bien hoang 401-450

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Tâm tình Yến Phi tuyệt không an tĩnh. Nguyên nhân đến từ nhiều phương diện vì chúng có ảnh hưởng lẫn nhau, tạo thành một mạng lưới vận mệnh. Chỉ cần là đặt thân trong thế cục của sinh tử như vậy thì không ai có thể may mắn tránh được.

Sáng sớm nay, chàng cảm ứng được Tôn Ân. Tinh thần và lực lượng của Tôn Ân đã lớn mạnh rất nhiều, làm chàng phát sinh cảm giác đất trời tuy rộng nhưng lại không có chỗ nào có thể trốn tránh được. Đương nhiên chàng không nghĩ sẽ chạy trốn vì căn bản là muốn tránh cũng không được, chỉ còn cách đối mặt với lão. Sự tinh tiến mạnh mẽ của Tôn Ân quả thực làm chàng không thể tưởng nổi. Điều đó cho thấy do được tiên môn khai mở, làm Hoàng Thiên đại pháp của lão đạt tới cực hạn trên nhân thế, hoàn toàn vượt quá võ kỹ của thế tục. Lão đã đạt tới cảnh giới tối cao là “tinh hoa đoạt cả thiên địa”, “thiên nhân hợp nhất”.

Sở dĩ chàng có ý trốn tránh tuyệt không phải vì sợ hãi Tôn Ân mà chính là hy vọng có thể sớm quay về Biên Hoang tập để ứng phó sự xâm phạm của Bí tộc.

Chàng hiểu rõ hơn ai hết sức phá hoại của Bí tộc, biết phương thức hành sự của chúng vì chúng tuyệt không chịu tiếp thu quy phạm đạo đức lễ pháp mà người bình thường tuân theo.

Mặc Sĩ Minh Dao gây ra vết thương lòng nghiêm trọng sâu sắc đến thế là vì chàng đã quên mình theo đuổi rồi mới phát giác ra nàng ta đang đùa giỡn với tình cảm của mình.

Đối với Mặc Sĩ Minh Dao mà nói, Yến Phi chỉ là một món đồ chơi tiện tay cầm lấy, bỏ đi cũng không tiếc. Sự tỉnh ngộ này làm tổn hại triệt để tâm tình Yến Phi. Trước khi rời khỏi Mặc Sĩ Minh Dao, mọi cử chỉ của Yến Phi vẫn như thường, không hề có một câu trách cứ nàng ta. Chàng chỉ âm thầm bỏ đi.

Khi đó, Mặc Sĩ Minh Dao giả trang thành quý tộc Quy Tư quốc, đến Trường An biểu diễn nhạc vũ vang danh thiên hạ của Quy Tư. Đi cùng nàng là một người tên Hướng Vũ Điền. Y mới là tình lang chân chính của Mặc Sĩ Minh Dao.

Chàng chưa từng giao thủ với Hướng Vũ Điền, nhưng cảm thấy võ công y không dưới Mặc Sĩ Minh Dao. Đó chỉ thuần là cảm ứng giữa cao thủ với cao thủ.

Bỏ qua không nói chuyện võ công thì bất kể là tư tưởng, hành vi hay cách xử sự của Hướng Vũ Điền đều có điểm khác người. Từ vẻ ngoài cho tới tính cách đều tràn đầy mỵ lực. Đó là một loại mỵ lực gần như yêu dị, làm y trở thành một người vô cùng đặc biệt, tràn đầy phong cách riêng.

Hồi tưởng lại, việc Mặc Sĩ Minh Dao thích chàng, một nửa chắc là xuất phát từ sức hấp dẫn giữa nam và nữ. Nửa khác khẳng định là để đả kích Hướng Vũ Điền, làm y đố kỵ.

Nhưng Hướng Vũ Điền lại làm như hoàn toàn không quan tâm đến quan hệ nóng bỏng giữa Mặc Sĩ Minh Dao và chàng. Y còn tỏ ra thân cận hơn với Yến Phi, thường cùng Yến Phi đàm luận về những ý niệm và suy nghĩ thiên hình vạn trạng của y.

Cuồi cùng cũng đến một ngày Yến Phi phát hiện quan hệ thực sự giữa Mặc Sĩ Minh Dao và Hướng Vũ Điền. Mình chỉ là một tên đại ngốc chen vào giữa họ. Yến Phi lòng đau như cắt, biết rằng không thể ở lại được nữa, chỉ còn cách bỏ đi cho xong.

Chàng chưa từng nghĩ sẽ có ngày gặp lại hai người. Nhưng rõ ràng vận mệnh không tha cho chàng, lại còn là quan hệ đối địch không còn lựa chọn nào khác.

Nếu như không thể đánh bại Bí tộc, Biên Hoang tập khẳng định sẽ kết thúc. Thác Bạt Khuê sẽ biến thành cô lập không có viện trợ. Mộ Dung Thùy sẽ trở thành người thắng lợi. Chủ tì Thiên Thiên sẽ vĩnh viễn là tù nhân trong tay Mộ Dung Thùy.

Trong tình hình đó, Tôn Ân trở thành vấn đề đau đầu nhất của chàng.

Mộ Dung Chiến đến Bắc môn. Bọn Trác Cuồng Sinh, Giang Văn Thanh, Thác Bạt Nghi, Cơ Biệt, Hồng Tử Xuân, Cao Ngạn, Diêu Mãnh, Âm Kì, Phương Hồng Sinh và Lưu Mục Chi đã tập trung ở đây. Ngoài ra còn có mấy chục huynh đệ Hoang nhân nữa. Mọi người đều lộ vẻ ủ rũ.

Mộ Dung Chiến nhíu mày hỏi: “Đuổi theo không kịp ư?”

Âm Kì than: “Thật làm người ta không thể tin được. Hắn luôn chạy trước bọn ta, càng chạy càng nhanh, ngựa không thể đuổi kịp. Khi hắn chạy vào trong một khu rừng hoang dã thì ta sợ hắn sẽ tập kích trong rừng nên mới hạ lệnh thủ tiêu hành động truy sát hắn.”

Diêu Mãnh hỏi: “Đó là võ công quỷ quái gì vậy? Trên đoạn đường ngắn chạy nhanh hơn ngựa thì không có gì ly kỳ. Đằng này trên đoạn đường dài hơn mười dặm mà vẫn nhanh hơn ngựa thì ta chưa từng nghe qua.”

Mộ Dung Chiến đáp: “Đó là một loại kỳ công ‘Huyết Giải’, dùng việc trích máu để thúc đẩy hết tiềm năng trong cơ thể. Vì thế có thể làm những việc mà bình thường con người không làm được.”

Mọi người ngạc nhiên nhìn hắn.

Giang Văn Thanh hỏi: “Mộ Dung đương gia làm sao lại biết?”

Mộ Dung Chiến giơ cao thanh kiếm đang cầm trong tay trái lên, cười khổ nói: “Là do Sóc Thiên Đại cho ta biết. Chủ nhân thanh kiếm này tên là Hướng Vũ Điền, là một cao thủ siêu quần ngoài Mặc Sĩ Minh Dao của Bí tộc, võ công lại có sư thừa riêng, kỳ công bí kỹ xuất ra không bao giờ hết. Hà! Tại sao không thấy Trấn Ác huynh?”

Phương Hồng Sinh đáp: “Hắn không chịu bỏ, kiên trì tiếp tục truy đuổi địch. Bọn ta chỉ còn cách mặc kệ hắn.”

Âm Kì nói: “Hắn là một hảo hán tử. Nói thật, khi ta thấy bóng sau lưng tên cao thủ Bí tộc tên là Hướng Vũ Điền gì đó càng chạy càng nhanh, trong lòng ta càng lúc càng thấy ớn lạnh. Nếu muốn ta một mình đuổi theo y thì ta thật không có dũng khí.”

Mọi người trong lòng đều cảm giác được sự ớn lạnh do sợ hãi gây ra đó. Âm Kì không phải là một hảo thủ giang hồ bình thường mà đã kinh qua nhiều gió to sóng lớn trên giang hồ, là nhân vật hạng nhất mà Đồ Phụng Tam coi là trợ thủ đắc lực. Hắn mà cũng phát sinh cảm giác sợ hãi người đó thì đủ biết Hướng Vũ Điền lợi hại đến thế nào.

Trác Cuồng Sinh cảm thán: “Kỳ công dị thuật của người đó làm người ta không tưởng nổi. Nhưng làm người khác kinh hãi nhất là trí tuệ tùy cơ ứng biến của y. Một ngày mà chưa trừ diệt được người đó thì Biên Hoang tập thật khó yên ổn được.”

Lưu Mục Chi vẫn giữ vẻ khí định thần nhàn, cười nhẹ: “Hiện tại, quyền chủ động vẫn ở trong tay chúng ta. Ít nhất thì đã bức Hướng Vũ Điền phải chạy khỏi Biên Hoang tập. Trấn Ác huynh lại không phải là người thất phu cậy mạnh. Hắn dám tiếp tục truy đuổi thì sẽ tự có cách nhìn nhận và sự đảm bảo. Bọn ta không cần lo cho hắn.”

Trác Cuồng Sinh nói: “Đến Thuyết Thư quán của ta đi. Đứng giữa đường đông người xung quanh mà nói chuyện này sẽ làm họ sợ hãi đó.”

Thác Bạt Khuê giục ngựa từ từ tiến về phía tây. Trưởng Tôn Tung và Thúc Tôn Phổ Lạc theo sát hai bên đằng sau. Hơn trăm thân vệ theo sau, làm dấy lên một đám bụi mờ.

Gió tây bắc từng trận quất tới, làm bụi mù trên không trung tan dần.

Hai ngày nay khí trời chuyển lạnh. Xem ra một trận tuyết lớn không còn xa nữa.

Thác Bạt Khuê lòng như lửa đốt, chính hắn cũng không hiểu nguyên nhân.

Nhận được tin Sở Vô Hạ mang Phật tàng trở về, hắn lập tức phái Trưởng Tôn Đạo Sinh và Thôi Hoành lĩnh năm trăm quân tinh nhuệ đến Thịnh Nhạc hộ tống họ và một lượng lớn hoàng kim về Hồ Thành, sau đó chuyển tới Biên Hoang tập.

Hắn có ý muốn tài bồi cho Thôi Hoành, để hắn quen thuộc hết hoàn cảnh địa lý khu vực đó.

Thác Bạt Khuê căn bản chưa từng nghĩ trong tình thế như bây giờ lại có người dám có ý đánh cướp xa đội của hắn. Hiện tại, Mộ Dung Tường và Mộ Dung Bảo đều đang quay về Trung Sơn nên từ Thịnh Nhạc cho tới Bình Thành và Nhạn Môn đều nằm trong phạm vi thế lực hắn thao túng. Ai mà dám động thổ trên đầu Thái tuế*?

Nửa khắc trước, hắn tiếp được tin khoái mã báo về xa đội bị phục kích trước khi trời sáng. Địch tuy chỉ có hơn trăm người, nhưng người nào cũng võ công cao cường, trước khi tập kích lại không hề có dấu hiệu báo trước. Toàn nhờ Sở Vô Hạ, Trưởng Tôn Đạo Sinh và Thôi Hoành liều chết phản kích, đánh lùi địch nhân nhưng bên mình mất gần năm mươi chiến sỹ, tử thương thật thảm trọng.

Sở Vô Hạ, Trưởng Tôn Đạo Sinh và Thôi Hoành đều bị thương. Trong đó, Sở Vô Hạ thương thế nghiêm trọng nhất.

Rốt cuộc là từ đâu đột nhiên mọc ra đám địch nhân lợi hại đó? Sở Vô Hạ tuyệt không phải là người tài hèn trí thấp. Nàng kiêm thủ tuyệt kỹ hai nhà Trúc Pháp Khánh và Ni Huệ Huy. Kể cả Yến Phi nếu muốn giết nàng cũng phải tận hết sức lực. Thần thánh phương nào có thể lợi hại đến thế?

Bản thân hắn cũng không rõ tâm tình của mình phiền não bất an có phải là do đột nhiên mọc ra đám địch nhân thần bí đó hay không, hay là do tức giận vì xa đội vận chuyển hoàng kim bị tập kích, hoặc cũng có thể do Sở Vô Hạ bị thương nên trong lòng lo lắng.

Làm người ta kinh hãi nhất là bên địch hoàn toàn không lưu lại một người chết nào, khiến người ta càng cảm thấy sự quỷ dị của địch nhân.

Làm sao đối phương biết có xa đội vận chuyển hoàng kim? Nếu không có Trưởng Tôn Đạo Sinh và Thôi Hoành đến tiếp ứng thì tình hình càng không dám tưởng tượng.

Bỗng nhiên Thác Bạt Khuê hiểu được gian khổ đã quay lại, ưu thế mà hắn phải trải qua bao gian lao vất vả vừa mới tạo được đang chịu một sự khiêu chiến và khảo nghiệm rất khắc nghiệt.

Thạch lựu đỏ hồng như lửa, tỏa hương thơm khắp điện đường.

Lựu Hỏa các nằm ở phía bắc ngự trì trong ngự hoa viên. Điện đài, lầu các bốn phía đều đầy thạch lựu, quýt, hòe và dương thụ. Cây cối xanh tươi, trái lựu đỏ hồng, cảnh đẹp như tranh vẽ.

Từ Lựu Hỏa các nhìn ra phía ngự trì thì thấy một loạt đình đài lầu các hành lang quanh co bên bờ đối diện, kỳ thạch quái thụ đan xen lẫn nhau, ý cảnh thâm sâu.

Lựu Hỏa các kết cấu dựa vào Uyên Ương thính, hai tòa thính các đông tây đều có xà cột. Nhìn từ trong ra thì thấy hai nóc nhà, mái ngoài là một mái cong vểnh hướng lên phía đỉnh. Trong phòng dùng bình phong ngăn cách. Tư Mã Đạo Tử vì đã cho gọi ba người bọn Lưu Dụ tới nên di chuyển bình phong đi, hai phòng nhỏ trở thành một phòng lớn.

Cùng tiếp khách, ngoài Tư Mã Nguyên Hiển còn có hai đại tướng tâm phúc của Tư Mã Đạo Tử là Tư Mã Thượng Chi và Vương Du, cho thấy Tư Mã Đạo Tử đối với cuộc ngọ yến tưởng chừng tuỳ tiện đó không đơn giản.

Lưu Dụ nhìn ra mặt ngự trì được trồng đầy hoa sen, trong lòng lại nhớ đến lúc nãy gặp Hoàng đế Đại Tấn, gã có chút cảm xúc.

Tư Mã Đức Tông nhìn qua chừng mười sáu, mười bảy tuổi, mình mặc long bào. Hắn không nhìn những người trước mặt mà trong mắt là một phiến mơ hồ, chừng như đang nhìn ngươi, nhưng nhưng lại không nhìn. Khí trời mặc dù bắt đầu chuyển lạnh mà hắn đã mặc áo bông dày ngự hàn, chừng như bên ngoài đang đổ tuyết lớn. Khó chịu nhất là những hỏa lò do cung nga thái giám thị hầu đằng sau hắn, làm những người gặp hắn đều phải chịu khổ như nhau. Không biết vì hắn tiết kiệm lời nói hay là có trở ngại trong việc dùng ngôn từ biểu đạt mà ngoài việc gật đầu ra hiệu đồng ý thì tất cả đều do Tư Mã Đạo Tử làm thay.

Nhưng lần gặp này đúng là một sự chuyển đổi có tính quan trọng. Tư Mã Đạo Tử thông qua vị Hoàng đế con rối chỉ biết gật đầu đó ban hành cho gã nửa mảnh hổ phù và Nhậm mệnh trạng**, có thể mang theo hai vạn quân. Lại cho Đồ Phụng Tam và Tống Bi Phong làm tả hữu phó tướng của gã, đồng thời ân tứ cho hai mươi người mà Lưu Dụ tuyển chọn làm thân binh. Từ nay, Lưu Dụ đã có căn cứ để ra lệnh trong quân, ý nghĩa vô cùng trọng đại.

Từ trước tới nay, việc thăng chức trong Bắc Phủ binh ngoại trừ chức Đại đô đốc thì triều đình không trực tiếp tiến hành, chỉ do Đại đô đốc bẩm lên triều đình, rồi do triều đình chấp thuận. Nhưng gần đây, uy thế của Lưu Lao Chi thua xa Tạ Huyền, lại đang xuất chinh bên ngoài. Tư Mã Đạo Tử thừa cơ bỏ qua Lưu Lao Chi, trực tiếp trao quân quyền cho Lưu Dụ làm gã không còn là một tướng quân chỉ có danh mà không có lính nữa.

Chỗ xảo diệu là hàm cấp chức vụ của Lưu Dụ không thay đổi, thêm nữa bản thân Lưu Dụ trong quân có địa vị đặc thù. Cho nên dù lần này Tư Mã Đạo Tử tuy rõ ràng tước quyền giao nhiệm vụ của Lưu Lao Chi trong quân nhưng lại đạt được sự ủng hộ của đại bộ phận tướng lính trong quân. Lưu Lao Chi cũng khó đưa ra dị nghị gì.

Rượu đã quá ba tuần, Tư Mã Đạo Tử ân cần mời mọc, không khí rất hòa hợp.

Trong ba người, lộ vẻ không tự nhiên nhất là Tống Bi Phong. Nhưng Tư Mã Đạo Tử nói một hồi về chuyện ‘hoài niệm Tạ An’, tỏ ra tôn sùng Tạ An vô cùng, làm Tống Bi Phong cũng cảm thấy thư thái hơn nhiều.

Chủ đề nói chuyện chuyển sang việc giết Can Quy tối qua. Lưu Dụ và Đồ Phụng Tam một mực quy công lao cho Tư Mã Nguyên Hiển đã giúp đỡ rất nhiều. Tư Mã Nguyên Hiển càng nói càng nở mày nở mặt, vô cùng hưng phấn.

Ít nhất thì bề ngoài Tư Mã Đạo Tử đã cởi bỏ lòng cảnh giới đối với Lưu Dụ làm chủ khách càng thêm hân hoan vui vẻ.

Tư Mã Thượng Chi đột nhiên nói về cuộc chiến chinh phạt Thiên Sư quân. Lão nhìn Lưu Dụ ra giọng khách khí để thỉnh giáo: “Lưu đại nhân cho rằng quân Nam chinh sẽ thắng nhỏ trước, sau sẽ đại bại rốt cuộc có căn cứ nào?”

Lưu Dụ khiêm tốn đáp: “Đó chỉ là dự đoán của tiểu tướng mà thôi, tuyệt không có bằng cứ đặc biệt nào. Do tiểu tướng từng giao thủ với Thiên Sư quân ở Biên Hoang tập nên có chút hiểu biết đối với Từ Đạo Phúc, lại đặt bản thân mình vào vị trí đó mà nghĩ. Ví dụ đặt bản thân vào vị trí Từ Đạo Phúc sẽ ứng phó quân bình loạn của triều đình thế nào? Vì thế mới có kết luận đó.”

Lời gã nói vô cùng đắc thế, không làm người ta khó chịu vì thấy hắn khoa trương tài trí. Gã lại chỉ ra việc mình biết rõ chiến lược của Từ Đạo Phúc hơn là Tạ Diễm và Lưu Lao Chi vì thế tuyệt không phải gã cố ý nói quá lên để dọa dẫm.

Vương Du không hiểu hỏi: “Lưu đại nhân tại sao chỉ đề cập đến Từ Đạo Phúc mà không nói đến Tôn Ân? Chẳng lẽ Tôn Ân không còn là lãnh tụ tối cao của Thiên Sư quân sao? Thân thúc của Tôn Ân là Tôn Thái bị triều đình xử quyết, Tôn Ân chạy ra hải đảo, mang chí phục thù, tôn Tôn Thái là tổ thần đã vũ hóa thành tiên. Lần này Thiên Sư quân làm loạn, Tôn Ân lại tụ thủ bàng quan sao?”

Hai vấn đề mà hai người thay nhau hỏi là đã thương lượng với Tư Mã Đạo Tử trước. Đó cũng là nghi vấn trong lòng Tư Mã Đạo Tử nhưng do người thân tín hỏi thay thì phù hợp hơn.

Lưu Dụ biết buổi ngọ yến này vô cùng quan trọng, sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến cách nhìn của Tư Mã Đạo Tử đối với gã, ảnh hưởng tới giá trị lợi dụng của gã trong lòng Tư Mã Đạo Tử.

Lưu Dụ ung dung đáp: “Tôn Ân tuy có tiếng là thủ lĩnh Thiên Sư quân, nhưng lại là thượng cấp siêu nhiên của Thiên Sư quân, trở thành lãnh tụ tinh thần. Toàn bộ việc quân đều giao cho hai đồ đệ xử lý. Tình hình đó đã lộ rõ khi Thiên Sư quân cử hành chiến dịch đánh chiếm Biên Hoang tập. Khi Từ Đạo Phúc và Lư Tuần lĩnh quân đánh Biên Hoang tập thì lão lại ở Trấn Hoang cương quyết chiến cùng Yến Phi. Suốt chiến dịch, lão độc lai độc vãng. Điều đó có thể thấy lão không có hứng thú lãnh đạo quân đội. Đến chiến dịch gần đây nhất là đánh phá Cối Kê, lão chỉ một mình hành động đuổi giết Vương phu nhân.”

Tư Mã Đạo Tử gật đầu: “Có đạo lý! Sau khi công hãm Biên Hoang tập, Tôn Ân lập tức bỏ về hải đảo tiềm tu. Như vậy đủ biết lão không quan tâm tới việc quân, chỉ một lòng truy cầu việc vô bổ là thành tiên thành thánh gì đó.”

Lưu Dụ đáp: “Chỉ cần xem việc Lư Tuần có thể đến Kiến Khang gây sóng gió là biết quân quyền đã rơi hết vào tay Từ Đạo Phúc rồi. Đối thủ của quân dẹp loạn chính là Từ Đạo Phúc không còn nghi ngờ gì nữa.”

Tư Mã Thượng Chi hỏi xen vào: “Từ Đạo Phúc là người thế nào?”

Lưu Dụ đáp: “Người này mưu lược cực kì phong phú, tinh thông binh pháp, tuyệt không phải là loại hữu dũng vô mưu. Từ việc ngày trước hắn cơ trí liền thay đổi chiến lược, rút khỏi Biên Hoang tập để bảo tồn thực lực Thiên Sư quân là biết hắn là người lắm mưu nhiều kế.”

Tư Mã Nguyên Hiển hỏi: “Lần này quân ta Nam hạ dẹp loạn là đã qua nhiều lần tính đi tính lại, có kế hoạch chu toàn. Về nhân số tuy thua xa loạn dân, nhưng là quân tinh nhuệ, được huấn luyện bài bản, hơn xa Thiên Sư quân chỉ là một bọn ô hợp. Lưu huynh tại sao lại không lạc quan thế?”

Lưu Dụ đáp: “Thiên Sư quân đánh Biên Hoang tập tuyệt không phải là đội quân ô hợp. Vì thế trong Thiên Sư quân cũng có tinh binh, nhân số cũng không dưới năm vạn. Với tác phong của Từ Đạo Phúc sẽ không dễ dàng đưa số tinh binh này ra chiến trường mà chờ đợi cơ hội. Lại có thể làm quân dẹp loạn sinh ra cảm giác sai lầm, cho rằng Thiên Sư quân chỉ có thế thôi, sau đó sẽ sinh lòng tự tin sai lầm. Một khi khinh suất sẽ là cơ hội cho địch lợi dụng.”

Tư Mã Đạo Tử nhíu mày hỏi: “Con số năm vạn ấy làm sao có được?”

Đồ Phụng Tam điềm đạm nói: “Là do Phụng Tam cung cấp. Phụng Tam quan tâm nhất là công tác tình báo, tự tin con số đó tuy không chính xác nhưng cũng không sai mấy.”

Mọi người trầm mặc hẳn xuống. Ai nấy đều thầm tính toán.

Lưu Dụ và Đồ Phụng Tam luôn giữ vững quan điểm quân viễn chinh sẽ thắng lợi nhỏ rồi sau sẽ đại bại. Chỉ cần Tư Mã Đạo Tử tin tưởng cách nhìn này của họ thì kế hoạch của họ có thể triển khai toàn diện. Nếu như quân viễn chinh đại bại quay về đúng như sở liệu thì dưới tình hình đó, nếu Tư Mã Đạo Tử muốn đánh bại Thiên Sư quân thì Lưu Dụ trở thành lựa chọn duy nhất của lão.

Đồ Phụng Tam phá vỡ bầu không khí nặng nề khó thở: “Hai lộ quân dẹp loạn phải chăng chuẩn bị hội sư ở Cối Kê?”

Tư Mã Đạo Tử, Tư Mã Nguyên Hiển, Tư Mã Thượng Chi và Vương Du đồng thời động dung.

Tư Mã Đạo Tử nói: “Phụng Tam rốt cuộc là đoán mò hay có tin tức chính xác?”

Tống Bi Phong chen ngang nói: “Ta dám đảm bảo là Phụng Tam đoán ra vì Bi Phong lần đầu tiên nghe thấy chuyện này.”

Từ phản ứng của bọn Tư Mã Đạo Tử là biết Đồ Phụng Tam đã đoán đúng. Đó không những là mục tiêu quân sự của quân dẹp loạn, lại là bí mật trọng yếu. Chỉ có những người chủ soái như Tạ Diễm và Lưu Lao Chi mới biết. Lưu Lao Chi đương nhiên không nói cho Lưu Dụ biết. Tính ra chỉ còn Tạ Diễm, nhưng Tống Bi Phong đã biểu lộ rõ như thế đã loại trừ khả năng Tạ Diễm đã làm lộ tin.

Đồ Phụng Tam nói: “Ta có thể đoán được thì đương nhiên cũng khó giấu được Từ Đạo Phúc. Nếu ta là hắn, sẽ lợi dụng quân dẹp loạn hành quân rất dài mà nghĩ ra biện pháp chặt đứt hai tuyến đường cấp lương thủy lục, làm quân dẹp loạn không được bổ sung, lún sâu vào trận địch.”

Tư Mã Đạo Tử cười nhẹ: “Vấn đề này chúng ta chưa từng nghĩ qua, nhưng may là một dải Chiết Đông*** là quê hương lúa gạo, lương thực sung túc. Chỉ cần lấy lương ở đó là có thể giải quyết vấn đề quân nhu rồi.”

Lưu Dụ than: “Đó chính là hậu quả mà bọn tôi lo lắng nhất. Cũng là việc Từ Đạo Phúc mong muốn xảy ra nhất. Cưỡng bức thu lương thực của dân sẽ làm tình hình bộc phát không thể thu thập được, biến thành việc dung túng cho thủ hạ sát nhân cướp lương, càng đẩy cao lòng quyết tâm chống đối đến chết của dân chúng. Thế yếu đó nếu đã xuất hiện thì không một thống lĩnh nào có thể khống chế được.”

Tống Bi Phong nói: “An công sinh tiền từng nói muốn dẹp loạn Thiên Sư đạo thì ngoài việc chuyên cần tu bổ võ bị, còn phải mất công phu đối với dân chúng, cần có sách lược phủ dụ dân chúng. Nếu không, dân loạn sẽ biến thành nguyên liệu để lửa cháy càng to thêm, cuối cùng sẽ có một ngày thiêu hủy cả Kiến Khang.”

Tư Mã Đạo Tử tắc miệng không nói được gì.

Mọi người đều không dám nói năng, sợ làm nhiễu loạn suy nghĩ của lão.

Một lát sau, Tư Mã Đạo Tử thở dài, trầm giọng: “Đại quân đã đi rồi. Việc đó đã không thể thay đổi. Ba vị có biện pháp bổ cứu nào không?”

Ba người ngấm ngầm thở nhẹ. Cái họ muốn nghe nhất chính là câu cuối cùng này.

Lưu Dụ và Đồ Phụng Tam khẽ liếc mắt nhìn nhau, biết đã đến lúc đem toàn bộ kế hoạch dâng lên, không sợ Tư Mã Đạo Tử sẽ cự tuyệt vì lão là người thông minh, biết không còn lựa chọn nào khác.

Chú thích:

* Nguyên văn: Thái tuế đầu thượng động thổ (太岁头上动土). Nghĩa của thành ngữ này có thể hiểu như xâm phạm người cường bạo hùng mạnh. Ở đây tác giả muốn nói ai ở trong vùng của Thác Bạt Khuê mà dám giỡn mặt hắn, vuốt râu hùm.

** Hổ phù và Nhậm mệnh trạng: Hổ phù là thẻ của tướng ngày xưa, được dùng để nhận biết, có thể dùng để điều động binh sĩ trong phạm vi quyền lực. Nhậm mệnh trạng thường là một quyển trục ghi rõ nhiệm vụ và các điều cam đoan của tướng lĩnh khi được giao việc.

*** Chiết Đông: Chiết là sông Chiết, tỉnh Chiết Giang. Trong cách nói một dải Chiết Đông, chúng tôi nghĩ là nói dải phía đông của sông Chiết. Trong lịch sử có Chiết Đông học phái rất nổi tiếng. Học phái này bắt đầu từ thời Tống, phát triển mạnh ở thời Minh Thanh.Vương Trấn Ác xuống ngựa ở cốc khẩu, để con ngựa đã mỏi mệt được thoải mái nghỉ ngơi gặm cỏ, tự mình tiến vào tiểu cốc.

Hang núi này cách Biên Hoang tập gần mười dặm, nằm ở khu vực núi non phía tây bắc Biên Hoang tập. Vương Trấn Ác đuổi mãi không tha đến đây là vì hắn biết về người thần bí hơn Hoang nhân, hiểu khi người thần bí thi triển Viễn độn thuật thì không thể dừng lại được nên sẽ lưu lại dấu vết hành tung.

Viễn độn thuật rất hao tổn chân nguyên. Nếu không có một thời gian nghỉ ngơi thì đừng hòng hồi phục lại được. Vì thế nếu muốn giết người này thì đây là cơ hội khó gặp.

Bốn mặt tiểu cốc đều có núi non bao phủ, cảnh trí thanh u. Vì thế mặc dù Vương Trấn Ác trong lòng tràn đầy sát cơ mà sau khi vào cốc cũng cảm thấy như rũ sạch bụi trần, tâm thần bình hòa, nhất thời khó có lòng tranh thắng với ai.

Vừa bước chân vào trong cốc, Vương Trấn Ác đã có cảm giác bị người ngấm ngầm theo dõi. Bất chợt trong lòng vô cùng ngạc nhiên. Chẳng lẽ mình lại đoán sai rồi? Địch nhân chạy trốn đến đây nhưng không tĩnh tọa vận khí hành công mà vẫn giữ được trạng thái cảnh giác sao?

Vương Trấn Ác cao giọng nói: “Bản nhân là Vương Trấn Ác, một mình đến đây, bằng hữu Bí tộc nếu có gan thì hãy ra mặt cùng bản nhân quyết một trận tử chiến, để ta khỏi phí công tìm ngươi.”

Một trận cười lớn tràn đầy ý vị coi thường từ lưng chừng núi truyền xuống. Vương Trấn Ác ngửa mặt nhìn lên phía tiếng cười vọng xuống liền thấy cao thủ Bí tộc đó hiện thân trên một khối đá lớn nhô ra ngoài vách núi, đang cúi đầu nhìn hắn.

Y không còn trùm đầu che kín diện mạo nữa mà lộ xuất ‘Lư sơn chân diện mục’.

Người này tuổi chừng hai mươi, hình dáng vô cùng đặc dị. Khuôn mặt dài rộng, vầng trán cao rộng và cằm cao làm người ta cảm giác khí thế hùng vĩ. Mắt, tai, mũi và miệng y đều đơn sơ như được tạc từ đá hoa cương. Đôi mắt dài tràn đầy tiếu ý, nhưng lại làm người ta cảm thấy y bản tính ngạo thế không chịu khuất phục, kiêu ngạo tự phụ không coi thiên hạ chúng sinh vào đâu.

Y đang đứng trên hòn đá, dáng vẻ ngạo nghễ thiên hạ, tư thái như là ngoài ta ra chẳng có ai. Hơn nữa, y vai rộng lưng dày, lồng ngực căng vồng làm nổi bật bộ kình trang đen tuyền bó sát người y mặc. Nét mặt và thể hình đều tuấn tú hơn người, làm người ta cảm thấy y có điểm tà dị, khí chất bất đồng.

Y ngạo nghễ nói: “Trước tiên, ta tuyệt không phải là bằng hữu của ngươi. Tiếp nữa, ta xuất hiện gặp ngươi không có liên quan đến chuyện gì, mà là muốn xem xem ngươi là tên ngu ngốc nào, có tư cách nói câu đó không.”

Tiếp đó mục quang nhìn xuống thắt lưng da của Vương Trấn Ác, lại nhìn thanh đoản kiếm được đeo bằng một dây vào thắt lưng, hai mắt sáng bừng lên hỏi: “Cái ngươi đeo phải chăng là binh khí lừng danh thời nhà Hán?”

Vương Trấn Ác vô cùng ngạc nhiên hỏi: “Huynh đài cao tính đại danh là gì? Ngươi là người đầu tiên nói đúng lai lịch thanh kiếm này của bản nhân.”

Hắn cũng thật kỳ quái, nói xong liền tùy tiện cởi bội kiếm ném lên cho đối phương.

Người kia ung dung thò tay bắt lấy, vui mừng nói: “Việc đó có gì là khó? Kiếm này dài không quá ba thước, cho thấy được dựa theo phương pháp chế tạo đoản đồng kiếm thời Xuân thu Chiến quốc. Tuy là kiếm sắt, nhưng lại không được chú trọng lắm về chiều dài. Tiếp đó, kiếm này mũi kiếm hình tròn thon nhọn, mũi kiếm và thân kiếm được đúc liền thành một thể. Loại kiếm hình dạng thế này không hề thấy trước đời Hán. Hơn nữa, hình dạng kiếm này dẹp mà sống kiếm thu vào, chính là kiểu thịnh hành vào đời nhà Hán nên ta chỉ nhìn một lần là biết.”

Y lại cười nhẹ tiếp: “Xem ngươi cũng là người có tiếng tăm. Tiện đây cũng cho ngươi biết ta là ai. Hướng Vũ Điền chính là ta.”

“Choang!”

Tay phải Hướng Vũ Điền cầm vỏ kiếm, tay trái bạt kiếm khỏi vỏ, tán thưởng: “Kiếm tốt! Đã trải qua bao nhiêu năm dài mà vẫn như vừa mới được đúc ra. Chất sắt thế này càng khó được thấy. Nhìn thanh kiếm này không có kiếm quang, nhưng ở lưỡi lại ẩn hiện ánh sáng vàng rực rõ đủ biết binh khí này là loại hợp kim được đúc thành bằng nhiều loại chất sắt khác nhau. Thuật đúc kiếm cũng đạt tới cảnh giới tối cao. Nếu ta đoán không lầm thì kiếm này có chứa cả thành phần huyền thiết.”

Đoạn y lại cười tươi nói: “Vương huynh không nên thấy ta dùng tay trái rút kiếm mà cho rằng ta là người thuận tay trái nhé. Thật ra dùng tay phải hay tay trái đối với ta không khác nhau nhiều. Khi động thủ mà Vương huynh cho rằng ta thuận tay trái thì sẽ thất bại nặng nề đấy.”

Với tài trí của Vương Trấn Ác mà cũng bị y làm cho hồ đồ, không rõ hư thực của y. Hắn than: “Hướng huynh đúng là kỳ nhân, nhãn lực cao minh. Kiến thức về kiếm lại càng làm người ta kinh dị. Làm người ta khó hiểu nhất là kiến thức của Hướng huynh đối với Hán tộc bọn ta. Hướng huynh chẳng phải sống lâu dài ở sa mạc, cách biệt với thế giới sao?”

Hướng Vũ Điền trả kiếm vào vỏ, tiện tay ném xuống cho Vương Trấn Ác, vật về chủ cũ. Y tiêu sái ngồi xuống rìa mỏm đá, hai chân thả xuống khẽ đong đưa vô cùng thoải mái tự nhiên. Y cười nhẹ: “Vương huynh làm sao mà có được thanh kiếm này? Không cần giấu ta đâu. Chúng ta vẫn chưa động thủ thì vẫn coi như còn là bằng hữu.”

Vương Trấn Ác đeo kiếm lên, thầm nghĩ phải chăng hắn đang thi triển kế kéo dài thời gian. Nhưng kiểu gì cũng không nhìn ra hiện tượng chân nguyên hắn tổn hao nghiêm trọng. Động thủ sớm hay muộn tuyệt không khác nhau gì. Hơn nữa hắn cũng rất hân thưởng người này, bèn cười nhẹ: “Hướng huynh tài năng phi thường, huynh đệ bội phục. Kiếm này đúng là có lai lịch. Nếu như ta nói rõ nguồn gốc của nó thì Hướng huynh sẽ đoán ra ta là ai.”

Hướng Vũ Điền cười rộ nói: “Ta đã sớm đoán ra ngươi là ai rồi! Thanh kiếm này tên là Bách Kim, là một danh kiếm đã theo Vương Mãnh tung hoành thiên hạ. Nhìn tuổi tác của Vương huynh, chắc là cháu Vương Mãnh. Hướng mỗ có nói sai không?”

Vương Trấn Ác trong lòng chấn động. Người này kiến văn quảng bác, nhãn lực cao minh tới mức làm người ta kinh sợ. Nếu hôm nay không thể đưa hắn vào chỗ chết thì Biên Hoang tập khẳng định sẽ bị hắn làm loạn đến nghiêng trời lệch đất.

Hắn trầm giọng: “Tổ phụ của ta là tử địch của quý tộc. Xin Hướng huynh dạy bảo.”

Hướng Vũ Điền ngạc nhiên: “Vương Mãnh là Vương Mãnh, ngươi là ngươi, có quan hệ quái gì đâu? Làm người mà cứ phải mang những gánh nặng như thế, ân oán của đời trước lại kế thừa nhận lấy thì cuộc sống ngắn ngủi này làm sao làm hết được?”

Hai mắt y lại xạ xuất thần sắc mơ màng, nhìn ra xa nói: “Niệm tình Vương huynh mạng không còn dài, ta nói thực với Vương huynh một chuyện. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ lần này, Hướng mỗ sẽ có thể thoát ly Bí tộc, sống theo lý tưởng của ta, truy cầu những thứ ta hằng mơ ước.”

Y lại nhìn xuống, hai mắt đột nhiên tràn đầy những tia nhìn sắc nhọn kỳ quái, ngữ khí vẫn bình tĩnh như thường, điềm đạm tiếp lời: “Thấy Vương huynh không phải là tiểu nhân ti bỉ thừa lúc ngưòi ta nguy cấp, Hướng mỗ sẽ dành cho ngươi một ân tứ là giữ cho ngươi toàn thây, còn cho ngươi nhập thổ an lành nữa. Danh kiếm Bách Kim sẽ thay cho bia đá.”

“Xoảng!”

Vương Trấn Ác rút Bách Kim bảo kiếm ra. Phía trên dậy lên đầy trời bóng người hư thật khó phân, kèm theo là một luồng kình khí kinh nhân đổ ập xuống.

Thân pháp và võ công kỳ bí quỷ dị thế này, lần đầu tiên Vương Trấn Ác mới gặp phải.

Yến Phi hiểu rõ mình đang bị hãm vào một trường nguy hiểm, lại là cục diện tiến thoái lưỡng nan.

Bí tộc không dễ hứa hẹn điều gì với ai, nhưng một khi đã hứa thì vĩnh viễn không hối hận. Đó là truyền thống của Bí tộc. Bí tộc hợp tác với Mộ Dung Thùy có thể chỉ giới hạn trong việc đối phó với liên quân Thác Bạt Khuê và Hoang nhân. Ngày liên quân bị phá thì cũng là lúc Bí tộc hoàn thành lời hứa. Nếu một ngày liên quân còn tồn tại thì Bí tộc chiến sỹ sẽ không màng sinh tử làm việc cho Mộ Dung Thùy.

Mặc Sĩ Minh Dao vẫn chưa biết chàng là Yến Phi. Ngày gặp nhau ở Trường An, Mặc Sĩ Minh Dao cũng nhận ra chàng là một trong hai tiểu tử Thác Bạt tộc tham gia lễ hội cuồng hoan. Khi đó Yến Phi vẫn chưa đổi tên, chưa gọi là Yến Phi mà vẫn gọi tên theo họ mẹ là Thác Bạt Hán. Đây là tên mà mẹ chàng đặt cho.

Mặc Sĩ Minh Dao chỉ biết chàng là Thác Bạt Hán, tuyệt không biết chàng là Yến Phi. Thanh kiếm chàng dùng khi đó cũng không phải là Điệp Luyến Hoa. Bội kiếm ngày đó đã thoát tay cắm vào lồng ngực Mộ Dung Văn, nằm yên ở đó rồi. Việc trở thành chủ nhân Điệp Luyến Hoa là chuyện sau này. Vì thế dù Mặc Sĩ Minh Dao biết con người Yến Phi và kiếm của chàng, nhưng không thể liên tưởng được tình nhân mà từng có quan hệ thân mật trong một thời gian ngắn lại là Yến Phi.

Bí tộc luôn bài xích người ngoài. Chàng và Thác Bạt Khuê sở dĩ có thể được tham gia lễ hội cuồng hoan vì Yến Phi biết ngôn ngữ Bí tộc, hiểu rõ quy củ của họ.

Mẹ Yến Phi là một trong số rất ít người Thác Bạt tộc tinh thông Bí ngữ. Bản lĩnh đặc thù này cũng được bà truyền thụ cho chàng. Còn như việc mẹ làm sao lại biết nói Bí ngữ thì bà chưa từng lộ ra đến nửa câu.

Chính vì quan hệ vi diệu như thế nên Mặc Sĩ Minh Dao tuyệt không hoàn toàn coi chàng là người ngoài, lại còn tuyệt đối tin tưởng chàng. Trên phương diện này, chàng cũng không làm Mặc Sĩ Minh Dao thất vọng.

Họ đều có oán thù với vương triều Đê Tần, chung một kẻ thù.

Mặc Sĩ Minh Dao, Hướng Vũ Điền và vài trăm chiến sỹ Bí tộc sùng bái tử vong, hung hãn không sợ chết, ở bất kỳ phương diện nào cũng trở thành mối uy hiếp rất lớn đối với Thác Bạt Khuê và Hoang nhân.

Chàng cần toàn lực quay về Biên Hoang tập để ứng phó với liên quân Mộ Dung Thùy và người Bí tộc.

Vấn đề ở chỗ Tôn Ân không bỏ qua cho chàng, muốn tránh cũng không được.

Kể cả trong tình trạng trong lòng không có trở ngại gì thì thắng bại với Tôn Ân vẫn chưa biết thế nào. Tôn Ân tinh tiến rất lớn, hơn nữa, chàng lúc này vô tâm quyết chiến, trong lòng trùng trùng ưu tư. Kết quả có thể tưởng tượng được.

Trong thâm tâm, chàng ngấm ngầm cảm thấy đối với Mặc Sĩ Minh Dao vẫn còn dư tình chưa dứt nên chàng cảm thấy khó xử, càng làm loạn đạo cảnh bình tĩnh của chàng.

Nếu như lúc đối mặt với Tôn Ân mà tâm cảnh chàng vẫn trong trạng thái đó thì cuộc chiến này tất bại không sai.

Thanh Khê Tiểu Trúc.

Lưu Dụ, Đồ Phụng Tam và Tống Bi Phong ngồi trong phòng thương lượng đại kế.

Tống Bi Phong nói: “Xem chừng Tư Mã Đạo Tử quả trọng dụng ý kiến của tiểu Dụ, bắt đầu tín nhiệm tiểu Dụ. Nếu không, lão tuyệt không cho bọn ta sử dụng Hoang nhân làm tử đệ binh*. Với Tư Mã Hoàng triều mà nói, đây là hành động phá lệ chưa từng có.”

Đồ Phụng Tam cười nhẹ: “Ngàn vạn lần đừng nên cao hứng sớm quá. Tư Mã Đạo Tử chỉ đang dùng lại kế cũ thôi.”

Lưu Dụ không hiểu hỏi: “Dùng lại kế cũ?”

Đồ Phụng Tam đáp: “Ngươi đã quên tình hình ngày trước của Lưu Lao Chi và Hà Khiêm rồi sao? Đầu tiên, Tư Mã Đạo Tử thu nạp Hà Khiêm, kiềm chế Lưu Lao Chi. Sau đó hy sinh Hà Khiêm, làm Lưu Lao Chi phản bội Hoàn Huyền, phả hủy liên minh với Hoàn Huyền. Lần này cũng là như thế. Lão tài bồi cho ngươi để phân hóa thế lực Lưu Lao Chi. Nếu như Tạ Diễm thật sự bại trận thì nhân mã trước đây trực thuộc Hà Khiêm không còn cách nào khác sẽ về với ngươi. Lưu gia ngươi sẽ biến thành một Hà Khiêm khác, Tư Mã Đạo Tử lại có thể diễn lại tình hình ngày trước.”

Tống Bi Phong nói: “Theo ta thấy Tư Mã Đạo Tử vô cùng bất mãn Lưu Lao Chi. Có thể lão sẽ cho tiểu Dụ thay thế hắn.”

Đồ Phụng Tam nói: “Bất mãn thì bất mãn, nhưng trong lòng Tư Mã Đạo Tử điều quan trọng nhất là bảo vệ Hoàng quyền của họ Tư Mã. Tình cảm cá nhân thích hay không thích tuyệt không được xem xét nhiều. Ta hỏi các ngươi một vấn đề, nếu các ngươi là Tư Mã Đạo Tử thì sẽ sợ Lưu Lao Chi hơn hay là Lưu Dụ đây?”

Lưu Dụ lập tức tắc họng không nói được gì.

Tống Bi Phong than: “Nhìn nhận của Phụng Tam rất tinh tường thấu đáo. Có thể nói thanh danh của Lưu Lao Chi ngày càng thấp. Tiểu Dụ lại như mặt trời lên cao. Điều mà Lưu Lao Chi không thể so sánh được với tiểu Dụ là tiểu Dụ không những được lòng người, mà còn được những kẻ sỹ tiến bộ của Kiến Khang chấp nhận. Nếu như tiểu Dụ ngồi thế vào ghế Đại thống lĩnh của Lưu Lao Chi thì khẳng định sẽ trở thành một Huyền soái khác.”

Đồ Phụng Tam nói: “Tư Mã Đạo Tử là người trở mặt vô tình. Hãy nhìn lão đối đãi Hà Khiêm như thế nào, chúng ta vĩnh viễn không được quên điểm này. Vô luận thế nào, mục tiêu ngắn hạn của chúng ta đã đạt được. Bước tiếp theo là làm sao vãn hồi được cơn cuồng bạo này. Khi quân dẹp loạn lâm vào thế binh bại như núi đổ, đánh bại Thiên Sư quân, đoạt lợi ích lớn nhất vào tay mình, củng cố binh quyền.”

Lúc này, Khoái Ân về tới, hắn đầy vẻ vui mừng nói “Nhận được tin tức từ Biên Hoang tập, rồi. Yến gia đang toàn lực đến đây, trong hai ngày nữa sẽ tới Kiến Khang.”

Ba người tinh thần đại chấn. Tống Bi Phong nghĩ Tạ Đạo Uẩn được cứu rồi, vui mừng hơn hết.

Khoái Ân lại tiếp: “Biên Hoang tập phái đến ba trăm bộ đội tiên phong. Sớm hôm nay ngồi thuyền xuất phát đi Kiến Khang. Xin Lưu gia an bày tiếp ứng họ.”

Đồ Phụng Tam nói: “Yến Phi đến là bọn ta có đủ vốn để chào hỏi Lư Tuần rồi. Ta bây giờ lại hy vọng Trần công công đúng là người của Tôn Ân để có thể lợi dụng lão dụ Lư Tuần xuất hiện.”

Tống Bi Phong nói: “Trước khi Yến Phi đến Kiến Khang, bọn ta càng phải cẩn thận hơn.”

Đồ Phụng Tam cười nói: “Hôm nay Lưu gia đã gặp Hoàng đế, chính thức nhận mệnh lệnh, có thể tiền hô hậu ủng đi khắp phố phường rồi.”

Lưu Dụ cười khổ: “Người tùy tùng nếu miễn được thì cứ miễn. Tập quán của ta là sinh hoạt độc lai độc vãng, mình thích gì làm nấy.”

Tống Bi Phong nói: “Đề nghị của Phụng Tam không sai đâu. Để ứng phó với Lư Tuần thì ta có thể làm đầu lĩnh tùy tùng. Về mặt này thì ta rất thành thạo.”

Đồ Phụng Tam nói: “Việc này vạn lần không thể. Nguyên nhân rất vi diệu vì cao môn của Kiến Khang đã quen với việc Tống đại ca là cận vệ của An công. Nếu bỗng nhiên biến thành tùy tùng của Lưu Dụ thì sẽ làm người ta cảm thấy là một sự mạo phạm đối với An công. Nhiều khả năng sẽ cho là Lưu Dụ muốn ngang với An công khiến cao môn Kiến Khang rất khó chấp nhận. Từ đó sẽ phát sinh phản cảm đối với bọn ta. Việc này ngàn vạn lần không nên thử.”

Tống Bi Phong gật đầu: “Phụng Tam quả hiểu rất rõ tâm thái của cao môn Kiến Khang.”

Đồ Phụng Tam nói: “Nói cho cùng thì đó là khác biệt giữa cao môn và áo vải, là cấm kỵ không thể phạm vào. Nếu thật cần người tùy tùng thì có thể để tiểu Ân làm đầu lĩnh, ngoài ra tuyển thêm ba thủ hạ cơ linh mẫn tiệp lập thành thân binh đoàn.”

Khoái Ân mừng nói: “Tiểu Ân nguyện thị hầu Lưu gia.”

Lưu Dụ đáp: “Ta tuyệt không sợ Lư Tuần. Đánh không được thì chạy, ta tự tin có biện pháp giữ mạng. Đối với ta mà nói, đây là cơ hội tốt để luyện tập, làm ta không dám bỏ bê võ công, luôn luôn cảnh giác.”

Tiếp đó hỏi Khoái Ân: “Tiểu Ân biết luyện binh chưa?”

Khoái Ân đáp: “Hầu gia tuy có chỉ điểm cho ta phép luyện binh, nhưng chưa từng có cơ hội thực hành.”

Lưu Dụ nói: “Giờ thì cơ hội đến rồi. Tư Mã Đạo Tử giao Dã Thành bên cạnh đô thành cho bọn ta làm nơi đóng quân. Ngươi có thể làm phó tướng cho Đồ gia, theo học cách huấn luyện quân lính. Tử đệ binh Hoang nhân của bọn ta sau khi đến Kiến Khang sẽ vào ở Dã Thành. Thành đó là đại bản doanh của bọn ta ở Kiến Khang.”

Khoái Ân nói: “Như vây có sợ Lư Tuần hành thích không?”

Đồ Phụng Tam đáp: “Việc này không thể lộ liễu được. Hoang nhân huynh đệ của bọn ta sẽ đóng giả làm Nhạc Chúc quân mà Tư Mã Nguyên Hiển mới chiêu mộ. Tư Mã Nguyên Hiển cũng sẽ đến Dã Thành bất cứ lúc nào để giấu tai mắt người khác. Đương nhiên quyền khống chế thực tế nằm trong tay bọn ta. Có thể nói đây là thành quả lớn nhất của lần gặp mặt Tư Mã Đạo Tử này.”

Khoái Ân nói: “Đa tạ ba vị đại gia tài bồi. Tiểu Ân sẽ nỗ lực học tập.”

Tống Bi Phong nói: “Nếu bọn ta đoán không sai thì trong vòng ba tháng nữa tiểu Ân sẽ có cơ hội xuất chinh.”

Hai mắt Khoái Ân lộ thần sắc phấn chấn.

Ba người biết rõ tâm tình y. Khoái Ân là người có chí lớn. Dưới sự chỉ đạo tận tình của Hầu Lượng Sinh, đã học hiểu rõ ràng thị phi, sinh ra chí hướng bình thiên hạ. Cái chết của Hầu Lượng Sinh gây đả kích nghiêm trọng đối với y, làm y cảm thấy tất cả đều kết thúc. Bây giờ, bỗng nhiên tình hình thay đổi, trước mắt xuất hiện cục diện hoàn toàn mới, y đã có phương hướng để phấn đấu, mọi u sầu trước đây đều được gột rửa sạch sẽ. Sự hưng phấn của y có thể hiểu được.

Tống Bi Phong nói: “Bọn ta có nên cảnh cáo Tư Mã Đạo Tử không? Vì nếu như Trần công công đúng là người của Tôn Ân thì Tư Mã Đạo Tử đã đặt thân trong hiểm cảnh. Nếu Tư Mã Đạo Tử đột nhiên ngộ hại thì bọn ta cũng không tốt đâu.”

Quyền lực của bọn họ hiện nay đều nhận từ Tư Mã Đạo Tử. Nếu Tư Mã Đạo Tử xảy ra chuyện gì thì sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến họ.

Đồ Phụng Tam vui vẻ nói: “Nói thật, ta hận việc đó sao không phát sinh. Nếu Tư Mã Đạo Tử đột nhiên lăn ra chết thì ai sẽ được tiện nghi? Đương nhiên là bọn ta. Bây giờ ở Kiến Khang, quyền lực lớn nhất là Tư Mã Đạo Tử, lão cũng như là một nửa Hoàng đế rồi. Sau đó là đến Tư Mã Nguyên Hiển. Trong tình hình đó, Tư Mã Nguyên Hiển sẽ phải dựa vào bọn ta giúp hắn ổn định chính cục. Vậy chúng ta không cần đánh Tôn Ân mà vẫn có thể nắm được triều chính.”

Khoái Ân nói: “Nếu như cả cha con đồng thời bị hại thì sao?”

Đồ Phụng Tam nói: “Thế càng lý tưởng. Lưu Dụ có thể bằng danh dự của hắn nắm lấy thực lực, với danh nghĩa bảo vệ Hoàng đế mà tiếp thu binh quyền Kiến Khang.”

Tống Bi Phong nói: “Nói vậy thì Trần công công sẽ không hành thích Tư Mã Đạo Tử đâu.”

Đồ Phụng Tam nói: “Lý là như thế nhưng để giết Tư Mã Đạo Tử cũng chẳng phải dễ dàng. Lão là nhân vật hoàng tộc đã trải qua nhiều sóng gió, đối với bất kỳ ai đều có lòng cảnh giác. Ví dụ như hôm nay bọn ta và lão đạt được hiệp nghị bí mật, lão cũng tuyệt không tiết lộ cho Trần công công. Lão lại biết rõ Lư Tuần đang rình mò bên cạnh, Tư Mã Đạo Tử làm sao dám khinh suất. Nếu như minh đao minh thương thì nếu Trần công công muốn giết Tư Mã Đạo Tử căn bản là không thể làm được.”

Tống Bi Phong nói: “Phải chăng tiểu Dụ đã quyết định tối nay sẽ đi phó hội với Lý Thục Trang?”

Đồ Phụng Tam nói: “Để Lưu gia đi một mình đi! Nếu không sẽ bị Lý Thục Trang coi thường gã. Bọn ta phải nói thế nào làm thế ấy, chân chính tín nhiệm Lưu gia là chân mệnh thiên tử giết không chết được.”

Lưu Dụ trong lòng cười khổ. Ài! Chân mệnh thiên tử.

Chú thích

* Tử đệ binh: Tử đệ nghĩa là con cháu. Tử đệ binh có nghĩa là đội quân chỉ dùng con cháu trong nhà làm rường cột. Ngoài ra còn có nghĩa là đội quân của riêng một (hay một nhóm) người. Nghĩa trong truyện là lấy ý thứ hai.Biên Hoang tập, Thuyết Thư quán.

Mọi người ai nấy thần sắc đều trầm trọng. Đó gọi là một khi đại hành gia xuất thủ là biết ngay thực lực.

Tối qua Cao Ngạn bị phục kích, tuy bị Hướng Vũ Điền đả thương vài người, lộ rõ thực lực hùng mạnh của y, nhưng mọi người vẫn không để trong lòng. Đến vừa rồi, Hoang nhân trong tình thế nắm vững cục thế, cao thủ xuất ra hết rồi nhưng vẫn bị đối phương dễ dàng đột vây chạy mất làm bọn họ cảm thấy sự việc rất nghiêm trọng.

Chỉ cần những người Bí tộc khác có công phu bằng một nửa Hướng Vũ Điền thì đây sẽ là một việc rất khó ứng phó. Nhớ lại quá trình gian khổ ngày trước khi tróc nã Hoa Yêu, đến bây giờ mọi người vẫn còn thấy sợ hãi.

Riêng Lưu Mục Chi vẫn lạnh lùng ung dung, bộ dạng vô cùng tự tin.

Trác Cuồng Sinh nói: “Chỉ cần có thể giữ được đến lúc Yến Phi trở về thì bọn ta có thể xoay chuyển cục thế. Bây giờ thì phải ở vào cục diện giằng co, địch trong bóng tối ta ngoài sáng. Vấn đề là bọn ta có thể cầm cự được đến lúc Yến Phi quay về hay không.”

Yến Phi không những là Biên Hoang đệ nhất cao thủ mà có thể trở thành thiên hạ đệ nhất cao thủ. Trong thiên hạ, người có tư cách làm đối thủ của chàng không quá vài người. Tôn Ân là một, Mộ Dung Thùy cũng là một trong số đó. Còn như người thứ ba thì vẫn chưa biết cho ai vào.

Nếu Yến Phi đang ở Biên Hoang tập thì đương nhiên là chuyện sẽ khác. Ít nhất là tình hình như vừa rồi sẽ không xuất hiện. Người đuổi theo Hướng Vũ Điền sẽ là Yến Phi chứ không phải là Vương Trấn Ác. Bọn họ cũng không phải lo lắng như bây giờ.

Yến Phi tuyệt không phải là một cao thủ bình thường mà là người có linh giác rất cao và dị lực tinh thần, vượt trên bất cứ kỳ công tuyệt nghệ nào khác. Đó chính là khắc tinh của người Bí tộc xuất quỷ nhập thần.

Giang Văn Thanh nói: “Tình hình vẫn chưa đến mức ác liệt thế đâu! Phương tổng có thể chứng thực chưa có người Bí tộc trà trộn tiến vào trong Tập. Biên Hoang tập vẫn an toàn. Lưu tiên sinh phải chăng bằng vào chiếc mũi linh ứng của Phương tổng mà đề nghị chủ động xuất kích? Ta nhận thấy biện pháp đó có thể thực hiện được.”

Âm Kì than: “Bọn ta không thể nào rời khỏi hang ổ được. Nếu rời khỏi hang ổ thì ở nơi rộng rãi như Biên Hoang mà muốn đối phó với một người có thể chạy nhanh hơn cả ngựa thì không thể làm được. Biện pháp duy nhất đối phó với Hướng Vũ Điền là do tiểu Phi tự thân xuất mã, còn những người khác thì không thể được. Nhiều người cũng không có tác dụng gì.”

Mộ Dung Chiến cười nhẹ: “Bọn ta ngàn vạn lần không được mất đấu chí. Ta hiểu rõ tâm tình của Âm huynh. Nhìn thấy Hướng Vũ Điền ở phía trước càng chạy càng nhanh thì cảm giác bất lực đó quả thực làm người ta chán nản. Nhưng nếu như nhìn nhận một cách khách quan toàn bộ sự kiện, bọn ta vẫn ở vào vị trí có lợi. Trước hết là Cao tiểu tử hồng phúc tề thiên, đã tránh được không bị Hướng Vũ Điền thích sát. Tiếp đó là bọn ta đã đuổi Hướng Vũ Điền khỏi Biên Hoang tập, làm ảnh hưởng toàn diện đến đại kế xâm phạm của Bí tộc. Quan trọng nhất là trước khi Bí tộc phát động, bọn ta đã sinh lòng cảnh giác. Giờ cần xem thủ đoạn của bọn ta thế nào thôi.”

Có tiếng vỗ tay vang lên.

Người vỗ tay chỉ là một mình Lưu Mục Chi, làm toàn thể mọi người nhìn lão. Lão trí giả này vẫn khí định thần nhàn, thản nhiên nói: “Mộ Dung đương gia không hổ là có tài chủ soái, nắm tình hình địch, ta vô cùng thấu triệt. Thật ra, bọn ta vẫn chiếm ưu thế nên có thể đánh thắng trận này. Nhưng câu đầu tiên ta muốn nói với các vị là bọn ta cần phải ‘dùng hết nhân tài, sử dụng hết vật lực’. Nói cho cùng thì bất luận cao thủ Bí tộc dù biết giấu giếm hành tung thế nào thì họ vẫn chỉ là người phàm, chứ không phải là ma quỷ. Chỉ cần vẫn là người thì cũng có nhược điểm của con người. Đúng như Nhu Nhiên** công chúa đã nói, bản lĩnh của Hướng Vũ Điền tuyệt không dưới Mặc Sĩ Minh Dao. Người như thế này, Bí tộc chỉ có thể đào tạo ra được một người, nửa người đã vô cùng khó khăn rồi, không phải mỗi một người Bí tộc đều đạt được như vậy. Cùng giống như Biên Hoang tập chỉ có một Yến Phi. Nếu như Biên Hoang tập có mười người, tám người như Yến Phi thì chỉ sợ Mộ Dung Thùy đã sớm hai tay dâng Thiên Thiên tiểu thư về rồi.”

Cơ Biệt vỗ đùi nói: “Đúng! Bọn ta không nên bị cái tên gia hỏa họ Hướng đó dọa cho khiếp vía mới được.”

Hồng Tử Xuân hỏi: “Xin hỏi Lưu tiên sinh, làm sao có thể ‘dùng hết nhân tài, sử dụng hết vật lực’ được?”

Lưu Mục Chi cười nhẹ: “Trước khi nói về vấn đề đó, ta muốn phân tích tình hình của Bí tộc trước.”

Trác Cuồng Sinh vui vẻ ngồi xuống chiếc ghế trên Thuyết Thư đài đối diện với chiếc bàn dài mà các Hoang nhân huynh đệ đang ngồi, cười nói: “Bắt đầu thú vị rồi! Qua sự phân tích của Lưu tiên sinh, cảm giác lập tức sáng lên một cách mới mẻ, như là sinh cơ chợt hiện vậy. Lưu tiên sinh mời nói tiếp.”

Mọi người đã tâm phục khẩu phục tài trí của Lưu Mục Chi rồi, ai nấy đều nghiêm trang lắng nghe.

Lưu Mục Chi tiếp lời: “Mộ Dung Thùy đề xuất thỉnh cầu với Mặc Sĩ Minh Dao, Mặc Sĩ Minh Dao đáp ứng để báo ân, nhưng để Mặc Sĩ Minh Dao tham gia toàn diện vào cuộc chiến này thì sẽ phải mất một thời gian không ngắn để xây dựng bộ máy thì phía Bí tộc mới có thể phát huy sức chiến đấu của họ được. Chỉ là Bí tộc vượt qua trăm sông ngàn núi từ sa mạc Tái Bắc điều động đến Biên Hoang tập của bọn ta, là một nơi mà Bí tộc không biết một tí gì không phải là một chuyện dễ dàng. Ta tin rằng để đối phó với Hoang nhân bọn ta thì đội quân đầu tiên của Bí tộc tạm thời vẫn tiên trường mạc cập*. Vì thế mới cần có Hướng Vũ Điền làm nhiệm vụ thăm dò đường lối. Dù người Bí tộc có đi lại như gió thế nào thì chỉ sợ vẫn đang ở đằng sau so với Hướng Vũ Điền tám ngày mười ngày. Nếu tình hình đúng như ta dự liệu thì cơ hội của bọn ta sẽ đến.”

Cao Ngạn thốt lên: “Đúng! người Bí tộc chắc là vẫn đang trên đường đến đây.”

Lưu Mục Chi lại tiếp: “Hiện giờ, người Bí tộc chỉ có thể ỷ lại vào đồ hình địa thế Biên Hoang tập do Mộ Dung Thùy cung cấp. Hoặc là do người của Mộ Dung Thùy dẫn đường, đến chỗ nào đó của Biên Hoang tập hội họp với Hướng Vũ Điền. Rồi sau đó sẽ do người đã nắm rõ hình thế Biên Hoang tập là Hướng Vũ Điền phân công nhiệm vụ. Nếu như bọn ta có thể nắm được địa điểm mà chúng hội họp thì có thể rời ổ, xuất toàn lực. Nói không chừng kể cả Hướng Vũ Điền cũng không thoát khỏi kiếp số. Vậy thì có thể đánh tan đợt công kích đầu tiên của người Bí tộc.”

Phương Hồng Sinh hưng phấn thốt lên: “Kế hay! Chỉ cần đi xem xét những nơi địch nhân đã đi qua, do địch nhân nhân số nhiều người nên ta chỉ ngửi một lần là biết rõ.”

Hô Lôi Phương cười rộ: “Đó chính là dùng hết nhân tài.”

Lưu Mục Chi điềm đạm nói: “Việc dùng nhân tài của bọn ta chỉ dừng ở chỗ đó. Người Bí tộc vốn như rồng về biển khi ở sa mạc quen thuộc, nhưng ở địa phương nhiều sông ngòi như Biên Hoang thì phải do chúng ta làm chủ. Bọn ta chỉ cần điều phối một chiếc Song Đầu chiến thuyền do Phương tổng và đám hảo thủ tinh nhuệ bảo vệ là có thể điều tra men theo bờ sông, đặc biệt là đề phòng chúng bơi vượt sông vào. Binh quý thần tốc. Người Bí tộc sẽ không đi một vòng lớn theo những đường mòn gấp khúc đến Biên Hoang. Vì thế họ tất sẽ qua sông ở Tứ Thủy, ở đó khẳng định sẽ có vết tích có thể tìm ra. Chỉ cần tìm thấy tung tích người Bí tộc, bọn ta có thể dùng chiến thuyền điều động quân đội, với thế như lôi đình vạn quân đánh dập đầu đám bộ đội người Bí tộc vừa mới chân ướt chân ráo xâm nhập vào Biên Hoang tập còn chưa ổn định được trận cước, giết cho chúng trỏ tay không kịp, tỏ rõ Hoang nhân bọn ta tuyệt không thể trêu vào được.”

Mọi người vỗ tay rầm trời.

Chỗ Lưu Mục Chi làm người ta phục nhất chính là liệu địch như thần. Trong việc đối phó Hướng Vũ Điền, mặc dù đối phương cao minh nhưng cũng mất công toi, đã đại hiển công lao của lão.

Lão đoán bộ đội của địch nhân đang trên đường tới đây làm mọi người đều mười phần tin tưởng.

Nếu như có thể thành công đánh bại đám bộ đội người Bí tộc đó, không để đối phương có cơ hội xâm nhập Biên Hoang thì sẽ tạo ra một cục diện mới.

Thác Bạt Nghi hỏi: “Việc vận chuyển hòang kim thì như thế nào?”

Lưu Mục Chi đáp: “Phiền Thác Bạt đương gia dùng phi cáp truyền thư thông tri cho quý chủ tạm thời án binh bất động, đợi bọn ta phái người đến Bình Thành tiếp nhận rồi mới vận chuyển hoàng kim về. Đó chính là cuộc chiến lần thứ hai với người Bí tộc, bọn ta cần thương nghị kỹ càng, tránh không bỏ lỡ cơ hội tốt. Chiến tranh cũng giống như đánh cờ. Đối phó với người Bí tộc cũng như thế, tất cần phải tranh tiên, bao vây dồn ép đối phương phải bỏ chạy để tránh chết. Cuối cùng, người Bí tộc không cách nào phát huy được sức phá hoại, càng đừng hòng trở thành thám tử cho Mộ Dung Thùy. Như thế bọn ta đã thành công rồi.”

Trác Cuồng Sinh cười dài: “Bộ máy chiến lược đã hoàn thành, chỉ còn một vài tiểu tiết mà thôi, có thể tiếp tục nghiên cứu kỹ. Nhưng thuyền điều tra tung tích địch nhân của Phương tổng thì phải lập tức khởi hành, tránh bỏ lỡ thời cơ. Nhớ mang theo bồ câu đưa thư đó.”

Giang Văn Thanh trách lão: “Ta thấy hình như Lưu tiên sinh còn chưa nói hết thì phải?”

Thác Bạt Nghi nhìn thần sắc Lưu Mục Chi, cười nói: “Đại tiểu thư thật tinh tế.”

Trác Cuồng Sinh ngẩn người, nhìn Lưu Mục Chi hỏi: “Còn gì mà nói nữa?”

Lưu Mục Chi đáp: “Vẫn liên quan đến việc ‘dùng hết nhân tài, sử dụng hết vật lực’. Biên Hoang tập của bọn ta có một cơ sở sản xuất binh khí ưu việt nhất thiên hạ, nếu không tận dụng cho tốt thì thật là lãng phí đáng tiếc. Hiện giờ, bọn ta và người Bí tộc rơi vào tình trạng chiến tranh, không cần nói chuyện quy củ giang hồ gì nữa. Y có thể dùng yên vụ đạn thoát thân thì bọn ta cũng có thể dùng hỏa độc khí, không lựa chọn thủ đoạn đối phó với bọn chúng. Vậy thì bọn ta càng nắm chắc thắng hơn.”

Cơ Biệt nhảy nhổm lên nói: “Việc đó cứ để cho ta. Ta sẽ động viên nhân lực vật lực hiện có, trong vòng ba ngày chế ra một số độc hỏa thủ pháo lợi hại, nhẹ nhàng tiện dụng. Đảm bảo người Bí tộc sẽ không còn chỗ mà chạy.”

Bỗng tiểu Kiệt chạy ào vào như cơn gió, hét vang: “Tiểu Bạch Nhạn lên thuyền rồi! Tiểu Bạch Nhạn lên thuyền rồi! Lão đại! Tiểu Bạch Nhạn của ngươi lên thuyền rồi!”

Hô Lôi Phương giữ chặt hắn lại quát: “Ngươi vừa hét cái gì vậy?”

Tiểu Kiệt nhìn Cao Ngạn đang trợn tròn hai mắt nói: “Vừa mới nhận được phi cáp truyền thư từ Thọ Dương, Tiểu Bạch Nhạn của lão đại đã lên thuyền tới Biên Hoang tập rồi.”

Cao Ngạn thét lên một tiếng kỳ quái, bắn tung người lên như một viên đạn, lộn mèo một vòng rơi xuống cửa rồi chạy thục mạng ra ngoài.

Trác Cuồng Sinh khẽ chửi một tiếng, vội vàng triển khai thân pháp đuổi theo hắn.

Chú thích

* Tiên trường mạc cập: Nguyên ý là roi ngựa tuy dài nhưng không thể đánh dạ dày ngựa được. Ý nói như xa xôi quá nên lực lượng không với được tới. Trong chương này ý nói người Bí tộc dù mạnh nhưng vì quá xa Biên Hoang nên chưa thể đến được ngay, Hoang nhân vẫn còn thời gian để lên kế hoạch ứng phó.

** Tiếng Anh là Ruran, còn gọi là Nhuyễn nhuyễn/nhuế nhuế/như như (Ruanruan/Ruru), hay Đàn Đàn (Tartar) là một dân tộc phương Bắc Trung Quốc cổ đại, một chi của người Tiên Ti. Thời kỳ phân tranh Thập Lục quốc, chủ yếu sống du mục tại lưu vực Ngạc Nhĩ Hồn Hà (Nay thuộc tỉnh Ngạc Nhĩ Hồn, phía Bắc Mông Cổ) và Thổ Lạp Hà (1 nhánh của Ngạc Nhĩ Hồn Hà)Vương Trấn Ác sử hết toàn thân công lực, ngạnh tiếp từng đợt từng đợt thế công cuồn cuộn như ba đợt sóng của Hướng Vũ Điền. Trong lòng hắn kinh hãi không thể hình dung.

Từ khi còn nhỏ, Vương Trấn Ác đã gặp hết những cao thủ Hồ, Hán ở phương Bắc, tuyệt không phải là người chưa từng va chạm. Nhưng hắn chưa từng gặp hoặc tiếp cận với người nào có phong cách như Hướng Vũ Điền.

Vương Trấn Ác sinh ra trong võ học thế gia lừng danh nhất phương Bắc. Lúc đó Vương Mãnh được coi là đệ nhất nhân phương Bắc, thanh thế còn đứng trên cả Mộ Dung Thùy và Trúc Pháp Khánh. Bản thân Vương Trấn Ác đã có căn cốt rất tốt để luyện võ, lại được tài bồi từ nhỏ, do đích thân Vương Mãnh chỉ dạy gây dựng nền móng. Bản thân Vương Trấn Ác lại thích võ, cố học hết chân truyền của Vương Mãnh nên dù biết Hướng Vũ Điền không phải là chiến sỹ Bí tộc tầm thường, nhưng hắn vẫn có gan một mình truy đuổi.

Đầu tiên, Hướng Vũ Điền sử dụng phương pháp đánh cận chiến, triển khai đợt công kích đầu tiên. Thân pháp mau lẹ như quỷ mỵ, làm người ta phát sinh ảo giác, phối hợp với những chiêu thức mà bất cứ bộ phận nào của cơ thể cũng có thể trở thành vũ khí như đầu, chưởng, chỉ, khuỷu tay, vai, chân, gối, tay, tóc,… thế công dày khít không kẽ hở nào có thể đánh vào.

Bách Kim kiếm của Vương Trấn Ác thiện nghệ nhất là đánh cận chiến. Đối phương lại dùng sở trường của hắn tấn công hắn, hàm ý khinh miệt. Vương Trấn Ác tuy cố gắng chống đỡ được hết, không rơi vào thế hạ phong, nhưng biết là bất diệu.

Nếu ở lĩnh vực mình mạnh nhất mà vẫn không thể thủ thắng thì trận này hoàn toàn không có hy vọng gì, lập tức lòng tin bị ảnh hưởng.

Sau đó Hướng Vũ Điền lại dùng chiêu to thức lớn, cương ngạnh dùng chưởng kình, quyền kình công kích cực mạnh từ xa, làm Vương Trấn Ác không thể triển khai thủ đoạn quyết thắng là cận chiến. Vương Trấn Ác lúc này đã rơi vào hạ phong, chống đỡ vô cùng vất vả.

Nội công tâm pháp của Hướng Vũ Điền vô cùng tà dị, nhưng khẳng định là một loại Tiên thiên chân khí, lại đạt tới cảnh giới đại tông sư. Lúc hàn lúc nhiệt, bác đại tinh thâm, trong nhanh có chậm, tưởng chậm hóa nhanh, khí theo ý chuyển, nặng nhẹ không đều làm người ta không thể đề phòng. Hơn nữa, mỗi chiêu của y lại khóa chết những biến hóa tiếp theo của Vương Trấn Ác, làm hắn có tuyệt kỹ nhưng không cách gì thi triển được, khó lòng đánh ra nên sinh chán nản.

Đến khi triển khai đợt tấn công như sóng biển thứ ba, Hướng Vũ Điền lại không theo một chương pháp nào, chiêu số đánh ra giống như lâm trận mới sáng tác ra, tựa thiên mã hành không, không thể tìm ra dấu vết. Chân khí lại rộng lớn vô biên, không có giới hạn.

Chiêu thức liên miên đánh Vương Trấn Ác tới tấp.

Vương Trấn Ác lúc này đã hoàn toàn rơi vào thế chỉ còn chống đỡ. Nếu như tâm chí hắn không kiên cường và tính khí cứng cỏi được rèn thành từ thuở nhỏ thì chỉ sợ đã sớm mất hết đấu chí để ngoan cường chống cự.

Bùng!

Một chỉ của Hướng Vũ Điền điểm trúng kiếm phong, một cỗ chỉ kình tập trung cao độ đã phá vỡ chân khí của Vương Trấn Ác, đánh thẳng vào tâm mạch hắn.

Vương Trấn Ác như diều đứt dây, thân hình bắn tung ra sau, “ọe” một tiếng, mửa ra một búng máu rồi lưng hắn đập mạnh vào một thân cây, ngồi phệt xuống đất. Bách Kim kiếm vẫn cầm chặt trong tay, chĩa sang phía địch nhân đáng sợ và thông minh bình sinh chưa từng gặp này.

Hướng Vũ Điền đuổi tới như thiểm điện, đến trước mặt hắn thì dừng lại, hai tay mở ra lập tức tạo thành một trường kình khí khóa chặt Vương Trấn Ác.

Vương Trấn Ác thầm nghĩ chết chắc rồi, nhưng hắn vẫn không buông tay, ngấm ngấm đề tụ toàn bộ công lực còn lại, chuẩn bị đòn phản kích cuối cùng trước khi chết.

Thần sắc trong mắt Hướng Vũ Điền chuyển thành vô cùng lợi hại, quát lớn: “Chỉ cần Vương huynh tình nguyện giải đáp một điểm nghi ngờ trong lòng ta thì ta có thể để cho Vương huynh an nhiên bỏ đi, tuyệt không làm khó dễ hoặc phát sinh thêm việc. Lời Hướng Vũ Điền đã nói ra thì chưa từng không giữ lời.”

Vương Trấn Ác không hề vì thế mà lơi lỏng phòng bị vì hành vi của Hướng Vũ Điền khó đoán, không biết y nói thật hay giả. Hắn cười nhẹ: “Chết thì chết! Còn có gì đáng sợ hơn thế nữa? Thực ra, mấy năm nay ta luôn cảm thấy sống mà như chết. Nếu Hướng huynh muốn dùng lời nói khiến ta không phòng bị nữa thì ta sẽ xem thường ngươi đó.”

Hướng Vũ Điền than: “Trong tình thế này mà Vương huynh vẫn có thể cười được làm huynh đệ bội phục, lại không muốn lừa ngươi nữa. Vương huynh có thể yên tâm. Vấn đề của ta vô cùng đơn giản. Chỉ cần Vương huynh khẳng khái cho ta biết các ngươi làm sao mà biết ta ẩn thân trong chỗ hoang phế đó thì Vương huynh có thể ung dung phủi đít quay về Biên Hoang tập. Sau này ta sẽ không tiết lộ chuyện Vương huynh từng nói với ta đâu.”

Vương Trấn Ác trong lòng vô cùng ngạc nhiên. Người này tài trí thực không tầm thường, biết chỗ quan trọng nhất trong việc đấu tranh giữa hai bên nên mới cho mình dùng tin tình báo đó để đổi mạng. Chỉ riêng việc đó có thể thấy người này không những đại trí đại dũng mà còn nhìn xa trông rộng, tuyệt không tính toán chuyện được mất nhất thời, mà biết phân biệt sự tình có mức độ nặng nhẹ.

Vương Trấn Ác cười khổ: “Hướng huynh động thủ đi! Vương Trấn Ác ta lại là loại tiểu nhân ti bỉ đó sao?”

Hướng Vũ Điền cười rộ: “Chỉ bằng câu nói này của Vương huynh là ta biết Hoang nhân quả có diệu pháp truy ra tung tích ta chứ không phải là bất ngờ tấu xảo tìm ra.”

Nói xong, y buông thõng hai tay xuống, cười nhẹ nói: “Vương huynh đi đi!”

Trường kình khí đang trói chặt Vương Trấn Ác lập tức tiêu biến. Hắn liền thừa thế đứng lên, nhưng vẫn sợ đây là kế độc, nhíu mày hỏi: “Hướng huynh nói đùa chăng?”

Hướng Vũ Điền than: “Không phải là ta đột nhiên đại phát từ tâm, cũng không phải không muốn giết ngươi. Ngược lại còn muốn đến chết. Không giấu Vương huynh, từ khi ta mười lăm tuổi, chưa từng có ai có thể ngạnh tiếp bằng ấy chiêu khi ta toàn lực xuất thủ. Cảm giác thật thống khoái mê ly. Nguyên nhân ta không giết ngươi vì ngươi vẫn còn sức phản kích. Nếu ta cậy mạnh hạ thủ thì bản thân cũng không tránh khỏi thương tổn.”

Vương Trấn Ác ngạc nhiên: “Có vấn đề gì đâu? Chỉ cần thương thế không phải là trí mạng thì có thể phục nguyên mà.”

Hướng Vũ Điền cười nhẹ: “Tình hình của ta khá đặc biệt. Lúc nãy đã thi triển công phu ‘Huyết Giải’ để chạy mới có thể đột vây thoát khỏi Biên Hoang tập. Bây giờ nguyên khí vẫn chưa hồi phục, chỉ có thể sử ra bảy, tám thành công phu so với bình thường. Vừa rồi ta đã thi triển bí kỹ công pháp tộc truyền nhưng vẫn không làm khó được Vương huynh. Trong trường hợp bất đắc dĩ thì chỉ còn cách thi triển công phu giữ nhà là ‘Chủng ngọc công’ mới có thể áp chế được Vương huynh. Nếu ta muốn giết chết Vương huynh thì chỉ có thể dùng công pháp đó mới hy vọng thành công. Nhưng công pháp đó bá đạo phi thường, nếu ta vọng động xuất thủ khi chân nguyên vẫn chưa hồi phục sẽ phản ngược lại, tạo thành thương tổn bản thân vĩnh viễn không thể bổ cứu được. Ta sẽ không làm chuyện ngu xuẩn đó.”

Vương Trấn Ác ngạc nhiên hỏi “Chủng ngọc công? Đó là công phu gì vậy? Tên gọi lại kỳ quái đến thế?”

Đồng thời trong lòng thầm nghĩ nếu y nói thật thì sau khi y phục nguyên sẽ lợi hại tới mức nào? Thiên hạ còn có ai có thể chế trụ được y?

Hướng Vũ Điền nói: “Rất nhiều việc rất khó giải thích hết cho Vương huynh được. Tính cách của Vương huynh cũng có chút giống tính khí của ta. Chỉ tiếc là trong một thời gian ngắn trước mắt, giữa ta và ngươi có mối cừu địch không thể hóa giải. Nếu như Vương huynh có bản lĩnh làm thịt ta, ta chỉ có bội phục chứ không oán hận. Nhưng nói thật, việc đó không ai có thể làm được. Ngươi có biết Yến Phi không?”

Vương Trấn Ác đã hồi phục lại, trong lòng ổn định, từ từ đút kiếm vào vỏ nói: “Hắn sẽ là kình địch của Hướng huynh. Lời Vương mỗ đến đây là hết. Sau này gặp lại.”

Nói xong rời khỏi cốc đi mất.

Trác Cuồng Sinh đuổi đến bên cạnh Cao Ngạn than vãn: “Ta chưa bao giờ thấy tiểu tử ngươi chạy nhanh đến thế.”

Cao Ngạn không hề lý gì đến lão, ánh mắt lùng sục các con thuyền lớn nhỏ đậu trên bến.

Trác Cuồng Sinh nắm lấy tay gã, cười hề hề: “Ngươi không sợ sao? Ngươi là mục tiêu ám sát của người Bí tộc. Bí tộc người nào cũng thần xuất quỷ một, đi lại như gió. Chỉ chờ thêm hai ngày nữa mà ngươi cũng không nhẫn nại được sao?”

Cao Ngạn không khách khí đáp: “Đừng nói phải đợi hai ngày. Chỉ đợi hai khắc ta cũng không đợi được. Hiểu chưa? Đừng có dọa ta. Bây giờ trong Biên Hoang tập không có người Bí tộc. Hơn nữa bọn chúng đều là vịt cạn cả. Ngồi thuyền còn an toàn hơn ở trên bờ nhiều, hiểu chưa?”

Tiếp đó, gã giằng thoát ra khỏi tay lão, phóng về phía một con thuyền nhỏ một buồm đang đậu trên bến, hét: “Lão tử cần trưng dụng con thuyền của các ngươi.”

Trong thuyền có hai hán tử đang bận rộn làm việc, nghe tiếng liền ngẩng đầu lên nhìn. Thấy Cao Ngạn, một trong hai người hỏi: “Cao gia cần đi đâu?”

Cao Ngạn không hề khách khí, nhảy vọt lên thuyền. Gã làm như chuyện đương nhiên nói: “Ta cần đi gặp tiểu Bạch Nhạn, mau khai thuyền.”

Một người khác lộ vẻ khó khăn nói: “Bọn ta còn….”

Cao Ngạn không ngần ngại nói ngay: “Đừng có lải nhải nữa. Lão tử sẽ trả tiền.”

Trác Cuồng Sinh thầm thở dài, cũng nhảy lên thuyền nói: “Làm theo ý hắn đi! Nếu không, tên tiểu tử này chưa gặp được tiểu Bạch Nhạn đã phát điên lên mất.”

Hai người chỉ còn cách cởi dây đẩy thuyền ra, thuận dòng đi xuống phía nam.

Lưu Dụ nhớ tới Vương Đạm Chân.

Từ khi đến Kiến Khang, trừ đêm gặp Tạ Chung Tú ở tiểu Đông Sơn bị nàng ta trực tiếp khơi dậy hồi ức về Vương Đạm Chân thì gã đã ‘cải thiện rất nhiều’ so với trước đây.

Hiện thực căn bản không cho phép gã thương tâm về Vương Đạm Chân nữa.

Sau khi đến Kiến Khang, mỗi khắc gã đều phải cật lực đấu tranh bên lề sự sống và cái chết. Đến đêm qua, giết chết Can Quy, trưa nay lại được Tư Mã Đạo Tử biểu hiện rõ ràng sẽ ủng hộ gã thì gã mới có thể thanh thản hít thở vài hơi.

Gã vừa đả tọa dưỡng khí gần hai canh giờ, tinh thần hoàn toàn hồi phục, Vương Đạm Chân liền chiếm cứ toàn bộ tâm thần gã.

Hoặc có thể khi thuyền nhỏ đi qua hẻm Ô Y làm xúc động hồi ức động nhân đã vùi sâu trong tim gã khi lần đầu tiên gặp Đạm Chân ở đó.

Khoái Ân đứng ở cuối thuyền phụ trách việc chèo thuyền. Tống Bi Phong ngồi ở đầu thuyền. Gã và Đồ Phụng Tam ngồi ở giữa. Bốn người không hề nói chuyện.

Tống Bi Phong lộ vẻ cảnh giới, lưu ý nhìn tình hình dưới nước và trên mặt nước. Đương nhiên là lão đề phòng Lư Tuần.

Đồ Phụng Tam nhắm mắt dưỡng thần, nhưng với tính cách của hắn thì hắn cũng đang trong trạng thái giới bị để ứng phó với bât kỳ đột biến nào.

Nhưng họ đều biết Lư Tuần sẽ không hạ thủ trong tình huống này. Kể cả Tôn Ân thân hành đến đây cũng không có cách nào đồng thời ứng phó với bốn người bọn họ. Lư Tuần càng không thể làm được.

Mặt trời mùa thu lặn dần phía trời tây. Trên sông Tần Hoài gió lạnh ào ào làm y phục bốn người bay phất phới.

Buổi yến tiệc trưa nay làm gã tiến một bước dài trên con đường trả thù cho Đạm Chân. Có thể nói đó là một bước ngoặt trên con đường thực hiện bá nghiệp vương hầu, làm gã hòa nhập vào chế độ triều đình, trở thành người có thực quyền.

Khi tử đệ binh Hoang nhân của gã tiến vào Dã Thành, họ sẽ trở thành nòng cốt của gã. Kể cả Tư Mã Đạo Tử đột nhiên hối hận, muốn trừ khử gã thì cũng phải có một bộ máy tinh mật chứ không dễ dàng như trước nữa.

Gã thực sự hy vọng có thể tận mắt chứng kiến phản ứng và biểu tình của Lưu Lao Chi khi biết việc này, nhìn vẻ kinh hoàng thất thố của hắn. Đối với cái chết của Đạm Chân, Lưu Lao Chi không còn nghi ngờ gì nữa cũng phải gánh trách nhiệm. Gã phải thấy Lưu Lao Chi thân bại danh liệt, hối hận về những việc hắn đã làm.

Đồ Phụng Tam mở mắt, bình tĩnh nói: “Đến rồi!”

Lưu Dụ nhìn ra phía trước. Tần Hoài lâu sừng sững cao vút bên bờ nam sông Tần Hoài, đối diện với Hoài Nguyệt lâu qua con sông. Xa hơn một chút là Chu Tước kiều, trong lòng gã bất chợt nổi lên tình cảm kỳ dị. Nhiều năm sau nữa, nếu gã trở thành người có quyền thế lớn nhất Kiến Khang, ruổi ngựa vượt qua Chu Tước kiều, nhớ lại chuyện cũ từng phát sinh tại tầng năm Hoài Nguyệt lâu ngày hôm nay thì sẽ có tự vị gì?

Vừa nghĩ Lưu Dụ vừa đứng lên.

Tống Bi Phong thấp giọng: “Không thể không có lòng đề phòng người khác. Ngươi hãy cẩn thận đó.”

Khoái Ân cho con thuyền ghé vào bờ Nam.

Đồ Phụng Tam đề tỉnh Lưu Dụ: “Nhớ kỹ trong bọc ngươi có hỏa tiễn báo hiệu. Bọn ta đợi ngươi trên thuyền. Chỉ cần nhìn thấy tín hiệu thì nửa khắc sau là bọn ta đã có thể tới đó rồi.”

Lưu Dụ gật đầu ra hiệu đã hiểu, đoạn đứng lên đi thẳng tới Hoài Nguyệt lâu.

Thác Bạt Khuê vào trong trướng, đến bên Sở Vô Hạ quỳ xuống, đưa tay ra đặt lên trán nàng.

Sở Vô Hạ yếu ớt vô lực mở mắt ra nhìn, thấy Thác Bạt Khuê lập tức hai mắt lộ vẻ vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, lập tức phục hồi vẻ mệt mỏi, nói: “Cuối cùng chàng cũng tới rồi!”

Thác Bạt Khuê rất giỏi nhìn biểu hiện trong mắt người khác. Tình cảm bên ngoài còn có thể giả vờ, che giấu, nhưng nhãn thần lại bán đứng bí mật nội tâm của người đó. Đặc biệt độ thu nhỏ hay mở lớn của con ngươi mắt càng giống như hai cánh cửa sổ để hắn tiến vào tâm hồn người ta.

Phản ứng của Sở Vô Hạ làm lòng giới bị của hắn đối với nàng giảm nhiều. Đồng thời lòng thương lại tăng lên. Bất kể là trước đây diễm danh của nàng truyền xa thế nào, nhưng nàng đối với mình rất chân tâm, hoặc ít nhất thì cũng bảy, tám phần chân tình. Nghĩ tới việc Trúc Pháp Khánh và Ni Huệ Huy trước sau rời khỏi nhân thế, Di Lặc giáo mây tàn khói tỏa, nàng biến thành một người cô khổ lưu lạc, cừu nhân khắp nơi, lại không có một bằng hữu. Bây giờ lại vì mình mà thụ trọng thương. Dù hắn vô tình đến thế nào cũng không thể không động lòng.

Thác Bạt Khuê thò tay vào trong tấm chăn da dê tìm đến bàn tay nàng. Hắn cảm thấy huyết mạch nàng khẽ đập ở đầu ngón tay. Ngay vào thời khắc này, hắn biết mỹ nữ mê người này đã hoàn toàn thuộc về hắn. Tương lai của nàng nằm trong bàn tay hắn khống chế.

Hắn dịu dàng nói: “Tất cả đã qua rồi. Ta đến đón nàng về nhà.”

Sở Vô Hạ khép đôi mi xinh lại. Những sợi lông mi dài đẹp khẽ rung động. Dưới ánh đèn lửa lay động, hoa dung không còn chút huyết sắc của nàng lại có một vẻ đẹp khác lạ, có phần hơn lúc bình thường. Khoé miệng nàng thoáng nét đau khổ, thì thầm: “Nhà ư? Vô Hạ lại có nhà sao?”

Thác Bạt Khuê cẩn thận đắp lại tấm chăn da dê cho nàng, cười nhẹ nói: “Nàng vừa mới có nhà rồi!”

Tấm thân yêu kiều của Sở Vô Hạ khẽ run rẩy, mở bừng mắt ra, ánh mắt bừng bừng như lửa hô: “Tộc chủ!”

Thác Bạt Khuê nhất thời quên hẳn quá khứ của nàng, quên hẳn ân oán giữa nàng và Yến Phi. Hắn cúi xuống khẽ hôn vào đôi môi xinh đẹp thơm tho của nàng. Vì sợ động đến thương thế của nàng nên hắn vốn chỉ định khẽ chạm môi là thôi. Nào ngờ, hai cánh tay ngà ngọc của Sở Vô Hạ từ trong chăn thò ra ôm chặt lấy đầu hắn, nồng nhiệt hưởng ứng.

Môi rời môi.

Thác Bạt Khuê say sưa ngây ngất, thần hồn phiêu đãng.

Hai mắt Sở Vô Hạ nhắm chặt. Khuôn mặt vốn trắng bệch vì bị thương lại đỏ bừng, xuất hiện dưới làn da mịn màng trong suốt của nàng càng làm khuôn mặt nàng có vẻ đẹp kinh tâm động phách.

Thác Bạt Khuê miễn cưỡng áp chế nỗi xung động muốn hôn nàng lần nữa, nói: “Từ nay về sau không một ai có thể làm thương tổn nàng nữa. Nghỉ ngơi một đêm rồi sáng mai chúng ta sẽ lên đường về Bình Thành.”

Hô hấp gấp gáp của Sở Vô Hạ đã điều hoà trở lại, hổn hển nói: “Đả thương muội là Mặc Sĩ Minh Dao. Thị có thể giấu người nào khác chứ không thể qua mắt muội được.”

Thác Bạt Khuê giật mình kinh hãi hỏi: “Cái gì?”

Sở Vô Hạ ngạc nhiên tròn mắt nhìn hắn hỏi: “Chàng sợ thị sao?”

Vẻ kinh hãi trên mặt Thác Bạt Khuê vẫn chưa giảm, hai mắt mở lớn chừng như không hề nghe thấy câu hỏi của nàng. Một lát sau hắn hồi phục lại sự lạnh lùng như thường, cúi đầu nhìn nàng hỏi ngược lại: “Làm sao nàng biết đó là Mặc Sĩ Minh Dao?”

Sở Vô Hạ lộ vẻ hoài nghi, đáp: “Đại Hoạt Di Lặc có quan hệ đặc thù với Bí tộc. Nguyên nhân vô cùng phức tạp khúc chiết. Vì thế muội mới có nhận thức sâu sắc về Bí tộc. Đặc biệt là võ công tâm pháp của người Bí tộc. Chỉ giao thủ vài chiêu là muội liền biết đối thủ là thị. Thị tuy đả thương muội, nhưng cũng bị muội đáp trả lại rồi. Nếu không có mấy ngày công phu thì thị đừng hòng phục nguyên.”

Thác Bạt Khuê nhíu mày: “Nàng đã biết người phục kích là người Bí tộc, tại sao không nói cho Trưởng Tôn Đạo Sinh và Thôi Hoành biết?”

Sở Vô Hạ nhắm mắt lại, khẽ khàng đáp: “Muội chỉ nghĩ sẽ tự mình nói cho chàng biết. Ngoài tộc chủ, muội không tin bất kỳ ai.”

Thác Bạt Khuê cảm động không nói nên lời. Một lát sau mới hỏi: “Bí tộc và Thác Bạt Khuê ta từ xưa vô oán, ngày nay vô cừu, tại sao lại đột nhiên công kích bọn ta?”

Sở Vô Hạ đáp: “Xem ra chàng tuyệt không biết quan hệ giữa người Bí tộc và Mộ Dung Thuỳ. Nhưng biết chuyện này quả thực cũng chẳng có mấy người đâu.”

Hai mắt Thác Bạt Khuê bừng lên thần sắc lợi hại, trầm giọng: “Người Bí tộc và Mộ Dung Thuỳ có quan hệ gì?”

Sở Vô Hạ mỉm cười nói: “Vô Hạ có thể nói với chàng, nhưng phải có điều kiện.”

Thác Bạt Khuê lấy làm kỳ hỏi: “Điều kiện gì?”

Đôi mắt xinh đẹp của Sở Vô Hạ đầy vẻ khao khát, thì thầm nói: “Nô gia phải ở trong lòng chàng mới nói được.”

Thác Bạt Khuê miễn cưỡng cười: “Nàng chừng như không biết mình đang bị nội thương nghiêm trọng thì phải.”

Sở Vô Hạ than: “Không phải ý nô gia muốn chàng làm gì cả. Tộc chủ nghĩ đi đâu rồi vậy?”

Thác Bạt Khuê cũng than: “Đợi ta ra ngoài xử lý việc phòng thủ cho đêm nay rồi sẽ quay lại bồi tiếp nàng được không?”

Sở Vô Hạ ngạc nhiên một cách thích thú nói: “Nô gia ở đây chờ chàng.”

Thác Bạt Khuê vừa định rời khỏi doanh trướng thì Sở Vô Hạ đằng sau gọi hắn.

Thác Bạt Khuê dừng bước, nhưng không quay lại, ôn nhu hỏi: “Có thể đợi ta quay về hãy nói được không?”

Sở Vô Hạ đáp: “Muội sợ sẽ quên mất! Nô gia muốn cho chàng biết Thôi Hoành là một nhân tài hiếm có. Bất luận võ công tài trí, không đứng dưới bất kỳ người nào trong quân ta. Nếu không có bản lĩnh lâm nguy ứng biến của hắn thì chỉ sợ không thể giữ được năm xe hoàng kim.”

Thác Bạt Khuê không đáp lời nàng, vén trướng đi ra ngoài. Gió lạnh thổi tới xua tan hơi ấm nồng nàn trong trướng còn vương trên thân thể hắn, càng làm hắn cảm thấy bên trong là cả một thế giới hoàn toàn khác, không đừng được lại nhớ tư vị ôn nhu vừa rồi.

Bọn Thôi Hoành, Trưởng Tôn Đạo Sinh, Thúc Tôn Phổ Lạc và Trường Tôn Tung đang tập trung nhìn hắn.

Hai mắt Thác Bạt Khuê lộ thần sắc kiên định trầm giọng nói: “Tập kích bọn ta chính là chiến sỹ Bí tộc.”

Thôi Hoành ngạc nhiên hỏi “Bí tộc?”

Thác Bạt Khuê ung dung nói: “Thôi khanh sẽ rất mau biết bọn chúng thôi. Bí tộc lần này tự tìm diệt vong, mới dám đứng về phía Mộ Dung Thuỳ, đối địch với Thác Bạt Khuê ta. Ai dám cản đường Thác Bạt Khuê ta, người đó sẽ phải chết. Mặc Sĩ Minh Dao cũng không ngoại lệ.”Cao Ngạn đến đuôi thuyền, ngồi xuống bên cạnh Trác Cuồng Sinh. Lúc này bóng tối đã bao trùm vạn vật, mưa bụi lất phất bay, pha chút khí lạnh đầu thu.

Trác Cuồng Sinh mắng: “Cuối cùng ngươi cũng chịu ngồi xuống rồi à? Nhìn tên ngu ngốc nhà ngươi cứ đi đi lại lại trên thuyền, đứng ngồi không yên, đến người nhìn là ta cũng thấy khó chịu!”

Cao Ngạn phản kích: “Đừng có lấy ta ra mà trút giận được không? Tầm mắt cũng nên nhìn xa một chút. Thuyết Thư quán sẽ không đóng cửa vì không có ngươi ở đó đâu. Những người kể chuyện thủ hạ của ngươi sẽ tiếp tục kể về cái gì là ‘Lưu Dụ nhất tiễn trầm Ẩn Long’, ‘Yến Phi nộ trảm giả Di Lặc’ gì gì đó mà. Đừng nghĩ vì mình là thiên hạ đệ nhất cao thủ thuyết thư mà không có ngươi không được. Cuối cùng sẽ có một ngày ngươi sẽ bị người kể chuyện khác thay thế. Thời đại không ngừng thay đổi, cục diện mới sẽ có những câu chuyện mới, giờ là thời đại đón chào những cái mới. Con bà nó! Việc quan trọng nhất của ngươi bây giờ là làm sao để câu chuyện danh lưu sử sách là ‘Tiểu Bạch Nhạn chi luyến’ có kết cục tốt đẹp. Ngoài ra đều là thứ yếu, hiểu chưa?”

Trác Cuồng Sinh không khách khí nói: “Cần đến tên tiểu tử miệng còn hôi sữa nhà ngươi giáo huấn ta ư? Lão tử nói mình không thể bị thay thế bao giờ? Nói thật ra, nếu có người thay thế thì ta còn cao hứng là khác. Như thế thì thuyết thư mới có thể tiếp tục hưng vượng, trăm hoa đua nở, vui vẻ nhiệt náo được. Con bà ngươi! Nếu như không có ta thì ngươi liệu có ngày hôm nay không? Con mẹ nó! Ngươi phải cảm kích ta mới đúng.”

Cao Ngạn đáp: “Ta quả thực rất cảm kích ngươi, vì thế mới quan tâm đến ngươi. Cho ta biết! Ngươi làm người là vì cái gì? Chẳng phải là chỉ biết vùi đầu vào viết thiên thư rồi đến Thuyết Thư quán ăn to nói lớn. Chẳng lẽ chỉ như thế là thoả mãn rồi sao? Tại sao ngươi không tìm một mỹ nhân làm ngươi động tâm làm bạn? Sinh hoạt sẽ không khô khan vô vị như bây giờ đâu.”

Trác Cuồng Sinh lắc đầu than: “Ngươi chẳng phải là ta, làm sao biết cuộc sống của ta khô khan vô vị? Thật ra, ta sống tràn trề phong phú, sảng khoái vui vẻ không biết thế nào mà nói. Nữ nhân ta chưa từng thử qua ư? Khi ta tay ôm tay ấp gái thì ngươi vẫn còn nằm trong bụng mẹ. Đừng nói những lời thừa như thế nữa. Trước hết ngươi hãy tự lo việc của bản thân mình cho tốt đi! Để chờ xem ngươi ứng phó làm sao với Tiểu Bạch Nhạn đây?”

Lập tức hai mắt Cao Ngạn sáng bừng, hưng phấn nói: “Không một ai hiểu rõ Tiểu Bạch Nhạn bằng ta. Nghe lời tên quân sư quỷ quái nhà ngươi thì chỉ làm rối loạn chuyện của ta lên mà thôi. Sau khi lên thuyền, mời ngươi tìm chỗ nào mà tránh mặt đi. Lão tử tự sẽ có cách làm Tiểu Bạch Nhạn cao hứng, cam tâm tình nguyện cùng ta chung giấc đêm xuân, để cho ngươi có thể viết thêm một câu chuyện ‘Tiểu Bạch Nhạn tình mê Cao tiểu tử, Dĩnh Thủy lâu thuyền đính uyên minh’*.”

Trác Cuồng Sinh thở dài, không nói gì nữa.

Biên Hoang tập, dịch trạm ở Bắc môn.

Trong đại sảnh Phi Mã hội, Vương Trấn Ác vừa trở về kể lại chuyện giao thủ với Hướng Vũ Điền cho Lưu Mục Chi, Thác Bạt Nghi, Giang Văn Thanh, Cơ Biệt, Hồng Tử Xuân, Âm Kì, Phí Nhị Phiết và Diêu Mãnh. Cuối cùng hắn nói: “Nếu quả thực hắn không nói dối để hù doạ bọn ta thì lúc đó hắn chỉ có thể sử ra sáu, bảy phần công phu. Thực lực chân chính của người này tuyệt không dưới Mộ Dung Thuỳ. Y lại linh hoạt biến hoá, bí kỹ xuất ra vô cùng vô tận, thật làm người ta khó ứng phó.”

Hơn mười người ngồi quanh bàn, không ai nói được gì.

Lưu Mục Chi hỏi: “Vương huynh từng giao thủ với Mộ Dung Thuỳ chưa?”

Vương Trấn Ác đáp: “Gọi ta là Trấn Ác đi! Mộ Dung Thuỳ từng chỉ điểm võ công cho ta. Vì thế ta mới có thể so sánh được như vậy.”

Giang Văn Thanh nói: “Kiến thức của y đối với kiếm thâm sâu như vậy, rõ ràng đã từng khổ công luyện kiếm. Giờ y không dùng kiếm mà cũng lợi hại như thế thì thực lực của người này chỉ có thể dùng từ ‘thâm bất khả trắc’ để hình dung.”

Thác Bạt Nghi nhíu mày: “Thông thường thì người giỏi cận chiến khi công kích địch từ xa sẽ có chút khác biệt. Nhưng Hướng Vũ Điền lại đều giỏi cả hai phương diện đúng là làm người ta kinh dị.”

Phí Nhị Phiết trầm giọng nói: “Làm người ta kinh hãi nhất là chiến lược hắn lựa chọn sử dụng. Ai nhìn thấy Bách Kim kiếm của Trấn Ác đều biết ngay Trấn Ác giỏi về cận chiến vì ‘một thốn ngắn thì một thốn hiểm’. Sư phụ nào khi dạy đồ đệ cũng đều nói khi đối trận phải tránh cường đánh nhược. Người này lại làm ngược lại đạo lý đó. Trước tiên để Trấn Ác thi triển hết sở trường, làm Trấn Ác phát sinh cảm giác chán nản vì dùng công phu giỏi nhất của mình mà vẫn không cách gì đánh bại được đối phương. Sau đó y mới dùng thủ đoạn hoàn toàn tương phản làm lòng tin của Trấn Ác giảm sút rất lớn, rồi mới thi triển sát thủ. Chỉ từ cách vận dụng chiến lược của y là biết người này vô cùng khó đấu lại được.”

Cơ Biệt cười: “Nếu đơn đả độc đấu chỉ sợ chỉ có tiểu Phi mới có thể chế trụ được y. May là bây giờ không cần nói quy củ giang hồ gì nữa. Bọn ta đã biết y lợi hại đương nhiên sẽ không khách khí với y.”

Lưu Mục Chi nói: “Ở đây Trấn Ác là người hiểu rõ nhất tình hình của Bí tộc. Trấn Ác ngươi trước đây đã từng nghe qua nhân vật số một của họ chưa?”

Vương Trấn Ác lắc đầu: “Gia gia bắt cầm tù chủ nhân Bí tộc Mặc Sĩ Nỗ Nã thì không lâu sau đó đã mất. Tiếp đó cha lại bị người ám sát, nhà ta tan nát, không rõ tình hình của Bí tộc nữa.”

Lưu Mục Chi nói: “Hướng Vũ Điền đúng là kỳ nhân của Bí tộc, tác phong hành sự làm người ta khó dự đoán. Y rõ ràng có thể giết chết Trấn Ác, nhưng lại không hạ thủ để giữ làm đầu mối. Từ một lời của Trấn Ác đã đoán ra bọn ta có phương pháp điều tra hình tích y, càng cho thấy y tài trí cao minh. Hiện giờ cái mũi của Phương tổng trở thành chỗ dựa để chúng ta đối phó với Bí tộc. Bí mật này phải giữ cho kín, tuyệt đối không thể tiết lộ cho người Bí tộc, nếu không Phương tổng sẽ nguy hiểm đó.”

Giang Văn Thanh nói: ”Việc này để ta xử lý. May là người biết không nhiều, toàn là huynh đệ bên mình sẽ không tiết lộ ra đâu.”

Mộ Dung Chiến đứng lên nói: “Càng biết nhiều điều liên quan đến Bí tộc thì bọn ta càng có thể thiết kế chống lại thủ đoạn của người Bí tộc. Giờ ta sẽ tận lực để làm việc đó, xem thử có thể thuyết phục được Sóc Thiên Đại đứng về phía bọn ta không.”

Hồng Tử Xuân cười: “Chiến gia định dùng mỹ nam kế sao?”

Mộ Dung Chiến cười mắng: “Ta vẫn còn tự biết mình. Khi soi mình trong gương thì không dám khen mình nữa.”

Hắn lại tiếp: “Trách nhiệm vạch kế sách, tổ chức bộ máy do Lưu tiên sinh chủ trì. Phương tổng không có ở đây, chúng ta phải giữ tinh thần tỉnh táo. Không nên tin tưởng chuyện Hướng Vũ Điền nói chưa hồi phục gì đó, nói không chừng đó là kế của y. Nhiều khả năng Hướng Vũ Điền bám theo sau Trấn Ác về đây xem Trấn Ác gặp người nào rồi sẽ quyết định mục tiêu ám sát.”

Mọi người đưa mắt nhìn ra chỗ tối ngoài song, trong lòng bất chợt ớn lạnh.

Người như Hướng Vũ Điền đúng là có thể làm người ta sinh lòng khiếp sợ.

“Giang Hồ địa” sau Hoài Nguyệt lâu ở Kiến Khang có tiếng tăm rất lớn, được vinh dự là một trong tám khu vườn nổi tiếng nhất Kiến Khang, đứng ở vị trí thứ năm. Đứng đầu trong tám khu vườn nổi tiếng nhất này đương nhiên là “Tứ Quý viên” của Tạ gia trong hẻm Ô Y.

Để đến “Giang Hồ địa” phải xuyên qua đại đường của Hoài Nguyệt lâu. Đến Lâm Thuỷ Nguyệt đài liền kề với Tây môn.

Lâm Thuỷ Nguyệt đài đình viện rộng lớn, có bậc thềm bằng đá nối với hành lang dài chạy quanh toàn bộ khu vườn. Vườn này phía đông hẹp phía tây rộng, chính giữa có một hồ nhỏ có vài hòn đảo, giả sơn, thác nước và năm cây cầu uốn lượn. Phía bắc có hành lang quanh co, phía đông có hành lang dựa vào tường viện. Phía nam có hành lang nhỏ quanh co. Một bên trồng đầy ba tiêu, trúc, đá, khai thác được hết cảnh sắc thâm u, khiến cho người ta cảm thấy tuyệt đẹp khi đi dạo quanh hành lang.

Vọng Hoài đình là một toà lục giác đình nằm ở góc đông bắc “Giang Hồ địa” trên một hòn giả sơn. Xung quanh trồng đầy tùng bách, hoa bạch lan, tú cầu. Chỗ bờ hồ có bạch bì tùng được trồng tự nhiên, phối hợp với hoa sen trên mặt hồ tạo ý cảnh cao xa. Có thể vừa ngắm cảnh hồ ao bên trong, lại ngắm được thắng cảnh phía bắc Tần Hoài. Vườn nổi tiếng, sông cũng nổi tiếng, tôn vẻ đẹp của nhau lên.

Lưu Dụ báo danh lên, lập tức có người chuyên trách tiếp đãi, dẫn gã đến “Giang Hồ địa” để hội diện với Thanh Đàm Nữ Vương Lý Thục Trang.

Đặt mình vào khu vườn nổi tiếng, cảnh trí mỹ lệ sắc hoa bóng liễu biến hoá vô cùng này, Lưu Dụ cảm giác được mình đã kiến lập được địa vị ở Kiến Khang.

Hai tiểu tỳ cầm đèn đi trước dẫn đường. Hai ngọn đèn soi đường này chỉ để làm dáng mà thôi vì trong vườn treo đầy phong đăng, không nhiều không ít, như hợp như phân, làm tăng cao niềm lạc thú dạo bước trong vườn ngắm cảnh. Trong khung cảnh thần bí mê người này, không những làm người ta quên đi trần tục, còn khó nổi lòng tranh cường hiếu thắng.

Chầm chậm thả bước ven hồ, nghe thấy tiếng nước sông Tần Hoài chảy bên cạnh. Hoài Nguyệt lâu cao vút phía sau, những tiếng đàn ca cười đùa ầm ỹ bên tai theo bước gã tiến vào khu vườn, từ từ nhỏ dần. Dường như gã đang không ngừng rời xa trần thế.

Trải qua một đêm yên tĩnh hôm qua, Lưu Dụ đặc biệt cảm thụ được phương thức sinh hoạt chỉ biết say sưa mơ mộng trong lâu.

Bốn phía dần dần tối đen, chỉ còn ánh sáng mờ nhạt của hai ngọn đèn dẫn đường. Bỗng trước mắt sáng lên, Vọng Hoài đình xuất hiện cao cao phía trước. Từ góc độ của gã nhìn lên chỉ thấy mái đình và bậc thang xây bằng đá tảng dẫn lên đình.

Lý Thục Trang không thể không gặp gã.

Bất kể nàng ta giàu có thế nào, có thế lực ra sao, có bao nhiêu người cao sang quyền quý chống lưng, nhưng nàng cũng biết Lưu Dụ gã có đủ lực lượng huỷ diệt nàng.

Cùng với sự uy hiếp của Hoàn Huyền ngày càng tăng, phản loạn Thiên Sư quân ngày càng nguy kịch thì sức ảnh hưởng của gã càng như nước nâng thuyền lên. Có thể bây giờ thì gã chưa thể làm gì được nàng, nhưng nàng là người thông minh, hiểu rõ tình thế sẽ có thể xoay chuyển.

Nàng có phải là người thông minh không?

Giang Văn Thanh, Lưu Mục Chi, Vương Trấn Ác và Phí Nhị Phiết dưới sự bảo vệ của hơn mười hảo thủ Đại Giang bang vượt qua Dạ Oa Tử đến tổng đàn Đại Giang bang ở Đông môn.

Trong các bang hội của Biên Hoang tập thì Đại Giang Bang được kế thừa tổng đàn Hán bang có sức phòng thủ mạnh nhất. Vương Trấn Ác đến tổng đàn Đông môn này để có môi trường an toàn trị thương. Còn Lưu Mục Chi càng cần có một nơi ở an toàn để tĩnh tâm suy nghĩ, vận trù quyết sách trong trường tranh đấu với người Bí tộc.

Lưu Mục Chi trở thành túi khôn của Biên Hoang tập. Do lão không biết võ công nên phải được Hoang nhân bảo vệ nghiêm mật nhất.

Giang Văn Thanh khẽ hé môi thơm hỏi Vương Trấn Ác: “Trấn Ác tựa hồ đối với việc rơi vào tay Hướng Vũ Điền hoàn toàn không để trong lòng. Ta nhìn có sai không vậy?”

Vương Trấn Ác ung dung đáp: “Đại tiểu thư nhìn rất chuẩn. Ta từng không để chuyện thắng bại giữa hai người trong giang hồ vào trong lòng, chỉ coi trọng chuyện thắng bại trên chiến trường bằng thiên quân vạn mã. Vì thế chỉ cần giữ được cái mạng nhỏ này, chứ thật không tính toán chuyện được mất nhất thời.”

Phí Nhị Phiết nói: “Trấn Ác thoả mãn với tình thế hiện tại sao? So với lúc ngươi mới đến thì dường như ngươi đã biến thành một người khác.”

Vương Trấn Ác vui vẻ đáp: “Biên Hoang tập là một địa phương kỳ dị, Hoang nhân lại càng bất đồng với người khác. Hiện giờ ta tràn đầy đấu chí và sinh thú. Chỉ nghĩ tới một trường đại chiến với Mộ Dung Thuỳ, sinh tử không hề tính toán.”

Lưu Mục Chi cười nhẹ: “Ta cũng minh bạch cảm thụ của Trấn Ác vì bọn ta ngồi chung một thuyền đến đây.”

Giang Văn Thanh hỏi: “Cái gì đã làm Trấn Ác ngươi nổi lên ý tưởng đi du lãm Biên Hoang tập vậy? Sức hấp dẫn của thiên huyệt lại lớn như thế sao?”

Vương Trấn Ác than: “Ta cũng không hiểu rõ mình nữa. Từ khi cha bị ám sát, ta luôn trải qua những ngày tháng sống không bằng chết, mắt nhìn gia tộc ngày càng suy sụp, lại bị người Hồ mà đứng đầu là Mộ Dung Thuỳ và Diêu Trường bài xích, chịu hết mọi nỗi khuất nhục. Đến khi chiến bại tại Phì Thuỷ, Hoàng triều Đại Tần tan vỡ, không thể không bỏ chạy giữ mạng. Những cảm giác này thật không biết nói ra thế nào. Ta luôn sống trong quá khứ, nghĩ về phong quang ngày trước khi theo gia gia trên chiến trường, không thể tiếp thụ tình hình trước mắt. Ta luôn muốn quay về phương Bắc. Có chết cũng phải chết ở đó, nhưng cũng biết đó là việc ngu xuẩn không thể làm. Tâm tình mâu thuẫn muốn chết.”

Phí Nhị Phiết nặng nề nói: “Con người rất khó quay đầu lại được. Gia gia ngươi một lòng muốn tài bồi ngươi làm một người khác như ông ta. Ngươi thường trải qua tư vị uy phong bát diện trên sa trường, bỗng nhiên biến thành một người không binh không quyền, đương nhiên là khó có thể tiếp thụ. Ngựa tốt chờ thời, chí ở ngoài ngàn dặm. Hơn nữa, ngươi chính là đang trong độ tuổi đầy hứa hẹn, làm sao cam tâm chết già một xó. Biên Hoang tập khẳng định là một lựa chọn tốt nhất của ngươi, ngươi có thể lấy đây làm bàn đạp để kiến công lập nghiệp. Sẽ có một ngày ngươi hiểu lời ta nói.”

Thác Bạt Nghi về đến nội đường, trong lòng vô cùng mệt mỏi chán chường. Việc này không hề liên quan đến thể lực hắn, mà là cảm giác chán ngán từ tận sâu trong đáy lòng hắn. Sau giờ ngọ hôm nay, hắn nhận được một tin tức đáng sợ, nhưng lại không dám nói cho các huynh đệ Hoang nhân biết, chỉ giữ ở trong lòng.

Ở đèo Tham Hợp, gần bốn vạn Yên binh đầu hàng Thác Bạt Khuê nhưng lại bị giết sạch.

Tin tức do tộc nhân từ Bình Thành mang đến, chỉ dám nói với mình Thác Bạt Nghi.

Yến Phi có biết việc này không? Tại sao Yến Phi không nói đến nửa câu về việc này?

Nếu nhìn từ góc độ chiến tranh thì hành vi tàn nhẫn đó của Thác Bạt Khuê sẽ làm thay đổi quan trọng thực lực hai bên. Theo tình hình lúc đó mà nói, thì cần phải làm như vậy vì với binh lực của Thác Bạt Khuê thực khó xử lý số tù binh nhiều như thế. Chỉ riêng việc cung ứng lương thực đã là một vấn đề khó khăn rồi, lại không thể thừa thắng truy kích, không thể dễ dàng lấy được một vùng đất rộng lớn như Nhạn Môn, Bình Thành. Một trường đại đồ sát đó có lợi mà cũng có hại. Hại ở chỗ sẽ làm người Yên nổi lòng liều chết phản kháng Thác Bạt tộc. Sau này dù có thể đánh bại Mộ Dung Thuỳ, nhưng chỉ cần người Yên còn một hơi thở thì sẽ chiến đấu tới một binh một tốt cuối cùng, dù chết cũng không đầu hàng.

Trên chiến trường giết địch cầu thắng thì hắn tuyệt không mềm lòng. Nhưng giết đến bốn vạn hàng binh trong khi đối phương hoàn toàn không có sức phản kháng thì mặc dù không phải là chưa từng có tiền lệ. Như thời Chiến Quốc, tướng Tần là Bạch Khởi đã giết bốn mươi vạn hàng binh nước Triệu, con số còn lớn gấp mười lần chiến dịch đèo Tham Hợp. Nhưng Thác Bạt Nghi vẫn cảm thấy run sợ, không cách gì đối mặt với nó. Đó thực là một việc thương tổn tới âm đức.

Nói cho cùng thì họ Thác Bạt và họ Mộ Dung đều thuộc Tiên Ti tộc, cùng nguồn cùng giống, thật làm người ta cảm khái.

Hắn lại cảm thấy không hiểu được Thác Bạt Khuê, hoặc là bây giờ hắn mới chân chính nhận thức Thác Bạt Khuê.

Từ khi còn là những hài nhi, dưới cặp lông mày dày rậm, Thác Bạt Khuê có một đôi mắt trong sáng, ánh mắt như một đứa trẻ ngoan. Nhưng thỉnh thoảng trong đôi mắt như ngây thơ vô tội của hài tử đó lại thoáng qua thần tình phức tạp mà hắn không thể hiểu nổi. Hôm nay hắn đã hiểu nhãn thần đó là sự cừu hận mà không hài tử nào có, sự cừu hận đối với người gây trở ngại đối với đại nghiệp phục quốc của gã.

Sau khi nhận được tin tức kinh người đó, hắn cảm thấy máu trong người như đóng băng, cũng cảm thấy vô cùng mệt mỏi. Cảm giác thắng lợi chừng như bị gió thổi bay. Nổi lên trong lòng gã là một cảm giác hoang lương, không biết mình đang nỗ lực vì cái gì, mình đang làm gì. Sức lực của tấm thân huyết nhục tiêu biến, chỉ còn lại một trái tim mệt mỏi chán chường.

Thác Bạt Nghi ngồi xuống ghế.

Thác Bạt Khuê là lãnh tụ tối cao của Thác Bạt Tiên Ti tộc. Quyết định của gã cũng là quyết định của Thác Bạt tộc. Những người khác chỉ còn cách làm theo. Một điều duy nhất có thể an ủi bản thân hắn là nếu tình hình xoay chuyển, người thắng là Mộ Dung Bảo thì một trường đại đồ sát tương tự sẽ rơi vào bên mình. Với tính cách tàn nhẫn của Mộ Dung Bảo thì hắn sẽ không lưu lại bất kỳ tính mạng người Thác Bạt tộc nào.

Gió thơm ùa đến.

Hai cánh tay mềm mại từ phía sau ôm lấy cổ gã. Hương Tố Quân hôn nhẹ hai má hắn mỗi bên một cái.

Thác Bạt Nghi vòng tay ra sau khẽ vuốt làn tóc mây của nàng, thở dài.

Trong thời loạn thế tràn đầy chém giết và cừu hận này, chỉ có nàng mới có thể làm hắn tạm thời quên những ưu phiền.

“Có việc gì làm chàng phiền não thế?”

Thác Bạt Nghi hưởng thụ mối tình nồng nhiệt như ánh nắng mặt trời của nàng, loại bỏ hết tư vị lạnh lẽo động nhân trong lòng. Hắn than thở: “Không có gì! Chỉ cần có nàng, ngoài ra tất cả đều không còn gì quan hệ.”

Hương Tố Quân ngồi vào lòng hắn, khẽ lườm hắn một cái, than nhẹ: “Còn giấu người ta. Từ sáng sớm nay đã không thấy chàng đâu. Lúc nãy chàng lại đóng cửa mật đàm với huynh đệ Hoang nhân của chàng. Vậy mà còn nói không phát sinh việc gì ư?”

Thác Bạt Nghi ôm chặt nàng vào lòng, cảm thấy thân thể mềm mại của nàng ép sát vào người mình, nói: “Một trường chiến tranh lại đến rồi! Nàng có sợ không?”

Hương Tố Quân khẽ run rẩy, hỏi: “Vẫn có người dám tới chọc giận Hoang nhân bọn ta sao?”

Thác Bạt Nghi bỗng nhiên cảm thấy hai chữ “Hoang nhân” như chọc vào tai hắn. Hắn tối đa cũng chỉ là một nửa Hoang nhân. Vì thế mà Yến Phi không ủng hộ hắn làm chủ soái của Hoang nhân, mà người được chọn biến thành Hoang nhân chân chính là Mộ Dung Chiến.

Muốn làm Hoang nhân chân chính thì đầu tiên phải là ‘không có nhà để về’, chỉ có Biên Hoang mới là nhà.

Hắn rất hy vọng mình trở thành Hoang nhân chân chính, cùng sinh tử vinh nhục với Biên Hoang tập, không phải lo nghĩ về bất cứ việc gì ngoài chuyện đó.

Chỉ hận sự thật lại không phải vậy. Hắn chỉ là tướng lĩnh do Thác Bạt Khuê phái đi thường trú tại Biên Hoang. Có một ngày Thác Bạt Khuê thay đổi chủ ý thì hắn phải tuân mệnh ly khai, và không thể mang theo ý trung nhân này, trừ khi được Thác Bạt Khuê đồng ý.

Hắn nhiều lần dám khẳng định với tính cách của Thác Bạt Khuê thì nếu như không ngại Yến Phi đã sớm điều hắn rời Biên Hoang tập rồi. Vì Thác Bạt Khuê cần chính là những thủ hạ mù quáng trung thành với hắn chứ không phải là bản thân Thác Bạt Nghi.

Suy nghĩ này càng làm hắn thất vọng.

Thác Bạt Nghi nói: “Trong thiên hạ này quả là không mấy người dám chọc giận Hoang nhân chúng ta, nhưng Mộ Dung Thuỳ và Hoàn Huyền lại không thuộc giới hạn đó.”

Hương Tố Quân nói: “Muội rất muốn cho chàng biết, chỉ cần có Thác Bạt Nghi chàng thì Hương Tố Quân muội sẽ không sợ hãi. Nhưng cũng không muốn giấu chàng, muội quả thật rất sợ. Người nói không hề sợ hãi đối với chiến tranh chỉ là vì chưa từng trải qua chiến tranh. Muội từ phương Bắc tránh chiến hoả đến phương Nam nên có lĩnh hội sâu sắc đối với chiến tranh.”

Thác Bạt Nghi khẽ nâng khuôn mặt xinh đẹp của nàng lên, thương cảm nói: “Thế này được không? Chúng ta yêu thương lẫn nhau, nhưng khi chiến hoả lan đến Biên Hoang tập thì ta muốn nàng lập tức rời khỏi Biên Hoang tập. Trừ khi Biên Hoang tập có thể vượt qua cửa ải khó khăn đó, nếu không vĩnh viễn nàng không nên trở lại.”

Chú thích

* Tiểu Bạch Nhạn tình mê Cao tiểu tử, Dĩnh Thủy lâu thuyền đính uyên minh: Tiểu Bạch Nhạn tình mê Cao tiểu tử, trên lâu thuyền ở Dĩnh Thủy đính ước uyên ương.Đập vào mắt Lưu Dụ là bóng sau lưng một nữ nhân dáng cao cao, thon thả. Lý Thục Trang duyên dáng đứng ở cạnh đình, đang ngắm nhìn cảnh sông Tần Hoài dưới trời đêm đầy sao. Quả thực thị có chút khí phách của một “Thanh Đàm Nữ Vương”* bá chủ sông Tần Hoài.

Trên mặt bàn đá trong đình có bày hai chén uống rượu, một hồ rượu lớn, còn có những món nhắm được bố trí tinh xảo ngon lành và mấy chiếc bánh bột lọc.

Thị mặc một chiếc váy vải sa đỏ màu bích lục, bên ngoài khoác thêm chiếc áo lụa phủ cả hai tay, ống tay áo lớn bay phất phơ, càng tôn lên vẻ thướt tha xinh đẹp. Cổ áo và tay áo đều được viền bằng đoạn cẩm, ống tay áo còn có mấy đường nẹp đủ màu sắc, lưng buộc một dải lụa trắng. Bên ngoài lại quấn một chiếc xiêm y, chân đi đôi guốc gỗ mũi tròn.

“Phu nhân! Lưu đại nhân đến rồi!”

Một giọng nữ trầm ấm đầy sức thu hút uyển chuyển cất lên: “Các ngươi lui ra đi.”

Thị vẫn không quay lại.

Hai tiểu tì rời đi. Ở khoảnh sân nhỏ của Vọng Hoài đình chỉ còn lại hai người nam nữ địch hữu khó phân bọn họ.

Lưu Dụ có cảm giác thị không những rất biết cách ăn mặc, mà còn biết biết dẫn dụ nam nhân. Ít nhất thì vào lúc này, gã quả thực rất muốn được nhìn mặt thị.

Lý Thục Trang từ từ nói: “Mời Lưu đại nhân đến bên cạnh thiếp thân.”

Lưu Dụ không làm theo lời thị, bước đến chỗ cách sau lưng thị nửa trượng thì dừng lại nói: “Lưu Dụ bái kiến phu nhân.”

Không biết là do gã bị vẻ đẹp của thị hớp mất hồn, hay là vì đang ở trên đình cao có cảnh quan tuyệt đẹp này. Cũng có thể vì buổi tối khí trời êm dịu mà ý chí cứng rắn của gã vốn muốn đến để hưng binh vấn tội lại có khuynh hướng trở nên mềm mỏng.

Ngay lúc này, gã cảm ứng được từ thân hình yêu kiều của thị một luồng hàn khí như có như không, tuyệt không phải là chân khí thông thường, mà là một loại trường khí công hình thành bởi tiên thiên chân khí. Nếu là gã ngày trước thì không thể cảm giác được.

Lý Thục Trang tuyệt không hề ngạc nhiên việc gã vẫn đứng sau lưng thị, điềm đạm hỏi: “Lưu đại nhân có biết tại sao thiếp thân lại gặp ngươi không?”

Lưu Dụ bật cười nói: “Nếu như chỉ nghe phu nhân nói câu này thì sẽ lầm tưởng phu nhân mới lần đầu tiên bước chân vào giang hồ. Ta muốn hỏi ngược lại một câu, chỉ cần phu nhân vẫn đang ở Kiến Khang thì còn có tự do trong việc lựa chọn gặp ta hay không gặp ta sao?”

Lý Thục Trang vẫn dung dung không sợ, đáp: “Nếu như quả thực ngươi cho là thế thì ta không còn hứng thú nói chuyện với Lưu đại nhân nữa. Lưu đại nhân, xin mời!”

Lưu Dụ thầm hô lợi hại. Thị thẳng thắn cho thấy không sợ gã, lại có hành động khiêu khích, không khách khí hạ lệnh trục khách đối với gã. Đánh giá của gã đối với thị thay đổi rất lớn, biết thị tuyệt không đơn giản. Phong phạm lâm nguy bất loạn này của thị làm Lưu Dụ khẳng định công phu trấn tĩnh của thị vào loại cao thủ trong cao thủ.

Nhất thời, gã đi không được, không đi cũng không được, gã có thể làm gì đây? Chẳng lẽ động thủ đánh thị? Không thắng được càng làm gã nhục thêm. Trước khi đến đây, gã quả thực không hề nghĩ Lý Thục Trang lại là một nữ nhân có hào khí và bá đạo như vậy.

Lưu Dụ cười nhẹ: “Chậm đã! Mời phu nhân trước tiên nói rõ nguyên nhân gặp ta, để ta có thể suy nghĩ xem có nên xin phu nhân thu hồi lại lệnh trục khách hay không. Được chứ?”

Lý Thục Trang chầm chậm xoay mình lại đối mặt với Lưu Dụ.

Lưu Dụ ngấm ngầm hít vào một hơi, bắt đầu hiểu tại sao thị được tôn là “Nữ Vương”.

Một khuôn mặt rất nhiều khiếm khuyết. Trán cao cằm rộng, mặt rất dài. Lưỡng quyền quá cao, mũi lại càng cao hơn, nhưng hai khuyết điểm đó lại phối hợp với nhau liền lạc như áo trời không vết chỉ. Đôi mắt thị tròn sáng như ánh trăng làm sáng bừng cả khuôn mặt, lại tự nhiên mộc mạc, hoàn toàn không có dấu vết chạm khắc, như tranh như hoạ.

Đó là một khuôn mặt vô cùng mê người, không giống như Kỷ Thiên Thiên làm người ta chỉ nhìn một lần là kinh hãi cho là người trời, mà là một vẻ đẹp càng nhìn càng thích, càng nhìn càng muốn nhìn thêm.

Mái tóc đen bóng của thị bện thành ba lọn quấn trên đầu như ba con rắn theo kiểu tóc linh xà, càng tăng thêm cảm giác hoạt bát, tôn lên những đường nét trên khuôn mặt thị.

Lý Thục Trang lộ tiếu ý, ánh mắt liều lĩnh trực tiếp nhìn gã thăm dò, dùng ánh mắt săm soi như của nam nhân nhìn ngắm nữ nhân bình luận: “Ta muốn gặp ngươi là xem xem Lưu gia rốt cuộc là nhân vật thế nào mà có bản lĩnh có thể làm thịt được Can Quy.”

Lưu Dụ đã miễn cưỡng áp chế được những rung động về tình cảm do sắc đẹp của thị gây ra, trầm tĩnh ứng chiến. Gã hỏi: “Dám hỏi Can Quy và phu nhân có quan hệ thế nào?”

Lý Thục Trang điềm đạm: “Tuyệt không phải là kiểu quan hệ như ngươi tưởng đâu. Ta và Can Quy có điểm uyên nguyên, chi tiết xin thứ cho không thể nói ra. Nhưng bằng vào điểm quan hệ đó cũng đủ làm ta phải tận lực cho Can Quy. Lúc đó, Lý Thục Trang ta vẫn chưa biết Lưu Dụ Lưu đại nhân ngươi, chỉ biết người là một kẻ vong mạng trong Bắc Phủ binh do Hoang nhân phái đến, là một nhân vật mà các phương đều không cam tâm, chỉ muốn giết đi mới thấy thoải mái. Hơn nữa, ta với Tạ gia không hề có giao tình. Trong tình huống đó, việc ta giúp Can Quy một tay chỉ là một việc thông thường trên giang hồ, cũng là vì nghĩa khí giang hồ. Lưu gia muốn trách Thục Trang, Thục Trang không có cách nào, chỉ còn cách đối mặt mà thôi, xem xem có thể chống đỡ được bao lâu. Câu này ta vốn không định nói ra, sau này sẽ không nhắc lại nữa, mà sẽ phủi tay sạch sẽ. Lý Thục Trang ta tuyệt không phải như Lưu gia có nói là lần đầu tiên bước chân vào giang hồ đâu. Ta làm việc gì đều đã qua suy nghĩ sâu xa rồi. Nếu không tin, mời Lưu gia cứ điều tra sâu hơn, xem có nắm được chứng cớ Thục Trang giúp Can Quy hay không?”

Lưu Dụ trong lòng thầm kêu cha gọi mẹ, biết mình đã bị bức vào thế hạ phong. Vấn đề ở chỗ mình đối với Lý Thục Trang không biết là bao, nhưng đối phương lại biết rõ gã như trong lòng bàn tay, hoàn toàn nắm được nhược điểm của gã.

Gã không phải là không có thực lực huỷ diệt thị, nhưng hậu quả thì gã không thể gánh nổi vì gã mới chỉ tạm thời đứng chân được ở Kiến Khang, căn cơ vẫn còn rất bạc nhược. Một việc không tốt sẽ gây phản cảm và sự khinh bỉ của giới quyền quý Kiến Khang.

Nên biết Lý Thục Trang là người cung ứng chủ yếu Ngũ thạch tán cho giới quyền quý Kiến Khang. Nếu như mình không có chứng cớ xác đáng mà trừ khử nàng đi thì giới quyền quý vốn trầm mê vào dược thạch sẽ trở thành những người chống phá, không đầu nhập về với Hoàn Huyền mới là lạ.

Kể cả gã có chứng cứ thật sự chính xác, thông qua Tư Mã Đạo Tử đối phó nàng thì hậu quả càng nguy hiểm. Hình tượng cứu tinh Kiến Khang của gã sẽ hoàn toàn tan biến. Trong mắt cao môn đại tộc Kiến Khang thì gã trở thành chó săn của Tư Mã Đạo Tử. Sau này đừng hòng ngóc đầu dậy làm người được nữa.

Khúc mắc giữa gã và Lý Thục Trang chỉ có thể dùng thủ pháp giang hồ để giải quyết. Nhưng hiện tại, gã đã cưỡi trên lưng hổ không thể xuống được. Làm sao có thể ngang nhiên hạ đài, lại không làm tổn hại tới uy tín của gã đây?

Nhất thời, Lưu Dụ đau đầu đến cực điểm.

Mộ Dung Chiến tiến vào tiểu Kiến Khang, trong lòng vô cùng cảm xúc.

Hắn phát hiện mình đã thay đổi. Trước đây, hắn chưa từng quan tâm đến người khác, đối với hắn mà nói, Biên Hoang tập chỉ là nơi mà hắn tranh thủ lợi ích cho bản tộc. Nhưng qua một đoạn đường dài vừa qua, hắn cảm thấy mỗi người đang đi trên đó đều có mối liên quan với hắn, hắn sẽ bất chấp tất cả bảo vệ cho sinh mệnh của họ, cho họ có thể tiếp tục hưởng thụ lạc thú sinh hoạt hoàn toàn khác biệt của Biên Hoang tập.

Hắn trưởng thành trong một dân tộc mạnh bạo hung hãn, sống trong thời đại sùng bái vũ lực, coi việc dùng vũ lực để giải quyết tất cả mọi tranh chấp là chuyện bình thường. Điều đó tạo thành tác phong ngoan cường ngang ngạnh của hắn.

Sau khi đến Biên Hoang tập, hắn bắt đầu một đoạn đường mới trong cuộc đời. Hắn hiểu chỉ đơn giản dựa vào vũ lực thì không đủ để thành công. Biên Hoang tập tự nó có phương thức sinh tồn độc đáo, tiền đề lớn nhất là tất cả vì lợi ích, vũ lực chỉ dùng để ‘hoà mục tương xử’**. Nhưng tộc nhân tuyệt không hiểu hắn, lại còn hiểu nhầm hắn làm hắn cảm thấy vô cùng rầy rà, tâm trí bị chia rẽ rất sâu sắc. Chính vì tộc nhân của hắn chỉ thích dùng vũ lực, kết quả trở thành vật tế dưới cờ của Mộ Dung Thuỳ, hắn cũng hoàn toàn biến thành Hoang nhân.

Nhưng việc thực sự làm hắn thay đổi chính là Kỷ Thiên Thiên. Khi mới gặp Kỷ Thiên Thiên, hắn có cảm giác cuộc sống trước đây chỉ là thừa thãi. Sinh mệnh từ giờ phút đó mới có ý nghĩa. Nhưng lúc đó hắn vẫn chưa biết sự thay đổi trong hắn đã bắt đầu diễn ra.

Tới hôm nay, cảm tình của hắn đối với Kỷ Thiên Thiên không giới hạn trong một mối tình nam nữ thông thường, mà đã tiến lên một tầng mức cao hơn, do lý trí và tư tưởng tôn sùng chi phối. Quá trình lý trí và cảm tình xung đột lâu dài đó làm tình cảm của hắn đối với Kỷ Thiên Thiên càng thêm mãnh liệt, tính cách hắn càng trở nên kiên định, con người hắn cũng trở nên càng lạnh lùng như băng tuyết.

Nhưng Sóc Thiên Đại bỗng nhiên tiến vào thế giới tình cảm của hắn như một cơn hồng thuỷ nóng bỏng, phá vỡ trạng thái vốn cân bằng ổn định của hắn.

Hắn nên đối đãi với Sóc Thiên Đại như thế nào đây?

Nghĩ tới đây, hắn phát giác mình đã đứng trước bậc thềm trước cửa lữ quán.

Lý Thục Trang không chờ Lưu Dụ đáp lời, hai mắt thoáng qua thần sắc đắc ý, thản nhiên nói: “Ta muốn gặp Lưu gia ngươi là muốn xem xem ngươi là nhân vật thế nào. Nói thực, ta thấy Lưu gia là một người hiểu lý lẽ, biết nặng nhẹ. Thiếp thân nói những lời này có thể không êm tai, nhưng chỉ là nói ra sự thật. Chuyện Can Quy, thiếp thân ở đây xin có một đề nghị với Lưu gia, là hy vọng vấn đề giữa chúng ta chỉ dừng lại ở Can Quy. Sau này, Lưu gia có việc gì cần thiếp thân giúp đỡ, thiếp thân sẽ vui vẻ cam tâm làm việc vì Lưu gia, chỉ cần Lưu gia báo cho một tiếng.”

Lưu Dụ trong lòng vô cùng không phục, nhưng cũng biết mình không làm khó được thị. Nữ nhân này chỗ nào cũng đầy vẻ thần bí, tuyệt không giống như bề ngoài đơn giản của thị. Thủ đoạn của thị lại rất linh hoạt, nếu như thị mở một cơ hội hạ đài cho mình mà không nhận lấy thì chỉ là tự làm mình mất thú thôi.

Quân tử báo cừu, mười năm vẫn chưa muộn.

Lưu Dụ vui vẻ đáp: “Lý đại thư quả là danh bất hư truyền. Hơn nữa, oan gia nên giải không nên kết. Việc Can Quy coi như xí xoá là xong.”

Lý Thục Trang yêu kiều cười một tiếng, phong tình vạn trượng nói: “Lưu gia rất nhanh biết thiếp thân là người thế nào. Sự độ lượng của Lưu gia càng làm thiếp thân cảm động. Tương lai Thục Trang tất sẽ có hồi báo. Mời Lưu gia ngồi xuống để thiếp thân mời rượu bồi tội.”

Lưu Dụ trong lòng cười khổ. Trước khi đến đây, không tưởng nổi sự tình lại kết thúc một cách vô vị như thế. Lần này đúng là bị lật thuyền trong cống rãnh rồi.

Mộ Dung Chiến vừa mới bước qua cửa lữ quán thì một tên tiểu nhị đón gã nói: “Chiến gia quả nhiên đến rồi!”

Mộ Dung Chiến ngấm ngầm cảm thấy bất diệu, hỏi: “Ai nói cho ngươi là ta sẽ đến?”

Tiểu nhị đáp: “Là một vị cô nương xinh đẹp tên là Sóc Thiên Đại nói thế. Nàng ta còn lưu lại một vật giao cho Cihến gia.” Nói đoạn, tiểu nhị thấp giọng thì thầm: “Ta sợ có người sẽ lấy mất nên luôn mang theo trong người.”

Vừa nói hắn vừa móc trong bọc ra một một vật dài chừng nửa xích được gói bằng tấm lụa, hai tay cung kính dâng lên.

Mộ Dung Chiến nhận lấy. Không cần mở ra xem cũng biết đó là một vật gì đó giống như cây truỷ thủ. Cõi lòng bất chợt chìm xuống, hỏi: “Vị cô nương đó đâu?”

Tiểu nhị đáp: “Nàng ta đã thanh toán và dời đi vào lúc hoàng hôn, lại còn nhờ ta nói với Chiến gia nàng sẽ không quay lại nữa.”

Mộ Dung Chiến thưởng tiền cho tiểu nhị rồi thất hồn lạc phách rời khỏi lữ quán.

Ài! Nàng cuối cùng cũng đi rồi.

Hắn nguyện để nàng lập tức rời Tập như nàng đã nói khi gặp hắn lần trước chứ không phải bây giờ. Hiện tại hắn mang theo hy vọng và trông đợi đến tìm nàng thì nàng đã ra đi chỉ còn lại một căn phòng trống.

Nàng cuối cùng cũng đã lựa chọn, lại là lựa chọn tuyệt tình như thế. Tất cả đã không còn do hắn quyết định nữa. Mộ Dung Chiến cảm thấy mình rời vào cảm giác mất mát khó có thể tự dứt bỏ, lại không thể làm gì được. Hắn tưởng tượng đến nàng đang nơi xa xôi hoang dã, mênh mông, cô độc trong bóng chiều hoàng hôn bên ngoài Tập, làm vết thương lòng của hắn vẫn chưa hồi phục, lại bị vỡ ra đau đớn, ứa máu.

Có thể hắn vĩnh viễn sẽ không còn gặp lại nàng nữa.

Thuyền nhỏ rời khỏi Hoài Nguyệt lâu, tiến về phía Thanh Khê.

Lưu Dụ kể lại tỷ mỉ việc gặp gỡ Lý Thục Trang vừa qua. Thật ra, gã không có gì hay mà nói, vài lời đã nói rõ tình hình rồi cười khổ: “Bọn ta đã đánh giá thấp thị rồi.”

Đồ Phụng Tam trầm ngâm: “Nữ nhân này là một mầm hoạ.”

Tống Bi Phong ngạc nhiên: “Không có gì nghiêm trọng đâu! Thị tuyệt không có ảnh hưởng trực tiếp đến triều đình.”

Đồ Phụng Tam đáp: “Ngươi có nghĩ thị là cao thủ thâm tàng bất lộ không? Kiến Khang ngoạ hổ tàng long. Đến hôm nay mà nữ nhân đó vẫn chưa bị người ta khám phá ra thân mang tuyệt nghệ. Chỉ một điểm này cũng tuyệt không đơn giản rồi.”

Lưu Dụ tiếp: “Thị chắc chắn là người của Hoàn Huyền. Chỉ là Hoàn Huyền luôn giấu ngươi thôi.”

Đồ Phụng Tam quả quyết: “Hoàn Huyền căn bản không có năng lực chế ngự thị.”

Tống Bi Phong nói: “Trước đây bọn ta đánh giá thấp thị. Bây giờ phải chăng lại đánh giá thị cao quá rồi?”

Đồ Phụng Tam đáp: “Ta cho rằng nhận xét của ta rất vừa vặn. Cho ta biết, Lưu gia của bọn ta trải qua sóng gió đã nhiều, đã có lúc nào gặp phải thất bại như thế, lại còn phải nuốt nỗi tức giận vào lòng, phải thuận theo lời thị mà không truy cứu thêm chưa. Chỉ riêng khả năng đó là đủ biết thị chẳng phải là một thanh lâu nữ tử. Bọn ta hoàn toàn không biết gì về xuất thân lai lịch của thị, chỉ biết trong vài năm đã từ một cô nương trong thanh lâu trở thành một trong hai đại lão bản sở hữu một trong hai toà thanh lâu lớn nhất Tần Hoài. Thị lại còn khống chế nguồn cung ứng đan dược cho Kiến Khang, thao túng mọi thứ, lại tinh thông thuật ‘Thanh đàm’. Do đó đã trở thành nữ nhân giàu có nhất Kiến Khang. Một người như thế, làm sao chỉ cam tâm một cuộc sống phú quý vinh hoa? Chỉ riêng việc thị một lòng giấu diếm võ công đã làm người ta nghi ngờ rồi.”

Khoái Ân đang chèo thuyền ở cuối thuyền chỉ im lặng lắng nghe, không dám xen lời.

Tống Bi Phong cuối cùng cũng thừa nhận, nói: “Thị đúng là không đơn giản. Nhưng thị chưa từng một lần hỏi qua sự việc về triều đình.”

Đồ Phụng Tam nói: “Đó là chỗ thông minh nhất của thị. Nếu như thị không bị dính líu vào sự việc Can Quy lần này thì bọn ta làm sao biết được Kiến Khang lại có một nữ nhân nguy hiểm như thế?”

Lưu Dụ nói: “Hiện giờ thị giữ thế cùng với chúng ta nước sông không phạm nước giếng. Chỉ cần bọn ta không chọc giận thị thì hai bên vẫn có thể giữ quan hệ hữu hảo vi diệu. Thị thậm chí nói sẽ xuất lực cho chúng ta khi cần.”

Tống Bi Phong khổ não hỏi: “Rốt cuộc thị là người của bên nào?”

Đồ Phụng Tam đáp: “Bất kể thị là người của bên nào, chúng ta tuyệt không thể lơ là đối với thị. Bây giờ, ưu thế lớn nhất của chúng ta là thị vẫn mơ màng trong mộng, không biết Lưu gia của bọn ta có dị năng có thể khám phá ra thị là cao thủ thâm tàng bất lộ, phát sinh cảnh giác đối với thị.”

Lưu Dụ nói: “Ở Kiến Khang, thị buôn bán lớn cái thứ gọi là ‘tiên đan linh dược’, phải chăng muốn hạ độc con cháu cao môn Kiến Khang làm bọn họ hoàn toàn mất hết đấu chí. Làm việc đó có gì tốt đối với thị?”

Gã lại quay sang Tống Bi Phong hỏi: “An công chẳng lẽ cũng nhắm mắt làm ngơ trước hành vi đó sao?”

Tống Bi Phong than: “Vấn đề là quyền lực của An công có hạn. Ngày đó, Tư Mã Diệu mượn tay Tư Mã Đạo Tử áp chế An công, làm An công có lương sách nhưng lại không thể thi hành. Hơn nữa, phong trào con cháu cao môn thích dùng đan dược thịnh hành đã lâu. Nếu đột nhiên hạ lệnh cấm sẽ chỉ làm họ phản ứng kịch liệt. Để giữ vững đại cục, An công chỉ còn cách tạm gác vấn đề đó lại.”

Đồ Phụng Tam nói: “Cách sống của cao môn Kiến Khang thì dù là ai cũng không thể trong một đêm mà thay đổi được. Bọn ta càng không thể nhúng tay vào. Nếu không, chưa thấy lợi thì đã gặp hại rồi. Lý Thục Trang chính là hiểu rõ tình hình đó nên không sợ bọn ta dám đến đánh thị.”

Lưu Dụ cười khổ: “Nỗi tức giận này thật khó mà nuốt trôi được.”

Đồ Phụng Tam cười: “Vì thế ta mới nói nữ nhân này là mầm hoạ mà. Vì thị rất nổi tiếng ở cả hai phái hắc, bạch nên bản thân thị có một mạng lưới tình báo không chỗ nào là không vươn tới ở Kiến Khang, thâm nhập vào đời sống sinh hoạt hàng ngày của giới quyền quý Kiến Khang. Sức ảnh hưởng và tác dụng thật khó mà tưởng tượng được. Bọn ta cần coi thị là nhân vật nguy hiểm cực độ, nếu không, sớm muộn cũng sẽ phải nếm mùi thất bại lần nữa.”

Tống Bi Phong hỏi: “Bọn ta có thể đối phó thị như thế nào?”

Đồ Phụng Tam đáp: “Trong thời gian ngắn, bọn ta củng cố cơ sở, không còn là không có binh tướng nữa mới có thể tiến hành hàng loạt hoạt động dưới sự làm ngơ của Tư Mã Đạo Tử. Bọn ta sẽ có năng lực mở một chiến tuyến mới đối với thị ở Kiến Khang. Trước tiên triển khai hoạt động trinh sát toàn diện và tỷ mỷ về thị, kể cả cho người thâm nhập vào vương quốc đan dược của thị, nắm rõ nguồn đan dược của thị, nắm được thực lực thị rồi mới quyết định xem sẽ hợp tác với thị hay là huỷ diệt thị. Việc này do ta toàn quyền phụ trách. Lý Thục Trang là một đối thủ khó kiếm, vạn lần không được lơ là mất cảnh giác.”

Lúc này, Tống Bi Phong cảnh giác nhìn về phía thượng du.

Họ đã đến chỗ hai con sông Tần Hoài và Thanh Khê giao nhau. Một con thuyền nhỏ đang từ sông Thanh Khê thuận dòng phóng xuống. Thuyền đó gấp đôi con thuyền họ đang ngồi, thân thuyền rộng, bằng đầu bằng đáy nên lực cản khi đi trên nước rất nhỏ. Nó thuận dòng chạy xuống nên càng nhanh chóng vững vàng.

Thuyền như thế ở trên sông của Kiến Khang vốn là chuyện bình thường. Nhưng thuyền này làm bọn họ sinh lòng cảnh giác và phát sinh cảm giác không thoả đáng. Trước tiên là thuyền này xuất hiện rất đột ngột, trong thuyền lại chất đầy tạp vật. Nhưng khiến bọn họ cảnh giác hơn cả là không thấy một ai trên thuyền.

Đồ Phụng Tam quát: “Cẩn thận!”

Nói chưa dứt lời thì con thuyền kia bỗng nhiên tăng tốc và thay đổi phương hướng. Nó không vượt qua bên cạnh mà theo dòng phóng thẳng vào thuyền họ. Trên thuyền lửa bùng lên, đương nhiên là có loại chất dẫn lửa nào đó. Trên mặt sông tối đen, uy thế càng chói loà, kinh tâm động phách.

Trong sát na, con thuyền kia chỉ cách thuyền họ không đến ba trượng, căn bản không thể tránh được.

Khoái Ân thét lớn một tiếng, nhảy bật lên, mái chèo trên tay phóng thẳng vào đầu thuyền kia. Phản ứng mau lẹ, thể hiện rõ cơ trí và thân thủ của hắn.

Tống Bi Phong thét: “Bờ trái!”

Nếu đổi lại là những người chưa từng trải qua sóng gió, chứ không phải dạn dày kinh nghiệm như bọn Lưu Dụ và Đồ Phụng Tam, thì nghe thế sẽ nghi ngờ không hiểu vì vị trí thuyền nhỏ họ đứng cách bờ phải chỉ ba trượng, nhưng lại cách bờ trái đến mười trượng. Nếu muốn rời khỏi khu vực nguy hiểm thì đương nhiên nên chạy về bờ phải.

Nhưng nếu như có địch nhân mai phục ở bờ phải thì chạy về đó chẳng khác gì tự giao thân cho địch nhân làm thịt. Đặc biệt người muốn đánh lén bọn họ lại là Lư Tuần, đã luyện thành Hoàng Thiên đại pháp thì đó thực là một mối nguy hiểm không nên thử.

“Oành!”

Thân thuyền kia vỡ tan, bị kình lực trong mái chèo do Khoái Ân phóng ra đánh dạt về phía bờ phải. Lúc này bốn người đồng thời nhảy vọt khỏi thuyền, lao xuống mặt sông phía bên trái thuyền.

“Ầm!”

Chiếc thuyền kia nổ bùng lên thành một quả cầu lửa cháy rực lao thẳng về phía thuyền nhỏ của họ, bao trùm hoàn toàn nó. Nếu như họ vẫn ở trên thuyền, khẳng định khó thoát kiếp nạn.

Lợi hại nhất là hoả khí nổ tung bắn ra bốn phía, văng ra những miếng sắt sắc nhọn, bắn tung toé khắp nơi, loạn xạ bắn về phía bọn họ vẫn đang lộn vèo trong không trung.

Đòn này quả thật hung độc tuyệt luân.

Bốn người đồng thời vận chân khí hộ thân, đánh văng những miếng sắt lực đã yếu đi bắn vào người.

“Bõm! Bõm! Bõm! Bõm!”

Bốn người trước sau lao vào dòng sông giá lạnh. Bên trên, con thuyền mà họ vừa ngồi đã ngập trong biển lửa, hoả quang bùng lên dữ dội chiếu sáng cả chỗ hai khúc sông giao nhau.

Chú thích

* Thanh đàm nữ vương (清谈女王). Thanh đàm có hiểu như nói chuyện phiếm. Cũng có thể chỉ cuộc nói chuyện thanh tao của Đạo gia. Ý ở trong truyện là Lý Thục Trang nhờ vào tài “thanh đàm” nên thu được rất nhiều tiền của của quý tộc Kiến Khang. Danh hiệu hình thành vì lẽ đó.

** Hoà mục tương xử: Chung sống hoà bình.

 Lư Tuần cũng phát sinh cảm giác sợ hãi đối với Lưu Dụ như Từ Đạo Phúc.

Y đã mất đi cơ hội có thể là cuối cùng để giết chết Lưu Dụ trong lần đến Kiến Khang này. Thành bại chỉ cách nhau một sợi tóc. Khi con thuyền đáy bằng chở đầy hỏa dược phát nổ, y đang ẩn thân ở chỗ tối bên bờ, hai tay cầm hai khúc gỗ. Bằng khúc gỗ này, y có thể tá lực trong dòng nước, tấn công bất cứ địch nhân nào nhảy vào trong nước. Với tốc độ và công lực y thỉ kề cả người võ công cao cường như Lưu Dụ khẳng định cũng không còn mạng trong lúc không phòng bị.

Lần này, y không thể thất bại nên đã tính toán chính xác, chờ đợi cơ hội đến khi Lưu Dụ ngồi thuyền trở lại Thanh Khê.

Sau thời gian dài chờ đợi, cơ hội cuối cùng cũng tới.

Từ lần hành thích Lưu Dụ không thành bên ngoài Lang Nha Vương phủ, Lư Tuần đã biết tình thế không được tốt. Không những võ công Lưu Dụ tiến bộ rất nhiều, dù trong tình hình đơn đả độc đấu thì đối phương vẫn có sức đánh một trận. Càng bất diệu hơn là đối phương đã đề cao cảnh giác, làm y khó có thể một lần nữa ám sát trong lúc gã không phòng bị.

Vì thế, để hoàn thành nhiệm vụ y cần có thủ đoạn phi thường.

Y đã động viên toàn bộ nhân lực vật lực Thiên Sư quân ở Kiến Khang, gom một số lượng lớn độc hỏa khí có lực sát thương kinh người, nghĩ ra kế hoạch tiến hành hành động ám sát trên mặt sông.

Chỉ cần chiếc thuyền chất đầy hỏa khí đó phát nổ cách mục tiêu trong vòng hai trượng, bắn ra những miếng sắt bén nhọn tẩm độc và lửa độc lan rộng thì có thể làm địch nhân hoặc chết, hoặc bị thương. Thêm vào đó, y đồng thời xuất thủ thì nhiều khả năng có thể Lưu Dụ sẽ bại vong.

Chỉ tiếc là tên tiểu tử chèo thuyền của đối phương bất kể phản ứng, võ công đều vượt ngoài dự đoán của y. Hắn lại lâm nguy bất loạn, trước khi chiếc thuyền đầy hỏa khí tiến vào cự ly chết người đã nhanh chân hơn một bước, phóng mái chèo đánh trúng thuyền hỏa khí, làm thuyền hỏa khí chệch phương hướng. Chỉ với sự sai biệt nhỏ nhoi đó mà địch nhân lại hung hiểm tránh khỏi đại họa.

Nhìn thấy bốn người nhảy vào dòng sông trong khi vẫn giữ được trận thế, trong lòng Lư Tuần khó chịu muốn chết. Hai con thuyền vẫn rực cháy trên mặt sông, cuộn lên từng đám khói đen, nhưng dòng nước sông đã trở lại yên tĩnh. Địch nhân khẳng định đang di chuyển dưới dòng nước sâu, ý định thừa lúc nguy của địch mà xuất thủ cũng không thực hiện được.

Chẳng lẽ Lưu Dụ quả thực là chân mệnh thiên tử không thể đánh chết được sao? Suy nghĩ này là nguyên nhân làm y sợ hãi.

“Yến lang à! Yến lang! chàng đang ở đâu?”

Yến Phi tạm ngừng việc vượt sông, ngồi xuống một khối đã lớn bên bờ, đáp ứng sự kêu gọi bằng tinh thần vượt hẳn phàm trần, cự ly và vật chất của Kỷ Thiên Thiên.

Đây là một cảm giác phá bỏ cách biệt giữa tiên giới và phàm giới. Duy trì liên hệ tâm linh giữa họ là tình yêu nồng nhiệt, là khát vọng từ tận đáy lòng. Ở đó không hề có chỗ cho sự giả tạo giữa người với người, là sự tiếp xúc của linh hồn, vừa mỹ lệ lại vô cùng huyền bí.

Yến Phi tiến nhập vào cảnh giới động nhân thần giao cách cảm, truyền tải ý nghĩ với Kỷ Thiên Thiên. Tinh thần chàng vượt qua đại địa rộng lớn mênh mông đang chìm trong bóng tối trước lúc bình minh, ngọn lửa tình yêu đang bùng cháy mãnh liệt. Chàng đáp: “Đang chảy cuồn cuộn trước mặt ta là Đại Giang mà Thiên Thiên đã quen thuộc. Bờ bên kia là Kiến Khang đô thành lớn nhất ở phương Nam. Con sông Tần Hoài chảy qua nơi ở cũ của Thiên Thiên là Vũ Bình đài. Ở trên thượng du không cách xa chỗ này mấy là nơi nhập vào Đại Giang, tham gia vào hành trình tráng lệ tới biển lớn.”

Tâm linh của Kỷ Thiên Thiên liền kết hợp chặt chẽ với Yến Phi, không còn phân chia ta, người vì mọi cách trở đều không còn tác dụng. Những ưu phiền sau bao ngày chờ đợi đã hoàn toàn được bù đắp vào thời khắc đó.

Sâu thẳm trong tâm linh Yến Phi, Kỷ Thiên Thiên say đắm nói: “Yến lang hình dung thật xúc động lòng người. Thiên Thiên bỗng nhiên cảm thấy mình và Yến lang là một đôi uyên ương hạnh phúc nhất trên thế gian này. Những gì chúng ta đang chung hưởng chính là tình yêu xúc động lòng người nhất mà tất cả nam nữ trên thế gian này mơ có được. Chúng ta hiểu nhau hơn bất kỳ ai khác. Thiên Thiên vì có chàng mà không còn cảm thấy cô độc nữa, không còn bất kỳ tình cảm hoặc bí mật gì không thể chia sẻ cùng chàng. Đó chính là tình yêu chân chính. Kể cả nếu Thiên Thiên phải chết vào lúc này thì cũng không còn gì phải ân hận trên đời nữa.”

Yến Phi hoàn toàn hiểu một cách tuyệt đối cảm thụ của Kỷ Thiên Thiên. Đó không phải là những phân tích về lý tính mà là sự truyền cảm toàn tâm, toàn thần vượt trên cả ngôn ngữ giữa hai trái tim vì họ không còn là hai cá thể cô lập bị cách ly nữa. Cho dù nhục thể bị thiên sơn vạn thủy phân cách nhưng tinh thần họ lại kết hợp thành một! Tất cả những khát vọng, mong đợi, mê say, nhiệt tình và thống khổ đều hiện ra một cách chân thực. Giả dối căn bản không còn một chỗ dung thân.

Chàng để tâm linh hoàn toàn khai mở để Kỷ Thiên Thiên cảm nhận được từng làn sóng tình cảm trong lòng chàng. Tình yêu sâu sắc nhất của chàng đối với nàng đã an ủi linh hồn đang run rẩy sợ hãi của nàng. Yến Phi trong tâm linh ứng đáp: “Tử vong tuyệt không phải là cảnh giới cuối cùng, bên ngoài tử vong còn có thế giới khác biệt nào đó. Tình trạng của Thiên Thiên thế nào? Từ sau khi chúng ta đối thoại ở đèo Tham Hợp, thân thể Thiên Thiên có xuất hiện vấn đề gì không?”

Kỷ Thiên Thiên đáp: “Vì Thiên Thiên khao khát có thể lại được tiếp xúc tâm linh với Yến lang nên đã quên hết tất cả, một lòng tu luyện và đã có tiến bộ lớn. Như lần này người ta kêu gọi chàng, cảm thấy tinh thần mình đã mạnh mẽ hơn rất nhiều, có thể tiến hành đối thoại tâm linh lâu hơn. Làm người ta phấn chấn nhất là có một thu hoạch không ngờ tới. Đó là nội công Thiên Thiên đã tinh tiến rất nhiều. Mỗi ngày luyện công và tưởng nhớ đến chàng, thân thể muội mặc dù đã mất tự do nhưng tinh thần lại hoàn toàn không chịu câu thúc và khống chế, tràn đầy mong đợi và hy vọng đối với tương lai. Cuộc chiến đèo Tham Hợp kết quả thế nào? Người thắng đương nhiên là bên phía Yến lang. Bảy, tám ngày nay, Mộ Dung Thùy đi đâu mất tăm. Kỳ quái nhất là Phong Nương từ trước tới nay vốn không rời xa bọn muội cũng mất tung mất tích, làm người ta cảm thấy có chuyện không tầm thường.”

Yến Phi đem kết quả cuộc chiến thuật lại, sau cùng nói: “Đúng là kỳ quái. Phong nương chẳng phải phụ trách trông coi các nàng sao?”

Kỷ Thiên Thiên đáp: “Thiên Thiên chưa có lúc nào đề cập đến Phong Nương với chàng. Bà ta là một người rất đặc biệt, thỉnh thoảng lộ vẻ đồng tình với bọn muội. Bà ta còn nói biết mẹ của Yến lang, lại nói khi chàng còn nhỏ bà ta đã từng gặp chàng. Yến lang có ấn tượng nào không?”

Trong lòng Yến Phi nổi lên một cảm giác mà bản thân chàng cũng không rõ là gì, thốt: “Lại có việc đó ư? Thật không thể ngờ được.”

Kỷ Thiên Thiên than thở: “Yến lang à! Muội lại thấy lực lượng tinh thần giảm sút rồi, không thể không chia tay Yến lang mặc dù Thiên Thiên còn vô vàn lời muốn nói với Yến lang. Phong Nương tựa hồ có ân oán gì đó với mẹ chàng. Hic! Yến lang bảo trọng, Thiên Thiên phải đi đây!”

Liên hệ ngừng lại.

Yến Phi mở bừng hai mắt. Sắc trời đã trắng bạch. Đại Giang vẫn cuồn cuộn chảy không ngừng trước mặt, sóng gió dập dồn như tâm tình của chàng lúc này vậy.

“Đừng có đẩy nữa! Tay ngươi không cần đụng đến ta thì lão tử đã sớm tỉnh rồi. Ngươi tưởng ta cũng là loại vô dụng như ngươi sao?”

Cao Ngạn mở to mắt nhìn xuống hạ du, không lý gì đến Trác Cuồng Sinh bị gã đánh thức đang cằn nhằn, hỏi: “Kia phải chăng là Hoang Mộng Tam Hào?”

Trác Cuồng Sinh nhìn theo ánh mắt gã. Dưới ánh sáng ban mai, thấp thoáng nhìn thấy bóng dáng một chiếc thuyền buồm. Lão thầm nghĩ với nhãn lực của mình mà cũng không thể nhận ra có phải là lâu thuyền của Biên Hoang du lịch không thì Cao Ngạn đương nhiên càng không nhìn được. Lão đứng lên nói: “Để ta nhìn kỹ xem nào. Một cánh, hai cánh… Hà! Quả nhiên là lâu thuyền ba buồm của chúng ta. Ngươi thành công rồi!”

Cao Ngạn nhảy vọt lên không lộn một vòng, hét vang: “Các huynh đệ, mở hết tốc độ tiến lên phía trước. Tiểu Bạch Nhạn của ta đến rồi!”

Hán tử chèo thuyền cười khổ nói: “Báo cáo Cao gia. Từ lúc khởi hành tối qua, chúng ta luôn đi với vận tốc lớn nhất rồi, không thể tăng tốc thêm nữa.”

Trác Cuồng Sinh vẫn còn ngái ngủ cất giọng khê nồng: “Có điểm không thỏa đáng. Tại sao không hề thấy Song Đầu thuyền dẫn đường?”

Cao Ngạn không khách khí đáp: “Ngươi quả thực hồ đồ hay giả vờ hồ đồ đây? Vì đã chứng thực đường đi không có vấn đề gì về mặt an toàn nên để tiết kiệm chi phí đã bỏ việc cho Song Đầu thuyền dẫn đường rồi. Ngươi vẫn như nằm mơ không biết vậy.”

Trác Cuồng Sinh ho mấy tiếng để che giấu sự bẽn lẽn trong lòng rồi nói: “Dường như là có chuyện đó thật.”

Cao Ngạn vui sướng hai mắt sáng bừng, hứng thú thừa thắng truy kích, giơ tay lên la: “Tiểu Bạch Nhạn nàng không cần vội, như ý lang quân trong mộng của nàng đã tới rồi!”

Giang Lăng thành, Hoàn phủ.

Hoàn Huyền một mình ngồi trong đại đường, trầm tư uống trà. Quan giữ cửa báo Nhậm Thanh Thị vừa tới. Hắn liền đặt chén trà xuống chiếc bàn bên cạnh, đưa mắt nhìn ra.

Nhậm Thanh Thị vẻ mặt nghiêm túc đến trước mặt hắn thi lễ: “Thanh Thị xin thỉnh an Nam Quận công.”

Hoàn Huyền liếc nhìn nàng, ra vẻ lãnh đạm nói: “Ngồi đi!”

Nhậm Thanh Thị ngồi xuống một bên Hoàn Huyền, cúi thấp đầu, rõ ràng thị đã cảm thấy sự thay đổi thái độ của Hoàn Huyền.

Hoàn Huyền hỏi: “Tối qua có ngủ được không?”

Nhậm Thanh Thị khẽ khàng thở dài, chừng như trách hắn tối qua không y ước đến gặp thị, từ từ nói: “Nghĩ xem ta có thể không? Không biết Nam Quận công mới sáng sớm ra đã triệu kiến nô gia, là có việc gì khẩn cấp vậy?”

Hoàn Huyền nói: “Trước tiên ta muốn rõ một việc. Nàng hiện nay có quan hệ như thế nào với Lưu Dụ?”

Nhậm Thanh Thị không hề ngẩng mặt lên nhìn hắn, nhẹ nhàng đáp: “Chẳng phải đã nói với Nam Quận công rồi sao? Quan hệ của Thanh Thị và gã đang ở trong tình huống rất vi diệu, không phải là bằng hữu, nhưng cũng không phải là địch nhân.”

Hoàn Huyền trầm ngâm một lát, rồi lộ vẻ khó khăn nói: “Không giết người này ta tuyệt không cam tâm.”

Nhậm Thanh Thị cuối cùng cũng ngẩng đầu lên nhìn hắn. Hoàn Huyền lại né tránh ánh mắt u oán của thị, ngửa mặt nhìn lên trần nhà. Nhậm Thanh Thị nhướng mày hỏi: “Nam Quận công phải chăng muốn nô gia giết Lưu Dụ cho ngài?”

Hoàn Huyền gật đầu: “Nhậm hậu có nắm chắc sẽ làm được việc này cho ta không? Chỉ có nàng mới có thể tiếp cận gã.”

Nhậm Thanh Thị thần thái như thường nói: “Giết Lưu Dụ tuyệt không dễ dàng vì gã đối với ta không phải là hoàn toàn không đề phòng. Có thể Nam Quận công chưa từng nghĩ qua, nhưng trong tình hình trước mắt mà giết chết Lưu Dụ sẽ giúp cho Lưu Lao Chi một việc lớn, hắn sẽ không để ai vào trong mắt nữa. Tư Mã Đạo Tử cũng là nhìn thấu điểm này mới lợi dụng Lưu Dụ để kiềm chế Lưu Lao Chi.”

Hoàn Huyền không ngần ngại nói: “Lưu Dụ có Hoang nhân làm hậu thuẫn, lại có sức hiệu triệu kinh người trong Bắc Phủ binh. Vì quan hệ với Tạ Huyền nên cao môn Kiến Khang cũng nhìn gã với con mắt khác. Ngu dân càng cho hắn là chân mệnh thiên tử. Một người như thế ta làm sao có thể tha cho gã sống trên thế gian này? So với gã, Lưu Lao Chi căn bản không thành vấn đề vì hành vi giết Vương Cung của hắn làm hắn vĩnh viễn không có được sự ủng hộ của nhân sỹ Kiến Khang, khó có thể làm nên đại sự.”

Nhậm Thanh Thị lại cúi mặt xuống, mềm mỏng nói: “Nam Quận công có lệnh, Thanh Thị nào dám không tuân? Để nô gia thử xem sao!”

Hoàn Huyền ngấm ngầm thở dài, chừng như định nói gì đó nhưng lại thôi. Cuối cùng, hắn xua xua tay ra hiệu cho nàng lui ra.

Nhậm Thanh Thị thần sắc bình tĩnh nói: “Nếu Nam Quận Công không còn phân phó gì khác thì Thanh Thị muốn lập tức đi đến Kiến Khang.”

Hoàn Huyền đáp: “Nàng cần bất cứ cái gì cứ nói với Hoàn Tu. Ta sẽ phân phó cho hắn toàn lực ủng hộ nàng.”

Nhậm Thanh Thị gật đầu: “Để đối phó với Lưu Dụ thì nhiều người cũng tuyệt không có tác dụng gì. Cứ mỗi ngày trôi qua, thực lực của gã lại tăng cường một bước. Thanh Thị chỉ có thể tận hết sức mình thử một lần. Nếu như thất bại, Nam Quận công không nên trách tội nô gia.”

Nói xong, thị đứng lên thi lễ rồi cáo lui.

Hoàn Huyền ngây người nhìn theo bóng dáng thị biến mất ngoài cửa lớn, lại ngấm ngầm thở dài. Bỗng nhiên một trận gió thơm từ phía sau tràn tới, chui tọt vào lòng hắn.

Lập tức, mọi cảm khái của Hoàn Huyền đều biến mất, hai tay ôm chặt người ngọc trong lòng, cất giọng thương yêu: “Nàng nghe thấy hết rồi đó! Ta và thị không hề có quan hệ gì.”

Tiều Nộn Ngọc nằm trong lòng hắn như một con mèo nhỏ hoàn toàn thần phục, yêu kiều thỏ thẻ: “Nộn Ngọc hiểu rồi! kể cả phải chết cho Nam Quận công, Nộn Ngọc cũng cam tâm tình nguyện.”

Hoàn Huyền cười nhẹ: “Không cho phép nàng nói đến chữ ‘chết’ đó. Nàng khẳng khái theo ta thì Hoàn Huyền ta sẽ làm Nộn Ngọc hưởng không hết phú quý vinh hoa, an khang thịnh vượng.”

Tiều Nộn Ngọc áp chặt khuôn mặt tươi cười vào ngực hắn, dịu dàng: “Thiếp phải làm một việc cho Nam Quận công.”

Hoàn Huyền ngạc nhiên: “Ta chỉ cần Nộn Ngọc ngoan ngoãn theo ta là được rồi. Nàng đâu cần phải đi làm việc gì?”

Tiều Nộn Ngọc nũng nịu: “Trong lòng Nộn Ngọc không phục.”

Hoàn Huyền quên cả Nhậm Thanh Thị, bật cười: “Thì ra vì vẫn chưa diệt trừ được tên tiểu tử Cao Ngạn đó nên nàng vẫn bận lòng. Để ta cho nàng biết, sinh tử của Cao tiểu tử căn bản không có liên quan trọng yếu gì. Ta đã suy nghĩ định ra kế hoạch tổng thể để đối phó với Hoang nhân rồi. Những ngày tháng phong quang của Hoang nhân chỉ còn đếm trên đầu ngón tay mà thôi.”

Tiều Nộn Ngọc yêu kiều giận dỗi: “Cao Ngạn làm sao có tư cách khiến thiếp để ở trong lòng? Người thiếp muốn đối phó chính là Lưu Dụ. Lưu Dụ sở dĩ có thể hô phong hoán vũ toàn là do được Hoang nhân ủng hộ. Chỉ cần hủy đi Biên Hoang tập thì Lưu Dụ sẽ trở lại nguyên hình, không thể làm một tướng lĩnh có sức hiệu triệu lớn trong Bắc Phủ binh nữa. Nộn Ngọc từng có tiếp xúc với Hoang nhân, hiểu rõ thủ đoạn của họ. Để Nộn Ngọc làm tiên phong của Nam Quận công. Chỉ cần Nam Quận công gật đầu, Nộn Ngọc sẽ làm cho Biên Hoang tập loạn đến nghiêng trời lệch đất. Ngày sau, Nam Quận công dẫn quân đánh Biên Hoang thì Hoang nhân cũng không có sức phản kháng.”

Hoàn Huyền nhíu mày: “Hoang nhân có thể công khai nêu tên nàng cho thấy trong bọn chúng có người hiểu rõ nguồn gốc của nàng. Nàng cứ thế này mà đến Biên Hoang tập thì quá mạo hiểm. Ta làm sao yên tâm được?”

Tiều Nộn Ngọc càng ôm hắn chặt hơn, nhẹ giọng: “Nam Quận công có thể yên tâm. Nộn Ngọc đã có thể khuấy đảo Hoang nhân một trận thì đương nhiên có thể khuấy đảo thêm lần nữa. Biên Hoang tập hoàn toàn không từ chối đối với những người đến làm ăn. Nộn Ngọc sẽ triệu tập cao thủ gia tộc trợ trận, không cần đến một binh một tốt của Nam Quận công. Mất sự ủng hộ của Biên Hoang tập thì Lưu Dụ tuyệt không phải là đối thủ của Nam Quận công.”

Hoàn Huyền cuối cùng cũng động tâm, hỏi: “Trong lòng Nộn Ngọc có nhân tuyển nào chưa?”

Tiều Nộn Ngọc nói: “Đương nhiên là chú của Nộn Ngọc là Tiều Phụng Tiên. Công phu dùng độc của ông ta không hề dưới cha thiếp, hơn nữa mưu trí lại tuyệt luân, võ công cao cường. Chỉ cần bọn ta có thể trà trộn vào Biên Hoang tập, nắm rõ hư thực của Biên Hoang tập thì có thể làm thám tử cho của Nam Quận công. Khi Nam Quận công đánh Biên Hoang tập thì bọn ta có thể phá tan đấu chí của Hoang nhân, nội ứng ngoại hợp. Khi đó còn lo gì Hoang nhân không ngoan ngoãn khuất phục?”

Hoàn Huyền ngạc nhiên: “Làm sao mà phá tan được đấu chí của Hoang nhân đây? Hoang nhân toàn là bọn liều lĩnh, hung hãn không sợ chết, càng bại càng đánh. Hai lần mất Biên Hoang tập rồi cũng lấy lại được.”

Tiều Nộn Ngọc vui vẻ nói: “Dù Hoang nhân có là sắt đi nữa cũng không chịu được độc dược làm đứt ruột. Chỉ cần bọn ta nắm được nguồn nước mà Hoang nhân sử dụng là có thể làm số lớn Hoang nhân trúng độc mất mạng. Nói cho cùng thì Hoang nhân chỉ là một đám ô hợp kết hợp lại vì lợi ích. Một khi khủng hoảng xảy ra, lại thêm đại binh của Nam Quận công uy hiếp, Hoang nhân sẽ không đánh mà tan, làm sao chống lại được cuộc tấn công mãnh liệt Biên Hoang tập?”

Hoàn Huyền nhíu mày: “Nghe nói Hoang nhân dùng nguồn nước từ Dĩnh Thủy là chính, nước giếng chỉ là phụ. Phương pháp hạ độc chỉ sợ không dùng được.”

Tiều Nộn Ngọc ung dung đáp:

”Phép dùng độc thiên biến vạn hóa, dùng mãi cũng không hết. Nhưng bọn ta cần đến quan sát thực địa Biên Hoang tập mới có thể đối chứng tình hình để sử dụng độc. Nộn Ngọc muốn làm chút việc cho Nam Quận công mà! Đảm bảo sẽ không làm Nam Quận công thất vọng.”

Hoàn Huyền cười nói: “Ta làm sao thất vọng đối với Nộn Ngọc được? Đơn giản là mừng rỡ ngoài ý liệu.”

Tiều Nộn Ngọc trong lòng hắn ngọ ngoạy tấm thân, hờn dỗi: “Nam Quận công xấu lắm nhé!”

Hoàn Huyền bỏ hết ưu tư cười lớn, hai tay bắt đầu hoạt động không theo quy củ gì nữa.

Tiều Nộn Ngọc rên rỉ: “Giờ là lúc nói chuyện chính sự. Ôi!”

Hoàn Huyền vui vẻ: “Thì ta đang làm việc chính đáng nhất đây mà.”

Hai tay Tiều Nộn Ngọc đang ôm eo hắn chuyển thành ôm cổ hắn, hổn hển: “Nam Quận công đáp ứng muội chứ?”

Hoàn Huyền do dự: “Nàng đi rồi, ai sẽ bồi tiếp ta qua những đêm dài sắp tới đây?”

Tiều Nộn Ngọc đáp: “khi Quận công trở thành chủ nhân triều đại mới thì Nộn Ngọc chẳng phải có thể luôn ở bên mình thánh thượng, thị hầu thánh thượng sao?”

Hai mắt Hoàn Huyền sáng lên, tưởng tượng đến sự phong quang khi trở thành bậc cửu ngũ chí tôn, hoàn thành đại chí chưa xong của phụ thân Hoàn Ôn, lập nên đế hoàng bá nghiệp cho Hoàn gia.

Tiều Nộn Ngọc hỏi: “Thế nào?”

Hoàn Huyền cúi xuống nhìn thị, trầm giọng: “Được rồi! Nhưng nếu như tình hình không thuận lợi thì Nộn Ngọc ngàn vạn lần không nên mạo hiểm. Quan trọng nhất là có thể an nhiên trở về, ngoài ra tất cả đều là thứ yếu.”

Tiều Nộn Ngọc hoan hô một tiếng, chủ động dâng hiến môi thơm.“Yến Phi!”

Một con thuyền nhỏ từ thượng du tiến lại.

Yến Phi nhảy lên, đáp xuống đầu thuyền, ngạc nhiên: “Làm sao lại xảo hợp thế được?”

An Ngọc Tình quay thuyền ngược lại, thần thái nhàn nhã ung dung đẩy mái chèo cho thuyền ngược dòng men theo bờ bắc Đại Giang tiến lên. Nàng cười nhẹ: “Ta đặc biệt ở đây đợi huynh đó!”

Nàng vận bộ đồ bình thường dân dã của ngư dân, đầu đội chiếc mũ rộng vành che đến gần cặp lông mày thanh tú càng lộ rõ khí chất thanh lệ thoát tục của nàng. Hai mắt nàng trong suốt, sâu thăm thẳm không thấy đáy, bên trong như ẩn giấu một vực sâu huyền bí vô hạn.

Yến Phi biết mình vẫn chưa hồi phục lại sau khi gặp gỡ với Kỷ Thiên Thiên bằng tâm linh, nên hỏi một câu chừng như không hề suy nghĩ: “Để tiểu đệ làm thay cho nhé?”

An Ngọc Tình nhẹ nhàng ôn nhu đáp: “Yến đại hiệp cứ ngồi yên đó cho tiểu nữ. Thật ra ta đang hưởng thụ cảm giác được chèo thuyền đây.”

Yến Phi tiêu sái ngồi giữa thuyền, mỉm cười nhìn nàng. Mỹ nữ này có một khí chất vô cùng đặc biệt làm người ta đang khẩn trương căng thẳng cũng nhanh chóng thư thái lại, phát sinh cảm giác vô tư lự.

An Ngọc Tình lẳng lặng nhìn chàng, bỗng nhiên khẽ thở dài nói: “Sau khi chia tay với huynh ở Bạch Vân sơn, liên tục mấy ngày liền ta chìm trong suy tư và nghĩ đến một vấn đề.”

Yến Phi hào hứng hỏi: “Vấn đề có thể làm cô nương dụng tâm đương nhiên không phải là việc tầm thường, phải chăng có quan hệ với tiên môn?”

An Ngọc Tình lộ vẻ khổ não đáp: “Huynh sai rồi! Vấn đề này có quan hệ trực tiếp với huynh, lại là quan hệ vô cùng kinh người. Huynh tốt nhất nên chuẩn bị về tâm lý.”

Yến Phi kinh hãi hỏi: “Không nghiêm trọng đến thế chứ? Ta hoàn toàn không nắm được ý tứ cô nương thì làm sao có thể chuẩn bị về tâm lý được?”

An Ngọc Tình cười khổ: “Ta có chút không muốn nói ra, nhưng đứng trên lập trường bằng hữu lại cảm thấy không nói không được.”

Yến Phi hít vào một hơi khí lạnh hỏi: “Rốt cuộc là việc gì vậy?”

An Ngọc Tình đáp: “Trước khi nói ra, ta cần biết rõ một chuyện. Sau khi huynh và Tôn Ân quyết chiến bên ngoài Biên Hoang tập, Thiên Sư quân tuyên bố ầm ỹ rằng huynh đã chết dưới tay Tôn Ân. Nhưng sự thật là huynh đã thất tung một thời gian. Trong thời gian đó đã phát sinh chuyện gì vậy?”

Đến lúc này, Yến Phi vẫn chưa hiểu rõ vấn đề An Ngọc Tình đang nghĩ trong lòng, chỉ còn cách thành thật kể lại: “Lần quyết chiến đó kết cục là ta thảm bại, hoàn toàn mất hết tri giác. Khi tỉnh lại mới phát hiện mình bị chôn dưới lòng đất.”

An Ngọc Tình ngạc nhiên thốt: “Tôn Ân làm sao lại sơ suất như thế?”

Yến Phi đáp: “Tôn Ân tuyệt không hề sơ suất. Khi ta bị lão đánh bay khỏi Trấn Hoang cương thì Nhậm Thanh Thị xuất thủ đánh lén lão, làm lão không cách nào đánh thêm một chưởng vào người ta. Tiếp đó, Ni Huệ Huy lại mang ta chạy đi và an táng cho ta. Hắc! Cô nương cho rằng việc đó có quan hệ với ta, rốt cuộc là liên quan thế nào đây?”

An Ngọc Tình than: “Lần này thì nguy rồi!”

Yến Phi bỗng lạnh cả lòng, ngấm ngầm nghĩ tới tâm sự của An Ngọc Tình có liên quan đến sinh tử của chàng.

An Ngọc Tình muốn nói lại thôi, nhìn chàng mấy lần rồi từ từ nói: “Huynh còn nhớ ta đã nói gì ở Tạ gia tại hẻm Ô Y không? Ta nói huynh làm ta sinh lòng sợ hãi, là nỗi sợ hãi đối với sự việc mà mình không hiểu được vì trong lịch sử Đạo môn ghi chép lại thì chưa từng có ai đạt được cảnh giới thai tức một trăm ngày. Vì thế huynh đã kết thành Kim Đan trong người. Càng kỳ quái là huynh vẫn chưa bạch nhật phi thăng* thành tiên, nên ta không hiểu huynh là người hay là tiên. Còn nhớ chuyện đó không?”

Yến Phi gật đầu: “Cô nương đúng là có nói chuyện đó.”

An Ngọc Tình tiếp: “Ni Huệ Huy mang huynh từ trong tay Tôn Ân bỏ chạy là muốn thị uy với Tôn Ân, bày tỏ ý cừu hận của thị đối với Tôn Ân. Còn việc an táng cho ngươi là vì thấy huynh sinh cơ đã tuyệt, lại vì sinh lòng thương hại, không muốn để huynh phơi thây ngoài nơi hoang dã nên mới cho huynh nhập thổ an lành. Ai biết huynh đã chết lại sống lại.”

Yến Phi nói: “Ta chưa hề nhìn thấy Diêm La vương, cũng chưa từng chết đi. Có thể là ta chưa hoàn toàn đoạn khí.”

An Ngọc Tình trấn định tinh thần nhìn gã nói: “Lời đó của huynh không sai. Cứ theo các cụ ngày xưa có nói, người có ba hồn bảy vía. Tấm thân huyết nhục sau khi chết thì ba hồn bảy vía sẽ tiêu tan. Khi hồi hồn lại thì hồn vía sẽ tụ lại, xem xem có phải là chết oan uổng hay không rồi mới quyết định tiếp tục làm quỷ âm hồn bất tán hay là chuyển thế luân hồi. Cách nói này là thật hay giả đương nhiên không người sống nào biết được.”

Yến Phi hít sâu một hơi nói: “Nàng nói làm ta sởn cả gai ốc. Ài! Cô nương xin nói ra suy nghĩ trong lòng. Hy vọng ta có thể tiếp thụ được.”

An Ngọc Tình đáp: “Khi đó huynh đích xác là đã chết rồi, nhưng hồn phách vẫn dựa vào nhục thể mà nối lại tâm mạch đã bị đứt làm huynh sống lại. Đó là giải thích duy nhất hợp lý.”

Yến Phi thoải mái hẳn, nói: “Ta tuyệt không hề chết thật mà chỉ là giả chết. Ta từng nghe qua trong tộc nhân có mấy người chết đã hai ngày, bỗng nhiên lại sống lại. Người sống lại đó còn sống được hai năm nữa rồi mới chết thật.”

An Ngọc Tình nói: “Khẳng định là huynh đã kết thành Kim Đan, thứ mà người cầu Đạo đều mơ có được.”

Yến Phi bị câu nói không đầu không đuôi của nàng làm cho cảm thấy hồ đồ, nhíu mày hỏi: “Kim Đan rốt cuộc là cái gì vậy? Ta thực không cảm thấy trong cơ thể mình có thêm cái gì cả?”

An Ngọc Tình đáp “Kim Đan là dương thần do tu luyện trí lực tinh thần của Đạo gia bọn ta tạo thành, còn gọi là thân ngoại chi thân** sờ không thấy nhìn không ra. Cứ theo điển tịch ghi chép thì phàm là người kết Kim Đan sẽ trở thành người trường sinh bất tử.”

Yến Phi thất thanh hỏi: “Cái gì?”

An Ngọc Tình cười khổ: “Giờ huynh chắc đã hiểu tại sao ta không muốn nói ra rồi đó! Đối với Đạo gia mà nói, việc đó đương nhiên là tin mừng lớn nhất. Nhưng đối với huynh, lại là ….. Ôi! Ta không biết dùng từ nào cho được.”

Yến Phi ngây người nhìn nàng, một lúc sau hỏi: “Nếu như có người đem ta ra phân thây thành vạn mảnh thì ta liệu vẫn có thể bất tử không?”

An Ngọc Tình than: “Vấn đề của huynh chỉ sợ không ai có thể trả lời được, chỉ có trời mới biết. Ài! Sắc mặt huynh biến thành khó coi quá rồi!”

Yến Phi mặt không còn chút máu, trong lòng ầm ầm nổi lên những luồng tư tưởng khổng lồ như sóng cồn, xung kích tâm linh chàng.

Lời An Ngọc Tình rất có sức thuyết phục. Ngày đó, khi phá đất chui ra, Yến Phi quả có cảm giác sống lại từ cõi chết, lại từ đó sinh ra linh giác có thể cảm ứng Kỷ Thiên Thiên. Sự tình quái dị đến mức làm chàng cũng cảm thấy vô cùng khó chấp nhận. Nhưng dần dần việc đó đã quen đi, trở thành tập quán nên chàng đối với sự ‘dị thường’ của bản thân không còn kinh dị nữa.

Chàng cũng hiểu An Ngọc Tình nói “nguy hiểm quá” nghĩa là gì vì nàng biết chàng là người như thế nào, là “hồng nhan tri kỷ” của chàng.

Đối với những người có chí tu tiên thì ‘trường sinh bất tử’ quả là một ân tứ lớn vì họ có thời gian vô hạn để đi tìm phương pháp trở thành Tiên, khám phá bí mật của sinh tử.

Nhưng đối với chàng mà nói, đó chỉ là một giấc mộng vĩnh viễn không kết thúc. Chàng sẽ biến thành một quái vật không bao giờ chết. Việc này không phải là phúc, mà là một lời nguyền, lại là một lời nguyền độc ác nhất.

Thử nghĩ, mắt thấy Kỷ Thiên Thiên từ hồng nhan biến thành bạch phát, thấy nàng trải qua đủ lão, bệnh, tử, nhưng Yến Phi chàng lại vĩnh viễn giữ hình dạng này. Bất kể là đối với Kỷ Thiên Thiên hay đối với chàng, đó là một việc vô cùng tàn nhẫn và đáng sợ. Khi đó, biện pháp giải quyết duy nhất là chàng tự vẫn nếu như chàng có thể làm được việc này.

An Ngọc Tình không hề làm nhiễu loạn tư tưởng chàng, im lặng chèo thuyền, tiến vào sông Tần Hoài.

Phương pháp giải quyết duy nhất là mở ra tiên môn, nhân lúc Kỷ Thiên Thiên vẫn còn trong giai đoạn thanh xuân tươi đẹp, hai người dắt tay nhau phá không mà đi, tiến vào nơi đất trời kỳ dị không biết là Tu la Địa ngục hay là Động thiên phúc địa đó, còn hơn là nhìn Thiên Thiên già chết còn bản thân mình lại vĩnh viễn là một người sống.

Nhưng chàng sớm gạt bỏ tính khả thi của việc đó. Kể cả chàng nhường cho Kỷ Thiên Thiên tiến vào tiên môn trước thì Kỷ Thiên Thiên cũng sẽ bị năng lượng do tiên môn khai mở làm cho thịt nát xương tan

Đó căn bản là một vấn đề khó khăn không thể giải quyết.

Yến Phi phát sinh cảm giác bị tuyên án cực hình, là một hình phạt tàn khốc nhất trên nhân thế và không bao giờ kết thúc.

An Ngọc Tình nhẹ giọng nói: “Phương pháp duy nhất kết thúc nỗi khổ trường sinh chính là luyện thành tuyệt học cao nhất ‘Phá toái hư không’ của ‘Chiến thần đồ lục’, mở cửa tiên môn, sang thế giới bên kia khám phá xem bên đó là cảnh giới gì. Đúng không?”

Yến Phi ngoảnh đầu nhìn nàng, tiếp xúc với đôi mắt tuyệt đẹp thâm sâu thần bí, mỗi lần nhìn đều làm chàng chấn động tâm thần, bên trong tràn đầy khát vọng và mong đợi.

Yến Phi giật mình hỏi: “Đó phải chăng là việc duy nhất trong lòng cô nương nghĩ đến sao?”

An Ngọc Tình phóng tầm mắt nhìn cảnh đẹp hai bên bờ sông Tần Hoài, mơ màng nói: “Ta từ nhỏ đã tràn đầy hiếu kỳ đối với đất trời trước mắt. Trời bắt đầu từ đâu? Đất kết thúc ở chỗ nào? Tất cả đã bắt đầu như thế nào? Tất cả rồi sẽ kết thúc ra sao? Những sự vật trước mắt phải chăng chỉ là ảo ảnh? Con người đến thế giới này với mục đích gì? Sinh mệnh phải chăng cũng không ngừng tuần hoàn như bốn mùa và tinh tú? Vì thế, ta đối với sự tranh danh đoạt lợi của thế nhân vô cùng nhạt nhẽo. Nhưng ta lại hoài nghi thuyết thành Tiên Phật của Phật, Đạo hai nhà. Tới khi gặp được Yến Phi huynh, từ huynh trực tiếp nghe được tình hình tiên môn khai mở thì lòng ta đã an tĩnh lại. Bên kia của tiên môn có phải là ‘Động thiên phúc địa’ hay không tuyệt không quan trọng. Chỉ cần biết việc đó là có thể thì ta không thử một lần sẽ không cam tâm được. Nhưng sau khi suy nghĩ kỹ càng về tình huống tam bội hợp nhất khai mở tiên môn mà huynh thuật lại thì tiên môn dường như chỉ cách mình có một bước chân, chỉ cần bước một bước chân, nhưng lại khó như lên trời, có thể nhìn thấy nhưng lại không thể đi vào. Mâu thuẫn trong lòng ta chỉ sợ chỉ có Yến Phi huynh là hiểu được.”

Yến Phi khổ não nói: “Ta hiểu. Ài! Nếu như ta có thể khai mở tiên môn, cô nương có dám không do dự mà tiến vào không?”

An Ngọc Tình bình tĩnh nói: “Nếu ta đoán không sai thì tuyệt thế chiêu số ‘Phá toái hư không’ kinh thiên địa, khiếp quỷ thần, có thể khai thiên tịch địa đã vượt qua giới hạn của bất kỳ võ học đại sư nào. Cả đời chỉ có thể sử chiêu đó một lần là đã hao tổn hết tiềm năng bản thân. Huynh hiểu không? Tiên cơ chỉ có một lần, nếu huynh nhường cho ta thì ta chắc chắn có thể vượt môn mà đi, nhưng huynh sẽ vĩnh viễn mất đi cơ hội sang bờ bên kia. Hơn nữa, phải chịu hậu quả nghiêm trọng không biết thế nào. Huynh liệu vẫn tình nguyện hy sinh cho ta như thế không?”

Yến Phi tắc họng không nói nên lời. Chàng không nghĩ cho mình thì cũng phải nghĩ cho Kỷ Thiên Thiên.

An Ngọc Tình cười nhẹ: “Cuộc sống của ta vì tiên môn mà tràn đầy hứng thú. Huynh lại càng vì nó mà bản thân bị đặt vào cảnh khó khăn chưa từng có tiền lệ, phải đối mặt với vấn đề khó khăn nhất. Nhân sinh vĩnh viễn là một nửa khổ đau và một nửa lạc thú. Nhưng chúng ta không giống với những người khác. Điều chúng ta truy cầu tuyệt không phải là những chuyện được, mất thông thường của thế tục, mà là vượt lên sinh tử, siêu thoát nhân thế.”

Yến Phi vẫn không có lời nào để nói.

An Ngọc Tình tiếp: “Huynh muốn lên bờ chỗ nào? Ta tạm thời ở Quy Thiện Tự của Chi Độn đại sư. Huynh đi gặp Chi Độn đại sư thì có thể gặp ta. Không cần phải có việc mới đến gặp ta, mà đến nói chuyện chơi cũng được.”

Lưu Dụ vào phòng chính, thấy Đồ Phụng Tam và Khoái Ân đang nói chuyện. Khoái Ân tập trung tinh thần lắng nghe, không ngừng gật đầu, một mực toàn tâm học hỏi.

Đối với người ưu tú trẻ tuổi mới nổi Khoái Ân, Lưu Dụ và Đồ Phụng Tam sớm đã nhận định hắn là một tài năng có thể đào tạo, nhưng chưa từng nghĩ hắn lại có thể xuất sắc như thế. Mới đến Kiến Khang chưa được mười ngày đã lập đại công. Trước tiên là phá tan phương pháp ám sát của Can Quy. Tối qua lại nhờ hắn kịp thời phóng mái chèo ra khiến thuyền hoả khí của địch thay đổi phương hướng và tốc độ. Nếu không, hậu quả thật không dám tưởng tượng.

Lưu Dụ ngồi xuống bên cạnh hai người, ngạc nhiên nói: “Sao lại dùng phương thức vẽ trên giấy và nói suông để truyền cho tiểu Ân thuật luyện binh như thế này? Đợi khi quân tinh nhuệ Biên Hoang của bọn ta đến đây rồi giảng dạy tại hiện trường thì chẳng phải hiệu quả càng lý tưởng hơn sao?”

Đồ Phụng Tam trầm giọng: “Vì ta muốn gặp lại Dương Toàn Kỳ xem xem có thể nỗ lực lần cuối cùng, kích động hắn và Ân Trọng Kham tiên phát chế nhân, đánh đổ Hoàn Huyền hay không.”

Lưu Dụ ngạc nhiên hỏi: “Vẫn còn hy vọng thuyết phục hắn sao? Một việc không tốt, ngược lại sẽ làm luỵ đến ngươi. Hơn nữa ở đây cũng cần có ngươi.”

Đồ Phụng Tam cười nhẹ: “Kiến thức, tài năng của tiểu Ân trong việc chỉ huy quân đội khẳng định sẽ làm ngươi kinh ngạc vui mừng. Sự dạy bảo liên tục tuần tự của Hầu tiên sinh đã cho thấy thành quả đáng tự hào trên con người tiểu Ân. Chỉ cần cho hắn cơ hội, đảm bảo có thể làm ngươi mãn nguyện. Hơn nữa, không có ta thì còn có ngươi. Chỉ cần ngươi luôn cho tiểu Ân theo bên cạnh, để hắn tạo dựng quyền uy trong lòng các huynh đệ Hoang nhân bọn ta thì tiểu Ân sẽ là mãnh tướng hàng đầu của ngươi.”

Khoái Ân lúng túng nói: “Đồ gia đã khoa trương ta quá rồi. Nhưng ta sẽ tận lực mà làm, hy vọng không phụ ý tốt của hai vị nhân gia.”

Đồ Phụng Tam lại nói: “Đây là một suy nghĩ về mặt sách lược. Bất kể Hoàn Huyền hoặc Tư Mã Đạo Tử hoặc Từ Đạo Phúc đều đã hiểu biết tường tận chiến thuật và thủ đoạn ta thường dùng vì thế chúng có chỗ để tìm ra. Nhưng tiểu Ân là người mới, tác phong mới. Chỉ cần bọn ta bồi dưỡng hắn thành tài sẽ trở thành một kỳ binh quý giá.”

Lưu Dụ biết Đồ Phụng Tam quyết ý ra đi, nhíu mày: “Nếu thực có thể đánh ngã Hoàn Huyền. Khi đó Tư Mã Đạo Tử mất đi kình địch hàng đầu rồi thì có còn cần dựa vào bọn ta nữa không?”

Đồ Phụng Tam than: “Nói là như vậy, nhưng ngươi và ta đều rõ Dương, Ân hai người làm sao là đối thủ của Hoàn Huyền và Nhiếp Thiên Hoàn được? Ta chỉ hy vọng bọn họ có thể nắm vững tiên cơ, không phải là chỉ một đòn đã tan vỡ, có thể hết sức làm chậm lại thời gian Hoàn Huyền phát động công kích đối với Kiến Khang. Nếu không, khi bọn ta đang đối phó Tôn Ân lại vẫn phải lo lắng về Hoàn Huyền.”

Lưu Dụ đang định nói, thấy Khoái Ân bộ dạng như có gì muốn nói nhưng lại thôi, trong lòng chợt động, nhìn Khoái Ân nói: “Trong lòng tiểu Ân có gì muốn nói cứ nói hết ra đi.”

Đồ Phụng Tam cũng cười: “Đúng! Không cần rụt rè mắc cỡ. Ngươi từng qua Biên Hoang tập, chắc phải biết Hoang nhân đều là những tên điên luôn có những ý tưởng tuyệt diệu, mà Lưu gia lại là tên điên trong những tên điên. Đối mặt với binh lực áp đảo của cường địch nhưng vẫn nghĩ làm sao để tác thành mỹ sự giữa Tiểu Bạch Nhạn và Cao Ngạn đó.”

Khoái Ân lấy hết dũng khí nói: “Kể cả Hoàn Huyền và Nhiếp Thiên Hoàn liên thủ, nhưng để công hãm đô thành có năng lực phòng thủ rất mạnh như Kiến Khang thì vẫn chưa đủ sức. Nếu không hắn đã không chờ đợi đến ngày hôm nay, lại tìm trăm phương ngàn kế tranh thủ Lưu Lao Chi đứng về phía hắn. Hoàn Huyền còn có một lo lắng là sợ nếu cùng với Kiến Khang quân đánh đến lưỡng bại câu thương sẽ bị Thiên Sư quân chiếm hết tiện nghi. Vì thế, một ngày còn Thiên Sư quân thì Hoàn Huyền vẫn không dám trực tiếp tiến đánh Kiến Khang.”

Chuyện này đối với Lưu Dụ và Đồ Phụng Tam mà nói chỉ là chuyện phiếm hàng ngày, nhưng Khoái Ân mới đến Kiến Khang một thời gian ngắn mà đã nắm vững được tình hình, đúng là làm người ta phải vỗ tay khen hay.

Đồ Phụng Tam gật đầu nói: “Nói hay lắm!”

Lưu Dụ khích lệ: “Nói tiếp đi!”

Khoái Ân can đảm tiếp tục: “Hoàn Huyền sau khi độc bá Kinh Châu, việc có thể làm là phong toả thượng du Kiến Khang, chặt đứt con đường huyết mạch chủ yếu của Kiến Khang, làm vật tư từ thượng du không thể đều đặn liên tục vận chuyển về chi viện cho Kiến Khang được. Kiến Khang dưới tình hình bị cô lập gay gắt như thế càng khó khăn trong việc ứng phó Thiên Sư quân.”

Lưu Dụ và Đồ Phụng Tam đều gật đầu ra vẻ đồng ý.

Phong toả thượng du Kiến Khang là việc Hoàn Huyền chỉ cất tay là xong do lực lượng của hắn đủ khả năng làm việc này, lại là thủ đoạn cao minh để nắm quyền chủ động. Khi Kiến Khang khổ sở lâm vào cục diện khó giữ nổi vì huyết mạch đường thuỷ bị cắt đứt thì Hoàn Huyền có thể dĩ dật đãi lao, đánh thẳng vào đầu não đối phương, một trận giành giang sơn. Lưu Dụ và Đồ Phụng Tam tuy biết rõ là như thế, nhưng lại không thể làm gì, vì thế họ mới có sách lược ‘trong bại cầu thắng’.

Đồ Phụng Tam lần này phải trở lại Kinh Châu chính là vì hy vọng có thể trì hoãn kế hoạch phong tỏa Đại Giang của Hoàn Huyền càng lâu càng tốt.

Khoái Ân tiếp: “Tình hình đó không thể thay đổi được. Nhưng tiểu Ân nhận thấy trước khi Thiên Sư quân thất bại thì Hoàn Huyền sẽ không lỗ mãng tiến hành hành động phong toả đường sông vì việc đó sẽ tạo ra sự phản cảm rất lớn của cao môn đại tộc Kiến Khang, cho rằng Hoàn Huyền là một kẻ ti bỉ vô sỉ chỉ biết lợi dụng lúc người ta nguy ngập. Sau này dù hắn có thể đánh bại Kiến Khang quân nhưng sẽ ảnh hưởng rất xấu tới khả năng trị vì của hắn ở Kiến Khang. Hơn nữa, từ lập trường của Hoàn Huyền mà nói, sách lược tốt nhất là toạ sơn quan hổ đấu. Lý tưởng nhất là Thiên Sư quân bại trận, Kiến Khang quân và Bắc Phủ binh thương vong nặng nề. Khi đó Hoàn Huyền có thể dùng thế như phong quyển tàn vân, quét trọn Kiến Khang, thay thế vị trí Hoàng triều họ Tư Mã vốn đã làm cao môn đại tộc Kiến Khang mất hết lòng tin.”

Đồ Phụng Tam và Lưu Dụ đều động dung.

Tiếng Tống Bi Phong từ cửa sau vọng tới: “Nhận xét đó rất mới mẻ, lại rất có cơ sở.”

Khoái Ân ngượng nói “Chỉ là ngu kiến của tiểu Ân.”

Tống Bi Phong ngồi xuống. Đồ Phụng Tam nói: “Tiếp tục nói đi.”

Khoái Ân nói: “Đồ gia đừng trách tiểu Ân mạo phạm. Tiểu Ân nhận thấy Ân, Dương hai người không hề có đến nửa điểm cơ hội. Sự mạo hiểm đó không đáng để Đồ gia phải đi. Hiện tại, chúng ta nên tập trung tinh thần đối phó Tôn Ân, mặt khác dùng Biên Hoang tập kiềm chế Hoàn Huyền. Ví dụ như tập kết chiến thuyền tại Thọ Dương làm Hoàn Huyền cố kỵ, phải đặt hy vọng lên chúng ta.”

Đồ Phụng Tam gật đầu: “Giải thích của tiểu Ân rất có đạo lý.”

Khoái Ân lộ vẻ cảm động, cho thấy hắn vốn cho rằng lời mình nói không có trọng lượng, không tưởng nổi nói ra suy nghĩ rồi lại được sự tiếp nhận trọng thị của Đồ Phụng Tam như thế. Hắn cũng nhận thấy sự bao dung rộng rãi của Đồ Phụng Tam.

Ngay lúc đó, bốn người đều có cảm giác khác lạ.

Một đạo thân ảnh xuyên qua cửa sổ vào phòng như quỷ mỵ. Khi bốn người cảnh giác đứng lên thì mới nhìn rõ người đến là Yến Phi.

Khoái Ân là người duy nhất không biết Yến Phi. Hắn lại còn cho rằng chàng là địch nhân, liền tiến lên một bước, đấm mạnh một quyền vào Yến Phi. Mọi người không kịp cản hắn lại, chỉ quát bảo hắn dừng tay.

Yến Phi đẩy chưởng ra ngăn cản thiết quyền của Khoái Ân, nhưng không hề làm phát ra tiếng kình khí giao kích. Chàng lộ thần sắc ngạc nhiên nói: “Công phu của vị huynh đệ này rất khá.”

Khoái Ân phát giác quyền đầu của mình đánh trúng chưởng tâm của đối phương nhưng chân kình lại biến mất tăm tích như ném đá xuống biển. Hắn hoảng hốt lùi lại thì Đồ Phụng Tam than: “Biên Hoang đệ nhất cao thủ của chúng ta tới Kiến Khang rồi.”

Chú thích

* Bạch nhật phi thăng: Những người trong Đạo giáo sau khi tu luyện đắc đạo, sẽ bay lên trời thành tiên giữa ban ngày. Ngoài ý trên, đời nay còn dùng cụm này như một thành ngữ chỉ một lần xuất chúng hay vinh hiển.

** Thân ngoại chi thân: Cơ thể khác bên ngoài cơ thể này.Vương Trấn Ác tiến vào phòng nhỏ. Lưu Mục Chi đang một mình im lặng ăn sáng, thần tình ngưng trọng trầm tư.

Vương Trấn Ác ngồi xuống bên cạnh lão, tiện tay cầm lên một chiếc màn thầu. Trước tiên hắn đưa lên mũi ngửi ngửi rồi mới đút vào miệng.

Lưu Mục Chi nhìn hắn, cười nhẹ hỏi: “Tối qua ngủ được chứ?”

Vương Trấn Ác vui vẻ đáp: “Ngủ nghê là một bản lĩnh đáng tự hào của ta. Thường thường, cứ nhắm mắt là có thể ngủ một mạch tới lúc trời sáng. Nếu như không có tuyệt kỹ này thì chỉ sợ ta đã sớm không chịu nổi đến bây giờ, tự vẫn cho xong từ lâu rồi.”

Lưu Mục Chi điềm đạm nói: “Ngươi trước khi ăn màn thầu thì phải dùng mũi ngửi ngửi. Phải chăng vì sợ bị người hạ độc?”

Vương Trấn Ác bẽn lẽn đáp: “Đó là thói quen. Trước đây, là chân lý để giữ mạng ở phương Bắc, hiện tại đã thành tập quán. Chắc đã làm tiên sinh phải cười rồi.”

Lưu Mục Chi lộ vẻ đồng tình nói: “Xem ra những ngày ngươi ở phương Bắc trước đây chắc không dễ dàng.”

Vương Trấn Ác buồn bã nói: “Tận mắt nhìn thấy người thân từng người một đột nhiên lăn ra chết đương nhiên là không dễ chịu rồi. Bản thân ta đã bị người ta ám sát năm lần, lần nào cũng suýt chết.”

Lưu Mục Chi nhíu mày hỏi: “Phù Kiên lại không hề niệm tình như thế ư?”

Vương Trấn Ác cười khổ: “Nếu như hắn không niệm tình cũ thì ta đã sớm xương cốt không còn rồi.”

Dường như hắn không muốn nói chuyện quá khứ đã qua nữa, bèn chuyển đề tài hỏi: “Tiên sinh đã nghĩ ra biện pháp chống địch chưa?”

Lưu Mục Chi đáp: “Để đối phó với số đông chiến sỹ Bí tộc thì chỉ cần làm đúng như kế hoạch hôm qua chúng ta đã bàn là có thể thu được hiệu quả. Nhưng để ứng phó một người như Hướng Vũ Điền thì ta lại bó tay không có sách lược gì. Theo tác phong hành sự của người này có thể biết đó là một cao thủ không theo quy luật thông thường, thiên tư cực cao, bác học đa tài có thể ngạo thị thiên hạ. Một người như thế căn bản là không có điểm nào để làm căn cứ mà phán đoán, lại không thể dùng thủ pháp thông thường để chế phục được. Biên Hoang tập mặc dù cao thủ như mây, nhân tài đầy rẫy, nhưng có thể chế phục y thì sợ là chỉ có một mình Yến Phi. Nhưng Yến Phi đã đi Kiến Khang rồi.”

Vương Trấn Ác hoàn toàn đồng ý, gật đầu: “Ta dù đã giao thủ với y nhưng cho tới tận lúc này vẫn không biết rõ y là một người thế nào. Cổ quái nhất là ta còn có chút ngưỡng mộ y. Cái tên gia hoả này như là chính, như là tà, nhưng khẳng định không phải là đồ ti bỉ, mà là một người có khí độ thâm sâu rộng rãi.”

Lưu Mục Chi than: “Sáng nay thức dậy, ta sợ nhất là nghe được tin tức gì liên quan đến y. Nếu vậy, khẳng định không phải là tin gì tốt lành. Ví dụ như một thành viên nghị hội nào đó bị y ám sát chết, hoặc bị y lấy trộm mất thánh chung đại biểu cho vinh nhục của Hoang nhân trên Cổ Chung lâu. May là tất cả vẫn bình thường.”

Vương Trấn Ác bật cười: “Sức tưởng tượng của tiên sinh thật phong phú. Để lấy trộm chuông đồng thì mười tên Hướng Vũ Điền cũng không làm được.”

Lưu Mục Chi cười khổ: “Mặc dù bình an vô sự, nhưng sự lo lắng của ta chỉ tăng chứ không có giảm. Tình hình bây giờ chính là sự yên tĩnh trước khi cuồng phong bạo vũ kéo tới. Với tâm cao khí ngạo của Hướng Vũ Điền, khẳng định không nhịn nổi nỗi tức giận bị bọn ta trục xuất khỏi Biên Hoang tập. Y lại muốn biết bọn ta bằng cái gì có thể khám phá hành tung của y. Vì thế y đang chờ đợi cơ hội để lập uy. Y mà phản kích sẽ trúng chỗ yếu hại của bọn ta. Y sẽ đánh vào mặt nào đây?”

Lão lại hỏi: “Cho ta biết! Hướng Vũ Điền rốt cuộc là một tên nhát gan hay là quá yêu quý sinh mệnh của mình?”

Nghi vấn này của Lưu Mục Chi là có căn cứ.

Từ khi Hướng Vũ Điền như thần long xuất hiện tại Trấn Hoang cương, tiếp đó đột vây chạy khỏi Biên Hoang tập. Sau đó, rõ ràng có thể giết chết Vương Trấn Ác nhưng lại bỏ qua cho hắn. Những việc này đều làm lão giang hồ sống trên đầu đao mũi kiếm cũng khó mà hiểu được. Y chưa từng giết một người nào, nhưng cũng không để cho bất cứ ai động tới nửa sợi lông của y.

Nhưng y rốt cuộc là nhát gan nên không dám mạo hiểm thụ thương? Hay là vì quá yêu quý thân thể mình mà không muốn thụ thương? Toàn là những việc mà không ai có thể hiểu nổi.

Vương Trấn Ác khẳng định đáp: “Y tuyệt không phải là người có lá gan bé xíu, ngược lại gan lớn tày trời, chẳng coi ai ra gì. Vì thế mới dám một mình đến Biên Hoang tập. Nhưng tác phong thấy khó là lui của y đúng là làm người ta không hiểu nổi.”

Lưu Mục Chi nói: “Chỉ cần hiểu được điểm này thì chúng ta nói không chừng có thể tìm ra chỗ sơ hở của y, từ đó thiết kế đối phó y.”

Lão lại trầm ngâm: “Bốn chữ ‘thấy khó là lui’ này hình dung vô cùng chuẩn xác. Với thân thủ của y, nếu như có thụ thương thì vẫn còn sức đánh một trận, sẽ có cơ hội đánh chết Cao thiếu gia. Nhưng khi y phát giác Diêu Mãnh cũng có thực lực ngạnh tiếp y một kiếm thì y liền bỏ đi không quay lại. Có thể thấy sự mạo hiểm đó y không dám làm. Việc y thả cho ngươi đi còn có thể đúng như giải thích của y là không muốn thụ thương thế vĩnh viễn không thể hồi phục. Nhưng việc đối phó với Cao tiểu tử hoàn toàn không có vấn đề đó, làm ta càng nghĩ càng hồ đồ rồi.”

Vương Trấn Ác tư lự: “Hoặc là y đang tu luyện một loại kỳ công tuyệt nghệ nào đó. Trước khi thành công không thể thụ thương. Ài! Trong thiên hạ này lại có loại công phu cổ quái như thế ư?”

Lưu Mục Chi cảm thấy đau đầu nói: “Sự uy hiếp của Hướng Vũ Điền chỗ nào cũng có, đề phòng không được. Y chỉ cần mỗi ngày tìm một người giết đi để tế cờ thì có thể làm Biên Hoang tập rơi vào hoảng loạn khủng bố, tạo thành đả kích nghiêm trọng đối với Biên Hoang tập đang bước vào thời kỳ phục hồi kinh tế. Ai còn dám đến Biên Hoang tập làm ăn nữa?”

Vương Trấn Ác lắc đầu phản đối: “Y không phải là loại lạm sát người vô tội thế đâu. Trong lòng ta thấy y là một người khí khái anh hùng, lại rất coi trọng danh dự bản thân. Nếu như y tuỳ ý giết người thì sẽ trở thành một Hoa Yêu khác, gây nên công phẫn, sau này chỉ là những ngày chạy trốn khắp nơi.”

Lưu Mục Chi dường như nghĩ ra được việc gì đó, giật mình nói: “Ta đoán được mục tiêu của y là cái gì rồi!”

Cao Ngạn tim đập thình thịch, đến trước căn phòng vốn là phòng của thuyền chủ Trình Thương Cổ, nhưng giờ là phòng dành cho Doãn Thanh Nhã ở. Gã giơ tay lên nhưng lại không có dũng khí gõ cửa, thần tình vô cùng cổ quái.

Đứng ở cuối hành lang cách gã chừng hai trượng là bọn Trác Cuồng Sinh, Trình Thương Cổ và hơn mười huynh đệ theo thuyền. Mọi người đều lộ vẻ vừa kỳ quái vừa hứng thú đứng nhìn gã, lấy tay ra hiệu thúc giục gã mau gõ cửa. Đúng là “Hoàng đế bất cấp, cấp sát thái giám”**.

Vì hành khách đầy thuyền nên Trình Thương Cổ chỉ còn cách ra vẻ nghĩa khí lấy phòng của mình cấp cho Tiểu Bạch Nhạn dùng. Còn hắn thì ở chung với các huynh đệ Hoang nhân. Tiểu Bạch Nhạn cũng thật kỳ quái. Sau khi lên thuyền không hề rời phòng nửa bước, lại không dùng đồ ăn thức uống ngon lành trên thuyền, chỉ dùng những đồ ăn uống và hoa quả mang theo.

“Cốc! Cốc! Cốc!”

Cao Ngạn cuối cùng cũng đánh liều gõ cửa. Bọn Trác Cuồng Sinh đang đứng xem ai nấy đều cảm thấy tim như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, bình tức tĩnh khí chờ xem Cao Ngạn sẽ được nàng nhiệt tình chào hỏi như gã vẫn ăn to nói lớn, hay là bị Tiểu Bạch Nhạn đánh văng xuống dòng Dĩnh Thuỷ.

Thanh âm khiến người ta si mê của Tiểu Bạch Nhạn từ trong phòng truyền ra: “Đến Biên Hoang tập rồi sao? Tên ngu ngốc nào dám đến gõ cửa phòng bản cô nương thế?”

Mọi người run bần bật cố nhịn cười, im lặng chờ xem tình hình phát triển.

Cao Ngạn nghe thấy thanh âm Tiểu Bạch Nhạn, lập tức nhiệt huyết trào dâng, khuôn mặt căng thẳng đỏ hồng lên. Hắn ưỡn ngực về phía mọi người ra vẻ hiên ngang, rồi quay mặt lại đối diện với cửa phòng há to mồm ra. Mọi người đang nghĩ gã sẽ tuôn ra diệu ngữ như nước chảy mây trôi, mồm loa mép giải như thường thấy thì gã lại không nói nổi một câu, hại mọi người suýt chút nữa thì đấm ngực giậm chân, khó chịu thay cho gã.

Thanh âm Tiểu Bạch Nhạn lại truyền ra hỏi: “Đứng trơ ra đấy làm gì? Mau lăn đi cho ta. Chọc giận bản cô nương tức lên sẽ lập tức ra lọc da rút gân ngươi đó.”

Trác Cuồng Sinh vượt mọi người tiến ra, hai tay làm bộ như chuẩn bị xé xác Cao Ngạn ra, mặt lộ vẻ vô cùng sốt ruột.

Dưới áp lực của mọi người, Cao Ngạn cuối cùng cũng nói ra tiếng người, nhưng gã hưng phấn đến mức giọng trầm nghẹn khó khăn thốt: “Là ta! Hắc! Là ta Cao Ngạn. Nhã nhi mau mở cửa cho ta.”

Kỳ quái là trong phòng bỗng nhiên yên tĩnh lại, không hề phát ra âm thanh nào.

Mọi người lại khẩn trương đến mức không dám thở mạnh.

Tiểu Bạch Nhạn trong phòng cuối cùng cũng hưởng ứng, hỏi “Cao Ngạn? Cao Ngạn nào? Ta không biết ngươi. Mau lăn đi cho ta.”

Mọi người nghe xong đưa mắt nhìn nhau. Tiểu Bạch Nhạn chẳng phải đến Biên Hoang tập là vì Cao Ngạn sao? Cao Ngạn thường ba hoa là cùng với Tiểu Bạch Nhạn thề non hẹn biển, biển cạn đá mòn, chung thuỷ không thay đổi thế nào đó. Rốt cuộc là chuyện gì?

Đầu tiên, Cao Ngạn ngẩn người ngơ ngác, rồi hồi phục thần khí, phát huy bản lĩnh ba tấc lưỡi của gã, hắng giọng cho cổ họng thông suốt rồi ngang nhiên nói: “Nhã nhi nói hay lắm! Rốt cuộc là ai là Cao Ngạn đây? Đương nhiên là tên Cao Ngạn đã từng cùng nàng vào sinh ra tử, dù đến cùng trời cuối đất vẫn luôn yêu nàng đây. Đến đây! Mau ngoan ngoãn mở cửa cho ta. Rất nhiều người đang ….. Hắc! không có gì.”

Mọi người thiếu chút nữa thì không nhịn được phải cười đến vỡ cả khoang thuyền. Đương nhiên đều khổ sở nhịn lại, không ai dám phát xuất một chút tiếng động. Câu mà Cao Ngạn nói chưa hết đó, chắc là kiểu như ‘Rất nhiều người đang nhìn đó! Việc này lão tử không thể mất mặt được’.

Tiểu Bạch Nhạn “ặc” một tiếng, phì cười, rồi lại giả vờ không để ý hỏi: “Có tên Cao Ngạn như thế sao? Nhân gia không nhớ ra được.”

Mọi người cảm thấy nhẹ nhõm, biết ‘hai đứa trẻ’ này đang đùa giỡn làm vui.

Cao Ngạn hồi phục vẻ bình thường, cười rộ nói: “Nhớ ra hay không nhớ ra tuyệt không quan trọng. Cao Ngạn ta sẽ cùng Nhã nhi ôn lại giấc mộng xưa, ví dụ như xoa xoa cái bụng nhỏ nhắn xinh đẹp cho Nhã nhi chẳng hạn. Hà! Mau vì chồng mở cửa.”

Tiểu Bạch Nhạn thấp giọng mắng một câu. Vì cách một cánh cửa dày nên dù Cao Ngạn đứng gần nàng nhất cũng không nghe rõ nàng mắng gì. Xem ra nếu không phải là câu chửi người thường thấy như ‘tử sắc quỷ’, ‘xú tiểu tử’ thì cũng là ‘ngu ngốc’ gì đó.

Cao Ngạn không còn nhẫn nại được nữa, hét: “Mau mở cửa! Nếu không ta sẽ vận khởi thần công chấn cho then cửa gãy đoạn, sấn vào tân phòng đó.”

Tiểu Bạch Nhạn cười sặc sụa, hổn hển nói: “Tên tiểu tử chết bầm, tên xú tiểu tử nhà ngươi, ngươi thì có bao nhiêu cân lượng? Bằng công phu của ngươi, dù có luyện mười kiếp nữa cũng không chấn gãy được cái then cửa bằng sắt này. Hơn nữa then cửa đâu có cài. Muốn bị đánh đòn thì cứ thế mà lăn vào đây! Ngươi cho rằng ta vẫn chưa biết ngươi và bọn Hoang nhân của ngươi thông đồng với nhau lừa dối ta sao? Lần này ta đến là để tìm ngươi trút giận đó. Có đảm lược thì tiến vào đi!”

Cao Ngạn không hề do dự mở cửa tiến vào.

Yến Phi ngồi ở đầu thuyền, im lặng không nói.

Tống Bi Phong đang đứng ở đuôi thuyền chèo thuyền, nhìn bóng sau lưng chàng mà trong lòng bồi hồi cảm xúc, nhớ lại ngày đó khi Yến Phi lạc phách tại Kiến Khang thì cũng là lúc thế chính trị của Tạ gia đạt tới đỉnh cao. Tạ Huyền chém chết nhân vật thứ hai của Di Lặc giáo là Trúc Bất Quy, Tư Mã Đạo Tử vì Thạch Đầu Thành bị đoạt mất mà không dám ho he nửa tiếng.

Yến Phi ngây người nhìn dòng nước chảy mãi không ngừng, trong lòng nảy sinh cảm giác mọi sự đều trở thành tro tàn nguội lạnh. Chàng chưa từng nghĩ qua một vấn đề không thể giải quyết là có thể cùng với nữ nhân yêu dấu của mình ‘cùng nắm tay nhau’ nhưng lại không thể cùng trở thành ‘giai lão’ trong ‘dữ tử giai lão’***. Tất cả những nỗ lực, phấn đấu, tránh chết trước đây chừng như hoàn toàn mất hết ý nghĩa. Dù trong tương lai có thể cứu chủ tì Thiên Thiên từ ma chưởng của Mộ Dung Thuỳ ra thì đợi chờ họ ở phía trước chỉ là một giấc mộng đáng sợ. Tuổi thanh xuân mau chóng trôi qua, hai người không thể cùng nhau ‘chết già’. Đối với Kỷ Thiên Thiên mà nói, đó là một kết cục tuyệt vọng cho tới tận lúc chết. Đối với chàng mà nói, đó lại là một hình phạt mãi mãi không ngừng.

Theo như lời An Ngọc Tình thì tự vẫn cũng không thể giải quyết vấn đề của chàng. Kể cả khi tấm thâm huyết nhục bị huỷ diệt thì chàng vẫn tồn tại dưới hình thức dương thần, làm một cô hồn dã quỷ.

An Ngọc Tình nói rất đúng. Phương pháp giải quyết duy nhất là luyện thành chiêu thức tối hậu của “Chiến thần đồ lục” là “Phá toái hư không”. và phải đột phá cực hạn của nhân loại, tạo ra năng lượng mạnh đến mức có thể để cho chàng và Kỷ Thiên Thiên phá không mà đi, cùng Kỷ Thiên Thiên vượt qua tiên môn, đến bờ bên kia, làm một đôi thần tiên quyến thuộc ỏ một nơi thần kỳ trong truyền thuyết là Động thiên phúc địa.

Ài!

An Ngọc Tình thì sao? Chàng có thể nhẫn tâm chỉ giúp Kỷ Thiên Thiên mà bỏ qua vị hồng nhan tri kỷ làm chàng xúc động tơ lòng sao?

Muốn đạt được điều đó quả là còn quá xa vời. Với công phu hiện tại của chàng thì khoảng cách để đạt tới cảnh giới “Phá Toái Hư Không” còn rất xa. Hơn nữa còn có những vấn đề khó khăn khác nên càng không thể nói đến việc cùng với mỹ nhân phá không mà đi.

Nhưng chàng sẽ không thúc thủ đón nhận vận mệnh bị định sẵn với kết cục là cái chết. Chỉ cần có một tia hy vọng, chàng sẽ phấn đấu đến cùng, hoàn thành những việc mà gần như không thể.

Làm sao để đột phá ngục tù thế giới hiện thực này, làm giấc mộng trở thành tiên duyên, chàng thật không có đầu mối để bắt đầu. Làm sao để đột phá thêm một lần nữa đây?

Bỗng nhiên chàng nghĩ tới Tôn Ân.

Thanh âm Tống Bi Phong ở phía sau cất lên: “Đến rồi!”

Thuyền nhỏ giảm tốc độ, từ từ tiến vào bến thuyền của Tạ phủ ở hẻm Ô Y.

Bình!

Mọi người trợn mắt líu lưỡi, thấy Cao Ngạn từ trong phòng bắn văng ra, nặng nề đập vào bức tường hành lang rồi ngồi phệt xuống nền. Gã đau đớn đến nỗi cắn môi chảy máu, nhưng vẫn kịp ra hiệu ngăn không cho mọi người đến giúp. Tình cảnh này làm người ta không biết nên tức giận hay nên cười lớn đây.

Tiểu Bạch Nhạn Doãn Thanh Nhã từ trong phòng chửi lớn: “Tên tiểu tử chết bầm, tên xú tiểu tử nhà ngươi! Còn dám đến lừa bản cô nương ư? Ngươi cho ta là người dễ dàng bị khi phụ sao? Con bà ngươi! Hừ! Rõ ràng ngươi và bọn Hoang nhân là một lũ du thủ du thực, chuột rắn lẫn lộn. Các ngươi câu kết với nhau lừa gạt ta, hại ta đến mức không còn mặt mũi gì với sư phụ và Hác đại ca. Người ta còn phải giả vờ như không có chuyện gì, nhẫn nhịn chịu đựng, trong lòng chỉ hận không thể đem ngươi ra rút gân lột da. Cái gì là ‘Tiểu Bạch Nhạn chi luyến’? Hoạ có quỷ mới nói chuyện yêu đương với ngươi. ‘Cộng độ xuân tiêu’ càng hỗn láo sai sự thật. Ngươi cho Tiểu Bạch Nhạn ta là hạng người gì? Trong lòng ta thật không biết đau khổ đến thế nào mà nói. May là tên tiểu tử ngươi biết giả vờ chết, làm ta tìm ra được lý do thoát thân đến Biên Hoang tìm ngươi tính sổ. Một cước vừa rồi là còn nhẹ đấy. Mau lăn đi càng xa càng tốt cho bản cô nương. Sau này ta không muốn nhìn bộ mặt giả dối xấu xí của ngươi nữa.”

Cao Ngạn nghe thấy Doãn Thanh Nhã càng nói càng nhanh, càng tức giận, nhưng mỗi lời đều thánh thót như trân châu rơi xuống đĩa ngọc vậy. Giọng oanh vàng của nàng liên thanh bất tuyệt, mắng người mà người bị mắng lại thấy êm tai. Gã miễn cưỡng hồi phục khí lực, trước tiên liếc Trác Cuồng Sinh một cái, ra vẻ ‘lần này ngươi đã hại chết ta rồi’, sau đó, gã rên rỉ: “Ài! Không lạ sao Nhã nhi lại hiểu nhầm. Sự tình là thế này…”

Duẫn Thanh Nhã quát: “Câm cái mồm thối của ngươi lại. Ta không muốn nghe những lời hoa ngôn xảo ngữ của ngươi nữa. Ngươi đem những chuyện căn bản không phải là sự thật đó truyền khắp hang cùng ngõ hẻm. Sau này, ta làm sao có thể đi lấy chồng được nữa?”

Cao Ngạn ôm bụng, khó nhọc đứng lên. Mọi người đoán Tiểu Bạch Nhạn đã tặng cho gã một cước vào bụng. Gã loạng choạng mấy cái rồi tạm thời đứng yên lại, hổn hển nói: “Nhã nhi không cần lo lắng về chuyện đó. Nàng nhất định sẽ xuất giá lấy chồng được mà. Ta đã chuẩn bị sẵn kiệu hoa đại hồng để đến đón nàng về nhà thành thân rồi.”

Nghe xong câu này, ai nấy đều lộ thần sắc cho rằng Cao Ngạn sẽ lập tức mất mạng. Trong khi Doãn Thanh Nhã đang khí tức dâng đầy ngực như thế này mà gã vẫn nói ra những lời sàm sỡ chiếm hết tiện nghi của cô nương nhà người ta như thế mà không bị đánh chết mới là lạ!

Không ngờ ngoài dự đoán của mọi người, Tiểu Bạch Nhạn tuyệt không hề tức giận đến phát điên, như hổ cái xông ra động thủ đánh gã. Nàng lại còn yêu kiều cười phì một tiếng, thản nhiên nói: “Tiểu Bạch Nhạn ta gả cho ngươi ư? Ngươi bị điên thật rồi! Ngươi còn muốn ta nói bao nhiêu lần nữa đây? Ta tuyệt không thích ngươi. Ngươi nên tự lấy gương mà soi một lần sẽ từ bỏ ý muốn bản cô nương phụng bồi.”

Cao Ngạn cuối cùng cũng đứng vững lại được, nhưng vẫn không dám đến gần cửa phòng. Gã hồi phục thần thái bình thường, nhăn nhó cười nói: “Nhã nhi nghĩ thế nào tuyệt không quan trọng, quan trọng nhất là lão thiên gia nghĩ gì. Chúng ta chính là đã được chú định từ kiếp trước đến kiếp này sẽ trở thành chồng vợ. Không phải là ta nói lung tung đâu. Chỉ cần Nhã nhi tĩnh tâm suy nghĩ, tại sao Tiểu Bạch Nhạn Doãn Thanh Nhã lại cùng với oan gia là Cao Ngạn tán tỉnh, cười đùa mắng chửi ở đây? Vậy nàng sẽ biết trong cõi bên kia thật sự đã có an bài……….A!”

Mọi người nghe xong đều ngao ngán lắc đầu. Bản lĩnh chăn gái của Cao Ngạn khẳng định là vào loại hạ lưu nhất. Quả nhiên Cao Ngạn nói chưa hết đã vội vàng né sang ngang.

Bình!

Quyền phong đập vào vách tường bằng gỗ phát ra tiếng động chói tai.

Nếu như bị quyền kình này đánh trúng thì đảm bảo Cao tiểu tử sẽ mất khả năng nói chuyện trong vài ngày.

Cao Ngạn hướng về phía Trác Cuồng Sinh làm điệu bộ sẽ xé xác lão ra để báo hận, rồi gã cố gắng xoay người một cái thật tiêu sái, dùng tư thế mà gã tự cho rằng đẹp đẽ nhất đi đến trước cửa phòng, cười bồi nói: “Nhã nhi tức giận, gọi là ‘thiên lý nhân duyên nhất tuyến khiên’****.Nói sao thì Nhã nhi đã trở về rồi, quá khứ thì cứ để cho nó qua đi! Để chúng ta tiếp tục tiền duyên, nắm tay nhau vui chơi thưởng ngoạn ở Biên Hoang tập. Ta đảm bảo sẽ làm Nhã nhi nàng cao hứng vô cùng, đến mức cảm thấy có được người chồng như thế này chẳng còn mong gì nữa.”

Mọi người nhắm tịt mắt lại, thà rằng không nhìn còn hơn, để khỏi phải thấy tình trạng của Cao Ngạn bị đòn thê thảm.

Lần này lại cũng khác hẳn với dự đoán của mọi người. Tiểu Bạch Nhạn không hề phát tác, ngược lại còn cười ngặt nghẽo “Ai muốn đi với ngươi? Ta đến Biên Hoang tập vui chơi cho đỡ buồn là việc của Tiểu Bạch Nhạn ta. Nếu ngươi dám bám theo như âm hồn bất tán thì ta sẽ chặt đôi chân chó của ngươi xuống, xem ngươi làm sao theo ta được nữa?”

Cao Ngạn thấy Doãn Thanh Nhã không xuất thủ nữa, lập tức tinh thần phấn chấn, khoa bước tiến vào phòng cười nói: “Nàng còn phải chặt cả tay của ta mới được. Nếu không, dù chỉ còn tay thì ta cũng sẽ vẫn bò theo sau nàng. Hà! Cười đùa đủ rồi đó! Để chúng ta ngồi xuống, cùng kể cho nhau nghe những tình cảm nhớ nhung khi xa cách. Chúng ta ……A! Mẹ ta ơi!”

Lần này thì tình hình hoàn toàn đúng như mọi người dự đoán. Cao Ngạn chạy trối chết ra khỏi phòng, phóng thẳng về phía bọn họ.

Trác Cuồng Sinh đưa tay ra giữ gã lại.

Bóng người nhoáng lên. Tiểu Bạch Nhạn hiện thân bên ngoài cửa, nhìn thấy mười mấy cặp mắt đang trừng trừng nhìn cả vào mình. Nàng ngẩn người ra một lát, rồi vẻ tức giận trên khuôn mặt bị nét sượng sùng thay thế. Tiếp đó, nàng yêu kiều cười phì một tiếng, khuôn mặt rạng rỡ như hoa nở. Nhìn thấy, cả đến lão giang hồ như Trình Thương Cổ cũng thấy hoa mắt mê man. Nàng lại gằn giọng nói: “Tên tiểu tử chết bầm nhà ngươi thật vô dụng, lại kéo bằng này người đến giúp.”

Nói xong liền trở lại phòng. “Rầm” một tiếng đóng sập cửa lại, còn chốt cả then cửa nữa.

Trác Cuồng Sinh và Cao Ngạn bốn mắt nhìn nhau, nhất thời không biết làm thế nào thì tốt. Những người khác đều đứng ngẩn người ra.

Bỗng nhiên, từ phía đầu thuyền truyền lại một tràng cười dài. Có tiếng người quát lớn: “Lão tử là Hướng Vũ Điền đến để đốt thuyền đây! Biết điều thì mau nhảy hết xuống nước cho ta.”

Mọi người vô cùng ngạc nhiên.

Chú thích

* Cửu lưu chiêu số: Nghĩa là tất cả các loại chiêu số có thể. Cửu lưu là chỉ các học phái (nghề) thời cổ gồm nho, đạo, âm dương, pháp, danh, mặc, tung hoành, tạp và nông. Nếu thêm tiểu thuyết gia nữa thì thành thập gia. Trong truyện Tàu vẫn hay nói về một người uyên bác là “trên thông Tam giáo, dưới tường cửu lưu” nghĩa là như vậy.

** Hoàng đế bất cấp, cấp sát thái giám. Nghĩa là là Hoàng đế không vội, mà thái giám lại vội vàng. Ở đây ý nói Cao Ngạn thì không gõ cửa mà họ lại khẩn trương hơn gã.

*** Ý nói vợ chồng cùng nhau bạc đầu.

**** Thiên lý nhân duyên nhất tuyến khiên: Có duyên thì dù ngoài ngàn dặm cũng gặp được.Khoái Ân đã đến Mã Hành. Thanh Khê Tiểu Trúc chỉ còn lại hai người Lưu Dụ và Đồ Phụng Tam. Nói chơi vài câu, bất chợt hai người lại nói về chuyện gặp phục kích tối qua.

Đồ Phụng Tam băn khoăn: “Lúc đó, Lư Tuần hành động một mình hay là còn có đồng bọn nhỉ?”

Lưu Dụ trầm ngâm: “Ta từng nghĩ về chuyện phát sinh tối qua. Rất nhiều khả năng là không chỉ một mình Lư Tuần vì để thao túng con thuyền chứa đầy hoả khí, lại để tập kích bọn ta thì nếu chỉ bằng vào một mình hắn không thể làm được.”

Đồ Phụng Tam gật đầu đáp: “Lư Tuần lúc đó chắc mai phục ở chỗ nào đó trên bờ, chờ lúc bọn ta hoảng loạn hoặc bị thương sẽ đánh một đòn chí mạng vào ngươi. Người trợ giúp hắn là người châm lửa cho hoả khí bộc phát, lại ở trong nước phát kình làm con thuyền hoả khí đó tăng tốc. Theo như tốc độ của thuyền hoả khí lúc đó thì người này rất nhiều khả năng là bản thân Trần công công. Chỉ có loại cao thủ như lão mới làm được thế.”

Lưu Dụ nói: “Chỉ cần bọn ta điều tra được trong thời gian đó Trần công công có ở trong Vương phủ hay không là có thể chứng thực được Trần công công là người của Lư Tuần.”

Đồ Phụng Tam cười khổ: “Vấn đề là bọn ta làm sao mà điều tra đây? Chẳng lẽ trực tiếp hỏi Tư Mã Nguyên Hiển?”

Lưu Dụ chán nàn gật đầu, đồng ý với nhận xét của Đồ Phụng Tam.

Đồ Phụng Tam tiếp lời: “Hơn nữa, với sự giảo hoạt của Trần công công thì tất lão sẽ có phương pháp ẩn giấu hành tung, có hỏi cũng không được kết quả gì. Ngoài ra, còn một vấn đề nữa là trong việc này Lý Thục Trang liệu có tham gia không? Nếu không, Lư Tuần làm sao có thể nắm được chính xác hành tung của bọn ta?”

Lưu Dụ nhíu mày “Khả năng này không nhiều! Lý Thục Trang đã có quan hệ với Can Quy, làm sao lại câu kết với Lư Tuần được?”

Đồ Phụng Tam cười đáp: “Thế sự khúc chiết ly kỳ, thường nằm ngoài dự liệu của người ta. Đến tận bây giờ, bọn ta vẫn chưa nắm được chi tiết về Lý Thục Trang, lại không biết lập trường và suy nghĩ của thị, càng không hiểu quan hệ chân chính của thị với Can Quy. Đối với thị, bọn ta tuyệt không thể lơ là.”

Lưu Dụ nhíu mày hỏi: “Thị vì cái gì mà nhiệt tình đối với ta như vậy?”

Đồ Phụng Tam đáp: “Thị giúp Can Quy đối phó ngươi khả năng đúng như thị nói là đáp lại đạo nghĩa giang hồ với hắn. Nhưng nếu thị quả thực có phần tham gia vào việc tối qua thì đó là hành động sát nhân diệt khẩu, tránh khỏi bộc lộ bí mật về thân phận của thị vốn vẫn được che giấu vô cùng kín đáo. Nữ nhân này khẳng định là địch chứ không phải bạn.”

Lưu Dụ hỏi: “Đó là kết luận về thị! Hắc! Ngươi vẫn phải đi gặp Dương Toàn Kỳ à?”

Đồ Phụng Tam cười khổ: “Tiểu Ân nói đúng lắm, không cần phải mạo hiểm làm thế. Mục tiêu chủ yếu trước mắt của chúng ta là đánh bại Thiên Sư quân, ngoài ra tất cả các việc khác không cần chúng ta phải nhúng tay vào. Lực lượng của chúng ta cũng không cho phép làm thế.”

Lưu Dụ trầm ngâm một lát, hỏi “Ngươi có cảm thấy tiểu Phi tâm sự trùng trùng, miễn cưỡng cười nói không?”

Đồ Phụng Tam gật đầu tán đồng: “Yến Phi đúng là có chút bất thường. Có thể hắn lo lắng về sự uy hiếp của Bí tộc đối với Biên Hoang tập đó!”

Lưu Dụ than: “Đúng là con sóng này chưa yên con sóng khác đã tới. Cuộc đấu tranh với Mộ Dung Thuỳ vốn đã lộ ra ánh sáng ban mai khi tám vạn đại quân Mộ Dung Bảo toàn quân tiêu diệt. Ai tính được Mộ Dung Thuỳ còn có đòn này.”

Đồ Phụng Tam nói: “Mộ Dung Thuỳ có thể uy chấn phương Bắc, tung hoành bất bại thì đương nhiên là hắn có bản lĩnh. Lần này đối với Biên Hoang tập, hắn quyết ý phải lấy bằng được. Nếu như bị hắn huỷ diệt Biên Hoang tập thì bọn ta cũng xong đời. Thật làm người ta phiền não.”

Lưu Dụ nói: “Huynh đệ Hoang nhân của bọn ta tuyệt không dễ đối phó như vậy. Hơn nữa, cứ như tiểu Phi nói thì Biên Hoang tập lại có thêm mấy nhân tài kiệt xuất. Trong đó có một người là cháu của Vương Mãnh.”

Đồ Phụng Tam cười: “Bọn ta không cần phí công suy nghĩ nữa. Chỉ cần làm cho tốt những việc của mình. Đừng quên ngươi là chân mệnh thiên tử, sẽ không đi trên con đường cùng đâu.”

Lưu Dụ cười khổ để đáp lại.

Lúc này Tư Mã Nguyên Hiển đến. Chưa ngồi yên chỗ hắn đã hưng phấn nói: “Tạ Diễm đánh Ngô Quận rồi! Cứ theo tin báo về thì Thiên Sư quân ở Gia Hưng, hạ du Ngô Quận nghe tin đã hoảng hốt triệt thoái về Ngô Nghĩa. Hiện giờ con đường thông tới Cối Kê đã mở rộng thênh thang. Chỉ cần theo Vận Hà mà tiến thì trong mười ngày có thể trực tiếp tấn công Cối Kê.”

Lưu Dụ ngạc nhiên: “Làm sao nhanh thế được? Chủ lực đại quân của Tạ Diễm vẫn còn chưa tổ chức xong bộ máy tấn công mà.”

Tư Mã Nguyên Hiển vui vẻ đáp: “Nhưng bộ đội tiên phong của Chu Tự đã vượt qua Thái Hồ, lên bờ ở mặt tây Ngô Quận. Bộ đội của Tạ Diễm lại tiến lui không có dấu vết, hình thành thế chia binh hai đường giáp kích Ngô Quận.”

Đồ Phụng Tam dửng dưng nói: “Từ Đạo Phúc đang dụng kế dụ địch vào sâu đó!”

Tâm tình Tư Mã Nguyên Hiển vẫn như trên mây, cười nói: “Lần này khẳng định Từ Đạo Phúc muốn làm tinh vi mà lại thành vụng về rồi. Cha ta đã phái người đi thông báo cho Tạ Diễm, cảnh cáo lão về gian kế của Từ Đạo Phúc dụ địch vào sâu rồi cắt đứt đường vận lương. Tạ Diễm lại chia binh đánh phá Ngô Nghĩa làm quân giặc không dám nhúc nhích. Đồng thời Ngô Quận và Gia Hưng do trọng binh ở lại để giữ để đảm bảo chắc chắn không để mất hai nơi này, làm đường vận lương thông suốt. Ba toà thành Vô Thích, Ngô Na và Gia Hưng hỗ ứng lẫn nhau. Quân viễn chinh của ta được sự chi viện hùng mạnh có thể một đòn là trực tiếp đâm kiếm vào thẳng trái tim Thiên Sư quân, thắng lợi đã có thể thấy.”

Lưu Dụ và Đồ Phụng Tam đã sớm biết Tư Mã Đạo Tử sẽ không ngồi nhìn Tạ Diễm thê thảm trúng kế địch nhân nên tất nhiên sẽ cảnh cáo Tạ Diễm.

Tư Mã Nguyên Hiển lại hỏi: “Đây có phải là tin tốt không?”

Đồ Phụng Tam cười đáp: “Từ Đạo Phúc tuyệt không phải là ngọn đèn hết dầu. Chỉ cần y có thể thủ vững hai thành Nghĩa Hưng và Ngô Nghĩa, lại bí mật giấu chiến thuyền ở Thái Hồ tuỳ lúc có thể thực hiện phản kích. Đến lúc đó thì quân viễn chinh binh lực phân tán, chiến tuyến lại quá dài, tình thế tuyệt không lạc quan như bề ngoài đâu.”

Tư Mã Nguyên Hiển nói: “Cha ta và ta đã nghiên cứu qua tình huống đó. May là đội chiến thuyền của Lưu Lao Chi đã đi trước một bước theo đường biển đến Cối Kê kiềm chế Từ Đạo Phúc. Khi đại quân của Tạ Diễm đến nơi, có thể hai quân hội sư đánh phá Cối Kê. Sau đó dùng Cối Kê làm căn cứ địa tiền tuyến, thu lại các thành trì xung quanh. Chỉ cần cắt đứt sự liên công Nam - Bắc của quân giặc thì Nghĩa Hưng và Ngô Quận sẽ sớm rơi vào tay chúng ta. Khi đó thì đại thế quân giặc sẽ mất hết.”

Lưu Dụ đang định nói thì Đồ Phụng Tam phát xuất một đạo chỉ phong khẽ chích vào đầu gối gã, tỏ ý gã không nên nói. Đồ Phụng Tam lại thay đổi đề tài: “Yến Phi đến rồi!”

Tư Mã Nguyên Hiển vô cùng vui mừng hỏi: “Yến Phi? Hắn ở đâu?”

Trong lòng Lưu Dụ ngầm than. Thật ra tâm tình gã cực mâu thuẫn. Vừa hy vọng quân viễn chinh xuất sư bất lợi, làm bản thân có cơ hội ra chiến trường, nhưng gã cũng không nỡ thấy em trai của Huyền soái là Tạ Diễm thảm bại thu quân.

Gã đương nhiên hiểu rõ ý tứ Đồ Phụng Tam, chính là không cho mình đề tỉnh Tư Mã Nguyên Hiển, làm cha con chúng lại đề tỉnh Tạ Diễm. Nói như thế là vì một ngày quân viễn chinh chưa thất bại thì bọn họ không có cơ hội kiến công lập uy.

Đồ Phụng Tam đáp: “Yến Phi theo Tống đại ca đến Tạ gia trị bệnh cho Tạ Đạo Uẩn.”

Tư Mã Nguyên Hiển rõ ràng vô cùng sùng bái Yến Phi, vui mừng nói: “Tối nay ta phải thiết yến tẩy trần cho Yến Phi mới được. Đến chỗ nào thì được đây? Hà! Đương nhiên là tầng năm Hoài Nguyệt lâu rồi! Việc này sẽ do ta an bài, ước định giờ Dậu tối nay gặp nhau ở đó được không?”

Nói xong, Tư Mã Nguyên Hiển vội vã bỏ đi.

Hai người đưa mắt nhìn nhau.

Đồ Phụng Tam cười nhẹ “Lưu gia thấy thế nào?”

Lưu Dụ than thở: “Bất cứ người nào tinh thông binh pháp cũng đều có thể nắm được sách lược trước mắt của quân viễn chinh. Việc này sớm đã nằm trong mưu kế của Từ Đạo Phúc. Vì thế, nói cho cùng thì quân viễn chinh đang từng bước tiến vào cạm bẫy của Từ Đạo Phúc.”

Đồ Phụng Tam nói: “Cứ theo bề ngoài mà xét thì quân viễn chinh đúng là có khả năng chiến thắng rất cao. Nhưng vấn đề ở chỗ ở Ngô Quận và Gia Hưng, người sinh sống ở đó và người khác tới rất khó phân biệt, nội bộ bất ổn. Chỉ cần Từ Đạo Phúc giấu kỳ binh ở gần đó, tuỳ lúc có thể tiến hành đại phản công thì quân viễn chinh không thể tiến hành kế hoạch như ý mình được, ưu thế sẽ mất hết.”

Lưu Dụ hỏi: “Bây giờ chúng ta có thể làm gì?”

Đồ Phụng Tam ung dung đáp: “Đã đến lúc chúng ta hành động rồi. Quân tình đệ nhất, giờ chúng ta đến Mã Hành, an bài nhân thủ đến thám thính địch tình ở một dải Ngô Quận, Gia Hưng, đặc biệt là khu vực duyên hải rộng lớn ở mặt đông Ngô Quận, kể cả những thành trấn hương thôn trong Hải Diêm. Nếu ta đoán không nhầm thì Từ Đạo Phúc tất giấu kỳ binh thuỷ sư ở đó để cắt đứt thuỷ lục giao thông của quân viễn chinh.”

Lưu Dụ gật đầu đồng ý.

Đồ Phụng Tam vui vẻ nói: “Cơ hội của chúng ta cuối cùng cũng đến rồi. Đợi khi Hoang nhân huynh đệ tới đây thì mục tiêu tấn công đầu tiên là Hải Diêm. Chỉ cần chúng ta có thể dùng kỳ binh đánh úp thành công thì có thể xây dựng nó trở thành căn cứ địa ở tiền tuyến. Khi Ngô Quận và Nghĩa Hưng rơi vào tay địch, quân viễn chinh thảm bại tại Cối Kê thì chúng ta có thể tiếp thu bại quân của Tạ Diễm, tính mưu phản công Thiên Sư quân. Không một ai ở phương Nam có thể cản trở chúng ta vươn lên được nữa.”

Trong nháy mắt, Trác Cuồng Sinh đã nắm được mấu chốt của thành bại. Do Trình Thương Cổ chưa biết Hướng Vũ Điền là người thế nào. Một người khác cũng biết là Cao tiểu tử thì lại đang điên đảo thần hồn vì Tiểu Bạch Nhạn. Vì thế trên thuyền chỉ có mình lão biết phải ứng phó thế nào với cục diện trước mắt.

Hướng Vũ Điền cố ý khiêu chiến ở đầu thuyền là có hai khả năng.

Một là y muốn khơi lên sự khủng hoảng trong đoàn khách, như thế thì y có thể thừa cơ nước đục thả câu, phát huy ưu thế của chiến thuật một mình địch lại số đông.

Hai là lúc này trời vẫn chưa sáng, chưa đến lúc dùng điểm tâm nên cả đoàn vẫn ngủ say trong phòng. Càng xảo diệu là đại bộ phận huynh đệ đều vì đến xem nhiệu náo giữa Cao Ngạn và Tiểu Bạch Nhạn nên tập trung vào trong thuyền, làm cả chiếc lâu thuyền chừng như không có phòng vệ làm tên điên khùng thông minh kia trong lòng nghi ngờ, sợ trúng kế của Hoang nhân nên mới làm thế để thăm dò thực hư.

Hướng Vũ Điền nói phóng hoả đốt thuyền chỉ là hư ngôn doạ người mà thôi. Nhưng với công phu của y thì quả có sức phá hoại rất lớn. Nếu như bị y nhân lúc hỗn loạn trong một trận thu thập Trình Thương Cổ và các huynh đệ, đuổi tất cả đoàn khách lên bờ, lại huỷ lâu thuyền đi thì không những chương trình Biên Hoang du lập tức kết thúc mà Hoang nhân càng mất hết thanh danh. Biên Hoang tập sẽ bị y đưa trở lại nguyên hình, là một địa phương nguy hiểm nhất thiên hạ. Người phương Nam còn ai dám đến làm ăn nữa?

Những suy nghĩ này thoáng qua trong bộ não siêu việt của Trác Cuồng Sinh như điện quang hoả thạch. Lão nhanh chóng phát xuất mệnh lệnh, đầu tiên là ổn định những thành viên trong đoàn bị đánh thức, không để bất kỳ ai rời phòng. Lão lại sai người đóng cửa khoang thuyền lại rồi cùng Trình Thương Cổ và Cao Ngạn lên vọng đài cao nhất đối mặt với địch nhân.

Đinh! Đinh! Đang! Đang!

Tiếng binh khí giao kích liên miên bất tuyệt. Chỉ thấy hình dáng đặc dị của Hướng Vũ Điền hiện rõ chân diện mục, tay cầm chiếc côn gỗ lựu mới làm, đánh cho bảy tám huynh đệ Hoang nhân binh khí văng khỏi tay, nghiêng đông vẹo tây không còn ra đội ngũ gì nữa.

Trác Cuồng Sinh thét lớn: “Các huynh đệ, lùi về phòng thủ cửa khoang thuyền.”

Mọi người sớm đã bị mộc côn của y đánh cho kêu khổ không ngớt, nghe thấy thế liền lập tức lùi lại, hội hợp với những huynh đệ từ trong khoang thuyền tiến ra lập thành trận thế.

Hoang nhân không còn là một đám ô hợp nữa. Những chiến sỹ Hoang nhân đã trang bị đầy đủ từ trong khoang tiến ra, tay phải cầm đao, tay trái cầm thuẫn, bày ra trận thức ngạch chiến. Lại có mấy người cầm cung nỏ làm cho Hướng Vũ Điền dù võ công cao hơn họ rất nhiều cũng không dám lỗ mãng truy kích.

Trình Thương Cổ chắp hai tay sau lưng. Bề ngoài ra vẻ phong phạm của một cao thủ nhất phái, thần thái ung dung. Thật ra, trong lòng lão lại ớn lạnh từng cơn. Những người bảo vệ thuyền này đều là những cao thủ được tuyển chọn trong những chiến sỹ Hoang nhân, người nào cũng có thể một địch mười. Vậy mà Hướng Vũ Điền đối phó với bảy, tám cao thủ này rất ung dung, chừng như không phí tổn một chút sức lực nào. Chỉ riêng việc này cũng đã đủ thấy sự đáng sợ của Hướng Vũ Điền.

Hướng Vũ Điền đưa mắt nhìn về phía Trác Cuồng Sinh và Cao Ngạn, lộ vẻ nhận ra hai người này là ai, song mục thoáng qua thần sắc kinh nghi.

Trác Cuồng Sinh trong lòng chợt động, biết y đang cảm thấy mù mờ tại sao lão và Cao Ngạn lại xuất hiện ở đây, lập tức trong lòng nảy ra diệu kế. Lão cười dài: “Hướng huynh cuối cùng cũng đến rồi! Trác mỗ chờ đợi đã lâu. Chắc Hướng huynh đang cảm thấy kỳ quái tại sao bọn ta lại biết rõ hành tung của Hướng huynh như trong lòng bàn tay, nhưng chờ đến khi bọn ta bắt sống Hướng huynh rồi sẽ thành thực cho biết. Đảm bảo Hướng huynh nghe xong sẽ tự than là không may mắn.”

Cao Ngạn trong lòng kêu tuyệt, lại nghĩ chắc Tiểu Bạch Nhạn đang lắng nghe động tĩnh ở đây, cảm thấy không thể không lộ ra chút hào khí anh hùng. Gã cười rộ: “Hướng huynh tuy là đệ nhất cao thủ của Bí tộc, nhưng để giết Cao Ngạn ta thì đạo hạnh vẫn còn kém lắm. Lần trước ở Trấn Hoang cương đã bị lão tử đánh cho phải tháo chạy, đến Biên Hoang tập lại bị bọn ta chặn đánh phải cong đuôi bỏ trốn. Lần này mau nhảy xuống sông mượn nước trốn đi, nếu không, người Bí tộc mất hết mặt mũi vì ngươi mất!”

Lâu thuyền vẫn ngược dòng phá sóng tiến lên. Gió sông thổi tới làm y phục mọi người bay phần phật, càng tăng thêm sát khí hai bên đối trận.

Hướng Vũ Điền lộ vẻ hứng thú quái dị, như thể “ta chính là ông trời”, bật cười nói: “Cao Ngạn ngươi thích ăn to nói lớn, ta đương nhiên không có cách nào bịt cái mồm ngươi lại không cho ngươi nói nữa. Nhưng việc chọc giận ta đối với ngươi tuyệt không có gì tốt cả. Nếu như ta một lòng muốn giết một người nào đó thì dù thiên quân vạn mã cũng không ngăn cản Hướng Vũ Điền ta được. Được rồi! Các ngươi còn có cao thủ nào thì cứ ra hết cho ta, để ta xem xem liệu có đủ tư cách đối phó Hướng Vũ Điền ta không.”

Trình Thương Cổ ung dung nói: “Ngươi muốn biết bọn ta có bao nhiêu người ở đây để hầu hạ ngươi chẳng phải dễ lắm sao? Cứ lên đây đọ sức là biết.”

Lão là tay lão luyện giang hồ, nhanh chóng nắm bắt tình hình, cố tình nói ra những lời phối hợp với “kế không thành” của Trác Cuồng Sinh, hư là thực, thực là hư, nhằm gia tăng áp lực tâm lý đối với Hướng Vũ Điền.

Hướng Vũ Điền lắc đầu cười: “Được lắm! Để ta trước hết giết chết Cao tiểu tử, xem xem các ngươi còn có thủ đoạn gì.”

Nói xong, y đứng thẳng người lên, mộc côn điểm vào đầu thuyền đánh ‘cốp’ một cái, thân hình tà tà vọt lên vọng đài. Người chưa đến mà kình khí đã áp thẳng tới ba người.

Yến Phi buông tay Tạ Đạo Uẩn ra. Tạ Đạo Uẩn vẫn im lìm ngủ mê một lúc, rồi sắc mặt có chuyển biến tốt lên, cho thấy chân khí của Yến Phi đã phát sinh hiệu dụng, giảm mạnh thương thế của bà ta.

Nhìn bà làm Yến Phi nghĩ về mẹ ruột của mình. Cũng giống như Tạ Đạo Uẩn, hôn nhân của bà không được như ý, cả đời u sầu rầu rĩ không vui.

Chàng lại nhớ tới những lời của Kỷ Thiên Thiên, Phong Nương không những biết mẹ chàng mà còn đã gặp chàng khi còn nhỏ. Nhưng chàng không hề có một ấn tượng gì. Tại sao trong tộc lại không hề đề cập tới một người tỷ muội hiển hách như thế của mẹ chàng? Mẹ làm sao lại biến thành bằng hữu với Phong Nương?

Yến Phi cũng nghĩ tới một vấn đề mẹ làm sao lại học hiểu được ngôn ngữ Bí tộc? Bí tộc luôn bài xích người ngoài. Trừ khi trở thành một phần tử của Bí tộc, nếu không, làm sao hiểu được ngôn ngữ của họ?

Chẳng lẽ mẹ lại có quan hệ gì đó với Bí tộc?

Ngày Mặc Sĩ Minh Dao đến Trường An để cứu cha, làm sao nàng ta tạo được quan hệ với Mộ Dung Thuỳ?

Yến Phi ngấm ngầm nghĩ tới việc này có thể có liên quan với Phong Nương mới có thể giải thích tại sao Phong Nương vốn luôn không rời chủ tì Thiên Thiên lại rời khỏi bọn họ một thời gian. Rất nhiều khả năng là vì bà ta có quan hệ gì đó với Bí tộc nên Mộ Dung Thuỳ nhờ bà ta đi du thuyết Bí tộc xuất mã trợ trận.

Nếu như đúng là như thế thì giao tình giữa mẹ chàng và Phong Nương đương nhiên có liên quan với Bí tộc, hơn nữa….. Ài! Hơn nữa có thể là có liên quan đến cha ruột của mình.

Đối với người nào đó là cha mình, Yến Phi không những không có cảm tình, mà còn oán hận sâu sắc. Chàng oán ông ta đã bỏ rơi người mẹ đáng thương của chàng, hận ông ta vô tình vô nghĩa, không hề có trách nhiệm đối với mẹ con chàng.

Những chuyện đã qua trong quá khứ, chàng thật không muốn nghĩ tới nữa.

Tống Bi Phong đặt tay lên vai chàng, tỏ ý giục chàng rời đi. Tạ Phinh Đình thay Tạ Đạo Uẩn nhìn Yến Phi lộ vẻ cảm kích. Bọn con cháu Tạ gia như Tạ Hỗn, Tạ Chung Tú đều lộ thần sắc nhẹ nhõm.

Ai cũng thấy rõ Tạ Đạo Uẩn đã có biến chuyển lớn.

Yến Phi chầm chậm đứng lên, theo Tống Bi Phong dẫn đường đi ra phòng ngoài.

Tạ Hỗn không chờ được, vội vàng hỏi: “Tình hình cô mẫu thế nào?”

Hắn tỏ vẻ rất lễ độ đối với Yến Phi.

Yến Phi đứng lại, bình tĩnh đáp: “Kinh mạch của Vương phu nhân bị Tôn Ân dùng nhiệt khí đánh bị thương. Nhưng Tôn Ân đã hạ thủ lưu tình, nếu không Vương phu nhân tất không thể may mắn như thế.”

Tạ Phính Đình nhíu mày hỏi: “Tôn Ân vì sao lại làm thế?”

Yến Phi cười khổ: “Lão mượn Vương phu nhân để hạ chiến thư với ta, bức bách ta phải ứng chiến. Việc này do ta gây ra, ta sẽ ra mặt thay cho mọi người.”

Tạ Hỗn ngạc nhiên: “Không ngờ lại có liên quan đến Yến huynh, thật làm người ta không tưởng nổi.”

Tống Bi Phong nghe Tạ Hỗn nói vậy cảm thấy tức giận, trầm giọng: “Nếu như Tôn Ân không có ý với tiểu Phi thì đại tiểu thư khẳng định không cách gì sống lại được. Đến cái mạng già của Tống Bi Phong ta cũng phải đi theo.”

Tạ Hỗn lập tức tắc họng.

Tạ Chung Tú hỏi: “Uẩn cô mẫu có hy vọng khỏi không?”

Yến Phi cười nhẹ: “Cái đó ta có thể nắm chắc. Vừa rồi ta đã khu trừ hết nhiệt độc trong thể nội phu nhân rồi. Sau hai ngày nữa, Vương phu nhân có thể phục nguyên. Sau đó điều dưỡng một thời gian là được.”

Mọi người Tạ gia ai cũng lộ vẻ vui mừng, không nghĩ Tạ Đạo Uẩn có thể khoẻ mạnh lại sau một thời gian ngắn như thế.

Trong lòng Yến Phi lại thầm than. Nghĩ lại ngày Tạ An, Tạ Huyền còn tại thế thì Tạ gia phong quang như thế. Bây giờ thì tình hình đó khó tái hiện lại. Chỉ còn một mình Tạ Đạo Uẩn chống giữ đại cục, nếu muốn bằng bọn con cháu thế gia không biết nỗi khổ cực của nhân gian như Tạ Hỗn để chấn hưng gia nghiệp thì chỉ là nằm mơ giữa ban ngày mà thôi.

Chàng có thể làm gì?

Tôn Ân và chàng đã kết mối cừu oán không thể cởi bỏ được. Giữa bọn họ, chỉ một người có thể sống còn.

Kể cả Tôn Ân không đến tìm chàng thì chàng cũng sẽ đến gõ cửa nhà lão, cùng Tôn Ân thanh toán cho sạch sẽ thù cũ hận mới.Côn ảnh đầy trời, nhằm đầu đánh xuống. Đây không phải là cảm giác của chỉ một người, mà là cả ba người đều cảm thấy giống nhau, khí thế của nó có thể đồng thời trói chặt bọn họ. Có thể thấy được Hướng Vũ Điền không hổ là cao thủ nổi tiếng của Bí tộc.

Trác Cuồng Sinh cũng là cao thủ đứng hạng ba trong Biên Hoang tập. Trong ba người nhãn lực lão cao minh nhất, cho nên sự kinh hãi trong lòng cũng là lớn nhất. Lão từng thấy qua sự oai hùng của Hướng Vũ Điền lúc dùng kiếm, tuy chỉ là vài chiêu kiếm nhanh như điện hỏa, nhưng đã lưu lại ấn tượng cực kỳ sâu sắc trong lòng lão.

Công phu của Hướng Vũ Điền, khẳng định đã đạt đến cảnh giới nhân kiếm hợp nhất, kiếm chuyển tùy ý, tiêu sái tự nhiên, có cảm giác phiêu dật biến ảo khôn lường. Kiếm vào tay y giống như vật sống, chiêu nối chiêu vây chặt sự phản kích sắc bén của Mộ Dung Chiến, làm hắn không có cách nào giữ được y. Y tùy lúc muốn lùi là lùi.

Nhưng giờ phút này Trác Cuồng Sinh nhìn Hướng Vũ Điền vung côn đánh tới, trong nhất thời càng không biết rõ sở trường chân chính của y là kiếm pháp hay là côn pháp. Điều đó có thể thấy người này có thiên phú rất cao. Cao minh đến mức bất luận cấm lấy binh khí gì, cho dù chỉ là một cây côn gỗ lựu, vẫn có thể sử dụng và phát huy được sự tinh tế, hoàn toàn biểu đạt ra đặc tính của côn.

Chỉ từ điểm này, cũng có thể biết Hướng Vũ Điền đúng là đã đạt tới cảnh giới võ học đại sư, mà không phải là cao thủ bình thường chỉ am hiểu một loại binh khí nào đó.

Trác Cuồng Sinh càng hiểu rõ bản thân tuyệt đối không được lui lại, nếu không Cao Ngạn khẳng định không chết cũng bị thương. Cười lạnh một tiếng, một quyền tung ra, đánh tới nơi côn thế cực mạnh của Hướng Vũ Điền.

Lúc Hướng Vũ Điền vẫn còn trên cao cả trượng cường công đánh tới. Trình Thương Cổ đã sớm cảm thấy toàn thân lạnh ngắt, cả người đau nhói, liền tỉnh ngộ rằng đối phương tuy niên kỉ còn nhỏ, nhưng khí công lại đã luyện đến cảnh giới đăng phong tạo cực. Đảo mắt qua các cao thủ Biên Hoang, trừ Yến Phi ra, nhất định không có ai hơn được y. Điều này thật sự là cực kỳ làm người ta không thể tin được, nhưng sự thật lại hiển hiện trước mắt.

Mặc dù nghĩ như vậy, trong lòng Trình Thương Cổ tịnh không có một chút gì sợ hãi, lấy tay rút thiết bút để ở sau người ra, phóng lên trên không, dùng bút đâm thẳng tới trước mặt Hướng Vũ Điền. Có thể côn gỗ lựu của Hướng Vũ Điền đánh trúng y trước, nhưng y dám cam đoan rằng nếu chiêu thức của Hướng Vũ Điền không thay đổi, thiết bút của y có thể đâm thủng mặt của đối phương. Dĩ nhiên chiêu số vừa xuất chính là đồng quy vu tận.

Cao Ngạn cảm thấy bất lực, trong mắt côn ảnh hư thực khó phân, hoàn toàn không biết nên đón đỡ như thế nào, tự nhiên dùng thân pháp linh hoạt lùi lại phía sau.

"Phách!"

Ngoài với ý liệu của Trác, Trình hai người, côn ảnh đột nhiên biến mất, Hướng Vũ Điền lại bẻ lưu mộc côn gãy làm hai. Một cây trường côn liền biến thành hai đoạn đoản côn, cuồng kích hai người.

Hướng Vũ Điền tay phải vung côn mạnh mẽ quét tới mũi thiết bút dài chỉ một thước tám tấc của Trình Thương Cổ, đánh sau mà tới trước. Vừa phát động đã ẩn truyền kình khí phá không phảng phất như thanh âm của sấm sét, lăng lệ đến cực điểm.

Trái lại, tay trái Hướng Vũ Điền điểm một côn về hướng Trác Cuồng Sinh lại như hư phiêu vô lực, nặng nhẹ khó phân, như chậm như nhanh, làm người ta nhìn thấy cũng vì khó có thể nắm được mà tức khí tưởng như thổ huyết.

Khi Hướng Vũ Điền "biến chiêu" khiến hai người trận cước đại loạn. Nhưng chính thức làm bọn họn chua chát, lại là Hướng Vũ Điền trái phải hai tay giống như phân thành hai người khác nhau, chẳng những phong cách lộ số tâm pháp khác nhau, mà còn hoàn toàn tương phản như mặt trăng mặt trời.

Võ công như thế, chẳng những chưa thấy qua, mà cũng chưa bao giờ nghe thấy.

Biến chiêu đã không còn kịp nữa, thế bút của Trình Thương Cổ vẫn không thay đổi, lấy hai thành chân kình còn lại để dành ứng biến, đem cả vào thiết bút, những muốn cùng đối thủ trẻ tuổi này liều mình một chiêu.

Trác Cuồng Sinh lại thu hồi hai thành lực đạo, để ứng phó với côn pháp hư thật khó dò này của kình địch.

Côn bút lần đầu chính diện giao phong.

Trình Thương Cổ lập tức trong lòng kêu không xong.

Nguyên lai Hướng Vũ Điền tay phải huy đoản côn đánh tới nhìn như là sắc bén, sự thật lại hoàn toàn không phải như vậy, mà là xảo diệu sử dụng kình lực mượn của y, vừa chạm mũi bút, hóa đánh thành xoắn, lập tức làm tan mất phần lớn chân lực của Trình Thương Cổ. Rồi lại kéo ngang một cái, mượn lực đạo của Trình Thương Cổ xuất ra, kéo y bay bổng ngã sang bên, văng khỏi vọng đài, rơi xuống sàn tầng ba của khoang thuyền.

Trình Thương Cổ tuy ngàn vạn lần không muốn, nhưng vì đã dùng hết lực đạo, căn bản vô lực biến hóa, không có lực để xoay xở, trợn to mắt bị y mạnh mẽ hất văng đi.

"Phốc!"

Đầu côn điểm trúng quyền đầu của Trác Cuồng Sinh, lại truyền tới tiếng gió của kình khí đánh tới. Khi Trác Cuồng Sinh thầm kêu kêu trúng kế, quyền đầu như bị đại thiết chùy đập mạnh một cái, chấn kình cuồng mãnh của đối phương công nhập kinh mạch của Trác Cuồng Sinh. Với công phu của y, cũng có cảm giác chịu không nổi. Trác Cuồng Sinh thê thảm bị chấn lui một bước, mặc dù không bị thương, nhưng nhất thời huyết khí sôi trào, không thể đánh ra đòn tiếp theo.

Ai mà tưởng nối một côn tay trái của Hướng Vũ Điền di động phiêu hốt, mà lại còn ẩn chứa chân khí kinh người có khả năng làm tê liệt kinh mạch như vậy.

Hướng Vũ Điền ha hả cười: “Quả nhiên có chút công phu." Vừa nói vừa mượn quyền kình của Trác Cuồng Sinh lăng không phóng lên, cả người bốc lên, hướng về phía Cao Ngạn vẫn còn đang lui về sau.

Hai Hoang nhân đại cao thủ, trực diện giao phong thua tan tác, bị Hướng Vũ Điền xảo diệu lợi dụng hình thế của đài cao, phá đi ưu thế liên thủ của bọn họ.

Trác Cuồng Sinh quát lớn: “Lui vào trong phòng." Đồng thời mạnh mẽ hít một hơi chân khí, đè huyết khí đang quay cuồng xuống, vượt tới chặn đường Hướng Vũ Điền đang muốn hạ sát thủ với Cao Ngạn.

Bản lĩnh khác thì Cao Ngạn không có, nhưng dựa vào khinh công siêu phàm và thân pháp linh hoạt thì bản lĩnh chạy trốn đúng là nhất đẳng. Không đợi Trác Cuồng Sinh xuất ngôn đề tỉnh, gã đã sớm hướng về phía bậc thang thông tới tầng dưới vọt đi như chớp. Chỉ cần trở lại được thương phòng, gã sẽ có Hoang nhân huynh đệ trấn giữ chặn giúp, tạm thời được an toàn.

Hướng Vũ Điền không thể chuyển hướng tại không trung, đánh dứ một chiêu, nhưng y vẫn lộ dáng điệu thoải mái ung dung, cười dài nói: “Trốn được sao?”

Trong lúc cười, hai đoạn đoản côn trong tay đồng thời rời tay bắn ra, một đoạn bắn về phía Trác Cuồng Sinh đang nhào tới, đoạn kia bay thẳng tới nơi bối tâm của Cao Ngạn đang chạy thẳng tới bậc thang.

Trác Cuồng Sinh có cảm giác không dám nhìn, chỉ hận lão không có cách nào ứng cứu Cao Ngạn, còn phải ứng phó với ám khí chết người của Hướng Vũ Điền. Chụm ngón tay thành đao, lão chém về đoạn đoản côn đang bắn tới.

Mắt thấy cái mạng nhỏ của Cao Ngạn khó bảo toàn được, mà lại bị chết rất thảm. Với thủ kình của Hướng Vũ Điền, đoản côn nếu không từ phía sau Cao Ngạn xuyên ra thủng ngực thì mới là kì sự.

Lúc này Trình Thương Cổ từ sàn thuyền nhảy vọt lên, thấy thế điên cuồng kêu lên một tiếng, thiết bút rời tay như chớp bay về phía Hướng Vũ Điền. Như thế cũng biết trong lòng y bi phẫn khó nén nổi như thế nào.

Đột nhiên nơi bậc thang có tiếng quát yêu kiều, một đạo bạch ảnh chạy vội lên, kiếm quang xạ ra, đón đỡ đoản côn còn cách sau lưng Cao Ngạn không đến nửa thước, vận kiếm đánh mạnh.

"Canh!"

Đoản côn vỡ vụn từng mảnh, rơi vãi vào sau lưng Cao Ngạn. Cao Ngạn đau đến la thảm một tiếng, đâm thẳng vào lan can. Bởi vậy có thể thấy được lực đạo của đoản côn cuồng mãnh đến mức nào. Bất quá lúc này Cao Ngạn chịu chỉ là cái khổ của da thịt, tuyệt đối không hại nổi cái mạng nhỏ của gã.

Phá được chiêu tất sát này của Hướng Vũ Điền chính là Tiểu Bạch Nhạn. Chỉ thấy nàng trừng mắt hạnh, chặn ở sau lưng Cao Ngạn, trường kiếm chỉ về Hướng Vũ Điền.

Đoản côn bị Trác Cuồng Sinh đánh rơi xuống mặt đất, phát ra một âm hưởng khác.

Lần này Trác Cuồng Sinh chỉ bị đẩy lùi nửa bước ngắn.

"Viu!"

Hướng Vũ Điền thong dong cất bước, chặn đỡ thiết bút đang bắn về phía y, không chút run tay, ánh mắt nhìn vào Tiểu Bạch Nhạn, ngạc nhiên nói: “Quả nhiên có cao thủ khác, lại là một vị tiểu cô nương xinh đẹp. Lão Trác ngươi quả thật không có khoác lác.”

Trình Thương Cổ thấy Cao Ngạn đã nhặt lại được mạng nhỏ, không dám liều lĩnh tấn công, dừng ở nơi lan can, thủ thế chờ địch.

Hướng Vũ Điền cầm thiết bút đưa đến trước mắt, cười nói: “Cái này cũng không tệ lắm, lão tử tạm thời trưng dụng vậy.”

Cao Ngạn đi ra sau lưng Tiểu Bạch Nhạn, vẻ mặt biểu tình vẫn thống khổ, thảm hại phi thường.

Trước khi mọi người mở miệng, Hướng Vũ Điền đã lộn một vòng, nhảy khỏi vọng đài, hạ xuống nơi mép thuyền, cười dài nói: “Hoang nhân thật là danh bất hư truyền, bổn nhân bội phục. Rất may ngày sau còn dài, Hướng mỗ vì vậy tạm thời xin lỗi không bồi tiếp được.”

Dứt lời đằng thân mà đi, hướng về khu rừng rậm ở bờ tây, biến mất.

"Ôi!"

Cao Ngạn đã quên mất thống khổ của bản thân, đưa tay cầm lấy hai vai của Tiểu Bạch Nhạn, vội la lên: “Nhã nhi bị thương sao?”

Trình Thương Cổ từ nơi lan can nhảy xuống tới. Trác Cuồng Sinh vẫn ngơ ngẩn nhìn về phía khu rừng rậm nơi Hướng Vũ Điền biến mất.

Tay cầm kiếm của Tiểu Bạch Nhạn rũ xuống vô lực, sẵng giọng: “Ngươi mới bị thương ấy! Ta mà giống dáng vẻ khiếp nhược của ngươi sao? Chẳng qua tay người ta hơi đau một chút thôi.”

Cao Ngạn vội lấy tay xoa bóp ngọc thủ của nàng, nói giọng thương tiếc: “Ta xoa bóp cho nàng, cam đoan không có việc gì.”

Tiểu Bạch Nhạn cũng kì quái, mới vừa rồi còn bộ dạng muốn lấy cái mạng nhỏ của Cao Ngạn, bây giờ lại mặc gã xoa bóp cánh tay, chỉ bĩu môi, tức giận không nói nên lời.

Chúng huynh đệ từ nơi bậc thang lũ lượt ùa đến vọng đài.

Trình Thương Cổ và Trác Cuồng Sinh đưa mắt nhìn nhau cười khổ, ai nghĩ được Hướng Vũ Điền lợi hại đến thế. Ở Biên Hoang tập có lẽ chỉ Yến Phi mới có khả năng làm đối thủ của y.

Hơn mười người tụ tập xung quanh Tiểu Bạch Nhạn, nhìn không chớp mắt.

Tiểu Bạch Nhạn nhíu mày la: “Có gì hay mà nhìn? Chưa thấy qua nữ nhân sao?”

Chúng nhân đều cảm thấy ngượng ngùng.

Tiểu Bạch Nhạn phì cười, đánh một trỏ vào dưới sườn Cao Ngạn, làm gã đau đến loạng choạng lùi lại, nói: “Lần này đã cứu một mạng của ngươi, từ nay về sau ngươi không mắc nợ ta, Tiểu Bạch Nhạn ta cũng không nợ ngươi. Còn dám chiếm tiện nghi của ta, thì đừng trách bổn cô nương lạt thủ vô tình.”

Nói xong vui mừng hớn hở đi xuống bậc thềm.

Mặc Sĩ Minh Dao có phải là nàng không?

Khả năng này là có thật, lúc ấy cũng không biết tên của nàng. Ài! Nếu thật là nàng, mình nên làm thế nào?

Thác Bạt Khuê đi phía trước xe ngựa chở Sở Vô Hạ, tâm tư trong lòng ngổn ngang.

Trái phải hai bên là Thôi Hoành và Trưởng Tôn Đạo Sinh. Bọn Trưởng Tôn Tung đã phụng lệnh y chạy về Thịnh Nhạc, gánh vác trách nhiệm khác xây dựng lại Thịnh Nhạc, để phòng ngừa người của Bí tộc cướp đoạt hoàng kim, thuận đường chuyển các chiến sĩ tử trận về quê hương an táng.

Bí tộc dựa vào phía Mộ Dung Thùy, làm cả tình thế bị thay đổi. Chiến lược đại kế nghĩ ra trước kia, sẽ khó có thể sinh ra hiệu dụng.

Không để ý đến việc Mặc Sĩ Minh Dao có để hắn ở trong lòng không, Thác Bạt Khuê biết rõ bản thân không có lựa chọn khác, chính như hắn thường nói: “Kẻ thuận ta thì sống, kẻ nghịch ta thì chết.”

Đêm qua hắn từ nơi Sở Vô Hạ, biết được một việc rất giá trị liên quan đến Bí tộc mà ít người biết.

Thôi Hoành và Trưởng Tôn Đạo Sinh thấy bộ dạng tâm sự trùng trùng của y, đều không dám xuất ngôn quấy rầy.

Xa đội đi khá nhanh. Cái gọi là ngũ xa kim tử, chỉ là mỗi xe chứa một rương hoàng kim, mỗi rương ước chừng có năm ngàn lượng. Bất quá tương đương sức nặng của ba gã hán tử, đối với tốc độ xe chỉ có ảnh hưởng chút ít.

Thác Bạt Khuê đột nhiên hung hãn nói: “Thù này chúng ta nhất định báo, ta muốn dạy cho Bí tộc một bài học, nợ máu phải trả bằng máu.”

Thôi Hoành và Trưởng Tôn Đạo Sinh đều có điểm mơ hồ, với tác phong hành sự gần đây của Thác Bạt Khuê, nhất định là trừng mắt báo thù, không cần nói rõ tâm ý như muốn thuyết phục bản thân.

Trưởng Tôn Đạo Sinh nói: “Bí nhân ra khỏi sa mạc, giống như rồng rời khỏi biển lớn, khó có thể xuất quỷ nhập thần, đi đến như gió. Đạo Sinh nguyện lĩnh trách nhiệm quét sạch Bí tộc.”

Thác Bạt Khuê quả quyết nói: “Việc này do ta tự mình chủ trì đại cục, đối phó Bí nhân, tuyệt không thể dùng thủ đoạn tầm thường. Bọn chúng có thể ở điều kiện rất tồi tệ như sa mạc xưng hùng thì cũng có thể ở bình nguyên rộng lớn phát huy uy lực. Một khi để bọn chúng quen với khí hậu, bọn chúng sẽ lợi dụng mọi dịp để thâm nhập vào đất đai của chúng ta, tùy ý phá hoại, làm chúng ta suốt ngày tim gan nhảy lộn. Điều đó sẽ khiến lòng người không yên, sẽ càng làm tổn hại nghiêm trọng đến uy vọng khó khăn lắm mới có của chúng ta.”

Trưởng Tôn Đạo Sinh trầm lặng không nói.

Thôi Hoành nhíu mày nói: “Bí nhân làm sao biết được việc chuyển vàng đến Bình Thành của chúng ta?”

Thác Bạt Khuê nói: “Bí nhân vốn không biết xa đội vận chuyển thứ gì. Nếu như ta đoán không sai, Bí nhân thấy được nhược điểm của chúng ta là Thịnh Nhạc và Bình Thành cách nhau quá xa, nên cố gắng chặn đứt đường chuyển vận giữa hai vùng. Chứ bọn chúng không nghĩ tới lần này hộ tống xe vàng tới Bình Thành lại toàn bộ là chiến sĩ tinh nhuệ của tộc ta, lại có cao thủ như Vô Hạ, Thôi khanh và Đạo Sinh, cho nên thất bại trong gang tấc. Tình huống hiện giờ song phương đều sinh ra lòng kinh hãi, tất cả đều muốn điều chỉnh sách lược. Mà chúng ta còn phải phòng bị kì binh của Mộ Dung Thùy đột nhiên tới đánh.”

Thôi Hoành nói: “Nghe Đạo Sinh nói nhân số Bí tộc bất quá ngàn người, có thật như vậy không?”

Thác Bạt Khuê nói: “Nhân số chính thức của Bí tộc, có lẽ chỉ có Bí nhân mới biết rõ. Bất quá với nhân số đánh lén xa đội mà tính, lần này Bí nhân được Mộ Dung Thùy mời tới đối phó chúng ta, sẽ không thể có nhiều nơi để đi tới. Thôi khanh còn có vấn đề gì không?”

Thôi Hoành đáp: “Bí nhân năm đó vì sao cùng Nhu Nhiên tộc liên thủ phản kháng Phù Kiên? Chiếu theo tình thế, chỉ cần Bí tộc tránh ở trong Đại mạc, bất luận đế quốc Phù Tần lớn mạnh như thế nào, vẫn không thể làm gì được bọn họ.”

Lòng Thác Bạt Khuê bình tĩnh trở lại.

Từ đêm qua sau khi hiểu được đánh lén xa đội chính là Bí nhân, lại không thể nói ra được nguyên nhân, hắn luôn tâm tình thất thường, không có cách gì an tĩnh trở lại, cũng khó để suy xét ra phương pháp phản kích lại Bí nhân. Nhưng khi được vị trí sĩ do Yến Phi giới thiệu này hướng về hắn kéo tơ bóc kén mà hỏi, mạch suy nghĩ của hắn dần dần đi vào đường đúng, có phần vén được mây mù thấy trời xanh, cảm giác trở lại từ đường mê.

Đúng! Bây giờ việc phục quốc lập nghiệp của y, đang ở thời khắc mấu chốt nhất, tuyệt không thể bị vấn đề của cá nhân chi phối. Nếu như quả Mặc Sĩ Minh Dao thật là nàng, hắn cũng muốn giết không tha.

Thác Bạt Khuê gật đầu nói: “Thôi huynh hỏi rất hay. Nhu Nhiên tộc từ khi theo khả hãn Khâu Đậu Phạt, dưới sự lãnh đạo thông minh tháo vát của y, Nhu Nhiên tộc đã thành dân tộc du mục mạnh mẽ nhất trên đại thảo nguyên, trở thành uy hiếp nghiêm trọng đối với Phù Kiên. Khả hãn Khấu Đậu Phạt là người có dã tâm, hiểu rõ nếu như bị Phù Kiên thống nhất Trung nguyên, kế tiếp thì sẽ đến lượt Nhu Nhiên tộc của bọn họ. Cho nên y không ngừng xâm nhập biên giới, làm Phù Kiên không dám ồ ạt Nam phạt. Bí tộc cùng Nhu Nhiên tộc gần đây nước sông không phạm nước giếng, quan hệ tốt đẹp. Nhưng nếu Nhu Nhiên tộc bị diệt, Bí nhân sẽ có cái họa môi hở răng lạnh. Cho nên khi Vương Mãnh phụng mệnh Phù Kiên, thảo phạt Nhu Nhiên tộc, Bí tộc biết khó có thể chỉ lo cho thân mình, nên mới đưa ra việc liên thủ đối kháng Tần quân. Bí nhân đối với việc mở rộng lãnh thổ cho tới bây giờ không có hứng thú, nhưng đối với việc địch nhân xâm nhập phạm vi thế lực của bọn chúng lại là tâm ngoan thủ lạt. Phù Kiên chính là phạm vào tối kị của Bí nhân, cho nên đã kích khởi cái tâm liều chết phản kháng của Bí nhân. Kết quả là Nhu Nhiên tộc bại lui về phía Bắc. Bí tộc tộc chủ Mặc Sĩ Nỗ Nã bị Vương Mãnh dùng kế bắt sống, áp giải về giam ở Trường An, làm Bí tộc do sợ ném chuột vỡ bình không dám lại động can qua. Mà điều kiện Nam chinh của Phù Kiên cũng đã chín muồi, chỉ là thiên toán vạn toán, lại không có tính qua việc Vương Mãnh bị chết sớm như vậy.”

Thôi Hoành nói: “Nói như thế, Bí nhân lần này rời khỏi sa mạc, tịnh không phải là việc cam tâm tình nguyện. Chỉ vì Mặc Sĩ Minh Dao đã hứa, không thể không gắng sức mà làm.”

Thác Bạt Khuê nói: “Bí nhân là một dân tộc thần bí mà đặc biệt, khó có thể lấy tiêu chuẩn của thường nhân để xem, bọn chúng chính thức nghĩ gì, sợ chỉ có chính bọn chúng mới biết.”

Thôi Hoành nói: “Bất luận bọn chúng có sai biệt bất đồng thế nào, nhưng bọn chúng đối với lãnh tụ thì tôn kính và sùng bái, khẳng định là mù quáng. Cho nên sẽ vì Mặc Sĩ Nỗ Nã bị giam, không dám khinh cử vọng động. Hiện tại cũng vì hứa hẹn của Mặc Sĩ Minh Dao đối với Mộ Dung Thùy, toàn tộc lao vào cuộc chiến không có liên quan trực tiếp với bọn chúng. Năm đó, Vương Mãnh chính là nhìn ra điểm này, nên dùng kế ‘cầm tặc tiên cầm vương’ áp phục Bí nhân. Phương pháp này hiện nay vẫn đang có hiệu quả, chỉ cần chúng ta có thể bắt sống Mặc Sĩ Minh Dao, lập tức sẽ giải trừ được uy hiếp của Bí tộc. Nếu không cuộc chiến của chúng ta cùng Mộ Dung Thùy, sẽ bị đẩy vào tình thế xấu.”

Trưởng Tôn Đạo Sinh đồng ý nói: “Thôi tiên sinh nói rất chính xác, đạo lý đơn giải như vậy, ta lại không nghĩ tới được.”

Thác Bạt Khuê thầm than một hơi, nói: “Bởi vì Bí tộc sớm đã ở trong lòng chúng ta, hình thành ấn tượng thần long thấy đầu không thấy đuôi, căn bản không có nghĩ tới ý niệm bắt sống thủ lĩnh của chúng. Thôi khanh lại là kẻ đứng ngoài mà xem, nên không có tâm chướng này.”

Chuyển qua Thôi Hoành hỏi: “Thôi khanh trong lòng có đối sách chứ?”

Thôi Hoành đáp: “Trước tiên chúng ta cần biết rõ chiến lược bố trí của Bí tộc. Ví như là chỉ có phụ trách chặt đứt liên lạc giữa Thịnh Nhạc và Bình Thành, tìm cách cô lập chúng ta hay không. Hoặc mục tiêu của Bí nhân chỉ giới hạn ở chúng ta. Biên Hoang tập lại do Mộ Dung Thùy phụ trách. Sau khi biết rõ tình hình, chúng ta mới có thể bố trí phản kích, trước khi Mộ Dung Thùy toàn lực đến tấn công, bắt được Mặc Sĩ Minh Dao.”

Trưởng Tôn Đạo Sinh nói: “Chiến lược Bí nhân áp dụng, chính là chiến thuật của mã tặc chúng ta trước kia đối phó với Phù Kiên. Giờ đây chúng ta biến thành Phù Kiên, nhưng lại khó khăn hơn so với Phù Kiên, đều có đại địch rình bên cạnh. Năm đó Phù Kiên không làm gì được chúng ta, bây giờ chúng ta có thể đánh bại Bí nhân không?”

Thôi Hoành nói: “Xem tình thế từ bên ngoài, chúng ta đúng là còn xa mới bằng Phù Kiên lúc đó. Nhưng chúng ta ngày đó là toàn là chạy trốn tán loạn, bảo vệ tính mạng là chính. Bây giờ Bí nhân lại có mục tiêu quân sự, cho nên chỉ cần chúng ta có thể khéo dùng diệu kế, dụ Bí nhân sa vào cạm bẫy thì bắt sống Mặc Sĩ Minh Dao tịnh không phải là việc không có khả năng.”

Thác Bạt Khuê ngửa mặt lên trời cười nói: “Có thể được Thôi khanh giúp đỡ, là phúc khí của Thác Bạt Khuê ta, cũng đại biểu cho khí vận hưng vượng của Thác Bạt tộc ta. Tương lai nếu như có thể hoàn thành bá nghiệp, Thôi khanh sẽ chiếm công đầu.”

 Yến Phi đặt Điệp Luyến Hoa nằm lên đầu gối, nhớ tới buổi tối động lòng người đi thuyền tới Tần Hoài lâu gặp Kỷ Thiên Thiên đó.

Con thuyền nhỏ đã rời bến tàu của Tạ gia.

Tống Bi Phong phụ trách chèo thuyền, thần tình nhẹ nhõm, hiển nhiên là vì Tạ Đạo Uẩn có hi vọng phục hồi mà tâm tình rất tốt. Thấy Yến Phi nhắm cả hai mắt, còn tưởng rằng chàng bởi vị liệu trị nội thương cho Tạ Đạo Uẩn, bị hao tổn chân nguyên, nên nhân cơ hội để nghỉ ngơi.

Lúc này trong lòng Yến Phi nghĩ đến lại không phải là Kỷ Thiên Thiên. Sự thật là chàng có chút không dám nghĩ tới nàng, lại chẳng biết có nên nói cho nàng biết bản thân chàng nhiều khả năng đã biến thành quái vật vĩnh viễn bất tử hay không.

Chàng nghĩ chính là Điệp Luyến Hoa vì báo hiệu việc Lư Tuần đánh lén, đó là lần đầu Điệp Luyến Hoa hiển lộ ra linh tính "hộ chủ".

Trước cái đêm đó, chưa bao giờ phát sinh dị sự như vậy, rốt cuộc là vì con người chàng đã thay đổi? Hay là biến hóa của bản thân Điệp Luyến Hoa? Xem ra phần nhiều là giả thiết đầu, bởi vì lời của An Ngọc Tình chỉ ra chàng kết hạ kim đan vẫn văng vẳng bên tai.

Những danh từ của đạo gia như kim đan, nguyên thần, nguyên anh hay dương thần đều có thể chỉ ra cái gọi là thân ngoại chi thân, là một loại pháp môn chống lại sinh tử. Loại sự việc này chính là huyền diệu khó giải thích, làm người ta không có cách nào để lí giải, càng vĩnh viễn không có cách chứng thật.

Có thật là không có cách gì chứng thật không?

Yến Phi trong lòng cười khổ. Ài! Điệp Luyến Hoa trên đầu gối có thể là chứng cứ rành rành. Lại không thấy nó ở trước thời kì trăm ngày thai tức cảnh giới hộ chủ. Sau thai tức lại có dị năng này, biến thành như một vật có sinh mệnh.

Lúc đó tuy bị dọa đến nhảy dựng lên, nhưng mừng nhiều hơn kinh, sao nghĩ ra được đồng thời cũng là tiếng chuông cảnh báo cơn ác mộng vang lên.

Dương thần là thông qua Điệp Luyến Hoa hướng về chàng báo hiệu, nói không chừng từ đó dương thần vẫn "nương tựa" ở trên Điệp Luyến Hoa.

Yến Phi càng nghĩ càng hồ đồ, càng nghĩ càng cảm thấy khó có thể tiếp nhận. Cổ nhân có dạy không thể diễn đạt những cái thuộc về linh hồn bằng lời. Giữa ban ngày ban mặt dưới ánh mặt trời lại càng làm người khó tưởng tượng được thế gian lại có dị sự này. Nhưng chính như An Ngọc Tình nói, thiên địa trước mắt là một câu đố thiên cổ khó giải đáp, chỉ là chúng ta nhìn mãi thành quen. Đối với tất cả những sự việc vượt quá tư duy của loài người thì không để ý tới, nhìn như không thấy, tự vùi đầu trong không gian nhỏ hẹp mà tưởng rằng đã hiểu được tất cả. Đối với cách nhìn nào thoát khỏi "hiện thực" đều coi như là nói vô căn cứ.

Thật sự đó là thế nào?

Yến Phi mở to hai mắt, Điệp Luyến Hoa ở trước mặt chớp sáng, chẳng hiểu có biết ý nghĩ trong lòng chàng hay không. Điệp Luyến Hoa lại không phải lưỡi dao sắc bén bình thường, mà là một vật có linh khí siêu phàm dị bẩm. Yến Phi sinh ra cảm nhận sâu sắc về mối huyết nhục tương liên với nó.

Tống Bi Phong nhìn về phía chàng, nói: “Đã khôi phục tinh thần chưa?”

Yến Phi biết y đã hiểu lầm, nhưng không lộ ra, gật đầu nói: “Tốt hơn rồi." Ngừng lại một chút nói tiếp: “Tạ Diễm thật sự nói rằng không cho phép Lưu Dụ bước vào Tạ gia nửa bước sao?”

Tống Bi Phong chán nản nói: “Là nhị thiếu gia tự mình nói riêng với tiểu Dụ, tiểu Dụ càng không nói dối. Nhị thiếu gia đúng là bất trí, sao có thể làm căng với tiểu Dụ đến vậy? Tạ gia lại không phải là Tạ gia trước kia rồi. Hi vọng sau khi đại tiểu thư khỏi hẳn, có thể đến chủ trì đại cục, đừng cho tiểu tử Tạ Hỗn này làm tổn hại thanh danh của Tạ gia.”

Yến Phi nói: “Tôn thiếu gia rất tuấn tú. Hiện tại chỉ là thiếu niên vô tri, có đại tiểu thư dẫn dắt từng bước, tương lai sẽ có thể thành tài.”

Tống Bi Phong nói: “Hi vọng là như thế. Nhưng ta trong lòng vẫn còn sợ hãi, sợ là thiên ý trêu ngươi. Nếu không phải đại tiểu thư thương thế nghiêm trọng, quan hệ của tiểu Dụ và nhị thiếu gia sẽ không phát triển đến tình cảnh hôm nay. Tôn thiếu gia cũng sẽ không gần Lưu Nghị mà xa lánh tiểu Dụ. Ta ở Kiến Khang đã thấy đủ cái xấu xa vô tình của chính trị. Một khi trở thành đối thủ chính trị, thì sẽ đi vào cực đoan. Nếu có một ngày Tạ gia trở thành vật cản lớn nhất của tiểu Dụ, lúc đó tiểu Dụ lại không nghĩ đến nhân tình, chúng ta cũng khó trách được gã.”

Yến Phi ngạc nhiên nói: “Sẽ không phát triển đến tình huống như vậy chứ? Ta hiểu Lưu Dụ, gã là người luôn trân trọng tình bạn cũ.”

Tống Bi Phong lắc đầu nói: “Tiểu Dụ cùng ta và ngươi đều bất đồng. Suy nghĩ của gã rất thực tế, cho nên gã mới có thể ở bước đường cùng này nghĩ tới việc cùng tên gian tặc Tư Mã Đạo Tử này thân thiện hữu hảo. Đổi lại là ngươi và ta, sẽ làm như vậy không? Ta tuyệt không phải phê phán gã, ngược lại còn bội phục thủ đoạn tử lí cầu sinh của gã. Chỉ có người như gã, mới có thể ở tình huống hiện giờ giẫy giụa ngoi lên, những người khác đều không thể làm được.”

Lại thở dài: “Bây giờ người có thể ảnh hưởng nhất đến gã là Đồ Phụng Tam. Ta cũng thích Phụng Tam, hơn nữa còn tán thưởng y. Nhưng không thể không thừa nhận bản thân y là người tâm ngoan thủ lạt, vì muốn thành công mà không từ thủ đoạn. Tiểu Dụ cần một người như vậy vì gã trù mưu tính kế, nhưng cũng sẽ bất giác chịu ảnh hưởng của y.”

Yến Phi không khỏi nhớ tới Thác Bạt Khuê, thầm nghĩ có lẽ chỉ có người có đủ tố chất như thế, mới có thể thành tựu bá nghiệp đế vương. Thở ra một hơi nói: “Sự thật đã chứng minh phương thức làm việc của bọn họ là có hiệu quả, nếu không bọn họ đã sớm chết rồi. Bản thân chiến tranh là muốn cầu thắng lợi, bằng bất cứ thủ đoạn nào. Bất quá ta vẫn rất tin tiểu Dụ là người có tình cảm phong phú. Đồ Phụng Tam có lẽ là một loại người khác, nhưng y cũng có một bộ mặt khác không muốn ai biết được. Tại hai cuộc chiến công phòng Biên Hoang tập, y đều thể hiện ra tình cảm sâu đậm cao thượng, không đem tính mạng và lợi ích bản thân vào trong mắt.”

Tống Bi Phong thở dài, không nói nữa.

Yến Phi cầm lấy Điệp Luyến Hoa, đứng dậy.

Tống Bi Phong ngạc nhiên hỏi: “Tiểu Phi muốn đi đâu?”

Yến Phi đáp: “Tống đại ca trước hãy trở lại Thanh Khê Tiểu Trúc, đệ muốn đi gặp một người.”

Tống Bi Phong hiểu chuyện, không hỏi chàng muốn đi gặp ai nữa, đưa thuyền cập bờ, để Yến Phi đi.

Tới thời gian ăn trưa, khoang thuyền bắt đầu náo nhiệt, tiếng giày dép rộn rã, điểm tâm cao lương mĩ vị như nước cuốn đưa đến bàn ăn.

Lần này phái đoàn tham quan Biên Hoang phần lớn vẫn là thương, con cháu thế gia chỉ chiếm thiểu số. Đối với sự việc phát sinh sáng nay, đại đa số mọi người đều say ngủ không biết, nếu biết cũng là biết không rõ, còn tưởng rằng có người cười giỡn hoặc bị điên.

Trác Cuồng Sinh và Trình Thương Cổ ngồi một bàn, giám sát toàn buồng, cũng là để bảo hộ phái đoàn.

Nhớ tới chuyện sáng nay, hai người vẫn còn sợ hãi.

Trình Thương Cổ nói: “Lần này may là ma xui quỷ khiến để ngươi tới. Nếu không hậu quả thiết tưởng sẽ không tưởng nổi, khẳng định sẽ bị gã họ Hướng kia làm loạn đến long trời lở đất.”

Trác Cuồng Sinh nhấp xong một ngụm trà nóng, nói: “Theo ta thấy, Tiểu Bạch Nhạn mới là phúc tinh của Biên Hoang tập chúng ta. Nếu không phải nàng, thì sẽ không có cái con bà 'Nhất tiễn trầm Ẩn Long' gì đó, mà ta và Cao Ngạn cũng sẽ không nổi điên tới nghênh đón Tiểu Bạch Nhạn. Xảo diệu nhất là một kiếm kia của nàng ta chẳng những cứu một mạng của Cao tiểu tử, mà còn dọa Hướng Vũ Điền bỏ đi. Ta cam đoan Hướng Vũ Điền đến bây giờ vẫn nghi thần nghi quỷ, cho rằng chúng ta đã sớm có dự mưu, bày ra cạm bẫy chờ y cắn câu. Ha ha. Thật sảng khoái.”

Trình Thương Cổ trầm ngâm nói: “Tiểu tử này thật là một quái nhân, bội kiếm có thể tùy tiện ném đi, côn gỗ lựu muốn chặt thì chặt, như đối với vật ngoại thân chẳng chút quý trọng. Nhưng đối với tính mạng của mình lại cẩn thận quá mức, không dám mạo hiểm, làm người ta khó giải thích được.”

Trác Cuồng Sinh nói: “Chỉ nhìn tướng mạo và cách ăn nói của người này, cũng biết y là người cực kỳ thông minh. Sự thật là hắn một kích không trúng, liền chọn sách lược lập tức chạy xa làm y không tổn hao chút gì. Tôn tử của Vương Mãnh nói đúng, y tuyệt đối không phải người nhát gan, chọn dùng loại chiến thuật bị coi là nhát gan này chắc là có lý do.”

Trình Thương Cổ nói: “Không cần biết y có lý do gì. Người này võ công rất cao, chiêu thức kì lạ, kỹ thuật đánh xảo diệu, ta bình sinh mới thấy được. Cái quỷ biến chi đạo này, chỉ sợ cao hơn Yến Phi. Làm kẻ khác khó đề phòng nhất là y giống như có thể phân thân sử dụng ra các chiêu số hoàn toàn khác biệt nhau, xét một mặt như thế thì cũng là bất lợi. Với ta mà nói thì đó là lần đầu tiên trong đời thấy như vậy.”

Trác Cuồng Sinh gật đầu nói: “Không phải là đề cao chí khí của kẻ khác. Nhưng những người gọi là cao thủ của Hoang nhân chúng ta, người nào một mình gặp y, đều không kịp ăn đã phải chạy. Điều đó nói lên y có bổn sự có thể thích sát trong Tập. Thật là muốn lập tức dùng phi cáp truyền thư triệu hồi gấp Yến Phi về. Ài! Chúng ta đương nhiên không thể khiếp nhược như vậy.”

Trình Thương Cổ nói: “Tiểu tử này dường như lợi hại gấp mấy lần Hoa Yêu. Chỉ cần ném vài quả yên vụ đạn, nhiều người cũng không hiệu quả, ngược lại còn làm vất vả hơn.”

Nhớ lại thân pháp tiến đến như ma mị của y, muốn đến là đến, muốn đi thì đi, Trác Cuồng Sinh muốn nói nhưng tắc họng.

Lúc này Cao Ngạn cúi đầu ủ rũ tiến đến, ngồi xuống đối diện hai người, vỗ bàn hô: “Rượu!”

Trác Cuồng Sinh mắng: “Rượu! Mượn rượu tiêu sầu có tác dụng con bà gì? Nếu Tiểu Bạch Nhạn hồi tâm chuyển ý đến gặp ngươi, ngươi lại biến thành tửu quỷ chết say khướt như bùn, thì sẽ thành ra cái dạng gì?”

Trình Thương Cổ hỏi: “Vẫn không chịu mở cửa sao?”

Cao Ngạn chán nản lắc đầu tựa như mất đi toàn bộ lạc thú trên đời.

Trác Cuồng Sinh nói: “Ngươi không biết trèo qua cửa sổ mà vào ư?”

Cao Ngạn ngẩn người hỏi: “Trèo cửa sổ?”

Trình Thương Cổ nói: “Ngươi thông minh một đời, mà hồ đồ một lúc, đã quên là cửa sổ buồng chính của thuyền của ta không bị bịt kín sao.”

Cao Ngạn kêu lên quái dị, liếc mắt nhìn mọi người, như gió lốc lao ra khỏi buồng.

Trác Cuồng Sinh thở dài: “Ngươi rốt cục là hại gã hay là giúp gã vậy?”

Trình Thương Cổ vuốt râu mỉm cười nói: “Vậy thì phải chờ xem đã.”

Yến Phi tiến vào thiền thất của Chi Độn. Vị cao tăng này đang ngồi ngay ngắn trên bồ đoàn, chắp tay làm lễ, đưa tay mời Yến Phi ngồi xuống bồ đoàn trước mặt ông, cười nói: “Yến thí chủ rốt cuộc đã đến.”

Yến Phi y lời ngồi phía trước ông, trong lòng sinh ra cảm giác kì dị. Từ trước tới nay, chàng đối với người ngoài cõi tục, luôn giữ thái độ kính nhi viễn chi, cho nên tới giờ chưa có cùng Chi Độn nói chuyện thân thiết. Nguyên nhân có lẽ là chàng không muốn quấy rầy sự thanh tu của bọn họ. Lại có lẽ là bởi vì cảm thấy với bọn họ là hai loại người khác nhau, mà cũng bởi vì chàng đối với tôn giáo thì không có hứng thú.

Nhưng hôm nay bước vào đại môn của Quy Thiện tự, chàng đã có cảm thụ hoàn toàn mới. Bởi vì chàng đột nhiên phát giác mình nhiều khả năng có thể dựa vào Chi Độn mà hiểu hơn được bọn họ, biết thêm được cái gì là tứ đại giai không*.

Mọi người đều "tỉnh giấc" do bị giam ở trong cái lồng sinh tử, đều nghĩ biện pháp phá cũi mà ra, vượt ra ngoài sinh tử. Nhưng Yến Phi và bọn họ có một sự khác biệt cơ bản. Yến Phi là căn bản không có được lựa chọn, chàng cũng không phải cam tâm tình nguyện, nhưng "đào thoát" đã biến thành lựa chọn duy nhất của chàng. Một là chàng có thể mang theo mỹ nhân mà đi, hoặc cũng có thể chàng vạn kiếp bất phục, sẽ không có khả năng thứ ba.

Khả năng này là vận mệnh con mẹ gì?

Vẻ mặt Chi Độn nghi vấn hỏi: “Cái cười khổ của Yến thí chủ, ngầm ẩn chứa thiền cơ thâm ý, làm lão nạp cảm thấy vô cùng kì quái. Vì sao thí chủ có thể làm lão nạp sinh ra cảm giác như vậy?”

Yến Phi trong lòng bội phục, hiểu được vị cao tăng này Phật pháp tinh thâm, đối với tâm ý của chàng đã sinh ra linh cơ diệu giác. Bất quá cảm thấy có lỗi vì vẫn không thể đem tâm sự nói ra, cũng như vì sợ làm nhiễu loạn thanh tu của ông. Chàng tự vấn không có tư cách nhận định "thành Phật" có là "Phá toái hư không" hay không, hoặc "thành Phật" là một loại pháp môn siêu thoát sinh tử luân hồi khác. Chỉ cảm thấy được nếu nói ra suy nghĩ trong lòng, hoặc là sẽ căn bản làm dao động tín niệm của bản thân Chi Độn, đối với ông có hại mà không có ích lợi gì. Mỗi lần khi tình huống xuất hiện như ở trước mắt, chàng đều cảm thấy cô độc vô cùng.

Khả năng cực lớn mà chàng đối mặt có thể là vì từ cổ chí kim, không có người nào từng đối mặt với trắc trở và vấn đề nan giải. Cho dù là Quảng Thành Tử, mục tiêu của ông ta cũng chẳng đơn giản rõ ràng hơn so với Yến Phi.

Yến Phi thở dài: “Tôi chỉ là trong lòng cảm thấy buồn rầu, cho nên bất giác biểu hiện ra ngoài.”

Chi Độn hai mắt kì quang chớp động liếc nhìn chàng kĩ càng, sau đó chậm rãi nhắm mắt, bảo tướng trang nghiêm nói: “Yến thí chủ vì sao mà phiền muộn vậy?”

Yến Phi tới tìm ông ta, chỉ là để gặp An Ngọc Tình, nhưng người bạn thân ngoài thế tục của Tạ An này đột nhiên "đa sự" quan tâm hỏi tới, lại không thể không đáp. Chàng đành phải đáp lại: “Phiền não của tôi là vì khó có thể phân thân được, muốn ở lại Biên Hoang tập cùng chúng huynh đệ chống lại cường địch, rồi lại không thể không đến Kiến Khang.”

Chi Độn hỏi: “Thương thế của Đạo Uẩn, có khởi sắc hay không?”

Yến Phi lần này không cần tìm lời nói lấy lệ, dễ dàng đáp: “Tôn Ân cố ý lưu thủ, cho nên Vương phu nhân sinh cơ chưa tuyệt. Theo tôi phỏng chừng, Vương phu nhân có thể hồi phục như cũ trong vài ngày nữa.”

Chi Độn nhắm mắt nói: “Đó là một tin tốt, đã như vậy, Yến thí chủ sẽ có thể trong vài ngày phản hồi trở lại Biên Hoang tập.”

Yến Phi cười khổ nói: “Tôi cũng hi vọng có thể như thế, nhưng Tôn Ân quyết ý làm thương tổn Vương phu nhân, chính là phát ra chiến thư với tôi. Cuộc chiến của tôi và Tôn Ân như thế tất phải xảy ra, muốn tránh cũng không thể được.”

Chi Độn nói: “Trúc Pháp Khánh bị chặt đầu dưới kiếm của Yến thí chủ, thì trong thiên hạ không có chuyện gì thí chủ giải quyết không được.”

Yến Phi thẳng thắn nói: “Tôi đối với cuộc chiến cùng Tôn Ân, thật sự không có nửa phần nắm chắc, chỉ có thể hết sức mà làm.”

Chi Độn thản nhiên nói: “Cuộc chiến ngày đó với Trúc Pháp Khánh, thí chủ có tin tưởng mười phần hay không?”

Yến Phi ngẩn người đáp: “Lần đó có thể giết được Trúc Pháp Khánh, hoàn toàn là cơ duyên xảo hợp, chỉ tận lực mà đạt được thành quả ngoài ý liệu.”

Chi Độn chuyển chủ đề hỏi: “Vậy thì Biên Hoang tập lại có chuyện gì mà không thể đợi được, làm thí chủ cảm thấy khổ sở vì bản thân khó phân làm hai?”

Yến Phi trong lòng rất lấy làm lạ, rốt cuộc truy hỏi như thế, thật không giống tác phong trước nay của vị cao tăng này. Rồi lại không thể không trung thực trả lời, bởi vì che giấu chuyện tiên môn với ông, Yến Phi đã sớm có điểm ái ngại. Chàng đành phải nói: “Bởi vì Mộ Dung Thùy đã mời được một dân tộc thần bí sâu trong đại mạc, tới đối phó Hoang nhân chúng tôi, làm biến hóa tăng lên nhiều, cho nên...”

Chi Độn bỗng nhiên mở hai mắt, trầm giọng hỏi: “Có phải là Bí tộc lấy sa mạc làm nhà không?”

Yến Phi ngẩn người nói: “Nguyên lai An cô nương đã đề cập chuyện này với đại sư.”

Chi Độn chằm chằm nhìn Yến Phi, ánh mắt của ông như có thể xuyên thấu lòng của chàng, nói: “Ngọc Tình đối với việc này không có nói qua nửa câu."

Yến Phi kinh ngạc nói: “Đại sư làm sao mà biết có dị tộc này?”

Hai mắt Chi Độn xạ ra thần sắc kì dị, ngữ khí lại cực kì bình tĩnh, nói: “Yến thí chủ có sẵn lòng nghe một bí mật có liên quan tới Phật Đạo hai nhà không?”

Yến Phi không thể tưởng được ông sẽ có phản ứng này, thầm nghĩ phiền não của mình lại chưa đủ nhiều sao? Bất quá chàng trước nay tôn kính Chi Độn, nghĩ đến chuyện Chi Độn cho là bí mật, khẳng định là chuyện quan trọng, tất cùng với tình huống trước mắt có ít nhiều quan hệ, chí ít có quan hệ với Bí tộc. Đáp: “Vãn bối xin rửa tai lắng nghe.”

Chi Độn nói: “Vào thời Xuân Thu Chiến Quốc, học thuyết của các nhà hưng khởi, tạo ra cục diện trăm hoa đua nở. Đến khi nhà Tần nhất thống thiên hạ, dùng pháp gia trị quốc, hai đời rồi mất. Cao tổ Lưu Bang, mở ra thịnh thế Đại Hán, uy vọng lưỡng triều, dùng thuật Hoàng Lão** trị quốc khiến dân chúng có cơ hội khôi phục nguyên khí. Rồi sau lại tới Hán Vũ đế dùng vũ lực để uy nhiếp tứ di***.”

Yến Phi nghe được thì trở nên hồ đồ, bí sự mà Chi Độn sắp nói ra, chẳng lẽ lại có quan hệ với trị loạn hưng suy của các triều đại trước?

Chi Độn nói: “Hán Vũ đế dùng Đổng Trọng Thư theo thiên ý, sử dụng chính sách 'Đại nhất thống' của Đức giáo, 'bãi truất bách gia, độc tôn Nho học'. Học thuyết các nhà khác, đều bị coi là dị đoan, từ đó thiên hạ rối loạn.”

Yến Phi nói: “Tư tưởng chỉ có thể bị áp chế ở nhất thời, nhưng chính quyền lại không ngừng đổi thay. Giống như Kiến Khang lúc này, thì là Hoàng Lão lại là chủ đạo.”

Chi Độn nói: “Cái nhìn của Yến thí chủ là chính xác, cái gọi là nhân tâm bất tử, đó là ý này. Đến thời Đông Hán, Đạo gia và Phật môn lần lượt cùng Nho giáo kết hợp, liền lấy được sức sống và chỗ đứng mới, trở nên hưng thịnh. Nho, Phật, Đạo vốn có chỗ tương thông vay mượn lẫn nhau. Có chủ lưu, liền có dị lưu, dần dần thành thế đối lập.”

Yến Phi kinh ngạc hỏi: “Dị lưu?”

Chi Độn nói: “Việc này đúng là một lời khó nói hết, tình huống bên trong phức tạp dị thường. Nói đại khái, dị lưu đó là các loại luận thuyết bên ngoài tư tưởng chủ lưu. Năm đó Hán Vũ đế hỏi Đổng Trọng Thư, bởi vậy có 'Thiên nhân tam sách' nổi danh thiên cổ, ở cuối sách Đổng Trọng Thư tổng kết 'Xuân Thu đại nhất thống giả, thiên địa chi thường kinh, cổ kim chi thông nghị dã. Kim sư dị đạo, nhân dị luận, bách gia thù phương, chỉ ý bất đồng, thị dĩ thượng vô dĩ trì nhất thống; pháp chế biến sổ, hạ bất chi sơ thủ. Thân ngu dĩ vi chư bất tại lục nghệ chi khoa, Khổng Tử chi thuật giả, giai tuyệt kì đạo, vật sử tịnh tiến. Tà tích chi thuyết diệt tức, nhiên hậu thống kỉ khả nhất, nhi pháp độ khả minh, dân chi sở tòng hĩ'+. Những câu này chính là 'giai tuyệt kì đạo', làm các nhà tư tưởng xuất hiện chia rẽ và đối lập. Phàm những người không thể dung nhập vào học thuyết Nho gia, đều bị bức hại và gạt bỏ, hình thành đối kháng chủ lưu và dị lưu thề không cùng tồn tại. Tranh đấu giữa chủ - dị duy trì đã mấy trăm năm, đến nay chưa dứt.”

Yến Phi suýt nữa vò đầu bứt tai, nhã nhặn hỏi: “Thỉnh đại sư thứ cho tôi ngu dốt, đại sư nói đến học thuyết tranh đấu, cùng tình huống trước mắt của tôi có gì quan hệ?”

Chi Độn nói: “Bất luận Nho, đạo, Mặc pháp, hoặc Khổng Khâu, Lão Vu, Trang Chu, Dương Chu, Mặc Định và Huệ Thi, bọn họ đều là muốn cung cấp một khái niệm và phương pháp quản trị quốc gia. Thể hiện trong hiện thực, thì sẽ trở thành quốc gia đại sự tranh thiên hạ. Ai có thể đoạt được chính quyền, thì có thể thực thi biện pháp của mình. Thể hiện trên chốn giang hồ, đó là tranh đấu giữa chính thống phái hệ và dị đoan phái hệ.”

Yến Phi hít sâu một hơi nói: “Lại có việc như vậy ư? Tôi thật sự hoàn toàn không cảm thấy được.”

Chi Độn nói: “Đó là một trường chiến tranh được giữ kín không nói ra, không có người nguyện ý nói toạc ra, đấu tranh lại biến hóa tùy theo thời thế, như đoạn như tục. Giống như Trúc Pháp Khánh thì là một kẻ khả nghi, chỉ nhìn thủ đoạn tàn nhẫn của hắn đối với Phật môn phương Bắc. Thiếu chút nữa đem Phật môn phương Bắc nhổ tận gốc, thì mới biết trong đó có thể có liên quan tới trường ân oán này.”

Yến Phi líu lưỡi nói: “Đây đúng là làm người ta không nghĩ tới được.”

Chi Độn nói: “Thói quen của chúng ta gọi chung dị lưu phái hệ là Ma môn. Trong Ma môn cũng bao gồm các phái hệ khác nhau, đều trăm phương ngàn kế che giấu thân phận của mình. Ta hôm nay vì sao nói với thí chủ về chuyện Ma môn, bởi vì hơn ba mươi năm trước, Ma môn cuối cùng xuất hiện được một nhân vật siêu quần bạt tụy, mà người này với Bí tộc có nhiều quan hệ.”

Yến Phi nghe được tóc tai dựng đứng, trong lòng có điểm minh bạch, nhưng lại có cảm giác lo lắng không yên không muốn tìm hiểu suy nghĩ sâu xa.

Chú thích

* Tứ đại giai không (四大皆空). Theo Ấn Độ cổ xưa, tứ đại chỉ địa, thủy, hỏa và phong. Trong thuyết Phật giáo, tứ đại giai không chỉ tất cả mọi thứ đều là hư không. Trong Tứ thập nhị chương kinh có đoạn “Phật ngôn đương niệm thân trung tứ đại, các tự hữu danh, đô vô ngã giả.”

** Hoàng Lão. Hoàng là chỉ Hoàng Đế học phái thời chiến quốc. Học phái này dung hòa Đạo gia, Thần Tiên gia và Âm Dương gia làm tư tưởng chủ đạo. Lão là chỉ Lão Tử, đại biểu cho đạo gia. Nói Hoàng Lão là chỉ dùng tư tưởng Đạo giáo, phát dương tư tưởng “Đạo Đức”.

*** Tứ di: Các dân tộc ở biên giới Trung Quốc thời xưa (Đông di, Nam man, Tây nhung, Bắc địch).

+ Chương này có nhiều đoạn đề cập đến tư tưởng và chính trị thời cổ đại Trung Quốc. Trong phạm vi một chương không thể nói hết! Bạn nào có nhã hứng trao đổi xin mời liên lạc lại, đoạn này tạm dịch là: "Sự thống nhất ở thời đại Xuân Thu, ấy là cái đạo thông thường của trời đất, cái tình truyền xuyên suốt từ xưa đến nay. Ngày nay có nhiều trường phái khác nhau, người người lý luận khác nhau, trăm nhà mỗi nhà một hướng, ý tưởng bất đồng, vì vậy mà trên thì không có cách nào để bảo trì thống nhất; biến số pháp chế, dưới không biết để dựa vào mà giữ mình. Ngu thần trộm nghĩ chẳng lẽ không phải sáu khoa học thuật (lễ nghi, nhạc, thuật săn bắn, thuật cởi ngựa, thư pháp, toán học), học thuật của Khổng Tử ấy, đều là đạo lý kỳ tuyệt trong thiên hạ, không thể vượt hơn được nữa hay sao. Những lời lẽ tà mị sai lệch phải tức thì dẹp bỏ hết, như thế mới có thể hợp lại làm một được, các chuẩn mực hành vi, quy củ phép tắc cũng có thể soi tỏ, cho dân chúng biết mà làm theo."

Đây là những lời dâng lên hoàng đế của Đổng Trọng Thư trong tác phẩm Thiên nhân tam sách của ông. Trong sách này ông chủ trương chấn hưng học vấn tôn trọng Nho gia, thi hành đạo đức, giáo hoá nhân dân. Ngoài ra ông cũng nghiên cứu quan hệ tương hỗ giữa người và trời, cho rằng những việc làm của người sẽ tác động đến trời và trời sẽ thể hiện sự ảnh hưởng của mình với người qua các điềm triệu khác thường báo trước.

Đổng Trọng Thư sinh năm 179 - mất năm 104 trước công nguyên, là người tỉnh Hà Bắc ngày nay, ông thọ 74 tuổi sống trải qua ba triều Hán Văn đế, Hán Cảnh đế và Hán Võ đế.Cao Ngạn xuyên qua cửa sổ vào phòng, cảm thấy hơi yên lòng. Vừa rồi gã rất lo lắng cặp giò đẹp của Tiểu Bạch Nhạn từ cửa sổ đá ra, nếu vậy gã khẳng định sẽ phải rơi xuống Dĩnh Thủy.

"Đồ trứng ngốc! Đến bây giờ mới biết leo cửa sổ vào. Thật không rõ ngươi bằng cái gì mà muốn thành danh dựng nghiệp chứ?”

Cao Ngạn quay đầu ngó lại, Tiểu Bạch Nhạn ngồi trên giường, đang ngon lành ăn trái lê trên tay. Nàng ta bắt chéo cặp chân dài không mang ủng, rung chân, có vẻ rất thoải mái thích thú.

Sự đối đãi "có thiện ý" của Doãn Thanh Nhã, làm Cao Ngạn lộ ra vẻ vui mừng. Gã không chút khách khí tới ngồi ở mép giường, thiếu chút nữa đụng vào cặp chân đẹp của nàng, mặt quay về phía thiên chi kiêu nữ thiên kiều bách mị này, nói như mở cờ trong bụng: “Nguyên lai Nhã nhi đối với ta chỉ là giả ra bộ dạng hung dữ cho người khác thấy.…..”

Doãn Thanh Nhã ngắt lời nói: “Ít nói bậy đi, xéo ra xa ta một chút, đến ngồi ở cái ghế dựa cạnh cửa sổ ấy, nếu không bổn cô nương sẽ đuổi ngươi ra khỏi phòng. Ngươi xứng để ta nói chuyện giống như trước sao?”

Cao Ngạn thấy nàng ta lúc nói thì cười mỉm, tựa như là không phải nói thật, nhưng gã đã có chút hiểu được tính tình của nàng, nào dám lỗ mãng. Mà sự thật nàng ta để gã ở lại trong phòng, đã là một sự ban ơn rất lớn, nên vội ngoan ngoãn đến ngồi lên cái ghế dựa vào cửa sổ.

Doãn Thanh Nhã bỗng đứng dậy, dời đến ngồi tại mép giường, vung tay, ném hột lê vừa ăn về phía Cao Ngạn. Cao Ngạn nào nghĩ đến nàng ta lại có chiêu này, muốn tránh nhưng không kịp, hạt lê sượt qua má gã, rơi xuống Dĩnh Thủy.

Doãn Thanh Nhã "phì" cười, hướng về phía gã le lưỡi giả làm mặt quỷ khả ái.

Lòng Cao Ngạn trở nên khoan khoái, đang muốn khua môi múa mép thì Doãn Thanh Nhã ra hiệu ngăn cản gã buông lời, tự nhiên nói: “Ta lần này tới Biên Hoang, ngoại trừ cùng ngươi tính rõ cừu mới hận cũ, còn muốn cùng với tiểu tử ngươi nói cho minh bạch, không để ngươi càn rỡ nữa.”

Cao Ngạn ý loạn tình mê ngơ ngác nhìn nàng ta, như thể không nghe được lời mà nàng ta vừa nói.

Doãn Thanh Nhã sẵng giọng: “Ngươi không nghe ta nói sao?”

Cao Ngạn trong lòng hưng phấn đắc ý, cho dù để Trác Cuồng Sinh dùng diệu bút viết thiên thư, cũng khó miêu tả được một phần. Ở cùng một chỗ với Doãn Thanh Nhã, bất luận bị đánh bị mắng, gã đều như được ăn mật ngọt. Thế giới không có nàng, hết thảy đều mất đi ý nghĩa, gã sẽ chỉ sinh tồn như là một cái xác không hồn. Có được nàng, cũng như có được thiên hạ. Huống chi lúc này nàng ta đang ở trước mặt quở trách, Cao Ngạn phát giác ra cuộc sống nguyên lai tuyệt vời như vậy. Gã nói: “Xin Nhã nhi cứ tiếp tục nói, giọng nói của nàng là thanh âm dễ nghe nhất trên đời.”

Doãn Thanh Nhã hung dữ trừng mắt, tức giận nói: “Ngươi lại giở thủ đoạn với ta, không nói nữa! Không nói!”

Cao Ngạn thử đứng lên, thấy Doãn Thanh Nhã lộ ra thần sắc bất thiện, vội ngồi lại xuống ghế. Xuôi tay nói: “Hôn một cái được không?”

Doãn Thanh Nhã tức giận đến trợn trừng mắt lên, thất thanh: “Cái gì?”

Cao Ngạn cười bồi nói: “Hắc hắc! Không có chuyện gì. Nhã nhi đã đói bụng chưa? Ta cùng nàng đến phòng ăn ăn một chút gì nhé!”

Doãn Thanh Nhã nhất mực cự tuyệt nói: “Không ăn! Muốn ăn thì ngươi tự mình đi đi.”

Cao Ngạn hỏi: “Ta hát một bài cho nàng nghe nhé?”

Doãn Thanh Nhã nhịn không được bật cười: “Không nghe!”

Cao Ngạn nói: “Vậy ta lộn vài vòng cho nàng xem nhé.”

Doãn Thanh Nhã phì cười, hung dữ liếc gã, thấp giọng mắng: “Cái tên xú tiểu tử chết bầm nhà ngươi.”

Cao Ngạn nhảy lên, xoay tròn một vòng, tiến tới trước người nàng ta khuỵu gối quỳ xuống, tâm trạng say mê nói: “Nhã nhi nàng không cần dối mình nữa. Ta và nàng là một đôi trời đất tạo nên, nàng không thể tìm được một tình nhân và phu quân nào tốt hơn ta, so với ta không có ai biết cách làm nàng vui vẻ, khiến nàng cao hứng cả.”

Doãn Thanh Nhã không tức giận nói: “Tên tiểu tử nhà ngươi lại nổi điên rồi, để ta rõ rõ ràng ràng nói cho ngươi, ta.. hắc! Ta vừa rồi cứu cái mạng nhỏ của ngươi, để từ nay về sau hai chúng ta không ai còn nợ ai. Bắt đầu từ hôm nay, ngươi đi đường lớn của ngươi, ta đi cầu độc mộc của ta, rõ chưa?”

Cao Ngạn ngẩn người hỏi: “Đường lớn chẳng lẽ không thể có cầu độc mộc sao?”

Doãn Thanh Nhã cũng ngây người, tiếp theo khóe môi hiện ra nét cười, mắng: “Xú tiểu tử ngu đần nhà ngươi, nếu còn chọc giận bổn cô nương ta sẽ giết ngươi.”

Cao Ngạn cầm lấy tay phải của nàng ta, cười đùa cợt nhả: “Tay của Nhã nhi vẫn chưa hết mỏi, hay để ta xoa bóp cho nàng, bảo đảm sẽ dễ chịu trong lòng.”

Doãn Thanh Nhã dùng thân pháp tránh khỏi tay gã, mượn thế đứng lên, tới thẳng phía trước cửa sổ, ánh mắt dõi về bờ sông.

Cao Ngạn như bóng theo hình, đi tới phía sau nàng, thiếu chút nữa thì dán vào lưng thơm của nàng, hít vào mùi thơm cơ thể phát ra từ nàng, thật không còn biết trời đất gì nữa.

Doãn Thanh Nhã khẽ thở dài: “Lần này ta tới Biên Hoang, sư phụ nhất định lo lắng lắm. Ta du ngoạn Biên Hoang tập ba ngày rồi sẽ trở về, ngươi chớ nên si tâm vọng tưởng. Nếu không, từ nay về sau ta sẽ không để ý tới ngươi nữa.”

Cao Ngạn tâm mê thần say nói: “Chúng ta vĩnh viễn không cần phân li nữa. Nhã nhi muốn trở lại Lưỡng Hồ, ta sẽ đi cùng nàng.”

Doãn Thanh Nhã giận dữ: “Kêu ngươi không được càn rỡ, ngươi chớ nên càn rỡ với người ta, đầu của ngươi có phải làm bằng đá hay không? Ngươi đi tới Động Đình, phải chăng là không thiết sống nữa?”

Cao Ngạn ngạc nhiên hỏi: “Sư phụ của nàng sao lại giết ta? Chính miệng ông ta đáp ứng sẽ không cản trở nàng lấy ta, chỉ cần Nhã nhi tốt của ta gật đầu thì sẽ được.”

Doãn Thanh Nhã chuyển thân thể mềm mại lại như gió lốc, sẵng giọng: “Ngươi lại nói bậy rồi!”

Cao Ngạn tưởng nàng muốn động thủ, sợ tới mức vội lui lại hai bước, xua tay nói: “Nguyên lai Nhã nhi không biết ta đã đến Lưỡng Hồ tìm nàng, lại còn cùng sư phụ nàng đánh cược một trận. Kết quả sư phụ nàng bị thua cuộc, hứa từ nay về sau mặc kệ không can thiệp ta và nàng chàng chàng thiếp thiếp, nói chuyện tình ái, kết làm phu thê.”

Doãn Thanh Nhã hai tay chống eo nhỏ, giận dữ la: “Ngươi tưởng rằng ngươi là cái gì? Bằng thân thủ của ngươi, thì còn không xứng xách giầy cho sư phụ.”

Cao Ngạn cười hì hì: “Cùng ta đi chính là Yến Phi, cũng là y động thủ. Y cũng không có đánh thắng sư phụ lão nhân gia của nàng. Chỉ vì ta để cho sư phụ nàng bắt được, Yến Phi mới cùng sư phụ nàng đánh cược. Nếu trong một khoảng thời gian cứu không được ta, thì y sẽ tự vẫn trước mặt sư phụ nàng. Kết quả như thế nào, nhìn xem lão tử vẫn còn sống đứng ở chỗ này cùng nàng nói chuyện thì cũng minh bạch được rồi. Việc này bây giờ đã truyền khắp hang cùng ngõ hẻm, tình cảm lưu luyến của chúng ta đã trở thành chủ đề phổ biến nhất ở phương Nam. Toàn bộ sự việc đều trăm ngàn lần chính xác. Nếu như ta có một chữ hư ngôn, hãy để ta không lấy được nàng làm kiều thê.”

Doãn Thanh Nhã ngây ra nhìn gã, sau một hồi, yên lặng ngồi vào ghế tựa, thần sắc ngỡ ngàng.

Cao Ngạn chưa bao giờ thấy qua vẻ mặt như vậy của nàng, chuyển qua ngồi xổm trước người nàng hỏi: “Nhã nhi làm sao vậy?”

Doãn Thanh Nhã buồn bã đáp: “Người ta lần này để ngươi hại thảm rồi, sư phụ vì ta mà mất mặt, thảo nào người không thể nói gì. Bây giờ sư phụ trong lòng nhất định rất khó chịu.”

Cao Ngạn đang muốn nói an ủi nàng ta, Doãn Thanh Nhã giơ hai ngón tay áp lên môi gã, nhẹ nhàng nói: “Lòng người ta đang rất loạn, ngươi đi ra ngoài một lúc được không? Để ta một mình suy nghĩ.”

Lòng của Cao Ngạn vừa đau xót vừa yêu thương. Lần đầu tiên thấy nàng ta nhẹ nhàng yêu cầu, nào dám không theo, y lời rời khỏi phòng.

Chi Độn nói: “Người này họ kép Mặc Di, tên Minh, là một nhân tài, nho nhã phong lưu, bác học đa văn, văn thông võ giỏi, thông hiểu cổ kim trị loạn hưng suy, thật là kỳ tài trăm năm khó gặp.”

Yến Phi nói: “Đại sư không phải đã nói người trong Ma môn, sẽ dùng trăm phương nghìn kế che giấu thân phận của bọn họ, chỉ sợ bại lộ hành tung sao? Vậy làm sao hiểu được y xuất thân từ Ma môn chứ?”

Chi Độn giải thích: “Từ sau khi Hán Vũ đế độc tôn Nho học, Ma môn bị bài trừ, tư tưởng từ đó về sau chuyển sang đường cực đoan không lối trở lại, cũng vì vậy mà nhập ma, nên xưng là Ma môn từ đó đến nay. Với những người trong Ma môn, tác phong hành sự của họ đều có manh mối có thể tìm ra, lúc ấy cao nhân của Phật Đạo lưỡng môn từ võ công kinh thế của y mà nhìn ra y nguyên là từ Ma môn.”

Yến Phi nghe đến đó, đối với cái gọi là người trong Ma môn, chẳng những không có sinh ác cảm, ngược lại còn có điểm đồng tình với tao ngộ của bọn họ. Gật đầu nói: “Tôi đã hiểu rồi.”

Chi Độn nói: “Muốn nói rõ huyết thống của Mặc Di Minh này, không thể không bắt đầu từ phương bắc Thạch Triệu chính quyền. Vĩnh Gia chi loạn, Hung Nô vương Lưu Thông công hãm Lạc Dương, giết vương công sĩ dân hơn ba vạn người, Tấn Hoài đế chạy về bắc. Năm sau Mẫn đế lên ngôi ở Trường An, lại bị bắt làm tù binh, Tấn thất bị bức về Nam, phương bắc trở thành nơi Hồ tộc tranh giành. Sau khi Lưu Thông phá Tấn, quốc thế đạt tới đỉnh điểm, lại không biết lợi dụng cơ hội mà hoang dâm xa xỉ, quốc chính ngày càng rối loạn, công thần hào tướng đều chiếm đất cát cứ. Trong đó lại để Thạch Lặc chiếm vùng đất cũ của Triệu Ngụy có thế lực lớn nhất. Thạch Lặc là hùng tài Hồ tộc, dũng mãnh tuyệt luân, dùng Hán nhân Trương Tân làm mưu sĩ, đại phá Hung Nô, lên đế vị, quốc hiệu vẫn dùng Triệu. Người đời sau gọi là Thạch Triệu.”

Yến Phi sống lâu ở phương Bắc, bản thân lại là vương tộc của Thác Bạt tộc, đối với đổi thay của chính quyền phương Bắc thì đã nghe nhiều nên quen. Nhưng chàng biết về Thạch Lặc, chủ yếu là vì thủ đoạn tàn bạo của y. Sự đốt nhà giết người cướp bóc của Thạch Lặc tại Hồ tộc cũng là xú danh truyền xa, kẻ bị hại đạt đến vài trăm vạn hộ, người cùng thời gọi là "Hồ Hoàng"*, họa hại của nó có thể thấy được.

Chi Độn nói tiếp: “Thạch Triệu lúc hưng thịnh, bản đồ bát ngát. Nam tới Hoài Hà, Hán Thủy, đông giáp tới biển, bắc đến Tuy Viễn, cơ hồ chiếm cả phương Bắc. Sau khi Thạch Lặc chết, con của anh trai Thạch Hổ đăng vị, bạo ngược vượt quá Thạch Lặc, làm các tộc tạo phản. Đến khi Thạch Hổ chết, các con tranh vị. Lúc đó, Hán tộc đại tướng Nhiễm Mẫn thừa cơ nổi lên, đoạt lấy đế vị. Mà Nhiễm Mẫn có thể thành công đoạt quyền, nguyên nhân chính là được Mặc Di Minh toàn lực phù trợ y.”

Yến Phi nói: “Nói như vậy, Mặc Di Minh có hơn ba mươi năm trước phải là nhân vật có thể hô phong hoán vũ ở phương Bắc. Chỉ nhìn y có thể để một chính quyền do Hán nhân nắm quyền giữa các tộc Hồ quật khởi xưng bá, thì cũng biết bản lĩnh của y.”

Chi Độn nói: “Ngay cả chúng ta và y đứng ở lập trường đối địch, cũng không thể không thừa nhận y là nhân vật kiệt xuất của ma môn. Năm đó Nhiễm Mẫn còn phải liên lạc với Kiến Khang, hi vọng song phương có thể liên thủ cùng đuổi Hồ Lỗ. Nhưng vì hoài nghi đối với Mặc Di Minh, cuối cùng không được việc. Tiếp theo họ Mộ Dung của Tiên Ti mạnh lên, Nhiễm Mẫn binh bại bị bắt, bị chém ở Long Thành. Mặc Di Minh bằng vào Ma công cái thế, phá vây đào tẩu. Yên vương Mộ Dung Tuyển tự thân dẫn cao thủ đuổi giết ngàn dặm, lại bị y trước sau giết chết hơn ba mươi cao thủ Yên quốc, thành công chạy thoát, từ đó không biết tung tích. Cuộc chiến này chấn động thiên hạ, truyền tụng một thời.”

Yến Phi nhíu mày nói: “Vậy thì Mặc Di Minh rốt cuộc có quan hệ gì với Bí tộc?”

Chi Độn điềm đạm nói: “Theo tin tức của chúng ta, Mặc Di Minh cuối cùng chạy ra đại mạc, được Bí tộc toàn lực che chở. Mà Yên vương cũng vì xa xôi, chẳng biết làm thế nào.”

Yến Phi hỏi: “Y vẫn còn sống sao?”

Chi Độn nói: “Việc này sợ chỉ có Bí nhân mới biết.”

Yến Phi trong lòng nổi lên cảm giác cực kì cổ quái. Ài! Mặc Di Minh. Chàng thật sự không muốn biết về bất cứ chuyện gì về y. Càng không muốn biết về chuyện của Ma môn, nói gì đến đối đầu với người nào trong Ma môn. Chàng hỏi: “Đại sư vì sao nói cho tôi về người này?”

Chi Độn nói: “Cái tâm của Ma môn muốn tranh bá thiên hạ thì vĩnh viễn sẽ không ngừng lại. Một khi để bọn chúng đoạt được chính quyền, thì đây là tai nạn lớn của nhân sĩ chính thống của Nho, Phật, Đạo ba nhà. Bây giờ chúng ta đang toàn lực hỗ trợ Lưu Dụ, Ma môn khẳng định sẽ trăm phương ngàn kế tiến hành cản trở, không cho gã có một ngày được đắc chí.”

Yến Phi hỏi: “Đại sư có muốn tôi cảnh cáo Lưu Dụ hay không?”

Chi Độn nói: “Yến thí chủ tự trong lòng có sẵn ý riêng, lão nạp không nghĩ đến việc làm tăng thêm phiền não của Lưu Dụ. Sự thật là gần trăm năm qua, ngoại trừ một Mặc Di Minh, Ma môn lại không có nhân tài kiệt xuất khác. Ma môn từ sau khi Mặc Di Minh thất bại trong gang tấc, đã suy thoái rồi.”

Yến Phi lắc đầu nói: “Ma môn đã có một nhân vật siêu quần khác, thành tựu của người này trong tương lai, khẳng định sẽ không dưới Mặc Di Minh.”

Chi Độn ngạc nhiên hỏi: “Là ai?”

Yến Phi chậm rãi nói từng chữ: “Đó là đệ tử đích truyền của Mặc Di Minh, Bí nhân Hướng Vũ Điền.”

Mộ Dung Chiến đứng ở đầu đường, nhìn công trình xây lại Đệ Nhất lâu đang bừng bừng khí thế ở bên kia đường. Bàng Nghĩa hiện thân cùng hắn sau khi chào hỏi từ xa, liền ẩn vào cấu trúc bằng gỗ khổng lồ này. Trên đường người qua người lại, không ngừng có hàng hóa vật liệu từ Đông môn đưa vào Biên Hoang tập. Dĩnh Thủy là mạch máu của Biên Hoang tập, hiện tại một dải phương Nam được thông suốt. Hơn nữa Hồ Bân ở Thọ Dương lại là người nhà với nhau, có hiệu dụng của Biên Hoang du. Cho nên mậu dịch của phương Nam và Biên Hoang tập, dưới sự ngầm ưng thuận của Nam Tấn, so với trước đây thì chỉ có hơn chứ không kém.

Còn về thủy lộ phương Bắc, bởi vì nằm trong phạm vi thế lực của Mộ Dung Thùy, Yên nhân tuy rằng thân tự mình lo chưa xong, tạm thời vô lực phong tỏa cửa Tứ Thủy nhập vào Dĩnh Thủy, nhưng thương lữ dám từ thủy lộ tới vẫn chỉ có lác đác vài người. Chủ yếu là hành cước thương lữ đi đường bộ, quy mô còn kém xa phương Nam.

Mất đi loại Nam Bắc mậu dịch này là một vấn đề lớn. Duy có thuyền đội của chính Hoang nhân đến phương Bắc buôn lậu hàng hóa, rồi chuyển về Biên Hoang tập tiêu thụ.

May là Hoang nhân từ trên tay Yên Khương liên quân đoạt được một lượng lớn chiến mã, quân giới và trang bị, đều là vật tư cần thiết của người phương Nam, cho nên vẫn có sinh ý để làm.

Bắt đầu từ sáng nay, nhiệt độ dần dần hạ xuống, sắc trời âm u, gió lạnh từ phía tây bắc thổi tới, làm các cửa tiệm bán áo lạnh trong Tập nhộn nhịp như chợ.

Hoang nhân đi qua đều không dám quấy rối Thống soái tối cao của bọn họ, để hắn tuy thân ở đường lớn phồn thịnh thông với mọi nơi, vẫn có thể một mình tĩnh tâm suy nghĩ tình thế trước mắt.

Ai cũng không hiểu được một khung cảnh mờ mịt trong lòng Mộ Dung Chiến. Đầu hắn dường như trống rỗng, nhiều khả năng chẳng biết cảm xúc gì.

Từ đêm qua sau khi Sóc Thiên Đại không từ biệt mà đi, hắn đối với tương lai cảm thấy mơ mơ hồ hồ, cảm giác này từ trước tới giờ hắn chưa từng có. Lần này bỏ đi là nàng, tiếp theo sẽ là ai?

Hiện tại hai vai hắn mang trọng trách tồn vong của Biên Hoang tập. Gánh nặng trầm trọng này làm hắn có cảm giác không thở nổi. Hắn cho tới giờ là người lạc quan, tương lai khó bề đoán trước đối với hắn là một loại mị lực thần kì tuyệt vời, vui quá rồi sẽ hóa buồn, nhưng không phải lúc nào khổ cực thì cũng sẽ thái lai. Biên Hoang tập là một dạng may mắn, ác vận dây dưa thì không thể tăng nhanh, nhưng cũng từng bước đi đến diệt vong. Chẳng ai nói chính xác được vận mệnh tương lai thế nào.

Biên Hoang tập giờ phút này đối mặt chính là tình huống hoàn toàn bất đồng với trước đây. Nếu như bị Mộ Dung Thùy đoạt được, Biên Hoang tập sẽ bị phá hủy hoàn toàn.

Thanh âm của Hồng Tử Xuân vang lên ở phía sau hắn: “Ngươi không phải muốn đi tìm đại tiểu thư sao? Sao lại ngẩn người ra ở đây?”

Mộ Dung Chiến liếc nhìn Hồng Tử Xuân đang chắp tay đi tới bên cạnh, nói: “Ta đang suy nghĩ khi chủ tì Thiên Thiên trở lại Biên Hoang tập, thấy được Đệ Nhất lâu lại xuất hiện ở Biên Hoang tập, mà còn nguy nga tráng lệ hơn trước kia, thì sẽ hân hoan nhảy nhót như thế nào.”

Hồng Tử Xuân gật đầu nói: “Chúng ta mỗi người đều hi vọng thấy có một ngày như vậy. Ài! Hôm nay lạnh đến khác thường, thật khiến người ta phải lo lắng.”

Mộ Dung Chiến ngạc nhiên hỏi: “Lo lắng chuyện gì?”

Hồng Tử Xuân dùng tư thái của một chuyên gia quan sát sắc trời, cười khổ nói: “Ta sợ sẽ có tuyết rơi.”

Mộ Dung Chiến chấn động nói: “Sẽ không sớm như vậy chứ?”

Nếu tuyết thật sự rơi, cái mũi thính của Phương Hồng Sinh sẽ mất linh, sẽ không có cách nào khác tìm ra tung tích của Bí nhân bộ đội.

Hồng Tử Xuân nói: “Rất khó nói, ta sống tại Biên Hoang tập hơn mười năm, trước sau đã gặp qua hai trận tuyết mùa thu, đều là gió to tuyết lớn hiếm thấy.”

Mộ Dung Chiến cười khổ: “Vận khí của chúng ta không xấu đến mức như thế chứ.”

Hồng Tử Xuân thở dài: “Vận khí tốt sẽ không vĩnh viễn ở phía chúng ta. Có câu 'an nguy tương dịch, họa phúc tương sinh'*. Chúng ta đoạt lại được Biên Hoang tập bằng một trận mưa to, cũng có thể vì một trận gió to tuyết lớn mà mất đi Biên Hoang tập.”

Mộ Dung Chiến quả quyết nói: “Ta sẽ không cam chịu số phận, Gió to tuyết lớn thì sẽ có phương pháp chống gió to tuyết lớn. Người phương Nam các ngươi không quen tác chiến trong gió tuyết, người Hồ chúng ta lại là tập mãi thành quen.”

Hồng Tử Xuân nói: “Vừa rồi không nói đại phong tuyết có thể làm Bí nhân dễ dàng lọt vào Biên Hoang, làm chúng ta bị rơi vào thế bất lợi. Chỉ là gió tuyết có thể làm tê liệt giao thông đường bộ Nam Bắc, chỉ cần Mộ Dung Thùy phái binh phong tỏa hai cửa Tứ Dĩnh, phương Bắc đừng hòng có một kiện hàng hóa nào có thể vận chuyển đến Biên Hoang tập. Chúng ta còn làm chuyện Nam Bắc mậu dịch con bà gì?”

Mộ Dung Chiến nói: “Tình huống đúng là như thế. Đại phong tuyết nếu duy trì hơn mười ngày, sẽ tạo ra tổn hại rất lớn đối với kinh tế của chúng ta. Tiếp theo sẽ là những ngày đông giá rét, mà sẽ là mùa đông khó khăn nhất, nhưng cũng có thể làm Mộ Dung Thùy không có cách nào ồ ạt tiến đánh chúng ta.”

Hồng Tử Xuân nói: “Về phương diện tốt thì là như thế. Nhưng nghĩ về khía cạnh xấu, dưới hoàn cảnh tác chiến tồi tệ lại có thể cấp cơ hội tốt cho chiến sĩ Bí tộc. Khi Biên Hoang tập phủ đầy tuyết làm người ngựa khó đi, chúng ta làm sao mà phản kích được Bí nhân?”

Mộ Dung Chiến cười khổ: “Điều này thì cần nhờ vào cái đầu của mọi người rồi.”

Hồng Tử Xuân lại nhìn lên bầu trời, nói: “Hy vọng dự đoán của ta lần này không hiệu nghiệm! Ối! Mẹ ta ơi!”

Mộ Dung Chiến chấn động, ngó lên trên.

Trên cao tràn ngập tầng tầng thứ gì đó như bông, lúc rơi xuống như biến thành vô số cánh hoa bị thổi rơi phất phơ theo gió. Sau đó những bông tuyết vốn như lông vũ hóa thành những đóa những nắm tuyết, dày đặc rơi xuống bao phủ mặt đất.

Mộ Dung Chiến thở dài: “Cái này gọi là nói vu vơ mà thành tiên tri, chúng ta gay go rồi.”

Chú thích

* Hồ Hoàng nghĩa là châu chấu Hồ. Ý nói rợ Hồ gây hại như châu chấu (hại mùa màng).

** An nguy tương dịch, họa phúc tương sinh: Bình an và nguy hiểm tác động qua lại như nguyên nhân và kết quả, họa và phúc sinh ra cùng nhau. Ý tổng thể khi đặt hai thành ngữ này cạnh nhau là chỉ những việc do vọng tưởng mà thành thì trái lại sẽ chỉ là mầm mống của tai ương.

 An Ngọc Tình nhìn Yến Phi, khóe môi khẽ hiện một chút tiếu ý, nói: “Không thể tưởng được ngươi trong chưa đầy một ngày thời gian lại tìm đến ta, làm Ngọc Tình có chút bất ngờ.”

Yến Phi thật thà: “Ta cực kỳ phiền muộn, mà cô nương lại là đối tượng duy nhất để ta có thể dốc bầu tâm sự. Những người khác mặc dù là tri giao, nhưng ta có thể cùng bọn họ nói những loại chuyện này sao?”

An Ngọc Tình mỉm cười: “Ta cũng vậy. Nhưng sự khác nhau giữa ta và ngươi là ta căn bản không có bằng hữu, nếu như có thì chỉ có mình ngươi. Mà ngươi lại là người duy nhất trong thiên hạ có thể hiểu rõ ta, đối với ta mà nói, chỉ có cùng ngươi nói chuyện thì mới có ý nghĩa. Không có ngươi, ta sẽ cảm thấy rất cô độc. Bất quá xin hãy yên tâm, ý ta tịnh không phải là tình cảm nam nữ, mà là tình bằng hữu tri kỷ.”

Cùng nàng ta nói chuyện đúng là một loại hưởng thụ, lòng Yến Phi an tĩnh trở lại, quên hết thảy mọi việc bên ngoài tĩnh thất, nói: “Nghe cô nương nói như vậy, trên đời ngoại trừ tiên môn, mọi cái khác với cô nương mà nói đều là không có ý nghĩa sao?”

An Ngọc Tình đáp: “Cũng không phải như vậy, bởi vì chúng ta vẫn là một bộ phận của cái thiên địa kì dị tựa như ảo mộng này. Ví như ta rất hưởng thụ thời gian bây giờ ở cùng một nơi với ngươi, cảm giác mọi thứ đều tràn đầy ý nghĩa, lại có điểm thú vị cực kỳ kích thích. Ngươi sao có thể nói ngoại trừ tiên môn, mọi thứ khác ta đều không thèm để ý tới? Đương nhiên mọi điều này đều là vì tiên môn mà tới.”

Yến Phi cười khổ: “Thú vị? Ta nghĩ rằng một chút cũng không thú vị.”

An Ngọc Tình nhẹ nhàng: “Chế nhạo ta sao? Người ta sau khi sinh ra, thì phải đối mặt tử vong. Có người sợ hãi nó, có người xem nó như chốn trở về, hoặc là coi tử vong như là quá độ. Bất luận có loại thái độ nào, tử vong luôn là bình đẳng, chưa bao giờ có một người nào là ngoại lệ, đã đi thì không thể trở lại. Đối lập với tử vong là sống mãi không chết, nhưng dù cho có thể bất tử thì đã làm sao? Cơn ác mộng mà ngươi đối mặt sẽ vĩnh viễn không dứt, nhìn những người bên cạnh ngươi từng người sinh lão bệnh tử, cứ lặp lại không ngừng như thế. Như vậy chết ngược lại sẽ là sự ban ân cực lớn, là giải thoát tốt nhất.”

Yến Phi ngạc nhiên: “Ta nghĩ cô nương sẽ an ủi ta, như thế này ngược lại như chê ta hiểu biết không đủ. Sống mãi không chết vì sao lại là chuyện bi thảm nhất trần gian?”

An Ngọc Tình phì cười: “Bởi vì ta đã nghĩ ra một phương pháp tự tử diệt cả hình thể và linh hồn cho ngươi, nên cố ý dọa ngươi, thúc ngươi nỗ lực.”

Yến Phi chưa từng thấy qua thần thái kiều mị như vậy ở nàng ta, thấy trước mặt sáng ngời, tinh thần càng phấn chấn, vui vẻ nói: “Nếu ngay cả việc không thể tưởng được như vậy mà cô nương cũng có thể nghĩ ra biện pháp, vậy thì cô nương giống như tái sinh phụ mẫu của Yến Phi ta.”

An Ngọc Tình chậm rãi nói: “Cách dùng từ của hoang nhân các ngươi thật là phóng đại. Ngươi là bằng hữu duy nhất của Ngọc Tình, bằng hữu gặp nạn, Ngọc Tình đương nhiên nghĩa bất dung từ rồi.”

Yến Phi hỏi: “Rốt cuộc là có biện pháp gì?”

An Ngọc Tình bình thản đáp: “Nói thật, đây chỉ là một khả năng, không có người nào hiểu rõ có hữu hiệu hay không, bởi vì trước nay chưa từng ai trải qua. Phương pháp rất đơn giản, đó là dùng 'phá toái hư không' để tự tẫn, chứ không phải mở ra tiên môn. Theo suy đoán của ta, đây là chiêu số duy nhất có thể làm hình thể và linh hồn bị diệt. Ở trong người chúng ta, bất luận hữu hình hoặc vô hình, đều không thể chống chịu lực lượng kinh thiên có thể phá mở hư không vô hình.”

Yến Phi chấn động: “Cô nương nói rất đúng.”

An Ngọc Tình thở dài: “Kỷ Thiên Thiên được yêu như vậy, có thể không hối tiếc rồi.”

Yến Phi nghĩ một chút mới hiểu được hàm ý phía sau hai câu này của nàng ta, chán nản nói: “An cô nương hiểu được nổi khổ của ta rồi.”

An Ngọc Tình hơi xẵng giọng: “Nếu như không rõ thì là đồ ngốc rồi. Tuyệt thế kì chiêu như thế, mà có người lấy để tự sát, không phải là phí của trời sao? Ngươi lại hân hoan nhảy nhót giống như có được báu vật vậy. Ôi! Bất luận là tốt là xấu, tóm lại cần phải thử xem.”

Yến Phi kiên quyết: “Ngu xuẩn cũng được, thông minh cũng tốt, sự thật là ta cũng không rõ lắm sự khác biệt giữa hai cái. Ta chỉ biết hoặc sẽ cũng nàng tiến vào đồng thiên phúc địa, hoặc sẽ cùng nàng chết chung một chỗ. Ta tuyệt sẽ không để nàng đơn độc đối mặt với tử vong.”

Hai mắt An Ngọc Tình lóng lánh đầy vẻ trí tuệ, nhẹ nhàng ôn nhu nói: “Tình yêu cho tới giờ đều là ngắn ngủi, cho dù chung thủy suốt đời này, cũng chỉ là việc phát sinh ngắn ngủi trong một cuộc đời. Kỷ Thiên Thiên là người trí tuệ, nàng ấy sẽ an nhiên tiếp nhận vận mệnh của mình, cũng sẽ cổ vũ ngươi đối mặt với tiên duyên. Trong lòng ngươi thật không nên phải có bất cứ cảm giác áy náy gì.”

Yến Phi hỏi lại: “Vậy bản thân cô nương lại có cách gì?”

Hai mắt An Ngọc Tình lộ ra thần sắc phức tạp như vừa thương mình vừa mất mát, cười khổ đáp: “Mặc dù đã dùng được động cực đơn, nhưng lộ số chân khí của ta lại có thiên hướng thái âm chân thủy. Như theo lời ngươi thì phải dùng thái dương chân hỏa cùng thái âm chân thủy lưỡng cực tương kích, mới có thể khai mở tiên môn. Sợ rằng với sức lực cả đời của ta, cũng không có cách nào luyện thành hai loại tiên thiên chân khí cực đoan tương phản này, mà căn bản là không có khả năng. Ta có thể có cách gì chứ?”

Yến Phi mỉm cười: “Ta bây giờ không có lựa chọn nào khác, chỉ có thể mang toàn lực nghĩ cách khám phá cái bí ảo cuối cùng đó, vả lại cần phải vượt qua lực lượng của tam bội hợp nhất sinh ra, không ngừng phá mở lỗ hổng để một người xuyên qua. Nếu ta thành ý mời cô nương tay nắm tay rời đi, cô nương có nguyện ý cùng chúng tôi đi không?”

An Ngọc Tình khẽ cúi đầu, bình tĩnh nói: “Yến Phi ngươi nghiêm túc à? Phiền não của ngươi lại chưa đủ hay sao?”

Yến Phi từng lời từng lời khẳng định: “Yến Phi ta ở đây lập thệ, một là chúng ta ba người đều li khai, hoặc cả ba đều không đi.”

Thân thể mềm mại của An Ngọc Tình chấn động, ngẩng đầu nhìn chàng, cặp mắt sáng rực, hỏi: “Đó là vì cái gì? Kỷ Thiên Thiên của ngươi sẽ nghĩ như thế nào?”

Gương mặt Yến Phi phát ra vẻ rực rỡ thần thánh, thong dong đáp: “Từ lần đầu gặp cô nương, ta liền cảm thấy giữa chúng ta có một loại duyên phận không thể giải thích được. Nếu không có cô nương trượng nghĩa xuất thủ, ta có lẽ đã thành oan hồn dưới kiếm của Nhậm Dao, và sẽ không có những chuyện sau này. Đến khi ta gặp lệnh tôn, vì lão giải trừ thủy độc, cũng vì vậy làm lão hiểu thông được bí mật của động cực đơn, khiến cô nương có thể ăn được linh đơn, thay đổi thể chất. Ta liền cảm thấy nếu như để cô nương chỉ có thể ngóng nhìn tiên môn than thở, thì là chuyện mà Yến Phi ta sẽ hoàn toàn không thể chấp nhận được. Mối liên hệ giữa chúng ta với nhau, có lẽ cũng là tiên duyên.”

Chàng ngừng một chút rồi nói tiếp: “Còn việc Thiên Thiên sẽ nghĩ thế nào, chúng ta đều không cần lo lắng. Thiên Thiên là một nữ tử rất đặc biệt, sẽ hiểu được mục tiêu của chúng ta đã vượt qua hết thảy sự vật và quan niệm phàm trần thế tục. Thiên Thiên là tình yêu sâu nặng của Yến Phi ta, cô nương lại là hồng nhan tri kỉ của ta. Nếu như chúng ta thật có thể toàn bộ li khai, nắm tay nhau tiến vào tiên môn, đó mới thật là vừa kích thích lại vừa ngoạn mục.”

Hai mắt An Ngọc Tình chớp sáng, cười: “Yến Phi ngươi không cần hứa hẹn gì cả, xem tình huống tương lai rồi sẽ nói sau. Vô luận thế nào, nghe được những lời này của ngươi, Ngọc Tình đã vô cùng cảm kích rồi.”

Yến Phi lắc đầu: “Không. Phải tất cả li khai, nếu không sẽ không ai đi cả. Chỉ có lập quyết tâm như thế, chúng ta mới có cơ hội thành công.”

An Ngọc Tình im lặng một lát, sau đó đôi môi anh đào khẽ mở: “Có thể thật như vậy sao?”

Yến Phi nói: “Nếu An cô nương và Thiên Thiên mỗi người nắm giữ dị năng của thái âm chân thủy và thái dương chân hỏa, thì chúng ta sẽ có tư cách thử một lần.”

An Ngọc Tình im lặng không nói gì.

Yến Phi ngạc nhiên hỏi: “Cô nương không nghĩ đây là một khả năng sao?“

An Ngọc Tình liếc mắt nhìn chàng, cúi đầu nói: “Yến Phi ơi Yến Phi, ngươi dám nghe lời chân tâm không?“

Yến Phi cười khổ: “Nói như vậy, lời nói chân tâm của cô nương khẳng định sẽ làm ta khó tiếp nhận rồi. An cô nương mời nói thẳng, ta đã chuẩn bị nghe.“

An Ngọc Tình nói: “Biện pháp này của ngươi hoàn toàn là nghĩ như thế này: Sức lực của một người có hạn, ba người hợp lại đương nhiên sẽ lớn hơn. Vấn đề là cho dù đúng như sở liệu của ngươi, chúng ta có thể mở tiên môn tiến nhập động thiên phúc địa, cũng chỉ có một mình ngươi có bản lĩnh xuyên qua. Bởi vì ta và Kỷ Thiên Thiên chỉ có một trong hai thứ đó, nên không thể chống lại năng lượng sản sinh ra khi tiên môn mở, sẽ lại tái diễn tình cảnh trước khi thiên địa tâm tam bội hợp nhất, ngươi bị bắn văng ra xa thiếu chút mất mạng. Hơn nữa, có lẽ chỉ có người kết hạ kim đan, đem âm thần hóa thành dương thần, mới có thể xuyên qua tiên môn, tới được phía bên kia. Không có cách nào khác.“

Yến Phi thở dài: “Cô nương nói vậy làm lòng ta cũng nguội lạnh theo. Bất quá ta rất tin tưởng nhất định có biện pháp giải quyết.“

An Ngọc Tình nói: “Mỗi một người tu đạo, đều có loại niềm tin kiên định bất dịch này, mà thật sự bọn họ cuối cùng đều đối mặt thất bại. Mặc dù trên 'thái bình động cực kinh' có sự tích Quảng Thành Tử vũ hóa đăng tiên. nhưng ông ta có thật sự thành công mở ra tiên môn, phá không mà đi hay không, lại không có ai được biết. Giống như sư công người võ công cái thế, trí có thể thông thiên, vẫn phải ngậm hờn mà chết. Con đường này chỉ có thể dùng câu khó như lên trời để hình dung.“

Yến Phi kiên quyết: “Ta dù sao đi nữa cũng muốn thử một lần.“

An Ngọc Tình nói: “Ngươi có nghĩ tới hậu quả không? Ngươi chỉ có thể thử một lần thôi. Nếu không thành công, ngươi sẽ mất cơ hội duy nhất 'phá toái hư không' tiến vào tiên giới hoặc tự tẫn. tiếp đó là cơn ác mộng trường sinh vĩnh viễn không dừng. Ngươi sẽ đối mặt với những việc mà ngươi không muốn gặp nhất.“

Yến Phi đáp: “Bất luận hậu quả như thế nào, ta cũng quyết định làm như vậy. Một là chúng ta ba người tay nắm tay li khai, hoặc là tất cả đều ở lại.“

An Ngọc Tình đột nhiên nở nụ cười, nói: “Bây giờ người ta thật sự tin rằng Yến Phi ngươi có thành ý rồi. Được rồi. Đợi ta suy nghĩ về việc này đã.“

Khi Trác Cuồng Sinh một mình chiếm một bàn, ở trong khoang thuyền ngẩn người nhìn quang cảnh tuyết bay toán loạn bên ngoài, thì Cao Ngạn trở về, thần sắc uể oải, ngồi xuống bên lão.

Trác Cuồng Sinh hỏi: “Nàng ta vẫn không cho ngươi vào sao?“

Cao Ngạn lắc đầu đáp: “Nàng nói sẽ ra tìm ta. Ôi! Phản ứng của nàng cổ quái như thế, thật khiến người ta lo lắng.“

Trác Cuồng Sinh mỉm cười: “Trái lại mới đúng, phản ứng của nàng ta thế mới hợp lí.“

Cao Ngạn thất thanh hỏi: “Hợp lí?“

Khoang thuyền lớn như thế, chỉ có hai bàn có khách nhân ngồi. Những vị khách khác nếu không lên vọng đài, thì cũng ra sàn thuyền ngắm cảnh đẹp tuyết lớn rơi ở hai bờ. Trận tuyết lớn này đến sớm, làm người tới tham quan ngạc nhiên mừng rỡ.

Trác Cuồng Sinh thở dài: “Lần này thì hết rồi!“

Cao Ngạn chấn động kêu lên: “Hết rồi! Ngươi không cần phải dọa ta!“

Trác Cuồng Sinh cười khổ: “Ta không phải nói ngươi và Tiểu Bạch Nhạn hết rồi, mà là nói chúng ta đã mất hết lợi thế rồi. Tuyết rơi lớn như vậy, Phương tổng làm thế nào có thể ngửi được tông tích địch nhân? Ngược lại đối với địch nhân quen chịu khắc khổ lại có lợi.“

Cao Ngạn nói: “Binh tới tướng cản, nước tới đất ngăn, chỉ cần chúng ta có thể duy trì giao thông thủy lộ, thì sợ cái con bà gì? Việc này đợi trở về Biên Hoang tập rồi mới nghĩ vậy. Nói cho ta biết, vì sao phản ứng như vậy của nàng là hợp lí?“

Trác Cuồng Sinh mắng: “Tên tiểu tử này thật là khôn ba năm, dại một giờ, đạo lí đơn giản như thế cũng nghĩ không ra. Dùng tuyệt chiêu của Lưu gia, ngươi cần đứng tại lập trường của người khác mà nghĩ, không cần cả ngày chỉ nghĩ Tiểu Bạch Nhạn yêu ngươi thế nào, làm sao có thể vì ngươi mà bỏ qua hết thảy. Con bà nó! Sự tình đương nhiên không phải như thế. Ở trong lòng nàng ta, ân tình của lão Nhiếp đối với nàng hiển nhiên đủ cả mười phần. Cho nên khi nàng ta hiểu được tiểu tử nhà ngươi cùng với Yến Phi làm lão Nhiếp chịu nhục, nàng ta sẽ sinh ra ý tự trách, cảm thấy là nàng đã hại lão Nhiếp, bởi vậy trong lòng cực kì khó chịu. Chính như theo lời ngươi, giữa sư phụ và tình ái nửa đời còn lại, nàng ta chẳng biết lựa chọn như thế nào. Hiểu chưa?“

Cao Ngạn gãi đầu hỏi lại: “Cái gì gọi là tình ái nửa đời còn lại?“

Trác Cuồng Sinh dùng tư thái chuyên gia chỉ điểm nói: “Đương nhiên là chỉ tình huống giữa ngươi và Tiểu Bạch Nhạn. Nhìn từ bên ngoài, Tiểu Bạch Nhạn đúng là có chút ý tứ đối với ngươi, nhưng lại còn lâu mới đến mức biển cạn đá mòn, mãi không thay đổi con bà gì như ngươi nói. Nhiều nhất chỉ là yêu mến tên tiểu tử đần độn nhà ngươi để cùng ăn uống rong chơi thôi. Không phải dọa ngươi, tình yêu của ngươi và Tiểu Bạch Nhạn đang ở bên bờ nguy hiểm, thành hay bại, toàn là phải xem thành ý của ngươi.“

Cao Ngạn ngẩn ngơ hỏi: “Thành ý? Lão tử ta còn chưa đủ thành ý sao?“

Trác Cuồng Sinh trợn mắt nhìn gã, thở dài: “Cái gọi là thành ý của ngươi, chỉ là đều vì lo nghĩ cho chính ngươi, đều là cái gì tình nguyện một phía. Con bà nó, loại thái độ chỉ lo cho bản thân này của ngươi phải thay đổi đi, chuyển qua suy nghĩ cho Tiểu Bạch Nhạn, mới có thể làm nàng ta cảm thấy ngươi đặt nàng ở vị trí quan trọng nhất.“

Cao Ngạn lộ ra thần sắc suy tư ngoài ý liệu của lão, gật đầu: “Những lời này của lão rất có đạo lý. Ta không thể chỉ lo cho cảm giác của mình, mà lơ là cảm nghĩ của nàng. Nàng có hoàn cảnh của nàng, có lo lắng và phiền não của nàng. Đúng! Ta cần nghĩ cách hiểu được nàng, giải quyết phiền não cho nàng. Ha! Lão tử ta có nên chịu đòn nhận tội với lão Nhiếp của nàng, cầu lão nhân gia của nàng đại nhân đại lượng, tha thứ tiểu tử ta đã mạo phạm hay không? Hắc! Ta nói không đúng sao? Vì sao lão lại nháy mắt ra hiệu như thế, đau bụng phải không?“

Trác Cuồng Sinh giả ra vẻ mặt sắp chết.

Cao Ngạn cuối cùng cũng phát giác ra, quay đầu lại nhìn, lập tức vừa mừng vừa sợ.

Tiểu Bạch Nhạn chu cái miệng nhỏ nhắn đang đứng ở sau gã, nhẫn nại nhìn hai người cười nói: “Ta cái gì cũng không nghe thấy. Đến đây! Đói bụng rồi! Có cái gì ngon không?“

Yến Phi rời khỏi tĩnh viện mà An Ngọc Tình ở nhờ, đặt chân lên Quy Thiện viên, trong lòng đã nhẹ nhàng hơn.

Chàng mặc dù đã tự mình hạ mục tiêu xuống cơ hồ không có khả năng đạt được, nhưng ít ra cũng có phương hướng cố gắng phấn đấu, cuộc sống vì thế mà cũng trở nên thú vị trở lại. Đối với An Ngọc Tình chàng có một phần cảm tình sâu sắc, bao gồm cả cảm kích, kính trọng và quan hệ nam nữ vi diệu khó hình dung được. Chàng đương nhiên tuyệt đối không phải là thay đổi tình cảm, đối với Kỷ Thiên Thiên chàng vẫn vĩnh viễn không thay lòng, nhưng giữa nam nữ ngoại trừ ái tình, cũng có thể có thứ khác.

Yến Phi đang bước lên tiểu kiều trong viên, đột nhiên đứng lại, nhẹ nhàng nói: “Ra mặt đi!“

Lư Tuần hiện thân ở đầu kia tiểu kiều, hai mắt sáng rực tia sáng khác lạ, nhìn chàng không chớp mắt, bình tĩnh nói: “Lần này ta nhận được phi cáp truyền thư của Thiên Sư, nhờ ta nhắn một tin cho Yến huynh.“

Yến Phi thầm nghĩ việc phải đến thì cuối cùng sẽ đến, muốn tránh cũng không được, thầm thở dài một hơi, nói: “Lư huynh xin cứ nói.“

Lư Tuần mỉm cười: “Yến huynh là người thông minh, chắc đã đoán được là chuyện gì. Bất quá trước khi nói ra, ta lại muốn lĩnh giáo trước, xem Yến huynh thật có tư cách khiêu chiến Thiên Sư hay không. Đây tất cả đều là chủ trương của cá nhân ta, không có quan hệ với Thiên Sư.“

Yến Phi cười ha hả: “Lư huynh cứ suy nghĩ cho kỹ, vì ta thật sự có lòng giết huynh, chỉ là ngại huynh là sứ giả nhắn tin, hạ độc thủ với huynh tựa hồ thiếu phong độ. Nhưng nếu Lư huynh chịu cho ta tiện nghi như vậy, ta tuyệt đối sẽ không bỏ qua cơ hội này. Mời Lư huynh!“

Lư Tuần lộ ra vẻ nghi hoặc, ngạc nhiên: “Yến huynh chắc không biết ta đã luyện thành Hoàng thiên đại pháp, muốn giết ta không thể dễ dàng như vậy đâu.“

Yến Phi chậm rãi nói: “Lư huynh có cân lượng gì ta đương nhiên biết rõ. Nếu không, lệnh sư sao lại bớt thời gian trong trăm việc bận đến thù tiếp ta? Lư huynh không phải đã thay đổi chủ ý chứ? Muốn động thủ thì nhanh lên, còn có chuyện khác chờ ta đi làm.“

Lư Tuần không chút giận dữ, dùng tinh thần dò xét chàng, đồng thời thúc phát chân khí, như bức tường đẩy về phía Yến Phi, nói: “Trước khi động thủ, ta muốn thỉnh giáo Yến huynh một chuyện.“

Yến Phi vận động chân dương chân âm trong cơ thể. Chân khí của Lư Tuần công tới không thể ảnh hưởng chút gì tới chàng, chàng giống như núi non cao lớn trước một cơn lốc, sừng sững bất động. Nói: “Ngươi vì sao cho rằng ta sẽ trả lời ngươi?“

"Keng!"

Điệp Luyến Hoa rời vỏ.

Muốn giết Lư Tuần, kẻ đã luyện thành Hoàng thiên đại pháp, chỉ có một biện pháp, đó là bức y đối đầu với tiên môn quyết, sau đó xem y có thể chịu được bao nhiêu kiếm.

Điệp Luyến Hoa hóa thành vệt dài, bắn về phía Lư Tuần.

Cao thủ quyết đấu, lúc đầu sẽ dùng chiêu số đánh bừa, để dò xét nông sâu của đối phương, rồi mới đề ra chiến lược sách thuật tấn công, phòng thủ. Cho nên nếu đối thủ ra thủ pháp lấy cứng đối cứng, thế nào cũng không được né tránh. Nếu không, chẳng những mất thân phận, mà còn mất đi khí thế, vậy chẳng khác nào tự nhận không có công lực đối đầu.

Yến Phi chính là lợi dụng điểm này, trước tiên về mặt đối đáp không nhường nửa bước, cố ý chọc giận Lư Tuần. Mặc dù thành công không lớn, nhưng cũng tạo ra bầu không khí khiến Lư Tuần không thể không bộc lộ công phu thực sự. Trừ phi Lư Tuần là kẻ không cần thể diện, nếu không đều sẽ không thể tránh trái né phải không giao chiến.

Nếu có thể giết chết Lư Tuần, đối với Thiên Sư sẽ tạo thành đả kích nghiêm trọng, đối với Lưu Dụ sẽ cực kì có lợi. Cho nên Yến Phi nói thẳng với Lư Tuần là có ý giết y, tuyệt không phải chỉ là nói suông.

Lư Tuần quả nhiên hai mắt sát khí bừng lên, đạo bào toàn thân phồng lên, hai mắt tử mang cực thịnh, hiển thị y trong phút chốc đã vận Hoàng thiên đại pháp đến cực hạn, đồng thời chân đạp kì bộ, lao vọt tới, song quyền đánh ra.

Nếu đổi lại là một cao thủ bậc nhất khác, sẽ cho là Lư Tuần muốn dùng quyền phải trọng kích kiếm phong, một quyền khác thì phòng chỗ hở của đòn công kích, là chiêu Liên tiêu đái đả.

Thêm một cấp bậc nữa, e rằng cả thứ tự đối phương ra quyền trước sau cũng không biết rõ lắm.

Nhưng cao minh như Yến Phi, lại nhìn ra chiêu này của Lư Tuần ngầm chứa càn khôn, không đơn giản như bên ngoài. Bởi vì chàng không những cảm ứng được phân bố công lực của Lư Tuần, quyền trái đánh sau là chính, mà còn có lưu lại dư lực.

Yến Phi trong lòng thầm khen, Lư Tuần đúng là được Tôn Ân chân truyền. Một chiêu vô cùng đơn giản, bên trong lại biến hóa ngàn vạn, bao hàm cả kế dụ địch và mê hoặc địch.

Điệp Luyến Hoa nguyên thức không thay đổi, đâm thẳng tới. Nhưng trên thực tế đã sinh ra biến hóa vi diệu, trì hoãn lại một chút.

Lư Tuần sinh ra cảm ứng, hét lên một tiếng, quyền trái đột nhiên biến mất. Nguyên lai là ống tay áo rộng thùng thình cuốn về phía trước, bao phủ lấy quyền đầu, quyền phải lại nhanh chóng thu về sau ba tấc.

Ống tay áo chứa đầy kình khí, phát sau mà tới trước quất, đánh vào kiếm phong của Điệp Luyến Hoa. Nếu bị chiêu này quất trúng, cho dù cái Yến Phi dùng chính là tiên môn quyết, cũng phải bị đòn quất của y đánh cho bảo kiếm lệch sang một bên. Như vậy Lư Tuần sẽ có thể đem kình lực chuyển sang quyền phải, thừa cơ đánh vào, làm Yến Phi trọng thương, chí ít cũng có thể đoạt được ưu thế trên cơ.

Yến Phi hừ lạnh một tiếng, Điệp Luyến Hoa sinh ra biến hóa khi đang ở tốc độ cao, hóa thế đâm lúc trước thành hất ngang, nhắm vào giữa ống tay áo rộng của Lư Tuần đang mạnh mẽ đánh tới.

Thủy hỏa tại kiếm phong giao kích, bộc phát tiên môn kình.

"Bùng!"

Ngoài ý liệu của Yến Phi, ống tay áo của Lư Tuần không bị hai đạo chân khí thái dương thái âm hoàn toàn tương phản đánh nát thành bụi phấn, chỉ là bị thụt vào trong, hiện ra hình dạng quyền đầu giấu bên trong. Tiếp đố Lư Tuần hồn thể bị chấn động, văng xéo ra, rơi xuống bên cạnh một bụi trúc ở ngoài ba trượng.

Yến Phi cũng bị lực phản chấn của y chấn lùi nửa bước, không thể thừa thế truy kích.

"Choeng!"

Điệp Luyến Hoa trở vào trong bao.

Lư Tuần sau khi rơi xuống đất vẫn phải lùi một bước, hoảng sợ hỏi: “Đây là công phu gì?”

Yến Phi như không có chuyện gì, mỉm cười đáp: “Muốn biết đây là công phu gì, hãy trở về hỏi Tôn Ân đi! Lư huynh đúng là đã được chân truyền Hoàng thiên đại pháp, rất hiếm có.”

Lư Tuần lúc này trên mặt mới hồi phục huyết sắc, rõ ràng y có năng lực đỡ được một chiêu Tiên môn quyết, hai mắt bắn ra thần sắc kinh nghi bất định, trầm giọng: “Ta không thể không thừa nhận Yến huynh có tư cách khiêu chiến Thiên Sư, trận này coi như xóa bỏ. Thế nào?”

Yến Phi trong lòng kêu đáng tiếc, bất quá đối phương chung qui cũng là sứ giả truyền tin, nếu bức y động thủ thì có phần thiếu phong độ, trừ phi y tự động mời mọc. Hơn nữa chàng lo lắng thêm một tầng, công lực của Lư Tuần lúc đó sẽ trên cả Sử Cừu Ni Quy. Nếu như muốn giết y, tất phải dùng Tiên môn quyết. Nếu như dùng đến cực hạn, tổn hao chân nguyên khẳng định sẽ cực kì nghiêm trọng, còn có thể phản ngược lại đả thương bản thân. Như thế thì chẳng có cách nào tốc chiến tốc thắng với Tôn Ân, để mau chóng trở về Biên Hoang tập.

Nói khác đi, muốn giết được Lư Tuần tuyệt không phải là việc dễ dàng. Cái đó gọi là hành gia một khi xuất thủ, sẽ biết có được hay không. Chỉ từ một chiêu chặn kiếm này của Lư Tuần, thì cũng biết lộ số của y quỷ biến đa kì, rất khó nắm bắt, muốn túm lấy chỗ yếu hại của y cũng sẽ là chuyện phi thường gian khổ.

Yến Phi thong dong nói: “Vậy tùy theo tôn ý.”

Lư Tuần thở dài: “Mặc dù ta và Yến huynh thời gian qua ở vào lập trường đối địch, nhưng ta rất tán thưởng Yến huynh. Nói ra có lẽ Yến huynh không tin, bây giờ chuyện mà ta muốn nhất, không phải là giết Yến huynh, mà là muốn cùng Yến huynh đến một tửu quán, ngồi xuống nâng cốc nói chuyện vui vẻ, thảo luận các loại vấn đề nan giải của võ học.”

Hắn lại nói tiếp: “Sự thật là từ khi ta được Thiên Sư truyền thụ Hoàng thiên đại pháp, thì suốt ngày chìm đắm trong trời đất của võ học, hết thảy chuyện khác đều trở nên không quan trọng nữa.”

Yến Phi ngạc nhiên: “Nguyên lai Lư huynh lại có ý nghĩ này, đúng là ngoài suy nghĩ của ta. Trong ấn tượng của ta, Lư huynh trước nay là người máu lạnh vô tình, là loại người vì cầu thành công mà không từ thủ đoạn.”

Lư Tuần nghiêm mặt nói: “Người vẫn là người, vẫn có huyết nhục và tình cảm. Yến huynh cũng không phải là ta, nên sẽ không hiểu được cừu hận của thế tộc bổn thổ Đông Ngô chúng ta đối với Tấn thất. Không nói nhiều nữa, Thiên Sư nhờ ta truyền lời với Yến huynh, Thiên Sư sẽ ở ngọn núi cao nhất Phiêu Miểu phong của Thái Hồ tây sơn đợi Yến huynh mười ngày. Mời Yến huynh phó ước đúng hạn.”

Yến Phi gật đầu: “Ta biết rồi!”

Chàng thấy Lư Tuần muốn nói lại thôi, mỉm cười nói: “Lư huynh trong lòng có nghi vấn gì, cứ nói ra, xem ta có thể hồi đáp được không.”

Lư Tuần lập tức hoàn toàn tiêu tan địch ý, vui vẻ nói: “Trước tiên muốn đa tạ hảo ý của Yến huynh. Cái ta muốn hỏi chính là lúc Yến huynh với Thiên Sư quyết chiến lần thứ hai, rốt cuộc đã phát sinh chuyện gì? Thiên Sư sau khi trở về, như biến thành một người khác, đối với chuyện của Thiên Sư đạo từ đó phẩy tay không để ý nữa.”

Yến Phi khó khăn đáp: “Ta nên trả lời như thế nào? Có thể nói như thế này. Do cơ duyên xảo hợp, khi quyết chiến chưa phân thắng bại thì đã kết thúc. Nhưng lệnh sư lại ngoài sở liệu của ta biết được việc thành tiên thành thánh tuyệt không phải là chuyện si tâm vọng tưởng, cũng có thể nói là lệnh sư đột nhiên giác ngộ được chí đạo.”

Lư Tuần ngây người một lúc rồi thi lễ: “Đa tạ Yến huynh chỉ điểm.”

Sau đó lập tức rời đi.Sảnh phía đông, Tổng đàn Đại Giang bang, Biên Hoang tập. Năm người Giang Văn Thanh, Mộ Dung Chiến, Hồng Tử Xuân, Lưu Mục Chi và Vương Trấn Ác ngồi xung quanh bàn. Bên ngoài cửa sổ mưa tuyết rơi xuống biến cả trời đất thành một mầu trắng thuần khiết. Trong lòng bọn họ lúc này tâm tình lại rất trầm trọng.

Tin tốt duy nhất là nhận được phi cáp truyền thư của Trình Thương Cổ trên Hoang Mộng tam hào gửi đến báo tin chuyện đẩy lùi được Hướng Vũ Điền. Bất quá mọi người không có ai tỏ ra hân hoan bởi vì Hướng Vũ Điền càng ngày càng trở nên lợi hại, muốn đến là đến, muốn đi là đi, không ai cản trở được y.

Hồng Tử Xuân nói: “Tên gia hoả này không biết đã khôi phục lại công lực được chưa?”

Hắn hỏi câu này cũng chính là biểu hiện thái độ hoài nghi của hắn, vì vậy hy vọng có được câu trả lời.

Vương Trấn Ác đáp: “Căn cứ theo thời gian thì y đã vội vã lên đường sau khi ta quay lại Biên Hoang tập. Trừ phi y có bản lĩnh khôi phục công lực trong lúc đang phi hành trên đường, nếu không y căn bản không có thời gian rỗi để luyện công.”

Trong lòng mọi người đều căng thẳng. Hướng Vũ Điền không ở trong trạng thái tốt nhất mà đã khó đối phó vậy. Lúc y ở trạng thái tốt nhất thì sẽ như thế nào? Bọn họ không dám tưởng tới.

Mộ Dung Chiên đưa mắt nhìn ra không gian trắng xoá mênh mông ngoài cửa sổ rồi nói: “Phương tổng lần này khẳng định phải tay trắng trở về. Bọn ta tính toán sao đây?”

Vương Trấn Ác trầm giọng đáp: “Chúng ta phải thu hẹp chiến tuyến lại. Chuyện này phải nói đến hai mặt. Trước tiên chúng ta phải tăng cường chuyện phòng ngự của bản thân Biên Hoang tập đề phòng Bí nhân đến xâm phạm. Hướng Vũ Điền là kẻ thông minh, ngày nào y chưa hiểu được phương pháp bọn ta có thể nắm được hành tung của y, ngày đó y sẽ không dám mạo hiểm. Nếu quả y có đảm lược tiến vào Biên Hoang tập, chiếc mũi linh diệu của Phương Tổng sẽ dạy cho y biết thế nào hối hận không kịp.”

Hồng Tử Xuân gật đầu nói: “Đúng! Kể cả khi Bí nhân toàn lực đến tấn công, với thật lực của chúng ta, bọn chúng chỉ như trứng chọi đá mà thôi. Muốn đến đây phá sao? Chính là điều bọn ta đang mong mỏi, còn hận sao chúng lại không đến.”

Lưu Mục Chi cười nhẹ: “Vì vậy tình huống vẫn chưa phải là quá tồi tệ.”

Vương Trấn Ác nói: “Mặt khác bọn ta phải tập trung lực lượng bảo hộ giao thông trên Dĩnh Thuỷ. Chỉ cần thuỷ lộ thông suốt, Biên Hoang tập có thể bảo trì được sự hưng thịnh. Bất luận là Yên nhân hay Bí nhân đều không giỏi thuỷ chiến. Đội chiến thuyền của chúng ta có thật lực để duy trì giao thông thuỷ lộ.”

Khi đường bộ bị tuyết phủ khó đi, Dĩnh Thuỷ trở thành tuyến giao thông quan trọng của Biên Hoang tập, cũng thành tính mệnh của Biên Hoang tập. Nếu Dĩnh Thuỷ bị cắt đứt, tình huống khó mà tưởng tượng nổi.

Giang Văn Thanh thở dài một hơi, muốn nói mà không ra lời.

Mọi người đều hiểu tâm sự của nàng. Vì phải chi viện cho Lưu Dụ và Đồ Phụng Tam ở phương Nam, Đại Giang bang đã điều một lượng lớn chiến thuyền và chiến sỹ đi. Lực lượng thuỷ sư hiện thời trở thành bạc nhược, chắc chắn không thể làm được cả hai việc là phòng thủ và đảm bảo an ninh trên Dĩnh Thuỷ.

Muốn đóng chiến thuyền mới lại không thể không tìm mua vật liệu ở phương Nam. Nhưng tiền bạc của Đại Giang bang đang thiếu thốn, thành ra khó khăn.

Lưu Mục Chi nói: “Thành trì ở bờ bắc Tứ Thuỷ danh nghĩa là vào trong tay người Yên nhưng trận cước của người Yên vẫn chưa ổn định, vô lực mở rộng phạm vi ảnh hưởng ra xa. Vì vậy hiện giờ bọn ta vẫn có thể dựa vào những Hoang nhân huynh đệ của mình đến phương Bắc mua hàng về rồi giao dịch với phương Nam. Nhưng Mộ Dung Thuỳ chắc chắn không muốn thấy chuyện này. Không sớm thì muộn hắn sẽ tìm cách phong toả liên hệ với phương Bắc của bọn ta.”

Hồng Tử Xuân lắc đầu: “Chỉ cần có lời lãi là không ai có thể hoàn toàn phong toả chuyện làm ăn giữa người phương Bắc và bọn ta. Lần này toàn quân của Mộ Dung Bảo bị diệt. Đại Yên tổn thất tám vạn tinh binh. Mộ Dung Thuỳ vẫn phải trú binh ở Quan ngoại đề phòng quần hùng ở Quan Trung xuất quan tranh thắng. Chiến tuyến ở Bình Thành và Nhạn Môn cũng cần rất nhiều quân lính. Hắn muốn phong toả bọn ta tưởng dễ thế sao?”

Lưu Mục Chi thở dài: “Vấn đề chính là ở mùa tuyết thu đến sớm này. Làm cho Dĩnh Thuỷ trở thành yếu đạo giao thông duy nhất. Mộ Dung Thuỳ chỉ cần phái người phong toả cửa sông ở Tứ, Dĩnh, thiết lập bảo trại hai bên bờ rồi sau đó khoá chặt đường thuỷ. Bọn ta lập tức rơi vào tình thế hạ phong.”

Mộ Dung Chiến gật đầu: “Đúng! Mộ Dung Thuỳ khẳng định sẽ làm vậy.”

Vương Trấn Ác quyết đoán nói: “Phương pháp ứng phó chính là phải nhanh hơn Mộ Dung Thuỳ một bước chiếm lấy cửa sông. Bọn ta phải chiến thắng trong trận chiến này mới có thể từ bị động chuyển sang chủ động, rồi kéo Mộ Dung Thuỳ tới. Hiện tại ở Biên Hoang tập có rất nhiều vũ khí phòng ngự do người Yên, người Khương để lại. Chỉ cần chúng ta kiến lập được cứ điểm ở cửa sông là có thể thủ vững như Thái Sơn, lại có thể chi viện cho đường thuỷ. Kể cả nếu Mộ Dung Thuỳ toàn lực tấn công, bọn ta cũng có thể tử thủ một đoạn thời gian.”

Lưu Mục Chi cười nhẹ: “Đó là phương pháp phòng ngự tốt nhất, đưa chiến tuyến lên biên giới phía bắc của Biên Hoang. Trong thủ có công. Chỉ cần bọn ta phối hợp tốt ở mọi phương diện, cứ điểm ở cửa sông sẽ giống như Thạch Đầu Thành với Kiến Khang vậy.”

Giang Văn Thanh thở ra một hơi nói: “Nếu vậy bọn ta chỉ cần có mười chiến thuyền có tính năng tốt là có thể bảo vệ được Dĩnh Thuỷ.”

Mộ Dung Chiến đưa ra quyết định cuối cùng nói: “Vậy cứ thế đi. Ta phải đi tìm Thác Bạt đương gia, Hô Lôi đương gia và Cơ đại thiếu gia nói chuyện, xem ý kiến của họ thế nào.”

Hồng Tử Xuân hỏi: “Đối phó với Bí nhân thế nào đây? Làm sao để biến bị động thành chủ động?”

Mộ Dung Chiến đáp: “Nhiệm vụ nặng nề đó cứ để lên người Cao tiểu tử đi. Ở Biên Hoang tập không ai so được với gã về chuyện tra xét tình báo. Thủ hạ của gã có rất nhiều thám tử giỏi. Bản thân Cao tiểu tử nắm rõ Biên Hoang như trong lòng bàn tay. Đối phương kể cả nấp trong Vu Nữ Khâu cũng khó mà lọt qua mắt gã. Bí nhân thuỷ chung vẫn là người ngoài đến đây, phải mất một đoạn thời gian mới nắm rõ được Biên Hoang. Vì vậy trong cuộc chiến tình báo này phải lấy nhanh chế chậm. Kẻ nào nắm được tình huống của đối phương trước, kẻ đó sẽ thắng lợi.”

Hồng Tử Xuân lắc đầu than: “Ài! Cao tiểu tử! Đầu óc gã giờ bị Tiểu Bạch Nhạn chiếm hết rồi.”

Giang Văn Thanh nói: “Nếu quả Biên Hoang tập bị huỷ, ‘Tiểu Bạch Nhạn chi luyến’ của gã cũng không thể hoàn thành được.”

Lưu Mục Chi bỗng nhiên hiểu ra nói: “Nghe lời Chiến soái nói vừa rồi ta mới hiểu rõ vị trí của Cao thiếu gia trong lòng Hoang nhân. Không lạ khi Hướng Vũ Điền quyết ý hành thích Cao thiếu gia như vậy, bởi vì gã chính là người Hướng Vũ Điền cố kỵ nhất.”

Vương Trấn Ác hỏi: “Hiện tại Tiểu Bạch Nhạn đã đến đây. Gã có thể phân thân sao?”

Giang Văn Thanh nói: “Đến lượt gã lựa chọn sao? Sự tình có việc nhanh việc chậm mà.”

Lưu Mục Chi nói: “Chuyện Bí tộc là cấp bách thì không cần phải bàn. Nhưng nếu như gặp phải Hướng Vũ Điền, Cao thiếu gia tất sẽ hung đa cát thiểu.”

Mộ Dung Chiến cười: “Lão cứ an tâm! Trước trận chiến Phì Thuỷ do có Yến Phi bảo hộ cho gã nên không ai dám động thủ với Cao tiểu tử ở trong Biên Hoang tập. Ai cũng tìm cách đợi khi Cao tiểu tử ra ngoài Tập làm việc thì thu thập gã. Có điều đến tận bây giờ vẫn chưa ai làm gì được. Tiểu Bạch Nhạn kia là ngoại lệ duy nhất. Tiểu tử đó tự có biện pháp sinh tồn ở Biên Hoang. Gã theo dấu người khác thì dễ, người khác muốn theo dấu gã khó bằng lên trời.”

Rồi hắn lại nói tiếp: “Cứ quyết định vậy đi. Khi Cao tiểu tử quay lại cũng là lúc triển khai việc dò xét toàn diện ở Biên Hoang. Việc tiến chiếm cửa sông do đại tiểu thư và Trấn Ác phụ trách. Khi nào chuẩn bị xong thì lập tức xuất phát.”

Mọi người lớn tiếng đáp ứng.

Yến Phi quay về Thanh Khê Tiểu Trúc không thấy Tống Bi Phong, cũng không thấy Đồ Phụng Tam và Khoái Ân, chỉ có mỗi mình Lưu Dụ đang ngồi ngây ngốc trong phòng.

Yến Phi ngồi xuống cạnh gã hỏi: “Tống đại ca chưa quay về sao?”

Lưu Dụ quay sang nhìn chàng, khôi phục lại thần sắc trả lời: “Tống đại ca ra ngoài tìm các bằng hữu bang hội giúp đỡ tìm hiểu một vài việc. Ngươi vừa rồi đến không thấy Tống ca đi sao?”

Yến Phi không trả lời mà hỏi lại: “Ngươi sao lại có bộ dạng nghĩ ngợi thế?”

“Ầm!”

Lưu Dụ vỗ tay xuống mặt bàn làm Yến Phi cũng phải ngạc nhiên, sau đó mới đau khổ nói: “Lòng ta vô cùng thống khổ, thật hận!”

Yến Phi thở dài hỏi: “Vẫn chưa bỏ được sao?”

Lưu Dụ hằn học đáp: “Chuyện này có thể bỏ đi được sao? Đạm Chân … Ôi! Ta thật sự không muốn nghĩ đến. Những lời này ta chỉ có thể nói với riêng ngươi. Có một ngày ta sẽ tự thân giết chết Hoàn Huyền và Lưu Lao Chi, vì Đạm Chân tẩy rửa sỉ nhục.”

Yến Phi nói: “Sống trong cừu hận không phải là giải pháp. Ta đã từng kinh qua tư vị đó, ăn không ngon, ngủ không yên. Lưu huynh sao không đem tinh thần vào mục tiêu và lý tưởng cao xa mang hạnh phúc đến cho khổ dân ở phương Nam đi.”

Lưu Dụ đáp: “Ta hiểu điều đó. Sự thật ta đã khá hơn rất nhiều. Chỉ là hai ngày qua lại phóng tâm nghĩ ngợi nên mới có nhiều cảm xúc như vậy. Có lẽ việc ta không cần phải giấu ngươi nên mới dễ dàng bộc lộ tình cảm trong nội tâm mình ra ngoài. Nhưng quả là mỗi khi nghĩ đến Đạm Chân ta lại khó mà khống chế được bản thân.”

Yến Phi đáp: “Tâm bệnh phải dùng đến tâm dược. Chẳng lẽ không ai có thể thay thế vị trí của Đạm Chân trong lòng ngươi sao?”

Trong đầu Lưu Dụ không ngờ trước tiên lại nghĩ đến Tạ Chung Tú, sau đó là Giang Văn Thanh rồi cuối cùng là Nhậm Thanh Thị. Điều đó làm gã bản thân cũng phải giật mình.

Sao lại không phải là Giang Văn Thanh? Mỹ nữ đó với gã tình thâm nghĩa trọng. Bản thân nàng cũng không có gì phải chê trách, tài sắc song toàn, khẳng định sẽ là vợ hiền, dâu thảo.

Lờ mờ gã nắm được nguyên nhân đằng sau lại vậy. Đó là vì Tạ Chung Tú chính là một Vương Đạm Chân khác. Cũng kiểu khóc cười đậm tính nữ nhi nhà cao môn đại tộc đó làm gã khi đã ôm nàng rồi thì cảm thấy tư vị ngây ngất tưởng không bao giờ quay lại kia lại ùa về. Ôm ấp Tạ Chung Tú giống như ôm ấp Vương Đạm Chân. Cảm giác yêu thương ôm ấp Đạm Chân gã từng trải qua đó, không ai ngoài Chung Tú có thể thay thế được.

Lưu Dụ trong lòng nảy sinh ra cảnh báo nguy hiểm.

Tạ Chung Tú tuyệt không thể động vào.

Cao môn đại tộc Kiến Khang có thể chấp nhận gã là một Thống soái quân sự kế tục Tạ Huyền, nhưng tuyệt không thể chấp nhận thân phận hàn môn áo vải như gã lại cưới thiên chi kiều nữ của cao môn đại tộc được.

Giống như Đồ Phụng Tam đã nói, chỉ có thể trở thành Hoàng đế cửu ngũ chí tôn, gã mới có thể vượt qua cấm kỵ không thể vượt qua giữa cao môn và hàn tộc.

Yến Phi hỏi: “Ngươi đang nghĩ gì vậy?”

Lưu Dụ trong lòng phát lạnh. Bản thân có ý nghĩ đó làm gã phải chấn kinh.

Không!

Tạ Chung Tú tuyệt không thể động vào, nghĩ tới cũng không được, hơn nữa gã còn từng trước mặt Đồ Phụng Tam và Tống Bi Phong nói rõ ràng.

Lưu Dụ cười khổ: “Nói ra được quả là dễ chịu. Không có nghĩ gì đâu. Ngươi vẫn chưa trả lời câu hỏi của ta.”

Yến Phi bình tĩnh đáp: “Ta vừa gặp Lư Tuần.”

Lưu Dụ ngạc nhiên.

Yến Phi đem việc gặp Lư Tuần thế nào ra kể lại, cuối cùng nói: “Cuộc chiến với Tôn Ân tuyệt không thể tránh khỏi. Chỉ cần ta không chết sẽ quay lại Biên Hoang tập.”

Lưu Dụ lo lắng: “Nghe lời ngươi nói tựa như không có tín tâm nhiều.”

Yến Phi cười khổ: “Đối đầu với nhân vật như Tôn Ân, ai dám mạnh miệng nói sẽ thắng? Cũng may võ công ta mỗi ngày lại tiến bộ, giúp ta càng có lực.”

Lưu Dụ nói: “Yến Phi sẽ không thua.”

Yến Phi hỏi: “Cũng mong là như vậy! Tình hình của ngươi thế nào?”

Lưu Dụ hồi phục lại trạng thái bình thường, hai mắt lấp lánh những tia kỳ dị, trầm giọng đáp: “Ta đã đến thời khắc quan trọng nhất trong cuộc đời. Thành hay bại không còn phụ thuộc vào thái độ của Tư Mã Đạo Tử với ta nữa mà phụ thuộc vào việc ta có thể đánh bại Thiên Sư quân hay không. Phụng Tam đã giúp ta định ra chiến thuật và sách lược. Con đường này tịnh không dễ đi, nhưng ta sẽ kiên trì mà bước đến khi ta chính thức thành người mà cao môn và hàn tộc không ai còn hoài nghi nữa. Khi đó ta coi như đã thành công bước đầu.”

Yến Phi ngạc nhiên hỏi: “Vậy mà chỉ là thành công ban đầu sao?”

Lưu Dụ đáp: “Đây là con đường rất dài. Giải quyết xong Thiên Sư quân, còn có vấn đề khó khăn là Hoàn Huyền. Thế lực của Hoàn Huyền và Nhiếp Thiên Hoàn mỗi ngày một lớn trong khi bọn ta trong cuộc đại chiến với Thiên Sư Quân không tránh khỏi tổn thất. Trong cuộc chiến lâu dài này, bọn ta phải có sách lược linh hoạt, mới có thể đoạt được hy vọng thắng lợi cuối cùng trong tay.”

Sau đó gã lại hỏi: “Ngươi định khi nào thì đi Thái Hồ?”

Yến Phi trầm ngâm đáp: “Phải xem tình huống rõ ràng mới có thể quyết định được.”

Lưu Dụ nói: “Lại phải chia tay với ngươi rồi. Ài! Khó mà chia tay ngươi được. Chỉ vài ngày tới bọn ta sẽ đến tiền tuyến tìm một cứ điểm thích hợp. Ha ha! Xém chút thì quên không nói với ngươi. Tư Mã Nguyên Hiển tối nay thết tiệc ở Hoài Nguyệt lâu tẩy trần cho Yến Phi ngươi, cũng để tiễn bọn ta! Có chuyện gì cũng phải đến dự một phiên.”

Yến Phi cười khổ không nói được gì.

Chú thích

* Nguyên là “Binh lai tương đáng, thủy lai thổ yểm”. Ý nghĩa là phải căn cứ vào tình huống cụ thể mà ra biện pháp thích hợp. Thành ngữ này có từ đời Nguyên. Tuy nhiên văn Huỳnh Dị vẫn thường dùng điển tích, câu thơ hay thành ngữ của đời sau dùng cho đời trước. Trường hợp này chỉ là tiêu đề nhưng nhiều lúc trong câu nói của nhân vật trong Biên Hoang lại dùng nguyên một câu thơ ở đời sau. Có lẽ tác giả vì muốn sử dụng hết kho tàng văn hóa của dân tộc mà làm như vậy chăng?

 Trường Tử thành, hoàng hôn.

Chủ tì Kỷ Thiên Thiên sau khi ăn xong bữa tối đến tiểu đình trong vườn ngồi trò chuyện. Từ ngày hôm kia, khí trời bắt đầu chuyển lạnh, cả hai người đều mang áo ngự hàn ấm áp.

Kỷ Thiên Thiên nói: “Mùa thu chưa tới mà khí trời đã lạnh như vậy rồi. Năm nay mùa đông phương Bắc dường như có tư vị khác.”

Tiểu Thi cúi đầu bước.

Kỷ Thiên Thiên giận dỗi: “Nha đầu này, lại đang nghĩ gì đó?”

Tiểu Thi nhẹ nhàng nói: “Tiểu thư hôm nay tâm tình rất tốt đó!”

Kỷ Thiên Thiên thầm nghĩ sáng này vừa mới cùng Yến lang “tương hội”, tâm tình đương nhiên là vui vẻ rồi. Nàng cảm khái nói: “Con người khi đối diện với nghịch cảnh, không chỉ cần phải kiên cường, mà còn cần phải giữ cho tâm hồn luôn thư thái, lạc quan, mới có thể có cơ hội xoay chuyển thế yếu.”

Tiểu Thi nhìn nàng hỏi: “Bên ngoài phải chăng lại sắp có chiến tranh?”

Kỷ Thiên Thiên dịu dàng hỏi lại: “Tại sao lại nghĩ đến chiến tranh?”

Tiểu Thi đáp: “Mấy ngày này thấy ai ai cũng khẩn trương, lại rất ít khi thấy hoàng thượng, muội cảm thấy rất sợ hãi.”

Kỷ Thiên Thiên lấy làm lạ hỏi: “Sợ cái gì cơ chứ?”

Tiểu Thi cúi đầu đáp: “Sợ bọn họ sẽ tấn công Biên Hoang tập.”

Kỷ Thiên Thiên than: “Chuyện đó sớm muộn gì rồi cũng xảy ra, chỉ mong Hoang nhân huynh đệ của chúng ta tự có biện pháp ứng phó.”

Tiểu Thi im lặng không nói.

Kỷ Thiên Thiên hiểu rõ tâm sự của Tiểu Thi. Nàng cũng bị thủ đoạn chiến tranh của Mộ Dung Thùy dọa cho chết khiếp, nàng sợ kết cục thảm bại của Mộ Dung Vĩnh sẽ tái diễn với Hoang nhân.

Phong Nương xuất hiện trên con đường lát đá trong vườn, rảo bước về phía bọn nàng.

Kỷ Thiên Thiên một khắc trước khi bà ta hiện thân, sinh ra cảm giác, ánh mắt tự nhiên hướng về phía bà ta, tiếp xúc với nhãn thần của Phong Nương. Trong mắt bà ta hiện xuất tia kinh ngạc.

Kỷ Thiên Thiên thầm kêu hỏng bét, đồng thời trong lòng cảnh giác, sau này cần phải cẩn thận điểm này. Kỷ Thiên Thiên biết rằng loại phản ánh tự nhiên này có thể tiết lộ bí mật về sự đại tiến của công lực bản thân. Nếu như là nàng trước đây, với cự ly còn cách Phong Nương khoảng một trăm bước, thì không thể phát giác bà ta đang tiếp cận trước một bước như vậy.

Phong Nương đến tiểu đình, thỉnh an Kỷ Thiên Thiên trước rồi mới nói: “Hoàng thượng bảo ta đến báo cho tiểu thư biết, sáng sớm ngày mai chúng ta sẽ quay về Huỳnh Dương. Ta đã kêu người chuẩn bị hành trang cho tiểu thư.”

Kỷ Thiên Thiên hờ hững hỏi: “Thiên Thiên còn có quyền tác chủ bản thân nữa sao? Hoàng thượng muốn thế nào thì cứ làm thế ấy thôi!”

Phong Nương hai mắt lộ vẻ bất lực, nói: “Không dám lại làm phiền tiểu thư ...”

Kỷ Thiên Thiên ngắt lời: “Đại nương!”

Phong Nương ngạc nhiên hỏi: “Tiểu thư có điều gì phân phó?”

Kỷ Thiên Thiên quay sang nói với Tiểu Thi: “Thi Thi cứ về phòng trước, ta có vài câu muốn nói với đại nương.”

Sau khi Tiểu Thi vâng lời bỏ đi, Kỷ Thiên Thiên nói: “Mời đại nương ngồi.”

Phong Nương thở dài đáp: “Ta đứng đây cũng được. Tiểu thư nên biết có nhiều việc ta không tiện nói, tiểu thư nếu muốn biết có thể trực tiếp hỏi Hoàng thượng.”

Kỷ Thiên Thiên mỉm cười nói: “Chuyện ta muốn hỏi không có nửa điểm liên quan đến Hoàng thượng, cũng như tình huống hiện nay. Đại nương sẽ không bị gây khó khăn đâu.”

Phong Nương lộ vẻ đau khổ nói: “Chuyện đã qua ta càng không nguyện nói tới, cũng không muốn nhớ lại.”

Kỷ Thiên Thiên tức giận nói: “Được rồi! Nói như vậy chuyện gì ta cũng không cần hỏi. Có chuyện gì mà không phải là chuyện đã qua không?”

Phong Nương mềm lòng lại, thở dài: “Xin tiểu thư cứ hỏi.”

Kỷ Thiên Thiên nở nụ cười làm người ta không cách gì cự tuyệt nổi, nhẹ nhàng hỏi: “Ta chỉ là muốn hỏi chuyện liên quan đến Yến Phi. Đại nương biết mẹ Yến Phi như thế nào?”

Phong Nương hai mắt lộ vẻ thương xót, đáp: “Việc này một lời khó nói hết. Ta đúng là không muốn nói đến, chỉ có thể cho tiểu thư biết chúng ta từng là tỉ muội thân thiết, nhưng đồng thời lại là ... Ôi! Lão thân phải cáo lui rồi! Mong tiểu thư thứ cho.”

Kỷ Thiên Thiên giận dỗi: “Đại nương!”

Phong Nương nói: “Ta đã từng cùng sống với mẹ của Yến Phi trong một khoảng thời gian ở một địa phương rất đặc biệt. Ta đã nhìn thấy tiểu Yến Phi mở mắt chào đời. Ta cũng không biết những ngày tháng đó là khoái lạc hay thống khổ, chỉ hy vọng có khả năng thần bí nào đó có thể xóa đi đoạn ký ức đó trong đầu ta.”

Kỷ Thiên Thiên hỏi: “Ngươi nhất định biết cha Yến Phi là ai?”

Phong Nương sợ hãi cúi đầu nói: “Mong tiểu thư thứ cho lão nhân phải cáo lui.”

Nói xong quay người bỏ đi.

Nhìn theo bóng bà ta xa dần, Kỷ Thiên Thiên băn khoăn trong lòng, phảng phất đoán câu mà Phong Nương chưa nói hết phải là “đồng thời cùng yêu một người đàn ông”, mà người đó chính là cha của Yến Phi. Quan hệ giữa bọn họ tịnh không đơn giản, trong ân có oán, trong yêu có hận, cho nên Phong Nương mới cảm thán không biết đó là khoái lạc hay thống khổ.

Cha của Yến Phi có thể làm cho hai người con gái xuất sắc của Tiên Ti tộc đem lòng yêu mến, khẳng định không phải là một người bình thường. Nhìn Yến Phi bây giờ cũng có thể tưởng tưởng được phong thái của cha chàng ngày ấy.

Ông ta rốt cuộc là ai? Tại sao mẹ Yến Phi lại không bao giờ đề cập đến bất cứ chuyện gì về cha chàng với Yến lang? Trong lòng Kỷ Thiên Thiên đầy rối rắm hoài nghi, hận không thể lập tức đuổi theo Phong Nương hỏi rõ ngọn nguồn. Đương nhiên nàng hiểu việc đuổi theo bà ta cũng không hỏi thêm được chuyện gì, càng không nhẫn tâm bức bà ta thêm lần nữa.

Việc này chỉ có cách tạm thời gác lại.

Thời gian luyện công lại đến rồi.

Ba đại lãnh tụ của Biên Hoang Hồ tộc, Mộ Dung Chiến, Hô Lôi Phương và Thác Bạt Nghi, cùng nhau đến trung tâm của khu hoang phế phía đông nam, nơi quần thể kiến trúc mà Cơ Biệt gọi là “xưởng binh khí”.

Nếu như cần mở cửa làm ăn, khu hoang phế đương nhiên không phải là địa phương lý tưởng. Nhưng để làm công xưởng chế tạo binh khí và hỏa khí thì không nơi nào lý tưởng hơn. Điều hay nhất đây là khu vực rộng lớn bốn phía đầy tường lở ngói tan, tự nhiên trở thành nơi luyện vũ khí và hỏa khí.

Cho nên cái nhà hoang nơi công xưởng binh khí có một qui tắc bất thành văn, đó là cấm người ngoài vào. Nếu như bất hạnh bị trúng thương bởi tên lạc hay hỏa khí thì cũng không thể trách cứ người khác được.

Phòng vệ tại khu hoang phế cũng rất tốt. Mười tòa nhà xưởng lớn được xây bằng gạch và đá, bốn phía có tám tòa vọng lâu cao năm trượng, có thủ hạ của Cơ Biệt luân phiên tuần tiễu, bảo đảm cho an toàn của công xưởng binh khí.

Mộ Dung Chiến đến trước cửa lớn chủ xưởng, cười nói: “Mỗi lần ta đến công xưởng binh khí đều có loại cảm giác cổ quái này. Các ngươi nói xem, ai có thể tưởng tượng một hoa hoa đại thiếu gia như Cơ công tử lại có công xưởng chế tạo lợi khí giết người, sát khí đằng đằng như thế này?”

Các đại hán canh giữ bên ngoài cung kính cúi đầu chào ba người, liền có người chạy vào trong thông báo với Cơ Biệt.

Tuyết lớn đã rơi chậm lại, chỉ còn những bông tuyết là là bay không ngừng nghỉ. Khắp nơi một màu tuyết trắng, vẻ hoang vu của khu hoang phế cũng trở nên tinh khiết hơn.

Hô Lôi Phương nói: “Nghe nói rằng tuyệt nghệ chế tạo binh khí của Cơ đại thiếu gia là gia truyền, nhưng hắn bản tính thích trêu hoa ghẹo nguyệt, suốt ngày cứ phải đối diện với cái lò than nóng bỏng cũng mệt mỏi đây? Đương nhiên hắn phải thay quần áo hoa lệ, đến nơi rộn ràng oanh oanh yến yến, hưởng thụ tư vị ôn nhu khác biệt. Cái này gọi là biết điều tiết cuộc sống, Cơ thiếu gia của chúng ta càng biết hưởng thụ hơn bất cứ ai khác.”

Thác Bạt Nghi không kiềm chế được nghĩ đến Hương Tố Quân. Nàng là người tình ôn nhu của hắn, chỉ có nàng mới có thể làm hắn quên đi tất thảy.

Mộ Dung Chiến cười nói: “Có người nói nữ nhân như được tạo bằng nước. Chỉ có nước mới có thể lấy nhu khắc cương, khắc chế được lửa. Ha ha …”

Cơ Biệt từ cửa lớn chạy ra. Nếu như chưa nhìn qua bộ dạng quần áo hiện tại của hắn, khẳng định trong thoáng chốc không thể nhận ra là hắn đến. Lúc này hắn đang mặc một bộ quần áo tồi tàn bằng vải gai, đeo bên ngoài một cái tạp dề da trâu đầy những vết ố, chân mang ủng dài, đầu quấn một cái khăn dài, không có nửa chút bóng dáng của vẻ phong lưu tiêu sái lúc bình thường.

Hô Lôi Phương cười ha hả: “Đại lão bản cuối cùng cũng tự tay làm, thật khiến người khác không tưởng nổi!”

Cơ Biệt than: “Đại lão bản cái gì chứ, đứng nói nữa! Ta hiện tại tình hình tài chính rất khủng hoảng. Thủ hạ ba trăm nhân mạng chỉ có thể trả một nửa lương. May mà các huynh đệ đều biết ta chỉ là kéo dài thời gian trả nợ, lại vì Biên Hoang tập, mọi người mới khẳng khái nghĩa khí, cùng ta chung vai trong giai đoạn khó khăn này.”

Lại dùng tay lau vết bẩn trên người, hỏi: “Ba vị đại ca hạ cố đến tìm ta có việc gì thế? Đừng nói với ta là trời sập đến nơi rồi nhé, người như ta không chịu nổi kích thích đâu.”

Mộ Dung Chiến hỏi: “Gần gần như vậy. Có nơi nào yên tĩnh có thể nói chuyện không?”

Thác Bạt Nghi nói thêm: “Nơi yên tĩnh chỉ có cách quay lui mà tìm. Tại công xưởng sản xuất binh khí căn bản không thể không nghe thấy âm thanh rèn sắt.”

Cơ Biệt vui vẻ nói: “Nơi yên tĩnh vẫn có chứ, đó là kho chứa binh khí được giấu sâu trong lòng đất. Bất quá ta không quen với việc không còn nghe tiếng rèn sắt và tiếng lò lửa. Đối với ta mà nói đó là những âm thanh kì diệu dễ nghe nhất trên đời này, có thể so sánh với tiếng ca tiếng đàn tao nhã nơi thanh lâu. Ha ha, đi theo ta nào.”

Mọi người đang muốn cất bước thì tiếng vó ngựa gấp gáp từ xa truyền lại.

Ba người quay đầu nhìn lại, một người một ngựa đang phi nhanh tới. Người đang cưỡi ngựa chính là Diêu Mãnh.

Bốn người trong lòng chùng xuống, biết rằng Diêu Mãnh đến vội như vậy, đương nhiên không thể là chuyện gì tốt.

Diêu Mãnh phóng đến trước mặt bốn người, ghìm gấp cương ngựa lại, chiến mã hí vang, dựng đứng người lên.

Hai vó trước chiến mã vừa chạm đất, Diêu Mãnh liền phi xuống, hổn hển nói: “Phương tổng và Đinh Tuyên về rồi.”

Mộ Dung Chiến ngây người hỏi: “Nhanh vậy sao?”

Diêu Mãnh đáp: “Cửa sông Dĩnh Thủy đã bị Mộ Dung Thùy chiếm. Bọn họ là bị bức phải quay về.”

Bốn người đồng thời biến sắc.Cao Ngạn đi về phía đuôi thuyền. Bốn, năm Hoang nhân huynh đệ đang tụ tập ngoài cửa khoang thuyền, nhỏ giọng cười nói. Bọn họ vừa thấy Cao Ngạn từ khoang thuyền đi ra thì lập tức im bặt.

Cao Ngạn tâm tình rất tốt, tuy khó có thể hình dung ra ngôn từ gì nhưng biết rõ bọn họ đang nói về mình. Tuy nhiên gã làm sao có thể chịu thiệt được, giả vờ nổi giận hét lên: “Hảo tiểu tử! Các ngươi dám nói xấu sau lưng ta à.”

Một tên trong bọn nói: “Cao thiếu gia ngươi hiện tại có tài có thế, huynh đệ Dạ Oa tộc bọn ta còn cần phải theo ngươi kiếm miếng ăn, sao dám nói xấu ngươi? Bọn ta là đang ngưỡng mộ ngươi. Tiểu Bạch Nhạn đúng là xinh đẹp, ngọt ngào như mật hoa, chẳng trách gì Cao thiếu gia thần hồn điên đảo.”

Một tên khác tiếp lời: “Cao thiếu gia tuy diễm phúc tề thiên, nhưng huynh đệ bọn ta đều vì ngươi mà lo lắng.”

Cao Ngạn buồn bực rên rỉ: “Lo lắng cái gì?”

Tên đó đáp: “Lo khi Tiểu Bạch Nhạn đá ngươi xuống giường, trong lúc không chú ý đá nhầm chỗ, ngươi có leo lên lại thì cũng không làm ăn được gì.”

Cao Ngạn tức tối chửi: “Ta đi cái con mẹ bọn ngươi!”

Nói xong ngang nhiên quay đi, bỏ lại sau lưng những tiếng cười sằng sặc của bọn kia.

Tuyết vẫn nhè nhẹ rơi, hai bờ Dĩnh Thủy mênh mang một màu tuyết trắng. Tiểu Bạch Nhạn một mình cô độc đứng tại đuôi thuyền ngắm cảnh tuyết mùa thu đến sớm.

Cao Ngạn cảm giác như những nỗ lực, chờ đợi, lo âu, mất ngủ trong quá khứ chợt hiện về tại giây phút này. Huyết mạch chạy rần rật trong người, tình yêu khiến gã muốn hét to lên.

Từ lần đầu tiên nhìn thấy Doãn Thanh Nhã ở Biên Hoang tập, gã đã rơi vào miền cực lạc của tình yêu. Cái cảm xúc làm con người kích thích, mê man ấy từ đó không hề giảm đi mà ngày càng nồng cháy. Nếu như đó chính là tình yêu chân chính, gã sẽ tuyệt không nghi ngờ gì. Gã không có cách nào dùng lời biểu đạt được cảm giác trong lòng. Nhưng giờ phút này, nhìn thấy hình dáng nhỏ bé yêu kiều của nàng, đẹp như mộng như mơ tựa như hòa cùng hoa tuyết, gã không cần dùng lời để lý giải mọi thứ.

Cao Ngạn đến bên cạnh Doãn Thanh Nhã.

Doãn Thanh Nhã không nhìn gã, vui vẻ nói: “Ta là lần đầu tiên nhìn thấy tuyết mùa thu, đẹp thật đấy!”

Nàng liếc gã một cái, giận dỗi: “Sao lại nhìn chằm chằm người ta như thế? Không cho ngươi nhìn đâu. Ngươi không biết là nhìn con gái nhà ngươi ta như thế là vô lễ à?”

Cao Ngạn một lần nữa không thốt nên lời.

Trong làn mưa tuyết lất phất, một hoang thôn hiện ra phía bờ bên trái, như ẩn như hiện.

Doãn Thanh Nhã quên cả trách cứ gã, chỉ tay vào hoang thôn hỏi: “Đó là hành cung thứ bao nhiêu của ngươi?”

Cao Ngạn vui vẻ đáp: “Hình như là hành cung thứ ba.”

Doãn Thanh Nhã ngây thơ hỏi: “Trong thôn đó có quỷ không?”

Cao Ngạn cười đáp: “Đó là Doãn gia thôn, đám quỷ thân thích nhà nàng khẳng định sẽ không hại nàng đâu.”

Doãn Thanh Nhã tức giận nói: “Người ta hỏi đàng hoàng, ngươi lại đùa cợt. Có tin là ta sẽ một cước đá ngươi xuống sông không?”

Cao Ngạn định thần lại nhàn nhã nói: “Nàng mà đá ta xuống nước sẽ bỏ qua cơ hội nghe tuyên ngôn tình yêu của ta đó.”

Doãn Thanh Nhã yêu kiều cười khúc khích, lườm gã một cái, giận dỗi nói: “Tuyên ngôn tình yêu? Đúng là bốc phét mà! Thủ đoạn đó của ngươi qua mắt được bản cô nương sao? Không gì hơn ngoài da mặt dày, miệng cứ leo lẻo, tự tâng bốc bản thân, muốn Thanh Nhã để ý đến ngươi chứ gì! Nói cho ta biết đi, ngươi còn có công phu nào nữa không? Nếu vẫn là những trò cũ thì tốt nhất là ỉm đi còn hơn cứ trưng ra mà mất mặt đấy. Trêu tức ta rồi, ngươi có muốn chịu lỗi rồi chạy làng cũng không xong đâu, bản cô nương giỏi nhất là trừng trị những tên trêu hoa ghẹo nguyệt!”

Cao Ngạn ung dung nói: “Lần này không như vậy đâu! Là vì ta đặt mình ở lập trường của Nhã nhi, vì nàng mà suy tính.”

Doãn Thanh Nhã ngạc nhiên liếc gã một cái, thấy gã thần tình nghiêm chỉnh thành khẩn, lấy làm lạ hỏi: “Tiểu tử ngươi lại có ý tưởng cổ quái gì nữa?”

Cao Ngạn đáp: “Không phải là ý tưởng cổ quái, mà là ý tưởng vĩ đại đầy tình cảm cao thượng, đầy tinh thần hy sinh vì tình yêu. Vừa rồi sau khi nàng ăn no về phòng, nàng có thấy kì quái là ta không ghé qua tìm nàng không? Là do ta phải ở một mình, tập trung suy tư, nghĩ ra biện pháp toàn mỹ có thể làm cho Nhã nhi cảm động.”

Doãn Thanh Nhã cảm thấy hiếu kỳ giục: “Nói ra cho ta nghe đi! Nếu như vẫn không hay, ta tối nay sẽ không lý gì tới ngươi nữa.”

Cao Ngạn mười phần tự tin nói: “Nàng nghe đây! Ta đã hạ quyết tâm vượt qua mọi khó khăn…”

Doãn Thanh Nhã cắt lời gã, than: “Tên ngốc đáng chết, không phải vẫn là trò cũ sao?”

Cao Ngạn bất mãn hỏi lại: “Nàng có biết ta tiếp theo sẽ nói gì không?”

Doãn Thanh Nhã tức tối thốt: “Ngươi có thể có chiêu thức mới gì? Ta sẽ không nói ra thay ngươi đâu.”

Cao Ngạn nói: “Lần này nàng không thể đoán được đâu. Cái ta muốn nói là một ngày chưa được nhạc trượng tương lai, sư phụ nàng tự thân thành hôn cho, ta sẽ không cưới nàng làm vợ.”

Doãn Thanh Nhã nhìn gã chăm chăm, không nói nên lời.

Cao Ngạn đắc thắng nói: “Thật vĩ đại! Hiện tại nỗi lo lắng duy nhất của Nhã nhi là ý kiến của Nhiếp bang chủ. Chỉ cần người đồng ý cho hôn sự của chúng ta, cũng giống như vén mây mù thấy trời xanh, chúng ta sẽ có một tương lai tốt đẹp, hạnh phúc.”

Doãn Thanh Nhã vẫn ngây ngốc nhìn gã.

Cao Ngạn lại nói tiếp: “Hay là cần phải giải thích thêm, ta vĩ đại ở chỗ nào?”

Doãn Thanh Nhã phát cáu la: “Tên tiểu tử chết bầm! Ai có tương lai cùng ngươi? Ngươi có thể ngừng nói lảm nhảm được không? Ngoài ý muốn của bản thân ra, ngươi còn hiểu được gì? Cũng không tự nghĩ xem bản thân ngươi được bao nhiêu cân lượng? Sư phụ ta hận không ngũ mã phanh thây ngươi được, ngươi còn ngồi đó mong người sẽ đem ta cho ngươi ư. Mau tỉnh lại cho ta, sau này không còn muốn nghĩ đến cái biện pháp được gọi là vĩ đại của ngươi nữa. Nếu ngươi an phận giữ mình, ta sẽ để cho ngươi bồi tiếp ta trong hai, ba ngày du ngoạn Biên Hoang. Sau đó ta sẽ trở về Lưỡng Hồ, sẽ không còn liên quan gì đến ngươi nữa. Tối nay ta mặc kệ ngươi!”

Nói xong kiên quyết bỏ đi, để lại Cao Ngạn đứng ngây ngốc tại đương trường.

***

Yến Phi đang suy nghĩ đến một vấn đề.

Đó là vấn đề không thể không nghĩ đến, chính là làm thế nào để đánh bại Tôn Ân.

Thuyền nhỏ rời bến Thanh Khê tiểu trúc, do Tống Bi Phong điều khiển thuyền, chở chàng và Lưu Dụ đến gặp Tư Mã Nguyên Hiển để sắp xếp cho buổi dạ yến trên tầng thứ năm ở phía đông Hoài Nguyệt lâu.

Đồ Phụng Tam do vướng sự vụ phải an bài cho toán quân đầu tiên đến từ Biên Hoang tập tiến nhập Dã Thành, nên một lúc nữa sẽ tự mình đến phó hội.

Lưu Dụ thấy thần sắc suy tư của Yến Phi, im lặng không dám cắt đứt dòng suy nghĩ của chàng.

Cái duy nhất chàng có thể thắng Tôn Ân chính là Tiên Môn quyết. Nhưng chiếu theo tình huống của Lư Tuần mà suy thì bảy chiêu Tiên Môn quyết của chàng khẳng định không làm gì được Tôn Ân. Cho nên trước trận quyết chiến, phải nghĩ ra biện pháp một lần nữa đột phá Tiên Môn quyết.

Tiên Môn quyết của chàng hiện tại chỉ là cô chú nhất trịch*, lần lượt phát xuất chân âm chân dương, thông qua Điệp Luyến Hoa tặng cho địch nhân, biến hóa còn thiếu sót, rất khó làm thế nào để liều lĩnh chiến đấu bức người khác. Đó đương nhiên không tính đến lý tưởng của chàng, cũng như đi ngược lại với tinh thần “Nhật Nguyệt Lệ Thiên đại pháp” của bản thân chàng. Việc nội trong mười ngày ngắn ngủi này, phải sáng tạo ra chiêu mới có thể kích bại Tôn Ân là tuyệt không có khả năng.

Nhưng có thể nào dung nhập Tiên Môn quyết với kiếm pháp trước đây của chàng không? Điều này khẳng định là có khả năng.

Yến Phi chấn động hét lên: “Ta nghĩ ra rồi!”

Lưu Dụ và Tống Bi Phong quay nhìn chàng. Lưu Dụ nói: “Cái mà ngươi nghĩ ra nhất định là rất quan trọng, vì ta chưa từng thấy thần thái như vậy của ngươi bao giờ.”

Tống Bi Phong cười nói: “Cái làm cho Yến Phi cũng phải kích động rốt cuộc là cái gì đây? Mau nói ta nghe nào.”

Hai mắt Yến Phi phát ra tia nhìn sáng quắc chưa từng thấy trước đây, như thấu hiểu mọi bí mật của trời đất, từng chữ từng chữ chầm chậm nói: “Ta đã nghĩ ra được cách đánh bại Tôn Ân.”

Hai người cảm thấy vô cùng kinh ngạc. Chuyện này có thể nói “nghĩ” là “nghĩ” ra được sao? Lưu Dụ giật mình nói: “Lần này gặp ngươi, toàn là bộ dạng ôm đầy tâm sự, nguyên lai là vì Tôn Ân mà đau đầu.”

Yến Phi thầm nghĩ tâm sự của mình há có thể bằng đôi ba lời mà giải thích rõ được, càng không thể nói chân tướng. Đột nhiên trong lòng chàng nổi lên câu “tiết lộ thiên cơ”, hiểu rõ lí do tại sao “thiên cơ” không thể tiết lộ cho người không có duyên được, tất cả là bởi vì lợi bất cập hại.

Tống Bi Phong vui vẻ hỏi: “Tiểu Phi nghĩ đến phương pháp trừ yêu gì?”

Yến Phi hàm hồ đáp: “Đệ chỉ là nghĩ thông một nan đề trong võ học, khiến đệ thêm phần chắc chắn thắng trong trận đấu với Tôn Ân. Nhưng có thành công hay không còn phải xem tình huống lúc đó.”

Lưu Dụ nói: “Vô luận như thế nào, ngươi cũng khôi phục lại lòng tin và đấu chí. Đúng không?”

Yến Phi gật đầu đồng ý.

Tôn Ân cố nhiên là phiền não lớn nhất hiện nay của chàng, nhưng cũng là nguyên tố không thể thiếu khích lệ chàng đột phá. Đồng thời với việc nhắm mục tiêu đả bại Tôn Ân mà tiến, chàng đối với chiêu số cuối cùng “Phá toái hư không” càng có tự tin hơn, qua xúc loại bàng thông**. Nói không chừng có một ngày chàng có thể ngộ ra thủ đoạn phá không mà mang theo được cả mỹ nhân. Đó mới là nguyên nhân thật sự làm chàng vui mừng ngạc nhiên, nhưng không thể nói ra.

Yến Phi nói với Tống Bi Phong: “Nếu hiện tại chúng ta ghé qua Tạ gia thăm đại tiểu thư thì có thích hợp không?”

Tống Bi Phong đáp: “Sao lại có vấn đề? Đại tiểu thư còn không biết nên cao hứng như thế nào ấy chứ.”

Lưu Dụ chấn động hỏi: “Tiểu Phi, có phải ngươi muốn đi Thái Hồ càng sớm càng tốt không?”

Yến Phi thong thả đáp: “Nếu như tình trạng của đại tiểu thư cho phép, ngày mai ta sẽ lên đường.”

Lưu Dụ ngây người một lúc, than: “Các ngươi cứ đi đi! Ta ở lại thuyền đợi các ngươi.”

Tống Bi Phong thành khẩn nói: “Vừa rồi ta mới đến Tạ gia gặp đại tiểu thư, tâm tình và thân thể của người đều có cải thiện đáng kể, hỏi tiểu Dụ ngươi sao không đến thăm người. Ta không có cách nào đành phải đem chuyện tuyệt tình của nhị thiếu gia ra kể lại. Đại tiểu thư nghe xong rất tức giận, muốn ta nói với ngươi, bà vì nhị thiếu gia tạ lỗi với ngươi, hy vọng ngươi không để tâm đến chuyện nhị thiếu gia, còn mời ngươi đến Tạ gia.”

Lưu Dụ cười khổ hỏi: “Chuyện này có khác sao?”

Yến Phi cười nói: “Đương nhiên là khác rồi. Nếu như ngươi cự tuyệt lời mời của đại tiểu thư, thì biểu hiện ngươi tâm dạ hẹp hòi, là người không đủ lòng khoan dung, càng biểu hiện ngươi vẫn còn oán hận Tạ Diễm.”

Tống Bi Phong khích lệ: “Có đại tiểu thư chủ trì đại cuộc, làm gì đến phiên tên tiểu tử Tạ Hỗn tác oai tác quái? Hiện tại ta mỗi lần về hẻm Ô Y, đều xem tên tiểu tử đó như không có, gặp mặt cũng tuyệt không thi lễ thỉnh an. Hắc! Khi ta phục vụ An công, hắn còn là tên tiểu tử miệng còn hôi sữa, căn bản không có tư cách nói chuyện.”

Lưu Dụ đột nhiên nghĩ tới Tạ Chung Tú, trong lòng nảy sinh cảm giác nguy hiểm, nhưng vẫn buột miệng nói: “Được rồi!”

Lời vừa ra khỏi miệng liền thấy hối tiếc, nhưng đã không thu lại được.

***

Dưới bóng tịch dương.

Phía trước bụi bay mù mịt, vài chục thớt ngựa đang toàn lực bôn tẩu.

Thời tiết lạnh khác với bình thường, từng trận gió lạnh từ phía tây bắc thổi tới, làm người lữ khách càng hy vọng sớm đến mục tiêu.

Thác Bạt Khuê đang trong tình trạng giới bị cao độ, hạ lệnh cho mã đội ngừng tiến lên phía trước, tập kết lại bảo vệ xe chở vàng.

Nơi đây cách Bình Thành chỉ có mười dặm đường. Trên mỗi dặm hành trình bọn họ đều đề cao cảnh giác, tránh đường núi non hiểm trở, chỉ tìm đường bằng phẳng mà đi, nhằm tránh bị người khác phục kích đột tập.

Trưởng Tôn Đạo Sinh và Thôi Hoành từ phía sau cưỡi ngựa lên hai bên tả hữu y, nhất tề nhìn về phía đoàn ngựa đang đến.

Trưởng Tôn Đạo Sinh thở phào thư thái: “Là người mình.”

Thác Bạt Khuê gật đầu nói: “Người đến là Trương Cổn, sự tình có chút không bình thường.”

Trương Cổn và năm mươi chiến sĩ đến cách bọn họ khoảng hai trăm bước thì bắt đầu giảm tốc. Lúc đến trước mặt bọn họ, chiến mã đều thở ra hơi trắng.

Thác Bạt Khuê hỏi: “Đã phát sinh chuyện gì?”

Trương Cổn ghìm cương lại, đáp: “Địch nhân phản kích rồi.”

Thác Bạt Khuê thần sắc không đổi hỏi lại: “Có phải là Mộ Dung Thùy đến không?”

Trương Cổn đổi hơi đáp: “Hiện tại vẫn chưa rõ, mới nhận được báo cáo lúc trưa. Có đội ngựa địch trong vùng truân điền*** rộng lớn ở Bình Thành và Nhạn Môn, tàn phá bừa bãi, thiêu hủy kho thóc ruộng lúa, xua gia súc đi. Đó tựa như là dấu hiệu quân đối phương đại cử tiến công.”

Thác Bạt Khuê than: “Hay cho Mặc Sĩ Minh Dao.”

Trương Cổn ngạc nhiên: “Mặc Sĩ Minh Dao?”

Thác Bạt Khuê nói: “Chuyện đó để sau nói. Còn chuyện gì nữa không?”

Trương Cổn lấy một ống trúc nhỏ từ trong tay nải đang ôm ra, dâng lên bằng hai tay: “Đây là phi cáp truyền thư từ Biên Hoang tập, thỉnh Tộc chủ xem.”

Thác Bạt Khuê tiếp lấy, gỡ dấu niêm phong, thần sắc điềm tĩnh đọc qua một lượt, tiện tay đưa cho Trưởng Tôn Đạo Sinh, trầm giọng nói: “Mọi việc đợi sau khi về đến Bình Thành rồi nói.”

***

“Rượu đến rồi!”

Trác Cuồng Sinh nhìn thấy Cao Ngạn chán nản như con gà rù liền đến ngồi xuống cùng bàn với gã, đau đầu hỏi: “Tình trường lại nổi sóng rồi. Các ngươi cãi nhau à? Lại phát sinh chuyện gì rồi?”

Lúc này khách nhân đã ăn xong bữa tối, chỉ còn lại hai, ba bàn khách vẫn đang tán gẫu.

Cao Ngạn tức giận nói: “Còn không phải lão tặc ngươi hại ta. Con bà nó! Chuyện gì cũng vì người mà suy nghĩ, lại được đáp trả như thế này đây.”

Trác Cuồng Sinh nhíu mày: “Nói xem nào!”

Cao Ngạn giận dỗi: “Có chuyện gì hay mà nói đâu?”

Trác Cuồng Sinh đang lo lắng cho Biên Hoang tập, nghe vậy liền nổi giận mắng: “Tên tiểu tử ngươi đừng quên ngươi và Tiểu Bạch Nhạn có ngày hôm nay toàn là nhờ lão tử bày mưu tính kế sau lưng. Nếu không Tiểu Bạch Nhạn đến giờ vẫn còn ở Lưỡng Hồ. Con bà ngươi, mỗi lần có chuyện là đến quấy rầy ta. Ngươi còn không biết mình may mắn đến thế nào đâu, may mắn đến mức làm người ta ghen tị. Người khác muốn đụng vào Tiểu Bạch Nhạn, có cầu cũng không được. Thu cái bộ mặt rầu rĩ đó lại đi, còn không nói ra thì ta phạt nặng đó. Ha! Con bà ngươi!”

Cao Ngạn không còn cách nào đành kể hết mọi chuyện.

Trác Cuồng Sinh vỗ bàn nói: “Thật phải chúc mừng ngươi thôi!”

Cao Ngạn ngây ngốc hỏi: “Chúc mừng ta?”

Trác Cuồng Sinh nói: “Đương nhiên phải chúc mừng ngươi. Tiểu Bạch Nhạn chỉ là vì nghĩ cho ngươi, sợ tên tiểu tử ngươi phát cuồng lên, thật sự chạy đến Lưỡng Hồ năn nỉ lão Nhiếp gả ái đồ cho ngươi. Nhẹ thì bị người ta sỉ nhục, nặng thì bị ngũ mã phanh thây. Minh bạch chưa? Hà! Ta bây giờ có chút tin rằng nàng ta thích ngươi rồi. Nhưng cái tên tiểu tử nhà ngươi căn bản không có chút nào xứng với nàng ta.”

Cao Ngạn hoài nghi: “Có thật là như vậy không?”

Trác Cuồng Sinh ngạo nghễ nói: “Phân tích của bản quán chủ từ trước đến nay đã sai bao giờ chưa. Con bà nó, hiện tại là thời cơ thừa thắng xông lên.”

Cao Ngạn chán nản: “Nàng nói là tối nay không lý gì đến ta. Ài! Thừa thắng xông lên ư? Đêm nay ta khẳng định là không ngủ được.”

Trác Cuồng Sinh mắng: “Nhẫn nại một đêm cũng không được sao? Con bà ngươi! Hắc! Đợi ta nghĩ cái đã! Đúng rồi! Nàng ta không phải đã nói là sau khi đến Biên Hoang tập sẽ cùng ngươi vui vẻ rong chơi ba ngày sao? Đó có thể là cơ hội của ngươi, nhất định phải làm cho gạo đã nấu thành cơm. Thử tưởng tượng xem! Nếu như ngươi có thể làm cho Tiểu Bạch Nhạn hoài thai, Nhiếp Thiên Hoàn lại vì lời hứa với Yến Phi, không thể làm gì ngươi, chỉ còn cách tương thác tựu thác****, đem Tiểu Bạch Nhạn gả cho ngươi. Hà hà! Đây khẳng định là biện pháp tốt nhất.”

Cao Ngạn đầu tiên mắt sáng lên tia nhìn kỳ dị, nhưng sau đó thần tình lại ảm đạm, thê thảm than: “Nếu như ta dùng loại thủ pháp đó để có được Tiểu Bạch Nhạn, thì không phải là vì nàng mà nghĩ suy. Nàng xuất giá cũng không vui vẻ, lão Nhiếp càng không cao hứng, cho nên ta cũng chẳng vui sướng gì. Ài! Mọi người liên quan đều không sung sướng gì, kể cả ngươi trong đó.”

Trác Cuồng Sinh cười khổ: “Đó đúng không phải là thủ đoạn quang minh chính đại. Nhưng có biện pháp nào khác không? Muốn Nhiếp Thiên Hoàn cao cao hứng hứng đem ái đồ gả cho ngươi thì cũng giống như muốn mặt trời mọc ở phương Tây, lặn ở phương Đông. Căn bản là không thể.”

Cao Ngạn cố chấn khởi tinh thần, nói: “Kế đó là do ngươi nghĩ ra, ngươi phải động não mà nghĩ ra cách giải quyết cho ta chứ.”

Trác Cuồng Sinh thất thanh kêu lên: “Ta nghĩ ra? Con mẹ ngươi! Ta chỉ kêu ngươi tìm cách làm cho Tiểu Bạch Nhạn yêu ngươi, chứ có kêu ngươi lấy lòng lão Nhiếp đâu. Ngươi nghĩ lão là con nít lên ba chắc? Lão không những là bá chủ hắc đạo hùng cứ một phương, mà còn là kẻ thù không đội trời chung của chúng ta, lão và đại tiểu thư thù sâu tựa bể. Ngươi nói lão có thể đem ái đồ gả cho một tên Hoang nhân được không? Lão làm thế nào mà ăn nói với Hoàn Huyền. Cái đầu của ngươi dùng để làm gì, hả?”

Cao Ngạn vẫn kiên trì: “Ngươi không phải là lão Trác cuồng suốt ngày ngồi nghĩ mưu kế thần sầu quỷ khốc mà ta biết hay sao? ‘Tuyên ngôn tình yêu’ của ta không phải chuyện đùa, mà là ‘nhất ngôn kí xuất, tứ mã nan truy’, nếu không Nhã nhi sẽ xem thường ta. Mau nghĩ cho ta đi! Ngươi cũng không muốn ‘Tiểu Bạch Nhạn chi luyến’ không có một đoạn kết viên mãn mà.”

Trác Cuồng Sinh ngây người trừng mắt nhìn hắn.

Cao Ngạn buông thõng tay nói: “Tục ngữ không phải có câu ‘Lòng thành bày tỏ, vàng đá cũng tan’ sao? Lão tử chính là người thành thật, đáng lẽ không nên với cao như vậy.”

Trác Cuồng Sinh chấn động thốt: “Ta nghĩ ra rồi.”

Cao Ngạn vui mừng: “Nghĩ ra cái gì rồi?”

Trác Cuồng Sinh cười khổ: “Ta mỗi đêm trước khi ngủ đều cầu trời tác phúc cho ngươi và Tiểu Bạch Nhạn, chúc cho đôi tình nhân các người có ngày được thành đôi thành lứa, hạnh phúc trọn đời.”

Cao Ngạn thất thanh kêu lên: “Đó mà cũng gọi là biện pháp sao?”

Trác Cuồng Sinh thản nhiên đáp: “Đương nhiên là biện pháp rồi. Ta càng ngày càng tin ngươi và Tiểu Bạch Nhạn có ông trời phò trợ, trong trời đất không có một thế lực nào có thể chia cách các ngươi. Huynh đệ! Ngươi nghĩ gì thì cứ làm nấy, không cần lý tới ai, bao gồm cả Trác Cuồng Sinh ta. Đó chính là biện pháp tốt nhất, tất cả đều do ông trời tác chủ. Mọi chuyện nói đến đây thôi, ngươi đi ngủ đi! Ta nhân lúc ký ức còn mới, sẽ ngồi viết chương Tiểu Bạch Nhạn dũng cảm cứu Cao tiểu tử, một kiếm dọa lui Hướng Vũ Điền.”

Chú thích

*Cô chú nhất trịch: Trong tình huống nguy cấp đem tất cả lực lượng mà mình có mạo hiểm một phen cuối cùng.

**Xúc loại bàng thông: Nắm vững kiến thức và quy luật của một sự vật, sự việc. Từ đó suy ra tri thức và quy luật của các sự vật, sự việc đồng loại.

***Truân điền: ruộng canh tác của quân đội

****Tương thác tựu thác: chỉ một sự việc đã bị làm sai rồi, không có cách nào khác phải thuận theo cách đó làm cho xong nốt.

Xuất xứ: Cuốn thứ mười sáu trong “Ngũ Đăng Hội Nguyên” của Thích Phổ Tể, đời Tống, có câu: “Tương thác tựu thác, Tây phương cực lạc”.Yến Phi cùng với Tạ Chung Tú và Tạ Phinh Đình đến Vọng Quan hiên trị thương lần thứ hai cho Tạ Đạo Uẩn. Lưu Dụ và Tống Bi Phong thì do Lương Định Đô tiếp đãi, đợi tại biệt sảnh Đông viện nơi có thể nhìn thấy sông Tần Hoài.

Tạ Hỗn có lẽ đã đi với hội của hắn, không thấy xuất hiện, cũng không ai nhắc tới hắn. Không có hai cha con Tạ Diễm, Tạ Hỗn, hai người cảm thấy thoải mái hơn nhiều, tựa hồ như Tạ gia hồi phục lại một chút hào quang ngày trước. Đương nhiên, đó chỉ là ảo giác của riêng bọn họ. Thanh thế của gia tộc họ Tạ từ ngày Tạ An, Tạ Huyền tạ thế đã một đi không trở lại, liên tục chịu những sự đả kích nghiêm trọng, hết cái này đến cái khác.

Tống Bi Phong nhẹ hít lấy hương trà Tiểu Kỳ dâng lên, thấy Tiểu Kỳ còn ngồi bên cạnh, lão liền nói chuyện câu được câu chăng với nàng. Lương Định Đô cũng thường xuyên tham gia vào, câu chuyện không gì khác ngoài chuyện trong phủ Tạ gia.

Tiểu Kỳ trước đây là tì nữ hầu hạ Tống Bi Phong, tâm tính lương thiện, khéo hiểu ý người khác. Ngày đó Yến Phi gặp chuyện không may, tạm ở lại Tạ gia, Tống Bi Phong cũng phái nàng chăm sóc sinh hoạt hàng ngày cho chàng. Trước đây Tống Bi Phong nhiều lần về thăm Tạ gia nhưng không gặp nàng, lần này Tạ Chung Tú cho phép nàng ra gặp lại chủ cũ.

Lưu Dụ thần sắc bình tĩnh đứng trước cửa sổ, nhìn xuống sông Tần Hoài phía dưới, từng đợt sóng lòng trỗi dậy, nguyên nhân là từ Tạ Chung Tú.

Trước khi rời sảnh, nàng có chút không kiềm chế được, đưa ánh mắt sâu thẳm nhìn gã làm gã chút nữa mất hết tự chủ. Như đê không ngăn nổi nước lũ, gã một lần nữa không thể khống chế tình cảm kích động đang dâng lên như sóng trong lòng. Ánh mắt đó gã dường như đã từng gặp qua.

Đúng rồi!

Gã đã từng gặp qua.

Đó là lúc Vương Đạm Chân bị ép gả đi Quảng Lăng, Lưu Dụ đến gặp từ biệt nàng trên thuyền. Gã muốn đem nàng chạy thật xa, nhưng bị nàng cự tuyệt. Lúc Lưu Dụ không thể không đi, nàng nhìn gã với ánh mắt nồng cháy ngọn lửa yêu thương pha lẫn với sự tuyệt vọng làm người khác đau xót tận tâm can. Tuyệt vọng và bi phẫn, ánh mắt đó đã làm tan nát trái tim gã.

Lịch sử lại lặp lại.

Gã đã mất Đạm Chân, nỗi nuối tiếc không bao giờ có thể sửa chữa. Gã có thể để xảy ra chuyện đó thêm một lần nữa sao? Như vậy làm người còn có ý nghĩa gì? Gã không hiểu, một Tạ Chung Tú luôn kiêu ngạo hơn Vương Đạm Chân tại sao gần đây đột nhiên lại để ý đến gã. Nhưng Lưu Dụ gã không còn hoài nghi gì nữa, ánh mắt nàng đã biểu lộ tình cảm của nàng. Gã cũng không thể giải thích nổi, bản thân gã cũng không biết rõ mình có yêu nàng hay không, nhưng có một lực lượng không thể gọi tên gắn kết bọn họ với nhau. Bọn họ đã không còn là hai cá nhân không có quan hệ gì với nhau.

Mọi chuyện phát sinh đột ngột như trời long đất lở. Lưu Dụ đã luôn dùng lí trí để khắc chế cảm giác vi diệu tựa như không có đối với nàng, nhưng tình cảm ấy vẫn dậy lên, lớn đến nỗi làm bản thân gã cũng phải kinh hãi.

Nhưng gã tuyệt đối không thể chạm vào nàng, thậm chí cho dù sau này gã có thể biến thành một Lưu Lao Chi khác, cho dù đánh bại Tôn Ân và Hoàn Huyền, một bước thành người có quyền lực nhất phương Nam. Nhưng gã vẫn là một kẻ áo vải. Nếu muốn lấy Tạ Chung Tú, sẽ làm cho cao môn Kiến Khang nổi giận, xem gã như kẻ phá hoại chế độ hiện có đã thành quy tắc. Đó chính là phương thức phá hoại mà cao môn Kiến Khang khó tiếp thu nhất.

Hảo sự của gã và Tạ Chung Tú là không thể có. Nàng cũng biết rất rõ điểm này, cho nên ánh mắt nàng mới u oán, vô vọng như vậy. Nàng càng hiểu rõ rằng gã tuyệt không thể cùng nàng trốn đi thật xa.

Ôi! Huống chi gã đã từng hứa với Đồ Phụng Tam và Tống Bi Phong rằng sẽ không gặp nàng nữa.

Nhưng gã đã để mất Đạm Chân rồi, còn phải mất thêm nàng nữa sao? Sinh mệnh còn có ý nghĩa gì đáng nói nữa đây? Vào sinh ra tử là vì cái gì? Biện pháp giải quyết duy nhất chính là phải trở thành hoàng đế của tân triều. Lúc đó thân ngồi trên ngai vàng, không còn là thân phận áo vải, gã muốn làm gì thì làm, ai dám nói chữ “không”? Kẻ áo vải muốn thành Hoàng đế, ở xã hội Nam phương hiện nay là gần như không thể, nhưng không phải là hoàn toàn không có biện pháp.

Từ khi nhà Tấn xuống phương Nam, an phận với Giang Tả, trục xuất rợ Hồ, thống nhất giang sơn luôn là đại nguyện vọng của Hán nhân phương Nam. Ai có thể huy quân Bắc phạt, thống nhất thiên hạ thì có đủ tư cách thành Hoàng đế tân triều. Điều đó đã trở thành niềm tin ăn sâu vào lòng người dân. Cho nên chỉ cần Lưu Dụ gã có thể nắm binh quyền, khống chế đại cục, sau đó tiền hành Bắc phạt, thu phục Trung nguyên, thì ngai vàng chí tôn kia sẽ như đồ nằm trong túi gã.

Chưa bao giờ có lúc nào Lưu Dụ lại kiên trì nghĩ đến việc muốn làm Hoàng đế như vậy. Từ trước đến nay, Lưu Dụ đều thấy việc này mơ mơ hồ hồ. Giờ phút này mọi chuyện đều trở nên rõ ràng, không những có phương hướng cụ thể, mà mục tiêu còn mở rộng. Là do gã biết tương lai bản thân gã sướng hay khổ toàn bộ liên hệ tới quyết định trước mắt.

Đột nhiên gã nghĩ đến Giang Văn Thanh.

Từ khi chia tay với nàng ở Biên Hoang tập, gã càng ngày càng ít khi nghĩ tới nàng, ngược lại thời gian nghĩ đến Nhậm Thanh Thị còn nhiều hơn chút đỉnh. Có phải là gã đối với nàng không có tình cảm giữa nam và nữ với nhau? Tự vấn lòng mình, sự thật lại không phải như vậy. Khi ở cùng nàng, gã cảm thấy rất dễ chịu. Nàng bất luận là tính cách bên trong hay dáng vẻ bề ngoài đều rất tốt, lại cùng mọi người trải qua sinh tử kiếp nạn, tình sâu nghĩa nặng. Nhậm Thanh Thị và Tạ Chung Tú còn xa mới có thể so sánh với những điều đó. Nhưng tại sao bản thân gã lại không cảm thấy bị hấp dẫn như đối với Tạ Chung Tú hay Nhậm yêu nữ. Đạo lý bên trong gã có thể hiểu được, là vì gã khát cầu loại kích thích có thể làm gã quên đi tình yêu nồng cháy với Vương Đạm Chân.

Sức hấp dẫn của Nhậm Thanh Thị là vô cùng nguy hiểm, chưa kể bản thân thị hành vi phiêu hốt khó đoán. Tạ Chung Tú lại càng không cần phải nói, rõ ràng đó chính là một Vương Đạm Chân thứ hai, luôn cả hoàn cảnh cũng rất giống nhau.

Đối với Giang Văn Thanh là cảm giác có lỗi trong lòng, nhất là khi gã động tâm với nữ nhân khác, gã thấy như mình không công bằng với nàng. Hiện tại, nàng đem hy vọng phục cừu chấn bang toàn bộ kí thác trên mình gã, càng làm gã cảm thấy không thể phụ nàng.

Nhưng nếu như gã trở thành Hoàng đế thực sự, mọi chuyện đều có thể giải quyết thuận lợi. Gã tuyệt đối không nghĩ đến cuộc sống hậu cung với vô số phi tần, nhưng …

Yến Phi đến bên cạnh gã, thấp giọng: “Vương phu nhân muốn gặp một mình ngươi.”

Tạ Đạo Uẩn ngồi một mình trong hiên, chỉ có hai ngọn đăng phong chiếu sáng hai bên. Bà mặc áo bông dày, tinh thần dường như khá tốt. Nếu như Lưu Dụ không biết, tuyệt không cách gì tưởng tượng ra ngày hôm qua bà không thể ra khỏi giường.

Lưu Dụ bước chân vào Vọng Quan hiên, trong lòng muôn vàn cảm khái. Gã nhớ lại ngày đó trước khi đến gặp Kỷ Thiên Thiên ở hội Vũ Bình đài, tại đây đã cử hành hội nghị nhỏ. Tạ Chung Tú vẫn là một hài tử ngây thơ, nũng nịu luôn thích quấn quít lấy Tạ Huyền. Đạm Chân thì lại vô lo vô nghĩ, là một cô gái đang tuổi dậy thì. Lúc đó có ai nghĩ đến vận mệnh tàn nhẫn vô tình đang đợi các nàng ở phía trước. Hai nàng đáng lẽ phải như hoa kia, được nâng niu, chăm sóc trong đình viện, nào biết sẽ phải chịu phong ba, bão táp bên ngoài.

Tạ Đạo Uẩn nở một nụ cười thân thiết, nhẹ nhàng nói: “Tiểu Dụ trông càng ngày càng uy vũ, dáng đi như rồng hành hổ bộ. Tiểu Huyền đúng là không chọn nhầm người. Lại đây! Đến đây với ta ….”

Lưu Dụ thi lễ thỉnh an, cung kính ngồi xuống. Hiện tại ở Tạ gia, bà là người duy nhất có thể làm gã kính trọng. Truyền thống phong lưu, thi tửu của Tạ gia cũng chỉ có thể còn thấy được ở bà.

Tạ Đạo Uẩn rõ ràng đã hốc hác đi nhiều. Nhưng điều thay đổi lớn nhất ở bà chính là ánh mắt. Đó là thần sắc của người sau khi trải qua kiếp nạn, lòng đã khô héo. Bà ta vĩnh viễn không thể khôi phục được khí phách của vị phong lưu tài nữ trong Vọng Quan hiên ngày đó, cũng như gã không còn là Lưu Dụ của ngày nào.

Tạ Đạo Uẩn hỏi: “Giữa ngươi và tiểu Diễm đã xảy ra chuyện gì thế?”

Chuyện bây giờ Lưu Dụ muốn nói nhất là chuyện liên quan đến hạnh phúc sau này của Tạ Chung Tú. Nếu được Tạ Đạo Uẩn đồng ý, gã sẽ cảm thấy thư thái hơn nhiều. Nhưng gã cũng biết đó chính là cẩn mao thất mạo*, nếu có chuyện gì sơ xuất sẽ gây ra hậu quả không thể tưởng tượng nổi. Tạ Đạo Uẩn có thể không khó khăn gì khi xem gã là người kế thừa của Tạ Huyền. Nhưng nếu phạm vào điều cấm kị là hôn nhân giữa cao môn và áo vải, thì sợ con người cởi mở như Tạ Đạo Uẩn cũng không cách gì tiếp nhận nổi. Sự tình có thể tồi tệ đến cực điểm.

Gã thật sự không muốn làm ảnh hưởng đến việc phục hồi sức khỏe của Tạ Đạo Uẩn. Bề ngoài bà dường như đã khôi phục lại sự kiên cường ngày trước, nhưng gã lại biết rõ bà chỉ là đang cố hết sức ghé vai gánh vác trách nhiệm nặng nề là người chủ trì của Tạ gia.

Lưu Dụ cười khổ đáp: “Đại nhân là muốn tiểu nhân ám sát Lưu Lao Chi. Tiểu nhân đã nghiêm túc phân trần lợi hại nhưng đại nhân vẫn không thu hồi lại mệnh lệnh đã quyết, còn nổi giận một đao phân chia ranh giới với tiểu nhân. Ôi! Tiểu nhân cũng không tưởng nổi sự tình sẽ phát triển đến mức này.”

Tạ Đạo Uẩn mắt phượng phát lạnh, nhưng vụt chốc lại trở lại thần sắc mệt mỏi vì lao tâm lao lực, mệt mỏi nói: “Tiểu Dụ ngươi đừng trách hắn. Hắn từ trước đến nay đều như vậy, luôn hành động theo ý mình, tính tình lại khoa trương. An công cũng không có cách nào làm hắn thay đổi.”

Lưu Dụ đáp: “Tình huống bế tắc nên tiểu nhân chỉ còn cách cầu cứu Tư Mã Nguyên Hiển, thỏa hiệp với hắn ta và Tư Mã Đạo Tử. Nếu không tiểu nhân chỉ có đường đào vong.”

Tạ Đạo Uẩn than: “Ta đã nghe Tống thúc kể rõ tình huống, làm sao trách ngươi được? Tình huống mà tiểu Huyền sợ nhất đã xảy ra, tương lai sẽ ra sao đây? Tiểu Dụ có thể nói cho ta biết không?”

Lưu Dụ ngây người, hỏi lại: “Tình huống Huyền soái sợ nhất?”

Tạ Đạo Uẩn ánh mắt xa xăm, như hồi tưởng chuyện ngày trước, có lẽ bà đang nghĩ đến Tạ Huyền, đau đớn nói: “Tiểu Huyền sợ nhất là tiểu Diễm bị Tư Mã Đạo Tử lợi dụng làm phân hóa Bắc Phủ binh, càng sợ hắn tâm cao khí ngạo, không trọng dụng ngươi, lại lĩnh binh xuất chinh. Tất cả những gì tiểu Huyền lo lắng đã thành hiện thực. Ngươi bảo ta nên làm sao đây!”

Lưu Dụ chết lặng không nói nên lời. Hiện tại mọi chuyện thành sự đã rồi. Tạ Diễm có thể quay lại hay không thì phải xem hắn đã đến lúc tuyệt mệnh hay chưa, bất cứ ai cũng không thể giúp được. Gã có thể nói gì đây? Tạ Đạo Uẩn khôi phục lại sự bình tĩnh, lãnh đạm hỏi: “Vẻ mặt của tiểu Dụ đã cho ta câu trả lời. Tình huống thật sự xấu đến mức thế sao?”

Lưu Dụ đáp: “Chiến trường thiên biến vạn hóa, thành bại ai cũng rất khó đoán trước, có khi kết quả vượt quá cả mong đợi.”

Tạ Đạo Uẩn tuyệt vọng nói: “Ta quá hiểu tiểu Diễm, cho nên luôn khuyên hắn cự tuyệt nhiệm vụ Tư Mã Đạo Tử giao. Chỉ là hắn để ngoài tai.”

Lưu Dụ trong lòng nhiệt huyết dâng cao, phấn khích nói: “Chỉ cần Lưu Dụ còn chút hơi thở, tuyệt không để Tôn Ân hoành hành ngang ngược.”

Tạ Đạo Uẩn hỏi: “Ngươi biết rõ bọn họ sao?”

Lưu Dụ ngây người hỏi lại: “Phu nhân là muốn ám chỉ Thiên Sư quân?”

Tạ Đạo Uẩn gật đầu, rồi hai mắt bộc lộ tràn trề thần sắc chán nản, thất vọng, hồi tưởng lại những việc không nên nhớ, nói: “Chỉ kẻ nào đã từng đến Cối Kê mới hiểu được lòng dân nơi đó, tuyệt không phải những người trốn ở Kiến Khang có thể hiểu được. Nói thẳng với ngươi, ngày đó tiểu Huyền ủng hộ, tài bồi ngươi, ta cũng có chút nghi vấn, đến bây giờ với thực sự hiểu rõ lựa chọn của tiểu Huyền là khôn ngoan. Chỉ có những người xuất thân áo vải mới có thể hiểu được nỗi lòng dân chúng. Tiểu Diễm lúc nào cũng cao cao tại thượng, chưa từng thử tìm hiểu xem dân chúng suy nghĩ gì. Hắn chỉ là một Vương lang khác, có khác là một người chỉ biết cách đăng đàn làm thơ, một người thì trầm mê trong thân phận quý hiển của cao môn đại tộc. Thất bại của bọn họ đã được định sẵn. Ta không có tư cách bảo ngươi phải làm gì vì ta cũng là một phần tử của cao môn. Ngày đó bọn ta hoàn toàn không hiểu tại sao các thành trì xung quanh lại có thể thất thủ trong một thời gian ngắn như vậy. Bây giờ ta cuối cùng cũng minh bạch, đó chính là vấn đề lòng người hướng về đâu. Tiểu Huyền đã nói rất đúng.”

Bà ta nói xong thì ngưng thần chăm chú nhìn Lưu Dụ, với ngữ điệu kiên quyết nói: “Vận mệnh của Hán nhân Nam phương bọn ta, bất luận là cao môn đại tộc, hay hàn môn áo vải chính là nằm trong tay ngươi. Đó không phải là đoán trước tương lai mà là sự thật trước mắt. Lưu Lao Chi vốn là một nhân tài, nhưng tính cách và hành vi của hắn khiến người ta thất vọng. Huyền đệ chính là vì nhìn thấy bản chất của hắn nên mới đề bạt ngươi thay thế hắn. Hiện tại hoàng tộc cao môn ở Kiến Khang thì vừa mến vừa sợ ngươi, dân chúng thì vì câu chuyện ‘Nhất tiễn trầm Ẩn Long’ của ngươi mà nảy sinh sự mong chờ vô cùng có cơ hội được thấy ngươi tận mắt, xem ngươi làm việc như thế nào. Chỉ cần có thể đoàn kết trên dưới, thành tựu của ngươi có thể vượt cả Huyền soái của ngươi, đừng phụ kỳ vọng của tiểu Huyền đối với ngươi.”

Lưu Dụ trong lòng nảy sinh cảm giác kính trọng. Tạ Đạo Uẩn khẳng định là người có tầm nhìn xa nhất trong cao môn ở Kiến Khang, đối với tình thế hiện tại có cái nhìn thấu triệt. Trong lòng gã sục sôi, buột miệng thốt: “Tôn tiểu thư,...! Tôn tiểu thư nàng...”

Tạ Đạo Uẩn mỉm cười: “Ta chút nữa thì quên đa tạ ngươi, Chung Tú đã làm phiền các ngươi. Nó niên kỉ còn nhỏ, đáng ra cũng không nên xuất giá vội như vậy. Ôi!”

Lưu Dụ vốn muốn bày tỏ với bà tình cảm gã dành cho Tạ Chung Tú, nào ngờ bà hiểu lầm, nghĩ rằng gã muốn thỉnh bà ta tác chủ cho Tạ Chung Tú, cự tuyệt hôn sự với Tư Mã Nguyên Hiển. Bà ta còn đa tạ gã, làm gã khó có thể làm tới, lời ra đầu môi rồi vẫn không thể thốt. Hơi thở dài cuối cùng của bà ta, không cần nói cũng là đang nghĩ đến cuộc hôn nhân của bản thân.

Tạ Đạo Uẩn than: “Chuyện của Đạm Chân làm ta rất đau buồn. Chung Tú cũng vì chuyện này mà u uất sầu muộn. Những chuyện như vậy bất cứ ai cũng đều không có cách nào.”

Lưu Dụ thấy lúc bà ta nói đến Vương Đạm Chân, hai mắt đỏ lên. Bản thân gã trong lòng cũng khổ sở vô cùng, nhiệt tình và dũng khí cũng nguội lạnh đi, không cách gì bày tỏ sự quan tâm của mình với Tạ Chung Tú cho bà hay, vả lại chuyện đó tuyệt đối không thích hợp. Không còn gì để nói, gã đành cáo từ rời đi.

Thác Bạt Khuê đến bên giường, ngắm Sở Vô Hạ đang đắp chăn nằm trên giường, mỉm cười: “Sắc mặt nàng đỡ hơn nhiều rồi đó.”

Sở Vô Hạ dịu dàng nói: “Tộc chủ sao không ngồi xuống, cùng Vô Hạ nói chuyện đôi câu, để Vô Hạ giải sầu cho người.”

Thác Bạt Khuê hờ hững nói: “Ta vẫn thích đứng tại đây, đó là một thói quen của ta, lúc vui vẻ cũng phải giữ cảnh giác. Đó là thói quen xấu hình thành từ hồi còn làm mã tặc, làm ta ngủ cũng khó ngon. Nếu như luôn cả chuyện đó mà nàng cũng có thể giải sầu cho ta, thì nói không chừng là nàng muốn quyến rũ ta.”

Sở Vô Hạ ngạc nhiên: “Nguyên lai là tiếp nhận ta và yêu thương ta căn bản là hai chuyện khác nhau. Vô Hạ này phải tận hết mọi sở trường đến giành lấy sự sủng ái của tộc chủ là muốn xem tộc chủ có đảm lượng thử một vài trò chơi nguy hiểm, có thể trả giá để chữa bệnh mất ngủ hay không?”

Thác Bạt Khuê cảm thấy rất hứng thú: “Rốt cuộc nàng có đề nghị gì? Tại sao còn liên quan đến vấn đề đảm lượng, lại cần phải trả giá?”

Sở Vô Hạ với tay lấy túi gấm đang đặt bên gối, cho tay vào trong lấy ra một chiếc bình nhỏ cao chỉ ba tấc. Thị dùng hai ngón tay nhấc lên đưa ra trước mặt Thác Bạt Khuê, dịu dàng nói: “Đây là bảo bối ta lấy từ trong Phật tàng ra. Trong bình có ba viên Ninh tâm đan**, được chế bởi đan học đại gia người Hán, Quách Cảnh Thuần, người được xưng là nửa thần tiên. Đó là trân phẩm mà cao môn Kiến Khang có cầu cũng không thấy, là bảo vật vô giá.”

Thác Bạt Khuê cười ha hả: “Chẳng trách nàng nói là có trò chơi nguy hiểm, nguyên lai là chuyện này. Nàng xem Thác Bạt Khuê ta là người thế nào? Lúc này là lúc quan trọng đối đầu với đại địch, làm sao có thể giống như những vị kia được xem là danh sĩ phương Nam, trầm mê trong đan dược, còn xem là chuyện nghiêm chỉnh nữa sao?”

Sở Vô Hạ lãnh đạm đáp: “Vận mệnh của Vô Hạ hiện tại đã dính liền với tộc chủ. Làm sao ta có thể làm chuyện gì bất lợi cho tộc chủ được? Ninh tâm đan chứa trong này tịnh sẽ không ảnh hưởng gì đến thần trí, ngược lại còn làm cho tộc chủ đầu óc sáng suốt, quên đi ưu phiền, đảm bảo có thể ngủ ngon.”

Thác Bạt Khuê không hề mảy may động lòng: “Nghe thì cũng có điểm hấp dẫn. Bất quá uống đan dược vào sẽ để lại di chứng về sau. Ta tuyệt không muốn đùa với những việc loại này.”

Sở Vô Hạ mỉm cười: “Hoàn toàn ngược lại. Ninh tâm đan sở dĩ được xem là đệ nhất đan bảo, chính là do dược lực của nó làm người ta phải kinh hãi, có thể kéo dài trong mười ngày, và không hề để lại di chứng về sau. Trong bình này vốn có bảy viên Ninh tâm đan, Đại hoạt Di Lặc và Phật nương mỗi người phục một viên. Hai viên nữa đã bị ta phục trên đường quay về đây. Ngươi thấy bộ dạng của ta có giống như vừa phục thuốc không?”

Thác Bạt Khuê hai mắt sáng ngời, chăm chú ngắm thị, hỏi: “Nàng có chuyện gì thế? Tại sao lại phục liền hai viên Ninh tâm đan.”

Sở Vô Hạ thở dài một hơi, chầm chậm hỏi: “Người nói thử xem, trên đời này còn có chuyện gì đáng để ta mãn nguyện không?”

Thác Bạt Khuê gần như á khẩu. Là vì theo ngữ khí u oán của thị mà nói, thị đang phản kích lại việc hắn chưa say mê thị. Gã đành lái chủ đề sang hướng khác: “Lời của nàng không phải là trước sau mâu thuẫn sao? Vừa rồi nàng mới nói đây là trò chơi nguy hiểm, cần phải trả giá. Bây giờ lại bảo là phục Ninh tâm đan không thể có hậu quả không tốt.”

Sở Vô Hạ đem dược bình giấu vào trong chăn. Đôi mắt xinh đẹp của thị lóng lánh mỹ miều, nói: “Tộc chủ hiểu lầm rồi. Cái nguy hiểm mà Vô Hạ nói tịnh không phải là bản thân Ninh tâm đan, mà là tình huống xảy đến sau khi phục đan! Ngươi nếu đã từng nếm qua hương vị của Ninh tâm đan, sẽ vĩnh viễn không quên được loại cảm giác đó, cảm thấy đó mới là khoái lạc chân chính, con người sống như vậy mới có ý nghĩa. Khi tình huống như vậy phát sinh, ngươi sẽ không kiềm được truy cầu hiệu ứng của đan dược, cuối cùng là biến thành người trầm mê trong đan dược, biến thành người cùng một duộc với bọn cao môn danh sĩ ở Kiến Khang. Đó mới là sự nguy hiểm lớn nhất.”

Thác Bạt Khuê trầm ngâm một lúc lâu, rồi nhíu mày thắc mắc: “Nếu vậy làm thế nào Trúc Pháp Khánh và Ni Huệ Huy ngừng việc phục thuốc được? Theo như lời nàng nói, trong bình đáng ra không còn lấy nửa viên.”

Sở Vô Hạ vui vẻ: “Hỏi hay lắm! Đầu tiên không nói đến việc bọn họ đều là những người có ý chí sắt thép. Điều chủ yếu là mục đích phục thuốc của bọn họ, có chút giống với Thần Nông nếm bách thảo, là muốn đem thân mình ra thử nghiệm dược tính của Ninh tâm đan, xem xem có thể chế tạo ra loại đan dược tương tự không. Chế đan luyện dược rồi bán cho Nam phương luôn là một nguồn thu nhập quan trọng của Di Lặc giáo bọn ta.”

Thác Bạt Khuê hỏi tiếp: “Bọn họ có thành công không?”

Sở Vô Hạ đáp: “Quách Cảnh Thuần thiên nhân thông thái, đối với đan dược có sở trường độc đáo. Trừ phi người thử là Đan vương An Thế Thanh, nếu không, thiên hạ sợ không có ai có thể phục chế ra viên Ninh tâm đan nào. Bất quá vậy cũng đủ cho chúng ta cải thiện rất lớn cách luyện chế Ngũ thạch tán, khiến bọn danh sĩ Nam phương cúi đầu quỵ lụy. Suýt nữa quên nói với ngươi, Ngũ thạch tán là một món hời có tính cạnh tranh cao, chất lượng quan trọng phi thường, tuyệt không giấu được người phục đan lâu năm.”

Thác Bạt Khuê cười nói: “Các người độc ác mới đúng. Không những moi tiền của túi của nhân sĩ Nam phương mà còn hại người ta không còn chí tiến thủ, trầm mê trong đan dược.”

Sở Vô Hạ cười: “Có cầu thì ắt có cung, có chuyện gì là không tốt nào? Thói phục thuốc của bọn danh sĩ không phải do Di Lặc giáo bọn ta khởi xướng, bọn ta cũng chỉ là theo thế mà hành sự. Lợi và hại của Ninh tâm đan tất cả đã nói cho tộc chủ nghe rồi! Mọi việc đều do tộc chủ quyết định, ta chỉ là đưa ra một sự lựa chọn cho tộc chủ thôi.”

Thác Bạt Khuê trầm ngâm: “Chỉ cần ý chí kiên định thì có phải là muốn dừng lúc nào là dừng không?”

Sở Vô Hạ đưa mắt nhìn gã, trong đôi mắt mỹ lệ lóe ra tia sáng kì dị, như muốn nói: Tộc chủ cuối cùng cũng động tâm rồi.

Chú thích:

* Cẩn mao thất mạo: Nghĩa đen của thành ngữ này xuất phát từ việc vẽ tranh chân dung. Nếu quá để ý vẽ từng sợi lông măng nhỏ sẽ không thể vẽ được khuôn mặt đẹp. Nghĩa bóng: nếu để ý quá đến việc nhỏ thì sẽ hỏng việc lớn.

** Ninh tâm đan: Một loại đan dược có tác dụng an thần.Khi Lưu Dụ vừa rời khỏi Tạ gia, gã có cảm giác hoàn toàn khác. Cuộc đời của gã sẽ không phải lại sống với cừu hận và nuối tiếc quá khứ nữa, mà là phấn chấn đi tới, cố gắng cho mục tiêu và lý tưởng của chính mình. Nguyên nhân cho sự thay đổi này là ở Tạ Chung Tú.

Tạ Đạo Uẩn chỉ rõ cho gã thấy cao môn Kiến Khang đối với gã vừa yêu vừa sợ. Gã chưa bao giờ ở thế yêu hận khó phân với cao môn Kiến Khang. Gã là do Tạ Huyền, một người hiển hách nhất trong cao môn Kiến Khang, một tay đề bạt. Nhưng cũng là chế độ Kiến Khang môn phiệt đã khiến gã mất đi nữ tử mà gã yêu thương nhất. Gã luôn luôn là một người thật sự cầu thị, cho nên đã thỏa hiệp với Tư Mã Đạo Tử, cùng những chí sĩ có chí trong cao môn kết minh. Nhưng tuyệt không phải là gã đồng ý với thực tại “cao môn vĩnh viễn chà đạp hàn môn dưới chân” của chế độ môn phiệt. Chỉ là dưới tình thế bức bách, gã không thể không có chút thủ đoạn.

Vương Hoằng nói đúng, chế độ môn phiệt là thâm căn cố đế, không phải bất kỳ kẻ nào cũng có thể phá hủy trong thời gian ngắn. Điều đó chỉ mang đến đại nạn, khiến Nam phương chia năm xẻ bảy.

Yến Phi cũng đã nói, người ta không thể vĩnh viễn sống với cừu hận được, điều đó chỉ làm mục ruỗng nhân tâm mà thôi.

Dưới tình huống như thế và như thế, gã chỉ có thể nghĩ đến Tạ Chung Tú. Chỉ Chung Tú mới có thể khiến cho gã đem tình yêu dành cho Đạm Chân chuyển sang nàng. Đối với gã mà nói, việc triệt để phá hủy trở cách giữa cao môn và hàn môn cũng có thể mở đường cho gã đến với nàng. Nếu có thể đem đến cho nàng hạnh phúc, cũng là biện pháp tốt nhất để báo đáp ân tình của Tạ Huyền, huống chi nàng đối với mình yêu thương như thế này. Tràn ngập kì vọng, Lưu Dụ gã sao có thể mắc thêm lỗi lầm nữa, ngồi nhìn nàng trở thành vật hy sinh của trò chính trị của cao môn đại tộc, nối gót Đạm Chân ra đi.

Gã quyết không để cho tình huống như vậy phát sinh.

Gã phải trở thành thiên tử của triều đại mới. Điều đó đã trở thành lối thoát duy nhất của gã.

Thanh âm của Tống Bi Phong đưa gã trở lại với thực tại, chỉ nghe thấy lão ngồi cạnh Yến Phi hỏi: "Tình hình đại tiểu thư như thế nào?"

Ánh mắt Yến Phi đầy thâm ý nhìn Lưu Dụ nói: "Tống đại ca có thể hỏi Lưu huynh."

Lưu Dụ thu lại tâm sự, gật đầu nói: "Đại tiểu thư tinh thần rất tốt. Bề ngoài trông không giống như người từng thụ trọng thương, nói chuyện rất nhiều vẫn không lộ ra thần thái mệt mỏi."

Tống Bi Phong vui vẻ nói: "Thuật chữa thương của tiểu Phi khẳng định là hiện tại không ai bằng."

Yến Phi mỉm cười nhìn Lưu Dụ, nói: "Không hiểu có phải ảo giác của ta hay không nhưng thần thái của Lưu huynh tựa như có điểm khác hẳn với bộ dạng bình thường."

Lưu Dụ thiếu chút nữa nghĩ sẽ trút hết cả bầu tâm sự, lại biết ngàn vạn lần không thể. Đương nhiên không phải gã cố kị Yến Phi, mà là Tống Bi Phong. Mâu thuẫn là gã phải có được sự hợp tác của Tống Bi Phong thì mới có thể tiến hành quyết định chuyện của gã.

Đầu tiên gã phải bí mật gặp gỡ Tạ Chung Tú một lần nữa, biết rõ ràng tâm ý của nàng đối với mình. Đồng thời gã cũng phải biểu lộ tâm tình với nàng. Gã sẽ đem toàn bộ tình yêu trong tim dâng hiến hoàn toàn cho nàng, giống như tình yêu nóng bỏng đã từng dành cho Đạm Chân vậy.

Đây là một bước vô cùng quan trọng.

Tống Bi Phong có vẻ cảm thấy không thỏa đáng, giương mắt nhìn gã.

Lưu Dụ sinh ra cảm giác như bị lão khám phá ra tâm sự, mỉm cười: "Đệ quả thật có một cảm giác hoàn toàn mới, đạo lý trong đó thế nào đệ xin bẩm báo sau."

Yến Phi gật đầu nói: "Sáng mai sau bữa điểm tâm, ta sẽ lập tức lên đường."

Chàng nghĩ thầm trước khi rời Kiến Khang, sẽ đi tạm biệt An Ngọc Tình, chỉ là không nói ra. Bởi vì cảm thấy không nên nói về nàng trong tình huống này.

Tống Bi Phong nói: "Sau sự việc với Tôn Ân, tiểu Phi liệu có thể quay lại Biên Hoang, cho chúng ta biết tình hình an nguy không?"

Yến Phi mỉm cười: "Khi đó không phải mọi người vẫn ở Kiến Khang sao?"

Lưu Dụ đáp: "Sau yến tiệc chúng ta sẽ nói cho ngươi thủ pháp để báo tin. Phương diện này là do lão Đồ phụ trách. Trong thời gian ngắn, y sẽ ở cơ sở truyền tin của Khổng lão đại, thực hiện việc mở rộng lưới tình báo của cho chúng ta. Chỉ cần ngươi tại nơi nào đó lưu lại khẩu tín, chúng ta sẽ nhận được tin tức rất nhanh."

Yến Phi gật đầu nói: "Rốt cuộc các ngươi cũng đại triển quyền cước rồi!"

Lưu Dụ chuyển ánh mắt về phía trước nhìn Hoài Nguyệt lâu, đang muốn nói gì đó, đột nhiên hít một hơi lạnh, la: "Ối mẹ ơi! Đã xảy ra chuyện gì vậy?"

Yến Phi cũng ngạc nhiên thốt: "Bến cảng làm sao tập trung nhiều người vậy, mà đại bộ phận là các cô nương trong lâu. Có cái gì náo nhiệt hay ho à?"

Nhìn thấy thuyền nhẹ của bọn họ không ngừng tiếp cận, hơn trăm nam nữ đứng tại bến cảng cùng kêu lên hoan hô hát vang, không ngừng gọi tên Yến Phi. Yến Phi lập tức cảm thấy dựng tóc gáy, biết là một tình huống kỳ cục đang ụp xuống đầu chàng.

Tống Bi Phong ha ha cười nói: "Các cô nương Tần Hoài, ai mà không muốn nhìn ngắm dáng vẻ phong lưu của tuyệt đại kiếm khách Yến Phi, người đã lấy đi trái tim của Kỉ Thiên Thiên? Tiểu Phi lần này khó lòng có đường về!"

Sở Vô Hạ không trực tiếp đáp hắn, bình tĩnh hỏi: "Có phải Tộc chủ muốn biết tại sao ta từng uống hai viên Ninh tâm đan?"

Thác Bạt Khuê rốt cuộc ngồi xuốngmép giường nói: "Đó chính là thứ mà ta muốn biết."

Sở Vô Hạ thần sắc không đổi nhẹ nhàng nói: "Bởi vì thiếp hối hận về tất cả những việc làm trước kia, hy vọng tất cả như chưa từng xảy ra. Tốt nhất là có thể quên đi mọi thứ trước kia, để có thể bắt đầu một cuộc sống mới."

Thác Bạt Khuê trong lòng kích động trào dâng lên ý niệm và tình tự mà chính hắn cũng không có cách gì thanh lọc được. Nó bao gồm những cảm giác phức tạp không thể nói rõ như thương tiếc, đố kỵ, khinh bỉ và nhục dục. Đột nhiên, hắn hiểu mình rõ ràng chẳng thể coi nàng như một thứ đồ chơi. Càng hiểu nàng, hắn càng cảm thấy sự hấp dẫn của nàng đối với mình. Ngoài diện mạo xinh đẹp, trong nàng còn ẩn chứa nữ tính đậm nét. Nàng là một người đàn bà rất đặc biệt.

Thác Bạt Khuê đè nén tâm tình đang cuồn cuộn trào dâng, ghì chặt nàng vào lòng rồi hỏi: "Nàng có thành công không?"

Sở Vô Hạ sâu thẳm nhìn hắn đáp: "Điều này đúng là Tộc chủ đã sớm có đáp án. Công hiệu của bất kỳ linh đan diệu dược gì chỉ là nhất thời, rất ít đan dược ngoại lệ có khả năng thay đổi hoàn toàn thể chất. Nhưng những loại này lại phải chịu nguy hiểm rất cao. Vô Hạ vốn tưởng rằng sau khi mang Phật tàng trở về, sẽ có được sự sủng ái của Tộc chủ, hiệu lực sẽ vượt xa tâm đan. Ôi!"

Thác Bạt Khuê cảm thấy khó có thể kiềm chế, cười khổ: "Nếu nàng hiểu được tác phong làm việc và đối xử trước sau như một của Thác Bạt Khuê ta, sẽ biết ta coi nàng như ánh sáng mới mẻ của cuộc đời. Bây giờ đối với ta mà nói, không có chuyện gì trọng yếu bằng việc đánh bại Mộ Dung Thùy. Huống chi trong chuyện nam nữ, phải dần dần phát triển mới có hứng thú. Nếu ta vừa mới gặp nàng đã có được nàng thì không phải là chuyện tốt. Vô luận như thế nào, nàng cũng đã nói cho ta đáp án. Bất kể là đan dược gì, cũng chỉ có hiệu dụng ma túy nhất thời, có điểm giống như uống rượu. Khi nghiện ngập thì tuyệt không phải chuyện tốt. Ý tốt của nàng, ta xin lĩnh nhận."

Sở Vô Hạ ôn nhu nói: "Tộc chủ tin tưởng vào cảm giác không?"

Thác Bạt Khuê bối rối đáp: "Tin tưởng cảm giác à? Câu này là như thế nào? Cảm giác đều là tự nhiên, căn bản không phải là ngươi tin hay không tin."

Sở Vô Hạ cười duyên nói: "Chính bởi cái tự nhiên đó, cho nên chúng ta mới hờ hững với cảm giác, không coi trọng nó, cũng không đặc biệt để ý. Cũng giống như thói quen hít thở của chúng ta, nhưng khi ngươi thổ nạp điều tức xong, sẽ phát giác hít thở lại có thể quan trọng với chúng ta như vậy. Người không hiểu phương pháp thổ nạp sẽ không biết đó là căn cơ cho việc luyện võ."

Thác Bạt Khuê cười khổ nói: "Ngoài việc quốc gia đại sự, những việc khác khó mà khiến ta cảm thấy hứng thú. Bất quá những điều nàng nói cho ta cảm giác thật mới mẻ. Được rồi! Ta sẽ kiên nhẫn lắng nghe nàng."

Hai mắt Sở Vô Hạ giống như bị che phủ bởi một lớp sương mù, từ từ nói: "Hương vị của thanh sắc là ở cảm nhận của con người, đó là cảm nhận cá nhân. Cho nên tưởng cảm xúc là nhiều nhưng lại bắt nguồn từ một gốc. Tất cả chỉ là từ "tâm" mà ra thôi. Chỉ có thể cảm thấy cái có thể nghĩ, đại biểu cho những sinh hoạt của chúng ta. Di Lặc giáo chúng ta bán đan dược, đúng là bán một loại cảm giác nhưng nó không giống cảm giác bình thường. Cảm giác bình thường giống một cái vĩnh viễn, như việc không ra khỏi nước như cá, suốt đời không hiểu được thế giới bên ngoài nước như thế nào. Nhưng sau khi nó dùng đan được, sẽ lần đầu rời khỏi nước, thấy được thế giới bên ngoài, tỉnh ngộ không ngờ lại có một cảnh giới như thế này. Đương nhiên đây chỉ là thời khắc ngắn ngủi, nhưng ít ra nó cũng có cảm giác mới, hiểu được đạo lý có thể có một loại cảm nhận tư tưởng khác, đó là một loại cảnh giới của toàn bộ trái tim."

Thác Bạt Khuê không nhịn được bật cười: "Rốt cuộc nói như vậy, nàng nghĩ sẽ thuyết phục được ta dùng Ninh tâm đan sao."

Sở Vô Hạ lắc đầu nói: "Đương nhiên không phải như thế. Hiệu quả đan dược sẽ khác nhau với từng người. Có trầm mê hay không phải xem ý chí cá nhân. Có điểm giống như thanh lâu, các cô nương ở thanh lâu cũng là bán cảm giác. Có người táng gia bại sản, nhưng cũng có người nhờ đó mà tìm được cuộc sống đầy lạc thú. Tộc chủ không phải muốn chữa chứng mất ngủ sao? Vô Hạ chỉ là cung cấp cho tộc chủ một phương pháp có thể có hiệu quả thôi mà."

Thác Bạt Khuê cười đáp: "Đây là một cuộc nói chuyện thú vị, khiến ta cảm thấy thoải mái rất nhiều. Tạm thời tình hình của ta chưa đến mức quá tồi tệ để phải cầu sự trợ giúp của đan dược. Vô Hạ hãy nghỉ ngơi cho tốt, ta vốn có một số việc muốn hỏi nàng, để tối mai đi nha!"

Dứt lời hắn đi khỏi phòng.

"Coong!"

Cụng ly xong, bốn người một hơi uống sạch, không khí cũng trở nên hòa hoãn.

Đông Ngũ tầng trở lại vẻ như cũ. Người không biết chuyện khẳng định không có cách nào đoán được vài bữa trước nơi này đã phát sinh sự kiện ám sát. Cao thủ nổi tiếng như cồn Can Quy vì hành thích thất bại mà phải nuốt hận ở sông Tần Hoài.

Tư Mã Nguyên Hiển vô cùng vui vẻ, châm tửu liên tục.

Bố trí đêm nay lại không giống với đêm trước, giữa sương phòng kê một chiếc bàn to. Tư Mã Nguyên Hiển, Yến Phi, Lưu Dụ và Đồ Phụng Tam mỗi người ngồi một phía.

Tư Mã Nguyên Hiển cười nói: "Đêm nay khẳng định không ai dám đến hành thích, trừ phi không biết là Yến Phi đang uống rượu ở đây. Nhưng nếu tin tức không linh thông như thế, căn bản không có tư cách làm thích khách."

Đồ Phụng Tam hùa vào: "Có thể nói là chỉ có thích khách hạng bét."

Mọi người cười vang.

Tư Mã Nguyên Hiển thở dài: "Chúng ta lại được cùng nhau!"

Tống Bi Phong vốn cũng được mời, nhưng lão lại từ chối vì không quen với những chốn phong hoa tuyết nguyệt, chỉ phụ trách đưa Yến Phi tới, không tham gia tiệc đêm. Ba người hiểu được ý tứ củaTư Mã Nguyên Hiển, chính là nhắc đến lúc cùng nhau đối chọi Hác Trường Hanh trên Đại Giang, giờ lại cùng nhau ở một chỗ. Chỉ từ những lời này, cũng biết Tư Mã Nguyên Hiển đối với những việc xảy ra trong đêm đó không bao giờ quên được.

Tư Mã Nguyên Hiển cao hứng nói: "Đêm nay chúng ta dùng thân phận giang hồ huynh đệ để đối đãi nhau. Những cái như giai cấp địa vị hoàn toàn không cần để ý đến. Ài! Những lời này ta muốn nói từ lâu lắm rồi, nhưng đến đêm nay mới có cơ hội."

Yến Phi vui vẻ nói: "Lần này nhìn thấy công tử, giống như nhìn thấy một người khác, khiến ta vô cùng bất ngờ."

Tư Mã Nguyên Hiển nói: "Đã nói là giang hồ tụ hội, sao còn gọi ta công công tử tử làm gì. Cứ gọi là Nguyên Hiển cho tiện, trước tiên xin phạt Yến huynh một ly."

Lưu Dụ cười nói: "'Công tử' đó là biệt hiệu giang hồ của ngươi, gọi ngươi là 'công tử' cũng là thỏa đáng."

Tư Mã Nguyên Hiển cười quái dị: "Đúng! Đúng! Nên phạt chính mình mới đúng."

Nói rồi nâng ly uống cạn.

Ba người thấy hắn có vài phần túy lúy, nên không châm tửu.

Tư Mã Nguyên Hiển thở dài: "Nói cho các ngươi có lẽ các ngươi sẽ không tin. Sự thật là ta lại vô cùng nhớ những ngày An công còn sống. Khi đó ta chẳng biết trời cao đất rộng gì cả, tối ngày trầm mê tửu sắc, luôn luôn không tự phán xét hành vi của chính mình, rất nhiều lần đụng đầu vào đá."

Địa vị Yến Phi khách quan, không giống hai gã Lưu, Đồ hai người nói chuyện cố kị nhiều điểm nên tùy tiện cười nói: "Đã đụng đầu và đá nhiều, có gì đáng giá để mà hoài niệm về những ngày đó?"

Tư Mã Nguyên Hiển nói: "Hoài niệm sâu sắc nhất chính là làm cái gì cũng đều phải có trách nhiệm. Ài! Khi đó quả thật là ngu ngốc, dám cùng An công tranh phong cật thố*. Khi trở về còn đặt những điều xấu xa để mách lẻo với cha ta, đúng là hoàn toàn không giác ngộ."

Yến Phi hỏi: "Từ khi nào ngươi bắt đầu tỉnh ngộ, cho rằng hành vi của mình có điểm không đúng?"

Tư Mã Nguyên Hiển đáp: "Đêm nay lão Tống vắng mặt, chúng ta nói chuyện thuận tiện và thoải mái hơn. Bây giờ ta muốn nói đến một chuyện ta bị mất mặt, các ngươi có hứng thú nghe không?"

Lưu Dụ sinh ra cảm giác cổ quái. Nghe Tư Mã Nguyên Hiển trút bầu tâm sự, gã biết tên vương tộc công tử nắm quyền to này có nội tâm hoàn toàn không giống với vẻ ngoài phong quang khoái lạc, cũng đầy ắp tâm sự, nhưng chỉ có thể giấu ở đáy lòng. Đến lúc này trong lúc trà dư tửu hậu, trước ba người bọn họ, những người đã từng chen vai thích cánh cùng nhau tác chiến với hắn, hắn có cơ hội để trút bầu tâm sự.

Đồ Phụng Tam cười nói: "Công tử sẵn lòng nói, chúng ta đương nhiên là muốn nghe rồi."

Tư Mã Nguyên Hiển nói: "Sự tình là như thế này. Các ngươi nghe qua Vương Đạm Chân, con gái của Vương Cung chưa? Nàng và con gái Huyền soái là Tạ Chung Tú được gọi là Kiến Khang song kiều, là giai nhân tuyệt sắc."

Ánh mắt Yến Phi không khỏi hướng về phía Lưu Dụ thấy thần sắc gã không đổi, nhưng chàng thấy trong ánh mắt gã chợt lóe lên nét bi thương khi Tư Mã Nguyên Hiển nhắc đến tên Đạm Chân.

Đồ Phụng Tam tịnh không biết Lưu Dụ và Vương Đạm Chân có quan hệ, không lưu ý gật đầu nói: "Đương nhiên có nghe qua. Yểu điệu thục nữ, quân tử hảo cầu. Công tử đương nhiên sẽ không bỏ qua cơ hội theo đuổi nàng."

Tư Mã Nguyên Hiển vô cùng hứng thú thảo luận, tự hận không không thể trút hết mọi thứ trong đầu ra. Hắn nói: "Tất nhiên là không buông tha rồi. Ta biết được nàng bí mật rời khỏi đô thành, lấy cớ đi đưa tang An công, đến Quảng Lăng cùng hội họp với cha nàng là Vương Cung. Nhịn không được ta bèn đem người đuổi theo, rồi bị trúng mai phục. Chẳng biết bị thằng vô lại nào đó bắn một mũi tên, sợ tới mức ta phải bỏ chạy về đô thành. Không dối gạt các vị, một mũi tên kia cũng đánh thức ta tỉnh ngộ biết rằng việc rời bỏ đô thành của mình là không thể chấp nhận được."

Lưu Dụ thầm nghĩ cái thằng vô lại kia chính là lão tử, đương nhiên không thể nói ra. Đồng thời trong lòng dấy lên một cảm giác quái dị. Tư Mã Nguyên Hiển bây giờ hoàn toàn tin tưởng bọn họ, coi bọn họ là bằng hữu. Nhưng tương lai có một ngày, nếu Tư Mã Nguyên Hiển trở thành chướng ngại trên con đường tranh đoạt đế vị của mình, liệu mình có thể tâm ngoan thủ lạt mà đối phó với hắn không?

Lưu Dụ thật sự không biết.

Tư Mã Nguyên Hiển tiếp tục nói: "Nhưng việc chính thức toàn diện tỉnh ngộ là có quan hệ đến ba vị. Đêm đó ta gặp phản kích ác liêt, cuối cùng lại bị ba vị bắt sống. Có thể nói đó là sự khuất nhục lớn nhất đời ta, khiến ta nghĩ đến chuyện mình cũng có thể bị người giết chết. Cái khiến ta không thể tưởng được nhất, là Yến huynh chẳng những lấy lễ đãi ta, mà còn coi ta như huynh đệ bằng hữu, lại tín nhiệm ta. Cái loại cảm giác khi thuyền nhỏ của bọn ta trốn tránh sự truy sát của "Ẩn Long" ấy thật sự khó có thể hình dung. Đến tận hôm nay ta vẫn luôn nghĩ về tình huống đấu trí đấu lực lúc ấy. Hắc! Bây giờ chúng ta lại có thể sánh vai tác chiến rồi!"

Mọi người lại châm tửu cùng uống.

Tư Mã Nguyên Hiển buông ly rượu cười khổ: "Những ngày trước kia đều chẳng biết sẽ đi về đâu? Ù ù cạc cạc, giống như chẳng bao giờ thỏa mãn, mỗi ngày đều có điểm để mà phải suy nghĩ lăn tăn. Bây giờ mặc dù trọng trách trên vai càng ngày càng nặng, phải quan tâm đến rất nhiều thứ, nhưng luôn luôn tin tưởng vào bản thân có đủ bản sự để giải quyết các vấn đề."

Yến Phi mỉm cười nói: "Đã như vầy, vì sao công tử còn nói vô cùng hoài niệm cuộc sống khi An công còn tại thế?"

Tư Mã Nguyên Hiển gật đầu đáp: "Đích xác là rất mâu thuẫn. Có lẽ là vì bây giờ trách nhiệm nhiều quá, trạng huống càng rõ ràng càng cảm thấy sợ hãi. May là có ba vị giúp ta, nếu không ta thật sự chẳng biết ứng phó như thế nào. Ở thời điểm đó, ta ngày ngày phong hoa tuyết nguyệt, cũng không biết là thống khổ hay là vui sướng, nhưng thực ra cảm thấy tất cả đều an toàn. Bất luận gặp phải tai vạ gì đều có cha ta xuất đầu lộ diện giúp đỡ, không bao giờ lo lắng sẽ bị người ta làm thịt. Cuộc sống như vậy, ít ít nhiều nhiều cũng có chút đáng giá để nhớ lại chứ!"

Tư Mã Nguyên Hiển vô cùng cảm khái nói: "Đêm nay là một đêm đặc biệt phi thường. Ta từ không nghĩ tới khả năng cùng ba vị gặp lại, mà giờ lại tụ họp ở Đông Ngũ tầng nổi tiếng nhất của Tần Hoài Hà, cũng chưa bao giờ nói cho người khác tâm sự của lòng mình. Nào! Chúng ta lại nâng ly chứ? Ta tuy không có tư cách so kiếm với Yến huynh, nhưng có thể đấu tửu."

Mọi người nâng ly lên cụng.

Lưu Dụ cười nói: "Công tử có biết tửu lượng Yến Phi, tuyệt không khác mấy so với kiếm pháp của hắn."

Trong tiếng cười, bốn người lại nâng ly.

Lúc này ngay cả bọn Lưu Dụ cũng có vài phần chuếnh choáng.

Tư Mã Nguyên Hiển nói: "Một ly này là chúc Yến huynh kì này thắng lợi, đánh bại Tôn Ân, lặp lại thành tích hào hùng giết Trúc Pháp Khánh ngày đó, khiến Thiên Sư quân không đánh cũng phải tan."

Yến Phi ngạc nhiên nói: "Làm thế nào công tử biết việc này?"

Đồ Phụng Tam đáp thay: "Là ta nói cho công tử."

Tư Mã Nguyên Hiển cao hứng thẳng thắn hỏi: "Lúc này trong trận chiến với Tôn Ân, Yến huynh nắm chắc bao nhiều phần thắng?"

Thật ra chuyện Tư Mã Nguyên Hiển đề ra cũng là thứ Lưu Dụ và Đồ Phụng Tam muốn hỏi Yến Phi nhất. Tất cả cùng tập trung toàn bộ tinh thần lắng nghe.

Ánh mắt Yến Phi nhìn ra ngoài cửa sổ, trên khóe miệng xuất hiện một tia tiếu ý mà người khác khó lòng hiểu nổi.

Chú thích

* Tranh phong cật thố: Ý nghĩa là vì quan hệ nam nữ mà đố kỵ, tranh giành với nhau.Thác Bạt Khuê bước vào thính đường, Thôi Hoành và Trưởng Tôn Đạo Sinh liền cung kính đứng dậy cung nghênh gã.

Ba người ngồi ở một góc phòng, Thác Bạt Khuê nói: "Tình huống chính xác đang như thế nào?"

Trưởng Tôn Đạo Sinh cung kính: "Tình huống không đến nỗi quá ác liệt, bởi đã sớm qua mùa gặt, một lượng lớn lúa thóc đã cho vào kho lương của Bình Thành và Nhạn Môn, ngay cả nếu bị Bí nhân phá hoại vẫn sẽ không bị ảnh hưởng đến việc cung ứng lương thực cho mùa Đông."

Thác Bạt Khuê trầm giọng hỏi Thôi Hoành: "Thôi khanh nghĩ sao?"

Thôi Hoành đáp: "Bí nhân muốn tạo ra khủng hoảng để làm suy giảm uy vọng của tộc chủ. Họ muốn giúp Mộ Dung Thùy tạo thế phản công nên muốn bọn ta phẫn nộ."

Ánh mắt Thác Bạt Khuê chớp sáng: "Làm thế nào để thực hiện sách lược cầm tặc tiên cầm vương của Thôi khanh?"

Trưởng Tôn Đạo Sinh hiện ra thần sắc vẫn còn sợ hãi nói: "Mặc Sĩ Minh Dao về mọi mặt công phu, khinh thân, và thất tiết nhuyễn tiên đều quỷ dị khó dò. Đêm đó thuộc hạ và Thôi huynh cùng Sở cô nương hợp lực vây công nhưng cũng không làm gì được ả, cuối cùng nếu không có Sở cô nương liều mạng đánh trúng ả một chưởng bị thương thì hậu quả không dám nghĩ tới. Giết ả đã không dễ nói gì đến việc bắt sống."

Thác Bạt Khuê ngắt lời hỏi: "Theo Thác Bạt Khuê ta thì chẳng có gì không làm được, Thôi khanh có cách gì không?"

Thôi Hoành đáp: "Ý nghĩ trong lòng tộc chủ cũng giống thuộc hạ. Thế gian này nếu có người nào có thể bắt sống Mặc Sĩ Minh Dao thì đó là Yến Phi. Nhưng phải có xảo kế phối hợp, dụ Mặc Sĩ Minh Dao ra mặt, khiến ả từ tối ra sáng."

Thác Bạt Khuê than: "Tiểu Phi đúng là người lý tưởng cho việc này, chỉ hận là Biên Hoang tập đang cần gã như bọn ta, làm sao gã phân thân ra được?"

Thôi Hoành đáp: "Đó mới là sự trọng yếu của sách lược. Kế sách nào cũng phải phối hợp với thời cơ mới có hiệu ứng như sấm sét chớp giật."

Trưởng Tôn Đạo Sinh có vẻ không hiểu: "Thời cơ là sao?"

Thôi Hoành giải thích: "Lần này Bí nhân ly khai đại mạc đển giúp Mộ Dung Thùy đối phó với bọn ta và Hoang nhân, rõ ràng là nhắm vào tình huống đặc thù của cả đôi bên, dùng thủ đoạn phá hoại kinh tế để nhiễu loạn nhân tâm, khiến bọn ta lâm vào khốn cảnh. Không những có thể làm bọn ta rơi vào cục diện bị động mạnh ai nấy đánh, mà còn làm suy giảm đấu chí và sĩ khí của chiến sĩ. Phương pháp vừa cao minh và cũng là chiến lược cực kỳ ưu tú mà Bí nhân nghĩ ra nên cơ hội thành công rất cao."

Thác Bạt Khuê gật đầu: "Lời Thôi khanh quả rất đúng. Trận cước chúng ta hiện tại chưa ổn, lòng dân Bình Thành và Nhạn Môn chưa quy về ta nên rất dễ bị địch nhân dao động. Thêm vào đó Thịnh Nhạc cách đây quá xa, chỉ cần Bí nhân có thể cắt đứt giao thông hai vùng sẽ cô lập hóa quân ta, như vậy Bình Thành và Nhạn Môn sẽ không thể tiếp ứng, lúc ấy chỉ cần Mộ Dung Tường cũng đủ thu thập chúng ta."

Thôi Hoành tiếp tục phân tích: "Điều hết sức trọng yếu ở chỗ Biên Hoang tập chính là mệnh mạch của chúng ta, nếu liên hệ giữa ta và Biên Hoang tập bị chặt đứt thì mùa Xuân năm tới cũng là ngày thảm bại của chúng ta."

Trưởng Tôn Đạo Sinh nhíu mày: "Làm gì nghiêm trọng đến mức đó! Lương thực tàng trữ của hai thành cũng đủ nuôi quân đến mùa Thu sang năm."

Thác Bạt Khuê trầm giọng: "Nếu là tình huống bình thường thì đúng là như vậy, tuy nhiên tình huống Thôi khanh nói không phải bình thường."

Trưởng Tôn Đạo Sinh suy nghĩ: "Thuộc hạ hiểu rồi, vì dân chúng ở các thôn trấn kế cận bị khủng hoảng nên đổ dồn về hai thành khiến lương thực tồn trữ không đủ để cung ứng với số lượng nhân khẩu tăng đột xuất."

Thôi Hoành: "Ai cũng đều biết ngựa kéo, chiến mã là do Thịnh Nhạc cung ứng nhưng lương thực vật tư thì ta phải thông qua Biên Hoang tập về Nam phương để tìm mua. Mục tiêu chiến lược của Bí nhân không những là cắt đứt giao thông từ Thịnh Nhạc cho tới Bình Thành mà trọng yếu hơn nữa là chận đứng liên hệ của chúng ta với Biên Hoang tập. Như thế thì chỉ qua mùa Đông là chúng ta căn bản vô lực chống cự lại đại quân của Mộ Dung Thùy mà Hoang nhân lại không thể rục rịch thì vô phương cùng chúng ta liên thủ kháng địch."

Thác Bạt Khuê mỉm cười hỏi: "Mới rồi Thôi khanh đã chỉ ra thời cơ là thời cơ thế nào?"

Thôi Hoành vui vẻ đáp: "Tộc chủ đã nhìn ra rồi!"

Thác Bạt Khuê mỉm cười không nói.

Trưởng Tôn Đạo Sinh cười khổ: "Xin thứ cho Đạo Sinh ngu dốt nhưng thật vẫn chưa hiểu ra."

Thác Bạt Khuê cười: "Không phải Đạo Sinh ngu dốt mà vì Đạo Sinh đã quen đối đầu trực diện với địch quân ngoài sa trường và không quen với thủ đoạn mờ ám trong bóng tối. Thôi khanh muốn nói tới khi kho lương lớn nhất của chúng ta tại Bình Thành và Nhạn Môn đều bị địch nhân lẻn vào hỏa thiêu, lúc ấy sẽ là thời cơ chúng ta chờ đợi."

Trưởng Tôn Đạo Sinh ngạc nhiên cũng phải.

Thác Bạt Khuê bình tĩnh: "Chúng ta có thể giả thiết Mộ Dung Thùy định mùa Xuân năm tới sẽ phản công, mọi kế sách đều dựa vào thời điểm này. Đối với Bí nhân phá hoại khắp nơi, chúng ta không có biện pháp ngăn ngừa, nên phải dùng sách lược lấy bất biến ứng vạn biến, chỉ cần giữ vững Bình Thành và Nhạn Môn thì chắc sẽ không thua. Hừ! Ta đã đoán được việc Bí nhân sẽ đốt kho lương, dĩ nhiên sẽ không để chúng đốt được đồ thật, chỉ cần làm chúng tưởng rằng ta không còn lương thảo là được."

Tiếp đó gã nói với Thôi Hoành: "Thôi khanh hãy nói tiếp đi."

Thôi Hoành đáp ứng: "Tuy binh lực Mộ Dung Thùy lúc này không đủ để cắt đứt liên hệ của chúng ta và Biên Hoang, nhưng muốn phong tỏa giao thông Dĩnh Thủy của Biên Hoang, lại có thừa. Khi giao thông phương Bắc của Biên Hoang tập bị cắt đứt, chúng ta vì thiếu lương nên phải cầu viện Biên Hoang tập, trung tâm của toàn cuộc chiến sẽ chuyển qua chuyện liên lạc của Bình Thành, Nhạn Môn và Biên Hoang tập. Làm thế nào để đột phá sự phong tỏa này của địch nhân sẽ là mấu chốt thành bại giữa ta và địch."

Trưởng Tôn Đạo Sinh rúng động tâm thần, giật mình nói: "Thuộc hạ hiểu rồi, nếu sau đó bọn ta mang năm hòm vàng đến Biên Hoang tập mua gạo thóc, địch nhân sẽ ra sức phá hoại chuyện này, Mặc Sĩ Minh Dao sẽ vì thế mà xuất đầu lộ diện, chỉ cần Yến Phi xuất thủ bắt sống nữ nhân này là sẽ giải quyết được vấn đề Bí nhân."

Thác Bạt Khuê vui vẻ: "Các ngươi hãy bàn thảo với nhau về chi tiết, cấp tốc biến lương thảo thật thành giả không được chậm trễ. Việc này giao cho hai ngươi toàn quyền xử lý."

Thôi Hoành và Trưởng Tôn Đạo Sinh lớn tiếng nhận lệnh.

Ánh mắt Thác Bạt Khuê hiện lên sát cơ dữ dội: "Bất cứ kẻ nào chống ta đều sẽ có kết cục thê thảm."

Yến Phi mỉm cười: "Trận này sẽ bất phân thắng bại vì ta không thể thụ thương."

Ba người nghe vậy thì nhìn nhau hoang mang, cho dù người nói là Yến Phi họ vẫn thấy khó mà tiếp thụ, vì chuyện này vốn không thể đoán chắc được, mà Yến Phi lại hết sức chắc chắn với thái độ như là chuyện đương nhiên. Bất quá ba người có thể khẳng định một điều là Yến Phi không hề sợ hãi Tôn Ân.

Tư Mã Nguyên Hiển nói lên sự suy nghĩ của bọn họ: "Có phải Yến huynh biết chuyện quá khứ vị lai, nếu không làm sao có thể khẳng định như thế?"

Yến Phi bật cười: "Chẳng ai có thể biết được tương lai, nhưng ta lại biết người biết ta. Trên thế gian này chỉ e là không ai biết hư thật của đối phương như ta và Tôn Ân, vì thế ta có thể đoán trước được chiến quả."

Ba người đều từ đó hiểu được ý của Yến Phi, bởi Yến Phi và Tôn Ân đã qua hai lần quyết chiến, nên đương nhiên là hiểu rõ công phu của đối phương nông sâu thế nào. Họ không ngờ Yến Phi muốn nói đến công quyết của Thái dương hỏa và Thái âm thủy mới thực sự giúp chàng biết rõ nông sâu của đối phương.

Đồ Phụng Tam hỏi: "Yến huynh vừa nói vì sẽ không để mình thụ thương nên trận này sẽ bất phân thắng bại. Nói như thế có phải nếu Yến huynh chịu liều mạng thụ thương thì sẽ có thể trừ khử Tôn Ân không?"

Yến Phi ung dung đáp: "Tình huống giữa ta và Tôn Ân vi diệu dị thường, không thể dùng tình lý bình thường mà suy đoán được, nói ra thì rất dài. Luận về công lực ta không hơn được sự tinh thuần thâm hậu của y, nhưng nói về biến hóa thì ta lại hơn. Có thể nói vũ công đạo pháp của y đã đến cảnh giới cao nhất, muốn có đột phá thêm nữa thì khó còn hơn lên trời; còn ta thì vẫn còn trên con đường tìm hiểu, mỗi ngày đều có tiến bộ."

Lưu Dụ hỏi: "Trên đường đến đây Yến huynh có phải vừa nói đã nghĩ ra cách đánh bại Tôn Ân không?"

Yến Phi đáp: "Đó là nói về tương lai, ta thật đã có cách phá pháp môn khiếu quyết của Tôn Ân, tuy nhiên trước mắt thì còn quá sớm để nói thế."

Tư Mã Nguyên Hiển nhíu mày: "Ta hiểu rõ mỗi câu Yến huynh vừa nói, nhưng càng nghe lại càng thêm hồ đồ. Cao thủ giao đấu không phải chỉ cần ly hào khác biệt cũng đủ quyết định thắng bại sao? Trừ phi một bên hoàn toàn khống chế chiến cục trước khi phân thắng bại mới có thể bức bách đối phương biết khó mà lui, nếu không làm sao giữ được kết cục êm đẹp?"

Yến Phi vui vẻ đáp: "Vì thế ta đã nói tình huống này hết sức vi diệu khó mà miêu tả. Ta cũng biết nói ra sẽ làm các ngươi như lạc vào trong sương mù, nhưng nói để các ngươi có chuẩn bị về mặt tâm lý. Chuyện Trúc Pháp Khách sẽ không lập lại với Tôn Ân, ít ra sẽ không xảy ra ở trận chiến này."

Đồ Phụng Tam than: "Yến huynh quả là một người phi thường."

Tư Mã Nguyên Hiển nâng ly, bỗng có tiếng gõ cửa theo đó là giọng nữ nhân: "Thục Trang có thể vào không?"

Kỷ Thiên Thiên được Phong nương đưa đến chủ đường gặp Mộ Dung Thùy. Thần sắc Phong nương nghiêm trọng, im lặng không nói gì. Kỷ Thiên Thiên biết khó mà tìm hiểu được gì từ bà nên cũng dè dặt không hỏi.

Đã hơn mười ngày nàng chưa gặp Mộ Dung Thùy, từ khi bị bắt tới giờ chuyện này chưa từng xảy ra. Mộ Dung Thùy không phải đã không từng bỗng nhiên biến mất không ai biết đi đâu, nhưng đều chỉ là chừng ba, bốn ngày, chứ chưa bao giờ lâu như lần này.

Họ đi vòng theo đường lát đá xanh trong vườn đến cửa chính chủ đường, từ xa đã thấy Mộ Dung Thùy đang tiễn một người khách ra cửa, người này dáng vẻ hiên ngang thật là một bậc nhân tài, tuy đang chuyện trò với Mộ Dung Thùy nhưng vẫn không kiêu ngạo hay khúm núm, thần thái ung dung, khiến người nhìn vào có cảm giác không hề thuộc hạng bình phàm. Điều làm Kỷ Thiên Thiên có ấn tượng sâu sắc là người này không những không phải người Trung thổ, mà nàng cũng không nhận ra thuộc tộc người Hồ nào.

Kỷ Thiên Thiên không khỏi chú ý, nàng bỗng nghe tiếng Mộ Dung Thùy như có như không vo ve truyền vào trong tai: "Lần này mọi việc đều nhờ ở tiên sinh, nếu thuyết phục được Hách Liên Bột Bột, nhổ gốc rễ của Thác Bạt Khuê thì tên tiểu nhân Thác Bạt ấy chỉ còn cách ngồi tại Bình Thành chờ ngày mạt vận."

Người ấy vui vẻ: "Phương diện này tại hạ sẽ chu toàn, và tại hạ chỉ cần yêu nữ ấy."

Kỷ Thiên Thiên thầm giật mình, thì lại không còn nghe được đoạn sau của cuộc đối thoại, nàng không khỏi cảm thấy quá lạ lùng, vì đang đứng cách xa họ cả trăm bộ, họ lại còn hạ giọng khi nói chuyện nên nếu chiếu theo khả năng của nàng trước đây thì không thể nào nghe được.

Mộ Dung Thùy tiễn khách xong, quay lại nhìn nàng bằng ánh mắt yêu thương ngưỡng mộ, thần thái y lại có vẻ thư giãn giống như đã giải quyết xong mọi vấn đề khó khăn.

Kỷ Thiên Thiên đến trước mặt y, Phong nương lui sang một bên.

Mộ Dung Thùy bỗng nhìn nàng chăm chú, vẻ mặt có điều như không hiểu.

Lòng nàng bất an biết bị y nhìn ra công lực mình đã có tinh tiến rất lớn nên nói khỏa lấp: "Hoàng thượng triệu Thiên Thiên đến đây có chuyện gì thế?"

Mộ Dung Thùy liếc nhìn Phong nương rồi nói: "Chúng ta vào trong rồi hãy nói sau."

Hai người bước vào trong chủ đường ngồi đối mặt bên cạnh chiếc bàn tròn, nữ tỳ dọn lên trà thơm bánh mứt rồi lui ra ngoài, chỉ còn họ hai người.

Mộ Dung Thùy than: "Chuyện thật khó tin, vì sao lần này gặp lại Thiên Thiên ta có cảm giác Thiên Thiên xinh đẹp quyến rũ hơn, vẻ kiều diễm toát ra cực kỳ tươi tắn và mỹ lệ."

Kỷ Thiên Thiên yên tâm trở lại vì biết y bị "kinh diễm"* vì nhãn thần của mình đã trở nên linh động có thần, sắc da tươi sáng, nhưng không hoài nghi nàng đã bí mật luyện công. Nàng thờ ơ nhắc lại: "Hoàng thượng vẫn chưa nói triệu Thiên Thiên đến có việc gì."

Mộ Dung Thùy cười khổ: "Để trò chuyện thôi không được sao? Ta xa Thiên Thiên cũng đã mười ba ngày dài, Thiên Thiên cũng không hỏi một câu về việc ta đã đi đâu sao?"

Kỷ Thiên Thiên đáp: "Tốt lắm! Dám hỏi Hoàng thượng đã đi đâu suốt mười mấy ngày qua?"

Mộ Dung Thùy thiếu chút là nghẹn lời, tiếp theo lại cười khổ: "Lời lẽ Thiên Thiên thật lợi hại khiến ta khó chống đỡ nổi. Sáng mai chúng ta sẽ quay về Huỳnh Dương, nghe nói gần đây nhiều chỗ đều đang có tuyết rơi, đi muộn sẽ khổ cực lắm."

Kỷ Thiên Thiên nói: "Thần thái Hoàng thượng rất thoải mái!"

Mộ Dung Thùy mỉm cười: "Nhân sinh vô thường, lúc lên lúc xuống, ta vừa mới trải qua thất bại nghiêm trọng, nhưng may thay đại cục bây giờ đã ổn nên ta mới thư giãn một chút."

Kỷ Thiên Thiên lạ lùng hỏi: "Đại cục đã ổn?"

Mộ Dung Thùy quả quyết: "Tối nay chúng ta sẽ không nói về Biên Hoang tập, cũng không nói về tên tiểu nhân vong bản Thác Bạt Khuê, còn thì chuyện gì Thiên Thiên muốn hỏi, Mộ Dung Thùy ta sẽ trả lời."

Kỷ Thiên Thiên thầm nghĩ chuyện khác ta chẳng có hứng để nghe, bất quá Mộ Dung Thùy sẵn lòng chỉ nói chuyện chứ không làm gì khác dĩ nhiên là lý tưởng quá rồi. Nàng trầm ngâm một thoáng rồi hỏi: "Đại nghiệp tranh bá của Hoàng thượng hiện tại như thế nào?"

Mộ Dung Thùy bật cười: "Thiên Thiên thật là khéo! Rất biết hỏi. Tốt lắm! Hiện tại quan nội quan ngoại là hai tình huống riêng biệt. Quan ngoại thì có vẻ sáng sủa , chỉ cần trừ khử mấy tên tiểu tặc là Mộ Dung Thùy ta sẽ ở thế xưng bá rồi. Còn quan nội thì khác! E rằng không ai biết rõ tình hình phức tạp bên trong."

Kỷ Thiên Thiên nói: "Chuyện này đâu thể làm khó Hoàng thượng được"

Mộ Dung Thùy nở nụ cười tràn ngập tự tin, bỗng nhiên hết sức cao hứng muốn được nói chuyện: "Để ta kể nàng nghe một chuyện thú vị liên quan đến Diêu Trường, dĩ nhiên là đối với hắn thì chả thú vị gì!"

Kỷ Thiên Thiên cũng bị làm cho hiếu kỳ, gật đầu nói: "Thiên Thiên lắng nghe đây!"

Mộ Dung Thùy thấy đã làm mỹ nhân động lòng thì vội nói: "Chuyện là thế này, trước khi Diêu Trường siết cổ Phù Kiên đến chết trong chùa Tân Bình thì y chưa bao giờ ra trận mà không thắng, xem chừng Quan Trung phải rơi vào tay y. Khi Phù Phi con trai Phù Kiên đại bại trong tay Mộ Dung Vĩnh ở Tương Lăng rồi bị giết khi chạy trốn, khí thế Diêu Trường càng lên như cầu vồng, ngay cả ta y cũng không để vào mắt."

Kỷ Thiên Thiên tĩnh tâm chăm chú lắng nghe.

Mộ Dung Thùy kể tiếp: "Sau khi Phù Phi chết, cháu Phù Kiên là Phù Đăng lên kế vị, người này tính cách đặc biệt, thích gì làm nấy không câu nệ tiểu tiết, học nhiều biết rộng, hơn xa Phù Phi về mọi phương diện. Khi ấy ta đã biết Diêu Trường đã có một kình địch, thế nhưng vẫn không tưởng rằng Diêu Trường vốn vô địch trên chiến trường vậy mà mỗi lần ra trận đối phó với Phù Đăng đều không thể chiếm được tiện nghi. Khặc! Vậy mà Diêu Trường không tự trách mình bất tài, lại nghi thần nghi quỷ, cho là bị quỷ hồn của Phù Kiên ám, mới xây một thần tượng của Phù Kiên ngay trong quân, hy vọng hồn Phù Kiên thỏa mãn mà không làm khó dễ y nữa. Ôi! Nếu sớm biết thế hà tất gây ra lỗi lầm chứ? Nếu y đã không siết cổ Phù Kiên đến chết mà chỉ để làm bù nhìn, thì nay đã không có tình huống như thế."

Kỷ Thiên Thiên biết rõ Mộ Dung Thùy dẫn dụ để nàng lên tiếng, nên cũng muốn làm y vui lòng: "Lập thần tượng xong, y ra trận có thắng không?"

Mộ Dung Thùy khịt mũi khinh thị, nói: "Trên đời này làm gì có chuyện dễ dàng như vậy được. Diêu Trường vẫn tiếp tục bị thất lợi, nên nổi điên chém đầu thần tượng gởi cho Phù Đăng, lại còn moi xác Phù Kiên lên đánh để tiết giận, y đã trở nên điên khùng rồi. Cũng may y gặp phải khắc tinh là Phù Đăng, bằng không y đã sớm xuất quan để cùng ta tranh thắng."

Kỷ Thiên Thiên lộ vẻ chán ghét, rõ ràng nàng đang nghĩ đến cảnh tượng hung ác khi Diêu Trường dùng roi quất xác Phù Kiên.

Ai có thể tưởng được, một vị đại bá chủ thống nhất Bắc phương không những khi chết đã thảm, mà chết rồi vẫn không yên ổn như thế.

Kỷ Thiên Thiên lại hỏi: "Phù Đăng có thể hồi phục được cho Tần quốc những ngày huy hoàng thuở xưa không?"

Mộ Dung Thùy đáp ngay: "Chuyện này nói dễ, làm khó. Phù Đăng được đắc ý nhất thời chỉ là sự hồi quang phản chiếu**. Vì đại thế từ ổn sang loạn, từ thống nhất thành phân liệt, có mười Phù Đăng cũng khó làm gì được, huống chi hắn lại là một cột khó chống nổi cả nhà. Nếu Diêu Trường bị hắn chọc tức mà chết thì cũng còn Diêu Hưng vốn cao minh hơn cha hắn. Sở dĩ Phù Đăng nhiều trận không bại, chủ yếu là vì hắn có một mãnh tướng túc trí đa mưu tên là Lôi Ác Địa. Khặc! Nói đến Phù Đăng này cũng có nhiều tin đồn thú vị, Thiên Thiên có muốn nghe không?"

Kỷ Thiên Thiên lấy làm lạ: "Những chuyện phát sinh ở Quan Trung làm sao Hoàng thượng lại biết rõ như lòng bàn tay thế?"

Mộ Dung Thùy cười đắc ý, thản nhiên đáp: "Đó gọi là quân tình đệ nhất***, càng hiểu rõ tác phong của chủ soái đối phương càng có thể nghĩ được cách đánh bại những mưu lược thủ đoạn của đối phương. Ở mặt này ta tuyệt không khinh thường. Thiên Thiên tựa hồ không thích nghe chuyện của Phù Đăng lắm à?"

Kỷ Thiên Thiên không hề đáp thẳng, lại hỏi: "Ngoài Diêu Trường và Phù Đăng, còn có những nhân vật nào?"

Mộ Dung Thùy đáp: "Đã gọi là nhân vật thì chỉ đếm trên đầu ngón tay là cùng. Ta đã xếp hạng theo thứ tự là Khất Phục Quốc Nhân, Lữ Quang, Ngốc Phát Ô Cô, Tự Cừ Mông Tốn và Hách Liên Bột Bột."

Kỷ Thiên Thiên đã chờ y nói ra điều này để có thể hỏi về tình huống của Hách Liên Bột Bột mà y không thể nghi ngờ, nàng vờ vui vẻ tự nhiên hỏi: "Trong năm người này, Thiên Thiên chỉ nhận ra Hách Liên Bột Bột, y bị thua trận ở Biên Hoang tập hết sức tức tối, tình trạng bây giờ ra sao?"

Hai mắt Mộ Dung Thùy lóe sáng, chú ý nhìn nàng.

Thần sắc Kỷ Thiên Thiên vẫn như thường nhưng trong lòng sợ hãi, thầm nghĩ không hiểu Mộ Dung Thùy có bằng câu hỏi bề ngoài có vẻ không sơ hở này của nàng mà đoán ra nàng đã nghe được cuộc đối thoại bí mật của y và người khách bên ngoài cổng trước đó không?

Chú thích:

*kinh diễm: Kinh sợ vì vẻ đẹp.

**hồi quang phản chiếu: tình trạng sáng suốt của người trước khi chết.

***quân tình đệ nhất: Tình báo về quân sự là quan trọng nhất.Tư Mã Nguyên Hiển đích thân đi mở cửa, nghênh đón Lý Thục Trang xinh đẹp như ngọc như ngà tiến vào Đông Ngũ tầng.

Yến Phi và Đồ Phụng Tam đều là lần đầu tiên nhìn thấy vị “Thanh đàm nữ vương” danh chấn Kiến Khang này. Mới ban đầu nhìn tuyệt không nhận ra được nàng ta có chỗ nào đặc biệt. Đầu vấn hai búi tóc, thắt trên đỉnh đầu thành hình chữ thập, thần tình trang trọng nghiêm túc, nhưng đến khi trút bỏ bộ trường bào chấm đất, để lộ ra y phục màu nước hồ xanh biếc bó sát người ở bên trong, cộng thêm dải áo bảy màu rực rỡ quấn vòng xung quanh eo, làm khoảng không trước mắt ba người như bừng sáng, bị hấp dẫn bởi những đường cong tuyệt mĩ cùng dáng dấp đầy dụ hoặc của nàng.

Ba người theo lễ đứng dậy nghênh tiếp.

Lý Thục Trang đột nhiên ghé sát tai Tư Mã Nguyên Hiển mà thấp giọng thì thầm, Tư Mã Nguyên Hiển lập tức hiện ra vẻ mặt ngây ngất xúc động, không ngừng mỉm cười gật đầu lia lịa.

Sau đó Lý Thục Trang bèn rời ánh mắt về phía hai người, đồng thời hiển lộ ra khuôn mặt tươi cười tràn đầy vẻ phong lưu đa tình khó tả, yêu kiều nói: “Thục Trang xin được thỉnh an Lưu gia, Yến công tử cùng Đồ đại ca, cũng xin ba vị thứ tội cho Thục Trang vì quá mộ danh nên đã đường đột mạo phạm cửa trời. Bởi Thục Trang cảm thấy nếu bỏ lỡ cơ hội tốt để bái phỏng này, thì cuối cùng Thục Trang sẽ cảm thấy hối tiếc khôn cùng, kính xin ba vị chớ động nộ mà tính toán so đo với Thục Trang, xin cho Thục Trang được làm trọn đạo đãi khách.”

Yến Phi và Đồ Phụng Tam cùng phát sinh cảm nhận giống của Lưu Dụ khi đêm đó lần đầu gặp nàng ta. Toàn bộ khuyết điểm trên khuôn mặt của nàng như hoàn toàn biến mất, đổi lại là một vẻ ngoài đầy nét phong tình, căng tràn sức quyến rũ, mị lực của nàng ta đã đạt đến mức hoàn hảo, chẳng trách có thể làm điên đảo các danh sĩ công tử tại Kiến Khang! Tư Mã Nguyên Hiển đứng cạnh bên nàng chính là một thí dụ điển hình.

Lưu Dụ lại lần nữa không cách nào cảm nhận được chân khí của nàng ta. Có thể đêm đó nàng ta đang ở trong trạng thái giới bị, nên để lộ ra nội tình. Đương nhiên nàng ta cũng không ngờ rằng Lưu Dụ lại cao minh đến vậy.

Yến Phi đến thời khắc này vẫn chưa biết được Lý Thục Trang là thần thánh phương nào, vẫn còn tưởng rằng nàng ta giống Kỷ Thiên Thiên tại Tần Hoài lâu ngày trước, là tài nữ nổi danh nhất Hoa Nguyệt lâu. Tất cả đều bởi Lưu Dụ chưa có cơ hội đề cập về nàng ta với chàng. Nữ nhân này khiến chàng ấn tượng sâu sắc nhất ở chỗ nàng ta tuy phô bày ra thần thái e lệ dịu dàng, đầu cúi thấp, chân bước khẽ, khiến lòng người mê hoặc nhưng ánh mắt của nàng ta lại trong trẻo sâu sắc. Với những nam nhân bị nàng mê hoặc điên đảo mà bám dưới ống quần nàng, có lẽ bản thân nàng cũng hoàn toàn chẳng có chút động lòng. Yến Phi nhãn lực cao minh, không cần cảm giác được chân khí của nàng ta, cũng có thể từ điệu bộ nhấc tay hạ chân của nàng mà mơ hồ nhìn ra được manh mối của việc nàng ta tinh thông võ nghệ, từ đó biết được rằng nữ nhân này tuyệt đối không hề đơn giản chút nào.

Ánh mắt sắc sảo của Đồ Phụng Tam chăm chú dò xét nàng từ trên xuống dưới, trong lòng lại có một cảm nhận khác biệt. Ánh mắt như vậy đối với nữ nhi con nhà gia giáo mà nói thì thực là cực kỳ vô lễ, nhưng đối với Lý Thục Trang thì lại rất phù hợp, còn đại diện cho sự ngưỡng mộ tán thưởng. Đồ Phụng Tam đương nhiên không động lòng với nàng ta, mà là gã tinh thông thuật quan sát nữ nhân, nhìn ra được nữ nhân này trời sinh đã hấp dẫn, đủ khả năng làm mê chết bất kỳ nam nhân háo sắc nào, chẳng trách lại được yêu mến đến vậy ở Kiến Khang.

Tư Mã Nguyên Hiển ngạc nhiên nói: “Cái cách Thục Trang gọi mọi người thực là cổ quái, vì sao không gọi là ba vị đại gia. Mà lại gọi một người là gia, một người là công tử, còn Đồ gia thì biến thành Đồ đại ca. Nếu lời giải thích của nàng không làm chúng ta hài lòng, thì phải phạt nàng uống cạn ba chén rượu lớn.”

Quả thực khó có thể trong vài lời mà nói hết được vẻ phong tình của Lý Thục Trang. Phạm vi sắc đẹp của nàng tuy mơ hồ không rõ, nhưng khi nghiêm túc trở lại lại có được tư vị lạnh lùng băng giá. Nói nàng ta lẳng lơ, nhưng lại là phong độ hoàn mỹ; biết rõ nàng ta chỉ lấy lệ gặp dịp mua vui, mà ở mọi điểm lại đều lộ ra vẻ chân thành có thể thuyết phục người. Từ sự kín đáo dè dặt, thể hiện vừa phải của nàng, có thể cho rằng nàng phong tình phóng đãng, dễ dàng thân cận, nhưng lại cũng cảm thấy nàng lạnh nhạt cự tuyệt người từ ngoài xa ngàn dặm. Cũng chính cái tư vị đủ mọi loại cảm giác mâu thuẫn tương hỗ cho nhau này, đã tạo thành phong thái độc đáo của riêng nàng, có sức quyến rũ hấp dẫn người vô cùng.

Khi ánh mắt của nàng ta hướng đến Đồ Phụng Tam, bằng vào tu dưỡng của y mà cũng không khỏi bất giác rung động trong long. Tựa như một cái liếc mắt thoáng qua ấy mà nàng dành cho y hoàn toàn khác biệt so với những người khác. Đến lúc này y mới hiểu rõ được vì sao đêm đó Lưu Dụ lại không có cách nào làm gì được nàng ta.

Lý Thục Trang hai bên má ngọc chợt ửng hồng, như có chút ngượng ngập mà e lệ cúi đầu nhìn xuống đất, biểu tình phong phú sinh động, lộ ra thần thái thùy mị quyến rũ đầy nữ tính. Trông nàng lúc này chẳng còn có lấy nửa điểm giống một đại lão bản của Hoài Nguyệt lâu, một vị nữ trung hào kiệt có thể làm rung trời chuyển đất ở thành Kiến Khang.

Nàng nhẹ nhàng nói: “Nguyên Hiển công tử sao lại bỡn cợt như vậy. Những lời của nô gia đích thực xuất phát từ tận đáy lòng mà! Còn giải thích ra cho rõ ràng ư? Lưu gia là giống như cách gọi tiểu Lưu gia và đại Lưu gia, nô gia nào dám đổi danh xưng cho ngài. Yến công tử độc chiếm được hoa khôi Tần Hoài, mà phàm là ân khách đã đến thanh lâu của bọn tiểu nữ làm khách, bọn tiểu nữ đều gọi là công tử, cho nên gọi Yến công tử là danh xứng với thực. Lẽ nào nô gia lại gọi Yến công tử là Yến tráng sĩ hay Yến đại hiệp? Như vậy không ăn nhập với tình cảnh tối nay ở Đông Ngũ tầng biết bao nhiêu? Còn như Đồ đại ca, tung hoành khắp chốn giang hồ bấy lâu nay, nhưng chưa từng bao giờ bước chân qua cửa thanh lâu. Phen này đại ca đến Hoài Nguyệt lâu, chẳng phải đã là một niềm vinh hạnh cho đám nữ nhi người ta hay sao. Gọi người là đại ca, trái lại càng thêm thân thiết. Giải thích như vậy Nguyên Hiển công tử nếu như vẫn còn chưa hài lòng, thì Thục Trang đành cam lòng chịu phạt.”

Trong khi Yến Phi không có chút cảm nhận gì, thì Lưu Dụ và Đồ Phụng Tam trái lại trong lòng thầm hô lợi hại. Nàng ta ngấm ngầm gieo rắc mầm ly gián, mục đích là muốn gợi lên lòng đố kỵ của Tư Mã Nguyên Hiển, nhất là khi Tư Mã Nguyên Hiển đã từng là kẻ một lòng cuồng si tranh giành bám theo gấu quần Kỷ Thiên Thiên, cùng với Yến Phi hai bên vốn có quan hệ tình địch.

Chỉ có điều Lý Thục Trang hiển nhiên đã đánh giá thấp mối giao tình giữa Tư Mã Nguyên Hiển và bọn họ, cũng đã đoán sai tính tình thực của Tư Mã Nguyên Hiển. Tư Mã Nguyên Hiển vẻ mặt hoàn toàn không có chút gì lạ thường mà thoải mái cười rộ lên: “Thục Trang quả là có tài hùng biện không chút vấp váp, thỉnh Thục Trang nhập tọa.”

Mộ Dung Thùy rời mắt khỏi Kỷ Thiên Thiên, nhìn lên xà nhà, trầm giọng nói: “Hách Liên Bột Bột chỉ là hạng vong ân phụ nghĩa, lòng lang dạ sói, Thiên Thiên vì sao lại có hứng thú đề cử hắn?”

Kỷ Thiên Thiên bình tâm trở lại, biết rằng bản thân đã không bị Mộ Dung Thùy nhìn thấu, mà chỉ bởi Mộ Dung Thùy nghĩ tới Hách Liên Bột bột, trong lòng giận dữ, nên có thần thái như vậy. Đồng thời nàng cũng thầm cảm thấy kinh ngạc, nếu mà như vậy, tại sao Mộ Dung Thùy lại làm theo chủ ý của Hách Liên Bột Bột.

Trí não của nàng lại lần nữa hoạt động trở lại, hỏi: “Danh dự của hắn có vấn đề gì ư?”

Bản thân nàng vốn không phải người giỏi dùng âm mưu thủ đoạn, chỉ là trong tình thế bắt buộc, mới không thể không học tập thứ nghệ thuật này, cố hết sức mà làm như vậy.

Mộ Dung Thùy hồi phục lại bình tĩnh, đáp: “Bất kỳ người nào cho rằng Hách Liên Bột Bột là một kẻ có thể tin cậy được, đến cùng đều sẽ phải hối hận. Ta đã từng cảnh cáo Diêu Trường, nhưng hắn lại nghĩ rằng ta đang ly gián hắn với Hách Liên Bột Bột, bỏ mặc ngoài tai. Đến khi hắn tỉnh ngộ ra, thì hối cũng đã muộn rồi.”

Kỷ Thiên Thiên vẫn duy trì im lặng, sợ Mộ Dung Thùy vì nàng quan tâm quá mức, mà nảy sinh nghi ngờ với nàng.

Mộ Dung Thùy đột nhiên bật cười: “Nếu như không để ý tới cái tính ấy, thì tên khốn này quả đúng là một nhân tài, binh pháp võ công, đều là tuyển chọn hàng đầu, lại to gan lớn mật. Ngay cả Mộ Dung Thùy ta mà cũng dám mưu toan tính kế. Nếu không phải hắn đã đi theo Diêu Trường, thì ta đã sớm lột da lóc xương, ăn tươi nuốt sống hắn rồi.”

Kỷ Thiên Thiên hỏi: “Có phải hắn đã phản bội Diêu Trường không?”

Mộ Dung Thùy lắc đầu đáp: “Tiểu tử này rất biết đạo lý nước đục thả câu, lợi dụng lúc Diêu Trường đang lún sâu trong xung đột cùng Phù Đăng khó tách mình ra được, bèn nuốt gọn tám ngàn thớt chiến mã do người Nhu Nhiên dâng tặng Diêu Trường. Hắn lại còn tụ quân ba vạn tập kích lúc nhạc trượng của hắn không có ở đấy, thu nạp và tổ chức lại quân đội của nhạc trượng, tự xưng là Đại Hạ Thiên Vương, phong đại ca Hữu Địa Đại làm thừa tướng, nhị ca Lực Sĩ Đề làm đại tướng quân, Sất Can A Lợi làm ngự sử đại phu, đệ A Lợi La làm Chinh Nam tướng quân, thiếu chút nữa đã làm Diêu Trường tức chết. Đến lúc này Diêu Trường mới hiểu được bản thân đã nuôi hổ gây họa, bằng không Hách Liên Bột Bột làm sao có thể có được cơ hội chuyển mình. Hạng người này nàng nói thử xem có đúng là loại bỉ ổi vô liêm sỉ hay không?”

Kỷ Thiên Thiên gật đầu hưởng ứng, thầm nghĩ phải mau chóng kể hết lại cho Yến Phi hay, để chàng thông báo lại cho Thác Bạt Khuê, đề phòng Hách Liên Bột Bột bất ngờ tập kích.

Vị trí của Tư Mã Nguyên Hiển đã được nhường lại cho Lý Thục Trang, còn hắn ngồi xuống bên cạnh Yến Phi, biểu lộ rõ rệt địa vị được tôn sùng của Lý Thục Trang tại Kiến Khang. Lý Thục Trang khéo léo tươi cười rạng rỡ, ân cần hướng tới bốn người mà kính rượu từng người một, sau đó nói: “Yến công tử có biết bản thân ngài đã thành người được các cô nương ở Tần Hoài mong ngóng ước ao được phục dịch nhất hiện giờ hay không?”

Lưu Dụ cùng Đồ Phụng Tam đưa mắt nhìn nhau, đều mắng thầm Lý Thục Trang liên tiếp nhiều lần lặp đi lặp lại, rêu rao về chủ đề này, chính vì muốn thổi bùng lên lòng đố kỵ của Tư Mã Nguyên Hiển. Nàng ta nói có vẻ rất thật tình, khiến người khác không cách nào xoi mói bắt bẻ được. Nhưng vấn đề dạng này khó tiếp nhận nhất chính là nó quá thật, khiến người ta không thể coi là những lời phóng đại hay nịnh nọt tâng bốc mà cười xòa cho qua chuyện.

Sách lược của nàng ta đối với một Tư Mã Nguyên Hiển mới trải đời ngày trước khẳng định sẽ có tác dụng nhất định. Nhưng điều quan tâm nhất của Tư Mã Nguyên Hiển hiện giờ chính là thịnh suy của Tư Mã hoàng triều, nên sẽ không để những lời này trong lòng, huống chi hắn lại rất sùng bái Yến Phi.

Quả nhiên Tư Mã Nguyên Hiển cười nói: “Chúng ta cũng được thơm lây. Ta lăn lộn đã nhiều năm tại sông Tần Hoài, nhưng quang cảnh được toàn bộ các cô nương xô đẩy nhau nghênh đón ở bến đò thì quả là ta mới được thấy lần đầu.”

Lý Thục Trang ngoài mặt không lộ ra thần sắc dao động xúc cảm gì, nồng nàn liếc nhìn Yến Phi một cái, rồi lại cúi đầu tựa như muốn che giấu nỗi khó xử bẽn lẽn ở trong lòng. Lại một lần nữa bằng đôi mắt phượng lẳng lơ thanh tú mà thế gian không có nam nhân nào có thể chống cự lại được, tình tứ nhìn Yến Phi một cái, dịu dàng hỏi: “Không biết Yến công tử sẽ lưu lại ở Kiến Khang bao lâu?”

Tư Mã Nguyên Hiển vui vẻ cười nói: “Thục Trang nếu muốn giành tình cảm của Yến công tử chúng ta, thì phải thể hiện chút tài nghệ, khiến cho Yến công tử đêm nay cam tâm tình nguyện ở lại không rời Hoài Nguyệt lâu nửa bước.”

Lý Thục Trang thất vọng gạn hỏi: “Ngày mai Yến công tử đã phải rời khỏi Kiến Khang rồi ư?”

Yến Phi thong dong đáp: “Yến mỗ có việc quan trọng phải làm, nên khó có thể nán lại lâu.”

Lý Thục Trang giận dỗi hỏi: “Chuyện gì có thể khiến công tử đến đi vội vã như vậy?”

Lưu Dụ cùng Đồ Phụng Tam thầm kêu không ổn, đang muốn trả lời thay, thì Tư Mã Nguyên Hiển đã sớm hơn một bước mà đáp lời: “Yến huynh sáng mai phải vội tới Thái Hồ, cùng ‘Thiên Sư’ Tôn Ân quyết một trận sinh tử, trận chiến này sẽ là một trường quyết chiến lưu truyền thiên cổ.”

Lý Thục Trang ngây người ngơ ngẩn, nâng chén nói: “Nô gia chỉ có thể kính Yến công tử một chén ở tại đây, chúc Yến công tử sau khi chém chết ác hòa thượng Trúc Pháp Khánh, lại có thể hàng phục yêu đạo.”

Yến Phi đành phải nâng chén hồi đáp.

Lưu Dụ và Đồ Phụng Tam tuy biết đã bị Lý Thục Trang thăm dò được tin tức tình báo, nhưng đều không thật sự lo lắng. Bởi vì bằng vào khả năng của Yến Phi, căn bản không sợ nàng ta giở bất kỳ thủ đoạn gì.

Chỉ có điều bọn họ đều cảm thấy Lý Thục Trang không mời mà đến, lại mang theo hàm ý phá hoại cùng thị uy, đúng là lai giả bất thiện, thiện giả bất lai*.

Nàng ta vì sao lại ngu xuẩn như vậy?

Con thuyền nhỏ do Tống Bị Phong điều khiển rời khỏi bến đò Hoài Nguyệt lâu, lại đưa Yến Phi, Lưu Dụ và Đồ Phụng Tam quay trở về Thanh Khê tiểu trúc.

Yến Phi đứng tại mũi thuyền, gió sông mang theo cái lạnh ghê người, thổi áo quần của chàng tung bay phấp phới, tựa như thiên thần đang cưỡi gió vờn mây. Lưu Đồ hai người ngồi ở khoảng giữa của con thuyền. Chiếc thuyền nhỏ này dài hai trượng rộng bốn thước, đủ chỗ cho tám người ngồi.

Tống Bi Phong cười nói: “Món ăn của Hoài Nguyệt lâu rất nổi tiếng ở Kiến Khang. Tư Mã Nguyên Hiển khẳng định đã chiêu đãi các ngươi những món đặc sắc nhất của Hoài Nguyệt lâu rồi.”

Lưu Dụ nói: “Ta lại nghĩ rằng được vài món cơm canh đạm bạc đã là thỏa mãn lắm rồi…”

Đồ Phụng Tam cắt lời: “Nữ nhân đó mới là món ngon lành nhất, trong lời lại còn ngầm ẩn dao găm, rõ ràng là không để chúng ta vào mắt. Chỉ tiếc là không có thời gian để tính toán với thị, bằng không ta sẽ khiến thị minh bạch hậu quả dám đắc tội với chúng ta.”

Tống Bi Phong ngạc nhiên hỏi: “Lý Thục Trang không ngờ lại chủ động đến gây chuyện với các ngươi ư?”

Yến Phi im lặng không nói, tự chìm đắm trong thế giới của riêng mình.

Lưu Dụ vốn định nói cho chàng hay những chuyện có liên quan tới Lý Thục Trang, nhưng thấy chàng nghe đến tên của Lý Thục Trang mà vẫn không hề có phản ứng gì, bèn xua đi những suy nghĩ trong đầu, gạn hỏi Đồ Phụng Tam: “Chúng ta khi nào thì rời đi?”

Đồ Phụng Tam kiên quyết nói như chém đinh chặt sắt: “Hoàng hôn ngày mai thì rời đi, ta càng nghĩ càng cảm thấy không ổn. Ôi! Cuộc sống ở nơi đây quá thư thái dễ chịu, ta có chút không quen.”

Tống Bi Phong cau mày nói: “Hoang nhân huynh đệ của chúng ta, hôm nay mới tới được một đoàn năm trăm người, không cần chúng ta chiếu cố sắp xếp sao?”

Chuyện Lưu Dụ đang nghĩ đến trong lòng lại là một chuyện khác, chính đang do dự không quyết, liệu gã có nên bí mật đến gặp mặt Tạ Chung Tú hay không? Trong lòng gã thực sự có sự thôi thúc rất muốn được biết rõ tâm ý của nàng, được hướng tới nàng mà lập ra lời thề vĩnh viễn không bao giờ thay đổi của một nam tử hán đại trượng phu. Nhớ tới nàng, trong lòng tựa như bùng lên một luồng lửa cháy bỏng.

Muốn gặp Tạ Chung Tú, ắt phải tiến hành trước khi khởi hành đi ra tiền tuyến, lại phải có sự trợ giúp của Tống Bi Phong mới được, nhưng việc ấy làm sao thành được đây? Tống Bi Phong không những sẽ cực lực phản đối, mà còn thất vọng về gã, đến mức phát sinh phản cảm.

Ài! Nếu như bản thân sau khi có được trái tim của nàng, lại mất mạng trên chiến trường, đối với nàng sẽ là một chuyện tàn nhẫn biết bao? Bản thân có lẽ nên thông minh một chút, đợi khi có được thành tựu mới thổ lộ tình yêu với nàng, lúc ấy muốn thuyết phục Tống Bi Phong cũng sẽ dễ dàng hơn chút ít.

Giọng nói của Đồ Phụng Tam truyền vào tai gã, hỏi: “Lưu gia có ý kiến gì không?”

Lưu Dụ căn bản không hiểu được Đồ Phụng Tam và Tống Bi Phong đang nói chuyện gì, thấy hai người đều chăm chú nhìn mình, đành hàm hồ đáp: “Tất cả những gì Đồ huynh sắp xếp đều ổn cả.”

Đồ Phụng Tam phá lên cười khanh khách: “Ngươi đang suy nghĩ chuyện gì vậy? Bộ dạng lơ đễnh, mặt mày ngơ ngác như thả hồn tận đẩu tận đâu vậy? Ta đang hỏi ý kiến của ngươi, xem ngày mai nên đi bằng đường bộ hay đường thủy? Nếu đi bằng đường thủy, ắt phải phiền Lưu gia ngươi mượn Tư Mã Nguyên Hiển một chiến thuyền có tính năng siêu việt, có thể chịu được sóng to nơi biển lớn, vạn nhất có đụng độ thuyền của Thiên Sư quân, thì vẫn có thể có sức chiến đấu.”

Lưu Dụ cảm thấy ái ngại, thầm nghĩ cái này gọi là có tật giật mình, vội vàng phục hồi lại tinh thần, nói: “Trước tiên phải làm rõ một chuyện, từ giờ trở đi chúng ta liệu có nên bỏ qua không lý tới Lưu Lao Chi nữa hay không? Nói đến cùng thì trên danh nghĩa hắn vẫn là thượng cấp trực tiếp của ta.”

Đồ Phụng Tam hai mắt lấp loáng tinh quang, trầm giọng: “Đây gọi là hắn mới bảo làm một, thì ngươi đã làm tới mười lăm, với hắn còn có thể nói thượng cấp gì nữa. Chỉ cần chúng ta có thể đánh bại Thiên Sư quân, thì sẽ có thể ngang vai ngang vế cùng hắn, Tư Mã Đạo Tử lại càng hết lòng chống lưng cho ngươi. Chuyện quan trọng nhất lúc này là đánh Thiên Sư quân một trận tan tác tơi bời tựa nước chảy hoa trôi, tất cả những chuyện khác đều không cần để ý. Cũng chỉ có ráng hết sức mình, chúng ta mới có thể có được tiền đồ tươi sáng, bằng không thì đừng mong nhắc đến chuyện gì nữa.”

Lưu Dụ nói: “Như vậy chúng ta trước hết phải bí mật tiềm nhập vào Quảng Lăng, vừa để dập đầu tham kiến ân sư Tôn Vô Chung của ta, lại cũng có thể nhân tiện mà gặp mặt Khổng lão đại, khẳng định có thể có chút đỉnh lợi ích.”

Đồ Phụng Tam vui vẻ nói: “Kế hay!”

Tống Bi Phong ngạc nhiên hỏi: “Đây không phải là muốn làm phân liệt Bắc Phủ binh ư?”

Đồ Phụng Tam cười lạnh: “Bắc Phủ binh đã sớm chia năm xẻ bảy từ sau khi Tạ Huyền từ trần, chỉ còn coi xem ai thực sự có thể khôi phục lại Bắc Phủ binh. Có vẻ như Hồ Bân sẽ hoàn toàn đứng về phía chúng ta. Nếu như tên tiểu tử Lưu Nghị ấy không vong ân phụ nghĩa, thì tướng lĩnh theo phe Hà Khiêm đã đầu hàng theo phía chúng ta.”

Lưu Dụ trầm ngâm nói: “Sau khi đến được tiền tuyến, ta phải tìm cách tham kiến Chu Tự.”

Đồ Phụng Tam gật đầu hưởng ứng: “Đầy quả là sách lược cao minh, nhưng thời cơ phải tính toán chuẩn xác, bằng không sẽ khiến Chu Tự tưởng rằng ngươi đến kiếm chuyện.”

Tống Bi Phong cau mày: “Ta vẫn chưa hiểu!”

Lưu Dụ giải thích: “Chu Tự là phó soái của Tạ Diễm. Nếu như quân của Tạ Diễm có sơ suất gì, trong lúc sợ hãi rút lui, biết được gần đó có chúng ta tiếp ứng, không còn lựa chọn đành chỉ còn cách chạy đến chỗ chúng ta. Điểm này chính là điểm ta đang muốn làm cho Chu Tự hiểu rõ.”

Tống Bi Phong giật mình hoảng hốt: “Chả trách bọn ngươi lại cứ muốn chiếm được cứ điểm ở tiền tuyến.”

Đồ Phụng Tam nói: “Vũ khí quan trọng nhất lần này là tình báo, tiếp đó là thời cơ. Chỉ khi có thể nắm chắc trong tay toàn bộ tình huống, chúng ta mới có thể tận dụng thời cơ. Đây là thuật ‘hữu hình, vô hình’ trong binh pháp. Trước khi chiếm lĩnh được cứ điểm, thì quân của chúng ta là vô hình, nhưng sau khi chiếm được sẽ từ vô hình biến thành hữu hình. Vì vậy sự chặt chẽ về thời gian là hết sức quan trọng. Quá sớm sẽ biến thành mục tiêu bị Thiên Sư quân điên cuồng tấn công mãnh liệt, quá trễ lại sẽ mất đi cơ hội tiếp ứng thu phục quân của Tạ Diễm.”

Tống Bi Phong hỏi: “Nếu như nhị thiếu gia thực sự có thể thắng trận thì sao?”

Lưu Dụ cười khổ: “Thế thì chúng ta chỉ còn cách kéo toàn quân quay trở về Biên Hoang tập. Khi ấy chúng ta cũng sẽ mất đi giá trị lợi dụng trong mắt Tư Mã Đạo Tử, lại cũng đồng thời đắc tội với Lưu Lao Chi và Tạ Diễm. Kiến Khang lại không còn đất cho chúng ta dung thân nữa.”

Đồ Phụng Tam mỉm cười: “Tạ Diễm liệu có thể biến thành một Tạ Huyền khác được không? Điều này hoàn toàn không có khả năng. Tạ Diễm bản thân hắn vốn nhỏ nhoi bất lực không đáng nói đến. Mọi khi còn có Lưu Lao Chi ở bên hỗ trợ hắn, chứ mình Tạ Diễm thì há gặp may mắn mãi sao?”

Tống Bi Phong thở dài: “Nghe những lời này của các ngươi, khiến ta chân chính cảm nhận được tư vị của tình huống mà binh gia gọi là ngồi trong màn trướng bày mưu tính kế, quyết thắng ở ngoài ngàn dặm.”

Lúc này Yến Phi đột nhiên xoay người trở lại, ngồi xuống ở mũi thuyền, hai mắt lấp lánh những tia sáng kỳ dị, trầm giọng nói: “Ta phải lập tức gửi phi cáp truyền tin về Biên Hoang tập cho Thác Bạt Nghi, có cách nào làm được không?”

Ba người đều cảm thấy sững sờ kinh ngạc.

Đồ Phụng Tam gạn hỏi: “Người nghĩ tới chuyện khẩn yếu gì vậy?”

Yến Phi vừa nhận được tâm linh truyền cảm của Kỷ Thiên Thiên, chàng có thể giải thích như thế nào đây? Đành hàm hồ đáp: “Ta đột nhiên nghĩ đến Hách Liên Bột Bột. Ngờ rằng hắn có thể lợi dụng tình thế lúc này, mà nước đục thả câu, vì vậy ta cần cảnh cáo Thác Bạt Khuê, việc này phải lập tức đi làm ngay.”

Thuyền nhỏ đã đến tới Thanh Khê tiểu trúc, chầm chậm cập vào bờ.

Lưu Dụ trong lòng máy động, nói: “Để ta cùng người đi truyền tin.”

Tống Bi Phong nói: “Chi bằng chúng ta cùng đi, quay đầu thuyền mà xuôi dòng đi xuống, sau khi ra tới Đại Giang cũng vẫn được xuôi dòng, chỉ nửa canh giờ là xong.”

Lưu Dụ vội vàng nói: “Không cần phải hao tổn nhân lực như vậy. Tống đại ca và Phụng Tam cứ trở về nghỉ ngơi dưỡng sức.”

Nói đoạn đưa mắt nhìn Đồ Phụng Tam đầy ẩn ý, biểu thị bản thân muốn nói chuyện riêng cùng Yến Phi.

Đồ Phụng Tam mặc dù tinh minh, nhưng đến cùng vẫn không phải là sâu trong bụng Lưu Dụ, nào nghĩ được ra suy nghĩ đang xoay chuyển trong lòng gã. Vui vẻ nói: “Tống đại ca, chúng ta quay về đi!”

Tống Bi Phong đành theo y lên bờ.

Khi Lưu Dụ thay thế Tống bi Phong, tiếp nhận lấy tay chèo, gã hiểu rõ rằng, chuyện tình ái giữa gã và Tạ Chung Tú, đã giống như lửa cháy loang ra đồng cỏ, một khi đã bốc thì vĩnh viễn không cách nào vãn hồi lại được.

Chú thích

* Lai giả bất thiện, thiện giả bất lai: Người đến thì không có ý tốt, người tốt thì đã không đến.Yến Phi ngồi ở giữa thuyền, hướng mặt về phía Lưu Dụ đang xoay mái chèo, nhịn không được hỏi: “Lưu huynh phải chăng có chuyện muốn nói. Vì sao lại có bộ dạng trùng trùng tâm sự, ngập ngừng muốn nói lại thôi vậy?”

Lưu Dụ cười khổ: “Bởi vì ta sợ sau khi nói ra, ngươi sẽ trách cứ ta.”

Yến Phi bật cười hỏi: “Phải chăng là chuyện có liên quan đến Tạ Chung Tú?”

Lưu Dụ kinh ngạc gạn hỏi: “Ngươi làm thế nào mà đoán một phát là trúng phóc vậy?”

Yến Phi đáp: “Lúc Tạ Chung Tú quay đầu nhìn ngươi, ta đang ở kế sau nàng, muốn giả vờ không thấy gì cũng không được. Hay lắm! Chuyện giữa ngươi và nàng ấy xảy ra như thế nào?”

Lưu Dụ đành phải thú thực, bèn đáp: “Ta đã một lòng kiềm chế bản thân, nhưng ánh mắt nàng thoáng liếc nhìn ta tối nay, đã phá vỡ hoàn toàn sức phòng ngự của ta. Ài! Ta làm sao có thể nhẫn tâm để nàng giẫm vào vết xe đổ của Đạm Chân, nàng lại còn là cốt nhục của Huyền Soái nữa. Chỉ nhìn trên phương diện này, ta đã không thể bình thản mà tụ thủ bàng quan được rồi.”

Yến Phi nhẹ nhàng hỏi: “Ngươi yêu nàng ấy à?”

Lưu Dụ chán nản đáp: “Ta cũng không rõ, sự tình đến quá đột ngột. Trước khi nàng ta nhào vào lòng ta mà khóc lóc thảm thương, ta cũng chưa từng nghĩ bản thân có thể tính chuyện gì với nàng được. Nhưng vào thời khắc ta ôm lấy nàng, cảm nhận được thân thể của nàng run run rẩy rẩy ở trong lòng ta, ta tự dưng quên đi tất cả. Bắt đầu từ khoảnh khắc đó, ta không cách nào quên được loại tư vị mê người ấy. Nhưng ta vẫn còn có thể khống chế được bản thân mình, thậm chí còn lập thệ với Tống đại ca và Phụng Tam, sẽ không có ý nghĩ không nên có đối với nàng. Thế nhưng ngươi cũng thấy đấy, ánh mắt lúc nàng quay đầu lại nhìn ta ấy, thật khiến người ta não lòng biết bao. Khi đó ta mới có suy nghĩ, đại trượng phu lập thân ở đời, là vì cái gì chứ? Vứt con mẹ nó những gì là cách biệt giàu nghèo, phân biệt dòng dõi sĩ phu áo gấm với thứ dân áo vải. Lưu Dụ ta lần này đến Kiến Khang, là muốn xoay trời chuyển đất. Nếu ngay cả một nữ tử yêu thương mình cũng bảo vệ không nổi, thì còn làm Hoàng đế thế nào nữa đây? Như vậy thì đánh sống đánh chết còn có ý nghĩa gì nữa?”

Yến Phi không ngừng gật đầu, tựa hồ biểu thị đồng ý, đợi gã dứt lời bèn hỏi: “Ngươi định sẽ xử trí thế nào đối với Giang Văn Thanh?”

Lưu Dụ nặng nề thở dài một hơi, đáp: “Ta tuyệt sẽ không phụ nàng ấy đâu.”

Yến Phi mỉm cười: “Những lời ngươi vừa nói là hoàn toàn công bằng hợp lẽ, quyết không phải những ý nghĩ không nên có. Ta hoàn toàn đồng ý. Dám làm dám chịu, mới là hảo hán. Ta có thể hỗ trợ ngươi ở điểm nào?”

Lưu Dụ nói: “Ta muốn tối nay đến gặp mặt nàng một lần, chỉ có ngươi mới có thể giúp ta đột nhập vào Tạ gia, ghé thăm khuê phòng của nàng.”

Yến Phi cười đáp: “Việc ấy chúng ta chỉ cần che mặt che mũi là được, khi bị người phát hiện, thì có thể giả vờ làm đám trộm vặt.”

Lưu Dụ mừng rỡ hô: “Ngươi đáp ứng rồi!”

Yến Phi chăm chú nhìn gã, hai mắt xạ ra cảm tình sâu sắc đáp: “Ta không chỉ vui lòng chu toàn cho việc tốt của ngươi, mà còn cảm thấy cao hứng giùm cho ngươi. Chính như ta vẫn thường nói, con người không thể sống mãi trong oán cừu và hối hận. Ông trời đã từng quá tàn nhẫn bất nhân đối với ngươi, bây giờ cũng nên là lúc bồi thường lại cho ngươi. Nhưng ngươi phải đáp ứng ta một chuyện, bất luận là Văn Thanh hay là Chung Tú, ngươi đều phải có thủy có chung, đem tình yêu của ngươi đối với Đạm Chân chuyển sang bọn họ, khiến bọn họ được hạnh phúc vui sướng.”

Lưu Dụ dứt khoát quả quyết: “Ta tuyệt sẽ không quên những lời nói này của Yến huynh.”

Yến Phi tiếp: “Để ta chèo thuyền cho! Ta phải rút ngắn hành trình đi thuyền, để giúp ngươi có thêm chút thời gian mà gặp mặt giai nhân.”

Trác Cuồng Sinh đến bên cạnh Cao Ngạn đang đứng ở dưới đuôi thuyền, cất giọng dọa dẫm: “Còn không quay trở về phòng ngủ, cẩn thận Hướng Vũ Điền lại đột nhiên phi lên từ dưới nước, bấu lấy yết hầu mỏng manh của ngươi.”

Cao Ngạn chán nản đáp: “Ta đang rất đau khổ.”

Trác Cuồng Sinh lựa lời khuyên nhủ: “Đau khổ thì quay vào trong phòng mà đau khổ! Mặc dù tuyết đã ngừng rơi, nhưng vẫn có gió lạnh liên miên từng đợt. Ngươi xem trên sàn thuyền ngoại trừ ngươi ra, có còn người nào khác nữa đâu? Cứ đứng ngoài hóng gió vậy thử xem làm thế nào bồi tiếp được Tiểu Bạch Nhạn của ngươi vui đùa đủ ba ngày ba đêm? Theo ta quay lại nào!”

Cao Ngạn thở dài: “Ngươi làm sao hiểu được ta? Ngươi cứ tự mình quay về đi! Ta chịu không nổi tự nhiên sẽ phải quay trở vào trong khoang.”

Trác Cuồng Sinh giận dữ nói: “Ta không hiểu ngươi? Ngươi có nhiều điều khó hiểu nhỉ? Mẹ nó chứ! Cái tên tiểu tử ngươi khẳng định là từ sau khi hiểu chuyện đời, đã phát điên mẹ nó rồi. Trước kia thì ăn chơi đàng điếm, rượu chè be bét, bây giờ lại phát cuồng vì Tiểu Bạch Nhạn.”

Cao Ngạn cười khổ: “Đã bảo là ngươi không hiểu được ta mà. Nghĩ lại mà xem, ta trước đây tối tối giết thời gian tại thanh lâu, thật ra là bất đắc dĩ phải làm vậy, bởi vì chưa tìm được tình yêu chân chính. Nói đến cuộc sống khi đó, thật sự là buồn chán tột độ. Không phải như ngươi thấy ta hàng đêm ca hát, trái ôm phải ấp, mà kỳ thực ta cảm thấy cô độc vô cùng, chỉ hy vọng có thể truy cầu được điều gì đó mới mẻ, bổ khuyết vào chỗ thiếu hụt trong lòng. Bây giờ ta rốt cuộc đã tìm được tình yêu thực sự, đã lạc vào vùng đất này, ngươi bảo ta đêm nay làm sao có thể chợp mắt được đây?”

Trác Cuồng Sinh đang muốn thuyết giảng cho gã một bài, thì có giọng nói vang lên.

Một huynh đệ Hoang nhân sắc mặt đầy vẻ mừng rỡ chạy tới, lớn tiếng reo lên: “Tiểu Bạch Nhạn có lệnh, cho triệu kiến Cao thiếu gia.”

Cao Ngạn tức thì vui sướng như điên, vút đi như một cơn gió, bỏ lại Trác Cuồng Sinh và vị huynh đệ Hoang nhân nọ đưa mắt nhìn nhau ái ngại, không biết bực mình hay tức cười bây giờ.

Hai bóng đen, từ bức tường phía đông dọc sông vụt phi thân đột nhập vào Tạ gia, tiếp đó tung mình mấy cái, vượt qua đầu hai con chó dữ gác đêm, hạ xuống nóc buồng của một sảnh riêng biệt tại Đông viên.

Hai vị khách không mời này, chính là Yến Phi và Lưu Dụ, toàn thân đều mặc hắc y dạ hành, còn che kín diện mạo, chỉ để lộ ra đôi mắt.

Lưu Dụ nhìn đám phòng xá liên miên xa gần, hít sâu vào ngực một hơi khí lạnh rồi hỏi: “Làm thế nào để tìm thấy nàng?”

Yến Phi trầm ngâm đáp: “Năm đó khi ta dưỡng thương ở Tạ gia, trú ngụ ở phòng tân khách tại Bắc viện. Mà Bắc viện cũng là chỗ ở của gia tướng và người dưới, đương nhiên không thích hợp làm khuê phòng của Tạ Chung Tú, có thể suy xét là ở trong phạm vi loại trừ. Ở giữa là Tứ Quý viên chỗ có Vong Quan hiên, có lẽ là chỗ Tạ gia dành để nghỉ ngơi ngắm cảnh. Như vậy chỉ còn lại Nam viện chỗ chúng ta đang đứng và Đông viện. Hai viện này đều ở gần sông Tần Hoài, cảnh quan cũng tươi đẹp nhất. Nếu như ta là phong lưu danh sĩ giống như Tạ An, Tạ Huyền, cũng sẽ chọn một trong hai viện này làm chỗ ở.”

Lưu Dụ nói: “Ngươi tựa hồ đã bỏ quên Tây viện.”

Yến Phi đáp: “Bắc viện và Tây viện luận cảnh sắc còn xa mới hơn được hai viện Đông và Nam, khẳng định sẽ không phải là chỗ trú ngụ của Tạ An, Tạ Huyền. Trong giới thế gia đại tộc, những chuyện loại này là phải tỉ mỉ kỹ lưỡng, một chút cũng không thể cẩu thả được. Ha! Ta đã nhớ ra rồi! Lần đầu tiên ta gặp An công, là ở Vọng Hoài các tại Đông viện. Như vậy có thể thấy Tạ An có lẽ sống tại Đông viện, Tạ Diễm là con của Tạ An, cũng nên sống ở trong viện này.”

Lưu Dụ hỏi: “Nói như vậy, chỗ ở của Chung Tú phải chăng nhiều cơ hội là đặt ở trong Nam viện?”

Yến Phi cười khổ: “Sợ rằng chuyện đó chỉ có trời mới biết được, thực hối hận đã không thỉnh Tống đại ca đi cùng. Ài! Ngươi cũng biết là ta chỉ nói đùa thôi mà! Ý!”

Lưu Dụ khẩn trương hỏi: “Ngươi nghĩ ra cái gì à?”

Yến Phi lộ ra thần tình hồi tưởng, đáp: “Ta nhớ ra rồi! Lần đầu tiên ta nhìn thấy Tạ Chung Tú, là ở trên hành lang chín khúc uốn lượn nối liền Đông viện và Bắc viện. Lúc ấy nàng và bằng hữu vừa từ bên ngoài trở về, khẳng định nàng đang quay trở lại Đông viện. Suy luận như vậy, thì nàng có lẽ phải ở tại Đông viện, cũng chính là viện mà chúng ta đang đứng bây giờ.”

Lưu Dụ đưa mắt nhìn xa gần xung quanh, chán nản nói: “Chỉ là Đông viện thôi đã hơn trăm tòa nhà chỗ nhiều chỗ ít, cao cao thấp thấp, làm thế nào mới có thể tìm ra được bây giờ?”

Yến Phi mỉm cười: “Nếu ta không phải đã biết rõ tường tận về ngươi, tuyệt sẽ đoán không ra ngươi lại là thám tử xuất sắc nhất của Bắc Phủ binh. Nếu không tại sao lại nói ra những lời ngoài nghề như vậy.”

Lưu Dụ bối rối đáp: “Ta là người trong cuộc nên mê muội. Đúng! Ba người có địa vị nhất ở Tạ gia lúc ấy là Tạ An, Tạ Thạch và Tạ Huyền. Nếu như Tạ An, Tạ Huyền đều ở tại Đông viện, thì Tạ Thạch có lẽ sẽ ở tại Nam viện. Mà chỗ ở của Tạ An, Tạ Huyền khẳng định phải là hai khu có quy mô hoành tráng nhất, có cảnh quan đẹp nhất. Như vậy địa điểm khuê phòng của Chung Tú đã quá là rõ ràng rồi.”

Yến Phi quan sát bốn phía, chỉ vào một khu tổ hợp lâm viên gần sông, nói: “Đó chính là tổ hợp kiến trúc của Vọng Hoài các, có lẽ hiện giờ là chỗ ở của Tạ Diễm, Tạ Hỗn.”

Lại chỉ vào khu vực sát cạnh, tiếp: “Khu phía này thì thế nào? Chỉ có khu lầu các này là khả dĩ có vẻ đẹp tương xứng thôi.”

Lưu Dụ nặng nề thở dài một hơi: “Thực không ngờ tìm một người ở Tạ gia lại trắc trở tốn công sức đến vậy. Tuy chỗ này vẫn có hơn mười khu nhà, nhưng dù thế nào thì so với việc phải tra tìm khắp toàn phủ vẫn tốt hơn nhiều. Làm phiền lão ca huynh canh chừng cho tiểu đệ, đệ phải tiến hành trò chơi truy tìm giai nhân đây!”

Yến Phi nói: “Ngươi có diệu pháp nào để tìm người? Ngàn vạn lần đừng có tìm nhầm khuê phòng của một vị tiểu thư nào khác đấy nhé.”

Lưu Dụ trong lòng đã có chủ định đáp: “Bằng vào cái mũi tuy không hơn được Phương tổng nhưng vẫn đủ thính của ta. May mà ta và nàng đã từng gần gũi.”

Yến Phi cười nói: “Chúng ta đi thôi!”

Hai người nhẹ nhàng trượt xuống từ nóc nhà, triển khai thân pháp, vụt biến đi về phía lâu phòng mục tiêu.

“Vào đi!”

Cao Ngạn mở cửa mà lòng nơm nớp lo sợ, bởi vì Doãn Thanh Nhã dùng phương thức loại này đón tiếp gã, căn bản khiến gã không có cách nào để dò đoán được.

Doãn Thanh Nhã nhẹ nhàng nói: “Còn không lăn vào đi?”

Cao Ngạn trấn tĩnh trở lại, vội vàng khép cửa, vênh váo tiến vào, bước thẳng tới trước mặt Doãn Thanh Nhã đang ngồi bên cửa sổ, vươn tay nắm lấy hai bên tay vịn của chiếc ghế tựa nàng đang ngồi, không kìm lòng nổi khuất phục: “Ta đến rồi đây!”

Doãn Thanh Nhã nhấc tay ôm hai bên má ngọc, mắt đẹp trợn lên gắt: “Ngươi muốn làm gì hả? Phải chăng muốn ăn đòn?”

Cao Ngạn ở vị trí cách nàng không đến nửa thước, cùng nàng bốn mắt nhìn nhau. Hít vào khí vị mê người của nàng, mọi thứ bi ai khổ não đều sớm bay biến hết, cảm thấy cái gì cũng đều đáng cả, vui mừng nở gan nở ruột đáp: “Ta cái gì cùng đều không muốn, chỉ muốn cùng Nhã nhi từ nay về sau sẽ vĩnh viễn không bao giờ chia lìa, mọi ngày đều khiến Nhã nhi khoái khoái lạc lạc.”

Doãn Thanh Nhã không vui rít khẽ: “Tiểu tử người thật đến chết tính nết vẫn không thay đổi. Nếu ngươi còn không mau cút xéo sang ngồi xuống một bên, bổn cô nương sẽ lập tức quẳng ngươi ra ngoài cửa.”

Cao Ngạn xoay người một cái, quay vòng lại mà dời đi, lại xoay mình thêm cái nữa, dùng tư thế mà gã cho là đẹp nhất để ngồi xuống một chiếc ghế cách nàng một cái bàn nhỏ, ha ha cười nói: “Cái này gọi là đại trượng phu biết co biết duỗi, lúc thời cơ chưa chín muồi, thì tạm thời thoái lui.”

Doãn Thanh Nhã yêu kiều cười nói: “Biết co biết duỗi cái gì, toàn là nói quàng nói xiên.”

Cao Ngạn hi hi cười khì đáp: “Duỗi ấy là lúc đứng, còn co là lúc ngồi. Vừa rồi ta duỗi, bây giờ ta co, còn không phải biết co biết duỗi thì là cái gì?”

Doãn Thanh Nhã tức thì nghẹn họng giận dữ nói: “Tiểu tử chết bầm! Ngoại trừ mồm mép trơn như bôi mỡ ra, thì ngươi còn có bản lĩnh gì nữa chứ?”

Cao Ngạn ngang ngạnh đáp: “Hùng biện trơn tru không vấp váp, đó là một loại tài năng lớn. Nhớ năm xưa thời Xuân Thu Chiến Quốc, những vị thuộc trường phái tung hoành* như Tô Tần, Trương Nghi, đều bằng ba tấc lưỡi trơn tru như bôi mỡ, mà đoạt được công danh phú quý, lưu danh sử sách. Cao Ngạn ta bắt chước vậy mà đoạt được trái tim của Nhã nhi. Bởi vì ta biết rõ, trong thiên hạ chỉ có mỗi mình ta mới có thể chọc ghẹo cho nàng vui vẻ, những kẻ khác đều không thể làm được.”

Doãn Thanh Nhã cáu bẳn nói: “Đầu và miệng đều là của ngươi, ngươi thích nghĩ thế nào, muốn nói thế nào, cũng chỉ là suy nghĩ một phía của riêng ngươi mà thôi. Ta thực là hết cách với ngươi rồi. Được rồi! Tạm nhân lúc ta còn có chút nhẫn nại, hãy kể cho ta hay Biên Hoang tập có gì đặc biệt khiến người ta vui thích?”

Cao Ngạn trong lòng mừng rỡ, thầm nghĩ như vậy chẳng lẽ còn không phải tiếp nhận những lời khinh bạc gã nói, mà sẽ không hở một tí là động võ. Cảm giác loại này giống như là bay bổng trên chín tầng mây, được khoái lạc tựa như thần tiên vậy, nói làu làu như thể đang đếm của quý trong nhà: “Biên Hoang tập có mười địa điểm có thể cho phép người ta ngày thì trốn trong nhà đêm mới ra vui chơi, ban ngày chúng ta có thể cùng ngủ, buổi tối mới ra ngoài hoạt động…”

Doãn Thanh Nhã giận dữ cắt lời gã: “Ai cùng ngủ với ngươi?”

Cao Ngạn cười thầm: “Cùng ngủ với ngủ cùng một chỗ là có sự khác biệt, để ta giải thích cho nàng nghe…”

Doãn Thanh Nhã bịt chặt lỗ tai, má ửng hồng nói: “Ta không muốn nghe.”

Sau một hồi lâu không nghe thấy tiếng của Cao Ngạn, quay đầu lại, thấy Cao Ngạn đang ngây người ngơ ngẩn nhìn nàng chăm chú, bèn hạ tay xuống, hậm hực nói: “Tiểu tử chết bầm! Có gì hay mà nhìn chứ?”

Cao Ngạn nuốt nước bọt trong miệng, khó khăn đáp: “Nhã nhi quả là đẹp mê người.”

Doãn Thanh Nhã làm biểu tình “Trời ạ!” rồi thở dài: “Ngươi làm ơn quy củ chút có được không?”

Cao Ngạn dè dặt hỏi: “Ta có thể hỏi Nhã nhi một vấn đề được không?”

Doãn Thanh Nhã đề phòng hỏi lại: “Vấn đề gì?”

Cao Ngạn đáp: “Lần trước lúc chúng ta chia tay ở Biên Hoang tập, nàng không phải đã hỏi qua câu ‘Nhã nhi có điểm gì hay’ này rồi mà? Nàng còn nhớ chứ?”

Doãn Thanh Nhã hai bên má ửng hồng, khiến nàng càng thêm vẻ kiều diễm nhu thuận. Khi Cao Ngạn vẫn còn chưa hiểu rõ là chuyện gì, thì nàng đã sớm tóm lấy ngực gã lôi ra khỏi ghế, quẳng ra ngoài cửa.

Lưu Dụ rốt cuộc cũng tìm được Tạ Chung Tú, nhưng không phải là ngửi được khí vị của nàng, mà là nghe thấy thanh âm của nàng.

Chỗ thanh âm truyền lại là trên một tòa nhà lầu hai tầng. Trên lầu vẫn lập lòe ánh đèn yếu ớt, Tạ Chung Tú đang phân phó tì nữ đi ngủ, xem ra nàng đã chuẩn bị lên giường đi ngủ.

Phòng thủ tại khu vực này đặc biệt nghiêm mật. Ngoại trừ bọn hộ viện dắt chó dữ đi tuần ra, còn có hai chốt canh ngầm. Đối với thám tử mà nói, đau đầu nhất chính là chốt canh ngầm. Bởi vì đối phương tĩnh phục ở chỗ tối, khiến người khó có thể phát giác ra được. Địch trong tối ta ngoài sáng, rất dễ bị bại lộ hình tích. Nhưng đương nhiên vẫn khó có thể làm khó dễ hạng cao thủ hàng đầu như Yến Phi. Toàn nhờ chàng nhắc nhở, Lưu Dụ mới có thể thành công lẩn vào trong bụi hoa cạnh bên tiểu lâu.

Yến Phi nhẹ nhàng như quỷ mị lướt đến bên cạnh gã, thấp giọng nói: “Trên lầu chỉ có mỗi mình nàng thôi. Ngươi đột nhập vào từ cửa sổ phía Nam, thì có thể giấu được tai mắt cả trạm gác, quan trọng nhất là không để nàng hiểu lầm mà thất thanh kêu lên.”

Lại chui vào cây đại thụ ở đằng sau cách đó hai trượng, nói: “Ta sẽ ẩn mình trên cây, lúc rời khỏi thì phải nhìn theo chỉ thị của ta.”

Lưu Dụ gật đầu biểu thị đã hiểu. Tiếp đó Yến Phi hiện ra vẻ mặt chăm chú tập trung toàn bộ tinh thần, hiển thị đang lưu ý động tĩnh bốn phía chung quanh. Lưu Dụ cảm thấy tim mình đang đập như điên, thấp tha thấp thỏm, cũng không biết là vì cái gì, mà khẩn trương đến bải hoải. Gã đang thầm mắng bản thân vô dụng thì Yến Phi quát khẽ: “Đi!”

Lưu Dụ lướt vụt đi như một làn khói, vòng đến một mặt của tiểu lâu, đằng thân bay lên, bám phập vào của sổ phía Nam.

Ánh đèn vụt tắt.

Lưu Dụ trong lòng khen tuyệt, mở toang cửa sổ khép hở, vô thanh vô tức tiến vào. Mùi hương như lan như ly bay vào trong mũi gã, không cần phải nói cũng biết quần áo và đồ dùng trên giường đều được ướp qua hương liệu. Đây còn là lần đầu tiên gã tự ý đột nhập vào phòng ngủ của khuê nữ, cảm giác loại này thật khó hình dung đến cực điểm, giống như đang muốn mạo phạm vào cấm địa thần thánh bất khả xâm phạm.

Tầng trên của tiểu lâu được phân cách làm hai bên bởi một bức mành trúc, ở giữa chỗ gã đang đứng có bày một chiếc giường nhỏ, bốn góc chăng rủ xuống màn thêu nhiều màu. Một bóng hình đẹp đẽ xinh tươi, đang yêu kiều bước tới bức mành trúc từ phía bên kia.

Lưu Dụ trong lòng dấy lên cảm xúc mãnh liệt như nhiệt hỏa, quên hết mọi thứ mà đi về phía mành trúc, dùng một tay ôm lấy mỹ nhân đang vén mành đi vào, còn tay kia bịt mồm nàng, ghé sát vào tai nàng khẽ nói: “Là ta! Là Lưu Dụ! Tôn tiểu thư không cần phải sợ hãi.”

Trong bóng tối, Tạ Chung Tú nghe vậy vẫn kịch liệt giãy giụa hai cái, mới bắt đầu an tĩnh trở lại, thân thể mềm mại nhè nhẹ rung rung.

Lưu Dụ có chút khó hiểu mà lại lần nữa thấp giọng nói: “Ta là Lưu Dụ!” rồi chầm chậm rời tay khỏi bờ môi anh đào mọng đỏ của nàng.

Tạ Chung Tú hổn hển hỏi: “Ngươi tới làm gì? Còn không buông ta ra!”

Nhiệt tình đang dâng tràn của Lưu Dụ tức thì tựa như bị nước băng dội thẳng vào đầu, nguội lạnh đi quá nửa, vô ý thức buông thỏng tay xuống.

Tạ Chung Tú thoát thân ra khỏi, thối lui lại phía sau về phía bức mành trúc, cho đến khi chạm lưng vào tường, mồm mở to như muốn hô hoán kêu lên thật lớn, nhưng đến cuối lại không phát ra âm thanh nào cả.

Lưu Dụ cảm thấy cả người tựa nhu hoàn toàn tê dại, càng hoàn toàn không rõ, cũng chưa từng nghĩ tới phản ứng như vậy của Tạ Chung Tú. Trong thoáng chốc trong đầu óc gã chợt trở thành một màn trắng trống rỗng. Sau đó gã phát giác bản thân đã đi đến sát trước mặt Tạ Chung Tú đang dựa lưng vào tường mà đứng, gượng gạo nói: “Tôn tiểu thư, ta là … ôi…”

Tạ Chung Tú có lẽ vì thấy gã không có thêm một hành động nào nữa, mới bình tĩnh trở lại, không vui hỏi: “Ngươi tại sao lại có thể đường đột tới đây giữa nửa đêm canh ba như vậy?”

Lưu Dụ không cách nào liên hệ lại được một Tạ Chung Tú đã lao vào lòng gã ngày ấy với Tạ Chung Tú trước mắt gã, miễn cưỡng thở hắt mấy lời: “Tôn tiểu thư không phải muốn gặp ta ư? Chỉ có như thế này chúng ta mới có cơ hội để nói chuyện riêng tư.”

Tạ Chung Tú giận dữ nói: “Ngươi có thể thông qua Tống thúc sắp xếp mà! Ở đâu có cái kiểu vô lễ này, xông loạn khuê phòng của ta, truyền ra ngoài thì còn ra thể thống gì nữa chứ?”

Lưu Dụ thiếu chút nữa muốn tìm một lỗ để mà chui xuống, cười khổ: “Sai thì cũng đã sai rồi, Tôn tiểu thư có lời gì muốn nói với ta vậy?”

Tạ Chung Tú giận cành hông mà nói: “Ta chỉ muốn chất vấn ngươi, vì sao muốn nương nhờ hạng bỉ ổi vô liêm sỉ Tư Mã Đạo Tử ấy? Ngươi đã quên cha ta dìu dắt ngươi như thế nào rồi ư? Ngươi còn mặt mũi nào để nhìn cha ta và Tạ gia chúng ta đây? Ngươi còn mặt mũi nào để nhìn Đạm Chân đây? Có làm gì không tốt thì làm, nào ngờ lại muốn làm chó săn cho Tư Mã Đạo Tử, uy danh của cha ta đã mất hết vào tay ngươi cả rồi.”

Lưu Dụ giật mình hiểu ra, toàn bộ sự việc căn bản là một sự hiểu lầm. Ánh mắt nàng nhìn gã hoàng hôn hôm đó, quả là tràn đầy oán giận và hậm hực bất lực không biết làm sao, vấn đề không phải là nàng yêu thương gã, mà là oán gã phản bội Tạ Huyền, cam tâm làm chó săn cho Tư Mã Đạo Tử. Sự thật là nàng chưa bao giờ xem trọng gã, tất cả cũng đều chỉ là những mơ mộng hão huyền của riêng mình gã mà thôi.

Lưu Dụ phát sinh cảm giác xấu hổ không biết chôn mặt vào đâu, hận không thể lập tức tự tận, một phát có thể kết thúc hết hàng trăm ý nghĩ trong đầu.

Giọng nói của Tạ Chung Tú tiếp tục văng vẳng truyền vào tai gã: “Ta bây giờ mới hiểu được Diễm thúc vì sao không cho phép ngươi bước vào nhà chúng ta nửa bước. Ông đã đúng, Đạm Chân quả thực đã nhìn lầm ngươi.”

Lòng Lưu Dụ quặn đau, toàn thân không chút thoải mái tựa như bị ngàn mũi kim đâm vào, cũng có cảm giác khó hô hấp, miễn cưỡng phấn chấn tinh thần nói: “Thỉnh tôn tiểu thư thứ cho Lưu Dụ tội đã tới làm phiền. Từ nay về sau ta sẽ không bao giờ quấy nhiễu tôn tiểu thư nữa.”

Dứt lời cũng không để ý xem liệu có làm kinh động tới người trong Tạ phủ hay không, nhanh chóng theo đường cũ mà rời đi.

* Tung hoành. Thời Chiến Quốc, "Tung hoành gia" là một học phái trong Cửu lưu gồm những hạng sĩ xuất thân, có tài biện luận đi du thuyết các nước để chiến hay hòa. Người được tôn sùng trong phái này là Tô Tần và Trương Nghi. Tô Tần và Trương Nghi đều là học trò của Quỉ Cốc tiên sinh.

Tô Tần người ở Lạc Dương đi du thuyết 6 nước: Hàn, Ngụy, Triệu, Yên, Tề, Sở hợp nhau lại chống đánh nước Tần là nước mạnh nhất. Chiều dọc là "Tung". đất 6 nước đều ở theo một chiều từ bắc đến nam tại phía đông; đối với Tần ở phía tây, có một mình nên dùng danh từ "Hợp tung" để chỉ sự liên minh các nước. Tô Tần được vua Triệu phong làm Tung ước chưởng và cầm ấn là Tướng quốc 6 nước.

Trương Nghi người nước Ngụy, chủ trương trái lại thuyết của Tô Tần. Sau khi Tô Tần chết, tung ước sáu nước tan rã, Trương Nghi làm tướng nước Tần đi du thuyết sáu nước thờ Tần. "Hoành" là chiều ngang từ tây sang đông. Đất Tần ở về phía tây. Sáu nước ở về phía đông, không phải liên kết để chống Tần mà để hàng Tần, nên gọi là "Liên hoành".Yến Phi xoay tay chèo thuyền, nhìn vào sau lưng Lưu Dụ, nghĩ không ra lời nào có thể an ủi gã. Không một ai hiểu rõ đả kích nghiêm trọng mà Lưu Dụ phải gánh chịu hơn Yến Phi, đả kích này so ra còn khiến Lưu Dụ khó chịu hơn là lấy đao đâm gã hai nhát.

Lưu Dụ vốn có dáng người hiên ngang, giờ suy sụp gục xuống, đại biểu cho nỗi khuất nhục, vỡ mộng cùng với tâm tình uể oải cực độ gây nên bởi chuyện đạt được rồi lại mất mà gã đang gánh chịu.

Lưu Dụ vẫn quay lưng về phía Yến Phi đang ngồi trong thuyền, thở dài nói: “Yến huynh chắc đang cười ta? Ôi! Hiện tại người ta hận nhất chính là bản thân, ta thực là không biết lượng sức, lại còn cho rằng nàng ta là một Đạm Chân khác.”

Yến Phi nói: “Ngươi bất tất phải tự trách mình, đổi lại ta là ngươi, ắt cũng sẽ sinh ra hiểu lầm. Này! Đại trượng phu lo gì không có vợ, chuyện quan trọng nhất trước mắt, là tập trung tinh thần vào cuộc đấu tranh với Thiên Sư quân, tất cả những chuyện khác đều không quan trọng. Có thể sẽ có một ngày ngươi hồi tưởng lại chuyện tối nay, sẽ chỉ biết cười thật lớn.”

Lưu Dụ xoay người lại, thần sắc như thường gật đầu đáp: “Đúng! So với Đạm Chân, chuyện tối nay chỉ là một việc nhỏ, bị một vố cự tuyệt chửi mắng té tát coi như đã mua được một bài học tốt, chí ít cũng hiểu rõ được cách biệt sang hèn là hiện thật chắc chắn như thép. Từ nay về sau ta sẽ không bước chân vào Tạ gia nửa bước. Đa tạ ngươi!”

Yến Phi ngạc nhiên nói: “Mọi người đều là huynh đệ, không cần nói đa tạ, chỉ là một chút đỉnh công sức thôi mà!”

Lưu Dụ nói: “Ngươi giúp ta đêm nay đột nhập vào Tạ phủ để đi gặp Tạ Chung Tú, ta đương nhiên cảm kích, nhưng những lời đa tạ vừa rồi, lại không có ý như vậy, mà bởi vì có ngươi, ta hôm nay mới có thể đến được Tạ gia, dẫn tới chuyện tối nay, đã khiến ta bừng tỉnh lại từ trong mê mộng, lại một lần nữa đặt chân trở lại hiện thực mà làm người, không còn ảo tưởng mơ mộng hão huyền nào nữa, cũng không phải vướng víu vào những chuyện nam nữ phức tạp. Ta đúng là cần phải học tập Phụng Tam”

Yến Phi nói: “Ngàn vạn lần chớ có vì oán trách mà hãi sợ chuyện tình cảm nam nữ, Văn Thanh trên mọi phương diện so ra đều không hề thua kém Tạ Chung Tú, vả lại cũng thích hợp với ngươi hơn Chung Tú. Chúng ta thủy chung vẫn là thường dân áo vải, sẽ không thể hiểu được cách nhìn của thế gia vọng tộc, càng không quen với phương thức sinh hoạt của bọn họ. Đương nhiên, Đạm Chân là một ngoại lệ. Bất luận như thế nào, ngươi cũng đã từng giành được lòng ái mộ của một mĩ nữ con nhà danh giá, cũng đủ để có thể tự hào được rồi.”

Lưu Dụ lắc đầu: “Ta vừa nãy đã suy nghĩ lại lần nữa chuyện Huyền Soái ngăn cản ta bỏ trốn cùng Đạm Chân, thành thật mà nói, mãi cho đến tận vừa mới rồi ta vẫn có chút hận Huyền Soái, nhưng bây giờ hận ý đã hoàn toàn tiêu tan. Ngài ngăn cản ta là đúng. Tình yêu đôi lứa có lẽ chỉ coi trọng tới cảm giác, lúc mới phát sinh thì mãnh liệt tựa như trời long đất lở, nhưng khi chung sống lâu dài tại cùng một chỗ thì lại là một chuyện khác, Đạm Chân rồi sẽ phát hiện ra khuyết điểm của ta, nhiệt tình của chúng ta sẽ nguội lạnh mà giảm dần, cho tới khi trở thành một đôi vợ chồng lục đục bất hòa. Gần đây ta có tiếp xúc nhiều hơn với con cháu thế gia vọng tộc, lại càng rõ ràng hơn sự khác biệt giữa sĩ phu áo gấm và thường dân áo vải.”

Yến Phi nói: “Không cần phải bi quan như vậy, cao môn tuyệt không phải là cao cao tại thượng không với tới được, mà chỉ là một loại phương thức sinh hoạt khác. Bọn họ có thể xem thường chúng ta, thì chúng ta cũng có thể xem thường bọn họ. Con bà nó, hiện tại chính là lúc để chúng ta đi chứng minh cho bọn họ thấy, ai mới có tư cách để nói.”

Lưu Dụ gật đầu đồng tình: “Nói thật, cảm giác hiện giờ của ta đã thoải mái hơn rất nhiều, có điểm giống như vén sạch hết mây mù, nhìn rõ tình hình của bản thân. Bắt đầu từ thời khắc này đêm nay, Lưu Dụ ta sẽ không còn là Lưu Dụ của trước kia nữa, sẽ không tùy tiện làm việc theo cảm tính nữa. Món nợ của Đạm Chân ta nhất định sẽ vì nàng mà đòi lại, cũng phải khiến cho người trong thế gia vọng tộc thấy được rằng, thứ dân áo vải chúng ta, sẽ không vĩnh viễn bị bọn chúng chà đạp dưới chân.”

Khi nói đến câu cuối cùng, hai mắt Lưu Dụ lấp lánh tinh quang, hồi phục lại sinh khí.

Yến Phi không khỏi nhớ tới Thác Bạt Khuê, hắn cùng Lưu Dụ tuy hoàn toàn khác nhau về tác phong tính cách, nhưng lại có một điểm tương đồng, đó là không cam tâm ở dưới người khác, ấp ủ chí hướng cao xa.

Những tia sáng lung linh phản chiếu lên tuyết, làm bóng cây phía xa xa mờ mờ ảo ảo.

Sau một trận tuyết lớn, Biên Hoang tập đã biến thành một thế giới màu trắng bạc. Hiện tại tuyết tuy đã tạm ngưng, nhưng toàn bộ các ngôi nhà trong tập đều như được tân trang đổi sang một màu trắng xóa, đẹp một cách trong sạch và thanh khiết.

Thời tiết lạnh lẽo vẫn không hề làm hao tổn nhiệt tình của Hoang nhân, muôn người đều đổ xô ra đường ùn ùn kéo đến bến cảng, hoan nghênh phương giá của Tiểu Bạch Nhạn quang lâm, nhiệt tình ấy cùng với khí trời giá lạnh hình thành nên sự đối lập mãnh liệt.

Nhóm thành viên nghị hội, bao gồm những người như Giang Văn Thanh, Mộ Dung Chiến, Hồ Lôi Phương, Phí Nhị Phiết, Âm Kỳ, Diêu Mãnh, Cơ Biệt, Hồng Tử Xuân, Thác Bạt Nghi, lại có một loại tâm tình hoàn toàn khác, bọn họ đến đây không phải vì nghênh tiếp Tiểu Bạch Nhạn, mà là chờ đợi Trác Cuồng Sinh, Cao Ngạn và Trình Thượng Cổ, để có thể lập tức cử hành Chung Lâu nghị hội, nhằm triển khai toàn diện đại kế phản công.

Giang Văn Thanh cười nói: “Doãn Thanh Nhã đã trở thành nữ nhân nhận được nhiều hoan nghênh nhất ở Biên Hoang tập sau Kỷ Thiên Thiên.”

Diêu Mãnh than: “Thực ngại phải nhìn thấy vẻ mặt của Cao thiếu, y luôn một lòng muốn được thỏa thích trùng phùng với Tiểu Bạch Nhạn, mà giờ chúng ta lại phải chia cách bọn họ, cưỡng ép y ra tiền tuyến, phụ trách nhiệm vụ nguy hiểm nhất.”

Mộ Dung Chiến nói: “Nếu có được lựa chọn khác, chúng ta sao dám phá hoại hảo sự của y. Chỉ hận y lại là lựa chọn thích hợp nhất, chỉ có y mới có thể xoay sở hoàn thành được.”

Lưu Mục Chi tiếp: “Thật sự chỉ có y mới làm được ư? Ta sợ nhất là y không chuyên tâm, trái lại còn làm liên lụy đến đại sự.”

Thác Bạt Nghị nói: “Quả thực không có người nào đảm nhiệm được ngoài y, tên tiểu tử này không chỉ nắm rõ Biên Hoang như lòng bàn tay, pháp bảo đầy mình, lại còn giỏi thuật ẩn mình xóa vết, quan trọng hơn là y có thiên phú cực cao trong nghệ thuật thám thính trinh sát, thám tử thông thường nhìn không ra dấu vết gì khác lạ, thì đối với y lại là đầu mối quý báu. Biên Hoang tập là địa phương chỉ xét đến thực lực, y có thể trở thành phong môi nổi danh nhất, tuyệt không phải do may mắn mà được.”

Hồng Tử Xuân cười khổ: “Hy vọng tiểu tử này lấy đại cuộc làm trọng!”

Mọi người chỉ còn cách nhìn nhau cười gượng.

Tư Mã Nguyên Hiển trời chưa sáng đã đến, cùng ăn sáng một chỗ với tất cả mọi người, để tiễn biệt Yến Phi lên đường.

Nhìn bề ngoài, Lưu Dụ tựa như một người chưa hề gặp chuyện gì xảy ra, cười cười nói nói, nhưng Yến Phi lại hiểu được rằng gã so với trước kia đã biết giấu kín hơn tâm sự của mình.

Nhân cơ hội này, Lưu Dụ hướng Tư Mã Nguyên Hiển ngỏ lời: “Tối nay chúng ta sẽ dời đến tiền tuyến, trên đường sẽ đi qua Quảng Lăng, muốn thuận đường mà ghé vào bái phỏng Tôn Vô Chung Tôn tướng quân, nhằm hiểu rõ tình huống của Bắc Phủ Binh tại Quảng Lăng.”

Tư Mã Nguyên Hiển do dự hỏi: “Việc này liệu có nên hỏi qua trước cha ta không?”

Yến Phi nói: “’Tướng ở bên ngoài, trong chừng mực nào đó có thể không nghe theo lệnh vua’. Đây không phải là trái lệnh phạm thượng, mà là chỉ có tướng lĩnh tác chiến tại tiền tuyến, mới minh bạch tình huống xác thực, hiểu được sách lược nào là phù hợp nhất. Hiện tại chúng ta đang ở trong tình huống giống như vậy, vương gia đương nhiên là người tinh minh, nhưng ông lại lo lắng kiêng dè quá nhiều, đối với tình huống ở tiền tuyến chỉ biết thông qua báo cáo của thám tử. Chúng ta nếu muốn thắng trong cuộc chiến này, tuyệt đối không thể vì đắn đo lo ngại quá nhiều, mà chịu ràng buộc trói chân trói tay trong hành sự, vì vậy ắt phải mạnh tay mà làm, giống như tình huống Hoang nhân hai lần khôi phục Biên Hoang tập vậy. Công tử phải hiển lộ ra chút đảm sắc, thì Lưu Dụ bọn họ mới có cơ hội thành công.”

Nếu so sánh ra, Yến Phi có thể tính là người đứng ngoài cuộc chiến này, vả lại ai cũng đều hiểu được tác phong chí công vô tư của chàng, đã thế lại còn là người Tư Mã Nguyên Hiển ngưỡng mộ trong lòng, những lời do chàng nói ra đặc biệt có phân lượng.

Tư Mã Nguyên Hiển nghe xong lập tức hai mắt tỏa sáng, gật đầu đồng ý: “Đúng! Tựa như tình huống chúng ta ác đấu cùng Hác Trường Hanh trên sông lần trước, lúc ấy còn có thời gian gì mà nghĩ đến vấn đề khác. Tất cả cứ như Lưu huynh đề nghị mà làm đi! Về phía cha ta đã có ta phụ trách.”

Lưu Dụ, Đồ Phụng Tam và Tống Bi Phong đều như nhấc bỏ được tảng đá lớn trong lòng, đây có thể nói là trạm gác cuối cùng, chỉ cần có thể rời khỏi Kiến Khang, bọn họ sẽ như rồng về biển lớn, trời đất thỏa tình cho bọn họ tung hoành.

Sợ nhất là Tư Mã Đạo Tử đột nhiên thay đổi chủ ý, trong khoảnh khắc cuối cùng lại muốn bọn họ lưu lại Kiến Khang đợi lệnh, lúc ấy bọn họ chỉ còn cách ngồi nhìn Thiên Sư quân đoạt lấy giang sơn.

Nhưng nếu bọn họ có thể rời khỏi Kiến Khang, sẽ có thể thẳng tay mà làm, thực hiện cái gọi là tướng ở bên ngoài “lệnh vua có lúc không phải nghe theo”. Tư Mã Đạo Tử đương nhiên không hài lòng, nhưng khi tình thế phát triển đến tình huống khẩn trương mà chỉ có kì binh của bọn họ mới có khả năng xoay chuyển, thì Tư Mã Đạo Tử cũng có thể có lựa chọn nào khác được, chỉ đành toàn lực hỗ trợ cho bọn họ, thậm chí còn phải cầu thần bái phật phù hộ cho bọn họ nhất thiết không bị thua một trận tan tác, nát bét.

Lưu Dụ thực lòng rất lấy làm cảm kích Đồ Phụng Tam, tình thế trước mắt chính do gã một tay nghĩ cách tạo ra, lại thêm Yến Phi trợ giúp ủng hộ, cơ hội bọn họ khát khao nhất cuối cùng cũng đã nằm trong tay.

Lưu Dụ nhận thức sâu sắc được rằng, từ sau khi thành người kế thừa của Tạ Huyền, trải qua ngàn vạn thăng trầm, vui sướng khổ sở, may mắn bất hạnh, cơ hội mà gã vẫn luôn chờ đợi cuối cùng cũng đến.

Đây cũng là cơ hội duy nhất để gã trở thành vị anh hùng trong mắt, trong tim của tất cả người phương Nam.

Nếu sai sót, sự tồn tại của gã sẽ chỉ như một trò cười.

Cao Ngạn đến trước khoang của Doãn Thanh Nhã, nhấc tay gõ cửa, reo lên: “Nhã nhi! Mau đến Biên Hoang tập nào!”

Giọng nói mệt mỏi biếng nhác của Doãn Thanh Nhã truyền ra: “Sáng sớm đã ồn ồn ào ào, cho người ta xin đi, ngủ thêm một chút có được không?”

Cao Ngạn trong lòng mừng rỡ, không ngờ Doãn Thanh Nhã lại không quát gã cút xéo mà lại nũng nịu với gã, tức thì máu nóng dâng trào, toàn thân tê dại, lò dò mở cửa dò xét, phát giác cửa bên trong bị buộc lại, vội vàng dịu dàng khuyên nhủ: “Ngủ thêm một chút cũng không thành vấn đề, chỉ có điều nàng làm ơn mở cửa cho ta, để ta vào sắp xếp hành trang cho nàng.”

Nói xong hai câu cuối cùng, ngay cả gã cũng cảm thấy bản thân đuối lý cạn từ, bởi vì Doãn Thanh Nhã chỉ có một bọc hành lý nhỏ, làm gì cần phải thu thập sắp xếp chỉnh trang? Chỉ hận là không nghĩ ra được cớ nào tốt hơn. Lẽ nào lại nói: “Ngoan ra cùng ta thân cận nào?”

Chuyện xảy ra càng khiến gã không thể tưởng tượng được.

“Ý da” một tiếng, dây buộc cửa được tháo ra.

Cao Ngạn mở cờ trong bụng, vội vàng mở cửa, lắc mình tiến vào, rồi lại nhẹ nhàng đóng cửa.

Doãn Thanh Nhã đã sớm quay trở lại gường, mớ tóc mây rối bù lấp ló lộ ra khỏi chăn đắp và trên gối, tóc đen da trắng, cuốn hút mắt người.

Tim của Cao Ngạn không ngừng đập loạn, chân tay luống cuống run run tiến đến trước giường.

Cao Ngạn trong lòng thầm kêu mẹ ơi, không khỏi bị dáng dấp tư thế ngủ mê người, đẹp khác thường của nàng hút hồn, cố bình ổn lại hô hấp, sợ sẽ làm quấy nhiễu nàng, từng li từng tí cẩn thận tiến đến ngồi ở mép giường, vươn tay vén mấy sợi tóc rối trên mặt nàng, đầu ngón tay nhè nhẹ lướt qua gò má hồng hào thanh tú của nàng.

Doãn Thanh Nhã vẫn không chịu mở mắt, nói mớ: “Tay của ngươi sao run lẩy bẩy thế?”

Cao Ngạn tâm thần mê mẩn, làm sao còn dằn lòng được nữa, cúi đầu muốn ghé môi xuống gò má trắng hồng tràn đầy nhựa sống của nàng, đột nhiên phát giác không thể tiến thêm một thốn nào cả, té ra là miệng gã đã bị tay ngọc của nàng ngăn cản ở cự ly cách má nàng một quãng nhỏ chừng ba tấc, đành hôn vào lòng bàn tay nàng rồi thoái lui chờ dịp khác…

Thân thể mềm mại của Doãn Thanh Nhã khẽ yêu kiều rung lên, nhanh chóng rút tay vể như thể bị muỗi đốt, mở to mắt giận dữ nói: “Ngươi có ý xấu!”

Cao Ngạn sợ nàng động thủ phản kích, vội vàng ngồi thẳng người dậy.

Doãn Thanh Nhã tựa như giận dữ lại tựa như vui mừng mà trừng mắt nhìn gã, vẫn không bỏ qua nói: “Ngươi muốn hôm nay ta bỏ mặc không thèm để ý tới ngươi nữa có phải không?”

Cao Ngạn xun xoe cười nịnh: “Nhã nhi đại nhân độ lượng khoan hồng, ta chỉ kìm lòng không nổi trong thoáng chốc, cái đầu không khống chế được cái môi mà thôi. Ha! Tay của Nhã nhi thực là thơm à.”

Doãn Thanh Nhã choàng chăn ngồi dậy, lười nhác mỏi mệt vươn tay duỗi mình một cái, trách cứ Cao Ngạn: “Cái con người này của ngươi! Muốn ngủ thế nào cũng đều bị ngươi làm tan biến hết cả hứng.”

Cao Ngạn hiện giờ hy vọng nhất là nhìn được khung cảnh mĩ lệ lúc chiếc mền che rơi khỏi thân thể của nàng, lại nịnh bợ cười đáp:”Cũng là lúc rời khỏi giường rồi mà! Chỉ trong một khắc nữa là có thể đến được Biên Hoang tập.”

Đôi mắt đẹp của Doãn Thanh Nhã long lanh làn thu thủy liếc mắt lườm gã: “Tinh thần của ngươi hôm nay rất tốt đấy nhỉ, tối qua chắc phải ngủ ngon lắm.”

Cao Ngạn bối rối đáp: “Ngủ là sở trường của ta mà, cho dù ở trong hiểm cảnh, ta muốn ngủ là ngủ được, nhưng chỉ cần một tín hiệu nguy hiểm nho nhỏ thôi cũng đủ làm ta tỉnh lại.”

Doãn Thanh Nhã vui vẻ nói: “Ta rất thích ngủ. Ôi! Không nói những lời vô ích nữa, chúng ta còn phải làm một ước pháp tam chương.”

Cao Ngạn gãi đầu hỏi lại: “Ước pháp tam chương?”

Doãn Thanh Nhã giận dữ nói: “Đương nhiên phải có chút quy tắc chứ, bằng không làm sao quản cái tên tiểu tử nhà ngươi cho được? Vừa có cơ hội là đã muốn chiếm tiện nghi của người ta rồi. Ngươi rốt cục là nghe hay không nghe nào?”

Cao Ngạn bị dọa một phen sợ hãi, vội vàng nói: “Nghe! Nghe! Đương nhiên là nghe chứ, Nhã nhi xin cứ giáng chỉ.”

Doãn Thanh Nhã “hi hi” cười: “Giáng chỉ?” rồi lại lườm gã một cái, nói: “Điều khoản thứ nhất là không cho phép ngươi đề cập lại câu nói của tối hôm qua.”

Cao Ngạn trong lòng mừng rở, cố ý cau mày làm bộ dạng vắt óc suy nghĩ mà vẫn nghĩ không ra, hỏi: “Là câu nói nào nhỉ?”

Doãn Thanh Nhã giận dữ nói: “Cao Ngạn!”

Cao Ngạn sợ nàng nổi giận, bèn vội vã làm như đột nhiên đã nhớ lại: “A! Nhớ ra rồi! Là cái câu ‘Nhã nhi có điểm gì tốt’ đó hả. Nhớ ra rồi! Nhớ ra rồi! Sau này sẽ không nhắc lại nữa.”

Doãn Thanh Nhã trợn tròn đôi mắt phượng, chống nạnh giận dữ nói: “Còn nói!”

Chiếc chăn rốt cục cũng trượt khỏi người nàng, lộ ra phần thân trên chỉ mặc độc một chiếc áo nhỏ, những đường cong mĩ lệ mê người của nàng được phơi bày trọn vẹn, Cao Ngạn không thể khống chế được ánh mắt như thể tự động dời tầm nhìn lên thân thể của nàng.

Doãn Thanh Nhã hai má ửng đỏ như lửa, hét: “Tiểu tử chết tiệt! Nhìn cái gì?”

Cao Ngạn vội vàng đưa mắt nhìn đi chỗ khác, cười trừ: “Cái gì cũng đều không nhìn thấy cả? Điều khoản thứ hai là chuyện gì nào? Hy vọng không phải là muốn ta bịt mắt lại! Như thế làm sao có thể dẫn Nhã nhi đi vui chơi thả cửa?”

Doãn Thanh Nhã ngọt ngào nở một nụ cười, nói: “Chưa tới điều khoản khác đâu à! Bây giờ ngươi cút ra cho ta, ta mặc quần áo xong sẽ lại ra gặp ngươi.”

Cao Ngạn cao hứng đến mức muốn hát toáng lên một bài, nhảy nhót lộn mèo vài cái, như thể vừa nhận được thánh chỉ mà rời đi vậy.

Yến Phi kiên quyết cự tuyệt việc mọi người muốn đi tiễn chàng một quãng, một mình rời khỏi Thanh Khê tiểu trúc, đi thẳng về hướng Quy Thiện tự để từ biệt An Ngọc Tình.

Lệnh giới nghiêm đã được giải trừ từ trước đó nửa canh giờ, trên đường người xe đã bắt đầu đông dần trở lại, Kiến Khang tựa như một người khổng lồ đang say ngủ, chợt bừng tỉnh, hồi phục lại sinh khí và sức sống.

Lúc này trong lòng chàng không phải đang nghĩ đến vị hồng nhan tri kỷ đáng kính trọng đáng yêu An Ngọc Tình, mà là chuyện Kỷ Thiên Thiên truyền tới tin tức tình báo quan trọng cho chàng hồi tối hôm qua, tinh thần lực của nàng chưa hoàn toàn bổ sung được như trước, miễn cưỡng sử dụng tâm linh truyền cảm để phát cảnh báo cho chàng như vậy, liệu sẽ tạo nên ảnh hưởng như thế nào đối với nàng? Nói không lo lắng rõ ràng là tự dối mình mà thôi.

Theo miêu tả của Kỷ Thiên Thiên, vị khách mà Mộ Dung Thùy chiêu đãi, khẳng định là Ba Cáp Mã Tư, kẻ biết được tinh thần dị thuật, và nữ nhân mà hắn muốn đối phó, chắc phải là Sở Vô Hạ đã đi theo phe Thác Bạt Khuê.

Hách Liên Bột Bột vì sao lại có thể ở cùng một chỗ với Ba Cáp Mã Tư?

Hai người đều từng là thủ hạ dưới trướng của Diêu Hưng, một kẻ là quân sư, một kẻ là chủ tướng, chắc hẳn phải có mối giao tình nhất định.

Chàng tuy đã biết được chuyện Ba Cáp Mã Tư truy sát Sở Vô Hạ từ chỗ Thác Bạt Khuê, cũng đồng thời biết được ân oán giữa hai người, nhưng lại không ngờ nổi Ba Cáp Mã Tư có thể vì báo mối cừu hận này, mà bất chấp tất cả xúi bẩy Hách Liên Bột Bột tấn công Thác Bạt Khuê, đã thế lại còn ngấm ngầm câu kết với Mộ Dung Thùy.

Hách Liên Bột Bột khẳng định sẽ bị kích động, bởi vì hắn và Thác Bạt Khuê hai người là thế bất lưỡng lập, một ngày không thể loại trừ Thác Bạt Khuê, thì hắn cũng không cách nào bành trướng thế lực về phía Bắc được.

Càng đáng sợ chính là nếu để Thác Bạt tộc phát triển lớn mạnh, thì hắn sẽ rơi vào vận rủi sơ sẩy một tí là nước mất nhà tan.

Vì vậy, nếu Hách Liên Bột Bột có được tin tình báo xác thực từ chỗ Ba Cáp Mã Tư, biết rõ được Thác Bạt Khuê đang ở trong tình huống bấp bênh nguy hiểm như trứng xếp chồng, thì tuyệt đối sẽ không bỏ lỡ cơ hội giậu đổ bìm leo lần này mà tiến công thành Thịnh Nhạc đang trong thời kỳ xây dựng lại của Thác Bạt tộc.

Hung Nô tộc của Hách Liên Bột Bột là một thế lực khác bên ngoài khu vực Hà Sáo của Thác Bạt tộc, đã nhiều năm cùng Thác Bạt tộc không ngừng giao tranh xung đột, thù oán cũng đã kết nút khó lòng tháo gỡ nổi.

Hiện tại Thác Bạt Khuê vì bảo vệ Bình Thành và Nhạn Môn mà đem quân lực di chuyển vào trong Trường Thành, gây ảnh hưởng lớn đến lực lượng phòng ngự của Thịnh Nhạc, nếu như Hách Liên Bột dùng kỳ binh đột kích, thì cơ hội thành công là rất lớn.

Mất đi Thịnh Nhạc, Thác Bạt Khuê coi như đã mất đi căn cứ địa bên ngoài Trường Thành, những người thuộc Thác Bạt tộc du mục trong khu vực Hà Sáo, cũng sẽ đối mặt với một cuộc thảm sát tàn khốc, nếu như những cơ sở này bị nhổ cỏ tận gốc, Thác Bạc Khuê cũng coi như kết thúc.

Thủ đoạn của Mộ Dung Thùy quả là lợi hại, nắm vững không chút sai sót toàn bộ cục diện, lại dùng mọi thủ đoạn, mánh khóe để phá hoại và công kích địch nhân, nếu như không có vị thám tử thần kỳ là Kỷ Thiên Thiên, thì e rằng Yến Phi chàng và Thác Bạt Khuê đã sớm tan nhà mất cửa mà vẫn chưa hay biết chuyện gì đã xảy ra.

Nhưng chỉ cần Thác Bạt Khuê biết được có sự việc như vậy, gã sẽ có biện pháp để ứng phó, sẽ không vì trời mùa đông gió tuyết khắc nghiệt mà lơ là thiếu cảnh giác, để đến nỗi sai lầm khó có thể xoay chuyển được.

Yến Phi đã đến được tới bên ngoài cửa Quy Thiện tự, bởi vì thời gian hãy còn sớm, nên cửa chùa vẫn còn chưa mở, chỉ có một đường cửa bên để cho người ra vào.

Yến Phi trấn tĩnh lại tinh thần, bước vào trong chùa, thanh âm tụng kinh khóa sớm truyền lại từ chỗ chính điện, đã tẩy trừ đi những phiền não, buồn bực ở trong lòng chàng.

Mặc dù chàng có kiếm pháp cái thế, nhưng lực lượng một người rốt cục cũng chỉ có hạn, những việc chàng có thể làm đều đã làm cả, hiện tại ắt phải gạt bỏ hết thẩy, chuyên tâm vào trận quyết chiến đối phó với Tôn Ân.

Thông qua cánh cửa bán nguyệt, chàng tiến vào Quy Thiện viên có cảnh sắc tuyệt đẹp ,trong đầu hiện ra khuôn mặt xinh tươi như hoa như ngọc của An Ngọc Tình.

Trong thoáng chốc chàng tựa như tiến vào một cảnh giới khác, thế giới ồn ào hỗn loạn ở bên ngoài Quy Thiện viên đã không còn lấy nửa điểm quan hệ với chàng.

Trong khoảnh khắc này, chàng nhớ lại tình cảnh năm xưa bị Khất Phục Quốc Nhân truy sát ở Biên Hoang, chiêu thức tùy tiện nghĩ ra để bảo mệnh đào tẩu đột nhiên như linh quang chợt hiện lại trong tâm trí chàng.

“Keng!” Điệp Luyến Hoa rời khỏi vỏ.

Yến Phi vận chuyển thái âm chân thủy, Điệp Luyến Hoa vạch ra ở không gian phía trước mặt hơn mười đường có quỹ đạo hình vòng tròn hoàn hảo đủ mọi kích cỡ to nhỏ, phát ra tiên thiên khí kình chứa đựng dồi dào thái âm chân thủy liên tiếp hết đợt này tới đợt khác, ngưng tụ mà không tiêu tán.

Đột nhiên Yến Phi nhanh chóng lùi lại sau, rồi lại chợt vọt về phía trước, kiếm hóa thành vệt sáng dài nhọn, thái dương chân hỏa phả ra từ mũi kiếm, đem hơn mười vòng kiếm hoa nối liền lại với nhau.

“Ầm!”

Một tia chớp tựa hồ có thể xé toạc hư không, xuất hiện ngay trước mắt.

Tia chớp chợt lóe lên rồi chợt tắt, vẫn chưa thể thực sự phá mở hư không.

Yến Phi tra kiếm vào vỏ, toàn thân run lên, biết được bản thân rốt cục đã khám phá ra bí quyết để dung nhập tiên môn pháp quyết vào “Nhật nguyệt lệ thiên đại pháp”. Tuy đây chỉ là một bước khởi đầu, nhưng lại là một khởi đầu quá tốt.

Ngay lúc này chàng chợt nhìn thấy An Ngọc Tình.An Ngọc Tình mở to đôi mắt đẹp, hỏi vẻ khó tin: “Đó là thứ kiếm pháp gì vậy? Trong thiên hạ không ngờ lại có kiếm pháp thế này. Chẳng trách Trúc Pháp Khánh cũng phải ôm hận dưới kiếm của ngươi.”

Yến Phi tra kiếm vào vỏ. Sự xuất hiện của An Ngọc Tình làm nhân gian lập tức biến đổi thành chân thật, làm chàng thấy khó mà tưởng tượng được trong Động thiên phúc địa có có người hoặc vật thể so sánh được với nàng. Chàng quả thật rất vui khi gặp nàng và ngắm nhìn đôi mắt đẹp của nàng. Khi ở một chỗ với nàng, cảm giác về tất cả đều được nhân lên nhiều lần. Đó tuyệt không phải là cảm giác giữa nam và nữ mà thuần tuý là cảm giác giao tiếp giữa con người và nhân gian.

Chàng cười nhẹ: “Ta lĩnh ngộ được kiếm pháp này chính là khi tam bội Thiên, Địa, Tâm hợp nhất. Vì vậy ta đặt tên nó là ‘Tiên môn kiếm quyết’. Ta vừa rồi thi triển thức khởi đầu có tên là ‘Tiên tung sạ hiện’.”

An Ngọc Tình đi đến trước mặt chàng, vẫn lộ rõ vẻ không tin vào những gì mắt mình vừa nhìn thấy nói: “Điều này tuyệt không có khả năng. Ngươi có thể đem nguyên lý khai mở tiên môn, rồi ứng dụng vào kiếm pháp. Thân thể ngươi lại không chịu thụ thương sao? Uy lực của đạo thiểm điện đó phi thường kinh nhân. Thiên hạ còn ai có thể chịu được một kiếm của ngươi đây? Kiếm pháp này căn bản là không thể kháng cự.”

Yến Phi mỉm cười: “Tôn Ân khẳng định có thể chịu được. Hà huống chiêu đầu tiên đó của ta vẫn chưa luyện thành, bởi vì điện mang của nguyên âm nguyên dương mới chỉ có thể nương theo thân kiếm bắn thẳng ra. Người cao minh như Tôn Ân hoặc Mộ Dung Thùy khẳng định sẽ có thủ pháp ứng phó thích hợp. Đợi khi ta có thể dùng kiếm mang để công kích đối thủ từ bất kỳ vị trí hay góc độ nào, lúc đó mới tính là không ai ứng phó được.”

An Ngọc Tình nhíu mày hỏi: “Có khả năng vậy sao?”

Yến Phi đáp: “Khả năng đó thật sự tồn tại, đó cũng chính là sự khác biệt của ‘Tiên môn kiếm quyết’. Khi ta dùng Thái Âm khí hình thành một vùng trường khí, rồi tuỳ tiện tống xuất Thái Dương khí vào một điểm nào đó trong trường khí, ví dụ như sau lưng đối thủ chẳng hạn, sẽ giống như việc dẫn mở tiên môn, tập kích đối thủ. Đó chỉ là một ý tưởng. Công pháp của ta vẫn còn cách xa điều đó lắm.”

An Ngọc Tình khẽ thở ra một hơi hỏi: “Quả thật là công pháp thần kỳ, đến lúc đó thiên hạ còn có ai là đối thủ của ngươi?”

Yến Phi đáp: “Ta vẫn khẳng định Tôn Ân có thể ứng phó được. Nếu quả kiếm quyết của ta đạt đến cảnh giới xuất thần nhập hoá như thế, lão đỡ thì không đỡ được nhưng vẫn có thể dựa vào công lực của bản thân, ở trong kinh mạch tiêu thụ được một kiếm của ta.”

Đôi mắt thâm thuý của An Ngọc Tình chăm chú nhìn chàng hỏi: “Vừa rồi ngươi có biết Ngọc Tình ở bên cạnh không?”

Yến Phi vui vẻ đáp: “Đương nhiên là biết.”

An Ngọc Tình ngạc nhiên: “Ngươi cố tình biểu diễn kiếm quyết đó trước mắt ta. Đúng không?”

Yến Phi gật đầu: “Đúng vậy! Làm vậy có hai mục đích. Trước tiên là để cô nương biết rằng ta có tín tâm có thể đạt đến cảnh giới ‘Phá toái hư không’ của võ học. Tam bội Thiên, Địa, Tâm trước sau vẫn chỉ là vật chết. Người lại là vật sống nên biến hoá của kiếm pháp sẽ càng nâng cao uy lực của tiên môn quyết. Thứ hai là lần này trước khi quyết chiến theo phó ước với Tôn Ân, ta muốn đến chào tạm biệt cô nương, không muốn cô nương lo lắng nên mới thi triển uy lực của tiên môn quyết trước mặt cô nương, dùng việc đó mà nói ta có khả năng đánh bại Tôn Ân.”

An Ngọc Tình hân hoan nói: “Ngươi đạt mục đích rồi! Nhưng với Tôn Ân ngươi ngàn vạn lần không được khinh địch. Hoàng thiên đại pháp của lão đã đạt tới cảnh giới thiên nhân giao cảm, cũng giống như khi ngươi được tam bội Thiên, Địa, Nhân dẫn dắt khai mở tiên môn vậy.”

Yến Phi cười nhẹ: “Đa tạ cô nương chỉ điểm. Mong cô nương bảo trọng. Nếu ta có thể giữ mạng quay về, ta sẽ đến Kiến Khang bái phỏng và thuật lại trận chiến cho cô nương nghe.”

Nói rồi chàng vỗ vỗ vào Điệp Luyến Hoa sau lưng, rồi tiêu sái bước đi.

Biên Thành khách sạn, Biên Hoang tập.

Cao Ngạn cúi đầu ủ rũ đến trước cửa phòng trọ của Tiểu Bạch Nhạn, đưa tay lên gõ cửa.

Cửa phòng lập tức được mở ra, khuôn mặt của Doãn Thanh Nhã hiện ra, oán giận nói: “Họp hành gì mà lâu vậy, làm người ta chờ đợi khổ sở. Hôm nay ta phải được ăn đùi dê nướng.”

Cao Ngạn tránh ánh mắt chờ mong của nàng, thấp giọng nói: “Sự tình có thay đổi.”

Doãn Thanh Nhã trừng trừng nhìn Cao Ngạn đang bước vượt qua nàng, ngạc nhiên hỏi: “Sự tình có thay đổi? Phát sinh chuyện gì sao?”

Cao Ngạn bước thẳng tới ngồi xuống một chiếc ghế trong phòng khách, lộ vẻ sầu thảm đáp: “Ta phải lập tức lên đường chạy tới Tứ Thuỷ thám thính quân tình, không cách nào bồi bạn với nàng ở đây được nữa.”

Doãn Thanh Nhã sẵng giọng thốt ra: “Ngươi sao có thể để mặc ta ở đây chứ?”

Cao Ngạn cất giọng khổ sở: “Huynh đệ hoang nhân của ta đúng là tàn nhẫn. Nhưng cũng không trách họ được. Tên hỗn đản Mộ Dung Thuỳ đó đã phái binh chiếm giữ phía bắc Dĩnh khẩu chỗ Tứ Thủy và Dĩnh Thủy giao nhau. Khi tuyết mùa đông rơi xuống. Dĩnh Thuỷ trở thành con đường huyết mạch duy nhất nối bọn ta với phương bắc. Vì vậy bọn ta không do dự phải đoạt lại bắc Dĩnh Khẩu. Hai bên giao chiến, quân tình phải đặt lên hàng đầu. Ta vì vậy phải đi làm thám tử, sau khi tìm hiểu hư thật của địch nhân mới có thể quyết định được chiến lược phản công.”

Doãn Thanh Nhã nhẹ bước chân đẹp đi tới trước mặt gã nhíu mày hỏi: “Biên Hoang tập chẳng nhẽ có mỗi ngươi là thám tử chắc? Phái người khác không được sao?”

Cao Ngạn cười khổ: “Biên Hoang Tập bọn ta đúng là có không ít nhân tài thám tử, đáng tiếc không có ai đảm nhận việc này bì được với ta cả. Bởi vì một số lớn Bí nhân như Hướng Vũ Điền đã tiềm nhập Biên Hoang. Cả vùng Biên Hoang này chỉ còn mỗi Biên Hoang tập có thể tính là an toàn, các địa phương khác đã biến thành nơi nguy hiểm. Chỉ mỗi ta là có năng lực xuất nhập Biên Hoang một cách dễ dàng. Hắc! Nàng giờ có thể hiểu được địa vị thủ tịch phong môi của Cao Ngạn ta, chính là dựa vào thực lực mà có được.”

Sau đó gã đưa hai bàn tay lên áp chặt vào mặt, cất giọng đau khổ nói: “Nếu có lựa chọn khác, ta lại có thể để nàng một mình sao?”

Doãn Thanh Nhã lại hỏi: “Ngươi muốn đi bao lâu?”

Cao Ngạn ngẩng đầu đáp: “Cả đi và về đã mất hai ngày ba đêm. Nàng có thể tiễn ta không?”

Doãn Thanh Nhã bực tức: “Không thể.”

Cao Ngạn thảng thốt: “Nhã nhi.”

Doãn Thanh Nhã phì cười nói: “Người ta đi cùng với ngươi.”

Cao Ngạn thất thanh: “Gì cơ?”

Doãn Thanh Nhã làm như không có gì đáp: “Có gì mà ra vẻ kỳ quái như vậy? Doãn Thanh Nhã ta thất lễ với ngươi sao? Lần trước bị Sở Vô Hạ truy sát ở Biên Hoang, trong Bạch Vân Sơn toàn nhờ vào bản cô nương mới cứu được tính mệnh của ngươi. Lần này nếu quả ta không đi cùng với ngươi, ngươi khẳng định không có mạng trở về.”

Cao Ngạn than thở: “Nếu quả được đi cùng nàng, ta lại đi một mình sao? Lần này không giống lần trước. Lần trước chỉ là chạy trốn, đó lại là bản lĩnh lớn nhất của Cao Ngạn ta, nhưng lần này là chấp hành nhiệm vụ trinh sát quân địch, nguy hiểm theo đó nhân lên rất nhiều. Một cô nương thiên kiều bách mị như nàng mà bị rơi vào trong tay địch nhân, hậu quả khó mà tưởng tượng nổi. Nàng phải bỏ cái ý nghĩ này đi.”

Doãn Thanh Nhã dậm chân bực tức: “Tên hỗn đản ngươi chỉ được cái nói bậy. Bản cô nương đến Biên Hoang tập chỉ có thể du ngoạn ba ngày. Ngươi lại lăn lên chiến tuyến phương bắc trinh sát địch tình, vậy bản cô nương ta biết làm gì? Ai bồi tiếp ta du ngoạn? Ta mặc kê, ngươi không chịu đáp ứng ta không cho phép ngươi ly khai. Sau này ta cũng không lý gì tới ngươi nữa.”

Cao Ngạn lại vùi mặt vào hai tay, thống khổ nói: “Nếu như chỉ có mình ta đi, ta có mười phần nắm chắc còn mạng trở về gặp nàng. Nhưng nếu quả ta và nàng cùng đi, ta đến nửa thành cũng không nắm chắc.”

Doãn Thanh Nhã mỉm cười: “Hết lý do này lại lý do khác. Trước tiên thì phóng đại nguy hiểm để ta sợ mà lùi bước. Giờ lại mang sự an nguy của bản thân ra uy hiếp ta. Cao Ngạn! Ngươi nói gì cũng vô dụng. Ta đã sớm nhìn thấu ngươi rồi.”

Cao Ngạn ngửng đầu, ngây ngốc một hồi rồi mới chầm chậm nói: “Thật kỳ quái! Ta quả có cảm giác bị nàng nhìn thấu. Nhưng ta có thể để Nhã nhi của ta mạo hiểm hay sao? Bí nhân quả thật rất đáng sợ, như Hoa Yêu, như cái tên gọi là Hướng Vũ Điền kỳ quái đó. Nếu nàng có bề gì, ta biết ăn nói với sư phụ Nhiếp Thiên Hoàn của nàng thế nào đây?”

Doãn Thanh Nhã phá ra cười đến hụt hơi rồi nói: “Da mặt ngươi quả là dầy thật. Không ngờ cũng lôi sư phụ ta ra được. Tiểu tử chết bằm. Ngươi nghe đây, đây là cơ hội duy nhất của ngươi để chứng tỏ ngươi là phong mai xuất sắc nhất của Biên Hoang tập. Chứng minh cho ta xem. Chỉ có sự thật mới có thể chứng minh ngươi liệu có xứng với cái danh đó hay không.”

Cao Ngạn nói: “Ta thật sự chịu sự bướng bỉnh của nàng. Bất quá nàng phải đồng ý với ta một chuyện, hơn nữa phải lập thề, nếu không ta sẽ không cho nàng đi cùng.”

Doãn Thanh Nhã bình tĩnh giục: “Mau nói ra đi.”

Cao Ngạn nghiêm nét mặt nói: “Nhã nhi phải thề tuyệt không để địch nhân bắt sống, nếu bị phải uống thuốc độc tự vẫn.”

Doãn Thanh Nhã tủm tỉm cười: “Trước tiên phải đưa độc dược cho ta đã chứ.”

Cao Ngạn lúng túng: “Lại bị nàng nhìn ra. Ôi! Sao ta có thể mang nàng đi theo chứ?”

Doãn Thanh Nhã tức giận: “Còn nói ngươi yêu thương người ta. Yêu thương kiểu gì thế này? Có việc kích thích vui vẻ thì bỏ rơi ta mà đi hưởng thụ một mình. Ngươi không thấy xấu hổ sao?”

Cao Ngạn ngây ngốc hỏi: “Vừa rồi có phải nàng nói yêu ta không?”

Doãn Thanh Nhã giận dỗi đáp: “Ta chỉ là cùng ngươi đi trinh sát chứ không đề cập gì đến chuyện yêu thương ngươi gì hết. Đừng có nghĩ linh tinh. Nói nhanh. Có đưa ta đi cùng hay không? Ta chỉ cần một câu trả lời rõ ràng.”

Cao Ngạn tận hết nỗ lực nói: “Hẵng còn một việc nữa. Hai ta lần này mạo hiểm mạng sống đi cùng nhau từ sáng đến tối, ăn cùng ngủ cùng. Mặc dù định lực của ta rất khá, nhưng không phải là thánh nhân. Huống chi thánh nhân cũng có lúc lầm lẫn. Ha ha! Nàng hiểu rồi chứ. Nếu như quả ta không khống chế được bản thân. Nhã nhi nàng chẳng phải chịu thiệt thòi lớn sao?”

Doãn Thanh Nhã trợn mắt, thở dài: “Kẻ xấu xuất chiêu quả làm người ta không muốn nghe. Ngươi không khống chế được cũng chẳng sao. Quan trọng nhất là ta có biện pháp khống chế ngươi. Còn lời nào để nói không?”

Cao Ngạn nghiêm mặt nói: “Điểm mấu chốt chính là ở đây. Nàng không được đánh ta, đả thương ta, nếu không sẽ ảnh hưởng đến năng lực bảo mệnh cầu sinh của ta, lại tuyệt không được chế ngự huyệt đạo của ta. Bởi vì thủ pháp điểm huyệt làm người ta thương tổn nguyên khí. Nguyên khí của ta bị tổn thương sẽ không thể thi triển ‘Mãnh quỷ vật cần phù’. Biên Hoang có rất nhiều du hồn dã quỷ ...”

Doãn Thanh Nhã ngắt lời gã: “Không được nói đến từ ‘quỷ’.”

Cao Ngạn trong lòng mừng thầm, tiếp tục nói: “Trong tình huống như vậy, nàng lại không thể dùng vũ lực phản kháng, khẳng định sẽ thất thân vào tay ta. Thật chẳng đáng. Nếu quả phát sinh chuyện đó ta biết ăn nói với sư phụ nàng thế nào?”

Doãn Thanh Nhã nét mặt tươi như hoa đáp: “Sư phụ sớm đã nghĩ là ta từng ngủ với ngươi rồi.”

Cao Ngạn trợn mắt há miệng nhìn nàng.

Doãn Thanh Nhã đỏ bừng mặt, sẵng giọng nói: “Tiểu tử chết toi. Có gì hay mà nhìn hả? Ngươi chẳng phải từng rêu rao chuyện cộng độ xuân tiêu gì đó hay sao? Sư phụ đương nhiên nghĩ mấy lời dối trá đó của ngươi là thật. Ta lại không thể giải thích loại chuyện này với người được. Được rồi. Tiểu tử chết bằm xấu xa, ta hỏi ngươi lần cuối, ngươi có đưa ta đi cùng hay không? Nếu quả ngươi nói không, ta lập tức ly khai Biên Hoang, vĩnh viễn không quay lại, cũng vĩnh viễn không thèm nhìn đến tên hỗn đản chỉ có hư danh như ngươi.”

Cao Ngạn hỏi: “Nàng quả không sợ bị ta chiếm tiện nghi sao?”

Doãn Thanh Nhã lơ đãng đáp: “Có thể chiếm được tiện nghi của ta, thì coi như bản lãnh của ngươi là giỏi.”

Cao Ngạn cuối cùng hai mắt sáng rỡ, xoa tay nói: “Được! Đồng ý thì đồng ý. Ta đánh canh bạc này. Thoả thuận xong.”

Doãn Thanh Nhã nhảy nhót nói: “Thế mới phải chứ. Bọn ta lập tức khởi hành.”

Cao Ngạn đã quyết định xong, cả người thần thái bay bổng, đấu chí ngang trời, hưng phấn nói: “Có đại tiểu thư nàng cùng ăn cùng ngủ, khổ sở lập tức biến lạc sự. Trước khi đến Tứ Thuỷ hãy đến sào huyệt bí mật của ta lấy trang bị đã. Đó toàn là những thứ ta phải mất nhiều năm tích luỹ. Hai ta đi nào.”

Kỷ Thiên Thiên mở mắt nhìn ra ngoài cửa sổ thốt khẽ: “Tuyết rơi rồi!”

Bên ngoài xe ngựa tuyết lất phất rơi.

Tiểu Thi ngồi bên cạnh nàng u buồn hỏi: “Tiểu thư! Tiểu thư đã khoẻ chưa?”

Xe ngựa theo đại đội đi trên quan đạo đến Huỳnh Dương, thi thoảng lại dừng lại ở các thành thị trên đường. Hiện tại toàn bộ đất đai Quan Đông đã lọt vào tay Mộ Dung Thuỳ nên họ không phải ẩn nấp đi đêm nữa.

Kỷ Thiên Thiên đưa tay vỗ nhẹ vào má ái tì cười đáp: “Đương nhiên là không sao. Ngủ một lúc là khoẻ như cũ ngay. Không cần lo lắng linh tinh.”

Tiểu Thi hai mắt ngân ngấn nước nói: “Tiểu thư tối qua hẵng còn khoẻ mạnh, vậy mà sáng nay bỗng nhiên bị ốm. Híc.”

Kỷ Thiên Thiên ôm lấy vai nàng, nhíu mày nói: “Đừng khóc. Ngoan nào.”

Tiểu Thi bi ai nói: “Chỉ tại em không tốt. Tiểu thư ngày đó nếu không để ý đến em, theo Yến công tử rời đi, thì hôm nay đã không phải chịu khổ.”

Kỷ Thiên Thiên miễn cưỡng phấn chấn tinh thần nói: “Sau này không được nói những lời đó nữa. Chúng ta là chị em tỉ muội chứ không phải chủ tỳ. Mọi người cùng đồng cam cộng khổ. Cuộc chiến này chúng ta tuyệt không thể thua. Ta cũng vĩnh viễn không chịu khuất phục trước thế lực tà ác. Sẽ có ngày chúng ta hồi phục tự do. Ngày lành đó chính là đang tới gần. Ta sẽ không buông tay đâu.”

Bên ngoài tuyết rơi càng lúc càng lớn.

Ba Lăng Thành.

Nhiếp Thiên Hoàn đứng sau cửa sổ, nhìn ánh sáng mặt trời lặn tắt dần ở vườn hoa. Trong lòng lão đang nghĩ ngợi về Doãn Thanh Nhã. Nha đầu này chắc đã đến Biên Hoang Tập rồi. Có Hồng Tử Xuân bảo hộ chắc sẽ không xẩy ra chuyện gì. Hy vọng nó hết giận rồi sẽ trở về nhà, ngàn vạn lần không dính líu gì đến tiểu tử Cao Ngạn đó.

Nghĩ tới Cao Ngạn lão lại bốc cơn nộ hoả.

Nghĩ lại cũng thấy buồn cười. Nhiếp Thiên Hoàn lão dậm chân có thể chấn động cả Đại Giang, vậy mà phải chịu thua một tiểu tử hoang nhân. Với tác phong vẫn dùng vũ lực giải quyết mọi việc của lão, chuyện này thật đã mang lại cho lão một cảm giác mới.

Tiểu tử đó sao có thể phúc lớn mệnh lớn như vậy? Lần lão thân tự xuất thủ có thể nói bị Yến Phi cản trở. Nhưng Hoàn Huyền phái Tiêu Nộn Ngọc đi cũng chẳng làm tiểu tử đó làm sao thật ra ngoài ý liệu của người ta. Nhưng cũng may tiểu tử đó không bị độc mà chết, nếu không lão phải đối diện Nhã nhi thế nào? Nghĩ đến đây lão cũng không khỏi toát mồ hôi lạnh.

Nhã nhi có phải thật sự đã yêu tiểu tử đó không?

“Có Nhậm tiểu thư tới.”

Nhiếp Thiên Hoàn gật đầu: “Mời nàng vào đây.” Lão chậm rãi quay người nhìn Nhậm Thanh Thị từ cánh cửa thư trai đang mở rộng tiến vào trong. Nàng ta đã gầy đi ít nhiều nhưng vẫn động lòng người.

Nhậm Thanh Thị đi thẳng đến trước mặt lão thi lễ: “Nhiếp bang chủ phúc an.”

Nhiếp Thiên Hoàn áp chế tình cảm do gặp nàng ta khởi lên, bình tĩnh nói: “Nhâm hậu gầy đi đấy. Trên đường chắc chịu khổ nhiều.”

Nhậm Thanh Thị không trực tiếp đáp lời mà khẽ giọng nói: “Can Quy thích sát Lưu Dụ ở Kiến Khang thất bại, ngược lại bị Lưu Dụ giết chết.”

Nhiếp Thiên Hoàn hai mắt tinh quang sáng rực, trầm giọng hỏi: “Không ngờ lại có chuyện đó. Hoàn Huyền phản ứng thế nào?”

Nhậm Thanh Thị môi khẽ xuất một vẻ khinh thường, thong dong đáp: “Hoàn Huyền lập tức trèo lên người quả phụ mới của Càn Quy.”

Nhiếp Thiên Hoàn hơi ngạc nhiên. Một lúc sau lão mới hỏi: “Sao nàng lại biết? Chuyện thất đức như vậy Hoàn Huyền phải tìm mọi cách giấu diếm chứ.”

Nhậm Thanh Thị đáp: “Là ta đoán ra. Trước tiên là Hoàn Huyền bỗng nhiên cải biến thái độ với ta, tuỳ tiện tìm một cớ bảo ta ly khai Giang Lăng. Sau đó là lần cuối khi hắn gặp ta, ta cảm thấy có người tránh ở đằng sau bình phong. Với sự tự phụ của Hoàn Huyền, căn bản không cần cao thủ nấp sau bảo vệ. Hà huống ta còn ngửi thấy mùi thơm của phấn thơm trên thân Hoàn Huyền. Người nấp sau bình phong đó khẳng định là Tiêu Nộn Ngọc. Hắn để Tiêu Nộn Ngọc chứng kiến lời hắn bảo ta ly khai để thể hiện rõ tâm ý của hắn với Tiêu Nộn Ngọc.”

Nhiếp Thiên Hoàn nhất thời nói không ra lời.

Nhậm Thanh Thị nghiêm mặt nói: “Nhiếp bang chủ đang rơi vào vị thế vô cùng bất lợi.”

Nhiếp Thiên Hoàn bực tức rủa: “Đúng là tiểu tử tâm lang cẩu phế.”

Nhậm Thanh Thị khẽ khàng nói: “Nhiếp bang chủ không phải hôm nay mới rõ Hoàn Huyền là dạng người nào sao. Quan hệ hiện tại của hai người Hoàn Huyền và Tiêu Tung nhờ có Tiêu Nộn Ngọc mà tiến thêm bước nữa. Nhiếp bang chủ lại biến thành người ngoài. Nhiếp bang chủ tính toán thế nào?”

Nhiếp Thiên Hoàn hồi phục sự bình tĩnh, cười đáp: “Ta có thể tính toán thế nào đây? Ngày nào chưa chiếm được Kiến Khang, ngày đó Hoàn Huyền tuyệt không dám động vào ta. Ngay từ ban đầu mọi người đều biết rõ đây là quan hệ tương hỗ lợi dụng lẫn nhau mà thôi. Có giở thủ đoạn gì cũng không ai oán trách cả.”

Nhậm Thanh Thị hỏi: “Hoàn Huyền nếu lấy được Kiến Khang thì sẽ thế nào?”

Nhiếp Thiên Hoàn đáp: “Khi đó phải xem hình thế các bên phát triển thế nào. Kiến Khang có thể không phải là điểm kết, mà là điểm bắt đầu.”

Nhậm Thanh Thị nói: “Hình thế các bên phát triển thế nào có phải ý nói tới Biên Hoang tập, Bắc Phủ binh và Thiên Sư quân hay không? Thứ cho ta nhắc nhở bang chủ, ta từng đại biểu cho Hoàn Huyền đi mật hội với Lưu Lao Chi. Lưu Lao Chi tuyệt không phải là kẻ không bị dao động”

Nhiếp Thiên Hoàn ngạc nhiên: “Lưu Lao Chi?”

Nhậm Thanh Thị đáp: “Nếu Lưu Lao Chi lại đầu phục Hoàn Huyền lần nữa. Giá trị lợi dụng của bang chủ sẽ giảm xuống. Cần phải cẩn thận, ‘thỏ chết, chó săn cũng hết đời’ câu nói này ngàn đời vẫn có lý.”

Nhiếp Thiên Hoàn nở một nụ cười cao thâm khó lường, thoải mái đáp: “Ta tuyệt không phải là chó săn của Hoàn Huyền. Nếu hắn nghĩ như vậy, sẽ phát giác mình đã tính sai cực lớn.”

Nhậm Thanh Thị nói: “Bang chủ nắm chắc như vậy. Thanh Thị không cần phải nói nhiều nữa.”

Nhiếp Thiên Hoàn ưu tư một hồi rồi hỏi: “Nhâm hậu có dự định gì không?”

Nhậm Thanh Thị đáp: “Nếu bang chủ không phiền, ta định tìm một địa phương thanh tĩnh ở Động Đình hồ, nghỉ ngơi một đoạn thời gian. Thanh Thị thật đã quá mệt mỏi.”Lưu Dụ và Tống Bi Phong sau khi trời tối liền lên một chiếc thuyền hàng của Khổng lão đại vốn vẫn hay đi Quảng Lăng và Kiến Khang rồi thuận dòng đi tới Quảng Lăng. Đồ Phụng Tam đã đi trước một bước trên chiếc thuyền ban đầu đã chở lão tới Kiến Khang, cùng với hơn mười thủ hạ lâu năm.

Khoái Ân lưu lại Kiến Khang một mặt vừa để thao luyện bộ đội Hoang nhân cho thuần thục, một đằng sẵn sàng đợi lệnh đi tới tiền tuyến tham gia vào chiến tranh.

Trong tình huống bình thường, Tư Mã Đạo Tử tuyệt không chịu tiếp thụ sự giúp đỡ từ bên ngoài thế này. Nhưng hiện giờ là thời khắc liên quan đến sinh tử tồn vong của Tấn thất, hơn nữa nhân số bộ đội Hoang nhân không quá hai nghìn, Lưu Dụ trước mắt chỉ có thể duy nhất kiềm chế tướng lĩnh Bắc Phủ binh của Lưu Lao Chi vì vậy Tư Mã Đạo Tử mới đồng ý.

Khoái Ân do Tư Mã Nguyên Hiển thân tự chiếu cố. Vương Hoằng ở bên phụ trợ. Đội ngũ Hoang nhân tử đệ binh này trên danh nghĩa ở trong biên chế của Nhac Chúc quân nhằm che mắt mọi người. Sự thật bọn họ do Khoái Ân trực tiếp chỉ huy. Tư Mã Nguyên Hiển cũng phải thông qua Khoái Ân để phát lệnh.

Lưu Dụ đứng ở mũi thuyền. Từng trận gió lạnh trên Đại Giang làm y phục gã tung bay. Trong lòng gã tràn đầy đủ loại tâm trạng.

Sau bao lần sướng khổ, gã cuối cùng đã vượt hẳn lên một đoạn, chính thức triển khai kế hoạch chiến tranh của gã ở phương Nam. Có thể tưởng tượng từ giờ trở đi, gã sẽ không bỏ lỡ cơ hội này, hết sức phấn đấu cho đến khi đánh bại địch nhân và những kẻ chống lại.

Kiến Khang đã bị bỏ lại đằng sau, như bỏ qua những giấc mộng trong quá khứ của gã. Nhưng gã đã tỉnh khỏi giấc mộng Kiến Khang chưa? Bất quá dù có thế nào, tòa thành này chính là nơi đã làm gã đau khổ thương xót tận cùng. Chính ở nơi đây gã đã gặp Vương Đạm Chân, bắt đầu một tình yêu với kết cục thê lương. Cũng là tối qua gã lại nhận một thất bại trong cuộc chiến Phì Thuỷ trên tình trường này, bị khuất nhục và nhận rõ ranh giới cách biệt không thể vượt qua giữa hàn môn và cao môn. Càng minh bạch tình cảm trân quý mà Đạm Chân đã dành cho mình, gã càng cảm thấy tan nát cõi lòng. Vì vậy gã luôn nhớ tới Đạm Chân và không quên nỗi hận cao môn hàn môn này.

Từ một thám tử vô danh của Bắc Phủ binh đến địa vị quyền thế hiện tại, gã đã trải qua vô số kiếp nạn luân hồi. Hiện tại gã đã xác định mục tiêu quân sự rõ ràng. Con đường trước mặt phải đi hiện ra chi tiết trước mắt gã, không còn phải cứ gặp thành thì vượt thành giống như cầu tồn giữa những làn sóng hung dữ trên biển khơi, không hề biết rõ phương hướng ở đâu nữa.

Đồ Phụng Tam đã phác hoạ một kế hoạch tác chiến tổng thể.

Trước tiên bọn họ phải chiếm lĩnh lại Hải Diêm đã bị rơi vào trong tay Thiên Sư quân, kiến lập nó thành một cứ điểm ở tiền tuyến có thể công và thủ, sau đó mới có thể triển khai đại kế đối phó với chúng.

Lưu Dụ quay đầu nhìn lại Kiến Khang vẫn ẩn hiện sau những ánh đèn hai bên bờ Đại Giang.

Gã hít vào một hơi dài, thầm nghĩ nếu có ngày gã có thể quay về Kiến Khang, Thiên Sư Quân lúc đó đã bị đánh bại hoàn toàn. Còn cuộc chiến giữa gã và Hoàn Huyền sẽ toàn diện được triển khai.

Nhưng gã có thể thật sự trở về để chứng tỏ với mọi người gã đúng là chân mệnh thiên tử như dao ngôn vẫn nói hay không? Trong lòng gã cảm giác trào dâng cuồn cuộn.

Từ lúc Đạm Chân uống thuốc độc tự tử, gã hiểu rằng mình không còn lựa chọn nào khác, cũng không có đường lùi, chỉ có cái chết mới làm gã dừng lại.

Ở một sơn cốc kín đáo cách Biên Hoang tập ba mươi dặm phía tây bắc.

“Hành cung số một” của Cao Ngạn ở một tiểu thôn bỏ hoang trong mưa tuyết đầy trời thế này tựa như nhập thành một thể với thiên địa, biến mất vô ảnh vô tung.

Trong khu rừng sau hoang thôn có một phòng xá đã được tu bổ cách thôn gần một nghìn bước chân. Kể cả địch nhân tới thôn tìm kiếm, trừ phi soi từng tấc trong cốc, nếu không cũng phải bỏ qua không tìm ra được chỗ này.

Nếu hành cung này không kín đáo như vậy thì đã không có tư cách là “Hành cung số một” của Cao Ngạn. Căn phòng này là trạm dừng chân đệ nhất của Cao Ngạn ở Biên Hoang. Trên đường gã đã thi triển các loại thủ đoạn nhằm làm cho địch nhân truy đuổi theo lạc dấu rồi sau đó mới đi tới nơi này.

Dưới “Hành cung số một” có một cái kho ngầm chứa các loại trang bị và công cụ của Cao Ngạn. Toàn là các pháp bảo giúp Cao Ngạn thành danh trở thành thủ tịch phong môi ở Biên Hoang. Ngoài tiểu Kiệt ra, không còn thủ hạ nào của Cao Ngạn biết có một chỗ thế này.

Lúc này dưới ánh đèn Cao Ngạn chính là đang lôi các công cụ trong kho lên sắp xếp ngăn nắp đặt trên một phiến đá trong phòng.

Chiếc đèn này cũng là loại đặc chế, bên trên có chup đèn, chỉ chiếu sáng xuống dưới mà thôi. Ánh đèn không hề bị toả ra khỏi phòng có thể gây ra sự chú ý của người khác.

Doãn Thanh Nhã bỏ giầy xuống ngồi bó chân trên giường. Trường kiếm để cạnh người, nàng vô cùng hào hứng ngắm Cao Ngạn đang bận rộn làm việc.

Cao Ngạn trong lòng cao hứng giơ lên hai chiếc áo bông đắc ý nói: “Xem ra ta có tài tiên tri. Bách bảo bào cũng chuẩn bị hai cái này. Đừng nghĩ đây chỉ là một cái áo ấm bình thường. Đây là chiếc áo ta phải chi khối tiền thỉnh người ở Biên Hoang chế ra. Chất bông nhẹ mà vẫn đủ ấm, không sợ gió tuyết, đặc biệt nhất là có thể đổi màu, lộn một cái thành màu trắng hoàn toàn. Thiết nghĩ từ đầu đến chân trong áo trắng xoá thế này có thể ẩn thân rất tốt trên nền tuyết. Trong áo còn có hơn mười túi lớn túi nhỏ có thể dùng để chứa các loại pháp bảo hữu dụng nữa.”

Cuối cùng gã liếc nhìn nàng một cái cười hỏi: “Nhã nhi đang buồn chán hả? Đợi ta sửa soạn hai đôi “Tuyết Tường Phi Ngoa”* của bọn ta xong sẽ đến kể chuyện giải sầu cho nàng.”

Doãn Thanh Nhã ngồi bó gối, hai tay ôm bắp chân, cất giọng gọi nhỏ: “Cao Ngạn! Cao Ngạn!”

Cao Ngạn bị nàng gọi làm cho mềm lòng, ngừng việc đang làm ngẩng lên dịu dàng hỏi: “Có chuyện gì vậy?”

Doãn Thanh Nhã hỏi: “Ngươi có biết vì sao ta biết là nguy hiểm vẫn cứ theo ngươi đi Biên Hoang làm nhiệm vụ không?”

Cao Ngạn thầm nghĩ đương nhiên vì nàng yêu ta, không thể rời xa lão tử này nên mới làm vậy chứ. Nghĩ thì nghĩ vậy nhưng gã không dám nói ra sợ nàng giận thì hỏng không khí khó mà có được lúc này.

Gã vui vẻ nói: “Điều này cũng cần phải lý do sao? Chẳng phải có những chuyện không cần phải nói ra sao? Ví như nàng tìm ta, ta đưa nàng theo. Ha ha! Nói đi! Nhưng không được nói nhảm, ta hiện tại không chịu được sự kích thích như vậy đâu. Lần này đã thật quá kích thích, ta đã tiến cận đến biên giới chịu đựng rồi.”

Doãn Thanh Nhã cười phì một tiếng lườm gã một cái tựa như dùng nhãn thần mà nói câu “Xú tiểu tử ngươi đến chết vẫn không chừa” rồi mới nói: “Ngươi muốn nghe lời thật, ta sẽ mang lời thật ra nói cho ngươi nghe. Nguyên nhân rất đơn giản. Đó là do kiếm pháp của ta đã tinh tiến rất lớn, đặc biệt trong một thời gian ngắn đã tiến bộ một cách thần kỳ.”

Cao Ngạn ngạc nhiên nhất thời không hiểu ý tứ đằng sau câu Doãn Thanh Nhã nói vừa rồi, hoang mang gật gật đầu không biết nói gì.

Doãn Thanh Nhã nói tiếp: “Sư phụ đích xác có nhãn quang. Người nói về phương diện này ta thật sự có thiên phú. Vấn đề duy nhất là thiếu kinh nghiệm lịch duyệt và thật chiến, vì vậy người mới để ta nhiều lần đi cùng với Hác đại ca ra ngoài, cũng vì vậy mới gặp tiểu tử ngươi.”

Cao Ngạn vẫn chưa nắm được động cơ sau lời nàng nói, chỉ còn cách hùa theo lời nàng: “Nhã nhi của ta đương nhiên không phải người tầm thường rồi.”

Doãn Thanh Nhã cười: “Cái gì mà của ta của ngươi chứ. Ngươi thích nói gì thì nói nhưng đừng tưởng bở ta cũng nghĩ như vậy. Trở lại chủ đề chính. Ngày đó ở Biên Hoang bị Sở Vô Hạ truy đuổi gần trăm dặm làm ta không phục, vì vậy khi quay về Lưỡng Hồ bèn chuyên chú luyện công. Từ lúc trở về Lưỡng Hồ hàng ngày ta đều tìm người luyện tập nhằm từ thực chiến tìm ra yếu quyết rồi quán thông rõ ràng. Hiện tại nếu gặp lại Yến Phi, hắn vẫn muốn bắt sống ta hả? Đợi kiếp sau nhé.”

Cao Ngạn nghe vậy bỗng thấy hồ đồ bèn hỏi: “Nàng tìm ai luyện kiếm?”

Cao Ngạn thầm nghĩ không lạ khi công phu của nàng lại giỏi như vậy. Nguyên lai là do vị cao thủ phương Nam, đứng thứ hai “Ngoại cửu phẩm cao thủ” Nhiếp Thiên Hoàn tự thân dạy dỗ.

Đôi môi Doãn Thanh Nhã bỗng lộ ra nét cười cố nhẫn nhịn, lại làm cho nụ cười có vẻ giảo hoạt, tiếp tục nói: “Căn cơ của người ta tuy là do sư phụ truyền thụ, nhưng bất luận là tâm pháp hay chiêu thức đều ngược hoàn toàn với sư phụ. Bởi vì sư phụ lấy một bảo điển kiếm thuật “Tố Thân kiếm kinh” truyền lại cho người ta. Vì vậy kiếm thuật của ta mới có cái tên là ‘Tố Nữ’.”

Cao Ngạn không nhịn được hỏi: “Nhã nhi sao tự nhiên lại đề cập đến chuyện này? Chuyện đó thì liên quan gì đến lời nàng bảo đi cùng với ta vừa rồi?”

Doãn Thanh Nhã không kìm được cười nói: “Đương nhiên là có quan hệ rất lớn! Ta mới đạt được cảnh giới sơ thành như ‘Tố Nữ kiếm kinh’ miêu tả, vậy mà kiếm pháp đã đại tiến. Khi gặp lại Sở Vô Hạ không phải không có hy vọng chiến thắng, nếu không đã không chống được một côn toàn lực của tên gia hoả Hướng Vũ Điền đó, không cứu được tiểu tử ngươi rồi.”

Cao Ngạn gật đầu: “Nghĩ lại tình huống lúc đó, Nhã nhi đích xác lợi hại hơn trước rất nhiều.”

Doãn Thanh Nhã cười lớn đắc ý nói: “Vì vậy ta mới đi theo ngươi bởi vì ta có năng lực bảo hộ cho tiểu tử ngươi, đồng thời cũng tìm cơ hội để luyện tập luôn.”

Cao Ngạn mơ hồ gật đầu: “Tuyệt! Tuyệt!”

Doãn Thanh Nhã lại phì cười một tiếng, lườm hắn nói tiếp: “Nghĩa của chữ ’Tố Nữ kiếm kinh’ chính là phải giữ được thân thể xử nữ thì mới tập luyện được, nếu mà bị thất thân công lực sẽ đột ngột giảm mạnh, lại còn mắc bệnh. Tiểu tử chết bầm, đã hiểu chưa?”

Cao Ngạn cuối cùng đã hiểu rõ, ngây ngốc nhìn nàng, một hồi lâu mới khó nhọc hỏi: “Nàng đang nói đùa, đúng không? Căn bản là không có cái chuyện ‘Tố Nữ kiếm kinh’ đó.”

Doãn Thanh Nhã đắc ý đáp: “Ai thèm nói đùa ngươi? Bổn cô nương mà lại thừa hơi vậy sao. Để ta cảnh cáo ngươi, ngàn vạn lần không được có lòng đen tối với ta. Nếu ta ở phương diện đó bị mất mát, ta chẳng những không còn có thể bảo hộ cho ngươi, mà còn trở thành gánh nặng của ngươi. Khi đó ngươi không những không hoàn thành nhiệm vụ mà bọn ta cũng xong mệnh.”

Cao Ngạn la lớn: “Điều này là không thể. Nàng nói dối ta. Mau nói là nàng dối ta đi.”

Doãn Thanh Nhã đưa tay ra hiệu im lặng rồi mắng: “Không la lối ầm ỹ có được không? Định dẫn dụ Bí nhân tới đây hả? Nhân tiện nói thêm với ngươi. Ngươi tuyệt đối không được động thủ động cước với người ta, thi thoảng lại ôm ôm ấp ấp như vậy. Điều đó ảnh hưởng tới Tố nNữ tâm pháp của bổn cô nương. Đã rõ chưa?”

Nói xong không nhịn được cười. Bộ dạng đó nếu nói là dụ hoặc thì đúng là tràn ngập sự dụ hoặc.

Cao Ngạn ngây ngốc nhìn nàng, sau đó nghiến răng nghiến lợi nhưng cũng không có cách nào.

Doãn Thanh Nhã men tới một bên giường, đặt thanh kiếm xuống giữa giường nói: “Kiếm này chính là biên giới Hán Sở giữa chúng ta, muốn bảo trì hoà bình thì không được bước qua nửa bước. Người ta đặc biệt khai ân với ngươi, đồng ý ngủ cùng một giường với ngươi.”

Cao Ngạn không nói ra được nửa lời.

Vương Trấn Ác ly khai tổng đàn của Đại Giang bang, theo Đông đại nhai đi tới Dạ Oa Tử nhằm rủ Lưu Mục Chi ở Thuyết Thư quán đi ăn tối.

Hắn cảm giác như đi từ chỗ tối sang chỗ sáng, vào một thế giới hoàn toàn mới. Trên đường ngập tràn Hoang nhân và đoàn khách Biên Hoang du. Ở đây con người có thể quên hết mọi chuyện phát sinh bên ngoài.

Vương Trấn Ác tuyệt không thích cảm giác này. Nó dẫn tới cảm giác mộng mị mê say huỷ hoại, không hợp với tính nết của hắn. Từ rất bé hắn đã luyện được tập quán kỷ luật, trái lại hắn khá phóng túng trên chiến trường. Vì vậy hắn nhất mực tin rằng mình là nhân tài trong chiến đấu, điều đó làm hắn cảm thấy thoải mái, không hề lo lắng trên chiến trường. Hắn tuyệt không hề sợ phải chính diện giao phong với Mộ Dung Thuỳ trên chiến trường, kể cả khi Mộ Dung Thuỳ được coi là thống soái xuất sắc nhất sau Vương Mãnh. Hắn thậm chí còn khát khao đợi cơ hội này để chứng minh rằng cháu nội của Vương Mãnh không hề kém một kẻ nào.

Nghĩ đến đây bỗng nhiên hắn nhận ra ở quảng trường Cổ Chung lâu, trong ánh đèn đuốc huy hoàng, trong gió tuyết rơi đó không hề làm ảnh hưởng tới mọi người tới đó tìm vui.

Hàng vạn Hoang nhân, chen vai thích cánh trong các quán hàng đủ loại, tận tình nhìn ngó, tận tình cười nói, tận tình hưởng thủ cuộc sống.

Vương Trấn Ác thầm nghĩ Biên Hoang tập đúng là một địa phương kỳ dị trong mộng ảo. Mỗi lần tiếp nhập quảng trường Cổ Chung lâu, hắn đều xuất hiện ý nghĩ này trong đầu. Bởi vì trước đây dù trong mộng hắn cũng không tưởng trên đời có một chỗ như thế này.

Cổ Chung lâu cao vút đứng ngạo nghễ ở giữa, tựa như không hề biết đến việc phát sinh xung quanh mình, cô ngạo bất quần. Ai ngờ được mới đây không lâu toà kiến trúc này đã quyết định đến sự thắng bại của một cuộc chiến kịch liệt.

Vương Trấn Ác giật mình dừng lại, mục quang chăm chú nhìn vào sau lưng của một người.

Người này đầu đội mũ trúc, thân phủ áo khoác màu vàng. So với mọi người mặc đầy áo xung quanh, trang phục của hắn thật đạm bạc, nhưng không hề tỏ ra chút yếu thế nào bởi vì hắn so với người bình thường cao hơn cả cái đầu. Tuy đứng ở hàng cuối chen chân ở một gánh kịch nhưng hắn nhìn vẫn rất rõ ràng, không ngừng vỗ tay hoan hô, tựa như một đứa trẻ lớn nghịch ngợm vậy.

Vương Trấn Ác đề tụ công lực chậm rãi tiếp cận.

Đúng lúc Vương Trấn Ác cách hắn nửa trượng song chưởng định xuất ra án lên lưng kẻ đó thì hắn tựa như sau lưng có mắt nhanh chóng quay người, cười nhẹ: “Xin chào Vương huynh.”

Quả nhiên là Bí nhân Hướng Vũ Điền.

Vương Trấn Ác thầm tiếc mất cơ hội từ sau lưng tập kích, định nói to tên của y lên hy vọng huynh đệ tỉ muội Dạ Oa tộc xung quanh biết mà chạy đi báo tin.

Hướng Vũ Điền đi một bước nói trước: “Vương huynh tốt nhất không nên đề cập đến danh tự bản nhân, nếu không ta sẽ toàn lực xuất thủ kích sát Vương huynh sau đó bỏ trốn. Vương huynh ngàn vạn lần đừng có thử. Ta nói có sai không?”

Vương Trấn Ác cảm thấy bản thân ở thế hạ phong. Ngay cả việc Hướng Vũ Điền cố tình sắp mưu đợi hắn ở đây hay chỉ là vô tình gặp hắn cũng không nắm chắc. Bất quá có một việc Vương Trấn Ác có thể khẳng định. Nếu chọc giận Hướng Vũ Điền, người này tuyệt đối có năng lực làm loạn cả Dạ Oa Tử này lên. Điều đó với Biên Hoang tập chỉ có hại mà vô lợi.

Phân tích lợi hại xong, Vương Trấn Ác bỏ ý định xuất thủ trong đầu, nhíu mày hỏi: “Hướng huynh đến Dạ Oa Tử có mục đích gì vậy?”

Hướng Vũ Điền thấy người chen vào không ngớt giữa hai người, nói chuyện bất tiện bèn đề nghị: “Bọn ta ra chỗ khác nói chuyện được không? Ha ha! Tìm một chỗ vừa uống vừa nói được không? Không cần phải sợ. Ta tuyệt đối tôn trọng luật không được động thủ của Dạ Oa Tử, chỉ tìm vui mà thôi. Lời ta nói chưa từng không giữ.”

Nói xong y bước về hướng Cổ Chung lâu trước tiên. Vương Trấn Ác không còn lựa chọn nào khác, cũng không muốn lạc mất y chỉ còn cách bước nhanh lên vai kề vai với y. Cảm giác thật vô cùng cổ quái.

Hướng Vũ Điền liếc hắn một cái cười nói: “Nếu quả như ta vừa rồi không quay lại, Vương huynh có thật sẽ thu thập ta không?”

Vương Trấn Ác ra vẻ đương nhiên đáp: “Hiện tại quý tộc và Hoang nhân đang toàn diện triển khai đấu tranh, không phải là đấu tranh kiểu giang hồ. Hướng huynh có nghĩ là ta vẫn phải tuân theo quy củ giang hồ hay không?”

Hướng Vũ Điền cười dài đáp: “Vương huynh thật thẳng thắn. Bất quá nếu Vương huynh là Yến Phi, huynh có tấn công ta từ sau lưng không? Không! Đúng không? Bởi vì Yến Phi tự tin có thể đánh bại ta trong tình huống mặt đối mặt. Sự thật có như vậy hay không đương nhiên phải quá chiêu mới biết được. Từ điểm này có thể lấy lần thất bại của Vương huynh lần trước đã làm ảnh hưởng đến Vương huynh.”

Vương Trấn Ác không vui hỏi: “Hướng huynh có phải đến để sỉ nhục ta không?”

Hướng Vũ Điền cười đáp: “Ta tuyệt không có ý đó. Chỉ là ta có tập quán tìm hiểu người ta, tìm cách nắm được bản chất của người khác. Thật ra tuy ta với Vương huynh là quan hệ giữa địch và địch nhưng ta rất có hảo cảm với Vương huynh. Bởi vì người có đảm sắc như Vương huynh trên đời này có rất ít.”

Vương Trấn Ác cảm thấy hơi vui vẻ trở lại. Lúc này Hướng Vũ Điền đã đi qua Chung Lâu, bước về hướng Tiểu Kiến Khang, lại còn rất hứng thú nhìn lên tầng thượng Cổ Chung lâu.

Vương Trấn Ác hỏi: “Hướng huynh đến Biên Hoang tập không phải là vì tìm nhiệt náo ở Dạ Oa Tử chứ?”

Hướng Vũ Điền vui vẻ đáp: “Vương huynh lần này sai rồi. Ta thật sự là đến để tìm vui. Bí nhân bọn ta mỗi năm bốn quý, mỗi quý có một tiết cuồng hoan để cuồng ca nhảy mua cả đêm. Người người ai cũng bỏ hết quần áo bó buộc ngày thường hoà mình vào tiết cuồng hoan. Hôm nay chính là ngày tiết cuồng hoan của mùa thu. Ta đã quen với tập quán này! Vào đúng thời điểm là sự yêu thích ca hát trong lòng phát ra, không tự chủ được mà lại xâm nhập vào Tập. Vì vậy huynh phải tin ta, hôm nay ta không gây sự gì đâu. Khó mà tìm được người như Vương huynh thế này bầu bạn cho ta đỡ nỗi nhớ nhà. Ta lại dám đắc tội với huynh sao?”

Vương Trấn Ác nghe hắn trả lời vậy càng không hiểu Hướng Vũ Điền là dạng người thế nào.

Hướng Vũ Điền lại cười nói: “Nói ta nghe, ta đã giết một Hoang nhân nào chưa?”

Vương Trấn Ác ngạc nhiên, lắc đầu đáp: “Ở phương diện này Hướng huynh đúng là vô cùng khắc chế. Bất quá nếu như Hướng huynh thành công giết được Cao Ngạn, Cao Ngạn đó sẽ là Hoang nhân đầu tiên chết bởi tay Hướng huynh.”

Hướng Vũ Điền cười: “Nếu Cao Ngạn quả không phải là thành phần quan trọng trong cuộc đấu tranh này, ta có thể hạ độc thủ với hắn sao? Ài! Thật hy vọng chuyện này sớm kết thúc, để ta sớm lấy lại tự do.”

Vương Trấn Ác ngạc nhiên hỏi: “Hướng huynh không ngờ lại sợ giết người sao? Hôm đó huynh để ta đi có phải cũng vì lý do này.”

Hướng Vũ Điền trầm ngâm đáp: “Ta không nghĩ là do nguyên nhân đó. Nếu quả ta có thể giết Vương huynh ta sẽ không do dự vì chuyện đó mà không ra tay. Người khác không biết bản lĩnh trên chiến trường của Vương huynh, nhưng Hướng Vũ Điền ta lại không biết sao? Đến rồi! Ha ha! Thật nhiệt nào, bọn ta vào trong nâng chén nói chuyện nhé?”

Hướng Vũ Điền mở cánh cửa quán rượu đưa tay mời.

Chỗ này ở ven bìa Dạ Oa Tử, vượt qua cả Tiểu Kiến Khang. Vương Trấn Ác chỉ còn cách đồng ý, cùng tiến vào quán rượu với y.

Chú thích

* Tuyết Tường Phi Ngoa: Giày trượt tuyết.Trong một quán rượu ồn ào, hai người ngồi xuống đối diện với nhau ở một bàn nhỏ trong góc. Rượu qua ba tuần, Hướng Vũ Điền cười “Thật muốn ca lớn một khúc. Hà! Tối nay thực là tốt! Tối nay ta cao hứng phi thường.”

Trong lòng Vương Trấn Ác chợt động, thầm nghĩ xảo diệu hôm nay đúng vào ngày tiết cuồng hoan của Bí tộc. Lúc này, Hướng Vũ Điền đang ở trong trạng thái bình thường, nói không chừng có thể tìm hiểu được một số bí mật từ y. Hắn mời thêm một chén rồi nói: “Hướng huynh vì sao không dễ dàng động thủ sát nhân thế? Chừng như trái ngược với tác phong hung hãn thường thấy của Bí tộc.”

Hướng Vũ Điền than: “Việc này nói ra thì dài lắm, một lời không thể nói hết. Vương huynh có cách nào kiếm được một vò Tuyết Giản Hương không? Nghe nói đó là đệ nhất danh tửu của Biên Hoang. Nhưng giờ uống Nữ nhi hồng* cũng được rồi.”

Vương Trấn Ác đáp: “Nếu như Hướng huynh khẳng khái lập tức đình chỉ can qua thì ta có thể làm được.”

Hướng Vũ Điền cười khổ: “Công là công, tư là tư. Đề nghị của ngươi rất không thực tế. Biên Hoang tập không hề có tương lai, Thác Bạt Khuê càng không có hy vọng. Vương huynh nếu là người thức thời vụ thì nên lập tức rời xa Biên Hoang tập, đến địa phương nào cũng được, còn hơn ngồi đây chờ chết.”

Vương Trấn Ác cười nhẹ: “Chỉ cần chết một cách oanh liệt thì dù có chết cũng cam lòng.”

Hai mắt Hướng Vũ Điền sáng bừng lên, cầm hồ rượu rót cho hắn và tự rót cho mình, rồi nâng chén nói: “Cách nhìn của Vương huynh đối với cái chết hoàn toàn không khác gì ta. Nhưng ta vẫn bội phục sự rộng rãi của Vương huynh đã nhìn thấu cả sinh tử. Nào! Chúng ta lại làm chén nữa. Tối nay không say không về.”

Hai người lại cạn một chén.

Vương Trấn Ác nói: “Hướng huynh hiểu rất rõ tình hình Biên Hoang tập của bọn ta, không ngờ lại biết cả Tuyết Giản Hương nữa.”

Hướng Vũ Điền thản nhiên nói: “Nhận thức của ta đối với Biên Hoang tập đại bộ phận là từ người Yên. Như tên gia hoả Cao Ngạn đó, nếu như người Yên không năm lần bảy lượt nhấn mạnh tác dụng của hắn trong cuộc chiến này thì dù có đánh chết ta ta cũng không tin hắn có thể ảnh hưởng đến kết quả cuộc chiến.”

Vương Trấn Ác không nhịn được hỏi: “Bằng vào thân thủ Hướng huynh, lần trước ở Trấn Hoang cương đã có cơ hội đắc thủ rồi, tại sao lại dễ dàng bỏ qua thế?”

Hướng Vũ Điền lắc đầu đáp: “Bảo ta làm sao giải thích đây? Việc của ta, Vương huynh rất khó hiểu được. Có thể nói vì mục tiêu lớn hơn, xa hơn nên ta phải giới sát. Đương nhiên càng không thể lạm sát, nếu không, được không bằng mất.”

Vương Trấn Ác không hiểu hỏi: “Câu này của Hướng huynh thực làm người ta khó hiểu. Theo như ta thấy, Hướng huynh là người không sợ trời, không sợ đất, thích gì làm nấy, không hề có cố kỵ gì mới phải.”

Hướng Vũ Điền gật đầu: “Ngươi nhìn đúng lắm. Chỉ là không hiểu tình hình của ta, mà ta rất khó giải thích. Nói ra rồi cũng sợ rằng ngươi sẽ không tin.”

Y lại cười khổ: “Không ngại nói cho ngươi biết, lần này ta có một bản Danh sách giết người. Danh sách chỉ giới hạn trong ba người. Từ lập trường của ta mà nói thì ba người này là những người cần phải giết nhất của Biên Hoang tập.”

Vương Trấn Ác ngạc nhiên thốt: “Danh sách giết người? Ta có phải là một trong số đó không?”

Hướng Vũ Điền cười đáp: “Có thể có, mà cũng có thể không. Chỉ có hai người là do người Yên chỉ định, người cuối cùng là do ta chọn lựa để cho vào Danh sách ám sát của ta. Chỉ cần làm thịt được ba người này là ta có thể không còn nợ nần gì với bản tộc nữa. Từ đó có thể thoát ly Bí tộc, chuyển sang cuộc sống tự do tự tại.”

Vương Trấn Ác hỏi: “Một người là Cao Ngạn, còn người kia là ai?”

Hướng Vũ Điền cười nhẹ: “Với tài trí của Vương huynh thì làm sao mà không đoán ra được?”

Vương Trấn Ác giật mình thốt: “Yến Phi!”

Hướng Vũ Điền vui vẻ nói: “Kể cả người Yên không hề chỉ định ta nhất định phải giết chết Yến Phi nhưng Hướng Vũ Điền ta sẽ không tha cho hắn. Đối thủ như thế, dễ tìm được ư?”

Vương Trấn Ác thầm nghĩ nếu Hướng Vũ Điền quả có thể giết Yến Phi thì Biên Hoang tập khẳng định không đánh cũng tan mà Hướng Vũ Điền cũng không phụ sự uỷ thác của Mộ Dung Thuỳ.

Hướng Vũ Điền hứng thú hỏi: “Vương huynh gặp qua Yến Phi chưa? Úc! Ngươi đương nhiên là gặp rồi, nếu không sẽ không cho hắn là kình địch của ta. Hắn rốt cuộc là người thế nào?”

Vương Trấn Ác ngây người một lát nói: “Ta thật không biết trả lời ngươi vấn đề này như thế nào. Tuyệt không phải vì ta cố ý giấu giếm cho hắn, mà là không biết miêu tả hắn như nào cho sát thực tế. Hắn là một người rất đặc biệt, nói tóm lại là hoàn toàn khác biệt với những cao thủ Hoang nhân khác. Nhưng chỗ khác thế nào thì ta không nói ra được. Ta tự thấy mình có năng lực nhìn người, những người khác khi ta đã lưu tâm thì sẽ hiểu người đó cao thấp mạnh yếu thế nào. Nhưng đối với Yến Phi ta không có cách nào nắm bắt được, có chút giống như tình hình khi gặp Hướng huynh.”

Hướng Vũ Điền song mục thần quang loé lên một cái, gật đầu nói: “Đó là cao thâm mạt trắc. Xem ra Yến Phi đã đạt tới cảnh giới thiên đạo rồi, không lạ sao hắn lại có tư cách chém chết Trúc Pháp Khánh đã luyện thành 'Thập Trụ Đại Thừa Công'. Hà! Ta hận không thể lập tức gặp hắn.”

Vương Trấn Ác hỏi: “Hướng huynh rốt cuộc là người thế nào?”

Hướng Vũ Điền xoè tay ra nói: “Ta rốt cuộc là người thế nào ư? Nếu như ngươi có thể cho ta một đáp án mỹ mãn thì ta sẽ thành thật trả lời. Con người ta rất khó hiểu rõ bản thân mình, một mặt vì đã hiểu về mình quá sâu sắc, hoặc là không muốn thành thực đối diện với chính mình. Nói chung là không ai có thể trả lời vấn đề này. Mà dù có nói ra thì thường đã có chút tô vẽ hoặc trang sức thêm, vì từ đầu ngươi đã vĩnh viễn không muốn cho người ta hiểu rõ về mình đúng không?”

Vương Trấn Ác không nói được gì.

Hướng Vũ Điền cười nhẹ: “Vương huynh có hứng thú như thế đối với ta, không phải vì ta là bằng hữu. Mà là vì ta là địch nhân nên mới dùng hết cách để hiểu hư thực của ta, rồi thiết kế đối phó ta. Nói cho ngươi biết! Hoang nhân các ngươi lần này tuyệt không còn may mắn gì nữa. Hiện giờ, con đường đi tới Tái Bắc đã bị gió tuyết phong toả, thuỷ đạo bắc thượng của các ngươi lại bị người Yên cắt đứt, mà Thác Bạt Khuê lại rơi vào một cuộc khổ chiến không có hy vọng. Khi mùa xuân trăm hoa đua nở năm tới đến thì hắn sẽ xong đời. Hoang nhân các ngươi cũng sẽ kết thúc theo hắn. Cứ tin ta đi! Nếu phải đi thì nên đi cho sớm, vận mệnh của Hoang nhân đã được định đoạt rồi.”

Vương Trấn Ác trong lòng chợt động hỏi: “Phải chăng Bí tộc chỉ có một mình Hướng huynh đến Biên Hoang?”

Nụ cười bên khoé miệng Hướng Vũ Điền không ngừng nở rộ, bình tĩnh nói: “Thứ cho tiểu đệ không thể trả lời câu hỏi này của Vương huynh.”

Vương Trấn Ác theo ánh mắt tỏ vẻ tán thưởng của y mà hiểu được đáp án, nắm được cơ hội, hắn bỗng nhiên thay đổi chủ đề hỏi: “Hoa Yêu phải chăng là người của quý tộc?”

Hướng Vũ Điền khẽ rùng mình, hạ thấp mục quang, đưa tay ra cầm lấy chén rượu.

Vương Trấn Ác không tưởng nổi là y lại có phản ứng như thế, trong lòng phiền muộn, bèn rót rượu cho y, đồng thời nói: “Nếu như Hướng huynh không vui thì không cần trả lời đâu.”

Hướng Vũ Điền chừng như bị khơi dậy niềm tâm sự vô hạn, nâng chén uống cạn, đặt chén xuống. Ánh mắt nhìn mặt bàn nói: “Hắn không những là Bí nhân, mà còn là sư huynh của ta, nhưng đã sớm bị sư tôn trục xuất khỏi môn trường rồi. Nếu không phải thế thì sư tôn đã không thu ta làm đồ đệ.”

Tiếp đó, hai mắt y phục hồi vẻ trong sáng, trừng trừng nhìn Vương Trấn Ác hỏi: “Vương huynh có biết tại sao ta phải tỏ lộ bí mật đó ra không?”

Vương Trấn Ác hoang mang lắc đầu đáp: “Chỉ cần Hướng huynh nói một câu, ta sẽ tuyệt không tiết lộ việc đó.”

Hướng Vũ Điền gật đầu nói: “Vương huynh quả có phong thái của nội tổ.”

Y lại tiếp: “Ta phải nói ra cố sự đó vì Biên Hoang tập là nơi hắn vùi thân. Vương huynh lại là Hoang nhân. Nói với huynh cũng giống như là nói với Hoang nhân, giải thích oan khuất của hắn. Như vậy thì coi như ta đã làm một việc tốt cho hắn.”

Sau khi Vương Trấn Ác đến Biên Hoang tập mới biết chuyện Hoa Yêu. Nghe thế ngạc nhiên hỏi: “Oan khuất? Hướng huynh phải chăng đang nói đùa?”

Hướng Vũ Điền cười khổ: “Ta đã sớm biết ngươi sẽ hỏi thế mà. Tình hình bên trong, ta thật khó giải thích cho tường tận. Nói một cách đơn giản thì hắn vốn không phải là người như vậy, nhưng ở trong một hoàn cảnh kỳ dị nào đó đã bị nhập ma, đến nỗi tính tình đại biến. Hắn không những bán đứng cả Tộc chủ làm ông ta bị gia gia ngươi bắt giam, mà còn tác ác khắp nơi. Các ngươi giết được hắn thật là công đức vô lượng. Ta dám khẳng định nếu hắn ở trên trời có linh thiêng sẽ vô cùng cảm kích các ngươi đã kết thúc giúp hắn sinh mệnh tà ác đó. Đó chính là món nợ của tệ môn đối với Bí nhân, vì thế ta phải bồi thường cho họ.”

Vương Trấn Ác trầm giọng: “Lời Hướng huynh câu nào cũng rõ ràng, nhưng ta càng nghe càng hồ đồ. Hướng huynh nói dưới một hoàn cảnh nào đó bị nhập ma, phải chăng là việc tự luyện công bị tẩu hoả nhập ma? Nhưng ta chưa từng nghe qua có ai vì luyện công sai sót mà từ bản tính thiện lương biến thành Thái hoa Dâm ma cả.”

Hướng Vũ Điền than: “Thiên hạ không gì là không có. Tình hình thực sự bên trong xin thứ cho ta không thể nói ra được. Ài! Người đã chết rồi, ta còn che giấu cho hắn làm gì nữa? Hà! Hoang nhân thật có bản sự, không ngờ lại có biện pháp giết chết được sư huynh ta, tránh cho ta khỏi mất một phen công phu.”

Vương Trấn Ác ngạc nhiên hỏi: “Hướng huynh chuẩn bị tự tay giết chết hắn sao?”

Hướng Vũ Điền làm như vô sự đáp: “Cái đó dương nhiên rồi. Không do ta xuất thủ thanh lý môn hộ thì do ai phụ trách đây? Không ngại nói cho ngươi biết một bí mật nữa. Ta sở dĩ không dám lạm sát, không dám làm việc tự ý mình là vì đã có vết xe đổ của sư huynh, ta sợ lại đi vào con đường sai lầm đó. Nghe những lời này của ta, Vương huynh có thể nghĩ ‘Đương nhiên rồi! Ngươi và hắn nếu cũng luyện một loại võ công tâm pháp giống nhau thì đường lối cũng giống nhau. Ngươi cứ nghĩ như thế là hợp tình hợp lý, nhưng sai một ly đi một dặm. Tình hình thực sự hoàn toàn vượt quá sức tưởng tượng của ngươi’.”

Vương Trấn Ác hỏi: “Hướng huynh sẽ không nói ra đúng không?”

Hướng Vũ Điền nhún vai đáp: “Cái đó đương nhiên. Nhưng tuy chỉ mới nói ra một nửa mà ta đã cảm thấy thư thái hơn nhiều rồi. Hà! Tiểu Bạch Nhạn chẳng phải đã đến Biên Hoang tập rồi sao? Tại sao không thấy Cao Ngạn dẫn nàng ta đi lòng vòng ở Dạ Oa Tử?”

Vương Trấn Ác than: “Ngươi chắc chuẩn bị ám sát Cao Ngạn ở Dạ Oa Tử rồi, nhưng tại sao lại nói cho ta biết?”

Hướng Vũ Điền ngạc nhiên đáp: “Tại sao Vương huynh đã nhìn ra được ý đồ của ta, nhưng không hề khẩn trương? Nhất định là có đạo lý. Đúng! Vì căn bản là Cao Ngạn sẽ không đến Dạ Oa Tử. Nói vậy thì gã đến Tứ Thủy thám thính địch tình rồi. Hà! Vương huynh cuối cùng cũng biến sắc rồi.”

Vương Trấn Ác song mục sát cơ đại thịnh.

Hướng Vũ Điền vẫn thái độ ung dung như không có gì, nói: “Vương huynh không những rất có tình nghĩa, mà nói ‘không để sinh tử trong lòng’ chẳng phải là nói suông. Biết rõ không phải là đối thủ của ta nhưng vẫn muốn động võ. Nói thật, ta sẽ không giết người trong thời gian diễn ra tiết cuồng hoan đâu. Đó là truyền thống của Bí tộc. Ta cố ý nói đến chuyện Cao Ngạn là vì trong lòng nghi hoặc, nói ra để xem phản ứng của Vương huynh thôi.”

Vương Trấn Ác điềm đạm hỏi: “Qua đêm nay rồi thì sao?”

Hướng Vũ Điền song mục tinh mang đại thịnh, không hề nhượng bộ nhìn thẳng vào mắt Vương Trấn Ác hỏi lại: “Chúng ta đánh cá một một cuộc đùa giỡn thú vị được không?”

Vương Trấn Ác phát giác mình thực không có cách nào nắm được suy nghĩ của người này. Hành động của y đều ngoài dự liệu của người ta, bị hắn dắt mũi dẫn đi, rơi vào thế hoàn toàn bị động.

Vương Trấn Ác nói: “Hướng huynh nói ra đi.”

Hướng Vũ Điền nói: “Từ giờ trở đi, ta cho các ngươi mười hai canh giờ. Trong thời gian đó ta sẽ không rời khỏi Biên Hoang tập nửa bước. Chỉ cần các ngươi có thể giống như lần trước tìm ra được ta thì sẽ có cơ hội giết chết ta. Nhưng một khi qua thời hạn đó rồi, ta lập tức động thân đến Tứ Thuỷ. Cao Ngạn gã khẳng định sẽ mất mạng. Cuộc đánh cá này có hứng thú không?”

Vương Trấn Ác nghe xong rợn cả tóc gáy. Đề nghị của Hướng Vũ Điền không cho họ cự tuyệt. Nếu không, để y trong lúc hiểu rõ vị trí của Cao Ngạn, bằng tài trí võ công của y thì Cao Ngạn khẳng định khó thoát khỏi độc thủ.

Nói cho cùng, Hướng Vũ Điền muốn biết bọn họ bằng cái gì mà có thể dễ dàng tìm được y. Không biết điểm này, Hướng Vũ Điền ở Biên Hoang tập sẽ bước bước kinh tâm, ngủ cũng không yên.

Người này thực quá lợi hại.

Vương Trấn Ác bình tĩnh lại, đứng lên trầm giọng: “Hoang nhân bọn ta sẽ phụng bồi đến cùng. Hướng huynh cẩn thận đó.”

Nói xong lập tức bỏ đi.

Trong bóng tối của gian phòng nhỏ.

Doãn Thanh Nhã kinh hãi gọi: “Cao Ngạn! Cao Ngạn! Ngươi ngủ rồi à?”

Cao Ngạn chờ đã lâu, vội xoay người lại hướng về phía nàng hỏi: “Nương tử có phân phó gì?”

Doãn Thanh Nhã hỏi: “Vừa rồi là thanh âm gì thế? Phải chăng có người đang khóc lóc?”

Cao Ngạn đáp: “Ở Biên Hoang tập rất nhiều sói hoang và chim ưng. Vừa rồi là tiếng sói hoang tru đó. Nghe thanh âm chắc cách tiểu cốc của chúng ta năm, sáu dặm. Nương tử không cần lo lắng.”

Doãn Thanh Nhã ngây thơ hỏi: “Chúng có ăn thịt người không?”

Cao Ngạn đáp: “Hễ là thịt thì dù là thịt gì chúng cũng chén. Chúng thích nhất là thịt thối. Vì thế, những dã quỷ ở Biên Hoang tập đều chỉ có một cái đầu lâu trơ xương nguyên nhân là thế.”

Doãn Thanh Nhã vừa giận vừa điệu: “Ngươi lại doạ người ta rồi!”

Cao Ngạn nói: “Hãy nói cho ta biết, lúc đầu nàng nói là không phải thật, dường như toàn là ta đang nói hoang.”

Doãn Thanh Nhã giận nói: “Cao Ngạn à! Những gì ngươi đã nói ngươi có giữ lời không? Nói gì là chờ sư phụ ta đáp ứng chuyện của chúng ta, lại nói……không nói nữa!”

Cao Ngạn không hề xấu hổ nói: “Những gì ta đã nói sao lại không giữ lời? Vấn đề nằm ở chỗ nương tử. Nàng khi đó tuyệt không đáp ứng ta. Tỷ dụ nàng nói nếu như sư phụ thế này thế nọ thì người ta phải thế lọ thế chai, việc đó đương nhiên là hỏng rồi. Như vậy thì ta chỉ còn cách không làm anh hùng gì nữa, trước hết cùng nương tử thành thân, để nương tử sinh hạ nhi tử rồi mới về thỉnh tội với nhạc sư phụ đại nhân.”

Doãn Thanh Nhã ngồi bật dậy tức giận thốt: “Ngươi thật quá vô lại!”

Cao Ngạn hứng thú tiếp: “Trừ khi như thế này! Nàng trước hết phải tự miệng đáp ứng ta. Nếu như sư phụ nàng gật đầu thì nàng sẽ ngoan ngoãn gả cho ta thì ta đương nhiên sẽ chấp hành lời hứa. Như thế, tối đa là ta chỉ ôm ôm ấp ấp, hôn vài cái thôi, tuyệt không vượt quá quy củ.”

Doãn Thanh Nhã dẩu môi đanh đá: “Tiểu tử chết bầm! Còn muốn ta nói bao nhiêu lần nữa đây. Người ta căn bản không hề nghĩ sẽ gả cho ngươi.”

Cao Ngạn cười hi hi ngồi dậy, vui vẻ nói: “Nương tử thật biết lạc thú khuê phòng, biết khi nào thì sẽ cùng với ta chơi mấy trò hoa nguyệt. Trong đó chắc chắn là có một chiêu gọi là 'Cố bày nghi trận', lại có một chiêu khác kêu là 'Muốn mà vẫn kiêu'. Hà hà! Không có ai hiểu tâm ý nương tử bằng ta.”

Doãn Thanh Nhã nghe gã nói đến mức hứng thú, nhịn không được bật cười nghặt nghẽo: “Ngươi cứ gọi nương tử thêm vài lần thì người ta sẽ gả cho ngươi sao?”

Cao Ngạn đề tỉnh: “Nàng lại mau quên việc đã ưng thuận rồi sao? Không những không được đánh ta, cũng không thể điểm huyệt ta. Nếu không, Bạch cốt tinh xuất hiện thì ai sẽ thi triển phù phép đuổi quỷ cho nàng?”

Doãn Thanh Nhã chán nản: “Ngươi mới hay quên. Ta nói những cấm kỵ của Tố nữ tâm pháp là thật, không có chữ nào là giả hết.”

Cao Ngạn hận đến nỗi nghiến răng nghiến lợi: “Thiên hạ làm gì có võ công như thế? Ta không tin.”

Doãn Thanh Nhã yêu kiều cười nói: “Ngươi tin cũng được, không tin cũng được. Sự thật vẫn là sự thật. Tối nay ngươi không được vượt qua ranh giới.”

Nói xong, nàng lại nằm về chỗ cũ, ngáp một cái nói: “Nói chuyện với tiểu tử ngươi rất tốn sức lực. Nhã nhi mệt rồi! phải ngủ thôi!”

Cao Ngạn than: “Hôn một cái thôi có được không?”

Doãn Thanh Nhã nói như chém đinh chặt sắt: “Không được!”

Cao Ngạn cười khổ: “Hôn chỉ là lễ kiến diện trước khi cao thủ quá chiêu, lại không phải là dụng đao dụng thương, có ảnh hưởng gì đâu?”

Doãn Thanh Nhã thấp giọng mắng: “Miệng chó có bao giờ mọc được ngà voi. Đầy miệng toàn lời lẽ dơ bẩn. Có quỷ mới gả cho ngươi.”

Cao Ngạn đụng đầu vào đá, chán nản nằm vật ra, không nói câu nào.

Được một lúc, Doãn Thanh Nhã lại gọi: "Cao Ngạn! Cao Ngạn!"

Cao Ngạn chán nản hỏi: “Chẳng phải nàng đang rất mệt mỏi cần phải ngủ sao?”

Doãn Thanh Nhã dịu dàng hỏi “Phải chăng ngươi tức giận rồi?”

Cao Ngạn tinh thần đại chấn, nhưng không dám lộ ra. Gã tiếp tục dùng giọng điệu chán nản, vạn niệm như tro tàn, than thở: “Ta dám tức giận bất cứ người nào, nhưng làm sao dám giận Nhã nhi.”

Doãn Thanh Nhã nói: “Đừng có giận nữa mà! Ngươi hiểu rõ ta hơn là ta hiểu ngươi mà. Lần này ngươi thân mang trọng trách, nhớ phải hành sự theo khuôn phép. Nếu không, chúng ta sẽ không còn mạng mà về Biên Hoang tập đâu. Vì thế ngươi phải làm một tên tiểu tử an phận. Ta thật không muốn lừa ngươi đâu.”

Cao Ngạn không phục hỏi: “Chỉ hôn một cái thì có vấn đề gì đâu?”

Doãn Thanh Nhã không vui: “Hôn một cái thôi thì có thể không có vấn đề gì. Nhưng cứ theo tính cách của ngươi thì có thể chỉ hôn một cái không thôi sao? Hôn rồi lại không dừng lại được nữa thì nguy to đó?”

Cao Ngạn vui mừng nói: “Nhã nhi cuối cùng cũng đáp ứng cho ta hôn một cái rồi! Hà hà! Tính nhẫn nại đương nhiên lão tử không thể thiếu, nếu không làm sao làm thám tử được? Được rồi! Ngủ dậy rồi hãy nói. Thời cơ thích hợp thì có thể hôn. Lúc đó thì nàng không cần giục giã ta đâu.”

Doãn Thanh Nhã lại tức giận hỏi: “Người ta chỉ lấy ví dụ thế thôi, ai đã đáp ứng cho ngươi hôn?”

Cao Ngạn cười đáp: “Lời nói ra rồi làm sao thu hồi lại được nữa? Giờ thì đến lượt ta mệt rồi, ngủ thôi!”

Chú thích

* Nữ nhi hồng: Một loại Thiệu Hưng tửu, rất ngon. Tục truyền khi sinh con gái, người ta sẽ chôn mấy chục vò rượu xuống đất. Đến khi con gái đi lấy chồng, thường là khoảng 18 tuổi, sẽ đào lên dùng cho đám cưới nên gọi là Thiệu Hưng Nữ Nhi Hồng, lâu năm, rất thơm ngon, hiếm có.Tổng đường Đại Giang bang tại Đông đại nhai.

Những thành viên hội nghị Chung lâu tề tập trong Trung Nghĩa đường. Ngoài ra còn có Lưu Mục Chi, Phương Hồng Sinh và Vương Trấn Ác.

Nghe xong những tao ngộ vừa qua của Vương Trấn Ác, ai nấy đều biến sắc, đều biết trong cuộc đấu tranh với Hướng Vũ Điền thì Hoang nhân đã bị rơi vào thế hạ phong.

Sự phòng vệ Trung Nghĩa Đường do cao thủ Đại Giang bang phụ trách, chưa bao giờ nghiêm mật như thế để tránh khỏi bị Hướng Vũ Điền xuất quỷ nhập thần đến nghe lén cơ mật. Nếu bị hắn nghe được thì quả là nguy to.

Cuối cùng, Vương Trấn Ác tổng kết: “Bất luận võ công hay tài trí, Hướng Vũ Điền đều làm người ta cảm thấy đáng sợ. Nếu y kiên quyết truy sát Cao Ngạn, lại biết rõ mục tiêu thám thính của Cao Ngạn thì tuy rằng Cao thiếu gia từng có kỷ lục chưa từng bị ai truy sát thành công trong Biên Hoang, nhưng lần này rất nhiều khả năng là ngoại lệ.”

Trác Cuồng Sinh thảm hại nói: “Nếu như để Hướng Vũ Điền rời khỏi Biên Hoang tập thì lần này Cao tiểu tử chết chắc rồi.”

Mộ Dung Chiến nhíu mày nói: “Tại sao Trác quán chủ bỗng nhiên bi quan về vận mệnh của Cao thiếu gia như thế? Theo ta thấy thì hươu chết về tay ai vẫn còn chưa biết, thắng bại vẫn chỉ năm mươi năm mươi thôi.”

Diêu Mãnh chán nản nói: “Nếu như chỉ là một mình Cao tiểu tử thì lý đương nhiên là như thế. Nhưng Tiểu Bạch Nhạn cũng cùng thất tung với Cao tiểu tử một lúc nên khẳng định tên tiểu tử đó sẽ không bỏ được Tiểu Bạch Nhạn đã mang nàng đi theo rồi.”

Hồng Tử Xuân giật mình nói: “Tên tiểu tử đó thật chẳng tiến bộ gì cả, yêu đến mức đầu óc mụ mẫm cả rồi. Gã nếu không nghĩ cho mình thì cũng phải nghĩ cho Tiểu Bạch Nhạn mới đúng.”

Thác Bạt Nghi trầm giọng: “Vì thế, chúng ta tuyệt không thể để Hướng Vũ Điền sống mà rời khỏi đây.”

Gã lại cười khổ: “Nhưng thế lại trúng vào gian kế của Hướng Vũ Điền. Y muốn bức cho chúng ta không còn đường nào khác, phải lật nhào cả Biên Hoang tập lên để tìm y.”

Phương Hồng Sinh mặt không còn chút máu, đưa mắt nhìn ra hoa tuyết đang không ngừng rơi bên ngoài, lắc đầu nói: “Mỗi khi gặp phải cơn mưa mùa hạ hoặc tuyết rơi thì cái mũi của ta lại không linh nữa. Trừ khi tuyết ngừng rơi, nếu không, ta quả không thể làm gì.”

Hô Lôi Phương nhìn Lưu Mục Chi hỏi: “Lưu tiên sinh có chủ ý gì hay không?”

Mọi người đều nhìn cả vào lão.

Vị trí giả này vẫn giữ phong thái ung dung tự tại, dường như trong thiên hạ này không có việc gì có thể làm lão khẩn trương. Lão thản nhiên nói: “Lần này, Hướng Vũ Điền cố ý hiện thân gặp Vương Trấn Ác để hạ chiến thư đối với chúng ta. Đó vốn là một chiêu tuyệt cao minh. Nhưng y cũng là người chân tình chân, thêm vào đó, tài trí Trấn Ác cũng không kém y, vì thế y bất giác đã tiết lộ huyền cơ của bản thân mình. Đối với chúng ta mà nói thì lợi, hại ngang nhau.”

Phí Nhị Phiết hỏi: “Cũng có thể là Trấn Ác chỉ tấu xảo gặp y. Còn việc công khai khiêu chiến thì là ý niệm nảy sinh ngay vào lúc đó của y. Tiên sinh làm sao nói một cách khẳng định như thế được?”

Không ai cho rằng Phí Nhị Phiết cố ý bắt bẻ Lưu Mục Chi cả vì lời Phí Nhị Phiết cũng là nghi vấn trong lòng của đại đa số mọi người.

Lưu Mục Chi vuốt râu cười: “Từ khi Hướng Vũ Điền ám sát Cao Ngạn không thành ở Trấn Hoang cương, chúng ta đã thấy mỗi hành động của Hướng Vũ Điền đều là đã tính mưu trước rồi mới làm. Nếu y đạt được mục đích thì chúng ta sẽ rơi vào thế vạn kiếp bất phục. Lần này tưởng chừng như y tùy ý công khai tuyên chiến, nhưng lại rất hợp với phương châm của binh gia. Nếu như chỉ dựa vào sự xảo hợp mà làm thì Hướng Vũ Điền đó không phải là Hướng Vũ Điền ta đang lo lắng nữa. Y vốn cố ý ở Dạ Oa Tử để Trấn Ác bắt gặp, lại giả vờ tạo không khí uống rượu nói chuyện vui vẻ để thăm dò vị trí của Cao thiếu gia rồi mới quyết định có hạ chiến thư đối với chúng ta không.”

Âm Kỳ kinh hãi thốt: “Đúng! Sau hoàng hôn hắn mới vào Tập. Vì tìm Cao tiểu tử không được nên mới bỏ qua tất cả, hiện thân gặp Trấn Ác. Con bà nó! Tên tiểu tử này đúng là to gan bằng trời.”

Trình Thương Cổ nghiến răng nói: “Tên tiểu tử này thật thông minh, còn lộ cho Trấn Ác về quan hệ sư huynh sư đệ với Hoa Yêu làm Trấn Ác có cảm giác y đối với mình rất tin tưởng. Sau đó mới đơn đao đánh thẳng, đề cập tới Cao tiểu tử làm Trấn Ác nhất thời không đề phòng bị y khám phá ra đầu mối. Hướng Vũ Điền được lắm! Ta chưa từng gặp ai thủ đoạn hơn y.”

Diêu Mãnh không hiểu hỏi: “Mục tiêu của y là ở Cao tiểu tử, sao không trực tiếp đi truy sát gã lại còn nán lại ở Biên Hoang tập đến mười hai canh giờ nữa?”

Cơ Biệt mắng: “Tên tiểu tử ngươi làm bạn với Cao Ngạn nhiều quá rồi, gần mực thì đen, cũng biến thành ngu xuẩn như gã vậy. Chiêu đó của Hướng Vũ Điền gọi là một mũi tên bắn trúng nhiều con chim. Trước tiên, y muốn biết bọn ta bằng cách gì nắm được hành tung của y. Tiếp đó nếu chúng ta lật tung Biên Hoang tập lên để tìm y thì không những làm Biên Hoang tập nhân tâm hoảng hốt, dọa cho khách khứa khiếp sợ bỏ chạy hết, lại gián tiếp chứng thực Cao Ngạn không nấp ở xó xỉnh nào, mà quả thực là đã ra ngoài làm việc. Cuối cùng y có thể từ hành động truy tìm của chúng ta mà đưa ra phán đoán chính xác về khả năng động viên nhân lực của chúng ta trong Tập. Trong tương lai, nếu y muốn làm điên đảo nội bộ Biên Hoang tập của chúng ta thì sẽ biết thủ đoạn nào là hữu hiệu nhất.”

Diêu Mãnh không phục nói: “Ngươi không nên trút hết sự oán hận đối với Cao tiểu tử lên mình Diêu Mãnh ta. Gã là gã, lão tử là lão tử.”

Giang Văn Thanh giận dữ la “Giờ là lúc nội bộ đấu đá sao? Mọi người hãy bình tĩnh lại. Việc quan trọng nhất trước mắt là chúng ta càng phải đoàn kết nhất trí hơn.”

Đinh Tuyên chán nản nói: “Nhưng ta thực không nghĩ ra diệu pháp nào để giải quyết cả. Hướng Vũ Điền hiểu quá rõ chúng ta rồi.”

Hô Lôi Phương nói: “Động không bằng tĩnh. Chúng ta có nên nhẫn nại chờ đợi khi tuyết ngừng rơi rồi bằng vào chiếc mũi của Phương tổng nhanh chóng tìm ra nơi y ẩn thân, rồi giống như đối phó với Hoa Yêu, nhất cử giết chết y?”

Vương Trấn Ác lắc đầu đáp: “Thế chẳng khác gì chúng ta tự cho y biết chúng ta tìm hắn bằng mùi vị à. Nếu thế, chỗ khuyết trống trong bản Danh sách giết người của y sẽ do Phương tổng bù vào đó.”

Phương Hồng Sinh lập tức hít một hơi khí lạnh. Dù trong nội đường có đốt hai chiếc hỏa lò, nhưng hắn vẫn thấy toàn thân ớn lạnh.

Thác Bạt Nghi hỏi: “Bản danh sách giết người của y phải chăng chỉ là do y bịa ra, là kế che mắt địch?”

Mọi người đều nhìn Vương Trấn Ác vì chỉ có hắn là có tư cách nhận xét việc này.

Vương Trấn Ác trầm ngâm một lúc, nói: “Không biết có phải ta cảm giác sai lầm hay không, nhưng y không phải là người thích nói dối. Hắc! Có thể nói thế này, y thật ra rất tự phụ, căn bản không cần nói chuyện giả dối.”

Lưu Mục Chi cười nhẹ: “Trước tiên chúng ta cần phân tích mức độ hiểu biết của y đối với chúng ta. Theo ngu kiến của ta thì những hiểu biết của y đối với chúng ta chỉ giới hạn trong những tin tình báo do người Yên cung cấp. Do thời gian đến Biên Hoang tập chưa nhiều nên y vẫn chưa thực sự nắm được tình hình của chúng ta. Nhưng mười hai canh giờ sau thì lại là chuyện khác. Tên đối thủ của chúng ta đó là người tuyệt đỉnh thông minh, biết làm thế nào để đấu trí mà không đấu lực. Nếu như ta đoán không sai thì y không sợ bị chúng ta tìm ra. Dù chúng ta nhiều người nhưng y vẫn có kế sách thoát thân. Thử tưởng tượng mà xem. Nếu như y giống như là một Yến Phi khác thì mọi người có thể hiểu được ý của ta.”

Trong nội đường yên lặng đến nỗi cây kim rơi xuống cũng có thể nghe thấy. Chỉ thấy tiếng hô hấp trầm trọng của mọi người.

Giang Văn Thanh nói: “Nói thế thì chúng ta không những bị hãm vào thế tiến thoái lưỡng nan, tuyệt đối bị động, lại còn ở vào thế tất bại sao?”

Lưu Mục Chi ung dung đáp: “Nếu như giết không được y thì có thể coi là thất bại, chúng ta đúng là tất bại không thắng được. Nhưng thắng bại rõ ràng không giới hạn bởi cách đó. Chỉ khi Biên Hoang tập bị phá hủy triệt để thì chúng ta mới thực sự thua. Hiện giờ đối với chúng ta chỉ là được mất tạm thời mà thôi.”

Trác Cuồng Sinh vỗ tay tán thưởng: “Nói rất tinh tế, làm bọn ta cảm thấy nhẹ cả người, thoát khỏi vũng lầy tiến thoái lưỡng nan.”

Cơ Biệt nhíu mày hỏi: “Chúng ta phải chăng sẽ lấy bất biến ứng vạn biến?”

Lưu Mục Chi ung dung đáp: “Dương nhiên không nên tỏ ra yếu kém như thế. Yếu chỉ của binh pháp là hai câu 'Tri kỷ tri bỉ, bách chiến bất đãi'. Chúng ta hãy tạm để vấn đề an nguy của Cao thiếu gia sang một bên, nghĩ xem làm sao đùa giỡn một trận với Hướng Vũ Điền đây?”

Trác Cuồng Sinh dụng thần ngắm nghía lão, nói: “Công phu giữ bình tĩnh của tiên sinh, không một ai trong số chúng ta có thể bì được.”

Hồng Tử Xuân: “Mời tiên sinh chỉ điểm.”

Lưu Mục Chi nói: “Trước tiên, chúng ta hãy giả thiết Hướng Vũ Điền lần này mạo hiểm mò vào Biên Hoang tập mục đích vẫn là để giết Cao thiếu gia. Phán đoán này của ta thật không sai quá xa vì Hướng Vũ Điền để lộ hành tung chính là vì để ám sát Cao thiếu gia. Có thể thấy y muốn sớm hoàn thành bản Danh sách giết người của y để trả lại hết nợ nần đối với Bí tộc, có thể phục hồi tự do không bị ràng buộc điều gì.”

Mộ Dung Chiến khen lớn: “Phân tích hay lắm, đúng là làm người ta phát sinh cảm giác hiểu được địch nhân.”

Lưu Mục Chi điềm đạm nói: “Khi y tìm không thấy Cao Ngạn, lại phát giác ra chúng ta tuyệt không biết y đã quay trở lại Tập. Vì thế y nghĩ chúng ta có thể là bằng vào mùi vị để nắm được hành tung của y. Ở một phương diện khác, y cũng đoán Cao thiếu gia không ở trong Tập, nhưng y vẫn không tuyệt đối khẳng định được. Vì Cao Ngạn cũng có thể trốn ở đâu đó trong Tập cùng với tiểu Bạch Nhạn hưởng thụ kiếp nhân sinh. Việc này phù hợp với ấn tượng mà Cao Ngạn tạo ra với người khác.”

Thác Bạt Nghi vỗ trán nói: “Nói hay lắm! So với việc Cao Ngạn để Tiểu Bạch Nhạn ở đây, một mình đi đến Bắc tuyến làm thám tử thì việc gã dẫn mỹ nhân theo để làm một nhiệm vụ tối nguy hiểm sẽ làm người hiểu không sâu về Cao Ngạn không thể tin được. Hà! Nói như vậy thì Hướng Vũ Điền đối với việc Cao tiểu tử và Tiểu Bạch Nhạn cùng lúc thất tung, rốt cuộc là đến Bắc tuyến hay là lưu lại ở chỗ nào đó trong Tập, vẫn chưa hiểu rõ.”

Trác Cuồng Sinh vỗ đùi than: “Những lời của tiên sinh quả thực làm người ta cảm thấy như xua tan u ám, lại nhìn thấy trời xanh vậy. Biện pháp ứng phó cũng từ đó hé mở. Hắc! đương nhiên ta vẫn chưa nghĩ ra được biện pháp nào khả thi để đối phó với tên gia hỏa đó, nhưng khẳng định là tiên sinh đã có mưu kế rồi đúng không?”

Lưu Mục Chi vuốt râu cười: “Kế sách của ta chính là để đối phó với hạng người thông minh. Đối phương càng thông minh càng tốt, nhưng đối với người ngu xuẩn thì ngược lại sẽ không có tác dụng gì.”

Mộ Dung Chiến thở ra nhẹ nhõm hỏi: “Ta giờ đã an tâm rồi, kế sách có thể đưa ra chưa?”

Trác Cuồng Sinh cướp lời: “Trước tiên chúng ta làm hời hợt cho xong, giả vờ như đang tiến hành các kiểu điều tra trong Tập, cho thấy chúng ta căn bản không để tâm tới việc có tìm được y hay không. Đúng không?”

Đại bộ phận mọi người đều gật đầu, tỏ ý đồng tình với ý kiến của Trác Cuồng Sinh vì đối phương đã là người thông minh thì có thể từ việc họ chỉ phô diễn điều tra sẽ khám phá Hoang nhân căn bản không nghĩ tới việc y có thể đi truy sát Cao Ngạn hay không.

Lưu Mục Chi không đồng ý, nói: “Kế sách của ta lại ngược lại vì nếu làm như thế thì quá lộ liễu, lại cho thấy chúng ta quá yếu kém. Phương pháp của ta là phải cho đối phương thấy chúng ta quyết tâm bất chấp tất cả tìm bằng được y, cho thấy uy lực của sự đoàn kết nhất trí, trên dưới một lòng khiến y mất hẳn ý đồ điên đảo nội bộ Tập. Vậy thì dù hắn một mình một ngựa hay là có một đám đông võ sỹ Bí tộc chờ y ra lệnh, nhưng nếu y muốn đường đường chính chính tấn công hay ngấm ngầm tập kích đều phải suy nghĩ rất kỹ mới dám làm.”

Mọi người đều cảm thấy ngạc nhiên.

Phương Hồng Sinh chép miệng nói: “Nhưng mà quả thực là dưới tình hình hiện tại, ta không cách nào tìm ra y được.”

Lưu Mục Chi hỏi: “Ở Biên Hoang tập ai là người vẽ giỏi nhất?”

Mộ Dung Chiến đáp “Nói về người nổi danh về hội họa ở Biên Hoang tập thì ta lúc nào cũng có thể nói ra mười mấy hai mươi cái tên. Phải chăng tiên sinh muốn dùng chiêu tìm người theo ảnh?”

Lưu Mục Chi nhìn Vương Trấn Ác.

Vương Trấn Ác tinh thần đại chấn: “Nét mặt Hướng Vũ Điền đặc biệt phi thường, thân hình lại đặc biệt cao lớn. Chỉ cần theo lời miêu tả của ta, vẽ ra năm, sáu tấm truyền thần thì khẳng định người nào lưu tâm chỉ cần nhìn một cái là có thể nhận ra y.”

Lưu Mục Chi nói: “Biên Hoang tập chỉ là một địa phương nhỏ bé. Nếu như mỗi người đều biết thân hình, tướng mạo Hướng Vũ Điền thì y có thể trốn ở chỗ nào đây?”

Giang Văn Thanh nói: “Như vậy thì sẽ động viên người trong toàn Tập, chỉ sợ sẽ dọa khiếp du khách đến Biên Hoang mất.”

Trác Cuồng Sinh cười như nắc nẻ: “Lần này ta lại có thể thi triển sở trường rồi! Trác Cuồng Sinh ta cái gì không làm được chứ diệu tưởng thiên khai* làm tốt nhất. Để ta biến việc xấu thành việc tốt được không? Chúng ta sẽ tổ chức một trò chơi trốn tìm, làm cả chủ và khách đều vui, lại chỉ nhấn mạnh mục tiêu là tìm kiếm chứ không phải giết người lung tung. Hà! Đã đủ hoang đường chưa?”

Hồng Tử Xuân cười lớn: “Tinh tế! Con mẹ nó! Treo giải thưởng một trăm hai mươi lượng hoàng kim được không? Càng hấp dẫn hơn! Ai không mà muốn phát tài. Chỉ cần tìm thấy lão Hướng là chúng ta có thể bao vây y, người báo tin sẽ được một trăm hai mươi lượng hoàng kim.”

Thác Bạt Nghi gật đầu: “Chỗ tinh diệu nhất của phương pháp đó là vốn là một việc quấy nhiễu dân chúng trở thành một trò bất kể quân hay dân đều có thể tham gia. Giữa thanh thiên bạch nhật, Hướng Vũ Điền càng khó trốn tránh. Nếu bỗng nhiên tuyết ngừng rơi thì y càng trốn không thoát khỏi cái mũi linh diệu của Phương tổng.”

Mộ Dung Chiến nói: “Chúng ta chỉ cần chuẩn bị một đội cao thủ đủ lực giết chết Hướng Vũ Điền là có thể ngồi chờ thu thành quả.”

Hồng Tử Xuân quát: “Cứ thế mà làm. Thông qua kế hoạch.”

Lưu Mục Chi cười nhẹ: “Đó chỉ là một nửa kế sách, còn một nửa nữa.”

Mọi người vô cùng ngạc nhiên, yên tĩnh lại để nghe lão nói.

Lưu Mục Chi tiếp: “Chúng ta phải chế tạo ra một ấn tượng giả là Cao thiếu gia và Tiểu Bạch Nhạn vẫn còn trong Tập. Đó cũng là một cái bẫy, nếu như Hướng Vũ Điền quá đề cao bản thân thì rất nhiều khả năng trúng kế.”

Mọi người đã hiểu rõ.

Trác Cuồng Sinh suy nghĩ: “Nếu như Cao tiểu tử muốn tìm nơi nào đó để trốn cùng với Tiểu Bạch Nhạn chung giấc đêm xuân thì gã sẽ chọn chỗ nào đây?”

Diêu Mãnh đáp: “Khẳng định là chỗ an toàn nhất trong Tập.”

Cơ Biệt nói: “Chỗ an toàn nhất chính là chỗ này. Nếu không, Lưu tiên sinh đã phải ở chỗ khác rồi.”

Trác Cuồng Sinh nói: “Nhưng chỗ này quá nhiều phòng, về mặt phòng thủ tuyệt không dễ dàng.”

Hồng Tử Xuân nói: “Có thể tính như thế này được không? Cao tiểu tử vì muốn an tâm hưởng một đêm ôn nhu không hề có nguy hiểm nên mới đến chỗ này của đại tiểu thư tá túc một đêm. Tiếp đó, Trấn Ác gặp phải Hướng Vũ Điền, vô cùng kinh hãi lập tức chạy ngay đến đây cảnh cáo Cao tiểu tử, đồng thời triệu tập chúng ta đến thưong lượng đại kế. Được sự đồng ý của mọi người, chúng ta lập tức triển khai hành động truy tìm đại quy mô, đồng thời đem Cao tiểu tử và tiểu Bạch Nhạn đến một nơi an toàn hơn để gã không bị nguy hiểm. Nơi mà an toàn hơn cả chỗ này, chỉ sợ là chỉ có…..Hắc! Chỉ có….”

Trác Cuồng Sinh, Âm Kì và Đinh Tuyên đồng thanh nói: “Chung lâu!”

Hồng Tử Xuân vỗ đùi: “Khẳng định là Chung lâu.”

Mộ Dung Chiến tổng kết: “Giờ chỉ còn mười một canh giờ nữa thôi, chúng ta sẽ diễn một trò vui cho lão Hướng xem, để y biết chúng ta có phương thức chơi đùa đặc biệt. Cho y thấy Biên Hoang tập của chúng ta chẳng những nhân tài đông đảo, lại có năng lực động viên kinh người và hiệu suất cực cao. Bất kể là y có trúng kế hay không cũng làm y nghi thần nghi quỷ, sinh tâm do dự không dám quyết định hành động.”

Giang Văn Thanh hỏi: “Chúng ta có nên cử một đội quân khác đi tiếp ứng Cao tiểu tử không?”

Trác Cuồng Sinh nói: “Nếu làm thế thì kế che mắt địch sẽ không linh nghiệm nữa. Chỉ cần bị Hướng Vũ Điền phát giác chúng ta thiếu đi mấy người thì tất cả kế hoạch sẽ trở thành phí hết tâm cơ.”

Tiếp đó, mục quang lão nhìn ra hoa tuyết đang bay phấp phới bên ngoài nói: “Cao tiểu tử là người giỏi thuật tiềm tung ẩn tích nhất trong số chúng ta. Gã lại càng để ý lo lắng cho Tiểu Bạch Nhạn hơn bất kỳ ai trong chúng ta, gã sẽ có đảm lượng mang Tiểu Bạch Nhạn trở về. Chúng ta miễn cưỡng giúp gã chỉ làm hỏng việc. Chỉ cần Hướng Vũ Điền vẫn hoài nghi về hành tung của họ là họ có thể thoát khỏi đại nạn, lại hoàn thành nhiệm vụ, làm chúng ta có thể đại phá sự phong tỏa của Yên binh. Thời gian làm việc đến rồi, xin Chiến gia phân phối công tác.”

Mọi người hô vang hưởng ứng, sỹ khí dâng lên cực cao.

Yến Phi đang lướt đi trên khu bình nguyên hoang dã.

Tối nay không hề có trăng sao, trên trời mây mù dày đặc.

Giả sử mình trở thành người trường sinh bất tử thì đã trở thành Địa tiên như người thường vẫn nói.

Ài! Làm tiên thì sẽ thế nào? Phải chăng vẫn tràn đầy khổ não? Nhưng chàng cũng không thể phủ nhận là bản thân mình thực đã biến thành một dị vật khác hẳn với người thường. Chàng không còn cách nào trở lại làm một sinh vật là “Người” như trước đây nữa.

Nếu chàng thực sự biến thành một "Người" dạng "Địa tiên" thì còn một "Địa tiên" nữa là Tôn Ân, vị Thiên Sư danh chấn thiên hạ. Lão không những cũng có linh giác giống như chàng, lại cùng chàng có nhận thức giống nhau, biết nhân thế chỉ là một trường ảo mộng, bên ngoài cõi mộng đó còn có một nơi chốn khác. Còn chỗ đó là Động thiên phúc địa hay là Tu la địa ngục thỉ chỉ có ông trời mới hiểu.

Yến Phi trong lòng cười khổ. Chàng thực không hiểu Tôn Ân tại sao vẫn nhìn không thấu? Đối với Tôn Ân mà nói, chẳng có việc gì quan trọng hơn là phá không mà đi. Nghĩ đến đây, trong lòng Yến Phi chợt động, dừng hẳn lại trên một đỉnh đồi nhỏ. Bốn bề là khoảng không đen tối vô tận.

Đúng! Tôn Ân là người có trí tuệ, tuyệt sẽ không làm những việc vô vị. Nếu đã như thế, lão ước hẹn cuộc chiến với mình khẳng định là có liên quan đến tiên môn.

Nghĩ tới đây, Yến Phi chút nữa thì toàn thân toát mồ hôi lạnh.

Chàng cuối cùng cũng khám phá được động cơ Tôn Ân ước hẹn cuộc chiến với chàng, đồng thời nắm được yếu quyết đánh bại Tôn Ân.

Bỗng nhiên chàng cảm ứng thấy đang bị người nào đó nhìn. Người kia ở một nơi cao cách đây bảy, tám dặm đang nhìn chàng tràn đầy vẻ thù địch.

Với công phu tu dưỡng của Yến Phi mà trong lòng cũng thấy ớn lạnh.

Đối phương khẳng định không phải Tôn Ân, nhưng cũng là cao thủ hiếm có gần bằng Tôn Ân.

Người này là ai?

Chú thích

* Diệu tưởng thiên khai: Chỉ những ý tưởng kỳ cục, khác người.Vào canh hai, Dạ Oa Tử bỗng nhiên sôi lên sùng sục vì các tờ thông báo treo giải thưởng vẫn còn chưa ráo mực giống như tuyết từ trên trời rơi xuống, đồng loạt xuất hiện khắp các nẻo đường Biên Hoang tập. Những tờ thông báo này được dán ở những nơi dễ nhìn thấy nhất, ghi rõ quy tắc trao thưởng, lại có ghi gợi ý. Ví dụ như người cần truy tìm giỏi thuật dịch dung tới mức có kỳ thuật có thể cải biến cả thể hình, cảm giác giống như là Hoa Yêu.

Chỗ ngoạn mục nhất là bốn chữ lớn dùng chu sa đỏ chói viết “HOÀNG KIM BÁCH LƯỢNG”*. Đối với bất kỳ người nào ở Biên Hoang tập mà nói thì đó là một tài sản vô cùng lớn. Chỉ cần không tiêu hoang phí thì có thể đủ cho một gia đình bình thường sống sung túc đến hai đời.

Không ai nghĩ rằng đó chỉ là trò đùa giỡn cho vui vì người trao thưởng là đại biểu của Biên Hoang tập, do Chung lâu hội nghị đứng ra đảm bảo, do toàn bộ thành viên hội nghị ký tên.

Phản ứng của mọi người thật không ai có thể tưởng tượng được, kể cả người đã nghĩ ra tuyệt chiêu này là Lưu Mục Chi.

Bị ảnh hưởng đầu tiên là quảng trường Cổ Chung lâu. Những người đến đó bán hàng, giờ bỗng nhiên thấy có cơ hội phát tài lớn, lại bị hạn chế thời gian nên vội vàng thu thập sạp hàng, toàn tâm toàn ý tham gia vào việc tầm bảo. Tiếp đó, tình hình tương tự lan rộng ra khắp các cửa hàng, cơ sở làm ăn ở Dạ Oa Tử. Người nào cũng đóng cửa tiệm, chạy ra đường tham gia náo nhiệt.

Những Hoang nhân và khách từ nơi khác đến Dạ Oa Tử uống rượu vui chơi đều không vì thế mà lấy làm khó chịu. Họ còn cảm thấy đó là một trò chơi rất kích thích, liền kết thành đội ngũ truy tìm người vẽ trên thông báo trao thưởng.

Người Dạ Oa Tử vốn hiếu sự, bình thường đã luôn muốn kiếm việc gì đó để làm. Huống chi giờ là lúc có trò hay nên họ có tổ chức hơn bất kỳ nhóm nào khác, cưỡi ngựa lùng khắp đường to ngõ nhỏ, hò hét quát tháo càng làm tăng thêm không khí náo nhiệt.

Cuối cùng thì tất cả Biên Hoang tập được động viên hết, ánh đèn lửa soi tỏ từng góc phố, kể cả những nơi hoang phế. Công tác điều tra chặt chẽ, liền lạc như thế chưa từng có ở Biên Hoang tập. Nhà cửa trạch viện đều không được bỏ qua. Người nào có chút công phu khinh công liền trèo tường vượt mái truy lùng. Đương nhiên là không ai dám không nghiêm cẩn giữ gìn quy củ của Biên Hoang tập, không thể thừa cơ ăn trộm hoặc lấy tài vật của người khác.

Những chỗ cao đều có người Dạ Oa Tử chiếm cứ giám thị. Chỉ cần Hướng Vũ Điền bị bức phải rời khỏi chỗ ẩn nấp khẳng định sẽ không thoát khỏi mắt họ.

Lưu Mục Chi, Mộ Dung Chiến và Thác Bạt Nghi đứng tại Quan Viễn đài trên nóc Cổ Chung lâu, từ trên cao giám sát toàn bộ tình hình Biên Hoang tập. Chỉ cần hành tung Hướng Vũ Điền bại lộ thì không có chỗ nào là không có người Dạ Oa Tử ở đó phóng pháo hoa báo hiệu vị trí địch nhân. Mấy chục hảo thủ đang chờ lệnh trên Cổ Chung lâu sẽ theo tín hiệu mới nhất để đi vây bắt Hướng Vũ Điền.

Thác Bạt Nghi nói: “Dưới bóng đêm yểm hộ, Hướng Vũ Điền có thể ẩn nấp một thời gian, nhưng khi trời sáng lên thì y khẳng định sẽ không còn chỗ mà giấu mình nữa. Hoang nhân chúng ta đều là lão giang hồ, chỉ cần y giữ đúng lời hứa không rời Tập thì lần này hắn chắc chắn thua rồi.”

Mộ Dung Chiến nói: “Ta lại không có lòng tin như ngươi. Cứ theo như Sóc Thiên Đại nói thì người này kỳ công tuyệt nghệ dùng mãi khong hết. Nghĩ lại Hoa Yêu mà xem! Nếu như không có cái mũi linh của Phương tổng thì ai ngờ được y lại giả trang thành nữ nhân không nhận lầm mới là lạ.”

Thác Bạt Nghi cười nói: “Lưu tiên sinh đã sớm nhận ra điều đó nên điều quy chế đầu tiên là mọi người phải tụ tập thành đội để tiến hành tìm kiếm. Bất cứ người nào đi một mình đều làm người khác sinh nghi. Thử hỏi trong tình huống như vậy, Hướng Vũ Điền làm sao có thể đi lại một mình trên đường được? Vì thế sẽ làm giảm mạnh không gian họat động của y, y chỉ còn cách tìm chỗ nào kín đáo ẩn nấp. Nếu bị phát hiện thì y phải khó khăn rồi.”

Lưu Mục Chi nhìn những bông tuyết vẫn không ngừng rơi xuống, cười nhẹ: “Có tìm được Hướng Vũ Điền hay không tuyệt không quan trọng. Vì ta tin rằng dù có bị phát hiện hành tung thì y vẫn có bản lĩnh thoát thân. Điều quan trọng nhất là làm y nhận định Cao thiếu gia và Tiểu Bạch Nhạn vẫn còn trong Tập. Vậy thì chúng ta đã thành công rồi.”

Mộ Dung Chiến cười khổ: “Ta chính là đang lo lắng việc đó. Xe ngựa giả vờ chở Cao tiểu tử và Tiểu Bạch Nhạn từ Đại Giang bang Tổng đàn đi ra rồi đến Chung lâu này. Nhưng trong tình hình trước mắt thì tên gia hỏa họ Hướng đó khả năng đã ẩn nấp xong xuôi rồi, không thể giám thị được những tình hình phát sinh trong Tập. Ta thực sự sợ tên tiểu tử đó căn bản không biết việc này, vậy thì chúng ta uổng phí tâm cơ rồi.”

Lưu Mục Chi vui vẻ nói: “Chính là tình hình như thế mới có thể lừa được người thông minh như y. Hy vọng là ta không hề đánh giá y quá cao. Theo ta đoán thì y chắc là theo sát sau lưng Trấn Ác, thẳng tới Tổng đàn ở Đông môn, nhìn thấy những nhân vật trọng yếu nhất của chúng ta nhất tề đến đó và cũng nhìn thấy hết sự tình phát sinh. Người quan trọng rời đi chỉ có hai vị. Nếu y quả thực thông minh như thế thì sẽ nghĩ trong Tổng đàn có người cần được bảo vệ nhất. Người đó đương nhiên là Cao thiếu gia rồi.”

Mộ Dung Chiến nói: “Con mẹ nó mà tuyệt đỉnh thông minh thì sẽ không nghi ngờ gì. Chỉ hy vọng là y thông minh nhưng lại bị sự thông minh đó làm hiểu nhầm. Nếu không, tối nay Cao tiểu tử rất nguy hiểm.”

Thác Bạt Nghi nói: “Ta có lòng tin đối với kế nghi binh của tiên sinh. Mấu chốt ở chỗ Hướng Vũ Điền đã phát giác Tiểu Bạch Nhạn cũng mất tung tích. Theo lý lẽ thông thường mà nói thì chúng ta tuyệt sẽ không cho Cao tiểu tử mang Tiểu Bạch Nhạn theo đi tiền tuyến để thực hiện nhiệm vụ. Y làm sao đoán được Cao Ngạn cùng với mỹ nhân đã ngấm ngầm lên đường? Chúng ta cũng chỉ biết việc đó sau khi nó đã xảy ra rồi. Hướng Vũ Điền vì trong lòng hoài nghi nên mới mạo hiểm quan sát phản ứng của chúng ta. Chỗ tối diệu của tiên sinh là hư hư thực thực lựa theo tâm lý của y, cho y thấy phản ứng kịch liệt nhất, sau đó cố tình bày ra nghi trận giả vờ Cao tiểu tử và Tiểu Bạch Nhạn đang ở trong Tổng đàn Đại Giang bang.”

Mộ Dung Chiến gật đầu nói: “Đúng! Ta quả chưa nghĩ tới điểm đó. Theo đạo lý thì Tiểu Bạch Nhạn vừa mới tới Biên Hoang tập, chúng ta về tình về lý đều nên để Cao tiểu tử và Tiểu Bạch Nhạn hưởng thụ một đêm. Sau đó Cao tiểu tử một mình lên đường làm việc.”

Lưu Mục Chi nói: “Hướng Vũ Điền cố ý tiết lộ Danh sách giết người của y là để Trấn Ác lập tức đi cảnh cáo Cao thiếu gia. Tuy nói y từ phản ứng của Trấn Ác lúc đó mà đoán Cao thiếu gia đã rời khỏi Tập, nhưng đó cũng có thể là kế lừa địch cửa Trấn Ác. Vì thế ta dám khẳng định y đối với việc Cao thiếu gia có ở trong Tập hay không vẫn hoài nghi, khó kết luận được. Trong tình hình đó, y rất nhiều khả năng sẽ trúng kế.”

Thác Bạt Nghi trầm ngâm nói: “Nếu như tiên sinh suy luận chính xác thì lúc này Hướng Vũ Điền đang ở chỗ nào đó gần Tổng đàn Đại Giang Bang. Chúng ta liệu có nắm được cơ hội này không?”

Lưu Mục Chi đáp: “Hướng Vũ Điền tuyệt không phải là người hành sự bất biến, mà ngược lại, là người linh động biến hóa làm người khác không nắm bắt được. Y tuy ra vẻ cuồng ngôn, nói cái gì là trong mười hai canh giờ không rời khỏi Biên Hoang tập nửa bước. Nhưng nếu tình thế biến chuyển nhanh chóng, uy hiếp sinh mạng thì y có thể lập tức chạy khỏi Biên Hoang tập, chịu thua trận này thì làm sao đây?”

Thác Bạt Nghi không hiểu: “Câu đó của tiên sinh thì có quan hệ gì tới chuyện ta nói? Phải chăng cho rằng chúng ta không cách nào giết chết y?”

Lưu Mục Chi ung dung đáp: “Ta đang phân tích tâm thái y. Nếu như y quả có ý tùy lúc bỏ chạy thì giờ đang ẩn thân ở rìa Tập, thuận tiện cho việc bỏ trốn. Chỗ thuận lợi nhất cho y chạy trốn khẳng định là Dĩnh Thủy. Tuyệt diệu nhất là nếu nói một cách miễn cưỡng thì Dĩnh Thủy chảy qua một phần Biên Hoang tập, nhưng có thể cho là thuộc bên trong Tập vì bên bờ bên kia có mấy tòa tiễn lâu.”

Mộ Dung Chiến giật mình thốt: “Tiên sinh quả không phụ với danh trí giả. Phán đoán của tiên sinh có thể khẳng định tuy không trúng hẳn nhưng cũng không sai là mấy. Chỗ y tàng thân chắc ở gần Dĩnh Thuỷ để lúc nguy cấp thì có thể dễ dàng nhảy xuống sông trốn đi. Đồng thời lại có thể giám sát tình hình trong Tổng đàn Đại Giang Bang.

Lưu Mục Chi nói: “Từ hành động của Hướng Vũ Điền, chúng ta có thể nhìn ra được chiến thuật của Mộ Dung Thuỳ đối phó chúng ta chính là một kế hoạch chu toàn chỗ nào cũng nắm quyền chủ động. Trước tiên là do Hướng Vũ Điền đánh trận đầu. Chỉ cần y thành công ám sát Cao Ngạn thì không những gây nên đại khủng hoảng ở Biên Hoang tập, mà còn làm người nào cũng cảm thấy nguy hiểm. Thêm vào đó Biên Hoang tập lại mất đi tai mắt thám thính địch tình, do đó sẽ không có sức phản kích quân Yên đang phong toả bắc Dĩnh khẩu.”

Thác Bạt Nghi cười nói: “May là Cao tiểu tử phúc to mạng lớn. Hướng Vũ Điền hai lần ám sát gã đều thất bại. Do vậy, Hướng tiểu tử đã gấp lắm rồi. Tối nay đến đây mạo hiểm mục đích cuối cùng cũng là để giết Cao tiểu tử.”

Mộ Dung Chiến nói: “May là y từng bị khám phá nơi ẩn thân khiến trong lòng cố kỵ nên mới phải đợi trời tối mới dám vào Tập, đã mất thời cơ tốt nhất để đối phó Cao Ngạn.”

Thác Bạt Nghi nói: “Có thể là như thế. Nhưng còn một khả năng khác là y sau khi thất bại trong việc ám sát ở Dĩnh Thuỷ, lập tức đi tới bắc tuyến, tiếp xúc với người Yên để thu thập tin tức tình báo mới nhất. Sau đó mới quay trở lại Biên Hoang tập, y càng rõ hơn nhiệm vụ quan trọng nhất trước mắt là làm thịt Cao tiểu tử.”

Lưu Mục Chi nói: “Cao thiếu gia thực có tác dụng quan trọng như thế sao? Nếu luận võ công thì ở Biên Hoang tập này không thiếu người thắng gã.”

Mộ Dung Chiến giải thích: “Cái đó cần chia thành hai phương diện mà xét. Trước tiên là tình thế đặc thù của Biên Hoang tập. Khu vực hơn trăm dặm từ đây tới Tứ Thuỷ không có bóng người, chỉ có những đồng hoang thôn phế, chính là điểm mù về tình báo. Nếu muốn sưu tập tin tình báo, nắm được hư thực trong bố trí của địch thì chỉ còn cách phái thám tử đi. Địch nhân đương nhiên hiểu rõ tình hình này nên tất sẽ dùng mọi thủ đoạn phong toả tin tức. Trong tình hình đó, chỉ có loại thám tử xuất sắc nhất như Cao Ngạn mới có thể hoàn thành nhiệm vụ còn sống trở về. Một người khác cũng có tư cách đó là Yến Phi, nhưng hắn thân ở phương Nam. Giống như lần trước phản kích Biên Hoang tập toàn là nhờ vào Yến Phi ngấm ngầm tiến vào trận địch nên mới có thể một trận thành công.”

Thác Bạt Nghi tiếp lời: “Cao Ngạn là nhân tài thám tử trời sinh. Không những đầu óc linh hoạt, tinh thông thuật thám sát, mà còn có trí nhớ kinh người. Nhìn qua cái gì là một lần thì tuyệt sẽ không quên, sau đó gã có thể thuật lại không hề sai sót. Về kỹ năng đó thì ở Biên Hoang tập không ai bằng gã. Chỗ mà gã làm người ta yên tâm nhất là những pháp bảo đầy người, sáng lập kỷ lục đáng tự hào là chưa có ai trong phạm vi Biên Hoang có thể truy đuổi được gã. Nếu không, gã đã không nổi tiếng ở Biên Hoang tập như thế. Ngày trước Phù Kiên vào Tập thì chỉ có một mình gã có thể an toàn rời khỏi.”

Lưu Mục Chi thở nhẹ một hơi nói: “Ta hiểu rõ rồi. Hy vọng lần này cũng không là ngoại lệ. Thời gian không còn nhiều nữa!”

Mộ Dung Chiến phát ra mệnh lệnh. Tám vị nữ binh phụ trách đèn hiệu đang đứng đằng sau ba người liền vội bày đăng trận ra truyền tin tức đi, phát huy uy lực chỉ huy trên đài cao.

Dạ Oa tộc nhìn thấy đèn hiệu liền toàn lực truy tìm khi Tổng đàn Đại Giang bang ở Đông môn và khu vực thông với Chung lâu, giả vờ tạo ra quang cảnh hộ tống Cao Ngạn và Tiểu Bạch Nhạn đến đó.

Chỉ cần Hướng Vũ Điền tin rằng Cao Ngạn vẫn còn trong Biên Hoang tập, kéo dài việc rời Tập truy sát gã thì bọn họ đã thành công rồi.

Cao Ngạn bên cạnh Doãn Thanh Nhã thấp giọng hô: “Cục cưng ơi! Dậy thôi!”

Doãn Thanh Nhã xoay người quay lưng lại gã, không dậy, nói: “Trời còn chưa sáng, ngủ thêm chút nữa được không?”

Cao Ngạn thò tay ra nhẹ nhàng nắm lấy vai nàng, lật nàng quay mặt lại. Thấy vẻ mặt đẹp đẽ như đoá hải đường đang ngủ xuân, vẻ phong tình động nhân của nét lười nhác uể oải của nàng, nhất thời gã chết lặng cả người.

Doãn Thanh Nhã bị gã nắm vai, khẽ hé đôi mắt xinh đẹp ra, rồi nàng trợn mắt, ngạc nhiên hỏi: “Ngươi đã thay xong y phục rồi ư? Tại sao ta lại không biết?”

Cao Ngạn khổ sở trấn áp sự rung động trong lòng, đắc ý nói: “Ta có thể vô thanh vô tức làm được rất nhiều việc. Nàng mau dậy đi! Chúng ta phải nhân lúc trời chưa sáng rời khỏi đây tới điểm khởi đầu thứ nhất.”

Doãn Thanh Nhã uể oải bò dậy. Mắt nhắm mắt mở cầm lấy chiếc Bách bảo bào, được Cao Ngạn tận tâm thị hầu, nàng xỏ tay mặc vào, không hiểu hỏi: “Cái gì mà điểm khởi đầu thứ nhất?”

Cao Ngạn kiêu ngạo đáp: “Cao Ngạn ta khác hẳn với những thám tử khác ở chỗ biết làm sao lợi dụng thời tiết. Bất kể là mưa gió mịt mù, gió to tuyết lớn, ta đều có thể biến thành nhân tố có lợi cho ta. Như bây giờ, toàn bộ Biên Hoang bị tuyết dày bao phủ thì 'Tuyết Tường Phi Ngoa' của ta có thể đại phát huy tác dụng. Chỉ cần mượn bóng tối yểm hộ đến được điểm khởi đầu thứ nhất là có thể làm những người truy đuổi đằng sau chúng ta tụt lại mãi xa mà hít bụi. Hà hà! Là hít tuyết thì mới đúng. Đến đây! Mau đến cạnh giường để ta xỏ giầy trượt cho nàng. Ta còn phải dạy nàng cách sử dụng. Nếu như không biết dụng lực thế nào thì đảm bảo nàng sẽ ngã. Ta không biết là phải khổ công suy nghĩ bao nhiêu lâu mới có thể sáng chế ra kỹ thuật kỳ diệu ‘Tuyết Tường’ này đó.”

Doãn Thanh Nhã ngần ngừ dịch đến cạnh giường, thấy Cao Ngạn nâng niu hai bàn chân trần của mình, nàng tỉnh hẳn lại, chanh chua: “Có tin là ta sẽ đạp cho ngươi một nhát không?”

Cao Ngạn cười: “Cần đạp mạnh một chút, để ta chết sẽ hoá thành quỷ yêu nàng vĩnh viễn không rời khỏi nàng nữa.”

Doãn Thanh Nhã rùng mình mắng: “Không cho ngươi doạ ta!”

Tuy nói thế, nhưng có lẽ trời sắp sáng, không còn thời gian chiếm tiện nghi của nàng nữa nên Cao Ngạn thành thực quấn chân cho nàng, rồi đi vào một đôi Phi Ngoa hình dáng giống như là chiếc thuyền đáy bằng.

Doãn Thanh Nhã hoài nghi hỏi: “Đi cái đồ quỷ quái đó vào thì làm sao mà đi dứng được?”

Cao Ngạn mười phần tin tưởng nói: “Rất mau thôi nàng sẽ minh bạch thứ mà ta sáng tạo ra thần kỳ như thế nào. Lúc bình thường mà xỏ cái này vào đi lại trên đường thì đương nhiên là không tiện. Nhưng đi trên mặt tuyết lại là chuyện khác. Chỉ cần nàng biết làm sao để bay lượn, lợi dụng miếng ván trượt hai đầu vểnh lên này thì có thể linh hoạt như con thuyền lướt trên mặt nước đạp tuyết mà đi. Cảm giác đó kỳ diệu không thể tả, tưởng chừng không cần phí sức. Quan trọng nhất là phải giữ thăng bằng và không lưu lại vết tích trên mặt tuyết.”

Doãn Thanh Nhã nói: “Ngươi không cần khoác lác như thế.”

Cao Ngạn hoàn thành nhiệm vụ xỏ giầy liền đứng lên nói: “Có phải là cường điệu khoác lác hay không lập tức có thể biết ngay.”

Doãn Thanh Nhã nói: “Được! chúng ta lập tức đi thử.”

Cao Ngạn cười: “Ta còn phải thu dọn chỗ này đã. Xem này! Phu tế như thế này tìm ở đâu ra? Phục thị nàng tận tận tình tình.”

Doãn Thanh Nhã có chút không vui giúp gã thu thập chỉnh trang để mọi thứ hồi phục tình trạng lúc đầu.

Tất cả chuẩn bị xong, Doãn Thanh Nhã theo sau Cao Ngạn ra cửa. Bên ngoài tuyết vẫn đang rơi, một vùng đen tối u ám.

Cao Ngạn quay đầu lại dịu giọng hỏi: “Đó là tập quán của Nhã nhi à?”

Doãn Thanh Nhã ngạc nhiên hỏi: “Tập quán quái gì?”

Cao Ngạn cười đáp: “Đương nhiên là việc sau khi dậy mà không rửa mặt đó.”

Doãn Thanh Nhã giận nói: “Lạnh như thế này, người ta chưa từng nghĩ tới.”

Cao Ngạn nói: “Chúng ta sẽ theo lộ tuyến mà ta đã tỷ mỷ thiết kế để đi thẳng tới Tứ Thuỷ. Đoạn đường đó đảm bảo an toàn, nhưng sau khi tới Tứ Thuỷ sẽ phải thử thách công phu. May là tên gia hỏa Hướng Vũ Điền đó không biết chúng ta đã rời khỏi Biên Hoang tập. Cái tên gia hỏa xuất quỷ nhập thần đó thật không dễ đối phó.”

Doãn Thanh Nhã không vui nói: “Mau mở cửa. Chẳng phải ngươi nói trời sắp sáng sao?”

Cao Ngạn mở cửa ra, tuyết và gió lạnh ùa vào đầy đầu đầy mặt. Cao Ngạn vẫn còn tâm tình quay lại cười nói: “Nàng đừng quên chúng ta từng ngủ chung một giường. Sau này, nàng chỉ có gả cho ta, không được đa tâm.”

Nói xong gã tri cơ liền chạy vụt ra khỏi phòng.

Doãn Thanh Nhã chỉ còn cách đóng cửa lại. Khi nàng đi ra bên ngoài mới phát giác đã không thấy bóng dáng Cao Ngạn đâu. Đáng hận nhất là nàng đi đôi giày quỷ quái này, đi trên đường bất tiện vô cùng. Ở trong rừng càng dễ vấp phải các loại chướng ngại như rễ cây chẳng hạn, không nói đi đến hai bước mà muốn nhấc chân lên đi một bước cũng đã khó khăn rồi.

Khi Doãn Thanh Nhã còn đang thầm chửi Cao Ngạn thì nàng bỗng phát sinh cảnh giác, nhìn về bên trái.

Chỉ thấy một đạo nhân ảnh chân không chấm đất, nhanh như quỷ mị, lại không hề khó khăn trong đám cây rừng rậm rạp. Y dùng tư thế vô cùng kỳ dị lướt như gió về phía nàng.

Doãn Thanh Nhã nghĩ tới khả năng Cao Ngạn đã nói về Bạch Cốt tinh, lập tức sợ đến nỗi hoa dung thất sắc, kêu thét lên: “Cao Ngạn cứu ta! Quỷ đến rồi!”

Nàng đang định bạt kiếm thì quỷ ảnh biến thành Cao Ngạn. Chỉ thấy tên tiểu tử đó rùn người xuống thấp, một tay cong lại thò ra sau lưng, tay kia thì giơ ra phía trước giống như chiêu “Tiên nhân chỉ lộ”. Mắt thấy gã sắp đâm sầm vào nàng đến nơi rồi thì bỗng như có kỳ tích đứng sững lại.

Cao Ngạn đắc ý nói: “Nương tử không cần sợ. Vi phu vẫn còn sống, chưa biến thành quỷ yêu nàng đâu.”

Doãn Thanh Nhã kinh hồn bất định, quên mất cả đôi co tính toán với gã, hay tay nắm lấy tay gã lắc lấy lắc để, vui mừng hỏi: “Ngươi làm sao mà làm được thế?”

Cao Ngạn nghiêm túc nói: “Quan trọng nhất là vấn đề về tư thế. Nàng hạ thấp hai tay xuống, sống lưng thẳng. Đúng rồi! Chính là như thế.”

Doãn Thanh Nhã vui mừng ngoan ngoãn đứng yên. Thấy Cao Ngạn hai tay ôm chặt eo, nàng phản đối hỏi: “Ngươi định làm gì?”

Cao Ngạn ôm eo nhỏ nhắn mềm mại của nàng, chẳng còn biết nhân gian trần thế nữa, hàm hồ đáp: “Chỉ có làm thế này mới kiểm tra được xem tư thế nàng đứng đúng cách chưa. Trò này của ta quan trọng nhất là giữ được thăng bằng. Nhớ kỹ! Luôn phải giữ tư thế thẳng lưng mới có thể hoàn toàn tự do thoải mái phát huy hết mức tính năng Phi Ngoa của ta .”

Doãn Thanh Nhã thấp giọng mắng: “Đã ôm đủ chưa? Tên tiểu tử chết bầm.”

Trong lòng Cao Ngạn vô cùng vui sướng, ghé sát vành tai nhỏ nhắn của nàng, không cho nàng kịp phản ứng, khẩn khoản tiếp: “Sau khi giữ thăng bằng thì đến thân pháp. Đi vào đôi Phi Ngoa của ta thì không thể chạy như bình thường được mà phải thi triển công phu bay lượn. Khi tiếp đất trên mặt tuyết là lúc khó khăn nhất, cần phải rùn thấp người xuống. Trước tiên để Phi Ngoa tiếp đất rồi mượn lực lướt đi, giống như đằng vân giá vũ. Bảo đảm nàng sẽ thích thú mê say.”

Doãn Thanh Nhã mừng rỡ: “Tên tiểu tử ngươi quả nhiên có cách thức quỷ quái. Buông ta ra được không? Ta phải thử chút mà!”

Cao Ngạn dùng dằng một lúc mới buông tay ra.

Doãn Thanh Nhã lại do dự nói: “Trước hết ngươi hãy diễn lại một lần cho người ta xem đã.”

Cao Ngạn nắm lấy tay nàng, cười: “Trước tiên thử công phu thăng bằng. Ra khỏi rừng thì sẽ học tập làm sao mà bay lượn. Đi thôi!”

Bỗng nhiên cước bộ tăng tốc. Doãn Thanh Nhã giữ tư thế thăng bằng, được gã kéo đi băng băng, luồn lách lướt ra khỏi rừng.

Chú thích

* Một trăm lạng vàng.Lưu Dụ tỉnh giấc do thuyền bỗng nhiên chạy chậm lại. Cảm thấy hơi mơ hồ, gã bèn ngồi dậy.

Một lát ngoài cửa có tiếng gõ rồi có người ở ngoài nói: “Lưu gia, có Khổng lão đại đến.”

Lưu Dụ vội vã mở cửa. Khổng lão đại với thần sắc ngưng trọng đi vào khoang thuyền nhỏ hẹp, đằng sau hắn là cao thủ khiển thuyền xuất sắc nhất của Bắc Phủ binh, đã từng vào ra sinh tử cùng với gã - Lão Thủ.

Lão Thủ sau khi đóng cửa lại thì dựa người luôn vào cửa.

Khổng lão đại vỗ vỗ vào vai Lưu Dụ rồi khoác vai hắn đến ngồi ngay cạnh cùng nhau trên chiếc giường gần đó rồi nói: “Ta nhận được tin tức của ngươi nên vội lên thuyền đuổi theo, thật may là không bị lỡ.”

Lưu Dụ nhìn Lão Thủ. Lão Thủ cười khổ không nói gì. Gã cảm thấy có gì không ổn bèn hỏi: “Phát sinh chuyện gì sao?”

Khổng lão đại trầm giọng: “Phát sinh rất nhiều chuyện. Trước khi Lưu Lao Chi xuất chinh đã điều Tôn gia đi. Tôn gia tựa như bị người của Lưu Lao Chi áp tải. Lưu Lao Chi mặc dù nói điều chuyển chức vụ của Tôn gia nhưng không ai biết Tôn gia đi đâu. Nói không chừng đã bị hắn hại rồi.”

Lưu Dụ giật mình: “Ta chửi mười tám đời tổ tông nhà lão Lưu Lao Chi. Nếu quả Tôn gia có mệnh hệ gì, ta tuyệt không tha cho hắn.”

Khổng lão đại cũng gằn giọng: “Ta cũng muốn chửi mười tám đời tổ tông tên tiểu nhân ti bỉ đó. Nếu như quả ta phản ứng không nhanh, khẳng định đã chết rồi. Việc làm ăn của ta tại Quảng Lăng cũng bị hắn xoá sạch, lại còn một loạt huynh đệ bị hắn gán các loại tội trạng hàm oan tống ngục. Ta chửi con mẹ hắn. Thù này ta nhất định phải báo.”

Thấy sắc mặt bi phẫn của Lưu Dụ, hắn vỗ vỗ vai gã nói: “Con mẹ tên đó còn chưa dám động vào Tôn gia đâu. Hy vọng Tôn gia cát nhân thiên tướng.”

Lưu Dụ hỏi: “Tình hình hiện tại của ngươi thế nào?”

Khổng lão đại hừ lạnh: “Lưu Lao Chi nghĩ ta chết rồi sao? Không dễ dàng thế đâu. Việc làm ăn của ta ở đâu? Cơ sở của ta ở đâu? Ngươi không phải lo lắng cho ta. Ta sẽ ủng hộ ngươi. Mang cả tính mệnh này để bồi tiếp có được không? Ta vẫn coi trọng ngươi nhất.”

Lưu Dụ nhìn sang phía Lão Thủ.

Lão Thủ huơ tay nói: “Lưu Lao Chi biết ta và các huynh đệ thủ hạ đều hướng về phía ngươi nên đồng loạt cách chức tất cả. Hiện tại Khổng lão đại đang thu nạp bọn ta.”

Lưu Dụ kìm chế bi phẫn trong lòng hỏi: “Hiện tai ai là chủ sự ở Quảng Lăng?”

Khổng lão đại đáp: “Là kẻ không biết xấu hổ Hà Vô Kỵ. Mẹ nó chứ, ta vẫn nghĩ hắn theo Huyền soái bao năm thì cũng phải học được cách phân biệt tốt xấu. Ai ngờ cũng cùng một giuộc với Lưu Lao Chi. Lưu gia ngươi ngàn vạn lần không được bước vào Quảng Lăng nửa bước, nếu không khẳng định sẽ mất mạng.”

Lưu Dụ nhìn Lão Thủ hỏi: “Có cách nào kiếm được một chiến thuyền tính năng siêu việt không?”

Khổng lão đại đáp lớn: “Ngươi hỏi rất hợp lúc. Ta vừa mới mua một chiếc chiến thuyền mới, được tự thân Lão Thủ và các huynh đệ tân trang lại, vốn định dùng khi nguy cấp sẽ chạy ra hải ngoại. Giờ ngươi đang cần dùng, thì tặng lại cho ngươi.”

Lưu Dụ cảm động thốt: “Đó là thuyền cứu mệnh của ngươi, sao có thể lấy được chứ?”

Khổng lão đại hào hùng đáp: “Mọi người đều là huynh đệ mà còn nói khách khí. Ngươi đã giúp ta kiếm được bao nhiêu tiền, cứ tiện coi đó là hoa hồng đi.”

Rồi quay sang Lão Thủ hỏi: “Thuyền chuẩn bị tốt chứ?”

Hai mắt Lão Thủ lập tức sáng rực, gật đầu đáp: “Lúc nào cũng có thể khởi hành.”

Lưu Dụ nói: “Còn một việc nữa cần bàn với Khổng lão đại, ta muốn mượn Lão Thủ và các huynh đệ của lão…”

Khổng lão đại cười ha hả cắt lời gã: “Đó chính là nguyên nhân ta mang Lão Thủ đến đây đó.”

Lão Thủ “bụp” một cái quỳ thụp xuống, nghiêm cẩn nói: “Lão Thủ và thủ hạ thề dù chết cũng đi theo Lưu gia.”

Lưu Dụ vội đứng bật dậy đỡ Lão Thủ đứng lên. Trong lòng gã thầm thề sẽ có ngày cho Lưu Lao Chi hối tiếc vì việc hắn đã làm.

Tổng đàn của Đại Giang bang ở Đông môn mở rộng cửa, một chiếc xe ngựa với hơn chục người hộ tống từ trong đi ra. Mới nhìn thì thấy bình thường nhưng với người hiểu biết về Biên Hoang tập khi thấy người hộ giá toàn là những nhân vật tối cao có thể suy ra tầm quan trọng của người đang ngồi trong xe. Nếu không làm sao có thể điều động những người này chứ? Toàn bộ Đông đại nhai là người của Dạ Oa tộc đang đi lại, đèn đuốc chiếu sáng như ban ngày, các lâu phòng cao đều có người, cả khu vực đều nằm trong sự khống chế của Hoang nhân. Không nói tới việc Hướng Vũ Điền không thể tiến hành việc ám sát, kể cả hoá thành chim nhỏ cũng khó tránh khỏi mắt mọi người.

Giang Văn Thanh, Trác Cuồng Sinh, Diêu Mãnh, Âm Kì, Phí Nhị Phiết, Trình Thương Cổ, Cơ Biệt, Hồng Tử Xuân, Phương Hồng Sinh và Đinh Tuyên mấy người đều theo cỗ xe đi trên đường, trong lòng hơi băn khoăn vì trong tình huống hiện tại, Hướng Vũ Điền muốn tìm một chỗ ẩn thân cũng khó, nói gì đến chuyện thấy việc phát sinh này rồi ra tay tiến hành thích sát.

Kể cả Hướng Vũ Điền có tự phụ thế nào cũng không có khả năng trong tình huống hiện giờ tập kích xe ngựa, càng không có khả năng thoát thân, đổi là Yến Phi cũng không làm được.

Nếu quả Hướng Vũ Điền căn bản không hiểu điều đó. Nghi trận bọn họ bố trí quả là sự phí phạm thời gian.

Cỗ xe đã đi vào Đông đại nhai, rồi hướng về phía Cổ Chung lâu ở Dạ Oa Tử.

Giang Văn Thanh và Hồng Tử Xuân vai kề vai cùng đi. Giang Văn Thanh cười khổ: “Bọn ta có lẽ đã đánh giá Hướng Vũ Điền quá cao.”

Hồng Tử Xuân chính lúc đang định trả lời bỗng có tiếng kêu thét từ phía Tổng đàn truyền tới.

Mọi người đều ngạc nhiên.

Chẳng nhẽ một kẻ luôn sợ thụ thương như Hướng Vũ Điền trong tình huống không thể tiến hành thích sát như thế này, vẫn bất chấp bản thân mạo hiểm tiến hành sao.

Dạ Oa tộc bốn phía đều lao xao, người lên ngựa thì lên ngựa, kẻ rút đao thì rút đao. Ai ai cũng nghiêm trận chờ đợi.

Tiếng kêu thét càng trở nên kịch liệt.

Bỗng có người trên lâu phòng quát lớn: “Từ trên cao đánh xuống đó.”

Giang Văn Thanh và mọi người ngạc nhiên ngẩng đầu nhìn lên. Nhưng đã chậm một bước.

Chỉ thấy từ trên cao khoảng sáu, bảy trượng trong gió tuyết tung bay xuất hiện một đạo nhân ảnh, tốc độ kinh người tới cực điểm, khi mọi người còn đang nhìn xem có chuyện gì thì thích khách đã ở bên trên cách cỗ xe ngựa hai trượng, nhằm cỗ xe lao tới.

Tiếng hét kinh sợ nổi lên. Hướng Vũ Điền bị ánh đuốc soi rõ từng chân tơ kẽ tóc đã hiện ra, đang bay theo một trái thiết cầu đen bóng to khoảng nửa xích. Một sợi dây xích sắt nối hắn và thiết cầu, như viên đạn pháo bắn thẳng tới cỗ xe.

Mọi người cuối cùng cũng hiểu ra chuyện gì đang xẩy ra, chỉ có cách này hắn mới có thể tránh khỏi mọi người trên đường và người hộ tống đế trực tiếp đột kích cỗ xe.

Tên gia hoả này rõ ràng một mực ẩn nấp trong Tổng đàn của Đại Giang bang, đợi cỗ xe rời khỏi Tổng đàn mới đột nhiên nhảy lên mái chủ đường. Sau đó nhảy lên cao ném thiết cầu nặng hàng trăm cân ra, rồi mượn lực bay của thiết cầu như chim ưng vồ thỏ từ trên cao phát động tập kích.

“Ầmmm!”

Nóc xe vỡ vụn. Cao thủ của Đại Giang bang đang đánh xe vội nhảy tránh sang ngang.

Hướng Vũ Điền liền theo trái cầu tiến ngay vào trong cỗ xe. Nếu quả trong đó có Cao Ngạn và Tiểu Bạch Nhạn, khẳng định hai người lập tức sẽ bị giết ngay tại đương trường.

Đám người Giang Văn Thanh, Vương Trấn Ác và Trác Cuồng Sinh ai ai cũng không sợ mà lại vui mừng thầm nghĩ đây chính là thời khắc để giết chết Hướng Vũ Điền. Tất cả bèn hét lên một tiếng, nhất tề công tới cỗ xe đã bị phá nóc kia. Âm thanh như rồng gầm của Dạ Oa tộc bốn phía cũng trào tới.

Cỗ xe bỗng nhiên hoá thành gỗ vụn bắn tung ra bốn phía. Đám ngựa sợ hãi tức thì mang cả người cưỡi nhảy dựng lên hí ầm ĩ.

Nguyên lại ở bên trong cỗ xe Hướng Vũ Điền dùng thiết cầu đập một vòng biến vách xe bốn phía thành một đám gỗ vụn bắn tung ra. Nội kình bá đạo mạnh mẽ đó chưa ai từng thấy, cũng không ai từng nghĩ là có.

Đám ngựa kéo xe hí lên ầm ĩ, mang cỗ xe không thành hình đó chạy lồng lên trên đại nhai, gây ra một trận hỗn loạn nữa.

Thế công của mọi người lập tức bị đám ngựa hoảng sợ đó cản lại, không sao tạo thành áp lực uy hiếp bao vây được.

Ngay sau đó, Hướng Vũ Điền lúc này đã đứng trên mặt đất lại huy động thiết cầu. Mọi người vừa thầm kêu bất diệu thì thiết cầu đã tích đủ lực đã lao vọt lên trên cao. Hướng Vũ Điền như giao long bay lên, nhoáy chốc đã lên cao sáu, bảy trượng, rồi bay sang ngang tầm hai mươi trượng hướng về phía Dĩnh Thuỷ.

Hướng Vũ Điền trên cao cười nói: “Bản nhân cần phải đến chỗ Cao Ngạn! Thứ cho ta không thể bồi tiếp được.”

Mọi người giương mắt nhìn y đến, rồi lại trơ mắt nhìn y bỏ đi, đến chéo áo của y cũng không chạm vào được, cảm giác khó chịu trong lòng quả khó có thể hình dung.

Chuyện tồi tệ nhất là biến xảo thành vụng, bị Hướng Vũ Điền biết được hướng mà hai người Cao Ngạn, Tiểu Bạch Nhạn đi đến. Nguy hiểm của Cao Ngạn lần này bọn họ không làm gì giúp được, chỉ còn biết trông vào vận số của Cao Ngạn và Tiểu Bạch Nhạn.

Hướng Vũ Điền thật quá lợi hại

Bình minh.

Trước mặt xuất hiện một thôn làng nhỏ, nhưng không có nửa điểm của cuộc sống, nhìn không thấy làn khói bếp đại biểu cho sinh hoạt của dân làng bay lên, cũng không thấy những thanh âm thân thuộc của làng quê như gà kêu chó sủa.

Yến Phi đi đến trước tấm biển tên làng thì dừng bước lại.

Trên biển viết ba chữ “Mã gia thôn”. Dưới biển là xác của sáu bảy con chó. Vết máu vẫn còn chưa khô hẳn.

Trong lòng Yến Phi sát khí bốc lên ngùn ngụt. Từ sau khi giết chết Mộ Dung Văn, chàng hiếm khi có sát khí trong đầu. Nhưng hiện tại thấy mấy con chó vô cớ bị độc thủ mà sinh ra phẫn tức.

Có thể hiểu người hạ độc thủ giết lũ chó là người đến tìm Yến Phi. Chỉ vì chó sủa mà đã ra tay giết ngay, người này khẳng định trời sinh ra đã độc ác.

Yến Phi mặc niệm lũ chó một lát, đè nén nộ hoạ trong lòng, khôi phục lại tâm cảnh lãnh tĩnh, rồi bước vào trong làng.

Chàng cảm ứng thấy đợi chàng không chỉ có một người. Tổng cộng có tất cả ba người, đều là cao thủ gần cỡ với Tôn Ân. Nhưng chàng chẳng chút sợ hãi gì.

Đối phương rút cuộc là thần thánh phương nào?

Chú thích

* Lộng xảo phản chuyết: Đây là thành ngữ chỉ việc khi làm thì nghĩ là thông minh nhưng lúc có kết quả mới biết thực ra là ngu xuẩn. Thành ngữ này đồng nghĩa với “Lộng xảo thành chuyết”Cao Ngạn và Doãn Thanh Nhã cùng lúc nhảy lên ván trượt, cả hai ngiêng người. Sau đó mượn tính năng ván trượt có thể lướt trên mặt tuyết, lướt thẳng về phía trước.

Con dốc dài này được Cao Ngạn gọi “Trường mệnh tà”*, là sườn đồi phía bắc nơi sơn mạch của tiểu cốc. Tuy có mấp mô nhưng địa thế thấp dần về phía bắc, trải dài vài dặm. Cao Ngạn tiện thì lấy đó làm chỗ luyện tập bản lĩnh dùng Phi Ngoa.

Mặc dù mọi kỹ xảo trượt trên mặt tuyết này Cao Ngạn đã cẩn thận truyền thụ hết cho Doãn Thanh Nhã, nhưng động tác nàng vẫn còn ngượng ngập. Lúc gặp phải chỗ mấp mô nếu trượt qua được thì trượt qua. Không trượt qua được bị nhảy bắn lên trên cao thì nàng lại kêu “oa oa”, rồi nghiêng trái ngả phải, ra vẻ sợ hãi bốn phía nhưng lại tỏ ra rất thích cảm giác kích thích đó.

Cao Ngạn ra sức biểu diễn bản lĩnh, toàn nhằm những chỗ địa thế mấp mô để nhảy lên trên cao hoặc lả lướt như gió, hoặc lăng không bay lên giữ được thế trượt của mình.

Chưa đầy một dặm, Cao Ngạn đã bỏ Doãn Thanh Nhã lại ở đằng sau hơn ba mươi trượng.

“A!”

Cao Ngạn giật mình quay đầu nhìn lại, chỉ thấy Doãn Thanh Nhã từ trên dốc ngã lăn xuống mặt tuyết làm tuyết bắn cả lên cho đến khi gặp một bụi cây mới chịu dừng lại, nằm yên không động đậy.

Trượt xuống thì dễ, trượt lên thì khó. Cao Ngạn vội vã thi triển các thủ pháp đi lên dốc, rồi lợi dụng đặc tính ván trượt không bị lún vào trong tuyết, nhanh chóng leo lên đến bên cạnh Tiểu Bạch Nhạn.

Mưa tuyết vừa dừng lại. Bầu trời tuy vẫn bị mây che phủ, nhưng sắc trời đã sáng. Mặt trời đã lấp loá sau những đám mây. Toàn thân Tiểu Bạch Nhạn bị bao kín trong đám quần áo trắng toát, chỉ lộ ra đôi má hồng, đôi môi đẹp mím chặt không ngừng phả ra từng đám hơi mờ, lồng ngực phập phồng.

Cao Ngạn lao tới nắm chặt lấy vai nàng kêu to: “Nhã nhi! Nhã nhi!”

Tiểu Bạch Nhạn mở to đôi mắt đẹp, lấp loáng có thần nhìn hắn rồi duỗi người nói: “Thú vị thật! Hoá ra thế gian có thứ kích thích như thế này.”

Cao Ngạn cất giọng xuýt xoa: “Nhã nhi đau ở đâu? Để ta xoa bóp cho nàng. Công phu ở phương diện này của ta không cần phải nói tốt một lời nào, Nhã nhi sẽ là người hiểu rõ nhất.”

Tiểu Bạch Nhạn lườm hắn một cái rồi ngồi dậy đưa mắt đảo một vòng, tấm tắc khen: “Xem kìa! Trời đất này thật là đẹp. Toàn bộ một màu trắng xoá, có chút lạnh. Ta không ngờ tuyết lại thú vị như thế này. Đeo ván trượt vào, tựa như giải thoát khỏi mọi ràng buộc, biến thành chim bay trên trời tự do tự tại.”

Cao Ngạn hưng phấn nói: “Khó mà được Nhã nhi cùng ý kiến như vậy. Ta thích nhất là xuất động tại nơi băng tuyết thiên địa. Con người ở trên tuyết hoang dã thật tự do tự tại. Tư vị đó làm người ta lưu luyến say mê, tựa như rời khỏi nhân thế, lại như không phải còn là “người” nữa. Sau khi quay lại Biên Hoang tập phải đợi một hồi mới lấy lại cảm giác quay về nhân gian.”

Tiểu Bạch Nhạn ngắm nhìn tuyết trắng trải tít đến tận chân trời, mê man đáp: “Ta hiểu được cảm giác của ngươi. Ở thế giới trắng muốt tinh khiết thế này, đi lại theo cách truyền thống thì vô dụng. Nhưng chúng ta lại vận dùng được công năng của Phi Ngoa lên tới cực hạn, giống như cá bơi dưới nước, chim bay trên trời. Thật sướng chết đi được!”

Cao Ngạn ngạc nhiên nói: “Nhã nhi đã nói được những điều ta nghĩ trong lòng nhưng không biết biểu đạt thế nào. Không ngờ cảm giác của Nhã nhi lại sâu sắc đến thế.”

Tiểu Bạch Nhạn hoan hỉ trừng mắt nhìn hắn một cái rồi dẩu môi xinh đáp: “Ngươi cũng chịu tìm hiểu những gì người khác nghĩ sao? Trong não ngập tràn những ý nghĩ xấu xa, ví như tưởng làm sao chiếm được tiện nghi của người ta. Ngươi mà không thay đổi, xem người ta trừng trị ngươi thế nào.”

Cao Ngạn ra vẻ suy nghĩ thâm sâu gật đầu đáp: “Đúng vậy! Dù không được ôm ấp nhưng được cùng nói chuyện với Nhã nhi cũng là một lạc thú lớn nhất rồi.”

Doãn Thanh Nhã ngạc nhiên săm soi Cao Ngạn, sau đó khó nhọc đứng lên. Cao Ngạn vội giúp nàng rồi lại hướng dẫn tư thế chính xác khi ở trên ván trượt, sau đó không nhịn được hỏi: “Nhã nhi vừa rồi sao lại nhìn ta với ánh mắt cổ quái như vậy?”

Doãn Thanh Nhã cười: “Không nói ra đâu!” Sau đó dùng lực đẩy một cái, Cao Ngạn đứng không vững tức thì ngã ra, lăn xuống dưới dốc.

Doãn Thanh Nhã ngiêng người lướt vọt qua người hắn như chớp, cất thanh âm trong trẻo như một trận gió lùa lại phía sau, cười nói: “Bọn ta đấu lại một trận nữa. Lần này người ta không chịu thua nữa đâu.”

Yến Phi bước vào đình làng, trong lòng cảm khái.

Làng này tuy có quy mô hơn trăm hộ dân. Mặc dù nhà tuy nhỏ, nhưng đầy đủ mọi thứ, phản ánh rõ ràng tình huống an cư lạc nghiệp của dân làng lúc hoà bình.

Tiểu trấn có sông núi bao quanh. Bàn thờ tổ đặt ở trong đình, sau đó là gian thờ tổ tiên. Hàng chục căn phòng bố trí tứ phương theo đúng hàng lối. Đường đi trong làng không thẳng tắp mà men theo địa thế vòng chuyển đến khi gặp con sông nhỏ bao quanh làng thì nối với chiếc cầu đá bắc qua sông. Còn có một tháp đá trấn áp phong thuỷ với miếu thờ ở bốn phía. Dân cư sống trong nhà với vườn xung quanh, hình thành một kiểu kiến trúc vườn nhỏ. Trong làng trồng rất nhiều cây, mộc mạc và giản dị biểu hiện rõ khí tức sinh hoạt tràn đầy, làm người ta có cảm giác như đi vào trong tranh.

Đáng tiếc là tất cả đã thành quá khứ. Hiện tại phòng ốc trống không. Tiểu trấn im lặng như quỷ vực làm Yến Phi càng cảm thụ rõ hơn dân thường vô tội. Chiến tranh đáng sợ như thế sao? Chính là một loại tà ác như thế này.

Yến Phi vượt qua từ đường. Ở phía bên phải không có đến nửa điểm khí tức của cuộc sống dân cư. Một con đường đá chạy dài. Trên đường đằng xa có một người cao gầy đứng đó. Người này có được sự tự phụ và tín tâm của một cao thủ nhưng lại không làm cho người khác thấy khí thế khiếp người của hắn. Yến Phi hiểu rõ hắn không những là cao thủ nhất đẳng mà còn là cao thủ có hoàn cảnh và lai lịch đặc biệt.

Lũ chó bị đồ sát bên ngoài thôn với người này không có quan hệ gì. Đó hoàn toàn chỉ là trực giác mà bản thân Yến Phi cũng không thể giải thích làm sao chàng có thể khẳng định được.

Tướng mạo của hắn chẳng có gì đặc biệt làm người khác phải có ấn tượng, trừ việc có dáng người cao thì mọi thứ đều bình thường. Nhưng Yến Phi luôn cảm thấy hắn không phải người thường, đặc biệt khi mục quang âm lãnh và cẩn trọng của hắn quét qua dò xét chàng.

Gió thu từng trận thổi tới, làm cho trường bào màu xám của đổi phương phải lay động, lộ ra y phục màu đen bên trong.

Yến Phi trực tiếp đi về phía đối phương, khi cách người đó ba trượng thì dừng lại. Nhìn từ xa người này trạc ngoài năm mươi tuổi. Điều đó tuyệt không phải vì dấu vết năm tháng hằn trên mặt lão mà vì đôi nhãn thần linh hoạt của một nhân tài ở tuổi xế chiều.

Mục quang Yến Phi đưa xuống trường kiếm sau lưng lão, ung dung hỏi: “Người chặn đường kia là ai vậy?”

“Bịch!”

Cả con đường đá phảng phất như đều bị rung chuyển một cái. Một âm thanh kêu “A a” thô bạo và đầy vẻ hung tàn từ phía sau truyền tới, sau đó có tiếng người ở phía sau lưng Yến Phi tầm năm trượng nói: “Lão Khuất ngươi nghe thấy không? Lão với hắn chỉ là một kẻ chặn đường mà thôi, cái này gọi là Trường Giang sóng sau đè sóng trước. Mấy lão già không chết như bọn ta xuất lai chỉ tổ mất mặt thôi.”

Yến Phi không cần quay đầu nhìn lại cũng biết đối phương dùng trường côn, thiết trượng nặng nề gì đó gõ xuống đất. Hơn nữa khí công đối phương chuyên về hướng cương mãnh đặc biệt, và đã đạt đến cảnh giới đăng phong tạo cực, có vậy mới có thể phát ra âm thanh và uy thế tranh đoạt người khác như vậy.

Cảm giác tối qua của chàng không sai. Bất luận người phía trước hay cao thủ phía sau đều đã tiếp cận với cao thủ cỡ Tôn Ân. Ngần này cao thủ quyết chí đối phó với chàng, tuyệt không để chàng sống mà rời khỏi trấn này.

Bọn họ rốt cuộc là thần thánh phương nào? Vì sao chưa đưa chàng vào chỗ chết thì chưa dừng lại? Ngay lúc này trong lòng chàng xuất hiện hoa dung của Lý Thục Trang.

Yến Phi chậm rãi hỏi: “Người vừa đến là ai? Sao những con chó vô tội cũng không chịu bỏ qua?”

Người phía sau tỏ vẻ ngạc nhiên nói: “Lão Khuất ngươi nghe thấy không? Cái này là sóng sau loại gì vậy! Tính mệnh của bản thân mình còn không giữ được, còn quản đến chuyện mấy con súc sinh của người khác sao?”

Tiếng cười trong trẻo cất lên. Âm thanh nữ tử dụ người từ trên mái một phòng xá bên phải truyền đến: “Cáp Công, khi nào thì ngươi thay đổi tính cách cuồng vọng tự đại này đi? Người có bản lĩnh sát tử Trúc Pháp Khánh tất có tư cách quản đến chuyện này. Đạo lý đơn giản như vậy mà không minh bạch, uổng cho ngươi hàng chục năm ở giang hồ.”

Yến Phi hơi khẽ giật mình. Nữ nhân mới xuất hiện này trước đó không làm cho chàng cảm ứng chút gì, chỉ điểm này cũng đủ làm chàng không dám khinh thường. Chàng quay đầu sang nhìn, trong lòng không kìm được bỗng sửng sốt.

Nghe thanh âm, Yến Phi cứ nghĩ đối phương là một nữ tử trẻ trung xinh đẹp, có thể người này đã từng có những năm làm nhiều người phải mê đắm. Nhưng đó đã là chuyện của hàng chục năm trước. Hiện tại bà ta chỉ còn là một lão thái thái đầu tóc trắng toát, làm người ta cảm thấy thời gian quả thật vô tình.

Lão già tên gọi là Cáp Công ở đằng sau cười lên tà quái: “Tiểu Vệ, tính nết ngươi đến chết cũng không thay đổi, vừa thấy đối phương tuấn tú đã nổi lòng dâm. Ngươi nói giúp cho người ngoài như vậy sao?”

Yến Phi thở dài: “Bọn ngươi đi đi!”

Cáp Công lại phát ra một tràng cười kỳ quái, cố làm ra vẻ ngạc nhiên hỏi: “Các người có nghe thấy không? Hắn bảo chúng ta lăn đi kìa. Đây là thế giới gì vậy? Hắn dám bảo chúng ta biến đi sao?”

Yến Phi trong lòng thầm nuốt một hơi. Chàng thật sự không muốn động thủ với bọn họ bởi vì chàng đã biết đối phương là người thế nào. Đổi lại trước kia, khi chàng chưa nắm được Tiên Môn Quyết, nếu giao thủ chàng tất bại không nghi ngờ gì. Bởi vì chàng biết rõ thực lực của ba người trước mặt. Hiện tại chàng tuy không nắm chắc phần thắng, nhưng khi động thủ không thể lưu tình. Nếu không người chết chính là bản thân chàng.

Lão Khuất lần đầu tiên cất tiếng: “Bọn ta lần này liên thủ đối phó với Yến tiểu ca cũng là bất đắc dĩ, hy vọng có thể giúp ngươi chết thống khoái. Sau đó ta sẽ an táng tử tế cho tiểu ca. Đây không phải là thù oán cá nhân. Tiểu ca chỉ nên trách mình đoản mệnh.”

Giọng điệu lão chẳng có gì đặc biệt, lại hoà hoãn như xuất phát từ nội tâm. Nhưng Yến Phi vẫn cảm thấy con người không chút đặc biệt này trong ba người là kẻ nguy hiểm nhất. Nếu không để ý đến lão, chàng sẽ gặp phải tai hoạ.

Lão bà được gọi là “Tiểu Vệ” đó cất giọng oanh vàng: “Tiểu Yến Phi à! Ngươi biết nói ra chỉ rước lấy tiếng cười của bọn ta sao lại còn nói những lời ngu xuẩn như vậy? Gần mười năm nay bọn ta bọn ta hiếm khi phải xuất thủ. Giờ ba người cùng đồng thời xuất thủ phá lệ là lần đầu tiên. Từ đó có thể thấy tiểu Yến Phi ngươi làm người ta phiền nhiễu thế nào.”

Cáp Công lạnh lùng nói: “Tiểu Vệ ngươi ngoài chuyện nói thừa thì còn biết nói gì nữa không? Hắn căn bản không biết bọn ta là ai. Có chết cũng vẫn là một con quỷ hồ đồ thôi.”

Yến Phi chậm rãi nói: “Ta đương nhiên biết rõ bọn ngươi là thần thánh phương nào. Vì vậy mới bảo bọn ngươi nên ly khai.”

Ba người đồng thời im lặng không nói gì. Ba cặp mắt chăm chú quan sát chàng.

Yến Phi tiếp tục bình tĩnh nói: “Nhưng có một việc ta thật sự không rõ. Bọn ngươi từ Lý Thục Trang biết được ta đến cuộc hẹn với Tôn Ân, sao không để cho Tôn Ân xuất thủ đầu tiên mà lại chặn ta ở đây? Hoặc sao không ngồi xem ta và Tôn Ân thắng thua thế nào? Rồi mới xem có điểm tiện nghi nào không. Đó mới là thượng sách. Có phải không?”

Sắc mặt ba người không chút biến đổi gì, nhưng Yến Phi cảm giác rõ quan hệ giữa Lý Thục Trang và bọn họ bị vạch trần, trong lòng bọn họ đã bị xao động. Điều này tuyệt không thể giấu được trực giác siêu phàm của chàng.

Lão Khuất gật đầu: “Nói tiếp đi!”

Yến Phi nhíu mày tiếp lời: “Không còn lời nào nữa! Đến lượt bọn ngươi giải thích. Hoặc nếu bọn ngươi là đồng bọn với Trúc Pháp Khánh nên đến tìm ta báo thù cũng tốt. Ta không có thời gian lằng nhằng với bọn ngươi. Hoặc bọn ngươi lập tức ly khai, nếu không thứ cho ta phải đắc tội.”

Cáp Công cất giọng cười âm trầm: “Tiểu tử này tựa hồ như thật sự biết được chúng ta là ai.”

Lão Khuất vẫn với thần thái như vậy bình tĩnh hỏi: “Ngươi thật sự biết bọn ta là ai sao?”

Yến Phi cười nhẹ: “Đã động thủ thì bọn ngươi là ai cũng không quan trọng. Hoặc là mạng nhỏ của Yến Phi này khó giữ được, hoặc là bọn ngươi ôm hận nằm xuống, tuyệt không có khả năng thứ ba. Ta muốn nương tay cũng không có khả năng. Sao phải khổ sở như vậy chứ? Ta với quý môn trước giờ nước sông không phạm nước giếng. Ta không có hứng thú can thiệp đến chuyện gì của quý môn. Đây là lần cuối ta dùng lời thuyết phục ba vị, khi đã động thủ tuyệt không còn cơ hội để nói nữa.”

Lão bà tên “Tiểu Vệ” lại cất giọng cười “oanh vàng” rồi nói: “Hai lão gia hoả không xứng đáng để chết, bọn ngươi có nghe thấy không? Hắn thật sự biết rõ bọn ta là ai, chỉ đơn giản không để bọn ta vào trong mắt.”

Lão Khuất lần đầu tiên để lộ ra nét cười, cất giọng bình tĩnh buồn bã nói: “Giả thiết tiểu Yến Phi ngươi quả thật kéo đổ được ba bộ xương già này, bảo đảm tệ môn không ai dám tìm ngươi để báo thù đâu.”

Yến Phi ung dung cười hỏi: “Hướng Vũ Điền đồ đệ của Mạc Di Minh thì sao?”

Mục quang của chàng thấy Lão Khuất và Tiểu Vệ cuối cùng cũng hiện lên thần sắc ngạc nhiên.

Khí kình cường đại từ đằng sau đánh tới.

Yến Phi mặc dù lưng không có mắt, nhưng hoàn toàn nắm được động tĩnh của Cáp Công phía sau. Cao thủ Ma môn bề ngoài biểu hiện ra vẻ cương liệt táo bạo này tịnh chưa phát động thế công mà chỉ dùng vũ khí nặng nề trên tay phóng xuất một đạo kình khí, nhằm tra xét sự nông sâu của chàng.

Mặc Di Minh có phải là phụ thân của chàng hay không? Giả như đó là sự thật, sao chàng lại không giống Mặc Di Minh một chút gì. Nếu không sao ba người này lại không nhận ra? Nếu như vậy Mạc Di Minh có khả năng lớn không phải cha chàng. Cha chàng phải là một người khác.

Kình khí xâm nhập vào cơ thể.

Yến Phi cười nhẹ: “Cáp Công, kình khí của lão thuộc về ngạnh công ngoại gia. Tuy đã đạt đến cảnh giới đăng phong tạo cực, nhưng so với nội gia chân khí, thuỷ chung vẫn còn một đoạn dài đấy!”

Tiểu Vệ cuối cùng cũng biến sắc. Chẳng những do những lời vừa rồi của Yến Phi mà còn vì thân hình Yến Phi một chút rung động cũng chẳng có. Chàng khẳng khái nghênh tiếp nhất kích từ xa của Cáp Công mà vẫn ung dung như chưa từng có chuyện gì xẩy ra. Mụ thầm nghĩ đổi lại là mụ cũng không thể làm được như Yến Phi khi không dùng kinh mạch hoá giải kình khí của Cáp Công mà lại dùng chân khí hộ thể chống lại, nhưng vẫn tuyệt không để lực sát thương trong kình khí của đối phương xâm nhập vào bên trong chút nào. Bởi vì mụ hiểu được Cáp Công lợi hại thế nào.

Lão Khuất vẫn có dáng vẻ lạnh lùng như không có gì, gật đầu nói: “Quả nhiên là Trường Giang sóng sau đè sóng trước, nhưng càng làm bọn ta muốn giết ngươi hơn. Tôn Ân không làm được thì để bọn ta làm cho. Yến Phi ngươi phải tự lấy làm tự hào. Trong quá khứ hai mươi năm qua, các phái hệ trong Thánh môn bọn ta chưa từng bao giờ phải liên thủ đối phó với bất kỳ người nào. Ta là Khuất Tinh Phủ, hai vị kia là Vệ Nga và Cáp Viễn Công. Đó là tên thật của bọn ta. Nếu quả ngươi có bản lĩnh như vừa nói thì trên đường đến Hoàng tuyền cũng biết được ai là người bồi bạn đi cùng với ngươi.”

Hai người Vệ Nga và Cáp Viễn Công im lặng lắng nghe, tịnh không phản đối chuyện Khất Tinh Phủ báo tên bọn họ. Không khí trên chiến trường bỗng nhiên trở nên khẩn trương. Sự thật vẫn chưa có ai có động tác hay lời nói gây hấn nào, chỉ là sát cơ của ba đại cao thủ của Ma môn đại thịnh làm cho Yến Phi sinh ra cảm ứng vậy.

Yến Phi lắc đầu cười khổ: “Ta thật không hiểu tại sao bọn ngươi dù phải hy sinh tính mạng cũng phải dồn ta vào tử địa? Cố ý nói lộ ra cao tính đại danh, nói cho ta biết điều không được biết, đã làm cho giữa chúng ta không còn lối thoát nào nữa, chỉ hoặc sống hoặc chết mới dừng lại. Nhưng để ta nói với bọn ngươi điều này. Bọn ngươi căn bản không biết đang phải đối mặt với ai, cũng không nắm được sự nông sâu của ta. Khi đã động thủ tất cả mọi người đều không thể dừng tay. Các ngươi coi ta cuồng vọng tự đại cũng được, hay là khuyến cáo cũng được. Đi đi, Yến Phi ta căn bản không có hứng thú đến việc của bọn ngươi.”

Cáp Viễn Công hừm lạnh: “Tiểu Yến Phi ngươi chỉ còn biết tự trách mình mệnh khổ. Bọn ta đã quyết định huỷ diệt ngươi, không một ai có thể cải biến được quyết định đó.”

Vệ Nga uyển chuyển nói: “Kim trượng này chỉ gặp phải bại vong mới dừng lại, đó là sự an bài của vận mệnh, ba người bọn ta không có cách nào để cải biến. Tôn Ân kia cũng có chút tính nhẫn nại. Ta muốn hỏi, ngươi sao lại biết được Lý Thục Trang và bọn ta lại có quan hệ? Sao biết chuyện Mặc Di Minh? Là ai đã nói với ngươi?”

Yến Phi chậm rãi nói: “Là ai nói với ta cũng không quan trọng. Ta chỉ muốn hỏi một câu. Bọn ngươi có nắm chắc được với sức của ba người sát tử được Tôn Ân không?”

Khuất Tinh Phủ mắng: “Ngươi không muốn động thủ với bọn ta, khẳng định là đã hoảng sợ và kinh khiếp. Khi ngươi vừa bước vào trong thôn, trong lòng ngập tràn sát cơ do tức giận với cái chết của mấy con súc sinh. Sao tự nhiên giờ lại không muốn dấy động can qua như vậy?”

Yến Phi trong lòng thầm biết rõ trong ba người thì người này quả thật là cao minh nhất. Chàng trầm giọng đáp: “Nói thật ra cho đến tận bây giờ ta vẫn chưa biết được việc ác nào do Ma môn làm, vì vậy với bọn ngươi có chút lòng không nỡ.”

Chàng lại tiếp tục: “Hiện tại chỉ có một cơ hội cuối cùng. Khi đã động thủ, tuyệt không có cách nào dừng lại.”

Vệ Nga bỗng nhiên hỏi: “Yến Phi, ngươi và Mặc Di Minh có quan hệ thế nào?”

Yến Phi giật mình, lòng chùng ngay xuống, thầm tự hỏi chẳng lẽ Vệ Nga nhận ra nét nào đó của Mặc Di Minh giống mình sao? Vì sao mụ đợi đến lúc này mới chịu “nhận ra” như vậy?

Trong lòng chàng chấn động làm cho ba đại cao thủ Ma môn đồng thời phát sinh cảm ứng. Phát động tấn công đầu tiên vẫn là kẻ thâm tàng bất lộ Khuất Tinh Phủ.

Chỉ một sát na lão đã đến vị trí bên trái của Yến Phi. Tay phải đưa ra sau lưng, tay trái giơ lên thành thế mỏ hạc, mổ thẳng vào phía cổ trái của chàng.

Vệ Nga từ trên cao lao xuống. Người vừa động, kình khí đã cuồng loạn. Khu vực mười trượng xung quanh nơi Yến Phi đứng hình thành một ao kình khí vây hãm. Ma công như vậy, lần đầu tiên Yến Phi gặp phải.

Cuối cùng là binh khí nặng nề của Cáp Viễn Công từ đằng sau, cùng với khí kình cương mãnh kinh nhân trực tiếp đánh tới lưng Yến Phi.

Yến Phi thở dài, đưa tay ra phía sau.

Chú thích

* Trường mệnh tà: Dốc trường thọ.

 Hoàn Huyền ngồi trong sảnh chính nhìn Tiều Nộn Ngọc dẫn một người đàn ông ăn vận theo kiểu văn sĩ đi vào sảnh.

Người này chừng ba mươi tuổi, vóc người cao dong dỏng cử chỉ ung dung, ánh mắt sắc bén, dáng vẻ giống như không ngừng dò xét người khác.

Ấn tượng đầu tiên của Hoàn Huyền đây là người thuộc loại vô tình, mọi chuyện đều dựa trên quan hệ lợi hại, làm điều gì cũng không cảm thấy áy náy vì lương tâm khiển trách, tất cả đều dựa vào vũ lực và mưu kế lãnh khốc để đạt được mục đích.

Người đàn ông cùng Tiều Nộn Ngọc quỳ xuống hành lễ.

Hoàn Huyền nói: “Ngồi!”

Người đàn ông nói: “Kẻ hèn là Tiều Phụng Tiên nguyện trung thành đến chết vì Nam quận công, vĩnh viễn đi theo Nam quận công. ” Nói xong mới cùng Tiều Nộn Ngọc đứng lên, ngồi xuống bên cạnh.

Hoàn Huyền thầm nghĩ, người này có lẽ là nhân tài, nếu có thể khéo lợi dụng hắn không chừng có thể bổ khuyết chỗ trống Can Quy để lại.

Tiều Nộn Ngọc ỏn ẻn nói: “Tam thúc mới đến Giang Lăng, Nộn Ngọc liền dẫn thúc đến gặp Nam quận công!”

Hoàn Huyền trầm giọng nói: “Phụng Tiên đối với chuyến đi Biên Hoang lần này nắm chắc mấy phần? ”

Tiều Phụng Tiên từ tốn nói: “Nam quận công đừng trách tội, Phụng Tiên căn bản không nghĩ đến việc này, càng cho rằng không nên hành động như thế.”

Tiều Nộn Ngọc ngạc nhiên nói: “Tam thúc!”

Tiều Phụng Tiên ra dấu ngăn ả nói tiếp rồi xoay qua Hoàn Huyền nói: “Can Quy bị hại khiến chúng ta trong lòng rất khó chịu, bất quá người đã chết, quan trọng nhất chính là nhìn về tương lai. Hiện tại vận mệnh Ba Thục Tiều gia kẻ hèn đã đặt vào tay Nam quận công cùng nhau tồn vong, mọi chuyện cần lấy đại cuộc làm trọng, ân oán cá nhân chỉ là chuyện nhỏ không đáng bàn đến. ”

Hơi ngừng lại mỉm cười nói: “Nộn Ngọc có thể theo hầu Nam quận công là vinh hạnh của Tiều gia kẻ hèn, đại ca càng cảm thấy an ủi. ”

Mỗi câu của hắn đều đánh thẳng vào tâm khảm Hoàn Huyền. Thật ra Hoàn Huyền vẫn không muốn Nộn Ngọc đến Biên Hoang mạo hiểm, mấy câu cuối cũng càng làm hắn như buông gánh nặng, gạt bỏ tảng đá lớn trong lòng. Bởi vì Tiều Phụng Tiên nói như vậy khác nào Tiều Tung chấp nhận mối quan hệ mới giữa hắn và Tiều Nộn Ngọc.

Thần sắc Tiều Nộn Ngọc tỏ vẻ không chịu nhưng không dám lên tiếng bác bỏ, từ đó có thể thấy phân lượng địa vị của Tiều Phụng Tiên tại Tiều gia và trong lòng ả.

Hoàn Huyền bề ngoài không lộ ra tình cảm trong lòng, bình tĩnh nói: “Không biết tiên sinh có cách nhìn ra sao về tình thế hiện thời ? ”

Hắn đổi sang gọi Tiều Phụng Tiên là tiên sinh, chính là tỏ rõ sự tôn trọng của hắn đối với Tiều Phụng Tiên.

Tiều Phụng Tiên nhìn chăm chú Huyền Huyền hồi lâu, đột nhiên hỏi: “Xin cho phép kẻ hèn lớn gan hỏi Nam quận công một vấn đề.”

Hoàn Huyền bắt đầu cảm thấy người này không chỉ có tầm nhìn, có can đảm hơn nữa hết sức thú vị, bèn gật đầu mỉm cười nói: “Hỏi đi! Ta cũng muốn biết tiên sinh muốn hỏi vấn đề gì!”

Tiều Phụng Tiên hân hoan hỏi: “Kẻ hèn chỉ muốn hỏi Nam quận công có tin số mệnh không?”

Hoàn Huyền ngạc nhiên đáp: “Số mệnh - thứ này quá huyền ảo, ta chỉ có thể nói ta nửa tin nửa ngờ, đã không dám hoàn toàn phủ nhận cũng không dám khẳng định. Vì sao lại hỏi một vấn đề như thế?”

Sắc mặt Tiều Phụng Tiên vẫn bình tĩnh nói: “Bởi vì theo kẻ hèn thấy Biên Hoang tập khí số chưa tận, nên hai lần rơi vào tay Mộ Dung Thùy cuối cùng đều có thể mất đó rồi lấy lại. Điều này tạo nên niềm tin mạnh mẽ của hoang nhân, tất cả các điều kiện hợp lại sẽ hình thành một loại khí số. Khi mỗi một hoang nhân đều tin chắc Biên Hoang tập khí số chưa tận, họ sẽ biến thành một đạo quân đáng sợ. Gay go nhất là họ tuyệt không thiếu anh hùng, giống như Yến Phi ngồi vững vàng trên bảo tọa thiên hạ đệ nhất kiếm thủ. ”

Hoàn Huyền gật đầu nói: “Ta không thể không nói những lời này của tiên sinh khiến ta có thứ cảm giác mới lạ. Nói như thế, có phải tiên sinh muốn chỉ ra rằng ta căn bản không nên chạm đến Biên Hoang tập? ”

Tiều Phụng Tiên nói: “Chỉ trong một tình huống chúng ta có thể chạm đến Biên Hoang tập, chính là khi Yến Phi được tiễn đến hoàng tuyền.”

Hoàn Huyền nhíu mày nói: “Yến Phi quan trọng đến thế ư? ”

Tiều Phụng Tiên đáp: “Yến Phi ở Biên Hoang tập giống như Tạ Huyền ở Bắc Phủ binh, dĩ nhiên cách thức khác nhau nhưng cũng có thể nói là tương tự. ”

Hoàn Huyền nói: “Yến Phi từng thảm bại trong tay Tôn Ân, toàn dựa vào sau đó giết chết Trúc Pháp Khánh mới có thể khôi phục thanh uy. Trúc Pháp Khánh có lẽ chỉ là hạng hư danh, tiên sinh có phải quá đề cao Yến Phi? ”

Tiếu Phụng Tiên từ tốn nói: “Trách nhiệm kẻ hèn là đưa ra các ý kiến để Nam quận công chọn lựa quyết định, nên không thể không nói thẳng, Nam quận công có thể tha trước cho kẻ hèn tội mạo phạm? ”

Hoàn Huyền tinh thần chợt chấn động, cảm thấy hết sức hứng thú cười nói: “Kể từ lúc này tiên sinh nghĩ gì cứ nói, không cần bảo lưu bất kì điều gì.”

Tiếp đó nhìn Tiều Nộn Ngọc đang trề môi gương mặt đầy vẻ hờn dỗi, cười nói: “Nộn Ngọc có thể làm chứng cho câu nói này của ta.”

Tiều Phung Tiên vui mừng nói: “Vậy thứ cho kẻ hèn nói thẳng. Mục tiêu của Nam quận công chắc không phải muốn làm thiên hạ đệ nhị cao thủ, mà là muốn hoàn thành chí hướng Hoàn Ôn đại tướng quân vẫn chưa làm xong, bước lên bảo tọa hoàng đế, có toàn bộ tài nguyên phương Nam, tiếp tục dẫn binh bắc phạt xua đuổi giặc Hồ hoàn thành công nghiệp bất hủ. Đúng không?”

Hai mắt Hoàn Huyền lấp loáng ánh sáng nói: “Nhưng Lưu Dụ sở dĩ có thể hô phong hoán vũ chính vì có Biên Hoang tập hậu thuẫn, không chạm Biên Hoang tập làm sao thu thập cái tên đáng ghét này?”

Tiều Phụng Tiên mỉm cười nói: “Muốn phá Lưu Dụ trước tiên phải phá Biên Hoang tập, lại cần phải giết Yến Phi. Yến Phi vừa mất, Biên Hoang tập sẽ không công tự tan, đây chính là sách lược tốt nhất, không còn biện pháp thứ hai tốt hơn.”

Hoàn Huyền lộ ra thần sắc suy nghĩ, một lúc sau trầm ngâm hỏi: “Không phá Biên Hoang tập làm sao có thể giết Yến Phi ? ”

Tiều Phụng Tiên trong lòng có sẵn sự tính đáp: “ Muốn phá Biên Hoang tập cần phải dùng hành động quân sự với quy mô lớn, và đòi hỏi mạo hiểm rất lớn, nếu có gì sơ xuất sẽ ảnh hưởng đến kế hoạch tấn công Kiến Khang, kẻ trí không làm. Nhưng muốn giết Yến Phi, sử dụng chính là thủ đoạn giang hồ, bất luận thành hay bại đều không ảnh hưởng đến hồng đồ bá nghiệp của Nam quận công, thỉnh Nam quận công minh xét. ”

Hoàn Huyền than: “Không phá Biên Hoang tập làm sao có thể tiêu diệt dư nghiệt Đại Giang bang? Đây chính là điều kiện chủ yếu để Nhiếp Thiên Hoàn chịu hợp tác với ta.”

Tiều Phụng Tiên mỉm cười: “Trong lòng Nam quận công, Nhiếp Thiên Hoàn chỉ là một con cờ hữu dụng, con cờ này bước tiếp theo nên đi thế nào phải do Nam quận công quyết định, không phải do Nhiếp Thiên Hoàn độc đoán hành động.”

Hoàn Huyền suy nghĩ hồi lâu, gật đầu nói: “Ai vì ta giết Yến Phi đây?”

Tiều Phung Tiên nói: “Chuyện này do Phụng Tiên phụ trách thì thế nào?”

Hoàn Huyền nhìn chăm chú hắn, không nói lời nào.

Tiều Phụng Tiên dõng dạc nói: “Hiện nay tình thế thiên hạ hết sức rõ ràng. Tình hình phương Bắc đang là cuộc tranh đấu giữa Thác Bạt Khuê và Mộ Dung Thùy, Biên Hoang tập vì Kỷ Thiên Thiên bị bắt mà cuốn vào cuộc chiến này, trở thành cái gai trong mắt Mộ Dung Thùy dẫn đến đại họa hủy tập nhân vong. Nếu kẻ hèn đoán không sai, Mộ Dung Thùy sẽ thừa dịp mùa đông lạnh giá băng tuyết lấp đường cắt đứt giao thông thủy lộ mạn Bắc Dĩnh Thủy của Biên Hoang tập, đến lúc đó chỉ cần chúng ta kéo chân sau hoang nhân có thể khiến hoang nhân lâm vào tuyệt cảnh.”

Hoàn Huyền nói: “Có phải ý tiên sinh muốn nói công hãm Thọ Dương cắt đứt vận tải đường thủy từ Biên Hoang tập đến phương Nam?”

Tiều Phụng Tiên nói: “Đây là việc chúng ta có thể làm được, luôn tiện làm yên lòng Nhiếp Thiên Hoàn. Do hoàn cảnh địa lý đặc thù của Biên Hoang tập, bất kể ai muốn tấn công Biên Hoang tập đều phải trả cái giá nặng nề. Phương pháp đối phó tốt nhất chính là cắt đứt nguồn sống của nó. Còn tình huống có thể dùng binh với Biên Hoang tập là khi hoang nhân mất đi niềm tin và đấu chí, cách nhanh nhất kích khởi tình huống này đó là giết chết Yến Phi, treo đầu hắn trên đỉnh Chung lâu tại Biên Hoang tập.”

Hoàn Huyền cười lớn: “Nghe những lời này của tiên sinh, hồng đồ bá nghiệp của Hoàn Huyền ta đã thành công một nửa. Tiên sinh đi đường mệt nhọc cần nghĩ ngơi nhiều vào, đêm nay ta sẽ bày tiệc khoản đãi tiên sinh. Đến lúc đó chúng ta tiếp tục trò chuyện, thế nào?”

Tiều Phụng Tiên vui mừng cáo lui.

Giang Văn Thanh đi vào đại sảnh, Mộ Dung Chiến đang ngây người ngồi cạnh bàn, dường như đang suy nghĩ điều gì. Trên bàn đặt một vật dài bao lại bằng vải bố.

Nàng ngồi xuống đối diện với hắn, nói: “Có phải huynh đang lo lắng cho Cao Ngạn? Nhưng lo lắng là chuyện vô ích, chúng ta cần phải cân nhắc lúc tình huống xấu nhất xuất hiện nên ứng biến như thế nào. Trận quyết chiến với Mộ Dung Thùy này đã triển khai toàn diện.”

Mộ Dung Chiến ngạc nhiên nói: “Đại tiểu thư nhất định đuổi theo sau lưng ta, vì bây giờ ghế ta ngồi còn chưa nóng, có điều gì chỉ giáo không? ”

Giang Văn Thanh mỉm cười nói: “Trước tiên nói vấn đề của huynh, huynh có tâm sự gì ư?”

Mộ Dung Chiến có chút buồn bã nói: “Ta bị người ta bán đứng!”

Giang Văn Thanh ngẩn người: “Ai dám bán đứng Chiến soái?”

Mộ Dung Chiến cười cười cay đắng, đẩy bao vải qua Giang Văn Thanh nói: “Đại tiểu thư cứ mở ra xem.”

Giang Văn Thanh theo lời mở bao vải đen ra, thất thanh nói: “Đây chẳng phải thiết bút của Cổ thúc bị Hướng Vũ Điền ‘trưng dụng’ sao? ”

Mộ Dung Chiến than: “Ta lần này thật là bị một vố đau. Mảnh vải đen vốn dĩ bọc trường kiếm của Hướng Vũ Điền, ta mới trở về lại phát giác đã bị người ta đổi mất, dĩ nhiên là tên đó làm. Dù là địch nhân ta cũng phải nói một chữ ‘Phục’. ”

Giang Văn Thanh cũng cảm thấy dựng tóc gáy.

Trong tình hình bình thường, dù với thân thủ như Hướng Vũ Điền muốn ngầm tiến vào đây thần bất quỷ bất giác đổi kiếm cơ hội thành công vẫn rất ít, nhưng trong tình hình hỗn loạn đêm qua Hướng Vũ Điền lại làm được dễ như trở bàn tay. Có thể thấy đổ ước tự phát giữa hắn và hoang nhân thật có hiệu quả một đá ném vài con chim.

Người này quá thông minh.

Giang Văn Thanh nhất thời vẫn chưa hiểu ý, hỏi: “Điều này và việc huynh bị bán đứng có quan hệ gì không?”

Mộ Dung Chiến nói: “Trong tình hình đêm qua, Hướng Vũ Điền muốn thâu thiên hoán nhật, với hắn đúng ra không quá khó khăn, chỉ khó ở chỗ hắn làm sao biết bội kiếm đặt trên cái bàn này.”

Giang Văn Thanh nhíu mày hỏi: “Huynh muốn nói có nội gian?”

Mộ Dung Chiến lắc đầu nói: “Đương nhiên không phải nội gian. Bây giờ điều hoang nhân chúng ta tự hào nhất là không có phản đồ.”

Giang Văn Thanh chợt giật mình nói: “Là Sóc Thiên Đại tiết lộ!”

Mộ Dung Chiến nói: “Đại tiểu thư đoán trúng rồi! Ài! Ta thật không ngờ nàng ta lại bán đứng ta.”

Giang Văn Thanh ngưng thần quan sát hắn một hồi, nói: “Huynh rất có cảm tình với nàng ta phải không?”

Mộ Dung Chiến nói: “Sao không hỏi thẳng có phải ta yêu nàng ta không? Đáp án chính là ‘có lẽ đúng’! Ban nãy ta cứ luôn tìm lý do, tỷ dụ như nàng ta cho rằng chuyện này không có ảnh hương gì lớn đối với ta, nên thuận tiện bán một món ân huệ cho Hướng Vũ Điền … Bất quá trong lòng ta thật không thoải mái.”

Giang Văn Thanh hơi cúi đầu hỏi: “Huynh có dự định gì?”

Mộ Dung Chiến ngạc nhiên nhìn Giang Văn Thanh một cái nói: “Ta vẫn chưa thỉnh giáo đại tiểu thư tìm ta có điều gì muốn nói, vì sao ta lại cảm thấy đại tiểu thư hình như có chút khó mở miệng? Chúng ta đều là người nhà nên chuyện gì cũng có thể thương lượng.”

Giang Văn Thanh nói: “Trước hết trả lời vấn đề của ta, được không ?”

Mộ Dung Chiến cười khổ nói: “Nếu ta nói đại tiểu thư hay ta căn bản không có dự đình gì, chỉ có thể chờ đợi tin tức của Cao Ngạn nhất định sẽ khiến đại tiểu thư thất vọng. Nhưng ta thật nghĩ không ra biện pháp, Hướng Vũ Điền quá lợi hại, chúng ta có thể bảo vệ giao thông giữa Biên Hoang tập và phương Nam đã không dễ dàng gì, chỉ có đợi Yến Phi trở về để hắn phụ trách thu thập Hướng Vũ Điền, chúng ta mới có cơ hội phản kích Yên quân.”

Giang Văn Thanh không biết nói gì.

Mộ Dung Chiến nhìn nàng hồi lâu, đột nhiên nói: “Ta hiểu rồi! Đại tiểu thư có phải muốn tự mình đến phương Nam trợ giúp Lưu gia, nhưng lại cảm thấy thời cơ không thích hợp để rời khỏi đây, vì vậy không tiện mở miệng?”

Thân thể Giang Văn Thanh hơi run, cười khổ: “Để huynh nhìn ra rồi.”

Mộ Dung Chiến mỉm cười: “Đại tiểu thư tính khi nào lên đường?”

Giang Văn Thanh nhìn hắn khổ não nói: “Nhưng…”

Mộ Dung Chiến ngắt lời: “Ta hiểu, sự thật mỗi người trong Biên Hoang tập đều hiểu, bây giờ phải là thời điểm Đại tiểu thư đến phương Nam kề vai chiến đấu với Lưu gia cho đến lúc Hoàn Huyền và Nhiếp Thiên Hoàn bó tay chịu trói. Biên Hoang tập do bọn ta và Yến Phi trông coi, đại tiểu thư yên tâm đi đi! Đúng như lão Trác nói, Biên Hoang tập chúng ta khí số chưa tận, còn Lưu gia đích xác cần đại tiểu thư.”

Giang Văn Thanh hai má đỏ bừng, hơi cúi đầu khẽ nói: “Đa tạ!”

Mộ Dung Chiến bị tư thái yêu kiều của nàng làm phân tâm nhất thời không nói nên lời. Lúc này người hầu đến báo, Thác Bạt Nghi cầu kiến.

Mộ Dung Chiến bất giác thầm kinh ngạc, Thác Bạt Nghi trước giờ không có giao tình gì với hắn, dĩ nhiên vô sự không lên tam bảo điện, lần này vì chuyện gì lại đến gặp hắn?

Hai bên vừa xuất thủ, Yến Phi liền biết dự đoán của mình không sai, trận chiến hôm nay kết cuộc chỉ có một bên bại vong, căn bản không có khả năng nửa đường ngưng chiến.

Đối phương xác thật không ai không là cao thủ cấp tông sư, hơn nữa mỗi người có tuyệt nghệ riêng, phối hợp lại uy lực càng tăng gấp nhiều lần.

Luận đơn thuần dùng chiêu thức, công lực, chàng có thể chịu chưa đến mười chiêu đã biến thành du hồn dã quỷ mất đi thân xác. Thứ duy nhất có thể bảo mệnh chính là Tiên môn kiếm quyết, hơn nữa cần phải dùng toàn lực sát thương đối phương, dồn ba cao thủ đáng sợ này vào chỗ chết trước khi chân nguyên hao tận.

Tình thế khiến chàng không có bất kì dư địa mà nương tay.

Yến Phi chợt lui về sau, nhưng cái lui này tịnh không phải lui để tránh né tầm thường, trong đó ngầm chứa đạo lý ảo diệu tinh vi, tốn rất nhiều thời gian nghiên cứu.

Đầu tiên phải tránh khỏi đòn mổ tới của Khuất Tinh Phủ từ bên trái. Đòn này nhìn bình thường nhưng sự thật vào lúc này lại là chiêu số chết người, khiến chàng chặn thì không ổn, không chặn càng không ổn.

Nếu chỉ hai người đối chiến, chàng chỉ cần Điệp Luyến Hoa xuất vỏ đẩy một cái thì có thể hóa giải, nhưng hai cao thủ ma môn khác đang phân ra công tới từ trên không và phía sau, lúc chàng ngạnh tiếp đòn công kích của Khuất Tinh Phủ cùng là lúc chàng mất mạng, tuyệt không xảy ra khả năng khác.

Theo khí kình ập đến của Vệ Nga càng cổ quái đến cực điểm hoàn toàn bao trùm chàng, không gian quanh mình bộ dạng giống như lõm xuống, chẳng những làm yếu đi cảm quan nhạy bén còn khiến chàng sinh ra cảm giác khó chịu không thể dùng sức, tình huống có chút giống như cá dưới đáy biển sâu gặp phải xoáy nước ngầm thân không tự chủ vô lực vùng vẫy.

Còn thiếu ba tấc thì chộp được chuôi kiếm Điệp Luyến Hoa.

Cả người Yến Phi nghiêng về phía sau, khí kình của Cáp Viễn Công từ sau ập đến, đang nhanh chóng theo vũ khí của hắn tiếp cận, dù Yến Phi có hộ thể chân khí, áp lực lưng chàng có thể chịu đựng đã đến ranh giới sụp đổ.

“Keng!”

Ngay thời khắc quan trọng ngàn cân treo sợi tóc, Điệp Luyến Hoa phát ra tiếng kêu trong trẻo chấn động màn nhĩ.

Yến Phi giống như được đánh thức từ trong mộng ảo, tâm linh trong sáng không chút sơ sót, càng nắm được ba người đang hồi phục lại từ trong kinh hãi, tinh thần hiện ra kẽ hở không nên có. Thác Bạt Nghi ngồi vào chỗ ban nãy của Giang Văn Thanh, mắt nhìn binh khí thành danh của Trình Thương Cổ trên bàn, ngạc nhiên hỏi: “Chuyện này là sao?”

Mộ Dung Chiến sau khi giải thích nói: “Thác Bạt đương gia tìm ta có chuyện gì? ”

Thác Bạt Nghi xoay đầu nhìn về hướng Giang Văn Thanh vừa khuất bóng nói: “Trước tiên ta nhiều chuyện hỏi một câu, sao ta cảm thấy Đại tiểu thư hình như xinh đẹp hơn bình thường? ”

Mộ Dung Chiến cười khổ: “Có thể do người ta gặp chuyện vui nên tinh thần sảng khoái, đại tiểu thư không lâu nữa có thể kề vai tác chiến cùng Lưu gia rửa sạch mối nhục của Đại Giang bang, tâm tình dĩ nhiên sẽ khác, cho nên nàng dung quang đặc biệt rạng rỡ, tỏa ra ánh sáng trí tuệ diễm lệ.”

Thác Bạt Nghi ngạc nhiên: “Ngươi chịu để Đại tiểu thư đi sao? ”

Mộ Dung Chiến giang tay nói: “Đổi lại là ngươi, ngươi sẽ làm thế nào?”

Thác Bạt Nghi lắc đầu cười khổ nói: “Đúng! Đây gọi là thành nhân chi mỹ, huống chi nàng cũng là Đại tiểu thư tất cả chúng ta đều yêu mến. Được rồi! Nói đến chuyện nghiêm chỉnh, ta vừa nhận được phi cáp truyền thư từ Kiến Khang của Yến Phi, truyền về một tin tức kinh nhân khiến người ta nghĩ một trăm lần cũng không hiểu nổi hắn sao có thể biết, chính là Hách Liên Bột Bột bị Mộ Dung Thùy xúi giục nội trong thời gian ngắn sẽ tấn công Thịnh Nhạc.”

Mộ Dung Chiến ngạc nhiên kế đó suy nghĩ, cuối cùng bừng tỉnh nói: “Đúng! Hiện giờ tin tức Nam Bắc đứt đoạn, cả Hoang nhân chúng ta cũng không nắm rõ tình hình phương Bắc, sao Yến Phi có thể biết việc sắp phát sinh tại phương Bắc? Hơn nữa là cơ mật quân sự của Mộ Dung Thùy.”

Song mục Thác Bạt Nghi lấp loáng nói: “Giọng điệu hắn không những khẳng định còn chỉ rõ có Ba Cáp Mã Tư ở giữa đưa lối dẫn đường thúc đẩy sự hợp tác giữa Mộ Dung Thùy và Hách Liên Bột Bột. Đây đã không phải lời đồn thông thường, giống như Yến Phi hắn chính mắt nhìn thấy.”

Mộ Dung Chiến nói: “Có phải lừa gạt không? ”

Thác Bạt Nghi đáp: “Nếu là giả, trái lại đã giải khai tất cả nghi ngờ, nhưng thư này ngàn vạn lần là thật, xác thật bút tích Yến Phi, trong đó còn có vài chữ viết sai giống như sai sót mắc phải lúc hắn học tộc văn thuở nhỏ, tuyệt không có khả năng là thư giả mạo. ”

Mộ Dung Chiến cười khổ: “Chỉ có do chính miệng hắn nói ra đáp án, chúng ta căn bản không biết đường suy đoán.”

Lại nói: “Ngươi tính làm sao? ”

Thác Bạt Nghi nói: “Tin tức của Yến Phi truyền về ta đương nhiên xử lý nghiêm túc.”

Mộ Dung Chiến nhíu mày nói: “Bây giờ trời đất lạnh giá, tuyết lấp đường đi, bồ câu có thể bay từ Kiến Khang đến Biên Hoang tập đã khá lắm rồi, bây giờ chỉ có dựa vào sức người truyền tin tức đến Bình Thành.”

Thác Bạt Nghi nói: “Ta sẽ phái tám chiến sĩ thân thủ cao cường, công phu khinh công cực giỏi chia làm tám lộ truyền tin đến Bình Thành, chỉ cần một lộ thành công thì hoàn thành sứ mệnh. Họ sẽ vòng qua phạm vi thế lực của địch nhân, tuy tốn thời gian nhiều chút nhưng nói chung đỡ hơn gặp phải Bí nhân.”

Mộ Dung Chiến trầm ngâm giây lát, nói: “Ta bắt đầu tin suy đoán của Vương Trấn Ác, Bí nhân đến Biên Hoang chỉ có một mình Hướng Vũ Điền.”

Thác Bạt Nghi gật đầu nói: “Ta cũng nghĩ qua vấn đề này. Bí nhân lần này đáp ứng Mộ Dung Thùy ra tay trợ trận chắc phải có điều kiện, ví dụ chỉ cần Mộ Dung Thùy công hãm Bình Thành Bí nhân sẽ tập trung toàn lực đối phó tộc ta, đến Biên Hoang thì chỉ có một mình Hướng Vũ Điền. Ài! Chỉ một mình hắn đã đủ làm bọn ta đau đầu.”

Mộ Dung Chiến nói: “Tám tín sứ của ngươi lên đường rồi ư?”

Thác Bạt Nghi nói: “Họ đang chuẩn bị hành trang, sau khi ta trở về họ lập tức lên đường, đoạn đường đến Tứ Thủy sẽ mượn cước lực khoái mã, đến Tứ Thủy mới bỏ ngựa qua sông.”

Mộ Dung Chiến than: “Yến Phi trong thư có đề cập hắn khi nào về không?”

Thác Bạt Nghi đáp: “Hắn nói trong vòng mười lăm ngày sẽ trở về.”

Mộ Dung Chiến chán nản nói: “Hy vọng lúc hắn trở về vẫn thấy Cao Ngạn sống sờ sờ, nếu không dù hắn phân thây Hướng Vũ Điền thành vạn đoạn chúng ta vẫn bỏ lỡ thời cơ Nam Bắc giáp kích Mộ Dung Thùy, hơn nữa sẽ thua rất thảm.”

Mộ Dung Chiến cười khổ tiếp tục: “Mộ Dung Thùy ra oai!”

Hai người ngươi nhìn ta, ta nhìn người trong tâm đều đồng cảm.

Mộ Dung Thùy xác thực là bậc thầy quân sự tài ba, cứ mãi dắt mũi họ đi, đầu tiên là lợi dụng thời tiết, chỉ cần số nhân mã có hạn đã cắt đứt liên hệ giữa Hoang nhân và Thác Bạt Khuê, rồi dùng Bí tộc cô lập Thác Bạt Khuê khiến hắn không rảnh tay chi viện; đồng thời lại xúi giục Hách Liên Bột Bột công đả Thịnh Nhạc còn đang xây dựng lại. Đến năm mới Xuân về hoa nở, Thác Bạt Khuê chẳng còn dư lực đối phó cuộc thảo phạt của hắn, còn Hoang nhân có thể tự bảo vệ mình đã là giỏi rồi, nói gì đến cho một đội quân tinh nhuệ lên phương Bắc trợ chiến.

Tình thế ác liệt đến cực điểm, họ lại chẳng có biện pháp.

Biên Hoang tập lẽ nào khí số đã tận?

Cao Ngạn và Tiểu Bạch Nhạn ngồi xổm tựa vào cây cối ngoài rìa, liếc nhìn vùng đồi núi mênh mông ở mặt Bắc, trong thế giới trắng xóa trước mắt chẳng thấy dấu vết người hay thú.

Doãn Thanh Nhã phun ra làn khói trắng nhẹ nhàng nói: “Thật thú vị!”

Cao Ngạn lần này trái lại không có ý loạn tình mê, song mục tinh quang lấp loáng, tập trung tinh thần quan sát con đường phía trước nói: “Thủ đoạn đối phó thám tử hữu hiệu nhất là liệp ưng và ác khuyển đã qua huấn luyện. Cũng may bây giờ thời tiết lạnh giá, địch nhân sẽ không tùy tiện điều động ưng và chó, chủ yếu vẫn dựa vào người canh gác, chỉ cần trong vùng đất mấy chục dặm xung quanh Bắc Dĩnh Khẩu bố trí nhiều tháp canh ở chỗ cao, thì có thể ngăn cản hữu hiệu bọn ta tiếp cận.”

Doản Thanh Nhã thấy hắn nói rõ ràng mạch lạc liền hỏi: “Lần này chúng ta đi thám thính tình hình bên địch, có tác dụng gì không?”

Cao Ngạn giải thích: “Nhiêm vụ của chúng ta là phải nắm rõ quân lực, bố cục chiến lược và thiết lập của địch nhân. Gặp lúc băng tuyết khắp nơi thế này, địch nhân muốn trong thời gian ngắn xây dựng xong lũy trại có sức mạnh phòng ngự cường đại là không khả năng, nên ta phải tự mình đến tiến hành đánh giá chuẩn xác tình thế địch nhân, sau khi về tập đưa ra báo cáo tường tận cho Hoang nhân huynh đệ của ta, rồi quyết định sách lược phản công, đây gọi là tri kỷ tri bỉ. Cho nên chuyến thám thính lần này thật sự quan hệ đến thành bại của cuộc chiến giữa Mộ Dung Thùy và Hoang nhân bọn ta, bởi tác dụng có tính quyết định nên không cho phép có sơ sót. ”

Doãn Thanh Nhã gật đầu nói: “Ta bây giờ bắt đầu hiểu vì sao nhiều người trái lại sẽ hỏng việc. Ồ! Chúng ta căn bản không biết trạm gác địch nhân đặt tại đâu, làm sao có thể qua mắt chúng? Chúng ta có nên đợi trời tối rồi hành động không?”

Cao Ngạn ngạo nghễ nói: “Cao Ngạn ta là loại chỉ có hư danh sao? Nói cho nàng hay, trời tối ngược lại càng nguy hiểm, Yên nhân nhất định sẽ thả liệp ưng ra, sau khi phát giác có điểm khả nghi liền phái xuất tinh kỵ và ác khuyển từ các doanh trại rải rác khắp các cứ điểm chiến lược đuổi tới, chúng ta chắc chắn khó chạy khỏi kiếp số. Trái lại ban ngày an toàn hơn, chỉ cần chúng ta có thể dựa vào địa thế đoán trước một bước vị trí trạm gác của địch nhân, thì có thể đi như chỗ không người. Điều này để ta lo, lúc ta đi khắp Biên Hoang lũ Yên nhân vẫn còn đang bú sữa mẹ.”

Doãn Thanh Nhã mắng: “Ngươi chỉ biết nói khoác. Theo ngươi nói càng tiếp cận Bắc Dĩnh Khẩu càng dễ dàng bị phát giác, cộng thêm Bí nhân thần xuất quỷ một, chúng ta không có khả năng đến gần doanh trại địch nhân.”

Cao Ngạn đưa tay ôm bờ vai mềm của nàng cười nói: “Người khác làm không được, trái lại sao làm khó được Cao Ngạn ta? Hà! Cao Ngạn ta sở dĩ có thể thành phong môi xuất sắc nhất Biên Hoang tập toàn dựa vào đầu óc lão tử linh hoạt hơn người khác, biết lo trước tính sau. Vùng đất có tính chiến lược đặc biệt như Bắc Dĩnh Khẩu, lão tử có bố trí sẵn đài quan sát bí mật, chỉ cần âm thầm đến nơi đó thì giống như ngắm phong cảnh, vừa nhìn rõ mồn một tình hình địch nhân vừa có thể thân mật với Nhã nhi. Khà! Thật sảng khoái!”

Doãn Thanh Nhã nhíu mày: “Ai thân mật với ngươi? Mau bỏ tay thúi ngươi ra!”

Cao Ngạn khôi phục lại bản sắc vốn có, không còn vẻ trầm tĩnh của phong môi, cười hí hửng: “Ôm vai chút xíu có vấn đề gì ư? Nàng không thoải mái hả?”

Doãn Thanh Nhã nhún vai nói: “Ôm một cái hoàn toàn không có vấn đề, huống chi sớm quen bị ngươi ôm rồi. Vấn đề ở chỗ sợ ngươi khống chế không nổi mình còn ta lại không dám đánh ngươi, lúc xảy ra chuyện chẳng những chúng ta đi đứt mà huynh đệ Hoang nhân của ngươi cũng tiêu tùng theo. Hì hì! Ngươi thấy ta nói đúng không?”

Cao Ngạn chán nản thu tay lại, bực bội nói: “Đánh chết ta cũng không tin có tâm pháp luyện công đáng ghét như thế.”

Doãn Thanh Nhã đứng dậy nói: “Ngươi tin cũng được không tin cũng chẳng sao, ta chỉ nói sự thật. Nghỉ ngơi đủ chưa? Chúng ta cần phải đến bờ Nam Tứ Thủy trước khi trời tối, đây là điều ngươi nói.”

Cao Ngạn chợt đứng dậy, một tay phủi tuyết dính trên người một tay vừa muốn ôm Tiểu Bạch Nhạn, Doãn Thanh Nhã đã sớm né ra xa cười yêu kiều nói: “Ngươi tưởng ta không biết chiêu số chiếm tiện nghi người ta của ngươi à? Nhanh lên nào! Tên họ Hướng đó không chừng đang lùng sục chúng ta khắp nơi.”

Cao Ngạn hận đến ngứa răng đuổi theo sau nàng.

“Bùng!”

Thi thể Cáp Viễn Công chạm mặt đất, mấy tấm thạch bản lập tức bể nát. Trước khi rơi xuống đất, cao thủ ma môn này đã sớm đoạn khí.

Khuất Tinh Phủ tránh khỏi thi thể bị ném tới, từ bên trái cấp tốc lướt tới Yến Phi như quỷ mị, nhưng bị cản trở như vậy cuối cùng đã chậm một chút.

Chính vì sai lệch một chút này đã quyết định số mệnh Vệ Nga.

Yến Phi biết đã thu được hiệu quả của việc giáng đòn phủ đầu.

Nhìn bề ngoài, chàng không những bức lui Khuất Tinh Phủ và Vệ Nga còn giết chết Cáp Viễn Công. Sự thật chàng thắng rất hiểm, chỉ cần có bất kỳ sai sót hay là nắm bắt thời gian không chuẩn xác, bây giờ kẻ phơi xác trên đường chính là chàng.

Hiện tại nguy cơ vẫn chưa trôi qua, uy lực liên thủ của hai đại cao thủ ma môn thật sự có sức mạnh hủy đi ‘nhục thân’ của chàng.

Ma công hai người đã đạt đến hóa cảnh, cũng may Điệp Luyến Hoa kịp thời réo vang khiến tâm linh họ xuất hiện kẽ hở không nên có, cộng thêm Tiên môn quyết xuất kì bất ý mới có thể tạo ra chiến công như thế.

Lần này địch nhân quay lại sẽ không tiếp tục phạm sai lầm ban nãy, cách bảo mệnh duy nhất của Yến Phi chính là giết chết Vệ Nga và trước mặt là cơ hội duy nhất.

Dải băng bắn ra từ hai ống tay áo Vệ Nga, một cái quấn lấy cổ, cái khác phất vào ngực chàng.

Yến Phi lui lại một đoạn trên đường.

Dải băng của Vệ Nga như có mắt tùy theo thế rơi nghiêng nghiêng xuống đất của ả, một công vào mặt, một đánh vào hạ âm cay độc xảo quyệt. Mái tóc trắng của ả dựng đứng biểu thị nội công đã đến cảnh giới quán khí vào tóc, gương mặt lại như nước phẳng lặng, không lộ ra tình cảm trong lòng.

Khuất Tinh Phủ vẫn rớt lại sau ả hai bước.

Điệp Luyến Hoa vẽ ra mười mấy vòng tròn lớn nhỏ bất đồng, bày bố Thái Âm chân khí hết lớp này đến lớp khác.

Dải băng của Vệ Nga đụng vào vòng Thái Âm chân khí thứ nhất, lập tức bị cản trở hiện ra hình dáng gợn sóng quỷ dị mà đẹp mắt.

Yến Phi biết chính lúc này liền biến Tiến dương hỏa thành Thối âm phù, lập tức tiếng kiếm rít nổi lên, Thái Dương chân kình từ mũi Điệp Luyến Hoa bắn ra, xuyên qua một loạt mười mấy tầng Thái Âm chân khí ngưng mà không tán.

Một tiếng ‘rắc’ vang lên chấn nhiếp cả con đường, ánh chớp chợt lóe, thiểm điện hình dạng rễ cây như có thể phá nát hư không xuất hiện trước mặt Vệ Nga, thắng bại đã phân.

Dải băng tan nát, trong tiếng rú thê thảm, Vệ Nga văng ngược về sau.

Yến Phi cũng bị lực phản chấn của chân khí ả làm loạng choạng lui lại sau, lúc vẫn chưa hồi khí, Khuất Tinh Phủ đã từ phía sau Vệ Nga đuổi tới, tung ra chưởng ảnh đầy trời, cuồng công mãnh đả, kì chiêu dị pháp nhiều vô cùng tận, nhất thời đánh Yến Phi không còn sức phản kích, chỉ có thể gặp chiêu chiết chiêu, lùi về sau liên tục.

Yến Phi nhất thời vô lực thi triển lại Tiên môn quyết, đành phải lúc dùng Thái Dương chân kình, lúc dùng Thái Âm chân khí, khiến Khuất Tinh Phủ không biết đâu mà lần, dần dần vãn hồi liệt thế.

“Bùng!”

Kình khí giao kích, Yến Phi trước tiên dùng Thái Âm chân khí hút thủ đao của Khuất Tinh Phủ lướt chếch qua cổ, rồi dùng Thái Dương chân khí bức nó ra ngoài, chấn toàn thân đối phương lui lại.

Sau khi trải qua vất vả, chàng cuối cùng tranh thủ được cơ hội thở một hơi để giành chiến thắng.

Yến Phi biết đối phương tích lũy mấy chục năm ma công khí mạch kéo dài, sau khi hồi khí tất phát động một đợt tấn công bài sơn đảo hải khác nên nào dám sơ ý. Yến Phi nghiêng người về phía trước một chút, mũi chân điểm xuống đất, lập tức giống như đạn pháo bắn về phía đối phương, Điệp Luyến Hoan phân trung hạ bổ xuống.

Khuất Tinh Phủ vẫn chưa đứng vững, Điệp Luyến Hoa đã tới.

“Đùng”, khi Khuất Tinh Phủ vội vã ứng chiến, dùng song chưởng bổ xuống ngăn cản Điệp Luyến Hoa, điện quang giữa kiếm và chưởng bùng nổ.

Khuất Tinh Phủ hừ một tiếng bi thảm, lui lại ba bước.

Điệp Luyến Hoa của Yến Phi huy động giữa không trung lại quét về phía vai trái hắn.

Khuất Tinh Phủ tức giận quát một tiếng dùng thủ đao đối đầu chân kiếm, bổ thẳng vào Điệp Luyến Hoa.

Ánh chớp chợt lóe lên.

Khuất Tinh Phủ bị Điệp Luyến Hoa đánh té sang ngang, mắt mũi tai miệng toàn bộ chảy máu, bộ dạng thê thảm chẳng còn phong phạm cao thủ thâm tàng bất lộ trước kia.

Lần này so với lúc đối đầu Sử Cừu Ni Quy, Tiên môn quyết của Yến Phi đã không như ngày xưa, không những thao túng tự nhiên mà còn có thể tuyển chọn góc độ công vào kinh mạch đối phương, bắt đầu có quy mô ‘chiêu thức’, uy lực đương nhiên tăng nhiều lần.

Huống chi Khuất Tinh Phủ đang ở thời điểm nguy hiểm lực cũ vừa kiệt, lực mới chưa sinh, nên hắn lập tức nghĩ tới cách tối hậu.

Yến Phi như hình với bóng, cướp lấy góc độ chết người sau lưng hắn, kiếm theo ý chuyển động, quét ngang hông trái hắn.

Khuất Tinh Phủ gầm lên, không chú ý đến lợi khí đang chém vào hông, một quyền đánh vào mặt Yến Phi, chính là dùng chiêu số đồng quy ư tận.

Yến Phi nói lui liền lui, kiếm chàng thu lại, dưới khí cơ lôi kéo, Khuất Tinh Phủ nhào tới cực nhanh.

Điệp Luyến Hoa lại vẽ hết vòng này đến vòng khác trong không trung, khác ở chỗ không dùng Thái Âm chân kình, chỉ thuần hư chiêu.

Có cái gương trước mắt của Vệ Nga, Khuất Tinh Phủ như chim sợ cành cong nào ngờ Yến Phi lúc này lại lừa gạt, lật đật tránh sang ngang.

Yến Phi đã tích tụ đầy đủ chân lực, quát lớn một tiếng, Điệp Luyến Hoa đâm thẳng tới.

“Đùng!”

Thiểm điện từ mũi kiếm thoát ra, với tốc độ kinh nhân cả Yến Phi cũng nhìn không rõ, đuổi kịp Khuất Tinh Phủ đánh trúng ngực hắn.

Khuất Tinh Phủ như bao bố hoàn toàn không chịu sự điều khiển của mình bị ném bay lên không trung, vang lên tiếng xương cốt toàn thân gãy nát, rồi rơi ầm xuống thạch bản trên đường, sau khi chạm đất thi thể vặn vẹo không tự nhiên.

“Phụt!”

Yến Phi há miệng phun máu tươi đầy trời, thân thể gần như hư thoát, lui sang ngang ngồi xuống bậc thềm trước một ngôi nhà của dân thường, không ngừng thở hồng hộc.

Ba đại cao thủ ma môn phơi thây đầu đường, khiến con đường vắng lặng không bóng người tăng thêm phần quỷ dị âm sâm.

Yến Phi vừa thở vừa tra Điệp Luyến Hoa vào vỏ, trong lòng xuất hiện cảm xúc phức tạp. Chàng thật không muốn giết chết ba người, chỉ hận trong hiểm cảnh ban nãy sinh tử chỉ một ý niệm, chàng không còn chọn lựa khác.

Người ma môn sau này đối đãi chàng ra sao? Từ giờ sẽ không dám động vào chàng? Hay là dốc toàn lực tìm chàng tính sổ? Xem ra dự đoán sau khả năng xảy ra lớn hơn.

Lần này ma môn phái ra ba người đến giết chàng biểu thị ma môn đang tiến hành âm mưu đoạt thiên hạ của họ, bằng không thì họ cần gì phải quan tâm đến chàng? Trước mắt kẻ có tư cách đuổi hươu phương Nam không ngoài những người như Hoàn Huyền, Nhiếp Thiên Hoàn, Từ Đạo Phúc, Lưu Lao Chi và Lưu Dụ. Lưu Dụ dĩ nhiên không có quan hệ với ma môn, nhưng trong những người kia kẻ nào là người của ma môn, hoặc người ma môn nhắm đến và ủng hộ? Chàng thật không có cách tìm ra.

Yến Phi lại thổ ra một búng máu nhỏ.

Ba người này tuy lợi hại nhưng làm bị thương chàng lại là lực phản chấn của Tiên môn quyết.

Mỗi lần thi triển Tiên môn quyết, bản thân chàng ít nhiều cũng chịu chút tổn thương, vì thế cũng làm giảm đi năng lực thi triển Tiên môn quyết, khiến chàng không thể thi triển liên tục, nếu không dù là Tôn Ân cũng phải ôm hận dưới kiếm Yến Phi chàng.

Yến Phi tuy thụ nội thương không nhẹ nhưng không chút quan tâm.

Đối với người tâm mạch đã đứt vẫn có thể nối lại được như Yến Phi, còn gì có thể khiến chàng sợ hãi?Tuyết hoa lại rơi, sắc trời trở nên âm u.

Cao Ngạn và Doãn Thanh Nhã phục trên một ngọn đồi nhỏ, quan sát một doanh trại của địch nhân xa xa ngoài hai dặm.

Doãn Thanh Nhã kề sát tai Cao Ngạn nói: “Bây giờ nên làm sao đây? Chúng ta có thể vòng qua chúng không?”

Hơn mười doanh trại địch thiết lập trên đồi cao nhìn xuống vùng bình nguyên xa gần, giữ chặt các con đường đi đến Tứ Thủy, bên phải là dãy núi chạy dài ngăn cách Đông Tây.

Cao Ngạn đột nhiên nói: “Nghe gì không?”

Doãn Thanh Nhã dỏng tai lên nghe: “Dường như là tiếng chó sủa.”

Cao Ngạn vui vẻ nói: “Chính là tiếng sủa của chó. Hà! Tiếng sủa của chúng thật vui tai.”

Doãn Thanh Nhã mắng: “Hay cho ngươi còn có tâm tình nói ngược, lần này muốn không đi vòng đường xa cũng không được.”

Cao Ngạn mỉm cười: “Binh quý thần tốc, chúng ta làm phong môi chuyến này càng phải lai vô ảnh khứ vô tung, quan trọng ở chữ ‘Khoái’, nếu không dù đem tin tức trở về chỉ là công toi, tin tức mới nhất biến thành cũ, cho tiền cũng chẳng ai chịu nghe nói chi đến bán với giá cao. Chúng ta trước lúc trời sáng nhất định phải đến được đài quan sát ở Bắc Dĩnh Khẩu, nhìn trọn một ngày, thời gian đối phương đổi gác cũng phải rõ như lòng bàn tay, sau hoàng hôn trở về Biên Hoang tập thì đại công cáo thành. Hừ! Trước giờ ta chưa nghĩ qua làm thám tử có thể phong lưu khoái hoạt như vầy, vừa ôm chiếc eo thon của Nhã nhi vừa xem phe địch điều động thiên quân vạn mã.”

Doãn Thanh Nhã tức mình nói: “Bớt nói lời thừa được không? Lần này làm sao qua ải đây?”

Cao Ngạn chỉ dãy núi chạy dài ở mặt Đông nói: “Hoang nhân bọn ta gọi núi này là dãy ‘Tung Hoành’, Dĩnh Thủy nằm ở phía Đông dãy núi này cách hơn sáu mươi dặm, chỉ cần chúng ta vượt qua núi rồi men theo dãy núi đi lên phía Bắc, trước khi trời sáng có thể đến được đài quan sát. ”

Doãn Thanh nhã lo lắng hỏi: “Trong núi có bí đạo không? Tối như thế lại đổ tuyết, leo núi đi đường quá nguy hiểm!”

Cao Ngạn tỏ vẻ đắc ý nói: “Một trong những bản lĩnh hạng nhất của ta chính là đi đêm, về mặt này lão Yến cũng không sánh bằng ta. Một sở trường khác là biết lợi dụng hình thế địa lý, trong núi đương nhiên không thể có bí đạo nhưng ta lại biết lộ tuyến vượt núi dễ dàng nhất, bảo chứng sẽ không lạc đường, ta trước sau đã leo vượt qua núi này hơn mười lần, có thể nói đi mười lần an toàn đủ mười.”

Doãn Thanh Nhã nói: “Nếu như lạc đường, ta sẽ làm thịt ngươi cái tên tiểu tử rất thích tự tâng bốc mình.”

Cao Ngạn đang muốn đáp lời, đột nhiên lộ ra thần sắc chú ý, tiếp đó sắc mặt hơi biến, xoay đầu nhìn về phía sau.

Doãn Thanh Nhã dõi theo ánh mắt gã, chỉ thấy ở đằng xa tuyết hoa bay bay, bụi tuyết bốc lên còn thấp thoáng có tiếng chó sủa truyền đến.

Cao Ngạn chấn động nói: “Hỏng bét! Chúng ta bị lính đi tuần phát hiện rồi. ”

Doãn Thanh Nhã nói: “Có lẽ chỉ trùng hợp thôi, không phải nhắm vào chúng ta.”

Lúc này đã có thể mơ hồ nhìn thấy kẻ đến là mấy chục kỵ binh địch, tiếng chó sủa có xu hướng rõ hơn.

Cao Ngạn vừa thò tay vào chiếc túi trong Bách bảo bào móc ra thứ gì đó vừa nói: “Nếu chúng chỉ tình cờ đi qua thì không chạy hết tốc lực như thế, càng không thả ác khuyển dẫn đường, khẳng định chó đã ngửi được mùi của chúng ta rồi.”

Gã lấy từ trong túi ra một bao vải lớn chừng bàn tay, sau khi lột lớp vải thì ra thì thấy một bình sứ đã đục thủng hơn mười lỗ nhỏ, còn có dây buộc ở cổ bình.

Cao Ngạn một tay nhét bao vải vào lại trong túi, tay kia đeo bình lên cổ, kế đó kéo Doãn Thanh Nhã đứng dậy nói: “Chẳng có sóng gió nào ta chưa gặp qua, đây chỉ là trò trẻ con thôi!”

Lời chưa dứt, “Đùng” một tiếng, một mũi hỏa tiễn ở chỗ những kỵ binh đang tới vọt thẳng lên trời, bùng nổ thành pháo hoa đỏ như máu, trong mưa tuyết mù mịt có gì đó quỷ dị rất khó nói.

Doãn Thanh Nhã thoáng ngẩn người nói: “Chúng đang làm gì vậy?”

Cao Ngạn vội nói: “Chúng muốn thông tri cho người của chúng ở doanh trại phái thêm nhân mã đến trợ giúp, đi nào!”

Kéo bàn tay mềm mại của Doãn Thanh Nhã, trượt xuống đồi như cơn gió, chạy hết tốc lực vào dãy Tung Hoành.

Yến Phi ngồi tại Ngoan Đầu chử+ nổi danh nhất bờ Bắc Thái Hồ.

Ngoan Đầu chử là bán đảo ven bờ tiếp với núi hướng Tây ló vào trong hồ, núi non trùng điệp sơn hòan thủy phục. Ở nơi này gần ven hồ cự thạch nằm trên sóng, vỗ vào tung tóe khí thế hùng vĩ; nhìn ra xa là một vùng xanh biếc nước và trời tiếp xúc với nhau mênh mông không thấy bờ. Nhìn thấy vậy Yến Phi cũng cảm thấy lòng rộng mở, phải tán thán trước sự bao la của biển trời.

Phiêu Miễu phong nơi ước hẹn sinh tử giữa Tôn Ân và chàng nằm ở vùng Nam Thái Hồ, bên kia hồ là hòn đảo lớn nhất và đẹp nhất trong hồ, đỉnh cao nhất của dãy Tây Sơn Động Đình, đứng sừng sững giữa đảo, các đỉnh núi khác đều thần phục quỳ mọp ở bốn phương tám hướng, thắng cảnh cực kỳ hùng vỹ.

Theo lời Tống Bi Phong từng bầu bạn với Tạ An du lãm Thái Hồ, Tây Sơn quái thạch lởm chởm, động huyệt nơi nơi, tùy theo khí hậu biến hóa trời lúc trong lúc ám, thu nguyệt vãn yên, tích tuyết hàn mai* đẹp không thể tả xiết.

Yến Phi đang thể hội biến hóa của tiết trời, vào đêm tiết trời bắt đầu xấu đi, trên cao mây đen dày đặc, một cơn mưa lớn có vẻ không tránh khỏi.

Chàng dùng chủy thủ tùy thân đốn hạ cây gỗ làm một bè gỗ thô sơ để đi đến Tây Sơn Động Đình, đây là phương pháp nhanh nhất lại tránh được người khác quấy nhiễu một cách vô nghĩa và bị bức đại khai sát giới như sáng nay.

Hơn nữa chàng còn muốn tâm bình tĩnh lại, suy nghĩ nan đề trong vũ kỹ. Ba đại cao thủ ma môn làm chàng mang nội thương đến giờ chưa khỏi, nhưng cũng khai mở lĩnh ngộ đối với ‘Tiên môn kiếm quyết’ khiến chàng thu được lợi ích không nhỏ.

Bất chợt một ánh chớp lướt qua trời đêm đen kịt phía bên phải, chiếu sáng Thái Hồ mênh mông, tiếp theo tiếng sấm vang lên chấn động màng nhĩ ong ong, bạo vũ mơ hồ phía xa xa với uy thế che kín cả trời đất, hoành tảo Thái Hồ cuốn tới bóng dáng nhỏ bé của Yến Phi.

Mưa chưa tới cuồng phong đã đến trước, trong ánh chớp không ngừng lóe sáng cây cối sau lưng lắc lư cuồng loạn, trong phút chốc đại vũ rơi ồ ạt lên thân chàng. Trời đất bị đại vũ dung hợp thành một, chàng đã không rõ sấm chớp cái nào trước cái nào sau, tai không còn nghe thanh âm khác của đại tự nhiên, chỉ còn mỗi tiếng mưa gào gió rít và sấm chớp giao thoa ầm ì.

Trời đêm giống như sụp xuống, màn mưa như chớp giật quất xuống tứ bề.

Chàng tưởng tượng trước mắt chỉ là một huyễn tượng nhưng điều đó gây nên cảm nhận không thể nghĩ bàn, cảm giác của Yến Phi thật như một hiện hữu của máu thịt.

Yến Phi chầm chậm đứng dậy, nhấc chiếc bè gỗ bên cạnh lên, bè gỗ đơn giản được chàng dùng sợi mây cột năm thân cây lại, dài không quá sáu thước, tay kia cầm lấy mái chèo chàng từng đao từng đao vót thành, đột nhiên hú dài để phát tiết khí trầm uất trong lòng.

Kế đó chàng ném bè gỗ xuống hồ rồi phóng người lên, đáp xuống bè gỗ nổi bồng bềnh trong sóng to gió rít.

Yến Phi vừa chèo một nhát ở đuôi bè, thủy hoa tung tóe, đẩy bè gỗ đi gần mười trượng, lại một chèo phát ra và chiếc bè giống như tên bắn, phá sóng mà đi trong sấm chớp bạo vũ.

Chàng nghĩ đến Hướng Vũ Điền. Lẽ nào ngoài Tôn Ân và Mộ Dung Thùy thì hắn cũng là kình địch lão thiên gia an bài cho chàng, khiến họ định sẵn là tử địch thế bất lưỡng lập.

Hướng Vũ Điền là người cực đoan biết tự kiềm chế, đối mặt với mỹ nữ mê người phong tư đặc biệt như Mặc Sĩ Minh Dao vẫn có thể không động tâm. Có phải vì lý tưởng của Ma môn hắn nguyện hy sinh mọi thứ khác? Rốt cuộc hắn truy cầu điều gì?

Dù trong Bí nhân, Hướng Vũ Điền cũng là một người thần bí.

Yến Phi khi đó tuy là tình nhân của Mặc Sĩ Minh Dao nhưng cơ hội gặp Hướng Vũ Điền tịnh không nhiều, cũng ít trò chuyện, có một lần nói chuyện tương đối lâu là lần Hương Vũ Điền gặp chàng một mình uống rượu giải sầu chủ động bước đến chào hỏi.

Còn nhớ lần đó hắn và bản thân đàm luận thế giới trong mộng, chia sẻ với mình cách nhìn và tâm đắc đối với mộng của hắn. Hành vi Hướng Vũ Điền tuy thần bí, nói chuyện lại rất thẳng thắn, cũng không che giấu hảo cảm đối với Yến Phi.

Nếu đối địch với một người như thế, trong lòng thật sự khó chịu.

Chiếc bè dưới sự điều khiển của chàng đi trong sóng gió như trên đất bằng, không ngừng tiến sâu vào Thái Hồ.

Chính vào lúc này, chàng tiếp nhận được điều đang mong đợi tha thiết. Triệu hoán tâm linh đến từ Kỷ Thiên Thiên.

Cao Ngạn gỡ bình thông khí nhỏ đeo ở cổ, tiện tay quăng xuống thâm cốc. Để thuận tiện leo núi, họ đã sớm cởi bỏ phi ngoa.

‘Tiểu Bạch Nhạn’ Doãn Thanh Nhã giật mình hỏi: “Sao ngươi ném nó đi?”

Cao Ngạn quàng tay qua ôm lấy eo nàng, thì thầm bên tai: “Nhã nhi mệt không?”

Lúc này họ đã đi sâu vào trong núi, không còn nghe tiếng chó sủa hay thanh âm của truy binh, họ có cảm giác đã thoát khỏi hiểm cảnh.

Trong thâm sơn đọng tuyết, gió thổi tuyết bay như bông xung quanh một vùng tối om, đừng nói tìm đường vì ngay cả thân đang ở nơi nào cũng khó biết rõ nhưng cũng không thấy Cao Ngạn có chút khó khăn nào ở phương diện này.

Doãn Thanh Nhã mặc cho hắn ôm chiếc eo thon nói: “Không mệt! Mau trả lời người ta.”

Cao Ngạn nói: “Vì nó đã hoàn thành nhiệm vụ rồi. Trong bình là sơn thảo dược phấn được ta gọi ‘Mê khuyển tán’,chó ngửi phải nó mũi lập tức mất linh. Nhưng có được cũng có mất, giả như đối phương có cao thủ sở trường truy tung, vẫn có thể dựa vào mùi vị dược phấn truy tìm bọn ta.”

Doãn Thanh Nhã nói: “Sư phụ bảo nếu đối phương xác thực là cao thủ truy tung có thể từ khí tức chúng ta lưu lại mà lần theo dấu vết.”

Cao Ngạn cười: “Nếu như ta dễ dàng bị người theo dấu như thế thì đã sớm mất mạng nào có thể cùng Nhã nhi nói lời âu yếm chàng chàng thiếp thiếp. Hì! Đừng tức giận. Trước tiên là Bách bảo bào của chúng ta có công năng phòng ngừa hơi trong người tiết ra ngoài, trừ phi là mũi thính của chó và thời gian phân cách không lâu, nếu không căn bản không có khả năng bị ngửi thấy, thứ hai bây giờ đang lúc tuyết rơi cũng che đi tất cả mùi vị. Cuối cùng là khi chúng ta đến sườn núi phía Đông thì có thể dựa vào phi ngoa trượt một phát ngàn dặm, cao thủ truy tung gì gì đều bị chúng ta bỏ rơi. Con bà nó, nàng tưởng rằng uy danh thủ tịch phong môi Biên Hoang tập của ta là gạt người lấy về ư?”

“Bùng!”

Thiên không mặt Bắc xa xa bùng nổ một cụm pháo hoa màu bích lục thu hút sự chú ý của họ..

Cao Ngạn nhìn ngẩn ra.

Doãn Thanh Nhã hỏi: “Có gì mà ngạc nhiên đến thế? Địch nhân nhất định đuổi sai hướng rồi.”

Cao Ngạn thần sắc ngưng trọng: “Nàng nhìn lại xem.”

“Bùng!”

Lại một cụm pháo hoa bùng nổ tỏa hỏa quang huyết hồng ở mặt Tây, lần này gần hơn nhiều, cách không đến nửa dặm.

Doãn Thanh Nhã ngạc nhiên hỏi: “Đấy là gì?”

Cao Ngạn thả tay đang ôm nàng ra, bình tĩnh: “Nếu ta đoán không sai địch nhân bên đó dùng một loại thủ pháp phong hỏa** truyền tin, thông báo cho chủ lực phe địch ở Bắc Dĩnh Khẩu biết bọn ta đã xâm nhập phạm vi cảnh giới của bọn họ từ hướng này.”

Doãn Thanh Nhã hỏi: “Pháo hoa lục sắc ban nãy thì đại biểu điều gì?”

Cao Ngạn nói: “Cái đó đại biểu địch nhân ở Bắc Dĩnh Khẩu đã phái ra cao thủ đến trợ giúp nên dùng hỏa tiễn pháo hoa dò hỏi, còn địch nhân đang truy lùng chúng ta phúc đáp vị trí đang ở.”

Doãn Thanh Nhã hung dữ nói: “Chọc giận bổn cô nương, ta sẽ đánh chúng tơi bời hoa lá.”

Cao Ngạn hỏi nàng: “Kẻ đến là Hướng Vũ Điền thì thế nào?”

Doãn Thanh Nhã tức thì ngẹn lời.

Cao Ngạn cười khổ: “Khả năng này cực lớn, vì ngay từ đầu Hướng Vũ Điền đã xem ta là mục tiêu của hắn.”

Doãn Thanh Nhã nói: “Vậy thì làm sao đây?”

Cao Ngạn cười: “Nếu là Hướng Vũ Điền đích thân đuổi tới, là chúng ta còn được thần linh ban phúc, vì chỉ cần chúng ta luôn bỏ rơi hắn ở phía sau thì sẽ càng lợi cho dự tính của ta. Được rồi Nhã nhi lại đây! Thời điểm vui vẻ nhất đã đến!

Gã tiếp tục dẫn Doãn Thanh Nhã leo lên phía trên.

Chiến thuyền mới được mệnh danh ‘Kỳ binh’ thừa phong phá lãng đội mưa đi, không chút sợ sệt sóng lớn trong biển cả, bên trái thấp thoáng nhìn thấy đất liền.

Lưu Dụ đứng ở đầu thuyền, mặc cho nước mưa rơi lên người.

Gã cảm thấy đau đớn như tim bị dao đâm. Sau khi bị Tạ Chung Tú cự tuyệt, gã hơi có cảm giác ủ rủ mất đi mọi hy vọng, nhưng vẫn đang gượng chống đỡ vì gã không thể ngã xuống.

Từ khi cỗ ‘Kỳ binh’ từ Đại giang tiến vào biển cả, trong lòng dâng trào hận ý đối với Tạ Chung Tú mà bản thân gã không hiểu cũng không khống chế nổi. Sau đó mới tỉnh ngộ rằng gã thật sự đã yêu Tạ Chung Tú. Không yêu thì hận đó đến từ đâu? Đã không có ý đối với ta, vì sao lại muốn nhào vào lòng ta?

Lần đầu tiên gặp Tạ Chung Tú là Vong Quan Hiên tại Tạ gia, Đạm Chân khi đó cũng do Tạ Chung Tú đưa lối dẫn đường để nàng có thể gặp Tạ Huyền người nàng sùng bái nhất. Gã dạo đó quả có chút cảm giác tự thẹn kém người trước mặt họ, có thể nhìn được họ đã khó, nói chi đến phát sinh luyến ái.

Bọn họ vì sao có thể làm rung động trái tim gã? Lưu Dụ tự đánh giá không phải là người không biết tự chủ, ở mặt này gã còn hơn cả người thường là khác. Nói cho cùng chính là loại cảm giác không xứng và tự ti, loại tư vị kích thích đả phá cấm đoán của xã hội, và được họ ưu ái khiến gã cảm thấy hết sức trân quý với cảm giác mê người.

Ngăn cách giữa hàn môn và cao môn, có phải là chỉ ý của lão thiên gia không? Bản thân gã vì xúc phạm chỉ ý nên phải chịu sự trừng phạt vô tình tàn khốc nhất, đã làm Đạm Chân chịu nhục mà chết cũng khiến Tạ Chung Tú làm gã tổn thương sâu sắc.

Đối với Tạ Chung Tú gã đã thất vọng triệt để, nàng rốt cuộc đang nghĩ gì? Như ý lang quân trong trái tim nàng là vị công tử nào của cao môn Kiến Khang?

Tống Bi Phong đến bên cạnh, mở dù che mưa cho gã.

Lưu Dụ nói: “Để làm gì chứ?”

Tống Bi Phong thu lại dù hỏi: “Ngươi có tâm sự gì vậy?”

Lưu Dụ cười khổ: “Có ai không có tâm sự? Cứ như vầy ở trên biển cả mặc cho gió thổi mưa tạt, cảm giác há chẳng phải thống khoái sao.”

Mục quang nhìn về xa xa bên trái, nghĩ ngợi rồi nói: “Bên kia biển cả là nơi nào, thật khiến người ta hiếu kỳ.”

Tống Bi Phong biết gã cố ý đổi sang chuyện khác hỏi: “Trong lòng ngươi có phải đang thống hận Lưu Lao Chi không?”

Lưu Dụ thầm nghĩ, cảm giác bản thân đối với Lưu Lao Chi sớm có chút tê dại, ‘thống hận’ hai chữ cũng không đủ hình dung quan hệ giữa hai người, có một ngày gã sẽ buộc tên tiểu nhân phản phúc hối hận sâu sắc về tất cả hành vi hắn đã làm.

Gã đáp lời: “Đối với đệ, Lưu Lao Chi chỉ là một địch nhân giống như Hoàn Huyền hoặc Tôn Ân, đệ sẽ dùng tất cả biện pháp đả kích hắn cho đến khi hắn bại trận. Giữa đệ và hắn không còn tình nghĩa gì để nói, giả như Tạ gia có gì bất trắc, ta nhất định buộc hắn huyết trái huyết hoàn.”

Tống Bi Phong muốn nói gì đó lại thôi.

Lưu Dụ ngạc nhiên: “Tống đại ca muốn nói điều gì? Xin cứ nói thẳng đừng ngại.”

Tống Bi Phong nói: “Tôn tiểu thư có thể sẽ theo Đại tiểu thư rời khỏi Kiến Khang.”

Lưu Dụ nghe đến ba chữ ‘tôn tiểu thư’ trong tim chợt đau nhói, dâng trào tư vị khó chịu nổi nói: “Họ muốn đến nơi nào?”

Tống Bi Phong nói: “Đại tiểu thư vẫn chưa quyết định, mới chỉ có suy nghĩ này thôi. Nàng quả thật nên ra ngoài tĩnh dưỡng cho khuây khỏa, Kiến Khang là nơi thị phi sóng gió, lại làm nàng nhìn vật nhớ người càng thêm uất kết khó giải. Ta tán thành cách nghĩ của Đại tiểu thư.”

Lưu Dụ không nhịn được hỏi: “Tôn tiểu thư vì sao phải theo Đại tiểu thư cùng rời đi.”

Tống Bi Phong nói: “Điểm này ta không rõ, là Đại tiểu thư nói ta hay. Có lẽ tôn tiểu thư muốn tránh Tư Mã Nguyên Hiển hay là cảm thấy Kiến Khang không còn đáng để nàng lưu luyến.”

Lưu Dụ ngầm than, Tạ gia thật sự đã suy tàn, chỉ còn lại cái thứ tiểu tử không biết trời cao đất dày như Tạ Hỗn chống đỡ đại cục. Nghĩ đến phong quang năm đó lúc Tạ An, Tạ Huyền còn tại thế quả khiến người ta cảm thán.

Nghe được tin này gã càng cảm thấy mất mát, song nói không ra nguyên nhân. Từ sau đêm Tạ Chung Tú ‘cự ái’***, gã tốt nhất là nên quên nàng triệt để, không tiếp tục để nàng ảnh hưởng đến tâm tình của bản thân, chỉ hận biết rõ như thế nhưng vẫn làm không được.

Tống Bi Phong khuyên: “Đi vào thôi! Người không phải làm bằng sắt, cứ tiếp tục như vầy rất dễ cảm lạnh.”

Lưu Dụ đặt tay lên đầu vai hắn rồi đi vào trong khoang tàu, cười gượng nói: “Tống đại ca có lệnh, đệ sao dám không tuân? Kỹ thuật lái thuyền của lão Thủ thế nào? Sóng gió biển cả cũng không quật ngã được hắn.”

Tống Bi Phong cười: “Kỹ thuật điều khiển thuyền của lão Thủ trong Bắc Phủ binh nhận đệ nhị thì không có ai dám xưng đệ nhất. Lưu Lao Chi thật hết sức ngu xuẩn, kiên quyết đá lão Thủ qua bên bọn ta.”

Lưu Dụ than: “Lưu Lao Chi nếu là người thông minh sẽ không làm đến mức như hôm nay bốn mặt thọ địch. Chúng ta cần nhớ kỹ điểm này, dù hắn là người tầm nhìn hạn hẹp nói không chừng hắn thật quay lại bên Hoàn Huyền, chuyện này không thể không đề phòng. ”

Lão Thủ đích thân mở cửa khoang tàu đón họ tiến vào.

Khi cửa sau lưng đóng lại, Lưu Dụ hạ lời thề, đây là lần cuối cùng gã nhớ đến Tạ Chung Tú, từ lúc này trở đi gã sẽ dồn toàn bộ tinh thần vào cuộc chiến với Thiên Sư quân cho đến khi phân thắng bại.

Chú thích:

+Ngoan Đầu chử: bãi Đầu Rùa

*tích tuyết hàn mai: trăng Thu khói chiều, tuyết đóng hàn mai

**phong hỏa: Đốt lửa làm hiệu

***cự ái: từ chối tình yêuYến Phi cảm thấy bản thân vùng vẫy thoát ra khỏi sự ràng buộc của nhục thể, trở về miền đất yên ắng của tâm linh. Dù thế giới bên ngoài đầy rẫy phong vũ cuồng bạo nhưng chỉ do thể xác chàng cảm nhận và đảm đương. Tình yêu của Kỷ Thiên Thiên như ngọn lửa hừng hừng, thiêu đốt hồn phách chàng, đó là sự yêu thương và quan tâm nóng bỏng nhất có thể đạt được giữa nam nữ, là ái diễm tình hỏa* có thể chia sẻ cho nhau.

Về thể xác họ vẫn là hai cá thể riêng biệt, nhưng trên tinh thần không còn phân đây đó, tình yêu của họ sâu lắng như thế, cởi mở và mênh mông như thế. Dù chàng muốn nói cho người khác hay lúc này chàng hạnh phúc, mãn nguyện và vui vẻ biết nhường nào, nhưng bất kì lời nào cũng khó mà hình dung được một phần vạn của nó.

Chàng hiểu rõ Kỷ Thiên Thiên cũng có cảm thụ đồng dạng, không còn chút hoài nghi, chính vì phương thức yêu thương đặc biệt tâm tâm tương ấn, sinh mệnh, mộng tưởng, tình cảm và nhớ nhung của họ mọi thứ lộ ra hết sức hoàn mỹ.

Trong tâm linh chàng Kỷ Thiên Thiên kêu gọi từ xa: “Yến lang à! Thiếp đã hồi phục trở lại, điều này không phải rất kỳ diệu ư? Chỉ là thời gian hai đêm ngắn ngủi! Chàng bây giờ ở Kiến Khang ư? Nơi đó đang nổi cơn mưa to gió lớn phải không?”

Yến Phi đáp lời trong tâm linh: “Thiên Thiên cần ghi nhớ cẩn thận, động năng của tâm linh lên xuống giống như thủy triều, trước mắt Thiên Thiên đang ở đỉnh sóng nên có thể nhanh chóng hồi phục trở lại, nhưng đừng quên cũng có thời khắc thủy triều xuống thấp, ngàn vạn lần đừng vì thế mà chán nản thất lạc.”

Kỷ Thiên Thiên đáp lời: “Chỉ cần có tình yêu của Yến lang, Thiên Thiên sẽ trở nên kiên cường. Chàng rốt cuộc đang ở nơi nào vậy? Vì sao thiếp cảm thấy Yến lang dường như không muốn đáp lời thiếp, người ta thật sự cảm nhận được cảm giác nước mưa rơi trên người chàng, nơi đó lại đổ tuyết!”

Yến Phi than: “Ta không phải không muốn nói nàng nghe mà là đang nghĩ xem nên nói với nàng như thế nào. Ta bây giờ đang ở Thái Hồ mưa gió giao thoa, điều khiển chiếc bè nhỏ tiến về hướng Tây Sơn Động Đình, đi dự sinh tử quyết chiến với Tôn Ân, lão đang ở Phiêu Miểu phong đợi ta. ”

Kỷ Thiên Thiên trả lời trong tâm linh: “Vậy phải chúc Yến lang kỳ khai đắc thắng, Yến lang của thiếp sẽ tuyệt không thua Tôn Ân, đúng không? ”

Yến Phi hân hoan đáp: “Ta sẽ không thua. Nhân cơ hội này, ta muốn nói Thiên Thiên hay một kế hoạch liên quan đến hạnh phúc tương lai của chúng ta, để Thiên Thiên hoàn toàn hiểu rõ ta.”

Kỷ Thiên Thiên tràn đầy hứng thú nói: “Thiên Thiên đang nghe!”

Yến Phi trong lòng dâng lên vạn sợi nhu tình, dùng ngôn ngữ đơn giản trực tiếp nhất, thông qua tâm linh truyền đạt không hề bảo lưu mọi chuyện có quan hệ với tiên môn đến Thiên Thiên ngoài ngàn dặm.

Doãn Thanh Nhã nhìn lên trên tắc lưỡi nói: “Ngươi không phải muốn ta trèo qua ngọn núi này à! Người ta không còn sức nữa. Qua ngọn núi này còn ngọn núi khác, đây chính là thứ ngươi gọi đường tắt trong núi sao? Xưng hiệu thủ tịch phong môi của ngươi khẳng định là gạt người ta mà có!”

Nàng lúc này đã hoàn toàn mất phương hướng, xung quanh tối om, việc duy nhất nàng có thể làm chỉ là theo Cao Ngạn không ngừng leo lên cao, đến khi gã dừng lại trên một khối đá nhô ra ở giữa núi, nàng mới thở ra hơi.

Cao Ngạn thở hồng hộc nói: “Đường tắt của ta căn bản không cần đi đường, bảo đảm Nhã nhi nàng hô lớn tuyệt quá. Hà! Nhã nhi theo ta một tâc không rời như thế, có cảm giác tuyệt diệu gả gà theo gà, gả chó theo chó không? ”

Cuồng phong gào rú, tuyết hoa tung bay, càng leo lên cao càng cảm thụ được thiên uy của gió tuyết.

Doãn Thanh Nhã bực bội nói: “Tiểu tử chết tiệt ngươi vào lúc này cũng không quên trêu chọc người ta, ngươi còn không xuất bản lĩnh ra ta sẽ cho ngươi biết tay. ”

Cao Ngạn đột nhiên lộ thần giác cảnh giác, dọa Doãn Thanh Nhã giật mình, nói: “Đừng dọa người ta, gan người ta bé lắm! Có đùa cũng nên tránh việc này.”

Hai mắt Cao Ngạn tinh quang lấp loáng, khiến người ta cảm thấy công phụ dạ thị của gã có điểm khác với cao thủ thông thường, là loại người đặc biệt có dị bẩm thiên phú trong phương diện này. Lúc này gã đang liếc nhìn một ngọn núi ở mặt Bắc.

Doãn Thanh Nhã dõi theo hướng hắn nhìn, ngọn núi này cách họ ít nhất hơn ba mươi trượng, trong tuyết hoa tung bay tối om om không thấy bất kì tình huống khác thường. Vội kề sát tai Cao Ngạn nói khẽ: “Có gì không ổn ư?”

Cao Ngạn đưa tay ôm bờ vai thơm của nàng nói: “Đối diện có địch nhân.”

Lời chưa dứt một tràng cười dài vang lên bên ngọn núi đối diện, Hướng Vũ Điền người khiến họ sợ nhất hiện thân trên một tảng đá lớn nói: “Cao Ngạn, ngươi quả nhiên không thẹn nhân vật hàng đầu trong phong môi Biên Hoang tập lại có bản lĩnh xâm nhập đến chỗ này, bất quá vận may của các ngươi đã không còn! Cao Ngạn ngươi thức thời thì tự kết liễu, như thế ta có thể mặc cho tiểu tình nhân của ngươi rời khỏi.”

Cao Ngạn vẫn chưa trả lời, ‘Tiểu Bạch Nhạn’ Doãn Thanh Nhã đã ‘phì’ một tiếng khinh thường nói: “Người khác sợ Hướng Vũ Điền ngươi còn bọn ta thì không. Ngươi muốn bắt kịp bọn ta vẫn phải xuống núi rồi leo lên, nói suông dọa dẫm có tác dụng rắm thối gì! Ngươi có bản lĩnh thì nhảy qua đây giết bọn ta, đừng chỉ biết ba hoa chích chòe.”

Hướng Vũ Điền cười: “Nhảy qua! Ha ha! Đây lại là đề nghị rất hay, hơn nữa nói trúng tâm sự của ta.”

Doãn Thanh Nhã chế giễu: “Muốn nhảy qua phải không? Trước tiên mọc thêm đôi cánh cho bọn ta xem nào! Ngươi tưởng mình là thứ gì, nhiều lắm chỉ là chó săn của Mộ Dung Thùy.”

Cao Ngạn thần sắc lại ngưng trọng, quan sát Hướng Vũ Điền từ trên xuống dưới.

Lời đối thoại của Hướng Vũ Điền và Doãn Thanh Nhã vang vọng giữa hai núi phá vỡ sự bình hòa và yên tĩnh trong thâm sơn cùng cốc.

Hướng Vũ Điền than: “Ta bây giờ quả có thể xem là chó săn của Mộ Dung Thùy, nhưng có biện pháp gì không à? Cũng may chỉ tạm thời thôi. Ài! Ta phải qua đây! Nếu có chọn lựa, ta nào hứng thú đến đây giết người.”

Doãn Thanh Nhã còn muốn nói tiếp lại bị Cao Ngạn kéo tay quát: “Không ổn! Chúng ta chạy mau!”

Hướng Vũ Điền lấy ra thiết cầu từng giúp hắn băng qua khoảng cao rộng mênh mông, kích trúng xe ngựa rỗng tại Biên Hoang tập, cười nói: “Chạy được sao?”

Cao Ngạn chạy dẫn đầu, nhìn bộ dạng muốn vòng đến bên kia núi. Doãn Thanh Nhã vẫn không rõ chuyện này là sao nhưng nàng tuyệt đối tín nhiệm Cao Ngạn ở phương diện này, buộc lòng phải liều mạng chạy theo gã.

Thiết cầu xoáy tròn ‘xoẹt, xoẹt’ trong không trung, gió núi gào rú vẫn truyền đến rõ ràng, mỗi lần quay đều khua gõ làm trống ngực hai người đập thình thịch, tùy theo dây xích thiết cầu quay càng nhanh tiếng rít càng trở nên sắt nhọn, càng tăng thêm ý vị khẩn cấp của tình huống.

Hướng Vũ Điền rú dài phóng người qua chỗ họ mới đứng, đó cũng là điểm rơi tốt nhất. Tuy hai người đã cách xa mấy chục trượng nhưng với thân thủ của Hướng Vũ Điền bắt kịp họ chỉ là chuyện sớm muộn.

Cao Ngạn thét lớn: “Nhã nhi nhảy lên!”

Doãn Thanh Nhã giờ mới biết Hướng Vũ Điền quả có món đồ chơi quỷ thần khó lường, lại có thể mượn lực thiết cầu băng qua không gian hơn ba mươi trượng, cộng thêm nàng từng ngăn được Lưu mộc côn bắn ra từ tay hắn, biết được cân lượng của hắn nào còn lựa chọn, nàng vọt lên trên như điện chớp, thì ra nơi đặt chân là một tảng đá lớn khác.

Gió núi ào ào, phía dưới là vực sâu trăm trượng, phía trước không còn thấy ngọn núi nào khác chỉ có những đồi núi thấp bé nhấp nhô chạy dài.

Cao Ngạn đang làm động tác cổ quái gì đó nàng cũng không hiểu, giống như cởi bách bảo bào của gã.

Doãn Thanh Nhã nghe tiếng Hướng Vũ Điền nhảy xuống, càng không minh bạch Cao Ngạn lúc này sao còn làm những việc dư thừa.

Cao Ngạn quát: “Vòng ra phía trước ôm eo ta, sợ thì nhắm mắt lại.”

Doãn Thanh Nhã hoàn toàn không hiểu Cao Ngạn đang nói gì nhưng tỏ rõ tín nhiệm của nàng đối với Cao Ngạn, bất chấp tất cả nhào tới trước ôm chặt eo Cao Ngạn.

Thanh âm y phục tung bay của Hướng Vũ Điền càng lúc càng gần, tốc độ kinh nhân.

Cao Ngạn gào lớn: “Chúng ta nguyện nhảy xuống vực chết cũng không rơi vào tay tên chết tiệt ngươi.”

Tiếp đó nói khẽ: “Chỉ gạt hắn thôi.”

Lúc này mới nhảy ra ngoài tảng đá, rơi xuống dưới.

Doãn Thanh Nhã hoảng sợ rú lên dựa sát vào lòng Cao Ngạn, gió rít ù ù bên tai nhanh chóng hạ xuống hơn mười trượng mới phát giác thế rơi chậm lại, thì ra tứ chi Cao Ngạn giang ra không biết làm sao mà mở rộng bách bảo bào giống như túp lều đón gió rơi xuống, nhất thời trong đầu nàng hoàn toàn trống rỗng.

Doãn Thanh Nhã nảy sinh cảm giác tuyệt xứ phùng sinh, đột nhiên Cao Ngạn xoay người biến thành nàng ở trên gã ở dưới, tiếp đó ‘bùng’ rơi mạnh lên đống tuyết dày.

Cao Ngạn rên một tiếng đau đớn, mắt mũi tai miệng đều rỉ máu.

Doãn Thanh Nhã từ trên người Cao Ngạn lăn sang bên cạnh hoàn toàn không tổn thương, vội bò đến chỗ Cao Ngạn toàn thân đang vùi trong đống tuyết, bi thương gọi: “Cao Ngạn ngươi không sao chứ? Mau trả lời Nhã nhi a!”

Cao Ngạn khẽ rên một lúc sau mới nói một cách khó khăn: “Ta không sao, mau kéo ta ra. Tên họ Hướng chết tiệt không dễ dàng bị gạt như thế, đợi hắn xuống không thấy thi thể chúng ta nhất định sẽ hoài nghi.”

Doãn Thanh Nhã hết sức vui mừng vội đỡ hắn ngồi dậy.

Cao Ngạn đặt tay lên vai Doãn Thanh Nhã làm điểm tựa đứng dậy, sau đó ngạc nhiên hỏi: “Nhã nhi vì sao khóc?”

Doãn Thanh Nhã mắng: “Ta không có khóc!”

Cao Ngạn phun ra một búng máu lại bật cười nói: “Đường tắt tạm thời này không tệ chứ!”

Doãn Thanh Nhã nói: “Nhìn bộ dạng ngươi còn có tâm tình nói cười sao? Cao gia của ta à! Bây giờ nên chạy trốn theo hướng nào?”

Cao Ngạn chỉ hướng Đông Bắc nói: “Ở giữa hai núi có một con suối, bảo đảm có thể bỏ rơi Hướng Vũ Điền.”

Doãn Thanh Nhã đỡ gã bước cao bước thấp theo hướng gã chỉ rời khỏi.

Mưa gió dữ dội lắng xuống trở thành mưa bụi lất phất, phía chân trời thỉnh thoảng lóe lên ánh chớp biểu thị gió bão vẫn đang diệu võ dương uy, chỉ thay đổi địa điểm mà thôi.

Yến Phi vẫn hồi tưởng ước hẹn với Kỷ Thiên Thiên ban nãy, tình yêu cuồng nhiệt giữa chàng và Kỷ Thiên Thiên đã vượt xa mọi thứ chàng từng có. Là phúc phận chàng chưa từng mơ tưởng đến, là việc luôn mong đợi trong vô số đêm cô độc nhưng lại tưởng rằng vĩnh viễn không bao giờ phát sinh từ sau khi chàng rời khỏi Mặc Sĩ Minh Dao.

Thứ cảm giác khắc cốt ghi tâm, không chút bảo lưu đó, cũng vì gợi ý của tiên môn mà tăng cường vô hạn, đã nâng tình yêu của họ đến một tầng khác vượt quá tình yêu nam nữ của thế tục.

Họ rốt cuộc đang ở ranh giới thách thức sinh tử với lão thiên gia? Hay là lão thiên gia đang đùa bỡn họ? Chàng tịnh không rõ, chỉ biết nhắm thẳng mục tiêu tiến tới, vì bất luận thế nào chàng tuyệt không cho phép Kỷ Thiên Thiên chết già trong vòng tay chàng.

Nghe Yến Phi miêu tả chuyện lạ có quan hệ đến tam bội “Thiên, Địa, Tâm”, tình huống liên quan đến khai mở tiên môn, Kỷ Thiên Thiên từ kinh ngạc khó tiếp nhận đến trở nên hiếu kỳ, chia sẻ cách nhìn của chàng đối nhân thế vì sự xuất hiện của tiên môn mà biến hóa như trời đất đảo ngược.

Chàng cũng đề cập An Ngọc Tình với nàng, giải thích rõ mối quan hệ vi diệu với nàng ta. Quả như Yến Phi dự liệu, Kỷ Thiên Thiên trong chớp mắt nắm rõ việc giữa chàng và An Ngọc Tình. Trong lúc trao đổi tâm linh không bị ngăn trở bởi khoảng cách, tuy không thể thăm dò ý nghĩ sâu lắng nhưng có thể cộng hưởng tất cả tình cảm và cảm giác. Điều này khiến họ hòa hợp gắn bó, hiểu rõ lẫn nhau vượt xa sức miêu tả của bất kỳ ngôn ngữ nào. Sự giả tạo và che giấu thông thường giữa người với người, căn bản không có chỗ dung thân.

Nếu nói giữa chàng và An Ngọc Tình không có chút dính dáng đến tình cảm nam nữ, chỉ là gạt người gạt mình. Sức hấp dẫn của An Ngọc Tình đối với chàng và hảo cảm của chàng với nàng ta, nói chung lúc ở với nhau bất tri bất giác lại hiện ra nhưng giao du của họ sớm thăng hoa đến tầng khác, còn Kỷ Thiên Thiên chính vì cảm thụ được tình hình của phương diện này, đã minh bạch quan hệ giữa chàng và An Ngọc Tình.

Chàng cũng không đề cập Mặc Sĩ Minh Dao với Kỷ Thiên Thiên vì chàng có một cách nghĩ đặc biệt, Mặc Sĩ Minh Dao chỉ thuộc về chàng của quá khứ, giống như việc phát sinh trong một khoảng không gian và thời gian khác, chàng không muốn để Mặc Sĩ Minh Dao tiến vào thế giới thuần tĩnh không chút tì vết của chàng và Kỷ Thiên Thiên, cũng như chàng chưa từng nghĩ nhiều về chuyện cũ giữa Từ Đạo Phúc và Kỷ Thiên Thiên.

Mưa phùn rơi lắc rắc trên người Yến Phi. Đột nhiên chàng lại từ trong suy nghĩ sâu lắng trở về thế giới hiện thực, điều khiển chiếc bè nhỏ không ngừng tiến sâu vào vùng nước mênh mông. Chính lúc này, chàng phát giác nội thương đã sớm không cánh mà bay. Sau khi giải quyết việc Tôn Ân, chàng sẽ quay trở về Biên Hoang tập, tiến hành một cuộc đấu tranh sinh tử khác.

Cao Ngạn và Doãn Thanh Nhã cùng lúc té nhào trên tuyết, thở dồn dập cực kỳ mỏi mệt.

Họ cuối cùng đã ra khỏi khu vực núi, đến vùng bình nguyên tuyết phủ dày ở giữa dãy Tung hoành và Dĩnh Thủy. Doãn Thanh Nhã thở hổn hển quan tâm hỏi: “Ngươi khỏe lên chút nào chưa?”

Cao Ngạn thở gấp nói: “Ta rất khỏe! Trước giờ chưa từng khỏe như thế này, Nhã nhi yên tâm, Cao Ngạn ta thân mang chân khí thần kỳ nhất thiên hạ, trúng độc cũng không chết vì độc huống chi con bà nó chỉ té nặng một cái.”

Lần này trái lại Doãn Thanh Nhã không nói gã khoác lác, hiếu kỳ hỏi: “Ngươi trước đây có phải mỗi lần đều nhảy từ giữa núi xuống giống như vậy à? Thật chưa từng thụ thương ư? ”

Cao Ngạn cười khổ: “Ta lần đầu tiên nhảy xuống như thế.”

Doãn Thanh Nhã thất thanh nói: “Cái gì?”

Cao Ngạn than: “Thế có đường tắt nào phải lấy mạng ra cá cược không? Ban nãy là không còn lựa chọn buộc lòng phải nhảy xuống. Sự thật ở bên dưới là tuyết mềm dày hay là đá núi sắc nhọn ta căn bản không biết, chỉ biết không làm như vậy nhất định không còn mạng. ”

Doãn Thanh Nhã ngẩn người nhìn gã, một hồi lâu mới nói: “Nhưng bách bảo bào của ngươi xác thật có công năng thần diệu làm chậm thế rơi.”

Cao Ngạn giải thích: “Ta ban đầu lúc thiết kế hai tấm bách bảo bào này quả có ý tưởng nhảy từ trên cao xuống, nhưng mỗi lần muốn làm thí nghiệm đều vì lâm trận trong lòng khiếp sợ nên bỏ luôn. Hì hì! Nói chung đã thành công một lần.”

Doãn Thanh Nhã nhíu mày hỏi: “Vậy đường tắt ban đầu của ngươi thế nào?”

Cao Ngạn nói: “Đường tắt ban đầu là vòng đến chân núi phía Đông dùng dây mây núi dài chuẩn bị sẵn trượt xuống núi. Bất quá khẳng định trước khi đến đường tắt sẽ bị tên xấu xa họ Hướng đuổi kịp hoặc bị hắn phát hiện đường tắt, vẫn khó trốn khỏi độc thủ của hắn.”

Tiếp đó nhìn về phía sau nói: “Không biết đã bỏ rơi cái tên đáng ghét đó chưa?”

Doãn Thanh Nhã im lặng không nói gì.

Cao Ngạn vẫn ngóng về phía sau, đến lúc quay đầu lại phát giác thần tình cổ quái của Doãn Thanh Nhã, hỏi: “Nhã nhi đang nghĩ gì vậy?”

Doãn Thanh Nhã khẽ nói: “Không có gì, bây giờ nên làm sao?”

Cao Ngạn trầm ngâm rồi nói: “Bây giờ còn hai canh giờ nữa là trời sáng, nếu như thuận lợi không có gì trở ngại, dựa vào thần ngoa có thể bay lượn trên tuyết của chúng ta thì có thể đến đài quan sát trước khi trời sáng.”

Doãn Thanh Nhã nói: “Gặp phải địch nhân mình sẽ ứng phó thế nào đây? Chúng ta đã bộc lộ hành tung, địch nhân sẽ điều động truy lùng chúng ta với quy mô lớn, càng đến gần Bắc Dĩnh Khẩu càng nguy hiểm.”

Cao Ngạn vui vẻ nói: “Đánh đương nhiên đánh không lại, nhưng nếu bỏ chạy chúng ta lại dư sức. Con bà nó, theo ta thấy binh lực địch nhân không quá năm ngàn người, bằng không chúng ta bây giờ có thể nhìn thấy bóng dáng địch nhân. Cái khác không được chứ quan sát địch nhân ta khẳng định là nhân tài số một, chỉ từ sự phân bố lực lượng thì có thể đại khái đoán ra thực lực của địch nhân. ”

Tiếp đó thò tay vào một cái túi trong bách bảo bào của Doãn Thanh Nhã, lấy ra giùm nàng một chiếc phi ngoa.

Thân thể mềm mại của Doãn Thanh Nhã hơi run, kháng nghị: “Ta biết lấy phi ngoa không cần ngươi giúp, để ngươi thò tay vào trong túi áo, cảm giác rất cổ quái. Úi! Tự ta sẽ mang vào! ”

Cao Ngạn phì cười móc ra phi ngoa, ngồi xuống mang vào chân, nói: “Nhã nhi có thể yên tâm, không ai hiểu rõ hơn ta địa thế từ đây đến đài quan sát, cộng thêm chúng ta đến như gió đi như chớp, bảo chứng địch nhân chạm không được cái bóng của chúng ta.”

Tuyết rơi càng lúc càng dày, tầm nhìn càng mơ hồ không rõ. Cao Ngạn nói: “Nhìn kìa! Lão thiên gia đang ra sức giúp đỡ chúng ta, mặc cho lão Hường giỏi thuật truy tung tìm dấu vết thế nào cũng phải hết đường xoay sở. ”

Doãn Thanh Nhã vừa mang xong phi ngoa nhìn về phía gã, trong màn đêm tuyết hoa bay bay đôi mắt nàng như bảo thạch phát sáng lấp lánh, rất giống tiểu tinh linh mỹ lệ của tuyết dạ.

Cao Ngạn nhất thời nhìn ngây người.

Doãn Thanh Nhã mắng: “Có gì đẹp mà nhìn? Thời gian không còn nhiều, chúng ta phải lên đường!”

Cao Ngạn trống đánh xuôi kèn thổi ngược tán tụng: “Nhã nhi thật đẹp!”

Doãn Thanh Nhã cúi đầu khẽ nói: “Ngươi là một hảo nhân!”

Cao Ngạn chấn động nói: “Nhã nhi đang nói gì vậy?”

Doãn Thanh Nhã nhảy lên phủi tuyết hoa dính trên bách bảo bào hô lớn: “Không nói gì hết, cũng không cho phép ngươi nghĩ bậy, mau đứng dậy! Ngươi là chỉ huy du lịch Biên Hoang mà! Đương nhiên do ngươi làm trưởng đoàn.”

Cao Ngạn hưng phấn nhảy lên nói: “Nhã nhi ban nãy nói ta là hảo phu tế của nàng phải không?”

Doãn Thanh Nhã mắng lớn: “Người ta khi nào nói ngươi là hảo phu tế? Chỉ nói ngươi là hảo nhân, ngươi nghe gì vậy?”

Cao Ngạn mừng rỡ nói: “Cuối cùng từ miệng Nhã nhi lại nghe lời êm tai khen ta là người tốt, hì hì! Thông thường lúc yêu đối phương lại e lệ mới kín đáo khen đối phương là người tốt! Cao Ngạn ta nếu như còn không minh bạch sao xứng làm hảo phu tế của Nhã nhi.”

Doãn Thanh Nhã giờ mới biết trúng gian kế của gã, đang tính phát tác chợt trên không trung xa xa phía sau bùng nổ một đóa quang hoa lục sắc.

Cao Ngạn giật mình nói: “Hướng tiểu tử đuổi đến rồi! Chúng ta mau trượt.”

Gã nhảy lên một cái, lúc chạm đất thì trượt như bay mà đi, Doãn Thanh Nhã nào còn tâm tình so đo với gã vội đuổi theo sau.

Chú thích:

*ái diễm tình hỏa: ngọn lửa tình yêuBình thành.

Thác Bạt Khuê khoác ngoại bào lên, từ ngọa thất* bước ra nội đường. Thôi Hoành đã vũ trang toàn thân đang đợi hắn.

Thác Bạt Khuê mỉm cười: “Bí nhân trúng kế rồi, đúng không?”

Thôi Hoành đáp: “Nửa canh giờ trước kho lương Thái Bình ở thành Tây bốc cháy. Lửa đồng loạt cháy ở hơn mười nơi nên thế lửa vừa phát đã không thể dập tắt, còn lan đến khu dân cư lân cận. Cũng may chúng ta đã sớm chuẩn bị nên chỉ bị thương mười mấy người. Hiện tại Đạo Sinh đang chỉ huy chữa cháy ở hiện trường.”

Thác Bạt Khuê gật đầu: “Tuy biết Bí nhân sẽ đốt kho chứa lương chính, ta vẫn cảm thấy sự việc đến quá đột ngột. Trước khi xảy ra cũng không có một chút dấu hiệu, Bí nhân quả là cao thủ ở phương diện này.”

Thôi Hoành nói: “Trước khi chúng ta tăng cường phòng thủ trong thành, đội phóng hỏa của Bí nhân đã sớm tiềm phục bên trong, nắm rõ tình hình. Đêm qua thừa lúc tiết trời trở lạnh, bọn chúng phát động ngay thời khắc phòng vệ lỏng lẻo, may mà lương thực dự trữ đã được phân tán ra các kho lương tạm thời trong thành. Bất quá trên thực tế, chúng ta tuy không có tổn thất nhưng đã bị Bí nhân thành công trong việc làm dao động dân tâm, rất có khả năng tạo thành tình huống dân trong thành trốn ra ngoài.”

Thác Bạt Khuê kiên quyết nói: “Ai muốn đi thì để cho hắn đi! Chiến sĩ tộc ta tuyệt đối không có loại lâm trận thối lui.” Hắn trầm ngâm rồi tiếp: “Bí nhân đã luôn tiềm phục trong thành, tình huống các ngươi chuyển lương có lọt vào mắt chúng không?”

Thôi Hoành đáp: “Trước mỗi lần chuyển lương, bọn thuộc hạ đều tiến hành lục soát đến từng nhà từng hộ. Bí nhân chỉ một mực lo trốn tránh, căn bản không có cách nào chú ý đến chuyện khác. Bọn thuộc hạ lại dùng đủ loại thủ pháp che giấu nên Bí nhân thật sự tưởng rằng đã thành công đốt sạch phần lớn lương thực của chúng ta.”

Thác Bạt Khuê suy nghĩ rồi nói: “Nếu như kho Thái Bình thật bị đốt sạch, số lương còn dư chỉ đủ cho chúng ta chống đỡ hơn hai tháng. Cho nên đội mua lương đến Biên Hoang tập nội trong thời gian ngắn cần phải xuất phát. Vậy mới có thể khiến Bí nhân càng tin tưởng không nghi ngờ.”

Thôi Hoành nói: “Hơn mười Bí nhân phóng hỏa đã dùng móc câu leo tường bỏ đi từ thành Bắc, đả thương năm, sáu chiến sĩ của chúng ta. Theo thuộc hạ thấy, thành nội chắc không còn Bí nhân, nhưng sáng nay bọn thuộc hạ vẫn tiến hành lục soát với quy mô lớn, đã khẳng định được điểm này.”

Thác Bạt Khuê gật đầu: “Cẩn thận chút vẫn tốt hơn.”

Thôi Hoành hỏi: “Đội mua lương nên xuất phát lúc nào?”

Thác Bạt Khuê hỏi ngược lại: “Thôi khanh có ý kiến gì không?”

Thôi Hoành đáp: “Lần này chúng ta không cho phép có sai sót, chỉ có phương pháp này mới có thể dẫn dụ Mặc Sĩ Minh Dao hiện thân rồi bắt sống nàng ta. Cho nên chúng ta cần chờ đợi tin tức từ Biên Hoang tập, xem phối hợp với họ như thế nào. Nếu như Yến huynh có thể kịp thời đến thì càng lý tưởng.”

Thác Bạt Khuê than: “Hiện thời rất nhiều nơi đều đổ tuyết lớn, khiến bồ câu đưa thư ngừng bay, tin tức truyền đi chỉ có thể dựa vào sức người. Chúng ta cứ yên lặng đợi mười ngày, nếu không có tin tức gì từ Biên Hoang tập, đội mua lương phải lập tức lên đường để tránh bị Bí nhân hoài nghi.”

Thôi Hoành nói: “Nếu được tộc chủ ân chuẩn, thuộc hạ có thể phụ trách hành động lần này. Hơn nữa không cần dùng một binh một tốt của tộc chủ, hai chiến sĩ của Thôi gia thuộc hạ nội trong mấy ngày nữa sẽ đến được Bình Thành, nguyện liều mạng vì tộc chủ.”

Thác Bạt Khuê vui mừng: “Được Thôi khanh phụ trách chuyện này, ta còn gì không yên tâm? ”

Thôi Hoành cung kính nói: “Sau khi thuộc hạ sắp đặt hoàn chỉnh toàn bộ kế hoạch sẽ báo lên tộc chủ, rồi do tộc chủ quyết định.”

Thác Bạt Khuê ngầm khen ngợi. Điểm khiến Thôi Hoành được người ta đánh giá cao nhất ngoại trừ trí tuệ và võ công, chính là việc y biết đạo cư xử với người. Cho nên y có thể giành được giao tình của Trưởng Tôn Đạo Sinh, cũng làm cho bản thân cảm thấy y mọi chuyện đều lấy Thác Bạt Khuê hắn làm chủ. Y không chuyên quyền độc đoán, tự cao tự đại, hay là được sủng ái sinh kiêu ngạo.

Hắn gật đầu nói: “Cứ làm như thế đi! Được rồi! Giờ là lúc đi thăm nơi xảy ra tai họa. ”

“Đến rồi!”

Doãn Thanh Nhã đến bên cạnh Cao Ngạn, ngạc nhiên hỏi: “Vọng đài ở đâu?”

Đây là vùng rừng tuyết bên trong khu đồi núi, kéo dài mấy chục dặm. Cao Ngạn dừng bước tại một nơi địa thế tương đối bằng phẳng, có một con suối chảy xuyên qua rừng, bờ bắc là một ngọn đồi nhỏ chặn gió lạnh thổi tới, hoa tuyết vẫn đổ xuống không ngừng.

Cao Ngạn chỉ hướng Đông Bắc nói: “Đài quan sát nằm ở hướng này cách nơi đây hơn mười dặm.”

Doãn Thanh Nhã không hiểu, hỏi: “Vậy tức là chưa đến nơi cần đến, vì sao ngươi lại nói đến rồi? ”

Cao Ngạn đáp: “Nếu như chúng ta cứ phải trước khi trời sáng đến được đài quan sát, khẳng định ta và nàng sẽ làm một đôi đồng mệnh khổ uyên ương**.”

Doãn Thanh Nhã lắc đầu: “Ta không minh bạch!”

Cao Ngạn nói: “Đạo lý rất đơn giản. Thời gian và địa điểm lão Hướng mới vừa bắn ra hỏa tiễn pháo hoa, nàng không cảm thấy có điểm cổ quái sao? ”

Doãn Thanh Nhã nói: “Có gì kì quái? Hắn phóng hỏa tiễn là muốn thông báo địch nhân ở bắc Dĩnh Khẩu chặn bọn ta ở phía trước mà!”

Cao Ngạn hỏi: “Vậy lão Hướng có nhìn thấy chúng ta không?”

Doãn Thanh Nhã tuy kinh nghiệm giang hồ không đủ, nhưng dẫu sao vẫn là người thông minh lanh lợi, gật đầu nói: “Ngươi nói đúng! Hắn nếu phát hiện chúng ta, theo lý thì nên lặng lẽ tiếp cận, tấn công lúc chúng ta không phòng bị. Hừ! Tên xấu xa này đang có chủ ý quỷ quái gì đây?”

Cao Ngạn nói: “Nếu ta đoán không sai, khi đó hắn còn ở trên núi cách chúng ta một đoạn, nhìn thấy chúng ta đang chuẩn bị phi ngoa, biết chúng ta sắp lên đường, nên từ trên núi bắn hỏa tiễn về hướng chúng ta, tạo thành hiện tượng giả bắn hỏa tiễn lên bầu trời ở cự ly gần.”

Doãn Thanh Nhã nhíu mày hỏi: “Điều này có tác dụng gì?”

Cao Ngạn đáp: “Nếu như chúng ta trúng kế sẽ kinh hãi liều mạng chạy trốn vì sợ hắn đuổi tới. Trong tình huống cuống quýt không chọn đường, rất có thể sẽ xông thẳng vào thiên la địa võng của địch nhân. Lão Hướng còn có thể theo sau chúng ta, không ngừng bắn hỏa tiễn pháo hoa lên trời chỉ điểm cho Yên nhân vị trí chúng ta xâm nhập. Như thế chúng ta há còn may mắn sao? Con bà nó! Lão Hướng muốn chơi ta vẫn còn thiếu chút đạo hạnh.”

Doãn Thanh Nhã vui mừng nói: “Chơi cái tên tiểu tử ngươi! Chúng ta bây giờ nên làm sao? Nấp ở đây tịnh không phải biện pháp.”

Cao Ngạn đáp với vẻ tự tin: “Phải nói ngược lại, nấp ở đây mới là thượng sách. Càng tiếp cận bắc Dĩnh Khẩu, nguy cơ bị phát hiện càng cao. Vấn đề lớn nhất là lão Hướng biết mục đích của chúng ta. Bây giờ bọn ta đang chơi một trò gọi là trốn tìm, một khi bị phát hiện thì xem như tiêu tùng.”

Doãn Thanh Nhã hưng phấn nói: “Là trò trốn tìm kích thích nhất. Nhưng không đến được đài quan sát thì không cách nào hoàn thành nhiệm vụ.”

Cao Ngạn nhìn lên bầu trời đêm tối mịt, nói: “Kế mê hoặc địch nhân của ta nhắm vào chính là tính nhẫn nại. Nhân cơ hội tốt hiện thời trời đổ tuyết lớn, chúng ta thần bất tri quỷ bất giác nấp mẹ nó hai ngày trong khu rừng này. Đợi lão Hướng tưởng rằng chúng ta hoàn thành xong nhiệm vụ đã bỏ đi, chúng ta mới đến đài quan sát ung dung quan sát địch nhân đang làm gì. Có cách nào thoải mái hơn cách này không? ”

Doãn Thanh Nhã nghe vậy chân mày nhíu chặt, trề môi nói: “Phải ở chỗ quỷ quái này lâu như thế sao?”

Cao Ngạn cười: “Có ta bầu bạn với nàng bảo đảm không buồn chán, huống chi ta có chuẩn bị lều thần kì, nấp cũng phải nấp một cách thoải mái. Hì! Ta không nói sai chứ? Đi theo ta Nhã nhi tuyệt không phải chịu khổ.”

Doãn Thanh Nhã hoài nghi hỏi lại: “Lều?”

Cao Ngạn vỗ vỗ bách bảo bào, nói: “Nếu ta muốn gạt Nhã nhi, sao lại tìm việc có thể vạch trần ngay lập tức để gạt nàng.” Lại cười rồi nói: “Nhìn xem! Ngọn đồi nhỏ trong rừng này cũng không tệ! Quang cảnh u mĩ, cách tuyệt với đời, tiện cho ta thử qua thế nào là cuộc sống phu thê đầu gối tay ấp, chăn ấm nệm êm? ”

Doãn Thanh Nhã ung dung: “Đừng quên Tố nữ tâm pháp của ta.”

Cao Ngạn nhảy qua con suối nhỏ, cụt hứng: “Điều đó đã thành mũi dao đâm vào tim ta, sao quên được? Nhã nhi có thể làm ơn nói với ta lời của nàng không phải là sự thật không? ”

Doãn Thanh Nhã phóng người lên vượt qua Cao Ngạn, dẫn đầu lướt đến đỉnh đồi, yêu kiều cười nói: “Ngươi cho ta là ngươi à? Thích nhất là nói mò làm trò quỷ. Người ta không tự hạ thấp mình như thế.”

Cao Ngạn còn gì để nói, đành đuổi theo sau nàng lên đồi.

Giang Văn Thanh đứng trên đài chỉ huy phát ra mệnh lệnh, soái hạm ‘Đại Giang hiệu’ của nàng tháo dây thừng xuất phát, rời khỏi bến tàu Tiểu Kiến Khang.

Đám người Trác Cuồng Sinh, Mộ Dung Chiến, Thác Bạt Nghi, Trình Thương Cổ, Phí Nhị Thiết, Diêu Mãnh, Lưu Mục Chi, Vương Trấn Ác và Hô Lôi Phương đến đưa tiễn, đồng loạt hoan hô tăng thêm khí thế trước khi xuất phát.

Đi xuôi dòng, song đầu hạm trong chớp mắt bỏ lại Biên Hoang tập ở phía sau.

Tuyết lớn trước khi trời sáng đã ngừng rơi. Gió lạnh vẫn tiếp tục thổi nhè nhẹ làm ống tay áo Giang Văn Thanh khẽ lay động, trong lòng nàng hết sức thoải mái.

Từ khi phụ thân Giang Hải Lưu ôm hận dưới tay Nhiếp Thiên Hoàn, nàng giống như rơi vào một cơn ác mộng không bao giờ chấm dứt, chẳng những mất đi lòng tin, mà còn mất đi cả đấu chí. Bởi vì trong hiện thực tàn khốc, việc muốn gầy dựng lại uy danh của Đại Giang bang căn bản là không có khả năng, nói chi đến việc giết Nhiếp Thiên Hoàn báo cừu rửa hận cho cha.

Nhưng Lưu Dụ đã xoay chuyển tình hình một chiều này, khiến đội chiến thuyền của Đại Giang bang có thể quay trở lại Đại Giang. Nàng nhất định phải nắm thật chặt cơ hội này, dù sau này có cùng với Lưu Dụ chiến tử, cũng vĩnh viễn không nói lời hối hận.

Sau khi đến Phượng Hoàng hồ, nàng sẽ hội hợp với chín chiếc song đầu hạm mới đóng xong, cùng đến Kiến Khang. Còn có mười chiếc song đầu hạm khác đang ngày đêm gấp rút chế tạo, có thể trong thời gian ngắn lần lượt gia nhập cuộc chiến với Thiên sư quân.

Âm Kì đứng cạnh nàng cảm khái nói: “Lại kề vai tác chiến với Đại tiểu thư.”

Lúc đầu, Giang Văn Thanh tịnh không thích con người Âm Kì. Đó không phải là vì Âm Kì đã làm chuyện gì có lỗi với nàng, mà là vì nàng trước giờ không tán thưởng loại ngươi thích dùng âm mưu thủ đoạn như Âm Kì. Nhưng trải qua nhiều phen kề vai chiến đấu, vào sinh ra tử, giữa họ đã kiến lập nên giao tình và sự tín nhiệm tuyệt đối.

Giang Văn Thanh nói: “Sau khi rời Dĩnh Thủy, chúng ta mỗi người một hướng. Âm huynh dẫn năm chiếc chiến thuyền trực tiếp từ Hoài Thủy đi ra biển, đến Hải Diêm hội hợp với Lưu Dụ. Còn lại năm chiếc sẽ do ta dẫn đầu đến Kiến Khang, đón các huynh đệ ở đó.”

Âm Kì gật đầu nói: “Đại tiểu thư suy nghĩ chu đáo, sự an bài này hết sức thỏa đáng. Như thế Tư Mã Đạo Tử mới không cảnh giác, hắn còn tưởng rằng chúng ta nguyên khí vẫn chưa hồi phục.”

Lão nói tiếp: “Nhưng cái tâm đề phòng người không thể không có, đặc biệt là loại tiểu nhân phản phúc khó dựa dẫm như Tư Mã Đạo Tử.”

Giang Văn Thanh nói: “Nếu bị Tư Mã Đạo Tử nhìn ra chúng ta có tâm đề phòng hắn, hậu quả khó lường. Cho nên ta cần phải biểu lộ sự tín nhiệm tuyệt đối với hắn.”

Âm Kì nghe vậy chân mày nhíu lại.

Giang Văn Thanh cười nói: “Âm huynh yên tâm! Nhờ uy thế của cha, ở Kiến Khang ta vẫn còn sức ảnh hưởng nhất định. Hơn nữa Tư Mã Đạo Tử một mặt biết cừu nhân lớn nhất của ta là Nhiếp Thiên Hoàn, mặt khác vẫn phải dựa vào Lưu Dụ đối phó với Thiên Sư quân. Trong tình huống như thế hắn sẽ không ngu xuẩn tự hủy đi trường thành của mình.”

Âm Kì đồng ý: “Là ta lo lắng quá nhiều. Có lẽ vì chúng ta luôn ở lập trường đối địch với Tư Mã Đạo Tử! ”

Giang Văn Thanh trông về nơi dòng Dĩnh Thủy lượn quanh núi xa xa, nhớ đến phụ thân Giang Hải Lưu vì Dĩnh Thủy mà thảm bại thân vong, bản thân mình lại nhờ Dĩnh Thủy mà có thể đứng dậy, trong lòng cảm thấy bùi ngùi.

Lúc rời khỏi Biên Hoang tập, nàng đã hạ quyết tâm cùng Lưu Dụ kề vai chiến đấu đến cùng. Một khi chưa giết chết Nhiếp Thiên Hoàn, nàng tuyệt không quay trở về.

Đây là cơ hội báo thù cho cha cuối cùng của nàng.

“Bình hồ vãn khuynh bích, phong ảnh thủy diện phù.”

Vào lúc chính ngọ, Tây Sơn Động Đình cuối cùng cũng hiện ra trên mặt hồ mờ mịt trong sương khói.

Thời tiết vẫn chưa ổn định, mây đen lại kéo đến, mặt trời mùa thu vừa hiện ra, trong chốc lát đã bị mây che mất.

Nhìn từ xa, bóng núi Tây Sơn Động Đình trùng trùng điệp điệp, nhiều như bất tận, cảnh sắc đá núi thần kì mạc trắc. Có thể nhìn thấy trước mắt đầy rẫy vết tích tàn phá ở sườn núi hai bên bờ, hang động chồng chất, thiên kì bách quái, nham thạch tầng tầng lớp lớp, trong cảnh có cảnh, cảnh cảnh sinh tình.

Yến Phi nhìn đến tinh thần sảng khoái, nỗi mệt nhọc vì cả đêm điều khiển bè cũng không cánh mà bay.

Đây là lần thứ ba quyết chiến với Tôn Ân. Trận đầu kết thúc với kết quả bản thân thảm bại, trận thứ hai có thể xem bất phân thắng bại, trận này sẽ ra sao?

Trên đường lái bè đến đây, chàng không ngừng suy nghĩ về nan đề vũ học, làm sao dung nhập Tiên môn quyết vào Nhật Nguyệt Lệ Thiên kiếm pháp, làm sao giảm bớt bị lực phản chấn của Tiên môn kiếm quyết tổn thương ngược lại bản thân, nhưng lại không hề nghĩ đến Tôn Ân.

Tôn Ân từ thiên, địa, tâm tam bội hợp nhất thu được lĩnh ngộ gì? Luận tài trí võ công, Tôn Ân đều trội hơn chàng chứ không kém. Hơn nữa lão tích tụ công lực vượt quá một giáp tí cộng thêm kiến thức siêu phàm, lần này đột nhiên hạ chiến thư với mình dĩ nhiên có sự chắc ăn nhất định.

Từ khi học được Tiên môn kiếm quyết, trước sau giao phong với địch như Nhiếp Thiên Hoàn, Sử Cừu Ni Quy, Lư Tuần và ba đại cao thủ Ma môn, chàng luôn luôn chiếm phần thắng. Nhưng lần này là Tôn Ân, kết quả có khác hay không? Chàng không thể khẳng định.

Kiếm pháp tuyệt thế mà đối đầu với nhân vật như Tôn Ân cũng cần phối hợp tốt với chiến lược. Nếu như đơn thuần dùng Tiên môn quyết đối chọi cứng rắn với đối phương, một đòn sơ suất sẽ thua rất thảm.

Có trời mới biết Tôn Ân có thể đỡ được bao nhiêu phát Tiên môn quyết của chàng.

Doãn Thanh Nhã vừa tỉnh dậy. Cơn đau nhức cả người đêm qua trước khi đi ngủ đã không cánh mà bay. Mở mắt ra chính là đang ở trong căn lều trắng như tuyết khiến nàng cảm thấy hết sức kín đáo, nhưng lại biết chỉ là cảm giác an toàn giả tạo.

Căn lều đúng là được chế tạo đặc biệt, dùng tơ tằm dệt thành mỏng như cánh ve.

Nàng ta thò tay ra tìm kiếm nhưng không thấy Cao Ngạn.

Doãn Thanh Nhã ngồi dậy gọi khẽ: “Cao Ngạn!”

Cao Ngạn đúng lúc đó vén tấm màn chui vào, vui mừng nói: “Nhã nhi tỉnh dậy rồi!”

Doãn Thanh Nhã hỏi: “Bây giờ là lúc nào? Ngươi đi đâu thế?”

Cao Ngạn ngồi xuống đối diện đáp: “Còn vài canh giờ thì trời tối, Nhã nhi ngủ cả một ngày. Ta đi đâu ư? Đương nhiên là đi thám thính tình hình bên địch. Trở về mấy lần mà Nhã nhi vẫn ngủ say chưa tỉnh, ta không dám quấy nhiễu giấc mộng đẹp của nàng đành phải thơm lên môi một cái rồi ra ngoài làm việc.”

Doãn Thanh Nhã má phấn đỏ hồng, mắng lớn: “Ngươi dám!”

Cao Ngạn lập tức lái sang chuyện khác: “Mọi chuyện quả như ta dự liệu, binh lực địch nhân bạc nhược, căn bản không có cách mở rộng phạm vi lục soát chỉ có thể gói gọn trong phụ cận bắc Dĩnh Khẩu. Đám Yên binh này cũng không phải quân tinh nhuệ của Mộ Dung Thùy, đi lục soát cũng chỉ làm qua loa cho xong. Điều này cũng khó trách chúng, cả đêm không ngủ yên, vừa buồn ngủ vừa chịu rét. Theo ta thấy thì tối nay chúng ta đã có thể hành động.”

Doãn Thanh Nhã vẫn không chịu tha cho gã, đỏ mặt nói: “Ngươi mau giải thích cho rõ, có làm qua chuyện gì xấu với ta không?”

Cao Ngạn giơ tay: “Quân tử động khẩu không động thủ, ta thật không chạm đến Nhã nhi dù muốn gần chết.”

Doãn Thanh Nhã một quyền nện vào mặt gã.

Cao Ngạn té ngửa ra sau, khẽ cười: “Ta chỉ nói khoác thôi, thực tế cả ‘khẩu’ cũng không động qua.”

Doãn Thanh Nhã hết cách với gã, tức giận không lên tiếng.

Cao Ngạn ngồi dậy cười nói: “Có câu nhất dã phu thê bách nhật ân, tuy cách hai tấm bách bảo bào, chúng ta cũng xem như …”

Doãn Thanh Nhã quát: “Cái tên tiểu tử chết tiệt ngươi, tiểu tử thúi!”

Cao Ngạn hối hận: “Sớm biết thì đã lấy bách bảo bào một tấm làm gối, một tấm làm chăn, chúng ta đã có thể chung chăn chung gối. Tối nay làm như vậy đi. ”

Doãn Thanh Nhã bực bội: “Ngươi nghĩ cũng chu đáo ghê. Ta còn chưa hỏi ngươi vì sao bách bảo bào có hai tấm, phi ngoa hai đôi, lều lại chỉ có một. Có phải ngươi cố ý giấu đi?”

Cao Ngạn kêu oan: “Lều trại thật chỉ có một cái, vì lo cho Nhã nhi mới đặc biệt mang theo. Đổi lại nếu một mình ta, cuộn bách bảo bào lại, chỗ nào cũng có thể ngủ ngon một giấc.”

Hắn nói tiếp: “Đừng thấy ta tính cách không nghiêm chỉnh mà lầm, sự thật ta trước giờ làm việc cẩn thận nghiêm chỉnh, cho nên bách bảo bào và phi ngoa đều có dư. Hì! Phu quân như thế, đi nơi nào mới tìm được?”

Doãn Thanh Nhã hừ lạnh một tiếng chẳng ừ hử gì hết. Nghĩ nghĩ rồi nói: “Chúng ta thật không cần đợi thêm một ngày nữa sao? ”

Cao Ngạn nói: “Ta nói phải đợi hai ngày không phải vì sợ Yên binh mà là sợ Bí nhân. May mà ta ban nãy ngụy trang đi tuần, lại không thấy bóng dáng một tên Bí nhân nào. Bí nhân có thể đến Biên Hoang chỉ có một mình tên họ Hướng, những kẻ khác đều đến Nhạn Môn và Bình Thành tham dự nhiệt náo. Đây là phát hiện trọng đại.”

Doãn Thanh Nhã nhíu mày hỏi: “Ngươi không sợ gặp phải Hướng Vũ Điền sao?”

Cao Ngạn cười đáp: “Hướng Vũ Điền tuy lợi hại nhưng nói chung không phải đúc bằng sắt, hắn cũng cần ngủ và nghỉ ngơi. Huống chi cách một quãng thời gian dài như vậy, hắn cũng không biết đã truy đến nơi nào, cơ hội đụng đầu hắn rất ít.”

Doãn Thanh Nhã lo lắng: “Đừng khinh địch có được không?”

Cao Ngạn ngẩn người: “Đúng! Ta quả thật có chút bị thành công tạm thời làm mê muội đầu óc. Ta dù không nghĩ cho mình cũng nên nghĩ cho Nhã nhi. Cứ như vầy! Đợi đến lúc một trận tuyết lớn đổ xuống, chúng ta mới hành động. Nhìn sắc trời, nội trong hai canh giờ tất có một trận gió tuyết khác.”

Doãn Thanh Nhã lại dùng ánh mắt kì quái nhìn hắn.

Cao Ngạn cười: “Nhã nhi mệt không? Ta rất giỏi xoa bóp cho người khác, đảm bảo Nhã nhi sẽ thoải mái hơn bao giờ hết.”

Doãn Thanh Nhã bực mình lườm hắn một cái, bò dậy chui ra khỏi lều.

Chú thích:

* Ngọa thất: phòng ngủ

* Đồng mệnh khổ uyên ương: Uyên ương cùng chung hoạn nạn. Hoàn Huyền một mình ngồi trong sảnh đường, tâm sự ngổn ngang.

Hắn nghĩ đến Tiều Nộn Ngọc. Nữ nhân này đúng là vưu vật trời sinh, là cực phẩm trong nữ nhân. Mỗi lần đều có thể làm cho hắn quên cả đường về, khiến hắn hoàn toàn quên đi Vương Đạm Chân, lại không có loại cảm giác phẫn hận, mất mát như lúc vừa mới mất nàng.

Tiều Phụng Tiên lại cũng là một trí sĩ trác tuyệt, tuyệt đối có thể thay thế Hầu Lượng Sinh và Can Quy, làm bản thân hắn đối với chuyện đoạt được thiên hạ càng thêm nắm chắc. Tấu xảo nhất chính là Tiều Phụng Tiên và Đồ Phụng Tam, danh tự hai người na ná giống nhau. Đây có phải là số mệnh kỳ dị không, Phụng Tam có phải sẽ có một ngày vì Phụng Tiên mà chết không?

Lúc này lính canh cửa báo có đường huynh Hoàn Vĩ cầu kiến.

Hoàn Huyền tinh thần phấn chấn, biết đã có tin mới đến. Từ sau khi Hầu Lượng Sinh tự sát mà chết, Hoàn Vĩ liền phụ trách chức vụ của Hầu Lượng Sinh. Đối với năng lực của Hoàn Vĩ, hắn tín nhiệm tuyệt đối, mà Hoàn Vĩ trong công tác tình báo cũng làm rất xuất sắc.

Hoàn Vĩ đi đến trước mặt hắn, sau khi thi lễ ngồi xuống.

Người này thân hình cao ốm, lưng thẳng như cán bút, thần sắc lãnh tĩnh tự tin, không thể coi là anh tuấn, nhưng khuôn mặt hình vuông lại cho người ta cảm giác ổn trọng, đáng tin cậy. Hai hàng lông mày dày càng khiến người ta cảm thấy y tinh lực sung mãn, không bao giờ vì sự tình gian nan mà lùi bước.

Hoàn Huyền cười hỏi: "Bên phía Kiến Khang có tin tức gì tốt không?"

Hoàn Vĩ so với Hoàn Huyền lớn hơn hai tuổi nên hiểu rõ tính cách của Hoàn Huyền, cung kính đáp: "Đúng là có tin mới từ Kiến Khang đến, nhìn bề ngoài có vẻ như là tin xấu."

Hoàn Huyền không biết vì sao hôm nay tâm tình đặc biệt tốt nói: "Như vậy càng phải nghe!"

Hoàn Vĩ đáp: "Quân viễn chinh của Tạ Diễm và Chu Tự đã thắng trận đầu, liên tiếp thu phục hai thành Ngô Quận và Gia Hưng, dọn đường để có thể tùy lúc xuôi dòng Vận Hà về nam đánh thẳng tới Cối Kê."

Hoàn Huyền nhăn tít đôi lông mày hỏi: "Như vậy không phải là quá dễ sao?"

Hoàn Vĩ đáp: "Bởi vậy thuộc hạ mới nói ngoài mặt có vẻ là tin xấu. Đây rõ ràng là kế tránh mũi nhọn, dụ địch vào sâu của Từ Đạo Phúc. Bởi vì khi Tạ Diễm phái binh công đánh ba thành phụ cận là Hải Diêm, Ngô Nghĩa và Nghĩa Hưng, Thiên Sư quân lại tận lực giữ thành, không nhượng một tấc đất. Điều đó khiến Tạ Diễm chỉ có thể khống chế Vận Hà, lại không sao làm chủ được khu vực rộng lớn xung quanh Vận Hà."

Hoàn Huyền nói: "Tạ Diễm tuy quen thói danh sĩ, nhưng cũng đã từng đi theo Tạ Huyền đánh qua chiến dịch Phì Thủy, tịnh không phải là kẻ mới xuất đạo, nên phải biết là kế dụ địch của địch nhân."

Hoàn Vĩ nói: "Cho dù y không biết, Chu Tự cũng sẽ đề tỉnh, nhưng y lại có tính toán khác. Vào thời khắc này, trong ba thành y công đánh thì Ngô Nghĩa và Nghĩa Hưng có thể hỗ trợ cho nhau, vững như bàn thạch, mặc cho quân viễn chinh công đánh mãnh liệt, vẫn không dao động tí nào. Thành còn lại - Hải Diêm là đại thành nằm sát biển, lại chỉ là một tòa cô thành, toàn là phải nhờ vào Cối Kê, Thượng Ngu và Dư Dao ở bên kia eo biển chi viện qua đường biển, mới có thể giữ cho khỏi mất. Tạ Diễm thấy vậy, lại thấy Ngô Quận và Gia Hưng đoạt lại dễ dàng, nên càng độc đoán, không lý tới phản đối của Chu Tự. Một bên chia binh đang kiềm chế Thiên Sư quân ở Ngô Hưng và Hải Diêm, còn mình đích thân dẫn binh Nam hạ, muốn công chiếm Cối Kê."

Hoàn Huyền nói: "Về mặt chiến lược, việc này là đúng. Chỉ cần chiếm được Cối Kê, liền có thể kiềm chế hai thành phụ cận Thượng Ngu và Dư Dao, khiến Thiên Sư quân không sao trợ giúp Hải Diêm qua đường biển. Như vậy Hải Diêm sẽ không chống được bao lâu."

Hoàn Vĩ nói: "Nhìn bên ngoài thì như vậy, nhưng Từ Đạo Phúc hắn lại là người thiện dụng binh, chịu bỏ rơi hai thành Ngô Quận và Gia Hưng dễ dàng, tất phải xem lại. Mà thằng khờ Tạ Diễm này trận cước chưa ổn định, đã mạo hiểm Nam hạ, một khi đường về nam bị cắt đứt, khẳng định toàn quân mất hết."

Hoàn Huyền trầm ngâm hỏi: "Cánh quân viễn chinh còn lại do Lưu Lao Chi dẫn đầu có động tĩnh ra sao?"

Hoàn Vĩ mỉm cười đáp: "Thuyền đội thủy quân của Lưu Lao Chi, theo Đại Giang tiến ra biển, ven theo bờ đi về nam. Xem tình hình chắc là muốn đánh các thành dọc theo duyên hải của Thiên Sư quân, để phối hợp với Tạ Diễm tiến đánh Cối Kê. Nhưng cho dù hai cánh quân này có thể hội họp lại ở Cối Kê, tình huống vẫn không có gì khác biệt. Hai cánh quân hợp lại, nhân số vượt quá năm vạn, hết sức hao tốn lương thực. Nếu bị Từ Đạo Phúc thành công cắt đứt đường vận chuyển lương thực trên Vận Hà, bọn hắn có thể chống cự được bao lâu?"

Hoàn Huyền nghe thấy hai mắt sáng rực lên, không tiếp tục truy hỏi về tình hình quân viễn chinh, lại hỏi về Dương Toàn Kỳ và Ân Trọng Kham.

Hoàn Vĩ đáp: "Ân Trọng Kham gần tháng nay cùng Dương Toàn Kỳ qua lại thân mật. Nghe nói Dương Toàn Kỳ đem con gái hứa gả cho con trai Ân Trọng Kham, tiến thêm một bước trong quan hệ giữa bọn hắn. Theo thám tử hồi báo, Dương Toàn Kỳ ngày đêm luyện binh, lại cùng Hoang nhân qua lại, bí mật mua lại chiến mã và quân bị từ Hoang nhân, lại tăng cường phòng thủ các thành trong địa hạt của hắn."

Hoàn Huyền không cầm được nghĩ đến Vương Đạm Chân. Ngày đó Vương Cung cũng có ý đem con gái gả vào Ân gia, để có thể thắt chặc quan hệ Vương, Ân hai nhà. Sau bị mình khám phá, đoạt được Vương Đạm Chân vào tay. Lấy địa vị môn phiệt cao thấp mà luận, Ân gia là muốn với cao tới Vương gia, hiện tại lại là Dương gia đang với tới Ân gia.

Hoàn Vĩ hạ giọng nói: "Dương Toàn Kỳ tinh thông binh pháp, nếu như cứ để phát triển, muốn thu thập y cũng phái tốn không ít công sức."

Hoàn Huyền mỉm cười nói: "Nếu như Ân Trọng Kham gặp nạn, Dương Toàn Kỳ có thể ngồi nhìn không cứu sao?"

Hoàn Vĩ gật đầu nói: "Về tình về lý, Dương Toàn Kỳ đều phải chi viện cho Ân Trọng Kham, huống chi bọn hắn còn có quan hệ thông gia."

Hoàn Huyền khinh khi nói: "Ta hiểu rõ con người Ân Trọng Kham, gan nhỏ như chuột nhắt. Chỉ cần ta làm cho y cảm thấy bọn ta đang chuẩn bị công kích, y khẳng định sẽ hướng tới Dương Toàn Kỳ cầu viện. Chỉ cần Dương Toàn Kỳ rời khỏi địa hạt của y, sẽ như hổ xuống đồng bằng, để ta mặc sức chém giết."

Hoàn Vĩ gật đầu đồng ý, lại biết Hoàn Huyền đã sớm định ra kế, chờ đợi Hoàn Huyền nói ra.

Hoàn Huyền trầm ngâm nói: "Trước tiên bọn ta rút khỏi Giang Lăng, sau đó tập kết binh lực tại Nghi Đô, như vậy ắt có thể làm cho Ân Trọng Kham mất cả thần hồn, khóc lóc hướng Dương Toàn Kỳ cầu viện. Mặt khác, bọn ta hướng Tư Mã Đạo Tử yêu cầu khuếch trương lãnh thổ, đem quân quyền của Dương Toàn Kỳ và Ân Trọng Kham thâu hết vào tay. Tư Mã Đạo Tử kẻ tiểu nhân bỉ ổi này, đương nhiên mong muốn xem bọn ta chia rẻ đánh nhau, khẳng định sẽ trúng kế."

Hoàn Vĩ kêu tuyệt: "Kế này của Nam Quận công thật là tuyệt diệu."

Hoàn Huyền cười khặc khặc nói: "Đó là trời đã giúp ta, thiên hạ của Tư Mã gia sẽ bị Hoàn Huyền ta thay thế. Ai muốn cản trở ta, người đó sẽ phải chết, mà lại phải chết một cách thê thảm."

Tiếng cười của hắn tràn đầy tư vị tàn nhẫn, tràn ngập sảnh đường.

Thác Bạt Nghi tiến vào chính đường của Bắc Kỵ Liên, Mộ Dung Chiến đang ngắm nghía một thanh chủy thủ tinh xảo, thấy hắn bước vào, đem chủy thủ đeo vào thắt lưng.

Thác Bạt Nghi ngồi xuống đối diện với hắn, nói: "Hôm qua ta đến kiếm ngươi, ngươi cũng đang ngồi nhìn như hiện tại, khiến ta có cảm giác cổ quái như ngày hôm qua lặp lại."

Mộ Dung Chiến cười nói: "Ta mà rảnh là lại ngồi ở đây nghĩ hươu nghĩ vượn. Nhưng ngươi nói đúng, con người nói chung nếu cứ làm hoài một chuyện sẽ hình thành tập quán. Nói xa hơn một chút, phần lớn con người mỗi ngày đều lặp lại chuyện đã làm ngày hôm qua. Chuyện làm Hoang nhân bọn ta hạnh phúc hôm nay không biết ngày mai sẽ ra sao."

Thác Bạt Nghi thở dài: "Ta không dám đoán đó có phải là hạnh phúc hay không, giống như một chiếc thuyền nan đi trên sóng dữ, vào bất cứ giờ phút nào cũng có thể gặp họa lật thuyền chết người."

Mộ Dung Chiến thổ lộ tâm tình: "Bởi vậy bọn ta mỗi giờ phút đều phải phấn đấu, cho đến lúc đạt được thắng lợi. Viễn cảnh của Thác Bạt đương gia tốt hơn ta. Nguyện vọng duy nhất của ta chỉ là chủ tì Thiên Thiên bình yên trở về, Biên Hoang tập lại có những ngày tháng an lạc."

Thác Bạt Nghi nghĩ tới quan hệ với Thác Bạt Khuê, ngầm thở dài, nhưng đương nhiên không thể nói ra.

Tinh thần Mộ Dung Chiến phấn khởi lại, thở phào: "Được rồi! Lần này Thác Bạt đương gia có gì chỉ giáo đây?"

Thác Bạt Nghi chỉnh lại sắc mặt nói: "Ta lần này lại kiếm Chiến soái, vì không chịu được đám Diêu Mãnh năn nỉ, thay đám bạn ở Oa Dạ Tử chuyển lời tới Chiến soái. Bọn chúng hy vọng có thể được Chiến soái cho phép rời Tập tiếp ứng Cao Ngạn."

Mộ Dung Chiến hỏi: "Để làm gì?"

Thác Bạt Nghi thật thà đáp: "Ta cho rằng không làm được gì, nhưng cũng đồng ý với cách nhìn của bọn chúng. Làm sao có thể ngồi yên ở đây đợi được."

Mộ Dung Chiến nói: "Cũng có chút đạo lý."

Thác Bạt Nghi nói: "Tiểu Kiệt hiểu rất rõ Cao tiểu tử. Mỗi lần trời băng đất tuyết, từ Tứ Thủy trở về, gã tóm lại đều theo lộ tuyến đã chọn lựa cẩn thận. Bởi vậy bọn ta không phải là không có manh mối đi kiếm gã."

Mộ Dung Chiến nói: "Chuyện này giao cho Thác Bạt đương gia đi làm! Cần phải cân nhắc lợi hại, Thác Bạt đương gia cũng phải cẩn thận."

Thác Bạt Nghi muốn nói lại thôi.

Mộ Dung Chiến ngạc nhiên hỏi: "Thác Bạt đương gia lại có chuyện muốn nói?"

Thác Bạt Nghi đáp: "Đừng trách ta nhiều chuyện muốn hỏi một câu. Cây chủy thủ Chiến soái vừa mới ngắm nghía có phải là Sóc Thiên Đại đưa cho ngươi?"

Mộ Dung Chiến ngạc nhiên đáp: "Thác Bạt đương gia thật tinh mắt."

Tự nhiên lấy cả chủy thủ và bao ra, đưa đến trước mặt Thác Bạt Nghi.

Thác Bạt Nghi không đụng tới chủy thủ, chỉ dùng mắt quan sát, nói: "Ta quả nhiên không có đoán sai, là "Thủ Trinh Đao" của con gái Nhu Nhiên vương tộc."

Mộ Dung Chiến không hiểu hỏi: "Thủ Trinh Đao? Sao lại có tên cổ quái như vậy?"

Thác Bạt Nghi đáp: "Đây là chủy thủ con gái Nhu Nhiên vương tộc được nhận khi đến tuổi thành niên, suốt đời đem theo bên mình, đến lúc nguy cấp có thể tự tận, tránh phải thọ nhục. Sóc Thiên Đại là con gái của Nhu Nhiên tộc chủ, thân phận cao quý, đao này càng có ý nghĩa đặc biệt. Hiện tại Sóc Thiên Đại chịu đem đao này tặng ngươi, tất nhiên có thâm ý. Không cần ta nói Chiến soái cũng nên hiểu rõ ý của nàng."

Mộ Dung Chiến đột nhiên im lặng, nhưng mục quang lại không rời chủy thủ trên bàn.

Thác Bạt Nghi nghĩ tới Hương Tố Quân, hoàn toàn hiểu được tâm tình của Mộ Dung Chiến, đứng dậy đưa tay nắm chặt lấy vai hắn, không nói gì rồi bước đi.

Lúc y rời khỏi cổng ngoài của Bắc Kỵ Liên, trời đã chuyển tối, gió tuyết lạnh lẽo lại rơi xuống.

Yến Phi lên đến Phiêu Miểu phong, Tôn Ân đã ngạo mạn đứng một bên đỉnh núi, đang ngắm nhìn mỹ cảnh mưa bụi mênh mang của phia bắc Thái Hồ.

Lúc Yến Phi lên đến lưng chừng núi, trời đêm lâm râm mưa bụi, muốn dừng rồi lại tiếp tục.Từ sau khi bước đến đông sơn Động Đình, chàng đã cảm ứng có một địch thủ đáng sợ đang đợi chàng ở Phiêu Miểu phong. Lực lượng tinh thần của Tôn Ân so với trước đây như một trời một vực, sâu rộng như biển cả, vô cùng vô tận. Có thể thấy sau khi khai mở được tiên môn, Tôn Ân nhờ đã ở đỉnh cao của võ đạo, khiến lão lần đầu tiên nghĩ đến không thể đứng nhìn chuyện có thể lại vuột mất.

Chàng lại không thể chắc chắn một cách tuyệt đối.

Đột nhiên, chàng hiểu được so về mặt tinh thần, bản thân mình đang ở thế hạ phong.

Nhưng chàng lại không có chút gì sợ hãi. Luận về hỏa hầu, Thái Dương chân hỏa của chàng đương nhiên không bằng được dương hỏa đã trải qua bao năm tu luyện của Tôn Ân. Nhưng chàng lại có cái Tôn Ân khiếm khuyết đó là Thái Âm chân thủy. Tôn Ân mạnh một bên, còn mình thì cả hai đều có.

Sự thiên lệch một bên của Tôn Ân có thể trở thành nguyên nhân thất bại của lão không? Mà thủy hỏa gồm đủ của chàng có thể giúp chàng thắng được trận quyết chiến này không? Tới tối nay mọi chuyện sẽ rõ.

Không có ai hiểu hơn được bọn họ về những điểm mạnh yếu của đối phương, cái mọi người muốn so sánh là chân công phu.

Ở một hòn đảo tựa như tiên cảnh dưới hạ giới, núi đèo trùng điệp, phong cảnh tuyệt mỹ, sông nước hữu tình, làm Yến Phi có thể hoàn toàn thư giãn, có phần không để trận quyết chiến sắp tới trong lòng, sinh ra một cảm giác hết sức kỳ quái.

Lấy thật làm giả, lấy giả làm thật.

Không tới một khắc, chàng có thể lĩnh hội về sinh mệnh thâm sâu như vậy, lĩnh hội được thời khắc trước mắt.

Đứng ở nơi này trên đỉnh của ngọn núi, phía đối diện là đại địch bình sinh "Thiên Sư" Tôn Ân. Gió núi nhè nhẹ, mưa bụi bay bay, tựa như là một thế giới cô lập cách ly với bên ngoài. Những cuộc chiến đang xảy ra trong nhân gian, thay ngôi đổi triều, tranh bá đoạt lợi, tựa như không có chút gì quan hệ vào thời khắc này. Nhưng chuyện xảy ra ở nơi đây, lại sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến thành bại của cuộc đấu tranh khốc liệt ở bên ngoài.

Mang trên người chàng chính là vận mệnh của chủ tì Kỷ Thiên Thiên, vận mệnh của Biên Hoang tập cho đến cả Nam Bắc, tạo thành tình cảnh kỳ dị hiện tại của chàng, mà mọi chuyện lại tựa như huyễn hoặc trong lòng. Ảo tưởng lấy giả làm thật của nhân loại, không may lại tựa như sự thật có máu có thịt, đã từng là sự thật huyết nhục tương liên trong người chàng.

Nhân vật trước mắt không những là kình địch của mình, ở một mặt khác lại là người hiểu mình nhất, chỉ có lão và bản thân mình không chỉ "biết được", mà thật sự cùng lúc cảm ứng được tiên môn, đồng thời tỉnh ngộ thiên địa đang ở trong chỉ là một tầng của hiện thực.

Từ góc độ của tiên môn mà nhìn, cuộc đấu tranh trước mắt lại hoàn toàn không có ý nghĩa gì cả.

Vậy thật ra sao lại phải đánh nhau?

Yến Phi ung dung nói: "Thiên Sư lâu không gặp có khỏe không?"

Tôn Ân đang say đắm ngắm nhìn mỹ cảnh mưa đêm mêng mang thăm thẳm ở phía dưới của Thái Hồ, chầm chậm xoay người lại đối diện với Yến Phi, mỉm cười vui vẻ nói: "Xin chào Yến huynh!"

Lúc Tôn Ân đang xoay người, Yến Phi cảm thấy toàn đỉnh núi tựa như chuyển động theo y. Đây tịnh không phải là một ảo giác, mà là một loại cảm giác chân thật dị thường. Tuy rằng thân hình Tôn Ân rất cao, cũng vẫn là thân thể người phàm, nhưng lại làm cho Yến Phi cảm thấy khí thế đội trời đạp đất. Thoáng qua một sát na, Yến Phi đã biết được Tôn Ân vì sao lại có thể khiến chàng có thứ cảm giác kỳ quái như vậy. Cũng chỉ vì Hoàng Thiên đại pháp của đối thủ đã công thành viên mãn, đã có thể cùng "Hoàng Thiên" hòa thành một, không phân chia ngươi và ta. Người chàng đối diện không còn là một cao thủ ở đẳng cấp tông sư nữa, mà là một dị nhân đoạt quyền tọa hóa của thiên địa chưa từng có trong lịch sử.

Mọi chuyện đều do tiên môn mà ra, chính vì Tôn Ân có thể dùng lực lượng của thiên địa cho riêng lão. Bởi vậy lão mới có thể áp chế bản thân mình cả về tinh thần lẫn khí thế, khiến Yến Phi sinh ra cảm giác không sao phá được võ đạo "người khổng lồ" trước mắt.

Yến Phi thở dài: "Ta không hiểu!"

Tôn Ân mục quang lấp loáng nhìn ngắm chàng, toàn thân phát ra thần khí thâm sâu khó dò, lại quỷ dị không sao giải thích, nhẹ nhàng nói: "Yến huynh hiểu hay không cũng không quan trọng, quan trọng nhất là huynh đã đến. Đêm nay trong bọn ta chỉ có một người có thể sống xuống núi, đây chính là định mệnh."

Tâm linh của Yến Phi biến thành lấp lánh trong suốt. Mọi chuyện đã rõ ràng trở lại, bao gồm cả những hạt mưa bụi rơi xuống trên người, cho đến Hoàng Thiên chân khí của Tôn Ân đang vây chặt lấy chàng.

Chàng mỉm cười hỏi: "Chuyện này thật sự không thể tránh sao? Thiên Sư sao lại quá cố chấp như vậy? Đối với ta mà nói, mọi chuyện chỉ là vấn đề chọn lựa, bao gồm cả tiên môn trong đó."

Tôn Ân định thần ngắm nghía chàng, đột nhiên nói: "Thế giới này của bọn ta là một nơi kỳ dị vô cùng, vận khí số trời lại tựa như một cái bánh lớn. Nhìn cả lịch sử ra mà nói, có thời đại chia ra nhiều phần, có thời đại lại biến thành ảm đạm tối tăm, tình huống trong đó vi diệu khó nói. Từ thời Xuân Thu Chiến Quốc, chư tử bách gia hưng khởi, Lão, Trang, Khổng, Mạnh nở rộ rực rỡ. Tần, Hán sau đó lại chỉ có thể trùng hưng hoặc diễn giải thêm ra, cũng không sao vượt qua tiền nhân! Tiên môn lại là số trời của số trời. Có thể hưởng được tiên duyên cố nhiên là phúc phận không bì được. Việc có thể phá không mà đi, lại không phải người nào cũng có phần. Huynh tin cũng được, không tin cũng được, ta và huynh chỉ có một người có thể tiến nhập Động thiên phúc địa, những cái khác đều là lời dư thừa."

Yến Phi nhíu mày hỏi: "Cho dù ngài có thể đánh bại được ta thì sao? Như vậy lại có thể luyện thành Phá toái hư không, đến được bờ bên kia sao?"

Tôn Ân hiện xuất vẻ cười quỷ dị, lập tức hỏi lại: "Sao huynh lại biết đến chiêu tối hậu trong thiên hạ đệ nhất kỳ thư 'Chiến Thần đồ lục' là 'Phá toái hư không' này?"

Yến Phi mỉm cười đáp: "Ai nói với ta tịnh không quan trọng. Thiên Sư nếu quyết ý phải đánh, thì Yến Phi ta chỉ có thể phụng bồi thôi."

Tôn Ân vui vẻ nói: "Nói gì thì huynh cũng đã tới, ta cũng không cần phải nóng nảy nhất thời. Khó mà có được cơ hội như vậy, trước tiên hãy để cho bọn ta nói chuyện vài câu, nếu không chỉ sợ sau này lại không có cơ hội."

Tôn Ân tuy có vẻ thân thiện thoải mái, nhưng Yến Phi lại biết rõ y đang toàn diện thi triển Hoàng Thiên đại pháp. Một luồng chân khí nóng bỏng tựa như sóng lớn của đại dương đánh thẳng tới, lại không có chỗ hở để tìm ra nhược điểm của mình. Chỉ cần tâm thần của Yến Phi chàng có chút sơ hở, thế công dời núi lấp biển của Tôn Ân sẽ đánh thẳng tới.

"Nhật Nguyệt Lệ Thiên đại pháp" của chàng lấy Tiên Môn kiếm quyết làm căn bản, cũng toàn lực thi triển để đối kháng với "Hoàng Thiên đại pháp" hợp thiên nhập địa của Tôn Ân, sinh mệnh đang ở trong tình huống hết sức dị thường.

Yến Phi lãnh đạm hỏi: "Thiên Sư có chuyện gì hay để nói ư?"

Tôn Ân hỏi: "Huynh đã nghe qua ‘Tứ đại kỳ thư’ chưa?"

Yến Phi hỏi lại: "'Chiến Thần đồ lục' phải chăng là một trong số đó?"

Tôn Ân gật đầu thừa nhận, sau đó nói: "Những quyển khác là 'Thiên Ma sách', 'Từ Hàng kiếm điển' và 'Trường Sinh quyết'. Ngoại trừ 'Từ Hàng kiếm điển' vẫn an nhiên được tôn thờ ở một thánh địa thần bí của Phật môn, ba bộ kỳ thư còn lại đều không biết kết cuộc ra sao. Bốn bộ kỳ thư này đều có một điểm giống nhau, là có quan hệ trực tiếp đến chuyện phá không mà đi, đại biểu cho ham muốn và truy cầu của con người đối với Động thiên phúc địa. Yến huynh minh bạch chưa? Trước chúng ta đã có vô số các bậc thánh hiền trí giả, suy nghĩ đủ cách, không sao tìm ra cách mở Tiên môn. Trong những người luyện võ mà nói, ta và huynh đã đích thân trải qua tình huống dị thường tiên môn khai mở, thật là phúc phận không bì được."

Yến Phi mỉm cười nói: "Ta minh bạch rồi!"

Tôn Ân ngạc nhiên hỏi: "Huynh minh bạch chuyện gì?"

Yến Phi lập tức đáp: "Ta minh bạch vì sao bắt buộc phải có trận chiến này, không thể tránh được."

"Keng!"

Điệp Luyến Hoa rời bao.

Vào thời khắc đó, mưa gió đầy trời tựa như toàn bộ tụ tập vào kiếm phong của Điệp Luyến Hoa.

 Mưa gió trên trời đương nhiên không tập trung hết lên kiếm phong, nhưng kiếm khí của Điệp Luyến Hoa, lại đúng là làm người ta có cảm giác mưa gió trên trời tập trung hết lên đó, bắn thẳng tới Tôn Ân đang đứng nơi ven núi.

Tôn Ân hiện ra thần sắc ngạc nhiên, hiển nhiên chưa từng nghĩ tới Yến Phi có thể đơn độc sử dụng Thái Âm khí, không có chút Dương hỏa, tạo ra Âm thủy chí thuần chí thịnh, không có tạp chất gì khác.

Nên biết Âm Dương thuật có cái gọi là Thái Cực, tức là bất cứ vật gì, bất luận lớn nhỏ, đều là Thái Cực. Mà Thái Cực là do một âm một dương hợp thành, không có vật nào ngoại lệ.

Chẳng hạn như Hoàng Thiên đại pháp của Tôn Ân, cũng là do âm dương hợp thành. Thái Dương chân hỏa của lão cũng là một dương một âm, chỉ bất quá là 'dương trong dương', 'âm trong dương'. Chính vì như vậy, lão có thể đem 'âm trong dương' hóa thành 'âm trong âm'. Dưới tình huống bình thường, đây căn bản là chuyện không thể làm được.

Bởi vậy An Ngọc Tình tuy nhờ Động Cực đan nên luyện thành Thái Âm chi khí. Nhưng 'âm trong âm' của nàng vẫn hàm chứa 'dương trong âm', muốn luyện thành đối nghịch cực đoan 'dương trong dương' là chuyện không thể. Cũng như thủy và hỏa không thể cứ như vậy mà tồn tại cùng lúc, bổ túc thêm bớt, tăng thêm uy thế đối phương, cùng chung phát huy diệu dụng. Chỉ có âm không cũng không được. Muốn luyện thành khí Thái Âm thuần âm không có dương, thì khó lại càng khó, chưa nói đến đồng thời lại có cả thuần âm, thuần dương chi khí.

Từ góc độ đó mà nhìn, "Nhật Nguyệt Lệ Thiên đại pháp" ngày nay của Yến Phi, đúng là tuyệt học từ cổ chí kim chưa từng có.

Mục tiêu của Tôn Ân lại là muốn đem 'âm trong dương' của "Hoàng Thiên đại pháp", mượn Yến Phi để trở thành 'âm trong âm'. Yến Phi chính là Động Cực đan của lão. Sau khi uống xong lão sẽ biến thành một Yến Phi khác, có thể thi triển chiêu số chung cuộc "Phá toái hư không", khai mở tiên môn, qua bờ bên kia.

Lão ngạc nhiên là vì vậy, ngoài việc Yến Phi không giống như trận quyết chiến thứ nhất, âm dương đều thay đổi. Còn vì đặc tính của Thái Âm chân khí, vào lúc không khí rét lạnh như hôm nay, thì uy lực lại càng mạnh lên. Tựa như đang đứng trên đống lửa, mà Yến Phi lại có thể lấy hết lửa để dùng riêng cho mình, khiến kiếm khí có uy lực có thể bẻ gãy được tất cả mọi thứ.

Về thiên thời, địa lợi, nhân hòa, lão đã mất đi thiên thời, mà trên hai mặt kia, lão cũng không chiếm được tiện nghi.

Muốn đánh bại Yến Phi, Tôn Ân tự biết có thể nắm chắc được cả mười phần. Vấn đề nằm ở chỗ nếu như thật sự giết chết Yến Phi, mộng tưởng tiên môn của lão coi như chấm dứt. Những năm còn lại của cuộc đời chỉ có thể tiếc nuối Động thiên phúc địa mà thở dài, cố sống cho hết kiếp.

Chỗ khó khăn của Tôn Ân là muốn chiếm đoạt thượng phong, khống chế cục diện, xỏ mũi Yến Phi, khiến Thái Âm chân khí của Yến Phi không có chỗ tiết ra. Thái Dương chân khí lại từ từ tổn hao đến một giọt cũng không còn. Sau đó lão có thể thi triển chiêu số lĩnh ngộ từ tiên môn "Hoàng Thiên vô cực", ép Yến Phi đọ công lực. Cuối cùng sẽ đem Thái Âm chân khí của Yến Phi hấp thụ hoàn toàn, liền có thể đại công cáo thành, hoàn thành chuyện không thể làm được.

Nhưng nếu Yến Phi chỉ dùng thuần âm chi khí kháng cự với mình, cái bị hao tổn chính là Thái Âm chi khí của Yến Phi. Khí âm của Yến Phi càng yếu, đối với đại kế của lão lại càng bất lợi. Lão làm sao mà không kinh ngạc cho được.

Có phải Yến Phi đã nhìn ra ý đồ của lão không?

Tôn Ân như thiểm điện bay ra, nắm tay đấm tới trước.

Mưa bụi gió rét trong khuôn viên hơn mười trượng, theo Điệp Luyến Hoa rời bao mà ra, với tốc độ kinh người tụ tập vào kiếm phong phát ra từ kiếm khí, đã đột phá được giới hạn cuối cùng của con người của một tôn sư về kiếm thuật, biến thành khí chí âm chí hàn, thật sự đã có được lực lượng đáng sợ mà không có ai có thể chống lại.

Nhưng vào thời khắc Tôn Ân nhích người khỏi chỗ đang đứng, Yến Phi lại cảm thấy nguyên cả thiên địa trên cao tựa như bị Tôn Ân kéo đi. Tôn Ân không còn là Tôn Ân, mà bản thân lại chính là thiên địa, cũng tựa như thiên địa tuy không ngừng chuyển hóa, lại không phải là không có tận cùng.

Đây chính là đỉnh cao nhất của Hoàng Thiên đại pháp. Hoàng Thiên đại pháp của Lư Tuần so ra chỉ như đứa bé mới học bò.

Thủ chưởng của Tôn Ân to dần về phía trước, biến thành một kích che trời phủ đất.

Yến Phi hiểu rõ cái mắt phàm thấy được chỉ là một loại ảo giác, nhưng vẫn bị tinh - khí - thần rộng lớn của Tôn Ân hút vào, không sao phá mê trở về hiện thực, cũng không sao biến chiêu hóa giải. Tựa như chàng bị thủ đao của Tôn Ân một chiêu chém ngay vào chỗ mạnh mẽ nhất của Điệp Luyến Hoa.

Không có đến một tiếng động của kình khí giao kích, cũng không có tình huống bình thường vẫn xảy ra khi kình khí giao nhau. Lúc kiếm phong bị Tôn Ân chém trúng, kiếm kình như muối đổ biển, biến thành vô ảnh vô tung.

Yến Phi tỉnh ngộ lại, vào sát na đó đã hiểu rõ thế nào là Hoàng Thiên đại pháp, nhưng cũng đã đánh mất tiên cơ.

Đó chính là cảm giác cực hư cực vô, khắp người tràn đầy khí lực lại không chỗ phát tiết, khiến Yến Phi khó chịu đến cực điểm. Chàng lại không có chọn lựa nào khác phải đem Dương hỏa thay thế Âm thủy, đồng thời lùi nhanh ra sau. Điệp Luyến Hoa dùng Thái Dương chân khí vẽ ra từng vòng từng vòng kiếm khí, bày ra một trận tràn đầy dương kình.

Đúng như dự liệu, Tôn Ân cười một tràng dài, Hoàng Thiên đại pháp từ không biến thành có, nhất thời trong khuôn viên mười trượng, nước dữ nóng bỏng mù mịt từ bốn phương tám hướng đổ về hướng Yến Phi. Bản thân lão lại đem song thủ hóa thành vô số chưởng ảnh, mỗi một chưởng đều chuẩn xác đánh vào vòng tròn kiếm khí Yến Phi vẽ ra, phá vỡ độc môn của Yến Phi.

Yến Phi vội lùi lại, Tôn Ân bám sát theo sau như hình với bóng, không cho chàng đến một cơ hội để thở.

Yến Phi hiểu rõ trong lòng, mấu chốt của sinh tử thắng bại nằm ở giờ phút này. Cao thủ ở đẳng cấp hai người đối diện giao phong, thắng bại chỉ trong một chiêu, một khi đã rơi vào thế hạ phong, sẽ mất đi khả năng phản kích, đến chết mới thôi.

Đáng lo hơn nữa là nếu dùng dương khí chống dương khí, chàng căn bản không phải là đối thủ của Tôn Ân. Như vậy cũng như dùng sở đoản của mình chống với sở trường của địch, đã mất đi công năng ảo diệu của Thái Âm chân khí có thiên tính khắc chế với Thái Dương khí.

Giờ phút quan hệ đến thắng bại chính là lúc này. Đi sai một nước, ra sai một chiêu, sẽ khiến chàng thua đi trận này.

Cách duy nhất có thể chuyển bại thành thắng, chỉ có thi triển kiếm pháp Tôn Ân nằm mộng cũng không nghỉ tới - Tiên Môn kiếm quyết.

Yến Phi lúc này đã lùi đến ven núi. Nếu lùi thêm một bước nữa, sẽ rơi xuống từ đỉnh núi cao chót vót, liền mang Thoái Âm phù hóa thành Tiến Dương hỏa, vạch ra một vòng kiếm khí cuối cùng.

Thái Âm chân khí bày ra một màn kiếm khí đầy đủ.

Âm khí, dương khí vốn đều có những đặc tính của bản thân không thể thay đổi.

Dương chủ tiến, âm chủ thoái. Dương khí tiến nhanh thoái nhanh, âm khí lại là tiến chậm thoái chậm. Bởi vậy chiêu này của Yến Phi đem kỳ chiêu "Tiên Tung sạ hiện" của Tiên Môn kiếm quyết dung nhập với Nhật Nguyệt Lệ Thiên kiếm pháp. Chàng bắt buộc phải lợi dụng đặc tính âm dương bất đồng, trước tiên bày ra kiếm khí hình thành bởi khí thuần âm, rồi mới có thể dùng khí thuần dương, điềm nhiên dẫn dắt Tiên Môn kiếm khí sinh ra ở chỗ âm dương kích động.

Nói cách khác, nếu như chàng dùng Thái Âm chân khí xuất ra kiếm kình, Tôn Ân tuyệt sẽ không như hiện tại thấy chiêu phá chiêu, coi thường đối thủ.

Chưởng đao của Tôn Ân xuyên qua vòng tròn hồ điệp cuối cùng này của chàng đánh tới, khiến người nhìn thấy mê mẩn tâm thần. Căn bản không sao nhìn ra lão xuyên qua vòng tròn cuối cùng chính là tả chưởng lại đổi thành hữu chưởng. Lấy chiêu thức mà nói, Tôn Ân thật đã đến cảnh giới xuất thần nhập hóa, đăng phong tạo cực.

Yến Phi lại lấy Tiến Dương hỏa biến thành Thoái Âm phù. Thái Dương chân khí thông qua kiếm phong bắn ra, đánh thẳng tới thủ chưởng của Tôn Ân đang xuyên qua lớp cuối cùng của Thái Âm chân khí, thu hút sự chú ý của Yến Phi.

"Đùng!"

Điện quang kinh tâm động phách, lóe lên ở giữa kiếm phong và chưởng phong. Yến Phi toàn thân chấn động, mắt mũi miệng đều rỉ máu, nhưng hai chân lại trụ vững, không rơi xuống núi.

Tôn Ân lại như diều đứt dây bay ra đằng sau, lộn hai vòng liên tục trên không, hạ xuống bìa núi bên kia.

Mọi chuyện liền tựa như chưa có chuyện gì xảy ra. Chỉ có người trong cuộc mới biết rằng, vừa mới xảy ra một trận long tranh hổ đấu kịch liệt, phảng phất như tới trước Quỷ Môn quan rồi trở về, chỉ sai một bước là đã đi vào rồi.

Mục quang hai người giao nhau.

Chân khí trong người Yến Phi nhộn nhạo không ngừng, lục phủ ngũ tạng đảo lộn hết sức khó chịu. Hai cỗ Thái Âm, Thái Dương chân khí kích động xung đột trong kinh mạch, vì vậy không sao thừa thế truy kích, không biết Tôn Ân có thể chống được bao nhiêu chiêu Tiên Môn quyết.

Tôn Ân cũng nhất thời không nói nên lời.

Sau hồi lâu, Tôn Ân trầm giọng nói: "Ta thật sự không nghĩ tới, ngươi lại luyện thành Tiểu tam hợp."

Yến Phi lấy tay lau đi vết máu nơi miệng, Điệp Luyến Hoa trong tay phải chỉ xuống đất, nhẹ nhàng hỏi: "Tiểu Tam Hợp là cái gì?"

Tôn Ân thần sắc bình tĩnh đáp: "Thiên, địa, tâm hợp lại thành Đại tam hợp. Ngươi có thể dùng kiếm pháp diễn lại cảnh tam bội hợp nhất, nhưng uy lực vẫn chưa đủ để phá mở hư không, đó là Tiểu tam hợp."

Trực giác Yến Phi cảm ứng được Tôn Ân ngoài mặt dường như không có gì thay đổi thực ra đã thụ thương, nhưng so với vết thương của mình lại nhẹ hơn nhiều. Phát hiện này khiến chàng chấn động trong lòng, bởi vì sau khi tự ngộ ra "Tiên Môn kiếm quyết", đây là lần đầu chàng thi triển chiêu này, mà đối thủ vẫn có thể chiếm được tiện nghi. Từ đó mà xét, Hoàng Thiên đại pháp của Tôn Ân ở thời điểm trước mắt này, thật sự cao hơn "Tiên Môn kiếm quyết" của Yến Phi.

Sao lại như vậy? Chẳng lẽ "Phá toái hư không" tịnh không phải là chiêu số chung cuộc? Hay là "Tiểu tam hợp" của chàng vẫn chưa thành công? Chân khí của Tôn Ân lại bắt đầu vây chặt lấy chàng. Dưới sự phong tỏa của trường khí cơ thể, đối thủ lại là Tôn Ân, chàng muốn chạy cũng chạy không được, chỉ có tận hết khả năng, đả bại cường địch này.

"Tốt! tốt! tốt!"

Tôn Ân nói liền ba tiếng tốt, sau đó hai tay giơ cao lên, quần áo vốn phất phơ theo gió đứng im trở lại. Mà lão lại tựa như trở thành trung tâm của một trận cuồng phong, đem toàn bộ đỉnh núi đặt dưới uy lực vây phủ của gió bão do lão phát động.

Quang cảnh thiên địa tĩnh lặng trong một sát na, sau đó xung quanh chỗ Yến Phi đứng cuồng phong bắt đầu cất lên, mưa gió theo kình khí hình thành hết vòng xoáy này đến vòng xoáy khác, tựa như toàn thể vật chất hóa thành binh đao cắt người, ngắn gọn mà đầy lực đạo, càng thổi càng mạnh, đột ngột công tới Yến Phi.

Nhất thời, mưa gió trên trời theo sự dẫn dắt của kình khí của Tôn Ân, bay lộn cuồng loạn, hình dạng cảnh vật trên núi biến thành mơ hồ không rõ. Chỗ đất nơi Yến Phi đứng cũng tựa như biến thành phù sa đầm lầy không còn đứng vững được. Loại cảm giác này, nếu không phải đích thân trải qua, cũng sẽ không tin trong thiên hạ lại có chiêu thức uy lực như vậy. Công pháp đáng sợ tựa như không bao giờ dứt, vô cùng vô tận.

So với Tôn Ân, khí công của Ma môn tiền bối cao thủ Vệ Nga chỉ là đồ chơi của trẻ con.

Đây là chuyện không thể.

Biểu hiện về công lực của Tôn Ân đã hoàn toàn đột phá cực hạn của sức người cũng như của bất cứ tông sư võ học nào, cao thâm khó lường.

Bất quá sự thật nằm ở trước mắt, cũng như chàng từ tam bội hợp nhất lĩnh ngộ được "Tiên Môn quyết", Tôn Ân cũng từ đó đạt được lợi ích lớn, đem Hoàng Thiên đại pháp tới tầng lớp chí cao vô thượng.

Mỗi lần cơn lốc kình khí quét ngang qua người, thì chân khí hộ thể của Yến Phi lại tổn hao đi một chút. Mà cơn này vừa qua thì cơn khác lại tới, nối nhau kéo lại, thậm chí có lúc hai, ba cơn lốc xoáy đánh tới người cùng một lúc, làm hao tổn của Yến Phi càng lớn.

Hoàng Thiên đại pháp của Tôn Ân mang lại loại cảm giác kinh người tựa như đem cuồng bạo của thiên địa vũ trụ tập trung hết vào nơi đây, khiến Yến Phi sinh ra cảm giác hoàn toàn bị cắt đứt liên lạc với thế giới bên ngoài, tuyệt đối cô lập, bị biển khí nhận chìm. Chỉ cần chàng chống đỡ không nổi, sẽ tựa như món đồ chơi để mặc kình khí của Tôn Ân sắp đặt, mất đi khả năng tự chủ.

Tôn Ân lúc này, trong mắt chàng đã biến thành một người khổng lồ có thể khống chế thiên địa, mà chàng lại sinh ra cảm giác chán nản, thấy mình tầm thường và không biết tự lượng. Kình khí cuồng nộ từ bốn phương tám hướng đánh tới, gầm thét giận dữ.

Lực lượng của đối phương tựa như dùng không bao giờ hết, mà của mình thì lại không ngừng hao tổn. Cái cảm giác đáng sợ người tăng mình giảm này, tạo thành một áp lực rất khó kháng cự.

Lập tức, chàng biết rằng mình lại rơi vào thế hạ phong, mà Tôn Ân đang bức chàng phải phản kích trong thế yếu kém cực độ.

Chàng làm sao mới có thể cân bằng lại đây? Điệp Luyến Hoa chỉ thẳng vào đối thủ.

Yến Phi thần sắc bình tĩnh, phảng phất tựa như một đỉnh núi đứng thẳng mặc cho mưa gió dập vùi vẫn không di động một phân nào. Song mục chàng đột nhiên cực thịnh, y phục toàn thân tung lên phần phật, cộng thêm những vết mau rỉ ra từ mắt, tai, mũi, miệng vẫn còn chưa khô, hình thành tình cảnh quỷ dị đến cực điểm.

Dưới áp lực của Tôn Ân, Yến Phi buộc phải thi triển toàn bộ công phu thật sự quyết một trận sinh tử. Dưới tình huống quyết đấu như vậy, kế mưu thủ đoạn gì cũng không dùng được.

Luôn cả Tôn Ân cũng không hiểu, chiêu phản kích chàng đang chuẩn bị thi triển thật ra là bị Tôn Ân ép phải làm. Chàng cũng chưa từng thử qua xem có làm được không, chỉ biết rằng chỉ có chiêu này mới có thể phá đi công pháp mà sức người không sao kháng cự lại của Tôn Ân, không thành công thì cũng thành nhân, không còn lối thoát nào khác.

Thái Dương chân hỏa liên miên bất tuyệt đổ vào chỗ Điệp Luyến Hoa đang chỉ tới Tôn Ân, tả thủ từ từ nâng lên, chưởng tâm hướng ra ngoài, khi Điệp Luyến Hoa đã lấy đủ năng lượng sẵn sàng bùng nổ, Yến Phi ung dung hỏi: "Không biết chiêu pháp của Thiên Sư có tên gọi là gì?"

Song mục Tôn Ân hung bạo, cười dài đáp: "Lại nói cho ngươi biết à? Chiêu này trong tuyệt học Hoàng Thiên đại pháp của bản nhân kêu là 'Hoàng Thiên vô cực'. Nó cũng như "Tiểu tam hợp" của ngươi đã vượt lên trên phạm trù võ học bình thường, người thường không thể kháng cự lại."

Yến Phi mỉm cười hỏi: "Tiểu tam hợp lại như vậy sao?"

Vừa nói xong, tả chưởng đẩy ra.

Với nhãn quan kiến thức của Tôn Ân, nhất thời cũng không hiểu rõ huyền ảo trong chưởng của Yến Phi.

Chưởng này của Yến Phi vốn không những vô thanh vô tức, lại không trực tiếp công tới Tôn Ân. Ngược lại đánh tới chỗ trống phía bên trái chỗ Tôn Ân đứng, bề ngoài xem như không có tí gì kình lực, nhưng lại kéo lui được trường khí của Tôn Ân đang vây quanh Yến Phi. Tất cả đều đi theo một chưởng cực kỳ hư vô này của Yến Phi, di chuyển đến bên trái của Tôn Ân.

Yến Phi cảm thấy hồn thân hợp nhất, biết rằng thành công hay thất bại là ở giờ phút này. Chàng nhanh như chớp đảo ngược dòng khí, nhân kiếm hợp nhất đâm tới Tôn Ân.

Tôn Ân thở dài: "Người muốn tìm chết?"

Song thủ giơ lên cao hợp lại, chưởng tâm hướng vào nhau, một cỗ khí kình lập tức sinh ra giữa hai bàn tay, hướng tới Yến Phi đang bay tới bắn ra.

Yến Phi cười dài nói: "Thiên Sư trúng kế rồi!"

Đột nhiên xoay người lại, hóa ra là muốn chịu một chiêu của Tôn Ân, kình khí phát ra từ mũi Điệp Luyến Hoa, Thái Dương chân hỏa như hồng thủy sau khi tích tụ bạo phát, bay tới chỗ hư không bên trái Tôn Ân.

"Bùng!"

Sau khi Yến Phi chịu một kích của Tôn Ân, như biến thành con quay bay ngược trở lại.

Cùng lúc đó, phía bên trái của Tôn Ân bị sấm chớp loằn ngoằn như rễ cây đánh tới. Tôn Ân không kịp đề phòng bị sấm sét đột ngột đánh trúng người loạng choạng, chút xíu nữa đã té xuống đất, hết sức rối loạn. Đương nhiên lão cũng không sao thừa thế truy kích Yến Phi.

Khi văng đến cách triền núi khoảng một trượng, Yến Phi đã bắt đầu quay chậm lại, đến ven núi thì ngừng hẳn. Vừa mới ngừng chân, chàng đã mở miệng phun ra máu tươi, hiển nhiên đã bị nội thương nghiêm trọng.

Tôn Ân cuối cùng cũng đã ngừng, lại phải bước ngang một bước mới ngừng hẳn được, mở miệng phun ra một ngụm nhỏ máu tươi, nét mặt nhợt nhạt, nhìn sang Yến Phi. Trên mặt lão hiện lên thần sắc không thể tin được.

Khuôn mặt tuấn tú của Yến Phi đã mất hết sắc hồng, cũng cảm thấy thật khó tin, Tôn Ân lại có thể dưới tình huống trực tiếp bị Tiên Môn kiếm quyết đánh trúng, vẫn chỉ là phun ra một ngụm máu nhỏ, thương thế của lão còn nhẹ hơn của mình.

Chuyện này thật không thể nào.

Vấn đề nằm ở chỗ nào? Chí âm chí dương đánh vào nhau sẽ sinh ra lực lượng của Tiểu tam hợp. Hoàng Thiên Đại Pháp lấy Thái Dương chân hỏa làm chủ của Tôn Ân tuyệt đối không thể kháng cự lại được.

Tôn Ân đã dời đến phía bên phải của Yến Phi, đang trừng trừng nhìn Yến Phi với ánh mắt kỳ quái nói: "Ba chục năm nay, lần đầu tiên lại có người khiến cho Tôn Ân ta thọ nội thương không nhẹ, dám hỏi Yến huynh có còn lực tái chiến không?"

Yến Phi cố gắng hết sức không để ý đến thương thế trong kinh mạch, thở dài nói: "Nếu Tôn thiên sư vẫn không muốn ngừng lại, Yến Phi ta chỉ có thể xả mệnh bồi quân tử. Bất quá giao phong lại chắc sẽ đưa đến chết chóc, chỉ sợ đó không phải là cái Thiên Sư muốn?"

Tôn Ân gật đầu nói: "Huynh có thể thi triển Tiểu tam hợp được như vậy, thật là nằm ngoài dự liệu của ta."

Lại cười nói: "Huynh đúng là người thông minh toàn diện, có đại trí tuệ, khám phá ra nguyên nhân phía sau trận quyết chiến của huynh và bản nhân. Lần này coi như huynh đã miễn cưỡng qua được ải, nhưng trận tới lại là chuyện khác. Nếu như huynh vẫn chỉ giới hạn trong công phu của Tiểu tam hợp, khẳng định sẽ thua thê thảm."

Yến Phi hỏi: "Thiên Sư có phải là muốn hẹn tái chiến?"

Tôn Ân đáp: "Bất luận huynh trốn đến chân trời góc biển nào, ta vẫn có biện pháp tìm ra huynh, về mặt này huynh chắc cũng đã rõ."

Yến Phi lãnh đạm nói: "Ta chưa từng nghĩ tới bỏ trốn. Đúng như Thiên Sư nói, trong bọn ta chỉ có một người có thể phá không mà đi, không phải ngươi thì là ta. Trong mắt của Thiên Sư, Yến Phi ta là chìa khóa cho Thiên Sư có thể luyện thành 'Phá toái hư không', nhưng không biết Thiên Sư có biết rằng, ngươi hiện tại cũng đã biến thành nhân tố quyết định giúp ta luyện thành 'Đại tam hợp'. Hay là như vầy, ngày này năm sau, bọn ta gặp lại nơi đây, quyết một trận tranh hùng thì sao?"

Tôn Ân ngửa mặt lên trời, cười nói: "Tốt! Vậy thì nhất ngôn vi định."

Nói xong tung người lên bỏ đi xuống triền núi bên phải, biến mất không thấy đâu.

Yến Phi toàn thân kịch chấn, té bệt xuống đất, lại phun ra thêm một ngụm máu nữa.  Doãn Thanh Nhã đến bên Cao Ngạn, nằm phủ phục xuống mặt tuyết như gã, nhìn về ngọn đồi ở phía bên kia, hỏi: "Có vấn đề gì sao?"

Chỗ bọn họ đang ở là vùng đồi núi trập trùng ở phía tây nam của bắc Dĩnh khẩu. Càng đến gần bắc Dĩnh khẩu, địa thế càng bằng phẳng lại. Lúc này bọn họ đã đến chỗ tận cùng của vùng đồi núi, rừng núi khắp nơi đều có tuyết bao phủ. Nếu không phải là hoa tuyết đang rơi, lại vào lúc trời tối, sẽ rất dễ bị bại lộ hành tung.

Cao Ngạn kề sát tai nàng nói: "Nguyên vùng đất rộng lớn bảy, tám dặm ngoài kia vốn là vùng thảo nguyên rộng lớn rất dễ ẩn nấp, hiện tại lại biến thành một vùng tuyết phủ kéo dài đến tận chân trời. Ở giữa chỉ còn có một cây cổ thụ đang run rẩy chống chọi với giá lạnh."

Doãn Thanh Nhã nhíu mày thắc mắc: "Không cần phải nói quá, cây sao lại có thể như người mà lạnh phát run được?"

Cao Ngạn cười nói: "Khi nàng đang một mình nơi hoang dã buồn rầu đến phát điên, đến cả gốc cây cọng cỏ nàng cũng sẽ coi như con người. Như thế rừng núi hoang sơ mới biến thành thú vị được. Ài! Ở Biên Hoang bất luận là thú vật, cây cỏ hoa lá, cho đến rừng cao núi sâu, đều là bằng hữu của Cao Ngạn ta, còn có sơn thần thổ địa bảo vệ ta. Chỉ cần lúc nàng đi ngủ dựa sát vào ta, nhất định có thể lây được chút phúc khí của ta."

Doãn Thanh Nhã không vui nói: "Nói tới nói lui, quay đi quay lại, cuối cùng cũng là mấy lời đó. Bớt phí lời có được không? Trước khi trời sáng bọn ta phải đến được Quan Sát đài, nếu không khẳng định sẽ chết rất thảm."

Cao Ngạn nói: "Tất cả những lộ tuyến đến Quan Sát đài, đều bị tuyết phủ không có chỗ ẩn nấp, rất dễ bị địch nhân phát hiện. Chỉ cần đối phương thiết lập một trạm canh trong rừng cây bên cạnh, bất cứ người nào nghĩ đến chuyện vượt qua đồng tuyết cũng đều không có chỗ tàng hình. Bởi vậy lộ tuyến này rất nguy hiểm."

Doãn Thanh Nhã hỏi: "Tự nhiên sao bây giờ ngươi lại ngốc như vậy? Còn không nhanh đi đến lộ tuyến an toàn nhất, bọn ta đâu có còn nhiều thời gian hả?"

Cao Ngạn đã tính hết mọi chuyện đáp: "Trong số địch nhân làm ta lo lắng nhất chỉ có một người là Hướng Vũ Điền. Nếu như quả thật là y đang đứng một bên chờ bọn ta, khẳng định mạng bọn ta đã chấm dứt."

Doãn Thanh Nhã nói: "Xem bộ dạng của ngươi, khẳng định y không có ở bên đồng tuyết này."

Cao Ngạn gật đầu nói: "Khẳng định là như vậy. Bởi vì Hướng Vũ Điền là một gã thông minh, mà người thông minh đương nhiên không nghĩ đến biện pháp ngu dốt như vậy. Nếu như ta không có đoán sai, bởi vì lão Hướng lùng sục khắp bờ tây Dĩnh Thủy không kiếm ra bọn ta, sẽ cho là bọn ta đã trốn sang bờ Đông hoặc là đã trốn đến vùng đầm lầy của Vu Nữ khâu nguyên. Y không biết Cao Ngạn ta can đảm trùm trời, vẫn còn ở lại bờ Tây."

Doãn Thanh Nhã nói: "Lời của ngươi nói cũng hợp tình hợp lý. Ta cũng tin rằng Hướng Vũ Điền không ở vùng phụ cận, nhưng làm sao vượt qua được vùng đồng tuyết này mà không bị địch nhân phát giác?"

Cao Ngạn ngồi dậy, cười nói: "Cái đó phải dựa vào xe đi trên tuyết đặc chế của bọn ta!"

Doãn Thanh Nha theo y ngồi dậy, ngạc nhiên hỏi: "Xe tuyết?"

Cao Ngạn nói: "Bọn ta trước tiên lợi dụng sự tiện lợi của Phi Ngoa, thâm nhập vào đồng tuyết. Đến chỗ cách khu rừng cây bên cạnh được trên dặm, sẽ tháo hai đôi Phi Ngoa ra, lại lấy chân tay ta làm thành khung, Phi Ngoa biến thành bánh xe, sẽ có xe kéo chở hai người bọn ta qua vùng đồng tuyết. Như vậy có thể đi qua vùng rừng tuyết mà thần bất tri quỷ bất giác."

Doãn Thanh Nhã vui vẻ nói: "Tiểu tử ngươi vốn khôn lanh tinh quái, nghĩ ra những cách quái quỷ."

Lại hoài nghi hỏi: "Ngươi đã thử qua chưa? Xe kiểu này thật sự có thể chạy trên tuyết không?"

Cao Ngạn đáp: "Đương nhiên đã thử qua! Đó chính là nguyên nhân ta muốn làm hai cặp Phi Ngoa. Ta ở dưới nàng ở trên, chỉ cần đem tay biến thành mái chèo, coi tuyết như nước, có thể giống như thuyền trôi trên biển tuyết, nhanh chóng thuận tiện. Bởi vì Bách bảo bào của bọn ta phủ đầy tuyết, cộng thêm tuần binh của địch nhân thân mỏi mắt mờ, ở trong cảnh đầy trời gió tuyết, chắc chắn cho dù bọn ta có đi ngang qua trước mặt, địch nhân vẫn u mê không biết."

Doãn Thanh Nhã hỏi: "Nhưng ta không muốn đem cả thân mình nằm phục lên người ngươi?"

Cao Ngạn cười nói: "Vợ chồng già, còn có cái gì để mà cãi nhau?"

Doãn Thanh Nhã kéo tay gã ra, cắn một cái để dấu lại trên tay, lúc gã nhăn mặt đau đớn, còn hung dữ nói: "Muốn chiếm tiện nghi với ta hả? Đây là cái giá phải trả trước đó. Nếu như ta phát giác không có địch nhân bên cạnh, ta sẽ đòi ngươi cho coi."

Cao Ngạn đem tay bên kia duỗi ra trước mặt Doãn Thanh Nhã nói: "Cắn nữa đi, ta nguyện trả giá thật đắt, để chiếm thật nhiều tiện nghi."

Doãn Thanh Nhã phì ra cười nói: "Tiểu tử chết bầm!"

Cao Ngạn đưa miệng lại gần tai nàng hỏi: "Âu yếm chút nha?"

Khuôn mặt kiều diễm của Doãn Thanh Nhã đỏ bừng lên, hung hăng liếc gã một cái, nhảy lên, nói: "Bọn ta đi thôi!"

Yến Phi đứng dậy trên Phiêu Miểu phong, đưa mắt nhìn lướt qua những ngọn núi cao thấp xa gần phủ phục dưới chân, trong lòng vui vẻ.

Mênh mang mưa bụi rơi xuống không ngừng.

Trải qua gần hai canh giờ vận công trị liệu, chàng đã miễn cưỡng áp hạ được thương thế, nhưng muốn hoàn toàn thuyên giảm, ít nhất cũng cần phải mười ngày công phu.

Lực sát thương của Hoàng Thiên đại pháp của Tôn Ân đã vượt xa trên ba đại cao thủ của Ma môn. Đối với chàng đã tạo thành một tổn hại nghiêm trọng, khiến cho kinh mạch của chàng bị thương. Nếu không phải trên người chàng có đủ tiên thiên kỳ công chí thuần chí tịnh, chỉ sợ vĩnh viễn không thể nào hồi phục lại hoàn toàn.

Từ đó mà xét, lực lượng của Tôn Ân thật sự có thể "sát tử" chàng, hoặc có thể nói là có đủ sức để phá hủy nhục thể của chàng, khiến chàng biến thành du hồn cô tịch vĩnh viễn luẩn quẩn trong thế gian.

Cho dù chàng thật sự là người sống mãi không chết được, hồi tưởng lại tình cảnh vừa mới xảy ra, cũng có cảm giác kinh sợ, phải lau mồ hôi lạnh vì vừa mới thoát chết.

Chàng có thể bình yên vượt qua trận chiến này, tạo thành cục diện lưỡng bại câu thương, khiến Tôn Ân không thành công phải thoái lui, đương nhiên là nhờ vào thực lực và bản lĩnh. Nhưng càng quan trọng hơn chính là đi trước một bước khám phá ra ý đồ của Tôn Ân. Mà chàng có thể nắm vững được tình huống của Tôn Ân là vì chàng hiểu rõ lão.

Đối với Tôn Ân mà nói, chỉ có tiên môn mới có đủ ý nghĩa, bởi vậy lão muốn cùng chàng quyết chiến, khẳng định có quan hệ trực tiếp đến tiên môn, đó là có thể luyện thành "Phá toái hư không" hay không.

Yến Phi thầm thở dài, nếu như mục đích của Tôn Ân chỉ là muốn giết chàng, chỉ sợ chàng đã trở thành toi mạng trên Phiêu Miểu phong này. Hoàng Thiên đại pháp của Tôn Ân khẳng định cao hơn chàng, may mắn là trong lòng lão có ý đồ riêng.

Giả sử như ngày này năm sau, chàng không thể khám phá ra pháp môn đánh bại Tôn Ân, khoan nói cái gì mang mỹ nhân tiến nhập Động thiên phúc địa, chàng sẽ "chết" rất thảm.

Yến Phi lắc lắc đầu, không nhịn được cười lên, bỏ đi xuống núi.

Cao Ngạn và Doãn Thanh Nhã đang trượt trong rừng tuyết, cảm thấy hết sức tiêu dao thoải mái.

Bọn họ cuối cùng cũng vượt qua vòng canh gác cuối cùng của địch nhân, thâm nhập đất địch. Rừng tuyết này kéo dài bất tận, ngang dọc rộng đến mấy chục dặm, bao trùm luôn cả khu vực rộng lớn giữa bờ tây Dĩnh Thủy và bờ nam Tứ Thủy, cũng là lá chắn tốt nhất để trinh sát địch nhân.

Vụ buôn bán này có thể nói là Cao Ngạn đã thắng cá. Đánh cược là Hướng Vũ Điền đã đến bờ đông Dĩnh Thủy, tiền đặt cược lại là sinh mạng của bọn họ. Cách ẩn nấp của Cao Ngạn có thể dễ dàng che mắt tuần binh của Yên nhân, nhưng tuyệt đối không gạt được người cao minh cỡ Hướng Vũ Điền.

Đột nhiên Cao Ngạn ngừng lại, rồi tung người lại một cây đại thụ gần đó, dán tai vào thân cây.

Doãn Thanh Nhã đến bên cạnh người, lại không dám làm phiền gã.

Sau hồi lâu, Cao Ngạn dời đầu khỏi thân cây, nói: "Có số lớn địch nhân đang từ mặt bắc chạy bộ tới đây."

Doãn Thanh Nhã kinh ngạc thốt: "Sao còn chưa chạy mau!"

Cao Ngạn đáp: "Bỏ chạy ở bất cứ hướng nào cũng nguy hiểm như nhau, địch nhân tinh thông thuật truy tung..."

Doãn Thanh Nhã cắt lời y hỏi: "Bọn ta ẩn núp trên cây thì sao?"

Cao Ngạn đáp: "Đó tuyệt đối không phải là biện pháp. Đau đầu nhất là trước khi trời sáng bọn ta phải chạy tới được Quan Sát đài. Nếu không để mặt trời lên cao đến đầu ngọn sào, tuyết lại ngừng rơi, địch nhân thả ra liệp ưng ác khuyển, bọn ta càng khó trốn thoát."

Doãn Thanh Nhã gần như muốn khóc: "Phải làm sao đây?"

Cao Ngạn bình tĩnh một cách kỳ lạ, đột nhiên nói: "Xuất giá tòng phu, đi theo ta!"

Doãn Thanh Nhã có chút không biết nên cười hay khóc. Chỉ là không có tâm tình để tranh cãi với gã, vội theo gã đi quanh co khúc khuỷu trong rừng. Hồi lâu sau đã đến cạnh một ngọn đồi nhỏ nhô lên trong rừng, cây cối ở chỗ này hết sức rậm rạp, một dòng suối quấn quanh ngọn đồi chảy qua vùng đất thấp xung quanh, cạnh bờ sỏi đá lởm chởm.

Cao Ngạn nói: "Cởi Bách bảo bào ra đi, ngàn vạn lần chớ có làm tuyết trên áo rơi xuống."

Doãn Thanh Nhã bắt đầu hiểu một chút về cái trò Cao Ngạn muốn chơi, liền vội theo lời gã cẩn thận cởi Bách bảo bào xuống, lộ xuất kình trang màu xanh và thân hình thanh tú kiều diễm.

Cao Ngạn đang chăm chú quan sát từng cụm đá một bên dòng suối, lựa chọn mục tiêu, lúc mục quang của gã dời đến chỗ Doãn Thanh Nhã, lập tức sáng cả lên, trầm trồ: "Nhã nhi thật là đẹp!"

Doãn Thanh Nhã giận dữ nói: "Chết đến nơi rồi mà vẫn không chừa cái tính đó."

Cao Ngạn nắm lấy bàn tay mềm mại của nàng, kéo thẳng đến một đống loạn thạch bên bờ suối, cười nói: "Bọn ta giả làm đá tảng thì sao? Tảng đá này nếu không gọi là Nhân Duyên thạch thì cũng phải là Phu Thê thạch."

Doãn Thanh Nhã lo lắng nói: "Nếu để Yên nhân đứng trên tảng đá này, bọn ta còn giữ được mạng sao?"

Cao Ngạn đáp: "Kỹ xảo là ở chỗ đó. Hòn đá này của bọn ta nằm giữa hai tảng đá lớn, một nửa chìm dưới dòng nước, cộng thêm bọn ta phúc lớn mệnh lớn, khẳng định có thể thoát qua ải này."

Doãn Thanh Nhã không còn đường lựa chọn, y theo chỉ dẫn của Cao Ngạn trước tiên co tròn nằm giữa hai tảng đá bên bờ suối, để Cao Ngạn đem Bách bảo bào phủ lên người. Sau đó gã chui vào trong, đem Bách bảo bào của gã phủ lên phía bên kia, xong xuôi đưa tay ôm chặt Doãn Thanh Nhã vào lòng, lại còn kề sát tai nàng hỏi: "Có thích không?"

Doãn Thanh Nhã "Ư" lên một tiếng, không nói gì cả.

Cao Ngạn rút một tay lại, nhấc áo che lên, thò đầu ra nhìn, lại lập tức rút đầu vô, nhẹ giọng nói: "Ta nhìn thấy ánh mấy ngọn đuốc của Yên nhân!"

Môi gã không biết hữu ý hay vô tình lướt nhẹ lên làn môi thơm của Doãn Thanh Nhã.

Thân hình kiều diễm của Doãn Thanh Nhã run nhẹ, thì thầm mắng: "Tiểu tử chết bầm! Không được hôn ta."

Rồi vùi khuôn mặt yêu kiều vào cổ gã.

Cao Ngạn ôm thân thể mềm mại ôn nhu của nàng trong lòng, không còn biết thế gian là gì nữa? Hôm nay thật hên à? Mọi chuyện nguy hiểm đều vứt bỏ ra ngoài. Chỉ còn ngửi thấy mùi hương thơm tho đến say người phát ra từ thân thể của Doãn Thanh Nhã, cảm thụ được độ ấm của thân thể động lòng người của nàng, thầm nghĩ sinh mệnh lại có thể thỏa mãn được nhu cầu xa xỉ này sao?

Doãn Thanh Nhã hỏi: "Ngươi trước đây đã giả làm đá tảng rồi à?"

Cao Ngạn đáp: "Nhã nhi yên tâm. Giả làm đá là một bản lĩnh của ta, giả làm đá có tuyết lại mười phần ổn hết chín, tuyệt đối sẽ không có chuyện gì đâu."

Tiếng người truyền lại.

Không biết có phải bắt đầu sợ hay không, Doãn Thanh Nhã chủ động ôm chặt lất eo gã, tựa như dụng hết lực, Cao Ngạn mừng đến độ muốn mất cả thần hồn, vô cùng hoan hỉ.

Trong lúc mê mê hồ hồ, bốn bên vang lên tiếng sột soạt của giày đạp lên tuyết, tiếng ngọn đuốc phụt phù trong gió hòa với tiếng quát tháo truyền lại.

Chỗ nguy hiểm nhất ngược lại cũng là chỗ an toàn nhất, khiến hai người sinh ra cảm giác đồng mệnh uyên ương.

Tiếng huyên náo dần dần mất đi, đột nhiên có tiếng vó ngựa truyền lại.

Cao Ngạn thầm kêu nguy hiểm, bởi vì gã chút xíu nữa đã nhấc tấm áo phủ để xem tình huống bên ngoài.

Đột nhiên cảm thấy Doãn Thanh Nhã dùng ngón tay viết một chữ trên lưng gã, chỉ tiếc gã đang để tâm thần ở ngoài, nên đã mất đi những nét khởi đầu, nên căn bản không biết Doãn Thanh Nhã đã viết chữ gì. Nổi tính tinh nghịch, trên lưng Doãn Thanh Nhã viết một chữ "Thê".

Tiếng vó ngựa đến chỗ tảng đá nơi hai người ẩn thân thì ngừng lại.

Hai người không dám thở ra đến nửa hơi không khí, vì sợ đến động tác nhỏ nhất cũng có thể làm địch nhân phát giác. Chỉ có tim Doãn Thanh Nhã thì lại nhảy "bình bịch", hiển nhiên nàng đang sợ hãi trong lòng. Ngược lại tiếng tim đập của Cao Ngạn lại càng nhẹ đi, có thể thấy qua công phu lãnh tĩnh của Cao Ngạn thật sự đã cao hơn Doãn Thanh Nhã.

Cao Ngạn tịnh không chút lo lắng. Tiếng ngựa phun hơi "phì phì", tiếng ngọn đuốc cháy, có thể át hết bất cứ thanh âm nhỏ nào. Huống chi lại còn cách một lớp áo ngoài che phủ.

Một giọng nam nhân cất lên: "Cao Ngạn và Tiểu Bạch Nhạn có thể thật sự đã đến bờ Đông rồi."

Cao Ngạn lại là lần đầu nghe được thanh âm của người này, càng kỳ quái là hắn không nói tiếng Tiên Ti mà nói tiếng Hán.

Giọng một nam nhân khác nói: "Cao Ngạn tên tiểu tử này chuyện khác thì không giỏi, nhưng làm thám tử thì đúng là xuất sắc vô cùng, lại giảo hoạt như hồ ly. Ta từ đầu đã cho rằng Hướng Vũ Điền đã đánh giá gã quá thấp. Hừ! Con người y thật là kiêu ngạo, căn bản không để người nào trong mắt."

Cao Ngạn có cảm giác nghe quen giọng, nhưng trong nhất thời không sao nghĩ ra người này là ai.

Nam nhân đầu tiên nói: "Hướng Vũ Điền có tư cách kiêu ngạo hay không, chỉ cần y có thể giết chết Yến Phi, Hoang nhân sẽ không chiến mà tan. Ài! Xem ra lùng sục lần này lại không có kết quả, Cao Ngạn thật ra là ẩn náu ở đâu?"

Nam nhân kia nói: "Ta không lo gã ẩn ở đâu. Đúng như lời của Hướng Vũ Điền, gã luôn luôn muốn đến bắc Dĩnh khẩu. Bọn ta ở nơi đó giăng lên thiên la địa võng, chờ gã và tiểu tình nhân của gã đâm đầu vào."

Hồ Bái!

Cao Ngạn cuối cùng cũng nhớ lại hắn là Hồ Bái, đồ đệ của "Đại Hoạt Di Lặc" Trúc Pháp Khánh, đã từng tiềm phục trong Hán bang ở Biên Hoang Tập trước đây. Hắn lấy được lòng tin của Long đầu Hán bang Chúc lão đại, bỏ trốn sau khi đánh trọng thương Chúc lão đại. Chúc lão đại cuối cùng mất đi. Không ngờ hắn lại trở thành con chó của Mộ Dung Thùy, lần này lại bị Mộ Dung Thùy phái lại đối phó Hoang nhân bọn họ. Người này đối với tình thế của Biên Hoang biết rất rõ. Thảo nào phòng thủ canh gác lại nghiêm mật như vậy, luôn cả Cao Ngạn gã chút xíu nữa cũng tìm không ra.

Bất quá lần này có thể ở bên cạnh nghe lén được hắn nói chuyện, hiển thị bản thân vẫn cao hơn hắn một bậc.

Nam nhân lên tiếng đầu tiên nói: "Lúc tuyết ngừng rơi, bọn ta liền có thể thả ra liệp ưng. Lúc đó Cao tiểu tử và Tiểu Bạch Nhạn chắc chắn sẽ không còn chỗ tàng hình nữa."

Hồ Bái cười nịnh nọt nói: "Bọn ta lần này chắc chắn thắng. Chỉ cần bọn ta dựng nên sáu tòa bảo trại sát bờ, cho dù Hoang nhân hung hãn dũng mãnh ra sao, cũng khó mà vượt qua bắc Dĩnh khẩu nửa bước. Tông tướng quân lập được kỳ công này, tương lai sẽ được Hoàng thượng trọng dụng. Khi đó Tông tướng quân ngàn vạn lần chớ có quên Hồ Bái ta."

Cao Ngạn chấn động trong lòng, từ ba chữ "Tông tướng quân" gã đoán được người kia là Tông Chính Lương có ngoại hiệu là "Tiểu Hậu Nghệ".

Tông Chính Lương nói: "Lần này trước khi Hoàng thượng phái ta lại, từng kiếm ta nói chuyện, hỏi ta có biết vì sao lại giao cho ta phụ trách nhiệm vụ quan trọng này?"

Hồ Bái hết sức hứng thú hỏi: "Tông tướng quân trả lời ra sao?"

Tông Chính Lương thở dài: "Nói trắng ra, ta thật sự không biết. Nói cho đúng thì ta đã phạm sai lầm, mấy lần thua trong tay bọn Hoang nhân. Vì vậy ta chỉ có thể nói là không biết. Ngươi nói Hoàng thượng trả lời ta ra sao? Người nói chính vì ta đã bao lần thất bại, vốn sẽ không có lòng khinh địch, chỉ cần ta có thể từ trong thất bại rút ra được bài học, hiểu rõ thủ đoạn của Hoang nhân, lần này sẽ không phụ ủy thác của người."

Hồ Bái trở nên trầm mặc, Cao Ngạn cũng thấy tội cho hắn, bởi vì hắn đã vỗ mông ngựa sai chỗ.

Tông Chính Lương nói: "Bởi vậy ta tuyệt đối sẽ không cho rằng mình chắc chắn thắng. Trận tuyết tới sớm này, đối với bọn ta có lợi cũng có hại. Chỗ tốt là Hoang nhân trước khi bọn ta dựng xong bảo trại khó có thể phản công. Chỗ xấu là đội ngũ cung ứng của bọn ta trước khi gió tuyết ngừng lại không có cách gì tiến tới bắc Dĩnh khẩu. Lần này ta phải hết sức tỉnh táo, không chấp nhận có thất bại."

Hồ Bái nói: "Hoàng Thượng thật biết dùng người, Tông tướng quân khẳng định là nhân tuyển thích hợp nhất chủ trì nhiệm vụ này. Chỉ cần viện quân của bọn ta kéo tới, lúc đó chỉ cần giữ vững được trại, giữa trại này với trại kia lại có thể hỗ tương hô ứng, dĩ dật đãi lao. Hoang nhân có đến tấn công, so với đi tìm chết cũng không có gì khác biệt."

Tông Chính Lương nói: "Hiện thời chuyện quan trọng là bắt cho được Cao tiểu tử, khiến Hoang nhân không biết được hư thực của bọn ta. Đến khi dựng xong bảo trại, Hoang nhân dù có muốn phản công, cũng đã mất đi thời cơ."

Sau đó cười dài một tràng, giục ngựa bỏ đi.

Hơn trăm thớt ngựa theo hắn chạy về nam, nhanh chóng đi xa.

Doãn Thanh Nhã buông ngọc thủ đang ôm Cao Ngạn.

Cao Ngạn đợi giây lát, kề tai Doãn Thanh Nhã hỏi: "Nhã nhi mới đây viết chữ gì trên lưng ta?"

Doãn Thanh Nhã cựa nhẹ ra khỏi vòng tay gã, không nói gì, chỉ "ứ" lên một tiếng.

Cao Ngạn tìm đến má của nàng, thơm nhẹ một cái, hỏi: "Có phải là chữ 'Phu' không?"

Doãn Thanh Nhã nắm chặt lấy cằm gã, khiến gã không sao buông lời khinh bạc với nàng, giận dữ nói: "Ngươi ngậm miệng lại! Ta tuyệt sẽ không gả cho tên vô lại ngươi đâu, mau thả ta ra."

Cao Ngạn nói: "Cho hôn một cái...ái!"

Tay kia của Doãn Thanh Nhã thụi vào sườn gã một cái, khiến gã toàn thân đau đớn.

Doãn Thanh Nhã giận dữ nói: "Nếu không phải thấy ngươi nửa thân ngâm trong nước, muốn ngươi thoải mái hơn, đừng hòng người ta mới ôm ấp."

Cao Ngạn nói: "Ta cũng vậy thôi, nàng ôm ta nhẹ lắm sao? Chút nữa luôn cả trứng....ái! Không có gì."

Doãn Thanh Nhã cởi áo ngoài có đầy hoa tuyết trên người xuống, đẩy gã ra rồi ngồi dậy.

Cao Ngạn cũng ngồi dậy, cười hỏi: "Lúc nãy có thoải mái không?"

Mặt phấn của Doãn Thanh Nhã vẫn còn đỏ bừng, liếc gã một cái nói: "Không được nói bậy bạ, bọn ta còn phải lên đường!""Đến rồi!"

Doãn Thanh Nhã chạy tới bên cạnh Cao Ngạn, nhìn thấy phía trước một màn tối đen như mực, cũng chẳng phân biệt được là cây cối hay rừng núi, không hiểu hỏi: "Quan Sát đài của ngươi nằm ở đâu?"

Cao Ngạn lùi ra sau ngồi xuống. Vốn phía sau có một tảng đá lớn, tiểu tử này ngồi xuống yên yên ổn ổn, thong thả nói: "Nhã nhi ngồi xuống cạnh ta nè. Ta phải chọn tảng đá này cẩn thận lắm à, vừa bằng phẳng lại trơn tru, chắc chắn Nhã nhi ngồi xuống sẽ rất thoải mái."

Doãn Thanh Nhã thật sự đã mệt lắm, chỉ còn cách y lời ngồi dựa vào gã, lại vụt đứng lên, đổi lại ngồi xuống bên kia, kề lưng vào lưng gã, thở dài: "Như vậy mới là thoải mái! Ui! Đùi của ta đau muốn chết luôn."

Hành động chủ động thân mật này của nàng, khiến Cao Ngạn mừng rỡ, cảm thấy ngọt ngào đến tận tâm can, vội hỏi: "Có muốn ta bóp chân cho Nhã nhi không?"

Doãn Thanh Nhã cảnh cáo: "Đừng có được đằng chân lân đằng đầu, ta chỉ là mượn cái lưng của ngươi nghỉ một chút, nếu như tảng đá quái quỷ này lại là Quan Sát đài của ngươi, ta sẽ đánh ngươi chết."

Cao Ngạn kiêu ngạo nói: "Tháo giày ra rồi hãy nói! Mới đây nàng còn không nghe à? Luôn cả địch nhân cũng phải tôn xưng ta. Tảng đá này chỉ là cửa vào bí đạo dẫn tới Quan Sát đài. Nàng hiện tại đang thấy chính là rừng rậm Kinh Cức. Năm đó không biết tốn của ta bao nhiêu công phu, mới làm thành Quan Sát đài bí ẩn này, nàng hiện tại đang hưởng thụ thành quả tâm huyết của ta."

Doãn Thanh Nhã tỏ ra đang lắng nghe, hỏi: "Đó là tiếng gì vậy?"

Cao Ngạn tháo giày ra, nhét Bách bảo bào vào hai túi riêng biệt, tự nhiên đáp: "Đó là tiếng tù và bên trại địch nhân, một dài ba ngắn, biểu thị vẫn chưa phát hiện có ngoại nhân xâm nhập. Con bà nó, sao lại không có ngoại nhân xâm nhập? Bọn ta không phải là ngoại nhân sao? Chỉ là bọn ngươi vô dụng, không có phát hiện ra bọn ta thôi!"

Doãn Thanh Nhã vừa tháo giày vừa cười nói: "Tiểu tử ngươi thích nhất là nổi điên. Thật ra tháo giày ra để làm gì? Mang giày để đi trên tuyết không phải là tiện à?"

Cao Ngạn cười đáp: "Nhã nhi đã quen bảo bối do ta thiết kế rồi! Có phải là sau khi tháo giày ra, mỗi một bước có vẻ như nặng thêm mười cân không?"

Doãn Thanh Nhã nói: "Bớt nói tào lao lại, bí đạo nằm ở đâu? Có phải nhấc hòn đá này lên là có thể thấy cửa vào?"

Cao Ngạn nhảy lên, đồng thời đỡ lấy hai bờ vai thơm của Doãn Thanh Nhã, giúp nàng đứng dậy, cười nói: "Để ta làm ảo thuật cho nàng coi."

Nói rồi đi đến trước rừng cây Kinh Cức, cúi người nắm lấy cây kinh cức bị chặt còn khoảng nửa thước trên mặt đất, dùng sức kéo mạnh, hoa tuyết bay tung ra xung quanh. Kinh cức nhẹ nhàng di chuyển, lộ ra một lối nhỏ vừa đủ cho người khác bò vào.

Cao Ngạn đắc ý nói: "Nhã nhi bây giờ đã hiểu vì sao phải tháo giày ra chưa? Bởi vì phải bò vào đó!"

Doãn Thanh Nhã nhíu mày hỏi: "Cái động quái quỷ này sâu bao nhiêu?"

Cao Ngạn đáp: "Ước khoảng bảy, tám trượng. Đào bí đạo này cũng khổ như xây Trường Thành, là do ta và tiểu Kiệt hai đứa làm ra. Trước đây ta nhiều lần bị người truy sát, toàn là nhờ bí đạo này thoát thân. Nhã nhi mời!"

Doãn Thanh Nhã nói: "Ngươi đi trước đi!"

Cao Ngạn thở dài: "Ta không phải là không muốn đi trước, chỉ là còn phải phụ trách đóng cửa, phải đem cái cửa làm bằng kinh cức này đóng cho kín."

Doãn Thanh Nhã không cãi lại gã, chỉ còn nước phải bò vào trước.

Cao Ngạn nói nhỏ: "Mật đạo chạy thẳng đến Quan Sát đài, Nhã nhi cứ tiến thẳng về phía trước sẽ tới."

Sau đó kéo cây kinh cức về lại vị trí cũ, hai người bọn họ liền giống như biến mất.

Trong lúc bọn họ vẫn còn đang lần mò trong bí đạo tối om, một đội tuần binh đi ngang qua Kinh Cức lâm, hoàn toàn không thèm đi qua những khu khác, thật là nguy hiểm vô cùng.

Lúc hoàng hôn, Yến Phi tại bờ bắc Thái Hồ rời bè lên bờ, đi về hướng Kiến Khang.

Lúc này chàng mới có thời giờ suy nghĩ về trận quyết chiến với Tôn Ân tại Phiêu Miểu phong. Chuyến hành trình trở về so ra dùng đến gấp đôi thời gian, bởi vì một bên chàng phải chèo chống bè, một bên phải lo liệu thương, tinh thần tựa như rời khỏi thể xác.

Đối với Hoàng Thiên đại pháp của Tôn Ân, chàng đã có hiểu biết thâm sâu. Hai lần đối địch với Tôn Ân trước đây, đều không có hiểu biết và cảm thụ như lần này. Tôn Ân tưởng có thể từ trên người chàng tìm ra công pháp khai mở tiên môn, sự thật lại là lão cũng đã khai mở giúp chàng nắm được bí mật của "Phá toái hư không".

"Hoàng Thiên vô cực" của Tôn Ân cho thấy lão đã luyện thành một nửa công pháp "Phá toái hư không". Lấy thiên, địa, tâm tam bội làm thí dụ, thì lão đã có được tâm bội, chỉ còn phải hợp thiên địa bội lại thôi.

"Hoàng Thiên vô cực" không có giới hạn, đã hoàn toàn vượt lên trên phạm trù sức người và võ công, cùng thiên địa hòa thành một thể. Hoàng Thiên đại pháp có thể đạt vô cực, chỉ vì Tôn Ân có thể dùng năng lượng của trời đất, đoạt lấy tinh hoa của thiên địa tạo hóa, vì vậy có thể nhanh hơn một chút, ép chàng phải đánh tới.

Nếu như không phải Yến Phi nhanh trí, trước tiên dùng thiên tính của khí chí âm hấp dẫn khí chí dương, di chuyển khí trận của Tôn Ân, lại dùng kỳ chiêu đả thương Tôn Ân, khiến lão không sao thi triển lại "Hoàng Thiên vô cực", hậu quả thật không sao tưởng tượng nổi.

So với Tôn Ân, Tiên Môn quyết của Yến Phi tựa như hai bên đều không nhìn thấy bờ, vốn chỉ có thể thi triển cái Tôn Ân gọi là Tiểu tam hợp. Nhưng nếu như Thái Dương và Thái Âm của chàng đều có thể dùng năng lượng của thiên địa đến vô hạn, chàng có thể làm ra được Đại tam hợp, phá không mà đi không? Chàng sinh ra cảm giác đã ngộ ra được "Phá toái hư không", tuy nhiên thật sự làm sao có thể thực hiện, chàng vẫn hoàn toàn chưa nắm được đầu mối. Nhưng nếu Tôn Ân có thể thành công, chàng đương nhiên cũng có khả năng làm được.

Đột nhiên, chàng cảm thấy tâm hồn mở rộng đến nơi vô tận, đã nắm được bí mật của thiên địa.

Mặt trời buổi chiều tà sau đám mây đẹp như tiên, chiếu xuống chút ánh nắng còn sót lại của ngày, bình nguyên mỹ lệ như tiên cảnh.

Yến Phi cười lên một tràng dài, tăng tốc đi tới nơi dự định.

"Kì Binh Hào" từ từ tiến vào trong vịnh, đây là nơi ước định hội họp với Đồ Phụng Tam, cách Hải Diêm thành chỉ có một ngày thủy trình.

Mặt trời đã lặn xuống phía sau dãy núi kéo dài ở phía tây vùng vịnh. Ngọn phong đăng hai xanh một vàng treo cao trên cột buồm "Kỳ Binh Hào" đang tỏa ra ánh sáng quỷ dị, đây chính là đèn hiệu đã ước định với Đồ Phụng Tam.

Lưu Dụ, Tống Bi Phong và Lão Thủ ba người đứng trên đài viễn vọng, dụng thần quan sát tình huống vùng vịnh và trên bờ.

Hai mươi lăm huynh đệ tinh thông thuật lái thuyền đi theo Lão Thủ cũng toàn thần cảnh giới, để ứng phó với bất kỳ tình huống gì có thể đột ngột xảy ra.

Tống Bi Phong nhíu mày hỏi: "Hay là Phụng Tam vẫn chưa đến?"

Lưu Dụ lắc đầu đáp: "Luận tốc độ thuyền của y không thua bọn ta, so với bọn ta lại đi trước gần một ngày thời gian, nên đến rồi mới phải."

Lão Thủ đưa mắt nhìn mặt biển, trầm giọng nói: "Trước đây không lâu, nơi này đã xảy ra một trận thủy chiến kịch liệt. Mọi người xem này, mặt biển vẫn còn thấy nổi vết dầu."

Tống Bi Phong chấn động nói: "Phụng Tam có thể đã trúng phục binh."

Lão Thủ trầm tĩnh nói: "Không cần phải lo, Đồ gia chắc đã thành công đột vây đào thoát, nếu không vết dầu sẽ không loan ra đến ngoài vịnh."

Lưu Dụ thần sắc ngưng trọng, theo lời Lão Thủ quan sát mặt biển.

Lão Thủ nói: "Bọn ta nên lập tức ly khai, vịnh này không nên ở lâu."

Lưu Dụ nói: "Bọn ta hãy rời vịnh này, nhưng không nên đi xa quá. Nếu Phụng Tam đào thoát thành công, tất sẽ trở lại hội họp với bọn ta."

Tống Bi Phong kêu lên: "Xem kìa!"

Lưu Dụ vui mừng nói: "Là Phụng Tam!"

Chỉ thấy trên một ngọn núi nơi cửa vào vịnh có ánh đèn chớp sáng theo tiết tấu, chính là thủ pháp đánh đèn hiệu của Hoang nhân.

Không đợi Lưu Dụ hạ lệnh, Lão Thủ đã sớm sai thủ hạ lái "Kỳ Binh Hào" qua đó.

"Nhã nhi! Nhã nhi!"

Doãn Thanh Nhã mở to mắt, sau đó giật mình ngồi dậy, hỏi: "Bây giờ là lúc nào? Ta đã ngủ được bao lâu?"

Cao Ngạn trong bóng tối của tiểu trướng, ngồi trước mặt nàng, âu yếm nói: "Bây giờ chắc khoảng canh một, Nhã nhi đã ngủ được một ngày nửa đêm rồi."

Doãn Thanh Nhã thấy bóng của Cao Ngạn bắt đầu rõ dần, sự thật là đã rõ cả người. Màn trướng mỏng như cánh ve cũng đã rõ lại, nhìn thấy ánh sáng màu vàng, mê mê hồ hồ ngạc nhiên hỏi: "Sao lại sáng như vậy?"

Cao Ngạn đưa tay nắm lấy bờ vai thơm của nàng, nhẹ nhàng nói: "Là ánh trăng đó! Hôm nay sau Ngọ thời tiết đổi thành quang đãng, trời xanh kéo dài tới chân trời. Lại đây! Mau khoác lên Bách bảo bào, đến lúc ly khai rồi."

Doãn Thanh Nhã đã tỉnh lại một chút, hỏi: "Ngươi đã hoàn thành nhiệm vụ của mình chưa?"

Cao Ngạn tựa như đang chờ tiểu công chúa để giúp nàng mặc Bách bảo bào, cười nói: "Ta ở trên Quan Sát đài xem suốt cả ngày, đã thấy rõ mọi thứ, lúc này không đi, còn đợi lúc nào?"

Doãn Thanh Nhã yêu kiều cười khì, liếc gã một cái: "Cái gọi là Quan Sát đài của ngươi, bất quá chỉ là một cây đại thụ mọc thật cao, ta còn tưởng là chỗ gì kinh khủng lắm."

Cao Ngạn đang giúp nàng chỉnh đốn quần áo, vui vẻ nói: "Có siêu cấp thám tử như ta trưng dụng nó, cây đại thụ này cũng tự nhiên trở thành siêu cấp Quan Sát đài, lại sẽ vang danh trong lịch sử Biên Hoang, nhờ "Thiên Thư" của lão Trác điên từ nay truyền tụng."

Doãn Thanh Nhã ngửa khuôn mặt kiều diễm lên, nhìn lên đỉnh trướng, tựa như có thể thấu qua trướng nhìn thấy minh nguyệt trên trời đêm, bực mình nói: "Ngươi thích nhất là mèo khen mèo dài đuôi. Ái chà! Đẹp quá!"

Cao Ngạn nhờ ánh trăng chiếu vào trong trướng, nhìn ngắm hoa dung mỹ lệ như thiên thần của nàng. Thần tình chân thiện rực rỡ của Doãn Thanh Nhã dưới ánh trăng lại càng không thể diễn tả. Cao Ngạn nhất thời tâm thần say đắm, tìm tới gần môi thơm của nàng.

Ai ngờ Doãn Thanh Nhã lách qua một bên, chui ra khỏi trướng, hại gã không những công cốc, lại còn chút xíu nữa chúi nhủi, té ngã trong trướng.

Cao Ngạn buồn rầu chui ra khỏi trướng, chỉ thấy Doãn Thanh Nhã vừa duỗi người, vừa ngẩng đầu nhìn lên mặt trăng đang treo trên trời đêm. Nàng đang đứng chỗ trống ở ngay giữa Kinh Cức lâm, nhìn giống như một tinh linh mỹ lệ, khả ái đã sống bao nhiêu năm trong rừng tuyết.

Cây quan sát đứng một mình lẻ loi gần góc Đông Bắc trong đất địch, chọc thẳng lên trời đêm.

Tiếng tù và từ phía trận địa bên địch chỉ cách một cánh rừng truyền lại, lại ẩn ước nghe được tiếng nước sông Dĩnh Thủy đang chảy.

Cánh rừng Kinh Cức rậm rạp này kéo dài đến mặt Nam của Tứ Thủy và khu đồi núi ở bờ Tây của Dĩnh Thủy, mà Quan Sát đài chính là nằm ở chỗ cao trên núi, sau khi leo lên cây có thể thấy toàn bộ tình huống của bắc Dĩnh khẩu.

Mục quang Doãn Thanh Nhã nhìn qua phía Cao Ngạn, lộ ra nụ cười tinh quái, nói: "Ngươi nên giở trò lúc người ta còn chưa tỉnh ngủ, hiện tại đã mất cơ hội rồi!"

Cao Ngạn thu thập doanh trướng, lại làm như không có chuyện gì nói: "Nhã nhi yên tâm, mỗi lần ta từ trên cây leo xuống đất nghỉ ngơi, ta đều vào trong trướng hôn môi Nhã nhi, bởi vậy tuyệt không có chuyện đánh mất cơ hội."

"Cái gì?"

Cao Ngạn đem màn trướng gấp lại nhét vào trong túi, quay đầu lại, chỉ thấy Doãn Thanh Nhã chống tay lên eo, mở to mắt giận dữ trừng trừng nhìn gã.

Cao Ngạn đáp: "Không có gì, hắc! Ta đã kiềm chế lắm rồi, miệng của Nhã nhi thiệt là thơm."

Doãn Thanh Nhã tức giận la: "Ngươi chỉ có phịa chuyện thôi! Mau nói cho ta nghe, ngươi chỉ có phịa chuyện thôi."

Cao Ngạn nhún vai nói: "Đúng rồi! Ta chỉ có phịa chuyện thôi."

Doãn Thanh Nhã cười khì khì, liếc gã một cái nói: "Tiểu tử thúi ngươi, xú tiểu tử. Nếu như quả thật đã chiếm tiện nghi với bổn cô nương, ta sẽ một mất một còn với ngươi."

Cao Ngạn nhìn lên trời đêm, nói: "Từ ngày đầu tiên nhìn thấy nàng, ta đã một mất một còn với nàng rồi. Ài! Nói đến chiếm tiện nghi thì... Hắc!"

Doãn Thanh Nhã thần sắc không vui hỏi: "Ngươi vừa nói cái gì?"

Cao Ngạn vội đáp: "Không có nói gì! Thời gian không còn nhiều, bọn ta phải lập tức ly khai. Chỗ này hết sức nguy hiểm, sợ nhất là tiểu tử Hướng Vũ Điền ấy tìm đến."

Doãn Thanh Nhã hỏi: "Bọn ta không đợi thêm một trận tuyết lớn nữa à?"

Cao Ngạn đáp: "Nhìn sắc trời, những ngày sắp tới sẽ không có tuyết rơi. Nếu ngày mai có mặt trời lại, sẽ rất nguy hiểm cho bọn ta."

Doãn Thanh Nhã lại không có hứng thú để cãi nhau với Cao Ngạn, đi trước tới cửa vào bí đạo.

Sau khi Đồ Phụng Tam cùng hơn mười huynh đệ lên thuyền, "Kì Binh Hào" nhanh chóng rời khỏi vịnh.

Đồ Phụng Tam ở trong khoang thuyền kể lại chuyện đã qua. Thuyền của y vốn đã tới vùng vịnh sau giờ trưa, may mắn là y luôn luôn cẩn thận, lúc nào cũng ở trong trạng thái cảnh giác cao độ, không thả neo hoặc cập vào bờ, mà lại chọn chạy dọc theo bờ vịnh, mới tránh được đại nạn.

Không có dấu hiệu gì báo trước, hơn mười chiến thuyền của Thiên Sư quân đột nhiên đánh ập tới. Đám Đồ Phụng Tam chỉ có thể vừa đánh vừa chạy, bằng chiến thuật tốt đột vây ra biển, ven theo bờ Nam bỏ chạy. Tiếc là chiến thuyền bị thiệt hại quá nặng, nhiều chỗ bắt lửa và bị nước tràn vào, cuối cùng chỉ còn cách bỏ thuyền lên bờ, lại trốn về vùng vịnh đợi Lưu Dụ.

Đồ Phụng Tam tổng kết lại nói: "Lần này là trong cái rủi có cái may, chỉ có năm huynh đệ bị tên đá bắn trúng, nhưng đều không bị trọng thương." Nói xong hiện ra vẻ tươi cười.

Tống Bi Phong ngồi ở phía bên kia bàn ngạc nhiên hỏi: "Ta có lầm không, Phụng Tam tựa như vô cùng hưng phấn?"

Đồ Phụng Tam mỉm cười đáp: "Tống đại ca không những không nhìn sai, lại còn nhìn rất đúng, tâm tình của ta đúng là rất tốt."

Sau đó nhìn Lưu Dụ hỏi: "Lưu gia có minh bạch tâm tình của ta không?"

Lưu Dụ cảm thấy ấm áp trong lòng, nhớ lại Đồ Phụng Tam từ lập trường đối địch, bất lưỡng lập với mình, phát triển đến mức trở thành chiến hữu tuyệt đối tín nhiệm và sinh tử chi giao. Toàn bộ quá trình, thật sự làm người ta nhớ không hết được. Gã cười hỏi: "Lại là khảo thí ta à? Ngươi không phải đã sớm cho rằng ta là chân mệnh thiên tử hay sao mà vẫn còn muốn thử?"

Đồ Phụng Tam và Tống Bi Phong đưa mắt nhìn nhau, đồng thời cười phá lên.

Lưu Dụ gật đầu nói: "Được rồi! Tâm tình của Đồ huynh sở dĩ tốt như vậy, chỉ vì biết rằng món nợ lật thuyền lần này, không những có thể lấy lại vốn, mà còn có thể thu lãi to."

Tống Bi Phong cười khổ: "Ta nghĩ không nhận dốt không được, ta vẫn không hiểu có gì hay để mà hưng phấn?"

Đồ Phụng Tam giải thích: "Bọn ta trước giờ không rõ Từ Đạo Phúc đang giở âm mưu thủ đoạn gì. Hắn dám bỏ rơi Ngô Quận và Gia Hưng hai thành trì trọng yếu nằm dọc theo Vận Hà, định sẽ xem lại, nhưng là xem lại cái gì? Bọn ta nhìn không ra cũng hiểu không thấu. Dưới tình huống bây giờ, Từ Đạo Phúc có thể giữ được ba thành Hải Diêm, Ngô Hưng và Nghĩa Hưng cũng không dễ gì, chưa nói đến có thể đoạt lại hai thành Ngô Quận và Gia Hưng. Hiện tại thủy sư thuyền đội của Lưu Lao Chi cũng đã đến Hải Diêm, lên bờ nam, cùng với binh lính do Chu Tự chỉ huy liên thủ công đánh Hải Diêm. Dưới tình huống như vậy, mất Hải Diêm chỉ là chuyện sớm muộn mà thôi. Một khi mất đi Hải Diêm, đại quân của Tạ Diễm sẽ tiến xuống dưới, công đánh Cối Kê. Mà Lưu Lao Chi sau khi đoạt được Hải Diêm, cũng sẽ qua giúp Tạ Diễm công đánh Cối Kê. Khi Cối Kê bị quân viễn chinh lấy được, thì thời khắc quyết định thắng lợi của cả cuộc chiến sẽ đến. Mà thành bại của Thiên Sư quân, chính là nối liền với việc đoạt ba thành Ngô Quận, Gia Hưng và Hải Diêm. Như vậy có thể cắt đứt đường lương thực của quân viễn chinh, khiến cho quân viễn chinh rơi vào vùng thế lực của Thiên Sư quân, biến thành cô quân không viện trợ."

Tống Bi Phong nhíu mày thắc mắc: "Ta vẫn không hiểu, như vậy có quan hệ gì với chuyện Phụng Tam bị tập kích trong vịnh?"

Đồ Phụng Tam nói: "Không có quan hệ trực tiếp. Nhưng Thiên Sư quân lại để lộ hình tích, khiến bọn ta biết rằng ở vùng phụ cận vịnh có căn cứ bí mật của chúng. Bởi vậy tính cảnh giác mới cao như vậy, bọn ta ngừng lại chưa tới hai canh giờ, Thiên Sư quân đã có thể điều động thủy sư lại vây bắt chiến thuyền của bọn ta. Mất đi một chiến thuyền đối với bọn ta mà nói thì không có gì quan trọng, nhưng để bọn ta biết được Thiên Sư quân có căn cứ bí mật ở gần vịnh, đối với Thiên Sư quân lại là một sai lầm hết sức nghiêm trọng. Bởi vậy tâm tình của ta mới tốt như vậy."

Tống Bi Phong đột nhiên hiểu ra, gật đầu đồng ý.

Lưu Dụ thở ra, không nói gì.

Đồ Phụng Tam lãnh đạm nói: "Đây là tin tình báo quý giá phải dùng mạng đổi mạng mới lấy về được, chỉ có thể để cho bọn ta dùng riêng. Nếu như mục tiêu của bọn ta chỉ là giúp quân viễn chinh thắng được trận này, ta sẽ thỉnh Lưu gia lập tức thông tri cho Chu Tự. Nhưng tình huống hiện tại đương nhiên không phải như vậy, lại càng là bước ngoặt trọng yếu trong sự nghiệp quân sự của Lưu gia. Tống đại ca đồng ý không?"

Tống Bi Phong cười khổ: "Ta có thể nói gì đây? Nếu như quân viễn chinh đạt được toàn thắng, người đầu tiên mất mạng khẳng định là Lưu gia của bọn ta."

Đồ Phụng Tam nhạt nhẽo nói: "Ta dám cả gan nói một câu. Cho dù bọn ta tiết lộ cho quân viễn chinh tin tình báo quan hệ đến thắng bại, quân viễn chinh vẫn không có cách gì cứu vãn được. Bởi vì Từ Đạo Phúc đã giám sát và canh phòng cẩn mật quân viễn chinh, chỉ có bọn ta là kì binh, nằm ngoài dự tính của Từ Đạo Phúc, vốn có thể xoay đổi tình thế. Lưu gia nghĩ ta nói có đúng không?"

Lưu Dụ quả quyết nói: "Mọi chuyện cứ theo lời của ngươi mà làm."

Tống Bi Phong hỏi: "Căn cứ bí mật của Thiên Sư quân nằm ở đâu?"

Đồ Phụng Tam cười đáp: "Bọn ta sẽ sớm biết thôi."Thành Hải Diêm là một thành thị cỡ trung, chia làm hai phần, ở giữa có Nha thành*, là nơi đặt cơ cấu cai trị địa phương. Ngoại thành có bảy cửa, được chia vùng bởi hai đường chính. Đương nhiên đường thông tới Nam môn phồn hoa nhất, bởi vì ngoài Nam môn là khu bến tàu. Bình thường ngựa xe như nước, hàng hóa suốt ngày lên xuống, bởi vậy đường chính tới Nam môn được dân trong thành gọi là đường đẻ ra tiền, là mạch máu thương mại của Hải Diêm thành.

Sự phòng thủ của Hải Diêm cũng không phải dễ đánh phá. Xung quanh có thành hào che chở, có nước biển dẫn vào nên trở thành hộ thành hà, lại có cầu treo dùng cho việc ra vào. Tường ngoài thành cao đến hai mươi trượng, cửa thành có tiễn lâu, tăng cường thêm sức phòng thủ.

Hải Diêm hiện tại không còn phồn thịnh nữa. Sau khi Thiên Sư quân khởi nghĩa, phần lớn cư bân di tản về phương Bắc, buôn bán ngừng trệ. Năm ngày trước, Bắc Phủ binh từ Gia Hưng tiến tới, không kể ngày đêm mãnh liệt công đánh Hải Diêm. Hôm qua đại quân thủy sư do Lưu Lao Chi dẫn đầu, lên bờ ở bến tàu ở phía nam, công đánh Hải Diêm. Mọi người đều biết Hải Diêm đại thế đã tận, mất thành chỉ là chuyện sớm muộn.

Từ Đạo Phúc đứng trên đầu thành phía nam, nhìn Bắc Phủ binh thoái lui theo thủy triều. Phía trước thành để lại số thi thể lên đến mấy trăm, trong đầu vẫn còn hiện lên cảnh trận công phòng kịch liệt vừa mới xảy ra.

Bắc Phủ binh dựa vào tính áp đảo của binh lực, phát động từng đợt từng đợt công kích vào Hải Diêm, khiến Thiên Sư quân ở Hải Diêm mệt mỏi vì phải liên tục chống đỡ, đấu chí từng bước bị tan vỡ. Hiệu quả sách lược của Bắc Phủ binh tuy bắt đầu xuất hiện, nhưng lại không phải việc kẻ trí nên làm. Bởi vì cái giá phải trả thật sự là quá đắt, lại càng làm cho binh lính ý thức được bản tính chỉ vì thành công bất chấp thủ đoạn của chủ soái, vì vậy làm suy yếu sĩ khí.

Nếu đổi lại là Tạ Huyền, tuyệt sẽ không vội vã cầu thắng như vậy. Từ đó cũng có thể thấy được Tạ Diễm và Lưu Lao Chi là loại người nào.

Quân viễn chinh của Đại Tấn quyết định lấy cho bằng được Hải Diêm, bởi vậy tập trung lực lượng lại công đánh Hải Diêm. Còn việc dùng binh ở hai thành phụ cận Ngô Hưng và Nghĩa Hưng thì chỉ có tác dụng cầm chừng. Từ phương diện đó mà nhìn, Tư Đạo Phúc hiểu được Tạ Diễm và Lưu Lao Chi đã rơi vào bãi lầy do hắn dày công an bài.

Sau khi lấy được Hải Diêm, quân viễn chinh sẽ tiến đến Cối Kê, hy vọng có thể dùng Cối Kê làm cứ điểm, thu phục những thành trì khác ở vùng phụ cận duyên hải. Đây chính là mong muốn của quân viễn chinh. Nhưng Từ Đạo Phúc biết, dự tính của quân viễn chinh không những không làm được, mà còn phải thua thảm thương.

Lư Tuần lại bên Từ Đạo Phúc than: "Lưu Dụ vẫn chưa chết."

Từ Đạo Phúc mỉm cười nói: "Sư huynh chịu cực nhọc nhiều rồi, đêm qua trận sấm sét thật là dữ dội."

Lư Tuần ngẩng lên quan sát bầu trời đêm quang đãng, nói: "Trận sấm sét đêm qua đúng là dữ dội, nhưng ta lại có cảm giác hết sức thống khoái. Vào lúc trời đất khó phân, dưới tình huống oai trời không rõ, đầu óc con người sẽ sinh ra những ý niệm kỳ quái. Ài! Ngươi có muốn biết tình huống hai lần ta ám sát Lưu Dụ không thành không?"

Từ Đạo Phúc đáp: "Đệ đại khái cũng đã biết qua tình huống. Không cần phải lo, cái chân mệnh thiên tử của Lưu Dụ chỉ là giả thôi, gã tuyệt đối không phải là quái vật giết không chết, chỉ là tạm thời mệnh vẫn chưa tuyệt thôi."

Lư Tuần ngạc nhiên hỏi: "Đạo Phúc làm sao dám nói chắc như vậy?"

Từ Đạo Phúc đáp: "Là Thiên Sư chính miệng nói cho đệ biết. Trước khi người đến Phiêu Miểu phong ở Thái Hồ quyết chiến với Yến Phi, có đến Hải Diêm gặp đệ, đã nói như vậy. Nhưng khi đệ hỏi thêm, Thiên Sư lại cười không nói."

Lư Tuần nhíu mày suy nghĩ: "Thiên Sư sao lại có thể khẳng định như vậy? Hay người chỉ là muốn an ủi đệ?"

Từ Đạo Phúc lắc đầu nói: "Sư huynh và đệ đều hiểu rõ Thiên Sư thế nào mà. Người chưa từng dựng chuyện nói dối, chỉ thấy sao nói vậy."

Tiếp đó nói: "Nhưng đệ cũng thật sự không rõ, sao người lại có thể nói một cách chắc chắn như vậy? Từ khi người quyết chiến lần vừa rồi với Yến Phi không thành trở về, Thiên Sư tựa như biến thành một con người khác. Đối với chuyện của Thiên Sư đạo bọn ta không nghe không hỏi, tựa hồ trong thiên hạ chỉ có Yến Phi là có thể khiến người khẩn trương. Thật ra đã xảy ra chuyện gì giữa người và Yến Phi?"

Lư Tuần trầm giọng nói: "Lúc ta ở Kiến Khanh đưa chiến thư của Thiên Sư cho Yến Phi, đã qua lại một chiêu với Yến Phi."

Từ Đạo Phú ngạc nhiên thốt: "Một chiêu? Đó không phải là tác phong xưa nay của sư huynh."

Lư Tuần cười khổ đáp: "Yến Phi chỉ một chiêu đã khiến ta biết khó mà lui. Chân khí của hắn quái dị vô cùng, thủ không phải thủ, công chẳng ra công, chỉ có thể ngạnh tiếp xem có chịu nổi không. Võ công như vậy, ta cũng chưa từng nghe chứ không nói là thấy. Đúng là nằm mộng cũng chưa từng nghĩ tới."

Từ Đạo Phúc chỉ biết đực người ra nghe, không biết nói gì khác.

Lư Tuần nói tiếp: "Trước khi rời đi, ta không nhịn được hỏi hắn về tình huống trận chiến thứ nhì giữa hắn và Thiên Sư. Lúc đó hắn nói nhiều câu hết sức kỳ quái, tuy nhiên hàm ý của mỗi câu lại hết sức rõ ràng, không có chút gì hàm hồ, nhưng ta nghe được tựa như rõ lại không rõ, tựa như hiểu lại không hiểu. Sau đó nghĩ lại, càng nghĩ càng hồ đồ, lại ẩn ước cảm thấy Yến Phi nói sự thật, chớ không phải là nói cho qua chuyện."

Từ Đạo Phúc hết sức ngạc nhiên hỏi: "Yến Phi đã nói gì vậy?"

Lư Tuần hiện vẻ nhớ lại chuyện cũ, từ từ nói: "Y nói.....y nói.....Ài! Yến Phi nói 'Ta làm sao trả lời ngươi đây? Có thể nói như vầy, nhờ cơ duyên xảo hợp, khi quyết chiến vẫn còn chưa phân thắng bại đã kết thúc. Lệnh sư lại tình cờ biết chuyện thành tiên tịnh không phải là si tâm vọng tưởng, cũng có thể nói là lệnh sư đã ngộ đạo'."

Thấy Từ Đạo Phúc ngơ ngác, Lư Tuần cười khổ: "Ngươi nói đi! Lời như vậy có phải là khiến người ta càng nghe càng hồ đồ không?"

Từ Đạo Phúc hồi tỉnh lại nói: "Nếu như lời của Yến Phi là sự thật, Thiên Sư sao lại chưa thành tiên? Lại còn muốn lưu lại lăn lộn trong trần thế? Lại còn muốn thư hùng với Yến Phi?"

Lư Tuần nói: "Đêm qua trong lúc sấm chớp, trong lòng ta cuồng loạn, nghĩ đến đủ chuyện. Theo thời gian mà tính, lần cuối Thiên Sư quyết chiến với Yến Phi, vào cùng thời gian có truyền ngôn 'Hỏa thạch thiên giáng'. Hai chuyện này không biết có liên quan với nhau không?"

Từ Đạo Phúc đáp: "Khả năng đó rất lớn, chính vì Thiên Sư biết rõ Thiên giáng hỏa thạch là chuyện gì, vì vậy mới quyết đoán là không quan hệ gì đến 'Nhất tiễn trầm Ẩn Long' của Lưu Dụ, gã lại càng không phải là cái gì chân mệnh thiên tử. Hà! Không giấu sư huynh, lời này của Yến Phi giúp đệ cảm thấy nhẹ nhỏm, như bỏ được gánh nặng trong lòng."

Lư Tuần cười lạnh nói: "Lưu Dụ hiện tại đã trở thành người mà Ma môn muốn làm thịt sớm. Can Quy ám sát gã không thành, trái lại ôm hận ở Hoài Thủy, càng tăng thêm lòng thù hận của Ma môn đối với gã. Chỉ cần Lưu Dụ còn ở Kiến Khang, tránh được một lần tai họa, không có nghĩa là gã vĩnh viễn sẽ may mắn như vậy. Chỉ cần Đạo Phúc có thể đánh bại quân viễn chinh, liền có thể tiến lên phương Bắc. Tư Mã Đạo Tử bằng vào cái gì để chống lại Đạo Phúc?"

Từ Đạo Phúc song mục thần quang sáng rực nói: "Lưu Dụ có chút thủ đoạn, nhưng còn lâu mới nên chuyện, chỉ cần gã không phải là chân mệnh thiên tử là được rồi."

Lư Tuần đưa mắt nhìn ra ngoài thành hỏi: "Đạo Phúc tính chừng nào thì thoái lui?"

Từ Đạo Phúc mỉm cười nói: "Đại quân của Lưu Lao Chi vẫn chưa ổn định trận cước, thế hợp vây chưa thành, đệ nói đi là đi, ai ngăn được đệ?"

Lư Tuần vui vẻ nói: "Nếu như Đạo Phúc rút lui trong vòng ba ngày, ta có thể giúp Đạo Phúc đùa chơi ở đây một chút."

Từ Đạo Phúc cười nói: "Nếu vậy thì cứ quyết định là ba ngày! Khó lắm sư huynh mới có hứng thú, để Bắc Phủ binh nếm thử cái tư vị dám đến vuốt râu hùm Thiên Sư quân của bọn ta!"

Lư Tuần vui vẻ hỏi: "Thủ thành mà không ra đánh chỉ là tử thủ, để ta dẫn một cánh quân xuất thành công địch thì sao?"

Từ Đạo Phúc đáp: "Lần này sư huynh tới Kiến Khang tuy không giết được Lưu Dụ, nhưng phơi bày được huyền thoại 'Nhất tiễn trầm Ẩn Long' của Lưu Dụ, tác dụng cũng như đã giết gã, giải trừ được chướng ngại trong lòng đệ. Hiện tại đệ tràn đầy lòng tin đấu chí, có chút cảm giác thư thái như nắm được thắng lợi trong tay. Để đêm nay bọn ta kéo hết ra đánh, dạy cho địch nhân một bài học, khiến bọn chúng không sao hình thành được thế hợp vây. Cho dù có thể chiếm được Hải Diêm, cái được không bằng cái mất, ý sư huynh thế nào?"

Hai người đưa mắt nhìn nhau, cùng cười vang.

Hai đạo nhân ảnh di động trong rừng tuyết nhanh như làn khói, thẳng đến bìa rừng, đột nhiên dừng lại. Chính là Cao Ngạn và Doãn Thanh Nhã.

Rời khỏi Quan Sát đài đặt tại Kinh Cúc lâm, tuy không gặp phải Bí nhân làm bọn gã cố kỵ là Hướng Vũ Điền, nhưng Yên nhân sẵn dịp tuyết ngừng rơi, trời quang mây tạnh, truy lùng khắp nơi tìm kiếm bọn gã. Yên nhân lại thả ra liệp ưng và ác khuyển trợ giúp, phải nhờ Cao Ngạn dùng hết pháp bảo toàn thân, trổ hết bản lĩnh, mới thành công đến được nơi này.

Cao Ngạn nói: "Địch nhân gần bọn ta nhất, đang canh gác trên cây đại thụ ở bên trái cách hơn ba mươi trượng."

Doãn Thanh Nhã nhìn đồng tuyết ở ngoài rừng không có gì che chắn, hỏi: "Bọn ta lại phải dùng xe tuyết nữa hay sao?"

Cao Ngạn thở dài nói: "Nói đúng ra ta muốn làm như vậy muốn chết, bởi vì có thể hưởng thụ tư vụ rung động lòng người là được Nhã nhi yêu quý nằm trên lưng ta. Chỉ hận mặt trăng đang chiếu sáng trên đầu, làm xe tuyết chạy trốn chỉ là trò cười, lại ảnh hưởng đến tốc độ và tính linh hoạt của bọn ta, chắc chắn không làm được."

Doãn Thanh Nhã nhíu mày hỏi: "Vậy phải làm sao?"

Cao Ngạn cười nói: "Ngầm trốn đi không được thì cứ thẳng thắn xông ra, bằng đôi giày thần bọn ta có thể bay lượn trên mặt tuyết. Hiện tại Nhã nhi điều khiển giày bay cũng đã thành thạo rồi, có thể so cước lực với kỵ mã trên mặt tuyết."

Doãn Thanh Nhã kiêu ngạo nói: "Cho dù có gặp phải tên gia hỏa Hướng Vũ Điền, ta cũng không sợ, trên bình nguyên ai có thể đuổi kịp ta, tính luôn cả tiểu tử ngươi cũng vậy."

Cao Ngạn nói: "Quan trọng nhất là có lòng tin, gặp phải địch nhân chớ có sợ hãi. Bọn ta còn có một ưu thế khác, đó là không có ai thông thuộc địa hình Biên Hoang bằng ta, bởi vậy bất luận ở trong tình huống nào, Nhã nhi cần phải theo sát ta. Đây đúng là như câu ’xuất giá tòng phu’, tuyệt đối không thể tự ý hành động, hoặc là có ý khác."

Doãn Thanh Nhã giận dữ nói: "Lại còn nói mấy lời đó nữa, muốn ta sau này không để ý đến ngươi à?"

Cao Ngạn đáp: "Nếu ta không nói những lời chiếm tiện nghi như vậy, có phải sau này Nhã nhi sẽ để ý đến ta?"

Doãn Thanh Nhã không vui nói: "Kiểu như ngươi kêu là đến chết cũng không đổi tính, quay đi quay lại cuối cùng cũng là nói những câu giống vậy, ngươi có nhiều thời gian lắm sao?"

Cao Ngạn nói: "Chuẩn bị!"

Doãn Thanh Nhã khẩn trương trở lại, nói: "Đã sớm chuẩn bị lâu rồi!"

Cao Ngạn nói: "Tâm lý của nàng phải có chuẩn bị, một khi xông ra ngoài rừng, hiệu lệnh báo động sẽ vang rền. Yên nhân đang truy tìm bọn ta sẽ từ mọi nơi kéo lại, đương nhiên là không phải lo về tụi truy đuổi phía sau, nhưng địch nhân ở phía trước sẽ toàn lực ngăn chận bọn ta. Nhã nhi cần phải theo sau bước vào đúng vết chân của ta, bởi vì mỗi bước chân của ta đều có tính toán."

Doãn Thanh Nhã vui vẻ nói: "Hiểu rồi!"

Cao Ngạn hét to: "Đi!"

Gã đi trước dẫn đường, sau đó bắt đầu nhảy, xa hơn hai trượng.

Thân thủ của Doãn Thanh Nhã lộ vẻ còn xuất sắc hơn cả Cao Ngạn, như bóng với hình, bám theo bóng của Cao Ngạn.

Đúng như Cao Ngạn dự liệu, tiếng báo động cất lên từ phía sau, hiển thị địch nhân đã phát giác ra bọn họ.

Cao Ngạn kêu lên một tiếng quái dị, hạ xuống đất rồi đưa tay lấy lại thăng bằng, cất chân lướt tới trước không một tiếng động. Doãn Thanh Nhã theo sát sau lưng gã, tựa như hai con chim không cần phí sức, bay lượn trong thế giới trắng sáng, nhẹ nhàng thoải mái không sao tả xiết.

Thuận đà Cao Ngạn lướt lên tới đỉnh một sườn núi thấp, tung người lên, vẽ một đường cong mỹ lệ phía trên mặt tuyết, rơi xuống mặt đất cách xa vài trượng, tốc độ không giảm còn tăng thêm, nhanh chóng biết mất đằng xa, vượt lên trên tốc độ chạy trên tuyết của bất cứ cao thủ nào.

Doãn Thanh Nhã đã quên đi nỗi lo lắng trong lòng, yêu kiều kêu lên một tiếng, theo sau Cao Ngạn tung lên trời cao, bám sát theo sau gã.

Yên nhân đứng trên chòi cao trên cây ở phía sau nhìn thấy đờ cả người ra, trợn trừng mắt nhìn theo hai người thoắt ẩn thoắt hiện trên đồng tuyết nhấp nhô lên xuống, trong chớp mắt đã biến mất.

Tống Bi Phong trở về phòng nghỉ ngơi, trong sảnh đường chỉ còn lại Lưu Dụ và Đồ Phụng Tam hai người.

Đồ Phụng Tam nghe hết chuyện Lưu Dụ đến Quảng Lăng đi qua cửa mà không vào, nói: "Lúc ta thấy ‘Kỳ Binh Hào’ tiến vào trong vịnh, trong lòng có cảm giác hết sức kỳ quái."

Lưu Dụ ngạc nhiên: "Cảm giác kỳ quái?"

Đồ Phụng Tam gật đầu nói: "Đúng là cảm giác hết sức kỳ quái. Đối với hiểu biết về chiến thuyền, ta là một đại hành gia. Bất cứ chiến thuyền nào chỉ cần để ta nhìn qua một lần, liền có thể phân loại chia kiểu, nói chung đã nắm được ưu điểm và khuyết điểm của chiếc thuyền đó, nắm vững luôn cả tính năng cấu trúc. Nhưng khi ’Kỳ Binh Hào‘ xuất hiện trước mắt ta, ta lại có cảm giác nhìn không ra, hiểu không thấu. Vỏ thuyền phía ngoài của ’Kỳ Binh Hào‘ tựa như đã được cải tiến, hai bên có gắn ván nổi, hình dáng như cánh chim, rẽ sóng như đi trên đất liền, như hải âu lượn mặt nước, nhưng khí thế lại như tàu chiến tiến tới. Hơn nữa đầu thuyền bọc sắt, khi tác chiến có thể tông vào thuyền địch như cày đất. Thuyền này là chiến thuyền nhất lưu, mà người điều khiển thuyền lại là cao thủ trong cao thủ. Chỉ cần nhìn tư thế oai hùng của nó lúc tiến vào vịnh không sợ gió to sóng dữ, liền cảm thấy được khí phách cai trị thiên hạ. Lưu gia cuối cùng cũng đã có được soái hạm."

Lưu Dụ vui vẻ nói: "Lão Thủ là nhân vật trứ danh trong Bắc Phủ binh thủy sư. Năm đó khi Huyền soái sai lão đưa bọn ta đến Biên Hoang tập, bọn ta đã có giao tình. Đến khi cùng Tiêu Liệt Vũ tác chiến, mọi người đã biến thành chiến hữu cùng chung hoạn nạn sinh tử."

Đồ Phụng Tam nói: "Thế sự họa phúc khó liệu, tựa như lần này ta tuy chút xíu nữa thì mất mạng, lại trong khi vô ý nhìn ra được bố trí của Thiên Sư quân, khiến ta đối với trận này lại càng thêm chắc chắn."

Lưu Dụ thở dài một hơi.

Đồ Phụng Tam ngạc nhiên hỏi: "Lưu gia lo lắng chuyện gì vậy?"

Lưu Dụ đáp: "Ta có chút lo lắng trong lòng, bởi vậy không lạc quan như ngươi."

Đồ Phụng Tam không hiểu hỏi: "Ngươi đối với trận này không có lòng tin?"

Lưu Dụ nói: "Tuy nói trên chiến trường thiên biến vạn hóa, nhưng ta lần này đã có chuẩn bị đầy đủ, sách lược thích đáng, thật sự có cơ hội đoạt được thắng lợi. Nhưng ưu tư của ta tịnh không phải là kẻ mạnh thắng trên chiến trường, mà là vấn đề nhân tâm. Trước đây ta có gặp qua Vương phu nhân ở Kiến Khang, bà có hỏi ta một câu."

Đồ Phụng Tam lộ ra thần sắc chú ý, hỏi: "Bà hỏi ngươi câu gì?"

Lưu Dụ đáp: "Bà hỏi ta có rõ lòng dân ở vùng Cối Kê hay không. Bọn ta có thể bằng vào vũ lực chiếm được một tòa thành, nhưng lại không sao cải biến được lòng của dân trong thành. Đó là cái gọi là người thuận dân thì thành công, kẻ trái dân sẽ thất bại. Sự quật khởi của Thiên Sư quân thần tốc như vậy, chính là vấn đề hướng tới lòng dân. Thiên Sư quân theo Tôn Ân đến Lư Tuần, Từ Đạo Phúc và đám tướng lĩnh đều là đám hào phú địa phương bị áp bức, bọn họ đại biểu cho lợi ích của người dân địa phương. Bọn ta nếu không thể xoay chuyển lòng dân, cuối cùng chỉ có kết thúc thảm bại, loạn lạc sẽ tiếp tục kéo tới, tựa như cỏ dại nhổ mãi không hết."

Đồ Phụng Tam lộ thần sắc suy nghĩ thâm sâu, gật đầu nói: "Lưu gia nói rất đúng, Thiên Sư quân đã lấy được sự giúp đỡ rộng lớn của dân chúng địa phương, mới có thể lớn mạnh nhanh như vậy. Nhưng nếu muốn tranh thủ dân chúng về bên bọn ta, thì phải cần một sự phối hợp về mặt chính sách, mà đây lại chính là nhược điểm lớn nhất của bọn ta. Lưu gia đối với phương diện này có được phương thuốc nào đúng bệnh không?"

Lưu Dụ cười khổ nói: "Ta ở phương diện này lại càng thiếu kinh nghiệm, chuyện này khi tại thế An công còn làm chưa được, ta lại càng không làm được! Đối lập của cao môn đại tộc và hàn môn, đã là mâu thuẫn xã hội kéo dài hơn trăm năm. Địch ý giữa thế tộc tới ở nhờ và hào môn địa phương, cũng không phải cười một cái là hết. Đây là vấn đề khiến người ta nhức đầu, cũng là mấu chốt cho việc bọn ta có thể tiêu diệt Thiên Sư quân hay không."

Đồ Phụng Tam gật đầu nói: "Bọn ta cần một trí sĩ cỡ như Hầu Lượng Sinh có tầm nhìn xa, và có mưu lược, chỉ tiếc....."

Lưu Dụ phấn chấn tinh thần nói: "Bọn ta tạm thời không cần phải lo lắng về mặt này, hiện tại quan trọng nhất vẫn là làm sao đoạt được Hải Diêm!"

Đồ Phụng Tam nói: "Bí mật của thành công như tên của Soái hạm của Lưu gia, là bình tĩnh chờ thời cơ, dùng kỳ binh để thắng."

Tiếp đó lại nói: "Ta muốn hỏi Lưu gia một câu."

Lưu Dụ nói: "Hỏi đi! Ngươi không phải là muốn khảo sát ta nữa chứ?"

Đồ Phụng Tam cười nói: "Phụng Tam sao dám? Từ khi lão ca ngươi nhất tiễn trầm Ẩn Long, ta không có tí gì hoài nghi đối với năng lực của ngươi. Ta muốn hỏi ngươi chính là, nếu như Tư Mã Nguyên Hiển trở thành chướng ngại của bọn ta, ngươi có đủ tàn nhẫn để đối phó hắn không?"

Lưu Dụ trầm ngâm giây lát, cười khổ: "Ngươi có thể sao? Hắn thật sự coi bọn ta là bằng hữu."

Đồ Phụng Tam nói: "Trên con đường tranh bá, tuyệt không thể nói chuyện nhân từ. Trên Tư Mã Nguyên Hiển còn có Tư Mã Đạo Tử. Cha của hắn tuyệt sẽ không nói chuyện nhân từ với bọn ta. Để ta nói cho ngươi biết! Đến cuối cùng, mỗi một cá nhân đều chỉ có thể nghĩ cho mình, dùng lợi ích của đoàn thể đại biểu cho mình mà tính toán, Tư Mã Nguyên Hiển cũng không ngoại lệ, hắn chính là đại biểu cho Hoàng triều vào thời mạt đã mất hết lòng dân. Sẽ có một ngày hắn nhìn ra bọn ta là nhân tố quyết định sự tồn vong của Hoàng triều, khi không còn chọn lựa, hắn cũng sẽ bỏ rơi bọn ta."

Lưu Dụ thở dài nói: "Hy vọng tình huống như vậy sẽ không xuất hiện."

Đồ Phụng Tam nói: "Không nên ôm ấp loại nguyện vọng chủ quan đó. Ta không có ý ép ngươi đối phó Tư Mã Nguyên Hiển, chỉ là muốn ngươi có chút chuẩn bị về mặt tâm lý. Đối với Tạ gia cũng như vậy, nhân từ kiểu đàn bà sẽ làm hư chuyện, lần này bọn ta không thể thất bại."

Lưu Dụ nghĩ đến hình dáng của Tạ Diễm và Tạ Hỗn, nhớ tới Vương Đạm Chân, lại không tránh được nghĩ tới Tạ Chung Tú, nhất thời bao nhiêu cảm xúc ùa tới, không nói ra được gì.

Đồ Phụng Tam mục quang nhìn ra ngoài cửa sổ, trầm giọng nói: "Trên mặt biển ở phía đông nam cách Hải Diêm ba mươi dặm, có một dãy các hòn đảo, người địa phương gọi là quần đảo Trường Xà. Đó thật sự là một địa phương ngọa hổ tàng long, lại càng là căn cứ địa trời cho. Bọn ta có thể tập hợp thuyền đội ở nơi này, yên tĩnh nằm chờ thời cơ tốt nhất để xuất kích, lại không có ai có thể ngăn trở bọn ta."

Chú thích:

* Nha thành: Nha(衙) thành là chỗ các quan làm việc. Ta thường gặp từ nha trong các cụm như “nha dịch”, “nha môn", v.v...Dưới ánh trăng sáng, Cao Ngạn và Doãn Thanh Nhã trượt vù vù trên măt tuyết. Doãn Thanh Nhã bỗng từ phía sau phóng tới, hô: “Cứ chạy thế này chẳng phải quá nguy hiểm sao? Tại sao không chạy trốn vào trong khu núi non?”

Cao Ngạn giơ tay trái ra, Doãn Thanh Nhã tuyệt không do dự đưa bàn tay ngọc cho gã nắm lấy. Một người tinh thông tuyệt kỹ Phi Ngoa, một người có thuật khinh công cao minh. Hai người tay trong tay tưởng chừng hòa nhập thành một, nhấp nhô phóng đi, tốc độ không hề thay đổi.

Khi trượt ở nơi bằng phẳng, họ tống chưởng phong ra giống như đẩy mái chèo vào trong nước, tạo ra động lực lượn vọt đi.

Doãn Thanh Nhã nói thế là có đạo lý.

Họ vốn chạy men theo bờ tây Dĩnh Thủy, nhưng lại có kỵ binh địch từ phía nam đuổi tới, bức bách họ phải thay đổi lộ tuyến bỏ chạy, chọn đường rời xa Dĩnh Thủy để tránh khỏi địch nhân chặn đầu.

Nhưng chạy chưa tới năm dặm đường lại có mấy chục kỵ binh địch từ phía trước tràn tới làm họ không thể không chạy về phía Tung Hoành sơn mạch ở phía tây, rồi tiến vào khu đồi bên sườn đông của sơn mạch, để chạy về phía nam. Theo như cách thức địch nhân truy đuổi bọn họ thì nếu họ chạy men theo Tung Hoành sơn mạch về phía nam thì khẳng định sẽ đụng đầu với đội ngũ địch nhân chặn đường.

Cao Ngạn lạnh lùng nói: “Nếu chúng ta tiến vào khu vực núi non, khẳng định sẽ trúng gian kế của tên gian tặc Hướng Vũ Điền đó. Con bà nó! Tưởng Cao Ngạn ta là lần đầu tiên bước chân vào giang hồ sao? Nhưng tên gia hỏa đó đúng là giảo hoạt. Biết chúng ta có phương pháp có thể nhanh chóng vượt qua Tung Hoành sơn mạch nên y cố ý bố trí người chặn đường chúng ta trên con đường trở về Biên Hoang tập ở mặt đông của dãy núi, dùng thế như ngư ông giăng lưới, bức chúng ta phải chạy theo đúng đường cũ. Ta dám khẳng định y đang ở đó đợi chúng ta đâm đầu vào. Lão tử sẽ không trúng kế đâu.”

Doãn Thanh Nhã kêu: “Nhưng phía trước mặt cũng có địch nhân mà!”

Cao Ngạn mười phần tin tưởng, nói: “Chỉ cần không có tên gia hỏa Hướng Vũ Điền ở đó thì bằng vào Phi Ngoa của chúng ta sẽ không thành vấn đề đâu.”

Tiếp đó, gã ngửa mặt nhìn trời, cười: “Đến liệp ưng cũng không đuổi kịp chúng ta đủ thấy chúng ta chạy nhanh thế nào.”

Hai người đồng thanh hoan hô, từ trên một đỉnh đồi nhảy vọt ra chừng năm trượng rồi nắm tay nhau yên ổn hạ xuống mặt tuyết, tiếp tục phóng đi. Cảm giác sảng khoái sung sướng đến cực điểm.

Cao Ngạn nói: “Nghe thấy tiếng vó ngựa rồi! Để chúng ta xem xem đối phương có bao nhiêu người. Trên mặt tuyết, ngựa của chúng tuyệt không thể nhanh bằng Phi Ngoa của chúng ta được. Về tính linh họat lại càng kém xa.”

Khi hai người đang lướt lên một ngọn đồi thì thấy cách khoảng một dặm có một đội nhân mã của địch khoảng sáu, bảy chục người đang phóng tới chặn đường.

Doãn Thanh Nhã giật nảy mình, yêu kiều hô lớn: “Đông quá!”

Họ nhìn thấy địch, địch nhân cũng phát hiện bọn họ. Chúng lập tức tản ra thành hình dẻ quạt, như một chiếc lưới lớn quét tới. Người nào cũng giương cung đặt tên, tuyệt không khách khí.

Thuật cưỡi ngựa của người Yên lừng danh thiên hạ. Chỉ năm, sáu kỵ binh đã khó ứng phó rồi. Hơn nữa, đây là vùng đồi núi thuận lợi, đối phương lại tới năm, sáu chục người. Bảo đảm nếu hai người vọt lên không trong tầm bắn của chúng thì sẽ biến thành bia hứng tên.

Cao Ngạn lại cười rộ, thần tình bình tĩnh, nắm chặt cánh tay mềm mại của Doãn Thanh Nhã nhằm một ngọn đồi nhỏ khác phóng đi. Gã dụng kình vào hai chân, Phi Ngoa phát sinh tác dụng trượt đi như trên mặt nước, làm bản thân gã giống như một con thuyền nhẹ trên mặt biển tuyết trắng, tiêu sái ung dung mà không ngừng tăng tốc.

Nhất thời, Doãn Thanh Nhã hoàn toàn dựa vào gã điều động. Nhưng nàng hoàn toàn tin tưởng vào bản lĩnh chạy trốn của Cao Ngạn nên ngoan ngoãn đi theo.

Cao Ngạn vội vã nói: “Trước khi đến sườn núi, ta sẽ ném Nhã nhi ra phía trước. Nhã nhi không cần làm gì, chỉ cần vòng qua địch nhân đến một khu rừng tuyết ở phía trước cách chỗ này chừng mười dặm đợi ta đến hội họp.”

Doãn Thanh Nhã lo lắng hỏi: “Còn ngươi làm sao?”

Cao Ngạn đáp: “Ta tự có diệu pháp thoát thân. Nói không chừng còn có thể đến rừng tuyết sớm hơn Nhã nhi đó. Không còn thời gian nữa. Nhã nhi chuẩn bị.”

Lúc này đã tới chỗ sườn núi. Cao Ngạn bỗng nhiên theo sườn núi vọt lên, rồi gã lợi dụng đặc tính độ dốc của sườn núi, nắm chặt tay Doãn Thanh Nhã vận lực quay tròn, làm Doãn Thanh Nhã văng ra phía trước. Khi Doãn Thanh Nhã văng được nửa vòng tròn thì gia tốc đạt tới mức cao nhất, Cao Ngạn quát lớn một tiếng, lấy thân mình làm trục, Doãn Thanh Nhã biến thành như Liên tử thiết cầu trong tay Hướng Vũ Điền, sau khi quay ba vòng thì động lực đã đủ.

Cao Ngạn buông tay. Doãn Thanh Nhã phóng vọt đi trong không gian như một con chim nhỏ, vượt qua hơn mười trượng mới hạ xuống đất rồi trượt đi như sao băng hơn hai mươi trượng nữa, thoát khỏi hiểm cảnh.

Doãn Thanh Nhã đúng là tri kỷ của Cao Ngạn, quen thuộc tính tình gã, biết gã tự có phương pháp độc đáo chạy trốn nên nàng vội thay đổi phương hướng, lướt nhanh về phía đông nam, trong thoáng chốc đã tới bình nguyên tuyết bên trái ngoài tầm bắn của địch, nhanh chóng chạy về phía nam.

Cao Ngạn tung Doãn Thanh Nhã ra xong, không hề chậm trễ lướt về hướng ngược lại. Gã còn dùng tiếng Tiên Ti quát lớn: “Cao Ngạn ở đây, đố tên ngu xuẩn nào đuổi được ta.”

Tiếp đó, gã biểu diễn cho thân mình lướt lên một đỉnh đồi nhỏ rồi bay vọt ra chạy thẳng về mạn Tây khu núi non.

Tên vèo vèo bắn tới. May là toàn bắn vào phía sau gã, nhưng mũi tên gần nhất xẹt qua người gã chỉ cách ba bốn thước. Quả là nguy hiểm đến cực điểm.

Quân địch tức giận quát tháo liên hồi, chia ra hơn hai mươi tên đuổi theo Tiểu Bạch Nhạn, nhưng rõ ràng đã bị bỏ rơi lại một quãng xa. Cao Ngạn từ trên không quay đầu nhìn lại, thấy người tình trong mộng Tiểu Bạch Nhạn đã biến thành một điểm trắng nhỏ, hòa lẫn vào bóng tối trùng trùng.

Gã tuyệt không lo lắng cho Tiểu Bạch Nhạn. Chỉ cần lướt đi ở khu vực rộng rãi, không phải đối phó với tên cứng của người Yên thì nàng đủ năng lực tự bảo vệ.

Ngược lại, gã vẫn chưa thoát khỏi hiểm cảnh. Gã chạy trước, người Yên vẫn đang đuổi sát phía sau tiến vào khu vực núi non.

Bùng!

Cao Ngạn từ trên không hạ mình xuống đất lướt thẳng về phía núi non. Kỵ binh địch giở hết tốc lực từ phía đông nam đuổi tới. Đi đầu là mấy tên chỉ cách trong vòng ngàn bước.

Một tay Cao Ngạn thò vào trong chiếc túi bách bảo lớn của gã, lấy ra chiếc hộp có cơ quan bắn dây câu. Vật này do xảo thủ lành nghề của Giang Nam chế tạo. Gã có được nhờ dùng tin tình báo đổi lấy của Lưu Dụ khi hai gã mới gặp nhau. Cao Ngạn vận dụng xảo diệu bảo bối này tuyệt không kém Lưu Dụ.

Tiếng dây cung bật vang lên.

Cao Ngạn lại tăng tốc độ, nhanh như một mũi tên lướt lên một ngọn đồi khác.

Tên lại lạc hết đằng sau.

Lúc này Cao Ngạn đã tiến vào bìa khu rừng mặt Tây sơn mạch, không phải là khu đồi trống vắng không có vật gì yểm hộ nữa.

Gã cười lớn, thân hình như một viên đạn vọt lên không.

Kỵ binh địch như một đám ong độc bị chọc đến tổ, ào ào lên đèo xuống dốc đuổi theo.

Cao Ngạn thầm nghĩ may mà trong đám địch kỵ truy đuổi phía sau không có Tông Chính Lương. Nếu không thì tên cao thủ bắn tên danh xưng Tiểu Hậu Nghệ đó sẽ là uy hiếp rất lớn đối với gã.

Khi Cao Ngạn còn đang nghĩ thế thì phía sau bỗng truyền tới một tiếng quát lớn, Cao Ngạn nhận ra chính là thanh âm Tông Chính Lương.

Cao Ngạn không kịp suy nghĩ, dây móc câu trong tay bắn về phía một cây cổ thụ bên trái. Nếu tên được bắn ra từ cung cứng của Tông Chính Lương thì chỉ do dự một chút là tên nhọn đã xuyên vào sau lưng rồi.

Gã đột ngột thay đổi phương hướng, tạt sang ngang.

Mũi tên vù qua ngay bên tai gã. Chỉ cách hai tấc là mũi tên đó đã xuyên vào cổ gã, thật nhanh như điện chớp.

Cao Ngạn thi triển bản lĩnh giữ nhà, đạp chân vào cành cây cổ thụ mọc vươn ngang ra, dùng thủ pháp gỡ móc câu đã cắm vào trong cành lớn của cây cổ thụ ra. Hai chân gã lại vận kình, lợi dụng sức bật của cành cây bắn mình về khu núi non. Tuyết trắng tích tụ trên cành lá lập tức đổ xuống đất như mưa.

Trong không trung, gã liên tục lộn vèo hai vòng, thuận thế nhìn lại phía sau, thấy Tông Chính Lương đã từ mình ngựa vọt lên, lăng không giương cung căng như trăng tròn, nhằm gã phát xạ mũi tên thứ hai.

Khoảng cách giữa hai người đạt trên ngàn bộ. Nhưng Tông Chính Lương đã nắm chắc, bắn tên ra thì ai cũng không thể khinh thường.

Vèo!

Dây câu lại bắn ra.

Cao Ngạn hoành thân sang ngang. Mũi tên xé gió phóng vụt qua sát người gã mà dư kình vẫn chưa giảm, cắm ngập vào thân một cây lớn gần đó.

Trong lòng Cao Ngạn thầm hô ”nguy hiểm quá”, đoạn gã cười dài: “Tông huynh không cần tiễn nữa!”

Người gã hạ xuống một cành cây nằm ngang khác, rồi thi triển cách cũ, phóng về phía sườn núi, biến mất vào khu rừng tuyết giữa lưng chừng núi.

Tông Chính Lương hạ xuống đất, mắt nhìn theo Cao Ngạn biến mất trên sườn núi. Y lấy trong bọc ra một cây hoả tiễn, châm lửa rồi ném lên cao, nổ bùng ra một đoá hoa lửa đỏ rực.

Doãn Thanh Nhã đứng chờ bên bìa rừng tuyết mà lòng như lửa đốt. Hơn hai mươi địch kỵ truy sát nàng bị nàng dẫn dụ về phía Dĩnh Thuỷ, thành công cắt đuôi. Giờ nàng chỉ chờ Cao Ngạn đến hội họp là họ thành công trong việc vượt qua cửa quan lần này.

Chỗ nàng đứng chỉ cách Biên Hoang tập sáu, bảy chục dặm. Bằng ‘Ngoa Trình’ của họ thì không đến hai canh giờ là có thể tới Biên Hoang tập.

Ài! Tên tiểu tử này…

Trên mặt tuyết trắng bao la xuất hiện một đạo bạch ảnh, linh hoạt như chim phóng tới.

Doãn Thanh Nhã vô cùng vui mừng chạy ra khỏi rừng. Người đến quả nhiên là Cao Ngạn. Khi Doãn Thanh Nhã không hề phòng bị, gã ào tới ôm bổng nàng lên tiến vào rừng tuyết, hô lớn: “Thành công rồi!”

Doãn Thanh Nhã bị gã ôm chặt, thân thể xinh đẹp mềm nhũn ra, vừa mừng vừa nhột, tức giận nói: “Đặt ta xuống!”

Cao Ngạn xoay hơn mười vòng mới đặt nàng xuống, rồi nắm bàn tay nhỏ nhắn mềm mại của nàng dắt nàng tiến sâu vào trong rừng.

Doãn Thanh Nhã quên cả việc trách móc gã, ngạc nhiên hỏi: “Bọn ta không trực tiếp chạy về Biên Hoang tập sao?”

Cao Ngạn đáp: “Ta vốn tính như thế, nhưng tên ngu ngốc Tông Chính Lương lại phóng pháo hoa hân hoan từ biệt ở phía sau nên làm ta phải thay đổi chủ ý. Nói không chừng y thông tri cho cái tên gia hoả Hướng Vũ Điền đó. Nếu như chúng ta chạy thẳng về Biên Hoang tập thì sẽ rơi vào tính toán của tên gia hoả họ Hướng đó. Người trí không nên làm thế.”

Doãn Thanh Nhã hỏi: “Vậy làm thế nào thì tốt? Ta bị chúng truy đuổi hoảng sợ lắm rồi!”

Cao Ngạn đáp: “Chơi trò cút bắt ở Biên Hoang tập với Cao Ngạn thì lão Hướng không tự lượng sức rồi. Để chúng ta trước tiên đến hành cung số một, rồi vòng sang phía tây nam mới vào Tập, đảm bảo lão Hướng không sờ được vào vạt áo của chúng ta.”

Doãn Thanh Nhã vui vẻ: “Coi như tên tiểu tử ngươi có chút khả năng đó!”

Cao Ngạn được Doãn Thanh Nhã tán thưởng, lập tức cảm thấy lâng lâng sung sướng. Gã kêu lên một tiếng quái dị, dẫn Doãn Thanh Nhã luồn rừng tiến về phía tây nam.

Trác Cuồng Sinh, Vương Trấn Ác, Phương Hồng Sinh, Thác Bạt Nghi, tiểu Kiệt, Hồng Tử Xuân và Cơ Biệt ngồi trên lưng ngựa chăm chú nhìn ra xa. Trên mặt tuyết trắng bao la vẫn không thấy bóng người.

Ngoài bọn họ còn có gần ngàn chiến sỹ Dạ Oa tộc, dừng ngựa trên một ngọn đồi nhỏ mặt bắc Biên Hoang tập, cách Biên Hoang tập khoảng hơn hai mươi dặm.

Sau giờ ngọ, họ rời tập để đón Cao Ngạn và Doãn Thanh Nhã. Lúc đầu thì chia binh thành nhiều lộ, nhưng khi phát hiện tung tích Yên binh thì họ mới tập trung về đây.

Người Yên thấy họ đại cử xuất động, lập tức lui về phía bắc. Hoang nhân cũng cố kỵ không dám tiếp tục tiến lên, sợ trúng kế mai phục.

Trác Cuồng Sinh nói: “Theo tình hình người Yên mà xét thì Cao tiểu tử và Tiểu Bạch Nhạn vẫn chưa rơi vào tay địch. Nếu không, người Yên không cần phải đuổi đến đây.”

Thác Bạt Nghi nói: “Như ngươi nói thì địch nhân đã bố trí quân đánh chặn đường ở chỗ cách bắc Dĩnh khẩu trăm dặm. Đó không phải là điềm tốt, cho thấy địch nhân trùng trùng phong toả đường về của Cao tiểu tử, bày ra thiên la địa võng, toàn lực ngăn trở Cao tiểu tử.”

Diêu Mãnh nói: “Ta thấy chỉ cần chúng ta cẩn thận tiến quân lên phía bắc là có thể nhiễu loạn địch nhân, phá rối mạng lưới chặn bắt của chúng, tạo ra hỗn loạn làm Cao tiểu tử và tiểu tình nhân của gã có cơ hội thoát thân.”

Vương Trấn Ác nói: “Đó là một biện pháp trong khi không có cách nào. Mặc dù phải mạo hiểm, nhưng cũng có giá trị.”

Hồng Tử Xuân nói: “Chỉ cần chúng ta chia làm ba đường tiến lên, hỗ trợ lẫn nhau, tránh không vào rừng là có thể không sợ địch nhân mai phục.”

Tiểu Kiệt muốn nói lại thôi.

Thác Bạt Nghi nói: “Tiểu Kiệt hiểu rõ nhất thủ đoạn của Cao tiểu tử. Ngươi có lời gì muốn nói thì cứ bạo dạn nói ra đi.”

Tiểu Kiệt nói: “Cao đại ca mỗi lần đến bắc Dĩnh khẩu đều xuyên qua Tung Hoành sơn mạch. Lần này vì để tránh kẻ địch nên rất có khả năng sẽ theo khu núi mặt tây quay về.”

Trác Cuồng Sinh gật đầu: “Theo tính cách của Cao tiểu tử thì khả năng đó rất cao.”

Thác Bạt Nghi nói: “Chúng ta nghĩ tới khả năng đó thì địch nhân cũng sẽ nghĩ tới. Vì thế Cao tiểu tử sẽ chọn đường nào để về Tập rất khó nói cho chính xác được.”

Cơ Biệt nói: “Ta có một đề nghị lưỡng toàn kỳ mỹ là lập tức chia quân thành hai đường. Để chủ lực tập trung ở đây, lại phái một đội đến mặt kia tiếp ứng Cao tiểu tử.”

Thác Bạt Nghi đồng ý: “Đó đúng là một biện pháp hay. Ở đây do ta, Cơ đại thiếu gia, lão Hồng chủ trì. Đội nhân mã kia do Trác quán chủ chỉ huy, Tiểu Kiệt phụ trách dẫn đường, Trấn Ác, tiểu Mãnh làm phó. Thế nào?”

Trác Cuồng Sinh đáp: “Mặt đó không cần đánh nhau nên chỉ cần cho ta năm chục người là được.”

Phương Hồng Sinh hỏi: “Ta sẽ theo đội nhân mã nào?”

Thác Bạt Nghi đáp: “Phương tổng cứ theo bên cạnh ta. Nếu như ngửi thấy khí vị của Cao tiểu tử thì chúng ta không cần phải thâm nhập vào đất địch.”

Trác Cuồng Sinh hét lớn: “Cứ thế mà làm! Các huynh đệ theo ta.”

Lưu Dụ vẫn mở mắt nằm trên giường. Nhất thời gã không biết mình đang ở Kiến Khang hay là ở trên biển. Đối với sóng gió trên biển gã đã quá quen như là thở hít tự nhiên vậy.

Lên giường nằm đã mấy canh giờ rồi mà gã không hề buồn ngủ, trong đầu không ngừng vang lên những lời của Tạ Đạo Uẩn nói với gã ở Kiến Khang.

“Ngươi có hiểu họ không?”

Nói thật ra, gã tuyệt không hiểu rõ tín đồ của Thiên Sư đạo. Đồ Phụng Tam cũng không hiểu. Nhưng chỉ xét việc Thiên Sư đạo ở miền duyên hải phương Nam được sự ủng hộ rộng rãi là biết Thiên Sư đạo rất được hoan nghênh và chấp nhận.

Trước đây, gã chỉ nghĩ làm sao để đánh bại địch nhân, làm sao để giành thắng lợi mỗi trận chiến. Nhưng đối phó với Thiên Sư đạo thì đó không phải là biện pháp hay. Trừ đi một Từ Đạo Phúc thì sẽ còn vô số Từ Đạo Phúc khác vì nhân tố gây hoạ loạn vẫn tồn tại mà không thể dùng mấy cuộc chiến tranh là có thể giải quyết được. Đến việc làm thế nào vừa tác chiến đánh Thiên Sư quân, vừa tranh thủ được dân chúng vốn ủng hộ Thiên Sư đạo thì gã hoàn toàn không có đầu mối.

Gã không thể ngủ nổi.

Gã có cảm giác không biết mình đang làm gì, phấn đấu vì cái gì. Nhưng gã biết, khi vầng thái dương xuất hiện thì gã sẽ phục hồi đấu chí, những suy tư đang làm khổ gã lúc này cũng sẽ hoàn toàn tiêu biến. Nhưng vào lúc này, tất cả chừng như không còn ý nghĩa, không còn giá trị gì nữa. Mọi nỗ lực cuối cùng chỉ là ngu xuẩn phí công mà thôi.

Suy nghĩ này làm gã cảm thấy trong lòng trống vắng, giống như một con thuyền đang đi trên biển nhưng lại mất hết sức gió, lang thang theo sóng, trôi đi một cách vô chủ cô hồn.

Kể cả là lúc chán nản nhất, gã cũng chưa từng trải qua cảm giác mất mát như lúc này.

Bỗng nhiên gã tỉnh ngộ.

Tất cả đều đến từ Tạ Chung Tú. Mặc dù lúc đó ý thức gã có chút mơ mơ hồ hồ, thật ra gã đã sớm ở trạng thái bất tri bất giác, yêu Tạ Chung Tú một cách sâu sắc rồi.

Tình yêu của gã đối với Tạ Chung Tú đến một cách vô cùng đột ngột, mau lẹ mà mãnh liệt. Khi nàng ta nhào vào lòng gã thì tất cả đã không còn do lý trí gã khống chế nữa.

Chính vì yêu quá sâu sắc, mơ tưởng quá nhiều, quá hoàn mỹ nên nỗi thương tâm mà nàng gây ra cho gã mới nặng nề đến vậy.

Lưu Dụ ngồi bật dậy, thở hổn hển.

Kiếp trước không biết mình đã tác nghiệt gì mà kiếp này lại phải chịu nỗi đau khổ dày vò đến thế?

Tạ Chung Tú tuyệt không phải là một Đạm Chân khác. Nàng ta căn bản không coi một tên hàn môn như mình ra gì. Bất kể thành tựu của mình cao đến mấy thì trong mắt nàng mình vẫn không thể thay đổi thân phận nô tài được.

Trong lòng Lưu Dụ bừng lên một ngọn lửa tức giận, tuyệt không chỉ đối với Tạ Chung Tú, mà cả đối với bản thân mình.

Lưu Dụ ta là nam tử hán đầu đội trời chân đạp đất, làm sao có thể mềm yếu vô dụng như thế. Gã đã sớm quyết tâm quên nàng đi, nhưng trong cảnh đêm khuya thanh vắng thì gã lại bị hình bóng nàng dày vò.

Con bà nó! Có một ngày ta sẽ làm nàng phải hối hận. Hối hận đã từng cự tuyệt ta, hiểu lầm ta, chỉ trích ta mà không hề để lại lối thoát như thế.

Trong lòng Lưu Dụ nổi lên một niềm khoái cảm đầy thống khổ. Đúng, với thân phận và thành tựu trước mắt thì đương nhiên gã không xứng với nàng. Nhưng có một ngày, tình hình này sẽ thay đổi.

Lưu Dụ đối với Tạ Chung Tú không thể dùng lý trí suy nghĩ để tha thứ cho nàng mà gã bị tình cảm cực đoan và không theo lý tính khống chế, sinh ra hận ý. Nhưng vào lúc này, gã mất tính nhẫn nại để tự đề tỉnh mình đối với tình cảm sai lầm đó vì chỉ khi tưởng tượng tới khả năng trong tương lai như thế mới có thể làm nhẹ đi nỗi bất bình và khổ sở trong lòng.

Lưu Dụ tin tưởng sâu sắc rằng có một ngày, Tạ Chung Tú sẽ phải hối hận không kịp đã đối đãi với mình tàn nhẫn như thế.Cao Ngạn than: “Từ khi lão tử làm phong môi đến giờ, có thể nói nguy hiểm nhất là lần này. Đặc biệt lại còn lo lắng về sự an toàn của đại tiểu thư nàng nữa. Áp lực đó thật khiến ta không chịu nổi. May là cuối cùng đã hoàn thành nhiệm vụ. Người Yên lần này gặp họa rồi!”

Doãn Thanh Nhã ngồi bên cạnh giường, im lặng nhìn gã mang các loại pháp bảo cất vào kho bí mật, không lên tiếng.

Cao Ngạn tình tự dâng trào, tiếp tục: “Ta có một cảm giác kỳ quái, dường như những sự việc trong mấy ngày qua chưa từng xảy ra. Đây là lần đầu tiên dẫn Nhã nhi vào hành cung số một của ta. Trước khi trời sáng, chúng ta sẽ rời khỏi chỗ này. Hà! Suy nghĩ này thật đáng sợ, may là không phải sự thật. Ồ! tại sao Nhã nhi lại không nói gì?”

Doãn Thanh Nhã cúi đầu, thấp giọng nói: “Ta phải đi thôi!”

Cao Ngạn vẫn chưa tỉnh ngộ, cẩn thận đóng địa khố lại, gật đầu nói: “Ta thật muốn ôm Nhã nhi ngủ con bà nó một giấc say như chết, đến khi hết mỏi mệt sẽ trở về Biên Hoang tập. Nhưng nghĩ tới lão Hướng thì lại có cảm giác vẫn đang trong hiểm địa. Trước tiên là về Biên Hoang tập yên ổn. Sau khi ta ứng phó với nghị hội xong thì có thể cùng Nhã nhi đi ăn món đùi dê nướng. Ta bảo đảm Nhã nhi chưa từng được nếm qua thịt đùi dê ngon như thế bao giờ.”

Giọng Doãn Thanh Nhã càng nhỏ hơn, nói: “Ta cần phải về a!”

Cao Ngạn nghe Doãn Thanh Nhã uể oải nói thế, cuối cùng cũng phát giác có chỗ không thỏa đáng. Gã xoay người lại đối mặt với Doãn Thanh Nhã.

Doãn Thanh Nhã thoáng vẻ khổ não, tránh ánh mắt gã nói” “Ta cần phải trở về Lưỡng Hồ.”

Câu này như sét đánh ngang trời, Cao Ngạn giật mình đứng bật dậy thảng thốt: “Nhã nhi đùa ta đấy à?”

Doãn Thanh Nhã đón ánh mắt gã, nghiến răng nói: “Ai nói đùa với ngươi? Ta chỉ đáp ứng ngươi đến du ngoạn Biên Hoang tập ba ngày. Bây giờ đã là ngày thứ tư rồi.”

Cao Ngạn nhảy chồm lên, hai tay bấu chặt vào đầu vai Doãn Thanh Nhã, kinh hoàng thất thanh: “Ài! Nàng mới đến Biên Hoang tập chưa đến hai canh giờ, làm sao đã đủ ba ngày. Thế này đi! Tất cả để sau khi về Biên Hoang tập mới nói được không? Coi như ta cầu xin nàng đó!”

Doãn Thanh Nhã kiên quyết lắc đầu: “Ta không về thì sư phụ sẽ lo lắng chết mất!”

Cao Ngạn chút nữa thì òa lên khóc, vẻ mặt đau khổ hỏi: “Nàng đi như vậy thì ta biết làm thế nào? Lần trước cùng nàng chia tay, ta thiếu chút nữa thì bị chứng tương tư dày vò đến chết. Nếu nàng đi rồi ta tuyệt không muốn sống nữa.”

Doãn Thanh Nhã không vui nói: “Đường đường là một nam tử hán lại yếu đuối như thế sao? Ta quả thực phải đi rồi. Nếu ở lại đây, ta sẽ bứt rứt lắm, cảm thấy không phải với sư phụ.”

Cao Ngạn thống khổ hỏi: “Nàng chỉ nghĩ đến sư phụ, thế lão tử ta làm sao đây?”

Doãn Thanh Nhã đáp: “Sư phụ đối với ta ân trọng như núi, rất thương yêu người ta, ngươi có hiểu không?”

Cao Ngạn nhảy bật lên nói: “Ta đương nhiên là biết. Được! Nhã nhi trước tiên về Biên Hoang tập cùng với ta. Đợi sau khi ta báo cáo hết tình hình địch nhân với hội nghị rồi ta lập tức theo nàng trở về Lưỡng Hồ.”

Doãn Thanh Nhã ngưng thần nhìn gã, một lát sau ngạc nhiên thốt: “Cái đầu của tên tiểu tử ngươi dùng làm bằng cái gì mà lại tối tăm u ám như thế? Cho ngươi biết sự thật nhé! Ta và ngươi sẽ không có kết quả gì đâu, càng không có tương lai. Từ lúc đầu chỉ là ngươi tình nguyện đơn phương nghĩ vậy thôi.”

Cao Ngạn như bị sét đánh, lùi lại nửa bước, mặt không còn chút máu, ánh mắt hoảng loạn hỏi: “Chẳng lẽ Nhã nhi không hề có đến nửa điểm ý tứ đối với ta sao?”

Doãn Thanh Nhã chống nạnh mắng: “Tên tiểu tử ngươi thật không hiểu gì cả. Ta đối với ngươi có ý tứ cũng được, không có ý tứ gì cũng được. Nói chung là sư phụ sẽ quyết không đồng ý cho ta và ngươi ở chung một chỗ đâu. Doãn Thanh Nhã ta lần này đến Biên Hoang tập là tốt với ngươi lắm rồi! Vậy mà vẫn còn chưa đủ sao?”

Cao Ngạn lại bừng lên hy vọng, ngồi xuống bên cạnh Doãn Thanh Nhã, hai tay nắm chặt vai nàng nói: “Nhã nhi hãy nghe ta nói. Nàng tôn trọng sư phụ là việc hoàn toàn hợp lý, nhưng cũng phải nghĩ cho chung thân hạnh phúc của mình, cũng nên nghĩ một chút tới Cao tiểu tử ta luôn một lòng si mê nàng chứ. Nói cho cùng, ta và sư phụ nàng ngày xưa vô oán, ngày nay vô cừu. Nếu ông ta thật sự đối tốt với nàng thì đương nhiên cũng hy vọng nàng có một nơi chốn nương thân tốt đẹp. Ài! Ta nói có chút lộn xộn không thứ tự rồi.”

Doãn Thanh Nhã để mặc cho gã nắm vai nàng, lườm gã một cái hỏi: “Ngươi lại là nơi chốn nương thân tốt đẹp của ta sao?”

Cao Ngạn vui mừng nói: “Cái đó đương nhiên. Nàng thử nhớ lại mấy ngày vừa qua mà xem. Nàng không cảm thấy thời gian trôi qua đặc biệt nhanh sao, mỗi phút trôi qua đều thấy vô cùng mới mẻ không? Nhã nhi đã từng trải qua niềm hạnh phúc như thế bao giờ chưa? Có cảm thấy những lời yêu đương ngọt ngào nói mãi không hết không? Phải chăng..…”

Doãn Thanh Nhã cười phì một tiếng, sau đó cố nhịn cười nói: “Tên tiểu tử ngươi thích nhất là tự thổi da trâu, lại miễn cưỡng cho rằng người ta cũng như thế. Nói thật cho ngươi biết, ở chung với ngươi một chỗ cũng như chỉ như chơi đùa thôi! Nhưng tuyệt không thể hiện là ta yêu ngươi đâu.”

Cao Ngạn lắc đầu nói: “Nhã nhi không cần tự dối mình nữa. Nếu như quả thật nàng không thích ta thì tại sao lại cho ta nắm vai nàng như thế này?”

Doãn Thanh Nhã khẽ nhún vai, làm như vô sự đáp: “Có thể là do bị ngươi nắm nhiều quá thành quen rồi!”

Cao Ngạn giận đến nỗi bỏ tay ra, hận đến nghiến răng nghiến lợi nói: “Nhã nhi hãy nhìn ta.”

Doãn Thanh Nhã mỉm cười, đón ánh mắt phẫn nộ của gã hỏi: “Ta nhìn ngươi đây! Thế nào?”

Cao Ngạn chút nữa thì tắc họng, vội nói: “Nếu quả nàng không yêu ta thì tại sao lại không sợ sư phụ không vui, vượt trăm sông ngàn núi đến Biên Hoang tập? Lại biết rõ là nguy hiểm những vẫn theo ta đến bắc Dĩnh khẩu?”

Doãn Thanh Nhã ung dung đáp: “Đạo lý rất đơn giản vì ta đi để tham quan mà.”

Cao Ngạn tắc miệng không nói được gì. Cả khuôn mặt đỏ bừng lên.

Doãn Thanh Nhã cười khổ: “Không cần não nề như thế chứ? Quên Nhã nhi đi mà! Chúng ta sẽ không có kết quả tốt đâu. Sư phụ ta và Hoang nhân ở thế bất lưỡng lập, cùng Đại Giang bang càng có mối thâm thù không giải được. Sư phụ sẽ không bao giờ cho phép ta yêu một Hoang nhân đâu. Ta lại càng không thể làm ông thương tâm.”

Cao Ngạn nói: “Trước tiên hãy cho ta biết nàng không phải đến Biên Hoang tập để du ngoạn mà là vì……”

Doãn Thanh Nhã giơ hai ngón tay khẽ đặt lên môi gã, ngăn không cho gã nói tiếp, dịu dàng “Đồ ngốc! Rất nhiều chuyện không cần phải nói ra. Thế này được không? Ngươi nhắm mắt lại để ta im lặng bỏ đi. Việc tương lai để sau hãy nói.”

Cao Ngạn lại không nhịn được, nước mắt trào ra, thê lương nói: “Trừ khi nàng giết ta, nếu không. Ta sẽ không để nàng rời xa ta đâu.”

Doãn Thanh Nhã vội rụt tay lại, lông mày nhăn tít hỏi: “Ngươi có phải là nam nhân không vậy? Người ta còn chưa khóc, ngươi đã khóc trước rồi!”

Cao Ngạn nước mắt ròng ròng, hồ đồ nói: “Là nam nhân cũng được, không phải nam nhân cũng được. Ta quyết không để nàng đi đâu.”

Doãn Thanh Nhã than nhẹ, giọng dịu dàng như dỗ dành trẻ con: “Có thể cho người ta một thời gian không?”

Cao Ngạn lập tức ngừng khóc, ngạc nhiên nhìn nàng hỏi: “Nhã nhi đúng là yêu ta rồi phải không?”

Doãn Thanh Nhã tức giận quát: “Không hề! Ai thích ngươi? Người ta căn bản chưa có chủ ý, ngươi lại muốn bức bách người ta, ta sẽ điểm huyệt ngươi rồi quay về Lưỡng Hồ đó.”

Cao Ngạn giơ hai tay đầu hàng, nói: “Nhã nhi trước tiên hãy theo ta về Biên Hoang tập đi! Cho ta một thời gian đi. Nói đi là đi luôn như thế ta làm sao mà chịu được?”

Doãn Thanh Nhã giận hỏi: “Nam tử hán đại trượng phu sao lại cứ lằng nhằng không dứt như vậy?”

Cao Ngạn trầm ngâm một lát, gật đầu: “Được rồi! ta sẽ để Nhã nhi về Lưỡng Hồ, nhưng Nhã nhi phải tự miệng đáp ứng ta nếu như sư phụ nàng đáp ứng hôn sự của bọn ta thì Nhã nhi sẽ gả cho ta.”

Doãn Thanh Nhã lộ vẻ khổ não than: “Việc đó không thể nào. Cần ta phải nói bao nhiêu lần nữa ngươi mới tin đây?”

Cao Ngạn đáp: “Không cần biết có khả năng hay không. Nếu như sư phụ gật đầu thì Nhã nhi có nguyện ý hạ mình gả cho Cao tiểu tử ta không?”

Doãn Thanh Nhã giậm chân tức giận: “Ta là nữ nhân mà! Bảo người ta làm sao trả lời vấn đề ngu xuẩn đó của ngươi đây? Tiểu tử chết bầm, xú tiểu tử!”

Cao Ngạn hoan hô một tiếng, từ mép giường nhảy bật lên, hô: “Thành công rồi! Nhã nhi cuối cùng cũng chịu gả cho ta rồi!”

Doãn Thanh Nhã dẩu môi: “Ngươi thích nhất là tự nói tự nghe. Người ta đáp ứng ngươi khi nào?”

Cao Ngạn thần thái dương dương nói: “Ta minh bạch rồi! Thế mà còn không biết thì thật là đại ngu đần. Hà! Chúng ta trước hết về Biên Hoang tập có được không? Chậm thì đã chậm rồi, cũng không có gì phải sợ nếu chậm thêm vài canh giờ nữa. Ăn đùi dê nướng xong thì nàng hãy đi! Ngồi thuyền mà đi còn hơn chạy trên đất tuyết.”

Doãn Thanh Nhã hoài nghi hỏi: “Ăn xong đùi dê nướng rồi ngươi thật sẽ để cho ta đi sao?”

Cao Ngạn vỗ ngực đáp: “Đại trượng phu nhất ngôn ký xuất tứ mã nan truy. Nhã nhi cứ yên tâm!”

Doãn Thanh Nhã vui vẻ đứng lên, dáng vẻ phong tình thiên kiều bách mỵ liếc gã một cái.

Cao Ngạn mở cửa phòng nói: “Nhã nhi, mời!”

Doãn Thanh Nhã đến trước cửa, chuẩn bị bước qua ngạch cửa thì bỗng nhiên rùng mình.

Cao Ngạn vừa nhìn ra bên ngoài cũng lập tức biến sắc, huyết dịch toàn thân tưởng chừng bị đông cứng lại thành băng.

Hướng Vũ Điền đang ngồi vắt vẻo trên cành một cây đại thụ bên ngoài. Y quay đầu lại nhìn hai người, lắc đầu than: “Nếu như các ngươi không mất thời gian để chàng chàng thiếp thiếp thì ta làm sao có thể ở đây cung hầu hai vị đây?”“Cao Ngạn mau chạy!”

Doãn Thanh Nhã vừa quát vừa cướp lối phóng ra, lợi kiếm rời vỏ, hóa thành mấy chục đạo kiếm ảnh ào ạt tràn tới Hướng Vũ Điền. Đây toàn là những chiêu số tấn công bất chấp tất cả. Nhất thời, kiếm quang xé gió rít lên veo véo, hiển thị rõ công phu cao cường của Doãn Thanh Nhã.

Với thân thủ Hướng Vũ Điền mà cũng khó khăn trong việc đối phó với kiếm chiêu ào ạt kín kẽ như thủy ngân của nàng. Y thở dài, xoay mình một vòng đối mặt với Doãn Thanh Nhã, song chưởng như hồ điệp xuyên hoa phách ra, mỗi cái phất tay đều trúng vào kiếm chiêu công tới. Bất luận Doãn Thanh Nhã biến chiêu cải hướng thế nào đều không vượt qua được song chưởng của y.

Chưởng kình kiếm khí giao kích phát ra hàng tràng tiếng “bình bình” liên miên bất tuyệt.

Kiếm khí của Doãn Thanh Nhã vốn vô cùng lợi hại. Đẹp mắt nhất là thân pháp mau lẹ như quỷ mỵ của nàng. Tựa hồ nàng biến thành ảo ảnh như sương như khói, không còn là thực thể. Mỗi khắc lại từ một vị trí khác nhau thi triển thế công như bài sơn đảo hải vào vị cao thủ Bí tộc đáng sợ đó.

Cao Ngạn đã ra khỏi cửa, rất muốn liều chết giúp nàng, nhưng lại không có cách nào nhúng tay vào, chỉ còn cách trừng mắt đứng nhìn.

Sau một đợt tấn công gấp gáp, Doãn Thanh Nhã đã toàn lực xuất thủ, cuối cùng cũng kiệt lực.

Choang!

Chỉ phong Hướng Vũ Điền trầm trọng đánh vào mũi kiếm.

Doãn Thanh Nhã kêu thảm một tiếng, cả người lẫn kiếm loạng choạng lùi lại. Cao Ngạn vội vàng đỡ nàng, không ngờ dư thế của Doãn Thanh Nhã vẫn chưa hết, cả người đổ ập vào lòng Cao Ngạn. Hai người ngã ngửa ra, lăn ngược vào trong phòng. Tình trạng khốn đốn vô cùng.

Doãn Thanh Nhã loạng choạng đứng lên, vừa tức giận vừa đau lòng, thiếu chút nữa thì phát khóc lên hỏi: “Tại sao ngươi không chạy?”

Đáp lời nàng không phải là Cao Ngạn mà lại là Hướng Vũ Điền. Cao thủ thanh niên thiên tài tiêu dật của Bí tộc đó đến trước cửa, nhìn qua hai người, thần thái trầm buồn nói: “Nếu gã bỏ ngươi mà chạy thật thì không phải là Cao tiểu tử nữa.”

Cao Ngạn dù huyết khí vẫn đang nhộn nhạo đã đứng lên trước cả Doãn Thanh Nhã. Gã đứng chắn trước mặt Doãn Thanh Nhã, giữ thế thủ, ưỡn ngực quát: “Oan có đầu nợ có chủ. Hãy cùng lão tử đại chiến ba trăm hiệp. Tại sao lại ỷ mạnh hiếp yếu thế?”

Hướng Vũ Điền lắc đầu đáp: “Trước hết, Tiểu Bạch Nhạn của ngươi không những không hề yếu ớt, mà còn là một kiếm thủ có thiên tư tuyệt cao. Tiếp theo là Cao thiếu gia ngươi đến sức tiếp ba chiêu của ta cũng chưa đủ chứ đừng nói đến ba trăm chiêu.”

Doãn Thanh Nhã cuối cùng cũng đứng dậy phía sau Cao Ngạn, một tay cầm kiếm, một tay vịn vào vai Cao Ngạn mới miễn cưỡng đứng vững lại được.

Hướng Vũ Điền lại lắc đầu cười khổ, tự nói một mình: “Tại sao lại biến thành thế này chứ?”

Cao Ngạn cuối cùng cũng phát giác thần thái Hướng Vũ Điền có chỗ khác lạ, gã hỏi dò: “Ngươi nghĩ cái gì vậy?”

Hướng Vũ Điền hướng về phía Cao Ngạn, song mục sát cơ đại thịnh trừng trừng nhìn gã.

Cao Ngạn biết y chuẩn bị xuất thủ, gã lại bị uy thế của y trấn nhiếp, bất chợt không tự chủ được lùi lại hai bước. Mới lùi được hai bước thì bị Doãn Thanh Nhã chặn lại, nàng vừa thở hổn hển sau lưng gã vừa nói: “Đằng sau là tường rồi không lùi được nữa!”

Thần quang trong mắt Hướng Vũ Điền bỗng hoàn toàn biến mất, bật cười nói: “Tên tiểu tử ngươi! Ài!”

Cao Ngạn giục: “Nhã nhi mau chạy! Ta đến đánh y đây.”

Doãn Thanh Nhã giậm chân tức giận: “Người ta bảo ngươi chạy, ngươi không chạy. Bây giờ ta tại sao lại phải nghe lời ngươi?”

Hướng Vũ Điền lại cười khổ: “Mắng hay lắm! Đó đúng là những lời ngu xuẩn nhất.”

Doãn Thanh Nhã yêu kiều quát: “Việc của chúng ta không đến lượt ngươi quản tới. Muốn động thủ thì động thủ đi! Sư phụ ta sẽ tìm ngươi tính sổ.”

Cao Ngạn thét lớn một tiếng, định tiến lên cùng Hướng Vũ Điền liều mạng nhưng lại bị Doãn Thanh Nhã đứng sau giữ chặt, không thoát ra được.

Hướng Vũ Điền thần tình cổ quái trừng mắt nhìn hai người, bỗng nhiên hỏi: “Bọn ta nói chơi vài câu được không?”

Cao Ngạn đang định há mồm chửi lớn thì Doãn Thanh Nhã đã hỏi: “Ngươi muốn nói chuyện gì?”

Cao Ngạn cảm thấy Doãn Thanh Nhã sau lưng gã viết một chữ “nhẫn” lên lưng mình, biết Doãn Thanh Nhã đang dần phục hồi năng lực tác chiến. Gã vội vàng ngậm miệng lại.

Hướng Vũ Điền ngồi xuống chỗ ngạch cửa nói: “Ta ghét nhất là tự cho là thông minh. Vì muốn hiểu được Hoang nhân các ngươi nên ta đã đến Thuyết Thư quán làm khách hai đêm liền, nghe hết các chuyện trong hai đêm đó.”

Cao Ngạn và Doãn Thanh Nhã nghe xong cảm thấy như lạc trong sương mù, không hiểu tại sao Hướng Vũ Điền đang chiếm hết thượng phong và ưu thế mà không lập tức động thủ giết người, lại còn nói những chuyện đầu Ngô mình Sở hoàn toàn không ăn nhập gì.

Hướng Vũ Điền nhìn Cao Ngạn điềm nhiên nói: “Trong các chuyện thuyết thư, hấp dẫn ta nhất không phải là cái gì ‘Yến Phi giận chém giả Di Lặc’, càng không phải là ‘nhất tiễn trầm Ẩn Long’, mà lại là ‘Tiểu Bạch Nhạn chi luyến’ của Cao thiếu gia ngươi đó.”

Hai người nghe xong bốn mắt nhìn nhau. Mặc dù vẫn chưa rõ Hướng Vũ Điền nói chuyện đó với mục đích gì, nhưng cũng cảm thấy ít nhất thì vào thời khắc này Hướng Vũ Điền hoàn toàn không có địch ý đối với bọn họ, ngược lại còn có cảm giác ngừng chiến nói chuyện tâm tình.

Cao Ngạn giảm bớt nỗi kinh hoàng, bộ não hồi phục sự linh hoạt, thầm nghĩ chỉ cần động khẩu không động thủ thì đương nhiên là lý tưởng nhất rồi. Gã thuận theo khẩu khí của y nói: “Theo đạo lý thì việc ngươi quan tâm nhất phải là việc liên quan đến Yến Phi chứ không phải là tư tình nhi nữ giữa ta và Nhã nhi mới đúng.”

Hai mắt Hướng Vũ Điền lộ thần sắc thương cảm chán nản, tràn đầy cảm xúc nói: “Thật ra, Hướng Vũ Điền ta còn thiếu cơ hội tranh hùng đấu thắng với người khác sao? Một cuộc chiến với Yến Phi đã ở vào thế tất phải diễn ra. Đã là như thế thì không cần phải để trong lòng nữa. Nhưng ta thành thực cho ngươi biết ta đã bị lời nguyền không thể bước chân vào cửa ải ái tình được. Vì thế tình yêu li kỳ khúc chiết của các ngươi hấp dẫn đặc biệt ta vì đó chính là khiếm khuyết duy nhất của ta. Đạo lý bên trong lại càng vi diệu, các ngươi có hiểu không?”

Cao Ngạn lộ vẻ đồng tình, gật đầu: “Thì ra ngươi bị khiếm khuyết bẩm sinh ở phương diện đó. Thật làm người ta nhìn không ra.”

Hướng Vũ Điền không hài lòng nói: “Hoàn toàn không phải là việc ngươi nghĩ đâu. Ngươi dám cho rằng ta là thiên yêm sao*?”

Doãn Thanh Nhã từ sau lưng Cao Ngạn thò đầu ra hiếu kỳ hỏi Cao Ngạn: “Thiên yêm là cái gì vậy?”

Không khí trong phòng vô cùng kỳ quái. Thích khách đáng sợ một lòng vì giết người mà tới lại cùng với mục tiêu ám sát nói nói cười cười, lại còn đề cập tới những vấn đề riêng tư nữa.

Hướng Vũ Điền sợ Cao Ngạn càng nói càng không phanh lại được bèn đáp thay gã: “Thiên yêm dùng chỉ nam nhân vì khiếm khuyết bẩm sinh mà không thể hợp thể giao hoan cùng với nữ nhân được. Hiểu chưa? Nhưng ta có thể đảm bảo ta tuyệt không có vấn đề về mặt đó. Nếu Cao thiếu gia ngươi dám rêu rao lung tung thì ta sẽ tuyệt không tha cho ngươi đâu.”

Doãn Thanh Nhã thấy y nói thản nhiên như thế, mặt mũi đỏ bừng, vội vàng nấp vào sau lưng Cao Ngạn.

Cao Ngạn lại ngẩn người nhìn Hướng Vũ Điền, muốn nói lại thôi. Rõ ràng lời Hướng Vũ Điền nói có ẩn hàm ý không động thủ giết người. Nếu không, Cao Ngạn làm sao có thể có cơ hội đi lại khắp nơi nữa? Nhưng gã lại không dám hỏi thẳng, sợ Hướng Vũ Điền bỗng nhiên thay đổi chủ ý.

Hướng Vũ Điền lại lắc đầu cười khổ: “Nói cho các ngươi biết! Tình hình của ta có thể hình dung như thế này. Ta hiện đang tiến hành luyện một loại công pháp có thể kéo dài tuổi thọ rất nhiều nên cần siêu thoát khỏi thất tình lục dục của con người. Nếu không chỉ một chút sơ sót sẽ gặp họa tẩu hỏa nhập ma.”

Doãn Thanh Nhã lại từ sau lưng Cao Ngạn thò đầu ra khỏi vai gã, khuôn mặt vẫn còn đỏ bừng ngạc nhiên hỏi: “Trên thiên hạ này làm gì có võ công kéo dài được tuổi thọ? Sư phụ nói con người có thể sống được bao lâu chính là do lão thiên gia quyết định.”

Hướng Vũ Điền hỏi ngượi lại: “Vậy tại sao ngươi biết là ta đã bị trời định không thể hưởng trường thọ được?”

Doãn Thanh Nhã lập tức nghẹn lời.

Cao Ngạn thăm dò hỏi: “Hướng huynh phải chăng quyết định tha cho bọn ta?”

Hướng Vũ Điền không vui nói: “Thuyết thư của ta vẫn còn đoạn dưới, ngươi có thể nhẫn nại một chút được không?”

Doãn Thanh Nhã cười phì một tiếng, hỏi: “Thuyết thư của ngươi? Phải chăng ngươi nghe quá nhiều thuyết thư nên đã mê muội rồi, biến thành một thuyết thư tiên sinh?”

Hướng Vũ Điền cười khổ: “Ta đúng là bị mê muội rồi. Khi ta nghe ‘Tiểu Bạch Nhạn chi luyến’ của các ngươi thì hoàn toàn hoà nhập vào câu chuyện, tự hoá thân thành Cao thiếu gia, cùng với Tiểu Bạch Nhạn ngươi nói chuyện yêu đương, giống như là tự thân mình trải qua vậy. Con mẹ nó! Uy lực của thuyết thư quả thật kinh người.”

Doãn Thanh Nhã hai má đỏ bừng lên, “ối” một tiếng rồi lại vội vàng nấp vào sau lưng Cao Ngạn.

Cao Ngạn lộ vẻ cảnh giác, ấp úng: “Ngươi chẳng phải…..Ài! Chẳng phải ngươi…….”

Hướng Vũ Điền không vừa ý, nói: “Đương nhiên không phải là ta nghĩ như thế. Chỉ là ta nghe câu chuyện đó chăm chú đến nỗi hoà mình vào câu chuyện. Nhưng ý muốn giết ngươi của ta rất kiên định, vì thế mới nhiều lần hạ thủ với ngươi. Ài! Nói thật ra, sát cơ của ta đối với ngươi vẫn chưa đủ, nếu không chỉ sợ ngươi đã hồn du địa phủ rồi. Con mẹ nó! Tại sao lại biến thành như thế này chứ?”

Cao Ngạn và Doãn Thanh Nhã đều khẩn trương, sợ Hướng Vũ Điền đột nhiên lại biến trở lại thành một thích khách vô tình đáng sợ. Vì sắc mặt Hướng Vũ Điền lúc bừng lên, lúc âm trầm, cho thấy những suy nghĩ mâu thuẫn trong lòng y đang giao chiến quyết liệt.

Hướng Vũ Điền mắt nhìn xuống đất, thần sắc hòa hoãn nói: “Vừa rồi ta toàn lực đuổi tới, đã hạ quyết tâm vừa nhìn thấy Cao thiếu gia là lập tức hạ sát thủ. Chỉ hận ta chưa thấy người thì lại nghe thấy thanh âm các ngươi nói chuyện trước. Những lời riêng tư của các ngươi lại không ngừng chui vào tai ta, giống như ta đang nghe một đoạn thuyết thư sống động vậy.”

Tiếp đó, y nhìn hai người, song mục thần quang lấp loé, giọng điệu có phần hưng phấn hỏi: “Các ngươi hiểu không? Cảm giác đó vô cùng cổ quái, giống như Thuyết Thư quán bỗng nhiên kết hợp với hiện thực thành một, biến thành chân giả khó phân, làm ta không còn cách nào nổi lòng ác độc để hạ sát thủ đối với Cao thiếu gia ngươi nữa.”

Cao Ngạn thở nhẹ, vui mừng nói: “Nghe lão ca nói câu này ta cảm thấy vô cùng vinh dự. Nói thực, mọi người đều chưa từng có con bà nó thâm cừu đại hận gì cả, ngươi giết ta, ta giết ngươi, sao lại phải khổ như thế?”

Hướng Vũ Điền hồi phục vẻ ung dung, cười nhẹ: “Ngươi dường như quên mất chúng ta đang khai chiến. Ta đứng bên phía Mộ Dung Thuỳ. Không ngại mà cho ngươi biết lý do về việc ta không giết ngươi là vì môn công pháp ta đang tu hành không cho phép ta lạm sát, lại tuyệt không thể vì giết ngươi rồi sẽ sinh ra tâm ma do hối hận đã giết người. Ài! Ta nói nhiều quá rồi, chỉ muốn thương lượng với ngươi một chút, xem có biện pháp lưỡng toàn kỳ mỹ không.”

Hai người lại khẩn trương, vẫn sẵn sàng tiếp chiến.

Hướng Vũ Điền điềm đạm nói: “Không cần khẩn trương. Ta không có ý làm tổn thương các ngươi đâu. Nhưng theo tình theo lý thì ta phải nghĩ cho Mộ Dung Thuỳ. Thế này được không? Tiểu Bạch Nhạn có thể tự do ly khai, Cao thiếu gia sẽ theo ta về. Yên tâm đi! Ta tuyệt không giao Cao thiếu gia cho người Yên đâu, chỉ tìm một chỗ nào đó giữ ngươi tám ngày, mười ngày. Đến khi người Yên hoàn thành việc xây dựng cơ sở quân sự ở bắc Dĩnh khẩu thì sẽ lập tức thả ngươi ra. Hướng Vũ Điền ta đã nói gì thì chưa bao giờ không giữ lời.”

Doãn Thanh Nhã vượt lên đứng chắn trước mặt Cao Ngạn, giận quát: “Không được!”

Hướng Vũ Điền khổ não hỏi: “Thế cũng không được sao?”

Y lại chuyển hướng sang Cao Ngạn hỏi: “Ngươi khuyên tiểu Nhã nhi của ngươi được không? Ta không thể chế phục được nàng nếu không làm nàng tổn thương được.”

Cao Ngạn nhớ lại tuyên bố hùng hồn của Doãn Thanh Nhã là cho dù với khả năng của Yến Phi, nếu muốn bắt sống nàng cũng rất khó khăn nên gã mới hiểu nỗi khổ não của Hướng Vũ Điền là có đạo lý. Không biết tại sao, gã không hề hoài nghi lời Hướng Vũ Điền. Vì nếu như Hướng Vũ Điền có lòng muốn giết gã thì cần gì phải nói những lời thừa này? Hơn nữa, mỗi câu của Hướng Vũ Điền đều lộ rõ ý chân thành, lý do nói ra lại không phải vì bản thân mình nên càng làm người ta dễ tin tưởng.

Tình thế trước mắt rõ ràng dễ hiểu. Doãn Thanh Nhã tuy có sức đánh một trận, nhưng tất bại không sai. Nếu như nàng bị Hướng Vũ Điền đánh trọng thương thì càng không được. Vì Doãn Thanh Nhã, gã không còn lựa chọn nào khác.

Cao Ngạn cười khổ: “Nhã nhi….”

Doãn Thanh Nhã rung tay chấn động thanh trường kiếm, chân khí tập trung vào thân kiếm phát ra tiếng “oong” vang rền, xeo xéo chếch lên chỉ vào Hướng Vũ Điền, giận nói: “Cao Ngạn ngươi im mồm! Y muốn mang ngươi đi thì phải hỏi thanh kiếm của ta đã.”

Hướng Vũ Điền xoè tay ra hỏi: “Sao lại phải khổ thế?”

Bỗng nhiên y lộ vẻ nghe ngóng, rồi song mục thần quang bừng lên, trừng mắt nhìn Doãn Thanh Nhã quát lớn: “Đừng có bức ta!”

Doãn Thanh Nhã thét lớn một tiếng, trường kiếm trên tay hoá thành vô số điểm kiếm mang hướng về phía đối thủ. Những điểm kiếm mang này lại tụ mà không tan, cảm giác như tuỳ lúc có thể mở rộng ra. So với lần xuất thủ trong lúc đang kinh hãi của nàng vừa nãy thì có uy thế hơn hẳn.

Choang!

Trường kiếm của Hướng Vũ Điền rời vỏ, bình ổn đánh ra một chiêu về phía Doãn Thanh Nhã. Chiêu này không hề hoa mỹ xảo diệu, nhưng lại có khí thế bá đạo như hoành tảo thiên quân.

Cao Ngạn thầm than ‘xong rồi’. Hướng Vũ Điền rõ ràng đã động nộ, xuất thủ không lưu tình nữa. Nếu như Doãn Thanh Nhã có bị làm sao thì gã cũng không muốn sống nữa.

Yến Phi đến hoang trấn nơi chàng từng huyết chiến với ba đại cao thủ Ma môn. Xác ba người đã biến mất không còn tăm tích gì nữa, làm chàng phát sinh cảm giác ở đây chưa từng xảy ra chuyện gì, có ảo giác tất cả chỉ là một giấc mộng.

Chàng quay lại chỗ này vì nghĩ sẽ mai táng cho họ khỏi phải phơi thây ngoài đường. Giờ thì chàng đương nhiên không cần phải làm nữa, đủ thấy Ma môn hành sự có kế hoạch chu toàn, không hề lưu lại bất kỳ dấu vết nào có thể trở thành đầu mối để người khác truy đuổi điều tra bọn chúng.

Chỗ đáng sợ nhất của Ma môn là căn bản không biết ai là người của Ma môn. Như Lý Thục Trang, ai tưởng được thị lại là yêu nữ Ma môn?

Yến Phi rời khỏi cổ trấn, phát hiện thấy cả đến xác những con chó bị chết cũng biến mất tiêu, trong lòng bất chợt kinh dị trước tác phong hành sự cẩn mật và chu đáo của Ma môn. Chàng lại đề tỉnh mình phải ghi nhớ điểm này, nếu như lơ là sẽ rất có khả năng phải thảm bại. Chàng biết mình đã trở thành địch nhân hàng đầu của Ma môn rồi, là chướng ngại lớn nhất trên con đường tranh bá của Ma môn.

Ma môn sẽ dùng hết mọi thủ đoạn để huỷ diệt chàng, chàng tuyệt không thể khinh địch.

Khi chàng và ba đại cao thủ Ma môn quyết chiến sinh tử thì phải chăng có một cao thủ Ma môn nữa ẩn nấp gần đó, đã nhìn trộm một trường huyết chiến này?

Khả năng này rất cao.

Lúc đó, ba đại cao thủ Ma môn tạo uy hiếp và áp lực cực lớn lên Yến Phi, làm chàng không thể không toàn tâm ứng phó, căn bản không còn rảnh rỗi để phân thần quan tâm đến những sự việc bên ngoài cuộc kịch chiến. Nếu như có cao thủ Ma môn quan chiến bên cạnh thì quả thực có thể giấu được chàng.

Chính người đó đã dọn sạch dấu vết cuộc huyết chiến, mang thi thể ba người kia đi.

Đối phương chỉ có một người vì nếu như nhiều hơn thì không thể tránh được linh giác của chàng. Người đó nhiều khả năng là người có Ma công tâm pháp theo hệ phái của Vệ Nga. Hơn nữa, ma công không dưới Vệ Nga. Sở dĩ chàng có ý nghĩ như thế vì lúc đó chỉ có Vệ Nga có thể giấu được cảm ứng của chàng.

Nếu như chàng đoán không nhầm thì Ma môn thực quá đáng sợ. Người ẩn nấp chỗ kín đáo đó, có thể là có nhiệm vụ đánh lén, nhưng vì ba người bọn Vệ Nga thất bại quá nhanh làm người đó không có cách gì viện thủ, nhưng y đã chứng kiến toàn bộ quá trình.

Yến Phi phóng nhanh trong vùng hoang dã, trong lòng nổi lên trùng trùng suy nghĩ.

Chàng thực không muốn là địch nhân của Ma môn. Tiếc là bản thân không làm chủ được, đã trở thành địch nhân của Ma môn rồi. Điểm mấu chốt nhiều khả năng vì quan hệ giữa chàng và Lưu Dụ. Nghĩ tới đây, chàng chút nữa thì muốn thay đổi phương hướng đến Hải Diêm để cảnh cáo Lưu Dụ, cho Lưu Dụ biết những địch nhân đáng sợ đang tụ tập trong bóng tối tìm cách hại gã.

Đương nhiên chàng không có cách nào phân thân được vì Biên Hoang tập càng cần chàng hơn. Để cảnh cáo Lưu Dụ, chàng có thể dùng mạng lưới thông tin của Đồ Phụng Tam truyền tin tức tới cho gã.

Ngoài ra, chàng còn phải đi cảnh cáo Lý Thục Trang, phải tận hết sức lực làm việc cho Lưu Dụ.

Ài! Phiền não của chàng quả là chỉ có tăng không giảm.

Trong đầu chàng lại nổi lên một vấn đề khác. Mặc Di Minh phải chăng là thân phụ của mình? Việc này chàng phải tìm hiểu cho rõ ràng. Vì truyền nhân đắc ý của Mặc Di Minh là Hướng Vũ Điền cũng chính là kình địch mà chàng không thể tránh né. Việc này chỉ còn cách do Người yêu dấu Thiên Thiên của chàng nghĩ phương pháp, chỉ đông đánh tây, từ chỗ Phong Nương dò ra bí mật cho chàng.

Một ý niệm nữa cũng nổi lên trong lòng chàng.

Bản lĩnh giữ nhà lợi hại nhất của chàng hiện tại là ‘Tiên môn kiếm quyết’, nhưng làm sao chàng có thể thi triển kiếm chiêu cuối cùng, vô cùng bá đạo và không thể khống chế này đối với Mặc Sĩ Minh Dao? Nhưng nếu chàng không dùng Tiểu tam hợp thì chàng thực không nắm chắc sẽ đánh bại được Mặc Sĩ Minh Dao.

Việc này làm chàng vô cùng đau đầu.

Vì thế, trước khi đối trận với Mặc Sĩ Minh Dao, chàng phải làm cho ‘Nhật Nguyệt Lệ Thiên đại pháp’ tăng tiến một bậc, có đột phá so với kiếm chiêu trước đây. Lợi dụng Thái Dương, Thái Âm hai loại chân khí bất đồng này sử dụng vào kiếm pháp để tạo ra đột phá, sáng tạo ra ‘Nhật Nguyệt Lệ Thiên đại pháp’ mới. Sau đó thì mới có vốn để tranh đấu với Mặc Sĩ Minh Dao.

Chàng rất rõ Mặc Sĩ Minh Dao, mỹ nữ người Bí tộc từng làm chàng điên đảo mê say này có thể biến thành tuyệt đối vô tình. Chỉ hận là chàng lại không thể không niệm tình cũ.

Nghĩ tới đây, trong lòng chàng nổi lên một cơn phiền não khó chịu.

Yến Phi ngấm ngầm thất kinh, biết đó là dấu hiệu nội thương phát tác. Hoàng Thiên đại pháp của Tôn Ân quả thực vượt hơn ba đại cao thủ Ma môn rất nhiều. Thương thế còn lại không thể trong một thời gian ngắn mà trừ tiệt được.

Yến Phi không dám suy nghĩ lung tung nữa, thu thập tâm tình, bỏ tất cả những suy nghĩ ra ngoài não bộ, ý niệm chuyên nhất chạy thẳng về Kiến Khang.

Chú thích

* Ý là thiếu bộ phận sinh dục bẩm sinh.Một kiếm đó của Hướng Vũ Điền dùng vụng về đấu lại xảo diệu của Doãn Thanh Nhã, thực là một chiêu số hữu hiệu để đối phó với Doãn Thanh Nhã. Khi đối phương công lực thua y quá xa, lại thêm phía sau Doãn Thanh Nhã là Cao Ngạn và bức tường nên nàng không thể lùi, và vì để bảo vệ Cao Ngạn nên cũng không thể tránh né.

Một kiếm chém ngang này dùng đơn giản chống lại hoa mỹ, chỉ cần bức bách Doãn Thanh Nhã phải biến chiêu là y có thể sử dụng thủ pháp tá kình đánh dạt Doãn Thanh Nhã sang ngang, làm Cao Ngạn hứng trọn đòn tấn công của y.

Nhưng Doãn Thanh Nhã lại yêu kiều cười lớn, nhảy vọt lên không. Mũi chân như thiểm điện điểm vào kiếm phong, kiếm ảnh vẫn giữ nguyên thức cũ, mở rộng ra, chỉ thay đổi góc độ tấn công, từ trên cao mặt đối mặt đánh ập xuống Hướng Vũ Điền.

Bất kể là thân pháp hay kiếm chiêu đều được sử ra vượt trên mức bình thường của Doãn Thanh Nhã. Rõ ràng mỹ nhân này vì Cao Ngạn nên đã không quản đến bản thân, phát huy ưu điểm đến hết mức.

Đầu óc Cao Ngạn cực kỳ linh động, lập tức trầm eo xuống tấn, kích ra một quyền, phát xuất một cỗ kình phong đánh thẳng vào chỗ yếu nhược của Hướng Vũ Điền là hạ âm.

Hướng Vũ Điền quát lớn “Giỏi”, thanh kiếm đang quét ngang lại biến thành gạt mạnh lên trên. Toàn thân dịch sang bên trái. Tay trái lăng không phách một chưởng cách không về phía Cao Ngạn. Động tác như hành vân lưu thuỷ, không hề có vẻ lúng túng biến chiêu lúc nguy cấp, lại vô cùng tiêu sái dễ nhìn. Phảng phất như là y đã sớm tính toán hết rồi.

Doãn Thanh Nhã đang lơ lửng trên không, không tưởng nổi một kiếm toàn lực của Hướng Vũ Điền lại có thể muốn biến chiêu là biến ngay, đang chém ngang bên dưới lại đánh xéo lên nhằm vào mũi chân nàng. Nếu bị y quét trúng, không những bị y hoá giải hết thế công mà còn bị y tống văng ra chỗ khác. Vậy Cao Ngạn khẳng định không giữ được cái mạng nhỏ của gã. Nàng thấp giọng mắng “tên gia hoả xấu xa”, đoạn hai chân rụt lại, lăng không lạng người một cái, kiếm quang vẫn nhằm đánh vào mặt Hướng Vũ Điền. Biến hoá này thể hiện hết công phu đề khí khinh thân của nàng.

“Bùng!”

Quyền phong của Cao Ngạn bị cách không chưởng của Hướng Vũ Điền phách trúng, lập tức thảm bại. Gã bị sức phản chấn đẩy lùi lại đập mạnh lưng vào tường đất, xương cốt toàn thân tưởng chừng gãy vụn hết cả, đau đớn như dần, khí huyết trào ngược. Gã không ngã xuống là đã cố gắng phi thường rồi, càng không cần nói tới có thể tấn công địch nữa.

Hướng Vũ Điền cười rộ: “Tiểu Nhã nhi trúng kế rồi!”

Nói đoạn, trường kiếm hoá thành bạch quang vọt lên đánh thẳng vào kiếm mang của Doãn Thanh Nhã.

Doãn Thanh Nhã vô cùng tức giận quát: “Không được gọi là tiểu Nhã nhi”.

Tuy miệng nàng không nhường người ta một chút, tay chân lại không hề nhàn rỗi, kiếm chiêu từ hoa mỹ biến thành đơn giản, chém chéo vào trường kiếm của Hướng Vũ Điền đang đâm thẳng lên. Chỉ cần có thể mượn lực là nàng có thể vọt lên mái nhà, rồi có thể tấn công bất cứ vị trí nào trong nhà, làm Hướng Vũ Điền không có cách nào hạ thủ Cao Ngạn.

Hướng Vũ Điền cười lớn: “Thú quá thú quá! Bây giờ ta bắt đầu hoà nhập vào cảm giác động nhân của thiên địa bên trong thuyết thư rồi, trực tiếp can dự vào sự phát triển của ‘Tiểu Bạch Nhạn chi luyến’.”

“Choang!”

Hai kiếm giao nhau, ngừng lại giữa không trung.

Tính toán của Doãn Thanh Nhã không dùng được nữa vì trường kiếm của Hướng Vũ Điền phát sinh sức hút cực mạnh như nam châm hút sắt, làm Tố Nữ kiếm của nàng đánh “chát” một tiếng dính chặt vào kiếm của y. Doãn Thanh Nhã mắng nhỏ, đôi chân xinh đẹp từ trên không hạ xuống đá vào ngực Hướng Vũ Điền như điện chớp.

Cao Ngạn vẫn chưa phục hồi, dựa lưng vào tường thở hổn hển, bỗng tinh thần chấn động hô lớn: “Có người đến rồi!”

Hướng Vũ Điền ung dung nói: “Tai của ngươi kém quá.”

Tiếp đó y dạt người sang ngang như thiểm điện, tránh khỏi liên hoàn cước của Doãn Thanh Nhã. Y lại xoay tròn một vòng làm Doãn Thanh Nhã bay vèo về phía cửa.

Hai kiếm rời nhau.

Doãn Thanh Nhã bắt đầu hiểu gian kế của Hướng Vũ Điền. Nàng khẩn cấp đến mức muốn khóc, hét: “Cao Ngạn!”

Hướng Vũ Điền cười dài: “Quá muộn rồi!”

Doãn Thanh Nhã thầm hô nguy hiểm quá, vội sử dụng thiên cân truỵ hạ mình xuống trước cửa, thân hình xoay tít như cơn lốc, không đuổi theo được, trường kiếm trên tay không cách nào đánh tới được.

Hướng Vũ Điền cùng Cao Ngạn đứng dựa vào tường, lợi kiếm kề vào cổ Cao Ngạn vốn đã sợ đến mặt cắt không còn hạt máu.

Tiếng xé gió từ bốn phương tám hướng truyền tới. Người đầu tiên vọt vào phòng như mãnh hổ là Trác Cuồng Sinh, nhưng thấy tình cảnh Cao Ngạn bị Hướng Vũ Điền khống chế, lão không xông tới nữa. Dừng lại bên cạnh Doãn Thanh Nhã, lão thét lớn: “Không được vọng động.”

Tiếp đó, Vương Trấn Ác, Diêu Mãnh và tiểu Kiệt đồng thời vào phòng. Bên song cũng lố nhố bóng người, sát khí đằng đằng. Hành cung số một của Cao Ngạn bị huynh đệ Hoang nhân bao vây trùng điệp.

Hướng Vũ Điền cười dài, không hề lộ vẻ sợ hãi, lại còn ra vẻ vô cùng sung sướng, khuôn mặt rạng rỡ.

Chỉ cần y khẽ cứa trường kiếm một cái, đảm bảo mạng nhỏ của Cao Ngạn không thể giữ được. Đại la Kim tiên cũng không cứu được mạng của gã.

Trác Cuồng Sinh vội nói: “Việc gì cũng có thể thương lượng được. Thế này nhé, chỉ cần ngươi thả Cao Ngạn ra, bọn ta sẽ để cho ngươi tự do bỏ đi.”

Hướng Vũ Điền lắc đầu than: “Trác quán chủ căn bản không có tư cách ra điều kiện với Hướng Vũ Điền ta. Kể cả ta giết chết Cao tiểu tử vẫn có thể nắm chắc bỏ chạy giữ thân được. Trấn Ác huynh đương nhiên biết không phải là ta thổi da trâu.”

Tiểu Bạch Nhạn khóc nói: “Y…….. Tên gia hoả xấu xa đó muốn mang Cao Ngạn đi. Các ngươi mau nghĩ biện pháp đi.”

Vương Trấn Ác là người giữ vẻ lạnh lùng nhất, đi đến bên kia Doãn Thanh Nhã, ngạc nhiên hỏi: “Cao thiếu gia chẳng phải là người nằm trong danh sách phải giết của Hướng huynh sao? Tại sao lại không giết gã mà là mang gã rời khỏi đây vậy?”

Bọn Trác Cuồng Sinh đều nảy sinh hy vọng. Với thân thủ của Hướng Vũ Điền, y quả thực có bản lĩnh có thể giết người xong rồi đột vây đào tẩu. Nhưng nếu y muốn mang theo một người rời khỏi đây thì tuyệt không thể. Vì vậy có thể thấy sự thông minh của Tiểu Bạch Nhạn. Tuy lo lắng đến phát khóc lên, nhưng vẫn không quên đề tỉnh bọn họ một vấn đề quan trọng nhất đó. Vương Trấn Ác lại càng tinh minh, trực tiếp hỏi Hướng Vũ Điền, tạo không khí như hai bên gặp mặt nói chuyện, làm giảm bớt tình thế khẩn trương kiếm bạt cung giương, khẽ chạm vào là bùng phát giữa hai bên.

Hướng Vũ Điền than: “Việc này một lời không thể nói hết được. Hướng Vũ Điền ta từ khi đến Biên Hoang tập không biết gặp phải vận số quái quỷ gì, chẳng lúc nào được thoải mái hành động. Nói ít lời thừa đi. Tình hình hiện giờ đã rõ ràng, chỉ có các ngươi phải nghe theo lời ta, hiểu chưa?”

Cao Ngạn bị kiếm chẹn vào yết hầu không thể nói năng, chỉ ngây người nhìn Doãn Thanh Nhã chân tình bộc lộ, khóc như mưa như gió vì gã.

Diêu Mãnh tức giận quát: “Bọn ta tuyệt không cho ngươi mang Cao thiếu gia đi đâu. Nếu như ngươi dám làm tổn thương Cao thiếu gia….”

Hướng Vũ Điền cắt lời hắn: “Ngươi tên là Diêu Mãnh đúng không? Hiện giờ tính mạng Cao tiểu tử đang ở trong tay ta. Tốt nhất là đừng có chọc giận ta, hiểu chưa?”

Tiểu Kiệt thét: “Nếu là anh hùng hảo hán thì không nên dùng thủ đoạn hạ lưu đó. Mau thả lão đại của ta ra, chúng ta động thủ phân cao thấp.”

Hướng Vũ Điền bật cười: “Từ trước tới giờ ta chẳng phải là anh hùng hảo hán gì cả, lại càng không phải là một tên ngu ngốc. Các ngươi tỉnh táo lại chưa? Có thể bình tâm tĩnh khí nghe ta nói mấy câu được không?”

Vương Trấn Ác hét: “Nói đi!”

Trong ngoài phòng lập tức yên tĩnh như tờ, chỉ còn tiếng Cao Ngạn thở gấp.

Tiểu Bạch Nhạn đã ngăn đôi dòng lệ, lộ thần sắc kiên quyết.

Trác Cuồng Sinh xoè tay ra hỏi: “Được rồi! Mọi người đều đã bình tĩnh lại. Hướng huynh có đề nghị gì tốt đây?”

Hướng Vũ Điền ung dung đáp: “Ta luôn vô cùng bình tĩnh. Hà! Các ngươi tính mà xem! Không cần cùng các ngươi nhùng nhằng nữa. Trước hết hãy để ta phân tích tình hình hiện tại đã.”

Vương Trấn Ác gật đầu: “Bọn ta rửa tai cung kính nghe đây.”

Hướng Vũ Điền cười nhẹ: “Ta là người rất thông tình đạt lý. Điều kiện nói ra đảm bảo các ngươi sẽ vui vẻ tiếp thu…..”

Doãn Thanh Nhã giậm chân tức giận: “Thông tình đạt lý cái quái gì? Tên gia hoả xấu xa nhà ngươi nói gì thì cuối cùng cũng là muốn mang Cao Ngạn đi. Bọn ta tuyệt không thể đáp ứng y.”

Trác Cuồng Sinh khuyên nhủ: “Cứ để y nêu điều kiện ra, xem bọn ta có thể chấp nhận không.”

Hướng Vũ Điền nhìn Trác Cuồng Sinh nói: “Vẫn là Trác quán chủ hiểu việc, vì ngươi biết kết cục của câu chuyện thuyết thư ‘Tiểu Bạch Nhạn chi luyến’ đang nằm trong sự khống chế của ta. Thật ra, vận mệnh của cả Biên Hoang tập cũng bị ta nắm rồi. Chỉ cần ta cứa ngang thanh kiếm một nhát thì không chỉ ‘Tiểu Bạch Nhạn chi luyến’ phải thảm đạm kết thúc, mà Hoang nhân các ngươi cũng mất đi hy vọng đoạt lại quyền khống chế bắc Dĩnh khẩu. Vì thế ta mới nói các ngươi chỉ còn cách nghe theo ta vì con tin đang nằm trong tay ta. Nghe rõ chưa? Ta chỉ nói muốn các ngươi thuận theo, tuyệt không hề nói cần các ngươi phải khuất phục. Hai từ này khác nhau một trời một vực. Vậy có thể biết điều kiện ta nêu ra, các ngươi có thể chấp nhận được.”

Mọi người không nói được gì. Lời lẽ người này sắc bén lợi hại, sinh động truyền thần, nhất là cách thức mà y miêu tả tình hình trước mắt.

Trác Cuồng Sinh cười khổ: “Được rồi! Cho là ngươi chiếm hết thượng phong đi. Nói ra yêu cầu của ngươi xem bọn ta có thể chấp nhận không.”

Hướng Vũ Điền cười nhẹ: “Ta có thể phóng thích Cao tiểu tử mà không hề làm tổn hại chút nào, nhưng Trác quán chủ phải đại biểu cho Chung lâu hội nghị đáp ứng ta mấy việc.”

Trác Cuồng Sinh nhíu mày: “Ta mặc dù chủ trì hội nghị, nhưng lại không có quyền đại biểu cho toàn thể hội nghị phát biểu. Truyền thuật lại cho ngươi thì đương nhiên là không vấn đề gì.”

Hướng Vũ Điền điềm nhiên nói: “Không thể làm thế thì thôi vậy.”

Vương Trấn Ác vội vàng nói: “Hướng huynh giận rồi, sao không nói đề nghị của ngươi ra trước để bọn ta châm chước xem có khả năng làm được không.”

Hướng Vũ Điền không vui nói: “Ta không nhàn rỗi để nói chuyện chơi. Xin Trác quán chủ nói cho rõ ràng, ngươi có thể phát ngôn thay cho hội nghị hay không?”

Trác Cuồng Sinh không còn cách nào, đáp: “Được rồi! Ta đại biểu cho hội nghị thỏa thuận điều kiện với ngươi.”

Doãn Thanh Nhã yêu kiều giận dữ: “Người ta không phải Hoang nhân, không chịu ước thúc của Chung lâu hội nghị. Kể cả các ngươi đáp ứng để y mang Cao Ngạn đi thì ta vẫn không cho phép.”

Hướng Vũ Điền ngạc nhiên nói: “Thường nói chết tốt không bằng sống tồi. Nếu ngươi để Cao thiếu gia đi theo ta thì ít nhất Cao thiếu gia cũng có một tia sinh cơ. Tiểu Nhã nhi tại sao vẫn kiên trì ý kiến riêng của mình, không sợ ta tức giận lên giết phăng tình lang của ngươi đi sao?”

Lập tức hai má Doãn Thanh Nhã đỏ bừng lên như ráng chiều, làm nàng càng thêm kiều diễm động lòng người. Nàng lại giận mắng: “Đã bảo ngươi không được gọi tên người ta loạn lên rồi mà ngươi vẫn không thay đổi. Cao Ngạn không phải là tình lang của ta, chỉ là chiến hữu và bạn tốt. Ngươi hồ ngôn loạn ngữ làm gì?”

Mọi người nghe xong đều ngơ ngác. Doãn Thanh Nhã rõ ràng vì Cao Ngạn mà rơi lệ, vậy mà vẫn không thừa nhận tình yêu với Cao Ngạn mà thiên hạ đều biết, thực là làm người ta cảm thấy mơ hồ.

Hướng Vũ Điền hứng thú hỏi: “Chỉ cần ngươi nói thêm một câu không cho ta mang Cao Ngạn đi, ta lập tức giết gã. Ngươi có dám nói câu đó không?”

Doãn Thanh Nhã vô cùng tức giận la: “Tên ngu ngốc chết bầm nhà ngươi, tên đào tường khoét vách, cái đồ chỉ biết khi phụ người yếu đuối, lại dám uy hiếp ta? Ta…..”

Trác Cuồng Sinh quả thực rất sợ nàng tức giận mà bất chấp mọi thứ nói ra câu đó kích động y, vội xí xoá: “Để Hướng huynh nêu điều kiện trước rồi xem chúng ta có thể chấp nhận hay không đã.”

Doãn Thanh Nhã bỗng nhiên cười nói: “Bọn ta căn bản không cần sợ sự uy hiếp của y. Ta đã nhìn thấu cái tên gia hoả chẳng làm nên trò trống gì này rồi. Y tuyệt sẽ không giết Cao Ngạn đâu. Chỉ cần bọn ta lập tức phát động tấn công, ta dám bảo đảm y chỉ còn cách phóng thích Cao Ngạn, ôm đầu bỏ chạy như chuột. Nói không chừng bọn ta còn có thể đánh cho y một trận khốn đốn cho bớt giận.”

Mọi người nghe xong lại ngơ ngác, ánh mắt tập trung vào Hướng Vũ Điền.

Hai mắt Hướng Vũ Điền đảo một vòng, lộ vẻ hứng thú quái dị, lập tức làm giảm mạnh không khí khẩn trương giằng co sinh tử giữa hai bên, khiến bọn Hoang nhân Trác Cuồng Sinh biết Doãn Thanh Nhã nói không phải là mũi tên không có mục đích.

Vương Trấn Ác ra hiệu cho Diêu Mãnh đừng nói gì.

Tình thế lúc này rất vi diệu, không ai biết một khắc sau sẽ có biến hoá gì.

Hướng Vũ Điền cười khổ: “Tại sao lại biến thành như thế này chứ? Mẹ ta ơi!”

Vương Trấn Ác nói: “Mời Hướng huynh nói ra điều kiện thả người đi.”

Câu này chỉ mang tính chất thăm dò xem Hướng Vũ Điền có thành ý thả người hay không để trao đổi việc Hoang nhân đáp ứng yêu cầu gì đó của y. Nếu như có thể tin tưởng, đương nhiên là lý tưởng nhất rồi.

Nhưng không ai dám buông lỏng giới bị vì Hướng Vũ Điền không những hành sự làm người ta không dự đoán được, mà còn chính tà khó phân, mỗi lúc đều có những hành động ra ngoài ý liệu người khác.

Hướng Vũ Điền lại trừng trừng nhìn Doãn Thanh Nhã, trầm giọng: “Nếu như ta giết Cao tiểu tử của ngươi, Doãn cô nương sẽ làm sao?”

Doãn Thanh Nhã làm như vô sự nói: “Tối đa là một mạng đền một mạng mà thôi! Ngươi còn muốn ta làm gì nữa?”

Hướng Vũ Điền cười rộ nói: “Tinh tế! Đúng là tinh tế! Vở thuyết thư này quả là tinh tế. Hà! Trở lại chuyện chính, làm thế nào để ta phóng thích Cao tiểu tử? Các ngươi phải đáp ứng ta hai điều kiện.”

Doãn Thanh Nhã mắng: “Nói lắm lời thừa! Mau nói ra đi!”

Hướng Vũ Điền cười khổ: “Mắng hay lắm! Hôm nay đúng là ta luyên thuyên toàn lời thừa, chỉ vì trong lòng ta không phục. Các ngươi đừng có hiểu nhầm, là ta không phục đối với lão thiên gia chứ không có liên quan gì đến các ngươi cả. Nghe cho rõ đây! Điều kiện thứ nhất là chỉ cần ta y theo quy củ của các ngươi thì ta có thể ra vào tự do tại Biên Hoang tập. Các ngươi không được can thiệp.”

Mọi người đều ngạc nhiên, không ngờ điều kiện đầu tiên của Hướng Vũ Điền lại là việc này.

Trác Cuồng Sinh trầm ngâm một lát, khổ não nói: “Nếu như ngươi đem hết tình hình hư thực của bọn ta nói cho người Yên biết thì bọn ta còn có cơ mật quân sự gì nữa?”

Hướng Vũ Điền tức giận: “Nếu ta muốn làm thám tử cho người Yên thì hành động của các ngươi có thể giấu nổi tai mắt của ta sao? Ài! Nói thật cho các ngươi biết. Xong việc ở đây, ta sẽ quay về bắc Dĩnh khẩu, cảnh cáo người Yên là trong vòng ba ngày các ngươi sẽ tấn công bắc Dĩnh khẩu. Còn việc người Yên đối phó thế nào là việc của người Yên, không liên quan gì đến bản nhân.”

Diêu Mãnh đứng đằng sau khẽ đẩy Trác Cuồng Sinh một cái, giục lão đáp ứng.

Trác Cuồng Sinh gật đầu nói: “Ngươi nói hợp tình hợp lý. Ta đại biểu cho Chung lâu hội nghị đáp ứng yêu cầu này của ngươi. Chỉ cần ngươi y theo quy củ của Biên Hoang tập của bọn ta thì lão huynh có thể giống như những khách nhân đến tham quan, tuỳ ý hoạt động.”

Vương Trấn Ác nói: “Mời Hướng huynh cho biết yêu cầu còn lại.”

Hướng Vũ Điền cười nhẹ: “Một yêu cầu khác càng dễ dàng. Đó là trong vòng ba ngày sau khi Yến Phi về tập, phải tiến hành một trận quyết chiến công bằng với ta. Thời gian, địa điểm do bản nhân quyết định.”

Mọi người thở ra khoan khoái.

Trác Cuồng Sinh cười dài: “Hướng huynh quả là có đảm sắc. Nói thật ra, lão huynh ngươi khẳng khái đơn đả độc đấu một trận cùng Yến Phi là việc mà bọn ta cầu còn chưa được, làm sao lại ngu ngốc mà cự tuyệt chứ? Giao dịch hoàn thành! Có thể thả người chưa?”

Choang!

Hướng Vũ Điền vẻ mặt tươi cười tra kiếm vào vỏ, đồng thời bỏ bàn tay đang bấu vai Cao Ngạn làm gã mất hết khí lực ra. Y lại khẽ đẩy Cao Ngạn một cái. Cao Ngạn chưa hồi phục kinh mạch bị y đẩy loạng choạng nhào về phía bọn Trác Cuồng Sinh.

Vương Trấn Ác và Diêu Mãnh đang định tiến lên nâng đỡ gã nhưng bị Trác Cuồng Sinh cản lại. Bóng người nhoáng lên, Tiểu Bạch Nhạn đã giữ chặt Cao Ngạn, vui mừng như điên nói: “Ngươi không sao rồi! Bọn ta thành công rồi!”

Cao Ngạn kinh hồn bất định, cả người nhào vào lòng Tiểu Bạch Nhạn làm Hoang nhân đồng thanh hò hét khen hay.

Hướng Vũ Điền thần thái ung dung đi ra cửa. Bọn Trác Cuồng Sinh vội nhường đường.

Hướng Vũ Điền bước qua cửa, bỗng nhiên dừng lại nói: “Vương huynh định nói lại thôi, rốt cuộc là có lời gì muốn nói?”

Vương Trấn Ác đáp: “Ta chỉ muốn hỏi Hướng huynh nếu không hoàn thành danh sách giết người thì làm sao ăn nói với người Yên?”

Hướng Vũ Điền ngửa mặt nhìn trời, điềm đạm như không nói: “Trước tiên ta muốn cho các ngươi rõ là ta căn bản không cần quan hệ với người Yên, chỉ quan hệ với bản tộc thôi. Hà! Trong thiên hạ này làm gì có việc gì bất biến. Ta cũng không phải là người ngu trung ngu hiếu, đương nhiên cần hiểu rõ thời thế. Có việc phải làm nhưng cũng có việc không nên làm, chỉ cần vấn tâm không thẹn là được.”

Y bỗng xoay người lại, tươi cười nói: “Mục tiêu chân chính của người Yên là Thác Bạt Khuê. Chỉ cần đánh bại hắn thì Hoang nhân các ngươi còn có tác dụng gì? Kể cả khi các ngươi có thể đoạt hồi lại bắc Dĩnh khẩu, cũng chỉ có thể duy trì thêm những ngày tháng thoi thóp sống mà thôi, không có ích gì cho đại cục cả.”

Diêu Mãnh giận nói: “Phàm người nào khinh thị Hoang nhân bọn ta đều sẽ có một ngày hiểu được đã sai lầm tệ hại như thế nào.”

Hướng Vũ Điền hoàn toàn không để ý vẻ ngang ngược của hắn, tiêu sái cười hỏi: “Thực là như thế sao?”

Y vỗ vỗ vào thanh trường kiếm trên lưng, xuyên rừng bỏ đi, cười dài: “Chỉ cần ta đánh chết Yến Phi thì Biên Hoang tập không đánh cũng tan. Thất bại của Hoang nhân các ngươi đã được định sẵn rồi.”

Nói xong câu cuối cùng, bóng lưng y đã mất hút bên ngoài rừng.

Mọi người nhìn Cao Ngạn. Cao Ngạn vẫn nằm phục trên lưng Doãn Thanh Nhã, giả vờ bị thương để hưởng phúc.

Trác Cuồng Sinh hét: “Ngươi không hề thụ thương phải không?”

Cao Ngạn ưỡn ngực, hùng hồn đáp: “Với võ công của ta, làm sao có thể dễ dàng thụ thương như thế được?”

Lời gã nói làm bốn phía nổi lên từng trận cười vang dội.

Doãn Thanh Nhã thấp giọng mắng: “Tiểu tử chết bầm! Thật không biết liêm sỉ.”

Cao Ngạn cười hi hi hỏi: “Bọn ta lên đường về nhà rồi nói tiếp được không?”

Doãn Thanh Nhã liếc gã một cái rồi cúi đầu xuống không nói gì.

Cao Ngạn nhảy bật lên lộn một vòng, hô lớn: “Lần này đúng là thành công rồi”  Lưu Dụ và Đồ Phụng Tam leo lên đỉnh núi nhìn khắp xa gần, tinh thần chấn động. Trên mặt biển mênh mông, một dãy hải đảo lớn nhỏ khác nhau tên là Trường Xà giống như một con rùa biển nửa chìm nửa nổi không sợ sóng gió bơi về phía tây nam.

Đồ Phụng Tam đón gió nói: “Đó chính là căn cứ địa trên biển bí mật nhất. Khi tình thế có lợi cho bọn ta thì bọn ta có thể từ đó phản công Thiên Sư quân, xây dựng vương quốc quân sự của chúng ta.”

Lưu Dụ nhíu mày nói: “Thiên Sư quân là thế lực địa phương ở đây nên sẽ không sơ suất bỏ qua đám đảo có giá trị chiến lược về quân sự như thế. Nếu bị chúng phát hiện ra chúng ta thì kế dùng kỳ binh của chúng ta chắc chắn sẽ tan như bọt nước.”

Đồ Phụng Tam ung dung nói: “Dưới tình hình bình thường thì chúng ta khẳng định khó thoát khỏi tai mắt Thiên Sư quân. Nhưng giờ là thời kỳ khác thường, Từ Đạo Phúc phải tập trung toàn lực ứng phó quân viễn chính. Đối với quần đảo cách xa bờ như thế không rảnh để lý tới.”

Tiếp đó, y chỉ khu vịnh mà “Kỳ Binh Hào” đang đậu nói: “Đó là eo biển tốt nhất và bí mật nhất của quần đảo Trường Xà. Nước vừa sâu lại rộng rãi, sóng gió bình yên. Chỉ cần chúng ta xây dựng bến cảng tạm là có thể cho hơn ba mươi đại chiến thuyền cập bờ. Tuyệt diệu nhất là những thuyền khác nếu đi ngang qua thì căn bản không nhìn thấy tình hình trong eo biển. Đối phương phải tiến vào trong quần đảo mới có cơ hội phát hiện chúng ta.”

Lưu Dụ hỏi: “Nếu quả tình huống đó xảy ra, chúng ta làm sao cho tốt?”

Đồ Phụng Tam vui vẻ nói: “Trừ khi chiến thuyền đối phương với hàng trăm chiếc đến xâm phạm, chúng ta không cách nào đối phó. Nhưng nếu chỉ là một, hai chiếc thuyền thám tử thì chúng ta có thể lợi dụng hoàn cảnh đặc thù, phối hợp trên biển và trên bộ đánh cho địch manh giáp không còn, làm tin tức không thể tiết lộ đến nửa điểm ra ngoài.”

Lưu Dụ đồng ý nói: “Đó đúng là biện pháp tốt nhất. Nhưng trong đó cách biệt với thế gian, chúng ta làm sao nắm được những việc phát sinh bên ngoài. Mà có thể nắm được tin tình báo hay không chính là mấu chốt thắng bại của chúng ta trận này.”

Đồ Phụng Tam đáp: “Chúng ta ở Ngô Hải, phụ cận Hải Diêm còn có một căn cứ địa bí mật khác. Ta sẽ dẫn ngươi đến đó, theo dõi cục thế biến hoá, sự phát triển cuộc chiến giữa quân viễn chinh và Thiên Sư quân rồi sẽ quyết định lúc nào xuất kích, khẳng định có thể đánh cho Thiên Sư quân trở tay không kịp.”

Lưu Dụ nhíu mày hỏi: “Chỗ đó giao cho ai chủ trì?”

Đồ Phụng Tam đáp: “Nếu mọi việc thuận lợi thì trong vài ngày tới, đội hùng sư trên biển do Chấn Kinh hội và Đại Giang bang tạo thành do Âm Kỳ lãnh đạo sẽ tới đó. Âm Kỳ còn thành thuộc quần đảo đó hơn cả ta. Có hắn chủ trì đại cục thì Lưu gia có thể yên tâm.”

Lưu Dụ cười: “Đồ huynh kế hoạch chu toàn, ta đương nhiên là yên tâm. Chúng ta bao giờ thì khởi hành về căn cứ gần Hải Diêm?”

Đồ Phụng Tam đáp: “Khi vầng thái dương qua giữa trời thì chúng ta sẽ ngồi ‘Kỳ Binh Hào’ xuất phát, mượn trời đêm yểm hộ âm thầm tiến tới căn cứ.”

Tiếp đó hắn thở ra một hơi khoan khoái nói: “Cho tới lúc này, đứng ở đây, ta mới cảm thấy sướng khoái, sầu muộn hoàn toàn tiêu biến, càng cảm thấy những nhẫn nhục, tân khổ làm ăn quả là xứng đáng. Lưu gia có cảm giác thống khoái như trời cao bể rộng mình ta vẫy vùng không?”

Trong lòng Lưu Dụ nổi lên muôn vàn cảm xúc, nhưng toàn bộ bị thiên địa mênh mông thay thế, cảm thấy tinh thần sáng láng, những khuất nhục trong phải chịu trong quá khứ chỉ như vết ngứa ngáy ngoài da.

Đồ Phụng Tam ngưng thần nhìn về phía Hải Diêm nói: “Hải Diêm là khởi điểm để chúng ta tranh bá thiên hạ. Khi Hải Diêm rơi vào tay chúng ta thì toàn bộ người trên thiên hạ sẽ biết ‘Nhất tiễn trầm Ẩn Long’ chẳng phải chỉ là dao ngôn, mà là một sự thật. Uy lực của Lưu gia rốt cuộc lớn đến mức nào sẽ thể hiện ở phản ứng của dân chúng, sẽ chân chân thực thực giao thiệp với chúng ta.”

Cao Ngạn mở cửa tiến vào sương phòng khách sạn. Doãn Thanh Nhã đang ngây người ngồi trên ghế bên song. Trên tiểu kỷ bên cạnh để bao hành lý nhỏ của nàng. Nàng không nói một lời, tựa hồ không biết Cao Ngạn đã tới.

Cao Ngạn hưng phấn nói: “Ta đã an bài xong rồi. Nhã nhi có thể ăn món đùi dê nướng ngon nhất của Biên Hoang tập.”

Doãn Thanh Nhã chỉ chỉ chiếc ghế khác cạnh bàn nói: “Ngươi ngồi xuống rồi hãy nói.”

Cao Ngạn cuối cùng cũng phát giác thần thái Doãn Thanh Nhã có khác lạ, tri cơ liền theo lời nàng ngồi xuống.

Doãn Thanh Nhã điềm đạm nói: “Lần nghị hội này ngắn hơn lần trước rất nhiều, chỉ hơn nửa canh giờ.”

Cao Ngạn nói: “Bọn họ vẫn đang họp. Chỉ là họ khai ân, cho ta trở lại bồi bạn với Nhã nhi. Giờ ta đã tự do rồi! Có thể bồi tiếp Nhã nhi cho tới lúc trời tối.”

Doãn Thanh Nhã cười nhẹ hỏi: “Lần này ngươi lập đại công, họ có tán thưởng gì không?”

Cao Ngạn vui vẻ đáp: “Kể cả Yến Phi giết chết Trúc Pháp Khánh, xoay chuyển cả cục diện chiến tranh, để bọn ta cuối cùng đoạt lại được Biên Hoang tập mà cũng không một ai trước mặt tán dương hắn nửa câu. Huống chi là Cao Ngạn ta? Vì Biên Hoang tập, tất cả đều là chuyện đương nhiên.”

Doãn Thanh Nhã nhẹ nhàng nói: “Ta phải đi thôi!”

Cao Ngạn thất thanh: “Cái gì?”

Doãn Thanh Nhã bình tĩnh nói: “Ta bồi tiếp ngươi về đến Biên Hoang tập, lại đợi ngươi đến hội nghị báo cáo xong mới đi, đối với ngươi như thế đã là tốt lắm rồi! Ngươi không nên tham lam đến mức không biết thế nào là đủ như vậy, toàn nói những lời làm người ta phiền lòng, biến thành người tính khí đàn bà, phá hỏng ấn tượng tốt của ngươi trong lòng người ta.”

Cao Ngạn ngây người nhìn nàng, nói không nên lời.

Doãn Thanh Nhã dịu dàng nói: “Trong lòng ta, Cao Ngạn không những là phong môi xuất sắc nhất, còn là người rất có biện pháp, biết làm sao có thể sống một cách khoái lạc. Những ngày đi chung với ngươi đều phong phú sống động, lại kích thích ngoạn mục.”

Tiếp đó, nàng quay đầu nhìn gã một cái, khuôn mặt đỏ bừng lên nói: “Có thể cho người ta một thời gian không? Sau khi về Lưỡng Hồ, ta cần ở một mình yên tĩnh suy nghĩ. Không có sự đồng ý của ta, ngươi không được đến Lưỡng Hồ tìm ta.”

Cao Ngạn thê thảm đáp: “Nàng đi rồi, những ngày sắp tới của ta sẽ qua như thế nào đây? Không biết đợi đến bao giờ, lại không cách nào thông tin với nàng được.”

Doãn Thanh Nhã nói: “Ta đương nhiên có cách thông tin với ngươi. Việc này ngươi không cần quan tâm. Ngươi xuất thân từ phong môi mà! Đương nhiên có tính nhẫn nại hơn người khác. Người ta nói những lời này, đối với ngươi đã tốt lắm rồi! Ngươi không thể lại bức bách người ta hiểu không? Ngươi đúng là quân ngu xuẩn vô lại.”

Cao Ngạn nói: “Nhưng mà…..”

Doãn Thanh Nhã duyên dáng đứng lên nói: “Hoang nhân các ngươi phản công bắc Dĩnh khẩu đến nơi rồi, ngươi tất phải toàn lực tham gia vào cuộc chiến này, phấn đấu vì tồn vong của Biên Hoang tập. Hiện giờ, đối với tình hình của người Yên, không một ai hiểu rõ hơn ngươi, vì thế ngươi trở thành mấu chốt thành bại của cuộc chiến. Đây cũng là lúc tốt nhất để ta ly khai. Ngươi phải phấn chấn lên, đừng có cúi đầu buồn bã nữa.”

Cao Ngạn đờ đẫn ngồi yên, muốn nói không mà không có lời nào để nói.

Doãn Thanh Nhã cầm bao hành lý lên, đến trước mặt gã, cúi đầu nhìn vào mắt, dịu dàng nói: “Ngoan ngoãn ngồi yên ở đây đừng có nói gì. Cho ngươi biết! Nhã nhi tuyệt không hề hối hận đã đến Biên Hoang tập chuyến này, sau này cũng không thể nào quên. Nói thế đã đủ chưa? Ngươi nghĩ người ta thế nào đây?”

Cao Ngạn chỉ chỉ vào môi mình.

Doãn Thanh Nhã lộ vẻ vừa thẹn vừa giận, thần tình động lòng người. Rồi với tốc độ nhanh như điện chớp khẽ hôn gã, chỉ thoáng chạm môi gã như tinh đình điểm thuỷ* rồi bắn lùi lại, mở cửa, đóng cửa, phóng đi như một trận gió.

Kiến Khang. Tạ phủ, hẻm Ô Y.

Tạ Chung Tú mặc hành trang dùng để đi xa, tiến vào Vong Quan hiên, đến bên Tạ Đạo Uẩn ngồi xuống nói: “Chung Tú chuẩn bị xong rồi! Lúc nào cũng có thể lên đường.”

Tạ Đạo Uẩn hỏi: “Thuyền đến chưa?”

Tạ Chung Tú đáp: “Đến rồi! Đang ở bến thuyền nam viện chờ chúng ta.”

Tạ Đạo Uẩn nhìn hai nữ tỳ đang đợi phục vụ phía sau nói: “Các ngươi lui ra đi.”

Hai nữ tỳ biết họ có chuyện cần nói, vâng lời ra đợi bên ngoài cửa.

Tạ Chung Tú cúi đầu, chừng như sợ Tạ Đạo Uẩn từ ánh mắt mà phát hiện tâm sự nàng.

Tạ Đạo Uẩn thương yêu hỏi: “Tú Tú quyết định theo ta ly khai sao?”

Tạ Chung Tú quả quyết đáp: “Kiến Khang không còn là một nơi Tú Tú lưu luyến nữa, cũng hy vọng vĩnh viễn sẽ không trở lại.”

Tạ Đạo Uẩn than: “Hy vọng Tú Tú không phải là nhất thời xúc động mà nói vậy. Nói cho cùng, Tú Tú sinh ra ở đây, lớn lên ở đây. Chỗ này không còn gì làm ngươi lưu luyến nữa ư? Tú Tú và ta không giống nhau, còn thời gian dài đẹp đẽ chờ ngươi thưởng thức…”

Tạ Chung Tú cắt ngang lời bà: “Cô cô!”

Tạ Đạo Uẩn đón ánh mắt nàng ngẩng mặt lên nhìn mình, hỏi: “Tú Tú có tâm sự gì thế?”

Tạ Chung Tú tránh ánh mắt bà, cúi đầu xuống khẽ lắc đáp: “Con không có tâm sự gì, chỉ muốn thay đổi hoàn cảnh thôi. Từ khi cha mất đi, con luôn muốn rời khỏi hẻm Ô Y. Con sợ lưu lại chốn này.”

Tạ Đạo Uẩn bình tĩnh nói: “Tú tú không nên giấu ta. Mấy ngày nay, Tú Tú bộ dạng tâm sự trùng trùng. Có chuyện gì vậy? Sầu muộn trong lòng sẽ sinh thành bệnh đó, sao không nói ra để cô cô giải trừ nỗi ưu sầu cho. Cô Cô sẽ giữ bí mật cho con.”

Tạ Chung Tú lắc đầu: “Con không có tâm sự gì cả.”

Tạ Đạo Uẩn than: “Vậy sao con lại khóc?”

Tạ Chung Tú thê lương đáp: “Con chỉ nhớ đến cha!”

Tạ Đạo Uẩn đến bên nàng, nắm vai nàng nói: “Hài tử khờ, đừng có giấu cô cô được không? Ngươi phải chăng có tâm sự, cô cô làm sao lại không biết? Rốt cuộc là chuyện gì? Mau nói cho cô cô.”

Tạ Chung Tú hoàn toàn mất khống chế, khóc vùi trong lòng Tạ Đạo Uẩn, giọng nghẹn ngào: “Không có tác dụng gì đâu. Nữ nhân của Tạ gia chúng ta phải chăng bị chú định không thể có kết cục tốt đẹp? Giờ con chỉ hy vọng có thể rời xa Kiến Khang, từ nay về sau không cần biết những sự tình phát sinh ở Kiến Khang nữa. Bình tĩnh yên ổn sống nốt nửa đời còn lại.”

Tạ Đạo Uẩn cũng nhịn không được, để đôi dòng lệ tuôn trào, thê thảm nói: “Tú Tú tại sao lại bi quan tiêu cực như thế? Cuộc sống của con chỉ mới bắt đầu, ai cũng không dự báo được tương lai có những biến hoá gì. Chạy trốn tuyệt không phải là biện pháp duy nhất để giải quyết vấn đề.”

Tạ Chung Tú lệ châu tầm tã, lắc đầu: “Vấn đề của con ai cũng không có biện pháp giải quyết được. Yêu một người, nhưng lại phát giác ra tình yêu của mình sẽ chỉ huỷ diệt chàng, lại còn phải dùng từ ngữ nghiêm khắc cự tuyệt chàng, vũ nhục chàng. Trời cao đã quá tàn nhẫn đối với con rồi.”

Tạ Đạo Uẩn ngạc nhiên, không nói nên lời.

Một lúc sau, Tạ Đạo Uẩn hỏi: “Tú Tú yêu ai vậy?”

Tạ Chung Tú ngừng khóc, nhẹ giọng: “Là ai không còn quan trọng nữa. Tất cả đã thành quá khứ. Hy vọng sau này không gặp lại chàng nữa.”

Lúc này có người hầu đến báo hành trang đã mang lên thuyền, lúc nào cũng có thể khởi hành.

Trác Cuồng Sinh tiến vào sương phòng. Cao Ngạn vẫn ngồi trên ghế, thần thái tương tư khổ sở.

Trác Cuồng Sinh ngồi xuống một bên, lấy làm lạ hỏi: “Tiểu Bạch Nhạn đâu?”

Cao Ngạn nhẹ nhàng nói: “Nàng đi rồi!”

Trác Cuồng Sinh thất thanh: “Cái gì?”

Tiếp đó tập trung nhìn gã, hoài nghi hỏi: “Phải chăng ngươi thương tâm đến phát điên rồi nên mới không biết đau khổ nữa?”

Cao Ngạn không thoải mái đáp: “Ngươi mới phát điên. Nhã nhi nói đúng lắm, ta và nàng đều cần một thời gian bình tĩnh một mình. Ài! Con bà nó! Mấy tháng trước đây không biết đã trôi qua thế nào nữa. Đầu óc cứ nóng bừng bừng rồi căng phồng lên. Lúc ngủ thì nhớ tới nàng, lúc ăn cũng nhớ nàng, cảm giác đó thật khó tả, đó là khoái lạc sao? Kỳ thực là đau đớn thống khổ, thê thảm nói không hết được sao? Ta chưa từng trải qua khoái lạc kiểu đó. Con bà nó, tư vị của ái tình ….. Ài! Đó đúng là tư vị của ái tình rồi.”

Trác Cuồng Sinh thăm dò hỏi: “Tiểu Bạch Nhạn quay về Lưỡng Hồ rồi, ngươi quả thực không buồn sao?”

Cao Ngạn đáp: “Ngươi chẳng phải đã khuyên ta phải đặt mình vào địa vị của nàng mà nghĩ sao? Hiện giờ chính là lúc ta nghĩ vì nàng, để nàng có một không gian bình tĩnh nghỉ ngơi. Một bên là sư phụ, một nên là tình lang của nàng. Cái mà nàng cần chính là thời gian.”

Trác Cuồng Sinh vỗ đùi nói: “Hảo tiểu tử! Giờ thì đến cả ta cũng bị mối tình của ngươi đối với Tiểu Bạch Nhạn làm cảm động rồi. Vì Tiểu Bạch Nhạn, ngươi đã thay đổi, không còn là một Cao Ngạn chỉ biết mình trước đây nữa. Nếu không, ngươi sẽ không để nàng đi.”

Cao Ngạn hùng hổ nói: “Cũng vì ta mười phần tin tưởng vào bản thân mình. Hắc! Và ta cũng có đầy đủ lòng tin đối với Tiểu Bạch Nhạn nàng. Bọn ta tuy không thề non hẹn biển, nàng lại từ đầu đến cuỗi không thừa nhận là yêu ta, nhưng những hành vi và động tác của nàng đã bán đứng nàng rồi. Ta chưa có cơ hội nói cho ngươi biết những việc tinh diệu bên trong. Hà! Nhưng kể cả có cơ hội thì ta cũng sẽ không nói cho ngươi biết đâu, vì đó là những bí mật riêng tư của ta.”

Trác Cuồng Sinh giận nói: “Phần tinh diệu nhất bản quán chủ lại chưa được xem ư? Con bà nó! Đó chính là lúc Tiểu Bạch Nhạn khóc lóc thê thảm, lệ đổ như mưa vì Cao tiểu tử. Ta cảnh cáo ngươi đừng hòng có thể ăn cơm chay xong lại phủi đít vào mặt hoà thượng. Không có vở ‘Tiểu Bạch Nhạn chi luyến’ của ta thì ngươi liệu có được phong quang như ngày hôm nay không? Nếu không phải Hướng Vũ Điền mê say ‘Tiểu Bạch Nhạn chi luyến’ thì đã sớm làm thịt tiểu tử ngươi rồi. Nói như vậy có thể thấy ta là ân nhân cứu mạng của ngươi đó.”

Cao Ngạn mềm mỏng nói: “Để khi ta có thời gian nhàn rỗi sẽ nói cho ân công ngươi biết được không? Con bà nó! Ngươi đến tìm lão tử ta có việc gì? Thương lượng xong đại kế phản công chưa?”

Trác Cuồng Sinh cười nhẹ đáp: “Tiểu Bạch Nhạn đi rất đúng lúc vì Cao thiếu gia ngươi lại phải xông pha chiến trường, lập tức xuất phát.”

Cao Ngạn giật mình thốt: “Cả đến thời gian ngủ một giấc cũng không được sao?”

Trác Cuồng Sinh đáp: “Một canh giờ nữa chúng ta sẽ khởi hành, đương nhiên là do ngươi dẫn đường, chẳng lẽ lại do ân nhân cứu mạng của ngươi là ta dẫn đường sao? Hà! Thực sảng khoái! Hướng Vũ Điền mà cũng trở thành người mê say thuyết thư của ta thì đủ biết vở ‘Tiểu Bạch Nhạn chi luyến’ được viết bay bổng hấp dẫn như thế nào.”

Cao Ngạn không vui nói: “Ngươi làm ta nhớ lại mình ngày trước, thích nhất là tự thổi phồng mình lên. Con mẹ nó! Các ngươi đã nghĩ xong kế hoạch tác chiến toàn diện rồi sao?”

Trác Cuồng Sinh đáp: “Chiến lược của chúng ta là bốn chữ chân ngôn ‘tốc chiến tốc quyết’. Nhân lúc viện quân của địch chưa tới, trận cước chưa ổn định, bọn ta sẽ như lôi đình vạn quân đánh vỡ trận địa địch nhân, giết cho chúng không còn manh giáp. Hà! Nói thế đương nhiên là rất thống khoái rồi. Trác mỗ khi viết bản thiên thư thì đại khái cũng phải dùng từ lựa chọn để người nói cũng thống khoái mà người nghe cũng thống khoái.”

Cao Ngạn như lạc vào sương mù nói: “Giờ không phải lúc ta nghe ngươi kể chuyện, mà là muốn biết nhiệm vụ của lão tử ta phải làm.”

Trác Cuồng Sinh nói: “Kế hoạch tác chiến do bốn cái đầu của Chiến gia, Nghi gia, Trấn Ác và Lưu tiên sinh nghĩ ra. Ngươi chỉ cần đến báo cáo là được. Ta còn cho rằng để thuyết phục Tiểu Bạch Nhạn thì cần mất một phen công phu, nhưng giờ thì tốt rồi! Ngươi đã hồi phục tự do rồi.”

Cao Ngạn mắng: “Tự do kiểu này ta không thèm. Ài!”

Trác Cuồng Sinh hỏi: “Tại sao ngươi lại ai oán thở than thế?”

Cao Ngạn đáp: “Ta bây giờ vui buồn lẫn lộn. Buồn đương nhiên là không biết năm nào tháng nào mới lấy được Tiểu Bạch Nhạn.”

Trác Cuồng Sinh: “Tất cả là do lão thiên gia an bài. Theo ta thấy, nhân duyên của ngươi và Tiểu Bạch Nhạn đã được chú định rồi. Căn bản không cần ngươi lo lắng, cũng không đến lượt ngươi phải lo lắng đâu.”

Cao Ngạn nói: “Lão tử tuyệt không phải là người phó mặc mệnh mình cho ông trời. Nếu quả như thế thì ta đã sớm mất Tiểu Bạch Nhạn rồi. Tất cả đều là do ta tranh thủ giành lại. Lúc Tiểu Bạch Nhạn ra đi, ta đã hạ quyết tâm sẽ tận lực cứu Thiên Thiên và Tiểu Thi. Làm xong việc đó rồi mới nghĩ tới Tiểu Bạch Nhạn. Nếu không ta sẽ bị lương tâm khiển trách.”

Trác Cuồng Sinh vui vẻ nói: “Đó là thái độ rất đúng đắn. Sự tình có phân biệt hoãn cấp khinh trọng. Nếu như Biên Hoang tập kết thúc thì tất cả mọi thứ đều xong. Việc giữa ngươi và Tiểu Bạch Nhạn cũng tan như bọt nước. Đi thôi! Nhiệm vụ của ta là áp giải ngươi đến bến thuyền.”

Cao Ngạn đứng lên, vặn mình hỏi: “Ngươi nói xem Hướng Vũ Điền có giúp người Yên chống lại bọn ta không? Tên gia hoả đó thật làm người ta sợ hãi.”

Trác Cuồng Sinh nói: “Nếu như Hướng Vũ Điền tuỳ tiện đại khai sát giới thì Biên Hoang tập bây giờ không còn được như thế này nữa. Yên tâm đi! Mục tiêu duy nhất của Hướng Vũ Điền hiện giờ là Yến Phi. Chỉ có làm thịt Yến Phi, hoặc bị Yến Phi làm thịt thì y mới có thể thoát thân.”

Cao Ngạn đi về phía cửa phòng, tính toán: “Hướng Vũ Điền lợi hại đến thế sao? Ta dám khẳng định y sẽ bị Yến Phi làm thịt.”

Trác Cuồng Sinh đứng lên, vừa mở cửa phòng vừa nói: “Ở Biên Hoang tập chỉ sợ không tìm ra một người nào lo lắng về việc đó. Con bà nó! Hướng Vũ Điền lại lợi hại hơn Tôn Ân sao? Việc mà Tôn Ân không làm được thì Hướng Vũ Điền cũng không thể làm được.”

Cao Ngạn theo lão rời khỏi phòng, gật đầu: “Đúng! Hướng Vũ Điền tuyệt không xứng là địch thủ của Yến Phi. Y khiêu chiến Yến Phi là tự tìm đường chết.”

Trác Cuồng Sinh vịn vai gã, theo hành lang dài đi về cửa chính của khách sạn, thấp giọng: “Để ta cho ngươi biết một bí mật quân sự. Lượng hoả khí dùng để đối phó người Bí tộc đã chế tạo được rất nhiều, hiện đang vận chuyển lên hai chiếc chiến hạm để chở tới bắc Dĩnh khẩu để chào hỏi người Yên. Nhưng khinh kỵ của chúng ta đánh thẳng vào tiền tuyến, đánh cho người Yên không kịp trở tay. Ngươi thử nghĩ mà xem, Hướng Vũ Điền vừa cảnh cáo người Yên thì đại quân bọn ta đã áp sát tới rồi. Thật sảng khoái biết bao!”

Cao Ngạn vui vẻ nói: “Lão tử phụ trách dẫn đường, ngươi phụ trách ném hoả khí. Bọn Chiến gia phụ trách xung phong hãm trận, mỗi người một việc. Hà hà! Ngươi và ta đều không chết được, nếu không ‘Tiểu Bạch Nhạn chi luyến’ làm sao có thể lưu truyền thiên thu đây?”

Hai người đồng thanh cười lớn, loạng choạng nghiêng ngả như người say rượu đi ra.

Chú thích

* Tinh đình điểm thủy. Tinh đình nghĩa là con chuồn chuồn. Khi bạn quan sát chuồn chuồn bay trên mặt nước sẽ thấy nó có lúc chạm nhẹ lướt qua mặt nước rồi bay đi ngay. Thành ngữ này chỉ việc chỉ lướt bên ngoài mà không đi sâu vào trong. Ở đây nói Tiểu Bạch Nhạn chỉ hôn lướt rất nhanh Cao Ngạn. Thành ngữ này có xuất xứ từ thơ Đỗ Phủ

Xuyên hoa kiệp điệp thâm thâm kiến

Điểm thủy tinh đình khoản khoản phiTrên mặt biển sóng to gió lớn, “Kỳ Binh Hào” phá sóng tiến lên. Nó không trực tiếp đi đến địa điểm mục tiêu mà trước hết vòng một vòng lớn ở phía đông, rời xa bờ. Sau khi xác định không bị địch nhân phát hiện hành tung mới tiến về phía căn cứ địa.

Nếu thuyền đi trên sông, kể cả là sông lớn như Đại Hà, Đại Giang thì muốn giấu tai mắt địch nhân là một việc vô cùng khó. Nhưng trên mặt biển, lại do cao thủ điều khiển thuyền như Lão Thủ thì có thể khẳng đi tới lui vô ảnh vô tung.

Mấu chốt thắng bại của lần này là có thể bí mật hành sự hay không. Rất nhiều khả năng là cho tới lúc này, phía Thiên Sư quân vẫn cho rằng Lưu Dụ đang ở Kiến Khang.

Hoàn Huyền đang làm gì?

Lưu Dụ một mình đứng trên đài chỉ huy, mặc cho gió biển thổi tới. Đồ Phụng Tam và Tống Bi Phong đều nghỉ ngơi trong phòng. Gã muốn ở một mình để có thể tĩnh tâm nghĩ về tình cảnh bản thân.

Gã rất ít khi nghĩ tới Hoàn Huyền vì mỗi lần nghĩ tới Hoàn Huyền, gã lại liên tưởng tới Đạm Chân và nỗi sỉ nhục với hắn, cùng với đó là nỗi cừu hận xé lòng. Đó là những tình cảm mà gã hết sức tránh né.

Ài! Yến Phi nói rất đúng. Con người không thể vĩnh viễn sống trong cừu hận. Đó cũng là việc mà không ai có thể làm được.

Lưu Dụ chưa từng chính diện giao phong với Hoàn Huyền, nhưng theo lời Đồ Phụng Tam thì gã cũng rõ Hoàn Huyền không chỉ là đao thủ siêu quần, còn là một tài năng về quân sự. Chỉ xét việc hắn có thể nhẫn nhịn đến hôm nay, vẫn không thu thập Ân Trọng Kham và Dương Toàn Kỳ là biết hắn hiểu rất sâu về binh pháp, không làm việc theo tình cảm.

Sự thất bại của quân viễn chinh là việc không thể tránh khỏi. Từ tất cả các loại dấu hiệu mà xét thì bại cục của quân viễn chinh đã trở thành sự thật. Nhược điểm lớn nhất của quân viễn chinh là sự cố kỵ lẫn nhau giữa hai người chỉ huy cao nhất là Tạ Diễm và Lưu Lao Chi. Tình hình này làm hai người không thể hợp tác tốt đẹp để phát huy sức chiến đấu.

Tên tiểu nhân ti bỉ Lưu Lao Chi sẽ đâm sau lưng Tạ Diễm. Hắn sẽ lợi dụng sự ngoan cố ngu xuẩn của Tạ Diễm để tiêu diệt toàn bộ người của Tạ Diễm và người vốn thuộc hạ của Hà Khiêm. Vậy thì Bắc Phủ binh sẽ hoàn toàn rơi vào tay hắn. Nhưng dù Lưu Lao Chi mưu kế sâu xa thế nào cũng không tưởng nổi Lưu Dụ gã lại rình mò bên cạnh, đợi cơ hội tốt để thu nhận thành quả.

Sở dĩ Lưu Dụ nghĩ tới Hoàn Huyền vì sau khi gã đánh bại Thiên Sư quân, gã sẽ phải đối mặt với Hoàn Huyền. Đó là việc đã được chú định rồi, ai cũng không thể thay đổi được.

Đồ Phụng Tam đến bên gã, nhíu mày thắc mắc: “Vì sao ngươi không nhân cơ hội này nghỉ ngơi cho tốt. Tối nay chúng ta sẽ tới Hải Diêm quan sát tình hình Thiên Sư quân và quân viễn chinh giao chiến.”

Lưu Dụ đáp: “Chỉ cần chúng ta có thể liên lạc được với Nguỵ Vịnh Chi là có thể hiểu tường tận tình hình quân viễn chinh.”

Đồ Phụng Tam hỏi: “Người đó vẫn có thể tin tưởng được sao?”

Lưu Dụ quả quyết đáp: “Tuyệt đối có thể tin tưởng được. Ta không nhìn lầm hắn đâu.”

Đồ Phụng Tam hỏi: “Việc đó dễ thôi. Khi Hải Diêm thất thủ, bọn ta ngấm ngầm vào Hải Diêm tìm hắn được không?”

Lưu Dụ nhíu mày đáp: “Chỉ sợ ta chưa vào thành đã bị người ta nhận ra rồi.”

Đồ Phụng Tam cười nói: “Không ai cần ngươi phải dùng bộ mặt thật, nghênh ngang vào thành cả. Ngươi chẳng phải là thám tử xuất sắc nhất của Bắc Phủ binh sao? Phàm là thám tử đều biết dịch dung cải trang mà.”

Lưu Dụ bật cười thốt: “Ta thật hồ đồ.”

Gã bất chợt nhớ lại tối hôm cùng Yến Phi đột nhập Tạ gia. Mình vì quá khẩn trương, không giữ được bình tĩnh nên mất hết cả tỉnh táo, quên cả bản lĩnh thám tử của mình.

Ài! Tạ Chung Tú!

Bỗng nhiên, trong lòng gã ẩn hiện hình bóng mỹ lệ của Giang Văn Thanh.

Trên bến thuyền tiểu Kiến Khang của Biên Hoang tập có hơn hai mươi chiếc thuyền hàng. Chiến mã không ngừng được đưa lên thuyền.

Hai mươi lăm chiếc thuyền hàng này chuyên dùng để chở ngựa, được trang bị đầy đủ, đảm bảo ngựa trên thuyền sẽ được thoải mái nghỉ ngơi, không phải khổ sở chịu cảnh gió tuyết.

Hiện giờ, thứ mà Biên Hoang tập không thiếu nhất là chiến mã. Không những có thể đủ dùng cho nhu cầu chiến đấu, mà còn có thể cung ứng với số lượng lớn cho phương Nam.

Một chiến lược hoàn chỉnh chủ yếu do Vương Trấn Ác suy nghĩ đề xuất. Kế hoạch của hắn được các Hoang nhân mà đứng đầu là Mộ Dung Chiến hết sức ủng hộ, mọi người nhất trí, hành sự theo đúng kế hoạch của hắn. Quả thật có thể ‘nhân tẫn kì tài, vật tẫn kì dụng’, dùng sở trường của mình đánh sở đoạn của địch.

Bộ đội Hoang nhân dùng để đánh bắc Dĩnh khẩu lần này chỉ cốt tinh không cốt nhiều. Quân chủ lực chỉ hai ngàn người, nhưng đều là tinh nhuệ của Hoang nhân. Họ không những công phu cưỡi ngựa rất giỏi còn có kinh nghiệm phong phú chiến đấu trên đất tuyết. Ba người Vương Trấn Ác, Mộ Dung Chiến và Thác Bạt Nghi cũng là những thống soái tinh thông việc chiến đấu trên đất tuyết.

Bộ đội tiên phong xuất phát trước, chia làm hai đội theo bờ sông tiến lên. Mỗi đội trăm người do Diêu Mãnh và Tiểu Kiệt mỗi người suất lĩnh một đội, thăm dò tình hình phía trước.

Tiếp đó là hai lộ quân mỗi lộ một ngàn khinh kỵ do Thác Bạt Nghi và Mộ Dung Chiến mỗi người chỉ huy một lộ, men theo Dĩnh Thủy tiến lên phía bắc, có thể cứu ứng lẫn nhau nếu bị địch nhân đánh úp.

Nhưng khả năng bị đánh úp rất thấp vì địch nhân không đủ binh lực để chống lại Hoang nhân đánh vỗ mặt. Theo thống kê của Cao Ngạn thì nhân số của địch khoảng ba ngàn, nhưng đa số là lính công binh. Có thể tham gia chiến tranh không quá một ngàn năm trăm người.

Bộ đội trên bộ sẽ hành quân không ngừng, toàn tốc tiến lên. Trước khi mặt trời lên sẽ dừng lại. Khi đó đội thuyền hàng do hai chiếc Song Đầu chiến thuyền dẫn đường sẽ theo đường thuỷ đến, dùng chiến mã khoẻ mạnh trên thuyền thay thế chiến mã đã mệt mỏi do hành quân. Nếu như trời không có tuyết lớn thì trước khi trời sáng bọn họ sẽ ở chỗ cách bắc Dĩnh Thuỷ không quá hai mươi dặm.

Đội thuyền hàng sẽ chở chiến mã mỏi mệt quay về Biên Hoang tập, còn hai chiếc Song đầu chiến thuyền do Cơ Biệt và Hồng Tử Xuân mỗi người chỉ huy một chiếc. Trên thuyền chở đầy hoả khí lợi hại sẽ tuỳ thời phối hợp với bộ đội trên bộ toàn diện tấn công địch nhân, đánh thẳng vào trận địa địch.

Toàn bộ kế hoạch tác chiến được tính toán dựa trên cơ sở sức phòng ngự của địch nhân yếu ớt, binh lực không đủ và sỹ khí thấp. Dưới sự hành hạ của gió tuyết, địch nhân sẽ biến thành đám quân mệt mỏi. Ngược lại, Hoang nhân lại được chuẩn bị đầy đủ, khí thế lên cao như mặt trời.

Khi Trác Cuồng Sinh và Cao Ngạn đến bên bọn Mộ Dung Chiến, Vương Trấn Ác, Lưu Mục Chi, Phí Nhị Phiết, Hô Lôi Phương, Bàng Nghĩa và Phương Hồng Sinh thì Thác Bạt Nghi và một ngàn kỵ sỹ đã chuẩn bị sẵn sàng ở bờ bên kia, tùy lúc có thể lên đường.

Một đội một ngàn kỵ binh khác, người nào cũng tinh thần phấn chấn. Chỉ cần Mộ Dung Chiến ra lệnh một tiếng là có thể lên ngựa, phi theo bờ sông lên đường.

Hành động trên quy mô lớn của họ hấp dẫn một đám đông Hoang nhân đến tiễn hành. Lại có một đám khách du ngoạn Biên Hoang đến như thể để xem một tiết mục nhiệt náo, làm cả khu bến cảng như một biển người, đám đông náo nhiệt vô cùng hùng tráng.

Bàng Nghĩa lấy làm kỳ hỏi: “Ồ! Tại sao không thấy Tiểu Bạch Nhạn nhỉ? Nàng không đến tiễn tình lang ra chiến trường ư?”

Phí Nhị Phiết tiếp sức: “Vậy chẳng phải sẽ bị Tiểu Bạch Nhạn đá đít sao? May là ngươi ngồi thuyền chứ nếu ngươi cưỡi ngựa thì mông ngựa sẽ gặp tai ương rồi.”

Mọi người cười rộ.

Trước khi Cao Ngạn kháng nghị thì Trác Cuồng Sinh đã đáp thay gã: “Tiểu Bạch Nhạn bay về phương Nam rồi. Cao thiếu gia đang thương tâm muốn chết, các vị có thể tích đức, tha cho Cao thiếu gia tình thâm nghĩa trọng của chúng ta chăng?”

Mộ Dung Chiến ngạc nhiên hỏi: “Ta còn tưởng Tiểu Bạch Nhạn sẽ vĩnh viễn không bỏ đi nữa.”

Cao Ngạn cười khổ: “Các ngươi nói đủ chưa? Con bà nó! Chẳng phải giờ là lúc đi đánh nhau sao? Các ngươi lại dường như nhàn rỗi quá hoá cuồng, chuyên quản chuyện trong nhà của lão tử vậy.”

Mọi người lại cười ồ.

Cao Ngạn bất mãn nói: “Ta muốn cho các ngươi biết ta đã báo cáo hết rồi. Lão từ vừa mới vào sinh ra tử về, hoàn thành nhiệm vụ gian nan nhất. Vậy mà vừa mới về đã lại phải đến chiến trường ngay. Các ngươi muốn làm lão tử mệt chết sao?”

Trình Thương Cổ cười đáp: “Cao thiếu gia ngươi thân thể cao quý, chúng ta làm sao dám không nghĩ cho ngươi? Vì thế lần này mới đặc biệt cho ngươi dùng thuyền thay chân, sau khi lên thuyền có thể ngủ con mẹ nó vài canh giờ. Khi thời gian hành động đến, Trấn Ác và Lưu tiên sinh sẽ gọi ngươi dậy. Với sự thông thuộc của ngươi đối với địa thế, hoàn cảnh của bắc Dĩnh Thuỷ mà quyết định chi tiết tấn công. Ngươi nói xem, ngươi không đi làm sao được? Chúng ta không phải muốn làm khó cho ngươi mà chính là tôn trọng ngươi.”

Cao Ngạn chán nản nói: “Các vị đại ca có lệnh, tiểu đệ còn nói gì được nữa?”

Gã chuyển sang Lưu Mục Chi hỏi: “Tiên sinh cũng đi đánh nhau sao?”

Lưu Mục Chi có chút không vui đáp: “Ta chưa từng trải qua chiến tranh nên không muốn bỏ lỡ cơ hội.”

Mộ Dung Chiến vui vẻ nói: “Đến giờ rồi.”

Chiến sỹ phụ trách truyền tin nghe thấy lập tức đưa tù và lên miệng thổi một tràng “tu tu tu”.

Đội kỵ binh bờ bên kia hò hét vang lừng rồi thúc ngựa tiến lên. Chiến sỹ bên bờ bên này cũng lên ngựa. Người xem hò hét hoan hô cổ vũ, khung cảnh vô cùng tráng lệ.

Mộ Dung Chiến cười lớn: “Lần này không những chúng ta phải đoạt lại bắc Dĩnh khẩu mà còn phải làm thịt cái tên ngu ngốc lang tâm cẩu phế Hồ Bái nữa để báo thù cho Chúc lão đại.”

Nói xong, hắn lên ngựa dẫn đầu phóng đi.

Lưu Dụ và Đồ Phụng Tam từ đỉnh đồi nhìn ra. Hải Diêm lửa cháy bùng bùng, chiếu sáng cả bầu trời. Tiếng vó ngựa, tiếng la hét không ngừng truyền tới. Bến thuyền phía nam thành đậu đầy nhóc thuỷ sư chiến thuyền Bắc Phủ binh, phải đến hơn trăm chiếc. Cờ xí trên đỉnh cột buồm bay phấp phới dưới ánh lửa cháy. Dưới tình cảnh đó, ngoài việc diễu võ dương oai, chúng lại còn gây cảm giác nhe nanh múa vuốt, làm người ta cảm thấy sự tàn nhẫn và lạnh khốc của chiến tranh.

Lưu Dụ nói: “Hải Diêm thất thủ rồi!”

Đồ Phụng Tam trầm giọng: “Có lẽ là Từ Đạo Phúc đã cung kính hai tay dâng Hải Diêm lên cho quân viễn chinh. Nhưng quân viễn chinh khẳng định không được vui mừng cho lắm vì đó chỉ là một toà thành không, không có dân, cũng chẳng có lương thảo. Dưới tình huống đó, bọn ta chỉ sợ không cách nào trà trộn vào thành tìm Nguỵ Vịnh Chi được.”

Lưu Dụ nhíu mày suy nghĩ.

Đồ Phụng Tam ngạc nhiên hỏi: “Ngươi nghĩ gì thế?”

Lưu Dụ đáp: “Ta đang nghĩ trận chiến giữa tiểu Phi và Tôn Ân thắng bại thế nào? Cuộc quyết chiến của họ chắc có kết quả rồi. Thật kỳ quái, khi Thiên Sư quân và người Yên liên thủ tiến tới xâm phạm Biên Hoang tập, Tôn Ân luôn có bộ dạng là Tổng chỉ huy. Lão không những khiêu chiến tiểu Phi, mà còn tự thân hoà nhập vào chiến tranh. Nhưng từ đó trở đi, lão lại biến thành không ưu ái lo lắng cho Thiên Sư quân nữa. Đến khi Thiên Sư quân công hãm Cối Kê, Tôn Ân đại sự không quản, lại chỉ truy kích Đạo Uẩn phu nhân, dùng đó để hạ chiến thư đối với tiểu Phi. Chừng như trên thế gian này, ngoài tiểu Phi thì không còn sự vật nào có thể lãm lão hứng thú nữa. Ngươi thấy có kỳ quái không?”

Đồ Phụng Tam gật đầu: “Quả thực vô cùng kỳ quái. Cứ theo như tin tình báo ta nhận được thì Tôn Ân sau cuộc chiến lần thứ hai với Yến Phi đã đem quân vụ giao cho Từ Đạo Phúc, giáo vụ giao cho Lư Tuần phụ trách. Còn bản thân lão lại một mình ở Ông Châu, không những không lý gì tới sự việc của Thiên Sư quân, mà còn không nghe không hỏi đối với thế sự. Đến Từ, Lư hai người cũng không hiểu sự thay đổi của lão.”

Hắn lại không hiểu hỏi: “Ngươi chừng như đã từng thảo luận qua chuyện này với ta. Phải chăng giờ ngươi có suy nghĩ gì mới hơn?”

Lưu Dụ đáp: “Ta từng đề cập tới việc tam bội hợp nhất với ngươi để thuyết minh cho ngươi biết không hề có thiên thạch gì rơi xuống cả, ta càng không phải là chân mệnh thiên tử gì. Nhưng ngươi không những không để chuyện đó trong lòng, lại còn thừa nhận rằng tiểu đệ là người quật khởi ứng với thiên mệnh nữa.”

Đồ Phụng Tam than: “Ta tuyệt không phải là không đem chuyện ngươi nói cho biết để ở trong lòng. Mà là những dị sự như tam bội hợp nhất đó đã vượt qua tầm hiểu biết của ta. Ài! Ta chỉ là một người bình thường, chỉ hy vọng những việc phát sinh quanh mình theo thường tình hợp đạo lý, như vậy thì ta mới có cảm giác an toàn. Nhưng việc tam bội hợp nhất rõ ràng là việc vượt quá khỏi thường tình đạo lý, làm ta nghĩ đến vỡ đầu không không hiểu được, làm người ta khó tin hơn cả thuyết quỷ thần nữa. Vì thế, rất tự nhiên là ta gạt việc đó ra khỏi đầu, không nghĩ đến nó nữa. Ngươi nói xem bọn ta có thể làm gì? Việc đó làm người ta suy nghĩ tới phát điên mất.”

Lưu Dụ trầm ngâm không nói.

Đồ Phụng Tam hiều kỳ hỏi: “Rốt cuộc là ngươi nghĩ ra được cái gì? Tại sao khi nhìn Hải Diêm, lại liên tưởng tới việc đó?”

Song mục Lưu Dụ kỳ quang lấp loáng đáp: “Cứ theo như lời tiểu Phi thì tam bội hợp nhất có thể khai mở tiên môn.”

Đồ Phụng Tam hỏi: “Đó chính là vấn đề ta đã hỏi ngươi ngày trước. Tam bội sau khi hợp bích thì tiên môn đã xuất hiện sao?”

Lưu Dụ đáp: “Ta cũng hỏi tiểu Phi cùng một câu đó. Khi đó thần thái hắn có chút cổ quái, tuy trả lời không chứng thực được tiên môn, nhưng ta hiểu được hắn nói chưa hết.”

Đồ Phụng Tam xua tay: “Ta hiểu rồi. Phải chăng ngươi nghĩ khi tam bội hợp nhất, tiên môn thực sự đã mở ra. Yến Phi cũng cảm giác được sự tồn tại của tiên môn, nhưng chỉ vì nguyên nhân nào đó nên Yến Phi không nói cho ngươi biết sự thật.”

Lưu Dụ đáp: “Chỉ có cách giải thích đó là hợp lý nhất. Không chỉ tiểu Phi cảm giác được tiên môn, mà Tôn Ân cũng đồng thời cảm giác được. Chính vì thế, từ đó đến nay, Tôn Ân ngoài trừ việc liên quan đến tiên môn thì hoàn toàn không còn hứng thú gì nữa.”

Đồ Phụng Tam lắc đầu: “Lời ngươi chỉ nói đúng một phần. Ít nhất thì Tôn Ân vẫn có hứng thú rất lớn đối với tiểu Phi.”

Lưu Dụ đáp: “Lão đối với tiểu Phi có hứng thú có khả năng vẫn là có quan hệ với tiên môn.”

Đồ Phụng Tam hít sâu một hơi nói: “Ngươi nói làm ta cảm thấy rợn cả gai ốc lên rồi. Những việc đó có lẽ ít nghĩ đến thì tốt hơn.”

Tiếng vó ngựa từ xa vọng tới. Một đội kỵ quân Bắc Phủ binh đang phóng về phía bọn họ.

Hai người vội rời khỏi nơi ẩn nấp.

Yến Phi đã hiểu rõ.

Trước khi trời sáng vài canh giờ, chàng đứng trên mái một nhà dân ở bờ nam sông Tần Hoài, nhìn sang cảnh sắc ban đêm bờ đối diện. Phía trái là Tần Hoài lâu và Hoài Nguyệt lâu đối diện với nhau qua một con sông. Tiếp đó là Chu Tước kiều nối liền hai bờ.

Lúc này, Kiến Khang vẫn trong trạng thái giới nghiêm. Trong thành đèn lửa tối thui, chỉ có tiếng bước chân của từng đội vệ binh tuần tra, cảm giác vô cùng khẩn trương.

Tuy nói An Ngọc Tình là nữ nhân không câu nệ tục lễ giang hồ, nhưng lúc nàng đang ngủ mà đến đánh thức nàng thì cũng không hay lắm. Vì thế chàng chỉ còn cách ở đây đợi đến lúc trời sáng.

Chàng đã nghĩ thông tại sao Ma môn lại phái cao thủ chặn đánh chàng trước khi chàng phó ước với Tôn Ân.

Trận này, Ma môn không được như tính toán chỉ vì đã đánh giá quá thấp chàng. Nhưng cũng không nên trách chúng vì dù chúng liên thủ quyết chiến với những cao thủ kinh nghiệm phong phú, mưu kế sâu xa, nhưng tính không ra được trên thế gian lại có công pháp đáng sợ hoàn toàn vượt khỏi võ học thông thường của thế gian là “Tiên Môn kiếm quyết”.

Tôn Ân từng hai lần giao thủ với chàng, cũng không cách gì giết chết chàng. Người của Ma môn chính là sợ lịch sử lặp lại nên mới giúp Tôn Ân một tay. Theo tính toán của chúng thì dù Yến Phi ba đầu sáu tay nhưng dưới sự vây công liên thủ của ba đại cao thủ hàng đầu của Ma môn, chàng có thể giữ mạng đột vây đã là vô cùng khó khăn rồi, nhưng kiểu gì cũng thụ thương thế nhất định. Vậy thì khi chàng giao thủ với Tôn Ân tất không cách gì sống sót được.

Kết quả đương nhiên nằm ngoài ý liệu của Ma môn. Yến Phi đúng là đã thụ thương, nhưng ba đại cao thủ Ma môn lại đều nuốt hận ở hoang trấn, tổn thất thảm trọng.

Thương thế mà ba đại cao thủ Ma môn gây ra cho Yến Phi chỉ là tạm thời. Trước khi tới Động Đình Tây Sơn, chàng đã phục nguyên rồi, có thể toàn lực ứng phó Tôn Ân. Cũng vì thế mà không bị thất bại, lần thứ ba vượt qua Tôn Ân toàn lực thi triển "Hoàng Thiên đại pháp" mà vẫn có thành quả huy hoàng an toàn rút lui.

Nhưng thương thế mà Tôn Ân gây ra rõ ràng khác với thương thế do ba đại cao thủ Ma môn gây ra cho chàng. Nếu đem so sánh thì ba đại cao thủ Ma môn chỉ có thể gây thương thế ngoài da, nhưng thương thế do Tôn Ân gây ra lại thâm nhập lục phủ ngũ tạng. Đó đương nhiên chỉ để so sánh, nhưng nếu nói cho hết thì cuộc chiến với Tôn Ân làm chàng tổn hại tới căn nguyên, tuyệt không dễ dàng khỏi được.

Trên đường trở lại Kiến Khang, chàng toàn lực trị liệu thương thế, nhưng đến lúc này vẫn chưa thấy khởi sắc chút nào. Một ngày thương thế chưa lành thì chàng không cách gì thi triển “Tiên Môn kiếm quyết”. Nếu không, sẽ giống như tự sát không sai.

Làm chàng kinh sợ nhất là chàng mất đi cảm ứng về linh giác. Như lúc này, chàng thân ở Kiến Khang nhưng không cách nào cảm ứng được An Ngọc Tình trong Quy Thiện tự. Nói cách khác, trước khi thương thế thuyên giảm, chàng không thể liên hệ thông tin với Thiên Thiên. Đây là việc chàng lo lắng nhất.

Chàng có cảm giác như đã bị phế hết võ công. Nếu như ba đại cao thủ Ma môn từ địa phủ sống lại, vây công thì chàng tất “chết” không sai.

Suy nghĩ này làm chàng không thể không thừa nhận sự uy hiếp của Ma môn đối với chàng. Chỉ có Lý Thục Trang biết chàng phải đi phó hội sinh tử với Tôn Ân, chỉ trong một đêm đã có thể an bài ba đại cao thủ Ma môn đến tập kích chàng trên đường đi là đủ biết Ma môn ở Kiến Khang có đồng đảng rất nhiều mới có thể trong thời gian ngắn như vậy mà điều động được nhân thủ.

Lý Thục Trang đương nhiên hiểu được nếu chàng có thể giữ mạng không chết tất sẽ toàn lực trở về Biên Hoang tập, mà Kiến Khang là nơi chàng phải đi qua. Quy Thiện tự cũng là nơi chàng tất sẽ đến.

Ma môn còn thủ đoạn nào đối phó với chàng nữa?

Mình có nên tiên phát chế nhân, đến Hoài Nguyệt lâu cảnh cáo Lý Thục Trang không? Giả sử Lý Thục Trang là cao thủ đã nhìn trộm bên cạnh khi chàng và bọn Vệ Nga quyết chiến. Lại giả thiết thị không nhìn ra được ta đã thụ nội thương nghiêm trọng thì thị có biết khó mà lùi, hoặc không dám khinh cử vọng động không?

Suy nghĩ này làm chàng cảm thấy kích thích, là cảm giác hiểm trung cầu thắng, càng làm đối phương đoán không ra chàng đã thụ thương.

Chỗ làm Yến Phi do dự nhất là chàng không hiểu rõ chỗ ở của Lý Thục Trang. Đến như việc bây giờ thị có ở Hoài Nguyệt lâu hay không chàng cũng không rõ.

Nghĩ tới đây, trong lòng Yến Phi phát sinh cảnh giác, đưa mắt nhìn qua liền thấy một đạo nhân ảnh từ trên bình đài sát cạnh sông của Hoài Nguyệt lâu nhoáng lên, chạy về phía Đại Giang.

Yến Phi giữ tâm tĩnh lặng, triển khai thân pháp vọt đi.Nhãn lực Yến Phi vô cùng lợi hại, chỉ liếc qua một lần đã từ hình thể phán đoán người đó không phải Lý Thục Trang. Nhưng đối phương thân thủ cao minh, không dưới đám cao thủ Ma môn như Vệ Nga, lại theo thể hình làm Yến Phi có cảm giác khó đoán cương hay nhu, nam hay nữ.

Chẳng lẽ lại là Trần công công?

Trong lúc tâm niệm nổi lên, Yến Phi đã tới Hoài Nguyệt lâu, âm thầm lọt vào khu vườn bên của lâu, chỗ người kia phóng ra.

Yến Phi tuyệt không biết nơi chàng đang đạp chân vào chính là khu vườn “Giang Hồ địa” danh trấn Kiến Khang thuộc Hoài Nguyệt lâu. Nhưng chàng cũng cảm thấy khu vườn này bố cục kỳ xảo, thâm u sâu sắc.

Nếu quả người vừa rời đi là Trần công công thì lão rất nhiều khả năng là người của Ma môn, đến đây để gặp Lý Thục Trang. Yến Phi phải điều tra cho rõ việc này.

Yến Phi đi trong vườn nhanh như quỷ mỵ, chớp mắt đã tới Lâm Hà đình đài mà Lý Thục Trang từng gặp Lưu Dụ. Loáng thoáng có tiếng người từ trên đình cao vọng xuống.

Yến Phi nghệ cao mật lớn, không hề e sợ đối phương là cao thủ Ma môn. Chàng đi đến chỗ cao nhất của đồi nhỏ ở phía bắc đình rồi vọt lên, hạ xuống tàng một cây đại thụ, vừa vặn thu hết vào tầm mắt tình cảnh trong đình bên dưới cách nơi chàng ẩn thân khoảng hơn ba chục bước.

Trong đình có hai người, một nam một nữ đang nói chuyện. Họ ngồi cách một chiếc bàn, thần thái nhàn nhã như một đôi tình nhân ước hẹn gặp gỡ lúc đêm khuya thanh vắng.

Do góc nhìn hạn chế nên Yến Phi chỉ có thể nhìn thấy sau lưng người nam. Tuy không nhìn thấy mặt nữ tử, nhưng theo thanh âm chàng nhận ra là Lý Thục Trang.

Lúc này, Lý Thục Trang nói: “Sự tình đúng là làm người ta nghĩ mãi mà không hiểu. Nếu quả không nhận được phi cáp thuyền thư của Quỷ Ảnh thì ta tuyệt không tin trận quyết đấu giữa Tôn Ân và Yến Phi lại kết thúc khi chưa phân sinh tử, hai người bỏ đi như thế.”

Nam tử nói: “Phu nhân nói rất đúng vì cuộc chiến giữa Tôn Ân và Yến Phi không phải là thách đấu giang hồ bình thường, mà là quyết chiến sinh tử. Chỉ có người thắng mới có thể sống mà bỏ đi. Với công phu hai người cũng không thể có chuyện thấy tình thế không được mà thoát thân đào tẩu. Nhưng hai bên lại đều an toàn thối lui, bên trong chắc chắn có nguyên do mà chúng ta không biết.”

Đến lúc này, tự tai nghe được, Yến Phi mới biết Ma môn có cao thủ ngấm ngầm giám sát cuộc quyết chiến giữa chàng và Tôn Ân. Mà người này có ngoại hiệu là Quỷ Ảnh đương nhiên là sở trường khinh công. Nhưng cho dù khinh công Quỷ Ảnh có cao cường như thế nào, nếu bản thân không bị nội thương ảnh hưởng đến linh giác thì đối phương không thể giấu được chàng.

Nam tử đang mật đàm với Lý Thục Trang thần thái ung dung, nói chuyện lời lẽ phân minh, chỗ nào cũng thể hiện rất tự tin. Điều đó cho thấy người này trí dũng song toàn, tuyệt không đơn giản. Bất luận thân phận hay địa vị đều không dưới Lý Thục Trang. Ít nhất thì cũng phải ngang hàng với thị.

Lý Thục Trang than nhẹ: “Ta rất hy vọng có tin tốt lành bẩm lại với tiên sinh. Chỉ tiếc việc không như nguyện. Yến Phi kiếm thuật cực cao, không từ ngữ nào có thể hình dung nổi. Hắn đã đạt tới cảnh giới mà trời đất, quỷ thần cũng đều phải khiếp sợ.”

Nam tử điềm đạm nói: “Đây là lần thứ hai phu nhân tán tụng kiếm pháp của Yến Phi. Từ đó có thể biết kiếm thuật của Yến Phi trong lòng phu nhân đã lưu lại ấn tượng sâu sắc khó phai. Phụng Tiên to gan muốn hỏi Phu nhân một việc. Khi bọn họ giao thủ, phu nhân ẩn thân chỗ nào?”

Yến Phi thầm nghĩ thì ra cao thủ Ma môn nhìn trộm lại là bản thân Lý Thục Trang. Chàng thầm khen nam tử tên Phụng Tiên này hỏi rất hay vì nhờ đó chàng mới hiểu đáp án.

Lý Thục Trang đáp: “Họ giao thủ trên đường trong trấn. Ta ẩn ở trên một chiếc tháp phong thuỷ ở một góc trấn, nhìn rõ toàn cảnh trận chiến. Chỉ là do cự li quá xa nên không nghe thấy họ nói gì.”

Yến Phi trong lòng cười nhẹ. Ngươi không nghe rõ đối thoại của bọn ta khi đó thì đối với ta chỉ có lợi không hại.

Nam tử tên Phụng Tiên bỗng nhiên cười lên. Yến Phi phát sinh cảm giác không thoả đáng không phải vì tiếng cười của người đó, mà vì chàng cảm giác được hai người trong đình đang đề tụ công lực. Đây là một cảm ứng vi diệu của khí trong cơ thể. Mặc dù năng lực về mặt linh ứng của chàng bị giảm mạnh do thụ thương, nhưng đây chỉ là cảm ứng thuần tuý giữa chân khí với nhau làm chàng phát sinh cảnh giác.

Trong sát na, Yến Phi hiểu nam tử tên Phụng Tiên đó cao minh đến mức có thể điều tra ra sự tồn tại của chàng, ngấm ngầm ra hiệu cho Lý Thục Trang để cùng thị phối hợp.

Yến Phi thầm than, vô thanh vô tức phóng mình rời khỏi tàng cây đại thụ rơi xuống bờ dốc. Chàng lại đằng thân một cái, gieo người vào làn nước sông giá lạnh.

Chàng dám bảo đảm hai người trong đình chỉ còn cách nghi thần nghi quỷ, vĩnh viễn không biết có hay không người ẩn nấp một bên nghe họ nói chuyện.

Nam tử tên Phụng Tiên này khẳng định là một đối thủ khó chơi, làm chàng đối với sự uy hiếp của Ma môn càng không dám khinh thường.

Cao Ngạn tỉnh giấc, thấy Trác Cuồng Sinh đang ngồi phục trên án cạnh giường đốt đèn làm việc, cắm cúi viết thiên thư của lão. Gã xoay người lại, định tiếp tục hành trình trong miền đất mộng mơ của mình.

Trác Cuồng Sinh quát: “Tỉnh rồi thì đừng có ngủ nữa! Trấn Ác đến tìm ngươi hai lần, thấy ngươi ngủ say như chết nên không dám kêu ngươi dậy. Mau lăn xuống khỏi giường cho ta.”

Cao Ngạn không còn cách nào, uể oải ngồi dậy, than: “Ngươi không được đem lời khi ta ngủ mơ viết vào thiên thư đâu đấy.”

Trác Cuồng Sinh dừng bút nhìn gã giận ca thán: “Lời nói mơ của người thì có giá trị gì? Trước sau gì đều là mấy câu đó.”

Cao Ngạn hiếu kỳ hỏi: “Là những câu gì vậy?”

Trác Cuồng Sinh ôm bụng cười: “Đã là nói mê, đương nhiên là hàm hồ không rõ. Nhưng có một câu có thể hiểu rõ, là ‘đừng có đạp ta khỏi giường chứ’. Có thể thấy khi tên tiểu tử ngươi ngủ thì đầu óc cũng toàn nghĩ những chuyện dơ bẩn.”

Cao Ngạn bấy giờ mới biết đã bị lão hý lộng. Gã không phục bèn phản công: “Ăn uống và tình dục không gì là không chính đáng cả. Xem ra tên gia hoả ngươi căn bản không phải là người bình thường, vì thế mới không ngừng nghỉ viết thuyết thư. Nhưng theo như tin tình báo ta thu hồi được thì có nhiều người có những lời phê bình rất xấu đối với thuyết thư của ngươi đó! Họ còn nói tài ngươi chỉ đến thế là hết.”

Trác Cuồng Sinh bật cười: “Từ ngày đầu tiên Thuyết Thư quán được thành lập thì đã có người đến phê phán lão tử rồi. Ngoài ra những người thuyết thư khác càng ầm ỹ phụ hoạ, nhưng thuyết thư quán của lão tử chẳng phải khách vẫn đến như mây sao? Trác Cuồng Sinh ta quản cái con mẹ nó ấy. Những kẻ không làm gì được ta, lại đến vũ nhục ta, đã sớm lộ rõ sự hèn kém của bản thân, cho thấy bản tính ti tiện của chúng. Con bà nó! Vở thuyết thư đầu tiên của lão tử còn chưa kể hết, đã có kẻ nói ta tài năng chỉ đến đó là hết. Nhưng đến giờ, ta không biết là đã hoàn thành biết bao nhiêu vở thuyết thư rồi, chúng chỉ còn biết diễn lại tích cũ. Từ đó ngươi có thể thấy những tên tiểu nhân đó không tiến bộ như thế nào, không có tư cách như thế nào. Biên Hoang tập là nơi trăm hoa đua nở, các loại lạc thú vui vẻ thích gì có nấy, có ai không thích nghe thuyết thư của lão tử không? Đến tận nơi xa xôi như thế để tìm lạc thú, lại không có ai cầm đao kiếm gí vào bụng bắt hắn phải đến Thuyết Thư quán cả. Nếu quả Thuyết Thư quán không có ai đến chiếu cố, không cần đến hai ngày là phải đóng cửa rồi, căn bản không cần bọn chúng phải dèm pha như thế. Hiểu rõ chưa? Trong lòng lão tử rất rõ Thuyết Thư quán của ta là một trong những lựa chọn để nhiều người đến tìm vui. Lão tử vui thích thì mới thoải mái mà viết tiếp. Chỉ cần vẫn có người đến thì ta vẫn tiếp tục viết. Nếu quả thực ta làm cho người ta chửi rủa thì sẽ lòng tro ý lạnh, buông bỏ không viết thuyết thư nữa. Hướng Vũ Điền tối qua cũng đã làm thịt tên tiểu tử ngươi rồi.”

Cao Ngạn cười khổ: “Ta chỉ buột mồm nói một câu mà ngươi lại phát ra tràng giang đại hải luyên thuyên như thế.”

Trác Cuồng Sinh gác bút đứng lên, cười nhẹ: “Đó gọi là viết đến mức hứng thú, vì thế mà mở mồm mắng vài câu cũng cảm thấy đặc biệt nhẹ nhõm thống khoái. Còn chưa lăn khỏi giường ư, trời sắp sáng rồi đó! Ngươi đã ngủ đến bảy, tám canh giờ rồi.”

Khi tia sáng đầu tiên ló ra ở chân trời thì Yến Phi đến bên ngoài tĩnh thất An Ngọc Tình tạm trú, trong lòng chàng vô cùng bình hoà.

Sự chuyển biến này bỗng nhiên tới. Một khắc trước, trong lòng chàng còn ngổn ngang trăm mối tơ lòng. Nào là thương thế trong nội thể, nào là sự uy hiếp của Ma môn, hay trước khi khỏi hẳn sẽ không thể khai thông khúc nhạc lòng với Kỷ Thiên Thiên. Nhưng từ khi chàng cảm ứng được An Ngọc Tình thì bao nhiêu phiền não lập tức biến sạch.

Trong đầu bừng tỉnh, chàng đã hiểu rõ rồi.

Từ khi An Ngọc Tình uống Động Cực đan, luyện thành Thái Âm chân thuỷ thì mỗi lần tiếp xúc với nàng, bất luận chỉ thuần bằng tâm linh hoặc mặt đối mặt, chàng đều có cảm giác bình tĩnh như thể lạc vào chốn đào nguyên quên hết tất cả tình thế hiểm ác bên ngoài.

Cảm giác đó chẳng phải là ngẫu nhiên. Nguyên nhân xuất phát từ Thái Âm chân thuỷ chí tinh chí thuần của nàng khi giao hội với Thái Dương chân hoả của chàng đã sinh ra tác dụng và hiệu ứng đó.

Trong lòng Yến Phi chợt động, nghĩ tới một khả năng.

“Yến Phi!”

Trong phòng truyền ra tiếng kêu gọi của An Ngọc Tình tràn đầy sự kinh hãi và vui mừng.

Yến Phi không chút do dự, mở cửa vào phòng, thấy một gian tĩnh thất rất rộng, không có một vật gì, chỉ có một chiếc bồ đoàn mà An Ngọc Tình đang ngồi xếp bằng trên đó. Hai mắt nàng lấp lánh nhìn Yến Phi.

Yến Phi nhẹ nhàng đóng cửa lại, đến ngồi xếp bằng xuống trước mặt cách nàng khoảng ba thước, cười nhẹ: “Xin chào An cô nương! Ta về rồi!”

An Ngọc Tình tập trung thăm dò chàng, tiếp đó mi xinh khẽ nhíu lại nói: “Yến huynh thụ thương rồi!”

Yến Phi ung dung hỏi: “An cô nương có muốn biết kết quả cuộc chiến không?”

An Ngọc Tình hơi giận hỏi lại: “Việc đó còn phải hỏi sao?”

Yến Phi cảm thấy cự ly giữa chàng và mỹ nữ này lại tiến gần thêm một chút. Nhưng tại sao mình lại có cảm giác đó thì bản thân chàng cũng không rõ. Chàng khẽ thở ra một hơi, từ từ đáp: “Nhìn bề ngoài thì ta và Tôn Ân lưỡng bại câu thương, ngang phân, nhưng thật ra ta bị thua một trận, lại còn hãm thân vào cảnh ngộ vô cùng nguy hiểm.”

An Ngọc Tình nói: “Huynh phải chăng chỉ việc mình bị thương nặng hơn Tôn Ân? Nhưng ta không hiểu rõ câu cuối của huynh.”

Yến Phi đáp: “Nếu như lần này phải phân sinh tử thì khẳng định ta không thể sống mà về đây gặp nàng.”

Chàng lại cười khổ tiếp: “Hoặc vẫn có thể về, nhưng chỉ là một du hồn dã quỷ đã mất đi thân xác trú ngụ.”

An Ngọc Tình trách móc: “Coi huynh đó! Vẫn còn tâm tình nói chuyện cười nữa.”

Tâm tình Yến Phi thoải mái lại. Gánh nặng trên vai chàng tưởng chừng tạm thời được bỏ sang một bên, không còn là gánh nặng nữa. Chàng nói: “An cô nương làm sao cảm giác được ta thụ thương rồi?”

An Ngọc Tình đỏ mặt, có chút bối rối nói: “Mỗi lần ta gặp mặt Yến huynh, trường khí của ta đều phát sinh cảm ứng vi diệu, chừng như thiên địa dung hợp, âm dương điều hoà, tất cả đều tròn trịa đầy đủ. Nhưng lần này ta gặp Yến huynh lại cảm thấy có gì khiếm khuyết. Vì thế, bằng trực giác cảm thấy Yến huynh đã thụ thương rồi.”

Yến Phi mãn ý gật đầu: “Ta hiểu cảm thụ của nàng vì ta cũng đồng cảm sâu sắc với nàng. Như hiện tại ta thân thụ nội thương, nhưng giờ ngồi đối diện với cô nương thì ta có cảm giác khó có thể hình dung, như thể cây khô ẩn hiện sinh cơ, hoặc như đất đai khô cằn bỗng được cơn mưa xuống vậy.”

Má phấn của An Ngọc Tình càng hồng thêm, cúi đầu hỏi: “Thái Âm khí của ta có thể liệu thương cho Yến huynh không?”

Yến Phi nảy sinh cảm giác khác thường, đáp: “Thái Âm khí của cô nương đã phát huy hiệu dụng. Chúng ta chỉ nhàn nhã nhẹ nhàng ngồi ở đây thôi mà hiệu quả lại cực tốt, không thấy dấu vết. Ta từng cho rằng thương thế của ta vĩnh viễn khó hoàn toàn phục nguyên, nhưng giờ thì đương nhiên không nghĩ thế nữa.”

An Ngọc Tình khẽ ngẩng mặt lên, phục hồi vẻ bình tĩnh hỏi: “Tôn Ân đã chiếm hết thượng phong, làm sao lại để huynh sống mà ly khai?”

Yến Phi đáp: “Việc đó nói ra thì dài, tóm lại là thế này, Tôn Ân đã luyện Thái Dương chân hoả đến cảnh giới đăng phong tạo cực, tới mức có thể thu hút Thái Âm chân thuỷ của ta vào trong người lão. Nếu lão thành công thì sẽ luyện thành chiêu ‘Phá Toái Hư Không’. Tiếc là lão mất công toi, lại còn bị ta đánh bị thương nên mới không thể không để ta bỏ đi. Nếu như đánh đến phân sống chết thì kể cả có thể giết ta, nhưng những ngày tháng tới lão chỉ có thể nghĩ về tiên môn mà than thở thôi.”

An Ngọc Tình hỏi: “Thế gian này lại có công pháp như thế sao?”

Yến Phi vui vẻ: “Cuộc chiến này của ta với Tôn Ân thực được nhiều hơn mất. Đặc biệt là chiêu 'Hoàng Thiên vô cực' trong 'Hoàng Thiên đại pháp' của lão càng khai mở rất nhiều đối với ta.”

An Ngọc Tình sửng sốt: “Hoàng Thiên vô cực?”

Yến Phi giải thích: “Nói một cách đơn giản thì 'Hoàng Thiên vô cực’ là một loại công pháp có thể thu hút lực lượng vô cùng thần bí vô hạn của trời đất. Công pháp này làm Tôn Ân vĩnh viễn đứng vào thế bất bại. Bất kỳ võ công nào của trần thế đều không làm khó được lão. Nó ngang với việc luyện được nửa chiêu ‘Phá toái hư không’. Chiêu thức duy nhất có thể đánh bại lão là luyện thành chiêu ‘Phá toái hư không’ hoàn chỉnh.”

Đôi mắt đẹp của An Ngọc Tình sáng bừng lên nói: “Ta hiểu rồi. Chỉ cần huynh có thể luyện thành 'Thái Dương vô cực' và 'Thái Âm vô cực', là có thể thi triển chiêu thức 'Phá toái hư không' chân chính vì huynh có thể thu hút vô hạn lực lượng tinh hoa của đất trời. Vì thế, về mặt lý thuyết thì huynh có thể mở rộng tiên môn đến vô hạn.”

Yến Phi than: “Tôn Ân làm sao mà luyện được như thế nhỉ? Ta thực không nắm được chút nào."

Hai mắt An Ngọc Tình thoáng qua một tia sáng kỳ dị chưa từng có, nhẹ giọng nói: “Tôn Ân hiểu được cái gì thì ta cũng hiểu cái đó. Lão đã có thể luyện thành 'Thái Dương vô cực', sợ ta cũng có thể luyện thành 'Thái Âm vô cực'! Việc này cứ giao cho ta suy nghĩ phương pháp phá giải u mê đi.”

Nàng lại tiếp: “Nhưng ngươi vẫn chưa giải thích tại sao lại cho rằng mình hãm thân vào tình huống nguy hiểm phi thường?”

Yến Phi cười khổ: “Vì Tôn Ân đã nhìn rõ bản lĩnh giữ nhà của ta là ‘Tiên Môn kiếm quyết’, biết kỹ thuật của ta chỉ dừng ở mức này. Lão sẽ không phạm sai lầm như thế nữa. Giữa hai chúng ta tuy có lời ước một năm sau tái chiến ở Phiêu Miểu phong, nhưng ai cũng biết ước hẹn đó không hề có ý nghĩa thực sự. Ngày Tôn Ân khỏi thương thế cũng là lúc lão đến tìm ta. Kể cả khi đó ta đã phục nguyên, nhưng nếu ta chỉ có mấy chiêu đó thì sẽ thua rất thảm.”

An Ngọc Tình không hiểu hỏi: “Nhưng nhìn bề ngoài, kinh mạch huynh tuy xuất hiện tình trạng yếu ớt, tắc nghẽn, nhưng tuyệt không nghiêm trọng. Chỉ vài ngày là phục nguyên. Tại sao ngươi lại nói về tình hình của mình một cách nặng nề khẩn trương như thế?”

Yến Phi giải thích: “Tổn thương nhục thể thì ta căn bản không để trong lòng. Cũng có thể nói thương thế do các loại võ công thông thường tạo ra đối với ta chỉ là tạm thời. Chân Dương, Chân Âm của ta có thể tự nhiên trị lành bất kỳ thương thế nào, chỉ cần một thời gian là khỏi. Nhưng Hoàng Thiên đại pháp của Tôn Ân lại có thể tạo thành thương thế thực sự đối với ta, trực tiếp ảnh hưởng tới nguyên thần của ta, làm tổn hại đến nguyên khí. Việc làm sao để trị liệu nguyên thần vô ảnh vô hình thì ta lại không có biện pháp nào trong tay. Cho tới vừa rồi, được nguyên âm của cô nương khơi dậy, dẫn dắt thì nguyên dương của ta bắt đầu hồi phục sinh cơ, cũng khuấy động đến Thái Âm chân thuỷ, hình thành hiện tượng Âm Dương tuần hoàn tác động lẫn nhau. Nguyên khí bắt đầu được trị liệu. Nhưng lúc nào có thể hoàn toàn khôi phục thì vẫn chưa biết rõ.”

An Ngọc Tình kinh hoảng thốt: “Nói như thế thì Hoàng Thiên đại pháp của Tôn Ân lại có năng lực tiêu diệt cả thân thể và tinh thần của huynh sao?”

Nàng lại tiếp: “Huynh đã bị như vậy thì tình hình của Tôn Ân cũng không tốt hơn huynh bao nhiêu đâu. Chỉ sợ không có một năm rưỡi công phu thì lão không cách nào đến tìm huynh quyết chiến. Vì thế chúng ta phải cạnh tranh về thời gian với lão, lợi dụng đoạn thời gian đó để nghiên cứu ra phương pháp có thể phá được công pháp 'Hoàng Thiên vô cực' của Tôn Ân.”

Yến Phi nói: “Ta còn có một mối ưu tư là cô nương mình mang tiên đạo kỳ công Thái Âm chân thuỷ, sẽ tự nhiên hấp dẫn Tôn Ân. Kiến Khang lại là nơi tất phải đi qua trước khi đến Biên Hoang tập nên nếu quả thật Tôn Ân phát sinh cảm ứng sẽ tuyệt không tha cho cô nương đâu.”

An Ngọc Tình ngẩn người thốt: “Đúng! Nếu quả lão có công pháp có thể hấp thụ Thái Âm chân thuỷ của người khác thành của mình thì lão tìm ta hay tìm huynh không hề khác nhau.”

Yến Phi nói: “Phương pháp duy nhất là mời cô nương theo ta cùng rời khỏi đây. Chúng ta có thể chiếu cố cho nhau.”

An Ngọc Tình cười nhẹ: “Đó quả thực là biện pháp sao?”

Yến Phi ngẩn người một lát, nhất thời không thể nắm được ngụ ý của nàng trong câu nói đó.

An Ngọc Tình nói: “Ta đúng là nên theo huynh rời Kiến Khang. Nhưng không phải là cùng một đường. Ta có tập quán là độc lai độc vãng, chỉ ở một mình thì ta mới có thể tĩnh tâm suy nghĩ xem làm sao luyện thành tuyệt kỹ 'Thái Âm Vô Cực'. Vì thế ta sẽ quay về Ngũ Thái Sơn, nơi cha mẹ ta đang ẩn cư. Có cha mẹ ta ở đó thì Tôn Ân không có gan đến làm phiền đâu.”

Yến Phi cảm thấy trong lòng thư thái, gật đầu: “Đó là biện pháp tốt hơn. Vì nếu theo ta về Biên Hoang tập thì cô phải đối mặt với sự đối kháng và đấu tranh không ngừng nghỉ, sẽ ảnh hưởng tới tiên tâm không nhiễm tục trần của cô nương.”

An Ngọc Tình yêu kiều cười phì một tiếng, liếc gã một cái nói: “Ta chỉ là một phàm nhân. Phàm nhân làm sao lại có tiên tâm đây? Hoang nhân các ngươi quả là hay khoa trương. Được rồi! Chúng ta phải chăng sẽ lập tức lên đường?”

Yến Phi đáp: “ta còn phải đến Mã Hành ở khu bến thuyền lớn để trao cho họ tin tức. Chi bằng chúng ta thuận đường đi ăn sáng luôn. Mấy ngày nay ta không được ăn uống gì, bụng đói gần chết rồi.”

An Ngọc Tình ngạc nhiên: “Ta còn cho rằng huynh đã đạt đến cảnh giới tích cốc tuyệt lạp, phục khí luyện hình* rồi, chỉ cần hấp thụ tinh khí đất trời là đủ.”

Yến Phi cười khổ: “Có thể là vì tiên pháp của ta chưa tới! Ngoại trừ việc ngấm ngầm cảm thấy dương thần thì ở tất cả các mặt khác, ta tuyệt không khác gì người thường. Mệt quá thì phải nghỉ, đói bụng thì muốn ăn cả mâm.”

An Ngọc Tình vui vẻ nói: “Trong bọc ta có ít tiền, hay để Ngọc Tình làm chủ chi, mời huynh một bữa ra trò được không?”

Trong lòng Yến Phi dâng lên một sự cảm thụ kỳ dị và chàng khá thích thú với loại cảm giác này. Đây là cảm xúc tràn đầy sức sống động, những gì bình thường thật sự hiển hiện. Tiên môn rời rất xa bọn họ, tới mức tạm thời có thể quên nó đi.

Trong lòng chàng vì thương thế có biến chuyển nên đã hồi phục sinh cơ và đấu chí. Chàng cần mau chóng phục nguyên, không chỉ phải ứng phó với tương lai tràn đầy gian nan và khiêu chiến, mà càng quan trọng là phục hồi năng lực siêu phàm tâm linh truyền cảm với Kỷ Thiên Thiên. Nếu như Kỷ Thiên Thiên hiểu lầm chàng đã mất mạng trong tay Tôn Ân thì rất nguy hiểm.

Chú thích

* Tích cốc tuyệt lạp: không cần ăn uống. Phục khí luyện hình: dùng khí luyện hình.Ở một chỗ trên thượng du cách phía bắc Dĩnh Thủy mười lăm dặm, bộ đội thủy, lục của Hoang nhân hội sư bên bờ đông. Các thuyền hàng chở ngựa đậu ở bảy, tám bến cảng mới được dựng tạm sơ sài. Chiến mã nối đuôi nhau lên bờ, thay thế những con ngựa đã mỏi mệt do phải hành quân liên tục một ngày một đêm.

Những điểm cao chiến lược bên bờ đông đều bị chiến sỹ Hoang nhân chiếm cứ để có thể ứng phó với bất kỳ địch nhân nào dám đến chọc giận bọn họ.

Hơn hai ngàn chiến sỹ người nào cũng ý khí hừng hực. Mặc dù tối qua đã có một trận tuyết nhỏ, nhưng lúc này mây rất thưa thớt, trời trong xanh, tầm nhìn không bị hạn chế.

Các lãnh tụ đại quân Hoang nhân tụ tập trên một gò cao ở gần bờ, nghiên cứu sách lược tiến quân.

Một bức bản đồ tình thế quân địch đơn giản do Cao Ngạn vẽ ra, được trải rộng trên mặt đất tuyết, bốn góc dùng bốn hòn đá chặn lên.

Mộ Dung Chiến dùng thân phận chủ soái nói: “Mời Cao thiếu gia nói ra tình hình trận địa bên địch.”

Cao Ngạn thấy mọi người chú ý nhìn mình, gã liền lập tức phấn chấn, hắng giọng một tiếng, oang oang nói: “Bên địch có sáu tòa lũy trại bằng gỗ phân ra hai bên bờ, mỗi chiếc cách nhau ước chừng ngàn bộ, nhưng mới chỉ hoàn thành gần một nửa, căn bản không có sức phòng ngự. Nhưng nếu để chúng hoàn thành xây dựng thì chỉ sáu lũy trại này là có thể chống cự lại được sự tấn công mạnh mẽ của thiên quân vạn mã bên ta. Chúng lại tăng cường thêm hầm bẫy và tiễn lâu thì chúng ta vĩnh viễn sẽ không thể đoạt bắc Dĩnh khẩu lại được.”

Hồng Tử Xuân hỏi: “Nguyên liệu để chúng xây dựng lũy trại phải chăng được lấy tại chỗ?”

Cao Ngạn lắc đầu đáp: “Khẳng định là được vận chuyển đến từ phương Bắc. Nguyên vật liệu không những được chất như núi gần đó, còn có hơn hai mươi chiếc thuyền hàng vẫn đậu ở bên bờ Dĩnh Thủy.”

Thác Bạt Nghi gật đầu: “Lý là như thế. Nếu ta là Mộ Dung Thùy cũng sẽ phải xây dựng lũy trại trong thời gian ngắn nhất. Như vậy mới có thể giữ được bắc Dĩnh Khẩu.”

Cơ Biệt hỏi: “Địch nhân có làm gì để bảo vệ đường sông không?”

Vương Trấn Ác đáp thay: “Nói một cách nghiêm chỉnh thì không có. Người Yên lần này không những đến rất vội vã lại chuẩn bị chưa đủ, cố gắng xây dựng xong sáu tòa doanh lũy trước khi bị chúng ta tấn công. Không ngờ gặp phải tuyết sớm đầu mùa, không chỉ viện binh bị trì hoãn mà công trình xây dựng cũng tiến triển chậm chạp. Mọi tính toán của người Yên đều hỏng.”

Cao Ngạn tiếp lời: ”Ở phía hạ du lũy trại, người Yên thiết lập tám tòa tiễn lâu, mỗi tòa cao hai trượng, lại đào công sự, hầm bẫy. Các vị xem bản đồ của ta sẽ rõ vị trí tiễn lâu và công sự. Theo ta thấy thì đó chỉ là thừa giấy vẽ voi chứ làm sao chống lại được sự xung kích của đại quân chúng ta?”

Lưu Mục Chi nói: “Trong tình hình bình thường, trước khi doanh lũy phòng thủ được hoàn thành thì người Yên sẽ bố trí chiến thuyền bảo vệ mặt sông. Nhưng Cao thiếu gia không thấy chiến thuyền người Yên, đủ biết người Yên trải qua nhiều cuộc chiến tranh, chiến thuyền tổn thất nghiêm trọng. Chúng không có cách gì điều phối chiến thuyền về phòng thủ bắc Dĩnh khẩu được.”

Cao Ngạn đề tỉnh: “Ven bờ sông, người Yên đã bố trí hơn hai mươi chiếc máy bắn đá, lại thêm vào hỏa tiễn. Nếu chúng ta chỉ tấn công bằng đường thủy mà không có đường bộ phối hợp thì người gặp thất bại chính là bọn ta đó.”

Mộ Dung Chiến tổng kết: “Bây giờ, tình hình địch nhân đã rõ ràng. Tuy đó là những gì Cao Ngạn thấy cách đây hai ngày, nhưng trong hai ngày qua, những việc mà người Yên có thể làm được rất hạn chế. Vì thế chúng ta mới quyết định dùng nhanh đánh nhanh, thế như lôi đình vạn quân đánh một đòn khắc địch. Mấu chốt quan trọng là sách lược chỉ đánh bờ đông. Đây là do Trấn Ác nghĩ ra.”

Hắn chuyển sang phía Vương Trấn Ác nói: “Ngươi tự nói ra đi.”

Vương Trấn Ác nói: “Cao thiếu gia mang về tin tình báo rất rõ ràng, làm chúng ta hoàn toàn nắm được tình hình của địch. Trước tiên, địch nhân ngày đêm xây dựng lũy trại, lại bị mưa tuyết làm khổ, sớm đã người mỏi thần mệt, sức chiến đấu giảm mạnh, sỹ khí xuống thấp. Kể cả như thế, nếu chúng ta phát động tấn công toàn diện đối với người Yên thì trong tình huống không có chỗ bỏ chạy hay tránh né, sẽ khơi dậy đấu chí liều chết phản kháng của bọn chúng. Chúng ta có thắng thì thương vong tất cũng thảm trọng. Vì thế chúng ta dùng chiến thuật mở một con đường sống cho chúng, trước tiên từ đường thủy phát động tấn công. Bộ đội trên bộ tập trung toàn lực đánh phái trận địch ở bờ Đông, tận dụng hình thế đặc thù của Dĩnh Thủy, phá tan đấu chí của địch nhân về thực chất cũng như về tâm lý. Đó chính là ngu kiến của Trấn Ác, nói ra để các vị đương gia xem xét.”

Trác Cuồng Sinh cười dài: “Đó chính là sách lược cao minh nhất. Mời Chiến gia điều binh khiển tướng. Mọi người tay chân ngứa ngáy lắm rồi!”

Mọi người hưởng ứng vang trời.

“Bình!”

Thác Bạt Khuê đập mạnh tay lên chiếc bàn nhỏ bên cạnh, âm thanh chấn động đại đường. Hai mắt hắn hàm chứa sát khí, lấp loáng phát quang, thần thái uy mãnh.

Trưởng Tôn Đạo Sinh và Thôi Hoành đứng trước mặt gã không dám nói gì.

Thác Bạt Khuê tức giận: “Mặc Sĩ Minh Dao, phải chăng ngươi chán sống rồi!”

Theo tin tức vừa truyền về, một đội vận chuyển ngựa từ Thịnh Nhạc tới bị người Bí tộc tập kích giữa đường. Gần trăm người chết, năm trăm chiến mã thượng đẳng bị cướp đi, làm Thác Bạt Khuê nổi trận lôi đình, lập tức triệu kiến hai tướng lĩnh đắc lực nhất là Trưởng Tôn Đạo Sinh và Thôi Hoành.

Trưởng Tôn Đạo Sinh nói: “Người Bí tộc rõ ràng muốn cô lập Bình Thành và Nhạn Môn. Lại nhằm lúc mùa đông tuyết lạnh, căn bản không sợ chúng ta phản kích, vì thế mới dám hành động, không hề cố kỵ điều gì.”

Hai mắt Thác Bạt Khuê sát cơ đại thịnh, nói: “Người Bí tộc không để ta vào trong mắt rồi.”

Tiếp đó, ngoài ý liệu của mọi người, hắn bật cười: “Ta đã dùng chiến thuật mã tặc đối phó với Phù Kiên, không tưởng nổi bây giờ lại có người dùng chiến thuật mã tặc đối phó lại ta. Đó phải chăng là nhân quả tuần hoàn?”

Trưởng Tôn Đạo Sinh và Thôi Hoành đều không dám đáp lời hắn.

Thác Bạt Khuê nhìn hai người, trầm giọng: “Nếu như ta buông bỏ Bình Thành và Nhạn Môn thì sẽ có hậu quả gì?”

Hai người đưa mắt nhìn nhau, đều cảm thấy ngạc nhiên. Với tính cách Thác Bạt Khuê thì hắn sẽ không bỏ cuộc giữa đường, cứ thế nhận thua như vậy.

Thôi Hoành cung kính đáp: “Nếu quả chúng ta buông bỏ hai thành này thì chẳng khác nào làm mọi nỗ lực trước đây trôi sông trôi biển hết. Không những mất cơ hội duy nhất có thể thống nhất phương Bắc, mà còn phải triệt thoái về Tái Bắc, trở lại sinh hoạt kiểu du mục, di cư theo nguồn nước và cây cỏ.”

Thác Bạt Khuê gật đầu: “Nói hay lắm! Trước tiết xuân năm mới trăm hoa đua nở sắp đến, chúng ta bất kể thế nào cũng phải giữ vững Bình Thành và Nhạn Môn. Ta thật không hiểu, người Bí tộc kể cả có thể cắt đứt liện hệ với Thịnh Nhạc thì cũng có tác dụng gì đâu?”

Trưởng Tôn Đạo Sinh đáp: “Với thực lực của người Bí tộc không có khả năng cắt đứt liên hệ của chúng ta với Thịnh Nhạc. Chỉ cần chúng ta có đủ quân là có thể bảo đảm tuyến đường vận chuyển thông suốt.”

Hắn lại tiếp: “Đạo Sinh nguyện phụ trách việc điều tra người Bí tộc. Chỉ cần giao cho hạ thần binh mã, nếu Bí nhân vẫn không rút lui thì hạ thần cầm chắc sẽ nhổ tận gốc rễ bọn chúng.”

Thác Bạt Khuê hỏi: “Thôi khanh thấy thế nào?”

Thôi Hoành đáp: “Bí nhân muốn kích cho Tộc chủ tức giận.”

Thác Bạt Khuê ngạc nhiên hỏi: “Bọn chúng còn cho rằng ta chưa đủ tức giận sao?”

Thôi Hoành đáp: “Bí nhân luôn tự mình hành động. Tuy làm việc cho Mộ Dung Thùy, nhưng là để báo ân chứ không phải biến thành con chó trung thành, chỉ tuân theo mệnh lệnh của lão. Vì thế hạ thần cho rằng giữa Bí tộc và Mộ Dung Thùy có hiệp nghị bí mật. Ví dụ như chỉ cần Bí tộc hoàn thành những mục tiêu nào đó thì sẽ thành công mà rút lui. Sau này sẽ không liên quan gì với Mộ Dung Thùy nữa.”

Trưởng Tôn Đạo Sinh lạnh lùng hỏi: “Giả sử mục tiêu hiệp nghị bí mật là Bí nhân sẽ giúp Mộ Dung Thùy thống nhất phương Bắc thì sao?”

Thác Bạt Khuê cười nhẹ: “Đạo Sinh tức giận rồi! Vừa rồi ta đã đại động can hỏa, hận không thể gặp một Bí nhân mà giết, nhưng qua sự đề tỉnh của Thôi khanh lập tức bình tĩnh lại. Đối thủ chân chính của ta là Mộ Dung Thùy chứ không phải Bí nhân, làm sao có thể để Bí nhân làm loạn hết sách lược tổng thể được?”

Trưởng Tôn Đạo Sinh bi phẫn nói: “Chúng ta làm sao để cho máu của tộc nhân cứ chảy một cách vô ích như vậy? Món nợ giữa chúng ta và Bí nhân tất phải tính toán cho rõ ràng, nợ máu phải trả bằng máu.”

Thôi Hoành nói: “Bí nhân trước tiên làm các việc phá hỏng ruộng vườn, đốt lương thảo, cắt đứt đường vận chuyển tới Thịnh Nhạc… Chỉ có một mục đích là nhiễu loạn tâm lý dân chúng, tước giảm đấu chí và sỹ khí quân ta, cô lập quân ta, để Mộ Dung Thùy chuẩn bị phản công. Vì thế chúng ta phải bình tĩnh ứng phó, tuyệt không thể tự làm loạn trận cước, nếu không sẽ rơi vào tròng của Mộ Dung Thùy.”

Trưởng Tôn Đạo Sinh nhíu mày: “Nếu như chúng ta tiếp tục để cho Bí nhân hoành hành, không sợ sẽ làm nhuệ khí của các chiến sỹ xuống thấp sao?”

Thác Bạt Khuê nói chen vào: “Hiện nay, ta đã rõ ràng tình thế địch. Quân lực chúng ta chỉ có thể bảo vệ được hai thành, có điểm giống tình hình ngày xưa giữa Phù Kiên và chúng ta. Binh lực của Phù Kiên tuy gấp ta hàng trăm lần, nhưng do chúng ta dùng chiến lược vừa đánh vừa chạy nên hắn có lực mà không làm gì được. Nếu như bây giờ chúng ta lao sư động chúng, đại cử binh mã đi truy bắt Bí nhân thì bề ngoài có vẻ như chúng ta nắm được quyền chủ động, nhưng thật ra lại bị Bí nhân dắt mũi dẫn đi. Cuối cùng đuổi mãi tới lúc mệt mỏi, sẽ tới lúc quân sỹ không còn đấu chí. Việc đó, người trí làm sao làm được?”

Trưởng Tôn Đạo Sinh hỏi: “Chẳng lẽ chúng ta chỉ ngồi một chỗ nhìn Bí nhân dương oai diễu võ, nhe nanh múa vuốt sao?”

Thác Bạt Khuê đã hoàn toàn hồi phục vẻ ung dung lạnh lùng bình thường, trầm giọng: “Ta hiểu rõ tâm tình của Đạo Sinh. Nhưng để đánh bại Mộ Dung Thuỳ, chúng ta tất phải nhẫn nại, nhẫn nại cho tới lúc xuất hiện cơ hội tốt nhất. Khi đó sẽ do Thôi khanh đề xuất sách lược ‘cầm tặc tiên cầm vương’, triệt để thu thập Bí tộc. Việc này sẽ phát sinh trước khi Mộ Dung Thuỳ phản công, lập tức có thể gây phấn chấn dân tâm và sỹ khí, từ mất thành được, càng đả kích mạnh mẽ Mộ Dung Thuỳ.”

Thôi Hoành nghe không ngớt gật đầu.

Trưởng Tôn Đạo Sinh lộ vẻ suy nghĩ, cho thấy tâm tình kích động của hắn đã dần dần hồi phục lại.

Thác Bạt Khuê than: “Ta chỉ lo lắng một việc thôi.”

Thôi Hoành và Trường Tôn Đạo Sinh đều ngạc nhiên, chờ hắn nói tiếp.

Thác Bạt Khuê từ từ nói: “Sở dĩ Bí nhân có thể muốn gì làm nấy là vì chúng đã nhìn ra nhược điểm của chúng ta là chiến tuyến quá dài. Vì thế chúng có thể dùng binh lực không đến ngàn người là có thể cắt đứt giao thông giữa Thịnh Nhạc và Biên Hoang tập. Ta lo lắng là Bí nhân đã nhìn ra nhược điểm của chúng ta thì Mộ Dung Thuỳ đương nhiên cũng nhìn ra. Với tính tình của Mộ Dung Thuỳ thì sẽ tuyệt không bỏ lỡ cơ hội.”

Trường Tôn Đạo Sinh và Thôi Hoành đều muốn nói nhưng lại không biết nói gì. Trừ khi buông bỏ Bình Thành và Nhạn Môn. Nếu không, tình hình như Thác Bạt Khuê vừa nói sẽ không cách nào thay đổi được.

Thác Bạt Khuê lại tiếp: “Trước đây, việc chúng ta làm xuất sắc nhất chính là công tác tình báo, rõ như trong lòng bàn tay mọi động hướng của người Yên. Nhưng bây giờ tình hình đã xoay chuyển ngược lại. Mộ Dung Thuỳ thông qua Bí nhân đã hoàn toàn nắm được bố trí thực hư của chúng ta. Nhưng chúng ta lại như một kẻ bị bịt mắt, bịt tai, hoàn toàn không biết gì về những sự việc bên ngoài phạm vi hai thành. Ngày nào mà tình hình này vẫn chưa thay đổi được thì ngày đó chúng ta vẫn hãm thân trong thế yếu chờ người đến giết.”

Trườởng Tôn Đạo Sinh gật đầu: “Ta vẫn chủ trương lập tức phản kích bí nhân vì việc này đã trở thành mấu chốt quan trọng ảnh hưởng tới thành bại của cuộc đấu tranh giữa chúng ta và Mộ Dung Thuỳ. Chỉ khi trừ diệt được Bí nhân thì chúng ta mới có thể thay đổi hoàn toàn thế yếu.”

Thác Bạt Khuê điềm đạm nói: “Tháng này, khí lạnh không ngừng tràn về. Năm ngày nữa là ngày lập đông. Nên biết những ngày tới sẽ là những ngày đông giá rét, cuộc chiến tranh của chúng ta với Bí tộc sẽ kéo dài. Nhất thời không cần gấp gáp và cần định mưu kế rồi mới hành động, một kích là thành công. Bí nhân giống như là một con độc xà hung mãnh ẩn nấp trong đồng cỏ, lựa người mà cắn. Chúng ta đã không xuất thủ thì thôi, nếu xuất thủ tất phải đánh trúng chỗ yếu hại của nó. Nếu không, bị nó cắn lại một miếng thì sẽ rất nguy hiểm đó.”

Trường Tôn Đạo Sinh hỏi: “Chúng ta rốt cuộc là chờ đợi cơ hội như thế nào?”

Thác Bạt Khuê đáp: “Chính là khi Hoang nhân đột phá được sự phong toả của người Yên, cùng chúng ta nối lại được liên hệ.”

Trường Tôn Đạo Sinh tắc họng không nói gì được.

Thác Bạt Khuê cười khổ: “Chúng ta chính là đang bị hãm trong thế bị động, chỉ có thể chờ đợi, chỉ có thể khổ tâm nhẫn nhịn. So với bất kỳ người nào khác, việc giết cho Bí tộc không còn manh giáp, ta mong muốn hơn nhiều. Nhưng cũng biết Bí nhân là những ác ngư ở sông hồ. Nếu như chúng ta lại tiến vào trong nước để truy sát chúng thì sẽ chỉ bị chúng cắn cho sứt da trầy vảy. Phương pháp duy nhất là bắt sạch giết tuyệt bọn chúng. Chỉ nên đấu trí đấu lực với chúng, không nên chỉ dùng cái dũng của kẻ thất phu.”

Hắn hai lần dùng hai ví dụ để hình dung về Bí nhân, cho thấy hắn từng suy nghĩ rất sâu sắc về vấn đề của bọn chúng.

Lúc này, ngoài song hoa tuyết đã lất phất rơi, như để báo hiệu cho họ biết mùa đông giá lạnh đã tràn ngập đất trời.

Ánh mắt Thác Bạt Khuê nhìn ra thiên địa mênh mông trắng xoá bên ngoài, cảm xúc nói: “Ta chưa từng nghĩ rằng sau trận đại thắng lại hãm thân vào tình cảnh thế này. Ta không những lo lắng cho Biên Hoang tập, mà còn lo cho Thịnh Nhạc.”

Thôi Hoành và Trường Tôn Đạo Sinh đều cảm thông sâu sắc.

Bí nhân tham gia vào cuộc chiến có tác động làm thay đổi cán cân lực lượng. Bí nhân không những kiêu dũng thiện chiến, mà còn có thể phát huy sức chiến đấu siêu nhiên trong những hoàn cảnh thời tiết khắc nghiệt. Với chiến lược cao minh của Mặc Sĩ Minh Dao, tuy Thác Bạt tộc hơn về binh lực, nhưng không cách nào tiêu trừ được sự uy hiếp của Bí nhân.

Chỉ xét việc Bí nhân có thể hai lần tập kích xa đội chở hoàng kim và đội vận chuyển ngựa là biết về mặt tình báo, Bí nhân đã chiếm hết thượng phong. Hiện giờ, Thác Bạt tộc chỉ có thể khống chế tình hình bên trong cứ địa, còn khu vực rộng lớn bên ngoài là trời đất của Bí nhân.

Tình thế Biên Hoang tập cố nhiên là ác liệt, càng khiến người ta lo lắng là vẫn phải đang xây dựng lại Thịnh Nhạc. Tuy có các đại tướng như Trưởng Tôn Tung chủ trì, nhưng bất kể là sức phòng ngự và binh lực đều vô cùng bạc nhược. Nếu như Mộ Dung Thuỳ phái quân đánh phá thì thật không chịu nổi một đòn.

Điều may mắn duy nhất là người Yên ở chiến dịch đèo Tham Hợp đã bị thiêu huỷ số lượng lớn chiến thuyền nên trước mắt, người Yên thiếu thốn chiến thuyền, khó có thể theo đường thuỷ tấn công Thịnh Nhạc. Đường bộ thì gió tuyết tơi bời. Nếu không, Thác Bạt Khuê chỉ còn cách hồi sư rồi tử thủ Thịnh Nhạc.

Thác Bạt Khuê hỏi Trưởng Tôn Đạo Sinh: “Có tin mới nhất về Hách Liên Bột Bột không?”

Trưởng Tôn Đạo Sinh đáp: “Tin tức mới nhất đã cách đây năm ngày. Nghe nói Hách Liên Bột Bột vì lấy số lượng lớn chiến mã mà người Nhu Nhiên chuyển cho Diêu Trường nên quan hệ với Diêu Trường trở nên căng thẳng như nước và lửa.”

Hắn lại tiếp: “May là Hách Liên Bột Bột tự lo cho mình chưa xong, nếu không, tình cảnh của chúng ta càng thêm ác liệt.”

Thác Bạt Khuê nhíu mày hỏi: “Hách Liên Bột Bột quả thực tự lo cho mình không xong ư?”

Thôi Hoành đáp: “Hách Liên Bột Bột không phải là người ngu xuẩn! Hắn từng phản bội Mộ Dung Thuỳ. Theo lý mà nói thì phải toạ sơn quan hổ đấu, sau đó mới mưu đoạt lợi. Hơn nữa, hành quân trong vùng tuyết rất không thích hợp nên chắc hắn có thể nhẫn nại được.”

Thác Bạt Khuê khẽ lắc lắc đầu, chừng như muốn dùng động tác đó để trừ bỏ những phiền não trong đầu.

Ngay vào lúc này, hắn nghĩ tới Sở Vô Hạ. Mấy ngày nay, thương thế của nàng tiến triển rất nhiều, đã có thể rời khỏi giường. Nữ nhân này vô cùng thông minh, giỏi đoán ý người, đàm đạo với nàng quả là một việc khoan khoái, có thể giải bớt lo sầu.

Ài!

Chỉ hận là mình lại không cách gì bỏ hết lòng đề phòng đối với nàng. Không chỉ vì những kỷ lục bất lương của nàng trong quá khứ, mà nói cho cùng thì Yến Phi chính là cừu nhân giết cha của nàng, làm hắn không thể không hoài nghi động cơ của nàng đối với mình.

Phải chăng hắn đã hiểu nhầm về nàng rồi?

Nếu như nàng không hiến tặng cho hắn số lớn hoàng kim thì giờ đây thì liệu có tình hình như bây giờ không?

Vì quan hệ với Biên Hoang tập, tác dụng mà số lượng lớn hoàng kim đó mang lại quả không tính nổi. Ít nhất thì trước mắt làm hắn tràn đầy chờ đợi và hy vọng.

Thác Bạt Khuê hỏi: “Phía Biên Hoang tập có tin tức gì mới không?”

Trưởng Tôn Đạo Sinh đáp: “Chúng ta phái đi hơn hai mươi thám tử đến Tứ Thuỷ thám thính tình hình, chỉ có ba người sống sót trở lại. Nghe báo cáo là người Yên đã tiến tới bắc Dĩnh khẩu, cắt đứt giao thông đường thuỷ của Biên Hoang tập lên phương Bắc. Vì kỵ binh người Yên không ngừng tuần tra ở Tứ Thuỷ nên người của chúng ta không cách gì vượt qua Tứ Thuỷ thám sát tình hình địch được.”

Thác Bạt Khuê cười khổ: “Lại có tin tức xấu như thế nữa.”

Lại hỏi: “Không có ai từ Biên Hoang tập đến sao?”

Trưởng Tôn Đạo Sinh lắc đầu ra hiệu không có.

Thác Bạt Khuê đưa mắt nhìn Thôi Hoành.

Thôi Hoành nói: “Ba trăm gia tướng thủ hạ của hạ thần tối qua đã tới Nhạn Môn, được Trương tiên sinh an bày ổn thoả rồi.”

Thác Bạt Khuê bật cười: “Đó là tin tức tốt duy nhất.”

Thôi Hoành nói: “Hy vọng Yến huynh có thể trở lại sớm, chúng ta có thể tiến hành kế dụ địch ‘Cầm tặc tiên cầm vương’.”

Thác Bạt Khuê lo lắng trầm trọng: “Liệu Yến Phi có thể đến giúp chúng ta không, cần phải xem Hoang nhân có thể một lần nữa sáng tạo kỳ tích, đoạt lại bắc Dĩnh khẩu về tay hay không. Vì thế hiện tại, cuộc đấu tranh với Mộ Dung Thuỳ đã chuyển về Biên Hoang tập rồi.”

Thôi Hoành nói: “Đối với việc đó, hạ thần có đủ lòng tin. Quan trọng là Hoang nhân không những nhân tài đông đúc, mà sỹ khí lại như mặt trời. Biên Hoang là địa bàn của họ. Người Yên và Bí nhân đều là quân lao sư viễn chinh, cao thấp tự nó đã phân biệt rất lớn rồi.”

Thác Bạt Khuê tinh thần phấn chấn hỏi: “Quả thực như thế sao?”

Thôi Hoành đáp: “Đó chính là suy nghĩ trong lòng hạ thần, một chữ cũng không giả dối.”

Ánh mắt Thác Bạt Khuê lại chuyển ra ngoài song cửa, tự nói một mình: “Tiểu Phi à! Rốt cuộc là ngươi đang ở đâu?”

Trường Tôn Đạo Sinh và Thôi Hoành đều nảy sinh cảm giác khác lạ. Từ trước tới nay, Thác Bạt Khuê trước mặt người khác luôn cho thấy mặt kiên cường, tràn đầy lòng tin, chỉ huy quyết đoán của hắn. Nhưng dưới áp lực to lớn của địch nhân, hắn cuối cùng cũng lộ ra một mặt yếu nhược, vì thế mới mong đợi Yến Phi tới đến thế.

Hiện giờ tình thế vô cùng rõ ràng. Vận mệnh Thác Bạt Khuê đã gắn chặt với vận mệnh của Hoang nhân. Bất kỳ bên nào diệt vong thì ngày tàn của bên kia cũng không còn xa mấy.

 Cao Ngạn và Trác Cuồng Sinh dừng ngựa trên một ngọn đồi cao, từ trên mình ngựa nhìn ra tình hình trận địch. Hai trăm chiến sỹ Hoang nhân bố trận trên đỉnh và sườn đồi.

Ngọn đồi mà họ đang đứng ở bờ tây Dĩnh Thuỷ, chỉ cách bắc Dĩnh khẩu hơn một dặm. Sự xuất hiện của họ chỉ có tính chất kiềm chế, làm người Yên không hiểu được chiến lược của họ. Nếu như địch nhân xuất trận tấn công, thì chính là lo lắng của họ, tuỳ tình hình có thể ở lại cự địch, hoặc vừa đánh vừa chạy, phân tán binh lực địch.

Vầng thái dương đang ngả dần về tây. Dưới ánh tịch dương, bờ sông đầy tuyết lấp lánh phát sáng, có sáu toà bảo luỹ hình vuông được xây bằng gỗ chỉ mới hoàn thành bộ khung cơ bản, vẫn còn thiếu hơn mười ngày làm nữa mới có thể mong có năng lực phòng ngự.

Ven sông xây dựng hơn mười toà tiễn lâu để hô ứng với hai chiến hào quan trọng, lại có sức phòng ngự cao hơn mấy toà bảo luỹ chưa hoàn thành.

Hai ngàn quân địch đang bố phòng trong trận địa, nghiêm trận chờ đợi làm không khí bắc Dĩnh khẩu dần dần khẩn trương.

Hai chiếc phù kiều tạm vắt ngang sông làm trận địa hai bên bờ nối liền lại với nhau, làm người Yên có thể tuỳ theo tình hình phát triển mà thông qua phù kiều hỗ trợ lẫn nhau. Hơn hai mươi chiếc máy bắn đá đều bố trí ở chỗ cao khu vực hạ du dưới trận địa để đối phó với chiến thuyền của Hoang nhân đánh tới theo đường thuỷ.

Về mặt phòng thủ, đó là sự bố trí hữu hiệu nhất của người Yên. Nhưng Trác Cuồng Sinh và Cao Ngạn đều biết người Yên bề ngoài có vẻ mạnh, nhưng bên trong yếu kém, sỹ khí rất thấp. Chỉ xét việc bọn họ đến chiếm cứ ngọn đồi cao này để khiêu chiến đã hai canh giờ rồi mà người Yên vẫn không dám rời khỏi trận địa đến đánh là biết người Yên đã mất hết dũng khí.

Tác dụng của cánh quân này bên họ chỉ là gây áp lực lên địch nhân, làm người Yên vốn đang mệt mỏi không cách nào được nghỉ ngơi, càng không rõ thủ đoạn của họ.

Trác Cuồng Sinh nói: “Vương Trấn Ác đúng là một nhân tài hiếm có, trong hội nghị đề xuất chiến lược ‘bên nào sỹ khí cao hơn thì thắng’, cho rằng chỉ cần duy trì được đấu trí, sỹ khí của Hoang nhân thì tất có thể một trận thành công. Vì thế được Chiến gia và hội nghị tin tưởng, để hắn trù tính toàn bộ sách lược. Ngươi xem kìa! Thủ đoạn của hắn chính là lấy chỗ sở trường của mình làm bọn địch ớn gan. Chỉ xem việc bọn ta với binh lực ít ỏi không đủ này lại là một chiêu số hư hư thực thực, kiềm chế ba quân của địch là đủ biết công phu của hắn.”

Cao Ngạn gật đầu: “Thật ra, khi bọn ta đến ngọn đồi này thì ta sợ muốn chết, sợ địch nhân sẽ rời trại đánh trả. Nhưng đến giờ thì ta yên tâm lại rồi. Hà! Con người ta phải chăng đặc biệt nhát gan?”

Trác Cuồng Sinh vui vẻ nói: “Ngươi không những không hề nhát gan mà gan dạ hơn người nữa. Nếu không, làm sao ngươi thâm nhập vào trận địch, nắm rõ địch tình? Vấn đề là ngươi đã quen việc ẩn nấp, không có tập quán đối mặt với địch nhân. Nhưng ngươi có thể yên tâm. Để đáp tạ công lao của ngươi, hội nghị không những cho ngươi nhiệm vụ ít nguy hiểm, mà còn do bản quán chủ làm cận vệ cho ngươi, đảm bảo ngươi không mất mạng. Hắc! Ngươi có biết tại sao họ lại chỉ định ta bảo hộ cho ngươi không?”

Cao Ngạn ngạc nhiên hỏi: “Lại có lý do đặc biệt sao?”

Trác Cuồng Sinh kiêu ngạo đáp: “Hoang nhân bọn ta chiến tướng như mây, mưu sỹ như mưa, mỗi khi làm việc gì đằng sau đều có thâm ý. Sở dĩ do ta bảo vệ ngươi là vì ở Biên Hoang tập thì bản quán chủ quan tâm tới mạng nhỏ của ngươi nhất. Thử nghĩ nếu tiểu tử ngươi một mạng ô hô thì thiên thư của ta làm sao mà viết được đây?”

Cao Ngạn bật cười: “Đồ điên. Hà! Ngươi khẳng định là một tên điên. Vì viết thiên thư mà ngươi biến thành điên rồi.”

Trác Cuồng Sinh cười nhẹ: “Có thể vì một việc gì đó mà phát điên thì cũng là một kiểu hạnh phúc vì như thế mới có thể có thành tựu. Như ngươi vì Tiểu Bạch Nhạn mà phát điên mới có thể đả động được trái tim non trẻ của nàng ta. Lão tử vì viết thiên thư mà phát điên mới có thể tạo ra tác phẩm ’Ẩu tâm lịch huyết’*. Chỉ cần phương hướng chính xác, không phát điên thì làm sao cho tốt được?”

Cao Ngạn lập tức không nói được gì, một lúc sau than: “Tên điên nhà ngươi, lúc nào cũng có những lý do sai lệch, bẻ cong vấn đề. Đen có thể nói thành trắng, hươu có thể nói thành ngựa được.”

Trác Cuồng Sinh ngưng thần nhìn trận địch, thản nhiên nói: “Lý do sai lệch cũng được, lý do đúng cũng được, đều là đạo lý cả. Tương lai, ngươi có thể cùng Tiểu Bạch Nhạn lưu danh muôn đời hay không toàn là nhờ tên điên này có tiếp tục phát điên nữa hay không đó.”

Cao Ngạn xí xóa: “Dùng ngựa mới thay ngựa cũ quả là tuyệt diệu. Là chủ ý của ai vậy?”

Trác Cuồng Sinh đáp: “Đó chính là một biện pháp bảo trì sỹ khí của Trấn Ác. Nếu không, chiến mã mỏi mệt rồi, chiến sỹ cưỡi trên lưng nó làm gì còn sỹ khí nữa?”

Cao Ngạn hỏi: “Rốt cuộc là bao giờ thì bọn ta bắt đầu tấn công?”

Trác Cuồng Sinh vuốt râu cười đáp: “Thời khắc tấn công chính là một bước rất quan trọng. Ngươi nghĩ xem! Khi màn đêm buông xuống, địch nhân không thể không đốt lửa lớn để chiếu sáng thì sẽ tạo thành cục diện ta ám địch minh, làm địch nhân căn bản không biết bên ta có bao nhiêu người, sẽ bị rơi vào cục diện hoàn toàn bị động. Lần này chúng ta phải đánh cho thật đẹp mắt, tuyệt không cho địch nhân dễ dàng thoát thân. Tông Chính Lương và Hồ Bái hai người đều phải chết. Nếu không, làm sao hiển lộ được thủ đoạn của Hoang nhân chúng ta?”

Tia sáng cuối cùng tắt ở phía trời tây, mặt đất trở nên đen tối. Trong trận địch ánh lửa bừng lên.

Cao Ngạn thoải mái thở ra một hơi nói: “Hà! Địch minh ta ám. Về cảm giác thấy an toàn hơn nhiều.”

Thùng! Thùng! Thùng!

Bờ đông Dĩnh Thuỷ. Ở khu vực bằng phẳng ở mặt Đông của trận địch, , từng hồi trống trận nổi lên truyền lại. Mỗi tiếng trống như đánh thẳng vào tâm khảm người nghe.

Cao Ngạn tinh thần chấn động hỏi: “Phải chăng bắt đầu tấn công?”

Trác Cuồng Sinh đáp: “Làm sao nhanh thế được? Việc đánh trống một mặt là để tăng thêm áp lực lên địch nhân, mặt khác để che giấu âm thanh phát ra khi điều động quân mã. Đợi khi quân ta tiến vào vị trí công kích thì chiến tranh có thể phát động bất cứ lúc nào.”

Cao Ngạn nhìn về phía hạ du Dĩnh Thuỷ. Hai chiếc Song Đầu chiến thuyền vừa lọt vào trong tầm mắt, từ từ tiến về phía trận địch.

Trác Cuồng Sinh đánh giá khí thế bên địch, trầm giọng: “Ta dám đảm bảo người Yên bên trong trận địch đại bộ phận không biết mình đang ở đây làm gì, tại sao phải đến đây, khốn khổ phòng thủ một cửa sông hoang vu này. Không những phải lao tâm lao lực mà còn tắm gió gội sương. Ngược lại, Hoang nhân người nào cũng hiểu rõ không đoạt lại bắc Dĩnh khẩu thì Biên Hoang tập sẽ mất, không còn cách nào tiến hành hành động giải cứu chủ tì Thiên Thiên nữa. Chỉ từ góc độ này mà xét thì sự khác biệt về sỹ khí đã rõ ràng rồi.”

Bóng đêm cuối cùng cũng phủ trùm lên vạn vật. Trên trời lấm chấm các vì sao, trong địch trận ánh lửa chiếu sáng rực.

Bỗng nhiên, ở nơi cách trận địch nửa dặm bên bờ Đông bừng lên ba ngọn đèn hồng quỷ dị phi thường.

Trác Cuồng Sinh hào khí dâng lên tận trời nói: “Trải qua nhiều lần chiến dịch, Hoang nhân chúng ta đã từ một đám ô hợp biến thành đội hùng sư có tổ chức, kỷ luật, lại thiện dụng chiến thuật đánh trong đêm tối dùng đèn hiệu chỉ huy. Đây chính là lấy sở trường của mình đánh sở đoản của địch. Tiểu tử ngươi hãy chờ xem! Một chương hồi mới “Hoang nhân nộ thủ bắc Dĩnh khẩu”** khẳng định là một chương tinh xảo trong thiên thư của ta.”

Sau khi ăn sáng, Yến Phi và An Ngọc Tình chia tay. An Ngọc Tình tự mình lên đường. Yến Phi đến Mã Hành mới biết Giang Văn Thanh vừa tới Kiến Khang. Yến Phi thầm nghĩ việc Ma môn phải do Giang Văn Thanh tự thân truyền đạt cho Lưu Dụ mới thích hợp. Chàng lại muốn biết tình hình mới nhất của Biên Hoang tập nên sai người tìm cách liên lạc Giang Văn Thanh đến gặp. Khi biết phải chờ hai canh giờ, Yến Phi tranh thủ nghỉ ngơi. Chàng hành khí vận công, tiến vào cảnh giới vật ngã lưỡng vong trong một phòng nhỏ ở Mã Hành.

Khi Yến Phi mở mắt ra thì mặt trời đã ngả về tây.

Cửa mở.

Giang Văn Thanh xuất hiện trước mắt, tươi cười nói: “Thật không tưởng nổi đây? Vừa mới tới Kiến Khang đã được gặp đại anh hùng của Biên Hoang tập chúng ta. Ngươi có biết cả Biên Hoang tập đang chờ ngươi trở về không?”

Tiếp đó, nàng ngồi xuống, tỏ ý xin lỗi: “Xin thứ cho Văn Thanh tội đến trễ vì không những phải ứng phó Tư Mã Nguyên Hiển mà còn phải ứng phó với người cha gian ngoan giảo hoạt của hắn nữa. Tinh thần mà không đầy đủ thì không thể chịu nổi. Hic! Vì sao ngươi lại trừng trừng nhìn Văn Thanh như vậy? Ta chỉ thay đổi nam trang thôi mà! Người ta trước đây cũng thường thích ăn mặc thế này.”

Yến Phi cười: “Đại tiểu thư khơi dậy kí ức của ta ngày trước đối với Biên Hoang công tử. Nhưng tuyệt không chỉ đơn giản vì nàng đóng giả nam trang mà còn vì đại tiểu thư đã hồi phục hết thần thái ngày trước, giống như Biên Hoang công tử đã sống lại rồi vậy.”

Giang Văn Thanh vui vẻ nói: “Ta thực đã có một thời gian dài trầm mê, không biết nên tiếp tục thế nào, cũng không có phương hướng. Đều vì từ nhỏ ta đã sống dưới sự bao bọc của cha ta. Cho đến khi cha bị tên gian tặc đó hại chết, ta không thể không học tập để sống độc lập…. Ài! Tư vị đó tuyệt không dễ chịu.”

Yến Phi hỏi: “Ai phòng thủ bên ngoài thế?”

Giang Văn Thanh ngạc nhiên thốt: “Ngươi không biết sao? Là Khoái Ân đó à! Hắn kiên trì theo ta, nói sợ có thích khách.”

Yến Phi gật đầu: “Hắn là người có mưu có dũng, làm như thế là đúng. Kiến Khang bề ngoài xem chừng hoà bình yên ổn, nhưng ngấm ngầm lại có sóng gió hung dữ, tuyệt không thể sơ sót đại khái được.”

Giang Văn Thanh nhíu mày hỏi: “Yến huynh dường như có ý gì đó, rốt cuộc là chuyện gì vậy? Chút nữa thì quên không hỏi ngươi, Tôn Ân phải chăng đã mất đầu dưới Điệp Luyến Hoa của ngươi?”

Yến Phi đem chuyện quyết chiến với Tôn Ân và Ma môn nói lại những điểm chính, lại nhờ Giang Văn Thanh truyền tin cho Lưu Dụ.

Giang Văn Thanh nghe xong sắc mặt lúc sáng lúc tối xầm, nhất thời nói không ra lời cho thấy việc Yến Phi nói cho nàng biết xung kích nàng mãnh liệt thế nào.

Yến Phi tổng kết: “Nếu ta đoán không nhầm thì Trần công công là thuộc một hệ phái nào đó của Ma môn. Lão trường kỳ làm gián điệp nội ứng bên cạnh Tư Mã Đạo Tử. Người mà Ma môn ủng hộ hiện nay rất nhiều khả năng là Hoàn Huyền, làm Hoàn Huyền thực lực đại tăng, ngàn vạn lần không nên khinh thị hắn.”

Giang Văn Thanh gật đầu đồng ý với nhận xét của chàng. Yến Phi tuyệt không phải là dự đoán không có cơ sở mà là có chứng cứ vì Lý Thục Trang và Can Quy ngấm ngầm câu kết là việc tự miệng Lý Thục Trang thừa nhận với Lưu Dụ.

Yến Phi hỏi: “Tình hình Biên Hoang tập thế nào?”

Giang Văn Thanh bất chợt nhớ lại Cao Ngạn chưa biết sống chết thế nào, ảo não cúi đầu, đem tình hình nguy cấp của Biên Hoang tập nói lại hết cho Yến Phi.

Cuộc chiến do hai chiếc Song Đầu chiến thuyền khai hoả. Dưới sự yểm hộ của bóng tối, hai chiến thuyền ngược dòng tiến về phía trận địch. Đến cách trận địch hai ngàn bước, vẫn nằm ngoài tầm bắn của máy bắn đá và cung tên của địch nhân thì từ trên thuyền mấy chục tia lửa phóng vọt lên không bắn về phía trận địch. Lửa khói tạo thành từng vệt dư ảnh với quỹ đạo diệu kỳ, sáng rực tuyệt đẹp.

Đó chính là hoả khí ‘Thần hoả phi nha’ do Cơ Biệt đốc thúc thợ lành nghề chế tạo binh khí ngày đêm không nghỉ gấp rút chế ra, lại dựa trên tình hình địch nhân mà cải tiến thiết kế. Hình dạng như con quạ, dùng vải bông quấn lại, bên trong chứa hoả dược, chế thêm đuôi và cánh để tăng cường sự ổn định và sức bay xa khi phi hành trong không trung. Khi bắn ra giống như chim bay.

Dưới bụng quạ có gắn bốn mũi hoả tiễn, trở thành động lực phi hành rất mạnh, làm hoả khí bay xa hơn trăm trượng. Khi đến mục tiêu thì hoả dược phát nổ, không những làm mục tiêu bén lửa bốc cháy mà còn phóng ra độc khí chủ yếu là tì sương, có thể làm địch nhân trúng độc hôn mê. Hơn nữa khói mù mịt, che hết tầm nhìn của địch, vô cùng hữu hiệu.

Dưới tình hình hai quân đối luỹ thì dùng hoả khí công kích đối phương chỉ có tác dụng hữu hạn. Nhưng khi địch nhân cố thủ trong một không gian cố định, lại trong thế bị động như tình hình trước mắt thì hoả khí sẽ phát huy sức sát thương và sức phá huỷ lớn nhất.

Đại bộ phận ‘Phi Nha’ rơi xuống trận địch, nhất thời tiếng nổ liên hồi, hoả quang loé sáng, từng đám khói đen theo gió tản ra bốn phương tám hướng. Nếu như không có gió tây bắc thì tình hình quân Yên càng ác liệt. Nhưng hiện giờ thì khói độc bao trùm toàn bộ trận địa máy bắn đá dưới hạ du.

Hai toà tiễn lâu nhiều chỗ bắt lửa, địch nhân muốn cứu không được.

Đá tảng không ngừng từ máy bắn đá bắn ra, nhưng vì tầm nhìn người Yên bị khói che khuất nên đều mất độ chuẩn xác.

Lập tức trận cước Yên quân đại loạn, không chịu nổi khói độc nên tranh nhau bỏ vị trí, loạn đến nỗi trận thế tan tành, nhất thời mất sức phản kích.

Hai chiếc Song Đầu chiến thuyền không ngừng tiến lại gần trận địch, phát xạ đợt ‘Thần hoả phi nha’ lần thứ hai, cũng là đợt cuối cùng. Lập tức lại có mấy toà tiễn lâu bốc cháy, người Yên kêu khóc chạy loạn lên.

Chiến sỹ Hoang nhân trên Song Đầu thuyền dùng hết hoả khí liền dùng tên lửa thay vào đối phó địch nhân. Bọn họ đã dùng vải ướt bịt chặt mũi miệng nên không sợ khói độc.

Trác Cuồng Sinh, Cao Ngạn và một đám chiến sỹ Hoang nhân thấy Song Đầu thuyền tiến vào đoạn sông Dĩnh Thuỷ bị khói mù bao phủ, không nhìn thấy nữa nhưng vẫn hò hét vang trời trợ uy.

Bọn họ biết thắng lợi đã nắm vào trong tay. Khi Song Đầu thuyền húc gãy phù kiều tạm thời nối liền hai bờ chính là lúc bộ đội lục quân toàn diện tiến công.

Họ vẫn đang chờ đợi.

*****

Yến Phi đứng ở bờ bắc Đại Giang, quay đầu nhìn toà đô thành vĩ đại ở bờ bên kia.

Bất kỳ thành nào cũng sẽ có một ngày rơi vào tay một bên nào đó, đó là tính tất yếu của lịch sử. Mỗi triều đại cuối cùng sẽ có một ngày không thoát khỏi vận mệnh diệt vong, bất kể nó từng hưng thịnh cường mạnh đến thế nào đi nữa. Chia lâu rồi sẽ hợp, thịnh cực tất suy. Nhưng Kiến Khang từng có những tướng soái phong lưu như Tạ An, Tạ Huyền nên khẳng định sẽ danh lưu thiên cổ, mỹ danh không phai mờ.

Kiến Khang là địa phương ngoài Biên Hoang tập làm Yến Phi cảm thụ sâu sắc nhất. Trên Vũ Bình đài của Tần Hoài lâu bên bờ sông Tần Hoài, chàng đã gặp được nữ thần của lòng chàng là Kỷ Thiên Thiên.

Ở Kiến Khang, chàng đã trải qua những ngày tháng mất mát và ảm đạm nhất. Chàng nghĩ tới Vương Đạm Chân, nghĩ tới vận mệnh bi thảm của nàng và quan hệ của nàng với Lưu Dụ.

Nàng là vết thương vĩnh viễn không lành trong lòng Lưu Dụ. Kể cả Lưu Dụ sau này trở thành chủ nhân phương Nam, nhưng quãng đời quá khứ gắn với Vương Đạm Chân sẽ vĩnh viễn đồng hành với gã.

Yến Phi xoay người lại, đối mặt với Kiến Khang đèn lửa huy hoàng, trong lòng trăm mối tơ vò.

Chàng hiểu rõ sở dĩ tâm lý chàng đa sầu đa cảm như thế, nguyên nhân một phần khẳng định là do nguyên khí bản thân bị tổn thương làm định lực giảm mạnh, trở lại trạng thái tinh thần như thời kỳ trước khi thai tức trăm ngày. Nhưng chàng lại có chút hưởng thụ cái cảm giác ‘Người’ đó, làm chàng có những cảm thụ ‘mới lạ’. Một nguyên nhân khác là do Giang Văn Thanh vừa đưa chàng quá giang, nàng biến thân trở lại bộ dạng Biên Hoang công tử như ngày nào, làm dấy lên ký ức của chàng về những ngày đó.

Không thể phủ nhận là cuộc chia tay với An Ngọc Tình cũng khơi dậy trong lòng chàng một tình cảm khó hình dung. Liệu còn có ngày gặp lại nàng không? Những suy nghĩ này tuyệt không xuất hiện trước khi chàng bị Tôn Ân đả thương. Nhưng sau lần quyết chiến thứ ba với Tôn Ân, lão đã làm chàng phát sinh cảm giác nguy hiểm.

Ngay vào lúc chán nản đó, trong lòng chàng xuất hiện cảnh báo.

Yến Phi từ từ quay lại, thấy một nam tử trung niên mặc kiểu văn sỹ, dáng vóc cao lớn. Y chắp tay sau lưng đứng cách hai trượng, nhãn thần lợi hại tưởng chừng có thể nhìn thấu hư thực của chàng, mục quang hắn đang lấp loé như thầm ước lượng chàng. Yến Phi bề ngoài thần sắc không đổi, nhưng trong lòng vô cùng ngạc nhiên. Kể cả linh giác của mình đã giảm mạnh, nhưng người này có thể âm thầm tới cách hai trượng sau lưng chàng mới bị chàng phát hiện đủ biết võ công người này cao minh lợi hại như thế nào.

Người kia ha ha cười nói: “Bản nhân Ba Thục Tiều Phụng Tiên chào hỏi Yến huynh.”

Y vừa lên tiếng, Yến Phi lập tức nhận ra y là cao thủ Ma môn tối qua bí mật gặp gỡ với Lý Thục Trang ở tiểu đình trong vườn của Hoài Nguyệt lâu, bất chợt trong lòng kêu khổ. Nếu như Lý Thục Trang và Trần công công đang ẩn thân trong rừng cây ngoài mười trượng phía sau lưng chàng chờ cơ hội liên thủ tấn công mình, trong khi mình không thể sử ra ‘Tiên Môn kiếm quyết’ thì chàng quả thực lành ít dữ nhiều rồi.

Lý Thục Trang và Trần công công đương nhiên sẽ không tuỳ tiện xuất thủ vì sẽ làm lộ thân phận họ. Nhưng nếu Tiều Phụng Tiên có thể đôi co với mình, hoặc chứng thực được chàng đã bị thương thật thì chàng lập tức gặp nguy hiểm vô cùng.

Yến Phi giả vờ như chưa từng gặp y, nhíu mày hỏi: “Các hạ với Tiều gia ở Ba Thục có quan hệ gì?”

Tiều Phụng Tiên thần thái lạnh lùng, phong phạm của một cao thủ nhất phái cười nhẹ: “Tiều Túng chính là gia huynh.”

Tiếp đó song mục thần quang đại thịnh, điềm đạm: “Hiện giờ Yến huynh đã biết ta ‘lai giả bất thiện, thiện giả bất lai’. Tiều gia chúng ta đang toàn lực ủng hộ Nam Quận công mà Yến huynh lại là cái gai trong mắt Nam Quận công.”

Yến Phi thầm hô lợi hại. Người này thẳng thắn nói rõ ý định đến đây, không phải vì y là người thẳng thắn. Mà vì ý muốn thăm dò tình hình của mình, từ phản ứng của Yến Phi chàng mà y phán đoán, xem chàng phải chăng đã lưỡng bại câu thương với Tôn Ân. Đó là cách giải thích duy nhất đối với việc chàng và Tôn Ân đồng thời vẫn còn sống.

Nói cách khác, Tiều Phụng Tiên chính là cho rằng mình thân thụ nội thương nên cố ý đến chiếm tiện nghi. Y có động thủ hay không còn phải xem phản ứng và biểu hiện của Yến Phi.

Chỉ cần Yến Phi có thể làm y cảm thấy mình hoàn toàn không bị thương thì Lý Thục Trang và Trần công công sẽ không dám mạo hiểm xuất thủ làm tiết lộ thân phận. Nếu không, dù có thể thoát thân đào tẩu, nhưng những tháng ngày trước khi chàng khỏi hẳn thương thế sẽ tuyệt không dễ dàng vì Ma môn sẽ toàn lực tìm giết chàng.

Nhưng làm sao đây?

Yến Phi ung dung nói: “Tiều huynh động thủ đi! Yến Phi xin lĩnh giáo cao minh.”

Tiếu Phụng Tiên song mục bừng lên dị mang màu tím xanh, cho thấy y đang đề tụ Ma công. Cùng lúc đó, Yến Phi cảm thấy không khí xung quanh vốn thanh tân bỗng đột ngột loãng ra, Ma công của đối phương đã khoá chặt chàng.

Cao thủ Ma môn đó ngửa mặt nhìn trời cười lớn: “Quả nhiên ta đoán không sai. Yến Phi ngươi đúng là đã thụ thương, lại là nội thương nghiêm trọng khó có thể khỏi được. Ngươi không thể thi triển kiếm chiêu bá đạo có thể đoạt mất hồn phách người ta nữa. Nếu không, ngươi sẽ không bị ta đến cách sau lưng có hai trượng mới phát sinh cảnh giác, càng không động thủ chỉ động khẩu như bây giờ.”

Yến Phi cuối cùng cũng chứng thực được suy nghĩ vừa rồi.

Lý Thục Trang và Trần công công đang rình mò bên cạnh, xem giờ có phải là cơ hội tốt để giết Yến Phi chàng không. Câu nói của Tiều Phụng Tiên không để cho Yến Phi nghe mà là nói cho bọn họ.

Yến Phi tĩnh tâm lại, bỏ hết tạp niệm khỏi đầu, lập tức cảm giác được khí trường Ma công của Tiều Phụng Tiên có đặc tính chuyển động không ngừng, phiêu hốt khó đoán. Lòng thầm hô nguy hiểm. Nếu như không phải chân khí ’âm trong âm’ của An Ngọc Tình làm nguyên khí bị thương tổn của mình có chuyển biến thì khẳng định không thể phát hiện được đặc tính kỳ dị ma khí của đối phương.

Ý nghĩ này vừa nổi lên, trong lòng Yến Phi đã có mưu kế.

Chú thích

* Ẩu tâm lịch huyết. Thành ngữ này có nghĩa dồn hết sức lực, tâm lực để làm việc gì. Việc này giống như một chuyện thời xưa có một thế cờ tiên là ‘Ẩu Huyết Phổ’, tiên bày thế cờ khó, người mê chơi cờ suy nghĩ mãi đến thổ huyết mà không nghĩ ra được.

** Hoang nhân nộ thủ bắc Dĩnh khẩu: Hoang nhân tức giận đoạt lấy bắc Dĩnh khẩu.Trong sáu toà luỹ trại thì bốn toà bén lửa bốc cháy. Tiễn lâu không may mắn như thế, toàn bộ chìm trong biển lửa, khói đen cuồn cuộn trào ra. Người Yên càng không thể giữ trận địa trong không gian hữu hạn được nữa, tranh nhau rời khỏi trận địa theo tiễn hào chạy ra khu đất rộng bên ngoài.

Tình hình hai bờ Đông, Tây hoàn toàn khác nhau. Vì bộ đội Hoang nhân tập kết bên ngoài trận địa bờ Đông nên chủ soái quân Yên là Tông Chính Lương đem toàn bộ một ngàn hai trăm bộ đội chủ lực trong tay điều sang bố phòng bên bờ Đông. Một ngàn người Yên nữa chủ yếu là lính công binh thì phụ trách thao tác máy bắn đá và công tác hậu cần.

Năm trăm người còn lại thủ hộ trận địa bên bờ Tây. Bọn họ không những chưa từng ra trận, lại không phải là người Tiên Ti, mà là dân thường bị cưỡng bức tới đây để phụ trách việc xây dựng trại, tiễn lâu và công sự.

Hoang nhân dùng hai chiếc Song Đầu thuyền làm bộ đội xung phong hãm trận đã nằm ngoài dự liệu của Tông Chính Lương. Họ dùng hoả khí khói độc phá trận từ xa lại càng làm hắn trong lúc trở tay không kịp không còn sức đánh trả.

Vấn đề lớn nhất của quân Yên là liên tục nhiều ngày nay phải xây trại, tiễn lâu và đào hào. Thêm vào đó là tuyết lớn liên tục, lại bị Cao Ngạn làm náo loạn đến nghiêng trời lệch đất, người ngựa mỏi mệt, sỹ khí tiêu tan, đã sớm mất đấu chí và sức chiến đấu vốn có.

Khi Song Đầu thuyền dùng đầu thuyền bọc thép húc gãy hai đạo phù kiều, cắt đứt liên hệ hai bờ Đông – Tây, rồi không dừng lại tiến lên thượng du thì sự khủng khiếp hoảng loạn đã như ôn dịch lan tràn khắp nơi. Bị ảnh hưởng trước tiên là người thợ Hán tộc bên bờ Tây, họ tranh nhau chạy tứ tán khỏi trận địa bị khói lửa bao trùm, trận thế tan vỡ, hoàn toàn sụp đổ.

Số người bỏ chạy bên bờ Đông cũng nhiều, nhưng vẫn còn gần ngàn chiến sỹ dưới sự chỉ huy của tiếng tù và, rời khỏi khu lửa cháy đến khu bằng phẳng rộng rãi tiến hào phía đông bố trận nghênh chiến, muốn dùng thế bối thuỷ*.

Một ngàn hai trăm chiến sỹ tinh nhuệ của Hoang nhân do Mộ Dung Chiến chỉ huy, Vương Trấn Ác làm phó tướng chia thành ba quân tả, hữu và trung, tiến thẳng tới cách chỗ Yên quân bố trận hơn hai ngàn bước. Toàn bộ đều là khinh kỵ, binh cường mã tráng, chờ đợi thời khắc xuất kích.

Nhìn thấy địch nhân cờ xí ngả nghiêng, kỷ luật hỗn loạn, hơn nửa người và ngựa đã bỏ chạy mất, Mộ Dung Chiến song mục lấp loáng nhìn qua phía địch nhân rồi cười nói với Vương Trấn Ác bên cạnh: “Không có lúc nào như lúc này làm người ta hiểu rõ tầm quan trọng của việc nắm vững thời cơ. Lần này có thể thu được kết quả huy hoàng như vậy toàn là nhờ Cao tiểu tử thăm dò rõ địch tình, lại được Trấn Ác trù mưu, định ra sách lược tấn công tinh tế như thế. Nói thật ra thì ta rất thông cảm với Tông Chính Lương. Lần này hắn đúng là có tội không chiến, thua tại vận khí.”

Thấy mắt Vương Trấn Ác không ngừng lùng sục phía địch nhân, hắn hỏi: “Ngươi phải chăng đang tìm Hướng Vũ Điền?”

Vương Trấn Ác than: “Đúng là ta đang tìm hắn. Nói thật, cảm giác của ta đối với y có chút mâu thuẫn. Vừa hy vọng y có trong đội ngũ địch nhân, có thể một trận thu thập y. Lại hy vọng y không dính dáng đến sự việc, tránh được kiếp nạn.”

Mộ Dung Chiến gật đầu: “Ta hiểu tâm tình phức tạp của Trấn Ác. Cái tên gia hoả Hướng Vũ Điền thật làm người ta vừa yêu vừa hận. Nhưng trên chiến trường thì không có tình người nào đáng nói, chỉ còn cách dùng hết mọi phương pháp đả kích và sát thương đối phương.”

Tiếp đó hắn thét: “Đánh trống!”

Mười người phụ trách đánh trống đằng sau đồng thanh đáp ứng, tiếng trống trận vang lên động trời.

Tiếng hò hét vang lừng khu hoang dã đen tối bên dòng Dĩnh Thuỷ. Theo mệnh lệnh của Mộ Dung Chiến, ba trăm quân cánh trái do Diêu Mãnh suất lĩnh phóng ra trước tiên, đánh giết thẳng vào trận địch. Người nào cũng giương cung đặt tên, không quản thân mình.

Tiếp đó là hai trăm quân cánh phải do Đinh Tuyên chỉ huy cũng giục ngựa tiến lên, đánh về phía trái trận địch. Nhất thời tiếng vó ngựa vang rền, sát khí xung thiên.

Quân đối phương chưa đánh tới thì Yên quân đã loạn, một bộ phận vứt bỏ binh khí chạy về phía trái. Lại có người không kể trời đông giá lạnh, quay đầu chạy về trận địa nhảy xuống sông bơi sang bờ bên kia.

Mộ Dung Chiến thấy địch chưa đánh đã khiếp sợ liền không do dự, thét lớn ra lệnh. Trung quân hùng mạnh tiến lên, nhưng không như hai quân trái phải toàn lực phóng đi, mà từ từ tiến đánh. Hai cánh nhanh, một cánh chậm, càng tăng thêm uy thế và áp lực lên địch.

Bên địch số người bỏ chạy càng lúc càng nhiều làm chủ soái Tông Chính Lương và Phó soái Hồ Bái dù hò hét thế nào cũng không hề tác dụng.

Ai cũng biết đại thế đã mất.

Yên quân cuối cùng cũng toàn thể tan rã.

Ưu thế lớn nhất của Yến Phi là biết rõ Tiều Phụng Tiên là thần thánh phương nào, cũng hiểu ý đồ và thủ đoạn của đối phương. Tiều Phụng Tiên lại vẫn có thái độ hoài nghi về việc chàng có bị thương hay không. Nếu không, y đã sớm gọi Lý Thục Trang và Trần công công đến toàn lực đánh chàng rồi.

Cao thủ quá chiêu, thắng bại chỉ cách nhau một đường tơ. Trí giả tính toán, chỉ cần cờ sai một nước là hỏng cả bàn.

Yến Phi chính nhờ một điểm ưu thế đó, nghĩ được mưu kế sách lược cầu sinh. Dương thần của chàng được nguyên âm của An Ngọc Tình dẫn phát, hé lộ sinh cơ, cũng làm chàng hồi phục một phần linh lực, có thể cảm ứng được tình hình vi diệu trong khí kình của Tiều Phụng Tiên. Không những phán đoán ra võ công Tiều Phụng Tiên không dưới bất kỳ người nào trong bọn ba đại cao thủ Ma môn Khuất Tinh Phủ, mà chàng còn từ đặc tính lưu động của chân khí y mà biết được người này giỏi chuyển hoán chân khí, làm công phu thân pháp của y có thể làm những việc ngược với quy luật vật lý thông thường, nhanh như quỷ mỵ.

Chính vì Tiều Phụng Tiên lấy khinh công thân pháp làm sở trường nên mới có thể đến rất gần Yến Phi mới bị phát giác. Y còn tự cho rằng nếu có gì không hay thì có thể dùng khinh công bỏ chạy dễ dàng. Vì thế y không sợ một mình đối mặt với Yến Phi.

Yến Phi phát sinh một loại cảm giác hoàn toàn khác, vô cùng mỹ diệu nắm được toàn bộ tình hình đối phương, lại cảm thấy vô cùng tươi mới thích thú. Vì từ khi chàng kết Kim Đan thì đã không dùng hết trí lực để ‘tri địch’ như thế nữa.

Chàng cười nhẹ: “Tiều huynh thích nghĩ thế nào thì nghĩ. Cái đầu của Tiều huynh là của Tiều huynh. Nhưng để Yến mỗ đề tỉnh Tiều huynh một chuyện. Đó là một khi động thủ rồi, Yến mỗ có muốn lưu thủ cũng không được. Nếu như Tiều huynh cho rằng bằng vào thân pháp hơn người, khi tình hình không hay thì tuỳ thời có thể chạy đi thì là sai lầm lớn đó.”

Đồng tử trong mắt Tiều Phụng Tiên co thắt lại. Mặc dù sắc mặt không hề biến hoá nhưng Yến Phi đã phát giác lòng y chấn động, không những bị mình khám phá khinh công cao cường, mà còn bị khơi dậy ký ức về câu chuyện do Lý Thục Trang kể lại việc mình đại phá ba đại cao thủ Ma môn.

Sắc tím xanh trong mắt Tiều Phụng Tiên càng thịnh, không chớp nhìn Yến Phi, trầm giọng: “Ta không hề có ý muốn làm địch nhân với Yến huynh. Chỉ hận là Yến huynh đắc tội với Nam Quận công. Nếu như Yến huynh lập lời thề vĩnh viễn không qua Hoài Thuỷ nửa bước thì Phụng Tiên có thể thay Nam Quận công làm chủ, ân oán của chúng ta một nét xoá ngang.”

Yến Phi đương nhiên không tin lời quỷ quái của Tiều Phụng Tiên. Nói cho cùng thì y vẫn đang thăm dò mình, xem có phải Yến Phi chàng đang nhẫn nhục chịu đựng không, từ đó phán đoán tình hình thực sự của mình.

Yến Phi ngửa mặt nhìn trời cười nói: “Tiều huynh chừng như mới bước chân vào giang hồ nên mới nói được những lời ấu trĩ như thế. Yến Phi ta là loại người nào, lại phải bị người quản thúc? Tiều huynh chưa thấy chết sợ là sẽ chưa từ bỏ ý đồ. Động thủ đi!”

Tiều Phụng Tiên nhíu mày: “Yến huynh tuy nói rất hùng hồn, nhưng lại toàn lời thừa. Cuộc chiến hôm nay không tránh được rồi. Bất kể Yến huynh có kỳ công tuyệt nghệ thế nào, bản nhân cũng phụng bồi đến cùng, xem Yến huynh có cao minh như lời tự mình nói ra hay không.”

Yến Phi lòng trong mắt sáng, nắm được nguyên nhân đằng sau việc tại sao cho đến lúc này mà Tiều Phụng Tiên vẫn chưa chịu thôi. Chính là vì Tiều Phụng Tiên cho rằng cùng với Lý Thục Trang và Trần công công liên thủ thì uy lực sẽ lợi hại hơn bọn ba người Vệ Nga. Thêm vào đó, Tiều Phụng Tiên nhận định chàng vì quyết chiến Tôn Ân nên đã bị nội thương nên không muốn bỏ lỡ cơ hội khó gặp như vậy. Giả sử Yến Phi chàng vẫn tiếp tục nhẫn nhịn thì có thể khẳng định Tiều Phụng Tiên sẽ lập tức phát động.

Yến Phi cười khổ: “Ta chỉ muốn dùng lời tốt để khuyên giải vì không muốn đại khai sát giới. Cách đây chưa lâu, có ba người lai lịch bất minh, không nghe theo lời trung ngôn nghịch nhĩ của ta đã cầu chết được chết rồi. Nếu như bây giờ chỉ có một mình Tiều huynh thì Yến mỗ đã lập tức động thủ rồi. Nhưng Tiều huynh không những có bạn hữu đồng hành, lại là cao thủ không dưới Tiều huynh. Vì thế Yến mỗ mới dùng lời tốt đẹp mà khuyên can, xem có thể kết thúc trong hòa khí hay không.”

Choang!

Điệp Luyến Hoa rời vỏ, chỉ sang Tiều Phụng Tiên.

Tay phải Tiều Phụng Tiên đưa ra sau lưng mò một cái, lập tức trên tay xuất hiện một cây trúc tiết thiết giản chỉ dài thước rưỡi, có thể cứng có thể mềm, có đặc tính kỳ dị trong cương có nhu. Nếu phối hợp với thân pháp lưu động khó đoán của y thì quả thực có thể thi triển hết công phu của thiết giản.

Chân khí từ mũi Điệp Luyến Hoa vọt ra.

Tiều Phụng Tiên hơi ngạc nhiên, bước lên nửa bước, rồi lại lùi lại hai bước.

Tiều Phụng Tiên cuối cùng cũng biến sắc.

Trong lòng Yến Phi vô cùng thống khoái. Vào lúc đối diện với đại địch, sinh tử quan đầu thì "Nhật nguyệt lệ thiên đại pháp" của chàng lại có sáng tạo mới, phát huy được chỗ tinh kỳ độc đáo dị thường.

Đầu tiên, chàng dùng Thái Âm chân khí từ xa công địch, Tiều Phụng Tiên lập tức bị rơi vào thế bị động, bắt buộc phải toàn lực vận công chống lại. Nhưng lại bị đặc tính chí âm chí nhu của Thái Âm chân khí trói chặt lại, giống như Vệ Nga, có thể sinh ra lực trói buộc làm không gian bị thu hẹp lại.

Tiều Phụng Tiên không khống chế được, bị Thái Âm chân khí kéo đi, phải bước lên trước nửa bước mới có thể làm tiêu loại lực đạo kỳ quái đó.

Tiếp đó, Yến Phi biến Tiến Dương hoả thành Thoái Âm phù, Thái Âm chân khí tự nhiên chuyển thành Thái Dương chân khí, từ chí hàn chuyển thành chí nhiệt. Không gian đang bị thu hẹp lại bành trướng nở ra rất nhanh giống như một vụ nổ. Tiều Phụng Tiên cảm thấy khốn đốn như một cây cỏ dại không còn gì chống đỡ giữa cuồng phong, bị kình khí đẩy lùi lại gần hai bước.

Nhưng Yến Phi cũng dò ra được công lực của Tiều Phụng Tiên còn trên cả Khuất Tinh Phủ, không lạ tại sao y dám đơn thân đến thăm do hư thực của chàng.

Vì trường khí của cơ thể đã khoá chặt Tiều Phụng Tiên nên bất kể đối phương có biến hoá gì đều bị Yến Phi nắm bắt được.

Tiều Phụng Tiên cuối cùng cũng mất hết lòng tin, không dám khẳng định Yến Phi thân bị trọng thương nữa.

Cũng không lạ tại sao Tiều Phụng Tiên sợ hãi vì "Tiên môn kiếm quyết" của Yến Phi đúng là kiếm pháp xưa nay chưa tùng có. Thương thế của chàng do "Hoàng Thiên đại pháp" của Tôn Ân gây ra lại không phải là nội thương bình thường, vô hình vô tướng, chỉ nhìn bên ngoài thì không thể nhận thấy được. Chỉ có Yến Phi tự mình hiểu rõ trong lòng, một ngày nguyên khí chưa phục hồi thì chàng vẫn không cách gì thi triển "Tiên Môn kiếm quyết" được.

Dù đã giao thủ đấu nhau, nhưng Tiều Phụng Tiên cũng không cách gì khám phá hư thực của Yến Phi. Việc đó đã hoàn toàn vượt khỏi phạm trù kiến thức hiểu biết của y. Vì thế, y làm sao lại không biến sắc thất kinh cho được?

Chỉ cần doạ cho Tiều Phụng Tiên khiếp sợ bỏ chạy thì Yến Phi có thể giải quyết xong nguy cơ này. Nếu không, chàng chỉ còn cách toàn lực đột vây đào tẩu, nhưng sau này sẽ không còn ngày nào an lạc nữa.

Yến Phi ung dung nói: “Đây là cơ hội cuối cùng ta dành cho Tiều huynh đó.”

Chân chàng đạp theo những bước kỳ diệu, tay huy kiếm chém ra.

Tiều Phụng Tiên nhất thời nhìn đến ngây người.

Đó vốn là một chiêu số bình thường không có gì kỳ lạ, nhưng từ tay Yến Phi sử ra lại vô cùng trôi chảy tự nhiên, tuyệt diệu đến mức trở thành một tuyệt nghệ. Lúc này hai người vẫn cách nhau tới hai trượng, nhưng Tiều Phụng Tiên cảm giác rõ ràng khi kiếm của Yến Phi đưa lên đến ngang vai thì cũng là lúc chàng đã đến trước mặt y chỉ còn cách nửa trượng. Đó chỉ là một chiêu kiếm đơn giản của chàng, nhưng tốc độ kiếm đi lại không ngừng biến hoá, lúc nhanh lúc chậm. Đó không những là điều Tiều Phụng Tiên cố kỵ nhất, mà thứ làm y mất hết ý chí phản kích còn là kiếm kình lúc hàn lúc nhiệt, cương nhu giao tế, làm người ta không biết làm sao vận kình chống lại được. Nếu như có gì sai sót thì hậu quả khẳng định là Tiều Phụng Tiên y sẽ phơi thây dưới kiếm Yến Phi. Càng lo ngại hơn nữa là kiếm chiêu mà Yến Phi đang đánh tới có thể là kiếm chiêu đáng sợ mà Yến Phi dùng giết chết ba người bọn Vệ Nga như lời Lý Thục Trang kể lại.

Tiều Phụng Tiên cười dài một tiếng, vụt lùi lại như thiểm điện, cất giọng: “Xin thứ cho Phụng Tiên không bồi tiếp được nữa.”

Yến Phi đứng lại, đút kiếm về vỏ, cao giọng: “Yến mỗ không tiễn nữa!”

Nhìn theo bóng Tiều Phụng Tiên biến mất trong rừng, Yến Phi ngấm ngầm gạt mồ hôi lạnh.

Hai chiếc Song Đầu thuyền dưới sự chỉ huy của Hồng Tử Xuân và Cơ Biệt, sau khi húc gãy hai chiếc phù kiều liền tiếp tục tiến lên thượng du, rời khỏi địch trận bị khói độc bao trùm đi thẳng tới cửa sông. Khi tới Tứ Thuỷ, trên thuyền liền thắp phong đăng lên, các ngọn đèn chiếu sáng về phía bắc Dĩnh khẩu. Các chiến sỹ trên thuyền người nào cũng cầm sẵn cung cứng tên nhọn, chuẩn bị bắn chết bất kỳ người nào xuất hiện trong tầm bắn.

Đối với địch nhân mà nói, bọn họ vào lúc này, ở chỗ này giống như là hoá thân của tử thần vậy. Điều đó khiến địch nhân định men theo sông chạy về phương Bắc sợ hãi, phải chạy bừa về hai phía đông, tây, lại làm địch nhân không còn dám tụ tập lại chống cự nữa.

Song Đầu thuyền vượt qua bắc Dĩnh khẩu thì chiến sự đã kết thúc. Tàn quân do Tông Chính Lương và Hồ Bái chỉ huy bị chiến sỹ Hoang nhân xung kích đánh cho tan nát, quân không thành quân.

Hai bên vừa mới tiếp cận, Yên quân đã giữ không nổi, vứt cả giáp trụ binh khí bỏ chạy thục mạng. Lúc này, ba trăm quân tinh nhuệ do Thác Bạt Nghi suất lĩnh đang mai phục trong khu rừng rậm ở thượng du trận địch, cách bờ đông Dĩnh khẩu hơn một dặm.

Mục tiêu chính là chủ soái Tông Chính Lương và Hồ Bái.

Địa điểm mai phục đã được tính toán cẩn mật, trên cơ sở tính toán chuẩn xác tâm thái địch nhân.

Vì chủ lực Hoang nhân bố trí tại bờ đông Dĩnh Thuỷ nên thân là chủ soái Tông Chính Lương và Hồ Bái tất phải ở bờ đông chủ trì đại cục. Khi Song Đầu thuyền dùng hoả khí khói độc công hãm trận địch, lại húc gãy phù kiều, chặt đứt giao thông liên hệ giữa hai bờ thì Tông, Hồ hai người không còn lựa chọn nào khác, phải xuất trận nghênh chiến.

Bộ đội chủ lực của Hoang nhân lúc đó sẽ như sét đánh ngang tai tấn công mạnh mẽ, đánh tan quân Yên.

Tông, Hồ hai người thấy đại thế đã mất, chết hay không bằng sống dở, sẽ bỏ chạy theo Dĩnh Thuỷ về phương Bắc. Nhưng dưới sự uy hiếp của hai chiếc Song Đầu chiến thuyền, chúng buộc phải thay đổi lộ tuyến đào tẩu. Trong tình thế không thể nhảy vào Dĩnh Thuỷ bỏ trốn vì như thế sẽ trở thành bia tên của các chiến sỹ trên thuyền nên chỉ còn cách chuyển hướng chạy sang phía đông, sẽ bị Hoang nhân mai phục ở đây chặn đường.

Toàn bộ kế hoạch do Vương Trấn Ác nghĩ ra, cho thấy ‘cha hổ thì không sinh con chó’ là sự thật. Cuộc chiến này đã khẳng định địa vị là một đại gia quân sự của Vương Trấn Ác trong lòng Hoang nhân.

Tiểu Kiệt khẩn trương nói: “Đến rồi!”

Mấy chục kỵ binh đang vong mạng chạy đến. Đám Yên binh này chính là số bỏ chạy khỏi chiến trường trước khi tiếp chiến, lại đang cưỡi ngựa nên chạy tới đây đầu tiên.

Thác Bạt Nghi lạnh lung nói: “Đó chỉ là lâu la tiểu tốt, để chúng chạy đi!”

Địch kỵ hoảng hốt chạy qua bên ngoài rừng, chớp mắt đã biến mất trong khu rừng núi hoang dã tối đen.

Tiếp đó là địch nhân chạy bộ tới, đại bộ phận chúng chạy vào khu rừng tuyết bên trái nơi Hoang nhân mai phục. Chúng không có cái lợi cưỡi khoái mã nên chỉ còn cách mượn rừng rậm yểm hộ để trốn khỏi sự truy sát của Hoang nhân.

Khu rừng rậm này nằm ở bờ nam Tứ Thuỷ, phía đông bắc Dĩnh Khẩu, kéo dài liên tiếp đến mấy dặm. Đó là nơi rất tốt để giấu thân giữ mạng, cũng là nơi thuận tiện để mai phục tập kích địch nhân.

Thác Bạt Nghi vận dụng hết nhãn lực, nhìn kỹ đám địch nhân đang chạy vào rừng. Ngay lúc này, không ngờ trong lòng hắn lại nghĩ về Hương Tố Quân.

Nàng từng yêu cầu được tham gia hành động lần này, nhưng bị hắn kiên quyết từ chối. Hắn có một suy nghĩ là hy vọng nàng có thể rời xa chiến trường, không nhúng vào máu tanh của chiến trường. Nghĩ tới nàng, lại nghĩ tới hoàn cảnh của mình hiện tại, Thác Bạt Nghi lại có cảm giác vô cùng chán nản.

Trong thời đại chiến tranh này, mỗi khắc tình thế lại có biến hoá mới, làm người ta luôn có cảm giác nguy cơ sáng còn sống, nhưng không biết có giữ được đến buổi chiều không. Tương lai trở nên bất ổn định và rất khó dự đoán.

Chỉ cần Thác Bạt Khuê ra một mệnh lệnh là hắn phải rời khỏi Biên Hoang tập. Hắn không thể tự nắm lấy tương lai được. Đối với mỗi một quân nhân mà nói thì vận mệnh tuyệt không nằm trong bàn tay mình, mà nằm trong tay thống soái cấp trên.

Giống như đám địch nhân đang chạy thục mạng như chó nhà có tang kia, họ tuân theo mệnh lệnh của Mộ Dung Thuỳ mà đến đây, gặp ách vận thê thảm này.

Tiểu Kiệt lại nói: “Đúng là đang đến rồi!”

Trước khi hắn mở miệng hô hoán thì Thác Bạt Nghi đã sớm thấy một đoàn hơn trăm địch kỵ đang phóng nhanh về phía họ, đội hình tán loạn. Hai người dẫn đầu chính là hai tướng lĩnh của địch, thân mặc quân phục của tướng. Trong đó có một tên mà dù cháy thành tro họ cũng nhận ra chính là Hồ Bái, phản đồ của Hán bang. Một người khác thì theo tuổi tác ngoại hình có thể khẳng định là tiễn thủ và thích khách trứ danh Bắc phương Tiểu Hậu Nghệ Tông Chính Lương.

Thác Bạt Nghi hạ lệnh: “Tiến hành theo đúng kế hoạch đã định. Mục tiêu của chúng ta là Tông Chính Lương và Hồ Bái. Những người khác thì không cần.”

Mệnh lệnh truyền ra, các chiến sỹ giương cung lắp tên, nhắm chuẩn xác vào địch nhân đang không ngừng chạy tới gần.

Tiểu Kiệt thấp giọng: “Thật không tưởng nổi Tông Chính Lương với tiễn pháp danh trấn phương Bắc cuối cùng lại chết thảm bởi loạn tiễn. Hà! Dám đến chọc giận Hoang nhân bọn ta thì sẽ không có kết quả tốt.”

Thác Bạt Nghi ngấm ngầm thở ra một hơi, thầm nghĩ nếu trong đám kỵ sỹ đang chạy tới mà có Hướng Vũ Điền thì càng lý tưởng, sẽ làm Yến Phi khỏi phải mất công.

Khi Tông, Hồ hai người tiến vào khu vực trong vòng hai trăm bước, Thác Bạt Nghi thét lớn: “Loạt tên thứ nhất!”

Gần một trăm mũi cường tiễn từ trong rừng rào rào bắn về phía địch.

Tông Chính Lương quả nhiên rất khá, trước khi tên bắn tới nơi đã nhanh chân lộn xuống đất, hung hiểm tránh thoát.

Hồ Bái lại không được may mắn như hắn, tung mình vọt khỏi mình ngựa, bị một mũi tên do Thác Bạt Nghi kịp thời bắn ra trúng tim, rơi bộp xuống đất không bò dậy được nữa.

Cung tên vô tình, địch nhân trong phạm vi xạ trình bị tên bắn cho người đổ ngựa ngã, không có ngoại lệ.

Tông Chính Lương sau khi lăn tròn trên mặt đất hai trượng liền tử mặt đất vọt lên không thì loạt tên thứ hai gần trăm mũi theo mệnh lệnh của Thác Bạt Nghi đã rào rào bắn tới như quỷ đòi mạng. Trong tình hình đó, đổi lại là Yến Phi cũng khó mà thoát khỏi vận mệnh bị tên cắm đầy người, huống chi là Tông Chính Lương.

Trong tiếng la thảm thiết, không biết Tông Chính Lương trúng bao nhiêu mũi tên, từ trên không rơi xuống, chết ngay tại chỗ.

Chú thích

* Bối thuỷ: Nghĩa là dựa lưng vào sông để liều mạng đánh nhau vì không còn đường lui.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro