Chương II: Cải tạo
Sau hai mươi năm chia cắt, lịch sử đã đặt nhiều gia đình miền Nam vào những
tình huống vô cùng nghiệt ngã. Có những gia đình trong khi vui mừng đón đứa con
“nhảy núi” trở về thì đứa con “nguỵ” đang phấp phỏng nằm chờ trên gác; có những
cán bộ cao cấp từ Hà Nội vô mới biết đứa con mà khi tập kết mình để lại đã trở
thành “lính nguỵ”. Dù 175 nghìn khẩu súng các loại đã được giao nộp ngay trong
mấy ngày đầu tiên sau 30-4, nhưng hơn nửa triệu sỹ quan, binh lính Việt Nam Cộng
Hòa tan rã thì vẫn đang nhà ai nấy ở. Tất cả đều căng ra chờ đợi.
Những ngày đầu
Lữ đoàn 203 được lệnh rút về Long Bình lúc 5 giờ chiều ngày 30-4, nhường công
việc chiếm đóng Dinh và bảo vệ Sài Gòn cho Quân đoàn IV. Nhưng, theo ông Bùi
Văn Tùng, gần một trăm chiếc tăng của ông đã không thể di chuyển, vì giờ đó
người dân Sài Gòn bắt đầu đổ ra đường. Sau những giờ phút căng thẳng nhất, như
sợi dây căng hết cỡ đã đứt tung ra, mọi người Việt Nam, kể cả những người lính,
cho dù ở phía nào, đều cảm thấy chiến tranh kết thúc!
Chiến tranh kết thúc. Cái cảm giác ấy, thoạt tiên cũng im ắng như thành phố lúc
vừa thôi tiếng súng, đột nhiên vỡ tung. Dòng người òa ra, tràn ngập đường phố.
Một vài thanh niên, học sinh mạnh dạn tiến vào vườn hoa trước Dinh Độc Lập, sờ
vào những chiếc tăng T54, những chiến xa bấy giờ đã không còn phải bắn, đang
nằm lặng lẽ.
“Việt Cộng” trên những chiếc xe tăng vừa húc đổ cánh cổng cuối cùng, giờ đây,
vừa có cái cảm giác viên mãn của những người chiến thắng, vừa có cái nhẹ nhõm
của những người lính đã bước qua ngưỡng của sự khốc liệt, trở nên độ lượng, hiền
lành. Thái độ này của các “chú bộ đội” đã kéo đoàn người đến với những chiếc T54
đông dần lên. Họ bắt đầu tìm hiểu những khái niệm về “Việt Cộng”, nhiều người
“tiến lên”, hỏi thêm về “miền Bắc”. Chưa ai thực sự biết điều gì sẽ xảy ra cho thành
phố, cho
mình,
nhưng
vẫn
thấy
nhẹ
nhõm
và
có không
ít
người
còn
cảm
thấy
mừng.
Đêm 30-4, ở khu vực trường Petrus Ký mất điện một lúc. Một vài chiếc tăng của
Quân Giải phóng được lệnh chạy ra đường để “thị uy”. Sáng 1-5, mới khoảng 7 giờ,
công chức, giáo viên Petrus Ký thấy “Cách mạng” đóng trong trường, lục tục ra
“trình diện”. “Quân quản” lúc bấy giờ ai nấy vẫn còn bận đồ bà ba đen, tỏ ra rất
lúng túng. Ông Kiệt giao cho ông Dương Minh Hồ, cán bộ Văn phòng Thành ủy, đi
kiếm bộ đồ “coi được” ra tiếp các thầy cô giáo.
Ngay trong đêm 30-4, những cán bộ của Đài Phát thanh Giải Phóng từ trên R về
đã tiếp quản Đài Phát thanh Sài Gòn và phát sóng những mệnh lệnh đầu tiên của
Ủy ban Quân quản về trật tự, an ninh, về thu nạp vũ khí chất nổ. Đa số các “lệnh”
đã được ông Hà Phú Thuận, chánh Văn phòng Trung ương Cục, “soạn thảo” theo chỉ
đạo của Đảng Uỷ Đặc biệt từ khi còn ở trên R.
Không chỉ có niềm vui của những người đi từ trong rừng ra. Trong những ngày
đầu,
một
số
quan
chức
của
Chính
quyền
Sài
Gòn
cũng
nuôi
hy
vọng.
Tiến
sỹ
Nguyễn Văn Hảo là một trong số đó. Trưa ngày 30-4-1975, ông Hảo có mặt ở DinhĐộc Lập vì cho đến khi chiếc tăng 390 cán lên thềm Dinh, Chính phủ của Tổng
thống Dương Văn Minh vẫn chưa kịp nhận bàn giao. Khi ấy, Thủ tướng Nguyễn Bá
Cẩn đã di tản. Ông Hảo, Phó thủ tướng, trở thành người còn lại có cương vị cao
nhất trong Chính quyền Trần Văn Hương.
Trước đó ít hôm, ông Hảo có kêu ông Hồ Ngọc Nhuận. Khi ông Nhuận tới nhà,
ông Hảo bỏ bữa cơm tối, đưa ông Nhuận lên lầu và nói: “Tôi có việc muốn nhờ ông
truyền đạt đến Cách mạng. Một là về mười sáu tấn vàng, người ta nói ông Nguyễn
Văn Thiệu mang đi, nhưng thật sự là tôi đã giữ lại được
41
.Hai là về nạn thất thoát
chất xám. Tôi đã thuyết phục được một số anh em chuyên viên, trí thức ở lại,
nhưng không xuể. Cách mạng phải làm gì đó, phải nói cái gì đó càng sớm càng tốt”.
Sáng 3-5-1975, Ủy ban Quân quản ra thông báo: “Cuộc tổng tiến công nổi dậy
của quân dân miền Nam ta nhằm đập tan ngụy quyền tay sai Mỹ đã giành được
thắng lợi hoàn toàn. Thành phố Sài Gòn, thành phố được vinh dự mang tên Chủ tịch
Hồ Chí Minh vĩ đại, đã hoàn toàn giải phóng. Để nhanh chóng ổn định trật tự an
ninh trong thành phố, xây dựng trật tự cách mạng mới, củng cố và phát huy quyền
làm chủ của nhân dân. Để nhanh chóng khôi phục và ổn định đời sống bình thường
của các giới đồng bào trong thành phố Sài Gòn - Gia Định. Căn cứ quyết định của
Chánh phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam, chúng tôi xin thông
báo danh sách Uỷ ban Quân Quản thành phố Sài Gòn - Gia Định”.
Ủy ban Quân quản lúc ấy gồm chủ tịch - Thượng tướng Trần Văn Trà,
và các
phó chủ tịch - Võ Văn Kiệt, Mai Chí Thọ, Thiếu tướng Hoàng Cầm, Thiếu tướng Trần
Văn Danh và ông Cao Đăng Chiếm.
Khi chiến dịch bắt đầu, Mặt Trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam đã tuyên truyền
về việc sẽ lập ở miền Nam một “chính phủ ba thành phần”. Tuy nhiên, khi cờ đã
được cắm trên Dinh Độc Lập, Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn quyết định dẹp bỏ ý tưởng
này. Ngày 1-5-1975, Tố Hữu đã chuyển “lệnh” tới Trung ương Cục:
“Gửi anh Tám, anh Bảy [Nhờ Trung ương Cục chuyển anh Tám]. Xin báo để các
anh biết: Theo ý kiến anh B
a
42
,
về Chính phủ, không còn vấn đề ba thành phần.
Cấu tạo Chính phủ không thể có bọn tay sai Mỹ, không để cho Mỹ có chỗ dựa vàphải làm cho quần chúng thấy rõ sức mạnh, thế mạnh của cách mạng; ta vừa phát
động quần chúng lại vừa buộc Mỹ phải thay đổi chiến lược. Chính phủ thể hiện tinh
thần đó phải gồm ta và những người yêu nước, thật sự tán thành lập trường hoà
bình độc lập, dân chủ, hoà hợp dân tộc, thống nhất Tổ quốc của ta. Bộ Chính trị chủ
trương đối với những người đã đầu hàng ta như Dương Văn Minh chẳng hạn thì
không bắt, nhưng cần có cách quản lý, giám sát, ta chỉ trừng trị bọn phá hoại hiện
hành… trong khi phát động phong trào quần chúng hành động cách mạng, chú ý
chọn lọc, bồi dưỡng cốt cán trong quần chúng. Để có đủ cán bộ kịp tung ra phát
động quần chúng, nên chọn một số cán bộ của Đảng, đoàn thể và cán bộ quân đội,
huấn luyện ngắn ngày về chính sách, về phương pháp công tác, về kỷ luật. Khi tổ
chức lễ mừng trong cả nước, theo ý kiến Bộ Chính trị, nên có đoàn đại biểu miền
Nam
ra dự mít tin ở Hà Nội và có đoàn Miền Bắc vào dự ở Sài Gòn. LÀNH43
”.
Ngày 6-5-1975, ông Võ Văn Kiệt đi cắt tóc chuẩn bị lễ ra mắt Ủy Ban Quân
quản. Người thợ cắt tóc thấy một ông đứng tuổi đi xe U-oát tới, trong khi cắt tóc có
bộ đội đứng chờ, tuy không biết rõ ông là ai, nhưng cắt tóc cho ông xong, đã lễ
phép cúi chào, ông trả tiền thế nào cũng không chịu lấy. Xe U-oát của ông Kiệt đi
tới đâu, người dân tránh ra nhường chỗ rộng rãi cho đi. Những xe khác của “Quân
Giải Phóng” cũng được cư xử như vậy.
Nhiều tuần sau đó, “các chú bộ đội” đi xe buýt không phải trả tiền và người dân
bắt đầu làm quen với những chiếc xe quân sự chạy vô đường cấm. Ông Võ Văn Kiệt
nhớ lại: “Lúc đó, uy thế của cách mạng trùm lên tất cả”. Ngay cả những “tên ác
ôn”, kẻ cướp giật, các băng nhóm cũng chỉ lo giữ thân hoặc xem xét, theo dõi.
Nhưng cũng có những người quá hăng hái.
Hầu hết đàn ông trong cư xá Ngân
hàng tại An Phú, Thủ Đức nơi ông Huỳnh Bửu Sơn cư ngụ giờ đó đã di tản hoặc bị
đưa đi cải tạo. Một người gác-dan, lâu nay vẫn được gọi là “thằng Vàng”, bỗng dưng
xưng một cái danh rất kêu, nhảy ra nắm lấy chức Trưởng ban Quản trị Cư xá.
Những phụ nữ còn lại trong Cư xá, vốn lâu nay được coi như là các mệnh phụ phu
nhân, không chịu. Họ họp lại và bầu ông Huỳnh Bửu Sơn lên thay. Ông Sơn nhanh
nhảu gửi lên xã báo cáo kết quả ông được bầu chọn là Trưởng Ban. Báo cáo được
đóng dấu từ con dấu mà Cư xá vẫn dùng từ trước.
Lập tức, ông Huỳnh Bửu Sơn bị triệu tập. Ông vừa ngồi xuống ghế, đã có hai bộ
đội xách AK ra hỏi: “Anh biết tội gì không?”. “Dạ không”. “Cách mạng đã giải phóng
rồi mà anh vẫn còn sử dụng con dấu của Ngụy. Tội anh đáng bắn. Nhưng thôi, từ
nay, ông này là Trưởng Ban”. Người bộ đội nói rồi chỉ tay qua ông Vàng, hình như
đã có mặt ở đấy từ trước.
Câu chuyện của ông Huỳnh Bửu Sơn không phải là hy hữu. Ngày 29-6-1975,
một cuộc “đấu tố” với hơn “2000 dân” đã được nhóm họp trước chợ Thanh Đa:
“Đồng bào đã sôi nổi tố cáo những tên Lô trưởng Cư xá, điển hình là Lê Văn Minh,
Trưởng Lô 9, nguyên là một viên chức Ngụy quyền, nay tự xưng là người của Cách
mạng… Phát huy tinh thần làm chủ Cư xá, đồng bào đã yêu cầu chánh quyền loại
bỏ 24 tên lô trưởng phản động do Ngụy quyền để lại
”
44.
Cuộc cướp chính quyền sớm nhất ở Sài Gòn được nói là đã diễn ra vào lúc 7 giờ
sáng ngày 30-4-1975 tại phường Trần Quang Khải, quận Một. Chi bộ Đảng bí mật ở
đây đã cho vây bót Tân Định, tước vũ khí của những cảnh sát vào giờ ấy chỉ mong
sớm được về với gia đình. Ngay sau khi Đại tướng Dương Văn Minh tuyên bố Bàn
giao chính quyền, ở Quận 11, cờ cũng được cắm trong Dinh Quận trưởng.
Tiến trình “cướp chính quyền” và xây dựng chính quyền thường được bắt đầu
như trường hợp ở phường Cây Bàng: “Khi tiếng súng của quân Giải phóng bắn tới
tấp vào các căn cứ quân sự của địch, nhân dân Phường Cây Bàng đồng lòng nổi dậy
phá kềm, truy quét kẻ địch, giành quyền làm chủ về tay mình và tràn ra đường đón
chờ quân giải phóng. Khi các chiến sĩ ta tiến vào, đồng bào mừng reo, hoan hô
nhiệt liệt. Ngay sau khi dẹp xong giặc, uỷ ban nhân dân cách mạng lâm thời tự
quản được thành lập. Các tổ chức nhân dân cách mạng cũng được khẩn trương xây
dựng. Đến nay, 2-5, Phường Cây bàng đã thành lập xong Tổ An ninh, Hội Mẹ giải
phóng, Tổ Thông tin Tuyên truyền, Tổ Y tế và Uỷ ban tự quản. Đang xúc tiến thành
lập Tổ Cứu đói và Phòng chống Hoả hoạn”
45
.Trước 30-4-1975, tại Sài Gòn có 735 đảng viên tại chỗ. Trung ương Cục bổ sung
thêm 2.820 cán bộ đảng viên từ trong các cơ quan của R về. Nhưng đến cuối tháng
5-1975, số đảng viên đã nhanh chóng tăng lên đến 6.553 người. Những chiến sỹ
cách mạng nằm vùng, những người từ trong các căn cứ kháng chiến ra và các “cán
bộ 30-4”, nhanh chóng nắm giữ các vị trí then chốt của thành phố, kiểm soát Đài
Phát thanh, thành lập báo Sài Gòn Giải Phóng và điều hành một hệ thống đoàn thể
xuyên suốt từ Thành phố cho đến các thôn ấp.
Không chỉ có “Cách mạng 30-4”, ông Võ Văn Kiệt thừa nhận, không ai trong số
những người tiếp quản Sài Gòn năm 1975 có kiến thức về quản lý nhà nước. Mục
tiêu lớn nhất đặt ra trong những ngày đầu là nhanh chóng ổn định trật tự xã hội, ổn
định chủ yếu bằng các giải pháp chính trị. Riêng các cơ sở kinh tế, giáo dục, y tế…
thì dự định từ trong R là sẽ để cho các ngành, chủ yếu từ miền Bắc vào, tiếp quản
những cơ sở có liên quan đến ngành mình.
“Ngụy Quyền”
Theo ông Nguyễn Văn Trân, Ủy viên Thường vụ Trung ương Cục: “Khi tiếp quản
miền Bắc, cụ Hồ cho lưu dụng hầu hết các viên chức trong bộ máy hành chánh cũ
và bảo lưu mức lương cũ còn cao hơn cả lương chúng tôi. Cụ Hồ còn đảm bảo tính
kế thừa nhà nước bằng cách công nhận hiệu lực tiếp tục của một số sắc luật có từ
thời Pháp. Công việc xây dựng chính quyền mới, vì thế không nặng như khi chúng
tôi làm ở Sài Gòn”.
Hệ thống hành chánh của Sài Gòn bắt đầu được thiết lập quy củ từ thời Tổng
thống Ngô Đình Diệm. Ông Diệm vốn là một quan Thượng thư Triều Nguyễn, nhưng
khi nắm quyền đã thay đổi phương thức tuyển chọn quan lại thông qua các kỳ thi
Hương, thi Hội, thi Đình, bằng việc thành lập trường Quốc Gia Hành Chánh. Trường
Quốc Gia Hành Chánh đào tạo: tham sự, hệ hai năm cho các chức vụ như trưởng
ban, trưởng phòng của các ty;
đốc sự, hệ bốn năm cho các chức vụ phó quận,
trưởng ty; và bậc cao học cho các viên chức hành chánh cấp bộ. Cho đến năm1960, chức tỉnh trưởng thời ông Diệm vẫn là một viên chức chính trị.
Khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam ra đời, đường lối Cách mạng miền
Nam
được xác định là phải bằng “con đường bạo lực”, ông Diệm đáp lại bằng cách“quân sự hoá bộ máy”, bổ nhiệm các quân nhân đứng đầu cơ quan hành pháp cấp
tỉnh, cấp huyện. Một viên chức từ trường Quốc Gia Hành Chánh ra, đương là quận
trưởng, nếu muốn tiếp tục, phải ra Nha Trang học một khóa quân sự sáu tháng.
Ngược lại, một thiếu tá tiểu đoàn trưởng có năng lực có thể được bổ nhiệm quận
trưởng sau khi trải qua một lớp về bộ binh cao cấp và một lớp sáu tháng về khoa
học hành chánh, và sau đó về thực tập sáu tháng dưới quyền một viên phó quận
trước khi được bổ nhiệm làm quận trưởng.
Tuy nhiên, hành chánh vẫn được coi là một vấn đề cực kỳ chuyên môn, nên dưới
thời Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, đã có những trì trệ trong việc xử lý nhu cầu
hành chánh cho dân, bởi các vị quận trưởng quan tâm đến quân sự hơn. Thủ tướng
đã cùng với Bộ Nội vụ ký một hướng dẫn, theo đó, các tỉnh trưởng, quận trưởng
phải ủy quyền bắt buộc cho cấp phó. Dưới chế độ Sài Gòn, cấp tỉnh, cấp quận chỉ
có một cấp phó và người này phải là đốc sự tốt nghiệp từ Quốc Gia Hành Chánh ra.
Ở cấp phường xã, tuy không đòi hỏi phải tốt nghiệp từ trường này, nhưng một
xã trưởng, ấp trưởng sau khi được bầu hay một trưởng phường sau khi được bổ
nhiệm đều phải đi học sáu tháng ở Trường Đào tạo Cán bộ Xã Ấp. Tổng Thống
Nguyễn Văn Thiệu đánh giá cao vai trò của cán bộ phường xã tới mức ông thường
xuyên có mặt trong lễ khai giảng và bế giảng các lớp học này và nói với các học
viên: “Tôi là tổng thống trung ương, các anh là tổng thống địa phương”.
Tuy nhiên, “Chính quyền Việt Nam Cộng Hoà từ Trung ương tới địa phương”
trước khi có tuyên bố của Đại tướng Dương Văn Minh đã bắt đầu “tan rã”. Khoảng
gần 200 nghìn người có quan hệ với người Mỹ hoặc đang làm việc trong bộ máy
chính quyền cũ đã kịp thời “di tản” trong vài tuần lễ trước “30-4”. Số còn lại gần
như cũng đã ý thức được tình thế của mình, tự động “bỏ trống nhiệm sở”. Nhưng
cho dù họ có ở lại, thì với mục tiêu của cuộc chiến tranh kể từ sau Hiệp định Paris là
“đập tan bộ máy của chính quyền tay sai”, việc những người chiến thắng sử dụng
chuyên môn của những viên chức có trình độ cao trong bộ máy Sài Gòn là điều khó
xảy ra.
Công Điện ngày 18-4-1975 của Ban Bí thư xác định đối tượng làm việc trong
chính quyền cũ được lưu dụng: “Ta cần có chính sách mạnh dạn sử dụng những
người thật thà phục vụ cách mạng, nhất là công nhân, lao động, cán bộ kỹ thuật,
trừ những phần tử thù địch, bọn mật vụ, bọn phá hoại hiện hành…”. Theo Chỉ thị
ngày 19-4-1975, cũng của Ban Bí thư, với cấp nhân viên, sau khi “được giáo dục”
tại phường, xã: “a, Đối với những tên thật thà hối cải thì tạo điều kiện cho họ tiến
bộ, lập công chuộc tội; b, Đối với số cảnh sát, cứu hoả thì có thể sử dụng, trừ bọn
ác ôn phản động và ta phải đưa cán
bộ cốt cán vào để quản lý giáo dục…”. Từ cấp
quận phó trở lên, và hầu hết các chỉ huy cảnh sát từ cấp đội trở lên… đều thuộcdiện đưa đi tập trung cải tạo dài hạn.
Một “đồng chí” được giới thiệu là “trưởng Ban Tuyên huấn An ninh Miền” đã từng
công khai tuyên bố: “Việc học tập cải tạo đối với công chức, nhân viên nguỵ quyền
sẽ phải công phu và gian khổ về tinh thần hơn so với nguỵ quân vì công chức cao
cấp nguỵ quyền là những người trực tiếp hoặc tham gia tích cực vào bộ máy kềm
kẹp nhân dân. Họ được huấn luyện kỹ càng do đó, ảnh hưởng chế độ cũ về mặt
nhận thức và tư tưởng khá sâu
”
46
.
Sau ngày “giải phóng”, các chủ trương của nhà nước cũng chủ yếu được vận
hành thông qua các phong trào chính trị, cho dù có sử dụng “ngụy quyền” lưu dụng
thì kiến thức chuyên môn của họ cũng không biết để làm gì. Chưa kể, trong con
mắt của chính quyền, theo “đồng chí Trưởng Ban Tuyên huấn An ninh Miền”: “Họ
được huấn luyện kỹ càng để tham gia tích cực vào bộ máy kìm kẹp nhân dân
”
47.
“Ngụy Quân”
Một tuần sau, ngày 5-5-1975, Ủy Ban Quân quản Sài Gòn ban bố: “Mệnh lệnh
số 1 về việc ra trình diện, đăng ký và nộp vũ khí của sĩ quan, binh lính, cảnh sát, và
nhân viên ngụy quyền: Điều I: Tất cả các sĩ quan, binh lính, cảnh sát, tình báo mật
vụ, nhân viên ngụy quyền trong thành phố Sài Gòn và tỉnh Gia Định đều phải ra
trình diện và đăng ký. Thời hạn bắt đầu từ ngày 8-5-1975 cho đến ngày 31-5-1975
là ngày cuối cùng. Điều II: Cấp tướng và tá trình diện và đăng ký tại số nhà 213
Đại lộ Hồng Bàng, cấp uý trình diện và đăng ký tại uỷ ban nhân dân cách mạng
quận, cấp hạ sĩ và binh lính trình diện và đăng ký tại uỷ ban nhân dân cách mạng
phường. Cảnh sát, công an tình báo mật vụ trình diện và đăng ký tại trụ sở Ban an
ninh nội chính thuộc Ủy ban Quân Qủan
thành phố Sài Gòn. Nhân viên công chức
làm việc tại nhiệm sở nào trình diện và đăng ký tại nhiệm sở nấy. Điều III: Khi ra
trình diện và đăng ký nhất thiết phải mang nộp chứng minh thư, các loại giấy tờ cá
nhân, tất cả vũ khí, trang bị, hồ sơ tài liệu, phương tiện, ngân quỹ… Điều IV: Người
nào, nhà nào, tập thể nào, cơ sở nào có giữ vũ ,khí chất nổ và các phương tiện, khí
tài thông tin đều phải tới khai và nộp tất cả. Điều V: Mệnh lệnh này phải được triệt
để chấp hành đến 24 giờ ngày 31 (ba mươi mốt) tháng 5 (năm) năm 1975, những
người không ra trình diện cố tình lẩn trốn sẽ bị nghiêm trị, những người đã ra trình
diện, đăng ký nhưng còn khai gian, giấu diếm võ khí tài liệu, phương tiện nghĩa là
chưa thành thật, sau này phát hiện ra thì xem như chưa tuân lệnh, người nào đăng
nạp vũ khí, tài liệu, khí tài vật tư quý giá và phát hiện nhiều vấn đề có giá trị khác
sẽ được xem xét
khen thưởng xứng đáng. Tất cả những người đã ra trình diện đăng
ký tạm thời trước khi có lịch này đều phải làm đăng ký chánh thức lại theo mệnh
lệnh này. Sài Gòn, ngày 5-5-1975/Thay mặt Ủy ban Quân quản Thành phố Sài Gòn-
Gia Định/Chủ tịch/Thượng tướng TRẦN VĂN TRÀ.”
Việc ra trình diện không kéo quá dài như dự kiến. Chỉ trong vòng năm ngày, đã
có 23 viên tướng có mặt tại Sài Gòn tự động đến Trung tâm Dự bị Viện Đại học Sài
Gòn: Tướng Vũ Văn Giai, tư lệnh Sư đoàn 3; Tướng trẻ Trần Quốc Lịch, 40 tuổi, tư
lệnh Sư 5; Tướng Phan Duy Tất, chỉ huy trưởng Biệt động Quân khu II; Tướng Hồ
Trung Hậu, nguyên phó tư lệnh Sư Đoàn Dù… Nhưng chủ yếu là những viên tướng
đã nghỉ hưu từ trước: Trung tướng Nguyễn Hữu Có, Thiếu tướng Nguyễn Thanh
Sằng, Trung tướng Lê Văn Nghiêm… Cũng có những người đã thôi chức từ rất lâu
như Trung tướng Lê Văn Kim, về hưu từ năm 1964; Trung tướng Nguyễn Văn Vĩ,
nguyên Tổng trưởng Quốc phòng, về hưu từ năm 1972; Thiếu tướng Lâm Văn Phát,
người từng bị Sài Gòn kết án tử hình vắng mặt từ năm 1965…
Trong thời điểm khắc nghiệt nhất của chế độ Sài Gòn, những người “ngoan cố”
đã ra đi hoặc đã tuẫn tiết như Tướng Lê Văn Hưng, phó tư lệnh; Tướng Nguyễn
Khoa Nam, tư lệnh Quân Đoàn IV và một số tỉnh trưởng Miền Tây khác. Những
người còn lại ở lại và chấp nhận những gì sẽ đến với mìn
h
48
.
Ở Sài Gòn, 443.360 người ra trình diện, trong đó có hai mươi tám viên tướng,362 đại tá, 1.806 trung tá, 3.978 thiếu tá, 39.304 sỹ quan cấp uý, 35.564 cảnh sát,
1.932 nhân viên tình báo các loại, 1.469 viên chức cao cấp trong chính quyền,
9.306 người trong các đảng phái được cách mạng coi là “phản động”. Chỉ 4.162
người phải truy bắt trong đó có một viên tướng và 281 sỹ quan cấp tá.
Gần một tháng sau sau Lệnh Trình diện, ngày 10-6-1975, Uỷ Ban Quân quản ra
thông cáo “Về việc Học tập Cải tạo Sỹ quan, Hạ sỹ quan, Binh lính và Nhân viên
Quân đội Ngụy, Tình báo, Cảnh sát và Ngụy quyền đã trình diện đăng ký”. Theo đó:
Tất cả hạ sỹ quan binh lính và nhân viên quân đội Nguỵ thuộc các quân binh chủng
tại Sài Gòn-Gia Định, tình báo cảnh sát và nhân viên Nguỵ quyền quận, phường,
khóm, xã, ấp đã trình diện đăng ký phải đi học tập cải tạo trong ba ngày kể từ ngày
11-6-1975 đến ngày 13-6-1975. Nhân viên Nguỵ quyền từ trưởng phó phòng trở
xuống thuộc các phủ, bộ, vụ, viện, nha, sở, ty… đã đăng ký đi học tập từ ngày 18
đến ngày 20-6-1975. Thời gian học tập liên tục từ 7 giờ đến 16 giờ [giờ Đông
Dương] trưa nghỉ một giờ. Người đi học tự mang thức ăn trưa và chiều, sau khi học,
về nhà nghỉ. Lệnh học tập này phải được tuyệt đối chấp hành ai không đi học tập
cải tạo đúng thời hạn coi như phạm pháp.
Cũng trong ngày hôm ấy, lệnh học tập cải tạo được thông báo đến các sỹ quan
theo đó, “sỹ quan quân đội Nguỵ, cảnh sát, tình báo biệt phái từ thiếu uý đến đại
uý”
được hướng dẫn: “Phải mang giấy bút, quần áo, mùng màn, các vật dụng cá
nhân, lương thực, thực phẩm [bằng tiền hoặc hiện vật] đủ dùng trong mười ngày kể
từ ngày đến tập trung”. “Sỹ quan cấp tướng, tá”, được hướng dẫn mang theo “thực
phẩm, lương thực đủ dùng trong một tháng”.
Từ ngày 11-6, tất cả hạ sỹ quan binh lính đã đến các địa điểm trong Thành phố
học tập và họ cảm thấy yên tâm khi thời gian học tập chỉ có ba ngày, đúng như
thông báo và cách tiến hành thì mang tính “học tập” nhiều hơn là “cải tạo”. Báo chí
bắt đầu được sử dụng để trấn an những sỹ quan còn có chút băn khoăn lo lắng
trong lòng.
Bài xã luận “Tiếp tục cải tạo để trở thành người công dân chân chính” đăng trên
báo Sài Gòn Giải Phóng ngày 17-6-1975 viết: “Đợt học tập cải tạo của binh lính, hạ
sỹ quan nguỵ quân và nhân viên nguỵ quyền mở ra đã được mấy ngày. Trong các
thu hoạch của các học viên, có một điểm chung làm mọi người chú ý: hầu hết đều
phát biểu thừa nhận mình trước kia dù làm bất cứ việc gì trong bộ máy nguỵ quân,
nguỵ quyền, đều là những người có tội với nhân dân, với cách mạng. Họ đều hứa sẽ
tự cải tạo mình thành những con người tốt. Cuộc học tập này đã làm cho phần lớn
binh sỹ nguỵ biết phân biệt ai là địch, ai là ta.
Sự phân biệt này rất quan trọng. So
với trước khi học đây là một bước tiến bộ đầu tiên của binh lính nguỵ quân và nhân
viên nguỵ quyền. Nhưng cũng chỉ là một bước tiến đầu tiên mà thôi. Phân biệt được
địch, ta, hứa phấn đấu để trở thành người tốt, mới chỉ là tiến bộ về mặt nhận thức,
mới chỉ là sự bày tỏ thái độ. Họ có thật sự tiến bộ hay không? Thái độ của họ có
thành thật hay không? Hay giả vờ tiến bộ, giả vờ hứa hẹn cốt cho qua cửa ải này,
rồi trà trộn vào cộng đồng dân tộc với những tư tưởng thù địch với dân tộc? Đối với
những con người đã từng bị giặc Mỹ nhồi nhét những tư tưởng xấu xa, ý thức chống
nhân dân, chống cách mạng trong suốt hai mươi năm qua thì làm sao họ có thể gột
rửa hết trong ba ngày học tập? Vì vậy, cách mạng tạo cho họ điều kiện để chứng
minh sự tiến bộ của mình bằng hành động. Nhân dân ta đã có kinh nghiệm: đánh
giá một con người phải căn cứ trên hành động của họ. Ta giáo dục họ những tư
tưởng đúng, là cốt để họ làm đúng chứ không chỉ để nói đúng mà thôi”.
Một bài báo khác dẫn lời anh Trần Văn Lành, một trung sỹ quân nhu, nói: “Trước
khi đi học tập, tôi đã tưởng là sẽ bị ngược đãi, bị hạ nhục và có thể bị đánh đập
nữ
a”
49.
Nhưng, “điều đó đã không xảy ra” và sau học tập, anh Lành đã được cấp“Giấy công nhận hoàn thành học tập cải tạo” - tờ giấy có giá trị công nhận những
người “lính Ngụy” bắt đầu được “trở lại làm người” trong chế độ mới. Một người
khác, được giới thiệu là “Binh nhất Lê Công Đắc”, thì cho rằng: “Qua cuộc học tập
này, chính quyền cách mạng đã dắt chúng tôi ra khỏi nơi tối tăm, đưa chúng tôi về
với nẻo chính nghĩ
a”
50
.
Những phát biểu này được các sỹ quan theo dõi sát và khi
thấy sau “ba ngày học tập” binh lính được trở về nhà, thấy “cách mạng đã làmnhững gì cách mạng nói”, các sỹ quan đã yên tâm hơn.
Không ai biết rằng, từ ngày 18-4-1975, Chỉ thị 218/CT-TW của Ban Bí thư đã
quy định: “Đối với sỹ quan, tất cả đều phải tập trung giam giữ quản lý, giáo dục và
lao động; sau này tùy sự tiến bộ của từng tên sẽ phân loại và sẽ có chính sách giải
quyết cụ thể. Những người có chuyên môn kỹ thuật [kể cả lính và sỹ quan] mà ta
cần thì có thể dùng vào từng việc trong một thời gian nhất định, nhưng phải cảnh
giác và phải quản lý chặt chẽ, sau này tuỳ theo yêu cầu của ta và tuỳ theo sự tiến
bộ của từng người mà có thể tuyển dụng vào làm ở các ngành ngoài quân đội. Đối
với những phần tử ác ôn, tình báo an ninh quân đội, sỹ quan tâm lý, bình định
chiêu hồi, đầu sỏ đảng phái phản động trong quân đội, thì bất kể là lính, hạ sỹ quan
hay sỹ quan đều phải tập trung cải tạo dài hạn, giam giữ riêng ở nơi an toàn và
quản lý chặt chẽ”
51
.Ở nhiều địa phương, một số “tên ác ôn đầu sỏ” đã được “xử lý” ngay và chỉ vài
ngày sau 30-4, các sỹ quan gần như đã được đưa đi cải tạo. Tuy nhiên, Sài Gòn, nơi
tập trung gần nửa triệu sỹ quan và binh lính chế độ cũ, nơi tập trung sự chú ý của
dư luận trong và ngoài nước, nên mọi quyết định đều được Trung ương Cục và
Đảng ủy Đặc biệt bàn bạc lên kế hoạch.
Ngay trong phòng làm việc của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, Trung ương Cục
đã bàn cách đưa các sỹ quan của ông đi “cải tạo lâu dài”. Kế hoạch được gọi là
Chiến dịch X-1. Ông Võ Văn Kiệt thừa nhận: Việc công bố ba mức thời gian học tập
- hạ sỹ quan binh lính, ba ngày; cấp úy, mười ngày; tướng, tá, một tháng - là có ý
để cho các đội tượng ngầm hiểu rằng, thời gian học tập tối đa của các sỹ quan chỉ
là một tháng.
Nhà sử học Tạ Chí Đại Trường, năm ấy là một sỹ quan biệt phái với quân hàm
đại úy, thuộc diện “học tập mười ngày” viết: “Hầu hết đều bình thản đến cổng, xin
vào. Có người cưng con gái đi theo đỡ đần con rể. Có người thuộc diện “ba ngày”
tiễn đưa bạn, ngồi quán nhậu ngà ngà cũng theo bạn vào cổng cho vui. Có người
giải ngũ nằn nì xin ‘đi học để có cái giấy về dễ làm ăn’.
Nhưng, qua con ngựa sắt là
dòng sông không trở lại
”52
.Nơi tập trung của ông Tạ Chí Đại Trường là một trường học, ông viết: “Sáng 23-
6-1975, tôi đi vòng giã từ
phố
phường rồi cầm khúc
bánh
mì đến công trường
Taberd. Mười giờ 30 sáng. Hai viên sỹ quan cầm súng lặng lẽ chỉ lối vào. Ngoài
đường vắng, cổng trường kín chỉ chừa chỗ lách, không thể biết bên trong có gì
”53
.Những “sỹ quan cấp úy” ấy đã bình thản đến guichet (quầy) nộp “tiền ăn mười
ngày”, lấy biên lai… cho đến khi vào hành lang, cán bộ tới ra lệnh bỏ đồ kim khí ra,
mới thấy có “cái gì nặng nề lảng vảng”, rồi khi “trời càng về khuya, mưa tầm tã” thì
“bắt đầu mới rùng mình”.
Đại úy Tạ Chí Đại Trường viết: “Tôi mang mùng giăng trên tầng gác hội trường
nhưng không ngủ được. Từ trên gác nhìn ra bóng tối nhiều hơn ánh sáng… Ánh đèn
pha trải dài trên sân nước. Một vài người lính đi lại mang B40 lắp đầu đạn khiến cái
bóng càng dài r
a”
54.
Tối 25-6, Đại úy Trường cùng các chiến hữu nhận được lệnh dichuyển, “Có người dẫn ra đường. Vắng ngắt. Xe đậu dài ngút”. Rồi, thay vì “học tập
mười ngày”, ông thầy dạy sử Tạ Chí Đại Trường đã phải trải qua các trại từ hôm ấy
cho đến tháng 6-1981.
Mười ngày, một tháng qua nhanh. Không ai nhận được bất cứ tin tức gì liên quan
đến những người thân bị đưa đi học tập. Rồi đột nhiên, một sỹ quan được tha về,
người đó là Cựu Tổng trưởng Quốc phòng, tướng Nguyễn Văn Vỹ.
Vừa ra khỏi trại, Tướng Vỹ phát biểu: “Chúng tôi ăn còn ngon hơn bộ đội. Tôi
mong những người có thân nhân đi học tập cải tạo hãy yên lòng và tin tưởng Cách
mạng, đừng tin ở những lời đồn vô căn cứ
”
55.
Tướng Nguyễn Văn Vỹ là người màngay hôm đầu ra trình diện đã phát biểu: “Tôi hiểu rõ quân đội trong này lắm, tệ
lắm, xấu lắm; và mấy ngày hôm nay thấy rõ bộ đội Cách mạng rất kỷ luật, chững
chạc, đàng hoàng. Anh em vào nhà tôi ở cầu Thị Nghè không hề bị mất mát gì hết.
Cách mạng vào yên ổn, thanh bình ngay, ai cũng yên tâm và sung sướng
”56
.Ở thời điểm Tướng Vỹ phát ngôn trên báo, dân chúng không cần phải nghe tin
đồn, chồng con họ bặt vô âm tín đã hơn ba tháng cho dù “Cách mạng nói” sĩ quan
cấp úy chỉ đi học tập “mười ngày”, cấp tá chỉ đi “một tháng”. Tuy nhiên, đấy cũng
chưa phải là thời điểm mà những người ở nhà hay ở bên trong hàng rào dây kẽm
gai tuyệt vọng. Chính quyền biết điều đó và Tướng Vỹ được tha để nói những lời có
giá trị trấn an. Đồng thời, “các sỹ quan và nhân viên ngụy quyền” bắt đầu được
phép và được động viên viết thư về nhà.
Đầu tháng Bảy, báo Giải Phóng, tờ báo trong R của Mặt trận Dân tộc Giải phóng
Miền Nam, cho đăng lá thư của ông Trần Văn Tức “nguyên là đại úy cảnh sát ở Côn
Sơn”, gửi vợ là bà “Nguyễn Bích Thủy, ở số 52-54 Nguyễn Khắc, Sài Gòn 2”. Khi
cho đăng lá thư, tờ Giải Phóng nói rõ là “để bạn đọc hiểu thêm cuộc sống hiện nay
của các sĩ quan (trong quân đội ngụy trước đây) đang học tập cải tạo
”
57.
Thông điệpmà Chính quyền muốn gửi qua bức thư này được lồng vào một cách vụng về: “À, ở
thư trước anh quên dặn em là đừng tin lời đồn nhảm của bọn phản động của bọn
ngụy tuyên truyền làm cho em và ba má ở nhà hoang mang lo sợ. Nếu người nào
nói xuyên tạc đó là bọn lưu manh thừa dịp để làm tiền hoặc bọn ngụy phản cách
mạng, em nên đến chánh quyền cách mạng tố cáo họ. Anh cố gắng học tập
cải tạo
tốt để chánh phủ cách mạng khoan hồng cho những đứa con lạc lối được thànhngười công dân chân chính và sớm về đoàn tụ với gia đình tăng gia sản xuất
”
58
.
Hơn một tháng sau, tờ Tin Sáng có bài phỏng vấn bà “LQL”, người vừa trở lại SàiGòn sau chuyến thăm chồng là “Thiếu tá Tiểu Đoàn phó Tiểu Đoàn 7, Thủy Quân
Lục Chiến Ngụy”. Tờ Tin Sáng không nói rõ chị L thăm chồng ở trại nào và chồng
chị là ai, chỉ giới thiệu: “Thiếu tá và cả Tiểu đoàn 7 của ông đã bị tên tướng ngụy
Bùi Thế Lân bỏ kẹt tại cửa Thuận An và đã cùng toàn bộ binh lính trong Tiểu đoàn 7
đầu hàng quân đội giải phóng
ngày 27-3 vừa qua”. Câu chuyện ở trại cải tạo được
tờ Tin Sáng dẫn dắt cho thấy không khí trong các trại cải tạo từa tựa như một trại
h
è
59.
Bài phỏng vấn kết thúc bằng lời dặn dò của người chồng: “Em yên trí về lolàm ăn, ở đây em khỏi lo hai thứ rượu và gái, đã làm hai đứa thường mất hạnh
phúc như trước kia. Cuộc sống ở đây rất điều hòa và lành mạnh như em đã thấy,
chắc chắn bọn anh sẽ khá hơn trước”.
Người phỏng vấn, phóng viên Phan Bảo An, sử dụng những ngôn từ như “tên
tướng ngụy…”, khiến người đọc có cảm giác nó được viết bởi một cán bộ tuyên huấn
từ “R” về hoặc từ Bắc vào. Nhưng Phan Bảo An là bút danh của ông Phan Xuân Huy,
một cựu dân biểu Sài Gòn. Ông Phan Xuân Huy nói rằng cuộc phỏng vấn ông thực
hiện được là tình cờ chứ không phải do Chính quyền sắp xế
p60
;tuy nhiên, về sau
ông mới phát hiện ra “người vợ” là con của một gia đình Cách mạng.
Cho đến tháng 9-1975, chỉ những người có nhân thân rất đặc biệt mới có thể
vào trại thăm thân nhân. Lá thư của “ông Trần Văn Tức gửi vợ là bà Nguyễn Bích
Thủy” trùng hợp với thời gian mà ở các trại cải tạo, “ngụy quân, ngụy quyền” được
yêu cầu viết thư về nhà. Nhà sử học Tạ Chí Đại Trường, thời gian này đang cải tạo ở
Trảng Lớn, Tây Ninh, kể: “Thư hàng tháng được coi như là một ân huệ của Nhà
nước ban cho người có tội phải cải tạo,‘dựa trên ý thức truyền thống thông cảm với
tình gia đình đậm đà của người dân Việt Nam’… Thư gửi được quản giáo kiểm duyệt.
Nội dung thư cứ phải nói ‘học tập tốt, lao động tốt’ và phải động viên gia đình
”
61
.
“Đoàn tụ”
Có lẽ không mấy gia đình ở miền Nam không đồng thời có người thân vừa ở phía
bên này vừa ở phía bên kia. Và có lẽ không có ở đâu, ý thức hệ lại chia cách tình
thân đến thế. Ông Tư Bôn, giám đốc Việt Nam Tổng Phát hành, có cậu ruột là một
cán bộ cộng sản nổi tiếng, ông Mai Văn Bộ, nhưng vẫn không thoát vòng lao lý. Ở
đề lao Gia Định, ông Bộ có vào thăm nhưng người cháu đang bị liệt vẫn tiếp tục bị
giam cầm.
Nhà văn Doãn Quốc Sĩ là con rể của nhà thơ Tú Mỡ - người có tác phẩm được
miền Bắc đưa vào sách giáo khoa phổ thông - nhưng vẫn phải đi tù. Doãn Quốc Sĩ
bị tù tổng cộng mười bốn năm, trong thời gian đó ông không được gặp mặt bố mẹ
đang sống ở Hà Nội, thậm chí không được gặp cả người anh ruột Doãn Nho là một
nhạc sĩ con cưng chế độ.
Trung tá Phan Lạc Phú
c62
cũng có cùng hoàn cảnh như nhà văn Doãn Quốc Sĩ.Ông Phúc có một người em ruột là sĩ quan Việt Nam Cộng hòa, năm 1962 tham gia
đảo chính bất thành, đi theo Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam. Nhưng sau
năm 1975, ông Phan Lạc Phúc vẫn phải chịu hơn mười năm cải tạo.
Đại úy Dù Phan Nhật N
am63
có cha là ông Phan Văn Trình, vốn là một sỹ quantình báo được Việt Minh đánh vào Sở Mật thám Liên bang Đông Pháp. Ngày 2-9-
1950, ông Trình đã lập công bằng cách lấy hồ sơ của Sở Mật thám mang ra Việt
Bắc. Nhưng, như số phận của nhiều nhà tình báo khác, ông Phan Văn Trình đã
không được tin dùng. Ông chỉ là một cán bộ nhỏ công tác ở Hải Phòng và sau năm
1975 về Nam chỉ nhận được chức phó chủ tịch một phường ở Sài Gòn. Đại úy Phan
Nhật Nam biết trước là không thể nhờ vả được gì vào bố mình. Bởi chính ông, năm
1973, đã từng gây khó khăn cho b
ố
64
.
Theo ông Phan Nhật Nam: “Năm 1981, ở Mỹ, khi Mặt trận Hoàng Cơ Minh trao
giải cho cuốn sách của tôi, Tù binh và Hòa bình, ở trại Lam Sơn, Thanh Hóa, từ
ngày 7-9-1981, tôi bắt đầu bị cùm trong phòng biệt giam. Trong hoàn cảnh đó,
ngày 8-5-1985, khi ba tôi lên thăm, ông vất vả ra Hà Nội chờ xin giấy thăm nuôi tôi
ở Cục Quản lý trại giam, thay vì có thể xin ở trại như các tù nhân khác. Cuộc thăm
nuôi lại chỉ được diễn ra trong vòng mười lăm phút. Cho dù đó là lần đầu tiên gặp
nhau sau hơn ba mươi năm, tôi vẫn nói với ông: Ba vất vả quá, thôi đừng thăm
nuôi nữa, đợi khi ra tù, con về
”
65
.
Cũng có không ít quan chức Cách mạng thay vì bảo lãnh, đã vận động ngaychính những người trong gia đình mình đi “học tập”. Có người muốn chứng minh với
Đảng sự “chí công vô tư”. Có người tin là cần thiết đối với người thân của họ.
Thiếu úy Việt Nam Cộng Hòa Lưu Đình Triều có ba mẹ là cán bộ cao cấp của
Cách mạng. Năm 1954, lúc Lưu Đình Triều một tuổi, chị gái Triều ba tuổi, anh đã
được ba mẹ để lại cho bà ngoại để đi tập kết. Trong suốt hơn hai mươi năm, hai chị
em Lưu Đình Triều đã lớn lên như những đứa trẻ mồ côi trong khi ba mẹ mình sống
ở Hà Nội trong một phần căn biệt thự trên đường Điện Biên Phủ với sổ mua hàng
“Tôn Đản”. Ba anh là ông Lưu Quý Kỳ, vụ trưởng Báo chí Ban Tuyên huấn Trung
ương kiêm tổng thư ký Hội Nhà báo. Còn anh, năm 1972, khi Chính quyền Sài Gòn
tạm đóng cửa các trường đại học và hạ bớt tuổi hoãn quân dịch của sinh viên, như
nhiều sinh viên khác, Lưu Đình Triều bị động viên vào lính.
Năm 1975, ông Lưu Quý Kỳ trở về, Lưu Đình Triều nhớ lại: “Bao lần tôi đã nằm
tưởng tượng ra cảnh hội ngộ này và nghĩ rằng lúc ấy tôi sẽ hét vang cái tiếng gọi
mà tôi đã thèm khát hàng chục năm trời: Ba ơi!
Má ơi!”. Nhưng, ngay trong ngày
gặp lại, Lưu Đình Triều đã cảm nhận được một “hố sâu thực sự”.
Lúc đó, do tình hình đi lại khó khăn, ông Lưu Quý Kỳ về Nam trước, vợ và con
ông, những người sinh ra ở Hà Nội, đã gửi gắm tình cảm vào chiếc máy ghi âm mà
ông Kỳ mang theo. Cô em gái Triều sau khi thăm hỏi anh chị, hồn nhiên hỏi: “Từ
hôm giải phóng tới giờ anh chị biết bài hát nào mới chưa. Em và con Thảo, con chú
Tân, hay hát lắm. Để bọn em hát cho anh chị nghe nhé”. Rồi hai cô gái Hà Nội cất
giọng lanh lảnh hát trong máy ghi âm: Sài Gòn đó, quê ta ơi / Trong biển lửa vẫn
ngời ngời / Ta đi như sóng căm hờn dâng trào / Xô lên trên xác quân thù hung
bạo / Giành một mùa xuân tươi sáng khắp miền Nam…
Lưu Đình Triều viết: “Khi nghe tới đó, tim tôi như thắt lại. Một ‘quân thù’ đang
đứng cạnh ba đây. Ba có biết không? Có căm hờn nó không? Từ giờ phút đó, niềm
vui hội ngộ trong tôi giảm hẳn. Chỉ có nỗi lo âu, thắc thỏm là mới dâng trào”.
Vài tháng sau, Lưu Đình Triều vẫn phải đi cải tạo. Trong thời gian ở trại, Lưu
Đình Triều kể: “Ban ngày chúng tôi phải học lý luận, ban đêm học hát những bài
như Bão Nổi Lên Rồi, Rầm Rập bước Chân Ta Đi Trên Đường Phố Sài Gòn… Sau khi
được “lên lớp” về Truyền thống Chống Ngoại xâm, Đường lối Sáng suốt của Đảng
Ta, Cuộc Chiến tranh Chính nghĩa, Chính sách Khoan hồng của Chính phủ Cách
mạng…, các trại viên phải tập trung thảo luận, theo hướng: phải phân tích được âm
mưu của Mỹ - Ngụy; phải nhận ra Ngụy quyền không chính nghĩa, chỉ có Cách
mạng mới chính nghĩa. Học xong lại phải “soi rọi bản thân”, kể ra những tội lỗi của
mình, mỗi người phải nghĩ cho ra một điều phi nghĩa của Quân đội Việt Nam Cộng
hòa”.
Lưu Đình Triều nói: “Tôi dẫn chuyện lính Sư 7 hành quân bắt gà, bắt heo của
dân. Có người là lính tài vụ, cả đời chỉ đi phát lương, với mong muốn được Chính
phủ khoan hồng, đã nhận phát lương cũng coi như tạo điều kiện cho lính đi càn
quấy. Có người than, tao nghĩ không ra tội, chúng mày ạ”.
Từ tháng thứ ba, Triều kể: “Mỗi tháng, trại viên được thăm nuôi một lần. Trong
số những người thăm nuôi có người quê Biên Hòa, tôi nhắn chị tôi đi thăm. Hóa ra,
khi ấy chị tôi đang đi Hà Nội. Khi chị tôi về, lên trại đúng lúc trại cấm thăm nuôi vì
một sự cố do trại viên gây ra. Tôi nhìn thấy chị tôi, khoát tay bảo về nhưng chị tôi
cứ đứng bên kia đường không chịu. Một người quản giáo tốt bụng tới vỗ vai, nói: ‘Đi
theo tôi’. Đi ra, vệ binh chặn lại; nhưng người quản giáo can thiệp. Hai chị em nhìn
nhau khóc, khiến người quản giáo cũng khóc”.
Chỉ huy trại khi ấy cũng biết Lưu Đình Triều là con cán bộ cao cấp nên chủ động
gửi thư cho ông Lưu Quý Kỳ, nói: “Chúng tôi biết anh, nếu được, anh lên trại chúng
ta nói chuyện về cháu”. Ông Lưu Quý Kỳ có lên nhưng thay vì gặp con và bảo lãnh,
ông chỉ viết thư khuyên “con cố gắng học tập tốt”. Lưu Đình Triều nhớ lại: “Tôi vừa
đọc thư ba tôi vừa xé và vừa cay đắng khóc”.
Có những quan chức Cách mạng không bảo lãnh cho con cháu của mình bởi họ
tin rằng những đứa con, đứa cháu lầm đường của họ cần có thời gian cải tạo. Có
những quan chức cẩn trọng biết rằng tờ bảo lãnh đôi khi sẽ là một trong những cái
cớ để khi cần, các đồng chí của mình đem ra “xử lý”. Ông Trần Quốc Hương nguyên
là một nhà chỉ huy tình báo, từng là cấp trên của “ông cố vấn” Vũ Ngọc Nhạ và
“trưởng văn phòng báo Time” Phạm Xuân Ẩn. Năm 1950, ông Hương “đánh” từ Hà
Nội vào Nam một cán bộ tình báo có tên là Từ Câu. Vì hoạt động trong lòng chế độ
Sài Gòn nên con cái của ông Từ Câu cũng phải đi lính như những gia đình khác. Sau
1975, họ cũng phải đi “học tập”. Khi ông Từ Câu mất, các con ông - thiếu úy Từ
Dũng và thiếu úy Từ Tuấn - đang bị cải tạo ở Minh Hải, gia đình có đơn xin cho con
về để tang cha. Ông Mười Hương phê đơn, chuyển Giám đốc Công an, xin cho họ
“được về để tang rồi vào trại lại”. Trước Đại hội V, ông Trần Quốc Hươn
g
66bị tố cáo
“bốn vấn đề”, trong đó, “một đồng chí trong tiểu ban bảo vệ Đảng” tố ông đã can
thiệp cho “hai thiếu úy Ngụy ra khỏi trại giam”.
“Phản động”
Một diễn biến khác, xuất hiện ngay từ những ngày Trung ương Cục nhóm họp để
triển khai “Chiến dịch X-1, X-2”, được quan tâm đặc biệt vì liên quan đến an ninh
chính trị. Ngày 3-9-1975, Trung ương Cục được báo cáo:
“Bọn chánh quyền cơ sở đi tập trung rất ít. Bọn Tuyên úy cũng đi rất ít. Cảnh sát
đặc biệt, dự kiến đi 1.500, nhưng chúng tập trung đến 2.460 tên. Nhưng, dự kiến
trên 1.000 tuyên úy chỉ đi 2 tên; dự kiến trên 150 tên chiến tranh tâm lý, đi 46 tên;
dự kiến 500 cảnh sát đã chiến chỉ đi 190 tên; Quân cảnh đi 140 tên; Tình báo dự
kiến 1000 chỉ đi 142 tên; Biệt kích 1000 chỉ đi 64 tên; Chiêu hồi dự kiến 300 chỉ đi
130 tên; Bình Định dự kiến 1500 chỉ đi 55 tên; Dự kiến đợt I, (đối tượng này) là
10.200 nhưng chỉ đi 4.800 tên; còn lại tên 5000; ta tổ chức bắt trên 400 tên; bọn
cơ sở, tình báo, quân báo tại chỗ dự kiến 3 vạn mới làm được 8.290 tên. Theo báo
cáo thì việc tổ chức học tập là tốt. Hội nghị chủ trương: Đối với bọn tuyên úy công
giáo, phật giáo và tin lành giáo, Ban Mặt trận Thành mới tới nói chuyện động viên
khuyến khích đi học; các tôn giáo trở về phải có ý kiến với từng người để họ đi học.
Sau cuộc nói chuyện sẽ tổ chức bắt nếu họ không chịu đi trình diện. Đối với biệt
kích, gia hạn đăng ký một thời gian; đề cao bọn ra trình diện; kêu gọi gia đình động
viên con em họ đi học sau đó tổ chức truy bắt
”67
.Chính sách cải tạo cũng đã đi vào lịch sử Tòa thánh Vatican từ ngày 15-8-1975,
khi Đức Giám mục Nguyễn Văn Thuận được mời tới Dinh Độc Lập, tại đây ông bị bắt
giữ và trong ngày hôm ấy được di lý ra trại giam Cây Vông, Phú Khánh.
Việc Tòa Thánh bổ nhiệm Giám mục Nguyễn Văn Thuận, người gọi ông Ngô Đình
Diệm là cậu ruột, làm giám mục phó Tổng Giáo phận Sài Gòn vào ngày 25-4-1975
(chỉ chưa đầy một tuần trước khi “giải phóng”) đã làm cho Cách mạng lo lắng. Bản
thân nội bộ công giáo cũng có những hoạt động được cho là “mờ ám”; một số linh
mục được coi là “cấp tiến” đã ám chỉ các tín hữu của Đức Cha Thuận là “phản
động”. Ngày 13-5-1975, một nhóm sinh viên công giáo đã đột nhập vào Tòa Tổng
Giám mục đòi Đức Cha Thuận phải từ chức. Ngày hôm sau, 14-5, chính họ lại cũng
đột nhập vào Tòa Khâm xua đuổi Đức Khâm sứ Henri Lemaitre.
Chính quyền không đứng ngoài những hoạt động “cấp tiến” này, nhưng Chính
quyền cũng đã hoang mang khi những hành động quá khích như vậy tác động trở
lại. Ông Võ Văn Kiệt thừa nhận là trong buổi chiều bắt Đức Cha Thuận, Chính quyền
đã triệu tập tất cả các linh mục, tu sĩ nam nữ tới tòa nhà Quốc hội Sài Gòn để nghe
“nói chuyện”, nhằm tránh những phản ứng khiến cho tình hình phức tạp thêm.
Người dân Sài Gòn quan sát những diễn biến ấy trong nỗi lo sợ rất rõ ràng,
nhưng thái độ của mỗi người thì một khác. Nhà báo Đoàn Kế Tường kể: “Sáng 29-
4-1975, tôi và một người bạn gặp nhau trên cầu Sài Gòn, anh hỏi: ‘Đi không?’. Tôi
nói không lưỡng lự: ‘Không. Tôi còn mẹ già ở Quảng Trị’.
Anh chia tay tôi xuống Tân
Cảng, một chiếc tàu hải quân đang đợi chúng tôi ở đó. Nhưng tôi không thể ngờ
được là mọi thứ sau 30-4 nó lại đảo lộn lên như thế”.
Đoàn Kế Tường sinh năm 1947 tại làng Đông Dương, xã Hải Dương, huyện Hải
Lăng, Quảng Trị. Vì cha từng đi lính Tây nên năm 1960 khi mới mười ba tuổi, ông
được đưa vào học trường Thiếu sinh quân ở Vũng Tàu, được huấn luyện trở thành
lính Biệt kích. Từ năm 1965 được đưa lên tác chiến ở vùng Lộc Ninh, Bù Đốp, Phước
Long. Là lính trận thật sự, hai lần bị thương, nhưng chàng trai trẻ mười tám tuổi
vẫn có chút máu Quảng Trị, làm thơ từ trong rừng sâu gửi về các tờ báo ở Sài Gòn
rồi được kết nạp vào Hội Văn - Nghệ - Sỹ Quân đội.
Năm 1969, nhân Đại hội Văn - Nghệ - Sỹ Quân đội toàn quốc, Đoàn Kế Tường
nhờ Chu T
ử
68xin cho về lại Sài Gòn làm báo. Chu Tử, một nhà báo quen biết nhiều
nhân vật có thế lực, đã nhờ Trung tướng Lê Nguyên Khang can thiệp, đưa Tường
cuối năm ấy về Sài Gòn làm trong tờ báo Đời của Quân đội. Đầu năm 1970 khi Chu
Tử ra thêm tờ nhật báo Sóng Thần, Đoàn Kế Tường vừa viết cho Đời vừa viết thêm
cho Sóng Thần. Tại đây, anh chơi thân với họa sỹ Ớt (Huỳnh Bá Thành), đang làm
cho báo Điện Tín. Tường kể: “Buổi trưa chúng tôi vẫn cùng nhau binh xập xám”.
Nhưng, sau cái ranh giới 30-4-1975, Ớt và Tường không bao giờ có thể “binh
xập xám” với nhau. Huỳnh Bá Thành là một cán bộ An ninh T4, biết những người
như Đoàn Kế Tường ở lại và “tư tưởng đang có những diễn biến phức tạp”. Trong
Hội nghị ngày 3-9-1975, Trung ương Cục lưu ý “các đối tượng làm việc cho các cơ
quan Mỹ, văn nghệ sĩ, báo chí, ký giả” và phân công: “An ninh phối hợp với Hoa
vận, tình báo nghiên cứu đề xuất phương án đối với Quốc Dân Đảng, Tàu đặc vụ và
nhân viên làm việc với nhân viên Mỹ. Tuyên Huấn Thành và Thông tin Văn Hóa
nghiên cứu kỹ đối với văn nghệ sỹ, ký gi
ả”
69
.
Đoàn Kế Tường kể tiếp: “Tôi trốn trình diện dù có quá khứ là thiếu úy biệt kích
rồi cùng người bạn thân là Dương Đức Dũng tham gia vào tổ chức Dân quân phục
quốc
70
... Chúng tôi in truyền đơn, in lời kêu gọi và phát tán chúng. Ngày 29-4-1975,
Tướng Nguyễn Cao Kỳ đã lấy trực thăng bay ra hàng không mẫu hạm Midway mà
chúng tôi vẫn nghĩ là ông lên rừng lập chiến khu. Chúng tôi cùng nhau hát: Tôi đi
theo anh, Nguyễn Cao Kỳ, anh hùng của dân / Tôi đi theo anh, Nguyễn Cao Kỳ, anh
hùng rừng xan
h
71.
Khi đó, tôi còn quá trẻ lại đầy máu nghệ sỹ, cứ nghĩ những việclàm của mình cũng như một cuộc chơi mà sinh viên Sài Gòn vẫn làm hồi trước
1975”.
Nhưng Sài Gòn đã không còn như “hồi trước 1975”. Đoàn Kế Tường kể tiếp:
“Trong những ngày ấy, Huỳnh Bá Thành có gặp tôi hỏi, nếu muốn làm báo Tin Sáng
thì Thành sẽ giúp, nhưng tôi chỉ đáp cụt lủn: Không! Tôi sẽ vào rừng!”. Đêm 22-10-
1975, Huỳnh Bá Thành đến nhà Đoàn Kế Tường còng tay người bạn từng binh xập
xám hôm nào. Trong đêm ấy, Dương Đức Dũng, Thái Sơn và giáo sư Lê Việt Cương
cùng bị bắt.
Gần bốn tháng sau, ngày 10-2-1976, Nguyễn Việt Hưng, Trần Kim Định bị bắt.
Đêm 12 rạng sáng 13-2-1976, lực lượng an ninh Thành phố bắt đầu tấn công nhà
thờ Vinh Sơn, thu giữ các thiết bị phát thanh và in tiền giả. Hai linh mục cố thủ
trong nhà thờ đã dùng súng và lựu đạn chống trả quyết liệt, bắn chết Nguyễn Văn
Ràng, một cán bộ an ninh. Mãi tới gần sáng, lực lượng bao vây mới khống chế được
nhà thờ, hai linh mục Nguyễn Hữu Nghị và Nguyễn Quang Minh cùng 3 người khác
bị bắt.
Vụ nhà thờ Vinh Sơn chưa kịp lắng xuống thì ngày 1-4-1976, xảy ra một vụ nổ ở
Hồ Con Rù
a
72làm cho một người chết, bốn người bị thương và phá hủy hoàn toàn
con rùa làm bằng đồng đặt giữa hồ.
Hai ngày sau, báo Sài Gòn Giải Phóng đăng bản tin có tựa đề, “Tóm gọn tại chỗ
bọn phản động và phá hoại”, với mấy dòng ngắn gọn: “Ngày 1-4, bọn phản động và
phá hoại, trong âm mưu phá rối trật tự trị an và cuộc sống yên lành của nhân dân
ta, đã gây tiếng nổ tại công trường quốc tế (Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh). Một
tên trong bọn chúng bị chết tại chỗ và bọn còn lại đã bị an ninh ta tóm cổ đưa về
điều tr
a”
73
.
Cùng ngày, tờ Giải Phóng, cũng đăng bản tin với độ dài và nội dung:
“Trừng trị tại chỗ bọn phản động và phá hoại: Tối 1-4-1976, bọn phản động và pháhoại, trong âm mưu phá rối trật tự trị an và cuộc sống yên lành của nhân dân ta,
đã gây tiếng nổ tại công trường quốc tế (Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh). Công
trường này ở ngã tư đường Duy Tân, Võ Văn Tần và Trần Cao Vân; ở giữa có một
vườn hoa nhỏ, đồng bào ta thường ra ngoài hóng mát. Một tên trong bọn phản
động bị chết tại chỗ và bọn còn lại đã bị an ninh ta tóm cổ đưa về điều tr
a”
74
.
Vụ nổ xảy ra lúc 8 giờ tối, được Huỳnh Bá Thành kể lại là “vang dội từ phía saulưng đuổi tới, nhà cửa hai bên đường rung chuyển và đó đây tiếng kính vỡ rơi lổn
cổn, khô khốc
”
75
.
Khi “trinh sát” đến hiện trường, theo Huỳnh Bá Thành: “Mùi thuốc
nổ vẫn còn khét lẹt. Một cảnh tượng hãi hùng trước mắt Trường Sơn: một thây
người đầy máu, bay mất cái đầu và đôi bàn tay, đang được anh em cảnh sát khiêng
lại để gần chỗ đặt chất nổ. Bốn thanh niên bị thương máu me đầy mình được xe
cảnh sát tức tốc đưa đi cấp cứu. Bên cạnh cảnh tượng chết chóc và thương tích
rùng rợn ấy, con rùa bằng đồng to tướng bị chất nổ làm banh ra từng mảnh nhỏ,
văng ra vung vãi. Theo giám định hiện trường của các đồng chí cán bộ cảnh sát
thuộc bộ phận khoa học hình sự đã xác định sơ bộ: chất nố được đặt ngay ở thân
con rùa đồng, loại TNT có sức công phá ước chừng mười đến mười lăm kilogam
”
76
.
Việc Chính quyền vội vàng kết luận trên báo chí người chết là “một tên trongbọn phản động” là chưa có căn cứ. Huỳnh Bá Thành, người mà báo Tuổi Trẻ nói
rằng đã “tham gia điều tra từ đầu cho tới khi kết thúc vụ án
”
77,
cũng thừa nhậnrằng: “Không tìm thấy giấy tờ tùy thân nào trong người hắn… khó mà kết luận tuổi
tác chính xác khi người chết không còn mặt mũi và hai bàn tay. Nạn nhân mặc
chiếc quân jean Mỹ bạc màu, chiếc áo kaki đã sờn, chân đi dép nhựa mòn sát gót.
Cũng thật khó mà kết luận thành phần xã hội của kẻ đặt chất nổ”
78
.Theo Huỳnh Bá Thành thì có ít nhất ba trường hợp đã đến công an đầu thú, một
số kẻ khác đã bị bắt khi đang ba hoa ở quán café rằng mình là chủ mưu, nhưng
“hóa ra bọn họ đều là những kẻ háo danh hoặc có vấn đề về tâm thần”. Nhiều vụ
“bắt bí mật” đã được ngành an ninh thực hiện, một trong số đó là Lỗ Hun
g
79.
LỗHung khai nhận và theo Huỳnh Bá Thành, trong người anh ta có một mảnh giấy
ghi: “Làm thêm ba thẻ tổ viên tổ hợp ván sàn”. Theo Thành thì vợ chồng nhà văn
Trần Dạ Từ và Nhã C
a
80
cũng có một tổ hợp ván sàn và Lầu Phá Xấu, theo đặc tình
của Thành là Đặng Hoàng Hà
81
,người mà nữ đặc tình này biết là thường xuyên qua
lại với vợ chồng nhà văn Nhã Ca.
Trên thực tế, cho dù mãi tới ngày 6-4-1976 vụ án mới “được làm sáng tỏ”,
nhưng ngày 2-4-1976, tức là chỉ mười hai giờ sau vụ nổ, những người như Nhã Ca,
Trần Dạ Từ đã bị bắt. Nhà văn Duyên Anh kể: “Buổi tối, mùng 2-4-1976, tôi định
xuống Cây Quéo kiếm Trần Dạ Từ hỏi xem Từ có đem về nhà cuốn Em Yêu nào
không. Em Yêu là cuốn sách mới nhất của tôi, nhờ Trần Dạ Từ in mướn. Sách chưa
kịp vô bìa, thì Sài Gòn mất. Rẽ vào đường Ngô Tùng Châu, nhìn con ngõ nhà anh
chị Hoàng Văn Đức thấy tối tăm, bùi ngùi quá, tự nhiên, tôi đạp xe về. Đêm ấy, vợ
chồng Trần Dạ Từ - Nhã Ca bị bắt cùng với Đặng Hoàng Hà
82
,Đặng Hải Sơn. Nếu tôi
có mặt ở nhà Từ, tôi cũng bị bắt luôn. Cũng đêm ấy, Trịnh Viết Thành, Nguyễn
Mạnh Côn lên đường trực chỉ Sở Công an”
83
.Một chiến dịch bắt bớ văn nghệ sỹ được kéo dài cho đến ngày 28-4-1976. Duyên
Anh kể tiếp: “Đêm ấy, đêm kinh hoàng, đêm mở đầu chiến dịch khủng bố văn nghệ
sĩ. Hôm sau, cả Sài Gòn xôn xao vụ bắt bớ nhà văn, nhà thơ, nhà báo. Tối mồng 3-
4, tôi đến nhà Mai Thảo ở 101 Phan Đình Phùng xem Mai Thảo bị bắt chưa. Tôi ngồi
ngoài xe hơi của Đặng Xuân Côn, bảo Côn xuống hỏi thăm Nguyễn Đăng Viên, anh
ruột Mai Thảo. Viên rất thông minh, anh trả lời Mai Thảo đi vắng và nhờ Côn, nếu
gặp Mai Thảo, nhắn về gấp. Viên ra dấu cho Côn chuồn lẹ. Côn hiểu ý vì đã đoán ra
hai khách lạ nón cối, dép râu, nhìn Côn không chớp mắt.
Tôi rú ga, vọt mau. Côn
ngoái lại, hai khách công an đã phóng ra vỉa hè. ‘Nó đến bắt Mai Thảo’, Côn nói. Tôi
đi tìm dấu vết Mai Thảo, không lùng nổi tung tích Mai Thảo. Công an không bắt
được Mai Thảo, đã giả vờ quên tôi. Để tôi kiếm giùm Mai Thảo
”
84
.
Đến chiều ngày 8-4-1976 thì chính Duyên Anh cũng chịu chung số phận. Ôngkể: “Trước đó nửa tiếng đồng hồ, tôi đang băm thịt, nấu cháo nuôi vợ ốm, ông tổ
trưởng dân phố của tôi dẫn ông phường trưởng và công an phường đến thăm gia
đình tôi, hỏi chuyện sinh hoạt phường khóm và nếp sống mới. Tôi bỏ nồi cháo dưới
bếp để tiếp chính quyền. Chừng mười phút, một ông công an cáo lỗi ra về. Mười
phút sau, mật vụ ập vào nhà tôi, súng ngắn súng dài đầy đủ. Cộng sản luôn luôn
chơi chắc ăn. Họ giả vờ thăm viếng tôi. Khi biết đích xác tôi có mặt ỏ nhà, họ mới
đến bắt… Cảnh tượng gia đình tôi, bấy giờ, thật bi thảm. Vợ tôi đang đau nặng, vụt
tỉnh, tung mền chạy ra phòng khách. Tôi nhìn cái còng nhãn hiệu Mỹ do cộng sản
siết dính trên tay mình, nhìn vợ tôi mặt mày tái mét, nhìn ba đứa con tôi ngơ ngác,
nước mắt chảy ròng ròng. Tôi đợi công an đến bắt tôi sau khi tôi hay tin họ đã bắt
Nguyễn Mạnh Côn, Trịnh Viết Thành, Doãn Quốc Sĩ
…”
85
.
Lý do “bọn phản động cho nổ Hồ Con Rùa” được Huỳnh Bá Thành thuật lại trong
cuốn sách mà báo Tuổi Trẻ khẳng định là “một câu chuyện hoàn toàn có thật” là
nhằm phá con rùa “ếm đuôi rồng” để cho đuôi rồng quậy phá chế độ mới
86
.Duyên Anh, một nhân vật của cuốn sách Vụ Án Hồ Con Rùa, nhận xét: “Bỏ qua
thứ văn chương hạng bét và thứ kiến thức tình báo giày dép của Huỳnh Bá Thành,
cộng sản khẳng định chúng tôi là tay sai của CIA gài lại. Căn nhà số 104 đường
Công Lý (sau này đổi thành Nam Kỳ Khởi Nghĩa) của vợ chồng Đằng Giao là trụ sở
lui tới họp bàn của chúng tôi. Bút hiệu của chúng tôi được nhai nhái hơi hơi giống.
Đằng Giao là Đỗ Gia.
Chu Thị Thủy là Chu Nữ. Vợ chồng Nhã Ca, Trần Dạ Từ là Lê
Dạ, Tú Dung. Nguyễn Mạnh Côn là Nguyễn Côn. Tôi là Vũ Long… Cộng sản đề cao
Hoàng Hà Đặng (tên thật Đặng Hoàng Hà) như một ‘lãnh tụ’ ghê gớm, ngang cơ với
Hồ Chí Minh thuở hoạt động bí mật. Thật ra, Đặng Hoàng Hà chỉ là anh phóng viên
tài tử, con người hiền lành, chưa từng biết tình báo là cái gì. Đưa chúng tôi lên mây,
trao mìn về cho chúng tôi, cho chúng tôi thảo luận chiến lược(!) với các đại cố vấn
Mỹ trước 1975 rồi khi ‘tóm’ được chúng tôi thì mô tả chúng tôi là những thằng ‘ăn
mày’, những thằng ‘đói thuốc phiện thất thểu’ vào tù đền tội, và ‘xưng em’ với nữ
công an ngọt xớt
”
87
.
Trên thực tế, trong những ngày ấy cũng có rất nhiều những người chống đốichính quyền bằng hành động, có những người - nhất là giới văn nghệ sỹ - chống đối
bằng những lời nói cho sướng mồm, có những kẻ lợi dụng lòng tin, bày đặt chống
đối để lừa đảo tiền tình của những người dân không ưa chế độ. Nhưng cũng có
những cái bẫy được đặt ở đâu đó.
Ngày 6-04-1976, Chính quyền quyết định tấn
công vào nơi được coi
là “sào
huyệt của bọn phản cách mạng”, đặt trong một khu rừng ở Tùng Nghĩa, Lâm Đồng,bắn chết sáu người, bắt sống “Chủ tịch Trần Duy Ninh và tám tên khác”. Ngày 8-
04-1976, bốn mươi ba mục tiêu ở Sài Gòn bị đồng loạt tấn công: “bắt thêm năm
mươi tên, thu giữ một điện đài, hai máy in bạc giả, một máy phát điện, toàn bộ
máy móc để xây dựng đài phát thanh, tám mươi súng các loại, 100kg thuốc nổ TNT
và một số tài liệu phản động
”
88
.
Hành động này còn mang ý nghĩa trấn áp, vì ngày 29-4-1976, trên cả nước sẽdiễn ra một sự kiện hết sức quan trọng của Chính quyền Cách mạng: Tổng tuyển cử
bầu Quốc hội Thống nhất đầu tiên của Việt Nam. Chính quyền muốn đảm bảo rằng
sẽ không xảy ra sự cố. Nhiều người đã bị bắt mà cho đến tận khi nhắm mắt lìa đời
vẫn không biết lý do là gì
89
.Ngày 7-4-1976, họa sỹ Chóe bị bắt.
Họa sỹ Chóe tên thật là Nguyễn Hải Chí, trong thời gian “đi trung sỹ” tại Phòng
III, Bộ Tổng Tham mưu, Chóe nổi tiếng với những tác phẩm biếm họa phản chiến
đăng trên báo chí Sài Gòn chế diễu từ Cố vấn An ninh Quốc gia Kissinger, Tổng
thống Nixon cho tới Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu; tranh của Chóe cũng châm
biếm cả bà Nguyễn Thị Bình và ông Lê Đức Thọ… Ở cơ quan Tổng Tham mưu: “Hạ
sĩ Nguyễn Hải Chí bé tí trước đại tướng Cao Văn Viên. Nhưng họa sĩ Chóe thì vĩ đại
gấp nghìn lần Cao Văn Viên
”
90
.
Trong chiến tranh, biếm họa của Chóe được các tờ
báo nổi tiếng ở Mỹ đăng.
Chính quyền Sài Gòn cũng không ưa gì Chóe. Cuối năm 1974, ông bị bắt do vi
phạm lệnh “cấm những người đang phục vụ trong quân đội làm báo”. “Khi đại tướng
Tổng tham mưu quân lực Việt Nam Cộng hòa đào ngũ trốn khỏi Việt Nam quên đọc
Huấn thị, Nhật lệnh, nhờ đại tá thi sĩ Cao Tiêu viết hộ thì hạ sĩ Hải Chí còn nằm ở
phòng giam của Cục An Ninh quân đội
”
91
.
Ngày 30-4, chính Cách mạng đã mở cửa
nhà tù cho Chóe.
Họa sỹ Chóe nhớ lại: “Một hôm đi ngang qua quán cà phê 104 Công Lý của Chu
Thị Thủy - Đằng Giao, tôi nghe Nhã Ca kêu, nên có vào ngồi một lúc. Đó là lần duy
nhất tôi ngồi với họ kể từ sau ngày 30-4
”
92
.
Nhưng sự liên đới của Chóe không chỉ bị
Huỳnh Bá Thành lưu ý trong lần cà phê ấy.Trong Vụ Án Hồ Con Rùa, Thành đã viết về mối quan hệ của Tú Dung - Nhã Ca
với Barry Hilton: “Viên sĩ quan CIA người Mỹ tên là Barry Hilton cầm tay chỉ việc
cho Tú Dung, thì nữ văn sĩ này biến thành một ‘nữ biệt kích’ chống cách mạng một
cách hoàn toàn không còn lương tri của một người trí thức”. Cách nói đó không chỉ
cáo buộc Nhã Ca. Huỳnh Bá Thành, cũng từng là một họa sỹ biếm, biết Barry Hilton
đánh giá cao tài năng của Chóe. Barry Hilton đã tuyển tranh của Chóe in thành tập
The World of Choe. Sách đã in nhưng vì Barry Hilton là công chức thuộc Bộ Ngoại
giao Mỹ nên phải chấp nhận không phát hành tập sách đả kích Bộ trưởng Ngoại
giao lúc đó.
Chóe bị bắt khi đang làm việc ở tòa soạn báo Lao Động Mới. Ông bị dẫn về nhà ở
số 52/8 Quang Trung, Gò Vấp, lúc đã 6 giờ chiều; công an khám xét tới 9 giờ đêm
thì giải ông về trại “tạm giam”. Huỳnh Bá Thành là người bắt Chóe.
Ba
ngày
trước
tổng
tuyển
cử,
26-4-1976,
An
ninh
ra
lệnh
bắt
tiếp
Luật
sư
Nguyễn Ngọc Bích. Ông Bích không bao giờ biết vì sao mình bị bắt93
.Ông từng làm
cho cơ quan trợ giúp Mỹ USAID trong chương trình “cấp căn cước cho người từ mười
sáu tuổi trở lên” và sau khi tốt nghiệp cử nhân luật, ông nhận được học bổng đi học
thêm một năm tại Đại học Harvard, Mỹ. Tháng 4-1975, ông là “chuyên viên đặc
nhiệm” cho Tổng cục Dầu hỏa và Khoáng sản.
Những cuộc bắt bớ tương tự kéo dài tới năm 1978.
Một trong số đó là nhà tríthức cách mạng Hồ Hữu Tường. Từ giữa thập niên 1920 khi du học ở Paris, ông Hồ
Hữu Tường từng tham gia phong trào Đệ tứ Quốc tế cùng với các ông Phan Văn
Trường, Tạ Thu Thâu. Mặc dù năm 1939, ông Tường từ bỏ chủ nghĩa Marx và phong
trào Đệ tứ nhưng năm 1940 ông vẫn bị người Pháp bắt và đày ra Côn Đảo cho tới
năm 1944. Ra tù, với tư cách là một nhà trí thức, ông Tường có nhiều bài viết nổi
tiếng về cả chính trị, kinh tế và văn hóa phổ biến ở Hà Nội. Năm 1946, ông làm cố
vấn cho phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong Hội nghị Đà Lạt. Ông là một
trong những người biên soạn sách giáo khoa tiếng Việt cho bậc trung học của nước
Việt Nam, lúc ấy, vừa tuyên ngôn độc lập.
Ông Hồ Hữu Tường bị người Pháp bắt lại năm 1948 và năm 1957, sau khi về
sống ở Sài Gòn, bị chính quyền Ngô Đình Diệm tuyên án tử hình vì làm cố vấn cho
Mặt trận Thống nhất của Hòa Hảo, Cao Đài và Bình Xuyên.
Nhờ có sự can thiệp củanhững nhân vật nổi tiếng trên thế giới như Albert Camus, Nehru, ông được giảm
xuống khổ sai. Ông được trả tự do sau khi chính quyền Ngô Đình Diệm bị lật đổ. Ra
tù, ông được mời làm phó viện trưởng Viện Đại học Vạn Hạnh và năm 1967, ông
tham gia chính trường với tư cách là một dân biểu đối lập. Ông Hồ Hữu Tường
không phải đi cải tạo cho đến khi ông có một vài “sáng kiến chính trị” vào năm
1978, năm ông Tường sáu mươi tám tuổ
i
94.
Ba lần ông thoát khỏi nhà tù, của ngườiPháp và của chế độ Ngô Đình Diệm, nhưng tới lần thứ tư thì không. Ngày 26-6-
1980, ông Hồ Hữu Tường được đưa từ trại Z30D ở Hàm Tân về Sài Gòn, nhưng trên
đường đi thì ông mất.
Năm 1981, trong khuôn khổ một hoạt động của US-VN Reconciliation Project, bà
Luật sư Ngô Bá Thành được mời tới Đại học Harvard. Tại đây, bà cho rằng, những
người được đi cải tạo là may mắn vì nếu họ bị đưa ra một phiên tòa như Nuremberg
thì có thể họ đã bị xử bắn. Luật sư Ngô Bá Thành không biết rằng con gái của ông
Hồ Hữu Tường, người tù cải tạo vừa mới chết một năm trước đó, Giáo sư Hồ Tài
Huệ Tâm lúc ấy đang dạy lịch sử ở Harvard cũng được người tổ chức chương trình,
ông John McAuliffe, mời d
ự
95.
Lập luận của bà Ngô Bá Thành không mới đối với HàNội nhưng rất ngạc nhiên khi nó được nói ra bởi một luật sư.
Việc đưa vào tù hàng trăm nghìn con người đã buông súng hoặc không hề cầm
súng,
không
bằng
một
bản
án
của
tòa,
sau
ngày
30-4-1975,
và
đặc
biệt,
câu
chuyện đưa 1.652 con người trên tàu Việt Nam Thương Tín vào tù được kể lại sau
đây, thật khó để nói là may mắn.
Trưa 29-4-1975, Dân biểu Nguyễn Hữu Chung có được một “sự vụ lệnh” do Tổng
thống Dương Văn Minh ký cho phép tàu Việt Nam Thương Tín thực hiện chuyến di
tản cuối cùng. Sáng 30-4-1975, khi con tàu này ra tới cửa sông, đã bị B40 bắn
theo,
giết chết nhà
văn
Chu
Tử, chủ
nhiệm
Nhật báo
Sống.
Con
tàu
Việt
Nam
Thương Tín và hàng nghìn người nằm đợi ở đảo Guam gần năm tháng. Sự chờ đợi
trước một tương lai vô định trong khi vợ con, cha mẹ vẫn đang kẹt lại quê nhà đã
khiến cho nhiều người muốn quay lại Việt Nam, nơi mà họ tin là đã bắt đầu thống
nhất và chắc chắn có hòa bình.
Một trong số ấy là Đại úy tình báo Võ Tín
h
96
.
Ông Võ Tính được người Mỹ tạo
điều kiện đưa toàn bộ gia đình di tản. Tuy nhiên, cha ông nói: “Tao chờ đến ngày
đất nước thống nhất, tại sao tao phải đi khi ngày đó gần kề”. Còn cha vợ ông thì khi
đó đang mong hai người con trai tập kết từ năm 1954 trở lại.
Ông Võ Tính đã định ở lại Việt Nam, nhưng vào những ngày cuối tháng 4-1975,
người Mỹ khuyến cáo là sẽ vô cùng nguy hiểm. Ông Tính được đưa ra Phú Quốc và
khi Tướng Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng, ông được đưa ra Hạm đội 7 để rồi
sau đó tới Guam. Cũng như nhiều người lính khác, Đại úy Võ Tính không chắc có bị
“Việt Cộng” trả thù trong khi, từ trong thẳm sâu, ông nhận thấy chỉ có Việt Nam
mới là tổ quốc. Không tìm được lý do hợp lý để bỏ nước, bỏ cha mẹ già, người vợ
trẻ và 3 đứa con thơ, Đại úy Võ Tính đã tham gia vận động để người Mỹ cho phép
những người Việt quay lại Việt Nam bằng con tàu Việt Nam Thương Tín.
Ngày 29-9-1975, sau khi Cao ủy Tị nạn Liên Hiệp Quốc nhận được sự đồng ý của
Chính phủ Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam, tàu Việt Nam Thương Tín rời
Guam
trong một buổi lễ tiễn đưa trang trọng: có những phụ nữ mặc áo dài, chào cờ
và được truyền hình Mỹ tường thuật. Trung tá Hải quân Trần Đình Trụ được ủy
nhiệm chỉ huy chuyến trở về của con tàu này.
Sau hai tuần hải hành, tàu Việt Nam Thương Tín về đến hải phận Vũng Tàu. Mãi
tới hôm sau, hai tàu Hải Quân treo cờ đỏ sao vàng mới chạy ra và dừng lại cách tàu
Việt Nam Thương Tín gần 200m. Những người lính Hải quân dùng ống nhòm quan
sát rất kỹ và sau mấy giờ, họ hướng dẫn tàu Việt Nam Thương Tín chạy ngược ra
phía miền Trung. Những người trở về bắt đầu linh cảm điều gì đó bất thường nhưng
họ vẫn còn hy vọng và vẫn còn chờ đợi.
Tới Nha Trang, tàu bị dẫn vào Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân. Tất cả mọi
người đều bị dồn lên những chiếc xe bít bùng và khi được chở tới Trung Tâm Thẩm
Vấn của Quân đoàn II thì mọi người được lệnh “phải trút bỏ hết quần áo, bị khám
xét rất nhiều lần từ đầu đến chân, được phát cho hai bộ đồ lính rộng thùng thình,
một chiếc chiếu rộng 8 tấc rồi dẫn đi nhốt vào phòng giam”. Trừ một đứa bé khi ấy
7 tuổi, tất cả đều phải đi tù, người ít nhất 9 tháng, người lâu nhất - Trung tá Trần
Đình Trụ - phải ở tù tới 13 năm.
Tù và cải tạo
Cho dù ở tù hay cải tạo thì đều là thân phận của những người mất tự do. Nhưng
được chuyển từ Đề lao Gia Định hay Chí Hòa ra trại “cải tạo” vẫn là những gì mà
những “người tù” thèm khát.
Duyên Anh viết: “Nếu tôi đã phục vụ (trong quân đội) như Thanh Tâm Tuyền,
Phan Nhật Nam, Tô Thùy Yên
…
97,
tôi sẽ đóng một khoản tiền ăn mười ngày cho đơnvị tôi trình diện học tập ở trường Gia Long, ở trường Lasan Taberd hay ở cô nhi viện
Don Bosco, chẳng hạn. Rồi tôi chờ đợi xe Molotova, xe GMC, xe đò nữa, chở tôi đến
trại nào đó ở Long Giao, ở Suối Máu, ở Long Thành. Tôi đi tù với hàng ngàn, hàng
vạn bạn bè, tôi không việc gì mà sợ hãi. Ít ra, hai ba năm đầu, bộ đội họ quản lý tôi
cũng dễ dãi hơn công an. Tôi đi lại thong thả khắp trại và đêm đêm cửa phòng tôi
không bị khóa chặt. Nhưng tôi đã thiếu vinh hạnh làm sĩ quan quân lực Việt Nam
Cộng Hòa, tôi là nhà văn phản động và công an đã đến còng tay tôi, đưa tôi đi một
mình”
98
.Khi đã vào những nhà tù như số 4 Phan Đăng Lưu, số 3c Tôn Đức Thắng hay Chí
Hòa thì mới thấy được đi cải tạo cũng là một ân huệ. Luật sư Nguyễn Ngọc Bích kể:
“Sau một năm ở xà lim, tôi được đưa ra phòng giam tập thể, giam chung với sáu
mươi chín người khác trong một phòng. Mỗi người được một phần sàn xi măng rộng
60cm dài hai mét và được phát một chiếc chiếu. Trong phòng, có các tướng lĩnh,
các bộ trưởng và các viên chức cao cấp của Sài Gòn. Tôi nhận ra trong đó có những
người cùng bị bắt đợt tháng 4-1976 với tôi”.
Bên cạnh những người tù không có án như Đoàn Kế Tường, Linh mục Thiện, Luật
sư Vũ Đăng Dung, Dân biểu Võ Long Triều, Nguyễn Ngọc Tân, Như Phong, Lâm Văn
Thế, Nguyễn Ngọc Tân, Lê Xuyên… ở các đề lao cũ của Sài Gòn còn có các nhà “tư
sản mại bản” mà trong đó có một số người có được “vinh dự” ra tòa như Phạm
Quang Khai, Trần Thành, Đào Mậu, Tăng Tài, Nguyễn Công Kha, Bùi Kim Bảng,
Nguyễn Văn Trương (Khai Trí), Trương Văn Khôi… và cả những “tên phản động” bị
bắt trong vụ Nhà thờ Vinh Sơn như Nguyễn Việt Hưng, Ali Hùng, linh mục Nguyễn
Văn Nghị, linh mục Nguyễn Văn Chức, thiếu tá Tiếp…
Cuối thập niên 1970, ngay cả người Sài Gòn cũng không mấy khi có gạo trắng,
cá tươi, cơm tù không thể nào tránh được cá thịu, gạo hẩm. Nước cũng là nỗi khát
khao của các tù nhân. Ở Chí Hòa, tù nhân Đoàn Kế Tường đã từng tổ chức biểu tình
“đòi đi tắm”. “Họ bị cai ngục dẫn đến một phòng trống. Bọn trật tự cầy cáo trói tay
họ lại và đấm đá hội đồng. Người nào cũng tím bầm mắt, máu khô còn ứa trên
mép. Rồi họ bị tống vào biệt giam khu FG. Không chịu nổi biệt giam Chí Hòa, họ
đành làm Tự kiểm nhận lỗi. Riêng Đoàn Kế Tường kiên trì. Tất cả lắc đầu, thở dài
”
99
.
Nhiều thứ bệnh đi theo người tù như tiêu chảy, kiết lị… nhưng thuốc men gầnnhư không có; những năm đó, ngay cả công an, bộ đội và dân chúng cũng đều phải
dùng “xuyên tâm liên chữa bá bệnh
”
100.
Nhưng, không có gì làm khổ người tù nhưghẻ, lở. Theo Duyên Anh: “Ghẻ đề lao ranh mãnh lắm. Nó cứ nhè ‘của quý’ mà lập
chiến khu. Tù nhân này cởi truồng, chổng mông để tù nhân nọ bôi thuốc. Bôi xong,
vội vàng lấy quạt lia. Vì thuốc xót vô cùng
”
101
.
Trong hoàn cảnh ấy, những người tù
ở Đề lao Gia Định, Chí Hòa coi việc được đưa tới các trại cải tạo là giảm nhẹ.
Trước Tết 1977, hai phần ba văn nghệ sĩ và ký giả, trong đó có Nhã Ca, được
tập trung tại khu A, Chí Hòa, học tập một tháng rồi được thả về. Những người như
Doãn Quốc Sĩ, Lê Xuyên, Nguyễn Mạnh Côn, Đằng Giao, Trần Dạ Từ, Chóe, Duyên
Anh… phần lớn vẫn “ở tù”; cá biệt, những người cứng đầu như Đoàn Kế Tường thì bị
giữ lại suốt 10 năm ở Chí Hòa. Trong khi đó, một số khác được chuyển từ chế độ tù
sang “cải tạo”.
Nhưng đấy là câu chuyện xảy ra trước năm 1978. Khi Chiến tranh Biên giới Tây
Nam
xảy ra và ở phía Bắc, Trung Quốc bắt đầu đe dọa, các trại cải tạo được chuyển
giao từ quân đội sang cho công an. Theo Đại úy Phan Nhật Nam: “Chúng tôi bắt
đầu chịu cảnh tội tù khắc nghiệt”.
Ngày 8-5-1975, sau khi trình diện, ngoại trừ Tướng Nguyễn Văn Vỹ bị bệnh
nặng, các sỹ quan cấp tướn
g
102
và cấp tá bị giữ lại để học tập đợt một tại Ðại học xá
Minh Mạng, Chợ Lớn trước khi đưa về Trung tâm Huấn luyện Quang Trung. Sau đó,
các tướng được đưa ra Bắc bằng máy bay trong khi các sỹ quan cấp thấp hơn được
đưa ra Bắc bằng tàu thủy và xe lửa. Nơi đến của những người bị coi là “nguy hiểm”
này là các trại giam Yên Bái, Lào Cai, Hà Giang, Hà Tây, Nam Hà, Thanh Hóa, Nghệ
An.
Như những người tù thâm niên khác, Trung tá Phan Lạc Phúc đã trải qua những
nhà tù gian khổ nhất: Trại Long Khánh - Suối Máu, Liên trại 2 Sơn La, Trại Yên Hạ
(Sơn La), Trại Tân Lập (Vĩnh Phú), Trại Thanh Phong (Thanh Hóa), Trại Tân Kỳ
(Nghệ Tĩnh), Trại Ba Sao (Hà Nam Ninh), Trại Xuân Lộc (Đồng Nai). Yếu tố chính để
Phan Lạc Phúc chịu cải tạo lâu là vì ông đã từng học thông tin báo chí tại Hoa Kỳ,
từng làm chủ bút Nhật báo Tiền Tuyến, báo của Quân lực Việt Nam Cộng hòa.
Sau một năm bị giam ở trại Long Giao và Suối Máu, ngày 10-6-1976, ông Phúc
được đưa ra Bắc trong đợt đầu tiên. Ông viết: “Chúng tôi đang ngồi ở sân tập kết
trại
Suối
Máu
thì
người
bạn
thân
cùng
ngành
của
chúng
tôi
là
Tạ
Ty
chạy
hốt
hoảng: 'Đi chuyến này hở. Ra Bắc đấy. Thế là năm niên đấy. Có nhắn gì về nhàkhông?' Tôi và Hùng nhìn nhau cười nói với bạn: 'Nói hộ với gia đình là tụi tôi đi ra
Bắc ngày hôm nay. Ở lại khỏe nha'. Người bạn họa sĩ tài danh của miền Nam ngậm
ngùi tạm biệt 'Hẹn gặp lại nhau sớm ở Sài Gòn…'
”
103
.
Đức Giám mục Nguyễn Văn Thuận nhớ lại buổi tối ông bị đưa ra khỏi Sài Gòn:
“Ngày 1-12-1976, lúc 9 giờ tối, bất thình lình tôi bị gọi cùng với vài tù nhân khác.
Chúng tôi bị xích người này với người kia từng hai người một và được đẩy lên một
xe cam nhông. Cuộc hành trình ngắn đưa chúng tôi tới Tân Cảng. Chúng tôi thấy
một con tàu trước mặt, hoàn toàn chìm trong bóng tối để dân chúng khỏi để ý.
Chúng tôi bị đưa lên tàu đi ra miền Bắc… Tôi bị đem xuống hầm tàu, nơi chứa than.
Chỉ có một ngọn đèn dầu nhỏ leo lét cháy. Chúng tôi tất cả là 1.500 người, trong
một tình cảnh không thể tả được… Ngày hôm sau, khi một chút ánh sáng mặt trời
lọt vào hầm tàu, tôi nhận ra chung quanh tôi những gương mặt buồn sầu và tuyệt
vọng của các tù nhân khác. Bầu không khí sầu thảm như đám tang. Một tù nhân đã
tìm cách treo cổ tự tử với một sợi dây thép. Những người khác gọi tôi. Tôi đến nói
chuyện với anh
”
104
.
Trung tá Phan Lạc Phúc cũng được đưa ra Bắc bằng tàu và
chuyến đi của ông cũng gian khổ không kém gì chuyến tàu của Đức cha Nguyễn
Văn Thuận, nhưng những gì mà họ gặp trong quãng đường chuyển tù chỉ mới là
những thử thách ban đ
ầu
105
.
“Thăm Nuôi”
Thời gian cải tạo càng tăng thêm thì tiền bạc của người nhà tù nhân cũng như
ngân sách của “Cách mạng” càng dần cạn kiệt. Từ Tết năm 1976, các suất ăn bắt
đầu bị cắt bớt; đến cuối năm 1977, lương thực của tù nhân được thay bằng lúa
mạch, thường gọi là bo bo. Theo Đại úy Tạ Chí Đại Trường, tới mùa Thu năm 1978,
mỗi người chỉ còn 300g gạo một ngày.
“Rau muống, rau lang không kịp ra đọt non,rau dại cũng bị vặt khi vừa mới nhú. Củ chuối bị đào hết lên”.
Không phải học viên cải tạo nào cũng biết rằng lúc ấy ở “ngoài xã hội”, cái bao
tử của thường dân cũng không no đủ hơn. Chính quản giáo, ban ngày “hắc” thế
nhưng đêm xuống cũng tìm gặp những người tù vừa được thăm nuôi để “xin tý
mỡ”. Những ngày có đồ thăm nuôi là những ngày trong trại tưng bừng. Những lá
thư viết từ trại những năm tháng về sau chủ yếu là liệt kê các “nhu yếu” thăm nuôi.
Ông Tạ Chí Đại Trường kể: “Cũng có người vẫn giữ được tiền, mỗi lần thăm nuôi
lại có khuân có vác, nhưng cũng có người chỉ có thể mang theo mấy ổ bánh mì, lủi
thủi với chồng: Không biết lần sau có còn vay được tiền đi thăm anh”. Dần dà,
những người tù bắt đầu biết thăm nuôi đang trở thành một gánh nặng cho những
người mẹ, người vợ ở quê cũng đang đói khổ. Để đi đến các trại cải tạo thăm chồng,
thăm cha, những người con lính, vợ lính đã phải nếm biết bao tủi nhục.
Từ năm 1978, họa sỹ Chóe bị đưa lên trại Gia Trung, Gia Lai. Hai năm ở trại
“tạm giam” của cơ quan An ninh Điều tra, số 4 Phan Đăng Lưu, Chóe chỉ được nhận
đồ chứ không được gặp người nhà. Hai năm ấy, do phải nằm trên sàn xi măng,
chân ông, vốn phong thấp, đã gần như bị liệt.
Đến Gia Trung, được thăm nuôi thìđường sá lại quá xa xôi, cách trở.
Vợ Chóe, bà Nguyễn Thị Kim Loan, năm ấy phải một mình nuôi bốn đứa con, đồ
đạc trong nhà gần như đã bán hết. Cũng như hàng triệu gia đình Sài Gòn, nhà bà
cũng được Chính quyền cấp cho “sổ gạo”, nói là gạo nhưng những năm ấy thường
chỉ có bo bo hoặc khoai; tiêu chuẩn một ký gạo được Nhà nước bán thay thế bằng 2
ký khoai. Không chỉ những người vợ có chồng bị đưa đi cải tạo, trong “chế độ mới”
đàn ông trở thành vai trò thứ yếu vì không có việc làm, cuộc sống chỉ còn có thể
trông cậy vào tài xoay xở, mua bán lặt vặt của những người phụ nữ.
Bà Loan lả một phụ nữ công giáo di cư từ Phát Diệm, đã từng làm thư ký trong
Bộ Tổng Tham Mưu Việt Nam Cộng hòa, từng sống hết sức phong lưu nhờ nhuận
bút những bức tranh biếm của chồng đăng trên các báo Sài Gòn, báo Mỹ. Từ khi
chồng “đi Gia Trung”, bà Loan phải mua từng bộ đồ cũ, từng bịch xà bông, chen
chúc trên xe đò, giấu giếm đem về An Giang quê chồng, bán, kiếm từng đồng
chênh lệch giá.
Kiếm tiền để đi thăm nuôi đã khó, mỗi một chuyến đi từ Sài Gòn lên Gia Lai là
cả một “đoạn trường”. Trước hết, phải “chạy” xin cái giấy của Phường, rồi từ 3 giờ
chiều đã phải ra bến xe xếp hàng. Chính sách “cải tạo nhân đạo” đã biến những
hãng xe đò tư nhân như Phi Long, Phi Hổ một thời khoanh tay mời khách mua vé,
mời khách lên xe, trở thành những “chuyến xe bão táp”. Có mặt từ chiều ở bến xe,
đợi đến 3 giờ sáng “xe khách quốc doanh” bắt đầu bán vé, chen chúc, la ó, nhưng
có khi đến lượt mình thì vé hết vì xe ít, nhà nước ưu tiên bán trước cho cán bộ có
“giấy công tác”.
Không đi được là bi kịch vì tiền bạc giành dụm mua cá, mua thịt kho để lâu
không được. Nhà nước sợ tù tích trữ thực phẩm trốn trại nên không cho thăm nuôi
đồ khô, ngay cả mắm ruốc, muối mè. Lên xe được rồi cũng vô cùng thắc thỏm,
những năm ấy nền kinh tế không còn “lệ thuộc nước ngoài”, phụ tùng không có, xe
cộ hỏng hóc giữa đường là chuyện thường. May mắn, chạy suốt ngày ra tới Phước
Tài thì đêm, không được lên đèo An Khê, ngồi ngủ trên xe cho tới 6 giờ sáng.
Theo bà Nguyễn Thị Kim Loan: Từ chỗ xe dừng vào tới trại hơn ba cây số. Quản
giáo không cho thuê người gánh. Họ nói, “Giờ này mà các chị vẫn không bỏ được
cái thói tiểu tư sản à”. Dân Sài Gòn gánh không quen, đau vai, đành cứ phải xách.
Xách giỏ thứ nhất lặc lè đi lên chừng trăm thước, quay lại xách giỏ thứ hai. Đi ba
cây số mà mất tới hơn hai giờ. Những hôm xe chết máy, lên tới trại đã là nửa đêm
thứ hai, trời tối như bưng, lũ đàn bà, con nít cứ nhắm mắt mà đi không nhận ra lối
rẽ, bước thẳng vô mấy nấm mồ mới, hét lên. Quản giáo chạy ra mới biết đã lạc vào
trại khác, phải ngủ lại đấy, chờ sáng hôm sau tìm đến chỗ giam chồng. Lặn lội xa
xôi như vậy nhưng rồi cũng chỉ được nhìn thấy mặt chồng mười lăm phút. Trên một
cái bàn cây dài, quản giáo ngồi hai đầu, một bên là “phạm”, một bên là thân nhân,
họ chỉ kịp trao đổi với nhau những lời vội vã.
Năm 1978, nhà sử học Tạ Chí Đại Trường cũng đang học tập ở trại Gia Trung,
kể: “Có người xách bịch đồ thăm nuôi về phòng mà băn khoăn không biết ở ngoài
làm sao vợ nuôi nổi mấy đứa con lại còn chạy được tiền đi thăm mình. Nhưng cũng
có người thản nhiên, phần vì đã quen đòi hỏi, phần vì không hình dung hết những
gì đang xảy ra, liên tục gửi thư về giục gửi cho thứ này, thứ nọ. Thảm cảnh gia đình
xảy ra từ đó”.
Đại úy Đỗ Duy Luật, tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 248, Sư 18. Ngày 19-4-1975,
đơn vị ông được điều từ Bình Tuy về Long Khánh, tham gia trận Long Khánh gây
tổn thất nhiều cho quân Giải phóng. Hai ngày sau khi ra trình diện, ông Luật bị đưa
lên Long Giao. Từ tháng thứ hai, ông được viết thư về nhà nhưng chỉ cho khai số
hiệu trại là “L2T2” chứ không cho nói rõ địa danh. Vợ ông, cũng như vợ của nhiều
người lính khác, phải đi hết trại này sang trại khác, nấp sau những bụi cây cạnh bờ
rào dò hỏi với hy vọng mong manh tìm chồng. Những chuyến đi như vậy làm khánh
kiệt dần chút gia tài mọn của những người vợ lính.
Từ năm 1978, ông Luật được di lý từ Sơn La về trại Ba Sao, Phủ Lý. Mãi tới cuối
năm 1979, vợ ông mới tìm được ra thăm. Đó là lần gặp nhau cuối cùng của hai vợ
chồng. Khi trở về bà phát bệnh ung thư rồi chết vào đầu năm 1980. Cũng trong
năm ấy, ông được chuyển từ Ba Sao về Hàm Tân, vào trại Z30D. Tháng 6-1981,
ông được tha với lý do là vợ chết. Khi ông Luật trở về, căn nhà nhỏ của ông ở số 2
Duy Tân không còn nữa, vợ ông đã phải bán, trang trải chi phí cho những chuyến đi
thăm chồng và nuôi ba con nhỏ.
Bán nhà chưa phải là bi kịch lớn nhất. Theo Đại úy Tạ Chí Đại Trường: “Có
những người vợ đã phải đi bán thân. Có những người vợ đã phải sử dụng thế mạnh
của đàn bà để kinh doanh, buôn bán. Khi người trụ cột kinh tế là đàn bà, con gái và
trẻ em, lại phải tìm cách qua mặt công an, luồn lọt công quyền, ứng biến khi sơ
thất ngay cả trên đường xa… thì không thể nào trách những người phụ nữ ấy.
Chuyện một bà tứ tuần có mang với anh tài xế xe hàng, một bà vợ sỹ quan bán chợ
trời cặp với anh lính cũ của chồng mình… cũng không có gì bất ngờ khi nó được đưa
vào trại”
106
.Cũng có những người tù cải tạo thương vợ thật lòng viết thư về nói: “Thôi, đời
anh như vậy là hết rồi, em nên đi tìm hạnh phúc mới, coi có người bộ đội nào…”.
Điều đó lại chạm vào tự ái của một số người quản giáo duyệt thư, nhiều anh đã kiêu
hùng, mắng: “Nhà nước giam giữ các anh không phải nhằm mục đích chia rẽ gia
đình, và chúng tôi chiến đấu không phải là để cướp đoạt vợ con của các anh!”
107
.Có
lẽ, nếu có ai mất vợ thì cũng chỉ vì thời thế. Vợ của nhà thơ Tạ Ký đã đi lấy chồng
“Việt Cộng” khi ông còn bị giam ở trại T6, Long Khánh, cùng với nhà sử học Tạ Chí
Đại Trường và họa sỹ Trịnh Cung.
Trại T6 có một nhà xí hai ngăn nằm ngay rìa đường vào rẫy của dân, sát bờ rào
dây kẽm gai. Thời gian đầu, thân nhân chưa được chính thức thăm nuôi, các trại
viên T6 có sáng kiến dùng nhà xí để nhận tin gia đình và trò chuyện với người thân
mà không bị quản giáo phát hiện. Các trại viên thường thay phiên nhau ra ngồi
“trực” ở đó để chờ nhận tin nhắn, nhiều tù nhân đã gặp được người thân, những
người cất công đi tìm chồng, tìm con, tìm cha, dù chỉ để nhìn thoáng thấy mặt nhau
trong giây lát hay nói thật nhanh một câu báo tin nhà. Họ thường phải lên đấy
trước, mượn quần áo làm đồng, cuốc xẻng của những nông dân sống gần trại để
ngụy trang và nhờ chính những nông dân này che giấu, men theo hàng rào kẽm gai
như những người dân đi làm ruộng tình cờ ngang qua hố xí. Cũng chính nơi đó,
những người tù nôn nao ngồi chờ…
Một ngày cận Tết năm 1976, đúng vào phiên “trực hố xí” của họa sỹ Trịnh Cung,
ông nhận được tin nhắn: Tạ Ký gặp mẹ lúc 2 giờ trưa nay!”. Trịnh Cung vội báo tin
cho Tạ Ký. Khi đó, theo ông Trịnh Cung: “Đó là một tin vui bất ngờ của Tạ Ký vì đã
nửa năm chưa được thăm nuôi. Nhưng thông tin mà anh nhận được từ mẹ chỉ là: Vợ
con nó lấy thằng Việt cộng rồi. Ở nhà có mẹ lo sắp nhỏ, con yên tâm. Khi được
phép, mẹ sẽ đi thăm
”
108.
Không riêng Tạ Ký, không ít sỹ quan “Ngụy” từ trại cải tạo,khi đột ngột trở về đã phải đột ngột bước ra khỏi nhà mình, vì “đứa con ngày chia
tay còn thơ không còn nhận ra mình, trong khi trong nhà lại treo cái nón cối
”
109.
“Học Tập”
Đầu tháng 4-1865, khi viết thư đầu hàng gửi Đại tướng Tư lệnh Quân miền Bắc
Ulysses S. Grant, Đại tướng Robert E. Lee đã xin cho những người lính của ông
được mang lừa ngựa, mà họ đã đem từ nhà tham chiến, trở về quê cũ làm ăn. Còn
Đại tướng Dương Văn Minh, cuối tháng 4-1975, đã tuyên bố đầu hàng vô điều kiện.
Trong những động thái chính trị trước đó, không có dấu hiệu nào cho thấy Tướng
Minh và “bộ tham mưu” của ông đã lo lắng cho số phận của hàng triệu binh sỹ miền
Nam.
Cũng thật khó để trách tướng Minh. Trước khi tuyên bố đầu hàng, ông đã không
có cơ hội nào để thương lượng với những người chiến thắng. Nhưng sự khác nhau
căn bản giữa hai cuộc chiến tranh nằm ở chỗ: ở Mỹ, năm 1865, những chiến binh
miền Nam được các tướng thắng trận mô tả như “một đoàn quân tả tơi, nhưng hiên
ngang”, còn ở Việt Nam, năm 1975, những người lính miền Nam Việt Nam bị những
người Chiến thắng gọi là “tay sai”, là “dã thú”.
Chưa bao giờ Chính quyền cho công bố chính xác số lượng người bị đưa đi cải t
ạo
110
.
Theo số liệu dẫn trong Nghị quyết 01 của Bộ Chính trị, tính tới tháng 9-1982 chỉriêng ở Sài Gòn, Chính quyền đã tha về hơn ba vạn sỹ quan đã từng là tù cải tạo.
Tháng 1-1988, hàng ngàn tù cải tạo đã được tha. Từ đó, gần như toàn bộ số tù cải
tạo ở tất cả các trại giam, kể cả từ trại Nam Hà, khoảng 210 người, đều được đưa
về trại Z30D. Họ gồm các sỹ quan cấp tướng, cấp tá, hoặc những người từng phục
vụ trong các lực lượng như an ninh quân đội, cảnh sát đặc biệt, tình báo. Nhiều
người trong số họ đã phải ở tù tới đầu năm 199
2
111.
Tướng Trần Văn Trà và ông Cao Đăng Chiếm, hai đại diện của quân đội và công
an trong Ủy Ban Quân quản, đảm trách việc chuẩn bị “Chiến dịch X-1”. Tuy nhiên,
theo ông Võ Văn Kiệt, Đảng ủy Quân quản và Trung ương Cục cũng đã bàn luận rất
nhiều, không chỉ là tính những thủ thuật để hàng trăm nghìn sỹ quan quân đội miền
Nam tự mang khăn gói vào tù, mà còn đề ra mục tiêu chính trị cho việc tập trung
cải tạo. Chủ trương đưa những sỹ quan cao cấp, những người có “nợ máu” đi cải tạo
lâu dài cũng không hẳn là để “trả thù” mà, theo ông Kiệt, còn “để họ thấy sai, thấy
sự lầm lạc và hiểu cuộc chiến tranh của Cách mạng là chính nghĩa”
112
.Có thể đọc được suy nghĩ ấy của những người như ông Kiệt trong các bài xã luận
đăng trên báo Sài Gòn Giải Phóng ngay trong những ngày “Chiến dịch X-1” đang
diễn r
a
113
.
Ngày 11-6-1975, hạ sỹ quan, binh lính bắt đầu ngày “học tập” đầu tiên. Ngày12-6-1975, báo Sài Gòn Giải Phóng có bài “Thấm nhuần tinh thần nhân đạo Việt
nam”, xã luận: “Cách mạng thắng lợi, giải phóng đồng bào ta, đồng thời cũng giải
phóng luôn cả người lính nguỵ. Cuộc đời làm lính đánh thuê cho đế quốc Mỹ đã
chấm dứt. Họ khỏi phải chết. Họ thoát khỏi kiếp sống cực nhục trong đội quân
chống lại tổ quốc. Đó là hành vi nhân đạo đầu tiên rất căn bản của cách mạng đối
với họ. Giờ đây, dù họ có bị bắt giam hay không, họ vẫn là những tù, hàng binh
trong tay các lực lượng vũ trang giải phóng… Tuy nhiên, nếu chúng không chống cự
thì ta cũng không giết chúng. Chúng cũng là con người Việt Nam. Đế quốc Mỹ và
tay sai đã biến chúng từ con người thành ra dã thú. Cách mạng phải cải tạo chúng
từ thú trở lại thành người. Phải giam chúng lại để chúng không làm hại nhân dân
được nữa. Đồng thời phải cải tạo chúng để chúng cải tà quy chính”
114
.Ngày 15-6-1975, báo Sài Gòn Giải Phóng xã luận tiếp: “Hòa hợp là một chính
sách lớn của cách mạng. Muốn hoà hợp dân tộc thì điều cơ bản và đầu tiên là phải
làm sao cho mọi thành viên trong cộng đồng dân tộc có một lập trường thống nhất
làm cơ sở. Giặc Mỹ và bọn tay sai bán nước dã dùng một chính sách chia rẽ tệ hại
nhất. Chúng gây thù hằn giữa các thành viên của dân tộc, giữa các tôn giáo, giữa
các địa phương. Chúng cố tình chia cắt nước ta… Nguy hiểm hơn cả là chúng đã
dùng mọi thủ đoạn để nhồi nhét vào đầu óc của một số người chủ nghĩa chống cộng
điên cuồng để làm bình phong che dấu mục đích xâm lược. Bởi vì chúng biết rằng
những người cộng sản là những người yêu nước nhứt, là những người chống đế
quốc quyết liệt nhứt… Làm sao có thể hoà hợp giữa những người yêu nước với
những người chống lại tổ quốc, dù dưới bất cứ hình thức nào và nhãn hiệu nào?
Súng đã nộp mà tư tưởng chống cách mạng vẫn còn thì hoà hợp làm sao được?... Vì
vậy, hoà hợp dân tộc là trước hết, họ phải gột sạch những nọc độc tư tưởng giặc Mỹ
đã gieo rắc, từng bước tiếp thu ánh sáng chính nghĩa của dân tộc. Đợt học tập tổ
chức cho binh sỹ nguỵ quân, nguỵ quyền hiện nay đã mở ra cho họ một cơ hội tốt
để làm việc đó. Qua học tập, họ phải thấy cho rõ âm mưu và tội ác của giặc Mỹ và
tay sai, phải nhận ra chính sách khoan hồng đầy nhân nghĩa của cách mạng, phải
thấy hết lỗi lầm của mình đối với dân tộc và con đường tất yếu họ phải đi từ đây để
làm lại cuộc đời, trở thành người công dân Việt Nam chân chính. Đó là con đường
duy nhất đưa họ đi đến hoà hợp với đông đảo các tầng lớp nhân dân
”
115.
Cho tới đầu thập niên 1990, quan điểm của Đảng về việc tập trung cải tạo vẫn
còn khắc nghiệt. Thông báo ngày 20-2-1991 của Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương
“Về những luận điệu xuyên tạc của Bùi Tín trên đài BBC” viết: “Việc cải tạo những
phần tử đã gây nhiều tội ác hoặc còn mang nặng tư tưởng chống cộng, thù địch
quyết liệt với cách mạng thì hoàn toàn không phải là vi phạm nhân quyền, càng
không phải là việc làm trái với chính sách hòa hợp, hòa giải dân tộc mà chính là việc
làm cần thiết để bảo vệ cuộc sống hòa bình, yên vui của nhân dân, bảo vệ nhân
quyền cho mọi người và để tăng cường hòa hợp dân tộc”.
Đúng như ông Võ Văn Kiệt thừa nhận, đòi hỏi những sỹ quan thua trận “tiếp thu
ánh sáng chính nghĩa” từ những người đưa mình vào tù là một yêu cầu quá cao.
Cán bộ quản giáo miền Bắc, những người trực tiếp giáo dục lại các “ngụy quân và
ngụy quyền” là những người lớn lên trong một xã hội hoàn toàn khép kín. Những
giai thoại nói mấy chú bộ đội ngày mới vô, thấy Sài Gòn giàu có, đã giữ tư thế cho
miền
Bắc
xã
hội
chủ
nghĩa
bằng
cách
khoe:
“Ngoài
đó,
ti
vi
tủ
lạnh
chạy
đầy
đường”, không chỉ là những chuyện kể khôi hài. Chuyện bộ đội tiếp quản biệt thự,
cao ốc, nhìn thấy cái bồn cầu sứ trắng tinh tưởng là bồn rửa rau, cho rau vào, giật
nước, thấy rau trôi mất bèn kêu: “Bọn tư bản nó gài bẫy” cũng không hẳn là tiếu
lâm chính trị.
Hầu hết bộ đội miền Bắc đều ra đi từ những làng quê nghèo đói. Đến khi vào tới
Sài Gòn thì đến Đài Tiếng nói Việt Nam cũng ít có dịp được nghe, sách báo thì ngay
cả Thép Đã Tôi Thế Đấy, Rừng Thẳm Tuyết Dày… cũng không đủ đọc. Họ được dạy
rằng người dân miền Nam đang phải rên xiết, lầm than; nhiều thanh niên miền Bắc
trong ngày 30-4-1975 còn ước ao được nhanh chóng vào Nam để giáo dục những
thanh niên lầm đường lạc lối.
Không ít quản giáo khi tiếp xúc với những sỹ quan được đào tạo chính quy của
miền Nam đã nhận ra sức hiểu biết của mình đang ở đâu. Cũng có những người vì
mặc cảm đã dùng quyền uy lấn át. Nhưng cũng có những người tiếp tục trung
thành với những gì được dạy. Sự say sưa làm “thầy” của họ đã tạo ra không ít tình
huống trớ trêu.
Theo ông Nguyễn Văn Tr
ân
116
,
người được bổ sung vào Trung ương Cục đầu
tháng 4-1975, chủ trương từ trước của Bộ Chính trị là: Số nguy hiểm thì đưa ramiền Bắc cải tạo, số không nguy hiểm thì để lại trong Nam. Bản thân những người
trong cuộc cũng nhận thấy những người được cải tạo ở miền Nam thì cuộc sống có
phần nhẹ nhàng hơn, ngắn hạn hơn. Những người “tù nặng, tù lâu” thì ra Bắc.
Những năm đầu việc cải tạo do bộ đội quản lý, kể từ sau cuộc chiến tranh biên giới
17-2-1979, tù cải tạo được chuyển dần sang các trại ở Nam Hà, Thanh Hóa.
Không chỉ bị hành hạ về tinh thần, thật khó lý giải vì sao những người chiến
thắng lại giam giữ những đối thủ đã đầu hàng mình lâu như vậy. Cho tới đầu thập
niên 1990, những người lính biệt kích bị bắt hồi đầu thập niên 1960, những tù binh
“Ngụy” bị bắt hồi Mậu Thân (1968), hồi Chiến dịch Hạ Lào 1971 vẫn còn phải đang
“cải tạo”.
Nhà thơ Tô Thùy Yên, sau mười năm ở tù về đã viết:
Ta về cúi mái đầu sương điểm
Nghe nặng từ tâm lượng đất trời
Cám ơn hoa đã vì ta nở
Thế giới vui từ mỗi lẻ loi
Ta về như lá rơi về cội
Bếp lửa nhân quần ấm tối nay
Chút rượu hồng đây xin ruới xuống
Giải oan cho cuộc bể dâu này…
Cải tạo không chỉ là câu chuyện của từng số phận mà còn là một phần trong
“cuộc bể dâu” cuối thế kỷ 20 của Việt Nam.
Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro