ben thang cuoc c5

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương V: Chiến tranh

Mặc dù từ giữa năm 1977, Pol Pot bắt đầu được nói tới như những bóng ma áo

đen, đêm đêm cầm dao quắm lẻn sang giết chóc dọc biên giới Tây Nam, nhưng

người dân Việt Nam vẫn sững sờ khi ngày 25-1-1978, tình trạng chiến tranh được

Chính phủ công khai thừa nhận. Kể từ khi Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập, đất

nước trải qua ba mươi năm chiến tranh liên tiếp chiến tranh. Chưa kịp hưởng một

ngày thực sự yên vui, trai tráng lại phải khoác lên vai cây súng, lần này là đánh

nhau với những “người anh em” Cộng sản.

 

Biên giới Tây Nam

Ngày 25-1-1978, tại Thành phố Hồ Chí Minh, ông Ngô Điền, vụ trưởng Vụ Thông

tin Báo chí Bộ Ngoại Giao, chủ trì họp báo, cho biết nhà cầm quyền Campuchia đã

huy động phần lớn lực lượng quân đội của họ đến đóng dọc biên giới, mở những

cuộc tiến công quy mô tiểu đoàn, trung đoàn, rồi sư đoàn vào sâu trong lãnh thổ

Việt Nam. Cuộc họp báo của ông Ngô Điền diễn ra bốn ngày sau khi Khmer Đỏ kết

thúc một cuộc tấn công kéo dài trên vùng biên giới Tây Nam.

Từ ngày 11 đến 19-1-1978, ba trung đoàn Khmer Đỏ đã đánh vào vùng Tịnh

Biên, Phú Cường ở bờ đông kênh Vĩnh Tế, sâu hơn 3km trong lãnh thổ Việt Nam.

Ngày 18-1-1978, hai trung đoàn khác đã tiến công lấn chiếm khu vực Giang Thành,

thuộc huyện Hà Tiên, Kiên Giang. Trong ngày 21-1-1978, ba tiểu đoàn Khmer Đỏ

chiếm Rộc Xây, một khu vực ở sâu trong đất Việt Nam từ 10-12km. Ông Ngô Điền

nói: “Nghiêm trọng là ngày 19-1-1978, lần đầu tiên họ (Pol Pot) dùng pháo tầm xa

cỡ lớn đặt trên đất Campuchia bắn hàng trăm quả đạn vào thị xã Châu Đốc và vùng

chung quanh thị xã Tây Ninh làm chết và bị thương nhiều người, phá hoại nhà cửa

và tài sản của nhân dân Việt Nam

219

.

Ông Điền đặc biệt lưu ý: “Lực lượng vũ trang Campuchia không chỉ tàn sát người

Việt Nam mà còn tàn sát một số người Campuchia dọc biên giới, mổ bụng, moi gan

rồi quay phim chụp ảnh nhằm mục đích vu cáo Việt Nam”. Hai tù binh Khmer Đỏ do

ông Ngô Điền đưa đến cuộc họp báo đã “thừa nhận những hành động của Pol Pot”

và tiết lộ: “Ban chỉ huy trung đoàn nói với chúng tôi rằng, Việt Nam muốn xâm lược


Campuchia, Việt Nam là kẻ thù số một

220

.

Khmer Đỏ đã khai chiến một ngày sau

khi họ chiếm được Phnom Penh.

Ngày 18-4-1975, ngay sau khi Khmer Đỏ chiếm được thành phố Ta Keo, Soeun,

chỉ huy trung đoàn 120, đã cho triển khai quân dọc biên giới Việt Nam. Seoun, con

rể của Ta Mok, tư lệnh quân đội Khmer Đỏ, tuyên bố: “Chúng ta phải đánh Việt

Nam

vì mười tám tỉnh của chúng ta, kể cả Prey Nokor (Sài Gòn) đang ở đó”. Ngày

19-4-1975, một người con rể khác của Ta Mok, Khe Muth, đã cho hải quân đổ bộ

lên đảo nhỏ thuộc vịnh Thái Lan và tấn công đảo Phú Quốc.

Quân đội Sài Gòn đã phải chiến đấu với quân của Khe Muth cho tới tận ngày 30-

4-1975. Ngày 1-5-1975, Khmer Đỏ quấy rối nhiều nơi dọc theo biên giới từ Tây

Ninh đến Hà Tiên. Ngày 4-5-1975, một lực lượng đổ bộ lên đảo Phú Quốc, nhưng đã

bị Quân đội Nhân dân Việt Nam, vừa thay thế Quân đội Sài Gòn, đánh đuổi. Ngày

10-5-1975, Pol Pot cho quân đổ bộ lên quần đảo Thổ Chu, triệt phá làng mạc, bắn

giết và bắt đi 515 người.

Ông Phạm Văn Trà, khi ấy là trung đoàn trưởng Trung đoàn U Minh, đơn vị trực

tiếp đánh chiếm đảo Phú Quốc và Poulo Vai từ tay Khmer Đỏ, kể: “Hàng trăm ngư

dân của ta sinh sống lâu nay ở trên đảo Phú Quốc, thấy tàu đổ quân Pol Pot lên bờ

lại nghĩ là quân Giải phóng, không đề phòng và không kịp chạy, liền bị chúng bắt

ngay lập tức. Chỉ những ai đi vắng mới thoát nạn. Lính Pol Pot tập trung tất cả

thường dân vô tội, xả súng bắn chết rồi hất xác xuống biển

221

.

Ngày 2-6-1975, ông Nguyễn Văn Linh, đại diện cho Đảng Lao động Việt Nam tới

Phnom Penh

gặp Bí thư Pol Pot. Trong chiến tranh, hai người đã từng biết nhau và

tại cuộc gặp này, Pol Pot nói: “Quân đội Campuchia do không nắm được địa lý nên

đã để xảy ra va chạm đổ máu rất đau xót

222

.

Pol Pot nói vậy, nhưng mãi cho tới

ngày 6-6-1975, khi Quân đội Việt Nam tiến đánh, bắt sống sáu trăm tù binh, Khmer

Đỏ mới bỏ chạy và bị truy đuổi tới một hòn đảo mà phía Việt Nam gọi là Hòn Trọc,

phía Campuchia gọi là Poulo Vai.

Một tuần sau, Pol Pot, Nuon Chea và Ieng Sary viếng thăm Hà Nội, đề nghị Việt

Nam ký một “hiệp ước hữu nghị, tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau”. Do Pol

Pot lồng vào vấn đề ranh giới trên vịnh Thái Lan nên lúc đó “hiệp ước” chưa được

ký.


Từ trung tuần tháng 5-1975, Bộ Chỉ huy chiến dịch giải phóng các đảo mà phía

Việt Nam gọi là Hòn Ông, Hòn Bà, phía Campuchia gọi là

  

Poulo Wai, được thành

lập. Poulo Wai nằm cách thị xã Rạch Giá 220km và cách An Thới, Phú Quốc 113km

về phía tây. Hòn Ông cao năm mươi mốt mét, Hòn Bà cao sáu mươi mốt mét, nằm

song song, cách nhau ba cây số, diện tích tương đương nhau. Mỗi đảo có một bãi

cát vàng; còn lại bốn bề của đảo đều là vách đá dựng đứng. Quân đội Sài Gòn từng

xây trên đảo Hòn Bà một cây đèn biển và một sân bay dã chiến, chủ yếu cho trực

thăng và máy bay trinh sát L.19 đậu. Trung đoàn U Minh được giao đánh chiếm

Poulo Wai trong vòng hai đến ba ngày. Mặc dù được trang bị tàu há mồm và có sự

hiệp đồng tác chiến của máy bay ném bom A.37, trực thăng vũ trang và máy bay

trinh sát L.19, nhưng do lực lượng Pol Pot chiếm đảo sử dụng hỏa lực mạnh nên

chiến sự kéo dài từ ngày 5-6-1975 cho đến sáng 14-6-1975, Trung đoàn U Minh

mới làm chủ hoàn toàn hai đảo, bắt sống 782 lính Khmer Đ

223

.

Ngày 2-8-1975, đích thân Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn đến Phnom Penh, ký với Pol

Pot

  

một

  

bản

  

thông

  

cáo

  

chung.

  

Phía

  

Việt

  

Nam

  

đồng

  

ý

  

trả

  

lại

  

Poulo

  

Wai

  

cho

Campuchia.

  

Ngày

  

4-8-1975,

  

khi

  

Nuon

  

Chea,

  

phó

  

 

thư

  

Trung

  

ương

  

Đảng

Campuchia, tới Hà Nội, ông ta được Nguyễn Văn Linh thông báo: “Lực lượng vũ

trang Việt Nam không còn ở đảo Trọc nữa”. Nuôn Chea nói: “Vấn đề đảo Wai, thay

mặt Đảng, chúng tôi xin cảm ơn sâu sắc”. Nhưng khi ông Linh thắc mắc về số phận

của 515 người dân Thổ Chu bị Khmer Đỏ bắt đi hôm 10-5-1975, Nuôn Chea chỉ

hứa: “Sẽ giải quyết

224

.

Từ đây, sẽ không ai còn được nghe nói tới số phận của 515

người dân Việt Nam này.

Tháng 4-1976, hai đảng Campuchia và Việt Nam thỏa thuận sẽ có cuộc gặp vào

tháng 6 năm đó giữa lãnh đạo cấp cao để bàn bạc giải quyết vấn đề biên giới, tạo

tiền đề cho việc ký kết về mặt nhà nước một hiệp ước về biên giớ

i

225

.

Cuộc đám

phán gần như không đạt được kết quả nào, nhưng ngày 23-5-1976 trong thư gửi Bộ

Chính trị Đảng Lao động Việt Nam, Nuon Chea vẫn dùng những lời lẽ thắm thiết:

“Công việc của hai đoàn chúng ta trong thời gian qua đã đạt được thắng lợi lớn,

củng cố và phát triển hơn nữa tình đoàn kết chiến đấu… Hai đoàn chúng ta đã hiểu

biết, thông cảm với nhau và hết sức chân thành trên tinh thần là bạn chiến đấu là

anh em cách mạng

226

.


Khmer Đỏ cho đến lúc bấy giờ vẫn được gọi là đồng chí, và Hà Nội đã không

phân tích đúng mức các báo cáo của bộ đội biên phòng lúc bấy giờ. Theo ông Ngô

Điền: “Năm 1978, tôi đưa đoàn nhà báo nước ngoài đến vùng biên giới An Giang và

Tây Ninh, bản thân tôi sững sờ, ghê tởm trước hành động dã man của bọn diệt

chủng. Về Hà Nội, tôi gặp anh Phạm Văn Xô, ủy viên Trung ương Đảng. Khi ở Trung

ương Cục miền Nam anh thường được giao liên hệ với bọn Pol Pot - Ieng Sary. Tôi

thuật lại cho anh những điều mắt thấy tai nghe về tội ác của Pol Pot. Cho đến lúc

đó, anh Hai Xô vẫn còn cho rằng những tội ác đấy có thể do chủ trương của lãnh

đạo địa phương

227

.

Chỉ trong năm tháng đầu tiên sau ngày Pol Pot cầm quyền, đã có hơn 150 nghìn

người từ Campuchia chạy sang tị nạn tại các tỉnh biên giới Việt Nam; trừ những

người gốc Việt, hàng chục nghìn người Hoa và người Khmer đã bị buộc quay trở lại.

Số phận của họ, cũng như của hàng triệu người Campuchia khác, được tin là đã bị

các

 

Angkars đặt

 

dưới dao, dưới bú

a

228

.

Hàng

 

trăm người thân

 

của những

 

người

Khmer Issarak tập kết ra miền Bắc Việt Nam, trở về gia nhập Khmer Đỏ từ năm

1970, cũng đã bị giết khi đến Campuchia tìm chồng, cha, sau ngày “Phnom Penh

giải phóng”.

Pol Pot

Cuối tháng 7-1976, lần đầu tiên một đoàn nhà báo nước ngoài được phép đến

Campuchia. Đoàn do ông Trần Thanh Xuân, phó tổng giám đốc Thông tấn xã Việt

Nam

, dẫn đầu.

Tuy vẫn rất lịch lãm, thân thiện và tỏ rõ “tình hữu nghị giữa hai dân tộc”, nhưng

trong suốt quá trình làm việc, Pol Pot vẫn giữ tư thế nguyên thủ quốc gia với ông

Xuân. Không ai biết, trong thời gian học đại học ở Paris, cũng như nhiều người

Khmer cộng sản khác, Pol Pot thường xuyên đến nhà ông Xuân, có khi chỉ là để lục

cơm nguội. Ở Paris, nhà ông Xuân được những người Khmer coi như một cơ sở của

Đông Dương Cộng sản Đảng. Cử chỉ riêng tư duy nhất mà ông ta thể hiện là trước

khi chia tay đoàn nhà báo, Pol Pot ghé tai ông Xuân hỏi nhỏ: “Chị có khỏe không

anh?”.

Thời thơ ấu, Pol Pot được mô tả là một cậu bé nghiêm túc học hành thay vì tham

gia

  

các

  

trò

  

chơi

  

với

  

bạn

  

  

cùng

  

lứa.

  

Cha

  

mẹ

  

Pol

  

Pot,

  

một

  

phú

  

nông

  

  

vùng

Kongpong Thom, “có sáu con trâu và chín hecta ruộng”. Pol Pot - đứa con út của


họ, sinh ngày 19-5-1925 với tên gọi là Saloth Sar - thay vì làm ruộng ở quê nhà, đã

được đưa đến Phnom Penh, nơi chị gái đang là một cung nữ và anh trai đang làm

việc trong ban nghi lễ Hoàng cung thời vua Monivong.

Sau một năm sống trong môi trường khép kín của Hoàng gia, cậu bé Saloth Sar

bắt đầu sáu năm trong một trường dòng quý tộc. Năm mười sáu tuổi, Saloth Sar

quay lại Kongpong Thom học trung học. Lúc ấy, Phnom Penh đang náo động bởi các

phong trào đòi độc lập của giới thanh niên học sinh. Thành phố lớn nhất mà Saloth

Sar đặt chân tới là Sài Gòn, chặng nghỉ trước khi xuống tàu sang Pháp sau khi nhận

được học bổng học ngành vô tuyến điện. Năm 1949, tới Paris, Saloth Sar bắt đầu

hoạt động cho dù được người anh trai làm việc ở Hoàng cung khuyên là không nên

dính dáng tới chính trị. Tại đây, Saloth Sar gặp Yeng Sary, một sinh viên người

Khmer sinh ra ở Việt Nam.

Trong đám cưới của Yeng Sary với Khieu Thirith - một sinh viên đang học về văn

chương Anh tại Sorbonne - Saloth Sar đã gặp và sau đó cưới Khieu Ponnary, chị gái

Thirith. Họ cùng tham gia phái bộ Campuchia trong Đảng Cộng sản Pháp. Trong

thời gian đó, chàng sinh viên Saloth Sar vẫn được coi là một con người lịch lãm,

khiêm tốn. Bạn bè có cảm giác cậu ta không giết nổi ngay cả một con gà.

Tháng 1-1953, Saloth Sar trở về Campuchia vì bị cắt học bổng sau ba năm liên

tiếp thi rớt. Những ngày đó, Sihanouk vừa ra lệnh thiết quân luật, trấn áp phong

trào đòi độc lập đã trở nên cực đoan ở Phnom Penh. Sar theo anh trai, Saloth

Chhay, bắt liên lạc với tổ chức cộng sản tại Campuchia. Sau khi xác minh đúng

Saloth Sar đang là đảng viên Đảng Cộng sản Pháp, Phạm Văn Ba - một đảng viên

người Việt Nam - đồng ý cho anh ta sinh hoạt trong Đảng Nhân dân Cách mạng

Khmer.

Sau Đại hội lần thứ II - tháng 2-1951, Đảng Cộng sản Đông Dương đổi tên

thành Đảng Lao động Việt Nam - những người cộng sản Lào, Khmer trong năm ấy

đã được giúp đỡ để lập ra đảng riêng. Ngày 21-9-1951, Lê Đức Thọ và Nguyễn

Thành Sơn triệu tập các đảng viên người Khmer có mặt ở Việt Bắc tổ chức Đại hội

thành lập Đảng Nhân Dân Cách mạng Khmer; Anchar Mean, người được biết nhiều

với cái tên Việt Nam là Sơn Ngọc Minh, được cử làm chủ tịch.

Sơn Ngọc Minh là người sáng lập Phong trào Isarak năm 1948, một phong trào

có ảnh hưởng trên địa bàn bốn tỉnh gần Việt Nam. Tuy nhiên, các tổ chức cộng sản


trên đất Khmer lúc ấy vẫn được lãnh đạo bởi những đảng viên người Việt. Saloth

Sar và một số đảng viên đã từng du học ở Pháp về được đưa vào sinh hoạt trong

một chi bộ phần lớn là đảng viên Việt Nam và do một người Việt làm bí thư. Những

người Khmer này thường chỉ được các đàn anh Việt Nam giao những công việc tạp

vụ; điều này đã để lại cho họ nhiều ấn tượng không tốt.

Người Pháp trao trả độc lập cho ông hoàng Sihanouk từ năm 1953. Chính phủ

Hoàng gia đã ngăn cản việc Hiệp định Geneva dành cho những người Khmer Cộng

sản có được một vùng “tập kết” như những người kháng chiến Issara của Lào. Hơn

1.000 đảng viên người Khmer được đưa ra miền Bắc Việt Nam vào năm 1954, trong

đó có Sơn Ngọc Minh. Những đảng viên ở lại hoạt động bí mật dưới quyền của Sieu

Heng và Tou Samouth, chịu sự truy lùng gắt gao của chính quyền Sihanouk. Năm

1959, Sieu Heng đầu hàng, nhiều cơ sở Đảng bị đàn áp.

Tháng

  

9-1960,

  

Đảng

  

Nhân

  

dân

  

Cách

  

mạng

  

Khmer

  

tổ

  

chức

  

đại

  

hội

  

bầu

  

Tou

Samouth, một người có quan hệ tốt với miền Bắc Việt Nam, làm bí thư. Nhưng,

năm 1962, Tou Samouth đã “mất tích” khi vừa từ Hà Nội về; Pol Pot, khi ấy đang là

phó bí thư, đương nhiên trở thành bí thư. Thế hệ những người Khmer Cộng sản gốc

nông dân và các Phật tử ủng hộ những người cộng sản Việt Nam bắt đầu được thay

thế bởi những người đã từng du học ở Paris, nuôi tinh thần chống Việt Nam, cho dù

khi ấy Khmer Đỏ phải dạt về vùng rừng núi giáp Việt Nam và phải dựa vào những

người Việt Nam Cộng sản.

Đi dây

Norodom Sihanouk được coi là một “ông hoàng đi dây”. Tuy nhiên, trong nửa

cuối thế kỷ 20, không chỉ có ông - vị vua của một một quốc gia thờ thần bốn mặt -

các bên dính líu đến cuộc chiến tranh Việt Nam đều có những mối quan hệ phức tạp

với nhau. Trong khi trục lợi vai trò trung lập của Phnom Penh, tất cả đều để mặc

cho Pol Pot phát triển nhanh phong trào Khmer Đỏ.

Kể từ khi người Việt mở mang bờ cõi xuống phía Nam, nhà Nguyễn bắt đầu nhìn

thấy vị trí chiến lược của Lào và Campuchia đối với an ninh quốc gia. Hoàng đế

Minh Mạng đã từng coi Campuchia là “phên dậu” trong thế chống lại quân Xiêm.

Người Pháp cũng đã không dừng tham vọng thuộc địa của họ ở Việt Nam mà đưa

quân ngược dòng Mekong, đến Lào, Campuchia, rồi gộp chung ba quốc gia khác

biệt về văn hóa thành một xứ gọi là Đông Dương. Trong chiến tranh chống Pháp,


Đại tướng Võ Nguyên Giáp coi “Đông Dương là một đơn vị chiến lược, là một chiến

trường”. Khi miền Bắc xác định, “bạo lực” là “đường lối của cách mạng miền Nam”,

một con đường men theo lãnh thổ Lào, Campuchia - thường được gọi là đường mòn

Hồ Chí Minh - bắt đầu được thiết lập.

Người Mỹ biết rất rõ miền Bắc Việt Nam sử dụng các căn cứ ở Hạ Lào và ở

Campuchia như một bàn đạp cho các cuộc tấn công vào miền Nam Việt Nam. Khi

chưa chính thức vào Nhà Trắng, Nixon đã yêu cầu “báo cáo chính xác về những gì

kẻ địch có ở Campuchia”, đồng thời đặt ra mục tiêu “phá hủy các căn cứ được xây

dựng

  

  

đó”.

  

Người

  

Mỹ

  

cũng

  

biết

  

khá

  

chính

  

xác

  

việc

  

miền

  

Bắc

  

sử

  

dụng

  

cảng

Sihanoukville để nhận vũ khí từ Liên Xô.

Trong

 

thập

  

niên

 

1960,

 

Sihanouk

 

đã

 

khá thẳng

 

tay với

 

Cộng

 

sản,

 

Chính

  

phủ

Hoàng gia tuyên án tử hình vắng mặt Saloth Sar; năm 1967, ba bộ trưởng cánh tả -

Khieu Samphan, Hou Youn, Hu Nim - đã phải bỏ vào rừng với Khmer Đỏ. Nhưng

Sihanouk lại là “bạn thân” với Bắc Kinh và Hà Nội. Ông làm ngơ cho miền Bắc Việt

Nam lập căn cứ trên lãnh thổ của mình. Mối quan hệ khăng khít của Sihanouk với

Hà Nội, Bắc Kinh và các quốc gia trong Phong trào không liên kết đã gây lo ngại cho

Việt Nam Cộng hòa. Tổng thống Ngô Đình Diệm được nói là đã ủng hộ lãnh tụ đối

lập Sam Sary và giúp đỡ cuộc nổi loạn của Tướng Dap Chuon. Đại sứ Việt Nam

Cộng

  

hòa

  

Ngô

  

Trọng

  

Hiếu

  

từng

  

bị

  

cáo

  

buộc

  

đứng

  

sau

  

lưng

  

một

  

vụ

  

mưu

  

sát

Sihanouk bằng bom.

Tháng 8-1963, Sihanouk cắt quan hệ ngoại giao với miền Nam Việt Nam và sau

đó từ chối viện trợ kinh tế, quân sự của Mỹ. Tháng 5-1965, Sihanouk cắt quan hệ

với Mỹ và sang tháng 6-1965, ông công khai ủng hộ Mặt trận Dân tộc Giải phóng

Miền Nam Việt Nam.

Miền Bắc Việt Nam đánh giá cao vai trò của Hoàng thân Sihanouk tới mức, cuối

năm 1964, khi Pol Pot theo đường mòn Hồ Chí Minh ra Hà Nội, ông ta đã được đề

nghị ủng hộ chính sách “chống ngoại bang” của ông Hoàng. Pol Pot đã ghi điều này

vào “sổ đen” như một bằng chứng các đồng chí Việt Nam đã không hết lòng với ông

ta. Mục tiêu của Pol Pot không phải là chống Mỹ mà là cầm quyền, nhưng làm sao

có thể cầm quyền khi Chính phủ Hoàng gia vững mạnh.

Từ Hà Nội, Pol Pot đến Bắc Kinh và ở lại đây năm tháng. Thời gian đó, Cách

mạng Văn hóa đang ngự trị đất nước Trung Hoa. Pol Pot chia sẻ nhiều mục tiêu của


cuộc cách mạng này và nhận ra sự khác biệt trong con đường cách mạng của Pol

Pot và Hà Nội. Từ đầu năm 1968, Khmer Đỏ bắt đầu tiến hành những hoạt động du

kích lẻ tẻ, bắt cóc, phục kích nhắm vào các quan chức trong Chính quyền Sihanouk.

Một số cuộc nổi dậy do Pol Pot tổ chức ở nông thôn bị Sihanouk khủng bố tàn khốc.

Du kích Khmer Đỏ xin Việt Nam vũ khí để tự vệ, nhưng phía Việt Nam không thể

đáp ứng vì khi ấy miền Bắc đang cần Sihanouk.

Sihanouk, tất nhiên, phức tạp hơn rất nhiều so với những gì mà các bên đánh

giá. Một mặt, ông làm ngơ cho miền Bắc lập các căn cứ trên đất Campuchia; mặt

khác,

  

ngày

  

10-1-1968,

  

khi

  

gặp

  

Chester

  

Bowles,

  

phái

  

viên

  

của

  

Tổng

  

thống

  

Mỹ

Johnson,

  

Sihanouk

  

nói:

  

“Chúng

  

tôi

  

không

  

muốn

  

  

người

  

Việt

  

Nam

  

nào

  

Campuchia. Chúng tôi sẽ rất vui mừng nếu các ngài có thể giải quyết được vấn đề

này. Chúng tôi không phản đối việc truy tìm ráo riết ở những vùng bỏ hoang. Các

ngài sẽ giải phóng chúng tôi khỏi Việt Cộng

229

.

Nhà Trắng đã “dịch” câu nói này theo nghĩa “Sihanouk mời Mỹ tấn công” vào

những căn cứ ấy. Hai tháng sau đợt oanh kích bí mật của Mỹ, ngày 13-5-1969,

trong một cuộc họp báo, Sihanouk nói: “Không có ai bị mất nhà cửa hay thiệt mạng

trong

  

đợt

  

ném

  

bom

  

này,

  

không

  

  

người

  

Campuchia

  

nào

  

c

ả”

230

.

  

Năm

  

1969,

Sihanouk tìm cách nối lại quan hệ ngoại giao với Washington, nhưng trước khi việc

thành, năm 1970, ông bị Lonnol đảo chính.

Ngày 7-1-1970, Sihanouk cùng bà hoàng Monique và tùy tùng gồm mười một

người rời thủ đô Phnom Penh. Trong khi ông đang nằm “chữa bệnh béo phì, bệnh

máu, và chứng tiểu tiện ra Anbumin” ở châu Âu, tại Phnom Penh, các tướng tá và

chính trị gia - những người năm 1963 đã phản đối việc ông từ chối viện trợ kinh tế

của Mỹ và sau đó, năm 1965, cắt đứt quan hệ ngoại giao - bắt đầu buộc tội ông bất

lực khi để quân đội Bắc Việt Nam “tràn ngập ở vùng biên giới”. Ngày 8-3-1970, tại

Svay Rieng, một cuộc biểu tình chống Việt Nam nổ ra. Ngày 11-3-1970, khoảng

20.000 thanh niên Campuchia đã cướp phá tòa đại sứ của Bắc Việt Nam tại Phnom

Penh.

Lẽ ra, ngày 13-3-1970, Sihanouk phải về Phnom Penh để kiểm soát tình hình,

nhưng ông vẫn đến thủ đô Moscow (Liên Xô cũ) theo kế hoạch. Chủ tịch Xô-Viết Tối

cao Nikolai Podgorny đã khuyên ông về nước ngay, nhưng Sihanouk đã ở lại đó năm

ngày. Ngày 18-3-1970, Quốc hội Campuchia phế truất chức quốc trưởng của ông.


Sihanouk choáng váng khi Thủ tướng Liên Xô Kosygin cho hay tin trên đường tiễn

ông ra sân bay. Không ai trong đoàn tùy tùng dám cả gan báo tin này cho ông cả.

Tất nhiên, miền Bắc Việt Nam có bị tổn thất sau cuộc đảo chính. Ông Nguyễn

Nhật Hồng, người thanh toán các chi phí bí mật để vận chuyển vũ khí qua ngả

Campuchia, xác nhận điều Kissinger viết trong cuốn Ending the Vietnam War: kể từ

sau năm 1970, cảng Sihanoukville không còn được miền Bắc dùng để cung cấp vũ

khí cho miền Nam nữa.

  

Ông Hồng kể: “Khi

 

Trung Quốc và Liên Xô

 

xung đột với

nhau, đóng cửa biên giới, hàng hóa từ Liên Xô không thể chuyển bằng tàu liên vận

qua biên giới Trung Quốc, miền Bắc phải thuê tàu viễn dương chở vũ khí viện trợ

của Liên Xô về cảng Sihanoukville. Việc này được cả Sihanouk và Lonnol đồng ý”.

Đổi lại, một khoản “lót tay” bằng 20% trị giá hàng nhập cảng sẽ được chi cho hai

người. Phòng Thanh toán Đặc biệt B29 mở cho Sihanouk và Lonnol mỗi người một

tài khoản bí mật ở Thụy S

231

.

Trong những năm 1966-1969, lượng hàng hóa mà

miền Bắc Việt Nam chuyển qua cảng Sihanoukville gồm: 20.478 tấn vũ khí, 1.284

tấn quân trang, 731 tấn thuốc men, 65.810 tấn gạo, 5.000 tấn muối, và 4.115 tấn

thực phẩm hộp và khô.

Theo ông Nguyễn Nhật Hồng: “Từ năm 1969,

 

Lonnol

 

yêu cầu khoản 10% của

ông phải được trả bằng vũ khí. Tôi nghĩ, các nhà phân tích tình báo của ta có thể

đoán biết được ý đồ đảo chính của Lonnol khi ông ta lấy súng thay vì lấy tiền”. Theo

ông Hồng, “khoản thanh toán đặc biệt chi lót đường” này được bản “Báo cáo Tổng

kết công tác ngoại hối đặc biệt” do ông Mai Hữu Ích ký ngày 25-11-1979, ghi là “chi

phí vận tải tuyệt mật”, với tổng số tiền lên tới 36.642.653 USD.

Lịch

  

sử

  

dường

  

như

  

đã

 

xếp

  

đặt

 

để

 

ông

  

Hoàng

  

Sihanouk

 

kết

 

thúc

 

một

 

chặng

đường chính trị của mình tại Bắc Kinh, nơi vẫn tổ chức đón tiếp ông theo nghi thức

của một ông hoàng đang trị vì. Thủ tướng Chu Ân Lai đã ra tận cầu thang máy bay

ôm hôn, và phía sau ông, “gần như toàn bộ ngoại giao đoàn” ở Bắc Kinh có mặt.

Sau khi lên chiếc xe cắm cờ cả của Campuchia và Trung Hoa, Chu Ân Lai nói với

Sihanouk: “Đêm qua, tôi đã cho tất cả các trưởng đoàn ngoại giao biết rằng Chính

phủ Trung Quốc vẫn coi ngài là quốc trưởng hợp pháp duy nhất của Campuchia. Tôi

cũng cho họ biết là tôi rất mong muốn tất cả các đại sứ có mặt để đón ngài tại sân

b

ay”

232

.


Sự tinh tế của người Trung Hoa không dừng ở đấy. Chu Ân Lai đã tặng Sihanouk

một dinh thự vào loại đẹp nhất Bắc Kinh. Đồng minh thân cận nhất của Bắc Kinh là

Bắc Triều Tiên, cũng chỉ trong vài tháng, xây cho ông Hoàng lưu vong một dinh thự

kiểu cung điện nhìn ra mặt hồ. Tại đây, Sihanouk vẫn là một ông vua. Đích thân

Kim Nhật Thành thường xuyên mời Sihanouk và thân quyến thịt nướng, trứng cá và

rượu vang Pháp. Những phim phương Tây mới nhất mà cha con ông Kim nhập về

sau khi xem xong đều chuyển cho Sihanouk mượn. Năm 1991, Sihanouk đã đưa đội

sỹ quan cận vệ người Bắc Triều Tiên do Kim Nhật Thành “tặng” về Phnom Penh sử

dụng.

Trong cuộc “hội đàm”

 

ngày

 

19-3-1970, Chu

 

chuyển lời của Mao Trạch

 

Đông

nhắn với Sihanouk: “Nếu Hoàng thân không chấp nhận việc đã rồi và quyết định

lãnh đạo một phong trào kháng chiến chống Mỹ giải phóng Campuchia thì Trung

Quốc sẽ ủng hộ và sẵn sàng trợ giúp những gì có thể

233

.

Tuy nhiên, cả Chu Ân Lai

 

Mao Trạch

 

Đông

 

khi

 

ấy

 

chưa

 

ai

 

nghĩ đến

 

khả

 

năng

 

bắt

 

tay

 

giữa

 

Pol

 

Pot và

Sihanouk. Ngày 21-3-1970, Thủ tướng Phạm Văn Đồng và Bí thư Trung ương Cục

Phạm Hùng bí mật tới Bắc Kinh, cả hai thuyết phục Chu Ân Lai và Pol Pot cùng hợp

tác.

Hai hôm sau, ngày 23-3-1970, Sihanouk đưa ra “tuyên bố năm điểm”, bắt tay

với

  

Khmer

  

Đỏ,

  

những

  

người

  

đã

  

từng

  

bị

  

chính

  

ông

  

ta

  

“xử

  

tử

  

hình

  

vắng

  

mặt”.

Sihanouk cũng tuyên bố sẽ thành lập “quân đội giải phóng” và “mặt trận thống nhất

dân tộc”, ông đồng thời ca ngợi cuộc đấu tranh chống Mỹ của những người Cộng

sản Việt Nam, Lào và Campuchia. Tại Bắc Kinh, “Chính phủ Sihanouk” được cung

cấp vật chất và cá nhân ông được chăm sóc như một nguyên thủ quốc gi

a

234

.

Ngày 24-4-1970, Sihanouk được đưa trở về vùng “ba biên giới” để tham gia Hội

thảo Thượng đỉnh về các Dân tộc Đông Dương cùng với Thái tử Souvanouvon của

Pathet Lào, Chủ tịch Nguyễn Hữu Thọ của Mặt trận Giải phóng Miền Nam, và Phạm

Văn Đồng. Khi trở lại Bắc Kinh vào ngày 27-4-1970, Sihanouk ra một tuyên bố

chung cam kết “hỗ trợ có đi có lại” trong “cuộc kháng chiến chống kẻ thù chung: Đế

quốc Mỹ”. Trước đó, lực lượng miền Bắc Việt Nam tại Campuchia đã tổ chức rải

truyền đơn và phát lời kêu gọi của Sihanouk, tổ chức tuyển dụng và huấn luyện

giúp Sihanouk một lực lượng gọi là Khmer Rumdo.


Kissinger cáo buộc miền Bắc Việt Nam nuôi dưỡng Khmer Đỏ và giúp đỡ để Pol

Pot chiếm được chính quyền. Kissinger cho rằng: “Nếu có người nào đó gây ra cuộc

chiến tranh ở Campuchia và biến sự diệt chủng của Khmer Đỏ thành hiện thực thì

đó chính là Hà Nội

235

.

Tuy nhiên, bom đạn Mỹ đã đóng một vai trò quan trọn

g

236

.

Bằng những chiến dịch tuyên truyền, vừa hù dọa, vừa kích động lòng căm thù Mỹ

và chính quyền Lonnol, Khmer Đỏ đã tuyển được hàng trăm nghìn thanh niên tham

gia lực lượng của h

237

.

Năm 1974, mọi thanh niên từ mười sáu tuổi trở lên bị buộc

gia nhập lực lượng Khmer Đỏ, những người từ chối có thể bị Khmer Đỏ bắn chết.

Những đứa trẻ bị buộc phải cầm súng trong giai đoạn này đã trở nên vô cùng hung

hãn.

Khi đàm phán Hiệp định Paris, Lê Đức Thọ đã đòi loại bỏ các cơ cấu phi cộng sản

ở Campuchia. Khi ấy, ông Thọ và các đồng chí của ông ở Hà Nội không thể nào ngờ,

chính “ông anh” Trung Cộng không hề mong muốn một chiến thắng về ý thức hệ ở

Campuchia. Tháng 6-1972, Chu Ân Lai nói với Kissinger: “Trung Quốc muốn ở Lào

và Campuchia có một kết cục trong đó ‘các nhân tố tư bản’ có thể tham gia trong

chính phủ và giới cầm quyền truyền thống có thể là người đứng đầu quốc gi

a”

238

.

Chu nói thẳng với Kissinger: “Chúng tôi có thể tin rằng Thái tử Sihanouk là người

đứng đầu nhà nước ở Campuchia và người đứng đầu nhà nước ở Lào sẽ là nhà

vu

a”

239

.

Tháng 2-1973, khi Kissinger thăm Bắc Kinh sau chuyến đi tới Hà Nội, ông

nhận ra: “Các lãnh đạo Bắc Kinh bắt đầu hiểu rằng việc Hà Nội chi phối Đông

Dương có thể là một thắng lợi về ý thức hệ nhưng là một thất bại về địa chính trị

đối với Trung Quốc

240

.

Campuchia càng ngày càng trở thành một ván bài phức tạp, có quá nhiều người

chơi mà không ai tin tưởng ai. Trung Quốc biết Khmer Đỏ là lực lượng chính nhưng

cũng sợ Khmer Đỏ mạnh tới mức làm hỏng con bài Sihanouk.

Thật khó để định lượng trong chính sách thù địch với Việt Nam của Pol Pot có

bao nhiêu lý do từ việc Hà Nội sốt sắng ủng hộ Hoàng thân Sihanouk. Tháng 4-

1970, khi Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn đề nghị thiết lập một lực lượng quân sự phối hợp

giữa Khmer Đỏ và lực lượng ủng hộ Hoàng gia, Pol Pot lúc ấy đang ghé qua Hà Nội,

đã thẳng thừng từ chối. “Con bài” Sihanouk không chỉ làm mất lòng Pol Pot mà còn

khiến cho những người Khmer tập kết chạnh lòng. Kể từ khi lưu vong, năm nào

Sihanouk

 

cũng

  

sang

  

Việt

  

Nam

 

ăn

  

Tết.

Để

  

làm

 

đẹp

  

lòng

  

ông

  

Hoàng,

 

những

  

khi


Sihanouk đến Hà Nội, những người Khmer Issarak, cựu thù của ông, sống ở Thủ đô

đều được “mời” đi các tỉnh khác. Theo ông Ngô Điền: “Cố Thủ tướng Chăn Si, một

cán bộ tập kết gắn bó với Việt Nam, khi tâm sự về điều này đã rơm rớm nước mắt,

trách ta coi nhẹ những người cộng sản Campuchia mà đề cao quá mức vua chú

a”

241

.

Năm 1973, Việt Nam đã đưa Sihanouk trở về “vùng giải phóng”, nơi về danh

nghĩa ông là người đứng đầu nhưng trên thực tế đang do Khmer Đỏ nắm. Sihanouk

đã nhiều lần đề nghị Chu Ân Lai thu xếp chuyến đi này nhưng Chu Ân Lai từ chối.

Sau Hiệp định Paris, Sihanouk gặp trực tiếp Yeng Sary, đại diện của Khmer Đỏ tại

Bắc Kinh, nhưng cũng bị Yeng Sary lảng tránh. Sau đó, Sihanouk đã cầu cứu Hà Nội

và được Thủ tướng Phạm Văn Đồng sốt sắng nhận lời, ông đã nhờ Bắc Kinh tác

động thêm để Pol Pot chấp nhận chuyến đi của Sihanou

k

242

.

Khmer Đỏ đã khai thác

được triệt để uy tín của Sihanouk trong chuyến đi này để gây thanh thế đối ngoại,

nhưng về đối nội, Pol Pot không cho phát bản tuyên bố của ông. Đặc biệt, Khmer

Đỏ đã tranh thủ chuyến đi để nói xấu Việt Nam với Sihanou

k

243

.

Khmer Đỏ và Campuchia dân chủ

Người Mỹ tin rằng miền Bắc Việt Nam đã trang bị pháo binh hạng nặng và trợ

giúp công binh cho Khmer Đỏ trong chiến dịch cuối cùng tiến vào Phnom Penh.

Tướng Giáp xác nhận: “Lúc này, quân và dân Campuchia đã từng bước phá vỡ sức

đề kháng của quân đội Lonnol ở ngoại vi thủ đô Phnom Penh. Được ta trợ giúp đạn

súng lớn, bạn đã nã pháo vào trung tâm thành phố. Ngày 12-4, Mỹ tổ chức cuộc

hành quân mang tên Diều Hâu, di tản cố vấn và binh lính Mỹ ra khỏi thủ đô bằng

đường không. Ngày 17-4, Phnom Penh được giải phóng

244

.

Đêm trước khi được Khmer Đỏ “giải phóng”, Phnom Penh gần như không ngủ,

phần vì cả thành phố chìm trong tiếng súng, phần vì người dân chờ đợi một biến cố

mới cho dù không ai lúc ấy có thể tưởng tượng được những điều mà Pol Pot sẽ làm.

Vào lúc 7 giờ 30 sáng 17-4-1975, Chính quyền Lonnol ra lệnh cho quân đội đầu

hàng. Cờ trắng được nhìn thấy ở khắp nơi, trong khi hàng ngàn người dân, chủ yếu

là thanh niên, học sinh, đã xuống đường chào đón Khmer Đỏ với niềm tin đã tới

ngày hòa bình. Thoạt đầu, người dân

 

tỏ ra yên tâm khi thấy những người

 

lính

Khmer Đỏ chỉ bắn chỉ thiên nhằm ngăn chặn nạn hôi của và vãn hồi trật tự. Khoảng

1 giờ trưa, khi lực lượng Khmer Đỏ từ Quân khu Bắc tiến về chiếm Đài Phát thanh

Quốc gia, ra lệnh cho tất cả các bộ trưởng, tướng lĩnh, các viên chức cao cấp của


Chính quyền Lonnol ra trình diện vào lúc 2 giờ chiều, sách báo “của bọn đế quốc”

bắt đầu bị ném ra đường và đốt.

 

Hoàng thân Sirik Matak và Thủ tướng Long Boret từ chối di tản theo đề nghị của

Đại sứ Mỹ. Sirik Matak sau đó bị bắt khi tị nạn trong tòa Đại sứ Pháp còn Long

Boret thì gọi điện thoại chỉ đường cho Khmer Đỏ tới tận nhà. Cả hai đều bị giết.

Sáng sớm hôm sau, 18-4-1975, số phận của những người ra trình diện được định

đoạt: các tướng lĩnh của Lonnol bị đưa đi hành quyết tại sân vận động Olympic, các

quan chức dân sự bị giết ở Hội quán Thể thao. Hai anh em nhà Lonnol, Chủ tịch

Quốc hội Ung Bun Hor, nhà sư Saundech Saugh, các tướng lĩnh và nhiều bộ trưởng

cũng bị giết. Chính quyền ở các địa phương cũng bị đối xử tương tự. Ngày 23-4-

1975, ở Battambang, các sỹ quan được Khmer Đỏ đưa lên sáu chiếc xe nói là đi đón

Sihanouk nhưng kết quả là họ đã bị hành quyết ở một nơi hoang vắng.

Nhưng phải đến khi Pol Pot trục xuất toàn bộ dân chúng ra khỏi tất cả các đô thị

trên cả nước thì người dân mới biết rõ trong số các nạn nhân của chế độ gồm có cả

mình. Nếu như trong ngày 18-4-1975, dân chúng ở Phnom Penh còn có thể hỏi han

khi nghe lệnh sơ tán thì ngày hôm sau, họ phải đối diện với những tên lính mười

bốn, mười lăm tuổi lăm lăm súng trong tay: hoặc ra khỏi nhà, hoặc ăn lựu đạn.

Không chỉ có cảnh cáo, những người phản đối đã bị bắn chết trước mắt người thân.

Người dân chỉ kịp nhặt nhạnh vài thứ đồ đạc, nhà cửa bị buộc phải bỏ lại đằng sau.

Chỉ vài ngày sau, họ sẽ nhận ra tài sản không đáng giá so với những gì sẽ mất.

Nhiều gia đình phải li tán, vợ chồng, con cái bị xé, mỗi người bị đưa tới một nơi.

Họ đã phải đi bộ nhiều ngày, có người phải đi bộ năm, sáu tuần liên tục, về các

vùng mà Pol Pot dự định xây dựng các hợp tác xã bậc cao. Những người ốm yếu bị

vất lại. Người dân bắt đầu nhìn thấy tương lai của mình qua những xác chết nằm la

liệt trên đường. Khoảng 0,53% số dân Phnom Penh đã bị chết trên đường đ

i

245

.

Tính

cả số các quan chức bị hành quyết và người dân bị bắn do không chịu chấp hành,

hơn

  

hai

  

mươi

  

nghìn

  

người

  

đã

  

bị

  

giết

  

trong

  

những

  

ngày

  

đầu

  

“Phnom

  

Penh

  

giải

phóng”.

Pol Pot nhận được “tin chiến thắng” khi đang ở Oudong với Khieu Samphan.

Khieu Samphan nhớ lại: “Khi ấy, chúng tôi tránh thể hiện cảm xúc. Không có tiếng

súng chào mừng hay điều gì tương tự. Tôi không chúc mừng ông ta (Pol Pot). Ông

ta nói đơn giản đây là một chiến thắng vĩ đại mà nhân dân Campuchia tự giành


được

246

.

Pol Pot lặng lẽ về Phnom Penh vào ngày 24-4-1975, sau khi ra lệnh đưa

toàn bộ người dân thành phố về các vùng nông thôn.

Ngày 17-4-1975, Yeng Sary đang ở Quảng Trị. Thay vì theo đường Hồ Chí Minh

đi Rattanakiri, Yeng Sary bay ngược trở lại Bắc Kinh để ngày 24-4-1975, được đưa

trở về Phnom Penh bằng một chiếc Boeing 707. Sau ba ngày đại hội đặc biệt toàn

quốc, khi được giao phát ngôn cho Chính quyền, Khieu Samphan cho rằng chính

“máu xương của nhân dân” đã viết nên “trang sử chói lòa của dân tộc

247

.

Pol Pot, với một gương mặt được mô tả là tử tế, nụ cười luôn thường trực trên

môi và rất kiệm lời, bắt đầu ban hành chính sách tám điểm: di tản toàn bộ dân

chúng ra khỏi tất cả các thành phố; thủ tiêu tất cả chợ búa; ngưng lưu hành tiền

tệ; buộc các nhà sư phải lao động tại các nông trang; hành hình các nhà lãnh đạo

Lonnol; thành lập các hợp tác xã cao cấp trên toàn quốc, áp dụng chế độ nhà ăn

tập thể; trục xuất toàn bộ người Việt Nam; triển khai quân dọc biên giới, đặc biệt là

biên giới Việt N

am

248

.

Trong số ra tháng 8-1975, Tung Padevat, tờ báo nội bộ của Khmer Đỏ, giải thích

việc đưa hết dân chúng ra khỏi Phnom Penh là nhằm xóa sở hữu tư, bắt tư sản phải

lao động chân tay như những người nông dân. Bài báo viết: “Sự thật là, chúng ta

mạnh hơn và có ảnh hưởng hơn khu vực tư nhân khi chúng ta ở vùng nông thôn”.

Việc bãi bỏ sử dụng đồng tiền, theo bài báo này, không chỉ để đánh giai cấp tư sản,

mà: “Tiền bạc sẽ dẫn đến sở hữu tư… Nếu chúng ta sử dụng tiền, nó sẽ rời vào tay

tư nhân… Nếu đồng tiền rơi vào tay kẻ xấu hoặc kẻ thù, chúng sẽ dùng tiền để hối

lộ, làm tha hóa cán bộ… Rồi, trong một năm, mười năm, hai mươi năm nữa, cái xã

hội trong sáng của Campuchia sẽ trở thành Việt Nam

249

.

Khát vọng vượt các “đảng anh em” trong xây dựng chủ nghĩa cộng sản, tái lập

đế chế Angkor, đã biến Pol Pot từ một kẻ trói gà không chặt trở thành một tên giết

người điên rồ. Trong một tài liệu mật của Trung ương phát hành ngày 19-9-1975,

nghĩa là sau vừa đúng năm tháng xây dựng chủ nghĩa xã hội, Khmer Đỏ khẳng

định: “So sánh với cách mạng ở Trung Quốc, Bắc Hàn và Việt Nam, chúng ta đang

đi trước họ ba mươi năm

250

.

Hàng triệu người bị buộc phải lao động nặng nhọc 12-

15 giờ mỗi ngày, trong khi ăn không đủ no vì gạo phải để dành cho chỉ tiêu xuất

khẩu hai triệu tấn trong năm 1977.


Trong tuyên bố của Khieu Samphan đưa ra vào ngày 27-4-1975, ngay sau Đại

hội Toàn quốc Đặc biệt, Sihanouk vẫn được coi là “một nhà yêu nước vĩ đại” và vẫn

được

  

giữ

  

vị

  

trí

  

đứng

  

đầu

  

nhà

  

nước.

  

Trong

  

thời

  

gian

  

ấy,

  

Sihanouk

  

đang

  

 

Bình

Nhưỡng, nơi Kim Il Sung xây cho ông một tòa lâu đài nhìn ra mặt hồ Chhang Sou

On. Tháng 9-1975, Pol Pot gửi Phó Thủ tướng Khieu Samphan và Bộ trưởng Thông

tin Yeng Thirith, vợ Yeng Sary, tới Bình Nhưỡng mời Sihanouk trở lại Phnom Penh.

Khieu Samphan nói với ông: “Chúng ta đã có điều kiện để trở thành 100% cộng

sản. Chúng ta có thể vượt qua thậm chí người anh Trung Hoa. Với bước đại nhảy

vọt, chúng ta có thể tiến đến mục tiêu chủ nghĩa cộng sản bỏ qua giai đoạn chủ

nghĩa xã hội

251

.

Họ cùng đi tàu trở lại Bắc Kinh, ở đó, Khieu Samphan tháp tùng

Sihanouk và bà hoàng Monique đến thăm Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai. Mao lúc

ấy tám mươi hai tuổi “gần như trần truồng trên giường bệnh

252

nhưng có vẻ như

ông vẫn hình dung được những gì học trò ông đang làm ở Campuchia. Mao chỉ thị

cho đại diện Khmer Đỏ: “Đừng đưa Hoàng thân Sihanouk và bà Hoàng tới công xã”.

Những lời của Mao đã có giá trị cứu mạng Sihanouk. Chu Ân Lai, khi ấy cũng

đang ở trên giường bệnh ung thư giai đoạn cuối, nói với Khieu Samphan và Yeng

Thirith với giọng mà Sihanouk mô tả là khẩn nài: “Xin hãy đi từng bước lên chủ

nghĩa

  

cộng

  

sản.

  

Đừng

  

đi

  

theo

  

  

hình

  

đại

  

nhảy

  

vọt

  

sai

  

lầm

  

của

  

chúng

  

tôi”.

Sihanouk nhớ lại là cả Khieu Samphan và Thirith đều “cười ranh mãnh”. Khmer Đỏ

không cho rằng họ có học tập ai đó, thậm chí cả Mao Trạch Đông; họ muốn xây

dựng một xã hội chưa từng có trong lịch sử.

Ngày 9-9-1975, Sihanouk rời Bắc Kinh trong cờ hoa, Đặng Tiểu Bình gọi đây là

“sự trở về trong vinh quang”. Sự thật là Pol Pot chỉ cần uy tín của Sihanouk để lấy

lại chiếc ghế của Campuchia tại Liên Hiệp Quốc. Ở Phnom Penh, khi ông Hoàng đề

nghị Pol Pot cho gặp một người chú già và một người dì của ông bị đưa đi công xã

từ hồi tháng 4-1975, ông đã bị từ chối. Đại diện Pol Pot nói với Sihanouk là ông sẽ

được gặp họ sau chuyến đi đến Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc.

Trong suốt chuyến đi New York, Yeng Sary luôn cập kè bên ông. Khi họ chuyển

tiếp tại Paris, không ai trong số những người bạn cũ của Sihanouk có thể lọt vào nơi

ở của ông để được gặp ông trực tiếp. Sihanouk thừa nhận là khi ấy ông đã nhận ra

không khí chết chóc ở Campuchia, nhưng vì “trách nhiệm và niềm kiêu hãnh” cá

nhân, tháng 12-1975, Sihanouk cùng bà hoàng Monique, mẹ vợ và hai mươi hai


người con, cháu của ông đã trở lại Phnom Penh. Kết cục là trong hơn ba năm sống

với Khmer Đỏ, Sihanouk đã trở thành một tù nhân; năm người con và mười ba

người cháu của ông đã bị Angkar đưa đến các công xã để rồi không bao giờ nghe

nhắc đến tên họ nữa.

Sihanouk khi mới trở về vẫn là quốc trưởng của Chính phủ Hoàng gia được lập ra

ở Phnom Penh, nhưng ông và Thủ tướng Pen Nouth, người trung thành của ông, chỉ

có hư danh. Ngày 20-3-1976, Quốc hội Campuchia được bầu với thành phần chủ

yếu

  

  

các

  

  

thư

  

quân

  

khu

  

  

chi

  

khu

  

của

  

Khmer

  

Đỏ.

  

Theo

  

hiến

  

pháp

  

mới,

Campuchia sẽ có một hội đồng chủ tịch nhà nước do Quốc hội bầu lên. Sihanouk

phải đệ đơn từ chức để cho Khieu Samphan làm chủ tịch. Hai phó chủ tịch thứ nhất

và thứ hai là hai vị tư lệnh quân khu: So Phim, Quân khu Đông và Nhim Ros, Quân

khu Tây Bắc. Ngày 12-4-1976, Pol Pot bắt đầu xuất hiện công khai với vai trò thủ

tướng, Yeng Sary làm bộ trưởng Ngoại giao, Son Sen làm bộ trưởng Quốc phòng.

Ngày 22-7-1975, trước 3000 đại biểu của các đơn vị quân đội, Pol Pot nói: “Trên

toàn thế giới, trong lịch sử đấu tranh cách mạng và kể từ khi nước Mỹ ra đời, không

ai, không có quốc gia nào, lại có thể đánh đuổi đế quốc đến tên cuối cùng và giành

thắng lợi hoàn toàn

253

như Khmer Đỏ; còn Pol Pot cho rằng: “Đây là một thắng lợi

mẫu mực cho nhân dân thế giới”.

“Kẻ Thù Lịch Sử”

Từ ảo tưởng này, tại lớp chính trị tổ chức cho 700 cán bộ chủ chốt của Đảng

trong hai tháng cuối năm 1975, Nuon Chea cho rằng Campuchia bấy giờ vừa là

công trường lao động, vừa là chiến trường chống Việt Nam. Chính sách thù địch với

Việt Nam mà Khmer Đỏ tiến hành không chỉ bằng định kiến lịch sử được dồn nén

qua nhiều thế kỷ, mà còn bằng cả mối quan hệ ngắn ngủi giữa những người cộng

sản khi cùng sinh hoạt trong Đảng Cộng sản Đông Dương.

Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam được Trần Phú, theo lệnh Quốc tế Cộng

sản, thay bằng một đảng của ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia. Tuy là Đảng Cộng

sản Đông Dương, nhưng ngay cả những phái bộ ở Lào hay Campuchia đều có lượng

đảng viên người Việt Nam chiếm số đông. Từ năm 1935, “Liên bang Đông Dương”

bắt đầu được những người theo đường lối Quốc tế Cộng sản cực đoan tính tới.

Tháng 7-1946,

 

Hồ Chí Minh tới Fonteinebleau.

 

Khi những người Việt Nam

 

trong

Đảng Cộng sản Pháp giới thiệu những đảng viên người Khmer với phái đoàn Việt


Nam và đề nghị họ “đi gặp Bác Hồ”, Thiounn, người về sau là một bộ trưởng của Pol

Pot, nói: “Chúng tôi trả lời, ông ta không phải là bác của chúng tôi. Họ lại bảo,

chúng ta là anh em, các bạn nên thể hiện sự tôn trọng, nhưng chúng tôi cũng từ

chối”

254

.

 

Từ năm 1970, nhiều đơn vị Việt Nam đóng quân tại các căn cứ nằm dọc theo

biên giới Campuchia đã bị tấn công mà thủ phạm về sau được xác định là lực lượng

của Khmer Đỏ. Không chỉ hướng sự thù địch vào người Việt, từ năm 1973, Khmer

Đỏ bắt đầu chống lại cả Khmer Rumdo, lực lượng ôn hòa, ủng hộ Sihanouk và từng

được Việt Nam huấn luyện.

Ngày 4-11-1973, sau khi bắt cóc ba nhóm Khmer Rumdo, lực lượng Khmer Đỏ

thuộc

 

Khu

  

25

 

 

Kandal, gặp

 

những

 

người

 

Khmer

 

Rumdo ở Prey Veng, yêu

  

cầu

Khmer Rumdo hủy bỏ chủ trương hợp tác với các lực lượng miền Bắc Việt Nam.

Những người Khmer Rumdo từ chối. Cuộc tranh cãi đã dẫn đến một cuộc đọ súng

và với sự tham gia của các đơn vị Việt Nam, Khmer Rumdo đã tiêu diệt bốn mươi

hai lính Khmer Đỏ, đẩy lui phần còn lại. Từ đó, các cuộc đụng độ giữa hai lực lượng

gần như thường xuyên xảy ra.

 

Mấy tháng trước đó, khi di chuyển từ Khu IX lên Trung ương Cục, ông Võ Hồng

Thắm, thư ký riêng của ông Kiệt, đã bị Khmer Đỏ giết khi vừa chạy xuồng qua biên

giới Campuchia đoạn tiếp giáp với Hồng Ngự, Đồng Tháp. Cái chết của ông Thắm

không phải là cá biệt. Đầu thập niên 1970, các đơn vị nhỏ lẻ của quân Giải phóng

miền Nam Việt Nam vẫn thường bị tập kích. Chỉ sau khi các đơn vị miền Bắc Việt

Nam tấn công trừng phạt, Khmer Đỏ mới tạm hạn chế quấy rối.

Năm 1970, hơn 800 cán bộ người Khmer tập kết ra miền Bắc Việt Nam được đưa

trở

 

lại

  

Campuchia

 

đã

 

bị

 

Khmer

 

Đỏ

 

dần

  

dần

  

thủ

  

tiêu

  

 

coi

 

họ

 

 

những

  

“người

Khmer, đầu Việt”. Một số chạy thoát sang Việt Nam, nhưng theo ông Võ Văn Kiệt:

“Thoạt đầu, Trung ương Cục chủ trương trả lại cho Khmer Đỏ, kết quả là tất cả họ

khi về tới cứ của Pol Pot đều bị giết. Về sau, Trung ương Cục thống nhất với Pol Pot,

phía Việt Nam chỉ trao trả những cán bộ nào chấp nhận trở lại hàng ngũ Khmer

Đỏ”. Sau ngày 30-4-1975, Việt Nam cũng đang say sưa với chiến thắng, những

chiến dịch gây hấn biên giới của Pol Pot đã không được đánh giá đúng mức và các

nhà lãnh đạo, trong các chuyến đi tới Campuchia, cũng đã không đủ nhạy cảm để


nhận ra Khmer Đỏ là ai, và đã không có ấn tượng đầy đủ trước không khí chết chóc

đang bao trùm quốc gia chùa tháp.

Ngày 2-6-1975, Phó Bí thư Trung ương Cục Nguyễn Văn Linh theo đường bộ từ

Thành phố Hồ Chí Minh đến Phnom Penh gặp Pol Pot để giải quyết các vụ đụng độ ở

các đảo Phú Quốc và Poulo Wai. Đường dài gần 200km qua ba tỉnh trước khi tiến

đến thủ đô, nhưng ông đã không nhận thấy dấu hiệu khác thường gì. Đúng hai

tháng sau, Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn lại dẫn đầu đoàn đại biểu Đảng Lao động Việt

Nam đến Campuchia trong một chuyến thăm đáp trả chuyến đi ngày 12-6-1975 của

Pol Pot, Nuon Chea và Yeng Sary. Một thành phố Phnom Penh vắng tanh đã không

trở thành mối băn khoăn của ông và tùy tùng.

Đúng một năm sau đó, Pol Pot cho phép một đoàn nhà báo Việt Nam đi đến

nhiều nơi ở Campuchia, các nhà báo có nhận ra sự “vắng vẻ lạ thường” ở Phnom

Penh nhưng rồi đã choáng ngợp khi Pol Pot trình diễn “tình anh em giữa hai đảng và

hai dân tộc

255

.

Theo một thành viên của đoàn, nhà báo Tô Quyên, Chính phủ Pol

Pot- Yeng Sary đã tái hiện “tình đoàn kết chiến đấu và hữu nghị tươi đẹp ấy” bằng

một đêm trình diễn văn nghệ tại nhà hát lớn thủ đô Phnom Penh. Còn Thủ tướng

Pol Pot thì tiếp đãi đoàn vô cùng nồng th

ắm

256

.

Chỉ mấy tuần sau khi đoàn nhà báo Việt Nam rời Phnom Penh, cuộc thanh trừng

những nhân vật Khmer Đỏ có dính líu tới Việt Nam bắt đầu được Pol Pot tiến hành.

Năm ấy, một số nhà lãnh đạo Khmer Đỏ vốn là đảng viên từ thời Đảng Cộng sản

Đông Dương như Keo Meas đề nghị tổ chức kỷ niệm lần thứ 25 ngày thành lập

Đảng Campuchia, tính theo ngày 30-9-1951, ngày mà tại Việt Bắc, lãnh tụ Sơn

Ngọc Minh tuyên bố thành lập Đảng Campuchia. Tuy nhiên, đó là một quá khứ mà

Pol Pot không muốn dính líu.

Mười ngày trước sinh nhật Đảng, Pol Pot ra lệnh đình chỉ việc chuẩn bị lễ kỷ

niệm, đồng thời ra lệnh bắt Keo Meas và Nay Sarang, một nhà lãnh đạo cao cấp

khác. Họ bị đưa đến nhà ngục nổi tiếng, Tuol Sleng, bị tra tấn cho đến khi “nhận

tội” rồi bị giết chết. Pol Pot đã viết lại lịch sử bằng cách ra một văn bản, xác định

thời

  

điểm

  

thành

  

lập

  

Đảng

  

không

  

phải

  

  

năm

  

1951

  

  

  

1960,

  

năm

  

Đảng

Campuchia tổ chức đại hội và, sau đó, bầu ông ta làm phó bí thư. Pol Pot giải thích:

“Chúng ta cần đặt lịch sử Đảng vào trong những gì trong sạch và hoàn hảo, vạch ra

đường lối độc lập và tự chủ cho chúng t

a”

257

.


Sihanouk nhận ra thái độ của Khmer Đỏ với Việt Nam từ trước khi ông trở về

Phnom Penh. Theo Nayan Chanda: Nhân dịp Quốc khánh Việt nam, 2-9-1975, Thủ

tướng Phạm Văn Đồng đã mời Sihanouk và Khiêu Samphan, khi ấy đang là khách

của Việt Nam, dự “tiệc gia đình”. Thành phần tham gia gồm Hà Nội, Chính phủ Lâm

thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam, các nhà lãnh đạo Lào, và Khmer Đỏ. Khieu

Samphan đã làm Sihanouk “mất tinh thần và ngạc nhiên” khi “lạnh lùng từ chối” và

nói rằng Campuchia muốn một bữa tiệc song phương. Sau đó, Khieu Samphan giải

thích với Sihanouk: “Chúng ta không bao giờ để rơi vào cái bẫy của người Việt Nam,

kẻ đang muốn thống trị và nuốt chửng Campuchia bằng cách lôi kéo vào liên bang

Đông Dương của họ

258

.

Tháng 12-1976, khi Việt Nam tổ chức Đại hội Đảng lần thứ IV, đại hội như một

đại lễ mừng chiến thắng, Khmer Đỏ chỉ gửi điện mừng thay vì cử đại biểu đến Hà

Nội như hai mươi chín “đảng anh em” kh

ác

259

.

Nhưng đến tận lúc ấy, Việt Nam vẫn

coi biên giới Tây Nam là nơi tiếp giáp với một “người anh em”. Trên toàn tuyến biên

giới dài hơn 1.000km ấy, Việt Nam chỉ bố trí bốn mươi hai đồn biên phòng; trong

khi đó, bốn sư đoàn Khmer Đỏ gấp rút hoàn thành tuyến công sự dày đặc kéo dài

từ bờ Vịnh Thái Lan đến vùng Sông Bé.

Thất bại trong tấn công ngăn chặn (Pre-emptive War)

Ngày 14-1-1977, gần một trung đoàn Pol Pot tấn công các đồn, chốt Việt Nam ở

khu vực Buprang, gây cho phía Việt Nam những thiệt hại nghiêm trọng. Dân tình lo

lắng, cán bộ các cấp cũng bắt đầu hết sức băn khoăn. Chiến tranh bắt đầu leo

thang trong năm 1977: 30-4-1977, Pol Pot cho quân tấn công trên tuyến biên giới

thuộc địa bàn Quân khu IX; tháng 8-1977, tấn công trên địa bàn Quân khu VII;

tháng 10-1977, tấn công trên địa bàn Quân khu V.

Ở Quân khu IX lúc ấy, chỉ một sư đoàn bộ binh được giữ ở trạng thái thường

trực, trong khi hai sư đoàn bộ binh còn lại chuyển sang làm kinh tế - Sư 4 ở tứ giác

Long Xuyên, Sư 8 ở Đồng Tháp Mười, chủ yếu đào kin

h

260

.

Tinh thần của bộ đội, vì

thế, cũng có những “diễn biến khá phức tạp”. Theo Tướng Trà: “Sau bao nhiêu năm

chiến đấu liên tục, gian khổ, ác liệt, chính sách hậu phương quân đội chưa được giải

quyết thỏa đáng; yêu cầu được nghỉ phép, phục viên của anh em chưa được giải

quyết, nhất là số anh em quê miền Bắc, hàng năm, bảy năm, thậm chí cả chục năm

biền biệt xa nhà; rồi tư tưởng ‘xả hơi’, nghỉ ngơi, bộ đội đang từ thành phố, thị xã…


nay lên vùng biên khai hoang, làm kinh tế, trần mình suốt ngày với cỏ dại, cây

hoang, sình lầy, chua phèn; thiếu thốn cơ cực đủ bề

261

.

Toàn biên giới Tây Nam cũng hầu như không có bộ binh thường trực, nên khi Pol

Pot tấn công thì ở vào thế bị động, đối phó lúng túng và chịu tổn thất lớn. Tướng Lê

Đức Anh thừa nhận: “Các tỉnh, các quân khu phía Nam thiếu sẵn sàng chiến đấu,

biên giới bỏ ngỏ; chỉ huy tác chiến nặng về đánh theo lối chính quy hiệp đồng binh

chủng nên tiêu hao đạn dược thì lớn mà hiệu suất chiến đấu rất thấp. Tháng 9-

1977, Thường vụ Quân ủy Trung ương họp đề nghị Bộ Chính trị có chủ trương giải

quyết tình hình biên giới Tây Nam”.

Đêm 30-4-1977, Khmer Đỏ đưa quân đánh lấn suốt một dải biên giới từ Tây

Ninh đến Hà Tiên, Kiên Giang. Tang tóc lại bao trùm không chỉ ở nơi xảy ra chiến

sự. Trên tuyến biên giới do Quân khu IX đảm trách, từ huyện Mộc Hóa, Long An đến

Hà Tiên, Kiên Giang, Pol Pot dùng bảy tiểu đoàn quân chính quy cùng với lực lượng

địa phương thuộc quân khu Tây Nam đánh thẳng vào khu vực Bảy Núi, Tịnh Biên-

An Giang. Hàng trăm dân thường dân bị tàn sát, hàng trăm ngôi nhà bị đốt.

Các đơn vị đứng chân gần biên giới của Quân khu IX tuy đã nỗ lực tác chiến,

nhưng theo ông Phạm Văn Trà: “Hầu hết đang làm nhiệm vụ sản xuất xây dựng

kinh tế, chưa chuẩn bị đối phó với địch, nên có phần bất ngờ, bị động, lúng túng,

thậm chí bị tổn thất”. Ngay đêm 30-4-1977, Tướng Lê Đức Anh ra lệnh cho Sư đoàn

330 chuyển sang trạng thái sẵn sàng cơ động lên tuyến biên giới đánh địch, đồng

thời, theo ông Trà, Quân khu cũng được trên đồng ý cho thành lập thêm Sư đoàn

339 làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu. Bắt đầu từ đây, chiến sự không còn xảy ra

trên đường biên.

Một tháng rưỡi sau, Tư lệnh Quân khu IX Lê Đức Anh quyết định đưa một lực

lượng gồm hai trung đoàn bộ binh có xe bọc thép M113, một trung đoàn tăng thiết

giáp, hai phi đội máy bay tiêm kích, đánh hiệp đồng binh chủng ở quy mô sư đoàn

từ hướng Kiên Giang, thọc sâu vào đất Campuchia, vòng về tiêu diệt phần lớn lực

lượng Khmer Đỏ đang chiếm giữ Đầm Chích, xã Vĩnh Điện. Nhưng, theo Tướng

Phạm Văn Trà, khi Sư đoàn 4 đang khôi phục tuyến biên giới Hà Tiên thì Khmer Đỏ

tràn qua cửa khẩu Vịnh Bà, đánh sâu vào lãnh thổ tỉnh Đồng Tháp, chiếm một số

khu vực, trong đó có khu vực tăng gia sản xuất tập trung của Sư đoàn 8. Tướng Lê

Đức Anh lại phải lệnh: “Đưa ngay một trung đoàn lên Đồng Tháp

262

.


Sau khi Trung đoàn 1, Sư 330, bị điều lên lên Đồng Tháp theo lệnh của Tướng

Anh, một hướng quan trọng là Tịnh Biên và Thất Sơn bị bỏ trống. Vừa lấy lại phần

địa bàn của Sư 8 bị Khmer Đỏ chiếm giữ thì Ba Chúc, Tịnh Biên của An Giang lại bị

Khmer Đỏ tập trung một lực lượng lớn đánh vào. Sư đoàn 4 buộc phải lùi về phía

sau, Khmer Đỏ mặc sức tàn sát người dân vùng Ba Chúc. Tướng Lê Đức Anh lại phải

điều Trung đoàn 1, sư 330, trở về giải vây rồi đẩy quân Pol Pot lùi qua bên kia kênh

Vĩnh Tế. Không lâu sau, khi Trung đoàn 1 vừa rút đi, quân Pol Pot lại quay lại đánh

Ba Chúc với quy mô cấp sư đoàn, lực lượng của Tỉnh đội An Giang không giữ được.

Trung tuần tháng 12-1977, Quân khu IX đã thi hành phương thức phòng thủ mà

Tướng Trà gọi là học theo kế “tiên phát chế nhân” của Lý Thường Kiệt thời chống

Tống. Sư đoàn 330, gồm ba trung đoàn bộ binh chính quy, cùng hai tiểu đoàn địa

phương quân An Giang, được trang bị một số xe M-113, đánh thẳng vào khu vực cố

thủ của Khmer Đỏ ở núi Tham Đưng và núi Som sâu trong đất Campuchia từ hai

mươi đến ba mươi cây số. Toàn tuyến phòng thủ của Pol Pot từ Ki Ri Vông đến quận

lỵ Rề Minh thuộc tỉnh Tà Keo bị chọc thủng không mấy khó khăn. Thật trớ trêu khi

người dân Campuchia đã vui mừng khi thấy quân đội nước ngoài đánh tớ

i

263

.

Các lực

lượng của Quân khu IX đã ở lại trên đất Campuchia tổng cộng hai mươi ngày.

Chưa đầy hai tuần sau khi quân Việt Nam rút về, giữa tháng 1-1978, quân Pol

Pot tiến đánh ồ ạt vào các xã Nhơn Hội, Khánh Bình, thuộc huyện Châu Đốc, An

Giang. Đặc biệt, ngày 15-1-1978, bảy tiểu đoàn của Trung đoàn 14 cùng với Trung

đoàn 15 thuộc Sư đoàn 2 của Pol Pot đánh chiếm Ba Chúc và núi Phú Cường thuộc

huyện Tịnh Biên.

Sư đoàn 4 và lực lượng địa phương của An Giang lại một lần nữa không giữ được

địa bàn, để quân Khmer Đỏ tiến sâu vào lãnh thổ Việt Nam trên năm cây số, phá

sập hai cây cầu trên trục đường từ thị trấn Nhà Bàng đi Ba Chúc, Chi Lăng. Đi tới

đâu, lính Khmer Đỏ xả súng bắn giết tới đó, chúng bắt cả trẻ em, người già và

ngang nhiên đập phá chùa chiền, tượng Phật. Sở chỉ huy tiền phương của Sư đoàn

330 đóng trên núi Trà Sư bị bao vây ba bề. Lính Khmer Đỏ lại mặc sức sát hại người

dân Ba Chúc.

Lính Khmer Đỏ không chỉ ném lựu đạn, xả súng bắn chết hàng nghìn thường dân

ở hai ngôi chùa, nhiều thường dân khác còn bị giải ra đồng, xả súng bắn chết

264

.

Theo ông Trà: “Xác chết chất thành đống trong xóm ấp và ngoài đồng. Không khí


chết chóc bao trùm; quạ đen bay đầy trời”. Theo Tướng Phạm Văn Trà, sau khi

đánh tan lực lượng Khmer Đỏ ở Phú Cường và Ba Chúc, bãi chiến trường được giữ

lại gần một tuần lễ để các nhà báo trong nước và quốc tế đến quay phim. Chiến

tranh biên giới với Campuchia bắt đầu được công b

265

.

“Nhất Biên Đảo”

Hơn hai năm trước đó, trong lễ mừng chiến thắng, tổ chức vào ngày 15-5-1975

tại Hà Nội, Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn đã làm cho hàng triệu con tim “sởn gai ốc” khi,

với giọng Quảng Trị trầm ấm, ông tuyên bố: “Chào mừng tổ quốc vinh quang của

chúng ta từ nay vĩnh viễn thoát khỏi ách nô dịch của nước ngoài, vĩnh viễn thoát

khỏi họa chia cắt, chào mừng non sông gấm vóc Việt Nam liền một dải từ Lạng Sơn

đến mũi Cà Mau, từ nay hoàn toàn độc lập, tự do và vĩnh viễn độc lập tự do

266

.

Bí thư Lê Duẩn nói tiếp: “Trong 4.000 năm lịch sử của dân tộc ta thì hơn 100

năm lại đây là chặng đường đấu tranh chống ngoại xâm gay go nhất, quyết liệt

nhất, nhưng cũng thắng lợi vẻ vang nhất”. Tại buổi lễ long trọng này, ông Lê Duẩn

bày tỏ niềm tin: “Một dân tộc đã làm nên những chiến công hiển hách ấy xứng được

hưởng hòa bình, tự do và hạnh phúc. Dân tộc ấy cũng nhất định có đủ tinh thần và

nghị lực, sức mạnh và tài năng để vươn lên những đỉnh cao của thời đại, biến đất

nước nghèo nàn lạc hậu, bị chiến tranh tàn phá nặng nề và trên đó, đế quốc Mỹ đã

gieo biết bao tội ác, thành một nước văn minh, giàu mạnh, thành trì bất khả xâm

phạm của độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội ở Đông Dương và Đông

Nam Á

267

.

Ngay sau đó, Bộ Quốc phòng cho giải thể hàng loạt các đơn vị chiến đấu. Tháng

10-1976, Bộ Chính trị ra nghị quyết “về vấn đề quân đội làm kinh tế”, xác định:

“Cách mạng nước ta đã chuyển sang giai đoạn mới, giai đoạn làm cách mạng xã hội

chủ nghĩa”. Khẩu hiệu “Tất cả cho tiền tuyến” từ lúc ấy cũng bắt đầu được thay

bằng khẩu hiệu: “Tất cả cho sản xuất, tất cả để xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Hà Nội

gần như không có phản ứng chính thức ngay cả khi Pol Pot đã cho đánh tới quy mô

cấp sư đoà

n

268

.

Áp lực từ các đơn vị quân đội và các địa phương tăng dần lên. Ông Nguyễn

Thành Thơ kể: Cuối năm 1977, trong một lần đưa Tổng Bí thư Lê Duẩn thăm Cần

Giờ bằng tàu quân sự, đến Văn phòng Huyện ủy đã khoảng 12 giờ, anh Ba nói, “Mệt

quá cho tôi nghỉ một lát”. Anh nghỉ một lúc rồi nói: “Các anh có gì hỏi, tôi giải đáp”.


Anh em chúng tôi có khoảng ba mươi người, phấn khởi rộ lên: “Xin hỏi K nó quấy

rối biên giới ta, tàn sát cướp phá rất dã man, sao ta đối phó rất lôi thôi, chúng tôi

khó hiểu”. Anh Lê Duẩn trả lời: “Các đồng chí hỏi đúng vào một tình hình cả nước

đang quan tâm. Chúng tôi đau đầu lắm, ngủ không được. Không phải là vấn đề

Khmer Đỏ, vấn đề Pol Pot mà là vấn

 

đề ai ở đằng sau Khmer Đỏ, đằng sau Pol Pot.

Ta đã đưa đại quân đâu, bọn nó làm sao chống ta nổi, nhưng ta đánh nó, Trung

Quốc đánh ta thôi. Nếu ta không chiếm K, Trung Quốc cũng không chiếm ta”.

Cuối năm 1977, khi đánh sâu vào đất Campuchia, theo ông Trần Phương, quân

đội Việt Nam phát hiện nhiều tài liệu cho thấy Trung Quốc đứng sau lưng Pol Pot.

Tháng 1-1979, khi tiến vào Phnom Penh, Quân đội Việt Nam còn thu được văn bản

hiệp định viện trợ quân sự không hoàn lại mà Tướng Wang Shangrong, phó Tổng

Tham

 

mưu

  

trưởng

  

Quân

  

Giải

  

phóng

  

Nhân

  

dân

  

Trung

  

Quốc,

 

 

với

  

Son

  

Sen

  

tại

Phnom Penh ngày 10-2-1976. Trong các năm 1977, 1978, Trung Quốc cung cấp

cho

 

Khmer

 

Đỏ pháo binh, pháo phòng

 

không, thuyền

 

tuần tiễu… Đặc biệt, 500

chuyên gia quân sự Trung Quốc đã được gửi sang để huấn luyện Khmer Đỏ sử dụng

những vũ khí, khí tài quân sự ấy. Cố vấn Trung Quốc thậm chí còn gặp cả người của

lực lượng Fulro đang hoạt động chống Chính quyền Việt Nam ở vùng Tây Nguyê

n

269

.

Làn sóng người Khmer tị nạn, nhất là những người tị nạn qua ngả Thái Lan, đã

giúp thế giới biết được phần nào nội tình Campuchia. Trung Quốc sẽ không dám bất

chấp dư luận quốc tế để ủng hộ một chế độ diệt chủng, nhất là ủng hộ những hành

vi chiến tranh, nếu Việt Nam không để cơ hội bình thường hóa quan hệ với Mỹ rơi

vào tay Trung Quốc.

 

Sau ngày “chiến thắng đế quốc Mỹ”, theo ông Đậu Ngọc Xuân: “Cuba nhiều lần

thiết tha mời anh Ba Lê Duẩn sang thăm. Fidel cứ giục mãi, nhiều đồng chí nhắc,

anh Ba mắng: ‘Các chú muốn dân đói à?’. Rồi, anh Ba nói với Bộ Ngoại Giao: ‘Đúng

là Fidel sang ta mấy lần, nhưng ta mới thắng Mỹ, sang Cuba không tuyên bố chống

Mỹ thì Cuba không chịu, tuyên bố chống Mỹ thì, các chú thấy, sang cạnh nhà nó

chửi nó, nó cấm vận mình suốt đời thì mình chết. Vì lợi ích quốc gia, tôi chưa thể đi

được’. Rồi anh Ba cử Lê Đức Thọ đi, anh dặn: ‘Nên nói với đồng chí Fidel, tôi rất

muốn sang, nhưng sức khoẻ có vấn đề, bác sĩ không cho đi máy bay xa, đồng chí

Fidel thông cảm”.


Theo ông Đậu Ngọc Xuân, lúc ấy, nhiều người đã bất ngờ trước tư duy mềm dẻo

này của ông Lê Duẩn. Cũng thời điểm ấy, theo ông Xuân: “Khi Bộ Chính trị bàn về

vấn đề ‘ta có thừa kế cổ phần IMF mà chính quyền Sài Gòn cũ có tham gia không?’,

có người nói: ‘Ta mà kế thừa Nguỵ à?’, có người lưu ý: ‘IMF là tư bản đấy!’, anh Ba

quát: tại sao không!”. Đặng Tiểu Bình đã đánh trúng mối lo của Lê Duẩn khi về sau

sẽ ví Việt Nam là Cuba ở phương Đông trong bối cảnh Việt Nam đang có những nỗ

lực bất thành nối lại bang giao với Mỹ.

Ông Trần Quang Cơ, năm ấy là vụ trưởng Vụ Bắc Mỹ, kể, chỉ hơn một tháng sau

khi làm chủ Sài Gòn, Việt Nam có nhờ Liên Xô chuyển cho Mỹ một thông điệp

miện

g

270

.

Tiếp đó, Thủ tướng Phạm Văn Đồng nói trước Quốc hội: “Việt Nam mời gọi

Hoa Kỳ bình thường hóa và yêu cầu chính quyền Mỹ chi tiền tái thiết như đã hứa”.

Các đại diện của hai ngân hàng Mỹ, Bank of America và First National City Bank,

được mời họp về khả năng có thể giao thương, và các công ty Mỹ được thông báo

rằng họ có thể ký kết tìm dầu ở thềm lục địa Việt Nam.

Đáp lại những tín hiệu này, ngày 7-5-1976, Tổng thống Gerald R. Ford đề nghị

Quốc hội Mỹ tạm ngưng cấm vận Việt Nam trong sáu tháng để tạo điều kiện cho

việc đối thoại giữa hai nước. Ngày 8-5-1976, Ngoại trưởng Kissinger gửi công hàm

cho Quốc Vụ khanh Bộ Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch, đề nghị thảo luận vấn đề “bình

thường hóa”. Ngày 6-1-1977, Bộ Ngoại giao Mỹ đưa ra lộ trình ba bước bình thường

hóa quan hệ với Việt Nam và trước mắt có thể đặt quan hệ ngoại giao ở cấp đại sứ.

Tuy vậy, Tổng thống Mỹ Geral R. Ford có vẻ như vẫn chưa sẵn sàng khi đưa ra

điều kiện để nối lại bang giao: Việt Nam phải làm đầy đủ hồ sơ về lính Mỹ mất tích

(MIA), trong đó có việc trao trả hài cốt Mỹ. Phía Việt Nam cũng đòi bằng được Mỹ

phải bồi thường chiến tranh, trong khi Mỹ cho rằng Việt Nam đã vi phạm Hiệp định

Paris nên không thể bàn đến khoản tiền thỏa thuận trước khi ký Hiệp định Paris

được. Theo ông Đậu Ngọc Xuân, sau những diễn tiến này, ông Lê Duẩn nói: “Bình

thường hóa là thua trận lần thứ hai, họ không chịu đâu”.

Năm 1977, khi Jimmy Carter nhậm chức tổng thống, ông đã giảm điều kiện “làm

đầy đủ hồ sơ lính Mỹ mất tích” xuống còn “làm đầy đủ trong khả năng có thể”.

Tháng 3-1977, Carter gửi một phái đoàn sang Hà nội để bàn về việc nối lại bang

giao. Ngày 17-3-1977, tại Hà Nội, Phó Thủ tướng Nguyễn Duy Trinh đã tiếp Đặc


phái viên của Tổng thống Mỹ Leonard Woodcock. Cùng ngày, Woodcock đến chào

Thủ tướng Phạm Văn Đồng.

Những nỗ lực bình thường hoá dưới thời Carter là có thật. Chỉ ba mươi phút sau

khi tuyên thệ nhậm chức, Tổng thống Jimmy Carter rời lễ đài đi vào bên trong tòa

nhà Quốc hội, và trước khi sang Nhà Trắng, ông ký lệnh ân xá cho những người Mỹ

đã từng chạy sang Canada trốn lính nhằm tránh cuộc chiến tranh Việt Nam. Ông

Carter thừa nhận đó là “một quyết định khó khăn” và ông đã phải nhận những lời

chỉ trích. Nhưng Tổng thống Carter nói: “Tôi nghĩ đó là một bước cần thiết để khởi

đầu việc hàn gắn và đưa chúng ta ra khỏi nỗi ám ảnh Việt Nam để đi tới một kỷ

nguyên mới tốt đẹp hơn

271

.

Ngày 4-5-1977, chính quyền của ông Carter đồng ý để

Việt Nam vào Liên Hiệp Quốc.

Sau chuyến đi của ông Leonard Woodcock, Mỹ chủ trương bình thường hóa vô

điều kiện. Ngày 3-5-1977, phiên đàm phán đầu tiên giữa hai phái đoàn Việt-Mỹ đã

diễn ra tại Đại sứ quán Việt Nam ở Paris. Ông Trần Quang C

ơ

272

,

người tham gia

cuộc đoàn đàm phán này, nhớ lại: “Một trong những điều ngáng trở tiến trình đàm

phán là do chúng ta cứ khăng khăng đòi Mỹ phải chi 3,2 tỷ đô-la bồi thường chiến

tranh”.

Số tiền viện trợ 3,2 tỷ đô-la được coi như là một “thành công kép” mà Cố vấn Lê

Đức Thọ mang về từ những cuộc hội đàm ở Pari

s

273

.

Khoản tiền này đã từng được

những nhà hoạch định kế hoạch kinh tế hậu chiến của Việt Nam tính toán như một

nguồn quan trọng để thực thi kế hoạch. Trước khi đoàn lên đường sang Paris đàm

phán bình thường quan hệ Việt-Mỹ, theo ông Trần Quang Cơ, ông Lê Đức Thọ, theo

cung cách xin viện trợ của Liên Xô, đã cung cấp cho đoàn cả một danh sách dài bao

nhiêu máy cày, bao nhiêu máy kéo để đòi Washington phải trả. Ông Trần Quang Cơ

nhớ lại: “Holbrook nói thẳng với ông Phan Hiền: thôi thì cứ đặt ‘phòng quyền lợi’ đi,

cứ bình thường hóa cái đã rồi khoản tiền 3,2 tỷ chúng tôi sẽ tìm cách viện trợ sau.

Trưởng đoàn lúc ấy là ông Phan Hiền lập tức bay về Hà Nội báo với ông Nguyễn Cơ

Thạch, ông Thạch thuyết phục Bộ Chính trị nhưng không được”.

Khi Biên giới Tây Nam gần như được đặt trong tình huống chiến tranh và Trung

Quốc đã được Ban Chấp hành Trung ương coi là “kẻ thù”, Việt Nam bắt đầu nhận

thấy vai trò của việc quan hệ bình thường với một siêu cường như Mỹ. Đầu năm

1978, ở Tokyo (Nhật), Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam Phan Hiền tuyên bố: “Việt


Nam sẵn sàng bình thường hóa vô điều kiện với Mỹ”. Lúc này, Jimmy Carter gần

như đã nghiêng về chủ trương “chơi lá bài Trung Quốc để ngăn chặn Liên Xô” theo

đề nghị của Cố vấn An ninh Quốc gia Z. Brzezinski. Tổng thống Jimy Carter thừa

nhận: “Yêu cầu lúc đầu của phía Việt Nam là chúng ta phải bồi thường chiến tranh

theo một số cách thức. Nhưng cuối cùng, tôi nhớ là năm 1978, họ rút lại đòi hỏi

này. Điều phức tạp là cũng năm đó, tôi phải dồn tâm trí và đích thân đàm phán

bình thường hoá với Trung Quốc. Những cuộc hội đàm giữa Israel và Ai Cập lúc ấy

cũng đang diễn ra tại trại David. Tôi phải nói rằng, năm 1978, vấn đề Việt Nam

không còn là ưu tiên hàng đầu của tôi nữ

a”

274

.

Cùng thời gian này, FBI tung ra vụ “gián điệp” liên quan đến đại sứ Việt Nam tại

Liên Hiệp Quốc, ông Đinh Bá Thi. Ronald Humphrey, nhân viên của Cơ quan thông

tin Hoa Kỳ, cùng David Truong, người của Hội Việt-Mỹ, bị bắt vì lấy cắp mấy bức

điện tín được coi là không quan trọng lắm của Mỹ. Đại sứ Đinh Bá Thi bị trục xuất.

19-5-1978, một ngày trước khi Brzezinski tới Bắc Kinh, Đặng Tiểu Bình tuyên

bố: Trung Quốc là NATO phương Đông; đồng thời Đặng ví Việt Nam với Cuba, một

“tiền đồn của Liên Xô” ở bên cạnh Mỹ. Ngày 23-8-78, Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ,

Cyrus Vance đi thăm Bắc Kinh.

Ngày 21-8-78, bảy hạ nghị sĩ thuộc cả hai đảng Dân chủ và Cộng hòa do Hạ

nghị sĩ Dân chủ G.V.Montgomery, chủ tịch Ủy ban POW/MIA, dẫn đầu vẫn đến Hà

Nội. Việt Nam đã cố bày tỏ thiện chí bằng cách trao trả cho Mỹ một số bộ hài cốt và

cử ông Trần Quang Cơ đích thân dẫn đoàn vào miền Nam, thăm thánh thất Cao Đài

và một trại người Campuchia tị nạn chiến tranh ở biên giới Tây Ninh. Đoàn của Hạ

nghị sỹ Montgomery là đoàn người Mỹ đầu tiên được phép thăm Sài Gòn kể từ sau

30-4-1975. Nhưng, theo ông Trần Quang Cơ, quyết định chấp nhận công thức do

phía Mỹ đưa ra “bình thường hóa vô điều kiện” vào lúc ấy đã là quá muộn.

Cuối tháng 9-1978, Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch tới Mỹ sau một thời

gian ông nằm ở Đà Nẵng dự thảo Hiệp định Hợp tác Toàn diện với Liên Xô. Cuộc

đàm phán giữa ông Thạch và Holbrooke diễn ra lạnh nhạt. Theo ông Trần Quang

Cơ, người có mặt trong cuộc đàm phán này, Holbrooke nói: “Mỹ coi trọng châu Á,

Mỹ cần bình thường hóa quan hệ giữa hai nước nhưng lo ngại Liên Xô đặt căn cứ ở

Cam Ranh”. Lúc đó, theo dự đoán của người Mỹ, có khoảng từ 3.500-4000 cố vấn

Liên Xô đang có mặt ở Việt N

am

275

.


Những ngày sau khi kết thúc chiến tranh, Lê Duẩn đã khá thận trọng trong mối

quan hệ với Liên Xô và Trung Quốc, nhưng độc lập luôn bị thách thức trong mối

quan hệ với những người “anh em cộng sản”. Cả Liên Xô lẫn Trung Quốc đều đặt

Việt Nam vào thế phải đứng hẳn về một bên.

Ngày 31-8-1975, trên đường đi dự Quốc khánh Việt Nam, Tướng Trần Tích Liên,

ủy viên Bộ Chính trị, tư lệnh Quân khu Bắc Kinh, đã không đi thẳng tới Hà Nội mà

dừng chân tại Khu Gang Thép Thái Nguyên. Tại Nhà máy đang được xây dựng bởi

Trung Quốc này, Tướng Liên đọc một diễn văn kêu gọi “chống bá quyền” mà ai

cũng biết là chống Liên Xô. Hà Nội đã khá mềm dẻo khi Thủ tướng Phạm Văn Đồng

vẫn “ôm hôn thắm thiết” Trần Tích Liên, nhưng các báo xuất bản tại Việt Nam

không nói gì tới bài diễn văn “chống bá quyền” của Trung Quốc.

Cuối tháng 9-1975, khi Lê Duẩn tới Bắc Kinh, Đặng Tiểu Bình, người mới được

phục chức phó thủ tướng sau khi bị “bè lũ bốn tên” đưa ra khỏi Trung Nam Hải, nêu

vấn đề “chống bá quyền” và ngầm khuyên nhủ Việt Nam liên kết với Bắc Kinh

chống lại Moscow. Khi đáp từ, Lê Duẩn đã tránh đề cập tới “bá quyền” đồng thời

“cám ơn sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa anh em” tất nhiên là bao gồm

Liên Xô. Sự né tránh đứng hẳn về phía Trung Hoa và vấn đề Hoàng Sa đã khiến cho

chuyến đi của Lê Duẩn hoàn toàn thất bại: Trung Quốc từ chối viện trợ; Lê Duẩn từ

chối thảo luận thông cáo chung; tiệc liên hoan bị hủy bỏ.

Trung Quốc càng ngờ vực Việt Nam hơn khi một tháng sau đó, trong chuyến đi

tới Moscow, Lê Duẩn có một “Thông cáo chung”, theo đó, Việt Nam nhất trí với Liên

Xô trong đường lối đối ngoại. Đây là một thay đổi lớn. Tháng 3-1976, khi tham dự

Đại hội XXV của Đảng Cộng sản Liên Xô, Lê Duẩn nhấn mạnh: Mỗi đảng cộng sản

có thể theo đuổi một đường lối riêng, phù hợp với điều kiện của mỗi nướ

c

276

.

Liên Xô đã từng bất ngờ khi Việt Nam từ chối gia nhập khối Comeco

n

277

trong khi

xin gia nhập IMF. Tháng 12-1976, khi đến Hà Nội dự Đại hội Đảng lần thứ IV,

Suslov được mô tả là đã giận dữ khi lần thứ hai thất bại trong việc thuyết phục Việt

Nam vào Comeco

n

278

.

Nhưng để “tiến nhanh lên xã hội chủ nghĩa”, Việt Nam lại rất

cần tiền bạc. Trong khi đó, Trung Quốc cắt viện trợ, Liên Xô từ chối giúp đỡ, hy

vọng vào 3,2 tỷ đô la “bồi thường chiến tranh” của Washington tiêu tan. Phạm Văn

Đồng bị các nước lớn như Anh, Đức cự tuyệt và người Pháp thì lạnh nhạt. Ở trong


nước, từ năm 1977, chính sách “sản xuất lớn” áp dụng vội vàng lại gây ra đói kém,

mất mùa.

Ngày 2-6-1977, trên đường từ Đông Âu trở về, Đại tướng Võ Nguyên Giáp ghé

qua Bắc Kinh, nhưng người đối đẳng với ông là Bộ trưởng Quốc phòng Diệp Kiếm

Anh đã không ra sân bay đón. Tướng Giáp gần như đã bị làm nhục trong suốt

chuyến đi n

ày

279

.

Một tuần sau, khi Thủ tướng Phạm Văn Đồng dừng chân ở Bắc

Kinh, Phó Thủ tướng Trung Quốc Lý Tiên Niệm chính thức cáo buộc Hà Nội “lật lọng

đối với Công hàm 1958”.

Sau những sự cố ngoại giao đó, Việt Nam càng cảnh giác cao với Bắc Kinh. Ngày

2-5-1978, Ủy ban Thường Vụ Quốc hội ra Quyết định đổi một đồng tiền dùng chung

cho hai miền. Theo đó, một đồng ngân hàng miền Bắc được đổi bằng một đồng tiền

mới; 0,80 đồng tiền miền Nam “ăn” được một đồng. Không có biến động đáng kể vì

lần đổi tiền này không nhằm “cải tạo tư sản” dù được đưa ra ngay sau “cải tạo tư

sản”. Lý do công khai là “để thống nhất tiền tệ trong cả nước”. Nhưng, theo ông

Nguyễn Nhật Hồng, đồng tiền Chính phủ Lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam

phát hành tại miền Nam từ ngày 22-9-1975 là tiền thuộc lô “Hàng 65” được Trung

Quốc giúp in. Tuy nhiên, sau khi in, bản kẽm bị “bạn” giữ lại, Việt Nam xin lại mấy

lần không được. Năm 1978, nhằm tránh Trung Quốc sử dụng bản kẽm mà họ đang

giữ để in tiền tung ra phá hoại, Chính quyền cho đổi “Hàng 65” bằng một loại tiền

mới được in từ Tiệp Khắc.

Sự căng thẳng giữa Trung Quốc-Việt Nam càng thêm kịch tính sau cái chết của

nữ nghệ sỹ Thanh Nga. Đêm 26-11-1978, vào lúc 23 giờ 30, xe của nghệ sỹ Thanh

Nga rời rạp hát về đến trước nhà riêng ở số 114 Ngô Tùng Châu, Quận 1, thì bị một

kẻ lạ mặt dùng súng khống chế người bảo vệ và chồng của nghệ sỹ Thanh Nga, luật

sư Phạm Duy Lân. Cùng lúc, kẻ lạ mặt thứ hai dựng xe honda, nhảy vào bắt con

của Nghệ sỹ Thanh Nga là bé Cúc Cu đang ngồi ghế sau với mẹ. Nghệ sỹ Thanh

Nga chống trả quyết liệt, Luật sư Lân từ ghế lái xe quay lại hỗ trợ vợ, lập tức bị kẻ

lạ mặt nổ súng bắn chết. Thanh Nga hét lên và đến lượt chị cũng bị bắn. Hai kẻ lạ

mặt tẩu thoát.

Cái chết của vợ chồng nghệ sỹ Thanh Nga làm rúng động cả nước vì khi bị bắn,

chị chưa kịp thay bộ đồ “Thái hậu Dương Vân Nga”, một vai diễn hừng hực lửa

chống “kẻ thù phương Bắc”. Trước đó, Thanh Nga cũng đã nhận được một số thư từ


đe dọa khi chị diễn vai Trưng Trắc trong Tiếng Trống Mê Linh và đã từng bị ném lựu

đạn khi đang diễn trên sân khấu Lux. Vụ án Thanh Nga vì thế lúc đầu được coi như

là một chuyên án chính trị. Quan tài hai vợ chồng quàn tại 81 Trần Quốc Thảo thu

hút hàng vạn người Sài Gò

n

280

.

Sự cự tuyệt của Trung Quốc và Mỹ cuối cùng đã đặt Việt Nam vào thế “nhất biên

đảo”. Từ tháng 7-1977, các phái đoàn quân sự của Liên Xô bắt đầu đến các căn cứ

quân sự cũ của Mỹ ở miền Nam. Tháng 10-1977, chuyến thăm Việt Nam của phái

đoàn quân sự Liên Xô được công khai trên các phương tiện truyền thông. Cùng lúc,

Trung Quốc tăng cường viện trợ quân sự cho Pol Pot.

Giữa tháng 10-1978, ở New York, Nguyễn Cơ Thạch hối thúc các nhà đàm phán

Hoa Kỳ ký thỏa thuận bình thường hóa. Có lẽ ông Thạch cũng muốn có một nỗ lực

cuối cùng. Nhưng Hoa Kỳ đã từ chối vì ba "trở ngại" mới: sự thù địch của Việt Nam

với Campuchia, mối quan hệ với Liên Xô, và tình trạng gia tăng thuyền nhân Việt

Nam. Sau một tháng trời chờ đợi, Nguyễn Cơ Thạch phải rời New York tay không,

ông chuyển tiếp ở Paris, rồi từ đó qua thẳng Moscow. Trước đó, sáng 30-10-1978,

Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng đã rời Hà Nội trên một chiếc Ilyyushin-62 bay tới Liên Xô.

Ngày 3-11-1978, Hiệp ước Hợp tác Toàn diện với Liên Xô trong vòng hai mươi lăm

năm, bao gồm điều khoản cho Liên Xô sử dụng cảng Cam Ranh như một căn cứ

quân sự, đã được ký kết.

Hiệp ước đã như một “món quà” đối với Đặng Tiểu Bình. Hai ngày sau, ông ta

đến Thái Lan, bắt đầu chuyến công du ASEAN, thuyết phục các quốc gia ở đây coi

Việt Nam và Liên Xô, thay vì Trung Quốc, là mối đe dọa chính. Trong khi đó, vững

tin vào mối quan hệ với “siêu cường”, Việt Nam bắt đầu xử lý mối bận tâm ở phía

Tây Nam đất nước.

“Áo lính lại khoác vào ngay

281

Từ tháng 6 đến tháng 12-1978, Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức bốn hội nghị

Bộ Chính trị, Quân ủy và Ban Chấp hành Trung ương để bàn về vấn đề Campuchia.

Tính từ tháng 12-1977 đến ngày 14-6-1978, có 6.902 bộ đội Việt Nam bị hy sinh,

23.742 bị thương; ngoài ra, có 4.100 thường dân bị thương và bị giết. Trung ương

xác định phải giải quyết cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam càng nhanh càng tốt.

Ngày 13-12-1978, 10/19 sư đoàn của Pol Pot tấn công Việt Nam trên toàn tuyến

biên giới. Ba sư đoàn đã đánh vào Bến Sỏi hòng chiếm Tây Ninh. Hai sư đoàn đánh


vào Hồng Ngự, Đồng Tháp. Hai sư đoàn đánh vào Bảy Núi, An Giang. Hai sư đoàn

đánh vào Hà Tiên. Một sư đoàn đánh vào Trà Phô, Trà Tiến, Kiên Giang.

Ngày 23-12-1978, Lực lượng quân Việt Nam với nòng cốt là ba quân đoàn chủ

lực cùng với lực lượng của các Quân khu V, VII, IX, dưới sự chỉ huy của Tướng Lê

Trọng Tấn, bắt đầu tấn công trên toàn mặt trận, đẩy Khmer Đỏ lùi dần về phía Tây.

Khmer Đỏ không bất ngờ trước những phản ứng này. Nhưng thay vì tập hợp lực

lượng để đối phó với Việt Nam, Pol Pot đã tranh thủ thanh lọc quân đội, đảng và cả

nhân dân, để có những “người Khmer thuần khiết” nhằm “bảo vệ đất đai và nòi

giống

282

.

Những cuộc thanh trừng của Pol Pot đã đẩy hàng loạt sỹ quan của Khu Đông

phải chạy vào rừng như Ouk Bun Xươn, Heng Somrin, Chea Sim, Hun Sen. Những

người này về sau đã tới Việt Nam. Trong thời gian đó, ông Lê Đức Thọ bay vào Nam

để chuẩn bị cho một giải pháp chính trị. Một nhóm lãnh đạo gồm bảy người do Lê

Đức Thọ lựa chọn từ số những người Khmer tập kết còn sót lại và số vừa chạy sang

từ Khu 203. Lê Đức Thọ cũng dựng lên một “Ủy ban Trung ương Mặt trận Đoàn kết

Cứu nước” gồm mười bốn người rồi đưa về Campuchia tổ chức lễ ra mắt tại Mimot

vào ngày 2-12-1978.

Một lực lượng đặc công cũng được giao nhiệm vụ đột nhập Hoàng cung để tìm

Hoàng thân Sihanouk nhưng thất bại. Lá bài Sihanouk lần nào cũng được Trung

Quốc khai thác hữu hiệu hơn Việt Nam. Ngày 5-1-1979, Pol Pot đã nghe lời khuyên

của Bắc Kinh, đề nghị Sihanouk đến Liên Hiệp Quốc lên án “hành động xâm lược

của Việt Nam”. Ngày 6-1-1979, ông Hoàng đã lên chiếc Boeing 707 của Bắc Kinh

bay sang BangKok.

Ngày 7-1-1979, Quân đội Việt Nam vượt phà Neak Lương tới Phnom Penh nhanh

tới mức lực lượng Khmer Đỏ chỉ kịp rời thành phố trước khi đại quân tới khoảng một

giờ. Ngày 11-1-1979, Yeng Sary mới chạy đến biên giới Thái Lan và được quân đội

Thái đưa về BangKok để đi tiếp tới Bắc Kinh. Ngày 13-1-1979, Yeng Sary bị Đặng

Tiểu Bình trách mắng. Trong khi đó, ở Liên Hiệp Quốc, Sihanouk đọc diễn văn lên

án “hành động xâm lăng của Việt Nam” đồng thời tố cáo chế độ bạo tàn của Pol

Pot.

Theo đề nghị của Sihanouk, Liên Hiệp Quốc đã đưa ra thảo luận nghị quyết buộc

Việt Nam rút quân khỏi Campuchia. Tuy nhiên, nghị quyết này đã bị Liên Xô dùng


quyền lực Thường trực Hội đồng Bảo an phủ quyết. Từ phiên họp của Liên Hiệp

Quốc, Sihanouk bí mật tìm gặp Đại sứ Mỹ Andrew Young, nhưng nước Mỹ đã đẩy

Sihanouk trở lại tay của Đặng Tiểu Bình khi từ chối yêu cầu của ông xin tị nạn.

Chỉ hai ngày sau khi Việt Nam đưa quân vào Phnom Penh, 9-1-1979, Ngoại

trưởng Mỹ Cyrus Vance tuyên bố với ông Trần Quang Cơ: “Các cuộc nói chuyện Mỹ-

Việt về bình thường hóa đã tan vỡ do cuộc xâm lược Campuchia của Việt Nam

283

.

Ngày 15-12-78, Mỹ và Trung Quốc ra thông cáo chung, chính thức công nhận nhau

và tuyên bố thiết lập quan hệ ngoại giao từ ngày 1-1-79. Ngày 29-1-1979, Jimmy

Carter đón Đặng Tiểu Bình tại Washington bằng hai mươi phát đại bác. Đặng Tiểu

Bình biết ảnh hưởng quốc tế của cuộc chiến tranh xâm lược Việt nam nên đã thông

báo với Tổng thống Carter mức độ “giới hạn” của cuộc tấn công. Tuy khuyên Đặng

“không nên có hành động xâm lược”, nhưng trong cuộc họp riêng giữa hai người,

Carter không cho Đặng thấy là cuộc tấn công sẽ ảnh hưởng đến bang giao của hai

nước.

 

Vào lúc 5 giờ 25 sáng ngày 17-2-1979, Trung Quốc nổ súng trên toàn tuyến

biên giới Việt Nam, đánh chiếm từ cực Tây Bắc (Phong Thổ, Lai Châu) đến cực Đông

Bắc (địa đầu Móng Cái). Tiếng pháo chát chúa ở hướng Đồng Đăng và phía dốc

Chóp Chài, Lạng Sơn đã dựng người dân dậy khi mờ sáng. Vào thời điểm ấy, Trung

Quốc tập trung sát biên giới khoảng 450 nghìn qu

ân

284

và sử dụng 200 nghìn quân

trong ngày đầu xâm lượ

c

285

.

Việt Nam bị bất ngờ hoàn to

àn

286

.

Các lực lượng tự vệ ở khu vực Hữu Nghị Quan

hầu hết bị quân Trung Quốc giết chết ngay từ những phút đầu tiên. Phụ nữ, trẻ em

chỉ kịp chạy về phía sau hốt hoảng. Ở hướng Trà Lĩnh, Cao Bằng, hàng trăm người

dân đã phải chạy vào hang núi tránh pháo và sáng ra, họ nhìn thấy quân Trung

Quốc í ới gọi nhau ngay sát dưới chân.

Tháng 2-1979, ở biên giới, Trung Quốc có tới sáu mươi sư đoàn tinh nhuệ, trong

khi ở phía Bắc, theo Tướng Lê Phi Long, cục phó Cục Tác chiến, lực lượng vũ trang

Việt Nam tổng cộng chỉ còn khoảng mười một sư đoàn. Đội quân chủ yếu làm kinh

tế ấy đã phải phản công trong điều kiện hết sức bất ngờ. Chỉ huy các đơn vị đóng

tại Lạng Sơn, ngày 15-2-1979, còn được triệu tập để nghe nhận định: “Địch sẽ

đánh ở cấp sư đoàn vào ngày 22-2

287

.

Ở Cao Bằng, sáng 16-2, tất cả các đồn

trưởng biên phòng đều được triệu tập về thị xã Cao Bằng nhận lệnh. Sáng hôm sau,


khi họ cố tìm về đơn vị thì Trung Quốc đã tràn sang. Sáng 17-2, Đại đội 22 của thị

xã Cao Bằng mới được trang bị thêm mười bảy khẩu súng chống tăng B41. Nhiều

nơi, chỉ khi nhìn thấy chữ “Bát Nhất” trên xe tăng Trung Quốc, người dân mới hay

đất nước lại chiến tranh.

Chỉ riêng ở Cao Bằng trong ngày 17-2, Trung Quốc đã sử dụng tới sáu sư đoàn,

ở Lạng Sơn ba sư đoàn và Lào Cai ba sư đoàn. Hôm sau, 18-2, Trung Quốc tăng

cường cho hướng Cao Bằng một sư đoàn và bốn mươi tăng; Lạng Sơn, một sư đoàn

và bốn mươi tăng; Lào Cai, hai trung đoàn và bốn mươi tăng. Lực lượng Trung Quốc

áp sát biên giới vào ngày 17-2 lên tới chín quân đoàn chủ lự

c

288

.

Ngày 17-2, Trung

quốc tiến vào Bát Xát, Lao Cai; chiều 23-2, Trung Quốc chiếm Đồng Đăng; 24-2,

Trung Quốc chiếm thị xã Cao Bằng; ngày 27-2, ở Lạng Sơn, Trung Quốc đánh vào

thị xã.

Tại Lào Cai, khu mỏ Apatit bị đập nát từ các nhà máy cho đến các thiết bị, máy

móc; hai nhà ga gần nhất là Gốc Đa và Làng Pèng bị phá tan hoang; chiếc cầu nối

đường sắt qua con suối chảy ra từ làng Cóc cũng bị lính Trung Quốc đánh sập. Sapa

chỉ còn là một đống gạch vụn. Đồng Đăng, Lạng Sơn cũng bị tàn phá. Tại Cao Bằng,

quân Trung Quốc lần lượt đập nát từng ngôi nhà, từng công trình và trước khi rút lui

đã ốp mìn cho nổ tung từng cột điện.

Ở Bát Xát, Lào Cai, hàng trăm phụ nữ trẻ em bị hãm hiếp, bị giết một cách dã

man ngay trong ngày đầu tiên quân Trung Quốc tiến sang. Tại thôn Tổng Chúp, xã

Hưng Đạo, huyện Hòa An, Cao Bằng, trong ngày 9-3, trước khi rút quân, lính Trung

Quốc đã giết bốn mươi ba người, gồm hai mươi mốt phụ nữ, hai mươi trẻ em, trong

đó có bảy phụ nữ đang mang thai. Tất cả đều bị giết bằng dao như Pol Pot. Mười

người bị ném xuống giếng, hơn ba mươi người khác, bị chặt ra nhiều khúc, thây vứt

hai bên bờ suối.

Bằng một lực lượng nhỏ hơn rất nhiều, các đơn vị biên giới đã nhanh chóng tổ

chức chiến đấu. Con đường tiến vào thị xã Cao Bằng đã được quân Trung Quốc gọi

là những “khe núi đẫm máu

289

.

Đặc biệt, Tiểu đoàn Đặc công 45, được điều lên sau

ngày 17-2, chỉ cần đánh trận đầu ở kilomet số 3, đường từ Cao Bằng đi về xuôi qua

đèo Tài Hồ Sìn, cũng đã khiến cho quân Trung Quốc khiếp vía. Mãi tới ba tuần sau

quân Trung Quốc mới chiếm được thị xã Lạng Sơn, trong khi đây là nơi mà Đặng


muốn chiếm được ngay trong tuần đầu tiên hòng gửi một thông điệp đe dọa tới Hà

Nội.

Khoảng 25.000 lính Trung Quốc bị chết, 37.000 quân khác bị thương. Tổn phí

chiến tranh hết khoảng 5.5 tỷ Nhân dân tệ trên tổng chi tiêu ngân sách năm 1979

của Trung Quốc là 22,3 tỷ. Cuộc chiến mà Đặng Tiểu Bình nói là để “dạy cho Việt

Nam một bài học”, theo các nhà phân tích quân sự phương Tây, “chính Việt Nam

mới là người đã dạy cho Trung Quốc bài học”

290

.

Những người dân Biên giới cho đến

hôm nay vẫn nhớ mãi hình ảnh “biển người” quân Trung Quốc bị những cánh quân

Việt Nam cơ động liên tục, đánh cho tan tác.

Đầu tháng 3-1979, trong khi hai sư

đoàn 346, Cao Bằng và 338, Lạng Sơn, thọc sâu đánh những đòn vu hồi, quân đội

Trung Quốc đã bộc lộ là một đội quân đã quá lâu không ở trong tình trạng sẵn sàng

tác chiến.

Ngày 2-3-1979, như để giải thích cho việc “án binh bất động” khi đồng minh của

mình bị tấn công, tại Moscow, Tổng Bí thư Brezenev tuyên bố: “Đừng ai nghi ngờ

việc Liên Xô trung thành với Hiệp ước Hữu nghị và hợp tác gắn bó Liên Xô với Việt

Nam”. Cùng ngày 2-3-1979, hãng thông tấn xã Tass của Liên Xô phát đi một tuyên

bố: “Quân đội Trung Quốc phải rút ngay khỏi lãnh thổ Việt Nam... Những tên xâm

lược Trung Quốc cần biết rằng chúng càng gây nhiều tội ác bao nhiêu, thì sẽ càng bị

trừng phạt nghiêm khắc bấy nhiêu”

291

.

Ngày 4-3-1979, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ra lời kêu

gọi “toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đoàn kết một lòng, anh dũng tiến lên”. Lời

kêu gọi cho rằng, “ngày nay, chúng ta có sức mạnh vĩ đại hơn bao giờ hết, sức

mạnh tổng hợp của cả dân tộc và của ba dòng thác cách mạng của thời đại”. Ngày

5-3-1979, Hội đồng Chính phủ ra Nghị định số 83-CP, “quân sự hóa toàn dân, vũ

trang toàn dân” nhằm “đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của bọn phản động theo

chủ nghĩa bành trướng Trung Quốc”. Cùng ngày, Chủ tịch nước ra lệnh “Tổng động

viên”. Trên báo Nhân Dân, Hoàng Tùng xã luận: “Cả nước đánh giặc, toàn dân là

lính”.

Cùng thời điểm đó, hai quân đoàn tinh nhuệ nhất của Việt Nam, sau khi đuổi Pol

Pot khỏi Phnom Penh, được vận chuyển bằng máy bay ra phía Bắc: Quân đoàn II

lên Đồng Mỏ, Lạng Sơn; Quân Đoàn III tới Na Rì, Bắc Kạn.

Ngày 6-3-1979, Trung Quốc tuyên bố “chiến thắng” rồi bắt đầu rút quân.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#asdf