Biên niên ký chim vặn dây cót phần 1

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Tên sách: Biên niên ký chim vặn dây cót

Tác giả: Haruki Murakami

            HARUKI MURAKAMI

            BIÊN NIÊN KÝ CHIM VẶN DY CÓT

            Trần Tiễn Cao Đăng dịch

                  Nhà xuất bản Hội nhà văn

            Edit by L3e_7m

Quyển một: Chim ác là ăn cắp

            Tháng 6 và tháng 7 năm 1984

1

            Chim vặn dây cót ngày thứ ba

            *

            Sáu ngón và Bốn vú

            Khi điện thoại reo, tôi đang nấu dở món spaghetti trong bếp, mồm huýt sáo theo bản overture Chim ác là ăn cắp của Rossini phát qua đài FM. Vừa nấu spaghetti vừa nghe bản nhạc này thì còn gì bằng.

            Tôi muốn lờ cuộc gọi đi, không chỉ vì món spaghetti sắp chín mà còn bởi Claudio Abbado đang đưa dàn nhạc Giao hưởng Luân Đôn lên đến cao trào âm nhạc. Nhưng rốt cuộc tôi chịu thua. Nhỡ ai đó đang muốn gặp tôi về chuyện việc làm thì sao. Tôi vặn nhỏ bếp gas, đi ra phòng khách, nhắc ống nghe.

            - Cho tôi xin mười phút, - giọng nữ ở đầu bên kia nói.

            Tôi vốn có trí nhớ tốt về giọng người, nhưng giọng này tôi không quen.

            - Xin lỗi? Chị muốn gặp ai?

            - Dĩ nhiên là gặp anh. Tôi chỉ xin mười phút thôi, thế là đủ để chúng ta có thể hiểu nhau, - giọng cô ta trầm trầm, mềm mại, nhưng thật khó phân biệt.

            - Hiểu nhau?

            - Hiểu cảm xúc của nhau.

            Tôi cúi xuống nhìn qua khe cửa bếp. Nồi spaghetti đang sôi sùng sục, Claudia Abbo vẫn đang điều khiển bản Chim ác là ăn cắp.

            - Xin lỗi, chả là tôi đang nấu dở nồi spaghetti. Chị gọi lại sau được không?

            - Spaghetti á? Ai lại đi nấu mì spaghetti lúc 10 rưỡi sáng kia chứ?

            - Đấy không phải việc của cô, - tôi nói, hơi nổi cáu. - Tôi muốn ăn cái gì, ăn lúc nào là quyền của tôi.

            - Thôi được, tôi sẽ gọi lại sau, - cô ta nói, giọng cô ta giờ khô khan, vô cảm. Thật lạ, một thay đổi nhỏ trong tâm trạng cũng có thể ảnh hưởng đến giọng nói người ta đến thế.

            - Đợi một chút, - tôi nói trước khi cô ta gác máy. - Nếu có muốn chào hàng chào hiếc gì đó thì đừng gọi lại mất công. Tôi đang thất nghiệp nên không thể mua sắm gì đâu.

            - Đừng lo, tôi biết.

            - Cô biết? Cô biết cái gì?

            - Rằng anh đang thất nghiệp. Tôi biết. Đi mà nấu cho xong món spaghetti quý giá của anh đi.

            - Nhưng mà... Cô này! – nhưng cô ta đã cúp máy.

            Tức anh ách mà không biết xả vào đâu, tôi nhìn trân trân một lúc cái ống nghe đang cầm trong tay rồi mới sực nhớ tới món spaghetti. Tôi xuống bếp, tắt gas rồi trút chỗ mì trong nồi ra cái chao cho ráo nước. Vì cuộc gọi vừa rồi mà món spaghetti hơi bị chín quá, nhưng cũng không đến nỗi chết ai. Tôi vừa ăn vừa ngẫm nghĩ.

            Hiểu nhau? Hiểu cảm xúc của nhau trong vòng mười phút? Cô ta nói năng cái gì vậy? Có lẽ chỉ là gọi để chơi xỏ thôi. Hay là lại một chiêu tiếp thị bán hàng gì đó. Gì thì gì, chẳng liên quan đến tôi.

            Ăn trưa xong, tôi lên phòng khách, ngồi trên sofa đọc cuốn sách mượn của thư viên, chốc chốc lại liếc nhìn điện thoại. Làm sao có thể hiểu nhau trong vòng mười phút cơ chứ? Hai con người có thể hiểu gì về nhau trong vòng mười phút? Thử nghĩ mà xem: cô ta dường như tin chắc một cách quái lạ vào cái mười phút ấy: chẳng phải đó là câu đầu tiên cô tá thốt ra đấy sao. Cứ như thể chín phút thì quá ít còn mười một phút lại quá nhiều. Chính xác từng phút một, cũng như nấu món spaghetti vừa chín tới.

            Tôi không đọc được nữa, bèn bỏ đấy đi là áo sơ mi. Tôi luôn luôn đi là quần áo mỗi khi trong lòng bứt rứt bực bõ. Một thói quen có từ lâu. Tôi chia việc là áo thành muời hai công đoạn. Đầu tiên là cổ cồn (mặt ngoài), cuối cùng là măng sét tay trái. Trật tự này bất di bất dịch, tôi vừa là vừa đếm ngược từng công đoạn. Nếu không thì sẽ rối tung lên cả.

            Tôi là ba chiếc sơ mi, kiểm tra xem còn chỗ nghăn nào không rồi treo lên mắc áo. Sau khi tắt bàn là rồi cất vào tủ cùng cái giá là quần áo, đầu tôi thấy minh mẫn hẳn ra.

            Tôi quay xuống bếp định rót một cốc nước thì điện thoại lại reo. Tôi chần chừ một giây rồi quyết định trả lời. Nếu cũng lại người đàn bà kia, tôi sẽ bảo là đang bận là quần áo rối cúp máy.

            Lần này là Kumiko. Đồng hồ chỉ 11 rưỡi.

            - Anh thế nào? – nàng hỏi.

            - Ổn cả, - tôi đáp, nhẹ cả người khi nghe giọng vợ.

            - Anh đang làm gì đấy?

            - Mới là quần áo xong.

            - Có chuyện gì vậy? - giọng nàng nhuốm chút căng thẳng. Nàng biết, thường chỉ trong tâm trạng thế nào đó tôi mới đi là quần áo thôi.

            - Có gì đâu. Anh là mấy cái áo sơ mi thôi mà. – Tôi ngồi xuống, chuyển ống nghe từ tay trái sang tay phải. – Em gọi có chuyện gì?

            - Anh có biết làm thơ không? – nàng hỏi.

            - Thơ!?

            Thơ ấy à? Nàng có ý gì vậy... thơ ư?

            - Em có người quen ở một tạp chí chuyên đăng truyện cho các thiếu nữ. Họ đang tìm một người chuyên lựa chọn và chỉnh lý các bài thơ do độc giả gửi tới. Nhưng trước hết người đó hàng tháng phải viết một bài thơ ngắn. Lương họ trả cao mà viêc thì nhàn. Với lại chỉ làm bán thời gian thôi. Nhưng họ có thể giao thêm một ít việc biên tập nêu người đó...

            - Việc nhàn ư? – tôi cắt ngang. - Đợi đã. Anh tìm là tìm việc trong ngành luật, chứ không phải thơ với thẩn.

            - Em cứ tưởng anh từng viết lách hồi còn đi học cơ mà.

            - Ừ thì viết cho báo tường: thi đấu bóng đá đội nào thắng, hay thầy dạy lý ngã cầu thang nằm viện - đại loại thế. Nhưng thơ thì không. Anh không biết làm thơ.

            - Hẳn rồi, nhưng em không nói chuyện thơ thứ thiệt, mà chỉ là ba thứ nhăng nhít cho mấy cô nữ sinh thôi. Có ai bắt thơ của anh phải đi vào văn học sử đâu. Nhắm mắt anh cũng làm được. Anh không hiểu à?

            - Nghe đây: anh không biết làm thơ, nhắm hay mở mắt cũng vậy thôi. Anh chưa bao giờ làm thơ và sẽ không làm đâu.

            - Thì thôi, - Kumiko nói, giọng buồn buồn. – Nhưng tìm việc làm trong ngành luật khó lắm.

            - Anh biết. Chính vì vậy anh mới phải đi gõ đến ngần ấy cửa. Tuần này chắc sẽ có thư trả lời. Nếu không được, anh sẽ tính cách khác.

            - Thôi được, cứ cho là vậy. À, hôm nay thứ mấy?

            Tôi nghĩ một chút rồi đáp: - Thứ Ba.

            - Vậy anh chạy ra ngân hàng trả tiền gas và điện thoại nhé?

            - Ừ, đằng nào anh cũng phải ra ngoài mua đồ ăn tối.

            - Anh định làm món gì?

            - Anh chưa biết. Đến cửa hàng rồi sẽ tính.

            Nàng ngừng một chút. – Anh nghĩ kĩ đi, - nàng nói, giọng trở nên nghiêm trang.- Anh chẳng việc gì phải hối hả tìm việc làm như vậy đâu.

            Câu nói đó khiến tôi hoàn toàn bất ngờ. “Tạo sao?”, tôi hỏi. Phải chăng toàn thể phụ nữ trên thế giới đã chọn chính ngày hôm nay để làm tôi ngạc nhiên qua điện thoại?

            - Sớm muộn gì trợ cấp thất nghiệp của anh cũng sẽ cạn. Anh không thể ngồi không mãi được.

            - Đúng thế, nhưng em vừa được tăng lương, thi thoảng có việc làm thêm, lại còn tiền tiết kiệm của chúng mình nữa, nếu biết dè xẻn thì vẫn sống được. thật ra có gì là nước sôi lửa bỏng đâu. Hay anh không thích ở nhà làm nội trợ như thế này? Sống như vậy anh bứt rứt khó chịu lắm à?

            - Anh không biết, - tôi đáp rất chân thành. Quả thực là tôi không biết.

            - Thôi, anh cứ từ từ suy nghĩ, - nàng nói. – À, thế con mèo đã về chưa?

            Con mèo. cả buổi sáng nay tôi không hề nghĩ tới con mèo.

            - Không, - tôi nói. – Chưa về.

            - Anh thử tìm quanh khu hàng xóm xem Nó đi cả tuần nay rồi.

            Tôi ừ hử, chẳng ra đồngý cũng chẳng ra không rồi chuyển ống nghe sang tay trái. Nàng nói tiếp:

            - Em tin chắc là nó lảng vãng chỗ căn nhà không người ở đằng cuối ngõ ấy. Căn nhà mà trước sân có cái tượng chim ấy. Em vẫn hay thấy nó ở đó mà.

            - Cái ngõ? Em tới cái ngõ ấy từ hồi nào vậy? Em chưa hề nói gì về...

            - Thôi nào ! Em phải chạy đi đây. Nhiều việc phải làm quá. Đừng quên chuyện con mèo đấy.

            Nàng cúp máy. Tôi lại nhìn chằm chằm cái ống nghe. Rồi tôi đặt lại lên giá đỡ.

            Tôi tự hỏi điều gì đã dẫn Kumiko đến cái ngõ ấy. Từ chỗ nhà chúng tôi, muốn đến cái ngõ ấy thì phải trèo qua bức tường bê tông. Mà có mất công trèo đi nữa thì tới đó cũng chẳng để làm gì.

            Tôi xuống bếp uống một cốc nước, rồi đi ra hàng hiên để xem đĩa thức ăn cho mèo. Mớ cá sardin không có ma nào động tới từ tối qua. Không, con mèo không về. Tối đứng đó nhìn ra khu vườn nhỏ của vợ chồng tôi đẫm trong ánh nắng đầu hè. Đây chẳng phải là loại vườn có khả năng an ủi về tinh thần khi ta nhìn ngắm nó. Mặt trời chỉ len tới được đây trong một khoảng thời gian ít ỏi mỗi ngày, nên mặt đất luôn đen và ẩm, và toàn bộ cây cối gọi là có ở trong vườn vẻn vẹn chỉ là mấy bụi tú cầu lầm lụi trong một góc, mà tôi thì chẳng ưa hoa tú cầu. Gần đấy có một rặng cây nhỏ, đứng ở đó ta có thể nghe tiếng kêu như bằng kim khí của một con chim, nghe như nó đang vặn dây cót đồng hồ vậy. Chúng tôi gọi nó là con chim vặn dây cót. Cái tên do Kumiko đặt. Chúng tôi chẳng biết đúngra con chim đó tên gì, hình thù nó ra sao, nhưng điều đó chẳng làm con chim vặn dây cót bận tâm. Ngày nào cũng vậy, nó đến đậu trên rặng cây nhà hàng xóm để lên dây cho cái thế giới nhỏ bé tĩnh lặng của chúng tôi.

            Thế là bây giờ tôi phải đi lùng mèo. Xưa nay tôi vẫn yêu mèo. Riêng con này tôi càng yêu hơn. Nhưng mèo có lối sống riêng của chúng. Chúng không đần độn. Nếu một con mèo thôi sống ở nơi ta ở, thế nghĩa là nó đã quyết định chuyển đi nơi khác. Nếu mệt và đói bụng, nó sẽ trở về. Dù vậy nhưng, rốt cuộc, để Kumiko vui lòng, tôi sẽ phải đi tìm conmèo của vợ chống tôi. Tôi chẳng có việc gì hay hơn để làm.

            * * *

            Tôi nghỉ việc từ hồi đầu tháng Tư – tôi vốn làm việc ở công ty luật này đã lâu, kể từ khi tốt nghiệp. Tôi thôi việc chẳng phải vì lý do gì đặc biệt. Đơn giản là tôi không ưa công việc. Chẳng có gì lý thú, nhưng lương bổng khá, đồng nghiệp thì thân thiện.

            Chả cần phải sĩ làm gì, vai trò của tôi ở công ty là anh loong toong chạy giấy. Tôi làm việc đó rất cừ. Có thể nói, tôi thực sự có tài trong việc thi hành những sự vụ thực tiễn. Tôi học hỏi nhanh, làm gì cũng hiệu quả, không bao giờ ta thán và là người thực tế. Chính vì vậy mà khi tôi thông báo sẽ thôi việc, vị cổ đông chính của công ty (đây là một công ty luật kiểu cha con, ông này là cha) thậm chí còn đề nghị tăng lương cho tôi chút đỉnh.

            Nhưng tôi vẫn thôi. Chẳng phải là để thực hiện một hoài bão hay dự tính gì đặc biệt. Chẳng hạn, việc tôi ghét nhất trên đời chính là đóng cửa học bài chuẩn bị cho kì thi luật sư. Tôi biết chắc như đinh đóng cột rằng tôi không muốn làm thầy cãi. Nhưng tôi cũng biết mình không muốn cứ chôn chân một chỗ làm mãi công việc đã làm bấy nay. Đằng nào cũng thôi việc thì thôi ngay bây giờ cho xong. Nếu còn nấn ná chỗ cũ, ắt tôi sẽ làm ở đó suốt đời. Dù gì tôi cũng đã ba mươi tuổi.

            Trong lúc ăn tối tôi đã bảo Kumiko rằng tôi đang tính chuyện thôi việc. Nàng chỉ trả lời: “Em hiểu”. Tôi không biết ý nàng là nàng hiểu cái gì, nhưng hồi lâu sau nàng chẳng nói gì thêm.

            Tôi cũng yên lặng, cho đến khi nàng tiếp: “Nếu anh đã muốn nghỉ việc thì cứ nghỉ. Đây là cuộc đời anh, anh muốn sống thế nào thì cứ sống như thế ấy”. Nói xong, nàng bắt đầu chăm chú dùng đũa tách xương cá để riêng ra mép đĩa.

            Kumiko kiếm được khá nhiều tiền bằng nhề biên tập cho mộttạp chí chuyên về thực phẩm dưỡng sinh, thỉnh thoảng nàng còn nhận vẽ minh hoạ cho bạn bè ở các tap chí khác, nhờ vậy còn kiếm thêm một khoản thu nhập đáng kể nữa. (Nàng học khoa thiết kế ổ trường cao đẳng và từng mơ ước làm hoạ sỹ minh họa tự do). Ngoài ra, nếu nghỉ việc, tôi vẫn được nhận tiền trong một thời gian từ quỹ trợ cấp thất nghiệp. Thế nghĩa là dù tôi ở nhà làm nội trợ, hai vợ chồng vẫn đủ tiền cho đồ ăn thức uống, giặt ủi và những chi phí khác, và cuộc sống của chúng tôi vẫn chẳng thay đổi là mấy.

            Thế là tôi nghỉ việc.

            * * *

            Tôi đang cất thức ăn vào tủ lạnh thì điện thoại reo. Lần này tiếng chuông có vẻ nóng nảy, riết róng. Tôi vừa mới mở một gói nhỏ đựng đậu phụ, thế là phải cẩn thận đặt lên bàn nhà bếp sao cho nó khỏi chảy nước, rồi đi lên phòng khách nhấc điện thoại

            - Giờ thì anh ăn xong món spaghetti rồi chứ, - người đàn bà nói.

            - Ăn rồi. Nhưng giờ tôi phải đi tìm con mèo.

            - Chuyện ấy để mườiphút nữa cũng chẳng sao. Không phải như nấu món spaghetti.

            Vì lý do nào đó tôi không cắt ngang cuộc gọi được. Có gì đó trong giọng cô ta buộc tôi phải chú ý.

            - Thôi được, nhưng không quá mười phút đâu đấy.

            - Giờ thì chúngta sẽ có thể hiểu nhau, - cô ta nói khẽ nhưng có vẻ quả quyết. Tôi có thể cảm thấy cô ta đang ngồi thoải mái xuống ghế bành, bắt tréo hai chân.

            - Để xem, - tôi nói. – Trong vòng mười phút thì cô hiểu được gì nào?

            - Mười phút có thể là dài hơn anh tưởng đấy, - cô ta nói.

            - Có chắc là cô biết tôi không?

            - Dĩ nhiên là chắc. Chúng ta đã gặp nhau hàng trăm lần rồi.

            - Ở đâu? Hồi nào?

            - Một lúc nào đó, một nơi nào đó, - cô ta nói. – Nhưng nếu em giải thích rõ thì mười phút không đủ đâu. Quan trọng là thời gian ta có lúc này đây. Hiện tại. Anh đồng ý không?

            - Có thể. Nhưng tôi muốn có bằng chứng là cô có biết tôi.

            - Bằng chứng gì kia?

            - Tôi bao nhiêu tuổi chẳng hạn?

            - Ba mươi, - cô ta trả lời ngay. – Ba mươi tuổi hai tháng. Được chưa?

            Tôi cứng họng. Hiển nhiên là cô ta biết tôi, nhưng tôi không tài nào nhớ ra giọng cô ta.

            - Giờ tới lượt anh, - cô ta nói, giọng mơn trớn. - Cố hình dung ra em đi. Từ giọng nói của em. Hình dung xem em thế nào. Em bao nhiêu tuổi. Em đang ở đâu. Em ăn mặc ra sao. Nào, anh nói đi chứ?

            - Tôi biết gì đâu mà nói.

            - Thôi nào, cố lên đi, - cô ta nói.

            Tôi nhìn đồng hồ. Nãy giờ mới có một phút năm giây trôi qua. – Tôi chẳng biết gì đâu, - tôi lặp lại.

            - Thế để em giúp anh nhé, - cô ta nói. – Em đang nằm trên giường. Em vừa mới tắm xong, người em chẳng mặc gì hết.

            Hừ, được lắm. Lại cái trò sex qua điện thoại đây.

            - Hay anh thích em mặc trên người một thứ gì đó? Một cái gì có đăng ten. Hay tất dài chẳng hạn. Anh có thích vậy hơn không?

            - Thế nào cũng được, mặc cô. Cô muốn làm gì thì làm, - tôi nói. – Thích thì mang vài thứ trên người. Còn muốn trần truồng thì cứ việc. Xin lỗi, nhưng tôi không quan tâm đến những trò chơi qua điện thoại kiểu này. Tôi có quá nhiều thứ phải...

            - Mười phút thôi, - cô ta nói. – Dành cho em mười phút thì anh có chết đâu nào, phải không? Chỉ cần trả lời vài câu hỏi của em thôi. Anh muốn em trần truồng hay mang vài thứ trên người? Em có nhiều thứ để mang lắm. Quần ren màu đen này...

            - Thôi thì trần truồng đi.

            - Được rồi. Anh muốn em trần truồng.

            - Ừ, trần truồng.

            Bốn phút rồi.

            - Lông mu em vẫn còn ướt, - cô ta nói. – em sấy chưa kỹ lắm. Ôi, người em ướt quá chừng! Vừa ấm vừa ẩm ướt. Lại còn mềm nữa. Mềm thật là mềm, đen nhay nháy. Sờ em thử xem.

            - Nào nào, tôi xin lỗi, nhưng mà…

            - Xuống dưới cũng vậy. Xuống nữa. Dưới ấy thật là ấm, như là bơ ấy. Ấm quá chừng! Ôi ôi ôi. Lại còn chân em nữa. Anh thử nghĩ xem em đang ở trong tư thế nào nào? Đầu gối phải nhấc lên, chân trái dạng sang bên vừa đủ. Như hai cái kim đồng hồ lúc chỉ mười giờ năm phút vậy.

            Từ giọng nói cô ta, tôi hiểu rằng cô ta không nói phét. Cô ta quả thật đang giạng chân ra như lúc kim đồng hồ chỉ mười giờ năm phút, âm hộ cô ta ấm áp và ẩm ướt.

            - Sờ thử hai vành môi xem, - cô ta nói. – Châ-ậ-m-m thôi. Giờ thì vạch ra. Thế. Chậm thôi, thật chậm. Hãy để những ngón tay anh mơn trớn chúng. Ôi, thật châ-ậm-m-m. Giờ lấy tay kia sò vú phải của em đi. Đùa với nó. Mân mê nó. Lên trên nữa. Giờ bóp nhẹ núm vú đi. Lần nữa. Lần nữa. Lần nữa. Em sắp ra rồi đây.

            Không nói một lời, tôi cúp ống nghe. Duỗi nguời trên ghế sopha, tôi nhìn đồng hồ và thở một hơi dài. Cuộc nói chuyện kéo dài gần sáu phút.

            Mười phút sau điện thoại lại reo, nhưng tôi không đụng tới ống nghe. Chuông reo mười lăm lần. Khi nó ngừng reo, một nỗi im lặng sâu thẳm, lạnh lẽo trùm xuống căn phòng.

            * * *

            Ngay trước 2 giờ chiều, tôi trèo qua bức tường bê tông để sang bên cái ngõ, đúng hơn là chỗ mà chúng tôi gọi là cái ngõ. Thật ra nó chẳng phải là “ngõ” theo đúng nghĩa; hẳn là chẳng có từ nào thích hợp để gọi nó cả. Nó không phải là “đường”, không phải “lối đi”, cũng chẳng ra cái “ngõ”. Dù “đường” hay “ngõ” thì cũng phải có lối vào và lối ra, phải dẫn ta tới một chỗ nào đó nếu ta đi theo nó. Nhưng cái “ngõ” này chẳng có lối vào cũng chẳng có lối ra. Cũng không thể gọi là “ngõ cụt”, vì ít ra ngõ cụt cũng còn có lối vào. Còn cái ngõ này thì cả hai đầu đều cụt. Người dân xung quanh cứ gọi là “ngõ” cho tiện. Nó dài khoảng trăm mét, len lỏi giữa những khoảnh sân sau của các căn nhà dọc hai bên. Bề ngang nó chỉ tròm trèm một mét, ở vài chỗ thậm chí phải lách người qua mới qua được giữa những hàng rào thòi ra giữa lối đi hoặc phải tránh những đống đồ phế thải.

            Về cái ngõ này, ông cậu tôi, người cho vợ chồng tôi thuê căn nhà này với giá gần như cho không, bảo rằng xưa kia nó cũng có đầu vào đầu ra, từng đóng vai trò kiểu như một lối đi tắt giữa hai con phố. Nhưng với sự tăng trưởng kinh tế nhanh chóng vào giữa thập kỷ 1950, hàng dãy nhà mọc lên trên các lô đất trống dọc hai bên ngõ, ép nó lại cho tới khi chỉ còn là một lối đi hẹp. Dân tình không thích kẻ lạ đến gần nhà và sân của mình, thế nên chẳng bao lâu một trong hai đầu ngõ bị người ta ngăn lại, đúng hơn là che lại bằng một hàng rào xộc xệch. Một người đia phương quyết định nới rộng khoảng sân của mình, thế là xây luôn một bức tường bê tông bít kín đầu ngõ. Như để đáp trả, một hàng rào dây thép gai được dựng ở đầu bên kia, ngay lũ chó cũng không qua lọt. Hàng xóm chẳng ai kêu ca gì, bởi có ai dùng cái ngõ này làm lối đi đâu, thậm chí họ còn hài lòng là khác, bởi nhờ bức tường rào này họ lại có thêm một lớp bảo vệ trước những phường bất hảo. Kết quả là cái ngõ chỉ còn như một kênh đào bị bỏ hoang, không ai dùng tới, có chăng chỉ là một vùng đệm giữa hai dãy nhà, thế thôi. Lũ nhện chăng mạng dày đặc trong những lùm cây mọc um tùm.

            Cớ sao Kumiko hay lui tới một nơi như vậy? Bản thân tôi chỉ mới đi trên cái “ngõ” này không quá hai lần, Kumiko thì sợ nhện nhất trần đời. Nhưng thôi, quỷ tha ma bắt – nếu Kumiko đã bảo tôi ra ngõ kiếm con mèo thì tôi cần phải ra ngõ kiếm con mèo. Chuyện gì sẽ tới hẵng nghĩ sau. Đi ra ngoài thế này vẫn tốt chán so với ngồi nhà chờ điện thoại reo.

            Ánh nắng chói đầu hè rọi qua bóng những cành cây trải rộng trên đầu, vẽ những đốm tròn lỗ chỗ xuống bề mặt ngõ. Không có ngọn gió nào lay động cành lá, những bóng cây trông như những vết ố mà số trời đã định là sẽ in lên mặt đường này vĩnh viễn. Dường như không thứ tiếng động nào lọt được đến nơi này. Hầu như tôi có thể nghe những ngọn cỏ phập phồng trong ánh nắng. Vài đám mây nhỏ trôi qua bầu trời, bóng của chúng rõ rệt, sắc nét, như những đám mây trong tranh khắc thời trung cổ. Tôi cảm nhận mọi thứ một cách rõ ràng đáng sợ đến nỗi chính thân thể tôi bỗng như trở nên mơ hồ, vô hạn, tuôn chảy và… nóng bỏng.

            Tôi mặc áo thun, quần mỏng bằng vải bông, mang giày tennis, nhưng khi đi dưới ánh nắng hè, tôi cảm thấy một lớp mồ hôi mỏng đọng dần dưới hai cánh tay và trên hõm ngực. Chiếc áo thun và quần sợi bông này lâu nay bị nhét trong cái hộp lèn chặt quần áo mùa hè, tôi chỉ mới lấy ra mặc sáng nay, nên mùi băng phiến hăng hắc xộc vào trong lỗ mũi tôi.

            Những căn nhà dọc hai bên ngõ chia làm hai loại khác hẳn nhau: những căn nhà cũ và những căn nhà mới xây. Những căn nhà mới thì nhỏ hơn, sân cũng nhỏ hơn. Những chiếc sào phơi quần áo trong sân thường thò hẳn ra ngoài ngõ, khiến nhiều lúc tôi phải len lỏi giữa những bức màn chắn bằng khăn mặt, khăn trải giường, đồ lót. Bên kia vài bức tường hậu vẳng ra tiếng ti vi, tiếng nước dội toa lét, thoang thoảng mùi nấu cà ri.

            Những căn nhà cũ thì ngược lại, hầu như không có dấu hiệu sự sống. Chúng được ngăn cách bằng những bụi cây và hàng dậu ngay hàng thẳng lối, xen giữa là những mảnh vườn tỉa tót công phu.

            Một cây thông Giáng sinh già nua, nâu xỉn, khô héo đứng trong góc một khu vườn. Một khu vườn khác đã hóa thành bãi rác để người ta vứt bỏ bất cứ món đồ chơi nào của con người, rõ ràng là nơi vứt bỏ hàng mấy thế hệ tuổi thơ. Nào chiếc xe đạp ba bánh, vòng gỗ, kiếm nhựa, bóng ca su, nào những con rùa đồ chơi, những chiếc mũ bóng chày bé xíu. Một khu vườn có một khoảnh chơi bằng bóng rổ, một vườn khác nữa có những cái ghế xinh xẻo xếp quanh chiếc bàn bằng gốm. Bụi đóng dày trên những chiếc ghế vốn dĩ màu trắng, hình như chẳng ma nào đụng tới nhiều tháng, thậm chí nhiều năm rồi. Mặt bàn phủ đầy những cánh hoa mộc lan tím bị mưa dập vùi tan nát.

            Tôi thấy rõ một căn phòng khách qua một cánh cửa ngoài bằng nhôm. Phòng khách gồm một bộ sofa và ghế bành bằng da, một cái tivi lớn, một tủ buýp phê (trên đó có một bể nuôi cá nhiệt đới và hai món chiến lợi phẩm gì đó), một cây đèn đứng để trang trí. Căn phòng trông như bối cảnh cho một vở kịch truyền hình. Một cái cũi chó to đùng chiếm lĩnh phần lớn diện tích một khu vườn khác, những chẳng có con chó nào, cửa nhà thì mở toang. Tấm lưới cửa cũi chó bị vênh ra ngoài, như thể ai đó đã tựa vào đó liên tục hàng mấy tháng trời.

            Căn nhà không người ở mà Kumiko nói với tôi nằm ngay sau khoảnh sân có cái chuồng chó kếch xù kia. Chỉ cần liếc qua cũng biết căn nhà này không có người ở đã khá lâu rồi. Đó là một căn nhà hai tầng trông cũng mới, nhưng mấy cánh cửa chớp bằng gỗ trông lại quá ư cũ kỹ, chấn song bên ngoài các cửa sổ trên tầng hai phủ đầy gỉ sét. Căn nhà có một khu vườn nhỏ xinh xinh, trong đó hiển nhiên là có bức tượng chim. Tượng đặt trên một cái bệ cao ngang ngực, xung quanh cỏ dại um tùm. Đầu mút những nhánh xiêm gai vàng(1) gần như bén tới chân chim. Con chim – tôi chịu không đoán nổi giống chim gì – giang rộng cánh như thể muốn thoát khỏi chốn khó ưa này càng nhanh càng tốt. Ngoài con chim ra chẳng còn vật trang trí nào khác trong khu vườn. Dăm chiếc ghế nhựa không biết tự đời thuở nào đứng chỏng chơ ở vách tường, cạnh đó là một bụi đỗ quyên phô những đóa hoa đỏ tươi, màu sắc có vẻ là lạ, không thực. Còn lại toàn là cỏ dại.

            Tôi tựa vào hàng rào mắt cáo ngang ngực, ngắm khu vườn một hồi lâu. Chốn này hẳn là thiên đường cho lũ mèo, nhưng chẳng thấy mèo đâu cả. Điểm xuyết vào khung cảnh chỉ có tiếng kêu đều đều của một con bồ câu đơn độc vắt vẻo trên chiếc ăngten truyền hình. Bóng của con chim đá đổ lên mặt cỏ dưới chân bệ tượng, bị cắt làm hai mảnh.

            Tôi rút trong túi quần ra một viên kẹo chanh, bóc giấy gói rồi cho vào mồm. Tôi từng coi việc nghỉ làm ở công ty là một cơ hội để bỏ thuốc lá, nhưng bây giờ đi đâu tôi cũng không thể thiếu mấy viên kẹo chanh. Kumiko bảo tôi nghiện kẹo chanh mất rồi và cảnh cáo rằng chẳng mấy chốc tôi sẽ sâu hết cả hàm răng, nhưng tôi không bỏ kẹo được. Trong khi tôi đứng ngắm khu vườn, con bồ câu đậu trên ăngten vẫn kêu gù gù, như một tay cạo giấy đóng số lên một tệp giấy. Tôi không biết mình đã đứng đó tựa rào trong bao lâu, nhưng tôi nhớ mình đã nhổ kẹo ra khi cảm thấy nó đã tan một nửa và lấp đầy miệng cái vị ngọt dinh dính. Tôi vừa chuyển cái nhìn sang bóng chim đá thì có cảm giác ai đó vừa gọi mình từ phía sau.

            Tôi quay lại thì thấy một cô gái đừng trong khu vườn bên kia ngõ. Người cô nhỏ nhắn, tóc tết bím. Cô đeo kính râm thẫm, gọng màu hổ phách, mặc áo phông cộc tay màu xanh nhạt. Mùa mưa vẫn chưa dứt hẳn, thế mà cô đã kịp làm cho đôi tay mảnh dẻ của mình có một màu rám nằng mềm mại ưa nhìn. Cô đút một bàn tay vào túi quần soóc. Bàn tay kia đặt lên một cánh cổng hằng tre ngang thắt lưng xem ra chẳng càn được ai. Hai chúng tôi chỉ cách nhau chừng hơn một thước.

            - Nóng quá, - cô bảo.

            - Ừ, nóng, - tôi đáp.

            Sau mẩu trao đổi ngắn ngủi này cô lại đứng đó nhìn tôi. Rồi cô móc trong túi ra một bao “Hope”, rút một điếu, đút vào giữa miệng. Cô có cái miệng nhỏ, môi trên hơi vểnh. Cô quẹt diêm chấm thuốc. Khi cô khẽ nghiêng đầu, tóc cô lệch sang bên để lộ một chiếc tai có hình dáng tuyệt đẹp, nuột nà như vừa mới nặn, vành tai ánh lên vẻ dịu dàng của lớp lông tơ.

            Cô búng que diêm đi rồi chúm môi phà khói. Đoạn, cô nhìn lên tôi như thể đã quên mất là có tôi ở đó. Tôi không nhìn thấy mắt cô sau cặp tròng thẫm của chiếc kính râm.

            - Anh sống gần đây à? – cô hỏi.

            - Ừ, - tôi muốn chỉ về phía nhà mình, nhưng để tới được đây tôi đã len lách quá nhiều đến nỗi giờ tôi chịu không biết nhà mình ở hướng nào nữa. Tôi đành chỉ hú họa.

            - Tôi đi tìm con mèo, - tôi vừa nói như để thanh minh vừa chùi lòng bàn tay mướt mồi hôi vào quần. – Nó đi vắng cả tuần rồi. Có người thấy nó quanh quẩn chỗ này.

            - Con mèo trông thế nào?

            - Mèo đực, to khỏe. Có vằn nâu. Chót đuôi hơi quặp.

            - Tên gì?

            - Noboru. Wataya Noburu.

            - Không, không phải tên anh. Tên con mèo cơ.

            - Thì tên con mèo đấy.

            - Chà, ấn tượng quá!

            - Thực ra đấy là tên ông anh vợ anh. Con mèo có gì đó giống ông ấy. Bọn anh lấy tên ông ấy đặt cho con mèo, để cho vui thôi mà.

            - Con mèo giống ông ấy chỗ nào cơ?

            - Anh không biết. Nhìn chung là thế. Dáng đi chẳng hạn. Hay là cái nhìn chả biểu lộ gì hết.

            Lần đầu tiên cô mỉm cười, nụ cười khiến cô giống trẻ con hơn nhiều so với ấn tượng ban đầu. Cô không quá mười lăm, mười sáu tuổi. Môi trên cô vểnh thành một góc kì lạ. Tôi nghe như thấy giọng nói “Sờ em đi”, giọng người đàn bà trong điện thoại. Tôi lấy mu bàn tay lau mồ hôi trên trán.

            - Con mèo có vằn nâu, chóm đuôi hơi quăn, - cô gái nói. - À, nó có đeo vòng cổ không?

            - Đeo vòng cổ màu đen, để trị bọ chét.

            - Cô đứng ngẫm nghĩ chứng mươi, mười lăm giây, bàn tay vẫn đặt trên cánh cổng. Rồi cô vứt điếu thuốc đang hút dở xuống đất, lấy bàn chân đi xăngđan giẫm lên.

            - Có lẽ em đã gặp một con mèo như thế, - cô bảo. – Em không biết đuôi có quặp không, nhưng con mèo vàng nâu, giống như cọp ấy, hình như có đeo vòng cổ.

            - Em thấy khi nào?

            - Thấy khi nào á? Chà… Mới ba bốn hôm trước thôi. Sân nhà em cứ như là nơi quá cảnh của tất cả mèo hàng xóm ấy mà. Chúng đi tắt qua nhà em từ nhà Takitani tới nhà Miyawaki.

            Cô chỉ về phía căn nhà không người ở, nơi con chim đá vẫn đang giang cánh, cây xiêm gai vàng đang đón nắng hè và con bồ câu vẫn tiếp tục gù gù đơn điệu trên cần ăngten tivi.

            - Em có ý này, - cô nói. – Sao anh không đợi ở đây? Tất cả lũ mèo sớm muộn gì cũng đi qua nhà em trên đường tới nhà Miyakawi. Anh cứ đi tới đi lui kiểu này thì coi chừng người ta gọi cảnh sát bắt đấy. Có người bị như thế rồi.

            Tôi lưỡng lự.

            - Đừng lo, - cô nói. - Ở đây chỉ có em thôi. Chúng mình cứ ngồi sưởi nắng, đợi con mèo ló mặt ra. Em sẽ nhìn giúp anh. Thị lực của em những hai mươi-hai mươi cơ đấy.

            Tôi nhìn đồng hồ. Hai giờ hai mươi sáu phút. Những gì tôi phải làm hôm nay, từ giờ cho đến tối là mang đồ đến hiệu giặt và làm bữa tối.

            Tôi bước qua cổng vào trong vườn, theo sau cô bé băng qua bãi cỏ. Chân phải cô hơi khập khiễng. Cô đi vài bước rồi dừng, quay lại nhìn tôi.

            - Em bị ngã xe máy từ ghế sau, - cô nói như thể chuyện ấy chẳng có gì quan trọng.

            Nơi rìa bãi cỏ có một cây sồi lớn. Dưới bóng cây có hai ghế xếp bằng vải bạt, trên một chiếc có trải tấm khăn tắm màu xanh dương. Trên chiếc ghế kia lỉnh kỉnh một bao “Hope””chưa mở, cái gạt tàn, chiếc bật lửa, một cuốn tạp chí, một chiếc máy nghe nhạc ngoại cỡ. Máy đang phát một bản hard rock âm lượng không to lắm. Cô bé tắt nhạc rồi trút hết mớ đồ đạc trên chiếc ghế thứ hai xuống cỏ để lấy chỗ cho tôi. Ngồi trên chiếc ghế này tôi thấy rõ khoảng sân căn nhà không người ở bên kia – con chim đá, cây xiêm gai vàng, hàng rào mắt cáo. Hẳn là cô bé đã quan sát tôi suốt cả thời gian tôi đứng ở bên kia.

            Vườn nhà này lớn thật. Có một bãi cỏ rộng dài thoai thoải, đó đây có mấy khóm cây. Bên trái hai chiếc ghế là một hồ nước to mép bằng bê tông, phơi cái đáy cạn khô dưới nắng. Trông cái màu xanh xanh thì đủ biết đã bao lâu hồ không có nước. Chúng tôi ngồi xoay lưng lại căn nhà thấp thoáng sau màn cây. Nhà không lớn, kiến trúc chẳng cầu kỳ. Chỉ khu vườn thênh thang được chăm sóc cẩn thận là nom bề thế mà thôi.

            - Vườn rộng quá, - tôi vừa nói vừa nhìn quanh. – Rộng thế này thì chăm sóc cũng mệt.

            - Hẳn rồi.

            - Hồi bé anh có làm việc cho một công ty chuyên xén cỏ thuê.

            - Thế à? - rõ là cô bé chẳng quan tâm gì đến chuyện cỏ kiếc.

            - Em luôn ở đây một mình à? – tôi hỏi.

            - Vâng, lúc nào cũng một mình. Trừ một bà đến mỗi sáng và chiều, dọn dẹp ấy mà. Còn lại thì suốt ngày chỉ mình em thôi. Anh muốn uống gì lạnh không? Nhà có bia đấy.

            - Không, cảm ơn.

            - Thật á? Đừng khách sáo đấy nhé.

            Tôi lắc đầu.

            - Em không đi học à?

            - Thế anh không đi làm à?

            - Có việc gì làm đâu mà đi.

            - Thất nghiệp à?

            - Đại loại thế. Anh mới thôi việc vài tuần trước.

            - Trước anh làm gì?

            - Anh là trợ lý luật sư. Anh đến các cơ quan chính phủ để lấy tài liệu, sắp xếp hồ sơ đâu vào đó, kiểm tra các tiền lệ pháp lý tiến hành thủ tục tố tụng… kiểu kiểu thế.

            - Nhưng anh thôi việc rồi.

            - Ừ.

            - Vợ anh có việc làm không?

            - Có.

            Con bồ câu ở khoảnh sân bên kia chắc đã thôi gù gù mà bay đi nơi khác. Đột nhiên tôi nhận thấy một sự im lặng chết chóc bao phủ quanh tôi.

            - Kia là chỗ lũ mèo hay qua lại, - cô nói, tay chỉ về phía đằng kia bãi cỏ. – Anh có thấy cái máy đốt rác trong sân nhà Takitani không? Chúng nó chui ra từ dưới hàng rào ngay ở chỗ ấy, đi qua bãi có, rồi chui qua cổng sang mảnh sân bên kia. Lần nào cũng đúng lộ trình ấy.

            Cô lật kính lên trán, nheo mắt nhìn khu vườn rồi kéo kính xuống, phà ra một làn khói. Trong khoảng thời gian đó tôi kịp thấy cô có một vết xước dài khoảng năm phân gần mắt trái, loại vết xước có khả năng để sẹo suốt đời. Chiếc kính râm hẳn là để che vết xước ấy. Khuôn mặt cô bé không phải là đẹp lắm nhưng có cái gì đó thật quyến rũ, có thể là cặp mắt sống động hay đôi môi hình dáng khác thường.

            - Anh có biết nhà Miyakawi không? – cô hỏi.

            - Chả biết gì cả, - tôi đáp.

            - Gia đình họ từng sống trong căn nhà không có người ở kia. Gia đình rất nền nếp. Họ có hai cô con gái, cả hai đều học trường tư dành cho nữ sinh. Ông Miyakawi là chủ mấy cái nhà hàng.

            - Sao họ không ở đó nữa?

            - Có lẽ vì ông ấy nợ nần. Họ bỏ trốn, biến mất vô tung tích chỉ trong một đêm. Đâu như một năm trước. Họ bỏ lại căn nhà, mặc cho cỏ dại và lũ mèo. Mẹ em cứ than phiền suốt.

            - Có nhiều mèo đến thế sao?

            Vẫn ngậm điều thuốc trong miệng, cô bé ngẩng lên nhìn trời.

            - Đủ thứ trên đời. Con thì trụi lông, con thì chột mắt… ở cái chỗ trước kia là con mắt giờ chỉ còn cục thịt. Eo ôi!

            Tôi gật đầu.

            - Em có người bà con mỗi bàn tay đều có sáu ngón. Chị ấy lớn hơn em một chút thôi. Bên cạnh ngón út chị ấy lại có thêm một ngón thừa, như ngón tay trẻ sơ sinh ấy. Chị ấy biết cách gập nó lại nên hầu như không ai nhận thấy cả. Mà chị ấy đẹp lắm cơ.

            Tôi lại gật.

            - Anh nói thử xem, đó có phải là do di truyền không? Gọi thế nào ấy nhỉ… từ trong huyết thống ấy mà?

            - Anh không biết nhiều lắm về di truyền.

            - Cô ngừng nói. Tôi mút viên kẹo chanh và chú mục vào lối đi của lũ mèo. Nãy giờ chẳng thấy con mèo nào cả.

            - Thực tình anh không muốn uống gì à? – cô hỏi. – Em đi lấy Coca đây.

            Tôi nói tôi không cần uống gì cả.

            Cô đứng dậy khỏi ghế và biến mất sau hàng cây, chân phải hơi khập khiểng. Tôi nhặt tờ tạp chí từ dưới cỏ lên, lật lật các trang. Hoàn toàn bất ngờ, tôi nhận ra đó là một tạp chí dành cho nam giới, loại nguyệt san bìa láng. Trên trang ảnh là một ả ngồi ghế, hai chân dạng rộng thành một góc kỳ quái, quần bó chẽn mỏng dính phô ra toàn bộ chỗ kín với lớp lông đen nhánh. Tôi thở dài đặt tạp chí xuống, khoanh tay lên ngực, lại chú mục vào lối đi của lũ mèo.

            Mãi rất lâu sau cô bé mới trở lại, tay cầm cốc Coca. Cái nóng buồi chiều đang hành hạ tôi. Ngồi dưới nắng, tôi nghe đầu mình cứ ong ong. Tôi hoàn toàn không muốn nghĩ gì hết.

            - Nói em nghe, - cô tiếp tục đề tài bỏ dở. – Nếu anh yêu một cô gái nhưng hóa ra cô ấy có những sáu ngón tay thì anh sẽ làm gì?

            - Đưa cô ấy tới rạp xiếc, - tôi đáp.

            - Thật à?

            - Không, dĩ nhiên là không, - tôi nói. – Đùa thôi mà. Chắc là chuyện ấy chẳng làm anh bận tâm lắm đâu.

            - Cho dù con cái anh có thể dũng bị do di truyền?

            Tôi nghĩ một chút rồi mới trả lời.

            - Không, thực tình anh nghĩ là sẽ không bận tâm về chuyện đó mà. Thừa một ngón tay thì đã sao?

            - Thế nếu cô ấy có bốn vú?

            Tôi lại phải nghĩ một hồi.

            - Anh không biết.

            Bốn vú? Cứ cái đà này thì nói mãi không hết. Tôi quyết định chuyển đề tài.

            - Em bao nhiêu tuổi?

            - Mười sáu. Mới đây thôi là sinh nhật tròn mười sáu của em đấy. Em vừa lên năm đầu trung học đệ nhị cấp.

            - Em nghỉ học lâu chưa?

            - Nếu em đi nhiều thì chân vẫn đau. Em lại còn bị vết xước gần mắt nữa. Trường em họ nhiễu sự lắm. Người ta mà biết em bị ngã xe máy thì sẽ bàn tán vào chẳng thiếu chuyện gì. Thành thử em nghỉ ốm. Em được nghỉ trọn một năm nhé. Chả việc gì phải vội lên lớp cả.

            - Ừ thì thế.

            - Thì thế là sao? Vừa rồi anh bảo là cô gái có sáu ngón thì anh vẫn lấy, nhưng có bốn vú thì không…

            - Anh không nói vậy. Anh chỉ bảo là anh không biết.

            - Anh không biết gì nào?

            - Anh không biết – ý anh là khó tưởng tượng được chuyện ấy.

            - Một cô gái có sáu ngón tay thì anh hình dung được chứ?

            - Chắc là được.

            - Thế sao bốn vú thì lại không? Có gì khác nhau nào?

            Tôi lại phải nghĩ thêm một hồi nữa, nhưng vẫn không tìm ra câu trả lời.

            - Em hỏi nhiều quá phải không?

            - Người ta bảo em vậy à?

            - Thỉnh thoảng.

            Tôi lại quay về phía lối mèo đi. Tôi đang làm cái quái gì ở đây vậy?

            Tự nãy đến giờ chẳng có con mèo nào ló mặt. Tay vẫn khoanh trước ngực, tôi nhắm mặt lại chừng ba mươi giây. Tôi nghe mồ hôi túa ra khắp mình khắp mẩy. Ánh mặt trời đổ lên tôi với một sức nặng kỳ lạ. Mỗi khi cô gái di chuyển cốc Coca, những mẩu nước đá lại kêu lanh canh như cái lục lạc buộc cổ bò.

            - Nếu anh buồn ngủ thì ngủ đi, - cô thì thầm. – Con mèo xuất hiện em sẽ gọi anh.

            Mắt vẫn nhắm, tôi lẳng lặng gật đầu.

            Trời đứng gió, xung quanh lặng ngắt như tờ. Con bồ câu đã bay mất tự đời nào. Tôi nghĩ mãi về người đàn bà gọi điện thoại. Mình có biết cô ta không nhỉ? Hoàn toàn chẳng có gì quen thuộc trong giọng nói hay cung cách ăn nói của cô ta. Nhưng nhất định là cô ta biết tôi. Tôi có cảm giác mình đang nhìn vào một bức tranh của de Chirico(2): cái bóng dài thậm thượt của người đàn bà cắt qua một con phố vắng mà vươn về phía tôi. Một cái chuông cứ kêu leng keng không ngừng bên tai tôi.

            - Anh ngủ à? – cô gái hỏi bằng giọng khẽ đến nỗi tôi không chắc mình nghe ra.

            - Không, anh có ngủ đâu.

            - Em xích lại gần một chút được không? Nói khẽ thì… dễ chịu hơn.

            - Anh sao cũng được, - tôi nói, mắt vẫn nhắm.

            Cô ta dịch ghế lại gần cho đến khi chạm vào ghế tôi làm phát ra tiếng gỗ khô khốc.

            Thật lạ, giọng cô bé khi mình mở mắt thì nghe thế này, khi nhắm mắt thì lại nghe khác hẳn.

            - Em nói chuyện được không? Em sẽ nói thật khẽ và anh không phải trả lời đâu. Thậm chị anh ngủ luôn cũng được.

            - Ừ, - tôi nói.

            - Khi người ta chết thì tuyệt lắm nhỉ.

            Lúc này miệng cô bé kề bên tai tôi, nên những lời cô nói xuyên thẳng vào tôi cùng với hơi thở ấm áp, ẩm ướt.

            - Sao lại thế?

            Cô đặt một ngón tay lên môi tôi như thể niêm kín lại.

            - Không hỏi gì cả, cũng không mở mắt. Được chứ?

            Cái gật đầu của tôi cũng khẽ như giọng nói của cô.

            Cô nhấc ngón tay khỏi môi tôi và đặt lên cổ tay tôi.

            - Em ước gì có con dao mổ. Em sẽ rạch chỗ này ra mà nhìn vào trong. Không phải nhìn thịt của người chết đâu… mà nhìn vào cái chết. Em tin là có cái gì đó giống như cái chết. Nó tròn tròn, nhun nhũn giống như quả bóng mềm có cái lõi cứng bằng những sợi thần kinh chết. Em muốn lôi nó ra khỏi cơ thể người chết rồi rạch nó ra mà nhìn vào trong. Em luôn luôn tự hỏi nó giống cái gì. Cũng có thể nó cứng ngắc, như kem đánh răng bị khô trong ống vậy. Anh nghĩ sao? Không, đừng trả lời. Bên ngoài nó mềm nhũn, càng vào trong lại càng rắn. Em muốn rạch da để lôi cái cục mềm mềm nhu nhũn đó ra, dùng dao mổ và một dụng cụ kiểu như cái đè lưỡi để lần vào trong, càng vào trong thì cục mềm nhũn đó lại càng rắn, cho đến khi gặp cái lõi nhỏ xíu kia. Nó bé tí, như hòn bi trong ổ bi ấy, và rất là cứng. Hẳn là vậy phải không?

            Cô hắng giọng mấy lần.

            - Mấy hôm nay em cứ nghĩ mãi chuyện ấy. Có lẽ vì ngày nào em cũng có quá nhiều thời gian rảnh. Mỗi khi không có việc gì làm, ý nghĩ của mình đi xa, rất xa, xa đến nỗi mình không theo kịp ấy.

            Cô nhấc ngón tay khỏi cổ tay tôi và uống nốt chỗ Coca còn lại. Nghe tiếng những mẩu nước đá, tôi biết cái cốc giờ đã rỗng.

            - Đừng lo chuyện con mèo, em sẽ canh cho. Nếu thấy Wataya Noboru, em sẽ báo cho anh ngay. Anh cứ nhắm mắt. Em tin chắc Wataya Noburu chỉ quanh quẩn đâu đây thôi. Nó có thể ló mặt ra bất cứ lúc nào. Wataya Noburu đang đến đấy. Em biết là nó đang đến – nó len qua bão cỏ, luốn dưới hàng rào, dừng lại nửa đường đề ngửi những bông hoa. Càng lúc càng gần, Wataya Noburu, từng bước từng bước một. Hãy hình dung cảnh đó, đưa hình ảnh đó vào trong tâm trí anh.

            Tôi cố mường tượng ra con mèo, nhưng cố lắm cũng chỉ thấy một hình ảnh mờ mờ như bức ảnh bị thiếu ánh sáng. Ánh nắng xuyên qua mí mắt tôi làm chao đảo và tán xạ cái bóng tối bên trong tôi, khiến tôi không thể vẽ nên một hình ảnh chính xác về con mèo. Thay vào đó tôi chỉ nặn ra được một bức chân dung tồi, một bức tranh méo mó, thiếu tự nhiên, có vài nét hao hao giống nguyên bản song phần quan trọng nhất thì lại thiếu vắng. Thậm chí tôi không nhớ nổi dáng đi của con mèo ra sao nữa.

            Cô gái lại đặt ngón tay lên cổ tay tôi, dùng đầu ngón tay vẽ một thứ ký hiệu lạ lùng nào đó. Như thể đáp lại, một thứ bóng tối khác – khác về chất so với bóng tối mà tôi cảm thấy nãy giờ - bắt đầu xâm nhập vào ý thức tôi. Có lẽ tôi đã thiếp đi. Tôi không muốn điều đó xảy ra, nhưng không cách nào cưỡng lại được. Cơ thể tôi như cái xác chết – xác chết của một ai khác – đang chìm sâu vào chiếc ghế xếp bằng vải bạt.

            Trong bóng tối, tôi thấy bốn cái chân của Wtaya Noburu, bốn cái chân tĩnh lặng màu nâu bên trên bốn bàn chân với những cái núm chân mềm như bằng cao su, những cái chân đang giẫm lên đâu đó mặt đất tịnh không một tiếng động.

            Nhưng ở đâu?

            “Chỉ cần mười phút thôi”, người đàn bà trên điện thoại đã nói thế. Không, cô ta lầm. Đôi khi mười phút không phải là mười phút. Nó có thể giãn ra co lại. Điều đó thì tôi biết rõ.

            Khi thức dậy tôi chỉ có một mình. Cô gái đã biến mất, ghế xếp của cô vẫn kê sát vào ghế tôi. Chiếc khăn tắm, hộp thuốc lá và cuốn tạp chí vẫn nằm đấy, nhưng cốc và máy nghe nhạc thì không còn đó nữa.

            Mặt trời đã bắt đầu lặn về phía Tây, bóng một cây sồi vắt ngang qua ngang đầu gối tôi. Đồng hồ của tôi chỉ 4 giờ 15. Tôi ngồi dậy nhìn quanh. Bãi cỏ rộng, cái hồ cạn, hàng rào, con chim bằng đá, cây xiêm gai vàng, cần ăngten tivi. Vẫn không thấy bóng dáng con mèo. Hay cô gái.

            Vẫn ngồi trên ghế, tôi đưa mắt nhìn lối mèo đi, chờ cô gái quay lại. Mười phút trôi qua, nhưng cả mèo và cô gái vẫn biệt tăm. Chẳng có gì động đậy. Tôi cảm thấy như trong khi ngủ mình đã già khọm đi.

            Tôi đứng dậy đi về phía căn nhà, nơi không có dấu hiệu sự sống. Kính cửa sổ phản chiếu ánh hoàng hôn. Tôi đành không đợi nữa, băng qua bãi cỏ về nhà. Vẫn chưa tìm thấy con mèo, nhưng tôi đã cố hết sức rồi.

            * * *

            Ở nhà, tôi thu quần áo phơi vào rồi chuẩn bị một bữa tối đơn giản. Điện thoại reo mười hai lần lúc 5 giờ 30, song tôi không trả lời. Ngay cả khi điện thoại đã ngừng reo, tiếng chuông vẫn còn treo trong bóng tối đang sẫm dần của căn phòng như những hạt bụi lơ lửng trong không khí. Bằng những cây kim có đầu mút cứng, đồng hồ để bàn gõ nhịp đều đều lên một chiếc bảng trong suốt trôi trong không trung.

            Tại sao không viết một bài thơ về con chim vặn dây cót nhỉ? Ý nghĩ này làm tôi như sực tỉnh, song chẳng làm cách nào cho dòng đầu tiên nảy ra trong đầu được. Nhưng liệu các cô nữ sinh có thích một bài thơ viết về con chim vặn dây cót không?

            * * *

            Kumiko về nhà lúc 7 giờ 30 tối. Tháng rồi nàng ngày càng đi làm về muộn. Chẳng hiếm khi nàng về sau 8 giờ, thậm chí đôi khi sau 10 giờ. Nay thì đã có tôi ở nhà nấu ăn nên nàng chẳng phải vội về nhà nữa. Nàng bảo tòa soạn neo người quá, với lại gần đây một trong các đồng nghiệp của nàng xin nghỉ ốm.

            - Xin lỗi nhé, - nàng nói. – Việc nhiều quá, mà con bé làm bán thời gian thì chả được tích sự gì.

            Tôi xuống bếp nấu nướng: cá xốt bơ, xà lách, súp miso(3). Kumiko ngồi vào bàn bếp, làm động tác duỗi người.

            - Lúc 5 rưỡi anh đi đâu? – nàng hỏi. – Em điện về báo là về muộn mà.

            - Hết bơ, anh ra cửa hiệu mua. – tôi nói dối.

            - Anh có ra ngân hàng không?

            - Có.

            - Còn con mèo?

            - Không tìm thấy. Anh có đến chỗ căn nhà không người ở như em dặn, nhưng không có nó ở đó. Anh đánh cuộc là nó đã đi xa hơn nhiều.

            Nàng chả nói gì.

            Sau bữa tối, khi tôi tắm xong, Kumiko đang ngồi trong phòng khách, không mở đèn. Ngồi thu lu trong bóng tối, mặc áo sơ mi màu xám, nàng trông như một chiếc vali đặt không đúng chỗ.

            Tôi vừa lau tóc bằng khăn tắm vừa ngồi xuống ghế sofa đối diện Kumiko.

            Bằng giọng khẽ đến nỗi khó khăn lắm tôi mới nghe ra, nàng nói: - Em chắc là con mèo chết rồi.

            - Nào, đừng ngốc thế, - tôi đáp. – Anh chắc là nó đang tung tăng vui vẻ đâu đó thôi. Khi nào đói thì nó sẽ mò về. Chuyện đó xảy ra một lần rồi, em nhớ chứ? Hồi mình sống ở Koenji(4) ấy…

            - Lần này khác, - nàng nói. – Lần này thì anh lầm. Em biết. Con mèo chết rồi. Nó đang thối rửa trong một bãi cỏ ở đâu đó. Anh có tìm trên bãi có quanh căn nhà không có người ở không?

            - Không. Nhà không có người ở nhưng vẫn là nhà có chủ. Anh đâu có tự tiện xông vào được.

            - Thế thì anh tìm ở đâu chứ? Em dám cá là anh không hề tìm thử. Chính vì vậy mà anh không tìm ra.

            Tôi thở dài, lại lau tóc bằng chiếc khăn tắm. Tôi đã toan nói, nhưng lại thôi khi nhận thấy Kumiko khóc. Dễ hiểu thôi, nàng rất thương con mèo. Nó đã ở cùng chúng tôi ngay từ sau đám cưới. Tôi ném khăn tắm vào chiếc giỏ đựng đồ ướt trong buồng tắm rồi xuống bếp lấy một lon bia lạnh. Hôm nay thật là một ngày ngu ngốc. Một ngày ngu ngốc trong một tháng ngu ngốc của một năm ngu ngốc.

            Wataya Noburu, mày ở đâu? Lẽ nào con chim vặn dây cót đã quên vặn dây cót cho mày?

            Mấy câu này nảy ra trong đầu tôi như những dòng thơ.

            Wataya Noburu

            Mày ở đâu?

            Lẽ nào con chim vặn dây cót

            Đã quên vặn dây cót cho mày?

            Tôi đang uống dở lon bia thì điện thoại lại reo.

            - Em nghe máy nhé? – tôi thét vào bóng tối trong phòng khách

            - Không, - Kumiko đáp. – Anh đi mà nghe.

            - Anh không muốn.

            Điện thoại vẫn reo, khuấy động những hạt bụi lơ lửng trong bóng tối. Không ai nói một lời. Tôi uống bia, còn Kumiko tiếp tục khóc lặng lẽ. Tôi đếm được hai mươi hồi chuông thì chịu thua. Đếm mãi cũng chẳng có ý nghĩa gì.

            ----------------------------

            1. Tiếng Anh: goldelrod, một loại cây cao có hoa vàng, nở hoa vào cuối mùa hè, có nguồn gốc từ châu u và Bắc Mỹ - ND.

            2. Giorgio de Chirico (1888-1978): họa sĩ và điêu khắc gia Ý, một trong những đại diện xuất sắc nhất của trường phái siêu thực.

            3. Miso: một loại tương đặc nổi tiếng trong truyền thống ẩm thực Nhật Bản, làm chủ yếu bằng đậu tương, ngoài ra còn bằng một số loại ngũ cốc khác. Được dùng làm súp miso và nguyên liệu cho nhiều món ăn Nhật Bản - ND.

            4. Một quận ở Tokyo.

2

            Trăng tròn và nhật thực

            *

            Về những con ngựa chết trong chuồng

             Nói cho cùng, liệu người ta có hoàn toàn hiểu nhau không?

            Chúng ta có thể đầu tư rất nhiều thời gian và công sức hòng hiểu được người khác, nhưng rốt cục chúng ta tiếp cận được tới đâu cái bản chất xấu xa của con người đó? Ta tự thuyết phục mình rằng ta biết rất rõ người kia, nhưng liệu ta có biết được điều gì hệ trọng về một ai đó không?

            Tôi bắt đầu suy ngẫm những chuyện như vậy một cách nghiêm túc từ khoảng sau khi thôi việc ở công ty luật. Trước đó – suốt khoảng thời gian trước đó của tôi – tôi chưa bao giờ vật lộn với những câu hỏi như thế này. Tại sao nhỉ? Có lẽ vì đối với tôi, nội việc sống thôi, đã đủ lắm rồi. Đơn giản là tôi quá bận bịu nghĩ về bản thân mình.

            Một sự kiện vặt vãnh đã là cú huých để tôi biết suy ngẫm, nhưng ở đời hầu hết những chuyện hệ trọng nhất đều bắt đầu từ những điều nhỏ nhặt. Có một buổi sáng nọ, sau khi Kumiko nuốt vội cho xong bữa sáng để đi làm, tôi ném quần áo bẩn vào máy giặt, dọn giường, rửa bát và hút bụi sàn nhà. Sau đó, có con mèo bên cạnh, tôi ra ngoài hiên ngồi đọc các mục quảng cáo tuyển người và rao vặt mua bán. Đến trưa tôi ăn trưa rồi ra siêu thị. Ở đó tôi mua thức ăn dành cho buổi tối rồi mua thuốc tẩy rửa, khăn giấy và giấy vệ sinh ở quầy giảm giá. Lại về nhà, sửa soạn bữa tối rồi nằm xuống ghế sofa đọc sách chờ Kumiko về.

            Tôi vừa mới thất nghiệp nên cảm thấy sống kiểu này thật thoải mái. Không còn phải tất tả đi làm trên những toa xe điện ngầm lèn cứng như cá hộp, không còn phải gặp những người tôi không muốn gặp. Và hơn hết, tôi có thể đọc bất cứ cuốn sách nào mình thích, bất cứ lúc nào mình muốn. Tôi chả biết cái lối sống phong lưu này sẽ tiếp diễn bao lâu, nhưng ít nhất là lúc này, mới sau một tuần, tôi vẫn còn đang thích thú và cố không nghĩ đến tương lai. Đây là kì nghỉ hè lớn của đời tôi. Sẽ đến lúc nó chấm dứt, nhưng từ giờ tới đó tôi quyết tâm tận hưởng an nhàn.

            Dù vậy, tối hôm đó tôi không thể đắm mình vào thú vui đọc sách vì Kumiko về muộn. Nàng không bao giờ về muộn quá sáu rưỡi, và nếu cho rằng mình sẽ về muộn dù chỉ mười phút, nàng luôn báo cho tôi biết. Nhưng hôm đó là ngoại lệ. Mãi sau 7 giờ nàng vẫn chưa về, mà cũng không gọi điện. Thịt và rau đã sẵn sàng, chỉ đợi nàng về là tôi sẽ nấu ngay. Chẳng phải tôi định bày vẽ thịnh soạn gì: tôi sẽ chỉ xào mấy lát thịt bò, hành tây, ớt xanh, giá đỗ, thêm ít muối, tiêu, nước tương và một chút bia, đó là món tôi học được từ hồi còn độc thân. Cơm đã chín, xúp miso đương nóng, rau đã thái, xếp gọn từng chồng trên một cái đĩa to, sẵn sàng cho vào chảo. Chỉ còn thiếu mỗi Kumiko. Tôi khá đói nên đã nghĩ đến chuyện tự nấu phần mình rồi ăn trước, nhưng lại thôi. Làm vậy hình như không phải lắm.

            Tôi ngồi ở bàn bếp, vừa nhấp bia vừa nhai vài cái bánh quy xôđa nhão nhoét tìm được sau tủ bếp. Kim chỉ giờ của đồng hồ nhích tới vị trí bảy giờ rưỡi rồi chầm chậm bò qua.

            Mãi sau 9 giờ Kumiko mới về. Nàng có vẻ mệt bã người. Mắt nàng đỏ ngầu, sưng húp: dấu hiệu không tốt. Mỗi khi mắt nàng đỏ là y như rằng có chuyện không hay.

            - Được rồi, - tôi tự nhủ. - Cứ bình thản, đừng nói gì thừa, hãy tự nhiên, hãy làm như không có gì xảy ra. Đừng nổi nóng.

            - Em xin lỗi, -Kumiko nói. – Cái công việc này thật chẳng ra sao cả. Em đã định gọi cho anh, nhưng chẳng lúc nào bỏ ra được.

            - Không sao, chuyện vặt ấy mà. Đừng áy náy gì cả, - tôi cố nói bằng giọng càng bình thường càng tốt. Mà thật, tôi cũng chẳng thấy khó chịu gì cho lắm. Chuyện ấy từng xảy ra với tôi hàng bao nhiêu lần. Đi làm đâu có phải là việc nhẹ nhàng gì, đâu có phải an nhàn dễ chịu như ngắt đóa hoa hồng đẹp nhất trong vườn để tặng người bà bị ốm sống cách hai khu phố và nán lại suốt ngày ở bên bà. Hễ đã đi làm, đôi khi ta phải làm những việc tẻ ngắt, phải gặp những người khó chịu, đã thế lại chẳng rảnh phút nào để gọi về nhà. Ba mươi giây là đủ để nói: “Hôm nay anh về muộn”, điện thoại thì đâu cũng có, thế mà vẫn không sao gọi được.

            Tôi bắt đầu nấu nướng: bật bếp gas lên, rót dầu vào chảo. Kumiko lấy một chai bia trong tủ lạnh và một cái cốc trong chạn, nhìn qua những thứ tôi sắp nấu rồi lẳng lặng ngồi xuống bàn bếp. Xem vẻ mặt thì biết nàng uống bia mà chẳng thấy ngon lành gì.

            - Đáng lẽ anh cứ ăn, đừng đợi em, - nàng nói.

            - Chả sao cả. Anh cũng không đói lắm.

            Trong khi tôi xào thịt và rau, Kumiko đi tắm. Tôi nghe tiếng nàng rửa mặt và đánh răng. Lát sau nàng ra khỏi buồng tắm, tay cầm cái gì đó. Ấy là giấy vệ sinh và khăn giấy tôi mua ở siêu thị.

            - Anh mua cái thứ này làm gì? – nàng hỏi, giọng mệt mỏi.

            Tay cầm chảo, tôi nhìn nàng. Rồi tôi nhìn xuống hộp khăn giấy và cuộn giấy vệ sinh. Tôi không hiểu nàng muốn nói gì.

            - Ý em là sao? Thì khăn giấy và giấy vệ sinh thôi mà. Mình cần chứ. Thật ra mấy thứ này ở nhà vẫn còn, nhưng có mua thêm thì để lâu một chút chúng cũng có mục ra đâu.

            - Dĩ nhiên là không. Nhưng việc gì anh phải mua khăn giấy màu xanh dương và giấy vệ sinh in hoa?

            - Anh không hiểu, - tôi nói, cố trấn tĩnh. - Mấy thứ này bán hạ giá. Khăn giấy xanh có làm mũi em xanh lè ra đâu. Có gì to tát cơ chứ?

            - Có. Em ghét khăn giấy xanh và giấy vệ sinh in hoa. Anh không biết à?

            - Không, anh không biết. – tôi nói. – Sao em lại ghét?

            - Làm sao em biết được tại sao em ghét? Em không chịu được, có thế thôi. Anh thì ghét khăn phủ điện thoại, ghét mấy cái chai giữ nhiệt có trang trí hoa, ghét quần bò rách te tua có cúc bấm, ghét em làm móng tay. Anh cũng có nói được tại sao đâu. Đó là ý thích của mỗi người.

            Thực ra tôi có thể giải thích lý do tất cả những chuyện nàng vừa kể nhưng dĩ nhiên tôi chẳng giải thích gì.

            - Thôi được, - tôi nói. - Cứ cho đó là ý thích mỗi người. Nhưng liệu em có thể bảo anh rằng suốt sáu năm kể từ ngày mình lấy nhau chưa một lần nào em mua khăn giấy màu xanh hay giấy vệ sinh có in hoa không?

            - Không bao giờ. Không một lần nào.

            - Thật chứ?

            - Thật. Khăn giấy của em chỉ màu trắng, vàng hay hồng thôi. Và em không bao giờ mua giấy vệ sinh có vẽ này vẽ nọ. Em thật sự bị sốc vì anh đã sống với em suốt thời gian qua mà lại không biết chuyện ấy.

            Bản thân tôi cũng bị sốc khi nhận ra rằng suốt sáu năm qua tôi chưa một lần nào dùng khăn giấy màu xanh hay giấy vệ sinh có vẽ hình.

            - Và hễ đã nói thì để em nói nốt, - nàng tiếp. – Em ghét cay ghét đắng món thịt bò rán với ớt xanh. Chuyện ấy anh không biết à?

            - Không, anh không biết. – tôi đáp.

            - Phải, em ghét cay ghét đắng. Anh cũng đừng hỏi tại sao. Đơn giản là em không chịu nổi mùi của hai thứ nấu trong cùng một chảo.

            - Em muốn nói là suốt sáu năm qua chưa một lần nào em nấu thịt bò với ớt xanh?

            Nàng lắc đầu. - Ớt xanh làm rau trộn thì em ăn. Em rán thịt bò với hành. Nhưng em chưa bao giờ nấu thịt bò chung với ớt xanh cả.

            Tôi thở dài.

            - Anh chả bao giờ thấy chuyện đó là lạ sao? – nàng hỏi.

            - Thấy lạ á? Anh chưa bao giờ nhận ra điều đó, - tôi vừa nói vừa ngẫm nghĩ một chút: chẳng lẽ suốt từ khi lấy vợ tôi chưa bao giờ ăn món nào vừa có thịt bò vừa có ớt xanh. Dĩ nhiên là tôi không nhớ nổi.

            - Anh sống với em ngần ấy năm nhưng có mấy khi quan tâm tới em. Anh chỉ quan tâm tới bản thân mình thôi.

            - Khoan đã nào, - tôi vừa nói vừa tắt bếp và đặt chảo lên mặt bếp. – Mình không nên lạc đề. Có thể em nói đúng. Có thể anh đã không quan tâm đầy đủ tới những chuyện như khăn giấy hay giấy vệ sinh hay thịt bò và ớt xanh. Nhưng điều đó không có nghĩa là anh chẳng quan tâm gì đến em. Anh cóc cần biết khăn giấy anh dùng có màu gì. Nếu màu đen thì, ờ, chắc cũng hơi rợn một tí, nhưng trắng hay xanh... với anh có khác gì nhau đâu. Thịt bò với ớt xanh cũng vậy. Nấu riêng, nấu chung, việc gì tới anh chứ? Món thịt bò xào với ớt xanh có hoàn toàn biến khỏi trái đất này thì anh cũng chẳng quan tâm. Nó chẳng liên quan gì đến em, đến những gì là tinh tuý của em. Anh nói thế không đúng sao?

            Thay vì trả lời, nàng nốc hai ngụm hế cốc bia rồi nhìn chăm chăm vào cái chai rỗng.

            Tôi trút các thứ trong chảo vào thùng rác. Này thì thịt bò, này thì ớt xanh, hành tây, giá đỗ. Lạ thật: mới đây là đồ ăn, nhoáng cái đã thành rác. Tôi mở một chai bia rồi nốc từ cổ chai.

            - Sao anh làm vậy?

            - Em ghét món này lắm mà.

            - Nhưng lẽ ra anh có thể ăn chứ.

            - Tự nhiên anh không thích thịt bò xào ớt xanh nữa.

            - Tuỳ anh thôi, - nàng nhún vai.

            Nàng khoanh hai tay lên bàn rồi úp mặt vào, ngồi như vậy một hồi lâu. Rõ là nàng không khóc cũng chẳng ngủ. Tôi nhìn cái chảo rỗng trên bếp, nhìn Kumiko rồi nốc cạn cốc bia. Điên rồ quá. Việc gì phải ầm ĩ về chuyện khăn giấy, giấy vệ sinh và ớt xanh cơ chứ?

            Tôi lại gần vợ, đặt tay lên vai nàng.

            - Thôi được, - tôi nói. – Anh hiểu rồi. Anh sẽ không bao giờ mua khăn giấy xanh hay giấy vệ sinh in hoa nữa. Mai anh sẽ mang trả lại siêu thị và đổi hàng khác. Nếu họ không chịu đổi, anh sẽ đốt ở ngoài sân. Anh sẽ ném tro xuống biển. Cũng sẽ không bao giờ có món thịt bò và ớt xanh nữa. Không bao giờ nữa. Chẳng mấy chốc mùi cũng sẽ bay đi, và chúng mình cũng sẽ không bao giờ nghĩ tới chuyện này nữa. Đồng ý nhé?

            Nhưng nàng vẫn chẳng nói gì. Tôi ước gì có thể ra ngoài đi dạo chừng một giờ, trở về thì thấy nàng đã vui vẻ lại, nhưng tôi biết chuyện đó sẽ không xảy ra đâu. Tôi phải tự giải quyết chuyện này thôi.

            - Nghe này, em mệt rồi, - tôi nói. – Nghỉ một chút đi, rồi chúng mình đi đâu đó ăn pizza. Lần cuối mình ăn pizza là khi nào nhỉ? Ăn với cá trồng và hành. Mình sẽ gọi một suất chia đôi. Lâu lâu tự cho phép mình ra ngoài ăn hàng một lần thì cũng có sao đâu.

            Vẫn không ăn thua. Nàng vẫn gục mặt xuống hai cánh tay.

            Tôi chẳng biết nói gì nữa. Tôi ngồi xuống nhìn nàng từ phía bên kia bàn. Một tai nàng lộ ra qua mái tóc đen cắt ngắn. Nó có đeo một chiếc hoa tai mà tôi chưa bao giờ thấy, một cái hoa tai nhỏ bằng vàng hình con cá. Nàng mua ở đâu ra cái của này vậy? Tôi muốn hút thuốc. Tôi hình dung mình rút gói thuốc và bật lửa ra khỏi túi quần, lấy một điếu đút vào mồm, châm lửa. Tôi hít vào một hơi đầy phổi và đột nhiên cảm thấy cái mùi gắt của thịt bò xào rau. Tôi đói cồn cào cả ruột gan.

            Mắt tôi bắt gặp tấm lịch trên tường. Tấm lịch này cho biết các tuần trăng. Sắp đến tuần trăng tròn. Ừ thì dĩ nhiên: sắp đến kỳ kinh nguyệt của Kumiko.

            Chỉ từ khi thành người có vợ tôi mới thật sự ngộ ra rằng mình là một công dân của Trái đất, hành tinh thứ ba trong hệ mặt trời. Tôi sống trên trái đất, trái đất quay quanh mặt trời, và quay quanh trái đất là mặt trăng. Dù ta có muốn hay không, điều đó sẽ tiếp diễn vĩnh viễn (hay ít nhất là cái gọi là vĩnh viễn khi so sánh với cuộc đời tôi). Điều đã khiến tôi đâm ra nhìn sự vật theo cách đó chính là chu kỳ kinh nguyệt tuyệt đối chính xác của vợ tôi, hai mươi chín ngày, lại trùng khớp hoàn toàn với chu kỳ trăng khuyết trăng tròn. Những ngày có kinh của Kumiko luôn thật khổ sở. Từ mấy ngày trước đó nàng đã trở nên bất an, thậm chí trầm uất. Vì vậy chu kỳ của nàng cũng trở thành chu kỳ của tôi, mặc dù nó chỉ liên quan với tôi một cách gián tiếp. Tôi phải cẩn thận không gây những phiền phức không cần thiết vào những ngày đó trong mỗi tháng. Trước khi chúng tôi lấy nhau, tôi chả mấy khi nhận thấy chu kỳ của mặt trăng. Nó có thể lọt vào mắt tôi khi tôi nhìn lên bầu trời, nhưng tôi không hề bận tâm đến hình dạng của nó vào lúc này hay lúc khác. Nay thì tôi luôn luôn để ý theo dõi hình dáng của mặt trăng.

            Tôi từng gần gũi vài phụ nữ trước khi gặp Kumiko, dĩ nhiên mỗi người đều có kỳ kinh nguyệt riêng. Ở vài người kỳ kinh nguyệt diễn ra rất nhọc nhằn, vài người khác thì nhẹ không, có người chỉ ba ngày là xong, người khác phải một tuần; có người đều đặn, có người lại muộn những 10 ngày khiến tôi sợ chết khiếp; người này khi có kinh thì đâm bẳn tính, người khác hầu như không bị ảnh hưởng gì. Tuy nhiên, trước khi cưới Kumiko, tôi chưa hề sống với một phụ nữ nào. Cho tới khi đó, vòng tuần hoàn của tự nhiên đối với tôi chỉ có nghĩa là bốn mùa thay đổi. Mùa đông tôi mặc áo khoác, mùa hè tôi đi dép lê. Từ khi lấy vợ, tôi không chỉ có một người chung sống mà còn có thêm một ý niệm mới về tính tuần hoàn: chu kỳ của mặt trăng. Chỉ có một lần nàng bị rối loạn kinh nguyệt trong vòng vài tháng; đó là khi nàng có thai.

            - Em xin lỗi, - nàng ngẩng lên nói. – Em không có ý trút hết mọi chuyện lên đầu anh. Em mệt quá, với lại tâm trạng không thoải mái.

            - Không sao đâu, - tôi nói. – Đừng nghĩ ngợi gì cả. Mỗi khi mệt mỏi thì cũng nên xả vào một ai đó. Rồi em sẽ thấy dễ chịu hơn.

            Kumiko chầm chậm hít vào một hơi dài, nén lại một lát rồi thở ra.

            - Còn anh thì sao? – nàng hỏi.

            - Thì sao là thế nào?

            - Mỗi khi anh mệt, anh chẳng bao giờ xả vào ai cả. Còn em thì có, tại sao vậy?

            - Anh chẳng bao giờ nhận ra điều ấy, - tôi lắc đầu. – Lạ thật.

            - Chắc là bên trong anh có một cái giếng sâu, anh hét xuống giếng: “Nhà vua có tai lừa !”, thế là mọi chuyện ổn cả.

            Tôi nghĩ một chút.

            - Có thể, - tôi đáp.

            Kumiko lại nhìn cái chai rỗng. Nàng nhìn chăm chăm vào nhãn chai, sau đó nhìn cổ chai, rồi xoay xoay cổ chai trong mấy ngón tay.

            - Em xắp có kinh, - nàng nói. – Có lẽ vì vậy mà em khó chịu.

            - Anh biết. Đừng lo nghĩ về chuyện đó. Em không phải là kẻ duy nhất đâu. Hàng lô ngựa cũng chết vào đêm trăng tròn đấy.

            Nàng nhấc tay khỏi chai, há hốc mồm nhìn tôi.

            - Này, sao tự dưng anh lôi chuyện ngựa nghẽo gì đó ra đây thế?

            - Hôm nọ anh đọc trong báo mà. Anh đã định kể cho em nghe nhưng quên mất. Đấy là bài phỏng vấn một bác sỹ thú y. Hóa ra, ngựa là loài bị ảnh hưởng ghê gớm bởi chu kỳ của mặt trăng, cả về thể chất lẫn tâm lý. Mỗi khi sắp đến kỳ trăng tròn, dao động não của chúng trở nên tán loạn, chúng lại còn bị đủ thứ triệu chứng khó ở. Thế rồi, vào đúng đêm trăng tròn, nhiều con ngã bệnh, nhiều con nữa lăn ra chết. Không ai biết vì sao, nhưng số liệu thống kê chứng minh là chuyện đó có. Vào các đêm trăng tròn, bác sỹ thú ý chẳng có thì giờ đâu mà ngủ vì nhiều việc quá.

            - Thú vị nhỉ, - Kumiko nói.

            - Nhưng nhật thực lại càng tệ hơn. Chẳng thiếu gì thảm kịch cho lũ ngựa. Em không thể hình dung số ngựa chết vào ngày nhật thực toàn phần đâu. Dù sao đi nữa, điều anh muốn nói là ngay lúc này đây, ngựa đang chết ở khắp nơi trên thế giới. So với chuyện đó thì chuyện em trút nỗi bực dọc lên người khác chẳng có gì là ghê gớm cả. Vì vậy đừng bận tâm làm gì. Hãy nghĩ về lũ ngựa bất hạnh kia. Hãy hình dung chúng nằm trên ổ rơm chuồng ngựa dưới ánh trăng tròn, sùi bọt mép, mồm ngáp ngáp trong cơn hấp hối.

            Nàng có vẻ nghĩ ngợi một chút về những con ngựa đang chết trong chuồng.

            - Thôi được, - nàng nói với giọng nhượng bộ. – Em phải thừa nhận là anh có thể thuyết phục bất cứ ai về bất cứ chuyện gì.

            - Vậy em thay đồ đi, rồi mình đi ăn pizza.

            Đêm đó, nằm bên Kumiko trong căn phòng ngủ tắt đèn, tôi nhìn lên trần nhà và tự hỏi mình thực sự biết những gì về người phụ nữ này. Đồng hồ chỉ 2 giờ sáng. Nàng đang ngủ say. Trong bóng tối, tôi nghĩ về những cái khăn giấy màu xanh dương và giấy vệ sinh in hoa, về thịt bò và ớt xanh. Tôi đã sống với nàng suốt thời gian qua mà không hề biết nàng ghét những thứ đó đến nhường nào. Tự thân chúng chẳng có gì quan trọng hết. Thật ngu xuẩn. Lẽ ra phải cười xòa rồi quên đi, đừng nên chuyện bé xé to. Toàn những điều vặt vãnh, chỉ hai ba hôm là ta sẽ quên béng đi ngay.

            Nhưng chuyện này thì khác. Có cái gì đó mới mẻ, không bình thường, nó làm tôi bứt rứt như một mẩu xương cá hóc trong cuống họng. Có thể - chỉ là có thể thôi - chuyện này quan trọng hơn tôi tưởng nhiều. Hoàn toàn có thể là một cái gì đó thật nguy hại. Hay thậm chí đây chỉ mới là khởi đầu cho một cái gì đó thật sự nghiêm trọng và bi thảm. Có thể tôi đang đứng trước ngưỡng cửa một cái gì đó lớn lao mà trong đó là một thế giới chỉ thuộc về Kumiko thôi, một thế giới mênh mông mà tôi chưa hề biết. Tôi thấy nó như một căn phòng rộng, tối tăm. Tôi đứng đó tay cầm một cái bật lửa, ngọn lửa bé tí của nó chỉ soi cho tôi thấy một phần rất nhỏ của căn phòng.

            Liệu có thể nào tôi nhìn thấy phần còn lại không? Hay là cho đến già, đến khi xuống lỗ tôi vẫn chẳng bao giờ thực sự biết được vợ mình? Nếu quả thật đời tôi sẽ thế thì cái cuộc sống vợ chồng này có ý nghĩa gì cơ chứ? Cuộc đời tôi có ý nghĩa gì nếu suốt đời tôi ngủ chung giường với một người đàn bà xa lạ vẫn hoàn xa lạ.

            * * *

            Đó là những gì mà suốt đêm đó tôi nghĩ miên man và sau đó thỉnh thoảng vẫn tiếp tục miên man nghĩ. Chỉ rất lâu sau tôi mới vỡ ra rằng mình đã tìm được đường đến tận cốt lõi của vấn đề.

3

            Cái mũ của Malta Kano

            *

            Màu kem quả, Allen Ginsberg

            và các hiệp sĩ Thập tự chinh

            Tôi đang làm bữa trưa thì điện thoại reo. Tôi vừa cắt hai lát bánh mì, phết bơ và mù tạc, kẹp mấy lát cà chua và pho mát vào giữa, đặt cả lên thớt và đang sắp sửa dùng dao cắt làm đôi thì chuông điện thoại vang lên.

            Tôi để điện thoại reo ba tiếng rồi mới cắt chiếc sandwich làm đôi. Sau đó tôi đặt hai nửa bánh vào đĩa, lau sạch dao, đặt vào ngăn để dao, rồi rót một cốc cà phê vừa mới đun.

            Điện thoại vừa reo. Dễ đến mười lăm lần. Tôi chịu thua, đành ra nghe máy. Tôi chẳng thích trả lời, nhưng nhỡ người gọi là Kumiko thì sao.

            - Alô, - ở đầu dây bên kia là giọng một phụ nữ mà tôi chưa hề nghe. Không phải giọng Kumiko, cũng không phải giọng người đàn bà lạ đã gọi tôi hôm nọ khi tôi đang nấu dở món spaghetti. – Chẳng hay có phải tôi đang nói chuyện với ông Toru Okada không ạ? – giọng kia nói, như thể chủ nhân của nó đang đọc thành tiếng một văn bản đã soạn sẵn.

            - Đúng rồi, - tôi đáp.

            - Ông là chồng của Okada Kumiko phải không ạ?

            - Đúng, Okada Kumoko là vợ tôi.

            - Và anh trai của bà Okada là Wataya Noburu?

            - Lại đúng nữa, - tôi nói, tỏ ra tự chủ đến đáng khâm phục. – Wataya Noburu là anh trai của vợ tôi.

            - Thưa ông, tôi tên là Kano.

            Tôi đợi cô ta nói tiếp. Việc cô ta bất ngờ nhắc tới anh trai của Kumiko khiến tôi phải cảnh giác. Tôi lấy cái đầu cùn của cây bút chì đặt cạnh điện thoại mà gãi sau cổ. Năm giây hay hơn thế trôi qua, người đàn bà im lặng. Hoàn toàn không có âm thanh gì phát ra từ ống nghe, như thể người đàn bà kia đã lấy khăn tay bịt ống nói để nói chuyện với người bên cạnh.

            - Alô, - tôi nói, giờ đã hơi bồn chồn

            - Xin ông thứ lỗi, - giọng nói lại bật lên. – Trong trường hợp đó tôi xin phép được gọi lại ông sau.

            - Này, đợi đã, - tôi nói. – Đây là…

            Ngay khi đó cô ta gác máy. Tôi nhìn cái ống nghe, rồi lại áp vào tai. Chẳng nghi ngờ gì nữa: người đàn bà đã gác máy.

            Cảm thấy bất mãn một cách mơ hồ, tôi trở lại bàn bếp uống cà phê, ăn bánh sandwich. Trước khi điện thoại reo tôi đang nghĩ về chuyện gì đó, nhưng giờ thì chịu không nhớ nỗi là chuyện gì. Ban nãy khi cầm dao sắp sửa cắt bánh làm đôi, nhất định là tôi đang nghĩ về một điều gì đó. Một điều rất quan trọng. Một điều mà đã bao lâu nay tôi cố nhớ nhưng hoài công. Nó đã nảy ra trong đầu tôi đúng vào khoảnh khắc tôi sắp cắt bánh làm đôi, nhưng giờ nó đã lại biến mất. Tôi vừa nhai sandwich vừa ra sức khơi lại điều đó, nhưng vô ích. Nó đã quay về vùng âm u trong ký ức tôi, nơi nó vẫn hằng nằm yên cho đến khoảnh khắc đó.

            * * *

            Tôi vừa ăn xong và đang rửa bát thì điện thoại lại reo. Lần này tôi nhấc máy ngay.

            Một lần nữa tôi lại nghe giọng nữ nói “Alô”, nhưng lần này là Kumiko.

            - Anh sao rồi?, - nàng hỏi. – Ăn trưa chưa?

            - Rồi. Em thì ăn gì?

            - Chẳng ăn gì cả, - nàng đáp. – Bận túi bụi. Chắc em sẽ mua sandwich sau vậy. Anh ăn gì?

            Tôi mô tả cái sandwich của mình.

            - Hiểu rồi, - nàng nói, không một chút ghen tị. – À, tiện thể, có chuyện này suýt nữa em quên bảo anh sáng nay. Hôm nay sẽ có một cô Kano nào đó gọi điện cho anh.

            - Cô ta gọi rồi, - tôi nói. – Vừa gọi xong. Cô ta chỉ toàn kể tên nhà mình – tên anh, tên em, tên ông anh trai em. Chẳng nói cô ta muốn gì. Thế là thế nào vậy?

            - Cô ta gác máy à?

            - Bảo là sẽ gọi lại.

            - Nghe này! Khi nào cô ta gọi lại, em muốn anh làm tất cả những gì cô ta bảo. Điều này thật sự quan trọng đấy. Em nghĩ là anh sẽ phải đi gặp cô ta.

            - Khi nào? Hôm nay à?

            - Thì đã sao? Anh đã có kế hoạch làm gì đó à? Anh sắp phải gặp ai sao?

            - Không. Chẳng có kế họach nào hết. – Hôm qua không, hôm nay không, ngày mai không; hoàn toàn không có kế hoạch gì. – Nhưng cái nhà cô Kano này là ai? Cô ta muốn gì ở anh chứ? Anh muốn biết đôi điều trước khi cô ta gọi lại. Nhưng nếu đây là chuyện việc làm của anh mà lại dính dáng tới ông anh của em thì quên đi. Anh không muốn dây và anh ta. Em biết mà.

            - Không, ở đây chẳng liên quan gì đến việc làm cả, - nàng nói, thoáng chút bực bội. – Là về con mèo.

            - Con mèo?

            - Xin lỗi, em phải chạy đi đây. Có người đang đợi em. Lẽ ra em không nên gọi điện cho anh vào giờ này. Em đã nói mà: thậm chí chẳng có lúc nào mà ăn nữa. Khi nào rỗi em sẽ gọi lại ngay cho anh.

            - Khoan đã nào, anh biết em rất bận, nhưng em phải giải thích một chút chứ, đừng làm anh rối tung lên chẳng hiểu đầu cua tai nheo gì cả. Mèo là thế nào? Cái cô Kano này là…

            - Cô ta bảo anh làm gì thì anh cứ làm, nhé? Hiểu không nào? Chuyện này hệ trọng đấy. Anh cứ ở nhà đợi cô ta gọi. Thôi em đi đây.

            Nàng gác máy.

            * * *

            Khi điện thoại reo lúc 2 giờ rưỡi, tôi đang ngủ trên sofa. Thoạt tiên tôi nghĩ là đồng hồ báo thức. Tôi với tay bấm nút tắt, nhưng đồng hồ không có đó. Tôi không nằm trên giường mà trên sofa, và bây giờ không phải buổi sáng mà là xế trưa. Tôi dậy đi ra chỗ điện thoại.

            - Alô? – tôi nói.

            - Alô, - một giọng nữ nói. Đó là người đã gọi lúc sáng. – Ông Okada Toru phải không ạ?

            - Vâng, tôi đây, Okada Toru.

            - Thưa ông, tên tôi là Kano, - cô ta nói.

            - Cô vừa mới gọi đây phải không?

            - Vâng. Tôi e rằng mình đã quá ư thất lễ. Nhưng thưa ông Okada, xin ông cho biết liệu chiều nay ông có rãnh không?

            - Chắc là rảnh.

            - Nếu vậy, tôi biết thế này quả thật là đường đột, nhưng liệu chúng ta có thể gặp nhau không?

            - Khi nào? Hôm nay? Ngay bây giờ sao?

            - Vâng.

            Tôi nhìn đồng hồ. Thực ra thì chẳng cần nhìn – cách đây nửa phút tôi vừa nhìn đồng hồ xong – mà chỉ để cho chắc. Vẫn đang 2 giờ rưỡi.

            - Có lâu không?

            - Chắc không lâu lắm đâu. Tuy nhiên tôi có thể lầm. Ngay lúc này tôi không thể nói hoàn toàn chính xác được. Xin ông thứ lỗi cho.

            Dù là thế nào đi nữa, tôi cũng không có cách nào khác. Kumiko đã bảo tôi phải làm theo lời người đàn bà này, bởi chuyện rất hệ trọng. Một khi nàng đã nói là hệ trọng thì đúng là hệ trọng, và tốt nhất là tôi nên làm theo.

            - Tôi hiểu, - tôi đáp. – Ta nên gặp nhau ở đâu?

            - Chẳng hay ông có biết khách sạn Pacific bên cạnh ga Shinagawa không?

            - Có.

            - Có một tiệm cà phê ở tầng một. Tôi sẽ đợi ông ở đó lúc 4 giờ. Thế có tiện cho ông không ạ?

            - Được, - tôi nói.

            - Tôi ba mươi mốt tuổi, tôi sẽ đội mũ bằng vải vinyl màu đỏ.

            Thật lạ lùng. Có cái gì đó kì quặc trong cách nói năng của người đàn bà này, nó khiến tôi bối rối một lát. Nhưng tôi không thể lý giải có gì khác thường trong lời lẽ của cô ta. Cũng chẳng có luật nào cấm phụ nữ ba mươi mốt tuổi đội nón vinyl màu đỏ cả.

            - Tôi hiểu, tôi sẽ nhận ra cô.

            - Thưa ông Okada, ông có thể vui lòng cho tôi biết ông có những nét bề ngoài nào nổi bật dễ nhận diện không?

            Tôi cố nghĩ xem mình có thể có những “nét bề ngoài nổi bật” nào. Mình có không nhỉ?

            - Tôi ba mươi tuổi. Tôi cao 1,72 mét, nặng 63 cân, tóc cắt ngắn, không đeo kính. – Trong khi liệt kê mấy nét trên, tôi nhận ra rằng vị tất đó là những đặc điểm bề ngoài dễ nhận diện. Có thể có tới năm chục người đàn ông như vậy trong quán cà phê ở khách sạn Pacific. Tôi từng tới đó rồi, quán cà phê rộng mênh mông. Phải là nét gì nổi bật hơn thì cô ta mới nhận ra được. Nhưng tôi chẳng nghĩ được gì cả. Nói thế không có nghĩa là tôi chả có nét gì nổi bật. Tôi có một bản Sketchy of Spain của Mils Davis có chữ ký của tác giả. Tôi có nhịp tim rất chậm: bình thường bốn mươi bảy, khi nào lên cơn sốt cũng không quá bảy mươi. Tôi vừa thất nghiệp. Tôi thuộc tên tất thảy các anh em nhà Karamazov. Nhưng chẳng có nét nào trong số đó là nét bên ngoài cả.

            - Ông sẽ ăn mặc thế nào? – cô ta hỏi.

            - Tôi không biết. Tôi chưa quyết định. Chuyện này đột ngột quá.

            - Thế thì xin ông hãy mang cà vạt chấm hạt đỗ, - cô ta nói với vẻ quyết đoán. - Liệu ông có chiếc cà vạt chấm hạt đỗ nào không?

            - Chắc là có, - tôi nói. Tôi có một cái cà vạt xanh kiểu lính thuỷ có những hạt đỗ li ti màu kem. Đó là quà sinh nhật của Kumiko tặng tôi vài năm trước.

            - Vậy xin ông hãy mang cái cà vạt ấy, - cô ta nói. – cám ơn ông đã đồng ý gặp tôi lúc 4 giờ. - Rồi cô ta gác máy.

            * * *

            Tôi mở tủ tìm cái cà vạt chấm hạt đỗ. Không thấy trên giá treo cà vạt. Tôi lục tất cả các hộc. Tôi tìm trong mấy cái hộp đựng quần áo. Cái cà vạt chấm hạt đỗ chẳng thấy đâu. Không thể có chuyện cái cà vạt vẫn đang ở trong nhà mà tôi không thể tìm ra. Kumiko là người rất kỹ tính, với nàng quần áo trong tủ luôn phải ngăn nắp đâu ra đó, nên cái cà vạt không thể ở đâu khác ngoài nơi từ trước đến nay vẫn dùng để cất nó. Thực vậy, tôi thấy mọi thứ - cả quần áo của nàng và của tôi - đều rất chỉn chu. Các sơ mi của tôi xếp gọn trong hộp dành cho chúng. Các áo len của tôi nằm trong mấy cái hộp lèn chặt băng phiến đến nỗi vừa mở nắp ra là mắt tôi đã cay xè. Một hộp đựng các thứ quần áo nàng mặc hồi còn đi học: một bộ đồng phục kiểu lính thuỷ, một bộ váy áo mini kẻ hoa, những bức ảnh ưa thích trong một album cũ. Giữ lại những thứ này để làm gì chứ? Có lẽ nàng vẫn mang chúng theo chỉ vì chưa tìm được cơ hội để tống khứ đi. Hoặc có thể nàng định gửi chúng sang Bangladesh hoặc một ngày nào đó sẽ đem bán như là vật phẩm văn hóa. Nói gì thì nói, chẳng kiếm đâu ra cái cà vạt chấm hạt đỗ của tôi.

            Tì tay lên cửa tủ, tôi cố nhớ lại lần cuối cùng mình đeo cái cà vạt là khi nào. Nó là một cái cà vạt khá sành điệu, rất có gu, chỉ có điều mang đi làm thì hơi điệu quá. Nếu tôi mang nó tới cơ quan thì ắt hẳn trong bữa ăn trưa sẽ có người lại gần trầm trồ nào màu sắc tuyệt đẹp, nào hình dáng tinh tế. Mà đấy chính là một kiểu cảnh cáo. Ở công ty tôi làm trước đây, được khen về cà vạt mình đeo thì chẳng hay ho gì. Vì vậy tôi chẳng bao giờ đeo cái cà vạt chấm hạt đỗ đi làm cả. Tôi chỉ đeo nó trong những dịp riêng tư và tương đối trang trọng, chẳng hạn nghe hòa nhạc hoặc ăn tối trong một nhà hàng có hạng, nghĩa là những hôm nào Kumiko bảo “Hôm nay em muốn vợ chồng mình ăn mặc lịch sự” (thật ra những dịp như thế không có nhiều). Cái cà vạt ấy đi với chiếc áo sơ mi màu xanh thẫm của tôi rất hợp, và Kumiko rất thích. Thế nhưng tôi vẫn không nhớ nổi lần cuối mình đeo nó là khi nào.

            Tôi kiểm lại lần nữa tất cả mọi thứ trong tủ quần áo rồi chịu thua. Vì lý do nào đó, cái cà vạt chấm hạt đỗ đã không cánh mà bay. Thôi vậy. Đành phải mặc bộ comple xanh thẫm, sơ mi trắng, đeo cà vạt kẻ sọc. Chẳng sao cả. Cô ta có thể không nhận ra tôi, nhưng tôi thì chỉ cần tìm người đàn bà nào trạc ba mươi tuổi đội mũ bằng vải vinyl màu đỏ.

            Vận quần áo đâu đấy xong, tôi ngồi lên ghế sofa nhìn chăm chăm vào tường. Lần cuối tôi vận bộ comple đã lâu lắm rồi. Bình thường ra, mùa này mà mặc bộ comple xanh thẫm này có thể là quá nặng, nhưng hôm ấy trời lất phất mưa, lại còn se lạnh nữa. Đó chính là bộ comple tôi đã mặc vào hôm cuối cùng đi làm (dạo tháng Tư). Chợt tôi nhận ra có cái gì đó ở một trong các túi. Trong túi ngực tôi tìm thấy một cái biên lai đề ngày từ mùa thu trước. Nó là một cái biên lai taxi, loại mà trước kia tôi hay mang về cơ quan làm thủ tục thanh toán lại. Giờ thì muộn quá rồi. Tôi vò mảnh biên lai vứt vào sọt rác.

            Từ lúc thôi việc cách đây hai tháng, tôi chưa lần nào mặc lại bộ com lê này. Giờ đây, sau ngần ấy thời gian mới mặc lại, tôi cảm như thân thể mình biến thành một chất liệu khác. Nó nặng trịch, thô cứng, dường như không khớp với đường viền thân thể tôi. Tôi đứng dậy đi tới đi lui trong phòng, đứng lại trước gương, kéo thẳng tay áo và vạt áo để bộ com-lê ôm khít người hơn. Tôi duỗi thẳng hai tay, hít mộ hơi dài rồi gập người xuống ngang thắt lưng đặng kiểm tra xem dáng người tôi có thay đổi không trong hai tháng vừa qua. Tôi lại ngồi xuống sofa, nhưng vẫn thấy bứt rứt bất an như trước.

            Mãi đến mùa xuân vừa rồi, ngày nào tôi cũng mặc com-lê đi làm mà không hề cảm thấy nó là cái gì lạ lẫm. Công ty tôi có quy định tương đối khắt khe về chuyện ăn mặc, họ yêu cầu ngay cả những nhân viên hạng tép riu như tôi cũng phải mặc com-lê. Tôi chẳng nghĩ ngợi gì về điều đó cả.

            Tuy nhiên, lúc này đây, mặc bộ com lê mà ngồi trên sofa, tôi có cảm giác mình đang thực hiện một hành vi vô đạo, kiểu như làm sơ yếu lý lịch giả hay cải trang thành phụ nữ. Có cái gì đó rất gần với mặc cảm có tội tràn ngập trong lòng khiến tôi càng lúc càng khó thở.

            Tôi bước ra phòng ngoài, lấy đôi giày màu nâu ra khỏi giá, dùng cái bót đi giày để xỏ chân vào. Bề mặt đôi giày phủ một lớp bụi mỏng.

            * * *

            Hóa ra tôi không phải tìm người đàn bà nọ mà chính cô ta nhận ra tôi. Bước vào tiệm cà phê, tôi nhìn quanh một lượt tìm chiếc mũ đỏ. Chẳng có người đàn bà nào đội mũ đỏ cả. Đồng hồ của tôi chỉ 4 giờ kém mười. Tôi tìm chỗ ngồi, uống cốc nước người ta mang tới rồi gọi một cốc cà phê. Ngay khi hầu bàn vừa đi khỏi, tôi nghe giọng một phụ nữ vang lên sau lưng: “Chắc hẳn ông là Okada Toru?”. Tôi ngạc nhiên ngoái đầu lại. Từ khi tôi nhìn quanh phòng rồi ngồi xuống gọi cà phê đến giờ mới chưa đến ba phút.

            Cô ta mặc áo khoác trắng, áo blouse lụa màu vàng, đội mũ bằng vải vinyl màu đỏ. Theo phản xạ, tôi đứng dậy đối diện với cô ta. Hiển nhiên có thể gọi cô ta là “đẹp”. Ít nhất là đẹp hơn nhiều so với tôi hình dung khi nghe giọng qua điện thoại. Thân hình cân đối, thon thả, trang điểm chừng mực. Cô ta biết cách ăn mặc. Áo khoác và áo blouse cắt may tuyệt khéo. Trên cổ áo khoác lấp lánh một cái ghim bằng vàng hình lông chim. Nhìn bên ngoài có thể cho cô ta là thư ký của một công ty tầm cỡ nào đó. Duy có chiếc mũ đỏ là không hợp tí nào. Chẳng hiểu tại sao, sau khi bỏ công chăm chút ngần ấy cho quần áo cô ta lại đội lên đầu cái mũ bằng vải vinyl màu đỏ không đâu vào đâu kia. Chắc hẳn cô ta làm thế để người ta dễ nhận ta cô trong những tình huống như thế này. Nếu quả vậy thì ý đó thật không tồi. Giữa đám đông người, cô ta nổi bật lên ngay.

            Cô ta ngồi xuống chiếc ghế đối diện tôi, tôi thì ngồi xuống ghế của mình.

            - Lạ nhỉ, làm sao cô biết là tôi, – tôi nói. – Tôi không tìm ra cái cà vạt chấm hạt đỗ. Tôi biết chắc nó ở đâu đó thôi, nhưng không cách nào tìm ra. Nên tôi đành phải đeo cà vạt kẻ sọc. Tôi cứ nghĩ mình sẽ phải tìm cô, nhưng làm cách nào cô lại nhận ra tôi thế?

            - Dĩ nhiên là tôi biết ông, - cô ta vừa nói vừa đặt chiếc xách tay màu trắng lên bàn. Cô ta giở chiếc mũ màu đỏ ra, đậy kín lên chiếc xách tay. Tôi có cảm tưởng cô ta sắp biểu diễn một trò ảo thuật: khi cô ta nhấc mũ lên, chiếc xách tay đã biến mất.

            - Nhưng tôi đeo cà vạt khác mà, - tôi độp lại.

            - Cà vạt khác nào nhỉ? – Cô ta liếc nhìn cái cà vạt của tôi với vẻ băn khoăn, như thể muốn nói: Cái gã dở người này đang nói chuyện gì ấy nhỉ? Rồi cô ta gật đầu: - Chuyện ấy không quan trọng, xin ông chớ bận tâm.

            Đôi mắt cô ta có cái gì đó thật lạ. Chúng thiếu chiều sâu một cách bí hiểm. Đôi mắy ấy đẹp thì đẹp thật, nhưng dường như chúng chẳng nhìn bất cứ cái gì. Chúng phẳng lì, như thể làm bằng thủy tinh. Song, dĩ nhiên đó không phải là cặp mắt thủy tinh. Chúng chuyển động, chớp chớp mi mắt, như mọi cặp mắt bình thường.

            Làm sao cô ta nhận ra tôi trong đám đông ngồi chật cứng quán cà phê này? Thật không hiểu nổi. Hầu như ghế nào cũng có người, trong số đó có nhiều người trạc tuổi tôi. Tôi muốn yêu cầu cô ta giải thích, nhưng kìm mình lại. Tránh khơi lên những chuyện ngoài lề thì tốt hơn.

            Cô ta vẫy tay một hầu bàn đi ngang qua, gọi một suất Perrier. Anh ta bảo nhà hàng không có Perrier, nhưng có thể thay bằng nước tonic. Cô ta suy nghĩ một chút rồi đồng ý. Trong khi đợi nhà hàng mang nước tonic ra, cô ta im lặng, tôi cũng vậy.

            Đến một lúc, cô ta nhấc cái mũ đỏ lên, mở khuy móc cài chiếc xách tay nằm bên dưới, rút từ trong đó ra một hộp da đen bóng nhỏ hơn chiếc băng cát sét đôi chút. Đó là một chiếc hộp con đựng danh thiếp. Cũng như chiếc xách tay, nó được cài bằng khuy móc – lần đầu tiên tôi thấy một hộp đựng danh thiếp cài khuy móc như vậy. Cô ta rút trong hộp ra một tấm danh thiếp trao cho tôi. Tôi bèn đút tay vào túi ngực tìm danh thiếp của mình thì mới nhận ra rằng trong người chẳng có tấm nào.

            Danh thiếp của cô ta làm bằng nhựa mỏng, hình như thoảng mùi trầm hương. Khi đưa nó lại gần mũi, mùi hương đó càng rõ rệt. Không nghi ngờ gì nữa: chính là trầm hương. Danh thiếp mang vỏn vẹn một dòng chữ cái màu đen:

            Kano Malta

            Malta? Tôi lật xem mặt bên kia. Nhưng ở đó chẳng có gì.

            Trong khi tôi ngẫm nghĩ về ý nghĩa của tấm danh thiếp, tay hầu bàn đến đặt trước mặt cô ta một chiếc cốc đầy nước đá rồi rót nước tonic đến lưng chừng cốc. Trên vành cốc có găm một mẩu chanh. Rồi một cô hầu bàn đến, tay bưng khay đựng một ấm cà phê màu bạc. Cô ta đặt một chiếc tách trước mặt tôi rồi rót cà phê vào. Sau đó len lén như kẻ đang dúi những que xăm xúi quẩy vào tay người khác, cô ta để hóa đơn lên bàn rồi bỏ đi.

            - Ở đấy chẳng có ghi gì đâu, - Kano Malta bảo tôi.

            Tôi vẫn đang nhìn chăm chăm nhìn vào mặt sau của tấm danh thiếp.

            - Chỉ có tên tôi mà thôi. Không cần ghi địa chỉ hay số điện thoại. Chẳng ai gọi điện cho tôi cả. Tôi luôn luôn tự gọi cho người khác.

            - Tôi hiểu, - tôi nói. Câu trả lời vô nghĩa đó treo lơ lửng trong không trung một hồi như hòn đảo bồng bềnh trên bầu trời trong Gulliver du ký.

            Giữ cốc bằng cả hai tay, cô ta uống một ngụm nước qua ống hút. Khuôn mặt thoáng cau lại, cô ta đẩy cốc sang bên, như thể không quan tâm gì đến nó nữa.

            - Malta không phải là tên thật của tôi, - Kano Malta nói. – Kano là họ thật, nhưng Malta là biệt danh nghề nghiệp. Theo tên hòn đảo Malta. Ông Okada đã bao giờ đến Malta chưa?

            Tôi bảo là chưa. Tôi chưa bao giờ đến Malta, cũng chưa có kế hoạch đến Malta trong tương lai gần. Thậm chí tôi chưa bao giờ nảy ra ý nghĩ đó. Tất cả những gì tôi biết về Malta là bản nhạc jazz kinh khiếp của Herb Albert có tựa đề Cát Malta.

            Tôi gật đầu, nhấp một ngụm cà phê.

            - Vâng, nước ở Malta mùi vị thật khó chịu, nhưng một nguồn nước ở đó lại có tác dụng kì diệu lên cấu trúc thân thể của chúng ta. Đó là một thứ nước đặc biệt, thậm chí phải nói là huyền bí, chỉ một nơi duy nhất trên đảo mới có mà thôi. Dòng suối đó ở sâu trong núi, phải trèo mấy tiếng đồng hồ từ một ngôi làng dưới chân núi mới lên tới được. Nước ấy không thể vận chuyển đi nơi khác. Nếu mang đi nơi khác, nó sẽ mất hiệu lực ngay. Cách duy nhất để uống nước ấy là phải tự mình đến tận nơi. Người ta thường nhắc đến thứ nước này trong các văn bản từ thời Thập tự chinh. Người ta gọi nó là nước thần. Allen Ginsberg từng đến uống nước đó. Keith Richard cũng vậy. Tôi đã sống ở đó suốt ba năm trong ngôi làng nhỏ dưới chân núi. Tôi trồng rau và học nghề đan. Ngày nào tôi cũng leo lên dòng suối để uống thứ nước đặc biệt ấy. Từ năm 1976 đến năm 1979. Có lần, suốt một tuần, tôi chỉ uống nước đó mà không ăn một tí gì. Suốt một tuần không được cho cái gì khác vào miệng ngoại trừ thứ nước đó. Đó là một sự huấn luyện mà ai cũng phải làm. Theo tôi có thể gọi đó là một kiểu tu hành. Ta làm thế là để thân ta thanh khiết. Đối với tôi, cảm giác đó thật kỳ diệu. Vì vậy khi trở về Nhật, tôi chọn Malta làm biệt danh nghề nghiệp của mình.

            - Xin lỗi, cho tôi hỏi nghề của cô là gì?

            Cô ta lắc đầu.

            - Nói đúng ra đấy không phải là nghề. Tôi làm không lấy tiền. Tôi là chuyên gia tư vấn. Tôi trò chuyện với mọi người về các thành tố của cơ thể. Tôi cũng nghiên cứu về loại nước có tác dụng tốt đối với các thành tố của cơ thể. Kiếm tiền không phải là chuyện khó đối với tôi. Tôi có tất cả các phương tiện mình cần. Cha tôi là bác sỹ, ông có mua cổ phiếu và bất động sản cho thuê nhắm chu cấp cho tôi và em gái tôi. Tôi có một kế toán lo sổ sách thu chi. Thu nhập hàng năm của tôi khá bộn. Tôi cũng viết vài cuốn sách kiếm được ít tiền. Còn việc tư vấn về các thành tố của cơ thể, tôi làm không vì lợi nhuận. Chính vì vậy, danh thiếp của tôi không có địa chỉ lẫn số điện thoại. Tôi luôn chủ động gọi cho người khác.

            Tôi gật đầu, nhưng đó chỉ là cử động thuần tuý vật lý của cái đầu: tôi chẳng hiểu đầu cua tai nheo gì những điều cô ta nói. Tôi có thể hiểu những từ cô ta nói, nhưng ý nghĩa chung của chúng thì không sao nắm bắt được.

            Các thành tố của cơ thể?

            Allen Ginsberg?

            Càng lúc tôi càng bứt rứt khó chịu. Tôi không phải loại người có trực giác thiên phú, nhưng càng ngồi lâu với người đàn bà này, tôi càng như ngửi thấy mùi những điều phiền toái.

            - Xin lỗi cô, - tôi nói, - không biết cô có thể giải thích mọi chuyện từ đầu, từng bước một được chăng? Vừa rồi tôi có nói chuyện với vợ tôi, cô ấy bảo tôi gặp cô để bàn chuyện con mèo đi lạc. Thành thật mà nói, tôi không hiểu nãy giờ cô nói những điều kia với tôi để làm gì. Có liên quan gì đến con mèo không?

            - Có chứ. Nhưng trước khi đề cập tới việc đó, có một điều tôi muốn báo cho ông biết, thưa ông Okada.

            Cô ta mở khóa xách tay, lấy ra một cái phong bì trắng. Trong phong bì có một bức ảnh, cô đưa cho tôi. “Em gái tôi”, cô nói. Đó là một bức ảnh màu chụp hai phụ nữ. Một người là Kano Malta, trong một bức ảnh cô cũng đội mũ, một chiếc mũ đan màu vàng. Một lần nữa cái mũ rõ ràng không hợp với quần áo cô ta mặc. Cô em gái mặc bộ đồ màu lam nhạt, đội một chiếc mũ cùng tông, loại mũ thịnh hành vào thập niên 1960. Tôi nhớ đâu như tông màu này được gọi là tông “màu kem quả”. Tuy nhiên, có một điều chắc chắn: hai chị em đều thích đội mũ. Kiểu tóc của cô em chính là kiểu của Jacqueline Kenedy hồi còn là phu nhân tổng thống, keo xịt tóc bóng nhẫy. Cô ta trang điểm hơi quá tay, tuy nhiên vẫn có thể gọi là đẹp. Cô ta trạc hai mươi lăm tuổi. Tôi đưa trả bức ảnh cho Kano Malta, cô cất ảnh vào phong bì, đút phong bì vào xách, cài khóa móc lại.

            - Em gái tôi nhỏ hơn tôi năm tuổi. Nó bị Wataya Noburu phá trinh. Cưỡng hiếp tàn bạo.

            Ôi chao! Tôi muốn đứng phắt dậy mà bỏ đi, không nói không rằng, ngay lập tức. Nhưng không thể làm thế được. Tôi rút khăn mùi soa khỏi túi áo com-lê, lau miệng rồi lại đút vào. Rồi tôi hắng giọng.

            - Thật kinh khủng, - tôi thốt lên. – Tôi không hề biết chuyện đó. Nếu em gái cô đã bị cưỡng hiếp, tôi xin có lời thông cảm chân thành. Tuy nhiên, tôi phải nói rằng anh vợ tôi và tôi không có liên quan gì với nhau. Cho nên, nếu vì chuyện đó mà cô muốn...

            - Không phải thế, ông Okada ạ, - cô ta tuyên bố với vẻ quả quyết. – Tôi hoàn toàn không bắt ông chịu trách nhiệm đâu. Nếu có một người phải chịu trách nhiệm cho chuyện đã xảy ra thì kẻ đó trước hết phải là tôi. Bởi tôi đã thiếu quan tâm. Bởi tôi đã không bảo vệ được nó mặc dù lẽ ra tôi phải bảo vệ. Thật không may, có một số sự kiện đã khiến tôi không làm được việc đó. Trên đời vẫn có những chuyện như thế, ông Okada ạ. Ông biết đó, chúng ta sống trong một thế giới đầy bạo lực và hỗn loạn. Và trong thế giới này, có những nơi còn bạo lực hơn, còn hỗn loạn hơn thế. Ông Okada có hiểu ý tôi không? Điều gì xảy ra thì đã xảy ra rồi. Em gái tôi sẽ hồi phục khỏi sự tổn thương này, khỏi vết nhơ này. Nó phải hồi phục được. Tạ ơn trời, cũng không đến nỗi nguy hiểm đến tính mạng. Như tôi đã nói với em tôi, lẽ ra còn có thể xảy ra những chuyện còn tồi tệ hơn thế nhiều. Điều tôi quan tâm nhất bây giờ là các thành tố của cơ thể nó.

            - Thành tố của cơ thể, - tôi lặp lại. Cái “thành tố của cơ thể” này hẳn là cái chủ đề trước sau như một của cô ta.

            - Tôi không thể giải thích chi tiết cho ông rõ những tình huống này có liên quan với nhau ra sao. Chuyện rất dài và phức tạp, và mặc dù khi nói thế này tôi không có ý coi nhẹ ông, nhưng quả thật là ở giai đoạn này ông sẽ không có khả năng hiểu thấu ý nghĩa đích thực của câu chuyện đó. Dĩ nhiên, ông hoàn toàn không chịu trách nhiệm gì về chuyện đã xảy ra. Tôi chỉ muốn ông biết rằng các thành tố của cơ thể em gái tôi đã bị ông Wataya làm ô uế, dù chỉ tạm thời. Ông và cô ấy sẽ có liên hệ với nhau bằng cách này hay cách khác trong tương lai. Như tôi đã nói, cô ấy là trợ lý của tôi. Vì vậy, tôi nghĩ có lẽ tốt nhất là cho ông biết chuyện gì đã xảy ra giữa cô ấy với ông Wataya. Và tôi muốn ông biết rằng những chuyện như thế có thể xảy ra trên đời này.

            Một thoáng im lặng. Kano Malta nhìn tôi như muốn nói: Hãy nghĩ kỹ về những gì tôi vừa nói với ông. Và tôi suy nghĩ. Về việc Wataya Noburu đã cưỡng hiếp em gái của Kano Malta. Về mối liên hệ giữa việc đó với các thành tố của cơ thể. Và về mối liên hệ giữa những điều đó với việc con mèo của chúng tôi biến mất.

            - Có phải là cô muốn nói, - tôi rụt rè lên tiếng, - rằng cô và em gái cô đều không có ý định làm đơn tố cáo công khai về việc đó... hoặc báo cảnh sát?

            - Không, dĩ nhiên chúng tôi không làm thế, - Kano Malta nói, vẻ vô cảm. – Nói đúng ra chúng tôi không buộc ai chịu trách nhiệm về chuyện đó. Chúng tôi chỉ muốn hiểu tận ngọn ngành những nguyên nhân nào khiến một chuyện như vậy xảy ra. Chừng nào chúng tôi chưa giải quyết được vấn đề đó thì có thể sẽ còn xảy ra những điều đáng sợ hơn thế nữa.

            Tôi nhẹ người phần nào khi nghe nói vậy. Tôi hoàn toàn không chút động lòng nếu Wataya Noburu bị buộc tội cưỡng dâm và phải đi tù. Hắn ta mà đến nước ấy thì cũng đáng lắm. Nhưng anh trai của Kumiko là kẻ có tiếng tăm. Hắn ta mà bị bắt và phải ra tòa thì chắc chắn báo chí sẽ làm rùm beng lên, và đó sẽ là một cú sốc ghê gớm đối với Kumiko. Tôi không muốn điều đó xảy ra, dù chỉ để tâm trí mình được thanh thản.

            - Ông cứ yên tâm, hôm nay tôi xin được gặp ông chỉ là về chuyện con mèo đi lạc thôi, - Kano Malta nói. – Ông Wataya đề nghị tôi cho lời khuyên về việc này. Phu nhân ông, bà Okada, đã nhờ anh trai là ông Wataya tư vấn về việc con mèo đi lạc, và đến lượt mình ông ta lại nhờ tôi tư vấn.

            Ra là vậy! Giờ thì tôi đã hiểu. Kano Malta là loại người có thính giác thấu thị hay gì đó tương tự, và những người kia đã nhờ cô ta tìm tung tích con mèo. Gia đình Wataya xưa nay vẫn ưa mấy cái đoán hậu vận, “phong thủy” và những thứ tương tự thế. Vậy cũng chẳng sao: ai muốn tin việc gì cứ tin. Nhưng việc gì hắn phải đi hiếp em gái người cố vấn tinh thần của mình? Dấy lên những chuyện phiền toái không đâu như vậy để làm gì?

            - Đó là lĩnh vực chuyên môn của cô phải không? Giúp người ta tìm những vật thất lạc? – tôi hỏi.

            Cô ta nhìn tôi chằm chằm bằng cặp mắt không có chiều sâu kia, cặp mắt như đang nhìn vào cửa sổ một căn nhà không người ở. Xét theo biểu hiện của chúng thì cô ta đã không hiểu nghĩa câu hỏi của tôi.

            Không trả lời, cô ta nói:

            - Ông Okada đang sống ở một nơi rất lạ lùng phải không?

            - Tôi ấy à? Lạ lùng theo nghĩa nào?

            Thay vì đáp lại, cô ta đẩy chiếc cốc nước tonic nãy giờ hầu như không động tới ra xa thêm chừng mười xăng-ti-mét nữa.

            - Ông biết đấy, mèo là loài vật hết sức nhạy cảm.

            Im lặng lại trùm lên giữa hai chúng tôi.

            - Vậy là chỗ chúng tôi ở rất lạ lùng, và mèo là loài vật nhạy cảm, – tôi nói. - Cứ cho là thế. Nhưng hai vợ chồng với con mèo sống ở đó bao lâu nay. Sao bỗng dưng nó lại quyết định bỏ chúng tôi mà đi? Sao nó không bỏ đi từ trước?

            - Điều đó tôi không nói với ông được. Có lẽ vì dòng chảy đã thay đổi. Có lẽ một cái gì đó đã ngăn dòng chảy.

            - Dòng chảy…

            - Tôi không biết con mèo của vợ chồng ông còn sống hay đã chết, nhưng có một điều chắc chắn: nó không quanh quẩn ở gần nhà ông bà nữa. Ông bà sẽ không bao giờ tìm thấy nó trong khu hàng xóm kia đâu.

            Tôi nâng cốc lên nhấp một ngụm cà phê giờ đã hơi nguội. Ngoài cửa sổ, trời đang mưa lâm thâm. Bầu trời trĩu mây đen. Một đoàn người và ô buồn thảm trèo lên trèo xuống chân cầu ở đằng xa.

            - Ông cho tôi xem tay nào, - cô ta nói.

            Tôi đặt bàn tay phải lên bàn, lòng bàn tay ngửa ra, nghĩ rằng cô ta định xem chỉ tay tôi. Nhưng không, cô ta chìa tay ra, úp lòng bàn tay mình lên lòng bàn tay tôi. Rồi cô ta nhắm mắt lại, không nói không rằng trong tư thế đó, như thể đang lặng lẽ trách móc một người tình không chung thuỷ. Cô hầu bàn đến rót đầy tách của chúng tôi, vờ như không nhận thấy Kano Malta và tôi đang làm gì. Khách ở các bàn bên nhìn trộm chúng tôi. Tôi chỉ cầu mong đừng có người quen nào đang ngồi trong quán lúc này.

            - Tôi muốn ông hình dung trong đầu một vật mà ông nhìn thấy trước khi đến đây.

            - Chỉ một thôi sao?

            - Chỉ một thôi.

            Tôi nghĩ tới chiếc váy mino in hoa mà tôi đã thấy trong hộp đựng quần áo của Kumiko. Tôi không hiểu sao chính cái ấy chứ không phải gì khác nảy ra trong đầu tôi lúc đó.

            Chúng tôi úp lòng bàn tay vào nhau như thế thêm năm phút nữa – năm phút dường như quá dài đối với tôi, không chỉ vì tôi bị người ta nhìn ngó mà còn bởi sự đụng chạm của lòng bàn tay Kano Malta có cái gì đó khiến tôi ngay ngáy, bất an. Bàn tay cô ta bé nhỏ, không nóng cũng chẳng lạnh. Không phải cái đụng chạm thân ái của bàn tay người yêu, cũng không phải cái đụng chạm nghề nghiệp của bàn tay bác sỹ. Bàn tay cũng có tác động đến tôi như cặp mắt của cô ta, nó biến tôi thành căn nhà không có người ở. Tôi cảm thấy mình trống rỗng: không bàn ghế, không rèm, không khảm. Chỉ là một cái vỏ chứa rỗng không. Cuối cùng Kano Malta rút tay lại, hít thở sâu mấy hơi liền. Rồi cô gật gật đầu.

            - Thưa ông Okada, tôi tin rằng đời ông đang bước vào giai đoạn trong đó nhiều sự kiện sẽ xảy ra. Việc con mèo của vợ chồng ông biến mất chỉ là sự khởi đầu mà thôi.

            - Nhiều sự kiện… Tốt hay xấu?

            Cô ta nghiêng đầu suy nghĩ.

            - Cả tốt lẫn xấu. Xấu song ban đầu ngỡ như tốt, và tốt song ban đầu tưởng là xấu.

            - Nói vậy thì trừu tượng quá, - tôi nói. - Cô có thể nói cụ thể hơn không?

            - Vâng, hẳn những gì tôi đang nói nghe có vẻ chung chung. Nhưng ông Okada ạ, khi nói về yếu tính của sự vật, thường ta chỉ có thể nói một cách chung chung như thế. Những gì cụ thể thì dễ khiến ta chú ý, nhưng đa phần chúng chỉ là những hiện tượng tầm thường, vặt vãnh. Ta càng thử nhìn sự vật từ một khoảng cách thì chúng càng có tính chung chung, khái quát hơn.

            Tôi lặng lẽ gật đầu, tuy hoàn toàn không hiểu cô ta đang nói cái gì.

            - Tôi có được phép gọi điện cho ông lần nữa không? – cô ta hỏi.

            - Dĩ nhiên, - tôi nói, mặc dù thực ra tôi không muốn bất kỳ ai gọi cho tôi cả. “Dĩ nhiên” có lẽ là câu trả lời duy nhất tôi có thể thốt ra lúc này.

            Kano Malta giật chiếc mũ đỏ trên bàn, túm lấy chiếc xách tay nãy giờ giấu dưới mũ rồi đứng dậy. Không biết phải phản ứng thế nào, tôi cứ ngồi nguyên tại chỗ.

            - Tôi có thể cho ông biết một thông tin nho nhỏ, - đội mũ xong, Kano malta nhìn xuống tôi mà nói. – Ông sẽ tìm thấy chiếc cà vạt chấm hạt đỗ, nhưng không phải trong nhà ông.

4

            Tháp cao và giếng sâu

            (hay là Xa Nomonhan)

            *

            Kumiko về nhà trong tâm trạng vui vẻ. Quá vui là khác. Gặp Kano Malta xong, tôi về tới nhà thì đã gần sáu giờ chiều nên không còn đủ thì giờ làm bữa tối cho ra hồn trước khi vợ đi làm về. Đành phải làm một bữa ăn quấy quá bằng những gì có trong tủ lạnh. Hai chúng tôi ăn tối uống bia. Kumiko kể chuyện về công việc. Nàng luôn luôn kể về công việc những khi tâm trạng vui vẻ: nào là nàng gặp ai ở cơ quan, nàng đã làm gì, đồng nghiệp nàng ai có năng lực, ai không. Đại loại thế.

            Tôi lắng nghe, thỉnh thoảng gật đầu hoặc thốt vài câu lấy lệ. Tôi chỉ nghe thấy không quá một nửa những gì nàng nói. Chẳng phải vì tôi không thích nghe nàng nói những chuyện ấy. Không kể nội dung câu chuyện, tôi thích ngắm nàng ngồi bên bàn ăn say sưa nói về công việc của mình. Đây chính là "gia đình", tôi tự nhủ. Ở đây mỗi người đang làm đúng phận sự đã được phân công trong gia đình. Nàng nói về công việc của mình, còn tôi, làm bữa tối xong thì giờ lắng nghe nàng nói. Cảnh này rất khác với hình ảnh "gia đình" mà tôi từng hình dung trước khi lấy vợ. Nhưng đây là cái gia đình chính tôi đã chọn. Dĩ nhiên, tôi từng có gia đình, khi còn bé. Nhưng đó không phải cái gia đình mà tôi tự chọn cho mình. Tôi đã sinh ra trong gia đình đó, nhận lấy gia đình đó như một sự đã rồi. Còn nay tôi sống trong một thế giới do mình chọn bằng ý chí. Đó là gia đình tôi. Nó có thể khồng hoàn hảo, nhưng nguyên tắc của tôi về gia đình của mình là hãy chấp nhận nó cùng với mọi vấn đề nảy sinh từ đó. Bởi nó là lựa chọn của tôi, và nếu có những vấn đề này nọ nảy sinh thì hầu như chắc chắn phải tìm cội rễ sâu xa của chúng ở trong chính tôi.

            -Thế con mèo thì sao? - nàng hỏi. Tôi tóm tắt cho nàng nghe cuộc gặp với Kano Malta tại khách sạn ở Shinagawa, Tôi kể với nàng về cái cà vạt chấm hạt đỗ; rằng chả thấy nó đâu trong tủ quần áo. Rằng dẫu vậy Kano Malta vẫn nhận ra tôi trong quán cà phê đông nghẹt khách. Rằng cô ta ăn mặc và nói năng khác người, và khác người ra sao. Kumiko tỏ vẻ thích thú nghe về chiếc mũ bằng vải vinyl màu đỏ, nhưng khi tôi không thể nói rõ về tung tích của con mèo đi lạc thì nàng hết sức thất vọng.

            - Vậy ra cô ta cũng không biết con mèo ở đâu? - Kumiko hỏi gặng. - Chỉ nói được mỗi một điều là nó không còn quanh quẩn bên hàng xóm nữa?

            - Thì thế, - tôi nói. Tôi quyết định không đả động gì đến cái "dòng chảy bị ngăn" của nơi vợ chồng tôi đang sống hay về chuyện điều đó có thể liên quan tới chuyện con mèo bỏ nhà đi. Tôi biết điều đó sẽ khiến Kumiko lo lắng, mà chúng tôi đã có quá nhiều chuyện phải lo rồi. Nếu biết mình đang sống ở một "nơi không tốt", Kumuki sẽ nằng nặc đòi dọn đi nơi khác. Mà với tình hình tài chính hiện nay của chúng tôi thì dọn nhà là chuyện ngoài tầm tay.

            - Cô ấy bảo anh thế, - tôi nói. - Con mèo không còn ở quanh đây nữa.

            - Nghĩa là nó sẽ không bao giờ về nữa?

            - Anh không biết. Cô ta nói gì cũng mơ hồ, không rõ ràng. Toàn bóng gió, gợi ý thôi. Tuy nhiên cô ta bảo nếu tìm được gì mới thì sẽ báo cho mình hay.

            - Anh có tin cô ta không?

            - Ai mà biết được? Anh có biết mô tê gì về những chuyện này đâu.

            Tôi rót cho mình thêm ít bia rồi nhìn bọt lắng xuống. Kumiko chống cùi chỏ lên bàn, tựa cắm lên lòng bàn tay.

            - Cô ta ắt có nói với anh rằng cô ta không nhận tiền thù lao hay quà cáp gì hết. - nàng nói.

            - Ờ, ít ra cũng được điểm ấy, - tôi nói. - Đã vậy thì có vấn đề gì nào? Cô ta không lấy tiền chúng mình, không đánh cắp linh hồn chúng mình, không nhốt nàng công chúa trong lâu đài. Chúng mình chả mất gì cả.

            - Anh phải hiểu một điều. Con mèo rất quan trọng đối với em. Nói đúng hơn là với cả em và anh. Chúng mình cũng tìm thấy nó chỉ một tuần sau ngày cưới. Anh còn nhớ chứ?

            - Dĩ nhiên anh nhớ.

            - Nó bé tí, ướt như chuột lột dưới trời mưa tầm tã. Em đội ô ra ga đón anh. Chú nhóc tội nghiệp. Chúng mình gặp nó trên đường về nhà. Ai đó đã vứt nó vào một thùng bia ở quán rượu. Nó là con mèo đầu tiên em nuôi. Nó rất quan trọng đối với em, nó như một thứ biểu tượng vậy. Em không thể mất nó được.

            - Anh hiểu mà, - tôi nói.

            - Vậy nó đâu? Nó đi mất mười hôm nay rồi. Chính vì vậy mà em gọi cho ông anh trai. Em nghĩ anh ấy có thể biết một người lên đồng hay một nhà ngoại cảm, ai đó có thể tìm ra một con mèo đi lạc. Em biết anh không muốn hỏi han anh trai em bất cứ chuyện gì, nhưng anh ấy học cha em, anh ấy rất rành những chuyện như vậy.

            - À phải, truyền thống của gia đình Wataya, - tôi nó, lạnh tanh như cơn gió chiều lùa qua eo biển. - Nhưng Wataya Noboru có quan hệ thế nào với người đàn bà đó?

            Kumiko nhún vai.

            - Hẳn anh ấy tình cờ gặp cô ta ở đâu đó. Dạo sau này anh ấy có rất nhiều mối quan hệ.

            - Chuyện đó thì khỏi bàn.

            - Anh ấy bảo cô ta có những năng lực khác thường, song cô ta khá kỳ lạ. - Kumiko lấy nĩa chọc chọc một cách máy móc vào món macaroni. - Tên cô ta là gì ấy nhỉ?

            - Kano Malta. Cô ta từng theo một kiểu tôn giáo khắc kỷ để tự hoàn thiện mình ở đảo Malta.

            - Ra thế. Kano Malta. Anh nghĩ sao về cô ta?

            - Khó nói. - Tôi nhìn hai bàn tay mình đang đặt trên bàn. - Ít nhất là cô ta không làm mình chán. Đó là điều tốt. Ý anh là trên đời đã có quá nhiều chuyện không thể giải thích, nên phải có ai đó lấp đầy cái khoảng trống này. Giao du với người không làm mình chán vẫn hơn với người làm mình chán. Đúng không nào? Như ông Honda chẳng hạn.

            Kumiko phá lên cười khi nghe nhắc tới ông Honda.

            - Ông già ấy thật tuyệt phải không anh? Em thích ông ấy lắm.

            - Anh cũng thế, - tôi nói.

            ***

            Từ khoảng một năm sau khi cưới nhau, tôi và Kumiko bắt đầu đến thăm ông Honda mỗi tháng một lần. Ông là người chuyên lên đồng, một trong những kiểu nhà ngoại cảm mà dòng họ Wataya coi là của quý, nhưng ông cực kỳ nặng tai. Thậm chí dù có mang máy trợ thính ông cũng chỉ nghe câu được câu chăng những gì chúng tôi nói. Chúng tôi phải hét to đến nỗi những tấm vách ngăn phòng bằng giấy shooji muốn bục cả ra. Tôi thường tự hỏi, đã nặng tai đến cỡ đó thì liệu ông có nghe các linh hồn nói gì không. Nhưng có khi ngược lại không chừng: càng nặng tai, người ta càng có khả năng nghe thấy lời của các linh hồn. Ông bị mất thính giác từ hồi chiến tranh. Là một sĩ quan phi tác chiến đóng tại doanh trại Mãn Châu của đạo quân Quan Đông(5), ông bị vỡ màng nhĩ khi một vỏ đạn đại bác, quả lựu đạn hay một cái gì đó nổ ngay bên cạnh ông trong một trận đánh với một đơn vị hỗn hợp Hồng quân Liên Xô - Ngoại Mông ở Nomanhan(6) trên biên giới Ngoại Mông và Mãn Châu.

            Chúng tôi hay đến thăm ông Honda chẳng phải vì tin ở năng lực tâm linh của ông. Tôi chả bao giờ quan tâm đến những chuyện như thế, còn ở Kumiko, khuynh hướng tin vào những điều siêu nhiên cũng ít hơn nhiều so với cha mẹ và anh trai. Nàng cũng có chút mê tín, nàng có thể lo sốt vó vì những điềm được coi là gở, nhưng nàng chẳng bao giờ ra khỏi nhà để tham gia những việc như bói toán, lên đồng.

            Lý do duy nhất để chúng tôi đến thăm ông Honda là cha của Kumiko bắt phải đến. Đó là điều kiện duy nhất ông đưa ra để chúng tôi có thể cưới nhau. Một điều kiện quả là hơi kỳ quặc, nhưng chúng tôi chấp thuận để tránh những điều rắc rối. Cả tôi và Kumiko không hề trông đợi mọi việc sẽ xuôi chèo mát mái với gia đình nàng. Cha nàng là quan chức chính phủ. Là con thứ trong một gia đình trung nông chả lấy gì làm khấm khá ở Niigata, ông xin được học bổng để theo Đại học Tokyo danh giá, tốt nghiệp bằng ưu và giành được một vị trí cao cấp trong Bộ Giao thông. Điều đó thật đáng khâm phục. Song, cũng như hầu hết những ai đã kinh qua con đường tiến thân như thế, ông ta là kẻ kiêu căng tự mãn. Đã quen ra lệnh, ông hoàn toàn không chút hoài nghi về giá trị của cái thế giới mà ông là một thành phần. Với ông, tôn ti trật tự là tất cả. Ông là kẻ thượng đội hạ đạp. Ông khúm núm trước cấp trên mà không hề thắc mắc và chà đạp những kẻ dưới mình mà không do dự mảy may. Cả Kumiko và tôi không hề tin rằng một người như vậy lại có thể nhận làm con rể một thằng khố rách áo ôm mới hai mươi bốn tuổi đầu, không địa vị, không dòng dõi, học chẳng lấy gì làm xuất sắc, tiền đồ công danh chẳng có, như tôi. Chúng tôi vẫn nghĩ rằng sau khi cha mẹ nàng khước từ chúng tôi sẽ tự làm đám cưới, tự xây dựng cuộc sống và chả liên hệ gì với họ.

            Dẫu vậy tôi vẫn làm việc phải làm. Tôi đến gặp cha mẹ Kumiko để cầu hôn nàng. Bảo rằng họ đón tiếp tôi một cách lạnh nhạt là quá nhẹ. Có cảm tưởng như tất cả các cánh cửa tủ lạnh trên thế giới này đều mở toang ra cùng một lúc.

            Nhưng cuối cùng họ cũng vẫn cho phép tôi, dù miễn cưỡng. Mọi việc đã diễn biến gần như nhờ một phép màu, nhưng ở đây công lao hoàn toàn thuộc về ông Honda. Ông đã hỏi cha mẹ Kumiko tất cả những gì hai ông bà biết về tôi, đoạn tuyên bố dứt khoát rằng nêu muốn gả chồng cho con gái họ thì chẳng có đám nào tốt hơn tôi, rằng một khi Kumiko đã chọn tôi làm ý trung nhân thì dù có thế nào họ cũng không được ngăn cản, nếu không thì sẽ phải hứng chịu những hậu quả khủng khiếp. Hồi đó cha mẹ Kumiko chuyện gì cũng nhất nhất tin cậy ông Honda, thế nên họ chẳng còn cách nào khác ngoài nhận tôi làm rể.

            Dẫu vậy, tôi luôn luôn là người ngoài, khách không mời mà đến. Kumiko và tôi tới thăm gia đình họ và ăn tối hai lần một tháng, đều đặn như một cái máy, vậy thôi. Những lần như vậy thật đến là lộn mửa, nói không ngoa, một cái gì đó nằm giữa sự hành xác không đâu với cực hình tàn bạo. Suốt bữa ăn, tôi có cảm tưởng như cái bàn ăn nhà họ dài như cái ga tàu hỏa. Họ ngồi vừa ăn vừa trò chuyện gì đó ở mãi đầu bên kia, còn tôi ngồi đầu bên này, xa tít tắp đến nỗi họ không nhìn thấy. Điều đó kéo dài khoảng một năm, cho tới khi cha của Kumiko và tôi cãi nhau một trận nảy lửa, từ đó trở đi tôi và ông ra không bao giờ gặp lại nhau. Tôi thở phào nhẹ nhõm, gần như sướng điên lên. Không có gì bào mòn sinh lực con người cho bằng sự nỗ lực vô nghĩa và vô ích.

            Dẫu vậy, suốt một thời gian sau khi cưới, tôi đã nỗ lực hết mình để duy trì quan hệ tốt với cha mẹ vợ. Và không nghi ngờ gì nữa, trong tất cả những nỗ lực ấy, cái ít làm tôi mệt mỏi hơn hết là những cuộc gặp gỡ hàng tháng với ông Honda.

            Mọi chi phí liên quan đến ông Honda đều do cha của Kumiko chu tất. Chúng tôi chỉ có mỗi việc đến chơi nhà ông Honda ở Meguro mỗi tháng một lần, xách theo một chai rượu sake to, nghe ông kể chuyện, xong thì về. Rất đơn giản.

            Chúng tôi thích ông Honda ngay lập tức. Ông là một cụ già dễ mến, khuôn mặt luôn bừng sáng mỗi khi thấy chai rượu sake chúng tôi mang đến cho ông. Chúng tôi thích ông ở mọi phương diện, có chăng chỉ trừ một nỗi ông luôn mở tivi to hết cỡ vì ông nặng tai quá.

            Chúng tôi luôn đến nhà ông chơi vào buổi sáng. Đông cũng như hè, ông ngồi trong phòng khách tiếp chúng tôi, hai chân thọc vào dưới chiếc bàn sưởi thấp(7). Mùa đông ông quấn mền bông từ thắt lưng trở xuống để giữ nhiệt tỏa ra từ ngọn lửa than. Mùa hè thì ông chẳng cần mền lẫn lửa. Ông rõ là một người xem bói khá nổi tiếng, nhưng ông sống rất giản dị, thậm chí phải nói là khắc khổ. Nhà ông bé tí, sảnh đón chỉ vừa đủ chỗ cho một người duy nhất cởi hay mang giày. Những tấm chiếu tatami trải trên sàn nhà ông sờn rách, xác xơ, cửa kính nứt dán lại quấy quá bằng băng dính. Bên kia đường là một xưởng sửa ôtô, lúc nào cũng có ai đó đang thét lác chói tai. Ông Honda vận một bộ kimono nửa như áo ngủ nửa như áo khoác công nhân. Bộ đồ đó xem ra đã lâu chưa giặt. Ông sống một mình, chỉ có một bà hay lui tới để quét dọn và nấu nướng. Tuy nhiên, vì lý do nào đó ông chẳng bao giờ cho bà ta giặt bộ kimono. Đôi má hõm sâu của ông lởm chởm chòm râu quai nón bạc phơ.

            Nếu có một cái gì đó đáng gọi là gây ấn tượng trong căn nhà của Honda, thì đó là chiếc tivi màu to tướng. Trong căn nhà bé tẹo như thế, kích cỡ khổng lồ của nó thật choáng ngợp. Nó luôn luôn được vặn sang kênh NHK của nhà nước. Khó mà nói được đó là do ông thích kênh NHK, do ông chẳng buồn chuyển sang kênh khác hay vì chiếc tivi này chỉ bắt được mỗi kênh NHK mà thôi, chỉ biết rằng ông luôn xem đọc một kênh đấy.

            Thay vì một bình hoa hay một cuộn thư pháp, tokonoma(8) trong phòng khách của ông được dùng để chứa cái tivi to đùng đó, và mỗi khi đến, chúng tôi luôn thấy ông ngồi đối diện cái tivi, đảo qua đảo lại mấy cây que bói trên nắp chiếc bàn sưởi trong khi đài NHK phát không thôi nào chương trình nấu ăn, dạy chăm sóc cây cảnh, nào tin mới nhất và các thảo luận chính trị.

            - Nghề luật có khi chẳng tốt cho con đâu, con ạ, - một hôm ông Honda nói, nhưng không rõ ông nói với tôi hay với ai đó đang đứng sau lưng ông tới hai chục mét.

            - Sao ạ?

            - Ừ, đúng thế đấy. Rốt cuộc thì luật pháp cũng chi phối mọi sự trên thế gian này. Cái thế giới nơi bóng tối là bóng tối, ánh sáng là ánh sáng, âm là âm và dương là dương. Tôi là tôi, anh ta là anh ta. "Tôi là tôi / anh ta là anh ta / Tàn thu". Nhưng con ạ, riêng con thì không thuộc về cõi đó. Con thuộc về một cõi nằm trên hoặc nằm dưới cõi đó.

            - Vậy cõi nào hơn? - tôi hỏi, chỉ vì tò mò. - Trên hay dưới?

            - Vấn đề không phải cõi nào hơn, - ông nói. Ông khúng khắng ho rồi khạc đờm lên một mảnh khăn giấy, săm soi một hồi rồi mới vò mảnh khăn mà ném vào giỏ rác. - Vấn đề không phải cõi nào hơn. Quan trọng là không cưỡng lại dòng chảy. Khi nào phải đi lên thì đi lên, khi nào phải đi xuống thì đi xuống. Hễ đã đi lên thì phải chọn ngay cái tháp cao nhất mà trèo lên đỉnh. Hễ đã đi xuống thì hãy tìm cái giếng sâu nhất mà chui xuống đáy. Khi nào không có dòng chảy thì đứng yên. Nếu cưỡng lại dòng chảy, vạn vật sẽ khô kiệt. Nếu vạn vật khô kiệt, thế gian này sẽ tối đen. "Tôi là anh ta / Anh ta là tôi / Sấm tối mùa xuân". Khi ta xả bỏ cái tôi thì có cái tôi.

            - Hiện thời có phải là lúc không có dòng chảy không? - Kumiko hỏi.

            - Gì kia?

            - HIỆN THỜI CÓ PHẢI LÀ LÚC KHÔNG CÓ DÒNG CHẢY KHÔNG? - Kumiko gào to lên.

            - Hiện thời thì không có, - ông Honda vừa nói vừa gật đầu với chính mình. - Hiện thời là lúc cần phải đứng yên. Chớ làm gì cả. Chỉ cần thận trọng về nước nôi. Biết đâu trong tương lai anh bạn trẻ này rồi sẽ phải nếm mùi thống khổ mà chuyện đó có liên quan đến nước. Nước không nằm ở nơi lẽ ra nó nằm. Nước hiện diện ở nơi lẽ ra không có nó. Dù thế nào đi nữa, các con phải thận trọng, hết sức thận trọng về chuyện nước.

            Kumiko ngồi cạnh tôi, gật gù với vẻ vô cùng nghiêm trọng, nhưng tôi thấy rõ nàng đang cố kìm để không phá lên cười.

            - Ông muốn nói loại nước gì kia ạ? - tôi hỏi.

            - Ông không biết. Nước là nước thôi.

            Trên tivi một giáo sư đại học nào đó đang nói rằng việc người ta sử dụng ngữ pháp tiếng Nhật một cách bừa bãi là hoàn toàn tương ứng với sự bừa bãi trong lối sống của họ. "Dĩ nhiên, nói đúng ra, chúng ta không thể gọi là bừa bãi. Ngữ pháp cũng như không khí: ai đó ở trên có thể ra sức định ra những quy tắc cho việc sử dụng nó, nhưng người ta không nhất thiết phải nghe theo". Nghe thì cũng thú, nhưng ông Honda vẫn tiếp tục nói về nước.

            - Nói thật với các con, ông đã từng phải chịu khốn khổ vì nước - ông nói. - Ở Nomonhan hoàn toàn không có nước. Tiền tuyến thì hỗn loạn, nguồn tiếp tế bị cắt. Nước không. Lương thực không. Bông băng không. Đạn dược không. Thật khủng khiếp. Các vị tai to mặt lớn ngồi ở hậu phương chỉ quan tâm một điều: chiếm đất càng nhanh chóng càng tốt. Chẳng ai nghĩ đến việc tiếp tế. Suốt ba ngày trời ông hầu như không có một giọt nước. Trải rộng khăn tay ra, đến sáng nó sẽ đẫm sương. Vắt ra cũng được vài giọt uống, nhưng chỉ có thế. Hoàn toàn không có thứ nước nào khác. Khổ không sao chịu thấu, chỉ muốn chết thôi. Trên đời này chẳng có gì đáng sợ hơn là khát như thế. Chỉ muốn lao ra ngoài ăn một viên đạn cho xong. Những người bị trúng thương ở bụng gào thét đòi nước. Vài người phát điên vì khát. Như là địa ngục trần gian vậy. Ngay trước mặt bọn ông là một dòng sông lớn, ai cũng thấy, ăm ắp bao nhiêu là nước, tha hồ uống. Nhưng không thể đến đó được. Giữa bọn ông và dòng sông là một dãy dài dằng dặc những xe tăng Xô Viết kếch xù có súng phóng hỏa. Ở các vị trí xung yếu, súng máy chĩa lên tua tủa trông như những cái gối cắm kim. Các tay bắn tỉa dàn đội hình trên những điểm cao, đêm đêm lại bắn pháo sáng. Lính tráng bọn ông mỗi thằng có độc một khẩu súng trường bộ binh M38 với hai mươi lăm viên đạn. Thế nhưng hầu hết lũ bạn ông đều cố ra bờ sông cho bằng được. Họ không chịu nổi nữa. Không một ai trở về. Họ chết sạch. Chính vì vật ông mới nói: khi nào cần ngồi yên, hãy ngồi yên.

            Ông rút ra một chiếc khăn giấy, xì mũi ầm ĩ, tỉ mẩn khảo sát kết quả thu được rồi mới vò khăn vứt vào sọt rác.

            - Đợi cho tới khi dòng chảy bắt đầu thì cũng cam go đấy, - ông nói. - Nhưng hễ đã cần đợi thì phải đợi. Trong khi chờ đợi, hãy làm như mình đã chết.

            - Có phải ý ông là tạm thời cháu chết thì hơn? - tôi hỏi.

            - Gì kia?

            - CÓ PHẢI Ý ÔNG LÀ TẠM THỜI CHÁU CHẾT THÌ HƠN?

            - Ừ, thế. "Chết là cách duy nhất / để bạn được bơi tự do / Nomonhan".

            * * *

            Ông còn kể chuyện Nomonhan thêm chừng một tiếng đồng hồ nữa. Chúng tôi chỉ ngồi nghe. Chúng tôi đã được lệnh “nhận lời giáo huấn” của ông, nhưng trong suốt một năm đều đặn đến nhà ông hàng tháng, hầu như ông chẳng bao giờ có lời “giáo huấn” nào để chúng tôi “nhận” cả. Ông hiếm khi bói toán khi có mặt chúng tôi. Trước sau ông toàn kể về trận Nomonhan thôi: nào chuyện một quả đại bác làm vỡ tung nửa hộp sọ viên thiếu úy ở ngay bên cạnh ông, nào chuyện ông nhảy lên một chiếc xe tăng Xô Viết rồi đốt cháy nó bằng một quả cock-tail Molotov(9), nào chuyện họ vây bắt và bắn chết một phi công Xô Viết buộc phải nhảy dù xuống sa mạc. Những câu chuyện ấy đều thú vị, thậm chí rất hấp dẫn, nhưng cái gì cũng vậy, đã nghe đến lần thứ bảy thứ tám rồi thì cũng mất dần vẻ đẹp ban đầu. Mà cũng chẳng phải ông Honda “kể” chuyện. Ông gào lên những câu chuyện ấy thì đúng hơn. Có cảm giác như ông đang đứng bên bờ vực thẳm vào một ngày gió ùn ùn thổi, lấy hết sức bình sinh thét lên với chúng tôi ở bờ vực bên kia. Khác nào ngồi ở hàng ghế đầu một rạp chiếu phim tồi tàn mà xem một bộ phim cũ của Kurosawa(10). Lần nào cũng vậy, ra khỏi nhà ông Honda, vợ chồng tôi ù đặc cả hai tai mất một hồi.

            Dẫu vậy, hai chúng tôi – hay ít nhất là tôi - vẫn thích nghe ông Honda kể chuyện. Các câu chuyện đó hầu hết đều đẫm máu, nhưng khi được thốt ra từ miệng một ông lão kề miệng lỗ mặc bộ đồ cũ mèm bẩn thỉu, chi tiết của những trận đánh mất đi vẻ hiện thực mà nghe cứ như cổ tích. Gần nửa thế kỷ trước, đơn vị của ông Honda đã có trận kịch chiến trên một mảnh đất hoang khô cằn trên biên giới Mãn Châu – Mông Cổ. Trước kia tôi hầu như chẳng biết gì về trận chiến Nomonhan, giờ mới được nghe ông già kể. Thế mà đó là một trận chiến thật bi tráng. Hầu như tay không, thế nhưng họ đã đương đầu với lực lượng Xô Viết trang bị cơ giới và mạnh hơn gấp nhiều lần và họ đã bị đè bẹp. Lần lượt từng phân đội bị giết sạch. Một số sĩ quan tự ý ra lệnh cho đơn vị mình rút lui để tránh bị tiêu diệt; thế là cấp trên buộc họ phải tự sát. Nhiều binh sĩ bị quân đội Xô Viết bắt giữ đã từ chối trở về Tổ quốc khi hai bên trao đổi tù binh sau chiến tranh, sợ rằng nếu trở về sẽ phải ra toà vì tội đào ngũ. Những người đó rốt cuộc gửi lại nắm xương mình ở đất Mông Cổ. Còn ông Honda nhờ bị nặng tai nên được giải ngũ trong danh dự, về nhà làm nghề xem bói.

            - Trong rủi có may, - ông nói. – Giá như không bị lãng tai thì hẳn ông đã bỏ xác ở Nam Thái Bình Dương rồi. Hầu hết các đơn vị sống sót sau trận Nomonhan đều chịu chung số phận như vậy. Trận Nomonhan là một nỗi nhục cho quân đội Thiên hoàng, thành thử bất cứ ai sống sót sau trận đó đều bị đẩy đến những nơi chiến địa ác liệt nhất, khác gì vào chỗ chết. Còn các sĩ quan tham mưu đã làm bao nhiêu binh lính chết như rạ ở Nomonhan kia thì lại thăng quan tiến chức lên bộ tham mưu trung ương. Một vài tên khốn nạn trong lũ đó thậm chí còn trở thành chính trị gia sau chiến tranh. Còn những chàng trai đã xông pha chiến đấu theo lệnh chúng thì hầu như chết sạch.

            - Nhưng tại sao quân đội lại cảm thấy nhục nhã đến thế vì trận Nomonhan? – tôi hỏi. – Quân đội đã chiến đấu anh dũng, rất nhiều người đã hy sinh kia mà. Tại sao những người sống sót lại bị ngược đãi đến vậy?

            Nhưng dường như ông Honda không nghe thấy câu hỏi của tôi. Một lần nữa ông lại đảo mấy cây que bói. – Hãy cẩn thận với nước, - ông nói.

            Cuộc trò chuyện đến đấy là chấm dứt.

            * * *

            Sau cuộc cãi vã om sòm với cha của Kumiko, vợ chồng tôi không đến nhà ông Honda nữa. Tôi không thể tiếp tục đến thăm ông một khi đã biết chi phí cho những chuyến đi này là bố vợ tôi thanh toán, mà vợ chồng tôi thì không có khả năng bỏ tiền túi ra cho mấy khoản đó. Hồi đó hai vợ chồng tôi vất vả lắm mới đắp đổi được qua ngày. Thế là chúng tôi quên bẵng ông Honda, cũng như hầu hết đám thanh niên bận rộn thường lãng quên hầu hết những người già.

            * * *

            Đêm đó, nằm trên giường, tôi cứ miên man nghĩ mãi về ông Honda. Cả ông lẫn Kano Malta đều nói với tôi về nước. Ông Honda đã cảnh báo tôi cần phải thận trọng. Kano Malta thì đã trải qua những nghi thức khổ hạnh trên đảo Malta liên quan đến việc nghiên cứu của cô ta về nước. Có lẽ ấy chỉ là trùng hợp, nhưng cả hai đều có mối liên hệ sâu xa đến nước. Giờ thì chuyện đó bắt đầu khiến tôi lo âu. Thế rồi hình dung cảnh chiến trường Nomonhan: xe tăng Xô Viết và các ụ súng máy, dòng sông chảy sau lưng họ. Cơn khát không thể nào chịu nổi. Trong bóng tối, tôi nghe tiếng chảy của dòng sông.

            - Anh Toru, - Kumiko thầm thì gọi tôi. – Anh còn thức không?

            - Ờ.

            - Về cái cà vạt ấy mà. Em nhớ ra rồi. Em mang nó đến hiệu giặt từ hồi tháng Chạp cơ. Nó nhàu cả rồi, cần phải là. Chắc là em quên lấy.

            - Tháng Chạp cơ à? Thế là nửa năm rồi còn gì hở Kumiko!

            - Em biết. Anh cũng biết đó, thường thì em có thế đâu. Em chả bao giờ quên gì cả. Với lại, cái cà vạt ấy đẹp thế kia mà. – Nàng đặt tay lên vai tôi. – Em mang nó đến hiệu giặt gần nhà ga ấy. Anh thử nghĩ xem họ có còn giữ không?

            - Mai anh sẽ tới đó. Chắc là vẫn còn.

            - Sao anh lại nghĩ vậy? Sáu tháng rồi chứ có ít đâu. Hầu hết các hiệu giặt đều thanh lý tất cả những thứ không có người nhận trong vòng ba tháng. Họ có quyền làm thế. Luật là vậy mà. Sao anh lại nghĩ nó vẫn còn ở đó?

            - Kano Malta bảo anh sẽ tìm thấy nó. Nhưng không phải ở trong nhà.

            Tôi cảm thấy nàng nhìn tôi trong bóng tối.

            - Vậy là anh tin cô ấy?

            - Anh đang bắt đầu tin.

            - Chả mấy chốc nữa anh và anh trai em sẽ có thể nhìn mặt nhau cho mà xem, - nàng nói, giọng nhuốm vẻ hài lòng.

            - Chuyện gì cũng có thể, - tôi nói.

            Sau khi Kumiko đã ngủ, tôi vẫn miên man nghĩ về chiến trận Nomonhan. Lính tráng đều đang ngủ. Bầu trời trên đầu chi chít những sao, cơ man nào là dế kêu ra rả. Tôi nghe tiếng dòng sông. Đang lắng nghe tiếng chảy của dòng sông thì tôi ngủ thiếp đi.

            __________________________

            5. Đạo quân Quan Đông: một đơn vị của quân đội hoàng gia Nhật. Tên gọi này đặt theo tên nơi đạo quân đồn trú là bán đảo Quan Đông. Đại bản doanh đặt tại Tân Kinh (Hsinching hay Xinjing, nay là thành phố Trường Xuân (Changchun), tỉnh Cát Lâm (Jilin), đông bắc Trung Quốc). Là một trong các đơn vị lớn và có uy tín nhất của quân đội hoàng gia Nhật. Nhiều nhân vật cao cấp của đạo quân này được cất nhắc lên những vị trí cao trong cả quân đội và chính phủ dân sự, như Đại tướng Tojo Hideki sau trở thành Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Quốc phòng cho tới khi Nhật bại trận năm 1945 – ND.

            6. Một ngôi làng ở Mông Cổ (tên đầy đủ là Nomon-Han-Burd-Obo), trong thập niên 30-40 của thế kỷ 20 ngay gần ngôi làng này là biên giới giữa Mông Cổ với quốc gia bù nhìn Mãn Châu Quốc do Nhật dựng lên và giật dây. Mùa hè năm 1939, tại vùng này đã diễn ra cuộc xung đột vũ trang lớn giữa quân đội hỗn hợp Liên Xô – Mông Cổ với một phần đạo quân Quan Đông của Nhật đồn trú tại Mãn Châu. Sự kiện này được giới sử học gọi là “sự biến Nomonhan”, riêng tại Liên Xô (cũ) và Nga, nó được gọi là “cuộc chiến ở Khalkhin - Gol”. Theo BTN.

            7. Nguyên tác: kotatsu, thiết bị dùng để sưởi ấm trong nhà người Nhật, gồm một chiếc bàn thấp, ở dưới bàn là lò sưởi, phía trên bàn phủ mền (futon). Ngày xưa lò sưởi đặt ở dưới sàn nhà, đốt bằng than. Ngày nay bàn sưởi kotatsu có thiết bị sưởi ấm – dùng bóng đèn hoặc cắm điện – ngay dưới mặt bàn – ND.

            8. Tokonoma: hốc tường trong căn nhà truyền thống của người Nhật, nơi trưng bày hoa, thư pháp hoặc các vật phẩm trang trí khác – ND.

            9. Biệt danh của loại bom đơn giản, cầm tay, sử dụng chất nổ tự tạo - thường là xăng trộn thêm một số chất khác. Đặt theo tên của Vyacheslav Mikhailovich Molotov, một chiến sĩ cách mạng Bônsevich, người sáng chế ra loại vũ khí này vào năm 1906 – ND.

            10. Kurosawa Akira (1910 -1998): đạo diễn điện ảnh lừng danh Nhật Bản, tác giả những bộ phim kinh điển quen thuộc với nhiều người Việt Nam như Rashomon, Bảy võ sĩ đạo, Rao v.v .. – ND.

5

            Nghiền kẹo chanh

            *

            Chim không bay, giếng không nước

            Ăn sáng và rửa bát xong, tôi đạp xe đến tiệm giặt là gần nhà ga. Chủ tiệm, một người đàn ông gầy gò xấp xỉ năm mươi tuổi, trán hằn sâu những nếp nhăn, đang nghe băng hòa tấu Phiên chợ Ba Tư phát từ một chiếc máy nghe nhạc đặt trên giá. Đó là một chiếc JVC to đùng có thêm vài chiếc loa trầm, bên cạnh là một đống băng cátxét. Dàn nhạc đang chơi Chủ đề Tara, phần tráng lệ nhất của nhóm đàn dây. Chủ nhân đang ở sâu trong tiệm, vừa huýt sáo theo điệu nhạc vừa là sơ mi bằng một chiếc bàn là hơi, động tác của ông ta vừa sắc gọn vừa mạnh mẽ. Tôi đến gần quầy, vừa thông báo vừa xin lỗi cho đúng phép rằng hồi cuối năm ngoái tôi có mang đến tiệm một chiếc cà vạt nhưng quên lấy. Với cái thế giới nhỏ bé bình yên của ông ta lúc 9 giờ rưỡi sáng thế này, lời thông báo của tôi chẳng khác nào sự xuất hiện một sứ giả mang theo hung tin trong bi lịch Hy Lạp.

            - Chắc không còn biên lai phải không? – ông ta nói bằng giọng là lạ, xa vắng. Ông ta không nói với tôi mà hướng về phía tấm lịch trên tường bên cạnh quầy. Trên trang lịch tháng Sáu là dãy Alpes – thung lũng xanh, đàn bò gặm cỏ, một đám mây trắng sắc cạnh đang trôi qua đỉnh Mont Blanc, đỉnh Matterhorn hay đỉnh gì gì đó. Thế rồi ông ta nhìn tôi, vẻ mặt như muốn nói: “Đã quên bẵng cái cà vạt chết giẫm kia lâu đến thế thì sao không quên phứt luôn cho xong!’. Cái nhìn đó thẳng thừng và thật hùng hồn.

            - Từ cuối năm ngoái kia à? Gay đấy. Hơn sáu tháng rồi còn gì. Thôi được, tôi sẽ tìm xem, nhưng không chắc là có đâu.

            Ông ta tắt bàn là, đặt lên giá là, rồi vừa huýt sáo theo giai điệu Một chốn hè vừa lục lọi ở phòng trong.

            Bộ phim Một chốn hè tôi đã xem cùng bạn gái từ hồi trung học. Diễn viên chính là Troy Donnahue và Sandra Dee. Chúng tôi xem một suất chiếu kép – ngoài phim kia ra còn xem cả Đuổi theo bọn trẻ của Connie Francis. Phim thì làng nhàng thôi, song lúc này đây, mười ba năm sau, nghe lại bản nhạc trong bộ phim, tôi chỉ nhớ lại những kỷ niệm ngọt ngào ngày đó.

            - Cà vạt xanh dương chấm hạt đỗ phải không? Tên là Okada.

            - Đúng rồi, - tôi nói.

            - Ông gặp may đấy.

            Về nhà xong tôi gọi ngay cho Kumiko. – Tìm ra cái cà vạt rồi, - tôi nói.

            - Thật không thể tin được! Anh cừ lắm, - nàng nói.

            Lời khen nghe khá máy móc, kiểu như bà mẹ khen con trai đi học về khoe điểm cao. Điều đó làm tôi thấy không thoải mái. Lẽ ra tôi đợi đến giờ nghỉ trưa hẵng gọi thì hơn.

            - Em nhẹ cả người. Nhưng em đang nói chuyện dở với người khác. Xin lỗi nhé. Trưa anh gọi lại được không?

            - Ừ, anh sẽ gọi, - tôi nói.

            Gác ống nghe xong, tôi cầm tờ báo ra ngoài hiên. Cũng như mọi khi, tôi nằm sắp, trải rộng trước mặt các trang quảng cáo tuyển dụng, nhẩn nha đọc từ đầu chí cuối, các cột báo đầy những mật mã và ký hiệu lạ lùng. Còn thứ nghề nào mà trên đời này không có! Mỗi nghề đều được phân một ô giữa những hàng chữ đều tăm tắp của trang báo, cứ như trong bản đồ nghĩa địa.

            Cũng như mỗi sáng, tôi lại nghe con chim vặn dây cót đang vặn dây cót đâu đó trên ngọn cây. Tôi gấp báo, ngồi tựa lưng vào một thanh cột hàng hiên, nhìn ra vườn. Chẳng mấy chốc con chim lại cất tiếng kêu ken két lần nữa, từ trên ngọn thông nhà hàng xóm. Tôi căng mắt nhìn qua những cành cây, nhưng chẳng thấy chim đâu, chỉ nghe thấy tiếng kêu. Cũng như mọi khi. Vậy là thế gian đã được lên dây cót cho ngày mới.

            Ngay trước 10 giờ, trời đổ mưa. Mưa không to. Những hạt mưa mịn đến nỗi khó lòng biết chắc có mưa hay không, nhìn kỹ mới thấy mưa. Thế giới tồn tại dưới hai trạng thái: mưa và không mưa. Giữa hai trạng thái đó hẳn phải có đường phân giới. tôi ngồi ngoài hiên thêm một lát mà nhìn chăm chăm vào đường phân giới đó, cái đường lẽ ra phải có ở đây.

            Tôi nên làm gì từ giờ đến trưa nhỉ? Đi bơi ở hồ bơi gần nhà hay ra ngõ tìm con mèo? Tựa vào cột hàng hiên, nhìn mưa rơi trong vườn, tôi cứ phân vân giữa hai đằng.

            Hồ bơi.

            Con mèo.

            Con mèo thắng. Kano Malta đã nói con mèo không còn lai vãng quanh hàng xóm nữa. Nhưng sáng hôm đó tôi cảm thấy một nỗi thôi thúc khó cắt nghĩa rằng mình phải tới đó tìm con mèo. Lùng con mèo đã thành một phần cuộc sống hàng ngày của tôi. Hơn nữa Kumiko hẳn sẽ hài lòng nếu biết tôi đã thử tìm thêm lần nữa. Tôi khoác chiếc áo mưa nhẹ. Tôi quyết định không cầm ô. Tôi mang giày tennis rồi ra khỏi nhà, trong túi áo khoác là chìa khóa nhà với mấy cái kẹo chanh. Tôi băng qua khoảnh sân, nhưng khi tôi đặt một bàn tay lên bức tường bê tông thì điện thoại reo. Tôi đứng yên, căng tai nghe, nhưng không thể nhận ra đó là điện thoại nhà mình hay nhà hàng xóm. Ngay khi mình ra khỏi nhà thì điện thoại nào reo nghe cũng như nhau. Tôi phẩy tay chịu thua và trèo qua tường.

            Tôi cảm thấy mặt cỏ mềm mại qua lớp đế mỏng của đôi giày tennis. Ngõ tĩnh mịch hơn mọi khi. Tôi đứng yên một lát, nín thở lắng nghe, nhưng chẳng có âm thanh nào. Điện thoại đã ngừng reo. Không nghe tiếng chim, cũng chẳng nghe tiếng động ngoài phố. Bầu trời trên đầu tuyền một màu xám. Vào những ngày như thế này, những đám mây dường như nuốt chửng mọi âm thanh từ mặt đất. Không chỉ âm thanh mà cả mọi vật. Cảm giác chẳng hạn.

            Thọc hai tay vào túi áo mưa, tôi luồn vào ngõ hẹp. Chỗ nào những chiếc sào phơi quần áo nhô ra giữa lối đi thì tôi lách mình giữa các bức tường. Tôi băng qua ngay bên dưới mái hiên những căn nhà khác. Cứ thế tôi lặng lẽ lần theo cái lối đi tựa như con kênh bị bỏ hoang. Đôi giày tennis của tôi bước trên mặt cỏ không một tiếng động. m thanh duy nhất tôi nghe thấy trong đoạn hành trình ngắn của mình là tiếng radio phát ra từ nhà nọ. Đài đang phát một chương trình kiểu như “gỡ rối tơ lòng” cho những người gọi điện đến. Một ông trung niên than phiền với người dẫn chương trình về bà mẹ vợ của mình. Tôi nghe câu được câu chăng, đâu như bà ta đã sáu mươi tám tuổi nhưng vẫn máu mê đua ngựa. Khi tôi đã đi qua căn nhà đó, tiếng radio nhỏ dần đến khi không còn gì nữa, dường như cái đang dần dần biến vào hư vô kia không chỉ là tiếng radio mà cả ông trung niên và bà mẹ vợ nghiền đua ngựa của ông ta, cả hai phải đang tồn tại ở đâu đó trên thế giới này.

            Cuối cùng tôi cũng đến chỗ căn nhà trống. Nó vẫn đứng nguyên đấy, lặng ngắt mọi khi. Trên nền trời xám trĩu nặng, căn nhà hai tầng với những cánh cửa đóng im ỉm trồi lên đen thẫm. Nó trông như một con tàu chở hàng khổng lồ đâm vào đá trong một đêm bão táp đã từ lâu lắm và bị thủy thủ đoàn bỏ rơi cho đến mục rữa dần. Nếu không có lớp cỏ mọc cao hơn kể từ lúc tôi tới đây lần trước thì có thể tin rằng riêng tại nơi này thời gian đã ngừng lại. Nhờ mưa rơi liên tục nhiều ngày qua, những nhánh cỏ óng ánh màu xanh thẫm, dậy lên mùi hương hoang sơ rất đặc trưng cho những gì cắm rễ sâu vào đất. Ngay giữa cái biển cỏ này là bức tượng chim, trong chính cái tư thế tôi đã thấy trước đây, dang rộng cánh như sẵn sàng bay vút lên. Dĩ nhiên, đây là con chim không bao giờ có thể cất cánh. Tôi biết điều đó, con chim cũng biết. Nó sẽ còn phải đứng đó đợi cho tới ngày bị lôi đi nơi khác hoặc đập ra thành từng mảnh. Không còn khả năng nào khác để nó rời bỏ được khu vườn này. Vật duy nhất chuyển động nơi đây là một con bướm nhỏ màu trắng lượn trên cỏ, một con bướm ra đời hơi muộn, mấy tuần sau khi mùa bướm đã qua. Nó tiến về phía trước một cách ngập ngừng, như một người đang tìm kiếm mà chẳng nhớ mình tìm gì nữa. Sau năm phút săn tìm không hiệu quả, con bướm bay đâu mất.

            Tôi mút một cái kẹo chanh, tựa lưng vào hàng rào mắt cáo mà ngắm khu vườn. Chẳng có dấu hiệu gì của mèo. Chẳng có dấu hiệu của bất cứ cái gì. Chốn này như một cái ao tù mà dòng chảy đã bị một sức mạnh to lớn nào đó hãm lại.

            Tôi cảm thấy có ai đó sau lưng, liền ngoái lại. Nhưng nào thấy ai. Chỉ có hàng rào bên kia ngõ, cái cổng nhỏ trong hàng rào, nơi cô gái kia đã đứng. Nhưng lúc này cổng đóng, trong sân không một bóng người. Mọi vật ẩm ướt và câm lặng. Chỉ dậy mùi. Mùi cỏ. Mùi mưa. Mùi áo mưa tôi. Mùi cái kẹo chanh đã tan một nửa trong miệng. Tôi hít một hơi dài, thế là tất cả các mùi nhập vào nhau làm một. Tôi quay lại kiểm tra xung quanh mình lần nữa, nhưng chẳng có ai. Lắng tai nghe, tôi bắt được tiếng đùng đục của cánh quạt trực thăng ở xa xa. Ai kia đang ngồi trên đó, bay trên những đám mây. Nhưng ngay cả âm thanh đó cũng lặng dần, tĩnh mịch lại bao trùm.

            Rào mắt cáo bao quanh ngôi nhà không người ở có một cánh cổng cũng mắt cáo. Tôi thử đẩy. Nó mở ra dễ dàng đến mức hầu như khiến mình mất hứng, như thể nó giục tôi vào vậy. “Không sao đâu, cứ đi thẳng vào”, dường như nó bảo tôi thế. Tuy nhiên, không cần phải học luật tám năm trời tôi cũng biết rằng đường đột vào nhà người khác, cho dù nhà không người ở, là phạm pháp. Nếu một người hàng xóm phát hiện thấy tôi trong căn nhà không người ở và báo cảnh sát, họ sẽ xộc tới tra hỏi ngay. Tôi sẽ nói rằng tôi đi tìm mèo; nó đi đâu mất, tôi đang tìm nó khắp các nhà hàng xóm. Họ sẽ yêu cầu cho biết địa chỉ và nghề nghiệp. Tôi sẽ phải bảo họ tôi đang thất nghiệp. Họ sẽ chỉ càng nghi ngờ hơn. Gần đây cảnh sát đang lo sốt vó về những tên khủng bố cánh tả; họ đinh ninh rằng chúng nhan nhản khắp nơi ở Tokyo, chúng giấu hàng kho súng và lựu đạn tự chế. Họ sẽ gọi điện đến văn phòng Kumiko để kiểm chứng những gì tôi nói. E rằng Kumiko sẽ rất buồn phiền.

            Thế nhưng tôi vẫn vào. Vào rồi khép cổng lại sau lưng. Chuyện gì tới, cứ tới. Nếu chuyện gì đó muốn xảy ra, cứ để nó xảy ra.

            Tôi băng qua vườn, nhìn kỹ xung quanh. Đôi giày tennis của tôi giẫm lên cỏ vẫn êm ru như mọi khi. Có vài cây ăn trái thâm thấp mà tôi không biết tên, và một bãi cỏ khá rộng. Cỏ đã mọc qua cao, trùm lấp mọi thứ. Những dây trường xuân xấu xí bò kín lên hai trong số các cây ăn quả như thể muốn siết cho chết ngạt. Hàng cây bụi dọc bờ rào đã biến thành màu trắng ma quái do bị phủ một lớp trứng côn trùng. Một con ruồi nhỏ ngoan cố kêu vù vù bên tai tôi hồi lâu.

            Băng qua bức tượng đá, tôi đi đến chỗ một chồng ghế nhựa trắng dưới mái hiên. Chiếc ghế trên cùng bụi đóng dày, nhưng chiếc ngay bên dưới thì không đến nỗi quá bẩn. Tôi lấy tay phủi bụi rồi ngồi lên. Cây dại mọc um tùm giữa nơi này với hàng rào khiến người ta không thể nhìn thấy tôi từ ngoài ngõ, hàng hiên thì cho tôi trú mưa. Tôi ngồi, vừa huýt sáo vừa ngắm khu vườn đang hứng cơn mưa lâm thâm. Thoạt tiên tôi không biết mình đang huýt sáo bản gì, nhưng rồi tôi nhận ra đó là giai điệu vở Chim ác là ăn cắp của Rossini, chính giai điệu mà tôi đang huýt sáo khi người đàn bà kỳ lạ nọ gọi điện lúc tôi đang nấu dở món spaghetti.

            Ngồi trong vuờn thế này, chung quanh không có một ai, nhìn bãi cỏ và con chim đá, huýt sáo (tồi) một giai điệu, tôi có cảm giác mình trở lại thời thơ ấu. Tôi đang trốn ở một nơi không ai nhìn thấy được. Điều đó khiến tôi yên lòng. Tôi thấy như mình vừa ném một hòn đá- nhỏ thôi cũng được – vào cái đích nào đó. Con chim đá hẳn là một cái đích tốt. Hòn đá sẽ đập vào con chim vừa đủ mạnh để nghe một tiếng “cạch” nhỏ. Hồi nhỏ tôi rất hay chơi một mình như vậy. Tôi dựng một cái hộp rỗng, lùi lại, ném đá vào cho đến khi hộp đầy. Tôi có thế chơi như vậy hàng giờ. Tuy nhiên, lúc này dưới chân tôi chẳng có hòn đá nào. Thì thôi vậy. Trên đời này có chốn nào để mình cần gì là có nấy đâu.

            Tôi co chân lại, gập đầu gối, kê cằm lên bàn tay. Rồi tôi nhắm mắt. Vẫn tuyệt không tiếng động. Bóng tối đằng sau đôi mí mắt khép lại của tôi giống như một bầu trời đầy mây, chỉ có điều màu xám sẫm hơn. Cứ mỗi năm phút ai đó lại đến tô lên màu xám đó một màu xám có sắc độ khác đi một chút, pha chút vàng, xanh lục hoặc đỏ. Tôi ngạc nhiên thấy màu xám lại có nhiều sắc độ đến vậy. Chỉ cần ngồi yên nhắm mắt khoảng mười phút thôi là sẽ mở ra vô vàn sắc độ màu xám ấy.

            Trong khi lần giở cuốn sách gồm các mẫu màu xám ấy, tôi lại bắt đầu huýt sáo, trong đầu không nghĩ đến một điều gì.

            - Này, - ai đó nói.

            Tôi mở bừng mắt. Tựa người lên một tay, tôi nhổm dậy cố nhìn thấy cánh cổng qua ngọn các bụi cây. Cổng mở. Mở toang. Ai đó đã theo tôi vào vườn. Tim tôi đập thình thịch.

            - Này, - ai đó lại lên tiếng. Giọng nữ. Người đó bước ra từ sau bức tượng và bước về phía tôi. Đó à cô bé đã tắm nắng trong sân phía bên kia ngõ. Cô bé vẫn mặc áo phông hiệu Adidas màu xanh nhạt và quần soóc. Và cô ta vẫn đi hơi khập khiễng. Điều duy nhất khác lần trước là cô ta đã gỡ kính râm.

            - Anh làm gì ở đây? – cô ta hỏi.

            - Đi tìm con mèo, - tôi đáp.

            - Thật không đấy? Em có thấy thế đâu. Anh chỉ ngồi đây mà huýt sáo, mắt thì nhắm tịt lại. Ai lại đi tìm con mèo kiểu ấy?

            Tôi cảm thấy mình đỏ mặt.

            - Với em thì thế nào cũng được, - cô nói tiếp, - nhưng nhỡ ra ai đó không biết anh mà nhìn thấy anh, họ sẽ nghĩ anh là một tên đồi bại. Anh không phải là kẻ đồi bại chứ?

            - Chắc là không, - tôi đáp.

            Cô bé lại gần, săm soi rất kỹ chồng ghế nhựa rồi chọn một chiếc không quá bẩn, lại nghiên cứu cẩn thận thêm hồi nữa rồi mới đặt nó xuống cỏ mà ngồi lên.

            - Mà anh huýt sáo thì thật kinh quá, - cô nói. – Em không biết là bản gì, nhưng chả có giai điệu gì sất. Anh không phải là gay ấy chứ?

            - Chắc là không. Sao em hỏi vậy?

            - Có người bảo em dân gay huýt sáo rất tồi. Có đúng không?

            - Ai biết được?

            - Nhưng dù anh có là gay hay kẻ đồi bại thì với em cũng thế thôi. Mà này, tên anh là gì? Em chả biết gọi anh thế nào cả.

            - Okada Toru.

            Cô bé nhẩm lại cái tên tôi mấy lần.

            - Tên cũng làng nhàng thôi phải không?

            - Nói thế nào nhỉ? Lúc nào anh cũng nghĩ tên mình nghe như tên của ông Bộ trưởng Ngoại giao thời trước chiến tranh: Okada. Đúng không?

            - Chuyện đó có nói em cũng chẳng hiều gì đâu. Sử là môn em chúa ghét; em học môn ấy kém nhất mà. Nhưng thôi. Mà này, anh có biệt danh nào không? Cái tên nào dễ hơn là Okada Toru ấy?

            Tôi không nhớ nổi mình đã bao giờ có biệt danh hay chưa. Cả đời chưa một lần nào. Sao thế nhỉ?

            - Anh chả có biệt danh nào cả, - tôi đáp.

            - Không hề cơ á? “Gấu” chẳng hạn? Hay “Ếch”?

            - Không.

            - Thôi thì nghĩ ra cái tên nào đó vậy?

            - Chim vặn dây cót, - tôi nói.

            - Chim vặn dây cót? – cô bé há hốc mồm nhìn tôi. – Nó là giống gì vậy?

            - Con chim vặn dây cót ấy mà, - tôi nói. – Sáng nào nó cũng vặn dây cót trên ngọn cây. Nó vặn dây cót mùa xuân thời gian. Két...két...

            Cô bé vẫn nhìn tôi trân trân.

            Tôi thở dài.

            - Chợt nảy ra trong đầu anh thế thôi, - tôi nói. - Chẳng nghĩ được gì hơn. Con chim ấy ngày nào cũng bay qua nhà anh rồi đậu lên ngọn cây nhà hàng xóm mà kêu Kétkéééét. Nhưng chẳng ai nhìn thấy nó cả.

            - Thôi cũng được. Em sẽ gọi anh là Chim vặn dây cót. Gọi cũng líu lưỡi chứ chẳng không, nhưng so với Okada Toru thì vẫn tốt chán.

            - Cám ơn em.

            Cô kéo chân lên ghế, tựa cằm lên hai đầu gối.

            - Còn em tên gì? – tôi hỏi.

            - Kasahara May. May... như là tháng Năm trong tiếng Anh ấy mà.

            - Em sinh vào tháng Năm à?

            - Còn phải hỏi! Có ai sinh vào tháng Sáu mà tên là tháng năm, thiên hạ họ cười cho.

            - Em nói có lý. Chắc em vẫn chưa đi học?

            - Em ngắm anh từ lâu lắm rồi, - cô đáp, lờ đi câu hỏi của tôi. - Từ phòng em. Em dùng ống nhòm. Em thấy anh đi qua cổng. Em luôn có một cái ống nhòm trong tầm tay, để quan sát những gì xảy ra trong ngõ. Chắc là anh không biết: ở đây có đủ loại người lai vãng. Mà không chỉ người. Cả thú vật nữa. Nãy giờ ở đây một mình anh làm cái gì vậy?

            - Có gì đâu? Thư giãn một chút. Ngẫm ngợi về quá khứ. Huýt sáo.

            Kasahara cắn móng tay.

            - Anh lạ lắm, - cô nói.

            - Anh chả có gì lạ cả. Ai người ta cũng làm vậy.

            - Có thể, nhưng chẳng ai lại đi sang nhà hàng xóm để làm việc ấy ngoài anh ra. Nếu muốn thư giãn, nhớ về quá khứ và huýt sáo thì ngồi ở vườn nhà mình cũng được mà.

            Cô ta hoàn toàn có lý.

            - Này, thế Wataya Noburu vẫn chưa về nhà à?

            Tôi lắc đầu.

            - Chắc là sau hôm trước em cũng không thấy nó lần nào phải không?

            - Không, em cũng đang tìm nó đây. Mèo nâu, vằn như lông cọp, chóp đuôi hợi quặp, đúng không?

            Cô ta rút trong túi quần ra một gói Hope rồi châm một điếu. Rít vài hơi xong, cô nhìn thẳng vào tôi mà nói:

            - Dạo gần đây anh có rụng tóc một chút phải không?

            Tay tôi bất giác đưa lên vuốt phía sau đầu.

            - Không phải ở đó, đồ ngốc. Tóc đằng trước kia mà. Anh có nhận thấy là nó mọc cao hơn bình thường một ít không?

            - Anh chả thấy gì cả.

            - Em thì có. Anh sẽ bị hói ở chỗ đó đấy. Tóc trên trán anh ngày càng lùi lên cao hơn, như thế này này. – Cô túm một nắm tóc của trán mình mà kéo ngược ra sau rồi chìa cái trán trần trụi ra trước mặt tôi. – Anh phải để ý đấy.

            Tôi sờ vào tóc trước trán mình. Có lẽ cô ta nói đúng. Có thể tóc đã lùi lên phía trên một chút. Hay tôi chỉ tưởng tượng ra thế? Lại thêm chuyện để lo đây.

            - Ý em là sao? Để ý nghĩa là thế nào?

            - Thật ra có để ý cũng không làm gì được. Chẳng có cách nào ngăn được chứng hói. Những ai mà số trời đã bắt phải hói thì đến lúc là hói thôi. Chẳng cách nào ngăn được. Người ta nói có thể ngừa được chứng hói bằng cách dưỡng tóc này nọ, nhưng toàn vớ vẩn thôi. Anh đi mà xem mấy gã cầu bơ cầu bất ngủ ngoài ra Shinjuku ấy: thằng nào thằng nấy tóc thôi là tóc, có đứa nào hói đâu. Anh tưởng là ngày nào chúng cũng gội đầu bằng Clinique hay Vidal Sassoon hoặc xức tóc bằng Lotion X chắc? Đó là bọn sản xuất mỹ phẩm nói để moi tiền anh thôi.

            Lời của cô gây cho tôi ấn tượng mạnh.

            - Chắc em nói đúng. Nhưng sao em biết nhiều về chuyện hói thế?

            - Lâu nay em vẫn làm bán thời gian cho một công ty tóc giả mà. Anh biết đó, em không đi học nên có ối thời gian rảnh. Em đi điều tra, lấy ý kiến khách hàng, những việc kiểu như thế. Thành thử em biết hết về quý ông hói. Em nạp đầy ắp thông tin rồi còn gì.

            - Chà!

            - Nhưng anh biết không, - cô vừa nói vừa buông mẩu đầu thuốc xuống đất rồi dí chân lên, - ở công ty em làm việc ấy, người ta cấm mình gọi bất cứ ai là “hói”. Phải gọi là “người đang có chứng thưa tóc”. “Hói” là một từ có tính phân biệt đối xử. Có lần em đùa, đề nghị gọi là “quý ông có cái đầu đang bị hoang hóa”, ấy thế mà họ nổi trận lôi đình, trời ạ! “Chả có gì đáng đùa ở đây, cô bé ạ”, họ nói. Chao, sao mà họ nghiêêêm trọọọng thế. Anh có thấy không? Thế giới này ai người ta cũng nghiêm trọng đến chết đi được.

            Tôi móc kẹo chanh ra khỏi túi, ném một viên vào mồm, đưa một viên khác cho Kasahara May. Cô lắc đầu và lại rút ra một điếu thuốc.

            - Nghe này Chim vặn dây cót, - cô nói. – Anh đang thất nghiệp. Chưa tìm được việc nào à?

            - Vẫn chưa.

            - Anh thực sự muốn có việc làm đàng hoàng chứ?

            - Có chứ, - lời nói thốt khỏi mồm, tôi lại tự hỏi có thật là vậy không. - Thực ra anh không biết. Chắc anh cần thêm thời gian. Thời gian đề suy nghĩ. Chính anh cũng không biết mình cần gì. Điều đó khó giải thích.

            Kasahara May vừa nhằn móng tay vừa nhìn tôi một hồi.

            - Này Chim vặn dây cót, em bảo. Hôm nào đấy anh đi làm với em đi. Ở công ty tóc giả ấy. Lương họ trả không cao, nhưng công việc nhàn hạ, với lại giờ giấc làm việc do tự mình thu xếp. Anh bảo thế nào? Đừng cả nghĩ làm gì, cứ thử xem. Gọi là thay đổi không khí. Biết đâu nó lại chẳng giúp anh suy xét được sáng suốt về mọi chuyện khác.

            Cô ta có lý.

            - Em có lý, - tôi nói.

            - Hay lắm! – cô nói. - lần sau em đi, em sẽ đón anh đi cùng. Nhà anh ở đâu?

            - Chà, khó nhỉ. Mà cũng chẳng khó. Em chỉ cần đi dọc theo ngõ, rẽ mấy lần, cho đến khi thấy ở bên trái có một cái nhà mà trong sân sau có một chiếc Honda Civic màu đỏ. Trên thanh hãm xung của xe có miếng băng dính ghi hàng chữ “Hòa bình cho mọi người trên trái đất”. Nhà anh ở ngay kế bên, nhưng không có cổng mở ra ngõ. Chỉ có một bức tường bê tông, em sẽ phải trèo qua. tường cũng thấp, cỡ ngang cằm anh thôi.

            - Đừng lo, tường cỡ ấy thì em trèo qua được.

            - Chân em còn đau không?

            Cô phà ra một bụm khói thuốc, lẫn theo một tiếng thở dài.

            - Anh đừng lo. Chả sao cả. Em đi cà nhắc mỗi khi có mặt bố mẹ vì em không muốn đi học. Em giả vờ ấy mà. Nhưng riết thành quen. Em đi cà nhắc ngay cả khi xung quanh chả có ai, chỉ một mình trong phòng. Em là kẻ cầu toàn mà. Người ta có câu gì ấy nhỉ, “Lừa mình trước rổi hẵng lừa người”. Này Chim vặn dây cót, anh có gan không?

            - Không nhiều lắm.

            - Chẳng bao giờ có gan cả à?

            - Không, anh chưa bao giờ là kẻ có gan cả. Mà cũng chẳng muốn mình khác đi.

            - Thế còn tò mò?

            - Tò mò là chuyện khác. Anh thì có hơi tò mò đấy.

            - Anh không nghĩ rằng có gan và tò mò có cái giống nhau à? Có gan thì cũng tò mò, tò mò thì cũng có gan. Không đúng sao?

            - Hừm, cũng có thể là giống nhau. Chắc em có lý. Có thể đôi khi tò mò và có gan lại nhập vào nhau làm một.

            - Chẳng hạn như khi anh lén vào sân nhà người khác ấy.

            - Ừ, kiểu như thế, - tôi vừa nói vừa đảo viên kẹo chanh trên lưỡi. – Khi lẻn vào sân nhà người khác, dường như mình vừa có sự tò mò vừa có cái gan. Đôi khi cái tò mò đẩy cái gan ra khỏi chỗ nấp, thậm chí còn thúc sau lưng buộc cái gan phải chạy. Nhưng cái tò mò thường chóng qua, cái gan thì còn lại lâu. Cái tò mò cũng giống như người bạn vui tính nhưng ta không tin tưởng hoàn toàn được. Nó làm ta thức tỉnh, hưng phấn, rồi lại bỏ ta đi, mặc ta hành động một mình, khi đó ta phải vận hết cái gan có ở trong ta.

            Cô ta ngẫm nghĩ về điều đó một lúc.

            - Cũng có thể. Đó là một cách nhìn, - cô nói. – này Chim vặn dây cót, anh có muốn thấy cái giếng không?

            - Giếng á? – tôi hỏi. - Giếng nào nhỉ?

            - Ở đây có một cái giếng cạn. Em thích nó. Ở mức độ nào đó. Anh muốn xem không?

            Chúng tôi băng qua sân, đi về phía bên kia căn nhà. Đó lá một cái giếng tròn, đường kính khoảng một mét rưỡi, đậy vừa khít bằng một cái nắp tròn bằng gỗ dày. Có hai tảng bê tông dằn lên nắp giếng giữ cho nó không xê dịch. Thành giếng cao chừng một mét, bên cạnh là một cây già đơn độc, như gã lính canh. Đó là một loại cây ăn trái, nhưng tôi không biết tên.

            Cũng như hầu hết những gì gắn liền với căn nhà này, cái giếng trông như đã bị bỏ hoang từ lâu lắm. Nó toát lên một cái gì đó có thể gọi là “sự vô cảm tuyệt đối”. Có cảm giác như chỉ cần ta rời mắt khỏi khung cảnh này, lập tức những vật vô tri sẽ càng vô tri hơn nữa.

            Xem xét kỹ, tôi nhận ra rằng thật ra cái giếng này xưa hơn nhiều so với các vật xung quanh. Hẳn nó đã được đào từ lâu trước khi người ta xây căn nhà này. Ngay cả cái nắp gỗ trông cũng rất cũ xưa. Thành giếng được phủ một lớp bê tông dày, chắc hẳn là để gia cố cho một công trình xây trước đó đã lâu. Cái cây bên cạnh giếng dường như muốn khoe rằng nó đã có mặt ở đó từ xa xưa hơn nhiều so với bất cứ cái cây nào khác ở nơi này.

            Tôi đặt một trong hai tảng bê tông xuống đất rồi nhấc một trong hai nửa nắp giếng hình bán nguyệt ra. Tì tay lên thành giếng, tôi khom người nhìn xuống, nhưng chẳng thấy gì dưới đáy. Có thể thấy giếng khá sâu, nửa dưới giếng chìm trong bóng tối. Tôi thử ngửi – nghe thoang thoảng mùi rêu.

            - Không có tí nước nào đâu, - Kasahara May nói.

            Giếng không nước. Chim không bay. Ngõ không lối ra. Và…

            May nhặt một mẩu gạch trên mặt đất rồi ném xuống giếng. Một hồi sau nghe có tiếng động nhỏ, khô khan. Không gì hơn. m thanh đục, khô không khốc, dường như có thễ bóp vụn trong bàn tay. Tôi thẳng người lên nhìn Kasahara May.

            - Tại sao giếng không có nước nhỉ? Nó tự cạn đi à? Hay ai đó đã lấp lại?

            Cô ta nhún vai.

            - Nếu lấp lại thì phải lấp cho đến tận miệng chứ. Ai lại để nguyên một cái hố sâu hoắm thế kia. Nguy hiểm lắm, nhỡ ai ngã vào thì chỉ có chết. Đúng không?

            - Chắc em nói đúng. Có cái gì đó đã làm giếng bị cạn đi.

            Bỗng tôi nhớ lại lời ông Honda đã từ lâu lắm. “Nếu đã phải đi lên thì hãy tìm nhọn tháp cao nhất mà trèo lên tới đỉnh. Nếu đã phải đi xuống thì hãy tìm cái giếng sâu nhất mà tụt xuống tận đáy”. Hóa ra tôi đã tìm thấy giếng đây rồi.

            Tôi lại cúi mình trên thành giếng nhìn xuống bóng tối bên dưới., chờ đợi một cái gì không rõ. Tôi nghĩ: vậy là ở một nơi như thế này, lại có một bóng tối sâu hun hút thế kia. Tôi húng hắng ho rồi nuốt. Tôi có cảm giác tiếng ho vọng lại từ bóng tối kia nghe như của người nào khác chứ không phải tôi. Nước bọt của tôi vẫn đượm mùi kẹo chanh.

            * * *

            Tôi đậy nắp giếng lại rồi đặt tảng bê tông đè lên. Rồi tôi nhìn đồng hồ. Gần 11 giờ rưỡi. Đã đến lúc về gọi cho Kumiko trong giờ nghỉ ăn trưa.

            - Anh phải về nhà đây, - tôi nói.

            Kasahara khẽ cau mày.

            - Thế thì đi ngay đi, Chim vặn dây cót. Bay về nhà đi, - cô nói.

            Lúc tôi băng qua sân, con chim đá vẫn đang nhìn trời bằng cặp mắt khô queo. Bầu trời vẫn phủ một lớp mây dày xám xịt, không có khe hở nào cho ánh nắng lọt qua, nhưng ít nhất mưa đã tạnh. Kasahara ngắt một búi cỏ ném lên trời. Vì không có gió cuốn đi nên những nhánh cỏ lại rơi lả tả dưới chân cô.

            - Từ giờ cho đến khi mặt trời lặn còn bao nhiêu là thì giờ nữa nhỉ, - cô nói mà không nhìn tôi.

            - Ừ, còn nhiều, - tôi nói.

6

            Về sự chào đời của

            Okada Kumiko và Wataya Noboru

            *

            Là con một trong gia đình, tôi thật khó hình dung anh chị em ruột trong một nhà thường cảm thấy gì lúc gặp nhau sau khi ai nấy đều đã lớn và có cuộc sống riêng. Trong trường hợp Kumiko, bất cứ khi nào ai đó nhắc tới Wataya Noboru thì nàng lại có một vẻ mặt kì lạ, như thể nàng vừa tình cờ cho một món gì đó có mùi vị khó chịu vào mồm. Nhưng chính xác là vẻ mặt đó ẩn chứa cái gì, tôi chịu không biết được. Về phần mình, tôi chẳng có mảy may thiện cảm với anh ta. Kumiko cũng biết và thấy điều đó hoàn toàn tự nhiên. Bản thân nàng cũng chẳng ưa gì ông anh. Giá như không phải hai anh em ruột thì thật khó hình dung ra cảnh hai người nói chuyện với nhau. Thế nhưng quả thực họ là anh em ruột, điều đó càng khiến mọi chuyện thêm rắc rối.

            Sau khi tôi cãi nhau om sòm với ông bố và cắt đứt quan hệ với gia đình, hầu như không có dịp nào gặp lại Wataya Noboru. Cuộc cãi nhau đó quả thực là kịch liệt. Trong đời tôi không có mấy khi cãi nhau với ai - tôi vốn không thuộc loại người hay tranh cãi -, nhưng khi đã lâm vào thế chẳng đặng đừng thì tôi cãi tới cùng, không ngừng được. Nhưng sau mỗi lần như vậy, khi đã trút sạch những gì dồn nén trong lòng, cơn giận dữ của tôi đều biến đây mất một cách kỳ lạ. Không còn căm ghét, chẳng còn phẫn uất, chỉ còn thấy hết sức nhẹ nhõm rằng tôi sẽ không bao giờ phải gặp lại ông ta nữa; rằng tôi đã trút được gánh nặng phải mang đã quá lâu này. Thậm chí tôi còn thấy thông cảm với cuộc đời lắm gian truân vất vả của ông ta, dù cuộc đời đó với tôi có vẻ ngu ngốc và đáng tởm đến đâu đi nữa. Tôi bảo Kumiko tôi sẽ không bao giờ gặp lại cha mẹ nàng nữa nhưng riêng nàng thì khi nào muốn về thăm họ cũng được, chỉ có điều không có tôi. Nhưng Kumiko cũng chẳng thiết tha gì chuyện về thăm cha mẹ.

            Hồi đó Wataya Noboru đang sống cùng cha mẹ, song khi cuộc cãi vã bùng lên giữa cha anh ta và tôi, anh ta chỉ rút lui, chẳng nói với ai một lời nào. Điều đó tôi không lạ. Anh ta chẳng mảy may quan tâm đến tôi. Anh ta tránh hết sức để không gặp mặt tôi trừ những lúc thực sự cần thiết. Vì vậy, mỗi khi đã không còn đến thăm cha mẹ Kumiko, tôi cũng chẳng còn lý do gì để gặp lại Wataya Noboru. Bản thân Kumiko cũng chẳng còn lý do đặc biệt gì để gặp anh ta. Anh ta bận, nàng cũng bận, nhưng cái chính là hai người chưa bao giờ thân thiết với nhau.

            Tuy vậy thỉnh thoảng Kumiko cũng gọi điện đến văn phòng khoa của anh ta, đôi khi anh ta cũng gọi điện cho nàng ở công ty (nhưng không bao giờ gọi về nhà chúng tôi). Nàng thường thông báo lại với tôi về những cuộc trò chuyện đó, nhưng không đi vào chi tiết. Tôi không bao giờ hỏi, nàng cũng không bao giờ tự kể rõ hơn nếu không cần thiết.

            Tôi không cần biết Kumiko và Wataya Noboru nói với nhau những gì. Bảo vậy không có nghĩa là tôi khó chịu khi biết hai người có nói chuyện với nhau. Đơn giản là tôi không hiểu hai con người khác nhau đến thế thì có gì để nói chuyện với nhau? Hay chỉ vì họ là hai anh em nên mới có chuyện để nói?

            ***

            Tuy là anh em nhưng Wataya Noboru và Kumiko cách nhau những chín tuổi. Một lý do nữa khiến hai anh em ít gần gũi nhau, ấy là hồi nhỏ Kumiko sống với ông bà nội suốt mấy năm liền.

            Nhà Wataya không chỉ có hai đứa con là Kumiko và Noboru. Giữa hai anh em còn có một người con gái nữa, lớn hơn Kumiko hai tuổi. Tuy nhiên, hồi Kumiko mới ba tuổi cha mẹ đã gửi nàng từ Tokyo về tỉnh Niigata xa xôi cho ông bà nội nuôi nấng một thời gian. Về sau cha mẹ bảo nàng rằng họ làm vậy bởi hồi nhỏ nàng ốm đau quặt quẹo luôn, thành thử không khí trong lành ở thôn quê chắc sẽ có ích cho nàng, nhưng nàng chẳng bao giờ tin hẳn lời họ nói. Theo nàng nhớ thì nàng chưa bao giờ đau yếu cả. Nàng chưa hề ốm nặng bao giờ, người thân ở Niigata hình như cũng không ai phải lo lắng lắm về sức khỏe của nàng. "Em tin chắc đó chẳng qua là cái cớ thôi", có lần Kumiko bảo tôi vậy.

            Nỗi ngờ vực của nàng được củng cố bởi một chuyện nàng nghe được từ một người bà con. Hóa ra mẹ và bà nội của Kumiko từng có một mối bất hòa kéo dài, và quyết định đưa Kumiko về Niigata là kết quả một sự thỏa thuận giữa hai người. Bằng cách giao con cho bà nội nuôi một thời gian, cha mẹ Kumiko đã làm bà nguôi giận, còn đến lượt mình, nhờ được nuôi dạy cháu một thời gian nên bà nội củng cố được quan hệ với con trai (tức cha của Kumiko). Nói cách khác, Kumiko đã là một kiểu con tin.

            - Ngoài ra, - Kumiko kể với tôi. - ba mẹ em đã có hai đứa con rồi, thành thử cho đi đứa thứ ba cũng chẳng mất mát gì ghê gớm. Dĩ nhiên là không phải ba mẹ có ý bỏ em luôn; hình như ba mẹ chỉ nghĩ rằng bởi em còn quá nhỏ nên đi xa khỏi nhà như thế cũng chẳng hề gì. Có lẽ ba mẹ đã không biết nghĩ cho thấu đáo về chuyện đó. Chẳng qua đó là giải pháp dễ dàng nhất cho tất cả mọi người. Anh có tin được không? Em không biết tại sao ba mẹ chẳng hiểu rằng chuyện đó có tác động như thế nào đến một đứa bé.

            Nàng được bà nội nuôi nấng ở Niigata từ năm ba tuổi đến năm sáu tuổi. Những năm tháng đó trong đời nàng gọi là u buồn hay phi tự nhiên thì cũng không đúng. Bà nội cưng nàng như cưng trứng mỏng, Kumiko cũng thích chơi với mấy anh em họ bằng tuổi mình hơn là chơi với anh chị ruột vốn lớn hơn nàng nhiều. Cuối cùng, khi Kumiko đến tuổi đi học, ba mẹ đón nàng về Tokyo. Ba mẹ bắt đầu đâm lo rằng đứa con gái đã xa họ qua lâu nên khăng khăng đòi đưa về trước khi quá muộn. Nhưng theo nghĩa nào đó thì đã quá muộn. Suốt mấy tuần sau khi quyết định cho nàng về lại Tokyo, bà nội ngày càng rơi vào trạng thái kích động. Bà thôi ăn và ngủ rất ít. Bà khi khóc khi cười, lúc lại hoàn toàn câm lặng. Mới phút trước bà vừa siết chặt Kumiko vào lòng đến tức thở, phút sau bà đã lấy thước kẻ phát vào tay Kumiko mạnh đến nỗi hằn đỏ cả lên. Phút trước bà bảo bà không muốn cháu đi, rằng bà thà chết còn hơn mất cháu, phút sau bà lại bảo bà không muốn thấy mặt cháu nữa, rằng bà muốn tống cháu đi cho khuất mắt. Bằng những lời lẽ không thể nào thậm tệ hơn, bà rủa xả mẹ Kumiko, bảo rằng mẹ nàng là một mụ đàn bà khốn nạn. Thậm chí bà còn đâm kéo vào cổ tay định tự sát. Kumiko không hiểu nổi điều gì đang diễn ra quanh mình nữa. Mọi chuyện vượt ngoài khả năng lĩnh hội của nàng.

            Thế là nàng quyết định khép mình trước ngoại giới. Nàng nhắm mắt lại. Nàng khép tai lại. Nàng đóng chặt tâm trí mình. Nàng không nghĩ gì nữa, không hy vọng gì nữa. Mấy tháng sau đó là một khoảng trống hoàn toàn trong ký ức nàng. Nàng tuyệt chẳng nhớ bất cứ điều gì xảy ra trong thời gian đó. Khi hồi tỉnh, nàng thấy mình đang ở trong một ngôi nhà mới. Đó là ngôi nhà lẽ ra nàng đã sống từ xưa đến nay. Ba mẹ nàng sống ở đây, anh nàng cũng thế, chị nàng cũng thế. Nhưng đó không phải nhà của nàng. Nó chỉ là một môi trường sống mới mà thôi.

            Kumiko trở thành một đứa trẻ lầm lì, khó tính trong môi trường mới đó. Không ai là người cô bé có thể tin, không ai là người cô bé có thể tin vậy vô điều kiện. Ngay cả trong vòng tay cha mẹ, cô cũng không bao giờ hoàn toàn thoải mái. Cô không biết mùi cơ thể họ; cái mùi lạ lẫm đó khiến cô bứt rứt khó chịu. Thậm chí có đôi khi cô còn căm ghét nó. Người duy nhất trong nhà mà Kumiko dần dần cởi mở hơn, dù một cách khó khăn, là chị gái. Cha mẹ đã hết hy vọng có thể gần gũi được cô bé; anh trai gần như không biết đến sự tồn tại của cô. Nhưng chị gái thì thấu hiểu sự bấn loạn và nỗi cô đơn ẩn sau thái độ bướng bỉnh đó. Chị ở suốt ngày bên Kumiko, ngủ cùng buồng với cô, nói chuyện với cô, đọc sách cho cô nghe, đưa cô đi học, giúp cô làm bài tập. Những khi Kumiko rúc vào một góc giường mà khóc hàng giờ, chị gái luôn có mặt, ngồi một bên, ôm chặt cô vào lòng. Chị làm tất cả những gì có thể để tìm đường đến với cõi lòng sâu kín của Kumiko. Giá như chị không chết vì trúng độc thức ăn chỉ một năm sau Kumiko từ Niigata trở về thì mọi chuyện hẳn đã khác đi rất nhiều.

            - Nếu chị còn sống thì mọi chuyện trong gia đình hẳn đã tốt hơn rồi, Kumiko nói. – Mới mười một tuổi chị ấy đã là trụ cột về tinh thần cho cả gia đình. Giá như chị không chết thì mọi người khác trong nhà hẳn đã ít khác người hơn. Ít nhất thì em cũng không phải là một trường hợp hết thuốc chữa như thế này. Anh có hiểu ý em không? Em thấy mình thật có lỗi sau chuyện đó. Tại sao em không chết thay cho chị? Tại sao em đây, một đứa chẳng ai cần tới, chẳng đem lại niềm vui cho ai, tại sao em không chết đi? Ba mẹ và anh trai hiểu rõ cảm xúc của em, nhưng họ không hé một lời để an ủi em. Mà đâu chỉ có thế. Họ không từ bất cứ cơ hội nào để nói về người chị quá cố của em: nào chị ấy xinh, nào chị ấy thông minh, nào ai cũng thích chị ấy, nào chị ấy chu đáo quan tâm đến mọi người, nào chị ấy chơi piano giỏi! Thế rồi họ bắt em phải học chơi piano! Sau khi chị mất thì cũng phải có ai sử dụng cây đàn piano to đùng kia chứ! Nhưng em chẳng thích chơi piano tí nào! Em biết mình sẽ chẳng bao giờ chơi hay như chị ấy, em cũng không cần có thêm một cách để chứng tỏ em kém cỏi thế nào so với chị ấy. Em không thể thế chỗ cho bất cứ ai, nói gì đến cho chị ấy. Nhưng chẳng ai nghe em. Không ai thèm nghe em cả! Mãi đến giờ, hễ nhìn thấy piano là em ghét cay ghét đắng. Thấy ai đó chơi piano là em không chịu nổi.

            Tôi vô cùng phẫn nộ với gia đình Kumiko khi nghe nàng kể. Phẫn nộ vì những gì họ đã làm với nàng. Vì những gì họ đã không làm được cho nàng. Ấy là hồi chúng tôi chưa cưới. Hai chúng tôi chỉ mới quen nhau được hai tháng. Đó là một sáng Chủ nhật yên tĩnh, chúng tôi đang nằm trên giường. Nàng kể một hồi lâu về thời thơ ấu, như thể gỡ dần một sợi chỉ rối, thỉnh thoảng lại ngừng để đánh giá tầm quan trọng của từng sự kiện nàng vừa thổ lộ. Đó là lần đầu tiên nàng kể nhiều đến vậy về mình. Trước buổi sáng hôm đó tôi hầu như chẳng biết gì về gia đình hay thời thơ ấu của nàng. Tôi biết tính nàng trầm lặng, rằng nàng thích vẽ, rằng nàng có mái tóc dài thật đẹp, rằng nàng có hai cái bớt trên bả vai phải. Và rằng tôi là người đàn ông đầu tiên trong đời nàng.

            Nàng vừa kể vừa khóc thút thít. Tôi hiểu tại sao nàng cần phải khóc. Tôi ôm nàng trong vòng tay, vuốt tóc nàng.

            - Nếu chị ấy còn sống, em tin chắc anh sẽ yêu chị ấy, - Kumiko nói. – Hồi xưa ai cũng yêu chị ấy. Vừa thấy lần đầu là đã yêu ngay.

            - Có thể, - tôi nói. – Nhưng anh lại phải lòng em. Chuyện ấy đơn giản lắm mà. Chỉ có anh và em thôi. Chị của em chẳng có liên quan gì ở đây hết.

            Kumiko nằm đó một hồi mà ngẫm nghĩ. 7 giờ rưỡi sáng Chủ nhật: khi mọi âm thanh đều êm dịu và nhẹ bỗng. Tôi nghe tiếng bồ câu vỗ cánh bay ngang qua mái căn hộ của tôi, ai đó gọi chó ở xa xa. Kumiko nhìn không rời mắt vào một điểm duy nhất trên trần nhà.

            - Này, nói em nghe, anh có thích mèo không?

            - Có chứ, anh mê mèo lắm, - tôi nói. – Hồi nhỏ lúc nào anh cũng có một con mèo. Anh chơi với nó suốt, ngủ cũng ôm mèo.

            - Hay quá! Từ nhỏ em đã thích có mèo đến chết được. Nhưng người ta không cho em nuôi. Mẹ em ghét mèo. Cả đời chưa bao giờ em thử cố sao cho có được cái mình muốn cả. Chưa một lần nào cả. Anh có tin được không? Anh không thể hiểu sống như vậy là thế nào đâu. Khi anh đã quen với cuộc sống đó rồi – không bao giờ có được cái mình muốn – thì anh sẽ không còn biết mình muốn gì nữa.

            Tôi nắm tay nàng.

            - Có thể từ trước đến giờ với em là vậy. Nhưng em không còn là trẻ con nữa. Em có quyền chọn cho mình một cuộc sống riêng. Em có thể bắt đầu lại. Nếu muốn có mèo, em chỉ việc chọn một cuộc sống mà trong đó em có một con mèo. Đơn giản thôi mà. Đó là quyền của em… đúng không?

            Mắt nàng nhìn chăm chắm vào tôi.

            - Ừ… đúng vậy.

            Vài tháng sau, Kumiko và tôi bàn chuyện cưới nhau.

            * * *

            Nếu thuở thiếu thời của Kumiko trong căn nhà đó què quặt, nặng nề, thì thời thơ ấu của Wataya Noburu lại méo mó đến độ phi tự nhiên theo một cách khác. Cha mẹ yêu thằng con duy nhất đến mức cuồng si, nhưng họ không chỉ nâng niu, vồ vập thằng bé mà còn đòi hỏi ở nó nhiều thứ. Người cha tin chắc như đinh đóng cột rằng cách duy nhất để có một cuộc sống sung túc trong xã hội Nhật là phải đạt được những thành tích cao nhất đồng thời gạt bỏ bất cứ ai hay bất cứ cái gì chắn ngang đường tiến thân của ta. Ông ta tin chắc vào triết lý đó với một niềm tin sắt đá.

            Chẳng bao lâu sau khi cưới Kumiko, tôi nghe được những lời như vậy từ chính ông ta. Con người ta sinh ra vốn không bình đẳng, ông ta nói. Lý tưởng bình đẳng này nọ nghe thì phải đạo, song chỉ là những thứ vớ vẩn người ta dạy ở trường. Nhật Bản có một thể chế chính trị dân chủ, nhưng đồng thời cũng là một xã hội phân chia giai cấp theo một thứ luật rừng khốc liệt, cá lớn nuốt cá bé, thành thử nếu không trở thành một kẻ trong tầng lớp tinh hoa thì sống ở cái xứ này chẳng để làm gì. Anh sẽ bị nghiền nát thành cám. Anh phải giành giật từng nấc thang một để leo lên, leo lên mãi. Cái tham vọng này hoàn toàn lành mạnh. Nếu người ta đánh mất tham vọng đó, nước Nhật sẽ tiêu vong. Tôi không đưa ra ý kiến gì đáp lại quan điểm của bố vợ. Mà ông ta cũng chả cần nghe ý kiến của tôi. Đơn giản là ông ta tuôn ra niềm tin của mình, cái niềm tin ông cho tin là ngàn đời cũng không đổi.

            Mẹ của Kumiko là con gái một quan chức cao cấp. Bà lớn lên ở Yamanote, khu thượng lưu của Tokyo, chưa bao giờ thiếu thốn thứ gì, cũng chẳng có một ý kiến hay tính cách nào để đối chọi lại ông chồng. Theo như tôi thấy, bà ta không có ý kiến về bất cứ sự kiện hay sự vật gì nếu nó không bày ra ngay trước mặt bà ta (nói cho ngay, bà ta bị cận thị cực nặng). Còn nhỡ có lúc nào đó buộc phải phát biểu ý kiến về một cái gì đó nằm ngoài tầm nhìn của mình, bà ta lại vay mượn ý kiến chồng. Giá như bà ta chỉ có vậy thì cũng chẳng làm phiền ai, song, cũng như hầu hết các phụ nữ tương tự, bà ta mắc chứng hợm hĩnh không thể nào chịu nổi. Những kẻ như vậy không có thang giá trị nào cho riêng mình mà chỉ có thể tìm được chỗ đứng trong thiên hạ bằng cách vay mượn các chuẩn mực hoặc quan điểm của người khác. Nguyên lý duy nhất chi phối tâm trí họ là “Mình trông thế nào trong mắt thiên hạ?”. Thế nên bà Wataya trở thành một phụ nữ hẹp hòi, bộp chộp, chẳng quan tâm đến gì khác ngoài địa vị của chồng mình trong chính phủ và thành tích học hành của đứa con trai. Mọi thứ khác không có ý nghĩa gì với bà ta hết.

            Thế là ông cha bà mẹ ra sức nhồi nhét cái triết lý đáng ngờ và thế giới quan méo mó của họ vào đầu cậu bé Wataya Noburu. Họ nhồi sọ nó, cho nó học những gia sư tốt nhất mà họ mua được bằng tiền. Mỗi khi nó đạt thứ hạng cao, họ lại thưởng bằng cách mua cho nó bất cứ thứ gì nó muốn. Thời thơ ấu của nó đầy ứ xa hoa vật chất, nhưng khi đến giai đoạn có những rung động và cảm xúc đầu đời, cậu bé chẳng lấy đâu ra thì giờ cho bạn gái, chẳng có dịp nào đi chơi với lũ bạn trai. Cậu phải trút toàn bộ sức lực vào việc duy trì vị trí số một. Wataya Noburu có thích cuộc sống đó chăng, tôi không biết. Kumiko cũng không. Wataya Noburu không phải loại người hay thổ lộ cảm xúc với người khác: không thổ lộ với em gái, không bộc bạch với cha mẹ, không cởi mở với bất kỳ ai. Vả chăng, anh ta chẳng có lựa chọn nào khác. Tôi thấy hình như có những phương thức suy nghĩ giản đơn và một chiều đến nỗi ta không thể nào cưỡng lại được. Dù thế nào, Wataya Noburu cũng đã tốt nghiệp trường tư dành cho giới thượng lưu, thi đỗ vào khoa kinh tế Đại học Tokyo và tốt nghiệp ngôi trường danh giá này với thứ hạng danh giá nhất.

            Người cha muốn rằng tốt nghiệp đại học xong anh ta vào làm việc trong chính phủ hay một tập đoàn hàng đầu nào đó, nhưng Wataya lại quyết định theo con đường học thuật và trở thành học giả. Anh ta không phải thằng ngốc. Anh ta biết, môi trường thích hợp với mình không phải là cái thế giới nơi anh ta phải giải quyết các vấn đề thực tiễn cùng với những người khác, mà là cái thế giới đòi hỏi sử dụng tri thức một cách có kỷ luật và hệ thống, cái thế giới đề cao kỹ năng cá nhân của người trí thức. Anh ta theo học năm thứ hai sau đại học ở Yale rồi trở lại theo chương trình nghiên cứu sinh ở Tokyo. Vâng lời cha mẹ, anh ta lấy vợ, đám cưới do hai nhà sắp đặt, nhưng cuộc hôn nhân kéo dài không quá hai năm. Sau khi ly dị, anh ta lại về sống với cha mẹ. Cho tới khi tôi gặp anh ta lần đầu, Wataya Noburu đã là một tay dở dở ương ương, một thằng cha không thể nào ưa nổi.

            Sau khi tôi cưới Kumiko được hai năm, Wataya Noburu xuất bản một cuốn sách to, dày. Đó là một công trình nghiên cứu kinh tế đầy rẫy thuật ngữ chuyên môn; tôi đã cố đọc, nhưng đã không thể hiểu tí gì những điều anh ta nói. Không hiểu nổi lấy một trang. Tôi chẳng biết là do nội dung quá khó với tôi hay do tác giả viết tồi. Thế nhưng dân trong ngành thì khen lấy khen để. Một tay điểm sách tuyên bố đây là “một loại công trình kinh tế hoàn toàn mới được viết từ một quan điểm hoàn toàn mới”, nhưng đọc hết bài điểm sách tôi cũng chỉ hiểu được mỗi một câu đó thôi. Chẳng bao lâu giới truyền thông bắt đầu giới thiệu anh ta là “người hùng của thời đại mới”. Hàng đống sách ra đời để diễn giải cuốn sách của anh ta. Hai thành ngữ anh ta chế ra, “kinh tế tính dục” và “kinh tế bài tiết” trở thành câu đầu lưỡi của thiên hạ. Báo và tạp chí đăng trên trang nhất những bài viết về anh ta như một trong các trí thức của thời đại mới. Tôi không tin rằng chính tác giả mấy bài báo đó thật sự hiểu Wataya Noburu nói gì trong cuốn sách của anh ta. Thậm chí tôi ngờ rằng họ chưa hề giở cuốn sách đó ra lần nào nữa kia. Nhưng điều đó chẳng làm họ bận tâm chút nào hết. Wataya Noburu còn trẻ, độc thân, và đủ thông minh để viết một cuốn sách không ai hiểu.

            Nó làm anh ta nổi tiếng. Các tạp chí đua nhau mời anh ta viết bài. Anh ta xuất hiện trên truyền hình để bình luận về các vấn đề chính trị và kinh tế. Chẳng mấy chốc anh ta trở thành thành viên thường trực của các chương trình thảo luận bàn tròn về chính trị. Những ai từng biết Wataya Noburu (trong đó có Kumiko và tôi) không thể nào hình dung anh ta lại thích hợp với trò phô phang trước người khác đến vậy. Ai cũng đinh ninh anh ta là loại người thuần túy sách vở, chả quan tâm đến bất cứ gì ngoài lĩnh vực chuyên môn. Nhưng hóa ra, bước vào thế giới truyền thông, anh ta nhập vai mới thật dễ dàng, còn tỏ ra khoái trá là khác. Anh ta không hề nao núng khi bị ống kính quay phim chĩa vào mình. Thậm chí trước ống kính anh ta trông còn thoải mái ung dung hơn cả trong thế giới thực. Chúng tôi vô cùng sửng sốt quan sát sự biến hình đột ngột của anh ta. Gã Wataya Noburu chúng tôi thấy trên truyền hình vận những bộ com lê đắt tiền, cà vạt chọn kỹ không chê vào đâu được, đeo kính gọng đồi mồi. Anh ta để kiểu tóc mới nhất. Rõ ràng anh ta được chăm sóc bởi một tay làm đầu chuyên nghiệp. Tôi chưa thấy anh ta khoe bộ cánh chảnh chọe đến thế bao giờ. Mà thậm chí nếu bộ cánh đó là do hãng truyền hình bắt anh ta mặc thì anh ta cũng đã khoác lên người một cách hết sức tự nhiên, như thể suốt đời anh ta vẫn luôn ăn mặc thế. Con người này là ai vậy? Tôi đã tự hỏi khi lần đầu tiên gặp anh ta. Wataya Noburu đích thực ở đâu?

            Trước ống kính anh ta đóng vai Người Ít Nói. Mỗi khi ai hỏi ý kiến, anh ta trả lời đơn giản, rõ ràng, chính xác và súc tích. Khi cuộc tranh luận nóng lên và những người khác vận hết gân cổ mà gào, anh ta vẫn bình thản. Khi bị tấn công bằng những câu hỏi gai góc, anh ta điềm tĩnh, mặc đối phương muốn nói gì thì nói, sau đó chỉ cần buông một câu duy nhất là đập tan mọi lý lẽ của y. Anh ta học được cái nghệ thuật giữ cho giọng nói vẫn đều đều, nụ cười vẫn trên môi mà tung ra ngón đòn chí mạng. Trên màn ảnh truyền hình, anh ta có vẻ thông minh và đáng tin cậy hơn nhiều so với Wataya Noburu trong thực tế. Tôi không biết làm sao anh ta đạt được như vậy. Anh ta không điển trai, nhưng cao ráo, mảnh dẻ, phong thái đường hoàng, rõ con nhà dòng dõi. Bằng phương tiện truyền hình, Wataya Noburu đã tìm được đúng chỗ cho mình. Truyền thông đại chúng dang rộng tay chào đón anh ta, và anh ta cũng chào đón nó nồng nhiệt như thế.

            Thế nhưng tôi không thể nào chịu nổi cái bộ dạng anh ta, dù trên báo hay trên truyền hình. Anh ta là người có tài, có năng lực, tôi không phủ nhận. Tôi nhận thấy quá rõ là khác. Anh ta biết cách quật nốc ao đối thủ một cách chóng vánh và hiệu quả chỉ bằng một vài lời. Anh ta có cái bản năng của loài thú là đánh hơi chiều gió. Nhưng nếu để ý kỹ những gì anh ta nói hay viết, ta sẽ thấy lời lẽ anh ta thiếu sự nhất quán. Chúng không hề phản ánh một thế giới quan duy nhất dựa trên một niềm tin sâu sắc. Thế giới của anh ta là một thế giới mà anh ta dựng nên bằng cách lắp ghép vài ba hệ tư tưởng một chiều. Nếu cần, anh ta có thể xào xáo lại cái kết cấu đó để tạo ra một hệ quan điểm mới trong nháy mắt. Đó là những trò biến dị và tổ hợp tư duy rất tài tình, thậm chí phải nói là đầy nghệ thuật. Nhưng với tôi, tất cả những cái đó chỉ là một trò chơi, không hơn không kém. Nếu trong các quan điểm của anh ra có cái gì đó gọi là nhất quán, ấy là cái sự trước sau như một chẳng có gì nhất quán, và nếu anh ta có một thế giới quan thì thế giới quan đó có thể gọi là “tôi chẳng có thế giới quan nào sất”. Nhưng chính những sự thiếu vắng đó lại là hành trang trí tuệ của anh ta. Sự nhất quán và một thế giới quan vững chắc chỉ là những thứ thừa thãi không cần thiết trong những cuộc giao đấu trí tuệ diễn ra trong một thời lượng ngắn ngủi trên truyền hình, thành thử không có những cái đó hóa ra lại là ưu thế lớn của anh ta.

            Anh ta chẳng có gì để bảo vệ, nghĩa là anh ta có thể hoàn toàn chú tâm vào những “hành vi giao chiến” thuần tuý. Anh ta chỉ cần tấn công, chỉ cần hạ nốc ao đối thủ. Wataya Noburu là một con tắc kè trí thức, đổi màu tuỳ theo màu của đối thủ, biết điều chỉnh các lập luận logic của mình tùy từng trường hợp sao cho đạt hiệu quả tối đa, và làm các lập luận đó vững chắc hơn bằng tài hùng biện. Tôi không biết làm cách nào anh ta học được những kỹ năng đó, nhưng rõ ràng anh ta có biệt tài thu hút cảm tình của đám đông khán giả. Anh ta biết cần dùng loại lập luận nào có khả năng tác động mạnh nhất đến số đông. Mà các lập luận đó cũng chẳng cần phải có logic, chúng chỉ cần có vẻ như thế, điều quan trọng là chúng đánh vào tâm tư tình cảm người xem.

            Một thế mạnh khác của anh ta là phô thuật ngữ chuyên môn. Dĩ nhiên chẳng ai biết mấy thuật ngữ ấy có ý nghĩa gì, nhưng anh ta có khả năng đưa chúng ra với cái vẻ như nếu bạn không hiểu thì tại bạn thôi. Anh ta lại còn luôn trích dẫn số liệu thống kê. Những số liệu ấy nằm sẵn trong đầu anh ta, chúng khiến cho lý lẽ anh ta càng có sức thuyết phục, nhưng nếu về sau nghĩ lại, ta sẽ nhận ra rằng chẳng ai đặt nghi vấn về nguồn hoặc tính tin cậy của các số liệu đó cả.

            Những thủ thuật tinh khôn của anh ta thường khiến tôi điên tiết, nhưng tôi chưa bao giờ giải thích được với người khác cụ thể cái gì làm tôi bực bội. Tôi chưa khi nào dựng được một lý lẽ đủ sức quật lại anh ta. Chẳng khác gì đấu quyền Anh với một bóng ma: những quả đấm của ta chỉ vụt vào khoảng không. Tôi bị sốc khi thấy ngay những vị thức giả tinh tường nhất cũng bị cuốn vào cuộc chơi của anh ta. Điều đó khiến tôi khó chịu một cách kỳ lạ.

            Thế là Wataya Noburu dần dần được coi như một trong những nhân vật trí thức sáng láng nhất thời đại. Dường như chẳng còn ai để ý đến sự nhất quán này nọ nữa. Cái duy nhất mà họ quan tâm khi bật tivi lên là cuộc giao tranh giữa các võ sĩ giác đấu trên đấu trường tri thức, máu họ đổ ra càng đỏ càng hay. Và nếu như cùng một người đó hôm thứ Hai nói một điều còn đến thứ Năm lại nói một điều hoàn toàn ngược lại thì cũng chẳng sao.

            * * *

            Tôi gặp Wataya Noburu lần đầu khi Kumiko và tôi quyết định lấy nhau. Tôi muốn nói chuyện với anh ta trước khi gặp cha nàng. Tôi cứ đinh ninh rằng, do là người trạc tuổi tôi, anh ta hẳn sẽ giúp phần nào đó để buổi nói chuyện với cha nàng được suôn sẻ.

            - Em e rằng anh không thể trông mong anh ấy giúp đâu, - Kumiko nói, chẳng hiểu sao có vẻ ngập ngừng thấy rõ. – Nói sao cho anh hiểu đây... Anh ấy không phải loại người đó.

            - Trước sau gì anh cũng phải gặp anh ấy kia mà, - tôi nói.

            - Ừ thì thế.

            - Cứ thử gặp xem sao. Ở đời việc gì chả vậy, có thử mới biết được.

            - Thôi được. Mình cứ thử xem.

            Qua điện thoại Wataya Noburu chẳng tỏ ra nhiệt tình cho lắm về việc gặp tôi. Nhưng nếu cậu khẩn khoản xin gặp thì tôi có thể dành cho cậu nửa giờ, anh ta nói. Chúng tôi quyết định gặp nhau ở một quán cà phê gần ga Ochanomizu. Hồi đó anh ta chỉ mới là trợ giảng ở đại học, hãy còn chưa viết cuốn sách và hóa ra đỏm dáng như mãi sau này. Mấy chiếc túi áo khoác của anh ta bục tung, chắc vì thói quen thọc hai nắm tay vào đó quá lâu. Tóc anh ta lẽ ra phải tỉa bớt từ hai tuần trước. Chiếc sơ mi thể thao màu tương mù tạc của anh ta hoàn toàn không đi với chiếc áo khoác hàng hải bằng vải tuýt xanh xám. Anh ta có cái dáng điển hình của những tay trợ giảng ở trường đại học mà với họ tiền là một thứ gì rất ư xa lạ. Mắt anh ta có cái vẻ ngái ngủ của những người vừa mới chui từ thư viện ra sau khi miệt mài nghiên cứu cả ngày giữa hàng đống sách, song nếu nhìn kỹ sẽ còn thấy một ánh lạnh lùng, sắc như dao trong cặp mắt đó.

            Tự giới thiệu xong, tôi nói tôi đang dự định cưới Kumiko trong thời gian tới. Tôi cố giải bày mọi chuyện hết sức chân thành. Tôi bảo tôi đang làm việc cho một hãng luật, nhưng tôi biết công việc đó không phù hợp với mình. Tôi vẫn đang tìm kiếm chính mình. Người như tôi mà tính chuyện lấy vợ thì nghe có vẻ điên rồ, nhưng tôi nói tôi yêu Kumiko, và tôi tin mình có thể làm nàng được hạnh phúc. Hai chúng tôi có thể mang lại sức mạnh và niềm an ủi cho nhau.

            Lời của tôi xem ra chẳng có tác dụng gì với Wataya Noburu. Anh ta ngồi khoanh tay, lẳng lặng nghe. Thậm chí sau khi tôi đã nói xong, anh ta vẫn ngồi im như phỗng thêm một hồi lâu, như đang mải nghĩ chuyện khác.

            Ngay từ đầu tôi đã cảm thấy lúng túng với sự hiện diện của anh ta, nhưng tôi cho rằng đó là do tình huống tế nhị. Hẳn ai cũng sẽ lúng túng khi phải nói với một kẻ hoàn toàn xa lạ: “Tôi muốn cưới em gái anh làm vợ”. Nhưng khi ngồi đối diện anh ta, cái cảm giác lúng túng đó từ từ dâng lên thành một nỗi khó chịu trong tôi. Cảm giác đó giống như có một khối vật chất lạ đang lên men chua loét trong dạ dày mình. Chẳng phải vì lời lẽ hay cử chỉ anh ta có gì đó xúc phạm tôi. Vấn đề là bộ mặt: chính cái bộ mặt của Wataya Noburu. Tôi có linh cảm rằng bộ mặt đó được che giấu dưới một lớp gì đó hoàn toàn khác. Có gì đó không ổn. Đó không phải bộ mặt thật của anh ta. Tôi không sao rũ bỏ được cảm giác đó.

            Tôi muốn đứng dậy đi khỏi ngay, càng xa càng tốt. Tôi đã định làm vậy thật, nhưng đâm lao thì phải theo lao, mình đã trót khơi mào câu chuyện thì phải ngồi cho rốt. Thế là tôi vẫn ngồi, vừa nhấp tách cà phê đã nguội vừa chờ anh ta nói cái gì đó.

            Khi cất lời, dường như anh ta cố tình điều chỉnh giọng mình nhỏ lại nhằm tiết kiệm năng lượng.

            - Thật tình mà nói, tôi không hiểu mà cũng chả quan tâm tới những chuyện cậu vừa nói với tôi. Những gì tôi quan tâm thuộc về một cấp độ hoàn toàn khác, những thứ mà tôi tin chắc cậu không hiểu mà cũng chẳng quan tâm tới. Để nói càng ngắn gọn càng tốt, nếu cậu yêu Kumiko và cô ấy muốn lấy cậu thì tôi không có quyền cũng chẳng có lý do gì để ngăn cản. Vì vậy tôi sẽ không ngăn cản. Tôi chẳng buồn nghĩ tới việc đó nữa là. Nhưng mặt khác, cậu cũng đừng trông mong gì hơn ở tôi. Và quan trọng nhất là, đừng mong tôi phí thêm thời gian vào việc này nữa.

            Anh ta xem đồng hồ rồi đứng dậy. Lời tuyên bố của anh ta thật ngắn gọn, đi thẳng vào vấn đề. Không thừa, không thiếu. Tôi hiểu rành mạch cả điều anh ta muốn nói lẫn những gì anh ta nghĩ về tôi.

            Chúng tôi chia tay nhau như thế.

            Sau khi Kumiko và tôi lấy nhau, Wataya Noburu trở thành anh vợ tôi, thành thử có nhiều lúc tình huống buộc tôi và anh ta phải trao đổi vài lời tuy không hẳn là trò chuyện. Như anh ta có lần nói, hai chúng tôi chẳng có gì chung, nên dù chúng tôi nói gì thì nói những khi giáp mặt nhau, những lời đó không bao giờ phát triển thành một cuộc trò chuyện được. Chả khác gì hai người nói hai thứ tiếng khác nhau vậy. Giả sử Đạt lai lạt Ma đang nằm hấp hối trên giường trong khi nghệ sĩ nhạc jazz Eric Dolphy ra sức giải thích cho ngài về tầm quan trọng của việc chọn đúng loại dầu máy ô tô phù hợp với những thay đổi của âm sắc kèn clarinet bass, cuộc đối thoại đó có khi còn hữu ích và hiệu quả hơn những trao đổi dăm câu ba chữ giữa tôi và Wataya Noburu.

            Tôi hiếm khi mang những tình cảm tiêu cực kéo dài do gặp phải người này hay người nọ. Dĩ nhiên, ai đó có thể làm tôi cáu tiết hoặc khó chịu, nhưng chuyện đó chóng qua. Tôi có thể phân biệt bản thân mình với những người khác như là những sinh thể thuộc hai cảnh giới hoàn toàn khác nhau. Cái khả năng đó có thể gọi là một thứ tài năng (nói thế hoàn toàn không phải là khoác lác; làm được vậy không dễ chút nào, phải có tài, có năng lực đặc biệt mới được). Mỗi khi ai đó gây tác động đến thần kinh tôi, việc đầu tiên tôi làm là chuyển đối tượng của những cảm xúc khó chịu của tôi sang một bình diện khác, một bình diện hoàn toàn không có liên hệ gì với tôi. Thế rồi tôi tự nhủ: Được thôi, mình đang thấy khó chịu, nhưng mình đã chuyễn cái gốc của những cảm xúc khó chịu đó vào một vùng khác, cách đây rất xa, khi nào rảnh rỗi mình hẵng kiểm tra, phân tích nó sau. Nói cách khác, tôi phong bế cảm xúc của mình. Về sau, khi quay lại để xem xét, thỉnh thoảng tôi cũng thấy cảm xúc của mình vẫn còn trong tình trạng tiêu cực, cơn tức tối hay nỗi khó chịu vẫn còn, nhưng trường hợp đó rất hiếm. Thường thì sau một thời gian, cái độc tố trong những cảm xúc tiêu cực sẽ bị trung hòa và trở nên vô hại, thành thử dù sớm hay muộn tôi cũng sẽ quên chúng đi.

            Từ trước đến giờ tôi vẫn có khả năng giữ cho thế giới nội tại của mình ở trạng thái ít nhiều ổn định và bình an, tránh hầu hết những phiền toái không cần thiết bằng cách kích hoạt cái hệ thống kiểm soát cảm xúc này. Duy trì được hiệu quả cao của cái hệ thống đó suốt ngần ấy năm qua là một niềm tự hào của tôi.

            Thế nhưng, khi gặp Wataya Noburu, cái hệ thống của tôi từ chối hoạt động. Tôi không tài nào đẩy bật được Wataya Noburu vào một cõi khác không có liên hệ gì đến tôi. Ngược lại thì có – Wataya Noburu làm được điều đó với tôi. Chuyện đó khiến tôi cáu tiết. Dĩ nhiên, cha của Kumiko là kẻ khó chịu và ngạo mạn. Song, xét cho cùng, ông ta chỉ là điển hình cho loại người có tầm nhìn thiển cận, khư khư bám lấy những xác tín hẹp hòi. Người như vậy thì tôi quên được. Nhưng Wataya Noburu thì không. Anh ta biết rõ mình là ai, và cũng biết rất rõ tôi là cái hạng gì. Nếu thích, anh ta có thể nghiền nát tôi thành cám dưới gót giày. Lý do duy nhất anh ta không làm vậy là anh ta hoàn toàn chẳng mảy may bận tâm tới tôi. Thậm chí cái thằng tôi không đáng cho anh ta bỏ thời gian công sức để nghiền nát ra nữa kìa. Chính vì vậy mà tôi căm tức anh ta. Anh ta là một con người đê tiện, một tên ích kỷ rỗng tuếch ở bên trong. Thế nhưng anh ta lại là kẻ tài năng gấp bội so với tôi.

            Sau lần gặp đầu tiên đó, trong mồm tôi có một cái vị khó chịu mãi không chịu hết. Cứ như ai đó đã tọng vào mồm tôi một dúm bọ thối hoẵng vậy. Có nhổ ra cũng vô ích: cái mùi đó vẫn nồng nặc trong mồm. Ngày này qua ngày khác, tôi không sao tống khứ Wataya Noburu ra khỏi đầu được. Tôi cố nghĩ đến cái gì khác, nhưng vô ích. Tôi đi xem phim, nghe hoà nhạc. Thậm chí tôi đi chơi bóng chày với đồng nghiệp ở công ty. Tôi uống rượu, tôi đọc những cuốn sách đã muốn đọc từ lâu nếu có thời gian. Nhưng Wataya Noburu vần lù lù đó, khoang tay, nhìn tôi với cặp mắt nham hiểm, dường như hút lấy tôi tựa một cái đầm lầy không đáy. Điều đó khiến thần kinh tôi sôi sục, như làm rung rinh mặt đất dưới chân tôi.

            Khi gặp Kumiko sau đó, nàng hỏi tôi có ấn tượng thế nào về ông anh trai. Tôi không thể thành thật trả lời nàng được. Tôi muốn hỏi về chiếc mặt nạ hắn ta mang, về “cái gì đó” bị vặn xoắn một cách phi tự nhiên ẩn dưới cái mặt nạ đó. Tôi muốn kể với nàng tất cả những gì tôi nghĩ về anh trai nàng. Nhưng tôi chẳng nói gì. Tôi cảm thấy mình sẽ không bao giờ có thể truyền đạt những điều đó với nàng, rằng nếu tôi không thể diễn đạt ý mình một cách rõ ràng thì tốt hơn là đừng để lộ gì cả.

            - Anh ấy đúng là khác người thật, - tôi nói. Tôi muốn bổ sung gì đó, nhưng không tìm ra lời. Nàng cũng không gặng hỏi thêm, chỉ im lặng gật đầu.

            Cảm giác của tôi về Wataya Noburu từ đó đến nay vẫn không thay đổi. Anh ta vẫn tiếp tục khiến thần kinh tôi phừng phừng như trước; nó như một cơn sốt nhẹ chẳng bao giờ chịu buông tha tôi. Nhà tôi chưa bao giờ có tivi, nhưng không hiểu vì sự ngẫu nhiên kỳ quái thế nào mà dù ở bất cứ đâu, mỗi khi tôi nhìn tivi là lại thấy Wataya Noburu đang chễm chệ trên đó mà phát ngôn với khán giả. Hễ tôi ngồi đợi trong phòng khám bác sĩ, cầm tờ tạp chí lên mà lật bâng quơ thì y như rằng có bức ảnh Wataya Noburu ở đó, cùng với một bài anh ta viết. Tôi cảm thấy như thể trong từng ngóc ngách của cả thế giới này đều có Wataya Noburu chực sẵn đợi tôi.

            Đành vậy. Phải chấp nhận thực tế. Tôi căm ghét cái gã này.

7

            Hiệu giặt là hạnh phúc

            *

            Kano Creta xuất hiện

            Tôi mang một chiếc blouse và một chiếc váy của Kumiko đến hiệu giặt cạnh nhà ga. Thường thì tôi mang quần áo bẩn tới hiệu giặt ngay góc phố gần nhà, không phải vì thích chỗ đó hơn mà đơn giản là gần hơn. Thỉnh thoảng Kumiko cũng đến hiệu giặt gần nhà ga. Buổi sáng đi làm nàng ghé qua đó vứt quần áo bẩn, chiều về thì tạt vào lấy. Chỗ này đắt hơn một chút, nhưng theo Kumiko thì họ giặt sạch hơn chỗ gần nhà. Những bộ đồ đẹp nhất, nàng luôn luôn mang tới đó giặt dù hơi bất tiện. Chính vì vậy mà hôm đó tôi quyết định đạp xe đến đó, vì tôi nghĩ nàng hẳn sẽ thích giặt đồ của mình ở đó hơn.

            Ra khỏi nhà, tôi mặc quần vải bông mỏng màu xanh lá cây, mang đôi giày tennis muôn thuở, vận áo thun màu vàng dành cho các fan của Van Hallen mà Kumiko được một hãng băng đĩa tặng. Chủ hiệu giặt hôm nay vẫn mở dàn JVC to hết cỡ như khi tôi đến lần trước. Sáng nay anh ta nghe một đĩa của Andy Williams. Khi tôi bước vào, Bài hát đám cưới ở Havaii vừa dứt và Hoàng hôn Canada mới dạo đầu. Vừa vui vẻ huýt sáo theo tiếng nhạc, chủ nhân vừa hí hoáy viết gì đó vào sổ bằng bút bi, động tác của anh ta vẫn mạnh mẽ, quả quyết như lần trước. Trên chồng đĩa chất trên giá, tôi thấy những cái tên như Sergio Mendes, Berr Laempert và ban 101 Strings. Hẳn anh ta là người mê thể loại jazz nhẹ. Bỗng dưng tôi nghĩ: những tín đồ thứ thiệt của loại jazz “nặng đô” như Albert Ayler, Don Cherry, Cecil Taylor hẳn sẽ không bao giờ trở thành chủ một hiệu giặt gần nhà ga. Nhưng cũng có thể họ làm được. Chỉ có điều họ sẽ không là một ông chủ hiệu giặt vui vẻ và hạnh phúc.

            Khi tôi đặt chiếc blouse màu xanh có in hoa và chiếc váy màu xanh xám nhạt lên quầy, anh ta trải rộng ra xem qua rồi viết lên biên lai “blouse và váy”. Chữ viết anh ta rõ ràng, nắn nót. Tôi thích những chủ hiệu giặt viết chữ rõ ràng. Và nếu họ thích Andy Williams thì lại càng hay.

            - Ông Okada phải không? – Tôi đáp rằng phải. Anh ta viết tên tôi, xé liên thứ nhì đưa cho tôi. - Thứ Ba tuần sau có, lần này ông đừng quên ghé lấy đấy nhé. Mấy món này của bà Okada phải không?

            - Ừ.

            - Màu đẹp lắm, - anh ta nói.

            Bầu trời trĩu mây xám xịt. Dự báo thời tiết cho hay sẽ có mưa. Đã quá 9 rưỡi sáng, nhưng vẫn còn rất nhiều người che ô xách cặp vội vã bước về phía các bậc tam cấp nhà ga. Ấy là những người đi làm muộn. Buổi sáng nóng nực và ẩm ướt, nhưng điều đó chẳng có gì khác với những người này, ai nấy đều chỉnh tề com lê, chỉnh tề cà vạt, chỉnh tề giày đen bóng. Tôi thấy nhiều người trạc tuổi tôi, nhưng chẳng ai trong họ diện áo thun Van Hallen. Mỗi ngườu đều đeo huy hiệu công ty trên ve áo, dưới nách cấp một tờ Thời báo Kinh tế Nhật bản. Chuông reo, nhiều người tất tả lao lên các bậc thang. Đã lâu tôi không nhìn thấy những người như vậy.

            Đạp xe về nhà, bất chợt tôi nhận ra mình đang huýt sáo bản Hoàng hôn Canada.

            Kano Malta gọi điện lúc 11 giờ trưa.

            - Xin chào. Chẳng hay đây có phải nhà của ông Okada Toru không ạ? – cô ta hỏi.

            - Vâng, tôi Okada Toru đây. – Ngay từ câu chào đầu tiên, tôi đã nhận ra Kano Malta.

            - Tên tôi là Kano Malta. Lần trước ông thật tử tế đã nhận lời gặp tôi. Không biết chiều nay ông có dự định làm gì không?

            - Không, tôi đáp. Tôi mà có kế hoạch gì thì chẳng khác nào con chim di cư có cổ phiếu vậy.

            - Nếu vậy thì em gái tôi, Kano Creta, sẽ đến gặp ông lúc 1 giờ chiều.

            - Kano Creta? – tôi hỏi bằng giọng khô khan.

            - Vâng. Lần trước hẳn là tôi đã cho ông xem ảnh của cô ấy.

            - Dĩ nhiên tôi nhớ. Chỉ có điều…

            - Tên cô ấy là Kano Creta. Cô ấy sẽ đến gặp ông với tư cách đại diện của tôi. 1 giờ chiều có tiện cho ông không?

            - Được, - tôi nói.

            - Cô ấy sẽ đến, - Kano Malta nói rồi gác máy.

            Kano Creta?

            Tôi hút bụi sàn nhà rồi chỉnh trang nhà cửa đâu ra đó. Tôi cột hết báo thành một bó rồi ném vào trong tủ. Tôi cho những băng cát-xét vứt vung vãi vào hộp rồi xếp ngay ngắn lên giá. Tôi rửa hết chỗ bát đĩa chất đống trong bếp. Rồi tôi tắm vòi hoa sen, xịt dầu thơm, thay quần áo sạch. Tôi pha cà phê mới rồi ăn trưa; bánh sandwich với thịt xông khói và trứng luộc. Tôi ngồi trên ghế sofa mà đọc tờ Tạp chí gia đình, vừa đọc vừa ngẫm nghĩ xem bữa tối sẽ nấu món gì. Tôi đánh dấu mục giới thiệu cách làm món xà lách bằng rong biển với đậu phụ, rồi viết các thứ cần dùng ra một tờ giấy đặng khi đi mua hàng thì cầm theo. Tôi mở radio. Micheal Jackson đang hát bài Billy Jean. Tôi nghĩ về hai chị em Kano Malta và Lano Creta. Hai chị em lấy hai cái tên đến là ngộ ngĩnh! Nghe cứ như một cặp nghệ sĩ hài vậy. Kano Malta, Kano Creta.

            Cuộc sống của tôi đang chuyển hướng một cách kỳ lạ, đó là điều chắc chắn. Con mèo đi mất. Những cuộc gọi lạ lùng của một người đàn bà kỳ lạ. Tôi đã gặp một cô gái lạ, và bắt đầu lui tới một căn nhà không người ở. Wataya Noburu đã hãm hiếp Kano Creta. Kano Malta đã tiên đoán đúng rằng tôi sẽ tìm thấy cà vạt. Kumiko bảo tôi rằng tôi không cần phải kiếm việc làm.

            Tôi tắt radio, trả tờ Tạp chí gia đình lên kệ sách rồi uống một tách cà phê khác.

            * * *

            Kano Creta nhấn chuông đúng 1 giờ không sai một mảy may. Cô ta trông hoàn toàn giống như ảnh chụp: một phụ nữ nhỏ nhắn chừng 25, 26 tuổi, thuộc típ ngưới trầm lặng. Cô duy trì được một cách tài tình dáng vẻ của một phụ nữ thập niên sáu mươi. Cũng cái kiểu tóc “bồng” tôi từng thấy trong các bộ phim thời đó, đầu mút các sợi tóc hơi xoăn lên. Tóc trước trán hất ngược về phía sau, được giự lại bằng một cái kẹp tóc to, lấp lánh. Lông mày cô ta tô sắc nét bằng bút chì, mỹ phẩm làm tăng thêm bóng mờ bí ẩn cho cặp mắt, còn son môi tái tạo hoàn hảo cái màu được ưa chuộng vào thời đó. Trông như thể chỉ cần ấn vào tay cô ta một chiếc micro là lập tức cô sẽ cất tiếng hát Johnny Angel.

            Cô ăn mặc giản dị hơn rất nhiều so với trang điểm. Một bộ đồ công sở đúng nghĩa, thực tế, không màu mè: áo blouse trắng, váy xanh lục bó sát, không nữ trang. Cô kẹp dưới nách một chiếc xắc sơn mài màu trắng, mang đôi giày trắng mũi nhọn bé tí. Đôi gót giày mảnh và sắc lẹm như đầu bút chì, trông như đồ chơi búp bê. Tôi hầu như muốn tỏ lời khen cô ta đã có thể đi đến nhà tôi trên đôi giày ấy.

            Vậy là Kano Creta đây. Tôi dẫn cô vào nhà, mời cô ngồi lên sofa, đun lại ấm cà phê rồi rót cho cô một tách. Cô đã ăn trưa chưa? – tôi hỏi. – Trông cô có vẻ đói. Không, cô chưa ăn.

            - Nhưng xin ông đừng lo, - cô ta vội nói thêm. - Buổi trưa tôi luôn ăn rất ít.

            - Có thật không? Đừng khách sáo nhé. Làm vài cái sandwich thì có gì khó đâu. Tôi vẫn quen nấu nướng, làm việc này việc nọ mà.

            Kamo Creta khẽ lắc đầu.

            - Ông tử tế quá, nhưng thật tình tôi không ăn. Xin đừng lo. Một tách cà phê là đủ lắm rồi.

            Song tôi vẫn dọn lên một đĩa bánh quy để phòng xa. Kano Creta ăn liền ngay bốn chiếc, tỏ vẻ rất ngon miệng. Tôi ăn hai chiếc rồi uống cà phê.

            Cô ta có vẻ thoải mái hơn sau khi ăn bánh và uống cà phê.

            - Hôm nay tôi đến đây với tư cách đại diện cho chị tôi, Kano Malta, - cô nói. Dĩ nhiên Kano Creta không phải là tên thật của tôi. Tên thật của tôi là Setsuko. Tôi lấy cái tên Creta từ khi làm trợ lý cho chị tôi. Biệt danh dùng trong công việc mà thôi. Creta là tên xưa của đảo Crete, nhưng tôi chẳng có liên quan gì đến đảo Crete cả. Tôi chưa đến đó bao giờ. Chị tôi đã lấy tên Malta, thành thử chị chọn tên Creta cho tôi để hai cái tên đi với nhau thành cặp. Chẳng hay ông đã tới đảo Crete bao giờ chưa, thưa ông Okada?

            - Chẳng may là chưa, - tôi đáp. – Tôi chưa hề đến Crete mà cũng không định đến đó trong tương lai gần.

            - Tôi thì muốn đến Crete một lúc nào đó, - Kano Creta vừa nói vừa gật đầu, vẻ hết sức nghiêm trang. – Crete là hòn đảo Hy lạp gần châu Phi nhất. Đó là một hòn đảo lớn, từng có một nền văn minh phồn thịnh vào thời cổ đại. Chị tôi Malta thì có đến Crete. Chị bảo nơi đó thật tuyệt. Gió mạnh, mật ong thì cực ngon. Tôi rất mê mật ong.

            Tôi gật đầu. Tôi thì chẳng thích mật ong đến thế.

            - Tôi đến đây là có một việc muốn nhờ ông, - Kano Creta nói. – Tôi muốn lầy một mẫu nước trong nhà ông.

            - Nước? – tôi hỏi. – Cô muốn nói nước ở vòi ấy à?

            - Nước ở vòi là được rồi, - cô ta nói. – Song nếu gần đây có cái giếng nào thì tôi cũng muốn lấy nước ở đó nữa.

            - Tôi e rằng gần đây chẳng có cái giếng nào đâu. Thật ra thì có một cái, nhưng lại nằm trong sân nhà người khác, và lại cạn từ lâu rồi. Chẳng còn tí nước nào cả.

            Kano Creta nhìn tôi với vẻ khó hiểu.

            - Có đúng là cái giếng đó không còn nước không? Ông có chắc không?

            Tôi nhớ lại âm thanh đùng đục khi Kasahara May ném viên gạch xuống cái giếng nơi căn nhà không người ở kia.

            - Cái giếng ấy đúng là cạn mà. Tôi tin chắc thế.

            - Tôi hiểu, - Kano Creta nói. – Thôi được. Tôi sẽ chỉ lấy nước ở vòi thôi, nếu ông không phiền.

            Tôi dẫn cô ta xuống bếp. Từ trong chiếc túi xách sơn mài màu trắng cô ta rút ra hai cái lọ con, loại người ta vẫn cùng để đựng thuốc. Cô lấy nước vào đầy một lọ rồi đậy nắp lại hết sức cẩn thận. Cô bảo cô muốn lấy nước từ đường ống cấp nước cho bồn tắm. Tôi dẫn cô ta vào buồng tắm. Hoàn toàn không bối rối trước những chiếc đồ lót và tất chân mà Kumoko đang phơi trong đó, Kano Creta mở vòi nước đong đầy vào chai kia. Đậy nắp xong, cô lật úp lại để kiểm tra xem có bị rò không. Hai nắp lọ có phân màu rất rõ: màu xanh dương cho nước trong bồn tắm, màu xanh lục cho nước trong bếp.

            Trở lại sofa ngoài phòng khách, cô ta cho hai cái lọ vào một túi đông lạnh nhỏ bằng nhựa, phong kín lại rồi cho túi nhựa vào chiếc xắc sơn mài, cái khóa kim loại với một tiếng cách khô khốc. Cử động của hai bàn tay cô hết sức thuần thục, rõ ràng cô đã làm việc này nhiều lần rồi.

            - Cám ơn ông rất nhiều, - Kano Creta nói.

            - Chỉ có thế thôi à? – tôi hỏi.

            - Vâng, hôm nay thế là đủ, - cô nói. Cô vuốt thẳng váy, kẹp xắc vào dưới nách rồi dợm đứng dậy.

            - Đợi chút đã, - tôi nói, hơi bối rối. Tôi không ngờ cô ta lại bỏ về đột ngột như vậy. – Cô có thể nán lại thêm một chút được không? Vợ tôi muốn biết con mèo đang ở đâu. Nó đi mất gần hai tuần nay rồi. Nếu cô có biết gì, xin cho tôi được rõ.

            Vẫn kẹp chiếc xắc sơn mài màu trắng ở dưới nách, cô ta gật đầu nhanh mấy cái. Khi cô ta làm vậy, những đuôi tóc xoăn nhẹ của cô ta bập bềnh gợi nhớ đến sự thanh thoát của thập niên sáu mươi. Mỗi khi cô chớp mắt, hai hàng lông mi giả của cô động đậy lên xuống chậm rãi như những cái quạt cán dài trong tay các cô nô tì ở mấy bộ phim về Ai cập thời cổ đại.

            - Nói thật với ông, chị tôi bảo đây sẽ là một câu chuyện dài hơn nhiều so với ta tưởng lúc đầu.

            - Dài hơn ta tưởng lúc đầu?

            Cụm từ “chuyện dài hơn” khiến tôi hình dung một cây sào dài cắm giữa sa mạc, ngút tầm mắt không còn bất cứ vật nào khác. Mặt trời càng lặn thì bóng sáo càng kéo dài ra, dài ra mãi, cho tới khi đầu mút của nó vươn ra xa tít đến nỗi mắt trần không thấy được.

            - Chị ấy bảo vậy, - Kano Creta nói tiếp. - Chuyện này sẽ không chỉ dừng lại ở việc con mèo đi mất.

            - Tôi không hiểu gì cả. Chúng tôi chỉ nhờ chị em cô mỗi một việc là tìm con mèo. Chỉ có thế thôi. Nếu con mèo đã chết, chúng tôi cũng muốn biết chắc. Tại sao “chuyện sẽ không dừng ở đó” chứ? Tôi chẳng hiểu gì hết.

            - Tôi cũng không, - Kano Creta nói. Cô đặt tay lên chiếc kẹp tóc trên đầu, dịch về phía sau một chút. – Nhưng xin ông hãy tin ở chị tôi. Tôi không nói rằng chị ấy gì cũng biết. Nhưng một khi chị ấy đã báo “chuyện sẽ còn dài” thì nhất định là chuyện sẽ còn dài, ông hẵng biết cho như thế.

            Tôi gật đầu, không nói gì. Tôi không thể nói thêm gì nữa.

            - Thưa ông Okada, hiện giờ ông có bận gì không ạ? Ông có định làm gì từ đây cho đến hết buổi chiều không? – Nhìn thẳng vào mắt tôi, Kano Creta lại đổi giọng lễ phép kiểu cách.

            - Không, - tôi nói, - tôi chẳng định làm gì cả.

            - Vậy thì không biết ông có cảm phiền nghe tôi kể đôi điều về bản thân không? – Kano Creta hỏi. Cô ta đặt chiếc xắc sơn mài màu trắng xuống sofa rồi đặt hai bàn tay lên chiếc váy xanh, nơi đầu gối, tay nọ xấp trên tay kia. Móng tay cô cắt khéo, sơn màu hồng thật đẹp. Cô không đeo chiếc nhẫn nào.

            - Vâng, xin mời cô cứ kể, - tôi nói. Và thế là dòng chảy cuộc đời tôi lại đang ngoặt sang những hướng ngày càng lạ lùng hơn nữa – như đã được tiên báo trước từ cái khoảnh khắc Kano Creta bấm chuông nhà tôi.

8

            Chuyện dài của Kano Creta

            *

            Khảo sát bản chất của cái đau

            - Tôi sinh ngày 29 tháng Năm, - Kano Creta bắt đầu kể, - và vào tối sinh nhật năm hai mươi tuổi, tôi quyết định tính sổ cuộc đời mình.

            Tôi đặt một tách cà phê trước mặt cô. Cô cho kem vào rồi khuấy một cách uể oải. Không cho đường. Tôi thì uống cà phê đen, như mọi khi. Đồng hồ trên kệ sách tiếp tục gõ khô khốc lên bức tường thời gian.

            Kano Creta nhìn chằm chằm vào tôi rồi nói:

            - Không biết liệu tôi có nên kể từ đầu không – tôi sinh ra ở đâu, về gia đình tôi…

            - Cô muốn kể gì cũng được, tuỳ cô thôi. Cô thấy kể thế nào tiện nhất thì cứ kể.

            - Tôi là con thứ ba trong gia đình, - cô nói. - Chị Malta và tôi còn có một người anh trai. Cha tôi là chủ một bệnh viện ở tỉnh Kanawaga. Nhà tôi chẳng có gì gọi là những “vấn đề gia đình” mà chỉ là một gia đình bình thường như bao gia đình khác. Cha mẹ tôi rất nghiêm khắc, tin tưởng mạnh mẽ vào giá trị của lao động. Cha mẹ khá là khắt khe với ba anh em tôi, nhưng cũng cho chúng tôi có được đôi chút tự lập trong những chuyện nhỏ nhặt. Anh em tôi chẳng thiếu thốn thứ gì, song cha mẹ cho rằng không nên cho con cái có thừa tiền tiêu vào những thứ xa xỉ. Nói chung, từ bé cha mẹ đã dạy tôi sống thanh đạm.

            Chị Malta lớn hơn tôi năm tuổi. Ở chị ngay từ bé đã có cái gì đó khác người. Chị ấy có khả năng tiên đoán nhiều chuyện. Chị biết ở phòng bao nhiêu đấy có bệnh nhân nào vừa chết, hoặc nếu ai đó đánh rơi ví thì chị biết chính xác tìm ở đâu sẽ thấy, vân vân. Đầu tiên ai cũng thích thú, cho rằng đó là một năng khiếu có ích, nhưng chẳng mấy chốc cha mẹ tôi lại đâm lo. Ba mẹ ra lệnh cho chị không được nói về “những việc không có cơ sở thực tế rõ ràng” khi có mặt người ngoài. Cha tôi lo là lo cho cái ghế giám đốc bệnh viện của mình, ông không muốn người ta nghe nói chuyện con gái ông có những khả năng siêu nhiên. Từ đó trở đi chị Malta tự khóa mồm mình. Chị không những thôi nói về “những việc không có cơ sở thực tế rõ ràng” mà còn hiếm khi dự phần vào những cuộc trò chuyện bình thường nhất.

            Tuy nhiên, chị lại cởi mở tấm lòng với tôi. Hai chị em tôi rất thân nhau. Chị ấy thường dặn trước: “Đừng nói với ai là chị đã báo trước với em nhé”, rồi chị sẽ khẽ khàng nói đại loại như là “Sẽ có một đám cháy dưới phố” hoặc “Sức khỏe của bà dì sống ở Setagaya sẽ còn tệ hơn nữa”. Chị hễ đã nói là đúng. Hồi đó tôi còn nhỏ nên chỉ thích thú vô cùng. Tôi không thấy có gì đáng sợ hay kỳ quái cả. Thậm chí đến giờ tôi vẫn nhớ, tôi hay lẵng nhẵng bám theo chị từng bước, đòi chị nói cho nghe những lời “sấm truyền” của chị.

            Chị càng lớn thì những năng lực đặc biệt kia càng mạnh, nhưng chị chẳng biết dùng chúng vào việc gì hay nuôi dưỡng chúng ra sao, điều đó khiến chị hết sức khổ sở. Chị không biết xin lời khuyên nhủ của ai, không biết nhờ ai chỉ dẫn xem chị làm gì. Điều đó khiến chị trở thành một cô bé rất cô độc. Chị phải tự mình giải quyết mọi việc. Chị phải tự mình tìm lời giải cho mọi vấn đề. Trong gia đình, chị không hạnh phúc. Chẳng có lấy một lần nào chị tìm được bình an trong tâm hồn. Chị phải đè nén năng lực của mình, ỉm chúng đi. Chẳng khác gì trồng một cái cây to lớn, mạnh mẽ trong một chiếc chậu con. Nó không tự nhiên. Không đúng chỗ. Chị chỉ biết mỗi một điều: cần phải thoát khỏi chỗ này, càng sớm càng tốt. Chị tin rằng ở nơi nào đó vẫn có một thế giới thích hợp với chị, nơi chị có thể sống đúng cuộc đời mình. Thế nhưng chị phải nhẫn nhịn đợi đến khi tốt nghiệp trung học.

            Chị quyết định không vào đại học mà đi nước ngoài sau khi rời trường. Song, dĩ nhiên, cha mẹ tôi là những người bình thường, sống một đời giản dị, nên họ không dễ gì cho chị làm vậy. Thế là chị tôi ra sức làm việc, tích cóp một số tiền đủ cần rồi trốn khỏi nhà. Nơi đầu tiên chị đến là Hawaii. Chị sống ở đảo Kauai trong hai năm. Chị ấy đọc được ở đâu đó rằng bờ biển phía Bắc của Kauai có một nơi mang những nguồn nước thần diệu. Ngay từ khi đó chị ấy đã nuôi một mối quan tâm to lớn đối với nước. Chị ấy tin rằng sự tồn tại của con người phụ thuộc rất nhiều vào các thành tố của nước. Chính vì vậy chị đến sống ở Kauai. Lúc ấy có một cộng đồng híp-pi cư ngụ trong nội địa hòn đảo. Chị ấy sống như một thành viên trong cộng đồng đó. Nước ở đó có tác động to lớn đến khả năng ngoại cảm của chị. Nhờ uống nước ấy, chị đạt được sự hài hòa hơn giữ năng lực tâm linh với thể xác vật chất. Chị viết thư kể cho tôi điều đó tuyệt diệu đến nhường nào; thư của chị làm tôi thật hạnh phúc. Nhưng chẳng bao lâu sau vùng đất đó không còn làm chị thỏa mãn nữa. Quả thật đó là một xứ sở tươi đẹp, bình yên, con người ở đó xa lạ với vật dục mà chỉ tìm kiếm bình an nội tâm. Thế nhưng, họ phụ thuộc quá nhiều vào tính dục và ma túy. Chị tôi không cần những thứ đó. Sau khi sống hai năm ở Kauai, chị bỏ đi.

            Từ đó chị sang Canada, đi đây đó vòng quanh miền Bắc nước Mỹ, rồi tiếp tục đến châu u. Đi đến đâu chị đều thử mẫu nước đến đó, ở một vài nơi chị cũng tìm thấy những thứ nước tuyệt diệu, nhưng không ở đâu có thứ nước hoàn hảo cả. Thế là chị lại đi, đi mãi. Mỗi khi hết tiền chị lại hành nghề chiêm tinh, giúp người ta tìm vật đánh rơi hay người thân đi lạc. Người ta trả tiền cho chị, dù chị không muốn lấy tiền. Chị cho rằng những năng lực trời cho thì không nên đáng đổi bằng lợi lộc vật chất. Tuy nhiên, vào lúc ấy đó là kế sinh nhai duy nhất của chị. Chị đi đến đâu người ta cũng nghe tiếng chị. Chị kiến tiền không khó. Thậm chí chị còn giúp cảnh sát điều tra một vụ án ở Anh. Một cô bé bị mất tích, chị tìm ra nơi cái xác bị giấu. Chị còn tìm thấy găng tay của kẻ sát nhân cách đó không xa. Hắn bị bắt và nhận tội. Báo nào cũng đưa tin chuyện ấy. Lúc nào tôi sẽ cho ông xem mấy bài báo tôi cắt giữ lại. Thế là chị tôi cứ lang thang khắp châu u như thế, cho tới khi dừng chân ở Malta. Đã gần năm năm từ khi chị rời Nhật Bản, nơi này hóa ra lại là đích cuối cho cuộc truy tìm nước của chị. Chắc là chính chị ấy có kể cho ông chuyện này?

            Tôi gật đầu.

            - Suốt những năm tháng bôn ba khắp thế giới Malta vẫn thường xuyên gửi thư cho tôi. Dĩ nhiên, có những lúc hoàn cảnh khiến chị không thể viết thư, song hầu như tuần nào tôi cũng nhận được một bức thư dài của chị trong đó chị kể chị đang ở đâu, làm gì. Chị em tôi vẫn rất thân thiết với nhau. Dù xa xôi cách trở bao nhiêu, chị em tôi vẫn có thể chia sẻ cảm xúc với nhau qua những lá thư của chị. Mà thư mới tuyệt làm sao chứ! Giá như đọc được, ông sẽ thấy chị ấy là người tuyệt vời đến thế nào. Qua thư, tôi có thể gặp gỡ hàng bao nhiêu thế giới khác, hàng bao nhiêu con người thú vị. Thư của chị khích lệ tôi biết chừng nào! Chúng giúp tôi trưởng thành. Vì vậy, tôi sẽ luôn luôn biết ơn sâu sắc đối với chị tôi. Tôi không hề phủ nhận những gì chị đã làm cho tôi. Nhưng nói gì thì nói, thư cũng chỉ là thư. Khi tôi bước vào tuổi mới lớn, những năm tháng đủ những vấn đề phức tạp, khi tôi cần chị hơn bao giờ hết, chị lại luôn luôn ở nơi nào đó xa lắc xa lơ. Tôi không thể nào vươn tay ra để bắt gặp bàn tay chị ở bên tôi. Ở nhà, tôi hết sức cô đơn. Một mình một cõi. Những năm vị thành niên của tôi đầy rẫy những đau đớn – tôi sẽ kể với ông sau. Tôi không biết nhờ ai khuyên nhủ, bảo ban. Theo nghĩa đó tôi cũng cô đơn như chị Malta ngày trước. Giá như chị ở gần tôi khi đó thì hẳn đời tôi đã khác bây giờ. Chị hẳn sẽ khuyên bảo tôi, khích lệ, cứu giúp tôi. Nhưng giờ đây nhắc lại chuyện đó để làm gì? Cũng như Malta đã phải tìm con đường riêng cho mình, tôi phải tìm đường cho riêng tôi. Thế là năm tròn hai mươi tuổi, tôi quyết định tự sát.

            Kano Creta cầm tách, uống chỗ cà phê còn lại:

            - Cà phê ngon quá, - cô nói.

            - Cám ơn, - tôi đáp, cố tỏ vẻ càng tự nhiên càng tốt. – Tôi mời cô ăn gì nhé? Tôi có luộc mấy quả trứng.

            Cô ngần ngừ một chút rồi nói cô muốn ăn một quả. Tôi mang trứng và muối từ trong bếp ra rồi rót thêm cà phê cho cô. Không chút vội vã, Kano Creta và tôi bắt đầu bóc vỏ trứng rồi vừa ăn vừa uống cà phê. Nửa chừng thì chuông điện thoại reo, nhưng tôi không trả lời. Sau khi reo được mười lăm, mười sáu lần gì đó, chuông ngừng. Suốt thời gian đó, Kano Creta có vẻ như không hề nghe thấy chuông điện thoại.

            Ăn quả trứng xong, Kano Creta rút từ trong chiếc xắc sơn mài màu trắng ra một chiếc khăn tay nhỏ để lau miệng. Rồi cô kéo thẳng diềm váy.

            - Khi đã quyết định tự sát, tôi muốn để lại thư tuyệt mệnh. Tôi ngồi nơi bàn suốt một tiếng đồng hồ, cố viết ra cho được lý do khiến mình muốn chết. Tôi muốn nói rõ rằng không một ai có lỗi, rằng mọi lý do đều nằm ở bên trong tôi. Tôi không muốn gia đình cảm thấy mình phải chịu trách nhiệm vì một lỗi lầm không phải của họ.

            Nhưng tôi không viết hết được bức thư. Tôi cố viết lại, viết lại nữa, song mỗi thư mới lại càng tệ hơn thư trước. Khi đọc lại cái mình vừa viết, tôi thấy nó nghe thật xuẩn ngốc, thậm chí khôi hài nữa. Tôi càng cố làm cho nghiêm chỉnh, nó càng trở nên lố bịch. Cuối cùng tôi quyết định chẳng viết gì hết.

            Tôi cảm thấy thật ra chuyện rất đơn giản. Tôi thất vọng với cuộc đời mình. Tôi không chịu nổi nữa hàng bao nhiêu kiểu đau mà cuộc đời liên tục bắt tôi phải chịu. Tôi đã phải chịu đau suốt hai mươi năm. Đời tôi chẳng khác gì hơn là một nguồn đau đớn không dứt. Nhưng tôi đã gắng chịu đựng. Tôi hoàn toàn tin tưởng mình đã nỗ lực đến cùng để chịu đựng cái đau. Tôi có thể tự hào tuyên bố không có gì mạnh hơn những nỗ lực của tôi. Tôi sẽ không đầu hàng mà chiến đấu đến cùng. Nhưng đúng ngày tròn hai mươi tuổi, tôi đi đến một kết luận giản dị: sống như thế không đáng. Cuộc sống không đáng cho ta phải mất nhiều sức lực đến vậy.

            Cô ngừng nói, ngồi vuốt vuốt một hồi mấy góc chiếc khăn tay để trên đùi. Khi cô nhìn xuống, hai hàng mi dài đổ những cái bóng mềm mại lên khuôn mặt.

            Tôi hắng giọng. Tôi cảm thấy mình phải nói gì đó, nhưng không biết nói gì, nên tôi lặng thinh. Đằng xa, tôi nghe tiếng kêu của con chim vặn dây cót.

            - Cái đau là nguyên nhân khiến tôi quyết định tự sát, - Kano Creta nói. – “Đau” ở đây không phải theo nghĩa bóng mà là nghĩa đen. Hoàn toàn không phải ẩn dụ, mà là cái đau thể xác, thuần túy về thể xác. Cái đau giản đơn, thường tình, trực tiếp, vật lý, song chính vì vậy càng là cái đau buốt nhói: nào nhức đầu, đau răng, nào đau khi đến kỳ kinh nguyệt, nào đau lưng dưới, nào tê vai, nào sốt, nào đau cơ, nào bỏng, nào tê cóng, náo chuột rút, nào bong gân, nào bầm tím, vân vân. Suốt đời, tôi luôn phải chịu đứng những cái đau thể xác ngày càng thường xuyên, ngày càng dữ dội hơn cái đau của kẻ khác. Răng tôi chẳng hạn. Dường như từ khi tôi ra đời chúng đã mang sẵn gen khuyết tật rồi. Chúng làm tôi đau đớn từ năm này sang năm khác. Dù tôi có đánh răng cẩn thận cách mấy, hay đánh răng bao nhiêu lần một ngày đi nữa, hoặc dù tôi đã tuyệt đối kiêng ăn đồ ngọt, vẫn chẳng ăn thua gì. Răng tôi thảy đều sâu hết, chẳng chừa cái nào. Đã vậy, thuốc gây tê hình như không có tác dụng với tôi. Đến phòng răng luôn luôn là một cơn ác mộng. Đau đớn không lời nào tả nổi. Tôi sợ đến chết được. Rồi lại những kỳ kinh nguyệt khủng khiếp. Nặng nề khôn xiết kể. Mỗi lần như vậy, suốt một tuần tôi đau đến nỗi như có ai đó đang xoáy mũi khoan vào người tôi. Lại nữa đầu tôi cứ ong ong. Ông không thể hình dung nó là thế nào đâu, ông Okada ạ, đau đến làm tôi phải trào nước mắt ra ấy. Tháng nào cũng vậy, có một tuần tôi cứ bị hành hạ suốt bởi cái đau không chịu nổi đó.

            Khi đi máy bay, đầu tôi như thể nứt toác ra vì áp suất không khí thay đổi. Bác sĩ nói ấy là do cấu trúc tai của tôi, rằng chuyện đó thường xảy ra nếu tai trong nhạy cảm với thay đổi áp suất. Chuyện đó cũng hay xảy ra mỗi khi tôi lên xuống thang máy. Tôi không thể đi thang máy trong các tòa nhà cao tầng. Đau đến nỗi đầu tôi sắp vỡ toác ra thành nhiều mảnh và máu sẽ phụt ra có vòi. Thế rồi đến bao tử. Mỗi tuần nó lại đau ít nhất một lần, đau quằn quại, đau như xé ruột xé gan, khiến buổi sáng tôi không sao dậy nổi. Bác sĩ không tài nào tìm được nguyên nhân. Một số người cho rằng đó chỉ là bệnh tưởng. Song, cứ cho là bệnh tưởng đi nữa, cái đau vẫn sờ sờ, không dứt. Dù có đau đến mấy, tôi cũng không thể nằm nhà không đi học. Nếu như mỗi khi đau gì đó tôi lại nghỉ học thì hầu như tôi sẽ chẳng bao giờ đi học cả.

            Chi cần khẽ đụng vào một cái gì đó là người tôi thâm tím ngay. Mỗi khi tự ngắm mình trong gương ở buồng tắm, tôi chỉ muốn khóc. Khắp người tôi đầy những vết bầm dập đến nỗi trông tôi cứ như một quả táo thối. Tôi không muốn bất cứ ai thấy tôi mặc đồ tắm. Theo như tôi nhớ, chính vì lý do này mà cả đời tôi hầu như chẳng bao giờ đến hồ bơi. Lại còn một chuyện nữa: ấy là kích thước hai bàn chân tôi không bằng nhau, bên to bên nhỏ. Bất cứ khi nào mua giày mới, bên chân to lại đau khủng khiếp, cho tới khi giày nong ra vừa đủ mới thôi.

            Vì tất cả những điều đó, tôi hầu như không chơi thể thao. Hồi ở trung học, có lần lũ bạn lôi tôi đi trượt băng. Tôi bị ngã, bị thương ở mạng sườn nặng đến nỗi từ đó trở đi cứ đến mùa đông là lại đau ghê gớm. Như thể ai đâm tôi bằng một cây kim to, dày. Đã bao nhiêu lần, đang ngồi trên ghế, tôi cố đứng lên thì ngã lăn quay ra đất.

            Tôi còn bị táo bón nữa. Cứ ba, bốn hôm một lần, hễ vào nhà vệ sinh là phải cắn răng chịu đau. Rồi lại đau bả vai. Cơ căng lên cho tới khi cứng như đá. Đau đến nỗi đứng không đứng được, nhưng nằm cũng không khá hơn. Tôi hình dung nỗi khổ của tôi hẳn cũng giống như một hình phạt ở Trung Hoa mà tôi đọc ở đâu đó. Người ta nhét tội nhân vào một cái hộp suốt mấy năm trời. Những khi vai đau nhất, tôi gần như không thở được.

            Tôi còn có thể kể thêm cả một danh sách dài nhiều cái đau khác mà tôi phải chịu trong đời, nhưng sẽ khiến ông chán thôi, ông Okada ạ, nên chi tôi dừng ở đây. Tôi chỉ muốn ông hiểu rằng thân thể tôi thực sự là cuốn sách mẫu cho mọi thứ đau trên đời. Tôi từng phải chịu mọi thứ đau người ra có thể tưởng tượng ra. Tôi đâm ra nghĩ rằng tôi đã bị ai nguyền rủa độc địa, rằng đời thật không công bằng. Lẽ ra tôi có thể cứ tiếp tục cắn răng chịu đựng nếu những người khác trên thế giới này cũng phải chịu đau như thế, nhưng họ thì không. Vì vậy tôi không chịu nổi. Cái đau được phân phối không công bằng. Tôi thử hỏi mọi người rằng đau là gì, nhưng chẳng ai biết cái đau thực sự nó là thế nào cả. Hầu hết thiên hạ trên đời này sống mà chẳng mấy khi biết đến cái đau, ít nhất là không phải biết nó ngày ngày. Khi hiểu ra điều đó (hồi đó tôi mới lên trung học), tôi buồn đến nỗi cứ khóc mãi, không sao nín được. Sao lại là tôi kia chứ? Tại sao chính tôi chứ không ai khác phải chịu một gánh nặng khủng khiếp nhường này? Chính lúc đó, chính ở đó, tôi chợt thấy muốn chết.

            Song, đồng thời một ý nghĩ khác nảy đến với tôi. Điều này không thể kéo dài vĩnh viễn. Một sáng nào đó thức dậy, cái đau sẽ biến mất, đột ngột, không sao giải thích được, khi đó cả một cuộc đời mới thật bình an, không mảy may đau đớn sẽ mở ra trước mắt tôi. Tuy nhiên, tôi chẳng mấy tin điều đó sẽ xảy ra thật.

            Thế là tôi thổ lộ những ý nghĩ đó với chị tôi. Tôi nói với chị: Em không muốn tiếp tục sống mà phải chịu đau như vậy nữa. Em phải làm gì? Chị suy nghĩ một lát rồi trả lời như thế này: “Nhất định là ở em có cái gì đó không ổn. Nhưng chị không biết là cái gì. Chị cũng không biết em cần phải làm gì nữa. Năng lực của chị chưa đủ để phán đoán về những việc như vậy. Chị chỉ biết một điều là em phải cố sống ít nhất tới hai mươi tuổi. Hãy cố chịu đựng cho tới hai mươi tuổi, chừng đó hãy quyết định. Làm vậy sẽ tốt hơn.”

            Thế là tôi quyết định tiếp tục sống đến khi hai mươi tuổi. Nhưng thời gian trôi qua, tình hình vẫn không khá lên chút nào. Còn tệ hơn là khác. Cái đau ngày một khốc liệt. Điều đó chỉ cho tôi ngộ ra một điều: “Cơ thể phát triển đến đâu, cái đau cũng lớn lên đến đấy”. Tuy nhiên, tôi vẫn chịu đau được tám năm. Tôi vẫn sống suốt thời gian đó, cố gắng nhìn vào phương diện tốt đẹp của cuộc đời. Tôi không ta thán với ai. Tôi gắng sức giữ nụ cười, ngay cả khi đang đau đớn nhất. Tôi tự rèn cho mình một kỷ luật, ấy là luôn giữ vẻ ngoài bình thản ngay cả khi đau đến mức tôi chật vật lắm mới đứng vững. Khóc lóc than vãn chẳng làm bớt đau mà chỉ khiến tôi trông càng khốn khổ hơn. Tôi nỗ lực hết mình, chính vì vậy mà mọi người yêu mến tôi. Họ thấy tôi là một cô bé trầm lặng, dễ mến. Tôi chiếm được lòng tin cậy của người lớn và bạn bè cùng trang lứa. Lẽ ra tôi đã có một cuộc sống thật mỹ mãn, một thời niên thiếu thật đẹp, nếu như không có cái đau. Nhưng cái đau luôn ở đó. Nó theo tôi như bóng với hình. Chỉ cần tôi quên nó đi một phút, lập tức nó sẽ lại tấn công một bộ phận khác của cơ thể tôi.

            Ở trường tôi gặp một bạn trai, và vào mùa hè ngay năm đầu trung học tôi đã mất trinh. Ngay cả điều này - mà tôi cũng đoán trước được - chỉ làm cho tôi đau đớn. Một bạn gái có kinh nghiệm trấn an tôi rằng khi đã quen thì sẽ không đau nữa, nhưng điều đó không xảy ra. Bất cứ khi nào ngủ với anh ấy, tôi lại đau đến chảy nước mắt. Một hôm tôi bảo bạn trai tôi rằng tôi không muốn ngủ với anh ấy nữa. Tôi nói với anh ấy: “Em yêu anh, nhưng em không bao giờ muốn phải chịu đau thế này nữa”. Anh ấy bảo anh chưa hề nghe ai nói năng vớ vẩn đến vậy. “Em đa cảm quá đấy thôi, - anh ấy nói.- Cứ thư giãn đi, rồi sẽ hết đau ngay ấy mà. Thậm chí còn dễ chịu là khác. Ai cũng vậy, chẳng lẽ em lại không? Cứ cố hết sức xem, sẽ thấy ngay thôi. Đừng có giở trò con nít đi. Em toàn lấy chuyện “đau” này, “đau” nọ để chống chế. Đừng mè nheo nữa, chẳng ích gì đâu”.

            Khi nghe nói vậy, tất cả những gì tôi đã phải chịu đựng suốt ngần ấy năm thật sự nổ bùng lên trong tôi. “Anh thì biết quái gì về đau với đớn kia chứ? - tôi quát lên với anh ta. – Cái đau của em không phải là đau thường. Em thì em biết đau là thế nào. Em đau không còn thiếu thứ gì. Một khi em đã nói đau thì nghĩa là thật sự đau!” Tôi cố giải thích bằng cách liệt kê ra tất cả các loại đau mà tôi từng phải nếm, nhưng anh ta vẫn chẳng hiểu một tí gì. Thật khó lòng hiểu được đau thực sự là thế nào trừ phi bản thân người ta phải chịu đựng cái đau thực sự. Thế là chúng tôi chia tay nhau.

            Chẳng bao lâu sau chuyện đó là ngày sinh nhật tôi. Suốt hai mươi năm trời tôi đã chịu đựng bao đau đớn, luôn đau đáu niềm hy vọng rằng rồi sẽ đến một bước ngoặt, nhưng điều đó không xảy ra. Tôi thất vọng ê chề. Tôi muốn chết sớm hơn. Tôi đã đi đường vòng hóa ra chỉ để kéo dài thêm nỗi đau đớn này.

            Nói đến đây Kano Creta ngừng lại thở một hơi dài. Trên bàn trước mặt cô là chiếc đĩa đựng vỏ trứng và tách cà phê đã uống hết. Trên đùi cô là chiếc khăn tay mà cô đã cẩn thận gấp lại gọn gàng. Như sực nhớ đến thời gian, cô đưa mắt nhìn chiếc đồng hồ trên kệ.

            - Xin ông thứ lỗi, - cô nói khẽ bằng giọng khô khan. – Tôi không định nói lâu như vậy. Tôi đã chiếm mất quá nhiều thời gian của ông rồi. Tôi sẽ không dám làm phiền ông thêm nữa. Tôi không biết phải xin lỗi ông thế nào vì đã buộc ông nghe mãi câu chuyện chán ngắt này.

            Cô vơ lấy chiếc xắc sơn mài màu trắng rồi đứng dậy khỏi ghế sofa.

            Việc này khiến tôi chưng hửng.

            - Đợi chút đã, - tôi bối rối thốt lên. Tôi không muốn cô ta ngưng ngang câu chuyện như thế. - Nếu cô áy náy vì chiếm mất thời gian của cô thì xin cố chớ ngại. Tôi rảnh suốt chiều nay. Một khi cô đã kể cho tôi đến thế này rồi thì sao không kể cho rốt? Chuyện của cô còn dài, tôi tin chắc vậy.

            - Dĩ nhiên là còn, - cô vừa nói vừa nhìn xuống tôi, cả hai bàn tay nắm chặt quai xắc. – nãy giờ tôi chỉ mới kể xong đoạn mở đầu thôi.

            Tôi đề nghị cô chờ một chút rồi xuống bếp. Đứng trước bồn rửa bát, tôi dành chút thời gian để hít thở hai hơi dài. Sau đó tôi lấy hai chiếc cốc trong tủ, cho nước đá vào rồi rót đầy nước cam cất trong tủ lạnh. Tôi đặt hai chiếc cốc lên một cái khay con rồi bưng lên phòng khách. Tôi làm tất cả các động tác trên một cách cố tình chậm rãi, song khi lên đến nơi, tôi thấy cô ta vẫn đứng nguyên trong tư thế cũ. Tuy nhiên, khi tôi đặt hai cốc nước cam trên bàn, dường như cô đã nghĩ lại. Cô lại ngồi lên ghế sofa, đặt chiếc xắc sang một bên.

            - Ông thực sự muốn tôi kể chuyện cho đến hết sao? – cô hỏi.

            - Dĩ nhiên rồi.

            Cô uống hết nửa cốc nước cam rồi kể tiếp.

            - Dĩ nhiên là tôi đã tự sát nhưng không thành. Nếu không thì tôi đã chẳng ngồi đây uống nước cam với ông, thưa ông Okada. – Cô nhìn thẳng vào mắt tôi, và tôi khẽ mỉm cười tán thành. – Giá như tôi đã chết đúng theo kế hoạch thì mọi chuyện hẳn đã giải quyết xong rồi. Chết có nghĩa là ý thức không còn nữa, tôi sẽ không bao giờ phải chịu đau đớn nữa. Đó chính là điều tôi muốn. Thế nhưng, thật không may, tôi đã chọn sai cách chết.

            Vào 9 giờ tối ngày 29 tháng Năm, tôi đến phòng anh tôi hỏi mượn xe. Đó là một chiếc Toyota MR2 mới toanh, nên anh ấy tỏ vẻ rất khổ sở nếu phải cho tôi mượn. Nhưng tôi chẳng bận tâm đến điều đó. Anh ấy không thể từ chối được, bởi chính tôi đã cho anh ấy mượn tiền mua chiếc xe này. Tôi lấy chìa khóa rồi lái loanh quanh khoảng nửa giờ. Chiếc xe chỉ mới chạy chưa đầy 1.800 cây số. Chỉ cần nhấn ga một chút mà nó vọt như tên bắn. Đó chính là chiếc xe lý tưởng cho mục đích của tôi. Tôi lái đến tận sông Tama ở ngoại ô thành phố, ở đó tôi gặp một bức tường đá mà tôi đã chú ý tìm từ trước. Đó là loại tường bao quanh một biệt thự lớn, nằm ở cuối một ngõ cụt. Tôi lùi lại rõ xa để lấy đà rồi nhất ga hết cỡ. Hẳn tôi đã cho xe đâm sầm vào bức tường với tốc độ 150 cây số một giờ, rối bất tỉnh.

            Tuy nhiên, thật không may cho tôi, bức tường lại không rắn như tôi tưởng. Nhà thầu quá hà tiện nên đã không cố định bức tường cho tới nơi tới chốn. Bức tường sụp xuống, nửa trước xe bẹp dúm. Chỉ có thế. Bởi bức tường quá mềm nên hấp thụ hết lực va chạm. Thế chưa hết, trong cơn bấn loạn, tôi đã quên mở đai an toàn.

            Thế là tôi thoát khỏi cái chết. Thậm chị tôi hầu như không bị thương. Và, điều lạ nhất là tôi hầu như không thấy đau đớn gì hết. Đó là điều kỳ quái nhất. Người ta đưa tôi vào bệnh viện để băng cái xương duy nhất bị gãy. Cảnh sát đến điều tra, nhưng tôi bảo họ tôi chẳng nhớ gì sất. Tôi bảo chắc là do tôi định nhấn phanh song lại nhằm sang nhấn ga. Và họ tin lời tôi. Tôi chỉ mới hai mươi tuổi, mới lấy bằng lái được sáu tháng. Ngoài ra, trông tôi chẳng giống loại người toan tự tử. Ai đời tự tử mà vẫn thắt đai an toàn chứ?

            Khi xuất viện tôi phải đương đầu với vài chuyện rắc rối. Trước hết tôi phải trả hết chỗ nợ còn lại cho chiếc MR2 mà tôi đã biến thành đống kim loại vụn. Thật xui xẻo, khi làm hồ sơ với công ty bảo hiểm lại xảy ra một nhầm lẫn nào đó, thế là người ta không chịu trả tiền bảo hiểm cho chiếc xe.

            Để tự sát, đáng lẽ tôi phải thuê một chiếc xe có bảo hiểm, song bây giờ hiểu ra điều đó thì quá muộn rồi. Dĩ nhiên vào lúc đó tôi chẳng còn tâm trí đâu để nghĩ tới chuyện bảo hiểm này kia. Tôi không hề nghĩ rằng xe của anh trai tôi sẽ không được bảo hiểm hay việc tự sát của tôi sẽ không thành. Tôi đã đâm xe vào một bức tường đá với tốc độ 150 cây số một giờ mà vẫn sống, thật không tin được.

            Ít lâu sau tôi nhận được một hóa đơn của hiệp hội quản lý nhà đòi bồi thường cho bức tường đá. Họ đòi 1.364.294 yên(11). Trả ngay lập tức. bằng tiền mặt. Tôi không còn cách nào khác ngoài mượn của cha tôi. Ông sẵn sàng cho tôi vay, nhưng yêu cầu tôi phải hoàn lại cho ông. Ông là người rất chi li về tiền bạc. Ông bảo rằng tôi phải chịu trách nhiệm về sự cố này, nên ông muốn tôi hoàn tiền lại cho ông đúng hạn, không thiếu một yên. Thật ra lúc đó tiền nong ông cũng chẳng dư dả gì. Ông đang mở rộng bệnh viện, nên bản thân ông cũng đang đau đầu về việc huy động tiền cho dự án.

            Tôi lại nghĩ đến chuyện tự sát. Lần này tôi sẽ chọn cách chắc ăn nhất. Tôi sẽ nhảy từ tầng thứ mười lăm tòa nhà hành chính của trường đại học. Lần này thì không thể phạm sai lầm nữa. Tôi thử nhiều lần. Tôi chọn cái cửa sổ thích hợp nhất. Tôi đã sắp sửa nhảy xuống.

            Nhưng có cái gì đó níu tôi lại. Có một cái gì đó là lạ, một cái gì đó lấn cấn ở trong tôi. Đúng vào giây cuối cùng, “cái gì đó” ấy gần như đã lôi ngược tôi lại từ trên thành cửa sổ. Tuy nhiên, phải một thời gian khá lâu sau tôi mới hiểu ra “cái gì đó” là gì.

            Tôi không còn đau gì nữa.

            Tôi hầu như không còn đau gì nữa từ sau sự cố nọ. Xảy ra dồn dập hết chuyện này đến chuyện khác, tôi hầu như không còn tâm trí để nhận ra rằng cái đau đã biến mất khỏi cơ thể tôi. Không còn đau ruột, không còn đau khi hành kinh, không còn nhức đầu, không còn đau dạ dày. Thậm chí khi cái xương sườn gãy cũng hầu như không đau. Tôi không biết tại sao điều đó lại xảy ra được. Nhưng thực tế là: cái đau đã hoàn toàn biến mất.

            Tôi quyết định tạm thời hẵng cứ tiếp tục sống. Tôi chợt muốn biết, dù chỉ một chút thôi, rằng thế nào là sống mà không phải đau đớn gì. Rồi nếu muốn chết thì lúc nào mà chẳng được.

            Nhưng nếu tiếp tục sống thì tôi phải trả nợ cho cha. Tổng công, tôi nợ đến hơn ba triệu yên. Để trả được nợ, tôi đi làm điếm.

            - Làm điếm?!

            - Đúng vậy, - Kano Creta nói, như thể điều đó chẳng có gì ghê gớm cả. – Tôi cần phải có tiền trong một thời gian ngắn. Tôi muốn trả nợ càng sớm càng tốt, mà tôi thì chẳng biết cách nào khác để kiếm tiền ngoài cách đó. Tôi quyết định làm việc đó không chút do dự. Vấn đề là tôi đã quyết chí chết, và tôi vẫn đang nuôi ý định chết, không sớm thì muộn. Chẳng qua vì tò mò muốn biết sống mà không phải đau đớn gì là thế nào nên tôi mới tiếp tục sống thôi, nhưng hoàn toàn chỉ là tạm thời. So với chết thì chuyện bán mình kia có sá gì.

            - Tôi hiểu ý cô, - tôi nói.

            Đá trong cốc nước cam của cô ta đã tan, Kano Creta chậm rãi dùng ống hút khuấy rồi nhấp một ngụm.

            - Tôi hỏi cô một câu được không? – tôi hỏi.

            - Vâng, xin ông cứ hỏi.

            - Cô có hỏi ý kiến chị về việc này không?

            - Lúc ấy chị ấy đang tu tập ở đảo Malta. Trong thời gian tu tập, chị ấy không chịu cho tôi biết địa chỉ. Chị ấy không muốn tôi làm chị ấy mất tập trung. Trong suốt ba năm chị ấy sống ở Malta, thực sự là tôi không thể nào viết thư cho chị ấy.

            - Tôi hiểu, - tôi nói. - Cô dùng thêm ít cà phê nhé?

            - Vâng, - Kano Creta nói.

            Tôi xuống bếp đun lại cà phê. Trong khi chời đợi, tôi vừa nhìn đăm đăm vào cánh quạt thông gió vừa hít thở sâu vào mấy cái. Khi cà phê đã nóng, tôi rót vào hai chiếc tách mới, cho vào khay kèm theo một đĩa bánh quy sôcôla rồi bưng lên phòng khách. Chúng tôi ăn uống một hồi.

            - Lần cô thử tự sát là khi nào vậy? – tôi hỏi.

            - Lúc đó tôi hai mươi tuổi. Đó là sáu năm trước đây vào tháng Năm 1978.

            Tháng Năm 1978 là tháng mà Kumiko và tôi kết hôn. Vậy là, đúng vào tháng hai vợ chồng tôi làm đám cưới, Kano Creta đã toan tự sát còn Kano Malta thì đang tu tập ở đảo Malta.

            - Tôi đến khu lân cận có nhiều quán bar, lại gần người đàn ông đầu tiên có vẻ đường được một chút mà tôi thấy, ngả giá, rồi đến khách sạn ngủ với ông ta. – Kano Creta nói. - Việc làm tình không còn làm tôi đau đớn về thể xác nữa. Nhưng cũng không có khoái lạc. Chỉ đơn thuần là vận động cơ thể. Tôi cũng chẳng thấy tội lỗi gì ở chuyện làm tình để kiếm tiền. Tôi bị vây bọc trong sự tê liệt về cảm xúc, một sự vô cảm sâu hun hút đến mức nhìn không thấy đáy đâu.

            Tôi kiếm được bộn tiền bằng cách đó, chỉ trong một tháng đầu đã được gần một triệu yên. Với tốc độ đó tôi có thể trả hết nợ chỉ trong vòng ba, bốn tháng. Ngày nào cũng vậy, học ở trường xong là tôi về nhà, tối đến lại ra khỏi nhà, rồi về nhà muộn nhất là mười giờ đêm. Tôi bảo cha mẹ rằng tôi làm hầu bàn, chẳng ai nghi ngờ gì cả. Dĩ nhiên, họ sẽ thắc mắc nếu tôi hoàn tiền lại qua nhiều tiền như vậy cùng một lúc, vì vậy tôi quyết định mỗi tháng chỉ hoàn lại ông 10.000 yên, chỗ còn lại gửi ngân hàng.

            Nhưng rồi một đêm nọ, khi tôi đang mồi chài khách gần nhà ga, có hai người đàn ông túm lấy tôi từ đằng sau lưng. Đầu tiên tôi ngỡ đó là cảnh sát, nhưng rồi tôi nhận ra chúng là bọn xã hội đen. Chúng lôi tôi vào một hẻm vắng, hăm doạ tôi bằng một món gì đó giống như con dao, rồi đưa tôi về sào huyệt của chúng. Chúng đẩy tôi vào một căn phòng mãi phía sau, lột hết áo quần tôi, trói chặt cổ tay tôi lại rồi thay nhau hãm hiếp tôi trước ống kính máy quay video. Suốt thời gian đó tôi nhắm mắt, cố không nghĩ gì cả. Việc đó với tôi không khó, bởi tôi chẳng cảm thấy gì hết – đau đớn không, khoái lạc cũng không.

            Sau đó chúng cho tôi xem cuộn băng và bảo tôi rằng nếu không muốn bất cứ ai nhìn thấy thì tôi phải nhập hội với chúng và làm việc cho chúng. Chúng tịch thu thẻ sinh viên trong ví tôi. Chúng bảo nếu tôi từ chối làm theo ý chúng, chúng sẽ gửi một bản sao cuộn băng cho cha mẹ tôi để tống tiền. Tôi không còn cách nào khác. Tôi bảo chúng rằng tôi sẽ làm như chúng bảo, rằng với tôi chuyện đó chẳng quan trọng gì. Mà thật, lúc đó không có bất cứ cái gì là quan trọng đối với tôi. Chúng nói rõ rằng nếu tôi nhập hội với chúng, thu nhập của tôi sẽ giảm vì chúng sẽ thu bảy mươi phần trăm, song bù lại tôi sẽ không phải mất công tự tìm khách hàng, cũng không còn phải nơm nớp sợ cảnh sát. Chúng sẽ tìm cho tôi những vị khách sộp. Song nếu tôi vẫn tiếp tục tự kiếm khách hàng thì sẽ đến lúc người ta bắt gặp tôi bị bóp cổ đến chết trong một căn phòng khách sạn nào đó.

            Từ đó trở đi tôi không phải đứng đường nữa. Tôi chỉ việc mỗi tối đến “văn phòng” của chúng, ở đó chúng sẽ bảo tôi đến khách sạn nào. Chúng gửi đến tôi những khách hàng sộp thật, đúng như chúng hứa. Tôi không biết tại sao, nhưng tôi được chúng biệt đãi. Có thể là vì tôi trông quá ngây thơ. Tôi có cái vẻ con nhà lành mà các cô gái khác không có. Hẳn là nhiều khách hàng thích loại gái “không có vẻ chuyên nghiệp lắm” này. Các cô khác phải tiếp ba hay bốn khách mỗi ngày, nhưng tôi thì chỉ cần một khách là đủ, nhiều lắm là hai. Các cô khác phải mang theo máy nhắn tin, bất cứ khi nào “văn phòng” gọi là tất tả phải đến khách sạn hạng xoàng nào đó để ngủ với những người đàn ông không rõ nhân thân. Tôi thì lại luôn luôn được hẹn ở một khách sạn hạng sang, thậm chí đôi khi ở một biệt thự. Khách hàng của tôi thường là người lớn tuổi, hiếm khi gặp người trẻ.

            “Văn phòng” trả tiền tôi mỗi tuần một lần, không nhiều như lúc tôi còn làm ăn một mình, nhưng cộng thêm tiền boa của khác hàng thì cũng khá. Dĩ nhiên, một số khách hàng có những ý thích kỳ quái, nhưng tôi chẳng nề gì. Yêu cầu của khách càng quái gở thì tiền boa lại càng cao. Tôi bắt đầu có một số khách quen, cũng chính họ thường là những người boa rất rộng tay. Tôi mở mấy tài khoản để giữ tiền. Nhưng tới khi đó tiền không còn làm tôi bận tâm. Chỉ là những dãy số thôi. Tôi sống chỉ vì một điều duy nhất, ấy là kiểm chứng xem có thật tôi đã hoàn toàn mất cảm giác không.

            Sáng nào thức dậy tôi cũng nằm đó, nghiệm xem có đúng là cơ thể mình không cảm thấy bất cứ cái gì có thể gọi là đau. Tôi mở mắt, chằm chặp tập trung tư tưởng, thế rồi tôi bắt đầu kiểm tra cảm giác trong cơ thể mình từ đầu xuống chân, từng cơ quan một. Tôi hoàn toàn không đau gì cả. Liệu quả thật là không có gì đau, hay là có đau đấy nhưng tôi không cảm thấy? Tôi chẳng biết. Dù thế nào đi nữa, cái đau đã biến mất. Nhưng không chỉ cái đau: trên thực tế, tôi không còn cảm giác gì nữa. làm viêc đó xong, tôi ra khỏi giường, vào phòng tắm đánh răng. Rồi tôi cởi đồ ngủ và tắm bằng vòi hoa sen nóng. Thân thể tôi nhẹ bỗng một cách đáng sợ. Nó nhẹ tênh, như không khí, như không còn là thân xác tôi nữa. Tôi cảm thấy như linh hồn mình đã nhập vào một cơ thể không phải của tôi. Tôi nhìn thân thể mình trong gương, nhưng giữa tôi với cái thân thể tôi trong gương kia là một khoảng cách xa vời vợi và khủng khiếp.

            Cuộc sống không biết thế nào là đau đớn: nó chính là điều tôi từng mơ ước ngần ấy năm ròng, nhưng giờ đây có nó, tôi lại không thấy có chỗ cho mình trong đó. Giữa cuộc sống đó với tôi có một sự cách ngăn rạch ròi, điều đó khiến tôi bối rối vô cùng. Tôi cảm thấy như mình không gắn liền với thế giới – cái thế giới mà tôi từng căm ghét và vẫn đang căm ghét tận đáy lòng, cái thế giới mà tôi nguyền rủa vì sự bất công của nó, song nó là cái thế giới nơi ít nhất tôi còn biết mình là ai. Giờ đây thế giới ấy không còn là thế giới, tôi cũng không còn là tôi nữa.

            Tôi bắt đầu khóc rất nhiều. Buổi chiều tôi hay dến công viên - Vườn Hoàng gia Shinjuku hay công viên Yoyogi-, ngồi trên bãi cỏ mà khóc. Tôi thường khóc suốt một, hai tiếng đồng hồ, nức nở rất to. Người qua kẻ lại nhìn tôi, nhưng tôi chẳng màng. Tôi ước gì lần ấy, đêm 29 tháng Năm, giá như tôi chết đi thì tốt biết bao! Nhưng bây giờ thậm chí chết cũng không chết được. Trong nỗi vô cảm này, thậm chí tôi không đủ sức tự giết mình. Tôi không cảm thấy gì hết: đau đớn không, niềm vui không. Mọi cảm giác và cảm xúc đã ra đi. Và tôi thậm chí không còn là tôi nữa.

            Kano Creta hít một hơi dài rồi nén lại một lát. Sau đó cô cầm tách cà phê lên, nhìn nó đăm đăm một hồi, khẽ lắc đầu rồi lại đặt tách xuống đĩa.

            - Chính trong khoảng thời gian đó tôi gặp Wataya Noburu.

            - Wataya Noburu? Hắn là khách của cô sao?

            Kano Creta im lặng gật đầu.

            - Nhưng mà… - tôi đã toan nói, nhưng dừng lại để lựa lời. – Tôi không hiểu lắm ở chỗ này. Hôm trước chị cô có kể với tôi rằng Wataya Noburu đã hãm hiếp cô. Phải chăng chuyện đó không liên quan gì với những gì cô đang kể với tôi lúc này?

            Kano Creta nhặt chiếc khăn tay đang đặt trên đùi mà lau miệng lần nữa. Rồi cô nhìn thẳng vào tôi. Trong mắt cô có cái gì đó khiến tôi bất an.

            - Xin lỗi lại làm phiền ông, tôi có thể xin ông thêm một tách cà phê không? – cô hỏi.

            - Dĩ nhiên, - tôi nói. Tôi đặt tách của cô lên khay rồi mang xuống bếp. Trong khi đợi cà phê sôi, tôi tựa mình vào giá phơi bát đĩa, hai tay thọc vào túi quần. Khi tôi mang cà phê trở lại phòng khách, Kano Creta không còn trên ghế sofa. Chiếc xắc, chiếc khăn tay, mọi dấu hiệu hữu hình của cô đã biến mất. Tôi ra ngoài phòng đợi, đôi giày cô ta cũng không còn ở đó nữa.

            Ái chà chà, tôi nghĩ.

            ---------------------------

            11. Khoảng gần 11.000 đô la Mỹ - BTN

9

            Thiếu điện trầm trọng và những ống ngầm

            *

            Kasahara May khảo cứu bản chất của tóc giả

            Sáng hôm sau, tiễn Kumiko đi làm xong, tôi đi đến hồ bơi. Bơi buổi sáng là tốt nhất, bởi vắng người. Đi bơi về tôi đun ít cà phê rồi ngồi uống trong bếp, vừa uống vừa ôn lại câu chuyện kỳ quặc chưa kể hết của Kano Creta, cố nhớ lại từng chi tiết trong cuộc đời cô theo trình tự thời gian. Tôi càng nhớ lại thì câu chuyện càng có vẻ kỳ quặc, nhưng hoạt động của bộ não tôi mỗi lúc một chậm dần, tôi bắt đầu buồn ngủ rũ. Tôi bèn lên phòng khách, nằm xuống sofa, nhắm mắt lại. Chẳng mấy chốc tôi đã thiếp đi. Và tôi nằm mơ.

            Tôi mơ thấy Kano Creta. Tuy nhiên, trước khi cô ta xuất hiện, tôi mơ thấy Kano Malta. Malta đội chiếc mũ kiểu Tyrol gắn một cái lông chim to màu sắc sặc sỡ. Xung quanh cô có rất nhiều người (tuồng như một cái đại sảnh nào đó), nhưng tôi nhận ra ngay Kano Malta nhờ chiếc mũ của cô. Cô đang ngồi một mình nơi quầy bar. Trước mặt cô là một ly cocktail Tropical, nhưng tôi không nhớ liệu cô có uống không.

            Tôi mặc com-lê, đeo cà vạt chấm hạt đỗ. Ngay khi nhìn thấy Kano Malta, tôi đã cố đi về phía cô, nhưng đám đông cứ ngáng đường tôi. Đến khi tôi tới được chỗ quầy bar thì cô đã đi mất. Ly cocktail Tropical vẫn còn nguyên trên quầy, trước mặt chiếc ghế cô ngồi ban nãy. Tôi ngồi vào ghế bên cạnh rồi gọi một ly Scotch có đá. Người phục vụ quầy bar hỏi tôi muốn uống loại Scotch nào, tôi liền bảo "Cutty Sark". Thật ra thì với tôi loại nào cũng được, nhưng Cutty Sark là cái tên đầu tiên nảy ra trong đầu tôi.

            Anh ta chưa kịp đưa ly rượu thì tôi cảm thấy có một bàn tay nắm lấy tay tôi từ phía sau, cái đụng chạm nhẹ nhàng đến nỗi dường như người đó đang nắm một vật gì rất đỗi mỏng manh, có thể vỡ vụn ra bất cứ lúc nào. Tôi quay lại và thấy một người đàn ông không có mặt. Có thật là anh ta không có mặt hay không, tôi không biết, nhưng ở chỗ lẽ ra là khuôn mặt chỉ bao trùm một bóng tối đen ngòm, và tôi không thể biết có cái gì đằng sau nó. - Lối này, thưa ông Okada, - hắn nói. Tôi có nói, nhưng chưa kịp mở mồm thì hắn đã bảo: "Mời ông đi với tôi. Chúng ta có ít thời gian lắm. Xin ông vội lên cho." Vẫn nắm tay tôi, hắn rảo bước len qua đám đông, bước ra một hành lang. Tôi đi theo hắn dọc hành lang, không cưỡng lại. Nói gì thì nói, hắn biết tên tôi. Cũng chẳng phải tôi đang để một kẻ hoàn toàn xa lạ dẫn đi đâu tùy ý. Phải có nguyên nhân và mục đích nào đó trong chuyện này.

            Đi dọc hành lang một lúc, người không mặt dừng lại trước một cánh cửa. Con số ghi trên cánh cửa là 208. - Cửa khóa. - Xin ông hãy mở ra. - Tôi làm theo, mở cửa ra. Phía sau cánh cửa là một căn phòng rộng. Xem ra nó là một phần của dạng phòng suite(12) trong khách sạn kiểu xưa. Trần cao, treo một chùm đèn kiểu cổ. Đèn không thắp sáng. Một ngọn đèn tường hắt ra ánh sáng lờ mờ, nguồn sáng duy nhất trong phòng. Các rèm cửa kéo kín mít.

            - Nếu ông muốn whisky thì bao nhiêu cũng có, thưa ông Okada. Ông thích Cutty Sark phải không? Xin mời, uống bao nhiêu cũng được. - Hắn chỉ về phía một cái tủ âm cạnh cửa ra vào rồi lặng lẽ đóng cửa lại, để tôi một mình. Tôi đứng giữa phòng một hồi lâu, không biết phải làm gì.

            Một bức tranh sơn dầu lớn treo trên tường. Đó là tranh vẽ một dòng sông. Tôi nhìn nó một lát, hy vọng sẽ trấn tĩnh lại. Trăng đang lên trên dòng sông. Ánh trăng tỏa xuống phía bên kia sông, nhưng trăng mờ đến nỗi tôi không nhìn rõ được cảnh trí ở đó. Chỉ thấy những đường viền mơ hồ nhập nhoạng mà thôi.

            Bỗng nhiên tôi thấy thèm whisky ghê gớm. Tôi toan mở chiếc tủ âm để lấy rượu theo lời gã đàn ông không mặt, nhưng không mở được. Cái giọng như là cửa tủ hóa ra chỉ là những cánh cửa giả làm rất khéo. Tôi thử hết kéo lại đẩy những chỗ lồi ra, nhưng tủ vẫn đóng im ỉm.

            - Không dễ mở đâu, thưa ông Okada, - Kano Creta nói. Tôi nhận ra rằng cô đang đứng đó, vẫn trong bộ y phục đầu thập niên 1960. - Phải mất một thời gian nữa nó mới mở. Hôm nay thì không được đâu. Ông đừng cố làm gì.

            Cô trút hết quần áo dễ dàng như mở một hộp đậu rồi đứng đó trần truồng trước mặt tôi, không hề báo trước hay giải thích. "Chúng ta có ít thời gian lắm, thưa ông Okada, hãy cố làm cho xong việc này càng nhanh càng tốt. Tôi xin lỗi vì phải vội vã thế này, song tôi có lý do riêng. Tới được đây cũng đã khó khăn lắm rồi". Thế rồi cô lại gần tôi, mở khóa quần tôi, thế rồi, như thể đó là việc tự nhiên nhất trên đời, cô lôi dương vật của tôi ra. Cụp đôi mắt đeo lông mi giả xuống, cô ngoạm nó vào miệng gọn lỏn. Miệng cô rộng hơn tôi tưởng nhiều. Bên trong miệng cô, tôi lập tức cương cứng. Khi cô cử động lưỡi, những đuôi tóc loăn xoăn của cô khẽ rung rung như trong làn gió nhẹ, mơn man hai bắp đùi tôi. Tôi chẳng thấy gì khác ngoài mái tóc và hai hàng mi giả của cô. Tôi ngồi trên giường, cô thì quỳ gối, vùi mặt vào chỗ đũng quần tôi. - Dừng ngay, - tôi nói. - Wataya Noboru sẽ đến bất cứ lúc nào. Tôi không muốn gặp hắn ở đây.

            Kano Creta rút miệng ra khỏi dương vật tôi rồi nói: - Đừng lo. Chúng ta còn nhiều thì giờ, ít nhất là để làm việc này.

            Cô đánh đầu lưỡi lên dương vật tôi. Tôi không muốn xuất tinh, nhưng không các nào kìm lại được. Tôi cảm thấy như bị hút hết tinh khí ra khỏi mình. Môi và lưỡi cô ta quấn lấy da thịt tôi như những sinh thể nhớp nháp trơn nhẫy. Tôi không chịu được nữa, tôi xuất tinh. Tôi mở mắt ra.

            Thế đấy. Tôi xuống buồng tắm, giặt cái quần lót vấy bẩn rồi đứng hồi lâu dưới vòi hoa sen nóng, cẩn thật gột cho sạch hết cái cảm giác dinh dính mà giấc mơ để lại. Đã bao nhiêu năm rồi từ khi tôi gặp mộng tinh lần cuối? Tôi cố nhớ lại chính xác nhưng đành chịu thua, đã lâu quá rồi.

            Tôi vừa ra khỏi phòng tắm, đang lau người thì điện thoại reo. Ấy là Kumiko. Sau một giấc mơ ân ái với người đàn bà khác, tôi cảm thấy hơi căng thẳng khi phải nói chuyện với nàng.

            - Giọng anh lạ lắm, - nàng nói. - Có chuyện gì vậy? - Sự nhạy cảm của nàng đối với những chuyện như thế này thật đáng sợ.

            - Có gì đâu, - tôi nói. - Anh đang ngủ. Em gọi làm anh thức dậy.

            - Thế à? - nàng nói. Tôi cảm thấy rõ sự hoài nghi của nàng qua ống nghe, điều đó khiến tôi càng căng thẳng hơn.

            - Thôi được, em xin lỗi, em chỉ muốn báo rằng hôm nay sẽ về muộn một tí, - Kumiko nói. - Có thể tới 9 giờ rưỡi mới về. Em sẽ đi ăn ngoài.

            - Được thôi, - tôi nói. - Anh ăn tối một mình vậy. Đừng lo cho anh.

            - Em xin lỗi mà, - nàng nói, như thể sau khi ngẫm nghĩ điều đó. Nàng ngừng một lát, rồi mới gác máy.

            Tôi nhìn cái ống nghe thêm vài giây. Rồi tôi xuống bếp gọt một quả táo.

            * * *

            Suốt sáu năm từ khi lấy Kumiko, tôi chưa hề ngủ với người đàn bà nào khác. Nói vậy không có nghĩa là tôi không bao giờ thèm muốn hoặc có cơ hội ngủ với một người đàn khác. Đơn giản là tôi không bao giờ để mình bị cuốn theo dù có cơ hội đi nữa. Tôi không biết tại sao, có lẽ vì dục tính không nằm trong số những việc ưu tiên trong đời tôi.

            Tôi chỉ có một lần duy nhất tình cờ qua đêm với một người đàn bà khác. Cô ta thuộc típ đàn bà tôi thích, và tôi cũng biết cô ta sẵn sàng ngủ với tôi nếu có dịp. Nhưng rốt cuộc tôi chẳng làm gì cô ta cả.

            Khi cô ta phải thôi việc để lấy chồng (cô phải chuyển đến Kyushu, nơi chồng cô ta đang làm việc), tôi cùng một số đồng nghiệp mời cô đi uống bữa rượu chia tay. Sau đó cô ta và tôi đi cùng một chuyến tàu về nhà, và do đã khuya nên tôi tiễn cô ta về tận căn hộ nơi cô ở. Đến trước cửa, cô mời tôi vào uống một tách cà phê. Tôi thì chỉ lo nhỡ chuyến tàu cuối, nhưng tôi biết có thể hai chúng tôi sẽ không bao giờ gặp lại nhau, mà tôi thì cũng thích uống chút cà phê cho tỉnh rượu, thế là tôi quyết định vào. Nhà cô ta thật điển hình cho căn hộ của gái độc thân. Nó có một cái tủ lạnh hơi quá to so với một người, một chiếc máy nghe đĩa đặt trên giá sách. Một người bạn đã tặng cô chiếc tủ lạnh này. Cô thay bộ đồ khác cho thoải mái ở phòng bên rồi pha cà phê dưới bếp. Chúng tôi ngồi trên sàn nhà trò chuyện.

            Đến một lúc, khi hai chúng tôi không còn chuyện gì để nói, cô chợt hỏi, như thể ý nghĩ đó vừa nảy ra với cô:

            - Anh thử nói em nghe, anh có sợ nhất một cái gì không, một cái gì cụ thể ấy?

            - Chắc là không, - tôi nghĩ một chút rồi nói. Tôi vốn sợ đủ thứ trên đời, nhưng sợ nhất một cái gì đó thì không.

            - Còn em?

            - Em sợ những ống ngầm, - cô nói, hai tay bó gối. - Chắc anh biết ống ngầm chứ?

            - Kiểu như cống thoát nước phải không? - tôi không biết định nghĩa thế nào cho thật chính xác.

            - Vâng, nhưng ở dưới lòng đấy ấy. Ống dẫn nước thải dưới lòng đất. Cống nước thải, phía trên có nắp đậy, nước chảy ở dưới, đen kịt.

            - Anh hiểu. Ống ngầm thoát nước.

            - Em sinh trưởng ở vùng quê, tỉnh Fukushima. Có một dòng suối chảy ngay cạnh nhà em, một dòng chảy nhỏ, chỉ là một cái rãnh tiêu nước ngoài đồng. Đến một quãng, nó chảy vào một cống ngầm chui xuống lòng đất. Hình như chuyện đó xảy ra khi em đang chơi với vài đứa trẻ khác. Lúc đó em mới hai, ba tuổi gì đó. Mấy đứa kia cho em vào một cái thuyền con rồi thả theo dòng suối. Có lẽ trò ấy chúng chơi suốt, nhưng hôm ấy trời mưa, nước dâng rất cao. Thuyền rời xa chúng và đưa em thẳng tới chỗ miệng cống ngầm. Nếu như không có một bác nông dân tình cờ đi ngang qua trông thấy thì chắc em đã bị hút tọt vào trong đó rồi, chừng đó thì chẳng ai còn tìm thấy em nữa.

            Cô di di ngón tay trỏ trên miệng như để kiểm tra xem mình có còn sống không.

            - Tới giờ em vẫn còn nhớ như in chuyện đó. Em nằm ngửa, bị dòng nước cuốn đi băng băng. Hai bên bờ suối sừng sững phía trên em như hai bức tường đá cao chót vót, trên đầu là trời xanh. Trời trong, xanh đến nhức mắt. Em bị dòng nước cuốn phăng đi. Càng lúc càng xa, càng lúc càng nhanh. Mãi em vẫn không hiểu như thế là thế nào. Nhưng rồi đột nhiên em bừng hiểu: rằng đằng kia là bóng tối. Bóng tối thực sự. Chẳng mấy chốc nó sẽ xộc tới hút em xuống. Em cảm thấy một bóng tối lạnh ngắt bắt đầu vây bọc lấy mình. Đó là ký ức đầu đời của em.

            Cô nhấp một ngụm cà phê.

            - Em sợ đến chết được, - cô nói. - Sợ không thể nào chịu nổi. Sợ giống như ngày đó, khi em bị dòng nước cuốn phăng phăng đến đó, mà đã đến đó rồi thì không ra được nữa.

            Cô lấy trong xắc tay ra một điếu thuốc, cho vào giữa miệng, dùng diêm châm lửa rồi thở một hơi dài, chậm rãi. Đây là lần đầu tiên tôi thấy cô hút thuốc.

            - Em đang nói về đám cưới của em phải không? - tôi hỏi.

            - Đúng vậy, - cô đáp. - Về đám cưới.

            - Có vấn đề gì đặc biệt không? - tôi hỏi. - Một vấn đề gì cụ thể?

            Cô lắc đầu.

            - Vấn đề gì cụ thể thì không; toàn những chuyện vặt vãnh ấy mà... - cô nói.

            Tôi không biết nói gì với cô, nhưng trong tình thế này tôi cần phải nói gì đó.

            - Anh nghĩ là bất cứ ai khi sắp lấy vợ lấy chồng đều có cảm giác đó, không nhiều thì ít. "Trời, nhỡ ra mình đang phạm một sai lầm nghiêm trọng thì sao!" Chuyện ấy bình thường lắm, không cảm thấy thế mới là lạ. Dù gì thì chọn một người để sống suốt đời với nhau là một quyết định lớn. Thành thử cảm thấy sợ cũng tự nhiên thôi, nhưng không nên sợ thái quá như vậy.

            - Nói thì dễ, "Ai cũng cảm thấy như vậy. Ai cũng như nhau", - cô nói.

            Đã quá mười một giờ. Tôi phải tìm cách nào đó kết thúc cuộc trò chuyện này cho êm đẹp rồi đi khỏi đây. Nhưng tôi chưa kịp nói gì thì bỗng nhiên cô yêu cầu tôi ôm lấy cô.

            - Tại sao? - tôi hỏi, đâm ra cảnh giác.

            - Để sạc pin cho em, - cô nói.

            - Sạc pin cho em?

            - Cơ thể em hết điện rồi. Đã mấy hôm nay em không ngủ được. Hễ sắp thiu thiu ngủ là em sực tỉnh, sau đó thì không thể nào ngủ lại được nữa. Mà cũng không suy nghĩ gì được. Mỗi khi em như vậy, cần phải có người nạp pin cho em. Nếu không em sẽ không sống nổi. Thật đấy.

            Tôi nhìn thẳng vào mắt cô, tự hỏi liệu cô có còn say không, nhưng đấy vẫn là cặp mắt bình thản, thông minh của cô. Còn lâu cô mới say.

            - Nhưng tuần sau em lấy chồng rồi. Em có thể bảo anh ấy ôm em bao nhiêu tùy ý. Đêm nào cũng ôm. Có vậy người ta mới lấy nhau chứ. Em sẽ chẳng bao giờ hết điện nữa.

            - Vấn đề là em cần ngay bây giờ, - cô nói. - Không phải ngày mai, không phải tuần sau, tháng sau. Em đang hết điện ngay bây giờ đây.

            Môi mím chặt, cô nhìn đăm đăm hai bàn chân mình. Hai bàn chân đều tăm tắp. Nhỏ nhắn, trắng muốt, mười móng chân xinh xắn. Dường như cô quả thực đang muốn ai đó ôm mình, thế là tôi dang tay ôm cô vào lòng. Thật kỳ quặc. Với tôi, cô chỉ là một đồng nghiệp có năng lực, dễ mến. Chúng tôi làm việc trong cùng một cơ quan, hay kể chuyện cười cho nhau nghe, thỉnh thoảng rủ nhau đi uống vài ly. Nhưng ở đây, ngoài công việc, trong căn hộ của cô, thân thể cô nằm gọn trong vòng tay tôi, hai chúng tôi chẳng gì hơn là những khối thịt nồng ấm. Chúng tôi vẫn thường đóng những vai mình được phân trên sân khấu công ty, nhưng khi bước xuống khỏi sân khấu, vứt bỏ lại những hình ảnh mà chúng tôi phóng chiếu lên ở đó, hai chúng tôi chỉ còn là những khối thịt bất định, vụng về, những súc thịt ấm được trang bị thêm hệ tiêu hóa, tim, não và cơ quan sinh dục. Tôi vòng tay ôm quanh lưng cô, cặp vú cô ép chặt vào ngực tôi. Cặp vú to và mềm hơn tôi vẫn hình dung. Tôi ngồi trên sàn nhà, lưng tựa vào tường, cả thân thể cô tì vào người tôi. Chúng tôi ôm nhau trong tư thế đó một hồi lâu, không nói một lời.

            - Được chưa? - tôi hỏi, bằng một giọng nghe như không phải của tôi. Như thể ai đó đang nói thay cho tôi vậy.

            Cô không nói gì, nhưng tôi cảm thấy cô gật đầu.

            Cô đang mặc áo len dệt kim và váy mỏng dài đến gối, nhưng chẳng mấy chốc tôi nhận ra rằng bên dưới cô hoàn toàn chẳng mặc gì. Thế là tôi gần như là tự động cương cứng lên. Hình như cô cũng biết điều đó. Tôi nghe hơi thở ấm áp của cô trên cổ mình.

            Rốt cuộc tôi đã không ngủ với cô. Nhưng tôi vẫn phải "sạc pin" cho cô mãi tới 2 giờ sáng. Cô nài tôi ở lại cho tới khi nào cô ngủ đươc. Tôi bế cô vào giường, ấn cô vào trong chăn. Nhưng mãi mà cô vẫn thức. Cô thay đồ ngủ, và tôi vẫn cứ ôm cô, "sạc pin" cho cô. Trong vòng tay tôi, tôi cảm thấy hai bầu má cô nóng bừng, tim cô đập mạnh. Tôi không biết mình làm vậy có đúng không, nhưng tôi chẳng biết phải làm gì khác trong tình thế này. Việc đơn giản nhất hẳn là ngủ với cô ta, nhưng tôi ra sức xua cái khả năng đó ra khỏi tâm trí. Bản năng mách bảo tôi chớ làm vậy.

            - Xin anh đừng ghét em vì chuyện này, - cô nói. - Điện của em còn ít quá. Em không chịu nổi.

            - Đừng lo, - tôi nói. - Anh hiểu mà.

            Tôi biết mình nên gọi điện về nhà, nhưng tôi có thể nói gì với Kumiko đây? Tôi không muốn nói dối, nhưng tôi biết việc sẽ không thể nào giải thích chuyện này cho nàng hiểu. Vả chăng, gọi cũng chẳng ích gì. Điều gì tới thì sẽ tới. Tôi rời căn hộ của cô ta lúc 2 giờ sáng, về đến nhà thì đã 3 giờ. Khó khăn lắm mới tìm được taxi.

            Dĩ nhiên là Kumiko nổi giận đùng đùng. Nàng đang ngồi bên bàn bếp, vẫn thức chong chong, đợi tôi. Tôi nói tôi ra ngoài uống rượu và chơi mạt chược với mấy tay đồng nghiệp ở cơ quan. Gọi điện về nhà nhắn một tiếng, có khó gì đâu, sao anh không gọi? nàng hỏi. Chả hiểu thế nào mà anh không nghĩ ra, tôi nói. Nàng không tin, và lời nói dối thấy ngay là quá lộ liễu. Đã nhiều năm nay tôi không chơi mạt chược, lại nữa tôi vốn dĩ không biết nói dối trong bất kỳ trường hợp nào. Rốt cuộc tôi đành thú nhận sự thật. Tôi kể cho nàng toàn bộ câu chuyện từ đầu tới cuối - dĩ nhiên là trừ chi tiết cương cứng -, cố lặp đi lặp lại và nhấn mạnh rằng tôi tuyệt chẳng làm gì cô kia.

            Kumiko không nói năng gì với tôi suốt ba ngày liền. Thực sự là không một lời nào. Nàng ngủ ở phòng khác, ăn cũng một mình. Đây là cuộc khủng hoảng căng nhất từ khi chúng tôi lấy nhau. Nàng quả thật giận tôi lắm, và tôi rất hiểu tâm trạng này ra sao.

            Sau ba ngày không hé răng, Kumiko hỏi tôi: - Nếu anh ở vào địa vị của em thì anh nghĩ sao? - Đó là câu đầu tiên của nàng. - Nếu như em cũng mãi ba giờ sáng Chủ nhật mới về nhà mà thậm chí không thèm gọi điện thoại? "Em đã nằm trên giường suốt với một gã đàn ông, nhưng anh đừng lo, em chẳng làm gì hết, tin em đi mà. Em chỉ sạc lại pin cho anh ta thôi. Thôi nào, mình ăn sáng rồi đi ngủ nhé". Nếu em nói thế, liệu anh có nổi điên lên không? Liệu anh có tin em không?

            Tôi lặng thinh.

            - Mà anh thì còn tệ hơn thế! - Kumiko nói tiếp. - Anh đã nói dối em. Anh bảo nào là anh uống rượu, nào là anh chơi mạt chược. Nói dối như cuội! Sao anh có thể nghĩ rằng em sẽ tin anh không ngủ với ả đó cơ chứ?

            - Anh xin lỗi là đã nói dối, - tôi nói. - Lẽ ra anh không bao giờ nên làm vậy. Chỉ vì anh thấy giải thích sự thật thì khó quá. Anh muốn em tin một điều: thực sự là anh đã không làm gì sai cả.

            Kumiko tựa đầu lên bàn. Tôi cảm thấy như không khí trong phòng đang dần dần mỏng đi.

            - Anh không biết nói gì nữa, - tôi nói. - Anh không biết giải thích cách nào hơn là xin em hãy tin anh.

            - Thôi được. Nếu anh muốn em tin anh thì em tin, - nàng nói. - Nhưng em muốn anh nhớ một điều: rồi sẽ có lúc em làm một chuyện tương tự như thế. Chừng đó thì em muốn anh hãy tin em. Em có quyền đó.

            Kumiko chưa hề sử dụng cái quyền đó. Thỉnh thoảng tôi lại thử hình dung mình sẽ cảm thấy ra sao nếu nàng làm vậy. Hẳn là tôi sẽ tin nàng, nhưng phản ứng của tôi chắc chắn cũng sẽ phức tạp, khó lường như phản ứng của Kumiko. Sao cứ phải làm một việc như thế, để làm gì chứ? Đó chính là điều mà hôm đó Kumiko đã nghĩ về tôi.

            * * *

            - Chim vặn dây cót ơi, - có tiếng gọi tôi từ ngoài vườn. Đó là Kasahara May.

            Vừa lau tóc tôi vừa ra ngoài hiên. Cô bé đang ngồi vắt vẻo trên ban công mà cắn móng tay. Cô vẫn đeo cặp kính hoa râm như khi tôi gặp lần đầu, mặc quần vải bông màu kem, áo phông đen. Tay cô cầm một chiếc dập ghim.

            - Em trèo qua đó, - cô vừa nói vừa chỉ bức tường bêtông. Rồi cô phủi bụi bám vào quần. - Em cứ đoán hú họa: chắc nhà này đây. May quá, đúng là nhà anh! Thử nghĩ mà xem, nhỡ em trèo vào nhầm nhà thì sao!

            Cô rút trong túi ra một gói Hope, châm một điếu.

            - Công việc thế nào hở Chim vặn dây cót?

            - Làng nhàng thế thôi.

            - Em sắp đi làm đây, - cô nói. - Đi với em đi? Bọn em làm việc theo nhóm hai người, mà nếu em cặp với một người quen thì tố-ố-ốt quá! Phải một tay lạ hoắc thì thể nào cũng hạch hỏi đủ thứ, nào "Em mấy tuổi rồi", rồi lại "Sao không đi học?" Mệt lắm! Mà nhỡ ra gặp một thằng bệnh hoạn tính dục thì gay to. Chuyện gì cũng có thể xảy ra mà, anh biết đấy! Nào, đi với em nhé. Chim vặn dây cót. Làm ơn đi mà!

            - Có phải đó là công việc mà em có lần kể với anh không, điều tra gì gì đó cho hãng làm tóc giả ấy?

            - Đấy đấy, - cô nói. - Anh chỉ phải làm mỗi một việc là đếm số người hói đầu ở khu Ginza, từ một giờ đến bốn giờ. Dễ như ăn ớt ấy! Mà cũng có ích cho anh nữa. Cứ cái kiểu này thì lúc nào đấy anh cũng sẽ hói đầu thôi; bây giờ tạm thời còn tóc, anh nên tìm hiểu một chút đi là vừa.

            - Ừ, nhưng còn em? Lỡ giám thị trường đi kiểm tra học sinh trốn học mà nhìn thấy em làm việc này ở Ginza giữa giờ học thì em tính sao?

            - Có sao đâu, em sẽ bảo là em đang điều tra thực địa để nghiên cứu xã hội học. Em nói thế bao nhiêu lần rồi, hiệu nghiệm lắm đấy.

            Do chưa định làm gì vào buổi chiều nên tôi quyết định đi cùng cô bé xem sao. Kasahara May gọi điện về công ty báo rằng chúng tôi sẽ tới. Trên điện thoại, cô chuyển thành một phụ nữ trẻ rất đoan trang nền nã:

            - Vâng, thưa ông, tôi muốn lập nhóm với anh ấy, đúng vậy, vâng, cám ơn ông rất nhiều, vâng, tôi hiểu, vâng, chúng tôi sẽ đến vào đúng giữa trưa.

            Tôi để lại mấy chữ cho Kumiko nhắn rằng tôi sẽ về trước 6 giờ, phòng trường hợp nàng về sớm, rồi ra khỏi nhà cùng với Kasahara May.

            Hãng làm tóc giả nằm ở khu Shinbashi. Trên xe điện ngầm, Kasahara May giải thích cho tôi cách tiến hành điều tra. Chúng tôi sẽ đứng ở một góc phố mà đếm tất cả những người hói (hay những người đang rụng tóc) đi ngang qua. Chúng tôi phải phân loại cho tùy theo mức độ hói: C là những người mới rụng chút ít, B là đã rụng nhiều, A là hoàn toàn hói. May rút trong cặp hồ sơ ra một cái bìa gấp rồi mở ra chỉ cho tôi xem ảnh mẫu của ba giai đoạn.

            - Anh hiểu rồi chứ, đầu nào xếp vào loại nào ấy mà? Em không đi vào chi tiết đâu. Phải mất cả ngày đấy. Nhưng anh cũng hiểu đại khái chứ, đầu nào xếp loại nào ấy?

            - Tàm tạm, - tôi nói, nhưng chẳng tỏ ra tự tin cho lắm.

            Bên cạnh Kasahara May có một quý ông béo núc ních ra dáng dân công sở, cái đầu dứt khoát là thuộc loại B; quý ông cứ liếc mãi cái bìa có những tấm ảnh mẫu trên tay Kasahara May, vẻ bồn chồn ra mặt, nhưng cô bé dường như hoàn toàn không chú ý đến ông ta.

            - Em sẽ đảm nhiệm việc phân loại, còn anh đứng cạnh em cầm tờ điều tra. Anh chỉ việc ghi vào A, B hay C, em bảo gì anh ghi nấy. Chỉ có vậy thôi. Dễ mà, phải không?

            - Nói chung thì dễ, - tôi nói. - Nhưng điều tra như vậy rồi thì để làm gì?

            - Em chả biết, - cô nói. - Họ làm vậy ở khắp Tokyo - ở Shinjuku, Shibuya, Aoyama. Chắc họ muốn tìm hiểu xem khu nào có nhiều người hói nhất. Hoặc họ muốn biết tỷ lệ A, B, C trong dân số. Ai mà biết được? Họ có nhiều tiền quá không biết xài đâu cho hết ấy mà. Cho nên họ mới vung tiền ra làm mấy trò như vậy. Nghề tóc giả lãi ối tiền đấy. Nhân viên của họ được hưởng lương hậu hỹ hơn mấy công ty kinh doanh thương mại nhiều. Anh biết vì sao không?

            - Không. Vì sao?

            - Tóc giả đâu có dùng được lâu. Em cá là anh không biết: tóc giả chỉ dùng được hai năm, cùng lắm là ba năm. Tóc giả làm càng tốt, chất lượng càng cao thì càng chóng phải thay. Nói gì thì nói, nó là sản phẩm tiêu dùng ấy mà. Ấy là vì nó vừa khít đầu của người ta quá thành thử tóc bên dưới lại càng mọc thưa hơn nữa. Mà hễ tóc thưa hơn thì lại phải mua bộ tóc giả mới cho khớp. Anh cứ thử nghĩ xem: Giả dụ anh đội tóc giả, thế rồi hai năm sau không dùng được nữa, liệu anh có nghĩ: Chà, tóc giả này hết xài được rồi. Không đội được nữa. Nhưng mua cái mới thì đắt quá, nên từ mai mình sẽ đi làm không đội tóc giả. Liệu anh có nghĩ thế không?

            Tôi lắc đầu. - Chắc là không, - tôi nói.

            - Dĩ nhiên rồi. Một khi đã phải đội tóc giả là cứ phải đội mãi. Như là số trời bắt vậy rồi. Cho nên hội làm tóc giả mới phất to thế. Nói thì em cũng chả muốn nói, nhưng thật ra họ chẳng khác gì bọn buôn lậu thuốc phiện. Đã mắc câu của họ thì cứ thế làm khách hàng của họ cả đời. Anh đã bao giờ nghe nói tới anh chàng hói nào bỗng dưng lại mọc tóc chưa? Em thì chưa bao giờ nghe. Tóc giả tệ lắm cũng nửa triệu yên một bộ, oách thì phải tới một triệu. Thế mà cứ hai năm anh phải mua một bộ mới! Trời ạ! Ngay cả xe hơi cũng xài được lâu hơn thế, những bốn, năm năm. Anh lại còn có thể đổi xe mới nữa chứ!

            - Anh hiểu, - tôi nói.

            - Thế đã hết đâu, họ còn có cửa hiệu làm tóc nữa. Họ giặt tóc giả và cắt tóc thật cho khách hàng. Cứ tưởng tượng mà xem: làm sao anh có thể tới hiệu cắt tóc bình thường, ngồi xuống ghế, lột tóc giả ra rồi bảo người ta tỉa tóc cho anh được! Chỉ cần mấy cửa hiệu đó không thôi cũng đủ cho họ hốt bạc rồi!

            - Chuyện gì em cũng rành quá nhỉ! - tôi nói, thật sự khâm phục cô. Ông bạn làm công sở thuộc loại B ngồi bên cạnh May lắng nghe chúng tôi như nuốt từng chữ.

            - Có gì lạ đâu, - cô nói. - Mấy người ở công ty thích em lắm. Họ kể với em đủ thứ chuyện. Ngành kinh doanh này lãi khủng khiếp. Họ làm tóc giả ở Đông Nam Á và những nơi tương tự, vì nhân công rẻ. Họ mua cả tóc ở đó nữa, ở Thái Lan hay Philippin. Phụ nữ ở mấy xứ đó bán tóc cho các công ty làm tóc giả. Ở một số nơi, họ làm vậy để có tiền làm của hồi môn. Thế giới này kỳ quặc thật! Cái tay ngồi cạnh anh thật ra đang mặc tóc thật của cô nàng nào đó ở Indonesia đấy.

            Một cách bản năng, cả quý ông công chức (loại B) lẫn tôi đều ngoài cổ nhìn những người khác ở trong toa.

            * * *

            Chúng tôi dừng ở văn phòng công ty tại Shinbashi để lấy một phong bì to đựng phiếu điều tra và bút chì. Công ty này hẳn phải đứng hàng thứ hai trong số các hãng làm tóc giả, nhưng lại có vẻ yên ắng khác thường, thậm chí nơi cửa chính chẳng có lấy một cái biển tên để khách ra vào khỏi bở ngỡ. Cả phong bì lẫn mấy tờ phiếu điều tra đều không thấy đề tên công ty. Ở phòng phụ trách điều tra, tôi điền tên, tuổi, địa chỉ, trình độ học vấn vào một mẫu đăng ký làm bán thời gian. Cái văn phòng này im ắng đến lạ. Chẳng ai thét lác vào điện thoại, chẳng ai xắn tay áo lên hì hục gõ bàn phím. Mỗi nhân viên đều ăn mặc tươm tất, lặng lẽ tập trung làm việc của mình. Vốn là một công ty làm tóc gia nên quả thật chẳng ai ở đây bị hói đầu cả. Cũng có thể vài ba người đang đội sản phẩm của công ty, nhưng tôi chịu không phân biệt được ai tóc thật ai tóc giả. Trong tất cả các công ty tôi từng đến, đây là công ty kỳ lạ nhất.

            Chúng tôi đi xe điện ngầm đến khu Ginza. Vẫn còn sớm và lại đang đói, nên chúng tôi ghé quán Dairy Queen làm một cái hamburger.

            - Này Chim vặn dây cót, nói em nghe, nếu bị hói thì anh có đội tóc giả không? - Kasahara May hỏi.

            - Anh chưa biết, - tôi nói. - Anh không thích những việc rầy rà, mất thì giờ. Thành thử nếu bị hói chắc anh cũng để mặc thôi.

            - Hay đấy, - cô vừa nói vừa dùng khăn giấu lau xốt cà chua dính trên miệng. - Thử nghĩ mà xem, người hói trông cũng đâu đến nỗi xấu như họ nghĩ. Theo em, chẳng việc gì phải lo sốt vó về nó như vậy.

            - Ừ, - tôi nói.

            * * *

            Suốt ba tiếng đồng hồ sau đó chúng tôi ngồi nơi lối xuống xe điện ngầm gần Tòa nhà Wako mà đếm những người đàn ông hói đi ngang qua. Nhìn xuống những cái đầu lên xuống cầu thang là cách chính xác nhất để xác định mức độ hói của bất kỳ cái đầu nào. Kasahara May thì nói "A", "B" hay "C", tôi thì ghi vào phiếu. Rõ là cô bé đã làm việc này nhiều lần rồi. Cô chẳng bao giờ lúng túng, ngập ngừng hay tự đính chính, mà phân loại từng cái đầu một cách cực kỳ nhanh chóng và chính xác, phát âm các chữ cái bằng giọng khe khẽ để người qua kẻ lại không để ý. Mỗi khi có một đám nhiều cái đầu hói cùng xuất hiện thì cô tuôn một tràng dài "CCBABCAACCBBB" như súng liên thanh. Đến một lúc, một ông cụ dáng người lịch lãm (bản thân ông có cả một đầu tóc bạc phơ như tuyết) dừng lại xem chúng tôi tác nghiệp. - Xin lỗi, - một hồi sau ông nói, - cho phép tôi hỏi quý vị đang làm gì đấy?

            - Làm điều tra, - tôi đáp.

            - Điều tra gì kia? - ông hỏi.

            - Nghiên cứu xã hội học, - tôi đáp.

            - CACABC, - Kasahra May nói.

            Cụ ông lịch lãm xem chừng chẳng tin là mấy, nhưng ông chỉ quan sát chúng tôi thêm một lát rồi phẩy tay bỏ đi.

            Khi cái đồng hồ Mitsukoshi phía bên kia đường chỉ đúng 4 giờ, chúng tôi kết thúc buổi điều tra và trở lại quán Dairy Queen làm một tách cà phê. Công việc này không tốn sức nhiều, thế mà cổ và vai tôi tê cứng đến là lạ. Có thể vì tính chất công việc, chúng tôi đếm những cái đầu hói một cách vụng trộm, nên tôi mang cảm giác có lỗi thế nào đó. Suốt quãng thời gian ngồi xe điện ngầm trở lại văn phòng công ty ở Shinbashi, tôi chợt nhận ra mình đang tự động phân loại A, B, C bất cứ cái đầu hói nào lọt vào tầm mắt, điều đó khiến tôi hầu như buồn nôn. Tôi muốn dừng ngay, nhưng cái quán tính nào đó đã bắt đầu vận hành rồi, không cưỡng lại được. Chúng tôi nộp các phiếu điều tra rồi nhận tiềng công, khá là hậu hỹ so với thời gian và công sức bỏ ra. Tôi ký biên nhận rồi đút tiền vào túi. Kasahara May và tôi đón xe điện ngầm đến Shinjuku, từ đó chuyển sang tuyến Odakyu để về nhà. Giờ cao điểm chiều đã bắt đầu. Khá lâu tôi mới đi lại trên một chuyến tàu đông khách thế này, song tôi chẳng có cảm giác bồi hồi gì mấy.

            - Công việc không tồi chứ hở, - đứng cạnh tôi trên tàu, Kasahara May nói. - Việc nhẹ nhàng, thù lao lại khá.

            - Ừ, - tôi nói, miệng mút keo chanh.

            - Lần sau lại đi với em nhé? Mỗi tuần một lần.

            - Sao lại không? - tôi nói.

            - Này Chim vặn dây cót, anh biết không, - Kasahara May nói sau một thoáng im lặng, như thể có một ý nghĩ vừa đột ngột đến với cô, - em cá rằng sở dĩ người ta sợ bị hói là do hói đầu khiến họ nghĩ mình sắp tới số rồi. Ý em là, khi tóc bắt đầu rụng, người ta thấy như đời mình cũng đang tàn dần đi... như thể mình đã xoải một bước dài về phía cái chết, về phía miệng lỗ vậy.

            Tôi ngẫm nghĩ một lát.

            - Chắc hẳn cũng có một số người nghĩ thế, - tôi nói.

            - Anh biết không, Chim vặn dây cót, thỉnh thoảng em tự hỏi chết dần từng tí một suốt một thời gian dài đằng đẵng thì như thế nào. Anh nghĩ sao?

            Chưa hiểu cô muốn nói gì, tôi liền đổi thế nắm quai treo giữ thăng bằng mà nhìn thẳng vào mắt cô.

            - Chết dần từng tí một... nghĩa là sao? Em cho một ví dụ cụ thể được không?

            - Em chả biết nữa... Ví như anh bị nhốt trong bóng tối, tối như hũ nút, anh trơ trọi một mình, không đồ ăn, không nước uống, thế là anh chết từ từ...

            - Thế thì kinh khủng lắm, - tôi nói. - Rất đau đớn. Anh chẳng muốn chết vậy tí nào.

            - Nhưng chẳng phải đời là vậy sao, hở Chim vặn dây cót? Chẳng phải tất cả chúng ta đều bị nhốt trong bóng tối ở đâu đó, người ta lấy đi hết đồ ăn nước uống của chúng ta, thế là chết từ từ, chết dần chết mòn...?

            Tôi phá lên cười.

            - Em còn trẻ quá mà sao lại pessimistic thế, - tôi nói, dùng chữ tiếng Anh.

            - Pessi... cái gì cơ?

            - Pessimistic. Nghĩa là bi quan, chỉ nhìn vào khía cạnh đen tối của sự vật.

            - Pessimistic, pessimistic... - cô lặp lại từ tiếng Anh mấy lần, rồi nhìn lên tôi với ánh mắt giận dữ. - Em mới có mười sáu tuổi, em chưa biết nhiều về thế giới này, nhưng có một điều em biết chắc chắn. Nếu như em bi quan thì những người lớn nào không bi quan trên đời này thảy đều là một lũ ngốc.

            ------------------------

            12. Phòng khách sạn hạng sang, gồm một dãy nhiều phòng - ND

10

            Mát tay

            *

            Chết trong bồn tắm

            *

            Sứ giả trao kỷ vật

            Vợ chồng tôi chuyển đến căn nhà đang sống hiện nay kể từ mùa hè năm thứ hai sau khi lấy nhau. Căn hộ ở Koenji mà chúng tôi vẫn sống trước đó đã bị san phẳng để xây dựng lại. Chúng tôi tìm một căn hộ vừa rẻ tiền vừa tiện nghi để chuyển đi, nhưng với túi tiền của chúng tôi thì tìm một chỗ như vậy không dễ. Khi ông cậu tôi biết chuyện đó, ông liền đề nghị chúng tôi chuyển đến sống ở căn nhà của ông tại Setagaya. Căn nhà này ông mua từ hồi còn trẻ và từng sống ở đó mười năm. Ông muốn dỡ căn nhà cũ để xây một căn nhà mới đa chức năng hơn, nhưng quy chuẩn kiến trúc không cho phép ông xây đúng kiểu nhà ông muốn. Nghe đồn rằng quy định sẽ được nới lỏng; ông sẵn sàng đợi tới khi đó, nhưng nếu bỏ không căn nhà trong suốt thời gian đó thì ông vẫn phải nộp thuế, mà nếu cho người lạ thuê thì nhỡ đâu khi cần đòi nhà người ta lại không chịu đi. Ông chỉ cần chúng tôi trả tiền nhà đủ để nộp thuế, song đổi lại chúng tôi phải dọn đi trong vòng ba tháng khi nào ông yêu cầu. Chúng tôi chẳng có gì phản đối: chuyện thuế thiếc này nọ thì chúng tôi không rõ lắm, nhưng chúng tôi chộp ngay cơ hội này để được sống trong một căn nhà ra nhà, dù chỉ trong một thời gian không lâu, mà chỉ phải trả tiền thuê nhà như khi sống trong một căn hộ (mà là căn hộ rẻ tiền nữa chứ). Căn nhà ở rất gần bến xe gần nhất trên tuyến Odakyu, nhưng khu dân cư quanh đó rất chi là yên tĩnh, đã vậy lại còn có một khoảnh vườn nhỏ. Cho dù căn nhà không phải của chúng tôi, nhưng ngay khi dọn về, nó lập tức cho chúng tôi cảm giác từ nay chúng tôi thực sự là "gia chủ".

            Ông cậu này, em của mẹ tôi, chẳng bao giờ đòi hỏi gì ở chúng tôi. Hẳn vì ông vốn là người tử tế, nhưng kiểu ông để mặc chúng tôi có cái gì đó hơi kỳ quặc. Dẫu sao, trong tất cả những người bà con, ông là người tôi yêu quý nhất. Ông từng tốt nghiệp một trường ở Tokyo rồi làm nghề phát thanh viên radio, nhưng được mười năm, một hôm ông tuyên bố "Đủ rồi!", đoạn ông thôi việc ở đài phát thanh mà đi mở một quán bar ở khu Ginza. Quán nhỏ và khiêm nhường thôi, nhưng lại rất nổi tiếng nhờ những món cocktail độc nhất vô nhị, và chỉ trong vài năm ông cậu đã có trong tay cả một loạt quán bar và nhà hàng. Mọi cơ sở của ông đều làm ăn hết sức phát đạt, dường như ông quả thật có duyên làm kinh doanh. Có lần, hồi tôi còn đi học, tôi đã hỏi tại sao ông đi đến đâu là thành công đến đó như vậy. Tại sao, cùng một địa điểm ở Ginza mà kẻ khác mở nhà hàng là thất bại, đến lượt ông mở cùng một loại nhà hàng đó thì lại thành công đến thế? Tại sao vậy? Ông liền xòe hai lòng bàn tay ra trước mặt tôi mà nói: "Cậu vốn mát tay mà", ông chỉ nói thế. Xét vẻ nghiêm trang của ông, tôi hiểu ông không đùa.

            Có thể ông quả là "mát tay" thật, nhưng ông còn có cái tài tìm được những người có năng lực để làm việc cho ông. Ông trả lương cho họ rõ cao và đối xử với họ tử tế, đổi lại họ làm việc cho ông hết lòng hết dạ. "Mỗi khi cậu tìm được đúng người, cậu dúi ngay vào tay anh ta một nắm tiền và cho anh ta làm đúng sở trường của mình", có lần ông bảo tôi. "Cái gì mua được bằng tiền thì phải bỏ tiền mua, đừng đắn đo hơn thiệt. Hãy để dành tâm lực cho những cái mà tiền không mua được".

            Ông lấy vợ muộn. Chỉ khi đã khá thành công về tài chính ở độ tuổi ngoài bốn mươi, ông mới chịu yên bề gia thất. Vợ ông từng ly dị chồng, trẻ hơn ông ba bốn tuổi và cũng có tài sản kha khá. Cậu chưa bao giờ kể cho tôi nghe đã gặp bà như thế nào, tôi chỉ có thể nói bà thuộc loại người trầm lặng, gia đình nền nếp. Họ không có con. Với người chồng trước bà cũng chẳng có con, có lẽ vì vậy mà hai vợ chồng ly dị. Dù thế nào thì thế, vào tuổi ngoại tứ tuần, cậu tôi giàu thì chưa hẳn đã giàu nhưng cũng không phải đầu tắt mặt tối vì chuyện tiền nong nữa. Ngoài lợi nhuận từ mấy nhà hàng và quán bar, ông còn có thu nhập từ mấy ngôi nhà và căn hộ cho thuê, lại còn lợi tức đều đặn từ mấy khoản đầu tư nữa. Dòng họ tôi, vốn mang truyền thống coi trọng những nghề danh giá và lối sống thanh bạch, có khuynh hướng coi cậu tôi như một thứ chiên ghẻ, trong khi bản thân ông cũng chẳng mặn mà gì với bà con họ hàng. Tuy nhiên, là cháu trai của ông, tôi luôn được ông quan tâm chăm sóc, nhất là sau khi mẹ tôi mất đúng vào năm tôi vào đại học và tôi đâm ra bất hòa với cha từ khi ông tục huyền. Khi tôi sống đời sinh viên nghèo kiết, một thân một mình ở Tokyo, cậu thường cho tôi ăn cơm tại một trong các nhà hàng của ông ở khu Ginza.

            Hiện nay cậu tôi cùng vợ đang sống ở một căn hộ trên đồi ở Azabu, chả là ông cho rằng sống trong một biệt thự thì phiền phức quá. Tính ông không ưa xa hoa, nhưng ông cũng có một sở thích riêng. Đó là chơi xe quý hiếm. Ông có một chiếc Jaguar và một chiếc Alpha Romeo trong ga-ra, cả hai đều rất cổ, được chăm chút cực kỳ cẩn thận, ngời sáng như những đứa trẻ mới chào đời.

            * * *

            Có lần, trong khi nói chuyện với cậu qua điện thoại về một chuyện khác, tôi nhân cơ hội hỏi xem ông biết gì về gia đình Kasahara May.

            - Cháu bảo là Kasahara à? - Ông ngẫm nghĩ một chút. - Cậu chưa nghe bao giờ. Hồi sống ở đó cậu chưa lập gia đình, chẳng đi lại gì với hàng xóm xung quanh hết.

            - Thật ra, cháu quan tâm là quan tâm tới căn nhà đối diện nhà họ cơ, cái nhà bỏ không bên kia ngõ, nhìn sang sân sau nhà Kasahara ấy, - tôi nói. - Nghe đâu hồi trước có người tên là Miyawaki sống ở đấy. Nay thì cửa đóng im ỉm.

            - À, Miyawaki, ông ấy thì cậu biết. Hồi trước ông ấy có mấy cái nhà hàng kia. Có một cái cũng ở khu Ginza. Cậu gặp ông ấy vài lần vì công việc. Nhà hàng của ông ấy, nói thật với cháu, cũng làng nhàng thôi, nhưng địa thế thì tuyệt, làm ăn cũng được. Ông ta tính người cũng dễ chịu, nhưng có phần cậu ấm thế nào ấy. Hoặc cả đời ông ta chưa bao giờ biết làm lụng vất vả là gì, hoặc ông ta không nắm bắt được công việc, cậu chẳng biết, nhưng ông ta chưa bao giờ thực sự trưởng thành. Ai đó rỉ tai nói ngon nói ngọt với ông ta, thế là ông ta dốc hết tiền của ra mua những cổ phiếu đáng ngờ, thế là mất sạch sành sanh - nhà cửa, đất đai, nhà hàng, mất hết. Mà đã xui lại còn xui tận mạng: đúng lúc ông ta đang muốn mở nhà hàng mới nên đã đem thế chấp cả nhà, cả đất. Khác nào ông ta vừa dỡ đi cây cọc chống rào thì gió bỗng nổi lên, thế là sụp hết. Cậu nhớ đâu như ông ấy có hai đứa con gái đang tuổi đi học.

            - Hẳn là ngôi nhà bị bỏ hoang từ đó đến nay, - tôi nói.

            - Cháu bảo sao? Thật thế à? Vậy thì chắc người ta đã tịch biên nhà cửa với gia sản của ông ấy rồi. Cháu đừng có mà mua cái nhà ấy, dù người ta chào giá hời đến đâu đi nữa.

            - Ai kia? Cháu ấy à? - tôi phá lên cười. - Cháu làm gì có tiền mua cái nhà như thế cơ chứ. Nhưng sao cậu nói vậy?

            - Hồi mới mua nhà, ban đầu cậu đã xem cái nhà ấy kia. Nó có cái gì đó không ổn.

            - Ý cậu là nhà có ma?

            - Ma hay không chưa biết, nhưng cậu chưa hề nghe một chuyện gì tốt lành về cái nhà ấy cả, - cậu tôi nói. - Hồi trước chiến tranh có một ông sĩ quan khá tiếng tăm từng sống ở căn nhà đó. Đại tá gì gì ấy, sĩ quan cao cấp hẳn hoi. Quân đội dưới trướng ông ta ở Bắc Trung Hoa giành được đủ thứ huy chương, nhưng cũng làm nhiều chuyện kinh khủng ở đó, chẳng hạn như thủ tiêu năm trăm tù binh, buộc hàng vạn nông dân phải lao động khổ sai cho đến khi tới một nửa chết rục, vân vân. Người ta đồn đại những chuyện như thế, thực hư chẳng biết thế nào. Ngay trước khi chiến tranh chấm dứt ông ta bị triệu hồi về nước, khi Nhật đầu hàng thì ông ta đang ở Tokyo, và với từng ấy chuyện thì cầm chắc ông ta phải ra tòa án binh. Những vị nào tướng tả, nào sĩ quan từng tác oai tác quái ở Trung Hoa đều bị quân cảnh Mỹ lôi đi tuốt. Ra tòa thì ông ta không muốn. Ông ta không muốn bị bêu ra trước bàn dân thiên hạ, có khi còn bị treo cổ không chừng. Ông ta thà tự kết liễu đời mình còn hơn để điều đó xảy ra. Thế là một ngày kia, vừa thấy một tay quân cảnh Mỹ đỗ xịch xe jeep trước cửa nhà, ông ta bèn tự bắn vỡ sọ ngay tại chỗ. Lẽ ra ông ta thích tự rạch bụng theo lối samurai truyền thống hơn nhưng không đủ thì giờ. Vợ ông ta thì treo cổ trong bếp để "theo" ông ta về cõi chết.

            - Chao ôi!

            - Sau đó người ta mới biết, hóa ra đó chỉ là một tên quân cảnh mèng đang đi tìm con bồ. Hắn đi lạc, muốn hỏi đường. Cháu cũng biết rồi còn gì, hễ đã vào khu ấy là tìm đường cực khó. Biết được khi nào là lúc mình chết, chuyện đó không đơn giản đâu, ai cũng vậy thôi.

            - Đúng đấy ạ.

            - Sau đó căn nhà bị bỏ trống một thời gian, cho đến khi có một nữ minh tinh điện ảnh mua lại. Tên bà ấy chắc cháu không biết đâu. Bà ta đóng phim từ lâu rồi, vả lại cũng chẳng lấy gì làm nổi tiếng cho lắm. Bà ta sống ở đấy chừng mười năm gì đó. Bà ta độc thân, chỉ sống với cô hầu gái thôi. Vài năm trước khi chuyển đến nhà đó, bà ta mắc một chứng bệnh gì đấy về mắt. Bà ta nhìn cái gì đó, dù ở rất gần, cũng như trong màn sương. Nhưng nói gì thì nói, bà ta là nghệ sĩ: bà ta không thể đeo kính mà đóng phim được. Mà kính sát tròng thì hồi đó còn mới mẻ quá, chẳng tốt lắm, nên hầu như không ai dùng. Thành thử trước khi đóng cảnh nào, bà ta luôn luôn đến chỗ trường quay để học thuộc lòng xem mình đi từ A đến B, chẳng hạn từ tường đến cửa thì phải mất bao nhiêu bước. Nói chung bà ta vẫn thu xếp cách nào đó được, vì đó chỉ là những bộ phim cũ của hãng Shochiku, khá đơn giản, cảnh quay toàn trong nhà thôi. Hồi đó cái gì cũng thoải mái hơn bây giờ. Thế rồi một hôm, sau khi bà ta đã kiểm tra kỹ địa điểm quay rồi trở lại phòng thay đồ, có một tay quay phim trẻ không biết ất giáp gì nên đã di chuyển cái này một tí, cái kia một tí.

            - Ôi trời ơi!

            - Bà ta bước hụt chân, trượt ngã, sau đó thì không đi lại được nữa. Và thị lực của và ta càng tồi tệ hơn, đến gần như mù hẳn. Tội nghiệp: bà ta vẫn còn trẻ, vừa trẻ lại vừa đẹp. Dĩ nhiên là chẳng đóng phim đóng phiếc gì nữa. Bà ta chỉ còn làm được mỗi một việc là ngồi nhà. Thế rồi cô hầu gái cuỗm sạch tiền của bà ta mà bỏ trốn với một tay nào đó. Đó là cô hầu gái mà bà ta tin tưởng, bà ta cậy nhờ từ những việc cỏn con, thế mà nó cuỗm hết của bà ta: nào cổ phiếu, nào tiền tiết kiệm, khoắng sạch. Chuyện thật khủng khiếp! Cháu thử nghĩ xem bà ta làm gì nào?

            - Chắc hẳn là kết cục không thể tốt lành gì phải không ạ?

            - Hẳn thế rồi, - cậu tôi nói. - Bà ta vặn nước đầy bồn tắm, vục mặt vào để tự sát. Tự cháu hiểu rồi đó, phải quyết tâm mạnh mẽ đến nhường nào thì mới có thể chết như vậy.

            - Chẳng có gì tươi sáng hạnh phúc cả.

            - Hẳn là thế, chẳng có gì tươi sáng hạnh phúc cả. Ít lâu sau thì Miyawaki mua căn nhà ấy. Nhà thì rõ là đẹp, ai thấy mà chẳng thích. Xung quanh toàn những người đàng hoàng, nhà xây trên chỗ cao, nhiều ánh nắng, khuôn viên rộng rãi. Nhưng Miyawaki cũng nghe nói về những chuyện thê lương xảy ra với những người từng sống ở đó. Thế là ông ta giật sập nhà, trốc móng lên, xây lại một căn nhà mới. Thậm chí ông ta còn mới mấy tu sĩ Thần đạo đến để thanh tẩy nhà, xua đuổi tà ma. Nhưng chắc là chẳng ăn thua gì. Ai sống ở đó rồi cũng gặp toàn chuyện rủi. Trên thế gian này có những nơi như vậy, thế thôi. Cho không cậu cũng chả lấy.

            * * *

            Mua hàng ở siêu thị về, tôi sắp xếp các thức để chuẩn bị làm bữa tối. Sau đó tôi mang quần áo giặt vào nhà, xếp lại cẩn thận, cho vào tủ. Trở lại bếp, tôi pha một tách cà phê. Ngày hôm nay thật thanh bình, điện thoại không reo lấy một lần. Tôi duỗi người trên đi-văng đọc sách. Chẳng ai quấy rầy tôi. Thỉnh thoảng con chim vặn dây cót lại kêu dưới sân sau. Đó là âm thanh duy nhất tôi nghe thấy trong cả ngày hôm đó.

            Lúc 4 giờ chiều có ai đó nhấn chuông cửa. Đó là người đưa thư. "Thư lưu ký", anh ta vừa nói vừa đưa tôi một phong bì dày. Tôi cầm lấy rồi đóng con dấu của mình lên tờ biên nhận.

            Đây không phải một phong bì bình thường. Nó làm bằng loại giấy gạo kiểu xưa; người gửi đã rất kỳ công điền tên và địa chỉ của tôi bằng bút lông, với những nét to, đen. Tên người gửi ở mặt sau phong bì là Mamiya Tokutaro, địa chỉ là đâu đó ở tỉnh Hiroshima. Cả cái tên này lẫn cái địa chỉ này, tôi hoàn toàn mù tịt. Song xét theo nét chữ bút lông, ông Mamiya Tokutaro này là người trọng tuổi. Ngày nay hầu như không ai còn viết được như thế nữa.

            Tôi ngồi trên sofa, dùng kéo rạch phong bì ra. Cả bức thư cũng theo kiểu cổ như chiếc phong bì, viết trên giấy gạo bằng thứ chữ lưu loát của một người rõ ràng có học thức. Bản thân tôi thiếu một nền tảng học thức như vậy nên đọc rất chật vật. Đã vậy lời lẽ cũng theo lối cổ như chữ viết, cực kỳ lễ phép rườm rà, khiến đã khó đọc càng thêm khó, nhưng dần dần tôi cũng nắm được ý chung. Thư viết rằng ông Honda, nhà chiêm tinh mà trước kia Kumiko và tôi vẫn năng thăm viếng, đã qua đời hai tuần trước tại nhà riêng ở Meguro vì một cơn đau tim. Ông sống một mình, không có ai bên cạnh vào lúc lâm chung, nhưng các bác sĩ cho rằng ông đi nhanh, không quá đau đớn - âu là trong bất hạnh cũng có cái đó là may mắn vậy. Sáng ra bà giúp việc mới phát hiện ông đã chết, gục mặt xuống chiếc bàn thấp đặt trên lò sưởi chân. Người viết thư, ông Mamiya Tokutaro, từng đóng quân ở Mãn Châu với hàm trung úy, từng vào sinh ra tử cùng trung sĩ Honda Oishi nơi chiến địa. Giờ đây, theo di nguyện của người đã khuất, và do Honda không có ai là bà con thân thích còn sống sót, ông Mamiya nhận trách nhiệm trao lại những di vật của người quá cố. Trước khi chết, chính Honda đã để lại những hướng dẫn cực kỳ cẩn thận về việc này. "Bản di chúc rất ư chi tiết và tỉ mỉ cho thấy ông Honda đã dự cảm mình sắp chết. Di chúc ghi rõ rằng ông Honda sẽ vô cùng sung sướng nếu ông Okada Toru vui lòng nhận một vật nho nhỏ làm kỷ vật về ông ấy. Tôi có thể hình dung ông bận rộn đến thế nào, thưa ông Okada, nhưng, với tư cách một chiến hữu từng đồng cam cộng khổ với người đã khuất, bản thân cũng chỉ còn sống được dăm năm nữa thôi, tôi xin cam đoan với ông rằng tôi sẽ còn sung sướng hơn thế nữa nếu ông có thể vui lòng nhận cho món quà mọn này như một di vật nho nhỏ để nhớ về ông Honda quá cố." Cuối thư là địa chỉ tạm trú của ông Mamiya tại Tokyo, tại nhà một người nào đó cũng tên là Mamiya ở khu 2, Hongo, quận Bunkyo. Chắc ông ta đang tá túc ở nhà một người quen.

            Tôi viết thư phúc đáp ở bàn bếp. Tôi đã định dùng lời lẽ ngắn gọn, giản dị, nhưng khi đã cầm lấy bút, mấy câu vắn tắt ấy không sao tuôn ra được. "Tôi đã rất may mắn được quen biết ông Honda quá cố, dù không lâu nhưng sinh thời ông tôi đã chịu ơn ông nhiều. Được tin ông ấy không còn nữa, ký ức về những ngày ấy lại tràn ngập lòng tôi. Dĩ nhiên, tuổi tác hai chúng tôi chênh lệch, chúng tôi gặp nhau cũng chỉ trong vòng vỏn vẹn một năm, nhưng tôi luôn cảm thấy ở người quá cố có một cái gì đó làm lay động sâu sắc trái tim con người. Thật lòng mà nói, tôi không thể nào ngờ ông Honda sẽ nêu đích danh tôi để nhận một kỷ vật từ ông ấy, tôi cũng chẳng dám tin mình xứng đáng nhận của ông ấy dù bất cứ cái gì, nhưng nếu đó là ý nguyện của người quá cố thì nhất định rằng tôi sẽ xin cung kính chấp nhận. Mời ông liên lạc với tôi bất cứ lúc nào tiện cho ông."

            Khi thả tấm bưu thiếp vào hộp thư gần nhất, tôi chợt nhận ra mình đang lẩm bẩm bài thơ của ông Honda:

            Chết là cách duy nhất

            để mi được bơi tự do

            Nomonhan.

            * * *

            Mãi gần 10 giờ tối Kumiko mới đi làm về. Nàng đã gọi điện từ trước 6 giờ để báo rằng hôm nay nàng sẽ lại về muộn, rằng tôi cứ ăn một mình, còn nàng thì sẽ ăn tạm đâu đó ở ngoài. Được thôi, tôi nói, đoạn làm một bữa tối đơn giản rồi ngồi ăn. Một lần nữa tôi lại ngồi nhà một mình đọc sách. Khi về, Kumiko nói nàng muốn uống vài hớp bia. Chúng tôi cùng uống một lon cỡ vừa. Nàng có vẻ mệt mỏi. Tì cùi chỏ trên mặt bàn, nàng tựa cằm lên hai bàn tay, năm thì mười họa mới lên tiếng trong khi tôi nói chuyện. Nàng có vẻ bị quá tải. Tôi kể với nàng rằng ông Honda đã chết. - Ồ, thật sao? - nàng vừa nói vừa thở dài. "Mà phải, ông ấy già quá rồi, lại gần như điếc nữa còn gì." Khi tôi nói rằng ông có để lại cho tôi một kỷ vật, nàng bị sốc, như thể có cái gì đó đột ngột từ trên trời rơi xuống vậy.

            - Cho anh á? - nàng kêu lên, mày nhíu lại.

            - Ừ. Lạ quá phải không?

            - Hẳn là ông ấy thích anh.

            - Sao có chuyện đó được? Anh có bao giờ thật sự trò chuyện với ông ấy đâu, - tôi nói. - Ít nhất là phần anh hầu như chẳng nói gì nhiều. Mà dù anh có nói, ông ấy cũng có nghe được gì đâu. Chúng mình bao giờ cũng chỉ ngồi nghe ông ấy kể chuyện, mỗi tháng một lần. Mà hầu như ông ấy chỉ kể chuyện trận Nomonhan thôi: nào họ ném cocktail Molotov, xe tăng nào cháy xe nào không, đại loại thế.

            - Em không biết, - Kumiko nói. - Ắt là ông ấy phải thích cái gì đó ở anh. Em không hiểu những người như vậy trong đầu họ nghĩ gì.

            Sau đó nàng lại im lặng. Im lặng thật căng thẳng sao đó. Tôi liếc nhìn lịch treo tường. Vẫn chưa đến kỳ của nàng. Hẳn có chuyện gì khó chịu xảy ra với nàng ở cơ quan chăng?

            - Em làm mệt quá phải không? - tôi hỏi.

            - Một chút thôi, - Kumiko nói sau khi nhấp một ngụm bia rồi nhìn đăm đăm vào chỗ bia còn lại trong cốc. Giọng nàng gần như có vẻ thách thức. - Em xin lỗi vì đã về muộn như thế, nhưng anh cũng biết làm báo thì bận rộn ra sao rồi. Với lại có phải bao giờ em cũng bận thế đâu. Ấy là em đã xin được làm thêm ít hơn mọi người rồi đấy. Họ biết em có chồng đang đợi ở nhà mà.

            Tôi gật đầu.

            - Anh không trách gì em. Anh biết rằng thỉnh thoảng em phải làm muộn. Anh chỉ lo em làm quá sức thôi.

            Nàng tắm rất lâu. Tôi vừa uống bia vừa lật qua tờ tuần san mà nàng mua về.

            Tôi thọc tay vào túi quần thì đụng thấy khoản tiền thù lao mà công ty tóc giả đã trả cho tôi, vẫn còn nguyên trong phong bì. Có một việc nữa tôi đã không làm, đó là kể cho Kumiko về công việc này. Chẳng phải tôi muốn giấu nàng, đơn giản là tôi đã bỏ qua cơ hội để nhắc tới chuyện đó, mà cơ hội khác thì không có nữa. Càng lúc tôi càng cảm thấy khó nói về việc này hơn, chẳng hiểu tại sao. Tất cả những gì tôi có thể nói sẽ là: "Anh gặp cô bé mười sáu tuổi kỳ quặc này ở dưới phố và cùng cô ta đi làm điều tra cho một hãng làm tóc giả. Người ta trả công cũng hậu." Và Kumiko có thể sẽ nói: "Thật à? Hay nhỉ", rồi thôi. Nhưng cũng có thể không phải. Nàng có thể sẽ muốn biết nhiều hơn về Kasahara May. Nàng có thể sẽ bận tâm tới chuyện tôi đánh bạn với một cô bé mười sáu tuổi. Thế là tôi sẽ phải kể với nàng về Kasahara May, kể hết, nào gặp cô ta ở đâu, khi nào, bằng cách nào. Mà tôi thì chẳng giỏi gì trong việc giải thích cho ra đầu ra đũa những chuyện như thế.

            Tôi rút tiền ra khỏi phong bì rồi cho vào ví. Phong bì thì tôi vò nát ném vào sọt rác. Bí mật bắt đầu như vậy đây, tôi nghĩ. Người ta dựng nên những điều bí mật từng tí một. Tôi đã không hề chủ ý giữ bí mật chuyện Kasahara May với Kumiko. Quan hệ giữa tôi với cô bé không phải là chuyện gì to tát, thành thử kể ra hay không cũng chả có gì hậu quả ghê gớm cả. Tuy nhiên, khi đã chảy qua một kênh vi tế nào đó, nó liền bị phú bức màn bí mật mời mờ ảo ảo, dù ý định ban đầu của tôi là thế nào đi nữa. Chuyện Kano Creta cũng vậy. Tôi đã kể với Kumiko rằng em gái của Kano Malta đã đến nhà, rằng tên cô ta là Creta, rằng cô ta ăn mặc theo mốt thập niên 1960, rằng cô ta đã lấy mẫu nước nơi vòi nước. Nhưng tôi không nói gì về chuyện sau đó bỗng dưng cô ta bắt đầu kể tuốt tuột những điều thầm kín nhất với tôi, rồi đang kể nửa chừng thì biến mất mà không nói một lời. Đến chuyện Kano Creta thì đã quá xa rồi: hẳn tôi sẽ không tài nào chuyển tải được hết mọi chi tiết tinh tế của nó cho Kumiko được, thành thử tôi không kể. Hoặc, Kumiko chắc hẳn sẽ khó mà thích thú nếu biết được rằng Kano Creta đã nán lại rất lâu sau khi xong việc mà thổ lộ với tôi bao nhiêu là tâm sự riêng tư.

            Thế là chuyện đó lại trở thành một bí mật khác nữa của tôi. Có thể Kumiko cũng có những bí mật kiểu như vậy và cũng không cho tôi biết. Dĩ nhiên bản thân tôi cũng có những bí mật riêng, nên tôi không thể trách nàng được. Giữa hai chúng tôi, chắc chắn tôi là kẻ có nhiều bí mật hơn. Kumiko có khuynh hướng nghĩ gì nói nấy. Nàng thuộc loại người nói đến đâu nghĩ đến đấy. Tôi thì khác.

            Cảm thấy bất an vì những suy nghĩ đó, tôi đi xuống buồng tắm. Cửa mở toang. Tôi đứng nơi cửa nhìn Kumiko từ phía sau. Nàng đã thay bộ pyjama xanh, đang đứng trước gương lau tóc bằng khăn tắm.

            - Về công ăn việc làm của anh, anh cứ nghĩ mãi. Anh đã nhờ bạn bè tìm giúp, bản thân anh cũng đã thử vài nơi. Việc thì có đấy, nên anh có thể đi làm bất cứ lúc nào. Nếu đã quyết định, anh có thể đi làm ngay ngày mai. Nhưng chính cái việc quyết ấy mới khó. Anh không biết nữa. Anh không biết liệu có nên hễ có việc làm là chộp lấy ngay như vậy không.

            - Chính vì vậy mà em không ngừng nhắc anh hãy làm những gì mình muốn, - nàng vừa nói vừa nhìn tôi trong gương. - Có ai bắt anh tìm việc ngay lập tức đâu nào. Nếu anh không yên tâm về mặt kinh tế thì cứ yên trí đi. Còn nếu anh không thoải mái vì không có việc làm, nếu anh cảm thấy để mình em đi làm trong khi anh ở nhà làm nội trợ là một gánh nặng thì anh cứ đi làm đi, việc gì cũng được, tạm thế đã. Với em sao cũng được.

            - Dĩ nhiên, đằng nào thì anh rồi cũng phải tìm được việc làm. Anh biết chứ. Em cũng biết. Anh không thể lông bông thế này mãi được. Sớm hay muộn anh cũng sẽ tìm được việc làm. Chỉ có điều ngay bây giờ anh không biết mình nên chọn loại công việc nào. Sau khi nghỉ việc, có một thời gian anh cứ hình dung mình sẽ tìm một việc khác cũng liên quan đến ngành luật. Anh có nhiều quan hệ trong lĩnh vực đó mà. Nhưng bây giờ anh không còn tâm trạng đó nữa. Thời gian càng trôi, anh lại càng ít quan tâm đến luật. Càng ngày anh càng cảm thấy đơn giản là công việc đó không hợp với mình.

            Kumiko nhìn tôi trong gương. Tôi nói tiếp:

            - Song, mình không muốn làm gì thì mình biết, còn mình muốn làm gì thì vẫn chịu không biết được. Anh có thể làm bất cứ việc gì nếu có ai đó bảo anh làm. Nhưng anh không hình dung được đâu mới chính là cái việc mà "mình muốn làm đây". Vấn đề của anh bây giờ là thế. Anh không hình dung được.

            - Vậy thì, - Kumiko đặt khăn tắm xuống giường và quay lại nhìn tôi, - nếu anh đã chán luật rồi thì đừng làm luật nữa. Quên chuyện thi lấy bằng luật sư đi. Và đứng cuống lên về chuyện tìm việc nữa. Nếu anh chưa hình dung được thì hãy chờ đến khi nào hình dung được hẵng hay. Có sao đâu nào?

            Tôi gật đầu.

            - Anh chỉ muốn giải thích sao cho em hiểu đúng tâm trạng của anh thôi.

            - Tốt, - nàng nói.

            Tôi xuống bếp rửa cốc. Nàng từ buồng tắm bước vào, ngồi xuống bên bàn bếp.

            - Anh thử đoán xem chiều nay ai gọi điện cho em, - nàng nói. - Ông anh em đấy.

            - Thế à?!

            - Anh ấy đang nghĩ đến việc ra tranh cử. Thật ra thì anh ấy đã quyết định làm như vậy rồi.

            - Ra tranh cử á? - tôi sửng sốt đến nỗi cứng họng mất một lúc. - Ý em là tranh cử vào quốc hội à?

            - Đúng vậy. Người ta yêu cầu anh ấy ra tranh cử chiếc ghế của ông bác em ở Niigata.

            - Anh nghe nói ghế đó mặc nhiên sẽ thuộc về con trai của ông bác em kia mà(13)?Anh ấy chả đang sắp từ chức khỏi ban giám đốc ở hãng Dentsu để quay về Niigata là gì?

            Nàng bắt đầu dùng bông để ngoáy tai.

            - Ban đầu định là vậy, nhưng ông anh họ em không muốn. Anh ấy có gia đình ở Tokyo, vả lại anh ấy hài lòng với công việc đang làm. Anh ấy không sẵn sàng từ bỏ một vị trí quan trọng đến thế ở công ty quảng cáo lớn nhất thế giới đặng quay về làm nghị sĩ ở chốn Niigata heo hút kia. Song lý do chính là vợ anh ấy phản đối. Chị ta không muốn anh hy sinh gia đình để theo nghiệp quan trường.

            Ông bác của Kumiko đã qua bốn, năm nhiệm kỳ đại biểu hạ viện ở khu vực bầu cử đó tại Niigata. Tuy không hẳn là một chính trị gia nặng ký, ông cũng đã có một sự nghiệp khá rạng rỡ, thậm chí có lúc còn leo lên tới một chức vụ nhỏ trong nội các. Tuy nhiên, nay do tuổi già sức yếu, lại thêm bị bệnh tim nên ông không thể ra tranh cử trong kỳ bầu cử tới, nghĩa là một ai đó sẽ phải thay thế ông. Ông bác này có hai con trai, nhưng người con trưởng không bao giờ có ý định làm chính trị, cho nên hiển nhiên chỉ còn lại người con thứ.

            - Giờ thì dân vùng đó nằng nặc đòi ông anh em về đó cho bằng được. Họ muốn có một người vừa trẻ vừa thông minh, năng nổ. Người nào có thể làm dân biểu nhiều nhiệm kỳ và có tài để trở thành nhân vật có vai vế trong chính phủ trung ương. Ông anh em có tên tuổi, anh ấy sẽ thu hút phiếu bầu của giới trẻ: thật chẳng chê vào đâu được. Dĩ nhiên, để cơm lành canh ngọt với chính quyền địa phương thì cũng không dễ, nhưng tổ chức ủng hộ anh ấy mạnh lắm, họ sẽ lo chuyện đó. Thêm nữa, nếu muốn thì anh ấy vẫn cứ sống ở Tokyo, chẳng có vấn đề gì. Anh ấy chỉ có mỗi một việc là đến kỳ bầu cử thì có mặt ở khu vực đó mà thôi.

            Tôi khó hình dung được cảnh Wataya Noboru làm dân biểu Hạ viện.

            - Em nghĩ sao về chuyện này? - tôi hỏi.

            - Việc của anh ấy chẳng có liên quan gì đến em hết. Anh ấy muốn làm dân biểu Hạ viện hay muốn làm phi hành gia thì cứ việc làm, em chả quan tâm.

            - Nhưng nếu vậy thì anh ấy bàn với em để làm gì?

            - Anh nói buồn cười thật, - nàng nói bằng giọng khô khan. - Anh ấy chẳng bàn bạc gì với em hết. Anh ấy chẳng bao giờ bàn bạc với em bất cứ chuyện gì, anh biết mà. Anh ấy chỉ muốn báo cho em biết thôi. Dù gì cũng là người nhà.

            - Anh hiểu. Có điều nếu ra ứng cử dân biểu thì chuyện anh ta đã ly dị và đang độc thân liệu có gây khó khăn gì không?

            - Em cũng chả biết, - Kumiko nói. - Em chẳng biết gì về chính trị, bầu cử hay gì gì đó cả. Đơn giản là em không quan tâm. Nhưng đằng nào thì em cũng biết chắc anh ấy sẽ không bao giờ lấy vợ nữa. Sẽ không bao giờ lấy ai. Trước hết là lẽ ra anh ấy đừng bao giờ lấy vợ. Anh ta có cần chuyện đó đâu. Anh ta cần cái khác cơ. Anh ta theo đuổi một cái gì khác, cái gì đó hoàn toàn khác với những gì em hay anh cần. Điều đó thì em biết chắc.

            - Thật à?

            Nàng gói hai chiếc bông ngoáy tai dùng xong vào một tấm khăn giấy rồi ném vào sọt rác. Đoạn nàng ngẩng lên nhìn thẳng vào tôi.

            - Có lần em thấy anh ta thủ dâm. Em vừa mở cửa bước vào thì thấy anh ta ở đó.

            - Thì đã sao? Ai mà chẳng thủ dâm, - tôi nói.

            - Không, anh không hiểu, - nàng nói. Rồi nàng thở dài. - Chuyện đó xảy ra đâu như khoảng hai năm sau khi chị em qua đời. Hồi đó ông anh em hình như đang học trung học, em thì khoảng tám tuổi. Sau khi chị của em mất, mẹ em cứ phân vân mãi giữa một đằng là vứt hết quần áo của chị gái em còn một đằng là giữ lại, cuối cùng mẹ quyết định giữ, may ra có vài thứ em có thể mặc được khi em lớn. Mẹ cất hết chỗ quần áo đó trong một chiếc hộp để trong tủ. Anh trai em đã lôi hết quần áo của chị gái ra, vừa hít lấy hít để vừa thủ dâm.

            Tôi im lặng.

            - Hồi đó em còn bé. Em chẳng biết gì về sex hết. Em thực sự không thể hiểu đích xác anh ấy đang làm gì, nhưng em vẫn hiểu rằng đó là một cái gì rất đồi bại, một cái gì đáng lẽ em không nên thấy, một cái gì sâu xa hơn nhiều so với vẻ về ngoài, - Kumiko lắc đầu.

            - Wataya Noboru có biết là em thấy anh ta không?

            - Dĩ nhiên. Anh ta và em nhìn thẳng vào mắt nhau.

            Tôi gật đầu.

            - Còn quần áo của chỉ em thì sao? Khi em lớn em có mặc không?

            - Không đời nào, - nàng đáp.

            - Thế em cho rằng anh ta phải lòng chị gái em?

            - Em không biết. Thậm chí em không chắc anh ta có ham muốn tính dục đối với chị ấy không, nhưng chắc chắn là anh ta có một cái gì đó, và em ngờ rằng cho đến giờ anh ta vẫn không sao dứt bỏ được. Vì vậy em mới nói lẽ ra anh ta đừng bao giờ lấy vợ.

            Kumiko lặng thinh. Hai chúng tôi không nói gì một hồi lâu. Rồi nàng nói:

            - Theo nghĩa đó em nghĩ rằng anh ấy có một vài vấn đề nghiêm trọng về tâm lý. Dĩ nhiên trong chừng mực nào đó thì chúng ta ai mà chẳng có vấn đề về tâm lý, không nhiều thì ít, nhưng vấn đề của anh ta khác với của anh hay của em, mà nặng hơn. Chúng sâu sắc hơn và dai dẳng hơn nhiều. Mà anh ta thì chẳng đời nào muốn để những vết sẹo hay điểm yếu hay gì gì đó của mình cho bất cứ ai khác nhìn thấy. Không đời nào, anh có hiểu không? Mà lại bầu cử tới nơi rồi... Em lo lắm.

            - Lo? Lo gì mới được chứ?

            - Em không biết. Cứ lo lo thế thôi, - nàng nói. - Mà thôi, em mệt lắm rồi. Hôm nay không thể nghĩ thêm gì nữa. Đi ngủ thôi.

            Trong khi đánh răng, tôi săm soi khuôn mặt mình trong gương. Đã hai tháng nay, kể từ khi thôi việc, tôi hiếm khi bước ra "thế giới bên ngoài". Tôi chỉ đi đi về về giữa nhà mình với mấy cửa hiệu ở gần, hồ bơi. Nếu không kể lần đến khu Ginza và cái khách sạn ở Shinagawa kia thì chỗ xa nhất mà tôi đến trong suốt thời gian qua hầu như là hiệu giặt là gần nhà ga. Và suốt cả thời gian đó tôi hầu như không gặp bất kỳ ai. Ngoài Kumiko, người duy nhất tôi có thể nói là đã "gặp" trong hai tháng qua là chị em Kano Malta, Kano Creta, và Kasahara May. Thật là một thế giới chật hẹp, một thế giới đứng yên, bất động. Nhưng nó càng chật hẹp càng tĩnh tại thì hình như lại càng đầy ắp những sự vật và con người chỉ có thể gọi là kỳ lạ. Dường như từng ấy vật và người luôn rình sẵn trong bóng tối, đợi đến khi tôi dừng lại. Và mỗi lần con Chim vặn dây cót đậu trong sân nhà tôi mà vặn dây cót thì thế giới càng đắm sâu và hỗn loạn hơn.

            Tôi súc miệng rồi tiếp tục nhìn mặt mình thêm một lúc lâu nữa.

            Tôi không có ý niệm gì, tôi tự nhủ. Tôi đã ba mươi tuổi, tôi đang đứng yên, thế mà tôi vẫn không có ý niệm gì.

            Khi tôi từ buồng tắm vào phòng ngủ. Kumiko đã ngủ rồi.

            --------------------------

            13. Một hiện tượng phổ biến ở chính trường Nhật, đó là khi một chính khách cao tuổi sắp về hưu, ông ta thường "thu xếp" cho một người con hoặc cháu mình được ứng cử tại khu vực bỏ phiếu của "nhà mình" - BTN.

11

            Trung úy Mamiya xuất hiện

            *

            Từ bùn ấm sinh ra cái gì

            *

            Nước hoa

            Ba ngày sau, Mamiya Tokutaro gọi điện lúc 7 giờ rưỡi sáng. Khi đó tôi đang ăn sáng với Kumiko.

            - Tôi thật vô cùng xin lỗi mới sáng sớm thế này đã gọi cho ông. Mong là tôi đã không phá giấc ngủ của ông, - ông Mamiya nói, vẻ hối lỗi rất thành thật.

            Tôi trấn an ông rằng không sao cả, sáng nào cũng vậy, 6 giờ hơn một chút là tôi đã dậy rồi.

            Ông ta cảm ơn tôi về tấm bưu thiếp và giải thích rằng ông muốn gặp tôi trước khi tôi đi làm sáng nay, lại nói rằng ông sẽ biết ơn lắm nếu tôi có thể gặp ông một lát ngay trong giờ nghỉ trưa hôm nay. Ông ta hy vọng có thể lấy ngay vé cho chuyến tàu tối về lại Hiroshima. Ông bảo ban đầu ông định nán lại ở Tokyo lâu hơn, nhưng vì có chuyện gì đó nên ông phải quay về nhà càng sớm càng tốt.

            Tôi bèn nói rõ rằng hiện tôi đang thất nghiệp, rằng tôi rảnh suốt ngày, rằng tôi có thể gặp ông bất cứ lúc nào, sáng, trưa, chiều, tối, tùy ông.

            - Nhưng ắt hẳn ông cũng có ý định làm một việc gì đó trong ngày hôm nay chứ ạ? – ông ta hỏi một cách vô cùng lịch thiệp.

            Tôi đáp rằng tôi hoàn toàn chẳng có ý định gì hết.

            - Nếu vậy liệu tôi có thể ghé qua nhà ông lúc 10 giờ sáng nay không?

            - Thế thì tốt quá.

            Chỉ sau khi gác máy tôi mới nhớ ra mình đã quên chỉ cho Mamiya biết làm cách nào tìm ra nhà của chúng tôi nếu đi từ nhà ga. Mà cũng không sao, đằng nào ông ấy cũng có địa chỉ; hễ đã muốn thì thể nào cũng tìm tới được.

            - Ai vậy? – Kumiko hỏi.

            - Cái ông phân phát di vật của ông Honda ấy mà. Độ gần trưa ông ấy sẽ mang đến cho anh.

            - Thật à? – nàng nhấp một ngụm cà phê rồi phết bơ lên bánh mì. – Ông ấy tử tế quá.

            - Ừ, tử tế thật.

            - Nhân thể, liệu anh với em – hay ít nhất là anh – có nên đi viếng ông Honda, thắp một nén nhang không nhỉ?

            - Ý hay đấy. Anh sẽ hỏi Mamiya xem sao.

            Khi sửa soạn đi làm, Kumiko nhờ tôi cài hộ khóa kéo sau lưng chiếc áo váy nàng mặc. Áo rất bó nên trầy trật mãi mới cài được. Nàng xức một thứ nước hoa rất dễ chịu ở phía sau tai, một mùi hương thật tuyệt, thích hợp vô cùng với một buổi sáng mùa hè. – Nước hoa mới à? – tôi hỏi. Thay vì trả lời, nàng liếc đồng hồ rồi đưa tay sửa tóc.

            - Em muộn giờ rồi, - nàng nói rồi cầm lấy túi xách đang đặt trên bàn.

            * * *

            Tôi vừa dọn dẹp căn phòng nhỏ mà Kumiko dùng để làm việc và đang mang sọt rác đi đổ thì phát hiện một dải ruy băng màu vàng mà Kumiko đã vứt đi. Nó thòi ra từ dưới một tờ giấy bị vo tròn dúm dó và mấy chiếc phong bì quảng cáo. Màu vàng bóng lưỡng của nó đập ngay vào mắt tôi. Nó là loại ruy băng dùng để gói quà thắt nơ hình bông hoa. Tôi nhặt nó ra khỏi sọt rác mà xem xét. Cái ruy băng bị vứt bỏ cùng một tờ giấy gói quà của siêu thị Matsuya. Bên dưới tờ giấy là một chiếc hộp có nhãn hiệu Christian Dior. Lót bên trong hộp có chỗ lõm hình cái chai. Cứ theo chiếc hộp mà suy, đó hẳn là một món quà khá đắt tiền. Tôi mang nó vào phòng tắm rồi mở tủ đựng mỹ phẩm của Kumiko ra. Quả nhiên trong tủ có một chai nước hoa Christian Dior chưa dùng, hình dáng đúng như chỗ lõm trong hộp. Tôi mở nắp chai mạ vàng ra ngửi thử. Đúng là mùi hương tôi đã nghe đằng sau tai Kumiko.

            Tôi ngồi trên ghế sofa, vừa uống chỗ cà phê còn lại từ ban sáng vừa tập trung tư tưởng. Rõ ràng ai đó đã tặng quà cho Kumiko. Một món quà đắt tiền. Mua ở siêu thị Matsuya, gói quà và thắt ruy băng. Đàn ông chẳng ai lại tặng quà cho phụ nữ (nhất là phụ nữ có chồng) nếu quan hệ giữa họ với cô ta không phải là thân thiết. Nếu một bạn gái tặng cho Kumiko thì sao… Nhưng liệu phụ nữ có tặng nước hoa cho phụ nữ không? Tôi không rõ. Tuy nhiên, có một điều tôi dám chắc là chẳng có lý do đặc biệt nào để Kumiko được ai đó tặng quà vào dịp này trong năm. Sinh nhật nàng là vào tháng Năm. Kỷ niệm ngày cưới của hai vợ chồng cũng vậy. Cũng có thể nàng đã tự mua cho mình một chai nước hoa rồi bảo người ta gói lại bằng ruy băng. Nhưng vì sao?

            Tôi thở dài nhìn lên trần nhà.

            Liệu tôi có nên hỏi nàng không? “Có phải ai đó mua cho em chai nước hoa này không?”. Nàng có thể trả lời: “À, chai này ấy à. Có một cô bé chỗ cơ quan em gặp mấy vấn đề riêng tư, em giúp nó giải quyết thôi mà. Kể thì dài lắm. Nó tặng em để trả ơn thôi. Mùi thật tuyệt phải không? Của này đắt lắm đấy!”

            Nghe cũng hợp lý lắm. Không còn gì hỏi nữa. Chả cần băn khoăn làm gì cả.

            Nhưng tôi cứ băn khoăn mãi. Lẽ ra nàng phải nói gì với tôi chứ. Nếu nàng đã có thì giờ đi về phòng, tháo ruy băng, xé giấy gói, mở hộp ra, ném cả ba thứ vào sọt rác rồi đặt chai nước hoa vào tủ mỹ phẩm thì hẳn nàng cũng có thể đến chỗ tôi mà nói: “Xem này, quà của con bé ở cơ quan tặng em đấy”. Nhưng không, nàng chẳng nói gì hết. Có lẽ nàng cho rằng chuyện đó không đáng nhắc tới chăng. Cứ cho là vậy thì mọi chuyện đã phủ một lớp màn bí mật. Chính điều đó mới làm tôi băn khoăn.

            Tôi nhìn lên trần nhà một hồi lâu. Tôi cố nghĩ một chuyện gì khác, nhưng không được, đầu óc cứ trơ ra. Tôi vẫn miên man nghĩ về cái lúc tôi cài khóa kéo cho nàng, tấm lưng mịn màng trắng nuột của nàng, mùi hương sau tai nàng. Lần đầu tiên sau nhiều tháng, tôi thèm hút thuốc. Tôi muốn cho một điếu xì gà lên môi. Châm lửa rồi hít khói vào phổi. Được vậy thì tôi sẽ trấn tĩnh một chút. Nhưng tôi chẳng có điếu nào. Không còn cách nào khác, tôi đành lấy một viên kẹo chanh mà mút.

            Lúc 10 giờ kém điện thoại reo. Tôi đồ rằng là Trung úy Mamiya. Nhà này vốn không dễ tìm. Ngay cả những người từng đến đây một lần đôi khi vẫn đi lạc là chuyện thường. Nhưng không phải Trung úy Mamiya gọi. Trong ống nghe là giọng người đàn bà bí ẩn mà hôm nọ đã gọi điện cho tôi.

            - Chào cưng! Lâu lắm mới gặp nhau, - cô ta nói. – Anh có thích lần trước không? Em có làm anh nhúc nhích chút nào không? Sao tự dưng anh lại gác máy? Mà lại ngay giữa lúc thú vị nhất kia chứ!

            Trong một khoảnh khắc tôi cứ nghĩ cô ta đang nói về giấc mơ của tôi gần đây trong đó tôi làm tình với Kano Creta. Nhưng hóa ra là chuyện khác. Cô ta đang nói về cái hôm cô ta gọi điện trong khi tôi đang nấu spaghetti.

            - Xin lỗi, - tôi nói. – Hiện giờ tôi đang bận. Mười phút nữa tôi có khách nên phải dọn dẹp nhà cửa một chút.

            - Đang thất nghiệp mà sao lúc nào anh cũng bận rộn lắm thế, - cô ta nói, giọng mỉa mai. Lần trước cũng vậy, giọng điệu cô ta cứ đổi xoành xoạch. – Lúc thì bận nấu spaghetti, khi thì bận tiếp khách. Nhưng không sao. Em chỉ cần mười phút thôi. Ta nói chuyện mười phút đi nào, chỉ anh với em thôi. Khi nào khách đến anh cúp máy là được mà.

            Tôi muốn cúp máy ngay không nói năng gì, nhưng không làm vậy được. Có lẽ vì tôi vẫn còn đang rối bời về chuyện chai nước hoa của Kumiko nên cảm thấy muốn nói chuyện với một người nào đó, ai cũng được.

            - Nào nào, tôi không hề biết cô là ai cả, - tôi nói. Tôi nhặt cây bút chì nằm cạnh chiếc điện thoại, vừa nói vừa xoay xoay trên mấy ngón tay. – Cô có chắc là tôi biết cô không?

            - Dĩ nhiên là anh biết em. Lần trước em đã bảo mà. Em biết anh, anh cũng biết em. Gì chứ chuyện đó thì em không nói dối đâu. Em không có thì giờ gọi điện cho những kẻ hoàn toàn xa lạ. Trí nhớ anh có điểm mù hay sao vậy?

            - Tôi thật không hiểu. Thật ra thì…

            - Đủ rồi, - cô ta cắt ngang. – Nghĩ ngợi gì cho lắm. Anh biết em và em biết anh. Điều quan trong là, ờ, thôi cứ xem thế này đi: em sẽ rất là dễ thương với anh. Còn anh không phải làm gì cả. Thế chẳng tuyệt quá hay sao? Anh không phải làm gì cả, không chịu trách nhiệm gì hết. Mọi thứ đã có em làm. Mọi thứ. Thế là hay quá còn gì phải không? Đừng cả nghĩ làm gì. Đừng làm mọi chuyện phức tạp lên. Vứt mọi thứ ra khỏi đầu đi. Hãy hình dung anh đang nằm trên một lớp bùn thật êm, thật dễ chịu vào một chiều xuân ấm áp.

            Tôi im lặng.

            - Anh ngủ. Anh đang mơ. Anh đang nằm trên một lớp bùn ấm áp. Quên vợ anh đi. Quên đi chuyện mình đang thất nghiệp. Quên tương lai đi. Quên mọi thứ đi. Tất cả chúng ta đều trồi lên từ bùn ấm rồi tất cả lại quay về đó. Cuối cùng… Ồ, mà này, anh Okada! Lần cuối cùng anh làm tình với vợ anh là khi nào vậy? Anh có nhớ không? Lâu rồi phải không? Chắc cũng phải hai tuần rồi.

            - Xin lỗi, khách của tôi đến rồi, - tôi nói.

            - Hơn hai tuần phải không? Nghe giọng anh em biết. Hay là ba tuần?

            Tôi không nói gì.

            - Thôi được rồi, - cô ta nói, giọng cô nghe như nước nhỏ rửa trôi bụi bám trên các lá sách rèm cửa sổ. – Đó là chuyện giữa anh với vợ anh. Nhưng em sẽ cho anh tất cả những gì anh muốn. Đổi lại thì anh, anh Okada, anh không phải có bất cứ trách nhiệm gì. Chỉ cần rẽ qua góc quanh là sẽ thấy cả một thế giới mà anh chưa hế thấy. Em đã nói anh có điểm mù, đúng không? Anh vẫn chưa hiểu à?

            Siết chặt ống nghe, tôi vẫn im lặng.

            - Nhìn quanh đi, - cô ta nói. – Nhìn quanh rồi bảo em xem, anh thấy gì nào?

            Ngay khi đó chuông cửa reo. Cảm thấy nhẹ cả người, tôi gác máy.

            * * *

            Trung úy Mamiya là một ông già cao lênh khênh, đầu hói, mang kính gọng vàng. Ông có nước da rám nắng, khí sắc khỏe mạnh của người quen lao động tay chân, không một tí thịt thừa. Hai bên khóe mắt hằn những nếp nhăn sâu, mỗi bên ba nếp cực kỳ cân đối, như thể ông sắp nheo mắt vì ánh sáng quá gắt. Khó đoán được tuổi ông, nhưng ít nhất cũng phải trên bảy mươi. Thời trai trẻ hẳn ông là một anh chàng có sức khỏe hơn người. Có thể thấy rõ điều đó qua dáng đi thẳng tắp và nhưng động tác dứt khoát, đâu ra đó. Thái độ và lời lẽ của ông toát lên vẻ cực kì lễ phép, nhưng không phải kiểu hình thức khách sáo mà gây ấn tượng một sự chính xác giản dị, không tô vẽ. Viên trung úy tỏ ra là một người quen tự mình quyết định và chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Ông mặc bộ com lê màu xám sáng bình thường, sơ mi trắng, cà vạt xám sọc đen. Bộ com-lê đơn sơ có vẻ làm bằng chất liệu quá dày so với một buổi sáng tháng Sáu oi bức, nhưng ông chẳng rỏ lấy một giọt mồ hôi. Bàn tay trái của ông là tay giả, đeo chiếc găng xám nhạt cùng màu với bộ com lê. Bọc kín trong chiếc găng màu xám đó, bàn tay nhân tạo trông càng lạnh lẽo và vô tri so với tay kia rám nắng và lông lá đang xách lủng lẳng một bọc vải buộc túm lại ở đầu.

            Tôi mời ông vào phòng khách rồi mời ông một chén trà xanh.

            Ông xin lỗi vì không có danh thiếp.

            - Trước kia tôi dạy khoa xã hội tại một trường trung học ở miền quê tỉnh Hiroshima, nhưng từ khi về hưu tôi không làm gì cả. Tôi trồng ít rau, cho vui là chính, làm nghề nông đơn giản thôi. Thành thử tôi không mang danh thiếp, giờ tôi mới thấy như vậy thì thật thất lễ.

            Tôi cũng không có danh thiếp.

            - Thưa ông Okada, xin cho tôi được hỏi ông bao nhiêu tuổi?

            - Tôi ba mươi, - tôi nói.

            Ông gật đầu. Rồi ông nhấp một ngụm trà. Tôi chịu không biết ông có cảm tưởng gì về chuyện tôi ba mươi tuổi.

            - Nhà ông ở thích thật, yên tĩnh quá, - ông ta nói, như để đổi đề tài.

            Tôi kể với ông chuyện tôi thuê lại căn nhà này của ông cậu với giá gần như cho không. Tôi nói thêm rằng bình thường ra, với thu nhập của chúng tôi thì không đủ tiền để sống trong một căn nhà rộng như thế này. Ông vừa gật gù vừa nhìn quanh nhà với vẻ ngại ngùng. Tôi cũng theo ông nhìn quanh nhà. Hãy nhìn quanh anh, giọng người đàn bà kia đã bảo tôi. Nhìn ra xung quanh với cái nhìn mới mẻ đầy ý thức này, tôi nhận ra bầu không khí lan tỏa nơi đây có một sự lạnh lẽo nào đó.

            - Lần đi này tôi đã ở Tokyo hai tuần, - Trung úy Mamiya nói. – Ông là người cuối cùng mà tôi gặp để trao kỷ vật của ông Honda. Giờ thì tôi có thể quay về Hiroshima rồi.

            - Tôi mong sẽ có thể đến thăm nhà ông Honda thắp cho ông ấy nén nhang, - tôi nói.

            - Ý định ấy thật quý hóa, nhưng nhà ông Honda – nay là phần mộ ông ấy – là ở Asahikawa, Hokkaido. Gia đình ông ấy đã từ Asahikawa đến để thu xếp những gì ông còn để lại trong nhà ông ở Meguro, giờ thì họ quay về rồi. Không còn lại gì nữa.

            - Tôi hiểu, - tôi nói. – Vậy là lâu nay ông Honda không ở với gia đình mà sống một mình ở Tokyo.

            - Đúng vậy. Người con trai trưởng hiện sống ở Asahikawa rất áy náy về việc để cha già sống một mình ở thủ đô, người ngoài họ nhìn vào thì không hay lắm. Hình như anh ta từng thuyết phục cha về sống với mình, nhưng ông Honda từ chối.

            - Ông ấy có có trai à? – tôi hỏi, hơi sửng sốt. Lâu nay tôi cứ tưởng ông Honda chỉ có một thân một mình trên đời này. – Vậy thì hẳn vợ ông ấy qua đời khá lâu rồi.

            - Chuyện đó thì khá phức tạp. Sau chiến tranh bà Honda dang díu với một người đàn ông khác, rồi cả hai người tự sát. Hình như vào năm 1950 hay 1951 gì đó. Chi tiết thì tôi không được biết. Ông Honda chẳng bao giờ nói nhiều về chuyện đó, còn tôi nếu gặng hỏi thì dĩ nhiên không tiện.

            Tôi gật đầu.

            Sau đó ông Honda một mình nuôi con, một trai một gái. Khi con cái đủ lớn để tự lập, ông chuyển đến Tokyo ở một mình làm nghề bói toán, như ông biết đó.

            - Hồi ở Asahikawa ông ấy làm gì?

            - Ông ấy hùn vốn làm ăn với người anh trai trong ngành in ấn.

            Tôi cố hình dung ông Honda mặc quần áo bảo hộ lao động đứng trước máy in mà đọc bản in thử, nhưng trong ký ức tôi ông Honda là một ông già có phần lôi thôi bẩn thỉu mặc bộ kimono cũ mèm bẩn thỉu lôi thôi, đeo cái khăn quàng lẽ ra chỉ hợp với áo ngủ, đông cũng như hè luôn ngồi dưới sàn nhà, thõng chân xuống hố sưởi, tay nghịch đôi que bói trên chiếc bàn thấp.

            Trung úy Mamiya dùng bàn tay lành lặn khéo léo mở cái túi vải mang theo, lôi ra gói đồ hình thù giống như hộp kẹo nhỏ gói trong giấy thô buộc chặt mấy vòng dây. Trung úy đặt nó lên bàn rồi đẩy về phía tôi.

            - Đây là kỷ vật mà ông Honda nhờ tôi chuyển cho ông.

            Tôi cầm lên. Nó hầu như nhẹ bẫng. Nhìn bên ngoài tôi không đoán được bên trong là cái gì.

            - Tôi mở được không? – tôi hỏi.

            Trung úy Mamiya lắc đầu.

            - Tôi xin lỗi, nhưng ông Honda đã nói rõ, ông ấy muốn rằng chỉ khi nào có một mình ông mới mở.

            Tôi gật đầu, đặt lên bàn.

            - Thật ra tôi nhận được thư ông Honda đúng một ngày trước khi ông ấy qua đời. Thư viết thế này: “Tôi sắp chết. Tôi hoàn toàn không sợ chết. Ý trời đã định tôi chỉ sống được chừng ấy thôi. Đã là thiên mệnh thì làm sao cưỡng được. Tuy nhiên, còn một việc tôi chưa làm xong. Trong tủ tôi có mấy vật, những vật ấy tôi muốn chuyển cho một số người. Nay thì chắc tôi không tự mình làm việc ấy được nữa. Chính vì vậy tôi sẽ rất biết ơn nếu anh có thể giúp tôi phân phát chỗ kỷ vậy này theo danh sách đính kèm. Tôi biết mình yêu cầu như thế là quá đáng, nhưng tôi hy vọng anh sẽ coi đây là ý nguyện cuối cùng của tôi trước khi nhắm mắt mà gắng lòng thực hiện vì tôi.” Phải nói rằng tôi đã thật sự bị chấn động khi nhận được bức thư như thế của ông Honda. Đã nhiều năm nay – dễ đến sáu, bảy năm – tôi mất liên lạc với ông ấy, không hề viết thư cho nhau một chữ. Tôi viết thư hồi âm ngay, nhưng thư tôi bị trả về kèm theo giấy thông báo của con trai ông Honda rằng ông ấy đã qua đời.

            Ông nhấp một ngụm trà xanh.

            - Ông Honda biết rõ mình sắp chết, - Trung úy Mamiya nói tiếp. – Ông ấy đã đạt tới một trạng thái tâm thức mà những kẻ như tôi chẳng bao giờ mong có được. Như ông đã nói trong bưu thiếp, ở ông ấy có gì đó làm người khác bị xáo động sâu xa. Tôi cảm thấy điều đó ngay từ lần đầu gặp ông ấy, vào mùa hè năm 1938.

            - Ồ, có phải ông ở cùng đơn vị với ông Honda vào thời điểm trận Nomonhan không?

            - Không, - Trung úy Mamiya vừa nói vừa cắn môi. – Chúng tôi ở hai đơn vị khác nhau, thậm chí hai sư đoàn khác nhau. Chúng tôi tình cờ cùng tham gia một chiến dịch quân sự nhỏ ngay trước trân Nomonhan. Về sau hạ sĩ Honda bị thương ở Nomonhan và được đưa về Nhật. Tôi thì không có mặt ở Nomonhan. Tôi bị mất bàn tay – tới đây Trung úy Mamiya chìa bàn tay trái mang găng ra – trong trận tiến công của quân Xô Viết vào tháng Tám năm 1945, tháng cuối cùng của cuộc chiến. Tôi bị dính đạn súng máy hạng nặng vào vai trong trận đánh chống một đơn vị xe tăng, đang nằm bất tỉnh trên mặt đất thì một chiếc xe tăng Xô Viết cán lên tay tôi. Tôi bị bắt làm tù binh, được chữa trị ở quân viện tại Chita, sau đó bị đưa đến trại tù ở Siberia. Họ giam tôi cho tới năm 1949. Tính từ khi người ta cử tôi sang Mãn Châu từ năm 1937 thì tôi đã ở Trung Hoa đại lục tổng cộng mười hai năm. Suốt thời gian đó tôi không một lần đặt chân lên đất Nhật. Gia đình tôi cứ tưởng tôi đã chết trong khi đánh nhau với người Nga. Họ đã xây mộ cho tôi trong nghĩa địa làng. Trước khi rời Nhật tôi đã gần như là tỏ tình với một cô gái, nhưng khi tôi về thì cô ấy đã lấy người khác. Biết làm sao được. Mười hai năm chứ đâu có ít.

            Tôi gật đầu.

            - Tôi xin lỗi, thưa ông Okada, - ông nói. – người trẻ như ông mà nghe mấy chuyện ngày xưa này thì hẳn thấy chán lắm. Tuy nhiên, tôi muốn nói thêm một điều nữa. Đó là hồi ấy chúng tôi cũng là những chàng trai bình thường như ông vậy. Tôi chẳng bao giờ nghĩ đến chuyện đi lính. Tôi muốn làm thầy giáo kia. Tuy nhiên, ngay khi tôi rời trường, người ta gửi giấy gọi nhập ngũ, tống tôi vào trường huấn luyện sĩ quan, thế là rốt cuộc tôi nằm ở Trung Hoa đại lục suốt mười hai năm trời. Đời tôi cứ như một giấc mơ vậy, - nói xong câu này, Trung úy Mamiya nín lặng.

            - Nếu không có gì bất tiện, tôi rất muốn được biết ông và ông Honda đã quen biết nhau như thế nào, - lát sau tôi nói. Tôi thực tình muốn biết ông Honda từng là người như thế nào trước khi gặp Trung úy Mamiya.

            Trung úy Mamiya ngồi ngẫm nghĩ điều gì, hai bàn tay đặt đúng trên đầu gối. Chẳng phải là ông không biết nên làm gì. Chỉ là ông đang suy nghĩ.

            - Chuyện có thể dài đấy, - ông nói.

            - Không sao cả.

            - Chuyện này tôi chưa hề kể với ai. Mà tôi tin chắc rằng cả ông Honda cũng không hề kể với ai. Lý do là hai chúng tôi… đã có một thỏa thuận… là giữa bí mật chuyện này. Nhưng ông Honda đã mất. Tôi là người duy nhất còn lại. Nếu tôi kể thì cũng chẳng làm hại ai. Thế là Trung úy Mamiya bắt đầu kể cho tôi nghe chuyện của ông.

12

            Chuyện dài của Trung úy Mamiya: Phần 1

            *

             Trung úy Mamiya bắt đầu kể.

            Tôi được đưa tới Mãn Châu bằng tàu thủy vào đầu năm 1937. Lúc ấy tôi là một thiếu úy mới toe. Người ta bổ nhiệm tôi tới Bộ Tổng Tham mưu đạo quân Quan Đông ở Tân Kinh. Hồi ở đại học tôi theo chuyên ngành địa lý nên rốt cuộc tôi được điều về Cục bản đồ quân sự, chuyên trách vẽ bản đồ. Điều đó thật lý tưởng đối với tôi vì rằng, nói thật, công việc tôi được giao là một trong những việc nhẹ nhàng nhất người ta có thể mong được làm trong quân đội.

            Ngoài ra, tình hình ở Mãn Châu tương đối bình yên, hay ít nhất là ổn định. Sự cố Trung Hoa(14) vừa xảy ra đã đẩy vũ đài quân sự Mãn Châu vào lãnh thổ Trung Hoa. Lực lượng viễn chinh Trung Hoa mới là lực lượng đang tham chiến, còn đạo quân Quan Đông thì đang thảnh thơi. Thật ra vẫn có những chiến dịch lẻ tẻ nhằm vào các đơn vị du kích kháng Nhật nhưng chỉ diễn ra ở những vùng sâu, nói chung là giai đoạn xấu nhất đã qua. Nhiệm vụ duy nhất của đội quân Quan Đông lúc này là duy trì trật tự ở nước Mãn Châu bù nhìn “độc lập” vừa thành lập, đồng thời để mắt canh chừng phía Bắc.

            Nhưng dù tình hình có vẻ bình an đi nữa thì vẫn đang là thời chiến, nên vẫn phải thường xuyên luyện tập. Cũng may, tôi không phải tham gia những buổi tập như vậy. Người ta phải luyện tập trong những hoàn cảnh thật kinh khủng. Nhiệt độ tụt xuống đến bốn mươi, năm mươi độ dưới không. Bước nhầm một bước trong những buổi tập kiểu đó là có thể mất mạng. Mỗi khi có buổi tập như vậy là y như rằng hàng trăm người phải vào bệnh viện vì tê cóng hoặc được đưa đến suối nước nóng để điều trị. Tân Kinh không phải là một thành phố lớn nhưng vẫn là một chốn lạ xứ người, thành thử nếu anh muốn vui chơi thì chẳng thiếu gì trò tiêu khiển. Cánh sĩ quan trẻ độc thân như tôi không sống trong doanh trại mà ở một thứ kiểu như nhà nghỉ. Nó như là kéo dài quãng đời sinh viên vậy. Tôi chẳng nghĩ ngợi gì nhiều, cứ đinh ninh rằng chẳng có gì phải than phiền nếu thời gian quân dịch của tôi cứ đều đều như vậy, bình an, ngày này qua ngày khác.

            Dĩ nhiên, thì đó chỉ là bình an giả tạo. Ngay ngoài rìa cái vòng tròn ánh nắng nhỏ nhoi của chúng tôi, một cuộc chiến khốc liệt vẫn đang diễn ra. Hầu hết người Nhật đều hiểu rằng cuộc chiến với Trung Hoa có thể biến thành một vũng lầy mà chúng ta sẽ không bao giờ thoát ra được. Ít nhất là người Nhật nào có cái đầu đều nhận ra điều đó. Dù chúng ta có thắng bao nhiêu trận thì cũng thế: Nhật Bản không có cách gì để tiếp tục chiếm đóng và cai trị một đất nước khổng lồ như vậy. Điều đó thật hiển nhiên, chỉ cần nghĩ cho tỉnh táo là thấy ngay. Mà rõ ràng là vậy, chiến sự càng tiếp diễn, số người chết và bị thương càng nhân lên. Quan hệ với Hoa Kỳ đã tệ càng tồi tệ. Bóng ma chiến tranh cứ ngày một u ám ngay cả tại quê nhà Nhật Bản. Đó là những năm đen tối, 1937, 1938. Thế nhưng khi sống cuộc đời sĩ quan vô lo ở Tân Kinh, hầu như ta chỉ muốn tự hỏi: “Chiến tranh? Chiến tranh nào kia?” Tối nào chúng tôi cũng kéo nhau đi chè chén và bù khú, lại hay đến những quán cà phê có các cô gái người Bạch Nga.

            Thế rồi, một ngày cuối năm 1938, một sĩ quan cấp cao ở Bộ Tổng Tham mưu gọi tôi lên giới thiệu tôi với một người mặc thường phục tên là Yamamoto. Y cắt tóc ngắn, để ria mép. Y không cao lớn lắm, trạc ba tư, ba lăm tuổi, có vết sẹo trên cổ trông như vì một thứ lưỡi bén nào đó. Viên sĩ quan nói với tôi:

            - Ông Yamamoto là thường dân. Ông ấy được quân đội thuê tiến hành khảo sát đời sống và tập tục của người Mông Cổ sống ở Mãn Châu. Lần này ông ấy sẽ đến thảo nguyên Hulunbuir gần biên giới Ngoại Mông, chúng tôi sẽ cử một đội vũ trang tháp tùng theo ông ấy. Anh sẽ là một thành viên trong nhóm này.

            Tôi không tin một lời nào ông ta nói. Gã Yamamoto này mặc thường phục thật đấy, nhưng chỉ cần liếc qua ai cũng biết y là một quân nhân chuyên nghiệp. Cái nhìn trong mắt y, cách y nói, kiểu dáng đi đứng của y, lầm sao được. Tôi cho rằng y là một sĩ quan cao cấp có quan hệ với tình báo, đang thi hành một điệp vụ bí mật nên phải giấu nhẹm việc mình là nhà binh. Có cái gì đó có vẻ chẳng lành trong toàn bộ chuyện này.

            Được phân công đi theo Yamamoto có ba người, kể cả tôi. Để có một đội hộ tống vũ trang hữu hiệu thì thế là quá ít, tuy rằng nếu đông người hơn thì có thể gây chú ý cho các đơn vị quân đội Ngoại Mông đang triển khai dọc biên giới. Người ta cũng có thể coi đây là trường hợp giao phó một nhiệm vụ bí mật cho một nhóm người đặc tuyển, nhưng sự thật thì hoàn toàn khác. Trong nhóm chỉ có mình tôi là sĩ quan, mà tôi thì kinh nghiệm chiến đấu chẳng có gì. Người duy nhất mà cả nhóm có thể trông cậy nếu xảy ra chạm súng là một viên trung sĩ tên Hamano. Tôi biết rõ anh ta vì anh này được giao nhiệm vụ hỗ trợ cho bộ tổng tham mưu. Anh ta là một tay gan lì, đã từ những cấp bậc thấp nhất leo lên đến hàm hạ sĩ quan, từng tỏ ra xuất sắc trong các trận đánh ở Trung Hoa. Anh ta cao lớn, rắn rỏi, không biết sợ là gì, nói gọn là, tôi tin chắc chúng tôi có thể trông cậy vào anh ta trong những lúc dầu sôi lửa bỏng. Nhưng sao người ta lại đưa cả hạ sĩ Honda vào nhóm thì tôi chịu không hiểu được. Cũng như tôi, anh ta mới chân ướt chân ráo từ Nhật sang và dĩ nhiên là chưa hề biết mùi đánh đấm. Anh ta là một tay mềm mỏng, ít nói, xem ra lúc lâm trận thì sẽ chẳng được tích sự gì. Đã vậy anh ta vốn là người của Sư đoàn Bảy, nghĩ là Bộ Tổng Tham mưu đã phải cất công sang bên đó điều động anh ta về chỉ để tham gia sứ mệnh này. Vậy ra anh ta là một người lính có giá trị lắm, nhưng mãi về sau chúng tôi mới thấy rõ tại sao.

            Tôi được chọn làm trưởng nhóm hộ tống bởi nhiệm vụ chính của tôi là nghiên cứu địa hình biên giới phía Tây của Mãn Châu quốc trong lưu vực sông Khalkha. Việc của tôi là kiểm tra xem các bản đồ chúng tôi hiện có về khu vực này hoàn chỉnh đến đâu. Thậm chí tôi từng đến vùng này mấy lần bằng máy bay. Hẳn rằng tôi có mặt là để sứ mạng được hoàn thành êm đẹp. Nhiệm vụ thứ hai của tôi là thu thập thêm thông tin chi tiết về địa hình khu vực này nhằm nâng độ chính xác của bản đồ. Một hòn đá trúng hai con chim, như người ta đã nói. Thành thật mà nói, những bản đồ chúng tôi có hồi đó về Thảo nguyên Hulunbuir giáp giới với Nội Mông chỉ là những thứ bản thô, chẳng hoàn thiện hơn là mấy so với các bản đồ cổ từ thời nhà Thanh. Đạo quân Quan Đông đã tiến hành mấy đợt vẽ bản đồ từ sau khi Mãn Châu quốc được thành lập. Họ muốn vẽ những bản đồ chính xác hơn, nhưng khu vực mà họ muốn bao quát lại quá rộng, miền Tây Mãn Châu thì chỉ là một sa mạc vô tận. Ở những vùng hoang địa mênh mông thế kia thì biên giới quốc gia chẳng có ý nghĩa gì lắm. Những người du mục Mông Cổ đã sinh sống ở đó hàng trăm năm chẳng cần tới biên giới, thậm chí không hề có ý niệm biên giới là gì.

            Tình hình chính trị cũng gây cản trở cho việc vẽ bản đồ chính xác hơn. Có nghĩa là, nếu chúng tôi vội đơn phuơng đưa ra một bản đồ chính thức trình bày đường biên giới quốc gia theo ý của riêng mình thì có thể sẽ nổ ra xung đột toàn diện cấp quốc tế. Cả Liên Xô và Ngoại Mông, những nước có chung biên giới với Mãn Châu quốc, cực kỳ nhạy cảm về vấn đề xâm phạm biên giới, đã từng có mấy trường hợp giao tranh đẫm máu vì chuyện này. Vào thời điểm đó quân đội chúng ta không có ý định đánh nhau với Liên Xô. Toàn bộ lực lượng của chúng ta đã dồn vào cuộc chiến với Trung Hoa, chẳng còn lại gì để có thể giáp chiến trên quy mô lớn với Liên Xô. Chúng tôi không có đủ sư đoàn, không đủ xe tăng, pháo binh lẫn máy bay. Ưu tiên hàng đầu là bảo đảm an ninh của Mãn Châu quốc vốn vẫn là một thực thể chính trị tương đối mới. Việc xác định biên giới phía Bắc và Tây Bắc có thể để sau, ý của phía quân đội là vậy. Họ muốn câu thời gian bằng cách cứ để mọi chuyện không rõ ràng. Ngay cả đạo quân Quan Đông hùng mạnh cũng theo quan điểm này và giữ thái độ “chờ để xem”. Hệ quả là người ta để mặc mọi chuyện bị bao trùm trong một sự mơ hồ.

            Tuy nhiên, nếu dù lãnh đạo có tính toàn kỹ đến đâu đi nữa mà vẫn có sự kiện bất ngờ nào đó làm chiến tranh nổ ra (trên thực tế đã diễn ra như vậy ở Nomonhan một năm sau đó) thì phải có bản đồ mới đánh nhau được. Không phải loại bản đồ dân sự thông thường mà là bản đồ tác chiến thứ thiệt kia. Trong chiến tranh ta cần có những bản đồ chỉ rõ phải đóng quân ở đâu, chỗ nào bố trí hỏa lực hữu hiệu nhất, bộ binh phải mất bao nhiêu ngày để đi đến chỗ kia, nguồn nước ở đâu, cần bao nhiêu thức ăn cho lũ ngựa: bao nhiêu là thông tin chi tiết cần phải có. Không có bản đồ như vậy thì không thể tiến hành chiến tranh hiện đại được. Chính vì vậy công việc của chúng tôi phần nhiều lại chồng chéo với công việc của bên tình báo, chúng tôi vẫn thường xuyên trao đổi thông tin với với bộ phận tình báo của đạo quân Quan Đông hay đơn vị đặc nhiệm của quân đội ở Hailar. Hai bên ai cũng biết nhau, nhưng tay Yamamoto này thì tôi chưa gặp bao giờ.

            Sau năm ngày chuẩn bị, chúng tôi rời Tân Kinh đến Hailar bằng xe lửa. Từ đó chúng tôi chuyển sang xe tải, qua khu vực chùa phật giáo Tây Tạng Khan-buo thì đến trạm quan sát biên giới của đạo quân Quan Đông gần sông Khalkha. Tôi không nhớ chính xác chúng tôi đã đi bao xa, khoảng hơn ba trăm cây số gì đó. Ấy là một vùng cực hoang vu, hoàn toàn trơ trụi, nhìn ngút mắt cũng không thấy bất kỳ một cái gì. Công việc của tôi đòi hỏi phải thường xuyên đối chiếu bản đồ với địa hình thực, nhưng không có gì để tôi đối chiếu cả, chẳng có cái gì là địa thế đặc biệt may ra có thể dùng làm mốc định hướng. Đâu đâu cũng toàn những đồi gò nham nhở đầy cỏ dại kéo dài mãi không hết, đường chân trời bất tận, những đám mây trôi trên bầu trời. Tôi chịu chẳng cách nào xác định được mình đang ở đâu trên bản đồ. Chỉ có thể đoán chừng dựa trên quãng thời gian mình đã đi mà thôi.

            Đôi lúc, những khi lặng lẽ đi qua một vùng đất bao la hoang vắng đến nhường đó, ta có thể bị một ảo giác choán ngợp rằng bản thân ta, một con người riêng lẻ, đang dần dần bị tiêu biến đi. Không gian xung quanh rộng lớn đến nỗi càng lúc càng khó giữ cho cân bằng bản thân sự tồn tại của ta. Ông có hiểu ý tôi không? Ý thức trương nở ra để lấp đầy toàn bộ cảnh quan, bị tan hòa đến độ ta không còn khả năng gắn kết nó vào nhục thể của ta. Tôi đã cảm nhận chính mình như vậy giữa lòng thảo nguyên Mông Cổ. Mênh mông quá! Giống đại dương hơn là giống cảnh sa mạc. Mặt trời mọc ở chân trời phía Đông, chậm rãi băng qua bầu trời rồi lặn xuống chân trời phía Tây. Đó là sự thay đổi duy nhất nhìn thấy được xung quanh chúng tôi. Và trong sự chuyển động đó của mặt trời tôi cảm nhận được một cái gì khó gọi tên, một tình yêu lớn lao, có tính vũ trụ.

            Ở chốt biên giới của quân đội Mãn Châu quốc, chúng tôi chuyển từ xe tải sang cưỡi ngựa. Người ta đã chuẩn bị cho chúng tôi đủ mọi thứ: bốn con ngựa để cưỡi, thêm hai con ngựa thồ mang sẵn thức ăn, nước uống và vũ khí. Chúng tôi trang bị vũ khí nhẹ. Tôi và gã tên Yamamoto chỉ mang súng lục. Hamano và Honda thì mỗi người ngoài súng lục còn mang một khẩu súng trường bộ binh M38 và hai quả lựu đạn.

            Trên thực tế chỉ huy nhóm của chúng tôi là Yamamoto. Y quyết định mọi chuyện, cũng y là người ra lệnh. Bởi bề ngoài y được coi là dân thường nên theo luật nhà binh thì tôi là sĩ quan chỉ huy, song trên thực tế chẳng ai nghi ngờ rằng chính hắn mới có quyền ra lệnh. Một mặt, hắn là loại người sinh ra để làm chuyện đó, mặt khác, dù tôi mang lon trung úy nhưng kỳ thực tôi chỉ là một cây cạo giấy chưa hề biết thế nào là trận mạc. Cánh quân nhân nhìn ra ngay ai thực sự là kẻ có năng lực, và chỉ kẻ đó họ mới vâng lời mà thôi. Ngoài ra, cấp trên đã lệnh cho tôi phải tuân theo chỉ thị của Yamamoto mà không thắc mắc gì hết. Việc tôi tuân lời hắn là một điều gì đó vượt ngoài lề luật và phép tắc thông thường.

            Chúng tôi đi về phía sông Khalkha rồi men theo dòng sông về phía Nam. Dòng sông dềnh lên vì tuyết mới tan. Chúng tôi nhìn thấy những con cá lớn trong dòng nước. Đôi khi ở đằng xa thấp thoáng những con sói. Có lẽ đó không phải là sói thuần chủng mà một phần lai chó rừng, nhưng dù sao vẫn nguy hiểm. Chúng tôi phải cắt người canh gác hàng đêm để bảo vệ lũ ngựa trước bầy sói. Chúng tôi thấy nhiều chim, hầu hết là chim di trú trên đường trở về Siberia. Yamamoto và tôi thường thảo luận với nhau về các đặc điểm địa hình. Chúng tôi đối chiếu bản đồ với con đường đang đi, ghi chép cẩn thận vào sổ mọi chi tiết nhỏ mình nhận thấy. Tuy nhiên, ngoài những cuộc trao đổi chuyên môn đó, Yamamoto hầu như không nói chuyện với tôi. Y lặng lẽ thúc ngựa đi, ăn một mình chứ không ăn cùng chúng tôi, đêm thì đi ngủ mà không nói một lời. Tôi có cảm giác đây không phải là lần đầu tiên y đến vùng này. Y am hiểu địa hình, phương hướng, vân vân… một cách chính xác đến kỳ lạ.

            Sau khi tiến về phương Nam được hai ngày không xảy ra sự cố gì, Yamamoto gọi riêng tôi ra bảo rằng sáng hôm sau chúng tôi sẽ vượt sông Khalkha. Tôi nghe mà sững sờ. Bờ bên kia đã là lãnh thổ Ngoại Mông. Ngay cả bờ sông nơi chúng tôi đang đứng cũng là khu vực nguy hiểm bởi vấn đề tranh chấp biên giới. Người Mông Cổ khăng khăng rằng đấy là đất của họ. Mãn Châu quốc cũng tuyên bố đây là lãnh thổ của mình, vì vậy mà hai bên thường xuyên xung đột vũ trang. Nếu chúng tôi bị quân đội Ngoại Mông bắt ở bờ bên này thì ít ra sự bất đồng ý kiến kia giữa hai bên còn là một cái cớ để du di cho chúng tôi. Thực ra thì ít có nguy cơ chạm trán quân đội Ngoại Mông ở đây vào mùa này, bởi tuyết đang tan nên rất khó vượt sông. Nhưng bờ bên kia thì khác hẳn. Nhất định là bên kia có quân tuần tra Mông Cổ. Nếu chúng tôi bị bắt ở bên kia thì chẳng có cớ gì thanh minh được. Rõ ràng đây sẽ là một vụ xâm phạm biên giới, có thể dấy lên đủ thứ rắc rối về chính trị. Chúng tôi có thể bị bắn ngay tại chỗ, chính phủ cũng chẳng bảo vệ được. Ngoài ra, sĩ quan cấp trên không hề nói rằng chúng tôi có thể vượt qua biên giới. Dĩ nhiên người ta đã bảo tôi phải tuân lệnh Yamamoto, nhưng tôi không cách nào biết được liệu có cần phải tuân lệnh y ngay cả trong một việc nghiêm trọng như là xâm phạm biên giới không. Thứ hai, như tôi đã nói ban nãy, sông Khalkha đang tràn bờ, dòng chảy quá mạnh khó lòng vượt qua, ấy là chưa nói nước lạnh cắt da cắt thịt. Ngay cả các bộ lạc du mục cũng chẳng vượt sông vào mùa này trong năm. Họ thường chỉ vượt sông trong mùa đông khi sông đã đóng băng, hoặc vào mùa hè khi dòng chảy êm, nước ấm.

            Khi tôi nói hết những điều đó với Yamamoto, y nhìn tôi chằm chằm một lát. Đoạn y gật gật đầu mấy cái. – Tôi hiểu nỗi lo của anh về việc xâm phạm biên giới, - y nói, vẻ có phần kẻ cả. – Với một sĩ quan có những người cấp dưới trong tay thì cân nhắc vấn đề trách nhiệm trong những chuyện như thế là điều tự nhiên. Anh không bao giờ muốn cho thuộc cấp của mình phải nguy hiểm đến tính mạng nếu không có lý do chính đáng. Nhưng anh cứ để chuyện ấy cho tôi. Tôi sẽ chịu hoàn toàn trách nhiệm trong việc này. Tôi không thể giải thích nhiều với anh, nhưng việc này đã được thông qua ở cấp cao nhất của quân đội. Về chuyện vượt sông thì anh đừng lo, chúng ta chẳng bị trở ngại gì về mặt kỹ thuật cả. Có một chỗ kín đáo, ít người biết, ở đó ta có thể vượt sông. Quân đội Ngoại Mông đã xây dựng một số điểm như vậy. Chuyện đó thì hẳn anh cũng biết rõ. Bản thân tôi đã vượt sông mấy lần tại điểm đó vào mùa này. Năm ngoái tôi đã vào lãnh thổ Ngoại Mông cũng vào mùa này, chính tại chỗ đó. Anh chẳng việc gì phải lo.

            Y nói đúng ở một điểm. Quân đội Ngoại Mông, vốn biết rõ khu vực này như lòng bàn tay, từng cử các đơn vị chiến đấu – tuy không nhiều lắm – đến phía bên này sông trong mùa tuyết tan. Đã vậy thì họ cũng có thể đưa sang hàng đạo quân nếu muốn. Và một khi họ đã có thể vượt sông thì gã Yamamoto này cũng vượt được, và chẳng có lý nào những kẻ còn lại trong bọn tôi thì không.

            Hiện chúng tôi đang đứng tại một trong những điểm vượt sông bí mật mà quân đội Ngoại Mông đã xây dựng. Nó được ngụy trang khéo léo, thoạt nhìn khó nhận ra. Một cây cầu bằng ván ghép chìm dưới nước, hai đầu buộc chắt bằng thừng để trụ lại giữa dòng nước xiết, nối liền hai chỗ cạn ở hai bên bờ sông. Xe chở lính, xe thiết giáp, xe tăng chỉ cần ngập bánh dưới nước một chút là có thể vượt sông bằng cây cầu này. Do cầu được phủ kín dưới nước nên máy bay thám thính không bao giờ phát hiện được. Chúng tôi băng qua dòng nước xiết bằng cách bám theo dây thừng. Yamamoto đi đầu để kiểm tra xem có lính tuần canh của Ngoại Mông hay không, chúng tôi theo sau y. Chân chúng tôi tê dại trong nước lạnh cắt da, nhưng người ngựa vẫn cố sang tới được bờ bên kia sông Khalkha. Bờ bên kia cao hơn nhiều, đứng ở đó chúng tôi có thể trông xa hàng nhiều dặm về sa mạc bao la phía bên này sông. Đây là một lý do khiến quân đội Xô Viết đã luôn luôn có lợi thế hơn khi trận Nomonhan nổ ra. Sự khác biệt về cao độ cũng ảnh hưởng đến độ chính xác của hỏa lực. Dù thế nào đi nữa, tôi nhớ mình đã thật sửng sốt thấy cảnh quan hai bên bờ khác nhau đến vậy. Tôi cũng nhớ, mất một hồi lâu lắm mới lại có cảm giác ở đôi chân phải ngâm quá lâu trong làn nước băng giá. Thậm chí mãi một hồi tôi mới lên tiếng lại được. Nhưng, tình thật, duy sự căng thẳng khi nhớ ra mình đang ở trên lãnh địa kẻ thù cũng đủ khiến chúng tôi quên phắt cái lạnh.

            Chúng tôi men theo dòng sông về phía Nam. Như con rắn ngoằn ngoéo uốn khúc, dòng Khalkha chảy phía dưới chúng tôi, về bên trái. Ngay sau khi vượt sông, Yamamoto khuyên chúng tôi lột bỏ hết quân hàm, chúng tôi liền làm theo. Hẳn là vì những thứ này sẽ chỉ gây thêm rắc rối nếu chúng tôi bị địch bắt. Vì lý do đó, tôi tháo đôi ủng sĩ quan và chuyển sang đi ghệt.

            Tối hôm đó chúng tôi đang cắm trại thì một người đàn ông từ xa cưỡi ngựa đến gần chúng tôi. Y là người Mông Cổ. Người Mông Cổ dùng thứ yên ngựa cao khác thường cho nên dễ nhận ra họ từ xa. Vừa nhác thấy kẻ đang lại gần, trung sĩ Hamano liền chộp ngay khẩu súng trường, nhưng Yamamoto bảo anh ta đừng bắn. Hamano chầm chậm hạ súng xuống, chẳng nói chẳng rằng. Bốn chúng tôi đứng đó, đợi người kia lại gần. Y đeo ngang lưng một khẩu súng trường của Liên Xô, một khẩu súng Mauser giắt ở lưng. Mặt y râu quai nón xồm xoàm, đầu đội mũ có che tai. Bộ quần áo bẩn thỉu của y giống của dân du mục, nhưng nhìn phong thái của y có thể biết ngay rằng y là quân nhân chuyên nghiệp.

            Gã đàn ông xuống ngựa nói với Yamamoto bằng một thứ tiếng tôi cho là tiếng Mông Cổ. Tôi biết chút ít cả tiếng Nga lẫn tiếng Trung Hoa, nhưng đây không phải tiếng này cũng chẳng phải tiếng kia, vậy ắt là tiếng Mông Cổ. Yamamoto trả lời người kia cũng bằng thứ tiếng đó. Điều này càng khiến tôi tin chắc Yamamoto là sĩ quan tình báo.

            Yamamoto bảo tôi:

            - Này Trung úy Mamiya, tôi sẽ đi cùng người này. Tôi không biết sẽ đi bao lâu, nhưng tôi muốn các anh chờ ở đây, dĩ nhiên là phải luôn luôn cảnh giác. Nếu trong vòng ba mươi sáu giờ mà tôi chưa trở về, các anh phải báo cáo với bộ tham mưu. Hãy cử một người vượt sông trở về chốt quan sát của quân đội Mãn Châu quốc.

            Nói xong, y lên ngựa cùng với người Mông Cổ ruổi về phía Tây.

            Dựng trại xong, ba chúng tôi dùng bữa tối đạm bạc. Chúng tôi không thể nấu nướng hay đốt lửa. Thảo nguyên mênh mông này nhìn đâu cũng chỉ thấy rặt những gò cát thấp, không có một cái gì che chắn chúng tôi, nên chỉ cần một làn khói nhỏ cũng đủ để chúng tôi bị tóm cổ lập tức. Chúng tôi dựng lều thấp dưới các đụn cát, chỉ ăn bánh quy khô và thịt hộp nguội. Khi mặt trời đã lặng dưới chân trời, bóng tối nhanh chóng trùm lên chúng tôi, bầu trời nhiều sao đến mức khó tin. Xa xa có tiếng sói tru lẫn trong tiếng gầm gào của dòng sông Khalkha. Chúng tôi nằm dài trên cát nghỉ ngơi sau một ngày kiệt lực.

            Trung sĩ Hamano bảo tôi:

            - Xem ra chúng ta đặt chân vào hiểm địa rồi đây, trung úy à.

            Tôi đành phải đồng ý với anh ta. Cho tới khi đó, ba chúng tôi – trung sĩ Hamano, hạ sĩ Honda và tôi – đã khá hiểu nhau. Thói thường, một hạ sĩ quan dày dạn súng đạn như hạ sĩ Hamano sẽ giữ thái độ xa cách và khinh khỉnh đối với một sĩ quan trẻ non nớt như tôi, nhưng trường hợp chúng tôi thì khác. Anh ta tôn trọng tôi vì tôi có học vấn, đã tốt nghiệp một trường không phải là trường nhà binh, tôi thì thực lòng quan tâm đến kinh nghiệm trận mạc và óc phán xét đầy thực tiễn của anh ta mà không coi trọng chuyện cấp bậc. Chúng tôi còn dễ nói chuyện với nhau bởi anh ta quê ở Yamaguchi còn tôi ở Hiroshima, không xa Yamaguchi. Anh ta kể tôi nghe về cuộc chiến ở Trung Hoa. Anh ta là người lính từ đầu đến chân, học vấn võ vẽ hết cấp tiểu học, nhưng anh ta cũng có nỗi hoài nghi về cái cuộc chiến trần ai tưởng như không bao giờ dứt này ở đại lục. Anh ta bộc bạch với tôi.

            - Tôi không nề hà chuyện đánh nhau. Tôi là người lính. Tôi sẵn sàng chết trên chiến trường vì tổ quốc, bởi vì đó là việc của tôi. Nhưng cái cuộc chiến mà chúng ta đang lâm vào ấy, trung úy à, nó không chính đáng đâu. Nó không phải là cuộc chiến thật, không có chiến tuyến nơi ta giáp mặt quân địch mà đánh tới nơi tới chốn. Chúng ta tiến, còn địch thì rút lui không đánh. Rồi lính Trung Hoa họ cởi hết quân phục mà trà trộn vào dân thường, thế là chúng ta chẳng còn biết kẻ thù là ai nữa. Vậy nên chúng ta giết nhiều người vô tội với cái cớ là tiêu diệt “bọn nổi loạn” hay “đám tàn quân” và tịch thu thực phẩm. Chúng ta buộc phải cướp đồ ăn của họ vì chiến tuyến di chuyển quá nhanh nên hậu cần của ta không theo kịp. Và ta buộc phải giết tù binh vì không biết giam chúng ở đâu hay lấy gì cho chúng ăn. Thế là sai, trung úy ạ. Chúng ta đã làm những chuyện kinh khủng ở Nam Kinh. Chính đơn vị tôi làm. Chúng tôi quẳng hàng tá người xuống giếng rồi ném lựu đạn xuống theo. Có những chuyện chính mình đã làm mà bây giờ không sao mở miệng nói ra được. Trung úy ạ, tôi nói với anh rằng đây là một cuộc chiến hoàn toàn không có Lý do Chính đáng nào hết. Chỉ là hai bên giết nhau thôi. Những người chịu chết chóc đau thương hóa ra toàn là đám nông dân nghèo khổ, họ thì có biết chính trị hay ý thức hệ là cái gì đâu. Với họ thì chả có Quốc dân đảng, chả có Thống chế Trương(15), chả có Bát lộ quân nào hết. Có cái ăn là họ hạnh phúc rồi. Tôi biết cảm nghĩ họ ra sao, vì chính tôi là con một ngư dân nghèo. Những người thấp cổ bé họng làm quần quật từ sáng đến tối cũng chỉ vừa đủ cầm xác. Tôi không tin, giết những người như vậy mà hoàn toàn không có lý do gì hết thì liệu có tốt lành gì cho nước Nhật.

            Khác với trung sĩ Hamano, hạ sĩ Honda chẳng có gì nhiều để nói về mình. Nói chung, anh ta là một tay ít nói. Anh ta thường im lặng nghe chúng tôi nói chuyện mà không chêm nhận xét của mình vào. Nhưng bảo rằng anh ta “ít nói” vậy thôi, chứ thật ra anh ta không phải là loại người bản tính lầm lì khó chịu hay rầu rĩ. Chỉ là anh ta ít khi tự mở miệng. Thực sự là điều đó khiến tôi thỉnh thoảng lại tò mò không biết anh ta đang nghĩ gì, nhưng anh ta hoàn toàn không phải là kẻ khó gần. Thậm chí, chính phong thái bình thản của anh ta nhiều khi lại làm người khác thấy nhẹ lòng. Anh ta quả thật là điềm tĩnh. Dù chuyện gì xảy ra đi nữa, anh ta không hề đổi sắc mặt. Tôi được biết anh ta quê ở Asahikawa, ở đó cha anh ta có một nhà in nhỏ. Anh ta kém tôi hai tuổi. Sau khi học xong, anh ta cùng các anh trai làm việc cho nhà in của cha. Anh ta là em út trong ba anh em, người anh cả thì đã bị giết ở Trung Hoa hai năm về trước. Anh ta thích đọc sách, hễ rảnh được phút nào là y như rằng tôi thấy anh ta cuộn tròn một góc mà đọc cuốn sách nào đó về đề tài Phật giáo.

            Như tôi đã nói, Honda hoàn toàn không có kinh nghiệm chiến đấu thực tế, nhưng dù chỉ mới được huấn luyện một năm, anh ta đã là một người lính kiệt xuất. Trong mỗi trung đội luôn luôn có một hai người như vậy, những người luôn luôn nhẫn nại, bền gan, thực hiện đến cùng nghĩa vụ của mình không một lời ta thán. Thể chất khỏe mạnh, phản xạ tuyệt hảo, họ hiểu ngay lập tức những gì được chỉ bảo và áp dụng chính xác vào thực tế. Honda là một người như vậy. Và do được đào tạo về kỵ binh nên anh ta là người biết rõ nhất về loài ngựa; anh ta lãnh phần chăm sóc cả sáu con mà chúng tôi mang theo. Đôi khi chúng tôi cảm thấy dường như anh ta hiểu tâm trạng lũ ngựa đến từng chân tơ kẻ tóc. Trung sĩ Hamano thừa nhận ngay khả năng của hạ sĩ Honda và giao phó cho anh ta ngần ấy việc mà không chút băn khoăn.

            Vậy nên tuy đơn vị chúng tôi khác thường, chắp vá là vậy nhưng chúng tôi hết sức hiểu nhau. Và chính bởi không phải là một đơn vị bình thường nên chúng tôi không hề câu nệ những thứ quy tắc nhà binh theo sách vở. Chúng tôi rất thoải mái, cởi mở với nhau, gần như là Nghiệp quả đã đưa chúng tôi đến với nhau vậy. Chính vì thế trung sĩ Hamano mới có thể nói thẳng với tôi những gì vượt ngoài cái khuôn phép bất di bất dịch giữa sĩ quan với hạ sĩ.

            - Trung úy này, - có lần anh ta hỏi, - ông nghĩ thế nào về tay Yamamoto kia?

            - Tôi dám đánh cuộc là mật vụ, - tôi nói. – Nếu không phải chuyên gia thì làm sao nói tiếng Mông Cổ như thế được. Lại còn thông thạo vùng này như lòng bàn tay nữa.

            - Tôi cũng nghĩ như vậy. Ban đầu tôi cứ nghĩ hắn là một trong những bọn đạo tặc chuyên cưỡi ngựa thông đồng với đám sĩ quan chóp bu, nhưng hóa ra không phải. Lũ ấy tôi còn lạ gì. Chúng nó đã mở mồm là nói rạc tai, mười phần hết năm phần là bịa. Rút súng thì nhanh như chớp. Nhưng tay Yamamoto này thì không phải hạng xoàng. Hắn là tay tổ đấy. Sĩ quan cao cấp, rất cao nữa là khác. Chuyện ấy thì đứng xa một dặm tôi cũng ngửi ra. Tôi nghe nói quân ta muốn kết hợp đơn vị tác chiến bí mật nào đó với những người Mông Cổ thuộc quân đội do Liên Xô đào tạo, và người ta đã đưa sang một số chuyên viên mật vụ để lo chiến dịch này. Có thể Yamamoto có liên quan đến vụ này.

            Hạ sĩ Honda đang cầm súng đứng canh ở cách chúng tôi một quãng. Tôi đặt khẩu Browning ngay bên cạnh để có thể chộp lấy bất cứ lúc nào. Trung sĩ Hamano đã tháo ghệt ra và đang xoa bó chân.

            - Dĩ nhiên là tôi chỉ đoán thế thôi, - anh ta nói thêm. – Gã Mông Cổ mà chúng ta gặp có thể là một sĩ quan quân đội Mông Cổ đang chống người Liên Xô và cố tiếp xúc bí mật với quân đội Nhật.

            - Cũng có thể, - tôi nói. – Nhưng anh nhớ giữ mồm giữ miệng, kẻo người ta chặt đầu đấy.

            - Nào, nào, trung úy, tôi đâu có ngu thế. Chuyện này chỉ giữa hai chúng ta thôi, - anh ta nhe răng cười với tôi, rồi trở nên nghiêm trang. – Nhưng nếu đúng vậy thật thì nguy hiểm lắm. Khéo mà chiến tranh như chơi.

            Tôi gật đầu đồng tình. Ngoại Mông về hình thức là một nước độc lập, nhưng thực chất là một xứ vệ tinh của Liên Xô. Theo nghĩa đó thì nó chẳng khác là bao so với Mãn Châu quốc, nơi quyền hành thực sự nằm trong tay người Nhật. Nhưng ai cũng biết, ở Ngoại Mông có một nhóm chống Liên Xô, nhóm này đã bí mật liên hệ với quân đội Nhật ở Mãn Châu quốc, các thành viên nhóm này đã dấy lên nhiều cuộc nổi loạn. Hạt nhân của thành phần nổi loạn này là các quân nhân Mông Cổ bất mãn với sự chuyên quyền của quân đội Xô Viết, tầng lớp địa chủ chống lại chính sách tập trung hóa cưỡng bức trong nông nghiệp và các tu sĩ Phật giáo Tây Tạng – số này có tới hàng trăm người. Thế lực nước ngoài duy nhất mà nhóm chống Liên Xô này có thể xin trợ giúp là quân đội Nhật đang đóng quân tại Mãn Châu quốc. Vả lại so với người Nga thì rõ ràng người Nhật chúng ta gần gũi họ hơn bởi đều là người châu Á, đồng chủng da vàng. Một năm trước đó, 1937, một kế hoạch nổi dậy quy mô lớn ở thủ đô Ulan Bator đã bị lộ, hậu quả là xảy ra những cuộc thanh trừng quy mô lớn. Hàng ngàn quân nhân và tu sĩ Phật giáo bị hành hình như những phần tử phản cách mạng cấu kết với quân đội Nhật, nhưng tâm trạng chống Nhật vẫn cứ âm ỉ nơi này nơi khác. Thành thử nếu có một sĩ quan tình báo Nhật vượt sông Khalkha để bắt liên lạc với một sĩ quan chống Liên Xô thuộc quân đội Ngoại Mông thì cũng chẳng có gì lạ. Để ngăn chặn việc đó, quân đội Ngoại Mông đã cử các đơn vị tuần tra thường xuyên đi tuần và tuyên bố toàn bộ dải lãnh thổ cách biên giới Mãn Châu quốc từ mười tới mười hai cây số là vùng cấm. Tuy nhiên vùng này quá rộng nên dẫu có tuần tra cũng không thể nào để mắt tới từng li từng tí một.

            Cho dù cuộc nổi dậy của họ có thành công đi nữa, chắc chắn quân đội Liên Xô sẽ lập tức can thiệp để bóp chết hoạt động phản cách mạng của họ. Nếu điều đó xảy ra, những người nổi dậy sẽ yêu cầu quân đội Nhật giúp đỡ, đó sẽ là cái cớ để đạo quân Quan Đông của Nhật can thiệp. Chiếm Ngoại Mông thì chẳng khác nào thọc dao vào mạng sườn của Liên Xô ở Siberia. Bộ tổng tham mưu ở Tokyo hẳn sẽ cố kiềm chế cơn hăng đó, nhưng đây là một cơ hội mà bộ tham mưu đạo quân Quan Đông vốn đầy tham vọng chẳng dễ gì bỏ qua. Hậu quả sẽ không chỉ là xung đột biên giới mà là chiến tranh tổng lực giữa Liên Xô và Nhật. Nếu một cuộc chiến như vậy xảy ra trên vùng biên giới Mãn Châu – Liên Xô, Hitler có thể đáp trả bằng cách chiếm Ba Lan hay Tiệp Khắc. Đó chính là tình huống mà hạ sĩ Hamano đã nói khi nhận xét về khả năng xảy ra chiến tranh.

            Sáng hôm sau, mặt trời đã mọc mà Yamamoto vẫn chưa trở về. Tôi là người cuối cùng canh gác. Tôi mượn súng trường của trung sĩ Hamano, ngồi trên một đụn cát có phần cao hơn mà ngắm bầu trời phía Đông. Bình minh ở Mông Cổ là một điều kỳ diệu. Chỉ trong khoảnh khắc, chân trời trở thành một dải sáng mờ treo trong bóng tối, rồi cái dải sáng ấy dâng lên, mỗi lúc một cao hơn. Dường như có một bàn tay vĩ đại tự trên trời vươn xuống chầm chậm kéo tấm màn đêm ra khỏi mặt đất. Cảnh tượng đó thật kỳ vĩ, một cảnh tượng mà, như tôi đã nói, lớn lao hơn rất nhiều so với tất cả những gì tôi có thể lĩnh hội được với những giác quan hạn hẹp của con người. Tôi ngồi đó ngắm nhìn, trong tôi bỗng dâng lên một cảm giác rằng chính sự sống của tôi đang dần dần tiêu biến thành hư vô. Ở cõi hư vô đó không có dấu vết gì của những thứ vô nghĩa như những việc làm nhỏ nhặt của con người. Cũng một cảnh tượng này từng xảy ra hàng triệu lần, hàng trăm triệu lần, từ thời thái cổ, từ rất lâu trước khi tồn tại bất cứ thứ gì gọi là sự sống trên trái đất. Quên khuấy rằng mình đang đứng gác, tôi như bị thôi miên, ngắm mãi cảnh bình minh của một ngày mới.

            Sau khi mặt trời đã hiện rõ phía trên chân trời, tôi châm điếu thuốc, nhấp một ngụm nước trong biđông và đi tiểu. Rồi tôi nghĩ về nước Nhật. Tôi hình dung thành phố quê hương vào đầu tháng Năm – hương hoa, tiếng rì rào của dòng sông, những đám mây trên bầu trời. Bạn cũ. Gia đình. Vị ngọt của chiếc bánh gạo nong nóng gói trong lá sồi. Tôi vốn không ưa của ngọt, nhưng sao sáng hôm đó tôi thèm một cái bánh mochi đến chết được. Giá như khi đó có thể trả nửa năm lương sĩ quan để mua một cái thì tôi cũng mua. Và khi nghĩ đến nước Nhật, tôi đâm ra cảm thấy mình đã bị bỏ rơi ở bên lề thế giới. Tại sao chúng tôi phải liều mạng chiến đấu cho cái mảnh đất trơ trụi không có chút giá trị về quân sự hay công nghiệp này, cái vùng đất nơi không gì sống được ngoài cỏ dại và trùng độc này? Tôi, tôi cũng sẵn sàng chiến đấu và chết để bảo vệ quê hương. Nhưng hy sinh mạng sống chỉ có một này cho cái rẻo đất hoang vu nơi không thứ hạt nào có thể nảy mầm thì thật quá vô nghĩa.

            * * *

            Sáng tinh mơ ngày hôm sau thì Yamamoto trở về. Lúc ấy tôi cũng là người cuối cùng đứng gác. Tôi đang đứng xoay lưng lại dòng sông, mắt dõi về phía Tây thì nghe một âm thanh như tiếng ngựa hí ở đằng sau. Tôi quay lại nhưng chẳng thấy gì. Tôi nhìn chăm chăm về phía âm thanh đó phát ra, trong tư thế sẵng sàng nổ súng. Tôi nuốt nước bọt, cái âm thanh từ trong chính cổ họng mình to đến nỗi tôi rùng mình. Ngón tay đặt lên cò súng của tôi run run. Từ trước đến nay tôi chưa từng phải bắn ai cả.

            Chỉ mấy giây sau, một con ngựa lảo đảo đi qua triền cong một đụn cát, trên lưng nó là Yamamoto. Tôi nhìn quanh, ngón tay đặt trên cò súng, nhưng không còn ai khác xuất hiện – gã Mông Cổ không, quân địch cũng không. Vầng trăng to tướng trắng bệch treo trên nền trời phía Đông như một tảng đá mang điềm gở. Tay trái của Yamamoto hình như bị thương. Chiếc khăn mùi xoa hắn dùng buộc quanh cánh tay bê bết máu. Tôi đánh thức hạ sĩ Honda dậy trông nom con ngựa. Rõ ràng con vật đã phải phi nước đại suốt một quãng đường dài, nó thở hổn hển, toàn thân đầm đìa mồ hôi. Hamano gác thay tôi, còn tôi lo sơ cứu vết thương cho Yamamoto.

            - Đạn chỉ sượt qua thôi, máu ngừng chảy rồi, - Yamamoto bảo. Y nói đúng: viên đạn chỉ xé rách thịt mà không phạm vào xương. Tôi tháo chiếc khăn mùi xoa ra, dùng cồn sát trùng miệng vết thương rồi băng lại. Trong suốt thời gian đó Yamamoto thậm chí không nhíu mày, duy có môi trên y đọng một lớp mồ hôi mỏng. Y uống ừng ực nước trong biđông, đốt một điếu thuốc và rít với vẻ khoan khoái ra mặt. Đoạn y rút khẩu Browning ra, kẹp dưới nách, tháo băng đạn và khéo léo dùng một tay nạp ba viên đạn vào.

            - Này, Trung úy Mamiya, chúng ta rời khỏi đây ngay. Vượt sông đi về phía chốt quan sát của quân đội Mãn Châu quốc.

            Chúng tôi nhanh chóng dỡ trại, hầu như không nói một lời, lên ngựa ruổi về phía chỗ vượt sông. Tôi không hỏi Yamamoto xem chuyện gì đã xảy ra với y, ai đã bắn y. Vị trí của tôi không cho phép, nhưng thậm chí dù tôi có quyền hỏi đi nữa, vị tất y đã trả lời. Ý nghĩ duy nhất của tôi lúc đó là làm sao đi khỏi lãnh địa của kẻ thù càng sớm càng tốt, vượt sông Khalkha sang bờ bên kia nơi tương đối an toàn.

            Chúng tôi lầm lũi đi, thúc ngựa qua bình nguyên đầy cỏ. Không ai nói năng gì, nhưng tất cả đều nghĩ cùng một điều: liệu chúng tôi có thể vượt sông hay không? Nếu một toán tuần tiễu Mông Cổ đã tới chỗ cây cầu trước chúng tôi thì mạng chúng tôi coi như xong. Nếu đánh nhau thì chẳng có cách nào chúng tôi thắng được. Tôi nhớ khi đó mồ hôi chảy ròng ròng dưới hai cánh tay tôi, mãi không khô.

            - Này Trung úy Mamiya, anh đã bắn bao giờ chưa? – Sau một hồi im lặng, Yamamoto hỏi tôi.

            - Chưa bao giờ, - tôi đáp.

            - Anh đã bắn ai bao giờ chưa?

            - Chưa bao giờ, - tôi lại đáp.

            Tôi chịu không biết những câu trả lời của tôi gây ấn tượng thế nào với y, cũng không biết y hỏi vậy có mục đích gì.

            - Trong này có một tài liệu cần chuyển cho ban tham mưu, - y vừa nói vừa đặt tay lên túi yên ngựa. – Nếu không chuyển được thì phải hủy đi – đốt cũng được, chôn cũng được, nhưng dù trong hoàn cảnh nào cũng không được phép rơi vào tay địch. Không được phép, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào. Đó là ưu tiên số một của chúng ta. Tôi muốn anh hiểu rõ điều đó. Quan trọng lắm, hết sức quan trọng.

            - Tôi hiểu, - tôi nói.

            Yamamoto nhìn thẳng vào mắt tôi.

            - Nếu rơi vào hoàn cảnh ngặt nghèo, việc đầu tiên anh phải làm là bắn tôi. Không được chần chừ. Nếu tự làm được thì tôi đã làm. Nhưng tay tôi bị thế này thì tôi không làm được. Trong trường hợp đó, anh phải bắn tôi. Mà đã bắn là phải chắc chết.

            Tôi lẳng lặng gật đầu.

            * * *

            Khi chúng tôi đến chỗ vượt sông ngay trước khi mặt trời mọc, nỗi sợ đã dày vò tôi trên suốt đường đi tỏ ra hoàn toàn có cơ sở. Một toán nhỏ quân Mông Cổ đã triển khai ở đó. Yamamoto và tôi leo lên một đụn cát cao, chuyền nhau ông nhòm để quan sát bọn họ. Có tám người tất cả, không đông lắm, nhưng so với một toán tuần tra biên giới thì nhóm này được trang bị quá nhiều. Một người mang súng máy nhẹ, lại còn một súng máy hạng nặng đặt trên một mô đất cao, chung quanh chất bao cát, nòng hướng về phía đông. Hiển nhiên là họ bố trí ở đây để ngăn không cho chúng tôi băng sang bờ bên kia. Họ đã neo lều bên bờ sông và buộc mười con ngựa ở gần đó. Xem ra họ sẽ lưu lại đây cho tới khi nào tóm được chúng tôi mới thôi.

            - Liệu ta có thể dùng chỗ cạn nào khác để vượt không? – tôi hỏi.

            Yamamoto rời mắt khỏi ống nhòm nhìn tôi mà lắc đầu.

            - Có, nhưng rất xa. Đi ngựa phải mất hai ngày. Ta không có nhiều thời gian như thế đâu. Ta chỉ có thể vượt sông ở đây, bằng bất cứ giá nào.

            - Nghĩa là ta sẽ vượt sông vào ban đêm?

            - Đúng. Đó là cách duy nhất. Ta để ngựa lại đây. Ta sẽ thanh toán tên lính gác, bọn còn lại thì hẳn đang ngủ say. Đừng lo, dòng sông sẽ ỉm đi hầu hết tiếng động. Tôi sẽ lo phần tên gác. Từ giờ đến đó ta chẳng có gì làm cả, nên tốt nhất là đi ngủ, tranh thủ chút cơ hội mà nghỉ ngơi.

            Chúng tôi ấn định chiến dịch vượt sông sẽ diễn ra lúc ba giờ sáng. Hạ sĩ Honda dỡ hết hành trang khỏi lưng ngựa, dẫn ngựa đến một chỗ xa rồi thả chúng ra. Chúng tôi đào một cái hố sâu, chôn xuống đó chỗ đạn dược và thức ăn thừa. Mỗi người chỉ còn mang một biđông nước, phần ăn đủ một ngày, một khẩu súng, vài viên đạn. Nếu trạm trán quân Mông Cổ thì với hỏa lực vượt trội của bọn họ chúng tôi không cách gì thắng được dù có nhiều đạn đến mấy. Tạm thời thì chúng tôi cố ngủ được chút nào hay chút ấy, bởi khi đã vượt sông thì chắc hẳn sẽ không còn thì giờ đâu mà ngủ nữa. Hạ sĩ Honda gác đầu tiên, kế đó trung sĩ Hamano sẽ thay.

            Duỗi dài trong lều, Yamamoto thiếp đi ngay lập tức. Xem ra đã suốt một thời gian dài y không hề chợp mắt. Cạnh gối y là một chiếc vali da, y đã cất tài liệu bí mật vào trong đó. Chúng tôi ai cũng kiệt sức, nhưng tôi căng thẳng quá nên không ngủ được. Tôi nằm đó hồi lâu, buồn ngủ đến chết được nhưng vẫn thức chong chong, trong đầu cứ hình dung cảnh chúng tôi giết tên lính gác và bị khẩu súng máy nã đạn như vãi trấu khi vượt sông. Hai lòng bàn tay tôi nhớp nháp mồ hôi, thái dương tôi giần giật. Tôi chẳng biết liệu đến khi đó mình có khả năng hành xử cho đáng mặt sĩ quan không. Tôi bò ra khỏi lều, đến ngồi cạnh hạ sĩ Honda đang ngồi gác.

            - Honda này, anh biết đó, chúng ta đến chết cả nút ở đây thôi.

            - Khó mà nói được, - anh ta đáp.

            Chúng tôi ngồi một lát, không ai nói gì. Nhưng có cái gì đó trong câu trả lời của anh ta khiến tôi băn khoăn – có một giọng điệu nào đó hàm ý biết chắc chắn. Linh cảm vốn không phải là thế mạnh của tôi, nhưng tôi biết câu nhận xét mơ hồ của anh ta có ý che giấu điều gì đó. Tôi quyết định gặng hỏi anh ta.

            - Nếu anh có gì để nói với tôi thì đừng giữa kín nữa, - tôi bảo. – Đây có thể là lần cuối cùng chúng ta trò chuyện với nhau, có thể nói vậy.

            Honda cắn môi, vuốt vuốt lên chỗ cát dưới chân. Tôi biết anh ta đang vật lộn với những tình cảm mâu thuẫn nhau.

            - Trung úy ạ, - lát sau anh ta nói. Anh ta nhìn thẳng vào mắt tôi, - Trong bốn chúng ta, trung úy sẽ là người sống lâu nhất, lâu hơn trung úy tưởng nhiều. Trung úy sẽ chết ở Nhật.

            Giờ đến lượt tôi nhìn anh ta. Anh ta nói tiếp:

            - Hẳn trung úy đang tự hỏi làm sao tôi biết, nhưng điều đó thì chính tôi cũng không giải thích được. Tôi biết, thế thôi.

            - Anh có khả năng ngoại cảm à?

            - Có thể, có điều cái ấy không chính xác lắm với những gì tôi cảm nhận được. Nó hơi quá to tát. Như tôi vừa nói, tôi biết, chỉ có thế thôi.

            - Xưa nay anh có luôn cảm thấy như thế không?

            - Luôn luôn, - anh ta đáp rành mạch. – Nhưng tôi giấu mãi không cho ai biết, cho tới khi đủ lớn để hiểu đó là cái gì. Nhưng đây là chuyện sinh tử, trung úy ạ, và bởi tự trung úy hỏi nên tôi mới kể thật với trung úy.

            - Còn những người khác thì sao? Anh có biết những người khác thì chuyện gì sẽ xảy ra với họ không?

            Anh ta lắc đầu.

            - Có điều tôi biết, có điều không. Nhưng có lẽ trung úy không biết thì hơn, trung úy ạ. Kẻ như tôi mà lại đi nói chuyện to tát thế này với người có học như trung úy thì có lẽ hơi hồ đồ, nhưng vận mệnh con người, ta chỉ có thể ngoái nhìn khi nó đã đi qua chứ không thể nhìn trước được. Tôi có ít nhiều kinh nghiệm về những chuyện như vậy, còn trung úy thì không.

            - Dù sao thì, như anh nói, tôi sẽ không chết ở đây sao?

            Anh ta vốc đầy cát vào bàn tay rồi để cát trôi đi qua những kẽ ngón tay.

            - Chuyện đó thì tôi nói được, trung úy ạ. Trung úy sẽ không chết trên đại lục này đâu.

            Tôi còn muốn hỏi nữa về chuyện đó, nhưng hạ sĩ Honda không chịu tiết lộ thêm. Dường như anh ta đắm vào những suy tư hay chiêm nghiệm của mình. Súng cầm tay, anh ta nhìn đăm đăm ra thảo nguyên mênh mông. Anh ta như không nghe thấy những gì tôi nói nữa.

            Tôi trở lại chỗ cái lều buộc thấp dưới bóng một đụn cát, nằm xuống cạnh trung sĩ Hamano, nhắm mắt lại. Lần này giấc ngủ đến ngay lập tức, một giấc ngủ sâu hoắm như thể nắm gót chân tôi mà lôi tuột xuống đáy biển.

            -----------------------------

            14. Hay “sự cố Lư Cầu Kiều”, cuộc đụng độ vũ trang xảy ra ngày 7/7/1937 giữa quân đội Nhật và quân đội Trung Hoa gần Bắc Kinh, dẫn đến chiến tranh giữa hai nước – BTN.

            15. Tức Trương Học Lương, nhân vật lịch sử Trung Quốc, thuộc tướng của Tưởng Giới Thạch, từng là sứ quân cát cứ tại Mãn Châu nhưng về sau để mất vùng này vào tay Nhật. Tháng 12 năm 1936, Trương cùng tướng Dương Hổ Thành tiến hành vụ “bắt cóc” Tưởng Giới Thạch nhằm gây áp lực buộc Tưởng phải hợp tác với lực lượng của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nhật.

13

            Chuyện dài của Trung úy Mamiya: Phần 2

            *

            Tôi bị đánh thức bởi tiếng lách cách kim khí khi người ta mở khóa an toàn súng. Không một người lính tác chiến nào có thể bỏ qua cái âm thanh đó dù đang ngủ say đi nữa. Nó là một âm thanh… nói sao nhỉ, một âm thanh đặc biệt, lạnh lẽo và nặng nề như bản thân cái chết. Hầu như theo bản năng, tôi thò tay tìm khẩu Browning để cạnh gối, thì ngay khi đó một chiếc giày đạp vào thái dương tôi làm tôi tối tăm mặt mũi mất một lát. Cố kìm nhịp thở lại, tôi hé mở mắt thì thấy gã đàn ông chắc hẳn vừa đá tôi. Hắn đang quỳ xuống nhặt khẩu Browning của tôi lên. Tôi chầm chậm nhấc đầu lên thì kìa, đầu ruồi của hai khẩu súng trường đang chĩa ngay vào mặt tôi. Đằng sau mũi súng là hai tên lính Mông Cổ.

            Vừa ban nãy tôi ngủ trong lều, nhưng lúc này lều đã biến mất, trên đầu là bầu trời chi chít sao. Một tên lính Mông Cổ khác đang chĩa súng máy vào đầu Yamamoto nằm cạnh tôi. Y nằm im như để giữ sức vì biết kháng cự là vô ích. Toàn bộ đám lính Mông Cổ mặc áo khoác dài và đội mũ sắt chiến đấu. Hai người cầm đèn pin cỡ lớn rọi vào Yamamoto và tôi. Thoạt tiên tôi không hiểu nổi chuyện gì vừa xảy ra, hẳn vì tôi ngủ quá sâu và bị cú sốc quá lớn. Nhưng nhìn đám lính Mông Cổ và bộ mặt của Yamamoto thì rốt cuộc tôi hiểu: không nghi ngờ gì nữa, lều của chúng tôi đã bị phát hiện trước khi chúng tôi kịp băng qua sông.

            Sau đó tôi chợt tự hỏi không biết chuyện gì đã xảy ra với Honda và Hamano. Tôi ngoái đầu thật chậm rãi để quan sát xung quanh. Nhưng ngoài ra không thấy ai nữa. Hoặc quân Mông Cổ đã giết họ rồi, hoặc họ đã trốn thoát được.

            Đây hẳn là đám lính tuần mà chúng tôi đã thấy lúc trước ở chỗ vượt sông. Họ quân số ít, trang bị súng máy hạng nhẹ và súng trường. Chỉ huy bọn họ là một tay hạ sĩ quan dáng gân guốc, người duy nhất mang giày nhà binh đúng nghĩa là giày. Đó chính là kẻ đã đá tôi. Hắn cúi xuống nhặt chiếc vali da mà Yamamoto đặt bên cạnh đầu. Hắn mở vali ra dòm vào bên trong, rồi lật úp xuống mà lắc lắc. Vài điếu thuốc lá rơi xuống đất, ngoài ra chẳng còn gì nữa. Tôi không thể tin được. Chính mắt tôi đã thấy Yamamoto đút tài liệu vào trong vali. Hắn đã lấy tài liệu từ trong túi yên ngựa, cho vào trong vali rồi để vali bên cạnh gối. Yamamoto cố giữ vẻ bình thản, nhưng tôi vẫn thấy y đổi sắc mặt trong một khoảnh khắc. Song dù tài liệu biến mất vì lý do nào đi nữa thì Yamamoto cũng chỉ mong có thế. Như y đã nói với tôi, ưu tiên số một của chúng tôi là phải đảm bảo rằng tài liệu đó không bao giờ được rơi vào tay kẻ thù.

            Đám lính trút hết đồ đạc của chúng tôi xuống đất rồi kiểm tra kỹ lưỡng từng cái một nhưng chẳng tìm thấy gì quan trọng. Sau đó họ lột hết quần áo của chúng tôi mà lục lọi các túi. Họ lấy lưỡi lê chọc thủng quần áo và balô nhưng không ai thấy tài liệu gì. Họ thu hết thuốc lá, bút, ví, sổ tay, đồng hồ của chúng tôi mà nhét vào túi. Rồi họ lần lượt đi thử giày của chúng tôi, ai vừa chân là lấy. Đám lính cãi nhau càng lúc càng găng về chuyện ai được cái gì, nhưng viên hạ sĩ quan tỏ ra thờ ơ. Tôi đồ rằng tước sạch đồ dùng cá nhân của tù binh và lính địch chết là việc bình thường ở Mông Cổ. Viên hạ sĩ quan chỉ lấy đồng hồ của Yamamoto, những thứ khác thì mặc cho đám lính dành nhau. Những trang bị còn lại của chúng tôi – súng lục, đạn dược, đồng hồ, la bàn, ống nhòm – thì họ cho vào một cái bao lớn, hẳn là để gửi về tổng hành dinh ở Ulan Bator.

            Sau đó họ trói hai chúng tôi – trần truồng - bằng thứ dây thừng mỏng, chắc. Khi lại gần, đám lính Mông Cổ có mùi như một cái chuồng gia súc đã lâu không được cọ rửa. Quân phục của họ bẩn thỉu, bê bết bùn đất, bụi bặm và vết bẩn thức ăn đến nỗi không thể nào biết màu nguyên thủy là gì. Giày của họ thủng lỗ chỗ như chỉ chực bục ra khỏi chân. Chẳng lạ là họ thèm giày của chúng tôi. Khuôn mặt họ hầu như dã man, đầu bù tóc rối, răng đen đúa. Họ giống đám cướp đường chuyên cưỡi ngựa hay phường lục lâm thảo khấu hơn là lính tráng, song những vũ khí do Liên Xô sản xuất và quân hàm hình ngôi sao cho thấy họ là một đơn vị quân chính quy của nước Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ. Theo tôi, tính kỷ luật và tinh thần chiến đấu của đám lính này dĩ nhiên là không cao lắm. Người Mông Cổ vốn là những chiến binh gan lì, chịu đựng giỏi, nhưng họ không thích hợp lắm với chiến tranh hiện đại.

            Đêm lạnh thấu xương. Nhìn những đám mây trắng từ hơi thở của đám lính Mông Cổ đều đều hiện ra rồi tan biến vào bóng tối, tôi ngỡ như vì một sai lầm kỳ lạ nào đó mà tôi đã bị ném vào cơn ác mộng của một kẻ nào khác. Tôi không thể tin những gì đang diễn ra đây là có thực. Đây quả thực là một cơn ác mộng, nhưng chỉ về sau tôi mới hiểu ra, đây chỉ là phần đầu của một cơn ác mộng khủng khiếp.

            Chỉ một lát sau, một trong các tên lính Mông Cổ từ trong bóng tối nhô ra, kéo lê đằng sau một vật gì nặng. Miệng cười toe toét, hắn ném phịch cái vật đó xuống đất bên cạnh chúng tôi. Đó là xác của Hamano. Hai bàn chân cái xác phơi trần ra, ai đó đã lột giày của viên trung sĩ rồi. Đám lính liền xoay ra lột quần áo anh ta mà lục lọi hết các túi. Những bàn tay thò ra giật lấy đồng hồ, ví và thuốc lá của Hamano. Họ chia nhau chỗ thuốc lá rồi vừa hút vừa kiểm tra các ví. Chỉ có ít giấy bạc Mãn Châu quốc và bức ảnh một phụ nữ. Có lẽ là mẹ của Hamano. Viên hạ sĩ quan nói gì đó rồi quơ lấy số tiền. Bức ảnh bị ném xuống đất.

            Một trong các tay lính Mông Cổ hẳn đã rón rén đến sau lưng Hamano rồi cắt họng anh ta trong lúc anh đang đứng gác. Họ đã làm với chúng tôi chính cái việc mà chúng tôi định làm với họ. Máu đỏ tươi vẫn đang túa ra từ vết thương há hoác của cái xác, nhưng so với một vết thương lớn như vậy thì máu không nhiều lắm, hẳn là từ nãy đến giờ hầu hết máu đã chảy ra ngoài. Một trong các tên lính rút một con dao ra khỏi vỏ giắt nơi thắt lưng, mũi dao cong dài khoảng mười lăm phân. Hắn khua dao ngay trước mặt tôi. Con dao hình thù kỳ quặc như vậy tôi chưa thấy bao giờ. Hình như nó được làm ra nhằm mục đích đặc biệt nào đó. Tên lính cầm con dao làm động tác cắt cổ họng rồi huýt sáo qua kẽ răng. Vài tên lính khác cười rộ. Có vẻ đây không phải trang bị chung của quân đội mà là vật sở hữu riêng của tên lính. Mỗi tên lính đều có một lưỡi lê giắt ngang hông, duy chỉ tên này giắt con dao cong và có lẽ hắn đã dùng chính con dao này để cắt họng Hamano. Sau khi xoay xoay lưỡi dao mấy vòng một cách thiện nghệ, hắn đút dao vào vỏ.

            Không nói một lời, chỉ cử động cặp mắt, Yamamoto liếc về phía tôi. Cái liếc chỉ kéo dài một khoảnh khắc, nhưng tôi hiểu ngay y mốn nói gì: Anh có nghĩ là hạ sĩ Honda đã thoát được không? Dù hết sức bối rối và sợ hãi, tôi cũng đã nghĩ như vậy: hạ sĩ Honda đâu? Nếu Honda đã thoát được trong cuộc tấn công chớp nhoáng này của toán quân Mông Cổ thì có thể vẫn còn chút cơ hội cho chúng tôi, dù là mong manh. Nhưng một mình Honda liệu có thể làm gì được? Nghĩ vậy là lại thấy nản lòng, nhưng dẫu sao một tí cơ hội thì vẫn hơn hoàn toàn không có cơ hội nào.

            Chúng tôi bị trói nằm đó trên cát cho đến sáng. Hai tên lính được cắt đặt để canh chừng chúng tôi, một tên mang súng máy, tên kia ôm súng trường. Đám còn lại ngồi cách một quãng, hút thuốc, cười nói, ra chiều hả hê vì đã bắt được chúng tôi. Yamamoto và tôi không ai nói một lời. Dù đang giữa tháng Năm, nhiệt độ lúc về sáng ở vùng này tút xuống dưới mức đóng băng. Tôi cứ sợ chúng tôi nằm đó trần truồng thì sẽ chết cóng mất. Nhưng cái lạnh chẳng là gì so với nỗi khiếp sợ ở trong tôi. Số phận chúng tôi rồi sẽ ra sao? Đám người này chỉ là một đơn vị tuần tiễu, hẳn là họ không có quyền quyết định sẽ làm gì với chúng tôi. Họ sẽ phải đợi lệnh. Nghĩa là có lẽ chúng tôi sẽ không bị giết ngay lập tức. Tuy nhiên, sau đó thì thế nào? Chịu không biết được. Yamamoto là gián điệp thì đã quá rõ, còn tôi bị bắt cùng với y nên hiển nhiên sẽ bị coi là tòng phạm. Dù thế nào đi nữa, chúng tôi sẽ không dễ dàng thoát khỏi vụ này đâu.

            Mặt trời vừa mọc ít lâu thì từ xa trên bầu trời có một âm thanh như tiếng vù vù của động cơ trực thăng. Cuối cùng, thân máy bay màu bạc hiện ra trong tầm nhìn của tôi. Đó là một chiếc máy bay do thám của Liên Xô, trên thân có huy hiệu của Ngoại Mông. Chiếc máy bay lượn trên đầu chúng tôi mấy vòng. Đám lính vẫy tay, chiếc máy bay chao cánh để đáp lại. Sau đó nó đỗ xuống một khoảng đất trống gần đó làm bụi bay lên mù mịt. Ở đây đất cứng lại không có nhà cửa gì nên có thể cất hạ cánh tương đối dễ dàng không cần đường băng. Nếu tôi không lầm, họ đã nhiều lần dùng chính địa điểm này làm bãi đáp máy bay. Một người trong đám lính lên ngựa phi nước kiệu về phía chiếc máy bay, theo sau là hai con ngựa thắng yên sẵn.

            Khi quay lại, hai con ngựa đó mang trên lưng hai người hẳn là sĩ quan cao cấp. Một là người Nga, kẻ kia là người Mông Cổ. Tôi đồ rằng đám lính tuần đã liên lạc bằng radio với tổng hành dinh về việc bắt được chúng tôi, và hai viên sĩ quan này đã từ Ulan Bator bay đến để hỏi cung chúng tôi. Nhất định họ là sĩ quan tình báo. Tôi nghe nói chính GPU(16) đứng đằng sau vụ bắt bớ quy mô lớn và thanh trừng các phần tử chống chính phủ hồi năm ngoái.

            Cả hai viên sĩ quan mặc đồng phục mới tinh tươm. Râu ria nhẵn nhụi. Tay người Nga mặc áo khoác dày có thắt lưng. Đôi ủng của y bóng lộn không có một hạt bụi. Y gầy gò, không cao lắm so với người Nga, trạc từ ba mươi đến ba mươi lăm tuổi. Trán rộng, mũi hẹp, nước da hồng tai tái, mang kính gọng kim loại. Nhìn chung, đây là một khuôn mặt không gây ấn tượng gì đặc biệt. Đứng cạnh y, viên sĩ quan người Mông Cổ lùn tịt, đậm chắc, đen đúa trông cứ như con gấu con.

            Gã Mông Cổ gọi viên hạ sĩ quan ra một bên, ba người bàn bạc một hồi. Tôi đoán rằng các viên sĩ quan đang yêu cầu báo cáo chi tiết. Viên hạ sĩ quan đưa cho những người kia cái túi to những vật đã tịch thu của chúng tôi. Gã người Nga xem xét từng món một rất cẩn thận rồi lại cho tất cả vào túi. Y nói gì đó với gã Mông Cổ, gã này lại nói điều gì đó với viên hạ sĩ quan. Rồi gã người Nga lấy trong túi áo ngực ra một gói thuốc lá, mở ra mời hai người kia. Cả ba vừa hút thuốc vừa tiếp tục trò chuyện. Trong khi nói, mấy lần tay người Nga đấm nắm tay phải vào lòng bàn tay trái. Y có vẻ giận dữ. Viên sĩ quan Mông Cổ khoanh tay, vẻ mặt u ám, viên hạ sĩ quan thì thỉnh thoảng lại lắc đầu.

            Cuối cùng, viên sĩ quan Nga thong thả đi lại chỗ chúng tôi đang nằm trên mặt đất.

            - Có muốn hút thuốc không? – y hỏi bằng tiếng Nga. Như tôi đã nói, thời sinh viên tôi từng học tiếng Nga và có thể nghe hiểu khá tốt, nhưng để tránh rắc rối tôi giả vờ không hiểu gì.

            - Cám ơn, không cần, - Yamamoto nói bằng tiếng Nga. Y cừ thật.

            - Tốt lắm, - viên sĩ quan Xô Viết nói, - Nếu ta nói chuyện bằng tiếng Nga thì đỡ mất thời gian hơn.

            Y tháo găng tay đút vào túi áo khoác. Một chiếc nhẫn nhỏ bằng vàng ánh lên trên bàn tay trái y.

            - Chắc chúng mày biết rõ, chúng tao đang tìm một thứ. Tìm đỏ mắt ra. Và chúng tao biết cái thứ đó nằm trong tay chúng mày. Đừng hỏi vì sao chúng tao biết; chúng tao biết, có thế thôi. Nhưng hiện giờ nó không ở chỗ chúng mày. Nghĩa là, nếu suy luận lôgic, chúng mày hẳn đã giấu nó ở đâu đó trước khi bị bắt. Chúng mày chưa kịp chuyển nó sang bên kia, - y chỉ về phía sông Khalkha. – Chưa một ai trong chúng mày vượt được sông. Vậy là bức thư phải còn nằm ở bên này, giấu ở đâu đó. Tao nói nãy giờ chúng mày có hiểu không?

            Yamamoto gật đầu.

            - Tôi hiểu, - y nói. – Nhưng chúng tôi chẳng biết thư từ nào hết.

            - Tốt lắm, - tay người Nga nói, nét mặt vô cảm. – Trong trường hợp đó tao có một câu hỏi nhỏ cho chúng mày. Lũ chúng mày làm gì ở đây? Chúng mày biết đây là lãnh thổ Cộng hòa Nhân dân Mông Cổ kia mà. Chúng mày đột nhập vào lãnh thổ của người khác là nhằm mục đích gì? Mày trình bày lý do tao nghe xem.

            - Chúng tôi vẽ bản đồ, - Yamamoto giải thích. – Tôi là thường dân làm việc cho một công ty bản đồ, còn anh này và người vừa bị đám lính kia giết tháp tùng để bảo vệ tôi. Chúng tôi cũng biết bên kia sông là lãnh thổ của các ông. Chúng tôi lấy làm tiếc đã vượt qua biên giới, nhưng thật sự chúng tôi không nghĩ mình đang xâm phạm lãnh thổ. Chúng tôi chỉ muốn quan sát địa hình từ điểm cao bên này bờ sông thôi.

            Viên sĩ quan bĩu môi lên thành nụ cười, như thể điều y vừa nghe hoàn toàn không đáng cười.

            - Chúng tôi rất tiếc? – y dài giọng. - Ừ, dĩ nhiên. Chúng mày chỉ muốn quan sát địa hình từ chỗ cao. Ừ, dĩ nhiên. Từ trên cao thì bao giờ tầm nhìn cũng tốt hơn. Nghe hợp lý lắm.

            Y không nói gì một hồi, chỉ nhìn chăm chăm lên những đám mây trên trời. Đoạn y lại chuyển cái nhìn sang Yamamoto, chầm chậm lắc đầu và thở dài.

            - Giá như tao có thể tin lời mày nhỉ! Được vậy thì tốt quá, tốt cho cả chúng tao lẫn chúng mày! Giá như tao có thể vỗ vai mày mà nói: “Phải, phải, tôi hiểu, giờ thì anh băng qua sông mà về đi, lần sau thì phải cẩn thận nhé”. Tao muốn làm vậy lắm, thực đấy. Nhưng đáng tiếc là tao không thể. Bởi tao biết chúng mày là ai. Và tao biết chúng mày làm gì ở đây. Chúng tao cũng có bạn bè ở Ulan Bator vậy.

            Y rút găng tay ra khỏi túi, gấp lại, rồi lại cho vào túi.

            - Nói thật, hành hạ hay giết chúng mày thì cá nhân tao chẳng lợi lộc gì. Nếu chúng mày đưa thư cho tao, tao cũng sẽ chẳng có gì dính dáng tới chúng mày nữa. Chúng mày sẽ được thả ra khỏi đây ngay lập tức theo lệnh tao. Chúng mày có thể vượt sông mà về. Tao hứa với chúng mày như vậy, lời hứa danh dự đấy. Còn sau đó chuyện gì xảy ra là việc nội bộ của chúng tao. Chẳng liên quan gì tới chúng mày.

            Ánh mặt trời ở phía Đông rốt cuộc cũng bắt đầu sưởi ấm làn da tôi. Không có gió, vài đám mây trắng lửng lơ trên bầu trời.

            Im lặng kéo dài. Không ai nói một lời. Viên sĩ quan người Nga, viên sĩ quan Mông Cổ, đám lính tuần, Yamamoto: tất cả im lặng. Dường như ngay từ lúc bị bắt Yamamoto đã sẵn sàng chết; gương mặt y hoàn toàn không biểu lộ cảm xúc gì.

            - Nếu không thì chúng mày… cả hai… gần như chắc chắn… sẽ chết ở đây, - viên sĩ quan người Nga chậm rãi nói tiếp, từng tiếng một, như đang nói với trẻ con. – Và đó sẽ là một cái chết khủng khiếp. Bọn kia… - Đến đây viên sĩ quan người Nga liếc về phía đoàn lính Mông Cổ. Gã to lớn cầm súng máy nhìn tôi cười nhăn nhở phô hàm răng vàng khè. – Chúng thích giết người, bằng những cách đòi hỏi phải hết sức công phu và giàu tưởng tượng. Phải nói chúng là bậc thầy trong lĩnh vực này. Ngay từ thời Thành Cát Tư Hãn, người Mông Cổ đã thích bày ra những cách giết người đặc biệt tàn bạo. Gì chứ chuyện đó thì người Nga chúng tao thấm thía lắm. Chúng tao được học chuyện đó từ khi học phổ thông, môn sử ấy mà. Người ta dạy cho chúng tao biết người Mông Cổ đã làm gì khi xâm lăng nước Nga. Họ đã giết hàng triệu người. Chẳng vì cớ gì hết. Họ bắt hàng trăm quý tộc Nga ở Kiev rồi giết tất cả cùng một lúc. Chúng mày có biết bằng cách nào không? Họ cưa những tấm ván thật to, thật nặng, cho đám người Nga nằm dưới các tấm ván đó, rồi thì họ bày tiệc bên trên các tấm ván đó. Những người Nga chết chẹt dưới cái sức nặng kia. Người bình thường ai mà nghĩ ra được trò như vậy, phải không nào? Mất bao nhiêu thời gian, bao nhiêu là công sức chuẩn bị! Có ai trên đời này đi cất công làm chuyện đó chứ? Thế mà họ làm đấy. Sao lại làm? Bởi đấy là một thứ trò vui của họ mà. Đến cả bây giờ họ vẫn làm những việc như thế. Tao có lần tận mắt thấy họ làm thế. Tao cứ nghĩ đời mình đã chứng kiến lắm chuyện khủng khiếp rồi, nhưng tối hôm đó, chúng mày hình dung được không, tao ăn mất ngon. Tao nói chúng mày có hiểu không? Tao nói có nhanh quá không?

            Yamamoto lắc đầu.

            - Tốt lắm, - tay người Nga nói. Y ngừng nói, hắng giọng. – Dĩ nhiên, đây sẽ là lần thứ hai. Có lẽ đến bữa tối thì tao sẽ lại ăn ngon. Tuy nhiên, tao vẫn muốn không phải giết người nếu không cần thiết.

            Hai tay chắp sau lưng, y nhìn trời một hồi. Đoạn y rút găng tay ra và liếc về phía máy bay.

            - Thời tiết thật đẹp, - y nói. – Mùa xuân. Vẫn còn se lạnh, nhưng vậy là tốt. Nóng hơn một chút là sẽ có muỗi. Muỗi thì kinh khủng. Phải, mùa xuân tốt hơn mùa hè nhiều.

            Y lại rút gói thuốc ra, cho một điếu lên miệng, quẹt diêm châm lửa. Chầm chậm, y hít khói vào phổi rồi phà ra.

            - Tao hỏi lần nữa: có phải chúng mày vẫn khăng khăng mình không biết về lá thư không?

            Yamamoto chỉ nói một tiếng: “Phải”.

            - Tốt, - tay người Nga nói. – Tốt lắm. – Đoạn y nói gì đó bằng tiếng Mông Cổ với viên sĩ quan Mông Cổ. Người này gật đầu rồi quát lệnh gì đó với đám lính. Họ liền mang đến mấy súc gỗ thô, lấy lưỡi lê vạt nhọn thành bốn cây cọc. Họ dùng bước chân đo khoảng cách rồi cắm bốn cây cọc xuống đất, lèn đá cho chắc, sao cho bốn cây cọc làm thành bốn góc của một hình vuông. Toàn bộ công việc chuẩn bị này mất khoảng hai mươi phút là xong, nhưng tôi không biết để làm gì.

            Viên sĩ quan người Nga nói:

            - Với bọn họ, giết người là một cách ngon lành cũng như ăn một bữa ngon vậy. Chuẩn bị càng lâu, khoái cảm càng tăng. Chứ đơn giản là giết thì dễ quá: đòm một phát là xong. Nhưng ở đây thì không đâu, - tới đây y đưa đầu ngón tay thong thả xoa cái cằm nhẵn thín, - thú vị lắm.

            Đám lính cởi trói Yamamoto rồi dẫn y đến chỗ cắm cọc. Ở đó chúng buộc tay chân Yamamoto vào bốn cây cọc. Y nằm ngửa, giạng chân tay ra bốn phía, trên cơ thể trần trụi của y có mấy vết thương còn mới.

            - Mày biết đó, - người Mông Cổ chuyên chăn cừu, - viên sĩ quan Nga nói. – Dân chăn cừu có nhiều cách để tận dụng lũ cừu: ăn thịt, xén lông, lột da. Với họ, cừu là con vật lý tưởng. Suốt ngày họ ở bên lũ cừu, cả đời họ sống với cừu. Họ biết lột da chúng cực kỳ khéo léo. Da cừu họ dùng làm lều và quần áo. Mày đã bao giờ thấy họ lột da cừu chưa?

            - Cứ giết quách tôi đi cho xong, - Yamamoto nói.

            Tay người Nga chạm hai bàn tay vào nhau, vừa chầm chậm xát tay vừa gật đầu với Yamamoto.

            - Đừng lo. Nhất định là chúng tao sẽ giết chúng mày. Bảo đảm với mày thế. Sẽ mất chút thời gian đấy, nhưng mày sẽ chết. Chuyện ấy thì mày khỏi lo. Chúng ta vội gì nào. Ở đây toàn là thảo nguyên vô tận, nhìn mỏi mắt cũng có thấy gì đâu. Chỉ có thời gian. Thời gian thì ta có khối. Tao còn nhiều chuyện muốn nói với mày mà. Giờ ta nói về quy trình lột da nhé: mỗi nhóm Mông Cổ đều có ít nhất một chuyên gia, một bậc thầy am hiểu tường tận từng li từng tí về việc lột da, một người có kỹ năng lột da tột cùng điêu luyện. Tài nghệ lột da của anh ta là cả một nghệ thuật. Chỉ nháy mắt là anh ta lột da xong rồi, cực nhanh, cực khéo, đến nỗi thậm chí ta cứ tưởng cái sinh vật đang bị lột da sống kia không biết mình đang bị lột da nữa kìa. Nhưng dĩ nhiên, - y lại rút gói thuốc là trong ngực áo ra, chuyển sang tay trái rồi búng búng bằng mấy ngón tay phải, - bị lột da thế kia thì làm sao không nhận ra được. Kẻ bị lột da sống sẽ phải đau đớn khủng khiếp. Đau không tưởng tượng được. Nhưng đau thế kia mà vẫn chưa chết. Rốt cuộc thì cũng chết vì chảy hết máu, nhưng tới khi đó thì còn lâu, lâu lắm.

            Y búng ngón tay. Viên sĩ quan Mông Cổ bước lên. Y rút trong túi áo khoác ra một con dao có vỏ bọc, hình thù giống như con dao mà tên lính kia đã cầm làm động tác cắt cổ. Y rút dao ra khỏi vỏ rồi giơ cao lên. Trong ánh nắng buổi sáng, lưỡi dao lóe lên ánh trắng đùng đục.

            - Gã này là một trong các chuyên gia tao vừa kể, - viên sĩ quan Nga nói. – Nhìn con dao xem. Nhìn kỹ vào. Dao này đặc biệt lắm, chuyên dùng để lột da, được chế tác tuyệt hảo! Lưỡi mỏng tang mà sắc như dao cạo. Kỹ thuật của các chuyện gia này thì cao vô cùng. Họ dã lột da thú vật từ hàng ngàn năm nay rồi, còn phải nói. Họ lột da người cũng như mày lột vỏ quả lê vậy. Thật đẹp, thật khéo, không có lấy một vết xước! Mà này, tao nói có nhanh quá không?

            Yamamoto không nói gì.

            - Họ lột từng mảng nhỏ một, - viên sĩ quan Nga nói. – Phải làm chậm thì lột mới sạch, không bị trầy xước. Nếu giữa chừng chúng mày muốn nói gì thì cho tao biết. Chừng đó mày sẽ không chết. Người của tao ở đây làm chuyện này mấy lần rồi, chưa ma nào chịu đến cùng được đâu, tuôn ra hết. Cứ nhớ kỹ thế. Dừng lại càng sớm thì càng tốt cho cả hai ta.

            Tay cầm dao, viên sĩ quan Mông Cổ trông như con gấu nhìn Yamamoto mà nhe răng cười. Tận bây giờ tôi vẫn nhớ cái nụ cười đó. Nằm mơ cũng thấy. Chưa bao giờ tôi quên được cái cười đó. Cười xong, hắn bắt tay vào việc ngay. Đám lính giữ chặt hai bàn tay và đầu gối Yamamoto trong khi hắn bắt đầu hết sức cẩn thận lột da Yamamoto. Đúng là giống gọt vỏ quả lê thật. Tôi không nhìn nổi. Tôi nhắm mắt lại. Tôi vừa nhắm mắt lại thì một tên lính quật báng súng vào tôi. Hắn quật mãi kỳ đến khi tôi mở mắt mới thôi. Nhưng nhắm mắt hay mở mắt thì cũng thế: đằng nào tôi cũng nghe giọng của Yamamoto. Ban đầu y cố chịu đau không kêu. Nhưng chẳng mấy chốc y bắt đầu gào thét. Tôi chưa bao giờ nghe cái tiếng gào thét đó, nó như không thuộc về thế giới này. Gã kia rạch một đường xẻ đôi vai phải của Yamamoto rồi bắt đầu lột da cánh tay phải từ trên xuống dưới, một cách từ từ, cẩn trọng, gần như là âu yếm. Đúng như gã người Nga nói, kỹ năng của y là cả một nghệ thuật. Nếu không có tiếng gào thét thì ta có thể tưởng tượng như hoàn toàn không đau gì cả. Nhưng tiếng gào thét kia cho ta biết, đi kèm theo công trình nghệ thuật ấy là một cái đau khủng khiếp.

            Chẳng mấy chốc toàn bộ da cánh tay phải của Yamamoto đã bị lột ra thành một miếng mỏng duy nhất. Gã lột da đưa miếng da cho người đứng cạnh, gã này đỡ lấy bằng mấy đầu ngón tay, căng rộng chìa ra cho những người khác xem. Máu vẫn đang nhỏ giọt từ miếng da xuống. Đoạn viên sĩ quan quay qua tay trái của Yamamoto, lặp lại quy trình. Sau đó y lột da hai chân, cắt dương vật và tinh hoàn, rồi cắt tai. Kế đó hắn lột da đầu, mặt và mọi chỗ khác. Yamamoto bất tỉnh, hồi tỉnh, rồi lại bất tỉnh. Mỗi khi y ngất đi, tiếng gào thét ngưng, khi y tỉnh thì tiếng gào thét lại tiếp tục. Nhưng giọng y yếu dần, cuối cùng tắt hẳn. Suốt thời gian đó, viên sĩ quan Nga lấy gót giày vẽ vẽ những hình vô nghĩa trên cát. Đám lính Mông Cổ im lặng quan sát cảnh lột da. Mặt bọn họ vô cảm, không kinh tởm, không hào hứng, không khiếp hãi. Họ quan sát Yamamoto bị lột từng mảng da với vẻ mặt như khi ta đang tản bộ thì dừng lại ngắm một công trình xây dựng vậy.

            Suốt thời gian đó tôi toàn nôn mửa. Nôn thốc nôn tháo. Ngay cả khi tưởng chừng không còn gì để nôn ra nũa, tôi vẫn cứ nôn mãi. Cuối cùng, viên sĩ quan Mông Cổ giống con gấu giơ lên cao tấm da thân của Yamamoto mà hắn vừa lột tuyệt khéo. Thậm chí hai núm vú còn y nguyên. Cho đến giờ tôi vẫn không nhìn thấy một cái gì ghê rợn đến vậy. Ai đó nhận miếng da từ tay hắn rồi trải ra cho khô như ta phơi ga trải giường. Còn lại trên mặt đất kia là cái xác của Yamamoto, một đống thịt máu me đỏ lòm, không còn một tí da nào. Khủng khiếp nhất là khuôn mặt. Từ trong vũng thịt đỏ thon thót thòi ra hai nhãn cầu to tướng trắng ớn. Miệng há hoác phô hết răng như đang thét lên. Ở chỗ vốn là cái mũi nay là hai cái lỗ nhỏ. Mặt đất chung quanh là cả một biển máu.

            Viên sĩ quan Nga nhổ xuống đất rồi nhìn tôi. Rồi hắn rút cái khăn mùi soa ra khỏi túi mà lau mồm.

            - Thằng này thật sự không biết gì phải không? – hắn vừa nói vừa đút mùi xoa vào túi. Giọng hắn bây giờ nghe khô khan hơn lúc nãy. – Nếu biết thì nó đã nói rồi. Cũng tội. Dù gì thì nó cũng là một tay chuyên nghiệp. Đằng nào nó cũng sẽ chết đau đớn thôi, không sớm thì muộn. Chả làm sao được. Mà nếu nó đã không biết gì thì làm sao mày lại biết cái gì.

            Hắn cho một điếu thuốc lên miệng rồi quẹt diêm.

            - Nghĩa là chúng tao không cần mày nữa. Tra tấn mày để moi thông tin thì bằng thừa. Để cho sống làm tù binh cũng vô ích. Chúng tao muốn dứt điểm vụ này một cách tuyệt đối bí mật. Nếu đưa mày về Ulan Bator, chúng tao có thể sẽ gặp rắc rối. Dĩ nhiên, cách tốt nhất là cho một viên đạn vào đầu mày ngay bây giờ, ngay tại đây, rồi chôn hoặc thiêu xác mày và ném tro xuống sông Khalkha. Giải quyết vậy là đơn giản nhất. Mày đồng ý không? – Chắc mày không hiểu tiếng Nga thật. Nói với mày chỉ tổ phí thời gian. Thôi được rồi. Coi như tao nói cho tao vậy. Nghe đây nhé. Tao có tin vui cho mày đây. Tao đã quyết định không giết mày. Coi như đấy là tao bày tỏ chút ân hận vì đã giết thằng bạn mày một cách vô ích. Sáng nay, chúng tao giết vừa rồi. Mỗi ngày một mạng là đủ. Cho nên tao sẽ không giết mày. Thay vào đó tao sẽ cho mày một cơ hội sống. Nếu gặp may có khi mày sẽ sống không chừng. Dĩ nhiên cơ hội không nhiều đâu. Phải nói là hầu như không có. Nhưng cơ hội vẫn là cơ hội. Ít nhất cũng còn tốt hơn nhiều so với bị lột da sống. Đồng ý chứ?

            Hắn giơ tay lên gọi tay sĩ quan Mông Cổ. Gã này vừa hết sức cẩn thận rửa dao bằng nước trong biđông và liếc cho sắc bằng đá mài. Đám lính đã trải các tấm da của Yamamoto ra rồi đứng bên cạnh mà thảo luận gì đó. Hình như họ đang trao đổi ý kiến về những điểm tinh tế của kỹ thuật lột da. Gã sĩ quan Mông Cổ đút dao vào vỏ rồi cho vào túi áo khoác, sau đó mới lại gần chúng tôi. Hắn nhìn vào mặt tôi một thoáng rồi quay sang viên sĩ quan Nga. Người này nói với hắn mấy câu bằng tiếng Mông Cổ, hắn gật đầu, vẻ vô cảm. Một tên lính mang lại hai con ngựa cho họ.

            - Chúng tao sẽ quay về Ulan Bator ngay bây gời, - viên sĩ quan Nga bảo tôi. – Tao ghét phải về tay không, nhưng đành chịu, làm thế nào được. Có lúc được thì cũng có lúc mất. Tao hy vọng tới bữa tối thì sẽ ăn ngon miệng, nhưng cũng chưa chắc.

            Họ leo lên ngựa đi. Máy bay cất cánh, trở thành một tấm bạc trên bầu trời phía Tây rồi biến mất hẳn, để lại một mình tôi với đám lính Mông Cổ và bầy ngựa.

            Đám lính đặt tôi lên một con ngựa, trói chặt tôi vào yên. Sau đó tất cả dàn thành đội hình đi về phía Bắc. Gã lính đi ngay phía trước tôi hát mãi một giai điệu đều đều bằng giọng khẽ gần như không ai nghe được. Ngoài ra, không còn âm thanh nào khác ngoài tiếng móng ngựa khô khốc gõ lên mặt cát. Tôi không biết họ dẫn tôi đi đâu hay sẽ làm gì tôi. Tôi chỉ biết mỗi một điều: với họ tôi là một sinh vật thừa, hoàn toàn vô giá trị. Những lời của viên sĩ quan Nga cứ vang vang trong đầu tôi. Hắn đã nói sẽ không giết tôi. Hắn sẽ không giết tôi, nhưng cơ hội cho tôi sống thì hầu như không có. Thế nghĩa là thế nào? Mơ hồ quá, tôi không thể nào hiểu cụ thể được. Có lẽ chúng sẽ dùng tôi trong một kiểu trò chơi ghê rợn nào đó. Chúng sẽ không dễ dàng thả tôi ra đâu, chúng còn phải vui thú với trò chơi kinh khủng của chúng trước đã.

            Nhưng ít ra thì chúng đã không giết tôi. Ít nhất chúng đã không lột da sống tôi như đã làm với Yamamoto. Cũng có thể cuối cùng tôi vẫn sẽ không thoát chết, nhưng ít nhất là không chết như thế. Tạm thời tôi vẫn còn sống; tôi vẫn còn hít thở. Và nếu những gì viên sĩ quan Nga nói là đúng thì tôi sẽ không bị giết ngay. Thời gian giữa tôi bây giờ và cái chết càng nhiều, tôi càng có nhiều cơ hội sống. Cơ hội đó có thể vô cùng nhỏ nhoi, nhưng tôi chỉ còn cách bám lấy nó.

            Thế rồi, hoàn toàn đột ngột, lời của hạ sĩ Honda lại lóe lên trong đầu tôi: lời tiên báo kỳ lạ của anh ta rằng tôi sẽ không chết ở đại lục. Dẫu tôi đang ngồi đây, bị trói chặt vào yên ngựa, tấm lưng trần của tôi bị mặt trời sa mạc thiêu đốt, tôi vẫn ôn đi ôn lại từng chữ anh ta nói. Tôi miên man nhớ lại vẻ mặt anh ta, ngữ điệu của anh ta, âm thanh từng chữ của anh ta. Và tôi quyết định phải tin lời anh ta, tin tự đáy lòng tôi. Không, không. Tôi sẽ không nằm xuống mà chết ở một nơi như thế này! Tôi sẽ sống mà thoát khỏi nơi này?! Tôi sẽ còn sống để đặt chân lên mảnh đất quê hương lần nữa!

            Chúng tôi đi về phía Bắc trong khoảng hai tiếng đồng hồ hay hơn, cuối cùng dừng lại gần một cái gò bằng đá do các tu sĩ Phật giáo Tây Tạng xây nên. Các gò đá này, gọi là oboo, vừa là thần hộ mệnh cho khách lữ hành vừa là một dấu hiệu chỉ đường quý báu trong sa mạc. Ở đây đám lính xuống ngựa và cởi trói cho tôi. Hai người xốc hai bên nách dẫn tôi ra một quãng ngắn. Ra là tôi sẽ bị giết ở chỗ này đây. Có một cái giếng đào xuống đất. Bao quanh miệng giếng là một bức tường đá cao khoảng một mét. Họ buộc tôi quỳ bên giếng, túm cổ tôi từ đằng sau bắt tôi nhìn xuống giếng. Tôi không thấy gì trong bóng tối dày đặc. Viên hạ sĩ quan đi ủng tìm đâu ra một hòn đá to cỡ nắm tay, thả xuống giếng. Lát sau hòn đá chạm mặt cát vang lên một tiếng khô khốc. Vậy là chắc giếng này cạn. Đã có thời nó là giếng nước trong sa mạc, nhưng hẳn đã bị cạn khô từ lâu vì mạch nước ngầm dưới đất dịch chuyển. Xét theo khoảng thời gian mà hòn đá phải rơi để xuống tận đáy thì giếng khá sâu.

            Viên hạ sĩ quan nhìn tôi nhe răng cười. Rồi hắn rút một khẩu súng lục tự động to tướng ra khỏi bao da nơi thắt lưng. Hắn mở chốt an toàn rồi nạp một viên đạn vào buồng đạn kêu đánh cách một tiếng lớn. Đoạn hắn chĩa nòng súng vào đầu tôi.

            Hắn giữ nguyên vậy một hồi lâu nhưng không bóp cò. Đoạn hắn từ từ hạ súng xuống và giơ tay trái chỉ về phía cái giếng. Liếm đôi môi khô nẻ, tôi nhìn trân trân vào khẩu súng trong tay hắn. Điều hắn muốn bảo tôi là thế này: tôi có quyền lựa chọn một trong hai số phận. Hoặc tôi để hắn bắn tôi chết ngay bây giờ - chết là hết. Hoặc tôi có thể nhảy xuống giếng. Vì giếng rất sâu nên nếu không gặp may khi tiếp đất, tôi có thể sẽ chết. Bằng không, tôi sẽ chết từ từ dưới đáy cái lỗ đen ngòm này. Rốt cuộc tôi cũng hiểu ra đây chính là cái cơ hội mà viên sĩ quan Nga đã nói. Viên hạ sĩ quan chỉ vào chiếc đồng hồ tước của Yamamoto đếm đến ba, tôi bước lên thành giếng rồi nhảy xuống. Tôi không có cách nào khác. Tôi đã mong có thể bám theo thành giếng mà tụt xuống, nhưng hắn không cho tôi có thì giờ làm việc đó. Hai bàn tay tôi trượt khỏi thành giếng, tôi lao thẳng xuống.

            Dường như phải rất lâu tôi mới chạm tới đáy. Thực ra thì chắc hẳn không quá mấy giậy, nhưng trong khoảng thời gian rơi xuống đó tôi đã kịp nhớ lại rất nhiều thứ. Tôi nghĩ về thị trấn quê nhà sao mà xa quá đỗi. Tôi nghĩ về người con gái tôi đã ngủ cùng chỉ một lần duy nhất trước khi xuống tàu ra đi. Tôi nghĩ về bố mẹ tôi. Tôi nhớ mình đã cám ơn trời đã cho tôi một đứa em gái chứ không phải em trai: nhờ vậy thì dù tôi chết bố mẹ tôi vẫn còn có nó và không phải lo rằng đến lượt nó phải đi lính. Tôi nhớ những chiếc bánh bột gạo gói trong lá sồi. Thế rồi tôi đâm sầm xuống mặt đất khô cứng và bất tỉnh một lát. Dường như toàn bộ không khí bên trong tôi đã phụt cả ra ngoài qua lớp vỏ thân thể tôi. Tôi đã rơi phịt xuống đáy giếng như cái bao cát.

            Hẳn tôi đã ngất đi chỉ một thoáng vì cú ngã. Khi tỉnh dậy, tôi cảm thấy có dòng nước nào đó đang rưới lên mình. Ban đầu tôi ngỡ là mưa, nhưng tôi nhầm. Đó là nước tiểu. Đám lính Mông Cổ đang đái lên tôi trong khi tôi nằm dưới đáy giếng. Tôi nhìn lên thấy bóng dáng lờ mờ của họ xa mãi trên kia, từng người một đến bên miệng giếng tròn để đái. Quang cảnh đó có gì đó phi thực một cách khủng khiếp, như một cơn ảo giác vì ma túy vậy. Nhưng đó là thực tại. Quả thực tôi đang ở dưới đáy giếng, và người ta đang đái lên tôi bằng nước đái thật. Sau khi cả bọn đã đái xong, một người rọi đèn pin lên tôi. Tôi nghe họ cười rộ. Rồi họ biến mất khỏi mép giếng. Sau đó, mọi sự chìm vào im lặng thăm thẳm.

            Tôi nghĩ tốt nhất là nằm sấp một lát, chờ xem họ có quay lại không. Nhưng hai mươi phút trôi qua, rồi ba mươi phút (tôi chỉ đoán vậy vì không có đồng hồ), họ vẫn không quay lại. Dường như họ đã đi, bỏ tôi ở đây. Tôi đã bị bỏ lại ở dưới đáy một cái giếng giữa sa mạc. Khi đã chắc là đám lính không quay lại nữa, tôi quyết định kiểm tra xem mình có bị thương không. Làm việc đó trong bóng tối thật không dễ. Tôi không nhìn thấy chính cơ thể mình. Tôi không thể dùng mắt để xác định xem cơ thể mình có ổn không. Tôi chỉ có thể dùng tay sờ, nhưng không dám chắc những cảm nhận của mình trong bóng tối là chính xác. Tôi cảm thấy mình đang bị dối gạt, bị đánh lừa. Đó là một cảm giác thật kỳ lạ.

            Tuy vậy, từng tí một, và bằng cách hết sức chú ý tới từng chi tiết, tôi bắt đầu nhận thức được hoàn cảnh của mình. Điều đầu tiên tôi nhận thấy là tôi đã hết sức gặp may. Đáy giếng tương đối mềm, toàn cát. Nếu không thì khi rơi xuống từ trên cao đến thế chắc tôi đã gãy hết xương. Tôi hít một hơi dài, sâu rồi cố cử động. Trước hết tôi thử cử động các ngón tay. Ngón tay động đậy được, dù yếu ớt. Sau đó tôi thử ngồi dậy, nhưng không được. Cơ thể tôi như đã mất hết cảm giác. Ý thức vẫn còn, nhưng có cái gì đó không ổn trong sự liên lạc giữ ý thức với cơ thể. Tâm trí tôi quyết định làm cái gì đó, nhưng không truyền tải được ý nghĩ đó đến hoạt động các cơ. Tôi đành chịu thua, chỉ nằm im một lát trong bóng tối.

            Tôi đã nằm như thế trong bao lâu, tôi không biết. Nhưng rồi, dần dần, cảm giác bắt đầu trở lại. Và cùng với sự phục hồi là – cũng tự nhiên thôi – cái đau xuất hiện. Đau ghê gớm. Chắc tôi gãy chân mất rồi. Và tôi hẳn đã bị trật khớp, có khi còn gãy không chừng.

            Tôi nằm đó ráng chịu đau. Không biết tự lúc nào nước mắt tuôn ràn rụa xuống hai má tôi – khóc vì đau, nhưng còn hơn cả đau là khóc vì tuyệt vọng. Chắc ông sẽ không bao giờ hiểu nổi cảm giác ấy đâu – nỗi cô đơn tột cùng, nỗi tuyệt vọng cùng cực khi bị bỏ mặc trong một cái giếng sâu giữa sa mạc ở bên rìa thế giới, người đau như dần trong bóng tối như mực. Thậm chí tôi hối tiếc phải chi tên hạ sĩ quan Mông Cổ bắn quách tôi cho rồi thì có hay hơn không. Nếu tôi bị giết bằng cách đó thì chí ít bọn họ cũng biết về cái chết của tôi. Chứ nếu tôi chết ở đây, đó sẽ là một cái chết thực sự cô độc, một cái chết chẳng ai buồn quan tâm, một cái chết câm lặng.

            Thi thoảng tôi nghe tiếng gió. Mỗi khi lùa qua mặt đất, gió lại gây ra một âm thanh kỳ lạ nơi miệng giếng, âm thanh như một người đàn bà than khóc ở một thế giới xa xôi nào. Thế giới đó và thế giới này nối với nhau bằng một đường thông hẹp qua đó giọng của người đàn bà vọng đến tôi, dù chỉ từng chặp cách quãng không đều. Tôi đã bị bỏ mặc một mình trong im lặng sâu thẳm và trong bóng tối còn thăm thẳm hơn thế.

            Cố nén đau, tôi vươn tay sờ nền đất quanh mình. Đáy giếng phẳng, không rộng lắm, đường kính khoảng từ mét rưỡi tới mét bảy. Trong khi sờ soạng mặt đất, tay tôi bỗng chạm phải một vật cứng, sắc. Tôi sợ hãi rụt tay về, nhưng rồi lại chầm chậm, cẩn thận chìa tay về phía vật đó. Các ngón tay tôi lại tiếp xúc với cái vật sắc đó. Ban đầu tôi nghĩ đó là một cành cây, nhưng chẳng mấy chốc tôi nhận ra mình đang chạm phải xương. Không phải xương người mà là xương của một con vật nhỏ. Xương vung vãi tứ tung, có thể vài lâu ngày, cũng có thể vì cú ngã của tôi. Chẳng còn gì khác dưới đáy giếng nữa, chỉ toàn cát, mịn và khô.

            Kế đó tôi miết lòng bàn tay lên vách giếng. Dường như vách được làm bằng những viên đá mỏng, nhẵn. Bề mặt sa mạc vào ban này nóng như thiêu, nhưng cái nóng đó không xuyên thấu nổi đến thế giới dưới lòng đất này. Các viên đá lạnh toát như băng. Tôi lại sờ soạn lên vách giếng để kiểm tra khoảng hở giữa các viên đá. Nếu đủ chỗ tì chân thì tôi sẽ có thể leo lên được. Nhưng khoảng hở giữa các viên đá quá hẹp không thể tì chân được, đã vậy cái thân tôi bầm dập thế này thì leo lên là chuyện hầu như không tưởng.

            Cố hết sức bình sinh, tôi lếch về phía vách giếng, gượng dậy ngồi tựa vào vách. Mỗi cử động lại khiến chân và vai tôi đau thon thót như bị châm hàng trăm mũi kim dày. Sau đó thì từng hơi thở đều khiến tôi có cảm giác toàn thân tôi sắp rời ra từng mạnh. Tôi sờ vai thì thấy nó nóng hầm hập, sưng tấy lên.

            * * *

            Bao nhiêu thời gian trôi qua như vậy, tôi không biết. Nhưng rồi, đến một lúc, xảy ra một điều mà tôi không thể tưởng tượng nổi. Ánh nắng mặt trời rọi xuống qua miệng giếng như một thứ mặc khải. Trong khoảnh khắc đó, tôi thấy rõ mọi vật quanh mình. Giếng ngập trong ánh sáng rực rỡ. Cả một dòng thác ánh sáng. Cái chói chang đó hầu như làm tôi nghẹt thở. Bóng tối và cái lạnh bị quét sạch trong một khoảnh khắc, ánh mặt trời ấm áp, dịu dàng bao bọc tầm thân trần trụi của tôi. Ngay cả cái đau của tôi dường như cũng được ban phúc trong ánh sáng của mặt trời, cái ánh sáng giờ đây đang rọi chiếu lên mớ xương trắng của con vật nhỏ bên cạnh tôi. Nắm xương đó vốn lẽ ra đã là điềm gở cho cái chết mười mươi của tôi, nhưng trong ánh nắng mặt trời dường như nó lại là một người bạn thân thiết đồng cam cộng khổ. Tôi thấy rõ những tảng đá xây vách giếng bao quanh tôi. Chừng nào còn ở trong ánh sáng, tôi có thể quên hết nỗi sợ, cái đau, cơn tuyệt vọng. Sững sờ, tôi ngồi ngây ra trong ánh sáng chói lòa. Thế rồi ánh sáng biến mất cũng đột ngột như khi nó đến. Bóng tối dày đặc lại trùm lên mọi vật. Khoảnh khắc vừa rồi hết sức ngắn ngủi. Nếu nói theo đồng hồ, nó kéo dài khoảng mười giây, cùng lắm là mười lăm giây. Rõ ràng là do góc độ nên ánh sáng mặt trời chỉ có thể rọi thẳng vào đáy giếng trong ngần ấy thời gian, chỉ một lần duy nhất mỗi ngày. Dòng ánh sáng đã ra đi trước khi tôi kịp hiểu ra ý nghĩa của nó.

            Sau khi ánh sáng đã tàn, tôi lại chìm trong bóng tối còn dày đặc hơn trước. Tôi gần như không cử động được. Tôi không có nước, không có thức ăn, không một mảnh vải che thân. Buổi chiều dài dằng dặc trôi qua, rồi đêm đến, nhiệt độ tụt xuống thấp nhất. Tôi gần như không ngủ được. Cơ thể tôi thèm được ngủ, nhưng cái lạnh chọc vào da tôi như hàng ngàn cái gai nhỏ xíu. Tôi cảm thấy như phần cốt tủy của sinh mệnh tôi đang cứng lại, đang chết dần. Trên đầu, tôi thấy những vì sao lạnh giá trên bầu trời. Sao nhiều đến hãi hùng. Tôi ngắm nhìn chúng, quan sát chúng di động chầm chậm. Chuyển động của chúng giúp tôi yên lòng rằng thời gian vẫn đang trôi. Tôi ngủ một chút, sực tỉnh vì lạnh và đau, ngủ thêm chút nữa rồi lại sực tỉnh vì đau.

            Cuối cùng trời cũng sáng. Từ miệng giếng tròn, những điểm sáng li ti sắc nhọn của ánh sao dần dần nhạt đi. Thế nhưng, ngay cả khi bình minh đã rạng, các vì sao vẫn không biến mất hoàn toàn. Dù đã mờ nhạt đến hầu như không thấy được, chúng vẫn còn đó. Để cho đỡ khát, tôi liếm những giọt sương buổi sáng đọng trên vách giếng. Dĩ nhiên là chẳng được bao nhiêu, nhưng với tôi chỗ nước đó ngon như một hồng phúc trời cho. Tôi chợt nhớ ra rằng đã suốt một ngày tôi không ăn, không uống. Thế nhưng tôi không thấy đói chút nào.

            Tôi cứ ở đó, ngồi yên, dưới đáy lỗ. Tôi không làm gì khác được. Thậm chí tôi không thể suy nghĩ, cảm giác cô đơn và tuyệt vọng của tôi quá to lớn. Tôi ngồi đó chẳng làm gì, chẳng nghĩ gì. Tuy nhiên, một cách vô thức, tôi chờ tia sáng đó, cái dòng ánh sáng chói lòa tuôn thẳng xuống đáy giếng chỉ trong một khoảnh khắc vô cùng ngắn ngủi mỗi ngày. Ắt hẳn đó là một hiện tượng xảy ra lúc rất gần giữa trưa, khi mặt trời nằm ở thiên đỉnh và ánh sáng của nó chiếu vuông góc xuống mặt đất. Tôi đợi ánh sáng đó, ngoài ra tôi không chờ đợi gì nữa. Tôi chẳng còn có thể đợi cái gì khác nữa.

            Dường như rất nhiều thời gian đã trôi qua. Đến một lúc, tôi thiếp đi mà không hay. Ngay lúc tôi cảm thấy sự hiện diện của cái gì đó và sực tỉnh thì ánh sáng đã ở đó rồi. Tôi nhận ra mình lại đang ngập trong ánh sáng chan hòa đó. Một cách vô thức, tôi dang rộng hai tay, ngửa lòng bàn tay ra đón nhận mặt trời. Lần này ánh sáng mạnh hơn nhiều so với lần đầu. Nó cũng ở lại với tôi lâu hơn lần trước nhiều. Ít nhất là tôi cảm thấy như vậy. Trong ánh sáng đó, lệ trào khỏi mắt tôi. Tôi cảm thấy như toàn bộ chất lỏng trong cơ thể tôi có thể biến thành nước mắt rồi trào ra khỏi mắt tôi, rằng chính cơ thể cũng có thể tan đi mất. Nếu như điều đó xảy ra trong niềm phúc lạc tột cùng của ánh sáng kỳ vĩ đó thì ngay cái chết cũng không còn đáng sợ nữa. Thực sự tôi cảm thấy muốn chết. Tôi có một cảm giác kỳ diệu về nhất thể, một cảm thức vô cùng lớn lao về sự hợp nhất. Phải, nó đấy: ý nghĩa đích thực của cuộc nhân sinh nằm trong cái ánh sáng chỉ kéo dài mấy giây kia, và tôi cảm thấy thật sự mình cần phải chết ngay lúc đó, ngay ở đó.

            Nhưng dĩ nhiên, chưa có chuyện gì kịp xảy ra thì ánh sáng đã biến mất. Tôi vẫn đang ngồi dưới đáy cái giếng khốn khổ kia. Bóng tối và cái lạnh lại siết chặt lấy tôi như thể tuyên bố rằng ánh sáng kia chưa bao giờ tồn tại cả. Tôi cứ ngồi co ro đó mãi một hồi lâu, mặt mũi đầm đìa nước mắt. Như bị một sức mạnh to lớn nào đó giã cho tơi bời, tôi không thể làm gì, không thể nghĩ về bất cứ cái gì, thậm chí không còn cảm thấy sự tồn tại của thân thể mình nữa. Tôi như một bộ xương khô, cái vỏ rỗng bị một con côn trùng bỏ lại. Nhưng rồi, trong tâm trí tôi, như một căn phòng trống, lại hiện về lời tiên tri của hạ sĩ Honda: rằng tôi sẽ không chết ở Trung Hoa đại lục. Giờ đây, khi ánh sáng đó đã đến và đã đi qua, tôi thấy mình có thể tin lời của anh ta. Giờ đây tôi có thể tin lời của anh ta bởi vì, ở nơi mà đáng lẽ ra tôi đã chết, vào thời điểm mà đáng lẽ ra tôi đã chết, tôi đã không thể chết. Không phải tôi không chết, mà là tôi không thể chết. Ông Okada có hiểu tôi đang nói gì không? Bao nhiêu ân huệ mà tôi đã được trời ban cho tôi lúc đó, tôi đã mất cả rồi.

            * * *

            Kể đến đây, Trung úy Mamiya nhìn đồng hồ.

            - Và như ông thấy đó, tôi đang ngồi đây. – Ông lắc đầu như cố xua đi những sợi tơ vô hình của ký ức. – Đúng như ông Honda đã nói, tôi không chết ở Trung Hoa đại lục. Và trong số bốn người chúng tôi khi đó, tôi là người sống lâu nhất.

            Tôi im lặng gật đầu.

            - Xin ông thứ lỗi cho, chuyện tôi kể dài quá. Phải nghe một lão già vô dụng lảm nhảm liên tục bất tận về những ngày xa xưa thế này hẳn là ông thấy chán lắm. – Trung úy Mamiya đổi thế ngồi trên ghế sofa. – Trời ạ, nếu tôi nán lại thêm nữa thì sẽ nhỡ tàu mất.

            Tôi vội tìm cách giữ ông lại.

            - Xin ông đừng ngưng câu chuyện như thế, - tôi nói. – Sau đó thì thế nào? Tôi muốn nghe nốt phần còn lại.

            Ông nhìn tôi một lát.

            - Thế này vậy. Thật sự là tôi muộn tàu mất rồi, hay ông đi bộ với tôi đến trạm xe buýt nhé? Trong khi đi tôi có thể kể vắn tắt cho ông.

            Tôi ra khỏi nhà, cùng ông đi bộ đến trạm xe buýt.

            - Đến sáng ngày thứ ba, tôi được hạ sĩ Honda cứu thoát. Ông ấy đã cảm thấy rằng đêm hôm đó đám lính Mông Cổ sẽ tấn công chúng tôi, nên đã lẻn ra khỏi lều và nấp kỹ suốt thời gian đó. Ông ấy đã lấy bản tài liệu trong túi của Yamamoto mà mang theo mình. Ông ấy làm vậy bởi vì ưu tiên số một của chúng tôi là phải làm sao cho tài liệu đó không rơi vào tay thù, dù có phải hy sinh đến đâu. Hẳn ông đang tự hỏi, nếu hạ sĩ Honda đã đoán được quân Mông Cổ sẽ đến thì tại sao ông ấy bỏ chạy một mình mà không đánh thức mọi người để tất cả cùng thoát. Vấn đề đơn giản là chúng tôi không hề có hy vọng thắng trong hoàn cảnh đó. Quân Mông Cổ biết chúng tôi đang ở đâu. Bọn họ quân số đông hơn, súng ống nhiều hơn. Và họ, tìm ra chúng tôi, bắn chết chúng tôi và lấy tài liệu đi là việc dễ như bỡn. Tình huống đã vậy thì hạ sĩ Honda không có cách nào hơn là trốn thoát một mình. Trên chiến trường, hành vi của ông ta có thể là một trường hợp đào ngũ rõ ràng, nhưng với một nhóm đặc nhiệm như chúng tôi thì điều quan trọng nhất là khả năng tùy cơ ứng biến.

            Ông ấy đã chứng kiến mọi việc. Ông ấy đã quan sát chúng lột da Yamamoto. Ông ấy đã thấy đám lính Mông Cổ điệu tôi đi. Nhưng ông ấy không còn ngựa nên không thể đi theo ngay lúc đó được. Ông ấy chỉ còn cách cuốc bộ. Ông ấy đào chỗ thức ăn thừa mà chúng tôi đã chôn trong sa mạc lên rồi chôn dấu bản tài liệu cũng ở đó. Sau đó ông ấy đi tìm tôi. Tuy nhiên, để tìm ra được tôi dưới cái giếng kia, ông ấy phải mất nhiều công sức lắm. Thậm chí ông ấy không biết đám lính dẫn tôi về hướng nào kia mà.

            - Làm sao ông ấy phát hiện ra cái giếng? – tôi hỏi.

            - Tôi không biết, - Trung úy Mamiya nói. – Ông ấy không nói gì nhiều về chuyện đó. Chắc chỉ có thể nói là ông ấy biết, vậy thôi. Khi tìm thấy tôi, ông ấy xé quần áo thành từng mảnh làm thành một sợi dây dài. Đến khi đó tôi hầu như đã bất tỉnh, khiến ông ấy lại càng vất vả hơn mới kéo được tôi lên. Thế rồi ông ấy tìm đâu được con ngựa, liền đặt tôi lên lưng nó. Ông ấy đưa tôi qua các đụn cát, vượt sông về chốt tiền tiêu của quân đội Mãn Châu quốc. Ở đó người ta chữa các vết thương cho tôi rồi cho tôi lên một chiếc xe tải do bộ tham mưu cử đến. Tôi được đưa tới bệnh viện Hailar.

            - Còn cái tài liệu, bức thư hay cái gì gì đó thì sao?

            - Chắc hẳn nó vẫn còn nằm đâu đó trong lòng đất, gần sông Khalkha. Đối với hạ sĩ Honda và tôi, quay trở lại suốt quãng đường đó để đào nó lên là một việc thậm vô lý, mà chúng tôi cũng chẳng tìm được lý do nào để phải nhọc công làm vậy. Chúng tôi đi đến kết luận rằng truớc hết một vật như vậy lẽ ra không bao giờ nên tồn tại. Chúng tôi quyết định sẽ thống nhất lời khai khi bị quân đội tiến hành điều tra. Cả hai chúng tôi sẽ khăng khăng rằng chưa bao giờ nghe nói đến tài liệu tài liếc gì hết. Nếu không, người ta sẽ buộc tội chúng tôi đã không đem tài liệu đó từ sa mạc về. Người ta bắt chúng tôi ở hai phòng riêng biệt được canh phòng cẩn mật viện cớ để chữa trị, rồi ngày nào cũng thẩm vấn chúng tôi. Các sĩ quan cao cấp ngày nào cũng đến, buộc chúng tôi kể đi kể lại mãi chuyện đã xảy ra. Họ hỏi những câu rất tỉ mỉ và rất thông minh. Nhưng dường như họ tin chúng tôi. Tôi kể cho họ đến từng chi tiết nhỏ những gì tôi đã trải qua, nhưng cẩn thận lược bỏ bất cứ điều gì tôi biết về bản tài liệu. Họ ghi lại tất cả, sau đó thì cảnh cáo tôi rằng đây là chuyện tối mật không được phép ghi vào hồ sơ chính thức của quân đội, và tôi không bao giờ được kể cho bất cứ ai, bằng không tôi sẽ bị nghiêm trị. Hai tuần sau tôi được đưa về vị trí ban đầu, còn hạ sĩ Honda chắc cũng được quay về đơn vị cũ.

            - Có điều này tôi vẫn chưa rõ, - tôi nói. – Sao họ lại phải cất công đưa ông Honda từ đơn vị của ông ấy sang nhóm đặc nhiệm này?

            - Ông ấy chẳng bao giờ nói nhiều với tôi về chuyện đó. Có lẽ người ta cấm ông ấy kể, và tôi ngờ rằng ông ấy cũng nghĩ tôi không biết thì hơn. Tuy nhiên, xét theo những lần nói chuyện với ông ấy, tôi có thể đoán rằng có một mối quan hệ cá nhân nào đó giữa ông ấy với người tên Yamamoto, mối quan hệ đó có liên quan tới năng lực đặc biệt của ông ấy. Tôi thường nghe nói quân đội có một đơn vị riêng chuyên nghiên cứu các hiện tượng huyền bí như vậy. Nghe bảo người ta tập hợp những người có khả năng tâm linh hay ngoại cảm đó từ mọi miền đất nước lại rồi tiến hành thí nghiệm trên họ. Tôi ngờ rằng ông Honda đã gặp Yamamoto trong hoàn cảnh đó. Dù thế nào đi nữa, nếu không có những năng lực đó thì ông Honda hẳn đã không bao giờ tìm được tôi ở dưới giếng và đưa tôi đến đúng vị trí tiền đồn của quân đội Mãn Châu quốc. Bản đồ không, la bàn cũng không, thế mà ông ấy biết chính xác hướng đi không một chút phân vân. Cứ suy theo lối thường thì không thể có chuyện đó được. Tôi là chuyên gia vẽ bản đồ thật đấy, tôi khá rành địa dư vùng đó, nhưng tôi chẳng bao giờ làm được như ông ấy. Có lẽ chính vì năng lực đó mà Yamamoto mới phải tìm đến ông Honda.

            Chúng tôi đã tới trạm xe buýt và dừng lại đợi xe.

            - Dĩ nhiên, có những điều không rõ đến bây giờ vẫn hoàn toàn không rõ, - Trung úy Mamiya nói. – Có những chuyện đến giờ tôi vẫn không hiểu. Tôi vẫn tự hỏi gã sĩ quan Mông Cổ đi một mình mà chúng tôi đã gặp trong sa mạc là ai. Tôi lại tự hỏi nếu chúng tôi mang bản tài liệu đó về bộ tham mưu thì sự thể sẽ ra sao. Tại sao Yamamoto không để chúng tôi lại trên hữu ngạn sông Khalkha rồi vượt sông một mình? Nếu làm vậy hắn sẽ có thể đi lại tự do hơn nhiều chứ. Có lẽ hắn có ý định dùng chúng tôi làm mồi nhử quân Mông Cổ để hắn có thể thoát một mình. Chuyện ấy có thể lắm. Có lẽ Honda nhận ra điều đó ngay từ đầu nên ông ấy chỉ đứng nhìn khi người Mông Cổ giết Yamamoto.

            Dù thế nào đi nữa, mãi rất lâu sau đó tôi với hạ sĩ Honda mới có cơ hội gặp lại nhau. Ngay từ khi đến Hailar chúng tôi đã bị cách ly, người ta cấm chúng tôi nói chuyện với nhau, gặp nhau cũng không được. Thậm chí tôi muốn gặp để cám ơn một lần cuối, người ta cũng không cho. Ông ấy bị thương trong trận Nomonhan và được đưa về nước, còn tôi ở lại Mãn Châu đến hết chiến tranh, sau đó thì bị đưa đi Siberia. Mãi mấy năm sau khi được thả khỏi trại tù ở Siberia và hồi hương, tôi mới tìm lại được ông ấy. Sau đó chúng tôi gặp nhau vài lần nữa, còn lại thì viết thư. Nhưng hình như ông ấy tránh nói về những gì đã xảy ra với chúng tôi bên bờ sông Khalkha, chính tôi cũng chẳng hào hứng nhắc lại chuyện đó lắm. Với cả hai chúng tôi, những gì đã trải qua đó thật lớn lao quá sức, chúng tôi cùng chia sẻ nó bằng cách không nói gì về nó hết. Ông hiểu tôi chứ?

            Chuyện hóa ra rất dài như vậy đó, song điều tôi muốn truyền đạt cho ông là, tôi cảm thấy cuộc sống thật của mình đã chấm dứt dưới cái giếng sâu trong sa mạc Ngoại Mông kia. Tôi cảm thấy như thể, trong cái ánh sáng cường liệt mỗi ngày chỉ rọi vào đáy giếng trong mười đến mười lăm giây đó, tôi đã đốt cháy cốt lõi của sinh mệnh mình cho đến khi chẳng còn lại gì nữa. Với tôi cái ánh sáng kia huyền bí đến như vậy đó! Tôi không giải thích được rõ lắm, nhưng nếu cố nói một cách thật trung thực và giản dị, thì từ đó trở đi, dù tôi có gặp chuyện gì, dù tôi có trải nghiệm gì đi nữa, tôi cũng không còn cảm xúc nào trong đáy lòng tôi. Ngay cả khi đối diện với những đơn vị xe tăng Xô Viết khổng lồ kia, ngay cả khi mất bàn tay trái, ngay cả những trại tù Siberia chẳng khác gì địa ngục, trong tôi chỉ có sự vô cảm. Nói thì nghe lạ, nhưng tất cả những chuyện đó chẳng quan trọng chút nào hết. Một cái gì đó bên trong tôi đã chết rồi. Khi ấy tôi nghĩ, lẽ ra tôi nên chết trong ánh sáng đó thì hơn, cứ tan biến đi trong ánh sáng đó thì hơn. Đấy mới là giờ chết của tôi. Song, như ông Honda tiên đoán, tôi đã không chết ở đó. Hay có lẽ phải nói rằng tôi đã không thể chết ở đó.

            Tôi trở về Nhật khi đã mất một bàn tay và mất đứt mười hai năm quý báu. Khi tôi về tới Hiroshima thì cha mẹ và em gái tôi đã chết từ lâu. Người ta điều động cô em gái nhỏ của tôi vào làm việc ở một nhà máy, khi bom nguyên tử rơi thì cô ấy đang ở đó. Cha tôi lúc đó đang trên đường tới thăm cô ấy nên cũng mất mạng. Cú sốc khiến mẹ tôi nằm liệt giường, rốt cuộc bà cũng từ trần năm 1947. Như tôi đã kể với ông, cô gái mà xưa kia tôi bí mật cầu hôn đã lấy người khác và có hai đứa con. Ở nghĩa trang, tôi tìm thấy mộ của chính mình. Tôi chẳng còn gì hết. Tôi cảm thấy thực sự trống rỗng, biết rằng mình lẽ ra không nên trở về đây. Từ đó đến nay tôi sống như thế nào, thật khó mà nhớ được. Tôi trở thành thầy giáo dạy môn xã hội, dạy sử địa ở trường trung học, nhưng tôi không sống theo đúng nghĩa của từ này. Tôi chỉ đơn thuần thực hiện những nhiệm vụ đời thường người ta giao cho, hết cái này đến cái khác. Tôi không có ai thực sự là bạn, không hề có mối quan hệ bình thường như giữa con người đối với các học sinh mà mình phụ trách. Tôi không hề yêu bất cứ ai. Tôi không còn biết yêu một người khác là như thế nào nữa. Hễ nhắm mắt lại là tôi thấy Yamamoto đang bị lột da sống. Tôi nằm mơ thấy cảnh đó hàng bao nhiêu lần. Mơ đi mơ lại. Tôi thấy người ta lột da sống anh ta, biến anh ta thành một đống thịt. Tôi nghe rõ tiếng thét xé ruột xé gan của anh ta. Tôi cũng thường mơ thấy mình mục ruỗng dần dần, khi vẫn còn sống, ở dười đáy giếng. Đôi khi tôi cảm thấy dường như đó mới là những gì đã xảy ra trong thực tại, còn cuộc sống của tôi hiện giờ chỉ là giấc mơ mà thôi.

            Lúc ông Honda bảo tôi trên bờ sông Khalkha rằng tôi sẽ không chết ở Trung Hoa đại lục, tôi đã mừng khôn xiết. Vấn đề không phải là tin hay không tin – đơn giản là khi đó tôi cần bám víu vào một cái gì đó, gì cũng được. Hẳn ông Honda biết vậy nên nói thế chỉ là để an ủi tôi. Nhưng hóa ra chẳng có gì đáng để tôi vui. Trở về Nhật rồi, tôi sống như một cái vỏ rỗng. Sống như cái vỏ rỗng thì không phải là sống, dù kéo dài bao nhiêu năm đi nữa. Con tim và xác thịt của một cái vỏ rỗng chẳng sinh ra gì khác hơn là cuộc sống của một cái vỏ rỗng. Đó mới là điều tôi hy vọng làm ông hiểu, thưa ông Okada.

            - Vậy có phải là sau khi về Nhật ông không hề lấy vợ? – tôi đánh bạo hỏi.

            - Dĩ nhiên là không, - Trung úy Mamiya đáp. – Tôi không vợ, không cha mẹ, không anh chị em. Tôi hoàn toàn cô độc.

            Lưỡng lự một hồi, tôi hỏi:

            - Ông có lấy làm tiếc đã nghe lời tiên báo của ông Honda không?

            Lần này đến lượt Trung úy Mamiya lưỡng lự. Im lặng một chút, ông nhìn thẳng vào mặt tôi.

            - Có thể, - ông nói. – Cũng có thể rằng lẽ ra ông ấy không nên nói những lời đó. Có thể rằng lẽ ra tôi đừng bao giờ nghe những lời đó. Như ông Honda đã nói khi ấy, vận mệnh con người thì chỉ có thể về sau nhìn lại chứ không thể nhìn trước được. Tuy nhiên, nay thì tôi nghĩ: đằng nào cũng vậy thôi. Giờ đây tôi chỉ đang thi hành nghĩa vụ của mình, ấy là tiếp tục sống.

            Xe buýt đến, Trung úy Mamiya cúi chào tôi thật thấp. Rồi ông xin lỗi đã lấy mất của tôi nhiều thời gian quý báu.

            - Thôi tôi đi đây, - ông nói. – Xin cảm ơn ông về mọi chuyện. Tôi rất vui vì đã trao được cho ông gói quà của ông Honda. Thế nghĩa là rốt cuộc việc của tôi đã làm xong, tôi có thể yên tâm trở về nhà rồi.

            Bằng cả bàn tay phải lẫn bàn tay giả, ông khéo léo rút mấy đồng lẻ thả vào hộp thu tiền vé.

            Tôi đứng nhìn cho tới khi chiếc xe buýt khuất dạng sau góc phố. Khi xe đi rồi, tôi thấy một cảm giác trống rỗng kỳ lạ trong lòng, cảm giác vô vọng như đứa trẻ bị bỏ rơi một mình ở một nơi xa lạ.

            Về nhà, tôi ngồi trên sofa trong phòng khách mở gói quà đựng kỷ vật của ông Honda. Tôi phải toát mồ hôi mới mở được hết lớp giấy gói này đến lớp giấy gói khác đến khi lộ ra một hộp các tông vuông vức. Đó là một hộp whisky Cutty Sark dùng làm quà tặng, nhưng sao nhẹ bỗng, như không hề đựng chai rượu nào. Tôi mở ra thì thấy bên trong chẳng có gì hết. Hộp trống trơn. Tất cả những gì ông Honda để lại cho tôi là một cái hộp rỗng.

            ---------------------------------

            16. GPU: cơ quan mật vụ Liên Xô trong thời kỳ 1922-1923, viết tắt từ tiếng Nga Gosudarstvennoe politich eskoe upravlenie, tạm dịch Vụ Chính trị Quốc gia, tiền thân của Bộ Dân ủy Nội vụ (NKVD) và Ủy ban An ninh Quốc gia (KGB) sau này – ND.

Quyển hai: Chim tiên tri

            Từ Tháng 7 tới Tháng 10 năm 1984

1

            Càng cụ thể càng tốt

            *

            Đề tài ăn ngon miệng trong văn học

            Đêm đó Kumiko không về. Tôi thức đến nửa đêm, lúc đọc sách khi nghe nhạc để đợi nàng về, nhưng rốt cuộc tôi chịu thua, đành đi ngủ. Tôi thiếp đi không tắt đèn. Khi tôi dậy thì đã 6 giờ. Ngoài cửa sổ trời sáng bạch. Bên ngoài tấm rèm mỏng chim hót líu lo. Không thấy bóng dáng vợ tôi đâu. Chiếc gối trắng bên cạnh tôi vẫn phẳng phiu, phồng lên. Vậy là suốt đêm chẳng có ai đặt đầu lên đó. Bộ pijama mới giặt, gấp lại gọn gàng của Kumiko vẫn nằm nguyên trên bàn ngủ. Chính tôi đã giặt bộ đó. Chính tôi gấp nó. Tôi tắt cây đèn bên cạnh gối mình rồi hít một hơi dài, như để điều chỉnh lại dòng thời gian.

            Tôi cứ mặc nguyên pijama mà đi một vòng quanh nhà. Đầu tiên tôi xuống bếp, sau đó kiểm tra phòng khách rồi phòng của Kumiko. Tôi kiểm tra buồng tắm, thử nhòm cả vào trong tủ quần áo cho chắc. Chẳng thấy tăm hơi nàng đâu. Nhà có vẻ im ắng hơn mọi ngày. Tôi cảm thấy cứ đi tới đi lui thế này là tôi đã mang tội phá vỡ sự hài hòa tĩnh lặng của chốn này mà chẳng có lý do nào chính đáng.

            Tôi chẳng còn gì khác để làm. Tôi xuống bếp, lấy đầy ấm nuớc rồi bật bếp gas. Khi nước sôi, tôi pha cà phê rồi ngồi nơi bàn bếp nhấp một ngụm. Rồi tôi nướng bánh mì và ăn ít salad khoai tây còn trong tủ lạnh. Đây là lần đầu tiên trong nhiều năm qua tôi ăn sáng một mình. Thử nghĩ mà xem, ngoài một chuyến công tác xa duy nhất, còn thì kể từ ngày cưới vợ chồng tôi chưa lần nào bỏ một bữa ăn sáng cùng nhau. Bữa trưa chúng tôi hay ăn riêng, đôi khi bữa tối cũng không ăn cùng, nhưng bữa sáng thì không bao giờ vắng nhau. Có một thứ thỏa thuận ngầm, gần như là một nghi thức giữa hai chúng tôi về việc cùng ăn bữa sáng. Dù muộn giờ đến mấy đi nữa, chúng tôi vẫn luôn cố dành thời gian đủ để làm một bữa sáng đâu ra đó và thư thả ăn cùng nhau.

            Nhưng sáng hôm đó vắng Kumiko. Tôi uống cà phê và ăn bánh mì nướng một mình, lặng lẽ. Tôi nhìn mãi chiếc ghế trống trước mặt. Tôi vừa ăn vừa nhìn chiếc ghế mà miên man nghĩ tới thứ nước hoa nàng đã xức sáng hôm qua. Tôi nghĩ đến người đàn ông ắt hẳn đã tặng món nước hoa đó cho nàng. Tôi hình dung nàng nằm trên giường với hắn, hai vòng tay quấn lấy nhau. Tôi thấy hai bàn tay hắn ve vuốt tấm thân trần truồng của nàng. Tôi thấy tấm lưng trắng ngần trơn láng như bằng sứ của nàng mà tôi đã thấy sáng qua, làn da mịn màng của nàng dưới chiếc khóa tôi đang kéo.

            Hình như cà phê có vị xà phòng. Tôi thật không tin được. Ngay khi nhấp ngụm đầu tiên tôi đã cảm thấy dư vị khó chịu. Tôi tự hỏi phải chăng cảm giác của tôi đang đánh lừa tôi, nhưng ngụm thứ hai cũng có cái vị đó. Tôi đổ hết cốc cà phê uống dở vào chậu rửa rồi rót thêm cà phê vào một cốc sạch. Lại vẫn mùi xà phòng. Thật không hiểu nổi tại sao. Ấm đun cà phê tôi đã rửa sạch, nuớc cũng không có vấn đề gì. Nhưng cái vị - hay mùi - thì không lầm được: chỉ có thể là xà phòng, cũng có thể là mỹ phẩm chống khô da. Tôi đổ cà phê đi rồi toan đun thêm ít nước, nhưng lại thấy chẳng bõ công. Tôi rót đầy một cốc nước máy rồi uống. Thật ra tôi cũng chẳng thèm cà phê đến như vậy.

            * * *

            Tôi đợi đến 9 giờ rưỡi rồi gọi đến cơ quan của Kumiko. Một phụ nữ trả lời điện thoại.

            - Cho tôi nói chuyện với Okada Kumiko được không ạ? – tôi hỏi.

            - Xin lỗi, chị ấy chưa đến.

            Tôi cám ơn rồi gác máy. Sau đó tôi đi là sơ mi như tôi vẫn làm mỗi khi bứt rứt không yên. Là hết sơ mi rồi, tôi quay sang bó báo và tạp chí cũ thành từng bó, lau chùi chậu rửa bát và các kệ tủ, rửa sạch phòng vệ sinh và buồng tắm. Tôi đánh bóng các tấm gương và cửa kính. Tôi tháo hết đèn trần ra rồi lau sạch những tấm kính mờ. Tôi tháo ga trải giường bẩn ném vào máy giặt rồi thay ga mới.

            Đến 11 giờ tôi lại gọi lên cơ quan của Kumiko. Cũng người phụ nữ đó trả lời, và một lần nữa cô ta nói Kumiko chưa đến.

            - Cô ấy có định nghỉ làm hôm nay không? – tôi hỏi.

            - Tôi không biết ạ, - cô ta nói, giọng hoàn toàn vô cảm. Cô ta chỉ đơn thuần thông báo sự việc.

            Nếu 11 giờ mà Kumiko chưa đến cơ quan thì có gì không ổn rồi. Hầu hết các nhà xuất bản đều làm việc theo giờ giấc không bình thường, nhưng chỗ Kumiko thì không. Do tạp chí này đề cập đến lối sống lành mạnh và thức ăn thiên nhiên, nên cộng tác viên của họ - các nhà sản xuất thực phẩm, nông dân, bác sĩ – đều là những người thường xuyên đi sớm về muộn. Để thích ứng với giờ giấc của cộng tác viên, Kumiko và các đồng nghiệp phải đến cơ quan đúng 9 giờ sáng và rời cơ quan lúc 5 giờ chiều, trừ phi có lý do đặc biệt phải ở lại muộn hơn.

            Tôi gác máy rồi vào phòng ngủ, xem kỹ tủ quần áo của nàng. Nếu Kumiko bỏ nhà đi, hẳn nàng phải mang theo quần áo. Tôi kiểm tra các áo dài, áo cánh và váy treo trong tủ. Dĩ nhiên không phải bất cứ cái gì nàng mặc tôi cũng biết – ngay quần áo của chính mình tôi cũng có biết hết từng cái đâu -, nhưng bởi tôi thường mang quần áo của nàng đến hiệu giặt là rồi mang về nên tôi biết khá rõ nàng hay mặc những chiếc áo nào nhất, những chiếc áo nào quan trọng nhất đối với nàng, và xét theo chỗ tôi biết, tất cả đều đang nằm trong tủ.

            Ngoài ra, nàng cũng đâu có cơ hội mang theo nhiều quần áo. Tôi cố nhớ lại càng chính xác càng tốt lúc nàng rời khỏi nhà ngày hôm trước – quần áo nàng mặc, túi xách nàng đeo. Nàng chỉ mang chiếc túi xách đeo vai vẫn thường mang để đi làm, trong đó chỉ có sổ sách, mỹ phẩm, chiếc ví, bút, khăn mùi xoa, khăn giấy. Làm gì còn chỗ để đựng quần áo thay.

            Tôi kiểm tra các ngăn kéo của nàng. Những đồ lặt vặt như túi xách, thắt lưng, tất dài, kính râm, quần lót, may ô thể thao, tất cả đều yên vị, xếp hàng ngay ngắn. Nếu có cái gì biến mất, tôi cũng không thể biết được. Dĩ nhiên, tất dài và quần lót thì nàng có thể cho vào túi đeo vai, nhưng thử nghĩ mà xem, tội gì phải thế chứ? Những thứ đó mua đâu chẳng được.

            Tôi lại xuống phòng tắm kiểm tra lần nữa. Ở đó cũng chẳng thấy có gì thay đổi: chỉ rất nhiều hộp mỹ phẩm và đồ lỉnh kỉnh khác của Kumiko. Tôi mở chai nước hoa Christian Dior ngửi một lần nữa. Cũng cái mùi như trước: hương thơm của một bông hoa trắng thơm ngát vào buổi sáng mùa hè. Tôi lại nhớ đến đôi vai và tấm lưng trắng muốt của nàng.

            Tôi lên phòng khách duỗi dài trên ghế sofa. Tôi nhắm mắt lắng nghe. Gần như âm thanh duy nhất tôi nghe được là tiếng đồng hồ tích tắc đếm thời gian. Không có tiếng ồn xe hơi, không có tiếng chim. Tôi không biết làm gì bây giờ. Tôi quyết định lại gọi điện đến cơ quan của nàng, đã nhấc ống nghe lên và quay mấy chữ số đầu tiên, nhưng nghĩ đến chuyện phải nói chuyện cũng với người đàn bà kia là tôi lại ngán ngẩm, đành đặt ống nghe xuống. Tôi chẳng còn gì làm nữa. Tôi chỉ có thể chờ. Có thể Kumiko đã bỏ tôi, vì lý do gì tôi không biết, nhưng ít nhất chuyện đó cũng có thể. Tuy nhên, dù đúng vậy đi nữa, Kumiko cũng không phải loại nguời bỏ đi mà không nói một lời. Nàng hẳn sẽ nói thật lý do mình ra đi, nói càng chính xác, càng rõ ràng càng tốt. Gì chứ điều đó thì tôi tin chắc trăm phần trăm.

            Mà cũng có thể nàng bị tai nạn. Có thể nàng bị một chiếc xe hơi chẹt, người ta phải đưa nàng đến bệnh viện. Nàng có thể mê man bất tỉnh, người ta tiếp máu cho nàng. Ý nghĩ đó khiến tim tôi đập thình thịch, nhưng tôi biết nàng có mang theo bằng lái, thẻ tín dụng và sổ địa chỉ. Bệnh viện hay cảnh sát hẳn phải liên lạc với tôi rồi chứ.

            Tôi ra ngồi ngoài hiên nhìn khu vườn, nhưng kỳ thực tôi chẳng nhìn gì hết. Tôi cố suy nghĩ, nhưng không thể tập trung tư tưởng vào bất cứ cái gì. Trong đầu tôi cứ trở đi trở lại hình ảnh tấm lưng Kumiko khi tôi kéo khóa áo cho nàng – tấm lưng, và mùi nước hoa sau đôi tai nàng.

            Ngay sau 1 giờ trưa, điện thoại reo. Tôi đứng dậy nhấc ống nghe.

            - Xin lỗi, đây có phải là nhà của ông Okada không ạ? – một giọng phụ nữ hỏi. Ấy là Kano Malta.

            - Đúng, - tôi nói.

            - Tên tôi là Kano Malta. Tôi gọi điện là về việc con mèo.

            - Con mèo? – tôi nói, trong dạ hơi bối rối. Tôi đã quên bẵng mất chuyện đó. Giờ thì dĩ nhiên tôi nhớ ra, nhưng có cảm giác như chuyện đó là từ thuở xa xưa nào kia.

            - Con mèo mà bà Okada đang tìm đấy ạ, - Kano Malta giải thích.

            - Phải, phải, tôi biết, - tôi nói.

            Kano Malta im lặng, như đang cân nhắc điều gì. m sắc giọng nói của tôi hẳn đã làm cô ta cảnh giác. Tôi hắng giọng rồi chuyển ống nghe sang tay kia.

            Ngừng một chút, Kano Malta nói:

            - Ông Okada ạ, tôi phải nói rằng theo tôi, hầu như chắc chắn ông sẽ không bao giờ tìm thấy con mèo. Nói ra điều này thật tôi không muốn, nhưng có lẽ tốt nhất là ông nên chấp nhận thực tế. Nó đã đi vĩnh viễn rồi. Trừ phi có một thay đổi lớn nào đó, bằng không con mèo sẽ không trở về nữa.

            - Một thay đổi lớn nào đó? – tôi hỏi. Nhưng cô ta không trả lời.

            Kano Malta im lặng một hồi lâu. Tôi chờ cô ta nói gì đó, nhưng cố lắm tôi cũng không nghe thấy dù chỉ một hơi thở nhẹ ở đầu dây bên kia. Ngay lúc tôi bắt đầu ngờ rằng điện thoại hỏng thì cô ta nói tiếp.

            - Ông Okada ạ, tôi biết nói ra điều này thì thật thất lễ, nhưng ngoài chuyện con mèo, liệu có việc gì khác mà tôi có thể giúp ông không?

            Tôi không thể trả lời ngay. Cầm ống nghe trong tay, tôi tựa lưng vào tường. Phải mất một lúc mới tìm ra lời.

            - Mọi chuyện vẫn chưa rõ lắm đối với tôi, - tôi nói. – Tôi không biết chắc điều gì cả. Tôi đang cố nghĩ cho rành mạch. Nhưng có lẽ vợ tôi đã bỏ tôi. – Tôi giải thích với cô ta rằng đêm hôm trước Kumiko không về nhà, sáng nay cũng không đến cơ quan làm việc.

            Dường như cô ta ngẫm nghĩ về điều tôi nói.

            - Hẳn là ông đang bối rối lắm, - cô nói. – Ngay lúc này tôi chưa thể nói gì, nhưng chẳng bao lâu nữa mọi chuyện sẽ rõ. Giờ ông chỉ còn cách đợi thôi. Hẳn là việc ấy chẳng dễ dàng gì với ông, nhưng cái gì cũng có lúc của nó. Như triều lên triều xuống vậy. Không ai có thể làm gì để thay đổi chúng. Khi nào cần đợi thì phải đợi.

            - Nào, nào, cô Kano! Tôi rất cám ơn cô đã vất vả vì con mèo của nhà tôi, nhưng ngay lúc này tôi chả có bụng dạ nào để nghe những lý luận chung chung kiểu đó. Tôi đang rối bời đây. Rối tinh rối mù đây. Tôi có dự cảm sẽ xảy ra một điều gì đó kinh khủng. Nhưng tôi không biết phải làm gì cả. Tôi hoàn toàn không biết mình phải làm gì. Nói thế rõ không? Tôi thậm chí không biết sau cuộc gọi này mình sẽ làm gì nữa. Tôi cần bây giờ là cần những gì cụ thể. Những sự việc cụ thể. Vặt vãnh cũng được, ngớ ngẩn cũng được, tôi nhận hết, tôi nói thế đã rõ chưa? Tôi cần một cái gì đó có thể nhìn bằng mắt, sờ bằng tay.

            Ở đầu dây bên kia tôi nghe vật gì đó rơi xuống sàn nhà – cái gì đó không nặng lắm, có lẽ một hạt ngọc trai rơi xuống sàn gỗ. Sau đó có tiếng sột soạt, như thể ai đó cầm một tờ giấy can bằng mấy đầu ngón tay mà giật mạnh. Những chuyển động đó hình như diễn ra không gần cũng không xa chiếc điện thoại lắm, nhưng xem chừng Kano Malta chẳng buồn để ý.

            - Tôi hiểu, - cô ta nói bằng giọng bình thản, vô cảm. – Một cái gì đó cụ thể.

            - Đúng rồi. Càng cụ thể càng tốt.

            - Ông hãy đợi một cú điện thoại.

            - Ngoài đợi điện thoại ra tôi còn biết làm gì nữa.

            - Sắp tới sẽ có một người tên bắt đầu bằng chữ “O” gọi cho ông.

            - Người đó có biết gì về Kumiko không?

            - Cái đó thì tôi không rõ. Tôi nói vậy vì ông đã bảo ông muốn một trong những sự việc cụ thể, sự việc nào cũng được. Đây là một sự việc nữa: sắp tới đây, một vầng bán nguyệt sẽ kéo dài trong vài ngày.

            - Bán nguyệt? – tôi hỏi. – Ý cô là trăng trên trời phải không?

            - Vâng, trăng trên trời, thưa ông Okada. Dù thế nào đi nữa, việc ông cần làm là chờ đợi. Chờ đợi là tất cả. Tạm biệt ông. Tôi sẽ hầu chuyện ông sau, sớm thôi. – Đoạn cô ta gác máy.

            * * *

            Tôi đi lấy cuốn sổ điện thoại trên bàn làm việc, giở ra vần O. Ở đó có 4 mục tên O, được Kumiko ghi bằng nét chữ nắn nót. Mục đầu là Okada Takao, cha tôi. Sau đó là một bạn học cũ của tôi tên Onoda, một nha sĩ tên Otsuka, và Omura, chủ cửa hàng rượu bia gần nhà.

            Chỗ cửa hàng rượu bia thì tôi có thể loại ngay. Nó ngay gần nhà tôi, đi bộ mười phút là tới, và trừ năm thì mười họa chúng tôi gọi điện đặt một két bia mang tới nhà, còn thì vợ chồng tôi chẳng có việc gì dính tới họ. Ông nha sĩ cũng chẳng liên quan gì. Cách đây hai năm tôi có tới chỗ ông ta để chữa cái răng hàm, nhưng Kumiko thì chưa đến đó bao giờ. Thực sự là từ khi cưới tôi Kumiko không đến nha sĩ lần nào cả. Bạn cũ Onoda thì đã nhiều năm rồi tôi không gặp. Sau khi tốt nghiệp đại học cậu ta đi làm cho một ngân hàng, đến năm thứ hai thì được thuyên chuyển về chi nhánh ở Sapporo, từ đó cậu ta sống hẳn ở Hokkaido. Hiện nay cậu ta chỉ là một trong những người hàng năm trao đổi thiệp chúc mừng Năm Mới với tôi. Tôi không nhớ nổi cậu ta đã gặp Kumiko bao giờ chưa.

            Chỉ còn lại cha tôi, nhưng không thể có chuyện Kumiko có mối quan hệ đặc biệt nào đó với ông. Sau khi mẹ tôi mất cha tôi đã tục huyền, từ đó đến nay đã nhiều năm tôi không gặp ông, không thư từ cũng chẳng nói chuyện qua điện thoại với ông. Thậm chí Kumiko chưa bao giờ gặp ông nữa là.

            Lật cuồn sổ địa chỉ, tôi mới nhận ra hai vợ chồng tôi ít giao du với người khác thế nào. Ngoại trừ dăm ba cuộc tụ tập cần thiết với đồng nghiệp, suốt sáu năm kể từ ngày cưới chúng tôi hầu như không có quan hệ với người ngoài mà khép mình vào cuộc sống riêng tư, chỉ có Kumiko và tôi.

            Tôi quyết định làm lại món spaghetti để ăn trưa. Đói thì tôi chẳng đói một chút nào. Nhưng tôi không thể ngồi chết dí trên sofa chờ điện thoại reo được. Tôi phải vận động thân thể, phải làm cái gì đó, hướng đến mục đích nào đó. Tôi lấy nước đầy ấm đun, bật bếp gas, rồi trong khi đợi nước sôi tôi vừa làm sốt cà chua vừa nghe đài FM. Đài đang phát một bản xô-nát cho violon không nhạc đệm của Bach. Diễn tấu thì xuất sắc, nhưng có cái gì đó làm tôi khó chịu. Chẳng biết là do lỗi của nhạc công hay vì tâm trạng của chính tôi, nhưng tôi tắt nhạc đi rồi tiếp tục nấu nướng trong im lặng. Tôi đun dầu ôliu, ném vào ít tỏi và hành xắt nhỏ. Khi dầu bắt đầu sôi, tôi cho vào chỗ cà chua mà tôi đã xắt lát, thái nhỏ. Cắt, thái, chiên xào các thứ như thế này thật thích. Nó cho tôi cảm giác mình đang hoàn thành một công việc cụ thể, có thể cảm nhận được trong tay mình. Tôi thích những âm thanh, những mùi xào nấu.

            Khi nước sôi, tôi cho muối và một nắm spaghetti vào. Tôi hẹn giờ là mười phút rồi rửa các thứ trong chậu rửa. Tuy nhiên, ngay cả khi đĩa spaghetti nóng sốt đã đặt ngay trước mắt, tôi vẫn không muốn ăn chút nào. Cố lắm tôi mới ăn hết một nửa, chỗ còn lại thì đổ đi. Chỗ xốt còn thừa tôi trút vào lọ rồi cất trong tủ lạnh. Cái chính là không muốn ăn thì biết làm thế nào?

            Tôi nhớ đã lâu rồi tôi có đọc câu chuyện một người đàn ông cứ ăn liên tục trong khi đợi một điều gì đó xảy ra. Nghĩ hồi lâu tôi mới nhớ ra, đó là truyện Giã từ vũ khí của Hemingway. Nhân vật chính (tôi quên tên anh ta rồi) tìm cách trốn từ Ý sang Thụy Sĩ bằng thuyền và nán lại ở thị trấn Thụy Sĩ bé nhỏ đó để chờ vợ sinh, suốt thời gian đó anh ta thường xuyên sang quán cà phê bên kia đường để ăn uống. Tôi hầu như chẳng nhớ cốt truyện thế nào nữa. Trong kí ức tôi chỉ in đậm mỗi một đoạn gần cuối truyện trong đó nhân vật chính đi ăn hết bữa này đến bữa khác trong khi đợi vợ sinh ở xứ người. Lý do khiến tôi nhớ rõ đoạn đó đến vậy là vì tính hiện thực mãnh liệt của nó. Tôi cảm thấy, xét về mặt văn chương, việc nhân vật chính càng lo lại càng ăn ngon có vẻ thật hơn nhiều so với nếu anh ta vì lo mà ăn mất ngon.

            Tuy nhiên, trái ngược với Giã từ vũ khí, tôi hoàn toàn mất cảm giác ăn ngon trong khi dõi theo những chiếc kim đồng hồ trong căn nhà câm lặng này, chờ một điều gì đó xảy ra. Đột nhiên tôi nảy ra ý nghĩ rằng tôi ăn mất ngon là bởi trong tôi thiếu cái cảm thức về thực tại văn chương đó. Tôi cảm thấy hình như mình đã trở thành một phần của một cuốn tiểu thuyết viết tồi, và ai đó đang chỉ trích rằng tôi đây hoàn toàn không có tính hiện thực. Có lẽ đúng vậy thật.

            * * *

            Cuối cùng, ngay trước 2 giờ trưa điện thoại cũng reo.

            - Đây có phải là nhà của ông Okada không ạ? – một giọng đàn ông lạ hỏi. Giọng một thanh niên, trầm và khá dễ nghe.

            - Phải, - tôi đáp, giọng hơi căng thẳng.

            - Khu số 2, nhà số 26?

            - Đúng vậy.

            - Cửa hàng rượu bia Omura gọi đây ạ. Chúng tôi rất cám ơn ông đã là khách hàng thường xuyên của chúng tôi. Tôi sắp đi thu tiền, nên tôi gọi để xem liệu lúc này có tiện cho ông không.

            - Thu tiền ấy à?

            - Vâng ạ, ông còn phải thanh toán hai két bia và một két nước quả.

            - Ờ, được. Tôi còn ở nhà thêm một lát nữa, - tôi nói cho xong chuyện.

            Gác máy xong, tôi tự hỏi liệu cuộc trò chuyện vừa rồi có hàm chứa thông tin gì về Kumiko không. Nhưng xét từ mọi góc độ, nó chẳng qua chỉ là cuộc trao đổi ngắn gọn và thực tế của một cửa hàng rượu bia về việc thu tiền. Tôi đã đặt mua của họ bia và nước quả, họ đã giao hàng cho tôi, điều đó thì đúng. Nửa giờ sau anh chàng kia đến, tôi liền trả tiền hai két bia và một két nước quả cho anh ta.

            Anh chàng dễ mến vừa mỉm cười vừa ghi biên lai.

            - Ông Okada này, nhân thể, ông có nghe nói về vụ tai nạn gần nhà ga sáng nay không? Lúc khoảng chín rưỡi ấy.

            - Tai nạn à? - tôi hỏi, sững cả người. – Ai bị vậy?

            - Một con bé con, - anh ta đáp. – Nó bị một chiếc xe tải nhỏ đang lùi chẹt phải. Nghe nói bị thương khá nặng. Tôi đi ngang đó thì tai nạn vừa xảy ra xong. Mới sáng sớm mà đã thấy cảnh đó thì sợ thật. Cái lũ lau nhau ấy thì tôi sợ chết khiếp, vì chúng bé quá, mình nhìn kính chiếu hậu có thấy chúng đâu. Ông biết ông chủ hiệu giặt là ở gần nhà ga chứ? Tai nạn xảy ra ngay trước hiệu ấy. Người ta dựng xe đạp cả ở đó, bao nhiêu là hộp chất đống lên, nhìn chả thấy gì hết.

            Anh ta đi rồi, tôi cảm thấy không thể nấn ná ở nhà thêm một phút nào nữa. Bỗng dưng nơi này trở nên nóng bức, ngột ngạt, ẩm thấp, chật chội. Tôi mang giày rồi hấp tấp ra khỏi nhà. Thậm chí tôi không khóa cửa. Tôi để cửa sổ mở, không tắt đèn dưới bếp. Tôi đi lang thang quanh khu nhà mình, miệng mút kẹo chanh. Khi ôn đi ôn lại trong đầu những lời của tay nhân viên cửa hàng rượu bia, dần dần tôi mới nhớ ra mình có gửi mấy món đồ nơi hiệu giặt gần nhà ga, vẫn chưa lấy. Áo cánh và váy của Kumiko. Biên nhận đang nằm ở nhà, nhưng nếu tôi cứ tới hỏi thì chắc ông chủ cũng đưa cho tôi thôi.

            Khu nhà tôi ở trông khang khác. Những người tôi đi ngang qua trên phố đều có cái nhìn không tự nhiên, thậm chí giả tạo nữa. Đi ngang qua ai, tôi đều quan sát kỹ gương mặt họ mà tự hỏi họ là loại người nào. Họ sống trong những loại nhà nào? Họ có gia đình như thế nào? Họ sống theo lối nào? Họ có ngủ với những người đàn bà khác ngoài vợ mình hay những người đàn ông khác ngoài chồng mình không? Họ có hạnh phúc không? Họ có biết trông bộ dạng họ phi tự nhiên và giả tạo đến nhường nào không?

            Bên ngoài hiệu giặt là vẫn còn thấy rõ dấu vết vụ tai nạn lúc sáng: trên mặt đất là vệt phấn của cảnh sát; gần đó môt chủ cửa hiệu vẫn đang bàn tán về vụ tai nạn, vẻ mặt nghiêm trọng. Nhưng bên trong hiệu giặt thì vẫn như mọi khi. Vẫn chiếc máy nghe nhạc màu đen phát cũng loai nhạc êm dịu đó, vẫn chiếc máy điều hòa nhiệt độ kiểu cũ kêu ro ro ở đằng sau, vẫn những làn mây hơi nước bay nghi ngút từ bàn là lên tới trần nhà. Bài hát đang phát là bài Triều xuống. Robert Maxwell, chơi thụ cầm. Tôi chợt nghĩ giá bây giờ được ra biển thì tuyệt biết mấy! Tôi hình dung mùi bãi biển và tiếng sóng vỗ bờ. Những con hải âu. Lon bia lạnh như đá.

            Tôi chỉ nói với chủ hiệu rằng tôi quên biên nhận.

            - Tôi mang tới cho ông đâu như thứ Năm hay thứ Sáu tuần trước. Một áo cánh, một váy.

            - Okada… Okada… - anh ta vừa nói vừa lật một các trang cuốn vở học sinh. - Ừ, đây rồi. Một áo cánh, một váy. Nhưng bà Okada lấy rồi.

            - Lấy rồi? – tôi sững sờ.

            - Sáng hôm qua. Tôi nhớ rõ chính tôi đã đưa cho bà ấy mà. Bà ấy đang trên đường đi làm thì ghé qua. Mang theo cả biên lai nữa.

            Tôi không biết trả lời anh ta như thế nào nữa. Tôi chỉ còn biết trân trối nhìn anh ta.

            - Ông về hỏi bà nhà xem. Bà ấy lấy rồi mà, chắc chắn.

            Anh ta rút một điếu trong hộp thuốc lá trên quầy, cho lên môi rồi bật lửa châm.

            - Sáng hôm qua? – tôi hỏi. – Không phải chiều chứ?

            - Buổi sáng, chắc chắn mà. Lúc tám giờ đúng. Hôm đó vợ ông là người mở hàng cho tôi. Chuyện như vậy tôi không quên đâu. Khi mà khách hàng đầu tiên của mình là một thiếu phụ trẻ thì mình thấy dễ chịu lắm chứ, phải không nào?

            Tôi không rặn nổi một nụ cười để đáp lại anh ta, giọng nói tôi phát ra nghe như không phải giọng tôi.

            - Ồ thôi, vậy là được rồi. Xin lỗi, tôi không biết cô ấy đã lấy rồi.

            Anh ta gật đầu, liếc tôi rồi dụi tắt điều thuốc chỉ mới phì phèo hai ba hơi, lại đi là quần áo. Hình như anh ta bắt đầu thấy quan tâm đến tôi, muốn nói với tôi điều gì đó như rốt cuộc lại quyết định không nói gì hết. Tôi cũng có những điều muốn hỏi anh ta. Khi Kumiko đến lấy đồ giặt trông nàng như thế nào? Nàng mang theo cái gì? Nhưng tâm trí tôi rối bời, lại còn khát cháy cổ. Điều tôi muốn nhất bây giờ là ngồi xuống đâu đó uống một cái gì mát lạnh. Tôi cảm thấy đó là cách duy nhất để may ra tôi lại có thể nghĩ ngợi về một điều gì.

            Tôi đi thẳng từ hiệu giặt là tới quán cà phê cách đó mấy căn rồi gọi một cốc trà đá. Trong quán khá mát mẻ, tôi lại là người khách duy nhất. Những chiếc loa nhỏ gắn trên tường đang phát bản Tám ngày một tuần của Beattle biên soạn lại cho dàn nhạc. Tôi lại nghĩ đến biển. Tôi hình dung mình chân trần bước men theo mép bãi biển. Cát nóng rẫy, gió mang nặng mùi thủy triều. Tôi hít sâu vào ngực rồi nhìn lên bầu trời. Duỗi hai bàn tay ra, lòng bàn tay ngửa lên trời, tôi cảm thấy nắng hè nóng bỏng tuôn vào đó. Một làn sóng lạnh giá vỗ vào chân tôi.

            Xét theo cách nào đi nữa, việc Kumiko ghé lấy đồ giặt trên đường đi làm thật là lạ. Một mặt nàng sẽ phải chen lên tàu điện chật ních người trong khi tay cầm mấy chiếc áo váy vừa là xong, còn treo nguyên trên móc. Rồi nàng còn phải lặp lại như thế một lần nữa trên đường về nhà. Làm thế nàng không chỉ thêm bận tay mà công phu là ủi thẳng thớm của người ta sẽ hóa thành vô ích, áo váy sẽ nhàu hết. Gì chớ những chuyện ấy thì Kumiko kỹ tính lắm, tôi khó lòng hình dung nàng sẽ làm một việc vô ích như vậy. Nàng có thể ghé lấy trên đường đi làm về cơ mà. Hoặc nếu về muộn, nàng có thể nhờ tôi lấy. Chỉ có thể có một lý do thôi: nàng đã biết trước là nàng sẽ không về nhà. Cầm áo cánh và váy trong tay, nàng có thể đi bất cứ đâu. Bằng cách đó nàng sẽ có ít nhất một bộ đồ để thay, những thứ còn lại nếu cần thì đều có thể mua được. Nàng có thẻ tín dụng, thẻ rút tiền, lại có tài khoản ngân hàng riêng. Nàng có thể muốn đi đâu cũng được.

            Và nàng đi với một người nào đó – một người đàn ông. Không có lý do nào khác để nàng bỏ nhà đi cả.

            Thế này thì nghiêm trọng đây. Kumiko biến mất, để lại toàn bộ quần áo, giày dép. Nàng xưa nay vẫn thích mua sắm quần áo, nàng dành cho việc đó bao nhiêu là tâm trí và công sức. Bỏ nhà ra đi mà hầu như không mang theo một thứ gì, nàng ắt hẳn phải có một quyết tâm dứt khoát lắm. Đã vậy còn hầu như chẳng chút do dự - ít nhất là tôi cảm thấy vậy -, nàng đi khỏi nhà chỉ mang theo mỗi một chiếc áo cánh và một chiếc váy. Không, hẳn là lúc ra đi, quần áo là thứ nàng ít nghĩ tới hơn cả.

            Tựa mình vào ghế, lơ đãng nghe thứ nhạc nền sạch sẽ đến khó chịu, tôi hình dung Kumiko đi trên tàu điện chật ních người, tay ôm áo váy vẫn còn nguyên móc áo gói trong túi nhựa của hiệu giặt. Tôi nhớ lại màu chiếc áo váy nàng mặc, mùi nước hoa sau tai nàng, tấm lưng mịn màng trắng muốt của nàng. Hẳn là tôi kiệt sức rồi. Tôi cảm thấy nếu nhắm mắt lại, tôi sẽ trôi đến nơi nào khác; tôi sẽ rơi vào một chỗ hoàn toàn khác.

2

            Không có tin lành nào trong chương này

            *

            Tôi rời quán cà phê đi vơ vẩn qua các phố. Cái nóng hầm hập buổi chiều bắt đầu khiến tôi nôn nao khó chịu, thậm chí ớn lạnh nữa. Nhưng về nhà thì tôi không muốn chút nào. Chỉ nghĩ đến chuyện ngồi một mình trong căn nhà câm lặng đó mà đợi một cú điện thoại có lẽ chẳng bao giờ tới là tôi thấy nghẹt thở rồi.

            Việc duy nhất tôi nghĩ ra được để làm là đi gặp Kasahara May. Tôi về nhà, trèo qua tường rồi men theo con ngõ đến mặt hậu nhà cô bé. Tựa vào hàng rào căn nhà bỏ không phía bên kia ngõ, tôi nhìn khu vườn có bức tượng chim. May hẳn sẽ thấy tôi nếu tôi cứ đứng thế này. Ngoài đôi lần ra ngoài làm việc cho công ty tóc giả, May lúc nào cũng ở nhà, hoặc quan sát con ngõ từ cửa sổ nhà mình hoặc tắm nắng trong sân.

            Nhưng chả thấy Kasahara May đâu. Trên trời không một đám mây. Ánh nắng hè nung cháy lưng cổ tôi. Mùi cỏ hăng hăng dậy lên từ mặt đất, xộc vào phổi tôi. Tôi nhìn đăm đăm bức tượng chim, cố nghĩ đến những chuyện mà cậu tôi đã kể về số phận những người đã sống trong căn nhà này. Nhưng tôi chẳng nghĩ tới gì khác được ngoài biển, lạnh và xanh. Tôi hít sâu mấy hơi liền rồi nhìn đồng hồ. Coi như hôm nay đành chịu thua, tôi đã định bỏ đi thì Kasahara May rốt cuộc cũng xuất hiện. Cô chậm rãi băng qua đường đến chỗ tôi đứng. Cô mặc quần soóc bằng vải bông thô, áo sơ mi chim cò màu xanh dương, mang xăng đan đỏ. Đứng cạnh tôi, hình như cô mỉm cười qua cặp mắt kính.

            - Chào Chim vặn dây cót. Đã tìm thấy mèo Wataya Noboru chưa?

            - Chưa, - tôi nói. – Sao hôm nay em ra muộn vậy?

            Cô thọc tay vào túi bên hông, nhìn quanh với vẻ thích thú.

            - Này Chim vặn dây cót, em có nhiều thì giờ thật đấy, nhưng có phải em sinh ra để đứng canh cái ngõ này từ sáng đến tối đâu. Em có vài việc để làm chứ. Thôi được rồi, xin lỗi anh vậy. Anh chờ lâu chưa?

            - Không lâu lắm. Có điều đứng đây nóng quá.

            Kasahara May nhìn chăm chú vào mặt tôi rồi nhíu mày.

            - Có gì không ổn hở Chim vặn dây cót? Anh trông khiếp lắm, cứ như mới đào dưới đất lên ấy. Vào chỗ râm mà nghỉ đi nào.

            Cô nắm tay tôi dẫn vào vườn nhà cô. Ở đó cô chuyển một chiếc ghế xếp vào chỗ bóng râm dưới cây sồi, đặt tôi ngồi lên đó. Những cành lá xum xuê hắt bóng râm mát rượi mang mùi hương của cuộc sống.

            - Đừng lo, nhà lúc nào cũng vậy thôi, chẳng có ai đâu, - cô nói. – Anh chẳng phải lo gì hết. Đừng nghĩ ngợi nữa. Thư giãn đi.

            - Anh có một việc muốn nhờ em, - tôi nói.

            - Anh nói đi, - cô bảo.

            - Anh muốn nhờ em gọi một cú điện thoại cho anh.

            Tôi rút sổ và bút ra ghi số điện thoại cơ quan của Kumiko. Rồi tôi xé trang đó ra đưa cho May. Cuốn sổ nhỏ bìa nhựa âm ẩm, nhớp nháp vì mồ hôi.

            - Em chỉ cần gọi điện đến chỗ này hỏi xem Okada Kumiko có ở đó không, nếu không thì hỏi xem hôm qua cô ấy có đi làm không.

            Kasahara cầm mảnh giấy rồi đọc, môi chu lại. Đoạn cô nhìn tôi.

            - Được rồi, xong ngay thôi. Anh đừng nghĩ ngợi gì hết, cứ nằm ngang. Anh không được cử động đấy. Em quay lại ngay.

            Cô bé đi rồi, tôi duỗi người ra nhắm mắt theo lệnh cô. Người tôi ướt đẫm mồ hôi từ đầu đến chân. Tôi thử suy nghĩ thì nghe giật phừng phừng ở tận bên trong đầu, lại như có một túm bùng nhùng ở trong dạ dày. Chốc chốc một cơn buồn nôn lại dợn lên. Xung quanh hoàn toàn tĩnh lặng. Tôi chợt nhớ ra rằng đã khá lâu tôi không nghe tiếng con chim vặn dây cót. Lần cuối tôi nghe tiếng nó là khi nào nhỉ? Có lẽ bốn năm hôm trước gì đó. Nhưng tôi không chắc. Đến khi tôi nhận ra thì đã vắng tiếng nó quá lâu rồi. Có thể nó là chim di cư. Thử nghĩ mà xem, ta nghe tiếng nó lần đầu khoảng một tháng trước. Thế rồi suốt một thời gian, con chim vặn dây cót đều đặn hằng ngày lên dây cót cái thế giới nhỏ bé của chúng tôi. Đó là mùa Chim vặn dây cót.

            Mười phút sau, Kasahara May trở lại. Cô đưa cho tôi một cái cốc to. Khi tôi cầm cốc, nước đá từ trong cốc kêu lanh canh. m thanh ấy như thể đến với tôi từ một thế giới xa xăm. Có mấy cánh cổng nối thế giới đó với nơi tôi ở lúc này, và tôi như nghe được âm thanh đó chỉ vì các cánh cổng tình cờ mở ra cùng lúc. Nhưng ấy chỉ là trong khoảnh khắc ngắn ngủi thôi – chỉ cần một cổng đóng lại, âm thanh đó sẽ không còn đến tai tôi nữa.

            - Nước chanh đá đây. Uống vào sẽ nhẹ đầu hơn.

            Tôi cố uống một nửa rồi trả cốc cho cô. Nước lạnh trôi qua cổ họng rồi xuống sâu vào trong cơ thể tôi, ngay sau đó một cơn buồn nôn dữ dội trỗi dậy. Cái khối lùng nhùng thối rữa trong dạ dày bắt đầu bung ra, dâng lên trong cuống họng tôi. Tôi nhắm mắt lại, cố chống chọi cho qua đi. Mắt nhắm, tôi lại thấy Kumiko đứng trên tàu điện, tay ôm chiếc áo cánh và váy. Có lẽ tốt nhất là nôn ra, tôi nghĩ. Nhưng tôi không nôn. Tôi hít thở sâu mấy lần cho đến khi cảm giác đó nguôi dần và biến mất hẳn.

            - Thế nào, anh đỡ chưa? – Kasahara May hỏi.

            - Anh đỡ rồi.

            - Em gọi điện rồi, - cô nói. – Em bảo em là họ hàng. Thế được chứ phải không?

            - Ờ.

            - Cô Okada Kumiko này chính là bà Chim vặn dây cót phải không?

            - Ờ.

            - Họ bảo bà ấy không đi làm, hôm nay không, hôm qua cũng không. Nghỉ mà chẳng báo gì cả. Họ chẳng hiểu thế nào nữa. Bà ấy không phải loại người làm chuyện như vậy, họ bảo thế.

            - Đúng. Cô ấy không phải loại người ấy.

            - Chị ấy đi từ hôm qua phải không?

            Tôi gật đầu.

            - Tội nghiệp Chim vặn dây cót! – Kasahara May nói, giọng cô có vẻ thành thật lấy làm tiếc cho tôi. Cô đặt tay lên trán tôi. – Em có thể giúp gì cho anh không?

            - Bây giờ thì không, - tôi nói. – Cám ơn em.

            - Em hỏi tiếp có được không? Hay là em không hỏi nữa?

            - Cứ hỏi đi. Nhưng không chắc anh trả lời được đâu.

            - Có phải vợ anh bỏ đi với người khác không?

            - Anh không chắc. Có thể. Cũng có thể là vậy.

            - Nhưng hai anh chị đã ở với nhau suốt ngần ấy năm còn gì. Làm sao chuyện như vậy mà anh không biết được?

            Cô nói có lý. Làm sao tôi lại không biết cơ chứ?

            - Tội nghiệp Chim vặn dây cót, - cô lại nói. – Ước gì em có thể nói gì đó để giúp anh được, nhưng em có biết gì về đời sống hôn nhân đâu.

            Tôi đứng dậy khỏi ghế. Để đứng được như vậy cần phải mất sức hơn tôi tưởng nhiều.

            - Cám ơn em về mọi chuyện. Em đã giúp anh nhiều lắm. Giờ anh phải đi. Anh cần phải ở nhà, nhỡ ra có tin tức gì. Có thể ai đó sẽ gọi điện.

            - Về nhà thì anh đi tắm nhé. Tắm là việc đầu tiên. Được chứ? Rồi mặt quần áo sạch vào. Và cạo râu nữa.

            - Cạo râu á? – tôi sờ cằm. Đúng thật vậy: tôi quên cạo râu. Từ sáng đến giờ tôi quên khuấy việc ấy.

            - Những chuyện ấy tuy nhỏ nhưng mà quan trọng đấy, Chim vặn dây cót ạ, - Kasahara May nói, nhìn thẳng vào mắt tôi. – Về nhà soi gương cho kỹ đi.

            - Ừ, anh sẽ soi, - tôi nói.

            - Sau đó em ghé qua nhà anh được không?

            - Được chứ, - tôi nói. Rồi tôi thêm: - Em giúp anh nhiều lắm.

            Kasahra May im lặng gật đầu.

            * * *

            Về đến nhà, tôi nhìn mặt mình trong gương. Đúng thật: trông tôi khiếp quá. Tôi cởi quần áo, tắm vòi hoa sen, gội đầu ra trò, cạo râu, đánh răng, thoa dầu sau cao râu lên mặt rồi lại soi gương, ngắm mình thật kỹ. Hình như có khá hơn một chút. Không buồn nôn nữa. Duy có cái đầu vẫn còn hơi mụ mẫm.

            Tôi mặc quần soóc và áo phông mới. Tôi ngồi trên hàng hiên, dựa lưng vào cột mà ngắm khu vườn trong khi chờ tóc khô. Tôi cố gắng xếp lại các sự kiện trong những ngày vừa qua theo thứ tự. Đầu tiên là cú điện thoại của Trung úy Mamiya. Là sáng hôm qua thì phải? Ừ, chắc chắn rồi: sáng hôm qua. Sau đó Kumiko bỏ nhà đi. Tôi kéo khóa áo cho nàng. Kế đó tôi tìm thấy hộp đựng nước hoa. Rồi Trung úy Mamiya đến kể cho tôi nghe những câu chuyện kỳ lạ về thời chiến: chuyện ông bị quân Ngoại Mông bắt rồi ném xuống giếng. Ông để lại cho tôi kỷ vật của ông Honda. Một cái hộp rỗng. Rồi Kumiko không về nhà. Sáng hôm đó nàng đã ghé lấy đồ giặt ở hiệu giặt gần nhà ga rồi biến mất. Không nói với cơ quan một tiếng. Đó là những gì đã diễn ra ngày hôm qua.

            Tôi khó lòng tin được ngần ấy chuyện đã xảy ra chỉ trong vòng một ngày. Một ngày mà đến thế thì quá nhiều.

            Ngẫm nghĩ mãi về những chuyện đó, tôi đâm ra buồn ngủ kinh khủng. Đây không phải cơn buồn ngủ bình thường. Nó là một cơn buồn ngủ mãnh liệt, thậm chí dữ dội. Cơn buồn ngủ lột phăng ý thức của tôi như người ta lột phăng quần áo khỏi cơ thể một người không kháng cự. Chẳng nghĩ ngợi gì, tôi vào phòng ngủ, cởi hết quần áo trừ quần lót rồi leo lên giường. Tôi cố nhìn chiếc đồng hồ trên bàn ngủ, nhưng thậm chí tôi không ngoảnh đầu lại được. Tôi nhắm mắt và lập tức rơi tõm vào một cơn ngủ không đáy sâu hun hút.

            * * *

            Trong giấc ngủ, tôi đang kéo khóa áo cho Kumiko. Tôi thấy tấm lưng trơn nhẵn trắng ngần của nàng. Nhưng khi kéo khóa áo lên đến đỉnh, tôi nhận ra đó không phải là Kumiko mà là Kano Creta. Trong phòng chỉ có tôi và cô ta.

            Đó cũng là căn phòng trong giấc mơ lần trước: một căn phòng cũng trong khách sạn đó. Trên bàn là một chai Cutty Sark và hai chiếc cốc. Có cả một xô bằng thép không gỉ đựng đầy nước đá. Ở hành lang ngoài có ai đó đang đi ngang qua, vừa đi vừa nói gì đó giọng trầm trầm. Tôi không nghe rõ lời, hình như là tiếng nước ngoài. Trên trần có một chùm đèn nhưng không bật lên. Ánh sáng duy nhất trong căn phòng nhá nhem này là từ những ngọn đèn gắn trên tường. Cửa sổ cũng treo rèm dày kéo kín mít.

            Kano Creta mặc bộ váy áo mùa hè của Kumiko màu xanh dương nhạt có hoa văn chim. Váy cao hơn đầu gối cô ta một chút. Cũng như mọi khi, cách trang điểm của cô ta theo phong cách Jacqueline Kennedy. Cổ tay phải cô đeo một cặp vòng tay hợp phong cách.

            - Cô lấy đâu ra bộ áo này? Của cô à? – tôi hỏi.

            Kano Creta nhìn tôi lắc đầu. Khi cô làm vậy, đầu những lọn tóc quăn của cô rung rung một cách đáng yêu.

            - Không, không phải của tôi, - cô nói. – Tôi mượn thôi. Nhưng xin ông Okada đừng lo, việc đó chẳng làm phiền ai cả.

            - Chúng ta đang ở đâu đây? – tôi hỏi.

            Kano Creta không đáp. Cũng như lần trước, tôi đang ngồi trên mép giường. Tôi mặc com lê, đeo cà vạt chấm hạt đỗ.

            - Ông không phải nghĩ ngợi gì cả, ông Okada ạ, - Kano Creta nói. – Chẳng có gì phải lo hết. Mọi chuyện rồi sẽ tốt thôi.

            Và một lần nữa, cũng như trước, cô mở toan khóa quần tôi, kéo dương vật của tôi ra rồi ngậm vào miệng. Điểm duy nhất khác lần trước là cô không cởi quần áo. Suốt thời gian đó cô vẫn mặc áo váy của Kumiko. Tôi cố cử động, nhưng dường như thân thể tôi bị trói chặt bằng những sợi dây vô hình. Tôi cảm thấy mình càng lúc càng to và cứng lên trong miệng cô ta.

            Tôi thấy cặp mi giả và đuôi những lọn tóc quăn của cô rung rung. Những chiếc vòng tay của cô chạm vào nhau phát ra một âm thanh khô khốc. Lưỡi cô dài và mềm, dường như bọc kín quanh tôi. Ngay lúc tôi sắp xuất thì đột ngột cô ngãng người ra và bắt đầu chầm chậm cởi áo quần tôi. Cô cởi áo khoác, cà vạt, quần âu, áo sơ mi, quần lót của tôi rồi đẩy tôi nằm xuống giường. Tuy nhiên, cô vẫn mặc nguyên y phục. Cô ngồi lên giường, cầm tay tôi kéo vào dưới lần áo của cô. Cô không mặc quần lót. Tay tôi cảm thấy sự ấm áp của âm đạo cô. Chỗ đó sâu, ấm và rất ẩm ướt. Ngón tay tôi sục xuống càng lúc càng sâu.

            - Này, chút nữa Wataya Noboru có đến đây không? – tôi hỏi. – Chẳng phải cô đang đợi hắn hay sao?

            Thay vì trả lời, Kano Creta sờ trán tôi.

            - Đừng nghĩ gì hết, ông Okada. Chúng tôi sẽ lo mọi chuyện. Cứ để đấy cho chúng tôi.

            - Chúng tôi là ai? – tôi hỏi, nhưng không có câu trả lời.

            Rồi Kano Creta trèo lên người tôi, dùng tay giúp đưa tôi vào bên trong cô. Khi tôi đã vào sâu bên trong rồi, cô bắt đầu xoay hông chầm chậm. Nhịp theo chuyển động của cô, mép áo váy xanh nhạt vờn lên chỗ dạ dày và cặp vế trần của tôi. Trong tư thế cưỡi trên tôi như vậy, váy xòe ra quanh mình, trông Kano Creta như một cây nấm mềm mại khổng lồ, lặng lẽ trồi qua lớp lá khô trên mặt đất mà nở bung ra dưới đôi cánh chở che của bóng đêm. m đạo của cô vừa ấm lại vừa lạnh. Nó vừa cố bao bọc quanh tôi, hút tôi vào, lại vừa ra sức đẩy tôi ra. Tôi càng lúc càng cương to, càng cứng. Tôi cảm thấy mình sắp sửa nổ tung. Đó là một cảm giác thật kỳ lạ, vượt ngoài khoái cảm tình dục đơn thuần. Dường như có một cái gì đó bên trong cô, một cái gì đó đặc biệt từ bên trong cô đang thông qua cơ quan sinh dục của tôi mà từ từ nhập vào tôi.

            Mắt nhắm, cằm hơi ngước lên, Kano Creta nhẹ nhàng đu đưa người từ trước ra sau như đang mơ. Tôi thấy bộ ngực cô dềnh lên hạ xuống dưới lần áo theo từng hơi thở. Vài sợi tóc rụng vương trên trán cô. Tôi hình dung mình đang bồng bềnh một mình giữa biển rộng mênh mông. Tôi nhắm mắt lại, lắng tai, chờ nghe thấy tiếng những làn sóng nhỏ vỗ vào mặt tôi. Thân thể tôi tắm trong nước đại dương ấm áp. Tôi cảm thấy dòng thủy triều chầm chậm chuyển. Nó đang mang tôi đi. Tôi quyết định làm theo lời Kano Creta, không nghĩ ngợi gì hết. Tôi nhắm mắt lại, để cho sức lực thoát khỏi tay chân, phó thác thân mình cho dòng nước.

            Đột nhiên tôi nhận thấy căn phòng sụp tối. Tôi cố nhìn quanh nhưng hầu như chẳng thấy gì. Các ngọn đèn tường đều đã tắt phụt. Chỉ còn hình dáng mờ mờ bộ áo dài xanh của Kano Creta đang khẽ lắc lư trên người tôi. “Quên đi,” cô ta nói, nhưng đó không còn là giọng của Kano Creta nữa. “Quên hết mọi chuyện đi. Anh đang ngủ. Anh đang mơ. Anh đang nằm trong một vũng bùn ấm, dễ chịu. Tất cả chúng ta từ bùn mà ra và đều trở về bùn”.

            Đó là người đàn bà đã nói chuyện với tôi qua điện thoại. Người đàn bà bí ẩn trên điện thoại lúc này đang cưỡi trên tôi, hợp nhất thân mình với thân tôi. Cô ta cũng mặc áo váy của Kumiko. Cô ta và Kano Creta đã đổi chỗ cho nhau mà tôi không hề biết. Tôi cố nói. Tôi không biết mình mong nói được gì, nhưng ít nhất tôi cũng cố nói gì đó. Tuy nhiên, vì quá bối rối nên tôi chẳng thốt được tiếng nào. Tôi chỉ bật ra được mỗi một luồng khí nóng. Tôi mở căng mắt cố nhìn rõ mặt người đàn bà đang cưỡi trên tôi, nhưng trong phòng tối quá.

            Người đàn bà không nói gì nữa. Thay vào đó cô ta bắt đầu chuyển động đôi hông càng khêu gợi hơn. Thịt da mềm mại của cô, dường như bản thân nó là một cơ thể độc lập, vừa ôm trùm lấy tôi vừa nhẹ nhàng kéo tôi vào trong nó. Từ phía sau cô ta tôi nghe thấy – hay tưởng như nghe thấy – tiếng quả đấm cửa xoay. Một ánh lóe trắng lướt qua trong bóng tối. Có thể là chiếc xô đựng đá đặt trên bàn vừa được chiếu sáng trong khoảnh khắc bởi ánh đèn ngoài hành lang. Hoặc có thể ánh lóe đó phát ra từ một lưỡi dao bén. Nhưng tôi không nghĩ gì hơn được nữa. Chỉ còn một việc duy nhất tôi có thể làm: tôi xuất.

            * * *

            Tôi rửa tay thật kỹ dưới vòi hoa sen, giặt bằng tay chiếc quần lót vấy tinh dịch. Lạ thật, tôi nghĩ. Cớ sao tôi lại gặp mộng tinh trong giai đoạn khó khăn này của cuộc đời mình?

            Một lần nữa tôi lại thay quần áo mới, một lần nữa tôi lại ra ngoài hiên nhìn khu vườn. Những vạt nắng lọc qua tầng lá xanh dày, nhảy múa trên vạn vật. Mấy ngày mưa liên tục làm cỏ dại xanh tươi mọc um tùm đây đó, khiến khu vườn phảng phất vẻ tiêu điều tù đọng.

            Lại Kano Creta. Hai cơn mộng tinh cách nhau chỉ một thời gian ngắn, và cả hai lần đều là Kano Creta. Tôi chưa lần nào nghĩ đến việc ngủ với cô ta cả. Ý muốn ngủ với cô ta chưa bao giờ nảy ra trong đầu tôi. Ấy thế mà cả hai lần tôi đều cùng ở trong một căn phòng đó mà nhập thân thể mình vào thân thể cô ta. Nguyên do là thế nào chứ? Lại còn người đàn bà trên điện thoại về sau thế chỗ cho Creta nữa, cô ta là ai? Cô ta biết tôi, mà tôi cũng biết cô ta, ấy là cô ta bảo vậy. Tôi điểm lại trong đầu mấy người bạn tình tôi từng có trong đời, nhưng không ai trong số đó có thể là người đàn bà trên điện thoại cả. Thế nhưng ở cô ta có cái gì đó quen lắm. Đó là điều khiến tôi bứt rứt khó chịu.

            Có một thứ ký ức nào đó đang cố thoát ra ngoài. Tôi cảm thấy nó đang vùng vẫy ở bên trong. Tất cả những gì tôi cần chỉ là một lời gợi ý nhỏ. Nếu tôi rút đúng sợi chỉ nhỏ nhoi đó, mọi thứ sẽ được tháo gỡ hết. Điều bí ẩn đang chờ tôi giải nó. Nhưng sợi chỉ mỏng manh duy nhất kia thì tôi chưa thể tìm ra.

            Tôi chịu thua không nghĩ nữa. “Quên hết đi. Anh đang ngủ. Anh đang mơ. Anh đang nằm trong bùn ấm, dễ chịu. Tất cả chúng ta từ bùn mà ra và tất cả chúng ta đều trở về bùn”.

            * * *

            Đến 6 giờ chiều vẫn không ai gọi điện. Chỉ có Kasahara May đến. Cô chỉ cần một hớp bia thôi, cô bảo. Tôi lấy một lon bia trong tủ lạnh rồi chia đôi với cô. Tôi đói, thế nên tôi kẹp ít thịt băm và rau diếp vào giữa hai lát bánh mì rồi ăn. Thấy tôi ăn, May bảo cô cũng muốn ăn. Tôi bèn làm sandwich cho cả cô. Chúng tôi lặng lẽ ăn và uống bia. Chốc chốc tôi lại nhìn đồng hồ.

            - Nhà này không có tivi à?

            - Không có tivi, - tôi đáp.

            Cô hơi cắn môi.

            - Em cũng nghĩ vậy. Anh không thích tivi sao?

            - Không phải anh không thích. Nhưng không có tivi cũng chả sao.

            Kasahara May ngẫm nghĩ một hồi.

            - Chim vặn dây cót này, anh chị lấy nhau được mấy năm rổi?

            - Sáu năm, - tôi đáp.

            - Suốt sáu năm ấy anh chị không hề có tivi à?

            - Ờ. Ban đầu bọn anh không có tiền mua. Sau rồi quen, sống không cần tivi nữa. Vậy cũng tốt, yên tĩnh.

            - Hẳn hai anh chị hạnh phúc lắm.

            - Sao em nghĩ vậy?

            Cô nhăn mặt.

            - Em thì không sống nổi một ngày nếu không có tivi.

            - Vì sao, vì em không hạnh phúc à?

            Kasahara May không trả lời.

            - Nhưng giờ Kumiko đi rồi. Hẳn anh sẽ không hạnh phúc như vậy nữa đâu, Chim vặn dây cót à.

            Tôi gật đầu, nhấp một ngụm bia.

            - Có vậy thật, - tôi nói. Quả đúng vậy.

            Cô cho một điếu thuốc lên môi rồi bật diêm mồi thuốc bằng một động tác thành thạo.

            - Này Chim vặn dây cót, anh nói thật với em nhé, hết sức thành thật đấy. Em có xấu xí không?

            Tôi đặt cốc bia xuống rồi nhìn lại khuôn mặt Kasahara May. Nói chuyện với cô từ nãy đến giờ mà tâm trí tôi cứ để đâu đâu. Cô mặt váy áo phông đen quá khổ, làm lộ rõ đường cong của bộ ngực con gái.

            - Em hoàn toàn không xấu chút nào, - tôi nói. – Dứt khoát là vậy. Sao em hỏi thế?

            - Bạn trai em cứ luôn mồm bảo em xấu xí, rằng em không có vú vê gì hết.

            - Có phải cậu bị tai nạn môtô không?

            - Vâng, cậu ấy đấy.

            Tôi quan sát Kasahara May chầm chậm phà khói thuốc.

            - Tụi con trai ở tuổi đó toàn nói năng vậy thôi. Chúng không biết nói sao để diễn đạt chính xác cảm nhận của mình, nghĩ một đằng nói một nẻo, thành ra vô cớ làm tổn thương đến người khác và cũng làm tổn thương chính mình. Chứ em thì có xấu chút nào đâu. Anh thấy em rất xinh. Không phải nịnh đâu.

            Kasahara May ngẫm nghĩ một hồi. Cô gạt tàn thuốc vào lon bia rỗng.

            - Bà Chim vặn dây cót có xinh không?

            - Chà, cái ấy thì khó nói. Kẻ thì bảo cô ấy xinh, người khác lại bảo không. Đó là chuyện sở thích.

            - Em hiểu, - cô nói. Cô gõ móng tay lên thành cốc như thể đang thấy buồn chán.

            - Bạn trai em làm gì? – tôi hỏi. – Cậu ta có đến gặp em nữa không?

            - Không, - Kasahara May đáp, ngón tay đặt lên vết sẹo cạnh mắt trái. – Em sẽ không bao giờ gặp cậu ấy nữa. Chắc chắn thế. Chắc hai trăm phần trăm. Có cược chặt ngón chân út em cũng cược. Nhưng em không thích nói chuyện đó ngay lúc này. Anh biết đó, có những điều hễ mình nói tới thì lại thành ra không thật. Anh hiểu ý em chứ, hở Chim vặn dây cót?

            - Chắc anh hiểu, - tôi nói. Đoạn tôi liếc cái điện thoại trong phòng khách. Nó nằm trên bàn, chìm trong im lặng. Nó trông như một sinh vật đáy biển giả vờ là một vật vô tri, đang mai phục rình mồi.

            - Chim vặn dây cót à, hôm nào đó em sẽ kể với anh về cậu ấy. Khi nào em thấy thích kể ấy. Nhưng bây giờ thì không. Đơn giản là em không thích kể bây giờ.

            Cô nhìn đồng hồ.

            - Em phải về đây. Cám ơn anh cho uống bia nhé.

            Tôi tiễn cô ra bức tường ngoài vườn. Vầng trăng gần tròn tuôn ánh sáng to hạt xuống mặt đất. Cảnh trăng tròn làm tôi nhớ lại rằng sắp tới kỳ kinh của Kumiko. Nhưng điều đó hẳn không liên quan gì tới tôi nữa. Ý nghĩ đó khiến trong ngực tôi đau nhói lên. Cái đau dữ dội đột kích tôi thật bất ngờ: nó giống như nỗi buồn.

            Đặt hai tay lên đầu tường, Kasahara May nhìn tôi.

            - Này Chim vặn dây cót, anh nói em nghe, anh yêu Kumiko phải không?

            - Anh nghĩ là yêu.

            - Cho dù chị ấy bỏ đi với tình nhân? Nếu chị ấy bảo muốn quay lại với anh, anh có đón nhận chị ấy không?

            Tôi thở dài.

            - Câu hỏi khó đây, - tôi nói. – Chừng nào xảy ra như vậy thật thì anh cần phải nghĩ đã.

            - Xin lỗi nếu em hơi tọc mạch, - Kasahara May vừa nói vừa khẽ tắc lưỡi. – Anh đừng giận nhé. Em chỉ cố học thôi mà. Em muốn biết nếu bị vợ bỏ thì thế nào thôi. Có bao nhiêu chuyện mà em không biết.

            - Anh không giận đâu, - tôi đáp. Rồi tôi lại nhìn lên vầng trăng tròn.

            - Thế thì được rồi. Chim vặn dây cót, anh khỏe nhé. Em mong vợ anh sẽ về và mọi chuyện sẽ êm đẹp.

            Nhẹ nhàng đến khó tin, Kasahara May nhảy phóc qua tường rồi biến mất vào màn đêm mùa hè.

            * * *

            Kasahara May đi rồi, tôi lại chỉ có một mình. Tôi ngồi ngoài hiên ngẫm nghĩ về những câu hỏi cô bé đã nêu ra. Nếu Kumiko bỏ nhà đi với tình nhân, liệu tôi có thể đón nhận nàng nếu nàng trở lại không? Tôi không biết câu trả lời. Tôi thực sự không biết. Có bao nhiêu điều tôi không biết.

            Bất ngờ điện thoại reo. Bàn tay tôi bật ngay ra như một phản xạ có điều kiện, chộp lấy ống nghe.

            Giọng nói ở đầu dây bên kia là của một phụ nữ.

            - Tôi là Kano Malta đây, - cô ta nói. – Xin ông thứ lỗi vì tôi gọi ông thường xuyên như vậy, thưa ông Okada. Tôi muốn biết chẳng hay ngày mai ông có dự định gì không?

            Tôi bảo tôi chẳng có dự định nào hết. Đơn giản rằng tôi không hề có cái gọi là dự định.

            - Nếu vậy, liệu chúng ta có thể gặp nhau vào buổi chiều không ạ?

            - Chuyện này có liên quan gì đến Kumiko không?

            - Tôi tin là có, - Kano Malta vừa nói vừa chọn kỹ từng lời. – Rất có thể Wataya Noboru cũng sẽ gặp chúng ta.

            Nghe đến đây tôi suýt đánh rơi ống nghe.

            - Ý cô là ba chúng ta sẽ gặp nhau để nói chuyện à?

            - Vâng, tôi nghĩ vậy, - Kano Malta nói – trong hoàn cảnh hiện nay thì điều đó là cần thiết. Tôi xin lỗi không thể nói chi tiết hơn qua điện thoại.

            - Tôi hiểu. Thôi được rồi, - tôi nói.

            - Chúng ta gặp nhau lúc 1 giờ chiều nhé. Cũng ở nơi ta gặp nhau lần trước: trà quán ở khách sạn Shinagawa Pacific.

            - 1 giờ ở trà quán tại khách sạn Shinagawa Pacific, - tôi đáp lại rồi gác máy.

            * * *

            10 giờ đêm thì Kasahara May gọi điện. Cô chẳng có chuyện gì đặc biệt cần nói cả, chỉ muốn nói chuyện với ai đó thôi. Chúng tôi chuyện gẫu một hồi về những đề tài vặt vãnh.

            - Nói em nghe, Chim vặn dây cót, - cuối cùng cô hỏi, - từ lúc em về anh có nhận được tin lành nào không?

            - Không có tin lành nào hết, - tôi nói. – Chẳng có gì.

3

            Wataya Noboru nói

            *

            Chuyện lũ khỉ trên đảo cứt

            Tôi đến quán trà sớm hơn giờ hẹn mười phút, nhưng Wataya Noboru và Kano Creta đã ngồi nơi bàn đợi tôi rồi. Đang giờ ăn trưa, quán đông nghẹt khách, nhưng tôi nhận ra Kano Creta ngay lập tức. Có mấy ai đội mũ vải vinyl màu đỏ giữa trưa hè nắng gắt đâu. Đó hẳn cũng là cái mũ cô đã đội vào hôm đầu tiên tôi gặp cô ta, trừ phi cô có cả một bộ sưu tập mũ bằng vải vinyl, tất cả đều cùng màu, cùng kiểu. Cô vẫn ăn mặc như lần trước, đơn giản mà tinh tế: áo ngắn tay bằng vải lanh khoác ngoài áo cánh không cổ bằng vải bông. Cả hai đều trắng phau, không một nếp nhăn. Không trang sức, không trang điểm. Duy chỉ có chiếc mũ vải vinyl màu đỏ là tương phản với mọi thứ còn lại cả về màu sắc lẫn chất liệu. Khi tôi đến kéo ghế ngồi, cô ta giở mũ đặt lên bàn như chỉ đợi có thế. Bên cạnh chiếc mũ là một cái xắc tay nhỏ bằng da màu vàng. Cô ta đã gọi nước tonic nhưng chưa đụng tới, cũng như lần trước. Thứ chất lỏng kia trông có vẻ lúng túng thế nào đó trong cái cốc cao, như thể nó chẳng có gì hay hơn để làm ngoài việc sủi lên những bong bóng nhỏ.

            Wataya Noboru đeo kính râm màu xanh lục. Ngay khi tôi ngồi xuống, hắn tháo kính ra nhìn chăm chăm vào cặp tròng kính một lúc rồi lại đeo vào. Hắn mặc áo phông trắng nom mới tinh, bên ngoài là áo khoác thể thao bằng vải bông màu xanh nước biển. Trên bàn trước mặt hắn cũng có một cốc trà đá, nhưng hình như hắn cũng chưa đụng tới.

            Tôi gọi cà phê rồi nhấp một ngụm nước đá.

            Không ai nói gì. Wataya Noboru thậm chí ra vẻ không hề nhận thấy tôi đã đến. Tôi đặt một bàn tay lên bàn, lật lên úp xuống và quan sát kỹ để biết chắc không phải mình đã đột ngột trở nên vô hình. Bồi bàn đến, đặt tách trước mặt tôi rồi rót cà phê. Khi anh ta đi rồi, Kano Malta khẽ hắng giọng như để thử micro, nhưng cô ta vẫn chẳng nói gì.

            Người đầu tiên lên tiếng là Wataya Noboru.

            - Tôi có rất ít thời gian, nên chúng ta hãy nói càng đơn giản và thẳng thắn càng tốt.

            Hắn như đang nói với cái chén đựng đường bằng thép không gỉ ở giữa bàn, nhưng dĩ nhiên đó là hắn nói với tôi. Cái chén đựng đường chẳng qua là một điểm chung chuyển thuận tiện giữa chúng tôi, để hắn có thể hướng lời vào đấy.

            - Nói càng đơn giản và thẳng thắn càng tốt về cái gì? – tôi hỏi một cách cực kỳ thẳng thắn.

            Rốt cuộc Wataya Noboru cũng tháo kính ra, xếp lại, để lên bàn, rồi nhìn thẳng vào tôi. Đã hơn ba năm rồi tôi không gặp hắn, không nói chuyện với hắn, nhưng tôi không hề cảm thấy có cái khoảng cách thời gian ấy – hẳn là vì cái mặt hắn từ trên báo chí và truyền hình quá thường xuyên chường ra trước mắt tôi. Có một số loại thông tin cứ như khói: nó xộc vào mắt, vào tâm trí người ta dù người ta có tìm kiếm nó hay không, có thích hay không.

            Nhưng lúc này, buộc phải gặp trực tiếp hắn, tôi không thể không nhận thấy ba năm qua đã làm thay đổi đến mức nào cái ấn tượng mà khuôn mặt hắn gây ra. Vẻ lờ đờ, uể oải trước kia của hắn đã lùi xuống đằng sau, được thay bằng một cái gì đó bóng lưỡng, nhân tạo. Wataya Noboru đã tìm được cho mình một cái mặt nạ mới, tinh vi hơn, một cái mặt nạ làm rất khéo, thậm chí có thể nói là một bộ da mới. Dù nó là gì đi nữa, mặt nạ hay bộ da, tôi buộc phải thừa nhận – vâng, ngay cả tôi cũng phải thừa nhận – rằng nó có một sức hấp dẫn nào đó. Thế rồi tôi vỡ ra: nhìn cái mặt này cũng như nhìn một hình ảnh trên truyền hình vậy. Hắn nói năng đúng theo kiểu người ta nói trên truyền hình, hắn cửa động đúng theo kiểu người ta cử động trên truyền hình. Giữa hai chúng tôi luôn luôn có một lớp kính. Tôi ở bên này, hắn ở bên kia.

            - Nói chuyện gì thì chắc cậu biết rồi, ta gặp nhau hôm nay để nói về Kumiko, - Wataya Noboru nói. – Về Kumiko và cậu. Về tương lai của cậu. Cậu và cô ấy sẽ làm gì.

            - Làm gì á? - Tôi vừa nói vừa nâng tách lên, nhấp một ngụm cà phê. – Anh nói cụ thể hơn một chút được không?

            Wataya Noboru nhìn tôi với cặp kính vô cảm đến kỳ lạ.

            - Cụ thể hơn một chút à? Kumiko có tình nhân. Nó đã bỏ cậu. Chắc cậu cũng biết, không ai là người trong cuộc ở đây lại muốn tình thế này kéo dài mãi. Như vậy sẽ không tốt cho bất cứ ai.

            - Có tình nhân? – tôi hỏi.

            - Khoan đã, xin hãy khoan, - Kano Malta chọn đúng lúc đó để xen vào. – Những cuộc nói chuyện như thế này phải theo trình tự trước sau. Thưa ông Wataya, ông Okada, xin mọi người hãy nói theo trình tự.

            - Tôi không hiểu, - Wataya Noboru nói bằng giọng hoàn toàn vô sinh khí. - Ở đây chả có trình tự gì hết. Cô nói về cái trình tự nào kia? Chẳng có trình tự quái gì ở đây cả.

            - Cứ để ông ấy nói trước, - tôi nói với Kano Malta. – Trình tự thì ta có thể áp đặt sau, nếu cứ cho là có trình tự.

            Kano Malta nhìn tôi vài giây, hơi bĩu môi, rồi khẽ gật đầu.

            - Thôi được, - cô nói. – Ông Wataya nói trước. Xin mời.

            - Kumiko đã tìm được một người đàn ông khác, - hắn bắt đầu nói. – Nay nó đã bỏ nhà theo anh ta. Chuyện đó đã rõ. Nghĩa là chẳng còn lý do gì để hai cô cậu tiếp tục cuộc hôn nhân. Cũng may cô cậu chưa có con, và xét hoàn cảnh thì cũng chẳng có khoản tiền nào cần trao tay cả. Mọi việc có thể thu xếp chóng vánh. Đơn giản là nó rút tên khỏi hộ khẩu gia đình nhà cậu thôi. Cậu chỉ cần ký tên, đóng dấu vào các mẫu đơn do luật sư soạn sẵn, thế là xong. Và cho tôi nói thêm điểm này để tránh hiểu lầm: những gì tôi đang nói đây là quan điểm cuối cùng của toàn bộ gia đình Wataya.

            Tôi khoanh tay trước ngực, ngẫm nghĩ một lúc những điều hắn vừa nói.

            - Tôi có vài câu hỏi, - tôi nói. – Trước hết, làm sao anh biết Kumiko có tình nhân?

            - Chính nó bảo tôi, - Wataya Noboru nói.

            Tôi không biết nói gì nữa. Tôi đặt hai tay lên bàn, im lặng. Tôi thật khó hình dung một vấn đề cá nhân như vậy mà Kumiko lại đi nói với Wataya Noboru.

            - Nó gọi điện cho tôi cách đây một tuần, nói rằng có chuyện cần bàn, - Wataya Noboru nói tiếp. – Hai chúng tôi đã gặp nhau và nói chuyện. Mặt đối mặt. Lúc đó Kumiko mới kể với tôi nó đang hẹn hò với một người khác.

            Lần đầu tiên trong nhiều tháng, tôi thấy thèm thuốc. Dĩ nhiên tôi không mang theo thuốc lá. Thay vì thuốc, tôi nhấp một ngụm cà phê rồi đặt tách xuống đĩa đánh cách một tiếng lớn, khô khốc.

            - Rồi nó bỏ nhà đi, - hắn nói.

            - Tôi hiểu, - tôi nói. – Nếu anh nói vậy thì chắc đúng như vậy. Hẳn là Kumiko đã có tình nhân. Và cô ấy đến gặp anh nhờ khuyên bảo. Tôi thật khó mà tin được, nhưng tôi không thể hình dung chuyện như vậy mà anh có thể nói dối với tôi.

            - Dĩ nhiên là tôi không nói dối, - Wataya Noboru nói, môi thoáng cười.

            - Anh chỉ có ngần ấy để nói với tôi sao? Kumiko bỏ tôi theo người khác, thế là tôi nên đồng ý ly dị à?

            Wataya Noboru đáp bằng cách chỉ khẽ gật đầu, như thể hắn đang cố tiết kiệm sức lực.

            - Chắc cậu cũng biết ngay từ đầu tôi đã không đồng tình với việc Kumiko lấy cậu. Tôi đã không tích cực can thiệp vào bởi tôi cho đó không phải là việc của tôi, nhưng giờ thì tôi lấy làm tiếc hồi đó mình đã không can thiệp. – Hắn nhấp một ngụm nước rồi đặt lại cốc xuống bàn. Đoạn hắn nói tiếp: - Ngay từ lần đầu tiên gặp cậu, tôi đã biết không thể hy vọng bất cứ cái gì ở cậu hết. Tôi không thấy ở cậu có chút hứa hẹn gì sất. Ở cậu không có cái gì cho thấy cậu sẽ làm được việc gì ra hồn, làm người cho ra người còn không được nữa là. Chẳng có gì lấp lánh, chẳng có gì tỏa sáng, chẳng có gì ráo. Tôi đã biết cậu đặt tay lên cái nào là y như rằng cái đó dở cơm dở cháo, rằng cậu sẽ không bao giờ làm được việc gì đến nơi đến chốn. Và tôi có sai đâu. Cậu đã cưới em tôi được sáu năm, trong suốt thời gian đó cậu làm được cái gì? Không gì hết, đúng không? Suốt sáu năm qua cậu chỉ làm được mỗi một việc là bỏ việc và hủy hoại cuộc đời của Kumiko. Nay cậu đang thất nghiệp và không có dự định nào cho tương lai. Trong cái đầu cậu chẳng có gì khác ngoài đá cục và rác rưởi.

            Tại sao Kumiko lại ưa cái ngữ như cậu, tôi không bao giờ hiểu nổi. Có lẽ nó thấy đống rác rưởi đá cục trong đầu cậu là thú vị chăng. Nhưng nói gì thì nói, rác vẫn là rác, đá vẫn là đá. Ngay từ đầu nó đã chọn lầm người. Nói vậy không có nghĩa Kumiko là người hoàn hảo. Từ nhỏ nó đã có những thói kỳ quặc, vì lý do này nọ. Tôi cho rằng chính vì vậy mà có thời nó đã bị cậu thu hút. Nhưng giờ thì hết rồi. Trong mọi trường hợp, tốt nhất là hãy chấm dứt chuyện này càng sớm càng tốt. Cha mẹ tôi và tôi sẽ trông nom Kumiko. Chúng tôi muốn cậu hãy rút lui. Mà cũng đừng mất công tìm nó. Cậu không còn liên quan gì tới nó nữa. Cậu càng cố dây vào thì chỉ tổ càng gây rắc rối thôi. Tốt nhất cậu hãy bắt đầu cuộc đời mới ở một chỗ mới, một cuộc đời thích hợp với cậu hơn. Thế là tốt nhất cả cho cậu lẫn cho chúng tôi.

            Để tỏ ra hắn đã nói xong, Wataya Noboru uống cạn cốc nước rồi gọi bồi, bảo mang thêm nước lên.

            - Anh còn gì nói nữa không? – tôi hỏi.

            Lần này Wataya Noboru trả lời bằng cách khẽ lắc đầu.

            - Nếu vậy, - tôi nói với Kano Malta, - trình tự của cuộc nói chuyện này là thế nào?

            Kano Malta lấy trong xắc ra một chiếc khăn mùi soa nhỏ màu trắng mà lau khóe miệng. Đoạn cô ta nhấc chiếc mũ bằng vải vinyl màu đỏ đặt lên trên cái xắc.

            - Tôi biết chuyện này sẽ rất sốc đối với ông, thưa ông Okada, - cô nói. – Về phần mình, tôi rất khổ tâm khi phải nói chuyện trực tiếp với ông về những chuyện này, mong ông hiểu.

            Wataya Noboru liếc đồng hồ như để xác nhận rằng trái đất vẫn đang xoay quanh trục, càng xoay thì lại càng lấy mất thì giờ quý báu của hắn.

            - Tôi hiểu mình phải nói càng đơn giản và thẳng thắn càng tốt. Bà Okada đến gặp tôi đầu tiên. Bà ấy đến xin tôi lời khuyên.

            - Theo lời giới thiệu của tôi, - Wataya Noboru xen vào. – Kumiko đến gặp tôi về chuyện con mèo, tôi mới giới thiệu nó với cô Kano.

            - Chuyện ấy là trước hay sau khi tôi gặp cô? – tôi hỏi Kano Malta.

            - Trước, - cô đáp.

            - Trong trường hợp đó, nếu sắp xếp mọi chuyện theo trình tự thì đại loại thế này. Kumiko biết về sự tồn tại của cô thông qua Wataya Noboru, cô ấy liền đến tìm cô về việc con mèo đi lạc. Sau đó, vì lý do gì tôi chưa rõ, cô ấy giấu tôi việc cô ấy đã gặp cô mà sắp xếp cho tôi gặp cô, thế là chúng ta gặp nhau, ngay ở đây. Tôi nói có đúng không?

            - Gần như vậy, - Kano Malta nói, hơi ngắc ngứ. – Cuộc gặp đầu tiên giữa tôi với bà Okada là chỉ về chuyện con mèo. Tuy nhiên, tôi lại thấy chuyện này có gì đó sâu xa hơn chứ không chỉ có thế, chính vì vậy tôi mới cần gặp ông Okada để nói trực tiếp với ông. Sau đó tôi lại thấy cần phải gặp bà Okada một lần nữa để hỏi về những việc sâu kín, riêng tư hơn.

            - Đó cũng là lúc Kumiko kể với cô rằng cô ấy có tình nhân.

            - Vâng. Đại để là vậy. Ở địa vị của tôi, tôi không thể nói chi tiết hơn về chuyện đó, - Kano Malta nói.

            Tôi thở dài. Thở dài có giải quyết được gì cho cam, nhưng tôi không thể không làm vậy.

            - Vậy là Kumiko dan díu với gã kia đã khá lâu rồi?

            - Khoảng hai tháng rưỡi gì đó, tôi nghĩ vậy.

            - Hai tháng rưỡi, - tôi nói. – Làm sao chuyện đó diễn ra suốt hai tháng rưỡi trời mà tôi không nhận thấy gì hết cơ chứ?

            - Bởi vì ông chẳng mảy may nghi ngờ vợ mình, ông Okada ạ, - Kano Malta nói.

            Tôi gật đầu.

            - Đúng vậy. Chưa bao giờ trong đầu tôi có ý nghĩ đó. Tôi chưa bao giờ hình dung Kumiko có thể nói dối tôi như vậy, đến giờ tôi vẫn không tin được.

            - Nếu không kể đến hậu quả, thì khả năng tin tưởng người khác một cách trọn vẹn là một trong những phẩm chất cao đẹp nhất của con người, - Kano Malta nhận xét.

            - Và không dễ gì có được, - Waraya Noboru nói.

            Bồi bàn đến rót thêm vào tách cà phê của tôi. Một phụ nữ bàn bên cạnh phá lên cười.

            - Vậy thì rốt cuộc mục đích để hôm nay chúng ta gặp nhau là gì? – tôi nói với Wataya Noboru. – Tại sao ba chúng ta ngồi đây? Để tôi phải đồng ý ly dị Kumiko chăng? Hay còn mục đích nào khác sâu xa hơn? Những gì anh vừa nói tuồng như cũng có thứ lôgic nào đó, nhưng tất cả những phần quan trọng thì lại mơ hồ. Anh nói Kumiko có tình nhân và bỏ nhà đi. Vậy cô ấy đi tới đâu? Cô ấy đang làm gì ở đó? Cô ấy ở đó một mình hay ở với gã kia? Tại sao Kumiko không liên lạc với tôi? Nếu đúng là cô ấy có tình nhân thì đành chịu, thế là hết. Nhưng tôi chỉ tin đó là sự thật chừng nào chính Kumiko nói ra với tôi. Anh có hiểu không? Nói gì thì nói, chuyện chỉ liên quan đến hai người thôi, là Kumiko và tôi. Chỉ có chúng tôi mới phải nói chuyện với nhau và quyết định mọi chuyện. Anh chẳng dính dáng gì ở đây hết.

            Wataya Noboru đẩy cốc trà đá chưa đụng tới sang một bên.

            - Chúng tôi tới đây để thông báo tình hình cho cậu, - hắn nói. – Tôi đã nhờ cô Kano đi cùng tôi, bởi tôi cho rằng có mặt bên thứ ba nữa thì hơn. Tôi không biết tình nhân của Kumiko là ai, tôi cũng không biết hiện giờ nó ở đâu. Kumiko là người lớn. Nó muốn làm gì là việc của nó. Nhưng dù có biết nó đang ở đâu, nhất định tôi cũng không nói cho cậu hay. Nó không liên lạc với cậu bởi vì nó không muốn nói chuyện với cậu.

            - Nhưng cô ấy đã nói chuyện với anh! Cô ấy có thể nói những gì với anh nhỉ? Theo tôi hiểu, anh với cô ấy có thân thiết với nhau lắm đâu.

            - Nếu cậu với nó thân thiết với nhau đến thế thì cớ sao nó ngủ với thằng khác? – Wataya Noboru nói.

            Kano Malta khẽ ho.

            Wataya Noboru nói tiếp:

            - Kumiko bảo tôi nó đang có quan hệ với một người đàn ông khác. Nó bảo nó muốn giải quyết dứt điểm mọi chuyện một lần cho xong. Tôi đã khuyên nó ly dị cậu. Nó bảo nó sẽ suy nghĩ về chuyện đó.

            - Chỉ thế thôi à? – tôi hỏi.

            - Chứ cậu còn muốn gì nữa?

            - Tôi không hiểu nổi, - tôi nói. – Tôi không tin chuyện quan trọng như thế mà Kumiko lại đi nói với anh. Chuyện như vậy cô ấy sẽ tâm sự với ai chứ anh thì không đời nào. Cô ấy hoặc sẽ tự suy nghĩ lấy hoặc sẽ nói thẳng với tôi. Chắc hẳn cô ấy nói với anh là nói gì khác cơ. Nếu cô ấy đã gặp anh để nói chuyện thì hẳn phải là chuyện gì khác rồi.

            Trên môi Wataya Noboru thoáng qua nụ cười mơ hồ nhất có thể có – một nụ cười mỏng dính, lạnh tanh như mảnh trăng treo trên bầu trời khi bình minh.

            - Người ta bảo vu vạ là ý nói vậy đó, - hắn nói bằng giọng khẽ nhưng nghe rõ.

            - Vu vạ, - tôi nhắc lại, để thử tự mình nói ra cái từ ấy.

            - Chắc cậu hiểu ý tôi chứ, - hắn nói. – Vợ cậu ngủ với tình nhân. Cô ta bỏ cậu. Thế rồi cậu đổ lỗi lên người khác. Tôi chưa bao giờ nghe ai nói năng ngu xuẩn như vậy. Này, tôi đến đây có phải vì thích đến đâu. Tôi đến là vì việc cần phải đến. Với tôi, thế này chỉ tổ phí thời gian. Cầm bằng như tôi ném thời gian vào máng xối ấy.

            Khi hắn nói xong, cả bàn lặng ngắt.

            - Anh có biết chuyện lũ khỉ trên đảo cứt không? – tôi hỏi Wataya Noboru.

            Hắn lắc đầu, vẻ không hề quan tâm.

            - Chưa bao giờ nghe.

            - Ở nơi kia, xa, xa lắm, có một hòn đảo cứt. Một hòn đảo không tên. Một hòn đảo không đáng được đặt tên. Một hòn đảo cứt, hình thù như cứt. Trên hòn đảo cứt đó mọc những cây dừa hình thù cũng như cứt. Những cây dừa đó cho những quả dừa có mùi cứt. Có những lũ khỉ như cứt sống trên những cây dừa đó, chúng thích ăn những quả dừa có mùi cứt đó, ăn xong chúng ị ra thứ cứt kinh tởm nhất trên đời. Cứt đó rơi xuống đất, lâu ngày thành cả ụ cứt, làm những cây dừa cứt mọc trên đó đã cứt lại càng cứt. Đó là một chu trình vô tận.

            Tôi uống nốt chỗ cà phê còn lại.

            - Ngồi đây nhìn anh, - tôi tiếp -, bỗng tôi nhớ lại cậu chuyện về hòn đảo cứt nọ. Điều tôi muốn nói là thế này. Một thứ cứt, một thứ thối tha, một thứ bóng tối nào đó đang tự phát tán ra hoài hoài bằng tự lực nó, theo chu trình tự thân của nó. Và một khi nó đã vượt qua một điểm nhất định thì không ai ngăn nó lại được, cho dù chính đương sự muốn ngăn nó lại đi nữa.

            Mặt Wataya Noboru không biểu lộ bất cứ cảm xúc gì. Nụ cười đã biến mất, nhưng cũng chẳng có dấu hiệu gì là bực tức. Tôi chỉ thấy mỗi một nếp nhăn nhỏ giữa hai lông mày hắn, nhưng tôi không nhớ có phải nếp nhăn đó đã có từ trước không.

            - Anh hiểu tôi chưa, Wataya Noboru? – tôi nói tiếp. – Tôi biết đích xác anh là loại nguời nào. Anh bảo tôi là đá cục, là rác rưởi. Anh nghĩ anh có thể nghiền tôi thành cám bất cứ lúc nào anh muốn. Nhưng không đơn giản như vậy đâu. Với anh, xét theo những giá trị của anh thì tôi có thể đúng là rác rưởi và đá cục. Nhưng tôi không ngu như anh nghĩ đâu. Tôi biết anh rõ anh là hạng nào bên dưới cái mặt nạ trơn tru dành riêng cho truyền hình kia của anh. Tôi biết bí mật của anh. Kumiko biết, tôi biết, cả hai chúng tôi biết dưới đó là cái gì. Nếu muốn, tôi có thể nói hết với thiên hạ. Tôi có thể đưa nó ra giữa thanh thiên bạch nhật. Có thể mất thời gian, nhưng tôi làm được. Tôi có thể chẳng là cái thá gì, nhưng ít nhất tôi không phải là cái bao cát. Tôi là một con người đang sống, đang hít thở. Kẻ nào đá tôi, tôi đá lại. Hãy nhớ điều đó cho kỹ.

            Wataya Noboru tiếp tục nhìn tôi chằm chằm với bộ mặt vô cảm kia, bộ mặt giống như một cục đá trôi trong không trung. Những gì tôi vừa nói với hắn hầu như toàn là bịp bợm mà thôi. Tôi không biết bí mật của Wataya Noboru. Trong con người hắn có cái gì đó méo mó ghê gớm, điều đó nhận ra không khó. Nhưng tôi không cách nào đoán được chính xác đó là cái gì. Tuy nhiên, lời của tôi dường như đã chọc đúng cái gì đó ở bên trong. Tôi đọc được điều đó trên mặt hắn. Hắn không phản ứng lại tôi theo kiểu hắn thường làm với các đối thủ khi thảo luận trên truyền hình: hắn không chế nhạo lời của tôi, không nói khích để bẫy tôi, không tìm cách khéo léo nói chệch đi. Hắn ngồi đó im lìm, không động đậy một cơ nào.

            Thế rồi một cái gì đó thật kỳ quặc diễn ra trên mặt Wataya Noboru. Từng chút một, mặt hắn chuyển sang màu đỏ. Nhưng nó chuyển sang màu đỏ theo một cách hết sức lạ lùng. Trong khi một số mảng đã đỏ tía lên rồi thì vài mảng khác chỉ mới ương ương đỏ đỏ, phần còn lại thì xám ngoét ra một cách quái dị. Nó khiến tôi nghĩ đến một cánh rừng thu lổ đổ những đốm màu khác nhau bởi các tán cậy quanh năm và tán cây rụng lá xen lẫn nhau.

            Cuối cùng, chẳng nói chẳng rằng, Wataya Noboru đứng dậy, rút kính râm ra khỏi túi, đeo vào. Những đốm màu loang lổ kỳ quái kia vẫn bao phủ mặt hắn. Xem ra từ nay chúng sẽ nằm đó mãi mãi. Kano Malta vẫn ngồi yên như tượng, không nói gì. Tôi thì ra vẻ hoàn toàn thờ ơ. Wataya Noboru toan nói gì đó với tôi nhưng hình như rốt cuộc hắn kìm lại. Hắn đi khỏi bàn, biến mất vào đám đông.

            * * *

            Wataya Noboru đi khỏi một hồi, Kano Malta và tôi vẫn không nói gì với nhau. Tôi thấy kiệt sức. Bồi bàn đến đề nghị rót thêm cà phê, nhưng tôi xua anh ta đi. Kano Malta nhặt cái mũ đỏ lên, nhìn chăm chăm vào nó trong vài phút rồi đặt lên chiếc ghế bên cạnh cô.

            Tôi nghe vị đắng trong miệng. Tôi thử chiêu ít nước cho trôi cái vị đó đi, nhưng không ăn thua.

            Im lặng thêm một lát nữa, Kano Malta nói:

            - Đôi khi cảm xúc cần được bộc lộ ra ngoài. Nếu không, dòng chảy có thể bị ngưng trệ ở bên trong. Giờ ông đã nói ra những điều muốn nói rồi, hẳn ông thấy dễ chịu hơn chứ?

            - Một chút thôi, - tôi nói. – Nhưng chẳng giải quyết được gì. Chẳng kết thúc được vấn đề gì sất.

            - Ông không thích ông Wataya phải không, thưa ông Okada?

            - Mỗi lần nói chuyện với thằng cha đó, tôi lại có cảm giác trông rỗng khủng khiếp. Mọi vật trong phòng đâm ra như không có thực chất nào hết. Mọi vật dường như rỗng tuếch. Tại sao lại như vậy, tôi không thể nào giải thích chính xác với cô được. Chính vì cái cảm giác đó mà rốt cuộc tôi nói và làm những điều vốn không thuộc bản tính tôi. Sau đó thì tôi thấy thật ghê sợ. Giá như tôi không bao giờ phải gặp lại hắn nữa thì hạnh phúc biết bao nhiêu!

            Kano Malta lắc đầu.

            - Thật đáng tiếc, ông sẽ còn phải gặp ông Wataya rất nhiều lần nữa. Chuyện đó ông không tránh được đâu.

            Rất có thể cô ta có lý. Tôi không thể gạt hắn ra khỏi đời tôi dễ dàng như vậy.

            Tôi cầm cốc lên nhấp thêm ngụm nước. Cái vị kinh khủng này ở đâu ra kia chứ?

            - Có một điều tôi muốn hỏi cô, - tôi nói. – Cô đứng về bên nào? Wataya Noboru hay tôi?

            Kano Malta chống cùi chỏ lên bàn, chìa hai lòng bàn tay ra trước mặt.

            - Không bên nào cả, - cô nói. – Chẳng có bên nào hết trong trường hợp này. Đơn giản là chẳng có bên nào cả. Ở đây không hề có trên hay dưới, phải hay trái, trước hay sau, ông Okada ạ.

            - Nghe như Thiền ấy, - tôi nói. – Với tư cách hệ tư tưởng thì tự thân nó cũng thú vị, nhưng nó chẳng lý giải được bao lăm về sự vật.

            Cô ta gật đầu. Cô giãn hai lòng bàn tay nãy giờ khép vào nhau trước mặt ra xa nhau chừng năm phân, làm thành một góc hơi chênh chếch hướng về phía tôi. Hai lòng bàn tay cô nhỏ nhắn, xinh xẻo.

            - Tôi biết những điều tôi đang nói đây không có ý nghĩa gì lắm. Và tôi không trách ông đã nổi giận. Nhưng dù tôi nói gì với ông lúc này đi nữa, nó sẽ không có lợi ích thiết thực nào cả. Thậm chí còn có hại cũng nên. Ông sẽ phải vượt qua tất cả bằng chính sức của mình. Bằng chính đôi tay mình.

            - Như người tiền sử ấy nhỉ, - tôi vừa nói vừa mỉm cười. – Ai đánh ta, ta đánh lại.

            - Chính thế, - Kano Malta nói. – Đúng vậy. – Thế rồi, một cách cẩn trọng như thể đang thu nhặt di vật của một người vừa quá cố, cô nhặt cái xắc, đội lên đầu chiếc mũ vải vinyl đỏ. Một khi Kano Malta đội chiếc mũ đó lên, cô mang lại một ấn tượng kỳ lạ nhưng rõ rệt rằng một đơn vị thời gian vừa mới kết thúc.

            * * *

            Kano Malta đi rồi, tôi vẫn ngồi lại một mình, trong đầu chẳng nghĩ gì. Tôi chẳng biết nếu đứng dậy khỏi bàn thì nên đi đâu, nên làm gì đây. Nhưng dĩ nhiên tôi không thể ngồi đó mãi được. Sau khi ngồi như vậy được hai mươi phút, tôi trả tiền cho cả ba người rồi rời khỏi trà quán. Hai người kia không ai trả tiền.

4

            n sủng đánh mất

            *

            Điếm tinh thần

            Về đến nhà, tôi thấy trong thùng thư có một bức thư dày. Đó là thư của Trung úy Mamiya. Họ tên và địa chỉ của tôi được viết ngoài phong bì bằng thứ Hán tự đậm nét, chân phương quen thuộc. Thay đồ, rửa mặt xong, tôi xuống bếp uống hai cốc nước lạnh. Nghỉ một chút lấy lại hơi, tôi mới rọc phong bì.

            Trung úy Mamiya dùng bút lông viết kín đặc mười trang giấy mỏng bằng thứ chữ li ti. Tôi lật qua các trang giấy rồi nhét lại vào phong bì. Tôi mệt quá không đọc nổi một bức thư dài như vậy. Tôi không có sức đâu để tập trung vào lúc đó. Lướt mắt qua những hàng chữ viết tay, tôi thấy chúng như một bầy lúc nhúc những con bọ kỳ dị màu xanh nước biển. Bên cạnh đó, giọng của Wataya Noboru vẫn còn văng vẳng trong trí tôi.

            Tôi nằm dài trên ghế sofa, nhắm mắt hồi lâu, không nghĩ gì cả. Với tâm trạng của tôi lúc này thì không nghĩ gì cả chẳng phải là việc khó. Để không nghĩ gì cả, tôi chỉ việc nghĩ về nhiều chuyện, mỗi chuyện một tí: nghĩ về cái gì đó một chút rồi lại quẳng ngay ra khỏi đầu.

            Mãi gần 5 giờ chiều tôi mới quyết định đọc thư của Trung úy Mamiya. Tôi ra ngoài hiên, ngồi tựa lưng vào một cây cột rồi rút các trang giấy ra khỏi phong bì.

            Trang đầu toàn những câu giao đãi theo nghi thức: chào hỏi dông dài, cám ơn tôi đã mời ông đến nhà hôm nọ, và vô cùng xin lỗi đã làm tôi chán ngấy với những câu chuyện dài lê thê của ông. Trung úy Mamiya nhất định là người rất am hiểu lễ nghi giao tiếp. Ông là một kẻ còn sống sót từ thời những lễ nghi đó chiếm một phần quan trọng trong đời sống hàng ngày. Tôi lướt nhanh qua những dòng đó rồi giở sang trang thứ hai.

            Xin ông thứ lỗi cho tôi đã mào đầu một cách dài dòng đến vậy. Mục đích duy nhất của tôi khi viết như vậy - dẫu biết khi mạo muội làm vậy là tôi đang buộc ông phải gánh một nhiệm vụ không mong muốn - là để thông báo với ông rằng những sự kiện tôi kể với ông hôm trước hoàn toàn không phải do tôi bịa đặt ra, cũng chẳng phải là những hồi ức đáng ngờ của một lão già, mà là một sự thật hoàn toàn, trọng đại, sự thật đến từng chi tiết nhỏ. Như ông cũng biết, chiến tranh đã chấm dứt từ rất lâu rồi, hiển nhiên là ký ức thoái hoá dần cùng với thời gian. Ký ức và ý nghĩ cũng già đi như con người ta già đi vậy. Nhưng một số ý nghĩ không bao giờ có thể già đi, một số ký ức không bao giờ có thể già đi.

            Mãi đến ngày hôm nay tôi vẫn chưa bao giờ kể những chuyện này với bất cứ ai ngoại trừ ông. Đối với hầu hết mọi người, những câu chuyện đó của tôi nghe như toàn bịa đặt không thể tin được. Phần đông thiên hạ coi những gì nằm ngoài phạm vi hiểu biết của họ là vớ vẩn, không đáng bận tâm. Ngay chính tôi cũng chỉ ước ao rằng những câu chuyện của mình quả thật không là gì khác ngoài bịa đặt. Tôi đã sống qua ngần ấy năm trời chỉ bám víu vào niềm hy vọng mong manh rằng những ký ức đó của tôi chẳng qua chỉ là giấc mộng hoặc cơn mê sảng. Tôi đã ra sức thuyết phục chính mình rằng những chuyện đó chưa hề xảy ra. Nhưng mỗi khi tôi cố đẩy chúng vào bóng tối, những ký ức đó lại quay về, càng mãnh liệt hơn, càng sống động hơn bao giờ hết. Như tế bào ung thư, những ký ức đó đã cắm rễ trong tâm trí tôi, ăn dần vào trong thể xác tôi.

            Mãi đến giờ tôi vẫn nhớ như in từng chi tiết nhỏ nhất một cách rõ ràng đến đáng sợ. Tôi nhớ như thể những sự kiện đó chỉ mới xảy ra hôm qua. Tôi có thể vốc cát và cầm ngọn cỏ trong tay, thậm chí nghe được mùi của chúng. Tôi thấy rõ hình dáng những đám mây trên bầu trời. Tôi cảm thấy ngọn gió khô lẫn đầy cát thốc vào hai má tôi. So ra thì chính những sự kiện sau này trong đời tôi mới có vẻ là ảo ảnh trên đường ranh giữa mộng mị và thực tại.

            Cội rễ cuộc đời tôi - những gì tôi có thể nói rằng từng có lúc thực sự là chính bản thân tôi - đã bị chết cóng hay thiêu rụi ở đó, giữa thảo nguyên Ngoại Mông nơi mà xa ngút mắt cũng không có một cái gì cản trở tầm nhìn. Sau đó tôi mất một bàn tay trong trận kịch chiến với đơn vị xe tăng Xô Viết tấn công qua biên giới; tôi đã nếm mùi khổ ải không thể hình dung nổi nơi trại lao động Siberia trong cái lạnh chết người của mùa đông; tôi được hồi hương, làm thầy dạy môn xã hội ở một trường trung học vùng quê suốt ba mươi năm trời yên ả, rồi từ đó tới giờ tôi sống đơn độc, canh tác trên mảnh đất của mình. Thế nhưng từng ấy năm tháng về sau trong đời mình tôi thấy chỉ như là ảo ảnh. Dường như chưa hề có những năm tháng đó vậy. Chỉ trong khoảnh khắc, ký ức tôi đã nhảy qua cái vỏ rỗng thời gian đó mà về lại thảo nguyên Hulunbuir hoang vu.

            Cuộc đời tôi mai một như thế đó, bị biến thành vỏ rỗng như thế đó hẳn là do một cái gì kia trong làn ánh sáng tôi đã nhìn thấy nơi đáy giếng, làn ánh sáng mặt trời mãnh liệt xuyên thấu vào đáy giếng chỉ trong vòng mười đến hai mươi lăm giây. Nó ập xuống bất ngờ và biến đi cũng đột ngột như vậy. Nhưng trong làn ánh sáng kéo dài ngắn ngủi kia tôi đã thấy một cái gì đó - cái gì đó mà suốt đời tôi sẽ không bao giờ thấy lại được nữa. Và một khi đã thấy rồi, tôi không còn là con người như xưa nữa.

            Điều gì đã xảy ra dưới đó? Có ý nghĩa gì? Mãi đến giờ, hơn bốn mươi năm sau, tôi vẫn không trả lời được chính xác những câu hỏi đó. Chính vì vậy những gì tôi sắp nói sau đây chỉ là một giả thuyết, không hơn, một cách giải thích tạm thời tôi nghĩ ra cho chính mình mà không dựa trên một cơ sở logic nào. Tuy nhiên, tôi tin chắc rằng trong lúc này giả thuyết của tôi là gần gũi nhất với ý nghĩa đích thực của những gì tôi đã trải qua.

            Quân Mông Cổ đã ném tôi xuống một cái giếng sâu đen kịt giữa thảo nguyên, chân và vai tôi bị gãy, tôi chẳng có đồ ăn lẫn nước uống, chỉ còn chờ chết. Trước đó tôi đã thấy một người bị lột da sống. Tôi cho rằng trong hoàn cảnh đặc biệt đó, ý thức của tôi đã đạt tới sự tập trung đậm đặc đến mức khi làn ánh sáng cường liệt đó rọi xuống trong vài giây ngắn ngủi kia, tôi đã xuống được đến nơi có thể gọi là phần cốt lõi của ý thức tôi. Dù thế nào đi nữa, tôi đã thấy hình dáng của một cái gì đó. Ông cứ tưởng tượng xem. Mọi vật quanh tôi đều tắm trong ánh sáng. Tôi đang ở ngay chính giữa một dòng thác ánh sáng. Mắt tôi chẳng nhìn thấy gì. Đơn giản là tôi được bọc trong ánh sáng. Nhưng rồi có cái gì đó bắt đầu xuất hiện. Trong lòng sự mù lòa thoáng chốc của tôi, một cái gì đó đang cố gắng thành hình. Một vật gì đó. Một vật gì đó có sự sống. Như cái bóng nhật thực, nó bắt đầu trỗi dậy, màu đen, trong ánh sáng. Nhưng tôi không thể nào nhận rõ hình thù của nó. Nó đang cố đến với tôi, đang cố ban cho tôi một cái gì đó như là ân sủng của trời. Tôi run rẩy chờ nó. Nhưng rồi, hoặc vì nó đã đổi ý hoặc vì không đủ thời gian, nó chẳng bao giờ đến với tôi. Chỉ một khoảnh khắc trước khi thành hình trọn vẹn, nó đã lại tan biến đi và hòa lẫn vào ánh sáng. Thế rồi bản thân ánh sáng cũng tắt. Thời hạn cho ánh sáng đó chiếu vào đáy giếng đã hết.

            Điều đó xảy ra cứ hai ngày một lần. Cũng chính một điều đó. Một cái gì đó khởi sự hình thành trong làn ánh sáng tràn trề, rồi chưa kịp nên hình thù trọn vẹn thì đã biến mất. Dưới đáy giếng, tôi đói khát đến khủng khiếp. Nhưng rốt cuộc thì đó không phải là vấn đề quan trọng nhất. Điều khiến tôi khổ sở nhất khi còn ở dưới giếng là nỗi giày vò vì không sao nhìn rõ được hình dạng cái vật gì đó kia trong ánh sáng: đói vì không thể nhìn thấy cái cần phải thấy, khát vì không thể biết cái cần phải biết. Giá như nhìn rõ được nó thì dù có chết ngay ở đó tôi cũng cam lòng. Tôi thật sự cảm thấy vậy đó! Tôi sẵn sàng hy sinh bất cứ cái gì để nhìn trọn vẹn được hình dạng của nó.

            Nhưng rồi rốt cuộc cái hình thể đó vuột khỏi tôi mãi mãi. n sủng chưa được ban cho tôi thì đã hết rồi. Và như tôi đã nói, từ khi thoát được cái hố kia mà leo lên mặt đất, cuộc đời tôi chỉ còn là một cái vỏ rỗng, trống hơ trống hoác. Chính vì vậy mà khi quân đội Xô Viết xâm chiếm Mãn Châu ngay trước khi chiến tranh kết thúc, tôi đã tình nguyện lên tuyến đầu. Trong trại lao động ở Siberia cũng vậy, tôi cố tình làm sao cho người ta đưa tôi đến những nơi khắc nghiệt nhất. Thế nhưng, dẫu có làm gì đi nữa, tôi vẫn không chết. Đúng như hạ sĩ Honda đã tiên đoán đêm ấy, số tôi là quay về Nhật để sống một cuộc đời dài đến lạ lùng. Tôi nhớ lần đầu tiên nghe lời tiên đoán đó tôi đã sung sướng biết bao. Nhưng lời tiên đoán đó hoá ra là một lời nguyền. Không phải tôi không chết, mà là tôi không thể chết. Hạ sĩ Honda nói đúng cả về điều đó nữa: lẽ ra tôi đừng biết thì hơn.

            Khi sự khải thị và ân sủng đó đã mất thì cuộc đời tôi cũng mất. Những gì trước kia từng sống ở trong tôi, những gì chính vì vậy mà có giá trị gì đó, nay đều đã chết. Không còn lại gì nữa cả. Tất cả đã bị thiêu cháy thành tro trong luồng sáng khốc liệt kia rồi. Sức nóng tỏa ra từ sự khải thị hay ân sủng đó đã đốt rụi vào tận trong cốt lõi cái sinh mệnh của kẻ vốn là tôi. Hiển nhiên tôi không đủ sức cưỡng lại sức nóng đó. Thế nên tôi không hề sợ chết. Có chăng thì cái chết của thể xác sẽ là một dạng cứu thoát cho tôi. Nó sẽ vĩnh viễn giải thoát tôi khỏi cái nhà tù vô vọng này, khỏi cái nỗi đau khi tôi phải là tôi.

            Một lần nữa tôi lại làm ông phát chán vì câu chuyện dài lê thê này. Tôi xin ông thứ lỗi. Nhưng điều tôi muốn nói với ông là thế này, ông Okada ạ: tôi đã lỡ đánh mất cuộc đời mình vào một thời điểm nhất định, từ đó trở đi tôi sống thêm hơn bốn mươi năm nhưng cuộc đời thì đã mất. Là kẻ ở trong địa vị đó, tôi đâm ra nghĩ rằng sự sống của ta hạn hẹp hơn nhiều so với những ai đang rơi vào vòng xoáy của đời vẫn tưởng. Ánh sáng chỉ rọi vào hành vi sự sống trong một khoảnh khắc tột cùng ngắn ngủi, có lẽ chỉ vài giây. Một khi ánh sáng đã ra đi mà ta chưa ngộ được điều khải thị nó mang lại cho ta thì sẽ không còn cơ hội thứ hai nữa. Có khi kẻ đó sẽ phải sống nốt quãng đời còn lại trong nỗi cô đơn và sám hối sâu thẳm và vô vọng. Trong cái thế giới xế chiều đó, ta không thể trông mong bất cứ điều gì nữa. Tất cả những gì kẻ đó nắm trong tay chỉ là cái xác khô còn lại của cái lẽ ra đã có.

            Dù có thế nào, tôi cũng lấy làm vui đã có cơ duyên gặp ông Okada và kể cho ông nghe câu chuyện của tôi. Liệu nó có giúp ích gì được cho ông, tôi không biết. Nhưng kể ra với ông rồi, tôi như được giải thoát. Dẫu mong manh yếu ớt đi chăng nữa, sự giải thoát nào đối với tôi cũng quý báu vô cùng. Tôi cũng không thể không cảm thấy trong việc ông Honda đã dẫn lối tôi đến việc này có những mối dây vi tế nào đó của số phận. Xin ông hãy nhớ, nơi đây có người cầu chúc cho ông sống một cuộc đời hạnh phúc mai sau.

            Tôi đọc lại bức thư một lần nữa, đọc cẩn thận, rồi nhét lại vào phong bì.

            Thư của Trung úy Mamiya lay động tâm hồn tôi đến kỳ lạ, nhưng với trí óc tôi, nó chỉ mang lại những hình ảnh mơ hồ xa xăm. Trung úy Mamiya là người tôi có thể tin cậy và chấp nhận, và tôi cũng có thể chấp nhận là sự thật những gì ông tuyên bố là sự thật. Song bản thân khái niệm sự thật hay thực tại không còn đủ sức thuyết phục tôi nữa. Điều khiến tôi xúc động nhất là nỗi ấm ức trong từng lời của viên trung úy: ấm ức vì không bao giờ có thể miêu tả hay lý giải một điều gì cho hoàn toàn ưng ý được.

            Tôi xuống bếp uống cốc nước. Rồi tôi đi lòng vòng quanh nhà. Trong phòng ngủ, tôi ngồi trên giường nhìn những bộ áo váy của Kumiko xếp hàng trong tủ. Và tôi nghĩ: mục đích của đời tôi cho đến giờ là gì? Giờ thì tôi hiểu những gì Wataya Noboru nói. Phản ứng đầu tiên của tôi trước lời lẽ của hắn là giận dữ, nhưng tôi phải nhận rằng hắn nói đúng. “Cậu đã cưới em tôi được sáu năm, trong suốt thời gian đó cậu làm được cái gì? Không gì hết, đúng không? Suốt sáu năm qua cậu chỉ làm được mỗi một việc là bỏ việc và hủy hoại cuộc đời Kumiko. Nay cậu đang thất nghiệp và chả có dự định nào cho tương lai hết. Trong cái đầu cậu chả có gì khác ngoài cục đá và rác rưởi”. Tôi chỉ còn cách thừa nhận rằng hắn nhận xét chính xác. Khách quan mà nói, tôi đã chẳng làm được cái gì ra hồn trong sáu năm qua, và những gì có trong đầu tôi quả thật rất giống rác rưởi và đá cục. Tôi là con số không. Đúng như hắn nói.

            Nhưng có đúng là tôi đã hủy hoại đời Kumiko không?

            Mãi một hồi lâu tôi ngồi nhìn những áo váy, áo cánh và váy của Kumiko. Chúng là những cái bóng mà Kumiko để lại. Vắng chủ, những cái bóng đó chỉ còn có thể treo nguyên đó, vật vờ ẻo lả. Tôi xuống buồng tắm lấy chai nước hoa Christian Dior ai đó đã tặng Kumiko. Tôi mở chai ra ngửi. Nó là cái mùi hương tôi ngửi thấy sau tai Kumiko vào cái buổi sáng nàng bỏ nhà đi. Tôi chầm chậm đổ hết nước hoa trong chai xuống bồn rửa mặt. Trong khi chỗ nước hoa kia trôi xuống ống thải, một mùi hoa nồng gắt (tên là hoa gì tôi cố nhớ nhưng không được) xộc lên trong bồn, khuấy động ký ức một cách tàn nhẫn. Giữa cái mùi hương mãnh liệt ấy, tôi rửa mặt, đánh răng. Sau đó tôi quyết định sang nhà Kasahara May.

            * * *

            Cũng như mọi khi, tôi đứng nơi ngõ chỗ phía sau nhà Miyawaki, đợi Kasahara May xuất hiện, nhưng lần này đợi mãi không thấy. Tôi tựa vào hàng rào, mút kẹo chanh, ngắm bức tượng chim và miên man nghĩ đến bức thư của Trung úy Mamiya. Tuy nhiên, chỉ lát sau trời bắt đầu sẩm tối. Đợi được gần nửa tiếng đồng hồ, tôi đành chịu thua. Kasahara May chắc đang ở ngoài, không có nhà.

            Tôi đi dọc theo con ngõ đến phía sau nhà mình qua rồi trèo qua tường. Trong nhà, tôi nhìn thấy bóng nhá nhem thanh tĩnh của buổi tối mùa hè. Và Kano Creta đang ở trong nhà. Trong một khoảnh khắc như ảo giác, tôi ngỡ mình đang mơ. Nhưng không, đây vẫn là thực tại đang tiếp diễn. Chút mùi nước hoa mà tôi đã đổ đi vẫn còn vương vất trong không khí. Kano Creta ngồi trên ghế sofa, hai tay đặt trên đầu gối. Tôi lại gần cô, song như thể chính thời gian đã ngưng lại trong cô, cô không hề cử động. Tôi bật đèn rồi ngồi xuống ghế trước mặt cô.

            - Cửa không khóa nên tôi tự vào, - rốt cuộc cô nói.

            - Không sao, mỗi khi ra ngoài tôi đều để cửa không khóa mà, - tôi nói.

            Cô mặc áo cánh trắng thêu ren, váy bồng màu hoa cà, đeo một cặp hoa tai lớn. Trên cổ tay trái cô đeo một cặp vòng to. Nhìn thấy cặp vòng, tôi như giật nảy mình. Chúng giống in hệt cặp vòng tôi đã thấy cô đeo trong giấc mơ của tôi. Đầu tóc và cách trang điểm của cô đều theo phong cách quen thuộc. Cũng như mọi lần, keo xịt giữ cho tóc ở nguyên vị trí, như thể Kano Creta vừa từ thẩm mỹ viện ra là đến thẳng đây.

            - Không có nhiều thì giờ đâu, - Kano Creta nói. - Tôi cần phải về nhà ngay. Nhưng nhất định tôi cần nói chuyện với ông, thưa ông Okada. Hôm nay hình như ông đã gặp chị tôi và ông Wataya thì phải.

            - Tôi có gặp. Phải nói ngay, cuộc gặp chẳng vui vẻ gì lắm.

            - Ông không có gì để hỏi tôi liên quan đến cuộc gặp đó hay sao? - cô hỏi.

            Ai đến gặp tôi cũng đều chất vấn tôi đủ điều thế này sao!

            - Tôi muốn biết thêm về Wataya Noboru, - tôi nói. - Tôi không khỏi nghĩ rằng tôi cần phải biết nhiều hơn về hắn.

            Cô gật đầu.

            - Chính tôi cũng muốn biết nhiều hơn về Wataya Noboru. Tôi tin rằng chị tôi đã cho ông biết hắn từng làm nhục tôi, từ rất lâu rồi. Hôm nay tôi không có thì giờ kể sâu về chuyện đó, nhưng vào một dịp nào đó sau này tôi sẽ kể. Trong mọi trường hợp, việc đó đã xảy ra ngoài ý muốn của tôi. Đầu tiên, người ta thu xếp cho tôi quan hệ với hắn. Chính vì vậy nên đây không phải là hãm hiếp theo nghĩa thường của từ này. Nhưng hắn đã làm nhục tôi, và điều đó đã làm con người tôi thay đổi rất nhiều. Rốt cuộc tôi cũng đã phục hồi được sau sự cố đó. Thật ra, nó đã giúp tôi (dĩ nhiên còn nhờ chị Kano Malta giúp nữa) tự nâng mình lên một tầm mới, cao hơn. Song dù hệ quả thế nào đi nữa, sự thật vẫn là khi đó Wataya Noboru đã cưỡng dâm và làm nhục tôi ngoài ý muốn của tôi. Việc hắn làm với tôi là sai quấy và nguy hiểm. Lẽ ra tôi còn có thể mất đi mãi mãi nữa kia. Ông hiểu ý tôi chứ?

            Tôi thật không hiểu ý cô ta.

            - Dĩ nhiên, tôi cũng đã quan hệ với ông Okada, nhưng chúng ta đã làm việc đó một cách đúng đắn, với mục đích đúng đắn. Làm như vậy thì tôi không thể nào bị làm nhục cả.

            Tôi nhìn thẳng vào cô trong mấy giây, như nhìn một bức tường lốm đốm nhiều màu.

            - Cô đã quan hệ với tôi à?

            - Vâng, - cô nói. - Lần đầu tôi chỉ dùng miệng, nhưng lần thứ hai chúng ta đã quan hệ với nhau. Cả hai lần đều trong cùng một căn phòng. Hẳn ông nhớ chứ? Lần đầu chúng ta có rất ít thời gian nên cứ phải vội vã. Nhưng đến lần thứ hai ta có nhiều thì giờ hơn.

            Tôi chịu không biết trả lời ra sao nữa.

            - Lần thứ hai thì tôi mặc áo váy của vợ ông. Chiếc màu xanh dương ấy mà. Tay trái tôi thì đeo vòng như thế này. Có đúng không? - Cô chìa cổ tay trái mang cặp vòng ra trước mặt tôi.

            Tôi gật đầu.

            - Dĩ nhiên chúng ta đã không quan hệ với nhau trong thực tại, - Kano Creta nói. – Khi ông xuất tinh, đấy không phải xuất tinh vào tôi theo nghĩa vật chất mà là vào ý thức của ông. Ông có hiểu không? Đó là một ý thức được tạo tác. Tuy nhiên, hai chúng ta cùng chung ý thức rằng mình đã quan hệ với nhau.

            - Làm như vậy là để làm gì?

            - Để biết, - cô nói. - Để biết nhiều hơn, biết sâu hơn.

            Tôi thở dài. Điên quá đi mất. Nhưng cô ta đã mô tả tuyệt đối chính xác khung cảnh trong giấc mơ của tôi. Tôi xoa xoa ngón tay quanh mồm, nhìn trân trân vào cặp vòng trên cổ tay trái cô.

            - Có thể tôi không được sáng dạ lắm, - tôi nói, giọng khô khan, - nhưng tôi thật không dám bảo là đã hiểu tất cả những gì cô nói.

            - Trong giấc mơ thứ hai của ông, khi tôi đang quan hệ với ông, một người đàn bà khác đã thế chỗ tôi. Có đúng không? Tôi không biết cô ta là ai. Nhưng có lẽ sự kiện đó là nhằm gợi lên một điều gì đó với ông, ông Okada ạ. Đó là điều tôi muốn nói với ông.

            Tôi không nói gì.

            - Ông không nên cảm thấy mình có lỗi về chuyện đã quan hệ với tôi, - Kano Creta nói. - Ông Okada biết tôi là gái điếm cơ mà. Tôi từng là điếm về xác thịt, nhưng nay tôi là điếm tinh thần. Mọi sự đều đi qua tôi.

            Nói đến đây Kano Creta rời chỗ ngồi quỳ xuống cạnh tôi, ấp tay tôi trong hai bàn tay cô. Bàn tay cô ấm, mềm, thật nhỏ bé.

            - Ôm tôi đi, ông Okada. Ngay ở đây, ngay bây giờ.

            Chúng tôi đứng dậy, tôi vòng tay ôm quanh người cô. Tôi thật tình không biết mình có nên làm vậy không. Nhưng hình như ôm lấy Kano Creta ngay khi đó, ngay ở đó không phải là một sai lầm. Tôi không giải thích được, chỉ cảm thấy như vậy thôi. Tôi choàng tay qua tấm thân mảnh dẻ của cô như thể đang học bài đầu tiên trong lớp dạy khiêu vũ. Cô là một phụ nữ nhỏ nhắn. Đỉnh đầu cô chỉ quá chót cằm tôi một chút. Cặp vú cô ép vào dạ dày tôi. Cô áp má vào ngực tôi. Và mặc dù suốt khoảng thời gian đó cô không phát ra tiếng nào, nhưng cô khóc. Tôi cảm thấy những giọt nước mắt âm ấm qua lần áo phông. Tôi nhìn xuống thấy mái tóc làm khéo không chê vào đâu được của cô đang rung rung. Tôi thấy như mình đang mơ một giấc mơ thực sự. Nhưng đây không phải là mơ.

            Sau khi chúng tôi giữ nguyên tư thế đó một hồi rất lâu không động đậy, cô ngãng ra khỏi tôi như vừa sực nhớ điều gì. Duy trì một khoảng cách, cô nhìn tôi.

            - Cám ơn ông Okada rất nhiều, - cô nói. - Giờ tôi sẽ về nhà. - Cô vừa mới khóc ràn rụa, thế nhưng son phấn của cô hầu như không bị hề hấn gì. Cảm giác thực tại giờ lại biến mất một cách kỳ lạ.

            - Có khi nào cô sẽ lại đến trong giấc mơ của tôi không? - tôi hỏi.

            - Tôi không biết, - cô vừa nói vừa khẽ lắc đầu. - Chính tôi cũng không biết nữa. Nhưng xin ông hãy tin tôi. Dù gì xảy ra đi nữa, xin đừng sợ tôi hay đừng cảm thấy cần phải cảnh giác về tôi. Ông Okada hứa với tôi như thế chứ?

            Tôi gật đầu để trả lời.

            Ngay sau đó Kano Creta về nhà.

            Bóng đêm càng dày đặc hơn bao giờ hết. Mặt trước áo phông của tôi ướt đẫm. Tôi thức đến tận bình minh, không ngủ được. Một phần tôi không buồn ngủ, mặt khác tôi sợ ngủ. Tôi có cảm giác rằng nếu đi ngủ, tôi sẽ bị bao bọc trong một dòng cát chảy đưa tôi đến một thế giới khác mà từ đó tôi sẽ không bao giờ trở về được nữa. Tôi ngồi nơi sofa cho đến sáng, vừa uống brandy vừa nghĩ về câu chuyện của Kano Creta. Thậm chí khi trời đã sáng, cái thần khí của Kano Creta cùng mùi nước hoa Christian Dior vẫn còn vương vất trong nhà như những cái bóng bị cầm tù.

5

            Cảnh quan những thành phố xa xôi

            *

            Vầng bán nguyệt vĩnh cửu

            *

            Thang đặt vào đúng chỗ

            Hầu như đúng lúc tôi thiếp đi thì điện thoại reo. Tôi cố lờ đi, nhưng dường như đọc được ý nghĩ của tôi, nó cứ bướng bỉnh reo mãi: mười lần, hai mươi lần, không chịu dừng. Cuối cùng tôi mở một mắt nhìn đồng hồ. Mới hơn 6 giờ một chút. Ngoài cửa sổ trời đã sáng bạch. Có thể là Kumiko gọi. Tôi ra khỏi giường, ra phòng khách, nhấc ống nghe.

            - Alô, - tôi nói, nhưng người gọi chẳng thưa. Rõ ràng là có ai đó ở đầu dây bên kia, nhưng người đó chẳng nói gì. Tôi cũng im lặng. Tập trung hết sức, tôi mới nhận ra được tiếng thở trong ống nghe.

            - Ai đấy? - tôi hỏi, nhưng đầu bên kia vẫn im lặng.

            - Nếu là người suốt ngày vẫn gọi cho tôi thì làm ơn gọi lại sau nhé, - tôi nói. - Trước bữa điểm tâm thì xin đừng nói chuyện về sex.

            - Người suốt ngày gọi? - bỗng giọng Kasahara May bật ra. - Hay nhỉ, anh nói chuyện về sex với ai đấy?

            - Chả ai cả, - tôi đáp.

            - Có phải người đàn bà anh ôm trong tay hồi đêm qua không? Anh hay nói chuyện về sex qua điện thoại với cô ta à?

            - Không, không phải cô ấy đâu.

            - Này Chim vặn dây cót, nói em nghe đi, có bao nhiêu đàn bà lượn lờ quanh anh nào, ngoài vợ anh ra?

            - Nói ra thì dài lắm, - tôi nói. - Dù gì thì cũng chỉ mới 6 giờ sáng, anh chưa ngủ được bao nhiêu cả. Vậy là tối qua em sang nhà anh à?

            - Rồi em thấy anh với cô kia đang ôm nhau.

            - Cái ấy chẳng có nghĩa gì hết. Nói sao nhỉ? Kiểu như một nghi thức nho nhỏ mà thôi.

            - Anh không phải phân bua gì với em, - Kasahara May nói. - Em có phải vợ anh đâu. Chả liên quan gì đến em hết, nhưng cho em nói điều này: anh dính vào chuyện rắc rối rồi đấy.

            - Có thể em nói đúng, - tôi nói.

            - Em biết anh đang gặp lúc gay go. Nhưng em không khỏi nghĩ rằng ấy là anh tự chuốc vào mình. Anh chỉ gặp một vấn đề duy nhất thật sự cơ bản, thế rồi nó hút mọi phiền phức vào mình như cục nam châm ấy. Bất cứ phụ nữ nào biết suy xét một chút mà gặp anh thì chắc chạy mất dép cả.

            - Có thể em nói đúng, - tôi lại nói.

            Kasahara May im lặng một chút ở đầu dây bên kia. Đoạn cô hắng giọng rồi nói:

            - Tối qua anh đi trên ngõ phải không? Anh đứng hồi lâu phía sau nhà em như thằng ăn trộm nghiệp dư ấy... Đừng lo, em nhìn thấy anh mà.

            - Thế sao em không ra?

            - Con gái có phải bao giờ cũng cần chạy ra đâu, anh biết mà. Đôi khi cũng muốn chảnh một tí chứ, cứ mặc cho anh chàng đợi - đã muốn đợi thì cho tha hồ đợi.

            Tôi ậm ừ.

            - Nhưng em vẫn áy náy, - cô nói tiếp, - nên sau đó em mới lại vác xác đến nhà anh như con ngốc ấy.

            - Và anh đang ôm cô kia.

            - Phải, nhưng cô ấy hơi dở người phải không? Thời buổi này ai còn ăn mặc như thế. Lại còn trang với điểm nữa chứ! Cứ như tự đời nảo đời nào chui ra ấy. Cô ta phải tới bác sĩ kiểm tra cái đầu đi là vừa.

            - Đừng lo, cô ấy không dở người đâu. Mỗi người có một thị hiếu riêng.

            - Thì vâng. Thị hiếu gì chả được. Nhưng người bình thường chẳng ai lại có cái thị hiếu quái chiêu như thế cả. Cô ta - nói sao nhỉ? - như là từ trong cuốn tạp chí cũ bước thẳng ra ấy: cái gì ở cô ta cũng vậy, từ đầu đến chân.

            Tôi không trả lời.

            - Này Chim vặn dây cót, nói em nghe, anh đã ngủ với cô ta chưa?

            Tôi ngần ngừ một chút rồi nói: - Chưa.

            - Thật không?

            - Thật. Anh không quan hệ với cô ấy theo nghĩa thân xác.

            - Thế tại sao anh ôm cô ta?

            - Đôi khi phụ nữ muốn vậy, họ cần ai đó ôm họ.

            - Có thể, - Kasahara May nói, - nhưng cái ý tưởng đó có thể hơi nguy hiểm đấy.

            - Đúng vậy, - tôi nói.

            - Tên cô ta là gì?

            - Kano Creta.

            Kasahara May lại im lặng ở đầu dây bên kia.

            - Anh đùa đấy chứ? - rốt cuộc cô nói.

            - Không đùa tí nào. Còn chị cô ấy tên là Kano Malta.

            - Malta?! Đó không thể là tên thật của cô ta.

            - Ừ, không phải. Đó là tên dùng trong nghề nghiệp thôi.

            - Thế họ là ai, một cặp diễn viên hài à? Hay họ có liên hệ gì với Địa Trung Hải?

            - Đúng đấy, họ có mối liên hệ nào đó với Địa Trung Hải.

            - Cô chị có ăn mặc như người bình thường không?

            - Nói chung là có. Cô ta ăn mặc bình thường, ít nhất là bình thường hơn Creta nhiều. Trừ mỗi chuyện lúc nào cô ta cũng đội cái mũ bằng vải vinyl màu đỏ.

            - Nghe vậy là em biết cô ta cũng không hẳn bình thường đâu. Tại sao anh cứ giao du với những hạng người hơi bị chập mạch ấy nhỉ?

            - Chuyện ấy thì dài lắm. Để khi nào mọi chuyện ôn ổn một chút anh sẽ kể cho em nghe. Nhưng giờ thì không. Đầu anh đang rối tung lên đây. Mọi chuyện lại càng rối bời hơn nữa đây.

            - Thôi được, - cô nói, giọng có vẻ ngờ vực. - Mà này, vợ anh vẫn chưa về à?

            - Chưa.

            - Nghe này Chim vặn dây cót! Anh là người lớn rồi. Sao anh không vận dụng cái đầu anh một chút đi? Nếu tối qua vợ anh đổi ý mà quay về, chị ấy có thể nhìn thấy anh đang choàng tay ôm cái cô kia. Khi đó thì sao hở?

            - Ừ, cũng có khả năng đó.

            - Và nếu đúng là chị ấy gọi điện chứ không phải em mà anh lại đi nói về chuyện xếch xiếc này nọ thì chị ấy sẽ nghĩ gì?

            - Em có lý, - tôi nói.

            - Em đã nói mà, anh đang gặp rắc rối to đấy, - cô vừa nói vừa thở dài.

            - Đúng vậy, anh đang gặp rắc rối.

            - Anh thôi cái trò em nói gì cũng ừ ừ phải phải đi! Cứ như chỉ cần nhận mình sai là chuyện gì cũng giải quyết được ấy. Anh có nhận hay không thì sai vẫn là sai.

            - Ừ, đúng vậy, - tôi nói. Quả là đúng thật.

            - Thôi đủ rồi, em không chịu nổi nữa! - Kasahara May nói. - Nào, nói em nghe, đêm qua anh muốn gì? Anh đến nhà em để tìm cái gì đó phải không?

            - Ồ thôi. Đừng để ý làm gì.

            - Đừng để ý làm gì?

            - Ờ. Rốt cuộc thì... Đừng để ý làm gì.

            - Nói cách khác, cô ta cho anh ôm, thế là anh không cần em nữa.

            - Không, không phải thế. Chỉ là anh cảm thấy...

            Đến đây Kasahara May gác máy. Kasahara May, Kano Malta, Kano Creta, người đàn bà trên điện thoại, và Kumiko. Kasahara May nói đúng: mấy ngày hôm nay tôi có hơi nhiều phụ nữ quanh mình. Mỗi người đến lại mang theo một vấn đề bí hiểm của riêng mình.

            Nhưng tôi mệt quá không nghĩ gì được nữa. Tôi cần phải ngủ một chút. Ngủ xong thức dậy tôi còn có việc phải làm.

            Tôi trở lại giường ngủ thiếp đi.

            * * *

            Khi thức dậy, tôi lấy một cái ba lô trong tủ. Ba lô này chúng tôi để dành phòng khi động đất hay những tình huống khẩn cấp khác cần phải di tản. Trong ba lô có một chai nước, bánh quy, một đèn pin, một cái bật lửa. Kumiko mua cái ba lô này từ khi chúng tôi mới chuyển về nhà này, phòng trường hợp xảy ra động đất lớn. Tuy nhiên chai nước rỗng không, bánh quy ỉu xìu, pin thì chết. Rồi tôi đến cửa hàng vật dụng gần nhà mua một chiếc thang dây, loại dùng dể thoát hiểm trong trường hợp hỏa hoạn. Tôi ngẫm nghĩ xem có cần gì nữa không nhưng chẳng nghĩ ra gì khác ngoài kẹo chanh. Tôi đi một vòng khắp nhà, đóng hết cửa sổ, tắt hết đèn. Tôi đã toan khóa cửa ngoài, nhưng lại thôi. Có thể sẽ có người đến tìm tôi trong khi tôi đi vắng. Có thể Kumiko sẽ về. Vả lại, nhà này chẳng có gì đáng trộm cả. Tôi để lại một mẩu thư ngắn trên bàn bếp: “Đi vắng ít lâu. Sẽ trở về. T.”

            Tôi tự hỏi liệu Kumiko sẽ ra sao khi thấy mẩu thư này. Nàng sẽ nghĩ gì? Tôi vò nát mẩu thư rồi viết một cái khác: “Phải ra ngoài ít lâu vì có chuyện quan trọng. Sẽ về ngay. Hãy đợi. T.”

            Tôi mặc quần bằng vải bông thô, áo phông ngắn tay, khoác ba lô. Tôi bước từ hàng hiên xuống vườn. Quanh tôi là những dấu hiệu không thể nhầm lẫn của mùa hè - đích thực là mùa hè, không dè xẻn, không điều kiện. Ánh nắng trời, mùi gió, màu xanh của bầu trời, hình dáng những đám mây, tiếng ve sầu râm ran: tất cả đều thông báo rằng mùa hè thực sự đã đến. Và tôi đây, ba lô trên lưng, trèo qua bức tường cuối vườn rồi thả mình xuống ngõ.

            Hồi nhỏ có lần tôi đã bỏ nhà đi vào một sáng mùa hè đẹp trời giống như thế này. Tôi không nhớ lý do gì đã khiến tôi quyết định ra đi. Chắc do tôi giận cha mẹ. Tôi bỏ nhà ba lô khoác trên vai, trong túi là toàn bộ số tiền tôi dành dụm được. Tôi bảo mẹ rằng tôi đi dã ngoại với mấy đứa bạn và nhờ mẹ chuẩn bị sẵn bữa trưa. Ngay phía trên nhà chúng tôi có mấy ngọn đồi leo rất thích, bọn trẻ con thường leo lên đó không có người lớn trông chừng. Ra khỏi nhà, tôi lên xe buýt đi đến tận trạm dừng cuối. Với tôi, đó là một thị trấn lạ lẫm, xa xôi. Ở đó tôi chuyển sang xe buýt khác và lại đi đến một thị trấn lạ lẫm và xa xôi khác - còn xa xôi hơn nữa. Thậm chí tôi chẳng biết chỗ đó tên gì, cứ thế xuống xe buýt rồi tha thẩn qua các phố. Thị trấn này chẳng có gì đặc biệt, náo nhiệt hơn khu tôi ở một chút nhưng cũng nhếch nhác hơn một chút. Nó có một con phố hai bên là quán xá, một ga xe lửa, dăm nhà máy nhỏ. Có một dòng suối chảy ngang qua thị trấn, đối diện dòng suối là một rạp chiếu phim. Bảng bên ngoài thông báo đang chiếu một bộ phim phương Tây. Đến trưa tôi ngồi trên ghế đá công viên, giở cơm trưa ra ăn. Tôi nán lại thị trấn đó đến chiều, nhưng khi mặt trời bắt đầu xế, tôi đâm ra ngã lòng. Đây là cơ hội cuối cùng để mày trở về, tôi tự nhủ. Khi trời đã tối hẳn, mày sẽ không bao giờ đi khỏi chỗ này được đâu. Tôi về nhà cũng trên mấy chiếc xe buýt đã đưa tôi đến đó. Tôi về tới lúc 7 giờ tối, không ai nhận ra tôi đã bỏ nhà ra đi. Cha mẹ tôi hẳn cho rằng tôi đã ở suốt trên đồi với bọn trẻ khác.

            Chuyện đó tôi đã quên hẳn rồi. Nhưng ngay lúc trèo qua bức tường sau vườn, lưng khoác ba lô, cảm giác đó liền trở lại với tôi - nỗi cô đơn khôn tả xiết khi ta đứng một mình giữa những phố phường xa lạ, những con người xa lạ, những ngôi nhà xa lạ, ngắm mặt trời chiều mất dần ánh sáng, từng tí một. Rồi tôi nghĩ đến Kumiko: Kumiko, nàng đã biến mất nơi nào đó, chỉ mang theo chiếc túi đeo vai duy nhất, thêm chiếc áo khoác và váy lấy ở hiệu giặt. Nàng đã bỏ lỡ cơ hội cuối cùng để quay về. Giờ đây có lẽ nàng đang đứng một mình ở thị trấn lạ lẫm xa xôi nào đó. Nghĩ về nàng như vậy tôi thật khó mà chịu nổi.

            Nhưng không, nàng không thể chỉ một mình được. Nàng phải ở bên một người đàn ông. Chỉ có cách đó thì chuyện này mới có ý nghĩa.

            Tôi không nghĩ tới Kumiko nữa.

            * * *

            Tôi đi dọc theo con ngõ.

            Cỏ dưới chân đã mất màu xanh sống động như đang thở phập phồng khi còn đón những cơn mưa xuân, giờ đây nó có cái vẻ xin xỉn điển hình của cỏ mùa hè. Giữa những lá cỏ kia thi thoảng một con cào cào xanh nhảy tanh tách đây đó khi tôi đi ngang qua. Đôi lúc thậm chí một con ếch cũng nhảy ra. Con ngõ đã biến thành thế giới của các sinh vật nhỏ đó, còn tôi chẳng qua là kẻ ngoài đột nhập vào quấy nhiễu cái trật tự hiện hành.

            Đến căn nhà bỏ không của nhà Miyawaki, tôi mở cổng rồi cương quyết bước vào. Tôi giẫm qua đám cỏ cao tiến về phía giữa sân, ngang qua con chim đá nhem nhuốc vẫn đang nhìn đăm đắm lên trời, đi vòng qua bên hông nhà, bụng thầm mong Kasahara May không nhìn thấy tôi vào đây.

            Việc đầu tiên tôi làm khi đến chỗ cái giếng là dẹp những tảng đá dằn nắp giếng, sau đó giở một trong hai nửa nắp giếng bằng gỗ hình bán nguyệt ra. Để kiểm tra xem có phải dưới đáy vẫn không có nước hay không, tôi ném một hòn sỏi xuống như lần trước. Và cũng như lần trước, hòn sỏi chạm đáy phát ra một tiếng đùng đục. Không có nước. Tôi đặt ba lô xuống, lấy thang dây ra, buộc một đầu vào thân cây bên cạnh. Tôi siết chặt hết sức để đảm bảo rằng nó sẽ giữ chắc. Gì chứ chuyện này thì cẩn thận mấy cũng không thừa. Nếu chẳng may thang dây bị lỏng hay tuột ra thì có khi tôi sẽ không bao giờ leo lên được nữa.

            Ôm đống thừng trong tay, tôi bắt đầu thả thang xuống giếng. Toàn bộ cuộn dây đã đưa vào trong giếng rồi mà tôi vẫn không cảm thấy nó chạm đáy. Không thể có chuyện thang quá ngắn được, tôi đã mua thứ thang dài nhất người ta có kia mà. Nhưng cái giếng này sâu thật. Tôi rọi đèn pin thẳng xuống mà vẫn không thấy thang đã chạm đáy chưa. Ánh đèn pin chỉ xuyên xuống đến độ sâu nào đó rồi cũng bị bóng tối nuốt chửng.

            Tôi ngồi trên thành giếng, lắng nghe. Vài con ve sầu kêu ran ran trên cây như thể thi nhau xem con nào có tiếng to nhất hay dung tích phổi lớn nhất. Tuy nhiên chẳng nghe thấy tiếng con chim nào. Tôi nhớ lại con Chim vặn dây cót một cách trìu mến. Có lẽ nó không thích ganh đua với lũ ve sầu nên đã bay tránh đi chỗ khác.

            Tôi lật lòng bàn tay lên về phía ánh nắng. Chỉ trong khoảnh khắc bàn tay tôi đã thấy ấm lên, như thể ánh sáng đã xuyên suốt vào da, ngấm vào tận từng đường vân tay tôi. Nơi đây ánh sáng ngự trị trên tất cả. Tắm mình trong ánh sáng, vạn vật bừng lên sắc màu rực rỡ của mùa hè. Ngay những sự vật vô hình như thời gian hay ký ức cũng được hưởng ân sủng của ánh sáng mùa hè. Tôi ném tọt một viên kẹo chanh vào mồm rồi vẫn ngồi đó cho tới khi kẹo tan hết. Rồi tôi giật mạnh cái thang lần nữa để xem nó đã buộc thật chắc chưa.

            Leo thang dây xuống giếng là việc khó hơn tôi tưởng nhiều. Thang được bện bằng sợi bông và sợi nylon nên rất chắc, song khi tôi đặt chân lên thì nó lại tròng trành không vững. Đôi giày tennis của tôi có đế cao su, mỗi khi tôi thử chuyển sức nặng thân mình từ chân này sang chân kia là đế giày cứ muốn trượt ra. Hai tay tôi phải bấu chặt dây thừng đến nỗi lòng bàn tay bắt đầu đau. Tôi xuống thật chậm, thật cẩn thận, từng nấc một. Nhưng xuống sâu lắm rồi mà vẫn không thấy đáy. Chừng như tôi sẽ phải xuống thế này mãi không bao giờ dứt. Tôi tự nhắc mình nhớ lại tiếng hòn sỏi chạm đáy giếng. Giếng này phải có đáy chứ! Vấn đề là ở cái thang khỉ gió này, dùng nó để leo xuống mất nhiều thời gian quá.

            Đếm được hai mươi nấc thì một nỗi kinh sợ xâm chiếm lấy tôi. Nó ập đến đột ngột, như cơn sốc điện, làm tôi chết cứng tại chỗ. Cơ bắp tôi hóa đá. Từng lỗ chân lông trên người tôi túa mồ hôi, chân tôi run lên. Làm gì có cái giếng nào lại sâu đến như vậy. Ngay giữa lòng Tokyo kia mà! Nó ở ngay sau cái nhà tôi ở. Tôi nín thở lắng tai, nhưng chẳng nghe thấy gì. Tiếng tim tôi đập thình thịch dội lại trong tai tôi to đến nỗi thậm chí không còn nghe thấy tiếng ve sầu ran ran ở trên kia. Tôi hít một hơi thật sâu. Tôi cứ ở nguyên đó, trên nấc thang thứ hai mươi, chẳng biết nên xuống nữa hay leo trở lên. Không khí dưới giếng mát lạnh, sực mùi đất. Dưới đây là một thế giới riêng biệt, bị cắt lìa khỏi mặt đất trên kia, nơi ánh mặt trời soi chiếu một cách hào phóng đến nhường nào. Tôi nhìn lên miệng giếng trên đầu, giờ đây chỉ còn là một mảnh bé xíu. Miệng giếng tròn vành vạnh được chia đúng thành hai nửa bằng nhau bởi phân nửa nắp giếng mà tôi đã giở ra. Từ dưới nhìn lên, nó trông như vầng bán nguyệt trôi trên nền trời đêm. “Một vầng bán nguyệt sẽ kéo dài trong vòng hai ngày”, Kano Malta đã nói vậy. Cô đã tiên đoán như vậy qua điện thoại.

            Giỏi lắm. Và khi ý nghĩ đó thoáng qua đầu tôi, tôi cảm thấy phần nào sức lực rời bỏ mình. Cơ bắp tôi chùng xuống, khối hơi thở chắc nịch trong tôi như thoát cả ra ngoài.

            Vận chút sức lực cuối cùng, tôi lại bắt đầu leo xuống. Chỉ thêm chút nữa thôi. Một chút nữa thôi. Đừng lo, thế nào cũng có đáy mà. Và đến nấc thang thứ hai mươi ba, tôi chạm đáy. Chân tôi tiếp xúc với nền đất nơi đáy giếng.

            * * *

            Việc đầu tiên tôi làm trong bóng tối là lấy mũi giày dò dẫm bề mặt đáy giếng quanh mình, tay vẫn bám lấy thang, phòng khi có cái gì đó mà tôi cần phải tránh xa. Sau khi đã yên tâm rằng không có nước và không có vật gì khả nghi, tôi mới bước xuống nền đất. Tôi hạ ba lô xuống, mở khóa kéo lấy đèn pin ra. Ánh đèn pin cho tôi nhìn rõ lần đầu tiên quang cảnh nơi đáy giếng. Nền đất không quá rắn cũng không quá mềm. Và may thay, đất khô ráo. Rải rác đây đó vài hòn đá, hẳn do người ta thả xuống. Vật duy nhất rơi xuống đáy giếng là một vỏ bao khoai tây chiên. Đáy giếng được soi bằng ánh đèn pin làm tôi nhớ tới bề mặt Mặt trăng mà tôi đã xem trên truyền hình từ lâu lắm rồi.

            Vách giếng hình trụ bằng bê tông phẳng phiu, trơn nhẵn, gần như chỗ nào cũng giống chỗ nào, trừ đây đó có vài ba cụm giống như rêu. Vách giếng đâm thằng lên trời như ống khói, với lỗ thoát là khoảng sáng hình bán nguyệt mãi trên kia. Nhìn thẳng lên, giờ tôi mới hình dung được giếng sâu đến cỡ nào. Tôi lại kéo mạnh chiếc thang dây. Trong tay tôi, nó vẫn chắc chắn, cho tôi cảm giác yên lòng. Chừng nào nó còn ở nguyên đó, tôi sẽ có thể leo lên mặt đất bất cứ lúc nào tôi muốn. Sau đó tôi hít một hơi dài. Ngoại trừ chút mùi rêu, nhìn chung không khí khá ổn. Cái tôi lo nhất là không khí. Không khí dưới đáy giếng thường bị tù hãm, giếng khô lại hay có khí độc từ trong đất thoát ra. Đã lâu rồi tôi có đọc bài báo nói về một người đào giếng hít phải khí mêtan dưới đáy giếng mà mất mạng.

            Hít một hơi dài, tôi ngồi trên nền giếng, lưng tựa vào vách giếng. Tôi nhắm mắt lại, để cho thân thể mình quen dần với nơi này. Thế đấy, tôi nghĩ, giờ thì tôi ở dưới đáy giếng rồi.

6

            Thừa kế tài sản

            *

            Vấn hỏi về loài sứa

            *

            Cái gì đó như là cảm giác xa cách

            Tôi ngồi trong bóng tối. Mãi xa phía trên kia, vầng sáng hình bán nguyệt trôi trên miệng giếng như dấu hiệu của một cái gì đó. Thế nhưng không chút ánh sáng nào trên kia lọt xuống được đáy giếng này.

            Sau một thời gian, mắt tôi quen dần với bóng tối. Chẳng mấy chốc tôi đã có thể nhận ra hình dáng bàn tay mình nếu đưa lên gần mặt. Những vật khác quanh tôi bắt đầu lờ mờ hiện ra, rất từ từ, như những con vật nhỏ buông lỏng dần cảnh giác, từng tí từng tí một. Tuy nhiên, dù mắt đã quen đi nữa, bóng tối không bao giờ thôi là bóng tối. Mỗi khi tôi tập trung cố nhìn rõ vật gì thì hình dáng của nó lại mờ đi, im lìm hòa lẫn vào bóng tối. Hẳn có thể gọi đây là “bóng tối nhạt”, nhưng dù “nhạt” đi nữa, nó vẫn có sự dày đặc riêng của nó, sự dày đặc mà trong một số trường hợp còn hàm chứa một bóng tối nhiều ý nghĩa hơn cả bóng tối như mực. Trong thứ bóng tối này ta có thể thấy cái gì đó. Nhưng đồng thời ta cũng hoàn toàn chẳng thấy gì.

            Trong cái bóng tối đầy ẩn nghĩa đến kỳ lạ đó, ký ức tôi bỗng trỗi dậy với một sức mạnh chưa từng có. Những hình ảnh rời rạc mà ký ức khơi dậy trong tôi sinh động lạ lùng, rõ rệt đến từng chi tiết nhỏ, chừng như tôi có thể nắm bắt được trong tay. Tôi nhắm mắt, hồi tưởng lại lần đầu tiên gặp Kumiko tám năm về trước.

            * * *

            Chuyện xảy ra trong phòng đợi dành cho người nhà bệnh nhân tại bệnh viện trường đại học ở Kanda. Dạo đó gần như ngày nào tôi cũng phải tới bệnh viện gặp một khách hàng giàu có đặng lo chuyện thừa kế tài sản cho ông ta. Kumiko thì đến bệnh viện mỗi ngày giữa hai buổi học để chăm sóc mẹ đang điều trị loét tá tràng. Nàng hay mặc quần bò hay quần soóc, áo len chui cổ, tóc buộc đuôi ngựa. Có khi nàng mặc áo khoác có khi không tùy thời tiết đầu tháng Mười một. Nàng mang túi đeo vai trong đó luôn có vài cuốn sách trông như là giáo trình đại học, ngoài ra còn thêm vài cuốn mẫu vẽ.

            Ngay chiều hôm đầu tiên tôi đến bệnh viện, Kumiko đang ngồi trên ghế sofa, bắt tréo đôi chân mang giày đen gót thấp, say sưa đọc sách. Tôi ngồi đối diện nàng, cứ năm phút lại xem đồng hồ để đợi đến giờ phỏng vấn ông khách hàng - ông ta đi khỏi trước đó một tiếng rưỡi đồng hồ vì lý do gì tôi không rõ. Kumiko không hề rời mắt khỏi sách. Nàng có đôi chân rất đẹp. Nhìn nàng, tâm trạng tôi mới phấn chấn lên được ít nhiều. Bỗng dưng tôi tự hỏi nếu là người có khuôn mặt đẹp (hay ít nhất là cực kỳ thông minh) và đôi chân tuyệt mỹ thế kia thì mình sẽ thấy thế nào nhỉ?

            Sau khi gặp nhau vài lần trong phòng đợi, tôi và Kumiko bắt đầu chuyện gẫu với nhau - cho nhau mượn những cuốn tạp chí đã đọc xong hoặc cùng ăn chỗ hoa quả trong túi quà ai đó đem tới biếu mẹ nàng. Dù gì thì ở đó chúng tôi thấy chán kinh khủng nên cần có người trạc tuổi mình để nói chuyện.

            Ngay từ đầu tôi và Kumiko đã tìm thấy một cái gì đó ở nhau. Đó không phải là loại cảm xúc mạnh mẽ, bản năng khiến hai con người như bị sốc điện ngay từ lần đầu gặp gỡ, mà là một cái gì thầm lặng hơn, êm ả hơn, như hai tia sáng nhỏ nhoi cùng trôi trong bóng tối mênh mông, ngày một tiến lại gần nhau mà chính mình không biết. Càng hay gặp nhau, tôi càng cảm thấy không phải mình vừa làm quen với một người lạ mà mới tình cờ gặp lại một người bạn thân.

            Chẳng bao lâu tôi không còn thỏa mãn với những cuộc chuyện trò ngắn ngủi với Kumiko trong bệnh viện xen giữa việc này việc khác. Tôi vẫn mong có dịp gặp nàng ở nơi khác để có thể trò chuyện thoải mái với nàng. Cuối cùng, một ngày kia tôi quyết định hẹn gặp nàng.

            - Anh nghĩ em và anh cần thay đổi không khí một chút, - tôi nói. - Ta hãy ra khỏi đây, đến chỗ nào không có bệnh nhân hay khách hàng gì hết ấy.

            Kumiko nghĩ một chút rồi đề nghị:

            - Đến công viên thủy sinh nhé?

            Thế là công viên thủy sinh trở thành nơi hẹn hò đầu tiên của chúng tôi. Sáng hôm đó Kumiko mang quần áo đến bệnh viện cho mẹ thay và gặp tôi ở phòng đợi của bệnh viện. Hôm đó trời quang, ấm áp, Kumiko mặc áo váy đơn sơ màu trắng, áo khoác len đan màu xanh dương nhạt. Ngay từ hồi đó tôi đã luôn kinh ngạc thấy nàng sành ăn mặc đến nhường nào. Ngay cả khi mặc cái quần, cái áo đơn giản nhất, nàng chỉ cần xắn tay áo hay bẻ cổ áo lên là đủ để biến nó thành một cái gì đó thật khác thường, ngoạn mục. Đó là một thứ tài khéo mà nàng có. Tôi thấy nàng chăm chút cho quần áo của mình với nỗi trìu mến gần như là tình yêu. Mỗi khi ở bên nàng, mỗi khi đi cạnh nàng, tôi luôn ngắm nàng đầy thán phục. Áo cánh của nàng không khi nào có một nếp nhăn. Các đường gấp trên quần áo nàng ngay tăm tắp không chê vào đâu được. Cái gì màu trắng nàng mặc trông cũng như mới tinh. Giày của nàng chẳng bao giờ mòn vẹt hay lấm bẩn. Nhìn những gì nàng mặc, tôi có thể hình dung những áo cánh, áo len của nàng gấp cẩn thận, xếp ngay hàng trong tủ hay ngăn kéo, những chiếc váy và áo dài của nàng bọc nylon treo trong tủ (sau này khi đã lấy nhau, tôi sẽ tận mắt thấy là đúng như vậy).

            Buổi chiều đầu tiên bên nhau, hai chúng tôi đến công viên thủy sinh ở Vườn thú Ueno. Hôm ấy trời thật đẹp. Tôi thì cho rằng tản bộ loanh quanh vườn thú thích hơn nhiều, nên bèn gợi ý như vậy với Kumiko trong khi đi xe điện đến Ueno, nhưng rõ ràng nàng đã nhất quyết đến công viên thủy sinh. Nếu nàng đã muốn vậy thì chẳng sao, với tôi thế nào cũng được. Ở công viên thủy sinh có một chỗ đặc biệt chuyên trưng bày sứa, hai chúng tôi đi từ đầu đến cuối khu ấy để ngắm các loài sứa quý hiếm từ khắp nơi trên thế giới tề tựu về. Chúng vừa bơi vừa lắc lư trong bể, từ con bé tí như túm bông cỡ đầu ngón tay đến những gã khổng lồ đường kính xấp xỉ một mét. Tuy là Chủ nhật nhưng khu công viên thủy sinh không đông người lắm. Có khi hơi thưa thớt là khác. Vào một hôm đẹp trời như vậy, người ta thích xem voi và hươu cao cổ hơn là xem sứa.

            Tôi không nói gì với Kumiko, nhưng thật ra tôi ghét cay ghét đắng cái giống sứa. Hồi nhỏ đi bơi ngoài biển tôi bị sứa cắn luôn. Có lần bơi một mình ra hơi xa, tôi lạc vào giữa cả một đàn sứa. Khi tôi nhận ra thì đã muộn, bị sứa vây quanh tứ bề. Suốt đời tôi sẽ không bao giờ quên cái cảm giác nhơn nhớt, lành lạnh khi lũ sứa chạm vào tôi. Giữa cái mê cung toàn là sứa ấy, một nỗi kinh hoàng khủng khiếp tràn ngập trong tôi, như thể tôi đã bị lôi tuột vào một vực thẳm đen ngòm không đáy. Chẳng hiểu sao tôi không bị cắn, nhưng vì hãi quá tôi đã uống no nê một bụng nước biển. Chính vì vậy tôi chỉ mong sao đi qua khu trưng bày sứa càng nhanh càng tốt, thà đi xem mấy loài cá bình thường như cá hồi hay cá bơn còn hơn.

            Nhưng Kumiko thì lại mê lắm. Đến bể nào nàng cũng dừng lại, tựa vào tay vịn, đứng ngây ra như bị thôi miên, chẳng còn biết thời gian là gì nữa. - Nhìn xem, - nàng nói. - Em chả bao giờ ngờ trên đời lại có giống sứa hồng đẹp tuyệt đến thế. Xem nó bơi đẹp chưa kìa! Chúng cứ lắc lư như thế mà chu du khắp các đại dương trên thế giới kia đấy. Chúng thật là tuyệt phải không?

            - Ừ, tuyệt, - tôi nói. Nhưng càng bắt mình ra điều nghiên lũ sứa cùng với Kumiko, càng lúc tôi càng thấy tức ngực. Tự lúc nào chẳng biết tôi không trả lời nàng nữa, chỉ chăm chú đếm tiền trong túi hoặc lau mép bằng khăn tay. Tôi cứ cầu trời sao cho chóng đến bể sứa cuối cùng, nhưng mãi không thấy hết. Trên các đại dương của trái đất này có cơ man nào là loài sứa cơ mà. Tôi cố chịu được chừng nửa tiếng, nhưng rồi cơn căng thẳng khiến đầu tôi như vữa ra. Cuối cùng, đứng tựa vào tay vịn cũng không nổi nữa, tôi đành phải rời Kumiko mà đổ vật xuống một ghế dài gần đó. Nàng đến cạnh tôi, vẻ rất lo lắng hỏi xem tôi có bị ốm không. Tôi thành thực trả lời rằng nhìn lũ sứa mãi tôi bị chóng mặt.

            Nàng nhìn đăm đăm vào mắt tôi với vẻ mặt nghiêm trang.

            - Đúng vậy thật, - nàng nói. - Nhìn mắt anh em hiểu. Mắt anh lơ láo thất thần thế nào ấy. Nghĩ cũng lạ, chỉ vì nhìn sứa không thôi mà ra vậy. - Kumiko nắm tay tôi dẫn tôi rời khỏi khu trưng bày thủy sinh tối tăm, ẩm ướt để ra ngoài nắng.

            Ngồi ở công viên gần đó trong mười phút, hít thở chậm, dần dần tôi mới lấy lại được trạng thái tâm lý bình thường. Mặt trời mùa thu tuôn ánh sáng dịu dàng xuống khắp nơi, lá cây ngân hạnh khô đến tận gân khẽ rung rung khi gió nhẹ thổi.

            - Anh đỡ chưa? - vài phút sau Kumiko hỏi. - Anh lạ thật đấy. Nếu anh ghét sứa đến vậy thì phải nói ngay từ đầu chứ, ai lại đợi tới khi nó làm mình phát ốm thế này?

            Bầu trời cao vòi vọi, không mây, gió thổi dễ chịu, thiên hạ thong dong tận hưởng ngày Chủ nhật trong công viên nom thật hạnh phúc. Một cô gái mảnh dẻ, xinh xắn dắt con chó lớn lông dài. Một ông lớn tuổi đợi mũ phớt không rời mắt khỏi đứa cháu gái đang chơi bập bênh. Vài cặp ngồi trên ghế dài cũng như chúng tôi. Đằng xa có người đang tập chạy nốt kèn saxophone.

            - Sao em thích sứa quá vậy? - tôi hỏi.

            - Em chả biết nữa. Chắc là vì chúng dễ thương, - nàng nói. - Nhưng khi nhìn kỹ chúng, em bỗng nảy ra ý nghĩ này. Cái mà ta thường thấy trước mắt mình chỉ là một phần nhỏ nhoi của thế giới mà thôi. Ta vẫn quen nghĩ: Thế giới của ta là thế này đây, nhưng hoàn toàn không phải vậy. Thế giới thực nằm ở một nơi tối và sâu hơn thế giới này nhiều, ở đó gần như toàn là bọn sứa hay những loài tương tự thôi. Chỉ là chúng ta quên mất điều đó. Anh có đồng ý không? Hai phần ba bề mặt trái đất là đại dương, bằng mắt trần ta chỉ thấy mỗi bề mặt trên cùng, mỗi lớp da mà thôi. Chúng ta hầu như chẳng biết gì về những cái nằm bên dưới lớp da ấy.

            Sau đó chúng tôi đi dạo hồi lâu. Đến 5 giờ chiều, Kumiko báo nàng phải quay lại bệnh viện, thế là tôi đưa nàng về đó. “Cám ơn anh, hôm nay rất vui,” nàng nói khi chia tay. Trong nụ cười của nàng có một ánh sáng dịu dàng thầm lặng trước đây không có. Nhìn thấy ánh sáng ấy, tôi hiểu ngày hôm đó mình đã nhích gần nàng được hơn một chút, chuyện đó nhất định là nhờ lũ sứa.

            * * *

            Kumiko và tôi tiếp tục hẹn hò nhau. Mẹ nàng đã được xuất viện, tôi cũng không phải đến bệnh viện lo thủ tục di chúc cho khách hàng nữa, nhưng tuần nào chúng tôi cũng gặp nhau một lần, đi xem phim, nghe hòa nhạc hay đi dạo. Càng gặp chúng tôi càng gần gũi nhau hơn. Tôi rất thích được ở bên nàng, và mỗi khi chúng tôi tình cờ chạm nhau, tôi nghe ngực mình đánh trống. Càng sắp đến kỳ nghỉ cuối tuần tôi càng khó tập trung làm việc. Tôi tin chắc rằng nàng cũng như tôi. Nếu không nàng đã chẳng cuối tuần nào cũng gặp tôi.

            Dẫu vậy tôi không vội vàng tiến xa hơn trong quan hệ với Kumiko. Tôi cảm thấy có gì đó không chắc chắn ở nàng. Chính xác là gì thì tôi không biết, nhưng thi thoảng nó lại thoáng hiện ra trong lời lẽ hay hành vi của nàng. Tôi hỏi nàng gì đó thì cách khoảng một hơi thở sau nàng mới trả lời - chỉ một thoáng do dự thôi, nhưng trong cái khoảnh khắc chưa đầy một giây kia tôi đã nhận thấy có một bóng đen nào đó.

            Mùa đông đến, rồi thì năm mới. Chúng tôi vẫn gặp nhau mỗi cuối tuần. Tôi chẳng bao giờ hỏi nàng về điều đó, nàng cũng không bao giờ nói. Chúng tôi chỉ gặp nhau, đi đâu đó, đi ăn, nói toàn những chuyện bình thường vô hại.

            Một hôm tôi đánh bạo nói:

            - Chắc em phải có bạn trai chứ phải không?

            Kumiko nhìn tôi một chút rồi hỏi:

            - Sao anh nghĩ vậy?

            - Chỉ là linh cảm thôi, - tôi nói. Lúc đó chúng tôi đang đi qua Vườn thượng uyển Shinjuku vắng vẻ giữa mùa đông.

            - Linh cảm gì kia?

            - Anh không biết. Anh có cảm tưởng em có gì đó muốn nói với anh. Nếu nói được thì em nên nói.

            Trên mặt Kumiko thoáng một chút dao động, gần như không thấy được. Có thể có một khoảnh khắc phân vân nào đó, thế nhưng kết luận của nàng thì ngay từ đầu đã rõ ràng.

            - Cám ơn anh đã hỏi, - nàng nói. - Nhưng em không có chuyện gì đặc biệt định nói với anh đâu.

            - Em vẫn chưa trả lời câu hỏi của anh.

            - Về chuyện em có bạn trai không ấy à?

            - Ờ.

            Kumiko dừng lại. Đoạn nàng tháo găng tay cho vào túi áo khoác. Rồi nàng nắm lấy bàn tay để trần của tôi. Khi nắm chặt tay nàng để đáp lại, tôi cảm thấy như hơi thở nàng trở nên nhỏ hơn, trắng hơn.

            - Ta về nhà anh bây giờ được không? - nàng hỏi.

            - Được chứ, - tôi đáp, hơi lúng túng. - Chỉ có điều chỗ anh ở không được đàng hoàng lắm đâu.

            Lúc đó tôi đang sống ở khu Asagaya trong một căn hộ một buồng, có gian bếp nhỏ tí, phòng vệ sinh và phòng tắm cỡ bằng cái buồng điện thoại công cộng. Nó nằm trên tầng hai, quay về hướng Nam, nhìn xuống sân kho một công ty xây dựng. Căn hộ được mỗi cái ấy thôi - nhờ quay về hướng Nam nên nhiều nắng. Kumiko và tôi ngồi bên nhau hồi lâu trong dòng nắng đó, lưng tựa vào tường.

            Hôm đó tôi làm tình lần đầu tiên với Kumiko. Chính nàng muốn vậy, điều đó tôi tin chắc. Theo nghĩa nào đó thì chính nàng đã quyến rũ tôi. Không phải nàng đã nói hay làm gì đó lộ ra là muốn quyến rũ. Nhưng khi vòng tay ôm thân thể trần truồng của nàng, tôi biết chắc nàng đã có ý muốn việc này xảy ra. Tấm thân nàng mềm mại, không hề kháng cự.

            Đó là lần đầu tiên Kumiko biết đến chuyện ái ân. Sau đó nàng không nói gì một hồi lâu. Mấy lần tôi cố bắt chuyện với nàng, nhưng nàng không trả lời. Nàng đi tắm, mặc quần áo rồi lại ngồi dưới nắng. Tôi chẳng biết nói gì. Tôi chỉ đến ngồi bên nàng trong vạt nắng mà im lặng. Ánh nắng chuyển dịch dần, chúng tôi cũng xê dịch dọc bờ tường. Khi trời sẩm tối, Kumiko nói nàng phải về. Tôi tiễn nàng về nhà.

            - Em chắc là không có điều gì muốn nói với anh chứ? - tôi lại hỏi nàng khi ở trên xe điện.

            Nàng lắc đầu.

            - Không cần bận tâm đâu, - nàng nói thật khẽ.

            Tôi không bao giờ nhắc chuyện đó nữa. Kumiko đã tự mình lựa chọn ngủ với tôi, vậy nếu quả thật nàng giữ trong lòng chuyện gì đó không thể kể với tôi, hẳn chuyện đó sẽ có thể giải quyết được theo thời gian.

            Sau đó chúng tôi vẫn gặp nhau mỗi cuối tuần, từ nay trở đi thường có thêm mục về căn hộ của tôi để làm tình. Trong khi chúng tôi nằm ôm ấp sờ soạng nhau, nàng bắt đầu kể về mình mỗi ngày thêm một chút, về những gì nàng đã trải qua, về những ý nghĩ và cảm xúc mà những điều đó mang lại cho nàng. Và tôi bắt đầu hiểu cách nàng nhìn nhận về thế giới. Tôi bỗng thấy mình cũng có thể kể với Kumiko về cách nhìn thế giới của tôi. Tôi trở nên yêu nàng sâu đậm, nàng cũng nói nàng không bao giờ muốn xa tôi. Chúng tôi đợi đến khi nàng tốt nghiệp đại học là làm đám cưới.

            Cuộc sống vợ chồng của chúng tôi hạnh phúc, không có vấn đề gì đáng nói. Thế nhưng vẫn có những lúc tôi không khỏi cảm thấy bên trong Kumiko có một vùng nào đó tôi không được phép vào. Ngay giữa chừng cuộc đối thoại bình thường nhất hay thậm chí sôi nổi nhất, hoàn toàn không có dấu hiệu nhỏ nào báo trước, đột nhiên Kumiko chìm vào im lặng. Việc đó có thể xảy ra hoàn toàn bất ngờ, chẳng có nguyên nhân gì cả (hay ít nhất là không có nguyên nhân nào mà tôi có thể đoán ra). Nó giống như đang đi trên đường thì bất thình lình sụp hố vậy. Sự im lặng của nàng không bao giờ kéo dài quá lâu, nhưng mãi một lúc sau đó nàng có vẻ như đang ở nơi nào khác.

            Lần đầu tiên đi vào trong Kumiko, tôi cảm thấy có một nỗi ngập ngừng kỳ lạ nào đó. Hẳn khi ân ái lần đầu tiên Kumiko chỉ cảm thấy đau, mà thật, toàn thân nàng cứng đờ ra vì cái đau ấy, nhưng đó không phải là lý do duy nhất của nỗi ngập ngừng mà tôi cảm thấy kia. Ở nàng còn có một cái gì đó dễ nhận ra đến lạ lùng, một cảm giác phân ly, xa cách, mặc dù tôi không biết gọi thế nào cho chính xác. Tôi không xua được cái ý nghĩ kỳ quặc rằng cái thân thể tôi đang ôm trong tay kia không phải là thân thể người đàn bà mới cách đây ít phút còn má kề tay ấp thủ thỉ tâm tình với tôi, dường như đã có sự đánh tráo mà tôi không hay biết, da thịt của kẻ nào khác đã thế vào chỗ của nàng. Mỗi khi ôm nàng, hai tay tôi không ngớt vuốt ve lưng nàng. Sự động chạm vào tấm lưng nhỏ thon trơn nhẵn của nàng có một hiệu quả gần như là thôi miên đối với tôi, thế nhưng cùng một lúc tấm lưng Kumiko dường như lại ở nơi nào xa tôi lắm. Suốt khoảng thời gian Kumiko nằm trong tay tôi, tôi có thể thề rằng Kumiko đang ở một nơi khác, nghĩ về người khác, và cái thân thể tôi ôm trong tay chỉ là một tấm thân thế chỗ tạm thời thôi. Đó hẳn là lý do vì sao mặc dù tôi lên rất mạnh nhưng phải rất lâu mới dứt điểm được.

            Tôi cảm thấy như vậy ngay từ lần đầu gần gũi với Kumiko. Sau đó, tôi cảm thấy nàng gần gũi tôi hơn nhiều, những phản ứng nhục thể của nàng nhạy bén hơn nhiều. Tôi tự thuyết phục mình rằng cái cảm giác xa cách ban đầu đó chẳng qua là bởi lần đầu tiên nàng ân ái với đàn ông.

            * * *

            Trong khi ôn lại từng ký ức, chốc chốc tôi lại chìa tay về phía cái thang dây treo sát tường mà giật mạnh để kiểm tra xem có bị lỏng không. Dường như tôi không thể nào rũ được nỗi sợ nó sẽ tuột ra bất kỳ lúc nào. Mỗi khi ý nghĩ đó hiện lên trong tôi, dưới đáy giếng kia trong bóng tối, nó lại khiến tôi bứt rứt không yên. Thậm chí tôi nghe tiếng tim mình đập thình thịch. Sau khi đã kiểm tra nhiều lần - chắc phải tới hai, ba chục lần - tôi mới bình tâm lại. Dù gì tôi cũng đã buộc thang vào gốc cây kỹ đến thế kia mà. Không dễ gì tuột ra như vậy được.

            Tôi nhìn đồng hồ. Kim đồng hồ lân tinh cho thấy chưa tới 3 giờ. Ba giờ chiều. Tôi ngước lên trên. Mảnh sáng hình bán nguyệt vẫn đang treo đó. Mặt đất đang tràn ngập nắng hè chói chang. Tôi hình dung một dòng suối lấp lánh trong ánh nắng, những chiếc lá xanh rờn rung rinh trong gió nhẹ. Ánh sáng trên kia bao trùm vạn vật, thế mà ngay bên dưới, nơi đáy giếng này, chỉ hiện hữu toàn bóng tối. Chỉ cần tụt xuống lòng đất một chút theo một chiếc thang dây là có thể tới được vùng tối thăm thẳm đến nhường này.

            Tôi lại giật chiếc thang dây lần nữa để tin chắc là nó vẫn trụ vững. Đoạn tôi tựa đầu vào vách giếng, nhắm mắt lại. Cuối cùng, giấc ngủ trùm lấy tôi như làn thủy triều chầm chậm dâng lên.

7

            Hồi ức và đối thoại về việc có thai

            *

            Tri thức thực nghiệm về cái đau

            Khi tôi thức dậy, miệng giếng hình bán nguyệt đã mang màu xanh thẫm buổi chiều tối. Kim đồng hồ chỉ 7 giờ rưỡi. Bảy giờ ba mươi tối. Nghĩa là tôi đã ngủ ở đây trong vòng bốn tiếng rưỡi đồng hồ.

            Không khí dưới đáy giếng mát lạnh. Khi tụt xuống đây tôi đã quá hồi hộp nên không còn tâm trí đâu nghĩ đến nhiệt độ không khí. Nhưng giờ thì da tôi bắt đầu phản ứng lại với khí lạnh. Tôi vừa chà xát hai cánh tay trần cho ấm vừa nghĩ lẽ ra tôi nên mang theo trong ba lô cái gì đó âm ấm để khoác ra ngoài áo phông. Tôi không hề nghĩ tới chuyện không khí dưới đáy giếng có thể khác với không khí trên mặt đất.

            Giờ thì bao quanh tôi là bóng tối hoàn toàn. Dù cố đến mấy mắt tôi cũng không nhìn thấy gì nữa. Thậm chí tôi không biết tay mình ở đâu. Tôi mò mẫm dọc vách giếng tìm cái thang dây rồi kéo mạnh. Nó vẫn buộc chắc trên mặt đất. Chuyển động của bàn tay tôi dường như làm bản thân bóng tối dịch chuyển, nhưng đó có thể chỉ là ảo giác.

            Thật lạ rằng tôi không thể nào nhìn thấy thân thể của chính mình bằng mắt mình tuy biết rõ thân thể mình đang có đó. Càng ngồi im lặng trong bóng tối, tôi càng bớt tin tưởng rằng bản thân tôi đang hiện hữu. Để cưỡng lại điều đó, chốc chốc tôi lại hắng giọng hoặc xoa tay lên mặt. Bằng cách đó tai tôi có thể kiểm chứng xem giọng tôi có hiện hữu không, tay tôi có thể kiểm chứng xem mặt tôi có hiện hữu không, còn mặt tôi có thể kiểm chứng xem tay tôi có hiện hữu không.

            Nhưng dù tôi cố gắng bao nhiêu đi nữa, thân thể tôi bắt đầu mất trọng lượng và mật độ, như cát từ từ bị nước rửa trôi vậy. Dường như bên trong tôi đang diễn ra một cuộc kéo co dữ dội và câm lặng mà trong đó ý thức tôi đang thắng thế, đang dần dần lôi thể xác tôi vào lãnh địa của nó. Cái bóng tối này đang phá vỡ thế cân bằng vốn có giữa hai thế lực kia. Tôi chợt nghĩ rằng thể xác tôi chẳng qua chỉ là một cái vỏ bọc được làm ra để ý thức tôi có thể sắp xếp các ký hiệu gọi là nhiễm sắc thể. Chỉ cần các ký hiệu kia được sắp xếp lại là tôi sẽ thấy mình nằm trong một cơ thể hoàn toàn khác. "Điếm tinh thần", Kano Creta tự gọi mình vậy. Giờ thì tôi có thể hiểu lời của cô không khó khăn gì. Vâng, chúng tôi hoàn toàn có thể làm tình trong tâm trí và xuất tinh trong thực tại. Trong bóng tối thật sự dày đặc, mọi chuyện lạ lùng đều có thể xảy ra.

            Tôi lắc đầu, cố đẩy ý thức tôi vào trở lại trong cơ thể.

            Trong bóng tối, tôi chập các ngón bàn tay này lên các ngón bàn tay kia - ngón cái chập vào ngón cái, ngón trỏ chập vào ngón trỏ. Các ngón tay phải tôi kiểm chứng sự hiện hữu của các ngón tay trái tôi, các ngón tay trái tôi kiểm chứng sự hiện hữu của các ngón tay phải tôi. Đoạn tôi từ từ hít thở sâu mấy hơi liền. Thôi, nghĩ về ý thức thế là đủ. Nghĩ về thực tại đi nào. Hãy nghĩ về thế giới thực. Thế giới của nhục thể. Chính vì thế giới đó mà tôi mới ở đây. Ở đây là để nghĩ về thực tại. Và cách tốt nhất để nghĩ về thực tại là hãy tránh xa nó, càng xa càng tốt, như chui xuống đáy giếng chẳng hạn. "Khi cần đi xuống, hãy tìm cái giếng sâu nhất mà chui xuống đáy," ông Honda đã nói vậy. Tựa lưng vào vách giếng, tôi chầm chậm hít vào phổi bầu không khí sực mùi rêu.

            * * *

            Tôi và Kumiko không làm lễ cưới. Cái chính là bởi chúng tôi không có tiền, mà xin cha mẹ thì chẳng ai muốn cả. Quyết định chung sống với nhau dù bằng cách nào đi nữa, điều đó quan trọng hơn nhiều so với tổ chức lễ này đám nọ. Chúng tôi đến phòng đăng ký hộ tịch vào một sáng sớm Chủ nhật, rung chiếc chuông nơi cửa sổ tiếp khách để dựng nhân viên trực dậy rồi nộp tờ đăng ký kết hôn. Sau đó chúng tôi đến một nhà hàng Pháp cao cấp mà bình thường ra chẳng ai trong chúng tôi có đủ hầu bao để vào, kêu một chai rượu vang và ăn một bữa tối đủ ba món. Với chúng tôi vậy là đủ.

            Lúc đó chúng tôi gần như không có tiền tiết kiệm (mẹ tôi khi qua đời có để lại cho tôi một ít tiền, nhưng tôi đã quyết định sẽ không bao giờ đụng đến trừ phi trong những trường hợp thật sự cấp bách), đồ đạc lại càng không. Triển vọng tương lai của chúng tôi cũng mù mịt. Mặc dù làm ở hãng luật nhưng tôi không có bằng luật sư nên tiền đồ chẳng có gì, còn Kumiko làm cho một nhà xuất bản bé tí chẳng ai biết tới. Giá như Kumiko muốn thì sau khi tốt nghiệp nàng đã có thể tìm được một vị trí tốt hơn nhiều nhờ các mối quan hệ của cha, nhưng nàng không thích nhờ cậy cha nên đã tự tìm việc lấy. Tuy nhiên cả hai chúng tôi chẳng có gì bất mãn. Chỉ cần sống được mà không phải nhờ vả ai là chúng tôi thấy vui rồi.

            Dẫu sao xây dựng cuộc sống từ con số không là việc chẳng dễ dàng. Là con một, tôi có thiên hướng thích cô đơn, khép kín. Mỗi khi muốn làm việc gì đó quan trọng, tôi chỉ thích làm một mình. Tôi thấy phải giải thích, thuyết minh với người khác cho họ hiểu thì mất thì giờ công sức quá, chẳng thà mình cứ lẳng lặng làm một mình còn hơn. Kumiko cũng vậy, từ khi người chị qua đời, nàng đóng chặt cõi lòng đối với gia đình, cứ thế lớn lên như thể nàng chỉ có một mình. Dù có chuyện gì nàng cũng chẳng bao giờ đến gặp gia đình xin một lời khuyên nhủ. Theo nghĩa đó thì tôi và nàng rất giống nhau.

            Dẫu sao, từng tí một, chúng tôi học cách đồng hóa thân thể và tâm hồn mình vào cái sinh thể vừa mới tạo lập này mà chúng tôi gọi là "tổ ấm của mình". Chúng tôi tập cách cùng nghĩ và cùng cảm về mọi sự. Những gì xảy ra với một trong hai người, chúng tôi đều cố gắng giải quyết như thể nó liên quan đến cả hai. Có khi làm vậy được, có khi không. Nhưng chúng tôi rất thích cái quá trình thử và sai đầy mới mẻ này. Và những cuộc va chạm dù có nảy lửa đi chăng nữa, chúng tôi cũng quên mất ngay khi ôm chặt lấy nhau.

            * * *

            Lấy nhau được ba năm thì Kumiko có mang. Chuyện đó chẳng khác nào sét đánh ngang tai đối với chúng tôi - ít nhất là đối với tôi - bởi chúng tôi đã dùng thuốc tránh thai cực kỳ cẩn thận. Ắt chỉ vì một khoảnh khắc bất cẩn mà ra nông nỗi: chẳng phải là chúng tôi có thể biết chính xác cái thai đã đậu vào lúc nào, nhưng không có cách giải thích nào khác. Dù thế nào đi nữa, chúng tôi cũng không đủ tiền để nuôi con. Kumiko vừa mới vững chân ở nhà xuất bản kia, nên nàng muốn giữ chỗ làm đó nếu có thể. Một công ty nhỏ như công ty nàng không có khả năng ban phát những trò xa xỉ như nghỉ thai sản. Phụ nữ làm việc ở đó mà muốn có con thì chỉ còn cách thôi việc. Nếu Kumiko làm vậy thì cả nhà chỉ còn cách trông vào đồng lương của một mình tôi ít nhất là trong một thời gian, nhưng điều đó rõ ràng là không thể.

            - Chắc mình phải bỏ đứa này thôi, - Kumiko nói với tôi bằng giọng vô cảm hôm bác sĩ thông báo cho nàng kết quả xét nghiệm.

            Có lẽ nàng có lý. Dù xét vấn đề theo cách nào đi nữa, đó vẫn là giải pháp hợp lý nhất. Chúng tôi còn quá trẻ, chưa chuẩn bị đầy đủ để làm cha mẹ. Cả Kumiko lẫn tôi đều cần thời gian cho bản thân mình. Chúng tôi phải tạo lập cuộc sống cho chính mình đã, đó là ưu tiên số một. Chúng tôi còn thiếu gì cơ hội để có con trong tương lai.

            * * *

            Thế nhưng thực ra, tôi không muốn Kumiko phá thai. Có lần, vào năm thứ hai đại học, tôi trót làm một cô gái có mang - tôi quen cô ấy khi đi làm thêm ngoài giờ. Cô là một cô bé dễ thương, kém tôi một tuổi, hai chúng tôi rất hợp nhau. Dĩ nhiên là chúng tôi thích nhau, nhưng giữa chúng tôi chẳng có gì nghiêm túc, mà cũng không thể nào có chuyện nghiêm túc được. Chúng tôi chẳng qua chỉ là hai người trẻ tuổi cô đơn cần ai đó để tựa vào.

            Lý do làm cô ta có thai thì chẳng có gì khó hiểu. Tôi luôn luôn dùng bao cao su mỗi khi quan hệ với cô ta, nhưng một hôm tôi quên mang sẵn một chiếc. Chẳng còn cái nào cả. Tôi nói thật với cô ta vậy, cô ta ngần ngừ vài giây rồi nói: "Ồ, chẳng sao, hôm nay chắc không dính đâu". Chỉ một lần ấy là đủ.

            Tôi vẫn không tin hẳn được là mình đã "làm một cô gái có mang", nhưng tôi biết rõ rằng phá thai là giải pháp duy nhất. Tôi ráng gom góp tiền rồi đi cùng cô đến bệnh viện. Chúng tôi đáp xe lửa đến một thị trấn nhỏ ở Chiba tại đó một người bạn của cô đã giới thiệu cô với bác sĩ. Chúng tôi xuống xe ở một nhà ga tôi chưa hề nghe tới và thấy hàng ngàn căn nhà bé tí, tất cả đều rập cùng một khuôn, xúm xít vào nhau mà trải dài trên các ngọn đồi thoai thoải đến tận chân trời. Đó là những khu dân cư mới xây dựng trong những năm gần đây dành cho những người trẻ tuổi làm công sở không đủ tiền mua nhà ở Tokyo. Bản thân nhà ga thì lại mới tinh, ngay trước cửa ga là những cánh đồng lúa nước bạt ngàn, rộng hơn bất cứ cánh đồng nào tôi từng thấy. San sát hai bên phố là bảng hiệu các hãng chuyên buôn bất động sản.

            Phòng đợi của bệnh viện chật cứng các bà trẻ tuổi bụng chửa vượt mặt, hầu hết trong số đó hẳn đã lấy chồng được bốn, năm năm, nhờ vay tín dụng ngân hàng mà mua được nhà ở ngoại ô, an cư rồi mới quyết định sinh con. Gã trai duy nhất ở đó là tôi. Các bà bầu nhìn tôi với vẻ tò mò không giấu giếm đồng thời chẳng tỏ ra chút thiện ý nào. Chỉ cần liếc qua ai cũng biết tỏng tôi là một thằng lỏi sinh viên chẳng may làm bạn gái có bầu, giờ phải đưa cô ả đi nạo thai.

            Sau khi giải quyết xong, tôi và cô gái đáp xe lửa về lại Tokyo. Chuyến tàu lúc chập tối về thành phố hầu như vắng ngắt. Tôi xin lỗi cô ta. Vì tôi bất cẩn mà cô phải khổ sở thế này, tôi nói.

            - Đừng cả nghĩ thế, - cô bảo. - Ít nhất thì anh cũng đã đi với em tới bệnh viện và trả tiền viện.

            Chẳng bao lâu sau đó tôi và cô ấy thôi gặp nhau, nên tôi chẳng bao giờ biết cô ấy giờ ra sao, nhưng suốt một thời gian rất dài sau vụ phá thai - thậm chí cả sau khi chúng tôi đã chia tay - tâm trạng tôi vẫn rối bời. Mỗi khi nhớ lại cái ngày đó, trong tâm trí tôi lại hiện lên hình ảnh những thiếu phụ mang thai ngồi chật cứng phòng đợi trong bệnh viện, ánh mắt đầy lo âu. Và tôi không khỏi nảy ra ý nghĩ lẽ ra mình không bao giờ nên làm cô ấy có mang.

            Trên chuyến tàu về nhà, để an ủi tôi - vâng, an ủi chính tôi -, cô gái kể tôi nghe mọi chi tiết việc đó diễn ra khá nhẹ nhàng. - Thật ra không kinh khủng như anh nghĩ đâu. Chẳng lâu lắm, mà cũng không đau. Mình chỉ việc cởi quần áo rồi nằm đó. Ừ thì cũng mắc cỡ chứ, nhưng bác sĩ dễ thương lắm, y tá cũng vậy. Dĩ nhiên là họ giảng cho một hồi, nào là từ nay trở đi phải cẩn thận hơn nữa. Thành thử anh đừng khổ sở thế. Một phần là lỗi của em mà. Em mới là người đã nói không sao đâu. Đúng không? Vui lên đi nào.

            Tuy nhiên, suốt quãng đường dài trên xe lửa đến thị trấn nhỏ ở Chiba rồi suốt quãng đường về, tôi cảm thấy mình đã trở thành một con người khác. Cả sau khi tôi đã tiễn cô gái về nhà rồi trở về phòng, nằm trên giường nhìn chong chong lên trần nhà, tôi cảm thấy sự thay đổi ấy. Tôi đã là một tôi khác, và tôi không bao giờ có thể trở lại là tôi như trước nữa. Sở dĩ thành ra vậy là vì tôi biết mình không còn trong trắng nữa. Đây không phải cái cảm nghĩ nhuốm mùi đạo đức rằng mình đã làm điều quấy, hay sự giày vò bởi ý thức về tội lỗi. Tôi biết mình đã phạm sai lầm khủng khiếp, nhưng tôi không tự trừng phạt mình vì chuyện đó. Đó là một sự kiện vật lý mà tôi phải đương đầu một cách lạnh lùng và hợp logic, nằm ngoài chuyện trừng phạt hay không trừng phạt.

            * * *

            Điều đầu tiên nảy ra trong đầu tôi khi biết Kumiko có mang là hình ảnh các thiếu phụ mang bầu ngồi chật cứng phòng đợi bệnh viện. Hay đúng hơn là cái mùi đặc biệt trong không khí ở nơi đó. Tôi không biết đó là mùi gì - nếu như quả thật đó là mùi của một cái gì. Có khi chỉ là cái gì đó giống như mùi thôi. Khi y tá gọi tên cô gái, cô chầm chậm đứng dậy khỏi chiếc ghế nhựa cứng rồi đi thẳng về phía cửa. Ngay trước khi dừng lại, cô liếc tôi, trên môi cô thoáng nụ cười - hoặc cái còn lại của nụ cười mà cô đã đổi ý thôi không nhoẻn nữa.

            Tôi biết đối với vợ chồng tôi việc có con là không thực tế, nhưng tôi cũng không muốn Kumiko phá thai. Khi tôi nói với nàng vậy, nàng trả lời:

            - Chuyện đó mình đã nói rồi mà. Nếu bây giờ có con thì em sẽ mất việc, còn anh sẽ phải tìm công việc nào lương cao để có tiền nuôi em và con. Mình sẽ không còn dư tiền cho bất cứ chuyện gì khác. Có muốn làm gì cũng chẳng được. Từ nay trở đi khả năng thực tế cho chúng mình sẽ thu hẹp đến chẳng còn gì nữa. Anh có chịu được như vậy không?

            - Được, - tôi nói. - Anh nghĩ là anh chịu được.

            - Thật á?

            - Nghĩ kỹ anh thấy anh có thể tìm việc được chứ, ông cậu anh chẳng hạn, ông ấy sẽ tìm giúp. Ông ấy đang muốn mở một chỗ mới nhưng không tìm ra người tin cẩn để quản lý. Anh tin chắc nếu làm cho ông ấy thì sẽ kiếm được khá hơn nhiều so với hiện nay. Đó không phải là công ty luật, thì đã sao? Công việc đang làm hiện giờ anh có thích lắm đâu.

            - Vậy là anh sẽ quản lý nhà hàng?

            - Anh tin nếu thử làm thì chắc là được. Với lại, trong trường hợp bức bách, anh còn ít tiền mẹ để lại kia mà. Chúng mình không chết đói đâu.

            Kumiko im lặng, trầm ngâm suy nghĩ hồi lâu, khóe mắt nheo nheo tạo thành nhiều nếp nhăn nhỏ xíu. Nàng có những cách biểu cảm nho nhỏ như vậy mà tôi rất thích.

            - Nghĩa là anh muốn có con sao? - nàng hỏi.

            - Anh không biết, - tôi đáp. - Anh biết em đang có mang, nhưng anh vẫn chưa thật sự hiểu ra rằng mình có thể sẽ làm cha. Anh cũng không thật sự biết nếu có con thì cuộc sống của chúng mình sẽ thay đổi ra sao. Em thích công việc của mình, thành thử để em phải mất việc thì hẳn là một sai lầm. Mặt khác, anh nghĩ hai chúng ta cần nhiều thời gian hơn cho nhau, nhưng anh cũng lại nghĩ có đứa con thì thế giới của chúng mình sẽ rộng mở hơn. Anh không biết đằng nào đúng. Anh chỉ cảm thấy anh không muốn em phá thai. Anh không thể bảo đảm điều gì hết. Anh không dám chắc trăm phần trăm bất cứ chuyện gì, cũng không có giải pháp nào hay ho cả. Anh chỉ có cái cảm giác như vậy thôi.

            Kumiko nghĩ một lát, chốc chốc lại xoa xoa chỗ dạ dày.

            - Này, nói em nghe, sao em lại có bầu nhỉ? Theo anh thì vì sao?

            Tôi lắc đầu.

            - Anh không biết nữa. Chúng mình lúc nào cũng cẩn thận cơ mà. Những phiền phức kiểu này thì anh luôn muốn tránh. Thành thử anh không biết thế nào lại xảy ra như vậy được.

            - Anh không nghĩ là em có thể có tình nhân à? Anh không nghĩ đến khả năng đó sao?

            - Không bao giờ.

            - Sao lại không?

            - Anh không biết. Anh không dám nói là nhờ trực giác hay gì gì, nhưng chuyện đó thì anh tin chắc.

            Chúng tôi đang ngồi ở bàn bếp, uống rượu vang. Đêm đã khuya, chung quanh yên lặng. Kumiko nheo mắt nhìn đăm đăm vào chút rượu cuối cùng còn lại nơi đáy cốc của nàng. Nàng hầu như không bao giờ uống rượu, chỉ đôi khi không ngủ được nàng mới uống một cốc. Chỉ cần một cốc là hiệu nghiệm ngay. Tôi chỉ uống với nàng cho có bạn. Chúng tôi chẳng làm gì có những món xa xỉ như cốc thứ thiệt dành riêng cho rượu vang. Chúng tôi chỉ uốn bằng những cốc nhỏ đựng bia mà cửa hàng rượu bia gần nhà biếu không.

            - Em có dan díu với người khác à? - tôi hỏi, chợt cảm thấy quan tâm đến chuyện đó.

            Kumiko mỉm cười lắc đầu.

            - Cái anh này, hỏi gì ngốc vậy. Anh biết là em không bao giờ làm những chuyện như thế mà. Em chỉ nêu chuyện đó ra như một khả năng về lý thuyết thôi. - Rồi nàng trở nên nghiêm trang, tì cùi chỏ lên bàn. - Nhưng đôi khi em cũng không biết nhiều điều... Em không biết điều gì thật, điều gì không thật... điều gì thực sự đã xảy ra, điều gì không... Chỉ đôi khi thôi...

            - Đây có phải là một trong những cái đôi khi ấy không?

            - Vâng, kiểu như thế. Anh thì có bao giờ cảm thấy như vậy không?

            Tôi nghĩ một chút.

            - Không, anh không nhớ có khi nào như thế cả, - tôi nói.

            - Nói thế nào nhỉ? Có một thứ khoảng cách nào đó giữa những gì em cho là thực với những gì quả đúng là thực. Em có cảm giác như có một cái gì đó nho nhỏ, nằm ở bên trong em... như tên trộm ở trong nhà mình, nấp trong tủ quần áo... chốc chốc nó lại xộ ra ngoài một lát làm xáo tung cái trật tự hay logic mà em đã thiết lập cho mình. Kiểu như cục nam châm làm cho cỗ máy như phát rồ lên ấy.

            - Một cái gì gì đó nho nhỏ? Một tên trộm? - tôi nói. - Em nói toàn chuyện mơ hồ quá!

            - Ờ, đúng là mơ hồ thật, - Kumiko nói rồi uống nốt chỗ rượu vang còn lại.

            Tôi nhìn nàng một lát.

            - Em cho là có mối liên hệ nào đó giữa cái gì gì đó nho nhỏ với chuyện em có mang sao?

            Nàng lắc đầu.

            - Không, em không nói là hai cái đó có liên quan hay không liên quan với nhau. Chỉ là đôi khi em không còn tin chắc lắm vào trật tự của sự vật. Em chỉ muốn nói như vậy thôi.

            Có một nét nóng nảy càng lúc càng tăng trong lời nói của nàng. Đã đến lúc chấm dứt câu chuyện này. Đã quá 1 giờ sáng rồi. Tôi vươn tay qua bàn để nắm tay nàng.

            - Anh biết đó, - Kumiko nói, - em muốn anh để em tự quyết định chuyện này. Em hiểu đây là vấn đề hệ trọng đối với cả hai chúng ta. Em hiểu vậy mà. Nhưng riêng chuyện này em muốn anh hãy để em quyết định. Em rất áy náy rằng không thể giải thích được rõ ràng những gì em đang nghĩ và đang cảm.

            - Anh nghĩ, về cơ bản thì quyền quyết định là của em, - tôi nói. - Anh tôn trọng quyền đó.

            - Chúng mình vẫn còn chừng một tháng để quyết định. Chúng mình đã bàn bạc chuyện này mãi rồi, em cũng hiểu khá rõ ý anh ra sao rồi. Giờ hãy cho em suy nghĩ. Mình tạm thời thôi nói đến chuyện này đi nhé.

            * * *

            Tôi đang ở Hokkaido thì Kumiko phá thai. Xưa nay công ty chả bao giờ cử những tay loong toong đi công tác xa, nhưng riêng lần này chẳng còn ai khác nên rốt cuộc họ phải cho tôi đi lên miền Bắc. Nhiệm vụ của tôi là giao nhận một va li đầy ắp hồ sơ, giải thích ngắn gọn với bên đối tác, nhận lại hồ sơ của họ giao rồi về ngay. Hồ sơ quá quan trọng nên công ty không thể gửi bưu điện cũng không tín nhiệm các hãng chuyển phát chuyên nghiệp được. Vì tất cả các chuyến bay về Tokyo đều kín chỗ nên tôi phải ở lại một đêm tại khác sạn dành cho doanh nhân ở Sapporo. Ngày hôm đó Kumiko đi phá thai, một mình. Nàng gọi điện đến khách sạn cho tôi sau 10 giờ đêm mà nói: "Chiều nay em đã làm thủ thuật. Em xin lỗi vì chuyện xong rồi mới gọi cho anh, nhưng người ta đã hẹn mà thời hạn gấp quá, hơn nữa em nghĩ chuyện này nếu em tự quyết định và tự lo lấy khi anh đi vắng thì sẽ tốt hơn cho cả hai người."

            - Đừng lo nghĩ làm gì, - tôi nói. - Em quyết định thế nào thì cứ thế là tốt nhất.

            - Em còn muốn kể với anh nữa, nhưng bây giờ thì không được. Lúc nào đó em sẽ phải kể với anh.

            - Anh về rồi mình sẽ nói chuyện.

            Sau cuộc gọi, tôi mắc áo khoác rồi ra ngoài lang thang khắp phố xá Sapporo. Mới đầu tháng Ba, hai bên vệ đường san sát những đống tuyết cao ngất ngưởng. Không khí lạnh cắt da, mỗi hơi thở ra đều hóa thành những đám mây trắng xóa rồi biến mất trong nháy mắt. Thiên hạ mặc áo khoác nặng trịch, đi găng, khăn choàng kéo tận cằm, cẩn thận dò từng bước một trên vỉa hè đóng băng. Những chiếc taxi dòng qua dòng lại, lốp xe có đinh chống trượt nghiến rào rạo xuống mặt đường. Khi không chịu nổi cái lạnh nữa, tôi vào một quán bar uống vài ly rồi lại ra ngoài đi bộ thêm lát nữa.

            Tôi lang thang rất lâu. Tuyết chốc chốc ào xuống rồi lại dừng, nhưng chỉ là tuyết mỏng, như một ký ức mờ dần vào khoảng xa xôi. Quán bar thứ hai tôi ghé vào nằm thấp hơn mặt đất. Trông cửa vào cứ nghĩ là quán nhỏ, nhưng vào rồi mới thấy hóa ra rộng hơn nhiều. Có một sân khấu nhỏ gần quầy bar, trên sân khấu là một tay gầy gò đeo kính đang vừa đệm ghita vừa hát. Anh ta ngồi trên một chiếc ghế bằng kim loại, bắt tréo chân, hộp đựng đàn đặt cạnh chân.

            Tôi ngồi nơi quầy bar, vừa uống vừa lơ đãng nghe nhạc. Giữa hai bài hát, người đàn ông cho biết các bài này đều là của anh ta. Anh ta khoảng gần ba mươi tuổi, gương mặt chẳng có nét gì đặc sắc, đeo kính gọng nhựa màu đen. Anh ta mặc quần jean, đi giày cao cổ buộc dây, áo sơ-mi bằng vải nỉ kẻ ô bỏ ngoài quần. Nhạc của anh ta thuộc loại nào thì khó xác định, có lẽ gọi là nhạc "dân gian" ngày xưa cũng được, tuy là một dạng nhạc dân gian của Nhật. Hợp âm đơn giản, giai điệu đơn giản, ca từ chả có gì đặc biệt. Không phải loại nhạc tôi sẵn sàng ra khỏi nhà để đi nghe.

            Nếu trong hoàn cảnh bình thường thì tôi đã chẳng chú ý đến thứ nhạc này. Chắc tôi sẽ chỉ uống bia, xong thì trả tiền rồi rời quán. Nhưng đêm đó tôi thấy lạnh thấu xương, nên chừng nào chưa ấm người lên thì tôi chẳng có ý định đi đâu hết. Tôi uống một cốc rồi lại gọi cốc nữa. Tôi không cởi áo khoác cũng chẳng cởi khăn quàng. Khi người phục vụ hỏi tôi có muốn ăn gì không, tôi gọi ít phó-mát nhưng chỉ ăn một miếng. Tôi cố suy nghĩ nhưng cái đầu tôi không nghĩ gì được. Thậm chí tôi không biết mình đang muốn nghĩ về cái gì nữa. Tôi là một căn phòng trống. Trong căn phòng đó, âm nhạc kia chỉ làm phát lên một tiếng vang khô khan, trống rỗng.

            Khi người đàn ông ngừng hát, có tiếng vỗ tay lác đác, không nồng nhiệt cũng không hẳn là chiếu lệ. Trong quán chỉ có chừng mươi, mười lăm khách, không hơn. Anh chàng đứng dậy cúi chào. Hình như anh ta đưa ra một nhận xét hóm hỉnh nào đó khiến vài vị khách bật cười. Tôi gọi người phục vụ gọi cốc whisky thứ ba. Sau đó rốt cuộc tôi cũng cởi áo khoác và khăn quàng.

            - Chương trình của tôi tới đây là hết, - tay ca sĩ thông báo. Anh ta dừng một chút, nhìn quanh phòng. - Nhưng chắc hẳn có vài vị ở đây đêm nay không thích những bài hát của tôi. Với các vị đó, tôi có thêm một tiết mục nho nhỏ. Tôi không hay trình diễn tiết mục này đâu, nên quý vị có thể coi như mình rất gặp may.

            Anh ta đặt đàn ghita xuống sàn rồi lấy từ trong hộp đựng đàn ra một cây nến dày màu trắng. Anh ta quẹt diên châm nến, nhỏ vài giọt sáp xuống một cái đĩa rồi dựng đứng cây nến lên. Sau đó, với dáng vẻ như một triết gia Hy Lạp, anh ta giơ cao cái đĩa lên. - Có thể giảm ánh sáng xuống một chút được không? - Một trong các nhân viên vặn đèn nhỏ lại, chỉ để mờ mờ. - Làm ơn tối hơn chút nữa. - Giờ thì trong quán tối hơn nhiều, ngọn lửa nến trong tay anh ta nổi bật hẳn lên. Ấp lòng bàn tay quanh cốc whisky để sưởi ấm, tôi không rời mắt hỏi người đàn ông và ngọn nến của anh ta.

            - Như quý vị đều biết, - người đàn ông nói tiếp, giọng anh ta nhỏ nhẹ nhưng nghe rõ, - trong cuộc đời con người ta phải nếm trải nhiều loại đau. Cái đau thể xác và cái đau tâm hồn. Tôi biết tôi đã nếm trải cái đau dưới nhiều hình thức khác nhau, và tôi tin quý vị cũng vậy. Tuy nhiên, trong hầu hết trường hợp, tôi cho rằng quý vị thảy đều thấy rất khó truyền đạt sự thực của cái đau đó cho người khác, rất khó giải thích nó bằng lời. Người ta thường nói chỉ có chính họ mới thấu hiểu cái đau họ đang cảm thấy mà thôi. Nhưng có đúng vậy không? Riêng tôi, tôi không tin như vậy. Nếu như ngay trước mắt mình chúng ta thấy ai đó đang thực sự đau đớn, đôi khi chúng ta cũng cảm thấy nỗi thống khổ và cái đau của người đó như của chính mình vậy. Đó là sức mạnh của sự đồng cảm. Tôi nói thế có rõ không?

            Anh ta dừng lời, nhìn quanh phòng lần nữa.

            - Sở dĩ người ta cất tiếng hát cho người khác là vì họ muốn có cái sức mạnh khơi gợi sự đồng cảm ấy, muốn bứt khỏi cái vỏ chật hẹp của cái tôi đặng chia sẻ nỗi đau và niềm vui của mình với người khác. Nhưng dĩ nhiên, đây không phải việc dễ làm. Vậy nên tối nay, như một các thử nghiệm, tôi muốn quý vị nếm trải một loại đồng cảm khác đơn giản hơn, có tính vật chất hơn. Xin mời vặn sáng đèn lên.

            Mọi người trong quán lúc này im phăng phắc, mọi cặp mắt đều dán lên sân khấu. Trong im lặng hoàn toàn, người đàn ông nhìn mông lung vào khoảng không, như để ngừng một chút hoặc để đạt tới trạng thái tập trung tư tưởng. Từng tí một, anh ta đưa lòng bàn tay mỗi lúc một gần hơn đến ngọn lửa. Ai đó trong số khán giả thốt lên một tiếng nghe như tiếng thở dài hoặc tiếng rên. Ta có thể thấy đầu ngọn lửa thiêu đốt lòng bàn tay người đàn ông. Ta hầu như nghe được tiếng thịt cháy xèo xèo. Một phụ nữ bật ra tiếng thét nho nhỏ nhưng chói lói. Những người còn lại ngây ra nhìn cảnh đó. Như bị hóa đá vì khiếp sợ. Người đàn ông cố chịu đựng, mặt anh ta méo xệch vì đau đớn. Cái trò quái quỷ gì vậy? Sao anh ta lại phải làm cái việc ngu xuẩn, vô nghĩa này? Tôi cảm thấy miệng mình khô khốc. Sau chừng năm, sáu giây, anh ta chầm chậm rút tay ra khỏi ngọn lửa rồi đặt chiếc đĩa cắm cây nến xuống sàn nhà. Đoạn anh ta úp hai bàn tay vào nhau, lòng bàn tay phải và lòng bàn tay trái ép chặt vào nhau.

            - Thưa quý ông quý và, như quý vị đã thấy đêm nay, cái đau thực, sự có thể thiêu đốt thịt người, - anh ta nói. Giọng anh ta nghe vẫn như trước: nhỏ nhẹ, đều đều, bình thản. Không còn dấu vết đau đớn nào trên mặt anh ta. Thay vào đó là một nụ cười yếu ớt. - Và cái đau ắt hẳn vừa xảy ra ở đây, quý vị đã có thể cảm thấy như là cái đau của chính mình. Đó là sức mạnh của sự đồng cảm.

            Người đàn ông tách hai bàn tay ra. Từ giữa hai bàn tay anh ta rút ra một chiếc khăn choàng mỏng màu đỏ, mở rộng ra cho mọi người đều thấy. Đoạn anh ta chìa hai lòng bàn tay về phía khán giả. Không có vết bỏng nào hết. Căn phòng lặng đi một lát, rồi mọi người bày tỏ sự nhẹ nhõm bằng một tràng vỗ tay cuồng nhiệt. Đèn bật lên, tiếng lao xao trò chuyện thay cho sự căng thẳng mới đây còn đầy ắp căn phòng. Như thể không có chuyện gì xảy ra, người đàn ông xếp đàn vào hộp, bước khỏi sân khấu rồi biến mất.

            Khi trả tiền, tôi hỏi cô gái đứng nơi quầy bar xem người đàn ông nọ có thường hát ở đây không, anh ta có hay biểu diễn trò vừa rồi không.

            - Em không rõ, - cô ta nói. - Theo em biết thì đây là lần đầu tiên anh ta tới đây. Trước nay em chưa hề nghe tới anh ta. Chẳng ai bảo em rằng anh ta biết diễn ảo thuật. Mà hay quá phải không anh? Chẳng biết anh ta làm thế nào nhỉ. Em dám cá anh ta sẽ là nhân vật ăn khách trên ti-vi đấy.

            - Đúng vậy, - tôi nói. - Trông cứ như anh ta đang đốt tay mình thật.

            Tôi đi bộ về khách sạn, ngay lúc tôi leo lên giường thì lập tức giấc ngủ ập tới như thể nãy giờ chỉ đợi có thế. Trong lúc chập chờn, tôi nghĩ đến Kumiko, nhưng nàng ở xa lắm, sau đó thì tôi không nghĩ gì được nữa. Trong trí tôi hiện lên hình ảnh khuôn mặt người đàn ông đang đốt tay mình. Đúng là cứ như anh ta đang đốt tay mình thật, tôi nghĩ. Rồi tôi chìm vào giấc ngủ.

8

            Cội rễ của dục vọng

            *

            Trong Phòng 208

            *

            Đi qua tường

            Trước lúc bình minh, dưới đáy giếng sâu, tôi nằm mơ. Nhưng đó không phải là mơ. Đó là một cái gì đó mang hình thức của giấc mơ.

            Tôi đang đi một mình. Bộ mặt của Wataya Noboru chường ra trên màn hình ti-vi lớn đặt giữa một gian tiền sảnh rộng. Bài nói của hắn chỉ mới bắt đầu. Hắn mặc bộ com-lê bằng vải tuýt, sơ-mi kẻ sọc, cà vạt màu xanh nước biển. Tay hắn xếp vào nhau đặt trên chiếc bàn trước mặt, hắn đang nói vào máy quay. Một tấm bản đồ thế giới to đùng treo trên tường sau lưng hắn. Trong gian tiền sảnh chắc phải có tới mấy trăm người, ai nấy đang làm gì đều nhất nhất dừng cả lại để nghe hắn, vẻ mặt nghiêm trọng. Wataya Noboru sắp tuyên bố một điều gì đó sẽ quyết định vận mệnh của tất cả.

            Tôi cũng dừng lại nhìn lên màn hình ti-vi. Bằng cách nói lão luyện nhưng cũng rõ là rất chân thành, Wataya Noboru đang nói với hàng triệu con người mà hắn không nhìn thấy. Cái gì đó không thể nào chịu nổi mà tôi luôn cảm thấy mỗi khi gặp hắn trực tiếp giờ đây được giấu ở nơi nào đó sâu kín, vô hình. Hắn nói bằng phong thái đầy thuyết phục có một không hai của hắn - những khoảng lặng cực chính xác, không thừa không thiếu, giọng sang sảng, vẻ mặt phong phú đầy biểu cảm, tất cả đều làm tăng cảm giác chân thực. Wataya Noboru dường như đang ngày một trở thành một diễn giả tài ba. Dù căm ghét hắn đến mấy, tôi vẫn phải thừa nhận điều đó.

            - Thưa các bạn, như các bạn đã thấy, mọi chuyện vừa phức tạp vừa đơn giản. Đó là quy luật nền tảng chi phối thế giới này. Chúng ta không bao giờ được quên quy luật đó. Những sự vậy có vẻ như phức tạp - mà quả thật là phức tạp - thật ra rất đơn giản nếu ta xét đến những động cơ. Vấn đề chỉ là ta đang tìm kiếm cái gì. Động cơ là gốc rễ của dục vọng, có thể nói vậy. Điều quan trọng là tìm cho ra gốc rễ. Nếu các bạn làm như vậy, - đến đây hắn phác một cử chỉ về phía tấm bản đồ, - mọi chuyện rốt cuộc sẽ trở nên rõ ràng. Thế giới vận hành như vậy đó. Những kẻ ngu muội chẳng bao giờ có thể thoát khỏi sự phức tạp bề ngoài. Họ mò mẫm trong bóng tối tìm lối thoát, chết mà vẫn chưa hiểu nổi một điều gì về cách thức của thế gian này. Họ đã mất mọi cảm thức về phương hướng. Họ chẳng khác gì đang ở trong rừng sâu hay dưới đáy giếng. Và sở dĩ họ đánh mất mọi cảm thức về phương hướng là vì họ không hiểu nổi những nguyên lý nền tảng. Họ chẳng có gì trong đâu ngoại trừ đá và rác rưởi. Họ không hiểu gì hết. Tuyệt đối không. Thậm chí họ không biết đâu là trước đâu là sau, đâu trên đâu dưới, đâu Nam đâu Bắc. Chính vì vậy họ chẳng bao giờ thoát khỏi bóng tối được.

            Nói đến đây Wataya Noboru ngừng lại để lời lẽ của hắn có thì giờ ngấm vào tâm trí người nghe.

            - Nhưng ta hãy quên những kẻ đó đi, - hắn nói tiếp. - Nếu người ta đã muốn đánh mất mọi cảm thức về phương hướng, thì điều tốt nhất các bạn và tôi có thể làm là cứ để họ mất. Chúng ta có những việc quan trọng đáng làm hơn.

            Càng nghe tôi càng giận điên lên, giận đến mức gần như nghẹt thở. Hắn đang vờ nói với cả thế giới, nhưng kỳ thực hắn chỉ nói với mình tôi. Và ắt hắn phải có một thứ động cơ lệch lạc, méo mó để làm vậy. Nhưng chẳng ai khác nhận ra điều đó. Chính vì vậy Wataya Noboru mới có thể lợi dụng cái hệ thống truyền hình khổng lồ này để gửi những thông điệp bí mật cho tôi. Tôi siết chặt hai nắm tay trong túi, nhưng không cách gì xả cơn giận được. Và vì không thể chia sẻ cơn giận này với bất cứ ai trong gian tiền sảnh, tôi cảm thấy mình thật cô đơn.

            Gian tiền sảnh đông nghẹt những người đang căng tai ra uống từng lời Wataya Noboru nói. Tôi đi ngang qua, tiếng thẳng về phía hành lang nối với các phòng dành cho khách. Gã đàn ông không mặt đang đứng đó. Khi tôi lại gần, hắn nhìn tôi bằng bộ mặt không có mặt. Rồi, không nói một lời, hắn dịch ra chắn lối tôi.

            - Đây không phải lúc, - hắn nói. - Ông không nên ở đây lúc này.

            Nhưng cái đau sâu thẳm, như xé ruột xé gan mà Wataya Noboru gây ra cho tôi giục tôi dấn tới. Tôi vươn tay đẩy gã đàn ông không mặt sang một bên. Gã lảo đảo như cái bóng rồi ngã xuống.

            - Tôi nói thế chỉ là vì ông thôi, - hắn gọi với từ đằng sau, mỗi lời của hắn găm vào lưng tôi như một mảnh đạn. - Nếu đi tới nữa, ông sẽ không quay lại được đâu. Ông có hiểu không?

            Tôi không buồn để ý, vẫn rảo bước về phía trước. Giờ thì tôi không sợ gì nữa. Tôi phải biết. Tôi đã mất mọi cảm thức về phương hướng, nhưng tôi không thể cứ như vậy mãi mãi.

            Tôi đi dọc theo cái hành lang có vẻ quen quen. Tôi cứ nghĩ gã đàn ông không mặt sẽ đuổi theo cố ngăn tôi lại, nhưng khi ngoái lại đằng sau tôi thấy chẳng có ai. Hành lang dài, ngoằn ngoèo, hai bên là những cánh cửa giống nhau như đúc. Mỗi cửa đều có số, nhưng tôi không nhớ được số của căn phòng người ta đã đưa tôi tới lần trước. Lần đó tôi cứ đinh ninh mình đã nhớ số, nhưng lúc này rặn óc nhớ lại mà không sao nhớ nổi. Mở lần lượt từng cánh cửa một thì không được.

            Tôi cứ loanh quanh lui tới khắp hành lang cho tới khi đi ngang qua một người phục vụ buồng đang bê một chiếc khay. Trên khay là một chai Cutty Sark mới, một xô đá và hai chiếc cốc. Tôi để người bồi đi qua rồi bám theo gã. Chốc chốc, chiếc khay bóng loáng lại lóe lên khi bắt ánh đèn trần. Tay bồi không ngoái lại. Cằm ngẩng cao có chủ ý, gã đi thẳng về phía trước, bước theo một nhịp đều đặn. Lâu lâu gã lại huýt sáo vài câu nhạc. Đó là bản overtune trong vở Chim ác là ăn cắp, đoạn mở đầu có đánh trống. Gã huýt thật cừ khôi.

            Hành lang rất dài, nhưng suốt thời gian bám theo gã bồi tôi không gặp ai cả. Cuối cùng, gã dừng lại trước một cánh cửa rồi gõ nhẹ ba tiếng. Sau vài giây, có người mở cửa, gã bồi bưng khay vào. Tôi nép mình vào tường, núp sau một bình hoa lớn kiểu Tàu, đợi gã bồi trở ra. Số phòng là 208. Dĩ nhiên rồi! Sao mãi bây giờ tôi mới nhớ được nhỉ?

            Gã bồi vào trong phòng rất lâu. Tôi nhìn đồng hồ. Tuy nhiên kim đồng hồ đã đứng tự lúc nào không biết. Tôi nghiên cứu những bông hoa cắm trong bình, ngửi từng bông một. Những bông hoa trông như vừa cắt ở ngoài vườn cách đây ít phút, còn tươi quá, vẫn nguyên vẹn màu sắc và mùi hương. Gần như chúng không hề nhận biết mình đã bị cắt lìa khỏi gốc rễ. Một con côn trùng bé tí có cánh đã chui vào trong lòng một đóa hồng đỏ với những cánh hoa dày, đầy đặn.

            Năm phút hay hơn nữa trôi qua, gã bồi mới ra khỏi phòng, tay không. Cằm vẫn nhô ra như trước, gã đi khỏi cũng theo lối gã đến đây. Ngay khi gã biến mất sau một góc quanh, tôi liền đi đến chỗ cửa. Tôi nín thở lắng tai, chờ nghe thấy một cái gì. Nhưng chẳng có âm thanh nào, không có dấu hiệu nào cho thấy trong phòng có người. Tôi đánh liều gõ cửa. Ba lần. Nhè nhẹ. Như gã bồi đã làm. Nhưng không ai đáp lại. Tôi đợi vài giây rồi lại gõ, lần này mạnh hơn trước một chút. Vẫn không ai thưa.

            Kế đó tôi xoay quả đấm. Nó xoay, cửa mở ra không một tiếng động. Thoạt tiên phòng hình như tối om, nhưng rồi có một tia sáng lọt vào qua khe hở giữa những tấm rèm dày. Cố lắm tôi cũng chỉ thấy được cửa sổ, chiếc bàn, ghế sofa. Đây chính là căn phòng nơi tôi đã ân ái với Kano Creta. Nó là phòng suite: đây là phòng khách, đằng sau là phòng ngủ. Trên bàn là bóng dáng mờ mờ của chai Cutty Sark, hai chiếc cốc, xô đá. Khi tôi mở cửa, chiếc xô đựng đá bằng thép không gỉ bắt ánh sáng ngoài hành lang, lóe lên một ánh sắc như dao. Tôi bước vào bóng tối, nhẹ nhàng khép cửa lại sau lưng. Không khí trong phòng ấm áp, nặng mùi hoa đặc quánh. Tôi nín thở lắng nghe, bàn tay trái vẫn đặt trên quả đấm để có thể mở ra bất cứ lúc nào. Chỗ này phải có người, ở đâu đó. Ai đó đã gọi whisky, đá và cốc từ chỗ phục vụ buồng, đã mở cưa cho gã bồi vào.

            * * *

            - Đừng bật đèn, - một giọng nữ nói. Giọng vang lên từ trong phòng ngủ. Tôi nhận ra ngay lập tức. Đó là giọng người đàn bà bí ẩn đã có những cuộc trò chuyện lạ lùng với tôi qua điện thoại. Tôi buông quả đấm cửa rồi dò dẫm tiến về phía giọng nói. Bóng tối ở phòng trong dường như còn dày đặc hơn ở phòng ngoài. Tôi đứng lại nơi cửa thông giữa hai phòng, căng mắt cố nhìn trong bóng tối.

            Tôi nghe thấy tiếng ga trải giường sột soạt. Một bóng đen đang chuyển động trong bóng tối.

            - Cứ để tối, - giọng người đàn bà nói.

            - Đừng lo, - tôi nói. - Tôi không bật đèn đâu.

            Tôi bấu chặt tay vào thanh dọc cửa.

            - Anh đến đây một mình à? - người đàn bà hỏi, giọng có vẻ mệt mỏi.

            - Dĩ nhiên, - tôi đáp. - Tôi vẫn nghĩ là sẽ gặp cô ở đây. Cô hoặc Kano Creta. Tôi phải biết Kumiko đang ở đâu. Bởi mọi chuyện đều bắt đầu từ cú điện thoại đầu tiên của cô. Cô đã mở chiếc hộp Pandora. Từ đó trở đi xảy ra hết chuyện lạ lùng này đến chuyện lạ lùng khác, cuối cùng là Kumiko biến mất. Chính vì vậy tôi mới đến đây. Một mình. Tôi không biết cô là ai, nhưng cô nắm giữ một mấu chốt nào đó. Tôi nói đúng không?

            - Kano Creta? - người đàn bà hỏi bằng giọng cảnh giác. - Tôi chưa hề nghe nói tới cô ta. Cô ta cũng ở đây sao?

            - Tôi không biết cô ta ở đâu. Nhưng tôi đã gặp cô ấy ở đây không chỉ một lần.

            Mỗi lần hít vào tôi đền hít cả mùi hoa rất gắt. Không khí dày đặc, nặng trĩu. Đâu đó trong căn phòng này có một bình đầy hoa. Đâu đó cũng trong bóng tối này, chúng đang thở, đang lay động. Trong bóng tối ngập đầy mùi hương mãnh liệt của chúng, tôi dần dần đánh mất cảm giác về thể xác của mình. Tôi cảm thấy như mình đã biến thành một con côn trùng nhỏ xíu. Giờ tôi đang len lỏi giữa những cánh cửa một bông hoa khổng lồ. Mật hoa dinh dính, phấn hoa và những sợi lông mềm đang chờ đợi tôi. Chúng cần sự xâm nhập và hiện diện của tôi.

            - Nhưng trước hết tôi muốn biết cô là ai, - tôi nói. - Cô bảo rằng tôi biết cô, nhưng tôi đã cố hết sức nhớ ra cô mà không được. Cô là ai vậy?

            - Tôi là ai ư? - người đàn bà nhại lại, nhưng không có vẻ gì là châm chọc. - Tôi muốn uống. Anh cho vào hai viên đá nhé? Anh uống với tôi chứ?

            Tôi ra ngoài phòng khách, mở chai whisky mới, cho đá vào hai cốc rồi rót rượu. Trong bóng tối, việc này mất khá nhiều thời gian. Tôi mang hai cốc rượu vào phòng ngủ. Người đàn bà bảo tôi đặt một cốc lên bàn ngủ. - Còn anh thì ngồi xuống ghế nơi chân giường ấy.

            Tôi làm như cô ta bảo, đặt một cốc rượu lên bàn ngủ rồi ngồi xuống một chiếc ghế bành không bọc da cách đó một quãng, rượu cầm tay. Mắt tôi có lẽ đã quen hơn với bóng tối. Tôi có thể nhìn thấy những bóng đen dịch chuyển đằng kia. Người đàn bà hình như đã ngồi dậy trên giường. Đoạn có tiếng những viên nước đá kêu lanh canh khi cô ta uống. Tôi, tôi cũng nhấp một hớp whisky.

            Cô ta im lặng hồi lâu không nói gì. Im lặng càng kéo dài thì dường như mùi hoa lại càng gay gắt.

            - Anh có thực sự muốn biết tôi là ai không? - người đàn bà hỏi.

            - Chính vì vậy tôi mới tới đây, - tôi nói, nhưng giọng tôi có vẻ lúng túng trong bóng tối.

            - Anh đến đây chỉ để biết tên tôi là gì thôi phải không?

            Thay vì đáp, tôi hắng giọng, nhưng việc đó nữa cũng làm bật lên một tiếng vang kỳ lạ.

            Người đàn bà lắc lắc cốc làm những viên đá kêu lanh canh mấy lần.

            - Anh muốn biết tên tôi. Nhưng tiếc thay, tôi không thể cho anh biết tên tôi là gì. Tôi biết anh rất rõ. Anh biết tôi rất rõ. Nhưng chính tôi không biết tôi là ai.

            Tôi lắc đầu trong bóng tối.

            - Tôi không hiểu, - tôi nói. - Tôi ngấy đến tận cổ những câu đố rồi. Tôi cần một cái gì đó cụ thể mà tôi có thể nắm bắt bằng đôi tay. Tôi cần sự thực cụ thể, cần cái gì đó mà tôi có thể dùng làm đòn bẩy nạy cửa ra. Tôi cần là cần cái đó.

            Người đàn bà hình như trút một hơi dài từ sâu trong cơ thể.

            - Okada Toru này, tôi muốn anh khám phá tên tôi. Mà không, anh không cần phải khám phá nó. Anh đã biết nó rồi. Anh chỉ cần phải nhớ lại thôi. Nếu anh tìm được tên tôi, tôi sẽ ra khỏi nơi này được. Thậm chí tôi có thể giúp anh tìm được vợ, giúp anh tìm được Kumiko Okada. Nếu muốn tìm ra vợ mình, hãy khám phá cho bằng được tên tôi, bằng mọi cách. Đó là cái đòn bẩy mà anh cần. Anh không có thì giờ để mãi loay hoay không biết phải làm gì. Mỗi ngày qua mà anh chưa tìm được Okada Kumiko, cô ấy sẽ càng rời xa anh hơn nữa.

            Tôi đặt cốc rượu vang xuống sàn.

            - Nói tôi nghe, đây là nơi nào vậy? Cô ở đây bao lâu rồi? Cô làm gì ở đây?

            - Anh phải đi ngay bây giờ, - người đàn bà nói, như thể vừa sực nhớ mình đang làm chuyện gì. - Nếu hắn phát hiện được anh ở đây thì nguy to. Hắn còn nguy hiểm hơn anh tưởng. Hắn có thể giết anh. Gì chứ chuyện ấy hắn dám làm đấy.

            - "Hắn" là ai?

            Người đàn bà không trả lời, tôi cũng không biết nói gì nữa. Tôi thấy bối rối. Không một cái gì động đậy trong phòng. Nỗi im lặng sâu thẳm, dày đặc làm tôi nghẹ thở. Đầu tôi bừng bừng. Hẳn là tại phấn hoa. Trộn lẫn với không khí, những hạt phấn li ti đang xuyên suốt vào đầu tôi, khiến dây thần kinh tôi bị xáo tung lên.

            - Này Okada Toru, - người đàn bà nói, giọng cô ta đột ngột đổi khác. Chất giọng cô ta thay đổi trong tích tắc. Giờ nó đã trở thành một với bầu không khí đặc sệt, nặng trĩu trong phòng. - Có bao giờ anh muốn ôm em lần nữa không? Có bao giờ anh muốn đi vào trong em? Muốn hôn khắp người em? Anh có thể làm gì em cũng được, anh biết mà. Em sẽ làm bất cứ cái gì anh muốn... bất cứ cái gì... những gì mà vợ anh, Okada Kumiko... chẳng bao giờ làm cho anh cả. Em sẽ làm anh sung sướng đến suốt đời không quên. Nếu như anh...

            Đột ngột có tiếng gõ cửa. Nó có cái âm thanh sắc gọn, dứt khoát của cây đinh bị đóng thẳng vào, một âm thanh đầy điềm gở trong bóng tối.

            Bàn tay người đàn bà từ trong bóng tối chìa ra, nắm lấy cánh tay tôi. - Đi lối này, - cô ta thì thầm. - Nhanh lên. - Giọng cô lúc này không còn vẻ mơ hồ phi thực nữa. Tiếng gõ lại vang lên: hai tiếng gõ cùng với cái sức mạnh đó. Tôi chợt nhớ ra mình đã không khóa cửa.

            - Nhanh lên, - cô nói. - Anh phải rời khỏi đây ngay. Chỉ có một lối duy nhất.

            Tôi mò mẫm qua bóng tối theo tay người đàn bà dẫn. Tôi nghe tiếng quả đấm cửa xoay chầm chậm. m thanh đó làm tôi lạnh sống lưng. Đúng lúc ánh sáng từ hành lang rạch một dải xuyên qua bóng tối, hai chúng tôi đã lọt qua tường. Bức tường có độ đậm đặc như một khối thạch khổng lồ lành lạnh: tôi nghiến chặt răng không cho cái chất ấy lọt vào mồm. tôi chợt nghĩ ra: mình đang đi xuyên tường! Để đi từ chỗ này đến chỗ kia, tôi đang đi xuyên qua một bức tường. Thế nhưng, dù chuyện đó đang xảy ra thật đi nữa, tôi vẫn thấy đó là việc tự nhiên nhất trên đời.

            Tôi cảm thấy lưỡi của người đàn bà lọt vào trong miệng tôi. Vừa ấm vừa mềm, nó thám hiểm từng ngóc ngách một rồi quấn quanh lưỡi tôi. Hương hoa nặng trĩu mơn man vách phổi tôi. Nơi bụng dưới tôi cảm thấy âm ỉ muốn xuất. Nhắm nghiền mắt, tôi cố cưỡng lại. Một khoảnh khắc sau tôi nghe nơi má phải nóng ran lên. Đó là một cảm giác thật kỳ lạ. Tôi không thấy đau, chỉ cảm nhận cái nóng. Tôi không biết cái nóng đó đến từ bên ngoài hay đang sôi sục từ bên trong tôi. Chẳng mấy chốc tất cả đều biến mất: lưỡi của người đàn bà, mùi hoa, nhu cầu muốn xuất, cái nóng ở trên má. Và tôi qua hết bức tường. Khi mở mắt, tôi đã ở phía bên kia tường - dưới đáy giếng sâu.

9

            Giếng và sao

            *

            Thang biến mất

            Mới hơn 5 giờ sáng trời đã rạng, thế nhưng tôi vẫn thấy trên đầu mình cơ man nào là sao. Trung uý Mamiya đã nói với tôi như vậy: từ đáy giếng nhìn lên, ta có thể thấy sao ngay giữa ban ngày. Những vì sao le lói xếp gọn trong mảnh trời vành vạnh hình bán nguyệt như những tiêu bản khoáng vật quý.

            Có lần, khi cắm trại trên đỉnh núi với vài người bạn năm tôi lên mười, mười một tuổi, tôi đã thấy nhiều sao, thật nhiều sao, ngập cả bầu trời. Cảm giác như bầu trời sẽ bục vỡ dưới sức nặng của ngần ấy sao mà sụp xuống. Tôi chưa bao giờ thấy trời đầy sao đến nỗi làm ta sửng sốt thế kia. Khi mọi người đã ngủ tôi vẫn không sao chợp mắt được, bèn chui ra khỏi lều, nằm trên mặt đất ngắm trời sao. Chốc chốc một vì sao băng lại vẽ một vòng cung sáng láng xuyên qua vòm trời. Tuy nhiên, càng ngắm tôi càng thấy bồn chồn. Nhiều sao quá, bầu trời rộng và sâu quá. Một dị vật quá to lớn, áp đảo, nó bao quanh tôi, bủa vây tôi, khiến tôi gần như choáng váng. Trước đó tôi vẫn luôn cho rằng trái đất nơi mình đang đứng là một vật vững chắc và tồn tại mãi mãi. Hay đúng hơn, tôi chẳng bao giờ nghĩ đến điều đó. Tôi coi đó là chuyện đương nhiên. Nhưng trên thực tế, trái đất chẳng qua chỉ là một dúm đá trôi lửng lơ trong một góc nhỏ nhoi của vũ trụ này: một chỗ đứng chân tạm thời trong cái khoảng không vô cùng tận của vũ trụ. Nó – và - tất cả chúng ta cùng với nó – có thể ngay ngày mai thôi sẽ bị thổi bay vô trung tích vì một tia bùng loé bất thần hay một thăng giáng cỏn con trong năng lượng vũ trụ. Dưới bầu trời đen dày sao đến nghẹt thở kia, tôi bàng hoàng nhận ra sự nhỏ nhoi vô nghĩa của sự tồn tại của chính mình (mà dĩ nhiên không cần phải mất nhiều lời như vậy). Đó là một khám phá thật lớn lao đối với một đứa trẻ.

            Từ đáy giếng nhìn lên những ngôi sao lúc bình minh là một trải nghiệm đặc biệt rất khác với từ trên đỉnh núi nhìn lên bầu trời ngợp sao, như thể ý thức tôi - bản thân sự hiện hữu của tôi – thông qua khung cửa sổ hẹp kia được ràng buộc chặt với mỗi một vì sao kia trên bầu trời. Tôi cảm thấy một niềm thân thiết sâu xa với những vì sao đó: chúng là những vì sao của tôi, không ai khác nhìn thấy chúng ngoài tôi, nơi đáy giếng tối tăm này. Tôi coi chúng như của chính mình, và đến lượt mình chúng gội lên tôi năng lượng và hơi ấm.

            Thời gian trôi qua, bầu trời càng lúc càng chịu tác động của vầng mặt trời sáng rỡ mùa hè, từng vì sao một tự xoá mình khỏi tầm nhìn của tôi. Chúng tự xoá mình một cách hoàn toàn lặng lẽ, và tôi mở to mắt quan sát quá trình tự xóa mình đi ấy. Tuy nhiên, mặt trời mùa hè không xoá sạch tất cả các vì sao khỏi bầu trời. Một vài vì sao mạnh mẽ nhất vẫn còn lại. Dù mặt trời lên cao đến mấy, chúng vẫn bướng bỉnh không chịu biến mất. Điều này khiến tôi thật hoan hỉ: trừ vài đám mây thỉnh thoảng bay qua, các vì sao kia là những gì duy nhất tôi thấy được từ dưới đó.

            Tôi đã đổ mồ hôi trong khi ngủ, lúc này mồ hôi đâm ra lạnh dần, làm tôi ớn lạnh. Tôi rùng mình mấy lần. Mồ hôi khiến tôi nghĩ tới căn buồng khách sạn tối om và người đàn bà trên điện thoại ở đó. Vẫn còn vang trong tai tôi những lời cô ta nói - từng lời một – và tiếng gõ cửa. Lỗ mũi tôi vẫn giữ nguyên mùi nước hoa nặng trĩu. Và Wataya Noboru vẫn đang phát biểu từ phần bên kia màn hình ti vi. Ký ức về những cảm nhận đó vẫn còn lại, không hề phai nhạt dù thời gian đã qua. Và sở dĩ như vậy là do đó không phải giấc mơ, ký ức tôi bảo thế.

            Thậm chí cả khi đã tỉnh hẳn, tôi vẫn tiếp tục thấy nong nóng nơi má phải. Quyện với cái nong nóng đó là một chút đau, như thể da vừa bị xát giấy nhám. Tôi ấn lòng bàn tay lên chỗ đó qua lớp râu một ngày không cạo, nhưng làm thế cũng chẳng bớt nóng hay dịu đau. Dưới đáy giếng tối như mực này, không có kính, tôi thật không thể kiểm tra xem má mình đã bị cái gì.

            Tôi giơ tay chạm vào cái vách giếng, dùng đầu ngón tay miết trên bề mặt rồi ấn lòng bàn tay lên một lát, nhưng không thấy có gì bất thường: vẫn là vách bê tông bình thường. Tôi nắm tay lại gõ gõ vài cái. Tường cứng, vô cảm, hơi nhớp nháp. Tôi vẫn còn ấn tượng rõ ràng về cái cảm giác kỳ lạ, dinh dính của bức tường lúc tôi đi xuyên qua nó – như đi qua một khối thạch vậy.

            Tôi mò mẫm tìm cái ba lô, lấy bi đông ra uống một ngụm nước. Tôi đã đi suốt một ngày mà chẳng ăn gì. Nghĩ đến chuyện đó là tôi đã thấy đói cồn cào, nhưng cơn đói chẳng mấy chốc đã biến mất, bị thẩm thấu vào một trạng thái vô cảm như là lơ lửng. Tôi lại đưa tay sờ mặt, thử đo xem râu mình mọc đến đâu. Hàm tôi đã mọc râu lún phún một ngày không cạo. Đúng một ngày đã trôi qua. Nhưng sự vắng mặt của tôi suốt một ngày hẳn không ảnh hưởng đến ai. Biết đâu chẳng có lấy một ai nhận thấy rằng tôi đã đi đâu đó. Tôi có thể biến mất khỏi trái đất này mà thế giới vẫn xoay vần chẳng hỏng hóc mảy may. Mọi sự vô cùng phức tạp, cái đó thì chắc chắn, nhưng có một điều duy nhất rõ ràng: chẳng ai cần đến tôi cả.

            Tôi lại ngước lên những vì sao. Nhìn thấy những vì sao, nhịp tim tôi dần dần dịu lại. Rồi bỗng sực nhớ ra, tôi mò mẫm dọc theo vách giếng tìm chiếc thang. Ở nơi lẽ ra phải có chiếc thang, tay tôi chẳng gặp gì hết. Tôi sờ soạng cả một vùng rộng, kiểm tra thật kỹ, nhưng không thấy thang đâu. Không có cái thang ở chỗ lẽ ra phải có. Tôi hít một hơi dài, lấy đèn pin ra khỏi ba lô, bật lên. Nhưng chẳng thấy tăm hơi cái thang. Tôi rọi đèn pin xuống mặt đất, rồi rọi lên vách giếng trên đầu tôi, xa hết sức đèn. Không thấy thang đâu hết. Mồ hôi lạnh vã ra hai bên sườn tôi như một thứ sinh vật sống. Đèn pin tuột khỏi tay tôi, rơi xuống đất, tắt ngầm. Đó là dấu hiệu của cái gì đó. Trong khoảnh khắc đó tâm trí tôi đổ sụp: nó là một hạt cát, bị đồng hoá vào thế giới xung quanh. Cơ thể tôi ngưng vận hành, như thể nguồn điện cho nó đã bị ngắt. Hư không trọn vẹn trùm lên tôi.

            Điều đó kéo dài có lẽ vài giây, chơ tới khi tôi hồi tỉnh. Các chức năng vật lý của tôi dần dần trở lại. Tôi cúi xuống nhặt chiếc đèn pin nằm dưới chân, gõ gõ mấy cái rồi bật lên. Đèn lại sáng. Tôi cần phải trấn tĩnh, phải sắp xếp ý nghĩ cho thứ tự lớp lang. Sợ hãi, hoảng loạn chẳng giải quyết được gì. Lần cuối tôi kiểm tra cái thang là khi nào? Hôm qua, hồi đêm, ngay trước khi tôi thiếp đi. Tôi đã kiểm tra xem nó vẫn ở đó hay không, sau đó mới cho phép mình ngủ. Không thể nhầm được. Cái thang đã biến mất trong khi tôi ngủ. Nó bị ai đó rút lên. Lấy mất.

            Tôi tắt đèn pin, tựa lưng vào vách giếng. Rồi tôi nhắm mắt lại. Điều đầu tiên tôi cảm thấy là cái đói. Nó quét qua tôi từ xa, như con sóng, dập lên tôi rồi rút đi. Khi nó đã đi qua, tôi đứng đó, rỗng không, như con vật bị moi hết lòng ruột. Sau khi cơn hoảng loạn ban đầu đã qua, tôi không còn thấy khiếp sợ hay tuyệt vọng nữa. Lạ thay, trong khoảnh khắc đó điều tôi duy nhất cảm thấy là cái gì đó gần như cam chịu.

            ***

            Từ Sapporo về tôi ôm Kumiko trong vòng tay mà an ủi nàng. Nàng đang lúng túng và rối trí. Hôm ấy nàng đã xin nghỉ làm một ngày. “Suốt đêm qua em không chợp mắt được tí nào,” nàng nói. “Bệnh viện họ xếp lịch cho em đúng vào lúc đó, thế là em quyết định luôn”, kể vậy xong nàng khóc thút thít.

            - Giờ thì chuyện ấy qua rồi, - tôi nói. - Chẳng cần nghĩ tới làm gì nữa. Chúng mình cứ nói về chuyện đó mãi, giờ thì kết cục là vậy. Nếu em còn muốn nói gì thêm thì tốt nhất hãy nói ngay bây bây giờ. Sau đó ta hãy gạt chuyện đó ra khỏi đầu đi. Quên đi. Em đã nói trên điện thoại là có chuyện muốn nói với anh.

            Kumiko lắc đầu.

            - Không, không có gì đâu, - nàng nói. – Anh nói đúng. Mình hãy quên chuyện này đi.

            Chúng tôi tiếp tục sống mà cố tránh nhắc đến chuyện phá thai của Kumiko. Nhưng làm vậy không dễ. Nhiều khi chúng tôi đang nói về một chuyện hoàn toàn khác thì tự dưng cả hai đều im lặng. Cuối tuần chúng tôi hay đi xem phim. Trong bóng tối, chúng tôi có thể tập trung vào bộ phim, nhưng cũng rất có thể chúng tôi lại nghĩ về một cái gì đó hoàn toàn chẳng liên quan gì đến bộ phim, hoặc cho đầu óc nghỉ ngơi bằng cách không nghĩ gì hết. Thường thì tôi biết, khi ngồi cạnh tôi, Kumiko đang nghĩ tới điều gì đó hoàn toàn khác điều tôi đang nghĩ. Tôi cảm nhận được điều đó.

            Xem phim xong chúng tôi thường đi ăn uống ở đâu đó. Đôi lúc chúng tôi không biết nói chuyện gì. Cứ thế trong khoảng sáu tuần – sáu tuần dài đằng đẵng cuối cùng Kumiko bảo tôi:

            - Hay mai mình đi chơi đi, đi nghỉ đâu đó thật xa, chỉ có anh với em thôi? Mai là thứ Sáu, mình có thể nghỉ đến Chủ nhật. Thỉnh thoảng người ta cũng cần phải nghỉ như vậy chứ.

            - Anh hiểu ý em rồi, - tôi mỉm cười đáp. – Nhưng anh không chắc ở cơ quan anh người ta liệu có biết nghỉ phép có nghĩa là gì không.

            - Thì anh gọi điện bảo ốm. Cứ nói là bị cúm hay gì đó. Em cũng sẽ làm vậy.

            Chúng tôi đáp xe lửa đến Karuizawa. Tôi chọn chỗ ấy vì Kumiko nói nàng muốn đến một nơi yên tĩnh ở trên núi, sao cho chúng tôi muốn đi dạo bao nhiêu tuỳ thích. Đang tháng Tư nên không phải mùa cao điểm du lịch; khách sạn thưa khách, hầu hết quán xá đóng cửa, nhưng đó chính là điều chúng tôi cần. Chúng tôi chẳng làm gì, chỉ đi dạo suốt ngày, từ sáng đến tối. Phải mất một ngày rưỡi Kumiko mới xả được hết cảm xúc. Và khi xả được rồi, nàng ngồi trong buồng khách sạn khóc gần hai tiếng đồng hồ. Suốt thời gian đó tôi chẳng làm gì, chỉ ngồi ôm nàng, để nàng khóc.

            Thế rồi, từng chút một, đứt đoạn, nàng bắt đầu kể mọi chuyện cho tôi nghe. Về vụ phá thai. Về cảm xúc của nàng khi đó. Về cảm giác mất mát tột cùng của nàng. Về việc nàng đã thấy cô đơn đến nhường nào khi tôi đang ở Hokkaido, và về chuyện chính vì thấy cô đơn đến vậy nàng mới có thể làm những gì như nàng đã làm.

            - Anh đừng hiểu lầm em, - nàng nói. – Em không hối tiếc việc mình đã làm. Đó là cách duy nhất. Điều đó thì em biết rõ. Tuy nhiên, điều làm em đau lòng là em muốn kể với anh tất cả, kể tất, không thiếu một cái gì, nhưng em không thể. Em không thể kể chính xác với anh về cảm xúc của em.

            Kumiko đánh bồng tóc lên, để lộ một chiếc tai nhỏ nhắn xinh xẻo, rồi lắc đầu.

            - Em không giấu giếm anh đâu. Em định lúc nào đó sẽ kể với anh. Anh là người duy nhất em có thể kể. Nhưng bây giờ thì em không kể được. Em không nói thành lời được.

            - Một chuyện gì trong quá khứ sao?

            - Không, không phải.

            - Bao lâu nữa cũng được, tuỳ em, - tôi nói. – Khi nào em kể được thì hẵng kể. Thời gian là thứ duy nhất mình có thừa. Anh sẽ ở bên em. Đừng lo gì cả. Anh chỉ muốn em ghi nhớ điều này: bất cứ chuyện gì của em, bất cứ chuyện gì, miễn là thuộc về em, anh sẽ coi như là của chính mình vậy. Chuyện ấy thì em không bao giờ phải lo.

            - Cám ơn anh. – nàng nói. – Em rất vui vì đã lấy anh.

            Nhưng chúng tôi đã không có nhiều thời gian như tôi tưởng. Điều gì mà Kumiko đã không thể nói thành lời? Liệu nó có liên quan đến việc nàng biến mất không? Giá như tôi cố gặng hỏi nàng lúc đó thì có lẽ đã không phải mất nàng như bây giờ. Nhưng không, tôi kết luận sau một hồi suy nghĩ: tôi không bao giờ dồn ép nàng. Nàng đã bảo nàng không nói thành lời được. Dẫu là gì đi nữa, nó vẫn vượt quá sức nàng.

            ***

            - Này Chim vặn dây cót! – Kasahara May hét gọi tôi. Đang lơ mơ ngủ, tôi cứ tưởng giọng cô bé là ở trong mơ. Nhưng đấy không phải giấc mơ. Nhìn lên, tôi thấy khuôn mặt Kasahara May, nhỏ xíu xa tít. – Em biết anh đang ở dưới đó. Nào Chim vặn dây cót! Trả lời em đi!

            - Anh đây, - tôi đáp.

            - Trời ạ, anh làm cái gì dưới đó thế?

            - Suy nghĩ, - tôi đáp.

            - Em không hiểu. Sao lại phải chui xuống tận đáy giếng mới suy nghĩ được? Không có cách nào đỡ nhiêu khê hơn à?

            - Làm cách này thì mới thật sự tập trung được. Dưới này tối, mát, lại yên tĩnh.

            - Anh hay làm thế này sao?

            - Không, không hay làm đâu. Cả đời anh chưa làm thế này bao giờ hết.

            - Thấy có hiệu nghiệm không? Có dễ suy nghĩ hơn không?

            - Anh chưa biết. Anh vẫn đang thử nghiệm mà.

            Cô hắng giọng. m thanh đó vang to xuống dưới đáy giếng.

            - Thôi được rồi, Chim vặn dây cót, anh có nhận ra là cái thang biến đâu mất rồi không?

            - Có chứ, - tôi đáp. - Mới đây thôi.

            - Anh có biết chính em đã rút thang lên không?

            - Không, cái đó thì anh không biết.

            - Thế thì anh nghĩ ai rút?

            - Anh không biết. – tôi đáp. – Anh không biết nói thế nào, nhưng anh chưa bao giờ nảy ra ý nghĩ rằng ai đó đã lấy thang đi cả. Anh chỉ nghĩ nó cứ thế mà biến mất thôi, nói thật đấy.

            Kasahara May im lặng. Rồi, với vẻ thận trọng trong giọng nói, như thể cô ngờ rằng lời của tôi có chứa bẫy, cô nói:

            - Cứ thế mà biến mất à. Hừm. Ý anh là sao, “cứ thế mà biến mất”? Rằng… tự nhiên mà nó… biến đi hay sao?

            - Có thể.

            - Này Chim vặn dây cót, nói ra chuyện này bây giờ thì nghe buồn cười, nhưng anh là tay kì quặc lắm cơ. Trên đời này chẳng có mấy ai kỳ quặc như anh đâu. Anh có biết không?

            - Với anh thì anh không kỳ quặc đến thế, - tôi đáp.

            - Thế thì cớ sao anh nghĩ cái thang tự nó biến đi được?

            Tôi lấy cả hai tay xoa mặt, cố tập trung chú ý vào cuộc đối thoại này với Kasahara May.

            - Chính em rút thang lên à?

            - Dĩ nhiên là em rút. Đâu cần phải động não đến cỡ đó mới nghĩ ra được. Em rút đấy. Đêm em lẻn ra khỏi nhà, kéo thang lên.

            - Nhưng tại sao?

            - Sao lại không? Anh có biết đêm qua em sang nhà anh tới mấy lần không? Em muốn gọi anh đi làm với em như lần trước ấy. Dĩ nhiên là anh không có nhà. Rồi em thấy mẩu giấy anh để trên bàn bếp. Thế là em đợi, đợi mãi, không thấy anh về. Thế rồi em nghĩ chắc anh lại đến chỗ căn nhà bỏ hoang đây. Em thấy nửa cái nắp giếng bị giở ra, có thang dây thòng xuống. Thế nhưng em không nghĩ ra rằng anh lại đang ở dưới đó đâu. Em chỉ nghĩ chắc có một người thợ hay ai đó chui xuống giếng rồi để thang lại. Trên đời này có mấy ai khi muốn suy nghĩ thì chui xuống đáy giếng ngồi cơ chứ?

            - Cái đó thì em nói đúng, - tôi nói.

            - Đến đêm em lại chuồn ra khỏi nhà, qua nhà anh, nhưng anh vẫn chưa về. Khi đó em mới chợt nghĩ ra: có khi anh đang ngồi dưới đáy giếng ấy chứ. Anh ngồi dưới đó làm gì thì làm sao em biết được, nhưng anh vốn là một tay kỳ khôi lắm, em đã nói mà… Em liền tới chỗ cái giếng kéo thang lên. Em cuộc là làm anh hết hồn.

            - Ừ, có.

            - Dưới đó anh có gì ăn uống không?

            - Có chút nước. Đồ ăn thì anh không mang theo. À, anh có ba viên kẹo chanh.

            - Anh ở dưới đó bao lâu rồi?

            - Từ gần trưa hôm qua.

            - Chắc anh đói lắm.

            - Ừ, cũng đói.

            - Anh có muốn đái hay gì không?

            Nghe Kasahara May nhắc, tôi mới nhớ ra rằng từ khi xuống đây tôi chưa đái lần nào.

            - Không, - tôi nói. – Anh có ăn uống gì nhiều đâu.

            - Này Chim vặn dây cót, anh có biết gì không? Anh có thể chết ở dưới đó nếu em muốn. Em là người duy nhất biết anh đang ở dưới đó, em cũng là người duy nhất giấu thang dây đi. Anh có hiểu không? Em chỉ cần đi khỏi đây thôi là anh rồi đời. Anh có thể la hét, nhưng không ai nghe thấy anh đâu. Không ai nghĩ là anh đang ở dưới giếng. Em dám cuộc là thậm chí không ai biết anh đi khỏi nhà nữa kia. Anh không làm cho công ty nào, vợ anh thì bỏ nhà đi rồi. Có thể rốt cuộc ai đó cũng sẽ nhận thấy anh mất tích và báo cho cảnh sát, nhưng tới khi đó thì anh ngỏm rồi, mà người ta cũng chẳng bao giờ tìm được xác anh.

            - Em nói đúng lắm. Anh có thể chết dưới này tuỳ ý em.

            - Đã biết vậy thì anh thấy thế nào?

            - Sợ, - tôi đáp.

            - Nghe giọng anh có sợ đâu.

            Tôi vẫn đang xoa má. Đó là tay của tôi, má của tôi. Tôi không thấy được chúng trong bóng tối, nhưng chúng vẫn đang ở đây: thể xác tôi vẫn đang hiện hữu.

            - Ấy là vì vẫn chưa thật sự ngấm được, - tôi nói.

            - Với em thì có, - Kasahara May nói. – Em thấy hoá ra giết một ai đó lại dễ hơn người ta tưởng nhiều.

            - Có lẽ còn tuỳ ở phương pháp.

            - Dễ lắm mà! Em chỉ cần bỏ anh lại đây thôi. Em chả phải làm gì hết. Anh thử nghĩ đi, Chim vặn dây cót. Cứ thử hình dung anh sẽ khổ sở đến nhường nào ở dưới đó, chết dần chết mòn vì đói khát, trong bóng tối. Chết thế kinh lắm đấy.

            - Em nói đúng lắm. – tôi bảo.

            - Anh không thực sự tin em phải không hở Chim vặn dây cót? Anh vẫn nghĩ em không thể làm điều gì tàn ác đến thế.

            - Anh không biết nữa, - tôi nói. – Không phải anh tin em làm được, cũng chẳng phải tin em không làm được. Chuyện gì cũng có thể xảy ra. Điều gì cũng có thể. Anh nghĩ là nghĩ vậy.

            - Em không nói về chuyện có thể hay không thể, - cô nói bằng giọng lạnh như đá. – Này, em có ý này. Em mới nảy ra thôi. Anh đã cất công leo xuống dưới kia để có thể suy nghĩ. Sao giờ em không giúp thêm một tí để anh có thể tập trung suy nghĩ còn tốt hơn nữa?

            - Em định làm cách nào? – tôi hỏi.

            - Cách này này, - cô vừa nói vừa đậy nửa nắp giếng đang mở lại. Giờ thì bóng tối là toàn bích.

10

            Kasahara May nói về chết và tiến hoá

            *

            Cái được tạo thành ở nơi khác

            Tôi ngồi thụp xuống trong bóng tối toàn bích. Mắt tôi chỉ nhìn thấy được mỗi cái Không. Và tôi thành một phần của cái Không này. Tôi nhắm mắt lại nghe tiếng tim mình đập, nghe tiếng máu tuần hoàn trong thân thể tôi, nghe nhịp co bóp như bễ lò rèn của phổi tôi, nghe những cuộn sóng trơn chuội của bộ ruột tôi đang khổ sở vì cái đói. Trong bóng tôi sâu thẳm, từng cử động, từng nhịp đập đều được khuếch đại đến mức phi tự nhiên. Đây là thân thể tôi, xác thịt tôi, nó quá sống sít, quá đỗi vật chất.

            Chẳng bao lâu ý thức tôi bắt đầu chuội ra khỏi nhục thể tôi.

            Tôi thấy mình là con chim vặn dây cót đang bay qua bầu trời mùa hè, đậu trên cành một cây to đâu đó mà vặn sợi dây cót của thế gian. Nếu quả thật không còn chim vặn dây cót nữa thì một ai đó phải đảm đương bổn phận của nó. Một ai đó sẽ phải thay nó vặn dây cót thế gian. Nếu không, dây cót sẽ chùn và cỗ máy tinh vi sẽ ngừng lại. Tuy nhiên, hình như kẻ duy nhất nhận ra rằng chim vặn dây cót đã ra đi là tôi.

            Tôi cố sức bắt chước tiếng kêu của chim vặn dây cót ở phần sau cuống họng. Nhưng không được. Tôi chỉ thốt ra một âm thanh vô nghĩa, dị hợm, như tiếng hai vật vô nghĩa, dị hợm cọ vào nhau vậy. Cái tiếng kêu ấy, chỉ một mình Chim vặn dây cót mới phát ra được thôi. Chỉ Chim vặn dây cót mới có thể vặn dây cót của thế gian đúng cách mà thôi.

            Dẫu vậy, dù là một con chim vặn dây cót vô thanh, không có khả năng vặn sợi dây cót của thế gian, tôi vẫn quyết định bay trên bầu trời mùa hè. Việc đó hoá ra chẳng lấy gì làm khó. Khi đã lên cao rồi, ta chỉ việc vỗ cánh cho đúng góc độ để điều chỉnh hướng và độ cao. Cơ thể tôi chỉ trong khoảnh khắc đã quen với kĩ thuật bay, thế là tôi bay lượn chẳng khó khăn gì, ung dung tự tại, đi đâu tuỳ thích. Tôi nhìn ngắm thế giới từ điểm nhìn thuận tiện của chim vặn dây cót. Bay chán thì tôi lại đậu lên một cành cây, nghé qua những tán lá xanh mà ngắm những mái nhà, những con đường. Tôi ngắm thiên hạ đi tới đi lui trên mặt đất, lo toan cuộc sống thường nhật. Nhưng, tiếc thay, tôi không thấy được thân thể của chính mình. Đó là vì tôi chưa bao giờ nhìn thấy con chim vặn dây cót nên không hề biết hình dáng nó ra sao.

            Tôi là chim vặn dây cót một thời gian khá dài. Có thể là bao lâu? Tôi không biết. Nhưng là chim vặn dây cót thì cũng chẳng đưa tôi đến đâu. Bay lượn thì vui thật, nhưng tôi không thể cứ ham vui mãi. Có việc gì đó mà tôi phải làm cho xong nơi đáy giếng tối om này. Tôi thôi là chim vặn dây cót và trở lại là mình.

            ***

            Kasahara May đến thăm lần thứ hai lúc hơn 3 giờ một chút. Ba giờ chiều. Khi cô mở nửa nắp giếng ra, ánh sáng từ phía trên tuôn xuống – ánh sáng chói gắt một ngày hè. Để bảo vệ mắt, tôi nhắm mắt lại, cúi đầu xuống một lát. Chỉ cần nghĩ tới ánh sáng trên kia thôi là tôi đã trào nước mắt ra.

            - Chim vặn dây cót ơi! – Kasahara May nói. – Anh còn sống đấy chứ? Chim vặn dây cót à! Nếu còn sống thì trả lời đi chứ.

            - Còn sống, - tôi nói.

            - Anh đói lắm nhỉ.

            - Ừ, chắc là đói.

            - Vẫn “chắc là” thôi à? Chẳng bao lâu nữa anh sẽ chết đói cho mà xem. Đói không thôi thì không dễ chết đâu, nếu như vẫn có nước uống.

            - Cái đó có lẽ đúng, - tôi nói, sự không chắc chắn trong giọng nói tôi vang vọng trong giếng. Tiếng vang hẳn đã khuếch đại bất cứ âm sắc nào hàm chứa trong giọng của tôi.

            - Em biết chắc là đúng, - Kasahara May nói. – Sáng nay em có nghiên cứu chút đỉnh trong thư viện. Đọc toàn về chuyện đói khát thôi. Này Chim vặn dây cót có biết không, có người đã sống dưới lòng đất hai mươi mốt ngày cơ đấy! Vào thời Cách mạng Nga.

            - Em không đùa chứ? – tôi nói.

            - Chắc là ông ta khổ sở lắm.

            - Ừ, ắt là khổ rồi.

            - Ông ấy vẫn sống, nhưng rụng hết tóc, rụng hết cả răng. Chẳng còn cái nào. Sống thì sống đấy, nhưng chắc hẳn là kinh khủng lắm.

            - Ừ, hẳn là kinh rồi.

            - Nhưng dù anh có rụng hết răng tóc đi nữa, chắc anh vẫn có thể sống bình thường được miễn là anh kiếm được bộ tóc giả và hảm răng giả khơ khớ.

            - Ừ, với lại tóc và răng giả ngày nay đã tiến bộ nhiều so với thời Cách mạng Nga, nên nếu là bây giờ thì sẽ đỡ hơn.

            - Chim vặn dây cót này… - Kasahara May vừa nói vừa hắng giọng.

            - Sao cơ?

            - Nếu như con người ta sống đời đời, nếu họ chẳng bao giờ già đi cả… nếu người ta cứ sống hoài sống huỷ trên đời này mà không chết, lúc nào cũng khoẻ mạnh, thì theo anh liệu khi đó người ta có buồn nghĩ ngợi về điều này điều nọ tới nơi tới chốn như anh em mình đang làm không? Bởi vì chúng ta đây cứ nghĩ hầu như bất cứ chuyện gì, dù nhiều dù ít, về triết học này, tâm lý này, logic này. Tôn giáo. Văn chương. Em nghĩ nếu trên đời này không hề có cái chết thì những tư duy và ý nghĩ phức tạp kiểu ấy chẳng bao giờ xuất hiện trên thế giới này cả. Ý em là…

            Kasahara May đột nhiên khựng lại, im lặng một lát, trong khoảng thời gian đó cái câu “ý em là…” của cô treo trong bóng tối dưới giếng như một mảnh tư duy bị vạc ra. Có thể cô không muốn nói thêm nữa. Cũng có thể cô cần thêm thời gian để nghĩ sẽ nói tiếp cái gì. Tôi im lặng chờ cô nói tiếp, đầu vẫn cúi như từ đầu. Tôi chợt nảy ra ý nghĩ nếu Kasahara May muốn giết tôi ngay tức khắc, cô có thể làm vậy chẳng khó khăn gì. Cô chỉ cần thả một tảng đá lớn xuống giếng. Nếu cô thử vài lần thì thể nào cũng có một tảng rơi đúng vào đầu tôi.

            - Ý em là… đây là em nghĩ thôi… sở dĩ người ta suy nghĩ một cách nghiêm túc về chuyện họ sống trên đời để làm gì là bởi họ biết một lúc nào đó mình sẽ chết. Đúng không? Việc gì phải nghĩ ngợi xem ý nghĩa cuộc sống là gì nếu người ra sẽ sống hoài hoài? Bận tâm làm gì cho mệt? Mà thậm chí nếu người ta có bận tâm đi nữa thì hẳn họ sẽ bảo: “Ôi dào, mình còn ối thì giờ. Để sau hẵng nghĩ”. Nhưng ta đâu thể chờ để sau được. Ta phải nghĩ về chuyện đó ngay bây giờ. Có thể ngay chiều mai em sẽ bị xe tải chẹt. Còn Chim vặn dây cót, anh thì có thể chết đói. Ba ngày nữa có khi anh đã chết ngoẻo dưới đáy giếng rồi. Thế nên ta cần có cái chết mới tiến hoá được. Em nghĩ vậy đó. Chết là một cái gì đó thật to lớn, sáng chói, và nó càng to lớn, càng sáng chói thì người ta lại càng nghĩ tợn về chuyện này chuyện khác.

            Kasahara May dừng lời.

            - Này Chim vặn dây cót…

            - Gì cơ?

            - Dưới kia trong bóng tối, có bao giờ anh nghĩ đến cái chết của chính mình chưa? Về chuyện anh sẽ chết như thế nào dưới đó?

            Tôi nghĩ một chút về câu hỏi của cô.

            - Không. Chuyện đó thì anh chưa nghĩ tới.

            - Sao lại không nghĩ? – Kasahara May hỏi, giọng có vẻ ghê tởm, như thể cô đang nói với một con vật dị dạng. – Sao anh lại chưa nghĩ đến chuyện đó được? Anh đang thật sự đối mặt với cái chết đấy. Em không đùa đâu. Em nói rồi, anh sống hay chết là tuỳ ý em mà.

            - Em có thể thả một hòn đá xuống, - tôi nói.

            - Đá à? Anh nói chuyện đá điếc gì thế?

            - Em có thể tìm một tảng đá to rồi thả xuống đầu anh.

            - À, ừ, em làm vậy cũng được. – Nhưng hình như cô không thích ý tưởng đó lắm. – Nhưng Chim vặn dây cót này, chắc anh đói vàng mắt ra rồi. Sẽ càng ngày càng tệ hơn đấy. Rồi anh sẽ còn hết nước nữa. Thành thử làm sao anh không nghĩ đến cái chết được? Anh không thấy thế là lạ à?

            - Ừ, thế cũng lạ, - tôi nói. – Nhưng anh toàn nghĩ chuyện khác thôi. Khi nào thật sự đói thì có thể anh sẽ nghĩ đến cái chết. Phải ba tuần nữa anh mới chết phải không?

            - Ấy là nếu anh có nước uống, - Kasahara May nói. – Như tay người Nga kia ấy. Ông ta là địa chủ cỡ bự hay gì gì đó. Vệ binh cách mạng ném ông ấy xuống một hố mỏ cũ, nhưng có nước rỉ qua vách, ông ấy liếm nước ấy mà sống được. Ông ấy phải ở trong bóng tối như mực, như anh vậy. Nhưng anh đâu có nhiều nước lắm phải không?

            - Ừ, - tôi nói thành thật. – Còn một ít nước.

            - Thế thì anh phải cẩn thận, - Kasahara May nói. - Mỗi lần nhấp một tí thôi. Rồi để thì giờ mà nghĩ đi. Về cái chết. Về chuyện anh sẽ chết ra sao. Anh còn nhiều thời gian mà.

            - Sao em cứ nhất quyết bắt anh nghĩ về cấi chết thể nhỉ? Có lợi lộc gì cho em sao?

            - Chả lợi lộc gì cho em hết. – Kasahara May bật ra. – Sao anh có thể nghĩ rằng nếu anh nghĩ đến cái chết của chính anh thì có lợi lộc gì cho em? Mạng sống là của anh cơ mà. Chẳng liên quan gì đến em hết. Em chỉ… quan tâm thôi.

            - Vì tò mò?

            - Ừ. Tò mò. Về chuyện con người ta chết ra sao. Khi chết thì người ta thấy thế nào. Tò mò thôi.

            Kasahara May im lặng. Khi cuộc đối thoại ngưng lại, một im lặng sâu thẳm tràn ngập trong không gian quanh tôi như thể nãy giờ chỉ đợi có thế. Tôi muốn ngẩng mặt ngước lên. Để xem từ dưới này liệu có thể nhìn thấy Kasahara May không. Nhưng ánh sáng mãnh liệt quá. Tôi sợ nó thiêu cháy mắt mình mất.

            - Có chuyện này anh muốn nói với em, - tôi nói.

            - Được. Anh nói đi.

            - Vợ anh có nhân tình. – tôi nói. – Ít nhất là anh tin vậy. Anh chẳng nhận thấy gì hết, nhưng có đến mấy tháng trời, dù đang sống với anh, cô ấy vẫn ngủ với thằng cha ấy. Ban đầu anh không tin được, nhưng càng nghĩ anh càng tin. Giờ nghĩ lại, anh thấy có rất nhiều manh mối từ những chuyện nhỏ nhặt. Tỉ như cô ấy làm khuya lắc khuya lơ mới về, hay cô ấy rụt lại mỗi khi anh chạm vào người. Nhưng anh đã không hiểu ra những dấu hiệu ấy, anh tin cô ấy. Anh không bao giờ nghĩ cô ấy lại tằng tịu với ai. Ý nghĩ đó chẳng bao giờ nảy ra trong đầu anh cả.

            - Chà. – Kasahara May nói.

            - Thế rồi một hôm cô ấy bỏ nhà đi, không bao giờ trở lại nữa. Sáng hôm đó anh và cô ấy cùng ăn điểm tâm với nhau. Cô ấy đi làm, ăn mặc vẫn như bình thường. Cô ấy chỉ mang theo túi xách tay, dọc đường thì ghé lấy áo cánh và váy ở chỗ hiệu giặt. Thế đấy. Không một lời tạm biệt. Không để lại một chữ. Không gì hết. Kumiko đã ra đi. Bỏ lại tất cả mọi thứ của cô ấy - quần áo, đồ đạc. Và có lẽ cô ấy sẽ không bao giờ về với anh nữa. Ít nhất là không phải theo ý muốn của cô ấy. Vậy đó.

            - Theo anh thì hiện giờ Kumiko có đang ở với gã kia không?

            - Anh không biết. – tôi vừa nói vừa lắc đầu. Khi đầu tôi chuyển động chầm châm như vậy, có cảm giác như không khí xung quanh là một thứ nước nặng mình không thể nhìn thấy được. - Chắc là họ đang ở bên nhau.

            - Thành ra bây giờ anh mới suy sụp, và chính vì vậy anh mới chui xuống giếng.

            - Dĩ nhiên là khi biết được sự tình anh đã suy sụp. Nhưng không phải vì vậy mà anh xuống đây. Anh không muốn trốn tránh thực tại. Như anh đã nói, anh cần một chỗ nào đó chỉ có mình anh thôi, để anh có thể tập trung suy nghĩ. Quan hệ của anh với Kumiko đã hỏng đi từ bao giờ, như thế nào? Chuyện đó anh không hiểu được. Anh không có ý nói là trước đó mọi chuyện đều hoàn hảo. Một người đàn ông, một người đàn bà, hai tính cách hoàn toàn khác nhau, tình cờ gặp nhau đâu đó và bắt đầu sống với nhau. Chẳng có cặp vợ chồng nào trên đời này mà không có những vấn đề riêng. Song anh cứ nghĩ vợ chồng anh nói chung là ổn, dù có những rắc rối nho nhỏ nhưng theo thời gian đều tự nó êm xuôi cả. Nhưng anh đã lầm. Hẳn là anh đã bỏ sót một cái gì đó lớn lao, đã phạm một sai lầm nào đó ở cấp độ cơ bản. Chính vì vậy anh mới xuống đây, để suy nghĩ.

            Kasahara May không nói gì. Tôi nuốt nước bọt.

            - Anh không biết nói thế này liệu em có hiểu không. Hồi mới cưới, cách đây sáu năm, vợ chồng anh muốn cùng nhau tạo nên một thế giới hoàn toàn mới, giống như xây một căn nhà mới trên lô đất trống vậy. Bọn anh hình dung rất rõ mình muốn gì. Bọn anh không cần nhà cao cửa rộng hay gì gì cả, chỉ cần một nơi che nắng che mưa, cho hai đứa ở bên nhau. Bọn anh chả cần gì hơn. Mọi việc rồi sẽ đâu vào đấy. Tất cả đều có vẻ đơn giản đối với bọn anh. Em đã bao giờ có cảm giác đó chưa - cảm giác mình muốn đến một nơi hoàn toàn khác, trở thành một người hoàn toàn khác?

            - Hẳn rồi, - Kasahara May nói. – Lúc nào em cũng muốn vậy hết.

            - Ờ, hồi mới cưới bọn anh đã muốn làm như vậy. Anh đã muốn thoát khỏi chính mình, khỏi cái tôi đã tồn tại từ trước khi đó. Kumiko cũng vậy. Trong thế giới mới đó bọn anh cố tìm một cái tôi mới phù hợp hơn với cái bản lai diện mục sâu xa của mình. Bọn anh tin mình có thể sống theo một lối mới tương hợp hơn với cái tôi đích thực của mình.

            Kasahara May hình như đang đổi trọng tâm cơ thể trong dòng ánh sáng. Tôi cảm thấy được chuyển động của cô. Dường như cô đang đợi tôi nói tiếp. Nhưng tôi không còn gì nói nữa. Chẳng nghĩ ra được gì trong đầu. Tôi thấy mệt bởi âm thanh giọng nói của chính mình trong chiếc ống bê tông của cái giếng.

            - Những gì anh vừa nói em có hiểu không? – tôi hỏi.

            - Hiểu chứ.

            - Em nghĩ thế nào?

            - Này, anh biết đấy, em còn nhỏ mà. Em không biết gì về chuyện hôn nhân hết. Em không biết vợ anh đã nghĩ gì khi bắt đầu lăng nhăng hay lúc bỏ nhà đi. Nhưng nghe những gì anh vừa kể, em cho rằng ngay từ đầu anh đã nghĩ sai rồi. Anh hiểu ý em chứ hở Chim vặn dây cót? Cái anh vừa nói ấy mà… Những chuyện kiểu như, “ờ, được, mình sẽ làm ra cả một thế giới mới” hay “ờ, mình sẽ tạo ra một cái hoàn toàn mới”… đại loại thế, không ai làm được đâu. Em thì nghĩ vậy đó. Anh cứ ngỡ mình đã tạo ra một thế giới mới, một cái tôi mới, nhưng cái tôi cũ của anh nó vẫn luôn ở đó, ngay bên dưới cái bề ngoài kia, chỉ cần có chuyện gì xảy ra là nó lại ngóc đầu dậy mà nói “Xin chào”. Hình như anh không hiểu chuyện ấy. Anh được tạo ra không phải ở chốn này. Và ngay cả cái ý định cần phải tái tạo bản thân mình ấy, nó cũng được tạo ra không phải ở chốn này. Chuyện đó thì đến em cũng biết, Chim vặn dây cót ạ. Anh là người lớn mà, phải không? Làm sao anh không hiểu được chứ? Đấy là cả một vấn đề lớn đấy, nếu anh đã hỏi em. Và chính vì vậy mà anh mới bị trừng phạt, trừng phạt bởi mọi thứ: bởi cái thế giới mà anh muốn vứt bỏ, bởi cái tôi mà anh muốn vứt bỏ ấy. Anh hiểu em nói gì chứ?

            Tôi im lặng, nhìn chăm chăm vào bóng tối trùm kín đôi chân mình. Tôi không biết nói gì.

            - Thôi được rồi, Chim vặn dây cót, - cô nhẹ nhàng nói. – Anh cứ nghĩ đi. Nghĩ. Nghĩ.

            Nắp giếng lại đậy vào chỗ cũ, miệng giếng lại bị phong kín.

            ***

            Tôi lấy bi đông nước ra khỏi ba lô, khẽ lắc lắc. Tiếng nước óc ách yếu ớt vọng lại trong bóng tối. Có lẽ còn chừng một phần tư. Tôi tựa đầu vào vách giếng, nhắm mắt. Có lẽ Kasahara May nói đúng. Con người này, cái tôi này, cái ngã này, được tạo ra ở một nơi khác. Mọi cái đều từ một nơi khác đến, mọi cái đều cũng nơi đó mà trở về. Tôi chẳng qua chỉ là đường thông cho cái kẻ gọi là tôi đi qua.

            Đến như em cũng còn biết chuyện đó, Chim vặn dây cót ạ. Làm sao anh không hiểu cơ chứ?

11

            Đói quá hoá đau

            *

            Thư dài của Kumiko

            *

            Chim tiên tri

            Tôi thiếp đi mấy lần, sực tỉnh cũng ngần ấy lần. Đó là những giấc ngủ ngắn, chập chờn bất an, như khi ngồi trên máy bay. Hễ sắp ngủ sâu là lại giật mình thức dậy, rồi hễ sắp tỉnh hẳn là lại lơ mơ ngủ, cứ thế lặp đi lặp lại không ngừng. Không có sự thay đổi ánh sáng, thời gian cứ tròng trành như toa tàu có bộ trục lỏng lẻo, xộc xệch. Tư thế co ro, thiếu tự nhiên khiến thân thể tôi không thư giãn được. Mỗi khi thức dậy, tôi lại nhìn đồng hồ để xem giờ. Thời gian trôi nặng nề, bất cân bằng.

            Chẳng biết làm gì, chốc chốc tôi lại cầm đèn pin rọi vơ vẩn chỗ này chỗ nọ, khi xuống đất, khi lên vách giếng, khi lên nắp giếng. Bao giờ cũng vẫn nền đất ấy, vách giếng ấy, nắp giếng ấy. Những cái bóng từ ánh đèn hắt ra cứ xê dịch, giãn ra rút vào, phình ra co lại. Chán trò ấy, tôi lại dành thời gian sờ soạng mặt mình, kiểm tra từng đường nét, từng nếp nhăn, khảo sát từng li từng tí một, đặng phát hiện như mới hình thù của nó. Trước đây tôi chưa bao giờ thật sự quan tâm đến hình dạng đôi tai mình. Nếu có ai bảo tôi vẽ đôi tai mình, dù chỉ phác đôi nét thôi, hẳn tôi đã bó tay. Nhưng lúc này tôi có thể tái tạo từng chỗ hõm, từng đường cong một cách chi tiết, chính xác. Tôi lấy làm lạ khi nhận thấy tai trái với tai phải lại khác nhau đến thế. Tôi hoàn toàn không biết vì sao lại có sự khác nhau như vậy, hay liệu sự bất cân đối này có hệ quả gì không (hẳn là nó có hệ quả nào đó).

            Kim đồng hồ chỉ 7:28. Từ khi xuống đây tôi đã xem đồng hồ dễ đến hai nghìn lần. Hiện giờ là 7 giờ 28 phút tối, điều ấy thì chắc; trong một trận bóng chày, đây là lúc cuối hiệp ba hay là cao điểm của hiệp bốn. Hồi nhỏ, tôi hay ngồi ở hàng ghế tít trên cùng ngoài sân bóng, ngắm cảnh ngày hè cứ dùng dằng mãi không chịu dứt. Mặt trời đã lặn qua chân trời phía Tây, nhưng ráng chiều vẫn thật huy hoàng, tuyệt đẹp. Đèn sân vận động hắt những cái bóng dài trên sân như để nhắc khéo điều gì. Đầu tiên một ngọn, rồi một ngọn nữa bật sáng, cực kỳ thận trọng, ngay sau khi trận đấu bắt đầu. Tuy nhiên trời vẫn đủ sáng để đọc báo. Ký ức về ánh chói của ngày dài vẫn còn nấn ná nơi cửa, không cho đêm hè được bước vào.

            Tuy nhiên, một cách kiên trì, bền bỉ, ánh sáng nhân tạo cứ lặng lẽ mà chiến thắng ánh sáng mặt trời, tuôn ra cả một dòng lũ những màu sắc hội hè. Màu xanh rực rỡ của sân cỏ, màu đất đen nhánh, những đường vôi trắng vừa vẽ trên mặt đất, ánh véc ni lấp lánh trên gậy các đấu thủ đang đợi lượt mình vào đánh, khói thuốc lá bay lơ lửng trong những luồng ánh sáng (vào những ngày đứng gió, chúng như những linh hồn lang thang tìm người để nhập vào), tất cả đều nổi bật lên, rõ nét lạ lùng. Những người bán bia trẻ tuổi chìa tay ra trong ánh sáng, xòe những tấm biên lai kẹp giữa mấy ngón tay. Đám đông chốc chốc lại nhổm dậy khỏi ghế dõi theo một đường bóng bay cao, giọng của họ vống lên theo vòng cung của bóng hoặc tan biến thành một tiếng thở dài. Những đàn chim nhỏ trên đường về tổ thi thoảng lại bay ngang qua, hướng về phía biển. Đó là sân vận động lúc 7 giờ rưỡi tối.

            Tôi nghĩ về tất cả những trận bóng chày đã xem từ trước đến nay. Đội Saint Louis Cardinal từng đến Nhật một lần để đấu giao hữu, hồi ấy tôi còn bé lắm. Tôi đã đến sân vận động xem trận đó cùng với cha tôi. Trước khi khai trận, các đấu thủ đội Cardinals đứng dàn hàng dọc chu vi sân, tay xách túi đựng đầy những quả bóng tennis có chữ ký của họ, ra sức ném từng quả lên khán đài càng xa càng tốt. Thiên hạ nháo nhào tranh nhau bắt, còn tôi vẫn ngồi yên tại chỗ, không nhúc nhích, thế rồi chưa kịp nhận ra chuyện gì thì đã thấy một quả bóng rơi đúng vào lòng mình. Điều đó xảy ra như thể có phép màu: kỳ lạ và bất ngờ.

            Tôi lại nhìn đồng hồ. 7 giờ 36 phút. Tám phút đã qua kể từ lần xem trước. Chỉ có tám phút. Tôi tháo đồng hồ ra đưa lên tai. Nó vẫn kêu tích tắc bình thường. Tôi nhún vai trong bóng tối. Có sự lạ nào đó đang xảy ra với cảm nhận của tôi về thời gian. Tôi quyết định tạm thời không xem đồng hồ nữa. Có thể tôi không còn gì khác để làm, nhưng cứ xem đồng hồ liên tục như vậy thì có gì đó không lành mạnh. Tuy nhiên, phải khó khăn lắm tôi mới kìm được không xem. Làm việc đó cũng khổ sở như khi bỏ thuốc lá vậy. Từ thời điểm quyết định không nghĩ đến thời gian nữa, tâm trí tôi không thể nghĩ về bất cứ gì khác. Nó là một thứ mâu thuẫn, một cơn loạn tinh thần. Càng cố quên thời gian đi, tôi lại càng buộc phải nghĩ đến thời gian. Ngoài ý thức của tôi, mắt tôi cứ chực tìm cái đồng hồ nơi cổ tay trái. Mỗi khi điều đó xảy ra, tôi lại ngoảnh mặt đi, nhắm mắt lại, tự đấu tranh để không nhìn. Rốt cuộc tôi phải tháo đồng hồ nhét vào trong ba lô. Ấy vậy mà sau đó tâm trí tôi vẫn cứ mò mẫm tìm chiếc đồng hồ trong ba lô, nơi nó vẫn đang tích tắc đếm thời gian.

            Thời gian cứ vậy mà trôi trong bóng tối, dù không có sự hành tiến của những cây kim đồng hồ - một thời gian bất phân, không chịu sự đo lường. Khi đã mất những điểm phân giới, thời gian không còn là một dòng liên tục mà trở thành một thứ chất lỏng bất định hình, lúc co lúc giãn tùy ý muốn. Trong thứ thời gian này tôi thiếp đi rồi dậy, lại thiếp đi rồi lại thức, từ từ quen với sự sống không có đồng hồ. Tôi đã luyện cho thân thể mình nhận thức được rằng tôi không cần thời gian nữa. Nhưng chẳng mấy chốc tôi cảm thấy bất an ghê gớm. Đúng là tôi đã được giải phóng khỏi cái thói quen thần kinh là cứ năm phút lại xem đồng hồ, nhưng khi cái khung quy chiếu thời gian đã hoàn toàn biến mất, tôi bắt đầu cảm thấy như mình đã bị ném xuống đại dương giữa đêm khuya từ trên boong một con tàu đang chạy. Chẳng ai nghe ra tiếng thét của tôi, con tàu vẫn tiến về phía trước, càng lúc càng xa cho tới khi hầu như biến khỏi tầm mắt.

            Thôi không cố nữa, tôi lại lấy đồng hồ ra khỏi ba lô, đeo vào cổ tay. Kim đồng hồ chỉ 6:15. Chắc là 6 giờ 15 sáng. Lần cuối tôi xem đồng hồ là 7 giờ 36 phút. Bảy giờ 36 phút tối. Vậy có thể kết luận rằng từ lúc đó đến giờ đã mười ba tiếng đồng hồ trôi qua. Khó có khả năng là những hai mươi ba tiếng đồng hồ. Nhưng tôi không biết chắc được. Có gì khác nhau về bản chất giữa mười một tiếng với hai mươi ba tiếng cơ chứ? Dù mười một hay hai mươi ba tiếng, cái đói của tôi đã trở nên dữ dội hơn nhiều. Cảm giác đó khác hẳn với những gì tôi từng tưởng tượng về một cái đói dữ dội. Người ta thường cho rằng đói giống như là cảm giác thiếu cái gì đó. Trên thực tế, nó gần với cái đau thuần túy nhục thể, một cái đau hoàn toàn vật lý, trực tiếp, như thể bị đâm hay bị bóp cổ. Và cái đau ấy, nó không đều. Nó không nhất quán. Có lúc nó dâng lên trong tôi như ngọn triều tới ngưỡng cực đại khiến tôi gần ngất xỉu, rồi nó lại từ từ hạ xuống.

            Để thôi không chú ý đến cái đau dữ dội của những cơn đói, tôi cố gắng tập trung vào một cái gì khác. Nhưng tôi không thể nghĩ một chuyện gì cho nghiêm túc nữa. Những mẩu ý nghĩ rời rạc dạt vào tâm trí tôi rồi lại biến mất nhanh như khi chúng đến. Hễ tôi cố nắm bắt một mẩu nào là nó lại chuội khỏi tay tôi như một con vật trơn nhẫy, vô hình.

            Tôi đứng dậy duỗi người, hít một hơi sâu. Người tôi đau khắp mọi chỗ. Từng bắp thịt, từng khớp sụn rên siết kêu đau vì phải ở trong tư thế thiếu tự nhiên quá lâu. Tôi chầm chậm duỗi người lên phía trên rồi gập đầu gối xuống mấy lần, nhưng chỉ được mươi lần là đã thấy chóng mặt. Lại ngồi trên nền giếng, tôi nhắm mắt lại. Tai tôi kêu ong ong, mồ hôi chảy ròng ròng xuống mặt. Tôi muốn nắm lấy một cái gì đó, nhưng trong tay chẳng có gì để nắm. Tôi muốn nôn, nhưng trong tôi chẳng có gì để nôn. Tôi thử thở sâu, mong có thể làm tâm trí mình tươi mới lại bằng cách đổi mới bầu không khí trong cơ thể, đổi mới dòng lưu chuyển máu, nhưng mây mù trong tâm trí tôi không chịu tản ra. Cơ thể mình yếu quá rồi, tôi nghĩ, và quả thực tôi đã muốn nói to câu đó lên - “Cơ thể mình yếu quá rồi” - nhưng miệng tôi không động đậy nổi thành câu. Giá như thấy được những vì sao thì tốt biết mấy, tôi nghĩ! Nhưng tôi không nhìn thấy sao. Kasahara May đã bịt kín miệng giếng.

            Tôi cứ nghĩ rằng nội trong buổi sáng thể nào Kasahara May cũng sẽ tới chỗ giếng, nhưng cô không đến. Suốt buổi sáng tôi ngồi chờ cô, lưng tựa vào vách giếng. Cảm giác khó ở suốt buổi sáng không chịu rời bỏ tôi, tâm trí tôi không còn sức tập trung vào bất cứ cái gì dù trong khoảng thời gian ngắn ngủi đến mấy. Những cơn đói liên tiếp trào lên rồi lại trôi qua, bóng tối quanh tôi hết dày lên rồi lại mỏng đi. Cứ mỗi làn sóng mới là lại thêm một chút khả năng tập trung của tôi bị lôi đi mất, như đồ đạc bị trộm khoắng từng cái một ra khỏi căn nhà không người ở.

            Buổi trưa đã qua, Kasahara May vẫn không xuất hiện. Tôi nhắm mắt cố ngủ, hy vọng sẽ mơ thấy Kano Creta, nhưng giấc ngủ của tôi quá nông nên không thể mơ được. Ngay sau khi tôi từ bỏ mọi cố gắng tập trung, đủ thứ ký ức rời rạc bắt đầu xâm nhập vào tôi. Chúng đến lặng lẽ, như nước từ từ lấp đầy một cái hang ngầm. Những nơi tôi từng đến, những người tôi từng gặp, những vết thương tôi từng bị, những cuộc trò chuyện, những vật tôi đã mua, những gì tôi đã mất; tôi nhớ lại tất cả, vô cùng sinh động và chi tiết đến kinh ngạc. Tôi nhớ lại những căn nhà và căn hộ mình từng sống. Tôi nhớ lại những cánh cửa sổ, những cái tủ, bàn ghế, những ngọn đèn. Tôi nhớ lại những thầy cô, những giáo sư mình từng học, từ cấp tiểu học đến tận đại học. Những ký ức ấy ít hoặc hầu như không liên quan gì với nhau. Chúng là những ký ức vụn vặt, vô nghĩa, hiện lên chẳng theo thứ tự thời gian nào hết. Chốc chốc, dòng hồi tưởng của tôi lại bị gián đoạn vì một cơn đau đói mới. Nhưng mỗi ký ức đều sinh động đến kỳ lạ, khiến tôi rung động một cách vật chất như thể dưới sức mạnh của một cơn gió xoáy.

            Tôi ngồi quan sát tâm trí mình theo đuổi những ký ức đó, cho đến khi hồi tưởng lại một sự cố từng xảy ra ở cơ quan khoảng ba, bốn năm trước. Đó chỉ là một sự kiện ngu ngốc, tầm phào, nhưng càng để thì giờ nhớ lại những chi tiết vô nghĩa của nó thì tôi lại càng bực tức, cho đến khi nỗi bực tức trở thành cơn giận điên người. Cơn giận xâm chiếm tôi dữ dội đến nỗi át đi mọi thứ khác - cơn mệt mỏi, cái đói, nỗi sợ -, khiến toàn thân tôi run lên, hơi thở tôi hổn hển. Tôi nghe tim mình đập thình thình, cảm thấy cơn giận đang bơm đầy adrenalin vào máu trong người tôi. Đó là một cuộc cãi vã phát sinh từ một sự hiểu lầm nhỏ nhặt. Một gã trong cơ quan buông mấy lời xúc phạm tôi, tôi cũng trả miếng, nhưng rồi cả hai đều nhận ra mình đã đấu khẩu vì chuyện không đâu, nên liền xin lỗi nhau, xí xóa mọi chuyện và không để bụng làm gì. Chuyện như vậy vẫn hay xảy ra: người ta bận, người ta mệt, thảnh thử mới thốt ra lời nhận xét bất cẩn nào đó. Chuyện ấy tôi đã quên từ lâu. Thế nhưng, trong bóng tối như mực dưới đáy giếng, hoàn toàn xa cách thực tại, ký ức đó lại trở về, sống động đến cháy bỏng. Tôi cảm thấy sức nóng của nó trên da tôi, nghe thấy nó đốt xèo xèo thịt tôi. Cớ sao trước một lời chỉ trích quá quắt như vậy phản ứng của mình lại yếu xìu thế kia chứ? Giờ thì tôi nghĩ ra đủ những lời mà lẽ ra tôi có thể nói với gã kia. Tôi gọt giũa những lời đó, mài sắc chúng, và chúng càng sắc bén, tôi lại càng tức giận.

            Thế rồi, hết sức đột ngột, con quỷ ám kia đi mất, và toàn bộ câu chuyện kia chẳng còn ý nghĩa gì nữa. Cớ sao tôi phải ôn lại những ký ức dở hơi như thế này? Có ích gì? Tay kia hẳn từ lâu đã quên béng cuộc cãi vã đó. Bản thân tôi cho đến thời điểm này cũng đã quên. Tôi hít một hơi sâu, chùng vai xuống, cơ thể tôi lại chìm vào bóng tối. Tôi thử theo đuổi một ký ức khác, nhưng khi cơn tam bành đã qua, tôi chẳng còn ký ức nào nữa. Đầu tôi lúc này rỗng không như dạ dày tôi.

            Thế rồi, từ lúc nào không biết, tôi bắt đầu tự nói với mình, lẩm bẩm thành lời những mẩu ý nghĩ rời rạc mà tôi không hề biết là mình có. Tôi không dừng được. Tôi nghe miệng mình thốt ra lời, nhưng chẳng hiểu tí gì những điều mình đang nói. Miệng tôi tự chuyển động, tuôn ra từng chuỗi lời xuyên qua bóng tối, những lời mà tôi không tài nào nắm được ý nghĩa. Chúng tuôn ra từ bóng tối này để rồi bị nuốt chửng vào bóng tối khác. Cơ thể tôi chẳng qua chỉ là một cái ống rỗng, một cầu dẫn để chuyển lời từ đó đến đây. Chúng hẳn nhiên là những mẩu ý nghĩ, nhưng đó là ý nghĩ sinh ra ngoài ý thức của tôi.

            Chuyện gì đang xảy ra vậy? Thần kinh tôi sắp đứt ư? Tôi nhìn đồng hồ. Kim chỉ 3:42. Có lẽ 3 giờ 42 chiều. Tôi thử hình dung ánh sáng lúc 3 giờ 42 phút vào một buổi chiều hè. Tôi hình dung chính mình trong làn ánh sáng đó. Tôi lắng tai cố tìm một âm thanh mà tai tôi có thể bắt được, nhưng không có gì hết: không tiếng ve sầu hay tiếng chim, không một giọng trẻ con. Có lẽ trong khi tôi ở dưới đáy giếng này, Chim vặn dây cót đã thôi vặn dây cót và thế giới đã ngừng chuyển động. Từng tí một, dây cót chùn dần, và đến một lúc nào đó, mọi chuyển động - dòng sông chảy, cành lá xao xác, chim bay qua bầu trời - thảy đã ngừng lại.

            Kasahara May đang làm gì vậy? Sao cô ta không tới? Cô ta không tới đây đã lâu quá rồi. Đột nhiên tôi nảy ra ý nghĩ biết đâu có chuyện gì kinh khủng đã xảy ra với cô ta, tai nạn xe cộ chẳng hạn. Trong trường hợp đó sẽ chẳng còn ai trên đời này biết tôi đang ở dưới đây. Và tôi sẽ thật sự chết một cái chết từ từ nơi đáy giếng.

            Tôi quyết định xét vấn đề theo một cách khác. Kasahara May không phải là người bất cẩn như vậy. Cô ta không dễ gì để cho ô tô chẹt. Hẳn là bây giờ cô đang ở trong phòng, thỉnh thoảng lại lấy ống nhòm quan sát khu vườn này mà hình dung cảnh tôi đang ở dưới giếng. Cô ta cố tình làm thế: cứ kéo dài thời gian ra, để tôi phải sợ, để tôi phải cảm thấy mình đã bị bỏ rơi. Đó là tôi đoán vậy. Và nếu quả thật cô cố tình kéo dài thời gian thì kế hoạch của cô đã quá thành công. Tôi đang thực sự sợ đây. Tôi đang thực sự thấy mình bị bỏ mặc đây. Mỗi khi trong đầu hiện ra ý nghĩ mình rất có thể sẽ chết rục xương trong bóng tối này, nỗi khiếp đảm lại khiến tôi nghẹn thở. Thời gian càng trôi qua, tôi lại càng yếu sức, cho đến khi những cơn đói trở nên đủ khốc liệt để giết chết tôi. Tuy nhiên, trước khi điều đó xảy ra, có khi tôi đã mất khả năng cử động thân mình theo ý muốn. Thậm chí nếu ai đó hạ thang dây xuống cho tôi, có khi tôi không còn leo lên nổi nữa. Toàn bộ răng tóc tôi hẳn sẽ rụng hết.

            Rồi tôi lại đâm lo về chuyện không khí. Tôi ở dưới đáy cái ống bê tông sâu, hẹp này đã hai ngày rồi, vậy mà chưa hết, nắp đã bị bịt kín. Lưu thông không khí hoàn toàn chẳng có. Không khí quanh tôi bỗng nhiên có vẻ nặng trịch, đè ép. Tôi không biết đó là do trí tưởng tượng đánh lừa tôi hay quả thật không khí đã trở nên nặng hơn vì thiếu oxy. Để biết chắc, tôi hít vào sâu rồi thở ra mấy lần, nhưng càng thở càng khó chịu. Sợ hãi khiến toàn thân tôi vã mồ hôi. Hễ tôi bắt đầu nghĩ đến không khí là cái chết liền xâm chiếm tâm trí tôi như một cái gì có thật, không tránh khỏi. Nó dâng lên như một làn nước im lìm, đen kịt, thấm vào từng ngóc ngách của ý thức tôi. Cho đến giờ tôi chỉ nghĩ đến khả năng chết đói, mà để chết đói thì vẫn còn nhiều thời gian. Nhưng nếu hết oxy, mọi chuyện sẽ kết thúc nhanh hơn nhiều.

            Chết vì ngạt thở thì thế nào nhỉ? Kéo dài trong bao lâu? Có phải đó là một quá trình chậm chạp, đau đớn, hay tôi sẽ dần dần mất ý thức và chết như là thiếp ngủ? Tôi hình dung Kasahara May đến chỗ giếng thì thấy tôi đã chết. Cô sẽ lớn tiếng gọi tôi mấy lần, không nghe tiếng trả lời, cô sẽ thả vài hòn sỏi xuống giếng bởi cho rằng tôi đang ngủ. Nhưng tôi sẽ không thức dậy. Khi đó cô sẽ nhận ra rằng tôi đã chết.

            Tôi muốn hét gọi ai đó. Tôi muốn thét lên rằng mình đang bị nhốt ở đây. Rằng tôi đói. Rằng không khí sắp không còn thở được nữa. Tôi thấy như mình đã trở lại là đứa bé bơ vơ không người giúp đỡ. Tôi đã trốn nhà đi trong một cơn bốc đồng và không tìm được lối về nhà. Tôi đã quên mất đường. Đó là một giấc mơ tôi đã mơ hàng bao nhiêu lần. Đó là cơn ác mộng suốt thời niên thiếu của tôi - lạc đường, mất lối về nhà. Tôi đã quên tất cả những cơn ác mộng đó từ nhiều năm nay. Nhưng giờ đây, dưới đáy giếng sâu này, chúng lại trồi lên, sống động đến đáng sợ. Thời gian quay ngược lại trong bóng tối, để rồi bị một loại thời gian khác nuốt chửng.

            Tôi rút bi đông ra khỏi ba lô, mở nắp, rồi, hết sức cẩn thận, cố không đánh rơi một giọt nào, tôi cho một chút nước vào miệng. Tôi ngậm nước trong miệng một hồi lâu, nếm náp cái hơi ẩm, rồi mới nuốt càng chậm càng tốt. Một âm thanh to phát ra từ cuống họng tôi khi nước trôi qua, như thể một vật gì cứng, nặng vừa rơi xuống đất, thế nhưng đó chỉ là âm thanh khi tôi nuốt vài giọt nước.

            * * *

            - Ông Okada ơi!

            Ai đó đang gọi tôi. Tôi nghe giọng nói trong giấc mơ.

            - Ông Okada ơi! Ông Okada! Dậy đi!

            Nghe như giọng Kano Creta. Tôi cố mở mắt, nhưng chẳng có gì thay đổi. Quanh tôi vẫn là bóng tối, tôi không thể nhìn thấy gì. Không có ranh giới rõ ràng giữa ngủ và thức. Tôi gắng nhổm dậy, nhưng mấy ngón tay tôi không còn đủ sức. Cơ thể tôi lạnh ngắt, rúm ró, ỉu xìu, như quả dưa chuột bị bỏ quên lâu ngày trong tủ lạnh. Tâm trí tôi mụ mị vì kiệt sức và yếu ớt. Tôi cóc cần, cô muốn gì cứ làm đi, tôi sẽ lại cương cứng trong tâm trí rồi xuất tinh trong thực tại. Làm đi, nếu cô đã muốn vậy. Trong ý thức mờ đục, tôi đợi hai bàn tay cô cởi thắt lưng tôi. Nhưng giọng của Kano Creta vang lên từ đâu đó ở trên đầu. “Ông Okada ơi! Ông Okada!”, cô gọi. Tôi ngẩng lên thì thấy nửa nắp giếng đang mở, bên trên là một bầu trời đẹp đẽ, đầy sao, một mảnh trời hình bán nguyệt.

            - Tôi đây!

            Tôi nhổm người, cố đứng dậy. Ngẩng lên, tôi lại hét: - Tôi đây!

            - Ông Okada! - Kano Creta ngoài đời thực nói. - Ông ở dưới đó à?

            - Vâng, tôi ở đây.

            - Làm sao lại thế được?

            - Chuyện dài lắm.

            - Xin lỗi, tôi nghe ông không rõ lắm. Ông nói to hơn chút được không?

            - Chuyện dài lắm! - tôi hét. - Để ra khỏi đây xong tôi sẽ kể cô nghe. Ngay lúc này tôi không nói thật to được.

            - Đây là thang dây của ông à?

            - Phải.

            - Làm sao ở dưới đó mà ông đưa nó lên đây được? Ông ném lên à?

            - Dĩ nhiên là không! - Cớ sao tôi phải làm vậy chứ? Làm thế nào tôi có thể làm vậy chứ? - Dĩ nhiên là không! Có ai đó đã kéo lên mà không bảo tôi.

            - Nhưng nếu vậy thì ông không ra khỏi đây được.

            - Dĩ nhiên là không, - tôi nói, cố giữ kiên nhẫn. - Chuyện là vậy đó. Tôi không ra khỏi đây được. Cô có thể làm ơn thả cái thang xuống không? Bằng cách đó thì tôi sẽ ra được.

            - Vâng, dĩ nhiên, tôi sẽ làm ngay.

            - Đợi một chút! Trước khi thả xuống, cô làm ơn kiểm tra xem nó còn buộc chắc vào gốc cây không. Nhỡ ra...

            Nhưng cô không đáp. Hình như không còn ai ở đó nữa. Tôi cố hết sức căng mắt nhìn lên miệng giếng, nhưng không thấy ai. Tôi lấy đèn pin ra khỏi ba lô mà rọi lên trên, nhưng ánh đèn pin không bắt được dáng người nào. Nó chỉ rọi thấy chiếc thang dây treo ở nguyên chỗ cũ, như thể từ trước đến giờ nó vẫn luôn ở đó. Tôi thở một hơi dài. Khi thở ra, tôi cảm thấy như một cái khối cứng ở sâu trong cơ thể tôi chùng xuống, tan đi.

            - Này! Kano Creta ơi! - tôi hét, nhưng vẫn không có tiếng trả lời.

            Kim đồng hồ của tôi chỉ 1:07. Một giờ bảy phút lúc nửa đêm, dĩ nhiên. Những ngôi sao nhấp nháy trên đầu tôi cho biết thế. Tôi quảy ba lô lên vai, hít một hơi dài rồi bắt đầu leo lên. Thang tròng trành, leo rất khó. Cứ mỗi lần vận sức, từng cơ bắp, từng khúc xương và khớp sụn tôi đều rên rỉ kêu đau. Tôi cẩn thận lên từng bước một, chẳng mấy chốc đã thấy không khí xung quanh ấm lên, sau đó là mùi cỏ không lẫn vào đâu được. Tiếng côn trùng giờ đã lọt đến tai tôi. Tôi đặt tay lên thành giếng, rồi với một nỗ lực cuối cùng ẩy người lên, gần như lăn tròn xuống mặt đất mềm. Vậy là tôi lại ở trên mặt đất. Tôi nằm ngửa một hồi, chẳng nghĩ ngợi gì. Tôi nhìn lên trời, hít không khí thật sâu vào phổi, hít mãi, hít mãi - bầu không khí dày, ấm áp của đêm hè, đầy mùi hương tươi mát của sự sống. Tôi ngửi thấy mùi đất, mùi cỏ. Chỉ mùi đó thôi là đủ để lòng bàn tay tôi cảm thấy cái mềm mại khi sờ lên mặt đất, sờ lên cỏ. Tôi muốn bốc cả đất, cả cỏ lên trong tay mà ăn ngấu nghiến.

            Chẳng còn vì sao nào trên bầu trời nữa: không một cái nào. Những vì sao trên kia chỉ có thể nhìn thấy từ dưới đáy giếng thôi. Treo trên bầu trời chỉ có vầng trăng gần tròn, to lồ lộ.

            Tôi nằm như thế trong bao lâu, tôi không biết. Mãi một lúc lâu, tôi chỉ lắng nghe tiếng đập của tim mình. Tôi cảm thấy mình có thể cứ sống như vậy mãi mãi mà chỉ làm mỗi việc ấy thôi - lắng nghe tim mình đập. Nhưng cuối cùng tôi cũng đứng dậy nhìn xung quanh. Không có một ai. Khu vườn trải rộng trong bóng đêm, con chim đá vẫn nhìn chăm chắm lên trời như mọi khi. Không có ánh đèn nào trong nhà Kasahara May. Chỉ có một ngọn đèn thủy ngân đang cháy trong sân, hắt ánh sáng nhợt nhạt, vô cảm ra con ngõ không người. Kano Creta biến đi đâu rồi?

            Dù thế nào đi nữa, việc đầu tiên cần làm là về nhà - về nhà, uống gì đó, ăn gì đó, tắm cho thật kỹ, thật lâu. Người tôi hẳn bốc mùi kinh lắm. Tôi phải tống khứ cái mùi đó đi trước khi làm bất cứ việc gì khác. Kế đó tôi phải làm đầy cái bao tử rỗng không. Những chuyện khác sau hẵng hay.

            Tôi theo con đường quen thuộc để về nhà; nhưng với mắt tôi, con ngõ trông khang khác, là lạ. Có lẽ là bởi ánh trăng sống sít, những dấu hiệu của sự tù đọng và thối rữa nổi bật lên rõ rệt khác thường, tôi ngửi thấy cái gì đó như mùi thịt thối xác thú chết, mùi khắm lặm không thể nhầm lẫn của phân và nước tiểu. Trong nhiều nhà, người ta vẫn còn thức, vừa xem tivi vừa trò chuyện hay ăn uống. Từ một cửa sổ thoát ra mùi thức ăn ngậy mỡ, hành hạ không thương tiếc tâm trí và dạ dày tôi. Tôi đi qua một chiếc máy điều hòa đang kêu ro ro, nó xộc vào tôi một làn khí ấm. Tôi nghe tiếng vòi hoa sen và thấy hình người mờ mờ trên cửa sổ một buồng tắm.

            Tôi cố sức trèo qua bức tường sau nhà rồi buông mình xuống sân. Từ đây, căn nhà có vẻ tối om om, dường như nó đang nín thở. Nó không có vẻ gì là ấm áp hay thân thiết. Vốn là căn nhà nơi cuộc sống của tôi vẫn trôi qua ngày này sang ngày khác, nhưng lúc này nó chỉ là một căn nhà hoang không dấu vết con người. Thế nhưng nếu tôi có một căn nhà để trở về thì nó đấy.

            Tôi bước lên hàng hiên, đẩy cánh cửa bằng kính ra. Bị nhốt bên trong quá lâu nên không khí nặng nề, tù đọng. Nó có mùi như trộn giữa mùi hoa quả chín nẫu với mùi thuốc diệt trùng. Mẩu thư ngắn tôi để lại trên bàn bếp vẫn còn đó. Những bát đĩa tôi đã rửa vẫn xếp chồng y nguyên trên giá phơi. Tôi lấy một cái cốc, rót đầy rồi lại rót nữa, rót nữa, hứng nước thẳng từ vòi. Trong tủ lạnh chẳng có gì đặc biệt: một mớ hổ lốn những thức ăn thừa, những thứ chỉ mới dùng một phần: trứng, dăm bông, xà lách khoai tây, cà tím, rau diếp, cà chua, đậu phụ, bơ, sữa. Tôi rót ít sữa lên một bát bánh bột ngô nướng rồi ăn. Lý ra tôi phải đói cào ruột mới đúng, nhưng sau khi thấy những thức ăn thật sự có trong tủ lạnh, tôi lại gần như không thấy đói. Có chăng tôi chỉ thấy buồn nôn. Tuy vậy, để làm dịu bớt cơn đau của cái dạ dày rỗng, tôi ăn thêm ít bánh quy. Nhưng rồi bánh quy cũng chẳng làm tôi muốn ăn gì thêm nữa.

            Tôi xuống buồng tắm, cởi hết quần áo vứt vào máy giặt. Đứng dưới vòi hoa sen nóng, tôi kỳ cọ từng phân vuông trên cơ thể rồi gội đầu. Chiếc mũ gội đầu bằng nylon của Kumiko vẫn treo trong buồng tắm. Dầu gội đầu của nàng cũng ở đó, dầu dưỡng tóc, chiếc lược bằng nhựa nàng hay dùng khi gội đầu cũng ở đó. Bàn chải răng của nàng. Chỉ xỉa răng của nàng. Mọi thứ đều y như trước khi nàng ra đi. Sự thay đổi duy nhất do việc nàng vắng mặt là một sự kiện đơn giản: Kumiko không còn đó nữa.

            Tôi đứng trước gương xem xét kỹ mặt mình. Đầy những sợi râu lún phún đen. Ngần ngừ một chút, tôi quyết định không cạo râu. Nếu cạo bây giờ có khi tôi làm xước mặt mất. Mai cạo cũng được. Tôi có phải gặp ai đâu. Tôi đánh răng, súc miệng mấy lần rồi ra khỏi buồng tắm. Đoạn tôi mở một lon bia, lấy một quả cà chua và một cây rau diếp trong tủ lạnh ra làm món salad. Ăn món salad xong, tôi bắt đầu thấy muốn ăn thêm, bèn lấy ra ít salad khoai tây, kẹp vào giữa hai lát bánh mì rồi ăn. Tôi chỉ nhìn đồng hồ mỗi một lần.

            Tôi vào toa lét, đứng nhắm mắt mà tiểu một hồi lâu. Thật khó mà tin được mình lại tiểu lâu đến thế. Có cảm giác như tôi sẽ ngất xỉu giữa lúc đang đứng tiểu như vậy. Sau đó tôi lên phòng khách, nằm duỗi dài trên sofa, nhìn đăm đăm lên trần nhà. Cảm giác thật kỳ lạ: cơ thể tôi mệt nhoài, nhưng trí óc tỉnh như sáo. Tôi không buồn ngủ chút nào hết.

            * * *

            Tôi chợt nghĩ cần phải kiểm tra hòm thư. Có thể có người gửi thư cho tôi trong khi tôi đang ở dưới giếng. Tôi ra phòng ngoài xem thì thấy có một lá thư. Phong bì không đề tên người gửi, nhưng nét chữ viết tay ở mặt trước rõ ràng là của Kumiko. Những con chữ nhỏ tí, từng chữ một đều được viết - gần như là vẽ - một cách kỳ khu, nắn nót, như là họa tiết trang trí. Viết theo kiểu này mất khối thời gian, nhưng nàng chỉ biết mỗi cách đó thôi. Mắt tôi chuyển ngay lên dấu bưu điện. Con dấu lem nhem, gần như không đọc được, nhưng tôi vẫn nhìn ra được chữ taka, còn một chữ có thể là matsu. Takamatsu ở tỉnh Kagawa sao? Theo chỗ tôi biết, Kumiko chẳng quen ai ở Takamatsu cả. Hai chúng tôi chưa hề tới đó, nàng cũng chưa bao giờ từng nói đến chuyện từng đi phà sang Shikoku hoặc băng qua cây cầu mới. Cái tên Takamatsu đơn giản là chưa bao giờ xuất hiện trong những lần trò chuyện giữa chúng tôi. Chắc không phải Takamatsu đâu.

            Dù thế nào thì thế, tôi mang thư vào bếp, ngồi xuống bàn, lấy kéo rọc phong bì, cẩn thận sao cho không cắt phải thư ở bên trong. Để trấn tĩnh, tôi nốc cạn chỗ bia còn lại.

            Chắc anh đã rất sốc và lo lắng khi em biến mất đột ngột như vậy mà không nói một lời – Kumiko viết như vậy bằng loại mực Mont Blanc màu xanh đen nàng vẫn dùng. Giấy là loại giấy viết thư mỏng bình thường, đâu cũng có bán.

            Em đã định viết thư cho anh sớm hơn để giải thích mọi chuyện cho tới nơi tới chốn, nhưng trong khi em đang vắt óc nghĩ không biết làm sao có thể diễn tả được chính xác cảm xúc của em, làm sao có thể giải thích tình trạng hiện thời của em cho anh hiểu thì thời gian cứ vùn vụt trôi qua. Em rất áy náy với anh về chuyện đó.

            Hẳn là mãi đến giờ anh vẫn ngờ em có dan díu với người khác. Em đã có quan hệ tình dục với người đó trong khoảng gần ba tháng. Em gặp ông ta vì quan hệ công việc; anh không biết ông ấy đâu. Mà ông ấy là ai cũng chẳng quan trọng lắm. Em sẽ không bao giờ gặp ông ta nữa. Ít nhất là với em, chuyện đó đã chấm dứt. Điều này có thể an ủi anh phần nào, mà cũng có thể không.

            Em có yêu ông ta không? Câu hỏi ấy em không sao trả lời được. Mà bản thân câu hỏi dường như cũng không cần thiết. Em có yêu anh không? Điều đó thì em có thể trả lời không do dự: có. Quả thực em đã vô cùng hạnh phúc khi lấy anh. Đến giờ em vẫn thấy như vậy. Anh có thể hỏi: đã thế sao em còn phải có nhân tình nhân ngãi làm gì, lại còn bỏ nhà đi? Em cũng đã tự hỏi mình câu đó không biết bao nhiêu lần ngay khi chuyện đó đang diễn ra: Tại sao mình phải làm vậy chứ?

            Em không cách nào giải thích điều đó được. Em chưa bao giờ có ý muốn kiếm tình nhân hay tằng tịu với ai. Những ý nghĩ đó tuyệt chẳng hề nảy ra trong đầu em khi em gặp ông ta lần đầu. Em với ông ta gặp nhau mấy lần vì công việc. Mặc dù hai người nói chuyện với nhau khá hợp, song những lúc trò chuyện qua điện thoại chỉ thỉnh thoảng em với ông ta mới nói đôi ba chuyện khác ngoài công việc thôi. Ông ta lớn tuổi hơn em nhiều, có vợ con, cũng không đặc biệt hấp dẫn đối với em trong tư cách đàn ông. Vì vậy trong đầu em chẳng bao giờ nảy ra ý nghĩ một lúc nào đó mình sẽ dan díu với ông ta.

            Nói thế không có nghĩa là em đã hoàn toàn loại bỏ được ý nghĩ ăn miếng trả miếng với anh. Em vẫn ấm ức mãi chuyện anh từng qua đêm với người đàn bà nào đó. Em tin anh khi anh nói anh chẳng làm gì cô ta cả, nhưng dù có thật anh chẳng làm gì cô ta thì em cũng không dễ quên được. Tâm trạng em là vậy đó. Nhưng dù vậy, em dan díu với người khác không phải là để trả miếng anh. Em nhớ có lần em nói vậy thật, nhưng ấy là em chỉ dọa thôi. Em ngủ với ông ta vì em muốn ngủ với ông ta. Vì em không thể chịu nổi nếu không ngủ với ông ta. Vì em không kìm nén nổi dục vọng xác thịt của mình.

            Sau một thời gian không gặp nhau, em với ông ta mới có dịp cần gặp vì công việc. Làm việc xong, em với ông ta đi ăn tối, sau đó thì đi uống cái gì đó. Em vốn không biết uống rượu, dĩ nhiên rồi, thành thử để giữ lịch sự, em chỉ uống một cốc nước cam không pha một giọt rượu nào. Vì vậy rượu chẳng liên quan gì đến chuyện đã xảy ra. Bọn em chỉ ăn uống và trò chuyện theo cách bình thường nhất. Nhưng rồi, đến một lúc, em với ông ta chạm vào người nhau, khi đó em không thể nghĩ đến gì khác ngoài chuyện làm sao ngả vào vòng tay ông ta. Ngay khoảnh khắc hai bên động chạm nhau, em biết ông ta thèm muốn em, và hình như ông ta biết em cũng thèm muốn ông ta. Dường như có một dòng điện hoàn toàn phi lý, choáng ngợp vừa xẹt qua giữa em với ông ta. Em cảm thấy như bầu trời đã sụp xuống em. Má em nóng bừng, tim em đập thình thịch, em có cảm giác nằng nặng, tan chảy ở dưới sườn. Khó khăn lắm em mới ngồi thẳng được trên ghế quầy bar, cảm giác đó mạnh quá. Đầu tiên em không biết điều gì đang diễn ra bên trong mình, nhưng chẳng mấy chốc em nhận ra đó là dục vọng xác thịt. Em thèm muốn ông ta mãnh liệt đến mức gần như không thở được. Chẳng biết ai gợi ý đầu tiên, em và ông ta đi bộ sang một khách sạn gần đó rồi làm tình với nhau như điên dại.

            Nói chuyện này ra một cách rành rọt như vậy chắc hẳn sẽ làm anh đau lòng, nhưng em tin rằng về lâu dài, tốt nhất là có một lời thú nhận trung thực, chi tiết. Đau lòng thì có thể đau lòng đấy, nhưng mong anh hãy cố chịu đựng mà đọc tiếp.

            Những gì em đã làm với ông ta tuyệt chẳng có gì liên quan đến “tình yêu”. Chỉ là em muốn được ông ta ôm ấp, muốn cảm thấy ông ta nhập vào trong em. Cả đời em chưa bao giờ thấy cần thân thể một người đàn ông đến nghẹt thở như vậy. Trước kia em vẫn đọc được trong sách về một “dục vọng không sao chịu nổi”, nhưng mãi đến ngày hôm đó em mới nhận ra mấy chữ ấy có ý nghĩa gì.

            Tại sao cái nhu cầu ấy trỗi lên trong em đột ngột như vậy, tại sao không phải với anh mà với người khác, em không biết. Cái dục vọng trong em khi đó không thể nào kiềm chế được, mà em cũng không cố kiềm chế. Xin hãy hiểu cho em: lúc ấy trong đầu em không hề có ý nghĩ rằng em đang phản bội anh. Cuộc ái ân trên giường khách sạn với ông ta là một cái gì rất gần với cơn điên. Nói thật, cả đời em chưa bao giờ thấy thích thú như lần đó. Không, không đơn giản chỉ là “thích thú”. Thể xác em lăn lộn trong bùn nóng hổi. Tâm trí em hút lấy khoái lạc, hút mãi cho đến độ nổ tung - và nó nổ tung. Thật là kỳ diệu. Đó là một trong những điều tuyệt vời nhất em từng biết đến trong đời.

            Rồi thì, như anh đã biết, em giấu kín mãi chuyện đó. Anh chẳng bao giờ nhận ra em đang có nhân tình. Anh chẳng bao giờ nghi ngờ em, cho dù em bắt đầu về nhà muộn. Em biết anh tuyệt đối tin tưởng em. Anh nghĩ em không bao giờ có thể phản bội anh. Và dù phản bội lòng tin đó của anh, em hoàn toàn không có cảm giác tội lỗi. Em cứ từ phòng khách sạn gọi điện về bảo việc nhiều quá nên em phải làm muộn. Dối trá chất chồng dối trá, nhưng điều đó chẳng làm em động tâm. Dường như với em đó là điều tự nhiên nhất trên đời. Tự đáy lòng em cần cuộc sống bên anh. Căn nhà em chung sống với anh là thế giới của em. Em thuộc về nơi đó. Nhưng thân thể em lại cuồng nhiệt đòi ái ân với người đàn ông kia. Một nửa em ở đằng này, nửa khác ở đằng kia. Em biết sớm muộn gì cũng sẽ xảy ra tan vỡ, nhưng lúc đó em cảm thấy cuộc sống kép kia có thể kéo dài mãi. Ở đây em sống bình an với anh, ở kia em làm tình cuồng loạn với ông ta.

            Em mong anh hiểu ít nhất là một điều này. Rằng đây hoàn toàn không phải chuyện anh kém cỏi hơn ông ta trong chuyện ái ân hay thiếu hấp dẫn về tình dục, cũng không phải vì em đã chán làm tình với anh. Mà chỉ là, trong lúc đó, thân thể em cảm thấy một nỗi khao khát tình dục mãnh liệt, không thể kiềm chế nổi. Em không sao cưỡng lại được. Tại sao lại xảy ra như thế, em không biết. Trong suốt mấy tuần ngủ với ông ta, có đôi lần em cũng nghĩ đến việc ngủ với anh. Nếu chỉ ngủ với ông ta mà không ngủ với anh thì thật bất công cho anh. Nhưng trong vòng tay anh, em không còn cảm nhận được gì cả. Hẳn anh cũng nhận thấy thế. Suốt gần hai tháng, em cố nặn ra đủ cớ này cớ nọ để tránh quan hệ tình dục với anh.

            Thế rồi một hôm, ông ta đòi em bỏ anh để theo ông ta. Ông ta bảo: chúng mình là một cặp rất đẹp đôi, chẳng có lý do gì để chúng ta không ở bên nhau. Ông ta nói ông ta sẽ bỏ gia đình. Em đề nghị ông ta cho em thời gian suy nghĩ. Nhưng đêm đó, trên chuyến xe về nhà sau khi chia tay với ông ta, em nhận ra mình không còn cảm thấy gì ở ông ta nữa. Em không hiểu nổi chính mình, nhưng ngay lúc ông ta bảo em theo ông ta thì cái gì đó đặc biệt mà em cảm thấy bên trong mình lập tức biến đâu mất, như có cơn gió mạnh nào ập tới thổi phăng nó đi. Nỗi thèm khát ông ta đã biến mất khỏi em không còn dấu vết.

            Chính khi đó em bắt đầu thấy có tội với anh. Như em đã viết ở trên, khi còn thèm muốn mãnh liệt ông ta, em đã hoàn toàn không có cảm giác đó. Em chỉ thấy thật thoải mái vì anh không hề nhận thấy gì. Em đã nghĩ chuyện gì rồi cũng xong, miễn là anh không nhận ra. Mối quan hệ giữa em với ông ta thuộc về một thế giới hoàn toàn khác với quan hệ giữa em với anh. Tuy nhiên, khi nỗi thèm muốn ông ta đã biến mất, em không còn biết mình đang ở đâu nữa.

            Em đã luôn luôn tự coi mình là kẻ trung thực. Đúng là em cũng có lỗi lầm. Nhưng nếu là những chuyện quan trọng, em không bao giờ nói dối với ai hoặc lừa dối chính mình. Em đã không bao giờ giấu anh bất cứ chuyện gì. Đó là một nguồn tự hào nho nhỏ của em. Nhưng rồi, suốt mấy tháng trời, em cứ nói dối anh như cuội mà chẳng mảy may dằn vặt.

            Chính điều đó bắt đầu giày vò em. Nó làm em cảm thấy mình như một kẻ rỗng tuếch, vô nghĩa, không chút giá trị gì. Mà có lẽ đúng thế thật. Nhưng ngoài ra còn một điều khác vẫn cứ làm em băn khoăn: làm thế nào em lại đột ngột cảm thấy thèm khát nhục dục một cách dữ dội, bất thường như vậy với một người đàn ông mà em không yêu? Điều đó em không hiểu nổi. Giá như không có cái dục vọng đó thì giờ em vẫn đang sống hạnh phúc với anh rồi. Còn người kia thì vẫn là một người bạn tốt để thỉnh thoảng tán gẫu. Nhưng cái cảm giác đó, cái thèm khát nhục dục không thể tin được, không thể cưỡng được đó, nó đã làm sụp đổ tất cả những gì chúng ta đã xây nên trong những năm qua. Nó đã cướp đi tất cả những gì của em: nó cướp anh đi, cướp căn nhà chúng ta chung sức làm nên, và công việc của em. Tại sao điều đó lại phải xảy ra cơ chứ?

            Sau khi em phá thai cách đây ba năm, em có bảo anh rằng có một điều em phải nói với anh. Anh có nhớ không? Có lẽ đúng ra đã em phải nói. Đúng ra em nên kể với anh tất cả những gì trong lòng em trước khi xảy ra cơ sự này. Chuyện này hẳn đã không xảy ra nếu như em đã kể. Nhưng bây giờ khi mọi sự đã rồi - thậm chí cả bây giờ nữa -, em vẫn không tin mình có thể kể với anh những gì em đã cảm thấy hồi đó. Đó là bởi em thấy hình như một khi em đã nói điều đó thành lời, mọi sự sẽ còn tan nát hơn cả bây giờ nữa. Chính vì vậy em mới đâm ra nghĩ, tốt nhất là em nên nuốt nó vào mình rồi chính mình biến mất đi.

            Em rất tiếc phải nói với anh điều này, nhưng thực tế là em chưa bao giờ có khoái cảm tình dục thật sự với anh, dù trước hay sau khi chúng ta cưới nhau. Em rất sung sướng mỗi khi anh ôm em vào vòng tay anh, nhưng cảm giác của em lúc đó lại mơ hồ, xa xôi, gần như nó thuộc về một người nào khác. Đó hoàn toàn không phải lỗi tại anh. Việc em không có khả năng cảm xúc hoàn toàn là tại em, chỉ tại em thôi. Có một cái rào cản nào đó ở bên trong em, nó bóp nghẹt mọi cảm xúc tình dục của em. Nhưng khi chẳng biết vì lý do gì cái rào cản đó bị cuốn phăng đi khi làm tình với ông ta, em không còn biết mình nên làm gì.

            Giữa anh và em luôn luôn có một cái gì đó rất gần gũi và tinh tế. Ngay từ đầu đã như vậy. Nhưng giờ đây nó đã mất đi vĩnh viễn. Cái sự ăn rơ tuyệt vời đó, cái điều huyền bí đó, đã bị hủy diệt. Bởi chính em đã hủy diệt nó. Hay nói chính xác hơn, một cái gì đó đã buộc em hủy diệt nó. Em hối tiếc vô cùng vì đã xảy ra như vậy. Không ai trên đời này có thể may mắn như em khi được ở cùng anh. Em căm thù cái gì đã gây nên nông nỗi này. Anh không thể biết em căm thù nó đến nhường nào đâu. Em muốn biết chính xác nó là cái gì. Em phải biết chính xác nó là cái gì. Em phải tìm cho ra cội rễ của nó, phán xử và trừng phạt nó. Em không biết liệu mình có đủ sức làm vậy không. Nhưng có một điều chắc chắn: đây là vấn đề của riêng em. Nó không liên quan gì đến anh.

            Em chỉ có một điều muốn xin anh. Đó là đừng bận tâm đến em nữa. Đừng cố công tìm em. Hãy quên em đi mà bắt đầu một cuộc đời mới. Về phần gia đình em, em sẽ làm việc cần làm: em sẽ viết thư cho họ giải thích rằng tất cả là lỗi của em, rằng anh hoàn toàn không phải chịu trách nhiệm. Họ sẽ không làm khó dễ gì anh. Thủ tục ly dị chính thức sẽ bắt đầu sớm thôi, em nghĩ vậy. Thế là tốt nhất cho cả hai ta. Nên mong anh đừng phản đối. Cứ làm như vậy. Còn về quần áo và những đồ đạc khác em để lại, em rất tiếc, nhưng anh hãy tống khứ đi, hoặc hiến tặng đâu đó. Mọi cái đã là quá khứ rồi. Tất cả những gì em từng dùng khi còn sống với anh, nay em không có quyền dùng nữa.

            Vĩnh biệt.

            Tôi đọc thư một lần nữa từ đầu đến cuối rồi cho lại vào phong bì. Rồi tôi lấy thêm một lon bia ra khỏi tủ lạnh mà uống.

            Nếu Kumiko đang định nộp đơn xin ly dị, thế nghĩa là ít nhất nàng không có ý định tự tử vào lúc này. Điều ấy làm tôi nhẹ nhõm phần nào. Nhưng rồi tôi sực nhớ, đã gần hai tháng qua tôi không có quan hệ tình dục với ai. Như Kumiko nói trong thư, nàng đã khước từ ngủ với tôi trong suốt thời gian đó. Nàng nói nàng bị viêm bàng quang nhẹ, bác sĩ bảo nàng phải kiêng quan hệ tình dục một thời gian. Và dĩ nhiên tôi đã tin nàng. Tôi không có lý do nào để không tin.

            Trong hai tháng đó tôi đã có quan hệ với phụ nữ trong những giấc mơ - hoặc trong một thế giới nào đó mà với vốn từ hạn hẹp của mình tôi chỉ có thể gọi là giấc mơ - với Kano Creta và với người đàn bà trên điện thoại. Nhưng giờ nghĩ lại tôi mới thấy, đã hai tháng qua kể từ lần cuối tôi ngủ với một người đàn bà có thực trong thế giới thực. Nằm trên sofa, nhìn chăm chăm vào hai bàn tay của chính mình đặt trên ngực, tôi nghĩ đến lần cuối cùng nhìn thấy thân thể Kumiko. Tôi nghĩ đến đường cong mềm mại của lưng nàng khi tôi kéo khóa áo cho nàng, mùi nước hoa sau tai nàng. Tuy nhiên, nếu những gì nàng nói trong thư là sự thật không thể thay đổi được thì có lẽ tôi sẽ không bao giờ được ngủ với Kumiko nữa. Nàng đã viết như vậy một cách rõ ràng, dứt khoát thế kia: nó có thể là gì khác ngoài sự thật không thể thay đổi được?

            Càng nghĩ đến việc quan hệ của Kumiko có thể đã là chuyện trong quá khứ, tôi càng nhớ da diết hơi ấm dịu dàng của tấm thân ấy, tấm thân từng có lúc thuộc về tôi. Tôi luôn thấy khoái lạc những khi ngủ với nàng. Dĩ nhiên, tôi đã thấy khoái lạc như vậy từ trước khi chúng tôi lấy nhau, nhưng ngay cả khi vài năm đã qua, những run rẩy và rung động thuở đầu đã nhạt thì mỗi khi ngủ với nàng tôi vẫn thấy sung sướng. Tấm lưng thon mảnh của nàng, phía sau cổ nàng, đôi chân nàng, cặp vú nàng - tôi có thể nhớ lại từng bộ phận thân thể nàng một cách hoàn toàn sống động. Tôi nhớ lại tất cả những gì tôi đã làm cho nàng và nàng đã làm cho tôi những khi chúng tôi ân ái với nhau.

            Nhưng nay Kumiko đã nhập thân xác nàng với thân xác của một kẻ tôi không hề biết, và nàng làm việc đó một cách cuồng nhiệt đến mức tôi khó hình dung nổi. Nàng đã khám phá ra một khoái lạc nàng chưa bao giờ được hưởng khi làm tình với tôi. Khi làm tình với hắn ta, hẳn nàng đã oằn mình quằn quại đến nỗi giường phải rung bần bật lên, nàng đã rền rĩ to đến mức ở phòng bên cũng nghe thấy. Hẳn nàng đã làm với hắn những gì nàng chẳng bao giờ làm với tôi. Tôi đến tủ lạnh, mở ra, lấy một lon bia uống. Đoạn tôi ăn ít salad khoai tây. Vì muốn nghe nhạc, tôi bật đài FM, chuyển sang kênh nhạc cổ điển, vặn âm lượng nhỏ. “Hôm nay em mệt quá”, - Kumiko hay nói. “Em không cảm thấy có hứng. Em xin lỗi. Thật đấy”. Và tôi trả lời: “Được mà, không sao cả”. Khi Serenade cho đàn dây của Tchaikovski đã chấm dứt, một bản đàn piano liền cất lên, hình như của Schumann. Nghe quen quen, nhưng tôi không nhớ được nhan đề. Khi bản nhạc dứt, một giọng nữ cho tôi biết đó là cảnh thứ bảy trong Những cánh rừng của Schumann, nhan đề là Chim tiên tri. Tôi hình dung Kumiko vặn vẹo đôi hông bên dưới gã đàn ông kia, nhấc chân lên, bấu mười đầu móng tay vào lưng hắn, rớt dãi xuống khắn trải giường. Người dẫn chương trình cho biết Schumann đã tạo ra một cảnh hoang đường, rằng trong cánh rừng nọ có một con chim huyền bí sinh sống, nó có khả năng tiên đoán tương lai.

            Tôi từng biết gì về Kumiko? Im lìm, tôi bóp nát lon bia trong tay rồi ném vào sọt rác. Có thật là Kumiko mà tôi tưởng mình đã biết, Kumiko mà tôi đã đầu gối tay ấp, đã cùng giao hoan trong ngần ấy năm trời, cô Kumiko ấy chẳng qua chỉ là lớp bề ngoài cạn cợt của Kumiko đích thực, cũng như phần lớn của thế giới này thuộc về vương quốc của lũ sứa? Nếu vậy thì sáu năm chung sống của chúng tôi là gì chứ? Chúng là cái gì? Chúng có ý nghĩa gì?

            * * *

            Tôi đang đọc lại thư của Kumiko một lần nữa thì điện thoại reo. Tiếng reo làm tôi bật khỏi sofa. Ai có thể gọi điện vào lúc 2 giờ sáng? Kumiko? Không, nàng hẳn không bao giờ gọi tới đây nữa. Có lẽ là Kasahara May. Cô đã nhìn thấy tôi rời căn nhà hoang và quyết định gọi cho tôi. Hoặc có thể là Kano Creta. Cô muốn giải thích vì sao cô đã biến mất. Cũng có thể là người đàn bà trên điện thoại. Hẳn cô ta muốn truyền đạt với tôi thông điệp gì đó. Kasahara May nói đúng: tôi có hơi nhiều phụ nữ quanh mình. Tôi lấy một chiếc khăn mặt nằm gần đó để lau mồ hôi trên mặt, rồi khi đã sẵn sàng tôi mới nhấc ống nghe. “Alô,” tôi nói. “Alô”, giọng vang lên từ đầu dây bên kia. Không phải giọng Kasahara May. Cũng không phải giọng Kano Creta hay giọng của người đàn bà bí ẩn. Đó là Kano Malta.

            - Alô, - cô ta nói. - Ông Okada phải không ạ? Tên tôi là Kano Malta. Không biết ông có còn nhớ tôi không?

            - Dĩ nhiên. Tôi nhớ cô rất rõ, - tôi vừa nói vừa cố ghìm nhịp tim đập thình thịch. Làm sao tôi không nhớ cô ta được?

            - Tôi phải xin lỗi đã gọi cho ông giữa đêm hôm khuya khoắt thế này. Tuy nhiên, đây là chuyện khẩn cấp. Tôi biết làm thế này là hết sức bất nhã và ông sẽ lấy làm tức giận lắm, nhưng tôi vẫn buộc lòng phải gọi. Tôi vô cùng xin lỗi.

            Tôi trấn an cô ta rằng cô không cần phải áy náy gì, đằng nào thì tôi cũng đang thức và tôi không bực mình chút nào hết.

12

            Phát hiện trong khi cạo râu

            *

            Phát hiện khi thức dậy

            - Sở dĩ tôi phải gọi cho ông giữa đêm hôm thế này là bởi tôi thấy cần phải gặp ông càng sớm càng tốt, - Kano Malta nói. Nghe cô ta nói, tôi có ấn tượng rằng cô đang lựa chọn và sắp xếp từng từ một thành những câu có cấu trúc chỉn chu chuẩn xác theo những nguyên tắc logic nghiêm ngặt, cô ta bao giờ cũng ăn nói như thế. - Nếu ông không phản đối, có vài câu hỏi mà tôi xin phép được hỏi ông, thưa ông Okada. Ông cho phép chứ ạ?

            Cầm ống nghe trong tay, tôi ngồi xuống sofa.

            - Xin mời cô, cứ hỏi gì cũng được.

            - Thưa ông Okada, chẳng hay hai ngày vừa qua ông đã đi đâu? Tôi đã cố gọi điện cho ông không biết bao nhiêu lần, nhưng hình như lúc nào ông cũng đi vắng.

            - Ừ, phải, tôi đi vắng. Tôi muốn đi khỏi nhà một thời gian. Tôi cần ở một mình để suy nghĩ đôi chút. Tôi có rất nhiều chuyện cần phải nghĩ.

            - Vâng, thưa ông Okada, tôi rất hiểu điều đó. Tôi hiểu tâm trạng của ông. Thay đổi hoàn cảnh có thể là rất tốt những khi ta cần suy nghĩ rõ ràng, thấu đáo về một việc gì. Tuy nhiên trong trường hợp này, ông Okada ạ - tôi cũng biết hỏi thế này thì có vẻ hơi tọc mạch - ông có đi đâu xa lắm không?

            - Không, không xa lắm, - tôi nói, cố tình tỏ ra mập mờ. Tôi chuyển ống nghe từ tay trái sang tay phải. - Nói thế nào nhỉ? Tôi đã ở một nơi có phần cách ly. Tuy nhiên, tôi không thể nói chi tiết được. Tôi có lý do của riêng tôi. Tôi vừa mới về thôi, tôi mệt quá nên không giải thích dài được.

            - Dĩ nhiên rồi, ông Okada. Tôi hiểu. Ai cũng có lý do riêng của mình. Tôi không ép ông phải giải thích đâu. Ắt là ông phải mệt lắm. Nghe giọng ông tôi biết. Xin ông đừng băn khoăn gì về tôi. Tôi sẽ không dám hỏi quá nhiều kẻo lại phiền ông giữa đêm hôm khuya khoắt thế này. Tôi vô cùng xin lỗi. Chúng ta có thể nói về chuyện này sau, vào một lúc thích hợp hơn. Tôi biết hỏi ông một câu có tính riêng tư thế này thì khí sỗ sàng, nhưng tôi làm vậy chỉ là vì tôi rất lo nhỡ có chuyện gì chẳng lành đã xảy ra cho ông trong mấy ngày qua.

            Tôi cố tìm một lời đáp thích hợp, nhưng cái âm thanh nhỏ thoát ra từ họng tôi nghe chẳng giống lời đáp mà giống tiếng ngáp ngáp của con vật sống dưới nước phải thở theo kiểu trên cạn. Chuyện chẳng lành, tôi nghĩ. Trong tất cả những gì đang xảy ra với tôi, đâu là chuyện lành và đâu là chuyện chẳng lành? Đâu là chuyện phải, đâu là không phải?

            - Cám ơn cô đã lo lắng cho tôi như vậy, - tôi nói, cố chỉnh giọng cho bình thường. - Hiện giờ tôi vẫn ổn. Tôi không thể nói là đã có điều lành xảy ra với tôi, nhưng mặt khác cũng không có chuyện gì là đặc biệt chẳng lành.

            - Được biết vậy tôi rất vui.

            - Tôi chỉ mệt, có thế thôi, - tôi nói thêm.

            Kano Malta khẽ hắng giọng một cách trang nhã.

            - Nhân thể, thưa ông Okada, tôi không biết liệu ông có nhận thấy một sự thay đổi nào về vật lý xảy ra trong mấy ngày qua không?

            - Thay đổi về vật lý? Với tôi?

            - Vâng, ông Okada ạ. Một sự thay đổi nào đó trên cơ thể ông.

            Tôi ngẩng mặt lên nhìn hình phản chiếu của mình trên tấm cửa kính trông ra sân, nhưng không nhìn ra được cái gì có thể gọi là “thay đổi về vật lý”. Tôi đã tỉ mẩn kỳ cọ từng phần cơ thể trong khi tắm nhưng khi đó cũng không phát hiện thấy gì.

            - Ý cô muốn nói thay đổi kiểu gì kia? - tôi hỏi.

            - Chính tôi cũng không biết là cái gì, nhưng đó hẳn là một thay đổi rất rõ, bất cứ ai nhìn ông sẽ nhận thấy ngay.

            Tôi duỗi bàn tay phải ra trên bàn, nhìn đăm đăm vào lòng bàn tay, nhưng đó vẫn là lòng bàn tay bình thường. Nó không hề có thay đổi gì để tôi có thể nhận ra. Nó không trở nên phủ đầy vàng lá, cũng không đâm ra có màng giữa các ngón. Nó không đẹp cũng chẳng xấu.

            - Cô bảo ai nhìn vào tôi cũng sẽ nhận ra, vậy ý cô là sao? Kiểu như đôi cánh mọc trên lưng tôi ấy à?

            - Cũng có thể vậy, - Kano Malta nói, vẫn bằng giọng đều đều như thường. - Dĩ nhiên, tôi chỉ nói là có khả năng như vậy.

            - Dĩ nhiên, - tôi nói.

            - Vậy thì ông đã nhận ra sự thay đổi nào như thế chưa?

            - Chưa. Ít nhất là đến giờ. Nhưng nếu như sau lưng tôi mọc cánh thì ắt tôi phải nhận ra chứ, phải không?

            - Dĩ nhiên, - Kano Malta nói. - Nhưng xin ông Okada hãy cẩn thận. Biết được tình trạng của chính mình không phải là việc đơn giản. Chẳng hạn, người ta không thể nhìn thẳng vào mặt mình bằng chính mắt mình. Người ta không có cách nào khác ngoại trừ nhìn ảnh phản chiếu ở trong gương. Qua kinh nghiệm ta đâm ra tin hình ảnh đó là chân thực, nhưng đó chỉ là niềm tin mà thôi.

            - Tôi sẽ cẩn thận, - tôi nói.

            - Tôi còn có một chuyện nữa xin được hỏi ông, thưa ông Okada. Ít lâu nay tôi không liên lạc được với Creta em tôi, cũng như không liên lạc được với ông vậy. Có thể chỉ là ngẫu nhiên, nhưng tôi thấy rất lạ. Tôi tự hỏi liệu ông có biết chút gì về nguyên nhân điều đó chăng.

            - Kano Creta?!

            - Vâng, - Kano Malta nói. - Ông có nảy ra ý gì về chuyện đó không?

            - Không, tôi chẳng nảy ra được gì cả, tôi đáp. Tôi không có căn cứ rõ ràng nào để nghĩ vậy, nhưng tôi cảm thấy trong lúc này tốt nhất là không kể với Kano Malta về việc mới đây tôi đã nói chuyện trực tiếp với Kano Creta và ngay sau đó cô ta biến mất. Đó chỉ là cảm giác thôi.

            - Creta đã rất lo lắng vì không liên lạc được với ông Okada. Đêm qua nó ra khỏi nhà, bảo rằng nó định đến nhà ông xem có chuyện gì không, nhưng rồi đến giờ này nó vẫn chưa về. Và chẳng hiểu vì lý do gì tôi cảm thấy nó không còn nữa.

            - Tôi hiểu. Nếu như cô ấy đến đây, tôi sẽ bảo cô ấy gọi cho cô ngay.

            Kano Malta im lặng một lát.

            - Chẳng giấu gì ông, tôi rất lo cho Kano Creta. Ông biết đấy, công việc mà nó và tôi đang làm hoàn toàn không bình thường chút nào. Nhưng nó không thành thạo những vấn đề của cái thế giới đó như tôi. Tôi không có ý nói rằng nó không có khiếu. Thực ra nó rất có năng khiếu. Nhưng nó vẫn chưa hoàn toàn thích nghi với cái năng khiếu đó của mình.

            - Tôi hiểu.

            Kano Malta lại im lặng. Lần này cô im lặng lâu hơn những lần trước. Tôi có cảm giác cô đang ngần ngừ sao đó.

            - Alô. Cô vẫn ở đó chứ? - tôi hỏi.

            - Vâng, ông Okada. Tôi vẫn ở đây, - cô đáp.

            - Nếu gặp Creta, nhất định tôi sẽ bảo cô ấy liên lạc với cô ngay, - tôi nói một lần nữa.

            - Đa tạ ông, - Kano Malta nói. Thế rồi, sau khi xin lỗi vì đã gọi điện quá khuya, cô gác máy. Tôi cũng gác máy, rồi lại nhìn hình phản chiếu của mình trên cửa kính một lần nữa. Đột nhiên một ý nghĩ bật ra trong đầu tôi: tôi có thể sẽ không bao giờ nói chuyện với Kano Malta nữa. Đây có thể là lần cuối cùng tôi tiếp xúc với cô ta. Cô ta có thể sẽ biến mất vĩnh viễn khỏi cuộc đời tôi. Tôi chẳng có lý do đặc biệt nào để nghĩ như vậy, đó chỉ là một cảm giác chợt đến.

            * * *

            Bỗng tôi sực nghĩ đến chiếc thang dây. Tôi vẫn để nó treo nơi giếng. Tôi phải lấy nó về càng sớm càng tốt. Nếu ai đó phát hiện ra thì có thể sẽ rất phiền. Lại còn chuyện Kano Creta đột ngột biến mất nữa. Tôi gặp cô ta lần cuối cũng ngay chỗ giếng.

            Tôi đút đèn pin vào túi, mang giày, bước xuống sân rồi lại trèo qua tường. Rồi tôi lần theo ngõ về phía căn nhà không người ở. Nhà Kasahara May vẫn tối như mực. Kim đồng hồ của tôi chỉ gần 3 giờ sáng. Tôi bước vào sân căn nhà không người ở rồi tiến thẳng về phía giếng. Thang dây vẫn buộc chắc vào gốc cây và thả xuống giếng, miệng giếng vẫn mở một nửa.

            Có cái gì đó mách bảo tôi cúi nhìn xuống giếng mà gọi tên Kano Creta khe khẽ, chỉ lớn hơn thì thầm một chút. Không có tiếng trả lời. Tôi rút đèn pin soi xuống giếng. Ánh đèn không rọi đến đáy giếng, nhưng tôi nghe có tiếng gì rất nhỏ như tiếng rên. Tôi thử gọi tên cô lần nữa.

            - Không sao đâu, tôi ở đây, - Kano Creta nói.

            - Cô làm gì ở cái chỗ này chứ? - tôi hạ giọng hỏi.

            - Tôi làm gì à? Tôi đang làm chính cái việc ông đã làm, ông Okada ạ, - cô nói, giọng rõ là bối rối. - Tôi đang suy nghĩ. Đây thực sự là một chỗ thật tuyệt cho mình suy nghĩ, phải không?

            - Ừ, có thể thật, - tôi nói. - Nhưng chị cô vừa gọi đến nhà tôi, mới đây thôi. Cô ấy lo cho cô lắm. Nửa đêm rồi mà cô vẫn chưa về nhà, chị cô bảo cô ấy có cảm giác là cô không còn nữa. Cô ấy nhờ tôi nếu gặp cô thì bảo cô liên lạc cho cô ấy ngay lập tức.

            - Tôi hiểu. Cám ơn ông đã mất công.

            - Không có gì đâu, Kano Creta à. Cô có thể làm ơn ra khỏi đó được không? Tôi có chuyện muốn nói với cô.

            Cô không trả lời.

            Tôi tắt đèn pin nhét lại vào túi.

            - Sao ông Okada không xuống đây? Hai ta có thể ngồi dưới này nói chuyện.

            Lại xuống dưới giếng để nói chuyện với Kano Creta cũng không phải là một ý tồi, tôi nghĩ, nhưng rồi tôi nhớ tới bóng tối mốc rêu dưới đáy giếng và lại nghe nặng trĩu nơi dạ dày.

            - Không, xin lỗi, tôi không xuống đó lại đâu. Mà cô cũng phải leo lên thôi. Ai đó có thể lại kéo thang lên. Không khí lại thiếu oxy nữa.

            - Tôi biết. Nhưng tôi muốn ở dưới này thêm chút nữa. Đừng lo cho tôi.

            Nếu Kano Creta đã không có ý định ra khỏi giếng thì tôi chẳng làm gì được.

            - Hồi nãy nói chuyện với chị cô qua điện thoại, tôi không cho cô ấy biết tôi đã gặp cô ở đây. Tôi hy vọng mình làm vậy là đúng. Tôi chỉ có cảm giác tốt nhất là không nói gì.

            - Ông có lý, - Kano Creta nói. - Xin đừng kể với chị tôi rằng tôi đang ở đây. - Lát sau cô nói thêm: - Tôi không muốn làm chị ấy lo lắng, nhưng đôi khi tôi cũng cần một cơ hội để suy nghĩ. Tôi sẽ ra khỏi đây ngay lúc nghĩ xong. Hiện giờ tôi muốn ở một mình, mong ông không phiền. Tôi sẽ không làm ông phải lo đâu.

            Tôi quyết định tạm thời cứ để cô ta đó mà trở về nhà. Sáng ra tôi có thể quay lại xem cô ta thế nào. Nếu giữa đêm Kasahara May lại kéo thang lên, tôi vẫn có thể tìm cách giải quyết, giúp Kano Creta lên khỏi giếng bằng cách này hay cách khác. Tôi về nhà, cởi quần áo, nằm dài lên giường. Nhặt quyển sách đang đọc dở, tôi mở ra. Tưởng như hoàn cảnh hiện tại sẽ khiến tôi không thể ngủ ngay được, nhưng đọc được chưa đầy hai trang thì tôi đã díp mắt lại. Tôi gấp sách, tắt đèn, liền đó đã ngủ say như chết.

            * * *

            Khi tôi thức dậy thì đã 9 giờ 30 sáng. Cảm thấy lo cho Kano Creta, tôi mặc quần áo mà không buồn rửa mặt rồi vội vã đi theo con ngõ về phía căn nhà hoang. Trời nặng trĩu mây, bầu không khí ẩm ướt buổi sáng như đe dọa sẽ mưa bất cứ lúc nào. Chiếc thang dây không còn chỗ cái giếng nữa. Ai đó ắt đã tháo nó khỏi gốc cây rồi mang đi mất. Hai nửa nắp giếng đều đã đậy vào chỗ, bên trên dằn tảng đá. Tôi mở nửa nắp giếng ra, cúi người xuống giếng, gọi tên Kano Creta. Không có tiếng trả lời. Tôi thử gọi mấy lần, sau mỗi lần lại đợi một lát. Nghĩ rằng có thể cô ta đang ngủ, tôi ném vài hòn sỏi xuống, nhưng hình như không có ai dưới đáy giếng cả. Kano Creta hẳn đã trèo lên khỏi giếng lúc tảng sáng, tháo thang dây ra rồi mang theo. Tôi đậy nắp vào chỗ cũ rồi lui khỏi giếng.

            Lại bước ra con ngõ, tôi tựa vào hàng rào căn nhà hoang, quan sát nhà Kasahara May một hồi. Tôi nghĩ cô sẽ nhìn thấy tôi ở đó như mọi khi và sẽ ra, nhưng chẳng thấy cô đâu. Xung quanh hoàn toàn yên lặng, không một bóng người, không một âm thanh nào, đến cả tiếng ve sầu cũng không. Tôi cứ đứng thế, lấy mũi giày chọc chọc xuống đất. Khu nhà tôi ở hình như có cái gì đó khang khác, lạ lẫm, như thể trong mấy ngày tôi ở dưới giếng, cái thực tại cũ của nơi này đã bị thay bằng một thực tại mới, nó đã trụ chắc và chiếm lĩnh nơi này mãi mãi. Ngay từ lúc lên khỏi giếng trở về nhà tôi đã cảm thấy như vậy tận sâu trong tim.

            Đi theo con ngõ về đến nhà, tôi vào buồng tắm đánh răng. Mặt tôi lởm chởm râu mấy ngày chưa cạo. Tôi trông cứ như một nạn nhân đắm tàu vừa được cứu sống. Đây là lần đầu tiên trong đời tôi để râu mọc dài đến vậy. Tôi chợt nghĩ vẩn vơ không biết có nên để dài vậy không, nhưng rồi ngẫm lại tôi quyết định cạo. Chẳng hiểu vì lý do gì, tôi cảm thấy cứ để nguyên khuôn mặt như lúc Kumiko bỏ đi thì hơn.

            Tôi làm mềm râu bằng khăn tắm nhúng nước ấm rồi thoa lên râu một lớp kem dày. Sau đó tôi bắt đầu cạo, chậm rãi, cẩn thận, cố tránh làm xước mặt: đầu tiên là cằm, kế đó là má trái, rồi đến má phải. Sau khi cạo xong má phải, điều tôi nhìn thấy trong gương làm tôi nghẹn thở. Trên má phải tôi có một vết xanh đen không hiểu là gì. Thoạt tiên tôi nghĩ chắc mình ngẫu nhiên bị một vết bẩn. Tôi lau sạch chỗ kem cạo râu còn sót lại rồi rửa mặt kỹ bằng xà bông và nước, đoạn lấy vải nỉ xát lấy xát để lên chỗ bẩn. Nhưng vết bẩn không chịu đi. Dường như nó đã ăn sâu vào da. Tôi đưa ngón tay miết lên. Chỗ da đó nghe như ấm hơn một chút so với những chỗ còn lại trên mặt, ngoài cái đó ra thì chẳng có cảm giác gì đặc biệt. Nó là một vết bầm. Tôi đang mang trên má một vết bầm đúng ở nơi tôi đã cảm thấy nóng khi còn ở dưới giếng.

            Tôi đưa mặt sát vào gương, xem xét vết bầm hết sức cẩn thận. Nó nằm ngay gần xương hàm, kích thước bằng bàn tay đứa trẻ sơ sinh. Nó có màu xanh dương thẫm gần như đen, giống màu mực Mont Blanc xanh đen mà Kumiko luôn dùng.

            Có thể giải thích rằng đây là do dị ứng da. Hẳn tôi đã tiếp xúc với một cái gì đó ở dưới giếng khiến da rộp lên. Nhưng ở dưới đáy giếng kia làm gì có một thứ nào có thể gây chuyện ấy chứ? Tôi đã dùng đèn pin kiểm tra cẩn thận từng li từng tí một dưới đáy giếng, ở đó ngoài nền đất và vách giếng ra nào có gì đâu. Vả lại, có bao giờ dị ứng hay viêm da mà lại thành một vết bầm hình thù rõ rệt như thế không?

            Một cơn hoảng loạn nhẹ trùm lấy tôi. Trong khoảnh khắc tôi mất hết cảm giác về phương hướng, như một cơn sóng lớn dập lên ta trên bãi biển cuốn ta đi vậy. Khăn mặt rơi khỏi tay tôi. Tôi va phải cái sọt rác, vấp chân vào cái gì đó trên sàn, lẩm bẩm một hồi những âm tiết vô nghĩa. Nhưng rồi tôi cố trấn tĩnh, tựa người vào bồn rửa mặt, cố bình tĩnh suy nghĩ xem phải đối phó ra sao với sự kiện này.

            Việc tốt nhất tôi có thể làm trước mắt là đợi xem sao. Đi bác sĩ thì lúc nào chẳng được. Có thể đây chỉ là một tình trạng nhất thời, tự nó sẽ khỏi, giống như da bị rộp vì gặp véc ni vậy. Nó chỉ mới hình thành cách đây mấy hôm, nên có khi nó cũng sẽ biến mất nhanh vậy thôi. Tôi xuống bếp pha ít cà phê. Tôi đói, nhưng cứ hễ thử ăn gì đó là cảm giác thèm ăn lại biến mất như nước trong tay vậy.

            Tôi duỗi dài trên sofa, nhìn mưa bắt đầu rơi. Chốc chốc tôi lại xuống buồng tắm nhìn vào gương, nhưng chẳng thấy vết bầm có thay đổi gì. Nó đã nhuộm chỗ đó trên má tôi thành một màu xanh thẫm, gần như là đẹp.

            Nghĩ lại, tôi thấy chỉ một chuyện duy nhất có thể là nguyên nhân gây ra cớ sự này, ấy là trong cơn ảo giác như giấc mơ trước bình minh khi tôi còn ở dưới giếng, lúc người đàn bà trên điện thoại đi trước dắt tay tôi, tôi đã đi xuyên qua tường. Cô ta đã kéo tôi xuyên qua tường để chúng tôi thoát khỏi kẻ nào đó nguy hiểm vừa mở cửa và đang bước vào phòng. Đúng khoảnh khắc đi qua tường, tôi đã có cảm giác rõ rệt rằng má mình nóng ran lên, ở chính nơi mà bây giờ có vết bầm. Dĩ nhiên, giữa việc tôi đi qua tường với việc hình thành vết bầm trên má tôi có mối liên hệ nhân quả nào thì chưa giải thích được.

            Gã đàn ông không mặt đã nói với tôi nơi tiền sảnh khách sạn. “Đây không phải lúc,” hắn đã cảnh cáo tôi. “Ông không nên có mặt ở đây”. Nhưng tôi đã lờ đi lời cảnh cáo của hắn mà cứ dấn tới. Tôi đang căm giận Wataya Noboru, giận chính cơn bối rối của mình. Và có lẽ hậu quả là tôi mang vết bầm này.

            Trên vết bầm này có thể có một dấu triện mà giấc mơ hay cơn ảo giác hay cái gì gì đó để lại. Đây không phải là giấc mơ, chúng nói với tôi vậy qua vết bầm. Chuyện đó thật sự đã xảy ra. Từ nay trở đi, mỗi khi nhìn vào vết bầm, mi sẽ buộc phải nhớ đến nó.

            Tôi lắc đầu. Quá nhiều chuyện chưa giải thích nổi. Điều duy nhất tôi hiểu rõ, đó là tôi tuyệt không hiểu gì hết. Một cơn giần giật âm ỉ bắt đầu nổi lên trong đầu tôi. Tôi không thể nghĩ ngợi gì nữa. Tôi chẳng thấy muốn làm bất cứ việc gì. Tôi nhấp một ngụm cà phê âm ấm rồi lại nhìn ra ngoài mưa.

            * * *

            Chiều hôm đó tôi gọi điện thoại cho cậu tôi để tán chuyện. Tôi cần phải nói chuyện với ai đó - bất kỳ ai cũng được - về cảm giác hiện giờ của tôi, rằng mình đang bị kéo xa dần khỏi thế giới thực tại.

            Khi ông cậu hỏi Kumiko dạo này thế nào, tôi nói nàng vẫn khỏe, rồi thôi. Sau đó tôi nói thêm rằng nàng đang đi công tác ngắn hạn. Thật ra tôi cũng có thể kể thật sự tình với ông, nhưng diễn đạt có đầu có đuôi cho người khác hiểu về một chuyện vừa mới xảy ra là việc bất khả thi. Chính mình cũng chưa rõ lắm thì làm sao giải thích cho người khác rõ được? Tôi quyết định tạm thời chưa nói sự thật cho ông cậu biết.

            - Cậu đã từng sống trong căn nhà này phải không ạ? - tôi hỏi.

            - Có chứ, - ông đáp. - Sáu bảy năm gì đó. Khoan đã nào... Cậu mua cái nhà ấy hổi cậu ba mươi lăm tuổi rồi sống ở đấy đến năm bốn mươi hai tuổi. Vậy là bảy năm. Đến khi lấy vợ thì cậu chuyển sang căn hộ bây giờ. Suốt bảy năm đó cậu sống có một mình.

            - Cháu đang tự hỏi không biết có chuyện gì chẳng lành xảy ra với cậu trong thời gian sống ở đây không?

            - Chuyện chẳng lành? Kiểu như chuyện gì?

            - Tỉ như là cậu bị bệnh hay phải chia tay cô nào đó chẳng hạn.

            Cậu tôi phá lên cười ha hả.

            - Cậu đã chia tay không chỉ một cô, chuyện đó thì chắc rồi. Nhưng không phải chỉ khi cậu sống ở đó. Hà, cậu thấy chuyện đó có gì là chẳng lành đâu. Nói thật với cháu, cậu chả tiếc cô nào cả. Còn bệnh ấy à... Chà. Không, bệnh cũng không. Có chăng là cái bướu gì đó mọc sau cổ, phải mổ lấy ra, nhưng chỉ thế thôi. Cậu đi cắt tóc, thợ họ phát hiện ra và bảo phải mổ ngay cho an toàn. Thế là cậu đi bác sĩ, nhưng hóa ra chẳng có gì ghê gớm hết. Đó là lần đầu cậu đi bác sĩ trong suốt thời gian sống ở nhà đó, mà cũng là lần cuối. Có khi cậu phải đòi lại tiền bảo hiểm y tế ấy chứ!

            - Vậy là cậu chẳng có ký ức không vui nào về cái nhà này phải không?

            - Không, không, - cậu tôi nghĩ một chút rồi nói. - Nhưng sao bỗng dưng cháu hỏi thế?

            - Không có gì đâu ạ, - tôi đáp. - Hôm nọ Kumiko có gặp một thầy bói, ông ta kể cho cô ấy chẳng biết bao nhiêu chuyện về cái này, nào là nó xui xẻo, xúi quẩy, kiểu kiểu thế, - tôi nói dối. - Cháu thì nghĩ toàn là bốc phét thôi, nhưng cháu đã hứa sẽ hỏi cậu xem sao.

            - Hừm... Người ta gọi là gì nhỉ? Phong thủy hay địa mạch gì gì ấy... Cậu chả rành mấy chuyện đó đâu. Nhưng cậu đã sống ở nhà đó, thấy mọi chuyện đều ổn, chẳng có vấn đề gì. Dĩ nhiên nhà Miyawaki thì khác hẳn, nhưng cháu thì ở khá xa nhà ấy mà.

            - Sau khi cậu dọn đi thì đã có những ai đến sống ở đây hở cậu? - tôi hỏi.

            - Xem nào, sau cậu thì có một thầy giáo cùng gia đình ở đấy trong ba năm, sau đó thì một cặp vợ chổng trẻ ở trong năm năm. Anh chồng kinh doanh gì đó, nhưng cậu không nhớ là ngành gì. Cậu không dám chắc ai cũng sống vui vẻ hạnh phúc trong căn nhà đó, bởi cậu có một đại lý bất động sản chuyên quản lý căn nhà đó thay cho cậu mà. Cậu chẳng bao giờ gặp những người đó, cũng không biết vì sao họ dọn đi, nhưng cậu chưa bao giờ nghe có chuyện gì chẳng lành xảy ra với ai. Cậu chỉ nghĩ chắc tại nhà hơi nhỏ đối với họ nên họ muốn xây nhà riêng cho mình, thế thôi.

            - Có người bảo cháu rằng dòng chảy của nơi này bị ngăn trở. Nghe thế cậu có đoán ra gì không ạ?

            - Dòng chảy bị ngăn trở á?

            - Cháu cũng không hiểu nói thế nghĩa là thế nào. Người ta bảo thế thôi.

            Cậu tôi ngẫm nghĩ một chút.

            - Không, cậu không đoán ra gì cả. Nhưng cái ngõ mà người ta rào cả hai đầu lại thì có lẽ chẳng hay gì. Đường đi mà đầu vào chẳng có đầu ra cũng không thì lạ lắm, cứ nghĩ mà xem. Nguyên lý cơ bản của đường đi hoặc sông ngòi là phải chảy. Ngăn lại là chúng sẽ ngưng trệ ngay.

            - Cháu hiểu, - tôi nói. - Giờ có một chuyện nữa cháu muốn hỏi cậu. Cậu có bao giờ nghe tiếng kêu của con chim vặn dây cót trong khu này không?

            - Chim vặn dây cót? - cậu tôi hỏi. - Nó là cái gì vậy?

            Tôi liền giải thích cho cậu về con chim vặn dây cót, rằng nó hay đậu trên cây sau nhà mỗi ngày một lần mà kêu nghe như đang vặn dây cót.

            - Cậu không biết, - ông nói. - Cậu chả bao giờ nhìn hay nghe thấy cái gì như vậy cả. Cậu vốn thích chim, lúc nào cũng luôn chú ý nghe chúng hót, nhưng đây là lần đầu tiên cậu nghe nói về cái giống chim ấy. Ý cháu là nó có liên hệ gì đó với căn nhà à?

            - Không, liên hệ thì cũng không hẳn. Cháu chỉ muốn biết cậu đã bao giờ nghe tiếng nó không thôi.

            - Này cháu, nếu cháu thật sự muốn biết rõ về những chuyện này - tỉ như ai đã sống ở nhà đó sau cậu hay gì gì đó - thì hãy đi hỏi già Ichikawa, đại lý bất động sản ở gần nhà ga ấy. Đó là Công ty bất động sản Setagaya Dai-ichi. Cứ bảo ông ấy là cậu giới thiệu cháu đến. Ông ấy trông coi cái nhà ấy cho cậu đã nhiều năm nay. Ông ấy sống ở khu này từ lâu lắm rồi, nên có thể kể với cháu bất cứ chuyện gì cháu muốn biết. Chính ông ấy kể cho cậu nghe chuyện nhà Miyawaki mà. Ông ấy là kiểu người già ham chuyện, cháu nên đến gặp ông ấy đi.

            - Cám ơn cậu, cháu sẽ đến, - tôi nói.

            - Thế chuyện tìm việc thì ra sao rồi?

            - Chưa ra sao cả ạ. Thú thực với cậu, cháu cũng không cố tìm lắm. Kumiko đi làm, cháu thì lo việc nhà, tạm thời vẫn xoay xở được.

            Cậu tôi hình như ngẫm nghĩ gì đó một chút. Rồi ông nói:

            - Khi nào có chuyện gì cháu không giải quyết được thì cho cậu biết. Có thể cậu sẽ giúp được cháu một tay.

            - Cám ơn cậu, - tôi nói. - Cháu sẽ làm thế.

             Đến đây cuộc trò chuyện chấm dứt.

            Tôi đã định gọi điện cho ông già làm đại lý bất động sản để hỏi về lai lịch căn nhà này và những người từng sống ở đây trước tôi, nhưng nội nghĩ đến chuyện vớ vẩn đó thôi cũng đã thấy buồn cười rồi. Tôi quyết định thôi không gọi nữa.

            Mưa rơi rả rích suốt buổi chiều, làm ướt những mái nhà, ướt cây cối ngoài vườn, ướt đất. Tôi ăn trưa bằng bánh mì với xúp rồi suốt buồi chiều chỉ nằm trên sofa. Tôi muốn đi mua sắm chút đỉnh, nhưng nghĩ đến vết bầm trên má tôi lại do dự. Tôi lấy làm tiếc đã không để râu cứ mọc dài ra. Tôi vẫn còn ít rau củ trong tủ lạnh, một ít đồ hộp trong chạn. Tôi còn gạo, còn trứng. Nếu không đòi hỏi gì nhiều thì tôi vẫn đủ cái ăn trong hai ba ngày nữa.

            Nằm trên sofa, tôi không nghĩ gì hết. Tôi đọc sách, nghe nhạc cổ điển, ngắm mưa rơi ngoài vườn. Khả năng tư duy của tôi hình như đã tụt xuống mức thấp chưa từng có, hẳn vì tôi đã tập trung suy nghĩ quá cao độ một thời gian dài dưới đáy giếng tối bưng. Cứ hễ tôi cố nghĩ đến điều gì đó một cách nghiêm túc là trong đầu lại đau âm ỉ, cứ như bị kẹp vào giữa một cái êtô có đệm mút vậy. Còn mỗi khi cố nhớ lại một cái gì đó là từng cơ bắp, từng dây thần kinh trên người tôi lại như kêu ken két vì phải gắng sức. Tôi cảm thấy như mình đã biến thành gã người thiếc trong truyện Phù thuỷ xứ Oz(1), các khớp tôi đang han gỉ cần phải tra dầu.

            Chốc chốc tôi lại đến bồn rửa mặt kiểm tra vết bầm trên mặt, nhưng nó vẫn không thay đổi. Nó không lan ra cũng không co lại. Màu xanh đen của nó không thẫm hơn cũng không nhạt hơn. Mãi tôi mới nhận ra mình đã bỏ sót không cạo một ít râu nơi môi trên. Vì quá bối rối khi phát hiện vết bầm trên má phải, tôi đã quên cạo nốt cho xong. Tôi lại rửa mặt, phết kem rồi cạo hết chỗ râu còn lại.

            Trong những lần đi soi gương như vậy, tôi nghĩ đến những gì Kano Malta đã nói qua điện thoại: rằng tôi phải cẩn thận, rằng qua kinh nghiệm ta đi đến chỗ tin rằng hình ảnh trong gương là thật. Để cho chắc, tôi vào phòng ngủ soi mặt mình trong tấm gương to bằng thân người mà Kumiko vẫn dùng mỗi khi thay đồ. Nhưng vết bầm vẫn ở đó. Vậy không phải vì gương mới thành vết bầm.

            Tôi không thấy gì khác thường về vật lý ngoại trừ vết bầm. Tôi đo thân nhiệt mình, thấy vẫn bình thường. Ngoài chuyện tôi không đói lắm dù đã gần ba ngày không có gì vào bụng và ngoài chuyện thỉnh thoảng hơi buồn nôn (có lẽ chỉ là tiếp diễn triệu chứng tôi đã bị từ lúc ở dưới giếng) thì thân thể tôi hoàn toàn bình thường.

            Buổi chiều thật êm ả. Điện thoại không hề reo. Chẳng có thư nào đến. Không ai bước xuống ngõ. Chẳng giọng hàng xóm nào quấy rầy sự tĩnh mịch. Chẳng con mèo nào băng qua vườn, chẳng con chim nào tới hót. Thi thoảng có con ve sầu kêu, nhưng không rền vang như mọi khi.

            Chưa tới 7 giờ tôi bắt đầu thấy đói, bèn làm bữa tối gồm thức ăn đóng hộp và rau. Tôi nghe tin buổi chiều trên radio, đã lâu lắm rồi tôi không làm chuyện này, nhưng chẳng có gì đặc biệt xảy ra trên thế giới. Có vài trẻ vị thành niên nào đó chết vì tai nạn ô tô trên đường cao tốc, người lái xe của bọn họ cố vượt một xe khác nhưng không được nên đâm luôn vào tường. Giám đốc và nhân viên chi nhánh một ngân hàng lớn bị cảnh sát điều tra vì một vụ cho vay bất hợp pháp. Một bà nội trợ ba mươi sáu tuổi ở Machida bị một thanh niên dùng búa đánh chết ngoài phố. Nhưng tất cả chỉ là những sự kiện từ một thế giới khác, xa xôi. Điều duy nhất đang diễn ra trong thế giới của tôi là mưa rơi ngoài vườn. Vô thanh. Dịu nhẹ.

            Khi đồng hồ chỉ 9 giờ, tôi chuyển từ sofa lên giường, đọc hết chương sách đang đọc dở rồi tắt đèn đi ngủ.

            Nửa đêm tôi giật thót mình thức dậy giữa chừng một giấc mơ nào đó. Tôi không nhớ được chuyện gì đang xảy ra trong mơ, nhưng có điều chắc rằng giấc mơ đầy căng thẳng, vì tim tôi đang đập thình thịch. Phòng vẫn tối như mực. Tôi thức dậy một hồi mà không nhớ nổi mình đang ở đâu. Phải lát sau tôi mới nhận ra mình đang ở nhà mình, nằm trên giường mình. Kim đồng hồ báo thức cho thấy chỉ mới hơn 2 giờ sáng. Thói quen ngủ bất thường của tôi khi còn ở dưới giếng hẳn là nguyên nhân của cái chu kỳ ngủ rồi lại thức không sao đoán trước được này. Khi đã hết bần thần, tôi thấy buồn tiểu. Có lẽ vì uống bia. Giá như có thể thì tôi chỉ muốn ngủ lại, nhưng không cách nào ngủ lại được. Khi rốt cuộc tôi đành chấp nhận thực tế đó mà ngồi dậy trên giường, tay tôi chạm phải làn da người đang ngủ cạnh tôi. Điều đó chả làm tôi ngạc nhiên. Bao giờ Kumiko cũng ngủ ở đó. Nhưng rồi tôi sực nhớ Kumiko không còn ở với tôi nữa. Nàng bỏ đi rồi. Một người khác đang ngủ cạnh tôi.

            Tôi nín thở bật đèn ngủ. Đó là Kano Creta.

            _____________________________________

            1. The Wizard of Oz, tác phẩm lừng danh viết cho thiếu nhi của L. Frank Baum, minh họa của W. W. Denslow, ấn hành lần đầu năm 1900. Chuyện kể về cuộc phiêu lưu của cô bé Dorothy ở xứ sở hư cấu Oz. Từng được dịch ra nhiều thứ tiếng, nhiều lần được dựng thành nhạc kịch và phim trong đó có bộ phim vào hàng kinh điển dựng vào thời “hoàng kim” của Hollywood (1939). ND.

13

            Chuyện Kano Creta – phần tiếp

            *

            Kano Creta hoàn toàn khỏa thân. Cô nằm quay mặt về phía tôi mà ngủ ngon lành, không mảnh vải che thân, lồ lộ cặp nhũ hoa đẹp đẽ, đôi núm vú nhỏ hồng hồng, dưới cái bụng phẳng lì là màng lông âm hộ hình tam giác đen nhánh trông như khoảng tối trên một bức tranh. Da cô trắng phau, ánh lên như thể vừa mới đúc. Dù băn khoăn không hiểu làm cách nào cô có mặt ở đây được, tôi vẫn không sao rời mắt khỏi tấm thân tuyệt đẹp của cô. Hai đầu gối cô khép chặt vào nhau, hơi gập lại, hai chân xếp đều tăm tắp. Tóc cô xõa về phía trước che nửa mặt khiến tôi không nhìn thấy mắt cô, nhưng rõ là cô đang ngủ rất say: tôi bật đèn ngủ cũng không hề làm cô cục cựa, hơi thở của cô nhẹ và đều. Tuy nhiên, lúc này thì tôi đã tỉnh như sáo. Tôi lấy trong tủ ra một chiếc chăn mỏng nhẹ mùa hè đắp lên người cô. Rồi tôi tắt đèn, vẫn mặc nguyên pijama mà xuống bếp ngồi một lát trên bàn.

            Tôi lại nhớ ra vết bầm. Lấy tay sờ lên, thấy vết nám trên má vẫn âm ấm. Thôi được rồi, vết bầm vẫn ở đó - không phải soi gương làm gì. Đây không phải là loại chuyện vặt qua một đêm là tự biến đi. Tôi nghĩ đến chuyện sáng ra sẽ tìm trong danh bạ điện thoại xem có bác sĩ da liễu nào gần nhà, nhưng nếu bác sĩ hỏi theo tôi nguyên nhân là gì thì tôi biết nói thế nào? Tôi đã ở dưới giếng hai, ba ngày liền. Không, chuyện đó chẳng liên quan gì đến công việc hết. Tôi xuống dưới đó chỉ là để suy nghĩ một chút. Tôi cho rằng đáy giếng là chỗ tốt nhất để mình ngồi suy nghĩ. Không, tôi không mang thức ăn gì theo cả. Không, cái giếng ấy không phải trong cơ ngơi của tôi, nó thuộc về nhà khác. Một căn nhà bỏ không gần nhà tôi. Tôi đã vào mà không xin phép.

            Tôi thở dài. Tôi không thể nói những điều đó với bất cứ ai, dĩ nhiên.

            Tôi chống cùi chỏ lên bàn, rồi tuy không định mà bỗng dưng lại hình dung thân thể trần truồng của Kano Creta một cách thật chi tiết và sống động. Cô vẫn ngủ say trên giường tôi. Tôi nghĩ đến lúc làm tình với cô trong giấc mơ khi cô mặc áo váy của Kumiko. Tôi vẫn còn nguyên ấn tượng rõ rệt về làn da cô, sức nặng của thể xác cô. Nếu không suy xét từng bước một cái sự kiện đó, tôi sẽ không thể phân biệt đâu là thời điểm mà thực tại kết thúc và phi thực tại bắt đầu. Bức tường ngăn giữa hai cõi đó đã bắt đầu tan chảy. Ít nhất là trong ký ức tôi, thực tại và phi thực tại thường trụ ở bên nhau, cùng một sức nặng và cùng sắc nét như nhau. Tôi đã nhập mình vào thân thể Kano Creta, nhưng đồng thời tôi cũng chưa làm vậy bao giờ.

            Để xua khỏi đầu mình những hình ảnh tình dục hỗn độn không đầu không đuôi đó, tôi phải xuống buồng tắm dấp nước lạnh vào mặt. Một chút sau tôi ghé nhìn Kano Creta. Cô vẫn ngủ say. Cô đã đẩy tấm chăn xuống tận thắt lưng. Từ chỗ đang đứng, tôi chỉ nhìn thấy lưng cô. Nó làm tôi nhớ lại lần cuối cùng nhìn thấy lưng Kumiko. Giờ nghĩ lại, tôi thấy lưng Kano Creta giống lưng Kumiko đến kỳ lạ. Mãi đến giờ tôi mới nhận ra sự giống nhau đó là bởi hai người quá khác nhau về kiểu tóc, thị hiếu ăn mặc và cách trang điểm. Hai người cao như nhau và hình như cân nặng cũng như nhau. Có lẽ hai người mặc cùng một cỡ quần áo.

            Tôi mang tấm chăn dùng cho mùa hè lên phòng khách, nằm dài lên sofa rồi mở sách ra. Tôi đang đọc một cuốn sách lịch sử mượn của thư viện. Sách viết về việc Nhật Bản cai trị Mãn Châu thời trước chiến tranh và về trận chiến với quân đội Xô Viết ở Nomonhan. Câu chuyện của Trung uý Mamiya đã khơi dậy trong tôi mối quan tâm đến những sự kiện xảy ra ở Trung Hoa đại lục vào thời đó, nên tôi đã mượn vài cuốn sách về chủ đề này. Tuy nhiên, chưa đọc được mười phút về những tường thuật lịch sử chi tiết thì tôi đã buồn ngủ rũ. Tôi đặt sách xuống sàn nhà, định chỉ nghỉ mắt một chút, nhưng rồi lập tức rơi vào giấc ngủ sâu, đèn vẫn để sáng.

            Một tiếng động từ dưới bếp làm tôi thức dậy. Tôi xuống bếp xem sao thì thấy Kano Creta đã ở đó, đang làm bữa điểm tâm. Cô mặc áo phông và quần soóc xanh, tất cả đều của Kumiko.

            - Quần áo của cô đâu? - tôi đứng ở cửa bếp mà hỏi.

            - Ồ, tôi xin lỗi. Ông ngủ say quá, nên tôi mạn phép mượn ít quần áo của bà nhà, tôi biết mình làm thế là hết sức tự tiện, nhưng tôi không có gì để mặc hết, - Kano Creta nói, chỉ ngoái đầu lại nhìn tôi. Không biết tự lúc nào kể từ khi tôi gặp cô ta lần cuối, cô đã trở lại lối ăn mặc và trang điểm thịnh hành hổi thập niên 1960, chỉ thiếu mỗi cặp mi giả.

            - Không sao cả, - tôi nói. - Tôi chỉ muốn biết quần áo của cô ra làm sao rồi.

            - Tôi mất hết quần áo rồi, - cô đáp giản dị.

            - Mất?

            - Vâng. Tôi mất hết quần áo ở đâu đó.

            Tôi bước vào bếp, tựa vào bàn quan sát Kano Creta làm món trứng tráng. Bằng những động tác khéo léo, cô đập trứng, thêm gia vị rồi đánh trứng.

            - Nghĩa là khi đến đây thì cô đã trần truồng rồi?

            - Vâng, đúng thế, - Kano Creta nói, như thể đó là điều tự nhiên nhất trên đời. - Tôi hoàn toàn trần truồng. Ông biết mà, ông Okada. Chính ông đã đắp chăn lên người tôi.

            - Ừ, đúng, - tôi lẩm bẩm. - Nhưng tôi vẫn muốn biết cô đã mất hết quần áo ở đâu, bằng cách nào, và làm sao cô tới đây được khi trên người không có tí quần áo nào?

            - Tôi cũng chẳng biết gì hơn ông, - Kano Creta vừa nói vừa lắc chảo cho trứng dàn đều ra.

            - Cô cũng chẳng biết gì hơn tôi, - tôi lặp lại.

            Kano Creta chuyển trứng tráng lên đĩa rồi cho thêm ít nhánh bông cải hấp. Cô cũng đã nướng bánh mì đặt sẵn trên bàn cùng cà phê. Tôi lấy bơ, muối và tiêu ra. Thế rồi, như một cặp vợ chồng mới cưới, chúng tôi ngồi vào bàn ăn sáng, đối diện nhau.

            Chỉ khi đó tôi mới nhớ ra vết bầm. Kano Creta không hề tỏ ra ngạc nhiên mỗi khi nhìn tôi, cũng chẳng hỏi gì tôi về nó. Tôi đưa tay sờ chỗ đó thì thấy nó vẫn âm ấm như trước.

            - Có đau không, ông Okada?

            - Không, không đau, - tôi đáp.

            Kano Creta nhìn đăm đăm vào mặt tôi.

            - Trông như vết bầm ấy, - cô nói.

            - Tôi cũng thấy nó giống vết bầm, - tôi nói. - Tôi tự hỏi không biết có nên đi bác sĩ không.

            - Tôi e rằng bác sĩ không giúp được gì đâu.

            - Có thể cô có lý, - tôi nói. - Nhưng tôi không thể cứ để vậy được.

            Nĩa cầm trong tay, Kano Creta ngẫm nghĩ một chút.

            - Nếu ông cần mua sắm hay làm việc gì, tôi có thể giúp ông. Ông có thể ở nhà bao lâu cũng được nếu ông không muốn ra ngoài.

            - Rất cám ơn cô, nhưng hẳn cô cũng có việc cần làm, tôi thì cũng không thể ru rú ở nhà mãi được.

            Kano Creta lại ngẫm nghĩ một chút nữa.

            - Kano Malta chắc có thể biết cách xử trí chuyện này.

            - Vậy cô có thể làm ơn liên hệ với cô ấy giúp tôi không?

            - Kano Malta chủ động liên lạc với người khác thì được, nhưng chị ấy không cho phép người khác liên lạc với chị ấy, - Kano Creta vừa nói vừa cắn một miếng bông cải.

            - Nhưng cô thì chắc phải liên lạc với cô ấy được chứ?

            - Dĩ nhiên. Chúng tôi là chị em mà.

            - Vậy thì lần sau gặp cô ấy, sao cô không hỏi về vết bầm của tôi xem sao? Hoặc cô có thể đề nghị cô ấy liên lạc với tôi.

            - Tôi xin lỗi, nhưng việc đó tôi không làm được. Tôi không được phép hỏi han chị tôi thay mặt người khác. Đó là một quy tắc giữa hai chị em tôi.

            Tôi vừa phết bơ lên bánh mì vừa thở dài.

            - Ý cô là nếu tôi có chuyện gì muốn hỏi Kano Malta thì cũng chỉ có cách ngồi đợi đến khi cô ấy liên lạc với tôi sao?

            - Vâng, ý tôi là thế, - Kano Creta nói. Đoạn cô gật đầu. - Nhưng về vết bầm ấy mà. Trừ phi nó đau hoặc ngứa, còn thì tôi đề nghị ông tạm thời quên nó đi. Tôi thì chẳng bao giờ để những chuyện như vậy làm bận trí mình. Ông cũng không nên để nó làm bận trí ông, ông Okada ạ. Thỉnh thoảng người ta cũng gặp chuyện như thế mà.

            - Tôi không biết nữa, - tôi nói.

            Trong vài phút sau đó chúng tôi tiếp tục im lặng ăn. Đã khá lâu tôi không cùng ăn điểm tâm với người khác nên bữa điểm tâm này thấy ngon kỳ lạ. Khi tôi nói vậy với Kano Creta như thế, cô tỏ vẻ thích thú.

            - Thế còn... quần áo cô ấy mà...

            - Ông có phiền khi tôi mặc quần áo của vợ ông mà không xin phép không? - cô hỏi, vẻ lo lắng thấy rõ.

            - Không, không phiền gì đâu. Cô mặc gì của Kumiko thì cứ mặc thôi. Dù gì cô ấy cũng đã bỏ lại hết ở đây mà. Tôi chỉ muốn biết làm cách nào cô mất hết quần áo của cô được.

            - Không chỉ mất quần áo đâu. Cả giày nữa.

            - Làm sao lại thế?

            - Tôi không nhớ được, - Kano Creta nói. - Tôi chỉ biết khi thức dậy đã thấy mình đang ở trên giường của ông, chẳng có tí quần áo nào. Tôi không nhớ chuyện gì đã xảy ra trước đó.

            - Cô đã xuống dưới giếng đúng không nào, sau khi tôi đi ấy?

            - Chuyện ấy thì tôi nhớ. Rồi tôi thiếp đi dưới đó. Nhưng sau đó thì tôi không nhớ gì cả.

            - Nghĩa là cô hoàn toàn không nhớ mình đã ra khỏi giếng bằng cách nào?

            - Vâng. Có một khoảng trống trong trí nhớ của tôi. - Kano Creta chìa hai ngón trỏ ra cách nhau khoảng hai mươi phân. Cái khoảng cách đó đại diện cho quãng thời gian bao lâu, tôi thật không hiểu nổi.

            - Vậy chắc cô cũng không nhớ mình đã làm gì cái thang. Nó biến mất rồi.

            - Tôi chẳng biết gì về cái thang cả. Thậm chí tôi không nhớ mình có leo lên thang để ra khỏi giếng hay không cơ mà.

            Tôi nhìn cốc cà phê trong tay mình một lát.

            - Cô có thể cho tôi xem lòng bàn chân cô không? - tôi hỏi.

            - Được chứ, - Kano Creta nói. Cô ngồi xuống chiếc ghế cạnh tôi, duỗi hai chân về phía tôi để tôi có thể thấy hai lòng bàn chân cô. Tôi giữ hai gót chân cô trong tay mình rồi xem xét lòng bàn chân cô. Sạch bong. Hình dáng thật xinh xẻo, hai lòng bàn chân cô không có lấy một tì vết - không xước, không lấm bùn, không gì cả.

            - Không lấm, không xước, - tôi nói.

            - Vâng, - Kano Creta nói.

            - Hôm qua trời mưa suốt ngày. Nếu cô đánh mất giày ở đâu đó rồi đi bộ đến đây thì chân cô phải lấm bùn chứ. Cô lại còn phải băng qua vườn mới vào đây được. Thế nhưng chân cô sạch bong, không có tí bùn nào cả.

            - Vâng.

            - Nghĩa là cô chẳng hề từ đâu đó đi chân trần đến đây.

            Kano Creta nghiêng đầu qua một bên tỏ vẻ bối rối.

            - Ông lập luận rất logic.

            - Logic thì có thể logic, nhưng chẳng đưa chúng ta tới đâu hết, - tôi nói. - Cô đã mất hết quần áo, kể cả giày nữa ở đâu, cô đã đi từ đó đến đây bằng cách nào?

            Kano Creta lắc đầu.

            - Tôi không hiểu gì hết, - cô nói.

            * * *

            Trong khi cô đứng bên bồn chăm chú rửa bát, tôi đứng ở bàn bếp ngẫm nghĩ về toàn bộ chuyện này. Dĩ nhiên, tôi cũng chẳng hiểu gì hết.

            - Chuyện ấy có hay xảy ra với cô không - đại loại như cô không thể nhớ mình đã ở đâu ấy? - tôi hỏi.

            - Đây không phải là lần đầu tôi gặp chuyện này - tự dưng không nhớ được mình đã ở đâu hay làm gì. Không phải là xảy ra luôn, nhưng thỉnh thoảng có xảy ra. Có lần tôi cũng đã mất vài thứ quần áo. Nhưng đây là lần đầu tiên tôi mất hết quần áo, mất cả giày nữa.

            Kano Creta tắt nước rồi lau bàn bằng một chiếc khăn lau bát.

            - Creta này, cô vẫn chưa kể hết mọi chuyện cho tôi nghe. Lần trước cô kể đến nửa chừng câu chuyện thì lại bỏ ngang mà đi mất. Cô nhớ không? Nếu được, tôi muốn nghe nốt phần còn lại. Cô đã kể đến chỗ bọn găngxtơ bắt cóc cô và ép cô phải làm điếm cho chúng, song những gì xảy ra sau khi cô gặp Wataya Noboru và ngủ với hắn thì cô chưa kể.

            Kano Creta tựa người vào bồn rửa bát nhìn tôi. Những giọt nước trên hai bàn tay cô chảy xuống mấy đầu ngón tay rồi rỏ xuống sàn nhà. Hình dáng hai núm vú cô nổi rõ qua làn áo phông trắng, gợi nhớ sinh động đến tấm thân trần truồng mà tôi đã thấy hồi đêm.

            - Thôi được. Tôi sẽ kể với ông về tất cả những gì xảy ra sau đó. Ngay bây giờ.

            Kano Creta lại ngồi xuống chiếc ghế đối diện tôi.

            - Ông Okada ạ, sở dĩ lần trước tôi bỏ đi khi đang kể nửa chừng câu chuyện là vì lúc ấy tôi chưa sẵn sàng kể hết. Tôi đã bắt đầu kể chuyện mình chỉ vì cảm thấy cần phải kể cho ông biết sự thật về những gì đã xảy ra với tôi, càng trung thực càng tốt. Nhưng rồi tôi cảm thấy không sao kể đến cùng được. Hẳn ông đã rất ngạc nhiên thấy tôi đột ngột bỏ đi như vậy.

            Kano Creta đặt hai tay lên bàn, vừa nói vừa nhìn thẳng vào tôi.

            - Phải, tôi đã rất ngạc nhiên, tuy rằng đấy không phải điều làm tôi ngạc nhiên nhất từ đó trở về sau.

            * * *

            Như tôi đã kể với ông, người khách cuối cùng mà tôi tiếp trong tư cách điếm xác thịt là Wataya Noboru. Lần thứ hai tôi gặp hắn - khi đó hắn là khách của Kano Malta - tôi nhận ra ngay. Tôi không thể nào quên hắn được. Hắn có nhớ tôi không thì tôi không biết. Wataya không phải là người hay lộ cảm xúc.

            Nhưng thôi, để tôi quay lại kể mọi chuyện theo trình tự lớp lang. Đầu tiên tôi sẽ kể cho ông nghe lần tôi tiếp Wataya Noboru với tư cách khách hàng. Chuyện đó cách đây sáu năm.

            Như tôi đã kể cho ông, lúc ấy tôi đang ở tình trạng không biết đau là gì cả. Mà không chỉ đau: tôi hoàn toàn không có bất kỳ loại cảm giác nào. Tôi sống trong một cơn vô cảm sâu không đáy. Dĩ nhiên, nói thế không phải là tôi hoàn toàn mất khả năng cảm giác, vì mỗi khi tiếp xúc với cái gì đó nóng, lạnh hoặc gây đau, tôi đều biết hết. Chỉ có điều, những cảm giác đó như thể đến với tôi từ xa, từ một thế giới khác chẳng liên quan gì đến tôi. Chính vì vậy tôi không có gì phản đối việc quan hệ xác thịt với đàn ông để kiếm tiền. Dù người ta làm gì tôi đi nữa, những cảm giác mà tôi thấy đó có thuộc về tôi đâu. Thể xác vô cảm của tôi không phải là thể xác của tôi.

            Rồi thì, xem nào, tôi đã kể với ông chuyện đám xã hội đen đã tuyển tôi vào đường dây gái điếm của họ. Họ bảo tôi ngủ với đàn ông thì tôi ngủ, họ trả tiền cho tôi thì tôi nhận. Kể đến đó thì tôi bỏ đi.

            Tôi gật đầu.

            - Hôm đó họ bảo tôi đến một phòng trên tầng mười sáu một khách sạn dưới phố. Vị khách có cái tên không bình thường là Wataya. Tôi gõ cửa đi vào thì thấy ông ta đang ngồi trên sofa. Hình như ông ta đang vừa uống cà phê phục vụ buồng mang lên vừa đọc sách. Ông ta mặc áo phông thể thao màu xanh lục, quần vải bông màu nâu. Ông ta tóc cắt ngắn, đeo kính gọng nâu. Trên bàn cà phê trước mặt ông ta là chiếc tách, ấm cà phê và cuốn sách. Ông ta có vẻ vừa chìm đắm rất sâu vào việc đọc: một ánh nồng nhiệt nào đó vẫn còn đọng lại trong mắt ông ta. Nét mặt ông ta chẳng có gì đặc biệt lắm, nhưng cặp mắt ông ta lóe lên một sức sống hầu như bất thường, phi tự nhiên. Lần đầu nhìn thấy cặp mắt đó, tôi cứ nghĩ mình vào nhầm phòng. Nhưng tôi không nhầm phòng. Người đàn ông bảo tôi vào rồi khóa cửa lại.

            Vẫn ngồi trên sofa, không nói không rằng, ông ta đưa mắt nhìn khắp người tôi. Từ đầu đến chân. Thường là vậy: mỗi khi tôi vào phòng gặp khách hàng, hầu như ai cũng săm soi khắp người tôi như thế. Xin lỗi ông Okada, cho tôi hỏi câu này: đã bao giờ ông đi gái chưa?

            Tôi bảo là chưa.

            - Cứ như là họ đang săm soi một món hàng. Nhưng rồi cũng nhanh quen với những cái nhìn đó thôi. Dù gì họ cũng trả tiền để mua xác thịt mà, họ xem xét kỹ món hàng thì cũng phải. Nhưng cách người đàn ông kia nhìn tôi thì khác hẳn. Dường như ông ta đang nhìn xuyên qua thể xác tôi vào một cái gì đó ở phía bên kia. Mắt ông ta khiến tôi bối rối, như thể tôi đã biến thành một người nửa trong suốt vậy.

            Hẳn là tôi đã hơi lúng túng. Tôi đánh rơi túi xách xuống sàn. Nó làm vang lên một tiếng động nhỏ, nhưng tôi đang thất thần đến nỗi trong một thoáng tôi không biết mình vừa làm gì. Rồi tôi cúi xuống nhặt túi lên. Chiếc khóa bấm đã bung ra khi chạm đất, vài thứ mỹ phẩm của tôi rơi ra ngoài. Tôi nhặt bút kẻ lông mày, son môi và một chai nước hoa nhỏ lên, cho lại vào túi từng thứ một. Suốt khoảng thời gian đó ông ta vẫn nhìn tôi chòng chọc.

            Khi tôi đã nhặt nhạnh các thứ rơi trên sàn cho lại vào túi xách xong, ông ta liền bảo tôi cởi quần áo. Tôi hỏi ông ta xem liệu trước tiên tôi có thể tắm một chút không, vì tôi bị đổ mồ hôi hơi nhiều. Hôm đó trời nóng, lúc ở trên xe điện tôi đã vã mồ hôi. Nhưng ông ta bảo không sao hết. Ông ta không có nhiều thời gian. Ông ta muốn tôi cởi ngay lập tức.

            Khi tôi đã trần truồng rồi, ông ta bảo tôi nằm lên giường úp mặt xuống, tôi liền làm theo. Ông ta ra lệnh tôi nằm im không động đậy, nhắm mắt lại, không được nói gì chừng nào ông ta chưa bảo nói.

            Ông ta mặc nguyên quần áo mà ngồi xuống cạnh tôi. Ông ta ngồi thế, chẳng làm gì cả. Ông ta không đụng một ngón tay lên người tôi. Ông ta chỉ ngồi ngắm thân thể trần truồng của tôi. Ông ta cứ làm thế khoảng mười phút trong khi tôi nằm đó không động đậy, mặt úp xuống. Tôi cảm thấy cặp mắt ông ta xoáy vào sau cổ tôi, vào lưng, vào mông, vào chân tôi, riết róng đến đau đớn. Tôi chợt nghĩ có khi ông ta bị bất lực. Thỉnh thoảng tôi vẫn gặp những khách hàng như vậy. Họ trả tiền mua gái điếm, bảo điếm cởi quần áo rồi ngồi nhìn. Cũng có người bảo cô gái cởi quần áo rồi tự sát ngay trước mặt cô ta. Có đủ loại người đi tìm gái điếm, vì đủ thứ lý do. Có lẽ đây là một trong số đó chăng?

            Tuy nhiên, sau một chốc, ông ta chìa tay ra và bắt đầu sờ soạng tôi. Mười ngón tay ông ta chầm chậm di chuyển dọc người tôi, từ vai xuống lưng, từ lưng xuống mông, như tìm kiếm cái gì đó. Đấy không phải kiểu mơn trớn trước khi làm tình, và dĩ nhiên cũng không phải là xoa bóp. Những ngón tay ông ta di chuyển trên người tôi hết sức thận trọng, như thể lần theo một con đường trên bản đồ. Và suốt khoảng thời gian chạm vào thể xác tôi, ông ta dường như đang suy nghĩ - không phải theo nghĩa bình thường của từ này, mà là nghiền ngẫm về cái gì đó, một cách tập trung cao độ.

            Có lúc những ngón tay ông ta dường như lang thang bất định chỗ này chỗ nọ, nhưng rồi chỉ khoảnh khắc sau chúng đã dừng lại hồi lâu ở một chỗ. Dường như chính những ngón tay cũng từ bối rối chuyển sang xác tín. Tôi nói có rõ ý không nhỉ? Mỗi ngón tay dường như đều sống và suy nghĩ, đều có một ý chí của riêng nó. Đó là một cảm giác thật kỳ lạ. Kỳ lạ và gây bất an.

            Thế nhưng, sự động chạm của ngón tay ông ta lại làm tôi hứng tình. Lần đầu tiên trong đời tôi. Trước khi tôi trở thành gái điếm, tình dục không gây cho tôi cảm giác gì khác ngoài đau đớn. Chỉ nghĩ đến tình dục thôi là tôi đã sợ chết khiếp, sợ vì biết mình sẽ lại phải chịu đau đến thế nào. Nhưng sau khi tôi thành điếm thì hoàn toàn ngược lại: tôi chẳng cảm thấy gì hết. Tôi không thấy đau nữa, nhưng cũng không có cảm giác nào khác. Tôi vẫn thở hổn hển, vờ tỏ ra khoái lạc để làm vui lòng khách, nhưng đó toàn là giả dối, một màn kịch chuyên nghiệp. Nhưng khi hắn ta động chạm tôi, tiếng thở của tôi là thực. Chúng thoát ra từ những vùng sâu thẳm nhất trong tôi. Tôi biết một cái gì đó bên trong tôi đã bắt đầu chuyển động, như thể trọng tâm của tôi đã thay đổi vị trí bên trong cơ thể tôi, khi sang chỗ này lúc sang chỗ khác.

            Cuối cùng, người đàn ông ngừng di chuyển các ngón tay. Hai tay đặt trên thắt lưng tôi, hình như hắn đang suy nghĩ. Qua những đầu ngón tay hắn, tôi biết hắn đang cố trấn tĩnh, đang lặng lẽ cố kìm nhịp thở. Rồi hắn bắt đầu chậm rãi cởi quần áo. Tôi vẫn nhắm mắt, vùi mặt vào gối, đợi xem sau thế nào. Khi đã trần truồng, hắn banh rộng tay chân tôi ra.

            Căn phòng im lặng đến đáng sợ. m thanh duy nhất là tiếng ro ro khe khẽ của máy điều hòa nhiệt độ. Bản thân gã đàn ông không phát ra một tiếng động nào. Thậm chí tôi không nghe được tiếng hắn thở. Hắn đặt hai lòng bàn tay lên lưng tôi. Dương vật hắn chạm vào mông tôi, nhưng nó vẫn còn mềm.

            Ngay khi đó điện thoại trên bàn ngủ reo. Tôi mở mắt, ngoái đầu lại nhìn mặt người đàn ông, nhưng hình như hắn không biết điện thoại đang reo. Nó reo tám, chín lần rồi ngưng. Căn phòng lại trở nên im lặng.

            Kể đến đây Kano Creta ngừng lại, hít thở mấy hơi đều đặn. Cô im lặng nhìn hai bàn tay mình.

            - Xin lỗi, tôi nghỉ một chút được không ạ?

            - Được chứ, - tôi nói. Tôi rót thêm cà phê rồi uống một ngụm. Cô thì uống nước lạnh. Chúng tôi ngồi đó không nói gì trong khoảng mươi phút.

            - Những ngón tay hắn lại bắt đầu chuyển động, sờ soạng từng bộ phận thân thể tôi, - Kano Creta nói tiếp. - Sờ hết, không chừa một chỗ nào. Tôi không còn nghĩ được gì nữa. Tiếng tim tôi đập inh cả hai tai tôi, đập thình thịch nhưng chậm đến kỳ lạ. Tôi không kiểm soát được mình nữa. Tôi cứ kêu ồi ồi hết lần này đến lần khác trong khi hắn vuốt ve mơn trớn tôi. Tôi cố điều khiển giọng mình, nhưng một kẻ nào khác đang dùng giọng của tôi mà rền rĩ kêu thét. Tôi cảm thấy như mọi đinh ốc trong cơ thể tôi đều nhất loạt lỏng ra. Thế rồi, sau một chập rất lâu, hắn thọc một cái gì đó vào tôi từ phía sau. Nó là cái gì, tôi chịu không biết. Nó rất to, rất cứng, nhưng không phải là dương vật hắn. Điều đó thì tôi tin chắc. Khi đó tôi đã nghĩ: mình đoán đúng, hắn bị bất lực.

            Dù hắn đút cái gì vào tôi đi nữa, nó làm tôi cảm thấy đau lần đầu tiên kể từ khi tự tử không thành - một cái đau thực sự, đau tê tái thuộc về tôi chứ không phải ai khác. Nói thế nào nhỉ? Cái đau ấy dữ dội đến hầu như không thể hình dung, dường như thể xác tôi bị xé làm đôi từ bên trong. Thế nhưng, dù đau đớn khủng khiếp là vậy, tôi quằn quại không chỉ vì đau mà còn bởi khoái lạc. Khoái lạc và đau đớn là một. Ông có hiểu ý tôi không? Đau đớn dựa trên khoái lạc, khoái lạc dựa trên đau đớn. Tôi phải hứng chịu cả hai như là một thể duy nhất. Trong cơn đau đớn và khoái lạc đó, thể xác tôi tiếp tục tách làm đôi. Tôi chẳng cách nào ngăn không cho điều đó xảy ra. Thế rồi một cái gì rất kỳ lạ xảy ra. Từ giữa hai nửa xác vừa tách đôi ấy của tôi bò ra một cái gì đó mà tôi chưa bao giờ thấy, chưa bao giờ đụng tới. Nó to thế nào tôi không biết, nhưng nó ướt và trơn như đứa trẻ sơ sinh. Tôi hoàn toàn không biết nó là cái gì. Nó vẫn luôn luôn ở trong tôi từ trước đến nay, nhưng tôi hoàn toàn chẳng hay biết gì về nó. Gã đàn ông này đã lôi nó ra khỏi tôi.

            Tôi muốn biết nó là cái gì. Tôi muốn nhìn thấy nó bằng chính mắt tôi. Dù gì nó cũng là một phần của tôi, tôi có quyền nhìn thấy nó. Nhưng không thể. Tôi bị nuốt chửng trong dòng thác khoái lạc và đau đớn. Tôi là một khối thịt thuần túy vật lý, chỉ có khả năng rền rĩ, nhỏ dãi, vặn vẹo đôi hông. Thậm chí mở mắt còn không mở được nữa là.

            Thế rồi tôi đạt cực khoái tình dục - dẫu không hẳn là cực khoái, đúng hơn là tôi như bị ném từ mỏm đá cao xuống vậy. Tôi thét lên, cảm thấy như từng khuôn kính trong phòng đều vỡ vụn ra. Mà không chỉ cảm thấy: tôi thực sự nhìn thấy và nghe thấy cửa sổ và ly tách thảy đều vỡ vụn thành từng mảnh li ti như cám, cảm thấy chúng trút xuống tôi như mưa. Rồi tôi thấy buồn nôn trong dạ dày. Ý thức tôi bắt đầu trôi tuột đi, thân thể tôi hóa lạnh. Tôi biết nói thế này nghe lạ, nhưng tôi cảm thấy mình đã biến thành một bát cháo đặc lạnh tanh, đặc sệt, vón cục, những cục đó cứ giần giật một cách chậm chạp, kềnh càng, theo từng nhịp đập của tim tôi. Tôi nhận ra cơn giần giật này: nó từng xảy ra với tôi trước đây rồi. Chẳng cần mất nhiều thời gian để tôi nhớ ra nó là cái gì. Tôi biết nó là cái đau âm ỉ, chí tử, không bao giờ dứt mà tôi từng trải qua trước lần tự tử không thành. Và, giống như thanh nạy, cái đau đó ẩy bật nắp đậy ý thức của tôi lên - ẩy bật nắp ra bằng một sức mạnh không cưỡng nổi, thế rồi, ngoài ý muốn của tôi, lôi tuột cái nội dung ký ức đã đông thành thạch của tôi ra ngoài. Nói thì nghe lạ, tôi giống như một người chết đang quan sát người ta mổ khám nghiệm tử thi của chính mình. Ông có hiểu ý tôi không? Tôi thấy như mình đang từ một điểm cao quan sát người ta mổ banh thân thể rồi lôi những nội tạng trơn nhẫy ra khỏi tôi, từng cái một.

            Tôi vẫn nằm đó, rớt dãi bê bết lên gối, toàn thân co giật, són đái. Tôi biết cần phải kiểm soát được chính mình, nhưng tôi không còn khả năng kiểm soát nữa. Từng ốc vít trong thân thể tôi không chỉ lỏng lẻo mà còn rơi hẳn ra. Trong ý thức tối sầm, tôi cảm thấy một cách riết róng rằng mình cô đơn và bất lực đến nhường nào. Mọi thứ đều phọt ra khỏi tôi. Mọi thứ trong tôi, những cái có hình dạng và những cái vô hình vô dạng, tất cả đều biến thành chất lỏng tuôn qua thịt tôi ra ngoài như nước bọt hay nước tiểu. Tôi biết mình không được để điều đó xảy ra, rằng tôi không được để chính mình chảy hết ra ngoài và mất đi vĩnh viễn như thế, nhưng tôi không thể làm gì để ngăn dòng chảy đó lại. Tôi chỉ có thể nhìn dòng lưu xuất đó diễn ra. Cứ thế kéo dài trong bao lâu, tôi không biết. Dường như toàn bộ ký ức tôi, toàn bộ ý thức tôi đã trôi tuột đi hết. Tất cả những gì từng ở trong tôi giờ đều ở ngoài tôi. Cuối cùng, như một bức màn nặng rơi xuống, bóng tối trùm lấy tôi trong một khoảnh khắc.

            Và khi tôi tỉnh lại, tôi đã là một người khác.

            Đến đây Kano Creta ngừng nói, nhìn tôi.

            - Chuyện xảy ra như thế, - cô nhẹ nhàng nói.

            Tôi không nói gì, chỉ đợi cô kể nốt phần còn lại của câu chuyện.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro