Bi an tien kiep hau kiep

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

 Những Bí Ẩn Về Tiền Kiếp

LỜI GIỚI THIỆU

...Con người là một con vật biết suy nghĩ, biết tư duy; Vì thế, dù bận rộn với bao khó khăn trở ngại trong cuộc sống; dù tin tưởng vào tôn giáo này hay tôn giáo khác, hoặc vô thần đi nữa, con người cũng phải ít nhất một lần trong đời đặt câu hỏi rằng: Tại sao mình lại sinh ra ? Tại sao con người lại đau khổ ? Tại sao trên cõi đời này lại có kẻ giàu người nghèo, và đôi khi sự giàu có không phải là do công lao khó nhọc tạo thành, mà là do do những hành động gian tham, tàn ác tạo nên. Ðiều khó giải thích hơn nữa là tại sao kẻ ác đôi khi lại được trường thọ, hạnh phúc, sang giàu, còn người thiện lương, hay giúp đời, cứu người mà thường gặp nạn, khổ đau, nghèo nàn hay yểu mệnh? Lại có kẻ mới chào đời đã mang dị tật, hoặc đui, mù, câm, điếc, bại, liệt, thiếu hụt tay chân v.v... Nguyên nhân nào đã sinh những trường hợp lạ lùng và vô cùng trái ngược như thế ? Nếu loài người được Thượng Ðế toàn năng sáng tạo, thì tại sao Ngài lại thản nhiên trước những bất công vô lý ấy ?

Tất cả những câu hỏi nêu trên, có lẽ sẽ được lý giải phần nào qua sự tìm hiểu, nghiên cứu và nhận định, soi sáng của các nhà nghiên cứu lỗi lạc về những hiện tượng luân hồi, tái sanh, nghiệp quả. Những nhà nghiên cứu này phần lớn là những khoa học gia, những người được xem như đã mạnh dạn bước qua ngưỡng cửa giới hạn của khoa học thực nghiệm để tiến vào thế giới tâm linh có tánh cách siêu nhiên kỳ diệu .....

****** Xin mời các bạn đọc những câu chuyện có thật dưới đây để hiểu rõ thêm về luân hồi, nhân quả, và tiền kiếp... hậu kiếp...

****** Những câu chuyện này được trích từ "Những Bí Ẩn Về Tiền Kiếp Và Hậu Kiếp" của Ðoàn Văn Thông biên soạn và nhà sách Nguồn Sống xuất bản.

Labels

Lời Giới Thiệu (9)

NHỮNG BẰNG CHỨNG VỀ TÁI SANH (8)

Sưu Tầm (2)

Blog Archive

▼  2009 (2)

▼  April (2)

“Cậu bé ma sói” ở Ấn Độ

Bí ẩn của kiếp luân hồi

►  2008 (1)

►  April (1)

Hiện Tượng Đầu Thai - Bí Ẩn của Khoa Học Hiện Đại

►  2007 (17)

►  June (17)

SỰ TRỞ LẠI CỦA NGƯỜI CHỒNG TIỀN KIẾP

SỰ TRỞ LẠI CỦA NGƯỜI CON GÁI ÚT

NGƯỜI THANH NIÊN TÊN MICHAEL WRIGHT

CẬU BÉ PAULL TRAVEED

BÉ GÁI JIMMY Ở CANADA

NHÀ BÁO RAY BRYANT (ANH QUỐC)

CON GÁI CON ÔNG CẢ HIÊU Ở CÀ MAU (VIỆT NAM)

NHÀ NGHIÊN CỨU HIỆN TƯỢNG TÁI SANH RUTH SIMMONS

LÁI XE VÀO QUÁ KHỨ

NHỮNG NGƯỜI ÐI VÀO QUÁ KHỨ

CON RANH, CON LỘN Ở NƯỚC ANH VÀ Ở VIET NAM

CON RANH CON LỘN LÀ GÌ?

QUẢ BÁO THỂ HIỆN QUA CÁC BỆNH TẬT: NHƯ ÐUI MÙ, CÂM...

NGƯỜI CÓ NHIỀU VÚ VÀ NGƯỜI VOI

NHỮNG NGƯỜI CÓ DỊ TẬT

VẾT SẸO TỪ TIỀN KIẾP

NHỮNG NGƯỜI TRỞ VỀ TỪ CÕI CHẾT

About Me

Jason Nguyen

Tranh cạnh cho lắm cũng chẳng đi về đâu. Đối với tôi tiền tài hay danh vọng không làm tôi thỏa mãn bằng nghệ thuật, tri thức và tình cảm.

View my complete profile

Lien Ket

To Myebooksonline

ThuanThao's Blog

Chùa Quan Thế Âm

Friday, April 10, 2009

Bí ẩn của kiếp luân hồi

Cho đến nay, khoa học hiện đại vẫn chưa thể chứng minh được việc có kiếp sau hay kiếp trước của con người hay không? Tất cả vẫn chìm trong sự kỳ bí với những việc con người không thể giải thích nổi.

Luân hồi

Theo quan điểm của nhiều người, cuộc sống chưa kết thúc khi con người qua đời, mà linh hồn sau khi thể xác chết đã đầu thai trở lại một kiếp sống khác theo bánh xe luân hồi, cứ mãi như thế cho đến khi nó đi được đến cõi Niết Bàn. Cuộc sống của con người trên trần thế thực ra chỉ là một "kiếp", thân xác chỉ là nơi cư trú của linh hồn mà thôi.

Điểm chú ý là không phải chỉ có đạo Phật mới có thuyết luân hồi và ý niệm về sự đầu thai, trong nhiều tôn giáo khác cũng tồn tại điều này tuy ở những dạng khác nhau. Ý niệm về sự luân hồi xuất hiện trong đạo Hồi, trong quan điểm của người Hi Lạp cổ đại, hay một số vùng miền trên thế giới.

Tại các quốc gia phương Tây, các nhà nghiên cứu đã bỏ nhiều thời gian và công sức nhằm tìm ra lời giải đáp cho hiện tượng này, nhưng vẫn chưa thể đưa ra lời giải thích cuối cùng.

Có thể thấy tiêu biểu nhất cho sự đầu thai và kiếp luân hồi chính là việc chọn Đại la Lạt Ma hay Ban thiên Lạt Ma. Người ta thường chọn người kế nhiệm vị trí này thông qua việc tìm kiếm đứa trẻ nào sinh ra đúng vào thời điểm những nhân vật này chết đi, và bằng những dấu hiệu và kiến thức đặc biệt để xác định xem đứa trẻ đó có phải do chính người đã mất đầu thai vào không.

Người ta cũng tin rằng có một sợi dây vô hình như gắn chặt giữa hai số kiếp đó lại với nhau.

Khó có thể giải thích nổi tại sao những người ở "kiếp sau" lại có cách cư xử thói quen, và biết cả những bí mật của những người ở "kiếp trước". Mặc dù một số người cho là một số sự kiện nhớ lại kiếp sống trước đã được ghi chép lại và thử nghiệm một cách khoa học, khoa học chưa chính thức chấp nhận đầu thai như là một hiện tượng chứng minh được.

Bí ẩn chưa có lời giải

Ngày 29/4/2005, vợ chồng anh Chaudhary sống tại Ahmedabad (Ấn Độ) đã vô cùng đau xót khi đứa con trai 13 tuổi tên là Rakesh bị tai nạn xe máy và mất 5 ngày sau đó. Vài giờ trước khi Rakesh qua đời, vợ anh Chaudhary là cô Minaben bắt đầu có ảo giác, cô nói với chồng là Rakesh về nhà và muốn tạm biệt mẹ và hứa sẽ quay lại.

Một năm sau đó, vào ngày 22/4/2006, cô Minaben sinh hạ một bé trai và đặt tên con là Rakesh. Rakesh và người anh đã mất giống nhau như đúc, và có cách cư xử giống hệt nhau. Điểm đặc biệt hơn là cậu biết tất cả những chỗ anh trai mình để đồ chơi, nhận ra những người họ hàng chưa bao giờ gặp.

Không chỉ có vậy, khi được đưa về quê của anh Chuadhary ở Palanpur, cậu bé cũng biết luôn tên của người chị họ Anila mới gặp lần đầu, cô bé này vốn ngày xưa là bạn thân của người anh trai đã mất của cậu. Rakesh cũng rủ cô bé chạy ra cái cây nơi 2 người thường chơi với nhau ngày xưa.

Trường hợp của Rakesh không phải là trường hợp duy nhất, cô bé Samlini Permac sinh năm 1962 ở Colombo, Sri Lanka vô cùng sợ nước và ô tô. Mỗi lần phải tắm cô đều la khóc dữ dội. Cô bé sau đó kể lại quãng đời "kiếp trước" của mình, khi đi mua bánh mì vào thời điểm phố xá ngập lụt, bỗng có một chiếc xe buýt đi sát bên cạnh đã hất em xuống nước.

Em chỉ kịp giơ tay lên cầu cứu và hét lên "Mẹ ơi" rồi chìm hẳn vào giấc ngủ. Gia đình của cô bé rất bất ngờ và họ bắt đầu tìm hiểu thêm về những vụ việc tương tự như thế đã từng xảy ra ở đâu, và sau một thời gian hai người biết được câu chuyện một cô bé 11 tuổi từng chết đuối trong hoàn cảnh như thế, tất nhiên là từ khi Samlini chưa ra đời.

Một sự việc nữa cũng khiến khoa học đau đầu, đó là sự việc diễn ra tại làng Nathul, phía Bắc Miến Điện. Cô gái M Tin Aung Myo sinh ngày 26 tháng 12 năm 1953 trong một gia đình có 3 chị em gái. Ngay từ nhỏ, cô bé luôn tỏ ra mình là con trai, và luôn miệng nói rằng mình là người lính Nhật đã bị quân đồng minh bắn chết cách ngôi nhà của cha mẹ cô bé gần 100m.

Cô bé rất sợ máy bay, nhất định không chịu mặc đồ con gái, nói tiếng Miến Điện rất khó khăn, thích ăn và nấu các món ăn theo khẩu vị của Nhật, và cô luôn tỏ ra buồn bã vì nhớ quê hương Nhật Bản của mình. Ma Tin Aung Myo cho biết gia đình "kiếp trước" của cô ở miền Bắc nước Nhật, trước khi nhập ngũ, "cô" là chủ một cửa hiệu nhỏ nhưng khi vào lính thì làm đầu bếp.

Nhưng cô bé không nhớ một tên tuổi hay địa danh nào cả và cũng không chịu kết hôn, bởi theo cô, cô là một người đàn ông và chỉ kết hôn với phụ nữ mà thôi.

Chaokun Radzh-sutadzharn, sinh ngày 12/10/1908 ở miền Trung Thái Lan. Cha của cậu là Nai Pae, mẹ là Nang Rieng, tên thường gọi là Choti. Ngay từ khi biết nói, cậu bé đã cho mọi người biết mình là Nai Leng, người bác ruột đã mất khi cậu bé ra đời.

Đáng chú ý là cậu có cách gõ bàn hệt như ông bác, có thể nói và đọc được các thứ tiếng mà ông bác lúc sinh thời từng học, và ngoài ra biết chính xác từng chi tiết một trong cuộc đời ông bác ruột của mình. Sau này Choti đi tu ở một ngôi chùa ở Băng Cốc và sau đó xuất bản cuốn sách về sự luân hồi này.

"... khó có thể giải thích nổi tại sao những người ở "kiếp sau" lại có cách cư xử thói quen và biết cả những bí mật của những người ở "kiếp trước". Mặc dù một số người cho là một số sự kiện nhớ lại kiếp sống trước đã được ghi chép lại và thử nghiệm một cách khoa học, khoa học chưa chính thức chấp nhận đầu thai như là một hiện tượng chứng minh được...

Sau khi chết con người có thể trở lại sống một kiếp khác hay không? Đây là một câu hỏi vẫn chưa có lời giải và được nhiều người quan tâm. Tuy nhiên, trong lúc chờ các nhà khoa học đưa ra được kết luận cuối cùng, những hiện tượng "đầu thai" vẫn tiếp tục xuất hiện làm mọi người kinh ngạc và đặt câu hỏi "Có kiếp sau hay không?".

Posted by Jason Nguyen at 5:56 PM

Labels: Sưu Tầm

0 comments:

Một lời giải về Kiếp Luân Hồi theo cách nhìn khoa học biện chứng!

Jul 5, '09 10:54 AM

for everyone

Kỳ 1: Luân hồi - Huyền thoại và sự thật

Luân hồi là niềm tin phổ biến trong nhiều nền văn hóa từ Đông sang Tây, từ cổ chí kim. Nó cho rằng con người có thể sống không chỉ một mà nhiều kiếp, mỗi kiếp cần một cơ thể mới. Vì thế nó thường gắn với các hiện tượng như mượn xác hay đầu thai. Nó có thể đi kèm hay không đi kèm với quan niệm linh hồn bất tử, tức sự tồn tại sau cái chết.

Cần nhấn mạnh rằng, không chỉ người dân, mà hiện nay không ít nhà khoa học cũng tin là có linh hồn. Điều đó thực ra không lạ, khi lưu ý rằng, linh hồn bất tử là ước nguyện rất tự nhiên của con người, vì đó chính là cách thức cuối cùng để con người bớt sợ hãi trước cái chết. (Người ta tin hay không tin vào một điều gì đó đâu phải chuyện đùa. Đâu phải mở miệng nói mình tin vào Phật Giáo để an tâm trước khi chết hay tin vào Chúa Trời để không sợ mất linh hồn được?)

Một số trường hợp điển hình

Ngày 19/7/1985, cô gái Ấn Độ 17 tuổi Sumitra chết và gia đình đang chuẩn bị an táng. Bỗng nhiên cô sống lại, tự xưng là Shiva và không biết một ai xung quanh. Cô nói cô mượn xác Sumitra để sống lại.

Shiva là một phụ nữ 22 tuổi chết hai tháng trước. Thi thể cô tìm thấy trên đường tàu hỏa với nhiều vết thương trên đầu. Được đưa về gia đình Shiva, Sumitra nhận ra người thân, bạn bè, láng giềng, đồ vật cá nhân; viết đúng nét chữ và văn phong Shiva, trong khi Sumitra vốn không biết chữ! Quan niệm luân hồi rất phổ biến tại Ấn Độ, nên nhà Shiva tuyên bố Sumitra đúng là con gái họ vừa từ cõi chết trở về.

Năm 1956 cuốn Truy tìm Bridey Murphy của nhà thôi miên Mỹ Morey Berstein được ấn hành, viết về bà Ruth Simmons với biệt danh Virginia Tighe. Khi được thôi miên, Tighe nhập về kiếp trước ở Ireland thế kỉ 19. Khi đó bà nói thứ tiếng Ireland nặng và mô tả chính xác cuộc sống hằng ngày của tầng lớp bình dân thời đó. Bà gọi tên người bán tạp phẩm, cha cố, dân làng, người thân thích và cũng biết nhảy một vũ điệu địa phương. Cuốn sách trở thành best-seller và được dựng thành phim. Dân chúng tổ chức các buổi dạ tiệc về “kiếp trước”. Một chú bé ở Shaunee, Oklahoma, tự sát bằng súng vì muốn tự mình khám phá sự thật.

Tranh cãi về nghiên cứu của Stevenson

GS tâm thần Ian Stevenson, ĐH Virginia, Mỹ, là người tiên phong trong nghiên cứu luân hồi. Từ hàng ngàn tư liệu, ông chọn ra các trường hợp tiêu biểu và xuất bản cuốn Hai mươi trường hợp gợi ý về luân hồi, cho rằng luân hồi có thể có thật.

Các nhà khoa học không đồng ý với Stevenson. Trên tạp chí Người yêu cầu nghi ngờ năm 1994, của Ủy ban điều tra khoa học các tuyên bố dị thường (nay đổi thành Ủy ban yêu cầu nghi ngờ), Leonard Angel khảo sát trường hợp luân hồi điển hình nhất của Stevenson và kết luận, nó thất bại trong sáu đặc trưng căn bản của luân hồi. Nhà triết học Paul Edwards, 2002, xem các bằng chứng của Stevenson mang tính giai thoại.

Phản bác mạnh nhất là lập luận không có bằng chứng về các quá trình vật chất mà nhờ chúng, một nhân cách có thể tồn tại sau cái chết và được “cấy” vào một cơ thể khác. Chính Stevenson, với tư cách nhà khoa học, cũng nhận thấy hạn chế này khi trả lời phỏng vấn trên BBC (vì mọi quá trình tư duy, nhận thức, tình cảm... liên quan với “linh hồn” đều dựa trên các quá trình vật chất cụ thể trong bộ não). Một phản bác khác là tại sao chúng ta không nhớ kiếp trước của mình, nếu luân hồi là sự thật? Trước phản bác hợp lý này, có ý kiến cho rằng, luân hồi không dành cho tất cả mọi người, mà chỉ dành cho những cái chết bi thảm mà thôi. Vậy tại sao những người tài cao đức trọng nhưng chết yên bình thì không được luân hồi, mà một kẻ xấu xa lại có thể được ban đặc ân, miễn là chết đuối hoặc nhảy lầu?

Một số nhà khoa học cho rằng, bằng chứng luân hồi là kết quả của kí ức chọn lọc, trí nhớ sai hay một số hiện tượng tâm lý đặc biệt như đa nhân cách, nhân cách phân ly và kí ức ẩn giấu.

Đa nhân cách, nhân cách phân ly và ký ức ẩn giấu

Đa nhân cách là rối loạn tâm thần hiếm gặp, với chỉ hơn 200 trường hợp trên y văn thế giới được phát hiện trong 100 năm qua. Hội chứng được dư luận chú ý đầu tiên vào năm 1957, do tác phẩm Ba khuôn mặt của Eve của hai nhà tâm thần Thigpen và Cleckley về một nữ bệnh nhân có ba nhân cách là Eve trắng, Eve đen và Jane. Trong ba nhân cách thì hai Eve thường cãi nhau, còn Jane đóng vai hòa giải! Sau điều trị, người phụ nữ lấy lại được nhân cách gốc của mình. Tờ Thời báo New York ngày 11/3/1994 đăng tải bài viết về một người đàn ông có 11 nhân cách, trong đó 8 nhân cách tuyên bố biết một số chi tiết của một vụ án. Vì thế quan tòa thẩm tra xem lời khai của từng nhân cách có khớp với nhau và với vụ án hay không.

Áp phích bộ phim Ba khuôn mặt của Eve

Các nhân cách có thể nổi lên lần lượt hay đồng thời. Đó là lý do một cô gái bỗng tự xưng là một thanh niên hoàn toàn khác, dân gian gọi là “ma nhập”. Dễ bị nhập nhất là người thần kinh yếu ớt và lúc nhỏ bị ngược đãi. Ngoài ra là người ưa thích và có khả năng phân thân. Vì thế các nghệ sĩ duy cảm dễ lên đồng, xuất hồn hay bị ma nhập hơn giới khoa học duy lý.

Nhân cách phân ly là khi người bệnh khăng khăng xem mình là người khác, như một cách thoát ly khỏi thực tế không mong muốn. Nếu trong đa nhân cách, một người có thể vào vai hàng chục nhân cách khác nhau, thì trong nhân cách phân ly, thường chỉ có hai nhân cách (nhân cách gốc và nhân cách phân ly) mà thôi. Đa nhân cách và nhân cách phân ly thường gắn với các hiện tượng như cầu hồn, thoát xác, ma nhập, đầu thai hay luân hồi.

Ký ức ẩn giấu là hiện tượng tâm lý đặc biệt, khi ta nhìn, nghe, đọc hay thu nhận được một số thông tin mà không biết là ta đã biết chúng. Vì không biết nên chúng ẩn giấu trong vô thức (hay vì ẩn giấu nên ta không biết). Thuật ngữ xuất hiện do một nhà tâm lý Canada thôi miên để người bệnh nhớ về “kiếp trước”. Dưới thôi miên, người bệnh viết và nói một thứ tiếng xa lạ, mà khi tỉnh lại anh không biết nó là gì và từ đâu ra. Các nhà nghiên cứu kết luận đó là Oscan, tiền thân của tiếng Latin. Mãi sau mới biết rằng, khoảng một năm trước, trong thư viện, người bệnh ngồi bên một người đang nghiên cứu một văn bản cổ bằng tiếng Oscan. Chỉ một thoáng nhìn ở mức vô thức, do kí ức ẩn giấu mà người bệnh biết thứ ngôn ngữ tối cổ đó!

Lý giải các bằng chứng luân hồi

Hiện nay, hầu hết bằng chứng luân hồi đều dựa trên lời kể của các em bé. Báo chí phương Tây từng nhắc tới những em bé chỉ vài ba tuổi nhưng có thể kể đúng một số chi tiết đời tư hay tính cách của các vị Lạt ma Tây Tạng quá cố, khiến nhiều người xem đó là bằng chứng của luân hồi.

Khoa học lại đưa ra cách giải thích khá đơn giản về nguyên lý. Đầu tiên, do hiện tượng đa nhân cách hay nhân cách phân ly mà em bé đóng vai người khác, chứ không phải kiếp trước của em là một Lạt ma hay “linh hồn” của vị đó đang “nhập” vào em. Trong lúc đang thế vai, một số động tác, lời nói, cách ăn ngủ, chơi bời... của em có thể ngẫu nhiên phù hợp với hành vi của một người đã chết nào đó (sự ngẫu nhiên phù hợp mà có quá nhiều chi tiết chính xác, chi li, và theo trình tự nữa thì có còn là ngẫu nhiên không?) . Với những ai tin tưởng luân hồi, đó chính là bằng chứng của sự đầu thai!

Thêm nữa, có thể thông tin về người chết đã được kể trước mặt em (Sumitra có biết Shiva trước đâu? Có ai kể cho Sumitra về cái chết của Shiva đâu? Hơn nữa Sumitra không biết chữ kia mà! Rồi làm sao biết được địa chỉ nhà của Shiva ở đâu mà đưa về?, ...), và vô thức của em nắm bắt được qua ký ức ẩn giấu. Lớn lên một chút, thông tin phát lộ ở ý thức, giúp em có thể kể lại, lúc đúng lúc sai. Và hiện tượng ký ức chọn lọc của môn tâm lý sẽ giúp ta chỉ nhớ những thông tin đúng mà quên hết mọi thông tin sai để đi đến kết luận, em bé chính là kết quả của sự luân hồi.

Vậy tại sao em bé “đầu thai” có thể phân biệt được người thân, nhà cửa hay đồ chơi của người khác? Đó là do hiệu ứng Hans thông minh, tức đọc ám hiệu từ ngôn ngữ cơ thể của người xung quanh (ngựa Hans đầu thế kỉ 20 tại Berlin “biết làm toán” do đọc ngôn ngữ cơ thể người đối diện) (cái này tối nghĩa quá!). Vì quá mong muốn người chết sống lại qua luân hồi, nên gia đình tạo nhiều ám hiệu chủ ý và không chủ ý. Bắt được các gợi ý, em bé “đầu thai” có thể vượt qua mọi thử thách (thực ra là đơn giản) của một gia đình đang xúc động (Cái này khiêng cưỡng quá) .Và chắc chắn em sẽ thành công khi phát ra tín hiệu được mong đợi: con chính là người mà cha mẹ đang cần.

Tại sao thường chỉ em bé dăm ba tuổi mới “luân hồi”, còn khi lớn hơn thì ít quan tâm tới “kiếp trước”? Nhỏ hơn độ tuổi này, nhân cách chưa hình thành nên không thể “phân ly nhân cách” để đóng vai người khác. Lớn hơn độ tuổi này, nhân cách gốc ngày càng vững, nên bé khó hay không muốn thế vai nữa.

Về những trường hợp nêu trên TT&VH

Các hiện tượng tâm lý đã nêu có thể áp dụng cho mọi trường hợp luân hồi, chứ không chỉ cho ba trường hợp trên TT&VH. Bé Bình - Tiến nói đúng chuyện chết đuối và “mẹ em làm nghề đánh đánh như thế này này” (đánh máy) chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên. Hàng ngàn em bé khác nói và hành động như thế hằng ngày, nên nếu vài em tạo nên sự chú ý thì cũng không lạ. Do nhân cách phân ly mà Bình đóng được vai Tiến, với những chỉ dẫn chủ ý và không chủ ý của bố mẹ Tiến. Việc biết đường đi, nhận ra nhà... là do hiệu ứng Hans thông minh. Một chú ngựa còn biết làm toán hay biết ai là Tổng thống Mỹ, tại sao một em bé “đầu thai”, vốn rất nhạy cảm để có thể đóng vai người khác, lại không biết cần phải làm gì để cả người lớn và bản thân đều hài lòng?

Kỳ 2: Niềm tin vào các chuyện lạ

Năm 1997, tuần báo Time đưa ra số liệu thăm dò tại Mỹ, quốc gia dẫn đầu thế giới về công nghệ. Trong số những người được thăm dò ngẫu nhiên qua điện thoại, 81% tin thiên đường có thật, (Mỹ là nước có dân trí cao lắm đó! Trong tiền tệ của họ có chữ "In God We Trust - Chúng tôi Tin Cậy Chúa Trời", cứ tưởng họ viết chơi cho vui thôi, ai biết họ tin nhiều vậy chứ!) trong lúc chỉ 16% không tin; 63% tin có địa ngục so với 30% không tin. Trả lời câu hỏi: Điều gì xảy ra sau khi chết?, 61% tin là được lên thiên đường, 5% tin sẽ luân hồi, 4% cho rằng đó là dấu chấm hết và 1% sợ bị đầy xuống địa ngục. Như các con số đã thể hiện, ở đây đức tin cảm xúc đạt tới tỷ lệ 70%, trong khi sự tường minh trí tuệ chỉ có 4%!

Uri Geller: Nhìn cong thìa - tâm linh hay ảo thuật?

Những thăm dò gần đây cũng cho kết quả tương tự. Chẳng hạn kết quả của Gallup năm 2005 cho thấy, 73% số người được hỏi tin ít nhất một trong mười hiện tượng lạ. Trong đó 41% tin ngoại cảm có thật; 37% tin có những ngôi nhà bị ma ám; 25% tin thuật chiêm tinh; 20% tin có luân hồi; và đặc biệt vẫn có tới 21% số người tin phù thủy có thật! Nghiên cứu đối tượng trên toàn thế giới qua mạng của Đại học Monash, nước Úc, năm 2006 cũng cho thấy, 70% tin có các hiện tượng không giải thích được làm thay đổi cuộc đời của họ, thường là theo hướng tích cực; 80% tin có linh cảm và 50% tuyên bố đã gặp kiếp trước của chính mình. Điều đáng quan tâm là các kết quả đó bền vững với thời gian, cho dù khoa học ngày càng phát triển, giúp con người khám phá nhiều bí ẩn của tự nhiên.

Lý giải như thế nào?

Đứng trước thực tế đó, các nhà khoa học đã cố gắng đưa ra nhiều cách lý giải (cho nên có khi giải thích bừa chăng?). Chẳng hạn trong cuốn Vũ trụ nghệ thuật, do đại học danh tiếng Oxford (Anh) ấn hành năm 1995, nhà thiên văn nổi tiếng John Barrow cho rằng, hệ quả âm tính của việc trông gà hóa cuốc, tưởng có sư tử ở một nơi không có, là rất nhỏ (mất chút công sức đi đường vòng để tránh) so với việc không nhìn thấy khi nó có thật (có thể bị sư tử ăn thịt). Nói cách khác, có thể có hoặc không có ma quỷ, với người nguyên thủy, đó là một thách đố không có lời giải. Vậy tốt nhất là cứ tin nó có thật và tổ chức thờ cúng, còn hơn không tin mà nó có thật thì nguy to. Theo Barrow, đây chính là căn nguyên mang tính sinh tồn của sự mê tín.(Mắc cười ghê, vì sợ mà thờ cúng trong khi không biết mình đang cúng cái gì)

Còn theo cố thiên văn gia Carl Sagan thuộc Đại học Cornell (Mỹ), cha đẻ chương trình tìm kiếm các nền văn minh trong vũ trụ SETI, trong cuốn Thế giới quỷ ám - Khoa học như ngọn nến trong bóng tối, năm 1996, thì ngay cả ma quỷ cũng không đáng sợ bằng nỗi sợ hãi không tên; vì thế người ta cứ thích tin vào ma quỷ.

Hai nhà tâm lý Singer và Benassi thì cho rằng, việc thừa nhận thế giới huyền bí giúp con người có cảm giác làm chủ số phận tốt hơn. Bằng cách đó họ giảm được sự bất định của cuộc sống, ít nhất trong tâm tưởng. Vì thế khi có một “lý thuyết” giản đơn cho phép biết trước tương lai vốn không thể biết trước, chúng ta có xu hướng tin theo một cách không phê phán. Đó chính là nhu cầu qui hoạch trong một vũ trụ không thể qui hoạch, một nhu cầu rất con người và rất chính đáng! Vì thế chúng ta tin tử vi, chiêm tinh, xem chỉ tay, tướng số... mà không hề băn khoăn xem chúng có đúng hay không. Các kết luận đó được đưa ra sau một nghiên cứu năm 1981, khi hai ông bố trí một nhà ảo thuật trình diễn trước hai nhóm sinh viên tâm lý đại cương. Một nhóm được thông báo trước rằng, đó là một nhà tâm linh có các khả năng “kỳ diệu” như nhìn cong thìa hay làm đồ vật biến mất; trong khi nhóm còn lại biết trước rằng, đó chỉ là sự khéo tay. Sau buổi trình diễn, hai phần ba số sinh viên thuộc nhóm thứ nhất tin rằng, đó chính là khả năng tâm linh huyền diệu. Tuy nhiên, hai nhà khoa học rất ngạc nhiên khi thấy, hơn một nửa số sinh viên thuộc nhóm thứ hai, dù biết trước đó chỉ là ảo thuật, vẫn khẳng định rằng, đó không phải là ảo thuật, mà là “tâm linh”!

Và không nên quên rằng với người nguyên thủy, nhìn đâu cũng thấy thánh thần và ma quỷ. Cái nhìn đó đã lặn sâu vào vô thức để trở thành bản chất con người. Nói cách khác, niềm tin vào sự huyền bí, như loạt bài phản ánh hiện tượng luân hồi vừa đăng trên TT&VH, chính là nhu cầu của con người và được quyết định từ bản năng sinh tồn, từ bản chất bên trong của con người. Khoa học chỉ như ngọn nến trong bóng tối (lời Sagan), nên rất khó đẩy lùi xu hướng đó.

Cũng không nên quên nhu cầu giải trí của công chúng và sức ép đối với giới truyền thông. “Đuôi một con cá” không phải là tin, nhưng “Quái vật hồ Loch Ness” thì đích thị là một tin mà đa số chúng ta đều muốn nghe. Chúng ta ai chẳng thích xem cảnh David Copperfield bay lượn trong không trung hơn cảnh một vị giáo sư khẳng định, điều đó trái với qui luật tự nhiên? Vì thế khi các nhà khoa học Mỹ lập một kênh truyền hình để giải thích các hiện tượng lạ bằng khoa học vào năm 1988, thì chỉ sau ba buổi phát sóng, họ phải đóng kênh vì không có người xem. Trong khi đó, hàng chục kênh chuyên kể chuyện lạ thì phát sóng năm này qua năm khác mà không bao giờ sợ thiếu người ngồi lì trước ti vi và xem chăm chú!

Cũng có người cho rằng, vì khoa học hiện hành không thể lý giải mọi hiện tượng tự nhiên, nên nhiều hiện tượng lạ cũng có thể nằm ngoài sự giải thích của khoa học. Người viết bài này thì cho rằng, ngoài các lý do kể trên, nguyên nhân chủ yếu của niềm tin vào sự huyền bí nằm ở bí ẩn của bộ não, cấu trúc phức tạp nhất tự nhiên (À! Thì ra, vấn đề không phải ở bên ngòai mà là trong đầu của con người. Cái đầu tôi hiểu không nổi cho nên... những gì bạn tin là sai?!). Bộ não phức tạp đến mức, số khả năng kết mạng của các tế bào thần kinh - yếu tố quyết định khả năng tư duy và nhận thức - lớn hơn tổng số hạt cơ bản có trong toàn vũ trụ. Vì thế có lẽ bộ não và tâm trí mãi mãi là những bí ẩn không thể lý giải được đến tận cùng. Và đó có thể là lý do tồn tại vĩnh hằng của nghệ thuật hay tôn giáo, cũng như của niềm tin vào sự huyền bí của con người.

Kỳ 3: Ủy ban điều tra khoa học các tuyên bố dị thường

Ủy ban điều tra khoa học các tuyên bố dị thường CSICOP (Committee for the Scientific Investigation for Claims of the Paranormal), nay đổi tên thành Ủy ban yêu cầu nghi ngờ CSI (Committee for Skeptical Inquiry), là một tổ chức phi lợi nhuận được thành lập năm 1976 tại Mỹ.

Chính xác hơn, nó được thành lập ngày 30/4/ 1976 tại hội thảo quốc tế “Các trào lưu phi lý tính mới: phản khoa học và giả khoa học” tại ĐH quốc gia New York. Đây là phản ứng tự nhiên của cộng đồng khoa học đối với “cơn trào dâng” các hiện tượng mê tín mới và sự thừa nhận không phê phán các hiện tượng ngoại cảm và tâm linh (còn gọi là các hiện tượng psi) của dư luận Mỹ và một số nước phương Tây nửa cuối TK 20.

Mục tiêu

Tuyên bố của hội thảo do nhà triết học Paul Kurtz chấp bút, viết: “Hiện có sự quan tâm mạnh mẽ của dư luận đối với tâm linh, các hiện tượng huyền bí và sự giả khoa học. Truyền thanh, truyền hình, báo chí, sách, tạp chí thường xuyên đưa tin về trị liệu tâm linh, viễn di sinh học, sự bất tử, luân hồi, ảnh Kirlian, năng lượng sinh học, phẫu thuật tâm linh, trị liệu niềm tin, thuật chiêm tinh, vật thể bay không xác định, ma nhập, ma quấy rối, và “các tài năng” như Uri Geller, Edgar Cayce và Jeane Dixon”. Vì thế theo tuyên bố, xuất hiện xu hướng lành mạnh là tổ chức một chiến lược phản bác các quan điểm phản khoa học đó. Tuyên bố viết tiếp: “Với những ý nghĩ đó trong đầu, chúng tôi thành lập tổ chức tạm gọi là CSICOP (tên gọi sẽ được chỉnh sửa sau)”.

James Randi bóc trần khả năng "bẻ cong thìa bằng ý nghĩ"

Phương châm hành động của Ủy ban là không phản đối bất cứ hiện tượng lạ nào chỉ dựa trên định kiến hay tiền niệm, mà sẽ khảo sát chúng một cách cởi mở, hoàn chỉnh, khách quan và cẩn thận. Nhiều học giả lừng danh thế giới tham gia Ban điều hành Ủy ban, như Paul Kurtz (chủ tịch), Carl Sagan (cha đẻ chương trình tìm kiếm nền văn minh ngoài trái đất SETI bằng cách ghi sóng điện từ), Murray Gell-Mann (Nobel vật lý), Francis Crick (Nobel vì cấu trúc ADN), Stephen Jay Gould (tác giả thuyết tiến hóa hiện đại hóa), Richard Dawkins (nhà sinh học bác bỏ quan niệm về sự sáng tạo tối cao của nhiều nhà khoa học hàng đầu), Sergei Kapitza (nhà vật lý Nga đoạt giải Nobel), Skinner (cha đẻ thuyết hành vi của cảm xúc)... Bên cạnh đó là nhiều nhà hoạt động xã hội, nhà văn, nhà báo, nhà ảo thuật mà điển hình là James Randi,người đã thực hiện nhiều “hiện tượng tâm linh” chỉ bằng khả năng ảo thuật siêu hạng của mình. Hoạt động của Ủy ban bao gồm mọi hoạt động học thuật liên quan với các hiện tượng lạ như tổ chức nghiên cứu, đào tạo, xuất bản sách báo và tạp chí, hội thảo, tuyên truyền, phản biện... Tạp chí Người yêu cầu nghi ngờ ra hàng quí là nơi đăng tải các nghiên cứu gốc của Ủy ban, trong đó nhiều công trình đã trở thành tiêu chuẩn để đánh giá các hiện tượng psi.

Một số nghiên cứu điển hình

* Đọc nguội. Trong bài “Thuyết phục người lạ rằng bạn biết tất cả về họ như thế nào” (tập 1, số 2, 1977) nhà tâm lý Ray Hyman chứng tỏ rằng, giới tiên tri, bói toán, bói bài, bói chỉ tay, cũng như giới cầu hồn, gọi vong có thể thu được thông tin qua đọc ngôn ngữ cơ thể nhờ hiệu ứng Hans thông minh. Đây là công trình được trích dẫn nhiều nhất.

Tạp chí Người yêu cầu nghi ngờ số 1-2/2006

* Đi trên than hồng (số Thu 1985). Nhà vật lý Bernard Leikind và nhà tâm lý William McCarthy đi trên than hồng và thấy rằng, đó không phải nhờ “sức mạnh của tâm trí”, mà do nhiệt dung riêng thấp của loại than củi dùng trong thực hành (vì thế không ai đi trên sắt nung!).

* Thuật chiêm tinh (số Đông 1986-1987 và số Xuân 1987). Nhà vật lý Geoffrey Dean khảo sát thuật chiêm tinh phiên bản thật (chứ không phải các phiên bản trên báo) và nhận thấy, tuy không đáp ứng các tiêu chuẩn khoa học, nhưng nó “không nhất thiết phải đúng”. Theo Dean, nó giống như “kẹo cao su tâm lý”, thỏa mãn nhu cầu nhai (tâm lý) chứ không cần có thật.

* Thử nghiệm psi tại Trung Quốc (số Hè 1988). Đoàn đại biểu của Ủy ban được Trung Quốc mời nghiên cứu khí công và một số trẻ em có khả năng tâm linh. Mọi thử nghiệm đều cho kết quả âm tính. Dưới sự kiểm soát chặt chẽ, không một khí công sư nào tác động được tới các đối tượng ở phòng bên cạnh. Trẻ em thì không thể hiện được khả năng “tâm linh” khi sự lừa gạt bị ngăn ngừa. Và khả năng lại xuất hiện khi các điều kiện kiểm soát được gỡ bỏ.

* Kinh nghiệm cận kề cái chết: Nhập hay thoát xác? (số Thu 1991). Nữ tiến sĩ tâm lý Susan Blackmore khảo sát kinh nghiệm cận tử bằng các tiếp cận hóa thần kinh, sinh lý và tâm lý. Bà giải thích thành công kinh nghiệm dị thường đó bằng các yếu tố khoa học.

* Luân hồi (số Thu 1994). Leonard Angel khảo sát một trong 20 trường hợp luân hồi điển hình nhất của GS tâm thần học Stevenson và kết luận, nó thất bại trong sáu điểm căn bản đặc trưng cho luân hồi (Stevenson không đồng ý với phân tích).

Vĩ thanh

Ngoài Ủy ban trên (có sự tham gia của giới học thuật quốc tế), các tổ chức nghi ngờ cũng được thành lập tại nhiều nước. Ngoài các hoạt động học thuật thường qui, họ treo giải 200.000 euro mỗi nước cho bất cứ nhà ngoại cảm hay tâm linh nào thực hiện được khả năng của mình trong các thí nghiệm được thiết kế đặc biệt để ngăn ngừa sự rò rỉ thông tin qua các kênh cảm giác và sự lừa gạt. Cho đến nay chưa một ai nhận được các giải thưởng danh giá đó.

Kỳ 4: Các hiện tượng dị thường là gì?

Các hiện tượng dị thường hay các hiện tượng lạ là tập hợp nhiều hiện tượng phức tạp, từ các chủ đề tín ngưỡng - tôn giáo (như thần thánh, ma quỉ, thiên đường, địa ngục…) cho tới các lý thuyết khoa học mới mà ban đầu người ta chưa hiểu nên bị xem là dị thường. Xin giới hạn chủ đề trong phạm vi đối tượng nghiên cứu của một ngành khoa học đang gây tranh cãi là cận (hay ngoại) tâm lý (parapsychology).

Cận tâm lý là gì?

Cận tâm lý là một lĩnh vực học thuật nghiên cứu một số hiện tượng bất thường liên quan với kinh nghiệm của con người, cũng thường được gọi là các hiện tượng tâm linh (psychic phenomena) hay psi. Phần lớn giới cận tâm lý hy vọng có thể giải thích chúng, cho dù phải mở rộng biên giới hiện hành của khoa học. Một số thì tin rằng, khoa học hiện tại đủ khả năng giải thích nếu không phải tất cả thì cũng phần lớn các hiện tượng dị thường.

Nhà nghiên cứu và ảo thuật gia James Randi đang nghiên cứu

bản Tiên tri năm 1671 của Nostradamus

Ba nhóm hiện tượng là đối tượng của cận tâm lý: ngoại cảm (gồm thần giao cách cảm, thấu thị, tiên tri và hậu tri), viễn di sinh học hay tác động của tinh thần lên vật chất (chẳng hạn bẻ cong thìa bằng ý nghĩ) và các hiện tượng liên quan với sự tồn tại sau cái chết (như kinh nghiệm cận kề cái chết, xuất hồn hay thoát xác, luân hồi, ma nhập…). Chúng còn gọi là các hiện tượng psi, do hai nhà nghiên cứu Thouless và Weisner dùng lần đầu năm 1944, khi họ mượn chữ cái thứ 23 trong tiếng Hy Lạp như một thuật ngữ trung tính để mô tả các hiện tượng lạ.

Các tiếp cận cơ bản

Là một môn khoa học, cận tâm lý có 5 tiếp cận cơ bản: 1) Nghiên cứu kinh viện, khi thảo luận các chủ đề có tính triết học của cận tâm lý; 2) Nghiên cứu phân tích, khi tiến hành phân tích các bộ số liệu lớn về psi; 3) Nghiên cứu các trường hợp cụ thể, gồm xem xét kinh nghiệm cá nhân, khảo sát tại thực địa, so sánh niềm tin và sự kiện xảy ra ở các nền văn hóa khác nhau; 4) Nghiên cứu lý thuyết, khi lập mô hình toán học, mô hình mô tả hay hiện tượng luận cho psi; 5) Nghiên cứu thực nghiệm, khi cố gắng kiểm soát psi trong phòng thí nghiệm.

Vòng tròn trên các cánh đồng nước Anh -

sản phẩm của người ngoài hành tinh?

Ở Việt Nam mới manh nha một số nghiên cứu thuộc ba nhóm giữa; chẳng hạn nghiên cứu nhà ngoại cảm Nguyễn Văn Liên (phương pháp 2 và 3) hay cố GS Nguyễn Hoàng Phương lập mô hình toán cho trường sinh học năm 1981. Trong khi đó, hai tiếp cận quan trọng nhất là tiếp cận 1 có vai trò dẫn dắt về thế giới quan và tiếp cận 5 có thể cung cấp những bằng chứng quyết định thì chưa được triển khai.

Bốn quan điểm về psi

Vì khoa học chưa thu thập được bằng chứng quyết định, cũng như chưa có lý thuyết thống nhất, nên hiện có bốn quan điểm đánh giá psi như sau:

Quan điểm 1: Không thừa nhận sự tồn tại của psi. Theo những người phản đối, psi không thể tồn tại vì trái ngược với nền tảng khoa học mà con người đã thiết lập được. Tờ Tuần tin tức (Mỹ) từng cho rằng, công nhận thần giao cách cảm hay viễn di sinh học là bác bỏ thành tựu của khoa học hiện đại trong suối 300 năm qua. Nhiều nhà vật lý ủng hộ quan điểm này, vì dường như psi trái ngược với các qui luật vật lý như bảo toàn năng lượng, dẫn truyền thông tin…

Điểm mạnh của quan điểm này là dựa trên nền tảng khoa học hiện hành. Ưu điểm khác là cho đến nay, chưa ai đưa ra được một bằng chứng đủ tin cậy về psi. Điểm yếu của trào lưu này là kiên quyết bác bỏ một số hiện tượng có thể có thật.

Quan điểm 2: Gắn psi với tín ngưỡng và tôn giáo. Theo đó, psi là bằng chứng của linh hồn bất tử (như luân hồi hay khả năng đọc ý nghĩ người chết), ma quỉ (như ma nhập hay “ngôi nhà ma ám”), thánh thần (như kinh nghiệm cận kề cái chết, xuất hồn hay thoát xác).

Không nên nghĩ đơn giản là quan điểm này góp phần khôi phục sự mê tín dị đoan, vì hiện nay nhiều nhà khoa học nổi danh lại có xu hướng thần học khi đối mặt với những câu hỏi về nguồn gốc hay ý nghĩa của vũ trụ. Vì thế nếu có người tin rằng Big Bang chính là hiện thân của đấng sáng tạo tối cao (đều là khởi thủy của vũ trụ) thì cũng không có gì lạ.

Người viết cho rằng, quan điểm này không phải là đối tượng của khoa học. Đó là hai lĩnh vực khác nhau (dù có thể bổ sung cho nhau), vì tín ngưỡng dựa trên niềm tin, còn khoa học dựa trên sự nghi ngờ.

Quan điểm 3: Xem khoa học hiện hành không đủ khả năng giải thích psi. Trường phái này giả định psi nằm ngoài giới hạn của khoa học hiện hành. Vì thế để giải thích psi, nó dùng hai tiếp cận. Một là dùng các quan niệm cổ xưa (giải thích tiên tri bằng Kinh Dịch, tử vi hay chiêm tinh; giải thích “đọc ý nghĩ người chết” hay hậu tri bằng linh hồn, ma quỉ; giải thích phong thủy hay cảm xạ học bằng quan niệm thiên địa nhân hợp nhất, thiên nhân giao cảm…). Hai là phát triển các lý thuyết mới như trường sinh học, năng lượng và thông tin sinh học (từng xuất hiện tại nước ta, điển hình là nghiên cứu của cố GS Nguyễn Hoàng Phương), lý thuyết lượng tử của tương tác giữa vật chất và tinh thần (điển hình là học giả Roger Penrose tại Cambridge, Anh), lý thuyết các chiều không gian dư, lý thuyết các vũ trụ song song…

Nhược điểm lớn nhất của trường phái này là tính tư biện và siêu hình, là sự thoát ly khỏi các nền tảng khoa học hiện đại, đặc biệt là các thành tựu của khoa học tâm trí. Chẳng hạn, họ xem thần giao cách cảm không tuân theo qui luật suy giảm theo khoảng cách của vật lý mà không biết rằng, các sóng điện từ tần số cực thấp (như sóng điện não) có thể lan truyền vòng quanh Trái đất nhờ cộng hưởng Schumann. Hoặc các luận giải về linh hồn, trường hào quang… cho thấy họ ít quan tâm tới những khám phá mới về bộ não và tâm trí, đặc biệt là vô thức, thành tố quan trọng nhất trong các hiện tượng psi.

Quan điểm 4: Giải thích một số yếu tố có thực của psi bằng khoa học hiện đại. Quan điểm này thừa nhận một phần sự tồn tại của psi và cố gắng giải thích bằng khoa học hiện hành. Chẳng hạn giải thích tương tác giữa các sinh thể với môi trường bằng các điện từ trường sinh học; giải thích khả năng bắt tín hiệu nhỏ yếu từ xa bằng ngưng tụ sinh học và hệ xử lý tiềm thức độ nhạy cao; giải thích một số yếu tố của xuất hồn, kinh nghiệm cận tử, luân hồi… bằng các hoạt động vô thức hay bằng các rối loạn tâm thần như nhân cách phân ly hay đa nhân cách; giải thích niềm tin vào tiên tri bằng nhu cầu qui hoạch tương lai của con người; giải thích các trào lưu mê tín mới bằng niềm tin vào sự huyền bí, vốn là nét nhân cách được hình thành và gìn giữ qua hàng triệu năm tiến hóa.

Ưu điểm lớn nhất của khuynh hướng này là có thể giải thích psi một cách khoa học và biện chứng; là chỉ ra được giới hạn của psi nhằm chống lại sự lạm dụng; là sự tin tưởng vào các nguyên lý căn bản của triết học duy vật và khoa học hiện đại. Người viết là người kiên trì ủng hộ trào lưu tư tưởng này.

(Sưu tầm - Tác giả là Đại tá, nhà nghiên cứu Đỗ Kiên CườngViện Vật lý Y Sinh học - Trung tâm Khoa học kỹ thuật và công nghệ quân sự - Bộ Quốc phòng)

- N.N.Khánh: Tớ là người Tin Chúa Trời nên không tin có kiếp luân hồi theo quan điểm Phật Giáo, nhưng quả thật có nhiều điều chưa hiểu hết nên tớ không dám khẳng định điều gì.

Có 1 câu chuyện về người chết sống lại mà qua đó Chúa Giêxu dạy: Họ đã không muốn tin "thì dù có ai từ kẻ chết sống lại, chúng nó cũng chẳng tin vậy". (Kinh Thánh - Phúc Âm Lu-ca 16:19-31)

Tớ thí dụ: Vì người vô tín vốn đã in trí trong đầu mình là không có thiên đàng, địa ngục. Cho nên nếu có 1 người thân nào của họ (không nói đến người ở xa) chết đi sống lại, thay vì lắng nghe người ấy nói thì họ lại tìm cách giải thích hiện tượng đó mà thôi!

Tags: k-luanhoi

Prev: Trả lời câu hỏi của một bạn trẻ "Lưng chừng 20 - 30 thì yêu làm sao?"

Next: "Bài văn bị điểm không" của nhà văn Nguyễn Quang Sáng

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro