BH.cau7-15

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Câu 7:Vai trò của BHXH trong nền KTTT đối với người lđ:

ở bất kỳ hoàn cảnh, thời điểm nào, rủi ro luôn luôn rình rập, đe doạ cuộc sống của mỗi người gây gánh nặng cho cộng đồng và xã hội. Rủi ro phát sinh hoàn toàn ngẫu nhiên bất ngờ không lường trước được nhưng xét trên bình diện xã hội, rủi ro là một tất yếu không thể tránh được. Để phòng ngừa và hạn chế những tác động tiêu cực của rủi ro đối với con người và xã hội là nhiệm vụ, mục tiêu hoạt động của BHXH. Một số vai trò của BHXH đối với cá nhân:

- Thứ nhất: BHXH có vai trò ổn định thu nhập cho người lao động và gia đình họ.

Khi tham gia BHXH, người lao động phải trích một khoản phí nộp vào quỹ BHXH, khi gặp rủi ro, bất hạnh như: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động làm cho chi phí gia đình tăng lên hoặc phải ngừng làm việc tạm thời. Do vậy thu nhập của gia đình bị giảm, đời sống kinh tế lâm vào tình cảnh khó khăn, túng quẫn. Nhờ có chính sách BHXH mà họ được nhận một khoản tiền trợ cấp đã bù đắp lại phần thu nhập bị mất hoặc bị giảm để đảm bảo ổn định thu nhập, ổn định đời sống.

- Thứ hai: Ngoài việc đảm bảo đời sống kinh tế, BHXH tạo được tâm lý an tâm, tin tưởng. Khi đã tham gia BHXH góp phần nâng cao đời sống tinh thần cho người lao động đem lại cuộc sống bình yên, hạnh phúc cho nhân dân lao động.

 Câu 8:Mối quan hệ của bh đối với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế VN

Về kinh tế - xã hội:

 Rủi ro tổn thất phát sinh làm thiệt hại đến các đối tượng: của cải vật chất do con người tạo ra và chính bản thân con người, làm gián đoạn quá trình sinh hoạt của dân cư ngưng trệ hoạt động sản xuất kinh doanhcủa nền kinh tế. nói chung nó làm gián đoạn và giảm hiệu quả của quá trình tái sản xuất XH.
Quỹ dự trữ BH dc tạo lập trước 1 cách có ý thức, khắc phục hậu quả nói trên, bằng cách bù đắp các tổn thất phát sinh nhằm tái lập và đảm bảo tính thường xuyên liên tục của quá trình XH. như vậy, trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế XH BH đóng vai trò như 1 công cụ an toàn và dự phòng đảm bảo khả năng hoạt động lâu dài của mọi chủ thể dân cư và kinh tế. với vai trò đó, BH khi thâm nhập sâu vào đời sống đã phát huy tác dụng vốn có của mình: thúc đẩy ý thức đề phòng - hạn chế tổn thất cho mọi thành viên trong xã hội.
BH là môi trường nghề nghiệp của 1 số lượng lớn lao động. lao động trong ngành BH cùng các ngành khác tạo ra nhiều giá trị gia tăng cho cả nền kinh tế góp phần đáng kể vào GDP của quốc gia. hoạt động BH là 1 trong những hoạt động có mối quan hệ với nhiều ngành nghề khác nhất. không những thế, ngày nay hd BH ko chỉ hướng đế việc phân phối lại về mặt giá trị mà còn hướng đến vai trò XH tích cực hơn trong việc chống lại những hậu quả bất hạnh của cuộc sống. các chương trình hỗ trợ của BH ngày càng đa dạng và phong phú. Hiệu quả của các hoạt động hỗ trợ của BH ko chỉ thúc đẩy ý thức phòng ngừa rủi ro của các thành viên trong XH mà còn làm giảm thiệt hại về mặt kinh tế tổn thất giảm đi, đồng nghĩa với giá trị của nền kte tăng lên mức đóng góp của các thành viên trong quỹ BH cũng giảm đi.

-  về hoạt động tài chính:
* Đối với người tham gia bảo hiểm: Khi tham gia bảo hiểm, sẽ giúp cho bản thân và tài sản của người tham gia được bảo đảm bằng một khoản tiền xác định nào đó. Và nếu như có điều rủi ro xảy ra đối với người tham gia bảo hiểm thì họ sẽ được các công ty bảo hiểm chia sẻ một phần nào đó khó khăn, giúp họ có khả năng tài chính để có thể vượt qua được khó khăn trước mắt.
* Đối với các công ty bảo hiểm: Bảo hiểm chính là một kênh tập trung vốn của các công ty bảo hiểm. Với số tiền mà khách hàng đóng vào, sẽ giúp các công ty bảo hiểm đầu tư vào các ngành kinh doanh khác, mang lại lợi nhuận nhiều hơn, qua đó, giúp gia tăng khả năng tài chính của công ty, đồng thời bảo đảm nguồn tiền mặt đối với các hoạt động thường ngày của 1 công ty.
* Đối với xã hội: Bảo hiểm là một kênh luân chuyển tiền tệ của nền kinh tế. Nó tạo ra sự an tâm của các nhà đầu tư cũng như của dân chúng, thúc đẩy cho các hoạt động tài chính diễn ra một cách suông sẻ hơn. Bảo hiểm có thể coi là một trong những nhân tố giúp ổn định nền tài chính tiền tệ của một quốc gia. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, nếu các hoạt động kinh doanh bảo hiểm không rõ ràng và minh bạch, có thể tạo ra những tác động xấu, ảnh hưởng không tốt đến nền kinh tế (mà ví dụ điển hình là sự phá sản của AIG hiện nay).

Bên cạnh săn tìm lợi nhuận, ngành BH cũng góp phần đáng kể làm giảm áp lực vốn để sản xuất kinh doanh và đầu tư phát triển cho hệ thống ngân hàng và ngân sách nhà nước. Theo HHBHVN, doanh thu BHPNT năm 2009 đạt 13.100 tỷ đồng (tăng khoảng 20% so với năm 2008); doanh thu BHNT đạt 11.700 tỷ đồng (tăng khoảng 12%). Với nước ta, ngành BH đã thực sự trở thành chỗ dựa khá vững chắc khi mỗi năm bồi thường 55% doanh thu phí BH cho các cơ sở kinh tế - xã hội và khách hàng khi họ gặp rủi ro thiên tai, tai nạn; góp phần ổn định ngân sách nhà nước.

Đặc biệt, trong hoàn cảnh kinh tế nước ta đang khó khăn, nhất là về nguồn vốn thì năm 2009 ngành BH đã tạo ra nguồn vốn trung và dài hạn 69.000 tỷ đồng và đầu tư vào nền kinh tế đất nước (năm 2008 là 57.000 tỷ đồng), tạo việc làm cho 15.000 nhân viên BH và gần 150.000 đại lý BH. Dự kiến, năm 2010, tổng vốn từ ngành BH đầu tư vào nền kinh tế sẽ tăng lên khoảng 75.000 tỷ đồng.

Mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng kinh tế và BH:

Như đã nêu trên, trong nền kinh tế thị trường việc tham gia BH được thể hiện thông qua việc đóng góp BH của các bên. Như vậy, trong mối quan hệ đóng góp của ba bên này đều có liên quan đến thu nhập. Đối với người lao động đóng góp BH liên quan đến thu nhập, tiền lương. Đối với người sử dụng lao động đó là quỹ lương của cơ quan, doanh nghiệp. Đối với Nhà nước là khoản chi từ ngân sách. Ban đầu, khi mới xây dựng hệ thống BH theo cơ chế thị trường, số người thụ hưởng còn ít so với số người tham gia BH. Theo thời gian, sự già hoá dân số ngày càng tăng lên, tỷ lệ phụ thuộc (người hưởng BH và người làm việc có tham gia BH) ngày càng tăng lên, nghĩa là số người hưởng BH ngày càng nhiều lên. Do vậy, chi phí BH ngày càng lớn lên và gia tăng. Ví dụ, ở Việt Nam hiện nay số người hưởng hưu trí các loại khoảng 2 triệu người và số người tham gia BHXH khoảng 4 triệu người (làm tròn số). Nghĩa là, có hai người tham gia BH thì có một người hưởng, hay nói cách khác tỷ lệ phụ thuộc là 50%. Nếu không mở rộng đối tượng tham gia BH, tỷ lệ này sẽ tăng lên đáng kể trong một số năm tới. Điều này đồng nghĩa với việc quỹ BH sẽ giảm đi với tốc độ ngày càng nhanh. Để khắc phục điều này, có một số cách thường được áp dụng:

- Mở rộng đối tượng tham gia BH (cách này thường chỉ được áo dụng đối với những hệ thống BH mới, ví dụ như Việt Nam, còn đối với những nước mà đại đa số người dân đều đã tham gia BH, việc mở rộng đối tượng rất khó khăn).

- Tăng mức đóng góp của các bên tham gia BH thường được áp dụng hoặc là đều kỳ (5 năm hoặc 10 năm lại điều chỉnh tỷ lệ đóng góp) hoặc là tăng dần (mỗi năm hoặc 1 - 2 năm tăng tỷ lệ đóng góp lên một tỷ lệ nhất định).

Ngoài ra, còn có những cách khác như "xiết chặt" các điều kiện để được hưởng BH như tăng tuổi nghỉ hưu, quy định thời hạn "dự bị" phải đóng góp hoặc phải tham gia BH một thời gian trước khi hưởng trợ cấp…

Những sự thay đổi trên đều ảnh hưởng đến thu nhập của các bên tham gia BH. Dưới giác độ người lao động, để vừa đảm bảo được những chi tiêu thường xuyên và ngày càng tăng lên của gia đình và vừa thực hiện được nghĩa vụ đóng BH, họ phải tìm cách để tăng thêm thu nhập, nghĩa là phải làm việc nhiều hơn hoặc làm việc có năng suất, có hiệu quả hơn để được trả lương cao hơn. Khi người lao động làm việc có năng suất, có chất lượng, doanh nghiệp cũng có lợi ích, doanh thu và thu nhập của doanh nghiệp tăng cao hơn và cũng có điều kiện hơn để thực hiện tốt hơn trách nhiệm và nghĩa vụ của mình đối với người lao động. Đến lượt mình, khi người lao động và doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả, Nhà nước sẽ có nguồn thu nhiều hơn (thu thuế cá nhân và thuế thu nhập doanh nghiệp) có điều kiện tài chính tốt hơn để đóng góp cho quỹ BH.

Từ khía cạnh khác, tăng trưởng kinh tế tạo điều kiện cho người dân có cuộc sống tốt hơn, tạo ra nhiều việc làm mới, thu hút nhiều lao động tham gia vào các hoạt động kinh tế. Người lao động có thu nhập càng cao và ổn định càng có điều kiện tốt hơn tham gia BH. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với những nước mới thực hiện, cần thu hút nhiều người tham gia BH. Đây là tác động tích cực của tăng trưởng kinh tế đối với BH. Đồng thời, khi kinh tế phát triển, Nhà nước và các doanh nghiệp có điều kiện để đầu tư thêm trang thiết bị hiện đại, cải thiện điều kiện làm việc cho người lao động. Nhờ vậy, những rủi ro trong lao động như tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp sẽ giảm đi và do đó quỹ BH sẽ giảm chi do đối tượng hưởng giảm. Đây là ảnh hưởng, tác động gián tiếp của tăng tưởng kinh tế đối với BH. Mặt khác, khi kinh tế tăng trưởng, Nhà nước có khả năng hơn để cải thiện điều kiện sống cho người lao động, như đầu tư vào các cơ sở hạ tầng công cộng, đầu tư cải thiện điều kiện chăm sóc sức khoẻ cho dân cư nói chung và người lao động nói riêng. Nhờ vậy, người lao động ít bị những rủi ro xã hội hơn như giảm được tai nạn, giảm được ốm đau, bệnh tật, giảm được những rủi ro khi sinh đẻ (đối với lao động nữ)… Đây cũng là ảnh hưởng tác động gián tiếp của tăng trưởng kinh tế đối với BH. Ngoài ra, khi kinh tế tăng trưởng, môi trường kinh tế càng được hoàn thiện, việc đầu tư của quỹ BH càng tốt hơn, an toàn hơn, tránh được những rủi ro từ kinh tế, góp phần tăng trưởng quỹ BH…

Như vậy, dưới giác độ kinh tế, các hoạt động BH đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; góp phần làm tăng thu nhập quốc dân và ngược lại, kinh tế tăng trưởng đã có tác động tích cực, ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới các hoạt động BH.

Tuy nhiên, để phát huy được những ảnh hưởng tích cực trong mối quan hệ BH - Kinh tế này, cần có những cơ chế chính sách thích hợp. Từ giác độ tài chính, tiền tệ, Nhà nước cần có chính sách đầu tư thích hợp cho quỹ BH và cần minh bạch hơn mối quan hệ (tiền tệ) giữa Nhà nước (Chính phủ) và cơ quan BHXH, công ty BHTM. Nhà nước cần định ra những chính sách lãi suất đầu tư, lãi suất khi Chính phủ vay của Quỹ BH hợp lý để đảm bảo sự tăng trưởng lâu dài cho quỹ BH. Mặt khác, Nhà nước có những chính sách chỉ định đầu tư và bảo hộ đầu tư để đảm bảo an toàn cho quỹ BH. Chẳng hạn ở Italia, Chính phủ quy định việc xây dựng các khu nhà chung cư cho người lao động là do quỹ BHXH đảm nhận. Đây là chính sách vừa gắn quyền lợi và trách nhiệm của người lao động với cơ quan BH, công ty BHTM; ngược lại cũng làm tăng thêm sự gắn kết giữa cơ quan BHXH, công ty BHTM với người lao động. Về phía các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền hoạch định chính sách BH, cần có quy định về thẩm quyền của Hội đồng quản lý, của Tổng Giám đốc công ty hay cơ quan BH, nhất là về khía cạnh tài chính, như việc chủ động điều chỉnh tỷ lệ đóng góp BHXH cũng như tỷ lệ hưởng; chủ động về đầu tư …

Câu 9 & 10 chế độ bhxh ở Việt Nam

Chính sách BHXH là một trong những chính sách cơ bản nhất của mỗi quốc gia. Nó là những quy định chung , rất khát quát về cả đối tượng , phạm vi, các mqh, và những giải pháp lớn, nhằm đạt đc mục tiêu chung đã đề ra đối vs BHXH. Việc ban hành chính sách  BHXH phải dựa vào đk KT-XH của đất nước từng thời kì, và xu hướng vận động khách quan của toàn bộ nền KT-XH.

Chế độ BHXH là sự cụ thể hóa chính sách BHXH, là hệ thống các quy định cụ thể và chi tiết, là sự bố trí , sắp xếp các phương tiện để thực hiện BHXH đối vs ng lao động. Nói cách khác, đó là một hệ thống các quy định đc pháp luật hóa về đối tượng hưởng , nghĩa vụ và mức đóng góp cho từng trường hợp BHXH cụ thể. Chế độ BHXH thường đc thể hiện dưới dạng các văn bản dưới luật , các thong tu, điều lệ …

 Theo tổng kết của ILO (công ước số 102 tháng 6  năm 1952 tại Giơnevo), bảo hiểm xã hội bao gồm chín chế độ chủ yếu sau:

1 chăm sóc y tế

2 trợ cấp ốm đau

3 trợ cấp thất nghiệp

4 trợ cấp tuổi già

5 trợ cấp tai nạn lao động và  bệnh nghề nghiệp

6 trợ cấp gia đình

7 trợ cấp thai sản,

8 trợ cấp khi tàn phế

9  trợ cấp cho người còn sống ( trợ cấp mất ng nuôi dưỡng)

 Công ước cũng nói rõ là những nước phê chuẩn công ước này có quyền chỉ áp dụng một số chế độ, nhưng ít nhất phải áp dụng một trong các chế độ: trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp tuổi già, trợ cấp tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp, trợ cấp khi tàn phế hoặc trợ cấp mất ng nuôi dưỡng. Việc áp dụng bảo hiểm xã hội trên của quốc gia khác nhau thường cũng rất khác nhau về nội dung thực hiện tùy thuộc vào nhu cầu bức bách của riêng từng nơi trong việc đảm bảo cuộc sống của người lao động, ngoài ra, còn tùy thuộc vào khả năng tài chính và khả năng quản lí có thể đáp ứng. Tuy nhiên, xu hướng chung là theo đà phát triển kinh tế - xã hội, bảo hiểm xã hội sẽ mở rộng dần về số lượng và nội dung thực hiện của từng chế độ.

Hệ thống các chế độ BHXH có những đặc đm chủ yếu sau:

+ các chế độ đc xd theo luật pháp mỗi nước

+ hệ thống các chế độ mang tính chất chia sẻ rủi ro , chia sẻ tài chính

+ mỗi chế độ đc chi trả đều căn cứ chủ yếu vào mức đóng góp của các bên tham gia BHXH

+ phần lớn các chế độ là chi trả định kì

+ đồng tiền đc sd làm phương tiện chi trả và thanh quyết toán

+ chi trả BHXH như là quyền lợi của mỗi chế độ BHXH

+ mức chi trả còn phụ thuộc vào quỹ dự trữ. Nếu quỹ dự trữ đc đầu tư có hiệu quả và an toàn thì mức chi trả sẽ cao và ổn định

+ các chế độ BHXH cần phải đc điều chỉnh định kì để phản ánh hết sự thay đổi của điều kiện kinh tế - xã hội

Toàn bộ hệ thống cũng như mỗi chế độ BHXH trong hệ thống trên khi xây dựng đều phải dựa vào những cơ sở  kinh tế - xã hội : cơ cấu ngành kinh tế quốc dân, tiền lương và thu nhập của ng lao động, hệ thống tài chính của quốc gia …Đồng thời tùy từng chế độ khi xây dựng còn phải tính đến các yếu tố sinh học, yếu tố môi trường như: tuổi thọ bình quân của ng ld, nhu cầu dinh dưỡng , xác suất tai nạn lđ và tử vong, độ tuổi sinh đẻ của lao động nữ ,môi trường lđ…

Những cơ sở khoa học trên quyết định đến một loạt vấn đề về xác định đk , tgian và mức hưởng trợ cấp trong từng chế độ, cũng như khả năng áp dụng bao nhiêu chế độ BHXH trong một hệ thống. Chẳng hạn khi xác định điều kiện hưởng trợ cấp BHXH tuổi già phải dựa vào cơ sở sinh học là tuổi đời và giới tính của ng lđ là chủ yếu. Bởi vì tuổi già để hưởng trợ cấp hưu trí của mỗi giới , mỗi vùng, mỗi quốc gia có sự khác biệt nhất định. Do đó có những nc quy định: nam 60t, nữ 55t sẽ đc nghỉ hưu. Nhưng cũng có những nc qd nam 65t, nữ 60t v v …

Thời gian hưởng trợ cấp và mức hưởng trợ cấp BHXH nói chung phụ thuộc vào từng trường hợp cụ thể và thời gian đóng phí bảo hiểm của ng lđ, trên cơ sở tương ứng giữa đóng và hưởng. Đồng thời mức trợ cấp còn phụ thuộc vào khả năng thanh toán của từng quỹ tài chính BHXH; mức sống chung của các tầng lớp dân cư và ng lđ. Nhưng về nguyên tắc, mức trợ cấp này ko cao hơn mức tiền lương hoặc tiền công khi ng ld đang làm việc đó và nó chỉ bằng một tỷ lệ % nhất định so vs mức tiền lương, tiền công. Ở các nước kinh tế phát triển, do mức lương cao nên tỷ lệ này thường thấp và ngược lại, ở những nước đang phát triển, do mức tiền lương còn thấp nên phải áp dụng một tỷ lệ khá cao . VD ở Pháp, mức trợ cấp hưu trí chỉ bằng 50% mức lương bình quân của 10 năm cao nhất ( vs đk đóng  BHXH đủ 37,5 năm); ốm đau đc hưởng trợ cấp bằng 50% tiền lương, tg nghỉ ốm đc hưởng trợ cấp ko quá 12 tháng…còn ở Philipin, mức trợ cấp hưu trí tù 42% đến 102 % , tùy thuộc từng nhóm lương khác nhau, ốm đau đc hưởng 65%...

Tuy vậy việc các nước quy định trợ cấp BHXH bằng tỷ lệ % so vs tiền lương hay tiền công thường dẫn đến bội chi quỹ BHXH.Vì vậy một số nc đã phải tìm cách khắc phục: trả ngay một lần khi nghỉ hưu ( NB một lần khi nghỉ hưu là 15 triệu yên) hoặc suốt đời đóng theo tỷ lệ % của một mức thu nhập quy định và hưởng cũng theo tỷ lệ % của mức quy định ấy

Theo khuyến nghị của ILO, BHXH bgom hệ thống 9 chế độ, song ko phải nc nào cũng thực hiện đầy đủ. Bởi vì đk kinh tế- xã hội của mỗi nc khác nhau, thâm chí ngay trong 1 nc những đk đó cũng khác nhau giữa các thời kì nên việc thực hiện đc cả 9 chế độ nêu trên là rất khó,. Chẳng hạn nếu tiềm lực và sức mạnh kinh tế yếu kém, khả năng tổ chức và quản lý còn hạn chế thì rất khó thực hiện các chế độ trợ cấp thất nghiệp và trợ cấp gia đình. Hoặc nếu ko nhận thức đc đầy đủ quyền bình đẳng nam nữa, vai trò và đặc đm của lđ nữ thì cũng rất khí thực hiện đc chế độ trợ cấp sinh đẻ…Chính vì vậy, cho đến nay, trên thế giới, chỉ có 43 nước thực hiện đc cả 9 chế độ BHXH, 92 nc chưa thực hiện đc chế độ trợ cấp thất nghiệp, 9 nc chưa thực hiện đc chế độ trợ cấp gia đình, 13nc chưa thực hiện đc 3 chế độ:  trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp gia đình và trợ cấp tai nạn lao động.

Chế độ BHXH ngắn hạn : ốm đau, thai sản, tai nạn ld & bệnh nghề nghiệp ( trc 1 lần) ,chăm sóc y tế, gia đình

CĐ BHXH dài hạn: hưu trí và tử tuất , TNLD & BNN (trợ cấp hàng tháng)

Cả 2: TNLD & BNN, tử tuất , hưu trí

Theo luật BHXH nước ta thực hiện :

BHXH bắt buộc là trợ cấp ốm đau, tai nạ lđ và bệnh nghề nghiệp, thai sản, hưu trí, tử tuất.

BHXH tự nguyện ( từ 1/1/2008) với 2 chế độ hưu trí, tử tuất.

Bh thất nghiệp (1/1/2009)

Câu 11:vì sao tiền lương là cơ sở chủ yếu để xác định mức đóng góp BHXH của các bên tham gia?vai trò của chế độ hưu trí trong hệ thống các chế độ BHXH?

      Tiền lương là cơ sở chủ yếu để xác định mức đóng góp BHXH của các bên tham gia vi:

1.mức lương là do nhà nước xây dựng và quy định nên nó mang tính pháp lý và ổn định giúp cho cơ quan bảo hiểm xác định được mức phí bảo hiểm một cách chính xác.và dựa vào mức phí đóng góp đó để thực hiện việc chi trả bồi thường nếu như có tổn thất xảy ra.đảm bảo tính công bằng trong việc thu và chi trả cho người tham gia bảo hiểm và cũng giúp các cơ quan bảo hiểm tránh được những tổn thất do có thể ước lượng được chính xác mức phí bảo hiểm dựa trên mức luơng mà nhà nước quy định.

2.dựa vào mức lương do nhà nước quy định các cơ quan bảo hiểm cũng có cơ sở để kiểm tra và truy thu các cơ quan và các cá nhân nợ phí bảo hiểm.từ đó ổn định được nguồn quỹ đồng thời giảm được tổn thất do nguồn quỹ thu không đủ và gây khó khăn cho việc chi trả,bồi thường khi có tổn thất xảy ra.

3.vì tiền lương do nhà nước quy định và có tính pháp lý cao nên các cơ quan bảo hiểm có thể dựa bào tiền lương để làm cơ sở trả lương hưu,trợ cấp hưu trí khi người lao động về hưu và các chế độ bảo hiểm khác

4.đối với người lao động không có lương mà chỉ có thu nhập bấp bênh thì rất khó để xác định được mức phí đóng góp hàng tháng.nếu tháng có thu nhập cao họ sẽ có khả năng đòng góp tuy nhiên nếu tháng ko có thu nhập họ sẽ không có khả năng đóng góp và như vậy nguồn quỹ bảo hiểm sẽ không ổn định,sẽ không thuận lợi cho việc chi trả khi có tổn thất hay rủi ro xảy ra.đồng thời nếu không dựa vào tiền lương các cơ quan bảo hiểm cũng không có cơ sở chính xác để xác định mức phí đóng góp và mức chi trả cho người lao động,gây khó khăn và mất công bằng cho cả 2 bên là cơ quan bảo hiểm và người lao động

Vai trò của chế độ hưu trí trong  hệ thống các chế độ bảo hiểm xã hội

 Trợ cấp hưu trí có vai trò có vai trò rất quan trong hệ thống các chế độ BHXH và được mọi người lao động đặc biệt quan tâm.

1.đối với bản thâm người lao đông:khi người lao động hết tuổi lao động theo quy định của pháp luật và nghỉ hưu họ sẽ không còn thu nhâpk theo lao động như trước.và trợ cấp hưu trí thay thế một phần thu nhập bị mất đó góp phần ổn định tài chính cho người lao động khi về hưu.

2.tuổi thọ của người dân nói chung và người lao động tham gia BHXH nói riêng không ngừng tăng lên sẽ làm cho số người nghỉ hưu ngày càng chiếm tỷ trọng lớn.hầu hết các chế độ bảo hiểm khác vừa có tính hoàn trả vừa có tính không hoàn trả trong khi chế độ trợ cấp hưu trí thì ngược lại.vì mỗi một con người luôn phải trải qua 4 giai đoạn là:sinh,lão ,bệnh,tử.do đó đây là chế độ có nhiều người tham gia nguồn quỹ được hình thành lớn và ổn định.tuy nhiên quá trình từ lúc tham gia đến lúc thị hưởng của người lao động diễn ra trogn thời gian dài.vì thế nguồn quỹ được hình thành này có thể được sử dụng để phục vụ chi trả bồi thường cho các chế độ khác nếu các chế độ đó có kho khăn về tài chính do thu không đủ chi hoặc do chưa thu được quỹ.

Vậy chế độ hưu trí góp phần ổn định cho các chế độ bảo hiểm khác trong hê thống chế độ BHXH.

3.từ việc giúp ồn định tài chính cho bản thân người lao động nói riêng sau khi hết tuổi lao động,đồng thời hỗ trợ cho việc chi trả của các chế độ bảo hiểm khác trợ cấp hưu trí đòng góp phần to lớn trong việc đảm bảo an sinh xã hội.

  Câu 12Vai trò của chế độ hưu trí trong hệ thống các chế độ BHXH

Trong một hệ thống BHXH thường bao gồm nhiều chế độ khác nhau. Số lượng các chế độ BHXH được xây dựng và thực hiện phụ thuộc vào trình độ phát triển và mục tiêu cụ thể của hệ thống BHXH trong từng thời kỳ của mỗi nước. Tuy nhiên, trong bất cứ hệ thống BHXH nào cũng có những chế độ chính thể hiện đặc trưng những mục tiêu chủ yếu của hệ thống bảo hiểm xã hội. Một trong những chế độ đó là chế độ hưu trí hay chế độ bảo hiểm tuổi già cho người lao động .
Có thể khẳng định rằng chế độ hưu trí là một trong những chế độ bảo hiểm được thực hiện sớm nhất trong lịch sử phát triển của bảo hiểm xã hội. Theo quy định của ILO thì chế độ này là một trong những chế độ bắt buộc, là chế độ chính sách khi mỗi quốc gia muốn xây dựng cho mình một hệ thống bảo hiểm xã hội. Theo thống kê của ILO, trong tổng số 163 nước trên thế giới có hệ thống BHXH (1993) thì có tới 155 nước có thực hiện chế độ hưu trí chiếm tỷ lệ 95,1%. Điều đó chứng tỏ chế độ hưu trí rất được các nước cũng như người lao động quan tâm
Trên thực tế, tất cả những người tham gia vào BHXH đều có mong muốn tham gia vào chế độ hưu trí. Trong phần đóng góp phí BHXH nói chung thì phần chủ yếu là đóng cho chế độ này. Đối với hệ thống BHXH thì hoạt động của ngành này tập trung chủ yếu vào chế độ hưu trí cho người lao động. Điều này được thể hiện cụ thể trong các hoạt động nghiệp vụ của bảo hiểm xã hội. Chẳng hạn ở Việt Nam, chế độ hưu trí có vị trí đặc biệt quan trọng với người tham gia bảo hiểm xã hội. Chế độ này được quy định và đưa vào thực hiện ngay từ khi hệ thống BHXH mới được thành lập ( 1947). Theo các quy định hiện hành thì tỷ lệ giành cho bảo hiểm hưu trí và các chế độ khác có liên quan tới người về hưu là 75% ( phí bảo hiểm là 20% tổng quỹ tiền lương thì giành tới 15% đóng cho hưu trí ). Do đó thu cho chế độ hưu trí cũng chiếm tỷ trọng chủ yếu trong tổng thu của bảo hiểm xã hội, khoảng từ 60-80%. Tương tự như vậy trong tổng chi của BHXH thì việc chi cho chế độ này cũng rất lớn. Trong những năm gần đây tiền chi cho chế độ hưu trí chiếm khoảng trên 70% tổng chi cho BHXH . Như vậy, hoạt động thu chi của chế độ hưu trí có ảnh hưởng sống còn tới toàn bộ hoạt động của hệ thống bảo hiểm xã hội, ảnh hưởng đến sự ổn định của BHXH nói riêng cũng như cả xã hội nói chung.
Một vấn đề nữa đặt ra là xu hướng già hoá của dân số thế giới dẫn đến số lượng người nghỉ hưu ngày càng tăng. Điều đó cho thấy rõ vai trò ngày càng quan trọng của chế độ hưu trí trong đời sống kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Hơn nữa, chế độ bảo hiểm hưu trí còn thể hiện được sự quan tâm chăm sóc của Nhà nước, người sử dụng lao động đối với người lao động, và nó còn thể hiện đạo lý của dân tộc đồng thời còn phản ánh trình độ văn minh của một chế độ xã hội

1. Dự phòng nghiệp vụ là khoản tiền mà doanh nghiệp bảo hiểm phải trích lập nhằm mục đích thanh toán cho những trách nhiệm bảo hiểm đã được xác định trước và phát sinh từ các hợp đồng bảo hiểm đã giao kết.

 2. Dự phòng nghiệp vụ phải được trích lập riêng cho từng nghiệp vụ bảo hiểm và phải tương ứng với phần trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm.

 3. Bộ Tài chính quy định cụ thể về mức trích lập, phương pháp trích lập dự phòng nghiệp vụ đối với từng nghiệp vụ bảo hiểm.“

 Điều 8 NĐ 46 quy định chi tiết về trích lập dự phòng nghiệp vụ Phi nhân thọ:

“1. Doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ phải trích lập dự phòng nghiệp vụ theo từng nghiệp vụ bảo hiểm đối với phần trách nhiệm giữ lại của doanh nghiệp.   

   2. Dự phòng nghiệp vụ bao gồm:

 a) Dự phòng phí chưa được hưởng, được sử dụng để bồi thường cho trách nhiệm sẽ phát sinh trong thời gian còn hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm trong năm tiếp theo;

 b) Dự phòng bồi thường cho khiếu nại chưa giải quyết, được sử dụng để bồi thường cho các tổn thất đã phát sinh thuộc trách nhiệm bảo hiểm chưa khiếu nại hoặc đã khiếu nại nhưng đến cuối năm tài chính chưa được giải quyết;

 c) Dự phòng bồi thường cho các dao động lớn về tổn thất, được sử dụng để bồi thường khi có dao động lớn về tổn thất hoặc tổn thất lớn xảy ra mà tổng phí bảo hiểm giữ lại trong năm tài chính sau khi đã trích lập dự phòng phí chưa được hưởng và dự phòng bồi thường cho khiếu nại chưa giải quyết không đủ để chi trả tiền bồi thường đối với phần trách nhiệm giữ lại của doanh nghiệp bảo hiểm.”

Như vậy doanh thu bảo hiểm (phí bảo hiểm) trừ đi chi phí bồi thường trong 1 năm chưa phải lãi của doanh nghiệp bảo hiểm. Các doanh nghiệp bảo hiểm còn phải trích lập quỹ dự phòng nghiệp vụ bao gồm phí chưa được hưởng, yêu cầu bồi thường của khách hàng đang trong thời gian giải quyết, bồi thường cho dao động lớn có thể xảy ra vào những năm sau. Đây là nguồn sẵn sàng chi bồi thường cho những năm đột xuất có xảy ra những tổn thất rất lớn.

Câu 13: Nguyên tắc hoạt động của BHTM.

Là loại hình BH kinh doanh bên cạnh việc phải tuân thủ những nguyên tắc chung của BH, BHTM còm phải tuân thủ theo các nguyên tắc riêng. Có 5 nguyên tắc chung cơ bản của BHTM là:

Nguyên tắc số đông bù số ít.

Theo nguyên tắc này phải có số đông người tham gia cho rủi ro cùng loại thì công ty BH mới có thể BH cho rủi ro đó để đảm bảo chia sẻ rủi ro của số ít người cho nhiều người cùng chịu.

Nguyên tắc tín nhiệm tuyệt đối.

BH là lời hứa về sự cam kết giữa 1 bên là đóng phí BH và 1 bên là chi trâ bồi thường, đồng thời BH là sản phẩm ko mong đợi. Chính vì vậy giữa bên mua và bên bán BH phải đảm bảo tín nhiệm nhau 1 cách tuyệt đối. Cụ thể:

Đối với công ty BH: hoàn toàn trung thực đối với những cam kết với khách hang, hoàn toàn trung thực khi trả lời các câu hỏi của khách hàng.

Đồng thời đảm bảo bảo mật thong tin về khách hang.

Đối với khách hang ( người tham gia BH): phải có trách nhiệm khai báo 1 cách trung thực các thông tin có liên quan đến đối tượng BH.

Nguyên tắc rủi ro BH.

Rủi ro hiểu theo nghĩa thông thường là những điều ko chắc chắn và ko mong đợi có thể xảy ra. Tuy nhiên với nghĩa đó ko phải rủi ro nào cũng đc BH. Vì đây là loại hình BH kinh doanh nên rủi ro chỉ có thể đc BH khi đáp ứng các điều kiện sau:

Rủi ro phải là ngẫu nhiên, bất ngờ 0<xsrr<1.

Xác suất rủi ro càng chạy gần đến 1 thì khả năng xảy ra rủi ro càng cao thì phí BH càng cao.

Xác suất rủi ro càng chạy gần đến 0 thì khả năng xảy ra rủi ro càng thấp thì phí đóng BH càng thấp.

Rủi ro phải là rủi ro thuần túy mà ko phải là rủi ro đầu cơ.

Rủi ro thuần túy khi xảy ra thường gây thiệt hại, nếu may mắn thì ko thiệt hại.

Rủi ro đầu cơ là rủi ro gắn liền với hoạt động đầu cơ khi thực hiện có thể đem lại lãi hoặc cũng có thể lỗ.

Rủi ro phải có số đông người tham gia BH cho rủi ro cùng loại.

Rủi ro gây ra tổn thất phải lượng hóa được bằng tiền.

Rủi ro phải không đi ngược với các quy định của PL và các chuẩn mực đạo đức.

Rủi ro ko có tính thảm họa: nhưng hiện nay đang có xu hướng thay đổi.

Nguyên tấc quyền lợi BH.

Theo nguyên tắc này chi khi có quyền lợi BH đối với đối tượng BH thì mới được tham gia BH.

Người có quyền lợi BH để tham gia BH là người có khả năng bị thiệt hại tài chính khi có rủi ro xảy ra đối với đối tượng BH.

Đối với BH là tài sản: chủ sở hữu , người quản lý và sử dụng hợp pháp tài sản.

Đối với BH là con người:

Có thể tự mua BH ko giới hạn.

Mua BH cho vợ (chồng).

Mua BH cho con, cháu…khi con, cháu chưa đủ tuổi thành niên.

Nguyên tắc phân tán rủi ro.

Kinh doanh BH là kinh doanh rủi ro. Khi mua BH người tham gia BH đã chuyển rủi ro cho cồng ty BH. Tuy nhiên cty BH ko phải chịu hoàn toàn rủi ro đó mà dựa trên luật số lớn cty BH có thể tính đc phí BH đóng trước đủ để đảm bảo bù đắp số tiền chi trâ bồi thường rủi ro xảy ra sau.

Nhưng do xs rủi ro dự tính khi tính phí BH có thể khác (có thể ko chính xác hoàn toàn) so với xs rủi ro thực tế xảy ra.

Trường hợp xs rủi ro dự tính thấp hơn xs rủi ro thực tế phí BH thu đc ko đủ để chi trả bồi thường, tức là công ty BH gặp phải rủi ro.

Để bảo vệ mình trước rủi ro kinh doanh đó, cty BH phải có những biện pháp quản lý rủi ro. Một trong những biện pháp quản lý rủi ro là phân tán rủi ro gồm: đồng bảo hiểm và tái BH.

Câu 14: Bảo hiểm trùng và cách xử lý bảo hiểm trùng trong BH tài sản? Cho ví dụ minh họa? Các chế độ BH miễn thường trong bảo hiểm tài sản? Cho vd minh họa?

Bảo hiểm trùng và cách xử lý bảo hiểm trùng trong bảo hiểm tài sản.                

Bảo hiểm trùng.

Bảo hiểm trùng là trường hợp cùng 1 đối tượng BH được bảo vệ bởi nhiều hợp đồng BH có sự trùng lặp về:

Thời hạn bảo hiểm.

Rủi ro bảo hiểm.

Phạm vi, ko gian BH.

Tổng số tiền Bh từ các đơn lớn hơn giá trị BH của tài sản.

Cách xử lý BH trùng trong bảo hiểm tài sản.

Khi có thiệt hại xảy ra rơi vào trường hợp bảo hiểm trùng thì tổng số tiền bồi thường từ tất cả các đơn ko đc vượt quá giá trị thiệt hại của tài sản.

Việc phân chia số tiền bồi thường của các cty bảo hiểm trong trường hợp bảo hiểm trùng được tuân theo nguyên tắc đóng góp. Theo đố số tiền bồi thường được phân bổ dựa trên tỷ lệ số tiền bảo hiểm hoặc phí bảo hiểm.

Ví dụ. Bạn mua bảo hiểm trùng về xe cơ giới.

Sô tiền bảo hiểm: 100% giá trị xe cho cả hai đơn bảo hiểm tại hai công ty bảo hiểm A và B.

Điều kiện bảo hiểm: giống nhau về thời hạn, rủi ro, phạm vi, ko gian bảo hiểm.

Số tiền tổn thất là 10 triệu đồng.

Theo như trường hợp ơ trên, thì khi xảy ra tổn thất, trách nhiệm bảo hiểm cho cả hai công ty bảo hiểm A và B cho vụ tổn thât là 10 triệu đồng ứng với trách nhiệm trả tiền của mỗi bên là 5 triệu đồng.
Vì vậy, khi bạn mua bảo hiểm trùng , quyền lợi của bạn là không thay đổi so với bạn chỉ tham gia môt đơn vị bảo hiểm (dù bạn phải đóng gấp 2 lần tiền phí).
Các chế độ bảo hiểm miễn thường trong bảo hiểm tài sản.

Chế độ miễn thường là theo chế độ bảo hiểm này nếu giá trị thiệt hại thực tế nhỏ hơn 1 số tiền nhất định được quy định trước ( được gọi là mức miễn thường) thì chủ tài sản phải tự chịu thiệt hại đó, chỉ khi giá trị thiệt hại thực tế lớn hơn mức miễn thường mới phát sinh trách nhiệm của bảo hiểm.

Số tiền bồi thường được xác định như thế nào là tùy thuộc vào điều kiện mua bảo hiểm: BH miễn thường có khấu trừ hay BH miễn thường ko khấu trừ.

BH miễn thường có khấu trừ: khi rủi ro xảy ra, mức thiệt hại lớn hơn mức miễn thường, lúc này người mua bh đc đền bù số tiền bằng giá trị thiệt hại trừ đi giá trị miễn thường ( giá trị thiệt hại <= số tiền bh).

BH miễn thường ko khấu trừ: khi rủi ro xảy ra mức thiệt hại lớn hơn mức miễn thường, lúc này người mua bh đc đền bù stbt= giá trị thiệt hại( gt thiệt hại<= stbh).

Ví dụ.

Khi khách hàng chọn mua gói BH vật chất cho xe với mức miễn thường là 2 triệu đồng. Khi có tổn thất xảy ra cho xe và chi phí sửa chữa từ 2 triệu đồng trở xuống thì công ty BH không thanh toán khoản chi phí này. Nhưng nếu tổn thất là 3 triệu đồng thì :

Công ty BH thanh toán phần chênh lệch là 1 triệu đồng nếu mua khách hàng mua mức miễn thường có khấu trừ.

Cty BH thanh toán 3 triệu đồng nếu khách hàng mua mức miễn thường ko khấu trừ.

Câu 15: Hãy so sánh bảo hiểm tài sản, bảo hiểm TNDS và bảo hiểm con người trong bảo hiểm thương mại.

Giống nhau

- Mục đích: Đều là loại hình bảo hiểm kinh doanh hoạt động trên nguyên tắc chung của bảo hiểm tức là dựa trên luật số lớn để tính phí bảo hiểm đóng trước từ đó hình thành nên quỹ tài chính bảo hiểm dung để giải quyết bồi thường thiệt hại tài chính do rủi ro đc bảo hiểm gây nên.

Khác nhau.

Bảo hiểm tài sản

Bảo hiểm TNDS

Bảo hiểm con người

Đối tượng

- Tài sản thuộc quyền sở hữu, quản lý hay sử dụng hợp pháp của các tổ chức, cá nhân trong xã hội.

- Phần trách nhiệm pháp lý phát sinh phải bồi thường trách nhiệm dân sự.

- Tính mạng, sức khỏe hoặc cuộc sống của con người.

Giá trị bảo hiểm.

- Đối tượng bảo hiểm xác định được về mặt giá trị. Giá trị tài sản khi tham gia bh là gtbh.

- Đối tượng bh trừu tượng và ko xác định được trước chỉ đc xđ khi TNDS thực sự phát sinh theo quy định của pháp luật.

- Ko có gtbh như bh tài sản vì tính mạng, sức khỏe và cs của con người là vô giá.

Nguyên tắc áp dụng.

- Áp dụng các nguyên tắc của bảo hiểm.

+ Nguyên tắc bồi thường.

+ Nguyên tắc thế quyền.

+ Nguyên tắc đóng góp.

+ Điều khoản average.

- áp dụng các nguyên tắc của bảo hiểm.

+ Nguyên tắc bồi thường.

+ Nguyên tắc thế quyền.

+ Nguyên tắc đóng góp.

- Ko áp dụng nguyên tắc bồi thường, thế quyền, đóng góp.

- Áp dụng nguyên tắc khoán xác định STBH và ST chi trả.

STBH

- STBH giới hạn trách nhiệm cao nhất của bh.

- STBH<= GTBH.

- ko xác định được stbh.

- STBH đc xđ phụ thuộc vào thỏa thuận giữa 2 bên.

STBT

Tùy vào điều kiện BH mà STBT là khác nhau.

- BH dưới giá trị: STBT= gtthiệt hại* stbh/gtbh

-BH bồi thường theo tỷ lệ: STBT= tỷ lệ* GTTH

- Áp dụng chế độ miễn thường.

+ Mt có khấu trừ.

+ Mt ko khấu trừ.

- Đơn bh TNDS thường có giới hạn trách nhiệm, nhà BH thường quy đinh giới hạn trách nhiệm của mình ở 1 mức nhất định.

- TNDS= thiệt hại thực tế * mức độ lỗi của bên thứ 3.

- Do ko thể xác định được chính xác của thiệt hại nên 2 bên thỏa thuận trước về cách thức chi trả tiền BH.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro