã lùa xong bát cơm, thằng này vốn không thích ăn rau, nó ngần ngừ đặt bát xuống bàn rồi định đứng dậy, "con có ăn nữa không?", má tôi hỏi, nó gật đầu, đến mức này thì tôi không chịu được nữa, đứng dậy vặc nó: "Má toàn ăn rau muống, mà mày còn định ăn nữa à !". Thằng Thái nghệt mặt ra rồi dứt khoát rời mâm cơm, chạy đi chơi, dù má tôi cố ép. Thằng Thái còn bé chắc không nhớ chuyện này, má tôi thì sau này còn nhắc mãi.

   Về sau có đợt người ta bán bánh mỳ thay tiêu chuẩn gạo, mọi người nói đùa với nhau là ăn "cơm tây". Buổi trưa có xe chở bánh mỳ đến giao, các tổ dân phố đến nhận. Má và tôi đi nhận bánh cho cả xóm. Xe chở bánh có sơn chữ Liên xô "Khờ-lép", tức là bánh mỳ, bánh mỳ cũng kiểu của Liên xô, đầu tròn, vỏ mỏng, vàng ươm trông rất bắt mắt nhưng do sản xuất ở Việt nam nên vẫn hôi và cứng, ăn bánh mỳ vài bữa là thấy ngán, mà lại chóng đói. Má tôi cắt bánh ra, rán lên, cho tý đường vào, chúng tôi ăn lai rai cả ngày.

   Kéo dài khoảng nửa năm thì tình hình đỡ hơn, nghe đồn là có gạo trong miền nam chuyển ra. Không còn phải suốt ngày chầu chực mua 1-2 kí gạo nữa, cũng không còn phải ăn rau độn cơm.

KỶ NIỆM THỜI BAO CẤP - TẬP ĐI XE ĐẠP 

(Trích truyện dài "Bọn trẻ xóm nhà lá")

   Chúng tôi bắt đầu tập đi xe đạp, tất nhiên là xe của người lớn. Sự việc cũng bắt đầu từ thằng Hồng bộc. Như đã nói ở phần trên, nó là đứa đặc biệt mê các loại xe cộ. Buổi chiều mẹ nó, là bác Hương, đi làm về là nó liền đón lấy cái xe đạp, dắt xe chạy bộ vè vè từ đầu nhà đến cuối nhà. Cũng có khi nó ngồi bẹp xuống gióng khung xe, hai chân bơi bơi xuống đất cho xe chạy. Mọi người đã quen với cảnh ấy nên chẳng ai để ý. Chợt một hôm chúng tôi thấy nó đạp xe vù qua cửa, đúng là thế thật! Mặc dù vẫn ngồi bẹp trên khung xe như mọi khi, nhưng hai chân nó không hề chạm xuống đất mà đặt cả lên bàn đạp đạp nhoay nhoáy. Dù có hơi loạng choạng nhưng xe vẫn đi một đoạn dài. Đến đầu hồi nhà, thằng Hồng leo xuống, quay xe và ngênh mặt đạp xe đi trở lại. Chúng tôi sững sờ nhìn theo chân nó, không hề chạm xuống đất, nó đã biết đi xe đạp. 

   Vậy là chúng tôi lao vào tập xe. Đến giờ bố mẹ đi làm về là chúng tôi đã đợi sẵn, đón lấy xe. Sân nhà biến thành bãi tập với đủ loại xe cộ khác nhau. Tôi mượn xe của mẹ để tập, cái xe của mẹ tôi đã cũ lắm, màu sơn đã tróc gần hết nhưng vẫn còn khá bon. Mẹ tôi nói đó là xe của nhà máy xe đạp Thống nhất sản xuất những năm đầu nên khung và nhiều phụ tùng của Pháp, rất tốt. Sau này khi tỷ lệ nội địa hoá tăng dần lên thì chất lượng xe kém dần đi. Nhà thằng Thành có cái xe của Tiệp cao lênh khênh. Nhà thằng Quân có cái xe Vĩnh cửu của Trung quốc nặng trịch, mỗi khi vác lên thềm phải nhờ mấy đứa xúm vào giúp. Việc tập xe rất sôi nổi, nhưng để cưỡi lên mấy con cào cào sắt này thật không dễ dàng gì, nhất là khi chúng còn cao to còn hơn cả bọn tôi. Thằng Hồng được coi là tiên phong biết đi xe đạp nhưng cũng ngã như đập mẹt. Mấy thằng bé người như thằng Vinh “khỉ”, thằng Tuấn “Trang” thì còn khổ hơn. Loay hoay mấy buổi mà chưa đứa nào để được cả hai chân lên bàn đạp. Chừng thấy cũng tội nghiệp, một hôm ba tôi bỏ dở công việc ra sân. Ông bảo tôi leo lên xe còn ông thì giữ chặt sau booc-ba-ga cho xe khỏi đổ. Thấy chắc chắn, tôi cho cả hai chân lên cong đít đạp xe chạy tới, còn ba tôi thì tất tả chạy theo giữ xe. Được vài lượt như thế, ba tôi chợt buông tay ra, thế là tôi tự lái xe lao đi được một đoạn. Khi xe ngả nghiêng sắp đổ, ba tôi lại níu lại cho thăng bằng. Học lái có huấn luyện viên như vậy, tôi tiến bộ rất nhanh, dần dần đã có thể sánh đôi được với thằng Hồng diễu qua diễu lại trước những cặp mắt ghen tỵ của cả lũ. Chúng nó lèo nhèo đòi người nhà ra giữ xe hộ nhưng ai cũng bận cả. Thôi đành phải nhờ thằng Hồng “bộc” dạy hộ. Thằng Hồng nhận lời ngay, khổ chủ đầu tiên của nó là thằng Thành. Thằng Thành vốn khéo léo, cái gì cũng biết làm trước, nhưng món này chịu kém vì cái xe của bố nó cao quá, đó là cái xe Fa-vo-rit của Tiệp, là xe nam nên gióng xe rất cao, thằng Thành không thể leo hẳn lên xe và chỉ bám vào xe, vẹo người thò một chân sang bên kia mà đạp. Chúng tôi theo dõi thằng Hồng dạy lái. Phải nói là nó rất nhiệt tình, giảng giải cặn kẽ, thậm chí còn cầm cả bàn chân thằng Thành mà đặt lên bàn đạp cho đúng kiểu. Thằng Thành hết sức cầu thị, chịu khó sửa tư thế theo đúng hướng dẫn, rồi khi nghe thằng Hồng hô “đi” thì xoạc chân đạp tới. Thằng Hồng lạch bạch chạy theo, đỏ mặt tía tai cố giữ cho cái xe đứng thẳng, chờ cho thằng Thành co nốt chân trái lên khỏi mặt đất, nó liền du mạnh cái xe về trước. Rầm!! cú ngã của thằng Thành thật là ngoạn mục vì có sự giúp sức của thằng Hồng, thậm chí cái xe còn văng ra khỏi người thằng Thành cả mét. Trong lúc bọn tôi còn hoảng hồn và thằng Thành chưa đứng dậy nổi thì thằng Hồng vẫn tỉnh bơ, tự nó vừa dựng cái xe dậy vừa la lối ầm ĩ như chính nó mới vừa bị đo đường. Tiếp tục, nhưng lần này phải thận trọng hơn, ngoài thằng Hồng đẩy phía sau, còn thêm hai đứa nữa hai bên ghi-đông vừa giữ xe, vừa giữ thằng Hồng. Lần này thì suôn sẻ, thì cũng đúng thôi, với một lực lượng trợ giúp hùng hậu như vậy thì cả một con voi dù có cố tình ngã cũng chẳng ngã nổi. 

Cứ như vậy, tự lũ trẻ giúp nhau lần lượt biết đi xe đạp. Sau khi đã đi thạo, chúng tôi lại phấn đấu lên một "leven" cao hơn - phấn đấu đặt được đít lên cái yên xe. Đó cũng là một quá trình vì xe thì cao mà chúng tôi thì bé, ngồi lên yên thì chân không tới bàn đạp. Khi đó muốn đạp xe thì người chúng tôi phải vẹo bên nọ vọ bên kia, uốn éo như con rắn. Tiếng là đi xe đạp mà khổ bằng mấy đi bộ. Mông, đùi đau ê ẩm. Tuy nhiên phải ngồi lên yên thì mới chứng tỏ được đẳng cấp, mới có thể ngẩng mặt mà bảo ban cho bọn trẻ con lẹt đẹt. Hồi đó chúng tôi thường nhại câu thơ Tố Hữu:

                          Chín năm làm một Điện biên

                     Lên vành xe đạp, lên yên mà ngồi…

   Tôi được đi xe đạp ra phố lần đầu tiên vào năm tôi lên mười tuổi. Tôi nhớ vì hôm đó đúng sinh nhật tôi, một ngày chủ nhật. Buổi sáng nhà tôi rất đông khách, ông nội, các cô, chú, dượng…mọi người đến để đi họp Hội đồng hương Quảng ngãi, quê nội tôi. Người nọ chở người kia, cuối cùng còn lại tôi không còn ai chở nên được đi xe một mình. “Nó đi được mà, cho nó đi phía trong”, các cô tôi nói, thế là tôi được đạp xe theo đoàn người ra đường. Đoạn đường đi cũng xa, tận phố Trần Hưng Đạo, dù có người lớn kèm bên nhưng tôi cũng hơi hồi hộp, nhất là khi qua các ngã tư. Suốt buổi họp, tôi không chú ý gì, chỉ nhấp nhổm lo đoạn đường về. Cuối cùng thì cũng ổn cả, chỉ có đến khi về đến gần nhà, tự nhiên tôi lại muốn thử đi vào đường ray tàu điện nên bị ngã một phát, nhưng không sao. Việc tôi được đi xe ra phố khiến đám bạn rất thán phục, tôi tha hồ ba hoa về sự mạo hiểm và sung sướng ấy, tất nhiên việc tôi bị ngã không được đề cập đến.

   Chúng tôi đều đã biết đi xe đạp, nhưng chỉ đi có tính thể thao, giải trí vào các buổi chiều, bởi vì không có xe. Mỗi nhà chỉ có một, hai cái thì bố mẹ đi làm cả ngày. Chúng tôi khi có việc ra phố thì chỉ đi bộ - nếu gần, và đi tàu điện - nếu xa. Xe buýt thì chật chội còn xích lô thì quá xa xỉ. Tàu điện - một đặc sản đã mất của Hà nội xưa, tiếng chuông leng keng, hình dáng cặm cụi thân thương của nó đã đi vào thơ, vào nhạc, vào ký ức của những thiếu niên Hà nội thế hệ 5X, 6X. Tôi muốn nói thêm một chút về tiếng chuông tàu điện, cái chuông tàu điện gắn ở đâu đó phía dưới sàn, còn cái núm đạp chuông thì ngay dưới chân chú lái tàu. Khác với còi tàu hoả, còi ô tô, chúng phát ra tiếng nhờ điện hay hơi ép còn chuông tầu điện do người lái tàu trực tiếp gióng lên. Vì vậy nó như một thứ nhạc cụ, một phương tiện giao tiếp mang tâm trạng của người điều khiển. Khi vào bến, lúc khởi hành, khi qua đoạn đường đông thì tiếng chuông reng reng giục giã. Khi thong thả chạy qua phố vắng thì thỉnh thoảng mới buông tiếng lanh canh như tiếng nhạc ngựa. Tiếng chuông tàu điện vang rất xa trên các cửa ô, từ bốn giờ sáng tới chín giờ tối, tiếng chuông sớm khuya như là hiệu lệnh khép vòng một ngày của người Hà nội.

KỶ NIỆM THỜI BAO CẤP - PHIM ĐÈN CHIẾU 

(Trích truyện dài "Bọn trẻ xóm nhà lá")


   Anh Hoà còn có một cái máy chiếu phim đèn chiếu. Ở phần trên tôi đã kể về cái máy chiếu phim đèn dầu của thằng Thành, đó là đồ chơi trẻ con, còn máy của anh Hòa là máy thật. Tuy nhiên loại thiết bị này bây giờ đã tuyệt chủng nên tôi cũng không đi sâu vào mô tả, mà chỉ xin nói ngắn gọn là loại máy này bên trong có bóng đèn điện và ống kính phóng đại, có chức năng chiếu hình ảnh trên một cuốn phim đèn chiếu lên tường. Lưu ý các bạn trẻ là hình ảnh ở đây là ảnh tĩnh, không chuyển động được. Mỗi cuốn phim có 24 ô hình, cứ tuần tự chiếu xong hình này thì kéo qua hình khác. Phần âm thanh thì đã có một cuốn thuyết minh in rô-nê-ô kèm theo và người chiếu đọc to cho khán giả nghe. Nếu buổi trình chiếu quy mô hơn thì một người chiếu, một người đọc. Tuy thô sơ vậy thôi, nhưng vào thời đó nó là một phương tiện multimedia cá nhân đỉnh nhất, có lẽ phải ngang với phim 3D thời nay. Ở trường tôi cũng có một cái nhưng mà giữ kỹ lắm, chẳng mấy khi học sinh được xem. Cái máy của anh Hoà do Việt nam sản xuất, nhãn hiệu “Tiền phong”, giá 16,5 đồng, một cái giá tương đối lớn nếu so với phở mậu dịch là 5 hào/bát (mà phải đôi ba tháng chúng tôi mới có dịp nếm). Phim thì đi thuê tại một của hàng trên phố Nam đồng. Đầu phim cũng không nhiều lắm, độ vài chục bộ, chủ yếu là phim cổ tích Việt nam: Tấm cám, Thạch sanh…và một số phim giáo khoa, tuyên truyền. Thỉnh thoảng tôi lại theo anh Hoà đi thuê phim. Không nhớ giá cả là bao nhiêu nhưng mỗi lần chúng tôi chỉ thuê được 2 đến 3 “bộ”. Chúng tôi cũng có ý thức làm phong phú chương trình nên thường chọn hai phim thể loại khác nhau, một bộ mặc định là phim cổ tích còn bộ kia là anh hùng cách mạng, hay người tốt việc tốt, bí lắm thì đời sống sinh vật, địa lý thế giới…Như trên đã nói, mỗi bộ phim chỉ gói gọn trong 24 ô hình, nhưng thời gian chiếu thì thường kéo dài vì mỗi cảnh đều dừng lại khá lâu để khán giả thưởng thức, bình phẩm, thậm chí phải tua lại cả những cảnh trước để phân xử các ý kiến đa chiều. Nói chung, chỉ khi nào sự bình luận đã ngớt, khán giả đồng thuận rồi, người chiếu mới từ từ chuyển sang cảnh khác. Buổi chiều ngồi vo gạo, rửa rau ở bể nước, các bà, các cô đã hào hứng hỏi thăm xem tối nay có phim gì và nếu như hôm nào chúng tôi cho biết sẽ có phim dài, tức là 2, 3 cuộn thì sự hào hứng càng tăng thêm gấp bội.

   Nguồn phim không phong phú lắm, dần dần hết và có lẽ “xiền” cũng đã cạn. Để duy trì các buổi chiếu, thằng Thành lại có sáng kiến vẽ phim lên giấy can rồi cắt, dán thành cuộn để chiếu, nhưng chất lượng hình ảnh mờ, xấu không được như ý. Cũng dịp này, sau giải phóng, ti-vi miền nam mang ra nhiều. Chiếc máy đèn chiếu đã hoàn thành vai trò vẻ vang. Nó được anh Hòa tháo rời, lấy ống kính làm kính thiên văn xem mặt trăng, cái vỏ máy bỏ lăn lóc rồi biến đi đằng nào mất.

Em ăn gì thì nói đi, để anh mua, thịt gà hay nem chua...' rồi đến 'cắc cùm cum, lấy xà beng đập đầu con cá chuối...'

Hoàng Hạ Vũ

Tình cờ tôi lượm được tờ giấy vàng ố trong cuốn sách cũ. Cái sự "tình cờ" này thường xảy ra đối với những người hay mua sách cũ. Đôi lúc là tờ giấy ghi chép lặt vặt, tờ xổ số, thậm chí là tiền giấy. Nhưng tờ giấy này khiến tôi rùng mình. Cái rùng mình không phải vì lạnh. Tôi rùng mình bởi nhớ ngày xưa - cái thời bao cấp.


Ngày đó, tôi còn nhỏ nhưng đủ đưa vào ký ức những kỷ niệm không thể nào quên. Tờ mờ sáng, tôi và chị dậy rất sớm để kịp ra kho gạo xếp hàng mua. Mẹ tôi dặn đi dặn lại phải giữ cẩn thận cái sổ gạo: "Chúng mày mà làm mất, cả nhà chết đói đấy, rõ chưa", bao giờ bà cũng kết thúc sự dặn dò bằng cái giọng dọa dẫm buồn cười ấy.


Mặc dù dậy từ rất sớm nhưng ra đến nơi đã có rất nhiều những viên gạch vỡ đặt ở đó rồi. Người ta xí chỗ bằng cách đặt gạch (có lẽ từ "đặt gạch" trong giao dịch ngày nay xuất phát từ thời đó chăng?). Tôi thường tự hỏi: quái, người ta không ngủ hay sao mà nhiều gạch thế?

Tem phiếu ngày xưa.

Mẹ tôi thường sai tôi đi ra cửa hàng lương thực để mua thịt, nước mắm. Gọi là mua cho oai chứ làm quái gì có tiền. Tiền khi đó là một mẩu phiếu. Thịt, nước mắm, muối, dầu... mỗi loại là một phiếu. Cô mậu dịch viên mặt cau có đưa cái kéo lạnh lùng cắt phịch nhát vào tờ phiếu. Mỗi lần mẹ sai đi mua ở cửa hàng lương thực tôi sợ lắm!


Phần vì sợ cảnh chen lấn, xếp hàng với "dây người" dài dằng dặc, mà tôi thì nhỏ như cái kẹo mạ mút dở, vô phúc hôm nào mà xếp hàng cạnh một bà mông to như cái thúng, thoang thoảng mùi "viêm cánh" thì khốn nạn cho cái mũi của tôi. Cái chính tôi sợ là sợ khuôn mặt các cô mậu dịch viên. Hồi đó, tôi còn nhỏ lắm, mới 10 tuổi nhưng phần nào ý thức về giới tính. Mắt lấm lét đưa tờ phiếu, trong đầu tôi tự hỏi: "không hiểu ai có thể dũng cảm ôm khuôn mặt nhăn nhó như khỉ nhai ớt ấy vào lòng mà nói câu: 'I love you' được nhỉ?".


Đời sống vật chất hồi đó nghèo nàn lắm! Chập tối, nhất là tối thứ bảy, cả nhà xúm xít quanh cái đài bán dẫn nghe chú Phạm Đông đọc

Câu truyện ở Đại đội

hoặc nghe

Câu chuyện cảnh giác

. Đề tài quanh đi quẩn lại chỉ là câu chuyện cảnh giác vùng biên chống thám báo Tàu. Tôi còn nhớ, đài Trung Quốc hồi đó hay kể

Tam Quốc diễn nghĩa

với giọng đọc của Nguyễn Thanh,

Thủy hử

với giọng đọc của Chí Cường, nhưng ấn tượng nhất là Bạch Minh đọc

Tây Du ký

.


Sóng thu thanh khi rõ khi mất như thằng ốm nói thều thào. Bố tôi thường gọi là bị bạt sóng. Mà mỗi lần nghe đài Tàu cứ phải vặn

volume

bé tý rồi áp tai vào để nghe. Tôi thường được phân công đứng cạnh đài, mỗi lần "bạt sóng" thì vặn volume to, khi sóng bắt tốt thì phải vặn nhỏ xuống. Để làm gì? Để tránh bị công an hỏi thăm vì tội "nghe đài địch". Thật là buồn cười cho một thời nhận thức bạn - thù.

Chiếc đài Vec 206.

Mỗi sáng, tôi thường bật dậy vào lúc 5h30 để học bài. Mà muốn ngủ cũng không ngủ được, cái đồng hồ chuông cơ "con gà" của Tàu hoặc "Sevani" của Liên Xô kêu to như cháy nhà. Đôi lúc mệt quá không muốn dậy, mắt nhắm mắt mở sờ soạng bấm vào nút như cái cúc áo trên đồng hồ để ngắt chuông. Hồi đó, có lẽ ngày Tết là vui nhất (người ta chẳng nói "vui như Tết" mà).


Tết đến, bức tranh xám xịt của cuộc sống thường nhật mới được tô điểm. Sắc hồng của tràng pháo, sắc xanh nhạt của chai rượu chanh và báo Tết nữa, chỉ báo Tết mới có nhiều màu sắc. Tất nhiên, so với báo Tết bây giờ thì những tờ báo đó chỉ là cô thôn nữ quê mùa mới tập trang điểm. Màu đỏ trên tờ báo hồi đó cũng bợt bạt, mà quanh đi quẩn lại chỉ 3 đến 4 màu nhưng như thế là đẹp lắm rồi.


Lại nói đến bữa ăn thời bao cấp, nhà nào khá giả lắm mới không phải ăn độn. Thịt cá dĩ nhiên là không có bán ngoài chợ rồi. Nhà nước quản lý việc giết mổ gia súc. Nhà nào muốn mổ lợn phải làm đơn và nộp thuế sát sinh. Kẻ nào to gan mang thịt ra chợ bán bị bắt chỉ còn nước sạt nghiệp. Mấy ông phòng thuế hồi đó to như... cái đình. Hình hài cũng gầy gò như đa số nhân dân thôi nhưng không hiểu sao mồm hét to thế không biết. Chẳng phải "trường cổ tắc đại thanh" mà là cái quyền cho con người ta nội lực để vận khí... hét.


Đói, đói quá. Cái đói đi vào thơ ca, đi vào những bài hát chế lời. Thôi thì hết "em ăn gì thì nói đi, để anh mua, thịt gà hay nem chua..." lại đến "cắc cùm cum, lấy xà beng đập đầu con cá chuối, dấm canh chua thả ớt cho thật cay..." (chế từ Tiếng chày trên sóc boong bo). Mỗi bữa, mẹ tôi thường giao hẹn mỗi đứa chỉ ăn hai bát cơm. Thật là thương cho cái dạ dày của tuổi sắp lớn. Lúc nào nó cũng ở trạng thái lưng lưng, thèm thuồng.


Cuộc sống giờ đây chưa phải là sung sướng, sự bấp bênh của nền kinh tế luôn đe dọa mỗi người. Nghĩ đến ngày mai, tôi vẫn tự thương cho mình và thương cho đa số những người có quốc tịch giống tôi. Tuy nhiên, ngày nay vẫn là "thiên đàng" của ngày xưa. Hôm nay, ngồi nhìn mâm cơm đầy ắp thức ăn, tôi chống đũa thở dài sườn sượt vì sợ những thịt và cá.


Hai đứa trẻ con suốt ngày ca cẩm: "Lại bắt ăn". Ôi chao! Giá những miếng thịt, đĩa cá kia mà xuất hiện ở mâm cơm hơn 20 năm về trước thì chỉ một loáng là hát bài "Trống vắng". Giá bọn trẻ biết được bằng tuổi đó, cái thằng đàn ông sinh ra chúng trệu trạo nhai bo bo cùng sắn và suốt ngày đòi ăn cơm thì chúng chẳng tin nổi.


Dù sao, muốn hay không thì nó cũng là một giai đoạn của lịch sử. Cái gì thuộc quá khứ thì để tương lai phán xét. May thay, tôi còn giữ lại được những kỷ vật của một thời như vậy...

Nồi bánh chưng - kéo chúng tôi về tuổi thơ thời bao cấp

Ngõ chúng tôi ở thuộc quận Hoàn Kiếm, cách hồ Hoàn Kiếm theo đường chim bay và trăm mét. Mấy anh em cùng trang lứa sống với nhau vài chục năm,  thành lập một nhóm, gồm mười người. Cứ ngày lễ, ngày Tết lại gặp nhau, tổ chức những bữa liên hoan vui vẻ. Trong ngõ có vấn đề gì  cùng bàn bạc rồi ra “nghị quyết”.

Có gia đình mới đến định chuyển cột điện ra nơi khác xa cửa nhà mình làm ảnh hưởng hệ thống chiếu sáng và vị trí đặt loa của phường, anh em ra “nghị quyết” không được làm, gia đình đó phải chịu. Thấy đường vào ngõ chênh quá cao giữa vỉa hè và nền đường. Anh em trong nhóm ra “nghị quyết” các thành viên đóng tiền thuê người hạ thấp vỉa hè. Trong ngõ có nhà nào to tiếng với nhau là mọi người cùng ra dàn hòa. Nhà ai có chuyện hiếu, hỷ anh em đều có mặt. Mọi việc trở nên thuận lợi bởi trong nhóm chúng tôi có anh tổ trưởng dân phố, chúng tôi thường nói đùa là “trưởng thôn”.

Tết năm nay nhóm chúng tôi ra “nghị quyết” mới, từ nay trở đi sẽ cùng nhau nấu nồi bánh chưng Tết. Mục đích nhằm tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, cùng nhau “ôn nghèo, kể khổ” và hướng lớp trẻ quay trở về với truyền thống xưa.

Để cho buổi nấu thành công chúng tôi cắt cử nhiệm vụ cho từng thành viên. Vợ chồng anh “trưởng thôn” chịu trách nhiệm gói bánh và nấu. Một thành viên quê ở Hà Tây (trước đây) lo kiếm khoai và mía... Do vậy bữa liên hoan bên nồi bánh chưng, ngoài rượu đặc sản quê, mực nướng, chúng tôi còn có món khoai nướng, mía lùi. Tham dự buổi tôi nấu bánh chưng không chỉ có thành viên trong nhóm chúng tôi mà gần như mọi người trong ngõ cũng tham gia. Có người là đại biểu quốc hội, họa sỹ, nhà báo, công an, chủ doanh nghiệp... Có người đang làm việc, cũng có người đã nghỉ hưu.

Thấy ngõ chúng tôi tụ tập nấu bánh chưng vui vẻ, đôi vợ chồng trẻ công tác ở Bộ Tài nguyên và Môi trường mới đến thuê nhà  cũng ra xin phép được góp vui, gọi là “nhập gia tùy tục”.

Tất cả thành viên trong nhóm chúng tôi năm nay mỗi người được hai chiếc bánh chưng do một thành viên trong nhóm là đại biểu quốc hội tặng.

Các cháu bé rất khoái ăn khoai nướng và mía lùi. Đối với chúng được ăn những thứ đó như ăn đặc sản. Còn đối với chúng tôi đó là món ăn thường xuyên thời bao cấp.

Nhìn ngọn lửa bập bùng, nước luộc bánh chung sôi ùng ục, lửa kêu tanh tách... chúng tôi lại nghĩ đến mẹ mình. “Bà Dương bánh chưng” đó là cách mà mọi người thường gọi mẹ chúng tôi khi bà còn sống. Mẹ chúng tôi, thời bao cấp là chuyên gia gói bánh chưng cho cả cơ quan. Bà gói nhanh thoăn thoắt, cái nào cái ấy vuông chằn chặn.

Cả ngày ngồi gói cho cơ quan, tối về bà lại gói cho gia đình. Cả ngày anh em chúng tôi lo rửa lá dong, chuẩn bị bếp, củi. Khoái nhất là được mẹ cho một nắm đậu xanh mới nấu chín to bằng quả trứng gà. Chúng tôi bao giờ cũng được mẹ làm cho chiếc bánh nhỏ xinh. Đó là chiếc bánh chín đầu tiên  và chúng tôi đương nhiên được ăn sớm nhất....

Nhìn nồi bánh chưng khói bốc nghi ngút, tỏa mùi thơm “nức mũi” ...chúng tôi có cảm giác như đang xem những “thước phim tư liệu” thời thơ ấu chạy nhảy bên nồi bánh chưng.

Những điều đã qua sẽ còn là mãi mãi. Nhớ lắm tuổi thơ ơi !

Thời bao cấp với những khó khăn về kinh tế, nạn quan liêu… đã qua đi khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Nhìn lại thời kỳ này bằng cặp mắt hóm hỉnh, những người viết đã thể hiện một tâm trạng lạc quan, để ghi lại những kỷ niệm, hình ảnh mà lớp trẻ thế hệ 8X không thể nào hình dung được!

   

Tại sao để râu?


 Thời bao cấp, không chỉ ở hậu phương mà ở chiến trường cũng bao cấp. Lính tráng như tụi tôi mỗi tháng được 5 đồng. Cộng nửa năm bằng 6 tháng là 30 đồng. Tôi không hút thuốc lá, thuốc lào nên chỉ lấy khăn mặt, kem đánh răng, nửa cân đường, hộp sữa. Vỏn vẹn tính hết có 5 đồng. Còn 25 đồng, quản lý chẳng biết phân gì. Cuối cùng đành phải bắt lấy thuốc lào, thuốc lá cho hết. Xong đem cho, hoặc mời anh em khác. Hàng thiếu, tiền dư được ghi nợ để đấy.
  Năm 1970, tôi nhớ, dao cạo râu hiếm lắm, nên chỉ phần cho cán bộ trung đội trở lên. Có cậu tên Cường, nhà ở phố Lò Đúc (Hà Nội), tuy mới 18 tuổi nhưng lại khổ vì… râu quai nón! Một hôm, bị cán bộ gọi lên đại đội phê bình vì để râu lởm chởm, anh nói lý do không vì tiêu cực gì cả, mà chỉ vì không được phân dao cạo. Ông đại đội trưởng bấy giờ mới hiểu ra cười khà khà, chỉ thị quản lý “đặc cách” phân dao cạo cho anh.

*
* *

Của hiếm


  Ngày ấy, nước tiểu được dùng để bón rau, nên đến nỗi tôi đi đâu mà trót… mót tiểu cũng chạy bằng được về nhà để xả ra chậu sành. Sau đó pha nước lã để “bồi dưỡng” cho luống rau ở vườn.
Nhưng đâu phải lúc nào cũng xuôi chèo mát mái. Có hôm, bà tôi trót đi quá xa… “căn cứ địa”, đột nhiên… mót, tình thế cấp bách không thể “mã hồi” bảo toàn chiến lợi phẩm được. Nhưng trí thông minh của bà có thừa. Bà nhặt ngay một cục đất to, trông trước ngó sau và âm thầm lặng lẽ… tè vào đó. Xong, cất cục đất quý đó vào bị, sau buổi chợ, bà mang về nhà, đập vụn ra “bồi dưỡng” cho luống rau xanh màu… hi vọng.

*
* *

Xe con cơ quan


  Ngành quan trọng của tỉnh mới được phân xe con trước, lâu lắm mới đến ngành khác. Có xe con, thủ trưởng, nhân viên phấn khởi tưng bừng. Xe về, đậu ở sân hội trường, ai nấy đến xem, sờ mó, ngó nghiêng, cười rạng rỡ. Nhưng thường là xe cũ. Đi mấy bữa mới biết nhau. Thôi thì lốp mòn, bạt rách, kính vỡ, máy hỏng. Nhất nhất mọi thứ phải lập dự trù xin Ủy ban Kế hoạch tỉnh. Xăng quý như vàng lỏng. Anh nào muốn xin tí cho vào bật lửa phải dấm dúi đưa cái lọ con nói khó để tài xế lấy trộm cho.
  Đường xấu, xe kém. Xe Bắc Kinh thì xóc, nẩy bần bật, được mệnh danh là xe “Lắc Kinh”. Xe “Rumani vừa đi vừa đẩy”, xe “gát đồng nát đường dài”… mỗi xe gắn với một tên riêng. Tệ hại nhất là chiếc xe nào cũ nát quá, bạt rách bươm, cửa chằng dây thép, được gắn cho cái tên “chuồng gà di động”.

Th

i bao c

p

Saturday, September 25, 2010 6:47:41 AM

vi

ế

t

,

t

n m

n

Ngày x

ư

a, mình đã già đâu mà hay nói đ

ế

n "ngày x

ư

a" th

ế

nh

? Cái ngày x

ư

a

y luôn trong sáng h

ơ

n bây gi

, có v

vì cu

c s

ng

Hà N

i bây gi

n ào quá, đông ng

ườ

i quá, ng

t ng

t quá. Nh

ng năm 85-90 nhà tôi

khu t

p th

c

a B

ngoài đê sông H

ng. M

t dãy

nhà hai t

ng toàn b

ng g

, l

p mái ngói sông C

u và các căn h

đ

ượ

c ngăn ra đ

ơ

n gi

n b

ng nh

ng t

m cót ép. Nhà nào r

ng thì đ

ượ

c 24m2 không thì 9-12m2, th

c ch

t ban đ

u là dãy nhà dành cho cán b

đ

c thân nh

ư

ki

u doanh tr

i quân đ

i, sau các b

m

kéo

c

gia đình

quê lên, c

nhà sinh ho

t trong m

t cái kho

nh bé t

o đó

.

Nhà g

, tr

i l

nh t

hì còn

m áp, tr

i nóng thì kinh kh

ng, ch

ng khác gì ng

i trong cái lò g

ch, ph

i v

y n

ướ

c ra sàn và "t

ườ

ng" cho mát, ch

m

t lúc là n

ướ

c b

c h

ơ

i s

ch. B

n tr

chúng tôi còn nh

, chân tay v

ng v

, có hôm lóng ngóng đ

nguyên c

xô n

ướ

c xu

ng sàn, b

nhà d

ướ

i t

ng ch

y lên "ca" m

t tr

n chí ch

ế

t, đ

y là g

p ph

i nhà hi

n, có nhà d

còn cho cái b

t tai, m

y ch

em khóa trái c

a l

i "c

th

" trong nhà m

c cho "b

h

i" kêu gào th

ng thi

ế

t bên ngoài. Ch

nghĩa t

p th

th

i đó còn nguyên v

n, nghĩa là nhà nào cũ

ng na ná gi

ng nhau v

đ

đ

c, n

ế

p s

ng. C

khu t

p th

dùng chung m

t dãy phòng t

m và m

t khu v

sinh. B

n thôi r

i. Lũ tr

chúng tôi có m

t thói quen kỳ l

, là đi "

" t

p th

, đ

ế

n gi

"khai h

a", m

t đ

a đ

u têu đi t

p h

p "bà con" các nhà đi cùng, r

i

r

ng r

n lên mây d

o qua m

y dãy nhà v

sinh công c

ng đ

tìm cái phòng nào còn s

ch s

mà "luy

n ch

ưở

ng". Có hôm, sau khi "thăm quan" h

ế

t dãy nhà v

sinh c

a t

p th

B

GTVT r

i B

Th

y l

i, ng

i h

ế

t th

ơ

m cùng th

i, lũ tr

m

i tìm đ

ượ

c cái

ư

ng ý. Có l

th

ói quen "nguyên th

y" đó c

a chúng tôi cũng là m

t "ph

ph

m" c

a th

i bao c

p, đáng đ

ghi vào k

l

c Ghi-nét! Dãy nhà t

p th

sát b

đê, cái con đê bao sông H

ng mà gi

ng

ườ

i ta đã bê tông hóa, bi

ế

n thành con đ

ườ

ng g

m s

, t

ng xanh rì c

, là cái sân ch

ơ

i t

p th

c

a chúng tôi m

i chi

u, m

i t

i. Bu

i chi

u mát chúng tôi lên đê ch

ơ

i th

di

u, ném lon, đánh khăng, nh

y dây. Bu

i t

i, t

ng lũ côn trùng cào cào châu ch

u t

h

p quanh các ng

n đèn cao áp, chúng tôi đem

ng b

ơ

đi b

t có hôm đ

ượ

c c

lon đ

y. Co

n đê cũng là n

ơ

i các đôi tình nhân "giãi bày tâm s

" m

i t

i, lũ tr

"hoang d

i" chúng tôi l

i có cái thú kỳ l

khác là kéo nhau đi "duy

t binh" d

c chân đê, h

th

y anh ch

nào đang ch

m nhau "hóng mát" trên đê là chúng tôi l

i hét toáng lên "Đôi đ

m, đôi

đ

m!" r

i ù té ch

y. Cái b

đê

y còn là dãy nhà v

sinh l

thiên bát ngát c

a c

khu t

p th

, nh

t là b

n tr

con. Nh

ng đêm hè gió mát l

ng, c

lũ r

nhau ra b

đê "h

p ch

" trên dãy bê-tông mà ng

ườ

i ta đ

r

i rác dùng khi c

n b

t c

a kh

u mùa l

t. K

ế

t

qu

là con đê xinh đ

p

y là m

t bãi chi

ế

n tr

ườ

ng nh

ng bom cùng mìn, mà m

t hôm có m

t chú

khu t

p th

lên đê ng

i ch

ơ

i, c

ườ

i nói ng

nghiêng th

ế

nào không đ

ý nhúng tay vào c

m

t "bãi mìn" còn nguyên v

n. Vô cùng xin l

i b

n đ

c yêu quý là t

i sao tô

i l

i c

nói đ

ế

n cái s

i ti

n" nhi

u đ

ế

n th

ế

, nó là m

t k

ni

m hay m

t n

i ám

nh c

a c

m

t th

ế

h

s

ng qua th

i t

p th

đó, t

i m

c mà bây gi

m

i khi có d

p g

p l

i nhau, chúng tôi đ

u c

ườ

i ch

y n

ướ

c m

t nh

l

i cái chuy

n "b

c mùi" th

i đó

! Nhà

c

nh h

G

ươ

m nên hàng ngày chúng tôi ph

i lang thang ra h

vài b

n. Đi qua ph

Lò Sũ, r

ph

i thăm bách hóa B

H

, hi

u sách H

G

ươ

m, r

i l

n l

i lên phía Đinh L

, thăm hi

u sách Nhân dân, Bách hóa t

ng h

p (Tràng Ti

n Plaza bây gi

). Chúng tôi ch

c

ó thú vui đi "ngó" mà ch

ng bao gi

th

y mua gì, vì làm gì có ti

n và s

mua hàng. Cô m

u d

ch viên quen t

i nh

n m

t lũ chúng tôi. BHTH, mà sau này th

i chi-cho-m

ế

ch ta g

i là "ba-hoa-tô-hô", là m

t cái khách s

n thiên đ

ườ

ng v

i lũ tr

. Chúng tôi lang tha

ng h

ế

t qu

y kim khí đi

n máy, qu

y gia d

ng, qu

y may m

c, r

i qu

y đ

ch

ơ

i, t

ng m

t và t

ng hai. Nh

ng cái qu

t tr

n c

kính t

th

i Pháp, treo dài trên tr

n nhà cao, ch

y đ

u mát r

ượ

i. Nh

ng t

hàng kính sáng choang, nh

ng qu

n áo xoong n

i treo l

p l

p

sau qu

y, và nh

ng cô m

u d

ch viên m

c đ

ng ph

c oai v

. Cái b

h

Hoàn Ki

ế

m

y, chúng tôi thu

c làu t

ng cái cây. Cây l

c v

ng b

y r

, cây đa c

th

, cây sung trĩu qu

. Mùa sung ra qu

, chúng tôi đi ném sung, l

y dây go bu

c vào dép cao su, r

i ném vào

chùm qu

cho r

ng xu

ng. Có đ

a ném xong b

m

c dép trên cành cao không l

y l

i đ

ượ

c th

ế

là khóc tu tu. Vì h

i đó dép quý l

m, dù là dép cao su, kh

p ph

Lò Sũ, Hàng Thùng, Hàng Bè đ

y nh

ng th

s

a dép, hàn dép nh

a, rút quai dép cao su. Nh

ng ngh

kỳ l

c

a th

i bao c

p đ

ế

n gi

đã bi

ế

n m

t nh

ư

bô-đê (vá qu

n áo), b

ơ

m m

c bút bi. H

i

y bô-đê là "m

t", k

c

qu

n m

i may ch

ư

a th

ng ch

nào ng

ườ

i ta cũng đi bô-đê hai mi

ế

ng m

ng nh

n

mông cho th

i trang! Ký

c l

i đ

ư

a tôi đi lan man r

i. Tr

l

i v

i h

G

ươ

m v

i tháp rùa còn c

kính rêu phong, n

ơ

i mà tháp Hòa Phong và t

ng g

c cây đ

i th

n

ng n

c mùi a-mô-ni-

c m

c dù bi

n "CĐB" ph

ơ

i tr

ướ

c m

t. B

n đ

c

, cái WC là c

m

t n

i ám

nh và ni

m khát khao c

a t

ng căn nhà

Hà N

i th

i

đó. Thôi, t

m quên s

th

t phũ phàng đó đi mà quay tr

v

v

i lũ tr

h

n nhiên chúng tôi ngày đó.

D

o b

h

chán chê, h

ế

t ng

m bách hóa, nh

t búp đa, ném sung, khi chi

ế

c đ

ng h

BigBen trên nóc tòa nhà b

ư

u đi

n đi

m chuông 6h t

i, là chúng tôi ch

y cu

ng cu

ng v

nhà đ

xem ch

ươ

ng trình Nh

ng bông hoa nh

. B

n nh

c m

màn vui nh

n, hai b

n th

i

ế

u nhi quàng khăn đ

nhún nh

y ch

y t

hai bên màn hình ch

y ra, và nh

ng bông hoa nh

n

kh

p màn hình, sao mà yêu đ

ế

n th

ế

! Nh

ng Hãy đ

i đ

y, ông già Kh

t-ta-bít lôi cu

n lũ tr

dán m

t tr

ướ

c màn

nh nh

. H

i đó h

u h

ế

t là TV đen tr

ng, không ph

i nhà n

ào cũng có. C

khu ch

có m

t cái TV màu c

a nhà m

t chú h

a s

, chú d

tính nên lũ tr

hay đ

ế

n nhà chú xem TV nh

ư

xem chi

ế

u bóng.

khu t

p th

có bác làm

B

Văn hóa, th

nh tho

ng c

ơ

quan t

ch

c chi

ế

u vi-đê-ô, bác l

i cho c

lũ chúng tôi đ

ế

n xem. Nh

ng

d

p đó là "c

a quý" hi

ế

m hoi v

i lũ tr

. Nh

ng "phăng-phăng hoa tuylíp", "anh em nhà Thi

ế

u Lâm T

" là nh

ng b

phim thú v

mà tôi v

n còn nh

. Khu t

p th

ch

t ch

i, thi

ế

u th

n nh

ư

ng hi

n lành. Ai cũng nh

ư

nghèo nh

ư

ai, v

l

i cùng c

ơ

quan, cùng ngành nên ít va ch

m. Có m

t vài nhà đi Tây (đi Liên Xô) v

thì khá h

ơ

n, có t

l

nh Xa-ra-t

p, bình đ

ng đá, con l

t đ

t Nga ... Còn l

i trong nhà ch

ng

có gì đáng giá, ch

m

t chi

ế

c gi

ườ

ng mà g

m gi

ườ

ng nhét đ

m

i th

, cái t

búp-phê con con, cái ch

n bát c

truy

n và nh

ng n

i niêu, xoong ch

o, b

ế

p đi

n, b

ế

p d

u, thùng g

o ... H

i đó ch

y

ế

u là đun d

u, d

u đ

ượ

c phân ph

i theo tiêu chu

n, m

i khi phát d

u

cây xăng Tôn Đ

n là c

khu í

i g

i nhau đi l

y d

u. Đi

n còn y

ế

u nên ph

i đun "chui". Nh

ng lúc nhân viên s

đi

n đi ki

m tra đ

t xu

t c

khu nháo nhào "phi tang" b

ng ch

ng, b

n tr

có nhi

m v

c

nh gi

i và loan tin. Chúng g

i s

đi

n là "điên n

ng"

, khi m

t đi

n, c

lũ dàn hàng ngang đi quanh khu t

p th

cùng đ

ng thanh "đi

n năng là điên n

ng!" Cho t

i khi có đi

n, ánh đèn ch

t b

ng sáng, m

i căn phòng đ

ng lo

t

lên sung s

ướ

ng "Có đi

n r

i!". Nhà ch

t, ban đ

u đun n

u

m

t góc nhà, sau các h

đ

ng lo

t hô hào làm "chu

ng c

p" ngoài ban-công. Đó là nh

ng "h

p diêm" c

ơ

i n

i làm b

ng cót ép dùng đ

làm b

ế

p, m

i nhà m

t h

p tr

ướ

c c

a phòng. Đun n

u xong thì b

ế

p d

u, b

ế

p đi

n ho

c nh

ng n

i niêu xoong ch

o t

t là ph

i đem vào nhà, dù m

i cái h

p đ

u c

ó cánh c

a và khóa. T

i t

i, b

n tr

dân t

chi

ế

ng

khu bãi An D

ươ

ng (mà chúng tôi g

i là "b

n bãi") đi d

o m

t vòng quanh các khu t

p th

, có gì chúng nó v

ơ

cái

y, mà th

c ra có m

t cũng ch

có gì đáng giá, nh

ư

cái th

t g

, cái r

ế

hay cái muôi là cùng,

v

y mà chúng tôi xót ru

t l

m, vì hàng hóa h

i đó quý hi

ế

m, ch

phân ph

i ch

ch

ư

a mua bán d

dàng. G

o, th

t và c

rau đ

u đ

ượ

c phân ph

i t

i c

a hàng l

ươ

ng th

c ph

Lò Sũ.

M

i khi có g

o là m

i nhà c

m

t đ

i di

n đi x

ế

p hàng, ch

lâu "đ

i di

n" có th

đ

l

i m

t v

t ch

ng giành ch

x

ế

p hàng c

a mình, m

t hòn đá, m

t viên g

ch, m

t cái nón có ghi tên nhà. G

o m

u d

ch là m

t k

ni

m ám

nh khác. Nh

ng h

t g

o đã m

n c

ra, m

i khi vo lũ b

g

o và m

t g

o l

i l

nh ph

nh! Ngoài ch

đen, ng

ườ

i ta đ

i g

o ch

l

y g

o m

u d

ch, 1 cân g

o ch

ăn 2 cân g

o m

u d

ch, thí d

th

ế

.


Ăn nh

ng đ

m

u d

ch nh

ư

th

ế

nên chúng tôi h

u h

ế

t đ

u thu

c d

ng "còi". Nhìn l

i m

t s

t

m hình mà th

ươ

ng. Ng

ườ

i l

n cũng ch

ng khá h

ơ

n gì, g

y gò, x

ơ

xác. Sáng sáng b

m

chúng tôi đi làm đ

u treo trên ghi-đông m

t cái c

p n

ng c

ơ

m mà trong đó ch

a m

t

th

c

ơ

m khó nu

t, m

t ít rau xào dính m

, may l

m có thêm m

y mi

ế

ng d

a kho hay th

t kho toàn là m

.

Đ

ế

n cu

i nh

ng năm 80 đ

u 90, c

ơ

ch

ế

bao c

p b

t đ

u đ

ượ

c d

b

, khu t

p th

tan rã d

n, các nhà l

n l

ượ

t chuy

n đi đ

ế

n nh

ng ch

m

i, nh

ng căn h

hay

nhà đ

t đ

ượ

c phân. Chuy

n v

là nh

ng ng

ườ

i t

x

đâu, l

n x

n, tính toán, giành gi

t và thi

ế

u thân thi

n, nh

ng nhà chuy

n đi sau cùng luy

ế

n ti

ế

c nh

ng hàng xóm cũ, nh

ng ng

ườ

i cùng c

ơ

quan hi

n hòa, t

t b

ng. C

ơ

ch

ế

m

i tràn v

, gi

i phóng nh

ng bí b

c

c

a c

m

t th

i kh

n kh

. Và nh

ng căn nhà t

p th

b

ng g

d

c b

đê, m

t s

còn t

n t

i đ

ế

n ngày nay, đa ph

n b

h

a ho

n thiêu r

i, là nh

ng ch

ng tích cho m

t th

i bao c

p nh

c nh

n và thân th

ươ

ng đó

.

Thuở ấy

Nhớ sao những ngày nghỉ về quê, bắt cá rô đồng, lươn chạch là một bữa cải thiện. Chiều thu mát nhẹ, cả nhà quây quần bên mâm cơm có canh rau tập tàng, cơm trộn mỳ sợi và đĩa cá rô rán - sao mà ngon, mà thơm lừng lựng đến tận bây giờ... Nhưng cũng thuở ấy, đi học xa hơn 10 km mà cứ cuốc bộ suốt, chứ đâu có xe máy, ôtô như bây giờ.

Thuở ấy, không thấy có người bị bệnh gút, béo phì, máu - gan nhiễm mỡ vì mọi người đều thiếu ăn - mọi người đều gầy guộc. Còn bây giờ, người ta hỏi nhau mua gạo nào ngon, ở đâu - chứ không như ngày xưa họ hỏi nhau: Đong gạo ở đâu có nở không? (vì gạo xấu, nở thì ít gạo được nhiều cơm!!!). Và thuở ấy, sinh viên chúng tôi biết vá "píc - kê" mông quần và đầu gối (vì chỉ có 5m phiếu vải/năm, quần sờn rách mông và đầu gối được lót một tấm vải dày bên trong và khâu chần lại để gia cố, tăng thời gian sử dụng).

Thuở ấy, khổ nhất là mùa rét và mùa mưa. Mùa rét thì thiếu chăn đắp ấm phải mặc thêm trong người vài cái áo cũ rách cho đủ ấm đi ngủ và đắp thêm chiếu; còn khi trời mưa, nhà thì dột, đi đường có cái áo lành ướt mất rồi, choàng một tấm vải ni lông hình chữ nhật tránh mưa, gió thổi tứ bề, mặt mày tái xám... người dân đi làm đồng càng khổ - chứ đâu có nhà tầng, đệm Hàn Quốc và quần áo rét lỗi thời nhét đầy tủ mà không dùng đến như bây giờ.

Thuở ấy "vời vợi tuổi thơ một cỗ bánh đa vừng", cái kẹo lạc - chứ đâu có nhiều bánh trái xếp đầy tủ mà trẻ không thèm ngó ngàng đến như bây giờ...

Chỉ có điều: Những cánh đồng quê bát ngát ngào ngạt hương lúa thơm khi làm đòng và ngào ngạt rơm thơm vào mùa gặt thì, bây giờ đang mọc lên những khu công nghiệp với bê tông, bụi khói và tiếng ồn. Đi ra đường bây giờ như đang đi ở Nhật Bản vào những thế kỷ 17-18 vì gặp toàn "ninja" (áo chống nắng, khẩu trang, găng tay, đội mũ kín mít đến vợ chồng gặp nhau ngoài đường cũng đố có nhận ra nhau???). Nhưng, ngày xưa toàn trồng lúa mà vẫn quanh năm thiếu ăn, ngày nay diện tích trồng bị thu hẹp lại mà vẫn thừa ăn, được xuất khẩu lúa gạo. Chỉ có điều lẽ ra, cùng với sự phát triển chung của kinh tế xã hội thì phải có sự phát triển đồng bộ về môi sinh, môi trường và ý thức của con người, đằng này ở mình có sự phát triển đấy nhưng lôm côm, vô tội vạ, thiếu quy hoạch...

Heo may về nhớ hương nấm mỡ

Khi những cơn gió heo may tràn về, trời lất phất mưa bay, cỏ may trổ bông xao xác trên những triền đê, vệ cỏ cũng là lúc báo hiệu mùa nấm mỡ đã đến.

Ngày xưa, nấm mỡ là sản vật theo mùa, là món ăn "tăng gia" cho những gia đình nghèo ở miền nông thôn còn nhiều gian khó. Nay thì nấm mỡ đã được trồng phổ biến, nên hầu như mùa nào cũng có. Cách chế biến cũng khác xưa khi có nhiều nguyên liệu đi kèm như thịt, như trứng, như cá ... Nhưng những món được ăn ngày xưa vẫn thật khó quên, bởi nó chưa hẵn đã ngon với nhiều người, nhưng đối với những đứa trẻ miền gốc rạ như chúng tôi thì nó thật sự chẳng thể nào quên, bởi trong món ăn ấy là thấp thoáng hình bóng của tuổi thơ - đồng chiều - và những đàn trâu lững thững đường làng.

Nấm mỡ mọc khá nhiều ở những triền đê, bên vệ đường nơi cỏ may mọc dày, và chỉ có nấm mọc trong cỏ may ăn mới ngon và lành, còn vì sao thế thì cũng chẳng biết phải giải thích thế nào. Hái nấm mỡ buổi sáng là tốt nhất, lúc này nấm mới nhú lên được khoảng một nữa độ lớn cực đại, to bằng cỡ quả trứng gà so, tán nấm chưa bung, thịt nấm chắc và trắng phau. Nấm nhổ về dùng dao cắt bỏ gốc, bóc bỏ lớp vỏ giòn bên ngoài, ngâm vào nước muối pha loãng để nấm không bị thâm. Nấm mỡ xào mỡ lợn, ngày nay nghe thế sẽ bảo ăn kiểu đó chắc là bị tăng cholesterol. Nhưng hồi ấy làm gì đã có dầu ăn nhiều như bây giờ. Mà ăn hoài cũng vẫn thấy khỏe như "trâu nước". Thịt cũng là thứ thực phẩm xa xỉ nên mỡ lợn một lúc đáp ứng được hai nhu cầu: vừa được ăn thịt vừa có chất béo để chiên xào đồ ăn. Cho ít mỡ vào chảo, chờ mỡ chảy tan ra, cho thêm hành củ vào phi thơm, tiếp đến cho nấm vào xào chín. Xào làm sao để nấm chỉ vừa chín tới là được. Cuối cùng rắc một ít rau thơm lên trên đảo đều là xong. Bữa cơm chiều dọn lên nhiều khi chỉ đĩa nấm xào và rau muống nước luộc, nhưng bọn trẻ háu đói chúng tôi vẫn ngấu nghiến ngon lành. Cũng lạ, thứ nấm mỡ ấy tuy lúc tươi rất mềm xốp nhưng khi được xào lên thì dai mềm đến lạ, ăn vào có vị ngầy ngậy nhưng không ngán, nhiều hôm ăn liền tù tì mấy bữa mà vẫn không chán. Và cứ thế mỗi mùa đến, nấm mỡ lại trở thành người bạn thân thiết trong mỗi bữa cơm chiều của chúng tôi.

Tết về nhớ tiếng heo la

TẠP VĂN CỦA

 ĐẮC HOA

    NVTPHCM- Tuy cách đây đã ba, bốn mươi năm, nhưng tôi vẫn nhớ như in phong tục đón mừng năm mới ở quê tôi, một làng quê chuyên nghề đồng áng, nay thuộc xã Hòa Đồng, huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên.

    Công việc chuẩn bị đón chào năm mới ở quê tôi, người dân triển khai từ rất sớm. Sau 23 tháng 10 âm lịch, bà con bắt đầu làm đất để trồng hoa và rau xanh phục vụ nhu cầu của gia đình trong dịp tết. Nhà nào đất vườn rộng, thì họ trồng một vài dàn bầu, bí, mướp, mấy chục cây cà dĩa cùng năm ba luống rau xanh như: tằng ô, xà lách, rau thơm, húng đứng, húng dũi, hành ớt và mấy dàn dưa leo trái dòn, thơm ngon dùng để ăn kèm bánh tráng cuốn thịt heo luộc, hay làm dưa chua ăn trong dịp tết. Nhà nào vườn chật, thì họ tận dụng những miếng đất xung quanh sân hè trồng một, vài luống rau xanh như: tằng ô, xà lách, hành ngò và dàn dưa leo.

    Đồng thời với làm đất trồng rau, bà con còn xuống giống trồng hoa, hoa tết lúc bấy giờ ở quê tôi chủ yếu là hoa cúc, vạn thọ, thược dược. Những lọai hoa khác thì được trồng trong chậu kiểng, còn hoa vạn thọ bà con trồng dọc theo bờ sân, hàng rào, nên tết đến nhà nào cũng có hoa vạn thọ nở vàng rực khắp trong sân, ngòai ngõ. Trong ba ngày tết, bà con chọn những cành hoa vạn thọ tốt nhất cắm vào lục bình để cúng ông, bà tổ tiên hoặc cho vào chậu kiểng chưng diện trong nhà.

    Sau khi đã chuẩn bị hoa và rau phục vụ trong dịp tết, người dân quê tôi có tục lệ đến ngày 25 tháng 12 âm lịch là tập trung con cháu ra gò dẫy mả (tức là ra nghĩa địa làm vệ sinh các ngôi mộ của tổ tiên). Trong tiết trời se lạnh vào sáng sớm và ấm dần theo những giọt sương tan trên lá cây, ngọn cỏ, những người tảo mộ cảm thấy lòng mình nhẹ nhỏm, thanh thản sau khi sửa sang xong một ngôi mộ của ông bà, tổ tiên. Một giòng họ hay một gia đình, khi đã tảo mộ xong, buổi trưa họ thường tập trung về nhà từ đường (tức nhà thờ họ tộc) hoặc nhà người con cả tổ chức cúng mâm cơm tưởng nhớ những người đã khuất, rồi cùng nhau ăn uống, chuyện trò, thăm hỏi lẫn nhau râm ran đến cuối ngày. Bởi vì chỉ có ngày này, mọi người trong giòng tộc tập trung về đây đông đủ nhất. Nhiều người sinh sống xa quê hay đi làm ăn xa thì đến ngày này họ phải về để tảo mộ tổ tiên, rất ít người vắng mặt trong dịp này. Cái hay trong ngày tảo mộ ở quê tôi, là những giòng tộc, những gia đình khi đi tảo mộ họ thường dẫn dắt lớp trẻ theo để vừa tham gia tảo mộ, vừa giới thiệu cho con cháu biết được những ngôi mộ của ông bà, tổ tiên. Cho nên việc tảo mộ được duy trì chính xác từng ngôi mộ từ đời này, qua đời khác, không bao giờ sai lệch.

    Sau ngày tảo mộ, người dân quê tôi bắt đầu công việc làm vệ sinh nhà cửa để đón chào năm mới. Thường công việc này, ông bà, cha mẹ giao cho con cháu. Đầu tiên là quét dọn xung quanh nhà, cắt xén hàng rào dâm bụt, sửa sang lại mấy cây vạn thọ, mấy chậu cúc trồng quanh sân. Sau đó quét dọn váng nhện, bồ hóng trong nhà, lau chùi bàn thờ tổ tiên và chuẩn bị hoa quả đặt lên bàn thờ theo công thức đông bình, tây quả (tức là phía đông bàn thờ đặt bình hoa, còn phía tây bàn thờ đặt mâm ngũ quả). Công việc lau chùi bàn thờ tổ tiên vào dịp tết, các bậc trưởng lão ở quê tôi rất chú trọng, họ thường giao việc này cho những đứa trẻ siêng năng, có tính cẩn thận để chà bộ đèn thau sáng lóang và kỳ cọ sạch bụi trên hoa văn của những chiếc bàn ghế, tủ thờ trong gia đình.

    Đến ngày 29 tháng chạp, ngay từ sáng sớm, nhiều gia đình bắt đầu ngâm nếp, luộc đậu xanh, chuẩn bị thịt heo để buổi chiều cả nhà quây quần ngồi gói bánh tét, bánh chưng. Tôi còn nhớ, nồi bánh tét để đón mừng năm mới của gia đình tôi năm nào cũng có vài ba cây lọai nhỏ dành riêng cho lớp trẻ chúng tôi. Thú nhất là thức ngồi canh nồi bánh tét nước sôi ùng ục, những đóm lửa tí tách sưởi ấm lòng người đêm cuối năm cùng với hương nếp mới tỏa ra từ nồi bánh thơm lừng và chờ nghe tiếng heo la vào sáng sớm ba mươi tết.

    Quê tôi có phong tục, cứ đến ngày tết là ba con hùn nhau năm ba gia đình làm một con heo chia thịt ăn trong ba ngày tết. Cả làng đồng loạt chọc tiết heo vào lúc gà gáy đầu sáng ba mươi, nên lúc này tiếng heo la eng éc râm ran khắp đầu trên, ngõ dưới. Năm nào nghe tiếng heo la ngày cuối năm nhiều là năm đó, đời sống của người dân quê tôi được khấm khá, còn năm nào tiếng heo la nghe rời rạc là năm đó quê tôi mùa màng thất bát, cuộc sống nhiều người gặp khó khăn. Tôi còn nhớ, lúc tôi còn nhỏ, không có đêm cuối năm nào tôi ngủ ngon giấc, không cùng ba má ngồi canh nồi bánh tét thì cũng trằn trọc chờ nghe tiếng heo la sáng ba mươi để xin cho được cái bong bóng heo về thổi phồng cầm lủng lẳng đi chơi. Người lớn khi đã nghe heo la thì vội vã đến nơi nhận phần thịt gia đình mình đã đăng ký và cùng gia chủ húp chén cháo lòng bốc khói, thơm lừng vào sáng cuối năm. Thịt heo đem về, tùy theo từng gia đình chế biến những món cúng gia tiên, đãi bà con, bạn bè trong ba ngày tết. Thường là họ chế biến các món đơn giản như: thịt luộc ba chỉ , thịt lụi (tức thịt nạc ướp mắm muối, hành tiêu xỏ vào các ghim tre nướng trên bếp than), sườn nướng, sườn thưng, thịt ngâm mắm, giò chả, nem chua…

    Ngoài các món ăn bằng thịt heo, thức ăn trong ba ngày tết ở quê tôi còn có các món được chế biến từ gà, vịt, cá biển, cá đồng. Các lọai bánh có bánh tráng, bánh tét, bánh chưng, bánh bông lan, cốm, riêm gừng, mức dừa, mức bí, mức me…

    Chuẩn bị mừng xuân, đón tết ở quê tôi chỉ có thế, nhưng nó luôn gợi nhớ trong tôi mỗi độ xuân về khi sống xa quê. Phải chăng đó là nét đẹp văn hóa ở một làng quê miền trung?

Đụng lợn ngày Tết

Ở quê tôi, việc chuẩn bị các thủ tục cho ngày Tết Nguyên đán khá cầu kỳ và tất bật. Ăn đụng thịt lợn là một trong những việc người ta phải quan tâm đến đầu tiên ngay từ trước Tết cả tháng trời.

Những gia đình khá giả thì thường một mình thịt một lợn, còn đa số các gia đình trong làng lựa chọn cách ăn đụng. Ngay từ những ngày đầu tháng Chạp, người làng đã bàn tán xôn xao xem lợn nhà nào ngon, lợn nhà nào có thể ăn đụng được. Những con lợn được hàng xóm chọn để ăn đụng thường là to vừa vừa và không phải là lợn mỡ. Loại lợn mà mọi người thích ăn đụng nhất là “lợn cọc”, tức là những con chậm lớn. Nhiều con tốn cám tốn bã nuôi cả năm trời mà cũng chỉ được ba bốn chục cân. Những con loại này có nhiều nạc, ít mỡ, chắc thịt không phải loại lợn mà cánh lái buôn, thợ mổ ưa chuộng vì ít lời lãi nhưng lại thường được rất nhiều nhà đăng ký ăn đụng vào dịp Tết.

Những nhà có lợn cọc, nếu chưa có người dạm ăn đụng, chủ chuồng có thể đi mời, đi dạm xem nhà nào chưa ăn đụng thịt lợn với ai thì rủ hay gợi ý khéo léo rằng sẽ cho chịu tiền đến ra Giêng hay lâu hơn một chút. Đó cũng là một cách giúp đỡ lẫn nhau lúc năm cùng tháng tận nhất là với những gia đình neo túng không đủ tiền trả ngay. Trong làng còn có nhiều người ăn đụng lợn nhưng phải đợi đến tận vụ gặt sang năm mới trả được bằng thóc.

Người ta gặp nhau để rủ trong lúc làm đồng, trong bữa cơm gia đình, trong những đêm “trà dư tửu hậu” hay khi đến dự bữa cỗ cưới xin, ma chay ngày cuối năm. Chính vì đây là việc rất quan trọng nên các ông, các bà, những người chủ gia đình phải ăn lo không thể nào quên. Người ta chỉ cần gặp nhau, hẹn và giao ước bằng miệng là mọi chuyện coi như đâu đã vào đó chứ không cần phải có tiền đặt trước. Nhiều nhà có lợn đụng nhưng do hoàn cảnh kinh tế khó khăn, có thể để cho bà con ăn đụng trả tiền trước để mua sắm cho gia đình những thứ thiết yếu khác phục vụ ngày Tết. Lợn mổ ăn đụng thường vào ngày 29 hoặc 30 Tết, ai cũng tính để đảm bảo được một công hai ba việc. Buổi sáng làm thịt lợn để buổi chiều có thịt gói giò, gói bánh chưng và làm cơm cúng tất niên.

Từ khi trời còn tinh mơ đã nghe thấy tiếng lợn kêu eng éc khắp làng trên, xóm dưới cùng với tiếng người gọi nhau í ới. Nhóm này nhóm kia gặp nhau trò chuyện xôm cả ngõ làng. Người nọ hỏi mượn người kia con dao nhọn chọc tiết lợn, mượn thùng nấu bánh chưng, mượn chày, mượn cối để giã giò... Thường thì ở làng không phải ai cũng có nồi to để đun bánh vậy nên nhiều nhà phải nấu trước để có nồi cho bà con mượn, hay chuyện cối giã giò cũng vậy. Nhiều người để tránh phải mang đi mang lại đã chọn giải pháp mang luôn thịt đến nhà có cối, có chày cùng nhau thay tay giã. Dù thiếu, dù đủ nhưng ở làng bao giờ bà con cũng giúp đỡ, san xẻ cho nhau nhiệt tình. Những cuối năm, nếu về ăn Tết ở làng ta sẽ cảm nhận rõ rệt sự đoàn kết cộng đồng và tình làng, nghĩa xóm bình dị mà thấm thía, sâu sắc.

Con lợn đụng làm lông xong được ngả ra nong để những người khéo tay pha thịt, lạc xương. Mọi thứ sẽ được phân ra rất đều nhau căn cứ theo số lượng người ăn đụng từ phần nạc, phần mỡ, phần xương, miếng thủ, miếng tai, miếng lưỡi đến tiết canh, lòng, dồi... Đôi khi có nhà ít người chỉ ăn đụng một góc, dù khó chia cũng không thể lấy thứ nọ bù thứ kia được. Trước khi đi đụng lợn bao giờ người ta cũng chuẩn bị sẵn cho mình một vật gì đó làm dấu riêng để ném thăm. Vật ném thăm của các nhà phải không được giống nhau và càng đơn giản, dễ nhận càng tốt. Tiếp theo đó, mọi người gọi một đứa trẻ con hàng xóm hoặc một người nào đó vô tình không biệt được dấu riêng của nhà nào làm người ném thăm “phân mô”. Người ném thăm có thể trộn đều những vật làm thăm rồi ném những thứ ấy mỗi mô thịt một cái. Vật ký hiệu của nhà nào rơi vào mô thịt nào thì người đó mang rổ rá tới lấy phần đó. Khâu làm dồi lợn cũng là một khâu khá mất công. Những thịt vụn, mỡ chài, đậu xanh, gạo nếp, rau thơm, nước tiết... được trộn hỗn hợn cùng gia vị và nhồi vào khúc lòng già đã được rửa sạch. Sau khi đúc dồi thường người ta sẽ luộc chín để chia phần. Lòng non làm xong cũng được chia ra từng đoạn và chia cùng với tim gan cũng như các phần nội tạng. Đi ăn đậu lợn ngày Tết, phần mà ít người không nghĩ tới đó là tiết canh. Tiết được hãm riêng ở một cái liễn sứ, mọi người mang cái đựng nhà mình đến để chia nhau. Con lợn của nhà nào mà hãm hỏng tiết canh thì ai cũng tiếc hùi hụi...

Xóm làng vang lên tiếng dao, thớt, tiếng chày cối giã giò. Không khí làng quê ngày tất niên nhộn nhịp, sôi động và thật đầm ấm. Khắp các ngõ ngách trong làng vương vất mùi thịt luộc, mùi chả nướng, chả rang đưa theo gió. Không khí ngày Tết, lo Tết như dồn nén từ những ngày tháng Chạp đến chiều 30 Tết mới bung trào trong không gian làng quê. Người làng ra đường gặp nhau hồ hởi trong tiếng mời chào, hỏi han về bánh trái, mâm ngũ quả cứ râm ran. Người thiếu lá dong, người thừa lạt dang, lá chuối gặp nhau đổi trao vui vẻ. Có cảm giác như lúc đó mọi người vội vàng hơn, hối hả hơn, những bước đi rảo nhanh như không kịp thở...

Dân gian ta có câu: “

No ba ngày Tết, đói ba tháng hè

” vậy nhưng những cái Tết vẫn đến với làng quê ta thật tự nhiên, vui vầy và hạnh phúc. Chẳng ai dỗi hơi mà lo nhiều, lo xa trong những ngày đầu năm ấy. Thói quen của người dân quê là ăn đụng thịt lợn với nhau, tự tay làm lấy để ăn, mệt nhưng vui, đầm ấm và thấm đượm tình làng nghĩa xóm biết bao. Tết Đinh Hợi năm nay, ở làng tôi mọi người vẫn ăn đụng thịt lợn với nhau và chúng tôi đang háo hức chờ mong ngày ấy...

BÚN RIÊU RỐC

Tôi nhớ mãi món bún riêu rốc mẹ nấu từ những ngày niên thiếu, cách nay đã mấy chục năm. Đến bây giờ, tôi vẫn chỉ gọi “rốc” là “rốc”- cách gọi dân gian của người lao động vùng duyên hải Bắc bộ, chứ không gọi “rốc” là “cua đồng” như nhiều người vẫn gọi. Bún riêu rốc là món ăn bình dân, rất ngon của những người dân Bắc bộ từ ngày xưa.

Lần đầu tôi được ăn bún riêu rốc là ngày mẹ tôi cho tôi đi chợ Thái (còn gọi là chợ Thái Ngơi hoặc Thái Nghi), gần bến đò Khuể, huyện An Lão, tỉnh Kiến An (cũ). Hồi ấy, tôi mới học lớp 3. Mẹ tôi bán hàng vải ở chợ Thái và các chợ May, chợ Mõ, chợ Đại mấy làng gần bên. Mỗi sáng, mẹ tôi thuê xe chở các súc vải đến chợ, rồi để phụ xe bốc xếp vải vào quán, còn mẹ đưa tôi ra hàng bún riêu rốc.

Quán bún nào cũng có nhiều người ăn. Mỗi quán được dựng bằng bốn cọc tre, mái nghiêng nghiêng, lợp bằng rạ hoặc bằng cói, đơn sơ. Một cái bàn tre, với mấy cái ghế tre con con, thấp lè tè. Một cái nồi đồng to nấu riêu rốc, luôn được đun bằng củi nhỏ lửa, nước riêu sủi lăn tăn, tỏa mùi thơm quyến rũ. Trên chõng tre để một bát gạch rốc màu vàng sẫm; một bát dấm to có mấy quả chay hoặc quả chua me; đĩa rau sống gồm rau muống thái móng lợn, hoa chuối thái mỏng khoanh tròn, cùng các món rau thơm gia vị; một bát con đựng muối rang giã nhỏ, có mấy lát ớt xanh đỏ. Cái muôi múc riêu bằng vỏ quả dừa, cũng có khi là muôi đồng. Bún được đựng trong rổ lót lá chuối xanh. Những xúc bún làm bằng thứ gạo quê loại ngon, sợi trắng trong, mềm mại.

Bún riêu rốc ngon chính bởi nước riêu. Riêu rốc được làm khá công phu. Những con rốc tự nhiên, sống ở bờ ruộng và các ao chuôm, mai rốc vàng khượm, được rửa sạch, rồi bóc mai, bóc yếm. Sau đó giã rốc bằng cối đá cho nhuyễn, phải giã mấy lần cho thịt rốc tan hết, sau mỗi lần giã thì lọc lấy nước cho vào nồi đồng. Khi dùng đũa khều gạch rốc, phải bỏ lại lõi mai, để nước riêu không bị “hoi”. Nước rốc trước khi đun, được cho vào một ít mắm tôm đặc để có nồi riêu ngon, đậm đà. Khi gần sôi, thịt rốc quện lại nổi lên thành từng mảng. Còn gạch rốc được khều từ mai rốc, thì được xào với hành mỡ (phải là mỡ lợn mới ngon), có màu vàng sẫm, mùi vị thơm ngậy, quyến rũ lạ thường, được để riêng ra bát, mỗi khi chan nước riêu xong, thì chêm vào mỗi bán bún cho nổi màu, nổi vị.

Bún riêu rốc được đựng trong bát chiết yêu. Mỗi bát bún bao giờ cũng có một ít gạch rốc được múc ra từ tảng gạch trong nồi, lại điểm thêm một ít gạch rốc từ bát gạch vàng sẫm, mấy nhánh rau rút chần tái và rưới thêm ít nước dấm. Khi bát dấm vơi, bà hàng bún lại múc nước riêu đổ thêm vào, rồi dầm mấy quả chua me hay quả chay để tạo vị chua rất dễ chịu. Ngày ấy, hầu như không có mỳ chính như bây giờ, mà sao bát bún vẫn ngọt, vẫn ngon lạ thường. Bát bún nóng, ngầy ngậy, thơm ngon, ăn với rau sống tươi giòn, thật là mát ruột. Mấy bà ăn xong, dùng đôi đũa để quệt môi. Xem ra, còn có thể ăn thêm được nữa!

"Cháo mạ" Cao Bằng

Thứ sáu 11/05/2012 14:00

Hồi xưa, người dân quê tôi nghèo tiền bạc lắm, ăn sáng chỉ cơm rang với muối trắng thôi. Còn người già thì được con cháu bưng lên bát cháo mạ. Ngày ấy làm gì có phở bò, phở gà, phở vịt, phở xá xíu, phở lường pàn... Làm sao biết bánh cuốn nóng ăn với dò chả, trứng hấp... Càng không thể nào hiểu tách cà phê, cốc sữa sáng... là cái giống gì. Những thứ xa xỉ này, chỉ những người dân buôn bán phố chợ mới có.

Cho đến bây giờ, nghĩa là sáu mươi năm có đuôi, già nửa thế kỷ rồi, tôi vẫn chưa hiểu tại sao ông cha người Tày lại gọi cháo mạ (cháo ngựa). Cháo mạ nhưng không phải cho ngựa mà là người ăn. Đây là bữa sáng tự biên tự diễn, nhưng khá cầu kỳ. Món cháo này phần nhiều dành cho người già cả. Người ta múc cơm thừa trong nồi ra. Đấy là thứ cơm nguội, nấu từ bữa tối, ăn không hết. Họ bắc chảo lên bếp, đun cho khi nào có cảm giác chất gang bốc ra. Trong hơi nóng thoang thoảng mùi rượu, mùi thảo quả, mùi tanh tôm cua, lập tức người ta chà xát một miếng mỡ lợn eo éo xì xồ, rồi đổ cơm nguội vào rang. Rang cho cơm ngấm kỳ hết muối mỡ. Nên nhớ rằng, rang thật kỹ, đến lúc nào nắn hạt cơm săn chắc lại như “khẩu khủa” là đạt. Khi đó người ta đổ thêm gừng tươi vào xào cùng. Và phải là gừng chín tháng, đập dẹt, thái chỉ. Nếu vào mùa  trời nóng nực, thì để nguyên cả vỏ mà ăn. Cháo chảy vào trong ruột sẽ dìu dịu man mát ra râu ra tóc. Còn trời lạnh thì làm ngược lại. Cháo sẽ làm ấm từ sống lưng loang ra vồng ngực, xộc thẳng lên hai lỗ mũi.

Nấu bát cháo mạ đòi hỏi một công đoạn kỹ thuật, lẫn tâm hồn ở người pha chế, thao tác. Người ta cầm bàn xản đảo qua đảo lại, thấy có mùi he hé cục tác, lập tức đổ rồ ròa ba bát nước vào hãm. Hãm thật lâu với độ lửa lim dim ngủ gật. Bởi vậy, các cô con dâu, con gái, hoặc cháu gái phải dậy trước mặt trời mọc, để chuẩn bị làm món. Nàng dâu hiền thảo nào nấu cháo mạ giỏi, ắt phải nhìn thấy hạt cơm rẽ mạt gừng lặn xuống đáy bát. Rồi hạt cơm lại từ đáy bát ngoi lên hý hóp thở. Vừa thở vừa cười. Đấy là lúc các hạt cơm bắt đầu thúc nhau nở rộ. Nở tóe tòe loe. Nở hết cỡ. Bát cháo khi này không còn là cháo nữa, nó đã là một lẵng hoa. Lẵng hoa có mùi vị gừng thơm cay. Thơm cay là nét đặc trưng của cháo mạ. Không thể lẫn với các món khác. Con cái cháu chắt khẽ khàng dâng lên, kính cẩn mời các bậc trưởng lão dùng bữa sáng. Bởi bữa sáng là ăn cho chính mình. Bữa trưa cho bạn. Còn bữa tối ăn cho kẻ thù. Ai đã nói thế và hình như cũng đúng như vậy.

Nhưng tại sao các cụ nhà tôi lại gọi món cháo cầu kỳ này là cháo ngựa. Thật không thể nào hiểu nổi. Đành rằng với chúng tôi, ngựa là giống vật quý và sang nữa. Chúng thông minh và tận tụy trung thành với chủ. Nhà nào có giống ngựa quý, được coi là mặt mũi giàu có. Song tôi chưa thấy ai nấu cháo bằng cơm gạo cho ngựa ăn bao giờ. ở miền núi, ngựa là phương tiện đi lại tuyệt vời nhất. Đường kiểu gì nó cũng đi được. Lên rừng xuống suối đều thành thạo. Nó như xe máy, mô tô cho người dưới đồng bằng, thành phố. Là thuyền ghe với những người ở vùng sông nước. Nhưng nuôi ngựa không tốn tiền mua xăng, chả phải bảo dưỡng bao giờ. Chỉ cần ném cho nó bó cỏ tươi, hoặc mớ rau lang xanh, bó lá mía tạp nham.... Thậm chỉ bỏ cho chúng thúng trấu hay thóc lép, thế là ngựa ta nhai thóp thép ngon lành.

Người miền núi chúng tôi thường lấy ruộng rẫy, trâu bò, lợn gà và dê ngựa để đo mức sinh hoạt thấp cao trong đời sống xã hội. Ai giàu ai nghèo cũng lồ lộ hiện ra trước mắt mọi người. Sự giàu có của người miền núi phần lớn dựa vào sự sinh sôi nảy nở những con vật. Mỗi năm, chúng làm lợi cho gia chủ vài con bê con nghé. Ai nhiều bê nghé, nhà ấy xum xuê rậm rạp tiếng ọ ẹ út ò dưới gầm sàn.  Gia súc gia cầm làm ra dư thừa phân gio bón ruộng, chăm rẫy. Bông lúa sẽ trĩu hạt. Quả bắp no tròn như bắp chuối. Lá rau, cây đậu mướt mát tốt tươi. Người giàu ở chỗ chúng tôi hiền lành có thế thôi. Mà một thời bị coi là địa chủ phú nông. Thế có buồn không.

Ăn cháo mạ xong, da dẻ toát mồ hôi như tắm. Khắp người nóng ran và tỏa ra vị gừng.  Một cảm giác khoan khoái lâng lâng kỳ lạ như tắm suối khoáng nóng. Trong Đông y, gừng là một vị thuốc quý. Tiếng Hán đọc là khương. Gừng có vị cay, tính ấm. Tác dụng tán hàn, long đờm và thường được dùng chữa các bệnh buồn nôn, chống say xe, say sóng, trợ giúp tiêu hóa, tiêu trừ phong thấp... Đặc biệt là người già, ăn thường xuyên món cháo mạ sẽ hồng hào da thịt, tóc ít rụng, môi ít khô. Đây là món ăn làm từ những vật liệu bình thường trong mỗi gia đình người miền núi. Nhưng nó là một vị thuốc bắc, được hợp lý hóa, sử dụng trong bữa ăn hằng ngày. Cháo mạ có tác dụng tốt cho sức khỏe, ngoài yếu tố dinh dưỡng còn mang hương vị và thương hiệu đặc biệt của Cao Bằng. Những món ăn rất đỗi bình thường nhưng nó chứa đựng một sức sống phi thường, không ai có thể phủ nhận được.

Bên mẹ ngày ấy

Tản văn

  Tôi sinh ra và lớn lên từ một miền quê nghèo khó, người dân quê tôi đầu tắt mặt tối quanh năm suốt tháng, tạo tần lam lũ, khuôn vai ghánh những nhọc nhằn sớm hôm mà cái đói cái nghèo cứ giéo giắt đeo dẳng trên mỗi ngôi nhà, trên mỗi tấm thân gầy của những người mẹ, người cha. Mồi khi lần giở lại ký ức của mình về ngày ấy, tôi không khỏi bồi hồi, mênh mang chìm đắm trong bao kỷ niệm của tuổi thơ. Kỷ niệm ấy cứ đầy lên ăm ắp, cứ dội về thăm thẳm và cũng cứ thế vun đắp cho tôi nên vóc, nên người. Nhưng có lẽ kỷ niệm lắng sâu nhất trong tôi là một kỷ niệm thật khó đặt tên, chỉ biết rằng kỷ niệm đó gắn liền với hình ảnh người mẹ hiền yêu quý…

Chuyện là ngày ấy, gia đình tôi cũng như nhiều gia đình đông con khác,cha mẹ tôi sinh thành được năm anh chị em. Cha tôi xa nhà thường xuyên, lúc vào Nam khi ra Bắc, có khi sang cả Lào để làm ăn kiếm tiền nuôi cả gia đình, mỗi năm một lần về – một lần thôi, biết bao là hạnh phúc. Mẹ tôi ở nhà gồng ghánh trên vai với gia tài là năm đứa con nối nhau chào đời, nối nhau lớn lên. Chúng tôi như những chiếc tàu há mồm càng lớn khôn ngày nào, đôi vai mẹ tôi càng oằn xuống nặng thêm ngày đó. Hai anh trai tôi sớm rời trường học để đến với trường đời, theo cha đi khắp chốn cùng quê những mong được “ăn no hơn” ở nhà với mẹ( Là các anh tôi bây giờ vẫn nhắc, sao hồi ấy ấu trĩ thật) nhưng giờ tôi hiểu rằng ngày đó phần vì dân quê tôi chỉ cần được no ấm hơn là cần biết nhiều đến cái chữ, nên cứ nhú lên hết cấp II đứa nào đứa nấy theo nhau thôi học, cùng cha đi làm xa, còn phần khác nữa là vì các anh tôi muốn theo cha đi làm xa để mẹ bớt đi vất vả, để bát cơm các em có nhiều phần trắng hơn, để các em ngày ngày được cắp sách tới trường cho trọn cấp mà mình đã phải dang dở.

  Thế rồi những ngày gian khó còn lại, chỉ với bốn mẹ con tôi. Những ngày gian khó đó chứa bao kỷ niệm buồn vui dưới ngôi nhà mái ngói có cái hiên mái chảy. Mẹ tôi băm bèo thái khoai nuôi lợn quanh năm. Mẹ tôi đi đắp đê ròng tháng để có thật nhiều công điểm. Mẹ tôi đấu thêm ruộng để làm thêm. Mẹ tôi buôn thúng bán bưng khắp các chợ quê người….Ngày tháng đó tôi còn nhớ như in, bữa cơm nào cũng vậy, tôi được mọi người dành cho phần trắng nhất, còn phần độn khoai, mẹ và chị tôi giành về mình, thức ăn duy nhất  là một bát nước mắm với cái thìa, lúc ăn mẹ tôi cặp kè cái cong mỡ lợn, lấy đũa quẹt, chấm vào từng bát cho con, một cách nâng niu, chi chút , thận trọng. Chúng tôi ai nấy đều ăn ngon lành, giờ nghĩ lại cứ thấy vui vui pha chút ngậm ngùi,cái mùi nước mắm cáy mẹ tôi tự nấu lấy ngậy lắm, nó quyện chặt lấy cái bùi bùi sếnh bóng của mỡ lợn, ăn xong cặp môi bóng lên như dầu. Ngọt bùi nhớ lúc đắng cay, giờ chị em tôi ngồi cùng nhau thường ôn lại, hồi đó vì ăn cơm độn nhiều khoai ngứa – (một loại khoai trắng của lợn lúc giáp hạt nhà tôi vẫn phải ăn), ăn xong chị em tôi ai cũng kêu ngứa rạy cả miệng, nhăn nhăn nhó nhó, mẹ tôi thường bảo chúng tôi ra ao rửa “trôn” sẽ khỏi. Thật thơ ngây chúng tôi tin ngay, tíu tít chạy ra cầu ao làm theo ngay, quả nhiên thấy đỡ thật. Giờ nghĩ lại, ai cũng thấy đó là mẹo của mẹ tôi, cũng như khi các bà, các mẹ chữa nấc cho con bằng cách đánh lạc hướng suy nghĩ và chú ý sang một việc không hề ăn nhập để quên đi thực tại.

  Bên mẹ ngày ấy, sao gian khổ, khó khăn mà vẫn ắp đầy tình cảm thân thương, gắn bó. Giờ nghĩ lại, tôi như thấy chỉ mới ngày nào thôi, mới ngày nào thôi thật vậy!

ÂY SẮN TRUNG DU

Trung du có một cây bị quên lãng không chỉ một lần. Cây sắn. Búp non làm canh. Củ làm cơm. Vị trí hậu vệ của cây sắn đỡ lưng người nông. Gia súc, chủ nuôi nhiều bữa cùng món ăn. Người sang ăn thì càng sang. Kẻ hèn ăn cũng chẳng thêm hèn.

       

          Cây sắn mọc đơn thì vươn cành sinh nhánh, chung luống thì khoảng không của riêng cây nào cây ấy vươn thẳng. Mọc nhanh, mọc chậm, bao giờ sắn cũng đợi nhau,  ngang ngang đầu người, rồi đứng lại. Cây thấp cây cao là bởi mặt đất .

          Quệt lên mảng màu bắt đầu xanh lá mạ dần chuyển xanh lá già lúc giêng hai khi cây sắn tơ đâm rễ neo thân vào đất thì trời trung du xuân sáng rộng thênh. Nơi bờ vỉa cỏ cao lẫn hoa đơn dại gà gô khan khan gọi nhau xây tổ.  Sang thu thân sắn gân guốc, chuyển sắc hung vàng lá điểm chấm khô rỉ sắt, cuống lá rút nước gục bám lắc lẻo vào thân, gặp gió lẻ trượt từ ruộng dộc lên nghe rào rào lá sắn rụng. Cũng là cữ trẻ trâu kéo lê  bao tải gom cọng lá sắn khô.

          Ngày đông, bên cửa sổ con tàu qua trung du xuôi miền hạ, ai đã nao nao thấy ngọn khói củi sắn, trên đồi sắn, mùi sắn nướng bọc lá chuối tươi thơm vèo cảm giác. Nhớ cây sắn. Tôi nhớ tuổi thơ mình trộn sắn. Bao nhiêu cây sắn, thì cây sắn nào cũng tê đắng. Cây sắn nhà nông. Cây sắn lính.

          Cây sắn lưu của lính to tày bắp chân, trổ ba chạc cành, trơ trụi cành khô giơ chùm quả giống quả thầu dầu lủng lẳng chóp ngọn như chùm lục lạc câm. Cuối chiều chiếc bếp chảo nhà binh nấu canh củ sắn tươi lõng bõng nổi phều váng thịt hộp ngồi đợi bữa, tôi chạnh nhớ cây sắn quê nhà. Chiều ba mươi Tết lũ trẻ con làng định cư cũng quây quần bên nồi bánh chưng...lá giong gói sắn..

Nơi chân núi Lưỡi Hái, cha mẹ gồng gíu anh chị em tôi đi khẩn hoang trồng sắn. Trên chỉ thị phát trụi thảm thực vật rừng nguyên sinh phơi nắng khô như mùi nhóm bếp, rồi phóng hoả. Tro than chưa nguội thì người già trẻ em dàn hàng ngang từ chân đồi, đeo gùi hom sắn, vung cuốc bổ xuống, lật ngược phiến đất mùn, ném toạch một thân sắn dài hơn gang tay trúng cái kẽ trống ẩm ướt, nóng hổi vừa hé ra đó, đưa chân gạt đất ....       

Tháng 8 mưa ngâu, người người lén rủ nhau lên nương sắn HTX. Củ non lẫn lá non triệt để tận dụng. Những ngày xóm núi nhà nọ cầm bát huỳnh huỵch chạy sang nhà kia vay nhúm đường cấp cứu người ngộ độc sắn. Mang bát trơn đi lại mang bát không về.

Say sắn. Cảm giác say như say ô tô như chết đuối trên cạn. Đầu nhức kim châm. Tay chân bị phân đoạn. Quay cuồng, hốt hoảng. Người co gập nôn khan đến lúc bong niêm mạc miệng, mép lòng thòng sợi bọt nhãi lơ phơ. Những cơn lòi ói ợ trào cửa miệng thứ khí nóng nhức như than hồng toả ngược từ dạ dày. Tựa như vừa tọng cả lít dấm ớt đậm đặc. Khu kinh tế mới được phân phối nuôi gia công giống tằm thầu dầu sắn. Nghe là giống quý, Trung Quốc viện trợ. Nhà tôi được nhận mười cái kén giống trắng ong óng, to tày đầu ngón tay cái. Thúc tằm lớn, người ta thi nhau vặt lá sắn HTX, bất chấp sắn non hay sắn già.

Kết là năm ấy, nhà nào cũng có một thúng kén tằm trắng lấm bụi đồi hoàng thổ, dài cổ chờ, không ai mua.  Và một mùa sắn củ loằng ngoằng rễ xơ. Ăn thứ nhộng tằm nâu màu sâu đất ai cũng bị dị ứng, khát  tu nước lã ừng ực, gãi sồn sột, da tấy như vịt trưng vịt lộn tróc vỏ...

          

Và, khi tôi có người bạn lính quê miền Phù Ninh. Chuyển giúp Thậm lá thư, tôi biết thêm cây sắn trung du miền hạ.

          Nghe thoáng tôi là bạn Thậm, ông giáo Thình giục rối chuẩn bị đặc sản đãi khách. Em gái Thậm, xăng xái cắp rổ ra cuối vườn hái rau sắn mọc chồi bờ rào ven ruộng cạn. Ui, tôi rùng mình nghĩ đến món canh sắn ở đơn vị , miệng bỗng đắng nghét, đầu lâm râm nhức. Hơn một thất vọng.

          Ông giáo Thình lắc chai rượu tăm mắt mèo.         

          Và tôi thêm ngỡ ngàng khi liếc xuống mâm. Bát canh cua sóng sánh gạch vàng mơ phủ mờ lên những ngọn rau bí ẩn xanh ngần. Đĩa rau trộn huyền hoặc. Một thứ rau gì đó làm hồn cốt cho món nhắm chính. Nó vừa giống rau muống mà lại như rau đay dại, ngọn dài, lá thuôn, xanh bóng.  Sợi thịt gà trắng ngẩn tinh khiết như là không có thật, những phiến da gà vàng ươn màu thị chín thanh tao, ớt thái chỉ giăng mắc dọc ngang những sợi đỏ, lạc rang chín tới, ngân ngẩn như vụn ngọc trai, giá đỗ tươi loi ngoi như râu mực thập thò trong hỗn độn mùi hạt tiêu trắng cay tê lẫn nhưng nhức mùi răm ứa nước miếng...

          Ông giáo Thình rót rượu, nheo mắt.

          - Nếp cái hoa vàng hay nếp quýt? Để tôi nói luôn. Rượu sắn. Đích, tôi nấu từ sắn. Rồi tôi sẽ cho anh hay làm sao để cất được thứ rượu tăm mắt mèo. Những thức bày đây cũng là lá sắn tươi nấu canh cua, lá sắn nộn thịt gà.... Cỏ cây cũng như con người, ở chốn này thì là vàng, ở chỗ kia thì lại là ống bơ rỉ... Muốn có sắn ngon, bổ thì người ta phải tìm cách loại trừ độc chất HCN. Và con người muốn tốt, muốn giòn thì phải từ thói tật xấu.

          Ông giáo Thình múc cho tôi một thìa canh, khuyến khích nếm thử món lá sắn tươi nấu cua đồng. Sống lưng tôi gai gai, lưỡi co rụt. Cảm giác về cơn ngộ độc sắn đắng ngắt còn chưa khuất trong tôi. Liều vậy. Tôi nhấp môi ngụm một chút nước canh, búng lưỡi lùa phiến lá rau mềm mại như cánh hoa vào khoang miệng. Toàn bộ giác quan tôi bỗng nhói lên sáng bừng.

          Lạ lùng là ngon. Ngon đến bàng hoàng. Sự ngọt đằm giản dị của thịt cua đồng  kết hợp với vị hoa thiên lý ra vị cải bẹ và hình như cả rau ngót đều có ở trong thứ búp lá non sắn ngọt hái nơi bờ rào. Cái ngon được cảm giác hoà tan lẫn biến tự nhiên vào xương thịt nghe an lành.

          Như có ai cầm tay tôi múc thêm thìa canh nữa lên bát mình.. Ông giáo kín đáo giấu nét cươi hướng ra ngoài hiên vơi nắng.

          - Cây sắn ngọt Đồi Thượng là trồng đất nghèo mùn, sét pha cát, cây sắn lớn chậm, sinh trưởng dài, búp lẫn củ không bị

 xổi

, bị

 hẩu 

nên nó chỉ hấp thụ những dưỡng chất tối thiểu. Các cụ bảo: Chậm mà chắc, nhanh mà hẩu đấy sao...

          Chớm gió phơn, sau mùa thu củ, người ta lựa thân sắn mắt mập, khoảng cách mỗi mắt đều, thân thẳng, màu vỏ xanh đều hoặc bạc xám đều. Cây sắn để nguyên ngọn dựng đứng dưới bóng râm mát, gốc vùi đất tơi hoặc cát, trên ngọn ủ rơm, lá chuối khô.  Ra Xuân, đem cây sắn đã phạt gốc, cắm nơi làm bờ rào, mà cũng có thể dùng dao bài thật bén, ngắt đoạn ba bốn gang tay cắm bất kỳ khoảng đất trống nào. Nửa tháng thân sắn đã nảy mầm xanh mầm tím, thì dùng roi tre phất ngang ngọn, bỏ đi lứa búp đầu nhiều nhựa độc...

          Rau sắn lựa búp lá bánh tẻ, rửa sạch bằng nước giếng đá ong, để ráo nước, dùng tay vo mềm. Cái khó là vo làm sao cho lá sắn chỉ nục mềm giữ nguyên hình hài  không rách nát. Nấu với nước thịt cua đồng, thì đun sôi nước cốt rồi cứ thả lá sắn non đã có sẵn nồi. Thích chua thì cho thêm dăm quả sấu vừa cứng hạt. Nhớ là phải thả kèm một trái ớt chỉ thiên làm

 hèm 

cho lá sắn nhanh mềm.

          Nếu thích canh chay thì thả vào nước luộc sắn, chút muối tinh, sấu quả xanh và đương nhiên thêm...ớt. Bát canh lá sắn chay có màu xanh mơ, vị chua thanh kiết, nếu như nhớ thời điểm thả sấu vào nồi, sau khi rau chín. Trưa hè, húp chưa trôi nửa bát là bao nhiêu cực nhọc mùa nóng bay biến, đầu óc nhẹ bẫng, mơ màng chỉ thuần nghĩ đến  điều thanh cao...

          - Ấy còn món canh lá sắn chua mới

 đuya 

- Ông giáo Thình vuốt mái tóc giọng kính màu bông lau- Để muối chua món rau sắn thì đơn giản, nhưng đúng cách. Rau sắn hái tươi, rửa sạch, vò nhẹ xếp vào vại sành, nhớ là vại sành, nhất thiết phải vại sành. Nén chặt từng lớp, rắc muối hạt loáng thoáng, rôì đổ nước đun sôi ấm tay săm sắp, đậy kín, 24 giờ sau là rau sắn chua... 

          Rau sắn chua, bình dân nấu với tép thập cẩm: Mài mại, tôm riu tôm gạo, giếc nhỏ, trạch trơn, tôm bà, niềng niễng, cua lột. Rau sắn từ vại sành không cần rửa, thả luôn vào nồi, nêm vừa muối. Tép đồng bóp ruột bùn, xóc muối, dùng nước muối lá sắn rửa lần cuối. Đợi nồi canh sôi trào là thả tép vào. Đậy vung kín mươi mười phút kiêng đụng đũa. Khi ăn phải múc ra bát to, nước cái đều nhau. Bát canh nóng khói là rắc mấy nhánh thanh hao thái nhỏ.

Cũng là kiếp rau sắn chua, nhà giàu thì người ta mua cá bống sông,  bỏ đầu, rán  sơ hoặc cá chép hay cá mè to lọc lấy phi-lê, cắt vuông con chì, rán mỡ lợn mà nêm vào nồi canh như một món ăn kèm trong món ăn. Còn nếu ăn đầu cá chép cá mè thì người ta nấu tươi, không rán...

          Thích ăn rau sắn luộc thì cũng luộc thường, không đậy vung, đun vừa lửa, sôi trào dăm phút, vớt thử búp sắn lên, di di thấy mềm là vớt. Nước luộc để dùng tuỳ biến. Rải đều rau đã luộc trên mặt chiếc rần, hay chiếc sàng cho nhanh nguội. Khi rau còn ấm tay thì nhúm lại thành từng nắm chặt tay như quả bàng cho vừa miếng. Nắm rau ấy, chấm với nước tương ta, nước tương tàu đều hay, nhưng là cái hay gượng hay ép.

          Hiệu quả  là chấm lá sắn nắm với muối vừng, muối lạc giã mảnh, kèm lá kinh giới, ngọn húng dổi. Gái đẻ làng Đồi Thượng thường dùng món này ăn kiêng suốt ba tháng đầu...

          Anh có tưởng ra được không ? Cái vị thanh mát hư không của lá sắn non thoảng thoảng vị gió mưa miền đồi trong miệng bỗng dậy cái bùi bùi cái béo ngậy nhã nhặn của lạc của vừng lại được hương tinh dầu kinh giới húng dổi nâng bổng lên. Chà chà, anh nhớ nhấp một ngụm đậm thứ rượu này nhé.

          Đợi ông giáo Thình nhấp rượu, tôi dè dặt hỏi cách thức làm món xalat lá sắn thịt gà. Rạng rỡ bỗng dâng, gương mặt phai bạc tuổi ngoại 50.

          - Hành mỡ đỡ người vụng. Làm món xalat lá sắn phải kết hợp nhiều gia vị, cái khó là phải điều hoà được khi chế biến để mỗi thứ gia vị chúng dung hoà và nâng đỡ nhau. Dùng dầu vừng, không dùng dầu oliu. Quan trọng số một vẫn là chế lá sắn. Lá sắn không được luộc mà phải nhúng nước sôi làm nhiều lần cho chín từ từ. Nghĩa là nhúng rau sắn vào nồi nước sôi thật nhanh rồi để ra ngoài cho nguội hẳn mới lại nhúng lần tiếp. Nhúng cho đến lúc nào rau sắn chín có màu xanh trong là được. Lá rau lẫn cọng rau phải mềm, dai vừa độ...

Người Đồi Thượng gọi bánh sắn cuộn là bánh mỳ nông phu. Sắn củ lát phơi được nắng, khô trắng sáng, thơm có vị chua dịu, bốc khỏi bồ lát sắn va nhau phải có tiếng trầm đục, thì đó mới là sắn ngon, chắc bột. Sắn giã tay, chày gỗ nhãn, trong cối đá xanh. Giã nhẩn nha, giã bột sắn càng kéo dài thời gian càng tốt, nhằm cho bột có thời gian ngấm khí, hả đều. Bột dây mịn tải ra nia hay mâm, rảy nước nóng ấm tay thưa hạt như mưa bóng mây, nhào, luyện, vò, văn, vặn nhanh tay sao cho mỗi tinh thể bột ngấm đều nước, nhưng không liên kết với nhau thành khối quánh dính. Lùa tay, bột không được bám vào ngón, nhưng phải cảm được độ ẩm trong sự tơi xốp...

          Vừng, lạc, tróc sạch vỏ, rang chín tới với nước mắm cốt cá Cơm giã rập để sẵn. Nếu có thể thì kiếm thêm dăm ba gam mỡ khổ, lọc bỏ bì, thái hạt lựu gia giảm chút muối tinh rồi đem trộn đều vào bột sắn đã chế. Nhẹ tay rắc từng lớp bột vào chõ. Lửa nhen từ từ. Lúc nào mùi nồng nồng ngậy ngậy và lớp lá chuối tươi lót vung bị cháy xém  thì dập lửa để nguyên vị.

          Dỡ bột đồ ra để chỗ thoáng, đợi nguội mát thật tay thì lại đồ lần nữa. Và lần này thì bột sắn chỉ phả mùi thơm ngầy ngậy. Nhanh tay dỡ bột rải đều trên mâm nhôm hay mặt bàn gỗ dùng con lăn hoặc chiếc vỏ chai mà cán mỏng. Vừa cán nóng vừa rắc vừng lạc đã sẵn đấy lên mặt. Cán làm sao cho vừng lạc phải đều khắp diện tích. Lớp bánh có màu trong ngà, dày nửa đốt ngón tay là vừa...

          Ấy là lúc ta cuốn bánh, nhưng đây là bánh xôi sắn, nên phải cuốn thật đậm, thật chắc tay. Định dạng tuỳ  theo ý, có thể theo dáng gối gỗ, bánh trưng tày hay hình hoa chuối.  Khi ăn dùng lạt giang tước chỉ quấn vòng như cắt bánh trưng. Cầm lát sắn xôi  mịn mỡ, nưng nức cái thơm tần tảo của lạc vừng rang chảo gang, cắn miếng nhỏ, nhai nhẩn nha, thì, cái lam lũ nồng hăng củ sắn đã chuyển màu vị của xôi vò. Một chút bùi của lạc, một tẹo ngậy của vừng và lam man mỡ lợn béo đậm ngân nga bao nhiêu là cảm giác. 

Cách nấu rượu sắn giả rượu nếp, sắn tươi hay sắn khô đều được. Trước khi đồ chín thì ngâm sắn ở dòng nước chảy hoặc rang sấy nhiều lần. Chưng cất thì không nên đổ nước

bỗng

, mà để " cái rượu "khô như cách người Hmôngz nấu rượu ngô, dùng hơi nước thẩm thấu qua rồi ngưng tụ cồn ở vòi chảy rượu đã làm lạnh. Rượu cất được, để mươi hôm rồi

hộn

lẫn nước mưa hứng mái gồi tỷ lệ lít nọ lít kia mà đem chưng tinh lại lần thứ hai.

          Nấu cháo nếp cái hoa vàng sánh đặc, gạn lấy nước cháo bề mặt nóng hổi, đổ thẳng vào hũ sành, om dăm tháng râm mát. Sau san rượu đó ra be ra cút, nhớ là phải vớt bỏ thứ keo cháo gạo nếp hoa vàng kết tủa dưới đáy hũ dẻo như crếp thì rượu lắng trong. Lúc này thì rượu kiếp sắn đã hoá ra danh phận rượu nếp hoa vàng...

           Lần ấy rời Đồi Thượng, trong ba lô ấm lưng tôi, thơm dịu mo cơm mếp

ghế

sắn tươi, thứ sắn ngọt trồng đất pha cát đen. Cơm nếp

ghế

sắn tươi bở đỗ óng ánh tinh thể tinh bột bao đều mỗi hạt nếp căng ngần, mỗi miếng nhai là một lần tôi ngân ngấn ướt mắt bởi dẻo thơm bỗng chốc lại ngậm ngùi.

          Tôi như vừa nghe, lời ông giáo Hán Văn Thình, ẩn ức giọng khê khói thuốc lào.  

          - Cây sắn  trung du như người nông nghèo, như người lính đói bị vùi rập đoạ đày thế nào cũng nín chịu. Thân sắn gốc sắn kia qua mùa thu hoạch củ, cái xác vờ teo quắt miễn là mắt mấu còn tiếp xúc được với đất là còn có cơ nảy mầm. Mà sắn đã nảy được mẩm, thì thế nào cũng có củ. Củ không xứng vào nồi đồng điếu nhà giàu thì vào niêu đất méo miệng nhà nghèo. Trai làng trồng sắn trước khi ra trận. Thành lính trận vừa trồng sắn vừa đánh giặc. Bươi củ sắn của người trồng trước thì lại vùi xuống đất một gốc sắn để chờ người lính đi sau. Cha già mẹ héo chiếc gậy sắn tươi róc mấu đếm bước giật lùi  khom lưng con trai tiền biệt...

          Thân phận cây sắn trung du, tưởng đã qua thì không nhớ, sao hôm nay bỗng trở về tôi ám ảnh. Trong những chiều trung du bây giờ, lửa đạn đã xa lắc mà vẫn còn bóng mẹ già chống gậy sắn khô nơi đầu ngõ ngóng đợi con trai đi trận chưa về...

Quê hương! Nơi ấy có dòng sông, con đường làng, mái nhà tranh và cánh đồng bao la. Ở nơi đó có món cơm cháy khét của mẹ, ly trà đắng của ba và những câu chuyện  vui của ông cả tuổi thơ của tôi.

Tôi nhớ rất nhiều về nơi ấy! Những trưa hè tôi hay mang cần câu ra sông câu cá, về nhà y như rằng sẽ bị la  có khi còn ăn đòn vì người lúc nào cũng lấm lem. Thay lời muốn nói biết tại sao không? Vì câu không có cá tôi quay ra móc đất dưới sông lên ngồi nặn con này con nọ, mà tay dơ  thì mỗi khi bị kiến cắn làm sao mà gãi được! Thế là trét vào quần áo để có tay mà gãi đầu tóc đầy sình mặt mũi cũng lắm lem. Chưa hết đâu, không biết bơi vậy mà thấy người ta tấm sông cũng bắt chước, uống no cả bụng nước.

Đến mùa gặt lúa tôi cùng mấy anh trong sớm làm diều ra đồng thả, mà nói cho sang chứ đâu có  biết thả, chủ yếu là thích được ra đó để nhảy nhót trên mấy đống rơm, lấy trớn thật xa chạy đến quăn mình lên rơm nằm coi mấy con diều bay, hay gom mấy bó lúa để thật cao rồi chơi trốn tìm. Mà Thay lời muốn nói biết không khi chơi thì vui vậy chứ lúc về thì sợ lắm! Sợ bị ăn đòn, tôi hay bị mắng là con gái mà phá như giặc ai mà chịu nỗi, chưa kể cái vụ xé tập học làm diều ba mẹ mà biết là ăn đòn tả tơi luôn. Lắm lúc muốn tìm lại những dư vị ấy nhưng chắc là khó!

Sống xa quê có đôi lúc rất nhớ nhà, nhớ nhất là món cơm cháy của mẹ, cơm nấu trên lò củi có lớp cùng cháy vàng mà khi xới cơm ra sẽẻ thấy, được ăn cơm cháy với chút mỡ, có chút đường thì là tuyệt nhất. Hay ăn cùng với cá lòng tong kho khô cho thêm chút tép mỡ nữa thì không gì sánh được (tép mỡ là loại mỡ heo mua ở chợ về thắng cho  hết mỡ vớt ra để dành kho cá). Hương vị đó thật là khó quên. Ngồi đây nhắc lại mà thèm làm sao! Mỗi lần nhớ là muốn chạy thật nhanh về nhà để được mẹ nấu cho nồi cơm cháy. Nhưng chạy làm sao được vì cách nhau hàng trăm cây số lận Thay lời muốn nói ạ!

Không chỉ nhớ cơm cháy của mẹ mà còn có mùi của cỏ, cái nắng gió của quê nhà, màu xanh mượt mà của lúa, sự chân chất nồng nàn của người dân quê. Và hơn hết đó là nơi sinh ra và nuôi lớn ta.

Quê hương nếu ai không nhớ sẽ không lớn nổi thành người.. Mỗi người chúng ta điều có một quê hương của riêng mình và đó là nơi bình yên nhất sau những ngày bôn ba chúng ta có thể tìm về!

ĂN CHAY TRẺ TRUNG !

Tôi có hai lần gặp trường hợp được miễn ăn chay kiêng thịt. Lần thứ nhất là lần chạy loạn vào ngày Thứ Sáu Tuần Thánh năm 1975. Năm ấy tôi chưa đến tuổi ăn chay, nhưng những người lớn chung quanh tôi đều được Đấng bản quyền địa phương cho phép miễn ăn chay vì ở trong trường hợp bấn loạn nguy cấp. Lần thứ hai là khi bị bắt đi làm “thanh niên xung phong”, quanh năm ăn cơm với rất ít đồ ăn.

Nói là cơm cho “khí thế công trường” nhưng thật ra là khoai mì khô nấu với vài hạt gạo, nói là đồ ăn cho oai chứ đó là nuớc lã nấu với muối có cho vào vài cọng rau muống đã héo trước khi bắc lên bếp. Đến ngày thứ Sáu Tuần Thánh năm ấy, đơn vị tuyên bố cho công nhân ăn thịt, tiêu chuẩn mỗi người một miếng rưỡi mỡ heo (khoảng bằng một trong những cái nắp chai bia mà lãnh đạo đơn vị đang uống với nhung nhúc thịt thà lúc đó).

Hai anh trưởng tràng của chúng tôi là anh Dũng và anh Long sau khi xin ý kiến Đấng Bản quyền, tuyên bố cho anh em được ăn thịt vì đã ăn chay quanh năm rồi, vả lại một miếng rưỡi mỡ ấy theo cái nhìn ngây ngô của tôi thì chắc chưa đủ phá chay (!). Hai anh bây giờ là linh mục Nguyễn trí Dũng ở Đà nẵng và linh mục Nguyễn hữu Long giáo sư Đại Chủng Viện Xuân Bích Huế. Chắc chắn các anh còn nhớ những tháng ngày chay tịnh ấy. Và riêng tôi, khi nhìn đàn em ở đất nước này hôm nay tương đối khá hơn, có thể ăn nhiều hơn một miếng rưỡi mỡ mỗi ngày, tôi chợt nghĩ đến việc ăn chay của các bạn trẻ.

Một cha xứ kể lại cứ mỗi lần chuẩn bị Lễ Tro hay Thứ Sáu Tuần Thánh, có nhiều bạn trẻ vào hỏi cha: “Thưa cha, ăn chay có được uống cà phê không, có được ăn mỡ nước không, có được ăn hột vịt lộn không, có được uống bia không?”. Tôi ngày đó cũng hay nghĩ: sau 12 giờ khuya có được ăn không? Ăn chay mà đói quá có thể ăn thêm không?

Bây giờ nhớ những câu hỏi ấy, tôi thầm nghĩ có thể Chúa Giêsu sẽ buồn bã hỏi lại: “Con có yêu mến Thầy không? Con không thể thức với Thầy được một giờ sao?”. Vậy ăn chay là gì và có cần phải tính toán với Chúa đến từng miếng ăn, từng phút ăn chay không?

Tôi xin không dùng Luật Hội Thánh cũng như những nguyên tắc luân lý để lý giải, bởi vì thật ra người Công giáo mỗi năm chỉ ăn chay có hai lần, so với các tôn giáo khác là quá ít, thành ra luật buộc cũng chẳng là điều gì quá đáng. Nhưng ý nghĩa chay tịnh xét về mặt tình cảm đối với Con Người Giêsu đau khổ thì thật là lớn lao. Ở khía cạnh này, chay tịnh là lắng lòng mình lại, xa tất cả những gì gần gũi nhất của mình, là miếng ăn miếng uống, để sà vào lòng Giêsu mà hỏi Người: “Chúa còn khát không, xin cho con chia sẻ. Chúa còn cô đơn không, con xin hầu chuyện với Chúa. Chúa còn ngã xuống dưới làn roi quất bạo tàn không, xin cho con cùng ngã xuống với Chúa”.

Các bạn trẻ có thể gặp nhiều khó khăn khi ăn chay. Mỗi ngày các bạn quá quen với những món fast food, những ly nước ngọt được quảng cáo ngoa ngữ là làm tan cái nóng trong người. Các bạn quen với việc vào lớp vừa nghe giảng vừa thưởng thức bữa sáng hay bữa ăn thêm cho đủ sức ngồi nghe những bài giảng chẳng lấy gì là bổ ích hay hấp dẫn. Cho nên chay tịnh với bạn là hy sinh lớn lao. Không hẳn hy sinh là vì không ăn, mà hy sinh là vì bạn phải bỏ một thói quen, dù chỉ bỏ trong một ngày.

Nhưng nếu suy nghĩ một chút thôi, bạn sẽ thấy có nhiều ngày khác bạn phải ăn chay ấy chứ. Đi xe buýt bị móc túi, thế là ăn chay “tự nguyện” cả ngày. Bị đau răng cấm ư? Ăn chay ba ngày đấy nhé.

Hồi tôi còn sinh viên, có một chuyện rất hài hước xảy ra cho cô bạn ngồi gần tôi trong lớp, chuyện mà tôi cho là trên cả thế giới này chắc chỉ xảy ra có một lần. Cô bạn tôi hôm ấy mua một ổ bánh mì thật thơm ngon, định nhâm nhi trong buổi học, nhưng vì giảng viên môn học khó quá, nên cô nàng để trong hộc bàn, định giờ ra chơi sẽ lim dim thưởng thức.

Thế rồi dường như hôm ấy cô nàng có số ăn chay hay sao mà vừa nghe chuông ra chơi, cô nàng thò tay xuống hộc bàn, và chụp vội được, không phải ổ bánh mì, mà là mấy ngàn đồng và mảnh giấy nhỏ ghi một câu đầy tính cướp bóc: “Bạn ạ, thông cảm nhé, tui đói quá, mua lại của bạn. Bạn cầm mấy ngàn này ra mua ngay ổ khác”. Bạn thấy chưa, đâu phải lúc nào muốn ăn cũng có thể ăn ngay? Nhưng chay tịnh tự nguyện mới có ý nghĩa thật sự.

Vậy xin hỏi lại câu vừa hỏi: ăn chay là gì? Đức Giêsu vào sa mạc ăn chay bốn mươi ngày và Người cảm thấy đói. Lúc đó Người làm gì? Người kết hợp với Cha của Người và dùng Lời Kinh Thánh để chống lại những cám dỗ của quỉ vương và của trần thế.

Như vậy, là môn đệ Đức Giêsu, chúng ta ăn chay là giảm bớt những đồ ăn thông thường để lòng mình lặng lẽ suy ngắm Lời Chúa, Lời của tình yêu. Luật Giáo Hội dạy ăn chay là ăn một bữa no bình thường và một bữa còn đói, nghĩa là hãm bớt sự thèm ăn thèm uống. Khi hãm dẹp được những đòi hỏi bình thường ấy, chúng ta hoà mình vào nhịp sống của Đức Giêsu trong Mùa Chay Thánh.

Lấy một ví dụ cho dễ hiểu hơn, khi bạn trẻ có người yêu và sắp đến giờ hẹn, bạn bớt ăn một chút cho hơi thở thơm tho, cho giọng nói nhẹ nhàng. Bạn mê thịt “nai đồng quê” lắm, thêm chút riềng, chút mắm tôm, ôi tuyệt vời. Món nhắm đã dọn sẵn, bạn muốn xơi quá đi mất, nhưng vài phút nữa là có thể ngồi gần nàng mà thì thầm thỏ thẻ với nhau, thôi đành hy sinh cho tình yêu vậy!

Bạn là cô gái khoái món bún riêu vô cùng, bún dọn lên rồi kìa, nhưng lại là nó, chính nó mới làm cho món bún riêu hấp dẫn, mà cũng chính nó làm hại hơi thở thơm tho của bạn. Nó lại là mắm tôm ấy. Ăn chay đi nhé bạn. Ví dụ nhỏ xíu ấy cho chúng ta, những người trẻ thấy rằng ăn chay là hy sinh cho yêu thương, mà thật ra ăn chay cho tình yêu là ăn chay đẹp và hấp dẫn lắm chứ phải không bạn.

Hãy tưởng tượng người tình Giêsu đẹp lộng lẫy hiện ra trong ngày bạn ăn chay. Người muốn lắng nghe bạn tâm sự, bạn có nỡ bỏ Người mà đi tìm món ngon vật lạ không? Hãy khoan nói đến giáo luật, cũng hãy khoan nói đến lời cha giải tội, bạn ơi hãy nhìn Giêsu với tư cách Người là người yêu của bạn. Ăn chay không chỉ là bớt món ăn, mà còn là bớt một chút giờ ngủ, bỏ một thói xấu, nhịn một lời cay cú, bớt một ánh nhìn hằn học. Ăn chay còn là ném đi những thói quen tội lỗi, quăng bỏ những trang sách thước phim đen tối và tiêu diệt thói ngạo mạn coi trời bằng vung.

Bạn nhớ không, khi Đức Giêsu đau đớn nguyện cầu ở trong Vườn Dầu, những môn đệ Người thương yêu lại ngủ. Họ chẳng “ăn chay giấc ngủ” với Người. Khi Giêsu bị đóng đinh trên Thập giá, ai là người lặng lẽ giữ chay trọn vẹn cho tình yêu ngoài Mẹ Maria và những môn đệ thân yêu nhất?

Kinh Thánh viết: “Phúc cho ai biết tự kiềm chế mình từ khi còn trẻ” (Ai ca 3, 27). Bất cứ sự phóng túng nào cũng dễ dẫn đến hiểm nguy. Sự tự chế chính là cái thắng cho chiếc xe cuộc đời. Tuổi trẻ thích lao xuống dốc hơn là leo lên núi cao. Không có thắng, tất cả sẽ đổ nhào. Mùa Chay chính là lúc người trẻ nhìn lại mình và lối mình đang bước để từng giây từng phút ngoi lên. Như vậy, chay tịnh là lối sống đẹp của người trẻ tuổi, bởi vì hy sinh là đặc tính của tuổi trẻ và của tình yêu. Ăn chay là hy sinh cho tình yêu, đơn giản quá và đẹp quá phải không bạn?

Không chỉ trong ngày Lễ Tro và ngày Thứ Sáu thánh, mà mọi ngày trong năm, các bạn trẻ đều có thể ăn chay, nhiều ít tuỳ bạn, nhưng mỗi lần nhịn bớt miếng ăn hay bỏ đi một thói xấu, là bạn gần gũi với gương mặt thống khổ của Đấng Cứu Độ hơn. Bạn hãy nhìn lên Đức Maria và thánh Giuse, các ngài là những mẫu gương chay tịnh tuyệt hảo, và nhờ đó các ngài gần gũi với Con mình biết bao.

Bây giờ, bạn và tôi, chúng ta hãy chậm rãi đọc lại và suy ngắm lời này “Các con không thể thức với Thầy được một giờ sao?”. Rồi chúng ta hãy cùng thưa với Chúa về những ngày chay tịnh còn lại.

Ngày ấy, xứ Quảng quê tôi nghèo xơ xác với đất đai khô cằn trong nắng gió. Hạn hán, thiên tai lũ lụt thường xuyên diễn ra gây mùa màng thất bát. Dẫu vậy, năm nào cứ đến tháng tư, mẹ tôi mua vài con heo cỏ để nuôi ăn Tết. Ngày ấy, thi thoảng tôi cũng giúp mẹ cho heo ăn, thức ăn của heo thường là cám gạo, chuối xắt, rau lang... Heo cỏ tuy chậm lớn, nhưng giá thành cao, nhất là bán trong dịp Tết.


Hằng năm, cứ vào ngày 25 tháng chạp, nhà tôi làm heo lấy thủ (đầu) để cúng tất niên. Số thịt còn lại sau khi chia và  biếu, phần còn lại mẹ tôi chế biến thành các món như nấu đông, rán mỡ... nhưng tôi thích nhất là món thịt heo dầm nước mắm do tay mẹ tôi chế biến. Để làm món này, bà chọn thịt mông hoặc thịt đùi với da mỏng, lớp mỡ không quá dày. Mẹ xắt thành miếng dài chừng 15 phân, bề ngang  chừng 3 – 4 phân, rồi đem luộc vừa chín tới.


Mẹ nấu nước mắm Nam Ô loại thượng hạng, thêm đường cát  vào. Mẹ bảo, nếu dùng đường bát thì “mùi đường” làm giảm đi hương vị đặc trưng của món thịt heo dầm nước mắm. Sau khi nấu tan đường, mẹ bắc xuống để nguội. Bằng kinh nghiệm của mình, mẹ gia giảm đường để món thịt được ngon hơn. Mẹ sắp thịt heo đã luộc vào bát gia giảm thêm tỏi, gừng, mì chính... và cho nước mắm đường vào ngập thịt. Để qua 1 đến 2 giờ, khi thấy nước mắm vơi đi, bà tiếp tục cho nước mắm vào sao cho phải cao hơn mặt thịt ít nhất 5 phân và đậy kín nắp, để nơi thoáng, ráo.


Mẹ tôi cho biết: Sau khi ngâm nước mắm được hai ngày thịt đã ngấm, có thể ăn được. Thịt càng để lâu, phần mỡ sẽ trở nên trong, giòn hơn, ăn càng mặn mà. Với tay nghề của bà, chất lượng nước mắm và thời tiết sẽ làm món thịt heo dầm nước mắm đạt được độ ngon lý tưởng.


Cứ vào thời điểm trước Tết, vườn rau trước nhà của mẹ tôi trồng đủ loại nào là cải ngọt, tàn ô, xà lách, hành, ngò, các loại rau thơm... Đi chơi Tết về, anh em chúng tôi phân công người xắt thịt, người hái rau, người lấy bánh tráng nhúng nước... trong tích tắc có ngay món thịt heo dầm nước mắm cuốn bánh tráng chấm với nước mắm pha vị chua của chanh; nồng nàn của  tỏi ớt, vị thơm ngọt của thịt heo cỏ muối, tất cả hòa quyện vào nhau, thơm ngon bội phần. Anh em chúng tôi ăn no căng bụng mà vẫn còn thấy thòm thèm. Miền quê nghèo ngày ấy, chỉ có ngày Tết, anh em chúng tôi mới được ăn thịt heo “thả cửa”, còn ngày thường, khó mà mơ ước được ăn  món này cho đã miệng.


Ngày nay, anh em chúng tôi, trên bước đường mưu sinh xa xứ; đi khắp đó đây khắp cả vùng miền; được thưởng thức nhiều món “cao lương mỹ vị”. Song dư âm món thịt heo dầm nước mắm ngày ấy của mẹ tôi ăn vào những ngày Tết cứ mãi đeo đẳng chúng tôi trên miền sông nước Cửu Long trong dịp Tết đến xuân về.

Tet linh

Ngày xuân nhớ chuyện cũ  

...Những năm ấy ngày tết đối với cánh lính tuyến sau của chúng tôi chưa bao giờ được gọi là tết, mặc dù cũng có chút khác biệt so với ngày thường. Tôi nhớ chỉ có tết đầu tiên năm 1980 là còn hơi căng một chút do tình hình biên giới vẫn lộn xộn, mặt khác do đơn vị mới ổn định đóng quân tại Bắc Thái và anh em lính Nam chúng tôi cũng vừa chất ướt chân ráo bổ sung về đơn vị hơn 2 tháng nên tết đầu tiên đó là "căng thẳng" với cánh lính mới chúng tôi nhất, có lẽ do chúng tôi là lính mới nhiều hơn, mặc dù cũng cấm trại toàn đơn vị nhưng tôi vẫn biết là một số anh em lính cũ người Bắc vẫn được "tranh thủ" tạt về nhà "ăn tết".

Trong suốt 4 năm "ăn tết" ở Bắc Thái, điều đọng lại trong tôi là bộ đội mình ngày đó quá khổ ngay cả trong những ngày tết. Mà cũng đúng thôi đâu chỉ có lính khổ, cả nước những năm đó vừa mới thoát khỏi cuộc chiến đằng đẵng hàng thế kỷ lại bước vào cuộc chiến tranh 2 đầu biên giới, lại dồn sức người sức của cho tiền tuyến, mặt khác nước ta ngày ấy đâu đã tự "nuôi sống được mình", vẫn phải dựa vào nguồn viện trợ từ các nước XHCN anh em ... dân còn quá khổ, thì lính khổ cũng phải thôi. Mang tiếng là ngày tết nhưng trên mâm cơm ngày tết vẫn chỉ là vài miếng thịt heo được chế biến để gọi là món cho xôm: luộc, kho, áp chảo, ... đâu đó mỗi chú mỗi thứ 1 miếng dày hơn bình thường  

, nhìn còn tệ hơn gấp nhiều lần xuất cơm bình thường của bộ đội ta ngày nay. Nói đến Tết ( cũng như lễ) lính ta nghĩ đến được ăn thêm vài miếng thịt trên mâm cơm 6 người ăn hàng ngày, ngoài ra tôi nhớ nếu chính xác thì không còn gì khác. Tết không bánh chưng, không bánh tét, không rượu ( đừng đòi hỏi bia thời đó  

), không hoa đào, không hoa mai (vì chúng tôi đang đóng quân trên đất Bắc)... mỗi BCH C được vài gói kẹo cứng, gói trà để tiếp khách . .Những năm sau, tết thực sự bắt đầu dễ thở hơn cho anh em, phần vì biên giới cũng yên yên, phần lính cũng đã bén rễ khá chắc tại vùng đất Bắc Thái nên lính tráng chúng tôi cũng có những hồi ức vui hơn trong những ngày xuân những năm ấy. Trong 3 ngày tết, tiêu chuẩn của bộ đội thì "vũ như cẩn" nhưng chắc chắn chúng tôi có thể sắp xếp với nhau để có một ngày du xuân trong làng bản.

Tết trong dân những năm đó ấn tượng vô cùng với đám lính Nam vì tập quán ẩm thực ngày tết hoàn toàn xa lạ với anh em lính Nam (đối với các chú Nam tiến như chúng tôi còn bỡ ngỡ huống hồ các bác Nam rặc  

). Ngày ấy tuy dân ta còn rất nghèo, đặc biệt đồng bào các dân tộc nơi chúng tôi đóng quân. Để chuẩn bị tết ngày nay mỗi nhà có thể thịt 1 con heo, nhưng ngày đó cả chục nóc nhà "đụng" nhau 1 con heo tạ. Sau khi chia thịt về các gia đình, tùy phong tục các dân tộc, người dân bắt đầu chuẩn bị tết. Việc gói bánh chưng là chuyện tất nhiên, không ít thì nhiều mỗi nóc nhà cũng có được một nồi bập bùng ánh lửa đêm cuối năm. Dân tộc kinh mình có thói quen giã giò ... thịt nạc heo mới thịt còn nóng được quăng vào cối đá, 1 chú thanh niên lực lưỡng hai tay hai chày bắt đầu giã, mới đầu còn đỡ tốn sức, nhưng khi dò bắt đầu nhuyễn thì cũng là lúc tốn nhiều sức nhất, dò dính vào cối vào chày, nhấc lên nặng chình chịch, làm độ vài chày là lính ta thở hổn hển  

. Ẩm thực đơn giản nhất có lẽ đồng bào dân tộc ở sâu trong núi, thịt heo tạ chia về với lớp mỡ dày cộp được cho vào nồi luộc chín, thái cục to tướng , xếp vào rổ sau đó ụp ra lá chuối ... và cứ như vậy mà xơi thịt luộc chấm nước muối còn nóng hổi... Thật tình, bây giờ ngồi nhớ lại các cục thịt luộc mỡ còn nóng hổi được chấm chủ yếu với nước muối... tôi cũng thoáng rùng mình  

, nhìn mấy đứa con tôi ngày nay thịt dính chút mỡ chúng ngắt ra cho bằng hết, chỉ còn toàn nạc với nạc chúng mới xơi cho, mà ngay cả mình cũng vậy, nào là bị cấm, là kiêng mỡ động vật để chống béo phì, chống cholesterol và hàng loạt các thứ quái bệnh khác nữa mà thời ấy chẳng bao giờ thấy ... nhưng ngày đó đối với anh em chúng tôi thì hình ảnh cái mâm lá chuối chất ngồn ngộn thịt lơn luộc, cục nào cục nấy to bự... thì thật sự quá thịnh soạn. Ngày ấy thịt trên mâm 6 của lính cắt lát mỏng tanh, nhiều lúc mâm 6 chỉ có 3 lát...nên cảm giác nhâm nhi mùi vị protit luôn tuyệt vời cho dù là các cục thịt mỡ to gần bằng nửa nắm tay. Ngày ấy tôi còn nhớ khái niệm "thịt mỡ cắn ngập chân răng"...cảm giác ấy chỉ đến một cách thật sự khi tham gia buổi cơm tết của đồng bào dân tộc. Đối với bà con dân tộc thịt phải to, phải ngộn ngộn ụp trên tàu là chối nó mới thể hiện cái tình của chủ nhà là chân thành, là mộc mạc và rất mến khách ... Giờ đây, nhiều lúc ngẫm nghĩ vẩn vơ: không biết trước những cơn lốc của kinh tế thị trường len lỏi và không chừa bất cứ ngóch ngách nào trên dải đất hình chữ S này thì những nét hồn nhiên mộc mạc thể hiện dưới rất nhiều hình thức đa dạng, phong phú trong cuộc sống của đồng bào các dân tộc có vì thế mà thay đổiNhững ngày xuân đất Bắc năm ấy tôi vẫn rất ấn tượng với món thịt gà trống thiến luộc 

. Đành rằng tục ngày xuân buộc phải có gà trống luộc nguyên con để cúng tổ tiên thì nơi nào trên đất nước VN mình cũng có, nhưng món gà trống thiến cầm lồng thì chỉ có 1 câu: trên cả tuyệt vời 

. Ngày ấy, dân ta chủ yếu ăn gà ta thả vườn ( nói theo cách nói bây giờ ), thịt giai nhưng ngọt, không bã như thịt gà công nghiệp. Tôi nhớ ngày đó cũng đã có gà công nghiệp rồi, nhưng tôi nghe người ta gọi là gà lơ go, thường có màu mêu đỏ đậm, những năm thơ ấu ở HN, ông cụ tôi cũng đã thường nuôi giống gà này khi ông công tác ở Ủy ban thống nhất TW tại Cầu Giấy.

Có lẽ ngày đó dân ta chủ yếu ăn ga ta nên ngán cái giai của miếng thịt gà nên có xu hướng ăn gà mềm 

, người dân nơi tôi đóng quân cả Kinh lẫn dân tộc hầu như ai cũng thiến gà đôi ba con để ăn tết. Gà thiến là những chú gà trống đẹp mã, thiến cho chú không phí sức và đảm bảo mập mạp để chuẩn bị lên bàn thờ trong những ngày tết... Tuy nhiên nếu thiến nhưng vẫn để chạy rông thì thịt vẫn giai, nên dân ta thiến xong nhốt ngay chú vào chiếc dọ tre vừa đủ cho chú nằm im trong 2 tháng, chú gà chỉ có mỗi nhiệm vụ ăn tẩm bổ và tăng cân để chờ ngày lên thớt 

. Ngày đó mỗi lần gần tết, hầu như nhà nào cũng có nghèo thì 1 hay 2 chú ga cầm lồng, khá hơn thì năm , bảy rọ xếp dài dài đầu hồi nhà.

Đối với đám lính Nam chúng tôi những miếng thịt ga trống thiến cầm lồng luộc vàng ươm ( không dùng nghệ hoặc hóa chất phết lên da gà cho vàng như hiện nay 

) , chặt từng miếng to và dài cỡ 2 ngón tay, xếp ngay ngắn trên dĩa nhỏ đưa phần da vàng óng lên trên trông thật tuyệt. Nhưng trên cả tuyệt vời khi được thưởng thức chúng 

. Miếng thịt gà mềm nhưng không bã, ngọt, béo ngậy do lớp mỡ mỏng dưới da ... làm ta không thể quên ...cho đến tận bây giờ khi nhớ lại nước miếng vẫn chảy ròng ròng 

...Không biết bây giờ khi thịt gà công nghiệp tràn lan, món gà trống thiến cầm lồng ngày ấy có còn trên mâm cỗ tết của đồng bào nơi chúng tôi đã từng đóng quân

Ồ cám ơn bác 

, chứ nếu để "tuyệt chủng" món ngon đó thì ân hận đến tận "nhiều đời" 

... thế còn món thịt lợn luộc thái từng cục lớn xếp vào rổ sau đó ụp ra lá chuối, mỗi chú cầm một cây xiên để xiên từng cục thịt chấm nước muối ớt... còn không bác ?,... đó mới là đặc chưng của người dân tộc phía Bắc, chân thành, mộc mạc không chỉ qua lời ăn tiếng nói mà qua cả nghệ thuật ẩm thực.

Sáng nay tôi hỏi bà cụ nhà tôi (với thâm niên 20 năm từng sống tại HN trước khi theo ông cụ về Nam) về món gà trống thiến cầm lồng, cụ chẳng nhớ gì cả. Tôi cũng hơi ngạc nhiên, nhưng có thể do thời bao cấp ở HN có bao giờ có cơ hội ăn thịt gà trống thiến cầm lồng, hoặc nếu có thì cũng rất hiếm...cộng với tuổi già, độ nhớ giảm sút, nên cụ không nhớ cũng có thể hợp lý. Nhưng tôi nhớ, tôi có bà bác dâu ở gò Đống Đa, dân HN gốc, mâm cỗ ngày tết cũng có đĩa thịt gà vàng ươm, béo ngậy, nhưng hồi đó còn nhỏ nên không biết phải thịt gà trống thiến hay không nữa.

Gần 30 năm ra quân, tôi chưa hề có diễm phúc được thưởng thức 2 món nêu trên vì trong Nam không có 2 món đó, nay nhắc đến nhớ vô cùng 

Năm xưa mỗi khi Xuân về những thằng lính quê Bắc chiến đấu ở K chúng tôi "ngơ ngác" trước mùa Xuân của phương Nam, chẳng có hoa đào và hoa mai cũng chẳng có luôn, vài năm đời lính chẳng bao giờ thấy hoa ngoài hoa súng tím mọc nơi hồ nước, loại hoa này nếu thấy cũng chẳng kịp ngắm vì nhiệm vụ của nó là phải chui vào dạ dày lính mà bổ sung vitamin C, cũng có thấy vài bông sen trắng dưới ao trước chùa nhưng thật sự là không có cảm xúc với loài sen này, nhàn nhạt có gì đó yếu đuối chứ không giống sen xứ ta, không khí Tết ở K của lính Bắc thiếu đi cái vị lạnh "ngọt ngào" thấm tới từng tế bào trong cơ thể, bánh chưng của lính cũng được anh nuôi gói cho ăn nhưng lại thiếu đi vị lá dong của bánh vì gói bằng lá chuối và thiếu đi ngàn vạn dư vị khác của mùa Xuân ở xứ người của lính có quê đất Bắc.

 Năm đầu tiên đón Xuân nơi chiến trường, dù ăn Tết muộn hơn do hoàn cảnh khi đó nhưng cũng thật vui, chúng tôi cũng nhậu nhẹt say xỉn, cũng chúc tụng lẫn nhau những lời tốt đẹp nhất, chỉ có điều lời chúc ấy chẳng có gì hiệu nghiệm vì sau đó nửa tháng gần 30 thằng không còn ở đơn vị nữa và pháo Tết được thay thế bằng vài loạt AK lên trời, cán bộ C D có quán triệt không bắn bậy trong dịp Tết nhưng khi lính làm ẩu vì nhớ không khí Xuân quê nhà thì cũng lờ phéng đi cho không truy cứu trách nhiệm, để rồi hết 2 ngày Tết lại bước vào trận đánh mới và khi đó thì "pháo Tết" của cả ta và địch trút lên đầu nhau hơn cả pháo giao thừa đêm HN. Những Tết sau này chẳng thằng nào thiết nghe pháo Tết nữa, chẳng sợ súng đạn hay đánh nhau nhưng chán lắm rồi, chán nghe cái âm thanh của "pháo Tết" vì suốt 1 năm dài lúc nào và bất kể ở đâu cũng có thể "đốt pháo" nổ lanh tanh bành nếu gặp địch.

 Lúc đó nếu như có được 1 điều ước thì chắc lính chúng ta chẳng ngần ngại điều gì để xin được về chung vui bên gia đình của mình trong dịp Tết Nguyên đán hàng năm.

Ở những đơn vị khác trên chiến trường K anh em đón Xuân hoặc được chuẩn bị Tết như thế nào thì BY không rõ lắm vì cũng chẳng có điều kiện mà giao lưu tìm hiểu, nhưng ở đơn vị của BY thì từ món ăn "tinh thần" đến vật chất của không khí Tết cũng không đến nỗi tồi theo tiêu chuẩn của lính lúc ấy.

 Sự chuẩn bị Tết đều được bộ phận hậu cần E lo cho anh em khá chu đáo từ nhiều ngày trước, đến gần ngày Tết các đơn vị chỉ việc lên D E nhận về và tự tổ chức Tết với nhau, tất nhiên là sau này chứ cái Tết đầu tiên ở K thì đang còn bận đánh nhau túi bụi nên nghỉ Tết cũng phải là tranh thủ giữa giờ "giải lao" sau những trận đánh. Mỗi C cũng có được cấp phát vài bộ bài tú lơ khơ để anh em "sát phạt" nhau và bôi râu nhọ nồi đầy mặt nhau cho giống nghệ sỹ tuồng, thoải mái "sỉ vả" nhau bằng nhọ nồi bôi thêm mỡ cho nó khó rửa sạch, cũng có vài bộ cờ tướng bằng nhựa với cái bàn cờ bằng giấy in mấy chữ TQ để anh em "bày binh bố trận", cũng túm 5 tụm 3 cũng ỳ xèo cờ ngoài bài trong, cũng người đánh cờ còn suy nghĩ thì ông đứng ngoài chộp cờ mà đánh cứ y như người "trong cuộc".

 Về vật chất thì cũng kha khá của hoàn cảnh khó khăn lúc đó, ở K cũng có rượu cam chanh của nhà máy rượu HN, cũng bia Tiger hiệu con cọp ở SG chuyển sang, cũng thuốc lá Hoa Mai, Đà Lạt, Vàm Cỏ mỗi người 1 2 bao, cũng chè Thái Nguyên chè Cao Nguyên Đà Lạt chia theo cấp B vì mỗi B cũng chỉ 5 6 người. Bữa ăn cuối năm cũng đủ cả các món, măng hầm chân giò, bát miến nấu lòng gà hay thịt nạc, cũng có nem rán, giò thủ, thịt ba dọi áp chảo, rau cải trắng Đà Lạt xào và có thêm đĩa xôi cái bánh chưng gói lá chuối. Lính tráng dưới các B cũng biết lo xa cùng công tác dân vận tốt nên kiểu gì cũng có thêm cái cải thiện bù thêm vào cho Tết thêm phần "hoành tráng", đổi, xin, mua thêm vài lít rượu, khá hơn kiếm con gà cúng giao thừa, nấu thêm nồi chè đỗ. Gặp mùa "Xuân" rực lửa thì sự chuẩn bị Tết càng thêm Xuân, thuốc Samit với 555 của Thái ê hề, vài thằng xúng xính bộ đồ dân sự may đo mà trút bỏ bộ quân phục chiến trận cho không khí Xuân nó mềm mại bớt đi. Nói chung là bữa tất niên và cả ngày mồng 1 Tết bữa ăn của lính khá là "xôm".

 Đêm giao thừa cả C cũng tổ chức sinh hoạt tập thể vui đón Xuân, cũng cành đào được làm từ giấy cho nó có chút không khí, nhưng rách việc nhất là mấy ông CTV hay lấy cái buổi sinh hoạt này làm lễ tổng kết thành tích cả năm của đơn vị, nói dài, nói dai về trách nhiệm và nhiệm vụ của đơn vị suốt 1 năm qua, có lần anh em cáu lên rồi tranh luận thành ra buổi họp chính trị chứ chẳng phải vui đón Xuân. Cuối cùng là tiết mục hái hoa dân chủ, gì chứ cái từ "dân chủ" trong tiết mục này thì BY không hiểu, đại loại là hái hoa giấy trên cành đào và ở đó yêu cầu gì đã được ban tổ chức ghi sẵn trên giấy thì người hái đọc to cho mọi người nghe và thực hiện theo yêu cầu, phần lớn là yêu cầu người hái hoa "dân chủ" hát bài hát đã ghi sẵn tặng cho anh em trong đơn vị mình, chuyện hát hò cho vui thì OK thôi, nhiều người hăng lên hát tặng anh em hết bài này sang bài khác cho không khí Xuân vui vẻ, không có không khí vui lớn như ở trong nước thì tạo niềm vui nho nhỏ với nhau thôi.

 Gần giờ giao thừa thì B nào về B ấy và chờ đón giao thừa với nhau, sẵn chè Tàu thuốc lá đấy cứ pha trà mà "bao la" với nhau, rượu bia đấy lấy ra mà mời nhau, thường anh em để dành "hàng hiếm" ấy tiếp khách, dân VN ta hay lính ta cũng vậy có câu thể hiện lòng hiếu khách "nhịn miệng đãi khách" mà. Sau giao thừa thì qua các B chúc Tết nhau những điều tốt đẹp nhất, lúc ấy những giận dỗi trách móc hay không bằng lòng giữa cá nhân trong đơn vị được gạt bỏ hết, tha thứ cho nhau bằng hết những sai lầm đã qua, lại chung vui lại mày tao chí tớ, cấp C cũng xuống cấp B chúc Tết anh em chứ không có chuyện cấp B lên C chúc Tết đâu nhé. Ngày hôm sau tức 1 Tết thì BCH đại đội cử 1 bộ phận sang các C trong D chúc Tết anh em bên đơn vị bạn, rồi kéo nhau lên D chúc Tết BCH D bộ hay bộ phận trực thuộc D, lính tráng cũng tranh thủ kéo nhau sang các C khác thăm hỏi chúc Tết đồng hương hoặc anh em khác.

 Hết ngày mồng 1 Tết thì coi như hết Tết và thường là có lệnh xuất kích ngay sau đó ít ngày, một năm mới với nhiệm vụ mới cùng những khó khăn ác liệt mới lại đang chờ và Tết năm sau lại vắng dần đi những nét mặt thân quen cũ và bù vào đó là ít khuôn mặt mới còn "ngơ ngác" giữa chiến trường.

Tết năm nay chả đi được đâu hết, Ngày 20 tháng chạp về quê nội tảo mộ, nhậu với mấy ông anh bà con xỉn... về đến nhà thì ngày 22 tháng chạp phát hiện mắt bị thốn có vấn đề gì đó, mặc dù là ngày nghỉ, nhưng cũng nhờ bạn là bác sĩ mắt khám cho, thì ra không phải bị bệnh về mắt mà bị bệnh ZONA (giới leo) thế là đi khám bác sĩ khác, uống thuốc được một lần thì cả cái nặt nó sưng húp  lên, mắt bên phải bịt kín hết không nhìn thấy đường...hu hu... sợ quá lại đi khám BS nữa, Bs bảo bênh nó là vậy đó, điều trị khoảng nửa tháng là hết...trời đất ơi...nghe vợ và người thân nói phải đi KHOÁN ở chùa mới hết, thế là theo vợ đi chùa, mà hay thật qua 3 lần khoàn là mắt lại nhìn thấy đường, nhưng bắt đầu nhức, nhức như búa bổ....đến hôm nay vẫn còn chưa hết, khổ ghê chưa, vậy mà hôm mùng 4 tết mấy thằng lính rủ là đi nhậu luôn, bữa sau về nó hành muốn điên luôn, tới giờ vẫn còn sợ...


Nói về da Trâu hầm thì mình nhớ suốt đời, lúc đó ở Khe Lang (Hà Tĩnh) tụi mình đi kiếm củi ở trong rừng bạch đàn bên kia hồ Khe Lang, tụi mình ngửi thấy mùi hôi....sau d0ó phát hiện ra một bộ da trâu ai đó đã giết thị trâu và bỏ lại bộ da, tuy đã hôi, nhưng Nghé nói cắt một ít đem thui lên là thơm hết, tụi mình làm theo thì đeúng là thơm thật, nhìn miếng da trâu sau thui vàng và căng rất hấp dẫn.... Tụi mình đem về gần đơn vị và lấy thau dựng cơm ra để bắt đầu chế biến, da trâu xắt theo dạng cỡ ngón tay cho vào thau hầm, hầm rất lâu...thử mất lần và cuối cùng là ăn rất tuyệt ... nhắc tới mình vẫn còn thèm....

BU

I SÁNG TRONG LÀNG

Gà vừa cất tiếng gáy sang canh, Dự vội vã bật dậy nhóm bếp nấu ấm nước pha trà, loại trà nát như cám được phân phối theo tem phiếu trên cửa hàng mậu dịch hợp tác xã. Uống loại nước chan chát không mùi vị khiến anh có cảm giác như lúc ở trại Thập hái lá cây rừng sao vàng thay trà. Dẫu sao trà cám vẫn hơn nước đun sôi và nước đun sôi vẫn hơn loại lá rừng đắng chát. Với lại, thời buổi này không thể tìm đâu ra thứ trà ướp ngâu, ướp sen… mà có thì cũng không có tiền mua. Cái gì cũng có thể trở thành thói quen, anh thầm nghĩ và uống cạn bình trà trước khi đứng dậy ra tháo cổng chuồng.

       

Lúc lùa đôi bò ra ngõ, vợ Dự vừa kịp lóp ngóp ngồi dậy, hỏi nhóng theo:

       

-Sáng nay anh ăn ghé khoai lang hay mì?

       

Dự nhổ phẹt bãi nước bọt xuống nền đất, xoay cây cày sang vai phải, từ bìa sân gạch nói với:

       

-Phở Pasteur! – Dự nói như lệnh của ông đại đội trưởng ngày nào: “Hàng ngang, tiến!”. Phở Pasteur là tiếng lóng chỉ hai vợ chồng anh hiểu. Đó là những sợi bột sắn mì như con bún gạo, vợ anh tự chế biến, trộn chút muối hầm, đường đen, hành lá và ít mỡ heo mang hấp chín. Ăn thứ này đỡ ngán hơn nấu chay, trộn dúm gạo ghé. Những lúc bưng chén mì đưa lên mũi, mùi thơm xông lên sực nức khiến Dự nhớ những ngày về thủ đô dự lớp tu huấn, được thằng bạn bên cầu chữ Y dẫn ăn phở Pasteur. Lần đầu tiên Dự ăn món phở mà cứ ngỡ như mình là ông hoàng bà chúa. Nó ngon đến nỗi dưới đáy tô không còn sót lại chút gì, và nếu như không có thằng bạn, Dự sẽ vào một quán khác gần đấy kêu liền hai tô. Những ngày học sình lầy ở Dục Mỹ, đôi giày bị nhấn lút trong lớp bùn nhão, Dự cứ ngỡ như mình đang bơi trong tô phở Pasteur hôm nào!

       

-Nhà hết mỡ. Hay để tôi ghé khoai lang vậy?

       

-Gì cũng xong – Dự vọng lại từ cánh cổng gỗ.

       

Đôi bò theo thói quen, ra khỏi ngõ rẽ qua truông trái, chậm rãi bước thẳng ra đồng. Cây cày trên vai bị trở vai liên tục, vì hồi nào tới giờ anh có biết cày cuốc là gì. Học chưa hết năm đệ Tam tới tuổi quân dịch, đánh nhau suốt từ năm này sang tháng khác cho đến lúc bị gán cho tội cầm súng đế quốc chống lại nhân dân. Cái tội tày đình đó phải học tập cải tạo như bao nhiêu người khác cùng cảnh ngộ đến gần hai năm. Hai năm theo đúng nghĩa của người tù khổ sai để cuối cùng cầm mảnh giấy rơm vàng ố quay về trình diện địa phương. Như vậy kể cũng may mắn: Đạn bom chưa giết chết Dự. Bệnh tật, đói khát, sơn lam chướng khí… trên rừng núi không vật ngã được anh. Dự vẫn sống nhăn răng để trở về và chịu đựng tiếp những khổ nạn của thân phận thằng ngụy quân cầm súng bắn phá cách mạng, chống lại nhân dân…

       

Cây cày đè nghiến trên vai. Màn đêm lờ mờ. Cây cày bị xoay trở liên tục. Lúc ngang qua xóm Gòn, lũ chó chạy ra thọc mõm qua bờ rào sủa như muốn xé rách màn đêm. Cả một đàn chó trong xóm cùng gào lên như thể Dự là quân trộm cắp, là bóng ma đang lởn vởn trong làng. Ra tới chòi canh đầu xóm, người du kích quấn chiếc mền thu lu quanh cổ, đang bập bập điếu thuốc chỉ thấy đốm lửa đỏ như que nhang, quẹt đèn pin thành vệt dài một lượt, hỏi:

       

-Cày sớm anh Hai?

       

-Cày sớm về nghỉ cho khỏe.

       

-Ngồi hút điếu thuốc đã.

       

-Cảm ơn, để tranh thủ cày cho xong còn làm chuyện khác - nói và Dự thúc đôi bò bước nhanh.

       

Bóng đêm vẫn còn đậm đặc, tiệp với màu cây cối hai bên đường. Tiếng chó sủa thôi rát nhưng tiếng gà gáy thì bắt đầu rộ lên. Cũng tiếng gà ấy, nhưng ngày trước nghe giục giã, còn giờ thì nghe mỏi mòn, eo óc, giống tiếng kẻng lệnh treo giữa xóm, trên cây duối, điều khiển mọi hoạt động của đám người trong làng.

Đôi bò lầm lũi bước. Dự lầm lũi bám theo chúng. Đôi bò, nay trở thành vị cứu tinh của cả nhà. Dự áng chừng cũng gần bốn giờ sáng. Bốn giờ bắt đầu mắc bò vào quải, bắt đầu đánh rõng, cày đến khi mặt trời gát qua khỏi đọt tre cũng gần mười giờ. Mười giờ mở bò, mở trước lúc tiếng kẻng lệnh vang lên chói tai. Thời gian lúc này đối với Dự (và cả dân làng) không còn có thể nhìn vào chiếc kim nhỏ chạy vòng tròn trên mặt số nữa rồi. Tiếng gà gáy và mặt trời đã thay thế vị trí của nó, bởi những chiếc đồng hồ đã bị chiếc kẻng treo lủng lẳng trên cây duối choáng chỗ, được đem bán cho mấy ông cán bộ chi viện, tập kết thèm thuồng. Bán để mua thêm vài mươi cân lúa dự phòng. Có đồng hồ trong nhà mà cái bụng tóp teo phỏng ích gì, ai cũng nghĩ vậy.

       

Mắc được đôi bò vào quải, Dự đã nghe rõ mồm một tiếng lội bì bõm trong đám ruộng bên. Té ra cha con Hương Bổn còn ra đồng sớm hơn. Dự tằng hắng:

       

-Bữa nay nữa xong chưa đó?

       

Tiếng Hương Bổn từ xa:

       

-Chưa. Còn gần hai sào nữa.

-Tôi ráng bữa nay là gát cày.

 -Mửng này đói vẫn hoàn đói, chưa chết là may - tiếng Hương Bổn lầu bầu không ăn nhập gì tới sự quan tâm cày nhanh chậm.

 Dự nghe mà không trả lời, cầm chui cày, nhịp roi lên mông đôi bò. Cả ba dựa vào nhau bước tới. Bước tới để hít mùi bùn đất dậy lên gây gây trong buổi sáng tinh mơ. Tiếng chân bò thả bì bõm trong nước. Đôi chân anh cũng thả bì bõm trong màn nước ngậm bóng đêm lạnh ngắt. Thỉnh thoảng những bước chân bước hụt xuống lỗ đất hẹp thấp làm nước ruộng bắt vọt lên mặt, giống như cái tát của ngọn roi mưa. Nhưng cái lạnh ấy khiến anh cảm thấy có chút yên ổn rằng mình đang còn cử động, hơi thở vẫn còn thụt ra vào hai lỗ mũi, tim vẫn còn đập, dẫu biết rằng nó sẽ tắt nghẽn bất kỳ lúc nào.

Lưỡi cày găm vào đất, xới lên thành vồng tỏa ra thứ mùi thơm nồng đặc biệt. Đó là mùi bùn đất lưu cửu tổ tiên để lại cho con cháu bằng cả mồ hôi, nước mắt và máu và xương. Cái mùi ấy đã thấm sâu vào da thịt dân làng này. Họ biết vậy. Biết và hàm ơn nên ông bà lớp trước mới xây một ngôi đình khang trang để thờ người mở đất…

Đó là ngôi đình thờ thành hoàng. Ngôi đình rộng mênh mông từ bao đời, bỗng nhiên, chỉ trong một buổi sáng, nó biến thành nơi hội họp của hợp tác xã theo lệnh của ai đó ở trên. Họ nói thờ cúng là mê tín dị đoan. Với lại đất đai là của nhà nước, của nhân dân chớ không của riêng một kẻ nào, không có ông thành hoàng nào mở đất cả!

Lệnh rớt xuống như lưỡi dao bén chém ngang thân chuối. Cái lệnh ấy khiến đám thanh niên lóc chóc hò la xông vào, gỡ những tấm nghi khậu, liễng đôi ném xuống đất như thể chúng đang đánh nhau với kẻ thù. Đám khác chia nhau ôm cờ phướn, đèn thờ, trống, phèn la… vất vào gian lẫm phía sau chái. Vật tế tự, từ khí đồng thau, nằm vương vãi, lăn lóc như xác địch quân sau trận ác chiến. Máu không chảy thành vũng, nhưng những mạng nhện lòng thòng có vẻ như những mảnh tim gan phèo phổi của tổ tiên rớt ra từ những vật tế tự kia. Phút chốc ngôi đình trống hoác, như ngôi miếu hoang phế. Bức hoành phi với mấy chữ đại tự sơn son thếp vàng, mới đây còn uy nghiêm trên thanh xà gian giữa, giờ nằm chổng chơ trên nền đất lạnh. Chất nhiệt tình cách mạng đã nghiến nát tâm linh. Người chết và kẻ sống đã phân đôi, nhìn nhau qua những thứ vung vãi dưới nền như thể chết thêm lần nữa!

Dự đi ngang qua, tình cờ cong người nhìn vào và chợt thấy, rùng mình như hồi nhỏ từng chứng kiến cảnh tiêu thổ kháng chiến. Anh gạt những giọt mồ hôi lấm tấm trên trán và những giọt nước mắt chực trào ra, quay lui về phía kiệt tre và đụng mặt ngay cô Lại đang nhởn nhơ bước tới, người bạn chận bò thuở thiếu thời.

Lại cười khẩy, rít lên:

“Anh tiếc mấy thứ giẻ rách kia hả, cứ vào lấy mang về nhà. Tôi cho đấy!”

Dự liếc mắt nhìn cô, nghĩ thầm: Không ngờ con Lại của mười mấy năm về trước nay thay đổi thiệt nhanh chóng. Cô lạnh lùng, tàn nhẫn… vụt bay ra từ cái nhìn nhọn sắc và hàm răng khít rin, thù hận. Dự suy nghĩ mãi, không hiểu tại sao cô lại làm như vậy? Một đứa con gái như bao cô gái khác trong làng, cần mẫn với ruộng vườn, bếp núc; cũng cười đùa hể hả với đám bạn mỗi khi có dịp đùm túm với nhau. Vậy nhưng sau cái đêm cô biến mất khỏi làng, “sau một thời gian dài không tung tích, nó đột ngột quay về trong đêm, tập hợp dân làng hô hào nổi lên diệt ác ôn đánh Mỹ cứu nước - Cha Dự chậm rãi cất giọng lào khào kể lại - Nó răng đe mọi người sẽ bị xử trị đích đáng nếu tiếp tay cho địch. Nói xong nó bắn một phát súng thị uy rồi biến mất trong đêm tối một cách đột ngột như lúc đến”. Giờ thì Lại quay về, lãnh đạo cả xã, cả làng phá sạch những thứ mà Lại gọi là tàn dư, là rác rưởi của đế quốc và tay sai để lại. Mấy ngôi miễu thờ cô hồn là nạn nhân đầu tiên; ngôi chùa nhỏ cuối làng cũng không thoát khỏi số phận hẩm hiu… Rồi nay tiếp đến ngôi đình này. Không biết cô còn nghĩ ra những gì khác nữa để tiếp tục đập phá cho hả lòng căm thù?

Những khi cô ra lệnh như vậy, Dự tự hỏi, có giây phút bất chợt nào đó, Lại nhớ về cái đêm trăng non sang tiết lập thu? Đêm mà cô háo hức xô ngã Dự lọt qua bờ rào chiêm chiêm, phóng theo đè lên người Dự. Mảng da thịt âm ấm của cô gái mười bảy phủ chụp lên khắp người thằng nhóc con là Dự đang bước vào tuổi dậy thì, khiến nó run rẩy với những khoái cảm sững sờ. Ánh trăng không đủ sáng, nhưng Dự nhớ như in màu trắng trên thân thể nó cùng món tóc đen trùm kín mặt Dự. Lại sờ soạn, bấu riết, hôn lên mặt mũi, lột truồng nó ra. Mọi thứ diễn ra thật nhanh, giống như lúc Dự bất ngờ bị xô ngã qua hàng rào chiêm chiêm. Dự không còn thấy màu sáng của trăng của da thịt đứa con gái, nhưng Lại đã thành thạo biến một thằng nhóc thành đàn ông khi mới mười ba! Đêm trăng non trong tiết lập thu vĩnh viễn để lại trên người Dự vết sẹo của nỗi hoang mang, sợ hãi cuộn tròn lại như những đợt sóng lớn nhỏ đập mãi vào bờ đá. Những ngày đi lính, gặp phụ nữ Dự sợ còn hơn đang lúc đánh trận. Đêm đầu tiên gần vợ, Dự cong người lại y như lúc ngã qua bờ rào. Nỗi sợ hãi chập chờn trôi nổi bềnh bồng như túm rác trôi trên con kênh đen quánh… Lại, dưới con mắt Dự là hiện thân của những tội lỗi rực rỡ chồng chất thành những vệt lân tinh trong khu rừng ẩm ướt mỗi lúc hành quân, trên chiếc giường tre có cô vợ bé nhỏ nằm bên cạnh và ngay cả khi thả chân xuống mặt ruộng trắng nước. Tiếng bước chân của chính Dự vang lên bì bọp, òn ọt khiến Dự luôn có những cái rùng mình bất ngờ…

Dự vãi mồ hôi giữa buổi tinh mơ lạnh ngắt.

Đôi bò thong thả kéo chiếc lưỡi sắt nhọn lật tung những dề đất phía dưới, còn Dự thì miên man suy nghĩ xa gần trên chuôi cày. Ba sinh linh bé nhỏ giữa đất trời cao rộng này bơi vòng vòng quanh đám ruộng hợp tác xã, giống con vịt bơi trong ao tù.

 Cày đâu hơn hai rõng đất thì trời sáng rõ. Lát sau cu Lớn lơn tơn xách giỏ cơm đặt trên bờ ruộng gọi lớn: “Cha ăn cơm con về đi học!”. Dự ngoái lại nhìn thằng con ốm nhách, cao như cây sậy, trong lòng gợn lên nỗi cồn cào không hình dạng. Hồi nhỏ, anh có đâu như vầy. “Ừa, để đó”. Dự la lớn và hình như tiếng la đó rớt cái tõm xuống ruộng nước. Cu Lớn đã lên tới bờ mòn, cắm cúi bước thật nhanh về phía làng.

Dự cày giáp vòng, đến gần phía bờ đặt rổ cơm, anh dừng lại, rút náp cho lưỡi cày găm sâu xuống đất (giống như người ta thắng xe) hô “dọ, dọ…” để đôi bò dừng lại rồi gát roi lên bắp cày, thủng thỉnh bước lên bờ.

-Anh Năm ơi - Dự kêu lớn - nghỉ vào ăn cơm cái đã.

-Ăn đi. Tôi ăn cơm nguội ở nhà rồi.

-Thì nghỉ uống nước cái đã. Xong sớm tôi qua cày giúp anh mấy đường - Dự nói cho có nói chứ trong bụng biết tỏng Hương Bổn chưa có hột cơm nào trong bụng. Mấy tháng nay vợ bệnh, con đau số lúa dự trử cứ vơi dần, lấy đâu cơm sáng cho ông đi cày? Đến viên thuốc cũng không có, thay vào là những viên Xuyên Tâm Liên từ hiệu thuốc nhân dân đắng ngắt trị bá bệnh thì bệnh nào qua khỏi, sao có thể phục hồi sức lực!

Hương Bổn dừng bò, kẹp chiếc roi cày vào nách bước về chỗ Dự đang ngồi.

-Cái đời tôi – Hương Bổn khọt khọt trong cổ họng để đẩy cục đờm vướng víu đâu đó, khạc ra, nhổ phẹt xuống mặt nước ruộng - lúc nào cũng đen đủi, bắt thăm trúng đôi bò cày của con mẹ Chánh ốm nhách, giống như đồ ho lao, thúc mấy cũng không mập lên. Người ta cày cả sào thì nó lê lếch chưa được phân nửa. Mẹ đời, tôi muốn trả lại cho hợp tác quá trời, ngặt nỗi trả lại thì lấy gì mà sống đây. Đã bị phân vào tổ cày bừa rồi. Còn phần ruộng chú thấy đó, nó là cái ao thì đúng hơn, phải bơi để cấy…

Dự nghe giọng nói hùn hụt gần như đứt hơi, cảm thấy chạnh lòng:

-Anh Năm, kệ mẹ đời, anh ăn chút cơm rồi hẵng cày. Chòm xóm với nhau anh khách khí làm gì.

-Tôi đã nói, ăn rồi. Chú biết tánh tôi mà?

Nói dứt câu, Hương Bổn thở phì phì như chính ông kéo cây cày nặng trình trịch thay đôi bò và tiếp tục bơi trong đám ruộng ao của mình.

-Thôi anh, để hôm nào họp tổ, anh em xúm nhau đưa đơn xin đổi đôi khác cho anh.

-Đổi ai? Đâu có đôi nào “rề dẹt” mà đổi. Thiệt ngán. Tôi muốn giao lại, nhưng nhìn đàn con lít nhít thấy không nỡ. Mẹ đời. Cách với chả mạng. Trước tôi đâu đến nỗi khổ vầy. Bao nhiêu ruộng vườn ép vào hết hợp tác, thành của người khác, của nhân dân, mình trắng tay. Mẹ cứt, nhân dân là cặc đách gì không biết nữa!

-Thôi đi anh Năm ơi. Đại nạn là chung cho cả bầy người lúc nhúc, đâu riêng gì anh em mình? Hè, làm chén cơm cho nóng rồi xuống cày tiếp – Dự nói, liền tay xới chén cơm ghé sắn mì, nâng lên đưa cho ông bạn già.

Hương Bổn xua tay:

-Ăn rồi. Cơm nguội từ hôm qua cứng như sạn cũng cố mà nuốt. Chú mày ăn đi, tao uống miếng nước, không thấy đói. 

Nói và ông giở ấm chén rót ra uống đánh ực một hơi rồi lần vô túi áo rút gói thuốc rê ra vấn. Điếu thuốc to bằng ngón tay cái quấn bằng giấy vở học trò tách đôi ra như người ta lóc phần da và thịt con cá lóc. Hương Bổn kẹp điếu thuốc lấm lem mực viết. Điếu thuốc cứ rung rung giữa hai ngón tay như chính nó đang lên cơn sốt.

Dự chần chừ một lúc mới giở trật tấm lá chuối đậy trên rổ cơm vừa ái ngại nhìn người hàng xóm, cảm thấy như mình là kẻ có tội với cha con Hương Bổn. Dự biết là ông chưa có hột nào trong bụng, nhưng nài ép thêm chút nữa có nghĩa là làm nhục ông ta, bèn dùng tay nhón lấy chút cơm lẫn trong những miếng sắn mì, vón thành cục nhỏ chấm muối é cho vào miệng, nhai nhỏn nhẻm. Dự nhìn chén cơm trên lớp cỏ lấm bùn, phần dành cho Hương Bổn, chạnh lòng. Dự không còn lòng dạ nào ngồi ăn vừa nhìn Hương Bổn khốn khổ, râu tua tủa, ốm nhách. Mà, Dự cũng không hơn gì ông hàng xóm, có điều đỡ gánh nặng gia đình, chỉ phải nuôi đứa con duy nhất. Vợ Dự còn khỏe, vào tổ đan đát, mỗi ngày kiếm cũng vài trăm gam lúa. Cả hai chắt mót, tùng tiệm cũng đủ xoay xở. Chỉ tội Hương Bổn. Con đông quá, cả hai vợ chồng vật lộn với ruộng đồng cũng không đủ miếng ăn.

Dự đậy tấm lá chuối lại, hỏi xin điếu thuốc. Hương Bổn ngó sững Dự:

-Sao không ăn. Chú tội nghiệp tôi hả?

-Dạ không, anh Năm. Tự dưng hết muốn nuốt. Làm ăn kiểu này đến lụn bại mất. Anh nhớ mùa rồi, tụi thằng Cạnh thằng Sang giấu lúa hột kéo về nhà? Chúng nó là đội trưởng, đội phó đấy. Lại nghe nói tay chủ nhiệm và tay thủ kho tuồn mấy tấn ra chợ đen. Bị bể ổ, nhưng chúng tự biết dán miệng nhau thành ra êm xuôi. Chẳng ai làm gì chúng, cũng chẳng có thằng xã viên nào dám hó hé. Đấy, mẫu hình hợp tác xã nông nghiệp đấy!

-Ậy, mình mà xỏ miệng vô thì trước sau cũng bị gán phản động.

-Tôi vẫn ức vụ ngôi đình.

-Ức thì chú làm được gì?

-Đúng là không làm được gì. Nhưng cái mặt con Lại đấy, từ đất nẻ chui lên chắc?

-Tôi biết nó thù chú mà? Mấy lần chú giải thích nhưng nó đâu có nghe, phải không?

Nghe mấy tiếng “nó thù chú”, tự dưng người Dự nóng ran lên vì xấu hổ, ngỡ như trong đêm trăng non lờ mờ kia, Hương Bổn đứng ngay sau lưng và đã nhìn thấy, đã hiểu tất cả. Ngập ngừng lúc lâu, Dự mới lên tiếng:

-Giải thích gì anh ơi. Tôi chỉ nói là nếu cần hung thì dọn dẹp đồ thờ tự sang một góc để làm tạm hội trường, chớ có đập phá, tội. Kẻ hậu sinh cũng phải nhớ công lao người đi trước. Tôi nói chỉ có vậy mà cổ kêu tôi là kẻ phá hoại. Anh coi có oan tôi không?

Hương Bổn kéo một hơi thuốc thật dài, phà khói bay thành mảng trắng mờ mặt nước:

-Chuyện dâu biển, nay dời mai đổi, biết đâu mà lường, chú ơi.

Hai người chuyện vãn một lát rồi đứng lên, trở lại cầm chuôi cày.

Những dề đất lật qua một bên láng tưng như thoa một lớp mỡ. Những con sáo nâu, cò xám sà tới tranh nhau những con trùn nước, cắn mổ la chí chóe. Chúng đậu thật gần, chỉ cần hươ củ roi là đụng ngay, có một bữa “cải thiện” cho cả nhà; nhưng Dự không làm vậy. Nó cũng đang tìm miếng ăn như bọn anh mà. Chúng chẳng đụng chạm, cắn mổ, phá phách mình thì mắc mớ chi đập chúng? Không hẳn anh từ tâm, tu hành gì ráo, chỉ có điều, cái sự kiếm ăn của chúng sao giống như bọn người như anh và Hương Bổn lúc này, nên không nỡ xuống tay! Suy nghĩ miên man một lúc khiến anh mệt nhoài và không để ý gì đến lũ cò sáo, cắm cúi cầm chắc chuôi cày, cốt cho thật nhanh để ngày mai theo bọn thằng Xanh lên núi hái ít gánh củi về dự trử cho mùa mưa bão sắp tới. Cày bừa xong giao đất cho tổ gieo sạ coi như yên một bề, tìm thêm chuyện mà làm, đâu có thể nằm chờ mấy công điểm mọn?

Nắng lên cao, thu ngắn bóng người cày và đôi bò về một phía. Còn một rõng nhỏ nữa là xong, có thể qua bên Hương Bổn cày giúp ông ta vài đường, nhưng tiếng ví thá bên kia ruộng sao nghe cứ nhỏ dần, bước chân và đường cày như một dòng nước yếu bị cản lại không thành tiếng lõm bõm như lúc trước. Dự ngó qua. Đôi bò chệnh choạng dựa vào bắp cày bước thật chậm. Hình như cả Hương Bổn không phải bước chậm nữa mà đu bám lên chui cày trượt theo. Dự La lên:

-Anh Năm mệt lên bờ ngồi nghỉ. Tôi cũng sắp xong. Để đó tôi qua cày giúp cho.

Tiếng Dự bay đâu đó trên không, không thấu tai Hương Bổn. Hình như ông ta đuối hung rồi. Dự “dọ” bò dừng lại, bước dài như chạy về phía đám ruộng Hương Bổn đang cày, nhưng chưa tới bờ đã thấy ông khụy xuống, tay vẫn nắm chặt chuôi cày làm cho nó nghiêng hẳn về một bên.

Dự hớt hải la lên:

-Anh Năm, anh Năm… làm sao vậy? Có bị sao không?

Lúc Dự tới nơi thì Hương Bổn ngồi khụy xuống ruộng nước, mặt tái xanh. Dự luồn hai tay qua nách đỡ ông đứng lên:

-Anh có sao không?

Hương Bổn không mở được miệng chỉ lắc lắc đầu, nhưng cái lắc rất yếu. Dự hiểu tất cả. Ông bị lũi đói. Từng ấy miếng cơm độn ít ỏi từ chiều qua thì còn sức đâu để cày với bừa? Dự khom người thấp xuống quàng tay Hương Bổn lên vai rồi du dần vào bờ, đặt nằm trên lớp cỏ lởm chởm. Dự lấy chiếc nón ngựa kê đầu, rót nước ra chén và vạch miệng đổ từng hớp nhỏ:

-Ít thôi nghe anh Năm, từ từ. Mà anh cũng thiệt lạ. Chòm xóm với nhau, ăn chút cơm ghé có gì là ghê gớm? Tôi biết bụng anh trống nhưng không dám nài ép sợ anh giận. Thôi, cứ nằm nghỉ cho khỏe rồi mở bò. Tôi cũng mở. Mai tôi ra quanh mấy đường xong ngay. Chớ lo, anh Năm.

Nhưng Dự nói cho chính tai mình nghe vì đôi mắt hương Bổn đã nhắm nghiền, bên khóe ứa ra chút nước sền sệt. Ông không còn nghe và thấy gì nữa. Dự hoảng hốt thọc tay vào ngực người bạn cày hàng xóm, lạnh ngắt. Dự bàng hoàng, khóc ồ lên như nỗi uất ức lúc bị đẩy qua bờ rào chiêm chiêm, đè nén lại thành cục u nhỏ đầy gai nhọn, bấy lâu nay có dịp vỡ bung ra.

Hai đôi bò vẫn đứng yên tại chỗ. Bóng nắng thu tròn, nhỏ lại quanh hai người.

Đồng nước trắng xoá, những người cày đồng thấp thoáng phía xa và lũ chim cò vẫn tranh nhau cắn mổ chí choé. Buổi sáng như đứng lại. Nó đứng lại bởi chưa có tiếng kẻng lệnh hợp tác xã. Nhìn từ xa, có vẻ như hai người đang to nhỏ chuyện miếng ăn.

Tương và... giò heo!

Cập nhật lúc08:09, Thứ Hai, 02/01/2012 (GMT+7)

Món ăn Việt quyết không cầu kỳ. Nhưng không vì thế mà tuy rất giản dị, thỉnh thoảng vẫn xuất hiện những món ăn rất lạ, làm phong phú thêm khái niệm ngon, làm người ăn tròn xoe mắt trước sự sáng tạo tài tình của người đứng bếp!

Ngày ấy, không biết bằng cách nào, cứ Tết Nguyên đán bà cụ nhà hàng xóm của tôi ở Hà Nội lại đụng hai con heo, mỗi con heo cỏ đâu chừng dăm chục ký. Hàng xóm láng giềng, tổ dân phố không ai một lời thắc mắc. Chia chác, biếu người này ký thịt người kia ký mỡ, người nọ bộ lòng… gì cũng được, nhưng tám cái chân giò thì bà cụ nhất định giữ lại…

Là vì chum tương bà cụ tự tay làm vào mùa hè đã ngấu. Nếp thì nếp cái hoa vàng, đậu tương thì đậu tương leo nhỏ hạt. Nếp nấu xôi còn nguyên hạt sau khi ủ cho một màu vàng óng. Đậu tương rang trong cát chín đều và tróc vỏ đem ngâm đúng bảy ngày. Nước thì nước mưa, lại thêm một loại men gì đấy nghe nói gia truyền bí truyền. Được nắng, chum tương của bà cụ sẵn sàng thách đố những chum tương Bần Yên Nhân hay Cự Đà. Nhưng…

Nhưng bà cụ bắc nồi luộc tám cái giò heo. Giò chín, nồi nước đang vẫn sôi sùng sục thì bà cụ vớt cả tám cái chân giò còn nóng sôi bỏ vào chum tương. Và…

Và ngày nối ngày đêm nối đêm, đêm gọi ngày ngày đợi đêm, tương đợi giò giò đợi tương. Đúng bốn tháng sau, không thiếu không dư một ngày, bà cụ mở chum tương vớt tám cái giò heo ra… Tôi may mắn là đứa trẻ con được bà cụ thương như cháu ruột. Tôi may mắn được bà cụ gọi, bảo ngồi ngay ngắn trước một cái chân giò ngâm tương, bảo cứ từ từ mà thưởng thức, bảo đời còn dài đi đâu mà vội!... Tôi không đủ chữ để có thể tả cái miếng chân giò ngâm tương bà cụ hiền lành ngồi nhìn tôi ăn. Cái miếng chân giò ấy nó gây cho tôi một chấn động, hằn sâu vào cuộc đời tôi. Cứ mỗi cái Tết nhìn vợ tôi luộc thịt heo ngâm nước mắm tôi lại nhớ mồn một miếng chân giò ngâm tương ngày xưa. Nhưng chân giò chỉ là một nửa câu chuyện. Cái chén tương mới là thần thoại. Chả hiểu tương tác với nhau thế nào mà cái chén tương từ chum tương ngâm chân giò luộc ấy nó thơm nó ngọt, nó đình đám, nó khiến mình cứ lịm người, cứ phải mang nó đi suốt cuộc đời!

Súc Hỷ

gồi trên chiếc ghế dài trước cửa, Súc Hỷ lặng lẽ ngắm dòng người vào chợ. Khí lạnh phả xuống từ vách núi khiến lão co ro trong chiếc áo bông xanh như con tê tê cuộn mình.


    


    Quá chín giờ mà nắng non chưa chịu ló. Thời trẻ rét hơn thế lão còn lặn sông Qui bắt cá. Nhắc đến lại tiếc. Nhanh quá thế! Tết này nữa đã bảy mươi mốt xuân qua.


    


    Súc Hỷ là người duy nhất ở đất này còn ít chữ nôm Tày. Vì thế phần nào lão được nể trọng. Ba ngày tết trong bộ quần áo rách như gã ăn mày, lão tự nguyện "khai vài xuân" cho mọi nhà. Những ngày đó thấy lão, dân Cổ Lâu đều tỏ mặt cung kính.


    


    Có điều lão hơi buồn, ngôi nhà chỉ còn mình lão ở. Vợ lão đã theo tổ tiên lên đường trời từ cách đây hơn mười năm. Cũng ngần ấy năm thằng con trai đưa vợ con vào Tây nguyên làm ăn. Mấy lần nó ngồi xe ra đón nhưng lão không chuyển. Lão bảo, sống đâu quen đấy. Lão còn hạ một câu "ở đâu mà chẳng chết một lần". Thằng con nghe thế đành lui. Từ đấy nó ít về. Dù pa không nói nhưng nó biết, lão không chịu bỏ đất này vì còn nặng lòng tri kỷ. Chẳng phải mình nó, còn người nữa cũng biết, lão là Chương Chảo.


    


    Nói hổ gặp hổ. Chương Chảo kia! Lão xách chiếc lồng tre dài, trong nhốt con gà trống lông đỏ. Súc Hỷ định lờ, Chương Chảo nhanh miệng hơn:


    - Vui gì mà tự cười thế Súc Hỷ?


    Cái thằng này sinh cùng năm đấy. Nó cũng là người Nùng nhưng mở miệng lại giống đứa Tày, đứa Kinh ở Cổ Lâu. Thúc, bá gì với nhau mà súc... súc? Bụng không ưa nhưng lão vẫn tỏ mặt thản nhiên:


    - Chương Chảo, mày đi sắm tết muộn thế?


    - Đồng tiền bé phải đi chợ cuối năm, may thì vớ được của rẻ, nhưng mua lại bị đắt, tiếc đồng tiền lắm.


    Súc Hỷ rút tay ra khỏi ống tay áo bông, xoa xoa vào nhau, lão khẽ hạ giọng:


    - Mày mua cáy tắc (gà nhỏ mồ côi) đi tái còn kêu đắt sao?


    Chương Chảo không đỏ mặt, lão nhấc lồng dứ về phía Súc Hỷ:


    - Thử cân xem, không đủ ba ki lù, cho mày ngay.


    - Việc gì phải cân, cáy tắc cho con trẻ nuôi chơi chứ ai ăn?


    Chương Chảo đột nhiên xuống giọng:


    - Cái mồm mọc gai của mày, chỉ được nói hôm nay thôi đấy. Sớm mai khai vài xuân, nhớ chọn lời hay, lời đẹp để cả năm tao gặp may.


    


    Phải như mọi lần bị Súc Hỷ chọc tức, Chương Chảo đã nhổ bọt bỏ đi, nhưng mai mùng một tết, lão xuống giọng vì không muốn nhà mình duy nhất ở Cổ Lâu, không được Súc Hỷ đến khai vài xuân, dán giấy đỏ lên cánh cửa, cầu phúc, cầu an cho cả năm. Cái mặt Súc Hỷ kìa, gì mà đắc ý thế? Ghét quá. Nuốt khó chịu xuống ruột, Chương Chảo cười, hở cái miệng chỉ còn hàm răng dưới. Lão quay bước về nhà.


    


    Biết Chương Chảo chỉ giả cười. Súc Hỷ chợt ân hận. Nhưng lão nói cho vui miệng thôi mà, đừng nghĩ quá thế! Chuyện cũ như gỗ mục trong rừng, lão đã không nghĩ đến từ lâu.


    


    Tết về trẻ vui, già buồn vu vơ. Ngồi đây ngắm chợ, lão thấy người mỗi lúc một vợi. Giá ngày ba mươi dài hơn, cho người ta nấn ná với năm cũ thêm chút nữa, có tiếng cười, nói trong ba cái nhà dài, cột gỗ tròn, ngói bám rêu đen trong lòng lão nỗi quạnh hiu cũng dịu phần nào.


    


    Sao giờ này Dinh vẫn chưa đến nhỉ? Nhớ hương vị pẻng mẻ quá! Tết đến phố Cổ Lâu nhà nhà đều làm pẻng mẻ, nhưng không ai làm ngon hơn Dinh. Chỉ dăm bát gạo nếp hạt tròn, nửa bát tro rơm nếp, trộn đều, xoa kỹ, Dinh đã gói được hai chiếc bánh chưng lưng còng không nhân, đen nhức, ứa nhựa thơm đến tứa nước bọt. Năm nào biếu lão đôi bánh, bà đều đến vào giờ này. Biếu rồi lại dặn - "Đặt trên bàn thờ mỗi bên một chiếc, nhớ hết tết mới được bóc ăn đấy!". "Làm như tôi không biết gì ấy!". "Thì cứ nhắc thế, nhỡ quên ăn trước mất lộc cả năm". Bà tủm tỉm cười.


    


    Súc Hỷ thở dài, miệng, mũi phả ra luồng hơi trắng mỏng. Mình già từ khi nào nhỉ? Đời người qua nhanh như mùa cốm tháng mười. Còn nhớ, ngày đó không lấy được Dinh vì có đứa loan tin xấu. Cái đứa ấy hẳn hoi nó biết Hỷ dắt ngựa sang Bảo Lạc thu mua củ voòng chinh về để hoàn thuốc bán. Trên đường bị phỉ chặn cướp phải trốn vào rừng, ở với người lô lô Cốc pàng. Nửa năm sau mới về được đến nhà. Thế mà đứa xấu miệng đặt chuyện, chính nó thấy Hỷ trong đám thổ phỉ Mã Lình, tiên phong cướp dữ bên châu Hạ lang. Chính quyền bắt Hỷ lên tra hỏi. Chẳng chứng cứ buộc tội đành thả Hỷ về. Nhưng tên lão bị gạch đít đánh dấu "thảo khấu chưa thành". Năm đó Hỷ chưa đến hai mươi. Chuyện không thành sấm sét cũng đủ hoá mưa bão bẻ gãy cây rừng. Pa me Dinh vội treo ngay chiếc bén, bết chữ vôi "cấm Hỷ nhập", liền tay đồng ý cho một anh bộ đội làm con rể.


    


    Đêm cưới Dinh, Hỷ đến áp tai vào vách. Nghe Dinh khóc gọi tên mình, Hỷ bắc thang leo lên mái, lật ngói nhảy vào buồng. Định buộc Dinh vào lưng cướp đi, nhà gái phát hiện, tóm cổ đánh cho Hỷ một trận nhừ tử. Họ còn cho người lấy nhọ chảo, trộn mỡ lợn bôi vào mặt, trông lem luốc như mặt chó mực, rồi đá đít tống ra cửa.


    


    Nhục nhã ê chề. Hỷ bước vào đền Phja phủ. Định bụng chui vào dưới bệ thờ, nằm chờ rắn mọc mào bò ra, cắn cho một nhát chết tươi. Đang mò mẫm, đầu bỗng đụng phải chiếc chuông đồng to như chiếc thùng gỗ gánh nước treo ngược. Đau đến xa xẩm mặt mày, Hỷ nổi cáu, vớ hòn đá đánh liên hồi vào chuông. Cổ Lâu tuy là vùng mới giải phóng, nhưng vẫn đang thời kháng chiến. Tưởng báo động có tàu bay Pháp đến ỉa bom, dân phố náo loạn, người đang dự đám cưới cũng co cẳng chạy vào hang. Sướng tai quá! Cứ thế này đánh đến sáng cũng không chán tay. Có nhiều tiếng chân huỳnh huỵch chạy đến, tay súng, tay dao, cả đuốc nữa sáng rực một góc trời. Đang còn u mê trong âm thanh inh inh, oong oong, Hỷ thấy có ai nắm tay mình kéo vào bóng đêm.


    


    Cho đến lúc nghe tiếng nước chảy, Hỷ mới biết mình đang đứng bên bờ sông Qui. Có tiếng trách móc:


    - Mày điên hay ngu mà làm thế?


    - Chương Chảo sao...?


    - Tao đây! Không nhanh thì đầu mày thành quả bí nát rồi.- Chảo hổn hển.


    - Mày cứu tao làm gì chứ? - Hỷ đờ đẫn, tuyệt vọng.


    - Tao có lỗi với mày Hỷ à...! Tao cũng thích Dinh mà, nhưng ma quỷ xui tao ghen tức làm tao mất khôn mất rồi...


    Chương Chảo ngồi thụp, cúi đầu. Nó run rẩy thú nhận mình là kẻ đặt chuyện Hỷ theo phỉ Mã Lình, chỉ để Hỷ mang tiếng xấu không lấy được người mà nó cũng muốn lấy làm vợ... Hỷ túm cổ nó dìm xuống sông. Chương Chảo không cự lại. Nó nói rồi, hôm nay nó chịu chết mà. Mặt nước chỉ có bong bóng "búng bính" nổi lên. Toàn thân Hỷ như lên cơn sốt. Mình đang giết người! Ý nghĩ đó chợt làm Hỷ run tay.


    Chương Chảo được kéo vào bờ. Nó chỉ mới bị sặc nước.


    - Ghét mặt tao thế còn cứu tao làm gì chứ? - Hỷ đập tay xuống đất.


    - Cái chuông đền bị mày đánh vỡ rồi đấy! Chuông ấy dân Cổ Lâu quý như thế nào chắc mày biết? Tội lớn bằng trời. Mày không bị đánh chết cũng sẽ bị mang tiếng xấu lần nữa, tao đã gây ra chuyện thì phải gỡ ra thôi.


    Có tiếng chim ăn đêm đập cánh đậu xuống rừng bên sông. Sóng sông Qui nhè nhẹ vỗ vào bờ. Không gian trở nên yên lặng.


    Chuyện xưa giờ đã cũ. Đồng niên chẳng còn mấy ai. Lạ một điều, Hỷ, Chảo, và Dinh nữa vẫn còn đây? Dinh đã là bà ngoại, chồng hy sinh từ hồi chống Mỹ. Chương Chảo có một nhà con sáu đứa, vợ bị bại liệt cách đây hai chục năm. Sinh lực lão còn dư dôi. Gặp nhau lần nào cũng than phiền "lãng phí lắm". Súc Hỷ biết, hơn chục năm qua Chương Chảo như con mèo đói, rình bắt con chim trên cành cao. Con chim ấy là Dinh. Có lần gặp Dinh, Súc Hỷ nói dỗi:


    - Sao không lấy nó đi?


    Dinh khẽ trách:


    - Nói thế không sợ xấu mồm à? Chuyện ngày trước mình không thành, Khối người biết vì ai.


    - Thì ra bà cũng đã biết, còn thù nó nữa không?


    - Giờ còn ghét nhau nữa mà làm gì? Này, cái chuông đền bị ai đánh vỡ, giờ tiếng của nó nghe như hát bè hà lều ấy, khác trước lắm.


    Nói vu vơ thế mà mặt Súc Hỷ đỏ như quả mác quây. Lão quay mặt vờ như không nghe thấy.


    Đã có nắng rồi kìa. Mai mùng một trời chắc sẽ đẹp lắm. Ai đó đang đến gần? Tim lão hơi rộn. Bước chân này tiếng mỏng quá? Vẻ thất vọng chợt thoáng trong mắt lão. Có giọng bé con lí nhí:


    - Súc Hỷ ơi, bà cháu bảo mang cho ông đôi pẻng mẻ.


    - Bà đâu? - Lão lo lắng.


    - Còn céc bánh cao chưa vào khuôn, bà chờ làm cho xong. Bà cháu nhắn, bánh này chỉ để bày bàn thờ, thắp hương ba ngày tết, hết tết mới được bóc ăn.


    Súc Hỷ xoa đầu bé gái. Lão thở phào nhẹ nhõm:


    - Ta nhớ rồi.


    Chiều, chợ không còn người, phố bỗng rộng hơn. Mưa phùn như hoa bay trong gió, khẽ đậu xuống lá mận non tơ. Năm nào vào ngày này có vài giờ Cổ Lâu chợt vắng như phố không người. Súc Hỷ kìa, mọi người nữa, họ đang tản ra những chân núi, cánh đồng hun hút gió. Tết đến người được ăn ngon, ma cũng được chia phần. Lễ gọi hồn sắp bắt đầu đấy. Hương đã được thắp lên. Mâm cúng chỉ có gạo tẻ, muối hạt, nửa cân thịt lợn sống, tiền mã, chai rượu. Mọi người gọi, lão cũng gọi đây. Tiếng gọi nghe như gió thổi qua ngọn lau - "...ơ..ơi... hồn người oan khuất, hồn người vạ vật, hồn lang thang không bát hương đi về, hôm nay ngày kết, năm tròn có nắm gạo, hạt muối, chén rượu nhạt đến mà nhận. Hạt này hạt ngọc, hạt vàng, ăn một hạt no một năm, uống một ngụm vạn đường thiên lý không khô miệng. đừng làm con ma đói, ma khát quấy trẻ ốm, bắt người già... ngày này năm sau lại đến nhận phần hồn...ơ...ơ...ơi...". Gọi xong, lão vãi gạo, tung muối, vẩy rượu tứ phương, rồi thu dọn thịt rượu, bỏ vào túi nải đi về.


    Thế là giao thừa đã đến. Súc Hỷ mặc bộ quần áo chàm còn mới, bước đến bàn thờ thắp hương bái tổ tiên. Khói hương thơm ngát toả nhẹ như tà áo tiên trong ánh nến mờ ảo. Lão thấy lâng lâng như bay, như mơ. Quanh đây đâu cũng người thân. Cụ tổ, ông bà, cha mẹ và cả vợ lão nữa mọi người vui vẻ đi lại khắp căn nhà đá cổ lỗ. Lão dâng rượu, mọi người cùng uống. Chén này lão mời riêng vợ - "Bà nó à cách biệt đã thập niên, chưa khi nào tôi thôi nhớ bà. Đêm nay tôi dâng chén này là có chuyện thưa. Bà biết không? Không khổ nào bằng sống một mình, tôi muốn có bạn. Bà đồng ý nhé! Phù hộ giúp tôi...". Súc Hỷ nâng chén rượu uống cạn, rồi lại rót đầy đặt lên bàn thờ.


    Giờ là lúc lễ cha trời, mẹ đất. Mỗi nhà một mâm gà, rượu, một ngọn đèn dầu đặt ngay cửa mà cả phố như đêm hội hoa đăng. Có tiếng trống nhà ai đánh thùng thùng. âm thanh vui tai, khích lệ quá. Súc Hỷ thấy trong lòng phấn chấn.


    Lễ trời đất xong, lão bê mâm vào nhà. Đáng ra cỗ này phải được bày ra ăn ngay để lấy lộc, nhưng lão có việc phải đi. Lão tự hứa, xong việc cùng với cân rượu ngon, sẽ đánh sạch banh lộc trời.


    Súc Hỷ ra cửa đã là người khác. Trong bộ quần áo cũ rách lão hệt gã ăn mày. Bên hông buộc chiếc thu sáu miệng tròn đựng xấp giấy đỏ, ngực treo lủng lẳng ống bút, lọ mực. Cả năm có mấy ngày tết này thôi, lão là niềm mong đợi của mọi nhà. Không chỉ mấy người làm ăn buôn bán, cả những nhà lam lũ cũng mong lão lắm. Việc lão làm không ai giao, cũng chẳng cam kết với người kiếp trước. Lão tự nguyện. Kiếp nào, đời nào cũng có người như thế. Nhiều lúc lão tự hỏi, sau lão liệu có còn ai? Chắc là không. Thế thì tiếc thật. Khai vài xuân chỉ là chúc phúc cho thiên hạ sống hoà thuận, no ấm. Giống như gã ăn mày mà không phải ăn mày. Không mở miệng, ngửa tay xin. Ai biếu đáp tiền, gạo cứ việc bỏ vào thu sáu. Hình hài của lão, nó nhắc người ta khi sung sướng nhớ lúc đói khổ, kẻ nghèo khó hy vọng no ấm ngày mai, khi được lão đến đứng cửa, xướng lên những câu thơ mềm như suối hát.


    Lão đi dọc theo phố chợ, rồi ngược lên Pò vài. Dọc đường đã có người quẩy thùng đi lấy nước mới. Lão nghe có giọng con trai hỏi:


    - Súc Hỷ đeo thu sáu đi đựng nước mới á?


    Chúng trêu lão đây mà. Lão cười:


    - Lộc giành con cháu, ta đi việc ta thôi.


    - ò...


    Tiếng "ò" kéo dài đầy ngụ ý lão không để lọt tai. Đến chân núi Phja phủ, lão rẽ trái, đi về hướng tây.


    Ngôi nhà ấy đấy. Cửa mở, đèn bật sáng như đang chờ khách đến xông nhà. Sao đêm nay hồi hộp đến lạ? Dinh kia, Bà ấy đang bày đồ ăn lên chiếc bàn gỗ. Một mình với mâm cơm giao thừa chẳng buồn lắm sao? Những giọt mưa đọng trên cây rơi xuống mặt lão lạnh buốt. Sau lưng có tiếng ho nhẹ:


    - Đến rồi sao không vào đi?


    Lão quay lại, ngỡ ngàng:


    - Chảo... lại mày?


    - Súc Hỷ à, tao đón được ý nghĩ của mày rồi, nhưng không như đầu mày nghĩ đâu. - Vừa nói Chương Chảo vừa thản nhiên tháo ống bút, lọ mực trên cổ Súc Hỷ - tự cởi bộ "khai vài xuân" ra nhé.


    - Làm gì thế? - Súc Hỷ giữ chặt tay Chương Chảo.


    - Đến rồi thì vào với Dinh đi, bà ấy đang đợi đấy!


    - Sao không để tao yên, lúc nào cũng bám theo là thế nào?


    Giọng Chương Chảo bỗng trầm xuống:


    - Tao biết cả hai còn nghĩ về nhau nhiều lắm. Mỗi nhà một người, cái khổ giống nhau... ồi, mấy chữ này học được trong sách đấy, quên mất rồi. Cái đầu tao bây giờ ngu lắm. Nói ngắn thế này thôi, tao muốn tết này thay mày đi khai vài xuân, việc đó tao làm được.


    - Mày vừa nói gì? - Súc Hỷ bỗng sững người.


    - Tao biết chưa bao giờ mày tin tao, nhưng chỉ một lần này thôi, Hỷ à! Cởi bộ quần áo ngoài ra đi.


    Không hiểu vì lẽ gì mà Súc Hỷ ngoan ngoãn làm theo? Lát sau Chương Chảo đã đổi hình dạng. Giờ lão giống như cây gỗ mục tróc vỏ. Lão phất tay về phía ngôi nhà như khích lệ Súc Hỷ, rồi mất hút vào bóng đêm.


    Nhìn theo Chương Chảo, Súc Hỷ phân vân "không biết có được mấy chữ mà nhận phần việc về mình?". Ngắm lại bản thân, lão đã thấy tinh tươm lắm. Nhưng sao trời lại mưa và lạnh thế? Lão chợt tiếc đã không đem theo chiếc áo bông. Nhìn ánh lửa bập bùng hắt ra từ bếp, lão ước, giá lúc này được ngồi trong đó với một bình rượu hâm nóng. Hỡi ôi, cửa mở rồi kia, sao có gì cứ níu bước?


    - Đến rồi sao không vào đi? Đứng ngoài đó mưa lạnh khéo ốm đấy.


    Như được hớp một ngụm rượu lớn, người Súc Hỷ bỗng nóng ran. Sau phút luýnh quýnh, lão thẳng lưng, bước vào. Mú Dinh đứng bên cửa. Súc Hỷ dừng lại chắp tay trước bụng, giọng như hát:


    - Bươn chiêng pi mấư lớ... cung hỷ phát sài a... ( tháng giêng năm mới, chúc vui khoẻ, phát tài)


    - Vào nhà rồi hãy chúc, tóc lão ướt cả rồi!


    Súc Hỷ theo mú Dinh đến ngồi xuống bên bếp than hồng. Nhìn Súc Hỷ run run, mú cười mủm mỉm:


    - Thích diện thì phải chịu rét thôi lá.


    - Lúc đi tôi đã...! - Lão lúng búng - sao Dinh biết tôi đến đứng ngoài kia?


    - Lại còn hỏi nữa a! Khác biết.


    Có gì đó như một sự trẻ trung còn đọng trong giọng nói kia. Cảm giác thật ấm áp khiến lão hình dung mọi chuyện mới chỉ như hôm qua. Ờ, ngày đó mình đã buộc Dinh vào lưng định vượt mái nhà này bỏ trốn. Mới đấy mà đã đây. Môi thắm, má hồng giờ nhạt phai. Hận cũ cũng đã chôn vào dĩ vãng. Nhưng lòng sao chưa hết tơ vương?


    - Dinh à, Dinh có nghĩ giống tôi không?


    - Về gì chứ?


    - Chẳng thể nào quên được nhau.


    Mú Dinh khẽ thở dài:


    - Tôi cũng thế! Chỉ ngại, con cháu nói mình đã thành ông, thành bà.


    - Chúng có phận riêng, ta già rồi ở một mình khổ lắm!


    - Biết là thế! Bây giờ Hỷ định tính thế nào?


    - Thế nào nữa, ngày xưa tôi đến cướp Dinh bị người nhà Dinh bắt sống, đánh cho bệt đít xuống đất, bôi nhọ chảo trộn mỡ lợn lên mặt, rồi tống ra cửa. Bây giờ không còn leo được lên mái, nhưng vẫn đủ sức kéo Dinh về nhà tôi đấy.


    Mú Dinh khẽ cười:


    - Vẫn chẳng khác ngày xưa!


    - Khác chứ! Người đi ngược đường cũ bằng chân, ngược về thời trẻ chỉ bằng ý nghĩ. Tiếc lắm thay, già mất rồi.


    - Than thế còn đến đón nhau?


    - Tôi có ý nói Dinh đâu?


    - Cái mồm chỉ giỏi nói thôi.


    Dinh đã cười, ấy là việc mười phần đã thành tám, chín. Lão run run:


    - Tôi sẽ làm cái việc ngày trước chưa được làm nhé?


    - Còn hỏi nữa.


    - Vẫn còn nhẻn sao?


    - Không, nhưng thấy thương lắm!


    Súc Hỷ im lặng. Có gì đó thật ấm áp trong lòng. Tay trong tay, lão đỡ mú Dinh đứng dậy, bước đến trước bàn thờ:


    - Lạy tổ tiên, ông bà tái, năm mươi năm trước Hỷ này chưa có duyên làm con rể nhà họ Tăng, hôm này giao thừa, nén hương này Hỷ dâng tỏ lòng cung kính. Xin tiên tổ được làm bạn với Dinh.Từ nay coi hai nhà là một, tựa vào nhau khi lạnh lưng, làm tay, làm chân của nhau khi khó ở....bái...bái... sống cùng nhau, chết cũng cùng nhau bái bái...


    Đỡ mú Dinh quay lại ngồi xuống bên bếp than. Giọng lão xúc động:


    - Thế là thành rồi Dinh à, từ nhà đến đây thắp hương tôi đã đi hơn năm chục năm đấy!


    - Chỉ tiếc già mất rồi!


    - Tôi thấy mình vẫn chưa già, cả Dinh cũng thế!- Đôi mắt Súc Hỷ chớp chớp, lão cúi xuống nắm tay mú Dinh.


    - Năm nay ông lại đi khai vài xuân nữa chứ? - Mú Dinh nhìn lão chờ đợi. Súc Hỷ chưa kịp trả lời, ngoài hiên chợt có tiếng người ho khẽ.


    Súc Hỷ nhìn ra cửa. Ôi Chương Chảo! Lão như cây gỗ mục chằng chịt lá khô đang bước đến. Lão định giở trò gì nữa đây? Đúng bài rồi đấy! Khai vài xuân đến nhà ai chỉ được phép đứng ngoài cửa thôi. Nhưng liệu nó có biết xướng thơ không? Chương chảo cất giọng như hát:


    - Bươn chiêng pi mấư khai vài xuân a... ngần sèn khảu tu nả à, mò mả khảu tu lăng ơ.. cần ké lục đếch khảu pi mấư à a... phù sần au khen slửa lòng dà... khảu nặm, ngần sèn tim rườn la... cung hỷ phát sòi...(tháng giêng năm mới đến khai xuân, chúc cho tiền bạc như nước chảy vào cửa trước, ngựa bò chen đầy cửa sau, trẻ già cùng bước vào năm mới, đều được tay áo thần tiên che chở... gạo, nước, tiền, bạc đầy nhà... vui vẻ phát tài).


    Xướng xong Chương Chảo dán tờ giấy đỏ lên cánh cửa. Vừa dán lão vừa lẩm bẩm như niệm chú. Mú Dinh bước ra, bỏ vào chiếc thu sáu đeo lủng lẳng bên hông lão đồng xu mới. Rồi chắp tay choom bái. Chờ mú Dinh làm xong thủ tục, Súc Hỷ bước đến nheo nheo mắt ngó vào tờ giấy đỏ, vẻ tò mò:


    - Cái tai mày ăn cắp thơ giỏi lắm, nhưng bôi cái gì lên tờ giấy thế này?


    - Song Hỷ! Chẳng lẽ chữ này vào nhầm nhà hay sao?


    - Song Hỷ, đến nhà nào cũng viết thế sao? - Súc Hỷ tròn mắt.


    Chương Chảo cười:


    - Không, chỉ có nhà này thôi, nhà khác đã có chữ khác giống như mày đi làm ấy. Từ nay mày coi như mất nghề nhá! Cái chân khai vài xuân đã có người làm thay mày rồi Hỷ à.


    Nhìn lão Chảo mờ dần trong màn đêm, Súc Hỷ chợt áy náy, sao vội thế, chẳng kịp mừng chén rượu xuân nữa. Lão bỗng nhận ra, việc gì mình làm, Chương Chảo cũng đều biết. Lão đúng là con ma núi. Bây giờ lại lấy đi của lão bộ quần áo kẻ ăn mày, rồi tự nhận từ nay sẽ làm người khai vài xuân cho cả phố Cổ lâu. Lạ thật, chỉ cần khoác lên bộ quần áo đã thành con người khác. Không biết nên vui hay nên buồn? Nhưng có gì đó làm cho lão rất nhớ. Nỗi nhớ trong tâm thế của kẻ nghèo khó bỗng đủ đầy mọi thứ trên hai bàn tay. Lão quay lại nhìn mú Dinh, cái nhìn thật ấm áp:


    - Dinh à, bà có biết tôi đang nghĩ gì không? Đã bao năm rồi đến hôm nay tôi mới được nghe khai vài xuân đấy.


    Ngoài xa chợt vọng về tiếng chuông đền Phja phủ. Âm thanh của chiếc chuông đồng bị nứt ngân nga như bè hát Hà lều. Mú Dinh mủm mỉm cười. Tiếng chuông vọng vang vách núi bỗng nhắc mú nhớ đến chuyện ngày xưa. Mú kín đáo quay vào nhà, nâng vạt áo thấm những giọt nước mắt mỏng như những bụi mưa xuân.

Lão Tâm

PHAN

1.

Lão Tâm mơ màng đã mấy tháng nay, đời thực cứ mơ huyền mờ ảo. Nhưng trong mơ thì mọi sự lại rõ như ban ngày, lão đi mãi không hết cánh đồng làng vì đôi giày tây không hợp với ngõ thôn, mặt đê săn cứng…gặp lão đánh giậm đốt đống lửa con con, rồi chỏng khu hong đít. Lão chả hiểu già kia làm trò quái gở gì! Lão hỏi. Già đáp: “Anh không nghe người ta nói môi thâm như dái thằng đánh giậm à? Tôi ngâm nước từ sớm đến tối thì hòn đá cũng cóng; không đốt lửa mà hong thì tuyệt tự tông đường.” Lão thở dài chán nản, rít gió qua kẽ răng từng chữ chạnh lòng: “lạnh này, riêu tép bặt tăm…” Lão ngưng nói như người ăn xin chờ bố thí một câu an ủi. Nhưng lão Tâm chẳng bữa lòng lành, làm bỡ ngỡ đôi bên, thường ngày lão Tâm cũng hay tán gẫu với lão đánh giậm. Người chẳng ai không khinh nhưng lão cũng chẳng nể ai trong làng, lão làm lão ăn, đói-no không liên lụy đến người khinh kẻ ghét. Chỉ tội đánh giậm không đánh được miếng thịt lợn, dồi chó, nên không ai mời nhưng giỗ kỵ nhà ai lão cũng nhớ rõ trừ giỗ bố lão đánh giậm, có biết là ai để kỵ cơm hai kẻ sinh thành.

Nhưng như thế lại hoá lợi cho lão đánh giậm, năm vài lần, ốm đau giời phạt, lão tìm lão Tâm than thở: “Anh Tâm ạ, mai lại đến kỵ cơm bố tôi…” Thế là lão Tâm còn bé thì lén lút xúc gạo tuồn ra vườn cho lão đánh giậm vớ của giời cho. Khi lão Tâm chỉ còn sợ mỗi mình bố lão Tâm trong nhà, thì ngang nhiên xúc gạo cho lão đánh giậm đưa về giỗ bố lão ấy, vì bố lão Tâm có dạy, phải năng giúp kẻ khó thì mới có con ạ! Bây giờ thì lão Tâm đã lên thêm một bậc là sai người xúc gạo cho lão đánh giậm. Mới vài hôm, lão Tâm dỏng tai nghe lão Bổng nhắc nhở năm nay, lão đánh giậm đã giỗ bố lần thứ tư rồi đấy cậu ạ! Lão Tâm cười xoà, nhớ thầy Nhất Y có nói: Giúp kẻ khó là để dành cho mình khi nhỡ… bố lão nhặt lão Bổng về làm lão bộc từ hôm vợ con lão đuổi già đi vì chỉ ăn hại, lại năng đau ốm. Vào nhà này vài tháng, lão trông đẹp lão hẳn ra, bệnh hoạn cáo từ. Mà riêng gì lão Bổng, trong làng còn bao người chỉ chung quy bệnh đói mà ra hỏng con người. Nhưng no cơm ấm cật lại sinh thói bảo hoàng hơn vua, thì đáng trách. Cơm lão ăn mặc sức lại còn trộm gạo đưa về nhà cho những người đã đuổi lão đi. Lão thuộc loại người gì trên địa cầu phức tạp ? Lão Tâm định quạt cho lão Bổng một trận, nhưng nhớ ra tin trộm gạo là do lão đánh giậm đưa tin. Hai lão già này trong làng khinh nhau ra mặt. Phải suy xét tận tường trâu buộc ghét trâu ăn…

Lão đánh giậm nhìn từ đầu xuống chân lão Tâm đã có mấy lượt, “Hôm nay, anh không ra anh…”

Lão tâm cười khịt mũi, không biết nói gì! Lão đánh giậm có thế cũng hoảng! “Tôi, ý tôi, muốn nói là anh hơn hết mọi ngày…”

Họ cười lớn với nhau một cách bí mật. Bí mật của lão Tâm thì cả làng chỉ có lão đánh giậm ưa sục sạo chùa hoang miếu đổ mới tận tường. Nhưng lão cũng biết sống để bụng chết mang theo; không bao giờ phản bội kho lương dự trữ…

Lão Tâm nói lời tạm biệt vì có việc phải đi, lão đánh giậm không quên nhắc nhở! “Anh có đi chơi đâu cũng nhớ về giỗ cụ tổ nhà anh, dăm hôm nữa đấy! Nay đã là mồng…”

“Tôi nhớ mà…lão có lòng kính cụ tổ nhà tôi thì cứ đến, bố tôi có sai lão Bổng mổ lợn đấy, hay lão đến giúp lão ấy một tay cho chóng việc. Cứ bảo lão Bổng là tôi dặn thế, nhá.”

“Anh mời tôi thật à! Quý hoá quá…ơn anh. Anh Tâm ạ! Thành công mỹ mãn...”

Lão Tâm lúc nào chả cười với mọi người, cười người hôm trước hôm sau người cười, là cười mỉa mai nhau, lão Tâm đây chỉ cười thương xót kẻ hèn; cười chung vui bạn hữu; cười cầu hoà khi nhỡ phật lòng ai! Nụ cười của lão đã thành tiếng thơm cho bố mẹ có cậu trưởng… vui vẻ cả làng.

Lão đi qua cua cùi chõ của vạt lau hoang dại, nhìn lại đụn rơm rạ của lão đánh giậm đã tàn lửa, lão ấy lại ùm xuống nước. Mặt trời cuối năm đi nghỉ sớm, lão Tâm đi chưa khuất cánh đồng trời đã nhá nhem. Lòng không nao núng bóng tà dương vì đầu óc còn thương người đánh giậm, cái nghề cơ khổ của kẻ hèn; miếng ăn hai bữa giời cho cũng không đều, đói no vô độ. Lại còn canh cánh trong lòng chuyện nối dõi tổ tông, lão đánh giậm có đã tuổi lục tuần, còn chưa rũ được lòng từ bi của ai để cắm cây cọc mục, kiếm tí truyền nhân. Cái nghề nuôi thân còn vất vả…không biết về đâu khi gió mưa, hôm ốm ngày đau cũng chỉ một mình mang nặng kiếp con người…giá lão ấy bạo gan hơn tí nữa hôm mẹ đĩ say trăng thì gạo đã nên cơm. Cũng lỗi mình, sui lão được rồi, còn tống cho lão vò rượu để lên tinh thần. Lão uống vừa thì mẹ đĩ đã xóc giằm lão đánh giậm; tại uống mê say nên hỏng suy đồi. Lỗi lão, mình không có lỗi…

Lão Tâm vẫn thế, thường nghĩ cho người nhưng chóng quên đi. Không quên mau những người đã gặp thì đầu óc đâu để nghĩ tới người chưa gặp, đã biết họ khổ hơn một con người. Ở cái làng Cự Tuyệt này, dường như chỉ có lão Tâm thoát tròng bất hạnh. Lúc nào lão cũng tràn trề hạnh phúc vì vui tính lại thương người, mỗi cái cả tin đôi khi phiền phức hay thiệt thòi. Nhưng lão có nhớ qua đêm bao giờ mà phiền não. Lão đánh giậm vừa gặp đã là chuyện sau lưng. Lão Tâm nhanh chân cho kịp gặp một người mà nỗi nhớ trong lão sùng sục suốt canh thâu, nhớ đến tỏ ngày cũng phiêu diêu trí não theo mùi da thịt như tẩm hương hoa bưởi, hoa nhài…

Lão nhanh chân chóng đến nhưng hoa bưởi hoa nhài đã rụng đêm qua. Đêm xuống lạnh dần ngoài đê chó sủa, lão nghe ruột tình máu chảy râm ran. Lão lần về nhà như người vỡ nợ ngoài tỉnh về mà chiều nay lão gặp cũng trên con đê này. Sự thất thểu không che giấu được; tiếng hỏi câu chào người quen kẻ thuộc không thịnh ý, nhạt như nước ốc…Lão nốc cạn vò Vân Cẩu Bạch Tâm Tửu, bạn lão đặt cái tên cho rượu trắng Vân Cẩu nghe hay đấy chứ! Lão nghe hương hoa bưởi hoa nhài trong không gian, cả vũ trụ bao la không xa hơn nỗi nhớ đến nghẹn lòng. Lão nói với sao trời, thân gái không thương thì cũng đừng trách họ, họ đâu được muốn đi thì đi; muốn về thì về như mình…lão nhớ người đến khóc được, thì lão khóc đi. Lão khóc thật thà lần xa nhau mãi mãi…

Cái đêm ấy lão về đến chỗ ông đánh giậm, lão vấp vỡ mặt, thì ra ông đánh giậm đã chết cóng trên đê. Lão Tâm tỉnh cơn mơ, ú ớ… Căn phòng bệnh viện của lão ít khi vắng tiếng người như hôm nay, nào là vợ con cháu chắt cứ thay nhau túc trực, chả lúc nào không có tiếng người…Sao chẳng còn tí hương hoa bưởi, hoa nhài nào thế nhỉ, căn phòng vừa bát ngát hương thơm đã bỏ lão đi mau theo gió…Lão nghĩ, hay mình nằm bệnh viện đã quá lâu, mọi người đã chán thăm viếng? Lão gạt bỏ ý nghĩ vô ơn, lão chúa ghét vô ơn bạc nghĩa. Lão chìm vào cơn mơ hoa bười hoa nhài, không biết bây giờ em ở đâu…Mơ.

2.

Anh con rể cũng tên Tâm, cái anh Tâm y như bố vợ. Ngày còn ở Việt Nam thì báo ai nấy đọc. Hai bố con ngồi ngoài phòng khách như hai người chờ chữa bệnh câm. Thầy lang châm kim nói cho bố thì bố hỏi con: “Anh làm chai nữa chứ?” ; “Vâng, con xin bố”. Thế là lão đi kéo hai ve. Chỉ bước ra sân trước, nói qua bờ rào đã có bia Hoà Bình ướp lạnh đưa sang. Ngược lại, “Bố làm chai nữa chứ?”; “Ừ. Cho bố xin…”Anh rể cũng chỉ kéo hai ve cho đỡ tiền nước đá. Bia Hòa Bình ướp lạnh, uống như nước rệp ép nguyên chất, lão Tâm với anh rể uống hết Hoà Bình của mấy mươi năm nội chiến từng ngày, uống hết bia quán cóc nhà bên rồi có hôm sinh gàn: nghị luận chính trị không phải cách; im lặng chờ thời mới đúng cách. Uống bia Hòa Bình mà cứ nói chuyện tang thương với bất mãn…toàn những chuyện rượu bia nói cả. Tàu hỏa Thống Nhất đã đưa bao người về thăm lại quê hương, tiếng cói tàu đêm đêm đánh thức nỗi nhớ làng; nhớ người; nhớ cái Mơ đã một lần châm rượu cho lão uống; nhớ đôi bàn tay không nỡ xa nhau, nhưng biệt ly không nỡ tạ từ…Lão vừa thương vừa giận anh Tâm, rời làng đã mặc quần có đáy, thế mà quên tiệt đoạn tình…rồi vừa thương vừa giận lão, sao lại nhớ mãi những cánh đồng nứt nẻ sau mùa gặt; lão đánh giậm chết cóng trên đê; ông thầy Nhất Y dạy chữ Nho, quan năm mặc mỗi chiếc áo không bẩn. Học trò rình mãi mới biết mợ giặt áo cho thầy ban đêm. Sáng ra lại mặc áo mới tinh tươm mà giáo huấn bao người…

Anh Tâm ngủ say trên ghế bố. Lão Tâm nhìn ra anh rể rõ mồn một, đã bao lâu rồi, lão chỉ phân biệt được tiếng nói chứ nhìn không rõ ai ra ai…Lão nhìn ra anh Tâm đấy mà, con trai trưởng của bạn lão. Hai nhà là người làng với nhau, lão mà không mơ tưởng đến cái Mơ ngoài Vân Cẩu thì đã vấp đùi em gái bố anh Tâm này, cái Mởn ấy rõ là mơn mởn…vú to mông nẩy nhất Cự Tuyệt. Sau nó gả về bên sông, không gặp lại bao giờ thì phải.

Lão Tâm nhìn lên trần nhà trắng toát mà thấy hết bao chuện xa xưa, hai gia đình lão với gia đình bố anh Tâm cùng đi Nam, các cụ ở lại cả, không ai nỡ bỏ mồ mả gia tiên… Vào nam thuở ấy, hai gia đình cùng định cư chung một xứ đạo…Cái anh Tâm này từ thuở thư sinh đến mãn hạn tù, anh ấy chỉ yêu mỗi con gái lão. Thế là lão gả trưởng nữ cho thằng tù cải tạo mới về. Gả chóng như chạy tang dù lão với bố anh ấy chưa ai muốn chết. Chỉ thương đôi trẻ yêu nhau - nếu vượt biên chết một thì thà để chúng chết cặp cũng đỡ lạnh biển, rừng…Lão tính toán với thông gia hoàn toàn tin cẩn: Vì tương lai con em…Tiếc là những người châm chích lão ngày ấy, không còn gặp nữa! Giá gặp lại, họ tự biết xấu hổ.

Lão tự hào về quyết nghị với vị thông gia: cho chúng làm đám cưới, nhỏ thôi để không bị dòm ngó, lại ít hao tiền vàng. Rồi cho chúng đi mau, thằng Tâm ra tù không lâu lại vào vì chó sủa chó không cắn; thằng cấm khẩu này chẳng sủa ai nhưng tức nước vỡ bờ…phường khóm cứ hạch sách nó mãi thì có ngày. Được vị thông gia, bác bảo sao thì tôi nghe vậy! Cái lão gù gái như tay cầm thánh chỉ, chỉ toàn thánh nữ đồng trinh. Sao lại cưới vợ rồi thì hoá Bụt. Cưới phải vợ lòa sớm thế, cứ rờ mặt ông sui gái mới tin thông gia đến thăm. Chả nhẽ tiếng lão Tâm nghe từ hồi trẻ mà không nghe ra lão đến thăm thông gia hay sao…Thế rồi bà ấy mất lúc chúng nó đi rồi thì phải, lão thông gia bây giờ lãng trí, lão đến thăm mình như đi thăm đàn bà đẻ, đem cho đủ thứ dầu, đến ngâm tẩm lão Tâm còn chả hết…đâu cả rồi thế nhỉ!

Lão Tâm tỉnh táo hơn bao giờ hết, lão nhìn quanh gian phòng lặng lẽ, quen-không! Nhớ quen vì ở cũng lâu rồi thì phải; nhưng lạ lùng là ở đã bao lâu? Lão nhìn anh con rể lại thấy xóm làng bày ra trước mắt: con gái lão, anh Tâm con lão thông gia, còn bao nhiêu là trẻ khác nữa…chúng nó trông đã già thế kia ư! Lão bùi ngùi bước xuống giường để đắp cho anh con rể cái chăn, cái khăn, cái gì cũng được…nó ngủ ngon lành trên ghế bố. Cả nhà đã cực khổ với lão quá nhiều rồi. Anh rể này hình như cực nhất, lúc nào lão tỉnh cũng nghe tiếng anh ấy rõ nhất trong những giọng nói quen tai. Lão gượng ngồi dậy một mình đến mấy lượt cũng chả thành công, lão Tâm có bao giờ đầu hàng số phận, lão lăn xuống giường nếu không ngồi dậy được! Lão quyết định như thế, lão cười lăn quay ra sàn nhà, dây điện, ống nhựa nhùng nhằng như ngã vào bụi rậm…lão cố trườn đến chiếc ghế bố để đắp lên người con rể cái khăn…nhưng còn ở trên giường, lão không biết gì nữa!

Mặt trời chiều chói chang mắt lão, lão tỉnh lại sau cú ngã tức tưởi. Thì ra mình lạnh vì yếu trong người, mặt trời kia thì thế gian đang nóng đổ lửa. Lão nằm bệt dưới sàn nhà, ngắm mớ tóc bạc điểm trang trên mái đầu con rể. Ước gì được ngồi sofa, lão coi tivi, đài Hà nội thỉnh thoảng cũng có quét qua đê sông Hồng, màu nước không còn tươi như những năm xưa nữa, nhưng nước sông Hồng chảy ngược thời gian; đưa lão về rong chơi ngày tháng cũ…anh rể làm việc trên cái máy điện toán nhỏ xíu mà gạt lão là liên hệ được khắp hành tinh! Rồi thì cũng “Con xin bố”; “Cho bố xin”. Đến cái tủ lạnh không cho nữa thì nghị luận chính trị có thêm phần sinh hoạt cộng đồng; Hội đoàn thay nhau ra mắt;…bóng chiều mờ đi trong mắt lão Tâm.

Lão tỉnh lại trên sàn nhà, anh rể ngồi xót xa: “Sao bố không gọi con, sao bố không lấy cái kính, hộp thuốc, chai dầu…trong tầm tay, ném vỡ thì con thức, sao bố…”

”Anh Tâm, tôi nhớ hôm đám cưới anh. Không có tiền in thiệp cưới nên anh chị ngồi làm từng cái thiệp viết tay. Ai cũng cười hai họ nhà mình nhầm lẫn…bố vợ cũng Trịnh Hữu Tâm; con rể cũng Trịnh Hữu Tâm. Ai cũng hữu tâm nhưng lực bất tòng tâm. Tôi chỉ muốn đắp cho anh cái chăn, thấy anh ngủ ngon, nhưng monh manh quá, sợ anh cảm lạnh. Thế mà…”

Lão ngừng nói lấy hơi, làm anh Tâm sợ khi nhìn ngực lão thoi thóp thở…Anh xúc động đến mụ người, sao không đến đỡ lão lên giường chứ nhỉ! Anh làm công việc máy móc của một người máy chăm sóc người già, bệnh nhân. Giả sử người máy gặp lão Tâm thì cũng

shutdown

loạn xị vì lão cứng cổ hơn cả bệnh nhân tâm thần. Lão chống đối mọi mệnh lệnh và yêu cầu toàn những điều không thể…anh dùng sức cưỡng bức lão lên giường; anh ẵm lão như lão ẵm anh ngày còn bé chạy rong qua sân nhà lão.

Lão Tâm nằm thiêm thiếp ngủ, bỗng mở mắt trừng trừng làm anh Tâm sợ không kịp gọi người nhà vô lúc lão lâm chung. Nhưng lão có nhiều phần tỉnh táo hơn hôn mê. Lão thều thào nói: “Anh Tâm ạ, tôi ước gì được về đê Vân Cẩu, ăn bát nhựa mận với…” lão Tâm chìm vào cơn mơ tiếp nối.

Anh Tâm ngồi nghĩ chuyện khác, sẽ nói cho cả nhà biết về vết bầm trên trán bố vợ. Vết bầm giập đầu xuống nền nhà còn để lại cả khoang bầm tím tái…nói thế nào không được với một người không có khả năng đối chất; nhưng nói thật là đúng nhất với ông; với anh. Anh Tâm ngồi nhìn lão Tâm mơ màng trong những cơn mơ trùng trùng, bất tận…khẽ nhăn mày, mép nhếch cười khoan dung…Điều cuối cùng anh nên làm cho người bố vợ anh thương, có lẽ là đưa ông về Vân Cẩu, ăn bát nhựa mận với người ông yêu. Chuyện tình của ông đến cái khui bia còn cạy không nổi, thì ai mà biết! Mà đê Vân Cẩu ở đâu? Quán thịt chó Cự Tuyệt…có lẽ đã nát tan theo bom B52 từ thời oanh tạc miền bắc; Cái Mơ là một ả đào hay chân quê mà sống mãi trong lòng người đàn ông chung thủy…Anh nhìn ra cửa sổ lầu cao, ráng chiều đã tắt, dưới đường đã sáng đèn, ngày qua theo những cánh chim di tìm nơi ẩn náu. Lão Tâm đi gù gái trên đê Vân Cẩu với bước chân hai mươi; chắc lúc ấy không nghĩ đến chuyện dừng chân trên cái giường bệnh viện cách xa nghìn trùng…Anh Tâm bỗng nhớ những người bạn có kết thúc nhanh; mang theo những giấc mơ chưa tròn đã tan theo đất. Ngày ấy, anh nghĩ gì hơn là mình may mắn trong đau buồn thương tiếc đồng đội hy sinh. Nhưng ít ra người nằm xuống lúc ấy cũng biết địa danh an nghỉ của đời mình. Anh không biết mình sẽ dừng chân trên giường bệnh như lão Tâm, hay…trúng một viên ngày xưa như mấy người bạn, nhiều khi lại tốt hơn chứng kiến thêm vài chục năm lắm nỗi ưu phiền!

3.

Đại gia đình đã đến sau giờ làm việc. Những ánh mắt tắc trách không làm lành vết thương trên trán lão Tâm. Cô em vợ nhỏ nhất trong gia đình vốn kiệm lời như bố với anh rể, người chỉ hành động thay lời mà được việc nhất trong nhà. Hai anh em ra ngoài hành lang trò chuyện, cô em mới đi gặp bác sĩ về, “Anh Tâm ạ, bác sĩ cho biết, bố đã hết thuốc chữa. Hai lá phổi hôm nay đã sũng nước, có hút nước cách mấy thì cũng trong nay mai…Đưa bố về nhà hay không, tùy anh quyết định. Em chỉ cảnh báo nhà mình lắm người trách khứ chứ không ai muốn chịu trách nhiệm đâu!”

”Ừ. Anh biết,…bố muốn mất ở nhà cho ấm cúng; nhưng đưa bố về thì chúng nó lại đổ lỗi cho anh là làm cho căn nhà mất giá vì có người chết trong nhà ”Anh Tâm tư lự, thở dài. “Nếu tất cả biết nghĩ, nhà chung nhau mua cho bố mẹ ở. Bố mẹ mất đi, nhà bán chia nhau, có mất thì cũng mỗi người mất chút đỉnh, chứ có ai mất nhiều hơn ai mà lo ngại - quá đáng. Hay phần mất cứ gom hết về anh, dì mày còn con nhỏ, còn lo trăm mối. Đừng dính vào. Anh quyết định đưa bố về, để ông cụ được mất ở nhà cho mãn nguyện.”

Cô em vợ cương nghị để bù đắp cho sự nhỏ nhắn hơn anh em trong nhà cô ấy, con bé không vòi quà vặt như trẻ con; nhưng ưa hỏi những câu hóc búa về Kinh thánh…Không, người đàn bà trước mặt anh Tâm là một phụ nữ dám nói dám làm, và…hình như cô ấy luôn can đảm gánh vác trách nhiệm, “Em chịu trách nhiệm về việc có người chết trong nhà. Cùng lắm, em bán nhà em rồi mua lại nhà của bố, em không sợ ở trong căn nhà có người chết vì là bố em mà. Em mua lại đúng giá thị trường… cho vừa lòng mọi người. Anh đã nói thế thì đưa bố về nhà, bố chết có một lần, còn nhà là của nhà băng; ở đây mất việc mất nhà như cơm bữa…”

“Thế, anh em mình chia nhau phần thiệt thòi. Việc anh nghĩ tới là sau đám tang bố, cũng không để mẹ ở một mình được đâu. Đưa mẹ về ở với anh hay với dì, là hai nơi có thể. Dì mày chuẩn bị tinh thần; có cần thì làm công tác tư tưởng với chồng con trước đi.”

“Không phải lo việc ấy, anh liệu lúc có người thì tranh thủ đi nghỉ ngơi đi.”

Họ trở vô phòng sau khi thương nghị, những người muốn trách còn đang lựa lời đủ để ra về vì giận anh cả không chăm sóc bố cho tử tế! Bà lão Tâm cứ suýt xoa vết bầm - không biết có động đến mớ dây thần kinh đã đứt gần hết sau cơn đột qụy của lão Tâm. Chị Tâm lau mình, đắp đá cho bố; mấy đứa cháu lăng xăng như chuyện ở nhà ai chứ không dính líu gì đến chúng…

Lão Tâm tỉnh mộng, đuổi hết mọi người ra khỏi phòng. Lão muốn nói chuyện riêng với anh Tâm. Bà lão Tâm sướt mướt vì không phải là người nghe trăn trối. Chuyện cuối đời của lão - bà chỉ muốn biết lão có con rơi với ai không? Thế giới này đừng có đàn ông thì đàn bà ngất ngây hạnh phúc…Sao cuối đời, lão cứ đòi về đê Vân Cẩu, ăn bát nhựa mận ở quán Cự Tuyệt, với ai? Bà lão quên rồi hay thật là không có đê Vân Cẩu, không có quán thịt chó Cự Tuyệt nào trên đời, ai mà cự tuyệt được với món hanh thông sinh lộ, ăn bát nhựa mận chưa xong người đã hừng hực lửa tình. Nhất định phải có người đàn bà đã cùng ăn nhựa mận với lão Tâm nổi tiếng đẹp giai, khéo nói…xuyên mấy lũy tre làng.

Trong căn phòng hai người, lão Tâm vỏn vẹn: “Anh có thể đưa tôi về làng, chỗ ngã ba vào làng nhà - Cự Tuyệt, có quán thịt chó Cự Tuyệt, bên vệ đê Vân Cẩu. Tôi đã đãi cô Mơ một lần, tôi muốn đãi lần nữa…ở đó có món nhựa mận…cô ấy thích lắm. Hôm tôi đãi thì đôi đũa cô ấy còn mới nguyên tới cuối bữa. Nhưng hôm sau thì cắp thúng ra mua đủ hết các món có trên bàn hôm qua. Phụ nữ ngoài quê mình vẫn vậy!... Tôi không biết sau khi ăn món nhựa mận Cự Tuyệt. Cô ấy có còn nhớ đến tôi. Hay đã không kịp chờ nhau kiếp này…”

Lão nói một hơi dài nhất từ hôm đột qụy đến nay. Nói rồi lịm đi nhưng không buông thả vào cơn mơ như thường vậy. Lão cố tỉnh để nói nốt một điều gì…nhưng anh Tâm không chờ được nữa, để lão hôn mê là hối hận. Anh nói, “Bố sẵn sàng chưa? Con đưa bố ra xe, mình phải đi mất vài giờ đấy…”

Mắt lão sáng lên hy vọng, “Thế thì đi ngay anh ạ! Đừng để cô ấy chờ tôi…”Lão nói rồi bùi ngùi, đôi nhắm nhắm nghiền ra hai dòng lệ…

Anh Tâm bước ra khỏi phòng trăn trối. Nhìn quanh mặt người thân đó như không. Anh nói với cô em vợ, lòng trỗng lỗng như không. Sao nó nhỏ nhất nhà mà toàn lãnh việc lớn! Nhưng cũng không còn nhiều thời gian để suy nghĩ vô ích, “Bây giờ, em lên văn phòng làm thủ tục xuất viện cho bố. Đưa mẹ theo để ký giấy tờ vì chỉ có mẹ có quyền ký giấy cho bố xuất viện. Nhờ vợ chồng em theo xe Ambulance, đưa bố về nhà. Anh phải đi tí việc cho bố, kẻo muộn.”

Anh đi với vợ trong sự ngỡ ngàng của đàn em, con cháu nhìn theo… bà lão Tâm hoang mang tột độ! Ông ấy còn việc gì trước khi nhắm mắt mà sai riêng anh Tâm đi lo cho bố? Cái anh Tâm chẳng nghĩ tình nhau mấy mươi năm, chẳng phân biệt phải trái, một người…một người lẽ ra đứng đắn hơn là nghe lời lão Tâm tuyệt đối. Bà lão lên tăng-xông. Ngất đi một tí rồi tỉnh hẳn vì còn lo đại sự.

Hai vợ chồng lên xe, anh Tâm lái như người điên không biết nhớ, hay người nhớ chính xác đến không cần nhớ thì gọi là điên. Họ ghé chợ Mễ để mua cái đùi dê có da, rồi ghé chợ Việt nam mua giềng với mắm tôm, ghé chợ Mỹ mua dô-gợt (yogurt). Về nhà, anh đốt lò nướng bbq, đốt thêm đen cái đùi dê cho dậy mùi, miệng không ngớt “em ơi!... Bỏ giềng vô máy xay sinh tố, không cần gọt, xay nát cho anh, bắc cho anh nồi nước…”

Chị về ở với anh đã ba mươi năm lẻ, tháng sau có cháu ngoại thứ hai ra đời, chưa bao giờ chị Tâm thấy chồng quýnh quáng như hôm nay! Mấy mươi năm tin bố, tin chồng. Chẳng biết họ thông đồng đảo chánh ai, lật đổ chính quyền thì phải ở trong nước, chứ đã xuất ngoại. Mà họ cũng đâu tham gia đấu võ mồm với diễn đàn hải ngoại nào đâu... Một tổ chức phi chính phủ ngay trong gia đình mà mình không biết!

4.

Lão Tâm được đưa ra xe thì biết, chỉ chạy một đỗi đã về đến làng. Thế mà bao năm qua, sao không về thăm Mơ, thật tệ. Lão xuống xe xông xổng đi ngay, lão đi mãi mới qua cánh đồng làng, gặp lão đánh giậm đốt đống lửa con con, mùi cá nướng thơm lừng chiều lộng gió…chưa bao giờ lão thấy thanh bình bát ngát trên ruộng đồng như hôm nay, mùi đất mới cày còn hăng cỏ ối…lão đã từng hẹn hò nhưng chỉ mua vui, chưa bao giờ trông mong đến hẹn như hẹn cái Mơ lần này, lòng cứ vật vã, đứng ngồi không yên từ hôm hẹn gặp đến hôm nay. Lão đi như bay hay gió thổi ra quan lộ, chiều lên…Cái Mơ người kẻ chợ nhưng không điêu ngoa, chân chất thật thà như gái quê làng lão; không diêm dúa như gái tỉnh thành mà cứ lan toả cả vùng hương bưởi hương chanh trên mái tóc mượt mà, da trắng như trứng bóc, mùi nhài ngây ngất đến trong mơ…lão đi băng băng trên ngọn gió; mây quen vẫy chào anh trở lại; anh Tâm, anh Tâm, cậu Tâm…đã về.

Lão bắt gặp mình đứng tim trước cái Mơ giữ lời đã hẹn, lại còn vài cô bạn khúc khích cười sau lưng, họ tan theo mây chiều Vân Cẩu, rồi loãng ra thiên nhiên đến mất dấu trên đời, để chỉ còn lại lão với cái Mơ tình trong như đã…lão chào đi chào lại đã mươi lượt; cảm ơn trang trọng, chuyển qua chân tình, đã gởi đến người giữ lời hứa đôi lần; lão thử nói một câu cho ra hồn thì lão chỉ rành thịt chó! Không đâu bằng Cự Tuyệt chó gia! Cái món nghe mùi bỏ bạn ấy, thật hợp với lão muốn cả hai. Lão mời cái Mơ đi xơi thịt chó Cự Tuyệt để kỷ niệm muôn đời.

Mơ lông, mơ tím, mơ trắng…mơ hai mặt hai màu, nhẫn lông rậm lá gì lão Tâm cũng rõ. Nhưng Mơ hồng đôi má khi nghe mời đi xơi thịt chó thì lão Tâm ngất ngây…Giá thiên hạ đui mù một khắc cho lão hôn liều lên đôi má ấy thì từ nay lão yêu thương loài người hơn chúa ba ngôi…… Nhưng thiên hạ mở mắt từ khi chào đời, chỉ nhắm mắt lúc xuôi tay! Không có gì qua mắt loài đáng ghét từ thời nguyên thủy, cứ chú mục vào lão, bởi lão mặc đồ tây, đi giày tây bóng lưỡn. Giá lão khác người về tư tưởng thì đã thành vĩ nhân; sao lão lại khác người mỗi bộ comple để thành quái nhân thế này! Lão sẽ móc mắt từng người ở cái thị trấn tỏ tường thiên hạ sự…

Hai người sóng bước xa xôi, lão kề lại, cái Mơ không chịu. “Thị trấn toàn người quen, đừng đi cận em thế!”.Lão ra vẻ nam nhi nhanh nhảu, đi trước nàng đôi bước để trình diễn bộ comple chỉ lão Tâm mới có ở Vân Cẩu sơn lâm chướng khí này. Nhưng nhỡ sau lưng, gặp thằng phải gió, khiếm nhã thì chết tiệt. Các bạn cô ấy đã giao cho mình, là trách nhiệm từ đấy! Cũng khối cô xinh đấy chứ nhỉ, lần sau rủ theo vài tay sát thủ, chuối ngon ăn cả bụi cho rõ mặt lão Tâm thương bạn quý bè. Lão chậm lại cho nàng thong thả lướt qua, lời oanh tiếng ngọc đọng trong tai lão, “Khéo giả vờ…”.Lão sướng hơn lên trời. Vân Cẩu chiều nay mây chó sa….Ấy chớ, chớ có thòi cái dốt thâm căn…là thơ phú.

Giá cứ đi mãi đến trọn đời thế này thì lão Tâm không ăn thịt chó cũng cam lòng, ra khỏi phố đông đường hẹp, Mơ đi cận lão hơn, cận đến lão thấy mình trong mắt Mơ đắm đuối, cách nhau một con tim phập phồng, không, cách rốn lão một gang tay mới phập phồng. Từ nay, lão không mặc âu phục nữa. Loại quần áo may vừa vặn này thô thiển quá! May đã đến quán thịt chó Cự Tuyệt. Lão cự tuyệt thấp hèn, không để lòng lang dạ sói làm vẩn đục mối tình lão trân quý thiên thu. Lão rút khăn tây trắng tinh ra lau nghế, mời Mơ ngồi. Mơ sang cả hơn công nương, quận chúa… Lão hãnh diện chào hỏi những người quen; mỗi cô hàng buồn vương khoé mắt…

Cô hàng lần lượt bày lên mâm những đĩa thịt hấp dẻo thái mỏng mà to bản, chả nướng lúng liếng mỡ vàng tươi, giềng rang giã nhỏ rắc thơm lừng, đĩa dồi nướng vàng nuột, bát nhựa mận nâu nâu màu nhựa mận ấm áp chiều lên, lại còn có bát sáo măng đậm mùi xương ống… Lão đỡ ngượng tay hơn đứng nói chuyện, đi sóng đôi mà không được choàng; nói không biết nói mà hai tay cũng không biết làm gì. Thật ra hai tay biết lắm chứ, chỉ muốn ghì xiết cái Mơ cho thoả cơn thú tính. Lão không mèo mả gà đồng vì chỉ vui khinh buồn bỉ. Lão yêu cái Mơ bằng lòng ngưỡng mộ đức độ dung hoà; không quá thị thành mà cũng chẳng chân quê; không trưởng giả học làm sang là thứ lão ghét nhất; nhưng cũng không buông tuồng gấu váy, đánh đĩ giả thiền…

Bây giờ thì tay lão đã có việc, lão điệu nghệ pha thêm chanh ớt tươi vào mắm tôm, xin cô hàng tí đường cho khách quý…Lão nói, “Bọn đàn ông các anh không thích thêm đường làm loãng mắm tôm, nhưng các cô hảo ngọt nên thêm tí cho vừa miệng…”Lão khen thầm mình vung xích, khen ăn nói có căn vì thấy Mơ cười. Lão hứng chí, đánh mắm tôm ngầu bọt như nước sông Hồng mùa lũ. Kéo đĩa giềng non thái mỏng, lá mơ, rau húng, củ xả trắng tươi, ớt tươi trái đỏ…vào trung tâm bữa tiệc hai người.

Nhìn bàn thịt chó đã tinh tươm, lão hết chịu nổi. Giá bây giờ cô ấy bỗng nhiên phải ra về, sợ mẹ trông…thì chắc lão cũng không tiễn. Một cầy một rượu một đàn bà…lão nhớ tại bàn này, cái ghế Mơ đang ngồi nhưng không phải Mơ, bạn lão đã chữa thơ cụ Tú khi nhìn đến rốn cô hàng theo ngõ quỷ quan…Lão miệng mời tay gắp cho Mơ miếng luộc, lão cũng khai vị miếng luộc, nhúng đẫm mắm tôm rồi đưa luôn vào miệng… Cái Mơ trách yêu như rót mật vào hồn, “sao lại ăn uống thế, bỏ vào bát đã chứ!”.

Lão chữa ngượng bằng cốc rượu nếp đong đầy, rồi chiêu Mơ miếng nữa; lão chỉ như người nếm trước thức ăn cho nữ chủ com tim mù loà của lão Tâm Cự Tuyệt. Mơ cứ ngồi khép nép vân vê…má đỏ hây dậy tình. Lão chén đến chả nướng, cắn ngập răng cho thoả cơn thèm cắn phập vào nhau. Mơ cũng còn chưa hết ngượng, có lẽ phải nói chuyện cho không khí bớt đơn phương, nhưng thơ văn lão tịt, hội họa không rành, Nho ba chữ le hoe chém vè ai đỡ, nhỡ đối đáp không trôi thì xấu hổ tông đường. Lão nói về thịt chó là sở học tự tin. Lão nói luyên thuyên… tửu nhập ngôn xuất/ bất nhất lăn cù…cũng là thơ văn thịt chó tại quán này đấy chứ. Lão vui như tết, lão vui thấy Mơ vui, lúng liếng cười. Rượu nói manh nha lão mở đầu: Sống ở trên đời ăn miếng dồi chó, chết xuống âm phủ biết có hay không?...Cô hàng vô duyên đệm phá bĩnh, “làm trai biết đánh tổ tôm/ uống rượu thịt chó ngâm nôm Thúy Kiều…” rồi cười khắm bỏ đi. Lão sẽ nói chuyện phải trái với cái mâm - ai đi đưa lên cổ để gọi là mặt! Lão lo ánh mắt nghi ngờ của Mơ nhìn cô hàng đỏng đảnh, nhưng lão lờ đi. Ngon thật đấy, Mơ ăn đi chứ! Lão chiêu Mơ miếng dồi vàng óng, dồi đúng điệu đấy Mơ ạ! Dồi chó Cự Tuyệt danh trấn Vân Cẩu từ khai thiên lập quốc, dồi chó phải có lá cúc tần mới ra vị nhẫn đắng nhưng hậu ngọt; có lá đinh lăng lâu năm, lá trên cây đinh lăng già mới có hương sâm của rễ…ít lá mơ lông, mơ tím đậm mùi, hành hương bé cọng nhưng thơm sâu, không nhớt, trộn chung thái nhỏ với mỡ vụn, tiết ứ, đều tay mới trộn nếp ngâm, đậu xanh hạt nguyên vỏ thật mẩy, rang xổi lửa rơm đậu mới giòn bùi, rồi nhồi hết vào ruột vuốt tro tranh, tuốt lá bẹ. Rửa ruột bằng tro tranh mới hết hôi, rọc lá bẹ ra mà tuốt nhớt. Chỉ có Cự Tuyệt mới làm đúng miếng dồi ra miếng dồi. Đến luộc dồi không đâu qua Cự Tuyệt, những quán luộc dồi như luộc khoai là thất sách, lửa luộc phải nhỏ liu riu cho dồi không vỡ, chín tới phải vớt ngay ra hơ trên than hồng, mọi thứ phải chuẩn bị sẵn, vì dồi để khô gió ăn như bã đậu. Hong than rõ khô nhưng không được cháy, sau đó mới cho vào chảo mỡ rán đến vàng giòn lớp vỏ ngoài. Chỉ có Cự Tuyệt mới làm đúng miếng dồi ra miếng dồi, Mơ ăn đi chứ!

Ơ…sao mỗi miếng dồi cứ còn mãi trong bát, Mơ không ăn được dồi chó à? Miếng luộc cũng còn nguyên, thịt luộc của Cự Tuyệt thì không đâu sánh được. Những quán khác họ luộc xong đem hong qua than hồng cho khô da, lên màu nâu sậm, căng mềm…toàn những trò gạt, khỉ. Miếng luộc của Cự Tuyệt hoàn toàn là thịt đùi trước đấy; có nhầm thái đùi sau thì những khách quen cũng nhìn ra ngay! Thịt đùi trước xớ bé hơn đùi sau, trong xớ thịt có xớ gân đi kèm, nhưng lại mềm, dẻo hơn đùi sau khô ráp; ngọt hơn vài phần thấm thía chân răng. Cái đặc biệt của miếng luộc Cự Tuyệt còn ở chỗ không hóng qua than hồng cho khô da, căng mềm…khách thân quen ở quán này đều là những chó sĩ thâm uyên. Thịt chó luộc phải treo gác bếp qua đêm, để nó tự khô da, miếng thịt săn tự nhiên mà mùi khai tự có của thịt chó luộc cũng biến mất.

Thái miếng luộc cũng Cự Tuyệt chó gia mới ra miếng luộc, dao phải thật sắc, thái nghiêng lưỡi dao cho ra miếng bản to nhưng không vỡ thì trông mới ngon mắt. Khi ấy, ăn miếng luộc mới thấm đẫm linh hồn…gắp kèm miếng giềng non, lá mơ non, chấm đẫm mắm tôm cho rệu rời phế phủ mới biết quý nhau ngần nào khi người ta mời nhau đi ăn thịt chó Cự Tuyệt. Mơ ăn đi chứ, đã đi với nhau đến Cự Tuyệt từ đầu thì từ đó về sau muôn đời chung lối…

Lão nói được câu đắc chí nên tự thưởng cho mình chung rượu nếp ngọt thay, lão thấy Mơ cười tươi hơn giời đỏ ối trên đê Vân Cẩu, rượu thơm nồng tan loãng như mây…lão chợt buồn trong vui đã thành cố tật. Nụ cười thiên hương quốc sắc cũng điêu tàn. Mơ cười thêm tí nữa-rồi chia tay. Gió theo lối gió mây đường mây… lão buồn rũ rượi đến Mơ sợ lão say. Không. Lão Tâm tự truyện mơ hồ thế đấy Mơ ạ! Mơ có biết giờ phút này không trở lại bao giờ, mai ta có chung mâm đến cuối đời chăng nữa, hay xa nhau đến kiếp kiếp không về như mây gió trên cao…thì tiếng Mơ cười hôm nay ấm mãi hồn tôi. Lão thấy Mơ buồn, giọt lệ trang đài cứ chực rơi, Mơ rót cho lão chung rượu. Lão bưng lên hạ xuống đếm mươi lần. Mơ hỏi lão say chưa? Lão nghẹn ngào không nói…chỉ ấm ớ, ấm ớ…Mơ rót rượu cho tôi thật sao?

Lão Tâm ngỡ mình như lão đánh giậm được mời bữa giỗ, lão được Mơ rót rượu không ngờ…… Nhưng lão Tâm quỷ khóc thần sầu, là tên riêng của lão với bạn bè. Lão đã quên ân tình vì quên là nhớ; nhớ đầu môi chót lưỡi nghĩa là quên…Lão yêu Mơ thật rồi nên chóng quên Mơ vì sợ mất.

Mơ ạ! Rượu cất ở Cự Tuyệt cũng không đâu sánh được, chỉ riêng cái nước mưa ở làng Vân Cẩu uống đã say, thử hỏi đem cất rượu thì cung đình mỹ tửu cũng như nước ao bèo…Lão thấy Mơ cười như thấy trăng sao hợp cẩn. Lão Mơ ơi, Mơ à…dù ít hay nhiều cũng ăn bát nhựa mận với nhau. Cái món này thiên địa hợp nhất; cải lão hoàn đồng…âm dương hoà hợp đến chân lý! Này nhá, nhựa mận Cự Tuyệt không xoàng xĩnh như những quán đầu thừa đuôi thẹo thì ném vào nồi nhựa mận. Ăn như thịt lợn xề, nhựa mận lãng đãng ăn chẳng ra sao; nhưng đặc quánh như thịt đông chưa nguội cũng không ra nhựa mận. Ấy mới là cái thấy. Còn cái vị có ngon thì phải từ cái hương dẫn lối. Hương vị phải nồng ấm; nồng mà không ấm hay ấm không nồng cũng hỏng, như đôi vợ chồng đồng sàng dị mộng…

Lão nói gì mà nghe thuyết phục, Mơ mơ màng đến chín cung mây…lão xoay mãi chung rượu trong tay, nhìn lão hết kẻ chợ, cũng không cậu ấm. Nhà hiền triết phương đông đang tiễn ngày đi, lão bất chợt hỏi Mơ câu khó trả lời rồi vội vàng xin lỗi. Nhưng Mơ nhớ câu hỏi ấy suốt đời vì câu trả lời không phải một hai hôm: Mơ đã rót rượu cho lão, Mơ sẽ rót rượu cho lão. Lão uống chung rượu có Mơ nhấm môi qua, Mơ nhìn lão hạnh phúc đến ngưỡng mộ.

Nhưng lão Tâm đang thuyết chó, dễ gì lão ngừng. Một ý tưởng bất chợt, một bắt gặp ngẫu nhiên, có thể biến lão thành con người khác: thâm thúy, tinh ranh, giàu tánh thiện, khôi hài,…lão không ưa ác ý với người, lão tâm thục lương chánh. Mơ còn nghĩ ra lão thủy chung, rất mau quay về bản chất ngọn ngành từng câu chuyện. Lão nói tiếp về nhựa mận tự bao giờ, Mơ à, Mơ ơi,…Mơ ạ! Thịt nấu nhựa mận phải dầy da thì mới có nhựa, phải có thịt cho đôi đũa có mắt thì mới là đãi nhau thật lòng. Thế thì còn đâu hơn thịt đùi sau, da dầy thịt nạm, ninh lửa liu riu cho da ra nhựa chứ gấp ăn là hỏng, ninh đến thịt, nước lên màu mận dịu dàng…màu trái cấm nơi vườn địa đàng đã làm cho ông Adam với bà Eva quý nhau từ đấy…

“Anh đừng uống nhiều rượu quá; đừng nói đến Đạo có được không?””

“Thế Mơ ăn với anh bát nhựa mận nhé, đôi đũa của Mơ còn mới nguyên thế kia! Biết thế…(lão thở dài với sao hôm vừa mọc). Mơ lạnh à?”

“Vâng, tí thôi.”

“Khoác đỡ cái áo anh, ta ngồi chơi tí nữa, được không?”

Lão nói dứt câu đã khoác lên Mơ cái áo cứng còng của bộ âu phục đàn ông, Mơ thích thú lụa mền bên trong hay hơi ấm, chắc cả hai đều cần cho tới mai sau, ai chả muốn ấm áp, mịn màng… Tiếng lão tâm cứ rù rì như sóng ngoài đê nhẹ gió,“thế thì nhất định ăn bát nhựa mận, cái món thiên địa hợp nhất; cải lão hoàn đồng này không có trên thiên đàng; càng nhỏ rãi lũ quỷ sứ dưới âm ty địa ngục…Cự Tuyệt danh bất hư truyền về món nhựa mận, có lẽ đã đến tai Ngọc Hoàng Thượng đế đấy Mơ ạ! Ngay miếng thịt để nấu nhựa mận đã công phu, phải thịt đùi sau, thịt phải giai mới đậm đà miếng thịt, ngay cái vị ngọt của nó cũng khác những chỗ thịt non, - chỉ để nướng vớ vẩn - nhờ mỡ chài với gia vị un khói gọi mời, món trẻ con thích nồng cay túy lúy…… Nhựa mận mới là món thâm thúy thâm sâu. Nhựa mận Cự Tuyệt còn tinh vi lừa lọc thịt cổ để có những miếng cắn vào sần sật mà không ngấy mỡ…nấu chung với ít xương cổ rồi với bỏ vì chỉ cốt ngọt nước. Xương ống nấu sáo măng chứ không dùng cho nhựa mận vì xương ống nấu ra sáo trong; vị thanh không mùi nên mới giữ được mùi măng. Xương cổ nấu nhựa mận vì không cần trong nước, lại vừa nước tiết trong xương sốp tươm ra, làm cho nước nhựa mận đậm dịu; chất béo trong xương sốp hoàn tan ra nước độ ngọt đầm, không ngọt sáo như nước dùng sáo măng, không ngấy như mỡ lòng, mỡ lợn…

Mơ ngồi ngoan như học trò thầy Nhất Y nghe giảng Lương Trung Sách của Khổng Tử. Chưa ai nghe lão chăm chỉ như Mơ, sự cung kính uyên bác của một nhà bác vật cũng không bì được với lão Tâm nói về thịt chó. Lão thì say Mơ hơn rượu. Đời lão không có Mơ sẽ uổng kiếp làm người…lão nói đến đâu rồi nhỉ? À, đến phần quan trọng nhất trong sự thành công hay thất bại của nồi nhựa mận là ngâm tẩm thế nào đây?

Cẩu nhập ngôn xuất lão…từ trước Công nguyên thăm thẳm, cha ông ta đã nghĩ chín mùi ra tam hợp vị cẩu. Nhựa mận không thể thiếu giềng, mẻ, mắm tôm. Người nấu ở nhiều tay tầm mà biến hoá, ở Cự Tuyệt, cứ nhìn đĩa giềng lát thái mỏng để ăn chêm với miếng luộc, lá mơ non. Những lát giềng non thơm ngọt, không quá hăng, quá chát, không giai…đủ biết đầu bếp Vân Cẩu đã hơn đời mươi bậc. Lá mơ già thái vô dồi cho nồng nàn chan chứa, lá non ăn sống không hăng, chỉ thoảng mùi là đủ, không át mùi thịt thơm đến chín mây tầng…giềng non ăn sống cũng có ý cả đấy, phần giềng già ngồi giã đã cay, thì giã vào nhựa mận. Giềng bánh tẻ, giềng rẽ quạt, không đâu ngon bằng Vân Cẩu địa linh. Những quán thịt chó nhà quê, giã giềng cho luôn vào nấu là thất sách. Cho dù giã nhuyễn đến đâu thì khi ăn cũng xảm miếng. Phải giã nhuyễn nhưng vắt khăn với nước trong, nhiều lần để lấy hết chất giềng nhưng bỏ xác.

Đến mẻ cũng lựa hũ mà dùng, hũ mẻ đã váng vàng mới ngấu, lấy cho được phần mẻ dưới đáy hũ lấy lên thì mẻ đã chín hết cơm cháo ban đầu. Dẫu có câu nát như mẻ ngấu thì mẻ nấu nhựa mận cũng phải gĩa thêm cho nhựa; giã như cháo bột thì tẩm ngâm mới thấm.

Đến mắm tôm Mơ ạ! Cũng nhìn mặt mắm mà dùng, mắm đỏ thì ngon nhưng đỏ tự nhiên của ruốc lên màu mắm nhờ phơi nắng; khác với mắm tôm gió bão mưa ngâu, cứ xám xì xám xịt. Mắm tôm tươi đủ nắng đi vắng mới dùng tới mắm chưa thắm đã chì. Ba thứ gia vị tinh kỳ là đủ, đừng vẽ vời ba hoa, nào còn thêm củ nghệ cho vàng võ da trơn; chỉ báng mùi giềng tinh khiết. Có cũng tốt là ít rượu trắng, rược báng mùi chó tơ lơ hông chó già; rượu làm cho mềm thịt, khơi hương toả vị khắp xa gần…nhưng không báng mùi tam hợp vị cẩu là mắm tôm, giềng, mẻ

Ba thứ ấy cứ nhìn thịt mà ngâm tẩm già nửa phần gia vị, phần chừa thêm thắt thêm sau cho vừa chua đặc biệt vị chua của mẻ, vừa mặn mòi nhờ mắm tôm tươi, vừa giềng không loãng nhưng không gắt…ngâm tẩm độ canh giờ đã dậy mùi hương thì cho lên bếp liu riu, cứ than mờ than tỏ vừa sủi tăm là được, nước luôn sâm sấp thịt chứ không lênh láng như sáo măng. Cứ đun mà không vội thì nhựa mận mới ra, màu nhựa mận sẽ ánh lên kêu mời, mùi bâng khuâng khứu giác, đã ăn một lần thì nhớ mãi như quên. Gặp trưa hè oi ả, ăn bát nhựa mận thì phế phủ lên mây…”

“Ơ, em nghe bảo thịt chó nóng lắm, ăn vào tiết đông thì được ấm lòng…”

“Ấy là cánh nhà quê, cứ hư hư tưởng tưởng là thịt chó nhiều bổ, sinh hoả, nên ăn đông được ấm. Anh đã bảo món này là thiên địa hợp nhất; cải lão hoàn đồng. Bốn mùa ăn năn vì cứ ăn vào là rần rật tâm can…”

“Thế thì…em chả ăn đâu!”

“Nhưng anh đã rần rật cả người…”

“Nham nhở, em về đây.”

“Anh đùa thôi. Xin lỗi. Ấy, vốn là một thuyết lung lay. Các cụ ta có mách: đông mè hè khuyển. Khi mùa đông đến, trời lạnh làm cho hoả trong người không toát ra được. Mùa ấy ăn cá mè, cá mè vốn mát nên hạ hoả trong người. Ngược lại mùa hè, trời nóng quá nên nhiệt trong người toát hết ra ngoài, trong mình thế mà hàn. Mùa này ăn thịt chó, loại thịt này nóng để quân bình âm dương…”

Lão không ghe phản ứng, lão ăn năn xám hối, sao lại đi nói câu thật lòng ban nãy để Mơ buồn. Nhưng nhìn Mơ mắc cỡ như xinh hơn trăng sao Vân Cẩu. Lão cầm khẽ đôi bàn tay xin lỗi. Mơ để yên cho lên màu nhựa mận. Ngâm tẩm đôi bàn tay trong tay để vuột trôi. Lão đưa Mơ về phố chợ còn lão về đồng. Mùi nhựa mận thiên thu vĩnh quyết, lan toả trong gian phòng lão Tâm tắt thở. Tiếng Mơ còn dìu dịu trên đê Vân Cẩu.“…Tên em là…thế đó! Đừng gọi em là cái Mơ nữa nhé!”

Lão vội vàng quên ngay, tính tình lão thế! Lão nhớ điều gì điều ấy không ở lại trong lòng, lão chỉ nhớ điều đã quên. “…Anh thấy người ta tên cái Hồng; cái Loan…Em không nói tên mình thì anh gọi cái Mơ, vì lúc nào không mơ thấy em…” Mơ tựa vào vai lão cả linh hồn. Mơ đã thật sự quên trong lão Tâm từ đó!

Anh chị Tâm cũng vừa đưa đến món nhựa mận nấu bằng thịt dê. Lão hồi dương mãn nguyện, đôi mắt cười: Anh đã gặp em…Mơ.

5.

Anh Tâm đổ xuống như cây chuối gục, sau đám tang lão Tâm. Đến nửa năm cũng chưa thấy anh bình phục , cứ lầm lì. Sự thay đổi lớn trong một đại gia đình sau cái chết của lão Tâm là điều khó hiểu. Đã nhiều năm lão Tâm không động móng tay đến bất cứ việc gì, ngược lại nhiều người còn phải chăm lo, săn sóc lão. Cụm từ “chỗ dựa tinh thần” tưởng như chỉ để vuốt ve tự ái những người già trong gia đình, người thợ đã về hưu nơi hãng xưởng, ông thầy giáo chống gậy đi dự lễ ra trường của khoá sinh không hề biếtù tên ông… Luật đào thải khắt khe muôn đời; một người hết giá trị lợi dụng như chiếc bóng bên đường; bóng nắng hay bóng đèn đêm cũng chỉ là bóng trên dòng trôi miên man…

Anh tâm nghĩ suy sau buổi làm mệt mỏi, tay lái xe tự nó đưa anh về căn nhà không mở đèn. Bà lão Tâm vẫn ngồi đó, căn phòng như rộng ra vì trống ghế lão Tâm. Lão dọn lên bệ lò sưởi mỗi tấm di ảnh, mọi thứ liên quan đến lão đều lặng lẽ chuyển đi cho bà lão bớt thấy cảnh nhớ người. Dì nó chưa dọn về ở với bà lão héo hon mảnh tang chồng thì anh rể cũng không yên giấc, cứ ghé thăm bà luôn. Nhưng bà như giận như hờn mỗi khi thấy mặt anh. Chị Tâm sang săn sóc mẹ, mẹ cũng không cần, sau nhiều lần gạn hỏi một chị Tâm không biết gì hơn tròn bổn phận gia đình. Lúc này còn thêm đau nhức, khó ngủ…cho ra dáng bà ngoại con nít. Chị là con cả của bà lão Tâm nên nhìn như khuôn đúc, nhưng tính tình giống bố, không để dạ qua đêm. Anh Tâm biết vợ thương mẹ nhiều, nhất là từ khi bố mất. Nhưng gần đây, mỗi lần để chị lái xe một mình sang thăm mẹ, chị tần ngần như đi đối phó. Anh hiểu hơn ai về bà lão Tâm cật vấn vợ anh là gián tiếp bảo anh khai báo về lão Tâm. Anh không hiểu vợ chồng già như củi mục, còn nghi hoặc nhau chi cho thêm phiền…nếu lão có con rơi thì cũng cỡ tuổi anh, thậm chí lớn hơn anh, càng có lý. Thế thì người đàn ông ngoài sáu mươi nào còn cất công đi tìm người cha vô tình.

Nếu xét về của cải, gia tài…thì từ khi qua Mỹ, lão Tâm đã ăn trợ cấp chính phủ. Nhà ở là con cái hùn nhau trả góp cho bố mẹ hàng tháng. Chút đỉnh tiền già không đủ lão rượu bia, tuy uống không nhiều như lúc trước, nhưng tính tình phóng khoáng của lão Tâm thì ai chả biết!...

Anh Tâm ngồi nghĩ mãi không biết mẹ muốn gì, mà anh cũng biết gì về lão bố vợ muôn năm quên trước quên sau. Người chỉ giàu lòng nhân ái, vị tha…chút tiền già còm cõi, cúng tế cho những trang báo kêu gọi lòng hảo tâm; tiền trao đi đôi chục bạc đáng gì cho mẹ sinh nghi! Anh Tâm đổ hết cho tuổi già nên bàn với vợ! Lên kế hoạch chi tiết hoá từ tình cảm tới tiền bạc để tránh sinh nghi khi tuổi già chứ không phải thiếu tin nhau mà sổ sách…Bây giờ cập nhật trên máy điện toán cực nhanh, không giấy viết gì đâu mà ngại

Chỉ tổn thương cho vợ héo hon khi nghĩ tới tuổi già. Anh bỏ lơ không nhắc gì tới nữa. Nhưng ghé thăm bà lão Tâm những khi đi làm về sớm hay cuối tuần. Nhìn di ảnh lão Tâm trên bệ lò sưởi, anh Tâm thấy bất nhẫn. Ai cũng bất nhẫn, lão thu xếp cho anh đám cưới xong thì vượt biên để có chết thì chết cặp. Bây giờ lão ung dung, bỏ vợ cô đơn chiếc bóng; anh mai này cũng như lão, vợ anh như mẹ cô ấy cô quạnh trong căn nhà sớm xế chiều hôm…có những quãng lặng trong người không nhạc sĩ; những quãng lặng của đời sống… mà khi vui ít ai nhớ để dành cho những lúc tâm tư bế tắc. Anh ngồi nguyên ngắm bức di ảnh lão Tâm, tiếng bà lão trong ánh sáng chiều đông ảm đạm như âm phủ vọng về, “Anh Tâm, tôi muốn nói lời cảm ơn tự đáy lòng với anh, khi tôi còn tỉnh táo…”

Anh Tâm hoàn hồn sau mấy phút phiêu diêu với bố vợ trong áng sáng nhạt nhoà của một ngày cuối đông lạnh lẽo, “Mẹ có buồn thì sang con ở, dì Út đám nhỏ cố bán căn nhà để về ở với mẹ; nhưng gặp lúc nhà đất khó khăn; để nó bán đổ bán tháo thì con không ưng thiệt thòi cho nó quá. Bù đắp cho nó…mẹ biết vợ chồng con có lòng nhưng không có sức.”

“Anh không phải nói với tôi những chuyện tôi hiểu”

“Thế mẹ muốn con nói với mẹ chuyện gì?”

“Anh đi lo việc gì cho lão Tâm trước khi nhắm mắt?”

“Bố muốn ăn nhựa mận, bố thèm. Con nấu dê giả chó cho bố, bố còn ăn được gì lúc ấy. Nhưng mùi hương vĩnh biệt trần gian như nguyện…nếu có thể thì làm. Con chỉ biết thế thôi!”

“Không có gì nữa chứ?”

Gương mặt kẻ chợ sáng trong đôi mắt già nua làm anh Tâm rối trí…“Mẹ không sao chứ?”

“Tôi không sao. Khi còn tỉnh táo, tôi muốn cảm ơn anh…như người con cả trong gia đình. Dâu là con rể là khách, nhưng anh đã đối xử với lão Tâm như bố đẻ. Anh, thay vì giờ này về nhà uống chai bia, anh ghé thăm tôi…”

“Thì vợ con, mang ơn sinh thành của bố mẹ, nhưng nấu cho bố mẹ được mấy bữa ăn. Trong khi ngày nào cũng nấu cho con ăn.”

“Tôi không kính quý anh thì đã không giao con nhớn cho anh trong hoàn cảnh bấy giờ, càng không ra vàng cho anh đưa nó đi vượt biên! Sinh mạng, chuyện cả đời con tôi đẻ tôi xót, mới là thứ quý hơn tiền của, chỉ là vật ngoài thân…”

“Nếu mẹ thương con như đẻ con chứ không phải rể, thì nói toạc ra đi. Mẹ buồn con chuyện gì? Từ hôm bố mất, mẹ đau buồn phần bố thì ai cũng biết! Nhưng chuyện gì, con cái lỗi gì, đứa nào không phải…Con không chấp các em chuyện tiền bạc: nhỏ nhen, ti tiện…bởi tánh giời. Trong nhà còn dì út nó, biết phải quấy là con đã mãn nguyện. Nhưng bất hiếu thì không tha được. Con hứa với mẹ, con không khoan nhượng. Ngay cả vợ con cũng không! Đứa nào đã gây nên chuyện gì, để mẹ không vui?”

“Chẳng ai lỗi gì…Anh về đi. Hôm nào bình tâm, cho tôi thưa chuyện.”

Anh Tâm cáo từ đủ phép, ra về. Nói hay không nói cũng thế thôi! Anh nói vội khi cánh cửa chưa khép hẳn chuyện lòng… “Bố bảo con đưa bố về đê Vân Cẩu, bố muốn ăn bữa nhựa mận với cô Mơ ở quán thịt chó Cự Tuyệt. Đó là nguyện vọng cuối đời của bố, muốn gặp lại cái cô bố đãi thì không ăn, nhưng hôm sau cắp thúng ra mua đủ cả… Bố không gặp lại cô Mơ ấy bao giờ nên cuối đời bỗng nhớ đến nhau thôi!

Mà làng ta ngoài bắc cũng đâu phải làng Cự Tuyệt, có con đê Vân Cẩu nào đâu! Hoang tưởng vì đột qụy thì lỗi gì mà mẹ để lòng?”

“Anh về đi. Tôi muốn đi nghỉ.”

“Vâng.”

Anh Tâm chỉ dặn người giúp việc cho bã lão, “Cụ có việc gì, chị phải gọi tôi ngay! Tôi về nhà để lo cho bọn trẻ, nhà tôi sẽ sang đây ngay!”

Anh đấm vỡ kính xe mình sau khi chị giúp việc khép cửa. Máu lính đã một lần ăn cơm quân trường, nó lậm vào phế phủ đến quy tiên. Anh lái đi như bay, rồi giận mình. Một kẻ mất lý trí cần chết riêng; đừng liên lụy người vô tội. Anh chưa về đến nhà đã phải quay đầu xe trở lại…

Không ai nghe bà lão Tâm nói gì từ đó về sau. Đến cuối đời lão bà theo chân lão Tâm, con cháu cũng chỉ còn chuyện kể của chị ở để thương bà lão…Chị ấy kể lại rằng: “anh Tâm đấm vỡ kính xe ngoài sân, trong đây cụ nghe thấy rõ hết! Cụ bảo: Sao anh không vào đây tát vỡ mặt tôi…rồi cụ khóc. Tôi thấy không có gì nên để yên cho cụ tĩnh tâm. Tôi đi dọn dẹp trên lầu. Cái máy hút bụi ồn quá nên không nghe cụ khóc, vừa tắt cái máy thì nghe cụ nức nở dưới nhà…tôi xuống đến thang lầu thì nghe rõ lắm, trông thấy hết, cụ ôm ảnh thờ cụ ông vào lòng, khóc nức nở, nhưng xem ra không giận hờn…cụ nói vớ cụ ông: em đây, em đây mà. Em là cái Mơ đây! Lão để em trong lòng đến cuối đời lão thế sao…sao lão không nói cho em biết! Em vẫn thích lão gọi em là cái Mơ, nhưng tưởng lão quên rồi! Nhưng quả đất tròn, em mà gặp lại cô hàng thịt chó thì tát vỡ mặt nó ra! Sao lại đi nói với lão là em cắp thúng đi mua đủ cả…Cụ hôn ảnh cụ ông chùn chụt, tôi ngượng quá, bỏ trở lên lầu. Không ngờ cũ ngã dưới nhà, tôi gọi anh Tâm hớt hải là vậy!”

Cái Mơ bây giờ ngồi trên bệ lò sưởi với lão Tâm, đôi mắt lúng liếng cười khi anh Tâm dâng lên nhựa mận nấu bằng thịt dê. Cái anh lính đa tình còn biến bệ lò sưởi thành đê Vân Cẩu, cất quán Cự tuyệt cho một kiếp yêu nhau .

Ba Con Chó

PHAN

1. Con Mực

Nhà tôi có con chó mực

đen tuyền, đen đến cái lưỡi đỏ của nó cũng có đốm đen giữa lưỡi. Tôi nhớ, nó có bốn cái móng treo ở bốn chân vì cách mặt

đất cỡ lóng tay, nhưng ai cũng gọi là móng

đề, chó có móng đề không hiếm nhưng đủ bốn chân bốn móng thì

đặc biệt và dân gian cho sự vẹn toànđó là

đặc tính khôn ngoan và tận trung của một con chó. Tôi nghe

được những lời khen ngợi con mực từ bạn cha tôi đến chơi nhà, lời bình phẩm của những người hàng xóm, rồi quên đi khi có bạn trang lứa rủ đi chơi. Chỉ nhớ ra con mực đáng tin cậy khi đi chơi một mình, có cảm giác sợ ma hay sợ chó hàng xóm ưa rượt đuổi con nít thì kêu con mực

đi theo, và nó rất vui vẻ theo tôi rong chơi suốt mùa hè vô tận khi tôi chưa đi học. Nó ngày càng thân thiết với tôi, hiểu ý nhau nên

đi chơi mỗi ngày xa hơn một chút…

   Đôi lần cha cho tôi đứng trong lòng chiếc xe vespa của ông, cha lái xe chậm rì trên con

đường chiều lộng gió, thỉnh thoảng mới thấy cái xe ngựa ngược chiều, máng, treo lỉnh kỉnh quang gánh và tiếng trò chuyện của người quen trên xe ngựa, tôi hãnh diện lắm khi những người ngồi trên xe ngựa thấy tôi đang được đi xe vespa, có tiếng máy nổ pong pong khoái tai. Thỉnh thoảng gặp người đi bộ hay xe đạp, xe gắn máy hiếm hoi, họ chào hỏi cha tôi, tôi chào lại rất lễ phép để hy vọng được cha cho đi theo những lần sau. Những buổi chiều không ngày tháng nên còn hoài trong ký ức, bên trái là những xóm nhà ẩn hiện trong màu xanh của lá, lưa thưa những thân cau, thân dừa vươn lên trời xanh, bên phải con đường là ruộng lúa mênh mông, thỉnh thoảng nổi lên giữa bao la xanh rì của lúa là những cái gò mả, có gò chỉ vài cái mả, có gò hơn chục cái, những cái gò ám ảnh tuổi thơ vì từ

đó người lớn thêu dệt, chế tác ra bao nhiêu chuyện kinh sợ

để hù doạ trẻ con

đừng đi chơi xa… Và không ai biết những toan tính, ước mơ gì

đã hình thành trong tâm tưởng tôi từ dạo đó! Tôi cũng quên luôn với mỗi lần cha tôi dừng xe rất chậm rãi, tắt máy, dựng xe lên, gác cây súng săn lên chiếc yên dài của xe vespa. Ông ngắm rất kỹ, kỹ

đến mười lần thì hơn năm lần con cò

đã bay mất; Ba, bốn lần kịp bóp cò thì chừng hai lần phải phiền

đến con mực, nó lẽo đẽo chạy theo xe cha con tôi, không sủa một tiếng, biết căng mắt chờ đợi trong im lặng, khi nghe súng đã nổ, con cò ngã gục là nó lao

đi lượm xác, tha về.

   Những năm tháng

êm

đềm của tuổi thơ trên một vùng quê thanh bình trong

đất nước chiến tranh lan rộng là sau này mới biết. Những toan tính, ước mơ như gió thoảng qua tuổi dại khờ thì còn lại ký ức mông lung. Nhớ một hôm, ông Quận trưởng và nhiều lính đến nhà, hai, ba bàn tiệc được bày ra trong nhà, ngoài sân. Bàn cha tôi với ông Quận trưởng, thêm mấy ông bệ vệ nữa trong nhà. Bàn mấy anh lính cũng tưng bừng ngoài sân, bàn các bà, các cô hàng xóm sang phụ việc tiếp khách cũng vui nhộn dưới bếp. Một ngày rôm rả tiếng nói cười trong căn nhà cuối xóm ngó ra sông, - những ngày dài, chỉ có tôi với con mực ngồi dưới giàn mướp, nhìn ong, hay chơi trò chơi duy nhất là móc đất sét ờ bờ ao, ngồi nặn nhiều hình khối

để xây lên thành quách. Tôi có ba ông lính bằng chì: một nằm, một ngồi, một

đứng. Họ là lính Pháp nhưng quần áo bằng sơn đã tả tơi, lộ chì nơi đầu gối, đỉnh đầu, bả vai… Nhưng tôi nghĩ do họ đánh giặc hoài nên quần áo rách hết… Tiếc là tôi không có nhiều lính để thay thế cho họ nghỉ ngơi, họ cứ phải trấn giữ thành trì, di chuyển liên miên

để chống đỡ Đức quốc xã tấn công, những tưởng tượng từ phim Đệ nhị thế chiến trong tivi mà tôi coi được. Con mực chăm chú theo dõi tôi xây thành, hò hét chiến

đấu… tới mệt quá thì ngủ luôn tại trận, trời mưa hay bà vú gọi vô ăn cơm mới giãn tuồng. Cả cái thành trì bỏ xuống ao, tắm rửa cho ba ông línhđể ngày mai lại xây thành

đắp lũy… Ngày tháng ở nhà quê cứ thế êm trôi, những hôm mưa bong bóng mới thật là buồn, hai đứa ngủ gục trong căn nhà lạnh lẽo, oai nghiêm những đồ thờ đến hoang tưởng trong mơ. Trời mưa nên không gian trong nhà tối tối, sợ quá thì tuột xuống hầm, căn hầm chống pháo kích là bộ ván gõ thật dầy, dầy

đến nửa thước ván, xung quanh chất bao cát, đào âm xuống

đất thêm cả thước tây, cha làm cái dốc thoải xuống để khi nghe pháo kích chỉ việc tuột xuống là hết sợ. Trẻ con nào cũng thích tuột dốc xuống hầm nên chúng tôi nhuần nhuyễn, chỉ nghe tiếng máy bay bay thấp thôi là đã có

đứa dưới hầm. Tôi với con mực thường rút xuống đó chờ mòn mỏi trong thinh lặng, chờ mẹ, có hôm thì bà vú

đi chợ về để có được chút quà vui miệng.

Đâu ngờ hôm nhà vui tiếng người là ngày đại nạn của con mực. Tôi đang chén thù chén tạc nước xá xị hiệu con nai với mấy dế sĩ ngoài vườn, ỉ cậy vào những biệt đãi của cha mà làm càn, tội lớn hoá nhỏ, tội nhỏ hoá không nên ngang ngược vào nhà bếp bưng luôn dĩa chả lụa xắt khoanh, bưng cả dĩa gà luộc đi đãi bạn bè, mặc tiếng bà vú la ơi ới, "ông trời con ơi là ông trời con…" Có khi cỡi chổi ngựa, cho mình là cao bồi cướp xe lửa, cỡi ngang nhà bếp, cướp chả giò hay dĩa xôi, chạy tuốt ra góc vườn xa là rừng, chia của cướp được với đồng bọn đang chờ ngoài đó…

   Con mực gặp đại nạn khi cuộc dế luận hôm đó đang gay cấn vì thằng con ông trưởng ty cảnh sát cũng là một dế sĩ uyên bác, nó biết cách làm cho dế than đá ăn dế lửa mới kỳ ngộ! Nuôi dế than bằng lá ớt chứ không cho ăn cỏ, tối, đem dế than ra hè phơi sương chứ không cho ngủ dưới gầm giường, (ba ngủ không được là liệng hết dế ra sân), nhưng cái hộp dế phải buộc sợi dây vô gốc cây, để phòng kẻ trộm! Thằng nói dóc dẻo

đeo, nghe nó, dế than cho ăn lá ớt, chưa kịp phơi sương đã ngủm cù

đèo. Nhưng lần nào nó tới nhà, nghe nó nói chuyện cũng dễ tin như thật. Nó đang rôm rả ngoài vườn với những dế sĩ thò lò mũi xanh ở nhà quê thì con nha

đầu hàng xóm, không

được cho ăn chả lụa, uống xá xị, vì cái tội chơi bán đồ hàng nhưng không bán chịu cho những kỵ sĩ ngựa chổi, có bị phá quán thì chỉ biết ngồi khóc. Nó hớt hải chạy tới mỉa mai: "Tham

ăn chả lụa, no bụng rồi thì bụng

đâu mà

ăn thịt chó!" Tôi không hiểu hết lời mỉa mai đó đâu, nhưng linh tính không lành, chạyđi tìm, miệng kêu con mực ơi ới… đến khi cứng họng vì hai, ba ông lính

đang đè con mực của tôi ra, họ khứa ngang cổ nó một

đường dao, ông lính ngồi xổm trên

đôi giày saut

đang dùng cây

đũa tre chuốt nhọn, cho vào vết khứa lục tìm gân máu. Tôi biết vì

đã từng thấy, họ lấy tiết

đỏ để làm tiết canh

đó mà. Bây giờ la lên, khóc lớn, cũng không cứu

được con mực. Tôi de ra xa để lấy trớn, chạy hết ga, tông vô ông lính ngồi xổm, ông bất ngờ nên bật ngửa. Hai ông

đè, sợ tôi trúng lưỡi dao nên buông con mực ra để bảo vệ tôi. Con mực thoát chạy. Mọi người đuổi theo, tôi đuổi theo ra sông. Gặp chiều nước cạn, nó cùng đường trên cây cầu giặt làm bằng mấy miếng vỉ sắt đáp trực thăng, nó lao luôn xuống sình. Ngồi quay

đầu lại nhìn những người truy sát. Mọi người tránh đường cho cha tôi ra cầu giặt, hai cha con đứng trên cầu giặt, cha rút súng ngắn, ngắm vào con mực. Mắt nó mở to, hai dòng lệ thả xuống, hoà vào dòng máu từ cổ tứa ra theo hơi thở… tôi thấy con mực gục xuống, tôi lao đi lượm xác nó như nó lao đi lượm xác những con cò. Chỉ không nghe tiếng súng nổ, cha

đã cho súng vào bao da. Lặng lẽ quay về.

   Một mình tôi với con mực dưới sông cạn. Chấm hết mùa hè bất tận ở nhà quê, tôi đi học. Vào lớp dự thính nên phải ngồi cuối lớp, con mực đục lỗi vách lá trường làng, chui vào lớp học, nằm im dưới chân tôi tới hết buổi học thì cùng về. Có nó

đi cùng thì không sợ chó nào tấn công mình vì nó không sợ con chó nào hết…

  

Đã hơn bốn mươi năm thời gian, người đi kẻ ở, sống chết âm dương… Sáng nay ngồi đọc báo một mình ngoài patio với ly trà buổi sáng. Con chó con

được kể là món quà sinh nhật trong mơ của thằng con nhỏ trong nhà, nó ước mơ có con chó từ khi đi lớp 1, nhưng lần lửa hẹn hoài, hết hè này đã

đi lớp 7, nó còn ở nhà với gia

đình có 5 năm nữa, không cho nó bây giờ thì bao giờ? Tuổi nhỏ không có con chó của mình như người già không nơi nương tựa. Đó là sự xuất hiện của con chó mới hai tháng tuổi, một thành viên mới của gia đình, chó con chưa leo nổi lên cái ghế bành, hứ hứ dưới chân. Thử sức thông minh của nó bằng cách tiện chân, lăn trái banh đá của thằng con đến sát cái ghế, giữ đó cho nó chứ không nói gì. Con chó con không tệ, biết dùng trái banh làm thang leo lên ghế bành, nằm gọn trong lòng tôi, lim dim như trẻ thơ no sữa. Người ta đánh chó chạy đi, ai đánh chó chạy lại. Thả nó xuống đất, nó lại leo lên, những tình cảm

đối với loài chó

đã ngủ yên trong lòng từ lâu, con chó con khơi lại, nó như  đứa trẻ non nớt đã phải xa gia

đình, không có người thân, đi tìm một nơi nương tựa… Hình dung ra bao

điều, nó vẫn nằm im trong lòng tôi

để nghe kể tiếp chuyện con mực.

   Hôm đó, tôi đưa con mực về nhà bà ngoại. Tôi không có bà ngoại nên gọi bà ngoại của thằng bạn bên hàng xóm là bà ngoại,

để được chia quà ngang bằng với nhau. Bà ngoại không biết chữ, nhưng biết chia quà công bằng, chẳng kể cháu ruột hay trẻ con nhà hàng xóm. Bà ngoại của tuổi nhỏ kêu là bà ngoại chỉ để được chia quà, nhưng khi không còn nhỏ, mua chút quà gởi cho ngoại thì nghĩ  là bà ngoại ruột của mình. (Tiếc là khi nói dối ngoại

để được quà thì ngoại biết, nhưng khi gởi quà thật lòng về ngoại thì ngoại

đã lòa.) Hôm

đó, ngoại đắp thuốc xỉa, rịt thương cho con mực. Nó không về nhà cả tuần, nhưng tới hai đứa ăn cơm hàng xóm, tối, ngồi ngoan nghe ngoại đọc kinh, rồi đi ngủ. Ăn ngủ bên nhà ngoại như nhà mình, làng quê Việt nam ngày

đó, hàng xóm không có bờ rào như sau hoà bình, lòng người không then chốt, thênh thang…

   Nhà ngoại có con chó trắng, giận lẩy bỏ đi đâu không biết. Thằng bạn trở mặt vì con chó của nó hết

được ngoại thương, nó đi giã hột bã

đậu cho con mực uống, cho Tào Tháo

đuổi con mực chết luôn đi! Trưa thanh vắng mà nghe văng vẳng, tiếng cốt xe tăng nện vô nón sắt của lính, tưởng ngoại giã

đậu phộng để làm muối

đậu-ăn xôi buổi sáng, cứ tới lăng xăng, thể nào ngoại cũng cho vài hộtđậu rang, ai dè tới nơi mới thò lõ con mắt thấy

được âm mưu sát cẩu. Nó giã xong hột bã

đậu, bỏ hết vô cái chén, đổ nước trà tươi còn ấm,

đem giấu chén trà

độc vào kẹt lu nước, ngâm đó, rồi đi chơi. Nó đâu biết chén trà bã

đậu được chắt hết nước, bỏ thêm

đường phèn ngọt ngay, nó uống trà mời tấm tắc khen ngon, rồi ngồi luôn trong nhà xí vì cái quần

đã không thể

đi ra và không muốn ai biết! Bí mật chỉ

được khui ra khi hai thằng đã râu ria, ngồi nhậu với nhau sau những bể dâu của hoà bình, thèm ly trà

đường ngọt liệm tuổi thơ đã xa lìa… Tôi kể bạn tôi nghe: Sau tháng 4, 1975. Nhà mày hồi hương về Rạch giá để khỏi đi kinh tế mới, căn nhà bán lại cho anh Thành, con bác Tư thợ mộc. Anh Thành hồi đi lính thì

độc thân, nhưng sau hoà bình dắt vợ con về. Bác Tư mua lại căn nhà cho anh Thành ra riêng. Nhà tao cũng không còn ai ở, cả chục căn nhà bị tịch thu

đã rồi, cha anh tứ tán, kẻ không tin tức từ khi ra khơi, người không biết đã

đưa đến trại nào, còn sống hay

đã chết, mẹ tao với xấp nhỏ anh em tao chui rúc trong căn phố chợ để người ta không chướng mắt làm khó. Nhưng mỗi lần mẹ tao về lại căn nhà hương hoả là mỗi lần bán đi những thứ có trước tao như bàn ghế, divan, bộ ván chống pháo kích… từ từ bán tới đồ sơn mài, tủ thờ, đồ thờ để có tiền tiếp tế cho thân nhân khi đã biết

được nơi giam cầm. Căn nhà chỉ còn bốn cái vách, vài chỗ bị trộm

đục khoét nhưng còn gì

để lấy được đâu. Một hôm, tao về ngủ coi nhà, và bắt

được trộm. Ai dè là thằng bạn tụi mình hồi nhỏ. Cuối cùng, tao với nó

đi câu cá trộm ngoài ao cá bác Hồi,

định nấu cháo ăn đêm, nói chuyện hồi nhỏ nghe chơi đỡ buồn, câu được cá nhưng không trộm được gạo nên hai thằng ăn cá nướng, đốt đống lửa ngồi hong dĩ vãng

đã xa... Sáng ra,

đốn cây vú sữa ở khoảng sân giữa nhà tao, cây vú sữa mà tụi mình thường phải lên lầu mới hái được quả, đã chết buồn, những nhánh khô còn trái non khô choắt như cau khô. Tao đốn cây vú sữa cho nó bán củi, nó đang cần cái khó giúp là tiền.

   Thằng Được gánh củi đi rồi, xung quanh tao chỉ còn chuồng heo, chuồng gà váng nhện với mèo hoang, nhà bếp tro lạnh phủ bụi mờ… buồn lắm. Không tưởng nổi căn nhà đã từng

đầy ắp tiếng cười nay quạnh quẽ thê lương. Tao thôi không về ngủ coi nhà nữa vì còn gì

để coi chừng. Nhưng không lâu thì anh Thành lên chợ, tìm mẹ tao báo tin: "Bác Hai ơi! Con nghe được người ta đã biết là bác Hai còn căn nhà bên cạnh nhà con. Mấy hôm nay có cán bộ

đến coi, chắc con không giữ nổi giùm bác Hai nữa rồi!" Mẹ tao thở dài, thì ra quyết

định bán cho người mua nhà cũ. Họ

đến giỡ hết, chỉ còn cái nền xi măng trơ trọi những vết nứt bởi thời gian, nắng mưa. Hôm tao về một mình, ngồi trên nền nhà cũ, cỏ hoang, rêu phủ mấy bậc thềm… con mực lù lù

đến bên chân tao, thân run rẩy già nua,

đói khổ làm cho nó hết lanh lợi như xưa. Chị Thành nói với tao, nó đi đâu không biết, nhưng hàng đêm vẫn về coi nhà, (dù còn có cái nền). Tao nhờ chị Thành nuôi nó, là nói thế thôi vì thời buổi người còn không có gì

ăn. Tao nghĩ ra cách: "Chị đập hết cái nền xi măng này

đi, lấy đất trồng trọt, làm như  là đất vườn nhà chị. Đừng nói với ai là nền nhà của gia đình em, như vậy mới mong giữ được miếng đất cho nhà em mà chị cũng có đất trồng khoai mì, khoai lang cho heo

ăn, cho con chó của em ăn với!"

   Sau đó, tao đi ta bà thiên

địa, ở đâu cũng có buổi chiều, ngồi nhớ nhà và con mực, không biết sống chết ra sao! Một hôm tao về, nghe mẹ tao nói, "Chị Thành nhắn mày về nhà thì về gặp chị ấy." Tao về nền nhà cũ, con mực nằm dưới gầm bàn bếp bằng xi măng nên mưa nắng chưa hư. Chiều muộn rải nắng tàn lên cỏ ngựa cao ngòng, trong cái tĩnh mịch, âm u của buổi chiều tàn. Tao với con mực nhắc lại bao nhiêu là chuyện, có nhắc tới mày với con chó trắng, không biết bây giờ ra sao, còn ở Rạch Giá hay

đã vượt biên… Chị Thành đem qua cho nó miếng cháo heo. Nó không ăn, nhìn chị Thành như cảm ơn, nhìn tao như trách móc, nhưng nó dúi đầu vào chân tao, duỗi thẳng mình trên nền xi măng cũ, nước mắt nó trùng trùng như hôm ngoài cầu giặt đã xa, rùng mình một cái, rồi

đi luôn. Chị Thành nói, "nó muốn chết cả tháng nay rồi, nó ráng sống là chờ em về

đó!" Tao chết điếng, tưởng một người thân vừa qua đời.

   Tao lo việc an táng cho nó rất nhiêu khê, tao muốn chôn nó trên nền nhà cũ, chỗ căn hầm chống pháo kích là nơi tao với nó đã chia sẻ với nhau nhiều, sau những lần tao bị phạt, chứ nó có lỗi gì

đâu trong suốt cuộc đời tận trung. Nay chết, cũng không được chôn cất cho tử tế trên

đất nhà, vì những người miền bắc đã vào xóm này chiếm

đất cất nhà. Họ xin không

được thì bả con mực, nhờ nó khôn nên giữ

được mạng tới chết già. Nếu chôn nó xuống thì người ta sẽ đào nó lên, đã loáng thoáng thấy mấy

đứa trẻ gầy như kênh kênh, ngửi

được mùi chó chết, chúng lảng vảng theo dõi. Chị Thành nói với tao tìm cách mà chôn con mực! Tao nghĩ hết cách, bỏ con mực vô bao bố xin

được của chị Thành, buộc chung với một tảng xi măng của nền nhà cũ. Tao qua nhà chị ấy

ăn cơm chiều với anh Thành. Chờ trời tối, sẽ

đạp xe ra cầu sắt, tao định thả con mực xuống sông cầu sắt, dù gì tao với nó

đã từng tập bơi ở đó, tảng xi măng cũng là nền nhà cũ, sẽ cùng nó dìm sâu tới tan rã chứ không cho ai

ăn thịt nó.

    Nhưng vừa ra khỏi nhà anh Thành không xa, tao

đã bị công an bắt, tội trộm chó, tống giam, chờ mai xử lý! Tao ngồi trong phòng giam của công an xã, nghe tiếng ồn chè chén bên ngoài, tiếng "trẻ con không

được ăn thịt chó" khóc la tới nửa đêm. Tao cạy cửa sổ trốn

đi khi người nhậu đã say,đàn bà, trẻ em

đã thôi ồn ào,

đành mất cái xe

đạp vì

đã bị khoá vào gốc cây bằng sợi xích to hơn cần thiết…

   Không biết con chó Mỹ mới hai tháng tuổi, có hiểu chữ Việt không mà nằm im trong lòng tôi. Bóng nó trên màn hình laptop, làm như nó hiểu chuyện kể về một con chó Việt nam, - con mực, không may mắn như nó. Con mực chết không toàn thây sau hoà bình ở quê tôi.

2.Con Vàng

Sau cái chết của con mực, tôi man mác buồn khó tả khi thoáng thấy một con chó

đen. Sự áy náy trong lòng còn hoài về con chó biết khóc, chắc là nó

đã khóc một mình như con người khi trở lại nhà chỉ còn mấy bậc thềm rêu phủ, nắng rũ tịch liêu, người thân tứ tán, bạn bè nơi mô… người về tìm lại mình, không thấy lại

đi, nhưng nó đã ở lại một mình trong cô tịch với tháng năm buồn bã... Gió rung dây nhãn lồng rụng rơi, không còn ai tranh trái chín, bụi u du tươi tốt đến không ngờ, còn ai

đâu để tranh nhau cắt về chơi bắn bì… những hình ảnh còn hoài trong trí tưởng về sau. Tôi đi hết con đường xóm cũ, không còn ai chào hỏi như xưa, những người quen đã

đi kinh tế mới, hồi hương, vượt biên…  những người ngoài bắc mới vào lơ láo, chán đến chẳng muốn nhìn, tôi

đi qua giàn bông giấy nhà bác ba Sáng không còn

đỏ rực là hình ảnh cuối cùng của khung trời bỏ lại sau lưng… Tôi đi, cùng trời cuối đất cũng không tìm ra một việc làm, nơi ở. Cả nước đang truy bắt thanh niên đi chiến trường tây bắc chống Trung cộng, tây nam đánh Campuchia. Thời kỳ thanh niên chẳng biết đâu là nhà, ăn bờ ngủ bụi. Tối ngủ nhà này sáng dậy nhà kia, nửa đêm cuốn gói là chuyện thường tình. May gặp

được thằng bạn cũ, ngay thời trung học nó đã lộ số ở tù, chữ ký của ai nó ký nhái cũng y chang… Ba nó là trưởng ty cảnh sát ngày trước nên mẹ nó đã

đốt hết những gì ông giữ trong nhà, nó may mắn tìm

được cái máy đánh chữ của ba dưới gầm giường, nó chỉ cần một mẩu cà rốt với mảnh dao lam là mộc gì nó khắc cũng ra, chậm thuốc

đỏ ịn lên công lý cho bạn bè. Cái thằng bẻn lẻn như con gái, ít nói, ưa thẹn thùng, tính nết mềm dịu hơn thuở nhỏ luyên thuyên và thích tranh luận. Vài đứa bạn cũ gặp lại còn nói bóng nói gió về nó, nhưng chuyện nghe rồi bỏ, chỉ biết nó bây giờ là cứu tinh của bạn bè, thằng nào cũng phải tìm gặp nó

để nhờ vả. Nó đi phụ việc cho người bà con bán

đồ cũ, đồ cổ ngoài Lê Công Kiều,

đêm về

đánh máy chữ, khắc mộc cứu nhân độ thế, phổ độ chúng sanh. Cứu khổ cứn nạn cho bạn bè cũng nó, nó có

đồng ra đồng vô nhờ buôn bán giấy tờ giả nên rất hào phóng với tình nghĩa cũ. Nhưng nó đã vượt biên âm thầm, bỏ lại bạn bè bơ vơ không người cấp "Lệnh điều động" cho nhởn nhơ ở Sài Gòn,

đôi khi còn bán

được cho những thằng bá vơ ngoài bắc vào, bên Miên trốn về một mảnh giấy tùy thân

để vất vưởng nơi này.

   Tôi

đến Phân viện khoa học Việt Nam - Chi nhánh tại thành phố HCM. Cầm tờ giấy giới thiệu của Mặt trận tổ quốc do tên bạn

để lại. Thời buổi, vài hôm không thấy mặt bạn bè là

đã bị bắt hay

đi vượt biên. Tôi không tin mình vô

được Phân viện nhờ tờ giấy giới thiệu giả này. Không ngờ nhớ hoài cuộc phỏng vấn của cô nhân viên phòng nhân sự, mặt hiền như nước mưa, giọng nói Ba Tri béo ngọt như kẹo dừa, khổ đời nói thật thì cô không tin, nói láo thì cô xúc

động, cảm thông, coi trọng con nhà liệt sĩ, gia

đình vắng vẻ. Buổi trí trá thành công tốt

đẹp, được cấp giấy chứng nhận cho một thằng mù tịt với hàng chữ, "Chuyên viên kỹ thuật" của Phân viện khoa học Việt Nam… Tôi tưởng mình sắp

đi dự Hội nghị khoa học quốc tế với tờ giấy quá hách này, có dán hình 4x6,

đóng mộc Phân viện giáp lai lên ảnh kỹ càng. Cấp luôn cho "Lệnh công tác"

đỏ lè củ triện.

Đêm về chong

đènđọc tới đọc lui hai tấm bù hộ mệnh, thấp thỏm người ta truy ra giấy giới thiệu dỏm thì ứng phó saođây, đi làm công tác khoa học chứ

đâu phải đi cà nhỏng mà chỉ là mảnh giấy "xác nhận công tác" tầm thường chỉ để qua mặt mấy anh du kích đánh vần không trôi.

   Lâu lắm rồi mới nghĩ tới quần áo, tóc tai, giày dép... nhớ ra hai thứ cần thì không có, thứ có không cần là tóc tới vai. Còn nham nhở tương tư lời chúc "mai mắng" của cô gái xứ dừa. Và đúng sáng "mai" lên đường đi nhận nhiệm sở thì bị người ta "mắng" vào mặt, bắt nhốt ở Ngã 5 chuồng chó vì du kích nói là giấy giả, tất cả giấy tờ tùy thân của thanh niên thời

đó, du kích đều có thể quy ra giấy thông hành

đi Miên như nhà nước đổi tiền không cần lý lẽ. Muốn xác minh cứ

đi gặp Pôn pốt mà xác minh. Chỉ còn chờ người bị bắt đông đông, canh giờ lùa lên xe thùng bưng bít là thời điểm ăn thua mình gan! Tôi với vài bạn hữu mới tinh, rù rì bàn quốc sự trong phòng giam như phòng hơi ngạt của Đức quốc xã,

được cái đâu phải bị bắt lần đầu mà ngồi khóc ông khóc cha, một hai ba… lăng ba vi bộ là huề. Thời

đó khổ nhưng vui nghĩa khí, chẳng ai biết ai nhưng đã bị bắt, nhốt chung một phòng thì

điếu thuốc chia chung, ổ bánh mì nên tình huynh

đệ, "nè, làm miếng

đi. Đợi đông đông rồi chạy tập thể, tụi nó không đủ người rượt mình

đâu!" Nhóm quyết định vọt bàn kế hoạch chạy nhiều hướng để thử thời vận. Chẳng ai mong gặp lại anh em…

   Chúng tôi chờ người thủ lĩnh té vào du kích áp tải là gây hỗn loạn, rồi tự ai nấy cao chạy xa bay, tôi đường tôi, tới ngã tư An nhơn mới tin chắc là mình lại bỏ chiếc xe

đạp thứ hai, chạy lấy người rồi tính sau. Chuyện mua lại chiếc xe đạp không dễ lúc này, từ từ tính… chân thả bộ theo conđường xanh rì hoa lá lên hướng Lái thiêu, suy tính cách nói làm sao cho người ta tin khi đến nơi công tác: Tôi là "Nhân viên kỹ thuật", tôi có "Lệnh điều động" nhưng đã bị trấn lột giấy tờ và xeđạp... tạm ổn. Còn lại, tùy cơ ứng biến.

   Người ta tạm tin, chờ xác minh cũng hết mấy ngày cù bơ cù bất, cho ngủ tạm qua đêm trong trại đã là một nơi đáng nhớ về sau… đến hôm xác minh được, nhận công tác mới biết là ta đã bị lừa! Cứ tưởng được làm khoa học với những ống nghiệm thủy tinh trong phòng thí nghiệm. Ai dè, người ta đưa cho tôi cây phảng với cây cù nèo và chỉ ra cánh đồng bất tận, cỏ năng cao hơn lưng quần… Hôm nay phát một công, mai cuốc công ruộng đã phát cỏ năng hôm nay, cuốc lật để giết cỏ dại… tôi thật bối rối, không biết xài cây cù nèo làm sao

để lưỡi phảng đừng phang vô ống chân? Đành thuyết phục mấy thằng

địa phương, chúng phát cỏ năng dễ như ăn cơm, những thằng thành phố không biết xài phảng với cù nèo thì ôm năng chất lên bờ ruộng, chờ khô rồi

đốt đi, đem tro rải lại xuống ruộng làm phân. Công việc ổn thoả, không ngờ mình có khả năng thương lượng mau chóng đến không ngờ. Nhưng ngày ôm cỏ năng lội đồng cố nín thì qua ngày cuốc ruộng tứa ra nước mắt người dân thị thành, xoè đôi tay phồng rộp, cầm củ khoai mân mê… rồi chai lì

đi khi đã

đặt được bàn chân không xuống ruộng, khi

đôi giày bố

đã tả tơi, chợt nhớ lâu rồi không tắm xà bông.

   Đêm về, ngả lưng tưởng ngủ say, những cơn mơ thành phố đã thay bằng cơm gạo, sáu trăm đồng một lít mà tiền công làm ruộng một ngày chỉ có năm trăm. Nhìn

đứa em người bạn làm chung  ở

địa phương xách bữa trưa cho anh nó, nghĩ về gia đình trong mơ hồ cũng có thằng em xách cho mên cơm… bỏ toàn những món trước đây không ăn, sao bây giờ ngon lạ! Giấc mơ lập lại từng đêm, từng đêm, đi vào mộng trùng dương. Sáng ra học cuốc lật, cuốc lừa, thay vì hai nhát cuốc thì còn có một, nhát lấy

đất lật lên, che lại chỗ nhát trốn cuốc. Sau này, cỏ dại cao hơn lúa thì mình chắc cũngđã

đi khỏi nơi đây. Xin lỗi. Đêm về lại âu lo, sao dân thành phố cuốc ruộng nhanh hơn dân địa phương mà cán bộ không cho là chuyện lạ! Thì ra, cán cuốc có thể gãy vì người nông dân cầy sâu cuốc bẫm, cán bộ có thể văng bất cứ lúc nào nên còn tại chức thì lo cắn cho sâu

để thủ thân, cắn lúa giống, cắn phân từ khi ruộng còn chưa cày ải. Vậy thời gian còn lại với những người bạn mới, cứ kéo nhau ra chợ gài sòng, cờ gian bạc lận sống qua ngày. Gặp thời chó ngáp nên cũng chỉ

đủ tiền cà phê thuốc lá, hai mươi tám quân cờ domino đã gài triệt buộc 7 con người.

   Đêm về cái phòng 7 thằng tứ xứ sống với nhau,  mấy thằng người địa phương thì tối về nhà ngủ, hôm nào có tin

đêm nay ruồng Nghĩa vụ quân sự thì tụi nó mới ngủ trại

để giữ thân. Căn phòng dài như chuồng bò, ngăn ra một phần ba làm kho lúa giống, phân bón, thuốc trừ sâu…  còn lại kê giường như trại lính, góc phòng có ba cục gạch-gọi là bếp

ăn tập thể. Cái bếp thanh đạm quanh năm không nghe mùi dầu mỡ. Ngày nào cũng hùn tiền mua gạo nấu cơm, thức ăn cho 7 người là một trái cà chua nấu với nửa xị nước tương, pha thêm nước lạnh và muối hột để đủ chấm rau đồng hái được. Chẳng bữa ăn nào no bụng, thế mà còn phải nuôi thêm một con chó! Nó là con vàng, theo người chủ đến đây xin việc-cũng như những người đã

đến trước-sau, ai cũng vì hoàn cảnh mà chấp nhận một chỗ tạm dung tương đối ổn, một việc làm không công bằng vì ngoài dân

đang mướn cuốc một công ruộng với tiền công là ba ngàn

đồng, gấp sáu lần tiền công trong Phân viện, vậy năm phần còn lại

đi đâu? Hỏi người trưởng trại là bộ

đội phục viên, người ngoài nớ ấm ớ trả lời-tôi làm trheo lệnh cấp trên!... Anh không trả thù con em miền nam vì anh

đâu có thù ai

đâu, anh chỉ thu tiền cho thuê chỗ tạm dung. Anh cũng bị bắt

đi bộ đội, có ai che chở cho anh như anh đang che chở cho chúng tôi, không cảm ơn còn trách nỗi gì! Mẹ anh

đã từng khóc hết nước mắt hôm tiễn biệt thằng con đi nam, anh mấy lần thoát chết với đạn bom, chuyện Trường sơn của anh, thỉnh thoảng có dịp ngồi chung với bình trà quốc doanh, nghe ra cay

đắng hơn ngọt ngào. Anh không màu mè cán bộ, không lớn lối chức quyền, một người thật thà đến khó ưa. Anh nói toạc móng heo ra tham vọng cơ ngơi trong miền nam để đón gia đình vào, anh có quyền

đó và xứng

đáng được hưởng sau khi chiến tranh kết thúc. Anh không chối cãi cuộc nam tiến là thế cách duy nhất có thể giải phóng cho cái bao tử người miền bắc. Nhưng cứ sống phè phỡn như người miền nam thì trước sau cũng mất gia tài. Chuyện đấu khẩu với một người nông cạn về kiến thức, lý luận một chiều, trong tư thế thắng, vai trò thủ trưởng, thật không đơn giản. Nhưng dù sao cũng cảm ơn anh là một người nhỏ mọn thật thà, -không chối cãi nghĩa là công nhận  có chuyện

ăn chận tiền công của nhân viên,

ăn cắp lúa giống, phân bón, thuốc trừ sâu… đem bán bỏ túi riêng. Người  thủ trưởng có ăn năn sau mỗi lần ăn cắp là hành vi ăn hiếp thuộc cấp, "Tớ đi chợ, thấy rẻ, mua mớ cà pháo đưa về muối. Đưa lên đây cho anh em ăn…" Chân dung anh bộ đội chỉ lộ nguyên hình khi anh phát lương cho anh em, thằng nào cũng bị trừ tiền cà pháo muối với giá cắt cổ. Hũ cải chua kế tiếp, không ai (dám) động đến thì anh nguyền rủa, ra lệnh lung tung

để đầy đoạ nhân viên. Anh tiến nhanh tiến mạnh tiến vững chắc từ chiếc xe

đạp có buộc chùm hoa ny-lon trước đầu xe hôm lãnh chức thủ trưởng trại Thạnh Lộc, vị thủ trưởng có cái "đài" bóng lưỡng vì lau chùi thường xuyên. Chưa đầy năm đã lên

được chiếc mobylette xanh của Đức. Anh dùng toàn thời gian từ khi thức dậy tới

đi ngủ để nghe đài và lau chùi cái xe. Anh mãn nguyện với cái xe có tới hai cái xích, khi không muốn phí xăng thì vẫn

đạp như xe đạp được. Anh làm cho mọi người bị cuốn hút vào tham vọng có cái tivi nữa là anh thanh thản chết.

   Chuyện thủ trưởng kể hoài không hết, anh chỉ phạm mỗi một sai lầm bất ngờ-có tính toán là dùng quyền thủ trưởng ra lệnh thịt con vàng. Khẩu lệnh oai nghiên nhất của thủ trưởng từ trước tới nay, không ngờ bị lưỡi phảng đưa vào cổ, với lời chắc chắn như đinh đóng hòm, "tôi thách anh

đó!" Tưởng anh rút súng, bóp cò. Ít nhất cũng nổ lên nóc nhà

để thị uy, nhưng không, anh đã có

đài, xe mobylette, sắp mua tivi nên hào khí Trường sơn đã tịt ngòi, anh xuống nước cầu hoà, không trả thù mà còn ra mặt

ăn năn. Thật khó hiểu, nhất là con vàng vẫn không ưa anh qua tiếng sủa, nhưng thi hành mệnh lệnh mỗi khi anh sai khiến nó.

   Con vàng do Khánh đưa đến, chuyện của Khánh với nó như truyện ngàn lẻ một đêm. Khánh đi vượt biên với gia đình, do trục trặc bến bãi nên người thoát kẻ không. Khánh cù bơ cù bất ở đất Mũi mấy ngày, không làm sao có tiền để về lại Sài Gòn rồi tính sau. Tuyệt lộ thênh thang lại vấp nhằm con chó ốm, bị vứt ra

đường mà chết không cam tâm, nằm rên ử ử… Khánh không cứu nó vì cứu mình còn chưa xong, nhưng nghĩ cho cùng, là duyên là nợ. Khánh ủ nó trong người qua đêm mưa nơi đầu đường xó chợ. Nó hồi sinh thay vì chết lạnh, chửi trời chửi

đất bằng tiếng sủa bình minh sau bao ngày sủa không ra hơi, chạy lăng quăng như không biết đói… một người một chó kết bạn tâm giao suốt những ngày đói khổ ở tận cùng đất nước cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. "Khánh âm lịch" là cái tên bạn bè đặt cho, Khánh tin đủ thứ không thấy trên đời, cái gì thấy

được thì không tin mà nhiều nhất là người ta. Khánh đem hết lòng tin còn lại sau chuyến vượt biên không thành gởi vào con chó, nó dẫn đi đâu thì

đi đó, nó dẫn được Khánh về Sài Gòn nhờ tiếng sủa, nó sủa chào là người nên giao tiếp, nó sủa ghét là người nên tránh xa. Từ hôm Khánh tiết lộ bí mật, mọi người mới để ý và phân biệt

được con vàng có hai tiếng sủa khác nhau, tiếng sủa ngắn, mạnh, uy hiếp

đối phương, với bộ dạng, ánh mắt dữ là sủa thủ trưởng. Còn lại 7 anh em là nó sủa mềm tiếng, có âm "ứ…" kéo dài trong tiếng sủa là mừng bạn trở về! Nhờ vậy, không ai nghĩ

đến việc ăn thịt bạn bè như thủ trưởng.

   Hôm bên nhà thờ có tiệc, cha xứ không mời nhưng cho người đem qua biếu anh em Phân viện dĩa thịt chó luộc ăn lấy thảo, vì mời thì không

đủ sức nhưng khi có việc, nhà thờ vẫn phải nhờ anh em bên Phân viện qua giúp một tay. Hơn nữa, 7 thằng không tiền hớt tóc, nhưng chăm đi lễ, kính Chúa nể cha, không phá phách nhà thờ, đứa có đạo-cầu Chúa; đứa không đạo-cầu gái. Cha thông cảm sâu xa. Cha cho dĩa chó luộc thơm phức, con vàng cũng có phần, nhưng nó không ăn. Làm 7 thằng người dành nhau phần chó chê, rồi tự viết kiểm điểm trong lòng vì tranh

ăn trước mặt con chó không ăn thịt đồng loại. Nhưng con người kề phảng vào cổ nhau, không khứa thì cũng khinh nhau ra mặt… Tới hôm trà suông với khoai luộc, thủ trưởng đãi anh em nhân ngày mừng thọ của mẹ tôi ngoài bắc. Cụ nay

đã lục tuần, giá tôi về

được thì hay biết mấy! Học giả (chưa bao giờ học thật) của Phân viện ngồi nghĩ: anh ấy xấu đều mọi mặt, riêng hiếu thảo thì hơn cả bọn mình. Nhớ tới

đôi đũa bằng ngà voi giả, tức là làm bằng nhựa, có khắc mấy chữ Tàu trên thân

đũa. Anh đã mua bằng tiền thật

để làm quà thượng thọ gởi về quê cho mẹ. "Đũa này thì gắp rau luộc cũng ngon, cả làng tớ lạiđến xếp hàng xin xem

đây…" Anh nói hôm đem lên trại khoe anh em, tiếng rít gió qua kẽ răng của anh thô thiển lắm nhưng nói lên

được hết tâm đắc, lòng thành, hiếu thảo với mẹ. Không biết có bao nhiêu người con mất cơ hội đền đáp cho mẹ vì chiến tranh

đã

đi qua đây, một xứ sở triền miên hết ngoại xâm  tới nội chiến…  những người trở về được sau chiến tranh như anh, bao người đang chết trong hưởng thụ, mấy ai còn nhớ ân tình khi dép râu nón vải… Tối trà tình là

đêm hoà nhã nhất, không ai tranh luận mà chỉ toàn tâm sự dạt dào, nhưng nắng lên-ngày mới không có dư âm, sương tan ngoài nội cỏ, hố phân cách lộ thiên, bẽ bàng hơn trong lòng người nam kẻ bắc. Anh chửi cả đám là quân súc sanh, nhận về cho mình cụm từ không hiểu, "thằng chó má". Trời âm u có ngày, nhưng từ đó không có ngày nào trong Phân viện quang đãng từ ánh mắt, lời nói kình nhau, chờ ngày nàođó, dịp nào

đó, cuộc phân tranh ngã ngũ mà

đôi bên cùng ân hận.

   Con vàng

đã ra dáng hảo cẩu, bụng thon ngực nở, lông vàng sậm mơn mởn như nhung, chân cẳng cứng cáp, lại thêm cái bờm như bờm ngựa từ đỉnh đầu chạy suốt sống lưng. Nó đứng, như con berger trong phim Đức quốc xã, nhỏ con hơn thôi chứ tướng mạo uy phong. Nó chạy băng băng trên bờ ruộng, bờm dựng đứng, tung bay như ngựa ngoài thiên lý,

đẹp ơi là

đẹp… Ngày nào nó cũng rađồng với mấy tên nô lệ bao tử, nó không biết cuốc ruộng, hái rau chai về

ăn, nhưng săn bắt rắn nước, rắn bông súng khỏi chê, không

ăn lén mà chờ mọi người đốt rơm rạ nướng rắn, rồi ngồi nhai cao su có mùi thịt trên cánh đồng bất tận, 7 người một chó mặc sức thả ước mơ theo lửa rơm nên ngày nào cũng có tro tàn. Sau cơn gió, cơn mưa là mất dấu.

   Con vàng trở thành một thành viên tận tụy nhất, chịu khó đi săn, con gì nó bắt

được cũng tha về bếp ăn tập thể, như người mẹ tảo tần một nắng hai sương để có cái ăn cho con cái, nhưng đàn con no ngon sinh chuyện,

đào mả bố nhau lên mới biết cha chung. Người mẹ âm thầm ngồi vét nồi dưới bếp, ăn miếng cơm cháy với đầu tôm xương cá. Con vàng hóc xương rắn tưởng chết, người ta ngắm nghía bụi riềng. "Kể ra loài nào sống chung với con người cũng không có kết quả tốt." Học giả bố láo bị chửi đầy tai, "mày nói có người nha mảy, nói thẳng vô mặt luôn đi, tụi tao ủng hộ! Cùng lắm bỏ chỗ này, tụi mình tới chỗ này

được thì bỏ

đi chỗ khác được! Có ai nghĩ là mình ở

đây hết đời đâu mà sợ!" Tình hình Phân viện căng thẳng hơn Cu ba, học giả bỏ đi theo thằng Khánh cầu thầy chữa trị, thủ trưởng đi cầu riềng bên nhà thờ về, gặp nhau giữa

đường nam-bắc phân tranh! Hú vía một phen, học giả không mau miệng phân giải thì máu

đã nhuộn mấy củ riềng. Học giả trở về

để bảo vệ con vàng, Khánh

đi cầu may trong xóm xem có ai biết cách trị hóc xương cho chó.  Cuối cùng nóđem về mấy hoàn cơm nếp bóp với cám. Mấy đứa giúp tay ôm con vàng, cáng họng nó ra mà tống cẩu hoàn đơn, đổ nước… con vàng sặc muốn chết, nhưng nuốt xong mấy hoàn, miếng xương rắn cũng theo cám trộn nếp trôi xuống bao tử. Nó hết dữ, nằm dưỡng thương với đôi mắt biết ơn. Thằng Út ứ lên một tiếng chọc quê: cho uống thuốc mà tưởng bị làm thịt, dữ với mọi người rồi bây giờ giả lả biết ơn cứu mạng… Con vàng ứ lại một tiếng, như tao tin mọi người nhưng không tin mày đâu!...

   Khánh đã biết cười, đi thăm em hai chân, nó quen được một tiểu thơ trong giáo xứ vì tướng mạo nó nho nhã, nói năng lịch thiệp, phong độ con nhà… (lúc nó kê phảng vô cổ ông thủ trưởng để bảo vệ con vàng thì ai cũng tin là nó dám khứa, nhưng có mấy thằng bạn bất đắc dĩ của nó trông thấy, cả giáo xứ Ba thôn không ai thấy, đặc biệt là tiểu thơ-cũng dân con nhà về quê lánh nạn, không thể nào tin "Khánh âm lịch" cũng có lúc như chó điên!) Nó được mời ăn cơm trắng với canh rau đay, cà pháo, bên nhà tiểu thơ. No bụng nhưng động lòng trắc ẩn là

đi ăn một mình, lòng thương anh em cùng khổ, con vàng tai qua nhưng nạn chưa khỏi, nó nhặt bông mướp đực bên nhà thờ, ra bờ rào hái đọt râm bụt về nấu với muối hột. Nó tuyên bố bông mướp là gạch cua đồng, đọt râm bụt là rau đay, nếu nghĩ như thế thì

ăn như thật. Ai cũng ăn như thật vì nghĩ như thế mới nuốt nổi, chỉ có con vàng-ăn xong ói ra, đổ bệnh thêm mấy ngày vì không biết nghĩ

đó là canh rau

đay nấu với cua đồng. Mấy thằng ngu hơn chó được hả hê cười chó ngu hơn quý ông, không biết nghĩ

đọt râm bụt nấu với bông mướp đực là canh rau

đay nấu với cua đồng, ngu như chó! Thằng Út-Cu ba nằm nghĩ hết buổi chiều tuyệt thực vì phần cơm nấu một lần nhưng ăn hai buổi, nó ăn luôn một lần cũng chưa no nên chiều nằm ăn gió uống mây, đói tử vùng dậy, chỉ thẳng mặt con vàng mà nói, "mày đừng tưởng mày khôn hơn tụi tao!" Nó đâu có ác ý gì

đâu, tự ông thủ trưởng nhột nên ghim nó chỉ mặt chó mà nói, "mày

đừng tưởng mày khôn hơn tụi tao!" Thủ trưởng dạy là anh em trong trại phải đoàn kết nhất trí, sao lại có chuyện mày với tụi tao! Rõ ràng là mất

đoàn kết, mà không

đoàn kết thì làm sao nhất trí? Thủ trưởng lên lớp thằng Út một hồi. Tội nghiệp đời nó từ lọt lòng mẹ

đã không biết mặt cha là ông lính Mỹ

đen nào, từ hôm chửi chó thì

đời nó còn tệ hơn đời cô Lựu. Đêm mưa dầm đói lạnh thê lương, thủ trưởng không sai học sĩ thủy lợi mà cứ dè thằng Út, "mày đi thăm bọng, thăm bờ một vòng coi Út…" Nó

đội mưa mà

đi, không biết nghĩ gì!

   Tội nghiệp con vàng bỏ

ăn hết mấy ngày, nó ốm rộc

đi như người bệnh nặng, lần đầu tiên nó tiểu tiện trong phòng, rồi hứ hứ yếu ớt như xin lỗi. Anh em chắt nước cơm cho nó uống, nó uống cầm hơi chờ chết. bỏ chỗ nằm thường ngày, chui dưới giường Khánh, nằm rên hừ hự… Gian phòngđầy tiếng người với những buồn-vui vô cớ, bỗng trĩu nặng không khí tang tóc như nhà sắp có

đám ma. Khánh cứ ngồi trên thành cửa sổ, nhìn ra cánh

đồng bất tận, thỉnh thoảng nhìn lại con vàng, mặt nó buồn còn hơn tiểu thơ đã ra

đi, bặt tin. Sang nhà hỏi thăm chỉ nói là về quê dăm bữa, quê

đâu nữa mà về khi

đã lánh nạn

đến đây, đâu phải người địa phương này từ sợi tóc tới móng chân. Tiểu thơ bình an nơi đầu sóng ngọn gió, ai cũng cầu nguyện cho nàng được tới nơi, nếu chỉ vì tình bạn với thằng Khánh thì tháng ngày qua tại nơi này cũng còn chút gì

để nhớ để quên…

   Thằng Quân cũng ngồi thành cửa sổ thường xuyên như mọi khi, nhưng tiếng đàn của nó mấy hôm nay buồn da diết… Tưởng nó xách đàn qua chơi bên doanh trại Thanh niên xung phong hay bên trường Kỹ thuật điện. Ai mà biết nó đem bán cây đàn, mua miếng thịt trâu về nấu cháo cho con vàng ăn, mua mấy viên trụ sinh cho con vàng uống. Nó đoán con vàng bị nhiễm trùng đường ruột vì món canh quái

đản của thằng Khánh, con vàng còn

đang bị lải vì trước hôm bị hóc xương rắn, nó thấy con vàng nuốt cỏ mực. Học giả cho biết mỗi con chó là một  thầy thuốc dân tộc, chó biết tự khám và trị bệnh cho mình, chó nuốt cỏ mực, cỏ gai

để tự tháo lải trong bụng. Chắc vậy mà Quân mua luôn thuốc sổ cho con vàng, nó

đưa cho thằng Khánh, dặn dò cẩn thận là khi con vàng thật khoẻ lại mới cho uống. "Con vàng gặp thời thành tư bản đỏ: uống thuốc tây, ăn cháo thịt, chỉ thiếu chiếc mobylettes với cái thẻ đảng viên là lên thủ trưởng tụi mình!" Thằng Út giỏi tài nói lén cứ

đi rỉ tai hết đứa này tới

đứa kia, rồi cười khoái chí, thủ trưởng địt trời, địt đất chứ có nghe được gì

đâu mà

địt mẹ thằng Mỹ lai.

   Con vàng hết rên

đau đớn nhờ hồng ân cu Quân. Qua đêm tư bản đỏ, nó cất tiếng sủa đĩnh đạc về phía giường thằng Quân. Tiếng sủa không mềm, kéo theo âm ứ trong cổ họng, tưởng cổ họng nó đã bị thương tật vì xương rắn. Nhưng không phải, nó sủa gấp hơn… mọi người nhìn về phía giường thằng Quân… trống trơn, bộ đồ đi ruộng của nó còn máng trên cán cuốc của nó. Người nghệ sĩ nhất y độc quởn, chỉ có cây đàn đã bán hôm qua, cây bàn chải

đánh răng dắt ở túi quần sau, không mùng màn chiếu gối, không tâm sự lải nhải… Quân

đã

đi thật xa, bỏ nhiệm sở, đi vượt biên hay

đi đâu không quan trọng bằng lời ngầm để lại, -ở trại này, ngoài con vàng, nó không phải

đền ơn đáp nghĩa ai hết, không lưu luyến ai đến phải từ giã một cách bằng hữu như thế! Không ngờ tính chất nghệ sĩ ở con người đó, ngoài những cung bậc âm thanh, là cả lối sống và luôn lối suy nghĩ… Không khí hết vui dù đói vẫn ngự trị căn phòng từ khi thành lập, nồi cháo trâu của con vàng cứ nhả vào hơi đêm mùi thịt trâu thoang thoảng… Khánh dằn nắp nồi bằng cục gạch lóc nặng hơn cả con vàng, sáng ra vẫn có dấu ăn vụng. Hết nghe ai trách móc thằng Quân khi dễ anh em, bỏ đi không nói tiếng nào. Con vàng tử tế không nghe, không nhìn con người khi nghi kỵ lẫn nhau. Nó xử sự như một nhà hiền triết, sáng sớm đã ra

đi, lặng lẽ săn bắt ngoài

đồng rồi tha về…, nó bắt được cả con rái cá nhanh nhẹn cỡ nào. Con vàng

đã khoẻ và mọi người được yên tâm về chất đạm trong mỗi bữa ăn.

   Con vàng hết bệnh, mấy củ riềng mọc mầm trong góc phòng, trời

đất mất ăn một bữa cúng bằng chính thịt xương của nó. Thủ trưởng đem dúi mấy củ riềng ngoài bờ ao, anh em mừng như cha mẹ sống lại, tai qua nạn khỏi, chuyện thằng Quân bỏ đi dần nhạt, đâu ai no bụng bằng âm nhạc của nó chứ! Mọi người quên đi kẻ cứu con chó nhưng là cứu anh em, những người mau quên bởi mong chờ hứng khởi hơn nhớ lại… họ đang mong ngày quốc khánh lại về trong hân hoan được ăn thịt, tối được uống trà quốc doanh, cắn đường móng trâu Hợp tác xã, hút thuốc Vàm cỏ, nói chuyện vượt biên…

    Văn thư trên Phân viện đưa xuống, lập danh sách nhân viên để phát thưởng, chia thịt heo với nhu yếu phẩm… tin hấp dẫn đến mất ngủ. Ngày quốc khánh đến thật gần. Từ sáng đã thấy rợp cờ ngoài phố chợ theo lệnh ông bí thư xã, ông thủ trưởng của chúng tôi đích thân về Phân viện trên thành phố từ chiều hôm qua, về để lãnh phần thịt heo

ăn mừng độc lập của trại ta, "không có mặt sớm để chia thịt thì có mà

ăn xương." Câu nói đầy trách nhiệm của người thủ trưởng như hiền phụ trong mơ, thức dậy dượng ghẻ đưa về cho anh em mớ xương dính mỡ để khi có thanh tra xuống hỏi thì

đừng nói là không

được quà của Phân viện cho

ăn mừng quốc khánh. Mấy thằng con ghẻ của Phân viện đã như lính tiền đồn muôn năm thua thiệt, thương người thủ trưởng khôn nhà dại chợ, còn an ủi hắn. Nhưng hỏi đến quà đâu? "Ờ, Phân viện có gởi cho anh em Thạnh lộc ít đường, mấy bao thuốc lá, nhưng tớ phải tạt về nhà có việc, bỏ quên mất rồi, hôm nào tớ đưa lên!" Học giả ngồi nghĩ mãi không ra: lão làm gì có nhà

để tạt ngang, không nghe nói đến người dì, người cô nào hết… một mình lão sống sót sau chiến tranh

đã là ông trời quá

đáng! Chỉ có cách ghé chợ nào bán tháo mọi thứ, rồi mua túi xương cho chó ăn  mừng độc lập. Học giả âm mưu với thằng Út, cố lén coi xét lão có tiền trong túi là mình suy tính

đúng! Nhưng lão hôm nay không tuột cái quần dài ngay khi về trại, máng lên vách tường, chỗ đầu nằm giường lão như mọi hôm. Mặc suốt đến đi ngủ, thêm một nghi ngờ cũng không thay đổi được gì quan hệ "mày với tụi tao"… Mãi sau này, thằng Út không cam tâm bị áp bức-nhất là về vấn

đề lương thực. Ép gì nó cũng nhịn chứ

ăn chận lương thực thì nó

đấu tranh đến cùng. Nhưng làm được gì nhau sau khi Út về thành phố mấy hôm bận việc gia

đình, ghé ngang Phân viện

đưa thơ giùm người bạn, và để hỏi cho ra lẽ Thạnh lộc ăn xương! Thì ra thủ trưởng Thạnh lộc đã bán sang tay trọn gói cho bà phụ trách

đời sống ở Phân viện - cũng là người thu mua thịt thà, nhu yếu phẩm của những người độc thân trong cơ quan. Đơn giản ông nói với bà là Ủy ban nhân dân xã Thạnh lộc

đã tặng quà cho ông và anh em Thạnh lộc, các tập

đoàn sản xuất nông nghiệp trên ấy rất qúy anh em Phân viện vì hỗ trợ họ về mặt khoa học kỹ thuật, (hỗ trợ cả lúa giống, phân bón, thuốc trừ sâu… theo luật cung cầu của thời bao cấp.) Thủ trưởng không nói mà chỉ nói, họ quý anh em mình lắm nên

đãi tiệc liên hoan,

ăn không hết, còn

đem ba cái thứ này về Thạnh lộc như chở củi về rừng…

    Trên Phân viện đâu biết mấy lon gạo thơm của tiểu thơ gởi Khánh đem về bồi dưỡng cho con vàng hôm nó bệnh còn

đây, thằng Út định xử nhiều lần rồi nhưng ớn cái lưỡi phảng của thằng chó điên

đó không có mắt! Nó khứa cổ Út là hết mong ngày

đi diện con lai. Út đã

ăn không no còn lo tiền lo lót cà phê thuốc lá cho người có radio bắt được đài BBC để đeo đuổi hy vọng một ngày được làm ruộng trên nước Mỹ. Út bị chửi là liếm giày đế quốc, bị đế quốc bỏ rơi còn chưa biết thân, cặn bã của xã hội, làm nhục nhân dân… Nhưng Út đã tuyên bố, "mày

đừng tưởng mày khôn hơn tụi tao" nghĩa là đối với Út, chó sủa chó cứ sủa, đường Út Út sẽ đi nhanh như gió khi người ta cho đi diện con lai. Nay kẹt ngày độc lập mùng hai tháng chín, Út tế sống con vàng ba lạy để xin túi gạo thơm, đọc tuyên ngôn dõng dạc: "Con gì sinh ra cũng có cẳng, càng nhiều cẳng

đi càng sát

đất, không có cẳng, là thương binh cái cẳng. Nay hai cẳng nghiêng mình trước bốn cẳng, khẩn xin cứu tế ăn mừng độc lập!..." Con vàng khoái quá sủa gâu gâu, Út rành ngôn ngữ chó nên dịch luôn ra cho mọi người, "không có gì quý hơn độc lập tự do…" Thủ trưởng giận tím mặt, gọi Út vô kho sinh hoạt tư tưởng, ngoài này, Kháng trút mấy lon gạo thơm vô nồi xương mà Út hầm hoài cũng chưa có gạo.

   Nồi cháo lỏng bỏng, lèo tèo mấy miếng mỡ như cứt trôi sông, ai cũng tin học thuyết nhục trầm tỷ thượng của học giả ít khi nào nói trúng. Cả đám thi nhau vớt như đãi vàng cũng chỉ có xương cục đụng mấy cục xương. Con vàng khi người bỏ đi hóng gió, gọi mãi không về. Mấy thằng súc sanh

ăn xương rửng mỡ, tức người chọc chó, chọc tức con vàng cho nó tru lên bài quốc ca nhân ngày

độc lập. Thằng Khánh điên tiết, tả xung hữu

đột cán cuốc vô đám ngu hơn chó để cứu con vàng. Con vàng từ

đó, thấy thằng Út là lừ mắt nhe răng rồi bỏ đi chứ không chào hỏi gì nữa, hết bạn bè… thằng Út tức tối, gọi con vàng là thủ trưởng vì gặp nó ông cũng lừ mắt, răng ông nhe sẵn nên không cần nhe thêm, lừ lừ ra lệnh rồi bỏ

đi, "liệu hồn mày

đấy!"

   Hai bên nghinh nhau nhưng không đuổi thằng Út được vì thỉnh thoảng chị nó lên thăm, quà cápđem theo vô cùng quan trọng với

đàn em của chị Sáu, chị cho hũ mắm ruốc xào xả ớt, không thấy miếng thịt ba chỉ  nào nhưng nhiêu đó đã hết tấm lòng bồ tát của bà chị công nhân hãng dệt. Chị cho hũ muối mè

để dành

ăn hôm mưa, chai nước mắm để kho cá kho thịt, nhưng đàn em toàn kho quẹt. Chị Sáu mặn mà duyên quê, da sáng trưng vì má Út

đi làm sở Mỹ, bị sóc dằm Mỹ

đen, nhổ hoài không ra mà ra thằng Út. Số phận hẩm hiu của nó

được trời đền cho bà chị Quan Âm, chị thương chúng sanh dù không sanh ra chúng, đàn em thương mến chị lòng lành, nhân hậu từ ánh mắt, nụ cười nên vô cùng cảnh giác chị, "coi chừng chó cắn" vì nó cứ nhìn chị chảy nước miếng. Nhưng chị thật thà, cứ bênh vực cho con vàng hiền ngoan, sao tụi em cứ nói nó muốn cắn chị! Chị đâu biết con vàng tiếng lóng là ai, mỗi lần chị Sáu lên thăm thằng Út và bạn bè nó, sắp về là con vàng đi công tác khẩn, trịnh trọng dắt xe mobylette ra khỏi trại, nhưng chỉ chạy đến bên kia cầu Ba thôn, lấp ló đợi chị đạp xe ngang là nổ máy lạch phạch chiếc mobylette, ngẫu nhiên chung đường…

    Con vàng đã

đủ lông đủ đuôi,  không phải coi chừng nó nữa, nó đi về tự tin, không sợ ai bắt nó vì muốn bắt nó cũng không dễ. Nó

đi chơi, đi làm, tham gia sinh hoạt

địa phương như mọi con chó đều thích nổi tiếng. Không nhớ ngày tháng nào trong năm, một năm chỉ có một đêm rằm cuối tháng là nước ròng sát

đáy những con kinh hẹp bề ngang nhưng rất sâu ở Thạnh lộc, trời không trăng sao, đen kịt. Là

đêm

đi mò tôm. Từng tốp người hay từng gia đình,

đàn ông con trai lội trước, cứ quậy cho sình lỏng ùng ục lên, cho tôm càng bị ngộp thì nổi lên mặt sình lỏng

để thở. Đàn bà, con gái lội theo sau, họ

đặt những cái đèn bão vào thau, chậu,

đẩy trên mặt sình loãng. Ánh sáng

đèn sẽ phản chiếu hai chấm

đỏ là

đôi mắt tôm càng, tùy thế

đôi mắt mà suy ra mình con tôm

đang hướng nào, họ chộp rất nghề, con tôm bự sự nằm gọn trong tay, bỏ rọ

đem về. Cứ đúng sáng hôm sau đêm mò tôm là có lái buôn từ Sài Gòn lên, họ thua mua om xòm ngoài chợ Thạnh lộc

để đưa về Sài Gòn. Người dân địa phương không mấy ai biết mùi vị tôm càng ra sao, vì mỗi năm chỉ có một dịp kiếm tiền dễ như đi mò tôm

để mua áo mới cho con, lợp lại mái lá căn nhà

đã dột nát… Không phải một thời mà muôn năm người dân quê truyền

đời cơ cực.

   Đám thanh niên Phân viện cũng hợp tác với tập

đoàn Tư Thép, mấy cô cấy lúa thuê điệu đàng đi mò tôm với mấy anh Phân viện như đi hội làng. Đám thanh niên bên Kỹ thuật điện không được lòng con gái

địa phương, họ gọi tụi đó là "Kỹ thuật

điên". Tụi nó thấy họ

đi với trai Phân viện nên nói móc, tụi anh

điên cũng còn thơm hơn mấy thằng "Phân vịt", thiệt là vui trong đêm mò tôm. Giỏi nhất là con vàng, nó khoẻ lại nhờ uống hết cây

đàn của thằng Quân. Bảo ở nhà coi nhà, mày bệnhđó, biết không? Nó ử ử, rồi cũng ham vui, tự động xuống kinh, bắt tôm, bắt cá, làm mấy cô gái mê nó còn hơn mê trai.

   Con vàng ngày càng bận rộn, lúa đã thời con gái, anh em chỉ phải

đi nhổ cỏ dại sơ sơ, bón phân, xịt thuốc trừ sâu, thăm bọng để canh nước cho lúa… chả đứa nào siêng ra

đồng, cứ ngồi nhà chặt hẻo,

đánh tiến lên với nhau. Sai con vàng

đi thăm bọng, nó đi biền biệt không về là không có gì xảy ra, nó

đi vô xóm, tán gái. Ẻm của nó xếp hàng bên lũy tre tình tứ, õng ẹo, em nào cũng mơn mởn xuân thì, thấy anh vàng là chổng mông chờ tình khi không mà có. Nó oai phong lẫm liệt, mấy con chó

đực trong xóm, thấy nó là cụp

đuôi, chuồn mất. Nó mà nổi giận, vật con nào là con

đó chỉ còn có vô nồi. Nhưng nó nhận lệnh đi thăm bọng mà quay về liền, nhảy luôn chân cẳng sình

đất lên bàn bài

đang gay cấn, miệng ứ ứ không ngừng là y như rằng có bọng bị bể, ruộng ngập nước hay vỡ bờ…

   Mùa lúa đổ đòng

đòng, vịt nhà ai léng phéng xuống ruộng là nó vặn cổ, mấy

đứa nhỏ trong xóm, phải chăn vịt nhà, không sợ trộm mà sợ con vàng, sợ vịt lội bậy xuống ruộng Phân viện là chết với con vàng. Không ai dạy mà nó biết, con gì nó bắt

được thì tha về bếp

ăn tập thể, nhưng vặn cổ vịt ăn lúa thì bỏ

đó chứ không tha về. Ông bí thư xã nghe danh, dùng quyền chính ủy mượn con vàng về coi ruộng nhà ông, nó vặn cổ bầy vịt cảnh cáo, bỏ đi, sống ngoài vòng pháp luật từ khi ông tuyên án bắn bỏ nó. Nó

đánh hơi súng đạn rất tài, có công an, du kích xuất hiện là nó ẩn mình mất tiêu, ngoài ruộng hay phố chợ nó cũng mất dạng trong tích tắc. Từ hôm va chạm với bí thư, nó ngày đi giang hồ từ cầu Ba thôn tới cầu Trùm bích là đất địa của nó, đêm về ngủ Phân viện, coi nhà. Nó khác hết những con chó từ cầu Ba thôn, qua chợ Thạnh lộc, đến cầu Trùm bích, tướng tá nó uy vũ, cái bờm trên cổ làm cho nó uy nghi như đại tướng quân. Những tranh chấp địa bàn, gái gú trong quản hạt của nó đang ăng ẳng, ư ử, gâu gâu… nó đến là im hết. Có những con chó đực to lớn hơn nó, dám nghinh nó, nhưng tới lúc so nanh là con kia tự động quay đầu, bỏ đi. Nó làm nở mày nở mặt thằng Khánh ở địa phương. Người ta nói đánh chó nể mặt chủ, nhưng thằng Khánh không nhờ người ta nể mặt nó thì ốm

đòn vì phạm thượng, dám phun nước miếng trước mặt ông bí thư chứ không thèm nói lạm dụng quyền lực cưỡng mượn chó, còn tuyên án tử hình con vàng mới quá

đáng.

    Con vàng từ hôm sống ngoài vòng pháp luật, nó như suy tư hơn. Có khi thấy nó đứng im rất lâu ngoài bờ kinh, không phải đang canh con rắn, con chuột nào… nó có tâm sự trong đôi mắt vời vợi, hay nó nhớ cố hương khi đã thành gia thất. Quê quán của nó ở

đảo Phú Quốc, nó là giống chó săn vùng biển. Không biết lưu lạc làm sao đến đất Mũi, kết nghĩa anh em với thằng Khánh sau lần thập tử nhất sinh. Đời trôi dạt thời ấy đâu riêng gì con chó, con người còn trôi xa xôi hơn… Những buổi chiều tàn trên cánh đồng bất tận, nó đứng yên như chó đá, trông cô đơn, lạc loài như người ta đánh mất quê hương… Và sau buổi chiều con vàng thinh lặng ngoài ruộng, nó chễnh mảng việc đồng áng, nó lờ từ hôm đưa ẻm bạch mao bên nhà thờ về kho lúa Phân viện làm ổ. Thì ra nó se duyên cũng chọn xuất xứ

đàng hoàng, mấy ông thầy bên nhà thờ nghe tin, qua

đón bầy chó con hoan hỉ…

   Con vàng vô mùa gặt lừng danh Thạnh lộc, nó không tha tới con chuột nhắt, bao nhiêu chuột lớn nhỏ trên

đồng nó thâu tóm hết. Ai thấy nó trên

đồng cũng phải mê, một dũng sĩ tả xông hữu

đột, không có cái gì qua mắt nó, một cái bao

đựng lúa bay xuống kinh, nó cũng lội đi nhặt về… 

   Mùa gặt xong xuôi, nông nhàn, con vàng lúc này

đi nhà thờ chăm chỉ vì con chó trắng về bên ấy rồi. Nó chơi với chó con trong sân nhà thờ như một người cha tốt, mấy ông thầy cưng bầy chó nhỏ hết nói, vì

đã lai nên

đàn con của nó không cao giò, chỉ dợn sóng chứ không có hẳn cái bờn ngựa như nó. Các thầy lại nói thấy hiền hơn con vàng nên các thầy thương lắm.

   Mùa Giáng sinh năm ấy do cánh én đưa về, khí trời hanh hao, không gian hết xanh tươi màu lá, ruộng đồng trơ gốc rạ sang xuân… Những buổi chiều phủ xuống tí sương mù xa xa, chúng tôi nhớ Sài Gòn ghê gớm lắm khi sang nhà thờ phụ làm hang

đá bằng giấy bao xi măng, phun mấy màu quét vôi tường nhà, người đi lễ nhiều hơn, đông hơn, những kẻ nhớ Sài Gòn nhưng không dám về, không tiền đi quán nên kéo nhau ra cầu Ba thôn ngồi nhìn chiều rơi trên những cánh đồng sau mùa gặt… Chiều tiễn biệt thằng Khánh lên đường vượt biên lần nữa nằm ngoài dự liệu, nó đã

được tin gia đình tới

đảo, bác nó lo cho nó đi chuyến nữa, bữa tiệc tiễn đưa-không hẹn ngày gặp lại chỉ có 3 xị rượu đế, cóc ổi, khô cá đuối, ngoài chợ Thạnh lộc, nhiêu đó đã hết khả năng tài chánh của anh em, bữa tiệc không làm sao tiêu thụ hết thời gian từ chiều tới tối, lại kéo nhau ra cầu Ba thôn ngồi ngó ai về… Con vàng im lặng nhất, sự im lặng buồn bã như nó hiểu thằng Khánh dù thương nó tới đâu cũng phải bỏ lại vì ai cho

đem chó lên tàu vượt biên. Nó thường theo thằng Út, là người ưa chọc phá nó nhưng cũng ưa chơi với nó, hôm nay nó quẫn chân thằng Khánh, không nói năng gì nhưng hai đứa nhìn nhau thương cảm. Nó cứ dúi đầu vô thằng Khánh, hít hơi… mắt nó long lanh như bị bụi, nước mắt thằng Khánh chực rơi trước nó, thằng Út chòm chèm nhai trái cóc tới trơ hột còn chưa chịu bỏ, Út đưa hột cóc vô mũi con vàng, "mày đi nhặt cái hột cóc này về được thì tao cho mày

đi vượt biên." Út nói xong, ném cái hột cóc vô rẫy mía

đường. Mía đường thì người ta không tuốt lá như mía ăn cây, rẫy mía rậm như rừng. Con vàng lao vô rẫy mía trong tiếng nguyền rủa của anh em, "mày điên rồi hả Út, kêu con vàng vô rẫy mía, lá mía cắt nó nát mình mảy chứ bộ chơi sao," nói thì nói vậy, ai cũng hiểu thằng Út giải toả cho thằng Khánh với con vàng

đừng quá bi thương…

   Nhưng trời đã tối nhiều, huýt sáo bao nhiêu con vàng cũng không chịu ra khỏi rẫy mía, thằng Út nháy mắt anh em là

đừng kêu con vàng về,

để đêm nay thằng Khánh dễ

đi! Chúng tôi trở về trại, đốt đèn dầu hom hem, thay vì

đánh bài tiến lên như mọi khi thì anh em chỉ ngồi nhìn nhau. Tôi qua nhà thờ xin dúm trà, về bắc nồi trà, chia mỗi

đứa một chén nhâm nhi… ghé xin ông Mười bắt rắn nắm thuốc rê về cuốn giấy báo, bữa tiệc này cũng là bữa tiệc tiễn tôi

đi, tôi hết chịu nổi cảnh sống này, nhưng không nói ra. Chúng tôi ngồi tới trăng muộn đã leo thềm cửa sổ, con vàng trở về, mình mảy nó trầy xước, nhìn nó mệt mỏi tới hết sức, thằng Khánh ôm nó vào lòng, nước mắt dàn dụa… nó vùng ra, lao đi trong đêm trăng nhờ nhợ sắp Giáng sinh. Gần sáng, chuông nhà thờ đã

đổ lễ nhất, chúng tôi nói Khánh đi đi, đi chuyến xe sớm dễ thoát, về gần tới An nhơn thì xuống xe, chịu khó

đi bộ len lỏi qua xóm nhà dân là thoát trạm, lại tiếp tục

đón xe về ngã 5 Chuồng chó, cũng xuống xe trước trạm nha Khánh, chịu khó đi bộ len lỏi qua xóm nhà dân, từ từ vô Sài Gòn, mùa này bắt dữ nên phải cẩn thận… Giờ chia tay rồi cũng

đến, không đứa nào

đưa Khánh ra chợ Thạnh lộc đón xe để khỏi ai nghi ngờ vì chúng tôi phải

đi qua con đường độc đạo mà một bên là nhà thờ, một bên là trụ sở công an, ủy ban nhân dân xã Thạnh lộc,

đâu biết đôi mắt nào từ trong khuôn viên quyền lực luôn

để mắt tới chúng tôi, theo dõi.

   Khánh từ biệt anh em, gởi lại con vàng cho người cuối cùng trong bọn mình rời khỏi trại này… nó

đi tay không vì khi

đến đây chỉ có một con chó thì

đã không

đem đi được, Khánh lầm lũi ra khỏi cổng trại, bóng nó mờ mờ trên con

đường một mình, không ai thấy nhưng biết là nó khóc, thằng này bề ngoài cứng cỏi nhưng tình cảm chôn sâu cất kỹ trong lòng. Khánh

đã

đi qua khỏi cổng nhà thờ, khỏi tầm mắt bạn bè tiễn

đưa, những đôi mắt bèo mây còn bàng hoàng ước nguyện cho Khánh được toại nguyện, chuyến đi thành công, được gặp lại gia đình… nhất là tiểu thơ rau đay của Khánh!

    Con vàng xông vào trại dáo dác, mình mảy nó trầy xước tứ tung, mắt đỏ hoe, mệt lử… nó nhả cái hột cóc xuống chân thằng Út, nhìn quanh không thấy Khánh, nó lao

đi lần vĩnh biệt. Chúng tôi chỉ biết nhìn theo bóng cái xe lam qua cầu Ba thôn trong ánh trăng nhạt nhẽo, có bóng con vàng chạy theo sau chiếc xe ì ạch qua cầu. Nó và cả Khánh, không ai còn gặp nữa dưới vòm trời Thạnh lộc, mọi người chỉ còn mong cho hai

đứa nó bình yên. Nhiều năm đã

đi qua nhiều địa danh trong đời, từ một góc trời bỗng nhớ tới con vàng và một người bạn đã gắn bó trong một khoảng

đời đen tối ở quê xa.

3.Con vện

   Chó con nằm im nghe gõ keyboar lạch cạch, thân nhiệt nó hơi sốt, thở khò khè, chắc nhiễm trùng cuống họng. Nó là con chó hiền lành có

đôi mắt lém lỉnh, lông vàng da bò pha mấy mảng

đen, thuộc giống chó dachshund chân ngắn lưng dài,

được lai tạo từ berger to lớn. Người Đức cố tạo ra giống chó có tính chất của loài berger nhưng thân hình thích hợp cho việc săn thú nhỏ, phải đào bới hang sâu như chồn, thỏ… ưu điểm của giống chó này là đánh hơi giỏi, mõm dài hàm mạnh, có cáiđuôi khoẻ để vạch cỏ tìm kiếm con mồi lúc

đi săn, tuổi thọ khá cao trong các loài chó, khoảng 20 năm. Và yếu

điểm là

đôi mắt dễ bị lòa khi có tuổi, xương sống dài trở nên bất lợi lúc sơ sinh vì còn yếu và khi về già…

Được sống trong thời đại Google thật là mau lẹ, chỉ cần click chuột vài cái

đã biết tới tổ tông của giống chó dachshund rất phổ biến ở

Đức từ đầu thế kỷ 18 và du nhập sang Hoa Kỳ vào những năm cuối thế kỷ đó. Dòng giống nó lừng lẫy tới

được chọn làm biểu tượng của Thế vận hội mùa hè 1972 tại Munich với tên Waldi…

   Với tôi đơn giản, nó là con vện vì màu lông pha, con chó con bắt

đầu hành trình mới của

đời mình chỉ sau hai tháng chào

đời. Nó sinh ra tại đâu, vì sao người chủ lại bỏ hay bán nó đi, cha mẹ nó có biết không?... Tiện tay vuốt ve vài cái, chó con lim dim như gãi

đúng chỗ ngứa. Ngưng tay, nó liếc trợn tròng như cô nàng tiếp thị. Gương mặt nó buồn như câu trả lời về xuất xứ, nhưng đôi mắt biết cười như nó đã quên. Nó sẽ là con chó biết làm cho người ta cảm động. Tạm thời nằm yên khi không khoẻ, không biết thằng con có biết tình trạng sức khoẻ con chó của nó? Tôi nhìn vô trong nhà vẫn chưa ai thức, xứ này nắng lên vàng rực cũng chưa ai dậy trong những ngày cuối tuần, những ngày trong tuần thì người ta lại đi học đi làm trước nắng lên. Nắng bơ vơ như người lạc xứ, sớm mai vàng chiều nhạt với hư không… Một mùa hè sắp sửa đi qua, thằng con đi chơi hơn tháng nay mới về lại nhà. Không gian câm đầy ắp căn phòng của nó những ngày qua nay lại vang vang tiếng nói cười, cái võng giăng ngang phòng vì không còn tủ kệ nào chứa nổi mớ thú nhồi bông

đã ngủ yên từ hôn người chủ nhỏ vắng nhà, những con heo, con bò, gà, gấu… con nào mua về cũng

được đặt tên theo những nhân vật, thú vật trong phim hoạt hình mà nó ưa thích. Mỗi đêm, trước khi lên giường, nó đều giành ra dăm phút trò chuyện với bạn bè rồi mới chịu ngủ. Chuyện dài về

đứa con nhỏ nhất trong nhà bao giờ cũng dài như phim bộ vì nó lớn lên từng ngày trong tình thương yêu của cha mẹ, còn thêm anh Hai nó nữa,

đó mới là nhân vật quan trọng trong

đời nó vì anh Hai không quá già

để khó khăn như cha mẹ, không quá trẻ để nó thiếu lòng tin, một người bạn khi vui chơi, người thầy khi học tập, người chia sẻ vui buồn với nó từ khi chào đời tới lúc không còn cha mẹ mới thấy trên

đời chỉ có hai anh em… Nghĩ xa không qua ngày tháng, cái bàn

ăn thiếu chuyện kể đủ thứ trong trường của nó như thức ăn thiếu gia vị. Tới giờ đi ngủ, không nghe tiếng hò hét tắt tivi, uống sữa,

đi đánh răng nhanh lên… mày còn lượn tới lượn lui… má đánh bây giờ! Những ồn ào khó tránh trong một căn nhà làm cho người ta tức bực tới lúc đi tìm, ngồi nghe tường vắng kể chuyện đã qua.

    Hôm

đi, nó mang theo con bọ (guinea-pig) tên Russell, là quà Giáng sinh yêu thích của cu cậu mê thú nuôi. Con bọ bằng nắm tay, lớn nhanh như thổi. Ngày nào đi học về cũng chăm lo cho con bọ như em gái thân yêu, ẵm bồng cả tiếng, cưng nựng mọi điều. Từ hôm có Russell làm bạn mới biết hỏi thăm, "Chừng nào ông bà đến? Weekend này ông bà có đến nhà mình không?..." Cô chú Thiệp thương nó và con Russell nên ông bà đến chơi nhà, ngoài những món ăn chơi, chai rược đỏ, túi cà phê Starbucks, phong chocolate cho nó như trước kia, nay thêm mớ túi baby carrot cho Russell. Chao ôi, tiếng "ông", tiếng "bà" ngọt như đường cát mát như đường phèn…  làm tôi nhớ tiếng "ngoại" của tôi nơi nhà cũ, bà ngoại mượn bên hành xóm mà tình như ruột thịt. Ông bà Nguyễn rồi cũng sẽ đi vào ký ức tuổi thơ của một đứa trẻ không có ông bà. Baby carrot sẽ gợi nhớ nó về căn nhà tuổi nhỏ và ông bà nhà thơ hiền lành, thân mật…

    Không biết lời nguyền nào đã linh ứng, ông bà nội ngoại của tôi

đều chết vì

đấu tố ngoài bắc. Tôi chỉ biết ông bà qua di ảnh.

Đến đời con cũng không có ông bà từ ngày lọt lòng mẹ, một người Việt sinh ra tại Mỹ, còn xa hơn tôi sinh ra trong một gia đình di cư từ bắc vô nam. Nó nhắc tới ông bà rất bỗng dưng… "bà mà gặp lại con Russell là bà hết hồn đó mẹ! Nè, mẹ coi đi, mẹ ẵm nó thử đi, hôm nay nó nặng bằng con rồi đó!"  Những ồn ào thường nhật bỗng bặt tăm từ hôm nó nghỉ hè, ẵm con Russell đi vacation. Cả nếp sống gia đình, bỗng thay

đổi như  hôm anh Hai nó đi đại học, bốn năm qua không còn phải vô tận giường đánh thức mỗi sáng, chiều tối không phải nghe la hét om xòn, "phòng mày như ổ chó…" nhiều khi cái ổ chó quen mắt, chợt lúc nào đó, vô phòng nó lấy quyển sách, nhìn căn phòng ngăn nắp-thiếu hơi người, mền gối tươm tất như khách sạn. Bỗng thèm thấy cái ổ chó còn hơn thằng con phải từng ngày lo ăn, lo giặt một mình nơi không phải là nhà. Đâu cũng bốn bức tường dưới mái che và lo toan trước mắt. Đến một lúc nào đó, người ta sẽ phân biệt được chỗ tạm dung là nơi dừng chân khi mệt mỏi trên hành trình dài. Nhà là một nơi để về, không sợ hiểm nguy rình rập xung quanh, bình an ngồi khâu vá tâm tư trong tình thân ruột thịt…

đứa lớn còn rong ruổi trên hành trình của nó. Những lời

động viên, chia sẻ kinh nghiệm hữu ích hơn rầy la long-distance. Tương lai thằng em cũng sẽ đi như thế, là một thực tại phải chuẩn bị tinh thần để giảm thiểu hụt hẫng. Căn nhà sẽ có thêm một phòng trống. Và khi nó trở về, không còn là chú nhóc liếng thoắng. Không

đòi

ăn món này món nọ, mà chỉ hỏi món

đó nấu làm sao? Mới hôm nào ồn ào

đi tìm cái máy game

để đâu, bây giờ lặng lẽ tìm cái bóp với xâu chìa khóa… Con trai hướng ngoại không có gì lạ, chỉ có người mẹ sau cánh cửa gia đình

đã chờ chồng con trở về hết

đời này qua

đời khác, giữ kỹ món đồ chơi, bức tranh vẽ nguệch ngoạc của con mình

để thấy nó còn bé bỏng muôn

đời…

    Chó con vẫn nằm im, một con chó ngoan mau chiếm được cảm tình, con chó biết nhận ra người gia chủ trong gia đình

đông người cỡ nào nó cũng nhận ra, và nó biết nghe lời người đó lắm, nhưng tình cảm của nó thường giành cho người ưa chơi với nó chứ không phải chủ nhà. Như con vàng của thằng Khánh ngày xưa, tối ngày lẽo đẽo theo thằng Út, chọc phá nhau không ngừng. Nhưng khi khó xử việc gì thì nó lại nhìn tôi, tôi búng tay cái chóc là nó làm tới, nhíu mày là nó rút lui. Cuối cùng, chạy theo thằng Khánh… con chó máu nóng nên tâm lý phức tạp như con người. Nhớ hôm qua, thằng con về lại nhà sau chuyến rong chơi dài ngày, nó cao lên thấy rõ, có vẻ trầm tĩnh hơn và tự lo lấy hơn là kêu mẹ… Hôm đi, mang theo con Russell, hôm về, mang con chó, một hôm nào nó đi vacation, dẫn về con… nhỏ, màu sáng cũng đỡ, đen thủi đen thùi, chưa vô nhà đã sực nức cà ri, hay một nàng ombomseries chứ không thèm ôm bom lẻ, trùm khăn kín mít, khó đoán âm mưu… Ngồi vuốt ve con chó, nghe lòng mình chơi vơi…  Thằng con đã lù lù xuất hiện, "Hi Dad, goodmorning! Lili có ngoan không vậy bố?"

   "Ngoan lắm."

   "Bằng con không?"

   "Bố nghĩ là hơn con chút xíu, nó nằm im nãy giờ, không kêu bother như con!"

   "Hì hì… nó

đang bệnh đó. Nó hết bệnh… cũng không có hiền đâu!"

   "Sao hôm trước, bố mẹ cho mua con chó. Anh Hai gởi hình con chó

định mua về nhà,

đâu phải con này?"

   "Dạ

đúng, con cũng thích con đó, Hai cũng thích. Nó đẹp lắm, nhưng tốn nhiều tiền của mẹ lắm đó! Nó tới mấy hundred lận bố!"

   "Bố có nghe mẹ nói, nhưng đã cho mua, sao con không mua con chó con thích?"

   "Bạn của Hai, bốn hớ Bryan không?"

   "Nhớ,"

    "Bryan cũng thích con chó

đó lắm. Bryan nuôi chó từ hồi nhỏ bằng con tới bây giờ nó cũ lắm rồi, vợ nó bỏ nó đi luôn. Con với Hai mới phải đi dọn nhà cho Bryan…"

    "Ok, chuyện Bryan divorce nói sau. Nó bao nhiêu tuổi mà con nói nó cũ?"

    "Bryan ba chục years old rồi

đó. Nó hay chó lắm, nó nói với con là con chó

đó đẹp thiệt, nhưng nuôi nó khó lắm, training cũng khó. Bryan sợ con take care không nổi!"

   "Cũng đúng. Rồi tụi con mua con chó này ở

đâu?"

   "Hai search internet, tìm

được cái Animal Center dưới Houston. Chỗ này người ta bán những con chó của người nuôi không nổi thì

đem tới đó bỏ, hay những con chó người ta tìm

được ngoàiđường…"

   "Rồi sao con tìm

được lili, sao con mua nó? Con có biết là nó

đang bệnh, và tai bên phải bị tật - không

đều với tai bên trái?"

   "Con biết!..."

   "Anh Hai có biết không?"

   "Hai cũng biết, Hai không thích nó bằng con Hai

đã sent picture về cho bố. Nhưng con thích nên Hai mua cho con."

   "Sao con biết anh Hai không thích mà con còn mua? Không nên thấy anh Hai thương con rồi bắt Hai làm chuyện mà Hai không thích!"

   "Con biết,… Hai không thích chút thôi. Nhưng con thích là Hai ok mà!"

   "Còn nói, từ nay, anh Hai say no thì thôi! Biết chưa?"

   "Dạ."

   "Sao con lại thích con chó này, sao gọi nó là lili?"

   "Con đâu có thích!"

   "Trời đất, không thích sao mua?"

   "Con muốn cứu nó thôi!"

    Tôi nhìn mặt thằng con, nhìn con chó của nó.

Đúng là chủ nào chó nấy, người sao vật vậy! Cái mặt hiền hiền nhưng hai con mắt lém lỉnh, suy nghĩ ngộ nghĩnh, nói năng không cú pháp, văn phạm gì cho mệt… nhưng câu trả lời, "Con muốn cứu nó thôi!" đã chuộc hết lỗi lầm, cứu một con chó không thích hay mua con chó ưng ý trong khả năng cho phép? Câu trả lời là tính trời sanh. Tôi nói, "Con nói rõ cho bố nghe về con chó này."

   "Dạ. Nó bị nhốt trong cái chuồng chút xíu hà, tất cả là 7 con, nó nhỏ nhất,

đang bị bệnh nữa, sao dành lại

được! Những con kia leo lên người nó để xin người ta ẵm ra ngoài, đạp lên đầu nó, đái trên mình nó… Con

đến coi, con biết là không cứu nó thì nó sẽ chết, người ta đâu có take care gìđâu!..."

   "Vậy là con chọn nó?"

   "Đúng, Hai không muốn nhưng con nói Hai…"

   "Biết rồi. Ở Animal Center, người ta có nói với con là nó

đang bị bệnh?"

   "Có, nhưng con muốn mua nó. Hai có nói với con, nếu mua nó là phải

đi bác sĩ, nhiều tiền lắm đó! Nhưng con…  không muốn nó chết. Sorry dad!"

   "Cũng tốt. Con đúng đó!"

   Nó mới nhún vai sorry, mặt buồn thê thiết, làm như ăn năn dữ lắm! Nghe nói, "con đúng đó" là tươi tỉnh, tía lia cái miệng, "Con với Hai phải đem nó đi tắm, cắt móng chân, nó thúi lắm. Người ta thấy con tội nghiệp quá, nên tính mười hai đồng thôi! Con tính nó là lucky dog đó dad."

   "Lucky gì

đâu, anh Hai nói với dad là

đi bác sĩ hết mấy trăm?"

   "Cũng còn lucky chứ! Nó không chết là lucky rồi! Bà bác sĩ dog còn nói nó dễ thương, con dễ thương. Bà cho free mấy lần chích ngừa sắp tới. Xí, được free mấy hundred tiền chích ngừa, là cũng bằng tiền đi bác sĩ cho nó, mà mình cứu

được nó…"

    Thua thằng nhỏ 2-0, nhưng hiểu ra lòng mình, lòng người, lòng dạ hẹp hòi, ích kỷ bẩm sinh, ưa lộng giả thành thật riết rồi u mê. - Suy nghĩ đạo đức làm gì khi chỉ làm gì có lợi.

Điều (chuyện) bất lợi, ai làm? Kẻ cắp bạc chẵn,

đi cúng chùa bạc lẻ là cảm thấy hết tội! Người ra tiền mua bao crawfish, nhưng không sát sanh nên nhờ người khác luộc rồi đớp chung… ông luật sư cãi

đen thành trắng, chuyện áy náy trong lòng chỉ nói với ông cha. - Người xưng tội thanh thản ra về!... Ai cũng đạo đức trong thế giới chiến tranh miệt mài…

   Thằng con lại ẵm bồng lili như con Russell hôm trước, tôi hỏi: "Con Russell của con đâu rồi?"

   "Hai không cho nuôi 2 con, mà con không muốn bỏ nó ngoài Petco cho người ta lấy…"

   "Vậy nó đâu? Ông bà hỏi thăm con với nó hoài đó!"

   "Sorry, con cho nó cho ông Mỹ-bạn bố đó!"

   "À, ông Mỹ dưới lầu - anh Hai."

   "Dạ đúng."

   "OK, ông đó tốt lắm, bố thích nói chuyện với ông Thomas. Con có biết ông ấy đã từng sang Việt Nam thời chiến tranh…"

   "Con biết, ông Thomas biết nói tiếng Việt chút chút

đó dad! Ông ấy cũng cưng Russell lắm, sáng nào ông ấy cũng chơi với nó ngoài sân…"

   "Thôi được, khi nào con trở xuống anh Hai, nhắc mẹ mua foods cho Russell và nói bố mẹ gởi lời thăm ông Thomas với Russell."

   "Đúng đó. Russell ở nhà ông Thomas, nhưng nó còn nhớ con. Con qua chơi là nó mừng liền!"

   "Hey, sao con gọi con chó này là lili?"

   "Thì nó lì lì như mẹ ưa la con, 'Cái mặt mày lì ra

đó đi! có tin mẹ đánh…' Con thấy nó trong Animal Center, cái mặt lì ra

đó nên gọi nó là lili."

   "Con có biết nó là con chó girl không?"

   "Con biết!"

   "Sao không mua con chó boy, con thích con chó boy mà?"

   "Nhưng không lẽ con chó girl thì không cứu nó! Con nói là không cứu nó là nó chết! Dad quên rồi sao?"

   "Phải ha,…

   dad không bao giờ quên

được lòng dạ hẹp hòi, ích kỷ… khi tuổi thơ đã vĩnh viễn ra

đi."

    Thằng con chơi với lili ngoài sân sau, hình ảnh tuổi thơ của thằng con đã

đọng lại trong tôi, sẽ ở đó vĩnh viễn cho dù mai này nó thế nào, khi

đời sống đánh cắp tuổi thơ của từng người không dấu vết để lại.

Bếp Lửa Nhân Quần

PHAN

Ông

Đạo đi thăm con về, gọi bạn bè tới lai rai mớ hải sản ông mang về từ xứ biển. Cái lẩu nhân quần ấm tối nay

đậm đà hương vị biển, hương thời gian thấm thoát đã già, thèm một chút khói lửa um xùm hơn cái lò ga xanh lửa mửa mùi. Ông

đốt lò than

để nướng tôm, rồi nấu lẩu ngoài patio, cũng

để trí trá hút thuốc. Khói nào cũng là khói, bà

Đạo khỏi lằng nhằng chuyện bác sĩ cấm ông… ông có coi bác sĩ ra gì

đâu mà lắm lời.

   Những món

đặc sản do ông mang về không chê vào

đâu được, tôm thẻ bằng ngón cẳng cái, ăn một con tôm nướng đã lửng bụng. Nào còn cua, mực, ốc hương… món nào cũng hấp dẫn vì tươi rói. Bữa tiệc dã chiến nào cũng vui, mỗi người một tay, rôm rả nói bậy, nói nhỏ cười to… Khi nhập tiệc khí khái vài ly rồi xụi lơ, ai cũng mong con lớn cho mình rảnh rang, hưởng thụ. Ông Đạo cũng như ông Đời: Con lớn thì cha

đã hết khí thế

ăn nhậu. Vui bạn bè bá láp với nhau chứ

ăn nhậu mấy hơi đã buông

đũa, úp ly, xin kíu. Thời trẻ mới đó đã qua, ngày nào

đông anh em bè bạn. Chai rượu chưa uống đã hết, dĩa mồi

đưa cay phải nhìn nhau mà gắp, xài

đũa măng chứ cáo bao nhiêu mà dùng

đũa tre… nhắc lại ai cũng cười, những nụ cười xót xa cho một thời như thế đã qua-qua thời gian-để lại bao điều khó qua trong ký ức.

   Cái lẩu cạn dần, than thôi rực đỏ, nước lẩu đặc quánh, ngọt lừ. Mấy người đàn ông

đã luống tuổi ngồi tiếc rẻ khi còn trẻ thì chẳng có gì

ăn. Bây giờ thức ăn

ê hề thì ngồi ngó. Khi chung tiền với nhau

đi mua xị rượu thì kẻ có người không chứ đâu phải là ai cũng có. Đâu có dành nhau mua như bây giờ, rồi rượu anh rượu tôi, uống chai của người này không uống chai của người kia lại sinh ra giận hờn không nể mặt…

   Đêm về khuya khí nóng giảm theo sương lãng

đãng bờ giậu xa, hơi men chếnh choáng, chuyện kể của ông về những bếp lửa thêm nồng hương đêm. Ông kể, "Ngoài quê tôi rét lắm, gia đình ông nội tôi thuộc loại

địa chủ nên cha mẹ tôi cũng có cơ ngơi tươm tất lúc ra riêng. Nhưng cái ăn vẫn còn hoài trong tâm tưởng với ký ức

đói kém. Những sáng sớm chưa tỏ mặt người trong gian bếp âm u, khói rạ như hun muỗi… mẹ tôi là vợ hai nên phải dậy sớm

để lo bữa sáng cho cả nhà. Bà cả không sinh

được con trai nên

đích thân đi cưới mẹ tôi cho cha, mẹ tôi mau mắn sinh ra tôi là phước hay hoạ cũng không biết nữa. Tôi có hai người chị cùng cha khác mẹ, hai chị tuy là con bà cả nhưng cũng không hơn gì tôi với miếng

ăn lúc nào cũng thiếu. Thường thì sau bữa sáng, mẹ tôi ra

đồng với mấy người làm ruộng thuê cho nhà. Chiều muộn mẹ con mới gặp lại nhau là hết ngày vì mẹ còn ao cá, chuồng lợn...

  Ở nhà, bà cả chẳng làm gì, cứ ra vô phe phẩy cây quạt cho ra vẻ sang cả. Thỉnh thoảng bà xuống bếp là nấu món gì

đó, rồi cho hai người chị tôi ăn, ăn lén ăn riêng nên bà dặn tôi: Con trai không

được xuống bếp. Tôi không xuống bếp khi mẹ tôi không có nhà là cái khôn sớm của tôi. Không kể mẹ nghe chuyện ở nhà khi mẹ

đi đồng và cũng không tò mò xem các chị

đã

được ăn gì… Người chị lớn ghét tôi ra mặt chỉ vì tôi là con trai. Chị tát tôi thẳng tay khi bắt gặp tôi dở trò nghịch ngợm,

được bà cả hậu thuẫn nên chị ngang ngược trong nhà, mắng chửi người làm thuê không còn non nước, mới nhúm tuổi đã

đanh đá không chịu được. Chả bù cho người chị kế, hơn tôi vài tuổi nhưng chị hiền thục như một nữ tu. Không bao giờ ăn hết cái gì chị có, thể nào chị cũng dấu trong áo nửa cái trứng, miếng thịt gà tới miếng trái cây… dúi cho tôi với ánh mắt khoan hồng

độ lượng, cái liếc mắt của chị đến mấy mươi năm sau cũng không thay đổi. Đến bây giờ, chị tôi chỉ liếc mắt là tôi hiểu ý ngay! Vợ con tôi thỉnh thoảng cũng

ăn hiếp lão già này, chị tôi mà biết là khốn cả lũ. Chị ấy thay mẹ tôi mà bảo vệ già này. Những năm tôi đi lính, đi tù, không chết thì về lấy vợ, làm

ăn kiếm tiền vượt biên, sang Mỹ buổi

đầu lớ ngớ lơ ngơ… cũng một tay chị tôi bảo bọc thằng em. Chị không giàu có nhưng giàu lòng,

đúng như mẹ tôi nói về chị từ những ngày chúng tôi còn bé…

   Một hôm trời mưa bão, rét thấu xương. Tôi ngồi nhìn ra cửa sổ ngóng mẹ tôi về. Mưa miền bắc rét mướt, ruộng đồng mờ ảo trong hơi mưa xa xăm… bóng mẹ tôi dần rõ,

đúng là mẹ. Nhưng mẹ ra dấu cho tôi đừng la toáng lên! Mẹ lặng lẽ giấu một vật gì vào kẹt những vại nước mưa. Đêm đó, mẹ tôi nói nhỏ vào tai tôi: Sáng mai mẹ có món ngon cho con rồi, ngủ ngoan đi… Tôi hỏi, trứng gà hả mẹ? Không!... Mẹ định nói nhưng không nói, tôi thì hiểu mẹ dậy sớm, ra

đụn rơm nhặt trứng gà rồi dúi vào nồi cơm cạn nước. Khi cơm chín là trứng chín, mẹ bóc lén cho tôi ăn. Nhưng việc đã bại lộ từ khi bà cả hỏi: Con gà

đã

đòi ổ mươi ngày sao không thấy trứng. Thế là mẹ không dám trộm trứng nữa…

   Tôi nằm bên mẹ, mưa bên ngoài gió rét bão bùng… khi thức giấc thì mẹ

đã dậy từ bao giờ, tôi xuống bếp, mùi cua nướng thơm lừng trong không khí đặc quánh hơi mưa, trời rét thấu xương, ánh lửa bập bùng, mẹ tôi mới ngoài hai mươi mà lưng đã còng xuống vì lam lũ quanh năm, con nhà nghèo nên

đành phận lẽ

để được ít tiền giúp đỡ ông bà ngoại. Mẹ lom khom dùng ống tre thổi lửa vì rơm rạ ẩm mưa không chịu cháy giòn. Mẹ vừa nấu cơm cho người, vừa nấu cám cho lợn, vừa thổi lửa, vừa lột cua cho tôi ăn. Con cua bằng bàn tay của mẹ thơm lừng gian bếp, thịt cua ngọt đẫm chân răng. Ăn xong, mẹ bảo: Con đi rửa mặt, xúc miệng đi. Tôi trở lại, mẹ tôi vẫn còn ngồi thổi lửa, lơi tay ống tre, rảnh miệng lại nhai vỏ cua sau khi đã bóc hết thịt cho tôi

ăn…

   Mẹ tôi như con cua, bà cả lột hết thịt rồi nhai luôn vỏ. Mẹ bệnh liệt giường, không đi ruộng được nữa mà việc nhà cũng thôi luôn. Nằm ăn hại mà nghe nguyền rủa, vỏn vẹn chỉ sinh cho cha tôi được duy nhất một đứa con trai đã

đổ bệnh nan y. Tôi cũng không biết bệnh nan y là bệnh gì, chỉ biết mẹ xanh xao và yếu lắm.

Đến hôm tình cờ nghe

được cha tôi trò chuyện với bà cả, ý cha là cho mẹ tôi ít tiền rồi

đưa về ở với ông bà ngoại. Nhưng bà cả không chịu vì con dâu phải hầu hạ cha mẹ chồng… Tôi chỉ nghe

được thế và không hiểu gì hết! Cuối cùng, bà với cha tôi, hai chị và tôi

đi di cư vô nam. Mẹ tôi phải ở lại để hầu hạ ông bà nội. Chúng tôi

đi khi mẹ đang ngoài

đồng vì không chịu nổi nhiếc móc của bà cả dù mẹ tôi yếu lắm. Chúng tôi

đi trốn, trốn đi để tránh mẹ tôi khóc la ầm ĩ… 6 tuổi đã mất mẹ nên tôi nhớ mùi cua nướng suốt đời.

   Năm 28 tuổi, trong trại tù gió rét âm u, mưa miền bắc não nùng

đói lạnh… tôi nhớ bếp lửa của mẹ tôi vô cùng, nhớ mùi cua nướng và thầm mong mẹ còn chứ

đừng chết để hôm nào tôi sẽ về gặp mẹ. Nhưng ở tù lâu quá, mãi

đến 33 tuổi, tôi mới lầm lũi về quê một mình. Người chị kế đã cho tôi biết: mẹ em mất rồi,

đừng về quê nữa cho

đau lòng. Nhưng tôi không cam tâm nên đi tù về là xin chị tiền vé xe lửa đi bắc. Mẹ tôi chết thật rồi, chỉ còn nấm mộ

đất lở loét, hoang vu… Căn nhà xưa vẫn còn vài dấu tích như ao cá, vườn cây… nhưng đổi chủ từ lâu rồi. Mẹ tôi nằm lại nơi sinh ra và không bao giờ biết là tôi còn sống hay

đã chết!

    Tôi ôm hũ  xương cốt của mẹ tôi về nam. Thề không bao giờ trở ra miền bắc nữa. Không bao giờ gặp mặt cha tôi, bà cả và chị lớn. Chị  kế tôi với người anh rể tốt bụng, anh chị đùm bọc tôi sau khi ra tù, cưới vợ cho tôi. Bếp lửa nhà tôi lại nhả khói lên trời, bếp lửa của vợ tôi có người chồng phụ tay đun nấu, nuôi đàn con với đàn heo để tích lũy vượt biên. Đàn heo rã hết bầy này tới bầy khác,

đàn con khôn lớn.

Đi chơi đi học về là lao xuống bếp với mẹ, phụ mẹ, trò chuyện,

ăn chung những món không dọn lên bàn

ăn như chén chè

đậu nóng thơm, mấy mẹ con xì xụp dưới bếp. Các con tủi phận nhà nghèo, không đứa nào biết tôi thèm được ăn công khai với mẹ tôi trong bếp một lần như thế, ăn gì cũng

được và không bao giờ

được…

  Bếp lửa tro tàn,

đủ tiền vượt biên là xong nhiệm vụ của căn bếp nấu cám heo nhiều hơn nấu cơm ăn. Chúng tôi đi xa hơn người đời trước đi nam, nhưng tình nghĩa gần hơn vì không bỏ lại ai hết. Những ngày

đầu trên xứ lạ này, bếp lửa hoang mang vì chả biết nấu làm sao với thứ cần không có thứ có không cần. Sợi mì của món Spaghetti

đem nấu mì hoành thánh cũng

ăn ngon. Căn bếp rộn ràng, háo hức tiếng cười gia đình… chỉ tiếc là bếp lửa nhóm lên ở vùng quê mới, không có khói như bếp lửa nướng cua ngoài bắc, nấu cám heo trong nam, bếp Mỹ không có khói nên không giữ được chân người. Không bao lâu, bếp không làm khó người nấu bếp vì cái gì cũng sẵn, người ăn không chờ ăn nên đễnh đoãng tháng ngày. Con cái mới

đó đã tung bay như chim di. Nhà còn có hai vợ chồng,

ăn thức ăn mua rẻ hơn nấu, sạch bếp thơm nhà, nhưng cái bếp không nổi lửa như nhà không người ở, không khí thiếu mùi hương. Dăm thuở mười thì mới

đi tìm củ tỏi thì củ tỏi

đã khô

đen, củ hành mọc mầm trong tủ lạnh… Cái bếp ở xứ này

đã không còn là nơi sinh ra và cất giữ những bí mật suốt đời không quên. Cái bếp nhà vô cớ đã lạnh,

đi thăm con, nhà bếp của nó còn sạch hơn mặt mũi, soong nồi chưa lột nhãn tên, treo lủng lẳng coi chơi. Tủ lạnh chỉ có chùm nho, chai rượu vang uống dở với vài chai bia. Hộp thức ăn togo từ nhà hàng đưa về, chưa hư nhưng cũ lắm rồi, chỉ có thế.

   Vợ chồng tôi  ở chơi mấy ngày, con gái con rể đều tốt cả, chúng đưa đi ăn hết nhà hàng này mai nhà  hàng khác, nhà tôi tiếc thức ăn ăn không hết ngoài nhà hàng, nhờ họ cho togo về, chất vào tủ lạnh để mất công con cái đi bỏ  rác hôm sau. Căn bếp của một gia đình mới

được dời ra nhà hàng vì

đời sống công nghiệp. Không biết những đứa trẻ sau này nhớ về gia

đình qua hình ảnh gì?

Đời tôi nhớ mãi bếp lửa của mẹ, con tôi

đã dụi lửa căn bếp của mẹ chúng nó nên

đời cháu tôi nhớ về gia đình qua một xấp menu nhà hàng. Rồi ra nơi này cái gì cũng có nhưng không có cái gì

để nhớ để quên…"

   Mọi người ra về  sau bữa tiệc ồn ào lúc đầu để trầm ngâm riêng tư từng cảnh ngộ… Bỗng nhớ da diết nồi cá kho của mẹ cho bữa cơm trưa ngày 30 tháng 4, 1975. Mẹ định nêm ít đường vào nồi cá kho nhưng tay trút bột giặt Viso vô nồi cá lúc nào không biết, bọt xà bông tràn ra bếp lửa, tràn xuống bàn bếp, xuống tới sàn bếp trong hoang mang lo sợ. Để nỗi nhớ như bọt xà phòng cứ bung xung trong tâm trí

đàn con từ

đò về sau…

  

Miếng Líp Cửa

PHAN

T

ư Diệc ở trong đồng, hết bia hết thuốc mới mò về phố chợ. Lần nào anh Tư về cũng gọi mấy người quen đi uống cà phê hay vài chai bia, để được nghe họ nói chuyện trên trời dưới đất cho đỡ buồn ngày tháng dê kêu bò rống … thèm nghe tiếng người, nhất là tiếng Việt. Hôm anh ở lì trong nông trại tới cả năm, về thành râu tóc như người rừng, nói tiếng Việt ngượng ngịu như mắc bệnh cà lăm. Chặp đó anh Tư buồn chuyện chị Tư vắn số qua đời vì bạo bệnh, chưa kịp hưởng thọ đã sớm theo ông bà. Anh Tư thất chí bỏ nghề đi bán xe

lunch

vì hai vợ chồng rong ruổi với nhau từ ngày qua Mỹ. Bây giờ nói anh đi bán một mình thì không xuể nhưng mướn ai đi cùng, thuê ai cùng đi bán rồi đi chợ mỗi ngày, về nhà cùng nhau chế biến ra những món độc để cạnh tranh nghề nghiệp với những xe

lunch

khác, cái nghề thấy dễ ụi nhưng vô nghề mới biết khó nuốt vì cứ bán mấy món Mỹ, ngán thấu trời thì chỉ vài tháng là hết khách, thức ăn đổ bỏ tới hết vốn, chào thua.

Nhưng người tính không qua được ông trời, hai vợ chồng mới rảnh tay con cái lớn khôn để tính chuyện chúng mình, để thôi con nhỏ lớn đã có bạn trai, nó làm đám cưới trước ba má thì kỳ chết. Anh chị Tư ăn ở với nhau đã mấy mặt con, mấy chục năm tình cũ, ngày nào chị Tư cũng lên xe

lunch,

đi bán với anh Tư nhưng cả đời chị Tư chưa mặc áo cưới, chưa lên xe hoa lần nào. Vì hồi hoà bình thì ai không khổ, cực chẳng đã còn bị má ép lấy chồng cho nhà đỡ hao cơm. Cũng đâu phải người không quen biết, gặp nhau mòn mặt mà sao ưa không nổi loại người trốn quân dịch đời ông Thiệu nhưng sang đời ông Hồ thì ra làm cán bộ, có xuồng máy đuôi tôm chạy tạch tạch lấy le thì chị không ưng. Đi ưng anh Tư Diệc bán kẹo kéo ở trường học con nít, có cái xe đạp bể bánh quanh năm, toàn thấy ảnh đẩy xe đi bán kẹo kéo, “Sao anh Tư không khoác cái thùng kẹo kéo thôi ên cho khoẻ, đẩy theo cái xe đạp cho cực?” Ảnh trả lời gọn hơ, “Đẩy theo cái xe bể bánh không có tiền vá cho em thương…” Ai nói không thương, tự người ta không nói ra thôi chớ bộ! Chị Tư cũng bán gánh khoai luộc ở cổng trường học cho có đồng ra đồng vô phụ má, lo em, thì ảnh cứ ghẹo hoài là khoái ăn sang. Hồi biết được nói ngược lại là sáng ăn khoai, chị Tư cười quá chừng!

Ai dè ưng ảnh chưa kịp nói thì ảnh đi Miên, theo phục quốc chớ hổng thèm bán kẹo kéo nữa. Chị Tư cứ vậy mà buồn tới đổ bệnh tưởng chết vì ảnh đi biệt mấy tháng trời, làng xóm cứ tính là anh Tư đi vượt biên mất xác nên không tin tức. Một mình chị Tư cam chịu đợi chờ, tự hôm ảnh đi có nói: “Anh đi qua Miên với mấy thằng bạn lính, không biết chừng nào về… tụi anh không phục kiểu hoà bình chó đẻ này. Mơi anh đi rồi, em có buồn không?“ Nói vậy thôi rồi đi, không cần biết người ta sống như ma bắt. Bán gánh khoai có bao nhiêu tiền mà ngày nào cũng lỗ vốn vì ai đưa nhiêu đưa… khùng tới gánh khoai ra nghĩa địa ngồi khóc mà không đi bán. Từ đó mang tiếng ma nhập tới ế luôn, đổ bệnh tưởng chết… [..............................].

Ai dè chết điếng khi anh Tư về không báo trước, không biết ảnh hay là ma? Ốm tong như cây sậy, sốt rét xanh lè… hỏi gì cũng không nói, hỏi-cưới thì không tiền. Lầm lũi bỏ đi chăn vịt mướn để canh me vượt biên. Chị Tư lội biết bao nhiêu đồng, băng bao nhiêu ruộng, đi thăm người chăn vịt mắc bệnh câm. Hỏi gì cũng không nói, chỉ biết nghiến răng tới trẹo quai hàm. Chăn vịt đồng gần thì sợ chị Tư đi thăm cực khổ nên chăn vịt đồng xa cho khỏi thăm luôn, ảnh đâu có biết lội rã giò đi thăm ảnh, dù có mớ khoai luộc không đáng gì nhưng nó vui trong bụng. Số chị cực tự thương người không biết thương mình, đi cho đã nư rồi nửa đêm mò về như báo mộng, dắt chị đi vượt biên. Đi hôi còn làm tàng, lên ghe làm ghe trưởng, “ai không nghe lệnh, tui liệng xuống biển đừng trách!” Vậy mà người ta sợ cái tướng tá cù lần của ổng… Chị Tư ngồi cuốn chả giò, nói như không nói, nói với mình hay nói với ai mà lả chả thương thân: gả cho anh Tư không một lá trầu, trái cau dạm ngõ, tới hôm mặc áo cưới thì đã nằm trong quan tài, đi xe tang…

Những hôm lừng khừng mấy chai bia với anh Tư trong cái

garage

làm thành nhà bếp để nấu nướng ì xèo cho xe

lunch

đi bán. Chị Tư làm đều tay, miệng luyên thuyên kể chuyện hoà bình, nghe như chuyện cổ tích. Lâu lâu tạt ngang chai bia anh Tư đang uống dở, - “cho giang một ngụm coi ba xấp nhỏ!” Chị uống bia như thằn lằn uống nước cúng, nhưng ưa rủ nhậu, thích làm ốc leng xào dừa cho đỡ nhớ quê hương… vô ba ngụm là bùi ngùi muốn khóc, ước mơ của chị Tư không lớn hơn một lần mặc áo cưới, đi xe hoa, một căn nhà có cửa trước cửa sau vì hồi theo chồng, ở chòi, miếng líp lá chầm làm cửa, gặp trời giông gió bay bất tử, mắc cỡ muốn chết… Chuyện chị Tư còn chưa dứt trận cười sao bỏ đi đột ngột, để anh Tư trơ trọi đứng chờ vợ ngoài chợ Việt nam cho đỡ nhớ. Chờ hoài cũng không tin vợ mình đã theo ông bà. Trên dây đèn chim còn có bạn, anh Tư bùi ngùi bỏ chốn xôn xao… đi chăn bò cho nông trại đèo heo hút gió để tìm quên tháng ngày…

Lần nào chia tay anh Tư ở quán bia, quán cà phê, cũng hứa chắc như đinh đóng cột là sẽ đến thăm anh cho biết chỗ anh làm, biết ông bà chủ mà anh luôn nói tốt về họ. Anh đi làm thuê cho nông trại, 5 năm sau đã thành người quản gia tin cẩn, trông coi hết mọi việc trong nông trại mênh mông… Anh Tư không nói quá lời vì ngay người Việt với nhau thì phong cách và tính nết anh Tư đã hơn người. Ở anh, sự lực lưỡng của một người nông dân không làm cho ai sợ. Người nông dân về già càng phúc hậu, dễ mến như một ông già nam bộ chánh tông. Khề khà bên ly rượu, nói chuyện tâm tình, không bao giờ lớn tiếng với ai. Mỗi lần anh về phố chợ như chỉ để ăn tô hủ tíu sau tháng ngày triền miên ăn món Mỹ. Cũng không quan trọng bằng anh về như để hỏi thăm mọi người quen biết có được mạnh giỏi? Nghe ai không xong, anh gác đũa đi thăm, mà những người anh Tư quen thì thường không ai biết nên việc anh đến thăm một người cắt cỏ thuê, làm bồi bàn, deli pizza… trong lúc bệnh hoạn hay không may, làm cho người đó cứ như niềm tin đánh mất vừa tìm lại được. Nói tới anh Tư Diệc, những người quen biết anh thấy tự hào vì anh không thành danh nhưng thành nhân trong hổ lốn tranh hùng…

Mấy hôm trước gọi anh Tư thăm hỏi vì đã lâu không gặp, anh nói qua điện thoại thôi cũng đủ mát lòng, “Anh biết, chú mày không hay nói điện thoại. Vậy mà gọi hỏi thăm anh Tư… anh xin lỗi để chú mày lo.”

“Không lo sao được, lần nào anh về mà không gọi em. Tự nhiên nhớ ra đã lâu anh không gọi…”

“Anh thiệt là có bệnh, đi bệnh viện… tự ông bà chủ lo quá thôi! Ở bệnh viện buồn chết anh Tư luôn. Bác sĩ cho về, mừng như sống lại. Nhưng ông bà chủ không cho làm việc nữa, họ bắt anh nghỉ ngơi…”

“Có ăn lương không?”

“Sao lúc nào, chú mày cũng coi trọng…”

“Không có lương, lấy gì sống đây anh Tư?”

“Cũng phải. Anh xin lỗi…!”

“Rồi, mấy đứa con anh có biết anh bệnh, phải đi bệnh viện không?”

“Có. Anh không nói, nhưng bà chủ gọi tụi nó. Bắt tụi nhỏ về thăm anh, bà ấy cho tiền vé máy bay…”

“Anh thiệt là có phước. Không phải ai đi làm mướn cũng được người chủ có lương tâm. Nhưng anh làm gì tới đổ bệnh, dữ vậy?”

“Anh cất căn nhà.”

“Sao không mua cho khoẻ, anh dư khả năng mà?”

“Anh cất căn nhà đúng như ý chị Tư mày muốn. Tiếc là hồi bả còn sống thì anh không làm nổi…”

“Chết là hết rồi anh Tư. Bây giờ anh có cất lâu đài tình ái thì chị Tư cũng biết gì đâu!”

“Vợ anh biết anh sẽ làm, chỉ là số phần bà ấy-trời không cho đợi.”

“Vậy bây giờ anh còn làm để làm gì, làm xong rồi đốt cho chị Tư như đốt vàng mã hả?...”

“Khi mình còn trẻ, cày cuốc để lo con… mong ngày tụi nó lớn cho mình bớt cực. Nhưng khi con cái tự sống được mới nhức đầu! Hơn đi cày hai

job…”

“Mấy đứa con anh, ngoan mà!...”

“Con cái anh biết má nó mơ một căn nhà-giống làng quê Việt nam chứ không thích nhà Mỹ, bả kể từng bữa cơm, nhưng anh không làm nổi khi bả còn sống. Bây giờ làm cũng chưa muộn. Làm không phải để cho bả mà để cho con cái thấy hết tình cũng còn cái nghĩa. Tình nghĩa muốn trọn vẹn phải có cái tâm. Má tụi nó chết sớm nhưng anh vẫn làm điều bà ấy muốn để tụi nhỏ cân nhắc hơn trong chuyện hôn nhân vì đứa nào cũng giỏi hơn ba, hay hơn má… nhưng nhường nhịn nhau thì tụi nó chỉ biết cãi lộn, chưa cưới đã mở miệng ra là ly dị…”

“Anh Tư lợi hại thiệt! Chừng nào ăn tân gia nhớ kêu nha.”

“Đương nhiên rồi,…”

Không cần thấy cũng biết căn nhà có cửa trước cửa sau, trời giông gió bất tử, miếng líp cửa không bay bất ngờ làm chị Tư mắc cỡ muốn chết nữa… Cuối cùng anh Tư cũng làm được điều chị Tư muốn, còn mình…

Cái Ghế Đẩu

PHAN

H

ồi nhỏ, tôi có quen với ông thợ mộc, tôi xem ông như bạn, dù ông không được tử tế mấy. Ngày nào đi học tôi cũng ghé xem ông cưa cắt, đục đẽo… Tôi thích nên coi say sưa, có hôm mê mẩn tới quên nghe tiếng trống trường. Thể nào ông cũng nhắc, “Đi học đi, tiên sư nhà mày. Nhỏ không học lớn làm thợ mộc à?” Ông đâu biết chính câu nói ấy đã làm tôi trốn học vì tôi mê thành thợ mộc hơn đi học. Những hôm ông đóng tủ bàn ghế, ông làm việc miệt mài đến chẳng hỏi han tôi đã đành, còn xử tệ với bạn bè! “Đi chơi đi, đừng lẩn quẩn ở đây, rồi đạp đinh lại chết phiền…” Tôi cũng có chút tự ái, tự trọng, nhặt được ở đâu không nhớ. Chân lững thững đi mà lòng buồn rười rượi… Thì ra người cùng quê với cha mẹ mình, người ta chạy cộng sản một lần là suốt đời cảnh giác những lôi thôi. Ông bạn già không vui tính như những ông thợ nam bộ, vấn cái khăn ca-rô trên đầu, ngậm thuốc rê… Thấy con nít tới coi là cười hề hề… “Có dzợ chưa mảy. Tuột quần tao coi con cu bao lớn rồi? Tao thẩm lại cho ngay. Để thôi nó quẹo qua bà hàng xóm, là rầy rà lắm nghen…” Miệng nói, tay ông ấy xách lên cái bào thẩm, dài cả thước. Thằng nhỏ xám hồn, dông mất tiêu liền. Vậy chứ, ra khỏi tầm nguy hiểm, cũng nhìn trước ngó sau, giở giở sương sương lưng quần tà lỏn để coi trái ớt thẳng hay cong! Sợ chứ sao không sợ. Cái bào thẩm bằng gỗ mun đen hù, dài sọc đó, cái lưỡi bào bằng thép xanh ửng, bén như dao lam mà đẩy một đường thì trái ớt còn bằng cây tăm. Thì ra ông ấy chỉ hù cho đi chơi chỗ khác, để ông ấy làm việc. Ông thợ mộc nam bộ đuổi khéo mà hát cũng hay, ngoái lại chỗ ông làm chỉ nghe văng vẳng… má ơi con lấy thợ bào/ khom lưng ảnh đẩy cái nào cũng sâu…*

Ông thợ mộc tôi quen, người nhỏ choắt nhưng không ốm yếu, da rám nắng vì cả ngày ngoài chái, ngoài hiên. Những hôm có việc đã đành bận bịu. Những hôm không, ông ngồi mài đục, giữa cưa… nếu biết xem cũng học hỏi được đôi điều. Như cái lưỡi cưa khung, đi mua về đâu phải dùng ngay. Phải biết mở lưỡi phải-trái; giũa răng chẵn-lẻ, răng ăn-răng xả mạt cưa… răng kềm răng hồi để giữa thẳng đường cắt, mặt cắt láng o… mới là cưa thợ. Nhiều khi ngồi nghĩ, sao tôi lại biết những điều này quá sớm trong đời. -Như một điềm gở về tương lai đen tối. Vì không lâu sau đó, chưa kịp lớn đã hoà bình, mới lớp 8, lớp 9. Tôi đến chơi nhà bạn, thấy nhà nó có cả đống thép đai thùng. Thế là đi học về, hai đứa ngồi giũa thành lưỡi cưa, đóng cái khung cưa thì quá dễ. Nó không biết gì thì cứ ngồi giũa phá cho ra răng cưa, tôi mở lưỡi, giũa bén, rồi đem bán cho hàng xóm cưa cây thay củi vì tiền đâu mua, ai cũng khen cưa bén nên chúng tôi rủng rỉnh đồng quà.Uống ly nước mía tuổi nhỏ bằng mồ hôi và sức lao động của chính mình mới thấm thía chiến tranh và hoà bình trong đời người chứng nhân lịch sử. Nghe ghê quá!

Thời gian thênh thang giục bỏ những lối mòn xưa cũ, con đường làng đất đỏ quên dấu chân con, đã lâu tôi không về căn nhà thơ ấu, không qua ngõ nhà ông thợ mộc. Hết thèm làm thợ mộc hơn đi học, dù đi học cũng chỉ là một hình thức thất nghiệp trí thức hơn đầu đường xó chợ. Một trưa ngồi quán đầu ngõ nhà, quán trưa vắng cả gió. Chị chủ quán thiu thiu ngủ trên chiếc võng đong đưa, tôi ngồi đọc sách, đã thành thông lệ coi quán cho chị, chủ yếu coi chừng bọn trẻ lượm ve chai, chúng lượm hết ve, tới chai cũng không còn, nên gặp gì lượm nấy… Mấy con gà bươi rác, hở mắt thì mất. Đám trẻ bươi miếng ăn qua ngày chỉ nghe lời nguyền rủa, xua đuổi… nhân phẩm không bằng súc phẩm. Làm sao đọc nổi trang phê bình văn học, nào là góc nhìn nhân bản, trí tuệ đỉnh cao, sữa để em thơ lụa tặng già…*

Bỗng đâu ông già tóc bạc, râu trắng hếu, táp xe đạp vô quán trưa hiếm khách vãng lai. Ông chỉ muốn uống ly trà đá, nên tôi đứng dậy, đi làm luôn cho ông. Tôi thấy ông quen quen trong rừng người xa lạ ngoài bắc mới đổ bộ vào. Nghe giọng ông là biết bắc năm-tư, nói tiếng bắc nhưng không sặc từ khó hiểu như người mới vô, cứ qúa trình với quá độ, “đèo em với bác nhé!”- “cứ vô tư, em à! Anh đèo em suốt đời cũng chẳng sao…”, nghe như không phải tiếng Việt.

Ông già ngồi phải cái ghế đẩu lòi đinh đâm đít, không chửi thề toáng lên như khí khái nam bộ; cũng không địt tới ông giời - vô tư. Ông ngồi sang ghế khác, giở cái ghế lòi đinh lên xem, chép miệng hiền lành… “giả dối, giả dối…” Nhưng tay kia nhặt cái ghế khác, dùng chân ghế này đóng đinh cho ghế nọ. “Đâu phải chỉ cái ghế, cả thời đại thế đấy bác ạ!” Tôi định nói ông nghe vì tôi cũng đang bực những trang sách giả dối; bực cái loa trên cột đèn ra rả-không có điều gì thật… Cả thời đại giả dối, nhưng nói ra điều tức bực đâu có giúp người nghe hết thở dài. Tôi hỏi ông có muốn châm trà thêm không? Ông trả lời, “uống nhiều, leo cao, mắc đái.” Giọng bắc nhưng xài toàn từ nam là chắc chắn bắc năm-tư; gương mặt lại quen mà không nhớ ra ai thì mình tệ thật! Tôi trách mình mau quên, vừa lúc miếng giăm bào trong túi áo ông rơi ra theo bao thuốc lá với cái quẹt. Tôi nhớ liền ông thợ mộc năm xưa. Sao ông già khú đế? Thì ra mình cũng râu ria rồi còn gì. Không biết còn gặp lại lần nữa hay không, người quen như gió ngửi, giậu cũ vắng hương thầm… gió bay theo đường gió, người quên từng yêu nhau… Một người quen đã đi lấy chồng, một người yêu thôi đã sang sông… cái máy cassette băng nhão não nề thêm trưa thanh vắng, - như lòng tôi trống không một mối tình câm… Nhìn sang ông già ngồi thật hiền, nghỉ ngơi một lát với ly trà đá và gói thuốc Vàm Cỏ. Đôi mắt già nua nhìn ra sông cạn, không biết ông nghĩ gì khi qũy thời gian đã bạc thết mái đầu: một lần về quê thăm miền bắc, hay chạy luôn quan biển như người chết hai lần thịt da nát tan… Tôi tự động đi châm trà cho ông, sau những suy nghĩ hoang tưởng của mình. Ông cảm ơn rồi hỏi, “có cái búa đây không, tao nhìn mấy cái ghế lòi đinh, chịu không được.” Thì ra chị chủ quán nhắm mắt để đó chứ có ngủ nghê gì, nhanh nhẩu, “dạ có, dạ có…”

Ông thợ già tỉ mẳn đóng lại từng cái ghế xiêu xẹo như đóng lại quá khứ điêu tàn, vì mai nó lại xiêu xẹo như thời đại của nó, thời đại giả dối thì chỉ có vứt đi, cái gì thuộc về bản chất thì không thể cải tạo. - Loa phát thanh vừa quy kết một kẻ trốn trại cải tạo trở về còn đánh công an đang làm nhiệm vụ thì thiệt là anh hùng bản sắc, -làm sao cải tạo! Ông thợ già cứ ngồi đóng hết cái ghế này đến cái ghế khác, chị chủ quán bưng ra bình trà nóng chứ không phải trà đá, chị nói: “Bác Tư đi làm đi, con pha cho bác bình trà nóng nè, đem theo uống. Chiều về, ghé trả bình cho con. Mấy cái ghế này, chồng con đóng lại cũng chỉ được vài ngày là như… răng bà già. Kệ nó đi.”

Ông già cẩn thận chở bình trà nóng đi khuất, đúng là ông: uống trà nóng và hút thuốc lào bát điếu hẳn hoi. Thời thế đã đánh cắp thói quen nên ông uống trà đá và hút thuốc lá, nhưng không đánh cắp được đạo đức, lương tâm nghề nghiệp của một con người. Chị chủ quán chặn ngang suy diễn đang tiếp nối trong đầu tôi: “Em biết bà Sáu hụi không? Giàu có, nhơn… đức cái miệng… như Việt cộng. Mướn thợ mộc tới nhà làm. Không cho bác Tư được tới miếng nước uống, nói gì tới cơm trưa. Trưa nào bác Tư cũng ra đây uống trà đá, ổng nhịn đói tới chiều mới về nhà ăn cơm. Ổng đâu muốn làm cho bà Sáu hụi, tự cần tiền cho bà Tư đi thăm nuôi con cải tạo… Hồi đó, chị mà ưng anh Thuận, làm dâu bác Tư thì bây giờ cũng khổ như hai ông bà… nuôi con tù tội còn nuôi cháu nội mồ côi. Con dâu bác Tư, vợ anh Thuận đã bỏ đi vượt biên với người khác… Chị chẳng giúp được gì hơn ly trà đá, bình trà nóng không tính tiền bác Tư…”

Đàn bà, họ không ăn thì ngủ. Thức dậy không nói nghĩa là đói bụng. Chị tôi vừa nhồm nhoàm củ khoai lang luộc nên rỗi hơi. Mặc kệ bà chị chung ông trời, tôi ngồi nhớ ông những hôm rỗi việc, ông không mài đục, giũa cưa thì gom mớ cây vụn ra đóng ghế đẩu, ghế cóc… Đóng xong, bỏ ngoài ngõ là thể nào những người bán quán cóc cũng thích mua, bà nội trợ đi chợ về cũng muốn mua cái ghế ngồi làm cá của ông thợ mộc hơn mua hàng chợ. Ông lượm bạc cắc trong xóm làng để gom thành bạc lớn; ghép cây vụn thành cột chùa, kèo đình… từ những đồng tiền lương thiện nhỏ nhoi. Một tay ông làm công quả suốt thời thơ ấu-tôi nhớ mãi… cái Am của sư cô bị pháo kích, cũng một tay ông dựng lại từ đổ nát, điêu linh; Nhà thờ bị mưa giột, cũng có ông góp tay sửa mái…

Một hôm gió thuận mưa hoà hay ông ăn hủ tíu ngoài chợ, nhưng ăm nhầm đũa bà Sáu hụi. Ông nói chuyện với tôi chứ thường ngày ông lù đù như cu thằng chỏng, có sóng ghe máy chạy nó mới ngóc lên-đuổi tôi đi. Hôm đó ông đang đóng những cái ghế đẩu bằng gỗ vụn. Tôi mê mẩn coi, say mê những cái mộng vừa tròn, bỏ vô êm ru như cậu nằm với mợ, gõ gõ vài búa đã ra cái ghế chỉnh chu hơn hàng chợ. Tôi hỏi ông học nghề bao lâu mới thành thợ mộc? Ông trả lời bằng cái nheo mắt lém lỉnh-nhớ hoài! “…Chừng nào đóng được cái ghế đẩu thì cất được căn nhà, -là thợ mộc.”

Những băn khoăn ngày bé, lúc nhớ lúc quên trong đời. Tại sao đóng được cái ghế đẩu thì có thể cất được căn nhà? Ông Tư không phải người thích nói chơi, ông nói nghĩa là có. Tôi về đóng thử không biết bao nhiêu cái ghế đẩu, nhưng chẳng ai được ngồi, chỉ có đống củi nấu cám heo phình ra, cao lên…, mẹ tôi chẳng phải réo, bửa củi cho mẹ nấu cám heo như trước. Mới nhúm tuổi đầu, ở nhà quê mà tôi đã có bộ đồ nghề thợ mộc: một cái cưa của Mỹ hẳn hoi, nó dở òm so với cưa khung của ông Tư thợ mộc. Chỉ cưa nhánh ổi làm giàn thung cũng nhùng nhằng như cưa cột đình. Vài cái đục tự chế, tự mài từ những miếng sắt lượm được, cái tuộc-nô-vít vứt đi. Cái búa nhổ đinh bị gãy cán, ai vứt đi không biết, tôi nhặt về tra cán bằng nhánh ổi cho nó dẻo giai… không có bào thì ngồi đập hũ thủy tinh, lấy miểng, cạo tới nhẵn bóng cái cán búa.

Chỉ ngần ấy thôi đã làm cho mẹ tôi nể mặt, mẹ nhờ chứ không sai như trước: “Con coi lại giùm mẹ cái cửa rào, cái cửa chuồng gà…” Từ tình trạng lánh mặt để mẹ sai đứa khác, bước sang tình huống chống nạnh, thở dài… tính toán với mẹ về cái cửa chuồng heo xiêu xẹo. Không xin tiền ï mua cà rem như trước, mà mẹ cho con mấy đồng đi mua đinh về làm. Tư cách con người cũng đĩnh đạc hơn khi làm đại sự. Rồi tiếng lành đồn xa sang hàng xóm, bà Năm bà Bảy nhờ sửa cái ghế còn có ba chân, cái bàn đong đưa như võng lắc… bàn ghế tốt đã bán sạch sành sanh sau hoà bình-nhà nào cũng như nhà nấy.

Bây giờ có ngang nhà ông Tư, cũng chỉ liếc mắt nhìn xem ông đang đóng cái gì? Hết tuổi không mời mà đến, không đuổi mà đi… lại không còn thích hỏi đủ thứ trên trời dưới đất như thuở bé. Nhưng mỗi lần ngang cửa ông Tư đều nhớ là mình chưa đóng được cái ghế đẩu. Nó, nhìn đơn giản như một món vật tầm thường trong đời sống, nhưng làm ra được nó, không chỉ có gỗ, đinh, đồ nghề thợ mộc. Cái quan trọng nhất trong việc đóng ghế đẩu là sự tính toán ba chiều. Bốn chân chụm đầu hình tứ trụ không dễ ăn như ăn cơm. Mộng mị thẳng góc cho cái bàn, cái tủ thì cứ kéo thước-mạc chì. Cặp ê-ke vô mà làm. Mười cái cũng xong. Nhưng cái ghế đẩu nhìn từ phải-trái, bốn chân nghiêng vô 15 độ là vừa vững chắc về kỹ thuật, đẹp mắt về mỹ thuật. Đến khi kéo hai mặt trước-sau vô 15 độ, cho cái ghế xoay chiều nào cũng như nhau thì mộng phải-trái đã nhả ngàm, buông ổ… Đồ gỗ, chắc nhờ mộng, nhờ ngàm khít khao. Cây đinh chỉ giữ đó cho mộng, ngàm chịu lực. Thợ mộc mà cứ đinh to, búa lớn giộng vào sản phẩm thì không lỗ vốn cũng ăn mày. Ai mua sản phẩm nhìn thấy gớm. Tôi lại đóng cái ghế đẩu khác với lòng kiên trì tuổi nhỏ.

Có lần tôi đóng được cái ghế đẩu-bốn chân chụm đầu đều cạnh, mộng, ngàm khít khao… nhưng mặt cắt của cái chân ghế vuông phải vạt thịt vì chỉ còn một góc cạnh chấm đất. Nhớ ông Tư cầm cái cưa lá, đo bằng mắt, cắt vài đường mỗi chân, thả cái ghế xuống nền xi măng-vững như bàn thạch. Tôi cũng cắt bằng mắt. Không xong thì cắt bằng thước, không xong tiếp thì cắt bằng… may rủi. Cuối cùng, cái ghế cũng vững vàng trên nền xi măng-nhưng chỉ còn cái mặt ghế. Bốn chân đã bị tiện từ từ tới zero, một châm âm luôn vì lưỡi cưa phạm vào mặt dưới của ghế. Tôi hiểu được ông Tư: “Đóng được cái ghế đẩu thì dư sức cất một căn nhà, vì căn nhà nhìn hết mọi nơi, không đâu đòi hỏi kỹ thuật ba chiều như cái ghế đẩu.

Thế là tôi lên bản vẽ ba chiều cho cái ghế đẩu, chắc thợ mộc từ đời các Vua Hùng chưa ai lên bản vẽ ba chiều cho cái ghế đẩu. Nhưng cũng không thực hiện được lúc bấy giờ vì hoàn cảnh. Tôi cất mớ đồ nghề thợ mộc đầu đời với bản vẽ cái ghế đẩu lên gác bếp, bước vào cuộc lao lung cho tới hôm nay. Vừa đóng xong một cái ghế đẩu bằng gỗ Mỹ, kỹ thuật Mỹ, đồ nghề Mỹ… Ước mơ thành thợ mộc đã thành, nhưng chú bé Việt Nam ngày xưa cũng đã quốc tịch Mỹ. Nhìn cái ghế đẩu phơi nắng ngoài sân cho khô vẹc-ni, tôi thấy ông Tư già mỉm cười tha thứ cho đứa nhỏ phiêu bạt, thích viết lách sau nhà. Cái patio cũng là cái xưởng mộc nhỏ để bí chữ thì cưa, một đường ghép gỗ vụn bật ra ý tưởng, những con chữ bay lòng vòng như mạt cưa thơ mùi gỗ thông… thằng bé vẫn đóng cho được cái ghế đẩu chỉ để viết về nước Mỹ, những trò tiêu khiển và hoài niệm của người di dân.

Rau Đắng Nấu Cá Trê

PHAN

A

nh bạn tôi đọc bài viết về “kèo nèo” không ngờ thằng này biết chữ, ảnh hẹn nhậu-không bắt hùn tiền; tao bao mày nhậu-để kể tao nghe cho bớt thèm.

Gì chứ! Ca dao xực phàn nam bộ thì bát ngát như ruộng đồng cò bay thẳng cánh, nhậu thẳng cẳng cũng không nói hết ca dao về những món ăn dân dã, bình dị nhưng chứa chan tình đất và người miền sông nước… Hễ nhớ tới bắt thèm những món chân quê như…

“rau đắng nấu với cá trê/ ai đến lục tỉnh thì mê không về”.

Cá trê vàng, trê trắng, trê đen nhiều lắm ở miền tây, đồng bằng sông Cửu Long thì chỗ nào cũng nhiều cá. Nhưng được con trê vàng, nghĩ tới hai miếng lường béo ngậy đã tứa nước miếng thèm. Người gia chánh bản lĩnh, thường hốt mớ tro bếp ra sàn nước vuốt nhớt cá trê. Khi mổ bỏ đồ lòng thì không quên phải khứa mũi dao vào sau hai ngạnh cá để lấy ra hai cục máu bầm bằng hạt bắp nhưng tanh dậy trời; cạo trắng hết gân máu đỏ dọc theo đường xương sống bên trong. Con cá không còn gì để tanh tưởi nữa, để cho ráo nước trong rổ tre, rồi thả vô chảo mỡ khá khá chớ mỡ đâu đủ để chiên mỡ nổi như nhà hàng; mà chiên mỡ nổi thì giòn kiểu nhà hàng; giòn rụm, giòn khô. Chiên mỡ khá khá hơn bình thường vậy mà ngon; giòn dẻo; giòn giai. Đừng xài lửa cả, liu riu mới thấm địa đàng. Vừa được rảnh tay đâm chén mắm gừng với chanh ớt, đường cát cho thiệt đậm đà. Thịt cá trê mát lắm nên chấm nước mắm gừng cho quân bằng âm dương. Vớt con trê nóng giòn thả luôn vô dĩa nước mắn gừng, phải dĩa chứ ăn cá chấm chén nước mắm mặn như miệt ngoài không đã… nhất là cá trê chiên giòn thì còn phải giẽ dằm nó ra trong dĩa nước mắm gừng. Thịt cá thơm lừng bốc khói, long lanh dầu mỡ vây quanh gừng giã, miếng ớt đỏ giã giập làm duyên trang điểm thêm lên, múi chanh tươi dấu mình khuất ẩn, nhưng chấm đũa vô rồi thì quên thôi. Giẽ miếng lườn trê chiên giòn trong dĩa nước mắm gừng một lần ở nam bộ thì suốt đời không quên người đãi. Thương lắm mới mần cho ăn kiểu cách đó nghen! Chấm kèm cọng rau đồng vô dĩa nước mắm chua, rau đồng thì rau chóc, rau đắng, rau ngổ… rau gì cũng ngon nhờ tươi xanh; ăn với cá trê chiên giằm nước mắm thì nghĩ tới đã ngon, nói gì được ăn. Nhất là thương lắm mới mần cho ăn kiểu cách, không thì người ta nấu cho lẹ,

“Rau đắng nấu với cá trê/ Ai đến lục tỉnh thì mê không về”

Mê ăn cá trê hay mê người nội trợ duyên dáng cũng từ duyên khởi này đây!

Nhưng ca dao sao không nói đến món cá trê chiên giòn hấp dẫn đó, có thể đó là món khoái khẩu của người miệt ngoài đi khai phá phương nam. Người ngoài thường ăn cá trê như thế; người bắc còn có món cá trê om mẻ, nấu với rau thì là, giềng giã… món này ăn với bún cũng quên thôi. Mùi giềng nhẫn nại trong vị chua đặc biệt của mẻ mà hương thì là còn len lén xông lên xoan mũi thì thôi hết biết! Hay chiều mưa biên giới anh đi về đâu… thiệt là cành hông nên đi hết nổi nếu em cho ăn cá trên kho tiêu. Cái dòng nước mắm Phú quốc mà nó quện vô con cá trê rồi hen, nước màu dừa tới lửa nó kẹo kẹo, sệt sệt, thơm lừng chiều mưa biên giới… còn rắc thêm mớ tiêu sọ vô nữa; rồi bưng nồi cơm chín tới ra đi; nàng nào cũng không bằng nàng hương hột dài. Hột cơm mềm dịu, dẻo, ngọt, thơm… dzớt miếng cá trên kho tiêu là quên đường về.

(Nghe nói, mấy hiệu nước mắm có mặt trên thị trường Mỹ bây giờ chỉ có cái tên là Việt nam như: Phú Quốc, Nước mắm Mực; Hương Lan; Quê Hương… toàn là chủ người Tàu, mà người Tàu thì rành xì dầu nước tương chứ biết gì nước mắm. Chuyện khó xác minh vì tin đồn cách sự thực xa lắc! Nhưng dù sao cũng công nhận là nước mắm ở hải ngoại không đúng nước nắm. Hình như hoá chất là chánh, hương liệu hoá học trong dung dịch nước muối và những chất liệu gì thì không rõ! Nhưng chén nước mắm đã rót ra khỏi chai, không dùng nên đậy ny-lon (Wrap) lại qua đêm là chén nước mắm đổi màu sậm hơn, ăn vô-không mùi vị và có hậu đắng đắng ở cuống lưỡi. Không như nước mắm Phú Quốc danh bất hư truyền và cũng hình như đã thất truyền do cơ chế thị trường. Tôi nhớ hồi bé xíu ở tiểu học, có bài học về nước mắm: Người ta cho cá và muối vào lỗ trù trên nóc thùng gỗ; (Sau bao ngày thì không nhớ; chỉ nhớ nước nhỉ ra ở lỗ lù phía dưới - nên gọi là nước mắm nhỉ!) Đúng-sai, biết chết liền! Nhưng khoảng năm 1980, tôi có đi tàu đánh cá Côn Đảo. Có thấy cá tươi đánh bắt dưới biển lên, anh em ra sàn tàu lựa tôm, lựa cá… đã đời; ông đầu bếp trên tàu gôm mớ cá vụn, tống xuống hầm với muối hột. Khi trên tàu hết nước mắm, ông xuống hầm xúc mớ cá-muối đó lên thì trông rất ớn - như sình vét cống ở thành phố - dù màu xám đậm chứ không đen như sình bùn dưới cống. Mùi thì khỏi nói rồi! Nhưng khi ông bắc lò nấu hợp chất ấy; lúc thùng phuy bắt đầu xôi là bọt nổi lên - rất nhiều - như bọt biển. Ông vớt bọt bỏ đi - và trong không gian không còn mùi khó chịu của hỗn hợp cá-muối dưới hầm nữa. Mùi nước mắm đã thơm lừng một vùng trời; chất nước vàng trong như nước trà, độ mặn không nhiều nên có thể uống cả chén khi mưa ngoài biển mà phải ra sàn tàu lựa cá, lựa tôm. Không thể tưởng tượng nổi là mình có thể uống một chén nước mắm! Nhưng khi phải dầm mưa biển mới thấy chén nước mắm làm cho cơ thể nóng ran lên, không biết lạnh, để làm việc. Nhất là bắt con mực ống tươi rói, ngắt cái đầu quăng xuống biển; cái mình mực dán lên ống khói tàu. Vì ống khói nóng nên nó dính như keo; nhưng khi mực chín tới thì nó rơi ra; nhặt lên, chấm nước mắm - đưa cay cho chén nước mắm mới nốc cạn. Nó đã đíu thì thôi. Gặp tôm thẻ thì lắt đầu chấm nước mắm, chơi luôn. Cắn miếng ớt đỏ nghe mềm phế phủ…)

Trở lại với con trê, sau này miệt Long An, bà con nuôi được cá trê hầm để cung cấp cho nhu cầu lớn lao của Sài gòn. Nhưng nhìn con cá trên bự sự trên bàn ăn sang trọng ở nhà. Thấy thì đã mắt nhưng ăn không ngon; thịt bở chứ không giai vì con cá không bơi lội được nhiều trong hầm; ăn cám với rau muống xắt nên thịt cá bở chẹt, không ngọt đậm mà thanh vị như cá trê đồng, cỡ cùm tay thôi mà bá cháy bù chét.

Nhưng lý giải cách nào cũng khó qua mặt được món rau đắng nấu với cá trê. Còn thương rau đắng sau hè thì không quên được món bình dị mà ngọt tới trong mơ, cá sôi là chín, vớt bọt xong, nêm nếm muối đường cho vừa miệng, bỏ mớ rau đắng vô là nhắc xuống ngay. Rau đắng sau hè, con cá dưới mương. Cái ăn ở nam bộ dễ như sỏi đá miệt ngoài - chỗ nào cũng có. Ăn một chén canh rau đắng nấu với cá trê ở nam bộ là nhớ hoài vị ngọt dịu vợi của cá tươi, rau nhân nhẫn đắng đầm ngây ngất lưỡi… không quên đường về sao được!

Ở nam bộ rau thì rau đắng chưa phải là đệ nhất rau vì còn những loại rau dân dã khác như rau má, rau trai, rau ngổ, rau ngót... rau đắng chỉ như chị em đôi con dì; chị em chú bác với rau ăn được ở nam bộ thì nhiều vô kể. Nhưng món rau đắng nấu với cá trê mang phong vị thuần nhất của đất trời nam bộ vì ít chế biến, không nhiều gia vị, đơn giản như chính con người sông nước mà ai đã tiếp xúc thì không muốn giã từ. Cho nên:

“Rau đắng nấu với cá trê/ Ai đến lục tỉnh thì mê không về”.

Kèo Nèo

PHAN

T

ôi ngồi bàn bên đây với người bạn, sau lưng bàn chúng tôi, chỉ cao hơn đầu người ngồi và bên trên có trang trí vài dây trầu bà tươi bị thiếu nắng, lá úa… Bên kia vách lửng thơm lừng mùi lẩu mắm, mấy ông thợ sơn người nam bộ đang “dzô-chăm phần chăm” rất rôm rả, nghĩa làsắp nghiêng ngả; là lý do tôi không đồng ý với anh bạn muốn dời bàn. Vừa lúc người nào đó bên bàn lẩu mắm nói với bạn bè: “Mèng ơi! Cái lẩu mắm này mà có kèo nèo thì bá cháy, luôn…”

Hình như bàn bên cạnh chúng tôi là hai cô gái đang ăn gì đó, một cô hỏi chị bưng thức uống ra cho hai cô, “Kèo nèo là gì hả chị?” Chị ấy ra chiều tư lự vì nhìn chị mới ngoài ba mươi, vừa lúc anh bạn trẻ bưng lẩu mắm ra bàn ngoài, trở vô. Anh bạn trả lời khá thú vị! “Thì coi như xin má cho đi chơi, má hổng cho rồi cho. Nhưng cho có hai chục… thì kèo nèo thêm hai chục nữa mới đủ đổ xăng.” Bốn người họ cười với nhau, chúng tôi cười ké. Nhưng tính ra chỉ có 1/3 người Việt ở hải ngoại biết kèo nèo, và số người biết sẽ mai một đi. Quê hương vĩ đại trong lòng người vĩ đại; nhưng một loại rau đồng dân dã trong lòng người biệt xứ cũng là quê hương. Quê hương rồi phai nhạt như lớp phèn trên móng chân người vượt biển một hôm nhớ đồng, ngồi nhìn móng chân trắng ngần ngỡ tưởng chân ai…

Không khí quán nhậu bao giờ cũng làm cho người ta phấn khởi nên mau quên những thoáng nghĩ; nhường chỗ cho những chuyện thăm hỏi, rồi kể lể với người bạn lâu không gặp chuyện tháng ngày… đan xen những gương mặt bạn bè biệt tích; những vui buồn ngày qua chỉ còn hai người gặp lại nhau hôm nay… chuyện quán nhậu thường bắt đầu từ một cuộc gặp tình cờ, bất chợt… nhưng kết thúc thì hầu như rất giống nhau khi cơm nhà kêu inh ỏi cái điện thoại, hay quán đã tới giờ đóng cửa; người ta chia tay nhau sau khi đã gieo xuống cái ghế ngồi, cái bàn nhậu hạt giống tình cờ, bất chợt một hôm hạt nảy mầm - người ta lại tình cờ gặp nhau để bất chợt chia tay khi cái điện thoại reo liên tục...

Nhưng ông thợ sơn nào đó bên kia vách lửng đã nói một câu xanh rờn…

“Kèo nèo mà lại ngâm chua/ ăn với cá rán chẳng thua thằng tây nào!”

Người vừa nói ‘Mèng ơi…” thì nhất định là kèo nèo ăn với lẩu mắn mới đúng điệu! Họ cãi nhau, hỏi ý kiến những người ngồi chung bàn để kéo về phe mình; phe nào chiếm đa số sẽ thắng chung cuộc, theo mô hình lưỡng viện Hoa Kỳ! Chỉ khác là mấy ông nhậu nhậu xong, hùn tiền để trả cho quán; còn mấy ông nghị họp xong thì đi lãnh lương. Đã là rau thì đói ăn rau đau uống thuốc… Những thoáng nghĩ bị anh bạn cắt đứt vì anh cũng người nam bộ nên nghe tới kèo nèo, cũng bắt thèm. Anh kể: Một hôm, gia đình anh ngồi vào bàn ăn tối. Vợ anh chợt nhớ, đứng dậy, mở tủ lạnh, lấy ra một hũ thức ăn ngâm chua. Chị gắp ra dĩa rồi mời chồng ăn thử, coi biết món gì không? Anh ăn thử, ngon quá! Anh nói với vợ: không biết rau gì nhưng ăn vô miệng làm anh nhớ tới kèo nèo ngâm chua ở quê mình.

Chị nhà vui vẻ lắm, không dấu diếm chút bùi ngùi thương chồng không được ăn những món quê hương, nhưng biết làm sao được bây giờ! Chị nói tiếp, “của dì Hai dạy nấu ăn trên đài. Dì muối chua cây này là bạc hà Mễ, dì mua ở chợ Mễ, thấy nó giống kèo nèo quá, dì Hai hỏi phải bạc hà Mễ không? Mấy ông Mễ gật đầu... vì đâu biết tiếng Việt! Dì Hai mừng quá chừng. Dì ngắt lá ngửi thử, thấy giống kèo nèo, rồi tìm ráng cái bông để coi phải không đây, mà tìm hổng được! Nhưng, không mắc lắm, nên dì mua thử về muối chua, ăn thử thấy ngon và giống lắm! Rồi dì xớt cho em một hũ ăn thử, vì dì Hai thương em lắm, thương nhứt trong chỗ làm. Nếu anh thích thì để em nhờ dì Hai mua giùm, làm giùm…” Vợ anh nói ngắn gọn thì sợ anh hiểu lầm là đang ăn cơm bên nhà bà hàng xóm. (Ngày xưa chị ấy học làm bà mụ đỡ em bé, nhưng bỏ nghề vì lần đầu đi đỡ sanh, chị tới nơi vừa kịp thôi nôi con người ta. Chị tự ái bỏ về chứ không ăn đám; nhưng giang phải xuồng vượt biên nên qua đây hổng biết làm gì ráo, không ngờ được phát hiện tài năng từ hôm thành Đà (Dallas) có đài “Thưa Quý Vị”. Thưa đã rồi cà lăm, cà lăm xong cà khịa! Bản tin xe cán chó thì giải thích một hồi thành chó cán xe, rồi xin lỗi là hết giờ phát thanh. Chị cứ tiếp tục nói và anh gắp tới món khoái khẩu. Nhìn sang thằng con đang chèo hai dầm thì đúng hơn là muỗng nỉa; chèo tới cơm trắng với sườn ram mặn, anh nói con ăn thửVietnamese pickle, thằng nhỏ thử xong rồi làm tới, khoái quá nên hỏi ba: Cái này là cỏ gì vậy ba? Anh nghĩ ngợi… cái này là

deal vegetable

- rau kèo nèo. Chị nhà cũng vừa hết giờ Nữ công gia chánh; chuyển sang chương trình ESL (English-second-language): dịch cái gì mà kỳ cục!

Hôm nay anh vui với người bạn trẻ bưng lẩu mắn, kèo nèo là… kèo nèo thêm chút nữa! Biết đâu hồi xưa có hai người hẹn nhau ở cụm hoa vàng - không gặp không tan. Nhưng cô gái tới phải “dzìa” thì đàng trai ngắt cụm hoa vàng… tặng người yêu dấu - không gặp không tan để câu giờ! Nên cô ấy đặt tên cho cụm hoa vàng chưa có tên đó là kèo nèo để nhớ mối tình thơ mộng thì sao! Nhưng cái ông bên kia nói,

“Kèo nèo mà lại ngâm chua…”

thì đúng rồi, nhưng

“ăn với cá rán chẳng thua thằng tây nào!”thì nghe hơi ngộ. Hình như,

“ăn với cá rán chẳng thua món nào”

mới đúng. Anh bạn tôi đưa ra giả thuyết thứ hai, nhưng tôi thì cho là không ổn vì từ nam bộ thường nói là chiên, ra vỉa hè mà nghe “chiên không cần mỡ” thì vọt cho mau để thôi bị luộc! Từ “rán” là từ ngoài bắc, sao lại nằm trong câu ca dao nam bộ? Chúng tôi họp lưỡng trự và đi đến thoả hiệp là một ông bắc, ông trung đi khai phá phương nam; một hôm vớ bở được mớ kèo nèo nhiều quá, ăn không hết thì muối chua để dành; người miệt ngoài thích để dành. Ai dè lần đó ông ta đúng, gặp hôm mưa ngập đồng trắng bờ… bắt được con cá lẩy thì chiên; nhưng con cá chưa dứt sữa nên ông ăn kèm với kèo nèo muối chua cho đủ bữa. Ai dè ngon quá trời, mà người miệt ngoài thì sính thơ văn nên ông cà khịa ra câu dao đồng ca ngợi phong thổ phương nam, nhưng có từ “rán” trong đó để thương về miền trung, đất bắc... Chúng tôi phục sát đất sự uyên bác của bia Hieneken.

Rồi kèo nèo hay cù nèo là đúng tên họ của loại rau đồng này? Đơn giản là tùy theo người ngọng người không, có vậy mà bàn ngoài cãi om. Kèo nèo vì thấy nó yếu ớt như nửa ở nửa đi… theo ông bà; cù nèo vì thấy nó cong cong như cù móc… nếu nó nhìn khờ khờ như Việt kiều thì sẽ có người gọi là… cù lần! Đơn giản là một loại rau cọng xốp xộp có rất nhiều ở đồng bằng nam bộ. Trong vô số loài rau đồng ở vùng sông nước thì kèo nèo nghe oải mà sung, mùa nước lên, lũ tràn về, bèo dạt mây trôi chớ kèo nèo bám trụ, rễ bám sình đáy sông bờ rạch, từ đó vươn lên theo nước để thở chớ không trôi đi. Người dân miệt vườn hái thứ cây này về ăn qua bữa. Theo thời gian, kèo nèo đã trở thành thân quen trong bữa ăn dân dã ở Nam bộ. Người miền Tây dễ dãi nên rửa sạch kèo nèo, cắt khúc, luộc sơ… ra chấm với kho quẹt hay nước cá kho đều ngon. Kèo nèo giòn rụm như bạc hà chín tới, giòn hơn bạc hà mới đúng. Nhúng vô kho quẹt hay nước cá kho đậm đà, sền sệt… ăn hết bữa cơm ngoài đồng, chiều mưa trong mái lá liu xiu… đơn giản mà ngon.

Khi rỗi đồng, người ta mới có thời giờ làm món kèo nèo muối chua. Kèo nèo muối chua cũng chỉ như giá muối sổi; ăn vài ngày chứ không để lây như dưa muối, củ hành muối; ăn với thịt kho, cá chiên... cho đỡ ngấy mỡ là chánh. Nhưng kèo nèo mà nằm trên dĩa (rổ) rau sống để ăn lẫu mắm thì “cực kỳ khêu gợi” trong mớ cà tím, hoa súng, rau đắng, rau muống... kèo nèo xanh mơn mởn, hoa vàng chảnh... vì không phải vàng chanh, vàng nghệ; không dễ thương như màu vàng của hoa đậu bắp. Hoa kèo nèo vàng kiêu sa một cách dân dã… nên hai người uống bia kia gọi là vàng chảnh. Nhúng vô cái lẫu mắm vừa sôi, kèo nèo tái là ngon hơn chín, gắp kèm con tôm, miếng ba chỉ… đưa vào nơi không trời không đất nhưng vị mắm nồng nàn, con tôm ngọt lừ, miếng thịt béo ngậy… vị đăng đắng giòn giòn của kèo nèo bắt ngây… ngậm mà nghe.

Vì vậy kèo nèo có mặt trong nhiều món nam bộ đều được cả, tùy hôm gió bão, mưa sa ngập đồng… kèo nèo nhảy vô tô canh chua cá gì cũng được, canh chua tôm, tép cũng ngon như nhau… nhưng phải nói là kèo nèo trong tô canh chua cá bông lau chung với lá giang là “số dzách”. Dễ ụi hà, bắc nồi nước, nước sôi thì cho cá bông lau vô, với bọt nhanh tay là hết tanh vì nhớt cá theo bọt nổi lên mà không vớt kịp thì lại tan ra nước - làm tanh. Vớt bọt xong thì cho lá giang vào để chua nước, nêm nếm muối đường cho vừa miệng. Canh sôi, cho cà chua (nếu có và muốn ăn) vào, mấy lát thơm (dứa) nếu thích. Nhưng tới thả kèo nèo vào là tắt bếp. Bắc cái soon nhỏ lên phi tỏi bằm cho vàng, cho hết qua nồi canh. Rau om, ngò gai, hành lá, ớt xắt lát… cho vô cho có chị có em thì nồi canh mới sắc màu hương vị…

Cái khó ở miền Tây là đi kiếm người thưởng thức vì tôm cá đầy đồng, rau ăn được mọc như cỏ hoang… nhà ai cũng nấu thì mời ai bây giờ? Ngồi xuống mâm cơm cũng chỉ có hai người quen mặt, từng hẹn hò nhau ngoài cụm hoa vàng năm trước, hai người nhấm nháp vị chua chua ngọt ngọt của nước canh có hương thơm kèo nèo; cắn cọng kèo nèo thấm đẫm nước canh chua… chồng chan vợ húp thằng Cu khóc nhè! Má nó đi dỗ con mà tiếc hùi hụi. Nồi canh chua kèo nèo này dễ dãi tới độ nấu với thịt gà cũng ngon đặc biệt, thêm vài cái lá chanh cho nó “hoà hợp hoà giải” với thịt gà thị tuyệt cú mèo; mà trên hết là nấu canh chua kèo nèo với ếch. Con ếch thì ngon rồi, không ngon sao có câu “gà đồng xào với mướp hương” là một trong những món ngon nhất của đồng bằng sông Cửu long. Con ếch (gà đồng) thịt trắng, giai, ngọt, không tanh… gặp xương ếch nước ngọt lại không cứng. Nhai luôn trong hương vị canh chua kèo nèo thì… chết liền!

Kèo nèo về thành phố còn được người ta trụng tái bóp gỏi với tôm, mực tươi trụng tái… kèo nèo làm kim chi - đỏ ớt để phục vụ cho các ngài lưu linh nơi quán nhậu… vì mùa mưa kèo nèo rụi đám; chừng tháng 8 mới lai rai tới cuối năm thì bông vàng đồng. Bây giờ người ta gọi chung là kèo nèo: Có hình dáng bụi bạc hà nhưng nhỏ hơn mà lại lớn hơn bụi rau chóc. Loại rau ra ruộng nhổ về rồi xắt trộn cám cho vịt Cộng hoà ăn; vì qua thời xhcn thì người ta ăn… rau chóc, còn đâu tới vịt. Nghe nói, người xưa có gọi kèo nèo là cây giá thau hoặc rau tịnh. Thiệt là khó tìm tiểu sử cây rau này: Tên khoa học thì có; nhưng tên tự theo dân gian Viện Nam thì khó! Rau tịnh có thể lý giải vì những loại rau đồng ở nam bộ thường trôi theo mùa lũ; riêng kèo nèo bám rễ tới cùng thì người bình dân nam bộ gọi là rau tịnh. Nhưng giá thau thì khó hiểu vì có người mô tả giá thau ngắn cọng hơn kèo nèo, lá tròn hơn, nhỏ hơn kèo nèo… đặc biệt là bông màu tím. Dùng ăn sống với mắm rất ngon vì có vị đăng đắng. Tới đây quán nửa đêm đuổi khách ra về nên hết biết ra sao! Chắc hẹn lại lần sau tính sổ.

*Theo Wikipedia: Kèo nèo thuộc họ Thủy quỳnh (Hydrocleys nymphoides). Họ Kèo nèo hay còn gọi là họ Cù nèo, họ Choóc hay họ Nê thảo (danh pháp khoa học: Limnocharitaceae) là một tên gọi thực vật ở cấp họ để chỉ một nhóm thực vật hạt kín. Họ này ít được các nhà phân loại học công nhận.

Hệ thống APG II năm 2003 (không đổi so với hệ thống APG năm 1998), công nhận họ này và đặt nó trong bộ Alismatales của nhánh monocots. Tuy nhiên, hệ thống APG III năm 2009 lại không công nhận họ này và đặt nó vào trong họ Alismataceae.

*Hôm ngồi viết lại chuyện kèo nèo vui chơi với anh bạn, tôi có hỏi bác Hai Trầu về cây kèo nèo theo học giả. Bác Hai trả lời lơi lơi như không có cái gì nóng nóng, cay cay, chuyền chuyền… khó nói chuyện quá mày ơi! Bác Hai viết:

Phan thân,

"Kèo nèo" là loại rau cọng xốp như cọng lục bình, thường dân quê ngắt cọng còn non ăn với mắm kho, cá kho hoặc ăn với các món cá lóc nướng trui, mắm chưng...

Theo sách "Cây Cỏ Miền Nam" của giáo sư Phạm Hoàng Hộ, sách in năm 1972, do Trung Tâm Học Liệu Bộ Giáo Dục xuất bản, thì:


"Kèo nèo thuộc họ Nê thảo. Là một loại cỏ đa niên,cao đến 70cm hoặc 80cm. Lá có phiến lục tươi,gân chánh cong;cuống có 3 khía. Tán;hoa có cọng dài từ 2cm tới 3cm,lá đài xanh, cánh hoa vàng,dài 1,5cm,tiểu nhụy lép vàng vàng,dài 1,2cm,tiểu nhụy nhiều, một luân sinh tâm bì đính-phôi tản-lạc.Manh-nang; hột nhiều, nâu,to 1mm. Thường mọc ở ruộng hoặc cặp mé mương, mé bùn. Ngó kèo nèo ăn như rau sống. Tên Latin là Limnocharis Fava thuộc họ BUTOMACEAE: họ Nê Thảo ."

Cái Tủ Lạnh Của Đàn Ông

PHAN

Người ta nói, rượu vào lời ra hay tửu nhập ngôn xuất đều đúng cả vì hai người đàn bà với con vịt là cái chợ thì hai người đàn ông với vại bia là Quốc họp lưỡng đảng, chỉ khác mấy ông nghị cãi nhau ăn lương là hai ông nhận cãi nhau xong phải trả tiền quán; nói gì tới năm bảy ông ngồi chung bàn nhậu, có ai chịu thua ai mà không cãi tới cùng vì khi hùn tiền trả quán thì đâu ai được bớt vì cãi ít hơn đâu! Nhưng đôi khi cũng có ngoại lệ như ở Capital Hill là thỉnh thoảng cũng có một người nói nhiều người nghe về quốc sự. Ở quán cũng có ngoại lệ như hôm nay-ông kia đang nói về cái tủ lạnh của đàn ông. Y hình trúng ý nhiều bạn nhậu nên họ chịu bằng tiền hùn nhưng không cãi…

Ông ấy nói như trăn trối mới ghê, “Thời còn đi học, tôi xem phim ở những rạp hát tại Sài gòn, tài tử giai nhân của điện ảnh thế giới không hấp dẫn tôi bằng cái tủ lạnh nhỏ xíu trong phòng ngủ. Nửa đêm cô nàng mong manh thức giấc, cởi lòng vì ác mộng đêm khuya… Nhưng chẳng có tên lính hầu nào để khiển nên nàng tự đi mở tủ lạnh mini, trong tủ chỉ có chai vang uống dở, trái táo, phong chocolate… Ấy, cái cảnh người đẹp tắm trăng khuya lấy hết tiền vé là đấy, cô nàng ngồi ngắm trăng ngoài khung cửa sổ với ly vang mới thật là cô đơn. Mấy thằng cô hồn trốn học chúng tôi ngồi xem mà ước gì mình là con sói tru trăng vì chỉ mình con sói diễm phúc thấy được tuyệt sắc giai nhân dưới trăng lạnh mơ hồ…

Riêng tôi còn ước đến mình cũng có cái tủ lạnh bé xíu ấy, quan trọng là chút đỉnh thức uống bên trong tủ lạnh, miếng chocolate hời hợt trên môi thơm làm tôi nhớ mãi… tôi ước đêm đêm thức giấc, ngồi uống chai bia lạnh, nhìn xuống những túp lều nhếch nhác của người kinh tế mới lộn về thành phố kiếm sống qua ngày; có vầng trăng làm chứng một thời muốn nói yêu em nhưng sợ nhận lời…

Rồi không ngờ tôi được thật các ông ạ! Sau khi lập gia đình, nhờ trời cho cơ hội. Tôi không còn ở chung cư cao vút của đám ăn mày chữ nữa. Vợ chồng có điều kiện mua nhà sắm cửa đã mừng, lại mua được cả tủ lạnh trong thời đồ đểu thì quá lắm rồi. Nhưng cái tủ lạnh muôn năm chật cứng vì lớp của gia đình; lớp hàng xóm, bà con gởi tủ lạnh… Thoạt tiên mua tủ lạnh về thì tôi cũng được dành cho một hộc trên cánh cửa, để được khoảng 6 chai bia. Nhưng không lâu, phải hy sinh đời bố để củng cố đời con là từ lúc trong tủ lạnh có sữa tiệt trùng của Vinamilk cho thằng nhóc mới ra đời. Những bịt sữa đương nhiên chiếm chỗ để bia của bố. Từ lúc để được 6 chai, rồi còn 4, còn 2… tới hôm sữa đại hạ giá thì tôi mất chỗ đứng trong tủ lạnh. Vài chai bia bị nhét ép trong khe hở nồi niu thức ăn, hoa quả dậy mùi… Chiều về uống chia bia mà vỏ ngoài dính tương ăn phở, đôi khi đưa chai bia lên miệng, chưa hớp đã nghe mùi cá tươi, thật bất mãn…

Tôi làm cuộc cách mạng long trời lở đất với một trận gây gỗ đến nơi đến chốn. Tôi đi mua cái tủ lạnh mini của cánh thủy thủ tàu viễn dương họ đưa về, dĩ nhiên là cũ người mới ta. Nhưng tôi cưng quý cái tủ lạnh như tài sản riêng duy nhất trong đời vì mọi thứ đều bị vợ hữu hoá hết rồi. Tôi đặt cái tủ lạnh mini ngay cửa sổ phòng ngủ, đề đêm đêm có nhìn ra khung trăng thì nhấm nháp với chị Hằng. Vì người yêu của tôi đã thành bà Cuội trong nhà, bà ấy trấn ngay mớ sữa tiệt trùng Vinamilk của thằng nhóc vô tủ lạnh của bố, “sữa của con mà để chung với thịt cá trong tủ lạnh thịt cá hôi tanh quá…”

Nếu nhét được thằng bé ngược vào bụng mẹ nó thì tôi đã làm. Làm không được thì thua thôi. Rồi thì đến cây chả lụa đặc biệt, phong bánh pía có một không hai, dây lạp xưởng của mẹ người bạn làm cho-không muối diêm… Những thứ quý nên để dành khi ông bà nội ngoại đến thăm cháu mới đem ra đãi các cụ, những thứ cư ngụ bất hợp pháp trong cái tủ lạnh mini của tôi nhưng nói ra không được; không được nói ra điều bất kính; lòng hiếu thảo phải ngậm miệng. Mấy chai bia của tôi lại hết chỗ đứng; bị nhét nằm vào bất cứ khe hở nào có thể… Tôi nghĩ đến cái tủ lạnh thứ 3, nhưng không đúng lúc vì đã qua thời hưng thịnh của công việc làm ăn; Thậm chí có lúc phải nghĩ đến cách tiết kiệm bớt tiền điện, hơn nữa, sức tích lũy thực phẩm của tủ lạnh cũng giảm theo thu nhập. Tôi đưa cái tủ lạnh mini sang cho ông bà nội dùng vì nhu cầu ông bà không nhiều.

Thế là tôi vẫn chưa được hưởng thú ngắm trăng khuya bên khung cửa sổ với chai bia lạnh. Chocolate có từng mua về nhưng động đến thì chưa, dù nó vẫn hết. Rồi tôi với bà Cuội nhà tôi phải rời tổ ấm đi xuất cảnh, ai mang theo hoài bão cứu nước thì tôi không biết; tôi mang theo chí nguyện một cái tủ lạnh để bia, không dính líu tới thịt cá rau xanh… biết là mùi không thấm vô bia được qua lớp thủy tinh vỏ chai. Nhưng lấy ra chai bia từ mớ hổ lốn thức ăn ăn không hết, thức ăn chưa nấu, tôm khô, chả cá, nửa trái xoài gói ny-lon… loạn xị ngậu. Chai bia cũng biết buồn thân phận nên hết ngon hay sao đó!

Tiếp theo là cái tủ lạnh trong apartment bên Mỹ còn khủng khiếp hơn cái tủ lạnh ở Sài gòn. Đến khi mua cái tủ lạnh mới toanh sau khi mua nhà; tôi lại được một hộc trên cánh cửa. Hộc cánh cửa tủ lạnh bên Mỹ thật đáng nể, để được tới 12 chai bia. Nhưng bà Cuội đã vô quốc tịch nên sự xâm lăng cũng nâng lên tầm đế quốc, không nhỏ nhoi như những bịt sữa tiệt trùng của Vinamilk ở Sài gòn năm xưa. Sữa Borden on sale nên trấn 2 gallon lên hộc bia; hôm thì 3 bình nửa gallon… Những chai bia tội tình lại hết chỗ đứng; lại chèn nhét vào những khe hở nào có thể… có la làng phản đối thì cũng chỉ được một hai hôm rồi lại thấy hũ ớt ngâm chua, hũ ớt xay, hũ tỏi chua ăn hủ tíu… chen chen, thầm lặng bên mấy chai bia; mấy chai nước tăng lực của bọn trẻ cũng chen vào mảnh hộc nhỏ nhoi của bố trong cái tủ lạnh vĩ đại của gia đình. Hôm tôi quát bọn nhỏ thì con bé con cự bố… Tủ lạnh là chỗ để thức ăn và sữa, bố đừng uống bia nữa.

A, qua Mỹ là một sai lầm chiến thuật chiến lược mất rồi! Nhưng tôi đâu dễ chịu thua. Tôi rút dây điện tủ lạnh ra-chẳng ai hay. Thế là đi mua tủ mới, cái tủ lạnh cũ thành gia tài của bố ngoài garage. Tôi được một thời vàng son ngắn ngủi đến khi bà Cuội nhà tôi biết cái tủ ấy không hư. Thế là bao nhiêu sườn heo, đùi gà on sale ngoài chợ được tha về cho khỏi phí tiền điện-cái tủ lạnh của bố chúng bay chỉ để vài chai bia…

Tôi lại nghĩ đến cái tủ lạnh mini, tiền mua không khó nữa nhưng nghĩ hoài không ra cách nào trước họa xâm lăng. Nói ra thì nhỏ mọn, ai đi so đo với vợ con. Nhưng có lỡ quên ly nước uống dở, chai bia trên bàn phấn của phe tóc dài là bị cự nự om xòm; trong khi tủ lạnh ngoài garage của mình thì chẳng biết để sao cho lọt thùng bia; chẳng ai lịch sự với đàn ông như đàn ông lịch sự với phụ nữ…

Thời gian thì cứ trôi đi biền biệt, hôm đi mua cái tủ lạnh mini cho con nhỏ đi Đại học, tôi định mua 2 cái để thực hiện ước mơ cũ; thì bà Cuội lại không cho hoang phí. Thằng lớn chưa học xong, con em lại vô trường… phải tiết kiệm, phải… hy sinh đời bố củng cố đời con. Nhưng sang năm thứ hai, con bé dọn ra apartment ở share phòng với bạn bè nên không cần tủ lạnh như ở trong dorm nữa. Tôi hoan hỉ đi chở cái tủ lạnh mini về nhà. Còn đang rửa ráy ngoài sân cho thật sạch sẽ, không mùi thì để bia mới linh. Nước thánh không thể để chung với nước mắm; nhiều lần tôi vứt quách mấy hũ nước mắm chua để ăn bún thịt nướng, lại khác nước mắm chua ăn bánh xèo, khác nước mắm gừng ăn gỏi vịt, khác nước mắm me ăn… giỗ thời áo trắng xa xưa. Đàn bà họ lãng xẹt mà cứ tự tin thấy ớn là lãng mạn - mấy bà răng giả rủ nhau ăn nước mắm me, mặt mày không chua đã nhăn như khỉ ăn ớt… ôi. đàn bà. Nhưng Âm mưu còn chưa thực hiện xong cái tủ lạnh mini tinh khiết, đã thấy bà Cuội dọn hết các thứ trong cái tủ lạnh ngoài garage ra rồi. “Gói gém lại anh ạ. Nhà chỉ còn hai người, cái tủ lạnh trong nhà bếp với cái tủ con này đã đủ. Bỏ cái tủ cũ ngoài garage đi, tủ đời xưa-hao điện quá!”

Tôi nghe xong, hết tinh thần ăn cơm trưa. Ngồi ấm ức âm mưu bỏ mấy hũ nước mắm không xong… thì tôi bỏ vợ. Nhưng ở xứ sở văn minh này, bỏ cục pin hết xài, mớ sách báo cũ đều có chỗ riêng biệt; sao không có chỗ bỏ vợ của đàn ông văn minh? Đa số bỏ vợ là đàn ông đi ra, như thế thì bỏ mẹ vì ai nấu ăn, giặt quần áo cho mặc…

Đàn bà không để ý đến hộp nữ trang, hộp mỹ phẩm của họ, chẳng ai động đến. Nhưng bỏ qua cho cái tủ lạnh con cho đàn ông thì làm như họ không phải đàn bà. Nghĩ thế thôi chứ nói ra ai nghe cho lọt lỗ tai. Thế mà lọt lỗ tai con bé nhà tôi, con nhỏ từng đề nghị, áp lực bố bỏ bia vì những tuyên truyền trong trường học khi nó còn bé. Bây giờ đã biết xin bố chai bia để coi phim romantic mới lãng mạn. Nó không còn đả đảo bố uống bia kịch liệt như xưa; nó về nhà nghỉ hè với quà cho bố là cái tủ lạnh super mini-chỉ để được chai chứ không có chỗ cho mẹ.

Tôi chợt nhận ra niềm vui theo thời gian không còn là những lãng mạn xưa cũ mà chính là sự thấu hiểu của những tấm lòng. Nhưng niềm vui qua mau, qua trước hôm con bé trở lại trường nữa vì bà Cuội nhà tôi cực kỳ sáng tạo. Bà ấy lấy bớt 2 miếng vỉ dợn sóng để chỉ để được chai ra khỏi cái tủ đã super mini. Tống vào đó những gói ny-lon mà ai bỏ ra là chết không kịp xài life insur. Tôi chỉ còn miếng vỉ dợn sóng duy nhất-trên cùng-để được 4 chai bia. Bây giờ uống 4 chai bia không hết thật, nhưng vẫn thèm một khoảnh trống riêng tư của đàn ông. Nhiều lần định nói ra với bà Cuội, nhưng sao khó hơn cả lời cầu hôn xa xưa. Ngày xưa còn trẻ nên bạo miệng và chưa đủ lịch duyệt nên liều lĩnh dễ ợt; Bây giờ muốn nói thì lại nghĩ đến chỉ còn hai người ở nhà. Nói ra-hiểu-thông cảm, khả năng thấp lắm. Ngược lại thì chỉ có hai người ở nhà mà người này giận người kia thì ai dỗ dành… Lời trái tim muốn nói của tôi meo mốc trong lòng đến hôm ngồi xem tivi một mình, phim về cảnh sát New York. Một người mặc áo jacket có 4 chữ NYPD sau lưng, bị băng đảng hạ gục ngoài đường phố. Người bạn đồng nghiệp thân thích của anh ta vào nhà xác trong bệnh viện để nhìn mặt bạn lần cuối. Anh ta kéo hộc tủ lạnh ra, người bạn nằm ngay đoon như ngủ. Đó là cái tủ lạnh của đàn ông, không có sự chen vào nào của đàn bà. Rồi thì trự nào cũng được hưởng sự riêng tư trong cái tủ lạnh ấy… cái tủ lạnh đích thực của đàn ông.

Chẳng nghe ai cãi nữa, chỉ tự giác móc ra hùn hạp tính tiền quán rồi chia tay ra về. Đên nay nhiều ông nằm ngay đoon bên bà Cuội của mình mà cứ mơ cái tủ lạnh của đàn ông, không có sự chen vào nào của đàn bà…

Người Không Ngủ

NAM KHANG

L

âu lắm rồi, tôi nhận lời giúp ông bạn đi Việt nam là đến tiệm ông ta để giúp con ông ta một tay. Tưởng chỉ có mặt như một người để sai vặt thì tôi làm được. Ai dè ứ hự với tiệm fast food. Cái tiệm bé tí mà khách hàng liên tục gọi điện thoại order; tiếp theo là hàng xe dài ngoằn nối đuôi nhau để pick-up… Con ông bạn nhưng chỉ thua tôi ít tuổi, anh ta cũng đã có vợ con và đặc biệt là chịu chơi như bố. Đó cũng là lý do tôi ráng giữ lời hứa với bố anh chàng tuổi trẻ tài cao.

Dạo đó, hãng tôi cũng nhiều việc nên phải dậy từ 5 giờ sáng để đến hãng 6 giờ. Làm việc hãng tới 5 giờ chiều thì tôi lái luôn tới tiệm fast food là gần 6 giờ vì giờ chiều down town thường kẹt xe… làm việc ở tiệm tới 12 giờ đêm, lái về nhà phải hơn nửa tiếng nên lên giường được sớm lắm cũng 1 giờ đêm, sáng 5 giờ lại phải mò dậy đi làm. Tôi bỏ ý muốn thử sức xem mình chịu được bao lâu và chỉ trông từng ngày cho hết tháng, trông ông bạn đi Việt nam về để trả việc… Nhưng trong số những nhân viên của tiệm, tôi phục sát đất một chị phụ nữ, năm đó chị mới ngoài ba mươi, người Cần Thơ. Thời khoá biểu của chị là 11 giờ 30 đêm ở tiệm, chị chào mọi người và xin lỗi không thể ở lại phụ dọn dẹp, vì chị vô ca ở hãng điện tử vào lúc 12 giờ đêm. Công việc của chị ở hãng điện tử đến 8 giờ sáng nhưng ngày nào chị cũng làm overtime tới 10 giờ, có hôm đến 12 giờ trưa vì công việc thời điện tử cực thịnh có làm hết hơi cũng không hết việc.

Trong khi tiệm fast food mở cửa lúc 12 giờ trưa, mọi người du di với chị có đến trễ nửa tiếng vì lái xe cũng không sao… Điều đáng nể là chị luôn bước vô tiệm với tiếng cười, lời chào hỏi mọi người rôm rả, và bắt tay vô việc ngay tức thì bởi giờ đó là giờ lunch. (Tôi nghe kể thôi chứ đâu gặp chị giờ đó). Tới 6 giờ chiều tôi mới gặp chị. Và một ngày như mọi ngày, tôi thấy chị liền tay làm việc như người máy…

Rồi tối nào cũng đúng 9 giờ, chồng chị lái chiếc xe van - bảng số handicap, chở 4 đứa con đến tiệm fast food để thăm mẹ, cảnh líu lo thăm hỏi, hôn hít của mấy mẹ con thật cảm động. Anh chồng thì ngồi miết trong xe vì anh bị liệt hai chân nên chúng tôi có rảnh thì lại cửa xe trò chuyện với anh, nhưng anh không thuộc loại người hài hước cho đỡ mệt nên cũng chán phèo. Anh chỉ giỏi giỡ cơm cho vợ rất tương tất, trong túi cơm cho vợ có cả bộ quần áo sạch… Nghe chị nói, vì anh không đi làm được nên ở nhà trông con, nấu ăn, dọn dẹp, giặt giũ… cho chị đi làm. Ngày nào anh cũng giỡ cơm và mang cho vợ bộ quần áo sạch để giờ nghỉ trong hãng thì chị tắm rửa, ăn cơm… Với tôi, thật khó hình dung ra một người phụ nữ giấc về sáng mà đi tắm gội trong hãng, rồi ăn cơm. Đời sống ở Mỹ với tôi không còn xa lạ nhưng cũng không dám hỏi. Chỉ đứng nhìn một gia đình mà người cha lái xe có cái thắng tay vì hai chân anh hoàn toàn không sử dụng được. Người con của bạn tôi thấy tôi suy tư, anh ta nói: “Em biết anh đang nghĩ gì!” Thật tôi có nghĩ thế thật, không biết thời giờ đâu để họ đẻ con mà đông rứa, thì không dám hỏi, nhưng hỏi chị có buồn ngủ không, chị ấy trả lời: đã quen. Tôi cũng bán tín bán nghi vì không tin một người không ngủ mà sống được; trong phần hoài nghi có phần khả tín là thấy chị ấy hoàn toàn mạnh khoẻ, thậm chí có phần trẻ trung so với tuổi tác và dù gì cũng đã là mẹ của 4 bé gái xinh xắn, sạch sẽ…

Đến hôm tôi thấy trên báo Dallas Morning News đưa tin về một người Việt nam khác (đâu mới 28 tuổi). Cô ta tham việc của những hãng điện tử thời Bill Clinton, làm việc bất kể thời gian để kiếm tiền bảo lãnh gia đình qua Mỹ. Nhưng cô ta đã lái xe trên xa lộ 635-chỗ giao lộ với xa lộ liên bang 35, tin đưa là người lái ngủ gục nên xe lao qua khỏi lan can cầu lúc nửa đêm về sáng, người lái tử vong. Tôi giữ luôn tờ báo trong phòng ăn của hãng vì đã hết giờ làm thì người clean-up cũng vứt vô thùng rác. Nhưng ý định chiều nay đi làm tiệm fast food sẽ đưa tờ báo cho cô Cần Thơ xem để cảnh giác, song suy nghĩ rồi thôi vì mỗi người mỗi hoàn cảnh… Nếu gọi là quan tâm, chia sẻ với đồng hương thì cần hành động giúp đỡ cụ thể hơn là đưa tờ báo khủng bố tinh thần này. Tôi không đưa báo cho chị xem, nhưng thoả hiệp với 2 đồng minh làm part time từ 6 giờ chiều đến 12 giờ đêm. Chúng tôi đều đồng ý với nhau là chị rất biết điều, thay vì không thể ở tiệm tới 12 giờ đêm để cùng mọi người dọn dẹp thì gấc 11 giờ, tiệm đã vãn khách, cánh đàn ông chúng tôi ra ngoài sau tiệm uống bia, hút thuốc… thì chị xuống bếp dọn rửa một tăng tới 11 giờ 30, chào mọi người để đi làm.

Nhìn lại, ai cũng thông cảm hoàn cảnh của chị. Phải nói là một thời tối tăm mặt mũi, lúc nào cũng chỉ biết việc làm, làm việc… may mắn là được làm chung với mấy anh chị em tử tế nên công việc cũng bớt nặng nhọc và buồn chán; đỡ dài giờ với nhữngchuyện nói nhỏ cười to…

Rồi hơn 10 năm sau, tôi tình cờ thấy cái xe mang bảng số handicap vừa đậu vào parking handicap. Có điều người phụ nữ lái xe đã xuống xe nhanh nhẹn, đi như chạy vào chợ, làm hơi chướng mắt. Nhưng nhìn lại chiếc xe, có người đàn ông ngồi trong đó. Chính là anh chàng handicap ngày xưa từng gặp, anh không già đi gương mặt nhưng tóc bạc nhiều. Tôi đến chào anh, nói chuyện thăm hỏi và thật mừng cho mấy đứa con anh vẫn ngoan ngoãn và học giỏi. Đến khi chị đi chợ ra, tôi lại chào hỏi chị. Có điều tôi và chị ấy nếu gặp nhau trong chợ thì không nhận ra nhau vì ai cũng đã thay đổi nhiều.

Chia tay sau lời chúc nhau may mắn, tôi nhớ hoài lời chị hôm ấy là chị đã biết buồn ngủ, thèm ngủ, nhưng phải chừng 5 năm nữa mới được ngủ, khi những đứa nhỏ đã trưởng thành…

Công việc của chị bây giờ là quản lý một tiệm fast food của ông bạn tôi. Ông ấy bây giờ đã có cả hệ thống tiệm tôm, cá chiên ở nhiều thành phố. Chị mang tiếng quản lý để được chia thêm tiền thôi chứ làm việc như cũ. Chị làm tiệm từ 12 giờ trưa tới 12 giờ đêm; làm hãng điện tử từ 12 giờ đêm đến 8, 10 giờ sáng tùy hôm. Vài tiếng từ sau khi ra khỏi hãng đến giờ mở cửa tiệm phải lo nhân sự trong ngày, chuẩn bị các thứ cho một ngày buôn bán, là công việc của viên quản lý, chị lãnh tiền thêm thì phải làm thêm việc… chị vẫn hiền lành và vui vẻ như xưa; vẫn chưa có thời giờ để ngủ.

Sau khi chia tay anh chị đã lâu không gặp, tôi ước gì 5 năm thời gian qua mau để chị bạn được ngủ giấc phục sinh vì hôm ấy trông chị đã kiệt lực lắm rồi. Nhưng chị đã ngủ giấc vĩnh hằng, theo lời kể của một người trên bàn tiệc ngoài nhà hàng, sau đó vài tháng. Chuyện kể về người phụ nữ dại dột: Chị ta thương cảm người đàn ông bị tai nạn lao động trong hãng xưởng, bị liệt hai chân. Người vợ cờ bạc đến hết tiền bồi thường của hãng trả cho anh chồng thì trốn đi, bỏ cho anh liệt đến 4 đứa con với nợ nần vô phương trả nổi… nhưng có người phụ nữ bỏ đi thì có người phụ nữ tự đến, chị ta đi làm quên thở để nuôi cha con anh liệt. Nhiều năm không ngủ đến kiệt lực mà chết. Thật dại dột…

Tôi ngồi nghe chuyện kể trong tiếng ồn của nhà hàng, nhưng trong mắt không có gì hoạt náo như không khí tiệc tùng, trong mắt tôi cả nghĩa trang lặng lẽ, những quý bà như những con quạ đen đang rỉa rói một thây ma vô thơm phức… có bốn người thiếu nữ tuổi trưởng thành cùng đẩy cái xe lăn mà trên đó là người cha handicap của họ. Năm người họ đến thăm một mộ phần, đặt vòng hoa, đặt lòng biết ơn chân thành xuống nấm mồ người không ngủ mà hôm nào tôi cũng sẽ đi thăm. Chúc chị ngủ ngon.

Ông Cóc

PHAN

Y

là người đàn ông cỡ năm mươi tuổi, chỉ bởi cái kính đọc chữ không hợp với gương mặt làm cho y già háp. Quần áo không hợp nhiều khi cũng làm cho người ta khó coi. Nhưng bề ngoài của một người không nói lên điều gì hơn sự thu nhập trong đời sống coi trọng ngoại hình bây giờ. Nhìn y không khỏi chạnh lòng thương ông giáo trong truyện Lão Hạc của Nam Cao. Lẽ ra

đức độ của một người thanh bạch trong quá khứ, so với người không hơn thua lời qua tiếng lại bây giờ đã là tử tế. Y

đúng là là mẫu người hiếm hoi thời đại, chỉ ngồi đọc báo một mình, không bình luận với người xung quanh, không kể lể những điều đọc được, khôn g ta thán… càng không góp chuyện bình phẩm về ai! Có

điều y chỉ mua mỗi ly cà phê của mình-như mọi người. Còn bình trà thì nay người này, mai người khác mua ra bàn uống chung. Y cũng hiếm khi xin bàn bên cạnh ly trà, nhưng có. Hiếm khi xin ai điếu thuốc lá, cũng chẳng không. Y là một người thất nghiệp trong 9,6% lao động Mỹ đang đối diện với kinh tế suy thoái, không việc làm.

Chuyện chỉ bắt đầu từ hôm y xin tôi điếu thuốc. Tôi nói, "Anh cầm luôn đi, tôi đang tính bỏ". Y cám ơn tử tế và tôi thì mất mồi vì sau hai tiếng cảm ơn-không nghe gì nữa.

Y vẫn ngồi

đọc báo trong đám đông ồn

ào

đến không hiểu sao y không tự pha cho mình một ly cà phê, rồi ra sân sau nhà, hay ra công viên ngồi

đọc sẽ thích hợp hơn. Nhưng bởi không khí quán có mãnh lực riêng của nó. Tôi tự trả lời cho mình

để giải toả những thắc mắc vô duyên là ưa để mắt đến người khác.

Rồi một hôm tôi bưng bình trà

đến bàn anh ta-thường ngồi một mình. Tôi mời anh ly trà. Anh cảm ơn. Rồi hết. Một hôm tình cờ khác, quán hôm

đó vắng vì

đã quá giờ cà phê sáng mà chưa tới giờ ăn trưa. Tôi vô mua hai ly cà phê với bình trà, nhưng ngồi bên trong quán vì người bạn đi chung không hút thuốc lá nên không cần ra ngoài. Tôi mua thêm bình trà và nhờ người bán bưng ra ngoài cho anh ta, bởi tôi thấy cái ly của anh đã khô khốc mà trời thì nóng kinh khủng. Anh trao

đổi với người bưng bình trà vài câu ngắn, sau

đó nhìn vô trong lớp kính dày của nhà hàng và gật

đầu cảm ơn tôi.

Đã

đến đây thì tôi nhất

định phải tìm hiểu về nhân vật này. Sau khi bàn bạc xong việc với anh bạn trong quán, tôi ra bàn anh ta ngoài hiên nhà hàng, mời anh

điếu thuốc, tôi cũng đốt một điếu. Nhưng để lại gói thuốc dở cho anh đọc báo để lấy thêm một câu cảm ơn của ông Cóc vì trời gầm cóc cũng không mở miệng.

Không hiểu sao tôi thường hình dung ra chân dung ông giáo trong truyện ngắn lão Hạc từ hôm gặp ông Cóc ở quán cà phê. Câu chuyện ám ảnh tôi từ bé về việc ông lão Hạc gọi con chó vàng là cậu vàng. Tôi tin là ở Việt nam có người tử tế đến cỡ đó. Rồi thì ông giáo buồn về thời

đại suy đồi đạo đức đến mức một người hiền lành như lão Hạc cũng

đi mua bả chó để bả chó người ta. Nhưng đêm buồn mấy thì trời cũng sáng ra, ông giáo nghe tin

đêm qua lão Hạc

đã chết vì bả chó. Lão bả chính lão

để kết thúc chế độ, xã hội suy tàn khi nông dân

đã hết cách sống. Câu chuyện âm ỉ trong lòng tôi theo tháng năm về ước mơ thay đổi xã hội tốt

đẹp hơn của ông giáo. Nhưng kết thúc bi thảm của lão Hạc

đã

đánh gục nhà giáo Nam Cao, xã hội Việt nam trước 45 đã kết thúc chung cho sự bế tắc qua hình ảnh lão Hạc tự tử bằng bả chó.

Nếu một ngày trên mặt báo

địa phương có tin ngắn về một đồng hương vừa tự tử đêm qua thì nguyên nhân dễ biết - trừ ông Cóc. Tôi trông trời sáng

để ra quán gặp ông; để không lỡ một mảnh đời trôi dạt. Nhưng lỡ thật. Đợi quá giờ quán đông mới hỏi thăm ông thì người phục vụ cho biết, ông đã không ra quán mấy hôm. Hỏi tiếp như ép cung thì người phục vụ cũng chỉ nghe nói ông bị vợ bỏ, thất nghiệp, về sống nhờ mẹ già trong căn phòng chính phủ nên ban ngày không tiện ở nhà. Sợ hàng xóm mách quản lý thì mẹ con bị

đuổi chung.

Tôi lại hình dung ra một cụ già buồn bã, buồn bã hơn khi phải chia cho thằng con tóc đã

điểm bạc chút tiền già còm cõi của mình

để nó lay lất… tôi nhớ đôi mắt bà cụ già bên Anh năm 1944, khi ấy, đêm xuống là cư dân thành phố London phải đi ngủ tập thể trong những căn hầm bê-tông vì sợ máy bay

Đức thả bom. Sáng ra, ai về nhà nấy, và công việc của

đàn ông còn trong thành phố là chộp nhanh tờ báo mà thành phố

để sẵn ở trước cửa mỗi nhà. Họ

đọc ngấu nghiến tin tức trước khi liếm láp chút sữa, bánh mì rơi rớt của mấy đứa con nhỏ. Sau đó, họ vào nhà máy để làm súng đạn cho những người đàn ông Anh đã ra trận. Trong khi

đàn bà thì rời chỗ ngủ tập thể trong thành phố, họ mau chóng về nhà, chộp ngay bình sữa mà thành phố

để sẵn, chung với tờ báo. Họ vội vã chia bữa sáng cho gia

đình

để không ai chết đói hơn là lo bữa sáng cho gia

đình vì có gì

để lo ngoài ít sữa và chút bánh mì cho mỗi gia

đình. Nhưng sáng sau đêm máy bay Đức đông như châu chấu, dội nát London. Một cụ gìa trở về nhà với cái chai sữa trống trơn vì

đêm qua thành phố

đã không

đổi cho cụ chai sữa có sữa. Dù mỗi ngày lượng sữa đã ít

đi rất nhiều. Đôi mắt bà cụ nhìn chai sữa rỗng

đã lột tảđược hết tàn khốc của thế chiến thứ II. Không biết

đôi mắt bà cụ mẹ của ông Cóc có xa lộ kinh hoàng mà trong

đó có tết Mậu thân gì không?...

Tôi buồn như mùa thu đến, không gian thu vốn dĩ trầm mặc làm cho lòng người ưa hoài niệm xa xôi. Vạt nắng quán trưa không còn thiêu

đốt làm cho người ta thèm khối cầu lửa đã tan chảy theo mùa hè. Tí gió hanh hao về khoe áo mới - mấy cô bé

đi chợ Hồng Phát trong Saigon Mall. Tôi biết cô bé kia là con ai; cô bé nọ là cháu bà nào… những cô bé trong mắt tôi nhưng là cả một trời hy vọng của lớp thanh niên trang lứa. Có một thời đã qua, rất xa. Và hình như những rung động với cái áo khoác mỏng chào thu trên vai cô gái đã ở lại Sài gòn. Nơi đây chỉ có một người ngồi thèm nắng quê xa. Tôi thèm gặp lại ông Cóc như những mùa thu trong ký ức quán. Không ngờ ông ấy

đến thật. Ông Cóc vàng như lá thu bay trong thành phố. Làm tôi lo.

"Chào anh, đã lâu lâu không gặp…"

"Tôi biết anh chờ tôi nơi đây. Nên tôi ra."

"Để gặp tôi."

"Một lần!"

Tôi thích lối nói chuyện tửng tửng thông minh của ông Cóc. Nhưng tôi ngại thật với nước da vàng khè của ông - chỉ sau hơn một tuần không gặp. Tôi nói: "Xin lỗi nói thẳng nha. Hình như anh không khoẻ. Tôi thấy nước da anh khác mươi hôm trước dữ lắm!"

"Anh thật tinh mắt. Tôi xin vào chuyện ngay với anh để hết nợ nần nhau…"

"Chuyện không cần gọi gấp cho tổng thống chứ!"

"Không phải rào đón cho mất công. Tôi biết anh muốn gì ở tôi và tôi biết phải làm gì! Anh hãy viết câu chuyện

đời đơn giản về tôi: Mất việc, nhưng không thể làm việc tay chân nên ngồi nhà hoài. Gia

đình rạn vỡ theo quy luật

đời sống. Chỉ có một điều ngoài cả sức tưởng tượng của tôi là tôi thoa nghệ lên người mình và nằm trùm mền

để gạt mẹ tôi là tôi sẽ chết với bệnh ung thư gan thời kỳ cuối và đã phát. Chỉ có cách

đó thì mẹ tôi mới chịu vô nhà dưỡng lão

để tôi được chết yên tâm là mẹ

đã có chỗ ở tới cuối

đời…

Tôi dựng vở kịch này

để giải thoát cho mẹ tôi. Bây giờ mẹ tôi đã yên tâm là tôi chết rồi - trong nhà thương thí…"

"Anh điên rồi hả! Anh đâu đủ tiêu chuẩn ở nhà chính phủ. Vậy anh ở đâu?"

"Tôi không điên như anh nghĩ. Anh không biết gì hết! Nhà chính phủ bây giờ có người làm cò mồi. Họ thuyết phục tôi

đi ra với giá một ngàn

để họ nhận ba ngàn của người đi vô, vì danh sách người xin nhà chính phủ quá dài mà mùa đông đến.

Tôi quyết định đi ra không phải vì một ngàn mà vì tôi không muốn mẹ tôi khổ hơn…"

"Nhưng anh sẽ làm gì trong ngày mai? Tối nay ở

đâu?"

"Tôi biết sống với một ngàn - gạt mẹ

đẻ ra mình."

"Hy vọng anh thành công…"

Người bưng cà phê đã

đến bàn với ly cà phê mới. Ông Cóc móc túi quần ra bao thuốc lá mới. Mời tôi. Rồi ông

đi. Tôi ngồi với món nợ vô phương tới chiều tối. Lọn gió thu se sắt đã

đuổi mặt trời đi để tác oai…

êu xanh Thanh Sơn

Sang thu, tiết trời vùng cao chớm lạnh. Những mái nhà sàn xam xám của đồng bào Mường nhòe đi trong màu sương bàng bạc của núi rừng. Về trưa, nắng bắt đầu hồng dần trên những nương lúa, nương ngô, rồi đỏ ửng trên đôi má những cô gái xuống suối bắt rêu.

Hầu hết các xã Đồng Sơn, Thu Cúc, Thượng Cửu… mà tôi có dịp đặt chân tới đều coi rêu đá như một món rau sạch đặc biệt của vùng cao. Người miền xuôi lên đây, phải được đồng bào quý lắm mới có dịp thưởng thức. Muốn ăn rêu sạch, non phải chọn nơi nước suối chảy xiết, có nhiều tảng đá to (nơi rêu bám vào để phát triển). Đồng bào gọi là “bắt” rêu vì coi nó là một loại thực phẩm như cá hay cua suối. Rêu được “bắt” thành từng dây dài, tùy từng khúc suối sâu hay nông mà có màu xanh lục hay xanh non. Rêu được bỏ vào rổ, giặt qua nước suối nhằm loại bỏ cát hoặc chất bẩn, bỏ lên một tảng đá to, có mặt bằng phẳng rồi dùng một khúc gỗ to để đập. Sơ chế rêu cũng đòi hỏi phải có tính kiên nhẫn vì phải giặt và đập rêu tới vài lần mới sạch. Cả một rổ rêu đá lúc này chỉ còn đủ dùng trong một bữa. Màu rêu đá xanh đậm, sờ vào mềm và mát như lụa.

Rêu đã làm sạch được tẩm ướp gia vị. Đó là tỏi thái mỏng, muối, mì chính, cộng thêm hành và chút mỡ lợn rồi trộn đều, dùng lá đu đủ gói thành nhiều lớp buộc chặt lại. Thông thường món ăn này được làm vào buổi tối vì đó là lúc có mặt đông đủ mọi thành viên trong gia đình. Bên bếp lửa bập bùng, họ vừa nấu cơm, vừa vùi rêu vào than hồng. Lớp lá đu đủ bén lửa bốc lên mùi cay cay, thơm thơm.

Đợi đến khi những lá đu đủ bên ngoài chuyển thành màu đen, họ mới bóc từng lớp lá ra. Mùi tỏi và hành quyện với mùi nồng nồng của rêu đá tạo nên một hương vị rất riêng. Tôi nếm thử món ăn đặc biệt này. Rêu giờ đây giống như món tảo biển có vị ngầy ngậy, mềm mềm, ngon mà không ngấy.

Đến với vùng núi cao Thanh Sơn, nói tới ẩm thực truyền thống của đồng bào dân tộc, người ta thường nghĩ tới món thịt chua làm từ lợn lửng hay món cơm nếp nương thơm khắp cả gian nhà, mà ít ai nghĩ rằng món rêu đá- món rau bình dị nhưng cũng thật lạ chính là nét độc đáo, ít nơi có được.

Nhớ mít kho 

01/06/2009 5:00 

Đã quen lệ, tới mùa mít, mâm cơm nhà tôi thường có mấy món được chế biến từ mít non, dùng để thay rau, vừa lạ miệng vừa khỏi lo thuốc sâu.

Tủ lạnh cũng thường có hộp mít chín đã bỏ cùi, lấy hột.

Má tôi thích mít ướt, vợ tôi thích mít mật. Tôi lại ưa mít dừa, tuy ít ngọt nhưng múi dày, nhai sần sật. Khoảng nửa tháng nay, ở nhà, đã thấy có mít ăn. Mít non, ăn thường ngày, chỉ cần làm giản đơn là xắt miếng cả xơ lẫn múi, luộc lên, rửa lại bằng nước đun sôi để nguội, vắt cho thật ráo. Mít non luộc chấm nước cá kho mặn mòi mới ngon làm sao.  

Cũng phải cách đây trên ba mươi năm, khi đó tôi đang là một chàng trai lông bông vô công rỗi nghề. Chán cảnh ở không với phố phường quen thuộc, tôi theo bạn bè lên cao nguyên kiếm việc làm. Rồi dính cứng với gia đình nàng trong khi bốn thằng đi chung đã lần hồi bỏ cuộc. Hồi dưới xuôi, háo hức với một vùng đất mới và trí tưởng tượng vẽ ra bao viễn cảnh tươi đẹp, chừng lên có thấy gì đâu! Chỉ bạt ngàn rừng cà phê cùng vườn mít quanh nhà đang vào mùa ươm trái. Đã vậy công việc rẫy nương cực khổ, ăn uống lại thiếu thốn, đạm bạc. Nếu không có nàng và món mít kho, nếu không lưu luyến với một cô gái và gắn bó với một món ăn, tôi cũng đã "vù” như các bạn mình. Món mít kho của nàng rất ngon mà lại dễ làm. Nàng xắt những miếng mít non, hong lên cái nia đặt trên bếp ủ tro. Liếc qua, liếc lại từng miếng mít trong mỡ heo (ngày đó đâu có dầu ăn như bây giờ) xong nàng đặt cả vào soong, nêm nếm gia vị và bắc lên bếp, chế thêm chút nước, để lửa liu riu cho thấm.

Ở cao nguyên ăn uống kham khổ, nhưng cơm ngày ba bữa rồi ăn thêm bắp, sắn nên không đến nỗi nào. Mà tôi luôn ngồi lại mâm cơm sau cùng để ăn thêm chút nữa và được nhìn nàng thêm chút nữa. Nàng thì đẹp còn... món mít kho thì ngon. Nàng khiến cho một món ăn mộc mạc dậy lên bao hương vị khó quên. Ngày đó, nàng đùa: "Tưởng anh thích nem công chả phượng, em chịu. Chứ thèm mít kho, anh ở lại luôn đi. Em kho mít cho anh ăn cả đời". Tôi nhớ cũng vào tháng tư âm lịch như vầy, nàng ăn chay hai chục ngày và tôi ăn theo nàng. Mít kho chay thì nêm muối, xì dầu thay cho nước mắm. Vẫn rất ngon lành và cực kỳ hấp dẫn. Tôi có nàng như có thêm sức mạnh, cuốc cỏ rẫy ào ào và tới bữa làm cái vèo năm bảy chén cơm với mít kho. ôi đã quyết tâm ở lại làm ăn trên đó, vậy mà nàng vẫn qua nhà người làm dâu. Rẫy nương không còn bóng dáng nàng nên buồn hiu hắt. Bữa cơm không có món mít kho sao mà lạt lẽo. Không chịu được nỗi đau tình, tôi khoác ba lô trở về xuôi giữa mùa mít đang rộ, thơm nức vườn nhà. Một món ăn đã trở thành kỷ niệm. Kỷ niệm vừa êm đềm, vừa nhức nhối khôn nguôi. Kể từ đó, chưa một lần tôi đụng đũa tới món mít kho. Ở nhà, má  có nhắc vợ tôi làm mấy lần, nhưng cô ấy vờ như không nghe và thay bằng món gỏi.

Bây giờ ở chợ nào, người ta cũng bán những miếng mít non đã xắt và luộc sơ. Vợ tôi chỉ cần mua về luộc lại, rửa qua bằng nước đun sôi để nguội, vắt cho thật ráo rồi xé rời. Thêm tôm hấp chín bóc vỏ, thịt ba chỉ xắt mỏng, nước cốt chanh, đậu phộng rang giã dập, hành phi, rau thơm, nước mắm pha đường, tỏi, ớt. Tất cả hỗn hợp này, trộn chung lại sẽ ra món gỏi mít rất ngon. Ăn gỏi mít có mấy cái bánh tráng mè dày nướng, thêm chai rượu cho cánh đàn ông lai rai, thôi thì khỏi bàn cãi. Lấy bánh tráng xúc miếng gỏi, đưa lên miệng và chầm chậm nhai để thưởng thức cái ngon của mít non hòa quyện trong vị béo, ngọt, chua, giòn...

Chiều qua, vợ tôi làm gỏi mít cho cả nhà thưởng thức. Giữa bữa ăn, vợ nhìn chồng nhắc yêu: "Món mít kho là của người ấy và anh lại đang ăn gỏi mít ngay giữa tổ ấm của mình...". Nhắc vậy cũng là cách vợ cho phép tôi được vấn vương một chút thôi! Vấn vương... mít ấy mà.

Phiên chợ kháng chiến

Thứ bảy, 05 Tháng 2 2011 14:30

Năm nào cũng vậy, những ngày cận tết, trời Tam Thăng lạnh căm căm. Làng tôi tuy có tên là Kim Đới (đai vàng) nhưng không ai có được một bộ đồ lành lặn tử tế, chứ đừng nói tới chuyện thắt đai lưng bằng vàng. Cả làng chỉ mặc một thứ quần áo màu đen, cái màu truyền thống do tiệm của ông Đồng nhuộm cho. Nắng mưa dãi dầu đã làm cho màu đen trên vai và lưng bạc thếch. Vậy là ai cũng như ai, ai cũng giống ai, từ thằng bé như tôi, đến chị phụ nữ, đến người già. Ai cũng mặc một màu đen bạc thếch ra chợ.

Chợ họp vào buổi chạng vạng, dưới rừng dương liễu, nơi ngó ngang qua cái trường Xóm, gần một mả đá vôi. Máy bay của Pháp từng bay ngang qua vùng này, thấy trường Xóm lợp mái ngói đỏ, đã bắn đại liên ào ạt xuống đó. Trận không kích không làm cho ai chết hay bị thương bởi trường Xóm không có thầy dạy, cũng không có học trò học. Những người thầy, những người có chữ nghĩa đã rời Tam Thăng đi kháng chiến đâu đó trên Tam Kỳ. Làng Kim Đới chỉ còn ông bà già, trẻ con và phụ nữ ở lại.

Tuy vậy, họ vẫn họp chợ tết. Trời lạnh căm. Những người ra chợ đầu quấn khăn, co người lại, hai tay thủ vào trong túi áo. Tội nghiệp nhất vẫn là đôi chân. Ai cũng đi chân trần trên nền cát ướt. Có người gần chợ đem theo một cái ghế vuông, ngồi co chân lên ghế đã là hạnh phúc lắm. Ai nói cũng ra khói. Có thể trông làn hơi khói thoát ra khỏi miệng người, ta hiểu được người ấy nói nhiều hay ít, dài hay ngắn.

Gọi chợ là gọi cho oai chứ thật ra nó chỉ có khoảng mươi người ngồi bán. Người này ngồi với một thúng gạo. Người kia ngồi sau đôi bầu dựng đầy sắn lát. Người khác ngồi sau mấy nải chuối mới vàng hườm. Mẹ tôi ngồi sau một nia cá khô. Đó là những con cá mua được bên bờ biển Tĩnh Thủy, đem về trải ra phơi trong nắng thu rồi được cất lại làm thức ăn dự trữ cho cả nhà. Bây giờ thì mẹ đem cá khô ra họp chợ.

Làng Kim Đới quá nghèo. Pháp bao vây kinh tế, đốt phá triền miên khiến làng tôi nghèo xơ xác. Có lẽ, người làng họp chợ như là một nhu cầu chứng minh mình còn sống, làng còn sinh khí. Họp ban ngày thì sợ máy bay Pháp bay ngang qua bắn giết, lại sợ Pháp đổ bộ bất ngờ vào Tĩnh Thủy không tản cư kịp lên nổng cát Tam Phú nên mới họp ban đêm.

Trước mỗi gian hàng nhỏ của người bán thường có một ngọn đèn. Thời ấy, người Kim Đới không mua ra một giọt dầu lửa. Dầu lửa là thứ quý hiếm, người ta chỉ dùng để đổ vào tẩm ướt mớ bông trong thùng diêm (hộp quẹt). Viên đá lửa dùng trong thùng diêm là vật quý hiếm. Người đàn ông nào có được một cái thùng diêm vỏ bằng nhôm đã được xem là người sang trọng. Trong xóm, đến buổi nấu cơm, người ta thường dùng con cúi đi qua nhà kế cận xin lửa.

Người Kim Đới thắp đèn bằng mỡ heo hay dầu phụng. Dầu phụng thì dễ có bởi Kim Đới trồng đậu phụng quanh năm. Thế nhưng mỡ heo thì có vẻ hiếm. Người làng đâu có sang lắm mà dám làm heo? Nhưng như đã trở thành thông lệ, mỗi khi người ta làm thịt con heo, thường thắng một trã mỡ giữ lại. Mỡ ấy dùng để thắp đèn ban đêm. Làng cũng có rất nhiều mù u nhưng ruột trái mù u chỉ dùng để đốt đuốc đi đêm. Mùi khói mù u hơi khó chịu nên đông chợ không ai thắp đuốc mù u.

Chợ đông theo quy luật của nó, nghĩa là có người bán tất có người mua, người dạo chợ và ngược lại. Phụ nữ ra chợ mua một ít dầu dừa để chải mái tóc óng mượt. Họ xõa những mái tóc dài xuống, thoa dầu dừa và chải tóc với chiếc lược sừng trâu. Những ông già ra chợ tìm mua thuốc lá. Họ xin một cái lá áo, bỏ vào trong mấy lá thuốc nhỏ rồi quấn lại thành một điếu thuốc dài như điếu xì-gà. Họ kê điếu thuốc vào ngọn đèn bặp bặp mấy cái, thưởng thức vị đậm đà của thuốc rồi mới mua.

Thỉnh thoảng, có một vài anh cán bộ hay bộ đội về dạo qua chợ. Họ mặc quần tây vải xi-ta bà Tân - một thứ xi-ta nội hóa dệt trên Tam Kỳ, áo sơ mi dày, bao bên ngoài là một cái áo trấn thủ. Chiếc áo trấn thủ mặc ấm với những đường chỉ may cắt ra thành hình lát chả khiến họ nổi bật trong phiên chợ vốn chỉ toàn loại áo quần màu đen.

Bỗng dưng, có tiếng động cơ máy bay gầm gừ trên bầu trời. Người ở dưới đất không thể phân biệt được đâu là máy bay dân dụng, đâu là máy bay chiến đấu. Không ai bảo ai, các cửa hàng tự động thổi tắt đèn; người mua và kẻ bán ngồi yên tại chỗ. Phiên chợ trở nên tối thui, lặng lẽ hòa lẫn vào đêm tối của đất trời Kim Đới. Máy bay qua rồi; một người nào đó có thùng diêm thắp lên ngọn lửa đầu tiên. Vậy là người ta đến xin lửa thắp đèn. Cả phiên chợ sáng lên, lại tiếp tục mua và bán.

Chợ chỉ bán duy nhất mặt hàng cho trẻ con ăn vặt là kẹo ú. Tôi theo mẹ ra chợ, rất thèm được ăn một viên kẹo ú nhưng không dám xin tiền mẹ để mua. Tôi chỉ còn biết ngồi sau cái nia cá khô của mẹ, thỉnh thoảng lấy một con cá liệt nhỏ, mỏng te vì bị phơi khô lâu ngày, nướng trên ngọn đèn mỡ heo. Mùi cá khô nướng thơm thơm bay trong gió. Và tôi ăn con cá liệt. Mươi năm sau, tôi mới hiểu mình ăn như vậy là hơi mất vệ sinh! Cũng hơi trễ đối với một đời người.

Có những đêm hiếm hoi, trời khô tạnh. Chợ đêm Kim Đới họp dưới ngàn sao mùa đông nhấp nháy. Tiếng cú kêu đâu đó trong rừng nghe buồn thảm nhưng phiên chợ vẫn vui. Người ta đi lại, nói cười, trả giá, trao đổi. Cái sinh khí đó thực sự làm vui một góc làng kháng chiến trường kỳ gian khổ. Tôi trải chiếc chiếu xuống trên nền cát trắng quê nhà, hai tay gối đầu nhìn lên ngàn sao. Và tôi ngủ thiếp đi trong tiếng cười nói râm ran của phiên chợ…

Phong vị ngày mưa ...

Khi những cơn chớp đì đùng lóe sáng vòm trời mé tây nam là dấu hiệu mùa "sông sa nước chảy" ở xứ tôi đã bắt đầu. Chớp chỉ dăm ba hôm là mưa đã kéo đến. Mưa như trút, mưa thối đất thối cát, mưa tắt cả mặt trời. Mùa mưa, đồng mênh mông nước, khí trời lạnh lẽo một màu xám xịt. Nhà nông rảnh rỗi chẳng biết làm gì, đành bó gối trong nhà mà nhìn ra, ý nghĩ trôi theo những con nước chảy đứt đuôi rắn.

Hôm nay, mẹ tôi lại xuống gác bếp, lục tìm mấy cái khuôn bánh đã mốc meo đem xuống rửa sạch để ráo; rồi thuận tay bê luôn ông bếp để ra giữa gian chái nhà. Xong đâu đấy, bà bảo tôi nhóm lửa, còn mình thì đem gạo ra cái cối đá phía hiên ngồi xay. Bếp ngày mưa ẩm ướt, tiếng lửa cháy lụp bụp, khói tỏa ra khắp cả bếp, dăm sợi khói màu trắng đục cố len qua mái tranh thoát lên trời rồi tan theo làn mưa. Lửa cháy mỗi lúc một hừng, rạo rực chẳng khác gì nỗi mong chờ thèm thuồng được ăn bánh xèo của tôi. Ngoài hiên nhà, chiếc cối đá xanh quay ù ù, từng hạt gạo trắng nập đua nhau theo nước cài mình vào những chiếc răng cối, vỡ tan biến thành thứ nước bột màu trắng mịn.

Chờ mãi rồi thì bột cũng xay xong, lửa trên bếp đã hừng rực, tỏa hơi ấm át cả khí lạnh ngày mưa, ngoài mái tranh những dòng nước mưa vẫn đua nhau gieo xuống. Hôm qua, cha con tôi đi kéo lưới được cơ man nào là tép đồng, những con tép bạc đầu mùa trắng mẫm, bụng đầy những trứng. Rang ăn không hết, mẹ đã hấp chín lại để đó, giờ đem ra chế món mới, bánh xèo tép bạc.

Ngày ấy, khi mà thứ người ta dùng để chiên rán chủ yếu vẫn là mỡ lợn thắng, thì dầu ăn là khái niệm xa xỉ và xa lạ. Từng cục mỡ lợn đông cứng dính vào đầu đũa được mẹ tôi vếch ra, cho vào khuôn bánh bắc lên bếp, tích tắc mỡ đã tan thành nước, sôi lên lép bép, thơm thơm, ngầy ngậy. Bột gạo trắng nguyên chất, chỉ thêm chút muối ăn, vài củ nghệ nghiền, dăm nhúm hành lá xắt nhuyễn nổi lênh phênh. Khuấy đều chậu bột, một vá bột nhỏ được múc lên chan đều lên khuôn bánh, tiếng xèo xèo vang lên. Thuận tay, mẹ bốc luôn một nhúm giá đậu ủ trong vò lá tre bỏ lên rồi đậy nắp lại. Bên cạnh là bát mắm pha đường, ớt tươi, chanh, và đủ những thứ chua ngọt khác mà tôi chẳng thể nhớ hết, được bày ra trên một mẹt lót sẵn lá chuối. Chốc lát, nắp khuôn được giở lên, một làn khói tỏa ra, mùi thơm của bánh ngào ngạt. Mẹ đổ bánh ra mẹt lá chuối trong ánh mắt háu đói của tôi. Bánh xèo thường ở nơi tôi sống chẳng ai đúc cho giòn rụm như đất Sài Thành mà sau này tôi có dịp nếm, người ta cũng ít khi dùng bánh tráng để cuộn, nhưng rau ghém thì có đủ: rau má, rau cải, đọt xoài non, rau thơm, dấp cá, ...và cả rau muống nước bạc, thứ rau chỉ có đọt non màu tím lơ lơ, mằn mặn, giòn mềm mà chẳng có tí lá nào.

Chẳng kịp để cho cơn thèm kịp nguội, tôi nhón đũa gắp luôn cái bánh bỏ vào bát, chan thêm một muỗng nước chấm, thêm mấy cọng rau, rồi cứ thế mà ăn, bánh nóng, nước chấm cay, vừa ăn vừa thổi, vừa hít hà, rồi thì nước mắt nước mũi cứ thế mà đua nhau chảy ra, pha lẫn mùi khói bếp cay cay lên mắt. Bánh mềm ngọt mùi gạo, tép giòn ngậy, lại thêm giá đỗ vị thanh tao, bao nhiêu vị ngọt bùi chua cay cứ thế cuộn vào nhau, như bao giọt mưa đang thi nhau gieo từ mái tranh xuống, thấp sâu miên man vào từng thớ đất.

Rồi khi lớn, tôi tha hương xứ người. Có lẽ, mẹ ở quê chẳng còn đúc bánh như xưa, nhưng phong vị món ấy vẫn trong tôi mỗi độ mưa về.

Hương vị làng quê

T

ôi không còn nhớ được hương vị sữa mẹ. Nhưng tôi chắc là hương vị sữa mẹ phải thơm ngon và đặc biệt lắm. Bởi cứ trông những đứa trẻ khi đói mà thấy bầu sữa mẹ là nó ngoạm  vào ngay rồi mút lấy mút để. Chỉ thỉnh thoảng mới thấy ngừng một nhịp để lấy hơi: "ử...". Một tay nó mân mê cái đầu vú bên kia và đôi mắt thì trìu mến nhìn mẹ ra chiều biết ơn lắm. Vơi bầu này nó lập tức ngoạm sang bầu bên kia. Chỉ đến khi đã no nê cái bụng, nó mới nhả vú quay ra, toe toét cười .Viên mãn lắm. Nhưng chẳng một đứa trẻ nào giữ được cái cảm giác ấy cho đến lúc trưởng thành. Có lẽ khi chưa có ngôn ngữ, chưa biết nói thì cảm giác cũng chưa có túi đựng, nó cứ tràn trề trong tâm tư rồi lẫn vào trong vô thức? Nhưng tôi còn nhớ được hai thứ hương vị gắn liền với người mẹ. Thứ nhất đó là mùi bánh khúc. Vào một  ngày xuân, ngoài trời lác đác mưa, tôi vừa mới ngủ dậy thì đã thấy mẹ tôi đang ngồi bên một cái chõ nghi ngút bốc hơi xới xới đánh đánh một thứ gì đó. Cả mấy gian nhà ngang xực nức một mùi xôi lạ. Mẹ tôi đưa cho tôi một cái bánh trông giống như cái lưỡi lợn xung quanh dính đầy những hạt xôi và bảo rằng đó là bánh khúc. Tôi ăn và cảm thấy cái dẻo dẻo của bột nếp, dai dai của rau khúc và một mùi thơm tổng hợp của xôi nếp và rau khúc. Loại bánh khúc mẹ tôi làm chắc là chế biến còn thô sơ. Chỉ ngào bột nếp lẫn vào với rau khúc, nặn thành bánh, xếp vào chõ, lớp gạo, lớp bánh rồi đem đồ chín. Nhưng chính sự chế biến thô sơ ấy lại làm cho cái hương vị của bánh khúc có vẻ đậm đà và đặc trưng hơn. Sau này khi lớn lên, cứ mỗi lần thấy mưa xuân lác đác hay nghe dì Khiêm hát những câu hát buồn:

"Buồn về một nỗi tháng giêng / Bánh chưng chấm mật nằm nghiêng thở dài / Buồn về một nỗi tháng hai / Mưa xuân lác đác hoa nhài nở ra..."

, là tôi lại nhớ đến hương vị bánh khúc. Nhưng dì Khiêm không thấy làm bánh khúc bao giờ. Mà ở ngoài đời bánh khúc cũng là một thứ ít gặp. Cho nên cứ ở đâu nghe thấy có bánh khúc và vào những lúc đang có tiền là thể nào tôi cũng nếm thử. Nhưng bánh khúc người đời làm khác. Tôi không thấy có rau khúc mà chỉ thấy một thứ bột mầu xanh xanh có mùi rau khúc. Chắc là họ đã xay nhuyễn rau khúc ra hay chỉ vắt lấy nước rau khúc rồi đem ngào bột. Họ cũng không nặn dài dài như lưỡi lợn mà lại nặn tròn tròn như quả bóng bàn và bên trong còn có cả nhân đỗ mỡ với hành nữa. Ăn bánh khúc họ làm tôi thấy hương vị của nó gần với bánh hấp hơn, chứ ít cái hương vị đặc trưng như bánh khúc của mẹ tôi làm.

Thứ hai là hương vị của mốc tương. Lần ấy nhà tôi đã có ngôi nhà năm gian kẻ truyền chồng chóp rồi. Ba gian giữa cửa bức bàn và hai gian buồng ổ khóa hai bên. Nhà lại đang có một tốp thợ nề lát sân gạch. Tôi chỉ được quanh quẩn chơi ở trên hiên quãng giữa hai cửa buồng chứ không được xuống sân. Cứ đến gần phía buồng mẹ tôi là lại thấy mùi mốc tương ngọt ngào sực nức. Tôi thèm, thỉnh thoảng cũng ấm ích đòi bố. Nhưng bố tôi đang hí húi bên tốp thợ ngoài sân chỉ quay vào gắt: " Đòi gì? Không được!". Mãi đến khi mẹ tôi đi chợ về, thấy bà cụ quẩy quang thúng vào bếp là tôi chạy xuống theo ngay. Tôi vừa mới đến cửa ngách buồng xuống bếp thì bà cụ cũng vừa quay lên. Tôi bám váy và chỉ lên nong mốc tương ấm ích. Bà cụ hiểu ý, vội vào nắm một nắm chim chim và đưa cho tôi. Chao ôi, sao nó mềm nhuyễn và ngọt lạ. Mốc tương thì năm nào chẳng có và năm nào tôi cũng đều nếm thử nhưng cứ thấy nó khô khô chua chua chứ không tìm lại được cái mềm nhuyễn của nắm mốc tương cũ nữa.

Tương là một thứ nước chấm rất phổ biến ở làng quê. "Tương cà gia bản" mà. Ở làng tôi cà chỉ ăn mùa, ăn vụ. Hình như không có nhà nào có vại cà nén để ăn quanh năm như một số vùng làng quê khác. Nhưng tương thì nhà nào, năm nào cũng làm. Kỹ thuật làm tương cũng hơi phức tạp. Nó tùy thuộc vào nhiều yếu tố: rang đỗ , ngâm nước đỗ, thổi xôi và ủ mốc tương...Tất cả các khâu ấy đều phải đạt một chuẩn nhất định thì tương  mới ngon. Còn không thì phi chứng nọ cũng tật kia: hoặc chua, hoặc tức. Thành thử tuy nhà nào, năm nào cũng làm tương nhưng ít nhà làm được tương thật ngon. Tương làng tôi chủ yếu dùng để chấm rau muống luộc và kho cá. Thứ rau muống làng tôi ưa dùng là rau muống trắng, cấy ruộng. Rau muống đỏ người làng tôi chê nó cứng và chát. Người làng khác lại khen là bùi và đậm. Rau muống bè người làng tôi lại chê là nồng nên cũng ít dùng. Người làng tôi hầu như nhà nào cũng cấy một bạt rau muống trắng. Giữa bạt rau muống thể nào cũng phải có một khóm rau ngổ. Người làng tôi xem rau ngổ như một thứ rau thơm ăn cùng với rau muống luộc. Có người thì để ăn sống, có người thì cho vào luộc chín cùng với rau muống. Nhưng dù ăn sống hay luộc chín, đều phải ngắt bớt cái nõn non đi để cho khỏi đắng. Ngày ấy chưa có phân đạm u rê. Giống rau muống ưa nhất là khoản "tro đái". Mùa cấy rau muống nhà nào cũng thường có một thúng tro bếp để đi tiểu tiện vào. Đến khi thúng tro bếp thấm đẫm nước giải thì đem ra bón cho bạt rau muống. Chỉ vài hôm sau bạt rau muống sẽ xanh đen xanh thẫm. Nếu lại gặp một trận mưa rào thì ngọn sẽ kéo ra tua tủa và non mỡ màng. Thứ rau muống này mà hái về luộc chín tới rồi chấm với tương mới ngả thì mỗi bữa một vài chai tương phải đi bay.

Món tương lại đặc biệt dậy mùi và hợp vị với món cá rô hấp. Tôi thường nghe người lớn ca tụng cái món ăn này lắm nhưng chưa một dịp được thực hành. Tương thì dễ rồi. Lá gừng cũng không khó kiếm. Khó nhất là chọn được loại cá rô để đem hấp. Cá rô ron, người làng tôi chỉ đem rán ròn hoặc vần cháy cạnh. Cá rô nhỡ thường chỉ được dùng để nấu canh bánh đa rau rút hoặc nấu canh rau cải. Chỉ có cá rô xù, loại to bằng bàn tay, bằng lá mít mới dùng để hấp tương gừng. Tình cờ một hôm tôi vác cần câu ra cống Ao Rồng thả chơi. Ngồi đã ê cả đít mà chẳng thấy động tĩnh gì.  Tôi đã đứng dậy vươn vai chống mỏi và ngáp dài ngao ngán. Vừa định cuốn cành câu đem về thì thấy phao câu chìm ngỉm và đang bị kéo đi lừng lững ở dưới nước. Tôi vội vàng giật cần câu lên thì may quá lại được ngay một chú rô xù. Thế là tôi nghĩ ngay đến món hấp tương gừng. Tôi sỏi vẩy, cậy mang, mổ ruột rửa sạch rồi cũng khía ngang hai bên con cá đem để vào một cái bát chiết yêu. Thái thêm mấy chiếc lá gừng rồi lấy tương đổ vào cho sấp sảnh. Khi ghế cơm xong, tôi để bát cá rô vào hấp. Bữa tối hôm ấy tôi mới được kiểm chứng thế nào là cái thơm, cái béo kỳ lạ của cá rô hấp với tương gừng. Một món ăn rất đơn giản vậy thôi, nhưng với tôi mãi mãi nó cứ là đặc sản.

Hương vị làng quê thường trở nên đậm đà và khó quên nhất là vào những ngày mùa vụ. Vụ gặt lúa chiêm là vất vả nhất. Thời tiết thì đã bắt đầu nắng oi mà còn hay gặp những trận mưa rào, mưa dầm. Những năm lũ về sớm, còn phải bì bũm gặt mò, gặt chạy ở những chân ruộng trũng. Gặt chiêm không cắt lấy phần gốc rạ mà chỉ cắt lấy phần bông lúa. Ở những chân ruộng cấy hai vụ thì phần gốc rạ này sẽ để "cày vận rạ". Người ta cứ để nguyên gốc rạ rồi cho trâu cày. Đất lật lên và thân rạ úp xuống. Cứ để thế ngâm chừng một tháng thì rạ sẽ thối. Lúc ấy người ta mới đem bừa ngả rồi lại tiếp tục ngâm thêm ít bữa nữa thì rạ sẽ thối hoàn toàn thành một lớp phân bón lót. Những chân ruộng trũng chỉ cấy được một vụ thì cứ bỏ mặc gốc rạ đấy, nó sẽ tiếp tục nảy nhánh, trổ bông gọi là "lúa chau". Bông lúa chau thường ngắn, hạt lép nên ruộng chau làng tôi chủ yếu dùng để thả trâu cho nó kiếm ngọn. Chỉ những năm "gạo châu, củi quê" mới thấy những nhà nghèo cho người đi tuốt lúa chau. Dụng cụ để cắt lúa chiêm gọi là "cái hái". Cái hái gồm có một "lưỡi hái" trông gần giống như một chiếc lược nhưng to và bầu bĩnh hơn một chút. Phần cong cong của lưỡi hái được mài mỏng và rẽ răng cưa sắc để cắt cổ bông lúa. Hai đầu lưỡi hái có hai cái chân nhọn để cắm chắc lưỡi hái vào với thân hái. Thân hái chỉ là một thanh gỗ dài dài vuông vuông: dày chừng một phân, rộng chừng năm phân và dài chừng năm mươi phân. Trên thân hái có ba lỗ đục. Đầu tiên là một lỗ đục dùng để luồn dây treo hái và khi gặt thì luồn cổ tay phải vào đây giữ hái. Lỗ đục thứ hai cắm một cái chốt ngang để cho bàn tay phải nắm chắc lấy thân hái. Đầu cùng phía ngoài thân hái có một lỗ đục thứ ba để gắn "mũi hái" vào với thân hái. Mũi hái là một thanh tre (hoặc gỗ) dài dài cong cong nhòn nhọn. Khi được gắn vào với thân hái, nó sẽ tạo thành với thân hái một "góc hái" để giữ cổ bông lúa lại. Phần cong cong của mũi hái quay ôm vào phía lưỡi hái. Khi thường phần mũi hái chính là thanh bảo hiểm. Nó loại trừ khả năng va quệt chân tay vào lưỡi hái dễ gây thương tích. Khi gặt nó lại là "cánh tay" nâng và gom các bông lúa dồn vào góc hái. Lúc ấy tay trái sẽ nắm lấy cổ bông và tay phải sẽ đặt lưỡi hái vào đẩy ra một cái "xoẹt". Cứ ba bốn nắm như thế là sẽ được một lượm lúa.

Lúa chiêm ướt nặng, bờ ruộng chiêm lại ướt trơn, nên gánh lúa chiêm từ đồng về nhà quả là một công việc cực nhọc. Người lớn khỏe cũng chỉ gánh chừng ba mươi lượm. Còn bọn trẻ con chúng tôi, gò vai rụt cổ cũng chỉ mươi, mười hai lượm. Thế cũng đã mồ hôi mồ kê nhễ nhại và mồm tranh mũi thở rồi. Gặp những ngày nắng ráo còn đỡ. Gặp kỳ mưa dầm thì thật là bức xúc. Những cầu lúa chưa đập cứ xếp đấy gội mưa. Những đống thóc chưa phơi cứa đắp đống ở ngoài sân chờ ngày mọc mậm...Còn con người thì cứ ngồi trông mà bồn chồn ngao ngán. Trong những ngày mùa vụ như thế bữa cơm quê lại càng đạm bạc. Có được bát canh cua đã là ngon rồi. Còn không, lại chỉ rau muống luộc chấm tương hoặc nước cáy. Để cải thiện, chúng tôi thường đi bắt châu chấu. Cứ trời mưa là bọn trẻ con chúng tôi quần đùi, áo cộc, nón mê, mỗi đứa một cái chai chạy ra đồng vồ châu chấu. Trời mưa châu chấu bị ướt cánh nên không bay xa được. Mùa này cũng đúng "mùa tình ái"  của châu chấu nên cô nào cũng cõng chồng trên lưng  càng dễ bắt hơn. Nói vậy thôi chứ "các cô" cũng tinh quái lắm. Không bay được xa thì các cô cứ cõng chồng như thế mà nhao xuống nước, ngụp lặn và tìm chỗ kín để ẩn mình. Nhưng cũng chỉ quẩn quanh cái gốc rạ ấy thôi nên thể nào chúng tôi cũng tóm được. Cứ đầy chai hoặc tan mưa thì chúng tôi mới về. Tôi thường nút kín chai châu chấu để vào trong bếp, chạy sang ao nhà ông Hội Thỉnh nhảy ùm xuống đã. Quần áo ướt nên chúng bí hơi và căng phồng cả lên. Mà nước ao thì ấm lạ. Chẳng khác nào tắm nóng lạnh ngày nay. Ngâm mình trong nước ao lúc ấy thật là dễ chịu. Tôi cũng thường bơi ra ngọn cây ủi tầu để lần ủi. Đôi khi cũng được một vài quả ương. Tắm xong tôi mới về nổi lửa để "làm lông" châu chấu. Đun một nồi nước sôi lên, mở nút chai châu chấu ra, xóc mạnh cho châu chấu rơi vào nồi nước sôi. Khi châu chấu đã chết cả thì đổ nó ra rổ vặt cánh, vặt chân. Làm lông xong thì cho châu chấu vào nồi hoặc vào chảo tra mắm muối rang lên. Khi cạn thái thêm mấy cái lá chanh rồi rưới thêm một thìa mỡ lợn. Mùi châu chấu rang sẽ dậy lên ngay. Món châu chấu rang cũng là một món ăn ngon. Nó vừa giòn, vừa bùi, vừa thơm, vừa ngậy.  Người làng tôi mệnh danh nó là "tôm bay". Chỉ cần cơm chan nước rau muống luộc và ăn kèm với châu chấu rang thì cũng khó mà biết no, biết chán.

Dịp này thì ông Ủn và một số người làm nghề buôn bán ở làng tôi cũng thường "năng động" lên chợ Phả Lại hoặc đón thuyền ở ngoài sông Kinh Thày mua món cá khô "phèn chỉ" về đem "đổi đồng". Phèn chỉ là tên một loại cá khô ngon thời ấy. Mỗi con to chừng hai đầu ngón tay và dài chừng mười lăm phân. Hai bên mình cá có hai đường chỉ to đậm chạy suốt từ mang đến đuôi, phân biệt rõ phần lườn và phần bụng cá. Còn "đổi đồng" là hình thức mua bán đặc biệt của làng quê trong những ngày mùa vụ. Người ta không mua bán bằng tiền mà lại bằng những lượm lúa. Tùy thời giá mà mỗi chục con phèn chỉ sẽ tương đương với mấy lượm lúa chẳng hạn. Những khi ấy thì làng tôi cứ khói bếp là lại dậy mùi cá khô rán, cá khô nướng.Vụ gặt chiêm nào cũng phải có một vài lần dẵm phải ba ba. Bắt được ba ba thì bố tôi lại đem làm thịt nấu với chuối xanh và đậu phụ. Thịt ba ba có một vị béo ngon riêng. Ba ba nấu thường gia vị thêm lá tía tô và thính đỗ tương nên mùi vị cũng rất đặc trưng. Tuy ngon thật  nhưng người làng tôi vẫn nghĩ là ăn nó độc:

"Thịt gà, cá chép, ba ba / Ăn vào lại bảo là ma nó làm".

Tết mồng năm tháng năm thì mùi rượu nếp lại thơm nức cả làng. Cứ khoảng mồng hai tháng năm là nhà nào cũng thổi một vài ống gạo nếp lức rắc men ủ vào một cái rá để làm rượu nếp. Ủ vài hôm thì rượu nếp ngấu. Đúng sáng mồng năm thì ăn "tết giết sâu bọ". Nhà nào cũng chuẩn bị ít hoa quả có vị chua như đào, mận, quéo...Ăn  hoa quả xong thì mới ăn rượu nếp. Hoa quả chua ít người chuộng, thường chỉ ăn qua loa làm phép. Còn rượu nếp thì tha hồ. Bởi nhà nào cũng làm hàng rá. Ăn không thể hết được. Lại phải đem cho lẫn nhau. Nhà tôi đem cho nhà bác Hương, chú Đặng. Nhà bác Hương, chú Đặng lại đem cho nhà tôi. Chưa kể trong "cụ Vú" nhà dì Khiêm năm nào cũng đem ra cho nữa. "Bà Vú" bây giờ đã già, dân làng đã nâng cấp lên hàng "cụ Vú". Lưng bà cụ đã còng. Đầu cạo trọc, không đội khăn nên những chân tóc bạc mọc ra trông lởm chởm như một bông hoa gáo. Bà cụ mặc một cái váy đen mầu thâm đất và thường sắn cạp váy để kéo gấu váy cao lên đến lưng ống chân. Dễ đi lại. Cụ vẫn mặc cái yếm nâu che ngực và khoác cái áo cánh nâu bạc không mấy khi cài cúc.Vì đi xa nên cụ không bưng bát mà thường đổ rượu nếp vào một cái lá khoai ăn dọc, buộc túm lại. Tay phải chống gậy, tay trái cầm đùm rượu nếp, cụ lòng khòng lững thững đem ra cho các cháu. Sau này khi nghiên cứu và bổ sung "Đỗ Tộc gia phả", tôi mới biết cụ tên là Trần Thị Cạnh, người làng Nam Gián Đông vốn là nàng dâu của họ Đỗ nhà tôi, em dâu ông nội tôi và thím ruột của bố tôi. Cụ sinh cho họ Đỗ được ba người con gái: cô Đỗ Thị Nhân, sau này thành cô Ký Lợi, không có con và mất sớm; cô Đỗ Thị Hiền, sau này thành cô Ký Bắc rồi cô Trương Hồi, cũng chỉ sinh với ông Ký Bắc được một người con gái; cô Đỗ Thị Chung, sau này thành cô Phẩm. Hóa chồng  cụ mới lấy đời chồng thứ hai  sinh được hai trai một gái là Ngọc, Ngà, Khiêm. Nhưng Ngọc mất sớm, chỉ còn Ngà và Khiêm. Cũng vì có cái sự hay cho lẫn nhau thế mà năm nào tôi cũng được nếm đến ba bốn "nhà rượu nếp". Cũng mỗi nhà một vị. Nhà thì rắn, nhà thì nát; nhà thì ngọt, nhà thì chua. Nhà thì để "quá đát" đường đã biến thành rượu cả nên ăn cứ cay sè sè...

Vụ cày bừa làm mùa tháng sáu thì cá tép và cua ngôm nhiều vô kể. Từng đàn cò đậu xuống kiếm ăn. Người bừa đi đằng trước, cò lò dò chạy theo sau để kiếm mồi, gần gũi cứ như vật nuôi trong nhà vậy. Còn chúng tôi cũng quên cả nắng trưa để mải mốt đi vồ cua ngôm. Những ngày ấy bữa cơm làng tôi lại canh cua, riêu cua liên tục. Sẵn có ông hàng xóm chuyên nghề làm bún, nên nhà tôi còn hay đổi bún để ăn với riêu cua. Bà Nái Vôi đi  thì ông Sĩ lại đến. Tôi không biết ông ta từ đâu đến. Chỉ biết trên khuôn đất của bà Nái Vôi ở trước, bây giờ có ba bố con ông hàng xóm mới, chuyên nghề làm bún. Cô con gái cả tên là chị Bích. Chị Bích người tầm thước gọn gàng, nhưng phải cái hễ cười là để hở cả hai hàm lợi đỏ. Những lúc ấy mồm chị như chỉ toàn một mầu đỏ nên trông cứ thấy dài dại và vô duyên. Anh Sĩ là em, cao lớn giống bố nhưng lại bị chột mất một mắt. Cái mắt chột trông đục lờ, dại nghệch. Cả hai người con không ai được như bố, bởi ông bố trông cao to sáng sủa, có hai chòm ria khá cân đối ở hai bên mép. Nghề làm bún cũng lỉnh kỉnh khá nhiều nồi, nhiều chậu, rồi cối xay bột, cối giã bột...Gạo ngâm vài ba ngày cho chua rồi mới xay. Xay nhuyễn rồi lại phải để lắng, gạn thành một thứ bột dẻo. Bột dẻo ấy được nặn thành những cối bột to như cái dành tích rồi đem luộc cho chín dở. Lại đem cối bột chín dở ấy cho vào cối giã gạo giã cho nhuyễn ra. Lúc bấy giờ mới đem pha loãng cho vào môt cái túi vải vắt lọc thành một thứ bột vừa mịn vừa nhuyễn ra làm bún. Chị Bích là người trực tiếp ngồi vắt bún. Trước mặt chị là bếp đun. Trên bếp có một nồi nước to đang sôi sùng sục. Trong lòng chị là một cái mâm đặt khuôn vắt bún. Bên tay phải là chậu bột. Trong chậu bột có muôi múc và một miếng mo cau to bằng nửa bàn tay dùng để vét bột. Bên tay trái là một chậu nước lạnh. Chị múc bột đổ vào khuôn vắt, mở vung nồi nước sôi, vắt bún vào nồi theo một vòng tròn thuận kim đồng hồ. Những sợi bún chảy từ đáy khuôn ra được rải đều trên nồi nước sôi. Chị đậy vung lại. Một lúc thì những sợi bún đã được luộc chín. Nó nổi lềnh bềnh ở trong nồi. Chị dùng một cái vợt đan bằng tre vớt bún ra đổ vào chậu nước lạnh. Có hai loại bún. Loại "bún rổ" thì để bún rối. Loại này thì chị Bích chỉ vớt bún từ chậu nước lạnh, để chờ tí cho róc nước rồi đổ vào những cái rổ dứng, to nhỏ nhiều cỡ. Lớp trên cùng chị mới dùng tay kéo dài những sợi bún trong chậu nước lạnh rồi đem đặt khoanh tròn trên miệng rổ thành một cái vỉ đậy rổ bún lại. Loại "bún bìa" thì chị phải trực tiếp dùng tay kéo dài những sợi bún trong chậu nước lạnh, nhấc nó ra rồi khoanh, dặt thành những "bìa bún" trông giống như những cái đĩa. Những bìa bún này thường được lót bằng lá chuối là thứ lá rất sẵn ở làng tôi. Bún bìa là thứ người ta thường mua để "ăn quà". Cứ cầm tay thế mà xé ra hoặc cuộn tròn nó vào, chấm với mắm tôm chanh ớt mà ăn. Còn bún rổ thì người ta mua hoặc đổi thóc về ăn cả nhà. Tùy số người trong nhà mà đổi lấy rổ to hay rổ bé. Một rổ bún, một nồi riêu cua bác gạch cho hành thơm váng và nóng hổi. Thêm một rổ rau sống tổng hợp của nhiều thứ rau: những ngọn rau muống chẻ cuộn cong và sun soăn như những chiếc lò so; những lát rau chuối thái mỏng trông lốm đốm như những cánh hoa lan trắng; lại còn thêm loáng thoáng những ngọn rau ngổ, rau kinh giới cho thơm. Bún nguội, chan nước riêu cua nóng, ăn kèm với rau sống. Chỉ sụp soạt một lúc là cành bụng. Nhưng mà chóng đói. Vẫn nấu sẵn một nồi cơm chờ đấy phòng khi ngót dạ. 

Ngon thế mà chúng tôi lại không thích bằng lúc chầu chực xem anh Sĩ vắt bột. Anh vắt xong thì nài nỉ xin lấy những nắm cặn còn lại ở trong túi. Chúng tôi đem ra nặn thành những nắm tròn tròn như cái bánh giầy rồi đem vào lò nướng cho chín phồng lên. Ăn chỉ thấy giòn giòn, dẻo dẻo, chua chua. Đôi khi còn lẩm nhẩm sạn. Thế mà cũng cấu véo chia nhau, hí hửng lắm. Món riêu cua còn có thể ăn với bánh đúc. Bánh đúc thì nhà nào cũng tự nấu được, không phải mua. Gạo đem ngâm mềm để dễ xay thành bột. Pha thêm một ít nước vôi trong vào với bột gạo rồi cho vào nồi nấu chín. Nấu bánh đúc phải khuấy đều tay nếu không thì dễ khê, dễ cháy. Khi bột chín thì lấy một cái sàng, lót lá chuối rồi đổ bánh đúc cho chảy lênh láng ra cái sàng ấy. Nhưng dù có khuấy đều đến đâu thì ở dưới đáy nồi vẫn có một lớp cháy non mỏng. Bóc lớp cháy ấy lên, cuộn tròn lại, chia cho bọn trẻ con chầu chực mỗi đứa một miếng, cùng nếm náp. Tảng bánh đúc trong sàng khi nguội sẽ đông lại.  Người ta đem cắt thái thành những thỏi vuông vuông con chì to bằng ngón tay, bốc vào bát, chan nước riêu cua nóng cho "ngập luống cày" rồi ăn kèm với rau sống. "Bánh đúc riêu cua" ăn không ngon bằng "bún riêu cua" vì trong bánh đúc có vị nước vôi nồng nồng. Nhưng chẳng lẽ cứ ăn mãi bún riêu nên thường ăn đổi bữa như thế cho lạ miệng.

Làm hàng quà làng tôi còn có gia đình ông Vi. Nhà ông ở xóm giữa. Bên cạnh nhà ông Đĩ Tới, ngay cổng nhà bác Trương Giai. Khuôn đất ở thì hẹp. Nhà cửa thì tuyềnh toàng chẳng cổng ngõ gì. Ngay bên lối rẽ vào nhà  có mỗi một cây vối to bằng cổ chân chơ vơ chọc lên trời và còm cõi vài cành lá thưa thớt. Gian bếp ở gần gốc vối. Ba gian nhà trên đắp tường chung quanh,  nhưng tường thấp nên trông rất lụp xụp. Trước cửa  có một chiếc cối xay bột. Gia đình ông Vi có năm người, hai vợ chồng và ba đứa con. Hai cô con gái tên là Nhứ lớn và Nhứ con. Cậu con trai út tên là thằng Tề. Thằng Tề năm đó chỉ độ ba bốn tuổi. Ba chị em cũng chỉ trứng gà, trứng vịt mỗi đứa hơn nhau chừng một cái đầu. Ông Vi người cao to, nói năng láu táu, để tóc hơi dài, cứ thấy phải dắt lên hai bên vành tai. Đi đâu mới thấy ông ta khoác thêm cái áo cộc tay. Còn ở nhà thì chuyên môn mặc cái quần đùi lửng quá đầu gối, mình trần suốt ngày ngồi xay bột. Nhà ông Vi chuyên gói các loại bánh tẻ, bánh mật, bánh khoai. Các loại bánh này trong ruột thì khác nhau nhưng bên ngoài thì cứ ngỡ như cùng một loại bánh. Bởi ông bà ấy toàn lấy lòng bàn tay trái làm khuôn, lót lá, đổ bột vào, gấp hai bên tả hữu lại, gấp hai đầu rồi lấy lạt buộc. Bánh gói xong mới đem luộc chín rồi đem đi chợ bán. Làng tôi thường gọi các loại bánh ấy bằng một cái tên chung là "bánh gù". Vì trông nó có cái lưng gù gù, dấu tích của cái lòng bàn tay vũm  lại làm khuôn.Thỉnh thoảng chúng tôi cũng mua bánh gù nhà ông Vi. Bánh tẻ ăn chẳng khác gì ăn bột đặc. Khác chăng là có thêm mấy cái mộc nhĩ giòn giòn và một tí vị mỡ lợn ngầy ngậy. Bánh khoai ăn sậm sật hơn nhưng cũng chẳng khác mấy với ăn khoai sọ luộc. Bánh mật ăn cũng giống như ăn chè bột đường. Nhưng tôi ưa của ngọt nên tôi thích ăn bánh mật hơn cả. 

Nhưng rồi một hôm người làng tôi to nhỏ với nhau rằng ông Vi đã bị Ta bắt vì tội làm "chỉ điểm" cho Tây. Chúng tôi không thấy ông Vi ở nhà nữa thật. Một thời gian sau ông ấy được tha về. Chẳng hiểu ông ấy bị tra khảo thế nào mà người gầy ngẳng. Chỉ còn da bọc xương. Mà không đi lại được nữa. Suốt ngày ông ấy nằm trên giường, chổng hai đầu gối lên. Đầu gối thì to mà đùi thì tóp lại. Cẳng chân cũng tóp lại. Ít hôm sau thì ông ấy chết. Tôi đi qua nhìn vào, chỉ thấy một chiếc chiếu lùm lùm đắp lên cái xác. Đôi chân vẫn còn thò ra ngoài. Đầu giường có một ngọn đèn con leo lét cháy. Một nén hương đơn độc tỏa mấy sợi khói mảnh mai. Không thấy một bóng người thăm viếng. Mãi đến tối mới có một vài người đem xác ông ấy đi chôn. Sau hôm đó, bốn mẹ con bà Vi cũng dời làng tôi. Không biết là đi đâu...?

Bắt đầu gặt mùa thì vụ rươi cũng đến. Thỉnh thoảng lại thấy người gánh rươi đi qua làng "Ai mua rươi không?". Rươi ngày đó nhiều và cũng rẻ. Làng tôi hầu như nhà nào cũng mua dăm ba bát. Rươi thường được người làng tôi chế biến làm ba món chính: rươi kho, canh rươi và chả rươi. Rươi kho thì bỏ rươi trực tiếp vào nồi tra thêm mắm muối mỡ lợn vào rồi đem nấu chín. Đây là món đoảng vị nhất. Đã không ngon mà ăn vào bụng dạ còn rất hay sậm soẹt. Món canh rươi hấp dẫn hơn. Canh rươi nhất thiết phải có măng, có khế. Gia vị thêm là vỏ quýt, lá nốt và ớt tươi. Nhưng trời đất hình như cũng tính trước cả rồi. Cứ đến vụ rươi là tre làng cũng đâm một lớp măng. Lớp măng ấy làng tôi cũng gọi là "măng rươi". Những cây khế chua ở trong làng cũng đung đưa một lớp quả. Quả khế hãy còn xanh, chưa đẫy nên trông còn dúm dó. Có lẽ vì thế chăng mà người làng tôi gọi nó bằng một cái tên rất tục "quả l...treo". Cứ có rươi là y như chúng tôi phải ra bờ tre nhòm nhòm ngó ngó để lận măng. Tre nhà không có thì phải sang nhà hàng xóm mà bẻ trộm. Măng về đem bóc vỏ, thái mỏng luộc trần đi một lượt cho bớt đắng. Rồi lại phải đi xin "quả l..treo" về, gọt sơ mép múi, thái ngang  thành những lát trông giống như những con sao biển, dày độ vài li...Tất cả cho vào nồi nước đem nấu chín. Bát canh rươi trông thứ nào ra thứ ấy: măng ra măng, rươi ra rươi mà khế cũng ra khế. Chả thứ nào lẫn lộn và gắn bó với thứ nào. Nước canh rươi lờ lờ khói đục nhưng là thứ đục rất trong, rất thuàn khiết bởi không có vẩn. Có lẽ, cái vị chua của khế đã làm nó lắng cặn cả đi chăng? Cái vị ngon của canh rươi được tạo ra bởi tổng hợp cái mềm ngọt của rươi, cái ngăm ngăm giòn giòn của măng, cái dai dai chua chua của khế và cái cay, cái thơm của các gia vị. Nhưng điếc mũi nhất là món chả rươi. Rươi, trứng gà, thịt ba chỉ, vỏ quýt, lá lốt, nước mắm ngon,... tất cả đều thái nhỏ đánh tơi và trộn đều vào nhau thành một thứ keo đặc. Đổ thứ keo đặc này vào chảo mỡ lợn đang đun nóng ở trên bếp, chỉ vài giây sau là mùi thơm sẽ bốc lên ngay. Mùi thơm chả rươi của nhà này bay sang nhà kia để khoe. Mùi thơm chả rươi của nhà kia lại bay sang nhà này khoe đáp lễ. Cứ thế chúng đi khắp hang cùng ngõ hẻm để làm thơm váng mũi người. Nhưng rồi rươi cứ hiếm dần. Đầu tiên món rươi kho bị loại. Đến lượt canh rươi cũng ra khỏi thực đơn của người làng tôi. Hàng năm vụ rươi đến người ta chỉ cố mua lấy một vài lạng rán đĩa chả rươi ăn cho đỡ nhớ. Bây giờ thì ở xứ rươi người ta đã phải đi nhặt từng con một. Giá một cân rươi đã lên đến ba bốn trăm nghìn đồng. Chả rươi chỉ còn là một món ăn nếm của các bậc đại gia!

Gặt lúa tháng mười khác với gặt lúa chiêm. Tháng mười đồng khô, lúa khô. Người ta dùng liềm cắt sát gốc lúa đem xếp thành từng mô một. Khi các mô lúa đã nhiều nhiều thì một người trong đám thợ gặt sẽ dùng một thứ liềm to hơn và dài hơn gọi là "liềm sén" đi sén ngang mô lúa. Phần gốc sẽ thành các mô rạ. Phần ngọn  người ta lấy mấy dảnh lúa làm dây chít cổ, nâng lên trước ngực, dùng tay phải quay tròn một vòng thế là sợi dây sẽ soắn chặt cổ mô lúa lại. Mô lúa được buộc chặt lại rồi thì gọi là "lượm lúa". Động tác buộc các mô lúa lại như thế cũng gọi là động tác "lượm lúa". Những người nông dân lành nghề lượm lúa rất nhanh và điệu nghệ. Trông cũng không khác mấy với một nghệ sĩ xiếc đang diễn trò tung hứng.Tháng mười ngày ngắn nên bữa trưa thợ gặt thường ăn cơm ngoài đồng. Bữa ăn cũng thường rất giản tiện. Chỉ có một rá xôi nếp và một lọ muối vừng. Thợ gặt nghỉ tay thì cứ véo xôi trong rá, nắm chim chim rồi chấm với muối vừng mà ăn. Không có bát đũa mâm nồi gì lỉnh kỉnh cả. Đàn ông thì nước chè tươi thuốc lào. Còn đàn bà thì nước vối. Nhưng đa phần chỉ toàn uống nước lã, bởi họ quen bụng rồi. Uống nước lã cũng không sao mà chỉ thấy mát ruột. Ngày gặt, đêm về lại đập lúa cho đến tận khuya. Người lớn đập lúa, trẻ con thì rũ rơm. Rũ rơm là cởi bỏ dây buộc cổ lượm  rơm ra, rũ lấy những hạt thóc còn dắt lại trong lượm rơm. Rơm được rũ rồi thì đem vứt thành một vòng tròn quanh sân để gà gáy dậy sẽ bừa rơm. Bừa rơm là khâu cuối cùng dùng sức trâu kéo và răng bừa để tuốt nốt những hạt thóc lửng còn lại ở bông lúa. Thóc ruông, thóc lửng để riêng dùng để chăn gà, chăn vịt.Còn rơm thì đem phơi khô, đánh đống làm thức ăn cho trâu trong những ngày mùa đông cây khô lá vàng, hiếm cỏ.

Nước con sông Đào độ này đã bỏ bờ rút xuống lòng sông. Tôm cá cũng dồn cả xuống đấy. Những ngày chưa gặt hoặc vãn việc gặt hái, tôi và bố tôi thường ra kéo vó tôm ngoài bờ sông Đào. Những chiếc màn cũ không dùng nữa đem cắt ra thành những vuông mỗi chiều độ bảy tám mươi phân, khâu bốn cái nhôi ở bốn góc rồi buộc vào với hai thanh tre  bắt chéo dấu nhân chồng lên nhau ta sẽ được một chiếc vó tôm. Chỉ vài cái màn hỏng là làm được mươi, mười hai chiếc vó tôm. Kéo vó tôm phải chọn những ngày trời quang mây tạnh. Những ngày vẩn trời tôm không đi ăn. Cứ chiều tối là rang cám thơm lừng hàng xóm. Cám rang đem trộn sền sệt với nước cho vào một cái ống cân có đục lỗ, luồn dây đeo vào ngang hông. Vai vác chồng vó tôm, tay cầm cần kéo vó và một cái rổ hai dóng đặt vào một chiếc quang treo tôi đi ra bờ sông Đào đặt vó trước. Định đặt vó chỗ nào thì lấy cần kéo vó khua khoắng thử xem có bằng bặn hoặc có cây que cỏ rác gì không. Nếu được thì dấp nước vó tôm cho ướt, vứt vào giữa vó một ít thính cám rang to bằng ngón tay rồi từ từ đặt vó xuống. Mỗi vó đặt cách nhau chừng mươi thước.Cứ đặt vó xong thì trời chạng vạng là vừa. Đặt sớm hơn, tôm chưa đi ăn, chỉ toàn thấy đòng đong cân cấn và xí cờ vào vó rỉa mồi.

Khi tôi ra bờ sông Đào đặt vó trước thì bố tôi cũng đem thính rắc xuống rãnh đằng sau nhà để dử cá ở ngoài ao Rồng vào.Cái rãnh đằng sau nhà tôi và nhà chú Đặng là do gánh đất đổ vườn của ba anh em xóm đống Xộp mà thành. Cái rãnh này có một cái cống rộng chừng một mét nối ra với ao Rồng. Giống cá tối thường lên chỗ nông tìm mồi kiếm ăn. Nhưng đến khuya chúng lại tìm về chỗ cũ. Lợi dụng tính chất này bố tôi đã ken đăng, đan "nhạy" hứng chỗ cống này để bắt cá. Tối dùng thính thơm để dử cá lên ăn. Khuya thì dùng đăng vít chặt cống lại. Lúc cá về bị chắn lối chúng sẽ tìm cách nhảy qua đăng. Nhưng chúng không thể nhảy ra ao Rồng được nữa mà chỉ nhảy vào "nhạy" của bố tôi đã hứng sẵn ở trên cống rồi. Chúng cứ tha hồ dãy dụa, lồng lộn cho đến khi tróc vẩy khô da chịu nằm ườn ở đó chờ vào nồi cá kho cá rán của nhà tôi. Hay ăn chặn cá của nhà tôi chỉ có lũ rắn đủ loại: hổ mang, cạp nong, cạp nia, rắn ráo...Nhưng để bắt bọn này bố tôi lại rải vây xung quanh "nhạy" những đoạn lưới bén được cắt ra từ những tay lưới cũ. Bọn rắn bò ra vướng lưới cũng cứ nằm chờ đó mà chịu chết. 

Thường thì cứ đặt vó xong là bố tôi cũng ra. Tôi kéo vó còn bố tôi thì xách rổ theo sau. Trong rổ bây giờ đã được đặt thêm vào một cành lá tre tươi để tôm không nhảy ra ngoài rổ được. Tôi cứ từ từ kéo vó lên. Khỏi mặt nước mà nghe tiếng tôm nhảy lạch xạch là bụng đã mừng rơn. Chỉ cần vài ba con tôm thôi là tiếng lạch xạch nghe đã nhộn nhạo lắm rồi. Tôi nghiêng vó hất nhẹ tôm vào rổ, nhón thính để vào rốn vó rồi lại từ từ đặt vó xuống như cũ. Cứ kéo hết một lượt, nghỉ một lát thì lại kéo tiếp đợt hai. Buổi kéo vó tôm dài ngắn không định trước được. Hễ còn nghe tiếng tôm nhảy lạch xạch thì còn cứ kéo. Đến khi nào kéo vó lên cứ im phăng phắc thì tức là tôm đã thôi không đi ăn nữa. Có hôm thì mười giờ, mười rưỡi mới về, mà có hôm chỉ tám rưỡi, chín giờ đã về. Hôm nào sẵn tôm, ham kéo về khuya thì phải được đến vài cân tôm. Mẻ tôm trông đã lưng lửng cái rổ hai dóng mà xách đã thấy nặng tay. Nhưng cũng có hôm chỉ dăm bảy lạng, một cân...Thường thì cứ khi kéo vó tôm về, bố tôi mới đi chít đăng ở cửa cống ra ao Rồng. Tôi thì tở vó ra phơi. Còn rổ tôm cứ để nguyên thế treo ngoài dây thép phơi sương. Đến sáng hôm sau tôm vẫn cứ sống và tươi nguyên. Nhiều hôm tôm rang trong nồi chưa hết lại phải đem đồ lên, phơi khô để dành ăn sau. Cũng có mẻ thì đem giã mắm. Tôm nhặt sạch cho vào cối giã nhỏ thành một thứ bột nhão. Cho bột tôm vào lọ, vào hũ... lấy vải màn buộc miệng để tránh ruồi vào đẻ trứng. Ba bốn ngày sau bột tôm sẽ thối và thâm đen lại. Đó chính là mầu đặc trưng của mắm tôm. Bấy giờ mới cho muối, thính gạo nếp và mấy chén rượu vào rồi trộn cho thật đều. Lọ mắm tôm này để ngấu sẽ thành thứ mắm tôm loãng đặc hiệu. Khi ăn chỉ cần múc ra bát, vắt chanh, thái ớt vào lấy đầu đũa khoắng cho thật kỹ. Bát mắm tôm sẽ sủi bọt và ngả mầu trắng bạc. Loại mắm tôm này đem chấm với đậu phụ, bún bìa, thịt chân giò luộc...thì chỉ có nhất. Sớm sớm bố tôi cũng thường đi ra ngoài "nhạy" xem có cá nhảy không. Ít nhiều hôm nào cũng thấy có. Thỉnh thoảng lại có hôm gặp rắn mắc lưới. Ông cụ thường đập chết rồi mang về làm thịt. Treo con rắn lên cao. Lấy dao khoanh cổ nó một vòng. Lấy móng tay lách vào da cổ, cầm chặt, lôi tuốt xuống phía đuôi để lột da. Bóc ruột, chặt đầu cùng với da vứt đi. Ông cụ chỉ lấy phần thân con rắn. Dùng dọng dao dập xương đi một lượt rồi chặt khúc, băm viên cho thật nhỏ. Cho hành, răm, nước mắm trộn đều viên thành viên rồi rán lên thành "chả rắn". Chả rắn ăn khô nhưng thơm và cấm cúc giòn hơn chả cá.

Khi những chân ruộng ở cánh đồng dưới làng tôi bắt đầu cạn còn sấp sảnh bờ là chúng tôi hay rủ nhau đi "tát ỏi". Chọn lấy một thửa ruộng ở ven chuôm, ven ao hoặc ven sông, ven ngòi sâu, bốc bùn be bờ quây kín lại. Chỉ để hở một đoạn ngắn xuống chỗ nước sâu thôi. Tối đến thì rang cám làm thính rắc xuống ruộng để dử cá lên ăn. Nửa đêm thì ra đắp kín chỗ hở lại rồi mỗi đứa một chiếc gầu sòng tát nước ra. Tùy nước nông nước sâu, ruộng to, ruộng nhỏ mà rủ số người tham gia cho thích hợp. Suốt đêm ấy phải thì thòm tát nước. Thỉnh thoảng lại phải xách đèn chai đi kiểm tra xung quanh bờ xem có chỗ nào núng thế thì phải kịp thời bồi đắp ngay cho vững. Hễ để vỡ bờ là hỏng ăn. Tát cạn xong thì bắt cá, mò tôm...Bắt xong thì chia chác. Tính toán thế nào cho cứ sáng ra là xong việc. Tát ỏi kiểu này hay được nhiều cá mương, cá mại là những giống ham ăn, ăn đàn và ăn nổi. Cá mương độ này đã to và rất béo. Cá mương là loại cá nhiều xương nhưng xương mềm. Đem rán ròn nhất là đem kho với dưa chua thì ăn rất tuyệt. Cá kho dưa có mùi thơm chua và cũng dậy làng nước. Mùi cá kho dưa thường gợi dậy trong tôi cảnh làng quê yên ấm trong những ngày se lạnh.

Thời ấy làng tôi vẫn còn làm ăn cá thể. Đã nghe nói đến Chủ nghĩa xã hội rồi nhưng nó vẫn còn ở thì tương lai. Người nông dân vẫn còn được tự do làm ăn trên mảnh ruộng của mình. Thật may là tôi vẫn còn giữ được một  giấy chứng nhận quyền sở hữu ruộng đất của nhà tôi được UBHC tỉnh Hải Dương cấp tháng 5 năm 1956. Căn cứ vào giấy chứng nhận này tôi được biết nhà tôi lúc đó có 7 thửa ruộng cộng tất cả là 3 mẫu, 3 sào, 2 thước. Trong đó có 1 mẫu 3 sao ở khu Đống Cao chỉ cấy được một vụ chiêm; 1 mẫu 2 sào 10 thước (gồm 5 thửa và ở 3 khu đồng) chỉ cấy được một vụ mùa và 8 sào 7 thước cấy được cả hai vụ chiêm mùa. Thổ cư 1 sào. Ao 1 sào 8 thước. Vụ chiêm người làng tôi chủ yếu cấy giống chiêm chanh. Nhưng vụ mùa thì cấy rất nhiều thứ. Những chân ruộng trũng thường cấy lúa tám đen. Chân ruộng cao thường cấy tám muộn, dự lùn. Chân đám mạ vì phải cấy sau cùng nên hay cấy nếp con, nếp cẩm. Cơm làm ruộng, cá kiếm ăn. Sản phẩm nông nghiệp còn ênh hềnh rẻ rúng. Làng tôi nhà nào cũng cấy giống thóc ngon để làm thóc nhà ăn. Nhà tôi có 8 sào 7 thước khu đồng Hàng chuyên cấy dự lùn lấy thóc nhà ăn. Giống dự lùn nhỏ hạt nhưng được thóc. Sản lượng lúc đó cũng được khoảng từ tám mươi đến một trăm ký một sào. Cơm gạo dự thơm và mềm. Cứ mở vung nồi cơm ra là cả nhà thơm nức. Cơm nguội gạo dự ăn vẫn mềm và thơm. Nếp cũng cấy thứ nếp ngon, thường là nếp cái, nếp hoa vàng. Nếp con nếp cẩm cấy chân đám mạ chỉ để nấu rượu "cuốc lủi" hay ủ rượu cẩm thôi chứ chẳng mấy ai ăn. Giống nếp cái thơm từ cây rơm cây rạ. Hạt thóc nếp cái có cái ria đen rất dài. Phải gấp rưỡi, gấp đôi chiều dài hạt lúa. Cơm nếp cái thì dẻo và thơm lạ. Nhà nào nấu cơm nếp cái thì cả xóm đều biết. Nhất là lại cho thêm ít hành mỡ vào thì hàng xóm càng "điếc mũi". Nhưng nấu cơm nếp cái khó. Sơ ý một tý là nát. Gạo nếp cái vì thế thường dùng để đồ xôi. Nhà tôi năm nào cũng cấy hai sào nếp cái. Chủ yếu để lấy gạo ăn sáng và gói bánh chưng tết. Nhiều khi sáng ra trông thấy bát cơm nếp đã ngán rồi, lại chỉ thèm được bát cơm gạo dự nguội.

Về mùa này cô Cai Viêm nhà tôi cũng hay làm bánh giầy: Bánh giầy đường và bánh giầy đỗ. Nhưng cô không làm bánh giầy giò. Viêm là tên chồng. Tên thật cô là Đỗ Thị Nghiêm, con gái cả vợ hai cụ Lệ Trường- chú ruột của bố tôi. Chú Cai Viêm người ở đâu vùng Gia Lộc. Chú làm cai lính khố đỏ đóng ở đồn Phả Lại. Nhân duyên lấng cấng thế nào lại kết với cô Nghiêm nhà tôi thành đôi chồng vợ. Giải ngũ chú về làm giai tế ở làng tôi. Chú người cao, mũi hơi lõ lại nhòm mồm. Da mặt trắng mà lúc nào cũng hồng hồng mầu rượu. Đôi mắt lúc nào cũng như hơi lè vè. Giọng nói tuy không lè nhè nhưng vẫn rõ ra giọng người say. Nhưng thổi xôi và giã bánh giầy thì chú lành nghề. Chú chuyên làm bánh để cho vợ đem đổi đồng hoặc đi chợ bán. Chú lại là người thích nuôi chim và dạy chim nói tiếng người. Có một lần chú nuôi được một con quạ và dạy được nó biết nói. Bọn trẻ con chúng tôi tò mò nên rất hay đến xem. Chẳng thấy chú có lồng son bát sứ gì cả. Chú nhốt nó trong một cái nơm như người ta nhốt gà. Bọn chúng tôi đến vây chung quanh nơm nhìn xem nó. Nó cũng lấc láo nhìn ngó lại chúng tôi và nói "Rượu đậu...rượu đậu...". Chúng tôi lại cười ồ cả lên thích thú. Một thời gian sau lại nghe tin chú mới dạy nó nói thêm được câu nữa. Chúng tôi lại đến. Chúng tôi mới đến đầu sân thì đã nghe nó nói "Nhà có khách...nhà có khách". Khi vây quanh nơm xem nó thì nó lại nói "Rượu đậu...rượu đậu...". Xem con quạ này ở trong nơm, tôi lại nhớ tới những con quạ lạc đàn hay bị chè pheng đánh ở trên trời. Con quạ phải to gấp đôi con chè pheng. Chắc có đàn có đôi thì chè pheng không làm gì được. Nhưng quạ mà lạc đàn gặp chim chè pheng thì thể nào cũng bị chúng xúm lại đánh ngay. Cứ đang chăn trâu thả đống mà nghe thấy "chè..pheng pheng...", "Quà...quà..." là y như rằng đang có một trận không chiến. Phải từ ba đến năm con chè pheng xúm lại thay nhau lao từ trên xuống mà mổ, mà đạp vào đầu, vào lưng con quạ. Mỗi lần đạp, mổ như thế nó lại kêu "chè...pheng pheng". Con quạ thì hốt hoảng sải cánh bay, vừa chịu trận vừa kêu cứu "Quà...qùa!"...

H

àng năm cứ đến chừng độ hai mươi tháng mười là ba anh em xóm Đống Xộp lại rủ nhau vào ông trưởng để hỏi giỗ. Hỏi giỗ tức là hỏi ý ông trưởng xem năm nay định tổ chức giỗ bố, giỗ mẹ như thế nào? Nếu ông trưởng bảo: "Năm nay thất bát hoặc đang có khó khăn riêng, tôi chỉ lưng cơm quả trứng  kính cáo các cụ thôi". Năm ấy các ông thứ, ông út sẽ tự lo liệu: hoặc hàn âm cúng riêng ở nhà, hoặc đóng góp tí chút để đến ngày kỵ nhật thì bảo vợ con ở nhà, một mình vào làm giỗ với ông trưởng. Còn nếu anh trưởng bảo "Năm nay được mùa, kinh tế cũng tạm dư dật, tôi cũng định làm mươi mâm để họp mặt anh em con cháu"...Thế thì năm ấy làm giỗ chung,  các ông thứ, ông út phải góp giỗ cho ông trưởng. Mời mọc những ai đó là quyền ông trưởng. Các ông thứ, ông út sau khi đã thỏa thuận được với "bà trưởng" trưởng về khoản đóng góp tài chính, thì đến ngày kỵ nhật, chỉ việc đưa cả vợ con đến nhà ông trưởng tham gia làm đám giỗ, rồi trước cúng sau ăn. Riêng về khoản đóng góp tài chính thì ông trưởng năm nào cũng chỉ phán một câu rất đường lối "Đóng góp bao nhiêu là tùy các chú". Mà thế cũng đúng thôi, vì khi chia ruộng đất thừa kế cho các con, ông bà tôi đã để riêng cho ông trưởng một thửa ruộng rộng hơn một mẫu ở khu gốc bồ kết làm ruộng tự điền rồi. Cây bồ kết không còn. Không ai rõ nó to lớn rườm rà và gai góc như thế nào. Cũng không biết ai là người đầu tiên đến đây khai phá chặt đốn cây bồ kết và thửa ruộng này đã qua tay bao nhiêu đời chủ ? Người làng tôi chỉ gói nó trong một cái tên rất ngắn gọn "Mẫu bồ kết". "Mẫu bồ kết" nằm gối đầu lên đống Mả Bà và chỏa chân ngay mép bờ con Sông Đào, vừa gần làng lại rất thuận tiện nước nôi. Nó thuộc loại bờ xôi ruộng mật năm hai vụ lúa. Dành thửa ruộng này làm ruộng tự điền là ông bà tôi đã rất ưu ái cho ông trưởng rồi. Như vậy về lý thì ông trưởng phải gánh vác việc cũng giỗ cha mẹ. Bảo các ông thứ, ông út tùy tâm đóng góp cũng là rất phải. Nhưng "bà trưởng" mới là người trực tiếp lo toan việc thu chi tính toán. Trong đầu " bà trưởng" chắc chắn là đã có sẵn một bản dự toán: làm bao nhiêu mâm, tổng chi phí mất bao nhiêu, ông trưởng chịu bao nhiêu, các ông thứ, ông út mỗi người phải gánh bao nhiêu...Cho nên không phải cứ tùy tâm bao nhiêu "bà trưởng"cũng nhận cho đâu. Nếu "dưới ngưỡng" thì "bà trưởng" sẽ bảo: " Nếu chú khó khăn thì chú cầm về, chị không nhận đâu!". Thế là các ông thứ, ông út cứ phải về mà lo thêm tiền đóng góp cho "đủ ngưỡng". Năm nào tôi cũng thấy cứ sau khi đi góp giỗ về là các vị  lại bậm bục với nhau, không thoải mái. 

Những năm làm giỗ chung thường hay tổ chức vào ngày giỗ ông. Làm giỗ chung thì chúng tôi được vào nhà bác Lý Khang ăn cỗ. Bọn trẻ con chúng tôi thường được bố trí ăn ở "mâm trẻ con". Hàng chục đứa xúm quanh một mâm cỗ " lào nhào như chào mào mổ gấc". Đứa gắp, đứa bốc, đứa ăn, đứa khóc, đứa giằng giọ nhau rất chi là lộn xộn. Bởi thế "mâm trẻ con" nào cũng phải có một, hai người lớn trông coi để giữ gìn trật tự. Các món xôi, món thịt mỡ luộc thì chia đều ra cho mỗi đứa một phần. Đưa nào nhút nhát chậm chạp thì phải gắp, sẻ cho chúng ăn. Đứa nào sắc sói lanh chanh thì phải can thiệp... cũng khá là vất vả. Nhưng được cái đám trẻ con  chúng tôi "đánh nhanh, hết chóng". Chỉ một loáng là chúng  tôi đã buông đũa bát và cầm phần xôi thịt của mình đứng dậy rồi mỗi đứa chạy đi một ngả. Đứa ra bám mẹ. Đứa ra bám bà. Còn tôi, tôi chạy luôn về nhà chứ không dám sán bố. Bởi bố tôi  ngồi ăn cỗ ở nhà trên có đông khách khứa. Năm làm to thì mời đủ đại diện các hộ nội ngoại. Năm làm vừa thì chỉ mời đến đại diện các chi nội ngoại thôi. Nhưng năm nào tôi cũng thấy ở nhà trên đông chật. Mọi người ăn uống, cười nói, trò chuyện rất ồn ào. Tôi rất ngại lên đó.Với lại tôi đã có "kinh nghiệm xương máu" vì một lần "sán bố" mà ăn đòn rồi. Lần ấy, vào đầu năm 1950, chị  Khang tôi đi lấy chồng. Chị lấy anh Đồng Tố Soạn trên làng Nam Gián Đông. Anh đã có một đời vợ và một đứa con trai tầm tuổi tôi. Vợ anh, trong một lần chạy càn, đang lội qua Sông Đào thì bị tây bắn chết. Còn chị Khang lúc đó vẫn là một gái tân chừng hăm nhăm, hăm sáu tuổi. Nhưng gái quê như thế cũng là vào loại muộn . Ngày ấy đã thực hiện cưới xin theo nghi thức "Đời sống mới". Các đám cưới thường tổ chức rất giản dị, tiết kiệm. Nhất là bên nhà gái, cỗ bàn thường do bên nhà trai cung cấp, nên thường tổ chức rất hạn hẹp, để khỏi mang tiếng với dân làng là còn "thách cưới", còn "hủ lậu", không khéo lại còn rày rà với chính quyền nữa. Nhưng dù là giản tiện thế nào thì bố tôi vẫn vào diện phải mời. Nhưng trước khi đi bố tôi đã dặn tôi không được vào nhà đám. Tôi chạy sang nhà thím Đặng chơi. Nhưng khi về thì thấy nhà khóa cửa. Thế là tôi cứ long tong chạy vào cổng nhà đám. Cũng chỉ định gọi bố để lấy chìa khóa thôi. Nhưng bố tôi thì lại nghĩ rằng tôi cố tình không nghe lời, nên ông hằm hằm chạy ra rút ngay một đoạn que rào vụt tôi tới tấp và đuổi về. Từ trong nhà đám tôi thấy có nhiều người can với ra: "cho cháu nó vào đây!". Nhưng bố tôi không nghe và càng đánh tôi đau hơn. Tôi ôm đít chạy về. Đến đoạn đầu nhà bác Lý Tín, không thấy bố đuổi nữa, tôi bèn ngồi lại khóc hờn. Vừa khóc vừa gào bố. Lúc ấy chị Khang mới chạy ra. Chị định dỗ tôi và dắt tôi vào. Nhưng tôi càng hờn và dãy dụa hơn. Chị bất lực, đành chỉ nhìn tôi ầng ậng nước mắt. Một lúc sau chị  đành phải bỏ về. Thế là ngày chị đi lấy chồng, em được trận lằn mông. Không ngờ cái đám cưới không được ăn cỗ ấy lại thành ra một kỷ niệm sâu sắc.

Mười ngày sau lại đến ngày giỗ bà. Ngày giỗ bà rất ít khi được làm chung. Nhưng năm nào bố tôi cũng làm giỗ riêng ở nhà. Năm thì bố tôi đồ một chõ xôi, nấu một nỗi chè làm mâm chay cúng cụ. Năm thì bố tôi lại mổ một con gà làm mâm cỗ mặn cúng cụ. Ấy là ngày giỗ "bà già". Ngoài bà già ra tôi còn những hai "bà trẻ" nữa. Bà hai đẻ ra chú Tặng nên chúng tôi thường gọi là "Bà Tặng". Còn bà ba đẻ ra chú Sen thì chúng tôi lại thường gọi là "Bà Ba Sen".

Bà Ba Sen còn trẻ lắm. Khi ông tôi mất bà mới độ khoảng bốn mươi tuổi. Hai con thì đều còn nhỏ cả, ở quê chồng không biết dựa vào ai nên bà đã đem  con về quê mình ở. Rồi bà tái giá  lấy đời chồng thứ hai. Nhưng bà cũng không sinh thêm được ai  nữa. Mãi về sau khi con lớn bà mới phải theo con về quê chồng cũ ở. Cũng chỉ được hơn chục năm, đến năm 1971 phân lũ thì gia đình chú Sen cũng di cư lên Bình Giang ở. Bà Sen vốn là một người có nhan sắc. Đến tuổi già rồi nhưng trông bà vẫn đẹp. Nhưng bà hoàn toàn "đóng băng" với chúng tôi. Có thời bà ngồi bán hàng nước ở Quán Năm Gian, cách thị trấn Nam sách cũ về phía Hải Dương chừng vài trăm mét. Thứ bẩy chủ nhật nào tôi cũng học ở Hải Dương đi về qua đây, nhưng cứ chợt nhìn thấy tôi là bà lại vội nhìn lảng đi ngay. Chưa có một lần nào bà gọi tôi vào quán. Cũng chưa một lần nào bà hỏi thăm tôi được một vài câu. Sau này, khi đã về làng tôi ở, tôi cũng không thấy bà đi lại chơi bời với các bác các chú tôi bao giờ. Cũng có một đôi lần bọn anh em con chú con bác chúng tôi tổ chức  lên thăm bà,  nhưng bà cũng chỉ tiếp chúng tôi một cách hững hờ gượng gạo. Ngay cả trong những lần giỗ chạp ông bà nội tôi, tôi cũng không thấy bà có mặt? Mãi đến năm 1981 Bà Ba Sen mới qua đời.

Chỉ có Bà Tặng là ít nhiều gợi cho tôi cảm giác gần gũi của một bà nội. Có lẽ vì bà là người cùng làng và cùng họ với mẹ tôi. Đột nhiên tôi nghĩ rất có thể chính bà đã là người "đánh mối" cho cuộc nhân duyên của bố mẹ tôi ? Thế là tôi lại về làng để thẩm định cái suy nghĩ ấy. Tôi hỏi bà mẹ kế tôi. Bà cụ sau hai tháng nằm bất động để điều trị  gãy xương, nay đã hai tay chống cái ghế nhựa  lom khom đi lại trong nhà được rồi. Trông bà cụ đi cứ như người ta đang "úp nơm" trong cái nền nhà vậy. Bà cụ cho biết Bà Tặng không những đã "đánh mối" cho bố mẹ tôi  mà còn "đánh mối" cho cả chú thím Đặng tôi nữa. Thảo nào mà  ngày còn sống ma Bà Tặng, cụ rất hay ra nhà tôi và chú Đặng chơi. Bà Tặng trông người giản dị. Mùa rét bà thường mặc cái áo bông trần hạt lựu đã dung dúc cũ, đầu đội khăn mỏ quạ, miệng bỏm bẻm nhai trầu. Nhưng bà cụ không mặc váy mà chỉ mặc cái quần ống hơi bó và bỏ lửng ở trên mắt cá chân một đoạn. Chân thường đi đất, tay cầm gậy. Có lẽ vì đường làng ngày ấy còn lầy lội và bẩn thỉu nhiều, chứ bà cụ trông vẫn khỏe mạnh ngay ngắn. Những ngày làng tôi còn giữ lệ "Đăng cai lễ chùa", tuần rằm mồng một nào bà cũng chia phần cho các cháu - trong đó có tôi - mỗi đứa một khoanh chuối dày chừng nửa phân và nửa chéo oản to bằng độ hai đầu ngón tay. Giọng nói bà cũng hơi khàn khàn. Nhưng bà ít nói thường chỉ biểu lộ tình cảm bằng cử chỉ và cái nhìn chia sẻ thôi. Mãi đến năm 1952 Bà Tặng mới qua đời. Nhưng từ khi các bà mất chúng tôi cũng chưa một lần được "ăn giỗ" các bà. Trong chi họ cũng không thấy khi nào nhắc nhở đến việc cúng giỗ các bà cả. Cứ như là bỏ khoán cho con cháu các bà thôi.

Tôi cũng nghe nói ngày trước các đám xá cúng giỗ ở "nhà tôi" thường được tổ chức rất linh đình trang trọng. Nhưng đến thế hệ bố tôi thì thời thế biến loạn, hết lo chống giặc nọ, lại đến lo chống giặc kia, hết lo đánh giặc ngoại xâm, lại lo đánh kẻ thù giai cấp, đời người cứ lăn lên lộn xuống như xóc ốc, không mấy lúc được an nhiên. Mục đích thì cũng định giải phóng quốc gia, giải phóng con người nhưng thực tế thì con người cứ phải gánh chịu hết hy sinh nọ đến hy sinh kia, phải chấp nhận một cuộc sống cứ ngày càng co thắt hơn và chật chội thêm. Mọi nhu cầu của con người đều bị cắt xén đến mức tối thiểu. Người sống đã thế thì người chết còn lo sao cho chu tất được. Những ngày giỗ thường chỉ làm "giỗ dúi". Còn chạp thì coi như không có. Ngày thanh minh cũng không thấy dở dói ăn uống, lễ bái gì. Chỉ thấy mỗi hộ cắt cử một người, đem theo một cái cuốc vào nhà bác trưởng để đi tảo mộ. Bác trưởng cầm một nắm hương, dẫn đoàn quân vác cuốc theo sau, đi hết đống này sang đống khác. Đến đâu có mộ người nhà thì bác dừng lại chỉ dẫn. Một người đánh một vầng cỏ úp ngược lên đỉnh mộ. Bác trưởng thắp một nén hương cắm lên đỉnh vầng cỏ. Ngôi mộ nào rậm rạp thì phát dãy cho quang quẻ. Ngôi mộ nào sạt lở thì đắp bồi vào. Ngôi mộ nào quá bé cũng đắp to thêm cho dễ nhận. Nhưng cũng không làm được đều đặn hàng năm. Khi các cụ già yếu, không có người dẫn đi thì cũng bỏ. Ngày ấy, toàn là mộ đất cả. Ngôi nào cũng tròn tròn như một nấm cỏ xanh trông cứ sàn sàn giống  nhau nên rất dễ nhầm lẫn. Người thời ấy còn nghèo, nhưng lại sợ làm giầu. Vì giầu bị coi là bóc lột, giầu đồng nghĩa với tội ác. Ngay từ thời tôi còn rất bé, tôi đã thấy người làng tôi truyền nhau một câu ca dao:

Ai ơi chớ vội làm giầu


Thằng Tây nó tếch, thằng Tầu nó sang.

Mãi đến những năm "Đổi mới", kể ra so với những nước phát triển thì cũng chưa là gì, nhưng cứ tự so với mình những năm trước đó thì cũng có phần đã "dễ thở" hơn, lớp người trẻ làng tôi mới rục rịch làm giầu. Đầu tiên là phong trào "ngói hóa". Cũng toàn là vắt mồ hôi mình ra trộn với đất mà dựng xây nên. Có bao nhiêu gò đống, nhất là những gò đống gần làng, họ đào cho bằng nhẵn, để lấy đất sét nung gạch. Có bao nhiêu cầu quán, bia đá họ cậy cho bằng sạch để nung vôi xây tường. Nhà gạch lợp ngói mọc lên san sát. Những ngôi nhà tre mái rạ cổ truyền vĩnh viễn đi vào quên lãng. Nhưng dương thịnh thì âm suy. Không biết bao nhiêu ngôi mộ-nơi yên nghỉ của những lớp người làng thưở trước-bị khai quật. Cũng toàn là những ngôi mộ mà con cháu xa đời bỏ quên trở thành mộ vô chủ. Cũng đa phần chỉ còn thấy tiểu sành, nồi hông với đất không. Những ngôi mộ như thế lập tức bị thanh lý. Họ đem đổ xuống sông, xuống ao, thậm chí còn đổ xuống để độn đường. Chỉ có những ngôi mộ nào còn có xương thì họ mới chôn tạm ra chỗ khác, khấn vái xin tha thứ và phù hộ cho họ "ăn nên làm ra"... Ngay đến "Lăng Cụ Hậu" xây đá đẹp thế  mà họ cũng chặt đứt ra, chắp vá nham nhở, đưa thêm mộ con cháu vào, thành một khu mộ địa rất lộn xộn. Đống Mả Bà, đống Mả Sác...rộng mênh mông, xưa kia vẫn là bãi thả trâu, mộ san sát như bát úp, vậy mà nay thành đất bằng, thành ao, thành làng xóm dân cư đông đúc. 


Mới đầu người làng tôi còn làm giầu bằng cách làm thêm vụ đông: trồng hành, tỏi xuất khẩu. Nhưng xem ra vất vả mà thu nhập cũng kém xa so với việc đem bán mồ hôi ở xứ người. Thế là người làng tôi lại đua nhau đi lao động xuất khẩu. Người sang Nga, sang Đức; người sang Nhật, sang Hàn...Cứ đi bán mồ hôi như thế vài năm là cũng có "đôi trăm" . Khi về đã thành người có dấn có vốn. Cũng có người "tái đầu tư" cho con em đi tiếp. Có người ra phố mở mang kinh doanh, nhưng cũng có người chỉ đầu tư vào một "căn nhà hiện đại"...Bộ mặt làng tôi bây giờ đã hoàn toàn khác trước. Nhà tranh không còn, tre trở thành vô ích. Những lũy tre làng bị đốn trụi, thay thế bằng các loại cây ăn quả mà phổ biến nhất là nhãn, là vải... 

Cùng với việc làm giầu, người làng tôi cũng rục rịch  vận động nhau khôi phục cái lệ tục cưới xin, cúng giỗ đã bị mai một và bỏ quên hàng mấy chục năm. Riêng chi họ nhà tôi, vào khoảng năm 1990, ông Đỗ Đình Tuấn(tên cha mẹ đặt ở nhà là Đỗ Đình Vĩnh) con trai trưởng cụ Lý Khang về nghỉ hưu. Với tư cách là một chi trưởng trong dòng họ, ông bắt đầu vận động trong chi khôi phục việc giỗ ông nội tôi hàng năm, mà mọi người cứ quen gọi là "giỗ họ".Tôi ở xa, không rõ là các vị ấy họp bàn như thế nào, nhưng được thông báo là chi nhà đã thành lập "Hội đồng gia tộc chi 2" để lo việc "giỗ họ". Hội đồng gồm bốn ông "nhánh trưởng" đang ở làng, hai bà cô và một bà thím còn tương đối khỏe mạnh và tỉnh táo. Cụ thể là: ông Tuấn, ông Thi, ông Tân, ông Huy, bà Đăng, bà Hồi, bà Lưu. Từ đó  hàng năm cứ đến rằm tháng mười là "Hội đồng" lại họp bàn bạc  thống nhất mức đóng góp, phân công ban tài chính, ban hậu cần...Đến ngày giỗ thì cứ theo số lượng người đóng góp mà làm cỗ. Nhộn nhịp và đông đảo hơn cả vẫn là bộ phận hậu cần. Chừng nửa buổi thì các ông "nhánh trưởng" đem lễ ra đồng tạ mộ, tiện thể làm luôn cả công việc của ngày thanh minh. Xong lễ ở ngoài đồng mới về làm lễ ở từ đường. Ông chi trưởng đứng nghiêm cẩn trước bàn thờ đọc lời khấn. Hai ông " nhánh trưởng" đứng chuốc rượu ở hai bên bàn thờ đặt hai mâm cỗ. Các bà, các mợ rải chiếu ngồi sau chắp tay để sẵn dưới cằm, thỉnh thoảng lại vái phụ họa theo ông chi trưởng. Những người còn lại đứng vây quanh trước bàn thờ.

Làm lễ xong, trong khi chờ đợi các cụ về thụ lễ, thì con cháu cũng tranh thủ "họp họ". Hội đồng gia tộc báo cáo, đề xuất. Mọi người góp ý bổ sung. Những vấn đề cứ dần dần nảy sinh. Đầu tiên là lập "Quỹ tình nghĩa" để thăm hỏi ốm đau và phúng viếng đám héo. Đám héo thì đương nhiên rồi. Nhưng còn khoản thăm hỏi người sống ốm đau thì quả là nan giải. Hội đồng gia tộc không tai mắt nào để theo dõi cho khắp, cũng không lấy hơi sức đâu mà đi cho đều. Thế là lại thắc mắc tị nạnh nhau, kính chẳng bõ phiền. Sau phải bỏ. Lại đến việc lập "Quỹ khuyến học". Cũng đã thu được chừng nửa số hộ. Số còn lại ỳ ra không chịu nộp. Trong hội nghị họ chẳng nói gì, chỉ sờ cằm cười tủm. Nhưng ra ngoài thì họ bảo: "Con nhà tôi nó học dốt như bò ấy, có khuyến nó cũng chẳng học". Thế là cũng không thành. Cũng có ý kiến đề xuất lập "Quỹ hương hỏa" để thay thế cho chế độ "tự điền". Nhưng mọi người đều im thin thít cả, không thấy ai hưởng ứng. Nhưng mười năm cuối cùng của thế kỷ XX, "Hội đồng gia tộc chi 2" cũng làm được mấy công việc đáng kể. Năm 1995, chủ trương các cháu đứng ra xây mộ cho ông bà. Việc này làm được. Năm 2000 chủ trương soạn thảo lại "Đỗ tộc gia phả", vừa chuyển ngữ, vừa bổ sung thêm. Việc này cũng hoàn thành. Cũng có người đề xuất việc tổ chức cúng giỗ luân phiên giữa giỗ ông với giỗ bà. Nhưng lúc đó nhiều người còn phân vân về việc ông có nhiều bà quá. Nếu chỉ giỗ "bà già" mà không giỗ các "bà trẻ" thì không phải. Mà giỗ luân phiên hết ông rồi lần lượt đến các bà thì ngày "giỗ họ" sẽ chạy lung tung ra suốt quanh năm. Anh em con cháu bây giờ cũng không ở cùng làng như trước, mà gần cũng khắp huyện, khắp tỉnh và các tỉnh ung quanh. Việc triệu tập nhau lại đâu có dễ dàng gì. Thôi thì cứ làm gộp cả vào ngày giỗ ông, mời đủ các bà về cùng dự, vừa đầm ấm gia đình, vừa thuận tiện cho con cháu. Cái lý của thời chúng tôi là như thế.

Nhưng cuối năm 2008, ông Đỗ Đình Thi, nhánh trưởng nhánh 2 từ trần. Ông Thi cũng ốm đau quặt quẹo từ lâu rồi. Ông ấy mắc một căn bệnh về phổi. Có thời kỳ đã bị nghi là lao phổi, nhưng không phải. Khi bệnh phát, ông ấy có cảm giác nóng rát ở phía sau ngực và khó thở. Vốn làm việc trong ngành y, lại sợ chết nên rất chịu khó đi nằm viện. Hai ông bà cứ khăn gói đưa nhau đi bệnh viện luôn luôn. Nhè nhẹ thì nằm ở huyện. Nặng hơn thì lên tỉnh. Cũng có kỳ phải lên tận Hà Nội. Có khi vừa xuất viện về được vài hôm thì lại đi nhập viện. Ông đi nằm viện thì bà phải đi theo để chăm ông. Hai ông bà gần như dân chuyên nghiệp đi nằm viện. Tuy cũng bằng tuổi ông, nhưng bà còn khỏe mạnh. Càng đi bệnh viện chăm ông thì bà càng béo trắng ra và lùn tịt lại. Còn ông, bệnh đã thành mãn tính và càng ngày càng nặng. Về sau ông cũng chán, không lên tuyến trên nữa. Chỉ tự điều trị ở nhà và cùng lắm thì vào huyện nằm thôi. Hôm rằm tháng tám năm Mậu Tý (14/9/2008), tôi đang ăn trưa thì thấy cả vợ và con cái ông ấy vào thăm tôi. Mời ăn, mời uống gì cũng không được. Bà ấy giải thích với tôi: Vừa ấy ăn uống ở ngoài kia cả rồi. Tự nhiên sáng nay ông ấy bắt cả nhà phải đưa ông ấy vào thăm chùa Côn Sơn rồi vào đây thăm các chú. Tự nhiên tôi cũng nghĩ "Chắc là bác ấy dở đời rồi đây". Nghĩ vậy thôi chứ không dám nói ra miệng. Bác ấy nói với tôi: " Lần nào các chú về nhà cũng vào thăm anh, mà anh thì chẳng mấy khi đến thăm các chú được. Hôm nay anh cảm thấy người khoe khỏe nên bảo các cháu đưa đi thăm một số nơi, qua đây thăm chú, lát nữa ra chỗ chú Tu một lúc thì anh về". Gần ba tháng sau, tôi nhận được điện ở nhà báo: "Bác Thi hôm qua lại vào nằm viện đấy, bác đã ra thăm chưa?". Chiều hôm sau tôi ra thăm, thấy bác ấy đã ngồi dậy được.. Bác ấy bảo: " Tôi tỉnh rồi, chắc không làm sao đâu". Đứa con gái lấy chống ở Nam Hà cũng vừa về. Thấy bố yếu nó cứ vừa sụt sịt khóc vừa hỏi chuyện bố. Bác ấy bảo con gái: Bố mệt lắm, hỏi it thôi, để bố nghỉ". Tôi ngôi chơi với bác một lúc thì xin phép ra về. Hẹn đến tối sẽ đưa mọi người ra thăm. Nhưng chưa kịp ra thì đã nhận được điện ở nhà báo lên. "Bác Thi mất lúc7giờ, đã đưa về nhà rồi. Hôm đó là ngày 12 tháng 11 năm Mậu Tý(8/12/2008).

Đến cuối năm 2009, ông Đỗ Đình Tuấn, nhánh trưởng nhánh 1, cũng đồng thời là chi trưởng chi 2, tai biến. Một chàng rể lai xe máy cho ông sang Hải Dương ăn cưới cháu. Ngang đường thì tự nhiên ông xỉu. Anh chàng rể cũng sáng ý, nhanh tay. Thấy xe láng đi bất thường, nó nghĩ ngay là chắc bố làm sao, bèn quờ tay giữ bố và từ từ phanh xe lại. Tiện có di động, nó gọi  cho anh vợ ngoài Hải Dương thuê ngay xe về đưa ông đi cấp cứu. Ông qua cơn nguy biến nhưng một bên chân tay bị liệt. Thế là phải để ông ở nhà người con trai bên Hải Dương thuê bác sĩ về nhà để "phục hồi chức năng". Vài tháng sau ông cũng tập tễnh chống nạng đi lại được vài bước. Hy vọng là có thể phục hồi nên ông đòi về quê. Nhưng cũng không dám về ngôi nhà hương hỏa tổ tiên để lại dưới làng ở nữa. Vì nhà vắng, hè cao, lại không tiện đường giao thông. Sẵn có ngôi nhà ông xây mấy năm trước trên Bình Giang cho con trai trưởng, nhưng đang bỏ không, nên ông về đó ở. Ai đến thăm, ông cũng vừa nói vừa khóc nức nở, nước mắt nước mũi cứ dàn dụa ngoen ngoét cả ra. Ít lâu sau ông đã chống nạng tự đi được ra cửa ngồi chơi, thì đùng một cái ông lại bị tái phát. Lại phải đưa ông đi. Rồi cũng lại phải đưa ông về. Nhưng bây giờ thì tình trạng của ông trầm trọng hơn nhiều. Hôm 16/10/2010(9/8/Canh Dần), tôi đến thăm ông ở Hải Dương, được bà ấy cho biết: mấy hôm nay không ngủ được nhưng từ sáng đến giờ lại thấy ngủ li bì gọi cũng không được. Ông nằm  ngủ trên giường, đắp kín chăn đến cổ, chỉ hở có khuôn mặt, trông đã thấy gầy hơn kỳ trước. Hôm 26/1/2011(24/1/Tân Mão), tôi lại đến thăm ông ở Bình giang. Tôi gõ cửa, chờ một lúc thì thấy bà ấy ra mở cửa. Thấy tôi, bà ấy quay vào gọi: " này ông Tuấn ơi ! Ông Tuân ông ấy về chơi đây này". Nhưng không thấy ông ấy trả lời. Tôi vào vẫn thấy ông ấy nằm ngủ trên giường. Tay phải đã bị trói lại, bởi nghe đâu gần đây, ông ấy đâm ra bực bội, hay dùng  tay phải, chân phải (bên không bị liệt) để hất tung chăn chiếu và bà ấy vào gần thì nhiều khi lại đấm đá rất đau. Tôi ngồi bên cạnh giường. Bà ấy ngồi phía đầu giường, vừa lay đầu chồng vừa hỏi: "Ông có biết ông Tuân là con ai không?". Ông ấy lí nhí một câu gì đó tôi nghe không rõ. Nhưng bà ấy phiên dịch là "Ông Đăng!-Thế là cũng biết đấy chú ạ". Rồi bà ấy lại hỏi: " Thế ông có biết hôm nay là ngày gì không?". Ông ấy lại trả lời cũng lí nhí tôi nghe không rõ. Cái tai tôi bây giờ tuy chưa điếc đặc nhưng cũng nghễnh ngãng nhiều rồi. Cứ phải nói to to thì mới nghe được. Còn nói bé thì chịu. Vì thế mà bà ấy lại phải phiên dịch cho tôi nghe cái tiếng mà ông ấy vừa lí nhí: "Giỗ ông Đăng". Đúng rôi. Thế là ông ấy vẫn tỉnh. Bà ấy lại lay đầu ông ấy bảo: "Nói chuyện với ông Tuân một lúc nhé!" Nhưng không thấy ông ấy có bất cứ một phản ứng gì. Bà ấy nói với tôi: "Cũng cứ lúc tỉnh, lúc mê, lúc biết , lúc không như thế đấy chú ạ. Có hỏi thì mới nói, chứ không chủ động tự nhiên mà nói đâu". Theo những người có kinh nghiệm về căn bệnh này thì ông ấy bị liên tiếp hai lần gần nhau như thế thì khả năng phục hồi là không thể. 

Vì thế mà ngày "giỗ họ" chi tôi năm nay không mở mang được, chỉ làm gói gọn thôi. Chi tôi có sáu nhánh, mỗi nhánh cử hai người gồm bố và con trưởng. Ông Thi đã mất. Ông Tuấn đang nằm liệt. Tôi hôm ấy cũng đang viêm thanh quản nói không ra tiếng nên không về được. Vậy là chỉ có ba ông "nhánh trưởng" còn lại với sáu người con trưởng. Hôm ấy làm có hai mâm, cũng ở trên Bình Giang, chứ không về từ đường làng cũ được. Tuy đã có ý định từ lâu, nhưng hôm ấy mới chính thức bàn giao việc "giỗ họ" cho thế hệ thứ tám. Chúng tôi chỉ còn làm lớp người cố vân. Các cháu bàn bạc và quyết định từ năm nay, ngoài giỗ ông ra, thì mỗi năm sẽ lần lượt tổ chức thêm một lần giỗ bà nữa cho tình anh em thêm gắn bó. Cái ý ấy bây giờ lại thành ra hợp lý. Vì ông chi trưởng đang nằm liệt. Mà con giai ông chi trưởng thì lại ở mãi bên thành phố Hải Dương. Trong khi đó thì con cháu "Bà Tặng", con cháu "Bà Ba Sen" lại đang ở quê nhà. Làm san ra như thế lại thành ra thuận lợi và đẹp đẽ mọi đường.

Ngày hôm nay (mồng 3 tháng 2 âm lịch) mới là ngày chính giỗ "Bà Tặng" lần thư 59. Nhưng các cháu đã tổ chức vào ngày chủ nhật từ hôm qua rồi. Tôi bận dự đại hội Người Cao Tuổi không về được. Chỉ cử con dâu trưởng và con gái về dự. Tối về, tôi mới điện cho chú Huy: "Thế nào, kết quả tốt không?". Chú Huy trả lời: "Đông vui lắm bác ạ. Làm tất cả 11 mâm. Các cháu nó cũng vừa mới giải tán xong".

Nếu món cá tràu kho khô

là đặc sản của vùng đất này thì món bánh đúc là đặc sản của riêng quê tôi. Bởi vì nhiều nơi làm bánh đúc ngon, thậm chí nổi tiếng khắp nước nhưng bánh đúc quê tôi là đặc sản của riêng mỗi người dân ở vùng này. Dù già hay trẻ, dù đang ở trong làng hay xa quê hương vị bánh đúc ấy vẫn mãi không quên.

Dù là loại bánh dân dã nhưng chỉ đến khi có giỗ chạy, cúng kỵ mới được ăn bánh đúc. Mỗi lần trong nhà có việc, khi gà gáy canh ba bác gái trở dậy để nấu nướng. Bếp thổi rơm đỏ hừng hực. Gạo chọn để làm bánh là loại gạo mới, vừa thơm vừa dẻo, được đánh tơi, nấu nhuyễn. Phải thật khéo trông và giữ lửa, nước sao cho không được khô mà không ướt nhảo nhoét. Phần cơm nhuyễn được trộn thêm đậu phụng. Đôi khi bác còn thêm da heo hoặc tóp mỡ heo gia tăng thêm vị béo cho bánh. Sau đó, đổ ra mâm hoặc cái mẹt có trải lá chuối. Bác dùng vá múc cơm có thấm mỡ heo vừa chầy vừa nén cho cái bánh thật chặt săn nhưng vẫn dẽo dai. Tiếp theo là một lớp mè rang được rải lên bề mặt. Các chị dùng dao nhỏ cắt bánh thành những miếng nhỏ hình bình hành, sắp lên đĩa. Tôi lúc nào cũng muốn tự tay mình bưng đĩa bánh đúc đặt lên mâm cúng.

Bánh đúc phải ăn với nước lèo. Nước lèo quyết định độ ngon của bánh. Nước lèo phải được chế biến thật khéo vừa ngọt ngọt, chua chua, béo béo. Tôi chỉ nhớ là các chị thường giã nhỏ gan heo hay gan vịt với đậu phụng làm nước lèo. 

Sau này đi ăn bánh đúc nhiều nơi, thấy người ta xay gạo thành bột rồi đúc thành bánh nên khi ăn không cảm giác cái lộm cộm của gạo, không thấy mùi gạo thơm quyện mùi lá chuối, vị mặn béo ngầy ngậy của mỡ heo lẫn trong bánh. Với bánh đúc quê tôi có những cảm nhận riêng. Bánh đúc như sự kết tinh của trời và đất, một sản vật từ bùn đất quê hương, từ công lao vất vả của những cuộc đời gian khổ. Bánh đúc cũng là thể hiện lòng thảo hiếu của con cháu với tổ tiên, là văn hoá, là hồn quê, là văn minh nhỏ trong nền văn minh lúa nước.

Bát cơm chiên

Ngày 14 tháng 7 năm 1988, buổi chiều hè nắng tươi, mẹ gọi hai anh em vào ăn cơm chiên. Cơm trưa còn ít nên chút cơm dư này mẹ chiên lại và bới lưng một bát. Anh gọi em vào ăn, vừa ăn vừa khen ngon, rồi lại giở tính chọc ghẹo, chúng ta giành nhau đến hạt cuối cùng.

Tối hôm đó anh đi, chuyến đi xa không báo trước, sau này mới biết là mẹ biết nhưng cố nhịn lòng. Bát cơm chiên là bữa ăn cuối cùng anh em mình chia tay.

Lần chia tay đó là lần chia tay thực sự giữa hai con người chung máu mủ, chúng ta đã có những tháng ngày hạnh phúc với nhau, bên cha mẹ, và khi cha mất, chúng ta đã cùng nhau nương nhau san sẻ những ngọt bùi cay đắng của tuổi mới lớn. Khi đó tình anh em chúng ta thật quá vô tư, trong sáng như pha lê dưới ánh nắng tỏa sáng lung linh như chưa từng sáng hơn thế. Nhưng có lẽ thứ ánh sáng như pha lê đó lại mong manh, khi pha lê vỡ tan tành thì vụt tắt.

Năm 1999 chúng ta gặp lại, cùng ăn bữa cơm với mẹ. Sau 11 năm, cơm mẹ nấu vẫn ngon nhưng sao lại thấy nhạt hơn. Cơm chiên 11 năm về trước vẫn còn thoang thoảng mùi thơm của mắm và vị ngọt ngào. Chúng ta đã gặp lại sau 11 năm đợi chờ, 11 năm biết bao buồn vui lẫn lộn. Nhưng thời gian đã mang anh đi và trả về một con người bắt đầu khác lạ. Em đã linh cảm như không dám nói ra, chỉ sợ anh buồn.

Năm 2005 chúng ta lại gặp nhau, cùng ăn bữa cơm chung nhưng là bữa cơm chay cúng mẹ. Mẹ không còn nữa, thế giới này đã mất đi một phần sống trong em. Sau 6 năm gặp lại, anh đã khác nhiều, có lẽ anh đã quên hương vị cơm chiên ngày xưa ấy, nhưng khổ nỗi nó lại là nỗi ám ảnh của em, nó như gieo vào tâm thức, mà mỗi khi nhắm mắt lại, em lại thấy rõ khung cảnh của buổi chiều hôm đó.

Và kể từ đó, chúng ta thực sự xa nhau. Có lẽ thời gian đã làm biến đổi quá nhiều. Thời gian có lẽ đã phủ lên một màn trắng vô hình, ngăn cản và xóa đi mọi thứ. Cho đến hôm nay đã đúng 23 năm, bát cơm chiên chiều hôm đó có lẽ là món ăn ngon nhất trong đời mà chúng ta đã từng ăn. Nhớ mẹ nhớ mẹ!

BÁT TƯƠNG QUẢ CÀ

N

ăm tôi lên sáu tuổi thì thầy tôi mất, cái tuổi lên sáu quá bé bỏng chưa biết thế nào là buồn là vui, chỉ biết là năm ấy, theo chuyến tàu cuối năm năm một chín năm tư, mẹ tôi đầu đội khăn trắng, lếch thếch dẫn ba đứa con dại, đứa lớn mới hơn mười tuổi, dắt díu nhau theo đoàn người di cư lên chiếc tàu há mồm của Mỹ, tiến vào miền Nam xa xôi.

Năm ấy mẹ tôi mới ba mươi tám tuổi, vừa mất chồng lại mất luôn cả một cơ nghiệp khá vững vàng mà thầy mẹ tôi đã gầy dựng gần hai mươi năm, thế mà có một ngày đã mất hết, xem ra mọi thứ trên đời này chẳng có gì bền vững cả. Bây giờ thì chỉ có mình mẹ tôi gánh vác, mà giữa nơi đất lạ quê người, lúc lớn lên, tôi mới thấy rằng mẹ tôi quả là một người đàn bà có nhiều nghị lực.

Tôi cũng không nhớ được khuôn mặt của thầy tôi, hình ảnh của ông chỉ là những phần rời rạc, chắp vá theo những câu chuyện do mẹ tôi kể lại, từ các anh chị lớn trong nhà, tùy theo ký ức của từng người, tôi có một cái nhìn rất mơ hồ về người cha của mình, vậy mà không hiểu sao lòng vẫn ngậm ngùi mỗi khi nhắc lại.

Lúc ấy tuy còn nhỏ, nhưng tôi vẫn nhớ mường tượng ngôi nhà gạch hai gian ở phố Cửa Tiền, có một cửa hàng bán thuốc lào và tạp hóa khá đông khách của thầy mẹ tôi. Về mùa đông khi cây bàng trước cửa nhà đã trơ trụi lá, tôi vẫn được mẹ ủ ấm trong mấy lớp chăn bông. Buổi sáng khi cả nhà cùng thức dậy, tôi vẫn nghe tiếng ho của thầy tôi và mùi cháo đậu xanh từ dưới bếp phả lên nhà trên, bữa cháo điểm tâm thường chỉ ăn với đường hoặc cà bát ngâm tương. Bên cạnh nhà là một quán phở, theo cái lạnh của gió đông, mùi phở cùng với hương hành ngò tỏa lên thơm phức làm cồn cào những cái bụng đói. Vì là con út nên thầy tôi cưng tôi lắm, hôm nào phần ăn sáng cũng là một bát phở nhỏ và ly sữa nóng.

Thích nhất là những sáng chủ nhật được theo mẹ đi nhà thờ, từ phố Cửa Tiền phải đi vòng qua phố Cửa Hậu. Thuở nhỏ, mắt tôi bé lắm nên nhìn cái gì cũng to cả, bởi vậy mà ngôi nhà thờ lúc ấy đối với tôi quả là vĩ đại, một chiếc cột đến mấy vòng tay ôm, mấy chục năm sau trở lại quê nhà, tôi thấy nó nhỏ bé và cũ kỹ, chỉ còn dăm cụ già rỗi rãi ngồi rì rầm đọc kinh, với những con chim sẻ nhảy nhót trên chiếc sân xi măng loang lổ. Mỗi buổi sáng chủ nhật của những ngày ấu thơ, tôi được mẹ dẫn xuống khoảng sân rộng trước cửa nhà thờ, ở đấy có một hàng bánh chưng rán. Mùa Đông, giữa một trời đầy giá rét, co ro trong chiếc áo ấm, được một tấm bánh chưng nóng hổi, mùi nhân đậu xanh lẫn trong chút thịt mỡ, chắc chẳng có gì hơn.

Vào mùa hè, khi rặng bàng trước cửa đã xòe ra những chiếc lá to hơn bàn tay người lớn xanh ngăn ngắt, chị em tôi hay chạy chơi trên hè đường để tránh cái ngột ngạt trong căn nhà hầm hập nóng. Dưới bóng cây bàng trước cửa nhà, chúng tôi đã sung sướng thưởng thức bát chè thạch thơm mát lan dần đến tận cuống họng, sau này khi lớn lên ở miền Nam, tôi có cảm tưởng chưa bao giờ được ăn bát chè nào ngon bằng bát chè của quê hương.

Mẹ tôi kể lại rằng, quê thầy tôi ở làng Linh, nơi có những ruộng rau muống nổi tiếng, ít lá, cọng to và mềm, luộc xong nước rau có một màu hồng phơn phớt, dân làng là những người làm ăn, tính toán giỏi. Mẹ tôi ở một làng khác gần tỉnh hơn, con một ông đồ nho, đất văn học, sau này vì thầy tôi chết sớm, đám con cái ảnh hưởng bên ngoại, thích văn chương, cho nên không thấy ai giàu cả, nhưng đời sống vẫn rất dồi dào nhờ cái phong phú của tâm hồn.

Mùa hè cho chí mùa đông, trên mâm cơm nhà tôi dù có cá có thịt, nhưng vẫn không thể thiếu bát tương quả cà. Đĩa đậu phụ chiên vàng nóng hổi chấm đẫm tương, con cá rô rán tới thơm phức mà không có tí tương sẽ trở nên vô vị, ngay cả đĩa rau muống luộc xanh ngắt, nếu không có bát tương và mấy khoanh ớt đỏ xem chừng đã nhạt nhẽo lắm. Chưa kể món tương chưng với thịt mỡ, cà chua, thìa là, ăn kèm với rau diếp thái sợi, một tô nước rau muống luộc, giầm thêm mấy quả sấu chua, cùng tí tỏi và muối, ăn với cà bát ngâm tương của mẹ tôi vào những ngày hè, kỳ diệu thay, nó như làm dịu đi cái nóng bức của mùa hè miền Bắc.

Ngay sau những ngày chia cắt đất nước năm ấy, thầy tôi ốm nặng rồi qua đời. Anh tôi bỏ nhà theo người bác vào Nam từ chuyến tàu trước, mãi cho đến cuối cùng khi mẹ tôi quyết định ra đi thì tình thế có vẻ khó khăn lắm rồi. Qua bao nhiêu trạm kiểm soát, mẹ con dắt díu nhau ra đi, lúc ấy hẳn mẹ tôi đã phải có một phấn đấu nội tâm dữ dội lắm, chồng chết, con dại, cơ ngơi, nhà cửa, để rồi chỉ còn hai bàn tay trắng, đi đâu, với một viễn ảnh đen tối. Có lẽ chuyến tàu cuối năm năm tư là chuyến tàu buồn thảm nhất trong đời mẹ tôi, những giọt nước mắt ngắn dài khi bỏ lại quê hương, bỏ lại ngôi mộ người chồng chưa xanh cỏ, bên nách ba đứa con nhỏ với những đôi tay non nớt chưa bám nổi cuộc đời. Chúng tôi chẳng biết gì, với đôi mắt trẻ thơ thì đây là chuyến đi xa đầy thú vị, đứa nào cũng thích thú với những viên kẹo được phân phát từ tay những người thủy thủ Hoa Kỳ. Buổi chiều, khi con tàu lênh đênh trên đại dương bao la, biển đã ngả sang màu tím, từng đợt sóng to bằng những cái nhà đuổi nhau trên mặt biển, đám người trên tàu bỗng như sợ hãi vì thân phận bé nhỏ của con người trước cảnh hùng vĩ của biển khơi.

Vào đến miền Nam, đoàn người di cư được đưa về một khu ngoại ô cách Sài Gòn khoảng hai chục cây số. Chỉ có ngần ấy đường mà dường như đã có một sự khác biệt, Sài gòn với những ánh đèn giăng giăng, xe cộ tấp nập, người đi lại dập dìu như mắc cửi thì ở đây, chỉ là những mái nhà tranh vách đất, những con đường gập ghềnh lỗ chân trâu, những ngọn đèn lù mù, lay lắt trong cảnh nghèo của đám người di cư. Vui nhất có lẽ là những buổi chợ sớm, người ta phải dùng cả đèn dầu khi trời chưa sáng tỏ, nơi ấy là nơi người dân hai miền Nam Bắc gặp nhau, tuy cùng một ngôn ngữ mà cách phát âm lại khác biệt, nên vẫn có cảnh người mua, kẻ bán cười ngặt nghẽo với nhau, khi người này không hiểu người kia muốn gì. Chợ quê tuy nghèo nhưng cũng đủ thứ thịt thà, cá mắm, cùng những rau cỏ rau trái miền Nam, sau một đôi năm, không hiểu sao không khí hòa bình ấy bỗng mất đi, thỉnh thoảng người ta hốt hoảng bỏ chạy tán loạn vì một loạt súng vang lên giữa buổi chợ đông, một thây người ngã gục, chiến tranh như đã bò dần vào đời sống êm đềm của đồng bào miền Nam.

Mẹ tôi, người đàn bà nhỏ bé và can đảm ấy, đâu có chịu đầu hàng số mệnh, dù giờ đây gần như trắng tay. Anh tôi đi làm xa, chẳng mấy khi về nhà, có lẽ anh ấy không muốn chôn chặt cuộc đời trai trẻ trong cái tăm tối của làng quê. Khi cuộc sống ở đô thị cho ta nhiều cơ hội để tiến lên thì ở chốn quê mùa này, người ta như sống giật lùi hằng thế kỷ, mảnh vườn, ao cá, lũy tre xanh muôn đời vẫn như một hàng rào để người ta dựa dẫm nhau mà sống, nhưng đồng thời nó cũng lôi kéo con người vào những thứ phiền toái, lẩm cẩm, khe khắt khi con người không cùng một trình độ, sống với nhau quả rất là khó chịu.

Cuộc sống nhàn hạ của những ngày thành phố đã qua, mẹ tôi bắt tay vào cuộc sống mới với rất nhiều cực nhọc. Khi những luống sắn, luống khoai đã vồng xanh, những luống cải non đã đủ để nấu những bát canh suông, mẹ tôi bắt tay qua làm cà, làm tương để bán cho những người quanh vùng. Mẹ tôi làm tương rất ngon, không mặn không nhạt, tôi vẫn nhớ mãi mùi âm ẩm của mốc tương và đậu nành rang xay nhuyễn, hòa với nước muối để ủ tương chờ đến ngày ăn được. Những vại tương, vại cà vàng nâu thẫm lại, nhai ròn tan với bát cháo đậu mùa hè, nghe cái mát mẻ đã luồn sâu vào tì vị. Chúng tôi lớn lên sởn sơ như cây cỏ, nhờ bát tương quả cà của mẹ tôi, miếng đậu phụ và con cá chiên ròn, bát muối vừng cùng những rau cỏ mọc quanh nhà. Thỉnh thoảng vào những chiều nắng xiên khoai, tôi lẽo đẽo theo mẹ gánh đôi thùng tương đi bỏ mối cho mấy cửa hàng quanh chợ. Trên con đường đất gồ ghề, lồi lõm dấu chân trâu, mẹ tôi đi trước, đôi vai bé nhỏ như oằn xuống dưới sức nặng của đôi thùng tương, kĩu kịt, kĩu kịt đi trên con đường vắng. Tôi đi chân đất chạy theo mẹ, hồn nhiên như một con bướm trắng, hai má hồng xinh với đôi mắt ngây thơ. Mỗi khi giao hàng xong, thế nào mẹ tôi cũng mua cho tôi vài chiếc kẹo, ly nước đá nhận của người đàn bà miền Nam bán bên hông chợ.

Sau những lúc bận rộn và làm việc mệt nhọc như thế, mẹ con tôi vẫn có những buổi tối ngồi trông trăng ở mảnh sân vuông trước nhà. Dưới ánh trăng suông, gió vẫn xào xạc trên rặng chuối sau hè, tiếng côn trùng rỉ rả âm âm trong bụi cỏ, mấy mẹ con và vài bà hàng xóm quây quần trên chiếc chiếu trải giữa sân, nghe mẹ tôi kể chuyện. Không biết tại sao mẹ tôi thuộc truyện Kiều lắm thế, những bà hàng xóm nhà quê cứ ngẩn người ra nghe mẹ tôi đọc thơ, rồi truyện làng, truyện nước, truyện ma đường rừng Việt Bắc, truyện nào cũng ly kỳ, rùng rợn và ý vị đến nỗi tôi lơ mơ ngủ đi lúc nào không biết.

Tôi vẫn nhớ mơ hồ về những ngày còn thơ ấu, khi chỉ có mấy mẹ con sống quạnh quẽ với nhau trong những ngày mới di cư vào Nam, chứng kiến cái thay đổi của lòng người sau cơn hoạn nạn, tôi mới thấy mình là người bất hạnh khi thầy tôi chết đi quá sớm. Giá thầy tôi còn sống. Đã bao nhiêu lần tôi nghĩ như thế khi thèm thuồng nhìn những đứa nhỏ như mình, chúng nó có đủ cha đủ mẹ, để mẹ tôi không phải tần tảo một mình nuôi lũ con thơ, có khi đi vắng nhà vài hôm, phải gửi con cho người hàng xóm.

Những buổi tối mẹ vắng nhà, khi trời nhập nhoạng lên đèn là tôi bắt đầu khóc. Chị tôi hơn tôi hai tuổi, đã tỏ ra là đứa trẻ biết lo lắng, tính chị hiền như mẹ, hay tủi thân. Mới đầu tôi chỉ khóc dấm dứt, sau không chịu nổi nữa tôi gào to hơn, chị tôi nước mắt đoanh tròng, thay mẹ dỗ em bằng những lời hứa hẹn rất trẻ con, nhưng cũng chẳng ăn thua gì, dỗ mãi em cũng không nín còn gào to hơn, chị cũng tủi thân òa lên khóc. Sau này, lúc không còn gần nhau nữa, chị em mỗi lần nhắc lại chuyện cũ trên đường dây điện thoại, hai đứa cứ vừa cười vừa khóc vì những chuyện ngày thơ.

Nhớ làm sao ngày đầu tiên mẹ tôi dẫn tôi đi học. Trường học là căn nhà lá hai gian có giàn hoa thiên lý, thỉnh thoảng lại có tiếng điếu cày rít lên sòng sọc, ông thầy già say thuốc ngồi mơ màng gõ nhịp chiếc roi mây trên mặt bàn gỗ, như đệm theo tiếng ê a của đám học trò nhỏ. Tôi vừa ngồi học vừa nhớ mẹ, con đường quê ngoằn nghoèo, bụi tre gai rào rào tiếng gió, một con bướm trắng vờn vờn trên giậu mùng tơi, tôi lớn lên với những câu truyện cổ tích và những áng văn chương từ bà mẹ quê vất vả, cũng như những vần thơ tả về quê hương trong Quốc Văn Giáo Khoa Thư của ông thầy trường quê mái tranh vách đất. Sau buổi học, tôi hay chạy sang nhà bác tôi để được bác cho vài quả táo tầu hay nhúm cam thảo, vì ông là một thầy thuốc Bắc. Giữa trưa hè oi ả, bác tôi ngồi gật gù với mấy hũ thuỷ tinh đựng thuốc, con dao cầu nằm hờ hững ở một góc quầy vì chẳng mấy khi được đụng đến. Chẳng mấy khi có người đến chữa bệnh, nhưng bác tôi cứ ngồi đấy ngủ gà, ngủ gật trong cái yên lặng của ban trưa. Ngoài kia, giữa nắng trưa tiếng gà eo óc gáy, màu nắng như đã chói chang trên những giây phơi quần áo, tiếng chó sủa vu vơ, gió vẫn rì rào qua khóm trúc, tất cả như chìm vào một nỗi buồn mông lung, khó tả.

Tôi lớn lên ở miền Nam, ăn bát cơm miền Nam, uống nước từ những cái giếng trong vắt sâu hun hút dưới lòng đá ong, những hình ảnh ấy đã gắn bó với tôi tự những ngày thơ ấu.

Mãi hơn hai mươi năm sau tôi mới có dịp trở lại quê nhà. Tôi đã đi qua miền Đông đất đỏ với những vườn cao su thẳng tắp, qua miền Trung với những bờ biển xanh, bãi cát trắng, rặng thùy dương trải ngút ngàn phô bày một giải giang sơn cẩm tú. Những núi đồi trùng trùng ẩn hiện trong màn sương, những căn nhà vắt vẻo lưng chừng núi, hình ảnh người dân quê lam lũ, chất phác, cam chịu một đời nghèo khổ dọc theo những dải đường của đất nước. Đêm trên đỉnh Hải Vân, gió lồng lộng như giao hòa giữa trời và đất, biển Thuận An với những chiếc thuyền câu giăng giăng ánh đèn như một hội hoa đăng.

Tôi đã vô vàn xúc động khi nhìn thấy những xóm làng của miền Bắc. Lũy tre xanh, chiếc cổng làng cũ kỹ, con đường lát gạch dẫn vào những nếp nhà ngói đỏ, con trâu nằm nhai thong thả bên đụn rơm khô, bếp nhà ai toả lên trời bàng bạc khói sương. Quê hương tôi đó, tuy nghèo khổ nhưng với tôi vẫn là những hình ảnh đậm đà trong tâm tưởng. Một ngày chớm thu, tôi đã trở về thăm ngôi mộ của thầy tôi nằm trong một nghĩa trang cạnh ven đê, trên đường về quê ngoại. Tôi nhớ đến thầy tôi mà ngậm ngùi cho một kiếp người, tro bụi lại trở về tro bụi, để thương cho mẹ tôi cả một đời vất vả, chật vật với những đứa con thơ. Nắm hương trên mộ đã tàn, chắc thầy tôi biết tôi trở về, một con bướm trắng cứ chập chờn bay trên vai tôi, rồi lại vờn vờn trên những bông cỏ may trong một chiều thu úa. Không ai có thể biết rằng, từ thế giới bên kia, thầy tôi lại không một lần trở về với tôi trong giấc chiêm bao, dù rất mù mờ và không rõ nét, nhưng qua đấy tôi vẫn hình dung ra khuôn mặt của đấng sinh thành.

Mẹ tôi chết ở miền Nam, thầy tôi chết ở miền Bắc, không biết hai người có trùng phùng ở một miền nào đó nơi thế giới bên kia? Nơi mà tôi tin rằng, không có hận thù, đau khổ, thầy mẹ tôi sẽ có một bữa cơm hội ngộ, bát tương, quả cà, bát thịt kho đông trong những ngày giá lạnh.

Năm ấy, tôi đã có một thời gian được sống trong căn nhà thân yêu của thầy mẹ tôi. Vào mùa thu, những cơn mưa ngâu dầm dề như để chuyển tiếp một mùa hè nóng bỏng sang một mùa thu dịu dàng hơn. Tuy vậy, khi nhìn những cơn mưa đổ xuống ngày đêm, ai cũng lo có lụt lớn. Mà lụt thật, nước mênh mông khắp các ngả đường như sông rạch miền Nam, tràn vào nhà đến hơn nửa thước, mọi người phải đi lại trên bàn hay những tấm ván.

Chưa bao giờ tôi chán đến thế, suốt ngày quanh quẩn trên căn gác nhỏ, nghe những giọt mưa rào rào trên mái ngói cũ kỹ, khoảng sân xi măng lộ thiên trên gác ướt sũng. Bầu trời lúc nào cũng ảm đạm, tiếng mưa rơi, tiếng gió rít, tiếng rì rào của rặng sấu Tây sau vườn tạo nên một âm thanh áo não lòng người. Trên đường phố, người ta bơi thuyền như đi trên sông, người ta í ới gọi nhau chạy lụt, tạo nên một quang cảnh hoảng loạn và bi đát. Buổi chiều nhuốm một nỗi thê lương, nằm trong căn gác nhỏ tù túng, chưa bao giờ tôi nhớ miền Nam đến thế. Trong bóng tối nhập nhoạng của buổi hoàng hôn, đứa cháu tôi vừa hát bài "Giọt mưa thu", vừa gõ nhịp lên chiếc thùng sắt tây, trong nhà đã lên đèn, điện cúp, gió đã giựt đứt đường giây điện của nhà máy thủy điện Sơn Tây. Trong ánh sáng mờ mờ của buổi hoàng hôn, thì lạ thay, một con bướm, tôi cứ ngỡ đấy là linh hồn của thầy tôi đang nương theo cánh bướm về thăm nhà. Tôi nhìn con bướm đậu gần chiếc ảnh gia đình treo trên vách, lòng bình yên một cách lạ lùng. Suốt đêm hôm ấy mọi người hầu như đều thắc thỏm chờ cơn bão tới, nhưng chỉ nghe tiếng mưa rơi rích rắc trên mái ngói và tiếng cành lá rì rào từ khoảng sân sau.

Đêm qua đi thật nặng nề trong sự chờ đợi của mọi người, sáng hôm sau nắng lên, trời quang mây tạnh, nước không lên mà có vẻ muốn rút, mọi người đều mừng rỡ. Mấy ngày sau nước rút, tôi lóp ngóp lội nước ra bến xe mua vé về Hà Nội, sau đó mua vé tàu về Nam. Đêm giã từ Hà Nội, cả nhà người anh tiễn ra ga Hàng Cỏ, chúng tôi lên tàu xuôi Nam, lòng ngậm ngùi vì biết khó có lần trở về thăm quê, khó có lần được nhìn thấy nấm mộ của thầy tôi. Khi hai chị em đã lên tàu, con tàu sắp sửa chuyển mình ra ngoài vùng ngoại ô, chị tôi chỉ lên bức vách của toa tầu, giọng thảng thốt: "Kìa, trời ơi, con bướm."

*    *    *

Không biết thầy mẹ tôi có nợ nần oan khiên gì với đất nước của tôi, dân vốn đã nghèo lại hay chia rẽ. Cha tôi qua đời vào thời kỳ đất nước chia hai, gia đình tan tác. Đến khi mẹ tôi chết, lại cũng là những năm "gạo châu củi quế", con cái đều nghèo, không đến nỗi bữa đói bữa no, nhưng đời sống thật là đạm bạc, lúc mẹ nằm xuống, không có gì để mang về bên kia thế giới.

Trước khi mẹ tôi qua đời độ một tháng, chị em tôi có về thăm mẹ. Mẹ tôi gầy lắm, không đi được nữa, căn bệnh già và mấy thứ thuốc bổ dưỡng Dân Tộc không làm bà khoẻ hơn, cứ từ từ xụm xuống rồi lưng cong lại, không đứng dậy được. Bây giờ tôi mới biết đó là chứng loãng xương của tuổi già, do lao lực nhiều năm tháng chồng chất lên trong đời mẹ tôi. Thời buổi ấy chỉ nghĩ đến cơm ngày hai bữa, đâu có ai chú ý đến sự săn sóc , bồi dưỡng cơ thể để sống lâu, sống khỏe như bây giờ.

Mẹ tôi tỉnh cho tới lúc chết, nằm trên giường nhưng vẫn nhắc cho heo ăn, gà ăn, thấy ngả bóng chiều lại nhắc cho gà lên chuồng, đem quần áo ngoài sân vào nhà vì sợ sương đêm, trời mưa nhắc hứng nước đầy lu hũ để dành uống. Không biết mẹ tôi lo chuyện đời làm chi cho cực thân, chẳng qua cái lòng của người mẹ lúc nào cũng băn khoăn lo cho con cháu từng ly, từng tý cho tới chết.

Những ngày cuối cùng nằm trên giường bệnh, mẹ tôi bảo chị em tôi khuân chiếc rương gỗ cũ kỹ, trong ấy có một số quần áo của mẹ tôi ít khi xỏ tay tới, và những đồ vật cùng hình ảnh mẹ tôi đã nhặt nhạnh được trong nhà rồi đem cất vào đấy. Trong số nhữnng đồ vật lặt vặt ấy, có chiếc khăn voan màu đen tôi mua cho mẹ đã lâu, mẹ tôi dùng nó để gói những món nho nhỏ khác, có cây thánh giá mạ vàng .

Nhắc tới cây thập giá này tôi lại nhớ tới chị tôi, đó là món quà Giáng Sinh chị đi học xa, không về nhà được, nhưng vẫn gửi quà cho cô em bé bỏng, út a út ít của mình. Những món quà thời thơ ấu chỉ có một cái quạt nhựa xoè ra bằng bàn tay, một con búp bê rẻ tiền cũng chỉ độ gang tay, và cây thánh giá mạ vàng khoảng một tấc. Tôi dạo ấy còn bé, nên chỉ thích con búp bê bà chiếc quạt nhựa, không thiết gì đến cây thập giá mạ vàng kia, nhờ vậy mà nó mới còn đó, trong cái rương cũ kỹ của mẹ tôi.

Khi nhìn thấy cây thánh giá mạ vàng, trong tôi như sống lại những kỷ niệm thời thơ ấu, tình chị em khắn khít với nhau qua cây thánh giá mạ vàng vẫn còn kia. Mẹ tôi bảo tôi đưa cho bà cây thánh giá , kỷ niệm từ hồi tôi lên mười. Chúng tôi lớn dần lên, ra khỏi nhà, vứt lại cho mẹ tôi những món kỷ niệm nho nhỏ, mấy tấm ảnh cũ, mẹ tôi như "ông từ giữ đền", ngồi gom góp nhặt nhạnh những kỷ niệm của các con, thậm chí có khi là những lá thư của bạn bè gửi cho nhau thời đi học. Chúng tôi cứ phủi tay mà đi, hờ hững với tất cả kỷ niệm của dĩ vãng.

Thề rồi mẹ tôi nhắm mắt lìa đời vào đầu một mùa hè tháng Năm hoa phượng trổ. Khi chôn cất mẹ xong, chị em tôi ở lại vài ngày, vẫn hay hụt hẫng khi nhìn vào chiếc giường nhỏ của mẹ, chỗ mẹ nằm và tưởng như mẹ vẫn còn đó. Thế là hết một kiếp người. Đêm đầu tiên ngồi cầu kinh cho mẹ, có con bướm đêm bay vào nhà đậu trên bàn thờ, quấn quýt dưới ngọn đèn dầu leo lét. Tôi nói với chị tôi cầu nguyện cho mẹ đi bình yên, đừng quấn quýt cõi đời khổ đau tạm bợ này. Biết mẹ tôi thích nghe tôi hát, lúc ấy trong căn nhà miền quê giữa khu vườn đầy bóng cây âm u, thỉnh thoảng nghe tiếng chim kêu dưới mảnh trăng khuya vừa nhô lên trên nền trời đen thẫm, tôi đã nghẹn ngào hát bài "Lòng Mẹ" mà nước mắt tuôn ướt đầm mặt gối.

Tình cờ chị em tôi lục lọi trên chiếc kệ gỗ, mới mò ra hai chiếc áo cũ của mẹ tôi còn sót lại. Một chiếc áo cánh nâu bằng vải ngắn tay và chiếc áo dài soa Thái Lan màu cánh dán đã cũ, có khi chưa kịp giặt rồi mẹ tôi ốm nặng, xếp vào đấy rồi quên bẵng đi. Nhìn thấy hai chiếc áo cũ của mẹ còn bỏ lại, hai đứa con gái như bắt được vàng, khi mẹ tôi chết rồi tôi mới biết trân quý những gì của mẹ để lại dù nó rất tầm thường. Chị tôi lấy chiếc áo cánh nâu đã bạc cả hai vai, nhường cho tôi chiếc áo dài soa Thái Lan, lưng áo đầy chấm thâm kim vì có lẽ đã ướt mồ hôi của mẹ tôi, khi đi nhà thờ về bà cởi ra rồi treo lên đó.

Chiếc áo cánh màu nâu đã bạc hai bên vai, tấm thân gầy gò của mẹ như còn in lên lằn vải những nếp nhăn ở hai bên nách, túi áo còn đầy dấu kim băng mẹ tôi hay cẩn thận gài vì sợ rơi mấy đồng bạc lẻ, và xâu tràng hạt bằng đá. Chiếc áo dài cũng đã cũ, những đường chỉ luồn trên vạt áo cũng bạc màu thời gian. Theo năm tháng cuộc đời cái gì cũng tàn phai cả, chẳng giữ lại được gì. Hai chị em vùi mặt vào hai tấm áo cũ của mẹ, thút thít khóc.

Mẹ tôi về với cha tôi ở thế giới bên kia lâu rồi, lâu lắm rồi, chỉ còn để lại trần gian hai tấm áo cũ cho hai đứa con gái, mà mỗi đứa lại ở một phương trời cách biệt xa nhau nửa vòng trái đất. Tôi quên hỏi chị tôi về tấm áo cánh nâu của mẹ có còn không? Riêng tôi đi đâu cũng đem theo chiếc áo dài màu cánh dán đã thâm kim vì những giọt mồ hôi của mẹ trên lưng áo. Tôi có cắt cho người chị lớn một mảnh nhỏ, chị em chia nhau gia tài của mẹ, lòng vẫn bồi hồi thương nhớ.

*   *   *

 Vâng, chỉ thế thôi, bát tương, quả cà của mẹ tôi đã nuôi nổi lũ con thành người, người đàn bà quê mùa nhưng rất nhiều nghị lực đã cam chịu một đời vất vả để cho các con được vươn lên, thoát cảnh bần cùng và tối tăm của đời sống. Anh em tôi trôi nổi mỗi người một phương, dĩ vãng chỉ còn là những hình ảnh mịt mờ, nhưng dễ ai đã quên. Chỉ biết là mỗi lần nhớ đến cha mẹ, thì bát tương, quả cà vẫn là nỗi nhớ không nguôi trong lòng những đứa con lưu lạc. 

ĐỦ

Tiếng gà gáy xa xa, từng hồi. Trong những quãng ngắt có thể nghe thấy tiếng lộc cộc của xe trâu, tiếng thình thịch của những bàn chân trần trên con đường mòn nhỏ nối xóm nghèo với cánh đồng xa đến tận biên giới. Cái se lạnh của trời khuya và cả nỗi lo lắng khi sắp đối mặt với cuộc thi quan trọng nhất trong một đoạn đường dài học tập đã làm cho cậu học trò nhỏ thức giấc. Dù sao thì tính ham ăn ham ngủ của tuổi mới lớn cũng còn đấy nên cậu bé không choàng dậy ngay mà nằm đó lắng nghe một ngày mới đang đến. Ánh lửa từ bếp sáng lấp loé qua vách nan trúc một màu đỏ nhạt, thỉnh thoảng bị khuất vì ánh đèn dầu gần hơn. Dưới bếp có tiếng lèo xèo quen thuộc. Cậu bé biết đó là mẹ đang chiên cơm cho mình ăn lót lòng trước khi đi thi xa. Bên chiếc bàn làm bằng gỗ ván ép đen và phồng lên từng chỗ cho quá cũ, người cha trong bộ bà ba trắng đang châm bình trà, cũng rất quen như mọi buổi sáng. Giọng người mẹ từ bếp vọng lên:

- Ông ơi! Ông coi mấy giờ rồi kêu con nó dậy ăn cơm rồi đi thi đi!

- Để cho nó ngủ thêm chút đi bà - giọng chậm rải đáp lại của người cha.

Rồi họ lại im lặng. Lúc sau người mẹ bưng một bát cơm chiên thật to từ bếp lên. Người cha lại hỏi:

- Bà có nhiêu tiền? Coi cho con để nó có tiền ăn trưa. Đường xa, chắc nó không thể về kịp vì còn thi buổi chiều nữa.

- Để tôi xem - người mẹ loay hoay tìm trong túi trước, túi sau rồi góp được cả thải bốn trăm đồng.

- Chỉ còn nhiêu đó thôi hả bà?

Hai người nhìn nhau, rất lâu, những giọt nước mắt lăn dài xuống đôi gò má xạm đen vì mưa nắng của người mẹ xuống chiếc áo bà ba đầy những mãnh vá dọc ngang. Người cha cuối mặt, thở dài, rồi cố nói trong lời nghèn nghẹn:

- Nhiêu đó thì làm sau đủ ăn một ổ bánh mì lạc bà!

- Tôi đã tìm hết trong nhà, chỉ còn vậy thôi.

- Bà vào kêu con dậy giúp tôi. Để tôi đi qua nhà chị tư mượn chút đỉnh. Nếu bụng không no làm sao con nó thi được.

Rồi người cha bước ra khỏi nhà, bóng mờ dần trong chạng vạng. Vài phút sau, nghe có tiếng người trò chuyện xa xa:

- Ai đó?

- Em đây chị tư.

- Có gì mà chú gọi tôi sớm vậy?

- Gọi chị dậy lúc này thật là không phải. Nhưng mà chị thông cảm vì thằng con em hôm nay nó đi thi. Vợ chồng em đang kẹt quá nên chị có lòng cho em mượn năm ngàn cho nó có ăn trưa. Vài bữa bán được vách em trả lại chị.

Rồi tiếng nhỏ hơn, khi người mẹ bước đến gọi cậu bé dậy ăn cơm. Cậu bé vờ như không nghe gì thấy gì, và người mẹ cũng không tinh ý đủ để nhận ra những vệt nước rướm trong hai con mắt của cậu con trai mình. Cậu bé ngồi ăn chừng vài muỗng lại uống miếng nước, cứ nghẹn mãi chứ không ăn nhanh như mọi ngày. Đang ăn thì người cha về đến, đưa cho người mẹ bốn ngàn đồng rồi bảo:

- Đột xuất quá nên chị tư cũng chỉ có chừng này, dù sau cũng hơn là mình có.

- Vậy đưa hết cho con nghen ông?

Không cần đợi trả lời, người mẹ đưa hết bốn ngàn tư cho con trai và dặn hãy giữ cho cẩn thận kẻo mất. Cậu bé đưa hai tay nhận số tiền rồi dạ một tiếng chứ cũng không nói gì. Rồi quay lại bàn, ngồi ăn tiếp những miếng cơm chiên còn lại, cứ nghẹn, rồi uống nước, rồi nghẹn, rồi uống nước.

Tiếng gà thưa dần, tiếng chân người nhiều dần. Cậu bé mặt áo trắng, quần dài, gom mấy giấy tờ cần thiết rồi dắt xe ra đường, vội vả khoanh tay thưa cha thưa mẹ đi thi. Thỉnh thoảng ngoáy đầu lại nhìn phía sau còn thấy cha mẹ mình đứng trông theo. Bây giờ thị cậu bé có thể khóc rồi. Trên con đường làng nhỏ hẹp, người người theo hướng Tây đến với ruộng đồng. Chỉ có chiếc áo trắng nhỏ ấy trên chiếc xe đạp cũ kỹ theo hướng Đông khuất dần sau những hàng tre trúc.

Bát Canh Mồng Tơi

Bữa tr

ưa hôm nay cũng chẳng khác những bữa ăn khác là mấy. Cũng vẫn là mấy món ăn quen thuộc hàng ngày mà thôi. Đang khi dùng bữa, bỗng nhiên có một anh trong bàn ăn thốt lên:

- Trao ..! h

ình nh

ư hôm nay người ta bán muối khuyến m

ãi thì phải?

Con thắc mắc hỏi lại:

- Sao cậu nói thế?

Anh ấy trả lời:

- Nếm thử canh mồng t

ơi mà coi, mặn rụt lưỡi lại chứ chẳng chơi!

Con nếm thử và cảm thấy nó

đâu có mặn

mà là

quá mặn

. Ngay vừa khi nếm xong th

ìa canh trong con chợt cảm thấy một thứ cảm giác gì lạ lắm mà con ch

ưa kịp

nhận ra

!

sau một hồi lặng người con mới nghĩ ra đó là cảm giác g

ì.

….

          Chuyện đã xảy ra cách đây cũng khá lâu rồi, con chẳng còn nhớ rõ nữa. Hôm ấy mẹ con đi vắng cùng các em chỉ có mình con và bố con ở nhà. Chiều hôm ấy bỗng nhiên con bị sốt cao và không thể nấu bữa tối được. Thế là không còn cách nào khác bố con phải vào bếp thay con. Đó là bữa đầu tiên con thấy bố vào bếp.

          Nằm liệt trong giường, chẳng biết bố nấu món gì nữa, chỉ thấy bố cứ loay hoay trong bếp miết thôi

. Khi tới bữa ăn, bố gọi con xuống ăn cơm, nhưng con không thể lê bước chân của m

ình mà b

ước được. Bố con đành mang cho con một mâm cơm tới giường, nh

ìn mâm c

ơm con thấy một

đĩa

thịt luộc, một

đ

ĩa trứng chiên, một

bát

cơm

và một bát canh mồng tơi.

Ẩn sâu trong

những g

ì con đang nhìn thấy tr

ước mắt đó là một t

ình cảm lớn lao nhất mà bố dành cho con. Con nếm thử từng món ăn và rồi khi nếm tới bát canh mồng t

ơi của bố, con đ

ã phải nhăn mặt vì nó quá mặn. Con cố th

ưởng thức bát canh mà bố nấu cho con, lúc đầu khi mới cho vào miệng th

ì nó mặn thật, nh

ưng khi nuốt xuống cổ, con cảm thấy một vị ngọt lạ lùng mà trước đây con chưa từng nếm. Đó có phải là vị ngọt của canh hay là vị ngọt của t

ình cảm, con đã rất xúc động và th

ưởng thức hết bát canh mồng tơi của bố.

….

Hôm nay khi được thưởng thức một bát canh mồng tơi như bát canh mà hôm nào bố nấu cho con, con bỗng thấy

nhớ bố thật nhiều.

Và chỉ muốn nói rằng: "Con yêu bố mẹ nhiều lằm"!

Ấm lòng bát cơm nguộ

Mở nồi cơm ra, tôi nhăn mặt. Mẹ lại nấu nhiều rồi. Nhà chỉ còn ba người mà nồi cơm mẹ nấu chẳng khác gì cho năm người, khi chị cả, chị hai chưa đi lấy chồng...Để bố mẹ ăn bát cơm nguội hấp lại cứng ngơ cứng ngắt tôi chẳng đành lòng. Nhưng ngày nào cũng điệp khúc ăn cơm nguội tôi chán lắm. Nào có phải lỡ thừa hay quá tay gì đâu. Chẳng là có một lần chị cả đưa cu Bi về mà không báo trước, lại đúng vào bữa cơm nên mẹ cứ giục chị cho cháu ăn, còn mình tình nguyện ăn...mì tôm. Có lẽ do cơm bà ngoại nấu ngon quá mà cu cậu đánh bay luôn hai bát đầy. Trong khi ở nhà, muốn dỗ ăn hết một bát cũng khốn khổ, chật vật thì đây quả là kì tích...Từ đấy trở đi, mẹ tôi lúc nào cũng nấu thêm một phần dư để nếu có thêm những thành phần đột xuất cũng dễ dàng trở tay. Sau một vài lần góp ý không thành, tuy trong lòng có chút ấm ức nhưng tôi cũng không có ý kiến thêm gì với nồi cơm Thạch Sanh của mẹ.

Những ngày đầu tiên đi học xa nhà, cảm giác đầu tiên của tôi là... lạ lẫm vì suốt một thời gian dài đã quen với việc ngồi đầu nồi mỗi bữa cơm. Tôi sẽ hớt hết phần cơm nguội vào bát ô tô cho mình rồi mới xới vào hai chiếc bát nhỏ cho bố mẹ. Giờ thì phần việc ấy lại do cô bạn cùng phòng làm. Cô ấy cũng xới cho mỗi đứa chúng tôi một tô cơm thật to rồi sau đó hì hục ngồi đào... cháy, món sở trường của mình. Với sức ăn của tuổi trẻ, chẳng bữa nào nồi cơm thừa lấy một thìa chứ nói gì đến một bát. Vả lại, dù gì cơm mới nấu chín tới, hạt gạo bung nở, thơm dẻo nên ăn cũng ngon hơn hẳn so với bát cơm nguội hấp lại, tuy rằng chất lượng món ăn thì đúng là không bằng 1/10 tay nghề nấu nướng của mẹ.

Nhà trọ của tôi cách khá xa trường nên ngày đầu tiên phải đi học cả buổi sáng và chiều, tôi ở lại luôn trường với chiếc bánh mì ăn tạm. Cô bạn cùng phòng dù đã được thông báo trước nhưng vẫn quên, nấu luôn cả phần cơm cho tôi. Kết quả là tối hôm đấy ba đứa chia nhau bát cơm nguội cứng quèo, nhạt nhẽo. Bỗng giật mình nhớ ra không có tôi ở nhà chắc mẹ sẽ dành về phần mình bát cơm nguội chứ nhất định không để bố ăn. Chẳng thế mà hồi ở nhà tôi phải “đấu tranh” mãi mới có được vị trí đầu nồi. Nếu để mẹ xới cơm, mẹ sẽ không cho tôi ăn bát cơm nguội đó đâu. Thực ra, làm gì cũng vậy, mẹ luôn dành phần ngon nhất cho chồng, cho con, còn mình thì chịu thiệt thòi mà không một lời kêu than, tính toán hơn thiệt. Mẹ thà bữa nào cũng ăn cơm nguội còn hơn là để nếu lỡ con cháu về bất ngờ mà phải ăn mì tôm hay ra hàng quán ăn không đảm bảo...Như hôm cuối tuần vừa rồi tôi về mà không báo trước nhưng mẹ vẫn để phần sẵn đó một bát cơm thật đầy, trộn với chút vừng lạc giã nhỏ, thơm phức chính tay mẹ giã, mới thấy chẳng có món ngon vật lạ nào trên đời có thể sánh bằng...

T.H

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro