Biên niên sử Chrestomanci tập 2 - CHÍN MẠNG SỐNG CỦA CHRISTOPHER CHANT

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Tên sách: 

Biên niên sử Chrestomanci tập 2 - 

CHÍN MẠNG SỐNG CỦA CHRISTOPHER CHANT
Tác giả: Diana Wynne Jones
Nhà xuất bản: Trẻ
Năm xuất bản: 2002



Biên dịch: Anh Việt.

Chín mạng sống của Christopher Chant

đã đoạt giải sách đáng chú ý trong năm của ALA (Hiệp hội thư viện Mỹ), được đề cử nhiều giải thưởng như Carnegie Medal và Nebula Award, ngoài ra đã được bán bản quyền tới 22 quốc gia trên giới.

Phát hiện ra mình có chín mạng sống và định mệnh là phải trở thành "Chrestomanci" kế tiếp không hề nằm trong kế hoạch tương lai của Christopher: nó thà cứ chơi cricket và loanh quanh ở những thế giới bí mật trong mơ của mình còn hơn. Nhưng rồi chẳng mấy chốc, nó nhận ra định mệnh là khó tránh, và dù sao thì có nhiều mạng sống hơn bình thường cũng cực kỳ tiện lợi - nhất là khi người ta lại đánh mất chúng dễ dàng như bỡn! Rồi một bọn buôn lậu xấu xa mang cái tên Con Ma đe doạ những con đường xuyên thế giới, buộc Christopher tham gia với chúng...


Chín mạng sống của Christopher Chant nằm trong bộ truyện gồm sáu tập (tập 1: Quý nhân phù trợ, tập 2: Chín mạng sống của Christopher Chant, tập 3: Những pháp sư thành Caprona, tập 4: Tuần lễ phù thuỷ, tập 5: Conrad's Fate,tập 6: The Pinhoe Egg (theo như mình tìm được)) của nữ nhà văn người AnhDiana Wynne Jones, kể về hành trình tìm kiếm những phù thuỷ lương thiện đầy quyền năng và cuộc chiến ác liệt giữa hai phe phù thuỷ thiện-ác. Bộ tác phẩm này thu hút thế giới độc giả trẻ không chỉ bởi tính ly kỳ, bí hiểm như bất cứ cuốn truyện phù thuỷ nào các bạn thường đọc, mà còn bởi sự thông thái, logic và một văn phong cực kỳ lôi cuốn.

CHƯƠNG MỘT


(

@Nguyen_ly

 type)


P

hải mất nhiều năm Christopher mới chịu thuật lại cho ai đó những giấc mơ của mình. Đó là vì nó đã phải sống trong căn phòng dành cho trẻ con trên đỉnh một toà nhà lớn ở Luân Đôn, và cứ vài tháng người ta lại thay đổi chị vú chăm sóc nó một lần. 



Hiếm hoi lắm nó mới gặp mặt ba mình. Từ bé, Christopher đã hãi hùng nghĩ rằng biết đâu một ngày nào đó nó sẽ gặp ba mình rảo bước ngoài công viên mà không hề nhận ra ba. Và những ngày hiếm hoi khi ba từ Thành phố trở về trước giờ nó phải đi ngủ, nó thường quỳ xuống nhìn qua những thanh lan can, hy vọng khắc ghi được khuôn mặt của ba. Tất cả những gì nó ghi nhận chỉ là một thân hình thấp thoáng trong bộ áo choàng tu sĩ với mớ tóc mai đen được chải chuốt kỹ lưỡng, đang đưa chiếc nón chóp cao đen cho anh người hầu, rồi sau đó là hình ảnh một đường ngôi trắng thẳng thướm giữa mái tóc đen, khi ba bước nhanh lên cầu thang, vượt ra khỏi tầm nhìn của nó. Ngoài việc ba cao lớn hơn tất cả đám gia nhân, Christopher chẳng biết gì nhiều hơn về cha mình nữa.



Có vài tối,mẹ đứng trên cầu thang để đón ba, bộ váy lụa rộng với vô vàn diềm và ren che khuất cả tầm nhìn của Christopher. Mẹ lạnh lùng bảo anh hầu: 



“Đi mà nhắc ông chủ của anh là tối nay sẽ có một cuộc tiếp khách ở nhà và yêu cầu ông ấy nên sắm vai người chủ chí ít một lần trong đời.”



Khuất sau bộ cánh thùng thình của mẹ, ba thường đáp lại bằng một giọng trầm trầm, ảm đạm:



“Nói với bà ấy rằng tối nay ta có hàng đống việc phải đem về làm. Bảo bà ấy rằng lẽ ra phải báo cho ta biết trước chớ.”



“Đi mà nói với ông chủ của anh là nếu ta mà báo sớm cho ông ấy thì ông ấy sẽ tìm cớ để không có mặt ở đây. Hãy lưu ý ông ấy rằng công việc của ông ấy là do tiền của ta đầu tư và ta sẽ rút lại tiền nếu như ông ấy không làm cho ta cái việc nhỏ nhoi này.”



Mẹ nói với anh hầu như thế.



Rồi ba thường thở dài:



“Thôi được rồi. Nói với bà ấy rằng ta lên thay đồ đây, nhưng trong tâm trạng bất bình. Và hãy kêu bà ấy tránh đường cho ta lên.”



Trước sự thất vọng của Christopher, mẹ chẳng bao giờ chịu nhường đường. Mẹ luôn nâng váy, bước lên thang trước ba để đảm bảo ba sẽ phải làm theo những gì mẹ muốn. Mẹ có đôi mắt lớn long lanh, một thân hình hoàn hảo và những lọn tóc xoăn nâu óng mượt. Các chị vú nói rằng mẹ của Christopher là một giai nhân. Ở độ tuổi của nó, Christopher nghĩ rằng cha mẹ của ai cũng đều thế cả; nó chỉ mong sao mẹ nó cho nó thấy được rõ ba, cho dù chỉ một lần.



Nó lại nghĩ ai cũng có kiểu giấc mơ giống nó vậy. Nó vẫn cho rằng giấc mơ ấy thật ra chẳng có gì đáng để nhắc tới. Mấy giấc mơ luôn khởi đầu giống hệt nhau: Christopher ra khỏi giường rồi đi bọc quanh góc tường của phòng ngủ đêm của trẻ con, nơi có chiếc lò sưởi nhô ra. Rồi nó sẽ bước ra ngoài một lối đi sỏi đá trên sườn dốc một thung lũng. Thung lũng ấy xanh và dốc, với một con suối ở giữa,chảy từ thác nước này đến thác nước khác, nhưng Christopher chẳng bao giờ cảm thấy có gì hay ho để lần theo con suối xuống thung lũng. Thay vào đó, nó hướng theo hướng lên phía trên, bọc qua một tảng đá lớn, đi vào phần đất mà nó luôn gọi là Điểm - Nằm - Giữa. Christopher đoán đó có thể là một phần của thế giới còn sót lại từ trước khi con người đặt chân đến và làm cho thế giới này trở nên quy củ như bây giờ.



Những khối đá đủ loại hình thù chồng chất ngả nghiêng đủ mọi hướng. Một số rất cứng và dốc tuột, một số lại chất lên nhau chông chênh, chẳng tảng nào có hình thù rõ ràng. Cũng chẳng có màu sắc nào rõ rệt - phần lớn các tảng đá mang một màu nâu xấu xí mà người ta vẫn thường thu được khi trộn lẫn lung tung các màu sắc trong hộp vẽ. Luôn luôn có một màn sương ẩm vô hình lơ lửng quanh nơi này, thêm sự huyền hoặc cho nơi này. Không thể nào thấy nổi bầu trời ở đây. Thật vậy, đôi lúc Christopher nghĩ có lẽ bầu trời không hề có: nó có một ý tưởng rằng những tảng đá cứ chất lên, lên mãi thành một mái vòm lớn trên đầu – nhưng khi nó nghĩ kỹ về mái vòm đó thì xem chừng như không thể thế được.



Christopher luôn biết rằng trong giấc mơ nó có thể từ Điểm-Nằm-Giữa đi đến Gần-Như-Bất-Cứ-Đâu. Nó gọi chốn đó là Gần-Như-Bất-Cứ-Đâu vì đó là một chốn có vẻ như không muốn để ai lọt vào. Chốn ấy cũng rất gần, nhưng Christopher luôn thấy mình cứ bị đẩy khỏi nơi ấy. Nó thường bắt đầu bằng trượt, trườn, rồi nhích người qua những khối đá ẩm thấp nhấp nhô, xong rồi lại trèo lên tuột xuống. Cứ thế cho đến khi nó phát hiện ra một thung lũng khác và một lối đi khác. Có đến hàng trăm thung lũng và lối đi như thế. Nó gọi chúng là các Bất-Kỳ-Đâu.



Các Bất-Kỳ-Đâu này phần lớn khác xa Luân Đôn. Chúng nóng hơn hoặc lạnh hơn, với những cây cối lạ lùng và những ngôi nhà lạ lùng. Người dân ở những nơi ấy thỉnh thoảng trông cũng bình thường, có khi da họ lại xanh xanh hoặc đỏ đỏ và mắt họ trông rất lạ, nhưng họ luôn tử tế với Christopher. Mỗi lần mơ, nó lại có một cuộc phiêu lưu mới. Trong các cuộc phiêu lưu náo nhiệt, những cư dân đó lại giúp nó thoát khỏi những căn hầm của các toà nhà kỳ lạ, hoặc nó giúp lại người ta chiến đấu hay vây bắt những con thú nguy hiểm. Còn trong những cuộc phiêu lưu yên tĩnh, nó được nếm những món ăn mới và người ta tặng cho nó đồ chơi. Christopher đánh mất hầu hết các món đồ chơi khi bò qua mấy tảng đá, nhưng nó cũng xoay xở đem về được một chuỗi hạt vỏ ốc sáng loáng mà mấy cô ngốc cho nó. Sở dĩ nó đem được về vì nó có thể đeo chuỗi ở quanh cổ khi leo trèo. 



Nó đã nhiều lần đi đến Bất-Kỳ-Đâu có các cô ngốc. Nơi ấy có biển xanh và cát trắng, đào và xây quả là tuyệt cú mèo. Ở đấy có những con người bình thường nhưng Christopher chỉ nhác thấy họ từ xa. Các cô ngốc ngồi trên các tảng đá nhô ra biển và khúc khích cười cợt nó khi nó xây các toà lâu đài bằng cát. 



“Ồ Clistoffer!” họ rủ rỉ bằng những giọng ngọng nghịu. 



“Nói cho tụi trị biết điều gì khiến họ gọi em là Clistoffer đi!”



Rồi cả đám phá lên cười sặc sụa,



Họ là những cô gái duy nhất nó thấy không mặc quần áo. Da của họ màu xanh lá cây và tóc họ cũng thế. Nó thích phần chân của họ, không phải chân nữa, mà là những chiếc đuôi bạc, có thể quẫy đạp giống cá, làm tung toé những làn nước mạnh lên khắp người nó. Chẳng bao giờ nó thuyết phục nổi họ rằng nó không phải một con thú lạ tên là Clistoffer.



Mỗi lần nó từ chỗ Bất-Kỳ-Đâu ấy về, chị vú mới nhất lại than phiền về chuyện nó tha về giường bao nhiêu là đất cát. Các chị vú lại càng than phiền rầm rĩ hơn khi phát hiện ra bộ đồ ngủ của nó lấm đầy bùn, ẩm ướt và rách mướp do leo qua Điểm-Nằm-Giữa. Thế là nó lấy một bộ đồ khác, mang vào lối đi đất đá rồi để sẵn lại đó để thay. Cứ khoảng một năm thì nó lại phải thay một bộ đồ mới vào, tại vì nó đang tuổi lớn, không còn mặc vừa bộ đồ rách mướp và lấm bùn của năm ngoái, nhưng các chị vú cứ thay đổi thường xuyên đến nỗi chẳng ai trong họ để ý chuyện này. Họ cũng chẳng để ý đến những món đồ chơi kỳ lạ mà nó mang về trong suốt nhiều năm. Có một con rồng lên dây cót, một con ngựa mà thực ra là một ống sáo, và chuỗi hạt của các cô ngốc mà nếu nhìn gần thì sẽ là một xâu những sọ hạt trai bé tí.



Christopher hay nghĩ về các cô ngốc. Nó nhìn đôi chân của chị vú mới nhất và nghĩ giày của chị sao mà lớn thế, đủ để giấu được một cái đuôi cá trong đó, và không biết chị có cái đuôi cá nào không. Nhưng chẳng ai có thể thấy được gì hơn ở các cô gái do họ cứ mặc những bộ váy thùng thình hoặc quá kín. Vậy nó cứ thắc mắc hoài, nếu chỉ có một chiếc đuôi mềm và bự thay cho chân, thì làm cách nào mà mẹ nó và chị vú có thể bước đi được?



Cơ hội để nó tìm hiểu đến vào buổi chiều khi chị vú mặc cho nó một bộ đồ thuỷ thủ đáng ghét rồi đưa nó xuống phòng sinh hoạt. Mẹ và vài cô gái nữa đang ngồi đó cũng một bà được gọi là cô Baggett, vốn đâu là chị họ của ba. Bà ta xin gặp Christopher. Christopher nhìn cái mũi dài và những nếp nhăn trên mặt bà. 



“Bà ấy có phải phù thuỷ không hả mẹ?”nó lớn giọng hỏi.



Tất cả mọi người, trừ cô Baggett – trông còn nhăn nhúm hơn trước – cùng thốt lên:



“Suỵt, đừng nói thế chứ, cưng!”



Sau đó, Christopher thấy mừng là mọi người đã quên bẵng nó. Nó lẳng lặng nằm ra thảm rồi lăn hết từ cô gái này sang cô gái kia. Khi họ tóm được nó thì nó nằm dưới tràng kỷ, ngước nhìn lên tầng váy lót của cô Baggett. Người ta giận dữ lôi nó khỏi phòng, còn Christopher thì rất thất vọng khi phát hiện ra rằng tất cả các cô các bà đều chỉ có những cẳng chân dầy cui, trừ cô Baggett: chân bà ấy mảnh mai và có màu như cẳng gà. 



Một lát sau, trong cùng ngày hôm đó, mẹ cho gọi nó vào phòng trang điểm. Mẹ đang rất bận bịu trước chiếc gương với đủ thứ chai lọ con con bằng thủy tinh. Phía sau lưng mẹ, một chị thậm chí còn bận bịu hơn, bận bịu hơn rất nhiều so với các chị vú, đang chải những lọn tóc xoăn mượt của mẹ. Christopher thấy mắc cỡ vì đã phá đám tất cả những công việc ấy, do đó nó nhặt một lọ lên che giấu sự bối rối.



Mẹ gay gắt bảo nó bỏ cái lọ xuống



“Tiền không phải tất cả, con biết đấy, Christopher,” mẹ giải thích. “Một địa vị tốt trong xã hội còn giá trị hơn nhiều. Cô Baggett có thể giúp hai mẹ con ta. Theo con nghĩ vì sao mẹ lấy ba con nào?”



Do Christopher đơn giản là không bao giờ nghĩ đến điều gì đã kết hợp ba mẹ nó với nhau, nên nó lại thò tay ra để nhặt cái lọ. Nhưng nó sực nhớ ra kịp thời rằng nó không được phép sờ vào chúng, cho nên thay vào đó, nó nhặt lên một mái tóc giả. Tay nó lật giở mái tóc trong khi nghe mẹ trò chuyện. 



“Con sắp sửa lớn lên trong gia đình rất tốt của ba và với đống tiền của mẹ,” bà nói. “Mẹ muốn con hứa với mẹ ngay từ bây giờ rằng con sẽ nắm lấy địa vị của con trong xã hội, cạnh những người tốt nhất. Mẹ muốn con thành một vĩ nhân, Christopher ạ, con có nghe mẹ nói không đấy?”



Christopher đã bỏ cuộc, không cố hiểu xem mẹ mình nói cái gì nữa. Thay vào đó, nó vân vê mái tóc giả.



“Như thế để làm gì ạ?”



“Đừng có sờ tới tóc của mẹ,” mẹ nó nói. “Nói cho mẹ coi, Christopher. Điều rất quan trọng là ngay từ bây giờ con phải bắt đầu chuẩn bị mình cho tương lai đi thôi. Để mái tóc đó xuống ngay!”



Christopher đặt mái tóc xuống.



“Con cứ tưởng đó là con chuột chết,” nó nói.



Hình như mẹ nó đã bị lú lẫn thật, bởi vì Christopher khoái chí nhận ra rằng cái vật ấy quả thực là một con chuột chết. Mẹ và chị người hầu cùng thét lên. Christopher bị xua đi khi một anh hầu chạy vội tới cùng một cây xẻng.

Sau đó, mẹ rất thường gọi Christopher đến phòng trang điểm để nói chuyện với nó. Nó đứng đấy tâm tâm niệm niêm rằng không được rớ đến đống chai lọ, rồi lại nhìn hình chiếu của mình trong gương, và tự hỏi tại sao các lọn tóc xoăn của mình lại màu đen trong khi của mẹ lại là màu nâu đậm; tại sao mắt cuả mình giống như than, đen hơn hẳn mắt của mẹ. Và hình như bất cứ khi nào, khi câu chuyện của mẹ trở nên đáng lo ngại, thì mọi thứ bỗng dưng dừng lại: khi thì tự nhiên một con chuột chết khác xuất hiện, nhưng có khi lại là một con nhện cả gan buông mình xuống trước gương.


Nó hiểu rằng mẹ nó đang khẩn thiết lo lắng cho tương lai của nó. Nó biểt nó sắp sửa phải nhập vào hội với những con người tốt nhất. Nhưng Hội duy nhất mà nó từng nghe nói đến là Hội Trợ giúp Bọn Tà đạo mà Chủ nhật nào ở Nhà thờ nó cũng mất ít nhất một đồng penny để quyên góp ủng hộ, và nó nghĩ mẹ nó muốn nói đến cái Hội đó.



Christopher tiến hành những cuộc điều tra kỹ càng hơn với chị vú có bàn chân to bự. Chị ấy bảo nó rằng Bọn Tà đạo là bọn dã man ăn thịt người. Các Nhà Truyền giáo mới là những người tốt nhất, và họ chính là những người bị bọn tà đạo ăn thịt. Christopher hiểu rằng khi lớn lên nó sẽ phải trở thành một nhà truyền giáo. Nó thấy những cuộc trò chuyện của mẹ ngày càng đáng lo ngại. Nó cầu sao mẹ chọn một con đường công danh khác cho nó.



Nó còn hỏi chị vú về những cô gái có phần chân giống như cá.



“Ồ, ý em nói là mấy nàng tiên cá ấy hả?” chị vú phá lên cười. “Không có thật đâu!”



Christopher cũng biết các nàng tiên cá là không có thật, bởi vì nó chỉ gặp được họ trong mơ. Giờ thì nó tin tưởng rằng nó sẽ được gặp cả Bọn Tà đạo nếu nó lạc vào một Gần-Như-Bất-Kỳ-Đâu không ra gì. Có một thời gian, nó sợ gặp bọn Tà đạo đến mức mỗi lần đi đến một thung lũng mới từ Điểm-Nằm-Giữa, nó lại nằm bẹp xuống, cẩn thận xem xét cái Bất-Kỳ-Đâu mà nó đang hướng tới. Nhưng sau một hồi lâu, thấy chẳng có ai tìm cách ăn thịt nó, nó đinh ninh rằng bọn tà đạo hẳn phải sống ở một Bất-Kỳ-Đâu mà không ai đến được, thế là nó bèn quyểt định thôi không lo lắng cho đến khi nó lớn hơn đã.



Khi nó lớn hơn một chút, những người sống trong các Bất-Kỳ-Đâu thỉnh thoảng lại cho nó tiền. Christopher đã học được cách từ chối các đồng tiền cắc. Chỉ cần nó chạm đến chúng là mọi thứ dừng cả lại. Nó sẽ rơi uỵch xuống giường và choàng tỉnh, ướt sũng mồ hôi. Có lần chuyện đó xảy ra với một cô gái đẹp (làm nó nhớ đến mẹ nó) thử đùa bỡn đeo bông tai cho nó. Christopher lẽ ra đã hỏi chị vú có đôi chân bự chảng về chuyện này, nhưng chị ấy đã ra đi từ lâu. Hầu như các chị vú đến sau này, mỗi khi nó hỏi chuyện, thì chỉ nói cộc lốc:



“Đừng có quấy chị…Chị đang bận mà!”



Cho đến khi biết đọc, Christopher vẫn nghĩ đó là chuyện thường tình với các chị vú: họ ở chừng một tháng, bận đến mức không thể mở miệng nói chuyện được, rồi sau đó có mở miệng thì chỉ để nói những lời càu nhàu, xong cuối cùng đi mất biến. Cho nên nó lấy làm ngạc nhiên khi đọc truyện về những lão bộc sống cả đời với các gia đình và thỉnh thoảng lại còn được một người nào đó đề nghị kể lại những câu chuyện dài dòng (thường là rất làm nhàm) về quá khứ của cả gia đình ấy. Còn trong nhà nó, chẳng có người giúp việc nào ở quá sáu tháng.



Về lý do vì sao người giúp việc không ở lâu quá sáu tháng thì hình như là vì ba mẹ chỉ nói chuyện qua lại với nhau thông qua anh hầu phòng. Thay vì nói thẳng với nhau, họ nhờ những người giúp việc chuyển cho nhau mấy mẩu giấy ghi những lời nhắn qua lại. Do cả mẹ lẫn ba chẳng bao giờ nghĩ đến chuyện dán kín lại mấy mẩu giấy đó, nên sớm muộn sẽ có ai đó vác lên tận phòng con nít và đọc lớn cho chị vú nghe. Qua đó Christopher biết rằng mẹ nó luôn luôn ngắn gọn và đi thẳng vào vấn đề:



“Yêu cầu ông Chant không hút xì gà trong phòng mình.”



Hoặc,



“Đề nghị ông Chant lưu ý rằng chị giúp việc mới phụ trách việc giặt giũ đã than phiền về mấy lỗ thủng trên áo ông.”



Hoặc,



“Ông Chant đã gây rắc rối quá nhiều vì bỏ dở giữa chừng Tiệc Điểm Tâm.”



Ba thường để các lời nhắn tích tụ lại rồi trả lời một lúc bằng giọng điệu phẫn uất.



Miranda thân mến,



Tôi thích hút nơi nào thì tôi hút, và việc giải quyết hậu quả là phần hành của cô giúp việc lười biếng ấy. Nhưng sự thái quá của bà trong việc thuê mướn những kẻ vô công rồi nghề ngốc nghếch và những kẻ cục mịch thô lỗ đó chỉ là để thoả mãn lòng ích kỷ của chính bà chứ chẳng bao giờ vì sự thoải mái của tôi. Nếu bà muốn tôi ngồi lại trong các buổi tiệc tùng của bà thì ráng kiếm người đầu bếp nào biết phân biệt thịt heo xông khói với giày cũ và biết kiềm chế không luôn miệng phát ra những tiếng cười khúc khích ngu xuẩn ấy.



Những mẩu trả lời của bà thường khiến những người giúp việc bỏ đi chỉ hôm trước hôm sau.



Christopher rất thích thú với nội dung các tin nhắn. Về phương diện nào đó, ba có vẻ “nhiều nhân tính” hơn, cho dù lời lẽ của ba có gay gắt đến cỡ nào. Cho nên, thật là một đòn choáng váng cho Christopher khi nó bị tách khỏi những mẩu giấy nhắn tin đó do sự xuất hiện của cô giáo dạy trẻ đầu tiên.



Mẹ cho gọi nó tới. Mẹ đang khóc.



“Ba của con lần này quá đáng lắm rồi,” bà nói. “Chăm lo việc giáo dục cho con cái là trách nhiệm của người mẹ chớ. Mẹ muốn con đến học một trường tốt, Christopher ạ. Đó là điều quan trọng bậc nhất. Nhưng mẹ không muốn bắt buộc con học. Mẹ cũng muốn con say mê hoa lá nữa chớ. Vậy mà ba con cứ phá bĩnh bằng những ý kiến quái đản, rồi ông ấy lén lút đâm sau lưng mẹ bằng cách bổ nhiệm cô giáo dạy trẻ này, mà chỉ cần hiểu ba con một ít là biết ngay là cái cô này khủng khiếp ra sao! Ôi, con trai tội nghiệp của mẹ!”



Christopher hiểu ra rằng cô dạy trẻ là bước đầu tiên để huấn luyện nó thành nhà truyền giáo. Nó cảm thấy vừa lo lắng vừa trọng đại. Nhưng khi cô dạy trẻ đến, thì hoá ra cô ta cũng chỉ là một phụ nữ tẻ nhạt với cặp mắt hồng hồng, quá sức kín kẽ để trò chuyện. Rồi, trước sự hân hoan của mẹ, cô ta chỉ ở lại được có một tháng.



“Giờ thì mẹ thực sự có thể bắt tay vào việc dạy dỗ con đây,” mẹ nói. “Mẹ sẽ đích thân chọn cô dạy trẻ tiếp theo cho con.”



Suốt hai năm sau đó, mẹ đã lặp lại câu này thường xuyên, bởi lẽ các cô dạy trẻ cứ đến rồi đi hết như các chị vú hồi trước. Hầu hết bọn họ là những phụ nữ tẻ nhạt, kín kẽ, và Christopher cứ lẫn lộn lung tung những cái tên của họ. Nó quyết định sự khác biệt chính giữa cô dạy trẻ và chị vú là cô dạy trẻ thường bật khóc trước khi ra đi – và đó cũng là dịp duy nhất mà họ nói lên điều gì lý thú về ba mẹ nó.



“Cô xin lỗi đã cư xử với em như thế,” cô dạy trẻ thứ ba nói – hay cũng có thể là thứ tư - gạt nước mắt nói:



“Bởi vì em là một cậu bé trai dễ thương, dù em có hơi xa cách, nhưng chỉ vì cái bầu không khí trong ngôi nhà này…Mỗi tối ông ấy ở nhà - Tạ ơn Chúa điều này cũng hiếm hoi thôi – có điều phải ngồi chung bàn ăn với họ, im như thóc. Rồi bà ấy chuyển cho cô tờ nhắn để đưa cho ông ấy, và ông ấy chuyển cho cô tờ khác để đưa lại bà ấy. Rồi họ mở mấy tờ nhắn ra, và hầm hầm nhìn nhau rồi nhìn sang cô. Cô không thể ở thêm ngày nào nữa đâu.”



Cô dạy trẻ thứ chín – hay cũng có thể thứ mười - thậm chí còn nói lộ nhiều hơn:



“Cô biết họ thù ghét nhau,” cô thổn thức,, “nhưng bà ấy chẳng có gì để thù ghét luôn cả cô! Bà ấy thuộc dạng không thể dung nạp những phụ nữ khác. Và bà ấy là ‘một phù thuỷ’, cô nghĩ thế - Cô không chắc lắm, vì bà ấy chỉ làm những chuyện lặt vặt –còn ông ấy thì chí ít cũng mạnh mẽ không thua kém bà ấy. Ông ấy thậm chí có thể là một thầy bùa. Giữa họ với nhau mà họ còn tạo ra một bầu không khí như thế - chẳng trách họ chẳng giữ chân được người giúp việc nào cả. Ồ, Christopher, hãy tha lỗi cho cô vì đã nói năng như thế về ba mẹ em!”



Tất cả các cô dạy trẻ đều xin Christopher thứ lỗi và nó luôn sẵn lòng thứ lỗi cho họ,bởi lẽ giờ đây đó là những dịp duy nhất để nó nghe ngóng tin tức về ba mẹ nó. Điều đó khiến cho nó có cảm giác tiêng tiếc rằng ba mẹ những đứa trẻ khác có lẽ không giống như thế. Nó cũng biết chắc rằng một cuộc khủng hoảng nào đó đang bén mầm. Tia sét thầm lặng của cuộc khủng hoảng ấy lan đến tận phòng học, dù các cô dạy trẻ không còn để nó la cà với những người giúp việc nữa.



Nó còn nhớ cái đêm cuộc khủng hoảng bùng nổ, bởi lẽ đó là cái đêm nó đi đến một Bất-Kỳ-Đâu, ở đó có người đàn ông dưới dù vàng tặng nó một chiếc đèn cầy hình những quả chuông nho nhỏ. Vật ấy đẹp đến mức nó quyết tâm đem về nhà. Nó dùng răng ngoạm chiếc giá khi trườn qua các vách đá của Điểm-Nằm-Giữa. Khi nó thức dậy, nó rất mừng rỡ khi thấy vật đấy nằm trên giường. Nhưng trong nhà có một cảm giác khác lạ. Cô dạy trẻ thứ mười hai đã gói ghém đồ đạc bỏ đi ngay sau bữa điểm tâm.

CHƯƠNG HAI

(@Nguyen_ly type)



C

hristopher bị gọi vào phòng trang điểm của mẹ chiều hôm đó. Có một cô dạy trẻ mới đang ngồi trên chiếc ghế cứng duy nhất trong phòng. Cô mặc một bộ đồ tầm tầm có màu xám xấu xí và khoác một chiếc nón trông còn xấu xí hơn mức bình thường. Đôi găng bằng bông tẻ nhạt của cô ta xếp lại bên trong một chiếc túi xách nhạt nhẽo và đầu cô cúi gằm xuống như thể cô ta rụt rè hay là đang bị áp chế, hay cả hai không chừng. Christopher thấy cô ta chẳng có gì đáng để mắt tới. Trong căn phòng, nhân vật cần để mắt tới nhất là một người đàn ông đứng sau chiếc ghế mà mẹ đang ngồi. Một tay ông ấy đặt lên vai mẹ.

“Christopher, đây là anh của mẹ,” mẹ vui vẻ nói. “Tức là bác Ralph của con đấy.”



Mẹ phát âm cái tên đó thành Rafe. Phải đến hơn một năm Christopher mới phát hiện ra rằng cái tên mà nói gọi là Ralph chứ không phải Rafe.



Bác Ralph chiếm được hoàn toàn sự mến mộ của nó. Khởi đầu từ việc bác ấy đang hút điếu xì gà. Những mùi hương của phòng trang điểm đã đổi khác đi, trộn lẫn với mùi khói thuốc đậm đà, khét như cháy, thế mà mẹ vẫn không phản đối, dù là bằng cách khụt khịt mũi. Chỉ riêng điều này thôi cũng cho thấy bản thân bác Ralph có vị trí quan trọng thế nào rồi. Rồi đến việc bác ấy mặc bộ đồ bằng vải tuýt, có màu rất mạnh mẽ, đầy cá tính, na ná màu lông cáo. Bộ đồ ấy hơi lùng thùng chỗ này chỗ nọ, nhưng lại ăn khớp rất đẹp mắt với cái màu sậm hơn lông chồn của mái tóc và đỏ hơn lông chồn của bộ ria bác Ralph. Christopher rất hiếm khi gặp được người đàn ông nào mặc đồ bằng vải tuýt và không để tóc mai. Điều này khiến nó càng yên chí rằng bác Ralph là một người đặc biệt. Như để hoàn tất bức chân dung, bác Ralph nhẻo một nụ cười với nó, trông rạng rỡ như ánh mặt trời giữa rừng thu. Đó là một nụ cười cuốn hút tới mức khuôn mặt của Christopher, gần như hoàn toàn tự động, cũng giãn ra thành một nụ cười đáp trả.



“Chào bạn hiền,” bác Ralph nói, nhả một cụm khói xanh trên mái tóc mượt của mẹ.



“Bác biết đây không phải là cách tốt nhất để một ông bác ra mắt một thằng cháu, nhưng bác đang thu xếp chuyện gia đình nhà ta, và bác e rằng bác sẽ phải thực hiện vài cú sốc mạnh, ví dụ như đem đến cho cháu một cô dạy trẻ mới và thu xếp để cháu nhập học vào mùa thu. Cô dạy trẻ ở kia kìa. Cô Bell. Bác mong rằng hai cô cháu sẽ quý mến nhau. Ít ra là đủ mến nhau để thứ lỗi cho bác.”



Bác ấy nhẻo một nụ cười rạng rỡ và dí dỏm với Christopher, khiến sự mến mộ của nó càng tăng nhanh. Dù vậy, Christopher vẫn ngờ vực liếc cô Bell. Cô ta nhìn lại nó, và trong khoảng khắc, với một vẻ đẹp ngầm của cô ấy chợt lộ ra ngoài. Rồi cô chớp hai hàng mi nhợt nhạt, thủ thỉ nói:



“Rất hân hạnh được làm quen với em,” bằng một giọng cũng tẻ nhạt như bộ đồ cô mặc.



“Mẹ hy vọng cô ấy sẽ là cô dạy trẻ cuối cùng của con,” mẹ nói.



Vì câu nói đó mà mãi sau này Christopher cứ gọi cô Bell là Cô Dạy Trẻ Cuối Cùng.



“Cô ấy sẽ chuẩn bị cho con đến trường. Mẹ chưa muốn gửi con đi, nhưng bác của con nói... Dù sao thì một sự dạy dỗ tốt cũng quan trọng cho sự nghiệp của con, và không giấu gì con, Christopher ạ, ba của con kém cỏi đến phát bực mình trong chuyện tiền nong…mà đó là tiền của mẹ chứ có phải tiền của ông ấy đâu, con cũng biết rồi đấy…và ông ấy gần như đã để mất sạch tiền bạc. May mà mẹ có bác của con để nhờ cậy và…”



“Và một khi được nhờ cậy, bác không để ai thua thiệt,” bác Ralph nói cùng một cú liếc mắt nhanh về phía cô dạy trẻ. Có thể bác không muốn cô ấy nghe những lời này.



“May sao, hãy còn dư khối tiền để gửi cháu đi học, và mẹ của cháu cũng sẽ thu hồi được một ít bằng cách sống ở nước ngoài. Mẹ cháu sẽ thích điều đó…đúng không nào Miranda? Và cô Bell sẽ tìm được một chỗ làm khác với những lời giới thiệu huy hoàng. Mọi người rồi sẽ êm đẹp cả thôi.”



Nụ cười của bác ấy đến với từng người một, đầy nhiệt tình và tin tưởng. Mẹ bật cười, chấm chấm nước hoa sau vành tai. Cô Dạy Trẻ Cuối Cùng cũng hơi mỉm cười, làm ocho vẻ đẹp ngầm của cô lại hiện lên phân nửa. Christopher cố nhẻo một nụ cười nam nhi mạnh mẽ với bác Ralph, bởi vì hình như đó là cách duy nhất để biểu hiện sự mến mộ to lớn, gần như không kỳ vọng, đang dâng lên trong lòng nó. Bác Ralph bật cười, một nụ cười nâu - vàng, và hoàn tất cuộc chinh phục Christopher bằng việc sục trong chiếc túi quần vải tuýt rồi dúi cho cậu cháu một đồng 6 pence mới, sáng loáng.



Christopher thà chết chứ không tiêu cái đồng 6 pence đó. Mỗi khi thay đồ, nó lại chuyển đồng 6 pence vào túi bộ quần áo mới thay. Đó là một cách khác để biểu hiện sự mến mộ của nó với bác Ralph. Rõ ràng bác Ralph đã vào cuộc để cứu mẹ nó khỏi phá sản, và điều này đã biến bác ấy thành người tốt đầu tiên mà Christopher từng gặp. Và trên hết tất cả, bác ấy là người duy nhất không phải cư dân của Bất Kỳ Đâu chịu hạ cố nói chuyện với Christopher theo cái cách thân thiện, người và người với nhau.



Vì bác Ralph, Christopher cũng cố gắng yêu mến luôn cả Cô Dạy Trẻ Cuối Cùng, nhưng làm được việc này thực chẳng dễ chút nào. Cô ấy, nhàm chán quá chừng đi. Cô có cái lối ăn nói nhạt nhẽo và dịu dàng, và cô chẳng bao giờ cao giọng hoặc sốt ruột, ngay cả khi nó tỏ ra ngu si trong phép Tính Nhẩm hay phép Nâng đồ vật, cả hai môn mà các cô dạy trẻ khác đều tìm cách để bỏ qua cho nó.



“Christopher này, nếu một con cá trích rưỡi giá 3 đồng nửa pence,” cô dạy trẻ giải thích một cách khô khan, “nói cách khác, một con cá rưỡi trị giá một đồng penny rưỡi, thì nguyên một con cá sẽ trị giá bao nhiêu vậy?”



“Em không biết ạ,” nó đáp, cố không ngáp dài.



“Được thôi,” Cô Dạy Trẻ Cuối Cùng nhỏ nhẹ nói. “Ngày mai ta sẽ suy nghĩ lại chuyện đó. Giờ thì em hãy nhìn vào tấm gương này, thử xem em có làm cho nó tự nâng lên không được phân nào hay không.”



Nhưng Christopher không thể dịch nổi tấm gương, cũng giống như nó không thể hiểu thế nào là giá của nguyên một con cá trích. Cô Dạy Trẻ Cuối Cùng đặt tấm gương sang một bên rồi tiếp tục lặng lẽ gây rối nó bằng môn tiếng pháp. Sau vài ngày như thế, Christopher bắt đầu tìm cách làm cho cô ta nổi giận, hy vọng rằng cô sẽ trở nên thú vị hơn khi la lối. Nhưng cô cũng chỉ nhẹ nhàng nói:



“Christopher à, em đang làm trò ngốc nghếch đấy. Bây giờ em có thể đi mà chơi các món đồ chơi của em. Nhưng hãy nhớ rằng mỗi lần em chỉ được lấy ra một món mà thôi, và em phải cất món đó trở lại trước khi lấy món khác. Đó là luật của chúng ta đấy.”



Christopher đã trở nên quen thuộc một cách nhanh chóng và đáng buồn với cái luật đó. Cái luật đó làm mất vui rất nhiều. Nó cũng đã trở nên quen thuộc với việc Cô Dạy Trẻ Cuối Cùng cứ ngồi kè kè sau lưng nó mỗi khi nó chơi đùa. Các cô dạy trẻ khác thường thừa cơ để nghỉ ngơi, còn cô này thì cứ ngồi trên chiếc ghế cứng và khâu vá quần áo của nó một cách chăm chỉ, khiến cho sự vui thú của nó càng giảm tệ hơn nữa. Tuy vậy, nó vẫn lôi chiếc giá nến hình chùm chuông ra khỏi tủ mà chơi, vì món đó cũng rất hấp dẫn. Người ta đã tính toán làm sao để cái giá nến sẽ phát ra những âm điệu khác nhau, tuỳ theo ta chạm vào quả chuông nào trước tiên vào giá.



Đợi khi nó chơi xong, Cô Dạy Trẻ Cuối Cùng mới dừng việc khâu vá để nói:



“Món đồ ở giữa ngăn kệ trên cùng. Đặt nó lại đó rồi hẵng lấy con rồng dây cót kia.”



Xong cô chờ nghe tiếng chùm chuông báo hiệu rằng Christopher đã thực hiện theo lời cô dặn. Và rồi, khi cắm tiếp mũi thêu vào chiếc vớ, cô cất tiếng hỏi theo lối nhạt nhẽo nhất:



“Ai cho em mấy quả chuông vậy, Christopher?”



Xưa nay chưa từng ai hỏi han Christopher về những thứ nó tha về từ Bất-Kỳ-Đâu. Cô hỏi như vậy làm nó thấy lúng túng.



“Một ông dưới cây dù màu vàng ạ.” Nó trả lời. “Ông ấy bảo nó sẽ đem lại may mắn cho gia đình em.”



“Ông nào, ở đâu?” Cô Dạy Trẻ Cuối Cùng đò hỏi – nhưng cô lại làm ra cái vẻ như biết hay không cô cũng không thèm quan tâm.



“Ở một Gần Như Bất Kỳ Đâu,” Christopher đáp. “Chỗ đó rất nóng, hôi lắm, có mấy ông dụ rắn nữa. Ông đó không chịu nói tên.”



“Đó không phải là câu trả lời, Christopher ạ.”



Cô Dạy Trẻ Cuối Cùng nhẹ nhàng nói, nhưng cô không nói gì thêm cho đến lần sau, tức hai ngày sau đó, khi Christopher lại lôi chùm chuông ra.



“Hãy nhớ cất nó vô đúng chỗ khi nào em chơi xong.” Cô nói. “Em đã nghĩ ra chính xác cái chỗ có cái ông đứng dưới chiếc dù vàng chưa vậy?”

“Ở bên ngoài một chỗ được sơn phết, trong đó có mấy ông thần gì đó không biết.”


Christopher vừa đáp, vừa rung cho những quả chuông bạc khua leng keng.



“Ông ấy tốt lắm. Ông ấy bảo không phải mất tiền.”



“Rất hào hiệp,” Cô Dạy Trẻ Cuối Cùng nhận xét.



“Thế cái ngôi nhà sơn phết dành cho các ông thần đó là ở đâu vậy, Christopher?”



“Em đã nói với cô rồi mà. Nó ở một trong Gần Như Bất Kỳ Đâu,” Christopher đáp.



‘Và cô cũng đã nói với em rằng đó không phải là một câu trả lời.”



Cô Dạy Trẻ Cuối Cùng vừa nói vừa cuộn lại món đồ thêu.



“Christopher, cô xin em hãy nói cho cô biết những quả chuông ấy lấy từ đâu ra.”



“Tại sao cô lại muốn biết?” Christopher hỏi, thầm mong cô ấy để nó yên.



“Bởi vì,” Cô Dạy Trẻ Cuối Cùng nói bằng cái giọng nhẹ nhàng thực sự đe doạ, “em đã không thẳng thắn và cởi mở như một cậu bé tốt. Cô nghĩ em đã đánh cắp những quả chuông này từ đâu đó.”



Trước sự vu khống ghê gớm ấy, Christopher đỏ bừng mặt và những giọt nước mắt chực trào ra khỏi đôi mắt nó.



“Em không làm vậy!” nó hét lớn. “Ông ấy cho em mà! Ở Bất Kỳ Đâu, người ta luôn cho em đồ đạc, nhưng tại em làm mất gần hết. Cô coi nè!”



Và bất chấp cái luật lệ mỗi-lần-chỉ-một-đồ chơi, nó lao tới chiếc tủ, lôi ra con ngựa sáo, vòng chuỗi hạt của các nàng tiên cá và con rồng dây cót. Nó thả tất cả xuống chiếc rổ đựng len của cô dạy trẻ.



“Cô coi đi! Những thứ này từ mấy Bất-Kỳ-Đâu khác.”



Cô Dạy Trẻ Cuối Cùng nhìn những món đồ chơi với sự điềm tĩnh ghê gớm.



“Cô nghĩ em đã đánh cắp luôn cả những món này quá?” cô dạy trẻ nói.



Cô đặt chiếc giỏ và những món đồ chơi lên sàn rồi đứng dậy.



“Đi theo cô. Chuyện này phải báo ngay với mẹ em mới được.”



Cô nắm lấy tay Christopher. Bất kể nó la hét:



“Em không làm vậy, em không làm vậy!” cô vẫn không suy suyển, thúc nó đi xuống nhà.



Christopher trì ra sau, kéo lê đôi chân, và van nài cô dạy trẻ đừng mách mẹ. Nó biết rằng nó sẽ chẳng đời nào giải thích được với mẹ. Nhưng Cô Dạy Trẻ Cuối Cùng chỉ một mực nói,



“Hãy thôi ngay cái trò la hét đáng mắc cỡ này đi. Em đã lớn tướng rồi còn gì.”



Đó là điều mà tất cả các cô dạy trẻ đều giống nhau. Nhưng Christopher không hề quan tâm đến chuyện nó lớn hay chưa.Nước mắt tủi hổ trào xuống hai gò má nó và nó hét lên cái tên của người mà nó biết đã từng cứu giúp người khác.



“Bác Ralph! Được rồi, em sẽ giải thích với bác Ralph!”



Nghe thế, cô Dạy Trẻ Cuối Cùng nhìn xuống nó. Trong phút chốc, vẻ đẹp ngầm loé lên trên khuôn mặt của cô. Nhưng trước sự thất vọng của Christopher, cô vẫn lôi nó đi đến phòng trang điểm của mẹ và gõ cốc cốc vào cánh cửa.



Mẹ ngạc nhiên quay đầu khỏi tấm gương. Bà nhìn Christopher mà lúc này mặt mũi đang đỏ dừ, nức nở tức tưởi, đẫm nước mắt. Rồi bà nhìn sang cô Dạy Trẻ Cuối Cùng.



“Có chuyện gì vậy? Nó bị bệnh à?”



“Không ạ, thưa bà.”



Cô Dạy Trẻ Cuối Cùng nói theo cái lối tẻ nhạt nhất cuả mình:



“Có chuyện mờ ám và tôi nghĩ anh của bà cần được thông báo ngay lập tức.”



“Ông Ralph ấy hả?” Mẹ hỏi lại. “Ý cô là tôi phải viết cho ông Ralph sao? Hay sự việc còn khẩn cấp hơn vậy nữa?”



“Khẩn cấp, thưa bà, tôi nghĩ thế ạ,” Cô Dạy Trẻ Cuối Cùng ảm đạm nói,



“Christopher bảo rằng cậu ấy có nguyện vọng thú tội với bác của cậu ấy. Tôi xin đề nghị, nếu như tôi được phép nhấn mạnh,, rằng bà hãy cho triệu ngay ông ấy tới đây.”



Mẹ ngáp dài. Cô Dạy trẻ này khiến bà ngán ngẩm khủng khiếp.



“Tôi sẽ cố hết sức,” bà nói. “nhưng tôi không chịu trách nhiệm về tính khí của anh tôi đâu đấy. Ông ấy có cuộc sống rất bận rộn, cô biết rồi mà.”



Một cách hững hờ, bà dứt một trong những bộ tóc sậm óng mượt ra khỏi chiếc lược chải lưng bạc mà bà đang sử dụng. Rồi, cẩn thận hơn rất nhiều, bà bắt đầu gỡ tóc khỏi chiếc kẹp tóc bằng bạc và pha lê.



Hầu như toàn bộ mái tóc của mẹ đều là màu nâu sậm, nhưng Christopher, trong lúc đang nấc tức tưởi, nuốt nước miếng rồi lại nấc tiếp, vẫn quan sát những móng tay đẹp như ngọc của mẹ xoắn kéo các món tóc một cách tinh tế, chợt nhận thấy rằng một trong các món tóc có màu đỏ hơn hẳn. Đó là món tóc mà mẹ đang chải. Bà dùng lược vặt nó chéo qua mái tóc của mình. Rồi mẹ cầm lên một món trông có vẻ như kim gài nón có núm lóng lánh, gài nó qua cả hai thứ tóc khác nhau, rồi nôn nóng vỗ vỗ nó bằng một ngón tay nhọn.



“Ralph,” bà gọi, “Ralph Weatherby Argent. Miranda cần gặp anh.”



Một trong những tấm gương của phòng trang điểm bỗng chuyển thành cánh cửa sổ, với bác Ralph đang nhìn xuyên qua, khá bực bội trong lúc thắt chiếc cà vạt.



“Chuyện gì vậy? bác ấy hỏi. “Hôm nay anh bận.”



“Thế bao giờ anh mới hết bận?” Mẹ hỏi. “Nghe em nè, cái cô dạy trẻ đó đang đứng đây, trong phát chán như thường lệ. Cô ấy dẫn Christopher tới. Có chuyện gì đó không biết mà nó cần thú tội. Anh có thể nào đến giải quyết được không? Chuyện này vượt ngoài khả năng của em.”



“Cô ta ấy à?”



Bác Ralph hỏi. Bác ấy nghiêng sang bên để nhìn qua tấm gương – hay khung cửa sổ, hay thứ gì đó – và khi thấy Christopher, bác liền nheo mắt và nở một nụ cười rạng rỡ nhất.



“Nào, nào. Trông thê thảm quá đi mất. Bác sẽ đến ngay đây.”



Christopher nhìn thấy bác Ralph rời khỏi khung cửa sổ, bước sang một bên. Mẹ chỉ kịp quay sang nói với Cô Dạy Trẻ Cuối Cùng:



“Đấy, tôi đã làm hết sức rồi.”



Thì cánh cửa phòng trang điểm đã bật mở và bác Ralph lách vào.



Bị tất cả những cảnh tượng đó hớp hồn, Christopher quên cả nấc. Nó cố nghĩ xem phía bên trên kia bức tường phòng trang điểm của mẹ có chứa đựng cái thứ gì. Hẳn là một chiếc cầu thang, theo như nó biết. Nó đoán bác Ralph hẳng phải có một căn phòng bí mật trong bức tường rộng chừng ba tấc, nhưng nó ngả nhiều hơn theo chiều hướng nó đang chứng kiến một phép thuật thực thụ. Trong lúc nó quả quyết như thế thì bác Ralph đã bí mật đưa cho nó một chiếc khăn tay trắng lớn rồi hồ hởi bước ra giữa phòng để Christopher có thời gian lau mặt.



“Giờ thì hãy kể xem chuyện này là thế nào?” bác ấy hỏi.



“Em có biết gì đâu,” mẹ đáp. “Thế nào cô ấy cũng sẽ giải thích mà.”



Bác Ralph nhướn đôi mắt màu củ gừng nhìn Cô Dạy Trẻ Cuối Cùng.



“Tôi phát hiện Christopher đang chơi với một món đồ,” cô dạy trẻ nhạt nhẽo nói. “Loại mà tôi xưa nay chưa từng thấy, được làm bằng một kim loại hoàn toàn lạ với tôi. Sau đấy cậu ấy đã tiết lộ cậu ấy còn có ba món đồ nữa, mỗi món đều khác nhau, nhưng cậu ấy không thể giải thích cậu ấy đã lấy chúng ở đâu ra.”

Bác Ralph nhìn Christopher, lúc này đang giấu chiếc khăn tay sau lưng và lo lắng nhìn lại.

“Làm mọi người sôi sục lên như thế là đủ rồi đấy, bạn hiền,” bác Ralph nói, “Giả dụ cháu dẫn bác đến xem những món đồ đó và giải thích chúng đến từ đâu thì có được không vậy?”



Christopher bật ra một tiếng thở dài sung sướng. Nó biết ngay mà, nó có thể trông cậy vào bác Ralph cứu giúp nó mà!



“Vâng ạ,” nó đáp.



Họ trở ra cầu thang với cô dạy trẻ cuối cùng dẫn đường và Christopher hoan hỉ bám lấy cánh tay to lớn ấm áp của bác Ralph. Khi họ đến nơi, cô dạy trẻ lặng lẽ ngồi xuống khâu vá tiếp, như thể cô ta cảm thấy đã làm xong bổn phận của mình. Bác Ralph nhặt mấy quả chuông lên, lắc lắc.



“Trời ơi!” Bác ấy thốt lên. “Nghe mới độc đáo làm sao!”



Xong bác đem chúng ra cửa sổ, quan sát kỹ từng quả chuông.



“Ngay chóc!” bác ấy nói. “Cô thông minh thật đấy! Chúng quả là có một không hai trong vũ trụ. Một dạng hợp kim lạ nào đó, tôi nghĩ thế, khác nhau ở mỗi quả chuông. Theo vẻ bề ngoài thì được làm bằng thủ công.”



“Bác ấy vui vẻ trỏ vào chiếc đôn cạnh lò sưởi.



“Ngồi xuống đó đi, bạn hiền, và hãy giúp bác giải thích xem cháu làm thế nào để có quả chuông đó ở đây.”



Christopher ngồi xuống, đầy háo hức và rất thiện chí.



“Cháu ngoạm nó trong miệng khi leo qua điểm Nằm Giữa ạ,” nó giải thích.



“Không, không phải,” bác Ralph thốt lên. “Bác đã hỏi tới đoạn kết đâu. Hãy bắt đầu bằng những việc cháu đã làm đầu tiên như thế nào nào, trước khi có những quả chuông ấy.”



“Cháu đi xuôi xuống thung lũng, đến thành phố dụ rắn.” Christopher nói.



“Không, trước nữa cơ, bạn hiền.” bác Ralph nói. “Cháu từ đây đi vào lúc nào vậy? Ví dụ là khoảng thời gian nào trong ngày? Sau bữa điểm tâm à? Hay là trước bữa trưa?”



“Không phải, là vào ban đêm ạ,” Christopher trình bày. “Đó là một trong những giấc mơ ạ.”



Theo lối như thế, cứ cẩn thận đi lùi lại mỗi lần Christopher bỏ sót mất một bước, bác Ralph đã dẫn dụ được Christopher kể tỉ mỉ cho bác ấy về các giấc mơ của nó, về Điểm Nằm Giữa, và các Gần Như Bất Kỳ Đâu mà nó đã đến khi xuôi xuống dọc theo các thung lũng. Do bác Ralph chẳng hề tỏ ra chút gì là giận dữ, mà lại có vẻ càng lúc càng thích thú, Christopher đã thuật lại cho bác ấy mọi điều mà nó nhớ được.



“Tôi đã bảo rồi mà!” bác Ralph nói, có lẽ là với cô dạy trẻ.



‘Tôi vẫn luôn tin vào linh cảm của mình. Đúng là có di truyền thì phải có gì khác chớ! Trời ơi, bạn hiền Christopher, cháu hẳn là kẻ duy nhất trên thế giới này có thể đem về những vật thể nắm được trong tay từ một chuyến du lịch bằng tinh thần đấy! Bác nghĩ rằng ngay cả lão Witt cũng không làm nổi điều này đâu!”



Christopher rạng rỡ hẳn khi thấy bác Ralph hài lòng về nó đến thế, nhưng nó vẫn không thể ngăn được cái cảm giác oán trách đối với Cô Dạy Trẻ Cuối Cùng.



“Thế mà cô ấy bảo là cháu ăn cắp!”



“Đừng trách cô ấy làm gì. Phụ nữ thì bao giờ chẳng nhảy xổ ngay đến những kết luận sai trái,” bác Ralph nói khi châm xì gà.



Nghe thế, cô Dạy Trẻ Cuối Cùng nhún vai, hơi mỉm cười. Vẻ đẹp ngầm của cô lại hiện lên rõ rệt hơn bao giờ hết, khiến Christopher chợt thấy cô có vẻ nhân hậu và như đang cùng chia sẻ một trò đùa.



Bác Ralph phả một cụm khói xanh lên cả hai người, cười tươi rói qua làn khói như mặt trời xuyên qua những đám mây,



“Bạn hiền, giờ thì điều kế tiếp là phải làm vài cái thí nghiệm để thử năng khiếu của cháu,” bác ấy nói. “Cháu có kiểm soát được các giấc mơ của cháu không vậy? Cháu có thể cho biết khi nào cháu sẵn sàng đi đến các Gần Như Bất Kỳ đâu của cháu không?”



Christopher ngẫm nghĩ.



“Khi nào cháu muốn thì cháu đi được ạ,” nó nói.



“Thế thì cháu có phản đối gì không nếu cháu làm cho bác một thử nghiệm, cứ cho là tối mai đi?”



“Tối nay cháu đi cũng được ạ,” Christopher ngỏ lời.



“Không, tối mai cơ,” Bác Ralph nói. “Bác phải một ngày mới giải quyết xong công việc. Và khi nào cháu đi thì đây là điều bác muốn cháu phải làm.”



Bác ấy cúi xuống, chĩa điếu xì gà vào thẳng Christopher để nó biết rằng bác ấy đang nói chuyện nghiêm túc.



“Cháu cứ đi như thường lệ khi nào cháu sẵn sàng và hãy thử làm cho bác hai thí nghiệm. Thứ nhất, bác sẽ thu xếp để có một người đợi sẵn cháu ở điểm Nằm Giữa. Bác muốn thử xem cháu có tìm ra được anh ấy không. Có thể cháu phải gọi thì mới tìm được anh ta…bác cũng không biết nữa: bản thân bác không phải là nhà du lịch tinh thần… nhưng nói tóm lại là cháu cứ thử leo qua, coi xem có liên lạc gì được với anh ta hay không. Theo cháu thì cháu có làm được vậy không? Cháu cũng muốn giúp bác mà, đúng vậy không bạn hiền?”



“Đúng ạ!” Christopher đáp.



Bác Ralph đứng dậy, vỗ lên vai nó.



“Ngoan lắm. Đừng để ai gạt gẫm cháu đấy nhé, bạn hiền. Cháu có một tài năng rất đáng nể và vô cùng quan trọng. Nó quan trọng đến mức bác khuyên cháu không nên thuật lại với bất cứ ai ngoại trừ bác và cô Bell ngồi kia. Không hé miệng với bất cứ ai, thậm chí cả với mẹ cháu. Được không nào?”



“Được ạ,” Christopher đáp.



Thật là tuyệt vời khi được bác Ralph xem nó là quan trọng. Nó mừng rỡ và sung sướng đến độ có thể làm cho bác Ralph nhiều thứ, chứ chẳng riêng gì cái việc không nói với bất cứ ai.



“Đó là bí mật của chúng ta đấy nhé,” bác Ralph nói khi bước ra cửa. “Chỉ ba người chúng ta thôi…và dĩ nhiên cả anh chàng mà bác phái đến nữa. Chớ quên rằng cháu có thể sẽ phải khá vất vả mới tìm được anh ta, nhớ lời bác nói chứ?”



“Cháu không quên đâu ạ,” Christopher sôi nổi hứa.



“Ngoan lắm,” bác Ralph nói, rồi bước ra cửa trong làn khói mỏng xì gà.

CHƯƠNG BA

(@Nguyen_ly type)


C

hristopher nghĩ thật là khó mà chịu đựng nổi khi phải chờ đợi đến tận tối mai. Nó phát sốt lên mốt chứng tỏ với bác Ralph những gì nó có thể làm được. Nếu không vì có cái Cô-Dạy-Trẻ-Cuối-Cùng kia, nó có lẽ sẽ tự làm mình phát bịnh luôn vì quá nôn nóng, nhưng cái cô ấy đã tìm cách làm sao không biết mà trông chán quá, tới mức làm cho mọi thứ xung quanh cũng trở nên chán phèo. Đến nỗi tối hôm sau, lúc lên giường ngủ, Christopher đã gần như lưỡng lự không biết có đáng nằm mơ nữa hay không.

Nhưng nó đã nằm mơ, bởi lẽ bác Ralph đã yêu cầu nó nằm mơ cho bác. Nó ra khỏi giường như thường lệ rồi bọc quanh lò sưởi, đi ra thung lũng, nơi mấy bộ đồ của nó đã nằm sẵn trên lối đi đất đá như thường lệ. Lúc này bộ đồ đó cũng đã rách mướp, dính đầy bùn và rác rền đủ loại bám vào từ hàng trăm Gần-Như-Bất-Kỳ-Đâu, và giờ cũng nhỏ hơn người nó ít nhất hai khổ.



Christopher mặc chúng vào thật nhanh, không buồn cài những chiếc khuy đã chẳng thể nào cài được nữa. Nó chẳng bao giờ mang giày vì giày làm vướng chân khi nó leo qua mấy tảng đá. Với đôi chân trần, nó thoăn thoắt bọc quanh rẻo đá để đi vào Điểm-Nằm-Giữa.



Vẫn không hình thù và trông vẫn lam nham lở nhở như tự trước tới nay, tất cả những lát đá, mỏm đá nhô ra tứ phía, dựng tua tủa lên tít cả trên đầu. Màn sương dâng cao cũng mờ mịt vô hình như những tảng đá. Mưa trút xuống, những luồng gió đảo chiều liên tục tạt mưa từ bên này sang bên kia, khắp Điểm-Nằm-Giữa. Christopher hy vọng nó không phải mất quá lâu để lùng tìm cho được người của bác Ralph. Trong lạnh lẽo và ướt át, cùng với cái việc đi tìm người này, nó bỗng cảm thấy mình quá sức bé bỏng. Nhưng đầy ý thức trách nhiệm, nó đu lên một dải cát nhám rồi hét to:



“Xin chào!”



Điểm-Nằm-Giữa làm cho giọng nó nghe không lớn hơn một tiếng chim kêu ríu rít là mấy. Màn sương cuồn cuộn như lôi âm thanh đi và chôn vùi nó trong mưa gió. Christopher cố lắng nghe một câu đáp lại, nhưng nhiều phút trôi qua, âm thanh duy nhất vẫn chỉ là tiếng rin rít của gió.



Nó đang tự hỏi có cần phải gọi lại hay không thì chợt nghe một thoáng âm thanh ríu rít, len theo những lối đi mong manh giữa những vách đá, quay ngược trở lại nó.



“Xin chàààooooo!”



Đó là tiếng kêu của chính nó. Christopher biết chắc là như vậy. Ngay từ hồi mới mơ những giấc mơ đầu, nó đã biết rằng Điểm-Nằm-Giữa thích mọi thứ không thuộc về vùng này phải quay trở lại cái nơi mà thứ đó xuất phát. Chính vì vậy mà Christopher luôn leo trở lại giường nhanh hơn so với khi nó leo ra để đến với một thung lũng mới. Điểm này đẩy nó trở về.



Christopher ngẫm nghĩ về điều này. Có lẽ gọi sẽ chẳng có ích lợi gì. Nếu người của bác Ralph đang đứng ngoài kia, trong màn sương mù, anh ta hẳn không thể nào đứng chờ quá lâu mà không bị đẩy ngược trở về thung lũng mà anh ta đã xuất phát. Do đó anh ta hẳn phải đứng chờ ở miệng thung lũng và hy vọng Christopher tìm ra được mình.



Christopher thở dài. Có đến hàng ngàn hàng vạn thung lũng, cái trên cao, cái dưới thấp, rẽ vào mọi ngóc ngách không ngờ, một số thung lũng lại rẽ vào thung lũng khác. Và đó mới chỉ là bò quanh mép của Địa Điểm gần nhất thôi đấy. CÒn nếu đi lối khác, hướng về một Bất-Kỳ-Đâu nào không hề có người lui tới thì có lẽ phải kể thêm hàng vạn thung lũng nữa. Tuy vậy, chắc không thể nào bác Ralph lại muốn làm cho mọi sự quá khó khăn. Người của bác ấy chắc chỉ ở đâu đây thôi.



Quyết làm cho thí nghiệm của bác Ralph thành công, Christopher khởi sự leo, trườn, nhích qua những vách đá ẩm ướt, mặt dán sát vào mùi vị rắn lạnh của đá. Thung lũng đầu tiên mà nó đến hoàn toàn trống trơn.



“Xin chào?”



Nó gọi vọng vào thung lũng. Nhưng dòng sông chỉ đổ xuống một vùng không gian xanh trống lốc và chẳng thấy có ai ở đó cả. Nó lui ra rồi trèo lên, men theo một bên vách đá, đi đến thung lũng kế tiếp. Ở đó, chưa ra tới miệng thung lũng, nó đã thấy qua màn sương ai đó đang đứng tăm tối và lấp loáng trong mưa, co ro trên tảng đá, lần mò một chỗ trên đầu để bám tay vào.



“Xin chào?” Christopher lên tiếng.



“Được rồi, tôi sẽ…có phải Christopher đó không?”



Người này hỏi. ĐÓ là một giọng thanh niên khoẻ mạnh.



“Mình ra chỗ nào có thể gặp được nhau đi.”



Sau một đôi lần leo lên, trượt xuống, cả hai bò quanh một phiến đá nhô ra rồi buông mình xuống một thung lũng khác, nơi có không khí tĩnh lặng và ấm áp. Thảm cỏ nơi đây được rọi bởi ánh sáng hồng của mặt trời đang lặn phía xa xa.



“Tốt lắm, tốt lắm,” người của bác Ralph nói. “Anh tưởng em lớn gấp đôi cơ đấy. Rất hân hạnh được gặp em, Christopher. Anh là Tacroy.”



Anh ta nhìn xuống Christopher và nhẻo cười. Tacroy cũng khoẻ mạnh và trẻ trung như giọng nói của chính anh ấy. Cơ thể anh trông khá vuông vức và cường tráng. Anh có khuôn mặt nâu tròn trịa và cặp mắt nâu lục nhạt ngời sáng.



Christopher thấy mến anh ta ngay tức thì - một phần là vì Tacroy là người lớn đầu tiên nó gặp có mái tóc xoăn giống tóc nó. Cũng không hẳn là giống lắm. Những chỗ nào mà tóc Christopher tạo thành những lọn đen lỏng lẻo thì tóc của Tacroy lại xoắn chặt như nguyên khối lò xo nhỏ màu nâu nhạt. Christopher nghĩ chắc Tacroy phải đau lắm mỗi khi anh ấy bị cô dạy trẻ hay ai đó bắt chải đầu. Đến đây, nó chợt lưu ý rằng các lọn tóc xoăn của Tacroy rất khô. Cũng không có vết loáng ướt vừa mới thấy trên quần áo anh ấy mặc. Tacroy mặc một bộ đồ xanh xanh bằng sợi len mảnh, nhưng bộ đồ này thậm chí cũng không nhuốm ẩm.



“Anh làm cách nào mà khô nhanh quá vậy?” Christopher hỏi anh ấy.



Tacroy cười.



“Anh không ở đây hoàn toàn bằng xương bằng thịt như em đâu. Em ướt sũng rồi kìa. Sao vậy?”



“Tại trời mưa tại điểm nằm giữa.” Christopher đáp. “Anh cũng bị ướt lúc ở đó mà.”



“Có không?” Tacroy hỏi. “Trên đường đi anh chẳng thấy gì cả…giống như đi trong đêm vậy, có rất ít sao để định hướng. Ngay cả ở đây, chỗ Rìa Thế Giới này, anh cũng rất khó thấy đường mặc dù anh thấy em rất rõ, dĩ nhiên rồi, vì cả hai anh em mình đều mong thấy nhau mà.”



Tacroy thấy Christopher đang nhìn mình, mắt trợn tròn suy tư, không hiểu một từ nào trong những lời anh nói. Điều đó khiến cho những nếp nhăn nho nhỏ bỗng nở rộ quanh đôi mắt cười của Tacroy. Christopher càng thấy thích anh ấy hơn nữa.



“Kể anh nghe đi,” Tacroy nói, vẫy cánh tay nâu về hướng thung lũng còn lại, “em thấy gì ở đây?”



“Một thung lũng,” Christopher nói, bụng thắc mắc không biết Tacroy thấy được gì, “với cỏ xanh. Mặt trời đang lặn làm cho dòng suối chảy giữa thung lũng trông có màu hồng.”



“Thật sao?” Tacroy nói. “Thế thì anh nghĩ em sẽ rất ngạc nhiên khi biết rằng tất cả những gì anh trông thấy chỉ là một màn sương mỏng màu hồng.”



“Tại sao vậy?” Christopher hỏi.



“Bởi vì anh chỉ ở đây bằng tinh thần, trong khi em thì lại có vẻ như thực sự ở đây bằng xương bằng thịt,” Tacroy nói. “Mãi tít ở Luân Đôn, thân thể của anh đang nằm mê man trên một trên trường kỷ, bọc kín ở trong chăn và được sưởi ấm bởi những chai nước nóng đẽo bằng đá, trong khi một cô gái xinh đẹp và dễ chịu đang ru anh bằng những làn điệu từ chiếc đàn thụ cầm. Anh đã đòi có cô gái ấy như một phần tiền công của anh. Em có nghĩ rằng em cũng đang nằm trùm chăn ở đâu đó không vậy?”



Khi Tacroy thấy câu hỏi này làm cho Christopher vừa bối rối vừa nôn nóng, thiếu kiên nhẫn, đôi mắt anh ấy lại trợn lên.



“Mình tới luôn đi,” anh ấy nói. “Phần kế tiếp của cuộc thử nghiệm là thử xem em có thể mang về một món hàng đã chuẩn bị sẵn hay không. Anh đã làm dấu của anh xong rồi đấy. Em làm dấu của em đi, rồi mình đi xuống thế giới đó.” 



“Làm dấu?” Christopher thắc mắc.



“ Ừ, làm dấu,” Tacroy đáp. “nếu em không làm dấu thì nghĩ coi làm cách nào em tìm được đường ra vào cái thế giới đó, hay làm sao em biết mình đã đi vào thế giới nào?”

“Các thung lũng dễ tìm lắm mà,” Christopher phản đối. “Với lại em dám nói rằng em đã từng đến Bất-Kỳ-Đâu này. Nó có con suối nhỏ nhất trong tất cả các Bất-Kỳ-Đâu.”



Tacroy nhún vai, mắt trợn lên.



“Nhóc ạ, em làm anh nổi cả gai ốc rồi đây này. Hãy làm ơn tử tế với anh, vạch giùm con số chín lên đá hay thứ gì đó. Anh không muốn bị lạc mất em đâu đấy.”



Christopher miễn cưỡng nhặt lên một mảnh đá lửa nhọn rồi cạo cạo lên trên lớp bùn ở lối đi, cho tới khi hiện ra được một số 9 cong queo. 



Nó ngước lên, thấy Tacroy đang nhìn nó như nhìn một hồn ma.



“Có chuyện gì vậy anh?”



Tacroy phát ra một chuỗi cười ngắn, nghe man dại.



“Ồ, có gì đâu. Anh thấy được số 9 của em. Có điều chuyện này lạ quá, chưa từng có với anh, thế thôi. Thế em có thấy dấu của anh không vậy?”



Christopher nhòm ngó khắp mọi nơi, thậm chí cả vào bầu trời hoàng hôn, và buộc phải thú nhận rằng nó không thể thấy có thứ gì giống như một dấu hiệu cả.



“Tạ ơn Trời!” Tacroy nói. “Ít ra cũng có điều này là bình thường! Nhưng anh vẫn nghiêm túc thắc mắc em là cái quái quỷ gì vậy. Anh bắt đầu hiểu vì sao bác của em lại có vẻ hào hứng đến thế.”



Hai anh em thong thả đi xuống thung lũng. Tacroy đút hai tay vào túi quần, có vẻ rất thản nhiên, nhưng Christopher có cảm giác rằng, dù vậy, hình như Tacroy cũng đã thường xuyên đến các Bất-Kỳ-Đâu bằng một cách nào đó nhanh hơn và rất khác thường. Nó bắt gặp Tacroy liếc nhìn nó nhiều lần, như thể anh ấy không chắc lắm phải đi lối nào và đang chờ xem nó làm gì. Anh có vẻ nhẹ nhõm hẳn khi hai người đi đến cuối thung lũng và bước trên một con đường mòn giữa những hàng cây lớn rậm rạp. Mặt trời gần như lặn hẳn. Có ánh sáng phát ra từ những cửa số của một tửu quán ọp ẹp, cũ kỹ ở phía trước họ.



Đó là một trong những Bất-Kỳ-Đâu đầu tiên mà ngày xưa Christopher đã từng đến. Nó nhớ rằng nơi đây ngày xưa nóng hơn và ẩm ướt hơn. Các gốc cây lớn hồi đó xanh tươi và mọng ướt hơn. Giờ thì, theo như nó nhận xét, dưới ánh sáng màu hồng, chúng có vẻ nâu nâu và hơi khô héo. Khi nó theo chân Tacroy bước lên bao lơn được xây cất một cách cẩu thả của tửu quán, nó thấy những chóp nấm màu mè từng hấp dẫn nó ngày trước đều trở nên khô héo và trắng bệch. Nó tự hỏi không biết ông chủ quán có còn nhận ra nó hay không.



“Chủ quán đâu!”



Tacroy cất tiếng gọi. Không thấy có động tĩnh gì, anh bèn nói với Christopher.



“Em giộng xuống bàn được không? Anh không thể làm được.”



Christopher nhận xét thấy những tấm ván cong của bao lơn kêu kẽo kẹt dưới bước chân của chính nó, chứ không phải của Tacroy. Có vẻ như Tacroy không có thực ở nơi đây. Nó nhặt lên một chén gỗ, gõ mạnh lên chiếc bàn méo mó. Việc này một lần nữa làm cho đôi mắt của Tacroy trợn ngược.



Khi ông chủ quán mò ra, ông ta quấn trong ít nhất ba tấm khăn len và tỏ ra bực bội đến mức chẳng thèm để ý đến Christopher, chưa nói chi đến việc nhận ra nó.



“Sứ giả của Ralph đây,” Tacroy lên tiếng. “Tôi tin rằng ông ấy có một món hàng cho tôi.”



“À phải,” ông chủ quán run rẩy nói. “Ngài có muốn quá bộ vào trong để tránh cái thời tiết đặc biệt khắc nghiệt này không ạ? Bao nhiêu năm nay chưa ai từng thấy mùa đông nào khắc nghiệt như mùa đông này.”



Tacroy nhướn mày, nhìn Christopher.



“Em thấy rất ấm áp,” Christopher nói.



“Thế thì chúng tôi ở bên ngoài,” Tacroy nói. “Món hàng đâu?”



“Có ngay, thưa ngài,” ông chủ quán run rẩy. “Nhưng ngài hãy dùng thứ gì nóng sốt cho ấm lại đã chứ ạ? Tôi xin đãi, thưa ngài!”



“Vâng, xin ông,” Christopher nói nhanh.



Lần trước, lúc đến đây, nó đã được mời món nước gì đó có màu na ná sôcôla, nhưng đó không phải là ca cao mà ngon hơn nhiều. Ông chủ quán gật đầu cười rồi lẩy bẩy lui vào trong. Christopher ngồi vào bàn. Mặc dù lúc này trời đã gần như tối đen, nó vẫn cảm thấy ấm áp, dễ chịu. Quần áo nó đã khô ráo ngon lành. Những đàn bướm đêm núc ních đang vỗ cánh ở các cửa sổ để lấy ánh sáng, nhưng ánh sáng xen giữa chúng lọt vào cũng đủ để Christopher trông thấy Tacroy đang ngồi xuống trong không khí rồi trượt ngang, dừng lại ở chiếc ghế ở mé bên kia bàn.



“Em phải uống bất cứ thứ gì người ta mang ra cho anh đấy,” Tacroy nói.



“Chuyện đó dễ mà,” Christopher nói. “Tại sao anh lại bảo em viết số 9?”



“Vì bộ thế giới này được gọi là Xê-ri 9,” Tacroy cắt nghĩa. “Bác của em hình như có rất nhiều mối giao dịch ở đây. Chính vì vậy mà việc sắp đặt một cuộc thử nghiệm không có gì là khó khăn. Nếu ổn thoả, anh nghĩ ông ấy sẽ lập kế hoạch cho hàng loạt chuyến du lịch khắp các Thế giới có Liên quan. Em thấy điều này hơi nhàm chán rồi, đúng không?”



“Ồ, không đâu. Em thích lắm,” Christopher nói. “Sau Chín thì còn có bao nhiêu nữa ạ.”



“Bộ của anh là Mười Hai,” Tacroy nói. “Rồi sau đó là ngược trở xuống Một, qua các bộ khác. Đừng hỏi anh vì sao lại lộn ngược từ sau ra trước. Truyền thống là như vậy mà.”



Christopher cau mày khi nghe nói thế. Tại Điểm Nằm Giữa có nhiều thung lũng hơn thế nhiều. Tất cả những điểm này đều sắp xếp lung tung, thiếu ngăn nắp đến độ chỉ cần đếm đến số mười hai là rối tung cả lên, không muốn đếm nữa. Nhưng Christopher nghĩ, chắc hẳn là Tacroy phải biết rõ hơn nó – và bác Ralph còn phải biết rõ hơn Tacroy.



Ông chủ quán lại hấp tấp mò ra. Ông ta bê theo hai chiếc tách, từ đó toả ra mùi hương sô cô la đen, mặc dù cái hương vị khả ái đó đã bị làm hỏng mất kha khá bởi một mùi kém dễ chịu hơn hẳn, phát ra từ một cái chai tròn bằng da, đính vào một sợi dây đai dài, mà ông chủ quán đặt xuống bàn, cạnh hai chiếc tách.



“Đấy,” ông ta nói. “Đây là hàng! Còn cái này là để xua đi cái lạnh cho quý vị và cũng là để uống mừng những vụ làm ăn kế tiếp. Tôi không thể hiểu nổi làm cách nào mà các vị lại có thể chịu đựng nổi cái lạnh ở đây!”



“Chúng tôi đến từ vùng cũng khá lạnh và nhiều sương,” Tacroy giải thích.



“May phước,” anh ta nói thêm sau lưng ông chủ quán, khi ông đã trở lui vô trong. “Anh cứ đoán bình thường khí hậu ở đây kiểu nhiệt đới,” rồi Tacroy nhận xét khi cánh cửa sập lại.



“Anh không tài nào biết được. Làm sao có thể biết nóng hay lạnh bằng tinh thần được! Món đó có ngon không vậy em?”



Christopher sung sướng gật đầu. Nó đã làm hết một tách bé. Món này đậm đà, nóng và ngon tuyệt. Nó nghiêng chiếc tách của Tacroy rồi nhấp từng ngụm để mùi vị lưu lại thật lâu. Chiếc chai tròn bằng da bốc mùi khó chịu đến mức phá ngang cả mùi vị. Christopher đặt cái chai xuống sàn, để nó cách ra xa.



Tacroy quan sát Christopher.



“Bác của em dặn anh phải làm sao cho thật bảo đảm. Bản thân anh thì chẳng có gì đáng lo. Bác em bảo em hay để rớt mất đồ đạc trên Lối Đi.”



“Tại vì mang theo đồ đạc thì rất khó leo qua mấy tảng đá,” Christopher giải thích. “Em phải dùng cả hai tay mới leo được.”



Tacroy ngẫm nghĩ.



“Hừm. Chính vì thế mới có chiếc đai đính vào chai. Nhưng cũng có thể còn nhiều lý do khác. Biết được thì hay biết mấy. À này, có bao giờ em thử đem một sinh vật sống về chưa?”



“Như là chuột ấy à?” Christopher gợi ý. “Em bỏ nó vào túi của em được mà.”



Một thoáng hân hoan chợt hiện lên trên khuôn mặt Tacroy. Christopher nghĩ trông anh ta giống như một kẻ sắp trở nên cực kỳ xấu xa.

“Mình thử làm vậy đi,” anh ta nói. “Để coi lần tới em có mang được về một con vật nhỏ hay không. Anh sẽ thuyết phục bác của em rằng chúng ta cần phải thử chuyện đó. Anh nghĩ rằng anh sẽ tò mò đến chết đi được nếu chúng ta không thử một lần xem sao, cho dù đó có là điều cuối cùng mà em có thể làm cho bác em và anh.”



Sau đó, Tacroy có vẻ càng lúc càng nóng ruột. Cuối cùng, anh ta bật dậy hấp tấp đến mức đứng xuyên thẳng qua chiếc ghế như thể nó không có ở đó.



“Em đã uống xong chưa? Mình đi thôi.”



Christopher nuối tiếc dốc ngược chiếc cốc nhấm đến những giọt cuối cùng. Nó nhặt chiếc chai lên rồi choàng sợi dây đai quanh cần cổ. Rồi nó nhảy ra khỏi bao lơn, lao ra con đường mòn, đầy háo hức để giới thiệu cho Tacroy xem thị trấn. Nấm mọc như san hô trên tất cả những cánh cổng có mái che. Tacroy thể nào cũng rất thích.



Này! Em định đi đâu đấy?”



Tacroy gọi giật nó lại.



Christopher dừng lại và giải thích.



“Không được đâu,” Tacroy nói. “Nấm có thể là trời xanh, trời hồng thì cũng thế thôi. Anh không thể giữ cho cơn hôn mê này kéo dài lâu hơn nữa, và anh muốn đảm bảo rằng cả em cũng phải trở về cùng lúc.”



Chán thật. Nhưng khi Christopher đến gần, nhìn kỹ Tacroy, mới thấy anh quả thật có vẻ như đang dần trở thành một hình thù mờ nhạt, cứ như thể anh sắp tan vào bóng tối, hay chuyển thành một trong những con bướm đêm đang vỗ cánh bên các cửa sổ của tửu quán. Khá hoảng trước viễn cảnh này, Christopher đặt một tay lên tay áo của Tacroy để giữ anh ta yên tại chỗ. Trông một khoảnh khắc, nó có cảm giác như cánh tay anh ta không có đó - tựa như những bó bụi nhẹ tênh tích tụ dưới gầm giường nó – nhưng sau cái khoảnh khắc ban đầu đó, cánh tay ấy lại rắn trở lại. Những đường nét của Tacroy cũng cứng cáp và đen trở lại trên nền những gốc cây tối. Và bản thân Tacroy thì đang đứng rất yên.



“Anh thực sự tin rằng,” Tacroy nói cứ như thể anh ta hoàn toàn không tin nổi việc vừa xảy ra, “em đã làm điều gì đó để cố định anh lại. Em đã làm gì vậy?”



“Làm cho anh rắn lên,” Christopher nói. “Anh cần phải rắn chắc thì tụi mình mới đi xem thị trấn được chứ. Nào mình đi.”



Nhưng Tacroy đã phá lên cười, nắm chặt cánh tay của Christopher - chặt đến mức Christopher thấy hối tiếc đã làm cho anh ta rắn lại như thế này.



“Không, coi nấm để lần sau đi. Giờ dây anh đã biết được em làm được cả điều đó thì sắp tới sẽ dễ dàng hơn rất nhiều. Nhưng anh chỉ hợp đồng có mỗi một giờ đồng hồ cho chuyến đi này. Ta về thôi.”



Khi hai người họ trở lên khỏi thung lũng, Tacroy tiếp tục săm soi nhìn quanh.



“Nếu không tối quá thế này,” anh ta nói. “thì chắc chắn là cả anh cũng trông thấy thung lũng được. Giờ anh có thể nghe thấy tiếng suối đây này. Thật là đáng kinh ngạc!”



Nhưng rõ ràng là anh ta không thấy được Điểm Nằm Giữa. Khi họ đến đó, Tacroy cứ bước tới như thể anh tưởng vẫn còn là thung lũng. Khi gió thổi bạt màn sương, Tacroy đã không còn ở đó nữa.



Christopher tự hỏi không biết Tacroy đã trở về được sê ri Chín hay đã đi vào một thung lũng nào khác. Nhưng thiếu mất bạn đồng hành thì chẳng còn gì là vui vẻ, do đó nó để cho Điểm Nằm Giữa đẩy nó trở về nhà.

CHƯƠNG BỐN

(@Nguyen_ly type)





Đến sáng hôm sau, Christopher đã thấy muốn phát bệnh vì cái mùi của chiếc chai bằng da - thực sự còn tệ hơn cả mùi thối. Christopher nhét chiếc chai dưới gầm giường, nhưng chiếc chai vẫn bốc mùi thối đến mức nó phải trở dậy lấy gối đề lên rồi mới chợp mắt được.



Khi Cô Dạy Trẻ Cuối Cùng đến lay nó dậy, cô ấy phát hiện ngay cái chai do mùi hôi của nó bốc ra.



“Thánh thần ơi!” cô ta kêu lên khi nắm chiếc dây đai lôi chiếc chai ra.



“Có tin nổi không kia chớ! Cô không tin nổi một người như bác em mà cũng yêu cầu nguyên một chai đầy cái món này! Ông ấy không nghĩ đến chuyện nguy hiểm hay sao vậy?”



Christopher trố mắt nhìn cô dạy trẻ. Nó chưa bao giờ thấy cô ta xúc động đến thế. Toàn bộ vẻ đẹp ngầm của cô lộ ra khi cô nhìn thấy chiếc chai như thể không biết mình nên giận, nên sợ hay nên mừng.



“Trong đó là gì thế ạ?” nó hỏi.



“Máu rồng,” Cô Dạy Trẻ Cuối Cùng nói. “Và thậm chí còn chưa kịp khô nữa! Cô sẽ đem ngay món đó cho bác của em trong lúc em thay đồ, nếu không thì mẹ của em sẽ liệng nó đi mất.”



Nói rồi cô hấp tấp đi ra với một chiếc chai cầm theo cách cả sải tay, đong đưa trên một sợi dây đai.



“Cô nghĩ bác em sẽ mừng lắm đấy,” cô ta vừa đi vừa ngoái đầu lại nói.



Điều đó thì quá hiển nhiên. Một ngày sau, một gói hàng lớn được chuyển đến Christopher. Cô Dạy Trẻ Cuối Cùng bưng nó lên phòng học cùng với một cây kéo để cho nó tự cắt dây. Việc này càng làm nó phấn khích hơn. Bên trong là một hộp sô cô la bự cùng một chiếc cung tên lớn màu đỏ, bên trên có hình một thằng bé thổi bong bóng. Trong cuộc đời của Christopher, sô cô la là của hiếm đến mức nó gần như không thể để mắt đến chiếc phong bì đính vào cung tên nữa. Trong phong bì có một đồng sovereign vàng và mảnh giấy của bác Ralph.



“Khá lắm!!!” Mảnh giấy ghi. “Thử nghiệm kế tiếp là sau một tuần nữa. Cô Bell sẽ cho cháu biết đích xác là ngày nào. Gửi tới cháu lời chúc mừng từ người bác luôn yêu quý cháu.”



Những lời này làm cho Christopher sung sướng đến mức nó để cho Cô Dạy Trẻ Cuối Cùng khai trương món sô cô la.



“Theo cô,” cô ta khô khan nói khi bốc miếng sô cô la hạnh nhân, là loại mà Christopher không bao giờ ưa nổi, “Mẹ em sẽ rất vui nếu được mời một miếng trước khi chúng vơi đi quá nhiều.”



Rồi cô ta rút mảnh giấy khỏi mấy ngón tay của Christopher và dúi vào ngọn lửa như thể một lời răn để nó khỏi giải thích với mẹ là nó đã làm gì để được thưởng sô cô la như thế.



Christopher thận trọng ăn hết lớp sô cô la đầu tiên rồi mới đem hộp đến mời mẹ.



“Ôi cưng, những thứ này có hại cho răng của con lắm đấy!”



Mẹ nói trong lúc các ngón tay của mẹ lởn quởn trên miếng sô cô la dâu rồi đến miếng sô cô la đen.



“Có vẻ như con chiếm được sự yêu mến của bác con rồi đấy… như vậy càng tốt, vì mẹ phải trao toàn bộ tiền bạc của mẹ vào tay bác ấy. Một ngày nào đó, chúng sẽ là tiền của con,” mẹ nói trong khi các ngón tay đang lần sang món sô cô la bơ sữa.



“Đừng để anh của tôi làm nó hư nhiều quá đấy,” mẹ nói với Cô Dạy Trẻ Cuối Cùng. “Và tôi nghĩ tốt nhất là cô nên đưa nó đi khám nha sĩ.”



“Vâng, thưa Bà,”



Cô Dạy Trẻ Cuối Cùng nói, vừa ngoan ngoãn vừa nhạt nhẽo.



Rõ ràng là mẹ không có chút ngờ vực nào về lý do vì sao lại có mấy miếng sô cô la này. Christopher hài lòng vì đã trung thành với nguyện vọng của bác Ralph đến thế, mặc dù nó có hơi buồn khi mẹ chọn miếng sô cô la bơ sữa.



Sau nguyên tuần lễ, chỗ sôcôla chẳng còn lại được bao nhiêu, nhưng chúng quả đã lôi kéo được tâm trí Christopher khỏi nỗi háo hức với thử nghiệm kế tiếp. Thật vậy, vào thứ sáu kế tiếp, trước giờ đi ngủ, khi Cô Dạy Trẻ Cuối Cùng dịu dàng nói.



“Bác của em muốn em thực hiện một giấc mơ nữa tối hôm nay.”



Thì Christoper cảm thấy ngại ngùng vì sắp phải làm việc hơn là cảm thấy phấn khích.



“Em phải thử đến xê ri Mười,” Cô Dạy Trẻ Cuối Cùng nói, “và cũng gặp đúng cái anh chàng trước đây. Em nghĩ em có làm được không vậy?”



“Dễ ẹt!” Christopher kiêu ngạo nói. “Em có trồng cây chuối cũng làm được.”



“Hơi nổ đấy,” Cô Dạy Trẻ Cuối Cùng nhận xét. “Đừng có quên chải đầu, đánh răng, và đừng quá tự tin như thế. Đây không phải trò chơi đâu đấy.”



Christopher nghĩ, có gì là quá tự tin đâu, việc này trước nay vẫn dễ dàng kia mà. Ngay khi vừa bắt đầu giấc mơ, nó đi đến con đường có cất bộ đồ lấm bùn. Rồi leo qua Điểm Nằm Giữa, tìm anh Tacroy. Khó khăn duy nhất là các thung lũng không được sắp xếp đúng trật tự. Số Mười không phải tiếp nối số Chín, mà thấp hơn nhiều hoặc cao hơn nhiều. Christopher gần như đã nghĩ rằng nó sẽ chẳng tìm ra được. Nhưng cuối cùng nó trượt xuống một con dốc dài có những viên sỏi vàng và bắt gặp Tacroy loang loáng ướt trong màn sương khi anh ấy đang co ro một cách không thoải mái lắm trên mép thung lũng. Anh ấy chìa một cánh tay đang rỏ tong tỏng về phía Christopher.



“Chúa ơi!” anh ta nói. “Thế mà anh cứ tưởng em chẳng bao giờ tới chớ. Làm anh rắn lại đi, được không em? Anh đã bắt đầu mờ lại rồi nè. Cái cô gái lần trước quả là hiệu nghiệm chưa từng thấy.”



Christopher nắm lấy cánh tay lạnh giá của Tacroy, có cảm giác nó bằng len. Ngay lập tức, tay Tacroy bắt đầu chắc lại. Chẳng mấy chốc, toàn thân anh ấy đã chắc lại, cũng ướt và cứng cáp chẳng khác gì Christopher, và anh cũng rất hài lòng vì điều đó.



“Đó là phần câu chuyện mà bác của em cho là khó tin nhất,” anh ta nói khi hai người leo xuống thung lũng. “Nhưng anh đã thề với ông ấy rằng anh đã có thể nhìn thấy được …Ồ… Hừm. Em thấy gì vậy, Christopher?”



“Đây là Bất Kỳ Đâu mà em đã lấy mấy quả chuông.”



Christopher nói, mỉm cười khi bọc quanh những sườn dốc xanh thẳng đứng. Nó vẫn nhớ rất rõ. Bất Kỳ Đâu này có một chỗ ngoặt đặc biệt dẫn ra con suối ở lưng chừng bên dưới. Nhưng có gì đó mới lạ ở đây - một dạng sương lờ mờ ở ngay cạnh lối đi.



“Cái gì thế này?” nó cất tiếng hỏi, quên mất rằng Tacroy không thấy được thung lũng.



Nhưng Tacroy hiển nhiên có thể thấy thung lũng vì giờ đây anh ta đã chắc lại. Anh ta nhìn chăm chú dám sương mờ bằng đôi mắt nheo lại một cách khổ sở.



“Một phần thử nghiệm có vẻ không được thành công của bác em,” anh ta nói. “Lúc đầu nó được tính sẽ là một cỗ xe không có ngựa. Bác em định gửi nó đến để đón hai đứa mình. Theo em, em có thể làm rắn luôn cả nó lại được không?”



Christopher tiến đến đám sương mờ mờ, thử đặt tay lên đó. Nhưng cái vật này thậm chí mờ mịt, yếu ớt đến mức muốn chạm vào cũng không được. Tay

 của Christopher chọc xuyên qua màn sương một cách nhẹ nhàng.

“Không cần đâu,” Tacroy nói. “Bác của em sẽ chỉnh lại một chút thôi mà. Vả lại cỗ xe cũng chỉ là một trong ba thử nghiệm tối hôm nay thôi.”



Rồi anh ta đòi Christopher viết một số 10 thật lớn lên lớp bụi đất của lối đi, xong cả hai cùng đi xuống thung lũng.



“Đúng ra nếu có cỗ xe ấy là thành công,” Tacroy trình bày. “thì tụi mình đã thử nghiệm được với một thứ thuộc loại cồng kềnh. Như thế, anh đạt được mục tiêu và tụi mình làm thử nghiệm tiếp với bọn thú vật. Chúa ơi! Hồi em tới, anh thấy mừng quá chừng. Lúc đó anh cũng sắp tiêu tùng như cỗ xe ấy. Tất cả chỉ tại lỗi của cô gái hôm đó.”



“Cô gái xinh đẹp chơi đàn thụ cầm ấy à?” Christopher hỏi.

“Trời ạ, đâu phải cô ấy,” Tacroy tiếc nuối nói. “Cô ấy đã té xỉu khi em làm anh rắn lại lần trước. Hình như lúc đó cơ thể mình ở Luân Đôn có nguy cơ tan thành sương và cô ấy tưởng là anh sắp tiêu rồi. Cô ấy thét lên và làm đứt các dây đàn. Anh trở lại đúng lúc cô ấy bỏ đi. Cô ấy nói người ta mướn cô ấy chỉ để chơi đàn cho một người hôn mê thôi, chứ đâu có phải để phục vụ cho một con ma! Anh đã đề nghị trả một số tiền gấp đôi nhưng cô ấy không chịu. Tội nghiệp. Thế mà anh cứ hy vọng cô ấy phải cứng cỏi hơn. Cô ấy làm anh nhớ rất nhiều đến một cô gái khác cũng chơi đàn thụ cầm, có thời đã từng là ánh sáng của đời anh.”


Trong một tích tắc, Tacroy trông rầu rĩ hẳn. Rồi anh ta nhẻo cười trở lại.



“Nhưng anh không thể đề nghị với cô nào trong hai cô gái đó chia xẻ cái chuồng cu nhà anh,” anh ta nói. “Cho nên có lẽ chẳng sao cả.”



“Thế cuối cùng anh có phải cần đến một cô gái khác nữa không?”



“Chán thế, anh không thể thiếu được. Anh đâu có giống như em được.” Tacroy nói. “Một nhà du lịch tinh thần chuyên nghiệp bắt buộc phải có một phương tiện để neo giữ anh ta lại, và âm nhạc là thứ tốt nhất, để gọi hồn anh ta trở về trong trường hợp có rắc rối, giữ cho anh ta ấm, và bảo đảm rằng anh ta không bị ngắt đoạn giữa chừng bởi đám người giao hàng và các loại hoá đơn hay thứ gì tương tự. Cho nên bác của em đã tìm cô gái mới này có hơi vội vã một chút. Về độ cứng cỏi thì cô ấy được rồi đấy. Nhưng giọng thì lại như búa bổ, chơi sáo mà cứ như người dùng phấn vạch lên bảng.” Tacroy khẽ rùng mình. “Anh có thể nghe thấp thoáng cái âm thanh đó bất cứ khi nào anh lắng nghe.”



Christopher cũng nghe thấy đâu đó một âm thanh rin rít, nhưng nó cứ tưởng đó từ ống tiêu của những người dụ rắn đang ngồi xếp hàng dọc theo bờ tường của thành phố ở Bất Kỳ Đâu này. Hai anh em lúc này đã trông thấy thành phố. Ở đây rất nóng, nóng hơn cả xê-ri Chín. Những bức tường cao trông như vấy bùn và những mái vòm hình thù kỳ lạ phía trên đầu họ lung linh giữa cái nóng, hệt như những đồ vật dưới nước. Đất cát bốc lên thành từng đám mây, gần như che khuất cái dãy màu trắng bẩn, những lão già xếp bằng thổi ống tiêu ở trước mấy cái rổ. 



Tacroy phá lên cười.



“Đừng lo. Bác của em không ưa rắn, cũng giống như em thôi.”



Thành phố có một cánh cổng cao nhưng lại hẹp. Lúc đến đó, cả hai anh em đều đã bám đầy đất cát và Christopher cứ thế mà gạt mồ hôi thành giọt. Tacroy thì có vẻ phơi phới một cách thèm thuồng. Bên trong các bức tường thậm chí còn nóng hơn nữa. Đó là cái dở duy nhất của một Bất-Kỳ-Đâu tuyệt vời không thể chê vào đâu này.



Những vệ đường phủ bóng râm chứa đầy nghẹt những người là người; đầy những chú dê cùng những sạp hàng tạm bợ bên dưới những cây dù sặc sỡ, do đó Christopher buộc lòng phải đi bộ cùng Tacroy dọc theo dải ánh nắng chói chang ở giữa lòng đường. Tất cả mọi người đều cười nói oang oang và vui vẻ tán gẫu với nhau. Không khí đậm đặc những mùi kỳ lạ, tiếng be be của dê, tiếng cục tác của gà, và một điệu nhạc leng keng nghe rất lạ tai. Tất cả mọi màu sắc đều sáng sủa, và sáng nhất là mấy cái nhà con con trông như nhà búp bê mạ vàng, đứng ở góc phố. Chúng luôn được chất đầy hoa và những đĩa đồ ăn. Christopher nghĩ chúng chắc là nhà của những ông thần nhỏ bé.



Một cô gái dưới chiếc dù xanh chói mắt đưa cho Christopher vài chiếc bánh ngọt mà cô ta đang bán. Món bánh trông như một tổ chim móp méo nhúng trong mật ong. Christopher đưa vài miếng cho Tacroy, nhưng Tacroy nói anh ta chỉ nếm được nó theo cách người ta nếm đồ ăn trong mơ, cho dù Christopher có làm cho anh ta rắn thêm mấy lần nữa.



“Bác Ralph muốn em bắt về một con dê chứ gì?”



Christopher hỏi khi liếm láp mật ong trên các ngón tay.



“Cỗ xe mà thành công thì tụi mình mới phải thử điều đó,” Tacroy nói. “Điều mà bác của em thực sự mong đợi là con mèo từ một trong mấy ngôi đền. Tụi mình phải tìm cho ra ngôi đền Asheth.”



Christopher đi trước dẫn đường, ra một quảng trường rộng, nơi tập hợp tất cả những ngôi đền lớn dành cho các vị thần. Người đàn ông dưới chiếc dù vàng vẫn còn ở đó, trên các bậc thang của ngôi đền lớn nhất.”



“À, đây rồi,” Tacroy thốt lên.



Nhưng khi Christopher đang đầy hy vọng, tính bắt chuyện trở lại với người đàn ông với chiếc dù màu vàng, thì Tacroy lại nói.



“Không. Anh nghĩ tốt nhất là tụi mình nên đi bọc bên hông để tìm một lối mà chui vào bên trong.”



Hai anh em men theo những con đường hẹp bên hông bọc xung quanh ngôi đền. Chẳng hề có cánh cửa nào khác để vào trong đền, cũng chẳng có chiếc cửa sổ nào. Các bức tường đều cao ngất, trông như bám bùn và hoàn toàn trống trơn, không có gì để bám vô, với những đỉnh rào nhọn ác hiểm trên bờ tường. Tacroy mừng rỡ dừng lại ở lối nhỏ phía sau, nơi ai đó dã bỏ nguyện một ụ bắp cải cũ, rồi ngó lên các đỉnh rào. Có những ngọn dây leo, bò qua từ bên kia bức tường, xoắn xuýt giữa nhưng thanh rào.



“Trông hứa hẹn đấy,” Tacroy nói, rồi đứng dựa vào bờ tường. Bỗng vẻ hớn hở của anh ta chợt bay biến. Trong khoảnh khắc, trông anh ta đầy thất vọng và khá bực bội.



“Gay go rồi,” anh nói. “Em đã làm cho anh thành quá rắn, không thể lọt qua đó được, tức chết đi!”



Anh có vẻ ngẫm nghĩ về điều đó rồi nhún vai.



“Dù sao việc này cũng đã được trù tính sẽ là thử nghiệm thứ ba. Bác của em nghĩ rằng nếu em có thể khai đường giữa các thế giới thì e cũng có thể đi xuyên qua tường. Em sẵn lòng thử không? Theo em nghĩ, nếu không có anh đi theo thì em có vào trong đó mang theo con mèo ra được không?”



Tacroy có sốt ruột, lo lắng về việc này. Christopher nhìn bức tường một cách trang nghiêm và nghĩ việc này chắc không thể làm được.



“Để em thử,” nó nói, chủ yếu là để an ủi Tacroy, rồi bước đến những phiến đá nóng của bờ tường rồi thử ép mình xuyên qua đá. Sau một hồi, nó bỗng thấy nếu như nó xoay người theo một tư thế đặc biệt thì nó bắt đầu chìm vào trong đá. Nó quay lại, nhìn khuôn mặt lo lắng của Tacroy, cười khích lệ.



“Một phút nữa em trở ra.



“Anh không thích để em vào trong đó một mình chút nào.” Tacroy nói.



Vừa lúc đó, một âm thanh nghe như một tiếng “PHỤP!” phát ra và Christopher thấy mình đã ở bên kia bờ tường, lẫn vào đám dây leo. Ánh nắng phía bên đó làm nó chói mắt mất một giây. Nó có thể thấy, nghe và cảm nhận có những thứ đang di chuyển khắp trong chiếc sân phía trước, chạy tránh xa nó bằng dáng điệu vụng trộm, mờ ám khiến nó gần như tê liệt vì khiếp sợ. Rắn! Nó nghĩ thế. Rồi nó dụi mắt, hé nhìn, rồi lại dụi mắt tiếp, cố sao nhìn ra chúng là cái gì.



Chúng chỉ là những con mèo đang bỏ chạy do tiếng động mà Christopher gây ra khi đi xuyên qua bức tường. Đến lúc nó thấy được thì phần lớn đám mèo đã ở ngoài tầm xa lắc. Một số con leo cao tít trên các cây leo, và những con còn lại đã phóng đến những cổng vòm tối tăm khắp quanh sân. Nhưng có một con mèo trắng chậm chân hơn những con khác, bị rớt lại, chạy loăng quăng một cách rối trí và hơi nặng nề trong bóng râm một góc sân.



Phải tóm con này thôi. Christopher lao ra để bắt con mèo.



Thấy Christopher dứt ra khỏi đám dây leo, con mèo trắng phát hoảng. Nó chạy. Christopher rượt theo, chui qua một cổng vòm lủng lẳng nhiều cây leo hơn nữa, vào đến một sân khác mát hơn, rồi chạy qua một cánh cổng với tấm rèm thay cho cửa. Con mèo trườn quanh tấm rèm. Christopher gạt phăng tấm rèm, chộp xuống, để rồi phát hiện rằng phía sau rèm còn tối hơn - đến mức khiến mắt nó loà đi lần nữa.



“Ngươi là ai?”



Một giọng nói cất lên từ bóng tối. Âm điệu của giọng nói ấy vừa ngạc nhiên vừa ngạo mạn.



“Ngươi không được phép vào đây.”



“Còn cô là ai?” Christopher thận trọng hỏi lại, trong khi lòng chỉ mong sao nhìn ra được cái gì đằng sau vầng chói sáng màu xanh lam và xanh lục kia.



“Dĩ nhiên ta là Thánh nữ,” giọng nói vang lên. “Ta là hiện thân của Asheth. Ngươi làm gì ở đây? Từ đây cho đến ngày Lễ Hội, ta không thể tiếp bất cứ ai ngoài các thầy tế nữ.”



“Tôi chỉ vào đấy để bắt con mèo thôi,” Christopher nói. “Bắt xong tôi ra liền.”

“Ngươi không được phép bắt mèo,” Thánh Nữ nói. “Mèo là vật thiêng đối với Asheth. Hơn nữa, nếu Bethi là con mèo mà ngươi muốn bắt thì ta báo cho ngươi biết, nó chính là con mèo của ta, và nó lại sắp có mèo con nữa rồi.”

Mắt của Christopher đang điều chỉnh dần. Cố nhìn vào góc phòng, nơi phát ra giọng nói, nó đã lờ mờ thấy một người chỉ trạc cỡ nó đang ngồi trên một thứ gì đó như là một chồng gối, vuốt ve chiếc lưng trắng của con mèo mà lúc này đang nép ào tay người đó.”



Christopher rất ngạc nhiên thấy mình không thể rời khỏi nơi nó đang đứng. Nó di chân để kiểm tra. Hai bàn chân trần của nó như bị dính chặt vào đá lót sàn bằng cao su đặc. Trong lúc di chân, mắt nó cũng bắt đầu trông thấy được rõ ràng hơn.



Thánh Nữ là một cô bé có khuôn mặt tròn trịa, trông rất bình thường với mái tóc dài màu lông chuột. Cô bé mặc một bộ đầm cộc tay màu nâu gỉ sét và đeo rất nhiều nữ trang bằng ngọc lam, bao gồm ít nhất mười hai vòng đeo tay và một vương miện nhỏ nạm ngọc lam. Trông cô bé như nhỏ hơn Christopher chút ít – quá trẻ để có khả năng cột chân ai đó xuống sàn nhà. Christopher rất ngạc nhiên và thích thú.



“Bạn làm cách nào hay vậy?” nó hỏi.



Thánh Nữ nhún vai.



“Quyền năng của kẻ hiện thân cho Asheth,” cô bé đáp. “Ta được chọn trong tất cả các ứng viên khác vì ta là người nữ tốt nhất cho quyền năng của người. Asheth đã chọn ta bằng cách ban cho ta dấu hiệu của một con mèo trên chân ta. Coi đây.”



Cô bé nghiêng hẳn người trên những chiếc gối, duỗi thẳng về phía Christopher cái vết ấy trông chẳng giống con mèo lắm, mặc dù nó phải trợn to cả mắt nhìn, tới mức nó thấy mặt mình có vẻ hơi giống anh Tacroy.



“Ngươi không tin ta,” Thánh Nữ nói, giọng khá bực bội.



“Tôi không biết nữa,” Christopher nói. “Trước nay tôi chưa bao giờ gặp một Thánh Nữ. Thế Thánh Nữ thì làm việc gì?”



“Ta ở ẩn trong đền, trừ một ngày duy nhất mỗi năm, là ngày ta ngồi xe băng khắp thành phố và ban phước,” Thánh Nữ nói.



Christopher nghĩ việc này coi bộ không hấp dẫn lắm, nhưng trước khi nó kịp nói ra thì Thánh Nữ đã bổ sung:



“Quả thật việc đó không vui lắm, nhưng phải như vậy một khi đã được tôn kính giống như ta đây. Hiện thân của Asheth bắt buộc phải là bé gái, ngươi cũng thấy đó.”



“Thế thì khi bạn lớn lên thì bạn có thôi làm Asheth được không?” Christopher hỏi.



Thánh Nữ cau mày. Rõ ràng là cô bé không biết chắc được chuyện này.



“Này nhé, hiện thân của Asheth không bao giờ là người lớn, cho nên ta cũng ngờ như thế…nhưng họ không nói cho ta biết.”



Khuôn mặt tròn trịnh trọng của cô bé chợt sáng lên.



“Đó là điều phải chờ xem, phải không Bethi?” cô bé nói, tay vuốt ve con mèo trắng.



“Nếu tôi không được bắt con mèo này thì bạn cho tôi bắt con khác được không?” Christopher hỏi.



“Còn tuỳ,” Thánh Nữ đáp. “Ta nghĩ ta không được phép mang chúng cho ai đâu. Thế ngươi muốn bắt nó để làm gì?”



“Bác của tôi muốn có một con mèo,” Christopher trình bày. “Chúng ta đang làm một thí nghiệm để thử coi tôi có đưa được một con vật sống từ Bất Kỳ Đâu của bạn về Bất Kỳ Đâu của tôi hay không. Của bạn là Mười còn của chúng tôi là Mười Hai. Và việc leo qua Điểm Nằm Giữa rất khó khăn, nếu như bạn để tôi bắt một con mèo thì bạn làm ơn cho tôi mượn luôn một chiếc giỏ có được không?”



Thánh nữ cân nhắc.



“Có cả thảy bao nhiêu Bất Kỳ Đâu?” cô bé hỏi theo lối thẩm tra.



“Hàng trăm,” Christopher đáp, “nhưng anh Tacroy lại nghĩ chỉ có mười hai.”



“Các thầy tế bảo rằng hiện nay người ta mới tìm ra có mười hai Nơi Khác.” Thánh Nữ gật đầu. “Nhưng mẹ Proudfoot quả quyết rằng có nhiều hơn thế nhiều. Phải rồi, ngươi làm cách nào chui vào được đây vậy?”



“Xuyên qua tường,” Christopher đáp. “Chẳng có ai thấy tôi cả.”



“Vậy ngươi có thể chui ra chui vô tuỳ ý sao?” 



“Quá dễ!” Christopher nói.



“Tốt,” Thánh Nữ nói.



Cô bé thả con mèo trắng xuống gối rồi nhảy bật dậy, làm cho tất cả các món nữ trang khua loảng xoảng.



“Ta sẽ đổi cho ngươi một con mèo,” cô bé nói. “Nhưng trước tiên ngươi phải thề nhân danh Thánh Nữ sẽ trở lại đây và đem đến thứ mà ta muốn trao đổi, nếu không ta sẽ để cho chân ngươi dính luôn dưới sàn và hét gọi Cánh Tay của Asheth đến giết ngươi.”



“Tôi thề,” Christopher nói. Nhưng vậy cũng chưa đủ. Thánh Nữ móc hai ngón cái vào các vòng nữ trang rồi lạnh lùng nhìn. Thánh Nữ thật ra hơi thấp hơn Christopher, nhưng điều này chẳng hề làm cho ánh mắt cô bé kém ấn tượng hơn chút nào.



“Tôi thề nhân danh thánh Nữ rằng tôi sẽ trở lại với thứ mà bạn muốn để đổi lấy con mèo…Nói vậy được chưa?” Christopher nói. “Giờ thì bạn muốn gì nào?

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro