Biên niên ký chim vặn dây cót phần 2

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

14

            Điểm xuất phát mới của Kano Creta

            *

             Kano Creta kể tiếp câu chuyện.

            Suốt mấy ngày sau đó tôi sống trong cảm giác thân thể mình đã rời ra thành từng mảnh. Khi đi bộ, tôi không cảm thấy chân mình chạm đất. Khi ăn, tôi không cảm thấy mình đang nhai cái gì. Dù ngồi yên tôi cũng có cái cảm giác khủng khiếp là thân thể tôi hoặc đang rơi mãi không ngừng hoặc đang trôi dưới quả bóng bay khổng lồ trong không gian vô tận. Tôi không còn kết nối được những cử động và cảm giác của thân thể tôi. Những cử động và cảm giác của thân thể, chúng cứ vận hành theo ý chúng mà chẳng liên quan gì đến ý chí của tôi, chẳng có trật tự hay phương hướng nào hết. Mà tôi thì chẳng thể nào an định cơn hỗn loạn trầm kha này. Tôi chỉ còn cách đợi cho mọi cái ổn lại dần khi đến đúng hạn kỳ của nó. Tôi giam mình trong buồng riêng từ sáng đến tối, hầu như chẳng ăn gì, nói thác với gia đình rằng tôi không được khoẻ.

            Mấy ngày trôi qua như thế, ba bốn ngày gì đó. Thế rồi hết sức đột ngột, mọi thứ nguôi đi, như thể cơn gió dại ào qua rồi đi mất. Tôi nhìn quanh, rồi xem xét chính mình, và tôi nhận ra mình đã trở thành một con người mới, hoàn toàn khác tôi trước kia. Đây là cái tôi thứ ba của tôi. Cái tôi đầu tiên là cái tôi đã từng bị đày đoạ bởi cái đau vô cùng tận. Cái tôi thứ hai là cái tôi từng sống trong tình trạng vô cảm hoàn toàn không biết đến cái đau. Cái tôi đầu tiên là tôi ở trạng thái nguyên thuỷ, không sao dứt được khỏi cổ cái ách nặng trình trịch của cái đau. Và khi tôi thử dứt bỏ nó – nghĩa là khi tôi thử tự sát mà không được – tôi đã trở thành cái tôi thứ hai: một cái tôi trung gian. Quả thật là cái đau từng hành hạ tôi cho đến lúc đó đã biến mất, nhưng đồng thời mọi cảm giác khác cũng cùng với nó mà thoái lui, mờ nhạt đi. Ý chí muốn sống của tôi, sinh lực của thể xác tôi, khả năng tập trung tư tưởng của tôi, tất cả đều biến mất cùng cái đau. Và khi tôi đã kinh qua chặng quá độ kỳ lạ đó thì sinh ra một cái tôi hoàn toàn mới. Liệu cái tôi này có phải là cái tôi mà tôi cần phải trở thành sau khi trải qua toàn bộ chuyện đó không, tôi không biết. Nhưng tôi có cái cảm giác, dù có thể mù mờ đến đâu đi nữa, rằng ít nhất tôi đang đi đúng hướng.

            Kano Creta ngước mắt lên nhìn tôi như muốn nghe xem tôi có ấn tượng thế nào về những gì cô kể. Hai tay cô vẫn đặt trên bàn.

            - Vậy là cô muốn nói rằng chính gã đàn ông đó đã cho cô một cái tôi mới, phải không? - tôi nói.

            - Có lẽ vậy – Kano Creta gật đầu nói. Khuôn mặt cô vô cảm như đáy một cái ao cạn.

            - Được gã đàn ông đó vuốt ve, ôm ấp, nhờ hắn mà được hưởng khoái cảm tình dục ghê gớm đến nhường đó lần đầu tiên trong đời, tôi trải qua một sự thay đổi lớn lao về thể xác. Tại sao điều đó xảy ra, và tại sao chính gã đàn ông đó chứ không phải ai khác làm điều đó xảy ra, tôi không thể hiểu. Nhưng dù thế nào thì thế, sự thực vẫn là kết cuộc tôi thấy mình ở trong một vỏ bọc hoàn toàn mới. Và khi đã vượt qua cơn bấn loạn sâu xa mà ban nãy tôi vừa nói, tôi muốn nhận lấy cái tôi mới này như là “cái tôi đúng hơn”, dù chỉ vì một lý do rằng tôi đã thoát được khỏi cơn vô cảm triền miên vốn từng là ngục tù nghẹt thở đối với tôi.

            Nhưng dẫu sao cái dư vị khó chịu vẫn còn dai dẳng suốt một thời gian dài như một cái bóng đen. Mỗi khi nhớ lại mười ngón tay hắn đã đút vào trong tôi, mỗi khi nhớ lại cái thứ lùm lùm, nhơn nhớt đã chui ra khỏi (hay là theo tôi cảm thấy đã chui ra khỏi) người tôi, tôi lại thấy bất an khủng khiếp. Trong tôi tràn ngập nỗi căm giận - và thất vọng – mà tôi không thể làm gì được. Tôi muốn xoá sạch chuyện xảy ra ngày hôm đó ra khỏi ký ức, nhưng điều đó tôi không làm được bởi gã đàn ông kia đã mở tung một cái gì đó sâu trong thân thể tôi. Cảm giác mình đã bị bật tung cứ bám riết lấy tôi, khăng khít không rời với ký ức về gã đàn ông đó, cùng với cảm giác rõ ràng mình đã bị ô uế. Đó là một cảm giác thật mâu thuẫn. Ông có hiểu ý tôi không? Sự biến đổi đã xảy ra với tôi kia hiển nhiên là đúng, là chính đáng, nhưng sự biến đổi đó gây ra bởi một cái gì đó cực bẩn thỉu, một cái gì đó sai trái. Sự mâu thuẫn này – sự giằng xé này – cứ giày vò tôi suốt một thời gian rất lâu.

            Kano Creta lại nhìn hai bàn tay mình đang đặt trên bàn.

            - Sau đó tôi thôi không bán mình nữa. Việc đó chẳng còn ý nghĩa gì nữa, - khuôn mặt Kano Creta vẫn vô cảm.

            - Cô chỉ đơn giản bỏ ngang thế được à? – tôi hỏi.

            Cô gật đầu.

            - Vâng, thế thôi. Tôi không nói gì với ai, chỉ thôi không bán mình nữa, nhưng chẳng sao cả. Tôi hầu như không ngờ lại dễ dàng đến thế. Tôi cứ nghĩ người ta ít nhất cũng sẽ gọi điện cho tôi, tôi đã chuẩn bị tinh thần cho cái lúc đó, nhưng đợi mãi không thấy. Họ không nói năng gì với tôi hết. Họ biết địa chỉ của tôi. Họ biết số điện thoại của tôi. Họ có thể đe doạ tôi chứ. Nhưng chẳng có gì xảy ra cả.

            Vậy, ít nhất là ở bề ngoài, tôi đã trở thành một cô gái bình thường. Đến lúc đó tôi đã trả hết cho bố mẹ những gì tôi còn nợ, lại dành dụm được một khoản tiền kha khá. Với số tiền tôi trả, ông anh tôi đã mua một chiếc ô tô mới cáu khác để lại phí thời giờ lái loanh quanh, nhưng anh ấy chẳng bao giờ hình dung nổi tôi đã phải làm gì để trả nợ cho anh ấy.

            Tôi cần thời gian làm quen với cái tôi mới của mình. Cái tôi mới này của tôi, nó là loại sinh thể nào? Nó vận hành ra sao? Nó cảm thấy cái gì, cảm thấy thế nào? Từng thứ một như vậy tôi đều phải trải nghiệm, phải ghi nhớ tích luỹ. Ông có hiểu điều tôi nói không? Hầu như tất cả những gì ở trong tôi đều đã chảy hết ra ngoài, đã mất. Giờ đây tôi hoàn toàn mới, nhưng cũng hoàn toàn trống rỗng. Tôi phải xây dựng cái mà tôi gọi là “tôi” này, hay đúng hơn, tự mình làm ra từng cái một trong những cái hình thành nên tôi.

            Về danh nghĩa tôi vẫn còn là sinh viên, nhưng tôi không có ý định quay lại trường. Mỗi sáng tôi ra khỏi nhà, đến công viên, ngồi một mình trên băng ghế suốt ngày, chẳng làm gì cả. Hoặc tôi đi lang thang quanh quẩn những lối đi trong công viên. Khi trời mưa tôi đến thư viện, đặt một cuốn sách trên bàn trước mặt, vờ đọc. Đôi khi tôi bỏ suốt một ngày đi xem phim hoặc lái ô tô quanh thành phố theo tuyến vòng cung Yamanote. Tôi cảm thấy mình đang trôi trong một không gian tối om om, đơn độc một mình. Tôi chẳng có ai để xin một lời khuyên. Giá như chị Malta của tôi có đó thì tôi đã có thể chia sẻ mọi điều với chị, nhưng dĩ nhiên lúc đó chị đang ở rất xa, đang lánh mình tu tập trên đảo Malta. Tôi không biết địa chỉ của chị. Tôi không có cách nào liên lạc với chị ấy cả. Cho nên tôi phải tự mình giải quyết những vấn đề đó. Thế nhưng, dù cô đơn, tôi không cảm thấy bất hạnh. Tôi nay đã có thể nắm chặt chính mình. Ít nhất là nay tôi có một cái tôi để nắm chặt lấy.

            Cái tôi mới của tôi cảm nhận được cái đau, tuy rằng không đau ghê gớm như trước. Tôi cảm nhận được cái đau, nhưng tôi cũng học được một cách để thoát khỏi cái đau. Nghĩa là tôi nay có thể tách lìa khỏi cái tôi vật chất đang cảm nhận cái đau. Ông có hiểu điều tôi nói không? Tôi nay đã có thể chia mình ra thành một cái tôi vật chất và một cái tôi phi vật chất. Miêu tả thế thì có thể hơi khó hiểu, nhưng một khi đã học được cách đó, ông sẽ thấy không khó chút nào. Mỗi khi cái đau xuất hiện, tôi lại rời khỏi cái tôi vật chất. Cũng như khi có ai đó xuất hiện mà ta không muốn gặp thì ta lẳng lặng bỏ sang phòng bên. Việc ấy rất tự nhiên. Tôi nhận thấy cái đau đã xuất hiện trên thân thể tôi, tôi cảm thấy sự hiện hữu của cái đau, nhưng tôi không ở đó. Tôi đang ở phòng bên. Thế là cái ách đau đớn không còn đè nặng tôi được nữa.

            - Có phải hễ khi nào muốn là cô đều có thể tách ra khỏi mình như vậy không?

            - Không, - Kano Creta nghĩ một chút rồi nói. – Đầu tiên tôi chỉ có thể làm vậy khi cơ thể tôi đang chịu một cái đau vật lý. Cái đau là chìa khoá để có thể tách đôi ý thức của tôi. Về sau, nhờ chị Malta giúp, tôi học được cách làm vậy tuỳ ý muốn ở mức độ nào đó. Nhưng đó là mãi về sau này.

            Chẳng bao lâu sau tôi nhận được thư của chị Malta. Chị ấy cho biết cuối cùng chị ấy cũng đã hoàn thành ba năm tu tập trên đảo Malta và một tuần nữa sẽ trở về Nhật. Chị ấy định từ nay về sau sẽ sống hẳn ở Nhật. Tôi hết sức vui mừng khi nghĩ mình sẽ gặp lại chị. Chị em tôi xa nhau đã gần tám năm. Như tôi đã nói trước đây, chị Malta là người duy nhất trên đời này mà tôi có thể kể thoải mái tất cả những gì trong lòng tôi.

            Ngay hôm đầu chị Malta trở về Nhật, tôi kể ngay với chị về tất cả những chuyện đã xảy ra với tôi. Chị lắng nghe đến cuối câu chuyện dài, kỳ lạ của tôi mà không hỏi một câu nào. Và khi tôi đã kể xong, chị trút một hơi thở dài mà nói với tôi:

            - Chị biết lẽ ra chị phải ở bên em, chị phải trông nom em trong suốt thời gian đó. Vì lý do nào đó chị không hề biết em có những vấn đề sâu xa như vậy. Có lẽ đơn giản là vì em gần gũi với chị quá. Nhưng dù thế nào đi nữa, có những việc chị cần phải làm. Có những nơi chị phải đến, một mình. Chị không có lựa chọn nào khác.

            Tôi bảo chị rằng chị không nên quá bận lòng về chuyện đó. Nói gì thì nói, đó là những vấn đề của tôi, và tôi đang cải thiện dần dần, từng chút một. Chị ngẫm nghĩ một lát, lặng thinh, sau đó chị nói:

            - Tất cả những gì em đã trải qua sau khi chị rời Nhật đều rất đớn đau, cay đắng đối với em, nhưng đúng như em nói, em đang tiến đến chỗ đúng là mình, từng bước một. Những gì xấu xa nhất đã qua đối với em và nó sẽ không bao giờ quay trở lại nữa. Những điều đó sẽ không bao giờ xảy ra với em lần nữa. Sẽ không dễ dàng đâu, nhưng sau một thời gian rồi em sẽ quên được nhiều chuyện. Tuy nhiên, không có một cái tôi đích thực, người ta không thể sống. Nó cũng như cái nền trên đó ta đứng vậy. Không có nền, ta không thể xây được gì hết.

            Tuy nhiên, có một điều em không bao giờ được quên, đó là thân thể em đã bị gã đàn ông đó làm ô uế. Chuyện đó lẽ ra không bao giờ được phép xảy ra. Lỡ mà xảy ra điều xấu nhất, chị có thể sẽ mất em mãi mãi, em có thể sẽ phải vĩnh viễn lang thang trong cõi hư vô. Cũng may, hoá ra cái tôi của em lúc đó không phải là cái tôi thực, cái tôi bản lai của em, thành thử biến cố kia lại có tác dụng ngược. Thay vì giam hãm em, nó lại giải phóng em khỏi trạng thái trung gian. Điều đó xảy ra hoàn toàn là do may mắn. Tuy nhiên, việc em đã bị làm ô uế thì vẫn còn đó, ở bên trong em, đến một lúc nào đó em sẽ phải tự rứt nó ra khỏi mình. Về việc đó chị không thể làm gì giúp em. Chị cũng không biết nên bảo em làm thế nào. Em sẽ phải tự mình tìm ra cách và tự mình làm việc đó.

            Rồi chị tôi đặt cho tôi cái tên mới: Kano Creta. Em vừa mới ra đời nên cần một cái tên mới, chị nói. Tôi thích cái tên ấy ngay từ đầu. Sau đó Kano Malta bắt đầu sử dụng tôi làm người trung gian tinh thần cho chị ấy. Dưới sự hướng dẫn của chị ấy, tôi ngày càng học được cách kiểm soát cái tôi mới của mình và tách rời thể xác khỏi tinh thần. Cuối cùng, lần đầu tiên trong đời, tôi bắt đầu có thể sống với cảm giác bình an. Dĩ nhiên, cái tôi đích thực của tôi vẫn là một cái gì ngoài tầm nắm bắt của tôi. Nhưng giờ đây, với Kano Malta, tôi có một người bạn đồng hành ở bên tôi, người mà tôi có thể trông cậy, người hiểu tôi và chấp nhận tôi. Chị trở thành người hướng đạo cho tôi và bảo vệ tôi.

            - Nhưng rồi cô lại gặp Wataya Noboru lần nữa phải không?

            - Kano Creta gật đầu. Tôi đã gặp lại Wataya Noboru. Chuyện xảy ra vào đầu tháng ba năm ngoái. Đã hơn năm năm qua kể từ khi tôi qua tay hắn, trải qua cuộc hoá thân và bắt đầu làm việc cùng Kano Malta. Tôi với hắn chạm mặt nhau khi hắn đến nhà chúng tôi để gặp chị Malta. Hai chúng tôi không nói chuyện với nhau. Tôi chỉ thoáng thấy hắn nơi phòng ngoài, nhưng chỉ thoáng thấy là đủ để tôi chết cứng tại chỗ như vừa bị sét đánh. Chính là gã đó - người đàn ông cuối cùng đã mua tôi.

            Tôi gọi Kano Malta ra một bên, cho chị biết đó là gã đàn ông đã làm tôi bị ô uế. “Được rồi”, chị nói. “Cứ để mọi chuyện đó cho chị. Đừng lo, em lánh mặt đi. Đừng để hắn nhìn thấy em”. Tôi làm như chị bảo. Chính vì vậy mà tôi không biết hắn và chị Malta bàn với nhau chuyện gì.

            - Wataya Noboru có việc gì cần gặp Kano Malta thế nhỉ?

            Kano Creta lắc đầu.

            - Ông Okada ạ, tôi xin lỗi, tôi không biết.

            - Người ta đến nhà các cô bởi họ có việc cần, thường là vậy phải không?

            - Vâng, đúng vậy.

            - Thường thì họ đến vì chuyện gì?

            - Đủ thứ chuyện.

            - Nhưng đủ thứ chuyện là chuyện gì? Cô cho tôi một ví dụ được không?

            Kano Creta cắn môi một lát.

            - Bị mất đồ. Vận mệnh. Tương lai. Mọi thứ.

            - Và hai cô biết những chuyện đó?

            - Chúng tôi biết. Không phải gì cũng biết, nhưng hầu hết các câu trả lời đều ở đây, - Kano Creta nói, tay chỉ lên thái dương. – Ta chỉ cần vào trong đó thôi.

            - Như là xuống giếng ấy à?

            - Vâng, kiểu như vậy.

            Tôi chống cùi chỏ lên bàn, thở một hơi dài.

            - Giờ thì, nếu được, có một điều tôi muốn cô nói cho tôi biết. Cô đã xuất hiện trong giấc mơ của tôi mấy lần. Cô làm việc đó là có ý thức. Cô muốn điều đó xảy ra. Đúng không?

            - Vâng, đúng thế - Kano Creta nói. – Đó là hành động có ý đồ. Tôi đã bước vào ý thức của ông và giao hợp với ông.

            - Cô làm được những chuyện như vậy à?

            - Vâng, tôi làm được. Đó là một trong các chức năng của tôi.

            - Cô và tôi giao hoan với nhau trong ý thức của tôi. – Khi nghe chính mình nói ra những lời đó, tôi có cảm giác mình vừa treo một bức họa siêu thực táo bạo lên một bức tường trắng. Thế rồi, như thể tôi đang lùi ra xa một quãng rồi nhìn bức tranh xem nó có treo lệch không, tôi lặp lại: - Cô và tôi giao hoan với nhau trong ý thức của tôi. Nhưng tôi không hề yêu cầu các cô điều gì cả. Tôi chưa bao giờ nảy ý định tìm kiếm một cái gì đó ở cô. Đúng không? Vậy thì tại sao cô lại nhọc công làm chuyện đó chứ?

            - Bởi chị Kano Malta ra lệnh cho tôi làm vậy.

            - Nghĩa là Kano Malta dùng cô làm trung gian để sục sạo trong ý thức của tôi. Cô ta tìm cái gì vậy? Câu trả lời cho Wataya Noboru ư? Hay cho Kumiko?

            Kano Creta im lặng một chút. Cô có vẻ bối rối.

            - Tôi không thực sự biết, - cô nói – Tôi không được biết thông tin chi tiết. Không biết thông tin chi tiết thì người trung gian có thể làm tròn vai trò của mình một cách tự nhiên hơn. Việc duy nhất của tôi là làm trung gian để tâm trí của người khác đi qua tôi. Còn việc của Kano Malta là gán ý nghĩa cho những gì tôi tìm thấy ở đó. Nhưng xin ông Okada hiểu cho: Kano Malta về cơ bản là đứng về phía ông. Tôi căm thù Wataya Noboru, ông cũng hiểu, mà chị Kano Malta lo là lo cho tôi trước tiên. Chị ấy làm vậy là vì ông, ông Okada ạ. Tôi tin như thế.

            * * *

            Kano Creta ra siêu thị gần nhà. Tôi đưa tiền cho cô và đề nghị trước khi ra khỏi nhà cô nên thay quần áo khác tươm tất hơn. Cô gật rồi vào phòng Kumiko, chọn một chiếc áo cánh bằng vải cotton trắng và váy in hoa.

            - Ông Okada không phiền vì tôi mặc quần áo của bà nhà chứ?

            Tôi lắc đầu.

            - Thư cô ấy bảo tôi vứt hết đi. Cô có mặc cũng chẳng phiền ai hết.

            Đúng như tôi chờ đợi, mọi thứ đều rất hợp với cô, hợp đến lạ kỳ. Ngay cả cỡ giày của cô cũng khớp. Kano Creta ra khỏi nhà mang một đôi xăng-đan của Kumiko. Nhìn Kano Creta mặc quần áo của Kumiko, một lần nữa tôi lại cảm thấy thực tại đang đổi hướng, kiểu như một con tầu khách khổng lồ đang chầm chậm bò sang lộ trình khác vậy.

            Sau khi Kano Creta đi khỏi, tôi nằm trên sofa nhìn đăm đăm ra vườn, đầu óc trống rỗng. Ba mươi phút sau cô đi taxi về, tay xách ba túi to ních đầy thức ăn. Rồi cô làm cho tôi món thịt nguội với trứng và salad cá hồi.

            - Ông Okada này, ông có quan tâm gì đến đảo Crete không? - Kano Creta đột ngột hỏi sau khi chúng tôi ăn xong.

            - Crete? – tôi nói – Ý cô muốn nói đảo Crete ở Địa Trung Hải ấy à?

            - Vâng.

            Tôi lắc đầu.

            - Tôi không biết. Không phải là tôi không quan tâm. Chẳng qua tôi chưa bao giờ quan tâm nhiều đến chuyện ấy cả.

            - Ông có muốn đến Crete cùng tôi không?

            - Đến Crete cùng cô? – tôi hỏi lại.

            - Tôi muốn rời Nhật một thời gian. Suốt khoảng thời gian ngồi dưới giếng sau khi ông đi khỏi, tôi nghĩ là nghĩ về chuyện đó. Ngay từ khi chị Malta đặt cho tôi cái tên Creta, tôi đã muốn một ngày nào đó sẽ đến Crete. Để chuẩn bị tôi đã đọc nhiều sách về hòn đảo đó. Thậm chí tôi còn học tiếng Hy Lạp để có thể sống ở đó khi đến lúc. Tôi có vài khoản tiết kiệm kha khá, đủ để hai chúng ta sống thảnh thơi ở đó một thời gian dài. Ông sẽ không phải lo gì chuyện tiền nong cả.

            - Kano Malta có biết cô có ý định đi đảo Crete không?

            - Không. Tôi không hề nói gì với chị về chuyện này, nhưng tin tôi tin chắc chị ấy sẽ không phản đối. Hẳn chị ấy sẽ nghĩ đó là điều tốt cho tôi. Chị đã dùng tôi làm trung gian trong năm năm qua, nhưng ấy không phải là chị khai thác tôi như một thứ công cụ. Chị làm vậy cũng là để giúp tôi phục hồi. Chị tin rằng bằng cách cho tâm trí hay bản ngã của nhiều người khác nhau đi qua tôi, chị có thể giúp tôi nắm chắc được “cái ngã” của chính mình. Ông có hiểu điều tôi nói không? Với tôi, nó có tác dụng như một thứ kinh nghiệm của người khác, qua đó tôi biết có một cái ngã là như thế nào.

            Thử nghĩ mà xem. Cả đời tôi chưa bao giờ nói thẳng thừng, rành rọt với bất cứ ai: “Tôi muốn làm việc này”. Ngay từ thời điểm ra đời, cái đau là trung tâm cuộc sống của tôi. Mục đích duy nhất của đời tôi là tìm cách cùng tồn tại với cái đau khủng khiếp đó. Rồi khi tôi đầy hai mươi tuổi và cái đau biến mất khi tôi tìm cách tự tử, thì thay cho cái đau lại là một nỗi vô cảm sâu thăm thẳm. Tôi sống như cái xác biết đi. Một tấm màng vô cảm dày phủ kín quanh tôi. Tôi hoàn toàn không có chút gì – thậm chí không một mẩu nhỏ - của cái gọi là ý chỉ của riêng tôi. Thế rồi khi Wataya Noboru làm ô uế thể xác tôi và mở tung tâm trí tôi ra, tôi đã có được cái tôi thứ ba của mình. Nhưng dù đã vậy đi nữa tôi vẫn chưa là chính mình. Mãi đến giờ tôi vẫn chỉ nắm được cái vỏ tối thiểu cần thiết để mang chứa tôi – chỉ cái vỏ mà thôi. Và như một cái vỏ, dưới sự dẫn dắt của Kano Malta, tôi cho nhiều cái tôi khác thông qua mình.

            Hai mươi sáu năm đời tôi đã trôi qua như vậy đó. Ông cứ tưởng tượng mà xem: suốt hai mươi sáu năm trời, tôi chẳng là gì hết. Đó là điều tôi đã đột nhiên hiểu ra khi ngồi một mình dưới đáy giếng mà suy nghĩ. Tôi nhận ra rằng suốt khoảng thời gian dằng dặc đó, con người gọi là “tôi” kia kỳ thực chẳng là gì sất. Tôi chẳng là gì khác ngoài một con điếm. Một con điếm thể xác. Một con điếm tinh thần.

            Tuy nhiên, bây giờ tôi muốn nắm chắc lấy cái tôi mới của mình. Tôi không còn là cái vỏ cũng không còn là vật trung gian nữa. Tôi đang cố xác lập bản thân mình ở đây, trên mặt đất này.

            - Tôi hiểu những gì cô nói với tôi, nhưng tại sao cô muốn đi Crete với tôi chứ không phải ai khác?

            - Bởi vì đó có thể là điều tốt cho cả hai chúng ta: cho ông Okada, lẫn cho tôi – Kano Creta nói. – Hiện thời cả ông lẫn tôi đều không cần có mặt ở đây. Mà nếu đã vậy, tôi nghĩ tốt nhất là chúng ta không có mặt ở đây. Ông Okada nói tôi nghe, ông có dự định làm một việc gì không, ông có kế hoạch nào để thực hiện từ nay trở về sau không?

            - Việc duy nhất tôi cần là nói chuyện với Kumiko. Chừng nào tôi với cô ấy chưa gặp mặt nhau và cô ấy chưa bảo tôi rằng cuộc sống chung của hai chúng tôi đã chấm dứt, tôi không thể làm gì khác. Tuy nhiên, tôi không biết phải tìm cô ấy bằng cách nào bây giờ.

            - Nhưng nếu ông tìm ra bà ấy và cuộc hôn nhân giữa hai người đã “chấm dứt” như ông nói, thì liệu ông có nghĩ đến việc đi Crete với tôi không? Đến một lúc nào đó hai chúng ta sẽ phải khởi đầu một cái gì đó mới, - Kano Creta nói, nhìn thẳng vào mắt tôi. – Tôi cho rằng đảo Crete là điểm khởi đầu không tồi.

            - Không tồi chút nào cả, - tôi nói. – Bất ngờ thì có thể, nhưng là điểm khởi đầu thì không tồi.

            Kano Creta mỉm cười với tôi. Nghĩ một chút, tôi nhận ra rằng đây là lần đầu tiên cô mỉm cười. Khi cô cười, tôi cảm thấy như lịch sử đã phần nào đã bắt đầu chuyển sang hướng mới.

            - Chúng ta vẫn còn thời gian, - cô nói. – Dù tôi có quàng lên đi nữa thì cũng phải mất ít nhất hai tuần để chuẩn bị. Ông hãy dùng thời gian đó để suy nghĩ, ông Okada ạ. Tôi không biết liệu tôi có thể cho ông cái gì không. Ngay lúc này tôi cảm thấy mình chẳng có gì để cho cả. Tôi gần như hoàn toàn trống rỗng. Tôi chỉ mới bắt đầu lấp đôi ba nội dung vào cái vỏ rỗng này, từng tý một. Tôi có thể trao ông chính bản thân tôi, nếu ông Okada bảo như thế là đủ cho ông. Tôi tin rằng hai ta có thể giúp nhau.

            Tôi gật đầu.

            - Tôi sẽ nghĩ xem, - tôi nói. – Tôi rất vui khi được lời đề nghị này của cô, tôi nghĩ nếu chúng ta cùng đi được với nhau thì hay quá. Thật đấy. Nhưng tôi còn nhiều điều phải suy nghĩ và nhiều việc cần phải thu xếp.

            - Nếu như cuối cùng ông nói ông không muốn đến đảo Crete thì cũng không sao. Tôi sẽ không mếch lòng đâu. Tiếc thì tôi sẽ tiếc, nhưng tôi muốn ông trả lời thẳng, đừng khách sáo.

            * * *

            Kano Creta lại lưu lại nhà tôi đêm đó. Lúc xế chiều cô mời tôi đi dạo trong công viên gần nhà. Tôi quyết định quên đi vết bầm trên mặt và ra khỏi nhà. Hà cớ gì phải bận tâm về những chuyện đó chứ? Chúng tôi tản bộ khoảng một tiếng đồng hồ trong buổi tối mùa hè dễ chịu, rồi trở về nhà ăn tối.

            Sau khi ăn xong, Kano Creta bảo cô muốn ngủ với tôi. Cô bảo cô muốn có quan hệ tinh giao bằng thể xác với tôi. Chuyện này đột ngột quá, tôi không biết nên làm gì, và tôi nói với cô đúng như vậy: “Chuyện này đột ngột quá. Tôi không biết nên làm gì”.

            Nhìn thẳng vào tôi, Kano Creta nói:

            - Dù ông Okada có đi cùng tôi đến đảo Crete hay không, tôi muốn ông hãy lấy tôi làm gái điếm, dù chỉ một lần duy nhất. Tôi muốn ông mua thể xác tôi. Ngay tại đây. Ngay bây giờ. Đây sẽ là lần cuối cùng của tôi. Tôi sẽ thôi làm gái điếm, dù là điếm thể xác hay điếm tinh thần. Tôi cũng sẽ bỏ cái tên Kano Creta. Tuy nhiên, muốn vậy, tôi cần có một điểm phân giới rõ ràng, nhìn thấy được, nó bảo cho ta biết rằng “đến đây là hết”.

            - Tôi hiểu cô cần một điểm phân giới, nhưng tại sao cô cứ phải ngủ với tôi?

            - Ông Okada không hiểu sao? Bằng cách ngủ với ông, con người thực của ông, nhập thân thể mình vào thân thể ông trong thực tế, tôi muốn đi qua con người ông, con người gọi là Okada này. Có làm như vậy tôi mới mong thoát khỏi cảm giác ô uế ở bên trong tôi. Điểm phân giới là vậy đó.

            - Dù sao đi nữa, tôi rất tiếc, tôi không bao giờ mua thể xác người khác.

            Kano Creta cắn môi.

            - Hay là thế này. Thay vì trả tiền, ông hãy cho tôi một ít quần áo của vợ ông. Cả giày nữa. Chúng ta sẽ lấy đó làm cái giá cho thể xác tôi. Như vậy là được phải không ông? Chừng đó tôi sẽ được cứu thoát.

            - Cứu thoát? Ý cô là cô sẽ được giải phóng khỏi vết nhơ mà Wataya Noboru đã để lại bên trong cô?

            - Vâng, ý tôi là thế. – Kano Creta nói.

            Tôi nhìn đăm đăm vào cô. Không có cặp lông mi giả, khuôn mặt Kano Creta trông thật trẻ con.

            - Này Kano Creta, - tôi nói. – Thật ra gã Wataya Noboru này là người thế nào? Hắn là anh vợ tôi đấy, nhưng hầu như tôi chẳng biết gì về hắn. Hắn nghĩ những gì? Hắn muốn cái gì? Tôi chỉ biết chắc mỗi một điều là hắn và tôi căm ghét nhau.

            - Wataya Noboru là kẻ thuộc về một thế giới hoàn toàn đối lập với thế giới của ông, - Kano Creta nói. Cô dừng một chút, dường như để tìm từ, rồi mới nói tiếp: - ở một thế giới nơi ông Okada mất tất cả thì Wataya Noboru được tất. Ở một thế giới nơi ông Okada bị khước từ thì Wataya Noboru được chấp nhận. Ngược lại cũng vậy. Chính vì vậy mà hắn thù ghét ông đến thế.

            - Tôi không hiểu. Việc gì hắn phải bận tâm là có cái thằng tôi ở trên đời này chứ? Hắn vừa nổi tiếng lại vừa lắm quyền lực. So với hắn, tôi chỉ là con số không tròn trĩnh. Có gì hắn phải phí thời giờ công sức để đi thù ghét chính tôi?

            Kano Creta lắc đầu.

            - Lòng thù hận, nó cũng như một cái bóng dài, đen. Trong hầu hết trường hợp, ngay cả kẻ bị cái bóng đó trùm lên cũng không biết nó từ đâu tới. Nó như thanh gươm hai lưỡi. Khi ta đâm người khác thì cũng là đâm chính mình. Ta chém người khác càng mạnh thì cũng chém chính mình càng mạnh. Đôi khi nó gây chết người nữa. Nhưng thoát khỏi nó không dễ đâu. Ông Okada cần phải cẩn thận. Nó nguy hiểm lắm. Một khi lòng thù hận đã bắt rễ trong lòng ông thì rứt bỏ được nó là điều khó nhất trên đời này.

            - Mà cô thì cảm thấy được nó phải không? Cái cội rễ thù hận trong lòng Wataya Noboru ấy.

            - Vâng, tôi thấy được. Đến giờ vẫn cảm thấy được, - Kano Creta nói. – Đó chính là cái đã xé toạc thể xác tôi làm hai, đã làm tôi ô uế, ông Okada ạ. Chính vì vậy tôi không muốn hắn là người khách cuối cùng mua thể xác tôi. Ông có hiểu không?

            Đêm ấy tôi lên giường với Kano Creta. Tôi cởi bỏ những thứ quần áo của Kumiko mà cô mặc rồi nhập thân thể mình vào cô. Nhẹ nhàng và lặng lẽ. Như thể đó là phần nối dài của giấc mơ tôi, như thể tôi đang tái tạo trong thực tại chính những động tác tôi đã làm với Kano Creta trong giấc mơ. Thân thể cô là có thực, là sống động. Nhưng thiếu một cái gì đó: thiếu cái cảm thức sáng rõ rằng chuyện này đang xảy ra trong thực tế. Những mấy lần tôi có cái hư giác rằng mình đang làm những việc này với Kumiko chứ không phải Kano Creta. Tôi cứ đinh ninh rằng ngay khi tôi xuất thì sẽ thức dậy. Nhưng tôi không thức dậy. Tôi đi vào bên trong cô. Đó là thực tại. Đúng là thực tại. Nhưng mỗi khi tôi nhìn nhận điều đó thì thực tại lại có vẻ ít thực hơn một chút. Thực tại cứ lỏng ra dần và rời khỏi thực tại, từng bước từng bước một. Nhưng dẫu sao đó vẫn là thực tại.

            - Ông Okada, - Kano Creta nói, hai tay vòng qua lưng tôi, - ta cùng đến đảo Crete nhé. Đây không phải là chỗ cho hai ta nữa, không phải cho ông cũng không phải cho em. Chúng ta phải đến đảo Crete. Nếu ông ở lại đây, sẽ có chuyện không hay xảy ra với ông. Em biết. Em tin chắc thế.

            - Chuyện không hay?

            - Hết sức không hay, - Kano Crete nói lời tiên tri. Giọng cô nhỏ nhưng xuyên thấu tim như giọng con chim tiên tri sống trong rừng sâu.

15

            Điều không hay duy nhất từng xảy ra trong nhà Kasahara May

            *

            Kasahara May suy tư về cội nguồn kinh tởm của cái nóng

            - Chào Chim vặn dây cót! – giọng phụ nữ nói. Áp chặt ống nghe vào tai, tôi nhìn đồng hồ. 4 giờ chiều. Lúc điện thoại reo tôi đang nằm trên sofa, mình mẩy đẫm mồ hôi. Đó là một giấc chợp mắt ngắn, khó chịu. Lúc này vẫn còn lại cái cảm giác như thể ai đó đã ngồi đè lên người tôi suốt trong thời gian ngủ. Cái kẻ chẳng biết là ai đó đã chờ khi tôi thiếp đi thì đến ngồi lên người tôi, rồi ngay trước khi tôi thức giấc thì đứng dậy bỏ đi.

            - A-lôôô, - giọng nữ kia thỏ thẻ, gần như tiếng thì thầm. Tiếng nói dường như đi qua một thứ không khí cực mỏng nào đó rồi mới đến tai tôi. – Kasahara May gọi đây...

            - Chào, - tôi cố nói, nhưng miệng tôi vẫn chưa chịu cử động như tôi muốn. Cái chữ thoát ra nghe như một tiếng rên thì đúng hơn.

            - Anh đang làm gì đấy? – cô hỏi, giọng quan tâm.

            - Chả làm gì cả, - tôi vừa nói vừa đưa đầu nối của ống nghe ra xa để hắng giọng. – Chả làm gì. Đang ngủ.

            - Em phá giấc ngủ của anh à?

            - Ừ thì có, nhưng không sao. Chỉ chợp mắt tý thôi mà.

            Kasahara May có vẻ ngần ngừ một chút. Rồi cô nói: - Này Chim vặn dây cót, anh qua nhà em được không?

            Tôi nhắm mắt lại. Trong bóng tối treo lơ lửng những ánh sáng nhiều màu sắc và hình dạng khác nhau.

            - Được thôi, - tôi nói.

            - Em đang tắm nắng ngoài vườn, anh cứ vào qua ngõ sau ấy.

            - Ok.

            - Này Chim vặn dây cót, anh có giận em không?

            - Anh không biết, - tôi nói. – Nhưng dù thế nào anh cũng đi tắm, thay đồ một cái rồi qua em ngay. Anh có chuyện cần nói với em.

            Tôi mở vòi nước lạnh xối toàn thân một lát cho tỉnh người, sau đó chuyển sang nước nóng để kỳ cọ, rồi lại mở nước lạnh. Làm vậy xong tôi cũng tỉnh hẳn ra, nhưng cơ thể tôi vẫn thấy ù lỳ, nặng trịch. Chân tôi bắt đầu run, trong khi tắm tôi phải vịn lấy giá treo khăn tay hay ngồi lên thành bồn tắm mấy lần. Có lẽ tôi kiệt sức hơn mình tưởng.

            Ra khỏi bồn tắm và lau khô người xong, tôi đánh răng rồi nhìn mình trong gương. Vết bầm màu xanh sẫm vẫn còn đó trên má phải, không sẫm hơn cũng không nhạt hơn trước. Hai nhãn cầu tôi chằng chịt những đường đỏ li ti, dưới mắt có quầng thâm. Hai má tôi hóp vào, tóc tôi bờm xờm, phải tỉa. Tôi trông như một xác chết còn mới vừa sống lại, tự đào mồ chui lên.

            Tôi mặc áo phông, quần soóc, đội mũ, mang kính râm. Ra khỏi nhà, đi dọc theo con ngõ, tôi nhận ra rằng cái nóng còn lâu mới dứt. Mọi sinh vật trên mặt đất – mọi sinh vật mắt nhìn thấy được – đều há hốc miệng chờ mưa, nhưng trên trời không có lấy một cụm mây. Một màn không khí hầm hập, tù đọng trùm lên con ngõ. Nơi này vắng tanh vắng ngắt, như mọi khi. Tốt thôi. Vào một ngày oi bức thế này, và với cái bản mặt tôi trông gớm ghiếc thế này, tôi không muốn gặp ai hết.

            Trong vườn căn nhà hoang, con chim đá vẫn nhìn đăm đăm lên trời như trước, mỏ nghếch lên trên. Nó trông còn bẩn thỉu hơn cả lần trước, còn bệ rạc thảm hại hơn. Thế nhưng vẫn có cái gì đó căng thẳng trong cái nhìn của nó. Dường như nó đang nhìn chằm chặp một cái gì đó cực kỳ u ám đang trôi trên bầu trời. Giá như có thể, con chim hẳn đã dời cái nhìn sang chỗ khác, nhưng mắt nó như đã bị khoá chặt vào một chỗ, nó không còn cách nào khác, đành phải nhìn thôi. Những ngọn cỏ dại cao nghệu vây quanh bức tường vẫn bất động, như dàn đồng ca trong bi kịch Hy Lạp đang nín thở chờ sấm truyền ban xuống. Chiếc Ăng-ten truyền hình trên mái nhà chĩa những cái xúc-tu bằng bạc vào cái nóng ngạt thở. Dưới ánh sáng mùa hè thiêu đốt, mọi thứ đều khô xác và kiệt sức.

            Sau khi quan sát vườn căn nhà hoang, tôi đi vào vườn nhà Kasahara May. Cây sồi già hất bóng râm mát mẻ lên bãi cỏ, nhưng Kasahara May rõ là cố tình tránh bóng râm mà nằm dài ngay dưới cái nắng như thiêu như đốt. Cô bé nằm ngửa trên ghế xếp, mặc một bộ bikini nhỏ xíu màu sôcôla, hai mảnh vải bé tý nối với nhau bằng mấy mẩu dây. Tôi không khỏi tự hỏi mặc như thế liệu người ta có bơi được không. Cô vẫn đeo cặp kính râm như khi chúng tôi gặp nhau lần đầu, những giọt mồ hôi to lấm tấm trên mặt. Dưới ghế xếp cô nằm là một tấm khăn tắm màu trắng, một hộp đựng kem chống nắng và mấy tờ tạp chí. Nằm bên cạnh là hai lon sprite rỗng, một lon được cô dùng làm gạt tàn thuốc. Một ống nước nhựa có đầu phun nằm trơ trên bãi cỏ, ai đó dùng xong cũng không buồn cuộn lại.

            Khi tôi đến gần, Kasahara May ngồi dậy với tay tắt radio. Da cô rám nắng hơn nhiều so với lần trước. Đây không phải là cái rám nắng bình thường như khi người ta đi tắm biển cuối tuần. Từng phần cơ thể cô – từ đầu đến ngón chân – được nung chín đều khắp. Dường như suốt ngày cô chỉ làm mỗi một việc là tắm nắng, kể cả suốt thời gian tôi ở dưới giếng. Tôi nhìn quanh vườn một chút. Vườn trông chẳng khác gì lần trước, bãi cỏ rộng xén tỉa chỉn chu, cái hồ vẫn cạn nước và khô ran đến nỗi tôi nhìn thấy là thấy khát nước rồi.

            Tôi ngồi xuống chiếc ghế xếp bên cạnh ghế của Kasahara May, rút trong túi ra một chiếc kẹo chanh. Nóng bức làm cho giấy gói dính bết vào kẹo.

            Kasahara May nhìn tôi một lát, không nói gì.

            - Anh sao vậy hả Chim vặn dây cót? Cái gì trên mặt anh vậy? Có phải vết bầm không?

            - Chắc là vậy. Có thể. Nhưng anh không biết làm sao lại thế. Anh soi gương thì đã thấy nó ở đấy rồi.

            Kasahara May chống một cùi chỏ nhỏm dậy, nhìn chằm chằm vào mặt tôi. Cô gạt mấy giọt mồ hôi đọng dưới mũi rồi đẩy kính râm lên một chút về đúng chỗ của nó. Cặp tròng kính thẫm che kín mít cặp mắt cô.

            - Anh hoàn toàn không biết à? Không hề biết bị khi nào hay tại sao à?

            - Hoàn toàn không.

            - Không á?

            - Anh ra khỏi giếng, lát sau anh soi gương thì nó đã ở đó rồi. Thật đấy. Chỉ có vậy thôi.

            - Có đau không?

            - Không đau, không ngứa. Nhưng có hơi âm ấm.

            - Anh đi bác sĩ chưa?

            Tôi lắc đầu.

            - Chắc chỉ phí thời giờ thôi.

            - Chắc vậy, - Kasahara May nói. – Em cũng chúa ghét bác sĩ.

            Tôi bỏ mũ và kính ra rồi rút khăn mùi soa lau mồ hôi trên trán. Nách chiếc áo phông xám tôi mặc đã đen nhẻm mồ hôi.

            - Bộ bikini đẹp lắm, - tôi nói.

            - Cám ơn.

            - Trông cứ như bằng mấy mẩu vải ghép lại ấy. Tận dụng tối đa nguồn tài nguyên thiên nhiên ít ỏi của nước ta.

            - Khi xung quanh không có ai thì em cởi phần trên ra.

            - Ừ, - tôi nói.

            - Ở dưới đâu có gì nhiều để phô ra đâu, - cô nói, như để thanh minh.

            Mà thật, bộ ngực cô sau mảnh trên bộ bikini vẫn còn khá nhỏ, chưa phát triển.

            - Em đã bao giờ mặc thế này mà bơi chưa? – tôi hỏi.

            - Chưa bao giờ. Em không biết bơi. Còn anh, Chim vặn dây cót?

            - Ờ, anh thì biết bơi.

            - Bao xa?

            - Xa.

            - Mười cây số?

            - Chắc thế… Hiện giờ không có ai ở nhà à?

            - Cả nhà đi từ hôm qua rồi, đến nhà nghỉ mùa hè của nhà em ở Izu. Ai cũng thích đi bơi vào cuối tuần. Cả nhà tức là ba mẹ và thằng cu em của em ấy.

            - Không có em à?

            Cô khẽ nhún vai. Rồi cô lấy từ trong nếp gấp khăn tắm ra một gói Hope và hộp diêm rồi châm một điếu.

            - Anh trông kinh quá, Chim vặn dây cót à.

            - Dĩ nhiên là anh trông kinh rồi, mấy ngày ngồi dưới đáy giếng hầu như không ăn, không uống thì có ai trông không kinh?

            Kasahara May bỏ kính ra quay mặt lại tôi. Cô vẫn còn vết cắt sâu gần mắt.

            - Này Chim vặn dây cót, anh điên em lắm phải không?

            - Anh không biết. Anh đã có hàng đống chuyện để nghĩ rồi, hơi đâu mà điên với em.

            - Vợ anh đã về chưa?

            Tôi lắc đầu.

            - Cô ấy có gửi thư cho anh. Nói là không bao giờ về nữa.

            - Tội nghiệp Chim vặn dây cót, Kasahara May nói. Cô ngồi dậy nhoài người, đặt tay lên đầu gối tôi. – Tội nghiệp Chim vặn dây cót, tội quá. Anh Chim vặn dây cót này, có thể anh không tin, nhưng rốt cuộc em cũng đã định cứu anh lên khỏi giếng đấy. Em chỉ muốn làm anh sợ một chút thôi, hành hạ anh tí ti. Em muốn xem liệu em có làm anh ghét lên được không. Em muốn xem phải đợi bao lâu thì anh mới cuống cuồng kêu la loạn lên.

            Tôi không biết trả lời thế nào nên chỉ gật đầu.

            - Anh có nghĩ khi em bảo sẽ để anh chết dưới đó là em nói nghiêm chỉnh không?

            Thay vì trả lời ngay, tôi vo tròn mảnh giấy gói kẹo thành viên tròn. Rồi tôi nói:

            - Thật sự là anh không biết. Em nói nghe thì cứ như thật, nhưng lại cũng nghe như em chỉ muốn doạ cho anh sợ thôi. Khi mình đã xuống dưới giếng mà nói chuyện với ai đó ở trên miệng giếng thì giọng nói nghe lạ lắm, mình không thật sự nắm bắt được nét biểu cảm trong giọng người kia. Nhưng nói gì thì nói, vấn đề không phải thật ra em nói thật hay nói đùa. Ý anh là thực tại được tạo nên từ nhiều lớp. Thành thử có thể trong thực tại kia em muốn giết anh thật, nhưng trong thực tại này thì lại không. Nó còn tuỳ em ở thực tại nào còn anh ở thực tại nào.

            Tôi nhét mẩu giấy gói kẹo đã vo tròn vào lỗ hộp Sprite.

            - Này Chim vặn dây cót, anh làm giúp em một việc được không? - Kasahara May nói, tay chỉ ống nước trên bãi cỏ. – Anh lấy cái đó xịt cho em được không? Nóng quá là nóng! Nếu không xối cho ướt từ đầu đến chân thì óc em chắc khô quắt lại mất.

            Tôi rời khỏi ghế xếp, đi tới nhặt chiếc ống nước bằng nhựa màu xanh dương nằm trên bãi cỏ. Nó ấm sực, nhũn ra vì nóng. Tôi ra đứng sau lùm cây rồi mở vòi. Đầu tiên chỉ có nước đã bị hun nóng ở trong vòi vọt ra, nhưng vòi mát lên dần cho đến khi chỉ còn phun nước lạnh. Kasahara May duỗi dài trên bãi cỏ, tôi bèn hướng một làn nước mạnh mẽ mát rượi vào cô.

            Cô nhắm mắt để cho nước xối tràn lên thân thể.

            - Ôi, dễ chịu quá! Anh cũng nên làm vậy đi, Chim vặn dây cót à.

            - Nhưng bộ này đâu phải đồ tắm, - tôi nói, song Kasahara May có vẻ hết sức khoan khoái nhờ kiểu tắm này còn cái nóng thì lại gay gắt đến nỗi tôi không cưỡng lại được. Tôi cởi chiếc áo phông sũng mồ hôi ra, cúi người về phía trước, để dòng nước lạnh tràn qua đầu. Tôi nuốt một ngụm nước. Vừa lạnh vừa ngon.

            - Này, nước giếng đấy à? – tôi hỏi.

            - Chứ sao nữa! Lấy lên bằng bơm. Quá tuyệt phải không? Lạnh ơi là lạnh. Uống luôn cũng được. Nhà em nhờ một tay ở Bộ Y Tế đến kiểm nghiệm chất lượng nước, ông ta bảo nước này hoàn toàn ổn, hầu như khắp cả Tokyo chả bao giờ tìm được nước sạch thế. Ông ta ngạc nhiên lắm. Nhưng nhà em vẫn hơi sờ sợ không uống. Bao nhiêu là nhà xúm quanh thế này, ai mà biết được có những thứ gì lẫn vào nước.

            - Nhưng em không thấy lạ à? Giếng nhà Miyawaki khô như đá, nhưng giếng nhà em thì nước ngon lành tươi nguyên thế này. Thế mà chỉ bên kia ngõ thôi. Sao lại khác nhau đến thế được?

            Kasahara May nghiêng đầu.

            - Chắc có gì đó làm cho mạch nước ngầm chuyển hướng một chút, khiến cho giếng bên kia cạn còn bên em thì không. Em không biết chắc lý do tại sao.

            - Đã có chuyện không hay nào xảy ra trong nhà em không? – tôi hỏi.

            Kasahara May nhăn mặt, lắc đầu.

            - Điều không hay duy nhất xảy ra ở cái nhà này trong mười năm qua là nó chán chết được ấy.

            Kasahara May lau mình rồi hỏi tôi có muốn uống bia không. Tôi bảo muốn. Cô vào nhà mang ra hai lon Heineken. Cô uống một lon, tôi uống một lon.

            - Này Chim vặn dây cót, nói em nghe, dự định của anh từ nay trở đi là gì?

            - Anh chưa quyết định được, - tôi nói – Nhưng chắc anh sẽ đi khỏi đây. Có khi anh đi khỏi Nhật không chừng.

            - Đi khỏi Nhật? Là đi đâu?

            - Đến Crete.

            - Crete? Có phải là liên quan đến cô tên là Creta gì gì ấy không?

            - Ừ, phần nào đấy.

            Kasahara May ngẫm nghĩ một chút.

            - Có phải cô Creta gì gì ấy cứu anh lên khỏi giếng không?

            - Kano Creta, - tôi nói. - Ừ, cô ấy đấy.

            - Anh có nhiều bạn lắm phải không hở Chim vặn dây cót?

            - Có đâu mà nhiều. Anh bị mang tiếng là ít bạn thì có.

            - Mà làm sao Kano Creta tìm được anh ở dưới giếng nhỉ? Anh đâu có bảo ai là anh xuống đó phải không? Thế làm sao cô ta đoán được anh đang ở đâu chứ?

            - Anh không biết, - tôi nói.

            - Nhưng mà anh sẽ đi Crete à?

            - Anh chưa quyết định có đi hay không. Có khả năng thế thôi. Trước hết anh phải giải quyết xong chuyện Kumiko đã.

            Kasahara May cho một điếu thuốc lên môi rồi châm lửa. Đoạn cô đưa đầu ngón tay út sờ lên vết sẹo gần mắt.

            - Anh biết không, Chim vặn dây cót, suốt thời gian anh ở dưới giếng, em toàn ở đây tắm nắng. Em ngắm vườn căn nhà hoang, vừa tự nướng mình dưới nắng vừa nghĩ tới anh đang ở dưới giếng, bụng đói meo, tiến dần từng tí một tới cái chết. Em là người duy nhất biết anh đang ở dưới đó và không lên được. Và khi nghĩ thế, em cảm nhận một cách rõ rệt đến khó ngờ anh đang cảm thấy thế nào: đau đớn, rối trí, sợ hãi. Anh có hiểu ý em không? Nhờ làm vậy, em thấy được gần gũi anh lắm lắm ấy! Em thật không có ý để anh chết đâu. Thật mà. Đúng vậy đó. Nhưng em vẫn muốn làm tới. Đến tận phút chót. Kỳ đến khi nào anh rụng rời chân tay, sợ vãi linh hồn ra, hết chịu nổi nữa mới nghe. Em tin thế là tốt nhất cho cả em và anh, thật đấy mà.

            - Anh thì bảo em thế này, - tôi nói. – Anh nghĩ nếu em đã thật sự làm tới đến phút chót thì có khi em sẽ muốn đẩy đến tận cùng luôn. Có khi sẽ dễ hơn em tưởng nhiều đấy. Nếu em đã đi xa đến mức đó thì chỉ cần ẩy thêm một cái cuối cùng là xong. Sau đó có khi em sẽ nghĩ thế là tốt nhất cho cả anh và em không chừng. – Tôi nhấp một ngụm bia.

            Kasahara May vừa nghĩ một chút vừa cắn môi.

            - Có thể anh nói đúng, - cô nói. – Em cũng không biết nữa.

            Tôi nốc cạn bia rồi đứng dậy. Tôi đeo kính, mặc chiếc áo phông sũng mồ hôi vào. – Cám ơn em cho uống bia nhé.

            - Này Chim vặn dây cót, anh biết không, - Kasahara May nói, - đêm qua, khi cả nhà em lên đường nghỉ hè cả rồi, em đã xuống chỗ cái giếng. Em ở đó phải tới năm, sáu tiếng đồng hồ, chỉ ngồi yên thôi.

            - Thế em chính là người đã tháo thang dây mang đi.

            - Vâng, - Kasahara May nói, hơi cau mày. – Em đấy.

            Tôi quay ra nhìn bãi cỏ rộng. Đất ấm toả một làn hơi nước trông như khói vì nóng. Kasahara May nhét mẩu đầu thuốc lá vào một lon Sprite rỗng.

            - Trong mấy tiếng đầu tiên em không cảm thấy gì đặc biệt. Dĩ nhiên, ngồi trong tối như hũ nút thế kia thì cũng không khoái lắm, nhưng em không sợ, không hãi, không gì cả. Em không như mấy đứa con gái hơi một tý là ré lên. Nhưng em biết đó không phải chỉ là bóng tối. Anh Chim vặn dây cót đã ở dưới đó hàng mấy tiếng liền, anh biết chẳng có lý do gì để sợ cả. Thế nhưng sau khoảng hai, ba tiếng, em càng lúc càng cảm thấy ít biết được chính mình hơn. Ngồi im lặng dưới kia trong bóng tối, em có thể nghe có cái gì đó bên trong em – bên trong cơ thể em ấy – đang càng lúc càng lớn ra. Cảm thấy như cái vật gì đó ấy đang mọc dần lên trong em, như rễ cây trong chậu, khi nào đủ lớn nó sẽ xé toang em ra. Đến khi đó thì em coi như là hết, như cái chậu vỡ nát ra thành hàng triệu mảnh vậy. Nó là cái gì chịu không biết được, nhưng khi em còn ở dưới ánh mặt trời thì nó vùi bên trong em, còn trong bóng tối thì nó được hút một thứ dưỡng chất đặc biệt nào đấy rồi lớn lên nhanh ơi là nhanh, đến phát sợ lên ấy! Em cố kìm nó xuống mà không được. Chính khi đó em mợi thực sự sợ. Chưa bao giờ trong đời em sợ đến thế. Cái gì đó ở bên trong em, cái vật trăng trắng kinh tởm ấy nó đang chiếm lĩnh dần, chiếm lĩnh em, ngốn dần thân thể em. Lúc đầu thì cái thứ kinh tởm ấy nó bé lắm, Chim vặn dây cót ạ.

            Kasahara May ngừng nói một chút, nhìn chăm chăm vào hai tay mình, như đang hồi tưởng lại những gì đã xảy ra với mình ngày hôm đó

            - Em sợ thật đấy, sợ chết điếng, - cô nói. – Có lẽ trước kia em muốn anh sợ chính là sợ như thế này đây. Em đã muốn anh phải nghe thấy tiếng cái vật kia đang nhai nuốt mình.

            Tôi ngồi xuống một chiếc ghế xếp, ngắm thân thể Kasahara May chỉ che hờ bằng bộ bikini bé xíu. Cô đã mười sáu tuổi nhưng dáng người chỉ như cô bé mười ba, mười bốn tuổi. Ngực và đùi cô còn xa mới nảy nở đầy đủ. Thân hình cô gợi cho tôi nhớ tới những bức hoạ chỉ dùng một số nét tối thiểu nhưng vẫn cho ta một cảm thức sống động về thực tại. Thế nhưng, đồng thời ở nó vẫn có một cái gì đó cho ta ấn tượng già cốc đế.

            Rồi bỗng tôi buột miệng hỏi cô:

            - Em đã bao giờ có cảm giác mình bị cái gì đó làm cho ô uế không?

            - Ô uế? - Cô nheo mắt nhìn tôi. – Ý anh là ô uế về thể xác ấy à? Anh định nói là bị hiếp?

            - Về thể xác. Về tinh thần. Hoặc thế này hoặc thế kia.

            Kasahara May nhìn xuống thân thể mình, rồi lại nhìn sang tôi.

            - Về thể xác thì không. Em vẫn là gái tân. Em có cho một cậu trai sờ mó. Nhưng vẫn mặc nguyên quần áo.

            Tôi gật đầu.

            - Về tinh thần… ừm… em không biết. Em thật không hiểu bị ô uế về tinh thần nghĩa là thế nào.

            - Anh cũng chẳng biết, - tôi nói. – Vấn đề là mình có cảm thấy điều đó từng xảy ra với mình hay không. Nếu em không cảm thấy thì hẳn có nghĩa là em chưa bị ô uế.

            - Sao anh hỏi em thế?

            - Bởi vì một vài người mà anh biết có cảm giác ấy. Nó làm sinh ra đủ thứ phức tạp. Nhưng có chuyện này anh muốn hỏi em. Vì sao em luôn nghĩ đến cái chết thế?

            Cô cho một điếu thuốc lên môi rồi khéo léo mồi lửa bằng một tay. Đoạn cô kéo kính râm lên.

            - Anh thì không hay nghĩ đến cái chết à, hở Chim vặn dây cót?

            - Dĩ nhiên là anh có nghĩ đến cái chết. Nhưng không phải luôn luôn. Chỉ thỉnh thoảng thôi. Như hầu hết thiên hạ.

            - Em thì em nghĩ thế này Chim vặn dây cót, - Kasahara May nói. – Mỗi người sinh ra trên đời này đều có một cái gì đó riêng biệt nằm ở sâu bên trong người đó. Và cái đó ấy, dù là cái gì đi nữa, trở thành một nguồn nhiệt điều khiển mỗi con người từ bên trong. Dĩ nhiên em cũng có. Như mọi người khác. Nhưng đôi khi nó bị rối loạn. Nó phình lên rồi co lại bên trong em, nó làm em lộn tùng phèo lên. Thật sự là em chỉ muốn truyền đạt cái cảm giác đó cho người khác. Nhưng dường như em không làm nổi. Người ta không hiểu. Dĩ nhiên có thể tại em không biết giải thích sao cho thật rõ, nhưng cũng tại người ta không chịu lắng nghe nữa. Họ vờ nghe, nhưng thật ra họ có nghe đâu. Vì thế mà đôi khi em nổi điên lên rồi làm những việc rồ dại.

            - Những việc rồ dại á?

            - Như là nhốt anh dưới giếng chẳng hạn, hoặc như khi đang ngồi trên yên sau xe máy thì choàng tay che mắt anh chàng đang đèo mình.

            Khi nói vậy, cô đưa tay sờ vết thương trên mặt.

            - Chính vì vậy mới xảy ra tai nạn phải không? – tôi hỏi.

            Kasahara May nhìn tôi với vẻ dò hỏi, như thể cô không nghe thấy tôi nói gì. Tôi không nhìn ra được nét cảm xúc trong mắt cô sau cặp kính râm dày, nhưng một sự vô cảm nào đó hình như đã lan ra trên khắp mặt cô như dầu rót lên mặt nước lặng.

            Điếu thuốc ngậm giữa hai môi, Kasahara May vẫn nhìn tôi. Hay đúng hơn, cô vẫn tiếp tục nhìn vết bầm của tôi.

            - Em có phải trả lời câu hỏi ấy không, hở Chim vặn dây cót?

            - Không, nếu em không muốn. Chính em khêu chuyện ấy ra mà. Nếu em không muốn nói tới chuyện đó thì đừng nói.

            Kasahara May trở nên hết sức trầm lặng. Hình như cô phân vân không biết phải làm gì. Đoạn cô hít khói thuốc vào đầy phổi rồi từ từ thở ra. Bằng một động tác nặng nề, cô gỡ kính rồi quay mặt về phía nắng, hai mắt nhắm tịt. Quan sát cô, tôi thấy như dòng chảy thời gian đang dần dần chậm lại, như thể dây cót của thời gian đang bắt đầu chùng xuống.

            - Anh ta chết, - cuối cùng cô nói, giọng vô cảm, như thể cô vừa miễn cưỡng chấp nhận một cái gì đó.

            - Chết à?

            Kasahara May bập bập tàn thuốc. Đoạn cô nhặt khăn tắm dưới đất lên lau mồ hôi trên mặt, lau tới lau lui mấy lần. Cuối cùng, như thể sực nhớ ra một việc quan trọng quên thực hiện, cô nói một cách vắn tắt, kiểu sự vụ:

            - Lúc đó bọn em đi khá nhanh. Chuyện xảy ra ở gần Enoshima.

            Tôi nhìn cô không nói một lời. Cô cầm mỗi tay một mép chiếc khăn tắm mà ấn khăn vào khăn mặt. Khói trắng tuôn ra từ điếu thuốc giữa những ngón tay cô. Không có gió nên khói bốc thẳng lên, như từ một đống lửa báo hiệu thu nhỏ. Cô hình như đang phân vân không biết nên cười hay nên khóc. Ít nhất là tôi cảm thấy vậy. Cô phân vân trên lằn ranh hẹp chia cách khả năng này với khả năng kia, nhưng rốt cuộc cô không ngả về bên nào cả. Kasahara May lấy lại vẻ mặt cũ, đặt khăn tắm xuống đất rồi rít một hơi thuốc. Đã gần 5 giờ chiều, nhưng cái nóng chẳng có vẻ gì là dịu đi.

            - Em đã giết anh ấy, - cô nói. – Dĩ nhiên em không có ý định giết anh ấy. Em chỉ muốn đẩy tới những giới hạn. Bọn em vẫn làm như vậy luôn. Như là trò chơi ấy. Em bịt mắt hoặc cù lét anh ấy trong khi cả hai đang đi xe máy. Nhưng chẳng chuyện gì xảy ra cả. Cho đến hôm đó...

            Kasahara May ngẩng mặt lên nhìn thẳng vào tôi.

            - Dù sao thì em cũng không có cảm giác mình bị ô uế đâu, Chim vặn dây cót à. Em chỉ muốn đến càng gần hơn càng tốt cái vật khốn nạn ấy. Em muốn dụ nó ra khỏi em rồi đập nát nó thành từng mảnh. Mà muốn dụ nó ra được thì mình phải thực sự đẩy đến tận cùng. Không có cách nào khác. Anh phải có một miếng mồi ngon để nhử nó. – Cô chậm rãi lắc đầu. – Không, em không nghĩ là mình đã bị làm ô uế. Nhưng mặt khác em cũng không được cứu vớt. Không ai có thể cứu vớt em lúc này được, Chim vặn dây cót ạ. Thế giới có vẻ hoàn toàn trống rỗng đối với em. Mọi thứ em thấy quanh mình đều có vẻ giả tạo. Cái duy nhất không giả tạo là cái thứ kinh tởm nằm ở trong em ấy.

            Kasahara May ngồi một lát, thở từng hơi nhỏ đều đặn. Không có âm thanh nào khác, không tiếng chim, không tiếng côn trùng. Một sự tĩnh mịch khủng khiếp trùm lên khu vườn, như thể cả thế giới này đã trở nên trống rỗng.

            Kasahara May ngoảnh lại đối diện tôi. Dường như lúc đó cô vừa nhớ ra điều gì đấy. Giờ đây mọi nét biểu cảm đều biến mất khỏi mặt cô, như thể cô vừa được gội sạch chẳng còn lại gì.

            - Này Chim vặn dây cót, nói em nghe, anh đã ngủ với cô Kano Creta gì đó chưa?

            Tôi gật đầu.

            - Đến Crete rồi anh có viết thư cho em không? - Kasahara May hỏi.

            - Có chứ. Nếu anh đi.

            - Này Chim vặn dây cót biết không, - ngần ngừ một lát cô nói, - em nghĩ có khi em sẽ đi học lại đấy.

            - Ồ, thế ra em đổi ý về chuyện trường học rồi à?

            Cô khẽ nhún vai.

            - Đó là chuyện khác. Em không chịu về trường cũ đâu. Trường mới thì ở xa đây. Thành thử chắc là em sẽ không gặp anh một thời gian.

            Tôi gật đầu. Rồi lấy trong túi ra một viên kẹo chanh cho vào miệng. Kasahara May đưa mắt nhìn quanh rồi châm một điếu thuốc.

            - Này Chim vặn dây cót, ngủ với nhiều đàn bà khác nhau thì cũng thú phải không?

            - Còn phải nói.

            - Ờ, cái đó thì em có nghe rồi.

            - Đúng, - tôi nói, nhưng không biết nói gì hơn.

            - Mà thôi, quên đi. Nhưng này Chim vặn dây cót, anh biết không, chính vì gặp anh mà rốt cuộc em mới quyết định đi học lại đấy. Không đùa đâu.

            - Sao vậy? – tôi hỏi.

            - Ừ, tại sao nhỉ? - Kasahara May nói. Rồi cô nheo nheo đuôi mắt mà nhìn tôi. – Có thể là em muốn quay trở lại một thế giới bình thường hơn. Nhưng được gần anh, em thật sự rất vui, Chim vặn dây cót à. Không đùa đâu. Anh là một người cực kỳ bình thường, nhưng anh lại làm những chuyện chẳng bình thường chút nào. Và anh lại rất ư là – nói thế nào nhỉ? – không thể đoán trước được. Thành thử la cà bên anh thế này không hề chán chút nào. Anh không biết được ở gần anh em thấy dễ chịu đến thế nào đâu. Mà không thấy chán có nghĩa là không phải nghĩ về bao nhiêu là chuyện ngu ngốc. Đúng không nào? Cho nên về chuyện ấy thì em rất vui khi có anh. Nhưng phải nói thật, gần anh em cũng thấy lo lo là.

            - Lo lo thế nào kia?

            - Nói sao nhỉ? Đôi khi, nhìn anh, em có cảm giác như anh đang chiến đấu rất dữ với một cái gì đó vì em. Em biết nói thế nghe lạ lắm, nhưng mỗi khi như vậy, em thấy mình đang ở bên anh, đang đổ mồ hôi cùng anh. Hiểu ý em không? Anh luôn luôn có vẻ bình thản, như thể dù có gì xảy ra đi nữa thì cũng chẳng liên quan gì đến anh, nhưng thật ra anh không phải vậy. Theo cách riêng của anh, anh đang chiến đấu hết sức mình, mặc dù thoạt nhìn người ta không biết đâu. Nếu không vậy thì anh đã chẳng chui xuống giếng như thế, đúng không? Nhưng dù sao đi nữa, anh cũng không phải đang chiến đấu vì em, dĩ nhiên. Anh đang gồng hết sức mình vật lộn với cái gì đó rất to lớn, mà lý do duy nhất khiến anh làm vậy là để tìm cho bằng được Kumiko. Thành thử chẳng có lý do gì để em phải vã mồ hôi vì anh cả. Em biết rõ thế, nhưng dẫu vậy em cũng không khỏi cảm thấy anh đang chiến đấu vì chính em, Chim vặn dây cót ạ - rằng theo cách nào đó có lẽ anh đang chiến đấu vì nhiều người khác đồng thời với chiến đầu vì Kumiko. Có lẽ chính vì vậy mà đôi khi anh có vẻ như một gã lơ ngơ láo ngáo. Em nghĩ như vậy đó, Chim vặn dây cót à. Nhưng mỗi khi thấy anh làm vậy, em thấy căng thẳng, lo lo, rốt cuộc thì chẳng còn hơi sức nào nữa. Em thấy như thể anh chắc sẽ không thắng nổi. Nếu phải đặt cược thì em sẽ cược anh thua. Rất tiếc, nhưng nó là vậy. Em thích anh lắm, nhưng em không muốn trắng tay.

            - Anh hoàn toàn hiểu.

            - Em không muốn thấy anh sa cơ, cũng không muốn phải vã mồ hôi thêm vì anh nữa. Chính vì vậy em mới quyết định quay về một thế giới bình thường hơn một chút. Nhưng giá như em không gặp anh ở đây - ở đây, ngay trước căn nhà hoang này – thì chắc mọi sự đã không thành ra như thế. Hẳn em đã chẳng bao giờ nghĩ đến chuyện đi học trở lại. Em sẽ nấn ná mãi trong một thế giới chẳng bình thường cho lắm. Thành thử theo nghĩa đó thì chính là do anh cả, Chim vặn dây cót ạ. Anh không hoàn toàn là kẻ vô ích đâu.

            Tôi gật đầu. Đã lâu lắm rồi lần đầu tiên mới có người nói điều gì đó tốt đẹp về tôi.

            - Lại đây, chim vặn dây cót, - Kasahara May nói. Cô nhổm dậy trên chiếc ghế xếp.

            Tôi đứng dậy, đi về phía cô.

            - Ngồi đây, chim vặn dây cót, - Kasahara May nói.

            Tôi làm theo, ngồi xuống cạnh cô.

            - Cho em xem mặt anh nào, chim vặn dây cót.

            Cô nhìn tôi đăm đăm một hồi. Thế rồi, một tay đặt trên đầu gối tôi, cô ấn lòng bàn tay kia lên vết bầm trên má tôi.

            - Tội nghiệp Chim vặn dây cót, - Kasahara May nói, giọng gần như thì thầm. – Em biết rồi anh sẽ gặp đủ thứ chuyện. Mà thậm chí anh chẳng biết vậy nữa cơ. Và anh cũng không thể lựa chọn gì hết. Kiểu như mưa rơi trên đồng ấy. Giờ nhắm mắt lại nào, chim vặn dây cót. Nhắm thật chặt vào. Như là bị dán keo ấy.

            Tôi nhắm chặt mắt lại.

            Kasahara May chạm môi vào vết bầm của tôi – môi cô nhỏ và mỏng, như không phải môi thật mà là một thứ bắt chước làm cực khéo. Rồi cô hé môi ra và miết lưỡi lên khắp vết bầm của tôi – thật chậm rãi, từng li từng tý một. Suốt thời gian đó bàn tay vẫn để nguyên trên đầu gối tôi. Cái đụng chạm ấm áp, ẩm ướt của bàn tay đó như thể đến với tôi từ xa, từ một nơi thậm chí còn xa hơn cả những cánh đồng xa nhất trên thế giới. Đoạn cô cầm lấy tay tôi, đặt nó chạm vào vết thương bên cạnh mắt cô. Tôi vuốt ve vết sẹo dài chỉ hơn một xăng-ti-mét ấy. Khi tôi làm vậy, những làn sóng của ý thức cô rung qua đầu ngón tay tôi mà nhập vào tôi, như tiếng vang vi tế của một niềm ham muốn. Một ai đó cần phải ôm người con gái này vào tay, siết cô thật chặt. Hẳn là ai khác chứ không phải tôi. Ai có đủ phẩm chất để cho cô một cái gì.

            - Tạm biệt chim vặn dây cót. Hẹn ngày nào đó gặp lại anh.

16

            Điều đơn giản nhất

            *

            Trả thù dưới dạng tinh vi

            *

            Vật trong thùng đàn ghita

            Ngày hôm sau tôi gọi điện thoại cho ông cậu, báo cho ông biết trong vài tuần tới tôi sẽ dọn đi. Tôi xin lỗi đã nói chuyện này với ông đột ngột như vậy, nhưng giải thích ấy là vì Kumiko đã bỏ tôi mà đi cũng đột ngột như thế. Chẳng việc gì phải giấu giếm nữa. Tôi bảo ông cậu rằng nàng đã viết thư nói nàng sẽ không về nữa, và tôi muốn đi khỏi nơi này ngay lập tức, dẫu rằng đi bao lâu tôi cũng chưa biết. Nghe xong bài giải thích đơn sơ của tôi, cậu tôi im lặng một hồi ở đầu dây bên kia. Hình như ông đang ngẫm nghĩ điều gì đó. Rồi ông nói: - Ít lâu nữa cậu đến chơi được không? Cậu muốn tận mắt thấy đang có chuyện gì. Mà cũng đã lâu rồi cậu chưa về lại nhà đó.

            * * *

            Hai hôm sau cậu tôi đến vào buổi tối. Ông nhìn vết bầm trên má tôi nhưng không nói gì. Có lẽ ông chẳng biết nói gì. Ông nheo mắt nhìn có vẻ hiếu kỳ, chỉ có thế. Ông mang đến cho tôi một chai Scotch và một gói bánh bột tôm mua ở Odawara. Chúng tôi ngồi ngoài hiên, vừa ăn bánh vừa uống rượu.

            - Lại về ngồi trên hàng hiên này thật thích quá, - cậu tôi nói, đầu gật gật mấy lần. - Khu nhà cậu ở hiện giờ không có hàng hiên, dĩ nhiên rồi. Nhiều khi cậu thật tình nhớ cái nhà này. Ngồi ngoài hiên này mình có một cảm giác đặc biệt mà không đâu khác có.

            Ông ngồi im một hồi rồi nhìn trăng, một mảnh trăng lưỡi liềm trắng mảnh trông như ai đó vừa mài sắc xong. Một vật như thế mà có thể trôi trên bầu trời hầu như là một sự thần kỳ đối với tôi.

            Thế rồi cậu tôi bỗng hỏi, vẻ như hoàn toàn vô tình:

            - Sao cháu có cái vết bầm kia vậy?

            - Cháu cũng chả biết nữa, - tôi nói rồi nhấp một ngụm whisky. - Tự dưng có đó. Đâu như cách đây một tuần thì phải? Giá như có thể giải thích rõ hơn thì hay biết mấy, nhưng cháu chẳng biết giải thích ra sao cả.

            - Cháu đi khám bác sĩ chưa?

            Tôi lắc đầu.

            - Cậu chả muốn chõ mũi vào chuyện người khác làm gì đâu, nhưng cho cậu nói điều này: cháu cần phải ngồi xuống mà suy nghĩ cho tới nơi tới chốn xem điều gì là quan trọng nhất đối với cháu.

            Tôi gật đầu.

            - Cháu nghĩ mãi đấy chứ, - tôi nói. - Nhưng mọi chuyện phức tạp quá, cứ rối tung lên. Cháu không sao tách bạch ra từng chuyện một được. Cháu chả biết làm cách nào gỡ rối cả.

            Cậu tôi mỉm cười.

            - Cháu biết cậu nghĩ gì không? Theo cậu, đầu tiên cháu hãy nghĩ về những chuyện đơn giản nhất, hãy bắt đầu từ đấy. Chẳng hạn, cháu có thể đứng ở góc phố nào đó ngày này sang ngày khác mà nhìn người qua kẻ lại. Cháu chẳng việc gì phải vội quyết định điều gì cả. Có thể khó đấy, nhưng đôi khi cháu cần phải dừng lại, cứ từ từ, thong thả. Cháu phải tự rèn cho mình biết cách nhìn sự vật bằng chính mắt mình, cho đến khi một cái gì đó trở nên rõ ràng. Đã muốn vậy thì đừng sợ mất thời gian. Một khi ta không tiếc thời gian vào một cái gì, ấy có thể là hình thức trả thù tinh vi nhất đó.

            - "Trả thù"?! Ý cậu là thế nào? "Trả thù"? Trả thù ai?

            - Rồi cháu sẽ hiểu thôi, không lâu nữa đâu, - cậu tôi mỉm cười đáp.

            * * *

            Nói xong, chúng tôi vẫn ngồi uống rượu ngoài hiên thêm hơn một tiếng đồng hồ. Rồi cậu tôi nói ông đã nán lại quá lâu, bèn đứng dậy ra về. Còn lại một mình, tôi ngồi ngoài hiên, tựa vào một cây cột, nhìn đăm đăm khu vườn dưới ánh trăng. Một hồi, tôi hít thở sâu vào ngực bầu không khí thực tại hay cái gì gì đó mà cậu tôi để lại, và cảm thấy - lần đầu tiên sau một thời gian rất dài - một cảm giác thật sự là nhẹ nhõm.

            Nhưng chỉ vài tiếng sau cái không khí đó lại bắt đầu tan đi, và một bức màn u uất nhợt nhạt lại bao trùm lên tôi. Rốt cuộc tôi lại ở trong thế giới của mình còn cậu tôi ở trong thế giới của ông.

            * * *

            Cậu tôi đã nói, trước hết tôi hãy nghĩ đến những điều đơn giản, nhưng tôi thấy không thể nào phân biệt cái gì là đơn giản cái gì là phức tạp. Thế là sáng hôm sau, khi đã hết giờ cao điểm, tôi đáp xe đến khu Shinjuku. Tôi quyết định chỉ đứng đó nhìn mặt thiên hạ. Tôi chẳng biết làm thế liệu có ích gì không, nhưng có lẽ còn hơn là chẳng làm gì. Nếu nhìn mặt thiên hạ cho tới khi phát chán lên là ví dụ tiêu biểu về một việc đơn giản thì thử một lần cũng chẳng hại gì. Còn nếu làm vậy mà có tác dụng thì hẳn nó sẽ chỉ tôi biết thế nào là những điều "đơn giản" đối với tôi.

            Ngày đầu tiên tôi ngồi suốt hai tiếng đồng hồ trên bức tường thấp bằng gạch dọc mép bồn hoa bên ngoài ga Shinjuku mà nhìn mặt những người qua lại. Nhưng người quá đông mà lại đi quá nhanh nên tôi không thể nhìn kỹ mặt người nào được. Đã vậy, tôi ngồi đó được một hồi thì vài gã vô gia cư lại gần kiếm cớ cà khịa. Chốc chốc lại có một tay cảnh sát đi qua nhìn nhìn tôi. Thế nên tôi đành bỏ khu đông người ngoài nhà ga và quyết định tìm một chỗ thích hợp hơn sao cho có thể thong dong khảo sát người qua kẻ lại.

            Tôi đi dọc theo lối bộ hành bên dưới các tuyến đường ray khu phía Tây nhà ga, loanh quanh một hồi thì gặp một quảng trường nhỏ lát đá bên ngoài một tòa nhà cao tầng lắp kính. Nó có một bức tượng nhỏ và vài băng ghế xinh xinh nơi tôi có thể ngồi ngắm thiên hạ bao nhiêu tùy thích. Số người đi qua đây chẳng hề nhiều như ngoài cửa chính nhà ga, cũng không có gã vô gia cư nào với chai rượu nhét trong túi áo. Tôi ngồi đó suốt ngày, buổi trưa ăn quấy quá vài cái bánh vòng và uống cà phê ở quán Dunkin's Donuts rồi về nhà trước khi đến giờ cao điểm chiều.

            Thoạt tiên những người duy nhất đập vào mắt tôi là những người đàn ông hói, nhờ tôi đã được tập huấn khi cùng Kasahara May làm điều tra cho hãng tóc giả. Hễ gặp một mái đầu hói là cái nhìn của tôi bất giác dán vào ngay và tôi hầu như vô thức phân loại y ra thành A, B hay C. Cứ kiểu này thì chắc tôi có thể gọi Kasahara May để tình nguyện đi làm điều tra với cô lần nữa.

            Tuy nhiên, chỉ sau mấy ngày là tôi đã có thể chỉ ngồi quan sát khuôn mặt thiên hạ mà trong đầu chẳng nghĩ gì. Hầu hết những người đi qua đều là nam nữ công nhân viên làm việc ở các văn phòng trong tòa nhà cao tầng đó. Đàn ông mặc áo sơ-mi trắng, thắt cà vạt, tay xách cặp, đàn bà thì hầu hết mang giày cao gót. Ngoài ra tôi còn thấy chủ các nhà hàng cửa hiệu bên trong tòa nhà, những gia đình kéo cả bầu đoàn đi lên đài quan sát trên tầng thượng, vài ba người thì chỉ đi ngang, từ điểm A đến điểm B. Hầu hết mọi người có xu hướng không đi quá nhanh. Tôi chỉ việc quan sát tất cả, không có mục đích gì rõ rệt. Thi thoảng có đôi người thu hút sự chú ý của tôi vì lý do nào đó, nhưng rồi tôi lại tập trung vào những khuôn mặt khác và đưa mắt nhìn theo.

            Ngày nào tôi cũng đáp xe đến Shinjuku lúc 10 giờ sáng, sau giờ cao điểm, ngồi ở băng ghế trên quảng trường, ngồi đó hầu như không động đậy đến 4 giờ chiều, chỉ nhìn mặt thiên hạ. Chỉ khi đã thử làm việc đó tôi mới nhận ra rằng bằng cách luyện cho mắt mình nhìn hết khuôn mặt này đến khuôn mặt khác đi qua, tôi có thể làm cho đầu óc hoàn toàn trống rỗng, như là lôi cái nút chai ra khỏi chai vậy. Tôi chẳng trò chuyện với ai, cũng chẳng ai trò chuyện với tôi. Tôi chẳng nghĩ gì, chẳng cảm gì. Tôi thường có cảm giác mình đã trở thành một phần của băng ghế đá kia.

            Tuy nhiên, có lần cũng có người nói chuyện với tôi - một người đàn bà trung niên mảnh dẻ ăn mặc tươm tất. Bà ta vận áo váy màu hồng tươi bó sát người, đeo kính râm sẫm màu gọng đồi mồi, đội mũ trắng, mang xắc tay bằng vải lưới màu trắng. Bà có đôi chân đẹp, mang đôi xăng-đan trắng sạch như lau như li thoạt nhìn đã biết là đắt tiền. Bà trang điểm đậm nhưng có chừng mực. Bà hỏi tôi liệu có đang gặp khó khăn gì không. Chẳng có gì cả, tôi đáp. Hình như ngày nào tôi cũng gặp anh ở đây, bà ta nói, rồi hỏi tôi đang làm gì vậy. Tôi bảo tôi nhìn mặt thiên hạ. Bà ta hỏi tôi làm vậy có mục đích gì không, tôi bảo là không.

            Bà ngồi xuống cạnh tôi, rút trong xắc tay ra một gói Virgina Slims rồi mồi một điếu bằng chiếc bật lửa nhỏ bằng vàng. Bà mời tôi một điếu, nhưng tôi lắc đầu. Đoạn bà gỡ kính rồi chẳng nói chẳng rằng nhìn chằm chằm vào mặt tôi. Chính xác hơn, bà nhìn chằm chằm vào vết bầm trên má tôi. Đáp lại, tôi cũng nhìn chằm chằm vào mắt bà. Nhưng tôi không đọc được cảm xúc nào ở đó. Tôi chẳng thấy gì hơn ngoài hai con ngươi đen dường như đang vận hành đúng như chúng phải vận hành. Bà có cái mũi nhỏ, nhọn. Môi bà mỏng, màu son tô cực cẩn thận. Thoạt nhìn bà trẻ hơn tuổi, nhưng các nếp nhăn dọc hai bên sống mũi có cái vẻ mệt mỏi đặc biệt sao đó.

            - Cậu có tiền không? - bà ta hỏi.

            Tôi đâm ra cảnh giác.

            - Tiền á? Bà hỏi tôi có tiền không là có ý gì?

            - Tôi chỉ hỏi cậu có tiền hay không thôi? Cậu có đang kẹt tiền không?

            - Không. Hiện giờ tôi đang không kẹt tiền, - tôi nói.

            Bà ta hơi dẩu môi qua một bên như để nếm thử điều tôi vừa nói, rồi tiếp tục tập trung chú ý nhìn chăm chăm vào tôi. Đoạn bà ta gật đầu. Rồi bà lại đeo kính vào, thả điếu thuốc xuống đất, duyên dáng đứng dậy bỏ đi, không hề nhìn về phía tôi. Tôi sửng sốt nhìn bà ta biến mất vào đám đông. Có lẽ bà ta hơi dở người chăng. Nhưng chuyện đó cũng khó tin, bà ta phục sức không chê vào đâu được như thế kia mà. Tôi giậm chân lên điếu thuốc bà ta vừa bỏ, dụi cho nó tắt, rồi chầm chậm nhìn quanh bốn phía. Quanh tôi lại vẫn là thế giới thực tại thông thường. Thiên hạ vẫn đang di chuyển từ chỗ nọ đến chỗ kia, mỗi người có mục đích riêng. Tôi không biết họ là ai, họ cũng chả biết tôi là ai. Tôi hít một hơi dài rồi trở lại nhiệm vụ nhìn vào khuôn mặt những người đó, đầu chẳng nghĩ ngợi gì.

            Tôi vẫn ngồi như thế suốt mười một ngày sau đó. Ngày nào cũng vậy, tôi ăn bánh vòng, uống cà phê rồi chẳng làm gì khác ngoài nhìn mặt những người qua lại. Ngoại trừ mẩu đối thoại vô nghĩa với người đàn bà ăn mặc đẹp đã lại gần tôi kia, tôi không nói chuyện với bất cứ ai trong suốt mười một ngày đó. Tôi chẳng làm gì đặc biệt, cũng chẳng có việc gì đặc biệt xảy ra với tôi. Tuy nhiên, ngay cả sau cái khoảng chân không mười một ngày đó, tôi vẫn không rút ra được kết luận nào cả. Tôi vẫn lạc trong một mê cung rối bời bời, không giải quyết nổi ngay cả vấn đề đơn giản nhất.

            Nhưng đến chiều ngày thứ mười một thì một chuyện rất lạ lùng xảy ra. Hôm đó là Chủ nhật, nên tôi nán lại đó để ngắm khuôn mặt mọi người lâu hơn mọi khi. Những người đến khu Shinjuku vào ngày Chủ nhật khác với đám đông lui tới nơi này vào ngày thường, cũng không phải giờ cao điểm. Tôi nhìn thấy một gã thanh niên mang chiếc hộp đàn ghita màu đem. Vóc người y trung bình. Y đeo kính gọng nhựa màu đen, tóc dài tới vai, mặc áo khoác vải thô và quần jean màu xanh dương, lê đôi giày thể thao cũ rích. Y đi ngang qua tôi, mắt nhìn thẳng ra phía trước lộ vẻ ưu tư. Khi nhìn thấy y, một cái gì đó khiến tôi ngẩn ra. Tim tôi giật thót lên. Mình biết kẻ này, tôi nghĩ. Tôi đã gặp y ở đâu đó rồi. Nhưng phải mất mấy giây tôi mới nhớ ra y là ai - tay ca sĩ tôi đã gặp đêm hôm đó trong quán bar ở Sapporo. Không nghi ngờ gì nữa: chính y.

            Tôi bật dậy khỏi ghế, lật đật đuổi theo y. Vì y chỉ đi thủng thỉnh nên tôi đuổi kịp y chẳng khó gì. Tôi theo sau y khoảng mười bước, vừa đi vừa điều chỉnh nhịp bước của mình cho khớp với của y. Tôi cân nhắc xem có thể nói với y những gì. Tôi có thể nói chẳng hạn như: "Ba năm trước anh có hát ở Sapporo phải không? Tôi có nghe anh hát ở đó". "Ồ, thế à?" y sẽ nói. "Cám ơn ông nhiều lắm". Rồi sao nữa? Liệu tôi có nên nói: "Tối hôm đó vợ tôi đi phá thai. Và cô ấy đã bỏ tôi mới đây không lâu. Cô ấy đã ngủ với người khác"? Tôi quyết định chỉ theo y để xem chuyện gì sẽ xảy ra. Có thể trong khi đi tôi sẽ nghĩ ra cách gì đó đặng tùy cơ ứng biến.

            Y đang rời khỏi nhà ga. Y đi ngang qua một dãy nhà cao tầng, băng qua Xa lộ Ome rồi hướng về phía Yoyogi. Y có vẻ đang đắm mình suy nghĩ. Rõ là thông thuộc khu này như lòng bàn tay, y không một lần nào do dự hay nhìn quanh. Y luôn bước đều nhịp, mắt hướng thẳng về phía trước. Tôi theo sau y mà nghĩ về cái ngày Kumiko đi phá thai. Sapporo vào đầu tháng Ba. Đất lạnh cứng, thi thoảng vài bông tuyết rơi xuống. Tôi lại quay lại những con phố đó, phổi tôi đầy khí lạnh. Tôi thấy hơi thở trắng tỏa ra từ miệng mọi người.

            Thế rồi tôi bỗng ngộ ra: rằng chính lúc đó mọi việc đã thay đổi. Phải, chắc chắn vậy. Đó chính là bước ngoặt. Từ đó trở đi, dòng chảy quanh tôi đã bắt đầu tỏ dấu hiệu thay đổi. Giờ đây nghĩ lại, tôi mới nhận ra rằng việc phá thai đó đã là một sự kiện hệ trọng đối với hai chúng tôi. Tuy nhiên, tại thời điểm đó tôi đã không hiểu được tầm quan trọng đích thực của nó. Tôi đã quá bối rối bởi bản thân hành động phá thai, trong khi điều thực sự hệ trọng có thể là một cái gì đó hoàn toàn khác.

            Em phải làm chuyện đó, nàng đã nói. Em cảm thấy mình làm vậy là đúng, rằng làm vậy là tốt nhất cho cả hai ta. Nhưng còn một cái gì khác nữa, cái gì đó mà anh không biết, cái gì đó mà em chưa thể nói thành lời. Em không giấu anh điều gì cả. Em chỉ không biết chắc liệu đó có phải là một cái gì có thực không. Chính vì vậy em chưa thể nói thành lời được.

            Hồi ấy nàng không biết đó có phải là một cái gì có thực hay không. Và một cái gì ấy, không nghi ngờ gì nữa, có liên quan với việc mang thai hơn là với việc phá thai. Có thể nó có gì đó liên quan đến đứa trẻ trong bụng nàng. Nó có thể là cái gì? Cái gì đã khiến nàng hoang mang đến vậy? Phải chăng nàng có quan hệ với người đàn ông khác nên từ chối cho đứa bé ra đời? Không, không thể có chuyện ấy được. Chính nàng đã tuyên bố là không thể có chuyện ấy. Nó là con tôi, điều đó chắc chắn. Thế nhưng, vẫn có cái gì đó nàng không thể nói với tôi. Và chính một cái gì ấy có liên quan mật thiết đến việc nàng quyết định bỏ tôi. Mọi chuyện đều bắt đầu từ đó.

            Nhưng bí mật đó là gì, cái gì bị che giấu ở đó, tôi hoàn toàn không biết. Tôi là kẻ duy nhất bị bỏ rơi, một mình trơ trọi trong bóng tối. Tôi chỉ biết chắc mỗi một điều là chừng nào tôi chưa giải được bí mật của một cái gì kia thì Kumiko sẽ không bao giờ trở lại với tôi. Tôi bắt đầu cảm thấy một nỗi căm giậm câm lặng dâng lên trong tôi, căm giận cái gì đó vẫn đang vô hình đối với tôi. Tôi vươn thẳng lưng, hít một hơi dài, cố trấn an nhịp tim đập thình thịch. Nhưng dù có vậy, nỗi căm giận, giống như nước, vẫn thẩm thấu vào từng ngóc ngách thân thể tôi. Đó là một cơn giận chìm trong u buồn. Tôi không có cách nào quật nó vào một cái gì cho nó vỡ tan ra, không thể làm gì để xua nó đi được.

            * * *

            Gã đàn ông vẫn đi bằng nhịp chân đều đều. Y băng qua những đường ray của tuyến xe điện Odakyu, đi qua một dãy cửa hiệu, qua một đền thờ, qua một mê cung nhiều con ngõ. Tôi theo sau y, cố giữ một khoảng cách sao cho y không phát hiện ra tôi. Và rõ là y không phát hiện ra tôi. Y không một lần quay lại. Ở gã đàn ông này rõ ràng có cái gì đó khác người thường. Y không chỉ chẳng hề quay lại mà cũng chẳng bao giờ nhìn sang hai bên. Y quá đỗi tập trung; y đang nghĩ gì vậy? Hay đúng hơn, y hầu như không nghĩ về bất cứ cái gì?

            Chẳng mấy chốc gã đàn ông bước vào một khu tĩnh mịch, phố xá vắng tanh hai bên là những dãy nhà hai tầng có khung bằng gỗ. Đường đi nhỏ hẹp, ngoằn ngoèo, len giữa hai dãy những căn nhà xập xệ chen chúc chụm vào nhau. Ở đây vắng người đến kỳ lạ. Hơn một nửa những căn nhà này không có người. Có những thanh ván nẹp ngang qua cửa chính những căn nhà không người ở, bên ngoài dán những lá đơn xin phép quy hoạch. Đây đó, như những chiếc răng bị khuyết, có những lô đất trống mọc tràn cỏ dại mùa hè, xung quanh rào lưới mắt cáo. Hẳn là có một kế hoạch giải tỏa toàn bộ khu này trong thời gian sắp tới để xây dựng vào tòa nhà cao tầng mới. Những chậu bìm bìm cùng mấy loài hoa khác xúm xít trong khoanh đất bé xíu đằng trước dăm căn nhà ít ỏi còn người ở. Bên cạnh khoảnh đất đó một chiếc xe đạp ba bánh nằm lăn lóc, một chiếc khăn tắm và một bộ đồ tắm trẻ con phơi trên cửa sổ tầng hai. Mèo nằm nhan nhản khắp nơi, dưới cửa sổ, nơi ngưỡng cửa các nhà, chúng theo dõi tôi bằng cái nhìn uể oải. Tuy chỉ mới xế chiều nhưng khu này không một bóng người. Địa thế của nơi này làm tôi bối rối. Tôi không biết đây là phía Bắc hay phía Nam. Tôi đoán chừng đây là một vùng tam giác nằm giữa Yoyogi, Sendagaya va Harajuku, nhưng không chắc lắm.

            Dù thế nào đi nữa, đây là một khu vực bị lãng quên của thành phố. Hẳn là người ta đã quên bẵng nó bởi đường sá ở đây quá hẹp nên ôtô khó lòng qua được. Bàn tay các nhà thầu xây dựng chưa vươn tới đây. Bước chân tới chốn này, tôi có cảm giác như thời gian đã quay lại hai mươi, ba mươi năm về trước. Tôi nhận ra rằng đến một lúc nào đó, tiếng gầm gào triền miên của động cơ ôtô đã bị nuốt chửng, lúc này thì đã hoàn toàn biến mất. Xách chiếc hộp đàn ghita, gã đàn ông len lỏi qua mê cung những con phố cho tới khi đến một căn nhà khung gỗ gồm nhiều căn hộ cho thuê. Y mở cửa, bước vào rồi đóng cửa lại sau lưng mình. Theo như tôi thấy thì cửa không khóa.

            Tôi đứng đó một lát. Kim đồng hồ của tôi chỉ 6 giờ 20. Tôi tựa lưng vào hàng rào mắt cáo của lô đất trống bên kia đường mà quan sát căn nhà. Nó là một căn nhà chuyên cho thuê điển hình, có hai tầng, khung bằng gỗ. Nhìn cửa ra vào và cách bố trí các phòng là thấy ngay. Hồi còn sinh viên tôi từng sống trong một căn nhà như thế này. Nơi tiền sảnh có một cái tủ đựng giày, một toilet dùng chung, một gian bếp nhỏ, chỉ có sinh viên và những người đi làm độc thân mới sống ở đó. Tuy nhiên, căn nhà này lại chẳng có vẻ gì là có người ở. Không âm thanh, không động tĩnh. Trên cánh cửa bọc nhựa không có tấm bảng tên người nào. Trước kia thì có bảng tên nhưng ai đó đã bóc đi, chỉ còn trơ lại một khoảng trống dài, hẹp. Mọi cửa sổ đều đóng im ỉm, rèm che kín mít, dù cái nóng cuối buổi chiều vẫn chưa dứt.

            Căn nhà cho thuê này, cũng như các căn nhà kế cận, hẳn nằm trong kế hoạch giải tỏa, nên không còn ai sinh sống nữa. Nhưng nếu đúng vậy thì gã đàn ông ôm hộp đàn ghita làm gì ở đây? Tôi đã có ý chờ xem sau khi y vào thì có cánh cửa sổ nào mở ra không, nhưng chẳng có động tĩnh gì.

            Tôi không thể cứ quanh quẩn ở cái phố hẹp vắng tanh này mãi. Tôi liền đi đến chỗ cửa chính căn nhà, đẩy thử. Tôi đã đoán đúng: cửa không khóa, mở vào trong dễ dàng. Tôi đứng nơi ngưỡng cửa một lát, cố gắng có một cảm nhận về nơi này, nhưng hầu như không nhìn rõ được gì trong cảnh tranh tối tranh sáng. Mọi cửa sổ đều đóng kín mít, không khí trong nhà nồng nực, tù hãm. Cái mùi ẩm mốc làm tôi nhớ tới các mùi dưới đáy giếng. Nách tôi vã mồ hôi trong cái nóng. Môt giọt mồ hôi chảy xuống phía sau vai tôi. Sau một thoáng do dự, tôi bước vào rồi nhẹ nhàng đóng cửa lại đằng sau. Tôi đã nghĩ đến chuyện xem thử có tên người nào dám trên thùng thư hay tủ đựng giày để biết liệu có ai vẫn đang sống ở đây chăng, nhưng chưa làm vậy thì tôi đã nhận ra rằng có ai đó ở trong nhà. Có ai đó đang quan sát tôi.

            Bên phải lối vào có cái gì đó cao cao giống như tủ giày, và ai đó kia đang đứng ngay phía sau nó, như đang ẩn nấp. Tôi nín thở nhìn chòng chọc vào cái hơi ấm tranh tối tranh sáng kia. Người đứng đó là gã trai mang hộp đàn ghita. Rõ ràng là ngay sau khi vào phòng y đã núp sau tủ giày. Y làm gì ở đây? Đợi tôi chăng? "Chào đằng ấy", tôi cố buộc mình lên tiếng. "Tôi đang muốn hỏi anh..."

            Nhưng mấy chữ ấy vừa buột khỏi mồm tôi thì một cái gì đó đã quật mạnh vào vai tôi. Rất mạnh. Tôi không biết chuyện gì đang xảy ra. Trong khoảnh khắc đó điều duy nhất tôi cảm thấy lực đánh mạnh đến tối tăm mặt mũi. Tôi đứng đực ra đó, hoang mang. Nhưng ngay một giây sau đó tôi hiểu điều gì đang diễn ra. Nhanh như khỉ, gã đàn ông đã nhảy phóc ra từ sau chiếc tủ giày mà đánh tôi bằng một cây gậy bóng chày. Trong khi tôi đang đứng đó choáng váng, y lại vung gậy lên giáng vào tôi. Tôi cố tránh nhưng không kịp. Lần này gậy đập vào tay trái tôi. Trong một khoảnh khắc, tay mất hết cảm giác. Không đau đớn, không gì cả. Cứ như toàn bộ cánh tay đã tan biến vào không trung vậy.

            Tuy nhiên, chưa kịp nghĩ gì thì tôi đã tung chân đá hắn, như một phản xạ có điều kiện. Tôi chưa bao giờ theo học khóa võ thuật chính quy nào, nhưng một thằng bạn tôi hồi trung học biết karate đến đẳng gì đấy đã dạy tôi những đòn cơ bản. Hết ngày này sang ngày khác, cậu ta dạy tôi những đòn đá - chẳng cầu kỳ gì cả, chỉ là tập đá sao cho càng mạnh, càng cao, càng thẳng chân càng tốt. Đây là thứ hữu ích duy nhất cần biết trong những tình huống nước sôi lửa bỏng, cậu ta bảo. Cậu ta có lý lắm. Gã đàn ông đang mải mê vung gậy nên không hề ngờ trước rằng y có thể sẽ bị đá. Tôi cũng đang hoảng loạn như y nên không hề nghĩ xem mình đã vào đâu, cú đã cũng chẳng lấy gì làm mạnh, nhưng hình như cú sốc nó gây ra cũng đủ cho gã kia tắt điện. Y không vung gậy nữa, và như thể đúng khoảnh khắc đó thời gian dừng lại, y nhìn trân trân vào tôi bằng cặp mắt trống rỗng. Chộp lấy cơ hội, tôi bồi thêm một cú đá mạnh hơn, chính xác hơn vào bụng dưới y, và khi y gập người lại vì đau, tôi giằng cây gậy khỏi tay y. Rồi tôi đá mạnh vào mạng sườn y. Y cố túm chân tôi, thế là tôi lại đá y. Rồi lại đá nữa, cũng vào chỗ đó. Đoạn tôi vung gậy phang thẳng cánh vào đùi y. Y rống lên một tiếng đùng đục rồi đổ vật xuống sàn nhà.

            Ban đầu tôi đá và đánh y hoàn toàn là do khiếp sợ, đánh để chính mình không bị đánh. Nhưng khi y đã ngã xuống sàn, tôi nhận thấy nỗi khiếp sợ của tôi đã chuyển thành giận dữ, thực sự là giận dữ. Giận dữ vẫn còn nguyên đó, nỗi giận dữ lặng lẽ vốn đã tràng dâng trong thân thể tôi trước đó, khi tôi vừa đi vừa nghĩ đến Kumiko. Giờ đây được tuôn ra, nó bùng lên không sao kìm chế được thành cái gì đó gần như là nỗi căm hận dữ dội. Tôi lại vung gậy quật vào đùi gã đàn ông. Y rớt dãi nơi khóe miệng. Vai và tay trái tôi, chỗ bị y đánh ban nãy, bắt đầu đau nhói. Cái đau càng khiến tôi điên tiết. Mặt gã đàn ông méo xệch vì đau, nhưng y vẫn cố gượng dậy khỏi sàn. Tôi không điều khiển được tay trái, thế nên tôi quẳng gậy xuống đất mà giẫm lên người y, giã túi bụi vào mặt y bằng tay phải. Tôi nện liên hồi kỳ trận. Tôi nện cho đến khi mấy ngón tay phải tôi tê dại rồi trở nên đau nhói. Tôi muốn dần y cho đến khi bất tỉnh mới nghe. Tôi túm cổ y, dập đầu y xuống sàn nhà bằng gỗ. Chưa bao giờ trong đời tôi phải thượng cẳng chân hạ cẳng tay với ai. Tôi chưa bao giờ vận hết sức bình sinh đặng đánh kẻ nào khác. Nhưng lúc này tôi chỉ làm được mỗi một việc là đánh, đánh mãi, chừng như không sao dừng được. Trí óc bảo tôi dừng lại: thế là đủ rồi. Đánh nữa sẽ là quá tay. Gã này sẽ không dậy nổi nữa. Nhưng tôi không dừng được. Tôi nhận ra rằng lúc này có đến hai tôi. Tôi đã tách làm hai, nhưng cái tôi này không còn đủ sức ngăn cái tôi kia. Ý nghĩ đó làm tôi lạnh sống lưng.

            Thế rồi tôi nhận thấy gã đàn ông đang mỉm cười. Cho dù tôi đang đánh y, y vẫn đang cười vào mặt tôi - tôi càng đánh tợn thì nụ cười càng ngoác ra, cho tới khi máu tuôn xối xả từ mũi và cặp môi nát toét của y, và tới khi y sặc vì nước dãi của chính y, thì y bật ra một tiếng cười lảnh lót, mỏng dính. Y điên rồi, tôi nghĩ. Tôi bèn ngừng đánh y mà đứng thẳng dậy.

            Tôi nhìn quanh thì thấy chiếc hộp đàn ghita dựng bên hông cái tủ đựng giày. Tôi để mặc gã đàn ông nằm cười sằng sặc đó mà lại gần chiếc hộp đàn. Tôi hạ nó xuống sàn, mở khóa rồi nhấc nắp hộp lên. Bên trong chẳng có gì hết, không đàn, không nến. Gã đàn ông nhìn tôi, vừa cười vừa ho khục khặc. Tôi cảm thấy khó thở. Đột nhiên, bầu không khí oi nồng, sực hơi nước trong căn nhà này trở nên không thể chịu nổi. Mùi ẩm mốc, mồ hôi nhớp nháp của chính tôi, mùi máu và nước dãi, nỗi giận dữ và căm hận trong tôi: tất cả bỗng trở nên quá sức chịu đựng của tôi. Tôi đẩy bật cửa bước ra ngoài, khép cửa lại đằng sau. Cũng như trước, không hề có dấu vết một ai ở chốn này. Sinh vậy duy nhất là một con mèo to màu nâu đang chậm rãi băng qua lô đất trống, chẳng buồn để ý đến tôi.

            Tôi muốn rời khỏi nơi này trước khi có người phát hiện ra tôi. Tôi không biết đi lối nào, nhưng tôi cứ đi, chẳng mấy chốc cũng tìm được một trạm xe buýt có biển đề "Đến ga Shinjuku". Tôi cố thở đều lại và sắp xếp cho đâu vào đấy trong đầu trước khi xe buýt đến, nhưng cả hai đều không xong - hơi thở hổn hển, trong đầu vẫn rối tung lên. "Mình chỉ muốn nhìn vào mặt thiên hạ thôi mà", tôi cứ nhắc đi nhắc lại trong đầu vậy! Tôi chỉ nhìn mặt người qua kẻ lại trên đường mà thôi, như lời cậu tôi bảo. Tôi chỉ đang cố gỡ rối những rắc rối đơn giản của đời tôi, chỉ có thế. Khi tôi lên xe buýt, hành khách quay lại nhìn tôi. Ai đấy đều tỏ vẻ kinh hoàng rồi ngoảnh đi chỗ khác. Ban đầu tôi nghĩ ấy là do vết bầm trên mặt tôi. Mãi một lúc tôi mới nhận ra đó là vì những vết máu loang lổ trên ngực áo tôi (chủ yếu là máu mũi của y) và cây gập bóng chày mà tôi vẫn đang nắm chặt trong tay.

            Rốt cuộc tôi đã tha cây gậy suốt dọc đường về nhà rồi ném vào trong tủ.

            Đêm đó tôi thức trắng đến tận sáng. Vai và tay trái tôi, những chỗ bị gã kia đánh bằng gậy bóng chày, giờ đây sưng vù lên, đau tê tái, còn nắm tay phải tôi vẫn còn nguyên cảm giác nện tới tấp vào gã đó, nện liên hồi kỳ trận. Tôi nhận ra rằng bàn tay vẫn nắm chặt thành quả đấm, sẵn sàng đánh. Tôi cố duỗi bàn tay ra nhưng nó không chịu nghe. Còn không ngủ được thì không hẳn vì không thể ngủ mà đúng hơn là không muốn ngủ. Nếu cứ trong tình trạng này mà ngủ, tôi sẽ chẳng có cách nào thoát khỏi mơ những giấc mơ khủng khiếp. Tôi cố trấn tĩnh, ngồi bên bàn bếp, vừa nhấp chỗ whisky ông cậu tôi để lại vừa nghe nhạc êm dịu phát ra từ máy cát-xét. Tôi muốn nói chuyện với một ai đó. Tôi muốn một ai đó nói chuyện với tôi. Tôi đặt điện thoại lên bàn rồi nhìn nó hàng giờ liền. Ai đó hãy gọi tôi đi nào, làm ơn hãy gọi cho tôi, ai cũng được, kể cả người đàn bà bí ẩn trên điện thoại kia cũng được; ai tôi cũng sẵn lòng nghe. Dù cho là cuộc nói chuyện bẩn thỉu và vô nghĩa nhất, cuộc đối thoại độc địa và ghê tởm nhất. Không sao hết. Tôi chỉ cần một người nào đó hãy nói chuyện với tôi.

            Nhưng điện thoại không reo. Tôi uống nốt nửa chai Scotch còn lại, rồi khi trời đã sáng, tôi bò vào giường đi ngủ. Xin đừng để tôi mơ, xin hãy cho giấc ngủ tôi là một giấc ngủ trống trơn, không mộng mị, dù chỉ hôm nay thôi.

            Nhưng dĩ nhiên tôi đã mơ. Và đúng như tôi đã sợ, đó là một giấc mơ khủng khiếp. Trong mơ có gã đàn ông mang hộp đàn ghita. Trong giấc mơ tôi cũng làm những việc như đã làm trong thực tại - đi theo y, mở cửa trước căn nhà có hộ cho thuê, cảm thấy tác động từ cú đánh, rồi nện gã đàn ông, nện mãi, nện mãi. Nhưng sau đó thì khác. Khi tôi thôi đánh hắn và đứng dậy, gã đàn ông vẫn chảy rớt dãi và cười như điên dại như trong thực tại, nhưng y lại rút từ trong túi ra một con dao - một con nhỏ sắc lẻm. Lưỡi dao phản chiếu ánh chiều yếu ớt tuôn vào qua rèm cửa, hắt ra một ánh trăng trắng giống như xương. Nhưng gã đàn ông không dùng con dao để tấn công tôi. Thay vào đó y cởi hết quần áo ra rồi bắt đầu tự lột da mình như lột vỏ quả táo. Y làm rất nhanh mà vẫn không ngớt cười sằng sặc. Máu phụt ra xối xả từ mình y, làm thành một cái ao đen sịt, khủng khiếp trên sàn nhà. Y dùng bàn tay phải lột da cánh tay trái, rồi dùng bàn tay trái đã lột da đẫm máu để lột da cánh tay phải. Cuối cùng y trở thành một súc thịt đỏ hỏn, nhưng ngay cả khi đó y vẫn tiếp tục cười sằng sặc từ cái lỗ đen ngòm vốn là cái miệng hả hoác của y, cặp nhãn cầu trắng dã lộn lên lộn xuống như điên trên mớ thịt đỏ hỏn vốn là bộ mặt y. Chẳng mấy chốc, như thể đáp lại độ lớn phi tự nhiên của tiếng cười y, bộ da đã lột của gã đàn ông bắt đầu trườn trên sàn nhà mà lại gần tôi. Tôi muốn bỏ chạy, nhưng chân tôi không cục cựa. Bộ da chạm tới chân tôi rồi bắt đầu bò ngược lên. Nó bò lên trên da tôi, bộ da sũng máu của gã đàn ông dán chặt lên da tôi làm thành một lớp bọc ngoài. Đâu cũng mùi máu nồng nặc. Chẳng mấy chốc mà chân tôi, mình tôi, mặt tôi bị lớp màng mỏng của bô da gã đàn ông hoàn toàn phủ kín. Rồi mắt tôi không nhìn được nữa, và tiếng cười của gã đàn ông vang vọng trong bóng tối rỗng hoác. Đến đó thì tôi thức dậy.

            Bàng hoàng và khiếp đảm tràn ngập tôi. Trong một lát, tôi thậm chí không còn cảm nhận được sự hiện hữu của chính mình. Các ngón tay tôi run rẩy. Nhưng đồng thời tôi biết mình đã đi đến một kết luận.

            Tôi không thể - và không nên - chạy trốn, không trốn đến Crete, cũng chẳng trốn đi đâu hết. Tôi phải đưa bằng được Kumiko trở về. Bằng đôi tay mình, tôi phải lôi nàng trở lại thế giới này. Bởi nếu tôi không làm vậy, đó sẽ là chung cục của chính tôi. Con người này, cái kẻ mà tôi xem là "tôi", kẻ đó sẽ mất đi vĩnh viễn.

Quyển ba: Kẻ bắt chim

            Tháng 10 đến tháng 12 năm 1984

1

            Chim vặn dây cót trong mùa đông

            *

            Từ đoạn cuối mùa hè kỳ lạ ấy cho tới mùa đông, cuộc sống của tôi không có gì thay đổi. Ngày nào cũng khởi đầu bình lặng, chấm dứt cũng bình lặng như khi nó khởi đầu. Tháng chín trời nhiều mưa. Tháng mười có vài ngày ấm sực đến toát cả mồ hôi. Ngoài khí hậu ra thì hầu như chẳng có gì phân biệt ngày này với ngày kia. Tôi cố gắng tập trung vào những gì thực tế và hữu ích. Ngày nào tôi cũng đi bơi thật lâu, đi dạo, tự nấu ăn ba bữa.

            Nhưng dẫu vậy đi nữa, thỉnh thoảng tôi vẫn thấy cô đơn đến nhói lòng. Ngay cả nước tôi uống, không khí tôi thở dường như cũng tua tủa những chiếc kim dài, bén ngót. Những trang sách trên tay tôi lấp lánh ánh kim loại đầy đe doạ như những lưỡi dao lam. Lúc 4 giờ sáng, chung quanh lặng tờ đến độ tôi như nghe thấy tiếng nỗi cô đơn đâm rễ vào thân tôi mỗi lúc một sâu.

            * * *

            Thế nhưng vẫn có những người không chịu để tôi yên, đó là gia đình Kumiko. Họ viết thư cho tôi. Họ bảo Kumiko không thể tiếp tục cuộc hôn nhân với tôi nữa, rằng tôi nên đồng ý li dị ngay lập tức. Làm vậy sẽ giải quyết được mọi vấn đề. Những bức thư đầu tìm cách gây sức ép với tôi bằng giọng văn lạnh lùng, sự vụ. Khi tôi không trả lời, họ chuyển sang đe doạ, sau rốt là cầu khẩn. Nhưng mục đích trước sau vẫn là một.

            Cuối cùng cha của Kumiko gọi điện cho tôi.

            - Con không nói rằng con cương quyết không ly dị, - tôi nói. – Nhưng trước hết con muốn gặp Kumiko nói chuyện tay đôi. Nếu Kumiko thuyết phục được con rằng quả thật cô ấy cần ly dị thì con sẽ cho ly dị. Không thì sẽ chẳng ly dị gì hết.

            Tôi ngoái lại cửa sổ nhà bếp nhìn bầu trời xám xịt trĩu mưa trải dài tít đằng xa. Trời mưa đã bốn ngày dòng. Cả thế gian biến thành đen kịt, ướt sũng.

            - Kumiko và con đã bàn bạc với nhau mọi chuyện trước khi quyết định cưới nhau, thành thử nếu chấm dứt cuộc hôn nhân đó thì con cũng muốn làm đúng như vậy.

            Cha của Kumiko và tôi tiếp tục đối đáp qua lại một hồi mà chẳng đi tới đâu, ít nhất là chẳng đi tới kết quả tích cực nào.

            * * *

            Một số câu hỏi vẫn chưa có lời đáp. Có thật Kumiko muốn ly dị tôi không? Có phải Kumiko đã nhờ cha mẹ cố thuyết phục tôi đồng ý ly dị? “Kumiko nói nó không muốn gặp cậu”, cha nàng bảo tôi vậy, hệt như anh trai nàng, Wataya Noboru đã nói. Có thể không phải họ hoàn toàn nói dối đâu. Cha mẹ Kumiko đúng là những kẻ luôn lý giải sự vật theo cách có lợi cho mình, nhưng theo tôi biết, họ không phải là loại người dựng chuyện từ không thành có. Dù tốt hay dù xấu, họ vẫn là người thực tế. Nếu điều cha của Kumiko nói là sự thật thì hiện giờ Kumiko đang được họ cho “nương náu” ở đâu đó chăng?

            Nhưng điều đó tôi lại không tin được. Từ nhỏ Kumiko đã không có cái gọi là tình yêu thương đối với cha mẹ và anh. Đã bao năm nay nàng đấu tranh để không bị lệ thuộc vào họ. Rất có thể Kumiko bỏ tôi vì nàng có nhân tình. Cho dù tôi không sao chấp nhận được lời giải thích nàng đưa ra trong thư, nhưng tôi biết không thể loại trừ hoàn toàn khả năng đó. Song, điều tôi không thể chấp nhận là Kumiko bỏ tôi để đến thẳng nhà cha mẹ hay một chỗ nào đó họ đã chuẩn bị sẵn sàng cho nàng và thông qua họ mà giữ liên lạc với tôi.

            Càng nghĩ, tôi càng không hiểu. Có một khả năng là Kumiko bị suy sụp thần kinh và không sao qua được cơn chấn động đó. Một khả năng khác là nàng đang bị ai đó dùng vũ lực giam giữ. Suốt mấy ngày tôi xếp lui xếp tới trong đầu chuỗi sự kiện, lời nói và ký ức, để rồi rốt cuộc đành chịu thua không nghĩ nữa. Đoán già đoán non chẳng đi tới đâu.

            * * *

            Thu sắp tàn, trong không khí đã nghe hơi hướng của mùa đông. Cũng như mọi năm, cứ tới độ này là tôi lại hót lá rụng trong vườn rồi nhét vào túi nhựa. Tôi dựa thang vào mái nhà rồi dọn sạch lá rụng trong ống máng. Khu vườn nhỏ nhà tôi ở không có cây, nhưng gió cứ vặt lá những cây cối sum suê ở mấy khu vườn cả hai bên mà dồn đống vào đây. Tôi làm việc này chẳng nề hà gì. Tôi lơ đãng ngắm những chiếc lá úa rơi trong nắng chiều mà quên cả thì giờ. Một cái cây lớn ở vườn hàng xóm bên phải ra những quả đỏ mọng tươi. Hàng đàn chim đậu trên đó, kêu inh ỏi như đang thi với nhau. Lũ chim có bộ lông màu sáng, tiếng kêu ngắt quãng, chói lọi như thọc vào không khí.

            Tôi tự hỏi nên cất giữ quần áo mùa hè của Kumiko bằng cách nào hay nhất. Tôi có thể làm như nàng đã viết trong thư là tống khứ chúng đi. Nhưng tôi nhớ lại, nàng đã từng chăm chút nâng niu từng thứ một đến thế nào. Mà đâu phải tôi không có chỗ nào để giữ. Thế nên tôi quyết định tạm thời quần áo đang treo đâu thì cứ để nguyên ở đấy.

            Dẫu vậy, mỗi khi mở tủ, tôi lại va phải sự vắng mặt của Kumiko. Những bộ áo váy treo kia là cái vỏ còn lại của một cái gì không còn tồn tại nữa. Tôi biết rõ nàng trông ra sao khi mặc những bộ đồ đó, một số cái còn gắn liền với những kỷ niệm cụ thể. Nhiều khi tôi cứ ngồi thừ trên mép giường, nhìn đăm đăm những dãy áo dài, áo cánh hoặc váy kia. Tôi không biết mình ngồi đó bao lâu. Có thể mười phút, cũng có thể một tiếng.

            Đôi khi, ngắm một bộ áo váy, tôi lại hình dung một người đàn ông mà tôi không quen biết đang giúp Kumiko cởi nó ra. Bàn tay hắn trút áo váy khỏi người nàng, rồi cởi nốt đồ lót bên trong. Bàn tay hắn ve vuốt cặp vú nàng, banh háng nàng ra. Tôi thấy rõ đôi vú và cặp đùi mềm mại trắng nõn của nàng, thấy hai bàn tay gã đàn ông kia đang sờ mó chúng. Tôi không muốn nghĩ về những chuyện như vậy, nhưng không thể nào không nghĩ. Có lẽ những chuyện đó đã diễn ra trong thực tế. Tôi phải cố quen với những hình ảnh đó. Tôi không thể gạt phắt thực tại như thế được.

            Thi thoảng tôi lại nhớ đến cái đêm ngủ với Kano Creta, song ký ức về nó khá mơ hồ. Đêm đó tôi ôm cô ta trong vòng tay, nhập thân thể mình vào thân thể cô không biết mấy lần, đó là một sự kiện không thể phủ nhận. Nhưng tuần nối tuần qua, cảm giác chắc chắn kia dần dần biến mất. Tôi không còn phục hồi lại được hình ảnh rõ nét về thân thể cô ta, hay cách mà thân thể đó đã hoà làm một với thân tôi. Có chăng là ký ức về những gì tôi đã làm với cô ta từ trước nữa, trong tâm khảm tôi – trong cõi phi thực – còn sống động hơn nhiều so với ký ức về cái đêm đó. Hình ảnh cô ta chồng chất lên tôi, mặc chiếc áo váy màu xanh biển của Kumiko, trong căn phòng khách sạn xa lạ, trở đi trở lại mãi với tôi, rõ ràng đến kinh ngạc.

            * * *

            Vào đầu tháng mười, ông bác của Wataya Noboru làm dân biểu Hạ viện tỉnh Niigata qua đời. Ông ta bị lên cơn đau tim ngay sau nửa đêm trên giường bệnh ở Niigata; dù bác sĩ đã hết sức cứu chữa song đến sáng ông vẫn ra đi. Dĩ nhiên, cái chết của ông đã được người ta tiên liệu từ lâu, kỳ tổng tuyển cử thì sắp đến, cho nên những người ủng hộ ông bác liền mau mắn thực hiện kế hoạch đã có từ trước là để Wataya Noboru thừa kế chức dân biểu này. Bộ máy vận động phiếu bầu của vị dân biểu quá cố vốn có cơ sở rất vững chắc và rất ư bảo thủ. Hoạ chăng có một sự kiện lớn bất ngờ nào đó, nếu không thì việc Wataya Noboru được bầu là chắc như đinh đóng cột.

            Tôi đọc được tin đó trong tờ báo ở thư viện, và ý nghĩ đầu tiên nảy ra trong đầu tôi là: từ nay trở đi nhà Wataya Noboru sẽ vô cùng bận rộn, chẳng hơi đâu bận tâm đến chuyện ly hôn của Kumiko nữa.

            * * *

            Vết bầm xanh đen trên mặt tôi không lớn lên cũng chẳng teo đi. Nó không nóng cũng chẳng đau. Dần dà, thậm chí tôi quên mất rằng mình có nó. Tôi thôi tìm cách giấu đi vết bầm bằng cách đeo kính râm hay đội mũ che sùm sụp. Thi thoảng tôi vẫn phải nhớ tới nó, đó là những khi tôi đi mua sắm, người ta nhìn chằm chằm vào tôi hoặc ngoảnh đi chỗ khác, nhưng rồi chẳng mấy chốc ngay những phản ứng đó cũng chẳng làm tôi bận tâm nữa. Có vết bầm trên mặt thì tôi cũng chẳng làm hại ai. Mỗi sáng, khi cạo râu rửa mặt, tôi đều kiểm tra vết bầm, nhưng không thấy có gì thay đổi. Kích thước, mầu sắc và hình dáng của nó vẫn vậy.

            Có cả thảy bốn người lên tiếng bày tỏ mối quan tâm đối với vết bầm tự dưng xuất hiện trên má tôi: chủ hiệu giặt là gần nhà ga, tay thợ cắt tóc, gã thanh niên ở quán rượu Omura, và chị thủ thư ngồi ở quầy thư viện địa phương. Mỗi lần bị hỏi, tôi đều tỏ vẻ bực bội và nói một câu gì đó mơ hồ đại loại như “tôi bị một tai nạn nhỏ”. Thế là họ lẩm bẩm “Ồ, ồ, à, à” hay “Xui cho anh quá”, như thể xin lỗi vì đã nhắc tới nó.

            Càng ngày dường như tôi lại càng xa cách chính mình hơn. Mỗi khi ngắm bàn tay mình hồi lâu, tôi bắt đầu cảm thấy mình đang nhìn xuyên qua nó. Hầu như tôi không nói chuyện với ai. Chẳng ai viết thư hay gọi điện cho tôi. Trong hòm thư tôi chỉ thấy rặt những hoá đơn và thư quảng cáo linh tinh, hầu hết là các catalogue thiết kế và thời trang gửi cho Kumiko, đầy những ảnh màu các kiểu áo váy xuân. Mùa đông năm nay lạnh, nhưng thỉnh thoảng tôi lại quên bật lò sưởi, vì không chắc đấy là lạnh thật hay là lạnh ở bên trong mình. Tôi thường chỉ bật công tắc lò sưởi sau khi đã nhìn nhiệt kế mà tự nhủ “Ờ, lạnh thật”, nhưng ngay cả khi đó, cái lạnh mà tôi cảm thấy vẫn không hề giảm bớt.

            * * *

            Tôi viết thư cho Trung uý Mamiya mô tả khái quát những gì đang diễn ra với tôi. Nhận được thư này có lẽ ông ta sẽ bối rối hơn là vui vẻ, song tôi chẳng nghĩ ra được ai khác để viết thư cả. Tôi mào đầu bằng chính lý do đó. Rồi tôi báo cho ông Mamiya biết chuyện Kumiko đã bỏ tôi đúng vào cái ngày ông đến chơi nhà tôi, rằng nàng ngủ với người khác đã hàng mấy tháng trời, rằng tôi đã trải qua ba ngày dưới đáy giếng mà suy tư, rằng hiện nay tôi sống một mình, và rằng món quà ông Honda để lại chỉ là một hộp đựng whisky rỗng.

            Một tuần sau Trung uý Mamiya gửi thư phúc đáp cho tôi.

            Nói thật, từ khi ta gặp nhau lần trước ông luôn luôn hiện diện một cách lạ lùng trong suy nghĩ của tôi. Tôi rời khỏi nhà ông mà cảm thấy thực ra hai ta cần phải tiếp tục trò chuyện, phải “rút gan rút ruột” cho nhau, có thể nói vậy, và tôi vô cùng ân hận rằng hai ta đã không làm vậy. Thế nhưng, thật không may, tôi có việc đột xuất phải quay về Hiroshima ngay đêm đó. Vì vậy, theo nghĩa nào đó, tôi rất vui khi nhận được thư ông. Tôi tự hỏi phải chăng tất cả là do ông Honda đã có ý định đưa hai ta đến với nhau. Có lẽ ông ấy tin rằng nếu tôi gặp ông và ông gặp tôi thì sẽ rất tốt. Việc trao di vật chỉ là một cái cớ để tôi đến thăm ông. Có thể vì vậy mà món di vật nọ chỉ là một cái hộp rỗng. Bản thân việc tôi đến thăm ông mới là món quà mà ông Honda để lại cho ông.

            Tôi sửng sốt khi được biết ông đã chui xuống giếng, bới chính tôi cũng luôn luôn cảm thấy mình bị những cái giếng lôi cuốn mãnh liệt. Một khi đã biết trường hợp cận kề cái chết của tôi, người ta sẽ cho rằng tôi hẳn sẽ không bao giờ muốn thấy một cái giếng nào nữa, nhưng không, hoàn toàn ngược lại: cho tới tận giờ đây, bất cứ khi nào thấy một cái giếng, tôi không thể không dòm xuống. Và nếu hoá ra đó là giếng cạn, tôi cảm thấy nôn nao muốn trèo xuống. Có lẽ vì tôi vẫn nuôi hy vọng gặp một cái gì đó dưới kia, rằng nếu trèo xuống dưới rồi cứ đợi, có thể tôi sẽ gặp một cái gì đó. Chẳng phải vì tôi trông đợi nó sẽ phục hồi cuộc đời cho tôi đâu. Tôi già rồi, không còn ở cái tuổi trông mong những điều như vậy. Cái mà tôi hy vọng tìm thấy được là ý nghĩa của cuộc sống mà tôi đã đánh mất. Cái gì đã tước nó khỏi tôi? Vì sao? Tôi muốn biết lời đáp tuyệt đối chắc chắn cho những câu hỏi đó. Thậm chí tôi có thể nói rằng, nếu như biết được những lời đáp đó, tôi sẽ chẳng kể gì cho dẫu còn đánh mất chính mình một cách sâu xa hơn cả bây giờ. Tôi sẽ vui lòng chấp nhận cái gánh nặng đó dù đời tôi còn lại bao năm đi nữa.

            Thực lòng tôi rất lấy làm tiếc khi hay tin bà nhà đã bỏ ông, nhưng về việc này tôi không thể khuyên nhủ gì ông được. Tôi đã sống quá lâu mà không hề biết tới tình yêu thương hay mái ấm gia đình nên không có tư cách gì để nói về những chuyện đó. Tuy nhiên, tôi tin rằng nếu ông có dù chỉ chút lòng mong muốn đợi thêm ít lâu may ra bà ấy quay về thì hẳn ông cứ đợi như ông đang đợi. Đó là ý kiến của tôi, nếu như ý kiến của tôi có chút giá trị gì. Tôi hiểu lắm, phải sống mãi một mình ở nơi mà có kẻ đã bỏ rơi mình thì khó đến nhường nào, song trên đời này chẳng có gì tàn nhẫn bằng không còn gì để hy vọng nữa.

            Nếu có thể, tôi muốn đến Tokyo nay mai để gặp lại ông, nhưng thật không may, tôi đang bị đau một bên chân, phải mất ít lâu mới chữa lành. Xin ông bảo trọng.

            Đôi khi tôi trèo qua bức tường sau vườn rồi đi dọc cái ngõ quanh co đến nơi từng toạ lạc căn nhà bỏ trống của gia đình Miyawaki. Mặc áo khoác dài đến giữa đùi, khăn quàng quấn kỹ dưới cằm, tôi giẫm lên lớp lá rụng mùa đông trên con ngõ. Gió mùa đông lạnh buốt giật từng cơn, rít qua những hàng dây điện ở trên đầu. Căn nhà đã bị đập bỏ hoàn toàn, mảnh sân giờ đây bị quấn kín bởi một hàng rào cao bằng ván. Tôi có thể nhìn vào trong qua khe hở giữa những tấm ván, nhưng chẳng có gì để nhìn – không còn nhà, không còn những hòn đá lát lối đi, không giếng, không cây, không ăng-ten, không bức tượng chim; chỉ là một khoảnh đất bằng phẳng, đen đúa trông lạnh lẽo, chằng chịt vết xe ủi đất, dăm ba cụm cỏ dại lơ thơ. Thật khó tin rằng từng có một cái giếng sâu trong khoảnh sân này và tôi đã từng chui xuống đáy giếng đó.

            Tôi tựa vào hàng rào, nhìn lên ngôi nhà của Kasahara May, nơi từng có căn phòng của cô, trên tầng hai. Nhưng cô không còn ở đó. Cô sẽ không còn bước ra mà nói: “Chào Chim vặn dây cót”.

            * * *

            Vào một buổi chiều tháng Hai lạnh cắt da cắt thịt, tôi ghé vào văn phòng địa ốc gần nhà ga tên là công ty địa ốc Setagaya Dai-ichi mà ông cậu tôi từng nói với tôi. Khi vào trong, người đầu tiên tôi gặp là một nữ tiếp tân đã đứng tuổi. Mấy chiếc bàn làm việc kê thành hàng gần lối vào, nhưng các ghế ngồi đều trống, như thể tất cả nhân viên môi giới đều đi gặp khách hàng. Chính giữa phòng là một cái máy sưởi lớn chạy gas toả ánh đỏ rực. Trên chiếc đi-văng trong gian tiếp khách nhỏ ở mé trong có một ông già bé nhỏ ngồi mê mải đọc báo. Tôi hỏi người tiếp tân xem ông Ichikawa có ở đây không. “Tôi đây”, ông lão vừa quay về phía tôi vừa nói. “Tôi có thể giúp gì cho ông đây?”.

            Tôi tự giới thiệu là cháu của cậu tôi, hiện đang sống ở một trong các căn nhà thuộc sở hữu của ông cậu.

            - À, tôi hiểu rồi, - ông già vừa nói vừa đặt tờ báo xuống. – Vậy ông là cháu của ông Tsuruta! – Ông gấp cặp kính đọc sách lại rồi nhìn tôi từ đầu đến chân. Tôi không biết mình gây ra ấn tượng thế nào với ông ta. – Vào đây, vào đây. Ông dùng trà nhé?

            Tôi bảo ông xin đừng bận tâm, nhưng ông hoặc không nghe thấy hoặc không thèm đếm xỉa đến lời từ chối của tôi. Ông bảo người tiếp tân pha trà. Chẳng mấy chốc bà ta đã mang trà tới, nhưng khi hai chúng tôi ngồi đối diện nhau uống trà, lò sưởi tắt, căn phòng đâm ra mát lạnh. Trên tường treo một tấm bản đồ chi tiết tất cả các căn nhà trong khu vực, đây đó được đánh dầu bằng bút chì hay bút dạ. Gần tấm bản đồ là tấm lịch của ngân hàng nào đó, có in bức tranh nổi tiếng của Van Gogh vẽ cây cầu.

            - Đã khá lâu tôi không gặp cậu của anh. Ông ấy dạo này thế nào? – ông già hỏi sau khi nhấp một ngụm trà.

            - Cậu tôi chắc vẫn khoẻ, lúc nào cũng bận rộn. Bản thân tôi cũng chẳng mấy khi gặp cậu, - tôi nói.

            - Được thế thì tôi mừng. Từ lần cuối tôi gặp ông ấy đến giờ đã mấy năm rồi nhỉ? Thấy như đã hàng bao nhiêu năm trời không gặp lại nhau. – Ông lấy một điếu thuốc từ trong túi áo khoác, cẩn thận ướm thử rồi quẹt diêm châm thuốc bằng một cử chỉ đầy quyết đoán. – Tôi chính là người đã khuyên cậu anh mua căn nhà đó, sau đó cũng lại là tôi quản lý nó cho ông ấy suốt một thời gian dài. Dù sao, được biết ông ấy vẫn bận rộn thì tôi cũng vui.

            Bản thân ông Ichikawa xem ra chẳng lấy gì làm bận rộn. Tôi đoán ông ta hẳn đã về hưu một nửa, chỉ thi thoảng tạt vào cơ quan để trông nom các khách hàng lâu năm thôi.

            - Vậy anh có thích căn nhà không? Không có vấn đề gì chứ?

            - Không, hoàn toàn không có gì ạ, - tôi đáp.

            Ông lão gật đầu.

            - Vậy thì tốt. Chỗ đó đẹp lắm. Có thể nhà hơi nhỏ, nhưng sống ở đó rất tốt. Ai sống ở đó thì mọi chuyện đều xuôi chèo mát mái. Anh cũng vậy phải không?

            - Tàm tạm ạ, - tôi nói. Ít nhất là mình vẫn còn sống, tôi tự nhủ. – Tuy nhiên, tôi có đôi điều muốn hỏi ông. Cậu tôi nói ông rành khu này hơn bất cứ ai.

            Ông già tủm tỉm cười.

            - Nếu bảo là rành thì khu này tôi hơi bị rành đấy. Tôi kinh doanh nhà đất ở khu này đã gần bốn mươi năm rồi còn gì.

            - Tôi muốn hỏi ông là hỏi về nhà của gia đình Miyawaki, phía sau nhà chúng tôi. Nhà ấy bị san phẳng rồi, như ông biết đấy.

            - Phải, tôi biết, - ông lão nói, môi mím lại như thể đang lục qua các ngăn kéo trong trí nhớ. – Nhà ấy người ta bán hồi cuối tháng Tám. Rốt cuộc họ cũng trả được hết nợ, lo liệu xong quyền sở hữu và các vấn đề pháp lý để đưa nhà ra bán. Một nhà đầu cơ mua lại, phá nhà đi để bán đất. Một căn nhà dù tốt đến mấy mà để trống lâu như vậy thì cũng sẽ khó bán. Dĩ nhiên, những người mua căn nhà đó không phải người ở đây. Nếu là dân khu này thì chẳng ai đụng tới chỗ đó. Anh có nghe vài chuyện về căn nhà ấy chưa?

            - Có, tôi có nghe cậu tôi kể.

            - Thế thì anh hiểu ý tôi nói gì rồi. Nếu là người biết sự tình thì đã không mua. Lẽ ra chúng tôi cũng có thể cứ mua rồi tìm một ai đó chẳng biết gì để bán lại, nhưng chúng tôi không làm vậy. Thối lắm. Chúng tôi không làm ăn kiểu đó.

            Tôi gật đầu đồng tình.

            - Vậy thì ai đã mua?

            Ông lão nhíu mày lắc đầu, rồi cho tôi biết tên của một công ty bất động sản có tiếng.

            - Chắc là họ chẳng nghiên cứu gì hết, vừa thấy vị trí căn nhà và giá bán là chộp ngay, chắc mẩm phen này lãi nhanh. Nhưng đâu có dễ.

            - Đến giờ họ vẫn chưa bán được sao?

            - Mấy lần cũng suýt bán được rồi, - ông lão vừa nói vừa khoanh tay lại. – Mua một mảnh đất đâu có rẻ. Đầu tư cả đời chứ có ít gì. Ai người ta cũng cẩn thận lắm. Trước khi quyết định mua, người ta bắt đầu tìm hiểu kỹ hơn, thế là mới biết hàng bao nhiêu chuyện xung quanh cái nhà ấy, mà chẳng chuyện nào tốt lành cả. Anh đã nghe mấy chuyện như vậy rồi, người bình thường mà nghe thấy thì đời nào dám mua. Hầu hết những ai sống quanh đây đều biết mấy chuyện đồn đại về nơi đó.

            - Họ đòi bao nhiêu?

            - Đòi gì kia?

            - Giá mảnh đất nơi nhà của Miyawaki trước kia ấy.

            Ông Ichikawa nhìn tôi, xét theo cách ông nhìn, tôi đã gây sự tò mò ở ông.

            - Để xem nào. Khu ấy rộng hơn ba ngàn năm trăm bộ vuông một chút. Chưa tới một trăm tsubo(1) . Giá thị trường là một triệu rưỡi Yên một tsubo. Ý tôi là khu đất ấy thuộc hạng nhất đấy – vị trí tuyệt vời, hướng Nam. Tuy thị trường hiện đang eo sèo nhưng giá một triệu rưỡi là chắc. Dĩ nhiên có thể đợi thêm ít lâu, rồi giá cũng sẽ lên khoảng đó. Nhưng đấy là nói về đất bình thường. Nhưng đất của nhà Miyawaki thì đâu có thường. Có đợi lâu đến mấy giá cũng không tăng nữa đâu. Giảm thì có. Hiện nay đã giảm còn một triệu mốt Yên một tsubo, nhưng nếu mặc cả chút ít thì có thể mua trọn khu đất với giá một triệu Yên tròn.

            - Ông có cho rằng giá sẽ tiếp tục hạ nữa không?

            Ông lão gật đầu cả quyết.

            - Dĩ nhiên còn hạ nữa. Xuống còn chín trăm ngàn một tsubo, dễ không. Đó chính là cái giá mà họ đã trả để mua. Giờ thì họ đang lo sốt vó lên. Chỉ cần hoà vốn là họ vui lắm rồi. Tôi không biết liệu họ có giảm xuống nữa không. Nếu cần tiền quá thì có khi họ cũng đành chịu lỗ. Nếu không thì họ có thể đợi. Tôi chẳng biết tình hình công ty ấy thế nào. Nhưng tôi biết chắc rằng họ hối tiếc đã mua chỗ đó. Tốt nhất là chớ dây vào mảnh đất đó, chỉ rách việc.

            Ông gạt tro vào tàn thuốc.

            - Mảnh đất ấy có một cái giếng phải không ạ? – tôi hỏi. – Ông có biết gì về cái giếng ấy không?

            - Hừm, đúng là có một cái giếng. Giếng sâu. Nhưng chắc họ lấp rồi. Đằng nào cũng là giếng cạn mà. Đâu có dùng được.

            - Ông có biết vì sao nó bị cạn không?

            Ông lão khoanh tay nhìn lên trần một lát.

            - Từ lâu lắm rồi. Thực tình tôi không nhớ, nhưng nghe nói hồi trước chiến tranh thì nó từng có nước. Chắc nó đã bị cạn sau chiến tranh. Chính xác khi nào thì tôi không biết. Nhưng tôi biết khi bà diễn viên dọn vào ở thì nó đã cạn rồi. Lúc đó người ta bàn cãi nhau rất ghê xem có nên lấp giếng lại không. Nhưng rồi chẳng ai làm gì cả. Chắc là vì nhiêu khê quá.

            - Tôi nghe nói giếng ở sân nhà Kasahara phía bên kia ngõ thì lại nhiều nước, mà nước rất ngon là khác.

            - Có thể, có thể. Tất cả giếng ở khu này luôn luôn có nước, ngon, ngọt. Chuyện này chắc có liên quan đến đất. Anh biết đó, chuyện mạch nước này nọ thì phức tạp lắm. Một chỗ có nước mà ngay bên cạnh lại không thì chẳng bình thường đâu. Nhưng có gì khiến anh quan tâm tới cái giếng ấy vậy?

            - Thú thật với ông, tôi muốn mua mảnh đất đó.

            Ông lão ngước lên chăm chú nhìn vào tôi. Đoạn ông nâng tách trà lên lặng lẽ nhấp một ngụm.

            - Anh muốn mua mảnh đất ấy?

            Tôi chỉ im lặng gật đầu.

            Ông lão rút từ trong bao ra một điếu thuốc nữa rồi bập bập lên mặt bàn. Nhưng rồi, thay vì châm lửa, ông lại kẹp nó giữa mấy ngón tay, tặc tặc lưỡi giữa hai môi.

            - Hay để tôi nói thêm lần nữa rằng chỗ đất đó có lắm chuyện không ổn. Không ai – tôi xin nói rõ là không một ai – sống ở đó mà gặp điều lành cả. Anh có hiểu không? Dù có rẻ cách mấy thì cũng chớ mừng là được món hời. Biết vậy mà anh vẫn muốn mua sao?

            - Vâng, tôi vẫn muốn mua. Nhưng cho tôi nói rõ điều này: hiện tôi không có đủ tiền để mua chỗ đó dù giá có hạ đến mấy so với giá thị trường đi nữa. Nhưng tôi định sẽ lo chạy tiền, dù phải mất một thời gian. Vì vậy tôi muốn rằng trong thời gian đó vẫn theo dõi được tình hình mảnh đất, giá cả lên xuống thế nào, có người nào muốn mua không. Ông có thể giúp tôi chuyện đó không?

            Ông lão nhìn đăm đăm điếu thuốc chưa châm lửa, đắm mình suy nghĩ. Rồi ông khẽ ho để hắng giọng và nói:

            - Đừng lo, anh còn thời gian; chỗ ấy không bán nhanh được đâu, đảm bảo với anh thế. Chỉ khi nào họ bán với giá gần như cho không thì may ra mới có nhúc nhích gì, mà chuyện đó thì còn lâu. Thành thử anh cứ thủng thẳng gom góp tiền, cần bao nhiêu thời gian cũng được. Nếu anh thực sự muốn mua.

            Tôi cho ông ta số điện thoại. Ông lão ghi vào một cuốn sổ bìa đen ố mồ hôi. Nhét cuốn sổ vào túi áo khoác xong, ông nhìn thẳng vào mắt tôi một lát rồi nhìn vết bầm trên má tôi.

            * * *

            Tháng Hai đã qua, đến giữa tháng ba thì cái lạnh tê tái có phần giảm bớt. Gió ấm thổi từ phương Nam lại. Cây cối đâm chồi, trong vườn xuất hiện những đàn chim mới. Những hôm trời ấm, tôi hay ngồi ngoài hiên ngắm khu vườn. Một chiều nọ tôi nhận được điện thoại của ông Ichikawa. Ông cho biết mảnh đất của nhà Miyawaki vẫn chưa bán được, giá thì đã hạ.

            - Tôi đã bảo anh rằng chẳng một sớm một chiều mà được đâu, - ông nói thêm, giọng nhuốm vẻ tự hào. – Đừng lo, từ giờ trở đi sẽ càng ngày càng rẻ hơn thôi. Mà này, công việc của anh thế nào rồi? Tiền gom góp được chứ?

            * * *

            Lúc 8 giờ tối hôm đó tôi đang rửa mặt thì nhận ra vết bầm của của mình đang hơi sốt. Đặt ngón tay lên nghe âm ấm, trước đây không vậy. Mầu sắc dường như cũng đậm hơn, gần như tía. Nín thở, tôi nhìn trân trân vào gương một hồi, đủ lâu để bắt đầu thấy gương mặt mình thành cái gì đó chứ không phải mặt mình nữa. Vết bầm bắt đầu bảo tôi điều gì đó: nó cần một cái gì đó ở tôi. Tôi không rời mắt khỏi cái tôi của chính mình trong gương, và cái tôi đó nhìn chằm chằm lại tôi từ phía bên kia gương, không nói một lời.

            Ta phải có cái giếng đó. Dẫu có chuyện gì đi nữa, ta phải có cái giếng đó.

            Tôi đã kết luận như vậy.

            ---------------------------------

            1. Tsubo: đơn vị đo diện tích đất, ruộng… của Nhật, tương đương với khoảng 33 mét vuông - ND

2

            Tỉnh giấc đông miên

            *

            Thêm một danh thiếp nữa

            *

            Đồng tiền vô danh

            Dĩ nhiên, muốn mảnh đất đó không thôi thì chưa đủ biến nó thành của mình. Số tiền tôi hiện có trong tay gần như bằng không. Tôi vẫn còn một ít tiền mẹ tôi để lại, nhưng khoản ấy chẳng mấy chốc cũng chẳng còn gì, miệng ăn núi lở. Tôi không có việc làm, cũng chẳng có gì thế chấp. Mà trên thế giới này chẳng có ngân hàng nào cho một kẻ như tôi vay tiền chỉ vì lòng tốt. Có hoạ là phù thuỷ thì mới phù phép ra tiền từ không khí được. Đã vậy còn phải làm thật nhanh.

            Một buổi sáng nọ tôi đi bộ đến nhà ga mua mười tấm vé số năm mươi triệu Yên có dãy số kế tiếp nhau. Tôi dùng đinh ghim cắm chúng lên một mảng tường nhà bếp rồi ngắm hàng ngày. Đôi khi tôi để hàng tiếng đồng hồ ngồi trên ghế mà nhìn chúng chăm chăm, như thể đợi một mật mã bật ra từ chúng mà chỉ mình tôi đọc được. Sau mấy ngày như vậy, bỗng dưng tôi như choàng tỉnh:

            Tôi sẽ chẳng bao giờ trúng số cả.

            Chẳng mấy chốc tôi biết chắc điều đó. Mọi việc đâu thể giải quyết dễ dàng như vậy: ra nhà ga mua mấy tờ vé số rồi ngồi đợi kết quả. Tôi phải kiếm tiền bằng nỗ lực của chính mình thôi. Tôi bóc hết các tờ vé số ra khỏi tường vứt đi. Rồi tôi lại đứng trước gương nơi bồn rửa mặt, nhìn chăm chú vào chiều sâu của nó. Phải có cách nào đó, tôi nói với chính mình ở trong gương, nhưng dĩ nhiên không có lời đáp lại.

            * * *

            Mệt nhoài vì cứ giam mình mãi trong nhà, quẩn quanh với những ý nghĩ của mình, tôi bắt đầu tản bộ quanh các khu lân cận. Tôi cứ đi loanh quanh vô mục đích như thế suốt ba, bốn ngày, đến khi đã chán những khu lân cận thì tôi bắt xe lửa đến khu Shinjuku. Ý muốn đi xuống khu trung tâm nảy đến khi tôi tình cờ đi qua nhà ga. Tôi nghĩ, đôi khi thử chuyển sang một khung cảnh khác mà suy nghĩ thì cũng tốt. Với lại, đã lâu tôi không đi tàu điện. Thực vậy, khi bỏ tiền vào máy bán vé tự động, tôi cảm thấy lúng túng như khi làm một việc gì đó không quen. Lần cuối tôi đi trên các phố trung tâm là khi nào nhỉ? Cũng phải hơn sáu tháng rồi. Từ khi tôi đi theo gã đàn ông mang thùng ghi-ta từ cổng phía tây khu Shinjuku.

            Quang cảnh đám đông ở ga Shinjuku làm tôi choáng váng. Chỉ cần thấy dòng người đi lại là tôi đã thấy nghẹt thở, thậm chí tim đập thình thình, ấy thế mà nào phải giờ cao điểm! Khó khăn lắm tôi mới chen qua được khối người. Đây không phải là đám đông mà là một dòng chảy khổng lồ xé tan tành và cuốn phăng nhà cửa. Mới đi bộ được dăm phút, tôi đã cảm thấy phải làm cho thần kinh dịu lại. Tôi vào một quán cà phê đối diện với đại lộ, ngồi cạnh ô cửa sổ lớn bằng kính. Đã xế trưa, quán thưa khách. Tôi gọi một tách ca cao rồi lơ đãng nhìn người qua kẻ lại ngoài kia.

            Tôi không biết bao nhiêu thời gian đã trôi qua. Có thể mười lăm phút, có thể hai mươi phút, nhưng rồi tôi nhận ra mình đang dõi theo từng chiếc Mercedes-Benz, Jaguar và Porsche bóng lộn đang chậm chạp bò trên đại lộ nêm kín những xe. Trong ánh nắng mai tươi rói sau một đêm mưa, những chiếc xe kia lấp lánh chói lọi hầu như nhức mắt, như là biểu tượng cho một cái gì. Không có lấy một hạt bụi. Những kẻ ngồi trong xe đó có tiền. Ý nghĩ như vậy chưa bao giờ nảy ra trong tôi trước đây. Tôi nhìn hình ảnh chính mình phản chiếu trong gương mà lắc đầu. Từ cha sinh mẹ để đến giờ, đây là lần đầu tiên tôi cần tiền ghê gớm đến vậy.

            Khi đám đông khách ăn trưa bắt đầu ùa vào quán, tôi quyết định đi dạo. Tôi chẳng có mục đích nào cụ thể, chỉ là muốn đi bộ qua khu trung tâm thành phố mà đã lâu tôi không đến. Tôi đi bộ từ phố này sang phố nọ, ý nghĩ duy nhất của tôi là cố sao tránh va vào những người đi ngược chiều tôi. Tôi rẽ phải, rẽ trái hay đi thẳng tuỳ theo sự thay đổi của đèn giao thông hay ý thích nhất thời. Thọc tay vào túi, tôi tập trung vào bản thân hành động đi – từ các đại lộ với hàng dãy siêu thị và cửa sổ bày hàng, đến những ngõ hẻm phía sau với những porno shop(2) trang hoàng loè loẹt, qua những con phố đông vui lắm rạp chiếu phim, qua khuôn viên tĩnh mịch những đền thờ Thần đạo rồi lại quay về các đại lộ. Buổi chiều ấm áp, gần một nửa đám đông đã bỏ áo khoác lại nhà. Làn gió nhẹ chốc chốc lại thổi, cảm giác đổi thay dễ chịu. Chưa kịp nhận ra thì tôi đã lại đứng trong khung cảnh quen thuộc. Tôi nhìn những viên gạch dưới chân mình, nhìn bức tượng nhỏ đứng kia, nhìn toà nhà bằng kính cao chót vót phía trên tôi. Tôi đang đứng ngay giữa quảng trường nhỏ bên ngoài toà nhà cao tầng nơi tôi đã đến hồi mùa hè năm ngoái để nhìn người qua kẻ lại theo lời khuyên của ông cậu. Tôi đã làm vậy suốt mười một ngày, cuối cùng tôi theo gã đàn ông kỳ quặc ôm thùng đàn ghi-ta bước vào gian ngoài căn nhà lạ lùng kia, ở đó hắn tấn công tôi bằng gậy bóng chày. Giờ đây lang thang vô định quanh khu Shinjuku, bước chân tôi lại đến chính nơi này.

            Cũng như trước, tôi mua cà phê và bánh cam vòng tại cửa hàng bánh Dunkin rồi đi đến chỗ băng ghế trên quảng trường. Tôi ngồi nhìn mặt những người qua lại, việc đó khiến tâm trạng tôi càng lúc càng bình an. Tôi dễ chịu vì một lý do mà tôi không hiểu được, như thể tôi đã tìm thấy một cái ổ tiện nghi trên tường nơi không ai có thể nhận ra rằng tôi đang quan sát họ. Đã lâu lắm rồi tôi không nhìn mặt thiên hạ kỹ đến vậy. Nhưng rồi tôi hiểu ra rằng không chỉ mặt. Tôi đã không hề nhìn – thật sự nhìn – bất cứ cái gì trong sáu tháng qua. Tôi ngồi thẳng người dậy trên ghế, lấy tư thế thăng bằng để nhìn sự vật. Tôi nhìn những con người, nhìn những toà nhà cao ngất trên đầu, nhìn bầu trời mùa xuân ló ra qua những đám mây vừa tản mác, tôi nhìn những bảng hiệu nhiều màu sắc, tôi nhặt một tờ báo nằm bên cạnh rồi nhìn nó. Khi chiều xuống, màu sắc chân thực dần dần quay trở lại với vạn vật.

            * * *

            Sáng hôm sau tôi lại bắt tàu điện đến khu Shinjuku. Tôi ngồi cũng trên băng ghế ấy, nhìn mặt người qua lại. Buổi trưa tôi lại ăn bánh cam vòng và uống cà phê. Trước khi đến giờ cao điểm chiều, tôi lên xe điện về nhà. Tôi làm bữa tối, uống bia rồi nghe nhạc trên radio. Ngày hôm sau tôi cũng làm đúng như vậy. Hôm ấy cũng không có gì xảy ra. Nhưng tôi có một cảm giác mơ hồ rằng mình đang nhích gần đến một cái gì đó từng tí một. Tôi có thể nhận ra cái chuyển động đó, cái gần gũi hơn từng tí một đó mỗi khi nhìn chính mình trong gương trước bồn rửa mặt. Màu sắc của vết bầm càng sống động hơn bao giờ hết, ấm áp hơn bao giờ hết. Vết bầm của mình có sự sống, tôi tự nhủ. Nó đang sống, cũng như tôi.

            Tôi lặp lại quy trình đó hàng ngày, hệt như mùa hè trước: sau mười giờ sáng một chút lên tàu điện đến thành phố, ngồi trên băng ghế nơi quảng trường cạnh toà nhà cao tầng, nhìn người qua kẻ lại suốt ngày, tuyệt không nghĩ ngợi gì. Thỉnh thoảng, chẳng hiểu sao những âm thanh có thực quanh tôi trở nên xa xăm, nhỏ dần rồi tắt ngấm. Cái duy nhất tôi nghe thấy vào những lúc đó là tiếng nước chảy sâu thẳm, êm lặng. Tôi nghĩ tới Kano Malta. Cô đã nói về chuyện lắng nghe tiếng nước. Nước là chủ đề chính của cô. Nhưng tôi không thể nhớ ra Kano Malta đã nói gì về tiếng nước. Tôi cũng không nhớ được mặt cô. Chỉ nhớ được mỗi màu đỏ chiếc mũ bằng vải vinyl mà cô đội. Tại sao lúc nào cô ta cũng đội chiếc mũ bằng vải vinyl màu đỏ ấy?

            Nhưng rồi các âm thanh dần dần trở lại với tôi, và một lần nữa tôi lại ngắm gương mặt mọi người.

            * * *

            Vào buổi chiều ngày thứ tám tôi lên phố, một người đàn bà nói chuyện với tôi. Lúc đó tôi đang nhìn hướng khác, tay cầm cốc cà phê rỗng. “Xin lỗi” bà ta nói. Tôi quay lại, ngước mắt lên thì thấy gương mặt một phụ nữ đang đứng trước mặt tôi. Đó chính là người đàn bà luống tuổi mà tôi đã gặp ở đây mùa hè năm ngoái, người duy nhất đã nói chuyện với tôi trong suốt khoảng thời gian tôi ngồi trên quảng trường. Chẳng phải tôi ngồi ở đây với ý định sẽ gặp lại bà ta, nhưng khi bà ta lên tiếng với tôi, dường như đó là kết cục tự nhiên của một dòng chảy lớn vậy.

            Cũng như trước, người đàn bà ăn mặc không chê vào đâu được, cả về chất lượng từng thứ bà ta mặc lẫn cách kết hợp thứ này với thứ kia. Bà ta đeo kính đồi mồi màu tối, vận áo khoác màu xanh khói có độn vai, váy nỉ kẻ ô màu đỏ. Áo blouse của bà bằng lụa, trên ve áo khoác lấp lánh một chiếc ghim bằng vàng chạm khắc tinh xảo. Đôi giày cao gót màu đỏ của bà có kiểu dáng giản dị, song số tiền bà ta bỏ ra mua nó hẳn đủ cho tôi sống được vài tháng. Quần áo tôi thì chẳng đâu vào đâu, như mọi khi: chiếc áo khoác bóng chày tôi mua từ hồi mới vào đại học, áo thun màu xám cổ đã doãng ra, và đôi giày tennis xưa kia màu trắng nhưng bây giờ chẳng biết gọi màu gì.

            Mặc sự tương phản một trời một vực kia, bà ta ngồi xuống cạnh tôi, bắt tréo chân, rồi chẳng nói chẳng rằng rút từ trong ví cầm tay ra một gói Virginia Slims. Bà ta mời tôi một điếu, hệt như dạo hè năm ngoái, và một lần nữa tôi từ chối. Bà ta cho một điếu lên miệng rồi châm lửa bằng cái bật lửa bằng vàng dài dài, thanh mảnh, cỡ bằng viên tẩy. Rồi bà ta tháo kính, cho vào túi áo khoác, đoạn nhìn tôi chăm chú như thể đang tìm một đồng bạc bà ta đánh rơi vào một cái ao cạn. Tôi cũng nhìn vào mắt bà ta. Mắt bà ta thật lạ, sâu thẳm nhưng vô cảm.

            Bà ta hơi nheo mắt rồi nói:

            - Thế là cậu quay lại đấy.

            Tôi gật.

            Tôi dõi theo khói thuốc mỏng tang bay lên từ đầu điếu thuốc của bà ta rồi tản đi theo gió, biến mất vào không khí. Bà ta ngoái lại nhìn quang cảnh chung quanh, như để tận mắt thấy tôi đang nhìn những gì từ chiếc ghế này. Tuy vậy, những gì trông thấy hình như chẳng làm bà ta bận tâm. Bà lại quay sang nhìn tôi. Bà nhìn chằm chằm vào vết bầm của tôi một hồi lâu, đoạn nhìn vào mắt tôi, vào mũi, vào miệng tôi, rồi lại nhìn vết bầm. Tôi có cảm giác thật ra bà chỉ muốn săm soi tôi như săm soi một con chó ngoài hội chợ: cạy mõm ra để kiểm tra răng tôi, dòm vào trong tai tôi.

            - Hiện giờ tôi đang cần tiền, - tôi nói.

            Bà im lặng một chút.

            - Bao nhiêu?

            - Tám mươi triệu Yên là đủ.

            Bà ta thôi nhìn tôi mà ngước lên trời như để nhẩm tính: xem nào, nếu mình lấy chỗ này một chút, chuyển từ kia một chút… Suốt thời gian đó tôi quan sát cách trang điểm của bà ta: mắt đánh rất nhạt như cái bóng của một suy nghĩ, hàng mi cong tinh tế như một biểu tượng nào đó.

            - Số tiền đó không nhỏ, - bà ta nói, môi hơi cong lại.

            - Tôi thì tôi nói là quá lớn.

            Điếu thuốc chỉ mới hút được một phần ba, nhưng bà ta thả xuống đất rồi cẩn thận dùng gót giày di nát. Rồi ba ta lấy một hộp đựng danh thiếp bằng da thuộc ra khỏi chiếc ví cầm tay mỏng mảnh, gí một tấm danh thiếp vào tay tôi.

            - Chiều mai đúng 4 giờ hãy đến địa chỉ này, - bà ta nói.

            Trên danh thiếp chỉ ghi có mỗi địa chỉ - một toà nhà văn phòng ở quận Akasaka giàu có. Không có tên. Tôi lật mặt sau xem, nhưng mặt sau trắng. Tôi đưa lên mũi ngửi, nhưng nó chẳng có mùi gì. Nó chỉ là một tấm danh thiếp trắng bình thường.

            - Không có tên à? - tôi hỏi.

            Lần đầu tiên bà ta mỉm cười, nhẹ nhàng lắc đầu.

            - Cậu chỉ cần tiền thôi mà. Tiền thì có tên không?

            Tôi lắc đầu giống như bà ta. Dĩ nhiên, tiền thì vô danh. Nếu có tên thì nó chẳng còn là tiền nữa. Cái mang lại cho tiền ý nghĩa đích thực là sự vô danh tối mò như đêm đen của nó, cái khả năng trao đổi đầy áp đảo và nghẹt thở của nó.

            Bà ta đứng dậy khỏi ghế.

            - Cậu đến lúc 4 giờ chiều được chứ?

            - Nếu tôi đến, bà sẽ đưa tiền tận tay tôi sao?

            - Để xem, - bà ta nói, một nụ cười nơi khoé mắt bà ta như những hình mà gió vẽ ra trên cát. Bà ta ngắm khung cảnh xung quanh một lần nữa rồi kéo thẳng nếp váy cho có lệ.

            Bà ta rảo bước rồi biến mất vào dòng người. Tôi vẫn nhìn điếu thuốc mà bà ta đã giẫm nát, nhìn màu son môi vấy trên đầu lọc. Màu đỏ tươi làm tôi nhớ tới chiếc mũ bằng vải vinyl của Kano Malta.

            Nếu tôi có một cái gì đó của riêng mình, ấy chính là việc tôi chẳng có gì để mất. Có lẽ vậy.

            ---------------------------------

            2. Cửa hàng bán sản phẩm phục vụ sex

3

            Chuyện xảy ra trong đêm

            *

            Giữa đêm khuya, chú bé nghe một tiếng động rõ mồn một. Chú tỉnh dậy với tay bật đèn bàn rồi nhìn quanh phòng. Đồng hồ treo tường chỉ 2 giờ sáng. Chú bé tự nhủ: chuyện gì trên đời có thể xảy ra vào giờ này được nhỉ?

            Rồi tiếng động lại vang lên, từ bên ngoài cửa sổ, cái này thì chắc chắn. Nghe như ai đó đang vặn một sợi dây cót khổng lồ. Ai mà vặn dây cót giữa đêm hôm khuya khoắt thế này? Mà khoan, nghe như ai đó đang vặn dây cót, nhưng thật ra chẳng phải sợi dây cót nào hết. Đó là tiếng kêu của một con chim. Chú bé dịch ghế lại gần cửa sổ rồi trèo lên. Chú vén rèm rồi hé mở cửa sổ. Treo giữa bầu trời là vầng trăng lớn trắng phau, vầng trăng tròn tiết cuối thu, rọi sáng khu vườn như ánh sáng ban ngày. Cây cối ngoài kia trông hoàn toàn khác lúc ban ngày đối với chú bé. Chúng tuyệt không còn vẻ hiền lành thân thiện nữa. Cây sồi vạn niên thanh có vẻ bực bội vì thỉnh thoảng lại bị một làn gió động làm rung lên, cất tiếng ken két đầy khó chịu. Những hòn đá trong vườn trông như trắng hơn, nhẵn hơn bình thường, ngó trân trân lên trời một cách vô cảm như khuôn mặt những người chết.

            Tiếng chim kêu hình như vang lên từ chỗ cây thông. Chú bé tỳ vào cửa sổ nhìn lên, nhưng từ góc hẹp này thì không thể thấy con chim qua những cành thông to nặng. Chú muốn thấy con chim kia trông thế nào. Chú muốn nhớ nằm lòng màu sắc và hình dáng của con chim để ngày mai có thể tìm thấy nó trong cuốn bách khoa toàn thư có minh hoạ của chú. Nỗi hiếu kỳ mạnh mẽ khiến chú bé hoàn toàn tỉnh như sáo. Chú bé thích nhất là tìm những loài chim, cá và các loài vật khác trong cuốn bách khoa toàn thư. Bộ sách có nhiều tập dầy cộp, chất đầy cả một kệ sách trong phòng chú. Chú chưa đến tuổi đi học nhưng đã biết đọc rồi.

            Con chim nín lặng sau khi vặn dây cót mấy lần liên tiếp. Chú bé tự hỏi liệu có ai khác nghe tiếng kêu của nó không. Bố mẹ chú có nghe thấy không? Bà của chú? Nếu không thì sáng ra chú có thể kể cho mọi người nghe: có một con chim có tiếng kêu y hệt như tiếng vặn dây cót, nó ở trên cây thông lúc 2 giờ sáng. Giá như chú nhìn thấy nó, dù chỉ một lần thôi! Chừng đó thì chú có thể cho mọi người biết cả tên nó.

            Nhưng con chim không hề cất tiếng kêu nữa. Nó câm lặng như tảng đá, trên những cành thông tắm trong ánh trăng. Giây lát sau một làn gió lạnh ùa vào phòng, như thể mang tới một lời cảnh báo. Chú bé rùng mình đóng cửa sổ. Đây là một loài chim khác, chú biết, không phải sẻ hay bồ câu, nó không dễ dàng xuất hiện trước mắt con người. Chú đã đọc trong cuốn bách khoa toàn thư rằng hầu hết các loài chim đêm đều khôn ngoan và thận trọng. Con chim này có lẽ biết chú đang rình quan sát nó. Chính vì vậy nó sẽ không ló mặt dù chú đợi bao lâu đi nữa. Chú bé tự hỏi có nên đi xuống phòng vệ sinh không. Nếu vậy thì phải đi dọc theo hành lang hun hút tối om. Không, tốt nhất là vào lại giường. Thật tệ là chú không thể đợi đến sáng.

            Chú bé tắt đèn rồi nhắm mắt, nhưng ý nghĩ về con chim trên cây thông khiến chú trằn trọc mãi. Ánh trăng vằng vạc tuôn vào từ dưới tấm rèm cửa như mời gọi. Khi con chim vặn dây cót lại kêu lần nữa, chú bé nhảy ra khỏi giường. Lần này chú không bật đèn mà choàng áo len ra ngoài bộ pijama rồi trèo lên chiếc ghế bên cửa sổ. Chỉ hé rèm ra một tý, chú nhìn chăm chăm vào cây thông. Lần này hẳn con chim sẽ không nhận ra rằng chú đang rình nó.

            * * *

            Tuy nhiên, lần này chú bé lại thấy bóng dáng hai người đàn ông. Chú nín thở. Hai người đàn ông quỳ gối như hai cái bóng đen kịt dưới gốc cây. Cả hai đều mặc quần áo mầu sẫm. Một người đội mũ, người kia đội cái gì đó giống như mũ phớt có vành. Tại sao mấy người lạ này lại ở đây, trong vườn nhà mình giữa đêm khuya? Chú bé tự hỏi. Sao chó lại không sủa? Chắc là chú phải báo cho cha mẹ ngay. Nhưng nỗi tò mò giữ chú lại nơi cửa sổ. Chú muốn xem mấy người này đang làm gì.

            Thế rồi, đột nhiên con chim vặn dây cót lại cất tiếng kêu. Không chỉ kêu một tiếng mà cả một tràng dài liên tục Quick... Quick... Nhưng hai người đàn ông dường như không nhận thấy. Họ không động đậy, cũng chẳng nhìn lên. Họ vẫn quỳ dưới cây thông, mặt đối mặt. Dường như họ đang bàn bạc điều gì đó bằng giọng thì thầm. Những cành cây che khuất ánh trăng, thành thử chú bé không nhìn rõ được mặt họ. Chẳng mấy chốc, hai người đàn ông đứng dậy cùng một lúc, một người cao hơn người kia dễ đến hai mươi phân. Cả hai đều gầy gò, người cao (đội mũ) mặc áo khoác dài. Người thấp mặc quần áo bó sát người.

            Người thấp lại gần cây thông rồi đứng đó, nhìn lên những cành cây. Lát sau, y bắt đầu sờ nắn, vỗ vỗ thân cây bằng cả hai tay như để kiểm tra, rồi thình lình nhảy lên cây. Thế rồi, hoàn toàn không phải nỗ lực chút nào (hoặc là do chú bé có cảm tưởng vậy), y leo thoăn thoắt lên cây hệt như diễn viên xiếc. Chú bé biết rõ cái cây này như biết rõ một người bạn cũ. Chú biết rằng leo lên cây ấy chẳng dễ chút nào. Thân nó nhẵn thín, trơn tuột, đã vậy lên đến trên cao thì chẳng có gì để bám. Nhưng cớ sao gã đàn ông lại leo lên cây giữa đêm khuya? Hay y muốn bắt con chim vặn dây cót?

            Người cao đứng dưới gốc cây nhìn lên. Chẳng mấy chốc sau người bé nhỏ đã biến mất. Những cành cây thi thoảng lại xào xạc, thế là y ắt vẫn đang trèo lên cây thông. Con chim vặn dây cót ắt sẽ nghe tiếng y đến gần mà bay đi thôi. Người này hẳn trèo cây giỏi, nhưng con chim vặn dây cót không dễ bắt như vậy đâu. Tuy vậy, chú bé hy vọng rằng nếu gặp may thì sẽ nhìn thấy được con chim, dù chỉ thoáng qua thôi, khi nó bay đi. Chú nín thở, chờ tiếng vỗ cánh. Nhưng tiếng vỗ cánh không hề đến, cũng chẳng có tiếng kêu nào.

            * * *

            Im lặng rất lâu, không có âm thanh hay chuyển động nào. Vạn vật tắm trong ánh trăng trắng bạc như không có thật, khu vườn trông như đáy biển ướt át lộ ra khi nước đột nhiên rút hết. Như bị hớp hồn, không nhúc nhích, chú bé vẫn nhìn chong chong vào cây thông và người đàn ông cao lớn dưới gốc cây. Chú không thể nào rời mắt được dù có cố đi chăng nữa. Hơi thở chú che mờ mặt kính. Ngoài kia hẳn phải lạnh lắm. Người đàn ông đứng nhìn lên, tay chống nạnh, không hề động đậy, như đã hoá thành băng. Chú bé cho rằng y đang lo cho người bạn đồng hành bé nhỏ của y, đợi hắn ta hoàn thành một sứ mạng nào đó rồi tụt từ trên cây thông xuống. Kẻ này lo cũng phải: chú bé biết rằng cây thông này tụt xuống khó hơn leo lên. Nhưng rồi, hoàn toàn đột ngột, người cao lớn sải bước thẳng vào trong bóng đêm, như thể bỏ bê hết việc đang làm.

            Chú bé cảm thấy giờ đây mình là người bị bỏ rơi. Người bé nhỏ đã biến mất vào trong cây thông, còn người cao lớn đã bỏ đi đâu đó. Con chim vặn dây cót vẫn im lặng. Chú tự hỏi mình có nên đánh thức bố dậy không. Nhưng chú biết mình sẽ không thể làm bố tin được chuyện này. “Chắc con lại nằm mơ đấy thôi”, bố sẽ nói vậy. Đúng là chú hay mơ, chú thường lẫn lộn giấc mơ với thực tại, nhưng chú không quan tâm những gì người khác nói: chuyện này hoàn toàn có thực – con chim vặn dây cót và hai người đàn ông mặc đồ đen. Tất cả đã đột ngột biến mất, chỉ có thế. “Bố hẳn sẽ tin nếu mình giải thích cho ra đầu ra đũa”, chú nghĩ vậy.

            Chỉ khi đó chú mới nhận ra: người đàn ông bé nhỏ kia trông rất giống bố chú. Dĩ nhiên y nhỏ con quá nên không thể là bố chú, nhưng ngoài cái đó ra y giống bố ở mọi điểm: giáng người giống, cử chỉ cũng giống. Nhưng không, bố chú chẳng bao giờ trèo cây được như vậy. Bố không nhanh nhẹn cũng chẳng khoẻ mạnh như thế. Càng nghĩ chú bé càng hoang mang.

            Người cao lớn quay lại dưới chỗ gốc cây. Bây giờ hắn ta mang cái gì đó trong tay – một cái xẻng vào một cái bao lớn bằng vải. Hắn đặt cái bao xuống mặt đất rồi bắt đầu đào gần chỗ rễ cây. Cái xẻng xắn vào đất làm vang lên tiếng động sắc ngọt, nghe rất rõ. Giờ thì ai cũng phải thức dậy đây, chú bé nghĩ. Tiếng động lớn rõ mồn một thế kia mà!

            Nhưng chẳng ai thức dậy. Người đàn ông vẫn không ngừng tay đào, dường như chẳng quan tâm xem liệu có ai nghe thấy. Mặc dù cao lêu ngêu, gầy gò, hắn khoẻ hơn rất nhiều so với bề ngoài, xét theo cách hắn sử dụng cái xẻng. Hắn làm việc đều đều, không phí sức. Khi đã đào được một cái hố vừa ý, người đàn ông dựa xẻng vào thân cây rồi đứng đó nhìn xuống. Hắn chẳng bao giờ nhìn lên, như thể đã quên phắt kẻ trèo lên cây lúc nãy. Dường như hắn chỉ quan tâm đến một thứ duy nhất là cái hố. Chú bé không thích điều đó. Lẽ ra hắn phải lo cho người đang ở trên cây kia chứ.

            Qua đống đất mà người đàn ông đào lên, chú bé có thể đoán rằng cái hố không sâu lắm, có lẽ chỉ trên đầu gối chú là cùng. Người đàn ông ý chừng hài lòng về hình dáng và kích thước cái hố. Hắn quay lại phía cái túi và nhẹ nhàng nhấc từ trong túi ra một vật bọc vải nom đen đen. Cái vật ấy mềm, nhũn, xét theo cách người đàn ông nâng nó. Có lẽ hắn sắp chôn một cái xác nào đó vào cái hố. Ý nghĩ đó khiến tim chú bé đập thình thịch. Nhưng cái vật bọc vải kia không lớn hơn con mèo. Nếu là người thì chỉ có thể là một đứa bé sơ sinh. Nhưng sao hắn ta lại phải chôn một thứ như vậy ngay trong vườn nhà mình cơ chứ? - chú bé nghĩ. Chú nuốt nước bọt mà chẳng biết từ lúc nào đã tiết đầy mồm. Tiếng ực to đến nỗi chính chú bé cũng đâm hoảng hốt: ngộ nhỡ gã đàn ông ngoài kia nghe thấy thì sao.

            Ngay lúc đó, như thể được tiếng ực của chú bé đánh thức, con chim vặn dây cót lại cất tiếng, lần này vặn một dây cót lớn hơn bao giờ hết: Quick... Quiiiiiiiick... Khi nghe tiếng kêu đó, chú bé cảm thấy bằng trực giác rằng một cái gì đó nghiêm trọng sắp xảy ra. Chú cắn môi và bất giác gãi da trên cánh tay. Lẽ ra chú không nên thấy cảnh này, chú cảm thấy vậy. Nhưng giờ thì đã quá muộn. Giờ đây chú không thể nào dứt ra khỏi cảnh tượng đang bày ra trước mắt chú. Chú hé môi, tỳ mũi vào khung cửa sổ giá lạnh, sững sờ trước tấn kịch lạ lùng đang diễn ra trong vườn nhà mình. Chú không còn hy vọng có ai trong nhà sẽ thức dậy. Dù ngoài kia có tiếng động to cách mấy thì cũng không ai thức dậy đâu. Mình là người sống duy nhất có thể nghe thấy những tiếng động đó. Ngay từ đầu đã vậy rồi, - chú nghĩ.

            Người cao lớn khom mình xuống và hết sức cẩn trọng, đặt cái vật bọc vải đen xuống đáy hố. Rồi hắn vươn thẳng người lên nhìn xuống vật nằm dưới kia. Chú bé không thể nhìn rõ khuôn mặt người đàn ông dưới vành mũ, nhưng dường như hắn có vẻ mặt nghiêm trang, thậm chí trang trọng nữa. Phải, đó ắt là một cái xác nào đó, chú bé nghĩ. Phút chốc sau người đàn ông quả quyết cầm lấy xẻng, bắt đầu lấp hố lại. Khi đã lấp xong, hắn nhẹ nhàng lấy chân dầm đất, và san cho phẳng. Sau đó hắn tựa xẻng vào thân cây, rồi cầm túi vải trong tay, chầm chậm bỏ đi. Hắn không quay đầu lại. Hắn không ngước lên cây. Và con chim vặn dây cót không hề cất tiếng nữa.

            Chú bé ngoái nhìn đồng hồ treo tường. Căng mắt trong bóng tối, khó khăn lắm chú mới nhìn ra là 2 giờ rưỡi sáng. Chú còn nhìn đăm đăm lên cây thông thêm khoảng mười phút nữa qua khe hở giữa mấy tấm rèm, nhỡ ra có gì đó chuyển động ngoài kia, nhưng một cơn buồn ngủ kinh khủng xâm chiếm chú ngay lập tức, như thể có một cái nắp bằng sắt nặng trịch đang khép lại trên đầu chú. Chú muốn biết chuyện gì sẽ xảy ra với người đàn ông bé nhỏ ở trên cây và con chim vặn dây cót, nhưng chú không còn chong mắt được nữa. Chú cố cởi cho xong chiếc áo len trong khi vẫn còn tỉnh rồi vùi mình vào chăn và chìm ngay vào giấc ngủ.

4

            Mua giày mới

            *

            Kẻ về nhà

            Từ ga xe điện ngầm Akasaka tôi đi theo một con phố sầm uất hai bên san sát nhà hàng và quán bar để đến nơi tọa lạc tòa cao ốc văn phòng, hơi lên dốc một quãng ngắn. Đó là một tòa nhà chẳng có gì đặc biệt, không mới không cũ, không to không nhỏ, không sang trọng chẳng tồi tàn. Một hãng du lịch chiếm một phần tầng trệt, khung cửa số lớn trang hoàng hai tấm áp phích quảng cáo, một là cảnh hải cảng trên đảo Mykono, một là xe cáp treo ở San Francisco. Cả hai đều bạc phếch vì treo ngoài cửa sổ lâu ngày. Ba nhân viên hãng đang miệt mài làm việc sau tấm kính, người nói chuyện qua điện thoại, kẻ gõ bàn phím máy tính. Giả vờ xem các tấm poster, tôi giết thời giờ bằng cách quan sát cảnh văn phòng trong khi đợi đồng hồ điểm 4 giờ. Vì lý do nào đó, cả Mykono lẫn San Francisco đều dường như cách chỗ tôi đứng đến hàng năm ánh sáng.

            Càng nhìn tòa nhà này, tôi càng nhận thấy nó tầm thường đến mức nào. Dường như nó được xây theo nguyên xi bản vẽ bằng bút chì của một đứa trẻ con nếu như người ta bảo nó vẽ một tòa nhà; hoặc dường như người ra cố tình thiết kế sao cho nó không nổi bật giữa môi trường xung quanh. Dẫu trong khi đi tìm tôi đã kiểm tra các số nhà cẩn thận đến mấy, suýt nữa tôi đã bỏ qua tòa nhà này mà không biết, nó bình thường quá. Lối vào khiêm nhường của nó ở ngay cạnh cửa vào của hãng du lịch. Nhìn qua các bảng tên, tôi có cảm tưởng rằng thuê văn phòng ở đây hầu hết là những doanh nghiệp nhỏ - văn phòng luật, kiến trúc sư, nhà nhập khẩu, nha sĩ. Một vài bảng tên sáng choang đến độ tôi có thể soi rõ mặt mình trên đó, nhưng bảng tên cho phòng 602 thì đã mờ xỉn vì năm tháng, chuyển sang một màu khó xác định. Hẳn người đàn bà này đã thuê văn phòng ở đây từ lâu. "Hãng thiết kế thời trang Akasaka", tấm biển đề. Vẻ cũ kỹ của tấm bảng làm dịu đi nỗi nghi hoặc của tôi.

            Giữa sảnh đợi và thang máy là một cánh cửa bằng kính khóa chặt. Tôi bấm chuông phòng 602 rồi nhìn quanh tìm ống kính camera mà chắc hẳn đang truyền hình ảnh của tôi vào màn hình ở bên trong. Có một thiết bị nhỏ trông như camera trên một góc trần sảnh đợi. Chẳng mấy chốc chuông reo, khóa cửa mở ra, tôi liền bước vào buồng thang máy.

            Tôi đi trên cái buồng thang máy tuyệt đối không trang hoàng gì để lên tầng sáu, rồi sau một hồi loanh quanh trong cái hành lang tuyệt đối không trang hoàng, tìm thấy cảnh cửa số 602. Sau khi kiểm tra xem có đúng là trên cánh cửa có biển đề "Akasaka Fashion Design", rồi mới bấm chuông đúng một tiếng.

            Mở cửa cho tôi là một thanh niên mảnh dẻ tóc cắt ngắn, đường nét gương mặt thật căn đối. Có lẽ y là gã đàn ông điển trai nhất tôi từng gặp. Nhưng đập vào mắt tôi còn mạnh mẽ hơn cả khuôn mặt là quần áo của y. Y vận một chiếc áo sơ-mi trắng đến nhức mắt, thắt cà vạt màu xanh thẫm có họa tiết tinh tế. Không chỉ bản thân cà vạt rất đúng mốt mà nút thắt cũng không chê vào đâu được. Từng nếp gấp đều đúng hệt như thường thấy trong tạp chí thời trang dành cho nam giới. Tôi chẳng bao giờ thắt cà vạt được như vậy, và bỗng dưng tôi tự hỏi y làm cách nào. Có phải đó là tài năng thiên bẩm của y, hay là kết quả sự dày công khổ luyện? Y mặc quần xanh thẫm và mang giày đế phẳng màu nâu có trang trí núm tua. Mọi thứ y mặc đều mới tinh, như thể y mặc lần đầu tiên mới cách đây vài phút.

            Y thấp hơn tôi. Trên môi y thấp thoáng nụ cười, như thể y vừa nghe một mẩu chuyện khôi hài và lúc này y đang mỉm cười một cách tự nhiên nhất. Chẳng phải một mẩu chuyện khôi hài dung tục đâu: đó là loại hài hước thanh lịch mà cách đây một thế hệ ngài bộ trưởng ngoại giao hẳn đã nói với hoàng thái tử trong một bữa tiệc ngoài trời, khiến những người nghe xung quanh cười khe khẽ đầy lịch sự. Tôi toan tự giới thiệu, nhưng y đã khẽ lắc đầu ý nói tôi không cần phải nói gì. Tay giữ cửa mở, y để tôi vào, đoạn đảo mắt nhìn khắp hành lang rồi đóng cửa lại. Suốt thời gian đó y không hé môi, chỉ nheo nheo mắt nhìn tôi như thể xin lỗi rằng y không thể nói năng gì bởi có con báo đen nóng nảy đang ngủ ngay bên cạnh. Nói thế không có nghĩa là quả thật có con báo đen nào đang ngủ cạnh y, đơn giản là gã thanh niên này có cái vẻ như vậy.

            Giờ tôi đang đứng ở một phòng tiếp khách có một chiếc đi-văng và ghế da trông khá tiện nghi, một giá treo quần áo bằng gỗ theo kiểu cổ và một cây đèn chân đế. Bức tường đằng xa có một cánh cửa, ý chừng để dẫn sang phòng bên cạnh. Bên cánh cửa này, quay lưng lại tường, là một chiếc bàn làm việc đơn giản bằng gỗ sồi trên đó là một chiếc máy vi tính lớn. Chiếc bàn kê phía trước đi-văng hẳn chỉ đủ lớn để đặt một cuốn danh bạ điện thoại. Sàn phòng trải một tấm thảm màu lục nhạt trông dịu mắt. Từ những chiếc loa dấu kín phát ra nho nhỏ một bản tứ tấu đàn dây của Haydn. Trên tường có mấy bức tranh dễ thương vẽ hoa lá và chim chóc. Nhìn qua cũng biết đây là một căn phòng không chê vào đâu được, không một chút bừa bộn. Các giá sách trên tường chất toàn những mẫu vải và tạp chí thời trang. Đồ đạc trong căn phòng không xa hoa cũng chẳng mới, nhưng lại mang vẻ ấm áp, xưa cũ và quen thuộc làm ta bình tâm.

            Người thanh niên dẫn tôi lại chỗ đi-văng, còn chính mình thì đi về phía bên kia bàn làm việc rồi ngồi xuống đối diện tôi. Chìa hai lòng bàn tay về phía tôi, y ra hiệu rằng phải đợi một lát. Thay vì nói "Xin lỗi đã bắt ông phải đợi", y chỉ khẽ mỉm cười, và thay vì nói "Không lâu đâu", y giơ một ngón tay lên. Dường như y có khả năng diễn đạt ý mình mà không cần lời nói. Tôi gật đầu một lần để tỏ ý hiểu. Mở mồm nói khi có mặt y hẳn sẽ không đúng chỗ và thô bỉ.

            Y nhặt một cuốn sách nằm cạnh máy vi tính, cẩn thận như đang cầm trong tay một vật dễ vỡ, rồi lật tới trang đang đọc dở. Đó là một cuốn sách dày màu đen không có bìa ngoài nên tôi không nhìn ra tựa đề. Mở sách ra là y toàn tâm toàn ý vào việc đọc, dường như quên hẳn rằng tôi đang ngồi đó. Lẽ ra tôi cũng muốn đọc một cái gì cho qua thời gian, nhưng chẳng có gì để đọc. Tôi bắt tréo chân, ngồi cho thoải mái trên đi-văng mà nghe nhạc Haydn (mặc dù, nếu hỏi ra thì tôi cũng không dám chắc đó là Haydn). Nhạc thì hay, song đó là loại nhạc dường như vừa xuất phát từ nguồn là lập tức tan biến vào không trung. Trên bàn làm việc của gã thanh niên, ngoài chiếc máy vi tính là một cái điện thoại bình thường màu đen, một khay đựng bút và một cuốn lịch.

            Tôi vẫn mặc đúng lễ bộ đã mặc ngày hôm trước: áo khoác bóng chày, áo len có mũ trùm đầu, quần bò xanh, giày tennis. Trước khi ra khỏi nhà tôi đã vớ được gì thì mặc nấy. Trong căn phòng ngăn nắp chỉn chu không chê vào đâu được này, có mặt chàng thanh niên đẹp trai tươm tất không chê vào đâu được kia, đôi giày tennis của tôi trông càng bẩn thỉu, càng cũ rích. Cả năm qua ngày nào tôi cũng mang đôi giày này, trèo qua bức tường sau nhà không biết mấy lần, thỉnh thoảng dẫm lên phân chó trong khi đi về theo con ngõ, lại còn chui xuống đáy giếng nữa. Chẳng lạ là chúng bẩn thỉu, cũ mèm. Không phải đợi đến khi thôi việc tôi mới quan tâm đến chuyện mình đang mang đôi giày ra sao. Xem xét đôi giày kỹ thế này, tôi càng thấm thía mình cô đơn đến nhường nào, cảm thấy thế giới đã bỏ xa tôi đến mức nào. Đến lúc phải mua giày mới rồi, tôi tự nhủ. Đôi này thật kinh khủng quá sức.

            Chẳng mấy chốc, nhạc Haydn kết thúc – một cái kết đột ngột, chẳng đâu vào đâu. Sau một quãng lặng ngắn, một tác phẩm dành cho harpsichord của Bach lại cất lên (tuy cả lần này nữa tôi cũng không dám chắc là của Bach). Tôi bắt tréo chân này rồi lại đổi chân kia. Điện thoại reo. Gã thanh niên dùng một mẩu giấy đánh dấu chỗ đang đọc dở, đặt sách qua một bên rồi nhấc ống nghe. Y áp ống nghe vào tai rồi khẽ gật đầu. Nhìn sang cuốn lịch để bàn, y lấy bút chì đánh dấu. Đoạn y giữ ống nghe gần mặt bàn rồi gõ gõ đốt ngón tay hai lần lên lớp gỗ như đang gõ cửa. Sau đó y gác máy. Cuộc gọi chỉ kéo dài khoảng hai mươi giây, suốt thời gian đó gã trai không nói một câu nào. Thực ra, y đã không hề thốt một tiếng từ khi mời tôi vào phòng. Tại sao y không nói chuyện được nhỉ? Rõ là y có thể nghe được, cứ xem cách y trả lời điện thoại và lắng nghe những gì người ta đang nói ở đầu bên kia phòng thì đủ biết.

            Y ngồi nhìn chiếc điện thoại một hồi như đang suy nghĩ. Rồi y đứng dậy không một tiếng động, đi vòng qua bàn làm việc, tiến thẳng tới chỗ tôi đang ngồi và ngồi xuống cạnh tôi. Rồi y đặt hai tay lên đầu gối, đều tăm tắp. Những ngón tay y thanh mảnh, tuyệt đẹp, đúng như ta có thể hình dung một khi đã nhìn thấy mặt y. Các đốt ngón và khớp nối có rất ít nếp gấp; ngón tay thì thể nào cũng phải có nếp gấp, ít ra cũng phải vài nếp, không thì ngón không gập được. Song những ngón tay y không có nhiều nếp gấp, không nhiều quá mức tối thiểu cần thiết. Tôi cố nhìn những ngón tay y sao cho không quá sỗ sàng. Gã trai này hẳn là con của người đàn bà kia, tôi nghĩ. Những ngón tay y có hình dáng như ngón tay của bà ta. Khi ý nghĩ đó nảy ra trong đầu, tôi bắt đầu nhận ra thêm những điểm giống nhau khác: cái mũi nhỏ khá nhọn, cặp mắt sáng như pha lê. Nụ cười thích thú lại bắt đầu nở trên môi y, hiện ra rồi lại biến đi hoàn toàn tự nhiên như một cái hang bên bờ biển lộ ra rồi lại chìm vào những cơn sóng. Chẳng mấy chốc gã trai đứng dậy, cũng nhanh nhẹn như lúc y ngồi xuống, và môi y động đậy: "Mời đi lối này". Mặc dù y tuyệt không phát ra một tiếng nào, nhưng tôi hiểu rõ điều y muốn nói. Tôi đứng dậy đi theo y. Y mở cánh cửa trong rồi mời tôi vào.

            Sau cánh cửa là một căn bếp nhỏ có bồn rửa, sau đó nữa lại là một căn phòng khác, rất giống căn phòng tiếp khách nơi tôi ngồi nãy giờ, song nhỏ hơn một chút. Thảm trải sàn cũng cùng một màu như ở phòng kia. Giữa phòng là một cái bàn làm việc chuyên dụng trên đó có kéo, hộp dụng cụ, bút chì, tạp chí thiết kế, tất cả đều sắp xếp ngay ngắn. Có hai con ma-nơ-canh mà các thợ may vẫn dùng. Cửa sổ không chỉ treo mành mà treo tới hai bộ rèm, một bằng vải một bằng ren, cả hai đều khép kín. Đèn trần không bật nên phòng tranh tối tranh sáng như buổi chiều hôm nhiều mây. Bóng đèn duy nhất của chiếc đèn chân đế bên cạnh chiếc sofa cũng không bật sáng. Một bình hoa bằng thủy tinh đựng hoa lay-ơn đặt trên bàn cà phê phía trước sofa. Hoa còn tươi, như thể vừa mới cắt vài phút trước, nước trong bình vẫn trong. Ở phòng này không nghe thấy tiếng nhạc, cũng chẳng có bức tranh hay cái đồng hồ nào ở trên tường.

            Gã thanh niên lại im lặng ra dấu, lần này để bảo tôi ngồi xuống sofa. Khi tôi đã ngồi như y bảo, y liền lấy trong túi quần ra cái gì đó trông như cặp kính bơi rồi giương ra trước mắt tôi. Đó đúng là cặp kính bơi, chỉ là kính bơi thông thường làm bằng cao su và nhựa, y như những cặp kính tôi vẫn dùng khi đi bơi. Tại sao y lại mang theo vào đây, tôi chịu không hiểu.

            - Đừng sợ, - gã thanh niên nói. Đúng ra, y chẳng hề "nói" gì. Y chỉ khẽ động đậy môi và cử động mấy ngón tay còn nhẹ nhàng hơn. Thế nhưng tôi vẫn hiểu hoàn toàn chính xác y định nói những gì. Tôi gật đầu.

            - Xin hãy mang kính vào. Đừng tự tháo ra. Tôi sẽ tháo. Ông cũng không được xê dịch kính. Ông hiểu không?

            Tôi gật.

            - Nó chẳng hại gì cho ông đâu. Mọi chuyện sẽ ổn. Đừng lo.

            Tôi gật.

            Gã thanh niên đi vòng lại phía sau sofa và đeo cặp kính bơi vào mắt tôi. Y kéo căng sợi dây cao su qua đầu tôi rồi điều chỉnh hai tròng kính sao cho lớp đệm mút khớp vào quanh hai mắt tôi. Điểm duy nhất mà cặp kính này khác với những cặp kính tôi vẫn dùng là tôi không nhìn thấy gì qua nó cả. Người ta đã phết một lớp dày cái gì đó ra ngoài lớp nhựa trong suốt. Một bóng tối hoàn toàn – và nhân tạo – vây quanh tôi. Tôi chẳng thấy gì hết. Tôi không biết cây đèn chân đế đang chiếu sáng ở chỗ nào nữa. Tôi có cái ảo giác như ai đó đã sơn lên khắp người tôi một lớp dày của cái gì đó.

            Gã thanh niên khẽ đặt tay lên vai tôi như để khích lệ tôi. Y có những ngón tay thon mảnh, tinh tế, song hoàn toàn không yếu ớt chút nào. Chúng có sức mạnh đầy quyết đoán của các ngón tay một nghệ sĩ dương cầm đặt trên mặt phím, thông qua những ngón tay này tôi có thể cảm thấy một thiện chí nào đó, hoặc nếu không hẳn là thiện chí thì cũng rất gần như vậy. “Không sao cả, đừng lo”, những ngón tay bảo tôi vậy. Tôi gật đầu. Đoạn y rời khỏi phòng. Trong bóng tối, tôi nghe những bước chân y xa dần, sau đó là tiếng cửa mở ra rồi đóng lại.

            * * *

            Tôi tiếp tục ngồi trong tư thế đó một hồi lâu sau khi gã thanh niên đi khỏi. Bóng tối nơi tôi đang ngồi có cái gì đó thật kỳ lạ. Tối như hũ nút, không nhìn thấy bất cứ cái gì, về điểm đó thì cũng như bóng tối nơi đáy giếng kia, song ngoài ra bóng tối này có cái gì đó nữa hoàn toàn khác. Nó không có hướng, không chiều sâu, không trọng lượng, không thể nắm bắt. Nó không chỉ là bóng tối mà đúng hơn là hư vô. Đơn giản người ta đã làm tôi mù tạm thời bằng cách nhân tạo. Tôi nghe cơ bắp mình căng cứng, miệng và cổ họng tôi khô khốc. Chuyện gì sẽ còn xảy ra với tôi đây? Nhưng rồi tôi nhớ lại cái đụng chạm của những ngón tay gã thanh niên. Đừng lo, chúng đã bảo tôi vậy. Chẳng hiểu vì lý do gì, tôi cảm thấy có thể tin được vào “lời nói” đó.

            Căn phòng im lặng hoàn toàn đến nỗi khi nín thở, tôi bị tràn ngập bởi cảm giác rằng thế giới đã hoàn toàn ngưng lại giữa chừng và vạn vật sẽ bị nuốt chửng, chìm xuống những đáy nước sâu vĩnh viễn. Nhưng không, rõ ràng thế giới vẫn đang chuyển động. Chẳng mấy chốc một người đàn bà mở cửa, sẽ sàng bước vào phòng.

            Tôi biết đó là đàn bà qua mùi nước hoa tinh tế. Đây không phải là thứ mùi của đàn ông. Hẳn đó là loại nước hoa đắt tiền. Mùi thơm có vẻ quen thuộc, tôi cố nhớ ra nhưng không được. Dường như khi đã bị tước đi thị giác thì khả năng ngửi của tôi cũng bị mất thăng bằng. Điều duy nhất tôi biết chắc, ấy là mùi thơm tôi đang ngửi thấy lúc này khác với mùi nước hoa của người đàn bà ăn mặc đẹp đẽ đã chỉ cho tôi đến đây. Tôi nghe tiếng sột soạt của quần áo người đàn bà khi cô ta bước ngang qua phòng rồi se sẽ ngồi xuống sofa, bên phải tôi. Cô ta ngồi xuống đệm sofa hết sức nhẹ nhàng, gần như không trọng lượng, rõ ràng đấy là một phụ nữ có thân hình bé nhỏ.

            Người đàn bà ngồi nhìn thẳng vào tôi. Tôi có thể cảm thấy cặp mắt cô ta nhìn vào mặt tôi; và tôi chợt nhận ra rằng người ta có thể cảm thấy cái nhìn của người khác mà không cần đến mắt. Người đàn bà không nhúc nhích, cứ nhìn tôi chằm chặp. Tôi cảm thấy tiếng thở khẽ khàng, chậm rãi của cô ta, nhưng hầu như không nghe thấy được. Tôi vẫn giữ nguyên tư thế, hướng thẳng về phía trước. Vết bầm trên má tôi dường như bắt đầu nóng lên, màu của nó hình như cũng trở nên sống động hơn bình thường. Người đàn bà chìa tay, khẽ đặt mấy đầu ngón tay lên vết bầm của tôi, thật cẩn trọng như thế đó là vật gì quý báu và dễ vỡ. Rồi cô ta bắt đầu vuốt ve vết bầm.

            Tôi không biết phải phản ứng ra sao hoặc cô ta muốn tôi phản ứng ra sao. Tôi chỉ có một cảm nhận hết sức xa xôi về thực tại. Tôi cảm thấy mình đang ở một thế phân ly lạ lùng, như thể tôi đang cố nhảy từ một chiếc xe đang chạy sang một chiếc xe khác chạy với vận tốc khác. Tôi hiện hữu ở khoảng trống giữa hai bên, một căn nhà trống rỗng. Bây giờ tôi là một căn nhà bỏ trống, như căn nhà của gia đình Miyawaki trước kia. Người đàn bà này đã bước vào căn nhà trống đó, và, vì lý do nào đó, đang lướt tay dọc tất cả các bức tường và thân cột. Dù lý do của cô ta là gì đi nữa, bởi tôi là căn nhà trống (và tôi là vậy, căn nhà rỗng, không gì hơn) nên tôi không thể làm gì (mà cũng không cần làm bất cứ cái gì). Khi ý nghĩ đó hiện lên trong tâm trí, tôi cảm thấy phần nào nhẹ nhõm.

            Người đàn bà không nói không rằng. Ngoài tiếng quần áo sột soạt, căn phòng chìm trong im lặng sâu thẳm. Người đàn bà miết đầu ngón tay trên da tôi như cố đọc ra một thứ chữ viết nhỏ xíu bí mật nào đã được viết lên đó từ lâu lắm.

            Cuối cùng cô ta thôi vuốt ve vết bầm của tôi. Cô ta đứng dậy, đi vòng về phía sau tôi, rồi bắt đầu dùng lưỡi thay vì các đầu ngón tay. Cũng như Kasahara May đã làm trong vườn hồi mùa hè năm ngoái, cô ta liếm vết bầm của tôi. Tuy nhiên, cô ta làm thành thạo hơn nhiều so với Kasahara May. Lưỡi cô ta di động, riết chặt lấy thịt tôi. Lúc mạnh lúc nhẹ, dưới nhiều góc độ khác nhau, bằng nhiều động tác khác nhau, nó nếm, mút và kích thích vết bầm của tôi. Tôi cảm thấy nóng bỏng, giần giật nơi bụng dưới. Tôi không muốn cương cứng. Thật hoàn toàn vô nghĩa! Tôi không tự ngăn mình được.

            Tôi cố sức áp đặt hình ảnh chính mình lên hình ảnh căn nhà bỏ trống. Tôi nghĩ về mình như một cây cột, bức tường, trần nhà, sàn nhà, mái nhà, cửa sổ, cửa ra vào, tảng đá. Dường như đó là điều hợp lý nhất nên làm.

            Tôi nhắm mắt lại và tách ra khỏi cái vỏ bằng nhục thể này, với đôi giày tennis cũ rích, cặp kính bơi kỳ quặc, cơn cương cứng vụng về của nó. Tách khỏi xác thịt mình không đến nỗi khó. Tôi thấy dễ chịu hơn nhiều, ít nhất việc này cũng cho phép tôi rũ bỏ cảm giác vụng về mà tôi đang cảm thấy. Tôi là một khu vườn um tùm cỏ dại, một con chim đá không bay, một cái giếng cạn khô. Tôi biết rằng một người đàn bà đang ở trong căn nhà trống vốn là bản thân tôi. Tôi không nhìn thấy cô ta, song điều đó chẳng làm tôi bận lòng nữa. Nếu cô ta đang tìm cái gì đó ở trong kia, tôi có thể cho cô ta cái đó.

            Tiến trình thời gian càng ngày càng trở nên không rõ ràng. Xung quanh tôi lúc này có nhiều loại thời gian, tôi không biết mình đang ở thời gian nào trong số đó. Ý thức dần dần trở lại với thể xác tôi, và đến lượt mình người đàn bà dường như cũng rời khỏi đó. Cô ta ra khỏi phòng cũng êm ru như lúc vào. Tiếng quần áo sột soạt. Mùi nước hoa phảng phất. Tiếng cửa mở ra đóng lại. Một phần ý thức tôi vẫn nằm ở đó như một căn nhà trống. Đồng thời tôi vẫn ở đây, chính tôi trên chiếc sofa này. Tôi nghĩ: Mình nên làm gì bây giờ? Tôi không thể nào quyết đâu là thực tại. Từng tý một, cái từ “ở đây” dường như tách làm hai ở bên trong tôi. Tôi ở đây, nhưng tôi cũng ở đây. Cả hai đều có sự như nhau đối với tôi. Ngồi trên sofa, tôi dấn vào sự phân đôi kỳ lạ đó.

            * * *

            Chẳng bao lâu sau cửa mở, ai đó bước vào phòng. Qua tiếng bước chân tôi biết đó là gã thanh niên. Y vòng lại sau lưng tôi tháo kính bơi ra. Căn phòng vẫn tối, ánh sáng duy nhất là từ bóng đèn đơn của cây đèn chân đế. Tôi lấy lòng bàn tay dụi mắt, để làm quen với thế giới thực tại. Lúc này gã thanh niên đã vận com-lê, pha một chút ánh lục, là sự phối màu hoàn hảo với màu chiếc cà vạt y đeo. Mỉm cười nhẹ nhàng, y nắm lấy tay tôi, giúp tôi đứng dậy rồi đưa tôi về phía cánh cửa ở đầu bên kia phòng. Y mở cửa, phía bên kia là một buồng tắm. Buồng có bệ xí, đằng sau là một góc tắm hoa sen nhỏ. Nắp bệ xí đang đậy, y cho tôi ngồi lên đó rồi mở vòi hoa sen. Y đợi cho nước nóng bắt đầu chảy rồi ra hiệu cho tôi tắm dưới vòi. Y mở giấy gói một bánh xà phòng mới đưa cho tôi. Rồi y ra khỏi buồng tắm, đóng cửa lại. Tại sao tôi phải tắm hoa sen cơ chứ? Thật không thể hiểu.

            Cuối cùng, khi cởi quần áo thì tôi hiểu. Tôi đã xuất tinh dưới quần lót. Tôi bước vào dưới vòi hoa sen nóng rồi tắm rửa bằng bánh xà phòng mới màu xanh. Tôi gột sạch chỗ tinh dịch bết vào lông dương vật. Tôi ra khỏi vòi hoa sen rồi lau mình bằng chiếc khăn tắm lớn. Ngoài khăn tắm ra tôi còn thấy một chiếc quần lót và một chiếc áo thun hiệu Calvin Klein, cả hai đều còn nguyên giấy gói và đều đúng cỡ tôi. Có thể họ đã tính trước rằng tôi sẽ xuất tinh trong quần. Tôi nhìn đăm đăm vào chính mình trong gương một lát, nhưng đầu tôi không nghĩ được gì cho ra đầu ra đũa. Tôi vứt chiếc quần lót vấy bẩn vào sọt rác rồi mặc chiếc quần lót mới trắng tinh, chiếc áo thun mới trắng, sạch bong. Rồi tôi mặc quần bò và áo len có cổ qua đầu. Tôi đi tất rồi mang đôi giày tennis bẩn, cuối cùng là chiếc áo khoác bóng chày. Rồi tôi ra khỏi buồng tắm. Gã thanh niên đang chờ tôi ở ngoài, liền dẫn tôi ra phòng đợi ban đầu.

            Căn phòng nom vẫn như trước. Trên bàn làm việc vẫn là cuốn sách để mở, cạnh đó là chiếc máy vi tính. Bản nhạc cổ điển không biết của ai vẳng ra từ loa. Gã thanh niên bảo tôi ngồi xuống sofa rồi đem tới cho tôi một cốc nước khoáng mát lạnh. Tôi uống nửa cốc. “Tôi mệt làm sao đó”, tôi nói. Giọng nói nghe như không phải của tôi. Chẳng phải tôi định nói điều gì như vậy. Mấy chữ đó bật ra chẳng biết từ đâu, ngoài ý chí của tôi. Tuy nhiên, giọng nói thì dĩ nhiên là của tôi.

            Gã thanh niên gật đầu. Y lấy từ trong túi áo khoác của mình ra một chiếc phong bì trắng rồi dúi vào túi trong chiếc áo khoác bóng chày của tôi. Rồi y lại gật đầu lần nữa. Tôi nhìn ra ngoài. Trời đã tối đường phố lấp lánh những bảng hiệu nê-ông, ánh đèn tử cửa sổ các cao ốc văn phòng, những ngọn đèn đường, những đèn pha ô-tô. Ý nghĩ phải nán lại thêm chút nào trong cái phòng này trở nên không thể chịu nổi. Chẳng nói chẳng rằng, tôi đứng dậy, băng qua căn phòng, mở cửa bước ra ngoài. Gã thanh niên đứng ở bàn làm việc nhìn theo tôi, vẫn im lặng như bao giờ, không giữ tôi lại.

            * * *

            Chuyến tàu Akasaka Mitsuke chật ních người đi làm về nhà. Không có lòng dạ nào chui vào xe điện ngầm, tôi quyết định đi bộ càng xa càng tốt. Tôi đi bộ qua cung điện dành cho các phái bộ nước ngoài đến tận ga Yotsuya. Rồi tôi đi dọc theo đại lộ Shinjuku và ghé vào một quán nhỏ không đông khách, gọi cốc bia. Ngụm đầu tiên khiến tôi nhận ra mình đang đói cồn cào, thế là tôi gọi bánh snack. Tôi nhìn đồng hồ mới biết đã gần 7 giờ tối. Song thử nghĩ mà xem, thời gian còn có quan trọng gì với tôi đâu.

            Đến một lúc, tôi nhận ra có cái gì đó ở túi trong áo khoác. Tôi đã quên bẵng chiếc phong bì gã thanh niên đưa tôi khi tôi ra về. Đó chỉ là một chiếc phong bì trắng bình thường, nhưng cầm trong tay, tôi nhận ra nó nặng hơn nhiều so với thoạt nhìn. Mà không phải chỉ nặng, trọng lượng của nó có gì đó là lạ, như thể có cái gì đó bên trong đang cố ghìm hơi thở. Sau một thoáng lưỡng lự, tôi xé phong bì ra, sớm muộn gì thì tôi cũng phải làm việc đó cơ mà. Bên trong là một tập giấy bạc mười ngàn Yên gói chặt, mới cứng, không có lấy một vết gấp hoặc nếp nhăn. Tiền mới quá, trông như không phải thật, mặc dù tôi chẳng có lí do gì không tin là tiền thật. Có hai mươi tờ tất cả. Tôi đếm lại lần nữa cho chắc. Phải chẳng nghi ngờ gì nữa: hai mươi tờ. Hai trăm ngàn Yên.

            Đoạn tôi nhặt chiếc nĩa trên bàn lên mà nhìn nó chăm chăm chẳng vì lí do gì. Điều đầu tiên nảy ra trong đầu tôi là nên dùng số tiền này để mua một đôi giày mới. Đó chính là điều tôi cần hơn hết thảy. Tôi trả tiền ăn uống rồi quay lại đại lộ Shinjuku nơi có một hiệu giày lớn. Tôi chọn một đôi giày điền kinh rất bình thường màu xanh dương rồi cho người bán biết cỡ chân của mình mà không hỏi giá tiền. Nếu vừa thì tôi có thể mang luôn về nhà, tôi nói. Người bán (hẳn cũng là chủ hiệu) luồn cặp dây giày trắng vào các lỗ trên hai chiếc giày rồi hỏi: “Còn đôi cũ thì làm sao đây?”. Tôi bảo ông ta vứt đi, nhưng rồi nghĩ lại, liền bảo tôi sẽ mang về nhà.

            Ông ta mỉm cười tử tế với tôi. “Giày cũ mà tốt thì dù nhếch nhác một tí vẫn được việc”, ông ta nói, như muốn hàm ý rằng những đôi giày bẩn thỉu đến thế ông vẫn thường gặp luôn. Đoạn ông cho đôi giày cũ vào cái hộp vốn đựng đôi giày mới, lại cho hộp vào một cái túi mua hàng. Nằm trong hộp mới đôi giày tennis cũ trông như xác chết của hai con vật nhỏ. Tôi trả tiền bằng một trong các tờ một vạn Yên mới cứng đựng trong phong bì, nhận tiền trả lại gồm một vài tờ một ngàn Yên không mới lắm. Xách chiếc túi đựng đôi giày cũ, tôi lên tuyến xe điện Odakyu để về nhà. Tôi níu chặt vào vòng tay vịn, hoà mình vào đám đông đang trở về nhà mà nghĩ về những thứ mới mình đang có trên người – quần lót mới, áo thun mới, giày mới.

            * * *

            Về nhà, tôi lại ngồi bên bàn dưới bếp như mọi khi, vừa uống bia vừa nghe nhạc trên radio. Bỗng dưng tôi muốn nói chuyện với ai đó, nói về thời tiết, về sự ngu xuẩn của chính phủ, về cái gì cũng được. Chỉ cần được trò chuyện với ai đó, nhưng tôi không nghĩ ra được ai, không một người nào tôi có thể cùng trò chuyện. Ngay cả con mèo tôi cũng chẳng có.

            * * *

            Sáng hôm sau, khi cạo râu, tôi kiểm tra vết bầm trên mặt như mọi khi. Không thấy có gì thay đổi. Tôi ngồi ngoài hiên, và đã lâu lắm tôi mới lại dành cả ngày trời chẳng làm gì, chỉ ngồi ngắm khu vườn nhỏ ngoài kia. Buổi sáng thật đẹp trời, buổi trưa cũng đẹp. Lá trên cây đu đưa trong làn gió nhẹ đầu xuân.

            Tôi rút cái phong bì đựng mười chín tờ giấy bạc mười ngàn Yên ra khỏi túi áo khoác rồi cho vào ngăn kéo bàn làm việc. Nó vẫn có vẻ nặng đến kỳ lạ trong tay tôi. Cái sức nặng này hẳn hàm chứa một ý nghĩa nào đó, nhưng tôi không thể hiểu đó là gì. Đột nhiên tôi hiểu ra: nó nhắc tôi nhớ lại một cái gì đó. Việc tôi đã làm nhắc tôi nhớ lại một cái gì đó. Nhìn chăm chăm vào cái phong bì trong ngăn kéo, tôi cố nhớ ra là cái gì mà không được.

            Tôi đóng ngăn kéo lại, xuống bếp pha ít trà rồi đứng trước bồn rửa mặt mà uống; đúng vào lúc đó tôi sực nhớ. Việc tôi đã làm hôm nay cũng giống như việc mà Kano Creta đã làm trong vai gái gọi. Người ta gọi tới đâu thì tôi đi tới đó, ngủ với một người xa lạ, rồi được trả tiền. Thật ra tôi không ngủ với người đàn bà đó (tôi chỉ xuât tinh trong quần), nhưng ngoài cái đó ra thì thực chất là một. Vì cần một số tiền lớn, tôi đã bán mình cho người khác để được tiền. Tôi vừa uống trà vừa ngẫm nghĩ về điều đó. Một con chó sủa đằng xa. Rồi có tiếng máy bay. Song những ý nghĩ của tôi không thể nào mạch lạc cho được. Tôi lại ra ngoài hiên ngắm khu vườn tắm dưới ánh nắng chiều. Khi đã chán, tôi nhìn hai lòng bàn tay mình. Liệu có cần thế chăng: tôi đã thành một tên đĩ đực! Ai có thể tưởng tượng nổi rằng có ngày tôi đem thân mình ra bán lấy tiền? Và với số tiền đó, việc đầu tiên tôi làm là đi mua đôi giày mới?

            Tôi muốn hít thở không khí ngoài trời, bèn quyết định đi mua sắm. Tôi đi bộ xuôi theo phố, chân đi đôi giày mới. Tôi có cảm giác như đôi giày mới kia đã biến tôi thành một con người mới, khác với con người của tôi trước kia. Quang cảnh đường phố, những khuôn mặt người mà tôi đi qua trông cũng khác. Ở siêu thị khu vực, tôi mua rau, trứng, sữa, cá và hạt cà phê, trả tiền bằng mấy tờ giấy bạc mà tối qua người ta trả lại tôi ở hiệu giày. Tôi muốn kể cho người phụ nữ trung niên có bộ mặt tròn đứng bên quầy rằng tôi đã kiếm được món tiền này hôm trước bằng cách bán mình. Tôi đã kiếm được hai trăm ngàn Yên. Hai trăm ngàn Yên! Có làm việc hùng hục như khổ sai ở hãng luật, làm thêm giờ tất cả các ngày trong tháng, tôi cũng chỉ đem về nhà được hơn trăm năm mươi ngàn Yên một chút. Tôi muốn nói với bà ta vậy. Nhưng dĩ nhiên tôi chẳng nói gì. Tôi đưa tiền rồi nhận một túi giấy đầy các thứ đã mua.

            Có điều này thì chắc chắn: mọi việc đã bắt đầu chuyển động. Tôi vừa cuốc bộ về nhà, tay xách túi đựng thức ăn, vừa tự nhủ mình như vậy. Giờ tôi chỉ còn một việc phải làm là trụ thật vững để không bị quật ngã. Nếu làm được vậy thì ít nhất tôi cũng đến được chỗ nào đó, một nơi nào đó khác nơi tôi đang ở hiện nay.

            * * *

            Linh cảm của tôi không sai. Khi tôi về đến nhà, con mèo ra đón tôi. Ngay khi tôi mở cửa trước, nó kêu meo một tiếng rõ to như thể đã đợi tôi suốt cả ngày rồi chạy ùa đến với tôi, chót đuôi quặp dựng đứng lên. Vâng, chính là Wataya Noboru, đi lạc đã gần một năm nay. Tôi đặt túi đồ ăn xuống rồi ôm nó vào lòng.

5

            Một nơi mà nếu nghĩ thật lung thì sẽ đoán ra

            (Quan điểm của Kasahara May, Phần 1)

            *

             Chào Chim vặn dây cót!

            Em cá là anh cứ nghĩ em đang ngồi trong lớp học trước cuốn giáo khoa để mở, đang nhằn một môn nào đó như bất cứ đứa học trò nào. Đúng là lần trước gặp nhau chính em có bảo anh rằng em sắp đi học một “trường khác” thành thử anh nghĩ vậy thì cũng tự nhiên thôi. Thực ra em cũng có tới một trường khác thật, trường tư dành cho nữ sinh, ở xa lắm, trường rất oách, phòng vừa sạch vừa rộng rãi như phòng khách sạn, có quán cà phê muốn ăn gì có nấy, có sân tennis mới cáu rộng mênh mông, lại có cả hồ bơi, dĩ nhiên là rất đắt, chỉ dành cho con gái nhà giàu. Mà không phải những đứa bình thường đâu nhé, toàn mấy đứa cá biệt thôi. Anh có hình dung được thế là thế nào không? Một cái trường kiểu như trường tư ở miền quê hoặc trong rừng, của dân nhà giàu ấy. Bao quanh là tường cao chót vót rào kẽm gai, cổng thì cổng sắt to đùng cỡ Godzilla chắc cũng không phá nổi, có lính canh gác thay phiên suốt ngày đêm, cứ như là người máy, để ngăn không cho người ngoài vào thì ít mà ngăn không cho người ở trong ra thì nhiều.

            Giờ chắc anh sẽ hỏi: “Đã biết là một nơi kinh khủng như vậy sao còn tới làm gì?”. Anh nói đúng, nhưng em không có cách nào khác. Điều duy nhất em muốn là thoát khỏi cái nhà đó, nhưng sau tất cả những gì em đã gây ra thì chẳng còn trường nào ngoài cái trường ấy đủ “khoan dung” để nhận em làm học sinh chuyển tiếp. Đã vậy thì em quyết định cứ ráng chịu thử xem. Nhưng cái trường ấy thật tình là kinh khủng quá sức! Người ta hay dùng chữ “ác mộng”, nhưng ở đó còn tồi tệ hơn cất cứ cơn ác mộng nào. Ở đó hầu như lúc nào em cũng mơ toàn ác mộng, thức dậy thì mồ hôi đã vã ra như tắm, nhưng dẫu vậy đi nữa em thà cứ mơ tiếp còn hơn, bởi những cơn ác mộng của em còn tốt hơn thực tại ở cái chỗ đó. Chả biết anh có hiểu điều em nói không hở Chim vặn dây cót? Giá mà anh rơi vào một chỗ như thế nhỉ.

            Thế là rốt cuộc em chỉ ở lại cái khách sạn cao cấp hay nhà tù hay trường học trong rừng này vẻn vẹn có một học kỳ. Khi được về nhà nghỉ vào mùa xuân, em tuyên bố với cha mẹ rằng nếu phải quay lại đó thì em sẽ tự tử. Em sẽ nhét ba cục bông vào cổ họng rồi uống cả xô nước, em sẽ cắt cổ tay, em sẽ đâm đầu từ trên mái trường xuống đất. Em đã nói là em làm. Em không đùa. Cả bố lẫn mẹ em cộng lại trí tưởng tượng cũng chỉ bằng một con ếch, nhưng qua kinh nghiệm họ cũng biết, một khi em đã tới nước đó thì không phải dọa xuông đâu.

            Thế là em không bao giờ quay lại chỗ đó nữa. Suốt cả tháng Ba, tháng Tư, em chỉ ngồi nhà đọc sách, xem ti-vi với lại ăn không ngồi rồi. Và ngày nào cũng vậy, có tới trăm lần em nghĩ: “Giá như được gặp Chim vặn dây cót”. Em muốn đi xuôi con ngõ nọ, trèo qua hàng rào đến nói chuyện thật lâu, thật thú với anh. Nhưng đâu dễ thế. Nếu vậy thì khác gì lặp lại hè năm ngoái đâu. Thế nên em chỉ ngắm cái ngõ từ phòng mình mà tự hỏi: Chim vặn dây cót giờ đang làm gì nhỉ? Mùa xuân đang từ từ, lặng lẽ chiếm ngự cả thế gian, nhưng chuyện gì đang xảy ra với anh ấy trong thế gian này? Kumiko đã trở về với anh ấy chưa? Chuyện gì đang xảy ra với hai người đàn bà kỳ lạ Kano Malta và Kano Creta? Mèo Wataya Noboru đã về chưa? Vết bầm trên má Chim vặn dây cót đã biến đi chưa?...

            Sống một tháng như vậy rồi em không chịu nổi nữa. Em không biết làm thế nào hay tự lúc nào mà cái khu nhà mình đối với em nay chẳng là gì khác ngoài “thế giới của Chim vặn dây cót”, và khi em ở trong đó thì em chẳng là gì khác ngoài “cái tôi trong thế giới của Chim vặn dây cót”. Đó chẳng phải là chỉ nói vậy đâu... Không phải lỗi tại anh, dĩ nhiên, nhưng dù sao... Thành thử phải tìm một chỗ cho riêng mình.

            Em nghĩ mãi, nghĩ mãi, rốt cuộc cũng nghĩ ra mình phải đi đâu.

            * * *

            (Gợi ý) Đó là một chỗ mà nếu anh suy nghĩ thật lung vào thì sẽ đoán ra. Anh sẽ hình dung được em đang ở đâu nếu anh cố nghĩ. Đây không phải một ngôi trường, không phải khách sạn, không phải nhà tù, không phải một cái nhà. Nó là một chỗ đặc biệt, ở xa. Nó là... bí mật. Ít nhất là tạm thời.

            * * *

            Em lại đến vùng núi, ở một nơi khác có tường vây quanh (nhưng không đến nỗi cao ngất ngưởng thế), có một cái cổng, có một ông già dễ chịu làm gác cổng, nhưng mình có thể ra vào bất cứ lúc nào tuỳ thích. Khuôn viên rộng mênh mông, có cả rừng, cả hồ, nếu đi dạo khi mặt trời mọc thì sẽ gặp cơ man nào là thú, sư tử này, ngựa vằn này..., không em đùa đấy, nhưng anh có thể gặp những con vật nho nhỏ dễ thương như lửng(3) và công. Có một ký túc xá, em sống ở đó.

            Em đang viết thư này trong một căn phòng bé tí, trên một cái bàn bé tí, cạnh một kệ sách bé tí, bên một cái tủ quần áo bé tí, chẳng cái nào có trang hoàng tí tị nào, tất cả đều được thiết kế đủ đáp ứng những nhu cầu chức năng tối thiểu. Trên bàn là một cái đèn bàn, một tách trà, giấy bút đặng viết bức thư này và một cuốn từ điển. Nói thật, em chả bao giờ dùng từ điển. Vốn là em không ưa từ điển. Em không thích bộ dạng chúng, cũng chẳng ưa những gì người ta nói trong đó. Mỗi khi dùng từ điển, em đều nhăn mặt nghĩ: Ai mà cần cơ chứ? Những người như em không hợp với từ điển đâu. Chẳng hạn như em tìm từ “chuyển tiếp”, trong từ điển nói: “giai đoạn chuyển từ trạng thái này sang trạng thái kia”. Thì đã sao? Em nghĩ. Có liên quan gì tới em nào. Vì vậy mỗi khi thấy một cuốn từ điển trên bàn là em lại có cảm giác mình đang thấy một con chó lạ đang ị một đống phân xoắn tít trên bãi cỏ nhà em vậy. Nhưng dù sao em vẫn mua một cuốn vì chắc em phải tra gì đó khi viết thư cho Chim vặn dây cót.

            Em còn có một tá bút chì, thảy đều gọt sắc, sắp thành hàng. Toàn bút mới tinh. Em mới mua ở cửa hàng văn phòng phẩm, mua chỉ để viết thư cho anh (chẳng phải em muốn anh cảm kích hay gì gì đó đâu; đơn giản là bút mới, gọt sắc thì trông thật đẹp, đúng không?) Em lại có một cái gạt tàn, có thuốc lá và diêm quẹt. Em không hút nhiều như hồi trước, chỉ thỉnh thoảng mới hút khi tâm trạng thay đổi (như bây giờ chẳng hạn). Đó là tất cả những thứ trên bàn em. Bàn đối diện cửa sổ, cửa sổ thì có rèm. Rèm có vẽ những bông hoa nhỏ trông khá dễ thương – chẳng phải em chú ý chọn đâu, khi em về thì đã thế rồi. Kiểu vẽ hoa ấy là thứ duy nhất không bình bình, giản dị ở đây. Đây là căn phòng hoàn hảo dành cho một thiếu nữ mới lớn – mà cũng có thể không. Không, dĩ nhiên là hơn một cái xà lim hiện đại được xây với ý tốt dành cho những người phạm lỗi lần đầu. Máy nghe nhạc của em đặt ở trên kệ (cái máy to, anh có nhớ không hở Chim vặn dây cót?), hiện em đang nghe Bruce Springsteen đây. Đang chiều Chủ nhật, ai nấy ra ngoài kia vui chơi nên em có vặn thật to thì cũng chẳng ai than phiền gì cả.

            Thú giải trí duy nhất của em hồi này là cuối tuần lại sang thị trấn lân cận mua những cuốn băng cát-xét em thích ở một cửa hàng băng đĩa. (Em hầu như chẳng bao giờ mua sách. Nếu muốn đọc gì thì đã có thư viện). Em chơi khá thân với con bé phòng bên. Nó mua một chiếc ô-tô cũ, thành thử khi nào muốn xuống phố em đều đi với nó. Và anh thử đoán xem nào? Em đang học lái ô-tô nhé. Ở đây rộng mênh mông, em tha hồ tập bao nhiêu chẳng được. Em chưa có bằng lái nhưng lái cũng khá đấy.

            Thật ra, chả giấu gì anh, ngoài chuyện mua băng nhạc thì xuống phố cũng chả để làm gì. Ai cũng nói họ phải ra ngoài ít nhất một lần mỗi tuần, không thì sẽ phát điên, nhưng em lại thấy thoải mái được ở lại đây một mình khi ai nấy đều đi khỏi, được nghe thứ nhạc mình thích như thế này. Có lần em đi ô-tô cùng với cô bạn đến chỗ hẹn với một anh chàng mà em chưa biết mặt. Thử xem thế nào thôi mà. Con bé là dân vùng này nên quen biết nhiều người. Anh chàng em hẹn là một cậu cũng dễ thương, sinh viên, nhưng... Biết nói thế nào nhỉ, em vẫn chưa xác định được cảm xúc của mình về mấy chuyện này. Cảm xúc của em đều như ở đằng xa, xếp hàng như một lũ hình nộm trong trường bắn, và có tới hàng mấy dãy bình phong trong suốt ngăn giữa chúng với em.

            Nói thật với anh, khi gặp anh hồi mùa hè năm ngoái, khi hai ta ngồi ở bàn bếp vừa uống bia vừa trò chuyện, em cứ nghĩ: nếu ngay lúc này đây Chim vặn dây cót đột ngột đè em ra toan cưỡng hiếp thì em sẽ làm gì? Em chẳng biết mình sẽ làm gì. Cố nhiên, hẳn là em sẽ chống cự mà nói: “Không, Chim vặn dây cót à, anh không nên làm thế!”. Nhưng rồi hẳn em sẽ lại nghĩ: mình phải giải thích tại sao làm thế là sai, tại sao anh lại không nên làm thế, và càng nghĩ em lại càng rối trí, trong thời gian đó thì hẳn anh đã hiếp em xong rồi. Hễ nghĩ đến chuyện đó là tim em lại đập như điên, và em lại nghĩ chuyện này có phần không công bằng. Em cuộc là anh không ngờ nổi trong đầu em lại có những ý nghĩ như vậy đâu. Anh có cho rằng thế là ngu ngốc không? Chắc là có. Đúng là em ngốc thật. Nhưng lúc ấy thì em tuyệt đối nghiêm túc, vô cùng nghiêm túc về những chuyện đó. Hẳn vì vậy mà em đã kéo thang lên khỏi giếng và đậy nắp giếng lại trong khi anh đang ở dưới đáy, em làm vậy như là để nhốt anh lại mãi mãi. Sẽ không còn Chim vặn dây cót nào trên đời này nữa, em sẽ không còn phải bận tâm với những ý nghĩ đó mà sống yên ổn.

            Dù sao em cũng xin lỗi, em biết lẽ ra không bao giờ nên làm vậy với anh (hay với bất kỳ ai). Nhưng đôi khi em không thể kìm mình được. Em biết đích xác mình đang làm gì, nhưng em không dừng được. Đó là điểm yếu lớn nhất của em.

            Em tin rằng chẳng bao giờ anh lại hiếp em, Chim vặn dây cót ạ. Giờ thì em biết chắc điều đó, không hiểu vì sao. Không hẳn là anh sẽ không bao giờ, chẳng đời nào làm vậy (ý em là chẳng ai biết chắc được sẽ xảy ra chuyện gì) nhưng có lẽ anh sẽ không làm vậy ít nhất là để khỏi làm em bối rối. Em không biết nói sao cho rõ hơn, nhưng em cảm thấy vậy đó.

            Mà thôi, nói chuyện cưỡng hiếp thế đủ rồi.

            Nói gọn là, dù đi hẹn hò với một chàng trai nhưng em không sao tập trung cảm xúc vào đó được. Em vẫn cười cười nói nói nhưng tâm trí em cứ phiêu diêu mãi đâu đâu, như quả bong bóng bị đứt dây. Em cứ nghĩ chuyện nọ xọ chuyện kia, chẳng liên quan gì với nhau hết. Em chả biết, chắc là bởi em muốn ở một mình lâu lâu một chút, muốn thả cho ý nghĩ mình mặc sức tự do. Theo nghĩa đó, hẳn là em vẫn đang “trên đường hồi phục”.

            Em sẽ lại viết thư cho anh, không lâu nữa đâu. Lần sau, chắc em sẽ có thể nói sâu hơn một chút về mọi chuyện.

            TB: Trước khi nhận được thư sau, anh hãy cố đoán xem em đang ở đâu, đang làm gì nhé.

            -----------------------------

            3. Động vật thuộc họ chồn, màu xám, trên đầu có vân đen trắng, chân ngắn, móng khỏe, lông dày, đào hang dưới đất và ra ngoài hang vào ban đêm. Tên tiếng Anh là badger - ND.

6

            Nhục đậu khấu và Quế

            *

            Từ đầu cho tới chót đuôi con mèo bùn khô đóng thành từng mảng, lông rối bù, bết lại thành từng búi, như thể nó đã lăn qua lăn lại hồi lâu trên một bãi bùn đất nhoe nhoét. Nó kêu rừ rừ khoái chí khi được tôi bồng lên mà kiểm tra khắp người. Nó có gầy đi một chút, nhưng cái đó ra thì nó không khác mấy so với lần cuối tôi nhìn thấy: khuôn mặt, thân hình, bộ lông. Mắt nó trong veo, mình mẩy không bị thương. Nó chả có gì giống một con mèo đi lạc đã gần một năm trời. Có chăng là giống như nó trở về nhà sau một đêm chơi bời bê tha vậy.

            Tôi cho nó ăn ở ngoài hiên: một đĩa cá thu cắt lát mà tôi mua ở siêu thị. Rõ là nó đói meo. Nó khoắng sạch đĩa cá nhanh đến nỗi chốc chốc lại sặc và ợ ra đĩa những miếng đã nuốt. Tôi tìm thấy cãi đĩa đựng nước cho mèo dưới bồn rửa mặt, liền đổ nước đầy tận mép. Nó tợp gần như sạch đĩa. Ăn uống no nê rồi, nó bắt đầu liếm bộ lông bê bết bùn, nhưng rồi như thể sực nhớ rằng tôi đang ở đó, liền nhảy vào lòng tôi, cuộn tròn mà thiếp đi.

            Con mèo ngủ, hai chân trước gập lại dưới mình, mặt vùi vào trong đuôi. Ban đầu nó còn kêu rừ rừ to, sau đó nhỏ dần, cho tới khi hoàn toàn chìm vào giấc ngủ lặng êm, mọi sự phòng thủ đều hạ xuống. Tôi ngồi ở một chỗ nắng trên hàng hiên, khẽ vuốt ve để không làm nó thức giấc. Lâu lắm rồi tôi mới lại nghĩ tới sự gần gũi mềm mại, ấm áp đặc biệt của con mèo. Quá nhiều chuyện đã xảy ra với tôi đến nỗi hầu như tôi quên bẵng rằng con mèo đã đi mất. Song giờ đây, ôm trong lòng cái sinh linh mềm mại bé nhỏ này, thấy nó say sưa ngủ một cách hoàn toàn tin cậy ở tôi, tôi nghe một nỗi ấm áp tràn lên ngực. Tôi đặt tay lên ngực con mèo, cảm thấy tim nó đập. Mạch yếu và nhanh, nhưng tim nó, cũng như tim tôi, đang cần mẫn đếm lượng thời gian mà cơ thể nhỏ bé của nó được chia phần với toàn bộ nỗi đau đáu không yên của tim tôi.

            Con mèo đã đi đâu suốt năm qua? Nó đã làm gì? Sao nó lại chọn đúng lúc này để trở về, hoàn toàn đột ngột? Những dấu vết thời gian mà nó đã đánh mất ở đâu? Ước gì tôi có thể hỏi nó những câu hỏi đó. Giá như nó trả lời cho tôi được!

            * * *

            Tôi tháo một tấm rèm khỏi cửa sổ rồi đặt con mèo lên. Nó mềm oặt như một súc quần áo mới giặt. Khi tôi nhấc nó lên, khe mắt nó hơi hé mở, mí mắt nhếch lên, nó khẽ mở miệng nhưng không phát ra một tiếng nào. Nó sửa thế nằm trên tấm rèm cho thoải mái, ngáp rồi lại ngủ. Sau khi tin chắc rằng nó đã ngủ say, tôi xuống bếp soạn mấy thứ đồ ăn đã mua ra. Tôi đặt chỗ đậu phụ, rau và cá vào từng ngăn trong tủ lạnh rồi lại liếc ra ngoài hiên. Con mèo vẫn ngủ ở nguyên vị trí. Vợ chồng tôi lúc nào cũng gọi nó là Wataya Noboru bởi cái nhìn trong mắt nó giống như của ông anh trai Kumiko, nhưng đó chỉ là mộ trò đùa nho nhỏ của chúng tôi chứ không phải tên thật của con mèo. Thật ra, chúng tôi nuôi nó đã được sáu năm mà chẳng hề đặt tên cho nó.

            Song, dẫu là trò đùa đi nữa thì cái tên Wataya Noboru cũng không hợp với con mèo của chúng tôi. Trong vòng sáu năm đó kẻ mang cái tên này đã trở thành một nhân vật quá ư tầm cỡ, nhất là từ khi y được bầu vào Hạ viện. Nhất định không thể nào gán cái tên đó cho con mèo mãi. Chừng nào nó còn ở trong cái nhà này, cần phải đặt cho nó một cái tên mới, một cái tên riêng của nó, càng sớm càng tốt. Đó nên là một cái tên giản dị, cụ thể, dễ hiểu, một cái tên khả dĩ gột sạch được hết mọi âm thanh, ký ức và ý nghĩa của cái tên Wataya Noboru.

            Tôi mang cái đĩa mèo ăn vào nhà. Đĩa sạch bóng như thể vừa được lau rửa xong. Con mèo hẳn đã ăn ngon lành lắm. Tôi thấy vui vì đã tình cờ mua ít cá thu đúng lúc con mèo trở về nhà. Đó dường như là một điềm lành, cho cả tôi lẫn con mèo. Ừ phải, tôi sẽ gọi nó là Cá thu. Vừa vuốt ve nó ở sau tai, tôi vừa thông báo cho nó: “Từ nay chú mày không phải là Wataya Noburo nữa”, tôi nói. “Từ nay tên mày là Cá thu”. Tôi muốn hét to lên vậy với toàn thế giới.

            Tôi ngồi ngoài hiên bên con mèo Cá thu mà đọc sách tới khi mặt trời bắt đầu lặn. Con mèo ngủ li bì như bị ai đó đánh cho bất tỉnh, hơi thở êm nhẹ của nó như một cái bễ lò rèn ở xa xăm, mình nó phập phồng theo âm thanh đó. Thỉnh thoảng tôi lại với tay sang để cảm nhận hơi ấm của nó và biết chắc rằng con mèo đang thực sự nằm kia. Thật tuyệt khi có thể làm như vậy: với tay ta chạm vào một cái gì đó, cảm thấy một cái gì đó ấm áp. Tôi đang mất dần cái cảm giác này.

            * * *

            Tới sáng hôm sau Cá thu vẫn ở nhà. Nó chẳng biến đi đâu cả. Khi thức dậy tôi thấy nó đang ngủ ngay cạnh tôi, nằm nghiêng một bên sườn, bốn chân duỗi thẳng. Hẳn là hồi đêm cậu chàng có thức dậy liếm láp mình cho sạch sẽ. Những mảng bùn và túm lông bết lại đã biến mất. Nó gần như trở lại y như chính mình trước kia. Xưa nay nó vốn là một chú mèo có bộ lông dày, đẹp mã. Tôi ôm ấp nó một hồi rồi cho nó ăn và thay nước. Sau đó tôi lùi xa xa một tý mà gọi “Cá thu!”. Gọi đến lần thứ ba thì cu cậu quay lại, kêu meo khe khẽ để trả lời.

            Giờ đến lượt tôi bắt đầu một ngày mới. Con mèo đã quay về với tôi, vậy thì tôi cũng phải bắt đầu tiến lên phía trước. Tôi tắm hoa sen rồi là một chiếc sơ mi mới giặt. Tôi mặc một chiếc quần mới bằng vải bông, đi đôi giày mới. Tôi quyết định mặc một chiếc áo len mới dày hơn và không vận áo khoác ngoài. Tôi bắt tầu điện đến Shijuku như mọi hôm, băng qua lối xuống xe điện ngầm về phía quảng trường ở sảnh phía đông của nhà ga và lại ngồi xuống băng ghế quen thuộc của mình.

            * * *

            Người đàn bà xuất hiện sau 3 giờ chiều một chút. Gặp tôi bà ta không có vẻ ngạc nhiên, tôi cũng tỏ vẻ bình thản khi thấy bà ta đi tới. Như thể chúng tôi gặp nhau là hoàn toàn tự nhiên. Chúng tôi không chào nhau, như thể chuyện đó cũng đã được tính trước rồi. Tôi ngẩng mặt lên, bà ta thì nhìn tôi mà khẽ nhếch môi.

            Bà ta mặc áo khoác vải bông màu cam kiểu mùa xuân, váy bó màu vàng nhạt như đá Topaz, đeo đôi hoa tai nhỏ bằng vàng. Bà ta ngồi xuống cạnh tôi, và cũng như mọi khi, rút từ trong ví ra một gói Virginia Slims. Bà ta cho một điếu lên miệng rồi châm lửa bằng một cái bật lửa thanh mảnh bằng vàng. Lần này thì bà ta đã biết nên không mời tôi hút. Sau khi thủng thẳng rít hai ba hơi với vẻ trầm tư, bà ta thả điếu thuốc xuống đất như để kiểm tra xem điều kiện trọng lực hôm nay có gì thay đổi chăng. Đoạn bà ta vỗ gối tôi mà nói: “Theo tôi” rồi đứng dậy đi. Tôi dí bẹp điếu thuốc rồi đi theo bà. Bà ta đưa tay vẫy một chiếc taxi dừng lại rồi chui vào. Tôi lên xe ngồi cạnh bà ta. Người đàn bà nói cho tài xế một địa chỉ rất rõ ràng ở Aoyama, rồi sau đó, trong khi xe chúng tôi len lỏi qua dòng xe dày đặc về phía đại lộ Aoyama, bà ta không nói gì nữa. Tôi ngắm cảnh Tokyo qua cửa kính. Có mấy tòa nhà mới tôi chưa hề thấy trước đây. Người đàn bà lấy từ trong ví ra một cuốn sổ rồi viết gì đó bằng một cây bút nhỏ bằng vàng. Chốc chốc bà ta lại nhìn đồng hồ như đang kiểm tra cái gì đó. Cái đồng hồ được cất trong một chiếc vòng đeo tay cũng bằng vàng. Dường như mọi thứ đồ lề nho nhỏ bà ta mang theo mình đều được làm bằng vàng. Hay đó là do tất cả những gì bà ta chạm vào đều biến thành vàng?

            Bà ta đưa tôi đến một cửa hàng quần áo ở phố Omote Sando chuyên bán hàng hiệu. Ở đó bà ta chọn cho tôi hai bộ com lê, cả hai đều bằng chất liệu mỏng, một bộ màu xám pha xanh dương, bộ kia màu xám sẫm. Những bộ kẻng thế này thì tôi chẳng bao giờ dám mặc đến sở làm; nhìn thôi cũng biết là cực đắt. Bà ta chẳng giải thích gì, tôi cũng không hỏi. Người ta bảo gì tôi làm nấy. Chuyện này làm tôi nhớ tới vài bộ phim được gọi là phim nghệ thuật mà tôi đã xem hồi còn sinh viên. Những bộ phim như vậy chẳng bao giờ giải thích chuyện gì đang diễn ra. Những lời giải thích bị coi như một cái ác chỉ làm được mỗi việc là hủy diệt cái “thực tại” được trình bày trong phim, cho nên chúng phải bị loại trừ. Hiển nhiên đó là một cách nghĩ, một cách nhìn sự vật, nhưng cách nghĩ đó có vẻ thật lạ lùng đối với tôi, một sinh thể có thật bằng xương bằng thịt đang bước vào thế giới này.

            Vóc dáng tôi trung bình thành thử quần áo không cần phải sửa gì, chỉ cần điều chỉnh một chút chiều dài tay áo và quần. Người đàn bà chọn thêm ba chiếc sơ mi, ba chiếc cà vạt đi với từng chiếc sơ mi ấy, rồi lại hai dây đeo quần và nửa tá đôi tất. Bà ta trả bằng thẻ tín dụng và yêu cầu gửi tất tật mọi thứ về tận nhà tôi. Dường như bà ta đã có một hình dung rất rõ trong đầu rằng tôi nên ăn mặc ra sao. Thành thử bà ta không mất chút thời giờ chọn lui chọn tới. Tôi mà đi mua dù chỉ một cục tẩy ở hiệu văn phòng phẩm thì chắc cũng còn mất nhiều thì giờ hơn. Nhưng tôi phải thừa nhận thị hiếu ăn mặc của bà ta thật không chê vào đâu được. Từng chiếc sơ mi và từng cái cà vạt bà ta chọn tưởng chừng hú họa lại đi với nhau đến mức hoàn hảo về màu sắc và phong cách, như thể bà ta chỉ chọn sau khi đã cân nhắc rất lâu, rất kỹ. Mọi kết hợp giữa áo và cà vạt mà bà ta chọn đều quả thật độc đáo.

            Kế đó bà ta đưa tôi đến hiệu giày, mua cho tôi hai đôi để đi với các bộ com lê. Việc này cũng chẳng lâu la gì. Bà ta lại trả bằng thẻ tín dụng và yêu cầu gửi hàng về nhà tôi. Thật ra chỉ có hai đôi giày thì xem chừng cũng không đáng để phải giao tận nhà, nhưng có lẽ cung cách của bà ta là vậy: chọn hàng mau chóng, trả bằng thẻ tín dụng, rồi yêu cầu giao hàng tận nhà.

            Kế đó chúng tôi lại đến hiệu đồng hồ và lặp lại quy trình. Bà ta mua cho tôi một chiếc đồng hồ kiểu cọ, thanh lịch, dây đeo bằng da cá sấu, đặng đi với mấy bộ com lê, và bà ta lại hầu như chẳng mất chút thời giờ lựa chọn. Giá tiền khoảng năm mươi hay sáu mươi ngàn Yên gì đó. Tôi đang có một chiếc đồng hồ bằng nhựa rẻ tiền, nhưng rõ ràng cái ấy quá xoàng đối với bà ta. Ít ra thì cái đồng hồ này bà ta không yêu cầu giao tận nhà mà bảo người bán gói lại, rồi ba ta lẳng lặng trao cái hộp cho tôi.

            Kế đó bà ta đưa tôi đến một hiệu tóc dành cho cả nam và nữ. Chỗ này giống như sàn nhảy, sàn bằng gỗ sáng bóng, tường phủ kính. Có năm mươi chiếc ghế, đâu đâu cũng thấy các kỹ thuật viên đi tới đi lui, tay cầm nào kéo, nào lược và những thứ gì gì nữa. Đây đó có vài chậu cây cảnh, và từ hai cái loa Bose màu đen gắn trên trần phát ra khe khẽ một tác phẩm độc tấu Piano trúc trắc của Keith Jarrett. Người ta đưa tôi đến thẳng một chiếc ghế - có lẽ trong khi đi sắm hàng ban nãy bà ta đã gọi điện tới đây đặt chỗ trước. Bà ta dặn dò tỉ mỉ cho gã gầy gò sẽ cắt tóc cho tôi. Xem chừng họ biết nhau. Trong khi làm theo từng chỉ dẫn của bà ta, y nhìn chăm chú vào mặt tôi phản chiếu trong gương với cái vẻ như đang săm soi một bát cọng cần tây mà y sắp phải ăn. Y có bộ mặt giống Solzhenitsyn thời trẻ. Người đàn bà bảo y: “Tôi sẽ quay lại khi nào anh cắt xong” rồi rảo bước ra khỏi cửa hiệu cắt tóc.

            Gã đàn ông nói rất ít trong khi cắt tóc cho tôi, chỉ mở miệng “Lối này, thưa ông” khi cần phải gội đầu cho tôi, “Xin lỗi” khi phải phủi chỗ vụn tóc đã cắt. Lúc y đi khỏi, tôi thò tay ra khỏi tấm vải che quanh người để sờ vết bầm trên má phải. Đây là lần đầu tiên tôi thấy vết bầm trong một tấm gương khác chứ không phải gương ở nhà. Các tấm gương lớn bằng cả bức tường phản chiếu hình ảnh nhiều người trong đó có tôi. Và trên mặt tôi là vết bầm màu xanh sáng rất nổi này. Trông cũng không đến nỗi xấu xí hay bẩn thỉu. Đơn giản nó là một phần của tôi, tôi cần phải chấp nhận nó. Tôi cảm thấy chốc chốc lại có người này kẻ nọ nhìn vết bầm đó – nhìn hình chiếu của nó trong gương. Nhưng có quá nhiều hình người phản chiếu trong gương nên tôi không thể biết cụ thể ai đang nhìn. Tôi chỉ cảm thấy ánh mắt họ dán vào vết bầm.

            Buổi cắt tóc cho tôi kéo dài nửa tiếng đồng hồ. Tóc tôi vốn đã ngày càng dài hơn từ khi tôi thôi việc, nay lại ngắn như trước. Tôi chuyển sang một trong những chiếc ghế xếp dọc tường, ngồi nghe nhạc và đọc qua quýt một cuốn tạp chí, đợi người đàn bà quay lại. Bà ta ra chiều hài lòng với đầu tóc mới của tôi. Bà ta rút khỏi ví một tờ mười ngàn Yên, trả tiền rồi kéo tôi ra ngoài. Sau đó bà ta dừng lại, săm soi tôi từ đầu đến chân, y hệt khi tôi kiểm tra toàn thân con mèo, như để xem có còn gì mình quên làm không. Hẳn là không. Đoạn bà ta liếc chiếc đồng hồ bằng vàng thở dài. Đã gần 7 giờ tối.

            - Đi ăn tối nhé, - bà ta nói. – Cậu thế nào?

            Hồi sáng tôi mới chỉ dằn bụng một lát bánh mì, trưa thì một cái bánh vòng.

            - Chắc là được, - tôi nói.

            Bà ta dẫn tôi đến một nhà hàng Ý gần đó. Hình như ở đấy người ta biết bà ta. Chẳng nói chẳng rằng người ta đưa chúng tôi đến một bàn yên tĩnh ở đằng sau. Ngay khi tôi ngồi xuống đối diện bà ta, bà ta liền ra lệnh cho tôi đặt tất cả những gì có trong túi quần lên bàn. Tôi lẳng lặng làm theo. Thực tại trước đây của tôi dường như đã rời bỏ tôi mà phiêu diêu đâu đó gần đây. Mong rằng nó sẽ tìm được mình, tôi nghĩ. Trong túi tôi chẳng có gì đặc biệt: chìa khóa, khăn mùi soa, ví. Bà ta quan sát chừng ấy thứ mà chẳng tỏ vẻ quan tâm lắm, rồi nhặt cái ví lên nhìn vào trong. Ví đựng khoảng năm mươi lăm ngàn Yên tiền mặt, một cái thẻ điện thoại, một cái thẻ rút tiền ngân hàng, thẻ hồ bơi, chỉ có thế. Chẳng có gì khác thường. Chẳng có gì để người ta muốn ngửi, muốn đo, muốn lắc, muốn dìm vào nước hay đưa ra ánh sáng. Bà ta đưa ví lại cho tôi, vẻ mặt không thay đổi.

            - Tôi muốn cậu ngày mai đi mua nửa tá khăn mùi soa, một cái ví mới và một cái móc khóa mới, - bà ta nói. – Từng ấy thứ thì chắc cậu tự chọn lấy được. À, thế lần gần đây nhất cậu mua quần lót là khi nào?

            Tôi nghĩ một lúc mà không nhớ ra.

            - Tôi không nhớ. Chắc cũng lâu rồi. Nhưng tôi vốn ưa sạch sẽ, chẳng bao giờ chất đống quần áo bẩn, cởi ra là giặt…

            - Không sao cả. Tôi muốn cậu mua một tá áo may-ô và quần lót.

            Tôi không nói gì, chỉ gật đầu.

            - Cứ mang hóa đơn lại cho tôi. Tôi sẽ trả. Mà nhớ phải mua những thứ tốt nhất đấy. Tôi sẽ trả cả tiền giặt cho cậu nữa. Đừng bao giờ mặc một cái sơ mi quá một lần mà không gửi giặt. Được chưa?

            Tôi lại gật. Tay chủ hiệu giặt gần nhà ga mà biết chuyện này thì sẽ vui lắm đây. Nhưng, tôi tự nhủ, rồi cố kéo dài cái liên từ ngắn ngủi, súc tích này, vốn đang dính chặt vào cửa sổ do sức căng bề mặt, thành một câu đầy đủ, ra đầu ra đũa:

            - Nhưng sao bà lại làm những chuyện này – mua cho tôi cả một tủ quần áo, trả tiền cắt tóc, tiền giặt là cho tôi?

            Bà ta không trả lời, chỉ rút một điếu Virginia Slims đưa lên môi. Một gã bồi bàn cao lớn có đường nét cân đối bỗng dưng hiện ra như từ dưới đất chui lên, châm lửa cho bà ta bằng một động tác thuần thục. Hắn quẹt diêm làm phát ra một âm thanh rõ ràng, khô khốc, cái loại âm thanh có khả năng kích thích ăn ngon miệng. Xong việc đó rồi, y chìa cho chúng tôi xem thực đơn. Tuy nhiên, bà ta chẳng buồn xem mà nói ngay rằng chúng tôi không quan tâm đến các món đặc biệt trong ngày.

            - Cho tôi món Salad và một ổ bánh mì, và một món cá nào đó thịt trắng. Món salad chỉ cần nhỏ vài giọt xốt dầu giấm thôi, thêm một tí tiêu. Và một cốc nước khoáng không đá.

            Tôi chẳng thú gì chuyện vùi đầu vào thực đơn.

            - Tôi cũng vậy, - tôi nói.

            Tay bồi cúi chào, đoạn rút lui. Dường như thực tại của tôi vẫn chưa sao tìm lại được tôi.

            - Tôi hỏi chỉ vì tò mò thôi, chứ không có ý gì, - tôi nói, cố thử lần nữa hòng moi được của bà ta một lời giải thích. – Bà đã mua ngần ấy thứ cho tôi, tôi không dám phê phán gì, nhưng liệu có đáng cho bà bỏ ra ngần ấy thời gian, công sức và tiền bạc không?

            Bà ta lại không trả lời.

            - Tôi chỉ tò mò thôi, - tôi lại nói.

            Lại không trả lời. Bà ta quá bận ngắm bức tranh sơn dầu trên tường, chẳng hơi đâu bận tâm đến chuyện trả lời tôi. Bức tranh hẳn là vẽ phong cảnh nước Ý, với một cây thông được cắt tỉa công phu, vài nếp nhà thôn quê tường sơn màu đỏ hung rải rác trên những ngọn đồi. Những căn nhà nhỏ xíu nhưng thật đáng yêu. Tôi tự hỏi loại người nào có thể sống trong những căn nhà đó: hẳn là những người bình thường, sống một cuộc sống bình dị. Chẳng ai trong số họ bỗng dưng gặp một người đàn bà bí hiểm chả biết từ đâu chui ra mua cho họ hết com lê đến giày rồi lại đồng hồ. Chẳng ai trong số họ phải tính tính toán toán số tiền khổng lồ họ phải kiếm cho ra đặng có thể mua một cái giếng cạn khô. Tôi cảm thấy ghen tị đến nhức nhối với những kẻ sống trong một thế giới bình thường như vậy. Tôi vốn không phải người hay ghen tị, nhưng quang cảnh trong bức tranh kia khơi dậy cảm giác đó trong tôi một cách lạ lùng. Giá như tôi có thể bước vào bức tranh đó ngay bây giờ, ngay ở đó! Giá như tôi có thể bước vào một trong những căn nhà thôn quê đó, thưởng thức một ly vang, rồi chui vào một góc nhà mà đánh một giấc ngon lành tịnh không nghĩ ngợi gì!

            Gã bồi quay lại rất nhanh, đặt một cốc nước khoáng trước mặt người đàn bà và tôi. Bà ta dụi thuốc vào gạt tàn.

            - Sao cậu không hỏi tôi chuyện gì khác? – bà ta nói.

            Trong khi tôi ngẫm nghĩ xem có thể hỏi bà ta chuyện gì khác, bà ta nhấp một ngụm nước khoáng.

            - Anh thanh niên ở trong văn phòng ở Akasaka là con trai bà phải không? – tôi hỏi.

            - Dĩ nhiên, - bà ta đáp không do dự.

            - Anh ấy không nói được à?

            Người đàn bà gật đầu.

            - Từ khi mới sinh nó đã nói rất ít, nhưng năm lên sáu tuổi đột nhiên nó ngừng nói hẳn. Dù thế nào thì thế, nó thôi dùng giọng của mình.

            - Tại sao vậy? Có lý do nào không?

            Bà ta lờ đi câu hỏi của tôi. Tôi cố nghĩ đến một điều khác.

            - Nếu anh ấy không nói được thì làm sao có thể điều hành công việc?

            Bà ta chỉ hơi nhíu mày một chút. Không phải bà ta lờ đi câu hỏi của tôi, nhưng rõ ràng bà ta không có ý định trả lời.

            - Tôi cuộc rằng anh ta mặc hay mang gì cũng đều là do bà chọn, từ đầu tới chân. Như với tôi vậy thôi.

            - Tôi không ưa thấy người ta ăn mặc lôi thôi. Chỉ có thế. Gì chứ chuyện ấy thì tôi không chịu được. Tôi muốn ít nhất là những người quanh tôi ăn mặc càng đàng hoàng càng tốt. Tôi muốn cái gì ở họ cũng phải đâu ra đó, dù người ngoài có nhìn thấy hay không.

            - Vậy chắc hẳn bà không thích khúc ruột thừa của tôi rồi, - tôi cố nói đùa.

            - Cậu có vấn đề về hình dạng của khúc ruột thừa à? – bà ta hỏi, nhìn thẳng vào tôi với vẻ hoàn toàn nghiêm túc.

            Tôi lấy làm tiếc đã đùa như vậy.

            - À không, tạm thời thì ổn, - tôi nói. – Tôi chỉ nói thế thôi, không có ý gì. Kiểu như “ví dụ” thôi mà.

            Bà ta vẫn nhìn tôi soi mói hồi lâu – hẳn bà ta đang nghĩ tới khúc ruột thừa của tôi.

            - Vậy đó, tôi muốn những người chung quanh tôi trông phải đàng hoàng đâu ra đó, dù tôi có phải tự trả tiền về việc đó đi nữa. Chỉ có thế thôi. Đừng bận tâm làm gì. Tôi làm tất cả các chuyện này hoàn toàn là để cho tôi. Bản thân tôi luôn thấy tởm lợm – hầu như một cách sinh lý – mỗi khi nhìn thấy quần áo lôi thôi lếch thếch.

            - Kiểu như nhạc sĩ thì không chịu nổi khi nghe thấy âm nhạc bị chơi lạc điệu phải không?

            - Đại loại thế.

            - Lúc nào bà cũng mua quần áo cho tất cả những người chung quanh mình như thế này à?

            - Ừ. Thật ra quanh tôi đâu có nhiều người lắm. Tôi thì có thể không thích cách ăn mặc của người ta, nhưng tôi đâu thể mua quần áo cho tất cả thiên hạ trên đời, đúng không?

            - Cái gì cũng có giới hạn, - tôi nói.

            - Chính thế.

            * * *

            Lát sau món salad được dọn lên, chúng tôi ăn. Đúng như người đàn bà đã dặn, mỗi suất salad chỉ được nhỏ vài giọt xốt dầu giấm, ít đến nỗi có thể đếm trên một bàn tay.

            - Cậu có gì muốn hỏi tôi nữa không? – bà ta hỏi.

            - Tôi muốn biết tên bà, - tôi nói. – Để cho tiện dùng thôi.

            Bà ta im lặng giây lát, miệng nhai một miếng củ cải. Thế rồi giữa hai mí mắt bà ta hình thành một nếp nhăn sâu, như thể bà vừa nhai phải một cái gì đó đắng ngắt trong mồm.

            - Sao cậu lại cần phải dùng tên tôi chứ? Viết thư cho tôi thì chắc là không rồi. Tên với tuổi, nếu có chăng thì cũng quan trọng gì đâu.

            - Nhỡ ra tôi phải gọi bà khi bà đang quay lưng lại chẳng hạn? Không biết tên thì gọi bằng gì?

            Bà ta đặt nĩa xuống đĩa rồi dùng khăn lau miệng.

            - Tôi hiểu ý cậu rồi. Chuyện ấy tôi hoàn toàn không nghĩ đến. Cậu nói đúng, gặp tình huống như vậy thì cậu cần tên tôi thật.

            Bà ta ngồi ngẫm nghĩ hồi lâu. Trong khi bà ta nghĩ, tôi ăn món salad.

            - Xem nào, cậu cần một cái tên thích hợp những khi cần gọi tôi từ sau lưng chẳng hạn, đúng không nào?

            - Nói chung là thế.

            - Vậy đó không nhất thiết là tên thật của tôi, đúng không?

            Tôi gật.

            - Tên, tên… kiểu tên nào là hay nhất nhỉ?

            - Chắc là một cái tên đơn giản, dễ gọi. Nếu có thể thì một cái gì đó cụ thể, một vật nào đó sờ mó được, nhìn thấy được. Kiểu vậy thì dễ nhớ.

            - Chẳng hạn?

            - Chẳng hạn như tôi gọi con mèo của tôi là Cá thu. Tôi mới đặt tên cho nó hôm qua.

            - Cá thu, - bà ta gọi to lên, như để xác nhận âm thanh của từ đó.

            Đoạn bà ta đăm đăm nhìn một lát vào cái giá đựng muối tiêu trên bàn, rồi ngẩng đầu lên nhìn tôi mà nói:

            - Nhục đậu khấu.

            - Nhục đậu khấu?

            - Ừ… Tự nhiên nảy ra trong đầu tôi thế… Cậu có thể gọi tôi vậy, được chứ?

            - Dĩ nhiên là được. Thế còn con trai bà thì gọi sao đây?

            - Quế.

            - Rau mùi, xô thơm, hương thảo, húng tây, - tôi nói, ý muốn nhắc lại một giai điệu(4).

            - Akasaka Nhục đậu khấu và Akasaka Quế. Không dở phải không?

            Akasaka Nhục đậu khấu và Akasaka Quế: liệu Kasahara May có bị sốc chăng nếu cô bé biết tôi đã làm quen với những người như vậy! “Chim vặn dây cót ơi là Chim vặn dây cót! Anh không thể làm quen với người nào khác bình thường hơn một chút sao?”. Ừ, tại sao không thể, hở Kasahara May? Câu hỏi đó tôi không trả lời được.

            - Thử nghĩ mà xem, - tôi nói. – Năm ngoái tôi gặp hai người đàn bà tên là Kano Malta và Kano Creta. Kết quả là xảy ra với tôi chẳng còn thiếu chuyện gì. Tuy nhiên, giờ thì họ không ở đây nữa.

            Nhục đậu khấu khẽ gật đầu để trả lời, nhưng không góp ý gì.

            - Họ biến đi đâu đó thôi, - tôi khẽ khàng nói thêm. – Như hạt sương lúc sáng hè vậy. Hoặc tan đi như ngôi sao lúc bình minh.

            Bà ta lấy nĩa ghim một thứ gì đó như là lá diếp xoăn cho vào miệng. Rồi, như thể đột nhiên nhớ lại một lời hứa từ lâu trước đây, bà ta với tay lấy cốc nước uống một ngụm.

            - Chắc cậu muốn biết về số tiền kia đúng không? Số tiền cậu nhận được ngày hôm kia ấy? Tôi nói đúng không nào?

            - Vâng, bà nói đúng. Tôi rất muốn biết điều đó.

            - Kể cho cậu thì cũng được, nhưng chuyện có thể rất dài đấy.

            - Liệu có thể kể hết trước khi tới món tráng miệng không?

            - Chắc là không, - Akasaka Nhục đậu khấu nói.

            ---------------------------------------------------

            4 - “Parsley, sage, rosemary and thyme” – lời bài hát nổi tiếng của Paul Simon và Arthur Garfunkei nhan đề Hội chợ Scarborough (Scarborough Fair)- ND.

7

            Bí ẩn ngôi nhà có dớp

            *

            SETAGAYA, TOKYO:

            BÍ ẨN NGÔI NHÀ CÓ DỚP

            Ai đã mua mảnh đất xúi quẩy sau khi cả gia đình tự sát?

            Điều gì đang diễn ra ở khu phố có máu mặt này?

            (Trích tuần báo _______, ngày 7 tháng Mười)

            ------------------------------------

                        Dân địa phương gọi lô đất ở số __ , 2-chome, Setagaya là “nhà có dớp”. Nằm ở khu dân cư yên tĩnh, lô đất tuyệt đẹp rộng hơn 1000 mét vuông quay về hướng Nam này rõ ràng là một địa điểm xây nhà lý tưởng, song những ai hiểu biết đều nhất trí với nhau một điểm: có cho không lô đất này họ cũng chẳng dám nhận. Lý do rất đơn giản: bất cứ ai từng sở hữu cơ ngơi này, không có ngoại lệ, đều gặp số phận thảm khốc. Điều tra của chúng tôi cho thấy, từ đầu thời kỳ Chiêu Hòa, năm 1926, không dưới bảy chủ nhân – người cư trú ở ngôi nhà này đều đã kết liễu cuộc đời bằng cách tự tử, đa số treo cổ hoặc dùng hơi ngạt.

            [Lược bỏ chi tiết các vụ tự tử]

            ------------------------------------

            Công ty rởm mua đất xúi quẩy

            Vụ việc gần nhất, khó lòng được xem là một chuỗi sự kiện ngẫu nhiên, là vụ ám sát – tự sát của gia đình Kojiro Miyawaki [ảnh], chủ nhân của chuỗi nhà hàng tiếng tăm Rooftop Grill có đại bản doanh ở Ginza. Cách đây hai năm Miyawaki đã bán toàn bộ nhà hàng của mình và tuyên bố phá sản vì nợ một khoản kếch xù, nhưng sau đó ông bị một số chủ nợ kiện vì có liên quan đến tội phạm có tổ chức. Cuối cùng, hồi tháng Giêng năm nay, Miyawaki đã dùng thắt lưng để siết cổ cô con gái mười bốn tuổi là Yukie khi cô này đang ngủ tại một nhà trọ ở thành phố Takamatsu, sau đó ông cùng vợ là Natsuko tự treo cổ bằng sợi dây thừng họ mang theo để dùng vào mục đích này. Cô con gái cả của nhà Miyawaki, lúc đó là một nữ sinh trung học, thì đang mất tích.

            Khi Miyawaki mua cơ ngơi này vào tháng Tư năm 1972, ông cũng đã nghe những tin đồn gở về khu đất, nhưng ông chỉ cả cười, gạt đi mà tuyên bố: “Đó chỉ là trùng hợp ngẫu nhiên thôi”. Sau khi mua lô đất, ông cho phá dỡ ngôi nhà bỏ trống để lâu ngày và san phẳng lô đất. Để cho an toàn, ông mời một tu sĩ Thần đạo đến để xua đuổi tà ma lẩn quất, chỉ sau đó ông mới xây căn nhà mới hai tầng. Sau đó mọi chuyện diễn ra êm đẹp. Gia đình sống bình yên. Hàng xóm thảy nhất trí rằng nhà Miyawaki có vẻ rất hòa thuận, các cô con gái trông sáng láng và hạnh phúc. Nhưng mười năm sau, số phận gia đình này đã có bước ngoặt bất ngờ, thảm khốc.

            Miyawaki bị mất nhà vào mùa thu năm 1983. Trước đó ông đã đem thế chấp căn nhà, nhưng do các chủ nợ tranh cãi với nhau về thứ tự bồi hoàn nên việc thanh lý cuối cùng đã phải đợi đến khi tòa phân xử vào mùa hè năm ngoái để mở đường cho việc bán lô đất. Ban đầu lô đất được một công ty bất động sản lớn ở Tokyo là ____ Land and Buildings mua với giá thấp hơn nhiều so với giá thị trường hiện nay. Công ty đã tiến hành san phẳng căn nhà của gia đình Miyawaki rồi tìm cách bán như là lô đất trống. Là cơ ngơi số một ở khu Setagaya, lô đất được rất nhiều người quan tâm, nhưng mọi cuộc đàm phán đều tan vỡ khi người mua nghe nói đến chuyện xúi quẩy liên quan đến lô đất. Theo lời ông M phụ trách bộ phận bán hàng của ____ Land and Buildings:

            “Vâng, dĩ nhiên chúng tôi có nghe những chuyện không hay liên quan đến lô đất này, nhưng nói gì thì nói đây vẫn là một địa điểm tuyệt vời, trong khi dạo này ai cũng ra sức tìm cho bằng được những cơ ngơi hạng nhất, thành thử chúng tôi cho rằng nếu định giá đủ thấp thì vẫn có người mua. Chúng tôi vẫn đang lạc quan. Từ khi chúng tôi đưa căn nhà ra rao bán trên thị trường nó vẫn chưa nhúc nhích. Thiên hạ không quan tâm đến giá cả - hễ nghe nói đến mấy câu chuyện kia là họ rút lui ngay. Rồi lại còn chẳng đúng lúc chút nào nữa! Gia đình Miyawaki tội nghiệp tự vẫn hồi tháng Giêng, thế là báo chỉ thảy đều nhắc tới khu đất. Nói thật, chúng tôi chẳng biết làm gì với nó nữa”.

            Cuối cùng lô đất cũng bán được hồi tháng Tư năm nay. “Xin đừng hỏi tôi người mua là ai hay mua giá bao nhiêu”, ông M nói, nhưng theo nguồn tin không chính thức từ công ty, ____ Land and Buildings đã phải bán lô đất với giá thấp hơn nhiều so với giá rao ban đầu. Thà chịu lỗ một khoản chấp nhận được còn hơn cứ tiếp tục trả lãi ngân hàng cho một cơ ngơi chẳng bao giờ bán được. “Dĩ nhiên những người mua biết rõ họ đang làm gì”, ông M nói. “Chúng tôi không có thói quen lừa khách hàng. Chúng tôi đã giải thích trước mọi chuyện. Dù đã biết toàn bộ lịch sử lô đất nhưng họ vẫn mua”.

            Điều đó dẫn chúng tôi đến câu hỏi ai là người mua một mảnh đất xúi quẩy như vậy. Cuộc điều tra hóa ra khó khăn hơn chúng tôi tưởng nhiều. Theo sổ đăng bạ quận, bên mua là một công ty có văn phòng ở quận Minato tên gọi là Akasaka Research, tự nhận là chuyên “nghiên cứu và tư vấn về kinh tế”, mục đích của họ khi mua lô đất được ghi là “để xây nhà ở cho nhân viên”. Trên thực tế “nhà ở cho nhân viên” đã được xây vào mùa xuân này, nhưng bản thân công ty là một “công ty trên giấy” điển hình. Chúng tôi đã đến thăm địa chỉ Akasaka 2-chome ghi trên hồ sơ nhưng chỉ thấy một tấm biển nhỏ đề “Akasaka Research” trên cửa một văn phòng trong một tòa nhà nhỏ chuyên cho thuê văn phòng, và khi chúng tôi bấm chuông thì không ai trả lời.

            -----------------------------------

            Kín cổng cao tường

            “Nhà ở trước kia của nhà Miyawaki” nay được bao quanh bằng một bức tường cao hơn bất cứ bức tường nào của các nhà lân cận. Nó có một hàng rào sắt rất to, chắc chắn, đen sì được xây để làm nản lòng bất cứ ai muốn nhìn trộm [xem ảnh], trên một trụ cổng có gắn máy quay video. Chúng tôi đã thử bấm chuông nhưng không ai trả lời. Hàng xóm có nhìn thấy một chiếc Mercedes 500SEL có cửa sổ màu sẫm ra vào mỗi ngày vài lần, ngoài ra không có dấu hiệu nào khác cho thấy có người vào kẻ ra, cũng không nghe thấy một âm thanh nào phát ra từ trong nhà.

            Việc xây dựng đã bắt đầu từ hồi tháng Năm nhưng luôn luôn diễn ra sau hàng rào cao nên hàng xóm không hề biết ngôi nhà trông ra sao. Nó được xây với tốc độ không thể tin được: từ khi khởi công đến lúc hoàn thành chỉ mất hai tháng rưỡi. Một nhà cung cấp thực phẩm trong khu vực mà lúc đó vẫn hay cung cấp bữa trưa cho công trường nói với chúng tôi: “Bản thân tòa nhà luôn luôn giấu kín sau một bức rèm bằng vải, nên tôi không nói chắc được, nhưng nhà không to lắm, chỉ một tầng thôi, như cái hộp bằng bê tông, giản dị lắm. Tôi nhớ khi đó mình đã nghĩ họ đang xây cái gì đó kiểu như lán tránh oanh kích. Nó trông chả giống một căn nhà bình thường mà những người bình thường vẫn sống, nhỏ quá lại không đủ cửa sổ. Nhưng nó cũng chẳng phải nhà làm việc nữa. Những người thiết kế vườn có đến trồng một số cây cối trông thật sự ấn tượng khắp cả lô đất. Cái vườn ắt là ngốn bộn tiền”.

            Chúng tôi đã thử gọi điện đến tất cả các hãng thiết kế sân vườn ở Tokyo, rốt cuộc mới tìm được người đã làm việc trên “cơ ngơi trước kia của nhà Miyawaki”, nhưng chủ nhân không thể nói gì với chúng tôi về bên đã thuê họ làm. Công ty xây dựng đã cung cấp cho họ một bản đồ khu vườn và lệnh viết tay chỉ thị phải bố trí một khu vườn đẹp, chỉn chu. “Giá thầu chúng tôi đưa ra khá cao, nhưng họ chấp nhận mà chẳng hề mặc cả”.

            Hãng thiết kế sân vườn cũng kể với chúng tôi rằng trong khi họ làm việc trong khu vườn, một hãng chuyên đào giếng đã được mời tới để đào một cái giếng sâu.

            “Họ dựng một giàn giáo ở góc vườn để móc bùn lên. Tôi quan sát được công việc đó khá rõ vì lúc đó tôi đang trồng một cây hồng vàng ở gần đó. Họ đang đào một cái giếng cũ đã bị người ta lấp lại. Nó vẫn còn nguyên cái thành giếng bằng bê tông lúc đầu. Hình như họ cũng không phải mất công lắm, vì người ta chỉ mới lấp gần đây thôi. Điều lạ là giếng không có nước. Thật ra cái giếng đó ngay từ đầu đã cạn, giờ người ta chỉ phục hồi nó về tình trạng ban đầu mà thôi, thành thử làm sao có nước được. Tôi không biết, kỳ quặc lắm, họ làm vậy ắt phải có lý do đặc biệt nào đây”.

            Đáng tiếc là chúng tôi không xác minh được công ty nào đã đào cái giếng, nhưng chúng tôi đã xác định được rằng chiếc Mercedes 500SEL là sở hữu của một công ty lớn chuyên cho thuê, có trụ sở tại quận Chiyoda và chiếc xe đã được một công ty ở quận Minato thuê trong thời hạn một năm, bắt đầu từ tháng Bảy. Công ty cho thuê không thể tiết lộ cho chúng tôi danh tính của khách hàng, tuy nhiên, xét sự trùng hợp của các sự kiện thì hầu như chắc chắn đó là Akasaka Research. Chúng tôi có thể chỉ ra rằng mức phí để thuê một chiếc Mercedes 500SEL trong vòng một năm dự kiến vào khoảng ____ Yên. Công ty này thường cho thuê xe kèm cả lái xe, nhưng chúng tôi không thể xác định riêng chiếc Mercedes 500SEL này thì có được thuê kèm lái xe hay không.

            Người dân khu lân cận không mấy nhiệt tình nói chuyện với chúng tôi về “căn nhà có dớp”. Khu vực này vốn không được tiếng là niềm nở hiếu khách, và hầu hết người ta có vẻ như không muốn dây vào. Ông A, dân địa phương nói với chúng tôi:

            “Tôi thường căng mắt ra, cố hình dung xem họ là ai khi họ tới đây lần đầu tiên, nhưng tôi tin chắc họ không phải là bọn xã hội đen hay một tổ chức chính trị. Ít người ra vào quá nên khó là hai thứ đó được. Tôi không hiểu lắm. Đúng là họ hơi quá kín cổng cao tường thật, nhưng tôi chẳng có lí do gì để phàn nàn cả, mà chắc hàng xóm khác họ cũng chẳng bận tâm gì giống như tôi thôi. Thế còn tốt chán thay vì cứ để cái nhà ấy bỏ hoang với bao nhiêu là lời đồn đại quái gở.”

            Dẫu vậy chúng tôi vẫn muốn biết ai là chủ nhân mới và cái “Ông X” này dùng lô đất này vào mục đích gì. Bí ẩn càng lúc càng bí ẩn.

8

            Dưới giếng

            *

            Tôi trèo xuống chiếc thang bằng thép nẹp vào thành giếng, và trong bóng tối dưới đáy, tôi mò mẫm tìm chiếc gậy mà tôi vẫn luôn dựa vào thành giếng, cây gậy mà tôi đã vô tình đem luôn về nhà từ chỗ căn nhà nơi tôi đã bám theo gã đàn ông mang thùng đàn. Chạm đến chiếc gậy cũ kỹ sứt sẹo trong bóng tối dưới đáy giếng, tôi cảm thấy bình tâm kỳ lạ. Điều đó cũng giúp tôi tập trung.

            Khi tìm thấy cây gậy, tôi nắm chặt tay cầm, như một cầu thủ bóng chày bước vào ô đập bóng, khẳng định với chính mình rằng đây là cây gậy của tôi. Tôi bắt đầu từ đó để kiểm tra xem có đúng là không có gì thay đổi trong bóng tối dưới này, nơi không thể nhìn thấy bất cứ cái gì. Tôi căng tai nghe xem có gì mới không, tôi hít một hơi đầy phổi, tôi lấy gót giày cào cào mặt đất, tôi gõ gõ đầu gậy để kiểm tra độ cứng của vách giếng. Đó chỉ là những nghi thức tự đặt ra để giúp tôi bình tĩnh lại. Đáy giếng chả khác gì đáy biển. Mọi thứ dưới đây quá đỗi tĩnh lặng, giữ nguyên hình trạng ban đầu, như thể chịu một sức ép kinh khủng: ngày này qua ngày khác vẫn chẳng mảy may biến hóa.

            Một lát cắt ánh sáng trôi trên đầu tôi, ấy là mẩu trời chiều. Nhìn lên, tôi nghĩ tới cái thế giới vào buổi chiều tháng Mười, nơi “người ta” đang sống cuộc sống của “người ta”. Dưới ánh sáng mùa thu nhợt nhạt kia, hẳn họ đang đi dọc theo phố xá, mua sắm vật này vật nọ, làm bữa tối, lên tàu điện về nhà. Và họ nghĩ – đó là nếu như họ có nghĩ – rằng tất cả những việc kia thì quá đỗi hiển nhiên chẳng có gì phải nghĩ. Tôi cũng thường như vậy (hoặc không như vậy). Họ là cái khối được định nghĩa một cách mơ hồ là “người ta”, và tôi vốn là một phần tử vô danh trong đó. Họ chấp nhận nhau và được chấp nhận bởi nhau, cùng sống với nhau dưới ánh sáng đó, và dẫu là vĩnh viễn hay chỉ trong khoảnh khắc, hẳn phải có một sự gần gũi nào đó giữa họ chừng nào họ còn được phủ trong cái ánh sáng kia. Tuy nhiên, tôi không còn là một trong số họ. Họ ở trên kia, trên mặt đất; còn tôi ở dưới đây, dưới đáy giếng. Họ có ánh sáng, tôi thì đang dần dần mất nó. Đôi khi tôi cảm thấy mình có thể chẳng bao giờ tìm được lối quay về thế giới đó, rằng tôi sẽ chẳng bao giờ có thể cảm thấy bình an khi được phủ trong ánh sáng, rằng tôi sẽ không bao giờ còn có thể ôm trong tay thân hình mềm mại của con mèo. Nghĩ vậy, tôi nghe một nỗi đau âm ỉ trong ngực, như thể có một cái gì bên trong đó đang bị bóp chết.

            Nhưng tôi càng đào lớp đất mềm nơi đáy giếng bằng gót giày cao su thì quang cảnh trên mặt đất kia càng trở nên xa vời. Cảm giác về thực tại chìm dần từng tí một, và sự gẫn gũi của cái giếng bao trùm lấy tôi. Dưới đây đáy giếng thật ấm áp và im lặng, cái mềm của đất sâu ve vuốt da tôi. Cơn đau bên trong tôi tan đi như những gợn sóng trên mặt nước. Nơi này chấp nhận tôi, và tôi chấp nhận nơi này. Tôi siết chặt hơn cây gậy. Tôi nhắm mắt lại rồi mở mắt nhìn lên trên.

            Tôi kéo dây thừng để đóng nắp lại, nhờ một hế thống ròng rọc mà anh chàng Quế thông minh đã thiết kế cho tôi. Bóng tối giờ đây thật toàn bích. Miệng giếng đã đóng, mọi ánh sáng đã biến mất. Thậm chí những làn gió thoảng cũng không còn nghe thấy nữa. Sự cắt lìa giữa “người ta” với tôi giờ thật trọn vẹn. Thậm chí tôi không mang cả đuốc theo. Việc đó giống như là thú nhận một niềm tin: tôi muốn cho “họ” thấy tôi đang cố gắng chấp nhận bóng tối một cách toàn vẹn nhất đúng như nó có.

            Tôi đặt mông xuống mặt đất, tựa lưng vào thành giếng bằng bê tông, kẹp cây gậy giữa hai đầu gối rồi nhắm mắt lại, lắng nghe tim mình đập. Dĩ nhiên trong bóng tối thế này thì cũng chẳng cần nhắm mắt làm gì, nhưng tôi vẫn nhắm. Việc nhắm mắt có ý nghĩa riêng của nó, dù trong bóng tối hay không. Tôi hít sâu mấy hơi, để cho thân thể mình quen dần với cái không gian sâu, tối, hình trụ này. Cái mùi ở đây vẫn như trước, làn không khí cảm thấy trên da tôi cũng như trước. Giếng đã bị lấp hoàn toàn trong một thời gian, nhưng không khí ở đây vẫn y nguyên như cũ. Với mùi rêu và cái vẻ ẩm thấp, không khí ở đây xem ra chẳng khác gì khi tôi trèo xuống lần đầu tiên. Dưới đây không hề có mùa nào. Thậm chí thời gian cũng không hiện hữu.

            * * *

            Tôi vẫn luôn mang đôi giày tennis cũ và đeo đồng hồ nhựa, cái đồng hồ tôi đã đeo khi chui xuống giếng lần đầu. Cũng như cây gậy, những vật đó giúp tôi bình tâm. Trong bóng tối tôi kiểm tra xem những vật đó có liên hệ bền chắc với thân thể tôi không. Tôi kiểm tra xem có chắc mình không xa rời chính mình không. Tôi nhắm mắt rồi lát sau lại mở mắt ra. Việc đó giúp làm cho cái áp lực bên trong tôi từ từ tiến gần hơn tới cái áp lực của bóng tối quanh tôi. Thời gian trôi qua. Chẳng mấy chốc, cũng như mọi khi, tôi mất khả năng phân biệt giữa hai loại bóng tối. Tôi không còn biết mắt mình đang mở hay nhắm nữa. Vết bầm trên má tôi bắt đầu nghe nong nóng. Tôi biết nó đang nhuốm một màu đỏ tía sống động hơn.

            Trong hai thứ bóng tối càng lúc càng quyện vào nhau đó, tôi tập trung chú ý hết vào vết bầm và nghĩ đến căn phòng. Tôi cố tách ra khỏi chính mình, như tôi đã làm mỗi khi ở bên những người đàn bà. Tôi cố thoát ra khỏi cái nhục thể vụng về vô dụng này của tôi đang ngồi chồm chỗm trong bóng tối. Giờ đây tôi chẳng là gì khác ngoài một căn nhà trống, một cái giếng bị bỏ rơi. Tôi cố đi ra ngoài, cố thay đổi phương tiện, cố nhảy từ một thực tại này sang một thực tại khác, di động với một vận tốc khác, và suối thời gian đó tôi không ngừng siết lấy cây gậy.

            Lúc này một bức tường là vật duy nhất phân cách giữa tôi và căn phòng lạ. Tôi ắt phải có thể đi qua bức tường đó. Tôi ắt phải có thể làm được việc đó bằng chính sức tôi và bằng sức mạnh của cái bóng tối sâu hút ở nơi này.

            Nếu tôi nín thở và tập trung, tôi có thể nhìn thấy những gì có trong phòng. Bản thân tôi không ở đó, nhưng tôi đang quan sát căn phòng đó. Đây là phòng suite khách sạn: Phòng 208. Rèm dày che kín cửa sổ. Phòng tối om. Một bình lớn cắm đầy hoa, không khí nặng trĩu mùi hương đầy ám dụ của hoa. Một cây đèn chân đế lớn đứng cạnh cửa ra vào, nhưng trong bóng đèn trắng nhờ và chết như vầng trăng lúc buổi sáng. Thế nhưng, nhìn thật kỹ thì sau một lát tôi vẫn có thể phân biệt được hình dáng các vật thể nhờ chút ánh sáng cố len vào được trong phòng, kiểu như mắt quen dần với bóng tối trong rạp chiếu bóng. Trên chiếc bàn nhỏ giữa phòng có một chai Cutty Sark gần đầy. Xô đá đựng những viên đá vừa mới chặt (xét theo những đường mép rõ rệt, sắc nét của chúng), và ai đó đã pha một suất scotch có đá trong chiếc ly gần đó. Một chiếc khay bằng thép không gỉ tạo thành một cái ao tĩnh lặng, lạnh lẽo trên mặt bàn. Chẳng cách nào biết được bây giờ là mấy giờ. Có thể đang buổi sáng, có thể buổi chiều mà cũng có thể nửa đêm, mà có thể chốn này không hề có thời gian. Trên chiếc giường ở phía sâu trong phòng có một phụ nữ nằm. Tôi nghe tiếng cô ta chuyển động giữa chăn đệm. Những viên nước đá kêu lanh canh dễ nghe trong ly rượu cô cầm. Những hạt phấn hoa li ti treo trong không khí rung động trước âm thanh đó như những cơ thể sống. Mỗi gợn âm thanh nhỏ xíu lan trong không khí càng khiến chúng sống động bất ngờ hơn. Bóng tối nhá nhem mở ra đón nhận phấn hoa, và những hạt phấn hoa, khi đã nhập vào bóng tối, làm cho bóng tối đó càng thêm đậm đặc. Người đàn bà nâng ly whisky lên môi, để vài giọt chất lỏng trôi qua cuống họng, rồi cố nói với tôi. Căn phòng ngủ tối om. Tôi không thấy gì khác ngoài chuyển động lờ mờ của những cái bóng. Nhưng cô ấy có điều gì đó muốn nói với tôi. Tôi đợi cô nói. Tôi đợi nghe lời của cô.

            Và những lời ấy đây.

            * * *

            Như một con chim tưởng tượng treo trên một bầu trời tưởng tượng, tôi nhìn những căn phòng từ trên cao. Tôi phóng đại quang cảnh, lùi lại, quan sát toàn thể, rồi lại phóng đại nhìn cận cảnh. Khỏi cần phải nói, mỗi chi tiết đều có ý nghĩa lớn lao. Tôi kiểm tra lần lượt từng chi tiết, xem xét hình dáng, màu sắc và chất liệu. Giữa chi tiết này với chi tiết nọ không có mối liên kết, không có hơi ấm. Tất cả những gì tôi làm trong thời điểm đó chỉ là tiến hành kiểm kê một cách cơ giới các chi tiết. Tuy nhiên, việc đó cũng đáng làm. Cũng như khi ta xát hai hòn đá hay hai cây gậy vào nhau, cuối cùng cũng sẽ tạo sức nóng và xẹt lửa, một thực tại được kết nối lại với nhau dần dần sẽ có hình hài. Cũng như một chuỗi lặp đi lặp lại đều đều những âm thanh ngẫu nhiên thoạt nghe thì tưởng như vô nghĩa, nhưng cứ chồng chất lên thì mãi cũng thành một âm tiết rõ rệt.

            Tôi cảm thấy được mối liên kết yếu ớt đó lớn lên trong những chiều sâu thẳm nhất của bóng tối kia. Tuyệt lắm, được lắm. Ở đây thật là yên tĩnh, “họ” vẫn chưa nhận ra sự hiện diện của tôi. Tôi cảm thấy bức tường ngăn cách tôi với chỗ đó đang tan ra, nhão thành một thứ thạch. Tôi nín thở. Ngay bây giờ thôi!

            Nhưng đúng vào khoảnh khắc tôi bước về phía bức tường, một tiếng gõ cửa gay gắt vang lên, như thể người ta biết tôi đang định làm gì. Có ai đó đang gõ ầm ầm lên cửa. Đó chính là tiếng gõ tôi đã nghe lần trước, một tiếng nện dữ dội, dứt khoát, như thể ai đó đang cố đóng đinh xuyên qua tường. Tiếng gõ cũng theo nhịp y như lần trước: hai tiếng gõ, dừng một chút, rồi lại hai tiếng. Người đàn bà thở hổn hển. Những hạt phấn hoa run rẩy, bóng tối tròng trành chao đảo. Cái tiếng động xâm hấn kia đóng sầm cái lối đi mà rốt cuộc đang bắt đầu trở nên có hình hài để tiếp nhận tôi.

            Lần nào cũng y như vậy.

            * * *

            Một lần nữa tôi lại ở trong thân thể chính mình, ngồi dưới đáy giếng, lưng tựa vào tường, hai tay siết chặt gậy bóng chày. Cảm giác về cái thế giới “ở bên này” chầm chậm trở lại đôi tay tôi, kiểu như một hình ảnh dần dần hiện rõ khi ta nhìn gần lại. Tôi cảm thấy hai lòng bàn tay mình nhơm nhớp mồ hôi. Tim tôi đập thình thình trong cổ họng. cái tiếng gõ chát chúa, đâm phập vào thế giới kia vẫn còn nguyên vẹn, sống sít trong tai tôi, và tôi vẫn còn nghe rõ tiếng quả đấm cửa chầm chậm xoay trong bóng tối. Ai đó (hay cái gì đó) ngoài kia đang mở cửa, đang chuẩn bị bước vào, nhưng chính tại khoảnh khắc đó mọi hình ảnh tan biến. Bức tường lại là bức tường cứng tựa bao giờ, và tôi bị ném trở về phía bên này. Trong bóng tối, tôi gõ gõ đầu gậy lên bức tường trước mặt – vẫn là bức tường bê tông cứng ngắt, lạnh lẽo. Tôi đang bị bao quanh bởi một hình trụ bê tông. Lần này mình suýt nữa đã làm được rồi, tôi tự nhủ. Mình đã đến được gần hơn. Tôi tin chắc thế. Đến một lúc nào đó tôi đã sắp sửa vượt qua được rào chắn để vào “trong kia”. Tôi sẽ lọt được vào căn phòng và đứng đó, sẵn sàng, đợi tiếng gõ cửa kia vang lên. Nhưng còn bao lâu nữa điều đó mới xảy ra được? Và tôi còn lại bao nhiêu thời gian nữa?

            Đồng thời tôi lại sợ rằng điều đó sắp xảy ra thật. Bởi nếu vậy tôi sẽ phải đương đầu với những gì ắt phải có ở đó dẫu là cái gì đi nữa.

            Tôi vẫn ngồi co ro trong bóng tối. Tôi phải để cho tim mình lắng lại. Tôi cần phải tách tay mình ra khỏi cây gậy. Trước khi có thể đứng dậy trên nên đáy giếng này, sau đó leo cái thang bằng thép để trở lên mặt đất, tôi phải cần thêm thời gian, và cần thêm sức mạnh.

9

            Cuộc tấn công vườn thú

            (Hay cuộc thảm sát vụng về)

            *

            Akasaka Nhục đậu khấu kể chuyện những con hổ, báo, sói và gấu bị một toán lính bắn chết một buổi trưa oi bức kinh người vào tháng Tám năm 1945. Bà kể lại một cách lớp lang và rõ ràng chính xác như một bộ phim tài liệu chiếu trên màn hình trắng. Không có bất cứ chi tiết nào mơ hồ trong chuyện của bà, dù trên thực tế bản thân bà không chứng kiến sự kiện. Khi chuyện đó xảy ra, bà đang đứng trên boong một con tàu vận tải chở những người Nhật định cư tại Mãn Châu tị nạn về Nhật Bản. Những gì bà thực sự chứng kiến chỉ là một chiếc tàu ngầm Mỹ nổi lên mặt biển.

            Cũng như mọi người, bà cùng những đứa trẻ khác đã chui ra khỏi hầm tàu nóng hầm hập như cái nồi hơi để lên boong, tựa vào lan can mà tận hưởng làn gió nhẹ thổi qua mặt biển bình yên phẳng lặng, thì đột nhiên chiếc tàu ngầm nổi lên mặt biển như thể hiện ra từ một giấc mơ. Thoạt tiên là một chiếc ăng-ten, trụ ra đa và tiềm vọng kính trồi lên. Kế đó đài chỉ huy xuất hiện, rạch ngang mặt biển tạo thành một vệt dài. Cuối cùng là toàn bộ thân tàu bằng thép lừng lững hiện ra, phơi thân hình trần trụi tao nhã dưới ánh nắng hè. Mặc dù hình dáng của vật trước mắt bà không thể là gì khác ngoài một chiếc tàu ngầm, song nó trông như một thứ dấu hiệu mang tính biểu tượng, hay là một ẩn dụ không hiểu nổi.

            Chiếc tàu ngầm chạy song song với con tàu trong chốc lát như đang rình mồi. Chẳng mấy chốc một cánh cửa nắp mở ra, một người trong thủy thủ đoàn leo lên boong, sau đó một người khác, rồi một người nữa, động tác chậm chạp gần như uể oải. Từ boong đài chỉ huy, các sĩ quan dùng những chiếc ống nhòm to dùng để quan sát từng chi tiết của chiếc tàu vận tải, những thấu kính ống nhòm chốc chốc lại lóe lên dưới ánh nắng. Chiếc tàu lèn chặt những dân thường đang trở về Nhật Bản, cảng đến là Sasebo. Phần lớn là phụ nữ và trẻ em, gia quyến của các sĩ quan Nhật trong chính phủ bù nhìn Mãn Châu quốc và các nhân viên cao cấp thuộc công ty đường sắt Nam Mãn Châu của người Nhật, đang quay về tổ quốc để tránh những loạn lạc ắt sẽ theo sau sự thất trận nhãn tiền của người Nhật trong chiến tranh. Những con người đó – ít nhất là cho tới lúc này – thà bị tàu ngầm Mỹ tấn công trên biển còn hơn chịu số phận khủng khiếp chờ đợi họ ở Trung Hoa đại lục.

            * * *

            Các sĩ quan tàu ngầm đang kiểm tra xem liệu chiếc tàu vận tải có vũ trang không và có tàu hộ tống không. Họ chẳng có gì phải sợ. Người Mỹ bây giờ đang làm chủ cả bầu trời nữa. Okinawa đã thất thủ, còn trên đất Nhật máy bay chiến đấu giỏi lắm cũng chỉ sót lại dăm ba chiếc. Chẳng có gì phải sợ, thời gian đang ở về phía họ. Một viên sĩ quan hô khẩu lệnh, thế là ba viên thủy thủ liền quay bộ truyền động để hướng khẩu đại bác trên boong tàu về phía chiếc tàu vận tải. Hai thủy thủ khác mở cánh cửa nắp ở đuôi tàu, lôi ra những quả đạn nặng trịch để nạp vào đại bác. Lại một tốp thủy thủ nữa đang nạp đạn vào một khẩu súng máy gắn vào một chỗ nhô cao trên boong tàu, gần đài chỉ huy. Tất cả các thủy thủ đang chuẩn bị chiến đấu đều đội mũ sắt, mặc dù vài người cởi trần từ thắt lưng trở lên và gần một nửa chỉ mặc quần soóc. Nếu nhìn kỹ, Nhục đậu khấu có thể nhìn thấy những hình xăm loang loáng trên tay họ. Nếu nhìn kỹ, cô bé có thể thấy được nhiều thứ.

            Toàn bộ hỏa lực của chiếc tàu ngầm chỉ là một khẩu đại bác trên boong và một khẩu súng máy, nhưng thế đã là quá đủ để đánh chìm chiếc tàu hàng xập xệ hoen gỉ được cải tạo thành chiếc tàu vận tải này. Chiếc tàu ngầm chỉ mang một lượng thủy lôi hạn chế, số đó được để dành đến khi chạm trán những đoàn hộ tống có vũ trang, giả dụ như còn có tàu hộ tống có vũ trang nào ở Nhật. Ấy là luật bất di bất dịch.

            Nhục đậu khấu bíu tay vào lan can boong tàu, quan sát cái nòng súng đen ngòm kia hướng về phía cô. Chỉ mới giây phút trước còn chìm trong nước, thế mà bây giờ nó đã khô ran dưới cái nắng mùa hè. Cô chưa bao giờ nhìn thấy khẩu súng nào to đến thế. Hồi ở Tân Kinh cô vẫn thường thấy những khẩu súng trường của quân đội Nhật, nhưng mấy khẩu súng ấy không thể nào sánh nổi với khẩu súng khổng lồ trên boong chiếc tàu ngầm kia. Chiếc tàu ngầm chiếu đèn hiệu vào chiếc tàu hàng: Đứng lại. Sắp sửa tấn công. Lập tức đưa hành khách xuống xuồng cứu nạn. (Dĩ nhiên, hồi đó Nhục đậu khấu không thể hiểu được ý nghĩa các tín hiệu bằng đèn đó, nhưng khi hồi tưởng lại bà có thể hiểu hết sức rõ ràng). Trên boong chiếc tàu vận tải – vốn chỉ được cải tiến một cách quấy quá để chuyển từ một chiếc tàu hàng cũ ngay trong lúc loạn lạc chiến tranh – không hề có đủ xuồng cứu nạn. Trên thực tế, chỉ có vẻn vẹn hai chiếc xuồng nhỏ cho hơn năm trăm con người gồm cả hành khách và thủy thủ. Hầu như chẳng có chiếc áo phao hay phao cứu nạn nào ở trên tàu.

            Nắm chặt lan can tàu, nín thở, Nhục đậu khấu nhìn trân trối như bị thôi miên vào chiếc tàu ngầm hình dáng thuôn đẹp kia. Nó sáng choang như vừa mới đúc xong, không có lấy một tý gỉ sét. Cô nhìn thấy những con số vạch bằng sơn trắng trên đài chỉ huy. Cô nhìn thấy ăng-ten ra-đa quay phía trên đài chỉ huy. Cô nhìn thấy viên sĩ quan có mái tóc màu cát đeo kính râm. Chiếc tàu ngầm này đã từ đáy biển trồi lên để giết hết chúng ta, cô nghĩ, nhưng chuyện đó chẳng có gì lạ, lúc nào nó cũng có thể xảy ra. Nó chẳng liên quan gì đến chiến tranh hết, nó có thể xảy ra với bất cứ người nào ở bất cứ đâu. Ai cũng nghĩ rằng chuyện đó xảy ra là vì chiến tranh. Nhưng đâu phải vậy. Chiến tranh chỉ là một trong những gì có thể xảy ra thôi.

            Đối mặt chiếc tàu ngầm và khẩu đại bác to đùng của nó. Nhục đậu khấu không thấy sợ. Mẹ cô đang hét to câu gì đó với cô, song cô chẳng hiểu gì. Đoạn cô cảm thấy ai đó túm cổ tay cô giật mạnh. Nhưng tay cô vẫn siết chặt lan can tàu. Những giọng kêu la gầm rú quanh cô bắt đầu xa dần, như thể ai đó đang vặn nhỏ âm lượng đài phát thanh. Sao mình buồn ngủ thế, cô nghĩ. Sao mình buồn ngủ quá vậy? Cô nhắm mắt lại, thế là ý thức cô lập tức chuội đi, bỏ boong tàu lại tít đằng sau.

            * * *

            Nhục đậu khấu đang nhìn thấy những người lính Nhật tiến vào vườn thú để bắn chết bất cứ con vật nào có khả năng tấn công người. Viên sĩ quan hạ lệnh, và đạn từ những khẩu súng trường Model 38 đâm toạc lớp da mềm của một con hổ, xé tan lòng ruột con vật. Trời mùa hè xanh ngắt, từ cây cối xung quanh, tiếng ve sầu ra rả rơi xuống như một trận mưa rào bất chợt.

            Những người lính chẳng nói năng gì. Khuôn mặt cháy nắng của họ không còn một chút máu, trông họ như hình vẽ trên những chiếc bình cổ. Chỉ ít ngày nữa thôi – cùng lắm là một tuần nữa – bộ phận chủ lực của Tập đoàn Viễn Đông quân đội Xô-Viết sẽ đến Tân Kinh này. Chẳng cách nào ngăn nổi bước tiến của họ. Ngay từ đầu cuộc chiến, những đội quân tinh nhuệ và khí tài thiết bị từng có lúc thừa mứa của đạo quân Quan Đông đã được đổ hết vào mặt trận phía Nam ngày càng mở rộng, đến giờ thì phần lớn cả quân lính lẫn trang bị vũ khí đều đã chìm xuống đáy biển hay đang mục rữa trong rừng sâu. Xe tăng không còn nữa. Đại bác chống tăng không còn nữa. Xe chở quân lính gần như hỏng hết chẳng còn gì, phụ tùng thay thế lại không có. Tổng động viên thì vẫn tập hợp được khá đông quân, nhưng thậm chí cả súng trường cổ lỗ sĩ cũng không đủ cho mỗi người một khẩu hoặc không đủ đạn để nạp cho tất cả các súng. Thế là đạo quân Quan Đông, “bức tường thành phía Đông” nay chỉ còn là một con hổ giấy. Các đơn vị cơ giới Xô-Viết từng đè bẹp quân đội Đức nay đang hoàn tất việc chuyển quân bằng xe lửa đến mặt trận Viễn Đông, quân trang thừa thãi, sĩ khí ngất trời. Mãn Châu quốc sụp đổ là điều không tránh khỏi.

            Ai cũng biết đó là sự thật, mà biết hơn ai hết là Bộ Tham Mưu đạo quân Quan Đông. Vì thế họ triệt thoái bộ phận chủ lực về hậu phương, trên thực tế là bỏ mặc các đồn nhỏ dọc biên giới và những người thường dân người Nhật làm nghề nông. Những người nông dân không vũ khí này bị quân đội đối phương giết sạch bởi họ tiến quân quá nhanh nên không có thì giờ bắt tù binh. Nhiều phụ nữ chọn – hoặc buộc phải chọn – con đường tự sát còn hơn bị hãm hiếp. Các đồn biên giới tự giam mình vào các boong-ke bằng bê tông được mệnh danh là “pháo đài vĩnh viễn” và kháng cự kịch liệt, nhưng vì không được yểm trợ từ hậu phương, thảy họ đều bị hỏa lực áp đảo của quân đội Xô-Viết tiêu diệt. Các vị chóp bu trong bộ tham mưu và các sĩ quan cao cấp khác đã thu xếp để chính mình được “thuyên chuyển” đến bộ tham mưu mới ở Thông Hoa(5) gần biên giới Triều Tiên, còn Hoàng đế bù nhìn Henry Phổ Nghi và gia đình đã vứt hết gia sản mà tháo chạy khỏi thủ đô trên một chiếc chuyên xa. Hầu hết binh lính người Trung Hoa trong đạo quân Quan Đông được giao nhiệm vụ bảo vệ thủ đô đều đào ngũ ngay khi hay tin quân đội Xô-Viết đang xâm lấn, hoặc nếu không thì họ nổi loạn và bắn chết các sĩ quan chỉ huy người Nhật. Họ không có ý định hi sinh tính mạng mình cho nước Nhật trong cuộc chiến chống lại quân đội Xô-Viết có ưu thế vượt trội.

            Do hậu quả những diễn tiến có tương quan đó, thủ đô của Mãn Châu quốc, cái “thành phố mới đặc biệt Tân Kinh” mà nước Nhật Bản hiện đại đã dựng nên trên một vùng đất hoang vu, đã đặt cược uy tín của mình vào đó, nay bị bỏ lửng trong một tình thế chân không chính trị kỳ lạ. Để tránh hỗn loạn và đổ máu không cần thiết, các quan chức cao cấp người Trung Hoa thuộc Mãn Châu quốc cho rằng cần tuyên bố Tân Kinh là thành phố phi quân sự và đầu hàng không kháng cự, nhưng đạo quân Quan Đông cự tuyệt đề nghị đó.

            Những người lính được phân công đến vườn thú đã phó mặc mình cho số phận. Họ cho rằng chỉ dăm hôm nữa thôi họ sẽ chết khi giao chiến với quân đội Xô Viết (mặc dù, trên thực tế, sau khị bị giải giáp, họ sẽ bị đưa đi lao động ở các mỏ than ở Siberia, và ba người trong số họ sẽ chết tại đó). Họ chỉ còn biết cầu trời cho cái chết của mình sẽ không quá đau đớn. Chẳng ai muốn bị nghiền nát nhừ dưới xích xe tăng, bị nướng chín dưới chiến hào vì súng phóng hỏa hay quằn quại chết từ từ vì một viên đạn trong dạ dày. Thà bị bắn vào đầu hay ngay tim còn hơn. Nhưng trước hết họ phải giết lũ thú kia.

            * * *

            Giá như có thể thì họ đã giết lũ thú bằng thuốc độc để tiết kiệm dăm viên đạn ít ỏi còn lại. Viên trung úy trẻ tuổi chỉ huy chiến dịch này đã được sĩ quan cấp trên chỉ thị như vậy, lại nghe lệnh rằng vườn thú đã được cung cấp đủ thuốc độc để làm việc này. Viên trung úy dẫn tám binh sĩ súng ống tận răng đến vườn thú chỉ cách sở chỉ huy hai mươi phút đi bộ. Cổng vườn thú đã đóng im ỉm từ khi người Liên Xô tiến công, có hai binh sĩ đứng canh, súng cắm lưỡi lê. Viên trung úy đưa cho lính canh xem mệnh lệnh rồi đưa quân mình vào.

            Giám đốc vườn thú xác nhận rằng quả thật ông đã được chỉ thị “loại bỏ” những con thú hung dữ trong trường hợp khẩn cấp và làm việc đó bằng thuốc độc, nhưng ông bảo lô hàng thuốc độc mãi đến giờ vẫn chưa nhận được. Nghe vậy, viên trung úy rất bối rối. Y vốn là nhân viên kế toán, được bổ nhận chân phát lương trong Bộ tham mưu, xưa nay chưa lần nào phải chỉ huy một nhóm người, thế mà bây giờ bị lôi ra khỏi bàn giấy để làm cái nhiệm vụ khẩn cấp này. Y phải lục mãi trong ngăn kéo để tìm khẩu súng lục đã nhiều năm không hề đụng tới, thậm chí chẳng biết có còn bắn được hay không nữa.

            - Cái tệ quan liêu thì bao giờ cũng vậy, trung úy à, - giám đốc vườn thú nói, ông ta vốn lớn hơn viên trung úy vài tuổi, nhìn y với ít nhiều thương hại. – Những gì ta cần thì chẳng bao giờ có cả.

            Để hỏi han thêm tình hình, giám đốc vườn thú cho gọi bác sĩ thú y trưởng vào, ông này bảo viên trung úy rằng vườn thú chỉ có một lượng thuốc độc rất nhỏ, không đủ để giết một con ngựa. Viên bác sĩ thú y là một người cao lớn, điển trai trạc gần bốn mươi tuổi, có một vết bầm màu xanh đen bên má phải, kích thước và hình dáng giống như một bàn tay bé sơ sinh. Viên trung úy cho rằng vết bầm kia là bẩm sinh.

            Từ chỗ văn phòng giám đốc vườn thú, viên trung úy gọi điện thoại về Bộ Tham mưu để xin thêm chỉ thị, nhưng bộ Tham mưu đạo quân Quan Đông đang trong tình trạng hoảng loạn cùng cực ngay từ khi quân đội Xô Viết vượt qua biên giới vài ngày trước, hầu hết các sĩ quan cao cấp đều đã biến mất. Vài ba viên sĩ quan còn sót lại đều bận túi bụi, kẻ đang đốt hàng chồng tài liệu quan trọng ngoài sân, người thì dẫn quân ra ven thành phố để đào công sự chống tăng. Viên đại tá đã ra lệnh cho trung úy chẳng hiểu biến đi đâu mất. Thành thử viên trung úy chịu không biết đào đâu ra chỗ thuốc độc họ cần. Ai ở đạo quân Quan Đông chịu trách nhiệm về vụ thuốc độc bây giờ đây? Người ta chuyển cuộc gọi của viên trung úy hết từ văn phòng này đến văn phòng khác, cho tới khi một đại tá quân y cầm máy quát om sòm với viên trung úy: “Đồ ngu như bò! Cả cái nước này toi mẹ tới nơi rồi mà còn đi hỏi tôi về cái vườn thú chó dái nào đó là sao? Thằng đếch nào nó quan tâm chứ hả?”.

            Mà đúng, ai người ta quan tâm, viên trung úy nghĩ. Mình thì chắc chắn là không rồi. Với vẻ hết hy vọng, y gác máy và quyết định thôi không cố đòi thuốc độc nữa. Giờ thì y có hai lựa chọn. Y có thể quên vụ giết thú đi, chẳng giết con nào cả, cứ thế dẫn lính về, hoặc họ có thể dùng đạn để thi hành nhiệm vụ. Đằng nào thì cũng vi phạm mệnh lệnh được giao, nhưng rốt cuộc y quyết định dùng súng để bắn. Nếu làm cách đó, sau này y có thể sẽ bị giáng một cấp vì tội phí phạm đạn dược, song ít nhất thì mục đích “loại bỏ” những con vật nguy hiểm cũng được thực hiện. Còn nếu chọn giải pháp không giết lũ thú, có thể y sẽ phải ra tòa án binh vì tội bất tuân thượng lệnh. Dĩ nhiên, vào lúc chiến tranh sắp kết thúc thế này thì chưa chắc có tòa án binh nữa không, nhưng nói gì thì nói, lệnh là lệnh. Chừng nào quân đội vẫn còn tồn tại thì quân lệnh vẫn phải được thi hành.

            Giá như có thể, mình cũng chẳng muốn giết con nào cả, viên trung úy tự nhủ, hoàn toàn thành thực. Song vườn thú đang cạn dần thức ăn cho bọn thú, nên hầu hết bọn chúng (nhất là những con to xác) đang bị đói trầm trọng. Mọi chuyện chỉ có ngày càng tệ hơn thôi – hay ít nhất là sẽ không thể khá lên được. Bắn quách chúng đi có khi là cách nhẹ nhàng nhất cho bản thân bọn thú, một cái chết nhanh chóng, sạch sẽ. Mà nữa, nếu lũ thú đói kia xổng chuồng lao vào thành phố giữa lúc giao tranh ác liệt hoặc đang nửa chừng cuộc không kích thì thảm họa là điều không tránh khỏi.

            Giám đốc vườn thú đưa cho viên trung uý bản danh sách cần “loại bỏ khẩn cấp” mà ông đã lập ra theo chỉ thị, cùng với một tấm bản đồ vườn thú. Viên bác sĩ thú y có vết bầm trên má cùng hai công nhân người Trung Hoa được giao nhiệm vụ đi cùng đội hành quyết. Viên trung uý liếc bản danh sách và nhẹ cả người khi thấy nó ngắn hơn y tưởng. Tuy nhiên, trong số các con vật bị ghi là cần loại bỏ có hai con voi Ấn Độ. Voi à? Viên trung uý cau mày nghĩ. Làm thế quái nào bọn tôi giết voi được kia chứ?

            Cứ theo tấm bản đồ thì con vật đầu tiên cần loại bỏ là hổ. Thôi thì dù sao voi cũng được để sau cùng. Tấm biển trên chuồng hổ cho biết cặp hổ này đã bị bắt ở Mãn Châu, trong vùng núi Đại Khingan. Viên trung uý phân công bốn người bắn một con hổ, và bảo đám lính nhắm vào tim, tuy nhiên tim nằm ở đâu trên mình hổ thì chính y cũng chẳng biết. Nhưng không sao, ít nhất thì trong bốn viên ắt có một viên trúng đích. Khi tám người cùng gạt đòn bẩy những khẩu Model 38s và nặp băng đạn vào ổ đạn, tiếng lách cách khô khốc đầy điềm gở làm thay đổi hẳn toàn bộ bầu không khí nơi này. Nghe tiếng động, hai con hổ đứng dậy. Để phòng xa viên trung uý rút khẩu súng lục tự động của y ra, tháo chốt an toàn. Để tự trấn an, y hắng giọng. Có gì đâu, y cố tự nhủ. Ai mà chẳng có lúc phải làm những việc thế này.

            Đám lính quỳ xuống, nhắm cẩn thận rồi theo lệnh viên trung uý bóp cò. Lực giật lại làm vai họ rung bần bật, và trong một khoảnh khắc tâm trí họ trở nên trống hoác, như là bị thổi phăng mất. Tiếng gầm của ngần ấy phát bắn cùng một lúc vang vọng qua vườn thú không người, dội từ nhà này sang nhà khác, tường này sang tường khác, cắt qua những vạt rừng, rạch qua những mặt nước, đâm thấu vào tim bất cứ ai nghe thấy nó, như tiếng sấm ở xa. Lũ thú nín thở. Ngay cả ve sầu cũng thôi kêu. Mãi lâu sau khi tiếng vọng của những phát súng đã lắng đi ở đằng xa, vẫn không có một âm thanh nào. Như thể vừa bị một người khổng lồ vô hình quật cho một phát chí tử bằng một cây gậy khổng lồ, hai con hổ dựng đứng lên một khoảnh khắc trong không khí, sau đó đổ ụp xuống sàn chuồng, quằn quại hấp hối, mồm hộc máu. Đám lính đã không thể hạ thủ được lũ hổ chỉ bằng một phát súng. Bừng tỉnh khỏi cơn mê, họ lại kéo đòn bẩy, vứt vỏ đạn vừa bắn đi, rồi lại ngắm đích.

            * * *

            Viên trung uý ra lệnh cho một người trong đám lính vào chuồng kiểm tra xem có chắc là lũ hổ đã chết chưa. Trông thì có vẻ chết thật rồi mắt nhắm, răng nhe ra, không nhúc nhích. Nhưng điều quan trọng là phải kiểm tra cho chắc. Viên bác sĩ thú ý mở khoá chuồng và tay lính trẻ (mới tròn hai mươi tuổi) bước vào, nơm nớp sợ, tay lăm lăm lưỡi lê chìa ra đằng trước. Điệu bộ gã đến là buồn cười. Gã lấy gót giày đá nhẹ vào chân sau một trong hai con hổ. Con vật vẫn bất động. Gã lại đá đúng chỗ đó, lần này mạnh hơn một chút. Con hổ đã chết, không nghi ngờ gì nữa. Con hổ kia (con cái) cũng nằm không cục cựa. Tay lính trẻ cả đời chưa đến vườn thú bao giờ, cũng chưa một lần nào thấy một con hổ thật. Một phần vì vậy mà gã vẫn chưa hoàn toàn tin nổi họ vừa giết chết một con hổ thật, đang sống sờ sờ đó. Gã chỉ cảm thấy gã vừa bị lôi vào một nơi chẳng liên quan gì đến gã. Đứng trong một biển máu đen kịt, gã nhìn trân trân xuống xác hai con hổ, nhìn như bị thôi miên. Khi đã chết, lũ hổ trông to hơn nhiều so với khi còn sống. Sao thế nhỉ? Gã lấy làm lạ tự hỏi.

            Sàn chuồng bằng bê tông nồng nặc mùi khắm lặm của nước tiểu loài mèo lớn trộn lẫn với mùi máu âm ấm. Máu vẫn đang ộc ra từ những lỗ thủng toang hoác trên thân thể lũ hổ, làm thành một cái hồ đen sịt dinh dính quanh chân gã. Đột nhiên, khẩu súng trường trong tay gã nghe nặng trịch, lạnh ngắt. Gã muốn quẳng súng đi, gập người xuống, nôn kỳ hết tất cả những gì có trong dạ dày gã ra sàn chuồng. Giá làm vậy được thì nhẹ người biết bao! Nhưng không thể nôn được – tay chỉ huy sẽ dần gã dập mặt mất. (Dĩ nhiên, người lính này hoàn toàn không biết rằng mười bảy tháng sau gã sẽ chết khi một tay lính gác Liên Xô ở một khu mỏ gần Irkutsk dùng xẻng đập toác sọ gã). Gã lấy lưng cổ tay lau mồ hôi trên trán. Chiếc mũ trận gã đội đè nặng xuống gã. Một con ve sầu, rồi một con nữa lại bắt đầu kêu, như thể mới hồi sinh. Chẳng mấy chốc hoà vào tiếng ve sầu còn có tiếng kêu của một con chim – một tiếng kêu khác hẳn, nghe như tiếng vặn một sợi dây cót: Quick… quick… Năm lên mười hai tuổi tay lính trẻ đã từ một làng vùng núi Hokkaido cùng gia đình vượt biển đến Trung Hoa, cả nhà cùng canh tác một mảnh đất ở làng biên giới Bắc An cho tới năm ngoái thì gã bị động viên vào quân đội. Mặc dù gã biết rõ tất cả các loài chim ở Mãn Châu, nhưng con chim có tiếng kêu đặc biệt này thì gã chưa hề gặp. Có lẽ đó là một loài chim nhập từ một vùng xa, nó đang kêu trong lồng ở một khu vực khác của vườn thú. Thế nhưng tiếng kêu hình như phát ra từ những cành cây cao ở đâu đó gần đây. Gã ngoái đầu nhìn về phía tiếng kêu nhưng chẳng thấy gì. Một cây du sừng sững có tán lá rậm dày hắt cái bóng sắc nét, mát rượi xuống mặt đất bên dưới.

            Gã nhìn về phía viên trung uý như để xin chỉ thị. Viên trung uý gật đầu, lệnh cho gã ra khỏi chuồng, đoạn lại trải bản đồ ra. Với bọn hổ thế là xong. Giờ đến lượt báo. Sau đó có thể là chó sói. Ta còn phải xử lý lũ gấu nữa. Voi thì để thanh toán xong những con khác sẽ tính sau, y nghĩ. Rồi y mới nhận ra trời nóng như thiêu. “Nghỉ chút đi”, y nói với thuộc hạ. “Uống chút nước”. Họ lấy bi đông ra uống. Rồi họ lại quảy súng lên vai, đứng thành đội hình, đi về phía chuồng báo. Trên một cây cao, con chim lạ có tiếng kêu khẩn thiết vẫn tiếp tục vặn dây cót. Ngực và lưng áo lính ngắn tay của đám đàn ông đen nhẹp mồ hôi. Đội quân súng ống tận răng này diễu đến đâu, tiếng lách cách của đủ thứ vận dụng kim loại làm bật lên đến đó những tiếng vang rỗng hoác khắp trong vườn thú không người. Lũ khỉ bấu chặt lấy chấn song chuồng rít lên những tiếng xé tai, cuống cuồng cảnh báo sự chẳng lành với tất cả những con vật khác trong vườn thú, đến lượt mình những loài khác hoà vào dàn đồng ca theo cách của riêng chúng. Lũ sói nghếch mõm lên trời hú từng tràng dài, bọn chim góp lời bằng cách đập cánh như điên, vài con vật lớn ở đâu đó vật mình rầm rầm vào vách chuồng như buông lời đe doạ. Một cụm mây hình thù như nắm đấm chẳng biết từ đâu xuất hiện che khuất mặt trời trong chốc lát. Vào buổi chiều tháng Tám đó, người, vật, tất cả đều nghĩ đến cái chết. Hôm nay những người này sẽ giết lũ thú, ngày mai quân đội Liên Xô sẽ giết những người này. Có lẽ.

            * * *

            Hai chúng tôi luôn luôn ngồi đối diện nhau ở cùng một bàn đó, trong cùng nhà hàng đó mà trò chuyện. Bà ta là khách quen ở đó, và dĩ nhiên lần nào bà cũng trả tiền. Phần sau của nhà hàng được chia thành những ngăn riêng biệt, ngồi ở bàn này trò chuyện thì bàn bên không nghe thấy được. Mỗi ngăn như vậy được dành riêng cho khách suốt cả buổi tối, nghĩa là chúng tôi có thể ngồi nói chuyện bao nhiêu tuỳ thích, đến khi nhà hàng đóng cửa thì thôi, không bị bất cứ ai quấy rầy kể cả bồi bàn – họ chỉ đến để bưng món ăn lên hoặc dọn đi. Bà ta luôn luôn gọi một chai Burgundy lâu đúng ngần ấy năm và luôn luôn chừa lại nửa chai không uống.

            - Một con chim vặn dây cót? – đang ăn, tôi ngẩng đầu lên hỏi.

            - Một con chim vặn dây cót? – Nhục đậu khấu nói, lặp lại đúng từng từ tôi vừa nói, đoạn cong môi lên một thoáng. – Tôi không hiểu cậu đang nói gì. Cậu đang nói về cái gì thế?

            - Có phải bà vừa nói gì đó về một con chim vặn dây cót không?

            Bà ta chầm chậm lắc đầu.

            - Hừm. Giờ thì tôi không nhớ được. Hình như tôi chẳng nói về chim chóc gì cả.

            Tôi đành chịu thua. Bà luôn luôn kể chuyện mình như vậy. Tôi cũng chưa hỏi bà về vết bầm nữa.

            - Vậy là bà sinh ra ở Mãn Châu? – tôi hỏi.

            Bà lại lắc đầu.

            - Tôi sinh ở Yokohama. Cha mẹ tôi mang tôi sang Mãn Châu năm tôi mới ba tuổi. Cha tôi vốn dạy ở một trường thú y, nhưng khi chính quyền thành phố Tân Kinh muốn tìm một người từ Nhật sang làm bác sĩ thú y trưởng cho vườn thú mới mà họ sắp xây dựng, cha tôi đã tình nguyện đi. Mẹ tôi không muốn rời bỏ cuộc sống vốn đã yên hàn ở Nhật để đến một xứ khỉ ho cò gáy, nhưng cha tôi vẫn khăng khăng. Có lẽ ông muốn tự thử mình ở một nơi lớn lao hơn, rộng mở hơn là Nhật Bản. Hồi ấy tôi còn bé nên đi đâu cũng được, nhưng quả thật sống trong vườn thú tôi rất thích. Sống trong vườn thú thật tuyệt. Thân thể cha tôi lúc nào cũng có mùi thú vật. Tất cả những mùi khác nhau của nhiều loài vật trộn lẫn với nhau thành một mùi, và cái mùi ấy mỗi ngày mỗi khác đi một chút, như khi ta thay đổi các thành phần trong công thức một thứ nước hoa vậy. Mỗi khi cha về nhà, tôi hay trèo lên lòng cha, bắt cha ngồi im để tôi hít ngửi khắp mình cha.

            Nhưng rồi chiến tranh ngày càng chuyển biến theo hướng xấu, tình hình trở nên nguy hiểm, thế nên cha tôi quyết định để mẹ tôi và tôi trở về Nhật trước khi quá muộn. Mẹ con tôi đi cùng với nhiều người khác, đáp xe lửa từ Tân Kinh đến Triều Tiên, ở đó có một chiếc tàu đặc biệt đón chúng tôi. Cha tôi thì ở lại Tân Kinh. Lần cuối cùng khi tôi nhìn thấy cha, ông đang đứng trên sân ga vẫy mẹ con tôi. Tôi thò đầu ra cửa sổ nhìn ông cứ nhỏ dần, nhỏ dần cho đến khi biến mất trong đám đông trên sân ga. Không ai biết chuyện gì xảy ra với ông sau đó. Tôi nghĩ chắc ông đã bị người Liên Xô bắt làm tù binh rồi đưa đến Siberia buộc lao động cưỡng bức và chết ở đó, như nhiều người khác. Hẳn là ông đã vùi xác nơi mảnh đất cô đơn lạnh lẽo nào đó, thậm chí chẳng có lấy một cái gì để đánh dấu nấm mồ ông.

            Đến giờ tôi vẫn nhớ như in vườn thú Tân Kinh, nhớ rõ từng chi tiết. Tôi có thể hồi tưởng tất cả trong tâm trí – từng lối đi, từng con vật. Gia đình tôi sống ở tư dinh của bác sĩ thú y trưởng, trong khuôn viên vườn thú. Công nhân vườn thú ai cũng biết tôi, họ cho tôi muốn đi đâu cũng được, kể cả khi vườn thú đóng cửa vào các ngày lễ.

            Nhục đậu khấu nhắm mắt, hồi tưởng lại quang cảnh đó trong tâm trí. Tôi không nói gì, đợi bà kể tiếp chuyện.

            - Thế nhưng tôi không chắc liệu cái vườn thú như tôi hồi tưởng lại có thật sự như thế không. Nói sao nhỉ? Đôi khi tôi cảm thấy nó sống động quá mức, không biết nói thế cậu có hiểu chăng… Mà khi đã chớm nghĩ như vậy thì càng nghĩ, tôi càng không dám chắc bao nhiêu phần trong cái sống động kia là thực còn bao nhiêu phần là do trí tưởng tượng của tôi tạo ra. Tôi thấy như mình đang lạc vào mê cung vậy. Đã bao giờ cậu gặp chuyện như vậy chưa?

            Tôi thì chưa.

            - Bà có biết vườn thú đó vẫn còn ở Tân Kinh không? – tôi hỏi.

            - Tôi không biết nữa, - Nhục đậu khấu nói, tay chạm vào đuôi hoa tai. – Tôi nghe nói sau chiến tranh nơi đó đã bị đóng cửa, nhưng không biết đến giờ có còn đóng cửa không.

            * * *

            Suốt một thời gian rất dài, Akasaka Nhục đậu khấu là người duy nhất trên đời mà tôi có thể trò chuyện. Tuần nào chúng tôi cũng gặp nhau một, hai lần, ngồi hai bên bàn mà trò chuyện với nhau. Sau khi đã gặp nhau như vậy mấy lần, tôi khám phá ra rằng bà là người có khả năng lắng nghe thật khác thường. Bà rất sáng trí, biết cách dẫn dắt câu chuyện bằng những câu hỏi và trả lời khôn khéo.

            Để tránh làm phật ý bà, tôi luôn luôn sửa soạn hết sức chu đáo mỗi lần đi gặp bà, sao cho quần áo tôi chỉnh tề, sạch sẽ đâu ra đó. Tôi luôn mặc áo sơ-mi sạch bong vừa lấy ở hiệu giặt là về rồi chọn chiếc cà vạt nào hợp nhất. Giày tôi luôn bóng loáng, tịnh không một hạt bụi. Mỗi lần gặp nhau, việc đầu tiên bà ta làm là kiểm tra tôi từ đầu đến chân, bằng cặp mắt của anh đầu bếp chọn rau. Nếu có gì làm bà không hài lòng, bà sẽ đưa tôi đến thẳng một cửa hàng đặng mua cho tôi ngay thứ cần phải có. Nếu có thể, bà ta bắt tôi thay đồ mới ngay lập tức, ngay tại chỗ. Gì chứ về chuyện quần áo thì bà luôn luôn đòi hỏi sự hoàn hảo.

            Kết quả là tủ quần áo của tôi bắt đầu đầy lên. Một cách từ từ nhưng chắc chắn, những bộ com lê mới, áo khoác mới và sơ-mi mới dần dần chiếm lĩnh cái lãnh thổ trước kia vốn thuộc về những bộ váy áo của Kumiko. Chẳng mấy chốc tủ quần áo bắt đầu chật, thế là tôi gấp hết đồ của Kumiko lại cho vào hộp có băng phiến rồi cất vào chỗ khác. Nếu Kumiko có trở về, tôi biết nàng sẽ tự hỏi chẳng biết chuyện quái gì đã xảy ra trong thời gian nàng vắng mặt.

            Tôi phải mất một thời gian dài để giải thích với Nhục đậu khấu về Kumiko – rằng tôi phải cứu nàng và đưa nàng về. Bà ta chống cùi chỏ lên bàn, tựa cằm lên lòng bàn tay mà nhìn tôi một lát.

            - Vậy thì cậu sẽ cứu Kumiko từ đâu về chứ? Cái nơi đó có tên gọi hay gì đó kiểu như vậy không?

            Tôi tìm lời lẽ trong không khí. Nhưng lời lẽ làm gì có trong không khí. Chúng cũng chẳng chôn dưới đất. - Ở đâu đó xa lắm, – tôi nói.

            Nhục đậu khấu mỉm cười.

            - Nghe như chuyện Cây sáo thần vậy. Của Mozart, cậu biết không? Chuyện là người ta phải cứu một nàng công chúa bị giam trong một toà lâu đài ở một nơi rất xa, cứu bằng một cây sáo thần và những cái chuông thần. Tôi thích vở Opera đó lắm. Tôi đã xem không biết bao nhiêu lần. Thậm chí tôi thuộc nằm lòng lời vở hát nữa “Tôi là kẻ bắt chim, ở xứ này từ già đến trẻ ai cũng biết tôi…” Cậu đã xem chưa?

            Tôi lắc đầu. Tôi chưa bao giờ xem vở ấy.

            - Trong vở ấy, chàng hoàng tử và kẻ bắt chim, Pagageno, được ba đứa trẻ cưỡi mây dẫn đến toà lâu đài. Nhưng thực ra đó là cuộc chiến tranh giữa vương quốc của ngày và vương quốc của đêm. Vương quốc của đêm cố gắng bắt lại nàng công chúa từ tay vương quốc của ngày. Đến nửa chừng vở, các nhân vật chính không còn biết đâu là chính đâu là tà, ai bị bắt ai không nữa. Đương nhiên là đến cuối vở hoàng tử tái hợp với công chúa, Pagageno có được Pagagena, còn những kẻ ác bị đày xuống địa ngục, - Nhục đậu khấu miết ngón tay dọc vành cốc. – Nhưng lúc này thì cậu không có kẻ bắt chim cũng chẳng có sáo thần hay gương thần.

            - Nhưng tôi có cái giếng, - tôi đáp.

            * * *

            Mỗi khi tôi nói đã mệt hoặc không thể kể tiếp chuyện của mình do không tìm được những từ ngữ mình cần, Nhục đậu khấu thường cho tôi nghỉ bằng cách kể về chính thời thơ ấu của bà, và những chuyện của bà hoá ra còn dài dòng và rối rắm hơn nhiều so với chuyện của tôi. Mặt khác, không như tôi, bà thường không kể những câu chuyện của mình theo trình tự lớp lang mà thường nhảy từ chủ đề này sang chủ đề khác tuỳ tâm trạng. Bà thường đảo ngược trình tự thời gian mà không hề giải thích, hoặc tự dưng kể tới một nhân vật chính mà từ trước đến giờ chưa hề xuất hiện. Để hiểu được mẩu chuyện bà đang kể liên quan đến quãng nào trong cuộc đời bà thì cần phải diễn dịch thật cẩn thận, nhưng trong vài trường hợp thì có diễn dịch cách mấy cũng bằng thừa. Bà thường kể những sự kiện mà chính mắt bà chứng kiến đồng thời cũng kể những sự kiện mà bà chưa chứng kiến bao giờ.

            * * *

            Họ giết lũ báo. Họ giết lũ sói. Họ giết lũ gấu. Bắn chết lũ gấu là mất nhiều thì giờ nhất. Thậm chí đã ăn đến hàng tá đạn, hai con thú khổng lồ vẫn cứ đập ầm ầm vào chấn song chuồng mà gào rú vào đám người, nhe nanh, sùi bọt mép. Khác với những con thuộc họ mèo vốn dễ dàng chấp nhận số phận hơn (hay ít nhất là có vẻ chấp nhận số phận), lũ gấu hình như không thể nào hiểu nổi cái thực tế rằng chúng đang bị giết. Có lẽ vì vậy mà phải mất nhiều thời gian hơn mức cần thiết đến thế lũ gấu mới chịu chia tay với cái tình trạng tạm thời gọi là cuộc sống kia. Khi rốt cuộc cũng dập tắt được mọi dấu hiệu sự sống ở lũ gấu, đám lính kiệt sức đến nỗi chỉ còn thiếu nước gục xuống ngay tại chỗ. Viên trung uý gài lại chốt an toàn súng rồi lấy mũ lau mồ hôi từ lông mày rỏ xuống. Trong cái im lặng sâu thẳm theo cuộc bắn giết, vài người lính hình như cố che giấu nỗi hổ thẹn của mình bằng cách khạc nhổ ầm ĩ xuống đất. Vỏ đạn vãi quanh chân họ giống như bao nhiêu là đầu mẩu thuốc lá. Tiếng súng nổ đoành đoành vẫn còn inh tai họ. Tay lính trẻ mà mười bảy tháng nữa sẽ bị một tên lính Liên Xô đánh chết trong một mỏ than gần Irkutsk hít sâu vài hơi liên tục, ngoảnh đi không nhìn xác lũ gấu. Gã đấu tranh kịch liệt để chống lại cơn buồn nôn đang trào lên cuống họng.

            Rốt cuộc họ đã không giết lũ voi. Khi đối mặt với voi, họ nhận ra một điều hiển nhiên rằng chúng quá lớn. Bên những con thú đó, súng trường của những người lính trông như những món đồ chơi ngớ ngẩn. Viên trung uý ngẫm nghĩ một chút rồi quyết định để yên lũ voi. Nghe vậy, đám lính thở phào nhẹ nhõm. Nghe thì như lạ - tuy rằng thật ra cũng chẳng lạ lắm – đám lính thảy đều chung một ý nghĩ: giết người trên chiến trường còn dễ hơn nhiều so với giết thú trong chuồng, mặc dù trên chiến trường thì có thể chính mình bị giết.

            Những con thú đó, giờ chỉ còn là những cái xác, được đám công nhân người Trung Hoa lôi ra khỏi chuồng, chất lên xe rồi kéo đến một nhà kho để trống. Ở đó những con thú, đủ hình đủ dạng, to có nhỏ có, nằm la liệt trên sàn. Sau khi đã thực thi chiến dịch từ đầu đến cuối, viên trung uý quay về văn phòng của giám đốc vườn thú bảo ông này ký vào những giấy tờ cần thiết. Sau đó đám lính xếp hàng, đều bước theo đội hình mà đi khỏi, những tiếng lách cách kim khí khua vang giống như khi họ đến. Đám công nhân Trung Hoa dùng vòi nước rửa sạch những đám máu đen kịt trên sàn các chuồng, đoạn dùng bàn chải cạo sạch những mẩu thịt thú dính đây đó trên tường. Khi xong việc, các công nhân hỏi viên bác sĩ thú y có vết bầm trên má phải xem ông ta định xử lý mấy cái xác bằng cách nào. Viên bác sĩ lúng túng không biết trả lời sao. Thường thì khi có thú chết, ông ta gọi một chuyên viên đến để xử lý. Nhưng hiện giờ khi thủ đô đang chuẩn bị bước vào trận huyết chiến, khi ai cũng chỉ nghĩ đến việc cao chạy xa bay khỏi cái đô thành sắp tận số này thì làm sao có thể nhấc điện thoại lên bảo ai đó chạy đến xử lý một cái xác thú chết được. Tuy nhiên đang là giữa hè, mấy cái xác sẽ rất chóng phân huỷ. Ngay lúc này đây những đàn ruồi đen đã bâu lại kín nghịt. Cách hay nhất là đem chôn, nhưng đó là một việc quá lớn thậm chí dù vườn thú có đủ thiết bị hạng nặng, còn với nhân lực hạn chế như lúc này thì không thể nào đào một cái hố đủ lớn đặng chôn hết mấy cái xác.

            Các công nhân Trung Hoa bảo viên bác sĩ thú y: Bác sĩ này, nếu ông cho chúng tôi đem hết mấy cái xác đi thì chúng tôi sẽ thanh lý cho ông. Chúng tôi có nhiều bạn bè giúp, với lại chúng tôi biết rõ phải làm ở đâu. Chúng tôi sẽ mang ra ngoài thành phố và xử lý sạch sẽ, không để lại dấu vết nào. Sẽ êm xuôi hết, ông không phải lo. Nhưng bù lại, chúng tôi muốn lấy lông và thịt. Nhất là thịt gấu, món đó ai cũng thích. Vài bộ phận của gấu và hổ làm thuốc rất tốt, bán được cao giá lắm. Giờ mới nói thì quá muộn rồi, nhưng giá như lính các ông chỉ nhắm vào đầu chúng thì hay hơn bao nhiêu. Được vậy lông sẽ bán được khối tiền. Mấy tay lính này dở quá! Giá như các ông giao cho chúng tôi ngay từ đầu thì chúng tôi đã chẳng làm vụng đến thế. Viên bác sĩ đồng ý đổi chác. Anh ta không có lựa chọn nào khác. Nói gì thì nói, đây là đất nước của họ.

            Chẳng mấy chốc mười người Trung Hoa xuất hiện mang theo mấy chiếc xe kéo. Họ lôi đống xác thú ra khỏi nhà kho, chất lên xe, buộc chặt rồi lấy chiếu rơm đậy lên. Suốt thời gian làm những việc đó họ gần như chẳng nói với nhau một lời. Khuôn mặt họ vô cảm. Khi đã chất đầy các xe, họ kéo đi đâu đó. Những chiếc xe kêu ken két dưới sức nặng của đống xác thú. Cuộc thảm sát - mà theo lời các công nhân là thảm sát vụng về - các con vật trong vườn thú vào một chiều tháng Tám oi bức đã kết thúc như vậy. Chỉ còn lại dăm cái chuồng sạch sẽ - và trống không. - Vẫn còn trong trạng thái kích động, bầy khỉ tiếp tục hét gọi nhau bằng thứ ngôn ngữ không ai hiểu. Những con lửng bồn chồn chạy tới chạy lui trong cái chuồng hẹp. Lũ chim đập cánh một cách tuyệt vọng làm lông bay tung toé. Ve sầu tiếp tục kêu inh ỏi.

            * * *

            Sau khi toán lính đã giết thú xong và quay về Bộ Tham mưu, và sau khi hai công nhân Trung Hoa cuối cùng đã kéo xe chất xác thú đi đâu đó, vườn thú có cái vẻ rỗng hoác như căn nhà bị khuân hết đồ đạc. Viên bác sĩ thú y ngồi trên mép một đài phun nước không có nước, nhìn lên trời, ngắm những đám mây sắc nét đang trôi. Đoạn anh lắng nghe tiếng ve sầu. Con Chim vặn dây cót không kêu nữa, nhưng viên bác sĩ không nhận thấy điều đó. Với lại, anh vốn dĩ chưa bao giờ nghe thấy tiếng con Chim vặn dây cót. Người duy nhất nghe được nó là anh lính trẻ tội nghiệp mà về sau sẽ bị đánh chết trong một mỏ than ở Siberia.

            Viên bác sĩ rút một gói thuốc ẩm mồ hôi trong túi áo ngực ra, cho một điếu lên miệng rồi quẹt diêm. Khi quẹt diêm anh mới nhận ra tay mình đang run, run đến nỗi phải quẹt tới ba que diêm anh mới châm được thuốc. Chẳng phải vì anh đang bị chấn động cảm xúc hay gì gì. Một số thú lớn đã bị “loại bỏ” trong chốc lát ngay trước mắt anh, thế nhưng, vì một lý do không thể giải thích nào đó, anh không hề thấy bị sốc, thấy buồn rầu hay giận dữ. Thật ra anh chẳng cảm thấy gì hết. Anh chỉ thấy hoang mang khủng khiếp.

            Anh ngồi đó một lúc, ngắm khói cuộn lên từ điếu thuốc mình đang hút, cố gắng suy xét lại cảm xúc của mình. Anh ngắm đôi tay đang đặt trên lòng mình, rồi lại nhìn lên những đám mây trên trời. Thế giới trước mắt anh vẫn là cái thế giới như lâu nay. Anh chẳng thấy có gì thay đổi ở đó. Thế nhưng đó ắt phải là một thế giới khác hẳn so với cái thế giới anh đã quen thuộc từ trước đến giờ. Nói gì thì nói, cái thế giới anh đang sống lúc này là một thế giới mà ở đó gấu, hổ, báo và sói vừa mới bị “loại bỏ”. Những con thú đó sáng nay vẫn còn hiện hữu, nhưng lúc này, 4 giờ chiều, chúng không hiện hữu nữa. Chúng đã bị đám lính kia thảm sát, thậm chí xác chúng cũng đã biến mất.

            Hẳn phải có một sự tách biệt lớn lao mang tính quyết định phân chia hai thế giới khác nhau đó. Cái thế giới trước mắt anh vẫn là cái thế giới của xưa nay. Điều khiến viên bác sĩ thú y hoang mang nhất là sự vô cảm ở trong chính mình.

            Anh nhận ra mình đã kiệt sức. Thử nghĩ mà xem, đêm hôm trước hầu như anh không chợp mắt tí nào. Giá như lúc này anh tìm được bóng cây râm mát nào đó, nằm dài ra ngủ dù chỉ trong chốc lát thôi – thôi không nghĩ gì nữa, đắm mình vào bóng tối câm lặng của vô thức – thì tuyệt biết mấy! Anh liếc đồng hồ. Anh còn phải tìm thức ăn cho lũ thú còn sống sót. Anh phải chữa cho con khỉ đầu chó đang bị sốt cao. Có hàng ngàn việc khác anh còn phải làm. Nhưng lúc này hơn bất cứ việc gì khác, anh phải ngủ. Việc gì khác hãy tính sau.

            Viên bác sĩ thú y đi vào khoảnh rừng gần đó, duỗi dài trên một bãi cỏ ở chỗ kín đáo không ai thấy. Lá cỏ mát rượi thật dễ chịu. Mùi cỏ là mùi anh luôn nhớ một cách trìu mến từ khi còn bé. Vài con cào cào Mãn Châu to gộ nhảy tanh tách qua mặt anh, đập cánh nghe rõ mồn một, đầy sinh lực. Anh nằm đó châm thêm điếu thuốc nữa và hài lòng nhận thấy tay mình không còn run đến là khổ như ban nãy. Vừa hít khói sâu vào phổi, anh vừa hình dung ở nơi nào đó những người Trung Hoa đang lột da tất tật những con thú vừa bị giết kia rồi xẻ thịt. Anh vẫn thường thấy người Trung Hoa làm việc đó, về chuyện này thì họ còn khuya mới gọi là vụng về. Chỉ trong phút chốc toàn bộ con vật đã biến thành lông, da, thịt, nột tạng và xương, như thể mấy thành phần đó vốn dĩ tách biệt khỏi nhau và chỉ tình cờ được gá vào nhau trong chốc lát. Chắc hẳn mình chưa kịp thiếp đi thì những tảng thịt đó đã nằm ngoài chợ rồi. Đó là thực tại cho mi đó: nhanh chóng và hiệu quả. Anh ngắt một búi cỏ, nghịch nghịch trong tay một hồi cái mềm mại của cỏ. Đoạn anh dụi thuốc rồi thở một hơi dài, phà hết khói còn trong phổi ra. Khi anh nhắm mắt lại, tiếng cào cào vỗ cánh nghe to hơn nhiều trong bóng tối. Viên bác sĩ thú y có ảo giác như những con cào cào lớn tướng cỡ bằng con ếch đại kia đang nhảy thon thót tứ phía quanh mình.

            Có khi thế giới này là một cánh cửa xoay, viên bác sĩ chợt nghĩ trong khi ý thức anh dần mờ đi. Ta lọt vào ngăn nào của cửa xoay là hoàn toàn tùy ở chỗ chân ta bước vào đâu. Ở ngăn này có hổ, ở ngăn kia không có hổ. Có khi chỉ đơn giản như vậy thôi. Và cũng chẳng có tính liên tục thuận lý nào từ ngăn này sang ngăn nọ. Và chính vì không có tính liên tục thuận lý nào nên lựa chọn ngăn này hay ngăn nọ chẳng có ý nghĩa gì lắm. Có lẽ vì vậy mà anh không cảm nhận được chỗ tách biệt giữa thế giới này với thế giới kia? Nhưng ý nghĩ của anh chỉ đi xa được đến thế. Anh không thể nào nghĩ sâu hơn vậy nữa. Cơn mệt mỏi trong anh nặng trịch và nghẹt thở như một cái chăn sũng nước. Anh không còn nghĩ gì nữa, chỉ nằm đó, hít thở mùi thơm của cỏ, lắng nghe tiếng cào cào vỗ cánh, và cảm thấy qua làn da mình cái lớp màng dày đặc của bóng tối đang trùm phủ lên anh.

            Và cuối cùng tâm trí anh bị hút vào giấc ngủ sâu hút của buổi chiều.

            * * *

            Chiếc tàu vận tải tắt động cơ theo mệnh lệnh, chẳng mấy chốc đã đứng yên trên mặt biển. Chỉ có chưa tới một phần vạn cơ hội là nó có thể chạy nhanh hơn hòng thoát khỏi một chiếc tàu ngầm cơ động, hiện đại như vậy. Khẩu đại bác đặt trên boong và khẩu súng máy của tàu ngầm vẫn hướng thẳng vào chiếc tàu vận tải, thủy thủ đoàn trong tư thế sẵn sàng tấn công. Thế nhưng một cảm giác tĩnh lặng kỳ lạ bao trùm trên cả hai con tàu. Thủy thủ đoàn chiếc tàu ngầm đứng hẳn lên boong, nhìn chiếc tàu vận tải với cái vẻ như có khối thì giờ để giết. Nhiều người thậm chí chẳng buồn đội mũ sắt lên nữa. Buổi chiều hè hôm ấy hầu như không có gió, nên lúc này, khi cả hai tàu đều đã tắt động cơ, âm thanh duy nhất là tiếng sóng vỗ ì oạp lười biếng vào hai thân tàu. Tàu vận tải ra hiệu cho tàu ngầm: “Chúng tôi là tàu vận tải chở dân thường không vũ trang. Trên tàu chúng tôi không có đạn dược, không có binh sĩ. Chúng tôi chỉ có vài chiếc xuồng cứu nạn thôi”. Chiếc tàu ngầm trả lời cộc lốc: “Đó là việc của các người. Có rời tàu hay không thì trong đúng mười phút nữa chúng tôi vẫn sẽ bắn”. Trao đổi thông điệp giữa hai bên đến đó là hết. Thuyền trưởng tàu vận tải quyết định không truyền đạt nội dung trao đổi cho hành khách. Có ích gì? Dăm ba người chắc cũng sẽ gặp may mà sống sót, nhưng hầu hết sẽ bị lôi xuống đáy biển cùng với cái chậu giặt già nua khốn khổ này. Thuyền trưởng muốn uống rượu lần cuối, nhưng chai whisky – chút ít rượu scotch ngon ông còn để dành được – lại cất trong ngăn kéo bàn trong buồng ông, chẳng còn thì giờ đi lấy bây giờ nữa. Ông cởi mũ nhìn lên trời, hy vọng rằng nhờ phép màu nào đó một phi đội máy bay chiến đấu Nhật Bản sẽ bất thần xuất hiện. Nhưng hôm nay không phải là một ngày có phép màu. Thuyền trưởng đã làm tất cả những gì có thể làm. Ông lại nghĩ tới whisky.

            Khi thời gian ân hạn mười phút đã hết, những chuyển động kỳ lạ bắt đầu diễn ra trên boong tàu ngầm. Những viên sĩ quan đứng dàn hàng trên boong đài chỉ huy vội vã trao đổi với nhau, thế rồi một viên sĩ quan trèo xuống boong chính, chạy hùng hục giữa đám thủy thủ mà quát lớn những mệnh lệnh nào đó. Anh ta đi đến đâu là những làn sóng chuyển động lan ra đến đấy giữa đám thủy thủ ở từng vị trí chiến đấu. Một thủy thủ lắc đầu quầy quậy rồi nắm chặt tay đấm thùm thụp lên nòng súng. Một người khác tháo mũ trận nhìn lên trời. Hành vi của đám thủy thủ có thể là biểu hiện của giận dữ, mà cũng có thể là vui mừng, thất vọng hoặc phấn khích. Hành khách trên tàu vận tải chịu không hiểu nổi cái gì đang diễn ra hay chuyện này sẽ dẫn đến đâu. Giống như khán giả đang xem một vở kịch câm mà họ không được biết trước nội dung (nhưng lại hàm chứa một thông điệp rất quan trọng), họ nín thở, dán mắt vào từng cử động của các thủy thủ, những mong nắm bắt được chút ý nghĩa nào chăng. Cuối cùng, làn sóng nhiễu loạn vừa lan ra giữa đám thủy thủ kia cũng lắng xuống, và theo mệnh lệnh từ đài chỉ huy người ta bắt đầu nhanh chóng lấy đạn ra khỏi khẩu đại bác. Các thủy thủ quay bộ truyền động, dời nòng súng khỏi chiếc tàu vận tải cho đến khi nòng súng lại chĩa thẳng lên trời như trước rồi nút cái mõm đen ngòm đáng sợ của họng súng lại. Những quả đạn lại được cho xuống dưới boong tàu, đoạn các thủy thủ chạy về phía các cửa nắp. Ngược với vẻ uể oải lúc đầu, mọi cử động của họ lúc này đều nhanh chóng và hữu hiệu. Không tán gẫu, không một động tác thừa.

            Động cơ tàu ngầm khởi động với một tiếng gầm dứt khoát, và hầu như cùng một lúc còi hiệu hú lên: “Tất cả mọi người xuống dưới boong!”. Chiếc tàu ngầm bắt đầu chuyển động về phía trước, loáng sau đã hụp xuống, làm cuộn lên một đám bọt trắng xóa, như thể nó chỉ đủ kiên nhẫn đợi đến khi thủy thủ đã xuống dưới hết và cài chặt cửa nắp lại. Một lớp màng nước biển nuốt gọn boong tàu dài, mảnh từ đầu đến đuôi, khẩu đại bác chìm xuống dưới mặt nước, đài chỉ huy trượt xuống, cắt ngang qua làn nước xanh thẫm, cuối cùng là cái ăng-ten và tiềm vọng kính cũng biến mất như muốn xóa sạch mọi dấu vết chứng tỏ chúng từng có mặt ở đó. Những gợn sóng lan trên mặt đại dương trong chốc lát nhưng chẳng bao lâu đã lắng đi, chỉ còn lại mặt biển phẳng lặng buổi chiều.

            Ngay cả khi chiếc tàu ngầm đã lặn sâu xuống nước, cũng chớp nhoáng đến lạ lùng như khi xuất hiện, hành khách vẫn đứng nguyên trên boong tàu như hóa đá, nhìn mãi xuống mặt biển. Thậm chí không ai hắng giọng. Viên thuyền trưởng trấn tĩnh lại, ra lệnh cho hoa tiêu, hoa tiêu truyền lệnh cho phòng máy, cuối cùng, sau một tràng rú rít dài, động cơ cổ lỗ sĩ bắt đầu khởi động như con chó đang ngủ bị chủ đá cho một phát.

            Thủy thủ đoàn trên tàu vận tải nín thở, đợi bị tấn công bằng thủy lôi. Có khi người Mỹ họ chỉ thay đổi phương sách thôi, họ quyết định rằng đánh đắm tàu bằng thủy lôi thì nhanh và dễ hơn nhiều so với nã đạn bằng đại bác, tốn thì giờ. Tàu chạy theo hình chữ chi, thuyền trưởng cùng hoa tiêu cầm ống nhòm căng mắt nhìn khắp mặt biển, tìm cái vệt sóng trắng chết người của thủy lôi. Nhưng chẳng có thủy lôi nào. Hai mươi phút sau khi tàu ngầm đã biến mất vào lòng biển, mọi người rốt cuộc mới bắt đầu thở phào nhẹ nhõm thấy mình đã thoát khỏi lời nguyền chết chóc vừa mới treo trên đầu. Đầu tiên họ thấy thật khó tin, nhưng dần dà họ thấy đó là sự thật: họ đã sống sót sau khi cận kề cái chết. Ngay thuyền trưởng cũng không hiểu tại sao người Mỹ lại thôi không tấn công. Điều gì khiến họ đổi ý vậy? (Chỉ sau này người ta mới rõ rằng, chỉ ít giây trước khi cuộc tấn công bắt đầu, tàu ngầm đã nhận được chỉ thị từ ban tham mưu rằng nên tránh đụng độ với đối phương trừ phi bị tấn công trước. Chính phủ Nhật đã gửi điện cho lực lượng Đồng minh rằng họ sẵn sàng chấp nhận các điều kiện của Tuyên bố Potsdam và đầu hàng vô điều kiện). Giờ mới thoát được nỗi căng thẳng không thể nào chịu nổi, một số hành khách đứng trên boong quỵ xuống ngay tại chỗ mà rên rĩ, song hầu hết không khóc nổi cũng không cười nổi. Suốt mấy giờ - ở một số người thì suốt mấy ngày – họ cứ ở trong một trạng thái hoàn toàn lơ đãng, cái mũi nhọn của cơn ác mộng dài, khủng khiếp cứ thọc mãi không thương tiếc vào phổi họ, tim họ, xương sườn họ, não họ, tử cung họ.

            Suốt thời gian đó cô bé Akasaka Nhục đậu khấu ngủ ngon lành trong tay mẹ. Cô ngủ một mạch hai mươi tiếng đồng hồ, như bị ai đó đánh bất tỉnh. Mẹ cô thét gọi cô, vả vào má cô, nhưng vô ích. Cô như đã chìm xuống đáy biển. Khoảng cách giữa hai nhịp thở của cô cứ dài ra, dài ra mãi, nhịp tim cô chậm dần. Hơi thở cô hầu như không nghe thấy được. Nhưng khi tàu đến Sasebo thì cô đột nhiên thức dậy, như có sức mạnh lớn lao nào đó đã lôi tuột cô trở về thế giới này. Thế nên Nhục đậu khấu không tận mắt chứng kiến việc tàu ngầm Mỹ chuẩn bị tấn công rồi lại thôi và biến mất. Cô chỉ nghe mẹ kể lại, mãi rất lâu về sau.

            Chiếc tàu hàng ì ạch lê vào cảng Sasebo vào khoảng 10 giờ hơn một chút sáng ngày 16 tháng Tám, một ngày sau vụ tấn công hụt. Trên cảng bao trùm một sự im ắng kỳ lạ, không ai ra đón con tàu. Thậm chí ở trận địa phòng không gần cửa cảng cũng không có một bóng người. Ánh nắng hè câm lặng đốt thiêu mặt đất. Cả thế giới như lâm vào một cơn tê liệt sâu thẳm, vài người trên tàu cảm thấy như mình đã chẳng may lạc vào vương quốc của người chết. Sau nhiều năm sống ở nước ngoài, họ chỉ còn biết lặng nhìn đất nước của tổ tiên. Vào trưa ngày 15 tháng Tám, đài phát thanh loan báo tuyên bố của Thiên hoàng rằng chiến tranh đã kết thúc. Sáu ngày trước đó, thành phố Nagasaki lân cận đã bị thiêu cháy bằng một quả bom nguyên tử. Cái đế quốc ma Mãn Châu quốc đang biến vào quá khứ. Và, vô ý bị lọt vào nhầm ngăn của cánh cửa xoay, viên bác sĩ thú y có vết bầm trên má sẽ cùng chia sẻ số phận với Mãn Châu quốc.

            ---------------------------------

            5. Tiếng Anh: Tonhua - ND.

10

            Giờ đến vấn đề kế tiếp

            (Quan điểm của Kasahara May, Phần 2)

            *

             Chào Chim vặn dây cót!

            Cuối thư trước em có bảo anh thử nghĩ xem em đang làm gì, ở đâu, vậy anh đã nghĩ chưa? Anh có nghĩ ra được gì không nào?

            Thôi thì cứ coi như anh không nghĩ ra được cái gì sất – cái đó thì chắc rồi. Em đành tự kể từ đầu vậy.

            Em đang làm việc ở một… nói sao nhỉ… một nhà máy. Một nhà máy to. Nó nằm ở một thị trấn tỉnh lẻ, đúng hơn là trên vùng núi ở ngoại ô một thị trấn tỉnh lẻ nhìn ra biển Nhật Bản. Nhưng anh đừng nghe chữ “nhà máy” mà tưởng tượng ra một nơi toàn những cỗ máy to đùng hiện đại suốt ngày nghiến ầm ầm, băng chuyền chạy liên tục, ống khói thì ùn ùn nhả khói. To thì to thật, nhưng diện tích trải ra trên một vùng rộng thênh thang, sáng sủa và yên tĩnh. Không hề có khói. Em chưa bao giờ hình dung nổi có cái nhà máy nào rộng mênh mông như vậy. Trước đây em chỉ đặt chân đến nhà máy một lần duy nhất, ấy là hồi học tiểu học, lớp em đi dã ngoại và đến thăm một nhà máy kẹo ở Tokyo. Em chỉ còn nhớ mỗi chuyện ở đó ồn ơi là ồn, chật ních những người, ai cũng hì hục làm việc, mặt thì cứ khó đăm đăm. Thành thử đối với em, cái từ “nhà máy” luôn gợi nhớ tới hình minh họa cho “Cách mạng công nghiệp” thấy trong sách giáo khoa ấy.

            Làm ở đây hầu như toàn con gái. Gần đó có một tòa nhà, phòng thí nghiệm, ở đó có các ông mặc áo choàng trắng phụ trách mảng phát triển sản phẩm, vẻ lúc nào cũng nghiêm trọng, nhưng họ chỉ chiếm một phần rất nhỏ mà thôi. Còn lại toàn là con gái chưa đầy hai mươi tuổi hoặc lớn hơn một chút, trong đó chắc phải tới bảy mươi phần trăm sống ở các ký túc xá trong khuôn viên nhà máy như em vậy. Ngày nào cũng đi đi về về bằng xe buýt hay ô tô từ thị trấn tới đây thì mệt chết, mà ký túc xá thì lại rất được. Nhà mới xây, phòng toàn phòng đơn, đồ ăn ngon, muốn ăn gì có nấy, tiện nghi thật tuyệt, tiền ăn lại rẻ. Có hồ bơi nước nóng, thư viện, nếu thích thì còn có thể làm những thứ như trà đạo hay cắm hoa (nhưng em thì không thích); nếu thích nữa thì có thể ghi danh vào các nhóm thể thao, thành thử nhiều đứa ban đầu còn đi đi về về, sau chuyển hẳn vào ở ký túc xá. Hầu như đứa nào cũng cuối tuần lại về nhà ăn cơm với gia đình, đi xem phim hoặc đi chơi với bạn trai hay đại loại thế, cho nên tới thử Bảy thì chỗ này vắng tanh vắng ngắt. Hầu như chả có đứa nào như em, cuối tuần chẳng có gia đình nào mà về. Nhưng như em đã nói trước đây, em thích cái cảm giác mênh mông, trống trải của nơi này vào mỗi cuối tuần. Cả ngày em tha hồ đọc sách, nghe nhạc vặn hết cỡ, đi bộ lên đồi chơi, hay ngồi viết thư cho Chim vặn dây cót như lúc này chẳng hạn.

            Đám con gái làm chỗ này đều là dân địa phương, toàn con cái nhà nông. Có thể không phải đứa nào cũng vậy, nhưng hầu hết đều vui vẻ, khỏe mạnh, lạc quan yêu đời, siêng năng làm lụng. Vùng này không có nhiều ngành công nghiệp, thành thử trước đây đám con gái hễ tốt nghiệp trung học xong là toàn lên thành phố tìm việc làm. Đám trai ở lại trong thị trấn chẳng có ai để lấy làm vợ, lại khiến cho dân số ngày càng giảm. Thế là chính quyền thành phố quyết định cắt một mảnh đất to rồi mời các doanh nghiệp xây nhà máy, để con gái vùng này không phải bỏ đi nữa. Em thấy ý tưởng đó thật là hay. Ý em là thậm chí là bây giờ có người ở vùng khác lặn lội về đây, như em chẳng hạn. Nay thì, khi tốt nghiệp trung học xong (hoặc sau khi bỏ học, như em vậy), đám con gái thảy đều đi làm ở nhà máy, dành dụm tiền để khi đến tuổi thì lấy chồng và nghỉ việc, sinh vài ba đứa con rồi phì lũ ra như cá heo, đứa nào đứa nấy giống nhau y đúc. Dĩ nhiên, cũng có vài người lấy chồng xong vẫn tiếp tục làm việc, nhưng hầu hết đều thôi.

            Đến đây thì anh chắc đã hình dung được khá rõ chỗ này là thế nào rồi chứ?

            Vậy giờ câu hỏi kế tiếp cho anh là: ở nhà máy này người ta sản xuất cái gì?

            Gợi ý: Anh với em có lần làm một việc có liên quan đến nhà máy này. Anh em mình đến khu Ginza làm điều tra.

            Nào nào, Chim vặn dây cót! Giờ thì ắt hẳn anh phải đoán ra rồi chứ?

            Chính thế! Em đang làm việc ở một nhà máy làm tóc giả! Ngạc nhiên chưa?

            Trước em có kể với anh về chuyện em đã bỏ cái chỗ khách sạn cao cấp kiêm nhà tù kiêm trường học thượng lưu chỉ sau sáu tháng rồi chỉ nằm khoèo ở nhà, như con chó bị gãy chân. Thế rồi, đột nhiên trong đầu em nảy ra ý nghĩ về cái nhà máy làm tóc giả. Em nhớ ông chủ công ty đó có lần nói nửa đùa nửa thật rằng nhà máy chẳng bao giờ đủ người làm cả, và bất cứ lúc nào, nếu em muốn thì họ sẽ thuê em ngay. Thậm chí ông ấy còn cho em xem tờ quảng cáo về nhà máy đó, em rất thích, cảm thấy nhà máy này hay thật, làm ở đây cũng tốt chứ sao. Sếp em bảo đảm con gái ở đó chỉ làm việc bằng tay thôi, cắm từng sợi tóc lên nền tóc giả ấy mà. Làm tóc giả là việc rất tinh vi, chứ đâu phải là cái nồi nhôm, gõ một cái, gõ hai cái, gõ ba cái là xong đâu. Phải trồng từng túm tóc một, tóc thật ấy, hết sức, hết sức cẩn thận, từng túm nhỏ, thì mới nên bộ tóc giả có chất lượng được. Nghe đã chóng mặt chưa nào? Ý em là, theo anh trên đầu người ta có bao nhiêu sợi tóc? Có đến hàng trăm ngàn! Mà để làm bộ tóc giả thì phải cắm toàn bộ ngần ấy sợi tóc bằng tay, như người ta cấy mạ ngoài đồng ấy. Thế nhưng bọn con gái chẳng đứa nào kêu ca. Đó là bởi vùng này là “Xứ tuyết”, mùa đông rất dài, từ lâu đàn bà con gái nhà quê đã có tập quán làm hàng thủ công đặng có cái ăn trong mùa đông. Chắc cũng vì vậy mà công ty chọn chỗ này để đặt nhà máy.

            Nói thật với anh, em cũng chẳng nề hà gì khi làm công việc chân tay kiểu này. Nhìn qua thì không biết đâu, nhưng chính ra em đan giỏi lắm đấy. Thầy cô ở trường cứ khen em luôn. Anh vẫn không tin em sao? Thật đấy mà! Chính vì vậy mà em đã nảy ra ý nghĩ: hay mình lên nhà máy ở trên núi làm việc đi, để hai tay mình bận rộn từ sáng đến tối và không nghĩ tới bất cứ chuyện gì cho nặng đầu, có khi vậy cũng hay đấy. Em chán trường học, nhưng em cũng chả ưa gì nếu cứ lông bông và bắt cha mẹ phải lo cho mình mãi (mà em tin chắc là ba mẹ cũng nghĩ thế), nhưng em lại chẳng hề thiết làm bất cứ việc gì, thành thử, càng nghĩ lui nghĩ tới, em càng thấy việc duy nhất em làm được là vào nhà máy này thôi.

            Em nhờ bố mẹ làm người đỡ đầu, sếp của em thì làm người giới thiệu (họ thích bảng điều tra của em lắm), em qua cuộc phỏng vấn ở văn phòng công ty, và ngay tuần kế tiếp em đã gói ghém đồ đạc xong (mà đâu phải em chỉ mang theo mỗi quần áo và máy nghe nhạc thôi không). Em một mình lên tàu tốc hành, sau đó chuyển sang một tuyến xe điện nhỏ dễ thương chạy lên miền đồi núi, cứ thế đến thẳng cái thị trấn đèo heo hút gió này. Ấy thế mà em có cảm giác như mình đã đến đầu bên kia thế giới vậy! Em quả thật là bị choáng khi bước ra khỏi xe! Lúc ấy em nghĩ: mình đã phạm sai lầm khủng khiếp. Nhưng rốt cuộc thì không phải: em ở đây đã sáu tháng nay, chẳng có chuyện gì không ưng ý, em cũng đã quen dần với chỗ này rồi.

            Chẳng biết tại sao mà từ xưa tới nay em luôn quan tâm đến tóc giả. Không, nói thế chưa đúng. Có khi cần phải nói là những bộ tóc giả luôn có sức “lôi cuốn” em, kiểu như một số cậu trai bị xe mô-tô lôi cuốn vậy. Anh biết đấy, trước kia thì em chưa thực sự biết đâu, nhưng từ khi em đi làm nghiên cứu thị trường và có cơ hội thấy bao nhiêu là người hói (hay gọi theo cách của công ty là những “người có vấn đề về rụng tóc”), em mới thật sự vỡ ra rằng có quá nhiều người như vậy ở trên đời! Chẳng phải vì em có cảm tình riêng theo cách này hay cách khác với những người hói (hay có vấn đề về rụng tóc) đâu. Em chẳng “thích” cũng chẳng phải “không thích” họ. Như anh Chim vặn dây cót chẳng hạn. Dù tóc của anh có rụng nhiều hơn bây giờ đi nữa (chuyện ấy có còn lâu nữa đâu), thì tình cảm của em đối với anh vẫn hoàn toàn không thay đổi. Cái cảm xúc mạnh mẽ trong em mỗi khi gặp một người đang bị rụng tóc, ấy là cái cảm xúc mà chắc em đã có lần nói với anh, ấy là đời mình đang tàn dần. Nay thì đó mới là cái em thật sự bận tâm!

            Có lần em nghe nói người ta đạt mức tăng trưởng cao nhất ở một độ tuổi nào đó (mười chín hay hai mươi gì đó, em quên rồi), sau đó thì cơ thể bắt đầu hao mòn dần. Nếu đúng vậy thì chuyện tóc rụng dần và ngày càng thưa đi chẳng qua chỉ là một phần của quá trình cơ thể “hao mòn đi” mà thôi. Có gì lạ đâu. Rất bình thường và tự nhiên. Có lạ chăng là thế này: một số người bị hói từ khi còn trẻ, trong khi người khác dù có già đi nữa cũng chẳng bao giờ hói. Em biết rằng nếu em bị hói, hẳn em sẽ cho rằng thật không công bằng. Ý em là đầu bị hói thì bàn dân thiên hạ nhìn vào, chả giấu đi đâu được! Dù em hiểu cảm giác của họ thế nào, nhưng chuyện rụng tóc không liên quan gì tới em.

            Trong hầu hết trường hợp, người bị mất tóc chẳng có tội tình gì trong chuyện anh ta bị rụng nhiều hay ít hơn người khác. Hồi em còn làm bán thời gian, sếp em bảo gen di truyền quyết định tới chín mươi phần trăm việc người ta có bị hói hay không. Người nào thừa hưởng gen rụng tóc từ ông và cha thì sớm muộn gì cũng sẽ hói, dù anh ta có làm gì để ngăn chặn thì cũng bằng thừa. Cái câu “Nhân định thắng thiên” không áp dụng được ở đây. Nếu khi đã đến lúc cái gen ấy đứng dậy nói: “Nào, tiến hành đi thôi nhỉ?” (đó là nếu như các gen có thể đứng dậy mà nói được) thì tóc sẽ cứ thế rụng thôi, không còn cách nào khác. Chẳng lẽ thế là công bằng sao? Em thì em biết, không công bằng chút nào hết.

            Vậy là giờ anh đã biết em đang ở rất xa anh, đang làm việc ở nhà máy này, làm cật lực ngày này qua ngày khác. Và anh đã biết em có mối quan tâm riêng, quan tâm sâu sắc, đối với tóc giả và nghề làm tóc giả. Thư sau em sẽ kể chi tiết hơn về cuộc sống và công việc của em ở đây.

            Thôi nhé. Tạm biệt.

11

            Cái xẻng này có thực không?

            (Chuyện xảy ra trong đêm - Phần 2)

            *

            Chú bé chìm sâu vào giấc ngủ và mơ một giấc mơ sống động như thật. Tuy nhiên, chú biết đây là mơ, điều đó khiến chú phần nào yên lòng. Mình biết đây là mơ, cho nên những gì xảy ra trước đó là thật. Những chuyện đó đã xảy ra, thật sự xảy ra. Mình có thể nói ngay cái này khác cái kia ở chỗ nào.

            Trong giấc mơ, chú bé đi ra ngoài vườn. Lúc đó vẫn đang giữa đêm thâu, xung quanh không một bóng người. Chú bé nhặt xẻng và bắt đầu đào cái lỗ mà người đàn ông cao lớn vừa lấp lại. Y đã kê chiếc xẻng vào gốc cây. Đất vừa mới lấp nên đào lên lại không khó, nhưng với chú bé năm tuổi thì chỉ mới nhấc xẻng lên thôi cũng đã hụt hơi rồi. Đã vậy chú không đi giày. Hai gót chân chú sẽ tê cóng vì lạnh. Dù vậy, chú vẫn vừa thở hổn hển vừa đào, cho tới khi tìm thấy cái túi vải mà nguời đàn ông chôn mới thôi.

            Con chim vặn dây cót không kêu nữa. Người đàn ông đã trèo lên cây không hề trở xuống. Đêm lặng ngắt đến nỗi nghe ong ong trong tai. Dường như người đàn ông chỉ vừa biến mất thôi. Nhưng nói gì thì nói, đây là mơ kia mà, chú bé nghĩ. Con chim vặn dây cót kêu và người đàn ông trông giống cha của chú trèo lên cây, mấy chuyện đó đâu phải mơ. Những chuyện ấy đã thực sự xảy ra. Vậy là không thể có mối liên kết nào giữa đằng này với đằng kia. Nhưng thật lạ: chú ở đây, trong giấc mơ, đang đào một cái lỗ thật trong thực tại. Vậy làm sao chú phân biệt cái gì là mơ cái gì không phải là mơ? Cái xẻng này có thực không? Hay là cái xẻng ở trong mơ?

            Càng nghĩ, chú bé càng không hiểu ra sao. Thế là chú thôi không vắt óc nghĩ nữa mà hoàn toàn tập trung vào việc đào cái lỗ. Cuối cùng, xẻng bập vào túi vải.

            Chú hết sức cẩn thận xới nốt chỗ đất bao quanh sao cho không động tới cái túi vải. Đoạn chú quỳ xuống nhấc cái túi ra khỏi hố. Trời không một gợn mây, không có chướng ngại vật nào ngăn làn ánh sáng ẩm ướt của vầng trăng tròn đổ lên mặt đất. Trong mơ, chú hoàn toàn không thấy sợ. Nỗi tò mò ghê gớm là cảm xúc duy nhất ngự trị trong tâm trí chú. Chú mở túi ra thì thấy trong đó một trái tim người. Chú nhận ra trái tim qua hình dáng và màu sắc đúng như bức tranh chú từng thấy trong cuốn bách khoa thư. Trái tim còn tươi rói, còn sống nguyên và cử động, như một đứa bé vừa bị cha mẹ bỏ rơi. Nó vẫn phập phồng đập mạnh dẫu không có dòng máu nào phụt ra từ những lỗ mạch máu bị cắt. Chú bé nghe tiếng đập thùm thụp inh cả tai, nhưng đó là tiếng đập của chính tim chú. Trái tim bị chôn và trái tim chú đập cùng một nhịp, như đang nói chuyện với nhau.

            Chú bé cố thở đều mà tự nhủ một cách dứt khoát: “Chẳng có gì phải sợ! Chỉ là trái tim người thôi mà. Y như trong cuốn bách khoa. Ai cũng có một trái như vậy. Mình cũng có”. Tự trấn an mình rồi, chú lại gói trái tim vào tấm vải, cho xuống hố rồi lấp đất lại. Chú dùng đôi chân trần san đất cho phẳng để không ai biết là có người đã đào một cái hố ở đó, rồi chú tựa xẻng vào thân cây như trước. Trong đêm, đất lạnh như băng. Xong xuôi đâu đó, chú bé trèo qua bậu cửa sổ, trở về căn phòng ấm áp, quen thuộc của mình. Chú chải bùn đất dính ở chân vào sọt rác để khỏi làm bẩn chăn đệm rồi chui vào giường. Nhưng rồi cậu nhận ra rằng đã có người nằm đó rồi. Ai đó đang ngủ trên giường chú, vùi mình dưới chăn, ngay ở chỗ chú nằm.

            Đùng đùng nổi giận, chú bé liền giật mạnh chăn. “Này, cút khỏi đây ngay! Đây là giường của tao!” – chú muốn hét lên như vậy, nhưng không thốt được thành lời, bởi kẻ đang ngủ trên giường kia là chính chú. Chú đang ngủ ngon lành, hít thở đều đặn ở trên giuờng. Chú bé ngây ra như hoá đá, không cất nổi một tiếng nào. Nếu mình đã ngủ ở đây rồi thì cái mình đây sẽ ngủ ở đâu? Lần đầu tiên chú thấy sợ, một nỗi sợ dường như thấu vào tận xương tuỷ chú. Chú bé muốn thét lên. Chú muốn thét càng to càng tốt để đánh thức cái tôi đang ngủ kia dậy, đánh thức tất cả mọi người trong nhà dậy. Nhưng giọng chú đã biến đâu mất. Chú vận hết sức bình sinh, nhưng không bật ra nổi một âm thanh nào. Thế là chú túm vai cái tôi đang ngủ kia mà lay thật lực. Nhưng chú bé đang ngủ kia không thức dậy.

            Chú chẳng biết làm gì nữa. Chú cởi áo len ra ném giữa sàn. Đoạn chú ra sức đẩy cái người đang ngủ kia – mà cũng là chú - ra khỏi giường. Chú phải giữ lấy cho mình một chỗ ở đây. Bằng không, có thể chú sẽ bị đẩy bật ra khỏi cái thế giới quen thuộc bấy nay của chú. Nằm co quắp, thậm chí gối cũng chẳng có, nhưng vừa đặt lưng xuống là lập tức chú cảm thấy buồn ngủ lạ lùng. Chú không nghĩ gì được nữa. Chỉ một khoảnh khắc sau chú đã ngủ say như chết.

            Sáng hôm sau thức dậy, chú bé đang nằm chính giữa giường, không có ai bên cạnh. Gối đang kê dưới đầu chú. Chú chậm rãi nhỏm dậy, nhìn quanh phòng. Thoạt trông, có vẻ chẳng có gì thay đổi. Vẫn cái bàn đó, cái tủ đó, vẫn cái đèn chân đế kia. Kim đồng hồ chỉ 6 giờ 20 sáng. Nhưng chú bé biết có một cái gì đó đã đổi khác. Mặc dù thoạt trông chẳng có gì thay đổi, nhưng chú bé biết đây không phải là căn phòng nơi chú đi ngủ đêm qua. Không khí, ánh sáng, âm thanh, mùi, tất cả đều khác trước một chút. Người khác có thể không nhận ra, song chú bé thì biết. Chú tung chăn rồi kiểm tra toàn thân mình. Chú giơ hai bàn tay lên rồi lần lượt động đậy từng ngón tay. Tay chú bình thường. Chân cũng ổn. Chú không đau, không ngứa gì. Chú ra khỏi giường rồi xuống phòng vệ sinh. Đi tiểu xong, chú đứng ở bồn rửa nhìn khuôn mặt mình trong gương. Chú cởi áo pijama, đứng lên một chiếc ghế, nhìn hình ảnh phản chiếu cái thân hình bé nhỏ trắng xanh của chú. Không thấy có gì bất thường.

            Thế nhưng vẫn có cái gì đó khác. Chú cảm thấy như chính mình đã bị trút vào một cái vỏ chứa khác. Chú biết, chú vẫn chưa hoàn toàn quen với cái cơ thể mới này. Cái cơ thể mới này có gì đó không khớp với cái tôi nguyên thủy của chú. Đột nhiên chú cảm thấy mình thật bơ vơ, không ai giúp đỡ, chú cố gọi mẹ, nhưng cái từ ấy không bật ra khỏi cổ họng chú. Thanh đới của chú không làm rung động nổi không khí, như thể bản thân từ “mẹ” cũng đã biến mất khỏi thế gian. Nhưng chẳng mấy chốc chú nhận ra rằng cái đã biến mất không phải là từ “mẹ”.

12

            Liệu pháp bí mật của M

            TRÒ HUYỀN BÍ LAN TRÀN TRONG GIỚI

            KINH DOANH GIẢI TRÍ

            (Trính Nguyệt san _____, tháng Mười Một)

            ___________________________

                        ... Các liệu pháp huyền bí này, vốn đã trở thành một thứ cơn sốt trong giới kinh doanh giải trí, chủ yếu được lưu truyền bằng cách rỉ tai nhau, nhưng trong một số trường hợp lại mang dấu ấn của vài hội kín nào đó.

            Chẳng hạn như trường hợp “M”: 33 tuổi, mười năm trước chỉ đóng vai phụ trong các series kịch truyền hình, được công chúng đón nhận và từ đó chuyên đóng vai chính trong phim truyền hình và phim màn ảnh rộng, sáu năm trước đã cưới một “đấng nam nhi thành đạt” làm nghề kinh doanh bất động sản, hai năm đầu vợ chồng sống với nhau hạnh phúc. Chàng làm ăn phát đạt, nàng cũng có một số vai diễn thành công trong điện ảnh. Nhưng rồi nhà hàng ăn uống và shop thời trang mà chàng thành lập mang tên nàng bị thua lỗ, chàng bắt đầu nợ nần chồng chất nhưng về danh nghĩa người mang nợ là nàng. Vốn dĩ M chẳng bao giờ thích thú chuyện kinh doanh, nhưng do chàng muốn khuếch trương việc làm ăn nên nàng đã ít nhiều để chồng cầm tay bảo gì làm nấy. Có người cho rằng bởi chồng nàng bị dính vào một âm mưu lừa đảo. Ngoài ra, ngay từ đầu giữa M với bố mẹ chồng đã chẳng xuôi chèo mát mái rồi.

            Rồi lại có lời đồn rằng giữa M với chồng cũng cơm không ngọt, và chẳng bao lâu hai người sống ly thân. Cách đây hai năm hai vợ chồng đã hoàn tất thủ tục ly hôn chính thức sau khi tòa giúp họ thu xếp trả nợ nần, nhưng sau đó M bắt đầu có dấu hiệu trầm uất; vì phải điều trị nên nàng gần như thôi hẳn đóng phim. Theo một nguồn tin ở hãng phim nơi nàng từng làm việc thì từ sau khi ly hôn, M thường xuyên bị hành hạ vì những cơn ảo giác trầm trọng. Nàng tự hủy hoại sức khỏe do dùng quá nhiều thuốc chống trầm cảm, đến độ người ta bắt đầu nói về nàng rằng “Xưa kia cô ấy từng là diễn viên”. Theo chúng tôi quan sát, “Nàng đã mất khả năng tập trung vốn rất cần thiết để có thể đóng phim, còn ngoại hình nàng cũng xuống cấp đến đáng kinh ngạc. Đã vậy nàng vốn là người bản chất nghiêm túc nên luôn luôn ưu tư về mọi việc đến nỗi ảnh hưởng xấu đến cả tâm thần nàng. Cũng may, tình hình tài chính của nàng vẫn ổn nên dù không làm gì nàng vẫn có thể sống một thời gian”.

            Một người họ hàng xa của M là vợ của một chính khách nổi tiếng, cựu bộ trưởng trong Nội các. M gần như là con gái của người này, nên ông ta mới giới thiệu nàng đến gặp một người đàn bà có liệu pháp chữa trị bằng tâm linh cho một nhóm khách hàng rất hạn chế thuộc tầng lớp thượng lưu. M đều đặn đến gặp bà này trong suốt một năm trời để trị chứng trầm uất, nhưng chính xác liệu pháp này bao gồm cái gì thì không ai biết. Bản thân M giữ bí mật hoàn toàn. Dù liệu pháp đó là gì đi nữa thì nó cũng có tác dụng. Chẳng bao lâu M thôi dùng thuốc chống trầm uất, kết quả là nàng không còn bị chứng phù kỳ lạ thường phát sinh do tác dụng của thuốc, tóc nàng lại mọc dày, sắc đẹp của nàng trở lại như xưa. Nàng cũng hồi phục về mặt tâm thần và dần dần đóng phim trở lại. Đến lúc đó thì nàng thôi không điều trị nữa.

            Tuy nhiên, vào tháng Mười năm nay, ngay khi ký ức về cơn ác mộng của nàng đã bắt đầu phai nhạt, M lại gặp một sự cố mà trong đó những triệu chứng cũ lại tái phát chẳng vì lý do gì. Thật không đúng lúc chút nào, bởi chỉ vài hôm nữa nàng sẽ phải thủ một vai quan trọng, nhưng trong tình trạng thế này thì nàng không thể đảm đương. M liền liên lạc với người đàn bà nọ yêu cầu được điều trị như mọi lần, nhưng người đàn bà bảo bà ta không còn điều trị nữa. “Tôi rất tiếc, - bà ta nói, - tôi không thể làm gì cho cô. Tôi không còn đủ sức nữa. Tôi đã mất năng lực. Tuy nhiên có một người mà tôi có thể giới thiệu với cô, nhưng cô phải thể giữ bí mật tuyệt đối. Nếu cô hở ra dù chỉ một lời về chuyện này với bất cứ ai thì cô sẽ phải hối tiếc. Thế đã rõ chưa?”

            M được chỉ dẫn tới một nơi, tại đó người ta đưa nàng đến gặp một người đàn ông có vết bầm màu xanh trên mặt. Người này trạc ba mươi tuổi, không hề nói với nàng một câu trong suốt thời gian nàng ở đó, nhưng liệu pháp của anh ta “có hiệu lực lạ lùng”. M từ chối tiết lột nàng đã phải trả bao nhiêu cho buổi chữa trị, nhưng ta có thể đoán rằng “phí tư vấn” là một khoản tiền khá lớn.

            Về liệu pháp bí ẩn mà M đã kể với một người bạn “rất thân”, chúng tôi chỉ được biết như sau. Đầu tiên nàng phải đến “một khách sạn nào đó” ở đó nàng gặp một chàng thanh niên có nhiệm vụ đưa nàng đến gặp “người chữa trị”. Họ lên “một chiếc xe lớn màu đen” trong một lô đỗ xe đặc biệt dưới lòng đất dành cho VIP rồi đi đến nơi liệu pháp được thực hiện. Tuy nhiên, về bản thân liệu pháp kia thì chúng tôi chẳng biết được gì. Người ta nói M đã bảo bạn nàng, “Những người này có sức mạnh đáng sợ. Nếu mình nuốt lời hứa thì sẽ có những chuyện kinh khủng xảy ra cho mình.”

            M chỉ đến chỗ đó một lần duy nhất, từ đó trở đi các triệu chứng không trở lại nữa. Chúng tôi đã cố tiếp cận M để tìm thêm thông tin về liệu pháp kia cũng như người đàn bà bí ẩn, song, đúng như chúng tôi đã biết trước, M “cự tuyệt”. Theo một nguồn đáng tin cậy, cái “tổ chức’ này thường tránh tiếp xúc với giới kinh doanh giải trí mà tập trung vào những giới chính trị và tài chính vốn dĩ kín đáo hơn. Những tiếp xúc của chúng tôi với giới nghệ sĩ cho đến nay không mang lại thêm thông tin gì…

13

            Kẻ chờ đợi

            *

            Không dễ gạt bỏ tôi như vậy đâu

            *

            Không ai là một hòn đảo cả.

            *

            Đã quá 8 giờ, chung quanh tối đen như mực khi tôi mở cánh cổng sau rồi bước ra con ngõ. Cổng rất hẹp, tôi phải lách mình mới len qua được. Cổng cao không đầy một mét, được ngụy trang khôn khéo ở một góc rào để đứng từ bên ngoài thì không thể nhìn thấy cũng chẳng thể sờ ra. Con ngõ bao giờ cũng vậy trồi lên từ trong bóng tối, dưới ánh sáng trắng lạnh của ngọn đèn thủy ngân trong vườn nhà Kasahara May.

            Tôi đóng chặt cổng rồi rảo bước theo con ngõ. Qua từng hàng rào tôi thấy loáng thoáng bóng những người đang ăn tối trong phòng ăn hay xem ti vi trong phòng khách. Mùi thức ăn tỏa ra ngoài ngõ qua các cửa sổ nhà bếp và quạt thông gió. Một cậu thiếu niên đang tập một đoạn nhanh trên cây đàn ghita điện hạ thấp âm lượng. Trong một cửa sổ tầng hai, một cô bé nhỏ xíu đang ngồi bên bàn học, vẻ mặt rất nghiêm nghị. Một cặp vợ chồng cãi nhau, tiếng la lối om sòm vang ra ngoài ngõ. Một đứa bé khóc thét. Chuông điện thoại reo. Thực tại tuôn vào con ngõ như nước trào ra khỏi chiếc bát đầy tràn - dưới dạng những âm, những mùi, những hình ảnh, tiếng gọi và lời đáp.

            Tôi mang đôi giày tennis quen thuộc. Cần phải đi không quá nhanh, nhưng cũng không quá chậm. Quan trọng là đừng để người ta chú ý, đừng để cái “thực tại” kia phát hiện ra sự có mặt thoáng qua của tôi. Tôi biết rõ từng ngóc ngách, từng vật chướng ngại một. Ngay cả trong bóng tối tôi vẫn có thể đi dọc theo con ngõ kia mà không va vào bất cứ vật gì. Rốt cuộc, khi về đến phía sau nhà mình, tôi dừng lại, nhìn quanh rồi trèo qua bức tường thấp.

            Căn nhà lù lù trong bóng tối như cái vỏ của một con thú khổng lồ. Tôi mở khóa cửa bếp, bật đèn rồi thay nước cho mèo. Tôi lấy một hộp thức ăn cho mèo ra khỏi tủ rồi mở ra. Nghe tiếng động đó, Cá thu chẳng biết từ đâu hiện ra. Nó dụi đầu vào chân tôi mấy lần rồi chúi mũi ăn ngon lành. Trong khi con mèo ăn, tôi lấy một lon bia từ trong tủ lạnh. Tôi luôn luôn ăn tối ở Dinh - ở đó Quế đều đặn nấu cho tôi món gì đó – thành thử ở nhà chỉ cần món salad hay một mẩu phó mát là đủ. Tôi vừa uống bia vừa bế con mèo lên đầu gối, để xác nhận bằng hai bàn tay mình cái ấm áp, mềm mại của nó. Suốt ngày chúng tôi ở hai nơi xa nhau, bây giờ cả hai đều muốn cảm nhận rằng mình đang ở nhà.

            Nhưng tối hôm đó, khi về đến nhà, vừa cởi giày và vươn tay định bật đèn nhà bếp, tôi bỗng nhận ra sự hiện diện của cái gì đó. Tay tôi chững lại nửa chừng trong bóng tối, nín thở, dỏng tai nghe ngóng. Im lặng như tờ, song tôi ngửi thấy thoang thoảng mùi thuốc lá. Hẳn là ngoài tôi ra, trong nhà đang có một người nữa, người này từ nãy đến giờ ngồi đợi tôi về, và chỉ ít phút trước khi tôi vào nhà đã không nhịn nổi mà châm thuốc hút. Y ta chỉ rít vài hơi rồi mở cửa sổ để khói bay ra ngoài, nhưng cái mùi vẫn còn. Đây hẳn là một người lạ. Cửa thì tôi đã khóa, và trong số những người tôi quen, chỉ một mình Nhục đậu khấu là hút thuốc. Mà nếu bà ta muốn gặp tôi thì hẳn đã không ngồi trong bóng tối thế kia.

            Một cách bản năng, tay tôi mò mẫm trong bóng tối tìm cây gậy. Nhưng không có. Cây gậy tôi đã để lại ở giếng. Tim tôi đập thình thình, to đến nỗi như không có thực, như thể nó đã bật ra khỏi lồng ngực mà đập ngay bên tai tôi. Tôi cố thở đều. Có khi tôi cũng chẳng cần gậy. Nếu ai đó lẻn vào nhà nhằm hại tôi thì hẳn y đã không ngồi đợi thế kia. Nhưng dù vậy, hai lòng bàn tay tôi vẫn ngứa ngáy muốn đề phòng. Tay tôi vẫn thèm cái cảm giác siết chặt lấy cây gậy. Con mèo từ đâu xuất hiện, vừa kêu meo meo vừa cọ đầu vào chân tôi. Nhưng lần này nó không đói như mọi khi. Tôi nhận ra điều qua giọng kêu của nó. Tôi sờ được công tắc đèn bếp, liền bật lên.

            - Xin ông thứ lỗi cho, tôi cho con mèo ăn rồi, - kẻ đang ngồi trên sofa trong phòng khách nói bằng giọng khá trầm bổng. – Tôi đợi ông từ lâu lắm rồi, thưa ông Okada, mà con mèo thì cứ quẩn chân tôi mà kêu meo meo. Thế là tôi mạo muội lấy thức ăn cất trong chạn ra cho nó. Thật tình mà nói, tôi không hợp với giống mèo lắm…

            Y thậm chí không buồn đứng dậy. Tôi nhìn y, không nói gì.

            - Hẳn ông bị sốc khi thấy tự dưng có kẻ cha căng chú kiết nào chui vào nhà mình, ngồi đợi mình trong bóng tối. Tôi xin lỗi. Thật tình xin lỗi. Nhưng nếu như tôi bật đèn thì hẳn ông đã cảm thấy có gì bất thường và không vào nhà rồi. Tôi không định làm gì hại đến ông đâu, thành thử xin đừng nhìn tôi như thế. Tôi chỉ muốn nói chuyện với ông một chút thôi.

            Y là một người bé nhỏ, vận com lê. Khó mà ước đoán chính xác y cao bao nhiêu bởi y đang ngồi, nhưng hẳn y cùng lắm chỉ hơn mét rưỡi một chút. Khoảng từ bốn mươi lăm đến năm mươi tuổi, trông y như con ếch béo mẫm có cái đầu hói, một tiêu bản hoàn hảo cho loại A theo bảng phân loại của Kasahara May. Thật ra thì phía trên hai tai y có mấy dúm tóc như được dán vào, nhưng bộ dạng đen đúa xấu xí của chúng chỉ càng làm nổi bật hơn cái đầu hói. Cái mũi to tướng hình như bị ngẹt, vì mỗi khi y hít thở, cái mũi lại co vào phồng ra chả khác cái bễ lò rèn. Phía trên mũi là cặp gọng kính kim loại dày cộp. Mỗi khi y nói, môi trên của y lại cong lên (nhưng chỉ với một số từ nhất định thôi), làm lộ ra hàm răng xiêu vẹo vàng khè vì thuốc lá. Chắc chắn rằng y là kẻ xấu xí nhất tôi từng gặp. Mà không chỉ là xấu xí về thể chất; ở y có cái gì đó tơm tởm, lành lạnh, trơn, ẩm mà tôi không biết tả ra sao, kiểu như khi tay ta chạm phải một thứ sâu bọ to đùng không rõ hình thù trong bóng tối. Y giống như con đẻ của một cơn ác mộng ta đã quên từ lâu hơn là giống con người.

            - Tôi hút thuốc được không? – y hỏi. – Tôi đã cố không hút, nhưng cứ ngồi đợi mãi, đợi mãi mà không được rít hơi nào thì quả là cực hình. Thói quen thật là xấu, ông ạ.

            Tôi không biết nói thế nào, chỉ gật đầu. Kẻ lạ mặt bé nhỏ rít trong túi áo khoác ra một gói “Peace” không đầu lọc, lấy một điếu đưa lên môi rồi quẹt diêm châm lửa làm bật ra một tiếng động lớn, khô khốc. Y nhặt cái vỏ hộp đựng thức ăn mèo ở dưới chân lên, ném que diêm vào. Ra là y dùng vỏ hộp rỗng làm gạt tàn. Y rít mấy hơi vẻ ngon lành thấy rõ, cặp lông mày sâu róm châu vào nhau thành một đường xệch xạc, rồi rên lên khe khẽ vì thích thú. Cứ mỗi lần y rít một hơi dài, đầu điếu thuốc lại bừng lên như than hồng. Tôi mở cánh cửa kính dẫn ra ngoài hiên cho không khí lọt vào. Ngoài kia đang mưa lâm thâm; không nghe thấy, không nhìn thấy, nhưng ngửi mùi tôi biết.

            Gã đàn ông mặc bộ com lê màu nước trà, sơ mi trắng, cà vạt đỏ, đều thuộc hạng rẻ tiền và đều cũ rích như nhau. Màu của bộ com lê làm ta liên tưởng tới những nhát sơn vụng về của một gã tay ngang trên chiếc ô tô cũ. Những nếp nhăn sâu hoắm ở quần và áo khoác xem ra cũng trường tồn như những thung lũng trên một bức khung ảnh. Chiếc sơ mi trắng đã ngả màu vàng, một cúc trên ngực lúc nào cũng chực rơi ra. Lại nữa, chiếc sơ mi xem chừng nhỏ hơn người y đến hai cỡ, cúc trên cùng bung ra, cổ áo thì xơ xác. Cà vạt thắt theo một kiểu kỳ quặc giống như một mẫu tế bào dị dạng, tuồng như một thứ còn sót lại từ thưở anh em nhà Osmond(6). Ai nhìn qua cũng thấy ngay rằng người đàn ông này tuyệt đối chẳng quan tâm gì đến cái gọi là quần áo. Y mặc quần áo đơn giản vì khi ra ngoài gặp người này người nọ thì không thể không mặc gì, dường như y căm ghét cái vụ quần áo này lắm lắm. Hẳn y có ý định sẽ mặc mãi những thứ này cho tới khi chúng bục ra thành từng mảnh, kiểu như tay nông dân vùng cao cưỡi con lừa của gã từ sáng sớm đến tối mịt cho đến khi nó chết mới thôi.

            Sau khi đã hít vào phổi đủ lượng đủ nicotin cần thiết, y thở dài khoan khoái, và một cái vẻ kỳ lạ không ra cười cũng không ra nhếch mép hiện trên mặt y. Rồi y mở miệng.

            - Ồ vâng, suýt nữa thì tôi quên tự giới thiệu. Xin lỗi, xin lỗi. Thường tôi không thô lỗ thế. Tên tôi là Ushikawa. Ushi là “con bò” ấy, còn kawa là “sông”(7).Tên dễ nhớ phải không. Ai cũng gọi tôi là Ushi – con bò. Buồn cười nhỉ: càng nghe, tôi càng cảm thấy mình đúng là con bò thật. Thậm chí mỗi khi thấy một con bò ngoài đồng, tôi còn cảm thấy mình có mối quan hệ thân thuộc với nó nữa kia. Thật là buồn cười, cái chuyện tên tuổi ấy mà, ông có nghĩ thế không hở ông Okada? Ngay như ông chẳng hạn. Tên đâu ra đó: “ngọn đồi” và “cánh đồng”(8) . Đôi khi tôi cũng ước mình có cái tên bình thường như thế, nhưng thật không may, mình đâu thể tự do muốn chọn họ gì thì chọn. Đã sinh ra trên đời với cái họ Ushikawa thì trọn kiếp cứ là Ushikawa, dù muốn hay không. Từ khi tôi còn học mẫu giáo thiên hạ đã gọi tôi là Bò (Ushi) rồi. Có tránh được đâu. Đã mang tên Ushikawa thì người ta cứ thế gọi Ushi, đúng không? Người ta bảo cái tên biểu thị cho tính cách của sự vật, nhưng tôi đồ chừng có khi ngược lại mới đúng: mình bị gọi tên là gì thì càng ngày càng giống cái tên. Thôi thì ông cứ biết tôi là Ushikawa, còn nếu ông thích gọi là Ushi thì xin mời, không sao cả.

            Tôi xuống bếp lấy một lon bia trong tủ lạnh. Tôi không mời Ushikawa. Nói gì thì nói, tôi không mời y tới. Tôi không nói gì, chỉ lẳng lặng uống bia, Ushikawa cũng không nói gì, lẳng lặng rít thuốc. Tôi không ngồi trên chiếc ghế đối diện y mà đứng tựa lưng vào một cái cột, nhìn xuống y. Cuối cùng, y dụi mẩu thuốc vào cái vỏ hộp thức ăn mèo, đoạn nhìn lên tôi.

            - Chắc hẳn ông đang tự hỏi làm sao tôi vào đây được, phải không ông Okada? Khi ra khỏi nhà ông đã khóa cửa cơ mà. Đúng là cửa khoá thật. Nhưng tôi có chìa khóa. Chìa thật hẳn hoi. Nhìn này.

            Y thọc tay vào túi áo khoác rút ra một chiếc chìa khóa kèo theo móc khoá, đưa cho tôi xem. Trông giống chìa khóa nhà này thật. Nhưng cái làm tôi chú ý là chiếc móc khoá. Kumiko có một cái móc khóa hệt vậy bằng da màu xanh lục, trông giản dị, với một cái vòng kim loại đóng mở không theo lối thường.

            - Chìa thật, như ông thấy đó. Móc khóa thì là của vợ ông. Tôi xin nói ngay, để tránh mọi hiểu lầm: cái này là do vợ ông, Kumiko, đưa cho tôi. Tôi không ăn cắp hay đoạt lấy bằng vũ lực.

            - Kumiko đâu? – tôi hỏi, giọng tôi như lạc đi.

            Ushikawa tháo kính ra như để kiểm tra xem mắt kính có bị đọng hơi nước không, rồi lại đeo vào.

            - Tôi biết chính xác bà ấy đang ở đâu, - y nói. - Thật ra tôi đang trông nom bà ấy.

            - Trông nom cô ấy?

            - Nào, nào, xin đừng hiểu lầm tôi. Tôi không có ý ấy. Đừng lo, - Ushikawa vừa nói vừa cười. Khi y cười, mặt y méo xệch từ bên này sang bên nọ, và cặp kính của y xệ xuống một bên. – Xin ông đừng nhìn tôi như thế. Tôi chỉ giúp bà Kumiko đôi chút như chạy vặt, làm mấy việc linh tinh thôi. Tôi chẳng qua là thằng long toong chạy giấy. Ông cũng biết bà ấy không thể ra khỏi nhà mà.

            - Không thể ra khỏi nhà? – tôi nhại lại lời y.

            Y ngần ngừ một chút, liếm liếm môi.

            - Có lẽ ông không biết. Không sao cả. Nhưng tôi không thể nói chắc là bà ấy không thể ra ngoài hay không muốn ra ngoài. Chắc hẳn là ông muốn biết, nhưng xin đừng hỏi tôi. Tôi đây cũng đâu biết mọi chi tiết được. Nhưng chẳng việc gì ông phải lo. Không ai giam giữ bà ấy ngoài ý muốn bà ấy hết. Ý tôi là đây không phải chuyện phim hay tiểu thuyết. Chúng tôi đâu thể làm những chuyện như vậy.

            Tôi cẩn thận đặt vỏ hộp bia xuống dưới chân.

            - Thôi đuợc, thế thì nói tôi nghe, ông đến đây làm gì?

            Ushikawa xoè rộng hai tay vỗ vỗ lên đầu gối mấy lần rồi gật đầu vẻ cả quyết.

            - À vâng. Tôi chưa nói với ông. Cất công tự giới thiệu với ông còn mình đến đây để làm gì thì lại không nói! Tôi có cái nhược điểm này đã bao năm không sửa được, ấy là cứ huyên thuyên toàn những chuyện đâu đâu, còn cái chính thì quên mất. Chả trách tôi luôn luôn làm hỏng việc! Thôi đành muộn còn hơn không, thì đây; tôi làm việc cho anh trai bà Kumiko nhà ta. Tên tôi là Ushikawa, nhưng chuyện ấy tôi nói với ông rồi, về cả Ushi với lại gì gì đó nữa. Tôi làm việc cho Tiến sĩ Wataya Noburo, kiểu như là thư ký riêng - chỉ có điều, không phải là loại thư ký riêng mà các ông nghị thường có đâu. Chỉ một loại người nhất định, một hạng người ưu tú mới có thể là “thư ký riêng” thứ thiệt thôi. Nhưng “thư ký riêng” cũng có ba bảy đường. Ý tôi là có những người là thư ký riêng, rồi lại có những người khác cũng là thư ký riêng, nhưng là một loại khác, mà tôi thì gần loại thứ hai này. Tôi ở hàng dưới, ở mãi dưới cùng ấy. Giả dụ như chỗ nào cũng có thổ công thì tôi là cái thứ thổ công nhớp nhúa rúc trong góc buồng tắm hay xó tủ. Nhưng tôi đâu thể than phiền gì. Cứ tưởng tượng mà xem, nếu một thằng lôi thôi lếch thếch như tôi chường mặt ra trước thiên hạ thì còn gì là hình ảnh tinh tươm của tiến sĩ Wataya Noboru nữa! Không, ra trước ống kính thì phải là kẻ nào trông đường hoàng, thông minh sáng láng cơ, chứ không phải một tay lùn tịt hói đầu. “Xin chào quý vị, tôi là thư ký riêng của Tiến sĩ Wataya”. Đến là chết cười! Đúng không ông Okada?

            Tôi im lặng trong khi y huyên thuyên.

            - Nghĩa là tôi làm cho Tiến sĩ Wataya những việc người ngoài không nên nhìn thấy, có thể gọi là “việc trong bóng tối”. Tôi là tay vĩ cầm nấp trong cánh gà. Những việc như thế là nghề của tôi. Việc bà Kumiko đây chẳng hạn. Ồ không, xin đừng hiểu lầm tôi, chớ nghĩ rằng chăm nom bà ấy là thứ công việc chán ngắt dành cho một tên chạy giấy quèn. Tiếc rằng những gì tôi nói gây cho ông ấn tượng đó, nhưng sự thật hoàn toàn ngược lại! Dù sao đi nữa, bà Kumiko là người em gái nhỏ duy nhất mà Tiến sĩ vô cùng yêu quý; thành thử khi được giao nhiệm vụ hệ trọng đến nhường ấy, tôi coi đó là niềm vinh dự lớn lao; xin hãy tin tôi!

            Ồ, mà nhân thể, nói ra thì có vẻ sỗ sàng quá, tôi có thể xin ông một hớp bia không? Nói chuyện nãy giờ làm tôi khát khô cả cổ đây. Nếu ông cho phép, tôi sẽ tự lấy. Tôi biết ở đâu mà. Trong khi đợi ông, tôi đã mạn phép ghé mắt vào tủ lạnh rồi.

            Tôi gật đầu. Ushikawa xuống bếp lấy một chai bia trong tủ lạnh. Rồi y lại ngồi xuống sofa, tu luôn bằng cổ chai với vẻ thật ngon lành, cục hầu to gộ của y giật bên trên nút thắt cà vạt như một con vật sống.

            - Trên đời này còn gì tuyệt hơn là một ngụm bia lạnh vào cuối ngày, hở ông Okada? Có vài người kén cá chọn canh bảo bia hơi lạnh thì vị không ngon, nhưng tôi chả đời nào đồng ý. Chai bia đầu tiên phải lạnh đến mức thậm chí không nếm được nữa kia. Chai thứ hai thì có thể ít lạnh hơn một tí, nhưng chai đầu thì phải lạnh như nước đá. Tôi muốn nó lạnh đến nỗi thái dương tôi giần giật vì đau. Ấy tôi thích thế; dĩ nhiên là sở thích cá nhân.

            Vẫn tựa lưng vào cột, tôi nhấp thêm ngụm bia. Môi mím chặt thành một đường thẳng, Ushikawa nhìn quanh phòng một lát.

            - Ông Okada à, phải nói rằng tuy không ở với vợ nhưng ông vẫn giữ cho nhà khá là sạch đấy. Ấn tượng lắm. Còn tôi thì, nói ra thật xấu hổ, hoàn toàn vô phương cứu vãn. Nhà tôi chả khác gì đống rác hay chuồng lợn. Đã hơn năm nay tôi không cọ rửa buồng tắm. Chắc tôi quên nói với ông rằng tôi cũng bị vợ bỏ. Năm năm nay rồi. Vì vậy tôi thông cảm với ông, ông Okada ạ, hay là, nói chính xác hơn, để tránh hiều lầm, tôi có thể hiểu cảm giác của ông. Dĩ nhiên, hoàn cảnh của tôi khác của ông. Vợ tôi bỏ tôi là phải thôi, không thể khác được. Tôi là thằng chồng thậm tồi thậm ác nhất trên đời. Tôi chẳng kêu ca gì, có khi còn khâm phục cô ấy đã chịu đựng tôi được ngần ấy năm. Tôi đánh cô ấy luôn. Ngoài cô ấy ra tôi có còn đánh ai được nữa đâu? Nhìn tôi ông cũng biết tôi lẻo khoẻo thế nào rồi. Gan thì gan cóc tía. Tôi chẳng làm gì, suốt ngày lông nhông ngoài phố, thiên hạ gọi tôi “Này, Bò!” và sai bảo tôi hết việc này việc nọ, nhưng tôi nhịn tất, người ta có nói gì tôi cũng chỉ ngậm tăm. Thế nhưng về tới nhà là tôi trút hết lên mụ vợ. Hê hê hê! Tệ quá phải không? Tôi biết mình tệ thế nào chứ, nhưng tôi không kìm được. Nó như một chứng bệnh ấy. Tôi hay đánh cô ta sưng vêu cả mặt mày nhìn không nhận ra. Mà có phải chỉ đánh thôi đâu, tôi còn dập cô ta vào tường, đá cô ta, rót trà nóng lên cô ta, vớ được gì ném nấy vào cô ta, thôi thì chả thiếu trò gì. Lũ trẻ cố ngăn tôi lại, thế là tôi tẩn luôn chúng nó. Bọn trẻ còn nhỏ, hồi đó chừng bảy tám tuổi. Ấy vậy mà không phải chỉ đuổi vòng quanh đâu, vớ được gì là vụt nấy. Như là quỷ nhập vào tôi vậy. Tôi cố ngăn mình lại mà không được. Tôi không kiểm soát được mình. Có những lúc tôi tự nhủ: thôi đủ rồi, dừng lại thôi, nhưng không cách nào dừng được. Ông có thấy tôi là thứ kinh tởm đến thế nào chưa? Thế rồi năm năm trước, khi con gái tôi lên năm, tôi làm gãy tay nó. Vợ tôi hết chịu nổi, liền bỏ đi đem theo cả hai đứa con. Từ đó tới giờ tôi không gặp lại mấy mẹ con nữa. Thậm chí chẳng có tin tức gì. Nhưng biết làm sao được? Chính tôi có lỗi mà.

            Tôi không nói gì. Con mèo lại gần tôi kêu meo khe khẽ như muốn được tôi chú ý.

            - Mà thôi, tôi xin lỗi, tôi không định làm ông chán ngấy vì những chuyện linh tinh kia. Ông hẳn đang tự hỏi liệu có việc gì để khiến tôi phải đến đây vào tối nay. Có đấy. Tôi không tới đây để nói toàn chuyện phiếm đâu, ông Okada ạ. Tiến sĩ - ấy là Tiến sĩ Wataya - lệnh cho tôi tới đây gặp ông. Giờ tôi sẽ truyền đạt lại chính xác những gì ông ấy nói, nên xin ông hãy lắng nghe.

            Trước tiên, Tiến sĩ Wataya không phản đối việc xem xét lại mối quan hệ giữa ông Okada và cô Kumiko. Nói cách khác, Tiến sĩ sẽ không chống lại nếu hai ông bà quyết định nối lại quan hệ vợ chồng. Hiện nay cô Kumiko không có ý định đó, nên chuyện đó sẽ không xảy ra ngày một ngày hai, nhưng nếu ông vẫn không chịu ly hôn mà sẵn sàng đợi bao lâu cũng được thì ông ấy cũng chấp nhận. Ông ấy sẽ không khăng khăng đòi ông phải ly dị như trước nữa, vì vậy nếu ông muốn liên lạc gì với cô Kumiko thì có thể thông qua tôi. Nói cách khác, sẽ không còn bế quan toả cảng nữa, quan hệ ngoại giao được phục hồi, có thể nói vậy. Đó là việc thứ nhất. Ông thấy thế nào, hở ông Okada?

            Tôi ngồi thụp xuống sàn vuốt đầu con mèo, không nói gì. Ushikawa quan sát tôi và con mèo một lát rồi nói tiếp.

            - Dĩ nhiên là chừng nào chưa nghe hết những gì tôi cần nói thì ông không thể nói gì cả. Vậy thì tôi sẽ nói cho đến hết. Việc thứ hai đây. Cái này thì e chừng phức tạp hơn một chút. Nó liên quan tới một bài báo có tựa đề “Căn nhà có dớp” đăng trên một trong các tuần báo. Tôi không biết ông Okada đã đọc chưa, bài báo rất hay. Viết giỏi lắm. “Một nơi xúi quẩy tại khu dân cư sang trọng ở Setagaya. Những năm qua đã có nhiều người chết bất đắc kỳ tử. Con người kỳ bí vừa mua khu đất ấy là ai? Cái gì đang diễn ra sau hàng rào cao đó? Bí ẩn lại chồng lên bí ẩn…”

            Tiến sĩ Wataya đọc bài báo thì nhận ra rằng “căn nhà có dớp” nằm rất gần nhà của ông, ông Okada ạ. Ông ấy đâm ra có ý nghĩ này: biết đâu có mối liên hệ nào đó giữa căn nhà đó với ông Okada. Thế là ông ấy điều tra… ồ không, phải nói là tôi đây, gã Ushikawa hèn mọn đi trên đôi chân nhỏ ngắn tũn này, đã mạn phép tự lãnh phần điều tra vụ việc, và kia rồi: đúng như Tiến sĩ đã dự đoán, ông Okada đây ngày nào cũng theo cái ngõ đó đi đi về về giữa nhà mình với nhà kia và rõ là dính líu ra trò tới những gì có trời biết đang diễn ra trong đó. Chính tôi phải kinh ngạc khi trông thấy nhãn tiền cái trí thông minh mẫn tuệ đến kỳ tài của Tiến sĩ Wataya.

            Cho tới giờ chỉ mới có một bài báo, chưa có bài nào tiếp theo, nhưng ai biết được? Than hồng sắp tắt vẫn có thể lại bùng lên bất cứ lúc nào. Chuyện thú vị đến thế kia mà! Vì vậy Tiến sĩ Wataya lo lắm. Nhỡ ra trong một vụ lôi thôi nào đó lại lôi ra tên cậu em rể ông ấy thì sao? Xì căng đan ra trò nhé! Nói gì thì nói, Tiến sĩ Wataya đang là nhân vật có tiếng tăm. Báo chí sẽ nhâu nhâu bám lấy như ruồi… Lại còn mối quan hệ rắc rối giữa ông và cô Kumiko nữa. Họ sẽ thổi phồng đến đâu ấy chứ. Ai lại chẳng có vài chuyện không muốn bị phô ra trước thiên hạ, phải không nào? Nhất là những chuyện riêng tư. Hiện nay đang là thời điểm hệ trọng trong sự nghiệp chính trị của Tiến sĩ Wataya. Ông ấy phải vượt qua cái vụ này một cách hết sức cẩn trọng thì mới cất lên được. Thành thử ông ấy đã nghĩ ra cách này cho ông. Nếu ông Okada cắt đứt mọi liên hệ với “căn nhà có dớp” thì ông ấy sẽ suy nghĩ nghiêm túc về việc tái hợp giữa ông và cô Kumiko. Chỉ có thế thôi. Ông thấy thế nào? Tôi nói đã đủ rõ chưa?

            - Chắc là rõ, - tôi nói.

            - Vậy ông nghĩ sao? Về những gì tôi vừa nói ấy?

            Tôi vừa vuốt cổ con mèo vừa ngẫm nghĩ một chút rồi nói:

            - Tôi không hiểu. Tại sao Wataya Noboru lại cho rằng tôi có liên hệ này nọ với cái nhà đó được? Làm thế nào anh ta nghĩ ra được chuyện đó cơ chứ?

            Ushikawa ngoác miệng cười, nụ cười làm mặt y méo xệch lại, nhưng mắt y vẫn lạnh như băng. Y rút một điếu thuốc ra khỏi hộp rồi quẹt diêm châm lửa.

            - Chà chà, ông Okada, ông hỏi những câu hóc quá đi. Hãy nhớ, tôi chỉ là thằng đưa tin hèn mọn. Một bồ câu đưa thư đần độn, đem thư tới, mang thư hồi âm về, thế thôi. Chắc ông hiểu. Tuy nhiên, tôi có thể nói thế này: Tiến sĩ không phải là thằng ngốc. Ông ấy biết dùng cái đầu mình, ông ấy còn có kiểu giác quan thứ sáu, cái ấy thì người thường không có được. Ông cũng cho tôi nói điều này nữa, ông Okada ạ: ông ấy có quyền lực thực sự trong cái thế giới này, mà cái quyền lực ấy ngày càng mạnh. Đừng nhắm mắt làm ngơ, hãy thừa nhận nó thì hơn. Ông có lí do để không thích ông ấy – với tôi thì chuyện ấy không sao cả, không phải việc của tôi – nhưng vấn đề không còn ở chuyện thích hay không thích nữa mà đã đi xa hơn thế nhiều. Tôi muốn ông hiểu chuyện đó.

            - Nếu Wataya Noboru đầy quyền lực như vậy, tại sao hắn ta không bắt tờ tạp chí kia thôi ngay, không được đăng nhưng bài kiểu đó nữa? Làm như vậy đơn giản hơn nhiều chứ.

            Ushikawa mỉm cười. Rồi y rít một hơi thuốc dài.

            - Ông Okada ơi là ông Okada! Ông đừng ăn nói hồ đồ vậy. Nói gì thì nói, ông với tôi đang sống ở Nhật Bản, một trong nhưng nước dân chủ đáng tin cậy nhất thế giới kia mà. Có đúng không? Đây nào phải một xứ độc tài xung quanh toàn đồn điền chuối với sân bóng đá chứ. Dù một chính sách có quyền lực đến cỡ nào ở xứ này đi nữa bóp chết một bài báo trong tạp chí không phải là chuyện dễ. Nguy hiểm cực kỳ. Ông có thể dập đám chóp bu của tờ báo dễ như trở bàn tay, nhưng rồi sẽ có người bất mãn. Đã có người bất mãn thì chỉ tổ khiến thiên hạ chú ý nhiều hơn. Với nhưng đề tài nóng như kiểu này thì không thể buộc thiên hạ nhất nhất theo mình được. Tin tôi đi. Còn chuyện này nữa, nói riêng giữa tôi với ông thôi: có thể còn một vài nhân vật ám muội dây vào vụ này nữa, nhưng nhân vật này ông không biết đâu, ông Okada ạ. Trong trường hợp đó thì rốt cuộc sẽ dính líu không chỉ tới Tiến sĩ. Đến khi đó thì cục diện sẽ hoàn toàn khác. Ta hãy so sánh chuyện này với đi nhổ răng. Cho đến giờ chúng ta mới đến giai đoạn chọc vào một chỗ mà thuốc tê vẫn có tác dụng. Chính vì vậy chăng ai kêu ca gì. Nhưng chẳng mấy chốc mũi khoan sẽ chạm tới dây thần kinh, khi đó sẽ có người nhảy dựng khỏi ghế. Ai đó sẽ đùng đùng nổi giận. Ông hiểu điều tôi nói chứ? Tôi không có ý dọa ông đâu, nhưng tôi, cái lão già Ushikawa này, tôi cảm thấy như ông đang từ từ dấn vào một lãnh địa nguy hiểm mà không biết.

            Xem chừng rốt cuộc Ushikawa đã nói hết những gì cần nói.

            - Ý ông là tôi nên rút lui trước khi bươu đầu mẻ trán? – tôi hỏi.

            Ushikawa gật đầu.

            - Đây chẳng khác gì chơi bóng ngay giữa đường cao tốc vậy. Nguy hiểm cực kỳ. Với lại, chuyện này sẽ gây cho Wataya Noboru lắm phiền toái.

            - Thành thử nếu tôi rút lui thì anh ta sẽ cho tôi liên lạc với Kumiko?

            Ushikawa lại gật

            - Nói chung là vậy.

            Tôi nhấp một ngụm bia. Rồi tôi nói:

            - Trước hết, để tôi nói với ông thế này. Tôi sẽ đưa Kumiko về, nhưng việc ấy tự tôi sẽ làm, không cần Wataya Noboru giúp. Tôi không cần hắn giúp. Có một điều ông nói đúng: tôi không ưa Wataya Noboru. Dù vậy, như ông nói, đây không phải là chuyện ưa hay không ưa. Vấn đề còn hơn thế. Tôi không chỉ không ưa Wataya Noboru, tôi còn không thể chấp nhận ngay chính sự tồn tại của hắn. Vì vậy sẽ không có chuyện dàn xếp gì với hắn hết. Ông làm ơn truyền đạt lại với hắn như thế. Và đừng bao giờ trở lại căn nhà này mà không xin phép một lần nữa. Đây là nhà của tôi, chứ không phải tiền sảnh khách sạn hay ga tàu điện.

            Ushikawa nheo nheo mắt nhìn tôi từ dưới cặp kính. Mắt của y vẫn bất động. Cũng như trước, chúng hoàn toàn vô cảm. Không phải chúng hoàn toàn không biểu hiện cảm xúc gì. Nhưng ở đó chẳng có gì khác ngoài một cái gì đó tạm thời được nặn ra dành riêng cho tình huống này. Ushikawa giơ lòng bàn tay phải to một cách mất cân đối lên như để kiểm tra xem có mưa không.

            - Tôi hoàn toàn hiểu. – Y nói. – Ngay từ đầu tôi đã biết là không dễ mà, nên tôi không ngạc nhiên trước câu trả lời của ông. Ngoài ra, tôi khó mà ngạc nhiên vì chuyện gì lắm. Tôi hiểu ông, và tôi thấy vui rằng mọi chuyện được nói ra một cách thẳng thắn thế này, không “rằng thì là mà” gì hết, chỉ một tiếng “có” hoặc “không”, đơn giản. Vậy dễ cho mọi người. Loại bồ câu đưa thư đần độn như tôi sợ nhất là những câu trả lời vòng vo tam quốc, chẳng biết là đen hay trắng nữa! Trên đời thiếu gì khối những trường hợp như vậy! Chả phải tôi than phiền đâu, nhưng ngày nào tôi cũng gặp toàn những vị trả lời cứ như đánh đố nhau. Làm thứ việc này tổn thọ lắm, phải nói với ông thế. Ông có hiểu ý tôi không hở ông Okada? Ông lúc nào cũng hoài nghi, lúc nào cũng cố lần ra những động cơ thầm kín của người ta, chẳng bao giờ dám tin vào những gì rõ ràng, đơn giản. Kinh khủng lắm, ông Okada ạ, thật đấy.

            Thế thì được, ông Okada à, tôi sẽ cho Tiến sĩ biết ông đã có một câu trả lời rõ ràng, dứt khoát. Nhưng ông đừng mong mọi chuyện tới đây là xong. Ông có thể muốn chấm dứt chuyện này đi, nhưng không đơn giản vậy đâu. Chắc hẳn tôi sẽ còn phải tới gặp ông nữa. Tôi lấy làm tiếc buộc ông phải dây dưa với một thằng lùn xấu xí nhếch nhác thế này, nhưng xin ông hãy cố làm quen ít nhất là với sự hiện hữu của tôi. Tôi không có ác cảm cá nhân nào với ông cả, ông Okada ạ. Thật đấy. Nhưng tạm thời, dù ông có muốn hay không, ông sẽ không dễ dàng gạt bỏ tôi đâu. Nói thế nghe hơi lạ, nhưng ông hãy cố nghĩ về tôi như thế. Tuy nhiên, tôi có thể hứa với ông một điều. Tôi sẽ không tự tiện vào nhà ông như vậy nữa. Ông nói đúng lắm: cư xử như vậy không nên. Ôi cha, lẽ ra tôi phải quỳ xuống xin ông cho vào mới phải chứ. Lần này tôi không có cách nào khác, xin ông hiểu cho. Đâu phải khi nào tôi cũng trơ tráo như vậy. Ngược lại với bề ngoài, tôi là một người bình thường. Từ đây trở đi, tôi sẽ làm như mọi người là gọi điện thoại trước. Thế là ổn chứ, phải không? Tôi sẽ gọi một lần, gác máy rồi lại gọi nữa. Bằng cách đó thì ông sẽ biết đó là tôi gọi đấy, và ông có thể tự nhủ: “Ồ, lại cái thằng đần Ushikawa đây mà” khi nhấc máy. Nhưng xin ông hãy nhấc máy. Bằng không, tôi sẽ lại chẳng có cách nào khác hơn là tự tiện vào. Cá nhân tôi đâu muốn làm vậy, nhưng đã ăn lương thì phải vẫy đuôi thôi, thành thử khi sếp bảo “Làm đi!” thì tôi phải cố làm cho bằng được. Ông hiểu mà.

            Tôi chẳng nói gì. Ushikawa dụi mẫu thuốc còn lại vào đáy cái vỏ hộp thức ăn mèo, đoạn liếc đồng hồ đeo tay như thể chợt nhớ ra chuyện gì.

            - Ôi cha mẹ ơi, muộn quá rồi! Trước là xông bừa vào nhà, sau đó nói đủ thứ chuyện trên trời dưới biển với ông, rồi lại uống bia của ông nữa. Ông thứ lỗi cho nhé. Như tôi đã nói trước đây, ở nhà chẳng có ai đợi tôi về cả, thành thử mỗi khi gặp người cùng nói chuyện được thì tôi có thể cà kê tới sáng. Buồn quá phải không ông? Tôi phải nói điều này, ông Okada ạ, sống một thân một mình thì không lâu được đâu. Thiên hạ nói thế nào ấy nhỉ? “Không ai là một hòn đảo cả”(9). Hay là “Nhàn cư vi bất thiện”.

            Ushikawa phủi phủi vài hạt bụi tưởng tượng bám trên đùi rồi đứng dậy.

            - Không cần tiễn tôi đâu, - y nói. – Tôi đã tự vào đây thì cũng có thế một mình ra về được. Tôi sẽ nhớ khóa cửa. Tuy nhiên, xin có lời cuối khuyên ông, ông Okada ạ, mặc dù có thể ông không muốn nghe. Trên đời này có những chuyện tốt nhất là không nên biết. Dĩ nhiên, đó cũng chính là những chuyện người ta muốn biết hơn cả. Lạ thật! Dĩ nhiên, tôi chỉ nói chung chung thế thôi… Không biết khi nào chúng ta sẽ gặp lại nhau? Mong rằng tới khi đó mọi chuyện sẽ ổn hơn. Thôi nhé, chúc ngủ ngon.

            * * *

            Mưa vẫn rơi lâm thâm suốt cả đêm, mãi gần rạng sáng mới ngớt, nhưng cái bóng dáng nhớp nháp của gã đàn ông bé nhỏ kỳ quặc cùng với mùi thuốc lá không lọc của y cứ nhằng nhẵng trong nhà như hơi ẩm mãi không sao hết được.

            ---------------------------

            6. Anh em Osmond: một ban nhạc lừng danh của Mỹ, khởi nghiệp vào đầu thập niên 1969 – ND.

            7. Ushikawa, viết bằng Hán tự (Kanji) là Ngưu Hà – ND.

            8. Okada, viết bằng Hán tự (Kanji) là Cương Điền - ND.

            9. “No man is a island,” một câu trong bài thơ nổi tiếng của thi sĩ – nhà truyền học người Anh John Donne (1572-1631), hàm ý không một người nào có thể sống hoàn toàn tách biệt với những người khác. Mỗi người là một mảnh đất của lục địa, mỗi người đều có những mối liên kết với những người khác, số phận của anh ta luôn gắn liền với số phận của cái toàn thể - ND.

14

            Ngôn ngữ cử chỉ kỳ lạ của Quế

            *

            Món quà âm nhạc

            - Quế vĩnh viễn ngừng nói ngay trước sinh nhật lần thứ sáu, - Nhục đậu khấu nói với tôi. - Lẽ ra năm ấy nó phải vào học tiểu học. Hoàn toàn đột ngột, vào tháng Hai năm ấy, nó ngừng nói. Cũng lạ, mãi đến tối vợ chồng tôi mới nhận ra rằng suốt cả ngày nó không nói một tiếng nào.

            Thật ra nó vẫn là đứa ít lời, nhưng dù sao vẫn có nói năng. Khi nhận ra điều đó, tôi đã làm hết cách để cho nó nói. Tôi trò chuyện với nó, tôi lay nó; song vô ích. Nó cứ im như đá. Tôi không biết đó là nó đột nhiên mất khả năng nói hay là nó tự quyết định sẽ không nói nữa. Đến giờ tôi vẫn không biết. Nhưng từ đó đến nay nó không hề nói thêm một tiếng nào, thậm chí không hề phát ra một âm thanh nào. Dù có đau nó cũng không kêu la, dù có bị cù nó cũng không cười.

            Nhục đậu khấu đưa con đến nhiều bác sĩ chuyên khoa tai mũi họng, nhưng không ai xác định được nguyên nhân. Họ chỉ có thể nói đó không phải nguyên nhân về thể lý. Khả năng nghe của Quế vẫn tốt, nhưng nó không nói được. Tất cả bác sĩ đều kết luận, căn nguyên là ở tâm lý. Nhục đậu khấu liền đưa Quế đến một người bạn là bác sĩ tâm lý, nhưng ông này cũng không xác định được nguyên nhân tình trạng im lặng hoàn toàn của Quế. Ông ta làm kiểm tra IQ nhưng không thấy có vấn đề gì. Kết quả lại còn cho thấy Quế có chỉ số khả năng trí tuệ cao khác thường. Bác sĩ cũng không tìm được bằng chứng nào cho thấy có vấn đề về cảm xúc, “Cậu ấy có phải chịu cú sốc nào không? – bác sĩ hỏi Nhục đậu khấu, - Cố nghĩ xem. Liệu nó có chứng kiến một cái gì bất thường hay bị đánh đập ở nhà không?” Nhưng Nhục đậu khấu không nghĩ ra được gì. Mới ngày hôm trước mọi việc hoàn toàn bình thường: con trai bà ăn cơm bình thường, nói chuyện bình thường với bà, tới giờ ngủ thì lên giường ngủ ngon lành. Thế mà sáng hôm sau nó đã chìm sâu vào thế giới câm lặng. Ở nhà không có vấn đề gì, chú bé lớn lên với sự trông nom chu đáo của Nhục đậu khấu và bà ngoại, cả hai người chưa hề một lần nào giơ tay lên đét chú. Bác sĩ kết luận điều duy nhất họ có thể làm là quan sát chú, hy vọng rằng sẽ có thay đổi nào đó. Chừng nào còn chưa biết nguyên nhân thì không có cách gì điều trị được. Nhục đậu khấu cần đưa Quế đến bác sĩ mỗi tuần một lần, có thể theo thời gian sẽ khả dĩ lần ra được chuyện gì đã xảy ra. Có thể chú bé sẽ tự nhiên nói trở lại được, cũng như người nằm mơ thức dậy. Chỉ còn cách đợi mà thôi. Đúng là chú bé không nói, nhưng ngoài chuyện đó ra thì mọi thứ đều ổn.

            Nhưng dù họ đợi bao lâu, Quế chẳng bao giờ còn nổi lên bề mặt cái đại dương im lặng sâu thẳm kia nữa.

            * * *

            Đúng 9 giờ sáng, với tiếng u u nho nhỏ của động cơ chạy điện, cổng trước bắt đầu mở vào phía trong, chiếc Mercedes-Benz 500SEl của Quế chạy vào. Ăngten điện thoại của xe thòi lên từ cửa kính sau như một cái xúc tu mới đâm ra. Tôi quan sát từ khoảng hở giữa các bức rèm. Chiếc xe nom như một loài cá di trú khổng lồ không sợ một cái gì. Những lốp xe mới cáu màu đen im lìm vẽ một đường cong lên bề mặt bê tông rồi dừng lại đúng chỗ đã định. Sáng nào chúng cũng vẽ đúng một đường cong như thế và dừng lại đúng chỗ như thế, có xê xích thì cũng không quá năm phân.

            Tôi đang uống chỗ cà phê tự pha trước đấy ít phút. Mưa đã tạnh, nhưng mây xám phủ đầy trời, mặt đất vẫn còn đen, lạnh và ướt át. Lũ chim vừa bay tới bay lui tìm sâu trên mặt đất vừa cất tiếng kêu lanh lảnh. Một chút sau cửa xe phía người lái bật mở và Quế bước ra, đeo kính râm. Chăm chú nhình quanh một lượt xong, anh ta tháo kính nhét vào túi ngực rồi đóng cửa xe. Ở loại xe Mercedes cỡ lớn này, then cửa khi đóng lại phát ra một âm thanh khác với những cửa xe khác. Với tôi, âm thanh này đánh dấu một sự khởi đầu một ngày mới ở Dinh.

            Suốt từ sáng tới giờ tôi nghĩ mãi về cuộc viếng thăm của Ushikawa đêm qua, tự hỏi không biết có nên cho Quế biết rằng Ushikawa được Wataya Noburo cử tới để yêu cầu tôi ngưng ngay mọi liên hệ với cái nhà này. Tuy nhiên, cuối cùng tôi quyết định không kể với Quế, ít nhất là tạm thời. Đây là chuyện riêng giữa tôi với Wataya Noburo, không cần người thứ ba dây vào.

            Như mọi khi, Quế ăn mặc chải chuốt, vận com lê. Toàn bộ quần áo của Quế đều được may đo với chất lượng tuyệt hảo, vừa như in. Tuy có sự bảo thủ về kiểu dáng, nhưng khi áo quần đó ở trên người Quế thì lại trông thật trẻ trung, như có một phép màu biến chúng thành thứ thời trang mới nhất.

            Anh ta đeo một chiếc cà vạt mới, dĩ nhiên, để hợp với bộ com lê ngày hôm đó. Sơ mi và giày của anh ta cũng khác. Mẹ anh, Nhục đậu khấu, đã chọn mua từng thứ một cho anh ta, cũng như mọi khi. Quần áo và đôi giày anh ta, cũng như chiếc Mercedes anh ta lái, tịnh không có một hạt bụi. Khi Quế xuất hiện vào mỗi sáng, anh ta luôn làm tôi thấy khâm phục, thậm chí có thể nói là cảm động. Bản thể nào có thể ẩn dưới cái vẻ bề ngoài hoàn hảo kia?

            * * *

            Quế lấy hai túi giấy đựng đầy thức ăn và những thứ cần thiết khác ra khỏi thùng xe rồi xách bằng hai tay mà bước vào Dinh. Trong tay anh ta, ngay những vật tầm thường như túi xách bằng giấy từ siêu thị trong cũng lịch lãm và nghệ sĩ. Có thể là do anh ta xách chúng bằng một cách đặc biệt nào đó. Cũng có thể là bởi một cái gì sâu xa hơn thế. Cả khuôn mặt anh ta ngời sáng khi trông thấy tôi. Đó là một nụ cười tuyệt diệu, như thể anh ta vừa bước ra một vùng trống lộng đầy ánh sáng sau khi đi bộ một lúc dài trong cánh rừng sâu. “Xin chào”, tôi nói. “Xin chào”, anh ta không nói với tôi, mặc dù môi mấp máy. Anh ta lấy các thứ ra khỏi túi rồi sắp xếp đâu ra đấy vào tủ lạnh như một đứa trẻ thông minh đang nạp trí thức vừa học được vào trí nhớ. Những thứ còn lại anh ta xếp vào trong chạn. Rồi anh ta dùng một tách cà phê với tôi. Chúng tôi ngồi ở hai bên nhà bếp, như Kumiko và tôi vẫn ngồi ngày trước.

            * * *

            Quế chưa hề đi học ở trường, - Nhục đậu khấu nói. - Trường học bình thường thì không nhận một đứa trẻ không nói được, còn gửi nó tới trường toàn trẻ khuyết tật thì tôi cảm thấy không đúng. Tôi biết, nguyên nhân khiến nó không thể nói - dẫu là gì đi nữa – khác với nguyên nhân của những trẻ khác. Ngoài ra, nó lại còn chưa bao giờ tỏ ra thích đi học. Dường như nó chỉ thích nhất là được tự do thoải mái ở nhà, đọc sách, nghe nhạc cổ điển hay chơi ngoài vườn với con chó nhà chúng tôi nuôi hồi đó. Thỉnh thoảng nó cũng ra ngoài phố chơi, nhưng nó không tỏ ra hào hứng lắm, bởi nó không thích giao du với những trẻ khác cùng tuổi.

            Nhục đậu khấu học ngôn ngữ dấu hiệu dành cho người câm điếc để nói chuyện với Quế. Khi nào ngôn ngữ dấu hiệu không đủ thì họ dùng bút đàm. Tuy nhiên, một ngày kia Nhục đậu khấu nhận ra rằng bà và con trai có thể truyền đạt cảm xúc của mình cho nhau một cách hoàn hảo mà không phải viện tới những phương pháp gián tiếp đó. Chỉ cần một cử chỉ nhỏ hay một thay đổi trên nét mặt là bà biết đích xác Quế đang nghĩ gì, cần gì. Từ đó trở đi bà không còn bận tâm về chuyện Quế không nói được. Rõ ràng điều đó không cản trở đến việc trao đổi tâm linh giữa hai mẹ con. Dĩ nhiên, việc không thể trò chuyện với nhau bằng ngôn ngữ nói đôi khi cũng khiến bà cảm thấy bất tiện về mặt vật lý, nhưng chẳng qua chỉ là bất tiện thôi, không hơn, và theo nghĩa nào đó, chính sự bất tiện này đã làm sự giao tiếp giữa hai người được nâng lên một cấp độ mới.

            Những lúc nghỉ việc, Nhục đậu khấu thường dạy cho Quế đọc, viết và học số học. Nhưng ngoài cái đó ra, bà không có gì phải dạy nhiều. Cậu yêu sách và thường thu nhận được từ sách những gì muốn biết. Bà là nguời chọn sách cho cậu thì đúng hơn là thầy dạy cậu. Cậu yêu âm nhạc và muốn chơi dương cầm, nhưng sau vài tháng học chạy ngón ở cấp căn bản với một thầy dạy dương cầm chuyên nghiệp, cậu chỉ cần mua sách giáo khoa và băng nhạc rồi cứ thế tự trau dồi chi đến khi đạt tới trình độ kỹ thuật rất cao so với lứa tuổi. Cậu thích chơi Bach và Mozart, nói chung là chỉ chơi nhạc của các nhạc sĩ thuộc trường phái Lãng mạn, ngoài ra thì cậu không quan tâm, trừ Poulenc và Bartok. Suốt sáu năm liền cậu tập trung vào âm nhạc và đọc sách, song từ khi đến độ tuổi mà như người khác là vào trung học, cậu lại chuyển sang học các thứ ngôn ngữ, bắt đầu từ tiếng Anh rồi tiếng Pháp. Cả tiếng này lẫn tiếng kia cậu đều tự học, thế mà chỉ cần sáu tháng là đã có thể đọc những cuốn sách đơn giản. Dĩ nhiên cậu không có ý định học để đàm thoại; cậu chỉ cần học để đọc được sách. Một việc khác cậu cũng thích là tẩn mẩn mày mò những cỗ máy phức tạp. Cậu mua cả mộ bộ dụng cụ chuyên dùng rồi tự chế ra máy thu thanh lẫn loa phóng âm, lại thích tháo rời đồng hồ ra rồi lắp lại.

            Mọi người quanh cậu – ý là cha mẹ và bà ngoại cậu - trở nên quen với việc cậu không bao giờ nói và không còn nghĩ đó là chuyện bất thường hay phi tự nhiên. Sau vài năm, Nhục đậu khấu thôi không đưa cậu đến bác sĩ tâm lý nữa. Những cuộc gặp bác sĩ hàng tuần chẳng giúp được gì cho các “triệu chứng” của Quế, và đúng như các bác sĩ đã nói từ đầu, ngoài chuyện không nói được ra thì mọi thứ ở cậu đều ổn. Trên thực tế, cậu gần như là một đứa bé hoàn hảo. Nhục đậu khấu thậm chí không nhớ nổi đã có lần nào phải bắt buộc cậu làm việc gì hoặc la rầy cậu vì một việc nào đó lẽ ra cậu không nên làm. Cậu luôn tự quyết định mình phải làm gì và hễ đã quyết định là làm tới nơi tới chốn, không chê vào đâu được, theo cách của riêng mình. Cậu khác biệt với những trẻ khác - những trẻ bình thường đến nỗi so sánh cậu với chúng là vô nghĩa. Năm cậu mười hai tuổi thì bà ngoại mất (vì sự kiện này cậu đã câm lặng khóc suốt mấy ngày liền), sau đó cậu tự đảm nhận việc nấu nướng, giặt giũ và lau chùi nhà cửa khi mẹ đi làm. Sau khi mẹ mất, Nhục đậu khấu muốn thuê người giúp việc, nhưng Quế khăng khăng từ chối. Cậu không muốn cho người lạ vào phá hỏng nền nếp trong nhà. Từ đó trở đi chính Quế là người cáng đáng phần lớn việc nhà; cậu làm việc đó với sự chính xác và kỷ luật cao độ.

            * * *

            Quế nói chuyện với tôi bằng hai bàn tay. Anh thừa hưởng của mẹ những ngón tay thanh mảnh, hình dáng đẹp, dài, nhưng không dài quá. Anh đưa tay lên gần mặt, di động các ngón tay không chút ngập ngừng, và như những sinh vật sống đầy nhạy cảm, chúng truyền đạt những điều anh cần nói với tôi.

            - Lúc 2 giờ chiều nay sẽ có một vị khách tới. Hôm nay chỉ có thế. Từ giờ tới khi bà ta đến anh không phải làm gì cả. Tôi sẽ ở đây làm nốt việc trong khoảng một tiếng nữa, sau đó tôi sẽ về, đến 2 giờ sẽ đi đón bà ta đưa về đây. Dự báo thời tiết nói cả ngày hôm nay trời nhiều mây. Anh có thể xuống giếng trong khi ngoài trời còn sáng, vậy sẽ đỡ hại mắt.

            Như Nhục đậu khấu đã nói, tôi hiểu được dễ dàng những lời mà các ngón tay của Quế truyền đạt. Tôi chẳng biết gì về ngôn ngữ dấu hiệu, nhưng tôi dễ dàng theo sát những cử động phức tạp và uyển chuyển của anh ta. Có thể chính nhờ kỹ năng điêu luyện của Quế nên ý nghĩa điều anh muốn nói tự nhiên trở thành sáng rõ, cũng như một vở kịch diễn bằng tiếng nuớc ngoài vẫn có thể truyền cảm được. Mà cũng có thể tôi chỉ có cảm tuởng mình đang quan sát các ngón tay Quế di động, kỳ thực thì không phải. Các ngón tay chuyển động có thể chỉ là cái mặt tiền trang trí bên ngoài, còn thực chất, tôi đang quan sát một mặt nào đó của toà nhà ở đằng sau, có điều tự tôi không biết. Mỗi sáng, khi ngồi trò chuyện bên bàn bếp, tôi cố nhìn cho ra ranh giới giữa mặt tiền với cái đằng sau nó song chẳng bao giờ thấy được, bởi đường phân tuyến đánh dấu cái ranh giới kia không ngừng chuyển động và thay hình đổi dạng.

            Sau cuộc trò chuyện ngắn – hay cuộc trao đổi ngắn - với tôi, Quế thường cởi com lê treo lên giá, dém cà vạt vào bên trong sơ mi rồi bắt tay quét dọn hay nấu nướng. Trong khi làm việc, anh thường mở máy stereo nghe nhạc. Tuần này anh chẳng nghe gì khác ngoài nhạc thánh lễ của Rossini, tuần sau anh chỉ nghe các bản concerto dành cho nhạc cụ hơi của Vivaldi, nghe đi nghe lại nhiều lần đến nỗi rốt cuộc tôi thuộc lòng hết các giai điệu.

            Quế làm mọi việc cực kỳ khéo léo, không một động tác thừa. Ban đầu tôi hay đề nghị giúp một tay, nhưng anh chỉ mỉm cười lắc đầu.

            Quan sát anh làm việc này việc nọ, tôi dần dần đi tới kết luận rằng muốn mọi việc được trơn tru thì tốt nhất cứ để một mình Quế làm hết. sau đó tôi đâm có thói quen tránh làm phiền anh ta. Trong khi anh ta làm các việc vặt buổi sáng, tôi thường ngồi ở ghế sofa trong phòng “chỉnh lý” mà đọc sách.

            Gọi là Dinh song thật ra căn nhà không rộng, đồ đạc rất ít, chỉ những thứ cần thiết nhất. Không có ai thường xuyên sống ở đây, nên căn nhà chẳng bao giờ bẩn hay bừa bộn lắm. Thế nhưng ngày nào Quế cũng hút bụi từng xăngtimét một, lau bụi bàn ghế, kệ sách, chùi khung cửa sổ, dùng sáp đánh bóng chiếc bàn, phủi bụi các ngọn đèn, cất vật này vật nọ về chỗ cũ. Anh thường sắp lại bát đĩa trong tủ đựng đồ sứ cho ngay ngắn, xếp các bình, lọ… theo kích thước, kéo lại cho ngay mép khăn trải bàn và khăn mặt, chỉnh sao cho tay cầm tất cả các tách cà phê xoay về cùng một phía, sửa lại vị trí bánh xà phòng trong buồng tắm, thay khăn mặt mới dù những tấm khăn cũ chưa ai dùng. Rồi anh ta tập trung toàn bộ rác vào một túi duy nhất, buộc lại mang ra ngoài. Anh thuờng chỉnh giờ trên đồng hồ treo tường theo đúng đồng hồ đeo tay của mình (cái đồng hồ mà tôi dám cá không bao giờ sai quá ba giây). Nếu trong khi lau chùi Quế bắt gặp bất cứ vật gì nằm sai chỗ dù chỉ một tí, anh ta đều trả nó về chỗ cũ với những động tác chính xác và thanh lịch. Có lần tôi thử kéo một chiếc đồng hồ trên giá lệch chừng một phân về bên trái, thế là y như rằng sáng hôm sau anh ta chỉnh nó về bên phải đúng một phân.

            Mọi hành vi đó của Quế không hề cho ta ấn tượng anh là người bị lệch lạc về thần kinh. Dường như anh ta chỉ đang làm những việc rất tự nhiên và “đúng đắn”. Có lẽ trong đầu Quế có một hình dung sống động về việc thế giới này – hay ít nhất là cái thế giới nho nhỏ ở đây - cần phải như thế nào, và đối với anh ta, việc duy trì thế giới trong tình trạng ở đó cũng tự nhiên như việc hít thở vậy. Có lẽ anh ta tự thấy mình chỉ đang góp một bàn tay nhỏ nhoi khi vạn vật đều mang một khát vọng nội tại mãnh liệt nhằm trở về hình dáng ban đầu.

            Quế nấu nướng thức ăn rồi cất vào tủ lạnh, sau đó chỉ cho tôi biết bữa trưa sẽ ăn những gì. Tôi cảm ơn anh ta. Sau đó anh ta đứng trước gương, kéo thẳng cà vạt, kiểm tra sơ mi của mình rồi mặc com lê vào. Cuối cùng, miệng khẽ mỉm cuời, anh ta mấp máy môi để nói “Tạm biệt”, nhìn quanh một lần nữa rồi đi ra ngoài qua cửa trước. Ngồi sau tay lái chiếc Mercedes-Benz, anh ta cho một băng nhạc cổ điển vào máy cát xét trên xe, ấn nút điều khiển từ xa để mở cổng trước rồi lái xe đi, lại vẽ đúng cái vòng cung mà anh ta đã vẽ khi đến. Xe vừa qua, cổng liền đóng lại. Cũng như trước, tôi quan sát qua khe hở nơi rèm cửa, tay cầm cốc cà phê. Lũ chim không còn lắm mồm như khi Quế đến. Tôi thấy mây đen đã tản mác và bị gió đẩy đi, nhưng bên trên chúng lại còn một tầng mây khác dày hơn nữa.

            * * *

            Tôi ngồi bên bàn bếp, đặt cốc xuống rồi nhìn lại căn phòng nơi bàn tay của Quế đã để lại một cảm giác thật đẹp đẽ về trật tự. Nó trông như một bức tranh tĩnh vật lớn ba chiều, sự tĩnh lặng của nó chỉ bị quấy rầy bởi tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ. Kim đồng hồ chỉ 10 giờ 20. Nhìn chiếc ghế mà Quế ngồi lúc nãy, tôi lại tự hỏi liệu tôi không kể với họ về cuộc viếng thăm của Ushikawa đêm qua thì liệu có đúng không. Liệu việc đó có phương hại đến cái gần như là lòng tin cậy đang có giữa Quế và tôi hay Nhục đậu khấu và tôi?

            Dù sao, tôi vẫn muốn đợi thêm ít lâu để xem mọi chuyện sẽ tiến triển ra sao. Trong những việc tôi làm có cái gì khiến Wataya Noboru lo ngay ngáy đến vậy? Tôi đang giẫm lên cái đuôi nào của hắn? Hắn đang định dùng tới những biện pháp đối phó nào? Nếu tìm được lời đáp cho những câu hỏi đó, tôi sẽ có thể nhích gần hơn một chút đến bí mật của hắn. Và hệ quả là tôi sẽ có thể tiến gần đến chỗ biết Kumiko đang ở đâu.

            Khi kim đồng hồ sắp chuyển sang 11 giờ (cái đồng hồ mà Quế đã dịch sang phải chừng một phân về chỗ cũ), tôi ra ngoài vườn để chui xuống giếng.

            * * *

            - Từ khi Quế còn nhỏ tôi đã kể cho nó nghe chuyện chiếc tàu ngầm và vườn thú - về những gì tôi đã thấy từ trên boong chiếc tàu vận tải vào tháng Tám năm 1945, và về chuyện lính Nhật đã bắn các con thú trong vườn thú của cha tôi cùng lúc khi chiếc tàu ngầm Mỹ đang nhắm đại bác vào chúng tôi và sắp sửa đánh đắm tàu chúng tôi. Đã lâu lắm rồi tôi không kể với ai về chuyện ấy, chỉ giữ cho mình. Tôi đã im lìm lang thang qua cái mê cung tranh tối tranh sáng giữa ảo tưởng và thực tại. Tuy nhiên, khi Quế ra đời, tôi chợt hiểu nó là người duy nhất mà tôi có thể kể chuyện của mình. Thế là ngay từ khi nó chưa hiểu được lời nói, tôi đã bắt đầu kể cho nó, kể đi kể lại, gần như thì thầm, về tất cả những gì tôi còn nhớ, và trong khi tôi kể, những cảnh tượng đó lại trỗi dậy trước mắt tôi, bằng những sắc màu sống động, như thể tôi vừa giở một cái nắp cho chúng bật tuôn ra.

            Khi Quế bắt đầu hiểu ngôn ngữ, nó cứ đòi tôi kể lại chuyện ấy mãi. Tôi phải kể cho nó hàng một trăm, hai trăm, năm trăm lần, nhưng không phải lần nào cũng lặp đi lặp lại từng ấy thứ. Mỗi lần tôi kể cho Quế nghe, nó lại đòi tôi kể một câu chuyện nhỏ khác nằm trong câu chuyện chính. Nó muốn biết từng cảnh một trên cùng một cái cây. Tôi thường đi theo nhành mà nó yêu cầu, kể cho nó câu chuyện nằm trên nhành đó. Và thế là câu chuyện cứ lớn lên mãi, trưởng thành lên mãi…

            Bằng cách đó hai mẹ con tôi tạo ra một hệ thần thoại riêng của mình. Anh có hiểu ý tôi không? Ngày nào mẹ con tôi cũng kể cho nhau nghe câu chuyện, cứ như là bị ám. Mẹ con tôi nói với nhau hàng giờ về tên các con vật trong vườn thú, về bộ lông ónh ánh của chúng hay màu mắt chúng, về đủ thứ mùi lơ lửng trong không khí, về tên tuổi và khuôn mặt từng người lính, họ chào đời ra sao, thời thơ ấu thế nào, họ có những khẩu súng gì, phải vác đạn nặng ra sao, về những nỗi sợ và cơn khát của họ, về hình dáng những đám mây trên bầu trời…

            Tôi nhìn thấy hết sức rõ ràng tất cả những màu sắc và hình dáng đó khi kể câu chuyện cho Quế, tôi có thể chuyển những gì tôi thấy thành ngôn từ - những từ chính xác nhất tôi cần – và truyền đạt cho nó. Cứ thế mãi không ngừng. Luôn luôn có những chi tiết mới có thể đưa vào thêm, câu chuyện cứ ngày càng sâu hơn, ngày càng rộng ra mãi...

            Nhục đậu khấu mỉm cười khi nói về những ngày xa xưa đó. Trước đây tôi chưa hề thấy một nụ cười tự nhiên đến vậy trên gương mặt bà.

            - Nhưng rồi một ngày kia mọi chuyện chấm dứt, - bà nói. - Buổi sáng tháng Hai đó, khi Quế ngừng nói, nó cũng thôi chia sẻ những câu chuyện với tôi.

            Nhục đậu khấu ngừng lời để châm một điếu thuốc.

            - Nay thì tôi biết điều gì đã xảy ra. Lời lẽ của nó đã mất hút trong cái mê cung đó, bị nuốt chửng bởi cái thế giới những câu chuyện đó. Một cái gì đó từ những câu chuyện bước ra đã giật mất lưỡi nó. Và mấy năm sau, cũng cái đó đã giết chết chồng tôi.

            * * *

            Gió chuyển mạnh hơn hồi sáng, đùn từng đám mây xám nặng nề về phía đông. Những đám mây trông như những khách lữ hành câm lặng lên đường đến chỗ tận cùng thế giới. Giữa những cành cây trụi lá ngoài vườn, gió thi thoảng lại cất tiếng rền rĩ ngắn, không lời. Tôi đứng bên cái giếng nhìn lên bầu trời. Ở nơi nào đó hẳn Kumiko cũng đang nhìn lên những đám mây. Ý nghĩ đó tự dưng nảy ra trong đầu tôi, chẳng vì cớ gì. Đó chỉ là cảm giác của tôi thôi.

            Tôi trèo thang xuống dưới đáy giếng rồi kéo dây thừng đậy nắp giếng lại. Tôi hít thở sâu hai ba lần, siết chặt gậy trong tay rồi nhẹ nhàng ngồi xuống trong bóng tối. Bóng tối hoàn toàn. Phải, đó là cái quan trọng nhất. Cái bóng tối tinh tuyền này chính là mấu chốt. Nó như một chương trình dạy nấu ăn trên truyền hình: “ Mọi người hiểu rồi chứ? Bí quyết của công thức này là bóng tối hoàn toàn. Nhớ phải dùng thứ càng dày càng tốt.” Và cả cây gậy chắc khỏe nhất mà ta có thể nắm trong tay, tôi nghĩ và mỉm cười một thoáng trong bóng tối.

            Tôi cảm thấy vết hầm trên má bắt đầu ấm lên. Nó cho tôi biết rằng tôi đang nhích gần hơn một chút đến cốt lõi của sự vật. Tôi nhắm mắt lại. Trong tai tôi vẫn còn văng vẳng những điệu nhạc mà Quế đã nghe đi nghe lại sáng nay trong khi làm việc. Đó là Món quà âm nhạc của Bach, vẫn vang vang trong đầu tôi như tiếng rì rầm không dứt của đám đông trong một thính phòng có trần cao. Nhưng rồi im lặng trùm xuống và bắt đầu đào vào trong những nếp gấp của não tôi, từng nếp một, như con côn trùng đẻ trứng. Tôi mở mắt rồi lại nhắm. Bóng tối bên trong và bên ngoài nhập vào nhau, và tôi bắt đầu rời khỏi chính mình, rời khỏi cái vỏ ngoài vốn chứa đựng tôi.

            Cũng như mọi khi.

15

            Đường chắc tới đây là hết

            (Quan điểm của Kasahara May: Phần 3)

             Chào chim vặn dây cót!

            Lần trước em đã kể tới chỗ em đang làm việc ở nhà máy làm tóc giả trên vùng núi non xa xôi cùng với nhiều cô gái dân địa phương. Thư này em kể tiếp chuyện ấy.

            Gần đây em thật sự băn khoăn khi thấy thật là lạ, người ta cứ làm việc kiểu này quần quật từ sáng đến tối, ngày này qua ngày khác! Có bao giờ anh thấy điều đó lạ không? Ý em là, ở đây em chỉ có mỗi một việc là làm những gì sếp bảo, không cần nghĩ ngợi gì hết. Chả khác gì trước mỗi ngày làm việc em đem bộ óc mình cất vào tủ, đến cuối ngày lại lấy ra mang về nhà. Mỗi ngày em ngồi bảy tiếng ở bàn làm việc, gắn từng sợi tóc lên bộ tóc giả, rồi ăn tối trong căng tin, đi tắm, xong thì dĩ nhiên là em phải đi ngủ như bất cứ ai, vì vậy mỗi ngày hai mươi bốn tiếng, thời gian rảnh hoàn toàn chẳng còn gì. Và quá mệt vì công việc nên có bao nhiêu “thời gian rảnh” là em toàn nằm trên giường như giữa đám sương mù vậy. Em không có thì giờ ngồi nghĩ về bất cứ chuyện gì. Dĩ nhiên cuối tuần thì em không phải làm việc, nhưng lại phải lau chùi, giặt giũ, thỉnh thoảng đi lên phố, ngoảnh qua ngoảnh lại thì mấy ngày nghỉ cuối tuần đã qua vèo mất. Có lần em quyết định sẽ ghi nhật ký, nhưng chẳng có gì để viết, nên chỉ sau một tuần là em thôi. Cứ thế, em chỉ làm đi làm lại từng ấy việc, ngày này qua ngày khác.

            Thế nhưng - thế nhưng – em hoàn toàn chẳng băn khoăn gì chuyện mình cứ làm làm kiểu này, như một con ốc nhỏ xíu trong cỗ máy. Em không hề cảm thấy mình bị tách rời khỏi đời sống. Có chăng là, đôi khi em cảm thấy, bằng cách tập trung vào công việc thế này, làm hết mình mà không nghĩ ngợi gì như con kiến, em đang tiến gần đến “cái tôi đích thực” của mình. Em không biết nói sao cho rõ... nhưng hình như chính khi không nghĩ về bản thân mình em lại có thể tiến gần hơn đến cái cốt lõi của chính mình. Chính vì vậy em mới bảo là “lạ thật”.

            Em làm việc không tiếc công tiếc sức. Chả phải khoe đâu, nhưng thậm chí em còn được gọi là “công nhân giỏi trong tháng” cơ đấy. Em đã nói anh rồi, trông em thế thôi, chứ việc gì bằng tay là em làm cừ lắm. Bọn em chia làm nhóm để làm việc, mà nhóm nào có em là y như rằng thành tích tăng. Khi xong phần việc mình, em còn giúp cả mấy đứa làm chậm nữa. Thành thử nay mọi người ai cũng biết tiếng em. Anh có tin được không? Em đây mà nổi tiếng! Nhưng dù sao, điều em muốn kể với Chim vặn dây cót là từ khi đến nhà máy này em chỉ có làm việc, làm việc, làm việc. Như con kiến. Như anh thợ rèn nhà quê. Em nói thế đã rõ chưa nhỉ?

            Dù thế nào, chỗ em đang làm việc thực sự là lạ. Nó to như nhà chứa máy bay, trần nhà cao ơi là cao, rộng mênh mông. Một trăm năm mươi đứa con gái ngồi sắp hàng làm việc ở đó. Giá mà anh thấy nhỉ! Dĩ nhiên, người ta đâu cứ phải xây một cái nhà máy to đùng như thế. Có phải bọn em sản xuất tàu ngầm hay gì gì đó đâu. Lẽ ra họ có thể chia bọn em ra thành nhiều phòng riêng biệt. Nhưng có lẽ họ cho rằng nếu cho từng ấy người cùng ngồi chung một chỗ thì sẽ làm tăng tinh thần đoàn kết chăng. Mà có thể chỉ là để các sếp dễ giám sát cả bọn cùng một lúc. Em cá là bọn họ đang áp dụng cái... gọi là gì ấy nhỉ... à, tâm lý học, với bọn em. Bọn em chia thành nhiều nhóm, ngồi quanh các bàn làm việc như người ta ngồi trong lớp học sinh vật để mổ ếch, một trong những đứa lớn tuổi hơn ngồi một đầu bàn, làm trưởng nhóm. Bọn em được phép trò chuyện trong khi làm việc – nghĩa là nói chuyện mà vẫn không ngừng tay (ngồi làm việc kiểu này mà câm như thóc suốt ngày thì có ai chịu được), nhưng nếu nói chuyện hay cười quá to hoặc quá mải chuyện thì trưởng nhóm sẽ chạy tới cau mày mà nói: “Thôi đi, Yumiko, làm việc bằng tay chứ không phải bằng mồm. Coi chừng làm chậm hơn các bạn đó”. Thành thử bọn em cứ thầm thầm thì thì với nhau như bọn trộm lúc nửa đêm vậy.

            Trong xưởng có bật nhạc. Tùy từng lúc mà nhạc này hay nhạc khác. Nếu anh Chim vặn dây cót là fan ruột của Barry Manilow hay Air Supply thì hẳn anh sẽ thích chỗ này.

            Phải mất vài hôm mới làm xong một bộ tóc giả “của em”. Dĩ nhiên là tuỳ sản phẩm thuộc hạng nào mà thời gian có khác nhau, nhưng dù thế nào thì cũng phải vài ngày mới xong một bộ. Đầu tiên là chia nền của bộ tóc ra thành từng ô, sau đó trồng tóc lần lượt vào từng ô một. Tuy nhiên đây không phải làm việc dây chuyền kiểu như nhà máy trong phim của Chaplin đâu, siết một con ốc xong thì lập tức con khác đến; ở đây mỗi bộ tóc giả đều là “của em”, một mình em làm từ đầu tới cuối. Mỗi khi xong một bộ, em những muốn ký tên mình và ghi ngày tháng vào. Nhưng dĩ nhiên làm em không làm vậy, kẻo người ta lại phát khùng lên. Dù vậy, thật dễ chịu khi biết rằng ở đâu đó trên thế giới này có một nguời đang đội bộ tóc giả do chính tay em làm. Điều đó khiến em có cảm giác... nói sao nhỉ... cảm giác gắn bó.

            Dù sao, cuộc đời vẫn thật lạ. Giá như ba năm trước ai đó bảo em: “Ba năm nữa em sẽ làm việc cùng với nhiều gái quê trong một nhà máy chuyên làm tóc giả ở miền núi”, hẳn em sẽ cười vào mặt họ. Chuyện ấy làm sao em có thể hình dung được. Mà sau đây ba năm nữa cũng vậy, ai mà biết được khi đó em sẽ làm gì. Chim vặn dây cót cũng vậy, liệu anh có biết ba năm nữa mình sẽ làm gì không? Hẳn là không. Mà nói gì tới ba năm; em dám cá bằng toàn bộ số tiền kiếm được ở đây rằng thậm chí sau đây một tháng anh cũng không biết mình sẽ làm gì nữa kia.

            Tuy vậy đám con gái quanh em đây biết rõ ba năm nữa họ sẽ ở đây. Hay ít nhất họ tưởng là họ biết. Họ nghĩ là sẽ tiết kiệm được ở đây vài năm nữa sẽ kiếm được một anh chàng kha khá, thế là đám cưới hạnh phúc.

            Những người mà họ sẽ cưới hầu hết là con cái nhà nông, những anh chàng sẽ thừa hưởng cửa hàng của bố hay làm việc ở các công ty nhỏ trong vùng. Trước đây em đã viết rằng ở vùng này thiếu trầm trọng các cô gái trẻ, thành thử người ta đến bốc các cô đi nhanh lắm. Đứa nào còn trơ khấc lại là xui đấy, thành thử ai cũng cố kiếm cho mình một anh, không anh này thì anh khác. Thế cơ mà! Thư trước em cũng nói rằng hầu hết các cô hễ lấy chồng xong là nghỉ việc. Làm việc ở nhà máy tóc giả chỉ là một khoảng độn chừng mấy năm từ khi họ tốt nghiệp phổ thông cho tới khi họ lấy chồng mà thôi, như một căn phòng mà họ bước vào, nán lại một chút rồi bỏ đi ấy.

            Thật ra công ty cũng không phản đối chuyện đó, dường như họ lại thích cứ để các cô gái làm việc chỉ vài năm rồi lấy chồng và nghỉ việc. Vậy lại tốt hơn là khác, bởi nhân công của họ cứ xoay vòng liên tục, nên họ không phải lo về lương lậu, phúc lợi, công đoàn và trăm thứ linh tinh. Công ty o bế nhiều hơn đối với các cô gái có khả năng làm trưởng nhóm, nhưng còn các cô bình thường khác thì đối với họ chỉ như hàng tiêu dùng mà thôi. Có một thoả thuận ngầm giữa công ty và các cô gái rằng khi nào lấy chồng thì họ sẽ ra đi. Vì vậy đối với bọn con gái, nếu hình dung ba năm nữa sẽ thế nào thì chỉ có hai khả năng: một là họ vừa làm việc vừa để mắt tìm một anh vừa ý, hai là họ đi lấy chồng và nghỉ việc. Đơn giản quá phải không!

            Ở đây chẳng có ai như em, tự nhủ rằng chẳng biết ba năm nữa chuyện gì sẽ xảy ra với mình. Tất cả đều làm việc siêng năng. Không ai làm quấy quá hay than vãn gì về công việc cả. Thỉnh thoảng em có nghe ai đó kêu ca về đồ ăn ở căng tin, nhưng chỉ có thế. Dĩ nhiên, công việc là công việc, nên không thể lúc nào cũng vui cười được. Mình có thể bắt nguời ta làm việc từ 9 giờ sáng đến 5 giờ chiều bởi đó là bổn phận của cô ta, mặc dù cô ta thích đi chơi hơn, nhưng theo em, hầu hết mọi người hài lòng với công việc. Chắc hẳn vì họ biết đây chỉ là một giai đoạn nhất thời bắc cầu từ thế giới này sang thế giới khác. Chính vì vậy họ muốn càng được thoải mái càng tốt trong thời gian ở đây. Nói cho cùng, với họ đây chỉ là một điểm trung chuyển thôi.

            Nhưng với em thì không. Đây hoàn toàn không phải là thời gian quá độ hay chuyển tiếp đối với em. Em hoàn toàn không biết từ đây mình sẽ đi đâu. Với em, có thể đường đến đây là hết. Anh có hiểu ý em không? Nói nghiêm khắc ra, em không vui thú gì với công việc ở đây. Tất cả những gì em làm chẳng qua là để chấp nhận công việc một cách trọn vẹn nhất. Mỗi khi làm một bộ tóc giả, em không nghĩ tới gì khác ngoài chuyện làm bộ tóc giả đó. Em vô cùng nghiêm túc, đến nỗi toàn thân em vã mồ hôi.

            Em không biết nói thế nào... nhưng gần đây em hay nghĩ về cậu trai đã chết trong tai nạn mô tô. Nói thật tình, trước đây em ít khi nghĩ tới cậu ấy. Có lẽ cú sốc do tai nạn đó đã bẻ quẹo ký ức em hay thế nào đó, bởi những gì em nhớ về cậu ấy chỉ toàn là những thứ kỳ cục tỉ như cậu ta hôi nách, cậu ta là một thằng tồ, hay mấy ngón tay cậu ta tìm cách sục sạo vào những chỗ lạ của em. Tuy nhiên, đôi lúc em lại nhớ rằng cậu ta cũng có những cái không đến nỗi. Nhất là những khi đầu óc em trống rỗng, chỉ mải miết cắm những sợi tóc lên bộ tóc giả, những ý nghĩ đó chẳng biết từ đâu cứ hiệu lên. Ồ vâng, em nghĩ, cậu ta đúng là thế. Em nghĩ chắc thời gian không trôi theo thứ tự A, B, C, D đâu, đúng không? Nó muốn đi đâu thì cứ đi nấy thôi.

            Em nói thật với anh được không hở Chim vặn dây cót? Rất thật, rất ư là thật đấy. Đôi khi em sợ ơi là sợ! Em thức dậy lúc nửa đêm trơ trụi một mình, cách xa mọi nguời hàng mấy trăm cây số, đêm tối mịt mùng, em hoàn toàn không biết tương lai mình sẽ ra sao, em sợ đến nỗi chỉ muốn thét lên. Anh có bao giờ bị như vậy không hở Chim vặn dây cót? Mỗi lần bị như vậy, em lại cố nhắc mình rằng em đang gắn bó với những cái gì đó hay ai đó. Em cố sức liệt kê tên những người đó trong đầu. Trên danh sách đó dĩ nhiên có tên anh. Chim vặn dây cót ạ. Cả con ngõ, cả cái giếng, cả cây hồng vàng và những thứ khác nữa. Cả những bộ tóc giả em làm bằngchính đôi tay mình. Cả những điều vặt vãnh em nhớ về cậu trai kia. Tất cả những điều vặt vãnh ấy (mặc dù anh Chim vặn dây cót không phải là một trong những cái vặt vãnh ấy, nhưng dù sao...) giúp em trở lại “nơi này” từng tí một. Giờ em bỗng thấy hối tiếc đã không bao giờ cho cậu bạn trai được thấy em khoả thân hay đụng đến nguời em. Hồi đó, em cương quyết không cho cậu ấy rờ tới em. Đôi khi, anh Chim vặn dây cót ạ, em thích mình sẽ là gái tân suốt đời. Thật đấy. Anh nghĩ sao nào?

            Tạm biệt nhé. Chim vặn dây cót. Mong rằng Kumiko sẽ sớm quay về.

16

            Những nhọc nhằn và gánh nặng của thế gian

            *

            Đèn thần

            Điện thoại reo lúc 9 giờ đêm. Reo một lần, ngừng rồi lại reo. Đó là Ushikawa, y đã nói sẽ dùng ám hiệu này để tôi biết là y.

            - Chào ông Okada, - giọng Ushikawa nói. – Ushikawa đây. Tôi đang ở gần nhà ông, đã định ghé sang nếu ông không phiền. Tôi biết giờ này muộn rồi, nhưng có đôi điều tôi muốn gặp ông trực tiếp để nói. Được không hở ông? Chuyện liên quan đến cô Kumiko, vì vậy tôi nghĩ ông sẽ quan tâm đấy.

            Tôi hình dung vẻ mặt của Ushikawa ở đầu dây bên kia trong khi nghe y nói. Y có một nụ cười nửa tự mãn trên mặt, môi cong lên phô hai hàm răng kinh tởm, như thể muốn nói: tôi biết, đề nghị này ông không từ chối được đâu. Đáng tiếc là, y có lý.

            * * *

            Y mất đúng mười phút để đến nhà tôi. Y vẫn mặc đúng bộ đồ cách đây ba ngày. Cũng có thể tôi nhầm, nhưng y vẫn mặc cũng thứ comple và sơ mi đó, đeo thứ cà vạt đó, tất cả đều cáu bẩn, nhăn nhúm, rộng thùng thình. Những thứ quần áo thảm hại đó trông như thể chúng buộc phải gánh chịu một phần quá lớn những nhọc nhằn và gánh nặng của cả thế gian. Nếu như bằng cách nào đó tôi có thể hóa thân thành quần áo của Ushikawa, đổi lại tôi sẽ được bảo đảm một vinh quang hiếm có ở kiếp sau, tôi vẫn sẽ không muốn làm vậy tí nào.

            Sau khi xin lỗi, Ushikawa tự lấy bia trong tủ lạnh, kiểm tra xem chai bia có đủ lạnh không rồi mới rót vào một cái cốc gần đó. Hai chúng tôi ngồi ở bàn bếp.

            - Thế này nhé, - Ushikawa nói. – Để tiết kiệm thời gian, tôi sẽ bỏ qua phần chuyện phiếm xã giao mà vào ngay việc chính. Ông muốn nói chuyện với cô Kumiko phải không ông Okada? Nói chuyện trực tiếp ấy. Chỉ hai người với nhau thôi. Tôi tin ông đã muốn điều đó lâu nay rồi. Ấy là ưu tiên số một của ông. Tôi nói đúng không?

            Tôi nghĩ một chút. Hay là tôi im lặng một chút, vờ như để nghĩ.

            - Dĩ nhiên là tôi muốn nói chuyện với cô ấy, nếu có thể.

            - Không phải là không thể. – Ushikawa gật đầu, nhẹ nhàng nói.

            - Nhưng có kèm theo điều kiện…?

            - Không kèm điều kiện nào hết. – Ushikawa nhấp một ngụm bia. – Tuy nhiên hôm nay tôi có một đề nghị mới với ông. Hãy nghe điều tôi nói và nghĩ cho kỹ. Chuyện này khác xa chuyện có được nói chuyện với Kumiko hay không.

            Tôi nhìn y, không nói gì.

            - Nào, ta bắt đầu nhé. Ông Okada ạ, ông đang thuê mảnh đất ấy và cái nhà trên đó nữa của một công ty nào đó, phải không? Ý tôi là cái “nhà có dớp” ấy. Hàng tháng ông phải trả tiền thuê nhà khá cao. Tuy nhiên, đây không phải thuê bình thường, mà là thuê nhưng vài năm nữa có thể mua hẳn. Đúng không nào? Dĩ nhiên, chẳng ai đi đưa hợp đồng của ông cho bàn dân thiên hạ xem, vì vậy tên của ông không xuất hiện ở đâu cả, ấy tất cả mưu đồ là ở đó. Chứ trên thực tế ông là chủ nhân của cơ ngơi đó, và tiền thuê ông trả hàng tháng chính là để trả dần vào tiền vay thế chấp. Tổng số tiền ông phải trả, để xem nào, kể cả căn nhà, đâu như khoảng tám mươi triệu yên, đúng không? Với mức trả thế này thì chưa tới hai năm nữa ông sẽ nghiễm nhiên thành chủ sở hữu cả nhà lẫn đất! Cừ lắm! Nhanh cực kỳ! Tôi đến phải phục ông.

            Ushikawa nhìn tôi như để xác nhận những điều y vừa nói, nhưng tôi vẫn im lặng.

            - Xin đừng hỏi làm sao tôi biết được các chi tiết đó. Nếu đào cho cật lực vào thì sẽ tìm được cái mình muốn biết thôi, miễn là nếu biết cách đào. Giờ thì tôi đã nắm được kha khá ai đứng đằng sau cái công ty ma đó rồi. Chà chà, cái ấy mới là xương chứ! Tôi đã phải lần mò trong cả một mê cung mới moi ra được đấy. Chả khác nào một chiếc ô tô bị ăn cắp rồi được sơn lại, thay lốp, bọc lại đệm ghế, số xê ri trên động cơ thì cạo đi. Bọn họ xóa kỹ mọi dấu vết. Dân chuyên nghiệp có khác. Nhưng giờ thì tôi nắm được kha khá sự tình rồi, có khi còn rõ hơn ông ấy chứ, ông Okada ạ. Tôi cuộc là ông thậm chí không biết mình đang trả tiền cho ai đâu, đúng không?

            - Đúng vậy. Tiền thì đâu có tên với tuổi.

            Ushikawa phá lên cười.

            - Ông Okada nói hoàn toàn đúng! Tiền thì đâu có tên với tuổi. Nói hay lắm! Câu này tôi phải ghi lại mới được. Nhưng ông Okada ạ, mọi chuyện đâu phải bao giờ cũng như ông muốn. Lấy ví dụ mấy gã ở cục thuế chẳng hạn. Bọn ấy có thông minh lắm đâu. Bọn ấy chỉ biết đi thu thuế những chỗ nào có tên thôi. Chỗ nào chưa có tên thì chúng bắt phải có tên. Không chỉ tên mà còn đánh số nữa. Làm gì có cảm xúc trong công việc của chúng nó, cứ thế làm như người máy thôi. Nhưng cái xã hội tư bản chủ nghĩa của chúng ta được xây dựng chính trên những cái đó mà. Vậy lên ta đi đến kết luận rằng cái tiền mà tôi với ông đang nói đây quả thật có tên, mà tên rất oách nữa là khác.

            Tôi nhìn cái đầu Ushikawa trong khi y nói. Tùy theo góc độ, ánh sáng tạo lên những đường lồi lõm trên sọ y.

            - Đừng lo, cục thuế chúng nó không đến đây đòi tiền ông đâu, - Ushikawa phá lên cười mà nói, - Mà cứ cho chúng đến thì phải mò mẫm qua bao nhiêu mê cung thế này thể nào chúng cũng va đâu đó mà bươu đầu mẻ trán. Sưng bằng quả ổi chứ chả chơi! Nói gì thì nói, việc của chúng thì chúng làm, chứ chúng đâu muốn trầy vi tróc vẩy làm chi cho mệt. Nếu đã thu tiền được thì chỗ nào dễ thì thu, tội gì nhè chỗ khó xơi, càng dễ càng tốt mà. Một khi đã thu đủ thì ở đâu ra mà chả thế. Nhất là nếu sếp đã bảo cứ chỗ nào dễ thu mà thu thì người bình thường nhất định sẽ làm đúng như vậy. Sở dĩ tôi biết là vì chính tôi đi tìm hiểu mà. Gì chứ mấy chuyện này thì, không phải tự khoe chứ tôi hơi bị rành. Nhìn tôi thế thôi, chứ tôi cừ lắm. Tôi biết tránh sao cho không bươu đầu. Tôi biết cách chuồn ra đường dù trời tối đen như mực.

            Nhưng phải nói thật với ông, ông Okada ạ (mà tôi biết ông là người duy nhất tôi có thể bộc bạch hết lòng), đến cả tôi cũng không biết ông đang làm gì ở chỗ đó. Tôi biết những người hay đến gặp ông ở chỗ đó trả ông hậu hĩ lắm. Thành thử ắt là ông đang làm một cái gì rất đặc biệt cho họ, đáng đồng tiền họ bỏ ra. Cái đó thì rõ như ban ngày. Nhưng đích xác ông làm cái gì, và tại sao ông lại dính chặt cứng vào cái lô đất ấy thì tôi chịu không biết được. Đó là hai điểm quan trọng nhất trong toàn bộ chuyện này, nhưng cũng là hai điểm được che dấu kỹ nhất, chả khác gì điểm mấu chốt trong lá số của thầy bói vậy. Cái đó làm tôi lo lắm.

            - Nghĩa là, đó là cái làm Wataya Noboru lo, - tôi nói.

            Thay vì trả lời, Ushikawa quay ra giật giật túm tóc lơ thơ phía trên tai.

            - Nói riêng giữa tôi và ông thôi, ông Okada ạ, phải thú nhận rằng tôi thật sự phục ông. Không phải nịnh ông đâu. Nghe thì hơi lạ, chứ thật ra về cơ bản ông là người hoàn toàn bình thường. Nói đằng thẳng ra thì ông chẳng có gì đặc biệt hết. Ấy xin lỗi, mong ông đừng hiểu nhầm. Thực tế là vậy, nếu từ con mắt xã hội mà nhìn vào. Tuy nhiên, khi gặp ông mặt đối mặt như thế này thì tôi thật sự rất có ấn tượng về ông, về cách hành xử của ông. Cứ xem cái cách ông đã làm một người như tiến sĩ Wataya phải điên đầu thì biết! Thành thử tôi mới chỉ là con chim đưa thư quèn. Một kẻ hoàn toàn tầm thường thì không làm nổi như ông đã làm đâu.

            Tôi thích ông là thích chỗ đó, ông Okada ạ. Thật đấy! Tôi có thể chẳng là cái thá gì, song về những chuyện như thế này thì tôi không nói dối. Mà tôi cũng chẳng nghĩ về ông như nghĩ về người dưng nước lã. Nếu như trong mắt xã hội ông chẳng có gì đặc biệt thì tôi còn tệ hơn thế hàng trăm lần kia. Tôi chỉ là một thằng nhãi nhép lùn tịt học hành chả tới đâu, xuất thân cũng chẳng ra gì. Ba tôi làm nghề dệt chiếu ở Funabashi, là một tay nát rượu, một thằng khốn nạn. Hồi nhỏ tôi chỉ ước gì cha tôi chết quách đi để tôi được yên thân, tôi khốn khổ quá mà, thế là rốt cuộc lão ta ngoẻo thật, chẳng biết vậy là tốt hơn hay xấu hơn nữa. Sau đó tôi phải chịu cảnh khốn cùng y như người ta viết trong sách giáo khoa ấy. Tuổi thơ tôi chẳng có lấy một kỷ niệm nào gọi là đẹp đẽ, chẳng bao giờ được cha lẫn mẹ nói cho một lời tử tế. Chẳng lạ là tôi đổ đốn! Tôi trầy trật lắm mới học hết trung học, sau đó thì chính trường đời mới dạy những môn đích đáng cho tôi. Tôi sống được là nhờ chút nhỏ nhoi tôi có, nhờ cái đầu này đây. Chính vì vậy tôi không ưa những ai thuộc lớp thượng lưu hay những quan này chức nọ. Không chỉ không ưa đâu, tôi căm ghét mới đúng. Cứ đường hoàng bước thẳng vào xã hội qua cửa chính, vợ đẹp như tiên, rồi thì vênh vang tự mãn. Tôi thích những tay như ông đấy, ông Okada ạ, cái gì cũng tự mình làm lên.

            Ushikawa quẹt diêm rồi châm một điếu thuốc nữa.

            - Tuy nhiên ông không thể cứ thế này mãi. Sớm muộn gì ông cũng gục thôi. Ai cũng gục mà. Con người ta sinh ra là vậy. Cứ theo lịch sử tiến hóa thì chỉ mới hôm qua thôi con người mới học được cách đi trên hai chân và giở giói nghĩ ngợi toàn những điều rắc rối. Thành thử ông đừng lo, ông Okada: ông sẽ gục thôi. Nhất là trong cái thế giới mà ông đang cố cầm cự ấy: ai thì rồi cũng gục thôi. Có quá nhiều chuyện rắc rối, quá nhiều cách tự chuốc phiền toái vào mình. Đó là một thế giới tạo lên bằng lắm điều rắc rối. Tôi đã từng làm việc trong thế giới đó từ sinh thời ông bác của tiến sĩ Wataya, nay thì tiến sĩ đã thừa kế chọn cái thế giới đó. Trước nay tôi toàn làm những thứ phập phù để có cái ăn. Nếu như tôi vẫn cứ vậy thì chắc bây giờ tôi đã nằm khám, có khi còn bỏ mạng rồi không chừng. Không đùa đâu. Wataya tiên sinh quá cố đã cứu tôi đúng lúc. Thành thử hai con mắt nhỏ này của tôi từng nhìn thấy lắm sự đời rồi. Trên đời này ai rồi cũng gục: tay mơ ư, lọc lõi ư, chẳng khác gì nhau, ai cũng gục hết, ai rồi cũng đau thương hết, anh cừ cũng vậy mà anh xoàng cũng vậy, như nhau tuốt. Chính vì vậy mà ai cũng cố bảo hiểm cho bản thân mình chút đỉnh. Thằng tép riu như tôi mà cũng có nữa là. Có vậy thì anh mới sống được nếu chẳng may bị gục. Chứ nếu cứ trơ ra có mỗi một mình anh, không thuộc về đâu cả thì đã gục là gục hẳn, đi đời luôn. Chấm hết.

            Đáng lẽ tôi không nên nói với ông đâu, nhưng ông quả thật sắp gục rồi đó, ông Okada à. Chuyện đó chắc như đinh đóng cột. Sổ của tôi ghi rõ vậy mà, trong hai, ba trang nữa, bằng mực đen, chữ to đàng hoàng: “Okada Toru sắp gục tới nơi rồi”. Đúng vậy đó. Tôi không dọa ông đâu. Ở thế giới này tôi đã nói là chính xác hơn nhiều so với dự báo thời tiết trên tivi. Thành thử tôi chỉ muốn nói với ông thế này: đã đến lúc ông nên rút lui đi thôi.

            Nói đến đó Ushikawa ngậm miệng mà nhìn tôi. Đoạn y nói tiếp:

            - Chúng ta nên thôi đừng vờn nhau nữa, ông Okada ạ, nói thẳng vào việc thì hơn… Mào đầu nãy giờ cũng dài dòng lắm rồi, giờ tôi nói ngay vào đề: tôi đến đây là có một đề nghị với ông.

            Ushikawa đặt cả hai tay lên bàn. Rồi y búng búng lưỡi vào môi.

            - Vậy là như tôi mới nói với ông đó, ông nên cắt đứt liên hệ với cái khu đất ấy và rút lui khỏi chuyện này. Nhưng có thể dù ông có muốn cũng không rút lui được. Cũng có thể ông còn phải trả cho hết nợ vay đã, bằng không thì kẹt cứng. – Ushikawa ngưng ngang, nhìn tôi dò xét, - Nếu vấn đề là ở tiền thì chúng tôi sẽ giúp ông. Nếu ông cần tám mươi triệu yên, tôi sẽ mang đến cho ông tám mươi triệu yên mới cứng, còn nguyên bó. Tám ngàn tờ giấy bạc mười ngàn yên. Ông có thể trả dứt nợ, còn bao nhiêu thì đút túi, thế là ông sạch nợ, tự do. Tuyệt quá còn gì! Nào, ý ông sao?

            - Vậy là mảnh đất và căn nhà sẽ thuộc về Wataya Noboru? Ý là vậy phải không?

            - Phải, chắc vậy. Chắc là sẽ thế thôi. Tuy nhiên, có lẽ sẽ còn phải giải quyết nhiều thứ lặt vặt nhiêu khê nữa…

            Tôi suy nghĩ một chút về đề nghị của y.

            - Ushikawa này, thực sự là tôi chưa hiểu. Tôi không hiểu tại sao Wataya Noboru cứ khăng khăng đòi tôi phải từ bỏ cái cơ ngơi đó đến vậy. Làm chủ được chỗ đất đó rồi thì ông ta định sẽ làm gì?

            Ushikawa chậm rãi lấy lưng bàn tay chà lên má.

            - Ông Okada à, tôi xin lỗi, mấy chuyện đó tôi không biết. Ngay từ đầu tôi đã bảo ông rồi: tôi chỉ là con chim đưa thư ngu ngốc thôi. Ông chủ tôi bảo tôi làm gì tôi làm nấy. Mà hầu hết việc ông ấy giao tôi làm thì chả thích thú gì. Hồi nhỏ đọc truyện Aladin ấy mà, tôi luôn luôn thông cảm với ông thần đèn, ông ta bị thiên hạ làm tình làm tội quá cỡ, nhưng tôi chả bao giờ muốn mình lớn lên thành giống như ông ta. Có vui vẻ gì đâu, thật đấy mà. Nói gì thì nói, người ta cử tôi đến đây là để truyền đạt một thông điệp, nội dung thế nào thì tôi nói với ông rồi. Đó là thông điệp của tiến sĩ Wataya. Tùy ông lựa chọn. Ông nói gì nào? Câu trả lời tôi phải mang về là thế nào đây?

            Tôi không nói gì.

            - Dĩ nhiên ông cần thời gian suy nghĩ. Tốt thôi. Chúng tôi có thể cho ông thời gian. Tôi không có ý bắt ông phải quyết định ngay tắp lự. Giá như tôi có thể bảo ông cứ suy nghĩ bao lâu thì tùy, nhưng e rằng chúng tôi không thể rộng rãi như vậy. Cho nên tôi nói thế này, ông Okada ạ. Cho tôi có một lời khuyên, của cá nhân thôi. Một đề nghị hậu hĩnh thế này không phải cứ nằm đó đợi ông mãi đâu. Chỉ cần ông ngoảnh đi một giây, ngoảnh lại thì nó đã biến đằng nào rồi. Nó có thể bốc hơi như sương trên cửa kính ấy. Thành thử ông cứ nghĩ cho nghiêm túc đi, nhưng phải khẩn trương. Đề nghị này không tồi đâu. Ông hiểu ý tôi chứ?

            Ushikawa thở dài rồi nhìn đồng hồ.

            - Trời đất quỷ thần ơi, tôi phải đi rồi. Chắc tôi lại ngồi lâu quá khiến ông phát chán nên rồi. Lại được ông đãi bia. Và cũng như mọi khi, toàn là tôi nói. Thôi thì xin lỗi nhé. Không phải tôi định thanh minh đâu, nhưng chả hiểu sao mỗi lần tới đây tôi lại thấy như ở nhà vậy. Ông có cái nhà tiện nghi quá chừng, ông Okada ạ. Thật đấy.

            Ushikawa đứng dậy, đem cốc, chai bia và cái gạt tàn đến chỗ chậu rửa bát.

            - Tôi sẽ liên lạc với ông Okada sớm. Và tôi sẽ thu xếp cho ông nói chuyện với Kumiko, chuyện đó tôi hứa. Không lâu nữa đâu.

            * * *

            Sau khi Ushikawa đi khỏi, tôi mở cửa sổ cho khói thuốc tích lũy nãy giờ bay ra ngoài. Đoạn tôi uống một cốc nước. Ngồi trên sofa, tôi vuốt ve con Cá thu đang nằm trong lòng tôi. Tôi hình dung Ushikawa vừa ra khỏi nhà tôi một bước là cởi ngay bộ đồ giả trang rồi bay về chỗ Wataya Noboru. Tưởng tượng đến là vớ vẩn!

17

            “Phòng chỉnh lý”

            *

            Người kế tục

            Nhục đậu khấu chẳng biết gì về những người phụ nữ hay lui tới chỗ bà. Chẳng ai cho Nhục đậu khấu biết thông tin về bản thân mình, mà bà cũng chẳng bao giờ hỏi. Những cái tên mà quý bà kia dùng để đăng ký cuộc hẹn rõ ràng là tên giả hết. Thế nhưng bao quanh họ là cái hơi hướm đặc biệt kết hợp giữa tiền bạc và quyền lực. Quý bà này chẳng bao giờ tự phô cái đó ra, song nhìn phong thái và cách ăn mặc của họ, Nhục đậu khấu cũng biết rằng họ thuộc tầng lớp thượng lưu.

            Bà thuê địa điểm trong một cao ốc văn phòng ở khu Akasaka – một tòa nhà chẳng có gì nổi bật ở một nơi chẳng có gì nổi bật, để làm yên lòng quý bà vốn luôn lo ngay ngáy sao cho đừng ai dòm ngó đến đời tư của họ. Sau khi thận trọng cân nhắc, bà quyết định bố trí chỗ này như một xưởng thiết kế thời trang. Mà thật, trước kia Nhục đậu khấu vốn là nhà thiết kế thời trang, thành thử chẳng ai sẽ thấy khả nghi nếu có các quý bà thuộc nhiều giới khác nhau lui tới chỗ bà. Khách hàng của bà đều trong độ tuổi ba mươi, bốn mươi. Nhục đậu khấu chất đầy vải vóc, mẫu thiết kế và tạp chí thời trang vào căn phòng, lại thêm dụng cụ, bàn vẽ và vài con manơcanh mà thiết kế thời trang luôn cần tới, thậm chí bà còn thiết kế vài bộ thật, để bên ngoài nhìn vào càng thấy đáng tin hơn. Căn phòng nhỏ hơn trong hai phòng được bà bố trí thành phòng chỉnh lý. Khách hàng của bà thường được đưa vào phòng chỉnh lý, và họ sẽ ngồi lên sofa để được Nhục đậu khấu “chỉnh lý”.

            Danh sách khách hàng của Nhục đậu khấu được lập bởi bà vợ của ông chủ một cửa hàng bách hóa lớn. Bà ta đã lựa chọn từ trong số bạn bè đông đảo của mình một số rất hạn chế những ứng viên đáng tin cậy. Bà ta tin chắc rằng, để tránh mọi khả năng gây tai tiếng om sòm, cần phải biến nhóm này thành một câu lạc bộ có thành phần đặc tuyển. Nếu không thì tin tức về các cuộc sắp đặt thế này chắc chắn sẽ tràn lan nhanh chóng. Những quý bà được chọn làm thành viên đều được cảnh báo không bao giờ được tiết lộ cho người ngoài về những lần “chỉnh lý” của mình. Quý bà này không chỉ là những người rất có tư cách, mà họ còn biết rằng nếu nuốt lời hứa họ sẽ bị khai trừ vĩnh viễn khỏi câu lạc bộ.

            Mỗi khách hàng sẽ gọi điện thoại để đăng ký giờ “chỉnh lý” và đến đúng giờ đã hẹn, biết rằng mình không phải ngại chạm trán bất cứ thành viên nào khác và có thể yên tâm rằng mọi hành tung của mình đều được giữ kín. Thù lao được trả ngay tại chỗ, bằng tiền mặt, bao nhiêu là do vợ ông chủ cửa hàng bách hóa ấn định, song luôn ở mức cao hơn Nhục đậu khấu tưởng nhiều. Tuy nhiên chẳng phải vì thù lao như thế mà người ta ít đến hơn. Bất cứ quý bà nào từng được Nhục đậu khấu “chỉnh lý” đều sẽ hẹn thêm lần nữa, không có ngoại lệ. “Bà đừng để tiền bạc trở thành gánh nặng cho mình”, vợ ông chủ cửa hàng bách hóa từng giải thích với Nhục đậu khấu. “Càng trả cao thì các bà ấy càng yên tâm”. Nhục đậu khấu đến “văn phòng” một tuần ba lần, mỗi ngày “chỉnh lý” một lần. Bà chỉ làm đến thế là hết mức.

            Quế trở thành trợ lý cho mẹ từ khi cậu tròn mười sáu tuổi. Ở thời điểm đó Nhục đậu khấu đã bắt đầu thấy khó tự mình đảm đương mọi công việc hành chính lặt vặt, song thuê một kẻ hoàn toàn xa lạ thì bà không muốn. Cuối cùng, sau khi đã đắn đo rất dữ, bà mới đề nghị con trai giúp một tay, cậu đồng ý ngay lập tức mà thậm chí không hề hỏi xem mẹ đang làm thứ việc gì. Ngày nào cũng vậy, cậu đến văn phòng lúc 10 giờ sáng bằng taxi (cậu không chịu nổi nếu phải đụng chạm với người khác trên xe buýt hay xe điện ngầm), lau chùi, quét bụi, sắp xếp lại đồ đạc đâu vào đó, thay hoa mới vào bình, pha cà phê, mua sắm các thứ cần thiết, cho băng nhạc cổ điển vào máy cassette rồi vặn âm lượng nhỏ, và ghi sổ sách.

            Chẳng bao lâu Quế đã trở thành một nhân vật không thể thiếu ở văn phòng. Dẫu là hôm có khách hay không, cậu luôn luôn vận comple, thắt cà vạt đoạn ngồi vào vị trí của mình ở bàn đón khách. Không một vị khách nào than phiền chuyện cậu không nói được. Họ chẳng thấy bất tiện chút nào về chuyện đó, thậm chí còn thích là đằng khác. Cậu chính là người nhận cuộc gọi mỗi khi họ muốn hẹn giờ. Họ cho cậu biết họ muốn đến vào ngày ấy, giờ ấy, cậu sẽ gõ lên bàn để đáp lại: một tiếng là “không”, hai tiếng là “vâng”. Quý bà thích kiểu vắn tắt ấy. Cậu là một trang thanh niên với những nét hoàn hảo đến mức có thể tạc thành tượng, trưng trong viện bảo tàng, và khác với nhiều thanh niên bảnh trai khác, cậu không bao giờ làm hỏng hình ảnh của mình khi mở miệng. Các bà thường trò chuyện với cậu khi đến hoặc khi đi, và cậu thường đáp lại bằng một nụ cười và một cái gật đầu. Những cuộc “trò chuyện” đó làm họ thấy nhẹ nhõm hơn, làm vơi đi nỗi căng thẳng mà họ mang từ thế giới bên ngoài vào đây, cũng làm họ thấy đỡ phần lúng túng sau khi được “chỉnh lý”. Bản thân Quế cũng vậy, cậu thường không ưa giao tiếp với người lạ, song lại tỏ ra không hề khó chịu khi tiếp xúc với quý bà này.

            Năm mười tám tuổi Quế lấy được bằng lái. Nhục đậu khấu đã tìm được một thầy dạy lái xe tử tế để dạy riêng cho cậu, nhưng Quế đã mua sách tự học tất cả những gì cần học về lái xe rồi. Cậu chỉ cần biết thêm những kỹ năng thực hành mà sách không dạy được, và kỹ năng đó chỉ cần ngồi sau tay lái vài hôm là cậu nắm vững ngay. Có bằng lái rồi, cậu bắt đầu lùng khắp các tạp chí về ô tô cũ đặng mua một chiếc Porsche Carrera bằng toàn bộ số tiền cậu dành dụm được nhờ làm việc cho mẹ (số tiền đó cậu không hề phải chi tiêu vào sinh hoạt hàng ngày). Cậu đánh bóng động cơ đến sáng choang lên, cậu đặt mua các bộ phận mới qua bưu điện, lắp lốp xe mới, nói chung là nâng cấp chiếc ô tô lên tiêu chuẩn xe đua. Tuy nhiên, sau đó thì cậu vẫn chỉ ngày ngày lái chiếc ô tô đó trên con đường ngắn ngủn đông nghẹt từ nhà cậu ở Hiroo đến văn phòng ở Akasaka với vận tốc hiếm khi trên sáu mươi cây số một giờ. Do vậy chiếc Porsche 911 của cậu là một trong những chiếc hiếm hoi kiểu đó trên thế giới.

            * * *

            Nhục đậu khấu tiếp tục làm công việc của mình suốt hơn bảy năm, trong thời gian đó bà để mất ba khách hàng: người thứ nhất chết trong một tai nạn xe hơi, người thứ hai bị “khai trừ vĩnh viễn” vì một sai phạm nhỏ nào đó, người thứ ba thì “đi xa” do chồng thay đổi việc làm. Thay cho những người đó là bốn khách hàng mới, tất cả đều thuộc loại quý bà trung niên hấp dẫn mặc quần áo đắt tiền và dùng toàn biệt danh. Bản thân công việc của Nhục đậu khấu không hề thay đổi trong suốt bảy năm. Bà vẫn tiếp tục “chỉnh lý” cho các khách hàng. Quế tiếp tục lau chùi dọn dẹp văn phòng, ghi sổ sách và lái chiếc Porsche. Tiến triển cũng không, thụt lùi cũng không, chỉ có những người trong cuộc thì thêm tuổi. Nhục đậu khấu sắp bước sang tuổi năm mươi, Quế thì tròn hai mươi. Quế dường như thích công việc của mình, nhưng Nhục đậu khấu dần dần bị cảm giác bất lực xâm chiếm. Hết năm này sang năm khác bà tiếp tục “chỉnh lý” “cái gì đó” kia mà mỗi khách hàng đều mang bên trong mình. Bà chẳng bao giờ hiểu được chính xác mình đang làm gì cho họ, nhưng bà vẫn tiếp tục làm hết sức mình. Tuy nhiên, bà không bao giờ chữa dứt được những “cái gì đó” này. Bà chẳng thể nào xóa sạch được hoàn toàn “cái đó”, toàn bộ năng lực chữa trị của bà chỉ làm được mỗi việc là giảm thiểu hoạt động của chúng trong một thời gian. Chỉ trong ít ngày (thường từ ba đến mười ngày), mỗi “cái gì đó” ấy sẽ lại hoạt động, khi tiến khi lùi song về lâu dài thì ngày một lớn ra, ngày một mạnh lên như tế bào ung thư, không thể nào ngăn được. Nhục đậu khấu cảm thấy những cái đó trưởng thành lên trong tay mình. Chúng như nói với bà: Mụ chỉ tổ phí thì giờ vô ích thôi. Dù mụ có làm gì đi nữa thì rốt cuộc bọn ta vẫn thắng. Và chúng có lý. Bà chẳng có mảy may hy vọng thắng. Bà chỉ làm được mỗi một việc là trì hoãn bước tiến của chúng sao cho khách hàng của bà có được dăm ngày bình yên.

            Nhục đậu khấu thường tự hỏi: “Có phải chỉ các bà này không? Có phải tất cả phụ nữ trên thế giới này đều mang “cái gì đó” này ở bên trong nhục thể mình không? Mà tại sao tất cả các bà đến đây đều trong lứa tuổi trung niên? Liệu chính mình cũng có một “cái gì đó” ở bên trong mình không?”.

            Tuy nhiên Nhục đậu khấu không thiết tha lắm đến việc tìm lời đáp cho những câu hỏi đó. Bà chỉ biết chắc một điều là mọi tình huống hình như đã trùng hợp thế nào đó để bà phải bị trói buộc vào căn phòng chỉnh lý này. Người ta cần bà, và chừng nào người ta còn cần bà, bà không thể ra đi được. Đôi khi cảm giác bất lực của bà sâu thẳm và khủng khiếp đến nỗi bà có cảm giác mình như cái vỏ rỗng bị vứt đi. Bà đang kiệt dần đi, đang biến dần vào bóng tối hư vô. Vào những lúc như vậy, bà thường bộc bạch tâm hồn với cậu con trai trầm lặng của mình, và Quế thường chăm chú lắng nghe từng lời của mẹ, thỉnh thoảng lại gật đầu. Cậu chẳng bao giờ nói năng gì, nhưng nói chuyện với cậu như thế này bà cảm thấy bình tâm kỳ lạ. Bà cảm thấy mình không hoàn toàn cô độc, không hoàn toàn bất lực. Lạ thật, bà nghĩ: Mình chữa cho người khác, Quế chữa cho mình. Thế còn ai chữa cho Quế? Phải chăng nó là một lỗ đen, tự nó thu hút mọi nỗi đau và nỗi cô đơn? Có lần – mà cũng chỉ một lần ấy thôi – bà thử tìm tòi bên trong cậu con trai bằng cách đặt tay lên trán cậu như bà vẫn làm với khách hàng những khi “chỉnh lý” cho họ. Nhưng bà không cảm thấy gì cả.

            Chẳng mấy chốc Nhục đậu khấu cảm thấy muốn thôi không làm việc này nữa. “Mình chẳng còn lại bao nhiêu sức lực. Nếu cứ thế này, mình sẽ tự thiêu cháy mình đến hết. Mình sẽ chẳng còn lại gì nữa.” Nhưng người ta vẫn rất cần đến khả năng “chỉnh lý” của bà. Bà không thể tự cho phép mình bỏ rơi khách hàng chỉ vì ý muốn cá nhân.

            Đến mùa hè năm sau, Nhục đậu khấu tìm được người kế tục. Ngay khi nhìn thấy vết bầm trên má chàng thanh niên đang ngồi trước một tòa nhà ở khu Shinjuku, bà đã biết.

18

            Con gái của một con ếch ộp ngu si

            (Quan điểm của Kasahara May: 4)

            *

             Lại chào anh, Chim vặn dây cót!

            Bây giờ là 2 giờ 30 sáng. Hàng xóm em ngủ thẳng cẳng hết rồi, nhưng đêm nay em không ngủ được, thế là em mò dậy viết thư cho anh. Nói thật với anh, ban đêm mà không ngủ được thì với em là chuyện bất thường cũng như võ sĩ sumo đội mũ bêrê mà lại đẹp trai vậy. Thường thì hễ tới giờ là em đã ngủ tít rồi, cứ thế làm một mạch cho tới giờ phải dậy. Em có đồng hồ báo thức nhưng hầu như chả bao giờ dùng cả. Tuy nhiên, lâu thật lâu lại có một lần em thức dậy lúc nửa đêm rồi chẳng làm sao ngủ lại được.

            Em định sẽ cứ ngồi ở bàn viết thư cho anh cho đến khi nào buồn ngủ thì thôi, cho nên em chả biết thư này sẽ dài hay ngắn nữa. Mà dĩ nhiên là lần nào cũng vậy, hễ cứ viết thư cho anh là mãi đến khi dừng rồi em mới biết thư dài hay ngắn.

            Em nghĩ thế này anh ạ, hầu hết thiên hạ sống trên đời này ấy mà (chắc cũng có vài ngoại lệ, nhưng ít lắm), họ cứ nghĩ rằng thế giới này hay cuộc đời này (gọi là gì cũng được) là cái nơi mà tất cả mọi thứ đều hợp lý và nhất quán (hay ít nhất là đều ắt phải hợp lý và nhất quán). Mỗi khi nói chuyện với hàng xóm em ở đây là em lại thường nghĩ như vậy. Thế này nhé, mỗi khi có chuyện gì đó xảy ra, dù là một sự kiện lớn ảnh hưởng đến toàn bộ xã hội hay chỉ là một chuyện cỏn con, cá nhân, người ta đều nói kiểu như là “Ờ, tất nhiên rồi, xảy ra thế là vì thế này, và thế kia”, và hầu như bao giờ mọi người cũng đồng ý và nói “À ra thế, tôi hiểu rồi”. Em thì em chả hiểu gì sất. “A thì thế này, chính vì vậy mới xảy ra B”. Nói như thế chẳng giải thích được gì cả. Chả khác gì anh trộn hỗn hợp Chawanmushi(10) cho vào bát, để bát vào vi ba rồi nhấn nút, đợi nghe chuông reo thì mở nắp ra, thế là mình có món chawanmushi ngon lành. Thế nhưng chuyện gì xảy ra giữa khoảnh khắc ta nhấn nút và khoảnh khắc lò vi ba reo chuông? Anh đâu thể biết được chuyện gì xảy ra dưới cái nắp. Biết đâu trong bóng tối, khi chẳng ai nhìn thấy, chawanmushi lại chẳng trước hết là biến thành macaroni nấu phó mát, sau đó mới trở lại là chawanmushi thì sao? Chúng ta cứ nghĩ hễ đã cho hỗn hợp chawanmushi vào lò vi ba rồi nhấn nút, đợi chuông reo là ta có món chawanmushi, nhưng với em, đó chỉ là giả thiết mà thôi. Có khi em sẽ thấy nhẹ nhõm hơn nếu sau khi cho hỗn hợp chawanmushi vào lò vi ba, đợi chuông reo, mình mở nắp thì lại thấy món macaroni nấu phó mát. Chắc là em sẽ sửng sốt lắm, dĩ nhiên rồi, nhưng em lại cũng sẽ thấy nhẹ người nữa. Hay ít nhất là em cũng sẽ không bối rối quá, bởi nếu xảy ra như vậy thì có khi lại thực hơn nhiều.

            Sao lại “thực hơn”? Cố công giải thích điều đó theo cách hợp lý, bằng từ ngữ thì khó lắm, vô cùng khó, nhưng nếu lấy chẳng hạn như cuộc đời em từ hồi nào đến giờ làm ví dụ mà ngẫm cho kỹ vào, anh sẽ thấy chẳng có lấy một cái gì để anh may ra gọi được là “nhất quán”. Trước tiên, thật quá ư lạ lùng là tại sao một đứa con gái như em lại sinh ra bởi một cặp vợ chồng chán ngắt như hai con ếch ộp thế kia. Lạ quá đi ấy! Nói về bản thân mình như thế này nghe thì lạ, nhưng quả thật em nghiêm túc hơn nhiều so với cả hai người cộng lại đấy. Em không nói khoác đâu, sự thật là vậy. Em không có ý nói em tốt hơn bố mẹ em, chỉ là em nghiêm túc hơn thôi. Nếu anh gặp bố mẹ em thì sẽ hiểu em muốn nói gì, Chim vặn dây cót à. Những người đó tin rằng thế giới này nhất quán và dễ giải thích như bản sơ đồ mặt bằng một ngôi nhà đắt tiền mới xây để bán ấy, cho nên nếu anh làm mọi việc một cách hợp logic và nhất quán thì mọi chuyện rốt cuộc đều sẽ đâu vào đó cả. Chính vì vậy mà bố mẹ mới hoang mang, buồn bực, giận dữ khi thấy em không như thế.

            Tại sao em sinh ra trên đời này lại làm con những kẻ đầu đất như vậy chứ? Mà tại sao dù được những người như vậy nuôi nấng dạy dỗ nhưng em vẫn không trở thành một con ếch ộp ngu si như họ? Em cứ tự hỏi mình mãi về chuyện đó, tự hỏi mãi từ khi em bắt đầu biết nhớ. Nhưng em không lý giải được. Ắt là phải có lý do chính đáng nào đó, nhưng cái lý do đó em chẳng tài nào tìm ra. Mà lại có vô khối chuyện khác không thể nào giải thích bằng logic được. Tỉ như “Tại sao ai cũng ghét em?” Em chẳng làm gì sai cả, em chỉ sống bình thường thôi. Thế mà đùng một cái, một ngày kia em nhận ra rằng chả ai thích em hết. Em không hiểu nổi.

            Thế rồi một chuyện chẳng đâu vào đâu này kéo theo chuyện chẳng đâu vào đâu khác, từ đó mọi chuyện cứ thế xảy ra. Tỉ như em gặp anh chàng đi mô tô, rồi sau đó là cái tai nạn ngớ ngẩn đó… Trong ký ức của em – hay là theo cách những chuyện đó được sắp xếp trong đầu em – thì chẳng làm gì có chuyện “việc này đã xảy ra thế này thì hiển nhiên việc nọ sẽ xảy ra thế nọ”. Mỗi khi chuông reo và em mở nắp lò vi ba, dường như em luôn sẽ nhìn thấy một cái gì đó chưa nhìn thấy bao giờ.

            Em chẳng biết chuyện gì đang xảy ra với mình nữa, thế là em bỏ học từ lúc nào không biết, suốt ngày quanh quẩn ở nhà, rồi thì em gặp anh, Chim vặn dây cót. À không, trước đó thì em làm nghiên cứu cho một công ty làm tóc giả. Nhưng sao lại công ty làm tóc giả? Ấy lại là một bí ẩn khác. Em không nhớ nữa. Có lẽ vì khi em bị chấn thương vào đầu lúc bị tai nạn, nên vị trí của bộ não em bị dịch chuyển loạn hết cả. Mà cũng có thể vì cú sốc tâm lý sau tai nạn khiến em đâm ra giấu biệt hết mọi ký ức trong đầu, kiểu như con sóc giấu một hạt dẻ rồi quên không nhớ mình đã chôn ở đâu ấy. (Anh đã bao giờ thấy chuyện đó chưa hở Chim vặn dây cót? Em thì thấy rồi. Hồi bé, em cứ nghĩ con sóc ngốc nghếch buồn cười quá đi mất! Em chẳng bao giờ nghĩ rằng chuyện y như thế rồi sẽ xảy ra với chính em).

            Thế nào thì thế, em bắt đầu làm khảo sát cho công ty làm tóc giả, rồi thì chuyện đó làm em đâm ra thích tóc giả đến mức cứ như là định mệnh hay gì gì ấy. Cứ bảo là không có mối liên hệ gì đi! Sao lại là tóc giả chứ không phải vớ chân hay muôi đong gạo? Giả như là vớ chân hay muôi đong gạo thì chắc em đã không làm việc chăm chỉ ở nhà máy làm tóc giả như thế này. Có đúng không? Và nếu em không gây ra tai nạn xe máy ngớ ngẩn kia thì chắc em đã không gặp anh trong cái ngõ sau nhà mùa hè năm đó, mà nếu anh không gặp em thì chắc anh đã chẳng bao giờ biết tới cái giếng trong vườn nhà Miyawaki, nghĩa là anh cũng sẽ không bị vết bầm trên mặt, và anh sẽ không phải mắc vào bao nhiêu là chuyện lạ lùng kia… Có thể lắm chứ. Mỗi khi nghĩ vậy, em không khỏi tự hỏi: “Liệu có sự nhất quán logic nào trên thế giới này không?”.

            Em không biết – có khi trên thế giới này có hai loại người khác nhau, đối với loại người này thì thế giới là một nơi hợp lý, chawanmushi, còn với loại người kia thì được chăng hay chớ, macaroni với phó mát. Em dám cá là nếu bố mẹ ếch ộp của em cho chawanmushi vào lò vi ba mà đến khi chuông reo lại được món macaroni nấu phó mát thì họ sẽ tự nhủ: “Ồ, chắc mình đã bỏ nhầm macaroni với phó mát vào lò rồi”, hoặc họ sẽ lấy món macaroni với phó mát ra rồi cố tự thuyết phục mình: “Cái này trông giống macaroni nấu phó mát thế thôi chứ thật ra là chawanmushi đó”. Và nếu em cố đi giải thích với họ rằng đôi khi, ta cho chawanmushi vào lò nhưng sẽ có món macaroni với phó mát, họ sẽ chẳng bao giờ tin em cả. Họ sẽ nổi điên mất. Anh có hiểu em đang nói gì không hở Chim vặn dây cót?

            Anh có nhớ cái lần em hôn vết bầm của anh không? Em cứ nghĩ về chuyện đó hoài từ khi em nói tạm biệt anh hồi mùa hè năm ngoái, nghĩ hoài nghĩ mãi, như con mèo ngắm mưa rơi ấy, ngắm mà tự hỏi: đó là cái gì thế nhỉ? Em không biết liệu chính em có lý giải được không, nói thật với anh thế. Lúc nào đấy sau này, có thể mười, hai mươi năm nữa, nếu mình có dịp nói lại chuyện này, và nếu em đã lớn hơn và cũng thông minh hơn bây giờ nhiều thì có thể em sẽ nói được cho anh biết những chuyện ấy có ý nghĩa gì. Nhưng ngay bây giờ thì đáng tiếc là không, chắc em không có khả năng hay đầu óc để tìm đúng những từ thích hợp.

            Tuy nhiên, có chuyện này em có thể nói thành thực với anh, Chim vặn dây cót à, giá như anh không bị vết bầm trên mặt thì em thích anh hơn. Nhưng khoan, đợi đã, như thế không công bằng. Anh có chủ ý trưng cái vết bầm kia lên mặt đâu. Có lẽ em nên nói rằng dù không có vết bầm đi nữa thì Chim vặn dây cót vẫn mười phân vẹn mười đối với em. Có phải không nhỉ? Không, nói vậy thì cũng chẳng giải thích được gì.

            Em thì nghĩ thế này, Chim vặn dây cót ạ. Cái vết bầm ấy biết đâu sẽ mang lại cho anh một cái gì đó quan trọng. Nhưng ắt hẳn nó cũng phải tước đi một cái gì đó của anh. Kiểu như là trao đổi ấy. Nhưng nếu bất cứ ai cũng tước đi của anh cái này cái nọ như vậy thì rốt cuộc anh sẽ hao dần đi cho tới khi chẳng còn lại gì của anh nữa. Thành thử, em không biết thế nào, thật ra điều em muốn nói là nếu như anh chẳng có vết bầm thì với em cũng không có gì khác cả.

            Đôi khi em nghĩ sở dĩ em ngồi đây làm tóc giả ngày này qua ngày khác là vì lần đó em đã hôn vết bầm của anh. Chính vì em đã làm vậy nên em mới quyết định rời bỏ nơi đó, càng xa càng tốt. Em biết nói vậy thì có thể anh sẽ đau lòng, nhưng em nghĩ đó là sự thật. Thế nhưng, chính vì vậy mà cuối cùng em mới tìm được chỗ của mình là ở đâu. Cho nên, theo nghĩa nào đó, em phải chịu ơn anh, Chim vặn dây cót ạ. Mặc dù, nếu có ai đó chỉ chịu ơn mình “theo một nghĩa nào đó” thì chắc cũng không thích lắm đâu nhỉ?

            Giờ thì em cảm thấy chắc là em đã nói hết những gì phải nói với Chim vặn dây cót rồi. Đã gần 4 giờ sáng. Em phải dậy lúc 7 giờ 30, thành thử chắc em sẽ ngủ được ba tiếng hơn một chút. Em hy vọng có thể ngủ ngay được. Dù thế nào đi nữa em cũng dừng bút đây. Tạm biệt, Chim vặn dây cót. Hãy chúc cho em ngủ được nhé.

            ------------------------------------

            10. Dịch theo bản tiếng Nhật. Chawanmushi là một món ăn truyền thống của Nhật, đựng trong bát, hấp cách thủy. Để làm món này, người ta đánh trứng, trộn với súp, thêm các gia vị như muối, tương đậu nành, xong thì đổ vào bát có sẵn một vài loại thực phẩm khác – thường là cá mình trắng, tôm, gà, chả cá luộc, đậu, nấm và măng – rồi cho vào nồi hấp cách thủy – ND.

            19

            Mê cung dưới lòng đất

            *

            Hai cánh cửa của Quế

            - Trong nhà kia có một cái máy vi tính phải không ông Okada? Có điều tôi không biết ai dùng thôi, - Ushikawa nói.

            Lúc ấy là 9 giờ tối, tôi đang ngồi ở bàn bếp, điện thoại áp vào tai.

            - Có, - tôi nói, nhưng chỉ thế.

            Ushikawa khịt khịt mũi.

            - Tôi biết nhiều thế là nhờ thường xuyên rình rập đấy thôi. Dĩ nhiên, tôi không nói này nọ về chuyện ông có một cái máy vi tính ở đó. Thời buổi này, ai là kẻ làm việc bằng trí óc mà lại không có máy vi tính. Chẳng có gì lạ cả.

            Tuy nhiên, để khỏi dông dài, xin nói ngay rằng tôi có nảy ra ý nghĩ nếu khả dĩ liên lạc với ông bằng máy vi tính thì cũng tốt. Thế là tôi đã tìm hiểu, nhưng mẹ kiếp, việc ấy phức tạp quá trời quá đất, phức tạp hơn tôi tưởng nhiều. Chỉ quay số điện thoại thông thường thì không thể kết nối được. Hơn nữa lại phải có mật khẩu đặc biệt để truy cập. Không có mật khẩu thì cửa không mở. Thế là tôi đành chịu.

            Tôi im lặng.

            - Nào nào, đừng hiểu lầm tôi chứ ông Okada. Tôi không định chui vào trong máy của ông mà vọc đâu. Tôi không hề có ý đó. Ông đã lo bảo mật đến thế kia thì dù có muốn tôi cũng chẳng lôi dữ liệu ra được. Chuyện đó tôi chẳng bao giờ tính tới. Trước sau tôi chỉ nghĩ đến việc làm sao bố trí một cuộc trò chuyện giữa ông và cô Kumiko. Ông nhớ chứ, tôi đã hứa với ông sẽ làm chuyện đó, rằng tôi sẽ cố hết sức giúp ông và cô ấy nói chuyện trực tiếp với nhau. Cô ấy bỏ nhà đi đã lâu, cứ để mọi chuyện lửng lơ thế này thì thật không hay. Cứ kiểu này thì cuộc sống của ông chắc sẽ ngày càng kỳ quặc hơn thôi. Nói chuyện tay đôi với nhau, cởi mở với nhau bao giờ cũng là tốt nhất. Nếu không thì sẽ dễ phát sinh hiểu lầm, mà đã hiểu lầm thì thành ra bất hạnh… Dù sao tôi cũng đã cố kêu gọi cô Kumiko. Tôi đã cố hết mình.

            Nhưng tôi không làm sao cho cô ấy đồng ý được. Cô ấy khăng khăng một mực rằng sẽ không nói chuyện trực tiếp với ông, thậm chí bằng điện thoại cũng không (bởi gặp trực tiếp thì hiển nhiên là không rồi). Cả bằng điện thoại cũng không? Suýt nữa tôi đã chịu thua rồi. Tôi đã thử hết mánh khóe trong sách vở, nhưng ý cô ấy đã quyết. Rắn như đá ấy.

            Ushikawa ngừng nói để xem tôi phản ứng ra sao, nhưng tôi chẳng nói gì.

            - Thế nhưng tôi cũng không thể cô ấy nói gì thì chỉ biết thế mà đành bó tay. Tiến sĩ Wataya sẽ quở tôi ra trò nếu tôi hành xử kiểu đó. Người kia có thể rắn như đá, nhưng tôi sẽ phải tìm ra một điểm dung hòa tí ti nào đó. Việc của chúng tôi là vậy: tìm ra điểm dung hòa. Nếu người ta không chịu bán cái tủ lạnh cho ta thì ít nhất hãy làm sao cho họ chịu bán ít nước đá. Thế là tôi vắt óc tìm xem có cách nào không. Nghĩ ra hàng triệu ý tưởng khác nhau, chính cái ấy làm chúng ta thành người đấy ông ạ. Thế rồi đùng một cái, một ý tưởng thật hay bật ra trong cái đầu mụ mị của tôi, như ngôi sao lóe lên giữa những đám mây vậy. “Đây rồi!” tôi tự nhủ. “Sao lại không nói chuyện trên màn hình vi tính chứ?” Ông biết đó, dùng bàn phím gõ câu chữ lên màn hình ấy mà. Ông làm vậy được chứ phải không, ông Okada?

            Hồi làm ở hãng luật tôi có dùng máy vi tính để nghiên cứu các trường hợp tiền lệ, tìm dữ liệu cá nhân cho khách hàng và liên lạc qua e-mail. Kumiko cũng dùng máy vi tính ở sở làm. Tạp chí về thức ăn dưỡng sinh nơi nàng làm biên tập có nhiều file lưu trong máy tính về thực đơn các món ăn và phân tích thành phần dinh dưỡng.

            - Không phải máy tính cũ nào cũng làm được đâu, - Ushikawa nói tiếp, - nhưng với máy chúng tôi và máy của ông thì ông và cô Kumiko có thể liên lạc với nhau bằng tốc độ khá nhanh. Cô Kumiko nói cô ấy sẵn sàng liên lạc với ông bằng cách đó. Tôi chỉ thuyết phục được cô ấy đồng ý đến thế thôi. Trao đổi thông điệp theo thời gian thực thì cũng gần như nói chuyện trực tiếp với nhau. Đó là điểm dung hòa cuối cùng tôi có thể tìm ra được. Vắt kiệt cái con khỉ này mới ra được ngần ấy thông thái đấy. Ông nói sao nào? Có thể ông thấy ý tưởng này chẳng có gì ghê gớm, nhưng tôi thì đến rạc cả óc mới nghĩ ra được đấy. Xin thưa với ông, phải động não đến cỡ đó trong khi ngay cả não mình cũng chẳng có thì mệt lắm!

            Tôi chuyển ống nghe sang tay trái.

            - Alô, ông Okada? Ông vẫn đang nghe đấy chứ?

            - Tôi đang nghe đây, - tôi nói.

            - Tốt, vậy thì thế này: cái duy nhất tôi cần ở ông là mật khẩu để truy cập máy tính của ông. Được vậy thì tôi sẽ bố trí được một buổi nói chuyện giữa ông và cô Kumiko. Ý ông thế nào?

            - Tôi thì thấy có vài cái khó, về thực tiễn.

            - Ồ, khó khăn gì mới được chứ?

            - Trước hết, làm sao tôi biết chắc đó là Kumiko? Khi trò chuyện trên màn hình vi tính, ta không thấy được mặt hay nghe giọng nói của người kia. Một ai khác có thể ngồi ở bàn phím vờ là Kumiko chứ.

            - Tôi hiểu ý ông, - Ushikawa nói, giọng có vẻ chịu là tôi nói phải. – Tôi chưa hề nghĩ tới điều đó. Nhưng tôi tin chắc là phải có cách giải quyết. Không phải nịnh ông đâu, nhưng luôn nhìn sự vật một cách hoài nghi, luôn nghi ngờ như ông là rất tốt. “Tôi hoài nghi, vì vậy tôi tồn tại”. Được thôi, vậy chuyện này xử lý thế nào? Trước tiên ông hãy hỏi một câu mà chỉ mình Kumiko mới trả lời được. Nếu người kia trả lời được thì đó phải là Kumiko. Ý tôi là ông với cô ấy sống với nhau đã mấy năm thì hẳn phải có vài điều chỉ hai người biết với nhau thôi.

            Điều Ushikawa vừa nói xem ra có lý.

            - Thế thì chắc là được, - tôi nói. – Nhưng tôi không biết mật khẩu. Tôi chưa đụng tới cái máy đó bao giờ.

            * * *

            Nhục đậu khấu có bảo tôi, Quế đã điều chỉnh từng xăngtimét của hệ thống máy tính theo ý thích của anh. Anh ta đã chế ra cơ sở dữ liệu riêng đầy phức tạp của mình và cài đặt một mã bí mật cùng nhiều phương sách tài tình khác để ngăn không cho người ngoài truy cập. Mười ngón tay đặt trên bàn phím, Quế là kẻ thống trị tuyệt đối cái mê cung ba chiều dưới lòng đất này. Anh ta biết rõ từng đường đi lối lại trong cái mớ bòng bong những đường ngang ngõ tắt ấy, chỉ cần một cú nhấn phím là có thể dễ dàng nhảy từ đường này đến lối kia. Đối với một kẻ ngu ngơ xâm nhập vào đây (nghĩa là bất cứ ai khác ngoài Quế), thì để mò được đường trong cái mê cung này, vượt qua hết các chốt báo động và cạm bẫy đặng tìm ra nơi chứa dữ liệu quan trong thì phải mất hàng tháng trời, theo lời Nhục đậu khấu. Ấy thế mà cái máy đặt ở Dinh không lấy gì làm quá lớn, nó chỉ cùng loại với máy đặt ở văn phòng tại Akasaka thôi. Tuy nhiên, cả hai đều được nối mạng với máy chủ ở nhà họ. Nhất định là ở đó Quế lưu dữ liệu về khách hàng và tiến hành hệ thống kế toán kép phức tạp của hai mẹ con, nhưng tôi cho rằng ngoài những bí mật liên quan đến công việc mà anh ta và Nhục đậu khấu đã làm nhiều năm qua, anh ta còn lưu ở đó một cái gì hơn thế nữa.

            Sở dĩ tôi tin như vậy là xét qua mức độ gắn bó sâu sắc giữa Quế với chiếc máy vi tính mà có lần tôi đã tình cờ thấy được khi anh ta nán lại Dinh của chúng tôi. Thường thì mỗi khi ngồi trong phòng làm việc riêng của mình ở đó, anh ta đều đóng kín cửa, nhưng thi thoảng anh ta lại để cửa he hé nhờ vậy tôi có thể quan sát anh ta làm việc, dù không phải không có chút cảm giác tội lỗi khi tọc mạch dòm vào chỗ riêng tư của người ta. Anh ta và chiếc máy vi tính dường như cũng chuyển động trong một mối thống nhất gần như là nhục cảm. Sau khi gõ một loạt phím, anh ta nhìn đăm đăm vào màn hình, miệng anh ta méo đi lộ vẻ bất bình hoặc cong lên hao hao giống nụ cười. Đôi khi anh có vẻ trầm ngâm suy nghĩ, tay gõ một phím, một phím khác, rồi một phím khác nữa; đôi khi anh lướt ngón tay rào rào trên các phím với toàn bộ nội lực của một dương cầm thủ đang chơi một bản étude của Liszt. Trong khi đắm mình vào cuộc đàm thoại câm lặng với chiếc máy tính, dường như anh đang nhìn thấu qua màn hình để thấy một thế giới khác, cái thế giới có mối liên quan mật thiết đặc biệt với anh. Tôi không thể không cảm thấy, thực tại đối với anh là ở cái mê cung dưới lòng đất của anh hơn là ở thế giới trên mặt đất này. Có lẽ trong thế giới đó Quế có một giọng nói rõ ràng, sang sảng, bằng giọng đó anh nói năng hùng biện, bằng giọng đó anh cười lớn tiếng và thét vang lên.

            * * *

            - Liệu tôi có thể truy cập máy của ông từ máy ở đây không? – tôi hỏi Ushikawa. – Làm vậy thì ông không cần mật khẩu.

            - Không, thế không được. Thông điệp của ông có thể đến đây, nhưng thông điệp từ đây thì không đến đó được. Vấn đề là ở mật khẩu, ở cái câu “Vừng ơi mở ra” ấy. Không có nó thì ta chẳng làm gì được. Cửa sẽ không mở ra cho sói, dù sói có ra sức nhại giọng đến đâu. Nó có thể gõ cửa nói: “Chào, mình là bạn Thỏ đây”, nhưng nếu không có mật khẩu thì sẽ bị cấm cửa thôi. Đây là chuyện khóa trinh tiết kia mà.

            Ushikawa quẹt diêm châm thuốc ở đầu dây bên kia. Tôi hình dung hai hàm răng khấp khểnh vàng khè và cái mồm móm xọm của y.

            - Đó là một mật khẩu gồm ba ký tự, chữ cái hay chữ số. Ông có mười phút để nhập mật khẩu sau khi con trỏ nhắc. Nhập sai ba lần thì sẽ bị từ chối truy cập, thêm nữa sẽ có báo động. Chả phải còi hụ hay gì gì đâu, nhưng sói đã để lại dấu chân thì người ta ắt biết là nó đã chui vào. Khôn ngoan quá hử? Ông cứ thử tính có bao nhiêu cách hoán vị và kết hợp giữa hai mươi bốn chữ cái và mười chữ số xem, có mà vô số. Ông phải biết mật khẩu, không thì chẳng làm gì được.

            Tôi suy nghĩ một chút, không trả lời.

            - Ông Okada có ý gì không?

            * * *

            Chiều hôm sau, khi vị khách đã ngồi trên băng sau chiếc Mercedes để ra về, tôi đến chỗ phòng làm việc nhỏ của Quế, ngồi xuống trước máy vi tính của anh ta rồi bật máy. Ánh sáng xanh dương dịu mát của màn hình hiện lên với một thông điệp duy nhất:

            Nhập mật khẩu trong vòng mười giây.

            Tôi nhập mật khẩu gồm ba chữ mà tôi đã chuẩn bị sẵn:

            zoo

            Máy tính kêu bíp một lần rồi hiển thị thông báo lỗi:

            Mật khẩu không đúng.

            Nhập mật khẩu đúng trong vòng mười giây.

            Mười giây bắt đầu được đếm ngược trên màn hình. Tôi chuyển sang chữ hoa và nhập cũng những ký tự đó.

            ZOO

            Một lần nữa máy lại từ chối cho tôi truy nhập:

            Mật khẩu không đúng.

            Nhập mật khẩu đúng trong vòng mười giây.

            Nếu nhập sai mật khẩu một lần nữa thì sẽ bị cấm truy nhập.

            Một lần nữa mười giây lại được đếm ngược trên màn hình. Lần này tôi chỉ dùng ký tự hoa cho z. Đây là cơ hội chót của tôi.

            Zoo

            Thay vì thông báo lỗi, một màn hình mệnh đơn xuất hiện với hướng dẫn:

            Chọn một trong các chương trình sau.

            Tôi chọn “Chat Mode” rồi nhấp chuột.

            Nhập mật khẩu trong vòng mười giây.

            Đây là một đầu mối quan trọng để Quế ngăn không cho người ngoài xâm nhập vào máy. Mà nếu đầu mối đã quan trọng thì bản thân mật khẩu cũng phải quan trọng. Tôi gõ vào:

            SUB

            Màn hình hiển thị:

            Mật khẩu không đúng.

            Nhập mật khẩu đúng trong vòng mười giây.

            Máy bắt đầu đếm ngược: 10, 9, 8…

            Tôi thử dùng kết hợp giữa chữ hoa và chữ thường mà lần trước đã có hiệu quả:

            Sub

            Một câu nhắc xuất hiện trên màn hình:

            Nhập số điện thoại.

            Tôi khoanh tay trước ngực, nhìn đăm đăm vào cái thông điệp này. Không tệ lắm. Tôi đã mở thành công hai cánh cửa trong mê cung của Quế. Không, không tệ một chút nào. “Zoo” và “Sub”(11) là vào được. Tôi nhấp “Exit” rồi quay lại màn hình chính, sau đó chọn “Shutdown”, khi đó màn hình hiển thị thông điệp:

            Lưu các thao tác lần này vào file tác vụ? Y/N (Y)

            Theo chỉ dẫn của Ushikawa, tôi chọn “No” để tránh lưu lại dấu vết về những thao tác mà tôi vừa tiến hành.

            Màn hình lặng lẽ tắt. Tôi quệt mồ hôi trán. Sau khi kiểm tra xem mình đã đặt bàn phím và con chuột về đúng vị trí cũ chưa, tôi rời khỏi cái màn hình giờ đã lạnh.

            ------------------------------------

            11. Zoo là vườn thú, còn “sub” là âm tiết đầu của submarine, tàu ngầm. Hiển nhiên, Okada Toru đã lường trước được rằng “vườn thú” và “tàu ngầm”, hai chi tiết quan trọng trong những câu chuyện của bà Akasaka Nhục đậu khấu kể cho Quế nghe, ắt phải có cái gì đó rất quan trọng, thậm chí quan trọng bậc nhất đối với Quế, nên mật khẩu truy cập máy tính của Quế hẳn cũng không nằm ngoài những thứ này – ND.

            20

            Chuyện của Nhục đậu khấu

            *

            Akasaka Nhục đậu khấu phải mất mấy tháng mới kể xong chuyện đời mình cho tôi nghe. Đó là một câu chuyện dài, rất dài, nên những gì tôi ghi lại ở đây chỉ là một bản tóm tắt đã được lược giản hóa rất nhiều (tuy không hẳn là ngắn) của toàn bộ câu chuyện. Tôi không thể tự tin tuyên bố rằng câu chuyện tóm lược này hàm chứa được những gì cốt tử của câu chuyện đời Nhục đậu khấu, song ít nhất nó cũng chuyển tải được nét đại cương các sự kiện quan trọng xảy ra vào những thời điểm then chốt của cuộc đời bà.

            * * *

            Nhục đậu khấu cùng mẹ chạy thoát từ Mãn Châu về Nhật Bản, của quý duy nhất họ mang theo được là nữ trang mang trên người. Từ cảng Sasebo họ dắt díu nhau về Yokohama để sống với gia đình của mẹ bà, vốn từ lâu đã làm chủ một doanh nghiệp xuất nhập khẩu làm ăn chủ yếu với Đài Loan. Hồi trước chiến tranh gia đình làm ăn phát đạt, nhưng từ khi Nhật Bản mất Đài Loan thì họ cũng mất gần như toàn bộ doanh thu. Người cha đã mất vì bệnh tim, còn người con trai thứ của gia đình, vốn là cánh tay phải của người cha, thì chết trong một cuộc không kích ngay trước khi chiến tranh kết thúc. Người con trai trưởng bỏ nghề dạy học để cáng đáng cơ nghiệp của gia đình, song vì khí chất không thích hợp với nghề buôn nên ông không gây dựng lại nổi gia sản trước kia. Nhà cửa đất đai thì họ vẫn còn, nhưng đó không phải là một nơi dễ sống đối với Nhục đậu khấu cùng mẹ, những kẻ giờ đây chỉ là thêm mấy miệng ăn vào thời buổi khó khăn sau chiến tranh. Họ luôn luôn cố gắng càng thu mình lại càng hay, đến bữa ăn thì lấy phần mình ít hơn người khác, buổi sáng dậy sớm hơn, việc nhà thì tự gánh vác nhiều hơn. Từng món đồ mà Nhục đậu khấu mặc – từ găng tay, tất đeo chân, thậm chí cả quần lót – đều là đồ cũ của các anh chị họ để lại. Bút chì thì cô bé nhặt nhạnh những mẩu bút thừa người khác vứt đi. Nội chuyện mỗi sáng thức dậy cũng đã là khổ sở đối với cô bé. Chỉ cần nghĩ rằng một ngày mới đang bắt đầu là ngực cô đã đau nhói lên.

            Cô muốn thoát khỏi căn nhà này, để sống một mình với mẹ ở đâu đó nơi họ không phải luôn cảm thấy bị gò bó, cho dù phải sống bần hàn. Nhưng mẹ cô không bao giờ tìm cách bỏ đi. “Mẹ tôi vốn luôn luôn là người hoạt động,” Nhục đậu khấu nói. “Nhưng từ khi từ Mãn Châu chạy về đây, bà cứ như cái vỏ sò rỗng. Dường như bao nhiêu sức mạnh để sống còn ở trong bà đã biến đâu mất hết”. Bà không còn có thể tỉnh thức trước bất cứ việc gì. Bà chỉ còn làm được mỗi một việc là kể đi kể lại với Nhục đậu khấu về những ngày hạnh phúc xưa kia. Điều đó khiến cho Nhục đậu khấu phải trông vào tài tháo vát của chính mình đặng có thể tiếp tục sống.

            Nhục đậu khấu không hẳn là không thích học hành, nhưng bà hầu như không chút quan tâm đến các môn người ta dạy ở trường trung học. Bà không tin nổi rằng cứ nhồi vào đầu cả mớ ngày tháng lịch sử hoặc quy tắc ngữ pháp tiếng Anh hay bằng thức hình học thì có lợi gì cho bà. Điều bà muốn hơn hết thảy là học một kỹ năng hữu ích để có thể tự lập càng sớm càng tốt. Những gì bà quan tâm hoàn toàn khác với đám bạn cùng lớp, những kẻ hoàn toàn hài lòng với cuộc sống học đường.

            Điều duy nhất bà bận tâm hồi đó là thời trang. Từ sáng đến tối tâm trí bà tràn ngập toàn những ý nghĩ về quần áo. Chẳng phải bà có đủ tiền để mặc theo mốt này mốt nọ đâu: bà chỉ có thể đọc tới đọc lui các tạp chí về thời trang tìm được, và vẽ đầy vào sổ tay các mẫu áo váy bắt chước những mẫu trong các tạp chí hay những thứ quần áo tự bà nghĩ ra. Bà không hề biết những chiếc áo váy lạ đời kia có gì mà hút hồn mình đến vậy. Nhục đậu khấu nói, có thể đó là do bà vẫn có thói quen nghịch cái tủ quần áo to đùng của mẹ bà hồi ở Mãn Châu. Mẹ bà đúng là một cái giá phơi quần áo. Bà có nhiều bộ kimono và váy áo kiểu âu đến nỗi bao nhiêu tủ cũng không chứa xuể, và cô bé Nhục đậu khấu hễ có cơ hội là lập tức lôi ra sờ mó. Hầu hết các áo váy và bộ kimono này họ đã phải bỏ lại Mãn Châu, còn những gì họ nhét vào ba lô được thì dọc đường đã phải đổi lấy cái ăn hết cả. Mỗi lần như vậy, mẹ bà lại trải chiếc áo váy sắp đem đổi ra, thở vắn than dài rồi mới cho đi.

            “Thiết kế quần áo là cánh cửa bí mật của tôi để bước vào một thế giới khác”, Nhục đậu khấu nói. “Một thế giới chỉ thuộc riêng tôi. Trong thế giới đó, sức tưởng tượng là tất cả. Ta càng có khả năng tưởng tượng những gì ta muốn thì lại càng có thể lánh xa thực tại hơn. Và cái mà tôi thích nhất ở công việc này là nó tự do. Không tốn một đồng nào. Thật tuyệt vời! Nhưng tưởng tượng ra những quần áo đẹp trong trí mình rồi chuyển lên mặt giấy không chỉ là một cách để tôi xa lìa thực tại mà bước vào cõi mộng. Tôi phải làm việc này còn là để sinh nhai nữa. Việc đó với tôi cũng tự nhiên và hiển nhiên như là hít thở. Thành thử tôi cứ cho rằng người khác cũng làm thế. Khi tôi nhận ra rằng người khác chẳng ai làm thế, rằng thậm chí dù có cố họ cũng không làm được, tôi bèn tự nhủ: “Ta vốn khác người, vì vậy cuộc sống của ta cũng phải khác người.”

            Nhục đậu khấu bỏ trường trung học mà chuyển sang trường dạy cắt may. Để có tiền đóng học phí, bà xin mẹ bán đi một trong những món nữ trang cuối cùng còn lại. Với số tiền đó, bà đã có thể học khâu, cắt, vẽ kiểu và những kỹ năng hữu ích khác trong hai năm. Khi tốt nghiệp, bà thuê một căn hộ rồi bắt đầu sống một mình. Để có thể tiếp tục theo học một trường đào tạo thiết kế thời trang chuyên nghiệp, bà đi làm hầu bàn ở nhà hàng và làm những việc vặt như khâu vá thuê. Tốt nghiệp trường này xong, bà đi làm cho một nhà sản xuất trang phục phụ nữ cao cấp, ở đây bà được vào làm ở phòng thiết kế.

            Không nghi ngờ gì nữa, bà có một tài năng độc đáo. Bà không chỉ vẽ giỏi mà ý tưởng và quan điểm của bà luôn luôn khác mọi người. Bà luôn có hình dung rõ rệt về những cái mình muốn làm; mà đó không phải do bà vay mượn từ bất cứ ai: đó luôn luôn là ý tưởng của chính bà, nảy sinh từ bà một cách tự nhiên. Bà đeo đuổi từng chi tiết cỏn con của cái ý tưởng kia với sự riết róng và mãnh liệt của con cá hồi bơi ngược dòng sông lớn về nguồn. Bà chẳng có thời gian để ngủ. Bà yêu công việc và chỉ mơ đến ngày trở thành nhà thiết kế độc lập. Bà không bao giờ nghĩ tới thú vui ngoài giờ làm việc: trên thực tế, bà không biết gì về những trò tiêu khiển thông thường của người đời.

            Chẳng bao lâu, các sếp nhận ra chất lượng công việc của bà và quan tâm đến những đường nét phóng túng, đầy khinh khoái trong phong cách của bà. Thế là kết thúc những năm học việc của bà, từ nay bà được giao phụ trách hẳn một bộ phận nhỏ, đó là một sự thăng tiến phi thường.

            Nhục đậu khấu tiếp tục đạt được những thành tựu xuất sắc hết năm này qua năm khác. Tài năng và nghị lực của bà thu hút sự chú ý không chỉ của người trong công ty mà của cả ngành thời trang. Giới thiết kế thời trang là một giới khép kín, nhưng đồng thời là một giới rất công bằng, một xã hội được thống trị bằng quy luật cạch tranh. Thực lực của nhà thiết kế được xác định bởi một điều duy nhất: số lượng đơn hàng lớn có được nhờ các bộ quần áo mà anh hay chị ta thiết kế. Hoàn toàn không nghi ngờ gì chuyện ai thắng ai thua: nhìn con số là đủ rõ. Nhục đậu khấu không bao giờ cảm thấy mình đang cạnh tranh với ai, song thành tựu của bà thì không thể phủ nhận.

            Bà làm việc quên mình đến khi xấp xỉ tuổi ba mươi. Bà từng gặp nhiều người qua công việc, một vài người đàn ông đã tỏ ra quan tâm đến bà, nhưng quan hệ giữa bà với họ thường ngắn ngủi và hời hợt. Nhục đậu khấu không bao giờ có thể quan tâm một cách sâu sắc tới những người sống. Tâm trí bà tràn ngập hình ảnh những quần với áo, và những mẫu thời trang đàn ông có tác động trực tiếp tới bà hơn bất cứ người đàn ông sống thật nào.

            Tuy nhiên, khi bà bước qua tuổi hai mươi bảy, ở một buổi dạ hội của giới thời trang nhân dịp năm mới người ta giới thiệu Nhục đậu khấu với một người trông là lạ. Đường nét anh ta cũng bình thường thôi, nhưng đầu tóc anh ta rối bù, mũi và cằm anh ta sắc nét như những công cụ làm bằng đá. Anh ta giống một tay thuyết giáo giả cầy hơn là nhà thiết kế thời trang phụ nữ. Anh ta trẻ hơn Nhục đậu khấu một tuổi, có cặp mắt sâu không đáy. Từ chiều sâu không đáy đó anh ta nhìn mọi người bằng cái nhìn soi mói như thể cố tình buộc người ta phải thấy khó chịu. Tuy nhiên, trong mắt anh ta, Nhục đậu khấu thấy hình phản chiếu của chính mình. Lúc đó anh ta là một nhà thiết kế hãy còn vô danh nhưng có triển vọng, hai người gặp nhau mới lần đầu. Dĩ nhiên bà đã nghe người ta nói về anh. Họ nói anh ta có tài năng độc đáo, nhưng anh ta kiêu căng, vị kỷ và lý sự, hầu như chẳng ai ưa.

            “Hai chúng tôi cùng một loại,” Nhục đậu khấu nói. “Cả hai đều ra đời ở đại lục. Cũng như tôi, anh ấy hồi hương sau chiến tranh, nhưng là từ Triều Tiên, bị mất hết của cải. Cha anh ấy là quân nhân chuyên nghiệp, gia đình vô cùng khốn quẫn những năm hậu chiến. Mẹ anh ấy mất vì sốt phát ban khi anh ấy còn rất nhỏ, tôi cho rằng chính vì vậy anh ấy mới đâm ra quan tâm mạnh mẽ đến y phục nữ giới. Anh ấy tài thì có tài, nhưng không hề biết cách giao tiếp với mọi người. Chẳng gì thì cũng là nhà thiết kế trang phục nữ, nhưng cứ hễ trước mặt đàn bà là anh đỏ bừng mặt lên và cư xử rồ dại. Nói cách khác, cả hai chúng tôi là những kẻ lạc loài, tách biệt khỏi bầy.”

            Họ lấy nhau vào năm sau đó, 1963, và đứa con mà họ sinh vào mùa xuân năm sau nữa (năm diễn ra đại hội Olympic Tokyo) là Quế. “Tên cậu ấy là Quế phải không?” Chẳng bao lâu sau khi sinh Quế, Nhục đậu khấu đưa mẹ về sống chung nhà để nhờ bà trông cháu. Bản thân Nhục đậu khấu làm việc từ sáng đến tối không ngừng nghỉ, chẳng có đâu thì giờ chăm con mọn. Vậy là Quế ít nhiều được dưỡng dục nhờ bà ngoại.

            * * *

            Nhục đậu khấu chẳng bao giờ biết rõ liệu mình có thực sự yêu chồng như một người đàn ông không. Bà không có bất cứ tiêu chí nào để có thể phán xét như vậy, và điều này cũng đúng đối với chồng bà. Họ gắn bó với nhau chỉ là do gặp gỡ tình cờ và do cả hai cùng đam mê nghề thiết kế thời trang. Dù sao, mười năm đầu chung sống mang lại cho hai người khá nhiều thành quả. Ngay sau khi kết hôn, cả hai đều rời bỏ công ty mình đang làm việc rồi cùng mở một xưởng thiết kế thời trang độc lập trong một căn hộ ở một tòa nhà nhỏ nhìn về hướng Tây ngay sau xa lộ Aoyama. Bởi thông gió kém lại không có điều hòa không khí nên vào mùa hè chỗ ấy nóng đến nỗi mồ hôi làm cho bút chì tuột khỏi tay. Ban đầu việc làm ăn không được thuận buồm xuôi gió. Cả Nhục đậu khấu lẫn chồng đều thiếu năng lực kinh doanh thực tế đến kỳ lạ, hậu quả là họ bị những kẻ vô liêm sỉ trong giới thời trang lừa bịp dễ dàng, hoặc không đáp ứng được đơn hàng bởi không biết gì về lối làm ăn hay phạm phải những sai lầm sơ đẳng. Nợ nần chồng chất đến nỗi có lúc dường như họ chỉ còn giải pháp duy nhất là bỏ trốn. Bước đột phá xảy ra khi Nhục đậu khấu tình cờ gặp một nhà quản trị kinh doanh giỏi biết nhìn nhận tài năng của họ và phục vụ họ một cách trung thành tận tụy. Từ đó trở đi, công ty phát đạt đến nỗi bao nhiêu vấn đề trước kia của họ chỉ còn như là một giấc mơ rồi. Doanh số của họ năm sau cao gấp đôi năm trước, cho tới năm 1970 thì cái công ty nhỏ họ gây dựng nên gần như từ hai bàn tay trắng đã đạt được thành công thần kỳ đến nỗi ngay cả đôi vợ chồng cao ngạo, xa rời thực tế kia, người khai sinh ra nó, cũng phải lấy làm kinh ngạc. Họ thuê thêm nhân viên, chuyển đến một tòa nhà lớn trên đại lộ và mở những cửa hàng của riêng mình ở những khu sang trọng như Ginza, Aoyama và Shinjuku. Phong cách thiết kế độc đáo của họ thường được giới thiệu trên phương tiện truyền thông và nức tiếng xa gần.

            * * *

            Khi công ty đã lớn mạnh đến một độ nhất định, cách phân chia công việc giữa hai vợ chồng bắt đầu thay đổi. Tuy thiết kế và may quần áo là một quá trình sáng tạo, nhưng khác với điêu khắc hay viết tiểu thuyết, nó cũng là một ngành kinh doanh có liên quan đến số phận của nhiều người. Người ta không thể cứ ngồi nhà sáng tạo ra bất cứ cái gì mình thích được. Phải có ai đó đi ra ngoài, trình “bộ mặt” của công ty ra với mọi người. Các giao dịch của công ty ngày càng có quy mô lớn thì nhu cầu ngày càng tăng. Một trong hai người phải có mặt tại các bữa tiệc và show thời trang, phát biểu dăm câu và chén chú chén anh với khách khứa, trả lời phỏng vấn. Nhục đậu khấu không hề có ý định đóng vai trò đó, thế là chồng bà đành phải nhận. Vốn cũng là người kém quảng giao như bà, đầu tiên ông thấy phải làm những trò đó là cả một cực hình. Ông không biết nói năng khéo léo trước mặt nhiều người lạ, nên sau mỗi buổi như vậy về đến nhà là ông kiệt sức. Tuy nhiên, sau nửa năm, ông nhận ra rằng việc đó không còn làm ông khổ sở lắm nữa. Ông vẫn không phải là người khéo nói, nhưng phản ứng của thiên hạ đối với cung cách vụng về thô lỗ của ông đã khác với hồi ông còn trẻ: nay người ta dường như lại thấy ông đầy lôi cuốn. Họ cho cái phong thái nói năng cộc lốc của ông (vốn là do bản tính trời sinh hướng nội) không phải là bằng chứng của thói ngạo đời lập dị mà là của một tư chất nghệ sĩ đầy quyến rũ. Ông bắt đầu thực sự thích thú cái vị thế mới này, nơi ông tìm thấy chính mình, và chẳng bao lâu ông được người ta xưng tụng như là một người hùng văn hóa của thời đại.

            - Chắc hẳn cậu từng nghe tên ông ấy, - Nhục đậu khấu nói. – Nhưng trên thực tế, tới hai phần ba công việc thiết kế là một tay tôi làm. Những ý tưởng táo bạo, độc đáo của ông ấy đều thành công lớn về thương mại, và ngần đó ý tưởng của ông ấy đã là thừa đủ để duy trì công ty của chúng tôi. Việc của tôi là phát triển, triển khai các ý tưởng đó, định hình cho chúng. Dù công ty có lớn mạnh đến đâu, chúng tôi vẫn chẳng bao giờ thuê người khác thiết kế. Nhân viên ngày càng đông, nhưng phần việc cốt yếu nhất thì chúng tôi tự làm. Chúng tôi chỉ muốn nhằm một điều là làm ra những trang phục mình muốn làm, không quan tâm đến những người sẽ mua trang phục đó. Chúng tôi không nghiên cứu thị trường, không tính giá, cũng không hoạch định chiến lược. Một khi đã quyết định mình cần làm một cái gì, theo cách nào đó là chúng tôi thiết kế theo đúng cách ấy, dùng những chất liệu tốt nhất có thể tìm được, và tốn bao nhiêu thời gian cũng được, để làm. Những gì các nhà khác làm trong hai bước, chúng tôi làm trong bốn bước. Ở đâu họ chỉ dùng ba thước vải thì chúng tôi dùng bốn. Chúng tôi đích thân kiểm tra và duyệt từng cái áo, cái quần xuất khỏi cửa hàng của chúng tôi. Cái gì không bán được, chúng tôi thanh lý. Chúng tôi không bao giờ bán giảm giá. Giá của chúng tôi rất cao, dĩ nhiên. Dân trong nghề cho chúng tôi điên, nhưng trang phục của chúng tôi đã trở thành biểu tượng của thời đại, ngang hàng với Peter Max, Woodstock, Twiggy, Easy Rider, vân vân. Hồi ấy chúng tôi thiết kế quần áo thật là vui biết mấy! Chúng tôi có thể làm những thứ điên rồ nhất, thế mà mình ở đâu là khách hàng có đó ngay. Dường như chúng tôi đã mọc những đôi cánh khổng lồ, muốn bay đâu cũng được.

            * * *

            Tuy nhiên chính lúc việc làm ăn của họ đang đi vào ổn định thì Nhục đậu khấu và chồng ngày càng trở nên xa cách. Ngay cả những khi làm việc bên nhau, thỉnh thoảng bà nhận thấy tâm hồn ông cứ vơ vẩn ở đâu đâu. Mắt ông dường như đã mất cái tia đói khát mà trước kia từng có. Tính tình hung bạo, trước kia ông thường ném vật này vật nọ, song nay cái hung bạo đó hầu như không bao giờ trỗi dậy nữa. Thay vào đó bà hay bắt gặp ông nhìn đăm đăm vào khoảng không như đang đắm mình suy nghĩ. Hai người hiếm khi nói chuyện với nhau ngoài nơi làm việc, và càng ngày ông càng hay đi suốt đêm không về. Nhục đậu khấu cảm thấy giờ đây ông có tới mấy người đàn bà khác, nhưng bà không lấy đó làm đau khổ. Bà coi chuyện đó là không thể tránh được, bởi đã từ lâu họ không có quan hệ về thể xác với nhau (chủ yếu vì Nhục đậu khấu đã mất sự thèm muốn về tình dục).

            * * *

            Vào cuối năm 1975, khi Nhục đậu khấu bốn mươi tuổi và Quế mười một tuổi, chồng bà bị giết. Người ta tìm thấy xác ông bị chặt ra thành từng mảnh trong một phòng khách sạn ở Akasaka. Người hầu phòng phát hiện ra ông khi cô ta dùng chìa khóa mở cửa vào phòng để quét dọn lúc 11 giờ trưa. Bồn rửa mặt trông như vừa trải qua một cuộc tắm máu. Bản thân cái xác gần như đã cạn hết máu, không còn tim, dạ dày, gan, cả hai trái thận và lá lách, bởi kẻ nào giết ông đã cắt những cơ quan đó ra khỏi xác rồi cho vào túi nhựa hay một đồ chứa tương tự đặng mang đi đâu đó. Cái đầu bị chặt khỏi thân, đặt trên nắp bệ xí, quay ra ngoài, mặt bị băm nát. Rõ ràng kẻ giết người đã chặt cái đầu và băm vằm khuôn mặt trước, sau đó mới thu các cơ quan nội tạng.

            Để cắt các cơ quan đó ra khỏi thân người thì phải có những dụng cụ đặc biệt sắc và kỹ năng đáng kể. Hung thủ đã dùng cưa để cưa đứt vài cái xương sườn, một công việc mất nhiều thời gian và đẫm máu. Người ta không rõ sao lại có người chịu bỏ ra bao nhiêu công phu để làm việc như vậy.

            Vì quá bận rộn do đang là ngày nghỉ nên nhân viên quầy tiếp tân chỉ nhớ được rằng chồng của Nhục đậu khấu đã nhận phòng trên tầng mười hai vào lúc 10 giờ đêm hôm trước cùng với một phụ nữ - một phụ nữ xinh đẹp chừng ba mươi tuổi, mặc áo khoác ngoài màu đỏ, người không cao lắm. Cô ta không mang gì khác ngoài một cái ví nhỏ. Giường nằm có dấu vết của hoạt động tình dục. Sợi lông và chất lỏng tìm được trên đệm trải giường là lông dương vật và tinh dịch của ông. Căn phòng đầy dấu tay, nhưng vì có quá nhiều dấu nên không dùng để điều tra được. Chiếc va li nhỏ bằng da của ông chỉ đựng một quần lót để thay, vài món đồ rửa mặt cạo râu, một cặp hồ sơ đựng ít tài liệu liên quan đến công việc, một tờ tạp chí. Ví của ông có hơn một trăm ngàn yên và vài thẻ tín dụng, nhưng một cuốn sổ mà lẽ ra ông phải mang theo người thì không tìm thấy. Không có dấu vết đánh nhau trong phòng.

            Cảnh sát điều tra tất cả những người quen biết ông nhưng không tìm thấy người đàn bà nào khớp với mô ta của tiếp tân khách sạn. Một vài người đàn bà mà họ tìm thấy thì không có lý do gì để nuôi mối thâm thù hoặc ghen tuông đối với nạn nhân, và đều có chứng cớ ngoại phạm vững chắc. Có khá nhiều người ghét ông trong giới thời trang (vốn không hề được tiếng là một giới thân thiện và gần gũi), nhưng không ai có vẻ thù ghét ông đến độ phải giết ông, và không ai được huấn luyện kỹ năng cắt các cơ quan nội tạng ra khỏi xác ông.

            Vụ ám sát một nhà thiết kế thời trang nổi tiếng dĩ nhiên là được đưa tin rộng rãi trên báo chí, với ít nhiều chi tiết giật gân, nhưng cảnh sát đã có nhiều biện pháp nghiệp vụ để ém nhẹm thông tin về việc cắt các cơ quan nội tạng, nhằm tránh không cho một vụ giết người quái đản như vậy thu hút quá nhiều sự chú ý của công chúng. Cái khách sạn có uy tín kia dường như cũng đã tạo áp lực để người ta càng ít nhắc đến họ trong vụ việc này càng tốt. Báo chí gần như chẳng đưa tin gì hơn chuyện ông đã bị đâm chết trong một phòng ở khách sạn họ. Có một dạo người ta đồn đại rằng trong vụ này có “cái gì đó không bình thường”, nhưng cụ thể là gì thì không rõ. Cảnh sát tiến hành điều tra diện rộng, nhưng không bắt được kẻ sát nhân, cũng không xác định được động cơ giết người.

            - Căn phòng khách sạn đó có lẽ đến giờ vẫn đang niêm phong, - Nhục đậu khấu nói.

            * * *

            Năm trước chồng bị giết thì mùa xuân năm sau Nhục đậu khấu bán toàn bộ công ty – cả các cửa hàng bán lẻ, kho hàng, thương hiệu – cho một nhà sản xuất thời trang lớn. Khi viên luật sư được bà thuê để tiến hành đàm phán mang hợp đồng đến cho bà, Nhục đậu khấu chẳng nói chẳng rằng đóng triện lên, gần như không buồn liếc qua giá bán.

            Bán công ty xong, Nhục đậu khấu mới phát hiện ra rằng niềm đam mê của bà đối với nghề thiết kế thời trang đã biến sạch không còn dấu vết. Dòng suối khát vọng mãnh liệt từng có thời là ý nghĩa cuộc đời bà nay đã cạn khô. Thỉnh thoảng bà vẫn nhận đơn hàng và thực hiện với toàn bộ kỹ năng của một chuyên gia hàng đầu, nhưng không có chút niềm vui. Đó cũng giống như ăn mà chẳng thấy có mùi vị gì. Bà có cảm giác như “bọn họ” đã lôi hết gan ruột của bà ra. Những ai từng biết đến nghị lực và kỹ năng của bà trước kia vẫn còn nhớ đến Nhục đậu khấu như một huyền thoại: đơn hàng vẫn không ngừng đến từ những người như vậy, nhưng ngoại trừ số rất ít mà Nhục đậu khấu không thể từ chối, bà khước từ tất cả. Theo lời khuyên của kế toán, bà đầu tư vào cổ phiếu và bất động sản, và tài sản của bà khuếch trương lên dần trong những năm tăng trưởng đó.

            Nhục đậu khấu bán công ty chưa được bao lâu thì mẹ của bà qua đời vì bệnh tim. Bà cụ đang tưới nước vỉa hè bên ngoài nhà vào một buổi chiều tháng tám nóng nực thì bỗng kêu thấy “khó ở”. Bà nằm xuống ngủ, ngáy to một cách đáng ngại, chẳng mấy chốc sau thì bà mất. Nhục đậu khấu và Quế còn lại bơ vơ trên cõi đời. Nhục đậu khấu giam mình trong nhà suốt hơn một năm, ngày nào cũng ngồi trên sofa nhìn ra vườn, như muốn tìm lại sự bình an êm ả bà đã đánh mất trong đời mình từ bấy lâu nay. Bà hầu như không ăn gì, ngủ mỗi ngày mười tiếng đồng hồ. Quế - lúc đó ở độ tuổi mà như trẻ thông thường là bắt đầu vào trung học – liền thay mẹ cáng đáng gia đình, những lúc rảnh sau khi làm việc nhà thì cậu chơi các bản xô nát của Mozart, Haydn và học được mấy ngoại ngữ.

            Giai đoạn gần như trống rỗng và tĩnh lặng này trong đời Nhục đậu khấu kéo dài được một năm, cho tới khi bà tình cờ phát hiện rằng mình có một “năng lực” đặc biệt nào đó, một sức mạnh kỳ lạ mà trước kia bà không hề biết tới. Bà cho rằng cái năng lực đó khởi sinh tự bên trong bà để thay cho nỗi đam mê mãnh liệt đối với thời trang mà nay đã khô kiệt. Và quả thực, cái năng lực đó đã trở thành nghề mới của bà, mặc dù tự thân bà không tìm kiếm nó.

            * * *

            Người đầu tiên được thụ hưởng năng lực kỳ lạ của bà là vợ của chủ nhân một siêu thị, một phụ nữ thông minh, năng nổ thời trẻ từng là ca sĩ opera. Bà ta từng thừa nhận tài năng của Nhục đậu khấu từ lâu trước khi bà trở thành nhà thiết kế nổi tiếng và vẫn thường xuyên bảo bọc cho sự nghiệp của bà. Không có sự hỗ trợ của người đàn bà này thì công ty của Nhục đậu khấu hẳn đã lụt bại ngay từ buổi đầu. Do quan hệ đặc biệt giữa hai người, Nhục đậu khấu đồng ý giúp người phụ nữ này và con gái bà ta chọn và phối hợp trang phục cho đám cưới của cô con gái, một việc mà bà thấy cũng không lấy gì làm vất vả.

            Nhục đậu khấu và người đàn bà đang tán gẫu trong khi chờ cô con gái thử quần áo thì bỗng nhiên người đàn bà ép cả hai tay lên đầu và lảo đảo quỳ sụp xuống sàn nhà. Nhục đậu khấu hoảng hốt ghì lấy bà ta cho khỏi ngã và xoa xoa thái dương trái của bà ta. Bà làm việc đó theo phản xạ, không suy nghĩ gì, nhưng ngay khi lòng bàn tay bắt đầu di chuyển, bà cảm thấy “có một cái gì đó”, như thể bà đang cảm nhận được một vật bên trong chiếc túi vải.

            Bối rối, Nhục đậu khấu nhắm mắt lại cố nghĩ đến một cái gì khác. Bà chợt nhớ đến vườn thú ở Tân Kinh; vườn thú vào một ngày đóng cửa, chỉ có một mình bà ở đó, ấy là một biệt lệ chỉ mình bà được hưởng do là con gái của bác sĩ trưởng vườn thú. Đó là thời hạnh phúc nhất trong đời bà, cái thời bà được đùm bọc, thương yêu, che chở. Đó là ký ức đầu đời của bà. Vườn thú vắng tanh. Bà nghĩ đến những mùi, đến làn ánh sáng rực rỡ, đến hình dáng mỗi đám mây trôi trên trời. Bà tha thẩn một mình từ chuồng này sang chuồng khác. Đang thu, bầu trời sáng rõ cao vời vợi, từng đàn chim từ Mãn Châu về chuyền từ cây này sang cây khác. Đó là thế giới bản lai của bà, cái thế giới mà theo nhiều nghĩa là vĩnh viễn đã mất. Không biết bao nhiêu thời gian đã qua trong khi Nhục đậu khấu mơ màng như vậy, nhưng rốt cuộc người đàn bà đứng thẳng dậy và cảm ơn bà. Bà ta nói, bà vẫn còn mất phương hướng, nhưng cơn nhức đầu dường như đã qua. Mấy ngày sau, Nhục đậu khấu sửng sốt khi nhận được khoản thù lao lớn hơn bà tưởng rất nhiều cho việc bà đã làm.

            Chừng một tháng sau vợ của ông chủ siêu thị gọi điện thoại cho Nhục đậu khấu mời bà đi ăn trưa. Sau khi ăn xong, bà ta đề nghị hai người cùng về nhà bà, ở đó bà nói với Nhục đậu khấu: “Không biết bà có vui lòng đặt tay lên đầu tôi như bà đã làm lần trước không. Có đôi điều tôi muốn kiểm tra”. Nhục đậu khấu chẳng có lý do gì để từ chối. Bà ngồi cạnh người phụ nữ kia, đặt lòng bàn tay lên thái dương bà ta. Bà cũng cảm thấy “cái gì đó” giống như lần trước. Để nắm rõ hơn hình dạng của cái đó, bà tập trung chú ý vào nó, nhưng cái hình dạng đó bắt đầu uốn éo và biến đổi. Nó là vật sống! Nhục đậu khấu cảm thấy sợ. Bà nhắm mắt lại nghĩ về vườn thú ở Tân Kinh. Việc này đối với bà không khó. Bà chỉ việc hồi tưởng lại câu chuyện từng kể cho Quế, những cảnh tượng bà đã mô tả cho cậu. Ý thức của bà rời khỏi thể xác bà, lang thang một hồi trong những không gian giữa ký ức và câu chuyện, rồi quay trở lại. Khi bà lấy lại ý thức, người đàn bà kia nắm lấy tay bà mà cám ơn. Nhục đậu khấu không hỏi xem chuyện gì đã xảy ra, bà ta cũng chẳng giải thích gì. Cũng như trước, Nhục đậu khấu thấy hơi mệt, một lớp mồ hôi mỏng rịn trên trán. Khi bà ra về, người đàn bà kia cảm ơn bà đã dành thời gian và bỏ công đến thăm, rồi toan đưa bà một phong bì đựng tiền, nhưng Nhục đậu khấu từ chối, một cách nhã nhặn nhưng kiên quyết. “Tôi làm việc này không phải để kiếm tiền, - bà nói. – Vả lại, lần trước bà đã trả tôi quá nhiều rồi.” Bà ta không nài thêm.

            Mấy tuần sau, người đàn bà kia giới thiệu Nhục đậu khấu với một bà khác. Bà này trạc giữa tứ tuần. Bà ta bé nhỏ, có cặp mắt sắc, trũng sâu. Quần áo bà ta mặc thuộc loại tuyệt hảo, nhưng ngoài một thắt lưng đám cưới bằng bạc ra bà không có trang sức nào khác. Khi sắc thái toát ra từ bà thấy rõ bà không thuộc hạng người thường. Bà vợ ông chủ siêu thị đã nói với Nhục đậu khấu: “Bà ta muốn bà cũng làm với bà ta như đã làm với tôi. Lần này xin bà đừng từ chối, và khi bà ta đưa tiền, đừng nói gì cả, cứ nhận. Về lâu dài, đây sẽ là một điều quan trọng đối với bà, cả với tôi nữa”.

            Nhục đậu khấu đi vào một phòng phía trong cùng với người đàn bà kia rồi đặt lòng bàn tay lên thái dương bà ta như những lần trước. “Cái gì đó” trong người đàn bà này thì khác. Nó mạnh hơn cái ở trong bà vợ ông chủ siêu thị, chuyển động của nó nhanh hơn. Nhục đậu khấu nhắm mắt lại, nín thở, cố kìm chuyển động đó lại. Bà tập trung mạnh hơn và đeo đuổi những ký ức của mình một cách riết róng hơn. Đào sâu vào những nếp gấp nhỏ nhất tìm thấy ở đó, bà chuyển hơi ấm của ký ức mình vào “cái gì đó” kia.

            - Và đó trở thành nghề của tôi từ lúc nào không biết, - Nhục đậu khấu nói. Bà nhận ra rằng mình đã bị một dòng chảy lớn bao trùm lấy. Và khi Quế lớn lên, cậu trở thành trợ lý cho mẹ.

            21

            Bí ẩn căn nhà có dớp: 2

            ♦

            SETAGAYA, TOKYO: NHỮNG KẺ TRONG “CĂN NHÀ CÓ DỚP”

            Cái bóng của vị chính khách lừng danh:

            Thoắt hiện thoắt biến

            Bức màn vô hình kỳ lạ, tinh vi:

            Nó che dấu bí mật gì?

            [Trích tuần báo____, ngày 21 tháng mười một]

            _______________________

                        Trong số ra ngày 7/11 vừa qua chúng tôi đã thông tin cho quý bạn đọc rằng có một căn nhà ở khu dân cư yên tĩnh Setagaya mà người dân địa phương gọi là “nhà có dớp”. Tất cả những ai từng sống trong căn nhà đó đều gặp số phận bi thảm và kết thúc cuộc đời bằng cách tự sát, phần lớn là treo cổ.

            [Lược bỏ phần tóm tắt bài lần trước].

            Các cuộc điều tra do chúng tôi tiến hành đã dẫn đến một sự thực hiển nhiên duy nhất: rằng dù chúng tôi có thử đường nào để hòng biết được danh tính chủ nhân mới của “căn nhà có dớp” thì thể nào ở cuối đường cũng có một bức tường gạch án ngữ. Chúng tôi đã công phu lắm mới tìm được công ty xây dựng đã xây căn nhà này trước kia, song người ta cự tuyệt cung cấp cho chúng tôi bất cứ thông tin gì về nó. Công ty mà người ta đã dùng làm bình phong để mua lô đất này là công ty hợp pháp 100% và cũng không có kẽ hở nào. Khi ký kết hợp đồng người ta đã tính toán chi ly đến từng chi tiết nhỏ, nên chúng tôi chỉ có thể cho rằng toàn bộ vụ này phải có một lý do nào đó.

            Một điều khác khơi dậy nỗi tò mò của chúng tôi, ấy là công ty kế toán từng hỗ trợ trong việc thành lập công ty bình phong đã mua lô đất. Điều tra của chúng tôi cho thấy công ty này được thành lập cách đây năm năm như một thứ “nhà thầu phụ” núp bóng một công ty kế toán nổi tiếng trong giới chính khách. Công ty kế toán lắm tên tuổi này có một số “nhà thầu phụ” như vậy, mỗi nhà phụ trách một loại công việc riêng, trong trường hợp gặp rắc rối thì sẽ bị vứt bỏ ngay lập tức như thằn lằn hễ gặp nguy là ngắt đuôi để thoát thân. Bản thân công ty kế toán này chưa bao giờ bị phòng công tố tiến hành điều tra, nhưng theo một nhà báo chuyên về chính trị cho một nhật báo lớn thì “Cái tên của công ty này đã dính đến nhiều vụ xì-căng-đan chính trị, thành thử dĩ nhiên là chính quyền đã để mắt tới nó rồi”. Nếu vậy thì chẳng khó đoán rằng có một mối liên hệ nào đó giữa chủ nhân mới của “căn nhà có dớp” với một chính khách đầy quyền lực nào đó. Kín cổng cao tường, an ninh cực kỳ nghiêm ngặt bằng những thiết bị điện tử tối tân nhất, chiếc Mercedes đen đi thuê, việc khôn khéo thành lập công ty làm bình phong che đậy – tất cả những thủ thuật tinh vi này khiến ta nghĩ rằng ắt phải có một nhân vật chính trị chóp bu nhúng tay vào.

            _____________________

            Bí mật hoàn toàn

            Nhóm điều tra của báo chúng tôi đã tiến hành theo dõi những hoạt động ra vào “căn nhà có dớp” của chiếc Mercedes đen. Trong khoảng thời gian mười ngày, chiếc xe đến chỗ căn nhà tổng cộng hai mươi mốt lần, tức bình quân hai lần một ngày. Những chuyến thăm này diễn ra theo một khuôn đều đặn. Đầu tiên, chiếc xe xuất hiện lúc 9 giờ sáng, sau đó ra đi lúc 10 giờ 30. Người lái xe rất đúng giờ, ngày nào cũng vậy, có lệch chăng thì cũng không quá năm phút. Tuy nhiên, ngược lại với những chuyến thăm vào buổi sáng, những chuyến thăm vào buổi chiều lại bất thường hơn nhiều. Các chuyến thăm buổi chiều hầu hết diễn ra trong khoảng từ 1 giờ đến 3 giờ chiều, nhưng thời gian đến và đi khác nhau đáng kể. Khoảng thời gian chiếc xe đỗ trong khuôn viên nhà cũng có sự chênh lệch đáng kể, từ dưới hai mươi phút đến tròn một tiếng.

            Dựa trên các sự kiện này, chúng tôi có thể đưa ra các giả thuyết sau:

            1. Các cuộc viếng thăm đều đặn vào buổi sáng: từ đây có thể suy ra rằng xe “đưa đón” một người nào đó đến căn nhà này. Tuy nhiên, danh tính của “nhân vật” này chưa rõ, vì toàn bộ cửa xe lắp kính dày màu đen.

            2. Các cuộc viếng thăm không đều đặn vào buổi chiều: từ đây có thể suy ra rằng xe đưa khách đến thăm, giờ giấc được bố trí sao cho tiện nhất cho khách. Các vị “khách” này đến một mình hay từng nhóm thì chưa rõ.

            3. Hình như không có hoạt động gì ở căn nhà vào ban đêm. Cũng không rõ liệu có ai sống ở đó không. Nhìn từ bên ngoài không thể biết có ngọn đèn nào bật sáng không.

            Một điểm quan trọng nữa: vật duy nhất ra vào cơ ngơi này trong vòng mười ngày điều tra của chúng tôi là chiếc Mercedes đen. Không có chiếc xe nào khác, không một người đi bộ. Nếu suy theo cách thông thường thì ắt hẳn phải có sự gì lạ lắm đang diễn ra ở đây. “Ai đó” sống trong căn nhà này không bao giờ ra ngoài để mua sắm hay tản bộ. Người ta đến rồi đi hoàn toàn chỉ bằng chiếc Mercedes lớn màu đen có kính râm. Nói cách khác: vì lý do nào đó, họ không muốn bất cứ ai thấy mặt mình trong bất cứ tình huống nào. Lý do đó là gì? Tại sao họ lại cất công và bỏ ra lắm tiền đến thế để làm những việc cần làm một cách tuyệt đối bí mật?

            Ở đây chúng tôi có thể bổ xung rằng cánh cổng trước là lối ra vào duy nhất của cơ ngơi này. Có một cái ngõ hẹp chạy đằng sau lô đất, song cái ngõ này chẳng dẫn đến đâu cả. Cách duy nhất để ra hay vào cái ngõ này là phải băng qua đất của người khác. Theo những người hàng xóm, hiện không một cư dân nào ở khu này sử dụng cái ngõ đó, chắc hẳn vì vậy mà nhà kia không có cổng mở ra phía ngõ. Ở đó chỉ có một bức tường cao ngất như thành lũy pháo đài.

            Trong vòng mười ngày điều tra, mấy lần có những người trông ra vẻ là người chào bán báo hoặc nhân viên tiếp thị đến nhấn chuông hệ thống intercom ở cổng trước, nhưng chẳng ai trả lời. Nếu ở trong nhà có người thì ắt hẳn họ đã sử dụng hệ thống camera để quan sát xem người nhấn chuông là ai. Không hề có ai đến đưa thư hay phát bưu phẩm.

            Vì những lý do đó, hướng điều tra duy nhất còn lại cho chúng tôi là bám đuôi chiếc Mercedes để xác định xem nó đi đâu. Theo sau chiếc xe bóng lộn luôn chạy chậm giữa dòng xe cộ trong thành phố không phải là việc khó, nhưng chúng tôi cũng chỉ bám theo được từ cổng cho đến bãi đỗ xe ngầm dưới đất của một khách sạn năm sao ở khu Akasaka. Có một nhân viên bảo vệ mặc đồng phục đứng trực ở đó, muốn vào thì phải có thẻ thông hành đặc biệt, cho nên xe chúng tôi không thể theo chiếc Mercedes vào trong bãi. Khách sạn này là nơi thường diễn ra nhiều hội nghị quốc tế, nghĩa là ở đây có nhiều nhân vật VIP cũng như nhiều nhân vật có tiếng tăm từ nước ngoài đến. Để bảo đảm an ninh và quyền riêng tư, bãi đỗ xe dành cho VIP được bố trí cách biệt với bãi đỗ xe của khách thường, một số buồng thang máy cũng được dành riêng cho khách VIP sử dụng, nhìn bên ngoài không thể biết họ lên hay xuống tầng mấy. Nhờ vậy mà các vị khách đặc biệt này có thể đến và đi mà không bị ai quấy rầy. Chiếc Mercedes này rõ ràng là đỗ ở một trong các lô dành cho khách VIP. Trả lời những câu hỏi của chúng tôi, ban quản trị khách sạn chỉ nói một cách ngắn gọn và đắn đo cân nhắc rằng các lô chuyên dụng này “thường” được cho thuê với mức đặc biệt chỉ với một số pháp nhân đầy đủ tư cách đã được “thẩm tra toàn diện”, nhưng chúng tôi không thể moi được thêm thông tin chi tiết nào về điều kiện sử dụng hoặc nhân thân những người sử dụng.

            Khách sạn này có một khu mua sắm, vài quán cà phê và nhà hàng, bốn đại sảnh dành cho đám cưới, ba đại sảnh dành cho hội nghị hội thảo. Thế có nghĩa là từ sáng đến tối khách sạn luôn luôn có lắm người vào ra. Nếu không có thẩm quyền đặc biệt thì chẳng cách nào xác định được danh tính các hành khách đi chiếc Mercedes. Người ta có thể ra khỏi xe, bước vào một trong những buồng thang máy đặc biệt dành riêng cho họ ở gần đó, bước ra ở tầng nào tùy ý họ rồi hòa mình vào đám đông. Qua đó có thể thấy rõ ràng hệ thống bảo mật tuyệt đối ở đây vận hành hoàn hảo tới mức nào. Ta có thể suy ra rằng đằng sau tất cả chuyện đó là một hệ thống thế lực đồng tiền và quyền lực chính trị vô cùng mạnh mẽ. Như có thể thấy qua lời giải thích của ban quản trị khách sạn, để thuê và sử dụng một trong những lô đỗ xe VIP ở khách sạn này không phải dễ. Nhất định là trong cái gọi là “thẩm tra toàn diện” mà họ nói, cái quan trọng nhất là để đáp ứng yêu cầu của các cơ quan có nhiệm vụ bảo đảm an ninh cho các yếu nhân ngoại quốc, nghĩa là phải có mối liên hệ nào đó về chính trị ở đây. Có tiền không thôi chưa đủ, mặc dù hiển nhiên nếu không có nhiều tiền thì không thể nào kham nổi mấy vụ này.

            [Lược bỏ phần đưa ra giả thuyết rằng cơ ngơi này đang được sử dụng bởi một tổ chức tôn giáo mà đằng sau là một chính trị gia có thế lực].

            22

            Sứa từ khắp thế giới

            *

            Sự vật biến hình

            Đúng giờ đã hẹn, tôi ngồi xuống trước máy vi tính của Quế rồi dùng mật khẩu để truy cập chương trình gửi và nhận tin. Đoạn tôi nhập dãy số mà Ushikawa đã cho. Phải mất năm phút để kết nối. Tôi nhấp tách cà phê đã pha sẵn rồi tập trung điều hòa hơi thở. Tuy nhiên, cà phê chẳng có vị gì, còn không khí tôi hít vào thì lại nham nhám.

            Máy tính kêu bíp và một thông điệp hiện lên trên màn hình, thông báo rằng kết nối đã được thiết lập và máy đã sẵn sàng để truyền tin hai chiều. Tôi chỉ định rằng cước phí của cuộc gọi này do người được gọi trả tiền. Nếu cẩn thận không để giao dịch này được ghi lại trong máy, tôi có thể ngăn không cho Quế phát hiện ra tôi đã sử dụng máy (tuy rằng tôi chẳng lấy gì làm tự tin về chuyện đó. Đây là mê cung của anh ta, còn tôi chẳng qua chỉ là một người lạ không có chút sức mạnh nào).

            Phải đợi lâu hơn tôi tưởng rất nhiều, nhưng rốt cuộc cũng hiện ra thông điệp nói rằng phía bên kia đã chấp nhận sẽ trả tiền. Bên ngoài màn hình này, ở đầu bên kia cái dây cáp bò suốt qua bóng tối lòng đất Tokyo, có thể là Kumiko. Nàng cũng có thể đang ngồi trước một màn hình, hai bàn tay đặt trên bàn phím. Trên thực tế, tôi chỉ thấy mỗi cái màn hình đang khe khẽ rít lên âm thanh điện tử. Tôi nhấp vào hộp chọn chế độ Send rồi gõ vào những câu mà tôi đã ôn đi ôn lại nhiều lần trong óc.

            > Anh muốn hỏi em một câu. Cũng không hẳn là hỏi, chẳng qua là anh muốn kiểm chứng xem đầu bên kia có đúng em không. Thế này nhé: Lần đầu tiên chúng mình đi với nhau ấy, từ lâu trước khi mình cưới nhau, chúng mình đã đến công viên thủy sinh. Anh muốn em cho anh biết em thích xem cái gì nhất ở đó… Tôi nhấp vào biểu tượng gửi thông điệp đi (Anh muốn em cho anh biết em thích xem cái gì nhất ở đó.) Rồi tôi chuyển sang chế độ Receive.

            Câu trả lời đến sau một khoảng lặng ngắn. Câu trả lời không dài.

            > Sứa. Sứa từ khắp nơi trên thế giới.

            Câu hỏi của tôi và câu trả lời cho nó xếp hàng ở nửa trên và nửa dưới màn hình. Tôi nhìn cả hai câu một lát. Sứa. Sứa từ khắp nơi trên thế giới. Đây phải là Kumiko. Đúng là Kumiko thật. Nhưng điều đó chỉ khiến nỗi đau tràn ngập lòng tôi. Tôi cảm thấy như những gì bên trong mình đang bị xé toạc ra. Tại sao đây là cách duy nhất để hai ta nói chuyện với nhau? Tuy nhiên tôi không có cách nào khác, đành chấp nhận. Thế là tôi bắt đầu gõ.

            > Cho anh báo tin lành trước nhé. Mùa xuân năm nay con mèo đã về. Hoàn toàn bất ngờ. Nó hơi bị đói, nhưng khỏe mạnh, lành lặn. Từ đó đến giờ nó vẫn ở nhà. Anh biết chuyện này đáng lẽ anh phải hỏi ý em trước, nhưng anh đã đặt tên mới cho nó. Tên là Cá thu. Tên loài cá ấy mà. Anh và em sẽ quen dần thôi. Đây thì chắc là tin lành.

            Phải đợi mất một lát. Tôi không biết ấy là do cách truyền tin này vốn dĩ buộc ta phải chờ như thế hay là do Kumiko im lặng.

            > Được biết là con mèo vẫn còn sống, em vui lắm! Em lo cho nó quá.

            Tôi nhấp một ngụm cà phê cho thấm miệng, rồi lại bắt đầu gõ.

            > Giờ đến lượt tin xấu. Thật ra, ngoài chuyện con mèo đã về nhà thì dường như mọi thứ còn lại đều là tin xấu cả. Trước hết, anh vẫn chưa thể giải được bất cứ câu đố nào.

            Tôi đọc lại những gì mình vừa viết rồi gõ tiếp:

            Câu đố đầu tiên: Giờ em đang ở đâu? Em đang làm gì ở đó? Sao em vẫn tiếp tục lẩn tránh anh? Sao em không muốn gặp anh? Có nguyên nhân nào không? Ý anh là có quá nhiều điều mà em và anh cần phải nói chuyện trực tiếp, mặt đối mặt. Em có nghĩ vậy không?

            Nàng phải mất một hồi để trả lời. Tôi hình dung nàng ngồi trước bàn phím, cắn môi suy nghĩ. Cuối cùng, con trỏ bắt đầu nhấp nháy di chuyển ngang qua màn hình, ứng với chuyển động của các ngón tay nàng.

            > Mọi điều muốn nói với anh em đã viết trong thư cả rồi. Điều cốt nhất em muốn anh hiểu là, về nhiều mặt, em không còn là Kumiko như trước nữa. Người ta có thể thay đổi vì đủ thứ nguyên nhân, và trong một số trường hợp sự biến đổi có thể khiến người ta trở nên tồi tệ. Chính vì vậy em không muốn gặp anh. Cũng chính vì vậy em không muốn quay về với anh.

            Con trỏ khựng lại, nhấp nháy mãi ở một chỗ, tìm lời. Tôi dán mắt vào nó khoảng mười giây, hai mươi giây, đợi nó tạo thành những câu chữ mới trên màn hình. Sự biến đổi làm người ta trở nên tồi tệ?

            Nếu có thể, em muốn anh hãy quên em càng sớm càng tốt. Việc tốt nhất cho cả hai ta là anh hãy hoàn tất thủ tục ly hôn và bắt đầu một cuộc sống mới. Em đang ở đâu, đang làm gì, chuyện ấy không quan trọng. Điều quan trọng nhất là, dù bởi nguyên nhân gì đi nữa, anh và em đã bị tách rời thành hai thế giới hoàn toàn khác nhau. Không cách gì trở lại như chúng ta ngày trước nữa. Hãy cố hiểu em đau lòng đến mức nào khi phải nói chuyện với anh như thế này. Anh không thể hình dung em đau xé đến nhường nào đâu.

            Tôi đọc lại những lời của Kumiko đến mấy lần. Tôi không thấy ở đó một chút nào là ngắc ngứ, một chút nào cho thấy những lời này không xuất phát từ một xác tín sâu xa, đau đớn. Chắc hẳn nàng đã tập đi tập lại mấy câu này trong đầu không biết bao nhiêu lần. Dẫu vậy, tôi vẫn phải tìm cách nào đó để làm lung lay cái bức tường không thể xuyên qua ấy của nàng, dù chỉ làm nó rung lên thôi cũng được. Tôi lại gõ bàn phím.

            > Điều em nói hơi mơ hồ, anh thấy khó hiểu. Em nói em đã trở nên tồi tệ, nhưng chính xác ra thì thế nghĩa là gì? Anh thật không hiểu. Cà chua trở nên tồi, những cái ô trở nên tồi, cái đó anh hiểu được. Cà chua ủng, ô thì cong vẹo chẳng ra hình thù gì. Nhưng bảo em đã “trở nên tồi tệ” thì ý là sao? Nói thế anh không hình dung được gì rõ ràng cả. Trong thư em có nói em đã ăn nằm với một người khác, nhưng chuyện đó có làm em “trở nên tồi tệ” được không? Phải, dĩ nhiên chuyện đó làm anh bị sốc. Nhưng chuyện đó hơi khác với việc làm cho một con người “trở nên tồi tệ” chứ.

            Sau đó là một khoảng lặng dài. Tôi bắt đầu lo rằng Kumiko đã biến đi đâu đó. Nhưng rồi những chữ cái nàng gõ bắt đầu dàn ra trên màn hình.

            > Có thể anh nói đúng, nhưng không chỉ có thế.

            Rồi lại im lặng. Nàng đang cẩn thận chọn từ, như thể đang lôi chúng từ trong ngăn kéo ra.

            Đó chỉ là một cách nói. “Trở nên tồi tệ” là một quá trình diễn ra trong thời gian dài. Đó là một quá trình đã quyết định từ trước, trong một căn phòng tối om, bởi một người nào khác mà không có mặt em. Khi em gặp và lấy anh, dường như em có hẳn một loạt khả năng mới. Em đã hy vọng mình sẽ thoát được theo một lối ra ở đâu đó. Nhưng hình như đó chỉ là ảo tưởng. Xung quanh chúng ta đâu cũng toàn dấu hiệu, chính vì vậy em mới lo sốt vó về việc tìm con mèo khi nó đi lạc lúc đó...

            Tôi nhìn chăm chăm vào thông điệp trên màn hình, nhưng mãi vẫn chưa thấy dấu Send xuất hiện. Máy của tôi vẫn trong chế độ Receive. Kumiko đang nghĩ xem nên viết tiếp cái gì. “Trở nên tồi tệ” là một quá trình diễn ra trong thời gian dài. Nàng muốn nói gì với tôi vậy? Tôi tập trung chú ý vào màn hình, nhưng chỉ nhìn thấy ở đó một bức tường vô hình. Một lần nữa các con chữ bắt đầu dàn ra trên màn hình.

            Nếu có thể, em muốn anh nghĩ về em như thế này: em đang chết dần mòn vì một chứng bệnh không chữa được, một chứng bệnh làm cho mặt và thân mình em bị phân hủy dần từng tí một. Dĩ nhiên đây chỉ là một ẩn dụ. Trên thực tế mặt và thân mình em không bị phân hủy. Nhưng điều em nói cũng rất gần với sự thực. Chính vì vậy mà em không muốn lộ diện trước mặt anh. Em biết, một ẩn dụ mù mờ này sẽ không thể giúp anh hiểu được mọi điều về tình trạng hiện nay của em. Em không mong nó sẽ thuyết phục được anh tin vào sự thực của những gì em nói. Em cảm thấy thế là quá tệ, nhưng em không thể nói gì hơn nữa. Anh không có cách nào hơn là chấp nhận thế thôi.

            Một căn bệnh không chữa được.

            Tôi kiểm tra xem máy của mình đã được chuyển sang chế độ Send chưa rồi bắt đầu gõ.

            > Nếu em bảo em muốn anh chấp nhận cái ẩn dụ của em, thì anh chấp nhận cũng được, không sao cả. Nhưng có một điều anh không hiểu được. Cứ cho là em đã “trở nên tồi tệ” như em nói, và em đang bị “một căn bệnh không chữa được”, nhưng cớ sao em lại phải mang từng ấy chuyện mà đến với Wataya Noboru, bao nhiêu người khác thì không đến? Sao em không ở đây với anh? Tại sao chúng ta không ở bên nhau? Chẳng lẽ chúng ta lấy nhau không phải là vì thế hay sao?

            Im lặng. Tôi hầu như cảm thấy sức nặng và độ rắn của nó trong hai bàn tay mình. Tôi cụp hai bàn tay lại đặt lên bàn rồi hít thở sâu mấy lần. Rồi câu trả lời xuất hiện.

            > Em ở đây bởi vì đây là nơi thích hợp cho em, dù em có muốn hay không. Đây là chỗ em phải ở. Em không có quyền chọn chỗ nào khác. Dù có muốn gặp anh, em cũng không gặp được. Anh nghĩ là em không muốn gặp anh sao?

            Có một khoảng lặng, dường như Kumiko đang nín thở. Rồi các ngón tay nàng lại chuyển động.

            Vì vậy xin anh đừng hành hạ em kiểu này thêm nữa. Nếu có một điều gì anh có thể làm cho em, ấy là anh hãy quên sự tồn tại của em đi, càng nhanh càng tốt. Hãy xóa sạch những năm chúng ta sống bên nhau ra khỏi ký ức anh, như chưa hề có. Rốt cuộc thì đó là điều tốt nhất cho cả hai ta. Em thật sự tin như vậy.

            Tôi liền trả lời:

            > Em nói em muốn anh quên tất cả. Em nói em muốn anh cứ để mặc em. Nhưng đồng thời, ở nơi nào đó trên thế gian này, em vẫn đang cầu cứu anh. Cái giọng cầu cứu đó yếu ớt, từ đâu đó rất xa vẳng tới, nhưng vào những đêm tĩnh mịch anh vẫn nghe rõ. Đó chắc chắn là giọng em, không thể lầm được. Anh có thể chấp nhận rằng có một Kumiko đang cố hết sức rời xa anh, cô ấy hẳn có lý do để làm như vậy. Nhưng còn có một Kumiko khác cũng đang cố hết sức lại gần anh. Anh tin chắc như thế. Dù em có nói gì với anh ở đây đi chăng nữa, anh vẫn phải tin vào Kumiko kia, người đang mong anh giúp đỡ, đang cố nhích lại gần anh. Dù em nói gì với anh đi nữa, dù những lý do của em chính đáng đến đâu đi nữa, anh vẫn không thể nào quên em dễ dàng như vậy, không thể nào tống khứ khỏi tâm khảm anh những năm chúng ta đã sống bên nhau. Anh không thể làm vậy vì những năm ấy đã thực sự diễn ra, là một phần của cuộc đời anh, nên và không có cách nào xóa sạch chúng đi được. Làm thế khác nào xóa sạch chính mình. Anh phải biết liệu có lý do chính đáng nào để làm như vậy không.

            Lại một khoảng lặng nữa. Tôi cảm nhận được sự im lặng của nàng qua chiếc màn hình. Như một làn khói nặng, nó bò vào qua một góc màn hình mà tuôn ra khắp phòng. Tôi biết rõ những lúc im lặng như vậy của Kumiko. Tôi đã từng gặp chúng, từng kinh qua chúng không biết bao nhiêu lần trong những năm cùng Kumiko chung sống. Lúc này nàng đang nín thở, ngồi trước màn hình vi tính, mày nhíu lại trong cơn tập trung cao độ. Tôi chìa tay lấy tách nhấp một ngụm cà phê lạnh. Rồi, ấp chiếc tách rỗng trong hai bàn tay, tôi nín thở nhìn chăm chăm vào màn hình, như Kumiko đang làm. Hai chúng tôi gắn bó với nhau bằng những mối dây im lặng nặng nề xuyên qua bức tường ngăn cách hai thế giới của chúng tôi. Chúng tôi cần nhau hơn bất cứ gì khác. Điều đó là chắc chắn.

            > Em không biết.

            > Anh thì anh biết.

            Tôi đặt tách xuống rồi hối hả gõ trên bàn phím, như thể cố túm lấy cái đuôi của thời gian đang trốn chạy.

            > Anh biết. Anh biết anh muốn tìm đường đến chỗ em đang ở - em, cô Kumiko đang cần anh đến cứu kia. Tiếc thay, anh lại chưa biết làm sao đến được đó, cái gì đang chờ đợi anh ở đó. Suốt một thời gian dài từ khi em bỏ đi, anh luôn sống với cảm giác mình đang bị ném vào trong bóng tối mịt mùng. Tuy vậy, chầm chậm nhưng chắc chắn, anh đang ngày một tiến gần hơn đến cốt lõi, đến nơi mà cốt lõi của sự vật nằm ở đó. Anh muốn em biết điều ấy. Anh đang tiến gần hơn đến chỗ em và sẽ còn đến gần hơn nữa.

            Tôi đặt tay trên bàn phím đợi nàng trả lời.

            > Em hoàn toàn không hiểu gì hết.

            Kumiko gõ vậy, rồi chấm dứt cuộc nói chuyện.

            Tạm biệt.

            * * *

            Màn hình cho biết phía bên kia đã ngắt mạch. Cuộc nói chuyện đã kết thúc. Thế nhưng tôi vẫn ngồi trước màn hình, đợi một điều gì đó xảy ra. Có thể Kumiko sẽ đổi ý mà trở lại tiếp tục trò chuyện trực tuyến. Có thể nàng sẽ sực nhớ mình đã quên nói điều gì đó. Nhưng nàng không trở lại. Đợi được hai mươi phút thì tôi chịu thua. Tôi lưu file, rồi xuống bếp uống một cốc nước lạnh. Tôi đứng thở đều bên tủ lạnh, đầu không nghĩ ngợi gì. Im lặng khủng khiếp dường như trùm lên mọi vật. Tôi cảm thấy cả thế giới như đang lắng nghe ý nghĩ tiếp theo của tôi. Nhưng tôi không thể nghĩ gì hết. Đáng tiếc, tôi không thể nghĩ được bất cứ cái gì.

            Tôi trở lại máy tính, ngồi đó đọc lại toàn bộ cuộc trao đổi của hai chúng tôi từ đầu đến cuối: tôi nói gì, nàng nói gì, cái này tôi trả lời sao, cái nọ nàng trả lời sao. Toàn bộ vẫn còn đó trên màn hình, sinh động đến lạ lùng. Dõi mắt theo những hàng ký tự mà nàng đã gõ, tôi nghe được giọng của nàng. Tôi nhận ra được những chỗ trầm chỗ bổng, những sắc thái và khoảng lặng tinh tế của nó. Con trỏ trên dòng cuối vẫn còn đang nhấp nháy, đều như nhịp đập của trái tim, nín thở đợi từ kế tiếp. Nhưng không có từ nào nữa.

            Sau khi ghi khắc toàn bộ cuộc nói chuyện vào tâm trí (tôi đã quyết định tốt nhất là không in ra), tôi nhấp vào hộp tùy chọn để thoát khỏi chế độ truyền tin. Tôi chỉ thị cho chương trình không lưu lại thông tin về cuộc nói chuyện này trong bộ nhớ, rồi tắt máy. Máy kêu bíp bíp, đoạn màn hình chuyển sang trắng bệch. Tiếng u u đều đều cơ khí bị nuốt chửng vào im lặng của căn phòng, như một giấc mơ sinh động bị xé toạc bởi bàn tay của hư vô.

            * * *

            Tôi không biết từ lúc đó đến nay đã bao lâu. Nhưng khi sực tỉnh, tôi thấy mình dán mắt vào hai bàn tay mình đang nằm trên bàn. Hai bàn tay in dấu đôi mắt tôi riết róng nhìn vào chúng suốt một thời gian dài.

            “Trở nên tồi tệ” là điều diễn ra trong một thời gian dài.

            Dài là bao lâu?

            23

            Đếm cừu

            *

            Vật giữa vòng tròn

            Ít hôm sau cuộc viếng thăm đầu tiên của Ushikawa, tôi nhờ Quế mỗi khi đến Dinh thì mang cho tôi một tờ báo. Đã đến lúc tôi phải tiếp xúc với thực tại của thế giới bên ngoài. Dù ta cố tránh chúng đến đâu đi chăng nữa, nhưng hễ đã đến lúc là chúng đến với ta.

            Quế gật đầu, và từ đó trở đi ngày nào anh ta cũng mang ba tờ báo đến.

            Tôi thường nhìn qua các tờ báo sau khi ăn sáng. Đã từ lâu không buồn đọc báo, nay tôi thấy chúng thật lạ lùng: lạnh và trống rỗng. Mùi mực in kích thích thần kinh làm tôi thấy nhức đầu, những cụm chữ nhỏ đen nhánh như chọc thủng mắt tôi. Bố cục và kiểu chữ các tít bài cũng như giọng điệu của lối viết dường như phi thực đối với tôi. Tôi thường phải đặt tờ báo xuống, nhắm mắt thở dài. Trước kia thì không như vậy. Trước kia đọc báo hẳn phải là một việc bình thường hơn thế này nhiều. Cái gì đã thay đổi quá nhiều ở chúng vậy? Hay đúng hơn, cái gì đã thay đổi đến vậy ở chính tôi?

            Sau khi đọc báo một lúc, tôi có thể hiểu rõ một điều về Wataya Noboru: hắn đang xây dựng cho mình một vị thế ngày càng vững chắc hơn bao giờ hết trong xã hội. Đồng thời hắn đang tiến hành một chương trình hoạt động chính trị cực kỳ tham vọng với tư cách một thành viên hứa hẹn của hạ viện, đồng thời thường xuyên phát biểu trước công chúng bằng cách giữ một chuyên mục trên báo chí và làm bình luận viên truyền hình. Đâu đâu tôi cũng thấy tên hắn. Vì lý do nào đó tôi không hiểu nổi, người ta lắng nghe các ý kiến của hắn, đã thế còn lắng nghe ngày càng háo hức hơn. Hắn là lính mới trên chính trường, nhưng đã được tung hô như một trong các chính khách trẻ tuổi hứa hẹn làm được nhiều việc lớn. Trong một cuộc điều tra ý kiến bạn đọc của một tạp chí phụ nữ, hắn được mệnh danh là chính khách nổi tiếng nhất nước. Người ta xưng tụng hắn là một trí thức dấn thân, một kiểu chính khách trí thức mà trước nay chưa hề có.

            Khi hết đọc nổi về các sự kiện hiện thời và vai trò nổi bật của Wataya Noboru trong đó, tôi chuyển sang thu thập ngày càng nhiều sách về Mãn Châu quốc. Quế mang đến cho tôi tất cả những gì anh ta tìm được về chủ đề này. Thế mà, ngay cả ở đây, tôi cũng không thoát nổi cái bóng của Wataya Noboru. Hôm đó cái bóng của hắn trỗi dậy từ những trang trong một cuốn sách về thống kê. Sách ấn hành năm 1978, bản của thư viện này trước đây chỉ được cho mượn một lần duy nhất khi sách hãy còn mới, và được trả lại gần như ngay lập tức. Có lẽ chỉ những người thân của trung úy Mamiya mới quan tâm đến các vấn đề thống kê ở Mãn Châu quốc mà thôi.

            Theo tác giả, ngay từ năm 1920, quân đội Thiên Hoàng đang tìm nguồn tích lũy một lượng lớn quân trang cần thiết cho mùa đông để chuẩn bị một cuộc chiến tranh tổng lực chống liên bang Xô Viết. Trang bị cho quân đội khả năng chiến đấu trong cái lạnh cắt da được coi là nhiệm vụ cấp bách, bởi người ta còn thiếu kinh nghiệm tác chiến thực tế trong điều kiện mùa đông cực kỳ khắc nghiệt ở Siberia. Nếu một xung đột biên giới dẫn tới đột ngột tuyên chiến với Liên Xô (điều hoàn toàn có thể xảy ra hồi đó), quân đội sẽ chưa sẵn sàng cho một chiến dịch mùa đông. Vì vậy, một nhóm nghiên cứu trực thuộc văn phòng bộ tổng tham mưu đã được thành lập để chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh giả thiết với Liên Xô, trong đó bộ phận hậu cần chịu trách nhiệm nghiên cứu việc mua sắm quần áo đặc biệt cho mùa đông. Để thực sự biết thế nào là cái lạnh họ đi lên cực bắc đảo Sakhalin vốn từ lâu là điểm tranh chấp giữa Nhật Bản với nước Nga sa hoàng về sau là liên bang Xô Viết, và sử dụng một đơn vị tác chiến thực thụ để kiểm tra các đôi bốt, áo choàng và đồ lót cách nhiệt. Họ tiến hành kiểm nghiệm kỹ lưỡng các trang thiết bị mà quân đội Xô Viết hồi đó đang sử dụng cũng như loại quần áo mà quân đội Napoléon đã dùng trong chiến dịch đánh nước Nga, để rồi kết luận rằng với trang thiết bị hiện tại thì quân đội Nhật Bản sẽ không sống nổi trong mùa đông ở Siberia. Họ dự tính rằng hai phần ba số bộ binh trên tiền tuyến sẽ bị loại khỏi vòng chiến vì tê cóng.

            Quần áo chống rét của quân đội Nhật hiện nay chỉ để dùng cho mùa đông miền Bắc Trung Quốc vốn ít khắc nhiệt hơn, ngoài ra số lượng hiện có quá ít, không đủ cho tất cả. Nhóm nghiên cứu đã tính số cừu cần thiết để sản xuất đủ quần áo mùa đông cho mười sư đoàn (lúc đó trong nhóm có lưu truyền mẩu chuyện cười rằng họ quá bận đếm cừu đến nỗi không còn thì giờ để ngủ) rồi đưa số liệu này vào báo cáo, cùng với dự toán số thiết bị cơ khí cần thiết để xử lý ngần ấy len cừu.

            Báo cáo viết rằng lượng cừu hiện có ở quần đảo Nhật Bản không đủ cung ứng cho một cuộc chiến kéo dài ở các lãnh thổ miền bắc chống lại liên bang Xô Viết trong trường hợp Nhật Bản bị trừng phạt hay phong tỏa kinh tế, vì vậy nhất thiết Nhật Bản phải đảm bảo được nguồn cung cấp len ổn định (không chỉ cừu và cả thỏ mà các loài có lông khác) ở vùng Mãn Châu – Mông Cổ và thiết bị cơ khí để xử lý số len đó. Người được giao nhiệm vụ tiến hành quan sát thực địa ở Mãn Châu quốc vào năm 1932, ngay sau khi chế độ bù nhìn ở đó được thành lập, là một nhà kỹ trị trẻ tuổi vừa tốt nghiệp trường Võ bị với bằng thống kê học; tên là Wataya Yoshitaka.

            Wataya Yoshitaka! Đây chỉ có thể là bác ruột của Noboru. Chẳng có nhiều Wataya lắm trên đời này, còn cái tên Yoshitaka thì không nghi ngờ gì nữa.

            Sứ mạng của ông ta là tính toán khoảng thời gian cần thiết để có thể bảo đảm nguồn cung cấp len ổn định ở Mãn Châu quốc. Wataya Yoshitaka chộp lấy ngay vấn đề này như một trường hợp mẫu cho thống kê học hiện đại và tiến hành phân tích số liệu một cách vô cùng thấu đáo.

            Khi ở Mukden, Wataya Yoshitaka xin được gặp thiếu tướng Ishiwara Kanji và ngồi uống rượu đàm đạo thâu đêm với người này.

            Ishiwara Kanji. Lại một cái tên mà tôi biết rõ. Ông bác của Wataya Noboru đã tiếp xúc với Ishiwara Kanji, kẻ đầu sỏ trong việc dựng lên việc Trung Quốc tấn công quân đội Nhật Bản một năm trước đó, sự kiện được mệnh danh là “Sự biến Mãn Châu” và được Nhật Bản dùng làm cái cớ để biến Mãn Châu thành Mãn Châu quốc, cũng là sự kiện mà về sau sẽ chứng tỏ hành vi xâm lăng đầu tiên trong suốt mười lăm năm chiến tranh.

            Ishiwara lúc đó đã đi khắp Trung Hoa đại lục và đâm ra tin tưởng rằng một cuộc chiến toàn diện với Liên Xô không những là không tránh khỏi mà mấu chốt để thắng trong cuộc chiến này nằm ở việc tăng cường lực lượng hậu cần của Nhật Bản; muốn vậy thì phải cấp tốc hiện đại hóa đế quốc Mãn Châu vừa mới khai sinh và thiết lập một nền kinh tế tự cấp tự túc. Ông ta trình bày ý tưởng của mình với Wataya Yoshitaka một cách hùng hồn, đầy nhiệt huyết. Ông ta cũng lập luận rằng điều quan trọng là phải đưa nông dân từ Nhật sang để tổ chức lại ngành trồng trọt và chăn nuôi của Mãn Châu quốc, tăng năng suất của các ngành này.

            Ý kiến của Ishiwara là Nhật Bản không nên biến Mãn Châu quốc thành thêm một thuộc địa của mình như Triều Tiên hay Đài Loan, mà nên làm Mãn Châu quốc trở thành một nhà nước châu Á kiểu mới. Tuy nhiên, Ishiwara vẫn tỉnh táo một cách đáng khâm phục khi thừa nhận rằng Mãn Châu quốc nên đóng vai trò cơ sở hậu cần cho cuộc chiến với Liên Xô – thậm chí cả với Hoa Kỳ và Anh Quốc. Ông ta tin rằng Nhật Bản nay là nước châu Á duy nhất có khả năng tiến hành cuộc chiến sắp tới chống phương Tây (mà ông ta gọi là “cuộc chiến tối hậu”) và rằng các nước khác có nghĩa vụ hợp tác với Nhật Bản để có thể tự giải phóng mình khỏi ách nô dịch phương Tây. Không một sĩ quan nào khác trong quân đội Thiên Hoàng lúc đó có mối quan tâm sâu sắc đến vấn đề hậu cần đồng thời có kiến thức uyên thâm như Ishiwara. Hầu hết sĩ quan Nhật lúc đó coi hậu cần là thứ công việc “yếu đuối nữ nhi”, họ cho rằng phàm đã là “người lính của Thiên Hoàng” thì phải chiến đấu anh dũng quên mình dù trang bị nghèo nàn đến đâu đi nữa, rằng danh dự đích thực của người lính là ở chỗ chiến thắng kẻ thù hùng mạnh với quân số và trang bị hơn hẳn. Đánh bại quân thù và tiến quân “thần tốc đến nỗi hậu cần không theo kịp”, đó mới là con đường dẫn tới vinh quang.

            Đối với Wataya Yoshitaka, nhà kỹ trị thuần thành, thì cái triết lý này là một thứ hoàn toàn vô nghĩa. Theo ông, khởi đầu một cuộc chiến lâu dài mà không có hậu cần vững chắc thì chẳng khác gì tự sát. Người Liên Xô đã tăng cường và hiện đại hóa mạnh mẽ khả năng quân sự của mình trong thời gian kế hoạch năm năm phát triển kinh tế tập trung của Stalin. Năm năm đẫm máu trong Thế chiến thứ nhất đã hủy diệt nhiều giá trị của thế giới cũ, và chiến tranh cơ giới hóa đã làm thay đổi tận gốc cách nghĩ của châu u về chiến lược và vai trò của hậu cần. Từng làm tùy viên quân sự trong hai năm ở Berlin, Yoshitaka thấu hiểu điều đó đến tận xương tủy, nhưng não trạng của hầu hết giới quân nhân Nhật Bản vẫn chưa thoát khỏi cơn ngất ngây vì thắng lợi trong cuộc chiến Nga – Nhật gần ba mươi năm trước.

            Trở về Nhật, Wataya Yoshitaka đã là một người hết lòng ngưỡng mộ Ishiwara, các lập luận, quan điểm cũng như tính cách vô cùng lôi cuốn của ông này. Hai người vẫn duy trì quan hệ thân thiết suốt nhiều năm sau đó. Ông thường đến thăm Ishiwara ngay cả khi vị sĩ quan kiệt xuất này được chuyển từ Mãn Châu về nước để chỉ huy ngôi pháo đài biệt lập ở Maizuzu. Trở về Nhật, Wataya Yoshitaka đệ trình ngay lên bộ chỉ huy bản báo cáo cực kỳ tỉ mỉ và chính xác về việc nuôi cừu và xử lý lông cừu ở Mãn Châu quốc; bản báo cáo được đánh giá cao. Tuy nhiên, do thất bại đau đớn của Nhật trong trận Nomonhan năm 1939, và do Hoa Kỳ cùng Anh siết chặt trừng phạt kinh tế, giới quân sự bắt đầu chuyển sang nhòm ngó về phương Nam; thế là nhóm nghiên cứu nhằm chuẩn bị một cuộc chiến giả định với Liên Xô được phép thôi hoạt động dần. Dĩ nhiên, chính kết luận của nhóm này rằng, “trong điều kiện trang thiết bị hiện nay, chúng ta không có khả năng tiến hành một chiến dịch mùa đông chống lại quân đội Xô Viết” đã là một yếu tố tác động đến quyết định sớm chấm dứt trận đánh ở Nomonhan vào đầu mùa thu chứ không để phát triển thành chiến tranh lớn. Ngay khi những cơn gió thu bắt đầu thổi, bộ tổng tham mưu vốn luôn bị ám ảnh vì vấn đề thể diện của quân đội Thiên Hoàng, đã bất ngờ quyết định phủi tay trong trận đánh này, và thông qua đàm phán ngoại giao, nhường vùng thảo nguyên Hulunbuir trơ trụi cho quân đội Ngoại Mông và Xô Viết.

            Trong một cước chú, tác giả cho biết, Wataya Yoshitaka bị chính quyền chiếm đóng của MacArthur cấm không được giữ các chức vụ trong nhà nước, đành lui về sống ẩn dật mấy năm ở quê nhà Niigata. Nhưng khi lệnh cấm này được bãi bỏ, Đảng bảo thủ đã thuyết phục được Yoshitaka tham gia chính trường. Ông làm nghị sĩ Thượng viện trong hai nhiệm kỳ rồi chuyển sang Hạ viện. Trên tường phòng làm việc của ông có treo một cuộn thư pháp của Ishiwara Kanji.

            Tôi không biết ông bác của Wataya Noboru đã là một nghị sĩ ra sao hay ông đã làm được gì với tư cách một chính khách. Ông đã có lúc là bộ trưởng trong Nội các, nhưng chưa bao giờ trở thành một thủ lĩnh chính trị có tầm cỡ quốc gia. Nay thì di sản chính trị của ông đã được truyền lại cho đứa cháu là Wataya Noboru.

            * * *

            Tôi bỏ cuốn sách qua một bên rồi chắp tay sau đầu, nhìn ra ngoài cửa sổ, ngó mông lung về phía cổng trước. Chẳng bao lâu nữa cổng sẽ mở vào trong, chiếc Mercedes-Benz sẽ tiến vào, Quế ngồi sau tay lái. Anh ta sẽ đưa tới một “khách hàng” khác nữa. Những “khách hàng” này và tôi gắn kết với nhau bởi vết bầm trên má tôi. Ông ngoại của Quế và tôi cũng gắn kết với nhau bởi vết bầm trên má tôi. Ông ngoại của Quế và trung úy Mamiya ràng buộc với nhau bởi thành phố Tân Kinh. Trung úy Mamiya và ông Honda có tài thấu thị gắn kết với nhau bởi cùng tham gia nhiệm vụ đặc biệt ở biên giới Mãn Châu – Mông Cổ, còn Kumiko và tôi thì được gia đình Wataya Noboru giới thiệu với ông Honda. Trung úy Mamiya và tôi gắn bó với nhau bởi cả hai đều đã biết thế nào là ở dưới giếng – ông Mamiya thì ở Mông Cổ, tôi thì trên mảnh đất đang ngồi lúc này đây. Một vị sĩ quan từng chỉ huy quân đội ở Trung Hoa cũng có dạo sống trên khu đất này. Tất cả đều gắn kết với nhau như trong một vòng tròn mà tâm điểm là Mãn Châu thời trước chiến tranh, Đông Á đại lục và cuộc chiến tranh ngắn ngủi ở Nomonhan năm 1939. Nhưng cớ sao Kumiko và tôi lại bị cuốn vào trong chuỗi mắt xích nhân quả lịch sử này, tôi không thể nào hiểu nổi. Tất cả những sự kiện ấy đã diễn ra từ lâu trước khi cả tôi và Kumiko chào đời.

            Tôi ngồi ở bàn làm việc của Quế, đặt tay trên bàn phím. Những ngón tay tôi vẫn còn nhớ như in cảm giác cuộc trò chuyện với Kumiko vừa qua. Cuộc nói chuyện qua máy tính này bị Wataya Noboru giám sát, chắc chắn như vậy. Hắn đang cố biết được đôi điều từ đó. Dứt khoát là hắn đã bố trí cho chúng tôi liên lạc với nhau bằng cách ấy không phải vì lòng tốt. Hầu như chắc chắn rằng hắn và lâu la của hắn đang tìm cách tận dụng khả năng truy cập vào máy của Quế để biết được những bí mật của nơi này. Nhưng điều đó chẳng làm tôi bận tâm. Chiều sâu của chiếc máy tính này chính là chiều sâu của bản thân Quế. Bọn họ sẽ chẳng bao giờ biết nổi những chiều sâu đó khôn dò đến mức nào.

            24

            Báo động đỏ

            *

            Cánh tay dài từ xa vươn tới

            Lúc 9h sáng hôm sau Quế không đến một mình. Ngồi sau lưng anh ta, trên ghế dành cho khách là mẹ anh, Akasaka Nhục đậu khấu. Đã hơn một tháng rồi bà không đến đây. Lần đó bà cũng đến cùng với Quế mà không báo trước, ăn điểm tâm với tôi rồi nói dăm chuyện phiếm, sau đó chừng một tiếng thì bà đi.

            Quế cởi áo khoác, mở băng bản Concerto Grosso của Handel (mà anh ta đã nghe suốt ba ngày liên tục) rồi xuống bếp pha trà và làm món bánh mì nướng cho mẹ, bà vẫn chưa ăn sáng. Món bánh mì anh ta làm luôn luôn thật tuyệt, cứ như trong một đoạn phim quảng cáo. Trong khi anh dọn dẹp lau chùi bếp như mọi khi, Nhục đậu khấu và tôi ngồi uống trà bên chiếc bàn nhỏ. Bà ta chỉ ăn một lát bánh mì phết chút bơ. Ngoài kia mưa lạnh buốt đang rơi. Nhục đậu khấu nói ít, tôi cũng nói ít – chỉ nhận xét đôi câu về thời tiết. Tuy nhiên, dường như bà có điều gì muốn bộc bạch. Điều đó thấy rõ qua nét mặt và cách nói của bà. Bà xé từng mẩu bánh cỡ con tem cho vào miệng, từng miếng một. Chốc chốc chúng tôi lại nhìn ra ngoài mưa, như thể mưa là người bạn quen biết lâu năm của cả hai chúng tôi.

            Khi Quế đã dọn bếp xong và bắt đầu lau nhà, Nhục đậu khấu dẫn tôi vào “phòng chỉnh lý”. Gian này đã được thiết kế sao cho giống hệt như phòng chỉnh lý tại văn phòng ở Akasaka. Kích thước và hình dáng gần như là một. Cửa sổ cũng có hai lớp rèm, cũng mờ mờ ảo ảo dù giữa ban ngày. Rèm không bao giờ mở lâu quá mười phút mỗi lần, khi Quế lau dọn phòng. Ở đây có một chiếc sofa bọc da, một bình hoa bằng thủy tinh được cắm đặt trên bàn, một cây đèn chân đế cao. Giữa phòng là một chiếc bàn làm việc trên đó có một chiếc kéo, những mẩu vải, một chiếc hộp gỗ đầy ắp kim chỉ, bút chì, cuốn sổ vẽ kiểu (trong đó đã có phác họa một số kiểu), cùng một vài công cụ chuyên dùng mà tôi không biết tên và công dụng. Một chiếc gương lớn bằng cỡ người thật treo trên tường, ở góc phòng được ngăn ra bằng màn làm chỗ thay đồ. Khách hàng đến thăm Dinh luôn luôn được mời đến căn phòng này.

            Tôi không hiểu tại sao Quế và mẹ anh ta thấy cần phải tái tạo một bản sao hoàn hảo của căn “phòng chỉnh lý” nguyên thủy tại văn phòng ở Akasaka. Ở đây thì đâu cần phải ngụy trang như vậy. Có lẽ là họ (và khách hàng của họ) đã quá quen với căn “phòng chỉnh lý” kia đến nỗi không nghĩ ra được ý tưởng nào mới để trang hoàng căn phòng này. Dĩ nhiên họ cũng có thể đặt câu hỏi: ”Phòng chỉnh lý thì đã sao nào?” Dù lý do gì đi nữa, bản thân tôi thích chỗ này. Nó thật sự là “phòng chỉnh lý”, không phải căn phòng nào khác, và tôi thấy một cảm giác bình an kỳ lạ ở đó, khi quanh mình là đủ thứ dụng cụ cắt may quần áo. Nó là một khung cảnh siêu thực, nhưng không phi tự nhiên.

            Nhục đậu khấu ra hiệu cho tôi ngồi xuống ghế sofa, rồi ngồi bên cạnh tôi.

            - Sao, cậu thấy thế nào? - Bà hỏi .

            - Cũng được, - tôi đáp.

            Nhục đậu khấu mặc bộ áo váy màu xanh lơ nhạt. Váy ngắn, những cúc áo lớn hình sáu cạnh dài kín tận yết hầu như kiểu áo khoác của Nehru ngày xưa. Hai bên vai có miếng đệm cỡ chiếc bánh mì tròn. Bà ta làm tôi nhớ tới một bộ phim khoa học viễn tưởng xem đã lâu, lấy bối cảnh tương lai gần. Hầu như tất cả các phụ nữ trong phim đều ăn mặc như thế này và sống trong một thành phố vị lai chủ nghĩa.

            Nhục đậu khấu đeo đôi hoa tai cỡ lớn, bằng nhựa, cũng màu xanh tuyền hệt như bộ áo váy. Đó là một màu xanh thẫm dường như được tạo ra nhờ kết hợp một số màu, theo một đơn đặt hàng đặc biệt sao cho đi với bộ đồ. Mà cũng có thể ngược lại mới đúng: bộ đồ được làm ra cho khớp với đôi hoa tai, kiểu như ta làm một cái hốc trong tường theo đúng hình dạng của một cái tủ lạnh. Có khi cũng nên nhìn sự vật như thế, tôi nghĩ. Khi đến, bà ta đeo kính râm mặc dù trời mưa, đôi mắt kính hầu như chắc chắn là cũng xanh lơ. Đôi tất của bà ta cũng xanh lơ. Ngay cả ngày hôm nay hẳn cũng màu xanh lơ nốt.

            Bằng một chuỗi động tác nhịp nhàng như thường lệ. Nhục đậu khấu rút một điếu thuốc từ trong túi xách, đưa lên môi, châm thuốc bằng chiếc bật lửa, môi hơi cong cong. Ít ra thì chiếc bật lửa không phải màu xanh lơ, mà vẫn là chiếc bằng vàng, mỏng mảnh, có vẻ rất đắt tiền mà bà ta luôn dùng. Tuy nhiên, nó rất hợp với màu xanh lơ. Rồi Nhục đậu khấu bắt tréo cặp chân mang tất màu xanh lơ. Bà vừa kiểm tra đầu gối mình vừa sửa lại váy. Sau đó, như thể đó là một phần nối dài của đôi đầu gối, bà nhìn sang mặt tôi.

            - Cũng được, - tôi lại nói - Cũng như mọi khi.

            Nhục đậu khấu gật đầu.

            - Cậu không mệt à? Cậu có thấy cần phải nghỉ một chút không?

            - Không, không mệt lắm. Chắc tôi cũng quen việc rồi. Bây giờ dễ hơn nhiều so với hồi đầu.

            Nhục đậu khấu không nói gì. Khói thuốc bà ta bay thẳng lên trời như sợi dây thừng bị một thầy phù thủy Ấn Độ đọc thần chú cho dựng đứng lên, rồi bị hút vào lỗ thông hơi trên trần. Theo chỗ tôi biết, đây là thiết bị thông hơi nhạy êm nhất và mạnh nhất trên thế giới.

            - Bà thì thế nào? - Tôi hỏi.

            -Tôi ấy à?

            -Bà thì có mệt không?

            Nhục đậu khấu nhìn tôi.

            - Trông tôi có vẻ mệt sao?

            Quả thật là ngay lúc bà ta mới đến, nhìn mắt nhau, tôi đã cảm thấy bà đang mệt. Khi tôi bảo bà như vậy, bà khẽ thở dài.

            - Lại thêm một bài báo nữa trên một tạp chí sáng nay nói về cái chỗ này. Trong loạt bài “Bí mật của căn nhà có dớp”. Nghe như nhan đề một bộ phim kinh dị vậy.

            - Đây là bài thứ hai phải không? –Tôi hỏi.

            - Thì đấy, bài thứ hai, - Nhục đậu khấu nói. - Thật ra một tờ báo khác mới đây cũng đăng một bài về đề tài này, cũng may chưa ai nhận ra có mối liên hệ giữa bài này với bài kia. Tạm thời thì chưa.

            - Họ có nói gì mới không? Về chúng ta ấy?

            Bà chìa tay lấy gạt tàn dụi tắt điếu thuốc. Rồi khẽ lắc đầu. Đôi hoa tai của bà chấp chới như những cánh bướm đầu xuân.

            - Mới thì không hẳn mới, - bà nói, rồi ngừng một chút, - Chúng ta là ai, chúng ta làm gì ở đây, chưa ai biết. Tôi sẽ đưa cậu một bản copy, nếu cậu quan tâm thì đọc. Nhưng điều mà tôi muốn hỏi cậu là, hôm nọ có người rỉ tai tôi rằng cậu có người anh vợ là một chính khách trẻ nổi tiếng. Có đúng không?

            - Đáng tiếc là đúng, - tôi nói.

            - Anh của cô vợ đã bỏ cậu mà đi phải không?

            - Đúng vậy.

            - Liệu anh ta có biết phong phanh gì về chuyện cậu làm gì ở đây không?

            - Anh ta biết tôi ngày nào cũng đến đây và tôi đang làm cái gì đó. Anh ta thuê người ta điều tra. Tôi nghĩ anh ta rất lo không biết tôi đang làm cái gì. Nhưng chắc anh ta chưa biết được gì đâu.

            Nhục đậu khấu ngẫm nghĩ một hồi lâu về câu trả lời của tôi. Đoạn bà ngẩng mặt lên nhìn tôi hỏi:

            - Cậu không ưa ông anh vợ này lắm phải không?

            - Không ưa lắm.

            - Anh ta cũng không ưa cậu.

            - Nói thế còn nhẹ.

            - Giờ thì anh ta đang lo không biết cậu làm gì ở đây. Tại sao?

            - Nếu em rể bị phanh phui là dính vào một vụ mờ ám thì sẽ rất tai tiếng cho anh ta. Nói gì thì nói, anh ta đang là nhân vật thời nay, thành thử anh ta bận tâm đến những chuyện này thì cũng tự nhiên thôi.

            - Vậy anh ta không thể là kẻ đang tiết lộ thông tin về nơi này cho báo chí phải không?

            - Thành thật mà nói, tôi không biết Wataya Noboru đang nghĩ gì. Nhưng cứ suy theo lối thông thường, nếu tiết lộ chuyện này cho báo chí thì hắn có được lợi lộc gì đâu. Với hắn tốt nhất là cứ mặc cho đừng ai biết gì hết.

            Nhục đậu khấu xoay xoay chiếc bật lửa mỏng mảnh bằng vàng trên mấy ngón tay một hồi lâu. Trông như chiếc cối xay gió bằng vàng vào một ngày ít gió.

            - Sao cậu không nói gì về ông anh vợ này với chúng tôi? – Nhục đậu khấu hỏi.

            - Không chỉ với bà và Quế đâu. Tôi không bao giờ nhắc đến hắn với bất cứ ai, - tôi nói, - ngay từ đầu tôi với hắn đã không ưa nhau, đến giờ thì thật sự là căm ghét. Không phải tôi giấu không nói với bà về hắn. Chỉ là tôi nghĩ không cần phải đưa chuyện đó ra.

            Nhục đậu khấu thở dài.

            - Lẽ ra cậu nên kể với chúng tôi.

            - Có lẽ vậy, giá tôi kể thì hơn, - tôi nói.

            - Chắc cậu đang hình dung được chuyện ở đây liên quan đến cái gì. Khách hàng của chúng ta toàn trong giới chính trị và doanh nhân. Những người có thế lực. Và đủ loại người nổi tiếng. Danh tính của họ phải được tuyệt đối giữ kín. Chính vì thế chúng tôi mới lo xa hết mức như vậy. Cậu biết mà.

            Tôi gật đầu.

            - Quế đã dành biết bao thời gian công sức để lập ra cái hệ thống chính xác và phức tạp hầu duy trì bí mật của chúng tôi – một mê cung toàn những công ty giả, những tài khoản ẩn dưới bao nhiêu lớp ngụy trang, một chỗ đỗ xe nặc danh trong cái khách sạn ở Akasaka, quản lý khách hàng cẩn trọng, kiểm soát thu chi chặt chẽ, cả thiết kế căn nhà này nữa: tất cả đều sinh ra từ đầu óc nó. Cho tới giờ, hệ thống vẫn vận hành gần như hoàn hảo theo tính toán của nó. Dĩ nhiên, duy trì một hệ thống như vậy thì tốn bộn tiền, nhưng với chúng tôi tiền không thành vấn đề. Điều quan trọng là các bà đến với chúng tôi thấy an tâm rằng họ được bảo vệ tuyệt đối.

            - Bà muốn nói rằng sự an toàn đó đang bị đe dọa.

            - Phải, đáng tiếc là như vậy.

            Nhục đậu khấu lấy hộp thuốc là ra, rút một điếu, nhưng kẹp hồi lâu giữa mấy ngón tay mà không châm lửa.

            - Đã vậy tôi lại có tay anh họ chính trị gia nổi danh này nữa, càng dễ gây tai tiếng.

            - Đúng vậy,- Nhục đậu khấu nói, môi cong lên.

            - Quế phân tích thế nào về tình hình này?

            - Nó không nói gì cả. Như một con sò lớn dưới đáy biển vậy. Nó vùi mình vào bản thân, khóa chặt cửa phòng, miên man suy nghĩ điều gì đó.

            Mắt Nhục đậu khấu dán vào tôi. Rốt cuộc, như sực nhớ ra điếu thuốc cầm trên tay, bà châm lửa. Rồi bà nói:

            - Đến giờ tôi vẫn cứ nghĩ mãi về chuyện đó; về chồng tôi, về cách anh ấy bị giết. Tại sao người ta phải ám sát anh ấy? Tại sao người ta phải cho căn phòng khách sạn kia ngập máu, phải moi phủ tạng của anh ấy ra mà mang đi? Tôi nghĩ mãi mà không ra nguyên do để ai đó làm như vậy. Chồng tôi không phải loại người để bị giết một cách khác thường như thế.

            Nhưng không chỉ cái chết của chồng tôi. Tất cả những sự kiện không thể giải thích được từng xảy ra trong đời tôi từ trước đến nay – niềm đam mê mãnh liệt nghề thời trang đột ngột bùng phát lên trong tôi rồi cũng đột ngột biến mất, Quế bỗng nhiên ngừng nói, rồi tôi bị cuốn vào cái công việc kỳ lạ chúng ta đang làm đây. Tất cả dường như đã được lập trình sẵn ngay từ đầu nhằm mục đích đưa tôi đến đây, chính chỗ này đây. Tôi không tài nào gạt bỏ được cái ý nghĩ đó. Tôi như thấy mỗi động tác của mình đều bị chi phối bởi một cánh tay dài vươn ra từ nơi nào đó rất xa, rằng đời tôi chẳng qua chỉ là một ngõ thông thuận lợi cho những sự kiện đó đi qua.

            Từ phòng bên khẽ vẳng lại tiếng Quế đang hút bụi. Anh ta đang thi hành nhiệm vụ của mình một cách tập trung có hệ thống như mọi khi.

            - Có bao giờ cậu cảm thấy như vậy không? – Nhục đậu khấu hỏi tôi.

            - Tôi không bao giờ cảm thấy mình bị “cuốn vào” một cái gì hết, -tôi đáp, - Tôi ở đây lúc này là bởi tôi cần phải ở đây.

            - Để cậu có thể thổi cây sáo thần và tìm thấy Kumiko?

            - Đúng vậy.

            - Cậu có cái gì để tìm kiếm, - bà ta vừa nói vừa chậm rãi đổi sang bắt tréo chân kia, - Cái gì cũng có cái giá của nó.

            Tôi im lặng.

            Cuối cùng, Nhục đậu khấu kết luận:

            - Chúng tôi đã quyết định không đưa khách hàng đến đây trong một thời gian. Đó là quyết định của Quế. Bởi có mấy bài báo và sự xuất hiện của ông anh cậu, tín hiệu đã chuyển từ vàng sang đỏ. Ngày hôm qua chúng tôi đã hủy bỏ tất cả các cuộc hẹn còn lại, bắt đầu từ cuộc hẹn hôm nay.

            - “Một thời gian” là bao lâu?

            - Cho tới khi nào Quế vá được lỗ hổng trong hệ thống và chúng tôi có thể tin chắc mình đã hoàn toàn vượt qua được mọi khủng hoảng. Rất tiếc, nhưng chúng tôi không muốn liều lĩnh, hoàn toàn không. Quế vẫn sẽ đến đây hàng ngày, nhưng khách hàng thì sẽ không có nữa.

            * * *

            Khi Quế và Nhục đậu khấu đã đi khỏi thì cơn mưa buổi sáng vừa dứt. Nửa tá chim sẻ đang rửa lông trong một vũng nước trên lối đi dành cho ô tô. Khi chiếc Mercedes của Quế khuất dạng, cánh cổng tự động đã đóng lại tôi ngồi nơi cửa sổ nhìn lên bầu trời mùa đông trĩu mây trên những cành cây. Những lời của Nhục đậu khấu hiện lên trong trí tôi: “một cánh tay dài vươn ra từ chỗ nào đó rất xa”. Tôi tưởng như thấy cánh tay từ những đám mây tối thẫm, thấp lè tè kia thò xuống, như bức minh họa trong cuốn truyện tranh nói về điềm gở.

            25

            Tai ba góc

            *

            Lục lạc

            Suốt ngày hôm đó tôi ngồi đọc về Mãn Châu quốc. Chẳng việc gì phải vội quay về nhà. Sáng nay, khi chuẩn bị ra khỏi nhà, tôi đã tính trước rằng có thể mình sẽ về muộn nên đã lấy sẵn thức ăn khô đủ hai ngày cho Cá thu. Có thể nó sẽ không thích ăn lắm, nhưng ít ra đói thì không đói. Chính vì vậy tôi càng ngán ngẩm khi nghĩ đến chuyện phải lê xác về nhà. Tôi muốn nằm xuống đánh một giấc. Tôi lấy chăn gối trong một cái tủ ra, trải trên chiếc sofa trong “phòng chỉnh lý” rồi tắt đèn. Đoạn tôi nằm xuống, nhắm mắt mà nghĩ về Cá thu. Tôi muốn mình thiếp đi khi vẫn đang nghĩ đến cá thu. Nó thì đã trở về với tôi. Từ nơi nào đó xa xôi, nó đã về được với tôi. Đó hẳn là một thứ hồng phúc. Nhắm mắt nằm đó, tôi nghĩ về những núm thịt mềm mềm dưới bốn chân con mèo, hai cái tai mát rượi hình tam giác, cái lưỡi hồng hồng của nó. Trong trí tôi, Cá thu năm cuộn tròn ngủ yên lành. Tôi nghe hơi ấm của nó trên lòng bàn tay tôi. Tôi nghe được nhịp thở đều đặn của nó. Thần kinh tôi đang bị kích động hơn nhiều so với bình thường, nhưng chẳng mấy chốc tôi đã ngủ, một giấc ngủ sâu không mộng mị.

            Tôi sực tỉnh lúc nửa đêm. Dường như tôi nghe thấy tiếng lục lạc từ đâu đó xa xa, như âm thanh nền trong một bản nhạc Giáng sinh.

            Tiếng lục lạc ư?

            Tôi ngồi dậy trên sofa, mò mẫm tìm chiếc đồng hồ đặt trên bàn cà phê. Kim đồng hồ có dạ quang chỉ 1 giờ 30. Không ngờ tôi lại ngủ ngon đến thế. Tôi ngồi yên lắng nghe, nhưng âm thanh duy nhất nghe được là tiếng đập nho nhỏ, khô khan của chính trái tim tôi. Chắc hẳn tôi chỉ tưởng tượng ra tiếng lục lạc ấy thôi. Có khi ấy chỉ là do nằm mơ. Dẫu sao tôi vẫn quyết định kiểm tra một vòng quanh nhà. Tôi xỏ chân vào dép rồi rón rén xuống bếp. Càng đi xa khỏi phòng, âm thanh đó nghe càng rõ. Quả thật là như tiếng lục lạc, dường như phát ra từ phòng làm việc của Quế. Tôi đứng một lúc bên cánh cửa, lắng nghe, rồi gõ cửa. Nhưng không có tiếng trả lời. Tôi mở hé cửa dòm vào trong.

            Đâu đó trong bóng tối, ngang tầm thắt lưng, có một mảng ánh sáng trăng trắng hình vuông. Đó là ánh sáng của màn hình máy vi tính, còn tiếng lục lạc là tiếng bíp lặp đi lặp lại của máy (một kiểu tiếng bíp khác, trước giờ tôi chưa nghe). Máy tính đang gọi tôi. Như thể bị ai kéo, tôi ngồi xuống trước màn hình đang tỏa sáng và đọc thấy thông điệp sau“

            Bây giờ bạn có quyền truy cập chương trình “Biên niên ký sự của chim vặn dây cót”. Chọn một tài liệu . (1-16)

            Ai đó đã bật máy lên và truy cập vào các tài liệu có nhan đề “Biên niên ký sự của chim vặn dây cót”. Chẳng còn ai khác trong nhà này ngoài tôi ra. Liệu có thể ai đó đã khởi động hệ thống từ bên ngoài chăng? Nếu có, đấy chỉ có thể là Quế. ”Biên niên ký sự của chim vặn dây cót“ ư?

             Ánh sáng, và cái âm thanh vui vẻ nghe như tiếng lục lạc, vẫn tiếp tục phát ra từ chiếc máy, cứ như vào buổi sáng giáng sinh. Dường như nó đang giục tôi lựa chọn. Ngần ngừ một chút, tôi chọn số 8, chẳng vì lý do gì đặc biệt. Lập tức tiếng chuông dứt, và một tài liệu mở ra trên màn hình như một bức tranh cuộn trải ra theo chiều ngang trước mắt tôi.

            26

            Biên niên ký sự số 8 của Chim vặn dây cót

            (hay cuộc thảm sát vụng về thứ hai)

            *

            Chưa tới 6 giờ sáng, viên bác sĩ thú y người Nhật đã thức giấc. Rửa mặt bằng nước lạnh xong, anh làm bữa điểm tâm. Mùa hè trời rạng sớm, hầu hết thú trong vườn thú Tân Kinh đã dậy rồi. Cửa sổ mở để lọt vào tiếng kêu của bầy thú, cùng với làn gió mang theo mùi của chúng, cái mùi giúp cho anh biết thời tiết mà không phải nhìn ra ngoài. Đó là một phần thủ tục hàng ngày của anh ở Mãn Châu: lắng nghe, sau đó hít bầu không khí buổi sáng, thế là anh đã sẵn sàng cho một ngày mới.

            Tuy nhiên, hôm nay phải khác hẳn ngày hôm trước. Không thể không khác. Quá nhiều giọng, quá nhiều mùi đã không còn nữa! Hổ, báo, sói, gấu, tất cả đã bị thanh trừng bởi những người lính chiều hôm trước. Giờ đây, sau khi ngủ một đêm, viên bác sĩ thú y cảm thấy như những sự kiện đó là một phần của cơn ác mộng lờ đờ mà anh đã mơ từ lâu, lâu lắm. Nhưng anh biết, những sự kiện đó thực sự đã xảy ra. Tai anh vẫn còn đau âm ỉ vì tiếng gầm của những họng súng. Đó không thể là giấc mơ được. Giờ đang là tháng Tám năm 1945, và anh đang ở đây, thành phố Tân Kinh; quân đội Xô Viết đã tràn qua biên giới và mỗi giờ một áp sát hơn. Đây là thực tại – cũng thực như cái chậu và bàn chải răng mà anh đang thấy trước mặt mình.

            Tiếng rống của lũ voi khiến anh thấy nhẹ lòng đôi chút. À vâng, lũ voi thì sống sót. May thay, viên trung úy trẻ đảm trách nhiệm vụ ngày hôm qua vẫn còn sự nhạy cảm thông thường của con người để loại lũ voi ra khỏi danh sách bị thanh trừng, bác sĩ thú y vừa rửa mặt vừa nghĩ. Từ khi tới Mãn Châu, anh đã gặp vô khối những tay sĩ quan trẻ kiêu ngạo và cuồng tín đến từ đất nước anh, và những cuộc gặp đó luôn luôn khiến anh sửng sốt. Hầu hết bọn họ là con nhà nông, tuổi niên thiếu của họ trôi qua trong thời kỳ suy thoái những năm 30, chìm trong thảm kịch đói nghèo, lại bị nhồi sọ bởi một chủ nghĩa dân tộc tự cao tự đại. Họ sẵn sàng tuân lệnh cấp trên mà không suy nghĩ, dù lệnh đó có kỳ quặc đến đâu. Nếu nhân danh Thiên Hoàng người ta ra lệnh cho họ đào một cái lỗ xuyên qua trái đất tới Brazil, họ sẽ chộp lấy xẻng đào ngay. Một số người gọi đây là “sự thuần khiết”, nhưng viên bác sĩ thú y có từ khác để gọi nó. Là con trai một bác sĩ ở thành thị, được giáo dục trong môi trường tương đối tự do của Nhật Bản trong thập niên 1920, viên bác sĩ thú y không bao giờ hiểu được những tay sĩ quan trẻ đó. Bắn chết dăm con voi lẽ ra còn dễ hơn nhiều so với đào hầm xuyên trái đất tới Brazil, nhưng gã trung úy ngày hôm qua, mặc dù nói năng hơi nhuốm giọng nhà quê, dường như là một kẻ mang nhiều tính người hơn so với những tay sĩ quan khác – có giáo dục hơn và biết suy xét hơn. Bác sĩ thú y cảm nhận được điều đó qua cách ăn nói và cư xử của người sĩ quan này.

            Dù thế nào đi nữa, lũ voi đã không bị giết, và bác sĩ thú y tự nhủ, có lẽ anh cần phải biết ơn về điều ấy. Cả những người lính ắt cũng vui vì khỏi phải làm việc đó. Các công nhân Trung Hoa thì hẳn là tiếc hùi hụi vì lũ voi đã được tha mạng, không thì họ đã có thể tha hồ xẻ thịt và lấy ngà voi.

            Bác sĩ thú y đun nước, thấm ướt râu bằng một cái khăn nóng rồi cạo râu. Sau đó anh ăn điểm tâm một mình: trà, bánh mì và bơ. Suất ăn ở Mãn Châu còn lâu mới đủ no, nhưng so với những nơi khác thì vẫn còn hậu hĩ lắm. Đây là tin tốt lành cho cả anh lẫn lũ thú. Bọn thú tỏ ra phẫn nộ khi phần ăn của chúng bị cắt giảm, nhưng tình hình ở đây còn tốt chán so với các sở thú ở quê nhà Nhật Bản, nơi nguồn thức ăn đã cạn kiệt đến mức không thể nào cạn kiệt hơn. Không ai tiên đoán được tương lai, nhưng ít nhất là hiện giờ, cả vật lẫn người đều chưa đến nỗi quá đói ăn.

            Anh tự hỏi giờ này vợ và con gái đang làm gì. Họ đã trở về Nhật từ mấy hôm trước, nếu xuôi chèo mát mái thì giờ này chuyến tàu chở họ hẳn đã đến bờ biển Triều Tiên. Sau đó họ sẽ lên tàu biển về Nhật. Bác sĩ thèm được nhìn thấy họ như anh vẫn thấy mỗi buổi sáng khi thức dậy. Anh thèm được nghe giọng nói liến thoắng của hai mẹ con khi họ chuẩn bị bữa điểm tâm. Một sự im lặng trống rỗng ngự trị căn nhà. Đây không còn là căn nhà mà anh từng yêu thương, nơi chốn mà anh từng là một phần của nó. Thế mà hiện giờ anh lại không thể không cảm thấy một niềm vui kỳ lạ khi được ở lại một mình trong cái chốn cư ngụ chính thức trống trơ này, giờ đây anh có thể cảm nhận được trong chính xương thịt mình cái sức mạnh bất khả cưỡng của số mệnh.

            Số mệnh ở đây là căn bệnh chết người của chính viên bác sĩ thú y. Từ khi còn trẻ, anh đã có một nhận thức minh bạch kỳ lạ rằng “ta, với tư cách cá nhân, đang sống dưới sự kiểm soát của một thế lực ở bên ngoài ta”. Đây hẳn là vì vết bầm màu xanh dương sống động trên má phải của anh. Từ nhỏ, anh đã căm ghét vết bầm, cái dấu ấn này chỉ mình anh chứ không ai khác phải mang trên da thịt. Mỗi khi những đứa trẻ khác chòng ghẹo anh hay người lạ nhìn chằm chặp vào anh, anh chỉ muốn chết quách cho xong. Giá như có thể lấy dao cắt phăng phần cơ thể đó của mình đi thì tốt biết mấy! Nhưng khi trưởng thành, anh dần lặng lẽ chấp nhận vết bầm trên mặt mình, rằng “nó sẽ chẳng bao giờ biến đi cả”. Đây có thể là một nhân tố giúp anh hình thành nên một thái độ điềm tĩnh trước tất cả những gì liên quan đến số mệnh.

            Hầu như bất cứ lúc nào, uy lực của số mệnh cứ dai dẳng như một bè đệm êm ả và đơn điệu chỉ tô thêm sắc màu cho những đường viền của cuộc đời anh. Hiếm khi anh nhớ tới sự tồn tại của nó. Nhưng cứ từng lúc, đột ngột, thế cân bằng thay đổi (mà cái gì điều khiển thế cân bằng đó thì anh không hề biết: anh không phát hiện được sự đều đặn lặp lại nào trong sự thay đổi đó); cái lực đó thường tăng lên, nhấn anh vào một trạng thái cam chịu gần như tê liệt. Những lúc đó, anh không có cách nào khác ngoài từ bỏ tất cả và phó mặc mình cho dòng chảy. Bằng kinh nghiệm anh biết, anh không thể làm hay nghĩ ra bất cứ cái gì để thay đổi tình thế. Số mệnh sẽ đòi phần của nó, và chừng nào chưa nhận được phần mình, nó sẽ không đi đâu cả. Anh tin chắc điều đó.

            Chẳng phải vì anh là kẻ thụ động, thật ra, anh là người quyết đoán hơn hầu hết kẻ khác, anh luôn luôn thông suốt trong quyết định của mình. Trong nghề nghiệp cũng vậy, anh là người xuất chúng: một bác sĩ thú y có kỹ năng tuyệt vời, một nhà giáo dục không mệt mỏi. Có thể anh thiếu chút gì đó sáng tạo, nhưng hồi còn đi học anh luôn giành điểm cao và thường được chọn là học sinh đầu lớp. Ở nơi làm việc cũng vậy, ai cũng nhìn nhận rằng anh là người vượt trội, những người dưới đều ngưỡng mộ anh. Nhất định anh không phải là người theo thuyết định mệnh theo nghĩa người ta thường nghĩ. Thế nhưng, chưa bao giờ anh được nếm trải niềm xác tín vững chãi rằng chính anh chứ không phải ai khác là người quyết định mọi việc. Anh luôn luôn có cảm giác rằng chính số mệnh đã buộc anh phải quyết định việc này việc kia miễn sao lợi cho nó. Thảng hoặc, sau phút chốc hài lòng rằng mình đã quyết định điều gì đó bằng ý chí tự do, anh mới nhận ra rằng mọi việc đã được định đoạt từ trước bằng một thế lực ngoại tại nguỵ trang một cách khôn ngoan thành ý chí tự do, ấy chỉ là miếng mồi ném ra trước mặt anh để nhử cho anh hành xử như thể đó là do ý của chính anh. Những việc duy nhất anh đã tự mình quyết định một cách hoàn toàn độc lập thảy đều là những chuyện vặt vãnh mà nếu xét kỹ sẽ thấy thật ra chẳng cần phải quyết định gì hết. Anh thấy mình như một quốc vương trên danh nghĩa, chẳng biết làm gì khác ngoài việc ấn con triện hoàng gia lên các văn kiện theo lệnh một quan nhiếp chính, kẻ thật sự thao túng quyền lực trong vương quốc – khác nào vị hoàng đế của cái đế quốc bù nhìn Mãn Châu này.

            Bác sĩ yêu vợ và con gái. Có vợ con là điều tuyệt diệu nhất từng xảy đến với anh, đặc biệt là con gái, người mà anh yêu đến gần như mê muội. Vì họ, anh có thể vui lòng hy sinh tính mạng mình. Mà thật, anh vẫn thường tưởng tượng như vậy, và trong tâm trí anh, những cái chết mà anh đã hứng chịu vì vợ con dường như là những cái chết ngọt ngào nhất người ta có thể tưởng tượng ra. Thế nhưng, mỗi khi đi làm về, nhìn thấy hai mẹ con, anh lại tự nhủ: Nói cho cùng, những kẻ này là những con người riêng biệt, mỗi người một cõi, ta không có mối liên hệ nào với họ hết. Họ là một cái gì đó khác mà anh không thực sự hiểu, tồn tại ở nơi nào đó rất xa bên ngoài anh. Và mỗi khi cảm thấy như vậy, anh lại thoáng qua ý nghĩ rằng thực ra anh đã không hề tự chọn lấy người này hay người nọ cho bản thân; tuy nhiên, điều đó không ngăn anh yêu thương họ vô điều kiện, quên mình. Đối với viên bác sĩ, đây là một nghịch lý lớn, một mâu thuẫn không thể giải quyết được, là cái bẫy khổng lồ giăng sẵn cho suốt cuộc đời anh.

            Tuy nhiên, khi còn trơ lại một mình ở căn nhà trong vườn thú, anh cảm thấy cái thế giới mà mình thuộc về đã trở nên đơn giản hơn, dễ hiểu hơn nhiều. Giờ anh chỉ còn mỗi việc chăm nom lũ thú. Vợ con đã đi rồi. Không cần nghĩ về họ nữa. Viên bác sĩ có thể ở một mình cùng định mệnh.

            Mà trên tất cả, chính định mệnh, cái uy lực to lớn của định mệnh, chính nó mới là cái cầm chịch nơi đây, chứ không phải đội quân Quan Đông, không phải quân đội Xô Viết, không phải quân của Đảng cộng sản Trung Quốc hay của Quốc dân đảng. Ai cũng có thể thấy rằng chính định mệnh là chúa tể nơi đây, còn ý chí cá nhân chẳng là cái quái gì. Hôm trước, chính định mệnh đã tha mạng cho lũ voi nhưng chôn vùi lũ hổ, báo, sói và gấu. Còn hôm nay nó sẽ chôn vùi ai, và sẽ tha mạng cho ai? Đó là những câu hỏi không người nào có thể trả lời.

            Viên bác sĩ thú y rời nhà để chuẩn bị cho bầy thú ăn sáng. Cứ đinh ninh sẽ chẳng ma nào tới làm việc nữa, nhưng anh lại gặp hai thằng bé Trung Hoa đang đợi anh ở văn phòng. Anh không biết chúng. Hai đứa trạc mười ba, mười bốn tuổi, gày gò, da đen xỉn, cặp mắt thú láo liên. “Người ta bảo tụi cháu giúp ông”, một đứa nói. Viên bác sĩ gật đầu. Anh hỏi tên chúng, nhưng hai đứa không trả lời. Gương mặt chúng vô cảm, như không hề nghe thấy câu hỏi. Hiển nhiên là hai đứa trẻ này do mấy người Trung Hoa vẫn còn làm việc ở đây cho tới ngày hôm qua cử đến. Có lẽ giờ đây những người đó đã chấm dứt mọi tiếp xúc với người Nhật để chờ chế độ mới, nhưng họ cho rằng trẻ con thì chắc sẽ không bị người ta hạch tội. Bọn trẻ được cử tới như một cử chỉ thiện chí. Các công nhân biết rằng bác sĩ sẽ không thể một mình xoay xở cho lũ thú ăn.

            Viên bác sĩ cho mỗi đứa trẻ hai cái bánh quy, rồi cắt đặt công việc để chúng giúp anh cho lũ thú ăn. Họ dắt một chiếc xe la kéo từ chuồng này qua chuồng nọ, cho từng con thú ăn thức ăn dành riêng cho chúng và thay nước. Lau rửa chuồng thì họ không làm. Giỏi lắm họ chỉ có thể lấy vòi phun qua loa cho sạch phân. Nói gì thì nói, vườn thú đang đóng cửa nên dù có khăm khẳm một chút thì cũng chẳng ai than phiền.

            Hoá ra nhờ không còn hổ, báo, gấu và sói mà công việc lại nhẹ đi rất nhiều. Chăm sóc lũ thú ăn thịt cỡ lớn vừa rất vất vả lại vừa nguy hiểm. Dù viên bác sĩ cảm thấy bứt rứt đến đâu khi bước ngang qua dãy chuồng của chúng nay trống rỗng, anh vẫn không nén được cảm giác nhẹ nhõm do không còn phải làm cái công việc kia.

            Họ bắt đầu làm từ tám giờ và kết thúc lúc mười giờ hơn. Sau đó bọn trẻ biến mất mà không nói một lời. Bác sĩ cảm thấy kiệt sức vì làm việc vất vả. Anh quay lại văn phòng để báo cáo với giám đốc vườn thú rằng bọn thú đã được cho ăn.

            * * *

            Ngay trước buổi trưa, viên trung uý quay lại vườn thú cùng với chính tám người lính mà y đã mang tới hôm qua. Cũng lại võ trang đầy mình, họ đi đến đâu là súng ống va leng keng đến đấy, người chưa xuất hiện mà từ xa đã nghe thấy tiếng. Áo họ lại cũng đen nhẻm vì mồ hôi. Ve sầu cũng kêu râm ran trên cây giống hôm qua. Tuy nhiên, hôm nay toán lính tới đây không phải để giết thú. Viên trung uý giơ tay chào giám đốc vườn thú rồi nói: “Chúng tôi cần biết tình hình vườn thú hiện nay còn bao nhiêu xe kéo và vật kéo có thể sử dụng được”. Giám đốc cho y hay, vườn thú có đúng một con la và một cái xe. “Hai tuần trước chúng tôi đã đóng góp cho quân đội chiếc xe tải duy nhất cùng hai con ngựa”, ông ta lưu ý. Viên trung uý gật đầu và thông báo rằng y sẽ trưng dụng ngay con la cùng chiếc xe, theo lệnh của Bộ Tư lệnh đội quân Quan Đông.

            - Đợi một chút, - viên bác sĩ thú y cắt ngang. – Chúng tôi cần cái xe với con la để cho thú ăn hai lần một ngày. Đám công nhân người địa phương của chúng tôi đi cả rồi. Không có con la với cái xe thì bọn thú sẽ chết đói. Dù có đi nữa thì chúng tôi cũng đã khó lòng trụ được rồi.

            - Tất cả chúng ta đều khó lòng trụ được, thưa ông, - trung uý nói, cặp mắt đỏ ngầu, mặt lởm chởm râu ria. – Ưu tiên hàng đầu của chúng ta là bảo vệ thành phố. Ông có thể thả bọn thú ra khỏi chuồng bất cứ lúc nào nếu cần. Chúng tôi đã thanh toán xong đám thú ăn thịt nguy hiểm. Lũ còn lại thì chẳng gây hại cho ai. Đây là quân lệnh, thưa ông. Ông phải tự xoay xở lấy thôi.

            Viên trung uý cắt ngang cuộc trò chuyện và ra lệnh cho binh lính đi lấy con la và chiếc xe. Khi họ đã đi khỏi, bác sĩ thú y và giám đốc vườn thú nhìn nhau. Giám đốc nhấp trà, lắc đầu, không nói gì.

            Bốn tiếng đồng hồ sau, đám lính quay lại dẫn theo con la và chiếc xe goòng, trong xe có chất cái gì đó lù lù trồi lên, phủ kín bằng một tấm vải bạt dày. Con la thở hổn hển, sùi bọt mép vì cái nắng chang chang và phải kéo quá sức. Tám người lính dùng lưỡi lê điệu bốn người Trung Quốc đi đằng trước – đó là những người rất trẻ, hẳn chỉ độ hai mươi tuổi, mặc đồng phục bóng chày, tay trói quặt sau lưng. Những vết bầm tím trên mặt cho thấy rõ họ đã bị đánh tơi bời. Mắt phải của một người sưng húp đến nỗi hầu như nhắm tịt lại, người khác môi còn rỉ máu loang đỏ ối cả chiếc áo bóng chày màu sáng. Ngực áo họ không ghi chữ nào, nhưng có những hình chữ nhật nhỏ nơi mà bảng tên đã bị giật ra. Con số trên lưng họ là 1, 4, 7 và 9. Viên bác sĩ thú y không thể nào hình dung vì sao, tại đúng thời điểm nước sôi lửa bỏng này, bốn gã trai Trung Quốc kia lại mặc đồng phục bóng chày, hoặc vì sao họ bị đánh tơi bời và bị toán lính Nhật điệu tới đây. Quang cảnh có vẻ như không thuộc về thế giới này, mà là tranh vẽ của một bệnh nhân tâm thần.

            Viên trung uý hỏi mượn giám đốc vườn thú vài cái cuốc, xẻng. Trông y còn xanh xao phờ phạc hơn trước. Bác sĩ dẫn y cùng đám lính tới chỗ giá để dụng cụ ở phía sau văn phòng. Viên trung uý chọn hai cái cuốc và hai cái xẻng cho toán lính. Rồi y bảo bác sĩ đi cùng y. Sau đó, bỏ đám lính lại, y đi về phía một bụi cây phía bên kia đường. Viên bác sĩ thú y theo sau. Viên trung uý đi tới đâu, những con châu chấu to đùng túa ra tán loạn tới đó. Mùi cỏ mùa hè thoảng trong không khí. Lẫn trong tiếng ve sầu kêu đinh tai, tiếng rống the thé của lũ voi từng chặp vẳng tới như một lời cảnh báo xa xăm.

            Viên trung uý lẳng lặng đi giữa những hàng cây, cho đến khi tìm thấy một khoảng đất trống giữa khu rừng. Khu vực này đã được lát đá để xây một quảng trường dành riêng nuôi những con thú nhỏ cho trẻ con chơi. Tuy nhiên kế hoạch đó đã bị hoãn vô thời hạn do tình hình chiến sự ngày càng tồi tệ khiến vật liệu xây dựng trở nên khan hiếm. Cây cối đã bị dọn quang tạo thành một khoảnh đất tròn trơ trụi, mặt trời rọi sáng cái khoảnh đất này trong khu rừng như ánh đèn sân khấu. Viên trung uý đứng ngay giữa vòng tròn đó mà đưa mắt nhìn quanh. Rồi y sục sục gót giày xuống đất.

            - Chúng tôi sẽ đóng quân ở đây một thời gian. – y vừa nói vừa quỳ gối xuống lấy tay vốc một nắm đất.

            Bác sĩ thú y gật đầu để trả lời. Anh không hiểu nổi vì sao người ta lại phải đóng quân trong vườn thú, nhưng anh quyết định không hỏi. Ở Tân Kinh này, kinh nghiệm đã dạy anh chớ bao giờ đặt câu hỏi với đám quân nhân. Những câu hỏi chỉ tổ làm họ nổi giận, và trong bất cứ trường hợp nào họ cũng không bao giờ trả lời thẳng vào câu hỏi.

            “Đầu tiên chúng tôi đào một cái lỗ to ở đây”, viên trung uý nói như với chính mình. Y đứng dậy rút một gói thuốc lá từ trong ngực áo. Vừa cho một điếu lên mồm, y vừa mời viên bác sĩ thú y một điếu, sau đó y đánh diêm châm lửa cho cả hai. Hai người tập trung hút để lấp đầy sự im lặng. Viên trung uý lại lấy giày sục xuống mặt đất. Y vẽ một hình gì đó trên mặt đất rồi xoá đi. Cuối cùng, y hỏi viên bác sĩ thú y: “Anh sinh ở đâu?”.

            - Ở Kanawaga, - Bác sĩ nói. – Tại một thị trấn gọi là Ofuna, gần biển, cách Tokyo chừng một hai giờ xe.

            Viên trung uý gật đầu.

            - Còn anh sinh ở đâu? – Bác sĩ thú y hỏi.

            Thay vì trả lời, viên trung uý nheo mắt nhìn sợi khói bay lên từ giữa những ngón tay y. Không, đặt câu hỏi cho một quân nhân thì chẳng bao giờ được gì hết, bác sĩ thú y tự nhủ một lần nữa. Họ thích đặt câu hỏi nhưng họ sẽ không bao giờ trả lời anh. Có hỏi họ bây giờ là mấy giờ họ cũng không trả lời, thật sự là vậy.

            - Ở đó có một xưởng phim, - viên trung uý nói.

            Phải mất mấy giây bác sĩ thú y mới hiểu ra rằng tay trung uý đang nói về Ofuna. “Đúng vậy, một xưởng phim lớn. Nhưng tôi chưa vào đó bao giờ”.

            Viên trung uý thả điếu thuốc hút dở xuống mặt đất rồi dí chân lên.

            - Tôi hy vọng anh sẽ có thể quay về đó, - y nói. – Dĩ nhiên, từ đây về Nhật Bản còn phải băng qua một đại dương. Có lẽ tất cả chúng ta sẽ chết ở đây. – Y vừa nói vừa nhìn đăm đăm xuống đất. - Nói tôi nghe, bác sĩ, anh có sợ chết không?

            - Tôi cho rằng còn tuỳ anh chết theo cách nào, - viên bác sĩ thú y nói sau một thoáng suy nghĩ.

            Trung uý ngước mắt lên nhìn viên bác sĩ như thể bị khơi gợi trí tò mò. Rõ ràng là y chờ đợi một câu trả lời khác. – Anh nói đúng, - y nói. – Điều đó còn tuỳ anh chết theo cách nào.

            Hai người im lặng một lát. Nom bộ dạng viên trung uý, y có thể đứng nguyên vậy mà ngủ gục tới nơi. Rõ ràng y đã sức cùng lực kiệt. Một con châu chấu to lạ lùng đập cánh vù vù bay qua trên đầu họ như một con chim rồi biến mất trong một bụi cỏ đằng xa. Trung uý liếc đồng hồ.

            - Tới giờ rồi, - y nói mà không rõ là với ai. Rồi y bảo với viên bác sĩ thú y. – Tôi muốn anh ở lại đây một lát. Có thể tôi sẽ nhờ anh làm một việc.

            Viên bác sĩ thú y gật đầu.

            * * *

            Đám lính dẫn các tù nhân Trung Hoa ra khoảng trống trong rừng rồi tháo dây trói. Tay hạ sĩ dùng gậy bóng chày vẽ một vòng tròn trên mặt đất – viên bác sĩ thú y lại thấy thêm một điều huyền bí: tại sao người lính lại có cây gậy bóng chày – rồi dùng tiếng Nhật ra lệnh những người tù đào một cái hố sâu có kích thước bằng vòng tròn đó. Bốn người đàn ông mặc đồng phục bóng chày dùng cuốc xẻng lẳng lặng đào. Phân nửa đội lính Nhật canh chừng đám tù nhân, nửa kia nằm dài ra dưới bóng cây. Dường như họ đang buồn ngủ đến chết được, vừa đặt lưng xuống đất, họ liền ngáy ngay tức thì. Bốn người lính còn lại vẫn thức canh chừng việc đào hố, súng gác ngang hông, mũi lê cắm đầu họng súng, sẵn sàng sử dụng ngay lập tức. Viên trung uý và viên hạ sĩ thay phiên nhau, người giám sát công việc, kẻ tranh thủ chợp mắt dưới bóng cây.

            Chưa đầy một tiếng đồng hồ, bốn tù nhân Trung Hoa đã đào xong một cái hố đường kính khoảng bốn mét, sâu tới cổ. Một người hỏi xin nước bằng tiếng Nhật. Viên trung uý gật đầu, tên lính liền xách lại một xô nước đầy. Bốn người Trung Hoa lần lượt tợp nước trong xô, nốc ừng ực, vẻ khoan khoái ra mặt. Họ gần như uống cạn cả xô nước. Đồng phục họ mặc gần như đen nhẻm máu, bùn và mồ hôi.

            Viên trung uý ra lệnh cho hai người lính kéo chiếc xe goòng tới gần cái hố. Tay hạ sĩ giật tấm vải bạt ra để lộ bốn xác chết chất đống trong xe. Mấy cái xác cũng mặc đồng phục bóng chày như các tù nhân, và hiển nhiên cũng là người Trung Hoa. Hẳn là họ đã bị bắn chết, đồng phục của họ nhoè nhoẹt máu đen kịt. Những con ruồi to tướng bắt đầu bâu lấy đống xác. Xét qua những chỗ máu đông, bác sĩ đoán rằng họ đã chết được khoảng hai mươi bốn tiếng đồng hồ.

            Viên trung uý ra lệnh cho bốn tù nhân Trung Hoa ném mấy tử thi xuống cái hố họ vừa đào xong. Mặt trắng bệch, chẳng nói chẳng rằng, các tù nhân lôi mấy cái xác ra khỏi chiếc xe goòng rồi ném từng cái một xuống hố. Mỗi cái xác rơi chạm đất đánh bịch một tiếng trầm đục. Con số in trên đồng phục của mấy người chết là 2, 5, 6 và 8. Viên bác sĩ thú y ghi nhớ mấy con số.

            Khi mấy người Trung Hoa đã ném xác xuống hố xong, mấy tên lính trói mỗi người vào một gốc cây gần đó. Viên trung uý chìa cổ tay ra nhìn đồng hồ với vẻ nghiêm trang. Rồi y ngẩng lên nhìn hồi lâu một điểm trên bầu trời như thể tìm cái gì ở đó. Y giống như tay trưởng nhà ga đứng trên sân ga đợi một đoàn tàu đã quá trễ giờ. Nhưng thật ra y chẳng nhìn gì hết. Y chỉ muốn để cho một khoảng thời gian nào đó trôi qua. Thời gian chờ đợi đã qua, y quay về phía viên hạ sĩ và cộc lốc ra lệnh đâm chết ba trong bốn tù nhân – mang số 1, 7 và 9 - bằng lưỡi lê.

            Ba binh sĩ được chọn ra để đứng vào vị trí trước mặt ba người Trung Hoa. Mấy người lính thậm chí còn xanh xao hơn cả những kẻ mà họ sắp sửa giết. Mấy người Trung Hoa có vẻ mệt mỏi tới mức không còn trông mong bất cứ cái gì. Viên hạ sĩ mời mỗi người một điếu thuốc, nhưng họ từ chối. Y đút gói thuốc vào lại túi áo.

            Tay trung uý kéo viên bác sĩ thú y ra đứng cách những người lính khác một quãng. “Anh nên xem vụ này”, y nói. “Đây là một cách chết khác”.

            Bác sĩ gật đầu. Tay trung uý không nói câu này với mình, anh nghĩ. Y đang nói với chính y.

            Bằng giọng dịu dàng, viên trung uý giải thích: “Bắn có lẽ là cách đơn giản và hiệu quả nhất để giết chúng, nhưng chúng tôi được lệnh không phí phạm dù chỉ một viên đạn, nhất là không được phí đạn để giết người Trung Hoa. Chúng tôi phải để dành đạn cho bọn Nga. Bọn này chúng tôi chỉ giết bằng lưỡi lê, nghe thì dễ, nhưng không phải đâu. Mà này, bác sĩ, trong quân đội người ta có dạy anh cách dùng lưỡi lê không?

            Viên bác sĩ giải thích rằng anh là bác sĩ thú y nên không được huấn luyện dùng lưỡi lê.

            - Giết người bằng lưỡi lê cho đúng cách thì phải làm thế này: Trước tiên, phải thọc lưỡi lê vào dưới xương sườn, ở đây này. – Viên trung uý chỉ vào thân thể chính mình, ngay phía trên dạ dày. – Kế đó phải ngoáy lưỡi lê thành một vòng tròn rộng, sâu bên trong cơ thể tử tội, để xáo tung các cơ quan nội tạng. Sau đó thì thọc lên trên để đâm thủng tim. Đừng mong chỉ thọc lưỡi lê vào mà hắn chết được. Lính tráng chúng tôi được người ta dạy tới điều này không biết bao nhiêu lần. Đánh nhau tay đôi bằng lưỡi lê và tập kích ban đêm là niềm tự hào của quân đội Thiên Hoàng, mặc dù chủ yếu vì đánh nhau kiểu này rẻ hơn nhiều so với xe tăng, máy bay và đại bác. Dĩ nhiên, huấn luyện gì mà chẳng được, nhưng nói gì thì nói, anh cũng chỉ đâm một con búp bê nhồi rơm chứ đâu phải một thằng người thật. Nó không chảy máu, không biết thét lên, cũng không đổ ruột xuống đất. Mấy thằng lính đây đã bao giờ thật sự giết người bằng cách này đâu. Tôi cũng chưa hề.

            Viên trung uý nhìn tay hạ sĩ và gật đầu. Viên hạ sĩ quát to ra lệnh cho ba tên lính vừa lập tức lấy tư thế nghiêm. Thế rồi ba tên lính lùi lại nửa bước và chĩa lưỡi lê ra, hướng mũi lê về phía vào mỗi người tù. Một trong ba người Trung Hoa (số 7) gầm gừ mấy chữ bằng tiếng Trung Hoa nghe như một lời rủa và nhổ nước bọt với vẻ ngang tàng – đống nước bọt chẳng bao giờ chạm đất mà dây rớt vào vạt trước bộ đồng phục bóng chày của anh ta.

            Nghe lệnh kế tiếp, ba tên lính vận hết sức bình sinh thọc lưỡi lê vào mình mấy người Trung Hoa. Sau đó, như viên trung uý đã nói, họ ngoáy lưỡi lê để xé toạc lục phủ ngũ tạng các tù nhân, rồi thọc mũi lê về phía trên. Tiếng kêu của mấy người Trung Hoa không quá to; chúng giống như những tiếng nấc trầm trầm hơn là tiếng thét, như thể họ đang trút sạch ra ngoài toàn bộ hơi thở còn sót lại trong người qua một lỗ thoát duy nhất. Đám lính rút lưỡi lê ra, lùi lại. Viên hạ sĩ lại quát to ra lệnh, và đám lính lại lặp lại quy trình giống hệt như trước – thọc, ngoáy, chọc lên trên, rút ra. Viên bác sĩ thú y chết lặng nhìn cảnh đó, bị choáng ngợp bởi cảm giác mình đang bắt đầu bị tách làm hai. Anh đồng thời trở thành kẻ đâm và kẻ bị đâm. Anh có thể cảm thấy cả tác động của lưỡi lê khi nó thọc vào cơ thể nạn nhân lẫn cái đau khi tạng phủ của chính mình bị xé thành từng mảnh.

            Mấy người Trung Hoa lâu chết hơn anh tưởng nhiều. Thân thể họ bị xé toang, tuôn máu xối xả lên mặt đất, nhưng thậm chí dù nội tạng đã bị xé ra từng mảnh, họ vẫn khẽ giật giật thêm hồi lâu. Tay hạ sĩ dùng lưỡi lê của chính mình để cắt dây thừng trói những người đàn ông vào mấy gốc cây, sau đó y hạ lệnh cho mấy tên lính nãy giờ không tham gia vào việc hạ sát lôi những cái xác vừa sụm xuống đất kia mà vứt xuống hố. Những cái xác này khi chạm đáy hố cũng phát ra một tiếng đùng đục, nhưng bác sĩ không khỏi cảm thấy âm thanh này khác với âm thanh phát ra bởi mấy cái xác trước kia. Có lẽ vì những người này chưa chết hẳn.

            Giờ chỉ còn sót lại người tù Trung Hoa trẻ tuổi mang áo số 4. Ba người lính mặt tái nhợt xé lá dưới chân chùi lấy chùi để những lưỡi lê đẫm máu. Lưỡi lê không chỉ nhuộm máu mà còn vấy những chất lỏng cơ thể có mầu sắc kỳ lạ và dính những tảng thịt. Đám lính phải dùng rất nhiều lá mới trả được những lưỡi lê về màu kim loại trơn ban đầu.

            Viên bác sĩ thú y tự hỏi tại sao chỉ một mình người số 4 vẫn còn sống, nhưng anh không nói gì. Viên trung úy lấy ra thêm một điếu thuốc rồi châm lửa. Y mời bác sĩ một điếu, anh này lặng lẽ nhận, đút vào giữa hai môi rồi tự châm lửa lấy. Tay anh không run, dường như nó mất hết cảm giác, như thể anh đang mang găng tay dày.

            - Mấy tên này là học viên trường Dự bị Sĩ quan Quân đội Mãn Châu quốc, - viên trung úy nói. – Chúng từ chối tham gia phòng thủ Tân Kinh. Đêm qua chúng giết hai vị thầy người Nhật rồi tìm cách bỏ trốn. Chúng tôi tóm được chúng trong khi tuần đêm, giết bốn thằng ngay tại chỗ và bắt sống bốn đứa. Trời tối thành thử có hai đứa thoát được. – Viên trung úy dùng lòng bàn tay xát râu cằm. – Chúng toan trốn thoát bằng cách mặc đồng phục bóng chày. Tôi đoán chúng cho rằng nếu bị bắt trong khi đang mặc quân phục thì sẽ bị khép vào tội đào ngũ. Hoặc có thể bọn này sợ quân đội Cộng sản sẽ làm thịt chúng nếu gặp chúng mặc quân phục Mãn Châu quốc. Dù thế nào đi nữa, ngoài đồng phục học viên sĩ quan thì ở trại cả bọn chỉ có mỗi bộ đồng phục bóng chày. Thế là chúng xé mấy cái tên in trên đó ra rồi tìm cách mặc bộ đồng phục đó chạy trốn. Tôi không rõ anh có biết việc này không, trường sĩ quan có một đội bóng chày rất cừ. Tụi nó thường sang Đài Loan và Triều Tiên thi đấu giao hữu. Thằng đó, - viên trung úy chỉ về phía gã trai đang bị trói vào thân cây, là đội trưởng và là tay đánh chính(11). Chúng tôi cho rằng cũng đích thị hắn bày ra trò đào tẩu này. Hắn giết hai ông thầy Nhật bằng một cây gậy bóng chày. Các ông thầy biết ở trại đang có chuyện lôi thôi nên sẽ chẳng bao giờ phát vũ khí cho đám học viên ngoại trừ trong trường hợp tối khẩn. Nhưng họ quên mấy cây gậy bóng chày. Cả hai người đều bị đánh toác sọ. Có lẽ họ đã chết ngay tức khắc. Hai cú đánh không chê vào đâu được. Cây gậy đó đây.

            Viên trung úy ra lệnh cho hạ sĩ đem cây gậy tới. Y chuyển cây gậy cho anh bác sĩ thú y. Anh này cầm lấy bằng hai tay, chìa nó ra trước mặt, kiểu như một đấu thủ đang bước vào vị trí đánh bóng. Đó chỉ là một cây gậy bình thường, chế tác không khéo lắm, đầu tù tù, vân không đều. Tuy nhiên nó khá nặng, đã dùng nhiều. Tay cầm đen nhẻm vì mồ hôi. Trông nó không có vẻ gì là một chiếc gậy vừa được dùng để giết hai mạng người. Sau khi cảm nhận sức nặng của cây gậy, bác sĩ đưa trả cho viên trung úy. Tay này cầm lấy vụt vài cái nhẹ nhàng ra vẻ một tay chơi nhà nghề.

            - Anh có chơi bóng chày không? – trung úy hỏi viên bác sĩ.

            - Hồi còn nhỏ thôi.

            - Giờ thì lớn quá rồi hay sao?

            - Không còn bóng chày bóng chiếc gì nữa, - bác sĩ nói. Suýt nữa anh đã hỏi “Thế còn anh, trung úy?”, nhưng kịp nuốt mấy chữ ấy lại.

            - Tôi được lệnh đánh chết thằng này bằng chính cây gậy mà nó đã dùng, - viên trung úy vừa nói bằng giọng khô khan vừa lấy đầu gậy chọc chọc xuống đất. – Ăn miếng trả miếng. Nói riêng giữa tôi với anh thôi nhé, tôi thấy cái lệnh này thật là thối. Đi giết mấy thằng nhóc này thì lợi lộc chó gì? Chúng ta chẳng còn cái máy bay nào, tàu chiến cũng không, những đơn vị thiện chiến nhất đi tong hết rồi. Mới mấy hôm trước một thứ bom đặc biệt nào đó đã quét sạch cả thành phố Hiroshima trong có một giây. Hoặc chúng ta sẽ bị quét sạch khỏi Mãn Châu hoặc chúng ta sẽ bị giết cả lũ, rồi Trung Hoa lại thuộc về người Trung Hoa thôi. Chúng ta đã giết quá nhiều người Trung Hoa rồi, giết thêm vài mạng thì có khác gì. Nhưng lệnh là lệnh. Tôi là người lính thì phải tuân lệnh. Hôm qua chúng tôi đã giết lũ hổ và báo, hôm nay chúng tôi phải giết mấy gã trai này. Thành thử, hãy nhìn cho kỹ, bác sĩ ạ. Đây là một cách chết khác dành cho con người. Anh là bác sĩ, chắc anh đã quen với dao kéo, máu me, gan ruột, nhưng chắc hẳn anh chưa từng thấy ai bị đánh đến chết bằng gậy bóng chày.

            Viên trung úy ra lệnh cho tay hạ sĩ dẫn gã số 4, tay đánh chính, đến cạnh mép hố. Một lần nữa người ta trói quặt tay anh ta sau lưng, bịt mắt rồi buộc anh quỳ xuống đất. Anh ta là một gã trai cao lớn, vạm vỡ, hai cánh tay đồ sộ to cỡ bắp đùi người thường. Viên trung úy gọi một tay lính trẻ tới, đưa cho cậu ta cây gậy. “Giết nó bằng cái này”, y nói. Tay lính trẻ đứng nghiêm chào trước khi nhận cây gậy, nhưng sau khi đã cầm nó trên tay, hắn vẫn đứng đực ra như hóa đá. Dường như hắn không thể hình dung nổi cái khái niệm đánh chết một người Trung Hoa bằng một cây gậy bóng chày.

            - Cậu đã bao giờ chơi bóng chày chưa? – Viên trung úy hỏi tay lính (kẻ mà rốt cuộc sẽ bị một cai tù người Xô Viết dùng xẻng đánh toác sọ trong một khu mỏ gần Irkutsk).

            - Thưa ngài, chưa bao giờ, - tay lính đáp rõ to. Cả ngôi làng ở Hokkaido nơi hắn chào đời lẫn ngôi làng ở Mãn Châu nơi hắn lớn lên đều nghèo rớt mồng tơi đến nỗi cả bên này lẫn bên kia chẳng gia đình nào đủ tiền để đụng tới những thứ xa xỉ như bóng chày hay gậy bóng chày. Suốt thời niên thiếu y chạy tung tăng ngoài đồng, bắt chuồn chuồn và chơi trò đánh kiếm gậy với chúng bạn. Cả đời y chưa hề chơi bóng chày, thậm chí chưa hề xem một trận bóng chày. Đây là lần đầu tiên y cầm một cây gậy bóng chày.

            Viên trung úy liền chỉ cho hắn cách cầm gậy, dạy hắn những điểm cơ bản về cách dùng gậy đánh, rồi tự mình thị phạm mấy lần. – Hiểu chưa? Quan trọng là hai bên hông, - y làu bàu, răng nghiến chặt. – Lùi lại lấy thế, rồi xoay người từ thắt lưng trở xuống. Đầu gậy sẽ tự động di chuyển theo. Hiểu chưa? Nếu tập trung quá nhiều vào việc vung gậy thì toàn bộ lực của cậu sẽ dồn vào hai cánh tay, cú đánh sẽ mất uy vũ. Phải vặn người từ dưới hông.

            Tên lính xem ra không hiểu lắm những gì trung úy nói, nhưng hắn vẫn nhấc cái dụng cụ nặng trịch của hắn lên theo lệnh và vụt qua vụt lại một hồi để tập. Ai nấy đều quan sát hắn. Viên trung úy đặt tay lên tay hắn để giúp điều chỉnh tư thế cầm gậy. Y là một giáo viên cừ. Chẳng mấy chốc, cú đánh của tên lính, tuy còn đôi chút vụng về, đã vung lên mạnh mẽ trong không trung. Kỹ thuật thì tên lính còn thiếu, bù lại y có sức lực cơ bắp nhờ đã quen công việc đồng áng.

            - Được rồi, - viên trung úy vừa nói vừa lấy mu bàn tay lau mồ hôi rịn ra trên lông mày. – Giờ làm đi, cố vụt một cái duy nhất cho ra trò. Đừng để nó đau đớn.

            Thật ra điều y muốn nói là: “Tao cũng chẳng muốn làm việc này hơn gì mày. Ai đời lại nghĩ ra một trò ngu xuẩn như vậy cơ chứ? Giết người bằng gậy bóng chày…” Nhưng phàm là sĩ quan thì không bao giờ có thể nói như vậy với binh lính.

            Tên lính bước lại phía sau người Trung Hoa bị bịt mắt đang quỳ trên mặt đất. Khi tên lính nâng gậy lên, những tia nắng chói của mặt trời đang lặn hắt cái bóng dài, bè bè của cây gậy lên mặt đất. Thật là gở, viên bác sĩ thú y nghĩ. Tay trung úy nói đúng: ta chưa bao giờ thấy ai bị giết bằng gậy bóng chày. Tên lính giữ cây gậy trên không một hồi lâu. Bác sĩ thấy đầu gậy run run.

            Viên trung úy gật đầu với tay lính. Gã này hít một hơi dài, lùi lại lấy thế rồi lấy hết sức bình sinh quật cây gậy vào phía sau đầu tay học viên sĩ quan Trung Hoa. Hắn làm việc đó cừ khôi lạ lùng. Hắn xoay hông đúng hệt như viên trung úy đã dạy, nhãn hiệu của cây gậy giáng thẳng vào phía sau tai gã trai, gậy cứ thế theo sau, chính xác không chê vào đâu được. Có một âm thanh nứt gãy đùng đục, đó là hộp sọ bị vỡ. Bản thân gã trai không kêu một tiếng. Thân hình y treo trên không một hồi trong tư thế kỳ lạ rồi đổ vật về phía trước. Y nắm úp má xuống đất, máu tuôn từ một bên tai. Y không cục cựa. Viên trung úy nhìn đồng hồ. Tên lính trẻ vẫn nắm chặt cây gậy bóng chày, nhìn trân trối vào khoảng không, miệng há hốc.

            Viên trung úy là người làm việc gì cũng chi li cẩn trọng. Y đợi hẳn một phút. Khi đã tin chắc gã trai Trung Hoa kia hoàn toàn không động đậy, y bèn bảo viên bác sĩ thú y: “Anh làm ơn kiểm tra xem hắn đã chết hẳn chưa”.

            Viên bác sĩ gật đầu, đi lại phía gã trai Trung Hoa đang nằm, quỳ xuống gỡ dải băng bịt mắt y. Mắt người đàn ông mở to, con ngươi trợn ngược, máu đỏ tươi từ trong tai túa ra. Miệng y hé mở để lộ cái lưỡi cong vẹo bên trong. Cú đánh làm cho cổ của y vặn nghiêng thành một góc kỳ lạ. Lỗ mũi y thốc ra từng bụm máu đặc, làm thành những vết ố đen sịt trên mặt đất khô. Một con ruồi đặc biệt nhạy – và đặc biệt lớn – đã bay vù vù về phía một trong hai lỗ mũi để đẻ trứng. Bác sĩ cầm lấy cổ tay y để bắt mạch, chỉ để cho chắc. Mạch không còn, dĩ nhiên không còn mạch ở chỗ lẽ ra phải có. Tên lính trẻ đã kết liễu cuộc đời gã đàn ông sức tày Hạng Võ này bằng một cú gậy bóng chày duy nhất, cú đánh đầu tiên bằng gậy bóng chày trong đời hắn. Viên bác sĩ thú y nhìn viên trung úy gật đầu, ra hiệu rằng gã đàn ông quả thật đã chết, chẳng nghi ngờ gì nữa. Làm xong nhiệm vụ, anh bắt đầu chầm chậm đứng lên khi cảm thấy mặt trời chiếu sau lưng bỗng trở nên càng chói gắt.

            Đúng lúc đó, gã cầu thủ bóng chày người Trung Hoa trẻ tuổi mang số 4 ngồi dậy như vừa mới tỉnh giấc. Không một chút hồ nghi hoặc phân vân – hay có lẽ những người có mặt chỉ cảm thấy như vậy? – y túm lấy cổ tay viên bác sĩ. Mọi chuyện xảy ra trong có một giây. Viên bác sĩ không hiểu nổi; gã này đã chết, anh tin chắc điều đó. Thế mà lúc này, nhờ một giọt sức sống cuối cùng dường như vọt lên chẳng biết từ đâu, gã đàn ông đang siết cổ tay viên bác sĩ, mạnh như cái kìm thép. Mí mắt căng hết cỡ, con ngươi vẫn lộn ngược lên trên, gã trai trẻ ngã chúi xuống hố kéo theo bác sĩ. Viên bác sĩ ngã xuống bên trên y và nghe rõ tiếng xương sườn của y gãy răng rắc khi khối nặng thân thể y chạm đất. Thế mà gã cầu thủ bóng chày người Trung Hoa vẫn tiếp tục siết cổ tay anh. Những người lính thấy toàn bộ cảnh đó, nhưng họ sửng sốt đến nỗi không làm được gì khác ngoài đứng nhìn. Viên trung úy trấn tĩnh trước tiên, bèn nhảy xuống hố. Y rút súng lục ra khỏi vỏ, chĩa họng súng vào đầu gã Trung Hoa, bóp cò ba lần. Hai tiếng rắc sắc lạnh, lẫn vào nhau vang lên, một cái lỗ lớn màu đen mở hoác ra nơi thái dương gã đàn ông. Giờ thì sự sống của y đã tắt hẳn, thế nhưng y vẫn chưa chịu buông cổ tay viên bác sĩ. Trung úy quỳ xuống, một tay cầm súng, tay kia khó nhọc gỡ dần từng ngón tay của cái xác chết. Bác sĩ nằm trong hố, xung quanh là tám xác chết Trung Hoa câm lặng mặc đồng phục bóng chày. Dưới đáy hố, tiếng kêu ran ran của ve sầu nghe rất khác với ở trên mặt đất.

            Sau khi viên bác sĩ thú y đã thoát khỏi bàn tay siết của người chết, bọn lính kéo anh và viên trung úy lên khỏi cái huyệt. Bác sĩ ngồi bệt xuống cỏ, thở mấy hơi thật sâu. Rồi anh nhìn cổ tay mình. Những ngón tay của gã trai để lại năm cái dấu đỏ lựng. Đang giữa buổi chiều tháng Tám nồng nực mà bác sĩ cảm thấy lạnh thấu ruột thấu gan. Ta sẽ không bao giỡ rũ được cái lạnh này nữa, anh nghĩ. Gã đàn ông đó quả thật đã ra sức lôi ta theo tới bất cứ chốn nào y tới.

            Viên trung úy cài lại khóa an toàn rồi cẩn thận đút súng lục vào bao. Đây là lần đầu tiên y nã súng lục vào một con người. Nhưng y cố không nghĩ về điều đó. Chiến tranh sẽ còn tiếp diễn ít nhất là một thời gian nữa, người ta sẽ tiếp tục chết nữa. Chuyện nghiền ngẫm sâu xa này nọ, y có thể để dành về sau. Y chùi lòng bàn tay mướt mồ hôi vào quần rồi ra lệnh cho những tên lính ban nãy không tham gia hành hình lấp hố lại. Một bầy ruồi kếch xù đã đến để săn sóc đống xác chết.

            Tay lính trẻ vẫn đứng trơ ra đó, như hóa đá, tay nắm chặt cây gậy bóng chày. Dường như hắn không thể nào buông tay ra. Viên trung úy và hạ sĩ để hắn đứng một mình. Có vẻ như hắn đã quan sát toàn bộ chuỗi sự kiện quái đản kia – gã Trung Hoa “đã chết” bất ngờ chộp lấy cổ tay viên bác sĩ thú y, cả hai ngã xuống cái huyệt, viên trung úy nhảy vào kết liễu đời gã Trung Hoa, còn bây giờ đám lính đang lấp hố lại. Nhưng kỳ thực hắn chẳng quan sát bất cứ cái gì. Hắn lắng nghe một con chim trên cây ở đâu đó đang kêu “Quick! Quick” như thể đang vặn một sợi dây cót. Tên lính ngước lên, cố định vị xem tiếng kêu phát ra từ hướng nào, nhưng không thấy tăm hơi gì của con chim vặn dây cót. Hắn thấy hơi buồn nôn trong cổ họng.

            Trong khi nghe tiếng vặn dây cót, tên lính trẻ nhìn thấy những hình ảnh theo nhau rời rạc hiện lên rồi mờ đi trước mắt hắn. Sau khi quân Nhật bị quân đội Xô Viết tước vũ khí, tay trung úy sẽ bị bàn giao cho người Trung Hoa, y sẽ bị treo cổ vì trách nhiệm của y trong những cuộc hành hình này. Viên hạ sĩ sẽ chết vì bệnh dịch hạch tại một trại tập trung ở Siberia: hắn sẽ bị ném vào một lều cách ly rồi bỏ mặc đó đến chết, mặc dù trên thực tế hắn chỉ gục ngã vì thiếu ăn và không hề mắc bệnh dịch hạch, ít nhất là không mắc bệnh trước khi bị ném vào lều cách ly. Viên bác sĩ thú y sẽ chết vì tai nạn một năm sau: là thường dân, anh ta sẽ bị người Liên Xô đưa đi phục vụ cho quân đội, sẽ làm việc nặng nhọc ở một trại tập trung Siberia khác, anh đang làm việc ở tầng sâu trong một mỏ than Siberia thì một trận lũ sẽ cuốn phăng anh cùng với nhiều người lính. Còn mình… tên lính trẻ nghĩ, tay nắm chặt chiếc gậy bóng chày – nhưng hắn không thể nhìn thấy tương lai của chính mình. Thậm chí hắn không thể nhìn thấy những sự kiện đang xảy ra ngay trước mắt. Hắn nhắm mắt lại lắng nghe tiếng kêu của con chim vặn dây cót.

            Thế rồi, bất chợt, hắn nghĩ tới đại dương – cái đại dương mà hắn nhìn thấy từ trên boong con tàu đã đưa hắn từ Nhật sang Mãn Châu tám năm về trước. Cho tới khi đó hắn chưa hề nhìn thấy đại dương, từ đó đến giờ cũng không một lần thấy lại. Hắn vẫn còn nhớ rõ mùi không khí mằn mặn. Đại dương là một trong những điều kỳ diệu nhất hắn từng thấy trong đời – lớn lao và sâu thẳm hơn bất cứ cái gì hắn từng hình dung. Nó thay đổi mầu sắc, hình dạng và sắc thái tùy theo thời điểm, nơi chốn và thời tiết. Nó làm dậy lên một nỗi buồn sâu sắc trong lòng hắn, đồng thời lại mang đến cho lòng hắn sự bình an khuây khỏa. Liệu có bao giờ hắn lại thấy biển nữa không? Hắn nới lỏng tay buông chiếc gậy bóng chày xuống đất. Cây gậy chạm đất vang lên một tiếng khô khốc. Sau khi cây gậy rời khỏi tay, hắn thấy buồn nôn hơn một chút.

            Con chim vặn dây cót vẫn tiếp tục kêu, nhưng không ai khác nghe thấy tiếng kêu của nó.

            * * *

            Đây là hết “Biên niên ký sự Chim vặn dây cót số 8”.

            ------------------------------------------

            11. Nguyên văn: cleanup batter. Trong môn bóng chày đây là cầu thủ đánh bóng thứ tư, thường dành cho người rất khỏe mạnh, vì đòi hỏi phải vừa đánh bóng mạnh vừa chạy nhanh - ND.

            27

            Những mắt xích còn thiếu của Quế

            *

            Đến đây là hết

            “Biên niên ký sự của Chim vặn dây cót số 8”

            *

            Tôi thoát khỏi tài liệu rồi quay về trình đơn ban đầu và nhấp vào “Biên niên ký sự của Chim vặn dây cót số 9”. Tôi muốn đọc phần tiếp theo câu chuyện. Nhưng thay vì một tài liệu mới, tôi lại thấy thông điệp:

            Không được phép truy cập “Biên niên ký sự của Chim vặn dây cót số 9” dựa trên Mã R24.

            Hãy chọn một tài liệu khác.

            Tôi chọn số 10, nhưng kết quả cũng như vậy.

            Không được phép truy cập “Biên niên ký sự của Chim vặn dây cót số 10” dựa trên Mã R24.

            Hãy chọn một tài liệu khác.

            Kết quả cũng không khác khi tôi chọn số 11 và tất cả các tài liệu còn lại, kể cả số 8. Tôi chẳng biết Mã R24 là gì, nhưng giờ thì nó đã phong tỏa không cho tôi truy cập gì nữa. Chắc là khi mở “Biên niên ký sự của Chim vặn dây cót số 8” thì tôi đã có thể truy cập bất cứ tài liệu nào, nhưng một khi tôi đã mở Số 8 và đóng lại thì bây giờ lối vào tất cả các tài liệu đó đã bị khóa. Có lẽ chương trình này chỉ cho phép truy cập mỗi lần một tài liệu mà thôi.

            Tôi ngồi trước máy vi tính, tự hỏi phải làm tiếp cái gì. Nhưng tôi không thể làm tiếp cái gì cả. Đây là một thế giới được tổ chức một cách chuẩn xác, hình thành trong trí óc Quế và vận hành dựa trên các nguyên tắc của anh ta. Tôi không biết luật chơi. Tôi đành thôi không cố nữa và tắt máy.

            * * *

            Không nghi ngờ gì nữa, “Biên niên ký sự của Chim vặn dây cót số 8” là một truyện do Quế viết. Anh ta đã nhập mười sáu truyện vào máy tính dưới nhan đề “Biên niên ký sự của Chim vặn dây cót”, và tôi đọc Số 8 chỉ là do ngẫu nhiên. Xét theo độ dài của một truyện thì cả mười sáu truyện nếu in ra sẽ thành một cuốn sách khá dày.

            “Số 8” có thể có ý nghĩa gì? Xét theo từ “biên niên ký” trong nhan đề thì các truyện này được sắp xếp theo thứ tự thời gian. Số 8 tiếp theo Số 7, Số 9 tiếp theo Số 8, vân vân. Đó là một giả định hợp lý, tuy không nhất thiết đúng. Các truyện này cũng có thể được sắp xếp theo một thứ tự khác. Tỉ như theo chiều ngược lại, từ hiện tại về quá khứ. Hoặc táo bạo hơn nữa, đó có thể là mười sáu dị bản khác nhau của cùng một truyện được kể song song. Dù thế nào đi nữa, câu chuyện tôi đọc là phần tiếp theo câu chuyện mà Nhục đậu khấu, mẹ của Quế đã kể về những người lính giết thú trong vườn thú Tân Kinh vào tháng Tám năm 1945. Chuyện xảy ra trong bối cảnh cùng một sở thú đó, vào ngày hôm sau, và nhân vật chính vẫn là viên bác sĩ thú y vô danh, cha của Nhục đậu khấu, ông ngoại của Quế.

            Khó mà biết được bao nhiêu phần của câu chuyện là thật. Phải chăng Quế hư cấu ra từ đầu đến cuối, hay nhiều phần là dựa trên những sự kiện có thật? Nhục đậu khấu có bảo tôi rằng sau khi chia tay cha lần cuối, bà hoàn toàn không biết tin tức gì về ông nữa. Vậy có nghĩa, không thể toàn bộ câu chuyện này đều là thật. Tuy nhiên, cũng có thể một số chi tiết là dựa trên sự thực lịch sử. Trong thời kỳ hỗn loạn ấy, có thể một số học viên trường sĩ quan Mãn Châu quốc đã bị hành hình và chôn vào một cái hố trong vườn thú Tân Kinh. Rằng viên sĩ quan Nhật chịu trách nhiệm trong vụ hành hình đó đã bị xử tử sau chiến tranh. Các vụ đào ngũ và nổi loạn trong quân đội Mãn Châu quốc không phải là chuyện hiếm vào lúc đó, và chuyện các học viên người Trung Hoa bị giết khi đang mặc đồng phục bóng chày tuy nghe hơi lạ nhưng cũng có thể xảy ra lắm. Biết các sự kiện có thật đó, Quế có thể đã kết hợp chúng với hình dung của anh về ông ngoại để làm nên câu chuyện của mình.

            Nhưng sao Quế lại viết những câu chuyện đó? Sao cứ phải là truyện mà không phải thể loại khác? Và sao lại phải dùng từ “biên niên ký” trong nhan đề? Tôi ngồi trên sofa trong phòng chỉnh lý, vừa xoay xoay một cây bút chì màu vẽ kiểu trong tay vừa miên man nghĩ về điều đó.

            Muốn tìm lời đáp cho những câu hỏi ấy hẳn tôi phải đọc tất cả mười sáu truyện, nhưng dù chỉ mới đọc truyện Số 8, tôi cũng đã có một ý niệm tuy mờ nhạt về việc Quế đang theo đuổi cái gì khi viết. Anh đang cố tìm kiếm ý nghĩa sự tồn tại của mình. Và anh hy vọng có thể thấy được bằng cách tìm vào những sự kiện đã xảy ra trước khi anh chào đời.

            Để làm vậy, Quế phải điền vào những chỗ trống trong quá khứ mà anh không thể với tay tới được. Bằng cách dùng đôi tay đó của mình để viết nên một câu chuyện, anh cố mang lại những mắt xích còn thiếu kia. Từ những câu chuyện được nghe mẹ kể hàng bao nhiêu lần, anh rút ra những câu chuyện khác, hòng tái tạo hình ảnh bí ẩn của ông ngoại mình trong một bối cảnh mới. Anh thừa hưởng từ những câu chuyện của mẹ cái phong cách cơ bản mà anh dùng một cách nguyên vẹn, không thay đổi trong truyện của mình; cụ thể là cái phong cách thực tế có thể không phải là sự thật, và sự thật không nhất thiết là cái xảy ra trong thực tế. Đối với Quế, việc trong truyện của anh phần nào là chuyện thực, phần nào không chẳng lấy gì làm quan trọng lắm. Điều quan trọng không phải là ông ngoại anh đã làm gì mà là ông ngoại anh có thể đã làm gì. Ngay khi kể xong câu chuyện thì anh cũng biết được lời giải đáp cho câu hỏi đó.

            Các truyện của anh dùng “Chim vặn dây cót” như một cụm từ khóa và hầu như chắc chắn là anh đưa câu chuyện về tận ngày hôm nay dưới dạng biên niên ký (mà cũng có thể không phải dưới dạng biên niên ký). Nhưng Chim vặn dây cót không phải là một cụm từ do Quế nghĩ ra. Trước đó, trong một bữa ăn cùng tôi tại nhà hàng ở Aoyama, mẹ của anh là Nhục đậu khấu đã nhắc tới cụm từ này trong khi kể một câu chuyện. Hầu như chắc chắn khi đó Nhục đậu khấu không biết tôi đã được đặt cho cái biệt danh “Ông Chim vặn dây cót”. Nghĩa là bằng sự kết hợp nhiều điều ngẫu nhiên, tôi lại có liên quan đến câu chuyện của họ.

            Tuy vậy, tôi cũng không thể tin chắc vào điều đó. Cũng có thể khi đó Nhục đậu khấu đã biết cái biệt danh này của tôi. Hẳn mấy chữ đó đã tác động đến câu chuyện của bà (đúng hơn là của hai mẹ con), có thể đã ăn sâu vào câu chuyện ở tầng vô thức. Câu chuyện chung này của hai mẹ con có thể không tồn tại dưới một dạng cố định duy nhất mà vẫn tiếp tục thay hình đổi dạng và lớn lên như thường thấy ở các câu chuyện truyền khẩu.

            Dù có phải do tình cờ hay không, “Chim vặn dây cót” có một sức mạnh lớn lao trong truyện của Quế. Tiếng kêu của nó chỉ một vài người nghe được, mà hễ đã nghe là cầm chắc cái chết không tránh khỏi. Ý chí con người chẳng là cái quái gì vào lúc đó, theo cảm nhận của viên bác sĩ thú y. Con người ta chẳng gì hơn là những con búp bê trên mặt bàn, lò xo quấn chặt sau lưng, búp bê chỉ có thể chuyển động theo những cách không phải do nó chọn, đi về những hướng không phải do nó chọn. Hầu như tất cả những ai nằm trong tầm tiếng kêu của con Chim vặn dây cót đều gặp tai ương, đều bị hủy diệt. Hầu hết là chết, do rơi khỏi mép bàn.

            * * *

            Rất có thể Quế đã giám sát cuộc trò chuyện giữa tôi và Kumiko. Hẳn là anh ta biết tất cả những gì diễn ra trong chiếc máy vi tính này. Anh ta đã đợi đến khi tôi xong đâu đấy mới bày cho tôi xem “Biên niên ký sự của Chim vặn dây cót số 8”. Điều này xảy ra không phải do tình cờ hay một thoáng bốc đồng. Quế đã lập trình máy với một mục đích rất rõ ràng và cho tôi xem chỉ một truyện. Tuy nhiên, anh ta lại cũng gợi ý cho tôi rằng có thể còn cả một loạt truyện như thế nữa.

            Tôi nằm xuống sofa, nhìn lên trần “phòng chỉnh lý” đang tranh tối tranh sáng. Đêm sâu thẳm, nặng trĩu, xung quanh lặng ngắt đến đau đớn. Trần nhà trắng lốp như một mũ băng dày chụp lên căn phòng.

            Ông ngoại của Quế, viên bác sĩ thú y vô danh và tôi có nhiều cái chung đến kỳ lạ: một vết bầm trên mặt, cây gậy bóng chày, tiếng kêu của con chim vặn dây cót. Lại còn viên trung úy xuất hiện trong câu chuyện của Quế: y làm tôi nhớ tới Trung úy Mamiya. Trung úy Mamiya cũng được giao nhiệm vụ ở Bộ tham mưu đội quân Quan Đông tại Tân Kinh vào thời kỳ đó. Tuy nhiên, trong thực tế không phải là sĩ quan phát lương mà chỉ phục vụ trong tiểu ban vẽ bản đồ, và sau chiến tranh ông không bị treo cổ (số mệnh từ chối không cho ông chết) mà chỉ mất bàn tay trái trong chiến trận và quay về Nhật Bản. Dẫu vậy tôi vẫn không rũ được cái cảm giác rằng trên thực tế chính Trung úy Mamiya này đã chỉ huy cuộc hành hình các học viên sĩ quan Trung Hoa. Chí ít, nếu như đó quả thật là Trung úy Mamiya thì cũng hoàn toàn chẳng có gì lạ.

            Rồi lại còn chuyện những cây gậy bóng chày. Quế biết tôi đang cất một cây gậy như vậy ở dưới đáy giếng. Nghĩa là hình ảnh cây gậy ắt đã ăn sâu bén rễ vào câu chuyện, cũng như mấy từ “Chim vặn dây cót”. Tuy nhiên, cứ cho là vậy đi nữa thì trong chuyện gậy bóng chày vẫn có đôi điều không dễ giải thích: gã trai mang thùng đàn ghi-ta đã dùng gậy bóng chày tấn công tôi ở tiền sảnh căn nhà cho thuê bỏ hoang. Đó chính là người đã diễn trò dùng lửa nến đốt lòng bàn tay mình trong một quán bar ở Sapporo và sau đó dùng gậy đánh tôi chỉ để rồi chính tôi dùng gậy đánh anh ta. Anh ta chính là người đã nộp cây gậy cho tôi.

            Còn nữa. Vì sao tôi lại có vết bầm cùng kích thước, cùng màu với vết bầm của ông ngoại Quế? Có phải đó cũng lại là do sự hiện diện của tôi đã hằn sâu vào câu chuyện của anh ta? Liệu trên thực tế viên bác sĩ thú y có vết bầm trên mặt không? Chắc chắn là Nhục đậu khấu chẳng việc gì phải thêu dệt chi tiết đó khi mô tả với tôi về cha mình. Chính vì vết bầm này, giống hệt như của cha bà, mà bà mới “tìm thấy” tôi ở khu Shinjuku. Mọi cái đều xoắn xuýt vào nhau, phức tạp như một câu đố ba chiều, một câu đố mà trong đó sự thật không nhất thiết là sự kiện có thực và sự kiện có thực không nhất thiết là sự thật.

            * * *

            Tôi đứng dậy khỏi sofa, sang phòng làm việc của Quế lần nữa. Tôi ngồi ở bàn, tì cùi chỏ lên mặt bàn, nhìn chòng chọc vào màn hình máy tính. Ắt hẳn Quế đang ở trong kia. Trong đó những lời câm lặng của anh sống động và hít thở như những câu chuyện. Chúng biết suy nghĩ, biết tìm kiếm, chúng có thể trưởng thành, có thể tỏa ra hơi nóng. Nhưng màn hình trước mắt tôi vẫn sâu hun hút, chết cứng như mặt trăng, giấu kín những lời của Quế trong rừng rậm mê cung. Chiếc màn hình lẫn bản thân Quế đằng sau nó, không bên nào kể gì với tôi hơn nữa.

            28

            Không thể tin tưởng một căn nhà được

            (Quan điểm của Kasahara May: 5)

            *

             Chào Chim vặn dây cót! Anh có khỏe không?

            Cuối thư trước em có viết, những gì muốn nói với anh thì hầu như em đã nói hết rồi, em đã nói nhiều quá rồi thành thử thôi đi là vừa. Anh nhớ không? Tuy vậy sau đó nghĩ lại một chút thì em lại có cảm giác mình phải viết thêm chút nữa. Thế là nửa đêm em mò dậy như con gián, ngồi bên bàn và lại viết cho anh đây.

            Chẳng biết tại sao mấy hôm nay em cứ nghĩ mãi về gia đình Miyawaki, cái gia đình tội nghiệp xưa vẫn sống ở căn nhà không người ở ấy, thế rồi các con nợ đòi riết quá, họ mới bỏ đi và tự sát, cả nhà. Em nhớ có đọc ở đâu đó rằng chỉ mình cô con gái cả là sống sót, nhưng nay không ai biết cô ta ở đâu… Dù em đang làm việc, đang ở trong nhà ăn, đang ngồi trong phòng mình nghe nhạc và đọc sách, hình ảnh gia đình đó vẫn không rời khỏi tâm trí em. Nói là em bị ám ảnh thì không phải, nhưng cứ hễ ở đâu có chỗ trống (mà đầu em thì lắm chỗ trống lắm!) thì y như rằng nó bò vào rồi ở riệt đó, kiểu như khói len vào qua cửa sổ. Đã một tuần, có khi hai tuần rồi cứ như vậy hoài.

            Từ khi sinh ra em đã sống nơi căn nhà trên cái ngõ ấy. Từ nhỏ đến lớn em luôn nhìn sang nhà đối diện. Cửa sổ phòng em nhìn thẳng qua bên ấy. Khi em đến tuổi đi học, bố mẹ em cho em một phòng riêng thì cũng là lúc nhà Miyawaki vừa xây xong nhà mới và đang ở đó. Lúc nào em cũng thấy người này hoặc người kia trong gia đình họ ở trong nhà hay ngoài sân, hàng đống quần áo phơi sau nhà những hôm trời nắng, hai cô con gái quát gọi tên con chó chăn cừu gốc Đức to đùng, đen thủi đen thui (tên là gì ấy nhỉ?). Còn mỗi khi mặt trời lặn, đèn trong nhà bật lên, trông thật ấm cúng thân tình, rồi sau đó tất cả đèn tắt cùng một lúc. Cô con gái lớn học dương cầm, cô nhỏ thì vĩ cầm (cô chị lớn hơn em, cô em thì nhỏ hơn em). Vào những dịp sinh nhật hay Giáng sinh, họ mở tiệc, bạn bè nườm nượp đến, thật là vui. Ai mà chỉ nhìn thấy căn nhà đó khi đã bị bỏ hoang thì không hình dung được ngày xưa nó thế nào đâu.

            Em thường thấy ông Miyawaki tỉa cây ngoài vườn vào những ngày cuối tuần. Hình như ông ấy thích tự làm lấy đủ thứ việc vặt, những việc tốn nhiều thời gian, như dọn ống máng, dắt chó đi dạo hay bôi sáp lên ô-tô. Em chả bao giờ hiểu được tại sao có người thích làm những việc như vậy, mệt lắm, nhưng mỗi người một khác, và gia đình nào cũng nên có ít nhất một người như vậy. Cả gia đình hay đi trượt tuyết, thành thử mỗi mùa đông đến họ lại buộc mấy đôi giày trượt tuyết lên mái chiếc ô-tô to rồi lái đi đâu đó, xem chừng thích thú lắm (em thì ghét trượt tuyết, nhưng chẳng sao).

            Thành thử nhà ấy nghe như một gia đình tiêu biểu, bình thường, hạnh phúc. Mà không phải chỉ nghe như, sự thực là vậy: họ đúng là một gia đình tiêu biểu, bình thường, hạnh phúc. Ở họ hoàn toàn chẳng có gì khiến người ta phải nhướn mày lên mà hỏi: Ừ thì bình thường hạnh phúc, rồi thì sao?

            Hàng xóm người ta hay xì xầm: “Cái nhà gở ấy, có cho tôi cũng không ở”, thế nhưng gia đình Miyawaki sống ở đó thật bình an, cứ như một bức tranh đóng khung không có lấy một hạt bụi. Chả khác gì các gia đình trong truyện cổ tích, “và họ sống bên nhau đời đời hạnh phúc”. Ít nhất là so với gia đình em, họ dường như hạnh phúc hơn gấp mười lần. Hai cô con gái nhà ấy cũng thật là dễ mến mỗi khi gặp em. Em cứ ước gì mình có chị em gái như họ. Cả nhà họ - cả con chó nữa – dường như lúc nào cũng cười.

            Không bao giờ em có thể hình dung rồi sẽ có ngày chỉ trong nháy mắt là toàn bộ cái thế giới ấy tiêu tan. Nhưng chuyện đó đã xảy ra. Một hôm em nhận ra rằng cả gia đình – kể cả con chó chăn cừu giống Đức – đã biến mất như bị một cơn gió thổi phăng đi, chỉ còn trơ lại căn nhà. Suốt mấy hôm – có khi cả tuần không chừng – hàng xóm chẳng ai nhận ra rằng gia đình Miyawaki đã biến mất. Em thấy lạ rằng ban đêm đèn không bật sáng, nhưng em chỉ nghĩ là họ đang đi chơi xa. Rồi mẹ em nghe người ta nói nhà Miyawaki hình như đã “đào tẩu”. Em nhớ mình đã hỏi mẹ từ đó nghĩa là gì. Ngày nay ta chỉ nói là “bỏ trốn”, chắc vậy.

            Gọi thế nào cũng được, nhưng khi những người vẫn sống ở đó đã biến đi đâu mất thì bộ dạng căn nhà cũng thay đổi hẳn, nó gần như ghê ghê, gở gở. Trước đó em chưa hề thấy căn nhà bỏ hoang nào nên không biết một căn nhà bỏ hoang thực sự thì trông ra sao, nhưng em chắc là nó phải có vẻ u sầu, tồi tội thế nào đó, như con chó bị bỏ rơi hay cái vỏ con ve sầu trút ra bỏ lại ấy. Nhưng cái nhà của gia đình Miyawaki thì hoàn toàn khác. Nó chẳng hề có vẻ “tồi tội” chút nào hết. Ngay khi gia đình Miyawaki đi khỏi, nó liền khoác ngay cái bản mặt tỉnh bơ kiểu “Tôi chưa hề biết Miyawaki là ai”. Ít nhất là em có cảm tưởng vậy. Nó cứ như một con chó ngu xuẩn, vô ơn. Ngay khi nhà kia đi khỏi, nó lập tức biến thành một thứ nhà hoang tự thân tự tại, chẳng có liên quan gì đến hạnh phúc của gia đình Miyawaki cả. Thật sự nó làm em phát điên! Em thì cứ nghĩ căn nhà lẽ ra cũng phải hạnh phúc như cả gia đình Miyawaki hồi họ còn sống ở đó. Căn nhà hẳn phải vui khi được gia đình ấy lau chùi, chăm bẵm thế kia, và nói cho cùng, nếu như ông Miyawaki không tử tế xây nó lên thì nó đã không hề tồn tại. Anh có đồng ý không? Không thể nào đi tin cậy một căn nhà.

            Chim vặn dây cót à, anh cũng biết chẳng kém gì em rằng từ đó trở đi căn nhà bị bỏ hoang, chẳng ai ở, đâu cũng toàn cứt chim với những gì gì nữa. Đã bao nhiêu năm, ngồi ở bàn để học bài – hay giả bộ học bài – nhìn ra cửa sổ, em chẳng có gì để xem ngoài cái nhà ấy. Trời quang hay trời mưa, tuyết rơi hay vào mùa giông bão, nó vẫn ở nguyên đó, ngoài cửa sổ nhà em, mỗi khi nhìn ra ngoài thì kiểu gì cũng phải thấy nó. Mà cũng lạ, năm này qua năm khác, em dần dần thôi không cố lờ nó đi nữa. Em có thể ngồi hàng giờ, cùi chỏ chống lên bàn, chẳng làm gì khác, chỉ nhìn đăm đăm căn nhà hoang. Thật sự là em rất hay làm vậy. Lạ thật, chỉ mới đây thôi nơi này còn tràn ngập tiếng cười, quần áo mới giặt trắng tinh bay phấp phới trong gió như một đoạn phim quảng cáo bột giặt (em không nói là bà Miyawaki hơi “bất thường” hay gì gì, nhưng quả thật bà ấy cực kỳ thích giặt giũ, hơn hầu hết người bình thường). Thế mà tất cả biến mất chỉ trong nháy mắt, sân vườn lút trong cỏ dại, không ai còn nhớ tới những ngày hạnh phúc của gia đình Miyawaki nữa. Với em điều đó thật lạ, lạ quá chừng!

            Có điều này em muốn nói ngay: em không phải là thân với gia đình Miyawaki lắm. Thật ra, có mấy khi em nói chuyện với họ đâu, trừ lúc gặp nhau ngoài phố thì “Chào” một tiếng rồi đường ai nấy đi. Nhưng bởi ngày nào em cũng dành bao nhiêu thời gian công sức quan sát họ từ cửa sổ nhà em nên em có cảm tưởng cuộc sống hạnh phúc của họ cũng là một phần của bản thân em. Cũng như trên bức ảnh gia đình vậy, ở một góc bao giờ mình cũng thoáng thấy một người chẳng có liên quan gì với những người trong ảnh cả. Vì vậy đôi khi em có cảm giác một phần của mình cũng đang “đào tẩu” cùng gia đình Miyawaki và đã biến mất. Cũng lạ phải không anh, khi cứ cảm thấy một phần của mình đã biến mất vì “đào tẩu” cùng những người mình hầu như không quen biết!

            Đã kể với anh một chuyện lạ rồi thì em cũng có thể kể thêm một chuyện lạ nữa. Cái này mới thực là lạ đây.

            Gần đây, đôi khi em có cảm giác mình đã biến thành Kumiko. Em thật sự là bà Chim vặn dây cót, em đã bỏ anh mà đi vì lý do nào đó và hiện nay đang náu mình trên vùng núi, làm việc trong một xưởng chế tóc giả. Vì đủ loại lí do phức tạp, em buộc phải dùng cái bí danh “Kasahara May” và vờ như mình không phải là Kumiko. Còn anh cứ ngồi mãi ở cái hàng hiên nhỏ buồn thiu kia mà đợi em trở về. Em không biết… em cảm thấy thế thôi.

            Nói em nghe này Chim vặn dây cót, có khi nào anh bị mấy ảo giác kiểu ấy nó ám ảnh chưa? Không phải nói khoác đâu, em thì có. Lúc nào cũng có, thỉnh thoảng, những khi ảo giác quá nặng thì em suốt ngày làm việc mà cứ như đang đi trong sương mù. Dĩ nhiên, công việc chỉ có mấy động tác đơn giản nên em làm thì vẫn cứ làm, không bị ảnh hưởng gì, nhưng đôi khi các cô khác nhìn em có vẻ là lạ. Hay là em đang nói to lên một mình điều gì đó chăng. Em không thích thế, nhưng nó cũng chẳng hại gì để phải cố bỏ. Mỗi khi ảo giác muốn đến là nó đến, như là kinh nguyệt vậy. Mình đâu có thể ra gặp nó ngoài cửa mà nói: “Xin lỗi nhé, hôm nay tôi bận. Khi khác nhé”. Dù sao, nếu đôi khi em giả vờ là Kumiko thì anh không giận chứ hở Chim vặn dây cót? Em không cố ý làm vậy đâu mà.

            Chao ôi, em mệt quá là mệt. Em đi ngủ chừng ba bốn tiếng đây, ngủ tít thò lò ấy, rồi lại dậy mà làm miết từ sáng đến tối. Em sẽ lại dành suốt một ngày vừa làm tóc giả với các cô gái khác vừa nghe mấy bản nhạc vô hại. Đừng lo cho em. Dù trong cơn ảo giác em vẫn cứ làm việc ngon lành. Và bằng cách riêng của em, em cầu nguyện cho anh, mong rằng mọi điều sẽ tốt đẹp với anh, rằng Kumiko sẽ trở về và anh chị sẽ lại sống với nhau hạnh phúc, bình an như trước.

            Tạm biệt.

            29

            Một căn nhà hoang mới ra đời

            *

            Sáng hôm sau, đã 9 giờ sáng, rồi 10 giờ, vẫn không thấy Quế đâu. Chuyện này trước đây chưa hề có. Anh ta chẳng bao giờ bỏ sót ngày nào kể từ khi tôi “làm việc” ở chỗ này. Sáng nào cũng vậy, đúng 9 giờ, cổng sẽ mở và ánh loang loáng của mũi trước chiếc Mercedes sẽ hiện ra. Sự xuất hiện đều đều thường nhật song cũng có gì hơi kịch đó của Quế lại là mốc đánh dấu khởi đầu mỗi ngày mới đối với tôi. Tôi đã quen với cái thủ tục hàng ngày đó, kiểu như người ta quen với trọng lực hay áp suất không khí. Trong cái nhịp đều đặn không chạy sai của Quế có gì đó nhiều hơn chứ không chỉ là sự chính xác máy móc, có cái gì đó an ủi, khích lệ và sưởi ấm tôi. Chính vì vậy một buổi sáng không có Quế cũng như bức tranh phong cảnh vẽ khéo nhưng không có một tiêu điểm.

            Tôi đành thôi không đợi Quế nữa. Tôi rời khỏi cửa sổ đi gọt một quả táo để ăn sáng. Đoạn tôi ghé vào phòng làm việc của Quế nhìn xem liệu có thông điệp nào trên máy tính không, nhưng màn hình vẫn câm lặng. Tôi chẳng biết làm gì khác ngoài noi gương Quế, vừa nghe một đĩa nhạc Baroque vừa quét dọn, hút bụi sàn nhà, chùi cửa sổ. Để giết thì giờ, tôi làm mọi việc thật chậm rãi, thật cẩn trọng, đến nỗi lau cả từng cánh của cái quạt thông gió dưới bếp. Nhưng thời gian vẫn ì ạch trôi.

            Đến 11 giờ thì tôi chẳng còn gì làm nữa, thế là tôi nằm dài trên chiếc sofa trong “phòng chỉnh lý”, buông mình theo dòng thời gian uể oải. Tôi cố tự bảo mình rằng Quế đến muộn chỉ vì lí do vặt vãnh nào đó. Có thể xe bị hỏng, hoặc anh ta bị kẹt xe. Nhưng tôi biết không thể có chuyện ấy. Cược bao nhiêu tôi cũng chịu. Xe của Quế không bao giờ hỏng, và mỗi khi ra khỏi nhà anh ta luôn tính toán xem đi đường nào không bị kẹt xe. Thêm nữa, trên xe có điện thoại, thành thử nếu có chuyện gì bất trắc anh ta sẽ gọi cho tôi ngay. Không, Quế không đến đây vì anh ta đã quyết định không đến.

            * * *

            Khoảng gần 1 giờ trưa tôi thử gọi điện đến văn phòng của Akasaka Nhục đậu khấu, nhưng không ai trả lời. Tôi thử gọi lại, gọi lại nữa…, vẫn thế. Rồi tôi thử gọi văn phòng của Ushikawa, nhưng chỉ nhận được thông điệp rằng số điện thoại này đã bị ngắt. Lạ thật. Mới cách đây hai ngày tôi còn gọi vào số này cho y. Tôi đành chịu thua, lại quay về chiếc sofa trong “phòng chỉnh lý”. Trong hai ngày qua, cứ như thể tất cả mọi người đã cùng thông đồng cắt đứt liên lạc với tôi.

            Tôi lại ra chỗ cửa sổ ghé nhìn qua bức rèm. Hai con chim mùa đông bé nhỏ trông hoạt bát bay đến đậu trên một cành cây trong vườn, tròn mắt nhìn quanh. Rồi, như bỗng dưng chán ngấy những gì nhìn thấy ở đây, chúng vụt bay mất. Ngoài ra, dường như không một cái gì khác chuyển động. Có cảm giác như cái Dinh này là một căn nhà vừa bị bỏ hoang.

            * * *

            Suốt năm ngày sau tôi không trở lại căn nhà đó. Chẳng hiểu vì sao, tôi như không còn muốn chui xuống giếng chút nào nữa. Chẳng bao lâu sau tôi sẽ mất ngay bản thân cái giếng. Nếu khách hàng không đến nữa thì tôi chỉ còn đủ tiền để nán lại Dinh này thêm tối đa hai tháng, nên tôi sẽ phải sử dụng cái giếng này càng nhiều càng tốt chừng nào nó vẫn còn là của tôi. Tôi thấy ngạt thở. Đột nhiên cái nơi này trở nên sai lạc, phi tự nhiên.

            Tôi lang thang vơ vẩn đây đó mà không đến chỗ Dinh. Chiều chiều tôi lại đến quảng trường ở cổng phía Tây, ngồi trên băng ghế quen thuộc, ngồi đó chẳng làm gì, chỉ để giết thời giờ. Nhưng Nhục đậu khấu không xuất hiện. Có lần tôi đến chỗ văn phòng của bà ở khu Akasaka, nhấn chuông trong buồng thang máy rồi nhìn chằm chằm vào ống kính camera, nhưng không có tiếng trả lời. Thôi, thế là không mong gì nữa. Rõ ràng Nhục đậu khấu và Quế đã quyết định cắt đứt mọi liên hệ với tôi. Hai mẹ con kỳ lạ này đã từ bỏ con tàu đắm để đến nơi an toàn hơn. Tôi không ngờ điều đó lại khiến lòng tôi buồn da diết đến vậy. Tôi cảm thấy như rốt cuộc đã bị chính gia đình mình phản bội.

            30

            Cái đuôi của Kano Malta

            *

            Boris Lột da

            Trong mơ (dù tôi không biết đó là mơ), tôi ngồi uống trà với Kano Malta, mỗi người một bên bàn. Căn phòng hình chữ nhật quá dài và quá rộng đến nỗi ngồi đầu này không thấy đầu kia. Xếp ngay hàng thẳng lối trong phòng là hàng trăm cái bàn vuông – khoảng năm trăm cái, có khi nhiều hơn. Hai chúng tôi ngồi ở một trong những cái bàn ở giữa, ngoài ra không còn ai khác. Dọc suốt trên trần nhà cao vút như trong một ngôi chùa Phật giáo chạy dài vô số những xà gỗ dày nặng, khắp các dầm gỗ đó treo lủng lẳng cái gì hình như là những loại cây trồng trong chậu, nom như những bộ tóc giả. Nhìn kỹ, tôi nhận ra đó là những mảng da đầu người còn nguyên tóc. Nhìn thấy máu đen sịt bên dưới chúng tôi mới biết. Những mảng da này người ta chỉ mới lột ra xong, đem treo trên xà nhà cho khô. Tôi sợ những giọt máu vẫn còn tươi có thể rỏ vào trà. Máu vẫn còn rỏ tong tong quanh chúng tôi như những giọt mưa, tiếng tí tách vang vọng khắp căn phòng mênh mông hun hút nghe to khác thường. Chỉ những mảng da đầu ngay trên bàn chúng tôi xem ra đã đủ khô để không phải sợ có giọt nào rỏ xuống.

            Trà nóng rẫy như nước sôi. Đặt bên thìa uống trà trong đĩa đựng tách của mỗi chúng tôi là ba thỏi đường màu xanh lơ tươi. Kano Malta thả hai thỏi vào tách trà của mình rồi khuấy, nhưng đường không tan. Một con chó chẳng hiểu từ đâu ló ra, ngồi xuống cạnh bàn chúng tôi. Bộ mặt nó là mặt của Ushikawa. Thân thì thân chó, to đùng, chắc nịch, đen trũi, nhưng từ cổ trở lên là Ushikawa, chỉ có điều lớp lông đen bù xù phủ khắp mình kia cũng mọc cả trên mặt và đầu. “Xin chào, xin chào, ông Okada phải không?” – Ushikawa trong bộ dạng chó nói. – “Ông nhìn xem này: cả một cái đầu toàn là lông, ngay khi tôi biến thành chó là mọc ngay tức thì. Giờ hai hòn dái của tôi to hơn, bao tử lại không đau nữa. Lại còn không phải đeo kính! Không phải quần áo gì sất! Vui cha chả là vui! Làm sao mà trước đây tôi không nghĩ tới chuyện này nhỉ? Lẽ ra tôi phải thành chó từ lâu rồi mới đúng. Còn ông Okada thì sao? Sao ông không thử xem?”.

            Kano Malta nhặt thỏi đường xanh lơ còn lại ném con chó. Thỏi đường đập vào trán Ushikawa, máu đen như mực chảy từ vết thương xuống đầy mặt y. Nhưng dường như Ushikawa chẳng đau gì cả. Vẫn cười toe toét, con chó dựng đuôi lên, chẳng nói chẳng rằng chạy mất. Thật vậy: cặp tinh hoàn của y to khủng khiếp.

            Kano Malta mặc áo choàng kiểu áo mưa có thắt lưng. Hai vạt áo khép chặt ở phía trước, nhưng qua mùi hương tinh tế của da thịt đàn bà tôi biết cô ta hoàn toàn không mặc gì ở bên trong. Dĩ nhiên, cô ta vẫn đội chiếc mũ bằng vải vinyl màu đỏ. Tôi nâng tách lên nhấp một ngụm trà, nhưng trà chẳng có vị gì. Chỉ nóng mà thôi, không gì hơn.

            - Tôi rất mừng là ông đã tới, - Kano Malta nói, giọng có vẻ nhẹ nhõm thật tình. Đã lâu không nghe giọng cô, tôi cảm thấy nó như có phần vui vẻ hơn trước. – Tôi gọi cho ông suốt mấy ngày song hình như ông đi ra ngoài. Tôi đã bắt đầu lo nhỡ có chuyện gì xảy ra cho ông. Nhờ trời, ông vẫn bình an. Thật nhẹ cả người khi nghe thấy giọng ông! Dù sao đi nữa, tôi phải xin lỗi đã vắng mặt lâu đến như vậy. Tôi không thể kể chi tiết tất cả những gì đã xảy ra với tôi trong thời gian đó, nhất là trên điện thoại thế này, nên tôi sẽ chỉ tóm tắt những điểm quan trọng. Cái chính là thời gian qua tôi đi đây đi đó suốt. Tôi vừa về cách đây một tuần. Alô! Ông Okada! Ông có nghe tôi nói không?

            - Có, tôi đang nghe cô đây, - tôi đáp, chỉ khi đó tôi mới nhận ra mình đang áp ống nghe điện thoại lên tai. Ở đầu bàn bên kia, Kano Malta cũng cầm ống nghe. Giọng cô ta nghe như trong cuộc gọi từ nước ngoài mà kết nối không tốt lắm.

            - Suốt thời gian qua tôi không ở Nhật mà ở đảo Malta trên Địa Trung Hải. Một ngày nọ bỗng nhiên tôi tự nhủ: “Ừ phải! Mình phải quay lại Malta, đem thân mình đến bên nguồn nước của Malta. Đã đến lúc rồi!”. Chuyện đó xảy ra ngay sau khi tôi nói chuyện với ông, ông Okada ạ. Ông có nhớ lần nói chuyện đó không? Lúc đó tôi đang tìm Creta. Thật ra tôi không định đi lâu đến như vậy. Tôi cứ nghĩ đi chừng hai tuần thôi. Vì vậy tôi mới không liên lạc với ông. Hầu như tôi không nói với ai rằng mình sắp đi, cứ thế lên máy bay, hầu như chẳng mang theo gì ngoài bộ đồ trên người. Tuy nhiên, khi đến nơi, tôi thấy mình không thể ra đi được. Ông Okada đã bao giờ đến Malta chưa?

            Tôi đáp là không mà nhớ rằng đã nói chuyện này với cô ta từ mấy năm trước rồi.

            - Alô? Ông Okada?

            - Vâng, tôi đây.

            Hình như tôi đã định nói gì đó với Kano Malta nhưng không nhớ ra được cái gì. Vắt óc một hồi thì tôi chợt nhớ ra. Tôi chuyển ống nghe sang tai kia rồi nói:

            - À đúng rồi, có chuyện này tôi đã định nói với cô từ lâu: con mèo đã về.

            Malta im lặng chừng bốn năm giây rồi mới nói:

            - Con mèo đã về à?

            - Phải. Cô và tôi quen nhau trước hết là do chuyện tìm mèo, thành thử tôi nghĩ việc này thì phải cho cô biết.

            - Con mèo trở về khi nào?

            - Hồi đầu xuân năm nay, từ đó đến giờ nó vẫn ở với tôi.

            - Bề ngoài nó có gì thay đổi không? Có gì khác so với trước khi nó bỏ đi không?

            - Thay đổi á? Nghĩ kỹ thì tôi thấy dường như hình dáng cái đuôi có hơi khác, - tôi nói. – Khi vuốt đuôi nó đúng hôm nó về, tôi thấy cái đuôi dường như quặp hơn trước. Tuy nhiên, cũng có thể tôi lầm… Dù gì nó cũng bỏ nhà đi gần một năm trời kia mà.

            - Ông tin chắc đúng là con mèo đó chứ?

            - Hoàn toàn chắc. Tôi nuôi nó từ lâu lắm rồi. Đúng là nó hay không thì tôi phải biết chứ.

            - Tôi hiểu, - Kano Malta nói. – Tuy vậy, chả giấu gì ông, tôi có cái đuôi thật của con mèo đây.

            Kano Malta đặt ống nghe xuống bàn rồi đứng dậy cởi phắt áo choàng ra. Đúng như tôi đã ngờ, ở bên trong cô ta hoàn toàn không mặc gì. Kính thước cặp vú và hình dáng âm mao của cô ta rất giống của Kano Creta. Chiếc mũ bằng vải vinyl màu đỏ thì cô không bỏ ra. Cô quay lại chìa lưng cho tôi xem. Thật vậy, gắn vào cặp mông cô ta là một cái đuôi mèo. Cái đuôi lớn hơn nhiều so với đuôi mèo thường – để tương xứng với kích thước của thân hình Malta, nhưng hình dáng thì rõ ràng là đuôi của Cá thu. Nó cũng quặp ngay ở chóp đuôi, nhưng cái chỗ quặp này so với của Cá thu thì giống hơn nhiều.

            - Xin ông hãy nhìn kỹ, - Kano Malta nói. – Đây là đuôi thật của con mèo đã bỏ nhà đi. Còn cái đuôi của nó bây giờ là đuôi giả. Trông thì giống, nhưng nếu kiểm tra kỹ, ông sẽ thấy ngay là khác.

            Tôi chìa tay ra định sờ cái đuôi, nhưng cô ta đã lôi phắt nó khỏi tay tôi. Thế rồi, vẫn trần truồng, cô ta nhảy lên một trong những cái bàn. Một giọt máu từ trên trần rỏ xuống lòng bàn tay đang chìa ra của tôi. Nó cũng đỏ thắm như chiếc mũ bằng vải vinyl của Kano Malta.

            - Ông Okada à, con của Kano Creta tên là Corsica, - Kano Malta đứng trên bàn, vừa vẫy tít đuôi vừa nói.

            - Corsica?

            - Không ai là một hòn đảo giữa biển khơi… Ấy Corsica, - giọng của con chó mực Ushikawa chẳng hiểu từ đâu vẳng tới.

            - Con của Kano Creta?

            Tôi thức dậy, mồ hôi đầm đìa như tắm.

            * * *

            Đã lâu lắm tôi không gặp giấc mơ nào vừa dài vừa sống động và nhất quán như vậy. Lại kỳ lạ nữa. Thức giấc hồi lâu rồi mà tim tôi vẫn đập thình thịch. Tôi đi tắm nước nóng rồi thay bộ pijama mới. Mới sau 1 giờ sáng một chút nhưng tôi không buồn ngủ nữa. Để trấn tĩnh, tôi lấy từ trong chạn bếp ra một chai brandy cũ, rót một cốc uống cạn.

            Đoạn tôi vào phòng ngủ tìm Cá thu. Con mèo đang cuộc tròn dưới chăn, ngủ như chết. Tôi khẽ kéo tấm chăn ra, cầm cái đuôi con mèo trong tay, nghiên cứu hình dạng của nó. Tôi miết ngón tay dọc theo cái đuôi, đang cố nhớ lại chính xác cái góc quặp của nó trước kia thì con mèo duỗi mình tỏ vẻ bực bội rồi lại ngủ. Giờ thì tôi không còn dám chắc đây đúng là cái đuôi mà con mèo từng có hồi nó còn mang tên Wataya Noboru. Không hiểu sao cái đuôi đằng sau mông Kano Malta dường như lại giống cái đuôi thật của mèo Wataya Noboru hơn nhiều. Hình dáng và mầu sắc của cái đuôi đó trong giấc mơ, tôi vẫn nhớ như in.

            Con của Kano Creta tên là Corsica, Kano Malta đã nói vậy trong giấc mơ của tôi.

            * * *

            Ngày hôm sau tôi không đi đâu xa khỏi nhà. Buổi sáng, tôi mua thức ăn ở siêu thị cạnh nhà ga rồi làm bữa trưa. Tôi cho con mèo mấy con cá sardine lớn còn tươi. Buổi chiều tôi đi bơi ở hồ bơi gần nhà. Người đi bơi không đông, hẳn thiên hạ còn bận chuẩn bị đón Năm mới. Loa trên trần phát nhạc Giáng sinh. Tôi thong thả bơi được khoảng nghìn mét thì bị chuột rút ở chân, liền thôi. Bức tường trông ra hồ bơi treo một món đồ trang trí Giáng sinh to.

            Về nhà, tôi ngạc nhiên thấy có thư gửi cho mình, một bức thư dày. Không nhìn địa chỉ người gửi, tôi đã biết đó là ai. Người duy nhất viết thư cho tôi bằng những con chữ viết tay nắn nót tuyệt đẹp đó chỉ có thể là trung úy Mamiya.

            Đầu thư, ông hết lời xin lỗi về việc đã im hơi lặng tiếng quá lâu kể từ bức thư lần trước. Ông dùng những cách diễn đạt cực kỳ lễ phép đến nỗi tôi hầu như cảm thấy chính mình mới là người phải xin lỗi.

            Lâu nay tôi vẫn muốn kể cho ông một phần khác trong câu chuyện của tôi, hàng mấy tháng trời tôi cứ định sẽ viết thư cho ông, nhưng có nhiều việc xảy ra khiến tôi không thể ngồi vào bàn cầm lấy bút. Nay, ngoảnh đi ngoảnh lại thấm thoắt đã gần hết năm. Thế mà tôi ngày một già hơn, chẳng biết chết khi nào. Tôi không thể nấn ná việc ấy mãi. E rằng thư này dài, mong rằng không quá dài đối với ông, thưa ông Okada.

            Khi đưa kỷ vật của ông Honda cho ông hồi mùa hè năm ngoái, tôi đã kể cho ông nghe một câu chuyện dài về thời gian tôi ở Mông Cổ, nhưng thật ra chuyện còn nhiều nữa, còn có “phần tiếp theo”, có thể nói vậy. Có một vài lí do vì sao tôi không kể luôn phần đó cho ông hồi năm ngoái. Trước tiên, nếu kể hết ra thì sẽ quá dài. Ông chắc còn nhớ, khi đó tôi có vài việc gấp nên không có thì giờ kể hết mọi chuyện với ông. Nhưng có lẽ quan trọng hơn là lúc đó tôi vẫn chưa sẵn sàng về mặt cảm xúc để kể hết phần còn lại của câu chuyện cho bất cứ ai, để kể lại câu chuyện một cách trọn vẹn và trung thực.

            Tuy nhiên, sau khi rời khỏi nhà ông, tôi nhận ra rằng lẽ ra không nên để những vấn đề thực tế trước mắt ngăn cản tôi. Lẽ ra tôi phải kể cho ông đến cuối cùng, không che dấu.

            Tôi bị dính một viên đạn súng máy trong trận đánh ác liệt vào ngày 13 tháng Tám năm 1945 ở vùng ngoại ô Hailar, và trong khi nằm trên mặt đất, bánh xích một chiếc tăng T34 của Liên Xô đã đè nát bàn tay trái tôi. Họ chuyển tôi lúc đó đã mê man bất tỉnh đến quân y viện Xô Viết ở Chita, ở đó các bác sĩ phẫu thuật đã cứu sống tôi. Như tôi đã nói trước đây, tôi được điều động vào cục Bản đồ quân sự thuộc Bộ tổng tư lệnh quân đội Quan Đông tại Tân Kinh, đơn vị này được chỉ thị ngay khi Liên Xô tuyên chiến với Nhật thì phải lập tức lui về hậu phương. Tuy nhiên, vì đã quyết chết, tôi xin được chuyển sang đơn vị ở Hailar gần biên giới, phơi mình trước pháo, mìn trong tay xông lên tấn công xe tăng Xô Viết. Tuy nhiên, như ông Honda đã tiên đoán lúc ở trên bờ sông Khalkha, tôi không thể chết dễ dàng như vậy. Tôi đã mất một bàn tay nhưng mất mạng thì không. Tất cả những người dưới quyền tôi lúc đó hẳn đều chết. Có thể chúng tôi chỉ làm theo mệnh lệnh, nhưng đó là một cuộc tấn công ngu xuẩn, tự sát. Những quả mìn cầm tay nhỏ xíu của chúng tôi chẳng làm gì nổi một chiếc T34 to lớn.

            Lí do duy nhất để người Liên Xô cứu chữa tôi là khi nằm bất tỉnh tôi đã nói điều gì đó bằng tiếng Nga. Đó là về sau họ bảo tôi vậy. Như tôi có kể với ông, tôi đã học tiếng Nga căn bản. Công việc ở sở chỉ huy tại Tân Kinh cho tôi rất nhiều thời gian rảnh, thế là tôi tận dụng thời gian đó để nâng cao trình độ tiếng Nga. Tôi học rất chăm chỉ, nên tới khi chiến tranh sắp kết thúc thì tôi đã có thể nói tiếng Nga lưu loát. Ở Tân Kinh có nhiều người Bạch Nga sinh sống, tôi lại có quen biết vài cô hầu bàn người Nga, thành thử tôi chẳng bao giờ thiếu dịp thực tập. Hẳn là khi bất tỉnh, tôi đã buột miệng tuôn tiếng Nga ra một cách hoàn toàn tự nhiên.

            Quân đội Xô Viết ngay từ đầu đã có kế hoạch đưa về Siberia bất cứ tù binh nào bắt được ở Mãn Châu để cưỡng bức lao động, cũng như họ đã làm với tù binh Đức sau khi chiến tranh kết thúc ở Châu u. Người Liên Xô có thể là phe thắng trận, nhưng chiến tranh kéo dài đã khiến nền kinh tế của họ lâm vào khủng hoảng sâu sắc: đâu đâu cũng gặp tình trạng thiếu nhân công. Dùng tù nhân để bù đắp cho sự thiếu hụt nhân lực nam giới trưởng thành được họ coi là nhiệm vụ ưu tiên. Muốn vậy họ cần có thông dịch, mà số lượng thông dịch thì cực kỳ ít ỏi. Khi thấy tôi hình như nói được tiếng Nga, họ liền đưa tôi đến quân y viện ở Chita thay vì để mặc tôi chết. Giá tôi không lắp bắp điều gì đó bằng tiếng Nga thì chắc người ta đã để mặc tôi nằm chết trên bờ sông Hailar rồi. Người ta sẽ chôn tôi vào một nấm mồ không mộ chí, và thế là hết. Số mệnh thật lạ lùng làm sao!

            Sau đó người ta tiến hành điều tra gắt gao nhân thân tôi và giáo dục tư tưởng tôi trong vòng mấy tháng rồi đưa tôi đến một mỏ than ở Siberia để làm thông dịch viên. Tôi sẽ bỏ qua các chi tiết về thời kỳ đó, duy về việc giáo dục tư tưởng thì xin được nói điều này. Từ hồi sinh viên trước chiến tranh, tôi đã đọc một vài cuốn sách bị cấm của Marx, cố giấu không cho cảnh sát thấy. Tôi không hẳn là hoàn toàn có ác cảm với chủ nghĩa cộng sản, chỉ có điều tôi đã thấy quá nhiều chuyện nên không thể nào nuốt trôi cái chủ nghĩa đó được. Nhờ công việc của nhóm chúng tôi có quan hệ với bên tình báo nên tôi biết rất rõ Stalin và các chế độ độc tài bù nhìn do ông ta dựng nên đã có những hành vi tàn bạo như thế nào ở Mông Cổ. Ngay sau Cách mạng, hàng vạn nhà tu hành, địa chủ và những người chống đối chế độ đã bị đưa vào trại tập trung, ở đó họ bị sát hại một cách tàn bạo. Chuyện như vậy cũng xảy ra ngay tại Liên Xô. Thậm chí dù tôi có thể tin ở ý thức hệ cộng sản, tôi vẫn không thể nào tin ở những con người hay cái hệ thống đang đảm nhận việc biến cải ý thức hệ và các nguyên lý đó thành thực tế. Tôi cũng cảm thấy vậy đối với những gì người Nhật chúng ta đã làm ở Mãn Châu. Tôi tin chắc ông không thể nào hình dung có bao nhiêu công nhân Trung Hoa đã bị giết trong quá trình xây dựng căn cứ bí mật ở Hailar, giết để bịt miệng họ, để giữ bí mật cho kế hoạch xây dựng căn cứ.

            Ngoài ra tôi đã chứng kiến cảnh tượng khủng khiếp khi viên sĩ quan Nga cùng các tay chân người Mông Cổ của y lột da một người sống. Tôi đã bị ném xuống một cái giếng ở Mông Cổ, và trong cái ánh sáng kỳ lạ, mãnh liệt đó tôi đã mất hết niềm ham sống. Làm sao một người như tôi có thể tin vào ý thức hệ và chính trị được?

            Tôi làm thông dịch, tức làm trung gian liên lạc giữa các tù binh Nhật làm việc tại mỏ với những người Liên Xô giam giữ họ. Tôi không biết ở những trại tập trung Siberia khác thì sao, nhưng ở mỏ than nơi tôi làm việc, ngày nào cũng có người chết: đói ăn, làm quá sức, sập hầm, chết đuối khi hầm bị ngập nước, điều kiện vệ sinh tồi tệ khiến bệnh dịch tràn lan; cái lạnh mùa đông khủng khiếp đến không thể tin được; những cai tù hung hãn, chỉ một kháng cự nhỏ nhất là đàn áp tàn bạo. Có cả những trường hợp người Nhật bị hành hình tập thể(13) bởi chính người Nhật, đồng bào của mình. Trong hoàn cảnh đó, người ta chỉ có thể thù ghét, nghi kỵ nhau, sợ hãi và tuyệt vọng.

            Mỗi khi số người chết tăng đến mức lực lượng lao động sụt giảm, người ta lại đưa đến hàng đoàn tàu chật ních những tù binh chiến tranh mới. Họ ăn mặc rách rưới, kiệt quệ vì đói khát, một phần lớn sẽ chết trong vòng vài tuần đầu vì không chịu nổi điều kiện khắc nghiệt ở mỏ. Những người chết bị ném vào các hầm lò bỏ không. Không thể đào hố chôn tất cả được. Đất đóng băng quanh năm, cứng ngắc, xẻng không làm mẻ được. Vì vậy các hầm lò bỏ không là nơi lí tưởng để thanh lí xác chết. Chúng vừa sâu vừa tối, và do khí hậu lạnh nên không bốc mùi. Lâu lâu chúng tôi lại phủ một lớp than lên đống xác. Khi một hầm lò đã đầy xác, người ta lấy đất đá bịt kín lại rồi chuyển sang hầm khác.

            Không chỉ người chết mới bị ném xuống hầm lò. Đôi khi cả người sống cũng bị ném xuống, để dạy những người còn lại một bài học. Bất cứ người lính Nhật nào có dấu hiệu phản kháng đều bị lính canh Liên Xô bắt đi, đánh thừa sống thiếu chết, bẻ chân tay rồi ném xuống đáy hố đen kịt. Đến giờ tai tôi vẫn còn nghe những tiếng thét thảm thiết đó. Thật là địa ngục trần gian.

            Mỏ này được coi là một cơ sở có tầm quan trọng chiến lược, do các phái viên Trung ương Đảng cử xuống điều hành, được quân đội canh gác vô cùng cẩn mật. Nhân vật cao cấp nhất nghe nói là đồng hương với Stalin, một cán bộ đảng còn trẻ đầy tham vọng, nghiệt ngã và lạnh lùng. Mối quan tâm duy nhất của y là nâng cao sản lượng. Việc tiêu hao nhân lực chẳng là gì đối với y. Chỉ cần sản lượng tăng, Trung ương Đảng sẽ công nhận mỏ của y là gương mẫu và thưởng bằng cách bổ sung nhân lực cho y nhiều hơn nơi khác. Thành thử bao nhiêu nhân công bỏ mạng là lập tức có bấy nhiêu người thay thế. Để tăng sản lượng, y cho phép đào cả những vỉa mà nếu trong hoàn cảnh bình thường thì sẽ bị coi là quá nguy hiểm. Đương nhiên là số tai nạn ngày càng tăng, nhưng y không quan tâm.

            Tay giám đốc không phải là kẻ nhẫn tâm duy nhất cai quản cái mỏ này. Hầu hết cai tù trong mỏ vốn là tội phạm, vô giáo dục, hung bạo và tàn độc khủng khiếp. Ở họ hoàn toàn không thấy có chút gì là cảm thông hay tình thương, dường như vì đã sống bao nhiêu năm ở chốn tận cùng trái đất này, họ đã bị cái lạnh tàn nghiệt vùng Siberia biến thành những sinh vật dưới mức người. Phạm tội phải ngồi tù ở Siberia quá lâu, đến khi mãn hạn họ không còn nhà cửa hay gia đình nào để quay về. Họ lấy người địa phương, sinh con đẻ cái và cắm rễ vào mảnh đất Siberia.

            Bị đưa đến mỏ làm việc không chỉ có tù binh Nhật. Còn có nhiều tội phạm người Nga nữa, là các tù nhân chính trị và cựu sĩ quan quân đội, nạn nhân các chiến dịch thanh trừng của Stalin. Không ít người trong số đó có giáo dục cao, rất có phẩm cách. Trong số người Nga có rất ít phụ nữ và trẻ em, hẳn là thành viên còn sót lại của gia đình các chính trị phạm. Người ta buộc họ làm những việc như hót rác, giặt giũ, vân vân. Các phụ nữ trẻ thường bị bắt làm điếm. Ngoài người Nga, các đoàn tàu còn chở tới người Ba Lan, người Hungari và những nước khác, một vài trong số đó có màu da sẫm, chắc là người Armenia hay người Kurd. Trại chia làm ba khu: khu lớn nhất giam các tù binh Nhật, khu dành cho các tội phạm và tù binh khác, và khu dành cho những người không phải tội phạm. Sống ở khu này là các thợ mỏ bình thường và chuyên gia về mỏ, các sĩ quan và cai tù, một số người có gia đình, và các công dân Nga bình thường khác. Còn có một đồn lính lớn gần nhà ga. Các tù binh chiến tranh và tù nhân khác bị cấm không được rời khỏi khu dành cho họ. Các khu ngăn cách với nhau bằng hàng rào kẽm gai, luôn có lính đi tuần, mang súng máy.

            Là thông dịch có nhiệm vụ liên lạc, tôi phải đến ban tham mưu hàng ngày nên được phép đi từ khu này sang khu kia nhưng phải trình giấy phép. Gần ban tham mưu là ga xe lửa và một cái gọi là thị trấn nhưng chỉ có một con phố duy nhất, hai bên là dăm ba cửa hàng nhếch nhác, một quán bar, một nhà trọ cho các quan chức và sĩ quan cao cấp đi thị sát. Quảng trường thị trấn bốn phía là những máng nước cho ngựa, chính giữa là một lá cờ đỏ lớn của Liên bang Xô Viết treo trên cột cờ. Dưới lá cờ là một chiếc xe bọc thép, có súng máy, tựa mình lên súng bao giờ cũng có một tay lính trẻ vẻ chán ngán, trang bị tận răng. Quân y viện mới xây nằm ở đầu bên kia quảng trường, trước cổng có một bức tượng Iosip Stalin to tướng.

            Có một người mà tôi phải kể với ông. Tôi gặp hắn vào mùa xuân năm 1947, có lẽ vào đầu tháng Năm khi tuyết đã tan hẳn. Một năm rưỡi đã trôi qua kể từ khi tôi được đưa đến mỏ. Khi tôi gặp người đó lần đầu tiên, hắn đang mặc một thứ đồng phục người ta phát cho mọi tù nhân người Nga. Hắn đang cùng một nhóm khoảng mười người Nga làm công việc sửa chữa ở nhà ga. Họ dùng búa tạ đập vỡ đá rồi trải các mảnh đá vừa đập lên mặt đường. Tiếng búa nện chát chúa vào đá cứng vang rền khắp nơi. Tôi vừa đi nộp báo cáo lên ban tham mưu về thì đi ngang qua nhà ga. Viên trung sĩ đang chỉ huy công việc chặn tôi lại yêu cầu xuất trình giấy thông hành. Tôi rút trong túi ra đưa cho y. Tay trung sĩ, người to lớn dềnh dàng, nhìn soi mói tờ giấy thông hành hồi lâu với vẻ nghi hoặc, nhưng rõ ràng y không biết đọc. Y gọi một trong các tù nhân đang làm việc trên mặt đường, bảo người này đọc to tờ giấy lên. Người tù này không như những người khác trong nhóm: ông ta mang dáng dấp người có học. Và đó chính là hắn. Khi nhìn thấy hắn, tôi cảm thấy như mặt mình đã kiệt hết máu. Tôi hầu như không thở được. Tôi có cảm giác mình đang chết đuối. Muốn thở mà không thở được.

            Người tù có học này không ai khác hơn là viên sĩ quan Nga đã ra lệnh cho đám lính Mông Cổ lột da sống Yamamoto trên bờ sông Khalkha. Nay thì hắn gầy yếu, gần như hói trụi, mất một răng cửa. Thay vì bộ quân phục sĩ quan sạch như lau như li, hắn vận bộ quần áo tù bẩn thỉu, và thay vì đôi bốt sáng choang, hắn mang đôi giày vải thủng lỗ chỗ. Cặp tròng kính hắn trầy sướt, đầy cáu ghét, gọng kính cong vẹo. Thế nhưng không nghi ngờ gì nữa, đó chính là hắn. Không thể nào tôi lại nhận lầm hắn. Còn hắn, hắn cũng nhìn chòng chọc vào tôi, rõ ràng hắn tò mò không hiểu sao tôi lại đứng đực ra nhìn hắn như thế. Cũng như hắn, tôi đã già đi, đã tiều tụy đi nhiều trong chín năm qua. Thậm chí tóc tôi còn có mấy sợi bạc. Nhưng dẫu sao hình như hắn cũng nhận ra tôi. Một nét sửng sốt lộ ra trên mặt hắn. Hẳn là hắn cứ tưởng tôi đã chết rục xương dưới đáy cái giếng nào đó ở Mông Cổ rồi. Còn tôi, dĩ nhiên tôi cũng không thể nào ngờ sẽ lại gặp hắn vận quần áo tù trong một mỏ than ở Siberia.

            Chỉ một thoáng sau hắn đã trấn tĩnh lại, điềm nhiên đọc to cho gã trung sĩ cổ đeo súng máy kia nghe nội dung tờ giấy thông hành của tôi: rằng tên tôi là gì, rằng nghề của tôi là thông dịch, rằng tôi được phép đi lại từ khu này sang khu kia, vân vân. Tay trung sĩ trả lại tờ giấy thông hành và hất cằm ra hiệu bảo tôi đi. Tôi bước tới một đoạn thì ngoái đầu lại. Gã đàn ông kia đang nhìn tôi. Dường như hắn thoáng mỉm cười, nhưng có thể ấy chỉ là tôi tưởng tượng ra. Chân tôi run, mãi một lúc tôi không sao đi thẳng được. Cơn ác mộng khủng khiếp tôi từng nếm trải chín năm về trước chỉ trong nháy mắt bỗng sống lại rõ ràng, sống động trước mắt tôi.

            Tôi đoán rằng người đó đã bị thất sủng nên mới bị tống vào trại tù Siberia này. Những chuyện như vậy chẳng hiếm ở Liên Xô vào thời ấy. Trong nội bộ chính phủ, đảng và giới quân sự thường xuyên diễn ra những cuộc đấu đá khốc liệt, và Stalin, vốn đa nghi tới mức bệnh hoạn, truy bức những người thua cuộc một cách không thương tiếc. Những người đó bị tước mọi chức vụ, cấp bậc, bị xét xử chiếu lệ ở những phiên tòa cho có, rồi hoặc bị hành hình hoặc bị đưa vào trại tập trung, đường nào tốt hơn thì chỉ có Chúa mới biết. Bởi thoát chết thì cũng chỉ còn nước lao động khổ sai, nghiệt ngã đến không tưởng tượng nổi. Tù binh Nhật chúng tôi ít nhất cũng còn hy vọng được trở về quê hương nếu như sống sót, nhưng đám người Nga bị lưu đày kia không có niềm hy vọng ấy. Cũng như những kẻ khác, người này rồi cũng sẽ chết rục xương trên đất Siberia thôi.

            Duy có một điều khiến tôi lo, đó là hắn biết tên tôi, biết tôi ở đâu. Hồi trước chiến tranh tôi đã vô tình tham gia điệp vụ bí mật cùng với tay điệp viên Yamamoto, vượt sông Khalkha vào lãnh thổ Mông Cổ để hoạt động gián điệp. Nếu hắn tiết lộ thông tin này ra thì tôi sẽ rơi vào hoàn cảnh rất bất lợi. Tuy nhiên, hắn đã không tố giác tôi. Mãi về sau tôi mới biết, lúc ấy hắn đã có những kế hoạch lớn hơn nhiều dành cho tôi.

            Một tuần sau tôi lại gặp hắn ngoài nhà ga. Hắn vẫn bị xiềng, vẫn mặc bộ quần áo tù dơ dáy đó, đang dùng búa đập đá. Tôi nhìn hắn, hắn nhìn tôi. Hắn đặt búa xuống đất rồi đứng dậy quay về phía tôi, vươn thẳng người cao lớn như khi hắn còn mặc quân phục. Lần này, không nghi ngờ gì nữa trên mặt hắn nở nụ cười, tuy chỉ khẽ nhếch nhưng vẫn là nụ cười, trong nụ cười có một ánh tàn độc khiến tôi lạnh xương sống. Đó chính là vẻ mặt khi hắn quan sát Yamamoto bị lột da sống. Tôi bước ngang qua, không nói gì.

            Trong số các sĩ quan ban tham mưu quân đội Xô Viết ở trại có một người tôi chơi thân. Cũng như tôi, ông này là chuyên gia địa lý, học ở đại học tại Leningrad. Hai chúng tôi cùng tuổi, cùng yêu thích công việc vẽ bản đồ, nên thỉnh thoảng chúng tôi lại tìm cớ này cớ nọ để trao đổi về nghề nghiệp. Cá nhân ông ta rất quan tâm đến các bản đồ chiến lược của vùng Mãn Châu mà đội quân Quan Đông đã thực hiện. Dĩ nhiên, chúng tôi không thể nói những chuyện như vậy khi có mặt cấp trên ông ta. Chỉ những khi họ vắng mặt, chúng tôi mới có thể thoải mái bàn đến vấn đề chuyên môn này. Thỉnh thoảng ông ta lại cho tôi đồ ăn hoặc cho tôi xem ảnh vợ con ông đang sống ở Kiev. Ông là người Nga duy nhất mà tôi có thể kết bạn trong suốt thời gian bị giam giữ ở Liên Xô.

            Một lần, làm như tình cờ, tôi hỏi ông ta về những người tù làm việc cạnh nhà ga. Tôi thấy trong số đó có một người không giống người tù binh thường, tôi bảo vậy: hình như người đó từng giữ một vị trí quan trọng. Tôi mô tả ngoại hình người đó. Viên sĩ quan – ông ta tên là Nikolai – liền cau mày nói:

            - Chắc đó là Boris Lột da. Tốt nhất là anh đừng dính dáng gì đến hắn.

            - Tại sao? - Tôi hỏi.

            Nikolai có vẻ ngần ngừ không muốn nói thêm, nhưng ông ta biết tôi còn có thể giúp ích cho ông ta, nên ông miễn cưỡng cho tôi biết vì sao “Boris Lột da” lại bị đưa tới mỏ này.

            - Đừng nói với ai là tôi kể với anh đấy, - ông cảnh cáo. - Thằng cha đó nguy hiểm lắm. Tôi không đùa đâu. Có cầm sào đứng cách hắn ba thước tôi cũng không dại gì đụng vào hắn.

            Nikolai kể như sau. Tên thật của “Boris Lột da” là Boris Gromov. Đúng như tôi nghĩ, hắn từng là thiếu tá trong NKVD(14). Khi Choybalsan chiếm chính quyền tại Mông Cổ và lên làm thủ tướng vào năm 1938, Gromov được cử đến Ulan Bator làm cố vấn quân sự. Tại đó, hắn tổ chức cơ quan cảnh sát mật của Mông Cổ theo mô hình NKVD của Beria và tỏ ra nổi bật trong việc đàn áp các lực lượng phản cách mạng. Bọn họ tổ chức vây ráp bắt người, ném vào trại tập trung, tra tấn, và chỉ cần một chút nghi ngờ là thủ tiêu lập tức.

            Ngay khi trận Nomonhan kết thúc và tình hình khủng hoảng tại Viễn Đông tạm yên, Boris được triệu hồi về Mátxcơva và bổ nhiệm sang miền Đông Ba Lan lúc đó do quận đội Xô Viết chiếm đóng, ở đó hắn đảm nhiệm việc thanh trừng quân đội cũ Ba Lan. Chính ở đó hắn đã có biệt danh “Boris Lột da”. Hắn có kiểu tra tấn đặc biệt là lột da người sống. Hắn có một bộ hạ chuyên làm việc này, nghe nói đem từ Mông Cổ sang. Khỏi phải nói, người Ba Lan sợ hắn kỳ chết. Bất cứ ai đã tận mắt chứng kiến kẻ khác bị lột da sống đều sẽ khai tuốt tuột không thiếu một cái gì. Khi quân Đức bất ngờ tràn qua biên giới và chiến tranh Xô – Đức nổ ra, hắn rút lui từ Ba Lan về Mátxcơva. Thời đó rất nhiều người bị bắt vì tình nghi cộng tác với Hitler. Họ bị hành quyết hay tống vào trại giam. Ở đây, một lần nữa Boris nổi lên là cánh tay phải của Beria, chuyên sử dụng đòn tra tấn đặc biệt của mình. Stalin và Beria phải bịa ra thuyết nội gián nhắm lấp liếm trách nhiệm của chính họ là đã không tiên đoán được cuộc tấn công bất ngờ của phát xít Đức và cũng nhằm củng cố quyền lãnh đạo của họ. Nhiều người đã chết chẳng vì bất cứ cái gì trong những cuộc điều tra tàn bạo. Nghe nói Boris và thuộc hạ của hắn đã lột da ít nhất năm người, lại có lời đồn đại rằng hắn rất kiêu hãnh trưng những tấm da người kia lên khắp các bức tường phòng làm việc của mình.

            Boris tàn bạo là thế nhưng cũng là người cực kỳ cẩn trọng, chính vì vậy hắn mới sống sót sau bao nhiêu âm mưu và cuộc thanh trừng. Beria yêu hắn như con. Nhưng có lẽ chính vì vậy hắn quá tự tin mà đi lỡ trớn. Sai lầm ấy quả thật là sai lầm chí mạng. Hắn bắt giam chỉ huy một tiểu đoàn thiết giáp do tình nghi người này đã bí mật liên lạc với một trong các tiểu đoàn thiết giáp của Hitler trong một trận đánh ở Ukraina. Hắn tra tấn anh ta bằng cách lấy thanh sắt nung đỏ chọc vào bất cứ chỗ nào có lỗ trên người: tai, lỗ mũi, trực tràng, dương vật vân vân, rồi giết chết người này. Nhưng hóa ra viên sĩ quan này là cháu ruột một quan chức cao cấp của Đảng Cộng sản. Chưa hết, khi ban tham mưu Hồng quân tiến hành điều tra đến nơi đến chốn thì mới phát hiện rằng anh ta hoàn toàn vô tội. Dĩ nhiên là vị quan chức kia nổi trận lôi đình, còn lãnh đạo Hồng quân cũng không thể im lặng khi thanh danh mình đã bị một vết nhơ như vậy. Lần này ngay cả Beria cũng không bảo vệ được Boris. Hắn bị cách chức, đưa ra tòa, cả hắn và tên trợ thủ người Mông Cổ bị kết án tử hình. Tuy nhiên NKVD đã làm mọi cách để can thiệp, kết quả là Boris được giảm án thành lao động khổ sai ở một trại tập trung (mặc dù tên tay chân thì bị treo cổ). Beria gửi vào tù cho Boris một bức mật thư hứa sẽ gây tác động trong quân đội và đảng để Boris chỉ cần ngồi trong trại một năm là sẽ được đưa ra và phục hồi địa vị. Ít nhất thì đấy là những gì Nikolai kể.

            - Giờ anh biết rồi đó, - Nikolai hạ giọng nói với tôi, - ai cũng nghĩ rằng Boris lúc nào đó rồi cũng sẽ trở về Mátxcơva, rằng chẳng bao lâu nữa Beria sẽ cứu hắn thôi. Đúng là Beria phải thận trọng, bởi trại này vẫn đang được quân đội và đảng điều hành. Nhưng không ai trong chúng ta có thể yên tâm đâu. Gió có thể đổi chiều bất cứ lúc nào. Mà khi gió đã đổi chiều thì kẻ nào trót rắn tay với hắn ở đây sẽ gặp khốn đấy. Trên đời này không thiếu gì thằng ngu, nhưng không ai ngu tới mức tự ký bản án tử hình cho mình. Thành thử tất cả bọn tôi đi qua hắn đều phải nhón chân. Hắn là khách danh dự ở đây. Dĩ nhiên chúng tôi không thể cho hắn được kẻ hầu người hạ và đối xử với hắn như trong khách sạn. Bề ngoài thì chúng tôi xích chân hắn, cho hắn đập vài hòn đá, nhưng thật ra hắn có phòng riêng, muốn rượu có rượu, muốn thuốc lá có thuốc lá. Nếu anh hỏi hắn là giống gì, tôi sẽ bảo hắn là rắn độc. Để hắn sống chẳng tốt lành cho ai hết. Giá như có ai nửa đêm lén vào cắt cổ hắn đi cho xong.

            Mấy hôm sau, khi tôi đi ngang qua nhà ga, tay trung sĩ to xác lại chặn tôi. Tôi dợm đưa giấy thông hành ra, nhưng y lắc đầu và bảo tôi đến văn phòng trưởng ga. Chẳng hiểu chuyện gì, nhưng tôi vẫn đi, đến nơi thì gặp không phải trưởng ga mà là Boris Gromov. Hắn ngồi uống trà ở bàn đợi tôi tới. Tôi chết điếng trên ngưỡng cửa. Hắn không bị cùm chân nữa. Hắn đưa tay ra hiệu cho tôi vào.

            - Xin chào trung úy Mamiya! Bao nhiêu năm rồi mới gặp nhau, - hắn vui vẻ nói, miệng cười toe toét. Hắn mời tôi một điếu thuốc, nhưng tôi lắc đầu.

            - Chính xác là chín năm, - hắn vừa nói vừa châm thuốc. – Hay là tám năm? Mà thôi, có gì khác nhau. Cái chính là anh vẫn sống và khỏe mạnh. Gặp lại bạn cũ mới hạnh phúc làm sao chứ! Nhất là sau cuộc chiến tranh khủng khiếp nhường đó. Anh đồng ý không? Mà làm cách nào anh thoát ra khỏi cái giếng đó vậy?

            Tôi chỉ đứng đó, không nói gì.

            - Thôi được, không sao cả. Quan trọng là anh đã thoát ra được. Rồi anh mất một bàn tay ở đâu đó. Rồi lại học nói được tiếng Nga lưu loát thế kia! Tuyệt lắm, cừ lắm. Mất một bàn tay thì đã sao… Cái chính là anh vẫn còn sống.

            - Có phải là do ý tôi đâu, - tôi đáp.

            Boris cười ha hả.

            - Trung úy Mamiya à, anh là người thú vị lắm. Thật ra anh có muốn sống đâu, thế mà anh đang sống sờ sờ ra ở đây. Phải, đúng là thú vị thật. Nhưng không dễ lừa tôi đâu. Người bình thường không ai thoát khỏi cái giếng sâu đó một mình được, đã thoát mà lại còn biết đường vượt sông trở về Mãn Châu. Nhưng đừng lo, tôi không kể với ai đâu.

            Thôi, về chuyện anh thế là đủ rồi. Giờ để tôi kể cho anh về tôi. Như anh biết đó, tôi đã mất chức, giờ chỉ là một tù nhân quèn trong trại tập trung. Nhưng tôi không định ở lại trốn khỉ ho cò gáy này mà đập đá suốt đời đâu. Tôi vẫn có thế lực ở Trung ương Đảng như hồi nào đến giờ, và tôi đang dùng thế lực đó để từng ngày một nâng cao vị thế của tôi ở đây. Vì vậy tôi sẽ nói rất chân thành với anh rằng tôi muốn có quan hệ tốt với các tù binh Nhật. Năng suất của mỏ này tùy thuộc vào các anh, vào quân số và sức làm của các anh. Nếu không đếm xỉa đến sức mạnh của các anh, trong đó có cả anh, trung úy Mamiya, chúng tôi sẽ không đạt được gì hết. Tôi muốn anh giúp tôi bằng những gì anh có. Anh từng là sĩ quan tình báo của đội quân Quan Đông, là một người rất can đảm. Anh nói tiếng Nga lưu loát. Nếu anh làm người liên lạc cho tôi, tôi sẽ có thể giúp anh và các đồng bào anh. Đề nghị này không đến nỗi tồi đâu.

            - Tôi chưa bao giờ là gián điệp, cũng không bao giờ có ý định làm gián điệp, - tôi tuyên bố.

            - Tôi không yêu cầu anh làm gián điệp, - Boris nói như để trấn an tôi. – Tôi chỉ nói rằng tôi có thể giúp cho các anh được dễ thở hơn. Tôi đề nghị cải thiện quan hệ, và anh sẽ là người trung gian giữa hai bên. Nếu hợp sức lại, chúng ta có thể lật đổ cái thằng chó dái người Gruzia “Ủy viên bộ chính trị” kia. Tôi làm vậy được đấy, đừng có tưởng! Mà tôi biết người Nhật các anh cũng căm thù hắn tận xương tủy. Một khi khử được hắn rồi, phía các anh sẽ có thể được tự quản một phần, có thể thành lập các ủy ban này nọ, có thể có tổ chức riêng của mình. Chừng đó thì ít nhất đám lính canh cũng không còn dám đối xử thô bạo với các anh bất cứ lúc nào tùy thích. Đã bao lâu nay các anh chỉ mong được thế thôi, phải không?

            Điều đó thì Boris nói đúng. Chúng tôi đã kiến nghị lên ban lãnh đạo trại về những chuyện đó từ lâu nhưng họ luôn luôn bác bỏ thẳng thừng.

            - Đổi lại ông muốn tôi làm gì? – Tôi hỏi.

            - Hầu như chẳng phải làm gì hết, - hắn cười toe toét, giang rộng hai tay ra. – Tôi chả cần gì hơn là quan hệ thân thiện với tù binh Nhật các anh. Tôi cần loại bỏ một số đồng chí của mình vì không tìm được tiếng nói chung, mà muốn vậy tôi cần các anh hợp tác với tôi. Chúng ta có nhiều lợi ích chung, vậy tại sao chúng ta không hợp sức để hai bên cùng được hưởng? Người Mỹ nói thế nào ấy nhỉ? “Give and take”. Có qua có lại. Nếu anh hợp tác với tôi, tôi sẽ không làm gì bất lợi cho anh cả. Tôi sẽ không đâm sau lưng anh đâu. Dĩ nhiên tôi biết, tôi không có quyền yêu cầu anh phải ưa tôi. Giữa chúng ta đã có những chuyện không hay gì, hẳn là vậy rồi. Nhưng tôi trông vậy thôi chứ là người tự trọng. Tôi luôn luôn giữ lời hứa. Chuyện gì đã qua thì cho nó qua đi.

            Anh cứ về mà suy nghĩ về đề nghị của tôi đi, mấy hôm nữa hãy trả lời dứt khoát với tôi. Cứ thử xem. Các anh đâu có gì để mất, đúng không nào? Mà này, hãy nhớ rằng chuyện đó chỉ có thể nói với những người anh biết chắc chắn là đủ để tin cậy được. Có vài người trong các anh là chỉ điểm cho tay Ủy viên Bộ chính trị. Đừng để chúng hóng hớt được chuyện này. Nếu lộ ra thì sẽ gay go đấy. Thế lực của tôi ở đây tạm thời chỉ có hạn thôi.

            Về lại khu của mình, tôi chọn ra một người để bàn về lời đề nghị của Boris. Người này nguyên là đại tá trong quân đội, một kẻ gan lì và có đầu óc sắc sảo. Là chỉ huy một đơn vị từng cố thủ trong pháo đài trên núi Khingan, cương quyết không giương cờ trắng ngay cả khi Nhật đã đầu hàng, nay ông là thủ lĩnh không chính thức của các tù binh Nhật trong trại, một thế lực mà người Nga cần phải tính tới. Tôi giấu không kể với ông ta về chuyện Yamamoto bị lột da sống trên bờ sông Khalkha, chỉ nói rằng Boris từng là sĩ quan cao cấp trong lực lượng cảnh sát mật và giải thích về đề nghị của hắn. Viên đại tá hình như quan tâm đến ý tưởng thanh toán tay Ủy viên Bộ chính trị cầm đầu trại và giành lấy ít nhiều quyền tự trị cho tù binh Nhật. Tôi nhấn mạnh rằng Boris là một tay có máu lạnh, một kẻ cực kỳ nguy hiểm, tay tổ về những trò lừa đảo và mưu ma chước quỷ, kẻ như vậy thì chớ bao giờ nhắm mắt tin. “Có thể anh nói đúng - đại tá nói – Nhưng thằng Ủy viên Bộ chính trị thì cũng vậy thôi, ta chẳng có gì để mất”. Ông có lý. Dù vụ này có vỡ lở đi nữa thì mọi chuyện cũng chẳng thể nào tồi tệ hơn hiện thời, tôi nghĩ. Song tôi đã lầm to! Địa ngục thì chẳng bao giờ có đáy.

            Mấy ngày sau tôi thu xếp được một cuộc gặp riêng giữa Boris và ông đại tá tại một nơi kín đáo. Tôi làm thông dịch. Cuộc thảo luận kéo dài ba mươi phút, kết quả là hai bên đạt được một thỏa thuận bí mật và bắt tay nhau. Tôi không có cách nào biết những gì xảy ra sau đó. Hai bên không tiếp xúc trực tiếp để tránh gây chú ý, chỉ trao đổi thư từ viết bằng mật mã thông qua một kênh bí mật nào đó. Vai trò trung gian của tôi đến đó là hết. Thế cũng tốt đối với tôi. Tôi không muốn dính dáng gì tới Boris nữa. Mãi về sau tôi mới hiểu, gì chứ chuyện đó thì không thể.

            Như Boris đã hứa, khoảng một tháng sau Trung ương Đảng triệu hồi tay Ủy viên Bộ chính trị người Gruzia, hai ngày sau thì cử tới một ủy viên mới để thay thế. Sau đó hai ngày nữa thì ba tù binh Nhật bị siết cổ chết giữa đêm khuya. Người ta phát hiện được xác họ treo trên xà nhà để trông tuồng như tự sát, nhưng rõ ràng họ đã bị những người Nhật khác thanh toán. Ba người này hẳn là các tay chỉ điểm mà Boris đã nói. Chẳng ai tiến hành điều tra vụ việc. Đến khi đó thì Boris đã nắm toàn bộ trại trong tay mình.

            ------------------------------------

            13. Nguyên văn: hành hình theo kiểu lynch

            14. Cơ quan cảnh sát mật của Liên Xô dưới thời Stalin (từ 1934 đến 1946), viết tắt từ tiếng Nga Narodniy Kommissarias Vnutrennikh Del, tạm dịch là Bộ Dân ủy Nội vụ - ND.

            31

            Gậy biến mất

            *

            Chim ác là ăn cắp trở về

            Mặc áo len và áo khoác, mũ len kéo sụp gần như tận mắt, tôi trèo qua bức tường sau nhà, nhảy xuống ngõ. Phải một lát nữa trời mới sáng, thiên hạ đang còn ngủ. Tôi nhẹ nhàng đi dọc con ngõ về phía Dinh.

            Trong nhà chẳng có gì thay đổi so với khi tôi bỏ đi sáu ngày trước đó. Bát đĩa bẩn vẫn nằm trong chậu rửa. Không thấy mẩu thư viết tay nào, không có tin nhắn nào trong máy trả lời tự động. Màn hình vi tính trong phòng Quế vẫn chết lạnh như trước. Máy điều hòa vẫn giữ không khí ở nhiệt độ bình thường trong nhà. Tôi cởi áo khoác và găng tay rồi đun nước pha trà. Tôi ăn sáng bằng vái cái bánh bích quy, rửa bát trong chậu rồi cất vào chạn. 9 giờ sáng, vẫn không thấy tăm hơi Quế đâu.

            * * *

            Tôi ra ngoài sân, giở nắp giếng rồi cúi người nhìn vào bên trong. Vẫn cái bóng tối đặc sệt đó. Tôi biết rõ cái giếng này như một phần mở rộng của chính thân thể mình: bóng tối của nó, cái mùi và sự câm lặng của nó là một phần của tôi. Theo nghĩa nào đó, tôi biết rõ cái giếng này hơn là biết Kumiko. Dĩ nhiên ký ức về nàng hãy còn sống nguyên, tươi rói. Nhắm mắt lại là tôi có thể hồi tưởng từng chi tiết của giọng nói nàng, khuôn mặt, thân thể nàng, từng cử chỉ của nàng. Dù gì tôi cũng đã sống chung một mái nhà với nàng suốt sáu năm trời. Nhưng bây giờ tôi nhận ra rằng có một cái gì đó ở nàng mà tôi không hồi tưởng được rõ rệt như vậy. Mà cũng có thể đó chỉ là do tôi không dám chắc những gì mình nhớ lại là chính xác, cũng như tôi không thể hình dung lại chắc chắn cái khúc quặp ở đuôi con mèo khi nó mới trở về.

            Tôi ngồi bên thành giếng, tay thọc vào túi áo khoác, nhìn bốn bề chung quanh lần nữa. Có cảm giác như trời có thể đổ cơn mưa lạnh hay tuyết rơi bất cứ lúc nào. Lặng gió, nhưng không khí lạnh tê tái. Một bầy chim nhỏ bay tới bay lui trên bầu trời vẽ thành những họa tiết phức tạp như thể đang viết chữ, rồi đột ngột vù đi mất. Lát sau tôi nghe thấy tiếng u u trầm trầm của một chiếc phản lực khuất trên những đám mây dày. Vào một ngày u ám tối trời như thế này, tôi có thể chui xuống giếng mà không sợ mặt trời làm hỏng mắt khi trở lên.

            Nhưng tôi vẫn ngồi đó một hồi, không làm gì cả. Chẳng việc gì phải làm vội. Ngày chỉ vừa chớm bắt đầu, còn lâu mới đến trưa. Tôi ngồi trên thành giếng, mặc cho đầu óc nghĩ lan man chuyện này chuyện khác không theo thứ tự gì. Con chim đá từng ở trong vườn này, người ta mang nó đi đâu? Phải chăng nó đang trang trí cho một khu vườn khác, vẫn đau đáu niềm khao khát vĩnh cửu và vô nghĩa là cất cánh lên bầu trời? Hay nó đã bị quẳng làm đồng nát khi người ta phá dỡ căn nhà của gia đình Miyawaki mùa hè năm ngoái? Tôi bùi ngùi nhớ lại bức tượng chim. Không có nó, dường như khu vườn mất đi sự cân bằng tinh diệu nào đó.

            Khi không còn gì để nghĩ nữa, tôi theo chiếc thang bằng thép trèo xuống giếng. Đặt chân lên đáy giếng, tôi hít mấy hơi dài để kiểm tra xem không khí có bình thường không, cũng như mọi khi. Nó vẫn vậy, sực mùi rêu, nhưng thở được. Tôi sờ soạng tìm cây gậy lần trước đã tựa vào vách giếng. Không có ở đó. Gậy chẳng thấy đâu cả. Nó đã biến mất. Hoàn toàn biến mất. Không dấu vết.

            * * *

            Tôi ngồi xuống nền giếng, tựa lưng vào tường mà thở dài.

            Ai đã lấy cái gậy đi chứ? Chỉ có thể là Quế. Anh ta là người duy nhất biết có nó, cũng là người duy nhất có thể nghĩ đến chuyện chui xuống giếng. Nhưng cớ sao phải lấy cây gậy đi? Điều đó thì tôi không hiểu nổi - một trong những điều tôi không hiểu nổi.

            Tôi đành phải dấn tới mà không có cây gậy, chẳng còn cách nào khác. Cũng không sao. Xét cho cùng, cây gậy chỉ là một thứ bùa hộ mệnh. Không có thì cũng chẳng phải là gì ghê gớm. Chẳng phải dù không có nó tôi vẫn từng lọt được vào căn phòng kia sao? Đưa ra cho chính mình những lập luận đó rồi, tôi liền giật dây thùng để đóng nắp giếng. Tôi đặt tay lên đầu gối rồi nhắm mắt lại trong bóng tối.

            Cũng như lần trước, tôi không thể nào tập trung tư tưởng. Mọi thứ ý nghĩ linh tinh chen chúc trong đầu, không còn chỗ để tập trung. Để thoát khỏi chúng, tôi cố nghĩ về hồ bơi, cái hồ bơi trong nhà dài hai mươi lăm mét mà tôi thường đến để bơi. Tôi hình dung mình làm vài vòng bơi sải ở đó. Không việc gì phải bơi nhanh, chỉ cần lặp đi lặp lại từng đó động tác một cách êm ru, đều đặn. Khuỳnh hai cùi chỏ ra sao cho không gây tiếng ồn, không bắn nước tung tóe, rồi dùng hai tay nhẹ nhàng xẻ nước, đầu tiên là ngón tay. Tôi hớp nước vào mồm rồi chầm chậm tuôn ra, như là thở dưới nước vậy. Sau một hồi, tôi cảm thấy thân mình trôi tự nhiên qua nước, như cưỡi trên làn gió nhẹ. m thanh duy nhất nghe được là tiếng thở đều đều của chính tôi. Tôi lướt trên gió như chim trên bầu trời nhìn xuống mặt đất ở bên dưới. Tôi thấy những thành thị xa xôi, những con người bé tí, những dòng sông trôi. Một nỗi bình an tràn ngập trong tôi, một cảm giác gần như ngây ngất. Bơi là một trong những điều đẹp đẽ nhất trong đời tôi. Nó chưa hề giải quyết được vấn đề gì, nhưng cũng không hề có hại, cũng chưa có gì làm hỏng niềm vui đó đối với tôi.

            Đúng lúc đó, tôi nghe thấy một cái gì.

            Quả thật tôi đang nghe thấy một tiếng u u trầm trầm, đơn điệu trong bóng tối, giống như tiếng vù vù của đôi cánh côn trùng. Nhưng cái âm thanh này nhân tạo quá, cơ khí quá, không thể là cánh côn trùng được. Tần số của nó có những biến đổi cao thấp tinh tế, như khi ta chuyển kênh ở máy thu thanh sóng ngắn. Tôi nín thở lắng nghe, cố nắm bắt xem âm thanh từ đâu. Dường như nó phát ra từ một điểm cố định trong bóng tối song đồng thời lại như từ chính trong đầu tôi. Trong bóng tối thăm thẳm, ranh giới giữa hai bên hầu như không thể nào xác định được.

            Tập trung hết tâm trí vào âm thanh đó, tôi ngủ lúc nào không biết. Thậm chí tôi không kịp cảm thấy buồn ngủ trước khi thiếp đi. Hoàn toàn bất ngờ, tôi thiếp đi, như thể tôi đang đi dọc theo một hành lang mà trong đầu chẳng có ý định gì cụ thể thì bỗng dưng bị ai đó kéo vào một căn phòng chưa hề biết. Tôi chìm vào cơn nửa tỉnh nửa mê đặc sệt như bùn đó trong bao lâu? Tôi không biết. Hẳn là không quá lâu. Có thể chỉ trong một khoảnh khắc. Nhưng khi có một cái gì đó làm cho ý thức trở lại thì tôi biết mình đã ở trong một bóng tối khác. Không khí khác, nhiệt độ khác, tính chất và chiều sâu của bóng tối khác. Cái bóng tối này nhuốm một thứ ánh sáng yếu ớt đùng đục. Và một mùi phấn hoa găn gắt quen thuộc xộc vào mũi tôi. Tôi đang ở trong căn phòng khách sạn kỳ lạ đó.

            Tôi ngẩng đầu lên, nhìn quanh, nín thở.

            Tôi đã đi xuyên qua tường.

            Tôi đang ngồi trên sàn trải thảm, lưng tựa vào bức tường bọc vải. Tay tôi vẫn đang xếp trên đầu gối. Cơn ngủ của tôi một khoảnh khắc trước đó đáng sợ và sâu hun hút bao nhiêu thì cơn tỉnh của tôi lúc này trọn vẹn và rõ rệt bấy nhiêu. Sự tương phản giữa mơ và tỉnh, nó cùng cực đến mức phải mất một hồi tôi mới quen được với cái tỉnh này. Tiếng tim tôi đập nghe cũng rõ mồn một. Không nghi ngờ gì nữa. Tôi đang ở đây. Rốt cuộc tôi đã vào được trong căn phòng.

            * * *

            Trong bóng tối dường như dệt bằng nhiều lớp lưới mắt nhỏ, căn phòng giống hệt như tôi nhớ từ lần trước. Tuy nhiên, khi mắt đã quen với bóng tối, tôi bắt đầu nhận ra những khác biệt nhỏ. Đầu tiên là cái điện thoại giờ nằm ở chỗ khác. Trước nó ở trên bàn ngủ, nay thì nằm trên một cái gối và dường như lọt thỏm vào trong gối. Kế đó tôi thấy lượng whisky trong chai đã vơi đi, gần như cạn đến đáy. Đá trong xô đã tan hết, chỉ còn lại một thứ nước cũ, đùng đục. Chất lỏng trong cốc đã khô, sờ tay vào tôi thấy lòng cốc phủ một lớp bụi trắng. Tôi lại gần giường, nhấc chiếc điện thoại lên, áp ống nghe lên tai. Đường dây không hoạt động. Căn phòng có vẻ đã bị bỏ rơi, bị lãng quên từ lâu lắm. Không có dấu vết sự hiện diện của con người. Duy có mấy bông hoa trong lọ còn giữ nguyên vẻ tươi tắn đến kỳ lạ.

            Có dấu hiệu cho thấy ai đó đã nằm trên giường: ga trải giường, chăn, gối đều hơi bị xô lệch. Tôi kéo thẳng ga trải giường rồi sờ xem có hơi ấm không, nhưng không có. Cũng không còn mùi nước hoa. Vậy từ khi người này rời giường đến giờ cũng đã khá lâu. Tôi ngồi nép ở mép giường, nhìn khắp phòng một lần nữa, lắng nghe. Nhưng chẳng có âm thanh nào. Nơi này giống như ngôi mộ cổ đã bị những tên đào mộ lấy trộm thi hài trong đó mang đi.

            * * *

            Đột nhiên điện thoại reo. Tim tôi co rúm lại như một con mèo sợ sệt. Những tiếng vang lảnh lót làm rung động những hạt phấn hoa lơ lửng trong không khí; các cánh hoa khẽ chuyển mình, ngẩng lên trong bóng tối. Làm thế nào điện thoại lại reo được? Mới vài phút trước nó còn câm lặng như tảng đá trong lòng đất. Tôi cố thở đều, giữ yên nhịp tim, rồi kiểm tra xem, liệu mình có vẫn ở trong căn phòng đó không. Tôi vươn tay chạm vào ống nghe, chần chừ một chút rồi mới nhấc lên. Cho tới khi đó điện thoại đã reo ba, bốn lần.

            "Alô". Điện thoại chết lặng ngay khi tôi nhấc ống nghe lên. Sức nặng bất khả cưỡng của cái chết đè nặng trong tay tôi như một cái bao cát. "Alô", tôi lại nói, nhưng giọng khô khốc của tôi dội trở lại không chút thay đổi, như thể bật lại từ một bức tường dày. Tôi đặt máy xuống, rồi lại nhấc lên nghe. Không có âm thanh nào. Tôi ngồi trên mép giường, cố thở đều trong khi chờ điện thoại reo lại. Nó không reo. Tôi nhìn những hạt bụi phấn trong không khí lại trở về với vô thức và chìm vào bóng tối. Tôi thử khôi phục lại tiếng điện thoại reo trong đầu mình. Tôi không còn dám tin chắc là điện thoại đã reo thật nữa. Nhưng nếu tôi để những nỗi ngờ vực kiểu đó len lỏi vào thì sẽ cứ ngờ vực mãi không bao giờ dứt. Tôi phải vạch ranh giới ở đâu đó. Nếu không thì tôi sẽ phải nghi ngờ ngay chính sự tồn tại của mình ở nơi này. Điện thoại đã reo. Điều đó là chắc chắn, không thể lầm được. Rồi một khoảnh khắc sau nó đã chết lặng. Tôi hắng giọng, nhưng cả cái âm thanh đó cũng lập tức tan biến trong không khí.

            Tôi đứng dậy đi một vòng quanh phòng. Tôi săm soi sàn nhà, nhìn chằm chặp lên trần, ngồi lên bàn, tựa vào tường, xoay nhanh quả đấm cửa, bật lên bật xuống công tắc cây đèn chân đế. Quả đấm hiển nhiên không xoay, đèn không sáng. Cửa sổ bị phong kín từ bên ngoài. Tôi căng tai nghe xem có tiếng gì không, nhưng sự im lặng giống như bức tường cao ngất, nhẵn thín. Thế nhưng tôi vẫn cảm thấy có một cái gì đó đang cố đánh lừa tôi, dường như có những kẻ khác đang nín thở, ép sát người vào tường, xóa màu da để tôi không biết rằng có họ ở đó. Cho nên tôi cũng vờ không nhận thấy. Cả hai bên chúng tôi rất giỏi lừa nhau. Tôi lại hắng giọng và sờ tay lên môi.

            Tôi quyết định kiểm tra căn phòng một lần nữa. Tôi lại thử cây đèn chân đế, nhưng đèn không sáng. Tôi mở nút chai whisky, ngửi chỗ rượu còn sót lại. Mùi vẫn không thay đổi. Cutty Sark. Tôi đậy nút lại rồi đặt lại chai lên bàn. Tôi kê ống nghe lên tai một lần nữa, nhưng câm lặng vẫn hoàn câm lặng. Tôi bước chậm mấy bước để cảm nhận tấm thảm bên dưới giày. Tôi áp tai vào tường, tập trung chú ý, cố nghe xem có âm thanh nào lọt qua không, nhưng dĩ nhiên là không. Tôi đi lại phía cửa, xoay quả đấm, dù biết làm thế là vô nghĩa. Quả đấm xoay dễ dàng về bên phải. Tôi ngớ ra một lúc, không hiểu thế nào. Mới đó quả đấm cửa còn cứng ngắc như gắn bằng xi-măng. Tôi lặp lại từ đầu, buông quả đấm ra rồi lại chìa tay nắm lấy, xoay sang phải, xoay sang trái. Nó xoay ngon lành trong tay tôi. Một cảm giác kỳ quặc nảy ra trong tôi, như thể lưỡi tôi đang sưng phù lên trong mồm.

            Cửa mở.

            Tôi đẩy quả đấm cho đến khi cửa mở ra vừa đủ cho một làn ánh sáng chói lòa tuôn vào phòng. Cây gậy. Giá như có cây gậy, tôi sẽ thấy tự tin hơn. Mà thôi, quên cây gậy đi! Tôi đẩy rộng cửa ra. Tôi nhìn bên phải rồi bên trái, thấy không có ai, tôi mới bước ra ngoài. Đó là một hành lang dài, trải thảm. Cách không xa là một chiếc bình lớn có cắm hoa. Đó chính là chiếc bình hoa mà tôi đã nấp đằng sau, khi gã bồi huýt sáo luôn mồm kia gõ cửa. Trong ký ức của tôi hành lang này dài, có nhiều chỗ ngoặt và nhánh rẽ. Tôi đã tình cờ chạm trán gã bồi huýt sáo kia và đi theo gã. Tấm biển trên cửa ghi rõ Phòng 208.

            Bước thật cẩn thận, tôi đến gần bình hoa. Tôi hy vọng có thể tìm được đường ra chỗ tiền sảnh, nơi lần trước Wataya Noboru đã xuất hiện trên truyền hình. Tôi mong sẽ có thể tìm ra vài manh mối ở đó. Nhưng đi lang thang trong cái khách sạn này chẳng khác gì liều mạng đi trong sa mạc mênh mông mà không có la bàn. Nếu không tìm được chỗ tiền sảnh rồi tiếp tục không tìm được đường trở lại Phòng 208 thì ắt tôi sẽ bị cầm tù trong chốn mê cung này, không thể quay về thế giới thực nữa.

            Nhưng không có thời gian chần chừ thêm. Đây có thể là cơ hội cuối cùng của tôi. Tôi đã đợi dưới đáy giếng từng ngày một, trong sáu tháng trời, nay thì cửa đã mở trước mặt tôi. Hơn nữa, chẳng mấy chốc người ta sẽ tước đi cái giếng khỏi tôi. Nếu tôi lùi bước lần này thì bao nhiêu thời gian công sức của tôi sẽ hóa thành công cốc.

            Tôi rẽ mấy lần. Đôi giày tennis bẩn thỉu của tôi bước êm ru trên thảm. Tôi chẳng nghe thấy gì, không giọng người, không tiếng nhạc, không tiếng tivi, không có cả tiếng cánh quạt hay thang máy. Khách sạn lặng ngắt như một công trình đổ nát bị thời gian bỏ quên. Tôi rẽ nhiều lần, đi qua nhiều cánh cửa. Hành lang phân nhánh liên tục, cứ mỗi lần như vậy tôi đều rẽ phải, ý là để nếu muốn quay về, tôi chỉ cần toàn rẽ trái là sẽ tìm được phòng nơi xuất phát. Nhưng rồi tôi mất phương hướng. Đi, đi mãi mà không hề cảm thấy mình đang đến gần bất cứ cái gì. Các phòng đánh số không theo thứ tự nào, lại cứ nối nhau không biết bao giờ mới hết nên có số cũng bằng không. Các con số chưa kịp ghi vào trí nhớ thì đã trôi tuột mất khỏi đầu tôi. Thỉnh thoảng tôi lại có cảm giác mình đã đi qua số này số nọ rồi. Đến giữa hành lang tôi dừng lại thở. Có phải tôi đang đi vòng vòng cùng một chỗ như khi người ta lạc lối trong rừng?

            * * *

            Đang đứng đó tự hỏi sẽ làm gì thì tôi nghe một âm thanh quen thuộc ở đằng xa. Đó là gã bồi luôn mồm huýt sáo. Hắn huýt quả là cừ khôi, thật chẳng ai sánh bằng. Cũng như lần trước, hắn đang huýt bản overtune trong vở Chim ác là ăn cắp của Rossini, giai điệu này huýt sáo không dễ, nhưng xem ra hắn làm được chẳng khó khăn gì. Tôi tiến dọc theo hành lang về phía có tiếng huýt sáo mà lúc này nghe đã to hơn, rõ hơn. Hình như hắn đang đi về phía tôi. Tôi nhìn thấy một cái cột khá to, liền nấp đằng sau.

            Gã bồi vẫn bưng một chiếc khay bằng bạc, trên đó vẫn là chai Cutty Sark, xô nước đá và hai chiếc cốc. Hắn đi vội ngang qua tôi, hướng thẳng về phía trước, vẻ mặt chừng như hắn đang bị mê hoặc bởi tiếng huýt sáo của chính mình. Hắn không nhìn về phía tôi, hắn đang vội đến nỗi không thể phí phạm dù chỉ một giây cho một động tác thừa. Mọi cái y như lần trước, tôi nghĩ. Dường như thể xác tôi đang được đưa về quá khứ.

            Ngay khi gã bồi đi qua rồi, tôi liền theo chân hắn. Chiếc khay bạc của hắn bập bềnh lên xuống nhịp nhàng theo giai điệu mà hắn đang huýt sáo, thỉnh thoảng lại phản chiếu ánh đèn chùm trên trần. Hắn lặp đi lặp lại giai điệu Chim ác là ăn cắp như một lời thần chú. Chẳng biết vở opera này nói về cái gì nhỉ? Tôi chẳng biết gì hơn về nó ngoài giai điệu có phần buồn tẻ của khúc overtune và cái tên kỳ bí. Hồi tôi còn nhỏ, nhà tôi có một đĩa thu bản overtune này do Toscanini điều khiển dàn nhạc. So với cách diễn tấu trẻ trung, khinh khoái, hiện đại của Claudio Abbado thì cách của Toscanini có gì đó khốc liệt khuấy động máu trong người, như khi sau trận chiến sống mái với một kẻ thù hùng mạnh, ta đánh bại được đối phương và khoan thai bóp cổ y cho đến chết. Nhưng thật ra Chim ác là ăn cắp có phải là câu chuyện về một con chim dính vào trò ăn cắp không? Nếu mọi việc giải quyết êm xuôi, hẳn tôi phải đến thư viện tìm trong từ điển bách khoa âm nhạc xem sao. Thậm chí tôi cần mua một đĩa thu toàn bộ vở opera nếu có. Hay là không cần? Có khi đến lúc đó, tôi lại chẳng buồn biết lời đáp cho các câu hỏi kia là gì nữa.

            Gã bồi chuyên huýt sáo vẫn tiếp tục đi thẳng, bước đều tăm tắp như người máy, tôi thì theo sau, cách một quãng cố định. Không cần nghĩ tôi cũng biết hắn đang đi đâu. Hắn đang mang chai Cutty Sark, nước đá và ly đến Phòng 208. Thật vậy, hắn dừng lại trước Phòng 208. Hắn chuyển khay sang tay trái, kiểm tra số phòng, sửa lại tư thế rồi gõ cửa cho có lệ. Gõ ba lần, rồi ba lần nữa.

            Tôi không biết liệu có tiếng trả lời từ bên trong không. Tôi nấp sau bình hoa quan sát gã bồi. Thời gian trôi qua, nhưng gã bồi vẫn đứng nguyên đó, như đang cố thử xem giới hạn sức chịu đựng của mình đến đâu. Hắn không gõ thêm, chỉ lẳng lặng chờ cửa mở. Cuối cùng, như đáp lại một lời cầu nguyện, cửa bắt đầu mở vào trong.

            32

            Buộc người khác dùng trí tưởng tượng

            (Chuyện Boris Lột da, tiếp theo)

            *

            Boris đã giữ lời hứa. Tù binh Nhật chúng tôi được tự trị một phần, được phép lập ban đại diện. Viên đại tá làm trưởng ban. Từ đó trở đi, các cai tù Nga, cả dân sự và quân sự, đều được lệnh không được bạo hành nữa, và ban đại diện tù binh chịu trách nhiệm giữ gìn trật tự trong trại. Chừng nào chúng tôi không gây chuyện và hoàn thành chỉ tiêu sản xuất thì còn được yên thân. Bề ngoài thì đó là chính sách của tay Ủy viên Bộ chính trị mới, song thực chất là của Boris. Những cái cách thoạt trông có vẻ dân chủ này lẽ ra phải là tin vui cho bọn tù binh chúng tôi.

            Nhưng hóa ra mọi chuyện không đơn giản như vậy. Quá say sưa chào đón những cải cách mới, chúng tôi đã quá ngu ngốc không nhìn thấy cái bẫy thâm độc mà Boris đã giăng ra cho chúng tôi.

            Được sự hỗ trợ của cảnh sát mật, Boris trở nên có thế lực hơn nhiều so với tay Ủy viên Bộ chính trị mới bổ nhiệm, thế là y tiến hành biến cải trại tù và trị trấn mỏ theo cách của y. Lừa đảo, lật lọng và khủng bố trở thành chuyện bình thường như cơm bữa. Boris chọn ra trong số tù nhân và cai tù những kẻ khỏe mạnh nhất và hung ác nhất (loại này thì không thiếu), đào tạo rồi biến chúng thành đội vệ sĩ riêng của hắn. Vũ trang bằng súng, dao, dùi cui, đám vệ sĩ đặc tuyển này săn sóc tận tình bất cứ kẻ nào dám cự lại Boris, đeo dọa và hành hung họ, đôi khi còn đánh chết họ theo lệnh của hắn. Không ai dám đụng đến chúng. Đám lính được quân đội cứ đến canh gác mỏ thường vờ không thấy những gì diễn ra ngay trước mũi họ. Tới khi đó thì ngay cả quân đội cũng không làm gì được Boris. Lính tráng ngồi đằng xa, chỉ canh chừng ga xe lửa và doanh trại của chính mình, còn những gì xảy ra trong mỏ và trong trại thì coi như chẳng liên quan gì đến họ.

            Kẻ mà Boris ưa nhất trong số các cận vệ đặc tuyển của hắn là một tù nhân mệnh danh là "Thằng Tác-ta", đâu như là cựu vô địch vật Mông Cổ. Boris đi đâu hắn cũng kè kè một bên như hình với bóng. Hắn có một vết sẹo bỏng lớn trên má phải, nghe nói do bị tra tấn. Boris không mặc quần áo tù nữa và chuyển vào sống trong một căn nhà nhỏ tươm tất do một nữ tù đảm trách quét dọn.

            Theo Nikolai (ông ta ngày càng miễn cưỡng nói chuyện với tôi), một số người Nga mà ông ta biết đã biến mất như bốc hơi giữa đêm khuya. Hồ sơ chính thức ghi rằng họ mất tích hoặc chết vì tai nạn, nhưng chẳng nghi ngờ gì nữa, họ đã được đám lâu la của Boris "săn sóc". Chỉ cần không tuân lệnh Boris hay thậm chí chỉ không làm hắn hài lòng, là đủ để nguy đến tính mạng. Dăm ba người tìm cách khiếu nại trực tiếp lên Trung ương Đảng về tình trạng bạo hành trong trại, thế là sau đó chẳng ai nhìn thấy họ nữa. "Tôi nghe kể chúng giết cả một đứa trẻ mới bảy tuổi để bắt cha mẹ nó phải khuất phục. Chúng đánh thằng bé đến chết trước mặt cha mẹ nó," Nikolai kể, mặt tái mét.

            Ban đầu Boris không làm gì quá đáng như vậy trong khu người Nhật. Hắn còn bận tập trung sức lực nhằm kiểm soát hoàn toàn đám cai tù Nga và củng cố vị thế của hắn ở đó, nên tạm thời để người Nhật tự giải quyết lấy việc của mình. Thành thử trong mấy tháng đầu chúng tôi được hưởng một khoảng bình an ngắn ngủi. Đó là những ngày bình lặng, thật sự là êm ả của chúng tôi. Ủy ban của chúng tôi đã đấu tranh thắng lợi để chế độ lao động bớt hà khắc hơn dù chỉ một chút. Lần đầu tiên từ khi đến đây, chúng tôi mới có được cảm giác gì đó gần như là hy vọng. Tất cả đều tin mọi việc đang trở nên tốt đẹp hơn.

            Chẳng phải Boris không để mắt đến chúng tôi trong "tuần trăng mật" đó đâu. Đơn giản là hắn đang âm thầm sắp xếp các quân cờ để giành lợi thế chiến lược. Hắn tác động lên các thành viên ủy ban đại diện tù binh Nhật, từng người một, rất kín đáo, người thì hắn mua chuộc, kẻ thì hắn đe dọa, để dần dần khống chế họ. Hắn tránh dùng bạo lực lộ liễu mà tiến hành một cách vô cùng thận trọng, vì vậy chẳng ai nhận thấy hắn đang làm gì. Khi rốt cuộc chúng tôi cũng nhận ra thì đã quá muộn. Dưới cái vỏ bọc dành cho chúng tôi quyền tự trị, hắn làm chúng tôi mất cảnh giác, đồng thời tạo ra một hệ thống kiểm soát mới còn hữu hiệu hơn. Những tính toán của hắn chính xác một cách lạnh tanh và ác quỷ. Quả là hắn đã chấm dứt tình trạng bạo lực tự phát và vô nghĩa mà chúng tôi phải chịu, nhưng thay vào đó hắn tạo ra một thứ bạo lực mới được tính toán lạnh lùng.

            Sáu tháng sau, củng cố xong cơ cấu kiểm soát của mình, hắn bèn chuyển hướng, bắt đầu gây áp lực lên chúng tôi. Nạn nhân đầu tiên của hắn là thành viên quan trọng nhất của ủy ban - viên đại tá. Ông đã mấy lần thay mặt tù binh Nhật đối đầu trực diện với Boris về một số vụ việc, hậu quả là ông bị thanh toán. Cho tới khi đó chỉ còn ông và vài người nữa trong ủy ban là không phục tùng Boris. Một đêm nọ chúng đè ông xuống, siết khăn mặt ướt lên mặt ông cho đến khi ông tắc thở chết. Dĩ nhiên đó là theo lệnh của Boris, nhưng hắn chẳng bao giờ nhúng vào cho bẩn tay trong trường hợp giết người Nhật. Hắn chỉ việc ra lệnh cho ủy ban, để chính người Nhật làm việc đó. Cái chết của viên đại tá được ghi là chết vì bệnh. Bọn chúng tôi ai cũng biết kẻ đã giết ông, nhưng chẳng ai dám nói. Chúng tôi biết nội bộ mình có tay trong của Boris, thành thử khi có mặt người khác thì phải giữ mồm giữ miệng. Sau khi đại tá bị ám sát, ủy ban liền bầu cho một ứng viên do chính Boris chọn làm chủ tịch thay ông.

            Ngay sau khi có sự thay người trong ủy ban, môi trường làm việc của tù binh Nhật ngày càng xấu đi, cho đến khi trở thành tồi tệ chưa từng thấy. Để đổi lại quyền tự trị, chúng tôi đã có thỏa thuận với Boris về chỉ tiêu sản xuất, ấy thế là chỉ tiêu ngày một nặng nề. Chỉ tiêu không ngừng tăng lên vì cớ này hay cớ khác, cho tới khi công việc trở nên nặng nhọc hơn bao giờ hết. Số tai nạn cũng gia tăng, nhiều người lính Nhật phải bỏ xương nơi đất lạ quê người, nạn nhân của tình trạng khai thác mỏ vô tội vạ. "Tự trị" chỉ có nghĩa là người Nhật giờ tự giám sát lấy công việc của mình thay cho người Nga như trước kia.

            Dĩ nhiên, các tù binh ngày một bất mãn. Trại chúng tôi trước kia là một xã hội nho nhỏ nơi chúng tôi chia đều nhau phần lao khổ, nay chỉ còn là sự bất công, rồi cùng với nó là thù hận và nghi kỵ sâu sắc. Những ai phục vụ Boris thì được giao việc nhẹ nhàng hơn, được đặc quyền đặc lợi, những ai không làm cho hắn thì phải chịu cảnh sống thê thảm - ấy là nếu còn được phép sống. Không ai dám mở mồm kêu ca, bởi vì phản đối công khai có nghĩa là chết. Người ta có thể bị ném vào một cái nhà hoang lạnh buốt để chết vì đói rét, hoặc bị siết khăn tắm ướt lên mặt khi đang ngủ, hoặc bị một cái cuốc chim bổ toác sọ từ đằng sau trong khi làm việc ở mỏ, hay bị ném xuống đáy hầm lò. Dưới mỏ tối om, ai biết chuyện gì đang xảy ra? Người ta biến mất, đơn giản là thế.

            Tôi không khỏi cảm thấy mình có lỗi trong việc làm trung gian cho Boris và đại tá gặp nhau. Dĩ nhiên, dù tôi không dính tới thì thể nào Boris cũng sẽ chui được vào giữa chúng tôi bằng cách này hay cách khác, không sớm thì muộn, hậu quả vẫn y như vậy. Nhưng ý nghĩ đó không làm nguôi được nỗi đau của tôi. Tôi đã phạm một sai lầm khủng khiếp.

            Một hôm tôi được gọi đến tòa nhà nơi Boris dùng làm văn phòng. Đã lâu lắm tôi không gặp hắn. Hắn ngồi uống trà nơi bàn, giống như lần tôi gặp hắn ở phòng trưởng ga. Đứng nghiêm đằng sau hắn là Thằng Tác-ta, bên hông đeo một khẩu súng lục to nòng. Khi tôi vào phòng, Boris ngoái lại tên Mông Cổ, ra hiệu bảo hắn đi ra ngoài. Chỉ còn lại Boris và tôi.

            - Thế nào hở Trung úy Mamiya? Anh thấy đó, tôi đã giữ lời hứa.

            Đúng là hắn đã giữ lời, tôi đáp. Bất hạnh thay, hắn nói đúng. Mọi điều đã hứa với tôi, hắn đều thực hiện. Tôi như đã ký một giao kèo với quỷ dữ.

            - Các anh được quyền tự trị, tôi thì được quyền lực, - hắn vừa nói vừa cười, hai tay giang rộng. - Cả hai ta muốn gì là được nấy. Sản lượng than tăng, ở thủ đô người ta hài lòng. Còn đòi gì hơn nữa? Tôi rất biết ơn anh đã làm người môi giới cho tôi, nên giờ tôi muốn làm gì đó để trả ơn anh.

            - Không cần phải thế đâu, - tôi đáp.

            - Anh không cần phải xa cách như vậy, Trung úy ạ. Hai ta trở lại vấn đề nhé. Tôi muốn anh làm việc ở đây với tôi. Tôi muốn anh làm trợ lý cho tôi. Đáng tiếc là chốn này quá thiếu những người có khả năng nghĩ bằng cái đầu. Anh có thể thiếu một bàn tay, nhưng bù lại trí óc anh thừa sắc bén. Nếu anh làm thư ký cho tôi, tôi sẽ biết ơn lắm; tôi sẽ làm tất cả những gì có thể để bảo đảm cho anh thấy dễ chịu ở đây. Chừng đó thì nhất định anh sẽ sống, có khi còn được trở về Nhật nữa. Cứ thân cận với tôi đi, chỉ có lợi cho anh thôi.

            Bình thường thì tôi sẽ cự tuyệt thẳng thừng một đề nghị như vậy. Tôi không có ý định làm hầu cận cho Boris, bán rẻ anh em đồng bào để mong yên ổn cái thân mình. Mà nếu khước từ thì hắn sẽ giết tôi, vậy cũng tốt. Nhưng ngay lúc hắn đưa ra đề nghị, một kế hoạch chợt hình thành trong đầu tôi.

            - Ông muốn tôi làm những việc gì? - Tôi hỏi.

            Công việc mà Boris muốn tôi làm không phải là dễ dàng. Số lượng các sự vụ mà tôi cần đảm nhiệm vô cùng lớn, trong đó quan trọng nhất là quản lý tài sản riêng của Boris. Boris thường xuyên ém lại chừng bốn mươi phần trăm số thực phẩm, quần áo, thuốc men mà Mátxcơva và Hội Chữ thập đỏ Quốc tế gửi tới trại, cất vào kho bí mật rồi bán cho con buôn. Hắn cũng thường hay bán cả một đoàn xe lửa chở than ra chợ đen. Nhiên liệu thiếu trầm trọng, có bao nhiêu cũng không đủ. Hắn đút lót các công nhân đường sắt và trưởng ga để họ cho hắn tùy ý bố trí các đoàn tàu, nhớ đó hắn tha hồ vớ bẫm. Đám lính canh gác nhà ga được đắm mõm thức ăn và tiền nên nhắm mắt làm ngơ mọi chuyện. Nhờ những phương thức "kinh doanh" đó mà Boris đã tích cóp được một tài sản kếch xù. Hắn giải thích với tôi rằng tiền đó thật ra là để làm vốn hoạt động cho cảnh sát mật. "Hoạt động của chúng tôi", như hắn gọi, đòi hỏi chi những khoản rất lớn mà lại không thể ghi vào chứng từ hợp pháp, nên ở đây hắn phải làm nhiệm vụ "huy động" các quỹ bí mật kia. Nhưng đó là dối trá. Có thể một phần tiền được gửi về Mátxcơva thật, nhưng tôi tin chắc rằng hơn một nửa số tiền kia lọt vào túi riêng của Boris. Theo tôi biết, chỗ tiền đó hắn gửi nhà băng nước ngoài hay dùng để mua vàng.

            Vì lý do khó hiểu nào đó, Boris hoàn toàn tin cậy tôi. Hình như hắn chưa bao giờ nảy ra ý nghĩ rằng, tôi có thể tiết lộ những bí mật của hắn cho người ngoài, điều đó giờ đây tôi cảm thấy thật lạ. Hắn luôn luôn cực kỳ đa nghi đối với người Nga và những người da trắng khác, nhưng với người Mông Cổ và người Nhật thì hắn lại tuyệt đối tín nhiệm. Có lẽ hắn cho rằng tôi không thể hại gì hắn được dù tôi có hở ra về bí mật của hắn. Trước hết, tôi hở ra với ai mới được chứ? Quanh tôi toàn những kẻ cộng tác với hắn hoặc tay chân hắn, mỗi người đều được hưởng một phần con con trong khoản lợi nhuận khổng lồ của Boris. Còn những kẻ duy nhất đang khổ sở và chết dần mòn vì Boris đem bán những thức ăn, quần áo, thuốc men mà lẽ ra họ được hưởng để mưu lợi cho riêng hắn, thảy đều là đám tù bất lực trong trại. Hơn nữa, mọi thư từ đều bị kiểm duyệt, mọi tiếp xúc với người ngoài đều bị cấm.

            Thế là tôi trở thành thư ký riêng của Boris, một thư ký riêng năng nổ, trung thành. Tôi cải tiến lại hoàn toàn hệ thống sổ kế toán và theo dõi hàng tồn của hắn mà xưa nay là cả một mớ bòng bong. Tôi tiến hành hệ thống hóa và làm rõ luồng chu chuyển hàng hóa, vòng quay tiền mặt. Tôi tạo những cuốn sổ riêng biệt mà chỉ cần liếc vào là có thể biết ngay số lượng, vị trí của bất cứ món hàng nào, giá cả đang dao động ra sao. Tôi lập một danh sách dài những người nhận hối lộ và những "phí tổn cần thiết" cho mỗi người. Tôi làm quần quật cho Boris từ sáng đến tối, hậu quả là tôi mất hết dăm người bạn ít ỏi mà tôi có. Người ta nghĩ về tôi (không thể nào không nghĩ) như một tên đê tiện đáng khinh đã bán mình làm kẻ liếm gót trung thành cho Boris. Và buồn thay, hẳn là mãi đến giờ họ vẫn còn nghĩ về tôi như vậy. Nikolai không nói năng gì với tôi nữa. Hai ba tù binh Nhật mà tôi vẫn chơi thân, nay hễ thấy tôi đến là ngoảnh đi nơi khác. Mặt khác, lại có những kẻ cố làm thân vì thấy tôi đã thành người thân tín của Boris, nhưng tôi không muốn dính dáng gì tới bọn họ. Thế là tôi trở thành kẻ bị cô lập trong trại. Người ta không giết tôi chỉ vì đằng sau tôi có Boris. Kẻ nào dám ám sát vật sở hữu quý nhất của Boris mà lại yên thân được. Ai cũng biết Boris tàn bạo đến mức nào; tiếng tăm "lột da" của hắn đạt đến tầm cỡ huyền thoại ngay cả ở đây.

            Tôi càng bị cô lập thì Boris càng tín nhiệm tôi hơn. Hắn hài lòng với thói quen làm việc hữu hiệu và có hệ thống của tôi, và về lời khen thì hắn rất hào phóng.

            - Trung úy Mamiya ạ, anh cừ lắm. Chừng nào nước Nhật còn có những người như anh, thì Nhật Bản chắc chắn sẽ phục hồi được sau cơn hỗn loạn thời hậu chiến. Nước tôi thì vô vọng rồi. Có khi thời Sa hoàng còn khá hơn. Ít nhất là Sa hoàng không phải nát óc vì một mớ lý thuyết. Lenin hiểu được dăm ba thứ từ lý thuyết của Marx rồi cứ thế áp dụng sao cho được việc mình, Stalin hiểu dăm ba thứ (có được bao lâu đâu) từ lý thuyết của Lenin rồi cứ thế áp dụng sao cho được việc ông ta. Trí óc càng hạn hẹp thì người ta lại càng có nhiều quyền lực ở cái xứ này. Trung úy ạ, tôi bảo anh thế này: ở đây chỉ có một cách duy nhất để sống sót mà thôi. Đó là không tưởng tượng gì hết. Gã người Nga nào dùng trí tưởng tượng của hắn là tới số. Tôi chả bao giờ dùng trí tưởng tượng của tôi cả. Việc của tôi là làm cho người khác dùng trí tưởng tượng của họ. Đó là miếng bánh của tôi. Hãy nhớ lấy điều đó cho kỹ. Và chừng nào anh còn ở đây thì ít nhất mỗi khi bắt đầu tưởng tượng cái gì đó, hãy hình dung khuôn mặt tôi và tự nhủ: không, đừng làm vậy. Tưởng tượng là mất mạng như chơi. Lời khuyên vàng ngọc của tôi đấy. Gì chứ tưởng tượng thì hãy dành cho kẻ khác.

            Nửa năm trôi qua như vậy. Nay đã gần cuối thu năm 1947, tôi đã trở thành người không thể thiếu được đối với Boris. Tôi chịu trách nhiệm về khía cạnh kinh doanh trong hoạt động của hắn, còn Thằng Tác-ta đảm nhận phần bạo lực. Lực lượng cảnh sát mật vẫn chưa triệu hồi Boris về Mátxcơva, nhưng đến khi đó dường như hắn cũng không còn muốn về thủ đô nữa. Hắn đã ít nhiều biến trại tù và mỏ than thành lãnh địa riêng bất khả xâm phạm của mình, ở đó hắn có đầy đủ tiện nghi, đều đều hốt bạc, lại được cả một đội quân của chính mình bảo vệ. Mà có khi ngay cả giới lãnh đạo thủ đô cũng không muốn gọi hắn về mà cứ để hắn ở đó nhằm củng cố chỗ đứng của họ ở Siberia. Giữa Mátxcơva và Boris vẫn thường xuyên trao đổi thư từ, dĩ nhiên không phải bằng bưu điện mà theo đường xe lửa, qua tay các sứ giả bí mật. Đó luôn luôn là những gã cao lớn có cặp mắt lạnh băng. Mỗi khi một tên như vậy bước vào, nhiệt độ trong phòng dường như tụt ngay xuống.

            Trong khi đó, tù nhân làm trong mỏ vẫn tiếp tục chết như rạ, xác vẫn tiếp tục bị vứt vào hầm lò. Boris tiến hành đánh giá toàn diện khả năng của từng tù nhân, kẻ nào ốm yếu thì hắn vắt kiệt lực đồng thời giảm khẩu phần ăn để giết họ dần dần và giảm số miệng ăn. Chỗ thức ăn cắt giảm từ khẩu phần của người yếu được bổ sung cho người mạnh để nâng cao năng suất. Ở trại này hiệu quả là tất cả: đó là thứ luật rừng, mạnh được yếu thua. Mỗi khi số nhân lực bắt đầu giảm, hàng đoàn xe tải chật ních tù nhân mới như những đoàn tàu chở gia súc lại đến. Đôi khi có tới hai mươi phần trăm "chuyến hàng" chết trên đường đi, nhưng chuyện đó chẳng ai quan tâm. Hầu hết tù mới là người Nga và Đông u từ phía Tây mang về. Thật may cho Boris rằng chính sách bạo lực của Stalin vẫn tiếp tục thịnh hành ở đó.

            Kế hoạch của tôi là giết Boris. Dĩ nhiên tôi biết, dù khử kẻ này thì cũng không có gì bảo đảm tình thế của chúng tôi sẽ khá hơn lên. Đằng nào cũng vẫn là địa ngục, không dạng này thì dạng khác. Nhưng đơn giản là tôi không thể để con người như thế tiếp tục tồn tại trên đời này. Như Nikolai đã nói, hắn như con rắn độc. Ai đó sẽ phải chặt đầu nó.

            Tôi không sợ chết. Có chăng là tôi sẵn sàng để Boris giết tôi như tôi giết hắn. Nhưng tôi không thể phạm sai lầm. Tôi phải đợi cho đến đúng cái khoảnh khắc khi tôi có thể tin tưởng tuyệt đối rằng sẽ chắc chắn kết liễu được mạng hắn chỉ bằng một phát súng. Tôi vẫn đóng vai người thư ký trung thành của hắn trong khi chờ cơ hội vồ mồi. Nhưng như tôi đã nói, hắn là kẻ cực kỳ thận trọng. Thằng Tác-ta kè kè bên cạnh hắn cả ngày lẫn đêm. Mà cho dù nếu hắn cho tôi cơ hội chỉ gặp mình hắn thì làm sao tôi giết hắn khi chỉ có một bàn tay, lại còn không có súng nữa? Nhưng tôi vẫn nhẫn nại chờ thời cơ. Nếu trên thế giới này quả thật có ông trời, thì lúc nào đó ngài ắt phải ban cơ hội cho tôi.

            * * *

            Đầu năm 1948, có một tin đồn loan ra trong trại, rằng các tù binh Nhật cuối cùng cũng được phép trở về tổ quốc, rằng vào mùa xuân sẽ có một con tàu sang đây để đưa chúng tôi hồi hương. Tôi hỏi Boris về chuyện đó.

            - Đúng là vậy, Trung úy Mamiya ạ, - hắn nói. - Tin đồn đúng đấy. Các anh sẽ được về nước, không lâu nữa đâu. Một phần do dư luận quốc tế, chúng tôi không thể giữ các anh lâu hơn nữa. Nhưng tôi có một đề nghị cho anh, Trung úy. Liệu anh có muốn ở lại đất nước này, không phải như tù binh chiến tranh mà như một công dân Xô Viết tự do không? Anh đã phục vụ tôi rất tốt, tôi tìm đâu ra người thay thế anh chứ? Về phần đây, nếu ở lại đây với tôi, anh cũng sẽ sống tươi hơn nhiều so với trở về Nhật mà chịu cực chịu nghèo. Nghe nói ở Nhật bây giờ cái ăn cũng chẳng có, người ta đang chết đói. Ở đây thì anh có tiền, có đàn bà, có quyền lực, gì cũng có.

            Boris đưa ra đề nghị đó hoàn toàn nghiêm túc. Hắn biết để tôi ra đi thì có thể sẽ nguy hiểm bởi tôi biết bí mật của hắn. Nếu tôi từ chối, hắn có thể khử tôi để diệt khẩu. Nhưng tôi không sợ. Tôi cảm ơn lời mời của hắn nhưng nói rằng, tôi muốn về Nhật vì lo cho cha mẹ và chị gái. Boris nhún vai và không nói gì nữa.

            Cơ hội tuyệt vời để giết Boris tự đến với tôi vào một đêm tháng Ba, khi ngày hồi hương đã đến gần. Lúc gần chín giờ tối, Thằng Tác-ta ra ngoài, để lại mình tôi với Boris. Tôi đang làm sổ sách kế toán như mọi khi, Boris ngồi viết thư nơi bàn. Ít khi chúng tôi ở lại văn phòng muộn như vậy. Thỉnh thoảng hắn nhấp một ngụm brandy trong khi ngoáy bút trên giấy. Trên giá mắc áo, bên cạnh áo da và mũ của Boris là khẩu súng lục đút trong bao da. Không phải loại súng lục to đùng do quân đội Liên Xô sản xuất mà là súng Walther PPK của Đức, hình như Boris lấy của một thiếu tá SS bị bắt làm tù binh tại trận chiến trên sông Danube. Súng luôn sạch như lau như ly, bóng loáng, trên báng súng có huy hiệu SS giống như hai lằn sét. Tôi vẫn thường quan sát Boris lau súng, và tôi biết trong băng đạn luôn luôn có đạn - tám viên đạn.

            Hắn treo súng nơi giá mắc áo thì thật không bình thường. Vốn cực kỳ cẩn thận, mỗi khi làm việc ở bàn hắn luôn luôn cất súng trong ngăn kéo bên phải. Tuy nhiên, đêm ấy vì lý do nào đó hắn đang trong tâm trạng vui vẻ, nói nhiều nên không thận trọng như mọi khi. Cơ hội này thật không thể có đến lần thứ hai! Đã bao nhiêu lần tôi ôn đi ôn lại trong trí cái cảnh tôi dùng bàn tay duy nhất của mình mở khóa an toàn và đẩy viên đạn đầu tiên vào ổ đạn. Cuối cùng, quyết định hành động, tôi đứng dậy đi ngang qua giá mắc áo, vờ đi lấy một biểu mẫu. Boris cắm cúi viết thư, không nhìn về phía tôi. Ngang qua mắc áo, không dừng lại, tôi rút súng khỏi vỏ. Khẩu súng nhỏ nhắn nằm vừa khớp trong lòng bàn tay tôi. Gọn, nhẹ, rõ là thứ vũ khí tuyệt hảo. Tôi đứng trước mặt Boris và mở chốt an toàn. Đoạn, kẹp súng giữa hai đầu gối, tôi dùng tay phải kéo khóa nòng, đẩy một viên đạn vào ổ đạn. Tôi dùng ngón cái kéo kim hỏa, làm phát ra một âm thanh nhỏ, khô khốc. Nghe cái tiếng ấy, Boris ngẩng đầu lên, thấy tôi đang chĩa súng vào mặt hắn.

            Hắn lắc đầu thở dài.

            - Đáng buồn cho anh là súng không có đạn, Trung úy ạ, - hắn đậy nắp bút lại rồi nói. - Cầm súng lên nghe nặng nhẹ thì biết có đạn hay không. Thử lắc lắc xem. Tám viên đạn cỡ 7,65 ly, tổng cộng tám mươi gam.

            Tôi không tin. Không trù trừ, tôi chĩa họng súng vào trán hắn rồi bóp cò. Chỉ nghe một tiếng tách khô khốc. Hắn nói đúng: súng không có đạn. Tôi đặt súng xuống cắn môi, không nghĩ được gì cả. Boris mở ngăn kéo lấy ra một nắm đạn, đặt vào lòng bàn tay chìa cho tôi xem. Hắn đã lừa tôi. Hắn đã dàn dựng tất cả từ đầu đến cuối để lừa tôi.

            - Lâu nay tôi đã biết anh muốn giết tôi, - hắn nhẹ nhàng nói. - Anh đã tưởng tượng, đã hình dung trong đầu chuyện đó hàng bao nhiêu lần, tôi nói có đúng không nhỉ? Tôi đã bảo anh lâu rồi: đừng bao giờ dùng trí tưởng tượng mà mất mạng như chơi. Mà thôi, chẳng sao. Đơn giản là chẳng có cách nào anh giết được tôi hết.

            Boris lấy hai viên từ đạn trên lòng bàn tay mình mà ném xuống dưới chân tôi. Chúng kêu lanh canh khi chạm sàn nhà chỗ tôi đứng.

            - Đạn thật đấy, - hắn nói. - Tôi không đùa đâu. Nạp vào súng rồi bắn tôi đi. Cơ hội cuối cùng cho anh ấy. Nếu thực sự muốn giết tôi thì hãy ngắm cẩn thận. Nhưng nếu bắn trượt, anh phải hứa không bao giờ tiết lộ bí mật của tôi. Anh không được nói với bất cứ ai trên đời này về những gì tôi đang làm ở đây. Thỏa thuận thế nhé.

            Tôi gật đầu. Tôi đã giữ lời.

            Lại kẹp súng giữa hai đầu gối, tôi bấm nút tháo băng đạn ra rồi nạp hai viên đạn. Làm việc đó bằng một tay thật không dễ, ấy là chưa nói bàn tay ấy cứ run bần bật. Boris quan sát từng cử động của tôi, vẻ mặt bình thản. Thậm chí môi hắn còn thoảng cười. Gắn băng đạn vào chỗ cũ xong, tôi nhắm vào giữa hai mắt hắn, cố buộc tay mình thôi run rồi bóp cò. Căn phòng rung chuyển vì tiếng gầm của khẩu súng, nhưng viên đạn chệch qua tai Boris mà đập vào tường. Bụi vữa trắng xóa bay tứ tung. Tôi đã bắn trượt dù chỉ đứng cách hai mét. Tôi đâu phải xạ thủ tồi. Lúc còn đóng quân ở Tân Kinh, tôi vẫn thường hăm hở tập bắn. Và dù tôi chỉ còn bàn tay phải, nhưng bàn tay đó mạnh hơn của hầu hết người khác, hơn nữa khẩu Walther là loại súng có cấu trúc cực chuẩn, giúp ta nhắm chính xác, chắc chắn. Tôi không tin được rằng mình đã bắn lầm. Tôi lại kéo kim hỏa rồi nhắm lần nữa. Tôi hít một hơi dài rồi tự nhủ: "Mày phải giết kẻ này". Giết được hắn thì đời tôi mới có chút ý nghĩa.

            - Lần này thì nhắm cho chắc, Trung úy Mamiya ạ. Viên đạn cuối cùng của anh đấy, - Boris vẫn cười cười.

            Ngay lúc đó Thằng Tác-ta chạy bổ vào phòng, lăm lăm khẩu súng lục to tướng.

            - Đừng xen vào, - Boris quát hắn. - Cứ để Mamiya giết tao. Nếu hắn giết được tao thì mày làm gì cứ làm.

            Thằng Tác-ta gật rồi chĩa họng súng vào tôi.

            Siết chặt khẩu Walther trong bàn tay phải, tôi chĩa thẳng ra, nhắm vào chính giữa cái nụ cười khinh mạn, tự tin của Boris rồi bình tĩnh bóp cò. Súng hơi nảy, nhưng tôi giữ chắc. Phát bắn không chê vào đâu được. Nhưng viên đạn lại sượt qua đầu Boris, lần này thì đập nát chiếc đồng hồ treo tường sau lưng Boris thành từng mảnh. Boris thậm chí không động cả lông mày. Hắn tựa lưng vào ghế, vẫn nhìn tôi chằm chằm bằng cặp mắt như của loài rắn. Khẩu súng rơi đánh choang xuống sàn.

            Trong một lát không ai nói gì, không ai động đậy. Nhưng rồi Boris rời ghế, cúi xuống nhặt khẩu Walther lên. Hắn nhìn khẩu súng trong tay mình hồi lâu với vẻ đăm chiêu rồi đút lại vào bao súng trên giá mắc áo. Đoạn hắn vỗ vỗ tay tôi hai lần như để an ủi tôi.

            - Tôi đã bảo là anh không giết được tôi mà, phải không? - Boris nói. Hắn lấy trong túi áo ra một gói Camel, rút một điếu cho vào mồm rồi châm lửa. - Không phải vì anh bắn tồi. Chỉ có điều anh không thể giết tôi được. Anh không đủ tư cách để giết tôi. Đó là lý do duy nhất khiến anh bỏ lỡ cơ hội. Giờ thì, thật đáng tiếc, anh sẽ phải mang lời nguyền của tôi mà trở về quê hương. Nghe đây: dù anh có ở đâu, anh sẽ không bao giờ hạnh phúc. Anh sẽ không yêu bất cứ ai, cũng không được bất cứ ai yêu. Lời nguyền của tôi đấy. Tôi sẽ không giết anh đâu. Nhưng tôi tha cho anh không phải vì lòng tốt. Bao năm nay tôi đã giết nhiều người rồi, và tôi sẽ còn giết nhiều người nữa. Nhưng tôi không bao giờ giết nếu không cần giết. Vĩnh biệt, Trung úy Mamiya. Một tuần nữa anh sẽ rời khỏi đây đến cảng Nakhodka. Bon voyage(15). Hai chúng ta sẽ không bao giờ gặp lại nhau nữa.

            Đó là lần cuối cùng tôi gặp Boris Lột da. Một tuần sau tôi rời trại tập trung, đi tàu thủy đến Nakhodka. Sau nhiều nỗi gian truân, rốt cuộc tôi cũng về đến Nhật Bản vào mùa xuân năm 1949.

            Nói thật với ông, thưa ông Okada, tôi không hề biết liệu câu chuyện dông dài kỳ lạ này có ý nghĩa nào với ông không. Có khi đó chẳng qua chỉ là những lời lảm nhảm của một ông già. Nhưng tôi muốn, và phải kể cho ông nghe câu chuyện của tôi. Đọc xong thư, chắc ông đã hiểu rằng đời tôi hoàn toàn thất bại. Tôi đã mất tất cả. Tôi chẳng còn là gì cả. Tôi không làm được bất cứ cái gì. Bởi sức mạnh của lời nguyền đó, tôi không yêu ai mà không được ai yêu. Tôi chỉ còn là cái bóng biết đi, cứ thế biến vào bóng tối. Tuy nhiên, đã ký thác được câu chuyện của mình cho ông, thưa ông Okada, tôi cũng được chút vui lòng mà ra đi.

            Mong sao ông sẽ sống một cuộc đời tốt đẹp, không phải ân hận về bất cứ điều gì.

            ------------------------------------------

            15 - Tiếng Pháp, tạm dịch "Chúc đi đường bình an" - ND

            33

            Một nơi nguy hiểm

            *

            Những người xem truyền hình

            *

            Người rỗng

            Cửa bắt đầu mở. Bê chiếc khay bằng cả hai tay, gã bồi khẽ cúi chào rồi bước vào trong phòng. Tôi đứng trong bóng chiếc bình hoa, đợi gã bồi đi ra và tự hỏi khi hắn ra thì mình sẽ làm gì. Khi hắn ra, tôi sẽ có thể vào. Chắc chắn phải có người trong Phòng 208. Nếu mọi việc tiếp tục tiến triển như lần trước (mà quả thật là như vậy), thì cửa phải không khóa. Nhưng mặt khác tôi cũng có thể tạm thời quên cái phòng đi, hẵng theo chân gã bồi trước đã. Khi đó có thể tôi sẽ đến được nơi y xuất phát.

            Tôi phân vân một lát không biết chọn đường nào, cuối cùng tôi quyết định đi theo gã bồi. Có cái gì đó nguy hiểm đang lẩn lút trong Phòng 208, cái gì đó có thể gây hậu quả chết người. Tôi vẫn nhớ như in cái tiếng gõ sắc gọn trong bóng tối, ánh lóe màu trắng đầy bạo lực của vật gì đó giống như con dao. Tôi phải thật thận trọng. Trước hết hãy cứ xem gã bồi sẽ dẫn tôi đi đâu. Sau đó tôi có thể quay lại phòng này. Chỉ có điều bằng cách nào? Tôi thọc hai tay vào túi quần, trong đó ngoài chiếc ví, ít tiền lẻ và chiếc khăn mùi soa còn có một cây bút bi nhỏ. Tôi rút cây bút ra, vạch một đường lên tay xem có còn mực không. Tôi có thể dùng bút này đánh dấu lên tường trong khi đi theo gã bồi. Sau đó tôi khả dĩ lần theo dấu mà trở về. Sẽ tìm được thôi.

            Cửa mở, tên bồi bước ra tay không. Hắn đã để lại mọi thứ trong phòng kể cả chiếc khay. Đóng cửa phòng lại xong, hắn ưỡn thẳng người rồi vừa huýt sáo Chim ác là ăn cắp vừa tất tả đi ngược lại đường mà hắn đã đến đây. Tôi bước ra khỏi chỗ nấp sau chiếc bình hoa lớn mà theo gót y. Mỗi khi hành lang tẽ làm hai, tôi lại đánh một dấu X nhỏ màu xanh lơ trên bức tường màu kem. Gã bồi không hề ngoái lại. Cách hắn đi có cái gì đó thật đặc biệt. Hắn có thể ứng thí vào Cuộc thi Vô địch về Phong cách Đi đứng dành cho các Bồi Khách sạn Toàn Thế giới. Dáng đi của hắn như thể hùng hồn tuyên bố: "Đã là bồi khách sạn thì phải đi thế này này: đầu ngẩng cao, hàm chìa ra đằng trước, lưng thẳng, tay đung đưa đều đặn theo nhịp của Chim ác là ăn cắp, sải từng bước dài dọc hành lang". Hắn rẽ nhiều góc quanh, đi lên đi xuống nhiều đoạn cầu thang, đi dọc theo những quãng hành lang ánh sáng khi mờ khi tỏ, ngang qua những hốc thụt trên tường làm tạo ra nhiều loại bóng đen. Tôi giữ một khoảng cách hợp lý phía sau hắn nhằm tránh bị phát hiện, nhưng bám theo hắn cũng chẳng lấy gì làm khó. Mỗi khi gặp một góc quanh thì hắn cũng biến mất trong khoảnh khắc, nhưng chẳng việc gì phải lo mất dấu bởi hắn không ngừng huýt sáo vang lừng.

            Như con cá hồi di cư ngược dòng sông rốt cuộc cũng tìm đến được một cái hồ yên tĩnh, gã bồi ra khỏi hành lang cuối cùng để bước vào một gian tiền sảnh khách sạn, chính là gian tiền sảnh lắm người nơi tôi đã thấy Wataya Noboru trên màn ảnh truyền hình. Tuy nhiên lần này gian tiền sảnh vắng lặng, chỉ có dăm người ngồi trước một chiếc tivi lớn xem chương trình tin tức của NHK. Gã bồi đã thôi huýt sáo từ khi sắp ra tới chỗ tiền sảnh để không làm phiền mọi người. Giờ thì hắn đang băng qua gian tiền sảnh rồi biến mất sau một cánh cửa có chữ đề "Chỉ dành cho nhân viên".

            Giả vờ giết thì giờ, tôi đi tha thẩn quanh gian tiền sảnh, ngồi lên hết sofa này lại tới sofa khác, nhìn lên trần nhà, kiểm tra độ dày của tấm thảm dưới chân. Đoạn tôi đi lại chỗ một quầy điện thoại trả tiền, đút một đồng xu vào, nhưng cái điện thoại này cũng chết câm như điện thoại trong căn buồng kia. Tôi bèn nhấc ống nghe một điện thoại nội bộ khách sạn rồi bấm số "208", nhưng cả điện thoại này cũng chết.

            Thế rồi tôi ngồi xuống một chiếc ghế cách xa chỗ đám người kia đang ngồi xem tivi để có thể kín đáo quan sát họ. Nhóm kia gồm có mười hai người, chín đàn ông và ba đàn bà, hầu hết trạc ba mươi, bốn mươi tuổi, có hai người trạc ngoài năm mươi. Toàn bộ đám đàn ông đều mặc com-lê hay áo khoác thể thao, cà-vạt chỉnh tề, đi giày da. Họ chỉ khác nhau chút ít về chiều cao và cân nặng, còn thì chẳng ai có nét gì đặc biệt. Ba người đàn bà đều khoảng ngoài ba mươi tuổi, ăn mặc tươm tất, trang điểm cẩn thận. Thoạt trông có thể ngỡ rằng họ vừa đi dự họp mặt bạn học cũ về, chỉ có điều họ lại ngồi riêng rẽ và chẳng tỏ dấu hiệu gì là quen biết nhau. Thật ra nhóm này hẳn đều là những người xa lạ, chỉ tình cờ gặp nhau ở chỗ cùng quan tâm đến những gì đang chiếu trên màn hình tivi. Họ không hề trao đổi ý kiến, không nhìn nhau cũng chẳng gật đầu với nhau.

            Ngồi trên chiếc ghế ở đằng xa, tôi cũng theo dõi tin tức. Các bản tin chẳng có gì đặc biệt lý thú đối với tôi - một ông thống đốc cắt băng khánh thành con đường mới, một lô bút chì dành cho trẻ con bị phát hiện là có chứa độc tố, một tài xế xe tải tử nạn vì đâm phải chiếc xe buýt chở khách du lịch ở Asahikawa do đường đóng băng trơn trượt và bão tuyết lớn nên tầm nhìn kém, vài khách du lịch bị thương, đó là một nhóm khách đang trên đường đến khu nghỉ có suối nước nóng. Phát ngôn viên đọc lần lượt từng mẩu tin bằng giọng bình thản, như đang bày các quân bài ra trước mặt. Tôi nghĩ đến chiếc tivi trong nhà ông Honda, nhà chiêm tinh. Tivi của ông lúc nào cũng bật kênh NHK.

            Hình ảnh các tin tức truyền qua không khí này vừa thực lại vừa không đối với tôi. Tôi thấy thương cảm cho tay tài xế xe tải ba mươi bảy tuổi chết trong vụ tai nạn. Không ai muốn chết như thế cả - quằn quại chết dần vì nội tạng bị giập nát giữa một cơn bão tuyết ở Asahikawa. Nhưng tôi không quen biết tay tài xế đó, anh ta cũng chẳng biết tôi. Thành thử mối cảm thông của tôi đối với anh ta chẳng hề mang tính cá nhân. Tôi chỉ có thể cảm thấy một mối cảm thông chung chung đối với một con người chẳng may gặp phải cái chết bất ngờ, đau đớn. Cái cảm xúc chung chung đó có thể rất thực với tôi, nhưng đồng thời cũng không thực chút nào. Tôi rời mắt khỏi màn hình tivi mà nhìn quanh gian tiền sảnh rộng lớn, vắng tanh một lần nữa. Cũng chẳng có gì để chú mục vào. Không thấy nhân viên khách sạn, quầy bar nhỏ thì chưa mở. Vậy duy nhất trên tường là bức tranh sơn dầu lớn vẽ một ngọn núi.

            Khi lại quay sang màn hình tivi, tôi nhìn thấy cận cảnh một gương mặt quen thuộc - Wataya Noboru. Tôi ngồi thẳng dậy, chú ý lắng nghe lời của phóng viên. Có chuyện gì đó đã xảy ra với Wataya Noboru. Tôi đã bỏ mất đoạn đầu của bản tin. Chẳng mấy chốc sau, bức ảnh biến mất và phóng viên xuất hiện trên màn hình. Anh ta đeo cà vạt, mặc áo khoác, đứng trước cửa vào một tòa nhà lớn, tay cầm micro.

            "... lập tức đưa vào Bệnh viện của Trường Đại học Y khoa Phụ nữ Tokyo và hiện đang được chăm sóc đặc biệt, nhưng cho đến giờ chúng ta chỉ biết rằng ông vẫn chưa hồi tỉnh vì bị một kẻ tấn công lạ mặt đánh nứt sọ. Các bác sĩ từ chối bình luận, liệu vết thương có nguy hiểm đến tính mạng ông hay không. Tường trình chi tiết về tình trạng của ông sẽ được công bố sau. Tường thuật trực tiếp từ cổng chính Đại học Y khoa Phụ nữ Tokyo..."

            Ống kính lại quay về phòng thu. Người dẫn chương trình bắt đầu đọc một mẩu giấy người ta vừa đưa cho. "Theo báo cáo mới nhất. Dân biểu Wataya Noboru đã bị trọng thương ở đầu trong một cuộc hành hung chí mạng. Kẻ hành hung trẻ tuổi đã đột nhập vào văn phòng của ông tại Quận Minata, Tokyo lúc 11 giờ 30 trưa nay và, ngay trước mặt những người đang tiếp kiến Dân biểu Wataya Noboru, đã dùng một cây gậy đánh bóng chày đánh mấy cú mạnh liên tiếp lên đầu dân biểu Wataya gây thương tích nghiêm trọng cho ông."

            Màn hình chiếu cảnh ngôi nhà nơi tọa lạc văn phòng của Wataya Noboru.

            "Hung thủ giả vờ là khách đến thăm văn phòng của Wataya Noboru, giấu cây gậy bóng chày trong một chiếc ống dài thường dùng để đựng các bản đồ án. Các nhân chứng cho biết, y đã lôi gậy ra khỏi ống rồi tấn công mà chẳng nói chẳng rằng."

            Màn hình chiếu cảnh văn phòng nơi xảy ra tội ác. Ghế nằm lăn lóc trên sàn, gần đó là một vũng máu đen kịt.

            "Vụ hành hung diễn ra bất ngờ đến nỗi cả Dân biểu Wataya lẫn những người đang ở trong phòng cùng ông đều không kịp trở tay. Sau khi kiểm tra xem có chắc là Dân biểu Wataya đã bất tỉnh chưa, hung thủ mới rời khỏi hiện trường, tay vẫn nắm cây gậy bóng chày. Các nhân chứng cho biết hung thủ trạc ba mươi tuổi, mặc áo khoác màu xanh lính thủy, đội mũ len trượt tuyết cũng màu xanh lính thủy, đeo kính sẫm màu. Hắn cao xấp xỉ 1,75 mét, có một vết trông như vết bầm trên má phải. Cảnh sát đang truy lùng hung thủ, dường như hắn đã kịp trà trộn vào đám đông mà biến mất không dấu vết."

            Màn hình cho thấy cảnh sát đang ở hiện trường nơi xảy ra tội ác, sau đó là cảnh đường phố nhộn nhịp ở khu Akasaka.

            Gậy bóng chày? Vết bầm trên mặt? Tôi cắn môi.

            "Wataya Noboru là một ngôi sao đang lên trong giới kinh tế gia và các nhà bình luận chính trị. Mùa xuân năm nay ông đã được bầu vào Hạ viện, nối bước bác mình là Wataya Yoshiraka, thành viên lâu năm của Nghị viện. Từ đó ông đã được công chúng rộng rãi thừa nhận là một nhà chính trị và nhà luận chiến có tầm ảnh hưởng sâu rộng. Người ta đặt rất nhiều kỳ vọng vào ông. Hiện cảnh sát đang tiến hành điều tra theo hai hướng: một, đây có thể là vụ hành hung có động cơ chính trị, hai, có thể là trả thù cá nhân. Chúng tôi xin lặp lại một lần nữa tin mới nhất: sáng nay, Dân biểu Wataya Noboru, một thành viên lừng tiếng của Hạ viện, đã bị một kẻ lạ mặt hành hung gây thương tích nghiêm trọng ở đầu, được đưa vào bệnh viện cấp cứu. Hiện vẫn chưa có thông tin chi tiết nào về tình trạng của ông. Còn bây giờ là các tin tức khác..."

            Đến đó thì hình như có người tắt tivi. Giọng phát ngôn viên bị cắt ngang nửa chừng, im lặng trùm xuống gian tiền sảnh. Mọi người nãy giờ căng thẳng bắt đầu đổi tư thế cho thoải mái. Rõ ràng là họ tụ tập lại trước màn hình tivi chỉ vì mục đích duy nhất là nghe bản tin về Wataya Noboru. Sau ki tivi đã tắt, không ai cử động. Không ai phát ra một tiếng nào.

            Ai đã dùng gậy bóng chày mà đánh Wataya Noboru? Theo người ta mô tả, hung thủ có ngoại hình giống hệt tôi - áo khoác và mũ màu xanh lính thủy, kính râm, vết bầm trên má, chiều cao, độ tuổi - và cây gậy bóng chày. Tôi đã để cây gậy bóng chày dưới đáy giếng hàng mấy tháng trời, nhưng nó vừa biến mất. Nếu đó cũng là cây gậy được dùng để đánh vỡ sọ Wataya Noboru thì ắt hẳn ai đó đã mang nó ra khỏi giếng nhằm chính mục đích này.

            Ngay lúc đó cái nhìn của một trong những phụ nữ ở nhóm người kia hướng vào tôi - đó là một phụ nữ gày nhẳng, xương hàm bạnh trông như con cá. Cô ta đeo bông tai màu trắng ngay chính giữa cặp dái tai dài. Cô ta đã xoay người trên ghế rồi cứ giữ nguyên tư thế đó mà nhìn tôi không rời mắt, không thay đổi sắc mặt. Kế đó người đàn ông hói đằng sau cô ta cũng đưa mắt theo hướng nhìn của cô mà ngoái lại nhìn tôi. Về chiều cao và vóc dáng, ông ta trông giống tay chủ hiệu giặt là cạnh nhà ga. Từng người một, những người khác cũng ngoái về phía tôi, như thể đến giờ họ mới biết rằng tôi đang có mặt ở đó cùng họ. Trước cái nhìn chòng chọc của họ, tôi không thể không hiểu ra rằng mình đang mặc áo khoác vào đội mũ màu xanh lính thủy, rằng tôi cao xấp xỉ 1,75 mét, rằng tôi ba mươi tuổi, rằng tôi có vết bầm trên má phải. Những người đó hình như cũng biết tôi là em rể của Wataya Noboru, và tôi không chỉ ghét hắn mà còn căm thù hắn. Tôi thấy điều đó trong mắt họ. Tôi bấu chặt hai tay ghế, phân vân không biết phải làm gì. Tôi không dùng gậy bóng chày để đánh Wataya Noboru. Tôi không phải loại người đó, hơn nữa tôi không còn cây gậy. Nhưng chắc chắn họ sẽ chẳng đời nào tin tôi. Họ chỉ tin những gì đã thấy trên truyền hình.

            Tôi chầm chậm đứng dậy khỏi ghế, đi về phía hành lang đã dẫn tôi đến gian tiền sảnh. Tôi phải rời khỏi nơi này càng nhanh càng tốt. Chẳng ai hân hoan chào đón tôi ở đây. Vừa đi được vài bước, tôi ngoảnh lại thì thấy có mấy người đã đứng dậy đi theo tôi. Tôi rảo bước, cắt ngang qua gian tiền sảnh về phía hành lang nọ. Tôi phải tìm đường về lại Phòng 208. Trong mồm tôi khô khốc.

            Tôi mới băng qua được gian tiền sảnh và giẫm bước đầu tiên vào hành lang thì đột nhiên tất cả đèn đóm trong khách sạn vụt tắt không một tiếng động. Một bức màn đen nặng trịch từ đâu rơi phập xuống nhanh như một lưỡi rìu. Ai đó thét lên sau lưng tôi, gần hơn tôi tưởng rất nhiều, tận trong lõi giọng thét đó có một nỗi căm thù rắn như đá.

            Tôi vẫn dấn bước trong bóng tối, vừa đi vừa cẩn thận dò dẫm hai tay theo mặt tường. Tôi phải thoát khỏi bọn họ. Nhưng bỗng tôi chạm phải một cái bàn nhỏ, đánh đổ một cái gì trong bóng tối, hẳn là bình lọ gì đó. Nó vừa lăn tròn vừa kêu lanh canh trên sàn. Cú va chạm khiến tôi ngã dúi dụi xuống mặt thảm. Tôi lồm cồm bò dậy, lại mò mẫm đi dọc theo hành lang. Ngay khi đó vạt áo khoác của tôi bị giật mạnh lại như vướng phải đinh. Phải một thoáng sau tôi mới hiểu chuyện gì đã xảy ra. Ai đó đang túm áo khoác tôi mà lôi lại. Không chần chừ, tôi cởi phắt áo khoác rồi lại sấn tới trong bóng tối. Tôi rẽ một góc quanh, lên nhầm một cầu thang, lại rẽ một góc quanh nữa, đầu và vai tôi cứ va vào hết vật này đến vật khác. Có lúc tôi vấp một bước chân, ngã dập mặt vào tường. Thế nhưng tôi không thấy đau, chỉ hơi ê ẩm phía sau mắt. Không thể để họ tóm được tôi ở đây.

            Hoàn toàn không có ánh sáng nào, không có cả đèn báo hiệu khẩn cấp mà đáng lẽ phải bật lên trong trường hợp khách sạn mất điện. Sau một hồi cuống cuồng tháo chạy không biết trời đất là gì nữa trong bóng tối như mực đó, tôi dừng lại lấy hơi, lắng nghe những tiếng động sau lưng mình. Nhưng tôi chẳng nghe thấy gì khác ngoài tiếng tim mình đập như điên. Tôi quỳ xuống nghỉ một chút. Hẳn đám người kia đã bỏ cuộc không đuổi theo tôi nữa. Nếu còn tiến tới thêm một chút trong bóng tối, có khi tôi sẽ lạc đường trong cái mê cung hun hút này. Tôi quyết định cứ ở lại đây, tựa lưng vào tường, cố trấn tĩnh lại.

            Ai đã tắt đèn đi vậy? Tôi không thể tin đó là ngẫu nhiên. Điều đó đã xảy ra đúng lúc tôi bước vào hành lang trong khi người ta đang cố bắt kịp tôi. Rất có thể ai đó đã làm vậy để cứu nguy cho tôi. Tôi cởi mũ len ra, dùng khăn tay lau mồ hôi trên mặt rồi lại đội mũ vào. Tôi bắt đầu nhận thấy cái đau ở những phần khác trên cơ thể, nhưng hình như tôi không bị thương tích nào đáng kể. Tôi nhìn những cây kim lân tinh của đồng hồ đeo tay trong bóng tối, rồi lại nhớ ra rằng đồng hồ đã đứng từ lúc 11 giờ 30. Đó là lúc tôi trèo xuống giếng, cũng là lúc ai đó đã dùng gậy bóng chày đánh Wataya Noboru tại văn phòng của hắn.

            Liệu có phải chính tôi đã làm việc đó không?

            Trong bóng tối nhường này, điều ấy đâm ra có thể là một khả năng lý thuyết. Có thể là, ở trên kia, trong thế giới thực, tôi đã đánh hắn bằng gậy bóng chày và làm hắn trọng thương, nhưng tôi là người duy nhất không biết điều đó. Có lẽ nỗi thâm thù bên trong tôi đã tự ý đi đến hành động đó mà chính tôi không biết, để nện hắn một đòn chí tử. Nhưng tôi nói là đi ư? Muốn vậy tôi phải đáp tàu điện tuyến Odakyu đến Shinjuku rồi đổi sang tàu điện ngầm đến Akasaka. Liệu tôi có thể làm từng ấy chuyện mà chính mình không biết không? Không, nhất định là không, trừ phi còn có một cái tôi khác.

            "Ông Okada", ai đó nói cạnh tôi trong bóng tối.

            Tim tôi như muốn bật ra khỏi họng. Tôi chịu không hiểu nổi giọng nói đó phát ra từ đâu. Bắp thịt tôi căng cứng trong khi tôi căng mắt nhìn vào bóng tối, nhưng dĩ nhiên chẳng nhìn thấy gì.

            "Ông Okada", giọng nói lại vang lên. Một giọng đàn ông khe khẽ. "Ông Okada đừng lo. Tôi cùng phe với ông. Chúng ta đã gặp nhau ở đây một lần. Ông có nhớ không?"

            Tôi nhớ. Tôi biết giọng nói này. Đó là giọng của gã đàn ông không mặt. Nhưng tôi cần phải thận trọng. Tôi không sẵn sàng trả lời.

            - Ông phải rời khỏi nơi này càng nhanh càng tốt, ông Okada ạ. Đèn sáng là họ sẽ tìm thấy ông ngay. Theo tôi, tôi biết một lối tắt.

            Gã đàn ông bật một cây đèn bút. Nó hắt ra một tia sáng nhỏ xíu, song vừa đủ để cho tôi nhìn bước chân. "Lối này", gã giục. Tôi lồm cồm đứng dậy hấp tấp theo sau gã.

            - Chắc hẳn ông là người đã tắt đèn cho tôi phải không? - Tôi hỏi gã từ đằng sau.

            Gã không đáp, nhưng cũng không phủ nhận.

            - Cám ơn, - tôi nói. - Suýt chút nữa thì...

            - Mấy người đó nguy hiểm lắm, - gã nói. - Nguy hiểm hơn ông tưởng nhiều.

            Tôi hỏi gã:

            - Có thật là Wataya Noboru bị đánh trọng thương không?

            - Trên tivi người ta nói thế, - gã đáp, cẩn thận lựa lời.

            - Nhưng tôi không làm việc ấy, - tôi nói. - Lúc đó tôi đang ngồi dưới giếng, một mình.

            - Nếu ông bảo vậy, tôi tin ông nói đúng, - gã đáp với vẻ thản nhiên. Gã mở cánh cửa rồi vừa rọi đèn xuống dưới chân vừa bước lên một cầu thang ở phía bên kia cửa. Đó là một cầu thang dài đến nỗi đi được nửa chừng thì tôi không còn biết hai chúng tôi đang lên hay đang xuống nữa. Thậm chí tôi không chắc đây có phải là cầu thang không.

            - Liệu có người nào khả dĩ làm chứng rằng lúc đó ông đang ở dưới giếng không? - Gã hỏi mà không ngoái lại.

            Tôi không nói gì. Chẳng có người nào như vậy cả.

            - Trong trường hợp đó, việc khôn ngoan nhất ông nên làm là chạy trốn. Họ đã tự xác định rằng ông là thủ phạm.

            - "Họ" là ai?

            Lên đến cầu thang, gã đàn ông rẽ phải, đi một quãng ngắn, mở một cánh cửa rồi bước ra hành lang. Đến đây gã dừng lại nghe ngóng động tĩnh. "Ta phải nhanh lên. Nắm lấy áo tôi".

            Tôi nắm lấy vạt dưới áo khoác của gã theo lời gã.

            Gã đàn ông không mặt nói:

            - Những người đó luôn luôn dán chặt vào chiếc tivi. Chính vì lẽ đó ông mới bị người ta căm ghét đến vậy ở đây. Họ rất thích ông anh vợ của ông.

            - Ông biết tôi là ai à? - Tôi hỏi.

            - Dĩ nhiên tôi biết.

            - Vậy thì ông có biết, Kumiko giờ đang ở đâu không?

            Gã đàn ông không nói gì. Tôi nắm chặt đuôi áo khoác gã, như thể hai chúng tôi đang chơi một trò chơi nào đó trong bóng tối, hối hả rẽ một góc quanh nữa, xuống một cầu thang ngắn, băng qua cánh cửa nhỏ bí mật, qua một lối đi kín đáo trần thấp lè tè, lại vào một hành lang nữa. Cái lộ trình kỳ lạ lắt léo này của gã đàn ông không mặt chả khác gì một hành trình vô tận băng qua lòng ruột của một bức tượng đồng khổng lồ.

            - Cho tôi nói điều này, ông Okada. Tôi không biết được mọi điều ở đây đâu. Nơi này rất rộng lớn, phạm vi trách nhiệm của tôi chủ yếu là ở gian tiền sảnh. Có nhiều chuyện mà tôi không biết lắm.

            - Ông có biết tay bồi hay huýt sáo không?

            - Không, tôi không biết. Ở đây chẳng có bồi nào cả, huýt sáo hay không huýt sáo cũng vậy. Nếu ông có thấy một gã bồi đâu đó ở đây thì thật ra hắn không phải là bồi đâu: ấy là một cái gì đó cải dạng thành gã bồi. Mà tôi quên hỏi ông, ông muốn đến Phòng 208 đúng không?

            - Đúng. Tôi cần gặp một người đàn bà ở đó.

            Nghe vậy, gã đàn ông chẳng nói gì. Gã không gặng hỏi chi tiết về người đàn bà, cũng chẳng hỏi xem tôi có chuyện gì cần gặp cô ta. Gã vẫn tiếp tục đi dọc hành lang với những sải bước đầy tự tin của một người biết rõ nơi này, lôi tôi lẵng nhẵng theo sau như chiếc xà lan, qua một lộ trình phức tạp.

            Rốt cuộc, không báo trước, gã đứng khựng lại trước một cánh cửa. Tôi đâm sầm vào gã từ đằng sau, gần như làm gã ngã bổ chửng. Lúc va chạm, tôi cảm thấy da thịt gã nhẹ bẫng, dường như tôi mới va vào một cái vỏ ve sầu rỗng. Gã nhanh chóng gượng thẳng người dậy rồi dùng đèn pin bỏ túi soi lên biển số phòng: 208.

            - Cửa này không khóa, - gã nói. - Ông cầm đèn theo mà dùng. Tôi có thể quay về trong bóng tối được. Vào xong thì khóa cửa lại, đừng mở ra cho bất cứ ai. Dù có việc gì đi nữa, hãy cố giải quyết cho nhanh rồi quay về nơi ông xuất phát. Nơi này nguy hiểm lắm. Ông là kẻ đột nhập không ai mời mà đến, và tôi là người duy nhất đứng về phía ông. Đừng quên điều đó.

            - Ông là ai? - Tôi hỏi.

            Gã đàn ông trao cây đèn pin cho tôi như trao gậy tiếp sức. "Tôi là người rỗng", gã nói. Hướng khuôn mặt không có mặt về phía tôi, gã đứng trong bóng tối đợi tôi trả lời, nhưng tôi không tìm được lời nào cho đúng. Cuối cùng, chẳng nói chẳng rằng, gã biến mất. Mới giây trước gã còn đứng ngay trước mặt tôi, giây sau gã đã bị nuốt chửng vào bóng tối. Tôi rọi đèn về phía gã, nhưng chỉ có một mảng tường trắng xỉn hiện ra từ bóng tối.

            * * *

            Như gã đàn ông đã nói, cửa Phòng 208 không khóa. Quả đấm cửa xoay trong tay tôi không một tiếng động. Tôi cẩn thận tắt đèn pin rồi cố bước vào càng êm càng tốt. Cũng như trước, phòng im lặng như tờ, tuyệt không động tĩnh. Có tiếng những viên đá đang tan kêu răng rắc khe khẽ trong xô đựng đá. Tôi bật đèn pin rồi quay lưng lại khóa cửa. Then cửa cài vang lên một tiếng cạch kim khí khô khốc, nghe to một cách bất thường trong phòng này. Trên chiếc bàn ở giữa phòng là chai Cutty Sark vẫn chưa mở, hai chiếc ly sạch, xô đựng đầy nước đá còn mới nguyên. Chiếc khay màu bạc cạnh bình hoa phản chiếu đèn pin hắt ra một ánh lóe đầy nhục cảm, như thể nó đã đợi tôi từ lâu lắm. Dường như để đáp lại, mùi phấn hoa trở nên gắt hơn trong một khoảnh khắc. Không khí quanh tôi đặc quánh lại, trọng lực dường như tăng lên. Tựa lưng vào cánh cửa, tôi quan sát chuyển động quanh tôi trong ánh đèn pin.

            Nơi này nguy hiểm lắm. Ông là kẻ đột nhập không ai mời mà đến, và tôi là người duy nhất đứng về phía ông. Đừng quên điều đó.

            - Đừng rọi ánh sáng ấy lên tôi, - một giọng phụ nữ vang lên từ phòng trong. - Ông có hứa là sẽ không rọi ánh sáng ấy lên tôi không?

            - Tôi hứa, - tôi nói.

            34

            Ánh sáng đom đóm

            *

            Phá bỏ lời nguyền

            *

            Thế giới nơi đồng hồ báo thức

            reo vào buổi sáng

            – Tôi hứa, – tôi nói, nhưng giọng tôi có vẻ giả tạo thế nào đó, như khi ta nghe thu băng giọng nói của chính mình vậy.

            – Tôi muốn nghe ông nói điều này: rằng ông sẽ không rọi ánh sáng đó lên tôi.

            – Tôi sẽ không rọi ánh sáng đó lên cô, tôi hứa.

            – Ông có hứa thật không? Ông nói thật với tôi chứ?

            – Tôi nói thật với cô mà. Tôi không nuốt lời hứa đâu.

            – Thế thì tôi chỉ muốn là, nếu ông không phiền, xin hãy rót hai ly whisky có đá rồi mang vào đây. Nhớ cho nhiều đá nhé.

            Cô ta nói bằng giọng ngọng ngịu chả chớt nghe như trẻ con, mặc dù giọng nói thuộc về một phụ nữ trưởng thành, nhạy cảm. Tôi đặt cây đèn pin xuống bàn theo chiều dọc, rồi đi pha whisky. Tôi cho đá vào hai ly rồi rót whisky lên. Tôi phải hình dung rõ ràng tường tận trong đầu về từng động tác mà hai bàn tay tôi đang làm. Những bóng đen lớn chập chờn trên tường theo từng cử động của tay tôi.

            Tôi đi vào phòng trong, tay phải cầm hai ly whisky, tay trái cầm đèn pin rọi lên sàn để soi đường. Không khí có vẻ lạnh hơn trước. Hẳn là khi tháo chạy trong bóng tối tôi đã vã mồ hôi khắp người mà không biết, giờ mồ hôi ráo đi mới thấy lạnh. Tôi nhớ mình đã cởi áo khoác bỏ lại trên đường chạy.

            Như đã hứa, tôi tắt đèn nhét vào túi quần. Rồi tôi mò mẫm đặt một ly whisky lên bàn, đoạn cầm ly còn lại đến ngồi ở chiếc ghế có tay dựa bên cạnh giường. Tối như mực, nhưng tôi vẫn nhớ cách bố trí đồ đạc trong phòng.

            Tôi như nghe tiếng những tấm ga trải giường cọ vào nhau sột soạt. Cô ta đang nhổm dậy trên đệm, tựa lưng vào tấm ván đầu đệm, ly rượu cầm trong tay. Cô ta khẽ lắc ly, khuấy đá rồi nhấp một ngụm whisky. Trong bóng tối, tất cả những âm thanh đó nghe như tiếng động nền trong một vở kịch truyền thanh. Tôi ngửi mùi thơm rượu whisky trong tay, nhưng không uống.

            – Lâu lắm rồi mới gặp nhau nhỉ, – tôi nói. Giọng tôi giờ nghe có vẻ đúng là giọng tôi hơn ban nãy.

            – Thế kia à? – cô ta nói. – Em không hiểu nói vậy là sao, “lâu” hay “lâu lắm”?

            – Theo tôi nhớ thì chính xác là một năm và năm tháng, – tôi nói.

            – Ừ thì thế, – cô ta đáp, vẻ thờ ơ. – Em không nhớ chính xác.

            Tôi đặt ly của mình xuống sàn rồi bắt tréo chân.

            – Lần trước tôi đến đây thì cô không có mặt phải không?

            – Đương nhiên là em có mặt. Ngay ở đây. Trên giường. Em luôn luôn ở đây mà.

            – Nhưng tôi biết chắc là lần đó tôi vào Phòng 208. Đây là Phòng 208 đấy chứ?

            Cô xoay xoay viên đá trong ly rồi vừa nói vừa cười:

            – Em thì em biết chắc là anh không biết chắc. Lần trước anh vào Phòng 208 khác, cái đó thì chắc chắn.

            Có cái gì đó bất an trong giọng cô ta khiến tôi bứt rứt khó chịu. Có lẽ rượu tác động đến cô ta chăng. Tôi tháo mũ len đặt lên đầu gối.

            Tôi bảo cô ta:

            – Điện thoại không gọi được mà, cô biết đấy.

            – Vâng, em biết, – cô ta nói, giọng có vẻ cam chịu. – Người ta cắt rồi. Người ta biết em rất hay gọi điện thoại mà.

            – Họ là những người đang giữ cô ở đây phải không?

            – Nói thế nào nhỉ. Em chả biết nữa. – Cô ta vừa nói vừa cười khẽ. Không khí xáo động làm nụ cười cô run lên.

            Quay mặt về phía cô, tôi nói:

            – Tôi nghĩ mãi về cô suốt bấy lâu nay. Ngay từ lần đầu tôi đến đây. Nghĩ về việc cô là ai, cô làm gì ở đây.

            – Nghe thú nhỉ, – cô nói.

            – Tôi đã tưởng tượng ra đủ thứ khả năng, nhưng chưa thể chắc điều gì cả. Tôi chỉ mới ở giai đoạn tưởng tượng thôi.

            – Được rồi, được rồi, – cô nói, như thể cảm kích. – Vậy là anh chưa thể chắc điều gì cả, anh vẫn đang ở giai đoạn tưởng tượng.

            – Đúng vậy, – tôi nói. – Mà tôi cũng có thể nói thế này nữa: tôi nghĩ em là Kumiko. Ban đầu tôi chưa nhận ra, nhưng giờ thì tôi càng lúc càng tin chắc thế.

            – Ồ, anh tin chắc thế à? – Cô im lặng một chút rồi nói, có vẻ thích thú. – Vậy em là Kumiko?

            Trong một khoảnh khắc tôi mất hết cảm giác về phương hướng, như thể tất cả những gì tôi đang làm đều trái khoáy: tôi đã đến nhầm nơi, nói nhầm lời với nhầm người. Chỉ tổ mất thì giờ, một con đường vòng vô nghĩa. Nhưng tôi cố giữ thẳng người trong bóng tối. Tôi bấu chặt cả hai tay vào chiếc mũ đặt trên lòng mình như để kiểm tra tính xác thực.

            – Phải, tôi nghĩ em là Kumiko. Bởi vì mọi chuyện đều từ đó mà ra cả. Em đã từ đây mà gọi điện thoại cho tôi không biết bao nhiêu lần. Em cố truyền đạt cho tôi một thông điệp bí mật nào đó. Một bí mật về Kumiko. Một bí mật mà Kumiko thật trong đời thực không đủ sức nói cho tôi biết. Thế nên em phải làm việc đó thay cô ấy, bằng những lời như một thứ ám hiệu.

            Cô ta không nói gì một lát. Cô nâng ly lên nhấp một ngụm whisky nữa, rồi bảo:

            – Em không biết. Nhưng nếu anh đã nghĩ vậy thì chắc là đúng. Có thể em đúng là Kumiko thật. Nhưng em không chắc lắm. Thành thử… nếu quả thật… em đúng là Kumiko thực… thì hẳn em có thể nói với anh bằng giọng của Kumiko… Đúng không? Nếu vậy thì sẽ hơi rối một chút. Không sao chứ?

            – Không sao cả, – tôi nói. Lại một lần nữa, giọng tôi như mất đi phần nào bình tĩnh và một cảm thức về thực tại.

            Cô hắng giọng trong bóng tối.

            – Thì đây, thử xem. Em không biết liệu có được không. – Cô lại bật cười khẽ. – Có dễ đâu mà. Anh có vội không? Anh nán lại ở đây một chút được không?

            – Tôi không biết nữa, – tôi nói.

            – Đợi một chút thôi. Xin lỗi. E hèm… Em xong ngay đây, bây giờ thôi.

            Tôi đợi.

            – Vậy là, anh đến đây để tìm em. Anh muốn gặp em, phải không? – giọng nghiêm trang của Kumiko vang lên trong bóng tối.

            Đã lâu, từ buổi sáng mùa hè kia, khi tôi kéo khóa áo cho Kumiko, tôi không được nghe giọng nói của nàng. Lúc ấy nàng xức một thứ nước hoa mới ở sau tai, nước hoa của kẻ nào khác tặng. Hôm ấy nàng bỏ nhà đi và không bao giờ trở về. Dù cái giọng vang lên trong bóng tối kia là giọng thực hay giọng giả, nó đưa tôi quay lại buổi sáng đó trong một khoảnh khắc. Tôi ngửi thấy được mùi nước hoa, thấy được làn da trắng của lưng Kumiko. Khoảnh khắc đó đặc sệt và nặng trĩu trong bóng tối – có lẽ đặc và nặng hơn là trong thực tại. Tôi siết chặt chiếc mũ trong hai bàn tay.

            – Nói đúng ra, anh không đến đây để gặp em. Anh đến là để đưa em về, – tôi nói.

            Cô khẽ thở dài trong bóng tối.

            – Sao anh lại tha thiết muốn đưa em về như vậy chứ?

            – Bởi vì anh yêu em, – tôi nói. – Và anh biết em cũng yêu anh, em cần anh.

            – Anh có vẻ tự tin quá nhỉ, – Kumiko – hay giọng của Kumiko – nói. Không có vẻ gì là chế giễu trong giọng của nàng. Nhưng trong giọng đó cũng chẳng có gì là ấm áp.

            Tôi nghe thấy tiếng những viên nước đá trong phòng bên đổi chỗ cho nhau.

            – Nhưng muốn đưa được em về, anh còn phải giải một vài câu đố, – tôi nói.

            – Bây giờ mới bắt đầu thì liệu có hơi muộn không? Em sợ anh không có nhiều thời gian lắm đâu.

            Nàng nói đúng. Thời gian không còn nhiều mà lại có quá nhiều thứ cần phải nghĩ. Tôi lấy lưng bàn tay lau mồ hôi đọng trên lông mày. Đây có lẽ là cơ hội cuối cùng của tôi, tôi tự nhủ. Tôi cần phải nghĩ.

            – Anh cần em giúp, – tôi nói.

            – Giúp thế nào? – Giọng Kumiko hỏi. – Vị tất em đã giúp anh được. Nhưng em sẽ cố.

            – Câu hỏi đầu tiên là tại sao em bỏ anh. Anh muốn biết lý do thật. Anh biết trong thư em nói gì – rằng em đã dan díu với người khác. Dĩ nhiên anh đã đọc thư. Đọc đi đọc lại, đọc mãi. Thật ra nó cũng giải thích được một phần nào đó. Nhưng anh không tin ấy là lý do thật. Nghe nó không thật lắm. Anh không bảo đó là nói dối, nhưng anh không khỏi cảm thấy đó chẳng qua chỉ là một thứ ẩn dụ thôi.

            – Ẩn dụ?! – Nghe giọng cô ta thật sự sửng sốt. – Em không hiểu… Nếu ngủ với người đàn ông là ẩn dụ cho một cái gì đó thì em muốn biết đó là cái gì?

            – Ý anh muốn nói là anh cảm thấy giải thích như thế chỉ để mà giải thích thôi. Nó chẳng dẫn tới đâu hết. Nó chỉ lướt trên bề mặt. Càng đọc thư em, anh càng cảm thấy thế. Chắc hẳn phải có một lý do nào khác cơ bản hơn – thật hơn. Mà lý do đó nhất định là có liên quan đến Wataya Noboru.

            Tôi cảm thấy cặp mắt nàng nhìn chằm chằm vào tôi trong bóng tối và chợt nghĩ, biết đâu nàng có thể nhìn thấy tôi.

            – Liên quan đến Wataya Noboru? Như thế nào? – Giọng Kumiko hỏi.

            – Thì… tất cả những sự kiện mà anh trải qua đều hết sức phức tạp. Đủ loại nhân vật xuất hiện trên sân khấu, rồi những sự lạ xảy ra cái này tiếp cái kia, đến độ cứ hễ cố suy nghĩ lại cho có trình tự lớp lang là y như rằng anh rối tung lên. Tuy nhiên, nếu lùi lại một chút mà quan sát thì sẽ thấy sợi chỉ xuyên suốt mọi chuyện là hết sức rõ ràng. Tất cả cơ sự là do em đã rời khỏi thế giới của anh để chuyển sang thế giới của Wataya Noboru. Bước chuyển ấy mới là cái quan trọng hơn cả. Còn dù trên thực tế em có ngủ với người này hay người nọ đi nữa thì cũng chỉ là chuyện thứ yếu. Chỉ là bề nổi thôi. Anh muốn nói là nói như vậy.

            Cô ta nghiêng ly rượu trong bóng tối. Căng mắt về phía nguồn phát ra tiếng động, tôi cảm giác như có thể nhìn thấy lờ mờ những chuyển động của cô, nhưng hiển nhiên đó chỉ là ảo giác.

            – Không phải bao giờ người ta cũng gửi thông điệp để truyền đạt sự thực đâu, ông Okada ạ, – cô nói. Lần này không còn là giọng Kumiko nữa. Cũng không phải giọng nhí nhảnh con gái như ban đầu. Đây là một giọng khác, thuộc về một người khác. Nó có vẻ điềm tĩnh, thông minh. – … Cũng như không phải bao giờ người ta cũng gặp nhau để bộc lộ cái tôi thực của mình. Ông Okada có hiểu ý tôi không?

            – Nhưng dù thế nào đi nữa, Kumiko đang cố gắng truyền đạt một điều gì đó cho tôi. Dù đó có là sự thực hay không, cô ấy cũng tìm tôi để truyền đạt nó. Chính đó là sự thực đối với tôi.

            Tôi cảm thấy bóng tối quanh mình càng lúc càng đậm đặc hơn, như thủy triều buổi đêm dâng lên đầy tràn không tiếng động. Tôi cần phải nhanh lên. Tôi không còn nhiều thời gian nữa. Nếu đèn sáng trở lại, bọn họ có thể tới đây lùng tôi. Tôi quyết định liều nói ra lời những ý nghĩ đã chầm chậm hình thành trong trí tôi.

            – Những gì anh nói sau đây hoàn toàn là sản phẩm của trí tưởng tượng của anh. Anh đoán rằng, trong dòng máu nhà Wataya có một khuynh hướng di truyền nào đó. Khuynh hướng đó là gì anh không rõ, nhưng nó là một thứ khuynh hướng. Nó là một thứ mà em sợ. Chính vì vậy em luôn sợ có con. Khi có thai, em đã hoảng loạn vì em lo cái khuynh hướng đó sẽ lộ ra ở con của chính mình. Nhưng em đã không thể tiết lộ điều bí mật đó với anh. Toàn bộ câu chuyện bắt đầu từ đó.

            Cô ta không nói gì nhưng lẳng lặng đặt cốc lên bàn ngủ. Tôi nói tiếp:

            – Còn chị của em, anh tin chắc rằng chị ấy chết không phải vì ngộ độc thức ăn. Không, nguyên nhân bất thường hơn thế nhiều. Kẻ chịu trách nhiệm về cái chết của chị ấy là Wataya Noboru, và chuyện đó em biết. Chị của em hẳn đã nói điều gì với em về chuyện đó trước khi chị chết, đã cảnh báo một điều gì cho em. Wataya Noboru có một thứ năng lực đặc biệt nào đó, hắn biết cách tìm ra những người chịu khuất phục cái năng lực ấy rồi bòn rút một cái gì đó từ họ. Hắn ắt hẳn đã dùng cái năng lực đó theo một cách đặc biệt tàn bạo với Kano Creta. Cô ấy đã có thể hồi phục bằng cách này hay cách khác, nhưng chị của em thì không. Dù gì chị ấy cũng sống chung nhà với hắn nên chẳng biết chạy đi đâu. Chị ấy không chịu nổi nữa nên chọn cái chết. Ba mẹ em đã luôn luôn giữ kín chuyện chị ấy tự sát. Có đúng vậy không?

            Không có câu trả lời. Người đàn bà như muốn xóa đi sự hiện diện của mình trong bóng tối.

            Tôi nói tiếp:

            – Anh không biết bằng cách nào và trong hoàn cảnh nào, nhưng cho đến một thời điểm, Wataya Noboru đã tăng cường cái năng lực tàn bạo đó của hắn một cách nhảy vọt. Thông qua truyền hình và các phương tiện khác, hắn trở nên có khả năng hướng cái năng lực đã được khuếch đại này ra ngoài xã hội. Giờ hắn đang cố gắng lôi ra ngoài một cái gì đó mà đa số thiên hạ vẫn giữ kín trong bóng tối vô thức của họ. Hắn muốn lợi dụng cái đó cho ý đồ chính trị của mình. Đó là một cái gì hết sức nguy hiểm. Cái mà hắn muốn lôi ra ngoài đó, nó bị vấy bẩn đến chết người bởi bạo lực và máu, nó có liên quan trực tiếp với những vực sâu đen tối nhất của lịch sử, bởi hiệu quả cuối cùng của nó là hủy diệt và xóa bỏ con người trên quy mô lớn.

            Cô thở dài trong bóng tối.

            – Ông có thể làm ơn pha cho tôi một ly whisky nữa được không? – Cô nhẹ nhàng hỏi.

            Tôi đi lại chỗ bàn ngủ cầm lấy chiếc ly mà cô vừa uống cạn. Trong bóng tối tôi chỉ có thể làm được ngần ấy động tác thôi. Tôi cầm đèn pin sang phòng bên pha một cốc whisky mới có đá.

            – Những điều ông vừa nói chỉ là do ông tưởng tượng ra thôi phải không? – Cô hỏi.

            – Đúng. Tôi chỉ xâu chuỗi vài ý nghĩ lại với nhau thôi, – tôi nói. – Tôi chẳng có cách nào chứng minh được. Tôi không có cơ sở nào để bảo rằng những gì tôi vừa nói là đúng.

            – Dẫu sao tôi vẫn muốn nghe phần còn lại, nếu như ông vẫn còn gì để nói thêm.

            Tôi quay lại phòng trong đặt ly rượu lên bàn ngủ. Đoạn tôi tắt đèn pin và trở lại ngồi xuống ghế. Tôi tập trung chú ý kể tiếp câu chuyện của mình.

            – Em không biết đích xác chuyện gì đã xảy ra cho chị gái em, trừ mỗi việc chị ấy đã cảnh báo cho em một điều gì trước khi chị mất. Khi đó em còn quá nhỏ lên chưa hiểu được cảnh báo có ý nghĩa gì. Nhưng em vẫn thấy được dù một cách lờ mờ. Em biết rằng Wataya Noboru đã làm chị em bị ô uế và tổn thương bằng cách nào đó. Và em cảm thấy trong huyết quản mình có một thứ bí mật đen tối, một cái gì đó mà em không thể nào tránh được. Thế nên, trong ngôi nhà ấy, em đã luôn luôn cô độc, luôn luôn căng thẳng, phải đấu tranh với nỗi bất an âm ỉ không thể xác định là gì, như một trong những con sứa mà chúng ta đã thấy ở công viên thủy sinh.

            Sau khi em tốt nghiệp đại học, và sau bao nhiêu rắc rối với gia đình em, em đã lấy anh và rời khỏi nhà Wataya. Rồi hai chúng mình sống một cuộc đời êm ả, từng ngày ngày qua, em cũng dần dần quên đi cái nỗi bất an đen tối đó. Em bước vào xã hội như một con người mới, em dần dần hồi phục. Đã có một thời tưởng như mọi cái đều êm đẹp với em. Nhưng thật không may, chuyện chẳng đơn giản như vậy. Đến một lúc nào đó, em nhận ra rằng mình đang bị lôi kéo ngoài ý muốn về phía cái sức mạnh đen tối mà em cứ nghĩ mình đã bỏ lại đằng sau. Và khi nhận ra điều gì đang xảy ra với mình, em đâm bấn loạn. Em không biết phải làm gì. Chính vì vậy em đi nói chuyện với Wataya Noboru, hy vọng có thể biết được sự thật. Và em tìm Kano Malta, những mong cô ta có thể giúp mình. Chỉ có anh, là em không thể bộc bạch thôi.

            Anh đoán mọi chuyện đã khởi đầu từ sau khi em có thai. Anh tin chắc đó là bước ngoặt. Có lẽ vì vậy mà anh đã nhận được lời cảnh báo đầu tiên từ tay nhạc công ghita ở Sapporo vào đúng cái đêm em phá thai. Việc có thai hẳn đã kích thích và đánh thức cái gì đó đang tiềm ẩn trong em. Wataya Noboru chỉ chờ có chừng ấy. Đó chính là cách duy nhất để hắn có quan hệ tính giao với đàn bà. Chính vì vậy hắn mới cương quyết giằng em ra khỏi anh mà lôi về phía hắn, một khi cái khuynh hướng đó đã lộ ra ở em. Hắn phải có được em. Wataya Noboru cần em để đóng cái vai mà chị gái em từng đóng cho hắn.

            Khi tôi nói xong, im lặng sâu thẳm lấp đầy khoảng trống. Tôi đã nói thành lời tất cả những gì trí tưởng tượng đã mách bảo tôi về Kumiko. Một phần là những suy nghĩ mơ hồ tôi từng có từ trước, phần còn lại thì hình thành trong trí tôi ngay lúc tôi đang nói trong bóng tối. Có lẽ sức mạnh của bóng tối đã lấp đầy những khoảng trống trong tưởng tượng của tôi. Hoặc có thể sự hiện diện của người đàn bà này đã giúp vào đó. Nhưng đằng nào đi nữa, những gì tôi tưởng tượng chẳng dựa trên cơ sở chắc chắn nào.

            – Hay quá, hay quá, – người đàn bà nói. Một lần nữa giọng cô lại là giọng nhí nhảnh trẻ con. Hình như cô đổi giọng càng lúc càng nhanh. – Thế đấy, thế đấy. Vậy là em đã bỏ anh đặng lánh mình không cho ai thấy tấm thân ô uế của em. Nghe như là Cầu Waterloo trong sương mù ấy nhỉ, Auld Lang Sync(16), Robert Taylor và Vivien Leigh…

            – Anh sẽ đưa em ra khỏi đây, tôi ngắt lời cô. – Anh sẽ đưa em về nhà, về thế giới của em, thế giới có những con mèo đuôi quặp, có những mảnh vườn nho nhỏ, có những chiếc đồng hồ báo thức vào buổi sáng.

            – Bằng cách nào cơ? – người đàn bà hỏi. – Làm sao anh Okada có thể đưa em ra khỏi đây được?

            – Như trong truyện cổ tích ấy, – tôi đáp. – Bằng cách phá bỏ lời nguyền.

            – Ồ, em hiểu. Nhưng anh Okada đợi một chút. Có vẻ như anh nghĩ em là Kumiko. Anh muốn đưa em về nhà như là đưa Kumiko về. Nhưng nếu em không phải là Kumiko thì sao? Chừng đó anh sẽ làm gì? Có khi anh sắp đưa về nhà một kẻ hoàn toàn khác đấy. Anh có tin chắc mình đang làm gì không? Liệu anh có nên nghĩ kỹ một lần nữa không?

            Tôi thò tay nắm chặt chiếc đèn pin trong túi. Đây không thể là ai khác ngoài Kumiko, tôi nghĩ. Nhưng tôi không chứng minh được. Rốt cuộc đó cũng chỉ là giả thuyết, không hơn. Mồ hôi túa ra từ bàn tay tôi đang thọc trong túi.

            – Anh sẽ đưa em về nhà, – tôi lại nói, giọng khô khốc. – Anh đến đây là để đưa em về.

            Tôi nghe tiếng chăn đệm sột soạt. Cô vừa đổi tư thế trên giường.

            – Anh nói thế nhưng có dám chắc không? Không nghi ngờ gì chứ? – Cô hỏi, ép tôi phải xác nhận.

            – Phải, anh dám chắc. Anh sẽ đưa em về.

            – Anh không nghĩ lại chứ?

            – Không nghĩ lại. Ý anh đã quyết, – tôi nói.

            Nghe xong cô im lặng hồi lâu, như để kiểm tra sự xác thực của một cái gì đó. Rồi, như để đánh dấu đoạn kết của cuộc đối thoại này, cô thở một hơi dài.

            – Em sẽ cho anh một món quà, – cô nói. – Quà chẳng lấy gì làm ghê gớm cả, nhưng có khi sẽ được việc đấy. Đừng bật đèn, cứ lại đây, chậm, thật chậm, lại gần bàn ngủ này.

            Tôi rời ghế, chìa tay phải ra trong bóng tối, như để đo bề sâu của sự rỗng không. Tôi cảm thấy những cái gai sắc nhọn của không khí chọc vào đầu ngón tay mình. Rồi tôi chạm vào vật đó. Khi tôi nhận ra nó là gì, không khí dường như nghẹt lại trong cuống họng. “Quà” là một cây gậy bóng chày.

            Tôi nắm chặt chỗ tay cầm, giơ thẳng gậy lên. Hầu như chắc chắn đó là cây gậy mà tôi đã lấy của gã đàn ông xách hộp đàn ghita. Tay cầm và trọng lượng y hệt. Ắt là nó rồi. Nhưng, sờ kỹ hơn, tôi thấy có cái gì đó dính vào gậy ngay phía trên chỗ nhãn hiệu. Nghe như là một sợi tóc. Tôi miết nó giữa mấy đầu ngón tay. Xét theo độ dày và độ cứng, nó chắc chắn phải là một sợi tóc người. Có mấy sợi như vậy dính vào gậy, còn thêm cái gì đó như là máu đông. Ai đó đã dùng cây gậy này để đánh vào đầu một người khác, có thể là Wataya Noboru. – Phải cố lắm tôi mới hắt chỗ không khí nghẽn trong họng ra ngoài được.

            – Đây là gậy của anh phải không? – Cô hỏi.

            – Chắc vậy, – tôi nói, cố giữ bình tĩnh. Giọng tôi bắt đầu có một âm sắc khác hẳn trong bóng tối dày đặc, như thể có ai đó nãy giờ lẩn lút đâu đây đang nói thay tôi. Tôi hắng giọng, kiểm chứng cho chắc xem có phải người đang nói vẫn là tôi không, rồi mới tiếp lời:

            – Nhưng hình như ai đó đã dùng cây gậy này để đánh một người khác.

            Người đàn bà nín thinh. Tôi ngồi xuống ghế, hạ cây gậy xuống kẹp giữa hai chân.

            – Hẳn là em biết có chuyện gì… – tôi nói. – Có ai đó đã dùng cây gậy này để đánh vỡ sọ Wataya Noboru. Tin tức anh nghe được trên tivi là đúng. Wataya Noboru đang nằm ở bệnh viện trong tình trạng nguy kịch. Hắn có thể chết.

            – Hắn sẽ không chết, – giọng Kumiko nói, hoàn toàn vô cảm. Nàng nói như thể đang tường thuật một sự kiện lịch sử từ trong một cuốn sách. – Tuy nhiên hắn sẽ không phục hồi ý thức được. Hắn có thể vẫn tiếp tục lang thang trong bóng tối, nhưng đó là loại bóng tối nào thì không ai biết.

            Tôi sờ soạng tìm ly rượu dưới chân, nhấc lên. Tôi trút hết chỗ rượu trong ly vào miệng, rồi chẳng nghĩ ngợi gì, nuốt ực. Thứ chất lỏng không có vị gì đi qua họng, trôi xuống thực quản tôi. Chẳng hiểu vì sao tôi thấy ớn lạnh, kế đó là một cảm giác khó chịu như thể có cái gì đó từ xa đang chầm chậm dịch chuyển về phía tôi qua một bóng tối dằng dặc. Tim tôi đập mạnh lên như đã dự cảm được từ trước.

            – Chúng ta không còn nhiều thời gian, – tôi nói. – Nếu có thể thì hãy cho anh biết chúng ta đang ở đâu?

            – Anh từng đến đây rồi, anh đã biết cách đến đây sao cho vẫn sống và bình an vô sự. Anh ắt phải biết đây là nơi nào chứ. Nhưng bây giờ đó cũng chẳng phải vấn đề quan trọng nữa. Cái chính là…

            Ngay khi đó có tiếng gõ cửa – một âm thanh nặng trịch, khô khốc, như ai đó đang đóng đinh vào tường. Hai tiếng, rồi hai tiếng nữa. Chính là tiếng gõ cửa tôi đã nghe lần trước. Người đàn bà thở hổn hển.

            – Anh phải đi khỏi đây ngay. – Cô nói, lần này là giọng của Kumiko, không thể lầm được. – Nếu anh đi ngay bây giờ thì vẫn còn kịp xuyên qua tường.

            Tôi không rõ mình đang nghĩ đúng hay sai, nhưng tôi biết chừng nào còn ở đây, tôi còn phải đánh bại cái thứ này. Đây là cuộc chiến của tôi, và tôi phải chiến đấu đến cùng.

            – Lần này anh không bỏ chạy đâu, – tôi nói với Kumiko. – Anh sẽ đưa em về.

            Tôi đặt ly xuống sàn, đội mũ len lên, rồi cầm lấy cây gậy đang kẹp giữa hai đầu gối. Đoạn tôi từ từ tiến lại phía cửa.

            -------------------------------

            16 - Tên một bài hát rất phổ biến dựa theo lời thơ của thi hào Scotland Robert Burns (1759 – 1796) – ND.

            35

            Chẳng qua là một con dao thực

            *

            Điều đã được tiên báo

            Dùng đèn soi đường, cố bước thật êm, tôi đi về phía cửa. Cây gậy nằm trong tay phải tôi. Tôi vẫn đang đi thì tiếng gõ cửa lại vang lên: hai tiếng, rồi hai tiếng nữa. Lần này mạnh hơn, hung hãn hơn. Tôi nép mình vào tường bên để khi cửa mở thì tôi sẽ được cánh cửa che khuất. Tôi đứng đó đợi, nín thở.

            Khi tiếng gõ cửa đã lắng đi, im lặng sâu thẳm lại chìm xuống mọi vật như thể không có chuyện gì xảy ra. Nhưng tôi cảm nhận được sự hiện diện của ai đó phía bên kia cửa. Cái kẻ nào đó này cũng đang đứng đấy như tôi, cũng đang nín thở, lắng tai, cố nghe ra tiếng thở hay tiếng tim đập, hay để đọc ra những vận động của một ý nghĩ. Tôi cố kìm không cho hơi thở mình khuấy động không khí xung quanh. Mình không có mặt ở đây, tôi tự nhủ. Tôi không ở đây. Tôi chẳng ở đâu hết.

            Chìa khóa xoay trong ổ khóa. Hắn thực hiện từng cử chỉ một cách cực kỳ cẩn trọng, kéo dài thời gian từng động tác sao cho những âm thanh phát ra bị chẻ thành mỗi mảnh nhỏ không còn liên hệ với nhau, mất hết ý nghĩa. Quả đấm cửa xoay, theo sau là tiếng bản lề xoay hầu như không thể nhận ra. Tim tôi bắt đầu co bóp nhanh hơn. Tôi cố át đi sự nhiễu loạn này, nhưng không được.

            Ai đó đã đi vào phòng, gây ra vài nhiễu loạn trong không khí. Tôi tập trung tinh thần mài sắc ngũ quan và bắt được cái mùi thoang thoảng của kẻ lạ: một hỗn hợp kỳ quặc giữa quần áo dày, hơi thở dồn nén và thần kinh kích động hết mức dìm trong im lặng. Hắn có cầm dao trong tay không? Phải coi như là hắn có. Tôi vẫn nhớ cái ánh lóa trắng bạc của nó. Tôi nín thở, xóa bỏ sự tồn tại của mình, siết chặt cây gậy trong cả hai tay.

            Vào phòng xong, kẻ đó đóng cửa rồi khóa lại. Đoạn hắn đứng đó, lưng áp vào cửa, quan sát và chờ đợi. Hai bàn tay siết chặt gậy của tôi mướt mồ hôi. Tôi đã toan chùi lòng bàn tay vào quần, nhưng mọi cử động dù nhỏ nhất cũng có thể gây hậu quả chết người. Tôi cố nhớ lại bức tượng chim trong vườn căn nhà bỏ hoang của gia đình Miyawaki. Để xóa bỏ sự hiện hữu của mình ở đây, tôi tự đồng hóa mình thành nhất thể với hình ảnh một con chim. Nơi đó, trong khu vườn mùa hè ngợp nắng, tôi là bức tượng chim, đóng băng tại chỗ, nhìn chăm chắm lên bầu trời.

            Kẻ đó mang theo đèn pin. Hắn bật đèn pin, tia sáng thẳng, hẹp của nó cắt xuyên qua bóng tối. Ánh sáng không mạnh. Đó là ánh sáng của một cây đèn bút cùng loại với cây tôi đang mang. Tôi đợi tia sáng đó quét qua tôi khi hắn bước vào phòng, nhưng hắn không nghĩ đến chuyện dời khỏi chỗ. Ánh sáng bắt đầu nhận diện từng vật một ở trong phòng – những đóa hoa trong bình, chiếc khay bạc nằm trên bàn (hắt ra ánh lóe đầy nhục cảm), ghế sofa, đèn trang trí… Nó lướt qua ngay trước mũi tôi rồi dừng lại trên sàn chỉ cách đầu mũi giầy tôi vài xăng–ti–mét, liếm từng góc phòng như cái lưỡi rắn. Tôi đợi, chừng như phải đợi đến vĩnh viễn. Sợ hãi và căng thẳng khoan vào ý thức tôi đau nhói.

            Đừng nghĩ ngợi. Mày không được phép nghĩ. Tôi tự nhủ. Mày không được phép dùng trí tưởng tượng. Trung úy Mamiya đã viết thế trong thư. Ở nơi này mà tưởng tượng là mất mạng như chơi.

            Cuối cùng, ánh đèn pin bắt đầu chuyển động về phía trước, chậm, thật chậm. Gã đàn ông hình như đang tiến về phía phòng trong. Tôi siết chặt gậy trong tay. Chính khi đó tôi mới nhận ra mồ hôi trên tay tôi đã sạch ráo. Tay tôi bây giờ quá khô là đằng khác.

            Gã đàn ông chầm chậm tiến tới một bước, dừng lại. Rồi một bước nữa. Hắn như đang kiểm tra từng bước chân của mình. Hắn đang gần tôi hơn bao giờ hết. Tôi hít một hơi rồi nén lại. Chỉ cần hai bước nữa là hắn sẽ đến đúng chỗ tôi muốn. Chỉ hai bước nữa là tôi có thể kết liễu cái cơn ác mộng biết đi này. Nhưng rồi đúng lúc đó, hoàn toàn bất ngờ, ánh sáng biến mất. Bóng tối như mực lại nuốt chửng mọi vật. Hắn đã tắt đèn pin. Tôi cố buộc đầu mình làm việc nhanh hơn trong bóng tối, nhưng nó hoàn toàn không chịu làm việc. Một luồng khí lạnh tôi chưa từng biết chạy khắp người tôi. Hắn đã nhận ra tôi đang ở đây.

            Cử động đi, tôi tự nhủ. Đừng đứng đực ra thế. Tôi cố lạng người sang trái, nhưng chân tôi không nhúc nhích. Chân tôi như đã gắn chặt xuống sàn nhà, giống như chân con chim đá. Tôi cúi về phía trước, cố nghiêng phần thân trên tê dại của tôi sang trái. Đúng lúc ấy cái gì đó đập vào vai phải của tôi, rồi một cái gì cứng và lạnh như mưa đá thọc vào thấu xương tôi.

            Cú sốc như làm tôi bừng tỉnh, chứng tê liệt biến mất khỏi chân tôi. Tôi nhảy bật về bên trái rồi phục trong bóng tối, mò mẫm tìm đối thủ. Máu chạy rần rật trong cơ thể tôi, mỗi bắp thịt, mỗi tế bào căng lên đòi dưỡng khí. Vai phải tôi tê dại dần, nhưng tôi không thấy đau. Mãi sau mới đau. Tôi đứng im không động đậy, hắn cũng thế. Hai chúng tôi đối diện nhau trong bóng tối, cùng nín thở. Chẳng nhìn thấy gì, chẳng nghe thấy gì.

            Một lần nữa, không hề báo trước, dao xỉa tới. Nó sượt qua mặt tôi như một con ong chích, điểm nhọn vừa vặn bén vào má phải tôi, chỗ có vết bầm. Tôi cảm thấy da bị toạc ra. Không, hắn cũng không nhìn thấy tôi. Nếu thấy tôi thì hắn đã cho tôi rồi đời từ lâu rồi. Tôi vung gậy trong bóng tối, nhắm vào hướng xuất phát của con dao, nhưng gậy chỉ vụt qua không khí, chẳng đập vào cái gì sất. Tuy nhiên cú vung khá đạt, và tiếng vụt sắc gọn kia giúp tôi phần nào bớt căng thẳng. Tạm thời chúng tôi ngang sức nhau. Tôi đã dính dao hai lần, nhưng cả hai lần đều không nặng. Hai chúng tôi chẳng ai nhìn thấy nhau. Hắn có dao, nhưng tôi có gậy.

            Một lần nữa, cùng mù như nhau, hai chúng tôi kìm hơi thở, cố cảm nhận ra đối thủ, chờ từng động tĩnh nhỏ nhất. Tôi cảm thấy máu rỉ xuống mặt mình, nhưng tôi chẳng mảy may sợ hãi. Chỉ là con dao thôi mà, tôi tự nhủ. Chỉ là một vết rạch thôi. Tôi đợi. Tôi đợi con dao lại xỉa về phía tôi lần nữa. Đâm đi! Tôi bảo hắn trong đầu mình. Nhúc nhích đi! Tao đang đợi mày động thủ đây. Muốn thì cứ đâm tao đi. Tao không sợ đâu.

            Con dao lại tới. Nó rạch toang cổ áo len của tôi. Tôi cảm thấy được mũi dao sạt qua họng tôi nhưng không chạm tới da tôi. Tôi xoay người nhảy sang một bên, rồi, hầu như hấp tấp quá chẳng kịp thẳng người lên nữa, tôi vung gậy vào không trung. Gậy đập vào đâu đó gần xương quai xanh hắn. Không đủ mạnh để quật ngã hắn hay làm gãy xương, nhưng tôi biết mình vừa nện hắn một cú ra trò. Tôi cảm thấy hắn rụt hẳn lại vì cú đánh, nghe tiếng hắn há miệng đớp không khí. Tôi lùi gậy lại một quãng ngắn rồi lại vung lên giáng vào hắn, cũng về hướng đó nhưng cao hơn một chút, nơi tôi nghe tiếng hắn thở.

            Cú đánh quá hoàn hảo. Tôi đã nện vào hắn ở đâu đó trên cổ. Có tiếng xương gãy răng rắc nghe lợm giọng. Một cú giáng thứ ba đúng phóc – ngay vào sọ, quật hắn văng sang một bên. Hắn hộc ra một âm thanh kỳ lạ rồi đổ phịch xuống sàn. Hắn nằm đó, ngáp ngáp khe khẽ, nhưng tiếng ngáp chẳng mấy chốc ngừng. Tôi nhắm mắt, rồi, chẳng suy nghĩ gì, nhắm một cú đánh cuối cùng về phía âm thanh kia. Tôi không muốn làm vậy, nhưng tôi không có cách nào khác. Tôi phải kết liễu hắn: không phải vì hận thù, thậm chí cũng chẳng phải vì sợ, ấy chẳng qua là một việc tôi phải làm. Tôi nghe tiếng cái gì đó vỡ toác trong bóng tối như một quả dưa. Rồi tôi nhận thấy mình đang run bắn lên. Toàn thân. Chẳng cách nào ngăn được. Tôi lùi lại một bước, rút đèn pin ra khỏi túi.

            – Đừng! – Một giọng thét lên trong bóng tối. – Đừng nhìn nó! – Giọng Kumiko đang gọi tôi từ phòng trong, cố ngăn không cho tôi nhìn, nhưng tôi phải nhìn. Tôi phải thấy nó. Tôi phải biết nó là cái gì, cái vật nằm ở trung tâm bóng tối mà tôi đã đánh cho nhừ tử kia. Một phần của tôi hiểu Kumiko đang cấm tôi làm gì. Nàng nói đúng: tôi không nên nhìn nó. Nhưng lúc này tôi đang có đèn pin trong tay, và bàn tay đang tự nó chìa ra phía trước.

            – Xin đừng, em xin anh hãy dừng lại! – Nàng thét lên. – Nếu anh còn muốn đưa em về nhà thì chớ nhìn nó!

            Tôi nghiến răng, im lặng đẩy không khí nãy giờ giam trong phổi ra ngoài. Nhưng cơn run vẫn không giảm. Một mùi tởm lợm nồng nặc trong không khí – mùi óc, mùi bạo lực và chết chóc. Tôi đã làm việc này: chính tôi là kẻ đã làm cho không khí có cái mùi này. Tôi tìm thấy chiếc sofa, liền đổ vật xuống. Trong chốc lát tôi cố chống cự với cơn buồn nôn đang dậy lên trong dạ dày, nhưng rồi cơn buồn nôn thắng. Tôi nôn xuống thảm tất cả những gì có trong dạ dày, đến khi chẳng còn gì nữa thì tôi nôn ra dịch vị, rồi không khí và nước dãi. Trong khi nôn, tôi buông gậy xuống sàn. Tôi nghe tiếng nó lăn lông lốc trong bóng tối.

            Khi những cơn co thắt dạ dày bắt đầu dịu xuống, tôi muốn rút khăn mùi soa lau miệng nhưng không cử động nổi tay. Tôi không đứng dậy nổi khỏi sofa. – Mình về nhà đi, – tôi nói về phía bóng tối ở buồng trong. – Xong cả rồi. Ta đi thôi.

            Nàng không trả lời.

            Không còn ai ở trong đó nữa. Tôi lại vùi mình vào sofa, nhắm mắt lại.

            Tôi cảm thấy sức lực đang trút ra khỏi mình – từ đầu ngón tay tôi, từ vai tôi, cổ tôi, chân tôi… Cái đau từ những vết thương của tôi cũng dần dần biến mất. Thân thể tôi đang mất mọi cảm giác về khối lượng và vật chất. Nhưng điều đó không làm tôi bất an hay sợ hãi, hoàn toàn không. Tôi không chống cự mà buông mình – phó thác nhục thể mình – cho một vật to lớn, ấm mềm nào đó đang đến để bao bọc lấy tôi. Điều đó thật tự nhiên. Khi đó tôi nhận ra, mình đang băng qua bức tường sứa. Tôi chỉ có mỗi việc là buông mình cho dòng chảy. Mình sẽ không bao giờ quay lại đây nữa, tôi tự nhủ trong khi di chuyển qua tường. Mọi chuyện đã chấm dứt. Nhưng Kumiko đâu? Nàng đi đâu rồi? Lẽ ra tôi phải mang nàng ra khỏi căn phòng đó mà đưa nàng về nhà. Chính vì lẽ đó tôi mới giết tên kia. Chính vì lẽ đó tôi mới đánh cho sọ hắn vỡ toác ra như quả dưa. Chính vì lẽ đó tôi… Nhưng tôi không thể nghĩ gì được nữa. Ý thức tôi bị hút vào cái hồ sâu hoắm của hư không.

            * * *

            Khi hồi tỉnh, tôi thấy mình lại đang ngồi trong bóng tối. Lưng tôi đang dựa vào tường như mọi khi. Tôi đã trở lại đáy giếng.

            Nhưng đó không phải cái đáy giếng như khi trước. Có cái gì đó mới ở đây, cái gì đó lạ lẫm. Tôi cố tập trung các giác quan để hiểu được chuyện gì đang xảy ra. Cái gì khác biệt đến vậy? Nhưng các giác quan tôi vẫn đang trong một tình trạng tê liệt gần như hoàn toàn. Tôi chỉ có cảm nhận một phần, đứt đoạn về môi trường xung quanh. Tôi cảm thấy như thể, vì sai lầm nào đó mà tôi đã bị đặt vào nhầm vỏ chứa. Tuy nhiên, sau một lát, tôi bắt đầu nhận ra ấy là chuyện gì.

            Nước. Quanh tôi toàn nước.

            Giếng không còn khô nữa. Tôi đang ngồi trong nước lên tới thắt lưng. Tôi hít vào mấy hơi để trấn tĩnh. Làm sao có chuyện này được? Giếng đang có nước, tuy không phải nước lạnh. Đúng hơn là nước âm ấm, như thể tôi đang dầm mình trong bể bơi có sưởi. Bỗng tôi sực nghĩ cần phải kiểm tra trong túi. Tôi muốn biết cây đèn pin có còn đó không. Liệu tôi có mang theo cây đèn đó từ thế giới kia về đây không? Liệu có mối liên hệ nào giữa những gì xảy ra ở đó với cái thực tại này không? Nhưng tay tôi không động đậy được. Ngay cả ngón tay tôi cũng không nhúc nhích được. Bao nhiêu sức lực đã mất hết khỏi tay chân tôi. Thậm chí đứng dậy tôi cũng không đứng nổi.

            Tôi bắt đầu nhận định một cách tỉnh táo hoàn cảnh của mình. Trước hết, nước chỉ mới tới thắt lưng, nên tôi không phải lo chết đuối. Đúng là tôi không nhúc nhích được, nhưng có lẽ ấy là do tôi đã vắt kiệt sức. Chỉ cần có đủ thời gian là sức lực sẽ hồi phục lại thôi. Vết thương vì dao đâm xem chừng không sâu lắm, và toàn thân tê dại thế này lại hóa hay – ít nhất cũng nhờ vậy mà tôi không thấy đau. Máu nơi má hình như không chảy nữa.

            Tôi tựa đầu vào tường tự nhủ: Không sao, đừng lo. Mọi chuyện xong rồi. Bây giờ tôi chỉ còn có mỗi một việc là cho thân thể mình được nghỉ ngơi, sau đó trở về thế giới ban đầu của mình, thế giới ở trên mặt đất kia, nơi chan hòa ánh nắng… Nhưng tại sao cái giếng này tự dưng có nước hoàn toàn đột ngột như vậy? Nó đã khô cạn, đã chết từ quá lâu rồi, thế nhưng giờ nó đã phục hồi sự sống. Liệu điều này có mối liên hệ nào với những gì tôi đã làm ở kia không? Có, hẳn là có. Cái gì đó bấy lâu vẫn làm tắc nghẽn mạch nước nay đã bị tháo tung ra.

            * * *

            Chẳng mấy chốc sau tôi chạm trán với một thực tế đen tối. Thoạt tiên tôi cố khước từ không chịu thừa nhận nó là thực tế. Trí óc tôi nghĩ ra hàng loạt khả năng may thì có thể giúp tôi phủ nhận nó. Tôi cố tự thuyết phục mình ấy chỉ là một ảo giác nảy sinh do kết hợp giữa bóng tối và kiệt sức. Nhưng rốt cục, tôi phải công nhận sự thực. Dù ra sức tự lừa mình đến đâu đi nữa, thực tế vẫn sờ sờ ra đó.

            Mực nước đang dâng lên.

            Nước ban nãy còn ngang thắt lưng, giờ đã lên đến phía dưới cặp đầu gối đang co lại của tôi. Nước dâng từ từ thôi, nhưng nó đang dâng. Tôi lại cố động đậy thân thể. Tôi tập trung toàn bộ tinh thần, cố rặn hết chút sức lực cuối cùng còn lại, nhưng vô ích. Cùng lắm tôi chỉ xoay cổ được chút ít. Tôi nhìn lên trên đầu. Nắp giếng vẫn đậy kín bưng. Tôi cố xem đồng hồ trên cổ tay trái nhưng đành chịu.

            Nước đang chảy ra từ một khe mở nào đó, mà hình như càng lúc càng nhanh. Ban đầu chỉ ri rỉ, nhưng giờ thì tuôn xối xả. Tôi nghe được tiếng nước tuôn. Chẳng mấy chốc đã lên đến ngực. Nước sẽ còn dâng đến đâu chứ?

            Nhớ cẩn thận với nước, ông Honda đã bảo tôi thế. Hồi đó cũng vậy, sau này cũng vậy, tôi đã chẳng hề tin lời tiên tri của ông. Quên thì tôi không quên (một điều kỳ quặc như thế thì không thể quên được), nhưng tôi cũng chưa bao giờ coi nó là nghiêm túc cả. Ông Honda chẳng qua chỉ là một tình tiết vô hại đối với tôi và Kumiko mà thôi. Thỉnh thoảng nhân chuyện gì đó, tôi lại nhắc lời ông “Nhớ cẩn thận với nước” để đùa. Thế là chúng tôi cười ha hả. Chúng tôi còn trẻ, đâu cần tới những lời tiên với tri. Bản thân việc sống đã là một hành vi tiên tri rồi. Nhưng ông Honda nói đúng. Tôi hầu như muốn cười phá lên. Nước đang dâng, và tôi đang gặp khốn.

            Tôi nghĩ tới Kasahara May. Tôi dùng trí tưởng tượng để hình dung cô đang mở nắp giếng – hoàn toàn rõ ràng, sống động như thực. Bức tranh thực và rõ mồn một đến nỗi dường như tôi có thể bước thẳng vào. Tôi không cử động được thân mình, nhưng trí tưởng tượng của tôi vẫn hoạt động. Tôi còn được làm gì khác nữa?

            – Này Chim vặn dây cót, – Kasahara May nói. Giọng cô dội xuống vọng lên thành giếng. Tôi chưa hề biết rằng giếng có nước thì tạo tiếng vang tốt hơn giếng không có nước. – Anh làm gì dưới kia thế? Lại suy nghĩ à?

            – Chẳng phải anh đang làm gì cả, – tôi ngẩng mặt lên nói. – Giải thích bây giờ thì lâu lắm. Anh không cử động được thân mình, nước lại đang dâng lên dưới này. Đây không còn là giếng cạn nữa. Chắc anh chết đuối mất.

            – Tội nghiệp Chim vặn dây cót! – Kasahara May nói. – Anh đã vắt kiệt hết mình, cố hết sức bình sinh để cứu Kumiko. Và có lẽ anh đã cứu được chị ấy thật. Đúng không? Và trong khi làm vậy, anh cũng đã cứu nhiều người. Nhưng bản thân mình thì anh lại không cứu được. Mà cũng chẳng ai khác cứu được anh cả. Anh đã dốc cạn sức mình, đem cả tính mạng mình ra để cứu người khác. Hạt giống của anh thảy đã gieo chỗ khác hết rồi, giờ túi anh rỗng không. Sao lại bất công đến thế được chứ! Em thông cảm với anh, Chim vặn dây cót à, tự đáy lòng em. Thật đấy. Nhưng nói gì thì nói, đó là tự anh lựa chọn mà. Anh có hiểu ý em không?

            – Anh hiểu, – tôi nói.

            Vai phải tôi nghe đau dần dật. Vậy là chuyện đó thực đã xảy ra, tôi tự nhủ. Con dao quả thực đã đâm tôi. Nó đã xé thịt tôi như một con dao thực.

            – Anh có sợ chết không, hở Chim vặn dây cót? – Kasahara May hỏi.

            – Có chứ, – tôi nói. Tôi nghe giọng mình vang vọng trong giếng. Nó là giọng tôi, đồng thời cũng không phải giọng tôi. – Nghĩ đến chuyện mình phải chết dưới đáy giếng tối om này thì dĩ nhiên anh sợ.

            – Thế thì tạm biệt anh, Chim vặn dây cót tội nghiệp. Tiếc là em chẳng làm gì cho anh được. Em đang ở xa, xa lắm.

            – Tạm biệt, Kasahara May, – tôi nói. – Em mặc bikini trông xinh lắm.

            Giọng Kasahara May hết sức bình thản khi cô nói:

            – Tạm biệt, Chim vặn dây cót tội nghiệp.

            Nắp giếng lại đóng chặt. Hình ảnh tan biến. Như chẳng có gì xảy ra cả. Hình ảnh ấy không gắn liền với bất cứ cái gì. Tôi thét về phía miệng giếng: “Kasahara May ơi, lúc này anh cần em thì em ở đâu?”

            * * *

            Nước đã lên đến họng tôi. Giờ nó đã quấn quanh cổ tôi như cái thòng lọng. Bằng dự cảm, tôi bắt đầu thấy khó thở. Tim tôi, giờ nằm trong nước, ra sức điểm quãng thời gian còn lại của nó. Cứ thế này tôi còn khoảng năm phút nữa cho tới khi nước lấp đầy mũi miệng tôi và bắt đầu tràn ngập phổi tôi. Chẳng có cách nào tôi thắng được. Tôi đã hồi sinh cho cái giếng này thì giờ đây tôi chết giữa lúc hồi sinh của nó. Chết cách này cũng không tồi, tôi tự nhủ. Trên đời có lắm cách chết kinh khủng hơn thế nhiều.

            Tôi nhắm mắt lại, cố chấp nhận cái chết đang đến gần một cách càng bình thản càng tốt. Tôi cố vượt qua sợ hãi. Ít nhất thì sau khi chết, tôi cũng để lại được vài thứ. Chẳng nhiều nhặn gì cho cam, nhưng dẫu sao vẫn là một tin lành. Tôi cố mỉm cười, nhưng chẳng đạt lắm. “Dẫu sao mình vẫn sợ chết,” tôi tự nhủ. Hóa ra đó là lời cuối của tôi. Nghe chẳng ấn tượng lắm, nhưng không thay đổi được nữa, muộn quá rồi. Nước giờ đã dâng cao hơn miệng tôi. Rồi cao hơn mũi tôi. Tôi ngừng thở. Phổi tôi nằng nặc đòi hít không khí mới. Nhưng chẳng còn không khí nữa. Chỉ có nước âm ấm thôi.

            Tôi đang chết. Như tất cả những ai sống ở trên đời.

            36

            Chuyện về dân vịt

            *

            Bóng và nước mắt

            *

            Quan điểm của Kasahara May (6)

            Chào chim vặn dây cót!

            Này, anh có nhận được mấy thư trước của em không đấy?

            Em đã viết cho anh hàng đống thư, mà rồi chẳng biết anh có nhận được không. Địa chỉ người nhận em chỉ ghi hú họa, còn địa chỉ người gửi thì em không ghi trên phong bì, thành thử có khi thư em đã chất đống trên ngăn “thư không người nhận” ở bưu điện, bụi bặm mốc meo, không ai thèm ngó tới. Thôi được, nếu không đến được người nhận thì là không đến được, đã sao nào? Em cày cục viết ngần ấy thư là viết cho anh, nhưng điều quan trọng là em phải ghi được ý nghĩ của mình ra giấy. Hễ cứ nghĩ mình đang viết cho anh là em lại viết dễ dàng hơn. Chim vặn dây cót ạ. Em chả biết tại sao. Ừ nhỉ, tại sao thế?

            Nhưng riêng thư này thì em thực sự muốn anh đọc. Em cầu mong sao nó đến được tay anh.

            * * *

            Giờ em sẽ viết về dân vịt. Vâng, đây là lần đầu tiên em nhắc đến dân vịt, chuyện thế này.

            Em có lần nói với anh là nhà máy nơi em đang làm việc đây có cơ ngơi rộng ơi là rộng, có rừng, có hồ, lại còn gì gì nữa ấy. Thong dong tản bộ thì chả còn gì bằng. Hồ khá to, có dân vịt sống ở đấy, đâu như mười hai chú. Em chả biết mấy chú này tổ chức gia đình ra sao. Có lẽ chúng thỏa thuận nội bộ với nhau thế nào đó, kiểu như chú này thì chơi được với chú nọ nhưng không được chơi với chú kia, nhưng em chưa bao giờ thấy chúng đánh nhau cả.

            Đã sang tháng Mười Hai, băng đã bắt đầu đóng trên mặt hồ, nhưng cũng chưa dày lắm. Ngay cả khi trời lạnh hồ vẫn không đóng băng hết, vẫn còn một khoảnh nước đủ cho dân vịt bơi loanh quanh tí chút. Em nghe nói, khi trời đủ lạnh để băng đóng dày, có vài cô trong bọn em ra đây trượt băng. Chừng đó thì dân vịt (hì, gọi thế nghe cũng lạ, nhưng em quen mất rồi, tự buột mồm ra thôi) sẽ phải đi chỗ khác. Em thì chẳng thích trượt băng, nên em chỉ mong đừng có băng biếc gì hết, nhưng dẫu có mong thì cũng đâu thể được như ý mình. Vùng này mùa đông lạnh kinh người, thành thử một khi đã sống ở đây thì dân vịt ắt phải thích nghi với lãnh thổ chứ.

            Dạo này, cuối tuần nào em cũng tới đây giết thì giờ bằng cách ngắm dân vịt. Mỗi lần như vậy, em có thể ngồi hàng hai ba tiếng đồng hồ mà không biết. Ra ngoài trời lạnh là em vũ trang từ đầu tới chân y như thợ săn gấu Bắc Cực ấy: tất lót, mũ, khăn choàng, giày cao cổ, áo khoác lông. Rồi em ngồi hàng tiếng đồng hồ trên một tảng đá, chỉ mình em, hoàn toàn thư giãn, ngắm dân vịt. Thỉnh thoảng em cho chúng ăn bánh mì cũ. Dĩ nhiên ở đây chẳng có ai khác dư thì giờ làm mấy chuyện điên rồ ấy cả.

            Chẳng rõ anh Chim vặn dây cót có biết không, chứ vịt là một loài rất dễ thương. Em ngắm chúng chả bao giờ chán. Em không làm sao hiểu được, vì sao ai cũng thích đi đâu đó thật xa hay bỏ tiền xem những bộ phim ngớ ngẩn thay vì dành thì giờ vui với dân vịt. Chẳng hạn như thỉnh thoảng chúng lại vỗ cánh bay lên không trung rồi đáp xuống băng nhưng lại trượt chân, thế là ngã oạch oạch. Y như xem hài kịch trên ti-vi ấy! Xung quanh chẳng có ai khác, thế mà em vẫn cười sặc sụa. Dĩ nhiên đâu phải chúng làm trò để cho em cười. Chúng đang cố hết sức mình để sống cho ra sống đấy chứ, chỉ có điều thỉnh thoảng một cái thôi. Thế mới thật là hay, em nghĩ vậy.

            Dân vịt có những cái chân có màng dẹt mầu cam đến là dễ thương, như là chúng mang giày đi mưa nhỏ xíu của trẻ con ý, chỉ có điều chân ấy không sinh ra để đi trên băng, em đoán vậy vì em thấy chúng cứ trượt tới trượt lui suốt, có khi còn ngã phịch mông xuống, chổng cẳng lên trời nữa. Giày ấy ắt là không có núm chống trượt. Thành thử mùa đông thật chẳng phải là mùa vui vẻ gì cho dân vịt. Em tự hỏi, trong thâm tâm chúng nó nghĩ gì về băng hay những thứ tương tự. Em dám cá rằng chúng chẳng ghét bỏ gì mùa đông lắm đâu. Nhìn chúng nó em cảm thấy vậy. Xem ra chúng sống cũng khá vui vẻ đấy chứ, dẫu đang mùa đông, có chăng thì thỉnh thoảng chỉ tự càu nhàu: “Lại băng à? Đành vậy thôi…” Em thích dân vịt là còn thích điều ấy nữa.

            Hồ nằm chính giữa rừng, từ đâu đến đây cũng xa. Chẳng ai khác (ngoài em ra, dĩ nhiên!) buồn cuốc bộ ngần ấy đường để đến đây vào mùa này, ngoại trừ những hôm thật ấm. Em đi theo lối mòn xuyên qua rừng, giày em nghiến lạo xạo trên lớp băng còn lại từ trận mưa tuyết gần đây. Em thấy xung quanh đâu cũng toàn chim. Mỗi khi em dựng cao cổ áo lên, khăn quàng quấn cổ kín tận cằm, mỗi hơi thở ra là thành bụm khói trắng trong không khí, với một khúc bánh mì tận trong túi, cứ thế men theo đường mòn xuyên qua rừng mà nghĩ về dân vịt, em lại thấy lòng thực sự ấm áp, hạnh phúc, và em chợt nghĩ ra rằng đã lâu lắm rồi mình không thấy hạnh phúc như vậy.

            Thôi, chuyện dân vịt thế là đủ.

            Nói thật với anh, cách đây một giờ em thức dậy giữa lúc đang nằm mơ thấy anh, Chim vặn dây cót ạ, thế là nãy giờ em ngồi viết thư này cho anh. Bây giờ là (để em xem đồng hồ) đúng 2 giờ 18 phút sáng. Cũng như mọi khi, chưa tới 10 giờ em đã đi ngủ rồi, em nói với dân vịt “Chúc cả nhà ngủ ngon!” Sau đó thì ngủ tít, thế nhưng vừa mới đây thôi, đùng một cái, em choàng dậy. Thật sự em không chắc đó có phải là mơ không. Em chẳng nhớ mình đang mơ cái gì cả. Có khi không phải em đang mơ. Nhưng dù thế nào đi nữa, em đã nghe giọng anh sát bên tai em. Anh đang gọi em, gọi mãi, gọi to lắm. Chính vì vậy mà em bừng tỉnh.

            Khi em mở mắt, trong phòng không tối lắm. Ánh trăng tuôn vào qua cửa sổ. Vầng trăng to lồ lộ trông như một cái khay bằng thép không gỉ treo trên ngọn đồi. Nó to đến nỗi dường như em có thể với tay ra sờ và viết lên đó được. Còn ánh trăng tuôn vào qua cửa sổ thì giống như một vũng nước lớn, trắng phau. Em ngồi trên giường, vắt óc nghĩ xem vừa mới xảy ra chuyện gì. Tại sao anh lại gọi em giọng rõ mồn một, nghe chói lọi như vậy? Tim em đập thình thịch, mãi không yên được. Giả như em đang ở nhà mình, em sẽ mặc đồ - dù giữa đêm khuya đi nữa - rồi chạy xuống ngõ mà đến nhà anh, Chim vặn dây cót ạ. Nhưng ở vùng núi non xa anh đến hàng vạn dặm như thế này thì em chẳng chạy đi đâu được, đúng không?

            Thế thì anh có biết em đã làm gì không?

            Em cởi hết ra. Chà. Đừng hỏi tại sao. Chính em cũng chả biết nữa. Thành thử anh cứ im lặng mà nghe cho hết nhé. Nói chung là em cởi hết quần áo rồi ra khỏi giường. Đoạn em quỳ xuống sàn nhà trong ánh trăng màu trắng kia. Máy sưởi đã tắt, trong phòng hẳn là lạnh, nhưng em không thấy lạnh. Trong ánh trăng đang tuôn từ cửa sổ vào kia có một cái gì đó đặc biệt, nó quấn quanh thân thể em thành một lớp bảo vệ mỏng, sát vào da. Ít ra là em cảm thấy vậy. Em đứng đó, trần truồng, trong một lát, thế rồi em lần lượt chìa từng bộ phận cơ thể mình ra cho nó tắm trong ánh trăng. Em chẳng biết tại sao, dường như đó là việc tự nhiên nhất trên đời vậy. Ánh trăng đẹp tuyệt vời, đẹp vô ngần đến nỗi em không thể không làm như thế. Đầu em, vai em, tay em, ngực em, bụng em, chân em, mông em và cả vùng quanh đó nữa, anh biết rồi đấy: lần lượt từng cái một, em nhúng vào ánh trăng, như đang tắm vậy.

            Nếu có ai ở ngoài mà thấy em, hẳn họ sẽ nghĩ thật quái lạ. Hẳn họ sẽ coi em như một con bé bị chứng cuồng trăng, hễ trăng tròn là lại lên cơn khùng. Nhưng dĩ nhiên chẳng ai thấy em cả. Ừ thì cũng dễ anh chàng cưỡi mô tô có thể đang ở đâu đó mà nhìn em. Nhưng chuyện đó thì không sao. Anh ấy chết rồi. Nếu anh ấy muốn nhìn, và nếu như vậy mà anh ấy thích thì em sẽ vui vẻ để cho anh ấy thấy.

            Nhưng không, chẳng ai nhìn em cả. Em làm việc đó hoàn toàn chỉ một mình dưới ánh trăng. Chốc chốc em lại nhắm mắt lại mà nghĩ về dân vịt, hẳn chúng đang ngủ đâu đó gần hồ. Em nghĩ đến cái cảm giác ấm áp, hạnh phúc mà dân vịt và em đã cùng làm ra lúc ban ngày. Bởi vì, rốt cuộc, dân vịt như là một thứ bùa hộ mệnh huyền bí thật quan trọng đối với em.

            Sau đó em cứ trần truồng như vậy mà quỳ một hồi lâu, quỳ một mình, trong ánh trăng. Ánh trăng làm cho da em có một màu ký bí, lại hắt bóng đen sắc nét của thân mình em xuống sàn, dài tới tận tường. Nó không giống như bóng của thân thể em mà thuộc về một người đàn bà khác trưởng thành hơn em nhiều. Đó không phải một đứa con gái còn trinh như em, nó không có những góc cạnh như em mà tròn đầy hơn, ngực và núm vú to hơn nhiều. Nhưng nó chính là cái bóng mà em đang tạo ra - chỉ có điều trải dài hơn với hình dáng khác thôi. Khi em cử động, nó cũng cử động. Mãi một hồi em cứ thử cử động hết cách này đến cách khác, vừa làm vừa quan sát thật kỹ xem có mỗi liên hệ nào giữa em với cái bóng của em, cố hiểu tại sao trông nó lại khác đến vậy. Nhưng em chẳng hiểu gì cả. Càng nhìn càng thấy lạ lùng.

            Giờ thì mới đến phần thực sự khó lý giải, Chim vặn dây cót ạ. Em không biết em có nói được không, nhưng cứ thử xem.

            Nói thật ngắn gọn là đột nhiên em òa khóc. Nếu trong kịch bản hay gì gì đó thì chắc người ta viết thế này: “Kasahara May đột nhiên lấy tay che mặt, nức nở to, nước mắt chảy ràn rụa”. Nhưng đừng sửng sốt quá nhé. Lâu nay em vẫn giấu anh, chứ thực ra em là đứa mít ướt nhất trần đời. Chuyện gì em cũng khóc. Đó là điểm yếu bí mật của em. Thành thử đối với em, chuyện tự dưng òa khóc chẳng vì lý do nào đâu có gì lạ. Tuy nhiên thường thì em chỉ khóc một tý, sau đó em tự nhủ: khóc thể đủ rồi, dừng thôi. Em dễ khóc nhưng cũng dễ nín. Thế nhưng đêm nay em không sao nín được. Cứ như ai đó khui nút bật ra, vậy là cứ thế tuôn. Em không biết vì đâu mình khóc, nên cũng chẳng biết làm sao dừng lại cả. Nước mắt cứ thế tuôn ra, như máu tuôn từ một vết thương rộng hoác. Em không thể tin mình lại có thể khóc ra nhiều nước mắt đến vậy. Em đâm lo cứ cái đà này có khi mình sẽ kiệt nước mà biến thành xác ướp mất.

            Em thực sự nhìn thấy, nghe thấy nước mắt em rơi từng giọt xuống hồ trăng màu trắng rồi bị hút luôn vào như thể những giọt nước mắt vốn dĩ luôn luôn là một phần của ánh sáng ấy. Khi rơi xuống giữa không trung, những giọt nước mắt bắt ánh trăng, sáng lóng lánh tuyệt đẹp như những tinh thể pha lê. Rồi em nhận ra rằng cái bóng của em cũng đang khóc, cũng đang tuôn nước mắt, những giọt nước mắt bóng rõ ràng, sắc nét. Anh Chim vặn dây cót đã bao giờ thấy bóng của nước mắt chưa? Chẳng có gì giống những cái bóng thường đâu. Hoàn toàn khác. Chúng đến đây từ một thế giới khác, rất xa nơi đây, chúng đến đây chỉ là cho trái tim của chúng ta thôi. Mà cũng có thể không phải. Chính khi đó em lại sực nghĩ, biết đâu nước mắt mà cái bóng của em đang tuôn mới là thực, còn nước mắt em đang tuôn thì chỉ là bóng. Em chắc là anh không hiểu đâu, Chim vặn dây cót à. Khi một đứa con gái mười bảy tuổi trần truồng tuôn nước mắt trong ánh trăng thì chuyện gì cũng có thể xảy ra. Thật đấy.

            Ấy là chuyện đã xảy ra trong căn phòng này cách đây khoảng một tiếng. Bây giờ thì em đang ngồi ở bàn, viết thư cho anh bằng bút chì, Chim vặn dây cót ạ (dĩ nhiên em đã mặc quần áo rồi!).

            Tạm biệt Chim vặn dây cót. Em không biết nói thế nào… nhưng em cùng với dân vịt trong rừng sâu cầu mong cho anh được ấm lành, hạnh phúc. Nếu có chuyện gì, anh cứ gọi em nữa đi, gọi cho to vào, đừng ngại.

            Chúc anh ngủ ngon.

            37

            Hai loại tin khác nhau

            *

            Vật biến mất

             - Quế đã đưa cậu về đây, - Nhục đậu khấu nói.

            Điều đầu tiên tôi nhận thấy khi thức dậy là đau, đau dưới nhiều dạng khác nhau, méo mó. Con dao đã làm tôi bị thương, mọi khớp sụn, mọi khớp xương, cơ bắp trong thân thể tôi đều khiến tôi đau. Hẳn là nhiều bộ phận thân thể tôi đã va mạnh vào vật này vật khác trong lúc tôi bỏ chạy trong bóng tối. Thế nhưng hình dạng của mỗi cái đau khác nhau đó vẫn chưa đúng hẳn. Chúng đâu như gần với cái đau, nhưng không thể gọi đích xác là cái đau.

            Kế đó tôi nhận ra mình đang nằm dài trên ghế sofa trong "phòng chỉnh lý" của Dinh, mặc bộ pyjama màu xanh lính thủy mà tôi chưa thấy bao giờ, mình đắp chăn. Rèm mở toang, ánh mặt trời buổi sáng tuôn vào qua cửa sổ. Tôi đoán bây giờ chắc khoảng 10 giờ. Không khí nơi đây thật trong lành, và thời gian thì vẫn đang trôi về phía trước. Nhưng vì sao tất cả những chuyện đó lại xảy ra được, tôi không sao lý giải rõ ràng.

            - Quế đã đưa cậu về đây, - Nhục đậu khấu nói. - Mấy vết thương của cậu không nặng lắm. Vết trên vai khá sâu, nhưng không phạm đến mạch máu chính nào, cũng may. Những vết trên mặt thì chỉ là trầy xước. Quế đã dùng kim chỉ khâu các vết thương khác sao cho cậu không bị sẹo. Chuyện ấy thì nó giỏi lắm. Ít hôm nữa cậu có thể tự tháo chỉ được, không thì nhờ bác sĩ.

            Tôi cố nói, nhưng không thốt được tiếng nào. Tôi chỉ làm được mỗi một việc là hít vào rồi thở ra nghe rin rít chói tai.

            - Cậu khoan hãy cố nói hay cử động thì tốt hơn, - Nhục đậu khấu nói. Bà ngồi trên chiếc ghế gần đó, hai chân bắt tréo. - Quế bảo cậu đã ở dưới giếng quá lâu, thiếu chút nữa là đã chết rồi. Nhưng đừng hỏi tôi đã xảy ra chuyện gì. Tôi chẳng biết gì hết. Nửa đêm có cú điện thoại gọi tôi, tôi bèn gọi taxi rồi ù té tới đây ngay. Cụ thể chuyện gì xảy ra trước đó thì tôi không biết. Quần áo cậu ướt sũng, toàn là máu. Chúng tôi quăng đi rồi.

            Nhục đậu khấu ăn mặc đơn sơ hơn mọi khi, có lẽ đúng là bà đã quáng quàng ra khỏi nhà thật. Bà mặc áo len ca-sơ-mia màu kem khoác ngoài áo sơ-mi nam giới kẻ sọc, váy len màu xanh ôliu, không nữ trang, tóc buộc đằng sau. Bà trông hơi mệt mỏi, nhưng trừ cái đó ra thì bà trông như người mẫu trong cataloug ảnh. Bà cho một điếu thuốc lên môi rồi châm lửa bằng chiếc bật lửa bằng vàng, làm phát ra tiếng tách rõ rệt, khô khốc quen thuộc, đoạn hít mấy hơi, mắt nheo nheo lại. Tôi đúng là chưa chết thật, tôi tự trấn an mình khi nghe tiếng tách của cái bật lửa. Hẳn là Quế đã kéo tôi lên khỏi giếng đúng vào phút chót.

            - Quế hiểu biết mọi chuyện theo một kiểu đặc biệt, - Nhục đậu khấu nói. - Khác với tôi hay cậu, nó luôn luôn suy nghĩ rất sâu xa về khả năng xảy ra chuyện này hay chuyện khác. Nhưng ngay cả nó cũng không tưởng tượng nổi nước lại dâng đầy cái giếng đó đột ngột đến thế. Chuyện đó nằm ngoài mọi khả năng mà nó đã tiên liệu. Chính vì vậy mà suýt nữa là cậu mất mạng rồi. Đây là lần đầu tiên tôi thấy thằng bé hoảng hốt đến thế.

            Bà cố mỉm cười khi nói như vậy.

            - Hẳn là nó thật sự thích cậu, - bà nói.

            Sau đó bà nói gì tôi không nghe được nữa. Tôi nghe đau ở sâu đằng sau mắt, mí mắt tôi nặng như chì. Tôi cứ để mắt díp lại mà đắm vào trong bóng tối như đang đi xuống bằng buồng thang máy.

            * * *

            Phải mất hai ngày cơ thể tôi mới hồi phục lại. Suốt thời gian đó Nhục đậu khấu luôn ở bên tôi. Tôi không tự dậy được, không nói được, gần như không ăn được. Cố lắm tôi cũng chỉ hớp nổi vài hớp nước cam và nhấm vài miếng đào đóng hộp. Ban đêm Nhục đậu khấu về nhà, sáng ra lại đến. Thế cũng tốt, bởi vì suốt đêm - và hầu như suốt cả ngày nữa tôi ngủ như chết - tôi bị nhiễm cái lạnh ngoài trời. Rõ ràng ngủ là thứ tôi cần nhất để có thể hồi phục.

            Tôi không hề gặp Quế. Hình như Quế cố tình tránh mặt tôi. Ngày nào tôi cũng nghe tiếng xe anh ta qua cổng mỗi khi đưa đón Nhục đậu khấu hoặc mang tới đồ ăn, quần áo - nghe cái tiếng ùng ục trầm trầm đặc biệt của động cơ xe Porsche, bởi cậu ta đã thôi dùng chiếc Mercedes, - nhưng cậu ta không vào bên trong. Cậu trao mọi thứ cho Nhục đậu khấu ở cửa trước rồi lại đi.

            - Sắp tới chúng tôi sẽ dẹp bỏ chỗ này, - Nhục đậu khấu bảo tôi. - Tôi sẽ lại phải tự mình chăm lo cho các quý bà kia. Ờ, phải. Chắc cái số tôi nó thế. Tôi sẽ cứ phải tiếp tục chừng nào chưa kiệt sức - chừng nào chưa cạn sạch. Còn cậu, có lẽ cậu sẽ không còn gì phải liên quan đến chúng tôi nữa. Khi chuyện này đã qua và cậu đã bình phục, tốt nhất là cậu hãy quên chúng tôi đi, càng sớm càng tốt. Bởi vì... Ừ nhỉ, còn chuyện này tôi quên chưa cho cậu biết. Về anh vợ cậu ấy mà. Wataya Noboru.

            Nhục đậu khấu đem một tờ báo từ phòng bên sang, giở ra giữa bàn.

            - Quế vừa mới mang tờ báo về thôi. Anh vợ cậu bị đột quỵ đêm qua ở Nagasaki. Người ta đưa ông ấy vào bệnh viện, nhưng đến giờ ông ấy vẫn bất tỉnh. Người ta không biết liệu ông ấy có tỉnh lại nữa hay không.

            Nagasaki ư? Tôi khó lòng hiểu bà ta đang nói gì. Tôi muốn nói, nhưng lời lẽ không bật ra được. Wataya Noboru lẽ ra phải đột quỵ ở Akasaka chứ không phải Nagasaki. Sao lại Nagasaki?

            - Ông ấy diễn thuyết ở Nagasaki, - Nhục đậu khấu nói tiếp, - sau đó trong khi đang ăn tối với các nhà tổ chức thì bỗng đột quỵ. Người ta đưa ông ấy đến bệnh viện gần đó. Người ta cho rằng có lẽ đó là một loại tai biến mạch máu não, chắc là vì một khiếm khuyết bẩm sinh ở mạch máu trong não. Báo chí cho biết ông ấy sẽ phải nằm liệt giường một thời gian, rằng dù có tỉnh lại có lẽ ông ấy cũng không nói được, rằng rất có thể sự nghiệp chính trị của ông ấy đến đây là hết. Thật đáng tiếc, ông ấy còn trẻ quá. Tôi để tờ báo lại đây. Khi nào thấy khỏe hơn thì cậu tự đọc.

            Phải mất một lúc tôi mới chấp nhận được cái hiện tại kia là sự thực. Những hình ảnh tin tức tivi mà tôi đã thấy trong tiền sảnh khách sạn vẫn còn in sâu, quá sống động rõ ràng trong ý thức tôi: văn phòng của Wataya Noboru ở Asakasa, cảnh sát bu chật ních, cổng trước bệnh viện, nét nghiêm trọng của người dẫn chương trình, vẻ căng thẳng trong giọng anh ta. Tuy nhiên, dần dần, từng tí một, tôi đã có thể thuyết phục được chính mình rằng những gì tôi từng thấy kia là những tin tức chỉ tồn tại trong thế giới khác. Trong thực tại, ở thế giới này, tôi đã không đánh Wataya Noboru bằng gậy bóng chày. Trong thực tại, tôi sẽ không bị cảnh sát thẩm vấn hay bị bắt vì phạm tội. Hắn đã đột quỵ trước bàn dân thiên hạ, vì tai biến mạch máu não. Chẳng có tội phạm nào hết, không thể có tội phạm nào cả. Ý nghĩ đó khiến tôi có thể thở phào nhẹ nhõm. Dù gì đi nữa, hung thủ được mô tả trên truyền hình kia có nhân dạng giống tôi như đúc, thành thử tôi không có bằng chứng ngoại phạm.

            Chắc hẳn phải có mối liên quan nào đó giữa việc tôi đã đánh chết kẻ nào đó ở thế giới kia với việc Wataya Noboru đột quỵ. Rõ ràng tôi đã giết chết một cái gì đó ở bên trong hắn hay một cái gì đó có liên quan chặt chẽ với hắn. Ắt là hắn đã tiên cảm được điều đó sẽ xảy ra. Tuy nhiên, việc tôi làm đã không đoạt được sinh mạng của Wataya Noboru. Hắn vẫn cứ sống ngay bên bờ vực cái chết. Lẽ ra tôi phải đẩy luôn hắn xuống vực kia. Chuyện gì sẽ xảy ra với Kumiko đây? Liệu nàng có dứt được khỏi chỗ đó trong khi hắn vẫn sống? Liệu từ trong bóng tối vô thức kia hắn có tiếp tục ám lời nguyền lên Kumiko?

            Ý nghĩ của tôi chỉ đi xa được đến ngần ấy. Ý thức tôi chuội đi từng tí một, cho đến khi tôi nhắm mắt lại ngủ thiếp. Tôi mơ một giấc mơ căng thẳng, đứt đoạn. Kano Creta đang bế một đứa bé áp vào ngực. Tôi không thấy mặt đứa bé. Tóc Kano Creta cắt ngắn, cô không trang điểm gì. Cô bảo tôi tên đứa bé là Corsica, và cha đứa bé nửa là tôi nửa kia là Trung úy Mamiya. Cô bảo cô đã không đến đảo Crete mà vẫn ở lại Nhật để sinh và nuôi đứa bé này. Cô vừa nghĩ ra được tên mới cho đứa bé, còn hiện giờ cô đang sống yên bình, trồng rau trên những núi đồi Hiroshima cùng Trung úy Mamiya. Những tin ấy không hề làm tôi ngạc nhiên. Ít nhất là trong giấc mơ tôi đã thấy trước tất cả.

            - Kano Malta thế nào từ sau khi tôi gặp cô ấy lần trước? - Tôi hỏi.

            Kano Creta không trả lời. Cô chỉ buồn buồn nhìn tôi rồi biến mất.

            * * *

            Vào sáng ngày thứ ba tôi đã tự khỏi giường được. Đi đứng thì vẫn còn khó khăn lắm, nhưng tôi đã dần dần nói năng lại được. Nhục đậu khấu nấu cho tôi ít cháo. Tôi ăn cháo rồi thêm ít hoa quả.

            - Con mèo sao rồi? - Tôi hỏi bà. Vấn đề này có lúc đã khiến tôi không yên tâm.

            - Đừng lo. Quế đang chăm sóc nó. Ngày nào cậu ấy cũng đến nhà cậu để cho mèo ăn và thay nước. Giờ cậu chỉ nên lo lắng cho bản thân mình thôi.

            - Bà với cậu ấy định khi nào sẽ dẹp bỏ nhà này?

            - Càng sớm càng tốt. Có lẽ trong vòng tháng sau. Chắc là cậu cũng sẽ kiếm được ít tiền đấy. Chắc chúng tôi sẽ phải bán giá thấp hơn một chút so với hồi chúng tôi mua, thành thử cậu sẽ không được nhiều lắm, nhưng phần cậu vẫn là một phần trăm kha khá của số tiền cậu đã trả thế chấp. Sẽ đủ cho cậu sống một thời gian. Nên cậu không phải quá lo về chuyện tiền nong. Cậu xứng đáng được như vậy; nói gì thì nói, cậu đã làm việc tốt ở đây mà.

            - Nhà này sẽ bị phá dỡ à?

            - Có lẽ vậy. Họ cũng sẽ lấp luôn giếng. Cho nên bây giờ giếng có nước cũng bằng thừa thôi, thời buổi này có ai thích một cái giếng cổ to đùng như thế đâu. Người ta chỉ cần đặt ống và máy bơm điện là xong. Tiện hơn nhiều mà lại choán ít chỗ.

            - Chắc chỗ này không bị xúi quẩy nữa đâu, - tôi nói. - Nó sẽ lại là chỉ một lô đất bình thường chứ không phải "nhà có dớp" nữa.

            - Có thể cậu nói đúng, - Nhục đậu khấu nói. Bà ngần ngừ một chút rồi cắn môi. - Nhưng chuyện đó không còn liên quan đến tôi hay cậu nữa. Đúng không? Trong mọi trường hợp, điều quan trọng là bây giờ cậu phải nghỉ ngơi, đừng bận tâm đến những chuyện không thực sự đáng kể. Phải mất một thời gian nữa cậu mới hồi phục hoàn toàn đấy.

            Nhục đậu khấu chỉ cho tôi bài báo về Wataya Noboru trong tờ báo buổi sáng mà bà mang theo. Chỉ là một bài báo nhỏ, Wataya Noboru vẫn còn mê man, đã được chuyển từ Nagasaki về một bệnh viện đại học lớn ở Tokyo, đang được chăm sóc đặc biệt nhưng tình trạng vẫn không thay đổi. Báo chẳng nói gì hơn ngần đó. Đọc tới đây, dĩ nhiên tôi nghĩ ngay tới Kumiko. Nàng đang ở đâu? Tôi phải quay về nhà. Nhưng tôi vẫn chưa đủ sức để đi bộ một quãng xa đến thế.

            Sáng hôm sau tôi cố lê đến bồn rửa mặt và nhìn thấy mình trong gương lần đầu tiên trong ba ngày qua. Tôi trông thật khủng khiếp. Chẳng giống một người sống phờ phạc là mấy, một cái xác được bảo quản tốt thì đúng hơn. Như Nhục đậu khấu đã nói, vết rạch trên má đã được khâu lại bằng những mũi khâu nhà nghề, mép vết thương đều khin khít với đường chỉ trắng. Vết đâm dài ít nhất hai phân rưỡi nhưng không sâu lắm. Khi tôi thử nhăn mặt thì nó cũng căng ra, nhưng chẳng thấy đau mấy. Tôi đánh răng rồi dùng máy cạo râu chạy điện để cạo râu. Tôi chưa đủ tự tin để dùng dao cạo như bình thường. Khi đã rửa sạch bọt cạo râu, tôi khó lòng tin được điều mình nhìn thấy trong gương. Tôi đặt máy cạo râu xuống rồi nhìn kỹ. Vết bầm đã biến mất. Gã đàn ông kia đã dâm vào má phải tôi. Đúng ngay chỗ có vết bầm. Vết đâm vẫn còn đó, nhưng vết bầm không còn nữa. Nó đã biến mất khỏi má tôi không còn một dấu vết nào.

            * * *

            Nửa đêm ngày thứ năm, tôi lại nghe tiếng lục lạc reo khe khẽ. Lúc ấy hơn 2 giờ sáng một chút. Tôi trở dậy khỏi sofa, khoác áo cardigan ngoài bộ pyjama rồi ra khỏi phòng chỉnh lý. Băng qua bếp, tôi tiến đến phòng làm việc nhỏ của Quế, ghé nhìn vào. Quế lại đang gọi tôi từ bên trong máy tính. Tôi ngồi xuống bàn đọc thông điệp trên màn hình.

            Hiện bạn đã được quyền truy cập chương trình "Biên niên ký sự của Chim vặn dây cót". Chọn một tài liệu (1-17).

            Tôi nhấp Số 17, và một tài liệu mở ra trước mắt tôi.

            38

            Biên niên ký sự của

            Chim vặn dây cót Số 17

            (Thư của Kumiko)

            *

            Có nhiều chuyện em muốn nói với anh. Kể cho hết thì phải mất nhiều thì giờ lắm, có khi phải mấy năm trời. Đáng ra em phải bộc bạch với anh từ lâu, thú nhận với anh tất cả, nhưng tiếc thay, em không đủ can đảm làm vậy. Thế nhưng em vẫn ấp ủ một hy vọng vu vơ, rằng mọi chuyện sẽ không đến nỗi tệ hại như vậy. Kết quả là cơn ác mộng này dành cho cả anh và em. Lỗi tại em hết. Nhưng giải thích mọi chuyện thì cũng đã quá muộn rồi. Chúng ta không có nhiều thời gian để làm việc đó. Cho nên ở đây em chỉ muốn nói với anh điều quan trọng nhất thôi.

            Đó là, em cần phải giết anh trai em, Wataya Noboru.

            Lát nữa em sẽ đến phòng bệnh nơi anh ta đang ngủ, để rút phích cắm hệ thống duy trì sự sống cho anh ta. Em là em gái anh ta, nên người ta sẽ cho em thay y tá ở lại qua đêm cạnh anh ta. Hệ thống bị ngắt rồi mọi người cũng không nhận ra ngay đâu. Hôm qua em đã nhờ bác sĩ chỉ cho cách vận hành hệ thống. Em định sẽ đợi đến khi chắc chắn là anh ta đã chết, chừng đó em tự nộp mình cho cảnh sát. Em sẽ bảo họ, em đã làm việc em cho là đúng, nhưng không giải thích gì hơn. Chắc người ta sẽ bắt giữ em ngay tại chỗ và đưa em ra tòa vì tội giết người. Báo chí sẽ nhảy vào, mọi người sẽ nêu ý kiến về chuyện chết không đau đớn và những thứ đại loại thế. Nhưng em sẽ vẫn im lặng. Em không giải thích hay thanh minh gì cả. Trong mọi chuyện chỉ có một sự thực duy nhất mà thôi, ấy là em muốn kết liễu cuộc đời của một con người, Wataya Noboru. Họ sẽ tống giam em, nhưng chuyện ấy em không hề sợ. Những gì tồi tệ nhất em đã trải qua cả rồi.

            * * *

            Nếu như không có anh, chắc em đã mất trí từ lâu. Chắc hẳn em đã tự trao mình trọn vẹn, trống rỗng, cho một kẻ khác và rơi xuống tới một nơi không còn hy vọng phục hồi. Anh trai em, Wataya Noboru, đã làm đúng như vậy với chị gái em nhiều năm trước đây, rốt cuộc chị ấy đã tự sát. Anh ta đã làm ô uế hai chị em. Nói đúng ra, anh ta không làm ô uế thân thể chúng em. Việc anh ta đã làm còn tồi tệ hơn thế.

            Em đã bị tước quyền tự do làm bất cứ việc gì, tự giam mình đơn độc trong phòng tối. Chẳng ai xiềng xích em hay đặt lính gác canh giữ, nhưng em không thể nào thoát ra được. Anh trai em giam giữ em bằng những thứ xiềng xích và lính gác mạnh hơn nhiều - những xiềng xích và lính gác vốn là chính bản thân em. Em chính là xiềng xích buộc vào chân em, chính là tên lính gác tàn bạo không bao giờ ngủ. Dĩ nhiên bên trong em còn có một cái tôi khác muốn thoát ra, nhưng đồng thời lại có một cái tôi nữa hèn đớn, trụy lạc đã mất hết mọi hy vọng liệu có bao giờ thoát được, và cái tôi thứ nhất chẳng bao giờ át nổi cái tôi thứ hai vì em đã quá mức ô uế trong thể xác và tâm hồn rồi. Em đã đánh mất quyền trở lại với anh, không chỉ vì em đã bị anh trai, Wataya Noboru làm ô uế, mà còn bở từ trước đó em đã tự làm ô uế mình đến không sao cứu chữa nổi.

            Trong thư em có nói với anh, em đã ngủ với người đàn ông khác, nhưng nội dung thư đó không phải là sự thật. Em phải thú nhận sự thật với anh ở đây. Em đã ngủ không chỉ với một người mà với nhiều người khác nữa. Nhiều quá không đếm xuể. Chính em cũng không biết, cái gì đã xui em làm một việc như vậy. Bây giờ nhìn lại, em nghĩ đó chắn hẳn là do ảnh hưởng của anh trai em. Hẳn là anh ta đã mở một cái ngăn kéo nào đó bên trong em, lôi ra một cái gì đó không hiểu là gì, thế là anh ta khiến em phải hiến thân cho hết người này đến người khác. Anh trai em có cái thứ sức mạnh đó, và, dẫu không muốn, em cũng phải thừa nhận điều này: nhất định là hai anh em chúng em có gắn bó khăng khít với nhau ở một chỗ tăm tối nào đó.

            Dù thế nào thì thế, khi anh trai em đến chỗ em thì em đã tự làm ô uế mình không sao gột rửa được. Rốt cuộc em đã bị mắc bệnh giang mai. Nhưng dẫu có vậy đi nữa, như em đã nói trong thư, trong thời gian đó, em không bao giờ cảm thấy mình đang làm điều gì xấu với anh. Em cảm thấy việc em làm dường như hoàn toàn tự nhiên - chắc đó không phải là cái tôi thực của em nên mới cảm thấy như vậy. Tuy nhiên, liệu có đúng vậy không chứ? Liệu câu trả lời có thực sự đơn giản như vậy không? Mà nếu vậy thì đâu là cái tôi thực của em? Liệu em có cơ sở vững chắc nào để kết luận rằng cái tôi đang viết bức thư này là "cái tôi thực"? Em chưa bao giờ có thể tin chắc đến vậy vào "cái tôi" của em, cả đến giờ phút này cũng thế.

            Em thường mơ thấy anh, những giấc mơ sống động, rõ mồn một. Trong những giấc mơ đó, anh luôn luôn đang tuyệt vọng tìm em. Chúng ta đang ở trong một thứ mê cung, anh gần như đã đến sát cạnh chỗ em đang đứng. "Thêm một bước nữa thôi! Em đang ở ngay đây!" Em muốn thét lên, giá như anh tìm thấy em và ôm em vào lòng thì cơn ác mộng hẳn đã chấm dứt, mọi thứ sẽ quay lại như xưa. Nhưng em không thể nào cất lên tiếng thét đó. Thế là anh lại không nhìn ra em trong bóng tối, anh đi ngang qua ngay trước mặt em rồi biến mất. Lúc nào cũng vậy. Thế nhưng, những giấc mơ ấy vẫn giúp đỡ và khích lệ em. Ít nhất là em biết, mình vẫn còn sức để mơ. Anh trai em không thể ngăn em làm chuyện đó. Em cảm thấy được rằng anh đang cố hết sức bình sinh để đến gần em. Có thể một ngày nào đó anh sẽ tìm thấy em, ôm em vào lòng, quét sạch những thứ bẩn thỉu kinh tởm đang bám chặt lấy em rồi cứu em thoát khỏi chỗ đó vĩnh viễn. Có thể anh sẽ phá được lời nguyền, gắn lại niêm phong sao cho cái tôi thực của em sẽ không bao giờ phải bỏ đi đâu nữa. Chính nhờ vậy em mới còn giữ được một ngọn lửa hy vọng con con ở cái nơi tối tăm lạnh lẽo không lối thoát này, vẫn giữ được chút nhỏ nhoi còn sót lại từ giọng nói đích thực của em.

            Em nhận được mật khẩu truy nhập máy tính hồi chiều nay. Có ai đó đã gửi nó cho em bằng thư bảo đảm. Em đang gửi thư này cho anh từ máy vi tính trong văn phòng của anh trai em. Em hy vọng thư sẽ đến tay anh.

            * * *

            Em không còn thời gian nữa. Taxi đang đợi em ngoài kia. Em phải đến bệnh viện ngay bây giờ, để giết anh trai em và chịu trừng phạt. Lạ thật, em không còn căm thù anh trai em nữa. Em thanh thản với ý nghĩ mình sẽ phải xóa sạch cuộc đời anh ấy ra khỏi thế giới này. Em phải làm việc đó vì chính anh ấy nữa. Và để mang lại ý nghĩa cho cuộc đời của chính em.

            Anh nhớ chăm nom con mèo nhỏ. Anh không thể biết em vui đến nhường nào khi hay tin nó đã trở về đâu. Anh bảo tên nó là Cá thu à? Em thích cái tên ấy. Nó luôn luôn là biểu tượng cho một cái gì tốt lành đã lớn lên giữa hai ta. Lẽ ra hồi đó chúng mình đừng để mất nó mới phải.

            * * *

            Em không thể viết thêm gì nữa. Tạm biệt.

            39

            Tạm biệt

            *

            - Tiếc là em không thể chỉ cho anh xem dân vịt. Chim vặn dây cót à, - Kasahara May có vẻ tiếc rẻ rất thành thực.

            Cô và tôi đang ngồi trên bờ, nhìn mặt hồ đóng lớp băng dày. Đó là một cái hồ lớn, trên mặt băng có hàng ngàn vết cắt nhỏ vì đế giày trượt. Kasahara May đã xin nghỉ phép sáng thứ Hai hôm nay chỉ vì tôi. Tôi đã định đến thăm cô vào Chủ nhật, nhưng vì có tai nạn tàu hỏa nên tôi bị trễ mất một ngày. Kasahara May quấn mình kín mít trong áo lót lông. Chiếc mũ len màu xanh nhạt của cô thêu hoa văn hình học bằng sợi len trắng, trên chỏm có quả cầu tròn nho nhỏ. Cô đã tự đan chiếc mũ đó cho mình, cô bảo mùa đông sang năm cô sẽ đan một chiếc y như thế cho tôi. Má cô đỏ hây hây, mắt cô ngời sáng trong trẻo như bầu không khí xunh quanh, khiến tôi thấy thật sung sướng: dù sao đi nữa cô chỉ mới mười bảy tuổi, cô còn có thể thay đổi đến vô cùng.

            - Từ khi hồ đóng băng kín thì dân vịt chuyển đi chỗ khác hết rồi. Nếu anh gặp thì nhất định anh cũng sẽ yêu chúng ngay. Mùa xuân này anh trở lại nhé? Em sẽ giới thiệu anh với chúng.

            Tôi mỉm cười. Tôi mặc một chiếc áo khóa len không ấm lắm, quấn khăn quàng kín tận má, tay thọc vào túi áo. Trong rừng lạnh căm căm. Tuyết cứng như đá phủ đầy mặt đất. Đôi giày thể thao của tôi cứ trượt luôn. Lẽ ra tôi phải mua từ trước một đôi giày cao cổ chống trược dành riêng cho chuyến đi này.

            - Vậy là em định sẽ ở lại đây lâu hơn phải không? - Tôi hỏi.

            - Chắc vậy. Có thể sau một thời gian nữa em sẽ về đi học lại. Mà cũng có thể không. Em chả biết nữa. Cũng có khi em đi lấy chồng không chừng... mà cũng không chắc. - Cô mỉm cười, thở ra một làn hơi trắng. - Nhưng dù gì, em cũng ở lại đây ít lâu nữa. Em cần thêm thời gian để suy nghĩ. Nghĩ xem em muốn làm gì, em muốn đi đâu. Em cần có thì giờ để nghĩ về những chuyện đó.

            Tôi gật đầu: - Có lẽ em cần phải làm vậy thật.

            - Này Chim vặn dây cót, hồi bằng tuổi em, anh có hai nghĩ về những chuyện như thế không?

            - Hừm. Chắc là không. Chắc anh cũng có nghĩ tới mấy chuyện đó một chút, nhưng nếu nghĩ một cách nghiêm túc như em thì không... anh nhớ là không. Chắc là hồi đó anh nghĩ nếu mình cứ bình thường mà sống thì mọi chuyện tự nó sẽ ổn thôi. Nhưng kết cục lại chẳng như vậy, phải không? Thật đáng tiếc.

            Cô nhìn thẳng vào mắt tôi, khuôn mặt cô bình thản. Rồi cô đặt đôi găng tay lên lòng mình, chiếc nọ chồng lên chiếc kia.

            - Vậy là rốt cuộc người ta sẽ không thả Kumiko ra à? - Cô hỏi.

            - Cô ấy không chịu ra tại ngoại, - tôi nói. - Cô ấy sợ nếu ra ngoài thì sẽ bị đám đông quây lấy, không cho cô ấy yên. Chẳng thà cứ ở trong tù, được tĩnh lặng bình an. Thậm chí cô ấy cũng không muốn gặp anh nữa. Cô ấy không muốn gặp ai hết, chừng nào mọi việc chưa giải quyết xong.

            - Bao giờ phiên tòa bắt đầu?

            - Đâu như vào mùa xuân, Kumiko nhận tội. Cô ấy sẽ chấp nhận phán quyết của tòa, dù tòa quyết định thế nào đi nữa. Phần xét xử chắc sẽ không kéo dài đâu. Có nhiều khả năng cô ấy sẽ được hưởng án treo, cùng lắm thì cũng xử nhẹ thôi.

            Kasahara May nhặt một hòn đá dưới chân ném ra giữa hồ. Hòn đá rơi đánh cạch xuống mặt băng rồi văng sang phía bên kia.

            - Còn anh Chim vặn dây cót, anh lại sẽ ở nhà đợi chị Kumiko chứ?

            Tôi gật đầu.

            - Thế cũng tốt nhỉ... có tốt không?

            Tôi thở một cụm mây trắng lớn vào bầu không khí lạnh.

            - Anh không biết, chắc là chính bọn anh đẩy mọi chuyện đến chỗ này thôi.

            Kết cục có khi còn tệ hơn nhiều ấy chứ, tôi tự nhủ.

            Đằng xa, trong khu rừng bao quanh hồ, một con chim cất tiếng kêu. Tôi ngẩng lên nhìn khắp xung quanh, nhưng chẳng còn nghe thấy gì nữa. Chẳng thấy gì nữa. Chỉ có âm thanh khô khốc, rỗng không cửa một con chim gõ kiến đang khoan lỗ vào thân cây.

            - Nếu Kumiko và anh có con, anh chắc sẽ đặt tên nó là Corsia, - tôi nói.

            - Tên hay quá, - Kasahara May nói.

            * * *

            Khi hai chúng tôi đi bên nhau xuyên qua khu rừng, Kasahara May tháo găng tay bên phải rồi đút tay vào túi áo khoác của tôi. Điều đó làm tôi nhớ lại Kumiko. Nàng cũng hay làm như vậy những khi chúng tôi cùng đi bên nhau vào mùa đông, để cả hai có thể dùng chung một cái túi áo trong những ngày lạnh giá. Tôi nắm bàn tay Kasahara May trong túi áo tôi. Đó là bàn tay bé nhỏ, ấm như một linh hồn ẩn dật.

            - Này Chim vặn dây cót, chắc ai người ta cũng nghĩ mình là đôi tình nhân đấy.

            - Có lẽ em nói đúng.

            - Thế thì anh có đọc hết thư của em không đấy?

            - Thử của em á? - Tôi hoàn toàn không hiểu cô đang nói đến chuyện gì. - Anh xin lỗi, anh chẳng hề nhận được thư từ nào của em hết. Anh phải hỏi mẹ em mới có địa chỉ và số phone của em. Cũng chẳng dễ đâu, anh đã phải bịa một chút đấy.

            - Ôi không! Thế thì thư em đi đâu hết rồi? Em viết cho anh dễ đến năm trăm bức là ít! - Kasahara May nhìn lên trời.

            * * *

            Chiều muộn ngày hôm đó, Kasahara May tiễn tôi ra ga. Hai chúng tôi đáp xe buýt vào thị trấn, ăn bánh pizza ở một nhà hàng gần ga, sau đó đợi đoàn tàu bé tí vỏn vẹn ba toa chạy bằng dầu diesel rốt cuộc cũng bò tới. Hai ba người đứng quanh chiếc lò sưởi to đốt bằng củi đỏ rực giữa phòng đợi, nhưng hai chúng tôi thì đứng ngoài sân ga giữa trời lạnh. Một vần trăng mùa đông rõ ràng, sắc cạnh đông cứng trên bầu trời. Đó là vầng trăng non, với đường cong sắc nét như một thanh gươm Trung Hoa. Dưới vầng trăng ấy, Kasahara May nhón chân hôn lên cổ tôi. Tôi cảm thấy đôi môi mỏng, lạnh của cô chạm vào chỗ trước kia có vết bầm.

            - Tạm biệt, Chim vặn dây cót, - cô thì thầm. - Cám ơn anh đã đi ngần ấy đường để đến thăm em.

            Hai tay thọc sâu trong túi áo khoác, tôi nhìn vào mắt cô. Tôi chẳng biết nói gì.

            Khi tàu đến, cô cởi mũ ra, lùi lại một bước rồi nói với tôi:

            - Nếu có chuyện gì xảy ra với anh, chỉ cần gọi em cho to vào. Chim vặn dây cót nhé? Gọi em và gọi dân vịt.

            - Tạm biệt, Kasahara May, - tôi nói.

            * * *

            Vòng cung trăng vẫn treo trên đầu tôi mãi sau khi tàu đã rời ga, xuất hiện rồi lại biến mất mỗi khi tàu vào một khúc quanh. Tôi dán mắt vào vầng trăng, và mỗi khi nó biến khỏi tầm nhìn, tôi ngắm ánh đèn những thị trấn nhỏ lướt qua cửa sổ. Tôi nghĩ đến Kasahara May, đội chiếc mũ len màu xanh dương, đang ngồi một mình trên xe buýt quay về nhà máy ở trên đồi. Đoạn tôi nghĩ về dân vịt đang thiu thiu ngủ ở đâu đó trong bóng cỏ. Cuối cùng tôi nghĩ về cái thế giới, nơi tôi đang quay về.

            - Tạm biệt, Kasahara May, - tôi nói. Tạm biệt, Kasahara May: cầu chúc cho luôn luôn có một cái gì đó trông chừng bảo vệ em.

            Tôi nhắm mắt lại cố ngủ. Nhưng mãi rất lâu sau tôi mới thực sự ngủ được. Ở một nơi xa cách bất kỳ ai hay bất cứ nơi đâu, tôi mơ màng thiếp đi một lát.                       

                                                                                                            Edit: L3e_7m

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#l3e