ben thang cuoc c11

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương XI: Campuchia

Giữa trưa 7-1-1979, khi nghe con rể là Giáo sư Hồ Ngọc Đại đánh thức báo tin,

“Quân ta đã vào Phnom Penh”, ông Lê Duẩn chỉ “ừ” rồi ngủ tiếp. Ông Hồ Ngọc Đại nói: “Tôi rất ngạc nhiên. Khi nhận được điện thoại từ Cục Tác chiến tôi cũng không

ngờ chuyện long trời lở đất như thế mà ông vẫn ngủ”. Đưa đại quân đến thủ đô một

quốc gia khác tưởng nhẹ tựa giấc ngủ trưa của một đấng quân vương nhưng phải

mười năm sau Quân đội Việt Nam mới rút được chân ra khỏi đó. Cho dù câu chuyện xảy ra bên ngoài lãnh thổ, mười năm ấy sẽ trở thành một phần lịch sử Việt Nam,

lịch sử can thiệp vào một quốc gia khác.

“Pot ở đầu phum ta cuối phum”Theo Tướng Lê Đức Anh: “Khi đánh Campuchia, trong lãnh đạo Đảng ta có hai ý

kiến: một là đánh xong giao lại cho bạn rồi rút về ngay, hai là đánh xong phải giúp

bạn xây dựng cho vững rồi mới bàn giao và rút về nước… Anh Lê Duẩn bảo đánh

xong giao cho bạn rồi rút cho bộ đội về Nam Bộ làm ruộng”

558

.

Ông Ngô Điền xác

nhận, khi mới lên Phnom Penh, ông Lê Đức Thọ có nói đại ý, “ta cố làm tốt một thời

gian, ba tháng, sáu tháng rồi giao cho bạn”. Nhưng làm sao trong ba hoặc sáu tháng những người lính Việt Nam có thể “trở về Nam Bộ làm ruộng” khi Khmer Đỏ

chỉ mới bị đánh đuổi chứ chưa bị đánh tan.

Chưa đầy một tháng sau khi khởi binh, ngày 17-1-1979, bộ đội Việt Nam đã

đánh đổ chính quyền cuối cùng của Pol Pot ở thị xã Ko Kong. Nhưng, như Cục trưởng Cục Tác chiến Lê Hữu Đức thừa nhận, “chúng ta chiếm được Phnom Penh và

các thành phố, thị xã, nhưng chúng ra không diệt được sư đoàn nào của Pol Pot.

Sinh

lựcđịchbịtiêuhaokhôngđángkể”.TrungtướngLêHữuĐứcchorằng:

“Chúng ta đã dùng búa tạ diệt ruồi, sử dụng binh chủng hợp thành như đánh Pháp,

đánh Mỹ, để đánh với một đội quân du kích”.

Khmer Đỏ bỏ chạy nhưng chúng không phải là một tàn quân. Tướng Đức nói: “Chúng được các cố vấn Trung Quốc dạy rất kỹ, cứ thấy xe tăng là chạy rồi gài mìn

lại. Mìn Trung Quốc không giết chết mà chỉ sát thương. Cứ một người trúng mìn,

quân ta lại phải mất bốn người để cáng”. Khi tiến quân vào Phnom Penh, thế Việt

Nam

như “chẻ tre”, nhưng khi tới những vùng biên giới xa, các đơn vị Việt Nam lập

tức bị Khmer Đỏ đặt trong tầm phục kích. Đây là giai đoạn quân đội Việt Nam bắt đầu chịu hy sinh lớn nhất.

Mùa khô năm 1980-1981, Khmer Đỏ mở cuộc phản kích lần thứ nhất. Khi ấy, lực

lượng Quân Tình nguyện Việt Nam tại Campuchia vẫn ở mức cao. Không giành lại

được đất, nhưng Pol Pot cũng đã kéo Quân Tình nguyện và Quân đội của Heng Samrin vào một cuộc chiến khốc liệt không chỉ bởi mức độ thương vong.

Mùa mưa năm 1983, ông Phạm Văn Trà, lúc bấy giờ là phó tư lệnh Tham mưu

trưởng Mặt trận 979, trực tiếp lên vùng biên giới Ko Kong chỉ đạo Sư đoàn 4. Ông

Trà kể: “Suốt mùa mưa, từ tháng 5 đến tháng 10, hầu như tuyến trước bị cắt đứt hoàn toàn liên lạc với tuyến sau; đặc biệt là việc tiếp tế, vận chuyển tê liệt hoàn

toàn. Trong khi đó, địch sử dụng pháo đất từ Thái Lan bắn dai dẳng, ngày này qua

ngày khác vào khu vực có bộ đội ta, các trận địa, bãi mìn của địch bủa giăng khắp

nơi; anh em mình cứ đi ra khỏi địa bàn quen thuộc là vướng mìn, thương vong rất nhiều. Xuống các bệnh xá, trạm phẫu của sư đoàn, bắt gặp nhiều chiến sĩ trẻ trung,

khôi ngô bị mìn nổ tiện mất chân, có đồng chí cụt cả hai chân, tôi không cầm được

nước mắt, thấy mình chưa làm tròn trách nhiệm với anh em. Và cũng thật đớn đau,

sau một mùa khô, một mùa mưa, giật mình thấy hàng ngũ của anh em mình thưa thớt, trống vắng mất một phần”

559

.Ở nơi hòn tên mũi đạn, bữa cơm người lính, theo ông Trà, chỉ gạo mục, cá khô mục, thịt ôi. Động viên anh em cũng chỉ tăng gia được một ít rau xanh để cải thiện

bữa ăn, có thêm tí chất rau. Khí hậu thì khắc nghiệt, sốt rét, sốt rét ác tính cứ như

“thần chết cầm lưỡi hái” đứng chờ mỗi ngày. Người lính cần vụ của Tướng Trà đã bị

sốt rét, chết khi mới mười tám tuổi. Ông Phạm Văn Trà kể: “Riêng tôi, mặc dù không bị sốt rét quật ngã, nhưng

cũng đã nếm trải những cơn sốt kinh khủng. Sợ nhất là đang xuống đơn vị, cắt rừng

kiểm tra trận địa phòng ngự của bộ đội, bất thần cơn sốt ập đến, người run lên bần

bật, mắt hoa lên, bước đi lẩy bẩy, anh em không kịp dìu thì khuỵu xuống giữa đường, giữa rừng. Bộ đội ốm đau, bị thương do pháo, mìn, nhiều trường hợp bình

thường, nếu cấp cứu kịp, chữa trị chu đáo sẽ qua khỏi, nhưng vì không chuyển được

về tuyến sau nên đành nằm lại chịu chết”. Đặc biệt trong mùa khô, theo Tướng

Phạm Văn Trà, nước uống thiếu “là nỗi đe dọa kinh hoàng”. Ông Trà kể: “Tôi đã nghe cán bộ, chiến sĩ đơn vị kể lại những chuyện rất thương tâm: bộ đội khát nước bò lê trên đất, gặp cây gì xanh, mềm đều dùng răng gặm, may chăng kiếm được

giọt nước. Khi đó, mọi phản xạ của con người gần như là bản năng. Cũng có trường

hợp bộ đội chết khát, rất đau lòng”

560

.Mùa khô cũng là mùa tác chiến quan trọng nhất. Trận đánh ngày 25-5-1984 của Sư đoàn 330 mở màn đợt tấn công mùa khô 1984 được coi là thắng lợi, nhưng theo

ông Phạm Văn Trà, để có chiến thắng đó, Sư đoàn đã phải trả giá rất đắt: 103 cán

bộ, chiến sĩ hy sinh, 485 bộ đội bị thương. Bốn căn cứ của Khmer Đỏ bị chiếm, thu

giữ hơn 300 khẩu súng. Nói là “loại khỏi vòng chiến đấu 700 tên Khmer Đỏ” nhưng trong những trận đánh như thế, Khmer Đỏ đều chủ động bỏ chạy để bảo tồn lực

lượng, số sinh lực địch bị tiêu hao là rất ít.

Mùa khô 1983-1984, Khmer Đỏ tổ chức “cuộc phản kích thứ hai” nhưng thất bại.

Mùa khô 1984-1985, quân đội Việt Nam mở một chiến dịch lớn đánh thẳng vào căn cứ địa của “ba phái Khmer phản động” nằm trên đường biên giới, trong đó có những

phần nằm sâu vào đất Thái Lan, phá hủy mười sáu căn cứ của “ba phái Khmer”.

Sau đó, Tướng Lê Đức Anh chủ trương đưa “quân đội và nhân dân bạn” ra làm chủ

biên giới bằng cách cho xây dựng Công trình K5: phát quang hơn 800km đường biên làm tuyến tuần tra, sau đó cho trồng tre, đào hào, gài mìn, dựng lên một hàng

rào ngăn Pol Pot thâm nhập từ các căn cứ trên phần đất Thái Lan sang.

Theo tướng Mai Xuân Tần, trưởng Đoàn Chuyên gia 478: “Làm K5 có ý nghĩa rất

rõ và thiết thực. Một là, có công trình phòng thủ biên giới thì các đơn vị vũ trang của bạn mới cảm thấy vững tâm hơn, từ đó mới dám tự lực bảo vệ tuyến đường

biên, và như vậy quân tình nguyện của ta mới rảnh ra thực hiện nhiệm vụ của đơn

vị chủ lực cơ động chiến lược. Hai là, nếu lúc đó bảo bạn đứng ra tổ chức những

trận đánh lớn hoặc một chiến dịch lớn, một cuộc vận động cách mạng lớn thì bạn chưa làm được. Nhưng bảo bạn đứng ra tổ chức cho dân cò cây, đào hào, trồng tre

làm thành đường tuần tra biên giới thì bạn làm được và dần dần làm tốt

561

.

Rào

biên

giới

để

ngăn

giặc

một

kế

hoạch

táo

bạo.

Nhưng

Thái

Lan

Campuchia có một đường biên dài hàng nghìn cây số, núi cao, rừng thiêng; Khmer Đỏ cũng không phải là con nai hay con trâu mà là những chiến binh áo đen. Từ

những Preah Vihear, Dangrek, Pailin, Poi Pet, Phnom Malai, Anlong Veng,… những

bóng đen ấy vẫn thoắt ẩn, thoắt hiện, qua lại biên giới như con thoi; Pol Pot tiếp tục

lập căn cứ sâu bên trong lãnh thổ Campuchia sau khi có K5.

Tướng Mai Xuân Tần giải thích: “Việc tổ chức Công trình K5 là nơi thực tế để tập dượt cho bạn biết làm công tác vận động và tổ chức quần chúng”. Nhưng không

phải tự nhiên mà “hồi đó và cả bây giờ vẫn có một số đồng chí thắc mắc và cho

rằng K5 là tốn kém và không cần thiết

562

.

Trên thực tế, “K5” đã từng là nỗi sợ hãi

của người Campuchia. Để làm K5, theo ông Ngô Điền: “Ta đã thúc đẩy bạn huy

động khoảng bảy triệu ngày công của quần chúng từ các tỉnh hậu phương đi xây

dựng phòng tuyến biên giới”. Hàng chục vạn dân công, phối hợp với bộ đội của Heng Samrin trên Công trường

K5 không chỉ là những mục tiêu sống của Khmer Đỏ mà còn là của sốt rét, bệnh

tật. Phần thì bị phục kích, đánh úp, phần bị sơn lam, chướng khí, không thể tính hết

con số thường dân Campuchia bị thương bởi mìn, bị chết bởi súng đạn và đau ốm, trong cuộc “tập dượt làm công tác vận động quần chúng” này.

Sau K5, chiến sự càng ác liệt, nhất là khi hơn năm vạn quân tình nguyện Việt

Nam

được rút đi. “Từ năm 1983, bạn đảm đương được nhiệm vụ bảo vệ ấp, xã, thị

xã, thị trấn, trừ hai thành phố Phnom Penh và Kongpong Som; năm 1984, bạn tự đảm đương hoàn toàn bốn tỉnh, Svey Rieng, Prey Veng, Kongpong Cham, Kandal;

năm 1985, bạn tự đảm đương được một phần biên giới Campuchia-Thái Lan

563

.

Tuy nhiên, lực lượng Việt Nam đã phải dàn mỏng trên những vùng chiến trường rộng

lớn. Những người lính trực tiếp ở đơn vị chiến đấu cảm nhận rất rõ điều đó và đây là

trường hợp của Thượng úy Long.

Tháng 5-1986, Thượng úy Trần Hữu Long, đang là giáo viên quân sự ở trường Quân chính Quân khu VII, được

điều

sang chiến

trường Campuchia làm đại đội

trưởng Đại đội 11, Trung đoàn 4, Sư 5, Mặt trận 479. Long kể: “Đơn vị đóng ở nơi ác liệt nhất, nhưng vũ khí vẫn rất thiếu thốn. Đại đội tôi có 110 người mà chỉ còn

chín mươi khẩu súng; theo lý thuyết thì hỏa lực phải được trang bị tới tận phân đội

nhưng tiểu đội thì có B40, trung liên, tiểu đội không”.

Đóng quân ở bìa rừng, nơi lực lượng Khmer Đỏ thường từ Thái Lan vượt biên giới vào bên trong đất Campuchia. Long kể: “Chiến tranh như trò đùa, chúng tôi thì cứ

phơi mặt ra, trong khi Khmer Đỏ lại lẩn khuất trong bóng đêm, trong dân. Từ biên

giới luồn qua, tụi lính Pol Pot lại dừng lại đánh nhau với tụi tôi một chặp, sau đó đi

về lại bắn nhau thêm một chặp nữa. Chúng tôi phải đắp tường và đào hào vây

quanh doanh trại theo kiểu pháo đài. Loại pháo đài tường đất với những ngôi nhà tranh tre chỉ cần một phát B40 là cháy rụi”.

Sự ác liệt mà những người lính ở Campuchia đã phải trải qua là không thể định

lượng. Đánh chiếm một căn cứ của Khmer Đỏ thì có vẻ như rất dễ, nhưng tiêu diệt

lực lượng Pol Pot thì rất khó. Có những đơn vị Quân Tình nguyện Việt Nam đã từng bị “xóa sổ”. Thượng úy Long kể: Đầu mùa khô năm 1986, trung đoàn tổ chức truy

lùng địch, đại đội tôi được giao ở nhà giữ cứ. Tối, tôi qua Đại đội 13, anh em kêu

ngồi

vàouốnglyrượutiễn.Đangăn,ĐạiđộitrưởngThụhỏi:“CònđạnK54

không?”. Tôi rút nguyên băng đạn từ khẩu K54 bên hông đưa cho Thụ. Trưa hôm

sau ra phum, thấy mấy người già Khmer ngồi khóc, nói: “Bộ đội ông Thụ chết hết

rồi”. Toàn bộ lực lượng Đại đội 13 tham gia trận đánh bị hy sinh, chỉ còn một người

lính vác chân đại liên sống sót. Đêm ấy, gần 300 lính Khmer Đỏ bị Trung đoàn 4

bao vây, dồn đánh. Chúng buộc phải mở đột phá khẩu. Nơi chúng chọn nằm trong

phạm vi chốt chặn của Đại đội 13. Những tên lính Khmer Đỏ hung hãn nã B40 như vãi xuống những người lính đang phơi lưng giữa đồng trống. Người lính sống sót về

kể rằng, trước khi chúng đến, anh kịp nằm sấp xuống, kéo xác đồng đội đè lên.

Lính Khmer Đỏ lần lượt bắn bồi vào những cái xác bộ đội Việt Nam, nhưng không

hiểu sao anh sống sót. Sáng hôm sau, người dân đưa xe bò vào rừng chở về bốn mươi xác bộ đội trong đó có cả “Đại đội trưởng Thụ”.

Sau trận ấy, Thượng úy Long triệu tập đơn vị nói, lực lượng mỏng, chúng ta có

thể bị đánh bất cứ lúc nào. Rồi ra lệnh mở kho đạn, nâng cấp báo động, đặt đơn vị

trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Đầu năm 1987, một tiểu đoàn Pol Pot xuất hiện trong khu vực đại đội Long đóng quân. Lúc này, Long đã chuyển sang chỉ huy Đại

đội 12. Người dân trong phum nói: “Ông Long ơi, nó chuẩn bị đánh bộ đội 12 đó”.

Nguôn, tiểu đoàn trưởng Khmer Đỏ, nhắn qua dân: “Nói ông Long chỉ cần ra

khỏi doanh trại, bước qua bìa phum là tôi bắn”. Thượng úy Long nhắn lại: “Nói ông Nguôn có giỏi thì cứ đưa quân về đây”. Khmer Đỏ không đánh ngay mà cứ dấm dứ

hàng tháng trời hòng đặt bộ đội của Thượng úy Long trong trạng thái căng thẳng

kéo dài cho đến khi mệt mỏi. Bộ đội của Long vẫn thường nghêu ngao hát: “Pot ở

đầu phum / Ta cuối Phum / Uống chung dòng nước thối um um / Lên đây đã trải

bao mùa lúa / Pot vẫn đầu phum ta cuối phum”

564

.

Thượng úy Long kể: “Đêm Campuchia tối tới mức ngửa lòng bàn tay ra đưa lên

trước mặt cũng không nhìn thấy. Khi hành quân đêm, chúng tôi phải bắt con sâu đất có ánh lân tinh quệt lên ba lô của người lính trước mặt để bám theo nhau. Đêm

đi qua trảng trống, nếu lỡ tụt lại phía sau phải nằm sát mặt đất may ra mới nhìn

thấy bóng những người lính hành quân in trên nền trời”. Những khoảnh khắc hay bị

phục kích nhất là ở thời điểm trăng vừa lên, Khmer Đỏ phục sẵn chỉ chờ có ánh sáng nhận rõ mục tiêu là bắn. Khi tiểu đoàn Khmer Đỏ của Nguôn vẫn thập thò

ngoài rừng, Long kể: “Cứ hai tiếng một lần, tôi lại phải dậy đi một vòng đốc gác.

Tiền đồn tối như mực mà không có lấy một trái hỏa châu. Khmer Đỏ áp sát hàng

rào cũng khó lòng nhìn thấy”. Sau bốn ngày bị bao vây, “bộ đội 12” căng như dây đàn nhưng đám lính Khmer

Đỏ vẫn chưa khởi chiến. Trung đoàn 4 lúc đó cũng không còn khả năng chi viện vì

lực lượng đã bị dàn mỏng. Tiểu đoàn nhắn xuống: “Tập trung phòng thủ cho tốt”.

Khoảng 4:30 sáng, Thượng úy Long đi đốc gác lần cuối, thấy anh em chấp hành nghiêm, anh trở về lán. Long kể: Vừa đặt lưng, tôi nghe tiếng AK nổ phát một bụp,

bụp. Chưa kịp nhảy ra thì quả B40 thứ nhất nổ sát nóc nhà sở chỉ huy. Tôi phóng

xuống hầm.

Nghe đạn của tụi Pol Pot bắn hết cỡ mà không thấy tiếng súng bắn trả của anh em mình. Tôi nói với cậu liên lạc: không ra đánh là chết hết. Vừa dợm chân ra thì

một trái B40 nổ ngay cửa hầm hất mình trở lại. Nhìn thấy miệng cậu liên lạc mấp

máy, tôi hét lên: “Tao còn sống, đánh!”. Ra khỏi hầm, thấy hàng chục nóc nhà

đang bốc lửa. Một nhóm bộ đội đang vác khẩu cối 82 chạy ra phía sau. Long hét: “Dựng nòng, bắn cấp tập”. Hô xong vẫn không nghe tiếng cối, Long quát: “Không

bắn, tao bắn tụi bây bây giờ”. Quát xong nhìn lại, thấy miệng khẩu cối chớp liên

tục, anh em không kịp gá chân, cứ thế dựng nòng, thả đạn. Khi ấy, Long mới biết

tai mình đã điếc. Chạy xuống Trung đội 1, thấy một chiến sỹ bị thương lòi ruột, anh em đang lấy

bát úp bụng băng lại. Ở Trung đội 2, Trung đội trưởng Nê bị một viên đạn xuyên

qua ngực, chết trong khi tay ôm chặt một chiếc gối hồng. Đại đội trưởng Long giật

mình. Chỉ hai ngày trước, khi nhìn thấy chiếc gối, Long đùa: “Ai tặng đây?”. Nê tự hào: “Người yêu em tặng. Có chết em cũng sẽ ôm theo chiếc gối”. Người yêu của Nê là một cô gái người Khmer mới quen. Người lính có mặt trong giờ phút trung đội

trưởng Nê hy sinh kể: “Anh ấy đang chỉ huy thì khựng lại, máu rỉ ra từ một vết nhỏ

trên ngực. Ngay lập tức anh ấy bảo em vào hầm lấy chiếc gối, rồi ra lệnh: Bắn! Anh

ấy ôm chặt chiếc gối cho đến khi mặt tái lại và lịm dần”. Trời sáng, lực lượng Khmer Đỏ rút lui. Ở Trung đội 3, hai người lính đang cố

gắng để nâng xác một đồng đội bị B40 xé nát một mảng lưng. Lửa vẫn cháy ở gần

như tất cả những ngôi nhà của đại đội. Ba người lính hy sinh, ba người khác bị

thương. Xác anh em được đưa về Sở Chỉ huy. Long lấy khăn lau mặt cho từng tử sỹ rồi đợi xe bò của người Khmer vào đưa xác những bộ đội xấu số lên trung đoàn.

“Đêm khô như tiếng mõ trâu / Rừng khô như tờ bánh tráng / Trời không một tia gió

thoảng

565

.

Mùa khô ở Campuchia, đất sắt lại, phải hai ba người đào một ngày mới

được một cái huyệt để chôn đồng đội.

Ngay cổng chính, xác một lính Khmer Đỏ bị bắn chết khi đang vác khẩu B40 với

viên đạn đã sẵn sàng nhưng chưa kịp bắn. Trên lưng hắn ta còn sáu quả đạn. Tiếng AK “bụp” phát một mà Long nghe khi vừa trở về chỗ nằm là của người lính mà anh

vừa gặp khi đi đốc gác. Nếu anh bộ đội để cho tên lính Khmer Đỏ mang bảy quả

B40 ấy lọt qua hàng rào thì thế trận có nguy cơ vỡ. Đêm ấy, lực lượng Pol Pot chỉ

tấn công ba mặt, chừa một mặt để, nếu “bộ đội 12” bỏ chạy, sẽ rơi trọn vào bẫy phục kích của chúng. Đấy là trận tập kích khốc liệt nhất của Khmer Đỏ vào nơi đóng

quân của “bộ đội 12” nhưng không phải là trận đánh duy nhất. Thượng úy Long đến

Mặt trận 479 tháng 5-1986, từ đó cho tới giữa năm 1987 anh chỉ huy đơn vị phản

công, phục kích và truy kích Khmer Đỏ tổng cộng sáu mươi tám trận.Cùng thời gian ấy, có tin đồn ở Sài Gòn rằng Long hy sinh. Mẹ Long, bà Đỗ Thị

Bích Hà, đến Phòng Cán bộ Quân khu nhiều lần để hỏi thăm. Nhưng thông tin liên

lạc tới chiến trường, nhất là tới những đơn vị đóng sát biên giới Thái Lan như đơn vị

Long là hết sức khó khăn. Sau ba tháng hỏi han, mẹ Long chỉ được cho biết: Vào thời gian ấy tại Mặt trận 479 có ba thượng úy tên Long chết.

Tháng 8-1987, Trần Hữu Long có lệnh rời chiến trường.

Nghe tin Long về nước,

Tuân, người nhận bàn giao chức đại đội trưởng Đại đội 11 từ Long, cho liên lạc cắt

rừng, gửi anh một lá thư ngắn: “Mình được tin Long về nước mà không gặp được. Chỉ

Long

về

nhà, hạnh

phúc”. Tuân và Long

đã từng

mắc võng

nằm trò

chuyện với nhau suốt đêm ngoài rừng. Đấy là lá thư cuối cùng giữa hai người.

Khi Long về tới Bộ Chỉ huy Sư đoàn 5, xác của Tuân và một người phó của anh cũng vừa được đưa về Sư đoàn bộ. Ở chiến trường có những cái chết không thể nào

lường trước. Tuân không chết bởi Khmer Đỏ mà chết bởi đạn của một chiến sỹ,

trong cơn kích động do chịu đựng căng thẳng kéo dài, đã mất trí bắn vào đồng đội.

Cho đến nay, người dân vẫn không được biết chính xác có bao nhiêu “quân tình nguyện” đã hy sinh ở Campuchia. Con số bộ đội Việt Nam bị chết, bị tàn phế bởi

mìn zip và mìn K58 trong mười năm ở đây lên đến hàng trăm nghì566

.

Các văn kiện của Đảng và Nhà nước Việt Nam lúc đó mô tả: “Đất nước vừa có hòa bình vừa có

nguy cơ xảy ra chiến tranh”.

Nhưng không chỉ là nguy cơ. Đưa quân sang Campuchia là để giữ cho không

gian chiến tranh ở xa biên giới Tây Nam, vậy mà ở những quân y viện Sài Gòn, Cần Thơ vẫn tấp nập thương binh. Những người lính ở “Chiến trường K” lâu ngày bặt tin

đã đưa không gian chiến tranh tràn về những làng quê, góc phố.

“Xuất khẩu cách mạng”Năm 1978, Ouk Bun Xươn, bí thư một vùng ở Quân khu Đông, cầm đầu một

nhóm Khmer Đỏ chạy sang Việt Nam. Ouk Bun Xươn đề nghị Việt Nam giúp xây

dựng một “khu giải phóng” dọc biên giới, giúp xây dựng lực lượng vũ trang, từ đó,

những người Khmer sẽ tự chiến đấu để “giải phóng Campuchia” khỏi chế độ Khmer Đỏ. Theo ông Ngô Điền, phó Ban B68, “đề nghị hợp lý này đã không được chấp

nhận”.

Bắt đầu từ tháng 6-1978, ông Lê Đức Thọ vào Sài Gòn lập ra Ban B68, ban chỉ

đạo “giải quyết chiến tranh biên giới Tây Nam và làm nhiệm vụ quốc tế giúp bạn”. Theo Tướng Lê Đức Anh: “Ông Lê Đức Thọ là người thiết kế từ đầu, là người quyết

định những vấn đề lớn như xây dựng lực lượng, phương thức tiến hành, phương án

chiến đấu, điều binh khiển tướng”.

Khi chính quyền Khmer Đỏ tháo chạy, người dân Campuchia đang ở trong các công trường giống như những trại tập trung thời Đức Quốc xã, run rẩy, đói khát, hôi

hám. Công việc của bộ đội Việt Nam trong mấy ngày đầu chủ yếu là cứu đói và cứu

sống hàng vạn người Khmer đang thoi thóp. Những hố chôn người tập thể, những

giếng nước đầy xương người có thể tìm thấy tại hàng ngàn phum, sóc của đất nước

nhỏ bé này. Sau hơn ba năm chín tháng sống dưới bàn tay Pol Pot, Campuchia thực sự trở

thành những “cánh đồng chết”. Hàng triệu người bị hành quyết hoặc bị hành hạ cho

đến chết trong các công xã và trên những đại công trườn

567

.

Bộ đội Việt Nam đã

giúp từng người dân tìm lại nhà, tìm lại những người sống sót trong gia đình, mang

từng hạt bắp, hạt đậu từ Việt Nam sang để người dân Campuchia khôi phục công

việc đồng áng. Những “hạt giống cách mạng” cũng đồng thời được mang tới, hình thành ở Campuchia một chế độ theo đúng mô hình Việt Nam.

Các đơn vị quân tình nguyện Việt Nam đứng chân ở đâu có nhiệm vụ giúp lập

nên chính quyền ở đấy. Tiểu đoàn, đại đội, “giải phóng huyện” thì giúp lập ra chính

quyền cấp huyện, tiểu đội “giải phóng xã” thì giúp từng xã lập nên chính quyền tạm thời gọi là “ủy ban tự quản”. Những người “thù Pol Pot, không có nợ máu với dân,

đoàn kết với Việt Nam” có thể được cơ cấu vào các ủy ban này.

Những người lính Việt Nam trong độ tuổi hai mươi chưa từng lập gia đình, chưa

từng một ngày “làm quan” bỗng nhiên trở thành “chuyên gia” ở xã và có khi ở huyện. Ông Lê Đức Thọ muốn dựng lên ở Campuchia một bộ máy hoàn chỉnh, theo

mô hình Việt Nam, mặc dù ông chỉ tập hợp được vẻn vẹn sáu mươi mốt cán bộ

người Khmer trước khi “Phnom Penh giải phóng”.

Cuối năm 1978, báo chí Việt Nam dồn dập đưa tin về các lực lượng nổi dậy, về “Mặt trận Đoàn kết Dân tộc Cứu nước Campuchia”, liên tục phát thanh những “lời

kêugọi”

củaHengSomrin,CheaSim.Nhưngchotớilúcđó,trênlãnhthổ Campuchia không hề có nổi dậy, chỉ có những cuộc đào thoát của người Campuchia

đến Việt Nam. Tháng 9-1978, những người đào thoát này mới được tập hợp lại

thành “đoàn đại biểu lực lượng nổi dậy đến thành phố Hồ Chí Minh” yêu cầu Việt

Nam giúp đỡ. Theo ông Ngô Điề

568

:

“Lãnh đạo Việt Nam lúc đó rất khó mà đánh giá các nhóm

từ Campuchia sang nên điều dễ hiểu là phải dành sự tin cậy của mình cho những nhóm cán bộ năm 1954 tập kết ra Bắc. Oái oăm là những cán bộ tập kết có tầm cỡ

đã lần lượt được đưa về lại Campuchia từ 1970 và đã lần lượt bị bọn Pol Pot thủ

tiêu. Những người còn sót lại tới năm 1978 là những cán bộ rất khó sử dụng. Anh

Lê Đức Thọ đã dùng cụm từ ‘vơ bèo, vạt tép’ nhưng cũng chỉ kiếm được khoảng bốn mươi người”

569

.

Ông Ngô Điền thừa nhận: “Thực tế là ta dựng lên nhóm lãnh đạo

bảy người; ta dựng lên Ủy ban Trung ương Mặt trận Đoàn kết Dân tộc Cứu nước

mười bốn người; ta viết cương lĩnh Mặt trận 11 điểm; ta tổ chức lễ ra mắt của Mặt trận ở vùng Mimot ngày 2-12-1978”.

Chỉ có khoảng hai mươi cán bộ trong “lực lượng nổi dậy” được quân đội Việt Nam

mang theo khi tiến vào Phnom Penh. Theo ông Ngô Điền: “Ta tuyên truyền như là

một cuộc tổng tiến công và nổi dậy của bạn, có sự giúp đỡ quân sự của Việt Nam. Sự thực, sau khi Phnom Penh giải phóng rồi, đội quay phim quân đội của ta đã bố

trí quay cảnh một cánh quân Cách mạng Campuchia, thực ra là chiến sĩ Việt Nam

mặc quân phục Campuchia, ngày 7-1-1979, tiến nhanh dưới lá cờ đỏ năm tháp

vàng xông vào chiếm hoàng cung giống như cảnh đánh chiếm Cung điện Mùa đông trong Cách mạng tháng Mười”

570

.Tối ngày 8-1-1979, thế giới nghe được tuyên bố thành lập “Hội đồng Nhân dân Cách mạng Campuchia” của những người nổi dậy. Nhưng sự thực thì vài giờ trước

đó, theo ông Ngô Điền: “Tại Bộ Tư lệnh Quân khu VII, ông Lê Đức Thọ mới chủ trì

một cuộc họp gồm lãnh đạo B68 và Tiền phương Bộ Quốc phòng để xem xét lần

cuối danh sách chính phủ mới của Campuchia trước khi công bố. Cuộc họp không có bạn Campuchia tham dự. Ta đã quyết định không gọi là ‘chính phủ’ mà gọi là ‘Hội

đồng Nhân dân cách mạng’. Việc lớn mà ta quyết định nhanh như vậy và mọi người

xem như bình thường

571

.

Mãi tới ngày 20-1-1979, tại Nhà khách 14 Võ Văn Tần, ông Lê Đức Thọ mới làm

tiệc tiễn hơn bốn mươi cán bộ người Campuchia còn lại về Phnom Penh chấp chính.

Trong số đó có bảy nhân vật chủ chốt: Pen Sovan, Chea Xim, Heng Samrin, Van Xôn, Bou Thong, Nan Xarin tức Chan Kiri và Hun Sen.

Tư tưởng nước lớn

Từ cuối tháng 1-1979, ông Đỗ Mười cùng một số chuyên viên đã được đưa sang Phnom Penh. Ngày 11-2-1979, toàn bộ “Trung ương bạn” có mặt ở Hoàng cung dự

họp với Lê Đức Thọ, Đỗ Mười và các thành viên B 68. Ông Đỗ Mười trình bày một dự

thảo hiệp định theo đó, Việt Nam sẽ viện trợ cho Campuchia 400 triệu đồng, tương

đương với 60-70 triệu USD theo thời giá. Một tuần sau, Thủ tướng Phạm Văn Đồng bay sang, ký với Chủ tịch Heng Samrin một hiệp ước có giá trị trong vòng hai mươi lăm năm gọi là “Hiệp ước Hòa bình Hữu nghị và Hợp tác”, theo đó, “Campuchia yêu

cầu Việt Nam để quân tình nguyện ở lại”.

Một năm sau khi đánh sang Campuchia, ông Lê Đức Anh được thăng quân hàm

từ trung tướng lên thượng tướng. Ngày 20-5-1981, Quân ủy Trung ương quyết định thành lập Bộ Tư lệnh Quân Tình nguyện Việt Nam tại Campuchia, lấy phiên hiệu là

“Bộ Tư lệnh 719”. Ông Lê Đức Anh, khi ấy đang là tư lệnh kiêm chính ủy Quân khu

VII, được bổ nhiệm làm tư lệnh Quân Tình nguyện.

Vừa làm tư lệnh 719, ông Lê Đức Anh vừa trực tiếp làm trưởng Đoàn Chuyên gia quân sự 478, cơ quan giúp hình thành Bộ Quốc phòng và xây dựng lực lượng vũ

trangCampuchia.

Bêncạnhlựclượng“QuânTìnhnguyện”còncómột“Đoàn Chuyên gia” giúp xây dựng hệ thống chính quyền dân sự, có mật danh là B68, do

ông Trần Xuân Bách, ủy viên Trung ương Đảng phụ trách. Tháng 3-1982, tại Đại hội

Đảng lần thứ V của Việt Nam, ông Trần Xuân Bách vào Ban Bí thư trở về Hà Nội làm

chánh Văn phòng Trung ương; ông Lê Đức Anh được bầu vào Bộ Chính trị, trở lại Campuchia, thống lĩnh cả Đoàn Chuyên gia B68 và Quân Tình nguyện.

Những năm ấy ở Việt Nam, kinh tế thì kiệt quệ, kinh nghiệm thì chỉ có cơ chế

quan liêu, bao cấp. Vậy mà mô hình chính trị, kinh tế, văn hóa mà chính Việt Nam

cũng đang cần phải đổi mới ấy lại được đưa sang áp đặt ở Campuchia, một quốc gia vốn rất khác biệt về văn hóa và đã quá hoảng sợ chính quyền vô sản từ thời Khmer

Đỏ.

Những người Việt Nam làm “nhiệm vụ quốc tế” ở Campuchia, theo tướng Lê Đức

Anh, còn mắc phải “tư tưởng nước lớn”. Từng cán bộ Việt Nam, đặc biệt là đội ngũ “chuyên gia giúp bạn”, biết rõ nguồn gốc lý lịch của từng cán bộ người Campuchia.

Thật khó để bỗng chốc họ có được thái độ đúng mực với những người vừa được đưa

lên lãnh đạo ở tầm quốc gia ấy.

Những người thực sự có năng lực và đã từng nắm giữ những chức vụ cao trong hàng ngũ Khmer Đỏ chạy sang Việt Nam thì chưa được tin cậy. Trong giai đoạn

1979-1981, nhóm “tập kết” được ông Lê Đức Thọ giao nắm giữ các chức vụ tổng bí

thư, chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, bộ trưởng Bộ Quốc phòng; 3/8 ủy viên Bộ chính

trị; 8/17 bộ trưởng; 7/29 chủ tịch, bí thư tỉnh, thành. Những người tập kết từ miền Bắc Việt Nam đưa về trình độ rất giới hạn. Người

được chọn “cầm cờ” là Pen Sovan cũng chỉ vốn là trưởng Phòng tiếng Khmer ở Đài

Tiếng nói Việt Nam. Người sau đó thay Pen Sovan giữ chức chủ tịch Hội đồng Bộ

trưởng, ông Chan Si, khi ở Việt Nam chỉ là trưởng một phân xưởng của nhà máy

nhiệt điện Việt Trì, Vĩnh Phú. “Tư lệnh Binh đoàn I” và sau đó là chủ tịch thành phố Phnom Penh, Khang Sarin, nguyên là một thượng úy ở Thị đội Sơn Tây. Khi được Lê

Đức Thọ kêu, Khang Sarin đã về hưu, đang đi cọ rửa thùng phuy với tiền công hai

đồng một cái. Men Som Ol, từ một nữ y tá hai mươi sáu tuổi ở Quân khu VII, được

ông Lê Đức Anh đưa về làm cục phó Cục Cán bộ Bộ Quốc phòng. Som Sosor, người gác cổng một nhà máy, được ông Lê Đức Thọ bố trí làm bí thư tỉnh Kongpong Speu.

Mọi quyết định về nhân sự cao cấp của Campuchia đều do một tay ông Lê Đức

Thọ. Sau ngày 20-1-1979, “Ban Xây dựng đảng”, chỉ mới hình thành trước đó mấy

ngày, được ông Thọ gọi là “Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia” và theo ông Ngô Điền, Pen Sovan được ông Lê Đức Thọ gọi là tổng bí thư, cùng với

Chia Xim, Van Xon hợp thành Ban Thường vụ. Nói là trung ương, là ban thường vụ,

nhưng theo ông Ngô Điền: “Trên thực tế chẳng mấy khi họp, mọi quyết định lớn

đều do phía ta làm rồi truyền đạt cho Pen Sovan, Pen Sovan nêu ra với Trung ương như là ý kiến của Ban Thường vụ. Cái đầu thực sự là Đảng Cộng sản Việt Nam, cụ

thể là Lê Đức Thọ. Làm giúp chỉ là cách nói thôi, trên thực tế là làm th

ay”

572

.

Từ thực tế này, ông Ngô Điền thừa nhận tâm lý coi thường của cán bộ Việt Nam là

không tránh khỏi.

Ông Ngô Điền là đại sứ kiêm cố vấn cho Bộ Ngoại giao Campuchia. Bộ trưởng là

Hun Sen, năm ấy mới hai mươi bảy. Ngô Điền là người hướng dẫn cho Hun Sen từ cách cầm từng cái ly, cái nĩa. Khi đã được đưa lên làm chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng,

năm 1985, giữa công khai, Hun Sen vẫn giới thiệu ông Ngô Điền với mọi người:

“Đây là người thầy vĩ đại của tôi”. Bộ Ngoại giao Campuchia trong những ngày đầu

chỉ có một bộ trưởng, một chuyện gia, mọi văn kiện, từ thư của Chủ tịch Heng Samrin gửi các nguyên thủ quốc gia, đến các tuyên bố quốc tế quan trọng đều do

một tay ông Ngô Điền thảo. Ông Điền thừa nhận: “Có lúc phải viết bằng tiếng Pháp

cho kịp thời gian”. Ngay cả khi Đại sứ Ngô Điền “trình quốc thư” lên “Quốc trưởng”

Heng Samrin, mọi hoạt động, kể cả việc “Quốc trưởng tiếp thân mật đại sứ” đều do chính ông Ngô Điền sắp đặt

573

.Hun Sen thuộc trong số những người khi về Phnom Penh là ý thức được vai trò “chủ thể của nước Cộng hòa Nhân dân Campuchia”. Từ một người không biết gì về ngoại giao, nhờ thông minh, năng động và chịu khó học, Hun Sen đã trở thành một

nhà ngoại giao thực sự. Ông Ngô Điền kể: “Mỗi lần tôi gặp đều tranh thủ giải thích

thêm những vấn đề có liên quan. Hun Sen chăm chú lắng nghe, chỗ nào không rõ

thì hỏi lại, không giấu dốt”. Ngược lại, cũng có những người, theo ông Ngô Điền: “Thoắt cái nhảy lên địa vị

mới, nắm trong tay nhiều quyền lực, họ sống như trong giấc mộng… Quên mất

mình vốn chỉ là những bình vôi vô danh, được đưa đặt dưới gốc cây đa, do có hương

đèn cúng vái mà thành thần… Rất nhanh chóng, họ trở thành những người lạm dụng chức quyền, sống buông thả theo tiền, theo gái”

574

.

Điển hình trong số đó là

Pen Sovan. Theo ông Ngô Điền: “Pen Sovan thường lên mặt lãnh tụ thông thạo, đôi lần còn giảng giải lại cho tôi… Và, chẳng mấy chốc, đã bộc lộ tham vọng làm một

lãnh tụ độc tài

575

.

Cho dù nói là “giúp bạn chân thành và vô điều kiện”, nhưng những người thực sự nắm quyền lúc đó ở Campuchia cũng không thể chấp nhận

cung cách của Pen Sovan. Ngày 2-12-1981, Pen Sovan bị b

ắt

576

.

Không ai phủ nhận Khmer Đỏ là một chế độ diệt chủng, và cho dù lên án Việt

Nam “xâm lược”, chính Sihanouk cũng phải thừa nhận Việt Nam đã cứu nhân dân

Campuchia thoát khỏi bàn tay Pol Pot. Trong hơn mười năm ở lại Campuchia, những

người lính Việt Nam đã làm nhiều việc để ngăn cản Pol Pot quay trở lại. Họ hy sinh rất nhiều xương máu. Nhưng đồng thời họ cũng can thiệp vào không ít quyết định

của Chính quyền Campuchia. Chính “tinh thần quốc tế vô sản” này đã dẫn đến khá

nhiều sai lầm, trong đó có “sai lầm Seam Riep”.

Mùa khô năm 1982-1983, Khmer Đỏ dùng thủ đoạn “phản tình báo”, cho một trung đoàn phó ra trá hàng. Kẻ trá hàng này khai có hàng loạt cán bộ trong chính

quyền Campuchia vừa làm việc cho Phnom Penh vừa làm cho Pol Pot. Ở Campuchia

lúc ấy, không chỉ có một số cá nhân, một số chính quyền địa phương cũng ngày thì

làm việc cho Heng Samrin, tối thì làm cho Pol Pot. Kiểu như vậy gọi là “chính quyền hai mặt”. Không phải ai tham gia “chính quyền hai mặt” cũng là để chống Việt Nam.

Trong một tình thế mà đêm đêm Khmer Đỏ vẫn từ trong rừng lẻn ra, sẵn sàng dùng

dao quắm chặt đầu những người Khmer trung thành với Việt Nam, thì “hợp tác” chỉ

là lựa chọn để tồn tại. Theo ông Lê Đức Anh: “Căn cứ vào lời khai của thằng trung đoàn phó trá hàng, anh em đã bắt và xét nhà một số cán bộ của bạn”.Khoảng bốn mươi cán bộ người Campuchia đã bị bắt vì âm mưu của một kẻ trá

hàng, hầu hết đều là cán bộ chủ chốt của chính quyền Seam Riep. Bí thư Tỉnh ủy

Seam Reap đã tự sát khi “các đồng chí Việt Nam” của ông đến bắt. Theo ông Ngô

Điền: “Việc bắt bớ, truy bức, tra tấn đã làm cho nhiều người dân và cán bộ chết oan, bị vùi dập. Chua xót biết bao khi nghe dư luận cán bộ bạn đặt câu hỏi: cán bộ

Việt Nam sao lại ác như vậy”. Một không khí hoang mang, lo sợ và oán giận Việt

Nam bao trùm Seam Reap rồi nhanh chóng lan ra khắp đất nước Campuchia.

Trước khi tiến hành “vụ Xiêm Riệp”, Bộ tư lệnh 719 đã “xin ý kiến cấp trên” ở Hà Nộ

577

.

Nguồn gốc của những sai lầm kiểu như vụ Seam Riep, theo ông Ngô Điền,

đều có căn nguyên từ “tư tưởng dân tộc nước lớn”. Ông Điền nói: “Biểu hiện rõ nhất của tư tưởng nước lớn là việc ta mặc nhiên tự cho mình cái vai trò làm lại cuộc cách

mạng Campuchia, sắp xếp từ đầu đến chân bộ máy Campuchia”. Ông Lê Đức Thọ

có thể vẫn ung dung trong buồng tắm trong khi một vị “nguyên thủ” Campuchia

ngồi đợi bên ngoài. Còn Tổng Bí thư Lê Duẩn thì đối xử với tổng bí thư của “bạn” không hề theo nghi lễ

578

.Bị cô lập

Khi đến Liên Hiệp Quốc, trong khi tố cáo “Việt Nam xâm lược”, Sihanouk đồng

thời cũng tố cáo “tội ác diệt chủng” của Khmer Đỏ. Tuy nhiên, thế giới dường như

chỉ chú ý đến sự hiện diện của gần hai trăm nghìn quân Việt Nam tại Campuchia, khía cạnh cứu “nhân dân Khmer” của cuộc chiến tranh thì không ai thừa nhận.

Người Mỹ khôi phục lại lệnh cấm vận thương mại, nhiều nước ASEAN quay qua

hậu

thuẫnchocáclựclượngKhmerchốngViệtNam.Saunăm1975,khiông

Nguyễn Cơ Thạch sang Bangkok, các bộ trưởng ASEAN được nói là sắp hàng đứng

chờ

bắttayông.SaungàyViệtNamcómặtởCampuchia,khiôngThạchtới

Bangkok, những người biểu tình gọi ông là “dog eater-kẻ ăn thịt chó”.

Tháng 4-1984, khi quân đội Việt Nam mở chiến dịch đánh vào căn cứ địa của

“ba phái Khmer phản động” nằm trên đường biên giới, trong đó có những phần nằm sâu trong đất Thái Lan, một máy bay trinh sát L19 của Thái đã bị trúng đạn phòng

không Việt Nam, một trực thăng khác bị bắn hỏng. Tháng 5-1984, pháo của quân

tình nguyện Việt Nam bắn sâu vào lãnh thổ Thái Lan, phần thuộc tỉnh Surin làm

chết và bị thương một số dân làng. Quan hệ với Thái Lan càng thêm căng thẳng. Theo ông Trần Quang Cơ, đại sứ Việt Nam tại Thái Lan đầu thập niên 1980, chính quyền Thái Lan lúc đó gắn bó rất chặt với Trung Quốc trong việc nuôi dưỡng Pol Pot

chống Việt Nam nên, hầu như không có tháng nào là không có những đám đông

biểu tình trước sứ quán hò hét phản đối Việt Nam “xâm lược Campuchia”, xâm

phạm lãnh thổ Thái. Sự căng thẳng giữa hai quốc gia đã dồn thêm nhiều áp lực lên cộng đồng Việt

Kiều. Các tỉnh Đông Bắc Thái Lan là nơi có nhiều người Việt từ hai tỉnh Hà Tĩnh và

Nghệ An tới làm ăn. Họ đã từng được Thái Lan chào đón. Cuối thập niên 1920,

Nguyễn Ái Quốc thường dừng chân tại đây để gây dựng cơ sở, truyền bá chủ nghĩa cộng sản trong cộng đồng và liên lạc với các phong trào trong nước. Đây cũng là

vùng có hàng ngàn người Thái cảm tình với chủ nghĩa cộng sản, nuôi ý đồ làm cách

mạng.

Năm

1947,

chính

phủ

thiện

cảm

với

Hồ

Chí

Minh

của

Thủ

tướng

Bridi

Banomyong bị thay thế bởi một chính phủ thân Mỹ. Lo sợ chủ nghĩa cộng sản nảy

nở, chính quyền mới ban hành luật cấm tuyên truyền cộng sản, cấm lập hội và không cho tự do ngôn luận. Vùng biên giới Đông Bắc Thái Lan bị thiết quân luật.

Người Việt ở đây, tuy vẫn được lưu dung, nhưng bị coi là “tị nạn bất hợp pháp”.

Theo ông Trần Quang Cơ: “Họ không được cấp ‘tàng-đạo’ - giấy chứng nhận

ngoại kiều - cũng không được nhập quốc tịch Thái. Mặc dù đã làm ăn sinh sống trên đất Thái hàng chục năm, hàng chục vạn người Việt vẫn bị quản thúc, muốn ra khỏi

nơi cư trú, muốn đến sứ quán ở Bangkok những dịp Tết Nguyên đán hay ngày Quốc

khánh, đều phải xin giấy phép. Đại sứ Việt Nam cũng không thể tới những tỉnh

Đông Bắc để thăm người Việt”

579

.

Năm 1979, khi đến Liên Hiệp Quốc, ông Hoàng Sihanouk đã dừng lại ở New York

khá lâu để chờ chấp thuận tị nạn. Nhưng sự im lặng của người Mỹ đã đẩy ông trở lại tay Trung Quốc. Tất cả các dinh thự mà người Trung Quốc và Bắc Triều Tiên tặng

ông ở Bắc Kinh và Bình Nhưỡng vẫn chờ đợi ông. Thoạt đầu, Sihanouk tuyên bố

“không bao giờ hợp tác với Pol Pot”. Sihanouk đã từng nói với Đặng Tiểu Bình:

“Ngài có thể mở tiệc chiêu đãi tôi, nhưng chúng ta đừng thảo luận về Pol Pot và Khmer Đỏ, nếu không, cuối cùng chúng ta sẽ ném cốc chén và bát đĩa vào mặt

nhau”. Nhưng, khi Trung Nam Hải để Đặng Dĩnh Siêu, bà quả phụ Chu Ân Lai, người

mà ông rất quý trọng, tiếp, ông Hoàng đã không còn khăng khăng nữa. Đặng Dĩnh

Siêu đã nói với ông: “Hãy quên những nỗi đau riêng của ngài đi”. Liên Hợp Quốc vẫn giữ chiếc ghế của Campuchia cho Pol Pot. Ngày 22-6-1982, tại Kualalumpur, Đảng Funcinpec của Hoàng thân Norodom Sihanouk đã ngồi lại với

Khmer Đỏ - những kẻ đã giết mười tám người thân của ông - cùng với Mặt trận Giải

phóng Dân tộc Nhân dân Khmer (KPNLF) của Son Sann, lập “Chính phủ Liên hiệp

Ba phái Campuchia Dân chủ” do Sihanouk làm chủ tịch. Lại một lần nữa Sihanouk đánh cờ cho “Trung Hoa”, củng cố vị thế chính trị cho lực lượng chủ yếu là Khmer

Đỏ.

Phương BắcSau khi ký Hiệp định Paris, Kissinger đã đến Việt Nam. Có nhiều giai thoại nói

rằngkhi

đó,Kissingercảnhbáo:từnay,mốiđedọacủaViệtNamsẽđếntừ phương Bắc. Tuy nhiên, khi trả lời phỏng vấn tác giả cuốn sách này, Cựu Ngoại

trưởng Henry Kissinger đã cười và giải thích: “Khi tới Hà Nội, Lê Đức Thọ dẫn tôi

đến bảo tàng lịch sử, ở đó chưa nói gì về chiến tranh với người Mỹ trong khi mô tả

khá chi tiết những lần xung đột với Trung Hoa. Anh nghĩ, Hà Nội còn cần tôi nói với họ điều mà họ đã thuộc làu qua lịch sử!”.

Cảnh giác với người Trung Hoa là điều có từ trong máu người Việt Nam. Nhưng,

trong lịch sử nghìn năm kháng cự để tồn tại với “Thiên Triều”, chưa có triều đại nào

lại công khai xác định Trung Quốc là “kẻ thù truyền kiếp và lâu dài” trong các văn kiện chính thức như thời Tổng Bí thư Lê Duẩn. Trong suốt thập niên Trung Quốc

đánh Việt Nam, Hà Nội vẫn giữ đại sứ tại Bắc Kinh và Bắc Kinh vẫn giữ đại sứ của

mình tại Hà Nội. Nhưng đó là một mối quan hệ không bình thường.

Theo Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc giai đoạn 1974-1987, ngay từ khi mới xảy ra vấn đề người Hoa, ông đã rất “vất vả với các trò trẻ

con của Trung Quốc”. Tướng Vĩnh kể: “Trung Quốc bố trí hai chiếc xe ô tô con luôn

luôn chầu chực ở hai cửa của sứ quán ta, cán bộ mình đi đâu nó theo đấy, ngay đại

sứ đi nó cũng đi theo. Có lần tôi ngồi xe có cắm cờ Việt Nam đi từ sứ quán ta ra, đi được một đoạn, mặc dù đồng chí Quảng đang lái rất nghiêm chỉnh, đúng luật, thế

mà cảnh sát Trung Quốc lại thổi còi bắt dừng xe, rồi bắt lái xe xuất trình giấy tờ.

Giấy tờ đủ cả! Rồi họ cũng phải cho đi tiếp vì không biết làm cách nào, không tìm ra

cái gì để bắt bẻ nữa. Chủ yếu là họ làm chậm hành trình để tôi sai hẹn với đối tác hoặc với đại sứ nước nào đó”. Nhân viên sân bay Bắc Kinh cũng từng bắt Tướng

Vĩnh đi vào cửa kiểm tra hành lý, cho dù ông được quyền “miễn trừ ngoại giao”.

Tướng Vĩnh dọa “họp báo tố cáo Bắc Kinh vi phạm công ước quốc tế” và dọa sẽ áp

dụng biện pháp tương tự với đại sứ Trung Quốc tại Hà Nội theo “nguyên tắc đối

đẳng” họ mới để ông đi theo cửa không kiểm tra hành lý. Sau khi Trung Quốc rút hết quân vào ngày 18-3-1979, hai bên đã có hai vòng

đàm phán - vòng 1, từ 18-4 đến 18-5-79 tại Hà Nội và vòng 2, từ 28-6-79 đến 6-3-

80, tại Bắc Kinh - chủ yếu là giải quyết vấn đề tù binh. Theo ông Trần Quang Cơ:

“Từ năm 1980 đến cuối năm 1988, ngót hai chục lần Việt Nam gửi thư hoặc công hàm cho Trung Quốc đề nghị nối lại đàm phán nhưng đều bị Trung Quốc bác. Trung

Quốcnâng

caodầnđiềukiệnlên:vềquânsựđòiViệtNamrútquânkhỏi Campuchia,

về

chính

trị

đòi

Việt

Nam

chấp

nhận

sẽ

lập

chính

phủ

liên

hiệp

Campuchia, bao gồm cả Khmer Đỏ”. Chỉ hơn một năm sau khi tuyên bố rút quân, Trung Quốc bắt đầu gây chiến

tranh trở l

ại

580

.

Duy trì chiến sự trên biên giới phía Bắc không chỉ làm suy kiệt Việt Nam mà còn là nơi để Trung Quốc phối hợp tấn công khi các phái Khmer chống Việt

Nam bị đánh đuổi trên vùng biên giới Th

ái

581

.

So với thời điểm tháng 2-1979, cuộc tiến công năm 1984 của Trung Quốc có trình độ tác chiến cao hơn hẳn. Ngày 16-5-

1984, chỉ sau mười tám ngày điều quân, Trung Quốc đã chiếm và chốt giữ hai mươi

chín điểm dọc biên giới Việt Nam.

Cuộc phản công đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam bắt đầu từ ngày 11-6-1984, đánh vào các cao điểm 233, 685 nhưng không thành công. Cuộc phản công

quy mô hơn vào ngày 12-7-1984 cũng bị coi là thất bại. Chiến sự ở thế dằng co kéo

dài cho tới tháng Giêng năm 1985. Có những nơi, chốt của quân đội Việt Nam cách

chốt của quân Trung Quốc chỉ từ sáu đến tám mét; có những điểm cao, đôi bên liên tục giành giật, chiếm đi, chiếm lại ba bốn chục lần. Do địa hình phía Việt Nam hiểm

trở, tháng 3-1985, Trung Quốc chiếm lại được bốn điểm cao quan trọng thuộc khu

vực Quân khu II, đặc biệt là các khu vực thuộc vùng biên giới Hà Giang. Đây là giai

đoạn chiến tranh có tỉ lệ thương vong cao nhất ở vùng biên giớ

582

.

Tháng 2-1979, khi Đặng Tiểu Bình đánh Việt Nam, Liên Xô đang có năm mươi

sáu sư đoàn ở vùng biên giới với Trung Quốc nhưng đã không có bất cứ một động thái quân sự nào. Trước “thông điệp” này, Đặng Tiểu Bình quyết định “đi đêm” ngay

với Moscow, và mặc dù nhận ra sự yếu kém của quân đội, Đặng quyết định không

cần vội vã chi tiền hiện đại hóa quân s

583

.

Tuy nhiên, Đặng vẫn duy trì chiến tranh quy mô nhỏ trên vùng biên giới, một mặt giữ chân thường xuyên hơn 800 nghìn

quânViệt

N

am

584

,

mặtkhác,biêngiớitrởthànhchiếntrườngthậtđểquânđội Trung Quốc có nơi huấn luyện. Trong thập niên 1980, gần hết lực lượng bộ binh

Trung Quốc ở trên cả nước đã được luân chuyển đến tác chiến ở vùng biên giới Việt

N

am

585

.

Chiến cuộc đã giữ chân đội quân bảo vệ biên giới phía Bắc Việt Nam lên tới ba

quân đoàn, mười một sư đoàn, mười ba trung đoàn trung đoàn và bảy mươi tiểu

đoàn độc lập, góp phần đưa lượng quân thường trực ở cả hai đầu đất nước lên tới 1,6 triệu người. Sau khi Gorbachev nhận chức tổng bí thư, viện trợ của Liên Xô cho

Việt Nam bắt đầu bị cắt giảm. Người lính trên biên giới phía Bắc vừa rất khổ về vật

chất, vừa rất căng thẳng về tinh thần. Hà Nội nhận ra không thể tiếp tục duy trì

tình trạng đó.“Giải pháp chính trị cho vấn đề Campuchia” liên quan đến “bình thường hóa

quan hệ Việt - Trung” được Bộ Chính trị đặt ra trong Nghị quyết 32/BCT21, ngày 9-

7-1986, một ngày trước cái chết của Tổng Bí thư Lê Duẩn. Hội nghị do Trường

Chinh chủ trì. Nghị quyết 32 ra đời, theo Thứ trưởng Ngoại giao Trần Quang Cơ, “không

phải

ngẫu

nhiên”.

Gần

hai

mươi

ngày

sau

đó

(28-7-1986),

tại

Vladivodstock, Gorbachev công bố chính sách đối ngoại mới, theo đó, Liên Xô sẽ: “Xích gần lại với Trung Quốc, giải quyết ‘ba trở ngại’ mà Trung Quốc nêu ra: rút

quân khỏi Afghanistan, chấm dứt xung đột biên giới Trung-Xô, giải quyết vấn đề

Campuchia”. Gorbachev tuyên bố: “Vấn đề Campuchia không thể giải quyết ở các

thủ đô xa xôi, kể cả ở Liệp Hiệp quốc mà phải giải quyết giữa Việt Nam và Trung Quốc là hai nước xã hội chủ nghĩa láng giềng”.

Vấn đề “Việt Nam rút quân khỏi Campuchia” đã từng được Trung Quốc đề cập tại

vòng một, đàm phán Xô-Trung, tháng 10-1982. Sau chiến dịch pháo kích và tập

kích quy mô lớn trên toàn tuyến biên giới miền Bắc - kéo dài từ tháng 4 đến tháng 6-1984 - Trung Quốc tuyên bố: chỉ cần Việt Nam hứa rút quân khỏi Campuchia thì

hai bên sẽ bắt đầu đàm phán.

Ngày 21-1-85, trong thư gửi Bộ Ngoại giao Việt Nam,

Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Ngô Học Khiêm viết: “Quan hệ Trung-Việt xấu đi,

vấn đề cốt lõi là quân đội Việt Nam xâm chiếm Campuchia... Sau khi Việt Nam công khai cam kết và thực hiện rút quân thì đàm phán mới có ý nghĩa thực tế”

586

.

Ngày 7-3-1987, chưa đầy ba tuần sau khi ông Lê Đức Anh nhận chức bộ trưởng

Quốc phòng, Bộ Chính trị tổ chức một hội nghị hẹp, Tướng Lê Đức Anh cho rằng: “Trung Quốc gây xung đột vũ trang ở biên giới không phải có ý định xâm lược mà vì

một mục đích khác

587

.

Sau Hội nghị đó, Tướng Lê Đức Anh đã cho: “Điều chỉnh tạm thời lại thế bố trí chiến đấu ở biên giới phía Bắc: Các đơn vị chủ lực cơ động lui

xuống phía sau, tuyến thứ hai; đưa dân lên sống và sản xuất, đưa dân quân, bộ đội

địa phương và bộ đội biên phòng lên tuyến một”. Theo ông thì sự điều chỉnh này “là

bước thăm dò đầu tiên với phía bên kia” 588

.

Đầu năm 1987, Việt Nam bắt đầu “giảm tuyên truyền chống đối Trung Quốc”.

Theo Thứ trưởng Trần Quang Cơ: “Ngày 20-5-87, Bộ Ngoại giao làm tờ trình lên Bộ

Chính trị kiến nghị sửa Lời nói đầu của Hiến pháp, bỏ chỗ nói Trung Quốc là “kẻ thù

trực tiếp và nguy hiểm nhất” như đã sửa Điều lệ Đảng. Mãi tới 26-8-88 Quốc hội mới có nghị quyết thông qua việc sửa này”

589

.Ngày 20-5-1988, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 13, xác định: “Bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc là một quá trình gay go, phức tạp, đòi hỏi có thời gian. Sau

khi bình thường hóa, quan hệ hai nước khó trở lại ngay như những năm 1950,

1960… Cần phòng ngừa, khắc phục những tư tưởng lệch lạc, chỉ thấy giới hạn Trung

Quốc là bá quyền, không thấy Trung Quốc là xã hội chủ nghĩa; hoặc chỉ thấy Trung Quốc là xã hội chủ nghĩa mà không thấy bá quyền, bành trướng”

590

.Lúc này, cả Hà Nội và Phnom Penh đều nhận thấy không thể trì hoãn việc rút quân đội Việt Nam ra khỏi Campuchia. Càng ngày, Phnom Penh càng chịu nhiều sức

ép quốc tế và các nhà lãnh đạo Phnom Penh biết rõ: Không có quân đội Việt Nam

thì Pol Pot có thể cướp lại chính quyền, nhưng nếu vẫn còn quân đội Việt Nam thì

vai trò chính trị của Phnom Penh vẫn bị coi là lệ thuộc. Họ nhận thấy cơ hội của mình và chấp nhận tác chiến độc lập với một đối thủ đã từng tàn bạo.

Ngày 5-1-1989, khi Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đến Phnom Penh dự lễ kỷ

niệm “ngày 7 tháng Giêng”, trong cuộc hội đàm lúc mười sáu giờ chiều cùng ngày,

theo đề nghị của Chủ tịch Heng Samrin, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã sửa bài diễn văn chuẩn bị từ Việt Nam. Để chiều 6-1-1989, hai nhà lãnh đạo cùng tuyên

bố: “Việt Nam rút hết quân chậm nhất là tháng 9-1989 nếu có giải pháp chính

trị

591

.

Trước ngày rút hết quân, Việt Nam cho lập năm tổng lãnh sự quán ở những vùng nguy cơ Khmer Đỏ cao. Những người giữ chức tổng lãnh sự này đều là sỹ

quan cấp tá dày dạn chiến trường chứ không phải là các nhà ngoại giao.

Ngày 30-9-1989, bốn ngày sau khi Việt Nam rút quân đợt cuối, lực lượng Son

Sann đánh chiếm Thmar Ponk. Ngày 22-10-1989, Khmer Đỏ đánh chiếm Pailin và uy hiếp thị xã Battambang. Bộ đội Campuchia ở Pailin bỏ chạy. Phnom Penh cầu

cứu và Việt Nam đã đưa một lực lượng đặc biệt lên giúp bộ đội Phnom Penh tái

chiếm. Quân đội Campuchia thấy Việt Nam chưa bỏ rơi mình, Khmer Đỏ cũng ý

thức rõ hơn điều đó nên về sau, đã không còn có chiến dịch nào uy hiếp mạnh hơ

592

.Tuyên bố rút hết quân khỏi Campuchia vào năm 1989 của Việt Nam đã phá vỡ nhiều bế tắc, các diễn đàn mới về Campuchia được khai thông. Trung Quốc không

còn có thể gây sức ép với Việt Nam và ASEAN như trước, cho dù vẫn tìm cách

chống phá Việt Nam, và gây xung đột vũ trang ở Trường Sa vào tháng 3-198

8

593

.

Hội nghị Thành Đô

Ngày 7-10-1989, khi tiếp Tổng Bí thư Lào, ông Kayson Phomvihan, Đặng Tiểu Bình đã dùng sáu mươi phút trong toàn bộ bảy mươi phút nói chuyện để nói về Việt

Nam. Trong khi phê phán nặng nề Lê Duẩn, Đặng đã ca ngợi Nguyễn Văn Linh là

“người sáng suốt”. Một thông điệp bình thường hóa giữa Đặng Tiểu Bình và Nguyễn

Văn Linh đã được truyền đi. Tuy nhiên, theo ông Trần Quang Cơ, Bắc Kinh vẫn tiếp tục lạnh lùng sau khi Nguyễn Văn Linh phản hồi tích cực.

Con đường đến với Bắc Kinh còn qua một kênh khác mà cả Tướng Lê Đức Anh

lẫn Bộ Ngoại giao đều hoàn toàn không biết. Tháng 9-1989, Chủ nhiệm Ủy ban Kế

hoạch Nhà nước Phan Văn Khải sang Nhật gặp chủ tịch Đảng Tự do Dân chủ, ông Michio Watanab

594

.

Cuộc gặp tại trụ sở đảng của ông Watanabe diễn ra thân mật,

đôi bên bàn một số vấn đề chiến lược về hợp tác kinh tế, bàn những công việc có thể bắt đầu ngay sau khi Mỹ bỏ cấm vận. Theo ông Phan Văn Khải, cuối cuộc gặp,

ông Watanabe gợi ý: “Tôi có nhiều bạn bè quốc tế, liệu tôi có thể giúp được gì

không?”. Được lời, ông Khải nói: “Việt Nam muốn bình thường hóa với các nước,

đặc biệt là với Trung Quốc và Mỹ”.Giữa năm 1990, ông Michio Watanabe đi Bắc Kinh gặp Giang Trạch Dân. Sau

chuyến đi đó, ngày 7-5-1990, Watanabe lặng lẽ bay tới Sài Gòn. Ông được đưa tới

biệt thự 261 Điện Biên Phủ, nơi Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh, Chủ nhiệm Ủy ban Kế

hoạch Phan Văn Khải, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Mai Chí Thọ và người trung gian, ông

Charles Đức

595

đang đợi. Ông Phan Văn Khải thừa nhận, ông Watanabe chuyển tới Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh những tín hiệu tích cực. Sau khi ông Watanabe rời Sài

Gòn, Bắc Kinh gửi Thứ trưởng Ngoại giao Từ Đôn Tín đến Hà Nội.

Trước khi Từ Đôn Tín đến Hà Nội, ngày 5-6-1990, ông Nguyễn Văn Linh mời Đại

sứ Trương Đức Duy đến Nhà khách Trung ương Đảng “nói chuyện thân mật”. Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh nói với Trương Đức Duy là ông sẵn sàng đến Bắc Kinh. Ông

Nguyễn Văn Linh thừa nhận: “Trong quan hệ hai nước, mười năm qua có nhiều cái

sai. Có cái đã sửa như việc sửa đổi Lời nói đầu của Hiến Pháp, có cái sai đang

sửa”

596

.

Sáng hôm sau, ngày 6-6-1990, Bộ trưởng Quốc phòng Lê Đức Anh cũng

mời cơm Đại sứ Trương Đức Duy. Trương Đức Duy vốn là thông dịch, rất thạo tiếng

Việt nên cuộc gặp chỉ có hai người. Bộ Ngoại giao chỉ biết thông tin về cuộc gặp này vào chiều 10-6-1990 từ Bí thư Thứ nhất sứ quán Trung Quốc Hồ Càn Văn

597

.Ngày 29-8-1990, Đại sứ Trương Đức Duy xin gặp gấp Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Đỗ Mười, chuyển thông điệp của Bắc Kinh mời

Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và Cố vấn Phạm Văn Đồng sang Thành Đô - thủ phủ tỉnh

Tứ

Xuyên,TrungQuốc-vàongày3-9-1990để“hộiđàmbímậtvềvấnđề

Campuchia và vấn đề bình thường hoá quan hệ hai nước”. Chuyến đi Thành Đô vào

ngày 2-9-1990 gồm Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và Cố vấn Phạm Văn Đồng, được

tháp tùng bởi Hồng Hà, chánh Văn phòng Trung ương, Hoàng Bích Sơn, trưởng Ban Đối ngoại và Thứ trưởng Ngoại Giao Đinh Nho Liêm. Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn

Cơ Thạch không có trong thành phần cuộc gặp.

Hội nghị Thành Đô đóng vai trò quyết định trong tiến trình bình thường hóa

quan hệ Việt Nam-Trung Quốc. Nó là cơ sở để thiết lập hòa bình trên biên giới Việt-Trung,

một

biên

giới

chiến

trường

bắt

đầu

hội

chuyển

sang

biên

giới

thị

trường. Tuy nhiên, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh không chỉ muốn cuộc gặp gói gọn trong vấn đề hai nước.

Ngày 5-6-1990, trong cuộc gặp Đại sứ Trương Đức Duy, tổng bí thư Việt Nam đã

sốt sắng ngỏ ý muốn sang gặp lãnh đạo Trung Quốc để “bàn vấn đề bảo vệ chủ

nghĩa xã hội”. Ông Nguyễn Văn Linh nói với Trương Đức Duy: “Chúng tôi muốn cùng những người cộng sản chân chính bàn vấn đề bảo vệ chủ nghĩa xã hội... Tôi

sẵn sàng sang Trung Quốc gặp lãnh đạo cấp cao Trung Quốc để khôi phục lại quan

hệ hữu hảo. Các đồng chí cứ kêu một tiếng là tôi đi ngay... Trung Quốc cần giương

cao ngọn cờ chủ nghĩa xã hội, kiên trì chủ nghĩa Mác-Lênin

598

.

Thay vì bắt đầu một

kỷ nguyên Việt Nam thiết lập quan hệ với Trung Quốc bằng tư thế độc lập của một

quốc gia và chỉ vì quyền lợi quốc gia, Trung Quốc vẫn được coi là đàn anh trong mối

tương quan của hai quốc gia cộng sản. Điều này còn ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa Hà Nội và Phnom Penh.

Trong cuộc gặp Trương Đức Duy ngày 5-6-1990, tổng bí thư tiếp tục đề cập đến

“giải pháp Đỏ”, giải pháp chấp nhận Khmer Đỏ trong thành phần chính phủ mới ở

Phnom Penh. Ông Nguyễn Văn Linh giải thích: “Không lý gì những người cộng sản lại không thể bàn với những người cộng sản; họ gặp Sihanouk còn được huống chi

là gặp lại nhau

599

.

Ngày 6-6-1990 Tướng Lê Đức Anh nói với Trương Đức Duy: “Sihanouk sẽ chỉ đóng vai trò tượng trưng, danh dự, còn lực lượng chủ chốt của hai

bên Campuchia là lực lượng Heng Somrin và lực lượng Pol Pot, Trung Quốc và Việt

Nam mỗi bên sẽ bàn với bạn Campuchia của mình, và thu xếp để hai bên gặp nhau

giải quyết vấn đề. Đây là gặp nhau bên trong, còn bên ngoài hoạt động ngoại giao vẫn như thường... Ngày xưa Pol Pot là bạn chiến đấu của tôi”

600

.Tại Hội nghị Thành Đô, sáng kiến “giải pháp đỏ” mà lãnh đạo Việt Nam đưa ra đã bị Lý Bằng và cả Giang Trạch Dân bác bỏ. Giang Trạch Dân đã giảng giải cho

phía Việt Nam: “Tình hình quốc tế hiện nay nếu để hai đảng cộng sản bắt tay nhau

là sách lược không lợi cho chúng ta”. Theo ông Trần Quang Cơ, trong bảy điểm về

Campuchia thống nhất ở Hội nghị Thành Đô, có hai điểm có tính chất chung, năm điểm còn lại hoàn toàn là đáp ứng yêu cầu của Trung Quốc, không có điểm nào

theo yêu cầu của Việt N

am

601

.

Campuchia thời hậu Việt Nam

Đất nước Campuchia may mắn đã không rơi trở lại vào tay của Khmer Đỏ sau

khi Việt Nam rút quân như trường hợp Afganistan rơi vào tay Taliban thời kỳ hậu Liên xô. Và cũng thực sự may mắn cho người dân Campuchia khi những người được

Hà Nội đưa lên nắm quyền ở Phnom Penh, đặc biệt là Hun Sen, đã không nghe theo

Hà Nội một cách mù quáng. Khi đứng trước thời cuộc mới, họ đã biết quyết định

dựa trên quyền lợi của dân tộc mình. Ngay

sau

Hội

nghị

Thành

Đô,

ngày

5-9-1990,

Nguyễn

Văn

Linh,

Đỗ

Mười,

Nguyễn Cơ Thạch và Lê Đức Anh, bay sang Phnom Penh thuyết phục Phnom Penh chấp nhận thỏa thuận Thành Đô, coi Trung Quốc là một đồng minh. Nhưng điều này chỉ làm cho Phnom Penh càng xa hơn với Hà Nội. Theo Đại sứ Ngô Điền: “Về công

khai, bạn cố tránh tỏ ra bị lệ thuộc vào Việt nam. Trên cơ sở tính toán về lợi ích của

mình, bạn tự quyết định lấy đối sách, không trao đổi trước với ta, hoặc quyết định

trái với sự gợi ý của ta trên nhiều việc”.Nguyễn Văn Linh, Lê Đức Anh, muốn Phnom Penh chọn “giải pháp Đỏ” nhằm để

“hai phái Khmer cộng sản” hợp tác với nhau. Nhưng, hơn ba năm sống dưới triều

đại Pol Pot, các nhà lãnh đạo Campuchia đã mất đủ máu xương để biết sợ cái gọi là

“cộng sản”. Năm tháng trước khi Việt Nam rút hết quân, ngày 30-4-1989, Phnom Penh quyết định đổi tên nước “Cộng hòa Nhân dân Campuchia” thành “Nhà nước

Campuchia”.

Ngày 18-10-1991, khi Việt Nam không còn can thiệp được vào các quyết định

của Phnom Penh, Campuchia đã sửa đổi hiến pháp theo hướng từ bỏ chủ nghĩa xã hội: chấp nhận kinh tế thị trường tự do và hệ thống chính trị đa đảng. Tên nước,

quốc kỳ, quốc ca, ngày quốc khánh thời Sihanouk được đưa ra dùng trở lại. Hai chữ

“cách mạng” trong tên gọi Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia, đảng mà Việt

Nam giúp dựng lên, đã được bỏ đi.Năm 1985, khi tổng kết một lớp tập huấn chuyên gia, Tướng Lê Đức Anh cho

rằng lực lượng Quân Tình nguyện sẽ rút trước sau khi giúp Phnom Penh tự đảm

đương được về quân sự, nhưng đội ngũ chuyên gia thì phải ở lại Campuchia cho tới

năm 2000. Trên thực tế, khi Việt Nam ngỏ lời rút chuyên gia, “bạn” sốt sắng đồng ý và thúc đẩy tiến trình này diễn ra nhanh hơn. Đoàn Chuyên gia đã được giải thể từ

ngày 30-12-1988.

Trừ một số không nhiều cán bộ Việt Nam thực sự có năng lực, phần lớn chuyên

gia chỉ là những người năng nổ, nhiệt tình, sốt sắng áp đặt những kinh nghiệm, lề lối làm việc máy móc từ chế độ quan liêu bao cấp Việt Nam. Sau Hội nghị Cán bộ

Đảng toàn quốc lần thứ II, tháng 4-1989, Hun Sen đã khen ngợi Bí thư tỉnh Takeo,

Pol Saroeun, khi ông này đã biết “báo cáo láo” để qua mặt chuyên gia về thành tích

xây dựng “hợp tác hóa” trong nông nghiệp. Nhờ không hình thành mô hình tổ đoàn kết sản xuất theo yêu cầu của chuyên gia Việt Nam, trong khi vẫn báo cáo “có” lên

chuyên gia, sản xuất nông nghiệp của Takeo đã khá hơn các tỉnh khác.

Cũng tại Hội nghị Cán bộ Đảng toàn quốc lần II, Campuchia đã thay căn bản

thành phần nhân sự mà chuyên gia Việt Nam trước đây áp đặt. Giai đoạn 1979-

1981, nhóm “tập kết” được ông Lê Đức Thọ đưa về gần như thống lĩnh Phnom Penh. Từ tháng 4-1989, nhóm từ lực lượng Quân Khu Đông (khu 203) chạy sang

Việt Nam, cầm đầu bởi Chea Sim, Hun Sen, Ouk Bun Sươn, Heng Samrin, bắt đầu

thâu tóm dần quyền bín

h

602

.

Đây không hẳn là sự kỳ thị. Theo ông Ngô Điền, ngay từ đầu chuyên gia Việt

Nam đã không tin những người thuộc phái Khu 203. Ở Bộ Nội vụ, những người thực

sự có năng lực như Sin Song được cả Heng Samrin lẫn Chea Sim đề cử nhưng vẫn không được chuyên gia chấp nhận; trong khi đó, Khang Sarin, một người “năng lực

có hạn, đạo đức kém, sinh hoạt bừa bãi”, lại được đưa lên làm bộ trưởng (1981).

Khi thấy Khang Sarin không hoàn thành nhiệm vụ, “chuyên gia” lại đưa Nay Pena,

một người năng lực không khá gì hơn lên thay. Phải đến khi chuyên gia rút, “bạn” mới đưa được Sin Song lên làm Bộ trưởng.

Yim Chhay Li, vốn là y tá, chỉ bổ túc nghề ở Việt Nam một thời gian ngắn, cũng

được “chuyên gia” đưa lên làm bộ trưởng Y tế. So Niet, theo ông Ngô Điền, “dốt nát

và thường say rượu”, cũng được cử làm thứ trưởng Bộ Nội vụ. Đặc biệt, nữ y tá Quân khu VII Mel Sam Ol đã được Tướng Lê Đức Anh và các chuyên gia Trần Xuân

Bách, Đỗ Chính, Phạm Bái đưa lên giữ chức trưởng Ban tổ chức Trung ương Đảng

thay cho Xại Phuthong, một kháng chiến quân kỳ cự

u

603

.

Ngay từ khi chuyên gia

chưa rút, các quyết định lớn về nhân sự, Heng Samrin, Chea Sim và Hun Sen đã

phải làm thay. Sau tháng 4-1989, tuy chưa tiện đưa Mel Sam Ol ra khỏi Bộ Chính

trị nhưng nữ ý tá này chỉ còn giữ chức chủ tịch Công đoàn. Hun Sen càng ngày càng tỏ ra bản lĩnh, tách khỏi các ảnh hưởng của Việt Nam và đưa ra những quyết định

thích hợp hơn với thời cuộc.Tối 23-10-1991, Hội nghị hòa bình về Campuchia kết thúc. Một hiệp định đã

được ký kết tại Paris, theo đó, Liên Hiệp Quốc sẽ gửi tới Campuchia một lực lượng

gìn giữ hòa bình gọi là UNTAC. UNTAC sẽ cùng với Hội đồng Dân tộc Tối cao SNC

điều hành chính quyền Campuchia và tổ chức bầu cử. Mặc dù, theo ông Trần Quang Cơ, ngày 24-2-1991, khi gặp Heng Samrin ở Hà Nội, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh

vẫn cố ép “thực hiện tốt chính sách hòa hợp dân tộc, không nên nhấn mạnh vấn đề

diệt chủng, SNC nên gồm mười ba thành viên do Sihanouk làm chủ tịch”. Nhưng

Phnom Penh đã không nghe theo lời khuyên ấy.

Trong khi đó, Hà Nội đã không bắt kịp tình hình, vẫn giữ “ông thầy” Ngô Điền của Hun Sen ở lại Phnom Penh sau khi Hiệp định Paris về Campuchia đã có hiệu lực,

“nguyên thủ” mới là Sihanouk chứ không còn là Heng Sarin. Chính phủ Hun Sen có

nhu cầu thiết lập một trật tự mới trong chính sách đối ngoại, áp dụng sách lược

tách khỏi Việt Nam để tranh thủ sự ủng hộ quốc tế và tránh bị các phái Khmer khai thác. Một chỉ lệnh đã được bí mật truyền đi trong nội bộ Đảng Nhân dân Campuchia

lúc đó, yêu cầu các cấp tiêu hủy các tài liệu liên quan đến Việt Nam, tránh công

khai nhắc đến Việt Nam.

Mặc dù giữa năm 1991, cả Hun Sen và Sihanouk đều không tỏ thái độ gì về phương án ông Ngô Điền tiếp tục ở Phnom Penh làm đại sứ, nhưng ngày 3-9-1991,

khi tới thăm Ngô Điền tại Phnom Penh, phóng viên tờ báo Pháp Le Monde, J.C.

Pomonti đã hỏi: “Liệu Sihanouk có vừa lòng khi một người đã được ông ta gọi là

thái thú (proconsul) lại là đại sứ bên cạnh SNC?”. Tháng 10-1991, tại Hội nghị Paris, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Mạnh Cầm hỏi Sihanouk về việc Ngô

Điền kiêm nhiệm đại sứ bên cạnh SNC, Sihanouk đã viện cớ Son Sann không đồng

thuận để ngầm từ chối. Khi ông Cầm hỏi Hun Sen, Hun Sen đã trả lời: “Có lẽ là phải

làm như vậy”. Từ giữa tháng 9-1991, Hun Sen bốn lần từ chối tiếp “người thầy vĩ đại của mình”

nhưng chính sách của Hà Nội đối với Phnom Penh phải nhiều tháng sau mới thay

đổ

604

.

Ngày 5-11-1991, khi Ngô Điền liên hệ, Hun Sen đã cáo bận. Ngày 6-11-

1991, một ủy viên Bộ Chính trị Campuchia là Sok An, gặp đại sứ Ấn Độ, Cu Ba và

một số nước đã từng là “cộng sản”, thông báo, các nước nên rút đại sứ trước ngày

14-11-1991, ngày Sihanoul về Phnom Penh, một cách “lặng lẽ, lịch sự và không tuyên bố”; vì, Hun Sen sẽ nói với Sihanouk, tất cả các đại sứ bên cạnh chính phủ

của ông đã rút.

Khi ấy, các lãnh đạo Việt Nam như Đỗ Mười, Võ Văn Kiệt, Nguyễn Mạnh Cầm lại

đang ở thăm Trung Quốc. Mãi tới ngày 10-11-1991, ông Ngô Điền mới được lệnh rời khỏi Campuchia. Ông chỉ có hai ngày để chia tay bạn bè và thu xếp hành trang.

Sau mười ba năm làm “thái thú” ở Campuchia, ông Ngô Điền phải rời Phnom Penh

mà không được một quan chức Campuchia nào đưa tiễn.

Sáng 13-11-1991, trong khuôn viên đại sứ quán Việt Nam, hai người nấu bếp

của sứ quán vốn là người Khmer Krom đã phải quấn xà-rông, ôm hoa tặng ông Ngô Điền để chụp hình. Ít phút sau, ông cùng vợ lên xe, theo đường bộ, rời khỏi Phnom

Penh mãi mãi. Hun Sen khi đó đã lên đường đến Bắc Kinh đón Hoàng thân Sihnouk.

Từ 1987, Hun Sen đã gặp Sihanouk nhiều lần, Đảng Nhân dân Campuchia biết

vai trò của ông Hoàng trong cộng đồng quốc tế và biết rõ lòng sùng kính của nhân dân dành cho ông. Trưa 14-11-1991, chiếc Boeing 737 của Hàng không Trung Quốc

hạ cánh xuống sân bay Pochentong. Ông Hoàng xuất hiện trước cửa máy bay giữa

tiếng hò reo nồng nhiệt của đám đông. Kế bước theo ông là Hun Sen. Các thiếu nữ

choàng lên cổ Sihanouk và Hun Sen những vòng hoa nhài. Trước đó, chính quyền Phnom Penh đã lùng mua được một chiếc Chevrolet mui

trần, loại xe ông Hoàng ưa dùng khi đang ở trên đỉnh cao quyền lực. Một người lái

xe cũ của Hoàng gia cũng đã được tuyển chọn để lái chiếc xe đón Hoàng thân

Sihanouk. Trên con đường dài gần 8km, chạy từ sân bay về Hoàng Cung, người dân Campuchia đứng chen nhau trong cờ hoa để đón chào ông Hoàng của họ. Trên

chiếc Chevrolet mui trần ấy, Hun Sen đứng bên cạnh ông Hoàng, chia sẻ những

vinh quang mà người dân Campuchia dành

cho ông. Trước đó, ĐảngNhândân

Campuchia cũng đã chi một khoản tiền lớn để tu bổ Hoàng cung, mua sắm phương

tiện cho ông hoàng Sihanou

k

605

.

Trước bầu cử, UNTAC cho phép lập ở Campuchia hai mươi đảng chính trị, bốn tổ

chức nhân quyền và cấp phép cho ra đời nhiều tờ báo đối lập. Theo đại sứ Việt Nam

tại Phnom Penh, ông Trần Huy Chương: “Việc giết hại người Việt xảy ra ở nhiều nơi do một số báo tuyên truyền, kích động. Trong các cuộc họp của P5, Trung Quốc

luôn có thái độ có hại cho lợi ích của Việt Nam”.

Các

tổchứcchínhtrịcòncáobuộcquânđộiViệtNamchưarúthếtkhỏi

Campuchia. Ngày 25-01-1992, Sihanouk phải xác nhận không còn quân đội Việt

Nam. Nhưng con trai ông, Hoàng thân Ranaridh, ngày 12-05-1992 lại nói là đang có

40.000 quân Việt Nam và một triệu Việt kiều ở Campuchia. Hơn hai tuần sau, ngày 28-05-1992, ông Akashi đại diện đặc biệt của tổng thư ký Liên Hợp quốc đã phải

làm dịu tình hình bằng cách tuyên bố “không có bằng chứng về sự hiện diện của

quân đội Việt Nam ở Campuchia” nữa.

Trước khi UNTAC tới Phnom Penh, chính quyền Hun Sen cũng đã đưa ra khỏi các

cơ quan nhà nước một số người có thể “bị nghi ngờ là Việt Nam”. Chính UNTAC, khi giám sát và kiểm soát năm bộ của Chính phủ Hun Sen cũng đã loại bỏ thêm một số

người bị cho là lai Việt.

Theo Đại sứ Trần Huy Chương: “Ngày 1-3-1993, sau nhiều lần điều chỉnh định

nghĩa, khái niệm ‘lực lượng nước ngoài’, UNTAC phát hiện ba người đã từng ở trong quân đội Việt Nam nhưng sau khi giải ngũ lấy vợ sanh con và ở lại. UNTAC đòi đưa

ba người này ra khỏi Campuchia. Ta giải thích rằng, việc trục xuất họ, chẳng những

sai trái về mặt pháp luật, mà còn là tội ác vô nhân đạo, vi phạm nhân quyền. Cuối

cùng UNTAC không nêu lại vấn đề này và cũng không dẫn độ ba người nói trên ra khỏi Campuchia”

606

.Các lực lượng đối lập với Hun Sen phối hợp với Khmer Đỏ tiến hành nhiều cuộc khủng bố để xua đuổi Việt kiều. Cuối năm 1992, một lực lượng mà Chính phủ Hun

Sen nói là Khmer Đỏ đã sát hại chín mươi hai người Việt Nam ở Đầm Be. Đây là số

lao động do Công ty Miền Đông, một công ty được Quân Khu VII lập ra thời kỳ hậu

Campuchia, đưa sang khai thác gỗ theo một thỏa thuận ký giữa quân đội Việt Nam và Chính phủ Phnom Penh.

Ngày 15-3-1993, Hoàng thân Shihanouk “khuyên người Việt nam về nước vì ở

Campuchia không có an ninh”. Theo Đại sứ Trần Huy Chương: “UNTAC đã làm ngơ

trước

hành

động

khủng

bố,

làm

cho

hàng

vạn

người

Việt

đã

phải

rời

khỏi

Campuchia về nước, mặc dù họ đã sống qua nhiều thế hệ ở Campuchia. Tính đến

khi cuộc vận động bầu cử chấm dứt vào ngày 18-5-1993, có 131 người bị Khmer Đỏ giết, 250 người bị thương, năm mươi ba người bị bắt cóc; đặc biệt 25.000 người

Việt đã phải rời Campuchia chạy qua biên giới lánh nạn, phần lớn về định cư tại một

số tỉnh miền Nam Việt Nam. Hơn 4000 người đã bị kẹt lại ở Korthum, biên giới Việt

Nam-Campuchia”. Trong cuộc bầu cử diễn ra vào ngày 23-5-1993, Đảng Funcinpec của Ranaridh

dẫn trước với số phiếu chiếm 45%, Đảng Nhân dân Campuchia của Hun Sen chỉ

được 38%, Mặt trận KNLF của Son Sann được 4%. Nhưng trước áp lực của Hun

Sen, Sihanouk phải thuyết phục con trai nhượng bộ

607

.

Ngày 15-6-1993 Hội đồng

Bảo an Liên Hợp Quốc công nhận kết quả bầu cử và đề cao vai trò lãnh đạo của

Shihanouk. Hôm sau, ngày 16-6, Sihanouk đề cử Ranaridh và Hun Sen làm đồng thủ tướng của chính phủ liên hiệp lâm thời, cho phép các đảng có chân trong quốc hội được tham gia chính phủ.

Ngày 8-8-1993 chính phủ tấn công vào các khu vực Khmer Đỏ đã lấn chiếm

trong thời kỳ UNTAC như Kongpong Thom, Preah Vihear, Siem Riep, Ban Tây Miên

Chây nhằm xóa bỏ thế da báo. Cuộc tấn công có sự phối hợp của ba phái cầm quyền thu được kết quả lớn. Khmer Đỏ phải rút về khu vực mà chúng kiểm soát

trước khi có Hiệp định Paris.

Ngày 24-9-1993 Hiến pháp Campuchia được công bố chính thức. Nhà vua với tư

cách là quốc trưởng chỉ định Ranaridh làm thủ tướng thứ nhất, Hun Sen làm thủ tướng thứ hai; Sihanouk tuyên thệ làm vua, Monique trở thành hoàng hậu. Ngày

25-10-1993, Quốc hội Campuchia họp phiên đầu tiên và hôm sau, lễ trao quyền cho

Chính phủ được thực hiện.

Các lực lượng UNTAC rút khỏi Campuchia vào ngày 15-11-1993. Quyền lực trên thực tế vẫn nằm trong tay Hun Sen. Tuy phải chia sẻ một số ghế ở chính quyền

trung ương, nhưng chính quyền địa phương về cơ bản vẫn nằm trong tay Đảng

Nhân dân Campuchia. Hun Sen còn bị thách thức ba lần trước khi ông thâu tóm gần

như hoàn toàn quyền lực

608

.

Cho dù Hun Sen rồi sẽ bị chỉ trích như một nhà độc tài, quyền lực của ông càng

được củng cố ở Campuchia càng làm cho các nhà lãnh đạo Việt Nam cùng thời yên tâm. Phía Tây Nam từ đây là một quốc gia láng giềng. Phần tiếp giáp với Trung

Quốc cũng bắt đầu trở thành một đường biên mậu dịch. Chiến tranh chính thức kết

thúc đối với Việt Nam. Hà Nội trở về với những vấn đề lợi quyền muôn thuở.

Phụ lục 1. Sự thật lịch sử về tăng 390 và tăng 384

Trong suốt hơn hai mươi năm kể từ ngày 30-4-1975, truyền thông trong nước đã mặc nhiên thừa nhận chiếc xe 843 của Bùi Quang Thận đã húc đổ cổng Dinh

trong khi sự thật chính là xe 390. Theo Trung tá Bùi Văn Tùng: “Sau khi biết Thận

là người cắm cờ, báo chí vây lấy cậu ấy. Chắc thằng Thận không nói, nhưng các nhà

báo suy ra Thận cắm cờ thì 843 của Thận phải là xe vào trước. Khi về tới Long Bình, anh em đã báo cáo lên, xe 390 húc đổ cổng Dinh, nhưng khi nghe báo nói xe 843

anh em cũng cho qua. Về sau, do vụ “ai cắm cờ” đã khá bầm dập nên nhiều người

nghĩ, cải chính làm chi cho phức tạp. Sau đó, Việt Nam lại xung đột với Trung Quốc

mà chiếc 390 là T59, viện trợ của Trung Quốc, trong khi chiếc 843, T54, viện trợ của Liên Xô nên càng không ai nghĩ tới việc làm rõ sự kiện này”.

Lữ đoàn 203 có bốn chiếc tăng bị bắn cháy trước khi vào đến Dinh Độc Lập. Vào

lúc 9 giờ sáng, những chiếc tăng của Lữ 203 đã bị chặn lại trong một trận đọ sức ác

liệt giữa các chiến xa của hai bên. Tiểu đoàn trưởng Tiểu Đoàn 1, Ngô Quang Nhỡ, mở nắp tháp pháo nhô người ra chỉ huy đã bị bắn xuyên qua trán, chết khi chiến

tranh kết thúc chỉ còn trong gang tấc. Chiếc tăng 866 khi chạy tới Thị Nghè cũng bị

trúng

đạn,mộtngườichếtngaytạichỗ,mộtngườibịthươngnặngrớtxuống

đường. Những người lính vào giờ phút ấy nhận ra sống sót là tấm huân chương

quan trọng nhất. Trong suốt hai mươi năm, bốn người lính trên chiếc tăng 390 tiếp

tục chiến đấu ở Campuchia, ở phía Bắc rồi lầm lũi mưu sinh chứ không hề tìm kiếm vinh quang. Khi coi phim tài liệu, thấy Bùi Quang Thận cầm một lá cờ rất to, loại cờ

không chứa trong những chiếc xe tăng tiến vào Dinh trong ngày 30-4, Thiếu úy Lê

Văn Phượng lại tặc lưỡi nghĩ rằng, “lịch sử đôi khi được làm bằng báo chí”.

Sáng 1-5-1975, khi rút về căn cứ Long Bình, Lê Văn Phượng đã viết tường trình đúng như những gì xảy ra. Anh không biết cấp trên báo cáo ra sao để “lịch sử thành

văn” chỉ nhắc đến chiếc xe của Bùi Quang Thận. Những thước phim, những bức ảnh

“húc đổ cổng Dinh Độc Lập” được phục dựng đã thế chỗ sự thật và số phận của

những người được nói đến thật cách biệt với những người im lặng. Bùi Quang Thận sau ngày 30-4 được điều về Bộ chỉ huy, còn Thiếu úy Lê Văn Phượng và ê-kíp xe 390 được điều lên biên giới Tây Ninh, chuẩn bị cho cuộc chiến ở Campuchia, rồi

tháng 3-1979 lại được điều ra tham gia cuộc chiến tranh phía Bắc. Ba người trên

chiếc xe tăng 390 xuất ngũ năm 1981, một người, Lê Văn Phượng, xuất ngũ năm

1986. Kể từ đó, bốn anh em không có điều kiện gặp nhau. Thượng úy Lê Văn Phượng ra quân, về quê; năm 1992 anh học hớt tóc, rồi dựng

lều hành nghề ở bờ hào bên thành nhà Mạc, bị công an đuổi chạy lên, chạy xuống.

Sau, người lính đã cho xe tăng nghiến lên cổng Dinh Độc lập ấy đã phải chạy về mở

lán cắt tóc gần cổng Trường Sĩ quan Lục Quân ở Sơn Tây. Tuy không tranh dành quyền lợi ở chốn quan trường, nhưng trong thẳm sâu, người lính ấy cũng tự hào về

những gì mà mình đã làm cho đất nước. Anh đem câu chuyện “húc đổ cổng Dinh

Độc Lập” ra kể với các con. Nhưng, ở trường, lịch sử được dạy không giống như

những gì đã xảy ra. Đứa con gái học tiểu học về khóc: “Bố nói bố chỉ huy xe 390 vào Dinh Độc lập trước tiên, con khoe với bạn học và cô, nhưng bài học dạy, bác

Bùi Quang Thận lái xe vào trước và cắm cờ trên Dinh. Chúng bạn trêu con nói phét.

Con xin nghỉ học”. Lê Văn Phượng chỉ biết phân trần với chính quyền địa phương

nhưng nào ai biết là anh đúng hay sách đúng.Mãi tới năm 1995, khi nữ ký giả Pháp có tên là

Francoise De Mulder đến Việt

Nam, những người lính tăng trên chiếc xe làm nên lịch sử ấy mới có dịp gặp nhau. Francoise De Mulder là người phụ nữ mà sau khi tăng 390 cán qua cổng Dinh đã

chụp được tấm hình Lê Văn Phượng nhô đầu ra khỏi tháp xe và nhìn thấy bà trong

một khoảng thời gian rất ngắn.

Francoise De Mulder sinh năm 1944, sang Việt Nam

làm phóng viên ảnh từ năm 1963, lúc mười chín tuổi. Năm 1976, bà có mặt ở Lebanon,

nơi có hàng trăm người tị nạn Palestine bị hành quyết bởi lực lượng vũ

trang cánh hữu Phalang. Tại trại tị nạn ở quận Quarantaine - Beirut, bà chụp được cảnh một phụ nữ đang van xin các binh lính tha chết cho chồng trên một đường phố

đang bốc cháy, ngay giữa thủ đô Beirut. Tấm hình này đoạt giải nhất của Giải WPPA

lần thứ 20, là ảnh báo chí xuất sắc nhất thế giới năm 1976. Bà cũng là nữ ký giả

ảnh đầu tiên đoạt giải này. Năm 2003

De Mulder

bị bệnh bạch cầu và liệt người.

Năm 2005, bà mất tại Paris, thọ 61 tuổi.

Năm 1995, tại Paris, bà Francoise De Mulder tổ chức triển lãm những tấm ảnh bà chụp được trong ngày 30-4-1975. Những bức ảnh đã gây chú ý cho một sỹ quan

khi ấy đang làm tùy viên quân sự tại Pháp, anh đã giúp đỡ để đầu tháng 3-1995, bà

Francoise De Mulder về đến Việt Nam. Người đầu tiên mà bà gặp là anhNguyễn

Văn Tập, lái tăng 390, khi ấy đang lái xe ba gác ở Thái Bình. Rồi bà gặp anh Vũ

Đăng Toàn, chính trị viên đại đội, khi ấy đang nuôi heo ở Hưng Yên. Bà không tìm

ra anh Ngô Sỹ Nguyên, pháo thủ I, vì khi ấy anh Nguyên không sống ở địa phương.

Cuối cùng, bà đến Sơn Tây gặp Lê Văn Phượng đúng khi anh đang hành nghề cắt tóc. Sau cuộc gặp đó, ngày 22-6-1995, Thiếu úy Lê Văn Phượng được mời dự lễ kỷ

niệm ngày thành lập Lữ đoàn 203, bấy giờ đã phiên thành Trung đoàn xe tăng 203.

Ở đó, Lê Văn Phượng gặp lại Nguyễn Văn Tập và Vũ Đăng Toàn rồi cả ba được vào

tham quan Dinh, bấy giờ đã có tên là Dinh Thống Nhất. Khi đó, họ mới biết chiếc tăng 843 “hiện vật” vẫn được trưng bày tại Bảo tàng Tăng Thiết Giáp, Hà Nội, còn

chiếc “843” sau này trưng bày trong Dinh chỉ là một chiếc tăng cùng loại được sơn

và ghi số hiệu vào. Trong khi chiếc xe của Bùi Quang Thận được sơn phết, bảo

dưỡng, lau chùi, nâng niu từ sau 30-4-1975 đến nay, tăng 390 vẫn rong ruổi trên chiến trường Campuchia, mãi đến sau 1995 mới được đem về Bảo tàng Tăng Thiết

Giáp.

Chuyến đi của Bà Francoise De Mulder được phát trên VTV và sau đó được thể

hiện lại trong một cuốn phim xúc động. Bốn chiến sĩ xe tăng 390 cũng trở nên nổi tiếng nhưng là dưới một biệt danh mới do người xem đặt ra: Ông gác đầm cá Vũ

Đăng Toàn;

Ông đánh giậm

Nguyễn Văn Tập;

Ông lái xe lam

Ngô Sĩ Nguyên;

Ông

cắt tóc bị công an đuổi ở Bờ Hào

Lê Văn Phượng. Các học viên Lục Quân sau khi

biết Lê Văn Phượng qua bộ phim “Bốn chiến sĩ xe tăng 390” thường để dành tóc “đem đầu” đến tiệm cắt tóc của ông; bảo vệ trường sỹ quan cũng thương tình

không đuổi. Sau một thời gian chạy xe lam, Ngô Sĩ Nguyên được một anh bạn

thanh lý cho một chiếc xe Gát 69 làm phương tiện vận chuyển hàng hóa cho các

chủ hàng trên tuyến Hà Nội-Thường Tín. Nhằm giúp Nguyễn Văn Tập giải quyết khó khăn, Bưu điện huyện Gia Lộc, Hải Dương, đã nhận anh vào làm bưu tá xã. Năm

2003, khi xem một chương trình giao lưu với bốn chiến sĩ xe tăng 390, một trí thức

và là một nhà doanh nghiệp đã liên lạc với bốn chiến sĩ xe tăng 390, viết thư cho

từng anh, tự giới thiệu mình là chủ tịch hội đồng quản trị một công ty, mời các anh lên thăm. Từ tháng 11-2003, Vũ Đăng Toàn được công ty này mời về phó giám đốc

một xí nghiệp sản xuất sơn giao thông và ông Nguyễn Văn Tập cũng được mời về

đây vừa làm thủ kho, vừa điều khiển xe nâng hàng. Những “người hùng” kể về sự

tiếp nhận của nhà doanh nghiệp này như một sự hàm ơn.

Phụ lục 2. Tướng Big Minh sau 1975Tướng Dương Văn Minh đã từng quyết định ở lại để “làm dân một quốc gia độc

lập”, nhưng cho dù được ông Võ Văn Kiệt đối xử trân trọng, cuối thập niên 70 ông

vẫn quyết định rời Việt Nam. Không chỉ do cuộc sống có những khó khăn mà có lẽ

những gì xảy ra lúc ấy ở miền Nam cũng khiến lòng ông giằng xé. Tuy nhiên, ông tỏ ra hết sức cẩn trọng trong mọi ứng xử. Trước khi sang định cư ở Pháp, ông Minh hỏi

bà Năm Mè (Bùi Thị Mè), “thứ trưởng” Bộ Y tế của “Cộng hòa Miền Nam” và là bạn

từ thiếu thời của ông: “Tổng Lãnh sự Pháp mời cơm tôi, theo chị tôi có nên nhận lời

không?”. Bà Mè đem chuyện hỏi ông Võ Văn Kiệt, ông Kiệt nói: “chị kêu ảnh cứ gặp và chị nhớ đừng nói gì để anh ấy nghĩ là tôi dặn dò. Con người như thế mình nói gì

thêm với họ là không cần thiết”. Trong bữa cơm với Lãnh sự Pháp, ông Tổng Lãnh

sự hoan nghênh vợ chồng ông Minh đã chọn Pháp làm nơi cư trú, ông nói: “Ngài Đại

sứ gửi lời thăm và muốn tôi nói với ông là Chính phủ Pháp sẽ lo hết chuyến đi của ông”. Ông Dương Văn Minh đã đáp lại: “Tôi xin cám ơn, Chính phủ của tôi đã lo

hết”. Trước khi ông Minh đi Pháp, ông Kiệt kêu Thư ký Phạm Văn Hùng bố trí ở nhà

bà Năm Mè một “bữa cháo gà”, theo lời ông Hùng thì hai người đã nói chuyện với

nhau suốt nhiều giờ tâm đắc.Năm 1984 khi dự Quốc khánh Cộng hòa Dân chủ Đức, sau đó đi thăm chính thức

Algeria, trên đường về, ông Võ Văn Kiệt có ghé qua Pháp thăm ông Dương văn

Minh, hai người đã trò chuyện khá lâu và theo ông Kiệt là rất cởi mở. Trong những

ngày ở Pháp, Tướng Dương Văn Minh vẫn liên lạc với bà Năm Mè. Trong một bức thư viết tay đề ngày 28-8-1988, ông tâm sự: “Ở Montheny được cái yên tĩnh như ở

làng bên mình nên tôi và “nhà tôi” rất khỏe. Cũng nhờ không khí ở đồng nên sức

khỏe tốt. Đau ốm thì có bác sĩ và thuốc men đầy đủ, mỗi hai tháng đi khám sức

khỏe một lần, về cả thử máu (thử đủ chuyện). Tất cả đều được miễn phí nên được yên tâm phần nào. Nhưng dẫu sao cũng nhớ nhà lắm chị Năm ơi! Nhớ bạn bè, nhớ bà con thân thuộc. Nhớ người nầy, nhớ người kia, nhất là nhớ mẹ tôi năm nay đã

già mà tôi ở xa quá. Ở nhà còn hai đứa em trai và một đứa em gái nhưng tôi thấy

tụi nó không biết lo cho mẹ già đúng mức…” Trong thập niên 90, khi tình hình trong

nước đã khá dần lên, bản thân ông Võ Văn Kiệt cũng muốn ông Dương Văn Minh trở về Việt Nam như một minh chứng cho “Đổi mới”. Năm 1994, khi ông Hồ Ngọc

Nhuận đi Pháp, có đến thăm ông Minh và tất nhiên là có chuyển lời mời của ông Võ

Văn Kiệt.

Một bức thư của bà Năm Mè gửi cho ông Dương Văn Minh vào giữa thập niên 90 cho thấy việc xúc tiến đón ông trở lại Sài Gòn đã được làm khá tích cực. Bức thư

viết: “Anh Hai kính mến! Năm mới chúng tôi xin chúc Anh: sức khỏe, hạnh phúc.

Tôi có nhận 2 fax của cháu Đức. Chưa trả lời được cho cháu vì tôi bị cấp cứu về tim.

Được fax anh, tôi vội trả lời để anh yên tâm. Tôi đã chuyển lời chúc tết của anh đến các anh em. Về chuyện nhà của anh Hai đừng bận tâm, anh em đã lo. Lài đã xây

xong nhà, qua tết gia đình Lài sẽ dọn đi. Anh Hai cứ lo việc về, anh em dặn tôi viết

thư cho anh để anh yên tâm… Không có gì trở ngại, anh Hai đừng lo. Anh cứ xúc

tiến việc về. Mọi người đều kiểm tra nhà Lài. Bà Bảy cũng đã hứa. Sáng nay anh em cho biết sau tết là gia đình Lài sẽ dọn về nhà mới. Trong việc Anh sẽ không có gì

khó khăn, mọi người đều mong Anh. Kính chúc anh sức khỏe và được đón anh một

ngày rất gần đây. Các cháu rất mong cậu Hai. Nhà cửa sữa xong rồi. Kính mến”.

Kèm theo bức thư của bà Năm Mè, Luật sư Trần Ngọc Liễng viết: “Kính anh Minh thân mến! Tôi hoàn toàn đồng ý với chị Năm Mè về việc yên ổn cho Anh khi trở về

đây. Riêng tôi thấy có sự lưu ý giúp đỡ của các bạn của chị Năm thì trăm việc

không có sơ sẩy điểm nào. Điều cần thiết là vấn đề sức khỏe của anh và sự bình

yên về tâm trí thì đâu cũng là hạnh phúc cho cá nhân và cho mọi người xung quanh. Kinh chào thân mến. Liễng”.

Trong bức thư gửi bà Năm Mè đề ngày 10-4-1996, ông Dương Văn Minh đã rất

nôn nóng. Ông viết: “Tôi có nhận được thơ của chị. Mỗi lần đọc thơ và tin tức ở quê

hương là tôi muốn, phải chi có cánh bay về ngay thì vui biết mấy. Nếu bữa nay tôi viết chữ không được ngay ngắn, khó đọc xin chị thứ lỗi cho. Vì tôi vừa mổ xong mắt

trái đến nay mỗi tuần phải đi bác sĩ khám. Có lẽ đến tháng septembre (tháng 9) họ

mới mổ con mắt thứ nhì. Phải đợi lâu vì bên này họ quá kỹ và đông người mình phải

đợi đến phiên mình. Tôi rất nóng lòng, lúc nào cũng mong đâu đó cho mổ để về

sớm mà cứ bị kẹt chuyện này chuyện nọ hoài bực quá. Có điện nhờ chị thưa với anh Sáu để anh Sáu được rõ lòng tôi. Viết đến đây, cay mắt quá nghĩ chút sẽ viết tiếp

nghe chị… Tội nghiệp Đức, lúc nào nó cũng cố gắng tìm đủ cách để giúp tôi về nước

đến với quê hương. Lúc nào nó cũng đặt hết hy vọng nơi anh Sáu và chị. Nó tính là

sẽ thành công. Theo những câu chuyện của nó, tôi thấy nó và Đạo (con trai bà Năm Mè- HĐ) rất hợp ý nhau. Thấy vậy tôi rất mừng. Tôi về được quê hương gặp lại mấy

cháu chắc là vui lắm. Hy vọng sớm gặp nhau. Thương nhớ”.

Về sau, Bà Năm Mè có sang Pháp để gặp ông Dương Văn Minh, không rõ câu

chuyện ra sao mà từ đó ông Minh bắt đầu suy nghĩ lại. Sau khi ông Minh mất tại Mỹ (6-8-2001), Dân biểu Nguyễn Hữu Chung, người đã đọc Điếu văn trong Lễ tang

Tổng thống Dương Văn Minh, có gửi email cho ông Hồ Ngọc Nhuận. Email, đề ngày

29-1-2004,

viết:“Cómấychuyệntôimuốnnóiđểanhrõ.ChuyệnôngTướng

Dương Văn Minh: Sau khi bà Minh mất, ông Minh rất buồn, nhất là vì hai con dâu

đối đãi với ông Minh không được đàng hoàng lắm. Trước tình trạng đó, ông Minh

muốn về Việt Nam sinh sống, ông có hỏi ý tôi và tôi đã OK, chỉ cho ý kiến là về Việt Nam không nên ở “Hồng Thập Tự” (Dinh Hoa Lan) mà nên lên Thủ Đức ở vì Thủ Đức

là nhà của ông trong khi nhà đường Hồng Thập Tự là nhà của Nhà nước. Ông cũng

không nên có một hoạt động gì cả (Tôi cảnh giác ông Minh điều này vì thấy ở Việt

Nam có nhiều phe quá, chưa chi đã có phe chửi bới ông, họ nói Nhà nước cho ông về vì xưa kia ông đã được Cách mạng móc nối…Công việc của ông Minh càng phức

tạp hơn khi Đức (con trai của ông) đi về Việt Nam vận động cái gì đó và có gặp ông

Võ Văn Kiệt. Ông Kiệt có gửi cho ông Minh một cái thư mời ông Minh về, lời lẽ rất

dễ thương (mà ông Minh có gửi cho tôi bản sao). Trong thời gian đó lại có bà Mè, chị vợ của anh Lý Chánh Trung hay tới lui thăm viếng, tạo một bầu không khí cách

mạng náo nhiệt chung quanh ông Minh khiến nhiều người thân với ông (trong đó có

mấy người bạn ông và chị Mai con gái lớn của ông) không bằng lòng. Tới một lúc

nào đó, ông Minh thấy mình không chịu nổi cái ồn ào ở Paris nên ông đi Mỹ ở với chị Mai. Sau vài lần đi về như thế, ông thấy có thể ở yên bên Mỹ nên ông quyết định ở

luôn”.

Cũng năm 2004, khi xem lá thư nói trên của Dân biểu Nguyễn Hữu Chung, ông

Võ Văn Kiệt cho biết là cá nhân ông Đỗ Mười cũng cho người tiếp xúc, với ý định mời ông Dương Văn Minh về tham gia Mặt trận Tổ quốc. Theo ông Hồ Ngọc Nhuận, vị sứ giả mà ông Đỗ Mười phái đi gặp ông Dương Văn Minh là cựu Chủ tịch Thượng

viện, bà Lê Phước Đại. Ông Nguyễn Hữu Chung tâm sự tiếp với ông Hồ Ngọc Nhuận

trong email đề ngày 29-1-2004: “Tôi có thể nói rằng nếu tôi khuyên ông Minh về

Việt Nam thì ông đã về vì rất nhiều lần ông hỏi ý, và còn có ý rủ tôi cùng về. Nhưng tôi cảm thấy có một sự bất ổn nào đó nên đã không khuyên ông về. Tội nghiệp ông

đã phải sống những năm chót trong sự cô đơn, về Việt Nam sống thì chắc vui hơn.

Tôi hơi mệt nên xin phép anh tạm ngưng bút. Hẹn thư sau. Về bài Điếu văn hôm

đám ma ông Minh, tôi có nhờ anh Trần Văn Sơn chuyển cho anh. Hy vọng anh đã nhận được. Chung”. Đây chính là bức thư cuối cùng của ông Nguyễn Hữu Chung gửi

cho ông Hồ Ngọc Nhuận. Ông Chung sau đó đã mất ở Canada vì bệnh ung thư.

Theo ông Nguyễn Hữu Chung, ông Hồ Ngọc Nhuận và những người thân khác,

Tướng Dương Văn Minh đã lặng lẽ ra đi mà không hề để lại một dòng hồi ký. Ông Minh có lẽ đã khôn ngoan quyết định cứ để cho người đời bàn cãi về việc ai đã ra

lệnh giết hai anh em nhà Ngô Đình Diệm; về việc vì sao lại chọn cách đi vào lịch sử

như một kẻ đầu hàng.

###HẾT CUỐN I

(Tìm đọc Bên Thắng Cuộc, CUỐN II: QUYỀN BÍNH)

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#asdf