ben thang cuoc c3

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương III: Đánh tư sản

Sau khi hàng trăm ngàn binh lính đã được “học tập”, đã nhận thấy “tội lỗi” của

mình, còn các sỹ quan thì đã bị giữ trong các trại cải tạo, Sài Gòn lại náo động bởi

chiến dịch đánh tư sản mại bản. Theo nhận thức của những người cộng sản, đánh

đổ giai cấp tư sản là bước đi tất yếu, là nhiệm vụ của “cuộc cách mạng dân tộc dân

chủ nhân dân”. Chưa đầy ba năm sau khi chủ nghĩa xã hội được áp dụng ở miền

Nam

, các nhà doanh nghiệp, với tên gọi mới là “tư sản”, đã phải trải qua hai lần bị

“đánh”.

“Chiến dịch X-2”

Vào lúc 7 giờ 30 phút sáng ngày 10-9-1975, Ủy ban Quân quản Thành phố Sài

Gòn họp báo, đưa ra “Bản Tuyên bố của Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà

Miền Nam Việt Nam”, ra lệnh “bắt giữ một số tư sản mại bản có chứng cứ đầu cơ

tích trữ, phá rối thị trường: Mã Hỷ, vua lúa gạo; Lưu Tú Dân, lũng đoạn vải vóc; Bùi

Văn Lự, nhập cảng, đầu cơ phụ tùng xe máy; Hoàng Kim Quy, thầu cung cấp kẽm

gai cho quân đội Mỹ; Trần Thiện Tứ, độc quyền xuất cảng cà phê

…”

117

.

Hơn bảy giờ

trước đó, phần lớn các đối tượng nằm trong danh sách sáu mươi tên đánh đợt đầu

đã bị bắt.

Theo ông Nguyễn Văn Trân, Ủy viên Thường vụ Trung ương Cục, danh sách “tư

sản mại bản” bị đánh trong đợt này chủ yếu tham khảo từ một tài liệu về “Chính

sách hậu chiến” được viết năm 1974 của Chính quyền Sài Gòn, trong đó có phần

đánh giá vai trò lũng đoạn thị trường của các “vua” người Hoa ở Chợ Lớn. Giờ G của

Chiến dịch X-2 lúc đầu được định

 

là 5 giờ sáng ngày 10-9-1975, sau do trục trặc

trong “hợp đồng tác chiến”, tin tức bị lọt ra, nên phải triển khai từ lúc 12 giờ khuya

ngày 9-9-1975. Hơn 10.000 công nhân, học sinh, sinh viên đã được điều động áp

sát các mục tiêu. Hàng vạn “quần chúng” khác được đưa xuống đường để gây áp

lực về dư lu

ận

118

.

Về lý luận, “tư sản mại bản” được chính quyền cách mạng coi là “địch” nên

phương thức mà Chiến dịch X-2 tiến hành được xác định rõ là “đánh”. Tài liệu đã

dẫn viết tiếp: “Phản ứng của địch nói chung là yếu. Tư sản mại bản đối phó chủ yếu

bằng cách phân tán tài sản cho bà con thân thuộc. Số đã bị bắt thì tuy hoang

mang, sợ sệt nhưng lại tiếc của nên ngoan cố, không chịu khai ra của chìm, tiền

bạc, hột xoàn

119

.

Tối 10-9-1975, “tin chiến thắng” liên tục được báo về “Đại bản doanh” của Trung

ương Cục đóng tại Dinh Độc Lập. Con số bị bắt cho đến khi ấy vẫn tăng lên. Các

đoàn đưa ra những con số chi tiết: hàng chục triệu tiền mặt, hàng chục ký vàng, cả

“kho” kim cương, hàng vạn mét vải và cả một cơ sở chăn nuôi gồm “7.000 con gà,

thu hoạch 4.000 trứng mỗi ng

ày”

120

ở Thủ Đức. Một nhà tư sản đang nằm viện bị

yêu cầu kiểm tra xem ốm thật hay cáo bệnh, trong khi đó con trai ông ta bị bắt để

buộc phải khai ra nơi cất giấu tiền, vàng. Do tin tức bị lọt ra, một số nhà tư sản đã

kịp cao chạy xa bay, có người bị bắt khi đang chuẩn bị trốn.

Trong buổi giao ban của Thường vụ Trung ương Cục vào lúc 7 giờ tối ngày 10-9-

1975, tại Dinh Độc Lập, với sự có mặt của ông Phạm Hùng, bí thư Trung ương Cục,

ông

  

Nguyễn

  

Văn

  

Trân,

  

ủy

  

viên

  

thường

  

vụ,

  

cùng

  

các

  

lãnh

  

đạo

  

Quân

  

quản

  

như

Nguyễn Võ Danh, Phan Văn Đáng…, ông Mai Chí Thọ cho rằng các đoàn, các đội chỉ

mới bắt được đối tượng, mới nắm được tài sản nổi chứ chưa lấy hết tài sản chìm.

Ông Mai Chí Thọ tuyên bố: “Một tên tư sản Hoa có thể có từ 500 đến 1 ngàn

lượng vàng. Qua chiếm lĩnh và khai thác ta mới hỏi sơ chứ chưa lục xét, chưa truy

sâu nên có thu được vàng và ngoại tệ, nhưng so với số chúng đã có thì chưa bao

nhiêu. Vì vậy, các đoàn cần đi sâu lục soát hơn nữa trong nhà chúng để truy vàng

bạc và ngoại tệ. Phải dựa vào quần chúng, người làm công ở mướn phát động họ để

phát hiện nơi giấu cất”. Một tuần trước khi Chiến dịch X-2 diễn ra, do vật giá tăng

quá cao, chính quyền đã “đánh” một số đối tượng bị quy là lũng đoạn thị trường,

nhất là thị trường bột ngọ

t

121

.

Đổi tiền

Sau “Chiến dịch X-2”, Thành uỷ nhận định: “Bọn tư sản mại bản bị cô lập rất

cao, chúng đã mất hết chỗ dựa về mặt quân sự và chính trị. Lực lượng kinh tế của

chúng đã bị sứt mẻ và đang bị tan vỡ dưới sự tiến công của t

a”

122

.

Nhằm “giáng tiếp

những đòn mới vào giai cấp tư sản”, ngày 22 và 23-9-75, đồng tiền cũ của chế độ

Sài Gòn đã được thay thế bởi đồng tiền mới.

Đổi tiền cũng được coi là “chiến dịch” với mật danh “X-3”. Ba yêu cầu mà Trung

ương Cục đưa ra cho Chiến dịch X-3 gồm: “Thiết lập một chế độ tiền tệ mới; ngăn

chặn giai cấp tư sản sử dụng tiền mặt để thao túng thị trường, đồng thời tước đoạt

bớt phương tiện hoạt động của bọn gián điệp, tình báo; đẩy lùi lạm phát

123

.

 

Với

nhận thức tiền còn là “phương tiện hoạt động của bọn gián điệp, tình báo”, Chính

phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam chỉ cho đổi một số tiền hạn

chế.

Mỗi hộ gia đình được đổi tối đa 100.000 đồng tiền “Chánh quyền Sài Gòn cũ”-

500 đồng tiền “Chánh quyền Sài Gòn cũ” đổi được một đồng tiền mới Ngân hàng

Việt Nam. Cán bộ công nhân viên chức trong các tổ chức tập thể được đổi mỗi

người

 

15.000;

 

hộ

  

kinh

  

doanh

  

tiểu

  

công

  

nghệ,

 

thương

  

nghiệp,

 

vận

  

tải

  

được

  

đổi

100.000 đồng; tổ chức kinh doanh lớn được đổi từ 100.000 đến 500.000 đồng;

khách vãng lai, mỗi người được đổi 20.000, số còn lại nộp cho ban đổi tiền, lấy biên

lai về địa phương giải quyết. Các hộ kinh doanh và hộ gia đình nếu có nhiều tiền

hơn mức được đổi ngay thì phần còn lại sẽ quy đổi thành tiền mới, ghi vào sổ tiết

kiệm, hoặc sổ tiền gửi tại Ngân hàng Quốc gia Việt Nam.

Chập tối ngày 21-9-1975, ngành ngân hàng huy động 10.000 cán bộ. Bộ Tư

lệnh thành huy động 17.921

 

bộ đội; các quận huy động 35.000 người. Tất cả được

đưa đến các quận, các khu vực, mà không biết trước sẽ được giao nhiệm vụ gì. Họ

phải kê khai tất cả tiền bạc, tư trang mang theo người và từ đó, “nội bất xuất,

ngoại bất nhập”. Trong đêm 21-9, họ được tập huấn công tác thu đổi tiền. Đúng 2

giờ sáng ngày 22-9-1975, họ được triển khai xuống các “bàn đổi tiền”.

Theo kế hoạch, đúng

 

5 giờ sáng, mọi công

 

tác chuẩn bị phải hoàn tất. Tuy

nhiên, “do điều động một số lượng người khổng lồ và phải chuyển tài liệu xuống tận

các ‘bàn’, nhân sự lại chỉ

 

được tập huấn

 

vội, trong khi lại phải kê khai và xét duyệt

mất nhiều thời gian, nên công tác kê khai, đăng ký cho đến 11 giờ ngày 22-9-1975

vẫn chưa xong. Trước tình đó, Ban thu đổi Thành phố quyết định kéo dài thời gian

đăng ký kê khai tới 21 giờ ngày 22-9-1975 và chỉ thị cho các quận coi đây là khâu

quan trọng nhất, là khâu quyết định của chiến dịch đổi tiền. Đến ngày 23-9-1975,

các nơi bắt đầu thu tiền cũ, đổi tiền mới cho đồng bào nhưng do tình hình phức tạp,

đồng bào vẫn kéo tới đăng ký kê khai với nhiều lý do: hai ba hộ, trong một nhà [hộ

ghép] chỉ mới hưởng được tiêu chuẩn của một hộ; đến trễ hoặc đến mà nhân viên

đổi tiền làm không kịp… Trong tình hình đó, Ban thu đổi tiền phát hiện được âm

mưu phân tán tiền của tư sản nên quyết định chấm dứt việc đăng ký kê khai tại

bàn

124

.

Có những sỹ quan đang ngồi trong trại tập trung cải tạo khi nghe thông báo đổi

tiền mới giật mình vì không ai ở nhà biết nơi giấu tiền. Năm ngày sau, Chính phủ đã

phải lập “hội đồng cứu xét từng trường hợp” và có sỹ quan từ trại cải tạo đã được

đưa về tận nhà để chỉ cho gia đình nơi giấu tiền.

Quyết định đổi tiền được báo Sài Gòn Giải Phóng coi là để kết thúc “30 năm

sống dơ và chết nhục của đồng bạc Sài Gòn

125

.

Đồng tiền Sài Gòn bắt đầu được

phát hành ngày 1-1-1955, được Chính quyền mới gắn cho nhiều tội lỗ

i

126

.

Ba ngày

sau đổi tiền, báo Đảng ở Sài Gòn viết: “Miền Nam đã có một nền tiền tệ mới, khai

sinh từ sự độc lập toàn vẹn của xứ sở, nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã nâng niu

từng tờ bạc của Ngân hàng Việt Nam với một niềm hãnh diện chưa từng thấy sau

bao nhiêu thế kỷ mất nước, phải ép mình sống với đồng bạc của ngoại bang

127

.

Không biết “tủi nhục” đã mất đi bao nhiêu sau Chiến dịch X-3, nhưng rất nhiều tiền

bạc của người dân miền Nam đã trở thành giấy lộn.

Kể từ sáng 23-9-1975, những ai còn đồng bạc của chính quyền Sài Gòn cũ mà

chưa đăng ký thì coi như hết giá trị. Sáng sớm ngày 23-9-1975, ông Phạm Văn Tư

chở vợ, bà Võ Thị Mai, từ thị trấn Sông Mao, Hải Ninh, Bình Thuận vô Phan Thiết

sinh. Vừa rạng sáng thì xe ông bị chặn lại. Du kích cho biết là có lệnh không cho bất

cứ ai ra ngoại tỉnh nhưng khi thấy một bà bầu đang ôm bụng, họ hội ý rồi cho đi.

Đưa vợ vào nhà bảo sanh xong, để cô con gái Phạm Thị Mai Ho

a

128

,

năm ấy lên tám

tuổi ở lại, ông Tư nhanh chóng quay về nhà.

Do thường xuyên cần tiền cho trại cưa hoạt động nên khi ấy nhà ông có tới ba

bao tải tiền mặt trị giá gần 7.000 lượng vàng. Đến nhà, ông Tư phân tán tiền định

nhờ bà con mỗi người đổi giùm một ít nhưng kế hoạch bị bại lộ. Du kích bao vây

nhà ông, bắc loa tuyên bố: “Nội bất xuất, ngoại bất nhập”. Hôm sau, những bao

tiền đó bị ném tung ra, bay trắng cả vườn.

Ông Phạm Văn Tư chỉ là một chủ trại cưa, nhưng khá “có tiếng” ở thị trấn Sông

Mao, nên khi ở Sài Gòn, “tư sản mại bản” bị đánh, địa phương bắt đầu quản lý trại

cưa của ông. Ông Tư cùng một người Hoa, ông Kim Ký, mua lại trại cưa này năm

1964, khi “Việt Cộng” bắt đầu nắm giữ các khu rừng, dân kinh doanh liên quan đến

gỗ phải đi dây để không làm mất lòng hai phía.

Chiến tranh càng lan rộng, thị trấn

Sông Mao trở nên nhộn nhịp khi trở thành căn cứ của Sư đoàn 23 Quân lực Việt

Nam Cộng hòa, công việc làm ăn của ông Tư càng thêm phát đạt.

Vào những ngày cuối tháng 3-1975, ông Kim Ký ,người đã chạy khỏi Trung Quốc

năm 1949, khuyên ông Tư nên di tản. Nhưng ông Tư không dễ gì từ bỏ một sản

nghiệp đã gây dựng cả cuộc đời, không dễ gì ra đi không biết nơi đến thế nào với

bảy người con đang tuổi ăn học. Trong khi đó, những Việt Cộng mà ông Tư gặp

trong rừng cũng khá dễ thương. Khi ông cung cấp đèn pin, đá lửa, thuốc ký ninh,

họ đã trấn an ông rằng ông vẫn được tiếp tục làm ăn như cũ. Khi những người có

máu mặt trong vùng lặng lẽ tới Phan Rí xuống tàu, vợ chồng ông Tư vẫn ở lại.

Ngày 10-9-1975, Chính quyền ập vào nhà kiểm kê từng lưỡi cưa, vòng bi trong

nhà ông và tuyên bố quản lý xưởng cưa. Ông Tư hôm ấy vẫn chưa ý thức được là

tài sản của ông đang bị tước đoạt. Sáng hôm sau, như thường lệ, ông vẫn mang

xuống xưởng một ấm nước chè cho anh em thợ. Vừa tới xưởng, ông bị một người

thợ chặn lại: “Trại cưa này không còn là của ông, từ giờ nó là của công nhân, ông

không được đến đây nữ

a”

129

.

Ông Tư sững lại nụ cười trên gương mặt ông từ từ méo

đi. Hơn mười ngày sau thì xảy ra vụ đổi tiền. Ông Tư gần như phát điên. Cô em vợ

nghe, chạy qua bị du kích chặn lại. Đứng ngoài bìa ruộng, nhìn thấy anh rể mình cứ

cười sằng sặc. Thương anh, cô chỉ biết một mình lặng lẽ khóc.

Ở Huế, chiều ngày 21-9-1975, Hiệu phó kiêm Bí thư Đoàn trường Nguyễn Tri

Phương Trần Kiêm Đo

àn

130

 

được Thành đoàn Huế giao phối hợp với Đoàn trường

Đồng Khánh, dẫn 200 đoàn viên theo cửa Thượng Tứ vào Đại Nội. Trước khi đi,

Thành đoàn ra lệnh: “Chuẩn bị khăn gói, thức ăn ba ngày, sẵn sàng chiến đấu”.

Ông Đoàn kể: “Tụi tôi hồi hộp: Mỹ quay lại hay binh lính Sài Gòn nổi dậy? Tới 3 giờ

sáng thì mới hay tin sáng mai đổi tiền. Khi ấy tôi còn trẻ, hào hứng với những cái

mới nên nghe nói một đồng tiền mới giá trị bằng 500 đồng tiền cũ cũng có cái gì đó

tự hào. Sáng ra vẫn tả xung hữu đột đôn đốc đoàn viên hoàn thành nhiệm vụ”.

Nhưng, tới trưa, theo ông Trần Kiêm Đoàn: “Đi đâu cũng thấy dân kêu gào thất

vọng. Ba giờ chiều, tôi tranh thủ về nhà, thấy vợ ngồi thẫn thờ, nước mắt lưng

tròng: Anh! Mình trắng tay rồi!”. Mỗi gia đình chỉ được đổi tối đa 100 nghìn tiền Sài

Gòn trong khi tiền mặt trong nhà vẫn còn tới gần mười triệu. Không chỉ nhà ông

Đoàn, nhiều gia đình buôn bán ở cửa Đông Ba, hàng xóm của ông, cũng đang kêu

khóc.

Những người càng tin tưởng vào chế độ mới càng mất mát lớn hơn, vì khi chiến

tranh kết thúc, họ đã đào vàng lên bán, lấy vốn kinh doanh. Ông Đoàn kể: “Tôi trở

về Đại Nội. Một vị chỉ huy lực lượng đổi tiền biết chuyện kêu lại nói: ‘Muốn đổi bao

nhiêu cũng được nhưng phải chia 5:5. Về xóm coi có ai thì kêu họ đổi luôn’. Tôi về

lấy tiền và móc nối với mấy người trong xóm. Đúng là đổi bao nhiêu cũng được

thật”.

Gần một tháng trước đó, ngày 28-8-1975, Chủ tịch Hội Đồng Chính phủ Lâm

thời Cộng hòa Miền Nam Huỳnh Tấn Phát đã ký Nghị định “Đình chỉ vĩnh viễn 16

ngân hàng tư nhân”. Ngày 3-9-1975, báo Sài Gòn Giải Phóng thông báo việc “rút

tiền tiết kiệm”, theo đó, “những người có trương mục dưới một triệu có thể rút dần

tiền

 

về, số

 

trung bình

 

mỗi nhân

 

khẩu

 

có thể

 

rút là 10 nghìn

 

đồng/tháng”, còn

những trương mục trên hai triệu “sẽ được ngân hàng quốc gia cứu xét riêng rẽ”.

Trên thực tế, không mấy ai rút được đồng tiết kiệm nào trước ngày đổi tiền, 22-9-

1975.

Cũng

  

trong

  

ngày

  

3-9-1975,

  

Ngân

  

hàng

  

Quốc

  

gia

  

tuyên

  

bố

  

“Công

  

khố

  

phiếu

không còn giá trị”, Chính quyền giải thích: “Các loại công khố phiếu dù của các

ngân hàng hay của tư nhân là những giấy nợ của Nguyễn Văn Thiệu vay để thêm

ngân sách cho guồng máy chiến tranh, nay Nguyễn Văn Thiệu và bè lũ đã mang

tiền của tháo chạy, Chánh quyền Cách mạng hiện đang quản lý tài sản của toàn

dân, không lý gì và không có quyền lấy tiền nhân dân trả nợ thế cho Nguyễn Văn

Thiệu

131

.

Người dân miền Nam từng nghe những “luận điệu” như Việt Cộng về thì sẽ lấy

kìm rút móng những ai sơn móng tay, bắt đàn bà con gái lấy thương binh. Ít ai

lường được sẽ có những mũi kìm êm ái hơn như... đổi tiền. Nếu như “đánh tư sản

mại bản” chỉ liên quan đến mấy trăm gia đình, thì đổi tiền và chính sách mới về số

tiền gửi cũ trong các ngân hàng liên quan đến mọi người. Tiền bạc cũng giúp những

người như ông Đoàn hiểu thêm về con người trong chế độ mới.

“Gian thương”

Tháng 8, tháng 9-1975, giá cả các mặt hàng thiết yếu, đặc biệt là bột ngọt, tăng

vọt. Chính quyền Cách mạng, lúc này vừa kiểm soát tuyệt đối các phương tiện

truyền thông, đã cho rằng đó là “tội ác của các trùm tư bản”. Báo Sài Gòn Giải

Phóng ngày 27-7-1975 chạy tít: “Cơn sốt bột ngọt đã làm cho đồng bào nhận rõ

bọn trùm gian thương đầu cơ tích trữ”.

Không chỉ có bột ngọt tăng giá. Trước tháng 6-1975, một ký muối bột giá bảy

mươi đồng, đến tháng 8-1975, giá đã lên tới 300 đồng một ký; một viên đá lửa đỏ,

giá tháng 6-1975 là mười đồng, hai tháng sau đã lên đến sáu mươi đồng; giá một

chiếc bu-gi xe lam tăng từ 500 đồng lên 1.100 đồng; một bộ vỏ, ruột xe Honda

tăng 7.000 lên 17.500 đồng. Ngày 30-4-1975, một ký bột ngọt giá chỉ 3.000- 3.500

đồng, đến tháng 8-1975 đã tăng lên 17.000-18.000 đồng.

Ngay trong số báo ra ngày 10-9-1975, Tuổi Trẻ đã có bài “điều tra”, khẳng định:

Nói bột ngọt khan hiếm là vì “đã đưa hết ra Bắc” là một “luận điệu tuyên truyền ác

ôn”. Dẫn lời một “bác Hai” làm nghề khuân vác ở chợ Cầu Muối, bài báo kết luận:

“Bọn gian thương chứ không ai hết. Tụi nó bóc lột xương máu của nhân dân lao

động như thế quen rồi”. Cũng theo một “công nhân khuân vác” được trích dẫn trong

bài báo này thì, “tội ác của bọn chúng, phải tử hình mới thoả mãn ý chí của nhân

dân”. Ở các tỉnh Miền Tây, trong tuần lễ thứ hai của tháng 9-1975 cũng có tới “hơn

năm mươi tay gộc tư sản mại bản đã bị bắt giữ”.

Tài liệu do Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt nam, đăng

trên các báo ra ngày 10-9-1975, nêu “mười tội ác” của tư sản mại b

ản

132

.

Để phân

biệt tư sản mại bản với tư sản dân tộc, ông Nguyễn Nam Lộc, ủy viên Tuyên-Văn-

Giáo của Liên hiệp Công đoàn Thành phố nói: “Ở đây ta không đi sâu vào giải thích

danh từ. Ta chỉ hiểu tư sản dân tộc đại để là những người bỏ vốn ra kinh doanh vừa

có lợi cho họ vừa có lợi cho dân tộc. Họ không dựa vào thế lực kinh tế chính trị của

ngoại bang hay tay sai của ngoại bang

133

.

Khi bị Tòa án Nhân dân Đặc biệt đưa công khai xét xử, “một số tên tư sản mại

bản”, trong đó có “tên” Hoàng Kim Quy, đã bị xử “hai mươi năm tù, tịch thu toàn bộ

tài sản”. “Tội trạng” của ông Hoàng Kim Quy được Ủy viên Công tố Nguyễn Hoàn

kết luận đanh thép: “Bức thư y [Hoàng Kim Quy] gửi cho Tổng trưởng Ngoại giao

Ngụy thúc giục Chính quyền vay của Ả-Rập Xê-út 500 triệu đô la để mớm hơi cho

chiến tranh Việt Nam Hóa của Mỹ đang phá sản và trả dài hạn bằng cách cho đầu

tư khai thác mỏ dầu ở thêm lục địa Việt Nam. Quy đã suy nghĩ và hành động như

một tên xâm lược Mỹ với ý thức chống cộng sâu sắc, cam tâm bán đứng cả miền

Nam

để duy trì chế độ thối nát của Ngụy quyền… Hoàng Kim Quy đã không mơ hồ

về mưu đồ của đế quốc Mỹ. Điều y thật sự mơ hồ là không hiểu hết sức mạnh của

nhân dân ta. Không hiểu hết được thắng lợi thần kỳ của Cách mạng Việt Nam đã

nhanh chóng làm đế quốc Mỹ thất bại và phá vỡ kế hoạch kinh doanh bóc lột của y

phục vụ cho chủ nghĩa thực dân mới

134

.

Cũng với cách luận tội như trên, máy móc nông cụ nhập khẩu của “tên tư sản

mại bản” Lưu Trung được Ủy viên Công tố Nguyễn Hoàn gắn với một “âm mưu xảo

quyệt” của “đế quốc Mỹ” dùng viện trợ kinh tế để “biến nông thôn thành chỗ dựa

của ngụy quyền

135

.

Tiến trình cơ giới hóa của nền nông nghiệp miền Nam được

Công tố ủy viên Nguyễn Hoàn phân tích: “Thông qua viện trợ Mỹ về nông nghiệp,

chúng tìm cách tạo ra cảnh phồn vinh giả tạo, nhằm lừa mị nông dân, lôi kéo họ ra

khỏi ảnh hưởng của Cách mạng

136

.

Phiên tòa diễn ra theo thủ tục đặc biệt. Cho dù,

“với bản chất ngoan cố, tên tư sản mại bản Lưu Trung tìm cách nói quanh co để che

lấp phần nào tội trạng của

y”

137

,

nhưng mọi lập luận kể cả của bào chữa viên nhân

dân đều bị “tòa bác bỏ”.

Những “tên tư sản mại bản” khác như Lý Sen, kinh doanh sắt thép, Trương Dĩ

Nhiên, “nhập cảng và sản xuất phim ảnh đồi trụy phản động”… cũng đều lần lượt

lãnh án tù. Người dân Sài Gòn khi ấy mới chỉ nghe qua Marx-Lenin, chưa được trang

bị “trình độ lý luận” để hiểu về “tích lũy giá trị thặng dư thông qua bóc lột sức lao

động”, để hiểu vì sao một người mua bán máy nông cơ như Lưu Trung lại liên quan

đến một âm mưu sâu xa “làm dư ra lực lượng lao động nông thôn để cho Chính

quyền Sài Gòn bắt lính”.

Chính quyền Cách mạng đánh giá: “Nhìn chung, các tầng lớp quần chúng cơ

bản, tư sản dân tộc, tiểu thương, tiểu chủ đều phấn khởi và tán thành việc đánh tư

sản mại bản vì ai cũng căm thù tầng lớp tư sản mại bản hại dân, hại nước

138

.

Những đánh giá ấy không dựa trên bất cứ một kết quả thăm dò dư luận nào mà chủ

yếu căn cứ vào những phát biểu của lãnh đạo Thành. Theo ông Mai Chí Thọ: “Trong

giới

  

nghèo

  

lao

  

động

  

  

  

luận

  

bàn

  

tán

  

cộng

  

sản

  

lấy

  

tiền

  

nhà

  

giàu

  

cho

  

nhà

nghèo

139

.

Trước Chiến dịch X-2, chính quyền đã “bắt chín mươi hai tên tư sản mại bản đầu

sỏ, đã mời ra làm việc bốn mươi bảy người. Đã có ba bỏ trốn và một tự sát”

140

.

Những gì mà Cách mạng lấy được của “nhà giàu” trên toàn miền Nam được liệt kê:

“Về tiền mặt ta thu được 918,4 triệu đồng tiền miền Nam; 134.578 Mỹ Kim [trong

đó

 

  

55.370

 

USD

 

gửi

 

  

ngân

  

hàng];

 

61.121

 

đồng

 

tiền

  

miền

  

Bắc;

  

1.200

  

đồng

phrăng (tiền Pháp)…; vàng: 7.691 lượng; hạt xoàn: 4.040 hột; kim cương: 40 hột;

cẩm thạch: 97 hột; nữ trang: 167 thứ; đồng hồ các loại: 701 cái. Trong các kho

tàng ta thu được: 60 nghìn tấn phân; 8.000 tấn hoá chất; 3 triệu mét vải; 229 tấn

nhôm; 2.500 tấn sắt vụn; 1.295 cặp vỏ ruột xe; 27.460 bao xi măng; 644 ô tô; 2

cao ốc; 96.604 chai rượu; 13.500 ký trà; 1000 máy cole; 20 tấn bánh qui; 24 tấn

bơ; 2.000 kiếng đeo mắt; 457 căn nhà phố; 4 trại gà khoảng 30.000 con và một

trại gà giá 800 triệu; 4.150 con heo; 10 con bò, 1.475.000 USD thiết bị tiêu dùng;

19 công ty; 6 kho; 65 xí nghiệp sản xuất; 4 rạp hát; 1 đồn điền cà phê, nho, táo

rộng 170 hecta ở Đà Lạt

141

.

Năm 1976, tình hình tiếp tục khó khăn. Một đợt “đánh tư sản” lại được tiến

hành, lần này tập trung hơn vào giới tư sản người Hoa. Ngày 10-9-1976, vợ chồng

nhà tư sản người Hoa, ông Đào Tắc Kinh, bị bắt “trong lúc đang dồn tiền và của quý

vào tám va li để chạy trốn”. Sáng sớm hôm ông Đào Tắc Kinh bị bắt, “các lực lượng

quân đội, an ninh võ trang đã bắt giữ nhiều tên tư sản mại bản lũng đoạn, đầu cơ

tích

 

trữ,

 

phá

 

rối

 

thị

 

trường”

 

như

 

Lý

  

Hơn, Lâm

 

Huê

  

Hồ,

 

Dương

  

Hải,

 

Trang

  

Trịnh

Nguyên, Mã Tuyên, Trần Thanh Hà, Trần Liệt Hồng, Lý Hấn. Ngay sau khi bắt giữ

các nhà tư sản, chính quyền lập tức trấn áp trên diện rộng về mặt dư luận.

Sáng 11-9-1976, hàng ngàn người Hoa tại Chợ Lớn đã được chính quyền huy

động cho một cuộc biểu tình được báo chí mô tả là “sôi sục căm phẫn tố cáo tội ác

của bọn tư sản mại bản bóc lột và yêu cầu Chính phủ bài trừ chúng tận gốc”. Tối

cùng ngày, gần ba mươi cuộc mít tin đã được tổ chức ở nhiều nơi trong thành phố.

Sài Gòn lại được báo chí mô tả là “sôi sục khí thế cách mạng”.

Chính một số người Hoa được báo chí dẫn lời cho rằng: “Bọn tư sản mại bản Hoa

kiều càng giàu bao nhiêu thì chúng tôi càng cơ cực bấy nhiêu. Phải trừ hết bọn này,

người Hoa mới có thể sống yên ổn và hạnh phúc”. Họ đòi “chánh quyền cách mạng

nghiêm khắc trừng trị bọn tư sản mại bản lũng đoạn, đầu cơ tích trữ, phá rối thị

trường, làm giàu trên xương máu nhân dân

142

.

Những hoạt động quần chúng này,

không chỉ lý giải cho các hành vi bắt bớ mà còn chuẩn bị dư luận cho một chính

sách mới sắp sửa ban hành.

“Thể hiện ý chí, tình cảm và nguyện vọng tha thiết của toàn dân ta”, trong kỳ

họp thứ nhất khóa VI, “trên cơ sở hoàn toàn tán thành bản báo cáo chính trị của

đồng chí Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam”,

Quốc hội chung cả nước đã khẳng định nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt

Nam trong giai đoạn mới là: “Hoàn thành thống nhất nước nhà, đưa cả nước tiến

nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Miền Bắc phải tiếp tục đẩy

mạnh sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội

chủ nghĩa; miền Nam đồng thời tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ

nghĩa xã hội

143

.

Ngày 25-9-1976, Phó Thủ tướng Nguyễn Duy Trinh đã ký “Tuyên bố của Chính

phủ Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam về chính sách đối với công thương nghiệp

tư bản tư doanh ở miền Nam”. Theo tuyên bố này: “Chính phủ chủ trương xây dựng

nền kinh tế xã hội chủ nghĩa trong cả nước ta và tổ chức cho nền kinh tế ấy thống

nhất trong cả nước; xóa bỏ dần dần những sự khác biệt của mỗi miền: tạo ra

những cơ sở kinh tế cơ bản cho nền kinh tế độc lập, không bị phụ thuộc vào nước

ngoài; tổ chức lại lao động và tạo ra một sự phân phối mới công bằng, bảo đảm đời

sống nhân dân, nhất là nhân dân lao động; xóa bỏ mọi bất công trong xã hội và lối

làm ăn gian dối, phi pháp”.

Cho dù đòi “xóa bỏ tư sản mại bản và những tàn dư bóc lột phong kiến” ở miền

Nam, trong giai đoạn này, chính quyền vẫn chủ trương “sử dụng những nhà tư sản

có vốn liếng, có kỹ thuật, những người làm ăn riêng lẻ, cả những người buôn bán

nhỏ”. Thời gian đầu, các nhà tư sản nhỏ vẫn có thể tự mình kinh doanh trong một

số ngành nghề nhất định nhưng phải chuyển xác xí nghiệp của mình thành công tư

hợp doan

h

144

.

Chính phủ cũng đưa ra danh mục “các ngành nghề những nhà tư sản

và tư nhân được kinh doanh

145

rất hạn chế.

Theo bản tuyên bố này, những ngành buôn bán và kinh doanh dịch vụ đều phải

“do nhà nước và các tổ chức quần chúng chịu trách nhiệm”. Nhà nước bắt đầu độc

quyền “nắm toàn bộ nguyên liệu nhập khẩu, những nguyên liệu quan trọng trong

nước và hầu hết hàng hóa thiết yếu”. Nhà nước sẽ “nắm hầu hết xuất nhập khẩu và

cả bán buôn trong nước”. Những tư nhân làm thương nghiệp “sẽ được chọn lọc và

sử dụng một phần làm đại lý cho mậu dịch quốc doanh; còn những người khác, nhà

nước sẽ giúp đỡ chuyển sang sản xuất”. Bản tuyên bố viết: “Dưới chế độ ta, thành

phần kinh tế quốc doanh giữ địa vị lãnh đạo. Đối với công thương nghiệp tư bản tư

doanh, kinh tế quốc doanh có trách nhiệm hướng dẫn, giúp đỡ… đi dần từng bước

lên chủ nghĩa xã hội thông qua con đường cải tạo”.

Bản tuyên bố ngày 25-9-1976 cũng nhấn mạnh: “Trước giờ phút vinh quang của

Tổ quốc, các nhà tư bản tư doanh hãy nhận rõ nhiệm vụ lịch sử lúc này, nhận rõ

con đường phát triển tất yếu của dân tộc ta, nhận rõ tiền đề xán lạn của Tổ quốc

Việt Nam, mà tiếp thu tốt sự cải tạo xã hội chủ nghĩa”. Đồng thời tuyên bố khuyến

cáo: “Cùng với nhân dân lao động đi lên theo con đường ấy, các nhà tư bản sẽ có cơ

hội tự cải tạo mình trở thành người đứng trong hàng ngũ đại gia đình dân tộc Việt

Nam. Đó là con đường mở ra một tương lai tốt đẹp cho bản thân mình và cho con

cháu”.

Mãi tới sáng 1-11-1976, tại Dinh Độc Lập lúc bấy giờ đã mang tên Hội trường

Thống Nhất, Chính quyền mới tổ chức Hội nghị Liên tịch Ủy ban Mặt trận và các

đoàn thể cấp trung ương và thành phố để phổ biến bản tuyên bố ngày 25-9-1976.

Không phải là những người cộng sản từ Hà Nội vào, đoàn chủ tịch hội nghị gồm:

Luật sư Nguyễn Hữu Thọ, khi ấy là phó chủ tịch nước kiêm chủ tịch Ủy ban Trung

ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam; Hoàng Quốc Việt, chủ tịch

Tổng Công đoàn Việt Nam; Luật sư Trịnh Đình Thảo, chủ tịch Ủy ban Trung ương

Liên minh các Lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hòa bình Việt Nam; Hòa thượng Thích

Minh Nguyệt… Trưởng ban Cải tạo Công thương nghiệp tư doanh Trung ương, ông

Nguyễn Văn Trân, bí thư Trung ương Đảng, người được bổ sung vào Trung ương Cục

trước khi Sài Gòn sụp đổ, cũng có mặt trong hội nghị.

Luật sư Nguyễn Hữu Thọ phát biểu: “Chính phủ đã đề ra chính sách hợp tình hợp

lý đối với các nhà công thương nghiệp tư bản tư doanh, giúp cho họ thấy rõ hơn con

đường tiến lên của Cách mạng và tạo cho họ điều kiện đóng góp công sức cùng với

toàn dân xây dựng Tổ quốc Việt Nam giàu mạnh, văn minh và hạnh phúc, trong đó

có

  

quyền

  

lợi

  

chính

  

đáng

  

của

  

họ

  

và

 

của

  

con

  

cháu

  

họ”.

  

Còn

  

Trưởng

  

ban

  

Cải

 

tạo

Nguyễn Văn Trân thì ngắn gọn: “Bản tuyên bố của Chính phủ đã mở ra một tương

lai tốt đẹp, một tiền đề xán lạn cho các nhà tư sản công thương nghiệp”

146

.

Từ

  

ngày

  

21-11-1976,

  

giới

  

công

  

thương

  

chỉ

  

phải

  

“đăng

  

ký

  

kinh

  

doanh

  

công

thương nghiệp và dịch vụ tư nhân”. Đến ngày 13-12-1976, 98% “các đơn vị và hộ

sản xuất kinh doanh, dịch vụ” đã khai trình và 93% số hộ này đã được chính quyền

cấp quận “xét” cấp giấy chứng nhận “đã đăng ký kinh doanh”. “Nhiều người khai

trình đúng đắn (nhưng) cũng còn khá nhiều người, nhứt là các hộ kinh doanh lớn

đều khai trình thiếu, sai biệt xa với tài sản họ có thật. Một số người tìm mọi cách

phân tán tài sản nhiều nơi, thậm chí có người dùng xe chở hàng tẩu tán sang quận

khác đã bị bắt quả tang cả người lẫn hàng. Có người gây cản trở, vu khống cán bộ

đi thẩm tra hay dùng thủ đoạn mua chuộc cán bộ, tráo hàng xấu vào hàng tốt

147

.

Chính quyền đã gia hạn việc “đăng ký” đến ngày 2-1-1977 và cảnh báo rằng:

“Những hộ nào đã được chánh quyền kêu gọi, giáo dục nhiều lần nhưng không thấy

lợi ích chung xây dựng đất nước mà ... vẫn còn tiếp tục có thái độ chống đối, giấu

diếm, phân tán, không chịu khai trình bổ sung là tự mình tách khỏi hàng ngũ những

nhà công thương chấp hành đúng chánh sách của Nhà nước và bị coi là bất hợp

pháp

148

.

Sau khi kê khai, các hộ kinh doanh vẫn được cấp giấy chứng nhận đã đăng ký

kinh doanh và vẫn hoạt động gần như bình thường. Nhưng kể từ đây, ranh giới của

một nhà tư sản dân tộc với “gian thương phá rối thị trường, phá hoại chủ trương”

bắt đầu trở nên mong manh, nhất là đối với một số ngành kinh doanh “phục vụ nhu

cầu thiết yếu của nhân dân”. Một trong những ngành chịu sự cải tạo sớm hơn và

quyết liệt hơn là ngành giao thông vận tải.

Trước 30-4-1975, tại các tỉnh phía Nam, số chủ xe là tư sản chuyên doanh vận

tải ô tô chiếm 3,5%, chủ là tư sản khác kiêm kinh doanh vận tải ô tô là 1%, tiểu

chủ hơn 95%. Ban Cải tạo Giao thông vận tải các tỉnh phía Nam từng đánh giá:

“Trong lực lượng tiểu chủ, đại bộ phận có lòng yêu nước, có cảm tình với Cách

mạng, nhiều người đã là cơ sở tốt nuôi giấu cán bộ, chở người, chở vũ khí ra vào

thành phố, ủng hộ vật chất cho Mặt trận Giải phóng. Chính lực lượng này theo lời

kêu gọi của Mặt trận, sự huy động của Ủy ban Quân quản đã tự nguyện mang hàng

trăm xe chở bộ đội, binh khí kỹ thuật, hậu cần cấp tốc hành quân truy kích địch ở

phía Nam

149

.

Những công lao được ghi nhận này đã không giúp họ giữ được nghề

nghiệp và xe cộ.

Ngay từ đầu, Ban Bí thư Trung ương Đảng và Chính phủ đã ra chỉ thị: “Công tác

cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội đối với lực lượng vận tải tư doanh ở miền Nam

đang được triển khai và yêu cầu phải làm gấp

150

.

Một thứ trưởng của Bộ Giao thông

được cử vào Nam và ngay sau đó, xe cộ, kể cả xe của các “quần chúng yêu nước”,

đều bị sung công. Đây không chỉ là một chính sách riêng lẻ của chính quyền Việt

Nam. Vận tải là ngành, theo Tuyên ngôn Đảng Cộng sản, phải do nhà nước thống

nhất quản lý.

Từ tháng 2-1977 đến tháng 9-1978, Ban Cải tạo đã “trưng mua và mua, trưng

thu và tịch thu” hầu hết phương tiện vận tải của tư nhâ

n

151

.

Nói là mua và trưng

mua, nhưng thực chất, “giá xe do Nhà nước định trên thực tế chỉ tương đương với

1% giá thật. Đã vậy, công ty chỉ mua chịu trả dần, mỗi lần một ít. Có người đến khi

không còn ở công ty, hoặc đã chết vẫn chưa được trả hết. Mà dù có được trả hết thì

khoản tiền đó cũng không đủ mua chiếc xích lô

152

.

Trước ngày 30-4-1975, ông Trần Văn Thàn

h

153

 

là chủ xe ca chạy tuyến miền

Trung. Cuộc sống gia đình ông được mô tả là “thường ăn cơm tiệm và cuối tuần

thường đi mua sắm”. Sau “giải phóng”, gia đình ông phải vạ vật trong những chuổi

ngày khó khăn: “Sau bữa cơm đạm bạc, cha con đưa đẩy nhường nhau bát cơm

độn, ông Thành xách túi ra xe kéo theo cái nhìn lo âu và tiếng thở dài của người

thân. Bởi cái xe của ông quá cũ nát không an toàn khi bắt buộc phải chở quá tải

trên những đoạn đường trường, bởi chắc chắn ông sẽ phải cố tìm một vài mặt hàng

lậu để bù vào tiền xăng dầu, bơm

vá”

154

.

Nhưng sự thiếu thốn chưa phải là tất cả những gì mà những người kinh doanh

trong ngành phải chịu đựng. Từ lái xe, năm 1973 ông Thành mua được một chiếc

xe ca trị giá 3,5 triệu đồn

g

155

.

Nếu thời cuộc không thay đổi, công việc kinh doanh

thuận lợi có thể giúp ông Thành lập được một hãng xe. Nhưng cũng như các chủ xe

khác, ông Thành đã phải “bán” xe cho Nhà nước. “Bán xe xong, ai biết lái xe thì

được nhận làm công nhân của công ty. Lái theo chuyến, ăn luơng theo quy định. Ai

không biết lái xe thì coi như mất xe… Có những ông chủ hãng xe 30-40 chiếc, cai

quản hàng trăm lái, phụ xe, sau cải tạo muốn quá giang 30-40km nếu không mua

được vé thì vẫn bị đẩy xuống bến xe ngơ ngác trong bụi khói. Nhiều ông chủ xe xin

mãi mới được làm phụ xe, rồi còn bị anh lái xe mình thuê ngày xưa mắng mỏ mỗi

khi trái

ý”

156

.

“Cải tạo công thương nghiệp tư doanh”

Nếu như đối tượng của Cách mạng chỉ có chín mươi hai nhà tư sản giàu có nhất

miền Nam thì sau năm 1975, nền kinh tế vẫn còn cơ hội để hồi sinh. Nhưng, hai

năm rưỡi sau, “giai cấp tư sản” lại bị “đánh” trong một chiến dịch mới được gọi là

“Cải tạo Công Thương nghiệp Tư doanh”, một chiến dịch được ông Đỗ Mười triển

khai với “bàn tay sắt”.

Lý do của đợt cải tạo này được nói trong Thông báo ngày 23-3-1978 của Ủy ban

Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh: “Các nhà tư sản thương nghiệp, bằng hoạt động

đầu cơ, buôn bán chợ đen, tích trữ hàng hóa và tiền mặt đã lũng đoạn kinh tế và thị

trường, nâng giá hàng hóa bán ra, phá rối việc thu mua của nhà nước, gây cảnh

hỗn loạn thị trường để làm giàu bất chính, thậm chí tung hàng giả ra thị trường để

gạt gẫm và bóc lột người tiêu dùng. Họ dùng mọi thủ đoạn xảo quyệt móc hàng của

xí nghiệp, kho tàng nhà nước, ăn cắp những bí mật kinh tế quốc gia, nhằm đục

khoét kinh tế xã hội chủ nghĩa đang bước đầu xây dựng và làm hư hỏng một số cán

bộ nhân viên nhà nước, rồi qua đó mà nói xấu chế độ

157

.

Cơ sở pháp lý của đợt “cải

tạo thương nghiệp tư bản chủ nghĩa”, được nói là theo Quyết định số 100 CP ngày

12-4-1977,

  

nhằm

  

“xây

  

dựng

  

nền

  

thương

  

nghiệp

  

  

hội

  

chủ

  

nghĩa”

  

theo

  

hướng

“chấm dứt kinh doanh thương nghiệp của các nhà tư sản, chuyển các nhà tư sản

thương nghiệp sang sản xuất”.

Trước đây, khi Trưởng Ban Cải tạo Xã hội Chủ nghĩa Trung ương Nguyễn Văn

Linh gặp giới công thương, “nhiều anh chị em công thương” khi phát biểu ý kiến, đã

“hoan nghênh chính sách cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh”. Thậm chí có

những ý kiến đã “nói lên những tồn tại của giới công thương”, chỉ trích “một số nhà

công thương còn theo lối kinh doanh cũ, vi phạm các chính sách luật lệ của chính

quyền cách mạng”. Lần ấy, sau khi “nêu lên chính sách đúng đắn, có tình, có lý của

đảng và nhà nước”, ông Nguyễn Văn Linh đã “kêu gọi các nhà công thương… ra sức

cải tạo bản thân, đem hết khả năng và những hiểu biết của mình để tham gia xây

dựng tổ quốc, làm cho dân giàu, nước mạnh, xây dựng thành công chủ nghĩa xã

hội

158

.

Sau hai ngày làm việc ấy, ông Linh “hẹn sẽ có dịp nói chuyện” một cách đầy

đủ hơn về chính sách cải tạo.

Nhưng bản thân ông Nguyễn Văn Linh cũng chưa hình dung được ý đồ cải tạo

của ông Lê Duẩn. Đầu năm 1978, chức trưởng Ban Cải tạo mà ông Linh đang nắm

giữ được Tổng Bí thư Lê Duẩn trao lại cho ông Đỗ Mười. Ngày 16-2-1978, sau khi

Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký “Chỉ thị 115”, ông Đỗ Mười đưa quân tập kết vào Sài

Gòn để bắt đầu kế hoạch.

Sáng 23-3-1978, khi người dân Sài Gòn chưa kịp thức dậy thì trước những cửa

tiệm, lớn có, nhỏ có, đã lố nhố từng tốp thanh niên, mặt mày nghiêm trọng. Họ chỉ

chờ chủ nhà thức dậy là ập vào, kiểm kê, niêm phong hàng hóa và bắt đầu chốt

giữ. Đêm hôm trước, toàn bộ lực lượng thanh niên đã được Thành đoàn huy động:

sinh viên các trường đại học thì nghỉ học, công nhân trong các nhà máy thì nghỉ

làm, những người chưa có công ăn việc làm thì được phường trưng dụng.

Cũng trong buổi sáng hôm đó, các báo cho đăng Quyết định 341/QĐ-UB của Ủy

Ban Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, công bố năm điều quan trọng của chính sách

cải tạo: Đình chỉ mọi hoạt động kinh doanh thương nghiệp của tư nhân; ra lệnh

kiểm kê hàng hóa tồn kho; cấm các nhà tư sản làm nghề buôn bán và “khuyến

khích” họ chuyển sang sản xu

ất

159

.

Người ký Quyết định 341, ông Vũ Đình Liệ

u

160

,

thừa nhận: “Quyết định được ký

nhân danh Ủy ban, lực lượng nói là của Thành phố, nhưng nòng cốt là Trung ương

đưa vô, kế hoạch Trung ương đưa vô. Ở cấp Thành phố cũng có Ban Cải tạo nhưng

từ thành phố cho tới quận huyện đều có người được ông Đỗ Mười đưa từ Hà Nội

vào. Họ mới là người đưa ra quyết định. Đau xót nhất là họ cứ theo tiêu chí tư sản

Hà Nội để áp dụng cho Sài Gòn. Quy sai thành phần đã khiến cho cải tạo trở thành

cuộc chiến trên diện rộng

161

.

Theo ông Nguyễn Văn Trân, viện trưởng Viện Kinh tế Trung ương: “Khi bắt đầu

chiến dịch, Bộ Chính trị chuyển anh Nguyễn Văn Linh sang làm Dân vận rồi đưa anh

Đỗ Mười vào vì anh Đỗ Mười đã làm cải tạo công thương nghiệp ở Hà Nội. Anh Mười

vào Sài Gòn áp dụng y chang những gì đã làm ở miền Bắc trong năm 1960”. Theo

ông Hoàng Tùng: “Năm 1955, khi đánh tư sản ở Hải Phòng, Đỗ Mười cũng cho xóa

sạch”. Ông Hoàng Tùng thừa nhận là thoạt đầu ông đã cùng ông Đỗ Mười vào Nhà

khách Trung ương tại Sài Gòn (T78), viết bài ủng hộ chiến dịch này, nhưng sau

thấy Đỗ Mười đánh cả tiểu thương ông bỏ về. Ông Mười hỏi: “Sao về?”. Hoàng Tùng

nói: “Tôi theo anh, tôi sa lầy”.

Trong suốt thời gian đặt “Tổng hành dinh” tại Thủ Đức, ông Đỗ Mười ít khi xuất

hiện công khai. Nhưng quyền lực của ông là bao trùm và cách mà ông tiến hành thì

cứng nhắc đúng như những giai thoại về ông lúc đ

ó

162

.

Theo ông Đỗ Hoàng Hải, đại

biểu Quốc hội Khóa IX, người được phân công “phát động giai cấp công nhân tham

gia” lực lượng cải tạo: Cứ “đánh” xong ngành nào thì các ngành tương ứng từ Trung

ương - phần đã vào từ trước, phần mới vào theo ông Đỗ Mười - lập tức nhảy vào

tiếp quản. Ví dụ Bộ Công nghiệp nhẹ tiếp quản ngành Dệt; Bộ Giao thông tiếp quản

các cơ sở liên quan đến xe cộ, bến cảng; Liên hiệp Công đoàn Giải phóng thì tiếp

quản số 14 Cách Mạng Tháng Tám, nơi vốn là trụ sở Liên đoàn Lao động của Trần

Quốc Bửu.

 

Ông Đỗ Hoàng Hải nói: “Lực lượng công nhân do tôi chỉ huy lúc đó hết sức phấn

khởi vì Thành ủy dành 35% quỹ nhà cải tạo chia cho giai cấp công nhân, coi như đó

là một chính sách lớn của Đảng đối với thành phần nòng cốt. Ngày cao điểm, chúng

tôi huy động tới 3000 công nhân, sáng ra phát cho mỗi người một ổ bánh mì rồi khi

có lệnh là lên xe đến ‘chốt’ nhà của ‘tư sản’. Trước đó, những lực lượng khác đã xộc

vào các cửa hàng, phát hiện, kê biên hàng hóa, đồng thời ‘đấu tranh chống các

hành vi xấu”.

Cán bộ làm công tác cải tạo được mô tả: “Đã nhã nhặn, đúng mực, nhưng rất

cương quyết, dứt khoát, trong sạch; đã làm thất bại một số vụ mua chuộc xấu xa

của giai cấp tư sản. Nhiều công nhân lao động chẳng những phát hiện các hộ tư sản

thương nghiệp lọt sổ, tố giác các kho hàng cất giấu, mà còn cương quyết từ chối và

đấu tranh chống lại hành động hối lộ của một số hộ tư sản

163

.

Một nhân viên cải tạo từ chối nhận hối lộ đã được Ban Chỉ đạo “thông báo cho

toàn quận và được kết nạp vào Đoàn Thanh niên Cộng sản vào tối ngày 26-3-1978

ngay tại nơi cô tham gia công tác cải tạo”. Người dân cũng được phát động để “kịp

thời phát hiện, phê phán, đấu tranh, tố giác, chống những hành vi xấu như hối lộ,

tẩu tán hàng hóa, tuyên truyền xuyên tạc, chia rẽ của một số hộ tư sản không thức

thời

164

.

Hầu như không có chống đối, chỉ một số tư sản người Hoa phản ứng ở mức thăm

dò. Vào lúc 7 giờ sáng ngày 23-3-1978, khi xuống một phường ở Quận 5, ông Mai

Chí Thọ được báo cáo: “Nhiều nhà tư sản biết trước lệnh cải tạo đã khóa cửa bỏ đi,

cán bộ tới không có chủ nhà để đưa lệnh kiểm kê tài sản”. Ông Mai Chí Thọ suy

nghĩ rồi ra lệnh: “Cho niêm phong tất cả cửa ra vào, cho một tổ chốt trước nhà

những người đi vắng. Thông báo cho họ một thời hạn, nếu không tự giác thì các

đồng chí cứ cho phá cửa vào lập biên bản

165

.

Trừ một số trốn đi luôn, phần lớn đã

trở về chịu để chính quyền kê biên tài sản.

Tại Sài Gòn, 28.787 hộ tư sản bị cải tạo, phần lớn bị “đánh” ngay trong bốn

ngày đầu với 6.129 hộ “tư sản thương nghiệp”, 13.923 hộ “trung thương”. Những

tháng sau đó có thêm 835 “con phe”, 3.300 “tiểu thương ba ngành hàng”, 4.600

“tiểu thương và trung thương chợ trời” bị truy quét tiếp. Theo ông Huỳnh Bửu Sơn,

người trông coi kho vàng của Ngân hàng, trong đợt đánh tư sản này, Cách mạng

thu thêm khoảng hơn năm tấn vàng, chưa kể hạt xoàn và các loại đá quý. Có

những gia đình tư sản giấu vàng không kỹ, lực lượng cải tạo tìm được, khui ra, vàng

chất đầy trên chiếu.

Những năm sau 1975, cứ mỗi khi có một thành phần nào đó trong xã hội trở

thành đối tượng của Chính quyền, lại có một thành phần khác, gọi là quần chúng,

được đưa đứng ra lên án. Chín mươi hai nhà tư sản mại bản vừa bị đánh vào rạng

sáng ngày 10-9-1975 thì sáng hôm sau, 11-9-1975, đã có “1.200 nhà tư sản dân

tộc, tiểu thương, tiểu chủ mở đại hội bất thường” tại rạp Rex để “bày tỏ quyết tâm

bài trừ bọn tư sản mại bản, đầu cơ tích trữ, lũng đoạn, phá rối thị trường

166

.

Thậm chí, “giới người Hoa tỏ ý muốn Chánh quyền công bố đầy đủ danh sách và

tội trạng của tất cả các tên gian thương đã bị sa lưới. Giám đốc một

 

xí nghiệp tại

Chợ Lớn (xin giấu tên) là người Hẹ, cho biết, theo ông nên tịch thu toàn bộ tài sản

của bọn gian thương, đem xử công khai trước nhân dân và cho bọn này đi cải tạo

lao động lâu dài để chúng biết giá trị của lao động”. Ông giám đốc người Hẹ này khi

ấy

 

chắc

 

không

 

ngờ

 

 

ngày mình

  

cũng

 

trở

 

thành

  

đối

 

tượng

 

của

 

“nhân

  

dân

  

lao

động”.

Hai gia đình tư sản

Tuy không sơ khai như thời kỳ Cải cách ruộng đất, nhưng phương thức “đấu

tranh giai cấp” của thế hệ cộng sản sau năm 1975 cũng có những điểm tương đồng.

Ngay từ tháng 9-1975, Đoàn Thanh niên Cộng sản đã “đánh tư sản mại bản” bằng

chính tiếng nói của con cái các nhà tư sản.

Trên báo Tuổi Trẻ, Anh Thanh Tùng, một học sinh người Hoa học lớp 12, trường

Lý Phong, nói: “Bản thân tôi thấy rõ chính sách của chính phủ là đánh bọn gian

thương bóc lột nhân dân chứ không đánh vào người Hoa. Tư sản mại bản đầu cơ

tích trữ thì dù là Việt hay Hoa đều có tội với nhân dân, là kẻ thù của nhân dân”. Ôn

Đường, học sinh lớp 9 trường Việt Tú, thì cho rằng: “Chúng ta phải phát động quần

chúng đứng lên tiêu diệt bọn gian thương”. Còn Lý Mỹ, học sinh lớp 10, trường Lý

Phong, thì nói: “Tôi nghĩ rằng những nhà tư sản nào muốn hợp tác với chính quyền

cách mạng để xây dựng kinh tế thì đó là điều tốt. Nhưng phải tiêu diệt bọn tư sản

mại bản, có như thế mới ổn định đời sống nhân dân

167

.

 

Năm 1978, thay vì chỉ tuyên bố, Lý Mỹ, con gái một nhà tư sản người Hoa, vừa

trở thành đoàn viên, đã dẫn các “đồng chí” của mình vào nhà, chỉ cho họ những tài

sản mà cha mẹ mình đang cố giấu. Cô được ca ngợi trên báo chí: “Hai năm qua đất

nước ta chuyển mình đi lên chủ nghĩa xã hội, cũng như nhiều bạn trẻ khác, Lý Mỹ

đã hòa mình trong ngọn lửa triều thời đại

ấy”

168

.

Chính Lý Mỹ cũng viết trên trang

đầu tiên của nhật ký: “Hãy đấu tranh để giành hạnh phúc”. Nhưng qua những dòng

ghi chép của cô, cuộc đấu tranh ấy không chỉ mang về hạnh phú

c

169

.

Lý Mỹ thuộc thế hệ trưởng thành trong khuôn viên Thành đo

àn

170

,

đọc Pavel

Korchagin và được nghe các nhà lý luận từ miền Bắc vào giảng giải luận điểm của

Marx về kinh tế. Một bên là những niềm tin mới của cô về một xã hội tốt đẹp, một

bên là kế sinh nhai của gia đình. Từ tháng 6-1977, khi cải tạo chưa bắt đầu, Lý Mỹ

đã phải “nuốt nước mắt” để thuyết phục cha mẹ mình nghe theo những gì cô được

Đoàn dạy bảo. Lý Mỹ nói với má: “Sống như vậy con thấy phi pháp quá”. Gia đình

Lý Mỹ khi ấy có một cửa hàng kinh doanh vải trên đường Cách Mạng Tháng Tám.

Khi Nhà nước “cải tạo công thương nghiệp tư doanh”, Lý Mỹ đang là học sinh lớp

12C, trường Trần Khai Nguyên. Ngày 23-3-1978, khi “nhiều toán thanh niên đóng

chốt ở những cửa hàng lớn” trên con đường mà cô đi qua, Lý Mỹ viết: “Rồi đây cuộc

sống sẽ trở nên phong quang hơn, đời sống đồng bào sẽ trở nên dễ chịu hơn khi

những ung nhọt của một cơ thể đã được giải phẫu từ ngày hôm nay - ngày mở đầu

một cuộc đấu tranh lớn”.

Trong những ngày sau đó, Lý Mỹ đã “bám từng giây, từng phút để vận động gia

đình kê khai tài sản". Báo Tuổi Trẻ theo sát, tường thuật từng lời nói, hành động

của cô. Cái ngày mà toàn bộ gia sản của gia đình bị kê biên, Lý Mỹ đã không giấu

được niềm vui hoàn thành nhiệm vụ: “Mỹ kêu mẹ đi ngủ để mình làm công việc kê

khai cùng với toán công tác đang chốt tại đấy. Đêm 24-3-78, Mỹ thức đến ba giờ

khuya - không phải để thao thức, trăn trở trong sự khổ sở - mà để sao bốn bản kê

khai trong một sự vui sướng tràn trề. Lòng Mỹ rộn ràng như lần đầu tiên biết mình

được đứng vào hàng ngũ của Đoàn”

171

.

Cuốn Nhật ký của Mỹ khép lại vào lúc 3 giờ sáng ngày 25-3-1978: “Má đã yên

tâm rồi. Còn mình lại càng yên tâm hơn khi gia đình mình đã chấm dứt quá khứ từ

ngày hôm qua để chuẩn bị bước vào tương lai. Mình không còn mặc cảm với bạn

bè, nhân dân lao động vì gia đình mình không còn sống bằng nghề bất chính. Mình

đã đấu tranh, đã thực hiện được lý tưởng, ước mơ của mình. Hãy cất cao tiếng hát,

hãy tiến lên. Không có gì có thể ngăn cản được bước tiến của mình. Mình trở lại

phấn khởi rồi, vui quá!”. Nhưng điều mà lúc ấy Lý Mỹ tưởng là niềm vui, rồi sẽ

khoét vào lòng cô một như vết thương - một vết thương không bao giờ có khả năng

khép lại.

Cho dù được báo Nhân Dâ

n

172

ca ngợi, được đoàn viên từ khắp nơi trong cả nước

viết thư thăm hỏi, động viên và bày tỏ lòng ngưỡng mộ, Lý Mỹ cũng chỉ là một sản

phẩm hy hữu của Thành đoàn. Con cái của các nhà tư sản khác, trong những ngày

ấy, đã bị buộc phải trưởng thành để cùng cha mẹ bảo vệ tài sản gia đình trước nguy

cơ cải tạo. Gia đình ông Võ Quang Trữ, một trong những người giàu có ở Sài Gòn

lúc bấy giờ, là một ví dụ.

Năm 1960, ông Trữ đưa gia đình di cư từ Quảng Nam vô Sài Gòn. Thời gian đầu,

chồng làm thư ký cho một công ty, vợ làm thợ dệt. Khi đó, xứ Bảy Hiền còn rất

hoang sơ. Chỉ một thời gian ngắn sau, ông Võ Quang Trữ cùng một số người di cư

bàn bạc khôi phục nghề dệt của Quảng Nam. Bắt đầu là dệt, kế tiếp là hồ, rồi tiến

tới buôn bán hàng tơ sợi. Từ tay trắng, họ nhanh chóng trở thành những người giàu

nhất.

Sáng 30-4-1975, giữa khi súng đạn vẫn còn đùng đoàng, ông Trữ đã chở con

bằng xe Vespa từ nhà riêng ở 177C Lý Thường Kiệt lên Bảy Hiền lấy gần một trăm

lá cờ Giải phóng về phân phát cho hàng xóm. Nhưng sự hào hứng này của ông

không kéo dài được bao lâu. Một hôm đi làm về, ông thấy, tấm biển “trụ sở công an

phường” tự nhiên được treo lên trước một ngôi nhà của mình ở Bảy Hiền. Khi ông đi

vắng, mấy người “Cách mạng 30-4” mang bảng tới, nói: Chúng tôi muốn dùng tầng

trệt làm trụ sở công an, rồi treo lên mà không chờ chủ nhà đồng ý.

Sau Chiến dịch X-2, quan sát bạn bè bị “đánh tư sản mại bản”, ông Trữ đi trước

một bước bằng cách đưa nhà máy với hơn 5.000 công nhân của mình “hiến” cho

Nhà nước dưới danh nghĩa lập xí nghiệp “công tư hợp doanh

173

,

rồi nhận chức phó

giám đốc trong nhà máy của mình theo sự phân công. Một số lớn máy móc và tiền

bạc khác được ông Trữ đưa về quê, xây thêm hai nhà máy công tư hợp doanh, rồi

hiến cho Đà Nẵng.

Ngay trong ngày 23-3-1978, một tổ cải tạo năm người đã đến chốt trước tiền

sảnh ngôi nhà số 57 Hồ Tấn Đức nơi gia đình ông Trữ đang cư ngụ. Họ ở đó hai đợt,

tổng cộng sáu tháng. Võ Quang Dũng, con trai ông Trữ, sinh năm 1964, kể: “Hàng

ngày bắt đầu từ sáng sớm, họ thẩm vấn từng thành viên trong nhà, lặp đi lặp lại

gần như chỉ một câu: tiền vàng giấu ở đâu?”. Không ai, kể cả vợ con, biết vàng ông

Trữ giấu ở đâu. Gần như không có một viên gạch nào ở trong nhà là không bị cạy

lên. Nhưng những mưu sâu kế dày mà trước đây các gia đình Cách mạng đã dùng

để qua mặt cảnh sát Sài Gòn, nuôi giấu cán bộ, giờ đây được chính nhân dân áp

dụng một cách triệt để thoát khỏi Chính quyền Cách mạng.

Ngay từ rất sớm, ông Trữ đã có các phương án đề phòng. Ngày 26-11-1975,

một toán năm tên cướp có vũ khí đột nhập vào ngôi nhà 177C Lý Thường Kiệt của

ông, bắn chết bà mẹ già tám mươi tuổi. Vợ ông khi đó đang bị tai nạn, nằm trên

giường, chứng kiến cuộc đấu súng kéo dài giữa công an và tên cướp cố thủ trong

nhà cho đến khi hắn ta bị công an bắn hạ. Sau đó, ông Trữ quyết định chuyển nhà

lên Bảy Hiền. Chính trong thời gian xây nhà 57 Hồ Tấn Đức ở vùng Bảy Hiền, ông

Trữ đã cho làm hai căn hầm bí mật có nhiều tầng: một dưới gầm cầu thang, một

ngay dưới bàn ăn gia đình. Hơn mười nghìn lượng vàng đã được ông xếp trong

những lon guygoz, bọc giấy dầu rồi xếp xuống hầm.

Quan sát thấy lực lượng cải tạo chỉ khám người, túi xách của hai vợ chồng ông

Trữ và của người giúp việc chứ không khám người mấy đứa con - đặc biệt là hai

đứa trẻ: Võ Quang Dũng, mười bốn tuổi; Võ Thị Anh Đào, mười hai tuổi - ông Trữ

bắt đầu cho thực hiện kế hoạch. Mỗi đêm, ông mang lên khoảng năm mươi lượng

vàng. Tới giờ đi học, ông cho vàng vào ruột tượng, buộc ngang bụng Dũng và Đào,

rồi để các con tự đi ra ngoài.

Võ Quang Dũng kể: “Chúng tôi bị tước mất tuổi thơ từ đó. Vốn là những đứa trẻ

vô tư, nhưng hàng ngày hai anh em đều phải đóng kịch, giả vờ vui vẻ ra khỏi nhà,

khi thì với quả bóng, khi thì với một món đồ chơi, để qua mặt tổ cải tạo đang đứng

canh trước cửa. Từ cổng, khi thì xích lô, khi thì taxi, khi thì một bác xe ôm đứng

đón. Họ chở tôi đi một đường, em gái tôi đi một đường. Mỗi ngày, chúng tôi đi đến

một địa điểm mà ba tôi cho biết chỉ vài phút trước khi ra khỏi nhà. Ở đó, một người

được ba tôi đặc biệt tin cẩn và huấn luyện trước đã chờ sẵn, đón chúng tôi, nhận

hàng rồi đi ngay lập tức”.

Công việc vận chuyển vàng ra khỏi nhà trước mắt lực lượng cải tạo trong suốt

sáu tháng trời đã khiến cho cha con ông Võ Quang Trữ trở thành những người có vẻ

ngoài lạnh lùng. Năm 1979, anh em Dũng vượt biên không thành trở về, gặp nhau

ngoài ngõ nhưng cha con chỉ khẽ gật đầu như vừa đi đâu đó ngoài đường về. Mãi tới

khi vào bên trong nhà, ông Trữ mới ôm lấy các con và cả mấy cha con cùng bật

khóc.

Kinh tế mới

Không chỉ bị “tước đoạt tài sản”, các nhà tư sản còn bị buộc phải rời thành phố,

cho dù, cũng như nhiều chính sách làm xáo trộn xã hội lúc bấy giờ, chủ trương đưa

các nhà tư sản đi kinh tế mới cũng không được công bố một cách công khai, minh

bạch. Ngày 10-4-1978, trên báo Sài Gòn Giải Phóng xuất hiện một bài báo dưới

dạng “hỏi-đáp”, kiểu như một tài liệu được soạn sẵn rồi phát cho các cơ quan báo

chí. Tính cưỡng bức của chính sách mà tài liệu này thể hiện là rất mạnh mẽ.

Các nhà tư sản thương nghiệp bị phê phán là chỉ biết “làm giàu, ăn chơi phè

phỡn, bóc lột người lao động và ăn cắp của nhà nước, coi khinh lao động và nói xấu

chế độ” trong khi “ba năm qua trên 700.000 nhân dân lao động hồi hương lập

nghiệp

174

.

“Về những hành vi tội lỗi đó, nhân dân lao động và chính quyền cách

mạng đã không bắn giết, không bắt giam, không đày ải, không đấu tố, không tịch

thu mặc dù có đầy đủ sức mạnh và lý lẽ để làm như vậy. Nhân dân lao động và

chính quyền chỉ buộc họ chấm dứt những hành vi đó, chấm dứt triệt để và vĩnh

viễn... Không những các nhà tư sản thương nghiệp phải chuyển sang sản xuất nông

nghiệp, nghề cá, nghề rừng là chuyển về các tỉnh, mà cả sản xuất công nghiệp và

tiểu thủ công nghiệp cũng chuyển về các tỉnh, theo sự bố trí màng lưới công nghiệp

và tiểu thủ công nghiệp ở địa phương

175

.

Hai ngày sau khi báo Đảng đăng bài “hỏi-đáp” này, một cuộc “hội thảo” kéo dài

hai ngày, 12 và 13-4-1978, với sự tham gia của “hơn 200 trí thức” đã được chính

quyền tổ chức. Phát biểu trong “hội thảo”

176

,

Bác sỹ Lê Cửu Trường nói rằng: “Lề lối

kinh doanh tư bản chủ nghĩa không thể tiếp tục kéo dài trong một xã hội đang tiến

lên con đường xóa bỏ chế độ người bóc lột người”. Ông Phương Kiến Khánh, người

được giới thiệu là đang công tác ở Phân Viện Nghệ thuật, cho rằng: “Chuyển các

nhà tư sản thương nghiệp sang sản xuất là trả họ về với thiên chức con người, là

giải phóng họ khỏi kiếp ăn bám, bóc lột”.

Tối 17-4-1978, tại sân vận động Thống Nhất, “40.000 công nhân viên chức đại

biểu cho gần nửa triệu công nhân lao động” đã “hưởng ứng chủ trương xóa bỏ kinh

doanh của các tư sản thương nghiệp”. Phát biểu trên sân vận động Thống Nhất,

Chủ tịch Vũ Đình Liệu nói: “Chúng ta đang ở trong giai đoạn đấu tranh giai cấp có

phần gay gắt và cuộc đấu tranh vẫn còn tiếp tục

177

.

Ngày 10-6-1978 là “hạn chót để các nhà tư sản thương nghiệp rời thành phố đi

sản xuất”. Chính quyền ca ngợi những người tích cực đăng ký các chương trình kinh

tế mới nhưng đồng thời cũng nói với họ rằng: “Đây là một chính sách lớn... nhằm

giúp các nhà tư sản tự giải thoát khỏi con đường bóc lột, biến họ từ một lực lượng

phi sản xuất gây tác hại cho xã hội thành một lực lượng sản xuất có ích cho xã

hội

178

.

Không ít nhà tư sản được trích lời trên báo nói, họ chuyển sang sản xuất là

để “tẩy rửa cái mặc cảm bóc lột tội lỗi” của mình. Nhưng, như phát biểu của ông Vũ

Đình liệu, “cuộc đấu tranh giai cấp” diễn ra ở bên trong từng gia đình đúng là đang

“có phần gay gắt”.

Nhật ký ngày 8-6-1978 của Lý Mỹ cho thấy không khí trong gia đình cô “thật lạ

và căng thẳng”. Ba cô tuyên bố “sẽ đi kinh tế mới” nhưng giọng nói của ông làm

cho cô “nghi ngờ”. Cũng như nhiều gia đình tư sản, đặc biệt là tư sản người Hoa

khác, gia đình Lý Mỹ biết rõ, “kinh tế mới là nơi đày ải, đầy khó khăn gian khổ

không thể nào sống được”. Phần lớn các nhà tư sản sau đó đã vượt biên. Nhật ký

của Lý Mỹ viết: “Cùng gia đình bỏ trốn hay ở lại. Tôi nghĩ, tôi phải can đảm lên,

chấp nhận đấu tranh và mất mát, tôi sẽ không trốn đi nơi nào cả. Nếu gia đình

không lay chuyển, tôi bằng lòng ở lại sống cô đơn, không tài sản của cải gì của cha

mẹ để lại, tôi sẽ gặp vất vả, khó khăn và sóng gió. Đồng chí Paven ơi, nỗi khổ và sự

phấn đấu của tôi có nghĩa gì so với đồng chí

179

.

Ông Võ Văn Kiệt thừa nhận: “Lúc đầu, tôi cũng cứ tưởng cải tạo tư sản sẽ khác

với cải cách ruộng đất, một sai lầm mà những người ở miền Nam chúng tôi nhắc

nhau phải tránh. Nhưng, tiến hành rồi mới thấy, cách cải tạo tư sản thương nghiệp

mà anh Đỗ Mười làm, cũng không khác gì đánh tư sản mại bản nhưng tràn lan hơn.

Anh Đỗ Mười làm cải tạo cũng thành thật lắm. Giữa thập niên 1980, khi tôi ra Hà

Nội vẫn thấy anh Đỗ Mười kêu những người buôn bán là bọn con buôn”.

Ngay trong thời gian đang cải tạo, những cuộc tranh cãi nổ ra gần như thường

xuyên giữa ông Võ Văn Kiệt, ông Nguyễn Văn Linh với ông Đỗ Mười. Nhưng khi ấy

Đỗ Mười đang nắm trong tay “thượng phương bảo kiếm”. Ông Vũ Đình Liệu thừa

nhận: “Họp Thường vụ chúng tôi cũng có ý kiến, đi cơ sở về chúng tôi cũng có ý

kiến, nhưng bị bên anh Đỗ Mười cự

180

.

Tuy tranh cãi phương thức, nhưng cả ông Võ

Văn Kiệt, ông Nguyễn Văn Linh vẫn thống nhất với ông Đỗ Mười về chủ trương. Ông

Võ Văn Kiệt thừa nhận: “Lúc đầu tôi nhận thức, cải tạo là chuyện tất yếu và coi như

đó là con đường để đi lên chủ nghĩa xã hội. Cho tới lúc ấy, tôi chỉ đi các nước Đông

Âu, thấy cuộc sống của họ so với mình đã là những gì mà mình ước mơ. Tôi nghĩ,

phải kinh qua những bước như mình đang làm bây giờ mới có ngày đạt được như

những gì họ có”. Nhưng rồi khi nhìn cả thành phố vốn là một trung tâm thương mại

trở nên tiêu điều, tan hoang, nhất là khi nhìn thấy chính những ân nhân của cách

mạng cũng trở thành nạn nhân, những người đã từng bám trụ ở miền Nam, ở Sài

Gòn bắt đầu nhìn lại những gì mà mình đang thực hiện.

Khi ông Đỗ Hoàng Hải mới về 14 Cách Mạng Tháng Tám chuẩn bị “cải tạo tư

sản”, ông Trần Văn Đước - một cơ sở đã từng nuôi giấu và cứu mạng ông Hải trong

Mậu Thân 1968 - ngày nào cũng nấu cơm rồi cho người mang sang. Cũng như trong

chiến tranh, ông Đước không biết rõ ông Hải đang làm gì, chỉ giúp đỡ vì biết ông

Hải là người “bên Cách mạng”. Khi ông Trần Văn Đước chạy đến báo: “Bác bị người

ta mang xe tới chở hết kiếng đi rồi”, ông Hải vẫn tưởng rằng: “Chắc là có sự nhầm

lẫn”.

Con trai ông Trần Văn Đước là liệt sỹ. Tiệm kiếng của ông mở tại nhà riêng ở số

12 Ngô Tùng Châu chỉ là một ngôi nhà cấp 4, chiều ngang bốn mét, dài mười bốn

mét, tường gạch, lợp ngói. Nhưng ông Đước vẫn bị quy vào diện tư sản thương

nghiệp, kiếng hàng hóa và cả nhà riêng của ông đều bị “sung công”. Không chỉ có

trường hợp ông Trần Văn Đước. Năm 1957, ông Lai Ninh đã bất chấp nguy hiểm tới

tính mạng, lái xe đưa ông Lê Duẩn đào thoát sang Phnom Penh trong sự truy lùng

gắt gao của Chính quyền Sài Gòn. Năm 1978, khi ông Lê Duẩn đưa ông Đỗ Mười

vào Nam, nhà máy xay lúa của gia đình ông Lai Ninh đã bị sung công. Con gái ông,

bà Lai Kim Dung, một tư sản người Hoa, cũng bị xếp vào thành phần cải tạo.

“Công cuộc cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh” ở miền Nam, tiến hành

từ sau 1975, đã cải tạo 3.560 cơ sở tư bản tư doanh công nghiệp, trong đó có

1.354 cơ sở của tư sản mại bản bị công hữu hóa, tịch thu, 498 cơ sở bị chuyển

thành

  

công

  

  

hợp

  

doanh;

 

chuyển

  

5.000

 

  

sản

  

thương

  

nghiệp

  

sang

  

sản

  

xuất;

chuyển chín vạn tiểu thương sang sản xuất; sử dụng 15.000 người vào mạng lưới

thương nghiệp xã hội chủ nghĩa. Sau Cải tạo, dưới dạng kinh tế quốc doanh và công

tư hợp doanh, Nhà nước nắm: 100% ngành năng lượng; 45% ngành cơ khí; 45%

ngành xay xát lương thực; 100% ngành bia, nước ngọt, bột ngọt, thuốc lá; 45%

trong các ngành chế biến đường, dầu thực vật; 60% ngành dệt; 100% ngành sản

xuất giấy; 80% ngành sản xuất bột giặt, xà phòng. Thương nghiệp quốc doanh nắm

80% nguồn hàng công nghiệp; 92% số xã trên toàn miền Nam có hợp tác xã mua

n

181

.

 

Trước khi cải tạo công thương nghiệp tư doanh, nhà nước đã tìm mọi cách để tập

trung mọi nguồn hàng vào tay mình. Không chỉ có sản phẩm của các xí nghiệp quốc

doanh phải tiêu thụ qua thương nghiệp của nhà nước, “các xí nghiệp tư bản, các

hợp tác xã, các tập đoàn và cơ sở sản xuất thủ công, cá thể, được nhà nước cung

cấp lương thực, máy móc, thiết bị, nguyên liệu, nhiên liệu, điện; cho vay vốn…

(cũng) phải bán sản phẩm cho thương nghiệp quốc doanh

182

.

Chính quyền tin rằng:

“Ngành thương nghiệp xã hội chủ nghĩa là cơ quan hậu cần của toàn dân, là người

nội trợ của toàn xã hội

183

.

Chẳng bao lâu sau, niềm tin này sẽ nhanh chóng tan

thành mây khói.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#asdf