bien nien su narnia 2

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

[1] Ga lông (gallon) đơn vị đo lường chất lỏng bằng 4,54 lít ở Anh và 3,78 lít ở Mỹ

HOÀNG TỬ CASPIAN

 Lũ trẻ nhà Pevensive đứng trong sân ga chờ đợi con tàu sẽ mang chúng quay lại trường học. Đột nhiên Lucy thấy mình bị giật mạnh một cái rồi đến Edmund và sau đó vài phút là Peter và Susan cũng có cảm giác như vậy. Trong khoảnh khắc, cả sân ga biến mất và lũ trẻ thấy mình đang đứng giữa một rừng lá um tùm gần biển và gần với đống đổ nát. Nơi đã từng là lâu đài Cair Paravel. Chúng đang trở lại với vùng đất huyền bí Narnia nơi chúng đã có một quãng thời gian tuyệt vời khi là những đức vua và nữ hoàng.

 Nhưng có điều gì đó không ổn. Lâu đài nguy nga của chúng giờ nằm trong đống đổ nát và đâu đâu cũng là sự trống trải và im ắng đến lạ lùng. Với sự quay lại đột ngột của người lùn (the Dwarf), bốn đứa trẻ hiểu rằng một kết cục bi thảm đã xảy đến với vùng đất Narnia. Nội chiến đã phá hủy vùng đất này, khi hoàng tử Caspian nhận ra sự xấu xa của vua Miraz, người chú ruột và cố gắng lấy lại vương quốc mà đáng ra phải thuộc về hoàng tử.

Nhưng Caspian cần trợ giúp và, với sự chỉ dẫn của Aslan, những đứa trẻ đã nhận lấy thử thách giải cứu Narnia, phục hồi sự tự do và hạnh phúc đã bị tước đoạt trong một thời gian dài. 

 Đây là chuyến thám hiểm thứ tư trong bộ truyện hấp dẫn: Biên niên sử về Narnia

CHƯƠNG 1

 Phế tích lâu đài cổ

Đã từng có bốn đứa trẻ, tên là Peter, Susan, Edmund và Lucy, câu chuyện về cuộc phiêu lưu kỳ thú của chúng đã được kể trong một cuốn truyện khác có tên là Sư tử, phù thủy và cái tủ áo. Bọn trẻ mở cánh cửa một cái tủ áo màu nhiệm và chúng bước vào một thế giới khác hoàn toàn không giống gì với thế giới của chúng ta. Ở trong cái thế giới khác biệt ấy chúng trở thành vua và nữ hoàng của một đất nước có tên là Narnia. Trong khi chúng trị vì ở Narnia rất nhiều năm thì khi trở về qua cánh cửa tủ nọ, chúng thấy mình đang có mặt tại nước Anh cũng vào cái thời điểm mà chúng từ đấy ra đi. Ít nhất thì cũng không ai nhận ra sự vắng mặt của chúng và bọn trẻ không kể chuyện này cho ai biết ngoài một ông già rất mực thông thái.

Tất cả những chuyện này xảy ra một năm về trước và bây giờ cả bốn anh em đang ngồi trên một băng ghế ở phòng chờ trong nhà ga xe lửa với những vali hành lý để bên cạnh. Chúng đang trên đường quay về trường và có mặt ở nhà ga này như một trạm chuyển tiếp, từ đây trong ít phút nữa một con tàu sẽ đến đón hai cô bé đến một trường dành cho nữ sinh, và khoảng nửa tiếng sau một chuyến tàu khác sẽ mang hai đứa con trai đến một trường dành cho nam sinh. Đây là chặng đầu của cuộc hành trình, khi bốn anh em bên nhau bao giờ thời gian cũng trôi qua như trong một kỳ nghỉ hè, nhưng giờ đây chúng sắp phải nói lời tạm biệt và chẳng bao lâu sẽ về hai ngả khác nhau. Đứa nào cũng có cảm giác kỳ nghỉ vui tươi đã qua và một học kỳ mới lại bắt đầu, tất cả đều cảm thấy lòng se buồn và không đứa nào nghĩ ra được bất cứ cái gì để nói với Lucy bởi vì đây là lần đầu tiên cô bé đến trường nội trú.

Một sân ga xép vắng vẻ, buồn hiu như mơ ngủ và hầu như không có một ai trên sân ga trừ bốn đứa nhỏ. Thình lình Lucy kêu lên một tiếng thất thanh đúng như người ta vẫn kêu khi bị một con ong bắp cày đốt vào tay.

- Có chuyện gì vậy, Lu? – Edmund hỏi và rồi cũng bất ngờ giãy nảy lên rồi la oai oái.

- Có chuyện quái quỷ gì vậy… - Peter bắt đầu nhưng rồi ngoài ý muốn của nó cũng nói một điều khác hẳn. Bởi vì nó quay sang bảo cô em kế: - Su, em đang làm gì đấy? Em định lôi anh đi đâu vậy?

- Em đâu có chạm vào người anh. – Susan cãi lại. – Có ai đang kéo em thì có. Ôi…ôi… dừng lại ngay!

Khi cả bọn nhận ra chuyện gì đang diễn ra, mặt đứa nào đứa nấy đều trắng bệch.

- Em cũng cảm thấy như thế. – Edmund nói bằng một giọng như bị hụt hơi. – Như thể em bị lôi đi. Kinh khủng, cứ như bị hút xuống đáy. Đấy, nó lại bắt đầu đấy.

- Em nữa. – Lucy kêu to. – Ôi, em không thể chịu nổi!

- Nhìn cho rõ. – Edmund la lên. –Tất cả nắm tay nhau, thật chặt. Chắc có pháp thuật gì đây… em có thể nói như thế… qua linh cảm. Nhanh lên nào!

- Phải rồi. – Susan nói. – Nắm chặt lấy tay nhau. Ôi, ước gì nó dừng lại.

Một phút sau cả hành lý, băng ghế, sân ga, phòng chờ đều hoàn toàn bị xóa mờ. Bốn đứa trẻ, nắm tay nhau, thở hổn hển, thấy mình đang đứng trong một khu rừng, cây cối rậm rịt đến mức cành cây đâm cả vào người chúng và không còn hở ra chỗ nào để chúng cựa mình. Cả bốn đứa lấy tay dụi dụi mắt và hít một hơi thật sâu.

- Ôi anh Peter! – Lucy kêu lên. – Anh có nghĩ là có thể chúng ta đã bị lôi trở lại Narnia không?

- Đây có thể là một nơi nào khác. – Peter nói. Anh không thể nhìn xa quá một mét khi ở giữa rừng cây này. Thử tìm một khoảng trống nào xem – nếu như ở đây có bất kỳ khoảng trống như vậy.

Với một chút cố gắng lách qua những sợi dây tầm ma mọc chằng chịt và những cành gai nhọn chích rất đau, rốt cục bọn trẻ cũng chui ra được khỏi bụi rậm. Đến đây lại có một ngạc nhiên nữa. Mọi thứ trở nên sáng sủa hơn và sau vài bước chúng thấy mình đang ở ngoài bìa rừng, nhìn xuống một bãi cát. Xã hơn nữa là mặt biển êm ả, trườn lên cát là những con sóng nhỏ lăn tăn tuyệt không gây nên một tiếng động nào. Nhìn ra xa không thấy có một doi đất nào, ngước lên bầu trời không có một gợn mây, biển có một màu xanh đến chói chang. Cả bọn đứng hít hít cái bầu không khí vừa mặn mặn vừa sảng khoái trong lành của biển. Nhìn vị trí của mặt trời có thể đoán lúc này cũng vào khoảng 10 giờ sáng.

Peter kêu lên:

- Như thế này cũng đủ tốt rồi.

Năm phút sau, cả bọn bỏ giày ra, đi chân trần khỏa vào làn nước trong lành mát rượi.

- Thế này còn tốt hơn là bị lèn vào một con tàu chật chội trở về với cái môn Latin, tiếng Pháp và môn lượng giác! – Edmund phụ họa. Sau câu nói của Edmund là một quãng im lặng kéo dài, không có tiếng trò chuyện chỉ có tiếng lội nước bì bõm và bọn trẻ vui vẻ chạy đi tìm bắt con tôm con cua.

- Đã thế thì, – cuối cùng Susan nói, - chúng ta cũng phải lên một vài kế hoạch chứ. Cũng cần nạp năng lượng trước khi…

- Chúng ta có bánh sandwich mẹ làm để ăn đường. – Edmund nói. – Ít nhất thì em cũng có phần của mình.

- Em thì không. Phần của em lại để trong cặp sách mất rồi. – Lucy nói.

- Chị cũng thế.

- Còn phần của anh lại để trong túi áo khoác, để trên bãi kia kìa. – Peter nói. – Như vậy, có hai phần ăn cho bốn người. Cũng không nhiều nhặn gì đâu.

- Bây giờ, - Lucy nói, - em chỉ muốn có một cái gì để làm dịu cái khát hơn là cái đói.

Mấy đứa kia cũng cảm thấy khát như người ta thường có cảm giác ấy sau khi chơi đùa trên bãi biển dưới một mặt trời nóng bỏng.

- Cũng giống như bị đắm tàu, - Edmund nhận xét. – Trong những cuốn du ký bao giờ cũng thấy nói đến việc đi tìm nước ngọt – những dòng suối chảy trên đảo. Vậy chúng ta nên đi tìm nước.

- Thế thì chúng ta lại phải quay vào khu rừng rậm kia? – Susan hỏi.

- Không cần thế. – Peter nói. – Giả sử có một dòng suối, tất nó phải chạy ra biển, nếu ta cứ đi dọc theo bờ biển, thế nào cũng gặp một con suối nếu như ở đây có suối.

Cả bọn lội lên bờ, đầu tiên bước lên lớp cát mịn sau đó đi lên lớp đất thịt khô và lổn nhổn, cát và đất cồm cộm trong các kẽ ngón chân. Bốn anh em mang giày và tất vào. Edmund và Lucy muốn để giày và tất lại bờ biển để thám hiểm vùng đất mới bằng đôi chân trần nhưng Susan cho rằng chỉ có khùng mới làm như vậy.

- Rất có thể chúng ta sẽ không tìm thấy giày, – Susan chỉ rõ, - mà chúng ta thì vẫn cần đến nó trong trường hợp chúng ta phải ở lại đây khi đêm xuống và trời có thể sẽ rất lạnh.

Sau khi đã mặc áo khoác và mang giày vào, bốn đứa bắt đầu cuộc thám hiểm. Biển nằm bên tay trái còn rừng cây thì lại nằm bên tay phải. Trừ một hoặc hai con hải âu ra, vùng biển này hoàn toàn vắng vẻ. Rừng cây dày và rậm rịt đến nỗi bạn khó lòng nhìn xuyên qua và chẳng có một thứ gì chuyển động trong đó – không một con chim, cả đến một con côn trùng cũng không.

Sò, rong biển, cỏ chân ngỗng và những con cua bé tí trong những vùng nước hoặc trong sau hòn đá thì rất nhiều nhưng bạn sẽ mau chán những thứ đó khi bạn khát nước. Sau khi chuyển từ nước mát sang mang giày, những đôi chân trở nên bức bối và nặng như chì. Susan và Lucy còn mang theo áo mưa. Edmund đã bỏ áo khoác của nó trên băng ghế ngoài ga ngay trước khi phép lạ xảy ra vì thế nó và Peter thay phiên nhau mang chiếc áo măng tô của Peter.

Đi được một đoạn, bờ biển bắt đầu lượn về phía tay phải. Khoảng 15 phút sau, bốn anh em đi qua một đỉnh núi đá thấp chạy ra xa bờ như một mũi tàu. Con đường dọc theo bờ biển đột ngột tạo thành một khúc cua rất gấp. Sau lưng chúng bây giờ lại là một đoạn bờ biển mà chúng đã thấy khi vừa ra khỏi rừng cây và giờ đây nhìn về phía trước mặt, có thể thấy bên kia dải nước xanh là một bờ biển khác cũng mọc đầy cây cối như khu rừng sau lưng.

- Em tự hỏi không biết đây có phải là một hòn đảo không hay là chúng ta vừa đi đến một chỗ nối? – Lucy hỏi.

- Không biết. – Peter nói và cả bọn lê bước nặng nề trong im lặng.

Bờ biển mà chúng đang đi mỗi lúc lại nhích đến gần cái bờ đối diện bên kia và mỗi khi đi vòng qua một doi đất bọn trẻ lại chờ đợi tìm ra chỗ nối hai bờ biển với nhau. Nhưng ở điểm này chúng đã không được như ý. Con đường dẫn chúng đến một nơi có những tảng đá lớn chồng lên nhau. Cả bọn trèo lên, từ trên đỉnh có thể nhìn bao quát ra bốn chung quanh.

- Chán quá! – Edmund thốt lên. – Chả có gì hay ho cả. Chúng ta sẽ không thể đến gần rừng cây bên kia đâu. Chúng ta đang ở trên một hòn đảo!

Đúng thế. Dòng nước ngăn cách chúng với cái bờ đối diện chỉ rộng khoảng từ 30 đến 40 mét, nhưng chúng có thể thấy đó là chỗ eo biển thắt lại nhỏ nhất. Từ chỗ bọn trẻ đứng, bờ biển lượn vòng về bên phải và bọn trẻ có thể nhìn thấy mặt biển trải rộng giữa hòn đảo và đất liền. Rõ ràng chúng đã đi được quá nửa một vòng quanh hòn đảo.

- Coi kìa! – Lucy thình lình kêu lên. – Cái gì thế kia? – Nó chỉ tay vào một vật dài, lấp lánh, uốn lượn như một con rắn chạy ngang qua bãi biển.

- Một dòng suối! Một dòng suối! – Những đứa kia reo lên và mặc dù đã thấm mệt chúng cũng không mất nhiều thời gian vào việc trèo xuống mấy tảng đá và chạy như bay về phía dòng suối nhỏ. Bọn trẻ hiểu rằng sẽ tốt hơn nếu uống nước ngược lên nguồn, cách xa bờ biển thế là chúng liền đi ngược dòng nước, vào sâu trong rừng. Cây cối vẫn rậm rạp như toàn bộ khu rừng, nhưng con suối làm thành một dòng chảy sâu giữa đôi bờ cao cao mộc đầy rêu, nhờ thế, nếu đi lom khom theo bờ bạn có thể đến chỗ nước trong hơn, dưới một con đường cây lá um tùm làm thành một cổng chào. Đến nơi bọn trẻ quỳ xuống, đầu tiên, chúng còn cúi đầu xuống dòng nước gợn lăn tăn và uống, uống mãi, sau đó vục cả mặt xuống nước rồi nhúng cả hai tay xuống đến tận khuỷu.

- Bây giờ đến tiết mục bánh sandwich chứ? – Edmund hỏi.

- Không, tốt nhất là cứ để dành lại, - Susan nói, - sau này chúng ta còn cần đến nó hơn.

- Em thực sự muốn, - Lucy nói, - là bây giờ khi chúng ta không khát chúng ta sẽ có cảm giác không đói nữa.

- Nhưng hai chiếc bánh sandwich thì thế nào? – Edmund hỏi. – Còn có lợi ích gì khi cứ để dành cho đến lúc bánh bị thiu. Mọi người nên nhớ là ở đây nóng hơn ở Anh rất nhiều và bánh để ở trong túi mấy giờ rồi.

Thế là bánh được lấy ra khỏi túi chia đều ra làm bốn phần, không đứa nào cảm thấy thế là đủ nhưng ít còn hơn không. Sau đó chúng bàn bạc với nhau về kế hoạch cho bữa ăn sắp tới. Lucy muốn quay lại bờ biển bắt tôm cho đến lúc có người vạch cho nó thấy chúng không có lưới. Edmund có ý kiến nên đi nhặt trứng chim hải âu ở các vách đá nhưng tất cả đều nhớ ra cho đến lúc ấy chúng chẳng thấy có quả trứng nào mà nếu có tìm thấy thì cũng không có phương tiện chế biến. Riêng Peter thầm nghĩ, trừ phi chúng có một cơ may nào khác chứ có trứng để húp sống cũng còn tốt chán, nhưng nó thấy không nên nói ra cái chuyện ấy. Susan nói rằng thật đáng tiếc là chúng đã ăn bánh sandwich quá sớm. Một hai đứa đã hoang mang đến độ gần như mất bình tĩnh. Cuối cùng Edmund nói:

- Coi đây. Tình thế này chỉ có một giải pháp. Chúng ta cần phải khám phá ra khu rừng này. Các ẩn sĩ, những hiệp sĩ lang thang và những người rơi vào trường hợp tương tự như chúng ta bao giờ cũng tìm cách sống được bằng một cách nào đó khi ở trong rừng. Họ tìm các loại rễ, củ, cây dại và trái cây rừng.

- Loại rễ nào? – Susan hỏi.

- Em bao giờ cũng nghĩ có một loại rễ cây nào đó có thể ăn được. – Lucy nói.

- Thôi nào. – Peter nói. – Edmund nói đúng đấy. Chúng ta hãy thử làm một việc gì đó. Như thế còn tốt hơn là đi ra ngoài bãi biển ngắm mặt trời một lần nữa.

Thế là cả bọn đứng dậy, men theo dòng suối vào sâu trong rừng. Có lúc chúng phải chui luồn qua các cành cây, lại có lúc phải trèo qua một cành cây sà thấp. Chúng phải chui rúc vào những bụi cây rậm rạp như bụi đỗ quyên để cho gai cào rách cả áo. Có khi chúng phải lội qua suối làm cho giày và tất đều ướt sũng.

Trong rừng yên tĩnh đến nỗi, tiếng nước chảy êm êm giữa đôi bờ và tiếng động do bọn trẻ gây ra là những âm thanh duy nhất. Bọn trẻ đã cảm thấy khó lòng đi xa hơn thì ngửi thấy một mùi hương rất dễ chịu và rồi khoảng rừng trước mặt sáng dần lên ở đầu bờ suối bên phải.

- Em dám nói! – Lucy reo lên. – Em tin rằng đó là một cây táo.

Đúng như thế. Bọn trẻ thở dốc leo lên cái bờ cao, tìm đường đi qua mấy bụi cây mâm xôi rồi chúng thấy mình đang đứng dưới một gốc cây cổ thụ trĩu trịt những trái táo lớn vàng ửng, vừa rắn chắc vừa đầy mật ngọt như bạn cũng sẽ ao ước muốn có một quả.

- Không chỉ có một cây nhé. – Edmund kêu lên, mồm vẫn đầy táo. – Nhìn kìa… ở chỗ kia kìa.

- Ừ nhỉ, có đến hàng chục cây ấy. – Susan nói, ném lõi quả táo đầu tiên đi, hái quả thứ hai. – Chắc đây từng là một vườn cây ăn quả… đã lâu, lâu lắm rồi trước khi nơi này bị bỏ hoang và cây cối mọc lên thành rừng rậm.

- Nếu vậy thì đây là một hòn đảo đã từng có người ở. – Peter nói.

- Vậy, cái gì thế kia? – Lucy hỏi, chỉ tay về phía trước mặt.

- Chúa ơi, đó là một bức tường. – Peter kêu lên. – Một bức tường đá hoang phế.

Bọn trẻ len lỏi tìm đường giữa những cành cây ken dày vào nhau để đến gần bức tường. Đó là một bức tường cổ, có nhiều chỗ đã bị rạn nứt, xiêu vẹo. Rêu và các loài hoa có dây leo phủ kín cả bức tường, nhưng bản than nó còn cao hơn cả những cái cây cao nhất mọc xung quanh. Khi bọn trẻ đến gần, chúng tìm thấy một mái vòm đồ sộ chắc trước đây từng là một cái cổng còn giờ đây thì gần như bị che khuất bởi một cây táo lớn nhất trong vườn. Mấy đứa con trai phải bẻ bớt một vài cành để lấy lối đi vào.

Khi mọi việc đã xong, tất cả đều lóa mắt bởi ánh ngày đột nhiên trở nên rực rỡ hơn bao giờ hết. Bốn anh em nhà Pevensie chợt thấy mình ở một khu vực thoáng rộng có tường cao bao quanh. Trong khuôn viên không có cây lưu niên chỉ có thảm cỏ mềm điểm những bông hoa cúc trắng, dây thường xuân và bức tường đá xám. Nơi này sáng sủa, bí ẩn, tuyệt đối yên ả và cũng rất buồn. Cả bốn đứa hối hả đi vào trong, sung sướng khi có thể uốn thẳng lưng và bước đi với những bước chân thoải mái.

CHƯƠNG 2

 Kho giấu vàng ngày ấy

- Đây không phải là khu vườn. – Susan thốt lên. – Đây là một tòa lâu đài và chỗ chúng mình đang đứng là cái sân.

- Anh hiểu. – Peter nói. – Đây chính là phần còn lại của một cái tháp. Ở đây có một cái gì từng là những bậc thang để trèo lên một bệ cao hơn. Nhìn những bậc thang này coi – rộng và thấp – dẫn đến một cái cửa, chắc đã từng là cửa dẫn vào đại sảnh.

- Bao nhiêu năm rồi, cứ nhìn cái vẻ ngoài của nó mà xem – Edmund nói.

- Phải, đã lâu lắm rồi. – Peter nói. – Ước gì chúng ta có thể tìm ra được ai là người sống trong tòa lâu đài này và việc ấy đã xảy ra bao lâu rồi.

- Nó khiến em có một cảm giác thật kỳ lạ. – Lucy nói.

- Đúng thế chứ, Lu? – Peter nói, quay sang chăm chú nhìn cô em út. – Bởi vì anh cũng có cảm giác giống em. Thật là điều lạ kỳ xảy ra trong một ngày kỳ lạ. Anh tự hỏi, chúng ta đang ở đâu và tất cả những điều này có ý nghĩ gì?

Vừa đi vừa trao đổi, bọn trẻ đi ngang qua sân đến một lối đi đã từng là một hành lang. Nhưng giờ đây nó cũng giống phần sân còn lại, bởi vì mái che đã biến mất từ lâu và bây giờ nó thuần túy chỉ là một khoảng đất dành cho cỏ và hoa cúc, nếu có gì khác thì chỉ là chỗ này ngắn hơn, hẹp hòi và tường bao cao hơn mà thôi. Ở cuối lối đi có một nền đất cao hơn phần còn lại chừng một mét rưỡi.

- Em tự hỏi, đây có phải là một cái bục không? – Susn hỏi Peter. – Cái nền đất này được xây theo kiểu gì không biết đây?

- Em thật ngốc, - Peter nói (nó có một cảm giác hưng phấn kỳ lạ), - em không thấy à? Đây là một đài cao, nơi đặt một cái bàn dài để vua và quan lại đại thần ngồi. Không ai dám nghĩ là em lại quên mất việc chúng mình đã từng là vua và nữ hoàng và đã ngồi ở những cái đài cao như thế này trong chính điện của chúng ta.

- Trong lâu đài của chúng ta ở Cair Paravel, - Susan nói tiếp giọng mơ màng, nghe ngân nga như tiếng hát, - ở cửa một con sông lớn ở Narnia. Sao em có thể quên được?

- Và bây giờ, thời xa xưa ấy đã quay trở lại. – Lucy nói. – Chúng ta có thể giiả vờ là mình đang ở Cair Paravel. Cái sảnh này rất giống đại sảnh mà chúng ta từng ngồi ăn tiệc.

- Chỉ đáng buồn là hiện chẳng có tiệc tùng gì cả. – Edmund nói. – Mọi người thấy không, trời sắp tối rồi đó. Nhìn những cái bóng trải dài kia kìa. Có ai nhận thấy là trời không còn nóng như lúc nãy không?

- Chúng ta cần đốt lên một đống lửa, nếu muốn nghỉ đêm ở đây. – Peter nói. – Anh có diêm đấy. Bây giờ hãy đi ra ngoài xem có thể lượm được một ít cành khô hay không.

Tất cả đều thấy đề nghị này rất hợp lý và trong vòng nửa giờ sau chúng rất bận rộn. Vườn cây mà chúng đi qua để đến tòa lâu đài đổ nát hóa ra không phải là một nơi có nhiều củi đốt. Chúng thử khám phá toàn bộ lâu đài bằng cách đi qua đại sảnh, qua một cái cửa nhỏ đi vào một mê cung những gò đất đá mấp mô và những lô đất, chắc trước đây từng là hành lang và những căn phòng nhỏ còn bây giờ mọc đầy cây tầm ma và hồng dại. Vượt ra ngoài, chúng tìm thấy một hố lớn lọt trong mấy bức tường đá và sau khi lội qua cái hố đó chúng đi vào một rừng cây tối hơn với những thân cây đồ sộ hơn, nơi đó chúng tìm thấy nhiều cành cây khô, rễ cây thối, que củi, lá cây khô và rất nhiều lá cây thông.

Mấy đứa trẻ đi lại nhiều lần mang về những ôm củi cho đến lúc chúng gom được một đống củi lớn để trên bục đất cao. Đến lần đi kiếm củi thứ 5 chúng tìm thấy một cái giếng nằm ở ngay bên ngoài sảnh, giấu mình trong những bụi cỏ mọc um tùm. Phần còn lại của con đường lát đá chạy được một nửa vòng quanh giếng. Sau đó hai cô bé đi ra ngoài trẩy thêm một ít táo trong lúc bọn con trai nhóm lửa trên nền đất cao ở một góc giữa hai bức tường, là chỗ mà chúng nghĩ là kín gió và ấm cúng nhất. Hai đứa gặp nhiều khó khăn trong việc nhóm lửa và tốn khá nhiều diêm nhưng cuối cùng thì chúng đã nhóm lên được một đống lửa.

Sau cùng cả bốn đứa ngồi xuống, lưng tựa vào tường, quay mặt về phía đống lửa. Chúng thử xiên táo vào mấy cái que để nướng. Nhưng món táo nướng chả có gì ngon nếu không có đường mà lại nóng giãy trên bàn tay cho đến khi táo đủ nguội để ăn. Thế là bọn trẻ phải tự lấy làm hài lòng với những trái táo mới hái trên cành xuống, sự thật này làm cho cả bọn nhận ra bữa tối ở trường cũng không đến nỗi quá tệ.

- Em sẽ không lấy làm phiền lòng nếu có một lát bánh mì dày với một lát bơ mỏng phết lên trên vào lúc nào. – Edmund nói.

Dù vậy, niềm phấn khích của một cuộc phiêu lưu tràn ngập trong tâm hồn mỗi đứa và không có ai thực sự muốn quay lại trường học chỉ vì bữa ăn. Sau khi những trái táo cuối cùng được thanh toán hết, Susan đi ra giếng uống nước. Lúc trở lại nó cầm trong tay một vật.

- Coi đây! – Nó nói với giọng như có gì nghèn nghẹn trong cổ. – Em tìm thấy vật này ở ngòai giếng. – Nó đưa vật đó cho Peter rồi ngồi xuống. Những đứa còn lại nghĩ nó có giọng nói và vẻ mặt như sắp khóc đến nơi rồi. Edmund và Lucy háo hức cúi người về phía trước nhìn vào cái vật nằm trên tay Peter – một vật nhỏ sáng lấp lánh trong ánh lửa.

- Chà mình thật là… khỉ quá! – Peter nói, cả giọng nó cũng nghe là lạ. Đọan nó đưa vật đó cho đứa kia.

Bây giờ thì tất cả đều nhìn rõ đó là vật gì – một quân mã trên bàn cờ và vật này có kích thước bình thường bởi vì nó được đúc bằng vàng ròng, đôi mắt trên đầu con ngựa là hai viên hồng ngọc nhỏ xíu – hoặc chính xác là một con mắt bởi vì con mắt kia đã bong đi đâu mất.

- Trời ơi! – Lucy kêu lên. – Nó giống y quân cờ vàng mà chúng ta vẫn chơi khi còn là vua và nữ hòang ở Cair Paravel.

- Vui lên đi, Su. – Peter quay sang an ủi cô em lớn.

- Em không thể! – Susan nghẹn ngào. – Nó đưa em trở lại quãng đời tuyệt đẹp ấy. Em nhớ lại những lúc chơi cờ với các thần rừng hoặc những người khổng lồ tốt bụng, nhớ những người cá hay trồi lên mặt biển ca hát, đến con tuấn mã của em… và… và…

- Bây giờ, - Peter nói bằng một giọng khác, - đã đến lúc chúng ta bắt đầu khởi động bằng óc.

- Để làm gì? – Edmund hỏi.

- Có ai đoán ra chúng ta đang ở đâu không? – Peter hỏi.

- Tiếp đi, tiếp đi! – Lucy nói. – Suốt từ đầu đến giờ em cứ có cảm giác là một bí ẩn tuyệt vời nào đó đang quanh quất đâu đây.

- Tiếp tục đi anh Peter! – Edmund giục. – Chúng mình đang nghe đây.

- Chúng ta đứng ở đống đổ nát của lâu đài Cair Paravel. – Peter thông báo.

- Nhưng, - Edmund nói, - Em muốn nói, sao anh đoán được? Chỗ này đã bỏ hoang hàng thế kỷ rồi còn gì. Nhìn những cây đại cổ thụ mọc ngay ngoài cổng kia kia. Nhìn những bức tường đá kia nữa. Ai cũng có thể thấy là không có ai từng sống ở đây có đến mấy trăm năm rồi.

- Anh biết. Đó là một điểm làm anh bí nhất. Nhưng bây giờ hãy gác chuyện đó lại. Anh muốn nêu ra mấy điểm sau. Thứ nhất, đại sảnh này giống như đúc với đại sảnh ở Cair Paravel cả về kiến trúc lẫn kích thước. Hãy hình dung ra một cái mái bên trên, một cái sàn lát đá hoa nhiều màu sắc thay cho cỏ dại… những tấm thảm treo trên tường, các em sẽ có đại sảnh trong lâu đài của chúng ta.

Không ai nói gì.

- Điểm thứ hai, - Peter nói tiếp, - cái giếng ở tòa lâu đài này nằm ở đúng vị trí cái giếng nước của chúng ta, hơi chếch một chút về hướng nam so với đại sảnh; mà nó cũng có kích thước và hình dáng như thế.

Một lần nữa, không có ai mở miệng.

- Điểm thứ ba, Susan vừa tìm thấy một trong những quân cờ cũ của chúng ta – hoặc một cái gì giống với nó như hai hạt đậu.

Vẫn không ai lên tiếng.

- Điểm thứ tư, các em không nhớ sao – đó là một ngày trước khi sứ giả của vua Calormen đến – các em không nhớ đó là ngày chúng ta trồng một vườn cây ở phía ngoài cổng bắc của lâu đài Cair Paravel sao? Người rừng to lớn nhất – chính là Pomona đã tới đây đặt những là bùa tốt lành. Rồi những người bạn chuột chũi bé nhỏ, tốt bụng đã đào những cái hố trồng cây. Chẳng lẽ cái em lại quên bác chuột chũi già vui tính tên là Lilygloves, bậc trưởng lão của loài chuột vừa tựa người vào cái xẻng vừa nói: Tin tôi đi thưa bệ hạ, một ngày nào đó bện hạ sẽ được thưởng lãm những trái cây ngọt lành! – Và lạy Chúa, ông ta đã nói đúng.

- Em nhớ! Em nhớ! – Lucy nói, vỗ hai tay vào nhau.

- Nhưng coi đây anh Peter. – Edmund nói. – Tất cả những thứ này đã đổ nát. Với lại, lúc bắt đầu, chúng ta không trồng một vườn cây ngay sát tường. Chúng ta đâu có ngu như vậy?

- Không, tất nhiên. – Peter đáp. – Nhưng thời gian qua nó đã mọc lan vào trong.

- Còn một điểm nữa, Cair Paravel không ở trên một hòn đảo. – Edmund nói.

- Anh cũng đã nghĩ về chuyện này. Nhưng nó từng là một cái mà em gọi là bán – đảo. Khá giống với một hòn đảo. Nó không thể biến thành một hòn đảo kể từ khi chúng ta ra đi sao? Có một ai đó đã đào một con kênh chảy qua.

- Nhưng hượm đã, - Edmund lại nói. – Anh cứ luôn miệng nói kể từ thời chúng ta. Nhưng chúng ta mới đi khỏi Narnia được một năm. Và anh… anh tưởng tượng là trong vòng một năm qua lâu đài vững như bàn thạch đã biến thành một nơi tan hoang với những hố sâu và rừng rậm, những cây con con mà chúng ta tự tay trồng đã biến thành những cây đại thụ rêu phong và chỉ có Chúa biến được còn những chuyện gì nữa. Tất cả những điều này không thể xảy ra.

- Có một điều, - Lucy nói, - nếu đây đúng là Cair Paravel thì ở đây phải có một cái cửa… để em coi nào. Sự thật thì chúng ta đang ngồi tựa lưng vào nó. Các anh chị cũng biết – cái cửa này dẫn đến kho châu báu.

- Anh cho rằng không có cái cửa đó. – Peter nói rồi đứng lên.

Bức từng sau lưng chúng phủ đầy dây thường xuân.

- Chúng ta có thể phát hiện ra điều ấy ngay bây giờ. – Edmund nói, nhặt lên một cái que dùng để cời lửa. Nó bắt đầu dùng cái que gõ gõ lên bức tường và rồi chợt vang lên tiếng bồm bộp, một âm thanh khác hẳn với tiếng đập vào tường đá. Chính là tiếng gõ vào một cái gì bằng gỗ.

- Lạy Chúa tôi! – Edmund kêu lên, giọng kích động.

- Chúng ta phải bứt hết chỗ dây thường xuân này đi. – Peter nói.

- Ồ, cứ để nó đấy. – Susan nói. – Chúng ta sẽ tìm hiểu về nó vào sáng ngày mai. Nếu chúng ta phải trải qua một đêm ở đây tôi không muốn mở cánh cửa sau lưng để làm lộ ra một khoảng trống đen ngòm, sâu hút mà bất cứ cái gì cũng có thể xông ra cùng với những đống rác thải và mục nát. Trời sắp tối đến nơi rồi.

- Susan! Sao chị lại thế? – Lucy kêu lên với cái nhìn trách móc. Nhưng hai đứa con trai quá kích động để chú ý đến lời khuyên của Susan. Chúng say sưa chặt đứt những sợi dây thường xuân dai và chắc bằng con dao bỏ túi của Peter cho đến lúc con dao gãy đôi. Chẳng bao lâu chỗ chúng ngồi chất đầy dây thường xuân và cuối cũng cái cửa hiện ra.

- Cửa khóa, tất nhiên rồi. – Peter nói.

- Nhưng gỗ đã mục hết rồi còn gì. – Edmund nói. – Chúng ta sẽ không mất nhiều thời gian phá cửa đâu, hơn nữa chúng ta lại có thêm củi đốt. Nào bắt đầu đi.

Nhưng chúng lại mất nhiều thời gian hơn dự tính và trước khi chúng làm xong, từ trên trời đã đổ xuống làn ánh sáng màu tro, một hoặc hai vì sao đã le lói trên đầu. Susan không phải là người duy nhất cảm thấy gai ốc một lên khắp người khi bọn con trai đứng trước đống gỗ mục, xoa tay vào nhau phủi bụi, nhìn chằm chằm vào cái khoảng tối đen và lạnh lẽo mới mở ra.

- Bây giờ cần một ngọn đuốc. – Peter đề xướng.

- Ôi, chuyện này thì có gì tốt? – Susan hỏi. – Và như Edmund nói…

- Bây giờ em không nói như thế nữa. – Edmund cắt ngang. – Em vẫn chưa hiểu rõ, nhưng chúng ta sẽ giải quyết những gút mắc này sau. Giả sử anh đi xuống, Peter?

- Chúng ta cần làm việc này. – Peter nói. – Vui lên đi Susan. Không có lý nào lại cư xử như con nít một khi chúng ta đã quay lại Narnia. Ở đây em là một nữ hoàng cơ mà. Với lại làm gì có ai lại nhắm mắt ngủ được khi có một bí ẩn như thế này trong đầu?

Chúng cố dùng những cành cây dài làm đuốc nhưng không thành công. Nếu bạn giơ cao lên lửa sẽ tắt, còn nếu bạn cầm bằng cách khác lửa sẽ tạt vào tay và khói xông vào mắt. Cuối cùng chúng phải dùng đến ngọn đuốc điện của Edmund, may thay nó là món quà sinh nhật chưa được đầy một tuần và pin hầu như vẫn còn nguyên. Edmund đi đầu, tay cầm đuốc rồi đến Lucy, Susan và cuối cùng là Peter.

- Em đã lên đến bậc thang trên cùng. – Edmund thông báo.

- Đếm đi!

- Một, hai, ba… - Edmund nói khi nó thận trọng đi xuống và đi lên, đếm được tất cả 16 bậc.

- Xuống dưới đáy rồi! – Nó hét lên.

- Vậy thì đây đúng là Cair Paravel rồi? – Lucy reo lên. – Có tất cả 16 bậc

Không ai nói thêm điều gì cho đến lúc tất cả đứng tụm lại dưới chân cầu thang. Sau đó Edmund chầm chậm khoát ngọn đuốc của nó một vòng.

- Ối…ối trời ơi! – Tất cả đồng thanh kêu lên. Bởi vì vào lúc này tất cả đã rõ ràng chúng đang ở trong căn phòng chứa châu báu cổ của Cair Paravel, nơi chúng đã từng trị vì ở đây với tư cách là các ông vua và các nữ hoàng. Có một cái gì như một lối đi giữa phòng (giống như trong một ngôi nhà kính), ở ngay ngoài cùng, trấn giữ ở hai bên, là hai bộ áo giáp như những hiệp sĩ canh giữ

 cái kho báu. Ở giữa các bộ áo giáp và trên mỗi lối đi là những cái kệ trưng bày đầy những đồ vật quý giá – vòng đeo cổ, lắc đeo tay, nhẫn, bát to, vương miện và dây chuyền vàng; có cả một đống đá quý chưa mài giũa đổ dưới đất như thể đó chỉ là những viên đá hoa cương hoặc những củ khoai tây – kim cương, ruby, đá thạch lựu đỏ, ngọc lục bảo, đá tôpa, và đá thạch tím v.v… Bên dưới những cái kệ là những cái rương bằng gỗ sồi, bốn chung quanh có nẹp những thanh sắt cho vững chắc và những chiếc khóa móc nặng nề. Không khí lạnh buốt như kim châm và lặng như tờ nên bọn trẻ có thể nghe thấy rõ tiếng thở của nhau.

Tất cả những món đồ quý giá này đều phủ đầy bụi bặm, nếu bọn trẻ không nhận ra nơi để từng món và nhớ ra hầu hết các món đồ, bọn chúng khó có thể nghĩ đây là một kho báu. Có một cái gì tang thương và rờn rợn ở nơi này, bởi vì tất cả đã bị bỏ quên lâu rồi. Đó là lý do tại sao không đứa nào nói gì trong khoảng thời gian ít nhất là một phút.

Rồi sau đó, tất nhiên, bọn trẻ bắt đầu đi lại trong phòng, nhặt món này món kia lên ngắm nghía. Nếu bạn ở đây, bạn sẽ nghe được những câu như thế này:

- Ồ coi này! Đây là những chiếc nhẫn đăng quang của chúng ta – có còn nhớ lần đầu tiên đeo những chiếc nhẫn này vào tay không?

- Đây là cái trâm mà tất cả chúng ta nghĩ là đã bị mất; còn đây không phải là cái áo giáp anh đã mặc trong cuộc đấu thương lớn ở quần đảo Đơn Côi hay sao?

- Chị có nhớ chú lùn đã làm cái này cho em không?

- Em còn nhớ đã uống rượu trong chính cái rừng này không?

- Em có nhớ? Anh còn nhớ…?

Nhưng chợt Edmund lên tiếng:

- Coi nè! Chúng ta không nên lãng phí pin: có Chúa mới biết chúng ta còn thường xuyên cần đến nó như thế nào. Chúng ta có nên mang ra ngoài những thứ mà chúng ta cần không?

- Chúng ta chỉ nên lấy những món quà. – Peter nói. Bởi vì đã lâu lắm rồi, vào một dịp Giáng sinh ở Narnia, nó và hai em gái đã nhận được những món quà còn giá trị hơn toàn bộ vương quốc. Edmund không có quà bởi vì nó không có mặt với anh em nó vào lúc đó. (Đây là lỗi của nó, các bạn có thể biết về điều này trong một cuốn sách khác).

Tất cả đều đồng ý với Peter và cùng bước vào lối đi dẫn đến bức tường cuối gian phòng và kia như chúng tính toán, những món quà vẫn treo ở chỗ cũ. Món quà của Lucy nhỏ nhất bởi vì nó là một cái lọ nhỏ. Nhưng đây là một cái lọ làm bằng kim cương thay vì làm bằng thủy tinh và trong lọ vẫn còn già nửa cái hợp chất có thể chữa lành hầu hết các vết thương và các căn bệnh. Lucy không nói gì, khuôn mặt lộ vẻ nghiêm trang khi nó lấy món quà của mình ra khỏi chỗ kệ và tròng sợi dây buộc cổ lọ qua vai, một lần nữa nó lại có cảm giác cái lọ ở vị trí cũ của nó như ngày nào. Quà của Susan là cây cung, một bó tên và chiếc tù và. Chiếc cung vẫn còn đó, bao đựng tên bằng ngà vẫn đầy những mũi tên có cắm lông chim.

- Nhưng… chị Susan, - Lucy kêu lên, - chiêc tù và đâu rồi?

- Chán quá, chán quá! – Susan nói sau một hồi nhíu mày suy nghĩ. – Bây giờ chị nhớ ra rồi. Chị mang nó theo người vào ngày cuối cùng, cái ngày chúng ta đuổi theo một con hươu trắng. Chắc là nó đã rơi mất khi chúng ta len lỏi quay lại nơi kia – quay về nước Anh.

Edmund huýt sáo. Đấy đúng là một mất mát rất đáng tiếc bởi vì đó là một chiếc tù và thần kỳ, khi bạn thổi tù và một sự giúp đỡ sẽ đến với bạn, bất kể là bạn đang ở đâu.

- Đó là việc có thể xảy ra, ở một nơi như thế này. – Edmund nói.

- Không sao, - Susan nói, - chị vẫn còn cây cung. – Và nó cầm cây cung lên.

- Dây cung không sao chứ, Su? – Peter hỏi em gái. Nhưng cho dù có không khí huyền bí trong kho châu báu hay không thì cây cung vẫn tuân thủ thứ tự làm việc. Bắn cung và bơi lội là những món mà Susan rất giỏi. Susan cúi xuống bên cây cung, gảy nhẹ lên dây làm bật lên một tiếng tưng tưng và cái âm thanh ấy làm cả gian phòng như rung lên. Chính cái âm thanh ấy hơn bất cứ những gì đã xảy ra từ nãy đến giờ đã đưa bọn trẻ trở về những năm tháng đã qua. Tất cả những trận chiến, những cuộc đi săn và những bữa tiệc cùng ùa về trong ký ức của cả bọn.

Sau đó Susan tháo dây cung ra đeo bao cung tên lên vai.

Đến lượt Peter lấy món quà của nó xuống – cái khiên khắc hình một con sư tử đỏ uy nghiêm, oai vệ và một thanh gươm dành cho các bậc vua chúa. Peter thổi phù phù, đập những món đồ đó xuống sàn để giũ bụi. Cái khiên cầm trên tay còn thanh gươm giắt một bên người. Đầu tiên nó đã lo là thanh gươm bị rỉ sét. Nhưng không có chuyện như thế. Với một động tác nhanh như cắt, nó rút gươm ra, giơ thẳng lên, lưỡi gươm sáng loáng dưới ánh đuốc.

- Đây là thanh gươm Rhindon của anh, - nó nói, - với thanh gươm này anh đã giết chết chó sói!

Có một âm hưởng mới trong giọng nói của Peter và bây giờ trước mặt ba đứa em, nó đúng là một Peter Đại đế chân chính. Rồi sau đó một chút im lặng, bọn chúng hiểu là cần phải tiết kiệm pin.

Cả bọn trèo lên bậc thang, nhóm lại cho lửa cháy thật đượm rồi nằm sát bên nhau cho ấm. Mặt đất cứng và lổn nhổn sỏi đá nhưng cuối cùng cả lũ cũng ngủ say.

CHƯƠNG 3

 Người tử tội

Điểm bất lợi nhất của việc ngủ ngoài trời là bạn thức giấc rất sớm. Một khi đã thức giấc thì bạn lại không muốn nằm tiếp nữa vì mặt đất cứng và lạnh làm cho bạn khó chịu. Mọi việc lại còn tồi tệ nếu tối hôm trước trong bụng bạn chỉ có táo và nước lã để giờ bụng đói cồn cào mà bạn cũng chẳng có gì ngoài nước lã và táo để lót dạ. Khi Lucy nói - cũng đủ độ chính xác - rằng đó là một buổi sáng huy hoàng thì đó không có vẻ là một điều nên nói. Edmund nói ra cái điều mà ai cũng nghĩ:

- Đơn giản là chúng ta nên biến khỏi hòn đảo này!

Sau khi đã uống nước giếng trừ cơm và khoát nước rửa mặt, tất cả lại men theo bờ suối ra ngoài bãi biển, nhìn dòng nước chia cách chúng với đất liền.

- Chúng ta phải bơi qua thôi. – Edmund gợi ý.

- Điều ấy sẽ ổn với Su. – Peter nói (Susan đã giật được giải bơi lội trong trường). – Nhưng anh không biết với những người còn lại chúng ta thì sao nữa.

Với cụm từ “những người còn lại chúng ta”, nó ngụ ý đến Edmund còn chưa bơi qua được hai vòng chiều dài bể bơi ở trường và Lucy chẳng hề biết bơi.

- Dù sao thì, - Susan nói, - có thể có dòng nước xoáy. Ba nói chẳng khôn ngoan chút nào khi bơi ở một nơi mà mình còn chưa biết.

- Nhưng anh Peter, anh coi nè, - Lucy nói, - em biết là em bơi không quá một sải tay ở nhà, - ở Anh, ý em muốn nói thế. Nhưng chẳng phải là chúng ta đã cùng bơi với nhau lâu rồi – nếu đó thật sự là một khoảng thời gian dài – khi chúng ta cùng làm vua ở Narnia sao? Chúng ta cũng cùng cưỡi ngựa nữa, cùng làm tất cả những việc như vậy. Anh không nghĩ…

- Nhưng khi ấy chúng ta đã là những người lớn hẳn hoi. – Peter nói. – Chúng ta đã trị vì ở đây một thời gian dài và học được rất nhiều thứ. Chẳng lẽ bây giờ chúng ta không trở về với cái tuổi thích hợp của chúng ta được hay sao?

- Ôi! – Edmund nói bằng một cái giọng làm cho tất cả những đứa khác phải thôi nói chuyện mà đưa mắt nhìn nó và lắng nghe.

- Em hiểu mọi chuyện rồi. – Nó nói.

- Hiểu cái gì? – Peter hỏi.

- Toàn bộ những chuyện này. – Edmund tiếp tục. – Anh cũng biết là đêm hôm qua chúng ta còn chưa giải quyết được khúc mắc. Chúng ta mới chỉ rời Narnia có một năm thôi mà tất cả đã thay đổi rất nhiều, đúng là vật đổi sao dời. Dường như không có ai ở nơi này đến hàng mấy trăm năm rồi. Thế mọi người không nhận thấy điểm này sao? Ai cũng biết là mặc dầu chúng ta sống ở Narnia thật lâu nhưng khi đi qua cái tủ áo về nhà thì dường như thời gian không nhích đi một phút nào, đúng không?

- Tiếp tục đi. Chị nghĩ là chị bắt đầu hiểu ra rồi đó. – Susan nói vẻ nghĩ ngợi.

- Điều đó có nghĩa là, - Edmund tiếp tục, - một khi một người đã rời khỏi Narnia, người ấy sẽ không có ý niệm về cách thời gian vận hành ở Narnia nữa. Chẳng phải là mấy trăm năm ở Narnia cũng chỉ tương đương với thời gian một năm ở Anh sao?

- Lạy chúa, Ed. – Peter bắt đầu. – Anh tin là anh ấy cũng đã hiểu ra rồi. Theo cái nghĩa ấy, khoảng mấy trăm năm trước chúng ta đã sống ở Cair Paravel. Và giờ đây quay lại chốn này chúng ta cũng như người Thập Tự Chinh hoặc người Anglo-Saxons hoặc người Briton cổ quay lại nước Anh hiện đại.

- Họ sẽ kích động như thế nào khi thấy chúng ta? – Lucy bắt đầu, nhưng cùng lúc đó những đứa khác “suỵt” hoặc “coi kìa” với nó. Bởi vì có một chuyện đã xảy ra.

Thẳng ngay trước mặt chúng là một mũi đất nhô ra biển, cây cối mọc um tùm. Bọn trẻ nghĩ phía sau mũi đất ấy chắc là nơi cửa sông. Và bây giờ đang vượt qua mũi đất là một con thuyền. Khi con thuyền đã hiện ra rõ hơn nó quay mũi lại bơi dọc theo con kênh về phía bọn trẻ. Có hai người ngồi trên thuyền, một người cầm chèo, người còn lại ngồi phía đuôi thuyền giữ một bọc gì đó đang vặn vẹo và chuyển động tựa hồ đó là một vật sống. Cả hai người đều có vẻ là quân nhân, đầu đội mũ sắt, mình mặc áo giáp loại nhẹ. Khuôn mặt họ cạo nhẵn nhụi và có vẻ khắc nghiệt. Bọn trẻ rút lui vào trong một lùm cây quan sát mà không nhúc nhích một ngón tay.

- Đây, làm đi! – Người lính ngồi ở đuôi thuyền nói khi con thuyền bơi đến vị trí đối diện với chỗ bọn trẻ nấp.

- Thưa hạ sĩ, buộc đá vào chân nó được không ạ? – Người kia nói, thôi không chèo thuyền nữa.

- Hừm! – Viên hạ sĩ gầm gừ. – Không cần phải làm thế, mà chúng ta cũng không mang đồ theo. Nó sẽ chìm xuống mà không cần buộc đá chừng nào chúng ta siết dây thừng thật chặt.

Nói xong hắn nhấc cái bọc lên. Bây giờ thì Peter có thể thấy vật trong bao còn sống và trên thực tế là một chú lùn bị trói cả chân lẫn tay nhưng vẫn giãy giụa điên cuồng. Ngay sau đó nó nghe roạt một cái ngay sát mang tai và trong chớp mắt người lính bỏ hai tay xuống, ném chú lùn xuống lòng thuyền, rồi nhảy vội xuống nước. Hắn loạng choạng chạy lên bờ bên kia và Peter biết rằng mũi tên của Susan đã bắn trúng mũ hắn. Peter quay lại nhìn thấy mặt em gái tái đi, nhưng nó đã lắp mũi tên thứ hai vào cây cung. Mũi tên này không cần phải dùng đến. Ngay khi thấy đồng đội của mình đã bị ngã, tên lính còn lại kêu lên một tiếng thất thanh rồi cũng nhảy ra khỏi thuyền lóp ngóp bơi vào bờ (nước rõ ràng cũng chỉ sâu cỡ hai mét) và biến mất trong rừng cây trên đất liền.

- Nhanh lên! Trước khi nó trôi đi! – Peter hét lên. Nó và Susan vẫn để nguyên quần áo, lao xuống nước; trước khi nước dâng đến vai, tay hai đứa đã với lên bên mạn thuyền. Trong vòng vài giây, chúng đẩy con thuyền vào bờ, kéo chú lùn ra ngoài và Edmund bận rộn cắt dây trói bằng con dao bỏ túi. (Thanh gươm của Peter sắc hơn nhưng gươm không phải loại dụng cụ thuận tiện dùng cho loại công việc này bởi vì bạn không thể nắm vào chỗ nào thấp hơn chuôi gươm). Cuối cùng khi chú lùn đã được cởi trói, chú ngồi dậy xoa chân xoa tay rồi kêu lên:

- Mặc cho ai nói gì thì nói, các người không phải là ma!

Giống như hầu hết những người lùn, chú lùn này có dáng người chắc nịch, bộ ngực vạm vỡ. 

Chắc chú chỉ cao khoảng 90 phân là cùng. Bộ râu vĩ đại cùng với hàng ria mép đỏ quạch, thô cứng che gần hết khuôn mặt và người ta chỉ nhìn thấy cái mũi diều hâu nhọn hoắt và đôi mắt đen sáng lóng lánh như hạt cườm.

- Dù sao đi nữa, - chú tiếp tục, - dù là người hay ma thì các người cũng đã cứu sống tôi và tôi hết sức biết ơn.

- Nhưng vì cớ gì mà chúng tôi lại là ma? – Lucy hỏi.

- Suốt đời mình, tôi đã nghe nói rằng những cánh rừng dọc bãi biển có bao nhiêu cây cối thì có bấy nhiêu con ma. Ấy là những câu chuyện kể thế. Đó là lý do tại sao khi muốn hóa kiếp cho một ai đó người ta thường mang người đó đến dìm chết ở đây (như cái việc bọn chúng định làm với tôi). Nhưng tôi bao giờ cũng tự hỏi không biết người ta có thực sự dìm chết người hay cắt cổ họ không, tôi chưa bao giờ tin hẳn là có ma. Nhưng hai cái tên hèn nhát mà cô bé kia vừa bắn thì tin đấy. Chúng còn sợ cái việc phải giết tôi hơn là bản thân tôi nữa.

- Ồ, - Susan tư lự, - đó là lý do tại sao cả hai đều bỏ chạy bán sống bán chết như vậy.

- Cô nói chuyện gì vậy? – Chú lùn hỏi.

- Họ đã bỏ chạy, - Edmund nói, - vào đất liền.

- Tôi không định bắn chết, ông cũng biết đấy. – Susan nói.

Nó không thích bất cứ ai nghĩ là nó bắn trượt ở một khoảng cách ngắn như vậy.

- Hừm! – Chú lùn ậm ừ. Như thế chưa hẳn đã tốt, có thể điều đó sẽ chỉ mang đến những rắc rối. Trừ khi bọn chúng biết giữ mồm giữ miệng vì cái mạng của mình.

- Tại sao họ lại muốn dìm chết ông? - Peter hỏi.

- Ồ, tôi là một tên tội phạm nguy hiểm, chính thế đấy. – Chú lùn nói, giọng vui như không. – Nhưng đó là cả một câu chuyện dài. Còn bây giờ thì tôi tự hỏi không biết quý vị có đãi tôi một bữa ăn sáng không. Các vị không biết điều đó có ý nghĩa như thế nào đối với một kẻ suýt bị tử hình đâu.

- Chỉ có táo thôi ạ. – Lucy nói, giọng ỉu xìu.

- Thế cũng còn hơn là không có gì, nhưng không tốt bằng cá tươi. – Chú lùn nói. – Xem ra có vẻ tôi mới là người mời quý vị ăn sáng. Tôi thấy có dụng cụ bắt cá trong con thuyền kia. Dù sao thì chúng ta cũng phải đưa nó sang phía bên kia đảo. Không nên để cho bất cứ ai trên đất liền đi xuống nhìn thấy nó.

- Lẽ ra tôi phải nghĩ ra điều đó. – Peter nói.

Bốn đứa trẻ cùng chú lùn đi xuống chỗ buộc thuyền, đẩy thuyền ra xa với chút ít khó khăn, rồi trèo lên thuyền. Chú lùn lập tức cầm lấy mái chèo, nhưng tất nhiên nó quá to đối với chú, thế là Peter cầm lái, chú lùn hướng dẫn, đưa con thuyền xuôi theo con kênh rồi rẽ về hướng đông quanh hòn đảo. Từ đây bọn trẻ có thể nhìn bao quát con sông, tất cả các vịnh biển, mũi đất dọc theo bờ biển xa xa. Chúng nghĩ mình cũng có thể nhận ra dáng dấp của những gì đã qua, dù rừng cây mọc lên sau khi chúng ra đi đã làm cho chúng khó có một mối liên tưởng.

Khi họ chèo thuyền về phía bên kia hòn đảo, chú lùn lấy bộ đồ câu cá ra. Nhiều con cá pavender nhảy lộp độp trong sàn thuyền. Đó là một loại cá có tất cả những sắc màu của cầu vồng mà bọn trẻ nhớ là đã từng được ăn ở Cair Paravel cái ngày xa xưa ấy. Khi đã bắt đủ cá, họ lái con thuyền vào một cái lạch nước nhỏ, neo thuyền vào một gốc cây. Chú lùn là người giỏi giang nhất (trong thực tế có thể người ta gặp những chú lùn xấu xa, nhưng tôi chưa nghe ai nói có chú lùn ngu ngốc bao giờ), chú mổ cá, làm sạch và bảo:

- Bây giờ cái chúng ta cần là một ít củi.

- Chúng tôi có lượm được một ít ở trong lâu đài. – Edmund nói.

Chú lùn huýt sáo nho nhỏ:

- Rêu và khung giường. Thế ra có cả tòa lâu đài cơ à?

- Nó chỉ là một đống tàn tích thôi ạ. Lucy nói.

Chú lùn nhìn cả bốn đứa một lượt với một vẻ mặt lạ lùng.

- Vậy, quý vị là… - Ông ta bắt đầu nhưng lại bỏ dở giữa chừng và tặc lưỡi, - không có vấn đề gì. Ăn sáng cái đã. Nhưng còn một chuyện trước khi chúng ta tiếp tục đi: quý vị có thể đặt tay lên tim mình mà khẳng định rằng tôi vẫn còn sống không? Các vị có chắc là tôi chưa chết đuối và tất cả chúng ta không phải là ma không?

Khi tất cả sốt sắng khẳng định và trấn an chú lùn thì lại nảy ra một vấn đề khác: làm thế nào để mang cá về nhà? Họ không có dây để xâu cá lại với nhau mà cũng chẳng có sọt. Cuối cùng phải dùng đến mũ của Edmund để đựng bởi vì ngoài Edmund chẳng có ai có mũ cả. Nó sẽ làm nhặng xị lên vì vụ này nếu bản thân nó không đói cồn cào.

Đầu tiên chú lùn có vẻ không thoải mái trong lâu đài cổ. Ông cứ dáo dác nhìn quanh, hít hít ngửi ngửi và lẩm bẩm: “Hừm! Nơi này như thể có quỷ ám. Ngửi mùi như có ma ấy!”. Nhưng ông vui vẻ hơn khi ngọn lửa được đốt lên và đã biểu diễn cho bọn trẻ thấy tài nghệ nướng cá pavender tươi trên những cục than hồng. Ăn món cá nóng mà không có nĩa chỉ có một con dao xếp cho năm người là một việc khá mất công, có đến mấy ngón tay bị bỏng trước khi bữa ăn kết thúc nhưng bởi vì bọn trẻ thức dậy vào lúc 5 giờ sáng và lúc ấy đã là 9 giờ nên không ai bận lòng nhiều đến những vết bỏng ấy như bạn nghĩ. Ăn xong, mọi người tráng miệng bằng một ngụm nước giếng và một, hai quả táo. Chú lùn rút ra một cái tẩu dài bằng sải tay, nhồi thuốc vào và mồi lửa, rồi thổi ra một đám mây thơm thơm và nói:

- Bây giờ…

- Ông kể cho chúng tôi nghe chuyện của mình trước. – Peter cắt ngang. – Sau đó chúng tôi sẽ kể cho ông nghe chuyện của bốn anh em chúng tôi.

- Được, bởi vì quý vị đã cứu mạng tôi nên các vị có thể làm theo cách của mình. Nhưng quả là tôi khó mà biết được nên bắt đầu từ đâu. Trước tiên xin giới thiệu tôi là sứ giả của vua Caspian.

- Ông ấy là ai? – Cả bốn đứa đồng thanh hỏi.

- Caspian thứ mười – vua của Narnia và có thể ngài sẽ trị vì nơi này thật lâu! – Chú lùn trả lời. – Điều đó có nghĩa là ngài xứng đáng làm vua Narnia và chúng tôi hết lòng hi vọng vào điều đó. Hiện nay ngài chỉ là vua của chúng tôi, những cư dân Narnia cũ…

- Ông có ý gì khi nói đến những người Narnia cũ? – Lucy hỏi.

- Đó là chúng tôi. Chúng tôi là những kẻ phiến loạn, phải, tôi cho là thế.

- Tôi biết. – Peter nói. – Như vậy Caspian là thủ lĩnh của những người Narnia cũ.

- Phải, đó cũng là một cách nói. – Chú lùn nói, gãi gãi đầu. Nhưng vấn đề là ở chỗ ngài là một Narnia mới, một người Telmarine, nếu quý vị theo kịp điều tôi nói.

- Tôi chẳng hiểu gì hết. – Edmund nói.

- Điều này còn tệ hơn là Chiến tranh Hoa hồng nữa. – Lucy nhận xét.

- Xin các bạn tha lỗi, chú lùn nói, - tôi nói chẳng có đầu cua tai nheo gì cả. Coi này: tôi nghĩ chắc tôi phải quay lại từ đầu mà nói với các bạn là Caspian đã được nuôi dưỡng trong hoàng cung của ông chú như thế nào và ngài đã chuyển sang phe của chúng tôi ra sao. Nhưng đây là cả một câu chuyện dài.

- Tốt quá. – Lucy nói. – Chúng tôi thích nghe chuyện lắm.

Thế là chú lùn ngồi xuống và bắt đầu câu chuyện của mình. Tôi sẽ không kể lại bằng lời của ông ấy cùng tất cả những câu hỏi và sự cắt ngang của bọn trẻ bởi vì như thế quá dài mà lại còn dễ gây hiểu lầm, đó là chưa kể lúc ấy câu chuyện còn thiếu những dữ kiện mà mãi sau này bọn trẻ mới ráp nối vào nhau được. Tôi sẽ kể cho các bạn nghe cốt lõi một câu chuyện hoàn chỉnh như sau:

CHƯƠNG 4

 Câu chuyện về hoàng tử Caspian

Hoàng tử Caspian sống trong một cung điện nguy nga ở trung tâm Narnia với người chú tên là Miraz – vua xứ Narnia – và người thím có mái tóc đỏ rực được gọi là hoàng hậu Prunaprismia. Cha mẹ đẻ của hoàng tử đều đã băng hà và người mà hoàng tử yêu thương nhất là nhũ mẫu. Mặc dầu là một hoàng tử, có những đồ chơi tuyệt vời có thể làm được hầu hết mọi chuyện trừ việc biết nói, cậu lại thích nhất cái giờ cuối cùng trong ngày khi tất cả các đồ chơi được cất lại vào tủ và nhũ mẫu kể chuyện đời xưa cho cậu nghe.

Hoàng tử không yêu ông chú và bà thím vương giả của mình nhiều, nhưng một tuần hai lần, ông vua lại cho người mang cậu cháu đến chỗ mình, cả hai đi tới đi lui trên một khoảnh đất ở mặt phía nam tòa lâu đài trong vòng nửa tiếng đồng hồ.

Một hôm, trong khi đi lại như thế, nhà vua bảo hoàng tử.

- Này, cậu bé, chúng ta sẽ sớm dạy cháu cưỡi ngựa và kiếm thuật. Cháu cũng biết là vợ chồng chú không có con cho nên cháu sẽ thừa kế ngai vàng khi chú qua đời. Cháu có thích như thế không hả?

- Cháu không biết.

- Không biết? – Miraz hỏi. – Tại sao, chú muốn biết liệu còn có thứ gì khác để cho bất cứ ai ao ước hơn không?

- Có, cháu có những mơ ước.

- Vậy cháu mơ muốn, cháu ước điều gì? – Vua hỏi.

- Cháu muốn… cháu muốn… cháu có thể làm sống lại những ngày xưa cũ. – Caspian nói. (Lúc ấy hoàng tử mới chỉ là một chú bé con.)

Khi nói chuyện với cháu, vua Miraz luôn nói bằng một giọng tẻ nhạt, hờ hững mà một số người lớn thường hay có, điều đó cho thấy rõ rằng thực ra họ chẳng quan tâm gì đến điều bạn nói, nhưng vào lúc này ông nhìn hoàng tử bé với cái nhìn sắc như dao.

- Ê, cái gì đó? Cháu nói ngày xưa là nghĩa làm sao?

- Ồ, thế ra chú không biết ư? – Caspian hỏi. – Khi ấy mọi thứ đều khác. Khi ấy mọi thứ đều khác. Khi ấy tất cả các loài vật đều biết nói. Có những sinh vật tốt đẹp sống trong những dòng suối và trên các thân cây. Họ được gọi là thủy tinh và mộc tinh. Có các chú lùn. Cả những thần rừng nhỏ bé đáng yêu hiện diện trong các khu rừng. Chân họ như chân dê…

- Tất cả những chuyện đó đều là những chuyện bá láp dành cho trẻ con. – Nhà vua cắt ngang lạnh lùng. – Chỉ thích hợp cho bọn thò lò mũi, cháu hiểu chưa? Cháu đã quá lớn đối với những chuyện vớ vẩn ấy. Ở cái tuổi của cháu phải nghĩ đến chuyện đánh trận và những cuộc phiêu lưu chứ không phải chuyện ma quỷ quái dị.

- Nhưng cũng có những trận đánh và những cuộc phiêu lưu vào thời ấy đấy ạ. Những cuộc phiêu lưu kỳ thú. Ngày xưa có một người gọi là Bạch Phù Thủy, bà ta tự phong làm nữ vương của cả vương quốc này. Bà ta muốn đất nước này sống trong mùa đông băng giá kéo dài. Rồi có hai cậu bé và hai cô bé từ đâu không biết đã đến đây giết chết phù thủy, lên làm vua và nữ hoàng của Narnia. Tên họ là Peter, Susan, Edmund và Lucy. Sau đó họ cai trị ở đây rất lâu, dân chúng ai cũng được sống một cuộc đời hạnh phúc, tất cả bởi vì Aslan…

- Aslan là ai? – Miraz hỏi. Nếu Caspian lớn tuổi hơn một chút, giọng của ông chú hẳn chuyển sang giọng đe nẹt và bảo cháu khôn hồn thì cứ ngậm miệng lại. Nhưng ông ta khôn ngoan cứ để cho cậu cháu tiếp tục luyên thuyên.

- Thế chú không biết sao? Aslan là một ông sư tử lớn đến từ ngoài biển khơi.

- Ai kể cho cháu nghe tất cả những chuyện nhảm nhí này vậy? – Vua hét vang như sấm dậy. Caspian sợ quá nên im bặt.

- Hoàng tử Caspian, - vua Minaz nghiêm giọng, thả bàn tay bé nhỏ mà từ đầu đến giờ ông vẫn nắm ra, - chú buộc cháu phải trả lời. Hãy nhìn vào mắt chú đây. Ai nói với cháu những điều bịa đặt như vậy?

- Nhũ… nhũ mẫu ạ. – Caspian ấp úng, nước mắt bắt đầu trào ra, lăn dài trên má.

- Không được khóc. – Ông chú nói, nắm lấy vai cháu, lắc mạnh. – Nín ngay. Và đừng bao giờ để chú bắt gặp cháu nói những điều ngu xuẩn này nữa. Làm gì có những ông hoàng bà chúa ấy? Làm sao một nước lại có hai vua được? Không có một ai là Aslan cả. Mà cũng không có sư tử gì cả. Không có thời nào có những con thú biết nói. Cháu đã nghe rõ chưa?

- Vâng, thưa chú! – Caspian nghẹn ngào.

- Từ giờ trở đi không nói đến chuyện này nữa. – Nhà vua nói. Sau đó ông cho gọi một trong những viên quan hầu cận đang đứng lớ xớ ở cuối đường đi, ra lệnh với giọng lạnh lùng:

- Tháp tùng hoàng tử về cung và đưa nhũ mẫu của hoàng tử đến đây cho trẫm, ngay lập tức!

Ngày hôm sau Caspian mới thấy rõ tác hại khủng khiếp của việc mình làm bởi nhũ mẫu bị đưa đi ngay thậm chí không có thời gian từ biệt và cậu được thông báo là có một thầy giáo mới.

Caspian nhớ nhũ mẫu của mình nhiều lắm, cậu âm thầm đổ ra không biết bao nhiêu giọt nước mắt, và vì trong lòng đau khổ nên cậu nghĩ đến những câu chuyện ngày xưa của nhũ mẫu còn nhiều hơn cả trước kia. Cậu mơ về các chú lùn và các mộc tinh hằng đêm; cậu cố gắng một cách tuyệt vọng để lũ chó lũ mèo trong cung điện nói chuyện với cậu. Nhưng lũ chó chỉ biết vẫy đuôi và lũ mèo chỉ kêu rù rù.

Caspian có ác cảm với người thầy mới vì một tuần sau khi người thầy này đến, cậu thấy ông ta là người không sao để thương được. Một người lùn nhất nhưng đồng thời cũng mập nhất mà Caspian từng trông thấy. Ông có hàm râu nhọn hoắt, trắng như cước dài chấm rốn. Khuôn mặt ông màu đất, chi chít những nếp nhăn vừa ranh mãnh, vừa xấu xí lại vừa tử tế. Giọng ông nghiêm trang ủ dột, nhưng đôi mắt lại rất vui tươi, vì thế chỉ khi nào bạn biết rất rõ về ông ta, bằng không thật khó mà biết được là lúc nào thì ông đang đùa, lúc nào thì nghiêm túc. Ông là tiến sĩ Cornelius.

Trong tất cả các bài học với tiến sĩ Cornelius thì Caspian thích nhất là môn Lịch sử. Cho đến lúc ấy, ngoài những câu chuyện của nhũ mẫu, cậu không biết chút gì về lịch sử Narnia và nó rất đỗi ngạc nhiên khi biết gia tộc của nó là những người mới di cư đến đất nước này.

- Caspian thứ nhất là cụ tổ lâu đời nhất của hoàng tử, - tiến sĩ Cornelius nói, - người đầu tiên chinh phục Narnia và lên làm chúa tể, đó cũng là người mang thần dân của mình đến đất nước này. Như vậy hoàng tử không phải là dân bản địa. Dòng họ của hoàng tử là người Telmarine – đó bởi là vì tổ tiên của hoàng tử đến từ mảnh đất Telmar cách xa dải núi phía Tây. Đây cũng chính là lý do tại sao Caspian thứ nhất được gọi là Caspian – Người chinh phục.

- Thưa tiến sĩ, - một hôm Caspian hỏi, - vậy ai sống ở Narnia trước khi chúng con đến đây?

- Không có người, hoặc nếu có rất ít người sống ở Narnia trước khi người Telmarine đến đây, - Tiến sĩ Cornelius nói.

- Nếu vậy cụ tổ xa xưa của con đã chinh phục được ai?

- Ai cơ, không có ai, thưa hoàng tử. Có lẽ đã đến lúc chuyển sang học môn Ngữ pháp.

- Thưa thầy, làm ơn chờ thêm một chút nữa, con muốn hỏi là nếu ở đây không có chiến tranh thì tại sao cụ tổ lại được gọi là Caspian Người Chinh Phục? Nếu không có ai đánh nhau với cụ tổ thì cụ cần gì phải chinh phục cơ chứ?

- Thần nói là chỉ có rất ít người ở Narnia. – Tiến sĩ khẳng định, nhìn cậu bé bằng ánh mắt lạ lùng qua cặp kính dày cộm.

Caspian bối rối mất một lúc, đoạn tim cậu nảy lên một cái:

- Có phải thầy muốn nói, còn có một cái gì khác? Thầy muốn nói là nó như trong những câu chuyện? Có phải…

- Suỵt! – Tiến sĩ Cornelius nói, cúi lại gần Caspian. – Không nói một lời nào về câu chuyện này nữa. Hoàng tử có biết là nhũ mẫu đã bị đuổi đi vì đã nói với hoàng tử về Narnia cũ không? Đức vua không thích điều đó đâu. Nếu ngài biết thần nói cho hoàng tử những bí mật đó, hoàng tử sẽ bị đòn còn thần sẽ bị rơi đầu đấy.

- Nhưng tại sao? – Caspian hỏi.

- Đã đến lúc quay về với môn Ngữ pháp. – Tiến sĩ nói với giọng oang oang. – Hoàng tử vui lòng mở phần Pulverulentus Siccus ở trang bốn trong quyển Vườn Ngữ pháp được không ạ?

Sau đó là bài học về danh từ, động từ cho đến tận bữa trưa, nhưng tôi không nghĩ là Caspian học được điều gì nhiều. Cậu bé rất kích động, cậu cảm thấy tiến sĩ không muốn nói nhiều trừ khi ông có ngụ ý sẽ cho cậu biết mọi chuyện không chóng thì chầy.

Về điểm này cậu đã không phải thất vọng. Một vài ngày sau, sư phụ cậu nói:

- Tối nay thần sẽ dạy hoàng tủ một bài học về Thiên văn. Vào đúng đêm nay hai vì tinh tú Tarva và Alambil sẽ lướt qua nhau trong còng cự li 1 độ. Một sự liên kết như thế này sẽ không xảy ra trong vòng 200 năm nữa và hoàng tử sẽ không sống đủ lâu để chứng kiến việc này một lần nữa. Tốt nhất, hoàng tử hãy đi ngủ sớm hơn thường lệ một chút. Gần đến giờ ấy thần sẽ đánh thức hoàng tử.

Nghe như không có gì liên quan đến Narnia cũ là điều mà hoàng tử thật sự muốn nghe, nhưng dậy vào lúc nửa đêm bao giờ cũng là một việc hết sức thú vị và cậu bé rất hài lòng. Khi lên giường đi ngủ đêm ấy, cậu nghĩ sẽ khó lòng ngủ được nhưng chẳng bao lâu sau đã thiếp đi và dường như chỉ mấy phút sau đã có ai nhẹ nhàng lay cậu dậy.

Caspian ngồi phắt dậy, trăng ùa qua cửa sổ tràn ngập trong phòng. Tiến sĩ Cornelius, lòa xòa trong chiếc áo choàng có mũ chụp, cầm một cây đèn nhỏ trong tay đứng cạnh giường. Cậu bé lập tức nhớ lại những việc họ định làm và ngồi dậy mặc thêm quần áo vào. Mặc dầu đang là mùa hạ nhưng cậu cảm thấy trời lạnh và cậu rất mừng khi tiến sĩ khoát lên người cậu một chiếc áo khoát giống ông và đưa cho cậu một đôi giày da mềm mại ấm áp. Một lát sau cả hai đã che kín mình trong một mớ quần áo khiến họ khó bị phát hiện trong đêm tối khi đi qua những hành lang tối om. Với những bước chân không gây nên một tiếng động nào, thầy và trò rời khỏi phòng. Caspian theo tiến sĩ đi qua nhiều hành lang, bước lên mấy cầu thang và cuối cùng qua một cửa tháp nhỏ, họ bước ra mái nhà: một bên là những bức tường có lỗ châu mai, bên kia là một mái nhà dốc đứng, phía dưới họ - những cái bóng mờ lay động – là vườn ngự uyển, trên đầu họ là những vì sao và trăng tròn vành vạnh. Từ mái nhà họ dò dẫm đi đến một cái cửa khác dẫn đến tòa tháp trung tâm của cung điện. Tiến sĩ không mở cửa tòa tháp mà đi lên một cầu thang cuốn tối đen bên ngoài tòa tháp. Caspian hết sức phấn khích, cậu bé chưa bao giờ được phép đặt chân lên cái cầu thang này.

Cầu thang dài và dốc, nhưng khi họ bước lên mái trên cùng của tòa tháp, hoàng tử cảm thấy công lao khó nhọc đã được đền bù xứng đáng. Cậu có thể nhìn thấy rõ hơn dải núi phía Tây ở bên tay phải. Bên trái là ánh lấp lánh mờ ảo của dòng Đại Giang. Không gian yên tĩnh đến nỗi cậu có thể nghe thấy tiếng thác nước đổ xuống ở đập Hải Ly nằm cách đấy một dặm. Tìm hai ngôi sao mà vì nó họ đến đây cũng không có gì khó. Hai ngôi sao nằm ở cùng một vị trí thấp trên nền trời phía nam, sáng ngời, như hai vầng trăng nhỏ và nằm rất gần nhau. 

- Có phải chúng sắp va vào nhau không ạ? – hoàng tử nói với giọng gần như kinh sợ.

- Không phải thế đâu, hoàng tử quý mến ạ. – Tiến sĩ đáp, và ông thì thầm: - Những vị chúa tể tối cao trên trời kia biết rõ những bước đi trong điệu múa của các ngôi sao. Hãy nhìn cho thật kỹ. Sự gặp nhau của hai ngôi sao này là một điều may mắn và điều đó có nghĩa là một điềm may cho vương quốc đáng buồn Narnia. Tarva là chúa tể chiến thắng đón chào Alambil, nữ chúa của hòa bình. Giờ phút trùng phùng sắp đến gần.

- Đáng tiếc là hàng cây lại mọc ở chỗ này. – Caspian nói. – Chúng ta sẽ thấy rõ hơn nếu đang đứng ở cái tháp phía tây, dù nó không được cao lắm.

Tiến sĩ không nói gì trong vòng hai phút, ông đứng im phăng phắc, đôi mắt dán vào hai ngôi sao Tarva và Alambil. Đoạn ông hít vào một hơi thật sâu và quay sang Caspian nói:

- Một việc như thế này, hoàng tử sẽ thấy là không có người nào còn đang thở được lại được chứng kiến, mà sau này cũng sẽ không có ai trông thấy nữa. Và hoàng tử nói đúng. Chúng ta sẽ thấy rõ hơn nếu đứng ở cái tháp nhỏ hơn kia. Nhưng thần mang hoàng tử đến đây vì một lý do khác.

Caspian ngước nhìn ông thầy của mình, nhưng chiếc mũ trùm che hầu hết khuôn mặt ông.

- Ưu điểm của cái tháp này, - tiến sĩ nói tiếp, - là chúng ta có 6 phòng trống ở phía dưới, một cầu thang dài, cánh cửa ở dưới chân tháp lại bị khóa chặt. Không có ai nghe thấy chúng ta.

- Có phải thầy định nói cho con biết đều thầy không muốn nói hôm trước phải không ạ?

- Chính thế. Nhưng hãy nhớ, hoàng tử và thần không được nói những chuyện này trừ khi là ở đây – trên đỉnh tháp chính.

- Con sẽ không nói đâu. Đó là một lời hứa. Nhưng xin thầy nói tiếp đi ạ.

- Hãy nghe đây. Tất cả những điều hoàng tử đã nghe về người Narnia cũ đều là sự thật. Đây không phải là mảnh đất của người Telmarine. Đây là đất nước của Aslan, xứ sở của những cây cỏ biết đi, của những mộc tinh hữu hình, của các thần rừng và thần dê, của những chú lùn và những người khổng lồ, của các vị thần và nhân mã, của những con thú biết nói. Đó là những lực lượng đã chiến đấu với Caspian thứ nhất. Chính người Telmarine các người đã làm cho thú rừng, cây cối và dòng nước câm tiếng. Đó là những người đã giết hại và truy đuổi những chú lùn và các thần rừng. Giờ đây người ta lại muốn chôn vùi cả những ký ức về họ. Đức vua không cho phép họ lên tiếng nữa.

- Trời, ước gì tổ tiên con đã không làm điều đó. Và con thấy sung sướng vì tất cả là thật, dù tất cả đã trôi qua.

- Nhiều người trong bộ tộc của hoàng tử mong muốn điều đó mãi mãi nằm trong vùng bí mật.

- Nhưng thưa tiến sĩ, tại sao thầy lại nói là bộ tộc của con? Con tưởng thầy cũng là người Telmarine chứ?

- Thần ư??!

- Vâng ạ, dù sao thầy cũng là người.

- Thần ư? – Tiến sĩ lặp lại bằng một giọng sâu lắng hơn, cùng lúc đó kéo cái mũ trùm ra sau gáy để Caspian có thể nhìn rõ mặt ông hơn dưới ánh trăng.

Ngay lập tứ Caspian nhận ra sự thật và cảm thấy lẽ ra cậu phải nhận ra điều này từ trước. Tiến sĩ Cornelius quá nhỏ bé tròn trĩnh, bộ râu quá dài để có thể là… Có hai ý nghĩ trái ngược cùng ập vào trong đầu cậu một lúc. Một ý nghĩ đến kinh hoàng: “Ông ấy không phải là người, không có tính người chút nào, mà là một quỷ lùn và ông ấy dẫn mình đến đây để giết mình”. Ý nghĩ thứ hai là một niềm vui thuần túy: “Thì ra người lùn vẫn còn tồn tại và cuối cùng mình cũng đã gặp được một người”.

- Thế là cuối cùng hoàng tử cũng đã đoán ra. Hoặc đoán gần đúng. Thần không hoàn toàn là một người lùn. Có dòng máu con người trong huyết quản của thần. Một số người lùn trốn thoát trong những trận tàn sát lớn và họ đã sống sót, cạo râu, mang giày cao gót giả vờ là con người. Họ trà trộn trong giống người Telmarine. Thần là một trong những người như thế, chỉ là người lùn có một nửa mà thôi và nếu như có bất cứ người lùn chân chính nào có mặt ở đây sẽ gọi thần là kẻ phản bội. Nhưng trong suốt những năm qua chưa có lúc nào chúng thần quên dân tộc mình, quên những người anh em vui vẻ ở Narnia và những ngày dài sống trong vòng nô lệ.

- Con… con xin lỗi, thưa tiến sĩ. – Caspian nói. – Đó không phải là lỗi tại con, thầy cũng biết đấy.

- Thần không nói ra những điều này để đổ lỗi cho hoàng tử đâu. Hoàng tử có thể tự hỏi tại sao thần lại nói ra những điều này. Thần có hai lý do để làm thế. Thứ nhất, bởi vì trái tim già nua của thần đã chứa đựng những bí mật này lâu đến nỗi nó nhức nhối và sẽ bốc cháy nếu không nói ra được với ai. Lý do thứ hai là khi hoàng tử lên ngôi, hoàng tử có thể giúp chúng tôi, vì mặc dù mang dòng máu Telmarine, hoàng tử lại yêu những gì thuộc về Narnia xưa cũ.

- Vâng, đúng thế ạ. Nhưng con có thể làm được gì?

- Hoàng tử có thể đối xử nhân từ với những người đáng thương còn lại của giống người lùn như thần. Hoàng tử có thể học pháp thuật và cố tìm cách đánh thức cây cối một lần nữa. Hoàng tử có thể lùng sục tất cả những xó xỉnh, những nơi hoang dã trên mảnh đất này xem xem còn bất cứ thần rừng hoặc loài thú biết nói hoặc người lùn nào vẫn còn sống sót đang ẩn náu ở đâu đó hay không.

- Thầy có nghĩ là còn bất cứ ai như vậy không ạ? – Hoàng tử hỏi giọng háo hức.

- Thần không biết… quả thật thần không rõ. – Tiến sĩ nói với một tiếng thở dài. – Đôi lúc thần sợ rằng điều đó không xảy ra. Suốt đời mình, thần đã lần tìm các dấu vết của họ. Lại có lúc thần tưởng đâu nghe thấy tiếng trống cắc tùm của người lùn trong núi. Thỉnh thoảng vào lúc đêm xuống, lang thang trong rừng thẳm, thần tưởng như vừa thoáng thấy bóng một thần rừng và thần dê khiêu vũ với nhau ở một chỗ nào đó xa xa phía trước, nhưng khi chạy đến nơi lại chẳng thấy gì cả. Thường khi vào những lúc thần mất hết hy vọng thì bao giờ cũng có một chuyện gì đó xảy ra và lại khơi lên những tia hy vọng mới mẻ… Cũng không rõ nữa. Nhưng ít nhất thì hoàng tử có thể cố làm một ông vua như Peter Đại đế thuở xưa và không giống như chú mình.

- Vậy câu chuyện về những ông vua và những bà hoàng ấy là đúng, cả về Bạch Phù Thủy nữa?

- Chắc chắn là đúng. Triều đại của họ là kỷ nguyên Vàng ở Narnia và mảnh đất này không bao giờ quên họ.

- Thế họ chung sống ở cung điện này ư?

- Không, - ông già nói, - cung điện này thuộc về ngày hôm qua. Cụ cố của hoàng tử đã xây dựng nên. Khi hai người con trai của Adam và hai người con gái của Eve được chính Aslan phong vương, họ sống trong lâu đài ở Cair Paravel. Hiện nay không có người nào trông thấy nơi được ban phước đó và có lẽ tàn tích của nó giờ đây cũng đã biến mất. Nhưng thần tin rằng nó vẫn còn ở đấy, cách xa nơi này, ở cửa sông Đại Giang và ngay trên bờ biển.

- Ối trời! – Caspian nói và rùng mình. – Thầy muốn nói là trong khu rừng đen tối ư? Có… có phải đó là nơi… tất cả các hồn ma nương náu?

- Hoàng tử đã nói những điều người ta muốn hoàng tử nói và đó là những điều bịa đặt. Chẳng có ma quỷ gì hết. Đó là một câu chuyện do người Telmarine ngụy tạo ra. Vua chúa các người quá sợ biển khơi bởi vì các người không bao giờ có thể quên đi một điều là tất cả các câu chuyện đều nói là Aslan đến từ biển. Họ không muốn đến gần biển và cũng không muốn bất cứ ai lai vãng đến đấy. Thế là họ để cho những cánh rừng rậm mọc lên chia cách người của họ với biển cả. Bởi vì họ cãi lộn với cả cây cối nên họ cũng sợ rừng sâu. Cũng vì sợ mà họ tưởng tượng nơi rừng thiêng nước độc đầy rẫy những ma quỷ. Cả đức vua và những con người “vĩ đại” thời nay đều căm ghét rừng xanh và biển bạc, một phần vì họ tin vào những câu chuyện về nó, một phần vì nó lại trở thành chỗ dựa cho họ. Họ cảm thấy an toàn hơn nếu không một ai ở Narnia này dám đi ra bờ biển để chiêm ngưỡng biển khơi muôn trùng – hướng về mảnh đất của Aslan, về bình minh, về phương Đông, nơi tận cùng của thế giới.

Vài phút im lặng sâu xa giữa hai thầy trò. Đoạn tiến sĩ nói:

- Thôi, chúng ta ở đây đã lâu rồi. Đến lúc đi xuống, về giường ngủ.

- Lại phải thế ư? Con muốn tiếp tục nói mãi về những chuyện… hết giờ này đến giờ khác cơ.

- Có thể có kẻ nào đó bắt đầu dòm ngó ta, nếu ta làm như thế. – Tiến sĩ Cornelius đáp.

CHƯƠNG 5

 Thế giới ngầm của người Narnia

Kể từ đó thầy trò Cornelius có nhiều cuộc đàm đạo bí mật trên đỉnh Tháp Chính và qua mỗi buổi đàm đạo, Caspian lại học thêm được nhiều điều về Narnia cũ để rồi trong những giờ phút chỉ có một mình, cậu tha hồ suy nghĩ, mơ mộng về cái thời xa xưa tốt lành ấy và như vậy những khao khát làm sống lại Narnia cũ càng mãnh liệt hơn. Nhưng tất nhiên cậu không còn nhiều thì giờ rảnh nữa, bây giờ học hành là ưu tiên số một. Cậu học đấu kiếm, cưỡi ngựa, bơi lặn, bắn cung, học chơi các nhạc cụ, học săn bắn hươu đực, mổ xẻ nó khi đã chết… học tất cả cùng với các bộ môn Vũ trụ học, Vật lý, Thuật giả kim và Thiên văn học. Về môn Pháp thuật, hoàng tử chỉ học lý thuyết bởi tiến sĩ nói phần thực hành không thích hợp với địa vị của một hoàng tử.

- Và thần, - ông nói thêm, - chỉ là một pháp sư kém cỏi cũng chỉ có thể thực hiện được những bài tập nho nhỏ. – Còn ngành Hàng hải (“một lĩnh vực cao quý lâu đời”, theo lời tiến sĩ) thì hoàng tử không được phép học bởi vì vua Miraz không muốn nghe nói gì đến tàu bè, biển cả.

Hoàng tử cũng học được nhiều điều trong nghệ thuật sử dụng tai và mắt của mình. Từ khi còn bé, cậu đã thường tự hỏi tại sao mình lại không thích bà thím vương giả - hoàng hậu Prunaprismia; bây giờ thì cậu hiểu, đó là vì bà không yêu cậu. Caspian cũng bắt đầu nhận ra là Narnia là một đất nước bất hạnh. Sưu cao thuế nặng, luật lệ hà khắc và Miraz là một ông vua bạo ngược.

Thời gian sau này đương kim hoàng hậu luôn trong tình trạng long thể bất an; triều thần rối rít, nhặng xị lên vì sự khó ở của bà, các danh y được mời đến lúc nào cũng xôn xao ngoài cấm cung và các triều thần được rỉ tai nhau không biết bao nhiêu chuyện cơ mật. lúc đó là vào đầu mùa hè. Một đêm, trong lúc tất cả mọi người trong cung cứ rối tinh lên, Caspian bất ngờ bị sư phụ đánh thức dậy sau khi cậu mới ngủ được vài tiếng. 

- Thưa thầy, có phải chúng ta đi học một bài về Thiên văn không ạ?

- Suỵt! Cứ tin tưởng ở thần và hãy làm đúng những điều thần nói. Mặc tất cả những bộ quần áo mà hoàng tử có lên người, có một cuộc hành trình dài đang chờ hoàng tử.

Caspian rất ngạc nhiên, nhưng cậu đã học được một điều là phải tin tưởng sư phụ của mình và lập tức làm theo lời thầy. Khi cậu mặc quần áo xong, tiến sĩ bảo:

- Thần đã chuẩn bị sẵn một túi vải. Chúng ta cần phải sang phòng bên và cho đầy vào túi chỗ thức ăn quý giá, ngon lành có trên bàn ăn của hoàng tử.

- Thị đồng vẫn đang có mặt ở đó.

- Chúng đều ngủ say và sẽ không thức dậy đâu. Thần chỉ là một pháp sư kém cỏi nhưng ít nhất là khi cần thiết, thần cũng biết đưa chúng vào một giấc ngủ mê mệt.

Họ đi sang phòng bên và ở đấy họ thấy hai người hầu nam đang nằm dài trên ghế, miệng há to ngáy như sấm. Tiến sĩ nhanh nhẹn nhón tay lấy một phần con gà ướp lạnh, vài lát thịt nai, cho chỗ thịt đó cùng với bánh mì, một hai quả táo, một chai rượu nho ngon nhất vào trong túi vải rồi đưa cho Caspian. Hoàng tử quàng túi thức ăn qua vai như một loại cặp sách bạn mang đến trường

- Hoàng tử có gươm chứ?

- Dạ có.

- Vậy thì hãy trùm cái áo khoác này lên để che cả túi vải lẫn gươm. Thế được rồi. bây giờ chúng ta có thể leo lên đỉnh Tháp Chính.

Khi họ lên đến nơi – đó là một đêm trời đầy mây không giống như cái đêm họ đứng chứng kiến sao Tarva gặp sao Alambil – tiến sĩ Cornelius nói:

- Hoàng tử yêu quý, người phải rời cung điện này ngay lập tức và hãy đi tìm vận may của mình trong thế gian rộng lớn này. Ở đây cuộc sống của hoàng tử đang nguy hiểm. 

- Tại sao lại thế ạ?

- Bởi vì hoàng tử là vị vua chân chính của Narnia, Caspian thứ mười là hoàng thái tử và người kế vị ngôi báu của Caspian thứ chín. Thánh thượng vạn tuế, vạn vạn tuế! – Và đột nhiên, trước sự kinh ngạc của Caspian, ông thầy già nhỏ bé quỳ một chân xuống, nâng bàn tay hoàng tử lên môi hôn.

- Tất cả điều này là nghĩa làm sao ạ? Tôi chẳng hiểu sao cả?

- Thần thường lấy làm ngạc nhiên là tại sao trước đây không bao giờ thấy bệ hạ hỏi thần, - ông tiến sĩ trang trọng nói, - tại sao với tư cách là hoàng tử con vua Caspian, bệ hạ không lên làm vua? Tất cả mọi người, trừ bệ hạ, đều biết Miraz là kẻ tiếm ngôi. Lúc đầu khi y mới bắt đầu tiếm quyền, y thậm chí còn không dám mạo nhận mình là vua nữa: y tự gọi mình là Người phụ tá. Nhưng rồi mẫu hậu của bệ hạ qua đời – một hoàng hậu và là người Telmarine duy nhất đối xử tốt với thần. Sau đó thì sao, tất cả những nhà quý tộc, những người thân tín với tiên hoàng đều hoặc bị chết hoặc biến mất một cách bí mật. Cũng chẳng cần có một tai nạn gì nữa, Miraz đã loại trừ họ. Belisar và Uvilas bị tên bắn trúng trong một cuộc đi săn – một cách vô tình – nó được dựng lên như thế. Tất cả những trang tuấn kiệt trong dòng họ Passarid đều bị cử đi đánh rợ khổng lồ ở biên giới phía bắc cho đến khi từng người một ngã xuống. Arilan và Erimon cùng hàng chục người khác thì bị hành quyết vì làm phản mà không thành. Hai anh em nhà Beaversdam thì bị giam cầm cho đến lúc phát điên lên. Cuối cùng tên vua độc ác đã đẩy bảy nhà quý tộc lớn – một số ít trong số những người Telmarine không sợ biển – lên một con tàu đi tìm những vùng đất mới bên ngoài biển Đông và như y dự đoán họ không bao giờ quay lại. Và khi không còn một ai có thể nói một lời chính trực với hắn thì những kẻ xu nịnh hắn (như là hắn đã hướng dẫn) bèn van nài hắn lên làm vua. Và tất nhiên hắn đồng ý, sau khi từ chối lấy lệ.

- Thầy muốn nói bây giờ ông ấy muốn giết cả tôi nữa?

- Chắc chắn là như vậy.

- Nhưng tại sao là lúc này? Ý tôi muốn nói tại sao ông ta không giết tôi từ trước, nếu ông ta có ý ấy? Và tôi đã làm gì hại đến ông ta?

- Hắn đã đổi ý bởi vì có một chuyện đã xảy ra vào hai tiếng đồng hồ trước. Hoàng hậu vừa hạ sinh một hoàng nam.

- Tôi vẫn không thấy rõ lý do để làm thế.

- Bệ hạ không thấy! – Tiến sĩ kêu lên. – Vậy tất cả những bài giảng của thần về Lịch sử và Chính trị thì là về cái gì? Xin bệ hạ hãy nghe đây. Chừng nào mà Miraz chưa có con thì hắn đủ vui lòng để bệ hạ lên làm vua sau khi hắn chết. Hắn chẳng yêu thương gì bệ hạ nhưng thà để bệ hạ lên ngôi báu còn hơn người dưng. Bây giờ hắn đã có con trai để nối dõi, hắn sẽ chỉ muốn con trai hắn trở thành ông vua kế vị. Bệ hạ cản đường hắn, hắn sẽ loại bệ hạ ra khỏi đường đi.

- Chẳng lẽ ông ta lại xấu đến thế sao? – Caspian hỏi. – Ông ta thật sự muốn giết tôi?

- Hắn đã giết tiên hoàng, anh trai mình!

Hoàng tử Caspian cảm thấy chuyện này khá kỳ lạ nhưng không nói gì.

- Thần có thể thưa lại với bệ hạ toàn bộ câu chuyện. Nhưng không phải vào lúc này. Không có thời gian. Bệ hạ phải bỏ trốn ngay.

- Thầy sẽ đi cùng tôi chứ?

- Thần không dám. – Ông tiến sĩ nói. – Vì như vậy sẽ khiến bệ hạ dễ gặp nguy hiểm hơn. Hai người dễ bị bắt hơn một người. Hoàng tử kính mến, đức vua Caspian kính mến, người phải can đảm lên. Người cần phải đi một mình và đi ngay lập tức. Hãy cố vượt qua biên giới phía nam đến triều đình Nain ở Archenland. Đức vua sẽ đối đãi tốt với bệ hạ.

- Tôi sẽ không bao giờ gặp lại thầy nữa sao? – Caspian hỏi giọng run rẩy.

- Thần hy vọng sẽ có ngày gặp lại, thưa bệ hạ. – Giọng tiến sĩ nghẹn ngào. – Thần còn có ai làm bạn nữa đâu trong cái thế giới rộng lớn này ngoài bệ hạ? Thần có biết một chút pháp thuật. Nhưng vào lúc này, tốc độ là tất cả. Ở đây có hai món quà dành cho người trước khi lên đường. Đó là một túi vàng – trời ơi, tất cả vàng bạc châu báu trong tòa lâu đài này lẽ ra phải thuộc về người. Còn đây là một thứ còn quý hơn vàng.

Ông đặt vào tay Caspian một vật mà cậu không nhìn thấy nhưng có thể cảm thấy đó là một cái sừng.

- Vật này, - tiến sĩ Corlenius nói, - là một của báu lâu đời nhất và quý giá nhất ở Narnia. Thần đã phải trải qua bao nỗi kinh hoàng, làm bao nhiêu pháp thuật để tìm ra nó vào lúc thần vẫn còn đầu xanh tuổi trẻ. Đây là chiếc tù và thần thánh của chính nữ hoàng Susan, người đã bỏ lại vào cuối kỷ nguyên Vàng. Tương truyền bất cứ ai thổi tù và lên sẽ nhận được một sự giúp đỡ kỳ lạ - không ai có thể nói rõ nó kỳ lạ như thế nào. Có thể nó có năng lực kêu gọi nữ hoàng Lucy, vua Edmund, nữ hoàng Susan và vua Peter Đại đế quay về từ quá khứ và họ sẽ có mặt ở đây. Cũng có thể nó kêu gọi được chính Aslan. Xin người hãy nhận lấy, đức vua Caspian, nhưng người đừng bao giờ dùng đến trừ phi ở trong tình thế hoàn toàn tuyệt vọng. Còn bây giờ xin người hãy nhanh lên, thật gấp lên! Cái cửa nhỏ ở chân tháp, cái cửa dẫn vào vườn đều không khóa. Chúng ta phải giã biệt thôi.

- Tôi có thể đi cùng con ngựa Destrier của mình không?

- Nó đã được đóng yên cương và đợi bệ hạ ở góc vườn ngự uyển.

Trong lúc đi xuống cầu thang dài dằng dặc, Cornelius thì thầm với hoàng tử nhiều lời dặn dò, khuyên nhủ. Trái tim Caspian trĩu nặng, nhưng cậu cố ghi nhận tất cả những lời đó. Họ bước ra vườn đón nhận làn hương mát lạnh nơi đây; một cái ôm nồng ấm với ông thầy già, một cuộc chạy gấp rút qua bãi cỏ, tiếng hí đón chào của con Destrier và thế là nhà vua Caspian thứ mười rời cung điện của vua cha. Ngoái đầu nhìn lại, cậu chỉ thấy ánh nến rực rỡ được thắp lên chào mừng sự ra đời của hoàng tử mới.

Cậu đi ngựa suốt đêm về phía nam, chọn những ngã rẽ và những con đường dành cho ngựa, xuyên qua rừng trong chừng mực mà mình còn nhìn rõ được. Nhưng sau đó thì cậu đi theo con đường chính. Destrier cũng kích động như chủ của nó trước cuộc hành trình bất thường này. Caspian với những giọt nước mắt cay xè lúc chia tay sư phụ đã cảm thấy mình can đảm hơn và vui vẻ nghĩ rằng chính là vua Caspian đang cưỡi ngựa đi tìm kiếm những cuộc phiêu lưu với thanh gươm đeo một bên hông và đập đều đều vào hông bên kia là chiếc tù và của nữ hoàng Susan. Nhưng khi ngày bắt đầu rạng lên với làn mưa lất phất, cậu đưa mắt nhìn chung quanh thấy bốn phương tám hướng quanh mình là một khu rừng xa lạ mọc đầy thạch nam dại và xa xa là những quả núi xanh thì cậu nghĩ thế gian này mới rộng lớn và xa lạ làm sao. Cậu không khỏi cảm thấy mình chỉ là một con kiến bé nhỏ và con kiến ấy đang hoảng sợ.

Khi trời sáng hẳn cậu rời đường cái tìm đến một trảng cỏ rậm giữa rừng nơi cậu có thể nghỉ lấy sức. Caspian tháo yên cương cho con Destrier để cho nó lang thang gặm cỏ còn mình thì ăn một ít gà ướp lạnh, uống một chút rượu và ngủ thiếp đi. Đến xế chiều cậu mới tỉnh dậy, ăn một chút rồi tiếp tục cuộc hành trình vẫn đi về phía nam trên những con đường gập ghềnh, ngắt quãng. Đến bây giờ cậu phát hiện đây là vùng địa hình đồi núi lên lên xuống xuống liên tục nhưng bao giờ cũng đi lên nhiều hơn. Mỗi khi vượt qua một đỉnh núi, hoàng tử nhỏ lại thấy trước mặt mình một ngọn núi cao hơn, đen hơn, đe dọa hơn. Khi trời tối sập xuống thì cậu đang đi xuống một vùng có địa hình thấp hơn. Gió nổi lên. Mưa bắt đầu trút xuống như thác. Destrier trở nên bất an khi có tiếng sấm rền vang lên trên đầu.

Bay giờ người và ngựa đi vào một rừng thông đen thẫm và dường như kéo dài ra vô tận. Thế là tất cả những câu chuyện mà Caspian nghe kể về việc cây cối sẽ trả thù con người vì đã ra tay chặt phá rừng lại ùa về trong đầu. Caspian nhớ ra rằng sau cùng cậu vẫn là một người Telmarine khác với số đông, nhưng thử hỏi liệu cây cối có biết điều đó không? Không đâu. Gió trở nên điên cuồng, cây rừng hú lên man dại, tất cả vặn mình răng rắc quanh cậu. Rồi ầm một cái, một thân cây đổ ngang đường ngay phía sau lưng cậu.

- Bình tĩnh, Destrier, bình tĩnh nào! – Caspian nói, vỗ vỗ lên cổ ngựa, nhưng bản thân cậu cũng run bắn lên khi biết mình cũng chỉ vừa thoát chết trong đường tơ kẽ tóc. Chớp lóe lên cùng một tiếng sấm dữ dội như muốn rạch đôi bầu trời trên đầu. Destrier lồng lên vì hoảng sợ. Caspian là một kỵ sĩ bẩm sinh nhưng cậu cũng không đủ mạnh để kìm con ngựa lại. Cậu ngồi dính trên yên nhưng vẫn biết rằng tính mệnh luôn trong vòng đe dọa và cái lực lượng vô hình không gì kiểm soát được này đang theo đuổi mình. Hết cây này đến cây khác vươn lên trong bóng tối và cậu phải khéo léo lắm mới không bị ngã. Rồi gần như bất thình lình cậu đụng phải một cái gì đó (chính nó đập phải cậu) vào trán và cậu chẳng còn biết gì nữa.

Tỉnh dậy cậu thấy mình bên một đống lửa, chân tay thâm tím, đầu đau như búa bổ. Những giọng nói thì thầm ngay bên cạnh.

- Và bây giờ, - một người nói, - trước khi nó tỉnh dậy, hãy quyết định làm một cái gì với nó.

- Giết quách đi. – Người kia nói. – Không thể để nó sống. Nó sẽ phản lại chúng mình.

- Nếu đã không giết nó ngay từ đầu thì cứ để nó yên. – Giọng thứ ba cất lên. – Chúng ta không thể giết nó bây giờ. Không, sau khi đã đưa nó về đây, băng bó cho nó. Làm như vậy cũng giống như giết khách trong nhà mình vậy.

- Thưa các ông, - Caspian nói với giọng yếu ớt, - ất kể các ông có muốn làm gì với tôi thì cũng xin các ông hãy đối xử tốt với con ngựa tội nghiệp của tôi.

- Ngựa của mày đã chạy mất trước khi chúng ta tìm thấy mày. – Giọng đầu tiên lên tiếng. Đó là một giọng nói thô lỗ, rè rè và đục một cách kỳ cục nhưng chỉ bây giờ Caspian mới nhận ra điều đó.

- Đừng có để cho nó nói vòng vo với cậu bằng những lời ngon ngọt. Tôi vẫn cho là…

- Sừng dê và cá bơn lưỡi ngựa? – Giọng thứ ba lên tiếng. – Tất nhiên chúng ta sẽ không giết nó. Phải biết xấu hổ chứ Nikabrik. Anh có ý kiến gì hả Trufflehunter? Ta sẽ làm gì đây?

- Tôi sẽ cho nó uống một cái gì đó. – Giọng thứ nhất nói, người này chắc là Trufflehunter.

Một cái bóng đen đen di chuyển đến bên giường. Caspian cảm thấy một cánh tay nhẹ nhàng trượt xuống vai nó – nếu đây đúng là một cánh tay, ở một phương diện nào đó cái bóng xem ra có cái gì không ổn. Khuôn mặt đang cúi xuống cũng có vẻ gì không bình thường. Cậu có cảm tưởng là nó có lông và một cái mũi thật dài, có hai cái mảng trắng kỳ cục ở hai bên má.

- Chắc đây là một loại mặt nạ, - Caspian nghĩ, - hoặc có lẽ mình đang bị sốt và tưởng tượng ra những chuyện này.

Một cái ly đựng đầy một thứ nước gì ngòn ngọt, nong nóng kề vào môi cậu và cậu uống. Cũng lúc đó một hoặc hai người cời bếp lửa. Ngọn lửa bùng lên và suýt nữa thì Caspian thốt lên vì kinh hoàng khi ánh sáng bất thần chiếu vào khuôn mặt đang nhìn cậu. Đó không phải là một mặt người mà là mặt một con lửng mặc dù nó to hơn, thân thiện hơn bất cứ con lửng nào cậu từng trông thấy. Chắc chắn là nó vừa nói. Cậu cũng thấy rõ mình đang nằm trên một cái nệm trải thạch nam trong một góc hang. Ngồi bên đống lửa là hai người đàn ông râu ria xồm xoàm, vai rộng hơn, người lùn hơn, tóc tai bờm xờm hơn tiến sĩ Cornelius nên cậu biết ngay đó là những người lùn, những người lùn nguyên thủy không có một giọt máu Telmarine nào trong huyết quản. Caspian biết rằng cuối cùng cậu đã tìm thấy người Narnia cổ. Sau đó đầu óc cậu lại trượt vào cõi mênh mông vô định.

Vài ngày sau cậu đã biết được tên họ. Bác lửng có tên là Trufflehunter – người già nhất và tốt bụng nhất trong ba người. Người lùn chỉ muốn giết cậu thuộc giống người Lùn – Đen – Cau – Có (có nghĩa là tóc và râu của ông đều màu đen, vừa dày vừa cứng như lông ngựa). Tên người này là Nikabrik. Người thứ ba là người lùn đỏ với mái tóc giống như lông cáo và có tên là Trumpkin.

- Bây giờ, - Nikabrik nói vào ngay cái đêm đầu tiên mà Caspian có thể ngồi dậy nói chuyện, - chúng ta sẽ phải quyết định nên làm gì với thằng nhóc này. Tôi nghĩ hai người đã chứng tỏ được lòng tốt của mình với việc ngăn không cho tôi giết chết nó. Nhưng tôi cho rằng đổi lại chúng ta phải giữ nó làm tù binh suốt đời. Chắc chắn tôi sẽ không cho nó sống sót để rồi nó quay về đem quân đến giết hại tất cả chúng ta đâu.

- Bóng đèn và gối ôm, Nikabrik. – Trumpkin nói. – Tại sao anh cứ nói mãi những lời chối tai ấy? Đâu phải lỗi của sinh vật này nếu nó đụng đầu phải một cái cây ngay bên ngoài hang của chúng ta. Và tôi không nghĩ nó giống như một tên phản bội.

- Tôi cho rằng, - Caspian lên tiếng, - các ông còn chưa biết là tôi muốn gì. Không. Tôi muốn ở lại với các ông – nếu các ông cho phép. Tôi đã tìm kiếm những người như các ông suốt từ hồi nào đến giờ.

- Lại có chuyện như thế! – Nikabrik gào lên. – Mày là con người và là một tên Telmarine có đúng không nào? Dĩ nhiên mày muốn quay lại với đồng loại của mày.

- Nhưng dẫu có muốn đi chăng nữa, tôi cũng không thể làm như vậy, - Caspian nói. – Tôi đang trên đường chạy trốn thì xảy ra tai nạn. Nhà vua muốn thanh toán tôi. Nếu các ông giết tôi, các ông đã làm đúng cái điều mà vua muốn nhưng chưa làm được.

- Vậy bây giờ, - Trufflehunter hỏi người lùn đen, - anh sẽ không khăng khăng bảo vệ ý định của mình nữa chứ?

- Ê! – Trumpkin bật lên. – Có chuyện gì vậy? Ngươi đã làm gì mà lại chọc giận Miraz ở vào cái tuổi nứt mắt thế kia?

- Ông ấy là chú tôi… - Caspian vừa bắt đầu thì Nikabrik đã nhảy dụng lên, đặt tay lên chuôi dao găm.

- Mày! – Ông ta rống lên. – Mày không chỉ là người Telmarine mà còn là máu mủ và người thừa kế của kẻ thù lớn nhất của chúng tao. Các anh có điên mới để cho sinh vật này được sống. – Ông ta hẳn đã đâm chết Caspian nếu lửng và Trumpkin không nhảy xổ vào, buộc ông ta ngồi vào ghế và giữ chặt ông ta lại.

- Bây giờ, Nikabrik, - Trumpkin nói, - nếu anh không bình tĩnh lại ngay thì cả Trufflehunter lẫn tôi đều sẽ ngồi lên đầu anh đấy.

Nikabrik xụ mặt xuống, hứa sẽ ngồi yêuntrong lúc đó hai người kia đề nghị Caspian kể lại toàn bộ câu chuyện. Khi cậu kể xong có một quãng im lặng.

- Đó là điều kỳ lạ nhất mà tôi từng nghe. – Trumpkin nói.

- Tôi không thích điều này chút nào. – Nikabrik nói. – Tôi không biết là những câu chuyện về chúng ta vẫn được kể lại giữa những người Telmarine. Họ càng biết ít về chúng ta bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Cái bà nhũ mẫu ấy! Tốt nhất bà ta hãy biết giữ mồm giữ miệng. Tất cả những chuyện như thế này lại bị cái lão thầy đồ ấy khơi lên nữa chứ, một tên lùn ba rọi. Sao mà tôi căm ghét bọn chúng đến thế. Còn ghét hơn bọn Telmarine. Nhờ đấy, rồi sẽ không có gì tốt đẹp đâu.

- Anh đừng nói như vậy về những chuyện mà anh không hiểu Nikabrik ạ. – Trufflehunter nói. – Người lùn các anh bị lãng quên và cũng thay đổi như bản thân con người. Tôi là thú và mãi mãi sẽ là như vậy, không hơn. Chúng tôi không thay đổi. Chúng tôi đứng lại. Tôi thì tôi tin rằng qua cơn bĩ cực tất tới hồi thái lai. Chúng ta đã gặp vị vua thực sự của Narnia: một ông vua chân chính khôi phục một nước Narnia chân chính. Loài thú chúng tôi vẫn nhớ, dù người lùn đã quên, rằng Narnia sẽ không bao giờ còn là nó trừ khi là có một người con trai của Adam lên làm vua.

- Cái còi và con quay! Anh bạn Trufflehunter kia, - Trumpkin nói. – Anh không muốn nói là anh dâng đất nước này cho con người đấy chứ?

- Tôi chẳng nói mọt điều gì giống như thế. – Lửng đáp. – Đây không phải là đất nước của con người (họ phải biết điều đó) mà là một đất nước phải có con người làm vua. Chúng tôi vẫn còn đủ bộ nhớ để biết rõ điều ấy. Chẳng phải người đã làm mọi chuyện cho chúng ta là Peter Đại đế - một con người – đó sao?

- Anh tin vào tất cả những chuyện cũ rích ấy à? – Trumpkin hỏi.

- Tôi đã bảo rồi, loài thú chúng tôi không bao giờ thay đổi. – Trumfflehunter đáp. – Chúng tôi không bao giờ quên đâu. Tôi tin ở Peter Đại đế và bốn anh em, họ đã trị vì ở Cair Paravel, cũng như tôi tin tưởng một cách vững chắc ở Aslan. 

- Tôi dám nói là mình đã từng có niềm tin như thế. – Trumpkin nói. – Nhưng ngày nay còn có ai tin tưởng vào Aslan nữa?

- Tôi, - Caspian nói, - và nếu trước kia tôi không tin lắm thì bây giờ tôi thực sự tin. Thế mà ở đây lại có những người không tin đấy. Kẻ nào cười Aslan chắc cũng sẽ cười nhạo những câu chuyện về những con thú biết nói và những người lùn. Có những lúc tôi đã tự hỏi không biết có thực là có một người như Aslan không, những cũng có lắm khi tôi băn khoăn không biết là có những người như các ông không. Vậy mà các ông vẫn tồn tại đấy thôi.

- Đúng thế. – Trufflehunter hồ hởi. – Ngài nói đúng hỡi đức vua Caspian. Chừng nào mà ngài có lòng với Narnia cũ, ngài sẽ là đấng minh quân của tôi mặc cho ai nói gì thì nói. Đức vua vạn tuế, vạn vạn tuế!

- Anh làm tôi muốn phát bệnh, lửng à. – Nikabrik làu bàu. – Peter Đại đế và những người anh em đúng là người nhưng họ là một giống người khác. Còn đây là giống người Telmarine đáng nguyền rủa. Hắn sẽ coi săn thú như một môn thể thao. Có phải không nào? – Ông ta nói thêm, đột ngột quay về phía Caspian.

- Phải, đúng là tôi có đi săn. – Caspian đáp. – Nhưng đấy không phải là nhưng con thú biết nói.

- Thì cũng thế mà thôi.

- Không, không, không. – Trufflehunter phản đối. – Anh biết là có khác. Anh biết rất rõ là ngày nay loài vật ở Narnia rất khác, chỉ còn là những con thú ngu ngốc, câm lặng, đáng thương mà anh tìm thấy ở Calormen và Telmar. Vóc dáng chúng cũng bé hơn. Chúng khác, khác xa chúng tôi như anh khác xa những người lùn lai vậy.

Có rất nhiều vấn đề để bàn cãi, rốt cuộc tất cả đều đồng ý là Caspian sẽ ở lại và phải hứa hẹn là ngay khi đủ sức đi ra ngoài cậu phải đến trình diện cái mà Trumpkin gọi là “những đại biểu khác”; bởi vì rõ ràng là vẫn còn những sinh vật ngày xưa của Narnia sống lẫn quất ở những vùng đất hoang dã nơi này.

CHƯƠNG 6

 Những người sống ngoài vòng pháp luật

Thế là bắt đầu quãng đời vui vẻ nhất mà Caspian từng biết đến. Một sớm hè tươi đẹp nọ, trong khi sương sớm vẫn còn đọng long lanh trên lá cỏ, hoàng tử cũng bác lửng và hai chú lùn băng qua một khu rừng già rồi vượt đèo cao xuống một thung lũng phía nam tràn ngập ánh mặt trời, nơi người ta có thể nhìn qua một truông đất xanh rờn cây cỏ của nước Archenland.

- Trước tiên chúng ta hãy đến gặp ba anh em gấu Bulgy – Trumpkin nói.

Họ đi qua một trảng cỏ đến bên một gốc cây sồi đại thụ phủ đầy rêu, bác lửng Trufflethunter gò gò cái mông ba lần vào gốc cây, nhưng không có tiếng trả lời. Sau đó bác ta lại gõ một lần nữa và một giọng nhừa nhựa từ trong hốc cây vọng ra.

- Đi đi! Chưa đến giờ tới thức giấc đâu!

Nhưng khi khách gõ đến lần thứ ba thì bên trong vọng ra một giọng nói nghe như một cơn địa chấn nhỏ; từ bên trong có một cái gì như cách mở cửa ra và ba chú gấu lừng lửng bước ra. Khi mọi chuyện đã được giải thích rõ ngọn ngành với chủ nhà (một việc mất khá nhiều thời gian bởi vì cả ba còn chưa tỉnh ngủ) họ nói, cũng giống như Trufflethunter, rằng con trai của Adam phải nên là vua Narnia. Cả ba lần lượt ôm hôn Caspian – những cái hôn nóng ấm đến nghẹt thở - và mời cậu bé dùng chút mật ong.

Caspian không muốn ăn mật mà không có bánh mì vào lúc sáng sớm như thế này, nhưng cậu nghĩ cũng nên lịch sự nhận lời. Sau đó cậu phải mất một lúc lâu để rửa hết chỗ mật dính nhem nhép vào tay và quanh miệng.

Rời nhà gấu, họ lại đi tiếp cho đến khi tới một hàng cây sồi cao vút. Trufflethunter cất tiếng gọi:

- Pattertwig! Pattertwig! Pattertwig! – Gần như ngay tức thì chuyển từ cảnh này sang cảnh khác rồi phóc một cái ngồi vắt vẻo phía trên đầu khách là một con sóc có bộ lông đỏ rực rỡ mà Caspian chưa từng thấy bao giờ. Nó to hơn một con sóc không biết nói mà hoàng tử đôi khi cũng trông thấy trong vườn ngự uyển, thật ra nó to gần bằng một con chó bự và khi bạn nhìn vào mặt nó, bạn sẽ biết ngay là nó biết nói. Thực ra khó mà ngăn cản nó nói bởi vì như tất cả những con sóc khác nó là kẻ lắm lời. Nó mau mắn lên tiếng chào Caspian và hỏi xem cậu bé có thích hạt dẻ không. Caspian trả lời có. Nhưng khi chú sóc Pattertwig nhảy nhót trên cành đi lấy hạt dẻ. Trufflethunter thì thầm vào tai Caspian:

- Đừng nhìn theo. Hãy nhìn đi chỗ khác. Đối với họ nhà sóc, quan sát họ đi đến nhà kho hoặc nhìn như thể muốn biết họ đi đâu là một điều tối kị.

Sau đó Pattertwig quay lại với một hạt dẻ. Caspian ăn hạt dẻ và Pattertwig hỏi liệu chú ta có thể mang bất cứ một thông điệp nào đến với những người bạn khác không.

- Bởi vì tôi có thể đi hầu hết mọi nơi mà không cần đặt chân xuống đật.

Lửng và hai người lùn cho đó là một ý hay, họ nhờ chú sóc đi mời tất cả mọi loài trong đó có nhiều loài rất xa lạ với Caspian ba ngày sau vào lúc nửa đêm, đến dự hội nghị muông thú và ăn tiệc ở Đồng Cỏ Nhảy Múa.

- Anh cũng nên mời cả ba anh em nhà Bulgy nữa – Trumpkin nói thêm – Chúng tôi quên chưa mời họ.

Chuyến viếng thăm kế tiếp của họ là đến nhà bảy anh em ở khu vườn Rùng Mình. Trumpkin dẫn dầu đưa mọi người quay lại đèo đoạn đi xuống dãy núi phía đông đến sườn núi phía bắc, đi mãi cho đến khi tới một nơi buồn tẻ chỉ có những tảng đá và loại cây lá kim. Họ lặng lẽ đi bên nhau và Caspian có thể cảm thấy mặt đất rung lên dưới chân cậu, như thể có ai lấy búa gõ lên phía dưới. Trumpkin đến chỗ một tảng đá bằng phẳng to bằng cái nắp thùng đựng nước lớn, nhảy phóc lên trên lấy chân giậm giậm. Một lúc sau, tảng đá từ từ di chuyển bởi một ai đó hoặc một vật nào đó bên dưới, để lộ ra một cái hầm tròn, đen ngòm, tỏa ra hơi nóng và khói. Ở giữa cái hầm thò ra đầu một người lùn trông cũng giống như Trumpkin. Lại một cuộc trao đổi dài, người lùn này xem ra đa nghi hơn sóc và anh em gấy Bulgy, nhưng cuối cùng thì khách cũng được mời đi xuống.

Caspian thấy mình bước xuống một cầu thang tối om trong lòng đất, nhưng cuối cùng khi cậu xuống đến dây cậu thấy có ánh lửa. Đó là ánh sáng hắt ra từ một bếp lò. Nơi này là một xưởng rèn. Một dòng suối nằm chảy qua bên cạnh. Hai chú lùn đang đứng bên ống bể, một người khác cầm một thanh sắt đỏ rực đặt trên đe với một cái kẹp sắt người thứ tư đang thẳng tay nện búa xuống, hai người còn lại lau hai bàn tay chai sần vào một miếng giẻ đầy dầu mỡ bước ra đón khách.

Phải mất khá lâu mới làm cho họ hài lòng thừa nhận Caspian là bạn chứ không phải là thù nhưng khi họ đã công nhận rồi thì cả bọn đồng thanh kêu lên: “Thánh thượng vạn tuế!” Món quà họ trao cho khách rất đáng quí : áo giáp, mũ trụ và gươm cho Caspian, Trumpkin và Nikabrik. Bác lửng cũng sẽ có những món tương tự nếu bác ta thích nhưng bác nói mình là một con thú và nếu răng và vuốt của bác mà không thể giữ được bộ da của bác thì nó cũng chẳng đáng được bảo vệ. Công việc chế tạo vũ khí là một việc còn tốt đẹp hơn những gì mà Caspian từng chứng kiến và cậu sung sướng đón nhận thanh gươm mà những chú lùn đã làm ra hơn là thanh gươm của mình bởi vì so với thanh gươm mới trông nó yếu ớt như một cái que cời lửa. Bảy anh em (đều là thuộc giống những Người Lùn Đỏ) hứa sẽ đến dự tiệc ở Đồng Cỏ Nhảy Múa.

Đi xa hơn một chút ở một hẻm núi đá, khô ráo; họ tìm đến hang động của năm anh em Người Lùn Đen. Những người này không rời mắt khỏi Caspian, khuôn mặt lộ vẻ nghi hoặc nhưng cuối cùng người lớn nhất nói: “Nếu hoàng tử chống lại Miraz, chúng ta sẽ tôn hoàng tử lên làm vua.” Người anh thứ hai nói: “Chúng tôi sẽ đưa bệ hạ đi đến chỗ vách đá, được không ạ? Ở đấy có một hoặc hai yêu tinh và một phù thủy mà chúng tôi có thể giới thiệu với hoàng tử, họ ở cao cao trên kia.”

- Chắc là không cần – Caspian nói.

- Thần cũng nghĩ thế, thật vậy – Trufflehunter nói xen vào. Chúng ta không cần mời đến bọn ấy vào trong liên minh của mình đâu.

Nikabrik không đồng ý nhưng Trumpkin và bác lửng đã phớt lờ chú ta. Sự việc này đã làm cho Caspian kinh hoảng nhận ra rằng cả những sinh vật đáng sợ không có mặt trong truyền thuyết cậu được nghe, cũng như những sinh vật đáng yêu đều là hậu duệ của người Narnia cổ.

- Chúng ta sẽ không được Aslan ủng hộ với tư cách người bạn nếu liên minh với cái đám lão nhão ấy – Trufflehunter nói khi họ từ hang của những Người Lùn Đen về.

- Ôi Aslan! – Trumpkin nói, giọng vui vẻ nhưng lại có vẻ bất kính – Tình thế tệ hại như thế này sao không thấy người đến với chúng tôi.

- Ông không tin vào Aslan sao? – Caspian hỏi Nikabrik.

- Tôi sẽ tin bất cứ ai hay bất cứ cái gì, - Nikabrik nghiến răng nghiến lợi nói, - có thể băm cái bọn dã man Telmarine ra hàng trăm mảnh hoặc đuổi bọn chúng ra khỏi Narnia. Bất cứ ai hoặc bất cứ cái gì – Aslan hoặc Bạch Phù Thủy – cậu có hiểu không?

- Im mồm đi, im đi! – Trufflehunter mắng – Anh không biết mình đang nói gì đâu. Mụ ta là một kẻ thù còn tệ hại hơn Miraz và tất cả người của ông ta cộng lại.

- Nhưng không phải với người lùn, quả có thế - Nikabrik cãi lại.

Chuyến viếng thăm sau này dễ chịu hơn nhiều. Họ đi xuống vùng địa hình thấp hơn, núi đôi mở ra một thung lũng hẹp hoặc một dải đất mọc đầy cây cối rậm rạp với một con sông chảy xiết đổ xuống một thung lũng lòng chảo. Vùng đất rộng ở gần hạ nguồn mọc đầy hoa mao địa hoàng và hồng dại, không gian vang lên tiếng rù rì của đàn ong đi tìm mật. Đến đây Trufflethunter cất tiếng gọi:

- Glenstorm! Anh bạn Glenstorm! – Vài phút sau, Caspian nghe thấy tiếng gõ mỏng lộp cộp. Tiếng gõ mỏng mỗi lúc một mạnh hơn cho đến lúc cả thung lũng như rung lên và cuối cùng vọt ra khỏi một bụi rậm và giẫm nát cây cỏ xung quanh là một loại sinh vật ưu tú nhất mà Caspian từng nghe nói tới: Đại nhân mã Glenstorm và ba con trai. Hai bên sườn ông có màu hạt dẻ bóng loáng, chòm râu dài phủ kín bộ ngực rộng màu đỏ ngả sang màu vàng ròng. Ông chính là một nhà tiên tri và một nhà chiêm tinh nên đã biết trước cuộc viếng thăm của họ.

- Thánh thượng vạn tuế! – Ông kêu lên – Tôi và các con trai đã sẵn sàng ra trận. Khi nào thì trận đánh bắt đầu?

Cho đến lúc ấy cả Caspian và những người khác đều chưa nghĩ đến một cuộc chiến tranh. Có lẽ họ chỉ có những ý nghĩ mơ hồ về một cuộc vây bắt một vài người nông dân hoặc là việc tấn công một đám thợ săn nếu đám người đi săn này đi quá sâu vào vùng rừng hoang phía nam. Nhưng chủ yếu, họ mới chỉ nghĩ đến chuyện lẩn trốn trong rừng, hang động và xây dựng những căn cứ địa bí mật cho những cư dân còn lại của Narnia cổ. Nhưng khi nghe Glenstorm nói như thế ai nấy đều cảm thấy vấn đề nghiêm trọng hơn nhiều.

- Có phải ông muốn nói một cuộc chiến tranh thực sự sẽ đuổi Miraz ra khỏi Narnia không ạ?

- Chẳng lẽ còn có cái gì khác hay sao? – Nhân mã hỏi lại – Chẳng lẽ còn một cái gì khác nứa khiến bệ hạ mặc áo giáp và mang thanh kiếm bên người? 

- Điều đó có thể được không ông GlenStorm? – Bác lửng hỏi.

- Thời cơ đã chín muồi – Glenstorm đáp – Tôi quan sát bầu trời, anh lửng ạ, công việc của tôi là quan sát cũng như của anh là ghi nhớ. Tarva và Alambil đã gặp nhau trên những tầng trời cao xanh và dưới đất người của Adam một lần nữa lại xuất hiện, lập lại trật tự và đặt tên cho muôn loài. Giờ đã điểm. Hội nghị của chúng ta ở Đồng Cỏ Nhảy Múa sẽ là Hội nghị bàn về chuyện đánh giặc – Nhân mã nói bằng một giọng khiến cả Caspian lẫn những người khác đều không mảy may do dự nữa, bây giờ có vẻ họ có khả năng giành chiến thắng và chắc chắn họ phải tiến hành một cuộc tổng tiến công.

Bây giờ khoảng đầu giờ chiều, họ nghỉ ngơi ở chỗ nhân mã và ăn những món mà cha con nhân mã khoản đãi – bánh yến mạch, táo, rau thơm, rượu vang và cả phó mát.

Trạm dừng chân tiếp ở ngay bên cạnh nhưng họ phải đánh một đường vòng rất xa để tránh khu vực có người ở. Trời đã về chiều họ mới thấy mình đến những cánh đồng bằng phẳng, khuất gió nhờ những hàng rào bằng cây. Đến đây Trufflethunter chõ vào miệng một cái hang bé tẹo bên một bờ cỏ xanh rì và ló đầu ra goài một con vật cuối cùng mà Caspian chờ đợi – một chú chuột biết nói. Tất nhiên, chú ta lớn hơn một con chuột bình thường, đôi tai dài như thỏ nhưng rộng bản hơn ve vẩy liên tục. Chuột đứng lên hai chân sau, hơi kiễng lên một chút trong khi đưa chân trước lên chào. Tên chú là Reepincheep và là một con chuột hùng dũng, vui tươi. Chú ta dắt một thanh trường kiếm be bé bên hông và cuốn bộ ria dài lên như thể đó là một bộ ria mép.

- Tâu bệ hạ, có mười hai người tất cả - chú nói với một cái cúi chào rất nhanh và duyên dáng – thần không mảy may do dự đặt tất cả người của mình dưới sự lãnh đạo của bệ ha!

Caspian đã phải cố gắng lắm mới không phì cười với ý nghĩ là Reepicheep và người của nó đều có thể dễ dàng cho vào một cái sọt đựng quần áo dơ, vác trên vai đem về nhà. Sẽ mất nhiều thời gian nếu kể tên tất cả những sinh vật mà Caspian gặp trong ngày hôm ấy – Chuột chũi Clodsley Shovel, ba anh em Hardbiter (cũng thuộc dòng họ lửng như Trufflethunter), thỏ Camilo, nhím Hogglestock.

Cuối cùng họ ngồi nghỉ bên bờ giếng trên một bãi cỏ rộng, vuông vức và bằng phẳng, xung quanh có một hàng cây du cao lớn lúc này đang đứng hất bóng xuống bãi cỏ bởi mặt trời đã bắt đầu xuống núi đi ngủ, những bông hoa cúc đã xếp cánh lại, lũ quạ cũng bay về tổ. Ở đây, họ ngồi ăn bữa tối với những món mang theo và Trumpkin mồi lên một tẩu thuốc ( Nikabrik không phải là người nghiện thuốc).

- Bây giờ - bác lửng nói – nếu chúng ta có thể đánh thức linh hồn của những cái cây này và cả giếng nước này chúng ta sẽ có một ngày làm việc ra trò.

- Chúng ta không thể làm được việc đó sao? – Caspian hỏi.

- Không – Trufflethunter đáp – chúng ta không có quyền gì đối với họ. Kể từ khi con người đến đây, chặt phá cây rừng, làm ô uế các dòng nước thì các sơn thần và thủy thần đã chìm vào một giấc ngủ sâu. Không ai biết được là có thể đánh thức họ dậy được không? Đó là một thiệt hại to lớn về phía chúng ta. Người Telmarine rất sợ rừng núi và một khi cây rừng chuyển động trong cơn giận dữ, kẻ thù của chúng ta sẽ phát điên lên vì sợ và sẽ bị quét khỏi Narnia nhanh như một dòng nước cuốn trôi cỏ rác.

- Loài vật các ông có trí tưởng tượng kiểu gì thế? – Trumpkin nói, chú lùn này không tin vào những chuyện như vậy – Tại sao chỉ chú ý đến cây và nước? Không phải sẽ được việc hơn nếu đá bắt đầu quăng mình vào lão Miraz hay sao?

Bác lửng chỉ biết càu nhàu về câu nói đó, sau đó mọi người trở nên trầm tư. Caspian đã bắt đầu gà gật thì cậu cảm thấy dường như đâu đây vang lên chuỗi âm thanh giàu nhạc điệu nhưng hết sức mơ hồ, hình như nó vẳng ra từ cánh rừng sâu sau lưng cậu. Nhưng Caspian nghĩ đó chỉ là một giấc mơ, cậu quay đầu lại, ngả lưng nằm xuống đất. Đúng lúc tay cậu chạm xuống đất cậu cảm thấy hoặc nghe thấy (điều này khó có thể phân biệt được) như có tiếng trống đánh vọng lại từ rất xa. Cậu ngẩng đầu lên. Tiếng cắc bùm bum trở nên nhỏ hơn, yếu hơn nhưng tiếng nhạc lại vang lên, lần này rõ ràng hơn. Nghe lẫn vào đó tiếng sáo vi vút. Cậu bé thấy bác lửng ngồi dậy, nhìn chằm chằm vào cánh rừng. Ánh trăng bằng bạc và Caspian đã thiếp đi lâu hơn cậu nghĩ. Tiếng nhạc tiến đến gần hơn, gần hơn, âm điệu hoang dã nhưng lại có đến nửa phần mơ màng, hòa với tiếng dập dìu của nhiều bước chân nhẹ nhàng và cuối cùng tuôn ra từ trong rừng sâu, đến chỗ trảng cỏ rộng tràn ngập ánh trăng là những cái bóng nhãả múa, đúng như là Caspian đã mơ tưởng trong suốt cuộc đời mình. Những cái bóng cao hơn chú lùn một chút nhưng thanh mảnh hơn và duyên dáng hơn. Ló ra ngoài mái tóc quăn quăn dợn sóng là những cái sừng nhỏ, nửa thân hình phía trên của họ để trần sáng lên nhờ nhờ dưới ánh trăng bạc, nhưng đôi chân và bàn chân lại giống chân dê.

- Các vị thần rừng! – Caspian kêu lên, chồm dậy và trong nháy mắt mọi người đã quây quần quanh cậu. Không mất nhiều thời gian để giải thích mọi việc và để họ chấp thuận Caspian. Trước khi cậu bé nhận rõ mình đang làm gì thì cậu đã thấy mình bước vào vòng nhảy múa của họ. Trumpkin với những cử động nặng nề, cà giựt cũng làm như cậu, thậm chí cả bác lửng với những bước nhảy lò cò và vụng về mà bác cố làm ra vẻ duyên dáng cũng tham gia. Chỉ có Nikabrik là đứng ở vòng ngoài, im lặng khoanh tay đứng nhìn. Những thần rừng đứng quanh Caspian thổi sáo bằng những ống sậy. Khuôn mặt họ vừa vui vừa buồn, hướng về phía cậu; hàng chục thần rừng, những Mentius, Nimienus, Nausus và Oscun. Chú sóc Pattertwif đã mời tất cả bọn họ tới đây.

Sáng hôm sau khi Caspian thức dậy, cậu khó mà xác định được tất cả những điều đó là thật hay chỉ xảy ra trong mơ; nhưng trên lớp cỏ mềm vẫn còn để lại đầy những dấu chân có những chiếc móng guốc nho nhỏ.

CHƯƠNG 7

 Narnia nước sôi lửa bỏng

Nơi mà họ gặp các thần rừng, tất nhiên, chính là Đồng Cỏ Nhảy Múa và Caspian cùng những người bạn ở lại cho đến tận đêm tổ chức Hội nghị. Ngủ dưới bầu trời lấm tấm các vì sao, chỉ uống nước giếng khơi và sống chủ yếu bằng hạt dẻ và các trái cây rừng là một trải nghiệm kỳ lạ, mới mẻ đối với Caspian sau khi cậu đã sống bao nhiêu năm trên chiếc giường đế vương, trải một thứ lụa quý nhất đặt trong một căn phòng trang hoàng đẹp đẽ ở hoàng cung, ăn ngay trong căn phòng xa hoa dành cho riêng cậu trong những bộ đồ ăn bằng vàng bằng bạc và lúc nào cũng có một đội quân túc trực sẵn sàng nhảy lên vì một cái liếc mắt của cậu. Nhưng suốt đời, chưa bao giờ Caspian có những ngày vui như thế. Không phải ngủ để cho đã mắt và ăn cho đã miệng, thân hình cậu thiếu niên bắt đầu trở nên săn chắc và khuôn mặt có một vẻ cao quý, uy nghi hơn.

Khi cái đêm trọng đại ấy đến, những vị khách kỳ lạ, gồm đủ loại của ông hoàng trẻ tuổi xuất hiện trên bãi cỏ theo từng đôi hoặc một nhóm ba người. Vầng trăng sáng tinh khôi ngự trên đỉnh trời như vào đêm trước hôm rằm. Trái tim Caspian như nở ra khi thấy khách kéo đến và nghe lời chào râm ran của họ. Tất cả những người mà cậu biết đều có mặt ở đây: Anh em nhà gấu Bulgy, các chú lùn Đỏ và Đen, chuột chũi, lửng thỏ, nhím, và cả những loài mà cậu chưa từng gặp bao giờ: Năm thần dê đỏ rực như loài cáo, tất cả họ hàng của chuột biết nói được vũ trang cho đến tận răng đi theo sau một người thổi kèn trumpet lanh lảnh. Ngoài ra có có cú, quạ già Ravenscaur. Cuối cùng (và làm cho Caspian sợ muốn chết) là một người khổng lồ thuộc loại nhỏ con nhưng là người khổng lồ thứ thiệt tên là Wimbleweather ở Đồi Người Chết. Khổng lồ đến cùng với cha con nhân mã. Trên lưng khổng lồ mang một cái sọt đựng những chú lùn bị say sóng, những người này đã chấp nhận lời đề nghị quá giang của khổng lồ và bây giờ chỉ mong muốn là được bước xuống để tự đi lại.

Anh em nhà gấu Bulgy nóng lòng muốn ăn nhậu trước rồi bàn việc nước sau, việc trọng đại bao giờ cũng phải nhường cho chuyện ăn uống trước. Chuột Reepicheep và họ hàng có ý kiến rằng cả hội nghị lẫn tiệc tùng đâu có thể đợi được và đề nghị tấn công Miraz ngay trong đêm nay, cứ xông thẳng vào hoàng cung của hắn. Sóc Pattertwig và họ sóc thì nói họ có thể vừa ăn uống vừa bàn chuyện, thế thì sao không tiến hành cả hai việc cùng một lúc và ngay lập tức? Chuột chũi đề nghị nhổ tất cả hàng rào chung quanh bãi cỏ trước khi họ làm bất cứ việc gì khác. Theo ý kiến thần rừng thì tốt nhất hãy bắt đầu bằng một vũ điệu trang nghiêm. Quạ già trong lúc đồng ý với anh em nhà gấu là việc hội họp sẽ mất nhiều thời gian hơn chuyện ăn uống thì lại đề nghị cho phép giới thiệu ngắn gọn về mọi người. Nhưng Caspian, nhân mã và các chú lùn kiên quyết phản đối tất cả những đề nghị này, khăng khăng đòi tổ chức ngay một cuộc hội đàm về cuộc chiến tranh Phục Quốc.

Khi tất cả những thành viên khác đã được thuyết phục, ai nấy ngồi xuống một cách trật tự trong một vòng tròn lớn và khi (với một chút khó khăn) mới khiến cho chú sóc Pattertwig ngừng nhảy nhót, bác lửng nói giọng dõng dạc:

- Im lặng! Xin mọi người giữ trật tự để nghe đức vua nói!

Caspian với một chút hồi hộp, đứng lên.

- Hỡi đồng bào Narnia... - cậu vừa bắt đầu và chưa kịp nói thêm điều gì thì chú thỏ Camillo đã cắt ngang:

- Suỵt! Có một con người ở gần đâu đây.

Tất cả những đứa con của tự nhiên này đều đã quen với việc bị săn bắt, truy đuổi; họ ngồi im phăng phắc như pho tượng, các con thú chõ mõm về hướng Camillo đã chỉ.

- Nghe như mùi con người nhưng cũng không hẳn là con người. - Trufflehunter thì thào.

- Nó đang tiến đến gần hơn. - Camillo nói.

- Hai bác lửng và ba chú lùn với những mũi tên đã sẵn sàng hãy nhẹ nhàng tiếp cận đối phương. - Caspian ra lệnh.

- Chúng tôi sẽ giải quyết vụ này. - Chú lùn Đen cười gằn, bật căng một dây cung.

- Đừng bắn nếu chỉ có một người. - Caspian nói. - Hãy bắt mang về đây.

- Tại sao? - Chú lùn hỏi.

- Hãy làm đúng theo lệnh. - Nhân mã Glenstorm nói.

Mọi người ngồi im chờ đợi trong lúc ba chú lùn và hai con lửng luồn lách qua những bóng cây ở mặt bắc Đồng Cỏ để đi thám thính. Chợt vang lên tiếng kêu lanh lảnh của một chú lùn:

- Dừng lại! Kẻ nào đang đi đến đấy? - Có một cái gì bất thần nhảy phóc một cái.

Một phút sau vang lên cái giọng nói mà Caspian biết rất rõ:

- Được rồi, được rồi, tôi không mang theo vũ khí. Các vị cứ trói tay tôi đi, các bạn lửng quý mến, nhưng đừng có cắn tôi là được. Tôi muốn nói chuyện với đức vua.

- Tiến sĩ Cornelius! - Caspian kêu lên vui sướng và chạy ra đón người thầy cũ của mình.

Những người khác vây quanh họ.

- Chà! - Nikabrik dè bỉu. - Đúng là một thằng lùn ba rọi. Một tên một nửa của một nửa. Tôi có thể cắt cổ nó bằng một nhát gươm được không?

- Trật tự nào, Nikabrik. - Trumpkin nói. - Người ta không thể chọn người sinh ra mình.

- Đây là người thầy, người bạn lớn nhất và là người đã cứu cả đời tôi. - Caspian nói. - Bất cứ ai không thích đứng cùng một chiến tuyến với ông có thể rời khỏi đội quân của tôi ngay lập tức. Thầy yêu quý, rất mừng là lại được gặp thầy. Làm sao thầy lại tìm được nơi đây?

- Bằng một chút pháp thuật đơn giản, tâu bệ hạ. - Tiến sĩ nói, vẫn thở hổn hển vì đi quá nhanh.

- Nhưng không còn thời gian nói chuyện nữa. Chúng ta phải trốn khỏi nơi này ngay. Bệ hạ đã bị người ta tố giác và Miraz đã chuẩn bị sẵn sàng để hành động. Vào khoảng trước giờ trưa ngày mai bệ hạ sẽ bị bao vây.

- Một tên lùn lai nào đó, không có gì phải nghi ngờ. - Nikabrik nói.

- Bởi con ngựa Destrier của bệ hạ, - tiến sĩ nói, - con vật tội nghiệp đó không biết làm gì hơn. Khi bệ hạ bị ngã, nó lồng lên phóng thẳng về chuồng ngựa trong lâu đài. Tất nhiên bí mật của việc bỏ trốn vì thế mà bị bại lộ. Thần cũng phải tìm cách cao chạy xa bay vì không muốn bị tra tấn trong phòng khổ hình của Miraz. Sở dĩ thần biết được ít nhiều là nhờ quả cầu pha lê và vì thế thần có thể tìm ra bệ hạ. Nhưng suốt cả ngày - tức là ngày hôm kia - thần chỉ thấy những đội quân tuần tiễu của Miraz trong các khu rừng. Ngày hôm qua thần biết được những đội quân đó đã rút. Thần quả không nghĩ được là à... một số người lùn thuần chủng lại có thể ngờ nghệch đến thế, các người đã để lại dấu vết ở khắp mọi nơi. Thật là một sự bất cẩn không thể chấp nhận được. Đúng là ở bất cứ đâu cũng có dấu vết báo cho tên Miraz biết là một nước Narnia cổ còn chưa chết hẳn như hắn hy vọng và bây giờ hắn đã bắt tay vào hành động.

- Hoan hô! - Một giọng nói nhỏ và rin rít vang lên từ đâu đó dưới chân tiến sĩ. - Cứ để bọn chúng đến đây. Ta sẽ đánh tan thây. Tất cả những điều mà thần cầu xin bệ hạ là hãy cho thần và người của thần vào đội quân xung kích.

- Trời đất, cái gì thế này? - Tiến sĩ kêu lên. - Bệ hạ thu nạp cả châu chấu và muỗi vào đội quân của mình như thế này ư? - Sau đó ông cúi xuống, cẩn thận xem xét dưới chân qua cặp kính lão, đoạn phá lên cười.

- Thề có sư tử, - ông nói, - đây là một con chuột. Thưa ngài chuột, tôi rất tha thiết được biết về ngài rõ hơn. Thật hân hạnh được diện kiến một sinh vật quả cảm như thế này.

- Ông sẽ có được tình bạn của tôi, con người học thức ạ. - Reepicheep chin chít kêu lên. - Bất cứ một người lùn hay một người khổng lồ trong đội quân này mà dám nói một điều bất kính với ông, hắn sẽ nhận được một mũi kiếm của tôi ngay.

- Còn có thời gian cho những chuyện ngu ngốc này hay sao? - Nikabrik hỏi. - Kế hoạch của chúng ta thế nào? Đánh trả hay chuồn?

- Đánh lại là cần thiết. - Trumpkin nói. - Nhưng ta còn chưa chuẩn bị sẵn sàng cho chuyện này và đây không phải là một chỗ phòng vệ.

- Tôi không thích cái ý bỏ chạy. - Caspian nói.

- Tuân lệnh bệ hạ! Tuân lệnh bệ hạ! - Anh em nhà gấu Bulgy nói. - Dù chúng ta có làm gì thì cũng đừng bỏ chạy. Đặc biệt là không bỏ chạy trước bữa tiệc, không quá sớm cũng không quá trễ.

- Những ai bỏ chạy đầu tiên sẽ không bao giờ phải chạy cuối cùng. - Nhân mã nói. - Tại sao chúng ta lại để cho quân thù đẩy mình vào vị thế chúng muốn mà lại không làm ngược lại, tự chọn một vị trí cho mình? Hãy tìm một địa thế hiểm yếu hơn.

- Thật khôn ngoan, thưa bệ hạ, như thế thì thật là khôn ngoan. - Truffehunter nói.

- Nhưng mà chúng ta biết đi đâu? - Một vài giọng nhao nhao.

- Tâu bệ hạ, - tiến sĩ Cornelius nói , - và tất cả các anh em muôn loài, chúng ta nên đi về phía đông, xuôi theo dòng sông xuống những cánh rừng lớn. Quân Telmarine căm ghét vùng này. Bọn chúng bao giờ cũng sợ biển và một cái gì có thể đến từ phía biển. Đó là lý do tại sao chúng để cho rừng rậm mọc tràn lan. Nếu truyền thuyết nói đúng sự thật, lâu đài Cair Paravel cổ nằm ở gần cửa sông. Cả vùng này thân thiện với ta nhưng lại căm ghét kẻ thù của ta. Quân ta phải đến vùng đồi Aslan hay còn gọi là Gò Đôi.

- Gò Đôi ư? - Một vài giọng vang lên. - Chúng tôi chẳng biết nó là cái gì hết.

- Đó là vùng đất nằm ở vùng ngoại vi Rừng Đại Ngàn và đó là một gò đất lớn từ đó người Narinia đã ra đời trong thời kỳ cổ xưa. Cũng là một vùng đất màu nhiệm, nơi nó tọa lạc - và có lẽ bây giờ vẫn còn đó - là một vùng núi đá màu nhiệm. Gò đất rỗng lòng có hai đường hầm và nhiều hang động, còn tảng đá thì nằm ở giữa hang. Ở đây có chỗ dành để chứa kho tàng, vũ khí; ai trong chúng ta cần ẩn náu và đã quen với cuộc sống dưới lòng đất sẽ ở trong những cái hang này. Số còn lại sẽ sống trong rừng. Vào những lúc có biến hoặc nguy cấp, tất cả chúng ta (trừ khổng lồ đáng kính này) có thể rút vào trong lòng gò và ở đấy chúng ta sẽ ở ngoài vòng tấn công của kẻ thù và có lẽ chỉ cái đói là không loại trừ được.

- Thật là may mắn khi có được một người học thức trong chúng ta. - Trufflehunter thốt lên trong khi Trumpkin lạu bạu trong họng:

- Xúp và cần tây! Tôi chỉ mong sao những nhà lãnh đạo của chúng ta nghĩ ít hơn về những chuyện bếp núc của các bà vợ già mà nghĩ nhiều hơn về lương thực và vũ khí.

Nhưng đêm ấy, tất cả đều tán thành đề xuất của tiến sĩ Cornelius và nửa tiếng sau họ đã lên đường. Trước lúc mặt trời mọc mọi người đã hành quân đến Gò Đôi.

Đây quả là một nơi lý tưởng cho mục đích của họ: một quả đồi tròn, xanh rờn cây cỏ nằm úp lên một quả đồi khác, từ lâu cây cối đã mọc lên che phủ tất cả. Chỉ có một con đường thấp, nhỏ dẫn lên đấy. Những đường hầm bên trong tạo thành một mê cung hoàn hảo cho đến lúc bạn biết rõ đường đi nước bước. Trong hang, những tảng đá nhẵn nhụi tạo thành mái nhà, đôi chỗ lọt xuống một chút ánh sáng để cho Caspian nhìn thấy những ký tự xa lạ và những hình vẽ ngoằn ngoèo cùng những bức vẽ trong đó hình ảnh sư tử lặp đi lặp lại. Tất cả những thứ này dường như thuộc về một thời kỳ thậm chí còn xa xưa hơn cái thời mà nhũ mẫu đã kể cho cậu nghe.

Nhưng sau khi họ đã rút quân vào trong lòng gò đất và ẩn trong rừng sâu thì vận may lại quay lưng lại với họ. Quân trinh thám của vua Miraz chẳng bao sau đã tìm ra nơi ẩn náu mới của họ, đích thân nhà vua đã cầm quân đi đến bìa rừng. Và như một điều thường xảy ra, quân thù hóa ra mạnh hơn họ dự đoán. Trái tim của ông hoàng nhỏ tuổi thắt lại khi nhìn hết đội quân này đến đội quân khác kéo đến. Mặc dầu người của vua Miraz sợ không dám đi vào trong rừng sâu nhưng họ còn sợ ông vua của họ hơn và với lệnh vua ban họ vẫn tiến hành cuộc phục kích trong rừng, đôi khi đi đến tận Gò Đôi. Caspian và các đội trưởng đã mấy lần xông ra phá vây ở những khoảng trống. Những trận đánh thường diễn ra vào ban ngày và cả ban đêm nữa nhưng tổn thất thường thuộc về đội quân của Caspian.

Cuối cùng đến một đêm nọ, mọi thứ trở nên xấu hết mức. Mưa tầm tã suốt cả ngày chỉ đến lúc màn đêm buông xuống mới tạnh, nhường chỗ cho cái lạnh tê tái. Sáng hôm ấy, Caspian đã hoạch định một trận đánh lớn nhất và tất cả đều nuôi hy vọng vào trận đánh quyết định này.

Caspian dẫn đầu một đội quân đa số là người lùn sẽ đột kích vào đội quân cánh tả của địch khi ánh ngày vừa rạng lên và khi trận giao tranh đã trở nên dữ dội, người khổng lồ Wimbleweather cùng với cha con nhân mã và một số thú dữ sẽ phá vỡ vòng vây ở một nơi khác, cắt cánh quân này ra khỏi toàn quân. Nhưng kế hoạch này đã thất bại hoàn toàn. Chẳng có ai báo trước cho Caspian biết (bởi vì cho đến lúc này không có ai ở Narnia còn nhớ được) rằng người khổng lồ là giống to đầu mà dại. Wimbleweather đáng thương, mặc dầu dũng mãnh như một con sư tử lại có một bộ óc tỉ lệ nghịch với vóc dáng vĩ đại của mình. Ông ta đã ra tay không đúng chỗ đúng lúc làm cho cả đội quân của mình lẫn đội quân của Caspian đều tổn thất nặng nề trong khi quân địch lại không hề hần gì. Những chú gấu giỏi nhất đã bị thương, một nhân mã bị thương rất nặng và chỉ có một ít người trong đội của Caspian là không bị đổ máu. Bại quân chen chúc nhau dưới những tán cây ướt sũng nước mưa với bữa tối đạm bạc. Không khí ảm đạm bao trùm khắp nơi. Người rầu rĩ nhất chính là người khổng lồ Wimbleweather. Ông biết rõ tất cả là lỗi của mình. Ông ngồi im lặng gạt những giọt nước mắt to tướng chảy ròng ròng nơi chóp mũi, rồi vẩy nước mắt lên đám nhà chuột vừa mới bắt đầu ngủ gà ngủ gật. Họ nhà chuột nhẩy dựng lên, vẫy nước ra khỏi tai, vắt cái chân bé tẹo ướt sũng vì nước mắt và nhao nhao nói khổng lồ bằng cái giọng chit chit nhưng đầy sức thuyết phục là phải chăng khổng lồ nghĩ họ nhà chuột chưa đủ ướt trong một ngày như thế này. Những sinh vật khác thức giấc vì tiếng ồn đã nhắc bọn chuột nhớ là chúng đang là những người lính trinh sát chứ không phải đang đến dự một đại nhạc hội và hỏi chúng tại sao không giữ yên lặng. Wimbleweather rón rén đi tìm một nơi yên tĩnh để có thể một mình ngồi gặm nhấm nỗi khổ tâm của mình, thế nhưng ông lại dẫm lên đuôi của một sinh vật nào đó, vị này (sau này mọi người nói lại đó là một con sóc) đã quay lại đớp vào chân khổng lồ một cái. Rõ là chẳng có ai còn tự kiềm chế được.

Trong khi đó ở một thạch thất bí mật và thiêng liêng nằm ở trung tâm gò đất hoang, nhà vua trẻ Caspian cùng tiến sĩ Cornelius, bác lửng, Nikabrik và Trumpkin đang họp bàn việc quân. Những tấm ván dày của các nghệ nhân cổ đỡ trần hang. Giữa phòng là một tảng đá - một cái bàn bằng đá nằm ở chính giữa, trên mặt bàn phủ kín một cái gì đó đã từng là những con chữ nhưng gió, mưa, tuyết gần như đã xóa mờ những dòng chữ từ cái thuở xa xưa khi Bàn Đá còn nằm trên ngọn đồi và gò đất này lúc ấy vẫn còn chưa được phôi thai.

Mọi người không dùng Bàn Đá mà cũng không ngồi chung quanh: nó là một vật quá huyền bí cho bất cứ một mục đích sử dụng thông thường nào. Họ ngồi trên những súc gỗ cách Bàn Đá một chút, giữa họ là một cái bàn gỗ mộc, trên bàn có để một ngọn đèn bằng đất sét hắt ánh sáng lên mặt họ và đổ những cái bóng lù lù lên tường.

- Nếu đức vua có bao giờ cần đến cái tù và, - bác lửng nói, - thì thần nghĩ đó là vào lúc này. - Tất nhiên Caspian đã cho họ biết về cái tù và thần vào mấy ngày trước.

- Chắc chắn là chúng ta rất cần, - Caspian nói, - nhưng khó mà biết chắc được chúng ta đã ở trong hoàn cảnh nguy khốn nhất hay chưa. Giả sử có thể còn có những hoàn cảnh khốn đốn hơn nữa mà chúng ta thì đã dùng đến nó rồi?

- Với luận điểm này, - Nikabrik nói, - đức vua sẽ không bao giờ dùng đến nó cho đến khi quá trễ.

- Tôi cũng nhất trí với quan điểm đó. - Tiến sĩ nói.

- Còn ông nghĩ sao hở Trumpkin? - Caspian hỏi.

- Về phần tôi, - người lùn Đỏ nói, nãy giờ ông vẫn ngồi nghe với một vẻ hoàn toàn thờ ơ, - bệ hạ cũng biết rằng tôi nghĩ cái tù và... và tảng đá vỡ ở đằng kia... và Peter Đại đế của các người... và cả sư tử Aslan nữa... đều là những quả trứng trong mộng ảo. Tất cả đều như nhau với tôi. Điều mà tôi khẩn thiết yêu cầu là quân đội không được biết bất cứ cái gì về chuyện này. Chẳng có gì tốt lành khi khơi lên những hy vọng hão huyền về một sự giúp đỡ thần kỳ - một điều (theo thiển ý của tôi) chắc chắn chỉ làm cho người ta thất vọng.

- Vậy thì nhân danh Aslan, chúng ta sẽ thổi tù và của nữ hoàng Susan. - Caspian nói.

- Tâu bệ hạ, - tiến sĩ lên tiếng, - có lẽ có một việc phải làm trước đã. Chúng ta không được biết là sự giúp đỡ sẽ đến từ đâu. Nó có thể mời gọi Aslan từ biển khơi trở về. Nhưng tôi nghĩ nhiều khả năng nó sẽ mời Peter Đại đế và những người em trở về từ quá khứ. Trong cả hai trường hợp tôi không dám chắc là sự giúp đỡ có xảy ra ở chính nơi này hay không...

- Ông tiến sĩ chưa bao giờ nói một lời nào đúng hơn. - Trumpkin nói.

- Tôi nghĩ, - con người hiểu biết ấy tiếp tục nói, - rằng họ - hay là ngài - sẽ quay lại chỗ này hay chỗ khác trong một vùng đất cổ xưa của nước Narnia. Nơi này, đúng cái nơi chúng ta đang ngồi đây là nơi cổ xưa nhất và màu nhiệm nhất và ở đây, tôi cho là câu trả lời dễ có khả năng xảy ra nhất. Nhưng còn có hai nơi khác nữa. Một là cột đèn thượng nguồn, phía tây đập Hải Ly nơi những Thiếu niên Vua chúa xuất hiện lần đầu tiên ở Narnia như sử sách ghi lại. Địa điểm còn lại ở dưới hạ nguồn, chỗ cửa sông nơi lâu đài của họ - Cair Paravel - tọa lạc. Còn nếu như chính Aslan xuất hiện thì đấy cũng là nơi tốt nhất có thể gặp ngài bởi vì tất cả các câu chuyện đều nói rằng ngài là con trai của Thương Hải Đại Vương và biển cả là nơi ngài sẽ đi qua. Vì vậy, thần đề nghị cử đến đấy hai sứ giả - cả ở Cột Đèn lẫn cửa sông, để đón họ - hoặc đón ngài - hoặc đón một sự giúp đỡ nào đó.

- Đúng như tôi nghĩ, - Trumpkin làu bàu, - hậu quả đầu tiên của những trò hề này vốn chẳng mang lại được cái gì giúp chúng ta mà chỉ là làm mất đi hai chiến sĩ.

- Ông nghĩ đến việc cử ai đi, tiến sĩ Cornelius? - Caspian hỏi.

- Sóc là loài vật tốt nhất có thể đi qua vùng địch mà không bị bắt. - Bác lửng nói.

- Tất cả những con sóc của chúng ta (mà chúng ta thì đâu có nhiều), - Nikabrik nói, - đều có tính lông bông, bắng nhắng. Người đáng tin nhất mà tôi trông cậy trong chuyện này là Pattertwig.

- Vậy thì hãy cử Pattertwig. - Caspian nói. - Còn ai nữa nào? Bác Trufflehunter, tôi biết bác rất muốn đi nhưng bác lại không được nhanh nhẹn cho lắm. Cũng không phải là ông đâu, tiến sĩ Cornelius ạ.

- Tôi không đi đâu. - Nikabrik nói. - Với sự có mặt của cả con người lẫn các loài vật khác, ở đây cần phải có một người lùn ở lại để xem những người lùn có được đối xử công bằng không.

- Vòng sắt và sấm sét! - Trumpkin giận dữ kêu lên. - Sao có thể nói như thế với đức vua? Tâu bệ hạ, để thần đi.

- Nhưng tôi nghĩ ông không tin vào cái tù và cơ mà? - Caspian hỏi.

- Tâu bệ hạ, thần vẫn nghĩ vậy. Nhưng có thể làm gì được cơ chứ? Thần có thể bị chết vì bị một con ngỗng dại đuổi cũng như có thể chết ở đây. Người là đức vua của thần và thần biết sự khác nhau giữa việc đưa ra lời khuyên và việc chấp hành mệnh lệnh. Bệ hạ đã nghe ý kiến của thần, bây giờ là lúc thần phải thi hành thượng lệnh.

- Tôi sẽ không bao giờ quên điều này, Trumpkin ạ. - Caspian nói. - Vậy hãy cử Pattertwig và ông đi. Khi nào thì tôi sẽ thổi tù và đây?

- Thưa bệ hạ, xin hãy đợi đến lúc mặt trời mọc. - Tiến sĩ Cornelius nói. - Đó là khoảng thời gian có tác động đến việc vận hành Pháp Thuật Trắng.

Vài phút sau Pattertwig đi vào và được nghe mọi người giải thích rõ về nhiệm vụ của sóc. Bởi vì chú ta, cũng như nhiều con sóc khác có thừa can đảm, nhiệt tình, năng lượng, phấn khích và cả sự tinh quái (không nói quá đâu) chú ta chẳng muốn nghe cho ra đầu ra đũa mà nóng lòng muốn đi ngay lập tức. Có một sự phân công rõ ràng, chú sóc sẽ đi đến Cột Đèn trong khi Trumpkin đi một đoạn đường ngắn hơn xuống mạn cửa sông. Sau một bữa ăn vội vã cả hai lên đường cùng với lời cảm ơn thành thật và những lời chúc phúc của nhà vua, bác lửng và tiến sĩ Cornelius.

CHƯƠNG 8

 Một cuộc so tài

- Và thế là, - Trumpkin nói, (như bạn có thể nhận ta chú lùn này chính là người kể lại tất cả những câu chuyện trên cho bốn anh em nghe trong lúc họ ngồi trên bãi cỏ trong đại sảnh đổ nát của lâu đài Cair Paravel), - và thế là tôi cho một hay hai mẩu bánh mỳ khô vào túi áo, bọc lại tất cả vũ khí trừ một con dao găm và đi vào rừng từ lúc tinh mơ. Tôi cứ đi như thế trong vòng mấy giờ liền thì nghe vang lên một âm thanh mà tôi chưa bao giờ thấy kể từ ngày sinh ra đời. Này, tôi sẽ không bao giờ quên được đâu. Cả không gian tràn ngập tiếng vọng của nó, vang rền như tiếng sấm nhưng ngân dài hơn, ngọt ngào, trong lành như tiếng nhạc trên mặt nước nhưng đủ mạnh để làm rừng cây chao đảo. Thế là tôi bụng bảo dạ: “Này, nếu không phải là tiếng tù và thì cứ gọi tớ là đồ thỏ đế đi!” Vài giây sau tôi tự hỏi tại sao vua lại không thổi tù và sớm hơn...

- Lúc ấy khoảng mấy giờ? - Edmund hỏi.

- Khoảng từ 9 giờ đến 10 giờ. - Trumpkin nói.

- Đó là lúc chúng tôi đang ngồi ở sân ga xe lửa! - Cả bốn đứa đồng thanh nói, đứa nọ nhìn đứa kia, mắt ngời sáng.

- Xin hãy kể tiếp đi ạ. - Lucy giục chú lùn.

- Phải, như thôi đã nói, tôi lấy làm ngạc nhiên nhưng thôi phải tiếp tục vắt chân lên cổ mà chạy. Tôi cứ đi nhanh như thế suốt đêm và rồi khi ngày bắt đầu hửng lên, cứ như thể tôi cũng không khôn ngoan gì hơn khổng lồ, tôi liều mạng đi tắt qua một khu vực trống trải để ra nhánh sông lớn và đã bị chộp ở đây. Không phải bởi một đội quân mà bởi một thằng ngốc già vênh váo được giao canh gác một lâu đài nhỏ là đồn lũy cuối cùng của Miraz ở gần biển. Tôi không cần nói với quý vị là chúng chẳng moi gì được ở tôi, bởi vì tôi là một người lùn và như thế là đủ. Tôm và kẹo que! Cái thằng đồn trưởng ấy đúng là một thằng đại ngốc chỉ được cái vênh váo. Bất cứ ai cũng sẽ dẫn tôi đi qua đây. Nhưng chẳng có gì khiến hắn yên tâm hơn việc giải quyết tôi gọn nhẹ: bằng cách tống tiễn tôi đến chỗ ma quỷ với đầy đủ nghi thức. Và lúc ấy tiểu thư này (ông gật đầu với Susan) đã bắn tên đi - đó là một phát tên tuyệt đẹp. Tôi cần phải nói cho quý vị biết thế... và bây giờ chúng ta ở đây. Không còn con dao găm nữa bởi vì tất nhiên bọn chúng đã tước mất rồi! - Người lùn dốc tàn thuốc ra khỏi tẩu và mồi một tẩu thuốc khác.

- Thánh Scott vĩ đại! - Peter thốt lên. - Đấy là cái tù và - cái tù và của em, Su ạ. Chính nó đã kéo chúng ta ra khỏi ghế ngồi ở sân ga sáng hôm qua! Anh khó lòng tin nổi chuyện này, dù nó hoàn toàn khớp với nhau.

- Em không hiểu tại sao anh lại không tin, - Lucy nói, trong khi anh vẫn tin vào các phép màu. Chúng phải có nhiều câu chuyện nói về các phép thuật buộc con người ta phải rời khỏi chỗ của mình - ra khỏi một thế giới này để bước vào một thế giới khác - hay sao? Em muốn nói khi một pháp sư trong truyện Ngàn lẻ một đêm gọi một vị thần nào đó thì ông thần này bao giờ cũng hiện lên đấy thôi. Chúng ta nhất định phải đến, chỉ đơn giản thế thôi.

- Phải, - Peter nói, - anh cho rằng cái điều làm cho nó có vẻ kỳ lạ chính là trong những câu chuyện ấy bao giờ cũng có một ai đó trong thế giới chúng ta cầu cứu. Không một ai thật sự thấy rõ các vị ấy từ đâu đến.

- Thế thì bây giờ chúng ta được biết một vị thần có cảm giác như thế nào. - Edmund nói với một tiếng cười thích chí. - Chao ôi! Cũng có chút bực mình khi biết chúng ta có thể bị lôi đi như thế này. Thế còn tệ hơn là cái điều mà bố nói về việc sống nhờ vào ơn huệ của điện thoại.

- Nhưng chúng ta muốn có mặt ở đây, đúng không nào, - Lucy hỏi, - nếu như Aslan cần đến chúng ta.

- Còn bây giờ, - chú lùn xen vào, - chúng ta sẽ làm gì? Tôi cho rằng tốt nhất là tôi nên quay về chỗ vua Caspian báo lại là chẳng có sự giúp đỡ nào cả.

- Không có sự giúp đỡ ư? - Susan xen vào. - Nó đã có tác dụng. Chúng tôi đã đến đây.

- Hừm, hừm... à phải, chắc chắn rồi. Tôi thấy rồi. - Chú lùn nói, cái tẩu lại tắt ngúm (dù sao thì ông cũng khiến cho mình bận rộn luôn tay với việc thông tẩu thuốc). - Nhưng... phải. Tôi muốn nói...

- Nhưng ông không nhận ra chúng tôi là ai sao? - Lucy la toáng lên. - Ông thật ngốc quá đi.

- Tôi cho rằng quý vị là bốn đứa trẻ bước ra từ những huyền thoại xưa cũ. - Trumpkin nói. - Tất nhiên tôi rất vui mừng khi được gặp quý vị. Thật thú vị, đúng thế. Nhưng... thôi đừng phật lòng nhé... - và ông ta lại lúng búng trong miệng một lúc.

- Đừng quanh co nữa, cứ nói toạc ra cái điều ông định nói đi. - Edmund nói.

- Vâng... đừng bực bội. - Chú lùn lẩm bẩm. - Nhưng quý vị biết đấy, đức vua, bác lửng Truffehunter và tiến sỹ Cornelius trông đợi - phải, nếu các vị hiểu tôi muốn nói gì - vào một sự giúp đỡ. Nói một cách khác tôi nghĩ họ hình dung quý vị là những chiến binh vĩ đại. Nói thật tình chúng tôi cũng rất yêu các cháu nhỏ, thật thế... nhưng chả là vào lúc này, giữa lúc nước sôi lửa bỏng của một cuộc chiến... nhưng tôi chắc quý vị hiểu...

- Ông muốn nói ông nghĩ chúng tôi chỉ là mấy nhãi nhép vô tích sự? - Edmund nói, mặt đỏ gay đỏ gắt. 

- Làm ơn... xin quý vị đừng mếch lòng. - Chú lùn cắt ngang. - Tôi xin đoan chắc... những người bạn nhỏ thân yêu của tôi...

- Nhỏ? Cái từ này ở miệng ông có nghĩa quá lớn đấy. - Edmund nói, nhảy dựng lên. - Tôi cho là ông không tin là chúng tôi đã thắng trong trận Beruna. Phải, ông cứ nói trắng ra cái điều ông muốn nói về chúng tôi, bởi vì tôi biết...

- Thôi nào, không việc gì phải mất bình tĩnh, Ed. - Peter nói. - Hãy vào trong kho báu trang bị cho ông ta vũ khí thích hợp và cho cả chúng ta nữa, sau đó hãy nói chuyện như những người lớn.

- Em còn chưa rõ điểm này. - Edmund bắt đầu thấy Lucy đã nói thầm vào tai nó. - Chẳng phải tốt hơn nếu chúng ta làm theo lời anh Peter sao. Anh ấy lại là vị vua tối cao, anh cũng biết rõ còn gì. Em nghĩ anh ấy có một ý nào đó.

Edmund đồng ý ngay và cùng với ngọn đuốc chạy bằng pin cả bốn anh em cùng với ngọn đuốc chạy pin cả bốn anh em cùng Trumpkin đi xuống thang vào kho châu báu vừa tối vừa lạnh lẽo và đầy bụi bẩn.

Mắt chú lùn sáng lên khi nhìn thấy bao nhiêu là báu vật nằm trên kệ (mặc dầu ông phải kiễng chân lên mới nhìn thấy một phần) và ông lẩm bẩm một mình:

- Không bao giờ được để cho Nikabrik biết điều này, không bao giờ! 

Họ dễ dàng tìm thấy một bộ áo giáp cùng gươm, mũ trụ, khiên, cung và một bao đựng tên, phù hợp với chiều cao của một người lùn. Mũ trụ bằng đồng có dát những viên hồng ngọc và chuôi gươm bằng vàng. Trumpkin chưa bao giờ nhìn thấy mà cũng chưa bao giờ mang trên người những vật nhẹ là thế mà lại giá trị đến thế. Bọn trẻ cũng tự trang bị cho mình áo giáp và mũ trụ; một thanh gươm và một cái khiên cho Edmund, cung và tên cho Lucy. Peter và Susan thì đã có sẵn những món quà của mình. Khi bọn trẻ lên cầu thang, nai nịt gọn gàng trong những bộ áo giáp, chúng đã có cái dáng vẻ và cảm xúc gần gũi với người Narnia hơn và ít đi cái chất của học trò người Anh hơn. Hai anh em trai tụt lại sau một chút, rõ ràng là đang bàn tính một kế hoạch gì đó. Lucy nghe Edmund nói:

- Không, hãy để em làm việc này. Ông ta sẽ cảm thấy bẽ mặt hơn nếu em thắng và chúng ta cũng đỡ mất thể diện hơn nếu em thua.

- Được thôi, Ed. - Peter đồng ý.

Khi họ đi ra bên ngoài, Edmund quay sang chú lùn với một vẻ tao nhã, uy nghiêm của một ông vua và nói:

- Tôi có một vài điều kiện muốn thưa cùng ông. Bọn trẻ con chúng tôi thường không có dịp gặp gỡ một chiến binh vĩ đại như ông. Chẳng hay ông có vui lòng đấu kiếm thuật cùng tôi không? Đó sẽ là một điều hết sức hợp lý.

- Nhưng mà anh bạn ạ, - Trumpkin nói, - đao kiếm không kiêng dè ai đâu.

- Tôi biết. Và tôi cũng biết cách không bao giờ quá gần ông; còn ông chắc sẽ đủ thông minh để tước vũ khí của tôi mà không làm tổn thương đến tôi.

- Đây là một trò chơi nguy hiểm. - Trumpkin nói. - Nhưng vì cậu đã nói thế thì tôi sẽ cố thử một vài hiệp xem sao.

Hai thanh gươm cùng vung lên một lượt, ba đứa còn lại nhảy ra khỏi đài đúng xem. Đó là một cuộc đấu kiếm đáng xem, nó không giống như những trận đánh ngu xuẩn mà bạn chứng kiến với những thanh kiếm to bản trên sân khấu đâu. Cũng không giống như một cuộc đấu kiếm mà đôi lúc bạn đã được xem. Đây là cuộc đấu ra trò, thật sự. Mục tiêu chính là đâm mũi kiếm vào chân đối phương bởi vì nó không có gì bảo vệ. Khi đối phương đâm kiếm vào chân bạn, bạn phải phóng lên sao cho cú đánh sạt dưới chân. Điều này tạo cho chú lùn một lợi thế bởi vì Edmund cao hơn nên bao giờ cũng phải cúi xuống để đánh. Tôi không nghĩ là Edmund có cơ hội chiến thắng nếu nó chiến đấu với Trumpkin vào 24 giờ trước. Nhưng không khí ở Narnia rất tốt đối với nó kể từ lúc chúng đặt chân đến hòn đảo. Vào lúc này không khí hào hùng của những trận đánh ngày xưa lại dội về, cánh tay và những ngón tay của nó vẫn ghi nhớ kỹ năng cần thiết. Nó từng là vua Edmund mà. Hai chiến binh xoay tròn thành một vòng, đâm hết nhát kiếm này đến nhát kiếm khác và Susan (người không bao giờ tiếp thu được cái loại hình nghệ thuật đánh nhau này) kêu la luôn miệng:

- Ôi trời, xin hãy cẩn thận, cẩn thận!

Sau cùng, nhanh như không ai (trừ những người biết rõ về kiếm thuật như Peter chẳng hạn) có thể nhìn thấy điều đó xảy ra như thế nào, Edmund xoay thanh kiếm thành một vòng và thanh gươm của chú lùn rơi xoảng một cái xuống đất. Trumpkin đứng giơ tay lên trời như bạn vẫn làm sau khi để rơi mất cái chày đánh bóng trong crickê.

- Không có vấn đề gì... tôi hy vọng thế... người bạn nhỏ thân yêu ạ! - Edmund nói, thở hổn hển một chút, đoạn cho thanh kiếm vào bao.

- Tôi thấy rồi. - Trumpkin nói giọng khô khan. - Cậu biết một mánh mà tôi chưa học được.

- Đúng thế, - Peter nói, - kiếm sĩ tài ba nhất trên đời cũng có thể bị rơi kiếm bởi một đường kiếm mới lạ đối với ông ta. (Tôi nghĩ đó cũng là một điều công bằng, cũng phải tạo cho Trumpkin một cơ hội hiểu ra một cái gì đó.) Ông vui lòng bắn cung với em gái tôi chăng? Ông cũng biết là không có mánh lới gì trong nghệ thuật bắn cung.

- Ôi, quý vị lại khéo đùa nữa rồi. - Chú lùn nói. - Tôi bắt đầu thấy rõ rồi. Cứ làm như tôi không biết rõ cô ấy bắn cung như thế nào sau những chuyện đã xảy ra sáng hôm qua ấy. Nhưng thôi cũng được, để tôi thử xem sao.

Ông nói bằng một giọng dửng dưng nhưng đôi mắt lại sáng lên bởi vì Trumpkin vốn nổi tiếng là một thiện xạ trong những người của mình.

Cả năm người đi ra ngoài sân.

- Đích bắn là ở đâu? - Peter hỏi.

- Em nghĩ quả táo treo trên bờ tường kia có thể là đích nhắm tới được đấy.

- Ngon ăn thôi, cô bé, - Trumpkin đáp. - Cô muốn nói cái quả màu vàng ở giữa cổng phải không?

- Không, không. - Susan đáp. - Quả táo đỏ trên cao kia kìa - ở trên lỗ châu mai.

Chú lùn xịu mặt xuống. “Trông nó giống một trái sêry hơn là một quả táo.” - Ông lẩm bẩm nhưng không dám nói to.

Họ tung đồng xu lên trời để phân định xem ai bắn trước, (đó là một điều hết sức thú vị đồi với Trumpkin, ông chưa từng trông thấy một đồng xu tung lên trời bao giờ) và Susan là người bắn sau. Các cung thủ đứng trên bậc thềm cao nhất. Ai cũng có thể nhìn thấy từ cái cách chú lùn lấy tư thế và giương cung lên mà biết rằng ông hiểu chuyện mình đang làm.

Dây cung kêu tách. Đó là một phát tên rất tuyệt. Quả táo nhỏ dường như run rẩy khi mũi tên sượt qua và một chiếc lá xoay tròn xoay tròn rơi xuống. Đến lượt Susan bước lên bậc thềm trên cùng và kéo dây cung. Nó không háo hức với cuộc so tài như Edmund, không phải bởi vì nó nghi ngờ khả năng bắn trúng đích mà bởi vì Susan có một trái tim quá nhân hậu nên nó ghét cái việc chiến thắng người đã bị thua một lần. Chú lùn chăm chú nhìn trong lúc nó kéo dây cung đến gần mang tai. Một giây sau với một tiếng bịch nhẹ nhàng mà họ có thể nghe thấy trong không gian tuyệt đối yên tĩnh, quả táo có mũi tên của Susan cắm chính giữa rơi lên bãi cỏ.

- Làm tốt lắm, Su! - Mấy đứa khác kêu lên.

- Thật ra không tốt hơn phát tên của ông đâu. - Susan nói với chú lùn. - Tôi nghĩ mũi tên của ông bay như gió thoảng vậy.

- Không đâu, không phải như vậy. Xin đừng nói với tôi như thế. Tôi biết tôi đã hoàn toàn bị đánh bại. Thậm chí tôi cũng không muốn viện cớ là vết thương mới đây của tôi bỗng nhói lên một cái trong khi tôi đưa cánh tay ra sau.

- Thế ra ông bị thương ư? - Lucy hỏi. - Đâu đưa cho tôi xem nào?

- Không phải là cái gì để cho một cô bé xem. - Trumpkin nói, đoạn ông tự trách mình. - Đấy, tôi lại nói năng như một thằng ngốc nữa rồi. Tôi cho rằng rất có thể cô là một bác sỹ phẫu thuật tài ba, cũng như anh trai cô là một tay kiếm có hạng và chị cô là một nhà thiện xạ.

Ông ngồi xuống một bậc thềm, cởi áo giáp ra rồi cởi chiếc áo sơ mi bên trong để lộ một cánh tay lông lá có bắp thịt (khá cân đối) như một thủy thủ dù nó không lớn hơn cánh tay của một đứa trẻ. Vết thương trên vai được băng bó vụng về, Lucy gỡ cái băng ra. Bên dưới lớp băng, vết thương khá sâu và đã sưng tấy.

- Ôi, ông già Trumpkin đáng thương, - Lucy nói, - sao lại để vết thương nhiễm trùng như thế này? - Rồi cô bé cẩn thận nhỏ vào vết thương một giọt thuốc từ cái lọ kim cương.

- Trời ơi! Cô làm cái gì đấy? - Trumpkin hỏi. Nhưng vì ông quay đầu đi chỗ khác lại nheo mắt và lắc lắc chòm râu rậm nên ông không nhìn thấy vai của mình. Ngay lập tức ông cảm thấy cái đau dịu lại như không hề có vết thương. Ông bèn đưa cả cánh tay và cử động các ngón tay ở những vị trí khó khăn như bạn vẫn làm khi cố với một vật gì đó ngoài tầm tay của mình. Sau đó ông vung tay, giơ lên, thử các cơ bắp và cuối cùng thì vừa nhảy tưng tưng vừa la oai oái:

- Khổng lồ và quỷ Juniper! Vết thương lành hẳn rồi. Ngon lành như một cánh tay mới. - Chú lùn bật ra một tràng cười tai quái vầ nói. - Trời đất, tôi đã làm cho mình trở thành một tên đại ngốc như một thằng lùn có thể lâm vào. Tôi hy vọng mọi người không giận. Bổn phận khiêm tốn của tôi với các bậc đế vương là những lời nói này. Xin cảm ơn đã cứu sống tôi, chữa lành vết thương cho tôi, đãi tôi một bữa sáng và dạy cho tôi một bài học.

Bọn trẻ đều nói mọi chuyện không có gì phải ầm ĩ và nói qua chuyện khác.

- Bây giờ, - Peter nói, - nếu ông tin tưởng chúng tôi...

- Tôi tin, tôi tin. - Chú lùn Đỏ nói.

- Thế thì việc chúng ta cần làm đã rõ ràng, cụ thể hơn. Chúng ta phải tham gia vào đạo quân của vua Caspian ngay.

- Và sớm chừng nào tốt chừng nấy. Vì sự ngu ngốc của tôi mà chúng ta đã bỏ phí mất một giờ quý báu.

- Con đường mà ông đi mất hai ngày. - Peter nói. - Về phía chúng tôi... tôi muốn nói chúng tôi không thể đi bộ cả ngày lẫn đêm như người lùn các ông. - Sau đó quay sang các em, nó nói tiếp. - Cái mà Trumpkin gọi là Gò Đôi rõ ràng là nơi Bàn Đá. Các em có nhớ là từ đây đến chỗ khúc sông cạn Beruna cũng chỉ hết nửa ngày có khi còn ít hơn, phải không?

- Chúng tôi gọi nó là cầu Beruna. - Trumpkin nói.

- Thời chúng tôi còn chưa có cầu. Và như vậy từ Beruna xuống đây có phải mất thêm một ngày nữa. Chúng ta thường về nhà vài giờ uống trà ngày thứ hai một cách dễ dàng. Nếu cố gắng đi nhanh có thể chúng ra chỉ mất khoảng một ngày rưỡi thôi.

- Nhưng nhớ là bây giờ chỉ có toàn là rừng rậm, - Trumpkin nói, - và khắp nơi còn có kẻ thù nữa.

- Coi nè, - Edmund lên tiếng, - chúng ta có cần đi lại đúng con đường mà người bạn nhỏ thân yêu của chúng ta đã đến không?

- Xin đừng nói thế bệ hạ, nếu người còn yêu thương tôi. - Chú lùn nói.

- Được thôi, - Edmund chưa buông tha, - tôi có thể gọi ông là D.L.F[1] được không?

- Thôi đi Edmund, - Susan nhắc em trai, - đừng trêu ghẹo ông ấy.

- Được thôi, chú... tôi muốn nói bệ hạ. - Trumpkin nói với một tràng cười gượng gạo. - Một lời giễu cợt không làm người ta hề hấn gì. (Sau đó bọn trẻ thường gọi ông là D.L.F cho đến lúc chúng gần như quên mất nguồn gốc của biệt danh đó.)

- Như tôi đã nói, - Edmund tiếp tục, - chúng ta không cần đi qua con đường đó. Tại sao chúng ta không bơi thuyền lên một chút về hướng nam cho đến khi ta đến nhánh sông Nước Thủy Tinh rồi bơi thuyền ngược lên? Nhờ vậy chúng ta sẽ đi lên từ phiá sau đồi Bàn Đá, và chúng ta sẽ an toàn một khi chúng ta ở ngoài biển. Nếu khởi hành ngay, ta có thể đến thượng nguồn Nước Thủy Tinh trước khi trời tối, có một vài giờ ngủ cho lại sức và có mặt ở chỗ Caspian vào lúc trời sáng.

- Cũng cần phải thông thuộc đường bờ biển. - Trumpkin nói. - Mà không ai trong chúng ta biết gì về Nước Thủy Tinh.

- Còn thức ăn thì sao? - Susan hỏi.

- Chúng ta sẽ hái một ít táo. - Lucy nói. - Bây giờ đi hái táo đi. Chúng ta còn chưa làm gì mà đã mất toi gần hai ngày rồi còn gì.

- Dù sao thì cũng không ai lấy mũ của tôi để đựng cá nữa. - Eddmund nói.

Họ dùng mấy cái áo mưa như một cái túi để đựng táo. Sau đó tất cả uống no một bụng nước giếng (bởi vì họ sẽ không gặp một nguồn nước ngọt nào nữa cho đến khi họ đến được nhánh sông) rồi tất cả xuống thuyền. Bọn trẻ buồn bã khi rời xa Cair Paravel, dù cho nó chỉ là một đống đổ nát thì chúng cũng đã bắt đầu coi nó như nhà mình.

- D.L.F cầm lái sẽ tốt hơn, - Peter chỉ đạo, - Ed và tôi mỗi người cầm một mái chèo. Hượm đã. Tốt nhất chúng ra hãy cới áo giáp ra, trời đã bắt đầu nóng lên rồi. Các cô gái ngồi ở đuôi thuyền chỉ đường cho D.L.F bởi vì ông ấy không biết đường. Tốt nhất ông hãy lái ra xa bờ một chút cho đến khi chúng ta đi qua hòn đảo này.

Chẳng bao lâu sau bãi biển xanh biếc rợp bóng những hàng cây của hòn đảo nhỏ đã xa dần, những cái vịnh nhỏ, doi đất đã bắt đầu có vẻ đẹp hơn, con thuyền trồi lên, thụp xuống trên những lớp sóng mấp mô nhẹ nhàng. Biển bắt đầu phình to hơn, to hơn chung quanh họ. Khoảng nước ở xa xanh như ngọc, khoảng nước ở gần thuyền thì có màu xanh lá cây và nổi bọt. Mọi thứ đều nghe như có mùi muối mặn, chẳng có một âm thanh gì ngoài tiếng sóng biển, tiếng nước vỗ ì oạp vào hai bên mạn thuyền, tiếng quạt nước của mái chèo và tiếng xóc lạch cạch của cọc chèo. Mặt trời mỗi lúc một nóng rát hơn. Lucy và Susan vui sướng ngồi ở hai mũi cúi ra ngoài mạn thuyền cố thò tay xuống nước nhưng không được. Nước trong như lọc có thể nhìn thấy lớp cát tinh khôi, nhạt màu thỉnh thoảng có điểm những vạt tảo biển màu tím.

- Cũng giống như ngày xưa, - Lucy nói, - các anh chị có nhớ chuyến đi của chúng ta tới Terebinthia... rồi Galma... Bảy Đảo... và Quần đảo Đơn Côi nữa?

- Có, chị còn nhớ, nhớ cả con tàu lớn của chúng ta là Splendor Hyaline với cái đầu thiên nga ở mũi tàu, đôi cánh chạm trổ kéo ra sau dài đến nửa lưng tàu. 

- Còn những cánh buồm bằng lụa và những cái đèn lồng ở đuôi tàu nữa.

- Và những bữa tiệc trên boong cùng một dàn nhạc.

- Mọi người còn nhớ cái lần chúng ta đưa các nhạc công lên trên cột buồm thổi sáo và nhờ thế chúng ta có một thứ âm nhạc từ trên trời vọng xuống không?

Lúc này Susan cầm lấy mái chèo thay cho Edmund để cho nó có thể ngồi gần Lucy nghỉ một lát. Thuyền đã qua khỏi đảo và bây giờ vào gần bờ hơn - tất cả chỉ có rừng cây và một không khí hoang vắng. Bọn trẻ hẳn sẽ cho là nơi này rất đẹp nếu chúng không nhớ rằng có một thời bãi biển này trải rộng đầy nắng gió, trên bến dưới thuyền nhộn nhịp biết bao nhiêu.

- Chà! Chèo thuyền cũng là một việc vất vả phải biết. - Peter vừa thở hổn hển vừa nói.

- Em có thể chèo một lúc không? - Lucy hỏi.

- Mái chèo nặng quá đối với em. - Nó đáp giọng cộc lốc không phải vì bực bội mà bởi vì không còn sức để nói nữa.

CHƯƠNG 9

 Lucy đã nhìn thấy gì

Susan và hai đứa con trai mệt bã người với việc chèo thuyền trước khi chúng vòng qua mũi đất cuối cùng và bắt đầu ngược lên Nước Thủy Tinh. Đầu Lucy đau như búa bổ vì hàng giờ ngồi dưới mặt trời nóng bỏng và vì cái ánh chói chang từ mặt biển hất lên. Cả đến Trumpkin cũng chỉ mong sao cho chuyến đi kết thúc. Cái ghế ông ngồi để lái thuyền làm cho một người đàn ông bình thường chứ không phải cho một người lùn, đôi bàn chân ông không thể chạm xuống sàn thuyền và bất cứ ai cũng hiểu là ngồi trong tư thế như thế thì khó chịu như thế nào dù là chỉ trong 10 phút thôi. Khi cả bọn đã mệt thì tinh thần của họ cũng xuống. Cho đến lúc ấy bọn trẻ mới chỉ nghĩ đến việc làm thế nào để đến chỗ Caspian. Bây giờ chúng bắt đầu suy nghĩ xem chúng sẽ làm gì khi tìm thấy cậu bé hoàng tử và làm cách nào để giúp một nhúm người lùn cùng thú rừng đánh thắng một đội quân hùng hậu, chính quy.

Hoàng hôn bắt đầu buông xuống khi họ chậm rãi lái con thuyền lên khúc lượn của nhánh sông Nước Thủy Tinh – bóng tối nhiều hơn ánh sáng khi thuyền bơi vào khúc sông hẹp, nơi hai bờ sông chạy vào gần nhau hơn và những hàng cây hai bên bờ sông chụm đầu vào nhau làm thành một cái cổng vòm trên đầu du khách. Nơi đây quá đỗi yên tĩnh, tiếng sóng biển đã tắt dần sau lưng họ; mọi người thậm chí còn có thể nghe được tiếng róc rách của các dòng suối ở rất xa tìm đường nhập vào dòng sông Nước Thủy Tinh.

Cuối cùng họ lên bờ, quá mệt mỏi để cố gắng nhóm lên một đống lửa và thậm chí một bữa tối chỉ có táo (dù hầu hết mọi người cảm thấy rằng họ không bao giờ muốn thấy một quả táo nào nữa) có vẻ cũng còn tốt hơn là đi câu cá hoặc bắt một con gì đó. Sau một hồi trệu trạo nhai táo trong im lặng, mọi người nằm bên nhau trên lớp rêu và lá khô giữa bốn cây sồi lớn.

Tất cả mọi người, trừ Lucy, đặt lưng xuống là ngủ thiếp ngay đi. Cô bé - không mất sức như nhưng người khác – thì đợi mãi giấc ngủ vẫn không đến cho.Với lại nó cũng quên điều này cho đến khi nghe tiếng ngáy pho pho của chú lùn. Nó biết một trong những cách tốt nhất để dỗ ngủ là đừng cố buộc mình ngủ mà cứ mở to mắt ra mà nhìn. Qua kẽ hở giữa bụi dương xỉ diều hâu và các cành cây nó có thể nhìn thấy một vạt nước của nhánh sông và mảnh trời xám đen bên trên. Rồi một ký ức xa xưa thức dậy và nó lại thấy, sau bao nhiêu năm qua, những vì sao sáng của Narnia. Có một thời nó từng biết những vì sao này rõ hơn là những vì tinh tú trong thế giới của chúng ta bởi vì với tư cách là một nữ hoàng ở Narnia nó đi ngủ muộn hơn một đứa trẻ ở Anh nhiều. Đây là những ngôi sao ấy – ít nhất thì cũng là ba chòm sao có thể nhìn thấy từ chỗ nó nắm: Con Tàu, Cái Búa và Con Báo.”Bạn báo già thân yêu,” nó vui vẻ thì thầm với những vì sao xa xôi cuối chân trời. Thay vì thiu thiu ngủ, càng lúc nó lại càng tỉnh như sáo – đó là một đêm kỳ lạ như thể đang mơ trong lúc tỉnh. Dòng sông trở nên sáng hơn. Nó biết rằng có một mặt trăng trong đáy nước dù nó không thấy mặt trăng đâu. Bây giờ nó lại có cảm giác như cả khu rừng đang thao thức cùng như chính nó. Khó có thể lý giải tại sao nó làm như vậy, chỉ biết rằng nó nhanh nhẹn ngồi dậy đi xa một đoạn khỏi chỗ mọi người dừng chân.

- Cảnh vật thật nên thơ. – Lucy thì thầm một mình. Trời đêm mát lạnh và trong lành, một mùi thơm thoang thoảng khắp nơi. Ở đâu đó nghe như rất gần nó đón bắt được nốt nhạc dạo đầu trong vắt của một con họa mi nhưng cứ như thể ngỡ ngàng với tiếng chim hót của chính mình chim ngừng lại một chút rồi lại cất tiếng hót. Đêm như hửng lên một chút ở phía trước. Lucy đi về phía có ánh sáng, đến một nơi cây cối mọc thưa thớt hơn, đổ xuống đất từng mảng hoặc cả một vũng trăng, nhưng ánh trăng và những cái bóng lẫn vào nhau làm cho bạn khó lòng phân biệt rõ cái gì với cái gì. Cũng lúc đó thì con chim họa mi cuối cùng cũng hài lòng với giọng hót của mình tuôn ra một khúc nhạc say sưa, trọn vẹn.

Đôi mắt Lucy đã bắt đầu quen với bóng tối, nó phân biệt những hàng cây chung quanh được rõ hơn. Một mong muốn xa xưa về cái thời cây cối cũng có thể nói chuyện được lại trở về với nó. Lucy biết chính xác làm mỗi một loài cây đều có thể nói chuyện chỉ cần nó biết cách đánh thức dậy và nhận ra được loại người mà cây đó mô phỏng theo. Lucy nhìn một cây bulô bạc: nó có giọng nói rì rào, êm ái và trông như một thiếu nữ mảnh dẻ với mái tóc màu hạt dẻ xõa xuống mặt – một cô gái thích nhảy múa. Nó nhìn cây sồi: một ông già mắt mày nhăn nheo nhưng tốt bụng với những túm râu và bướu trên mặt và trên cánh tay; tóc mọc ra ở cả những cái bướu nữa. Nó nhìn lên một cây sồi đại thụ nơi nó đang đứng. Ái chà - đây là một cái cây đẹp nhất trong rừng. Một vị nữ thần duyên dáng, vừa dịu dàng vừa đường bệ.

- Ôi cây ơi, cây ơi, cây ơi! – Lucy nói.( Dù nó không định nói chút nào.) – Ôi cây ơi hãy thức dậy, thức dậy đi. Mọi người có nhớ không? Có còn nhớ tôi không? Mộc tinh và hoa tinh hãy thức dậy và đến với tôi đi.

Mặc dù không có một ngọn gió, lá cây vẫn xào xạc chung quanh cô bé. Tiếng xào xạc chính là ngôn ngữ của các loài cây. Con chim họa mi ngừng hót như thể cũng để tai lắng nghe. Lucy cảm thấy rằng bất cứ lúc nào nó cũng có thể hiểu được điều cây cối muốn nói. Nhưng cái thời khắc ấy đã không đến, tiếng xao xác lặng đi. Con chim lại bắt đầu bài hát của nó. Thậm chí trăng sáng tỏ mà khu rừng trông vẫn có vẻ tôi tối. Tuy vậy, Lucy có cảm tưởng (giống như bạn cố gắng nhớ một cái tên hay một khoảng khắc nào đó, nó đã gần hiện lên trong đầu bạn nhưng rồi nó lại biến mất vào lúc ấy) như nó đã để vuột mất một cái gì: tựa hồ nó đã nói với cây cối chỉ một phần tư giây sớm hơn hoặc muộn hơn hoặc giả đã viện đến mọi từ gần gần đúng chỉ chừa lại cái từ đúng duy nhất ấy; hoặc cũng có thể là nó dùng đúng một từ mà từ đó lại sai.

Bất thình lình nó cảm thấy mệt rã rời.Nó quay về chỗ cắm trại, nằm xen vào giữa Peter và Susan rồi chỉ trong vòng một hai phút đã ngủ say.

Không khí buồn tẻ và lạnh lẽo đánh thức cả bọn vào sáng hôm sau, cùng với ánh sáng màu tro lọc qua những tán lá (bởi vì mặt trời còn chưa mọc) mọi thứ đều ẩm ướt và u ám.

- Lại táo!- Trumpkin nó với một nụ cười rầu rĩ. – Tôi dám nó là các vị vua và nữ hoàng cổ đại này không ăn quá tiêu chuẩn.

Cả bọn đứng dậy, vặn người , nhìn quanh quất. Cây cối mọc dày và họ không thấy một khoảng trống nào dù chỉ vài mét ở bốn phía chung quanh.

- Tôi chắc rằng các vị vua chúa biết rõ đường đi nước bước chứ? – Chú lùn hỏi.

- Tôi thì không. – Susan lắc đầu. – Tôi chưa bao giờ đi vào khu rừng cây. Trên thực tế tôi cho rằng chúng ta nên đi đường sông.

- Còn anh thì nghĩ là em nên nói điều đó đúng lúc. - Peter nói, với một sự gay gắt có thể tha thứ được.

- Ồ, đừng chú ý đến chị ấy. – Edmund nói.- Chị ấy bao giờ cũng như một cái mền ướt ấy mà. Anh Peter, anh có mang la bàn đi ấy chứ? Nếu vậy thì chúng ta ổn rồi. Cứ việc đi thẳng theo hướng tây bắc – ngang qua con sông nhỏ này, chính là cái mà các ông gọi là – cái gì nhỉ?

- Anh biết. – Peter nói. – Đó là ngã ba sông hoặc là chỗ khúc sông cạn Beruna hoặc là cầu Beruna như D.L.E vẫn gọi.

- Đúng thế. Đi ngang qua đó rồi ngược lên đồi và thế là chúng ta đã ở Bàn Đá (Gò Đôi – em muốn nói như thế) vào lúc 8 hoặc 9 giờ sáng. Em hy vọng vua Caspian sẽ đãi chúng ta một bữa sáng đúng nghĩa.

- Chị hy vọng là em đúng, - Susan bảo em trai, - sao chị chẳng nhớ được chuyện gì hết.

- Đó là cái dở nhất của bọn con gái. – Edmund bảo Peter và chú lùn. – Họ chẳng bao giờ mang một tấm bản đồ trong đầu.

- Đó là vì trong đầu chúng em còn có cái gì khác. – Lucy xen vào.

Đầu tiên mọi việc diễn ra xem chừng rất thuận lợi. Thậm chí bọn trẻ còn nghĩ chúng đang bước đi trên lối cũ; nhưng nếu bạn biết một điều gì đó về rừng cây bạn sẽ hiểu rằng người ta bao giờ cũng tìm ra những lối mòn tưởng tượng. Nó biến mất sau khoảng 5 phút và rồi bạn nghĩ là bạn đã tìm ra một con đường khác (và hy vọng nó không phải là một con đường khác mà chính là con đường cũ) thế rồi nó cũng biến mất và trong lúc loay hoay tìm hướng đi, bạn nhận ra là không có cái gì giống như một con đường cả. Tuy vậy, chú lùn và bọn trẻ đã quen với rừng rú nên không để cho rừng nhử vào tròng.

Cả bọn lê bước nặng nề được chừng nửa giờ ( ba người trong bọn vẫn còn cứng đơ hết cả người ra sau bởi chèo thuyền cật lực ngày hôm qua) thì Trumpkin đột ngột thì thào: “Đứng lại!” Cả bọn dừng bước.

“Có một cái gì đó đang đi theo chúng ta,” ông hạ giọng nói nhỏ,” hoặc giả có một cái gì đó đang dõi theo chúng ta: coi kìa ở bên tay trái.”

Bọn trẻ đứng bất động, căng tai căng mắt ra nghe ngóng , ngó nghiêng cho đến lúc cả tai và mắt đều đau nhức lên.

- Ông và tôi nên sẵn sàng cung tên.- Susan nói với Trumpkin. Chú lùn gật đầu. Khi cả hai cung tên đều được căng lên, cả hai cung tên đều được căng lên, cả đoàn lại đi tiếp.

Họ đi được chừng vài chục mét qua một vạt rừng thưa, vẫn cảnh giác cao độ. Sau đó họ đến một nơi mọc ken dày nhiều loài cây bụi và họ đi sát bên những bụi cây đó. Đúng lúc đi ngang qua thì có vật gì chợt lóe lên, bật khỏi một đống cành cây gãy như một tia chớp. Lucy bị ngã, nó cuộn trò người lại, nghe tiếng dây cung bật tách một cái đúng lúc nó ngã xuống. Khi nó lại có thể nhận biết sự việc xảy ra chung quanh, nó thấy một con gấu xám to lớn nom hết sức dữ tợn nằm bất động với mũi tên của Trumpkin cắm vào một bên sườn.

- D.L.F đã đánh bại em trong cuộc đấu này, Su ạ. – Peter nói, với một nụ cười không được tự nhiên cho lắm. Cả nó cũng bị chấn động bởi sự kiện này.

- Em…em đã để quá trễ. – Susan nói, giọng ngượng ngùng.- Với lại em sợ nó có thể là, anh cũng biết đấy – có thể là một trong những người bạn tốt bụng của chúng ta, một con gấu biết nói. – Susan không thích hành động sát sinh.

- Ấy, cái phiền là ở chỗ ấy đấy, - Trumpkin nói, - khi hầu hết thú rừng trở thành kẻ thù hoặc những kẻ câm điếc thì vẫn còn sót lại những con vật tốt lành là bạn. Mọi người không bao giờ biết rõ và không dám chờ đợi để biết rõ.

- Anh bạn gấu Bruin già, thật đánh thương quá! – Susan thở dài cảm than. – Ông có nghĩ là nó không?

- Không phải đâu. - Chú lùn khẳng định. – Tôi đã nhìn vào mặt và nghe tiếng gầm gừ của nó. Nó chỉ muốn xơi cô trong bữa điểm tâm. Lại nói về chuyện bữa sáng, tôi thật không muốn làm mọi người thất vọng…quý vị hy vọng vua Caspian sẽ đãi khách một bữa sáng ngon lành, nhưng điều này thật khó vì từ lâu trong trại không có thịt. Vậy con gấu này sẽ là một bữa ăn tươi đấy. Thật đáng xấu hổ nểu để xác thú rừng thối rữa ở đây mà có làm gì thì chúng ta cũng không đi chậm lại quá nửa tiếng đâu. Tôi mạn phép hỏi hai anh bạn trẻ - tôi định nói hai hoàng đế có biết xẻ thịt gấu không ạ?

- Chị em mình đi ngồi nghỉ cách xa nơi này đi. – Susan nói với Lucy. –Chị thấy việc này kinh khủng lắm.

Lucy rùng mình, gật đầu. Khi hai chị em ngồi xuống nó nói:

- Một ý nghĩ kinh khủng, ghê gớm đã nảy ra trong đầu em, chị Su ạ.

- Cái gì vậy?

- Không phải là đáng sợ lắm sao khi một ngày kia trong thế giới của chúng ta, trên quê hương ta, con người bắt đầu nổi điển, em muốn nói trong lòng… giống những con thú ở đây, nhưng bề ngoài thì cũng vẫn là con người. Thế là chúng mình sẽ không bao giờ biết rõ chuyện gì xảy ra, phải không?

- Hiện nay ở Naria này, chúng mình cũng đã có quá nhiều điều phải bận tâm rồi, - Susan lúc nào cũng rất thực tiễn nói, - em không cần tưởng tượng những thứ ấy làm gì.

Khi chúng gia nhập vào với cánh đàn ông, như những điều mà chúng có thể chờ đợi, hai anh em trai và chú lùn cố hết sức mang số thịt gấu vừa được xé ra. Thịt tươi không phải là một cái gì để cho vào túi áo, vì vậy họ gói thịt vào lá cây và cố làm tốt trong khả năng của mình. Mọi người đều có đủ kinh nghiệm để biết rằng cảm tưởng của họ về cái đám thịt mềm mềm, máu me này sẽ khác đi một khi họ đã cuốc bộ đủ lâu với cái bụng cồn cào.

Họ lại tiếp tục lê bước (chỉ dừng lại để rửa ba đôi tay đầy máu và lông ở con suối đầu tiên mà họ đi qua) cho đến khi mặt trời xuất hiện, chim choc bắt đầu hót rộn lên và lũ ruồi vo ve nhặng xị hơn là họ mong muốn trong các bụi dương xỉ diều hâu. Cái mệt mỏi, tê cứng của ngày chèo thuyền hôm qua cũng bắt đầu được trút bỏ từ từ. Tinh thần mọi người phấn chấn hẳn lên…Mặt trời sưởi ấm muôn loài và họ tháo mũ trụ ra, xách trên tay.

- Tôi cho rằng ta đã đi đúng hướng. – Khoảng một giờ sau, Edmund lên tiếng.

- Tôi không thấy chúng ta đã đi sai đường chừng nào chúng ta còn đi chếch một chút về bên tay trái, - Peter nói, - nếu chúng ta đi chếch về bên tay phải, điều tệ hại nhất có thể xảy ra là phí một chút thời gian bằng việc đi theo dòng Đại Giang quá sớm mà không đi tắt.

Cả đoàn lại lầm lũi đi tiếp, không gây nên một tiếng động gì ngoài tiếng bước chân nặng nề và tiếng leng keng của những cái áo giáp sắt.

- Thế …thế cái cầu ấy ở đâu? – Một lúc lâu sau, Edmund cất tiếng hỏi.

- Anh đoán chắc là ta sẽ đi đến đó ngay thôi, - Peter nói, - nhưng bây giờ không có việc gì khác ngoài việc cứ thẳng tiến. – Cả hai biết rằng chú lùn đang nhìn chúng với vẻ mặt lo lắng nhưng ông không nói gì.

Lại tiếp tục đi, chiếc áo giáp làm cho cả bọn cảm thấy thật ngột ngạt, nặng nề.

- Trời đất, cái gì thế này? – Peter giật giọng hỏi. Họ đã đến – mà không nhận ra – gần mép một vách đá nhỏ, từ trên nhìn xuống họ thấy một hẻm nủi với một con sông nhỏ dưới đấy vực. Ở phía đối diện, vách đá còn dựng cao hơn nữa. Không có ai trong đoàn ngoài Edmund (và có thêm Trumpkin) là nhà leo núi.

- Tôi xin lỗi. – Peter nói. – Chính là lỗi của tôi, khi chọn đi lối này. Chúng ta đã bị lạc đường. Tôi chưa bao giờ đi lối này.

Chú lùn huýt một tiếng sáo nho nhỏ giữa hai kẽ răng.

- Vậy thì hãy quay lại, chọn con đường khác.

Susan bật lên:

- Em biết rõ chúng ta bị lạc từ lâu rồi mà.

- Susan! – Lucy kêu lên giọng trách móc. – Chị đừng nói với anh Peter như thế, anh ấy đã cố hết sức mình rồi.

- Mà em cũng đừng nói chị Susan như thế. – Edmund lên tiếng. – Anh nghĩ chị ấy nói đúng.

- Chậu tắm và mai rùa! – Trumpkin kêu lên. – Nếu chúng ta đã bị lạc đường thì liệu có còn cơ hội quay trở lại không? Và nếu chúng ra quay lại được hòn đảo, bắt đầu lại một lần nữa – cứ coi như chúng ta thành công đi – thì liệu chúng ta còn có thể cứu vãn được gì không? Miraz chắc đã giết Caspian trước khi chúng ta về đến nơi.

- Ông nghĩ chúng ta nên tiếp tục đi tiếp ư? – Lucy hỏi.

- Tôi không chắc là Peter Đại đế đã lạc đường – Chú lùn nói. – Cái gì cản trở dòng sông kia trở thành một dòng thác?

- Bởi vì thác không có trong một hẻm núi. – Peter nói, khó khăn lắm mới giữ được bình tĩnh.

- Đức vua đã dùng nó trong thì hiện tại, - chú lùn đáp, - nhưng lẽ ra ngài phải dùng nó trong thì quá khứ có phải không? Ngài biết rõ đất nước này nhưng vào hàng trăm năm trước có thể là đến một ngàn năm rồi cũng nên. Vậy thì nương dâu cũng có thể trở thành biển cả, phải không? Một vụ lở đất có thể đánh sụt một nửa quả núi này, chỉ còn để lại lớp lõi đá cứng và đây chính là vách đá bên trên cái hẻm núi ấy. Sau đó thì năm tháng trôi qua, nước chảy đá mòn, chỉ đến lúc mọi người có một vách núi sừng sững như thế kia. Hoặc cũng có thể là do động đất hoặc bất cứ một cơn địa chấn nào đó.

- Tôi chưa bao giờ nghĩ được như thế. – Peter đáp.

- Và dù sao, - Trumpkin nói, - kể cả khi đó không phải là một dòng chảy hung dữ, thì nó cũng đã ào đến từ phương bắc và đổ vào sông Đại Giang. Tôi nghĩ tôi đã bỏ qua một cái gì đó, rất có thể là ở ngay trên đường đi. Vì thế nếu chúng ta đi theo dòng về bên tay phải chúng ta sẽ gặp dòng Đại Giang. Có lẽ không được như chúng ta trông đợi nhưng ít nhất thì cũng không vất vả như khi đi theo con đường của tôi.

- Trumpkin , ông thật là một người hào hiệp. – Peter nói. – Tiếp tục đi vậy. Xuống hẻm núi theo lối này.

- Nhìn kia! Nhìn kia! Nhìn kia! – Lucy rối rít kêu lên.

- Ở đâu? Cái gì vậy? –Mọi người nhao nhao hỏi.

- Sư tử! – Lucy la lên. – Aslan, chính Aslan. Mọi người không nhìn thấy sao? – Khuôn mặt con bé hoàn toàn thay đổi, đôi mắt nó sáng rực lên.

- Thật ra em muốn nói…- Peter bắt đầu.

- Em nhìn thấy ông ấy ở đâu? –Susan hỏi.

- Đừng có nói với em như với trẻ con. – Lucy giậm giậm chân xuống đất. – Không phải em nghĩ em nhìn thấy ông mà em đã thực sự trông thấy.

- Ở đâu, Lu? – Peter hỏi.

- Ở kia, ngay giữa đống đổ nát kia. Không phải ở bên này vực. Trên cao, không phải ở dưới thấp…Đối diện với con đường mà anh muốn đi. Ông muốn chúng ta đến chỗ ông – cao cao trên kia.

- Làm sao em biết được là ông muốn thế? – Edmund hỏi.

- Ông… em… em chỉ biết là như vậy thôi, - Lucy nói, - qua vẻ mặt của ông…

Mọi người nhìn nhau trong im lặng đầy bối rối.

- Nữ hoàng Lucy…có lẽ đã trông thấy một con sư tử, - Trumpkin lên tiếng, - có nhiều sư tử lảng vảng trong những khu rừng này, tôi nghe người ta nói như vậy. Nhưng không phải là một con sư tử biết nói và thân thiện đâu…cũng không hơn gì con gấu vừa rồi.

- Ôi thôi đừng ngớ ngẩn như vậy, - Lucy bực bội nói, - bộ ông nghĩ tôi không phân biệt nổi Aslan với một con sư tử tầm thường khi gặp ông sao?

- Aslan chắc phải là một con sư tử già cóc đế đại vương, - Trumpkin tiếp tục,- nếu như đó là một con sư tử mà cô đã biết! Vả lại nếu trước sau vẫn là con sư tử đó thì cái gì đã ngăn nó không trở nên hoang dã và ngu ngốc như rất nhiều con vật khác?

Lucy đỏ mặt tía tai, tôi nghĩ nó sẽ lao vào đánh Trumpkin nếu Peter không đặt tay lên cánh tay em út.

- D.L.F không hiểu. Sao ông ấy có thể hiểu được.D.L.F à, ông cần hiểu rằng, chúng tôi hiểu rõ Aslan, tôi muốn nói là có một chút hiểu biết về Aslan. Ông không nên nói như thế về Người. Nói như thế không đem lại điều gì may mắn đâu, ngoài ra đó lại còn là một điều hoàn toàn ngớ ngẩn nữa. Câu hỏi duy nhất là không biết có thực Aslan ở đây không?

- Nhưng em biết là ông ở đây mà. – Lucy nghẹn ngào nói, nước mắt rưng rưng.

- Phải Lu ạ, nhưng bọn anh lại không thấy. – Peter nói.

- Vậy thì hãy biểu quyết. – Edmund nói.

- Được thôi. – Peter đáp. – Ông là người cao tuổi nhất ở đây, D.L.F. Ý ông thế nào? Đi lên hay đi xuống hả?

- Đi xuống. – Chú lùn đáp. –Tôi chẳng biết gì về Aslan hết. Nhưng tôi biết nếu chúng ta rẽ trái và theo cái hẻm núi này thì ngược lên nó sẽ dẫn chúng ta lòng vòng cả ngày trước khi chúng ta tìm ra được một nơi có thể lội qua. Trong khi đó nếu ta rẽ sang bên phải và đi xuôi xuống chúng ta có khả năng đến Đại Giang trong vòng một vài giờ. Mà nếu như có sư tử ở đây thật, thì chúng ta chỉ muốn tránh xa nó chứ không phải dẫn xác đến gặp nó.

- Em nói sao đây, Su?

- Đừng giận nghe Lu, nhưng chị nghĩ chúng ta nên xuối xuống. Chị mệt muốn chết. Cần ra khỏi khu rừng chết tiệt này đến chỗ thoáng hơn càng sớm càng tốt và không ai trong chúng ta , trừ em, thấy bất cứ cái gì cả.

- Còn Edmund thì sao?

- Là thế này, - Edmund nói giọng gấp gáp, mặt hơi đỏ lên, - lần đầu tiên khi chúng ta phát hiện ra Narina, một năm về trước – hoặc là một ngàn năm trước – thì chính Lucy là người đầu tiên khám phá ra Narnia nhưng không một ai trong chúng ta tin nó. Em là người tệ nhất, em biết thế. Tuy vậy, em nó đã đúng. Sẽ công bằng hơn nếu tin Lucy lần này phải không? Em tán thành đi ngược lên.

- Ôi anh Ed! – Lucy nói, siết chặt tay anh.

- Bây giờ đến lượt anh đấy, Peter. – Susan nói. – Và em hy vọng…

- Im lặng! Im lặng! Hãy để cho một thằng con trai suy nghĩ cho rõ ràng. – Peter cắt ngang. – Tôi không cần biểu quyết.

- Người từng là vị vua tối cao. – Trumpkin trang nghiêm nói.

- Đi xuống. – Peter buông ra sau một hồi im lặng. – Tôi biết có thể Lucy chính là người đúng hơn cả, nhưng tôi không thể làm gì khác. Chúng ta buộc phải lựa chọn không cái này thì cái kia thôi.

Thế là cả bọn đi về bên phải đi dọc theo vách đá xuôi theo dòng nước. Lucy đi sau cùng, khóc tấm tức.

CHƯƠNG 10

 Aslan trở về

Đi dọc theo mép vực không dễ như lúc đầu họ nghĩ. Mới đi được vài chục mét họ đã đến đối diện với một rừng thông non mọc ngay sát mép vực. Sau khi cố len lỏi qua những cây thông này, vừa cúi lom khom, vừa gạt cành cây sanh hai bên được chừng mười phút, họ nhận ra nếu cứ đi như thế này trong nửa giờ họ chỉ nhích đi được nửa dặm là cùng. Thế là họ quyết định quay lại, vượt ra ngoài rừng cây và đi ở mé bên ngoài rừng thông. Điều này làm họ đi chếch về bên phải hơn là họ muốn và như vậy mỗi lúc một xa bờ vực và âm thanh của dòng sông hơn, chính vì thế họ sợ rằng mình sẽ lạc đường một lần nữa. Không ai biết lúc đó là mấy giờ, chỉ biết rằng họ đang ở vào thời khắc nóng nhất trong ngày.

Cuối cùng khi họ có thể quay lại chỗ vách đá (xuôi xuống gần một dặm so với lúc khởi hành), họ thấy hai vách đá đã thấp hơn nhiều và có nhiều chỗ bị lở. Chẳng bao lâu sau họ đã tìm được đường đi xuống hẻm núi và tiếp tục cuộc hành trình dọc bờ sông. Nhưng trước tiên họ phải nghỉ xả hơi, uống nước cho no bụng. Chẳng có ai nói gì về bữa sáng, thậm chí cả bữa tối ở chỗ Caspian nữa.

Có lẽ họ sẽ khôn ngoan hơn khi cứ đi ngang qua dòng thác thay vì men theo bờ lên thượng nguồn. Điều đó khiến cho họ biết rõ mình đang đi về đâu: sau khi quanh quẩn trong rừng thông tất cả đều sợ là sẽ phải rời xa mục tiêu của mình và lại lạc trong rừng.

Đó là một khu rừng già không có dấu chân của người và bạn không thể cứ thẳng trước mặt mà tiến bước. Những bụi mâm xôi vô tích sự, những thân cây đổ, những bãi lầy, những lùm cây bụi rậm rạp bao giờ cũng chắn ngang đường bạn. Cả cái hẻm núi nơi dòng thác đổ xuống cũng chẳng phải là một nơi dể chịu để đi qua. Tôi muốn nói nó không phải là nơi dễ đi qua đối với những người đang vội vã, bởi vì một chuyến đi dạo buổi chiều tiếp sau bữa tiệc trà nơi bạn đi nghỉ mát sẽ là một điều thú vị phải biết. Chốn này có đủ mọi thứ cho bạn thưởng lãm với tư cách là một du khách – tiếng thác nước réo ào ào, màn nước tung bọt trắng xóa như bạc, những ao nước sâu màu hổ phách, những tảng đá rêu phong, lớp rêu mịn như nhung hai bên bờ, nơi bạn có thể nhúng nước đến tận khuỷu tay ; thôi thì đã đủ loại cây dương xỉ, thỉnh thoảng lại có một con diều hâu bay liệng trên đầu( loài chim mà một lần Peter và Trumpkin tưởng là đại bàng). Nhưng tất nhiên cái mà bọn trẻ và chú lùn nóng lòng muốn thấy và thấy càng sớm càng tốt là con sông Đại Giang phía dưới sau đó là Beruna và con đường đến Gò Đôi.

Trong lúc họ đi tiếp, dòng thác càng lúc càng hung dữ vì nó đổ xuống từ một cái dốc cheo leo hơn. Cuộc hành trình của họ do đó càng trở nên cao hơn, bước đi của họ càng ngắn và gấp hơn – có những đoạn hết sức nguy hiểm khi bạn phải leo lên những tảng đá bám đầy rêu và chỉ cần sẩy chân một tí là rơi thẳng xuống một vực thẳm đen ngòm và dòng sông sôi sục giận dữ ở dưới đáy.

Bạn có thể chắc chắn là cả bọn nôn nóng nhìn lên vách đá bên tay phải tìm xem có bất cứ chỗ nào để họ có thể bám vào mà trèo lên không nhưng vách đá vẫn cứ là một câu đố hiểm ác. Cứ nhìn nó là cả bọn lại thất vọng phát điên lên bởi vì họ biết rằng nếu có thể vượt qua hẻm núi sang bờ bên kia họ sẽ thấy những sườn dốc thoai thoải và chỉ đi một quãng ngắn là đến chỗ Caspian. 

Mọi người cùng ngồi lại một đống lửa, nấu thịt gấu. Susan không muốn điều đó. Nó chỉ muốn, như nó đã nói: “Tiếp tục đi, kết thúc chuyện này cho rồi để ra khỏi cái khu rừng ghê rợn này”.

Lucy quá mệt mỏi và đau khổ để có bất cứ ý kiến gì về bất cứ chuyện gì. Bởi vì không có củi khô đun, nên không có gì phải nghĩ ngợi nhiều. Bọn con trai băn khoăn bắt đầu tự hỏi không biết thịt tươi có đáng sợ và ghê tởm như người ta vẫn nói không. Trumpkin trấn an chúng rằng ăn thịt tươi không phải là việc làm quá man rợ.

Tất nhiên, nếu cách đây mấy ngày và thực hiện chuyến đi này ở Anh, hẳn bốn anh em nhà Pevensie đã ngã khuỵu. Tôi nghĩ tôi đã giải thích trước đó rằng không khí ở Narnia đã làm cho chúng thay đổi như thể nào. Trong Lucy lúc này chỉ có một phần ba là cô bé đến học trường nội trú lần đầu, còn hai phần ba là nữ hoàng Lucy.

- Cuối cùng cũng đã đến nơi! - Susan thốt lên.

- Hoan hô! Hoan hô! – Peter nói.

Con sông làm một khúc ngoặt gấp và toàn cảnh trải ra dưới chân họ. Cả một vùng đất rộng mênh mông chạy dài đến tận chân trời và chúng làm thành một dải ruy băng bẳng bạc rộng khổ viền quanh con sông Đại Giang. Từ đây có thể thấy một khúc sông cạn và rộng, một cây cầu dài và có nhiều nhịp bắc qua. Xa xa hơn là một thành phố nhỏ làm thành một cái phông đẹp cho toàn cảnh.

- Trời ơi! - Edmund nói. – Chỗ chúng ta đánh trận Beruna bây giờ mọc lên cả một thành phố .

Đó là chuyện làm bọn con trai vui sướng hơn bất cứ chuyện gì khác. Bạn không thể không cảm thấy mạnh mẽ hơn khi nhìn lại nơi bạn đã lập nên chiến tích lấy lừng và trăm năm về trước và không chỉ cho đất nước mình. Chẳng bao lâu sau Peter và Edmund đã hào hứng nói về trận đánh oanh liệt đó mà quên đi đôi bàn chân nhức nhối và một gói nặng những chiếc áo giáp sắt vác trên vai. Cả chú lùn cũng quan tâm đến câu chuyện. Mọi người bắt đầu rảo bước nhanh hơn. Đường đi dễ hơn. Mặc dù vẫn còn một cái vách núi dựng đứng bên tay trái, mặt đất đổ xuống thấp hơn ở bên tay phải không còn là hẻm núi nữa mà là một thung lung. Không còn là thác nước, thay vào đó là một rừng cây rậm rạp.

Rồi, bất thình lình vang lên một tiếng gió giống tiếng kêu của con chim gõ kiến. Bọn trẻ con đứng lại, mơ hồ cảm thấy như mấy trăm năm trước chúng đã nghe thấy một âm thanh tương tự như thế và hình như nó chi làm cho bọn chúng cảm thấy ơn ớn thì Trumpkin hét lên:

- Nằm xuống! – và nhanh như cắt đẩy Lucy ( tình cờ đứng gần ông) nằm xuống dưới một bụi dương xỉ diều hâu. Peter đang nhìn lên để phát hiện xem nó có phải là một con sóc không thì thấy đó là một mũi tên dài, độc ác, cắm sâu vào gốc cây ngay trên đầu nó. Nó vừa đẩy Susan nằm xuống thì một mũi tên nữa lại sượt qua vai nó cắm thẳng xuống đất, ngay bên cạnh.

- Nhanh lên ! Nhanh lên ! Quay lại! Bò thấp xuống! – Trumpkin vừa thở hổn hển vừa nói.

Họ quay lại ngoằn ngoèo chạy lên đồi, dười những đám dương xỉ diều hâu vo ve từng đàn nhặng xanh gớm chết. Tên bay vù vù quanh họ. Một cái tên đâm trúng cái mũ trụ của Susan với một tiếng động sắc và đanh rồi trượt đi. Họ bò nhanh hơn. Mồ hôi túa ra như tắm. Sau đó lại chạy, cúi gập người xuống mà chạy. Bọn con trai cầm gươm trên tay vì sợ gươm đâm vào người .

Tình cảnh hiểm nghèo thiều điều làm người ta vỡ tim. Lại bò nhanh lên đồi, quay lại mảnh đất họ vừa đi qua. Khi cảm thấy không thể chạy thêm một bước nào nữa dù là để cứu cái mạng mình, tất cả ngã phịch xuống cái bờ rêu ẩm ướt gần thác nước, đằng sau một tảng đá lớn, thở hồng hộc. Họ lấy làm ngạc nhiên là đã lên cao được như thế..

Cả bọn chăm chú lắng nghe nhưng không thấy có tiếng động nào đuổi theo.

- Thôi. Thế là ổn rồi. – Trumpkin nói, hít vào một hơi thật sâu. – chúng không lùng sục trong rừng đâu. Tôi hi vọng chỉ là mấy đội tuần tiễu. Nhưng điều đó có nghĩa là Miraz có cả quân đồn trú ở tận đây. Chai lọ và xẻng xúc bánh mì, mặc dù vậy, đó là một cái gì vẫn có thể xảy ra.

- Tôi tưởng đầu tôi bị nát ra vì đã đưa mọi người đi lối này. – Peter nói.

- Ngược lại thưa đức vua. - Chú lùn nói, - thứ nhất, không phải là bệ hạ mà chính là em người, vua Edmund đã đề xuất ý kiến đi qua ngả sông Nước Thủy TInh.

- Em sợ là D.L.F nói đúng, - Edmund thành thực nói, nó quên mất điều này từ lúc mọi chuyện trở nên xấu đi.

- Và bởi một lẽ thứ hai, Trumpkin tiếp tục, - nếu chúng ta đi theo con đường của tôi, có thể sẽ rơi ngay vào một ổ phục kích mới, có vẻ như thế lắm, hoặc ít nhất thì cũng có một khó khăn tương tự. Tôi nghĩ Nước Thủy Tinh lại là con đường tốt nhất .

- Trong cái rủi lại có cái may, - Susan nói.

- Chỉ là một sự ngụy biện. – Edmund kêu lên.

- Em sợ rằng chúng ta phải đi lên hẻm núi ngay bây giờ. – Lucy nói.

- Lucy, em đúng là một anh hùng. – Peter xen vào. – Nói như thế cũng gần như em nói Em đã bảo mà. Đi thôi.

- Khi chúng ta yên ổn trong rừng rồi tôi sẽ nhóm lên một ngọn lửa nấu bữa tối, - Trumpkin nói, mặc cho ai muốn nói gì thì nói, chúng ta phải lập tức rời khỏi nơi này ngay. 

Không cần thiết phải mô tả việc họ quay lại hẻm núi như thế nào. Đó là một chuyến đi vất vả, nặng nhọc, nhưng kì lạ thay mọi người ai nấy đều phấn chấn, vui vẻ và cái từ bữa tối có một tác động kì diệu.

Họ quay lại chỗ cánh rừng thông đã gây cho họ không biết bao nhiêu trở ngại cách đây mấy tiếng đồng hồ để tìm một chỗ thích hợp cắm trại. Khi người ta vừa đói, vừa mệt thì không có công việc nào vừa nhọc nhằn, vừa nhàm chán hơn việc kiếm củi.

Nhưng mọi việc hóa ra rất tuyệt khi đống lửa được nhóm lên và họ xúm lại chế biến những tảng thịt sống, tanh tanh vốn chẳng có gì hấp dẫn đối với những người thường xuyên ở trong nhà. Chính chú lùn có sáng kiến chế biến món ăn. Họ lấy thịt gấu bọc ra ngoài trái táo ( vẫn còn lại mấy trái táo và như vậy họ có món bánh bao nhân táo với thịt gấu thay cho bột nhào, chỉ có điều nó dày hơn) – rồi họ đem xiên vào những cái que nhọn và đem nướng trên bếp lửa. Nước táo chảy ra, thấm vào thịt giống như một thứ nước sốt táo rưới lên món thịt heo nướng. Gấu là loài vật sống lâu hơn những con thú khác nên thịt hơi dai, nhưng nước mật chảy ra từ trong trái táo khi nướng đã làm mềm thịt và tạo cho nó một hương vị tuyệt vời.

Đúng là một bữa ăn có một không hai. Tất nhiên, sau khi ăn không phải rửa ráy gì cả, chỉ lăn kềnh ra, duỗi dài đôi chân mỏi nhừ, nằm nhìn khói bốc lên từ tẩu thuốc của Trumpkin và tán chuyện. Ai cũng khấp khỏi hi vọng vì chuyện tìm thấy Caspian vào ngày mai và đánh bại Miraz trong vài ngày tới. Dự tính trước như thể có thể là không lấy gì làm khôn ngoan cho lắm nhưng họ đã có ý nghĩ ấy vào lúc đã no bụng.

Từng người một chìm vào giấc ngủ và chẳng bao lâu sau tất cả đã ngủ say.

Lucy tỉnh dậy từ một giấc ngủ ngon nhất mà bạn có thể hình dung ra, với cảm giác là cái giọng nói mà nó yêu quý nhất trần đời đang gọi tên nó. Đầu tiên nó nghĩ đó là giọng nói của cha nó, nhưng dường như không phải. Sau đó nó nghĩ đó là giọng của Peter, nhưng cũng không đúng nốt. Nó không muốn thức dậy, không phải bởi vì nó vẫn còn quá mệt – ngược lại nó đã thư giãn và hồi phục hoàn toàn, tất cả những đau đớn, mệt mỏi đã biến mất – mà bởi vì nó đang thoải mái, thơ thới và hạnh phúc. Nó nhìn thẳng lên vầng trăng Narnia, lớn hơn vầng trăng của chúng ta, lên bầu trời đầy sao, bởi vì nơi họ cắm trại là một vùng thoáng và tương đối trống trải.

- Lucy! – tiếng gọi lại vang lên lần nữa, không phải giọng của cha cũng không phải giọng Peter. Nó ngồi dậy, run lên vì kích động chứ không phải là sợ. Trăng sáng đến nối quang cảnh cánh rừng bao bọc nó rõ mồn một gần như giữa ban ngày tuy trông như rông lớn hơn. Sau lưng nó là khóm rừng thông, bên tay phải nó là đỉnh vách núi hình răng cưa nằm ở bên kia hẻm núi. Thẳng trước mặt nó, qua một tráng có rộng bẳng chiều dài của một mũi tên bay là một rừng cây. Lucy chăm chú nhìn vào từng thân cây ở đây.

- Kỳ lạ, mình tin là chúng đang chuyển động. – Nó lẩm bẩm. – chúng đang đi.

Lucy đứng lên, trái tim đập loạn xạ trong lúc đi về phía rừng cây. Rõ ràng có một tiếng nói ở khu vực này, tiếng lao xao rì rào như tiếng cây cối vẫn tạo ra khi có gió nổi lên mặc dù đêm nay trời đứng gió. Tuy vậy cũng không hẳn là tiếng nói của một cái cây bình thường nữa. Lucy cảm thấy có một âm hưởng gì đó trong giọng nói ấy nhưng nó không thể đón bắt được chính xác cái âm hưởng ấy cũng giống như không thể bắt được những lời mà cây cối đã nói với nó vào đêm hôm trước.

Nhưng đây này, nó lại vang lên, ít nhất thì đó cũng là một bài ca du dương. Lucy cảm thấy đôi chân nó chỉ muốn nhảy múa theo cái âm thanh đầy nhạc tính trong lúc nó tiến đến gần hơn. Bây giờ thì không có gì phải nghi ngờ nữa, cây cối đã bắt đầu chuyển động, - tỏa đi, xoay tròn, xen vào nhau như trong một điệu vũ phức tạp. (” Và mình cho là, - Lucy thầm nghĩ - khi cây cối nhảy múa thì nhất định là một điệu múa dân gian rồi.” ) Bây giờ thì Lucy đã gần như lần vào giữa đám vũ công.

Ở cái liếc mắt đầu tiên, cái cây đầu tiên nó thấy không phải là một cây rừng mà là một người khổng lồ với bộ râu lờm xờm và những nùi tóc rậm. Lucy không sợ, nó đã chứng kiến những chuyện như vậy. Nhưng liếc cái thứ hai thì người khổng lồ ấy lại chỉ là một cái cây, đầu ông ta vẫn chuyển động. Tất nhiên là bạn không thể thấy rõ ông ta đang đi bằng chân hay bằng rễ bởi vì khi cây cối di động, chúng đâu có bước đi như ta đi trên mặt đất mà nó lội trong đất như thể ta đạp nước vậy. Mọi chuyện tương tự cũng xảy ra với mỗi cái cây mà nó nhìn đến. Lúc này trông chúng như những người đàn ông và đàn bà khổng lồ vừa dễ thương, vừa thân thiện, một loại nửa người, nửa cây, như trong một phép thuận tốt lành người ta biến cây thành người, nhưng chỉ nhãng đi một tí rồi nhìn lại bạn thấy tất cả những người ấy biến thành cây. Khi là cây, chúng giống người kì lạ, và khi là người khoác lên mình cành lá ngụy trang và suốt trong thời gian đó vang lên một âm thanh vui vẻ, trong lành, xào xạc, du dương, hớn hở.

- Cây cối gần như đã thức dậy, nhưng chưa tỉnh hẳn. – Lucy nói. Nó biết rằng nó hoàn toàn tỉnh táo, tỉnh hơn bất cứ ai nữa là khác.

Nó bước đi hồn nhiên, vô tư giữa rừng cây, với những bước đi như nhảy múa, chốc chốc lại nhảy sang một bên để tránh không xô phải những đôi bạn nhảy to lớn. Nhưng nó chỉ dành một nửa sự quan tâm cho cây cối, nó muốn đi qua chúng để đến với thứ khác, giọng nói thân thương vọng ra từ sau những hàng cây.

Chẳng bao lâu sau nó đã vượt ra khỏi rừng cây (nửa băn khoăn, nửa nghi hoặc không biết là mình đã dùng cả hai tay để gạt cành cây sang hai bên hay là đã bắt tay những vũ công to lớn tạo thành một vòng rộng đang cúi xuống để chạm vào người mình) bởi vì cây cối móc thành một vòng rộng quanh một khu vực trung tâm trống trải. Lucy bước ra khỏi một vùng lẫn lộn, chuyển hóa giữa ánh sáng dễ chịu với những cái bóng.

Một khoảng trống mọc đầy một thứ cỏ mịn như thể được một bàn tay tái tạo chăm bón và trên thảm cỏ lay động những cái bóng đen đen nhảy múa luôn đập vào mắt Lucy. Và kia, - một niềm vui choáng ngợp bùng lên như pháo hoa rực nở trên màn đêm đen sẫm bởi vì ông đấy – sư tử vĩ đại ngời lên, lỗng lẫy dưới ánh trăng, đổ một cái bóng lớn xuống bãi cỏ. Nhìn vào cái đuôi im phăng phắc có thể nghĩ đây là con sư tử đá, tuy vậy Lucy không bao giờ nghĩ như thế. Nó không hề dừng lại, suy nghĩ xem đây là bạn hay thù. Nó lao về phía ông. Nó cảm thấy trái tim mình sẽ nổ tung trong lồng ngực nếu nó vuột mất cái khoảnh khắc này. Điều tiếp theo mà nó còn nhớ được là việc nó hôn ông, quàng hai cánh tay nhỏ bé vào cổ ông, áp mặt mình vào cái bờm đẹp đẽ, óng mượt như tơ nõn của ông.

- Aslan, Aslan, Ông Aslan thân yêu!- Lucy kêu lên, giọng nghẹn ngào. – Rốt cuộc!

Con thú lớn lăn sang một bên để cho Lucy ngã theo. Nửa nằm nửa ngồi giữa đôi chân trước, Aslan cúi xuống chạm đầu lưỡi vào mũi Lucy. Hơi thở ấm áp của ông phả lên người nó, ủ khắp người nó. Con bé ngước nhìn lên khuôn mặt lớn rất mực minh triết ấy.

- Chào con gái !

- Aslan, ông đã to lớn hơn.

- Đó là vì con cũng lớn hơn, cô bé ạ.

- Không phải vì ông ư?

- Không phải. Nhưng mỗi năm con lớn lên con lại thấy ta to hơn.

Lúc ấy con bé sung sướng đến nỗi nó không muốn nói gì cả. Một lát sau chính Aslan nói trước:

- Lucy, chúng ta không thể nằm đây lâu. Con có việc phải làm và hôm nay đã lãng phí nhiều thời gian rồi.

- Vâng, thật là điều đáng xấu hổ.- Lucy nói. – Con đã nhìn thấy ông. Họ không tin con. Tất cả bọn họ thật…

Từ một chỗ nào đó sâu thẳm trong thân mình Aslan bật lên một cái gì đó như là một tiếng gầm khó nhận biết nhất.

- Con xin lỗi, - hiểu được tâm trạng cuả ông, Lucy nói, - con không có ý định nói xấu họ. Nhưng đấy không phải là lỗi của con, phải không ạ?

Sư tử nhìn thẳng vào mắt nó.

- Ôi, Aslan, ông không muốn nói như vậy chứ? Sao con có thể, con không thế bỏ những người khác lại mà một mình đi theo ông, phải không ạ? Đừng nhìn con như thế…Ồ phải, con cho là con có thể. Vâng, không phải là một mình, con biết, nếu như có ông bên cạnh, nhưng điều đó thì có tốt không ạ?

Aslan không nói gì.

- Ông muốn nói, - Lucy tiếp, giọng như yếu đi, - rằng mọi chuyện rồi sẽ đâu vào đấy, - bằng cách nào đó phải không ạ? Nhưng bằng cách nào? Làm ơn đi Aslan! Con thật không hiểu. 

- Để biết những chuyện sẽ phải xảy ra ư, bé con? – Aslan hỏi. – Không. Không có ai được biết trước điều gì hết.

- Ôi trời! - Lucy thốt lên. 

- Nhưng bất cứ ai cũng có thể tìm hiều xem điều gì đang xảy ra. – Aslan nói tiếp. – Nếu bây giờ con quay lại với những người kia, đánh thức họ dậy, bảo với họ là con lại trông thấy ta lần nữa và rằng con phải đưa tất cả đi theo ta…thì chuyện gì sẽ xảy ra? Chỉ có một cách duy nhất để tìm câu trả lời.

- Có phải đó là điều ông muốn con làm? – Lucy hỏi, đôi môi hé ra chờ đợi.

- Phải, cô bé ạ.

- Vậy những người khác có được thấy ông không?

- Đầu tiên thì chắc là không thấy rồi. Sau đó, cũng còn tùy.

- Nhưng họ sẽ không tin con đâu! – Lucy nói.

- Không thành vấn đề.

- Ôi trời, ôi trời ơi! – Lucy thốt lên. – con thật sung sướng là đã tìm thấy ông một lần nữa. Và con đã nghĩ là ông để cho con ở lại. Con nghĩ là ông sẽ tìm đến, gầm lên, làm quân thù kinh hồn bạt vía – như lần trước. Bây giờ thì mọi chuyện sẽ trở nên khủng khiếp lắm.

- Sẽ khó cho con đấy, bé ạ. Nhưng mọi việc không bao giờ xảy ra giống nhau. Lúc này có thể nói tình thế ở Narnia khó khăn hơn trước nhiều.

Lucy vùi đầu vào trong bờm sư tử để tránh nhìn vào khuôn mặt ông. Có một cái gì như thể phép màu trong cái bờm của ông. Nó có thể cảm thấy sức mạnh – sư tử truyền thẳng vào người. Với một cử chỉ đột ngột, nó ngồi thẳng lên.

- Con xin lỗi, Aslan. – Nó nói. – Con đã sẵn sàng rồi.

- Bây giờ con đúng là một sư tử cái. Và cả Narnia này sẽ được hồi sinh. Đi đi con. Chúng ta không còn thời gian để lãng phí nữa đâu.

Aslan trỗi dậy, bước đi một cách oai vệ, không gây nên một tiếng động nào mà cả hai quay lại chỗ những thân cây đang khiêu vũ trên một sân khấu tròn mà Lucy vừa đi qua. Sư tử đi trước, Lucy theo sát, một tay bám chặt lấy bờm sư tử. Cây cối rẽ sang hai bên nhường chỗ cho họ đi qua, trong vòng một giây chúng hoàn toàn có hình dáng của con người. Lucy thoáng ghi nhận bóng dáng của các mộc tinh và những nữ thần cây khi cúi đầu chào sư tử, sau đó chúng lại trở lại làm cây cối như cũ, nhưng vẫn cúi đầu, với những cử chỉ đung đưa duyên dáng của cành lá và thân cây khi cúi chào như chúng vẫn làm trong một vũ điệu tập thể.

- Nào con gái, - Aslan nói, khi họ đã bỏ lại rừng cây phía sau lưng, - ta sẽ đợi con ở đây. Đi đến đánh thức mọi người dậy và bảo mọi người đi theo ta. Nếu họ không nghe ra thì ít nhất con cũng phải đi theo ta, một mình.

Đánh thức bốn người lớn tuổi hơn bạn, dựng những người đã mệt mỏi rã rời dậy với nhiệm vụ nói với họ những điều biết là họ không tin và bảo họ làm điều họ không thích quả là một việc làm quá sức con bé.

- Mình không được nghĩ đến điều đó, mình cứ phải làm, thế thôi. – Lucy nghĩ.

Nó đi đến chỗ Peter trước, lay vai anh.

- Anh Peter, nó ghé tai anh cả thì thào, - dậy nhanh lên. Aslan đang ở đây. Ông nói chúng ta phải đi theo ông ngay.

- Chắc chắn rồi Lu. Bất cứ cái gì mà em thích. – Peter nói một cách bất ngờ. Một điều làm nức lòng con bé, nhưng Peter lại lăn sang một bên và ngủ tiếp như bất kì một thằng con trai tuổi ăn tuổi lớn nào.

Lucy thử gọi Susan. Chị nó đã thức dậy nhưng lại nói với cái giọng người lớn dễ ghét nhất:

- Em lại nằm mơ rồi Lucy. Ngủ lại đi.

Nó quay Edmund. Thật khó mà lay một thằng con trai đang ngủ như chết, cuối cùng nó cũng khiến Edmund tỉnh ngủ và ngồi dậy:

- Ê, - thằng anh cáu kỉnh nói, - em đang nói chuyện quái quỷ gì vậy? 

Lucy vẫn lặp lại một lần nữa. Đây là phần chán nản nhất trong nhiệm vụ của nó, bởi vì nó càng nói thì lời lẽ càng có vẻ có ít sức thuyết phục hơn.

- Aslan! – Edmund nói, nhảy lên tưng tưng. – Hoan hô! Thế ông ấy ở đâu?

Lucy quay đầu về phía sư tử đang đứng đợi, đôi mắt nhẫn nãi của ông nhìn nó đăm đăm.

- Kìa kìa, - nó chỉ.

- Đâu? Edmund hỏi lại một lần nữa.

- Kia kìa. Ở đằng kia! Anh không trông thấy sao? Ở ngoài những hàng cây kia.

Edmund nhìn chăm chú về phía đó một lúc.

- Chả thấy gì ở đó. Em hoa mắt và lẫn lộn mọi thứ dưới ánh sáng trăng rồi. Phải, anh đã tưởng thấy một cái gì trong một thoáng, nhưng đó chỉ là ảo giác em muốn nhìn thấy thôi.

- Lúc nào em cũng nhìn thấy ông. Ông đang nhìn thẳng vào chúng ta.

- Vậy tại sao anh lại không thấy?

- Ông nói có thể anh sẽ không thấy.

- Tại sao?

- Em không biết. Nhưng đó là điều ông nói.

- Xì, lại những chuyện lãng xẹt. Anh ước gì em không nhìn thấy ảo giác nữa. Nhưng anh cho là chúng ta phải đánh thức mọi người dậy.

CHƯƠNG 11

 Tiếng rống của sư tử

Cuối cùng, khi tất cả đã được đánh thức dậy, Lucy lại phải kể lại câu chuyện lần thứ tư. Sự im lặng nặng nề tiếp theo làm nản lòng bất cứ ai.

- Anh chẳng thấy cái gì hết. – Peter nói sau khi đã căng mắt ra nhìn đến đau cả mắt. – Em có thấy không hả Susan?

- Không, tất nhiên em không thể thấy gì. – Susan nói. – Bởi vì chẳng có bất cứ cái gì như thế. Lucy đang mơ ngủ. Nằm xuống ngủ tiếp đi Lucy!

- Em đã hy vọng, - Lucy nói bằng giọng run run, - rằng mọi người sẽ đi với em. Bởi vì – bởi vì em sẽ đi với Aslan… bất kể là mọi người có đi theo em hay không.

- Đừng ăn nói ngớ ngẩn như thế, Lucy. – Susan nói. – Tất nhiên em không thể bỏ đi một mình. Đừng để nó đi, anh Peter. Nó bắt đầu phá bĩnh rồi đấy.

- Em sẽ đi cùng với nó, nếu nó nhất định phải đi. – Edmund nói. – Con bé đã đúng một lần rồi.

- Anh cũng biết là thế. – Peter nói. – Và có lẽ cả sáng nay nó cũng đúng nốt. Chúng ta chẳng gặp may mắn gì khi đi xuống vực hôm nay. Với lại – vào cái lúc đêm hôm khuya khoắt như thế này. Nhưng tại sao Aslan lại không hiển hiện trước mắt chúng ta? Ông ấy không như thế bao giờ. Thật chẳng giống Aslan chút nào. Thế còn D.L.F, ý ông thế nào?

- Ồ, tôi chẳng có gì để nói. Nếu tất cả cùng đi thì tất nhiên tôi sẽ đi theo vị vua tối cao. Đó là nghĩa vụ của tôi đối với các bậc vua chúa và với vua Caspian. Còn nếu mọi người hỏi ý kiến riêng của tôi thì tôi chỉ là một thằng lùn tầm thường chẳng dám có ý nghĩ là có cơ hội tìm ra đường đi trong đêm tối trong khi giữa ban ngày lại không tìm được. Tôi cũng chẳng quen với những con sư tử thần thông, những con sư tử biết nói và không biết nói, không làm bạn với bất cứ một con sư tử nào và chúng cũng chẳng làm gì tốt cho chúng tôi; cũng chưa từng đánh bại những con thú lớn và không ai có thể thấy nó cả. Nếu quý vị hỏi ý kiến tôi thì… tất cả những chuyện này đều nhảm nhí, tầm phào.

- Ông đang đập móng vuốt giục chúng ta hãy nhanh lên. – Lucy nói. – Chúng ta phải đi ngay. Ít nhất thì em cũng phải làm vậy.

- Em không có quyền buộc những người còn lại phải làm theo ý em. Bốn chọi một mà em lại là người nhỏ nhất ở đây. – Susan nói.

- Ôi, thôi đi! – Edmund gầm gừ. – Chúng ta phải đi mau thôi. Sẽ không còn yên bình nữa cho đến khi chúng ta đi theo Lucy. – Edmund hoàn toàn ủng hộ Lucy, nhưng nó cũng lấy làm bực dọc vì bị mất giấc ngủ nên nó nói thế với một bộ mặt khó chịu, xưng xỉa.

- Vậy thì lên đường thôi. – Peter nói, uể oải xỏ tay vào tấm khiên và đội mũ trụ lên đầu.

Vào bất cứ lúc nào khác nó sẽ sẵn sàng nói một điều gì đó an ủi Lucy, cô em gái mà nó yêu nhất bởi vì nó biết con bé cảm thấy đau khổ như thế nào và nó cũng biết dù cho có bất cứ điều gì xảy ra thì cũng không phải lỗi tại Lucy. Nhưng cũng lúc đó nó lại không tránh khỏi cảm giác bực bội với cô em.

Phản ứng của Susan bất ngờ nhất.

- Giả sử tôi cũng bắt đầu cư xử như Lucy. Tôi dọa sẽ ở lại đây dù cho tất cả mọi người có đi đâu cũng mặc, thì sao? Tôi nghĩ là tôi cũng dám làm như thế lắm.

- Hãy tuân lệnh vị vua tối cao, thưa nữ hoàng, - Trumpkin nói, - và lên đường đi. Nếu tôi không được phép ngủ tiếp, thì thà tôi hành quân còn hơn là đứng đây lời qua tiếng lại.

Cuối cùng, mọi người lên đường. Lucy đi đầu tiên, cắn môi để cố kìm lại ý muốn nói tất cả những điều mà nó muốn nói với Susan. Nhưng rồi nó lại quên tất cả những điều ấy khi nó nhìn Aslan. Ông quay đầu lại, rồi chậm rãi đi trước chúng một quãng khoảng 30 mét. Những người còn lại chỉ việc đi theo hướng mà Lucy đã dẫn dắt bởi vì Aslan không những chỉ vô hình đối với họ mà ông còn một mực giữ im lặng. Những cái móng giống như vuốt mèo không để lại một tiếng động nào trên lớp cỏ.

Ông dẫn mọi người đi thẳng đến những hàng cây nhảy múa – có điều chúng có còn khiêu vũ hay không thì không ai biết bởi vì Lucy chỉ tập trung nhìn vào Aslan còn cả bọn thì chăm chú nhìn vào Lucy – và họ đi sát mép vực.

“Than cục và trống định âm,”Trumpkin thầm nghĩ. “Mình chỉ hy vọng cái chuyện điên rồ này không kết thúc bằng việc phải trò lên vách núi dưới ánh trăng mà ngã gãy cổ.”

Thế là suốt một chặng đường dài, Aslan đi trên đỉnh vách đá cheo leo. Sau đó họ đến một chỗ có những bụi cây nhỏ lúp xúp mọc lên ở bên tay phải mép đá. Aslan quay lại và biến mất giữa mọi người. Lucy nín thở, bởi vì cứ như thể ông đã lộn nhào xuống vách đá; nhưng nó quá bận rộn dõi theo ông để có thể dừng lại và suy nghĩ về điều đó. Nó bước nhanh hơn, chẳng bao lâu đã đứng trong đám cây um tùm, nhìn xuống phía dưới nó có thể thấy một con đường nhỏ dốc đứng đâm xiên xuống vực giữa những tảng đá và kia Aslan đang đi xuống. Ông quay lại nhìn cô bé với đôi mắt long lanh, hạnh phúc. Lucy vỗ hai tay vào với nhau, bắt đầu bò xuống theo ông. Phía sau lưng nó vang những giọng nói xôn xao: “Này, Lucy! Nhìn coi, vì Chúa! Em đang đứng ngay trên mép vực. Quay lại đi!” Nhưng ngay sau đó, giọng Edmund vang lên:

- Không sao đâu, nó ổn thôi. Có đường đi xuống đây này.

Xuống được nửa đường, Edmund đuổi kịp em gái.

- Nhìn này! – Nó kêu lên với giọng kích động mãnh liệt. – Nhìn này! Cái bóng gì đang bò trước mặt chúng ta kìa?

- Đó là cái bóng của ông. – Lucy nói.

- Anh tin là em nói đúng, Lu ạ. – Edmund nói. – Anh không nghĩ là anh đã nhìn thấy cái bóng này trước đó. Nhưng ông ấy ở đâu?

- Tất nhiên là cùng với cái bóng của ông. – Lucy nói. – Anh vẫn chưa nhìn thấy ông hay sao?

- À, anh gần như nghĩ là mình đã nhìn thấy – chỉ một tích tắc. Trong cái ánh sáng kỳ quặc như thế này.

- Đi tiếp đi, vua Edmund, đi tiếp đi. – Giọng Trumpkin vang lên phía sau và bên trên, sau đó là một giọng ở xa hơn, gần như còn ở trên đỉnh, đó là tiếng Peter.

- Nhanh lên Susan. Đưa tay cho anh nào. Một đứa bé cũng còn đi được kia mà. Đừng càu nhàu nữa.

Chỉ một lúc sau họ đã xuống dưới đáy vực, tiếng nước réo ầm ầm vang lên bên tai họ. Bước từng bước nhẹ như không, giống một con mèo. Aslan nhảy từ hòn đá này sang hòn đá khác ngang qua dòng thác. Đến giữa dòng, ông cúi xuống uống nước, sau đó ngẩng cái đầu bờm xờm, nhảy xuống nước và ông quay lại nhìn họ lần nữa. Lần này Edmund nhìn thấy ông.

- Ôi! Aslan! – Nó kêu lên và lao về phía trước. Nhưng sư tử đã lướt thành một vòng tròn và bắt đầu vượt lên dốc bên kia thác nước.

- Peter! Peter! – Edmund kêu lên. – Anh có thấy gì không?

- Anh có thấy một cái gì đó nhưng nó cứ thoắt ẩn thoắt hiện dưới ánh trăng. Dù vậy, Lucy ơi, em giỏi lắm. Anh không cảm thấy mệt mỏi chút nào.

Không ngừng lại, Aslan dẫn họ đi sang bên trái, lên hẻm núi. Cả chuyến đi này đều kỳ lạ và giống như trong mơ – thác nước gầm thét, lớp cỏ xam xám đẫm sương đêm, vách đá sáng lên mờ mờ mà họ đang đi đến gần và bao giờ ở trước mắt cũng là con thú tuyệt đẹp đang lặng lẽ sải bước ở phía trước. Bây giờ thì tất cả đều nhìn thấy Aslan – trừ Susan và chú lùn.

Lúc này họ đã đi đến một con đường dốc đứng khác và khi đã lên trên dóc cao, họ lại đối diện với một dốc đá ở xa hơn. Có những vách núi xa hơn, cao hơn cái dốc núi mà họ vừa đi xuống, con đường đi lên khá dài, ngoắt ngoéo và buồn tẻ. May thay trăng sáng vằng vặc chiếu thẳng xuống hẻm núi, thế nên không bên vách núi nào bị khuất.

Suýt nữa thì Lucy té xuống khi cái đuôi và hai chân sau của Aslan biến mất sau đỉnh núi, nhưng với một nỗ lực cuối cùng nó bò theo ông và qua được. Và đây họ đã lên được ngọn đồi đầu tiên kể từ khi rời Nước Thủy Tinh, với đôi chân rã rời và nhịp thở dồn dập không ra hơi. Sườn đồi dài, thoai thoải (cỏ, những bụi thạch nam và một vài tảng đá lớn sáng lên dưới ánh trăng) chạy lên cao rồi biến mất trong những bóng cây mờ mờ kéo dài chừng nửa dặm. Lucy biết rõ: Đó là ngọn đồi Bàn Đá.

Có tiếng lách cách của áo giáp sắt của những người bò núi sau lưng Lucy. Aslan lướt đi phía trước họ, tất cả mọi người đi theo ông.

- Lucy à. – Susan gọi lí nhí.

- Gì cơ? – Lucy hỏi lại.

- Bây giờ chị nhìn thấy Aslan rồi. Cho chị xin lỗi.

- Không có gì đâu.

- Nhưng chị còn tồi tệ hơn là em nghĩ nữa. Thực ra chị tin đó là ông – chị muốn nói từ hôm qua cơ. Khi ông răn đe chúng ta không đi xuống dưới chỗ rừng thông. Và mới rồi chị cũng tin đó chính là ông… lúc em gọi mọi người dậy. Chị muốn nói, trong tâm khảm… chị tin. Hoặc chị phải tin nếu chị chính là mình. Nhưng… nhưng, chị chỉ muốn thoát khỏi khu rừng và… ôi chị cũng không rõ nữa. Bây giờ chị biết ăn nói thế nào với ông đây?

- Có lẽ chị không cần phải nói gì nhiều. – Lucy gợi ý.

Chẳng bao lâu họ đã đến rừng cây và vượt qua đấy bọn trẻ có thể thấy Gò Đôi nơi đã từng có Bàn Đá trứ danh ngày xưa.

- Quân ta phòng bị không được tốt lắm. – Trumpkin lẩm bẩm. – Chúng ta đã trải qua bao thử thách, bây giờ…?

- Suỵt, - bốn đứa trẻ cắt ngang bởi vì lúc này Aslan đã đứng lại, quay người đối diện với bọn họ, trông oai vệ và uy nghi đến nỗi họ lấy làm sung sướng như bất cứ ai từng trải qua cảm giác sợ hãi và sợ hãi như bất cứ ai đã từng sung sướng. Hai đứa con trai lao lên trước, Lucy nhường chỗ cho chúng. Susan và người lùn co người lùi lại.

- Ôi, thưa Aslan, - vua Peter kêu lên, quỳ một gối xuống nâng một móng vuốt nặng nề của sư tử lên ngang mặt mình, - con thực sự sung sướng khi gặp Người. Con cũng ân hận nữa. Con đã từng làm vị vua tối cao mà lại đưa mọi người đi sai đường nhất là vào buổi sáng hôm nay.

- Con trai thân yêu của ta! – Aslan lên tiếng.

Rồi ông quay sang chào đón Edmund:

- Làm tốt lắm, con trai.

Sau đó một quãng im lặng ngượng ngùng, giọng nói âm vang, sâu thẳm trong lồng ngực Aslan lại vang lên:

- Susan à!

Con bé không trả lời và những đứa kia nghĩ nó đang khóc.

- Con chỉ lắng nghe nỗi sợ của bản thân, con gái ạ. Đến đây đi, để ta phà hơi thở lên người con. Hãy quên những nỗi sợ hãi đi. Con đã lấy lại can đảm rồi phải không?

- Một chút thôi ạ, thưa Aslan. – Susan ấp úng.

- Và bây giờ, - Aslan nói với một giọng to hơn nghe như có tiếng rền trong đó, trong khi cái đuôi quất vào một bên sườn. – Và bây giờ, hỡi người lùn bé nhỏ, một kiếm sĩ và một cung thủ nổi danh, kẻ không tin vào sư tử đâu rồi? Lại đây, người con trai của Đất! Hãy lại đây!

Những lời cuối cùng không có âm hưởng của tiếng rền nữa mà thực sự là một tiếng gầm.

- Hồn ma và những con tàu đắm! – Trumpkin há hốc mồm ra nói bằng một giọng không hề có âm sắc. Bọn trẻ con, những đứa đã biết rõ là Aslan rất quý người lùn thì không vì thế mà giật mình hoảng hốt, nhưng đối với Trumpkin thì đó lại là một chuyện khác. Ông ta chưa hề thấy một con sư tử nào trong đời chứ đừng nói đến con sư tử oai dũng này. Ông ta làm một điều hợp lý nhất có thể làm, đó là thay vì lồng lên chạy trốn, ông lảo đảo đi về phía Aslan.

Aslan chồm lên. Bạn đã từng thấy một con mèo con mới đẻ được đưa đến trước miệng mèo mẹ chưa? Chuyện này cũng tương tự như thế. Chú lùn cúi gập người xuống thành một quả bóng bé nhỏ khốn khổ treo trước miệng Aslan. Sư tử lay vai ông một cái và cái áo giáp trên người ông kêu loảng xoảng như cái bao sắt vụn của người thợ hàn và rồi một – hai – ba. Chú lùn bay bổng lên không trung, vẫn an toàn như đang nằm trên giường dù rằng ông không hề cảm thấy thế. Khi chú lùn rơi xuống đất, Aslan giơ cái móng to êm như bọc nhung ra đỡ - nhẹ nhàng như đôi cánh tay mẹ - rồi đặt chú lùn xuống đất với tư thế đứng thẳng.

- Con trai của Đất, chúng ta là bạn chứ? – Aslan hỏi.

- Vâ… â… â… n… g. – Chú lùn thở không ra hơi, lập bập đáp lại bởi vì vẫn chưa hoàn hồn.

- Bây giờ, - Aslan nói giọng sang sảng, - trăng đã lặn. Nhìn ra phía sau xem sao: một ngày mới bắt đầu, chúng ta không còn thời gian để lãng phí đâu. Hai người con trai của Adam và một người con của Đất, hãy mau chóng đi lên gò và giải quyết những gì mà các con tìm thấy ở đấy.

Chú lùn vẫn như bị cấm khẩu và cả hai thằng con trai cũng không dám mở miệng hỏi xem Aslan có đi theo chúng không. Cả ba rút gươm ra, cúi đầu chào, đoạn quay người và leng keng đi mất trong ánh tranh tối tranh sáng lúc rạng đông. Lucy nhận thấy không còn dấu hiệu mệt mỏi trên khuôn mặt họ, cả vua Peter và vua Edmund đều có vẻ oai phong lẫm lẫm của những người đàn ông hơn là những bé trai.

Bọn con gái đứng nhìn theo khi bóng họ đi xa dần, chúng đứng ngay cạnh Aslan. Ánh sáng đã bắt đầu thay đổi. Xuống đến gần đường chân trời ở phía đông, Aravis ngôi sao mai của Narnia tỏa sáng như một vầng trăng nhỏ. Aslan dường như còn to lớn hơn trước, ngẩng đầu lên, lắc cái bờm và để thoát ra một tiếng gầm vang dội.

Đầu tiên tiếng gầm bắt đầu bằng những âm trầm rộn rã như tiếng đàn organ rồi bắt sang những nốt nhạc cao hơn, to hơn, to mãi cho đến khi cả mặt đất lẫn không gian đều run lên cùng với tiếng gầm ấy. Nó bắt đầu vọng lên đến đỉnh đồi, lan ra khắp cả nước Narnia.

Trong doanh trại của Miraz, quân lính thức dậy, xanh mặt nhìn nhau, vơ vội vũ khí. Xa xa bên dưới, trong dòng nước của con sông Đại Giang đang vào lúc lạnh nhất, thình lình nhô lên đầu và vai của các nữ thủy thần và cái đầu to nhất lòa xòa râu và tóc như những sợi rong chính là vua Thủy Tề. Xa hơn nữa ở mỗi cánh đồng và mỗi rừng cây, đôi tai thính nhạy của loài thỏ ló ra khỏi hang, cái đầu ngái ngủ của những con chim ló ra khỏi đôi cánh, cú rúc lên, cáo kêu, nhím làu bàu, cây cối vặn mình răng rắc. Trong cái thôn làng và phố chợ, những bà mẹ ép con nhỏ sát vào ngực, trừng trừng nhìn ra với đôi mắt hoảng hốt, chó sủa sinh ỏi, đàn ông cuống cuồng đốt đuốt lên. Và xa tít tận biên giới phía bắc, những người khổng lồ miền núi ló mặt ra khỏi những cánh cổng âm u trong tòa lâu đài của họ. Lucy và Susan nhìn thấy một khối đen đen hầu như bao trùm ở tất cả các hướng bò về phía họ, tràn qua, băng qua những ngọn đồi. Đầu tiên nó giống như một màn sương mù đen đang phủ xuống mặt đất, sau đó lại giống như những đợt sóng triều bão tố của biển Hắc Hải, dâng lên cao hơn, cao hơn và cuối cùng, nó như là chính nó vậy – những rừng cây đang chuyển mình.

Tất cả cây cối trên đời này dường như đang xô về phía Aslan, nhưng khi đến gần hơn cây cối không còn giống với mình nhiều nữa và khi cả đám đông cúi đầu, nhún gối vẫy những cánh tay dài, mảnh dẻ về phía Aslan, Lucy thấy cái đám đông đang vây tròn quanh họ là một đám người. Những cô gái bulô nước da xanh nhợt ngẩng đầu kiêu hãnh, những người đàn bà sậy vén mái tóc ra khỏi khuôn mặt buồn bã để nhìn Aslan, những nàng sồi vương giả thì đứng im phăng phắc, ngưỡng mộ nhìn ông, những ông sồi bờm xờm râu tóc, những chàng du mảnh dẻ, âu sầu, những gã ôrô tóc tai bối rối (bản thân họ thì đen, còn vợ họ thì lại sáng sủa với chùm quả đỏ tươi như trái dâu), và kia là những cây thanh lương trà vui vẻ; tất thảy đều cúi đầu xuống, ngửng đầu lên la lớn: “Aslan! Aslan!” bằng những cái giọng khàn khàn hoặc cót két hoặc oàm oạp như tiếng sóng vỗ bờ. Đám đông nhảy múa quanh Aslan (bởi vì bây giờ nó hợp thành một điệu vũ một lần nữa) mỗi lúc một đông hơn với nhịp điệu nhanh hơn khiến Lucy chóng cả mặt. Nó chưa bao giờ chứng kiến cảnh một cái cây hiện hình người từ cái đám người – cây đang nhảy múa. Có một người còn rất trẻ, mặc trên người một bộ da hươu, một vòng hoa quấn bằng dây nho quanh mái tóc loăn xoăn. Khuôn mặt người này sẽ có một vẻ đẹp nam nhi mẫu mực nếu như không có một vẻ gì hoang dã. Bạn sẽ cảm thấy đúng như Edmund bình luận một vài ngày sau đó: “Đó là một gã trai có thể làm bất cứ chuyện gì!” Đúng như vậy, bất kể điều gì. Cậu ta xem chừng có rất nhiều tên: Bromios, Bassareus và Ram, ít nhất là có ba cái tên. Có rất nhiều cô gái đi theo cậu, trông cũng hoang dại như cậu vậy. Ở đây còn có một người, thật bất ngờ, cưỡi trên một con lừa. Tất cả mọi người đều cất tiếng cười vang và đều la lớn: “Eaun, Eaun, eu-oi-oi-oi!”.

- Đây là một trò vui lớn phải không Aslan? – Chàng trai trẻ kêu lên – Rõ ràng thế rồi.

Nhưng gần như mỗi người lại có một ý kiến riêng và cái trò chơi mà họ đang tham gia. Có thể đó là một trò có tên gọi là Tig nhưng Lucy không bao giờ biết rõ nó là cái gì. Nó cũng giống như chơi trò bịt mắt bắt dê chỉ có điều tất cả mọi người đều đóng vai bị bịt mắt. Nó cũng không khác đối với trò thử hài nhiều lắm và nếu có khác thì chỉ là chiếc hài không bao giờ tìm thấy. Người làm cho mọi chuyện thêm phần rắc rối hơn chính là một ông già phì nộn ngồi trên lưng một con lừa. Ông già này luôn miệng kêu to:

- Ẩm thực! Đã đến lúc dành cho tiết mục ẩm thực!

Chợt ông ta ngã lăn khỏi con lừa, được những người khác xúm lại vắt thành một đống trên lưng con vật. Trong khi đó thì chú lừa này lại có cảm giác nó đang ở trong một rạp xiếc và cố biểu diễn trên hai chân sau. Suốt trong thời gian đó, càng lúc càng có nhiều dây nho xuất hiện. Chẳng bao lâu sau không chỉ có lá nho mà còn có cả quả nho. Dây nho bò lên tất cả mọi thứ. Nó ngoằn ngoèo chạy lên chân của những người – cây rồi quấn lên quanh cổ họ. Lucy đưa bàn tay hất tóc ra sau lưng và nhận thấy nó đang vuốt những cành nho ra sau. Con lừa là một điểm trọng tâm. Đuôi nó bị một cái gì đen đen quấn quýt suốt từ trên xuống dưới rồi thắt lại ở hai tai. Khi Lucy nhìn nó lại một lần nữa thì thấy nó là một chùm nho. Chỉ một vài tích tắc sau thì nhìn đâu cũng thấy chùm nho – trên đầu, dưới chân và bốn chung quanh.

- Ẩm thực! Ẩm thực! – Ông già gào lên. Mọi người bắt đầu ăn, mà bạn của tôi ạ, dù bạn có một nhà kính xịn như thế nào thì bạn cũng chưa bao giờ được nếm thử những trái nho như thế này đâu. Những trái nho đẹp đẽ, chín mọng, rắn chắc ở bên ngoài nhưng lại ngọt ngào mát lạnh tận chân răng khi bạn cho vào miệng – là một thứ mà trước đó hai chị em Susan chưa bao giờ biết ăn cho đủ. Ở đây còn có nhiều món hơn là bất cứ ai mong muốn mà lại không đòi hỏi một phong thái lịch sự bên bàn ăn. Người ta nhìn thấy những ngón tay dinh dính, đủ màu ở khắp mọi nơi và mặc dù các cái miệng đang tích cực ăn uống nhưng tiếng cười tiếng nói cũng không lúc nào lắng xuống cho đến lúc bất chợt, tất cả mọi người đều bất giác nhận ra rằng hết thảy các trò chơi (bất kể là trò chơi gì) và cuộc vui nào cũng có lúc tàn thế là hết thảy mọi người nằm phịch xuống đất, nín thở quay đầu lại nhìn Aslan chờ xem ông sẽ nói điều gì tiếp theo.

Lúc đó mặt trời mọc lên và Lucy chợt nhớ ra một điều gì đó bèn quay sang thì thầm với Susan:

- Chị Su ơi, em biết họ là ai đấy.

- Ai vậy?

- Chàng trai có khuôn mặt hoang dã tên là Bacchus, còn ông già ngồi trên con lừa là Silenus. Chị còn nhớ ông Tumnus đã kể chúng ta nghe về họ không?

- Có, dĩ nhiên là chị vẫn nhớ. Nhưng mà…

- Sao ạ?

- Chị không cảm thấy an toàn với Bacchus và tất cả những cô gái hoang dã kia nếu chúng ta gặp họ mà không có Aslan.

- Em không nghĩ như thế. – Lucy đáp.

CHƯƠNG 12

 Ma thuật và sự báo thù bất ngờ

Trong lúc đó thì Trumpkin và hai cậu con trai đã đi đến cái cổng đá nhỏ tối om dẫn vào trong lòng Gò Đôi. Hai chú lửng làm nhiệm vụ canh gác (tất cả những cái mà Edmund có thể nhìn thấy ở hai con lửng này là những vệt trắng trên má) nhảy ra, nhe hai hàm răng với giọng gầm gừ:

- Ai đến đấy?

- Trumpkin đây. – Chú lùn đáp. – Tôi đưa vị vua tối cao của Narnia từ quá khứ trở về.

Hai con lửng dí mũi vào hai tay cậu bé. “Đến rồi! Đến lúc rồi!” – Chúng nói.

- Cho chúng tôi một cây đèn, anh bạn. – Trumpkin nói.

Hai con lửng tìm thấy một bó đuốc để ở bên trong một cái hốc, Peter thắp đuốc lên rồi chuyền cho Trumpkin.

- D.L.F hãy dẫn đường đi. Chúng tôi không thuộc đường ở đây.

Trumpkin nhận lấy bó đuốc, dẫn đường trong đường hầm tối đen, lạnh lẽo, thoảng mùi ẩm mốc với một con dơi chập chờn bay trong ánh đuốc và đâu đâu cũng có mạng nhện. Hai đứa con trai lúc nào cũng ở ngoài trời, chỗ thoáng đãng kể từ lúc ở sân ga sớm hôm ấy có cảm giác như chúng chui vào trong rọ hay trong một hầm ngục.

- Peter, - Edmund thì thào, - nhìn những cái hình tạc trên vách đá kia kìa. Trông lạ quá phải không? Nhưng chúng mình còn lâu đời hơn nữa. Khi chúng ta ở đây còn chưa có những hình thù này.

- Phải, và nó làm cho người ta phải suy nghĩ!

Chú lùn vẫn đi trước, rẽ sang phải rồi lại ngoặt sang trái, bước xuống mấy bậc sau đó lại quẹo sang trái một lần nữa. Cuối cùng họ thấy có tia sáng trước mặt, ánh sáng phát ra từ từ dưới khe cửa. Lần đầu tiên họ nghe thấy có tiếng nói, bởi vì họ đã đi đến cái cửa dẫn vào gian trung tâm. Những giọng nói bên trong vang lên rất giận dữ. Một ai đó đang nói to đến nỗi ba người mới đến không thể không nghe thấy.

- Khi người ta nói thế này hẳn có điều gì không ổn. – Trumpkin thì thầm với Peter. – Hãy nghe ngóng một lúc đã.

Cả ba đứng im phăng phắc bên ngoài cánh cửa.

- Mọi người đã biết rõ, - một giọng nói cất lên (“Đó là đức vua.” – Trumpkin thì thầm), - tại sao tù và lại không được thổi lên vào lúc mặt trời mọc sáng nay. Hay là mọi người đã quên mất là Miraz tấn công chúng ta gần như trước lúc Trumpkin đi và chúng ta đã phải chiến đấu giành lại mạng sống của mình trong vòng 2, 3 giờ gì đó? Tôi đã thổi tù và ngay khi có cơ hội đầu tiên.

- Tôi không quên được đâu, - lại cái giọng gay gắt lúc nãy, - khi người lùn chúng tôi phải chịu đựng mũi dùi của cuộc tấn công và một trong năm người đã ngã xuống. (“Đó là Nikabrik.” – Trumpkin nói nhỏ.)

- Cậu phải biết xấu hổ chứ, tên lùn kia. - Một giọng nặng nề vang lên (“Đó là bác lửng Trufflehunter” – Trumpkin giới thiệu). - Tất cả chúng tôi đều gắng sức như các ngươi và không một ai dũng cảm hơn nhà vua.

- Cứ kể theo kiểu của anh về mọi chuyện đi. – Nikabrik độc địa đáp. – Nhưng một khi thổi tù và quá trễ, hoặc giả nó chẳng có pháp thuật quái gì, thì sẽ chẳng nhận lại được sự giúp đỡ nào cả. Ông - người cố vấn vĩ đại!!! Ông - thầy phù thủy!!! Ông biết tất cả mọi chuyện mà, có phải ông vẫn khuyến khích chúng tôi hy vọng hão huyền về Aslan, vua Peter và tất cả những chuyện ngớ ngẩn này không?

- Tôi phải thừa nhận, đúng… tôi không thể bác bỏ rằng… tôi đã thất vọng sâu xa trước kết quả của việc này. - Một giọng khác cất lên. (“Đó là tiến sĩ Cornelius”. – Trumpkin nói.)

- Nói trắng ra, - Nikabrik dằn giọng, - cái ví ông rỗng không, trứng ông bị ung, lưới của ông không bắt được cá, lời hứa hẹn của ông chỉ là hão huyền… Mời ông đứng sang một bên để người khác làm việc. Có thế thôi.

- Sự giúp đỡ rồi sẽ đến. – Trufflehunter nói. – Tôi sẽ đứng cạnh Aslan. Hãy kiên nhẫn và tin tưởng như loài thú chúng tôi. Sự giúp đỡ rồi sẽ đến. Rất có thể là nó đứng ngay ngoài cửa vào lúc này.

- Chà! – Nikabrik cáu tiết quặc lại. - Bọn lửng các anh bắt chúng tôi đợi đến lúc trời sập chắc, và liệu chúng tôi có thể bắt tất cả chim chiền chiện không? Nói cho anh biết, chúng tôi không thể đợi được nữa. Lương thực càng ngày càng cạn, chúng ta mất nhiều hơn là được trong các trận đánh, những người theo chúng ta cũng chuồn dần.

- Còn vì sao à? – Trufflehunter bật lên. - Để tôi nói cho cậu biết lý do tại sao. Đó là bởi vì có lời đồn chúng ta kêu gọi vua của quá khứ và ông vua này không đáp lại. Lời cuối cùng Trumpkin dặn dò trước khi ra đi (và có vẻ như đi vào cõi chết) là : “Nếu thổi tù và thì nhất thiết không được để các chiến sĩ biết vì sao lại thôi hoặc đừng để họ trông mong vào điều gì đó. Nhưng ngay tối hôm ấy thì mọi người đã biết tất tần tật.

- Tốt nhất là anh cứ dúi cái mõm xám của anh vào một tổ ong bắp cày còn hơn là ám chỉ rằng tôi là một kẻ ba hoa không kín miệng.

- Ôi thôi, hãy chấm dứt cãi vã. – Vua Caspian nói. – Tôi muốn biết Nikabrik có ý khuyên tôi làm gì. Nhưng trước hết hai người lạ mặt mà ông ấy mang đến hội đồng cơ mật này là ai, họ cứ đứng kia, dỏng tai lên và ngậm miệng.

- Họ là bạn bè của tôi. – Nikabrik đáp. - Tạo sao Caspian lại có đặc quyền có được sự ủng hộ của Trumpkin và Trufflehunter? Và cái lão già lú lẫn trong bộ đồ đen kia có quyền gì mà ở lại ở đây ngoài việc lão là bạn của Caspian hả? Tại sao tôi lại là người duy nhất không được đưa người của mình tới đây?

- Caspian là đức vua mà cậu có nghĩa vụ phải thể hiện lòng trung thành.

- Đạo vua tôi, đạo vua tôi. – Nikabrik cười nhạt. – Nhưng trong cái hang này chúng ta có thể nói huỵch toẹt mọi chuyện. Anh biết và Caspian cũng biết tỏng rằng cái thằng nhóc Telmarine này sẽ chẳng làm vua ở bất cứ đâu và đứng cao hơn bất cứ ai trong vòng một tuần lễ nếu chúng ta không giúp sức lôi nó ra khỏi cái bẫy mà nó đang mắc phải.

- Có lẽ, - Cornelius lên tiếng, - những người bạn mới của anh cũng vui lòng giới thiệu về mình. Các người là ai, từ đâu tới?

- Thưa ngài tiến sĩ đáng kính, - một giọng yếu ớt nghe như lời than vãn kêu lên, - để làm vui lòng ngài tôi chỉ là một mụ già đáng thương. Và tôi… tôi rất biết ơn người lùn đáng kính này về tình bạn dành cho tôi. Đức vua với khuôn mặt đẹp đẽ thế kia không cần phải sợ một mụ già gần như phải gập đôi người lại vì bệnh viêm khớp, một người không có đến hai que củi để đun một ấm nước. Tôi có biết một vài phép thuật hèn mọn - chứ đâu được như ngài, thưa tiến sĩ, chỉ là những lá bùa nho nhỏ và phép phù thủy vặt mà tôi vui lòng sử dụng để chống lại kẻ thù nếu được sự đồng ý của mọi người. Tôi căm thù chúng. Ồ phải, không ai căm thù chúng hơn tôi.

- À… tất cả những điều này hết sức thú vì và …à mà… rất thỏa đáng. - Tiến sĩ Cornelius nói. – Tôi nghĩ bây giờ tôi đã biết bà là ai thưa bà. Có lẽ người bạn còn lại của ông, Nikabrik ạ, có thể giới thiệu về mình chăng?

Một giọng nói buồn tẻ thiếu âm sắc làm cho Peter nổi da gà, đáp lại:

- Tôi đói. Tôi khát. Cái gì tôi cắn giữa hai hàm răng thì tôi giữ lại cho đến lúc chết, thậm chí cả sau khi chết người ta phải cắt miệng tôi ra khỏi xác kẻ thù và chôn nó cùng với tôi. Tôi có thể sống hàng trăm năm không chết. Tôi có thể nằm trên băng một trăm đêm mà không đóng thành băng. Tôi có thể uống một dòng sông máu mà không bị vỡ bụng. Cho tôi biết kẻ thù của các ông là ai.

- Như vậy, với sự hiện diện của hai người bạn này, ông muốn trình bày kế hoạch của ông, phải không Nikabrik? – Caspian hỏi.

- Phải, với sự giúp đỡ của họ tôi muốn thực hiện kế hoạch đó.

Trong vòng một hoặc hai phút Trumpkin và hai cậu bé có thể nghe Caspian và hai người bạn thảo luận với nhau bằng giọng thầm thì và không thể nghe ra được là họ nói gì. Cuối cùng Caspian nói to:

- Thôi được, Nikabrik, - cậu nói, - chúng tôi sẽ nghe kế hoạch của ông.

Im lặng kéo dài đến nỗi bọn con trai bắt đầu tự hỏi không biết Nikabrik có bao giờ bắt đầu không. Nhưng khi người lùn này bắt đầu thì ông ta lại nói với một giọng thấp hơn, thiếu nhiệt tình như thể chính ông ta cũng không thích điều mình đang nói cho lắm.

- Về tất cả những điều người ta nói và làm, - ông ta lải nhải, - phải, không ai trong chúng ta biết sự thực về những ngày xa xưa ở Narnia. Trumpkin không tin lấy một điều trong tất cả những chuyện thất thiệt này. Phải, chúng ta đã cố làm một việc để thử xem tất cả những chuyện này có đúng hay không. Đầu tiên, chúng ta đã thử với cái tù và và đã thất bại. Nếu đã từng có Peter Đại Đế, nữ hoàng Susan, vua Edmund và nữ hoàng Lucy thì hoặc là họ không nghe thấy chúng ta, hoặc là họ không thể đến, hoặc họ là kẻ thù của chúng ta.

- Hoặc là họ đang trên đường đến đây. – Bác lửng nói giọng thản nhiên, tách bạch từng tiếng.

- Ông cứ tiếp tục nói thế cho đến khi Miraz ném xác của tất cả chúng ta cho bầy chó của hắn. Như là tôi đã nói… Chúng ta đã thử một mắt xích trong cái chuỗi huyền thoại cũ rích ấy và nó chả đem đến một điều gì tốt đẹp cho chúng ta. Phải, nhưng khi kiếm bị gãy thì các ông phải rút dao găm ra chứ. Những câu chuyện xưa cũ ấy còn nói đến những lực lượng khác ngoài các ông vua bà chúa kia. Vậy tại sao không vời đến những lực lượng này hả?

- Nếu cậu muốn nói đến Aslan, - Trufflehunter nói, - thì tù và kêu gọi cả ông và những vị vua chúa kia. Họ là những người giúp việc cho ông mà. Nếu ông cử họ đến (ông sẽ làm thế, tôi không mảy may nghi ngờ về điều này) thì rất có thể chính ông sẽ xuất hiện.

- Không. Ở điểm này ông sai rồi. – Nikabrik nói. – Aslan và các ông vua đó cùng một duộc với nhau. Hoặc là Aslan đã chết hoặc là ông ta không đứng về phía chúng ta. Hoặc giả có một cái gì đó còn mạnh hơn ông ta, ngăn không cho ông ta quay lại. Vả chăng nếu ông có quay về thì làm sao chúng ta biết được ông có còn là bạn của chúng ta hay không? Không phải bao giờ ông cũng là một người bạn tốt của người lùn. Cũng không hẳn là tốt đối với tất cả thú rừng nữa. Cứ hỏi bọn sói đi thì biết. Vả lại, ông ta thoắt ẩn thoắt hiện ở Narnia, theo những gì tôi biết thì ông ta đâu có ở lâu một chỗ. Các người có thể loại Aslan ra khỏi việc này. Tôi đang nghĩ đến một người khác cơ.

Không có tiếng trả lời, trong vòng vài phút không khí tĩnh mịch đến nỗi Edmund có thể nghe được tiếng thở nặng nề, khò khè của bác lửng.

- Ông muốn nói đến ai? - Cuối cùng Caspian lên tiếng.

- Tôi muốn nói đến một lực lượng còn mạnh hơn cả Aslan, mạnh đến nỗi đã phù phép Narnia trong thời gian dài, nếu như các truyền thuyết là đúng.

- Bạch Phù Thủy! – Ba giọng nói cùng vang lên một lượt và từ tiếng động trong phòng Peter đoán là cả ba người đó cùng nhảy dựng lên.

- Phải, - giọng Nikabrik chậm rãi, rõ ràng, - tôi muốn nói đến Bạch Phù Thủy. Cứ ngồi xuống đi các vị. Đừng có sợ một cái tên đến thế, cứ làm như các vị là lũ con nít không bằng. Chúng ta cần sức mạnh và muốn cái sức mạnh ấy phải về phe chúng ta. Các câu chuyện chẳng đã nói là cái sức mạnh ấy đã đánh bại Aslan, trói ông ta, giết ông ta ngay ở cái Bàn Đá phía sau ngọn đèn kia sao?

- Nhưng truyền thuyết cũng nói là ông đã hồi sinh. – Bác lửng độp lại, giọng sắc lẻm.

- Phải, đúng là nó có nói thế, - Nikabrik đáp, - nhưng các ông chắc cũng đã nhận ra rằng chúng ta nghe được rất ít về những điều mà sư tử làm sau đó. Aslan ra khỏi các huyền thoại. Ông giải thích thế nào đây nếu như quả tình ông ta đã hồi sinh? Không phải là không có khả năng ông ta không hề sống dậy, và các truyền thuyết không nói gì thêm về ông ta là bởi vì chẳng có gì để nói. Có phải thế không?

- Ông ta đã lập nên các vua và nữ hoàng. – Caspian đáp.

- Một ông vua vừa thắng một trận oanh liệt có thể tự phong vương, xưng đế mà không cần sự giúp đỡ của một con sư tử làm xiếc. – Nikabrik đáp. Vang lên một cái gì như tiếng gầm gừ dữ tợn, chắc chắn là từ Trufflehunter.

- Dù sao thì, - Nikabrik tiếp tục, - có cái gì đáng nói từ các ông vua và triều đại của họ nào? Họ cũng đã biến mất tiêu. Với phù thủy thì khác. Chúng ta nói bà đã trị vì hàng trăm năm và mấy trăm năm ấy toàn là mùa đông. Đó mới là sức mạnh thật sự. Một cái gì rất thực tiễn.

- Nhưng mà trời ạ! – Vua nói. – Không phải là chúng ta nghe nói rằng mụ là kẻ thù tệ hại nhất trong tất cả các kẻ thù sao? Không phải mụ là một kẻ độc tài mười lần độc ác hơn, xấu xa hơn Miraz hay sao?

- Có lẽ thế, - Nikabrik đáp, giọng lạnh băng. – Có thể bà như thế đối với con người, nếu ngày ấy có bất cứ ai thuộc giống người như Caspian đây. Có thể bà như thế đối với một vài loài thú khác. Tôi dám nói bà đã chà đạp loài lửng, ít nhất thì bây giờ cũng không còn được mấy con ở Narnia. Nhưng bà đối xử với người lùn chúng tôi rất tốt. Tôi là một người lùn và tôi đại diện cho dòng giống mình. Chúng tôi không sợ Bạch Phù Thủy.

- Nhưng mà…. cậu đã gia nhập liên minh của chúng tôi. - Lửng nói.

- Phải, và từ bấy đến giờ người của tôi đã làm được nhiều việc, - Nikabrik đốp lại, - Ai được cử đi trong tất cả những trận xuất kích nguy hiểm nào? Người lùn. Ai chịu thiệt thòi hơn trong khi lương thực khan hiếm nào? Người lùn. Ai…?

- Láo toét! Toàn những lời láo toét! - Lửng nói.

- Và như thế, - Nikabrik nói, cái giọng giận dữ đã rống lên thành một tiếng thét, - nếu các người không giúp đỡ người của tôi thì tôi sẽ đi tìm một người có thể làm được điều đó.

- Đây có phải là một sự mưu phản công khai không, người lùn? – Vua hỏi.

- Hãy tra gươm vào vỏ, Caspian! – Nikabrik thét lên. - Giết người ngay trong cuộc họp hội đồng phỏng? Đấy là trò chơi của ngươi ư? Đừng có ngốc đến mức định làm trò đó chứ. Bộ ngươi nghĩ ta sợ sao? Bên ta có ba, bên ngươi cũng có ba.

- Có thôi đi không? – Trufflehunter gầm gừ nhưng lời bác ta lập tức bị cắt ngang.

- Thôi. Dừng lại ở đây. Dừng lại ngay! - Tiến sĩ nói. – Ngài Nikabrik có ý gì khi muốn gọi phù thủy quay trở về?

Cái giọng rờn rợn thiếu âm sắc trước đó chỉ nói một lần giờ lên tiếng:

- Ô, thật thế ư!!

Sau đó cái giọng vừa the thé vừa rên rỉ bắt đầu:

- Ôi cầu chúc cho trái tim ông vua nhỏ bé thân yêu, người không cần bận tâm về việc Bạch Phù Thủy đã chết. Tiến sĩ đáng kính kia chỉ trêu chọc một mụ già đáng thương như tôi mà nói thế thôi. Ngài tiến sĩ đức cao đạo trọng, ngài tiến sĩ thông kim bác cổ, không hiểu ngài có từng nghe ai nói về việc phù thủy đã chết hay chưa? Bao giờ ngài cũng có thể làm họ quay trở lại, có phải không?

- Gọi bà ấy quay về. – Cái giọng thiếu khí sắc cất lên. – Chúng ta đã sẵn sàng. Hãy vẽ một vòng tròn. Chuẩn bị một ngọn lửa xanh.

Vượt lên tiếng gầm gữ mỗi lúc một to của bác lửng và tiến sĩ Cornelius là tiếng nói của vua Caspian vang lên uy dũng.

- Cái gì? Đó có phải là kế hoạch của ông không Nikabrik? Yêu thuật bẩn thỉu toan làm sống dậy một hồn ma đời đời bị nguyền rủa ư? Bây giờ ta đã biết rõ đồng bọn của ngươi - một phù thủy và một người sói.

Một phút sau tất cả trở nên hỗn độn. Có tiếng một con vật gầm lên, tiếng kim khí va vào nhau loảng xoảng. Trumpkin và hai cậu bé lao vào. Peter thoáng thấy một con vật dữ tợn, xám ngoét, kinh tởm nửa người nửa sói đang chồm lên một thằng bé cỡ tuổi nó. Edmund trông thấy một con lửng và một người lùn đang vật lộn trên sàn trong một cái gì đó giống như trò đánh nhau của con mèo. Trumpkin thấy mình đang đối mặt với mụ phù thủy. Mũi và cằm mụ chĩa ra ngoài như một cái kẹp hạt dẻ, mái tóc xám xịt bẩn thỉu xõa xuống mặt và mụ đang bóp cổ tiến sĩ. Chỉ một nhát kiếm của Trumpkin vung lên, đầu mụ đã lăn lông lốc trên sàn. Ngọn đèn phụt tắt, tất cả chỉ còn tiếng gươm khua canh cách, tiếng nghiến răng, tiếng đấm đá, tiếng giậm chân thình thịch xuống nền hang. Sau đó là một sự im lặng.

- Em không sao chứ Edmund?

- Em… em nghĩ thế. – Edmund thở phì phò. – Em cưỡi lên cái tên súc sinh Nikabrik, nhưng hắn vẫn còn sống.

- Cân đồng hồ và chai nước! - Một giọng giận dữ rống lên. – Chính là tôi, cậu đang ngồi lên người tôi. Xuống đi! Cậu nặng như một con voi vậy.

- Xin lỗi nhé D.L.F. – Edmund nói. – Khá hơn rồi chứ?

- Ôi không! – Trumpkin rền rĩ. - Cậu cho cả một cái giầy vào miệng tôi. Đứng lên đi.

- Có vua Caspian ở đâu đây không? – Peter hỏi.

- Tôi đây. - Một giọng ỉu xìu vang lên. - Một con gì đó đã cắn tôi.

Nghe có tiếng một ai đó đánh một que diêm. Đó là Edmund. Ngọn lửa nhỏ soi sáng khuôn mặt nó, tái nhợt và lem luốc. Nó mò mẫm mất một lúc mới tìm được một ngọn nến (họ không dùng đèn nữa khi đã hết dầu) đặt ngọn nến lên bàn và châm lửa. Khi ánh nến đã soi tỏ, một vài người lồm cồm bò dậy. Sáu khuôn mặt hấp háy nhìn nhau trong ánh nến.

- Dường như chúng ta không còn kẻ thù nữa. – Peter nói. – Đây là mụ phù thủy, đã chết. ( Nó nhanh chóng quay mặt khỏi xác mụ.) – Nikabrik cũng đã chết. Và tôi cho rằng cái vật này là một người sói. Tôi đã từng nhìn thấy một con như thế này… kể cũng đã lâu lắm rồi. Đầu sói – mình người. Điều đó có nghĩa là nó sẽ biến từ người thành sói vào cái lúc mà nó bị giết. Còn cậu, tôi cho rằng cậu chính là vua Caspian?

- Phải. - Cậu bé kia đáp. – Nhưng tôi chẳng biết anh là ai?

- Đây là vị vua tối cao, đức vua Peter. – Trumpkin giới thiệu.

- Cung kính đón chào vị vua vĩ đại. – Caspian nói.

- Cậu mới chính là vua. – Peter đáp. – Tôi không đến đây để lấy lại ngai vàng của cậu, mà là để đặt cậu ngồi vào đó.

- Muôn tâu bệ hạ, - một giọng nói khác cất lên từ chỗ khuỷu tay của Peter. Nó quay lại thấy mình đang đối diện với bác lửng. Peter cúi xuống, quàng tay quanh người con vật, hôn lên cái đầu bù xù của nó: không phải là một cái hôn như của một cô bé bởi vì nó chính là Peter Đại đế.

- Một bác lửng tốt nhất trên đời, - Peter nói. – Bác một mực tin tưởng vào chúng tôi, trong tất cả mọi chuyện có phải không?

- Không cần phải biểu dương thần, muôn tâu bệ hạ. – Trufflehunter nói. –Thần là một con thú và loài vật không bao giờ thay đổi. Thần là một con lửng, không hơn không kém vì chúng thần mãi mãi như thế.

- Tôi rất tiếc cho Nikabrik, - Caspian nói, - mặc dầu ông ta ghét tôi từ cái nhìn đầu tiên. Ông ta đã hỏng từ trong hỏng ra sau những mất mát, căm hận suốt một thời gian dài như thế. Nếu chúng ta thắng nhanh hơn, sớm hơn có lẽ ông ta sẽ trở thành một chú lùn tốt bụng trong những ngày thanh bình. Tôi không biết ai trong chúng ta đã giết chết ông ấy. Tôi lấy làm vui mừng vì mình đã không làm điều đó.

- Cậu đang bị chảy máu. – Peter nói.

- Phải, tôi đã bị cắn. Đó là …cái con vật – sói kia.

Việc rửa ráy và băng bó vết thương cũng mất một lúc lâu, khi tất cả đã xong xuôi, Trumpkin nói:

- Bây giờ, hơn tất cả mọi thứ khác chúng tôi cần một bữa ăn sáng.

- Nhưng không phải ở đây. – Peter đáp.

- Không phải ở đây. – Caspian lặp lại với một cái rùng mình. – Chúng ta phải cử ai đó đến mang những cái xác này đi.

- Hãy để cho sâu bọ đục khoét những cái xác này. – Peter nói. – Riêng người lùn hãy để cho những người thuộc bộ tộc của ông ta chôn cất theo nghi thức của họ

Cuối cùng họ ăn sáng trong một gian phòng tối khác trong Gò Đôi. Đấy không phải là một bữa ăn mà họ mong đợi bởi vì Caspian và Cornelius nghĩ đến món chả nướng thịt hươu còn Peter và Edmund thì mơ tưởng đến món trứng chiên bơ và café nóng. Nhưng ai cũng dùng một chút thịt gấu lạnh (đã được lấy ra khỏi túi áo mấy cậu bé), một miếng bơ cứng như đá, một củ hành muối và một ly nước. Nhưng ai cũng làm cho người khác hiểu là mình có một bữa điểm tâm như ý.

CHƯƠNG 13

 Vị vua tối cao

- Bây giờ, - Peter lên tiếng sau khi họ đã ăn xong, - Caspian ạ, Aslan và các cô gái, đó chính là nữ hoàng Susan và nữ hoàng Lucy, đang ở đâu đây, rất gần đây thôi. Chúng ta không biết khi nào ông sẽ hành động. Không có gì phải nghi ngờ nữa đó là việc của ông không phải việc của chúng ta. Trong khi đó rất có thể ông muốn chúng ta làm một cái gì đó trong khả năng của mình. Caspian, cậu nói là chúng ta không đủ thực lực để đụng độ với Miraz trong một trận đánh dàn trận hả?

- Tôi sợ là thế, thưa đức vua. - Caspian nói. Cậu rất ngưỡng mộ Peter vì thế cậu cảm thấy ngượng nghịu thế nào ấy. Thật là một việc vừa hoang đường vừa kỳ diệu khi gặp các vị vua vĩ đại đi ra từ những câu chuyện cổ xưa.

- Vậy thì được lắm. - Peter nói. - Tôi sẽ gửi đến hắn lời thách đấu cho một trận đánh tay đôi. - Đúng là một sáng kiến, trước đấy chưa có ai nghĩ ra điều này.

- Xin hãy để vai trò đó cho tôi. - Caspian nói. - Tôi muốn báo thù cho cha tôi.

- Cậu đang bị thương, - Peter nói, - với lại chẳng phải hắn sẽ cười trước lời thách đấu của cậu sao? Tôi muốn nói tất cả chúng tôi đều nhìn nhận cậu như một ông vua và một chiến binh dũng cảm nhưng hắn sẽ nghĩ cậu là một nhóc con.

- Nhưng tâu bệ hạ, - lửng nói, bác ngồi ngay cạnh Peter và không có lúc nào rời mắt khỏi vị vua tôn quý của mình, - liệu hắn có chấp nhận lời thách đấu của Peter Đại Đế không? Hắn biết hắn có một đạo quân mạnh hơn trong tay kia mà.

- Cũng có thể hắn sẽ không chịu, - Peter đáp, - nhưng phải thử rồi mới biết. Kể cả khi hắn không chấp nhận thì chúng ta cũng sẽ dành ra những giờ quý báu nhất trong ngày, cử những sứ giả truyền đi các thông điệp giữa hai bên. Ít nhất thì chúng ta cũng có thể duyệt lại quân đội và củng cố lực lượng. Tôi sẽ gửi đi lời thách đấu. Thật ra tôi sẽ viết ngay bây giờ. Ông có bút và mực đấy không, ông tiến sĩ?

- Một nhà bác học thì không thể thiếu những thứ đó, tâu bệ hạ. - Tiến sĩ Cornelius hớn hở đáp.

- Tốt lắm, tôi sẽ đọc đây. - Peter nói. Trong lúc đó tiến sĩ trải ra một tấm giấy da, mở một cái nghiên mực bằng sừng và mài bút vào nghiên mực. Peter hơi ngả người ra sau, mắt khép hờ, nhớ lại cái thứ ngôn ngữ mà nó đã từng dùng để viết các văn kiện hoàng gia vào kỷ nguyên Vàng ở Narnia.

- Được rồi. - Cuối cùng nó nói. - Ông đã sẵn sàng chưa, thưa ông tiến sĩ?

Tiến sĩ chấm ngồi bút vào nghiên mực, chờ đợi. Peter đọc cho ông ta viết những câu như sau:

“Ta, Peter, nhờ vào ơn huệ của Aslan, qua sự lựa chọn, theo phong tục tập quán và nhờ vào những chiến công của mình đã trở thành vị vua đứng đầu tất cả những vị vua khác ở Narnia, là hoàng đế của Quần đảo Đơn Côi, chúa tể của Cair Paravel, hiệp sĩ của sư tử - đấng tối cao nay gửi đến Miraz - con trai của Caspian thứ tám, từng là người phụ tá ở Narnia, sau đó đã tiếm quyền - lời chào. Ông viết xong chưa?”

- Narnia gạch ngang lời chào. - Tiến sĩ lẩm bẩm. - Xong rồi, thưa bệ hạ.

- Vậy thì xuống hàng, bắt đầu một đoạn mới. - Peter nói. - Để ngăn cảnh đầu rơi máu chảy và tránh cho tất cả mọi sinh linh những hậu quả chiến tranh với việc bắt lính trên toàn vương quốc Narnia; cũng là niềm vinh hạnh của chúng tôi khi đề cử một người anh hùng mang dòng máu hoàng tộc - nhân danh sự tin cậy của chúng tôi - thách đấu và tuyên bố Caspian chính là vị vua hợp pháp của Narnia nhờ vào sự tín nhiệm của chúng tôi và vào luật định của người Telmarine. Miraz hai lần phạm tội phản bội - một là chiếm đoạt ngôi báu của Caspian với những biện pháp đáng ghê tởm nhất, - ông nhớ gạch nối chữ ghê tởm nhé, - xấu xa nhất - hai là giết hại chính anh ruột của mình - vua Caspian thứ chín, một việc làm cho cả người lẫn thần đều công phẫn. Chúng tôi thách thức và phủ nhận quyền của Miraz nói về một cuộc chiến công bằng và tiến quân đơn phương và gửi lá thư này vào tay người huynh đệ cao quý, đáng mến là Edmund, người đã có thời làm vua ở Narnia, công tước xứ Cột đèn, bá tước miền Viễn Tây, hiệp sĩ tối cao, người mà chúng tôi trao toàn quyền trao đổi với ngài Miraz về các điều kiện của một trận quyết đấu nói trên. Quốc thư được soạn thảo ở đại bản doanh của quân khởi nghĩa ở Gò Đôi, ngày thứ 12 tháng Mái nhà xanh năm đầu tiên đời vua Caspian thứ mười ở Narnia.

- Thế là đủ, - Peter nói, hít một hơi thật sâu, - bây giờ chúng ta cần cử hai người tháp tùng vua Edmund. Tôi nghĩ Khổng Lồ là một này...

- Ông ấy... ông ấy không được thông minh cho lắm, đức vua cũng biết đấy. - Caspian nói.

- Tất nhiên là ông ấy hơi kém đầu óc. - Peter đáp. - Nhưng bất cứ người khổng lồ nào cũng gây một ấn tượng rất dễ sợ chỉ cần người ấy biết giữ im lặng. Với lại việc này sẽ làm ông ta phấn chấn lên đôi chút. Ai sẽ là người còn lại đây?

- Theo ý tôi, - Trumpkin nói, - nếu đức vua cần một người có thể làm kẻ thù khiếp vía chỉ với một cái nhìn thì Reepicheep là người tốt nhất.

- Chắc chắn là thế rồi theo những gì tôi nghe được. - Peter nói với một tiếng cười. - Chỉ hiềm một nỗi là tầm vóc ông ấy lại quá bé nhỏ. Chúng sẽ không thấy một bác chuột cho đến khi ông ấy tới thật gần.

- Vậy thì hãy cử Glenstorm, tây bệ hạ. - Trufflehunter mau mắn nói. - Chưa có ai dám cười nhân mã.

Khoảng một tiếng đồng hồ sau, hai viên chỉ huy cao cấp trong quân đội của Miraz đi duyệt hàng quân vừa đi vừa xỉa răng vì họ mới ăn sáng xong. Họ nhìn lên và trông thấy từ cánh rừng đi về phía họ là nhân mã và người khổng lồ Wimbleweather mà họ đã từng chạm trán trong các trận đánh; đi giữa hai người này là một người mà họ không biết là ai. Ngay cả những thằng bạn học với Edmund ở trường cũng không nhận ra nó nữa nếu trông thấy nó vào lúc này. Bởi vì Aslan đã phà hơi thở vào người nó trong cuộc gặp gỡ làm cho nó có một vẻ vừa cao quý vừa oai phong lẫm liệt của một vị anh hùng thiếu niên làm cho ai cũng phải nể.

- Chuyện gì nữa đây? - Nhà quý tộc Glozelle hỏi. - Một cuộc khiêu chiến ư?

- Một vụ đàm phán, chắc thế, - ngài Sopespian nói, - coi kìa họ cầm trên tay những cành cây xanh. Họ đến xin đầu hàng.

- Cái người đi giữa nhân mã và khổng lồ kia không có vẻ mặt của một kẻ muốn đầu hàng. - Glozelle nói. - Hắn là ai kìa? Không phải là thằng lỏi Caspian rồi.

- Không phải Caspian. - Sopespian đồng ý. - Chà một chiến binh ác chiến chưa kìa, tôi đảm bảo với ông là dù ở đâu thì bọn phiến loạn cũng muốn có được một người như nó đấy. Nói thật (chuyện này nói nhỏ giữa hai chúng ta thôi nhé) trông nó còn uy nghi và có phong thái đế vương hơn Miraz nhiều. Xem cái áo giáp nó mặc kìa! Không một người thợ rèn nào của chúng ta có thể làm được một cái áo như thế.

- Tôi dám cược con Polemy lông đốm của tôi là hắn mang đến lời thách đấu chứ không phải xin đầu hàng. - Glozelle nói.

- Sao lại có chuyện đó? - Sopespian đáp. - Chúng ta đã nắm kẻ thù trong tay rồi. Đời nào Miraz lại ngốc tới mức mạo hiểm với thắng lợi trong tầm tay trong cuộc tấn công nay mai.

- Ông ta có thể chấp nhận. - Glozelle nói với một giọng thấp hẳn xuống.

- Ở đây tai vách mạch rừng, - Sopespian nói. - Hãy đi xa ra, khỏi tầm tai mắt của những đội binh này. Được rồi, tôi có thể lĩnh hội ý của ngài rồi đấy!

- Nếu vua chấp nhận lời thách đấu, - Glozelle thì thầm, - hoặc ông ta sẽ giết được đối phương hoặc sẽ bị đối phương giết chết.

- Đúng thế. - Sopespian gật gù. - Nếu ông ta hạ được đối thủ chúng ta sẽ thắng trong cuộc chiến này.

- Đã hẳn! Còn nếu không?

- Nếu không chúng ta vẫn có khả năng chiến thắng mà không để Miraz chơi trò ngư ông hưởng lợi. Bởi vì tôi chẳng cần nói ra thì ngài đây cũng biết là Miraz chẳng phải là một vị tướng giỏi giang gì. Và sau đó, chúng ta sẽ ca khúc khải hoàn; không còn bạo chúa ở Narnia nữa.

- Thế ra ý của đức ngài đây là tôi và ngài có thể trị vì mảnh đất này một cách tiện lợi mà không ở dưới trướng của bất cứ một kẻ nào ư?

Khuôn mặt Glozelle có một vẻ rất khó coi.

- Đừng quên rằng chúng ta là những người đầu tiên đặt hắn lên ngai vàng. Và trong suốt bao năm qua hắn ung dung tận hưởng quyền lực, còn bao nhiêu bổng lộc lại nằm ngoài tầm tay ngài và tôi, có phải vậy không? Hắn có biểu lộ lòng biết ơn gì với chúng ta không nào?

- Thôi đừng nói gì về chuyện này nữa. - Sopespian nói. - Coi kìa, họ gọi chúng ta đến lều của vua đó.

Khi hai nhà quý tộc này đến lều của Miraz, họ thấy Edmund và hai người tháp tùng đang ngồi phía ngoài lều thưởng thức bánh ngọt và rượu vang. Sau khi đã chuyển lá thư thách đấu và rút ra ngoài để Miraz có thời gian cân nhắc. Khi hai bên nhìn nhau ở cự ly gần, hai nhà quý tộc người Telmarine nghĩ là cả ba sứ giả đều có vẻ hoảng sợ.

Bước vào trong lều, họ thấy Miraz không trang bị vũ khí gì và đã dùng xong bữa điểm tâm, khuôn mặt ông ta đỏ phừng phừng, trán hằn lên những nếp nhăn cau có.

- Đấy, xem đi! - Vua gầm gừ, ném mảnh giấy da thuộc qua bàn cho họ. - Coi xem lũ ranh con càn rỡ trong những câu chuyện nhảm nhí của nhũ mẫu thằng cháu ta đã gửi gì cho chúng ta.

- Muôn tâu bệ hạ, - Glozelle nói, - nếu người chiến binh trẻ tuổi kia, người mà chính thần gặp ở ngoài lều chính là vua Edmund viết trong thư thì thần không dám gọi hắn là một thằng nhóc trong câu chuyện nhảm nhí của nhũ mẫu mà là một bậc đại hiệp đáng gờm.

- Vua Edmund, chà chà! - Miraz ồ lên. - Khanh tin vào những câu chuyện vớ vẩn của mấy bà nội trợ già về Peter, Edmund và những đứa khác sao?

- Thần tin vào mắt mình, thưa bệ hạ. - Glozelle đáp.

- Được, chuyện này không có mục đích gì, - Miraz nói, - ngoài một lời thách đấu hỗn xược, trẫm cho rằng chỉ có một ý kiến duy nhất giữa chúng ta phải không?

- Tâu bệ hạ, thần cũng nghĩ thế ạ. - Glozelle đáp.

- Đó là cái gì? - Vua hỏi.

- Hợp lý nhất là cứ từ chối, thưa bệ hạ. - Glozelle nói. - Mặc dầu thần chưa bao giờ là một kẻ hèn nhát, thần cần phải nói một cách giản dị là gặp chàng thanh niên đó trong một trận đấu tay đôi là một cái gì đó lớn hơn trái tim thần có thể chịu đựng được. Và nếu (điều này cũng có thể lắm) lại là anh trai của chàng trai này, vua Peter Đại đế, một người còn nguy hiểm hơn, thì thưa bệ hạ, trên đời này... chẳng có ai có thể làm gì được hắn đâu!

- Ôn dịch bắt ngươi đi cho rồi! - Miraz gầm lên. - Đó không phải là lời khuyên mà trẫm cần. Bộ ngươi nghĩ trẫm hỏi ngươi là vì trẫm sợ phải gặp cái thằng Peter này (nếu nó là một thằng đàn ông) ư? Ngươi nghĩ trẫm sợ hắn ư? Trẫm muốn ngươi tham mưu cho trẫm một cách thức giải quyết vấn đề này: với lợi thế của chúng ta hiện nay, chấp nhận lời thách đấu có phải là một việc làm thiếu suy nghĩ không?

- Về vấn đề này thần chỉ có một câu trả lời, tâu bệ hạ, đó là tìm tất cả những lý do chính đáng để đưa ra lời từ chối lời thách thức này. Có bóng dáng của thần Chết trên mặt của hiệp sĩ lạ mặt kia.

- Ngươi lại dám nhắc lại nữa à? - Miraz gầm lên như sấm, bây giờ thì vua thật sự điên tiết. - Có phải ngươi có ý ám chỉ trẫm cũng chỉ là kẻ đớn hèn như ngươi?

- Bệ hạ có thể nói như người muốn. - Glozelle nói, mặt sầm xuống.

- Ngươi ăn nói như một mụ già vậy. - Vua hạ giọng xuống. - Thế còn khanh, khanh sẽ nói gì đây hả Sopespian?

- Tâu bệ hạ, đừng dính đến những chuyện này làm gì. Cái mà bệ hạ nói đến như một sách lược sẽ là một cái gì đến một cách vui vẻ. Nó sẽ tạo cho đức vua những cơ sở tuyệt vời để từ chối mà không gây nên một câu hỏi nào về danh dự hoặc lòng can đảm của bệ hạ.

- Một lũ khi quân phạm thượng! - Miraz hét toáng lên, giậm chân thình thịch xuống đất. - Có phải hôm nay các ngươi bị quỷ ám không? Các ngươi nghĩ là ta mà lại phải kiếm cớ để từ chối ư? Các ngươi có thể gọi thẳng vào mặt ta là một con thỏ đế rồi đấy.

Câu chuyện diễn ra đúng như hai nhà quý tộc này muốn nên họ không nói gì thêm.

- Ta biết rồi, - Miraz nói, sau khi đã nhìn họ trừng trừng thiếu điều làm cho hai con mắt vọt ra khỏi hốc mắt, - các ngươi yếu đuối, đớn hèn, khiếp nhược chẳng có một chút nhuệ khí nào, đã thế các ngươi lại suy bụng ta ra bụng người làm như ta cũng ở cùng đẳng cấp như các ngươi vậy. Tìm có để từ chối!!! Hay thật! Viện cớ để không đánh!!! Các ngươi có phải là người lính không đấy? Có phải là dân Telmarine không? Các ngươi có phải là đàn ông không? Và giả sử ta từ chối (vì tất cả lý do cho một kế sách có tính chiến lược và quân sự) hẳn các ngươi sẽ nghĩ và làm cho người khác nghĩ rằng ta sợ. Có phải thế không?

- Không một người nào trong độ tuổi của bệ hạ, - Glozelle đáp, - lại bị bất cứ người lính nào hiểu lý lẽ coi là hèn nhát chỉ vì từ chối một trận đấu với một hiệp sĩ vĩ đại đang ở tuổi trẻ trung sung sức nhất.

- Vì thế ta - một kẻ lú lẫn đã bước một chân xuống mồ cũng là một thằng hèn phải không? - Miraz gầm lên làm rung cả lều vải. - Để ta nói cho các ngươi biết đó là cái gì, các ông quý tộc quý hóa ạ. Thì đấy, với những lời cố vấn đàn bà của mình, các ngươi đã làm được một việc trái ngược với dự tính của mình. Ta đã định khước từ đấy. Nhưng bây giờ thì ta chấp thuận lời quyết đấu. Các ngươi nghe rõ chưa, ta chấp thuận! Ta sẽ không phải xấu hổ vì ma thuật hay sự phản bội đã làm đông dòng máu trong người các ngươi.

- Chúng thần khẩn khoan van xin bệ hạ. - Glozelle nói, nhưng Miraz đã xông ra khỏi lều và hai người có thể nghe ông vua của mình oang oang chấp nhận lời thách đấu của Peter thông qua Edmund. Hai gã quý tộc đưa mắt nhìn nhau, lặng lẽ cười khoái trá.

- Tôi biết hắn sẽ hành động như thế nếu bị đem ra chế giễu một cách hợp lý. - Glozelle nói. - Nhưng tôi sẽ không bao giờ quên việc hắn bảo tôi là hèn nhát. Hắn sẽ phải trả giá cho chuyện này.

Cả đại bản doanh của vua Caspian xôn xao náo động hẳn lên khi tin tức được truyền đi và các con vật họp nhau hội đàm về vấn đề này. Edmund cùng với một trong những viên đại thần của Miraz đã đánh dấu nơi quyết đấu: đo đạc, đóng cọc và căng dây quanh khu vực này. Hai người Telmarine đứng ở hai góc, một người đứng ở khu vực sân với tư cách là những trọng tài trên trường đấu. Ba trọng tài khác đứng ở hai góc khác và phía bên kia là dành cho Peter Đại đế. Peter vừa giải thích cho Caspian rõ là cậu không chỉ có một mình bởi vì quyền đòi lại ngai vàng là chính đáng và cũng là điều mọi người chiến đấu để giành lại. Chợt vang lên một giọng ồm ồm, ngái ngủ:

- Muôn tâu thánh thượng, xin người! - Peter quay lại, trông thấy người anh cả trong anh em nhà gấu Bulgy. - Nếu bệ hạ hài lòng, thì tôi... tôi là một con gấu.

- Đúng rồi, ông đúng là như thế và là một con gấu tốt nữa, ta không nghi ngờ điều đó. - Peter nói.

- Thưa vâng. - Gấu đáp. - Nhưng cho phép loài gấu được làm một trong những trọng tài biên trên đường đấu là một việc làm đúng nguyên tắc đấy ạ.

- Đừng để ông ta làm thế. - Trumpkin thì thầm với Peter. - Mặc dù gấu rất tốt, nhưng cậu ta sẽ làm cho tất cả chúng ta phải xấu hổ thôi. Hoặc là cậu ta sẽ ngủ gật, hoặc sẽ đứng trước mặt đối phương mà vô tư mút móng chân chùn chụt.

- Nhưng tôi không thể làm khác được, - Peter đáp, - ông ta nói đúng. Loài gấu có cái đặc quyền ấy. Tôi không thể hình dung được là sao điều này vẫn còn được nhớ đến sau bao nhiêu năm qua. Và bao nhiêu thứ khác đã đi vào quên lãng.

- Xin bệ hạ chuẩn y. - Gấu nài nỉ.

- Đó là quyền của ông. - Peter nói. - Ông sẽ là một trong những trọng tài, nhưng ông phải hứa là không được mút móng chân nghe chưa?

- Tất nhiên là không ạ. - Gấu sững sờ đáp.

- Cái gì, ông còn đang mút chùn chụt vào đúng lúc này kia kìa! - Trumpkin ré lên.

Gấu rút móng chân ra khỏi miệng giả vờ như không nghe thấy gì.

- Tâu bệ hạ... - Một giọng the thé cất lên từ dưới đất.

- À ra là – Reepicheep! - Peter thốt lên sau khi nhìn lên cúi xuống, ngó ngược ngó xuôi như người ta vẫn làm khi nói chuyện với một con chuột.

- Tâu bệ hạ, - Reepicheep nói. - Cuộc đời tôi là để phụng sự bệ hạ, nhưng danh dự cá nhân là của tôi. Tâu bệ hạ, Reepicheep tôi là đại diện cho họ nhà chuột - người thổi kèn trumpet duy nhất trong quân đội của đức vua. Tôi những tưởng, chúng tôi được chọn làm sứ giả đưa ra lời thách đấu. Họ nhà chúng tôi rất buồn khổ về chuyện này. Có thể, nếu như tôi được chọn làm một trong những trọng tài thì người của tôi sẽ cảm thấy được bù đắp phần nào.

Một tiếng động giống như sấm rền vang lên ngay ở trên đầu mọi người đúng lúc chuột dứt lời. Chính khổng lồ đã bật ra một tràng cười không lấy gì làm thông minh lắm trước một loài vật dễ thương hơn, có trách nhiệm hơn mình. Wimbleweather đứng nghiêm ngay và trông đứng đắn như một cây củ cải vào lúc Reepicheep khám phá ra tiếng động từ đâu ra.

- Tôi e là việc này không dàn xếp được, - Peter nói, giọng vô cùng nghiêm trang. - Một số người rất sợ chuột...

- Tôi có biết điều đó, thưa bệ hạ. - Reepicheep đáp.

- Và sẽ là không công bằng cho lắm đối với Miraz, - Peter tiếp tục, - khi phải bắt gặp bất cứ cái gì có thể làm nhụt nhuệ khí của hắn.

- Bệ hạ đúng là tấm gương của danh dự, - Reepicheep nói với một cái cúi chào đầy ngưỡng mộ. - Về vấn đề này đúng là chúng tôi có thiển cận quá... tôi nghĩ tôi có nghe thấy một ai đó vừa cười nhạo. Nếu có bất cứ ai đó bày tỏ ý muốn chọn tôi làm đối tượng cho sự khôn ngoan của mình, tôi sẽ sẵn sàng phục vụ - với lưỡi gươm của mình - bất cứ khi nào người ấy có thời gian rãnh rỗi.

Một sự im lặng dễ sợ kéo theo sau lời tuyên bố đó và nó chỉ bị phá vỡ khi Peter lên tiếng:

- Khổng lồ Wimbleweather, gấu và nhân mã Glenstorm là trọng tài chính về phía chúng ta. Cuộc giao đấu diễn ra vào khoảng hai giờ trưa. Chúng ta sẽ ăn trưa vào đúng 12 giờ.

- Em cho là - Edmund nói với anh trai khi cả hai đi tách ra một chỗ, - mọi chuyện sẽ ổn thôi. Em muốn nói anh có thể đánh thắng Miraz.

- Đó là điều anh sẽ biết được khi chiến đấu với hắn. - Peter đáp.

CHƯƠNG 14

 Trận chiến sống còn

Trước hai giờ một chút, Trumpkin và bác lửng ngồi với các loài vật ở bìa rừng trông xuống những hàng quân gươm giáo sáng choang của Miraz. Khoảng cách giữa hai bên vào khoảng gấp đôi đường đi của một mũi tên.

Giữa hai đội quân là một vệt cỏ vuông vức đã được đóng cọc dành cho trận quyết đấu. Ở hai góc xa nhất, Glozelle và Sopespian đứng với hai thành gươm tuốt trần. Ở hai góc gần hơn là khổng lồ Wimbleweather và gấu Bulgy, người mà mặc cho mọi lời răn đe vẫn đưa một bàn chân lên mút ngon lành và thành thật mà nói có một vẻ ngớ ngẩn không sao vớt vát được. Để bù lại, nhân mã Glenstorm đứng ở góc bên phải, im phăng phắc như một bức tượng đồng, trông còn oai vệ và đáng sợ hơn cả vị quý tộc đứng đối diện với mình ở bên tay trái, tuy chỉ có một vài lần ông giậm cái móng sau xuống đất.

Sau khi bắt tay Edmund và tiến sĩ, Peter ung dung đi xuống sàn đấu. Không khí cũng giống như cái thời khắc trước khi tiếng súng vang lên cho một cuộc thi đấu quan trọng, nhưng còn căng thẳng hơn nhiều.

- Ước gì Aslan hiện lên trước khi trận đấu bắt đầu. - Trumpkin nói.

- Tôi cũng chỉ mong có thế, - Trufflehunter nói. - Nhưng nhìn ra phía sau kia kìa.

- Quạ và bát đĩa sành! - Người lùn Đỏ lầm rầm thốt lên khi ngoái ra đằng sau. - Họ là ai vậy kìa? Những người đồ sộ - những người đẹp đẽ - giống như các vị thần tiên và những người khổng lồ. Hàng trăm hàng ngàn người ở sát gần chúng ta. Họ là ai vậy?

- Đó là các mộc tinh, các nữ hoa tinh và các thần điền dã mà Aslan vừa đánh thức dậy. - Bác lửng đáp.

- Thật chán mớ đời. - Chú lùn than vãn. - Sẽ có ích hơn nếu quân thù thử sử dụng bất cứ mánh lới nào. Tất cả những người này cũng chẳng giúp được gì cho vua Peter một khi Miraz chứng minh tay kiếm của hắn cừ hơn.

Bác lửng không nói gì bởi lúc này Peter và Miraz đã tiến vào vòng đấu từ hai phía đối diện, cả hai đều mang giày cao ống, mặc áo giáp sắt, tay mang khiên và đầu đội mũ trụ. Họ từ từ tiến đến gần hơn cho đến khi gần như chạm mặt nhau. Cả hai cúi đầu chào đối thủ, hình như họ có nói một điều gì đó nhưng khoảng cách xa không thể nghe thấy họ nói gì. Một vài giây sau, hai thanh kiếm lóe sáng dưới ánh mặt trời. Một giây sau đó tiếng hai thanh kiếm chạm vào nhau còn có thể nghe được nhưng rồi nó lập tức chìm nghỉm bởi vì quân của hai phe đã bắt đầu la hét dữ dội như đám đông hâm mộ trong những trận đá bóng.

- Tốt lắm, Peter, tốt lắm! - Edmund hét lên khi thấy Miraz lùi lại khoảng một bước rưỡi. - Tiến lên, nhanh lên!

Peter làm theo, nhưng chỉ vài giây sau cục diện xoay ra như thể trận quyết đấu sắp kết thúc. Nhưng rồi Miraz lấy lại thế tự chủ, bắt đầu tận dụng chiều cao và cân nặng của mình. “Miraz! Miraz! Đức vua! Đức vua!” Đội quân người Telmarine hò hét long trời lở đất. Caspian và Edmund tái nhợt cả người đi vì lo lắng.

- Peter vừa nhận mấy cú chết người. - Edmund nói.

- Trời ơi! - Caspian kêu lên. - Chuyện gì xảy ra đây?

- Cả hai đều ngã. - Edmund nói. - Đau đây. Coi này. À, họ lại bắt đầu lại, lần này chính xác hơn. Xoay tròn, xoay tròn, cảm nhận được sự phòng vệ của nhau.

- Tôi e rằng tên Miraz này biết rõ việc mình làm. - Tiến sĩ lẩm bẩm. Nhưng khó mà nghe ông ta nói được giữa những tiếng vỗ cánh, tiếng hí, tiếng gõ móng của đội quân Narnia cổ. Những tiếng động này khiến người ta đinh tai nhức óc.

- Chuyện gì vậy? Chuyện gì vậy? - Tiến sĩ nôn nóng hỏi. - Đôi mắt già nua của tôi bỏ qua mất rồi.

- Peter Đại đế đâm vào nách đối phương, - Caspian nói, vẫn vỗ tay, - đúng vào chỗ hở của cái áo giáp đủ để mũi kiếm lọt qua. Những giọt máu đầu tiên.

- Dù vậy, tình thế lại có vẻ như xấu đi. - Edmund nói. - Peter không sử dụng khiên để che chắn một cách hợp lý. Anh ấy có thể nhận một mũi kiếm vào cánh tay trái.

Điều đó quá đúng. Ai cũng có thể thấy cái khiên của Peter treo trên tay một cách không đúng điệu. Tiếng hò reo của quân Telmarine to gấp đôi quân Narnia.

- Anh đã tham dự nhiều trận đấu hơn tôi, - Caspian nói với Edmund, - anh có thấy bất cứ cơ hội nào không?

- Rất nhỏ. - Edmund đáp. - Tôi cho rằng anh ấy có thể làm được điều đó... với một chút may mắn.

- Ôi, tại sao chúng ta lại để cho chuyện này xảy ra chứ? - Caspian kêu lên.

Bất thình lình, tiếng la hét của cả hai bên tắt hẳn. Edmund bối rối trong vài giây. Sau đó nó thốt lên:

- Ồ, tôi thấy rồi. Hai bên đồng ý nghỉ giải lao. Đi đi, ông tiến sĩ. Chúng ta có thể làm một cái gì đó cho đức vua tối cao.

Họ chạy xuống trường đấu, Peter đi ra ngoài sợi dây chăng để gặp họ, khuôn mặt nó đỏ lên, mồ hôi túa ra trên trán và hơi thở dồn dập, gấp gáp.

- Tay trái của anh bị thương à? - Edmund hỏi.

- Không hẳn là một vết thương. - Peter nói. - Anh nhận trọn cả cái vai hắn bằng tấm khiên này - giống như cả một bao tải gạch - và cạnh của tấm khiên đập vào cổ tay anh. Không, anh không nghĩ xương bị gãy nhưng có thể bị rạn. Nếu em buộc nó thật chặt lại anh nghĩ anh có thể cố gắng được.

Trong lúc băng bó, Edmund hỏi anh giọng lo âu:

- Anh nghĩ gì về đối thủ, Peter?

- Rắn. - Peter đáp. - Rất khó chơi. Anh chỉ có cơ hội nếu anh buộc ông ta phải nhảy choi choi cho đến khi sức nặng toàn thân và những trận gió chống lại ông ta... cùng với một mặt trời nóng bóng như thế này. Nói thật, anh chả có mấy cơ hội đâu. Hãy gửi tình yêu của anh cho tất cả mọi người ở nhà, Ed nhé, nếu anh có bề gì. Kìa, ông ta lại vào đấu trường rồi. Thật lâu, nghe anh bạn. Tạm biệt tiến sĩ. À mà Ed này, hãy nói một điều gì đó thật ngọt ngào, đặc biệt ngọt ngào với Trumpkin nhé. Ông ấy là một người chính trực.

Edmund không thể thốt lên lời. Nó quay về chỗ của mình cùng với tiến sĩ và với một cảm giác đau nhói trong lòng.

Nhưng hiệp đấu mới xem ra lại tốt đẹp. Bây giờ dường như Peter có khả năng dùng khiên hợp lý hơn và nhất là nó sử dụng đôi chân một cách linh hoạt hơn đối thủ. Gần như nó đang chơi trò chuột nhử mèo với Miraz, giữ một khoảng cách, chạy liên liến, buộc đối thủ chạy theo.

- Đồ nhát gan! - Quân Telmarine hò lên. - Tại sao ngươi không dám đứng lại trước mặt đức vua? Chơi không nổi hả? Ngươi đấu kiếm chứ đâu phải đi khiêu vũ. Ái chà!

- Ôi, tôi chỉ hy vọng vua Peter không nghe những lời khích bác. - Caspian nói.

- Không đâu. - Edmund đáp. - Anh không biết rõ về anh ấy đâu. Ối!

Lúc này Miraz đã ra đòn, đánh vào mũ trụ của đối thủ. Peter loạng choạng, trượt sang một bên và ngã khuỵu một đầu gối xuống. Tiếng reo hò của quân Telmarine trỗi dậy như sóng gầm:

- Miraz, cố lên! Nhanh lên! Nhanh lên! Hãy giết hắn! - Nhưng không cần phải thúc giục kẻ cướp ngôi. Hắn đã ở bên trên Peter. Edmund cắn chặt môi đến rớm máu khi lưỡi kiếm chém xuống đầu anh trai. Tạ ơn trời cao! Lưỡi kiếm chém sượt xuống bên vai phải. Chiếc áo giáp do người lùn rèn chỉ kêu xoảng chứ không đứt.

- Lạy thánh Scott! - Edmund kêu lên. - Anh ấy đã đứng dậy. Peter, cố lên! Cố lên!

- Tôi không thấy rõ chuyện gì xảy ra. - Tiến sĩ nói. - Vua Peter đã làm thế nào?

- Túm chặt lấy cánh tay Miraz khi nó giáng xuống. - Trumpkin reo lên, nhảy như con choi choi vì sung sướng. - Đúng là một đối thủ ra trò! Dùng cánh tay kẻ thù như một cái thang. Peter Đại đế! Peter Đại đế! Nước Narnia cổ muôn năm.

- Coi này, - Trufflehunter nói, - Miraz đang nổi đóa. Như thế là rất tốt.

Trận chiến trở nên khốc liệt. Những cú đánh như trời giáng, có vẻ như một trong hai bên sẽ phải chết. Sự kích động tăng cao, tiếng la hét lặng dần. Khán giả nín thở đứng xem. Thật là một cuộc đấu kiếm hào hùng và kinh khủng nhất.

Một tiếng kêu lớn trỗi lên từ bên liên quân Narnia cổ. Miraz ngã xuống - không bị chém bởi nhát kiêm của Peter mà bị ngã dập mặt xuống, trượt dài trên bãi cỏ, Peter lùi lại đợi đối thủ đứng lên.

- Ôi chán quá! - Edmund rên rỉ với chính mình. - Có cần phải cao thượng như vậy không chứ? Mình cho rằng con người anh ấy là thế. Thì anh ấy chẳng là một hiệp sĩ và là một vị vua tối cao là gì. Mình cho rằng đó là điều mà Aslan muốn. Nhưng kẻ súc sinh kia sẽ đứng dậy trong vòng một phút nữa và rồi...

Nhưng “gã súc sinh” không bao giờ đứng lên được nữa. Glozelle và Sopespian đã có kế hoạch làm phản. Vừa thấy ông chủ của mình ngã xuống chúng đã nhảy vào đấu trường, miệng kêu lớn:

- Quân xảo trá! Quân xảo trá! Tên phản bội Narnia đã đâm vào lưng vua khi người nằm bất động. Quân đâu! Quân đâu! Telmar!

Peter khó lòng hiểu nổi chuyện gì đang xảy ra. Nó chỉ thấy hai người đàn ông lực lưỡng chạy về phía mình với thanh gươm tuốt trần. Sau đó một người thứ ba nhảy qua sợi dây phía bên tay trái nó.

- Quân đâu, Narnia. Đồ tráo trở! - Peter hét lên. Nếu cả ba người đều xông vào nó một lượt thì nó sẽ không còn cơ hội để cất lên tiếng nói được nữa. Nhưng Glozelle đã dừng lại, đâm Miraz một nhát cho chết hẳn ở ngay nơi gã ngã xuống:

“Đây là trả cho việc ngươi nhục mạ ta vào sáng nay,” hắn thì thầm khi thanh kiếm đâm ngọt vào Miraz.

Peter xoay người đối mặt với Sopespian, vung mấy nhát dưới chân hắn rồi với một nhát cắt từ phía sau đưa mạnh mũi kiếm về phía đầu hắn. Edmund lúc này đã chạy vụt đến bên anh trai kêu to:

- Narnia! Narnia! Sư tử! - Toàn quân Telmarine đổ xô vào phía họ. Nhưng khổng lồ đã xung trận, cúi xuống vung cây chùy khổng lồ lên. Nhân mã cũng tham gia. Veo veo veo đằng sau và vút vút vút trên đầu là những mũi tên của người lùn. Trumpkin xông pha lên cánh trái. Một trận đánh toàn diện bắt đầu.

- Quay lại, Reepicheep, đồ ngốc! - Peter thét lên. - Ông sẽ bị giẫm chết. Đây không phải là chỗ dành cho loài chuột! - Nhưng những sinh vật nhỏ bé nực cười này lại chạy loạn lên giữa những đôi chân của cả hai bên, dùng thanh gươm nhỏ đâm mạnh vào chân kẻ thù. Rất nhiều chiến binh người Telmarine hôm ấy cảm thấy chân mình đau nhói như bị hàng chục cái xiên nhỏ đâm vào. Nhiều người ôm chân nhảy lên tưng tưng, chửi bới và ngã oành oạch. Khi ấy bầy chuột sẽ kết liễu cuộc đời anh ta nếu không cũng có một người khác làm thay.

Nhưng gần như trước lúc những cư dân Narnia cổ kịp làm nóng người lên với cuộc chiến đấu thì họ đã thấy quân thù rút lui. Những chiến binh lúc đầu có vẻ như là cảm tử quân, lúc này mặt mày tái mét, hai mắt trợn trừng trong nỗi kinh hoàng không phải vì những người Narnia cổ mà vì một cái gì đó sau lưng họ. Quân địch quăng vũ khí, miệng ré lên: “Rừng! Rừng! Ngày tận thế!”

Chẳng bao lâu cả tiếng kêu của quân Telmarine lẫn tiếng quăng vũ khí đều không nghe thấy nữa bởi tất cả đều chìm trong tiếng gầm - như tiếng sóng biển vào ngày bão tố - của Cây Rừng đã Thức tỉnh. Họ tràn vào hàng quân của Peter, đuổi theo quân Telmarine. Bạn đã từng đứng ở bìa một cánh rừng đại ngàn, trên một luỹ đất cao khi một trận cuồng phong hung bạo ào đến từ hướng tây nam bẻ cây cối răng rắc vào một chiều thu chưa? Hãy hình dung ra âm thanh của nó, rồi tưởng tượng rừng cây thay vì đứng nguyên tại chỗ lại ào ào xô về phía bạn, mà đó là không phải là cây cối nữa mà là những người khổng lồ. Tuy vậy họ vẫn giống cây cối bởi những cánh tay dài vẫy loạn lên thì giống như các cành cây trong giông bão, những cái đầu hất lên gục xuống, lá cây rơi lả tả chung quanh như mưa xối. Mọi chuyện diễn ra như thế đối với người Telmarine. Cả đến người Narnia cũng không khỏi lấy làm kinh sợ. Chỉ trong vòng ít phút, tất cả những người đi theo Miraz đã chạy bán sống bán chết về phía sông Vĩ Đại với hy vọng chạy qua cầu về thành phố Beruna và cố thủ ở đấy, sau thành lũy và sau những cánh cổng đóng chặt. Họ bỏ chạy tới bờ sông nhưng không có cầu. Nó đã biến mất từ hôm qua. Một sự hoảng loạn và sợ hãi tột độ chiếm lĩnh toàn quân. Tất cả giơ tay xin hàng.

Nhưng chuyện gì đã xảy ra với cái cầu?

Sáng tinh mơ hôm ấy, sau khi ngủ được vài giờ, hai chị em Susan tỉnh giấc, thấy Aslan đứng bên cạnh và nghe ông nói:

- Chúng ta sẽ có một kỳ nghỉ!

Hai đứa dụi mắt nhìn quanh. Cây cối đã hết đi những vẫn có thể nhìn thấy chúng đang di chuyển về phía Gò Đôi thành một đám đen. Thần rượu Bacchus và Maenads - những thiếu nữ tế rượu bốc đồng và dữ dội - cùng Silesnus lẫn vào trong đám đông. Lucy, sau khi đã nghỉ ngơi và lấy lại sức hoàn toàn, nhảy lên reo vang. Mọi người đã thức dậy, ai nấy đều vui cười, đàn sáo vang lừng, chiêng trống đánh xập xình. Thú rừng, không phải là những con thú biết nói, vây tròn lấy họ.

- Có chuyện gì vậy, thưa Aslan? - Lucy hỏi, ánh mắt nó nhảy nhót, đôi chân giậm giậm chỉ muốn nhảy múa.

- Đến đây các con, - ông nói, - hôm nay lại cưỡi lên lưng ta nữa đi.

- Ôi thích quá! - Lucy kêu lên và cả hai đứa trèo lên cái lưng vàng óng ấm áp của sư tử như chúng đã từng làm một lần mà không ai biết chính xác là đã qua bao nhiêu năm rồi.

Sau đó cả đoàn di chuyển về phía trước - Aslan dẫn đầu, thần rượu Bacchus và những cô gái tế rượu nhảy nhót, chạy ào ào rồi lại quay lại nhào lộn đi theo sau, thú rừng nô đùa quanh họ, Silenus và con lừa đi sau cùng.

Họ đi chếch về bên phải một chút, chạy xuống một cái dốc rất cao và thấy cây cầu dài Beruna trước mặt. Trước khi họ bắt đầu đi qua cầu, từ dưới dòng nước nhô lên một cái đầu lớn ướt đẫm, râu tóc bù xù, cái đầu này lớn hơn đầu người, đội một chiếc mũ miện bằng gỗ bấc. Cái đầu nhìn Aslan và từ một cái gì như là miệng thoát ra một tiếng nói sâu thẳm:

- Xin chào chúa tể. - Cái đầu nói. - Hãy cởi dây xích cho thần.

- Đây là cái quái gì vậy? - Susan thì thào hỏi.

- Em nghĩ đó chính là quỷ thần hay hà bá gì đó, chúa tể của khúc sông này... nhưng... suỵt... - Lucy đáp.

- Bacchus, - Aslan nói, - cởi dây xích cho ông ta.

“Chắc đấy là cây cầu,” Lucy thầm nghĩ. Mà đúng như thế thật. Bacchus và người của thần ùa xuống chỗ nước cạn và một phút sau một điều kỳ lạ nhất đã xảy ra. Những gốc thường xuân lớn và chắc quấn lên tất cả các chân cầu, lớn nhanh như ngọn lửa bùng to, trùm lên những tảng đá tròn, chẻ đá ra, làm đá vỡ vụn, chia cắt những tảng đá liên kết với nhau. Thành cầu biến thành những hàng rào tươi vui với những cái gai nhọn nhưng chỉ một khoảng khắc ngắn ngủi sau đó tất cả biến mất với những tiếng đổ ầm ầm xuống dòng nước xoáy tròn. Cùng với nó là tiếng té nước, tiếng la hét, tiếng cười nói của đám đông đùa nghịch khi họ lội nước hoặc bơi, hoặc khiêu vũ qua vùng nước cạn (“Hoan hô! Bây giờ là khúc sông cạn Beruna nữa rồi!” các cô gái la lớn) đổ sang bên bờ bên kia, đi vào thành phố.

Những người đi trên đường phố vừa thoáng thấy mặt những người mới đến đã lũ lượt bỏ trốn. Tòa nhà đầu tiên mà họ đến là một trường học: một trường nữ sinh, nơi nhiều cô gái Narnia, mái tóc kẹp gọn gàng, cổ áo cứng ngắc, xấu xí bó chặt lấy cổ, chân mang những chiếc vớ dày cộp đang ngồi học môn Sử. Đó là thứ “Lịch sử” được dạy ở Narnia dưới ách cai trị của Miraz, nhàm chán hơn bài lịch sử “thật” nhất mà bạn từng đọc và ít sự thật hơn bất cứ một câu chuyện phiêu lưu chân thực nào.

- Gwendolen, nếu em không chú ý vào bài, - cô giáo nói, - và mải nhìn ra ngoài cửa sổ, tôi sẽ cho em điểm hạnh kiểm kém đấy.

- Nhưng thưa cô Pizzle... - Gwendolen bắt đầu.

- Em có nghe tôi nói không hả, Gwendolen?

- Nhưng xin cô Pizzle, - cô học trò lắp bắp, - có một... một... SƯ TỬ... ạ!

- Em nhận hai điểm kém vì không nghe giảng và vì nói chuyện linh tinh. - Cô giáo nói. - Còn bây giờ...

Nhưng tiếng gầm của sư tử đã cắt ngang lời cô giáo. Dây thường xuân bò đến cửa sổ lớp học. Bốn bức tường lớp học trở thành một đám cành lá xanh biếc tỏa sáng, cành lá che kín trên đầu lũ trẻ, nơi ấy từng là trần nhà. Cô giáo Pizzle thấy mình đang đứng trên một bãi cỏ ở một vạt rừng. Cô bám lấy bàn giáo viên để đứng cho vững nhưng hóa ra nó lại là bụi hồng. Những con người hoang dã mà cả trong tưởng tượng cô cũng không nghĩ ra được vây quanh cô. Đoạn cô nhìn thấy sư tử, cô la lên và bỏ chạy, giục những học sinh gái chạy theo mình, - những cô bé mũm mĩm với những đôi chân mập mạp. Gwendolen do dự.

- Cô bé sẽ ở lại với chúng ta chứ? - Aslan hỏi.

- Ôi, có thể như vậy ư? Cảm ơn! Cảm ơn! - Cô bé nói, ngay lập tức đưa tay ra cho hai cô gái tế rượu - những người đang xoay quanh cô bé với một vũ điệu vui vẻ và giúp cô bé cởi bỏ những bộ quần áo gò bó, không cần thiết trên người.

Dù họ đi đến đâu trong thành phố nhỏ Beruna thì một cảnh tương tự cũng xảy ra. Đa số mọi người bỏ chạy, một số ít đi theo họ. Khi rời thành phố họ là một đạo quân đông hơn, vui vẻ hơn.

Họ tràn qua những cánh đồng bằng phẳng ở mạn bờ bắc hoặc sang bên hữu ngạn. Gia súc phá rào gia nhập bọn với họ. Những con lừa già nua, buồn bã chưa bao giờ được biết đến niềm vui bất chợt trẻ hẳn lại; những chú khuyển bị xích cắn đứt dây xích, ngựa đá vào các cỗ xe cho rời ra từng mảnh và phi nước kiệu theo họ - cộp cộp - vó ngựa nện vui vẻ trên đường và tiếng ngựa hí vang dội.

Bên cạnh giếng ở cái sân kia họ thấy một người đàn ông đang đánh một thằng bé. Cái gậy bỗng bừng nở thành một cành hoa trong tay người đàn ông. Ông ta cố rứt hoa đi nhưng nó đã cắm chặt vào bàn tay ông. Cánh tay ông biến thành cây, thân hình thành ra gốc cây, chân lại là rễ cây. Đứa bé vừa mới khóc chưa ráo nước mắt đã bật cười và nhập hội với họ.

Ở một thị trấn nhỏ nằm ở giữa đường đến Đập Hải Ly, nơi hai con sông lớn gặp nhau, họ lại thấy một trường học nữa. Một cô giáo mặt mày mỏi mệt đang dạy số học cho mấy thằng con trai trông như một bầy heo con. Cô giáo nhìn ra ngoài cửa sổ thấy đoàn người và vật náo nức, vui tươi đang hát vang trên đường phố và một niềm vui bạo liệt như một mũi dao đâm vào trái tim cô. Aslan dừng lại dưới cửa sổ nhìn lên.

- Đừng, đừng! - Cô giáo kêu lên. - Tôi thích thế lắm, nhưng tôi không thể làm như thế. Tôi còn phải tiếp tục công việc của mình. Bọn trẻ sẽ hoảng sợ khi nhìn thấy ông.

- Hoảng sợ ư? - Thằng bé mũm mĩm nhất trong số những đứa trẻ trông giống như bầy heo con hỏi lại. - Cô nói với ai ở bên ngoài cửa sổ vậy? Em sẽ báo cáo lại với thầy giám thị là cô nói chuyện với người bên ngoài trong lúc lẽ ra cô phải dạy chúng em học.

- Đến xem đấy là ai đi. - Một thằng khác nói rồi tất cả bọn học sinh ào ra, chen chúc bên cửa sổ. Nhưng ngay khi những khuôn mặt nhỏ bé, ti tiện ló ra ngoài, thần rượu Bacchus đã kêu to “Euan, euoi-oi-oi-oi” và bọn con trai bắt đầu rú lên sợ hãi, đứa nọ giẫm lên đứa kia để chạy ra ngoài cửa hoặc nhảy ra khỏi cửa sổ. Sau đó người ta kháo nhau (không biết rõ là thực hay hư) rằng không ai thấy những thằng con trai này nữa, nhưng lại có cả một đàn heo con mũm mĩm dễ thương ở một khu vực chưa từng có heo xuất hiện.

- Nào, trái tim thân yêu của ta! - Aslan nói với cô giáo và cô vội nhảy ra ngoài nhập hội với họ.

Ở Đập Hải Ly họ lại vượt sông quay về hướng đông dọc theo bờ nam. Đoàn người đi đến một túp lều nhỏ nơi có một đứa trẻ đứng ngoài ngưỡng cửa khóc mếu.

- Tại sao con khóc hả tình yêu của ta? - Aslan hỏi. Đứa trẻ chưa từng nhìn thấy một bức tranh vẽ một con sư tử nhưng không hề sợ ông.

- Dì con bị ốm. - Cô bé đáp. - Dì sắp chết rồi!

Thế là Aslan phóng đến cửa túp lều, nhưng nó quá nhỏ so với ông. Khi ông thò được đầu vào trong, ông khẽ đẩy vai mình một cái (cả Lucy và Susan đều lăn xuống đất khi ông làm vậy) và nâng cả ngôi nhà nhỏ lên. Nó đổ ra sau, rời ra từng mảnh. Ở đấy, trên cái giường của mình - một cái giường nằm tơ hơ giữa trời - là một người đàn bà già nua nhỏ thó trông như thể bà có mang dòng máu của người lùn. Bà đang ở ngưỡng cửa của thần Chết nhưng khi bà mỏi mệt mở mắt trông thấy cái đầu tỏa hào quang vàng rực của sư tử đang chăm chú nhìn mình, bà không hét lên mà cũng không ngất xỉu. Bà nói:

- Thưa Aslan! Tôi biết chuyện này là thật. Tôi đã đợi điều này suốt đời. Có phải ông đến để mang tôi đi không?

- Đúng thế, người phụ nữ đáng mến! - Aslan đáp. - Nhưng chưa phải là cuộc hành trình cuối cùng đâu.

Trong lúc ông nói, giống như một luồng ánh sáng hồng hất lên một đám mây vào một sớm bình minh, một màu hồng ửng lên trên khuôn mặt trắng bệch, đôi mắt người đàn bà sáng lên. Và bà ngồi dậy nói:

- Sao thế nhỉ, tôi tuyên bố là mình đã khỏi bệnh rồi. Tôi nghĩ là mình có thể ăn điểm tâm một chút.

- Của mẹ đây, - Bacchus nói, nhúng một cá bình xuống cái giếng gần lều, múc nước lên đưa cho bà. Nhưng trong bình không phải là nước lã mà là một thứ rượu ngon lành nhất, đỏ như quả nho Hy Lạp nấu đông, mịn như lớp mỡ đông, bốc như bia, nồng nàn như trà nóng và mát lạnh như sương đêm.

- Ôi, cậu đã làm gì với cái giếng của tôi? - Bà già lắp bắp. - Đó là một sự thay đổi thật đẹp đẽ, thật thế! - Và bà nhảy ra khỏi giường.

- Cưỡi lên người ta! - Aslan nói với bà rồi quay sang bảo Susan và Lucy: - Hai nữ hoàng bám cho chắc vào nhé!

- Ôi, chúng con thích như thế lắm! - Susan nói và họ lại tiếp tục cuộc hành trình.

Cứ như thế, cùng với những cú nhảy, những điệu vũ, âm nhạc, tiếng cười, tiếng gầm, tiếng sủa và tiếng hí, đoàn người và vật đi đến đâu quân đội của Miraz quăng vũ khí xuống đất, đưa tay lên trời đầu hàng đến đấy. Còn quân đội của Peter vẫn nắm chắc vũ khí, thở hổn hển đứng quan sát quân thù với vẻ mặt vừa trang nghiêm vừa vui sướng. Việc đầu tiên xảy ra là người đàn bà tụt khỏi lưng Aslan, chạy đến chỗ Caspian, họ ôm chầm lấy nhau bởi vì bà chính là nhũ mẫu của hoàng tử.

CHƯƠNG 15

 Cánh cửa giữa hai thế giới

Vừa trông thấy Aslan, má của những người lính Telmarine đã có màu của căn bệnh sốt rét, đầu gối của họ khuỵu vào nhau, nhiều người ngã dập mặt xuống đất. Họ không tin vào sư tử và điều đó khiến nỗi sợ của họ tăng lên gấp bội. Kể cả những chú lùn Đỏ dù biết rõ ông là bạn vẫn đứng ngây ra, miệng há hốc không thể nói lên lời. Một số chú lùn Đen, từng là bạn của Nikabrik thì bắt đầu lảng ra xa. Tuy vậy tất cả những con thú những con thú biết nói đều xúm xít quanh sư tử với những tiếng rừ rừ, ư ử, chít chít, khụt khụt, hí vang biểu thị niềm vui sướng, chúng rối rít vẫy đuôi, đập móng lên người ông, nồng nhiệt chạm mũi vào ông, nhảy chồm lên người ông và chui vào dưới bốn chân ông. Nếu bạn từng trông thấy cảnh một con mèo nhỏ âu yếm một con chó to lớn mà nó biết rõ là tin cậy bạn sẽ có một bức tranh khá đầy đủ về thái độ của chúng. Sau đó Peter dẫn Caspian, len lỏi đi qua các loài thú.

- Thưa ngài, đây là Caspian. – Peter nói. – Caspian quỳ gối hôn lên móng của sư tử.

- Chào hoàng tử! – Aslan nói. – Con có thấy mình đủ sức đảm đương trọng trách đứng đầu nước Narnia không?

- Con… con không biết thưa ngài. Con chỉ là một đứa trẻ.

- Thế thì tốt, nếu con cảm thấy mình thừa sức làm thì đấy là bằng chứng cho thấy con không xứng đáng. Vì thế với sự đồng ý của chúng ta và Peter Đại đế, con sẽ lên làm vua ở Narnia, chúa tể của Cair Paravel, hoàng đế của Quần đảo Đơn Côi. Con và con cháu của con, một khi dòng họ của con vẫn còn sinh sôi nảy nở. Và lễ đăng quang của con… nhưng chúng ta có cái gì thế kia?

Đúng lúc đó một đám rước bé nhỏ, kỳ cục đang đi đến gần – 11 con chuột, 6 trong số đó khiêng cái gì đó trên cáng làm bằng cành cây, nhưng cái cáng không lớn hơn một tờ giấy. Chưa có ai thấy một bầy chuột nào có vẻ sầu khổ đến thế. Người chúng nhuộm đầy bùn – cả máu nữa – tai và ria cụp xuống, đuôi kéo lê trên cỏ, chú chuột đi đầu thổi vào một cái ống sáo mảnh một điệu nhạc bi ai. Trên cáng đặt một vật gì nhỏ xíu không hơn một túm lông ướt, đó là những gì còn lại của Reepicheep. Chuột ta vẫn còn thoi thóp đang trong tình trạng thập tử nhất sinh, toàn thân bầm dập với vô số vết thương, một cái móng bị dập và nơi trước là cái đuôi thì bây giờ là một mẩu thịt cụt dập nát.

- Nào, Lucy. – Aslan nói.

Lucy móc ngay cái lọ kim cương ra. Mặc dầu chỉ cần một giọt là đủ cho mỗi vết thương nhưng có quá nhiều vết thương nên phải đợi một lúc khá lâu. Sự chờ đợi trở nên căng thẳng, ngột ngạt, cuối cùng Lucy làm xong công việc của mình và thủ lĩnh nhà chuột nhảy ra khỏi cáng. Tay của chú lập tức sờ vào chuôi kiếm, tay kia xoắn xoắn hàng ria. Chú cúi đầu chào.

- Xin chào Aslan! – Một giọng lia lía cất lên. – Thần có được vinh dự… - nhưng nói đến đây chuột ta bỗng ngưng bặt.

Sự thật là chuột ta vẫn không có đuôi – hoặc là Lucy đã quên mất đuôi hoặc là món thuốc tiên của cô bé chỉ có thể chữa lành vết thương chứ không thể làm cái gì bị cắt cụt mọc dài ra được. Reepicheep bắt đầu nhận ra mất mát của mình khi cúi chào; có lẽ điều này đã có một tác động nào đó trong sự cân bằng của chú. Reepicheep nhìn qua vai bên phải. Vẫn không thấy cái đuôi đâu. Chú kéo cổ mình dài ra cho đến khi quay cả đôi vai và thân hình theo. Nhưng lúc đó cái mông cũng xoay theo và rồi chẳng thấy gì hết. Sau đó chú lại nghển cổ nhìn qua vai một lần nữa, kết quả vẫn như vậy. Chỉ sau khi đã quay tới quay lui ba lần chú mới nhận ra sự thật cay đắng.

- Tôi là một con chuột chết tiệt, - Reepicheep nói với Aslan, - chỉ là một kẻ không ra gì. Tôi cần phải xin ông tha thứ vì đã xuất hiện trước mặt ông với một bộ dạng không thích hợp như thế này.

- Ngươi cũng rất khá, chú chuột nhỏ bé ạ. – Aslan đáp.

- Cũng thế thôi, - Reepicheep trả lời, - nếu có bất cứ cái gì có thể làm được… có lẽ nữ hoàng… - nói đến đây chuột cúi chào Lucy.

- Nhưng ngươi sẽ làm gì với một cái đuôi? – Aslan hỏi.

- Thưa ngài, tôi có thể ăn, ngủ và chết cho đức vua của mình mà không có đuôi. Nhưng đối với một con chuột mà nói, cái đuôi chính là vinh dự, niềm vinh quang…

- Anh bạn ạ, đôi khi ta băn khoăn tự hỏi, - Aslan nói, - có thật là ngươi nghĩ quá nhiều đến danh dự bản thân hay không?

- Hỡi người cao quý nhất trong các vị vua tối cao, - Reepicheep nghiêng mình nói, - cho phép tôi nhắc nhở ngài rằng loài chuột chúng tôi đã được ban cho một tầm vóc khiêm tốn, vì thế nếu chúng tôi không giữ gìn phẩm giá của mình, một số kẻ (đo lường giá trị bằng chiều cao) sẽ cho phép mình hưởng sự khoái trá rất không phù hợp khi cười nhạo chúng tôi. Đó là lý do vì sao tôi nhận lấy những vết thương này; vâng chỉ để làm rõ một điều là không có ai lại muốn cảm thấy lưỡi gươm ở gần trái tim mình như tôi có thể nói về sự hiện diện của mình với những thứ như cái bẫy hoặc phomai nướng hoặc ngọn nến – không đâu thưa ngài, đó không phải là cái kẻ ngu ngốc to xác nhất Narnia đâu! – Nói đến đây nó quắc mắt nhìn Wimbleweather, nhưng khổng lồ bao giờ cũng đứng sau tất cả mọi người khác đã không phát hiện ra người ta nói gì dưới chân mình đã bỏ qua điều này.

- Tại sao người của chú lại tuốt gươm ra như thế, ta có thể biết điều này được không? – Aslan hỏi.

- Nếu điều này có thể làm hài lòng đức vua tối cao, - con chuột thứ hai tên là Peepiceek nói, - tất cả chúng tôi sẵn sàng cắt đuôi mình nếu như chủ tướng không còn đuôi nữa. Chúng tôi không chịu nổi nỗi day dứt khi mang một niềm vinh dự đã từ bỏ chủ tướng.

- A ha ha! – Aslan gầm lên hào sảng. – Các ngươi đã chinh phục được ta. Các ngươi có những trái tim vĩ đại. Không phải vì danh dự của các người, Reepicheep ạ, mà vì tình cảm gắn bó như tay với chân giữa các ngươi với nhau và hơn nữa vì sự ân cần mà loài chuột các ngươi đã đối với ta từ rất lâu rồi khi các ngươi cắn đứt những sợi dây trói ta ở Bàn Đá (và cũng nhờ thế, mặc dầu các ngươi đã quên rồi, mà loài chuột đã trở thành một loài biết nói), Reepicheep ạ, ngươi sẽ lại có đuôi như cũ.

Trước khi Aslan nói xong thì một cái đuôi mới đã xuất hiện ở đúng vị trí của nó. Rồi theo đề nghị của Aslan, Peter làm thủ tục phong Hiệp sĩ Sư tử cho Caspian và Caspian ngay sau khi trở thành hiệp sĩ đã phong tước hiệp sĩ cho Trumpkin, Trufflehunter và Reepicheep rồi phong tiến sĩ Cornelius làm Đại pháp quan, phê chuẩn cho gấu Bulgy được thừa hưởng chức danh Trọng tài trong đấu trường. Mọi người vỗ tay vang dậy.

Sau những sự kiện này, đám bại quân Telmarine bị áp tải qua khúc sông cạn, nhưng không hề bị mắng nhiếc hay đánh đập, rồi được đưa vào doanh trại trong thành Beruna dưới sự kiểm soát. Họ còn được đãi một chầu thịt bò bít tết và bia. Họ đã làm rộn lên khi lội qua dòng sông bởi vì tất cả bọn họ cũng sợ nước như sợ cây rừng và muông thú. Nhưng cuối cùng cái chuyện phiền toái này rồi cũng qua và những thời điểm dễ chịu hơn của một ngày dài bắt đầu.

Lucy ngồi ngay bên cạnh Aslan, trong lòng lâng lâng một niềm vui siêu phàm nhưng nó lại thắc mắc không biết các loài cây đang làm gì. Đầu tiên nó nghĩ chính là họ đang khiêu vũ: họ từ tốn quay tròn thành hai vòng, một từ trái sang phải, một từ phải sang trái. Sau đó nó nhận ra là họ cứ liên tục ném một cái gì đó vào trung tâm của hai vòng tròn. Có lúc nó nghĩ họ đang cắt những lọn tóc dài của mình, vào lúc khác thì có vẻ như họ đang bẻ gãy những đốt ngón tay của họ - nhưng nếu thế thì họ có quá nhiều ngón tay dư thừa và việc này này không làm họ đau đớn. Dù là họ ném cái gì xuống thì khi chạm xuống đất nó cũng biến thành một bụi cây khô hay cành cây khô. Sau đó, ba hoặc bốn người lùn Đỏ đi đến với những cái bật lửa nhóm lên một đống lửa. Đầu tiên có tiếng tí tách khi củi bén lửa rồi một lưỡi lửa bắt đầu nhảy múa và cuối cùng là một đống lửa cháy sáng reo vui như một đống lửa trại giữa đêm hè. Tất cả mọi người ngồi xuống tạo thành một vòng tròn quanh đống lửa.

Sau đó thần Bacchus, ông già Silenus và các thiếu nữ tế rượu bắt đầu nhảy múa, còn bốc lửa và hoang dại hơn điệu múa của cây cối; không thuần túy là một điệu múa chỉ là niềm vui và cái đẹp (mặc dầu nó vừa vui vừa đẹp) mà là một điệu múa kỳ diệu. Ở nơi tay họ chạm tới, chân họ đạp phải là y như rằng có cỗ bàn xuất hiện – thịt nướng thơm lừng xuất hiện ở các lùm cây, bánh làm bằng bột mì và yến mạch, mật ong, những thỏi đường nhiều màu, kem đặc sệt như cháo và trong suốt như nước suối nguồn, đào, quả xuân đào, lựu, lê, nho, dâu, quả mâm xôi – trái cây tuôn xuống như mưa và chất lên thành đống. Sau đó là những chiếc cốc, đĩa, bát bằng gỗ trang trí với những sợi dây thường xuân, được làm đầy bằng một loại rượu đậm màu, đặc cắm tăm được giống như một thứ siro làm bằng nước ép cây dâu tằm; có loại rượu thì đỏ như một thứ nước quả đông, có loại rượu vàng óng, xanh biếc, xanh – vàng và vàng – xanh vân vân.

Nhưng những người – cây còn làm ra nhiều chuyện khác. Khi Lucy trông thấy bác chuột Shovel và đàn chuột chũi của mình thi nhau dũi mõm xuống những nơi khác nhau (mà Bacchus đã chỉ cho chúng) thì nó nhận ra cây cối đang ăn đất và điều này khiến nó rùng mình. Nhưng khi nó thấy đất thực sự đã mang lại điều gì cho cây cối thì nó lại có một cảm giác khác.

Đất biến thành một thứ đất mùn màu nâu sậm đúng như màu sôcoola; hoặc đích thực là sôcôla nhưng khi Edmund nếm thử một tí nó chẳng thấy có gì ngon lành cả. Khi cái lớp đất mùn màu mỡ này đã làm thỏa mãn cơn đói của cây cối, chúng lại trở thành cái loại mà bạn có thể thấy ở Somerset, có cái màu như là màu hồng. Họ nói nó có nhẹ hơn nhưng mà màu mỡ hơn. Đến mức độ của phomai, nó đã là loại đất có đá phấn và tiếp tục biến thành một cái gì tinh xảo của những loại bột sỏi rất đẹp với đất bạc. Chúng uống một chút rượu và làm cho tất cả những cây ô rô cũng lên tiếng nói luôn miệng, bởi vì điều quan trọng nhất là chúng đã thỏa mãn được cơn khát với những ngụm nước lớn gồm sương mai trộn với những hạt mưa thoảng mùi hoa rừng và cái vị trong lành của những đám mây nhẹ nhất đang lững lờ trôi trên bầu trời.

Cứ như thế Aslan khoản đãi tất cả những cư dân ở Narnia cho đến khi mặt trời đã khuất sau rặng núi từ lâu, những vì sao bắt đầu ló rạng và đống lửa bây giờ nóng hơn, nhưng cũng yên ả hơn, cháy sáng như một đống lửa hiệu trong những khu rừng già. Những người Telmarine hồn xiêu phách lạc nhìn thấy nó từ xa, tự hỏi nó có ý nghĩa gì. Điều tốt đẹp nhất trong bữa tiệc này là không có gì đổ vỡ hoặc mất mát, trong khi các câu chuyện nguội dần và chậm lại. Hết người này đến người khác bắt đầu gật gù và cuối cùng chìm vào trong một giấc ngủ, quay vó về đống lửa với những người bạn tốt nằm kề bên. Cuối cùng im lặng trùm lên vòng người và bây giờ có thể nghe tiếng nước chảy róc rách qua những tảng đá ở khúc sông cạn Beruna. Nhưng suốt cả đêm Aslan và mặt trăng nhìn nhau không chớp mắt với một niềm vui rộn rã cứ dâng lên, dâng lên mãi trong lòng.

Ngày hôm sau các sứ giả (chủ yếu là sóc và chim) được phái đến mọi miền đất nước với một thông cáo với tàn quân Telmarine đang chạy trốn khắp nơi. Mọi người được thông báo cho biết rằng Caspian bây giờ đã lên làm vua và kể từ nay vương quốc Narnia thuộc về những con thú biết nói, về người lùn, các sơn thần, thần rừng và mộc tinh cùng các loại thú khác cũng như thuộc về loài người. Bất cứ ai ở lại, tuân thủ những điều kiện ấy cũng được đối xử tốt, còn những ai không thích điều này, Aslan có thể tạo cho họ một ngôi nhà khác.

Bất kỳ ai muốn đi đến đấy cũng cần phải đến gặp Aslan và các vua ở khúc sông cạn Beruna vào trưa ngày thứ năm. Bạn có thể hình dung là điều này gây nên không biết bao nhiêu chuyện đau đầu trong đám người Telmarine. Một số người, chủ yếu là lớp trẻ, cũng giống như Caspian đã nghe nhiều câu chuyện đời xưa và rất vui mừng vì nó quay lại. Họ đã kết bạn với các loài và những người này quyết định ở lại Narnia. Đại đa số những người già hơn, đặc biệt là những người có trọng trách dưới triều Miraz rất hoảng sợ, họ không muốn sống ở một nơi mà họ không được làm vương làm tướng nữa.

“Sống ở đây với bao nhiêu là loài vật đáng sợ! Trời ơi, lại còn ma quỷ nữa chứ. – Họ nói cùng với một cái rùng mình. – Cái gì gọi là mộc tinh với hoa tinh? Đó không phải là một điều khôn ngoan chút nào.”

Họ cũng nghi ngờ nữa. “Tôi không tin thú vật. – Họ nói. – Không tin, kể cả sư tử dữ tợn lẫn tất cả những con vật khác. Nó sẽ không để móng vuốt của mình cách xa chúng ta lâu đâu, đấy rồi các ông bà sẽ thấy.”

Nhưng rồi họ cũng đem lòng ngờ vực y như vậy đối với lời đề nghị về một quê hương mới cho họ. “Đưa chúng ta đến hang ổ của nó rồi ăn thịt dần từng người một, chắc thế.” – Họ thì thào bàn tán với nhau. Và họ càng bàn bạc nhiều bao nhiêu họ lại càng trở nên ủ rũ và nghi ngờ bấy nhiêu. Vào ngày đã định, tuy vậy cũng có hơn một nửa số họ xuất hiện.

Ở cuối trảng cỏ, Aslan cho dựng lên hai cái cọc gỗ cao hơn đầu người, cách nhau chừng khoảng hơn một mét. Một thanh gỗ đặt lên trên hai thanh gỗ kia, liên kết chúng lại, lại thành một cái cửa dẫn từ chỗ không không sang chỗ không không. Sư tử đứng trước cái cửa này, Peter đứng bên phải ông, còn Caspian thì đứng bên trái, nhóm người đứng xung quanh họ gồm có Susan, Lucy, Trumpkin, Trufflehunter, ngài Cornelius, Glenstorm Reepicheep và những người khác. Trẻ con và những người lùn đã khoác lên người những bộ hoàng bào trước đã từng có trong cung điện của Miraz giờ là cung điện của Caspian: lụa và vải dệt với những sợi vàng, vải tuyết len sáng lóe lên qua những ống tay áo rộng, áo giáp bạc, chuôi kiếm nạm kim cương, mũ trụ mạ vàng, mũ cắm lông chim… tất cả đều tỏa sáng đến chói cả mắt. Cả đến những con thú cũng đeo những sợi dây xích có giá trị. Tuy vậy không có ai để mắt đến những món đồ quý này hoặc đến bọn trẻ. Cái bờm sống động vàng óng như vàng mười chói sáng hơn tất cả. Những cư dân Narnia cố đứng sang hai bên trảng cỏ. Ở đầu đằng xa kia là những người Telmarine. Mặt trời chiếu sáng rực rỡ và những lá cờ đuôi nheo vẫy trong gió nhẹ.

- Hỡi những người con của Telmar, - Aslan nói giọng sang sảng, - những người muốn tìm một mảnh đất mới xin hãy nghe lời tôi. Tôi sẽ đưa tất cả mọi người về đất nước của mình là một nơi tôi biết mà các người lại chưa biết.

- Chúng tôi không biết Telmar. Chúng tôi không biết nó ở đâu, cũng không biết nơi ấy như thế nào nữa. – Nhiều người Telmarine nhao nhao nói.

- Các người đã từ Telmar đến Narnia. – Aslan nói. – Nhưng các người sẽ quay về Telmar từ một nơi khác. Các người không hề thuộc về nơi này. Các người đã đến đây từ những thế hệ xa xưa trước, đến từ cùng cái thế giới trong đó có Peter Đại đế.

Nghe đến đây, một nửa số người Telmarine bắt đầu rên rỉ:

- Đấy các ông các bà đã thấy chưa? Tôi đã nói rồi mà. Sư tử sẽ giết tất cả chúng ta, đuổi chúng ta ra khỏi thế giới này.

Một nửa số còn lại bắt đầu ném những cái rương hành lí xuống, đập tay lên lên lưng người kia than vãn:

- Đấy đã thủng chưa hả? Có thể đoán ra ngay là chúng ta không thuộc về nơi này với tất cả những sinh vật phi tự nhiên, dữ tợn và quái đản của nó. Chúng ta mang dòng máu xanh cao quý, bà con cũng thấy đấy!

Cả Caspian và Cornelius cùng bọn trẻ quay đầu nhìn Aslan với một vẻ chẳng hiểu chuyện này có ý nghĩa gì.

- Trật tự! – Aslan nói bằng một giọng trong cổ, gần với một tiếng hí. Mặt đất dường như rung lên một chút và tất cả mọi sinh vật trong khu rừng nhỏ đều đứng bất động như hóa đá. Aslan nói tiếp:

- Caspian, ngài Caspian, ngài cũng cần phải biết rằng mình không phải là vị vua đích thực của Narnia trừ phi, cũng giống như những vị vua trong quá khứ xa xưa, ngài là một trong những người con trai của Adam. Và ngài là như thế. Nhiều năm về trước trong thế giới này, ở cái biển sâu của thế giới này, nơi được gọi là Nam Hải có một con tàu chở đầy hàng của những tên cướp biển bị một cơn bão đuổi đến một hòn đảo. Ở đây chúng làm cái điều mà bọn cướp biển vẫn làm: giết hàng loạt những người đàn ông bản xứ, lấy vợ con của họ, chế biến rượu từ cây cọ, rồi uống rượu, rồi say xỉn, rồi nằm dưới bóng của những cây cọ, rồi thức dậy, rồi cãi lộn, thỉnh thoảng còn giết hại lẫn nhau. Trong một cuộc xung đột như vậy, 6 người đã bị đặt vào tình thế đánh nhau với những người còn lại và buộc phải bỏ trốn với những người đàn bà của mình vào trung tâm hòn đảo rồi chạy lên một ngọn núi cao và đi đến một cái nơi mà họ nghĩ là một cái hang để trốn tránh.

Nhưng đó là một trong những nơi kì diệu của thế giới này. Thực ra đó là một khe hở hay lỗ hổng giữa các thế giới còn lại từ thời cổ đại, những kẽ hởi này ngày một hiếm đi. Đó là một trong những kẽ hở cuối cùng: tôi không dám nói là cái cuối cùng. Và thế là họ rơi xuống, hoặc trồi lên, hoặc mò mẫn ở giữa, hoặc rơi tuột xuống… và họ thấy mình ở thế giới này, trên mảnh đất Telmar, lúc bấy giờ còn chưa có người. Tại sao nó lại không có người thì đó lại là cả một câu chuyện dài và tôi không thể kể ngay vào lúc này được. Hậu duệ của họ sinh con đẻ cháu ở Telmar, trở thành một dân tộc ngạo mạn và hiếu chiến. Đời này nối tiếp đời khác trôi qua, một năm nọ xảy ra nạn đói ở Telmar, hàng đoàn người chạy đến Narnia, lúc bấy giờ đang trong tình trạng lộn xộn (đây cũng là cả một câu chuyện dài). Họ chinh phạt mảnh đất này và thống trị nó. Ngài có hiểu tất cả những điều này không, vua Caspian?

- Thưa ngài, con hiểu ạ. – Caspian đáp. – Con chỉ có một mong muốn là con xuất thân từ một dòng giống cao quý hơn.

- Người được cha Adam và mẹ Eve sinh ra, - Aslan đáp, - cả hai đủ cao quý để làm một kẻ ăn mày khốn khổ nhất có thể cất cao hơn, và đủ ô nhục để khiến những vị hoàng đế hùng mạnh nhất trên trái đất phải gục xuống trong tủi hổ. Hãy yên lòng!

Caspian cúi đầu lắng nghe.

- Và bây giờ, - Aslan cao giọng hơn, - hỡi những người đàn ông và đàn bà của Telmar, các ngươi có vui lòng quay lại hòn đảo trong thế giới con người mà từ đấy tổ tiên xa xưa nhất của các ngươi đã từ đấy ra đi không? Cũng không phải là một nơi tồi tệ. Cái bộ tộc mà những tên cướp biển tìm ra đã tuyệt chủng, nơi này không còn dấu chân người. Ở đây có những giếng nước ngọt mát lành, đất đai màu mỡ, trù phú; có gỗ để làm nhà, có cá trong ao hồ, và những người khác trong thế giới này còn chưa phát hiện ra nó. Cái lỗ hổng đã mở ra đưa các người quay lại đấy. Nhưng điều này tôi cần phải báo trước, một khi các vị đã đi qua, nó sẽ lập tức đóng lại sau lưng các vị mãi mãi. Sẽ không có vụ trao đổi giữa các thế giới qua cái cửa này đâu.

Im lặng bao trùm một lúc. Đoạn có một chàng trai trẻ người vạm vỡ, dễ coi trong số những người lính Telmarine bước lên phía trước và nói:

- Được, tôi chấp nhận lời đề nghị.

- Đó là một sự lựa chọn đúng. – Aslan nói. – Và bởi vì anh là người đầu tiên lên tiếng, phép màu sẽ mạnh hơn đối với anh. Tương lai của anh trong thế giới này sẽ tốt đẹp. Bước qua đi!

Mặt chàng thanh niên tái nhợt đi, nhưng anh quả quyết bước lên trước. Aslan và những người của ông tránh sang một bên nhường chỗ cho anh ta đi qua cái cửa làm bằng những thanh gỗ.

- Bước qua đi, con trai. – Aslan nói, cúi xuống chạm mũi mình vào mũi chàng trai. Vừa khi hơi thở của sư tử phả lên người anh, một ánh sáng mới lạ bừng lên trong mắt anh – ngỡ ngàng, nhưng không phải là không hạnh phúc – như thể anh cố nhớ ra một cái gì đó tốt đẹp. Đoạn anh nhún vai bước qua cửa.

Mắt mọi người dán vào anh. Họ nhìn ba thanh gỗ và qua đó thấy cây cối, cỏ hoa và bầu trời của Narnia. Họ nhìn thấy người đàn ông giữa hai thanh gỗ và rồi một giây sau không thấy anh đâu nữa.

Từ đầu kia trảng cỏ nơi những người Telmarine còn lại đứng túm tụm với nhau có một giọng nói cất lên:

- Ủa, cái gì đã xảy ra với anh ta vậy? Có phải ông muốn giết cả bọn tôi? Chúng tôi sẽ không đi qua lối này đâu.

Sau đó một trong những người Telmarine tự cho mình là khôn ngoan đã cất giọng nói:

- Chúng tôi chẳng thấy thế giới nào khác qua cánh cửa kia. Nếu ông muốn chúng tôi tin, tại sao không một ai đó trong số các người đi qua đó? Tất cả những người cùng cánh với ông đều đứng cách xa nó.

Ngay lập tức Reepicheep bước lên trước, cúi đầu:

- Nếu tấm gương của tôi có bất cứ lợi ích gì thì thưa Aslan, - chuột nói, - tôi xin dẫn 11 con chuột đi qua cánh cổng này theo lệnh của ngài không một giây chậm trễ.

- Không được, loài vật bé nhỏ ạ. – Aslan nói, hết sức dịu dàng đặt cái móng bọc nhung lên đầu Reepicheep. – Trong cái thế giới ấy người ta sẽ làm những điều hết sức khinh khủng đối với ngươi. Họ sẽ bày bán ngươi ở ngoài chợ.

- Hãy để những người khác dẫn đường!

- Nào các anh em, - Peter bất thình lình nói với Edmund và Lucy, - đến lượt chúng ta rồi đó.

- Anh nói sao? – Edmund hỏi.

- Lối này, - Susan lên tiếng, cô bé dường như biết tất cả mọi chuyện, - sẽ dẫn chúng ta trở về rừng cây. Chúng ta cần phải thay đổi.

- Thay đổi cái gì cơ? – Lucy hỏi.

- Quần áo của chúng ta, tất nhiên rồi. – Susan đáp. – Chúng ta sẽ giống như lũ ngốc trên một sân ga ở Anh trong những bộ quần áo như thế này.

- Nhưng còn những thứ khác của chúng ta trong lâu đài của Caspian thì sao? – Edmund hỏi.

- Không, không còn ở đó nữa. – Peter nói, vẫn dẫn đường đi vào rừng cây rậm rạp. – Tất cả đều đã ở đây. Đã được mang đến đây, trong những chiếc bọc vào sáng nay. Tất cả đều đã được sắp xếp.

- Có phải đó là điều mà Aslan đã nói với anh và chị Susan sáng nay không? – Lucy hỏi.

- Phải, đúng thế và còn những điều khác nữa. – Peter nói, khuôn mặt đượm một vẻ buồn bã trang nghiêm. – Anh không thể nói hết với các em. Có những điều ông muốn dặn dò riêng anh và Su bởi vì bọn anh sẽ không quay lại Narnia nữa.

- Không bao giờ ư? – Cả Lucy và Edmund cùng bàng hoàng kêu lên.

- Ồ, các em thì có. – Peter đáp. – Ít nhất thì anh cũng hiểu như thế từ những điều ông nói, anh cảm thấy chắc là ông muốn hai em có thể quay lại đây vào một ngày nào đó. Nhưng không phải anh và Su. Ông nói tụi anh đã quá lớn rồi.

- Ôi anh Peter, - Lucy nói, thật là một điều bất hạnh, dễ sợ. Anh nghĩ mình có thể chịu đựng nổi không?

- Ồ anh nghĩ là anh vượt qua được. Tất cả đều khác những gì mà anh nghĩ. Em sẽ hiểu khi nó đến với em vào lần cuối cùng. Nhưng nhanh lên, đây là đồ đạc của chúng ta.

Thật kỳ cục và chẳng vui chút nào khi phải cởi hoàng bào ra và mặc đồng phục đến trường (lúc này cũng không được sạch lắm và bị vo lại thành một bọc). Một hoặc hai người Telmarine tai quái bật cười chế nhạo, còn những sinh vật khác thì cười vui vẻ, cùng đứng lên để bày tỏ lòng tôn kính Peter Đại đế, nữ hoàng Susan, vua Edmund và nữ hoàng Lucy. Có những lời chia tay đẫm nước mắt và tình cảm (về phía Lucy) với tất cả những người bạn cũ – những cái hôn của muông thú, cái hôn của anh em gấu Bulgy, cái siết tay của Trumpkin và cái ôm hôn thắm thiết không dứt ra được của bác lửng Trufflehunter. Tất nhiên Caspian muốn trả lại tù và cho Susan nhưng Susan nói là vua hãy giữ lấy.

Cuối cùng, tuyệt vời nhất và cũng bịn rịn, đau lòng nhất là cuộc chia tay với Aslan. Peter đi đầu, tiếp theo là Susan đặt một tay lên vai anh, rồi đến Edmund đặt tay lên vai chị, Lucy lại để tay lên vai Edmund và người Telmarine đầu tiên để tay lên vai nó… cứ như thế họ làm thành một hàng dài đi về phía cửa.

Ngay sau đó, trong khoảnh khắc khó mà tả được, bọn trẻ dường như trông thấy ba cảnh cùng một lúc. Thứ nhất mà miệng một cái hang mở rộng để lộ một vùng cỏ cây biêng biếc và một mảng trời xanh thắm của một hòn đảo trên biển Thái Bình Dương, nơi tất cả những người Telmarine sẽ thấy mình ở đó khi họ đi qua cánh cửa. Thứ hai là hình ảnh của một đồng cỏ Narnia, khuôn mặt các chú lùn và muông thú, đôi mắt sâu thẳm của Aslan, những đốm trắng trên má của những con lửng. Và cảnh thứ ba (nhanh chóng nuốt chửng hai cảnh trên) là không khí đìu hiu xám ngắt của sân ga trong một ga xép nơi thôn quê, một băng ghế với đống hành lý để xung quanh nơi cả bốn anh em vẫn đang ngồi như thể chúng không hề đi khỏi cái ghế. Một chút gì buồn bã chán nản kéo dài một lúc sau khi tất cả đã hiện lên rõ ràng, nhưng cũng thật bất ngờ cảnh tượng này cũng có vẻ dễ thương theo cái cách của nó, với cái mùi quen thuộc của ga xe lửa, bầu trời nước Anh và kỳ nghỉ hè phía trước.

- Thế là, - Peter kêu lên, - chúng ta đã có một khoảng thời gian đáng nhớ.

- Chán quá! – Edmund càu nhàu. – Em lại để quên ngọn đuốc điện mới tinh ở Narnia mới bực chứ!

 HẾT TẬP 4

[1] D.L.F - viết tắt của Dear Little Friend, có nghĩa là người bạn nhỏ thân yêu

TRÊN CON TÀU HƯỚNG TỚI BÌNH MINH

 Phải dành cả kỳ nghỉ hè với người anh họ đáng ghét Eustance quả là một kết thúc buồn đối với Edmund và Lucy. Hai đứa đang chán nản nhìn vào bức tranh có hình một con tàu với đầu tàu là một con rồng, thì bỗng thấy nó từ từ rung lên và gió bắt đầu thổi mạnh. Trong nháy mắt, chiếc khung biến mất và ba đứa trẻ bị quẳng vào giữa những con sóng. Tóm lấy sợi dây thừng được quẳng xuống, lũ trẻ trèo lên boong tàu an toàn.

 Khi đã yên ổn trong khoang tàu, Lucy có cảm giác dường như chúng đang được tận hưởng một khỏang thời giàn tuyệt vời. Và chúng ở đó, trên con tàu cùng với hoàng tử Caspian trong cuộc tìm kiếm bảy người bạn của cha hoàng tử, và chẳng mấy chốc lạc vào một chuyến du hành nguy hiểm đến những hòn đảo phía Đông.

 Đây là chuyến phiêu lưu thứ năm trong bộ truyện hấp dẫn: Biên niên sử về Narnia

CHƯƠNG 1

 Bức tranh nhiệm màu trong phòng ngủ

Có một thằng bé tên là Eustance Clarence – Lông Vịt[1] và nó gần như đáng bị gọi như vậy. Bố mẹ gọi là Eustance Clarence còn thầy cô giáo gọi nó là Lông Vịt. Tôi không thể nó cho bạn biết bạn bè gọi nó là gì bởi vì nó không có bạn. Nó không gọi những người sinh ra mình là “bố” và “mẹ” như mọi người mà gọi thẳng tên là Harold và Alberta. Đây là kiểu mẫu trong gia đình cấp tiến, hiện đại. Họ ăn chay trường, bài thuốc lá, bài rượu và mặc đồ lót đặt biệt. Trong nhà có rất ít đồ đạc, ít vải trải giường và cửa sổ bao giờ cũng mở tung cánh.

Eustace Clarence yêu lòai vật, đặc biệt là lòai bọ cánh cứng, nhất là khi chúng đã bị chết và đuợc ghim vào một mảnh bìa cứng. Nó thích sách nếu sách chứa nhiều thong tin và có những bức ảnh về máy tuốt lúa hoặc về bọn trẻ con ngoại quốc béo phì đang tập thể dục trong những ngôi trường hiện đại.

Eustace không thích những anh em họ nhà Pevensie là Peter, Susan, Edmund và Lucy. Nhưng nó rất khóai chí khi nghe tin Edmund và Lucy sẽ đến nhà nó ở ít ngày. Bởi vì sâu thẳm trong lòng, nó khoái được lên mặt chỉ huy và bắt nạt người khác. Mặc dầu nó chỉ là một oắt con, đứng mới chỉ đến tai Lucy, nó gì đến chuyện là đối thủ của Edmund trong một trận ẩu đả, nhưng nó biết có khối cách làm cho người khác phải khốn đốn nếu nguwofi ấy ở trong nhà mình với tư cách là một người khách bất đắt dĩ.

Edmund và Lucy thật lòng không muốn đến nhà dượng Harold và dì Alberta. Nhưng không thể tránh được chuyện này. Bố được mời thỉnh giảng ở Mỹ trong vòng 16 tuần vào mùa hè này và mẹ cần phải đi với bố bởi vì bà chưa có một kỳ nghỉ thực sự nào trong suốt 10 năm qua. Peter phải dùi mài kinh sử cho một kỳ thi tuyển và anh sẽ phải học suốt cả mùa hè dưới sự kèm cặp của giáo sư Kirke, chủ của ngôi nhà mà bốn anh em đã có những cuộc phiêu lưu tuyệt vời vào năm chúng đi sơ tán. Nếu giáo sư vẫn còn sống trong dinh thự đó ông sẽ muốn tất cả bốn anh em đến với ông. Nhưng sau dạo ấy bằng một cách nào đó ông đã trở nên nghèo túng và bây giờ phải sống trong một ngôi nhà nhỏ tí chỉ có một phòng ngủ. Sẽ tốn kém lắm nếu cho cả ba đứa trẻ sang Mỹ nên chỉ có mình Susan được đi.

Người lớn trong nhà nghĩ rằng Susan là một cô gái xinh nhất nhà và sẽ không phải lắm nếu bắt cô làm thêm trong dịp hè (mặc dù ở một khía cạnh nào đó làm việc vào kỳ nghỉ hè không phải là điều gì mới mẻ đối với những cô gái tuổi Susan). Mẹ bảo Susan đáng được thưởng một chuyến đi Mỹ, Edmund và Lucy cố không ganh tị với may mắn của chị nhưng thật không có gì chán bằng việc phải trải qua một mùa hè ở nhà dì Alberta.

- Đối với anh mọi chuyện còn tồi tệ hơn nhiều, - Edmund nói, - ít nhất em cũng còn có phòng riêng, anh lại phải ở chung với cái thằng lỏi đạt kỷ lục bốc mùi, cái thằng Eustance ấy.

Câu chuyện này bắt đầu vào một buổi chiều khi Edmund và Lucy tìm được một vài phút quý giá để ngồi bên nhau. Tất nhiên chúng nói chuyện vè Narnia, một đề tài bí ẩn và riêng tư giữa bọn chúng. Tôi cho rằng hầu hết chúng ta đều có một nơi chốn bí mật nào đó, nhưng đối với hầu hết mọi người đó chỉ là một vùng đất tưởng tượng. Edmund và Lucy may hơn những người khác trong khía cạnh này. Đất nước bí mật của chúng là có thật. Chúng đã đến đấy tới hai lần, không phải trong một trò chơi hay một giấc mơ mà trong hiện thực. Tất nhiên, chúng đã đến đấy nhờ vào một phép màu, đó là cách thức duy nhất để đến được Narnia. Có một lời hứa hoặc gần như một lời cam kết đã đưa ra ở Narnia rằng một ngày nào đó chúng sẽ quay lại đây. Bạn có thể hình dung là mỗi khi có dịp hai đứa lại thao thao không biết chán về đề tại này như thế nào.

Hai anh em đang trong phòng Lucy, ngồi trên mép giường ngắm nghía bức tranh treo trên bức tường đối diện. Đó là bức tranh duy nhất trong nhà mà chúng thích. Dì Alberta lại không ưa nó chút nào (đó là lý do tại sao nó được treo trên tường một phòng gác xép phía sau) tuy vậy dì không thể vứt đi bởi đó là quà mừng cưới của một người mà dì không muốn làm mếch lòng.

Bức trang vẽ một con tàu – một con tàu đang giương buồm lướt thẳng về phía bạn. Mũi tàu mạ vàng có dáng dấp như một cái đầu rồng với cái miệng há to. Con tàu có một cột buồm vuông rất lớn màu tím đậm. Hai bên hông tàu – cái mà bạn có thể nhìn thấy nơi đôi cánh mạ vàng của con rồng chấm dứt – có màu xanh lá cây. Tàu đang chồm lên một cột song lớn màu xanh da trời và cái dốc của con sóng đang đổ về phía bạn, dềnh lên với bọt nước và bọt song. Rõ ràng con tàu đang lao đi rất nhanh, một trận gió xám làm cho nó hơi lạng sang mạn tàu bên trái (Nếu bạn định đọc câu chuyện này và nếu bạn không biết rõ, hãy hình dung trong đầu, phía trái con tàu khi bạn nhìn thẳng vào nó là mạn trái, còn phía bên phải là mạn phải.) Ánh nắng màu mật ong đổ lên tàu từ phía bên trái và dòng nước ở phía này có màu xanh lá cây pha sắc tím. Phía bên kia có màu xanh đậm hơn do bóng con tàu hắt xuống.

- Vấn đề là, - Edmund nói, - nếu không cải thiện được tình hình thì Lu ạ, em hãy ngắm nhìn con tàu Narnia khi em không có cách gì đi đến đấy.

- Đúng thế, ít ra còn hơn không cò gì để làm. – Lucy nói. – Nó đúng là một con tàu rất Narnia.

- Vẫn chơi cái trò cũ mèm đó hả? – Eustance Clarence nói, nó đứng bên ngòai nghe lén từ nãy và bây giờ bước vào phòng cười nhăn nhở. Năm ngóai khi ở nhà Pavensie nó đã nghe trộm mấy anh em họ nói những chuyện mà nó cho là ngớ ngẩn về Narnia và nó đã khoái chọc ghẹo bọn chúng về chuyện đó. Tất nhiên, nó nghĩ mấy anh em họ đang bịa ra tất cả những chuyện này và bởi vì nó quá ngốc để nghĩ ra bất cứ một cái gì giống như thế nên nó không thể coi chuyện này có gì hay ho được.

- Ở đây mày là kẻ không được hoan nghênh. – Edmund nói cộc cằn.

- Tớ đang cố nghĩ ra một cái gì đó có vần điệu. – Eustace nói, giọng nhâng nháo. – Một cái gì như thế này:

“Mấy nhóc chơi trò Narnia

Rốt cục càng ngày càng điên”

- Ê, chữ Narnia đâu có vần với chữ điên, thế mà cũng bày đặt làm thơ. – Lucy bĩu môi.

- Ép vần một chút cũng không sao. – Eustace đáp giọng tỉnh bơ.

- Đừng hỏi nó cái trò ngu ngốc ấy làm gì. – Edmund nhăn mặt. – Nó chỉ kiếm cớ thôi. Cứ lờ đi biết đâu nó sẽ bỏ đi.

Hầu hết bọn con trai gặp một sự tiếp đón như thế hoặc sẽ chuồn lẹ hoặc nổi đóa lên. Nhưng Eustance không như thế. Nó vẫn đứng nhăn nhở và lân la gợi chuyện:

- Thích bức tranh này phải không?

- Vì Chúa, em đừng để nó bắt đầu nói về nghệ thuật và tất cả những chuyện như thế. – Edmund hấp tấp nói, nhưng Lucy vốn bản tính trung hậu đã mau mồm mau miệng đáp:

- Ừ, chị thích. Chị thích nó lắm lắm.

- Đó là bức tranh thối hoắc, thối thối thối! – Eustace đắc chí nói, mũi nhăn tít lại.

- Mày sẽ không thấy thế nếu mày bước ra ngòai. – Edmund nói.

- Tại sao mày lại thích nó? – Eustace hỏi Lucy.

- À, chỉ vì… Chị thích bức tranh này vì con tàu có vẻ như đang bơi đi. Nước có vẻ ướt như thật. Và song biển trông như đang xô về phía mình.

Tất nhiên Eustace biết có nhiều câu trả lời cho vấn đề này nhưng nó chẳng nói gì. Lý do là đúng lúc đó nó đưa mắt nhìn những làn song và thấy như song đang dềnh lên rồi trườn ra xa. Nó chỉ đi tàu có một lần duy nhất, lần ấy nó lại bị say song khủng khiếp. Bây giờ cảm giác nôn nao trong người. Mặt nó tái nhợt đi và nó đưa mắt nhìn đi chỗ khác. Thế rồi cả ba đứa nhìn vào tranh, miệng há hốc.

Điều chúng thấy thật khó tin, cũng khó tin gần như thế nếu bạn tận mắt chứng kiến chuyện gì đã xảy ra. Mọi vật trong bức tranh chuyển động. Cũng không giống như khi bạn ngồi trong rạp xem xinê, màu sắc thật và hiển nhiên như giữa ban ngày. Mũi thuyền dè lên một cột song làm cho nước bắn tóe lên. Có một con sóng làm cho nước bắn tóe lên. Có một con sóng khác đội đuôi tàu lên, lần đầu tiên đuôi tàu và boong tàu bắt đầu hiện rõ, sau đó lại biến mất khi con sóng tiếp sau ào đến, rồi đầu và đuôi tàu lại dềnh lên một lần nữa. Cũng lúc đó cuốn sách bài tập đang nằm trên giường cạnh Edmund vỗ cánh tay lên và xuyên vèo vèo qua không khí bắn vào bức tường sau lưng Edmund. Lucy cảm thấy mái tóc của nó tung bay, quấn cả vào mặt như trong một ngày lộng gió. Hôm đó đúng là một ngày cả gió và một luồn gió mạnh đã thổi bức tranh bay về phía mấy đứa nhỏ. Cùng với cơn gió thổi là những tiếng động kỳ lạ, tiếng sóng vỗ òam ọap vào hai bên mạn tàu, tiếng cọt kẹt, răng rắc của cột buồm, tiếng gào của gió và tiếng những đợt sóng dội ào ào. Còn cái mùi nữa, mùi mằn mặn, tanh tanh, sảng khoái, chính nó cuối cùng đã thuyết phục được Lucy là cô bé không nằm mơ.

- Thôi ngay. – Giọng Eustace vang lên, nghe the thé vì sợ hãi và cáu bẳn. – Lại là một trò ngu ngốc mà bọn bay bày đặt ra. Có thôi đi không. Tao sẽ bảo Alberta. Ôi trời!

Cả hai đứa, Edmund và Lucy, không xa lạ gì với những cuộc phiêu lưu mà cũng có cảm giác giống Eustace. Khi thằng này kêu ối chúng cũng ối. Lý do là một cột nước lạnh và mằn mặn ào ra khỏi khung ảnh, đổ ập xuống, ba đứa đều bị sặc khi cột nước ụp lên người làm cả ba ướt từ đầu đến chân. 

- Tao sẽ đập nát cái tranh thối tha này. – Eustace gào lên. Sau đó có vài chuyện xảy ra cùng một lúc, Eustace lao về phía bức tranh; Edmund, người biết rõ có một điều gì đó phi thường trong chuyện này vội bảo thằng em họ hãy nhìn đi chỗ khác và đừng làm nhưng chuyện ngu ngốc. Lucy túm lấy nó từ bên kia và lôi nó đi chỗ khác. Nhưng không hiểu là bọn trẻ trở nên nhỏ bé đi hay bức tranh được phóng to hơn. Thằng nhóc Eustace nhảy lên cố giật bức tranh ra khỏi bức tường và thấy nó đang đứng trước khung ảnh, nhưng trước mặt nó không phải là tấm hình mà là mặt biển thật sự, sóng và gió đổ xô lên cái khung ảnh như chúng vẫn làm thế với những tảng đá ven bờ. Eustace sợ đến mất trí, kéo đi cả hai đứa vừa nhảy đến đứng cạnh nó. Mấy giây vật lộn, la hét và đúng cái lúc bọn trẻ nghĩ chúng đã lấy lại cân bằng thì một đợi sóng cồn cao ngất chồm lên người chúng, bứng đôi chân chúng, lôi tuột chúng xuống biển. Tiếng kêu tuyệt vọng của Eustace bị nhận chìm một cách đột ngột vì một ngụm nước lớn sộc vào miệng làm cho nó bị sặc.

Lucy thầm cảm ơn đất trời vì nó đã chăm chỉ luyện bơi trong mùa hè vừa qua. Mọi việc rõ như ban ngày, nó cảm thấy dễ thở hơn khi làm những động tác khoan thai, chậm rãi, cũng vậy, nước biển lạnh hơn cảm giác có được khi đứng nhìn vào một bức tranh. Nó giữ cho đầu nho lên khỏi mặt nước, vùng vẫy đôi chân, đá giày văng đi như người ta vẫn làm khi bị rơi vào một vũng nước sâu trong khi vẫn mặc nguyên quần áo. Thậm chí nó còn biết cách giữ cho mắt mở tao còn miệng thì ngậm lại. Chúng ở thật gần con tàu, nó có thể nhìn thấy mạn thuyền xanh lá cây cao vượt lên như một bức tường. Một ai đó đứng trên boong chăm chú nhìn nó. Rồi như một chuyện vẫn thường xảy ra. Eustace quờ tay tóm lấy Lucy trong cơn hỏang lọan và cả hai cùng chìm sâu xuống nước.

Khi hai đứa lại trồi lên, Lucy thóang thấy một óng trắng từ một bên mạn tàu lao xuống. Edmund đang ở gần em gái, chân đạp nước và đã tóm được cánh tay của Eustace đang quờ quạng như phát dại. Rồi có một ai đó có khuôn mặt như quen như lạ, luôn qua cánh tay Lucy từ phía bên kia. Có nhiều tiếng kêu từ con tàu vọng xuống, có nhiều cái đầu lấp ló ra khỏi thành tàu, dây thừng được ném xuống. Người lạ và Edmund buộc dây quanh người Lucy. Sau đó… sau đó người ta đợi cái gì mà lâu đến thế, mặt nó xanh lè và hai hàm răng đánh vào nhau cầm cập. Sự thật thì sự đợi cũng không kéo dài, họ chỉ đợi đến lúc có thể kéo nó lên boong tàu mà không để một con sóng lớn đập nó vào mạn tàu. Dù có sự cố gắng của tất cả mọi người, Lucy vẫn thấy đau một bên đầu gối, khi nó đứng lên được boong tàu, người ướt sũng và run lẩy bẩy. Sau đó, Edmund được kéo lên, rồi đến thẳng lỏi Eustace tái nhợt như xác chết. Cuối cùng là người lạ - một cậu trai có mái tóc vàng ươm như màu rơm mới.

- Ca… ca – Caspian! – Lucy hổn hển kêu lên khi nó bắt đầu thở lại được. Bởi vì chính là Caspian – vị vua thiếu niên của Narnia, người mà chúng đã giúp đưa lên ngôi trong chuyến viếng thăm Narnia vừa rồi. Edmund cũng lập tức nhận ra bạn ngay. Cả ba bắt tay nhau, vỗ lên lưng nhau vì vui sướng và bất ngờ.

- Bạn của hai người là ai vậy? – Caspian hỏi các bạn và quay sang nhìn Eustace với nụ cười thân thiện nhưng Eustace khóc như cha chết, một cảnh thạt khó coi đối với một thằng con trai ở tuổi nó khi chẳng có chuyện gì phải làm ầm ĩ ngòai việc bị ướt hết quần áo. Thằng bé vừa khóc vừa la oai óai:

- Để tao đi. Để tao quay về. Tao không thích cái trò này.

- Để cậu đi? – Caspian ngạc nhiên hỏi lại. – Nhưng đi đâu.

Eustace chạy nhào ra một bên mạn tàu, y như thể nó chờ đợi được nhìn thấy khung ảnh treo trên mặt biển và có lẽ còn có cả hình ảnh phòng ngủ của Lucy nữa. Cái mà nó trông thấy chỉ là những cơn sóng xanh viền bọt trắng xóai, bầu trời xanh màu lơ; cả trời cùng biển đều trải dài không có gì ngăn trở cho đến tận chân trời. Có lẽ chúng ta cũng khó mà chê trách nó nếu nó có cảm giác như ngực mình bị một tảng đá nặng đè lên. Nó cảm thấy tất cả chao đảo, lộn ngược.

- Này Rynelf, - Caspian nói với một thủy thủ, - mang rượu hồi đến đây cho nhà vua và nữ hoàng. Mọi người cũng cần một cái gì làm ấm người lên sau chuyến bơi vừa rồi. – (Caspian gọi Edmund và Lucy như thế bởi vì hai anh em cùng với Peter và Susan từng làm vua và nữ hoàng ở Narnia từ thời xa xưa. Thời gian trôi đi ở Narnia khác ở trái đất. Nếu bạn sống 100 năm ở Narnia bạn sẽ trở về với thế giới của chúng ta cùng một giờ vào cùng cái ngày mà bạn ra đi. Và nếu bạn quay lại Narnia sau một tuần ở đây bạn có thể thấy là Narnia đã trải qua hàng ngàn năm hoặc chỉ một ngày hoặc chẳng mấy một khỏang thời gian nào. Bạn sẽ không bao giờ biết điều đó cho đến khi bạn đến đây. Kết quả là khi mấy anh em nhà Pevensie quay lại đây lần cuối trong chuyến viếng thăm Narnia, thì đối với người Narnia sự kiện đó cũng tương đương với việc vua Arthur quay lại nước Anh vào những năm giữa thế kỷ 20, như người ta có thể làm so sánh như vậy. Mà tôi nói sớm thì tốt hơn có phải vậy không?)

Rynelf quay lại với một bình rượu bốc hơi và bốn cái ly bằng bạc. Đó là những thứ mà mọi người cần, khi hai anh em uống họ có thể cảm thấy một luồng hơi ấm chạy thẳng xuống tận đầu ngón chân. Nhưng Eustace mặt nhăn mày nhó, phun phì phì, nhổ rượu trong miệng ra, lại cảm thấy nôn nao, lại khóc um lên và hỏi xem họ có lọai thực phẩm nào giàu vitamin như trái mận sấy khô không (đó là một lọai thức ăn được làm với nước cất) và nó khăng khăng đòi đưa tàu cập vào bờ ở bến tiếp theo.

- Anh bạn, anh mang đến một người bạn đồng hành thật vui tính đấy. – Caspian nói nhỏ với Edmund cùng với một tiếng cười khúc khích, nhưng trước khi cậu có thể nói thêm bất cứ điều gì thì Eustace lại giãy nảy lên như đỉa phải vôi.

- Ối trời ơi! Cái quái gì thế này? Mang nó đi ngay! Con vật kinh tởm này!

Lần này thì nó có lý do để giãy đành đạch như thế. Một cái gì thật sự kỳ lại ló ra khỏi cabin ở đuôi tàu, từ tốn đi về phía khách. Bạn có thể gọi nó là vậy – và nó sự thật là một con vật – một con chuột. Nhưng là một con chuột đi bằng hai chân sau, thân hình thẳng tắp. Đầu nó đội một chiếc vòng vàng kép thấp xuống dưới mang tai, ở một bên có gắt một cọng long chim dài đỏ thắm. (Bởi vì bộ lông chuột thẫm màu – gần như là màu đen cho nên hiệu quả của nó rất mạnh, rất ấn tượng.) Tay trái chuột để trên chuôi một thanh trường kiếm cũng dài gần bằng đuôi nó. Chuột bước đi ngay ngắn, trang nghiêm, khéo léo trên con tàu lắc lư với một phong thái rất chi là quý phái. Lucy và Edmund nhận ra nó ngay – đó là Reepicheep, dũng cảm nhất trong tất cả những con thú biết nói và là thủ lĩnh của lòai chuột. Nó đã đạt được một vinh quanh không thể xóa nhòa trong trận chiến thứ hai ở Beruna. Lucy chỉ ao ước như bao giờ nó cũng ước ao là được ôm Reepicheep trong tay và vỗ về người bạn cũ. Nhưng điều này, như nó đã biết rất rõ, sẽ làm cho Reepicheep cảm thấy bị mất thể diện ghê gớm. Vì thế, cô bé quỳ một chân xuống để nói chuyện với chuột.

Reepicheep bước chân trái lên trước, rút chân phải ra sau một chút, cúi chào, hôn tay cô bé, rồi đứng thẳng lên, vân vê sợi ria mép và nói với giọng chin chít, lanh lảnh:

- Đây là bổn phận khiêm tốn của tôi trước nữ hoàng Lucy và đức vua Edmund nữa. – Nói đến đây chuột ta lại cúi chào. – Chẳng có gì ngòai sự hiện diện của đứa vua và nữ hoàng đã đem lại một sự mạo hiểm vinh quanh cho chuyến đi.

- Mau mau đuổi con vật này đi cho! – Eustace rên rỉ. – Tôi ghét chuột. Tôi không thể chịu đựng được những con vật này. Chúng vừa ngu xuẩn, thô bạo vừa… nhặng xị.

- Không biết tôi có thể hiểu đúng, - Reepicheep nói với Lucy sau một hồi nhìn Eustace chằm chằm, - cái người đặc biệt bất lịch sự này đang ở dưới bảo vệ của nhà vua và nữ hoàng phải không? Bởi vì, nếu không…

Đúng lúc đó cả Lucy và Edmund đều hắt hơi.

- Ôi chao, tôi mới vô ý làm sao, ai lại để các vị khách đứng đây trong bộ đồ ước sũng như thế kia. – Caspian nói. – Xin mời đi xuống dưới thay đồ. Tôi sẽ nhường lại cabin của mình cho quý vị nhưng thưa nữ hoàng Lucy, tôi e chúng tôi không mang theo quần áo con gái. Chắc nữ hoàng sẽ chế biến được một cái gì đó từ quần áo của tôi. Hãy dẫn đường đi Reepicheep, hãy cư xử như một qúy ông lịch thiệp.

- Trong hoàn cảnh hiện tại thì sự tiện nghi của một quý bà, - Reepicheep lý sự, - thậm chí cả vấn đề danh dự nữa… tôi thấy cũng cần phải thể tất – ít nhất là vào lúc này. – Nói đến đây chuột trừng mắt nhìn Eustace.

Nhưng Caspian đã vội vã dẫn mọi người đi, vài phút sau Lucy thấy mình bước vào một cabin gọn gang. Nó thích nơi này ngay lập tức: ba cửa sổ vuông nhìn ra dòng nước xanh thẳng xóay tròn ở phía đuôi tàu, những chiếc ghế thấp có lót nệm kê ở ba phía một cái bàn, chiếc đèn bạc đung đưa trên đầu (nó biết ngay đó là tác phẩm của những chú lùn căn cứ vào các đường nét tinh xảo của nó) và một bức phù điêu Aslan – sư tử bằng vàng ròng gắn ở bức tường phía trước, ngay trên khung cửa. Tất cả những điều này cô bé đều ghi nhận trong vòng một tích tắc bởi vì Caspian đã lập tức mở một cánh cửa ở mạn phải con tàu và nói:

- Đây là phòng dành cho bạn, Lucy ạ. Tôi sẽ lấy mấy bộ đồ khô của tôi cho bạn dùng tạm.

- Cậu ta vừa tìm chìa khóa mở ngăn tủ vừa nói. – Sau đó tôi sẽ để bjan ở lại một mình để thay đồ. Nếu bạn ném bộ quần áo ướt ra ngòai tôi sẽ mang xuống thuyền galley giặt sạch và phơi khô.

Lucy cảm thấy thân quen như ở nhà, cứ như thể nó đã ở trong cabin của Caspian hàng mấy tuần lễ. Chuyển động dập dềnh lên xuống của con tàu không làm cô bé mệt vì trong những ngày xa xưa khi còn là nữ hoàng ở Narnia nó đã quen với những việc đi lại trên biển. Cabin khá nhỏ nhưng sáng sủa với những bức tranh sinh động (vẽ chim choc, thú rừng, những con rồng đỏ rực và những giàn nho xanh biếc) và tất cả đều sạch như lau như chùi. Quần áo của Caspian hơi rộng đối với nó nhưng rồi nó cũng xoay xở được. Nhưng còn giày, dép xăng đan và ủng đi biển thì rộng quá mữc đối với đôi chân bé nhỏ của nó và nó không ngại đi chân không trên boong tàu. Khi đã mặc vào người bộ quần áo khô, nó nhìn dòng nước đang cuộn chảy về phía tàu qua cửa sổ con tàu và hít một hơi thật sâu. Nó cảm thấy một niềm tin vững chắc là tất cả mọi người đang sống những ngày hạnh phúc.

CHƯƠNG 2

 Trên boong tàu Hướng tới Bình minh

- À, bạn tới rồi Lucy! - Caspian nói. - Chúng tôi đang đợi bạn đây. Xin giới thiệu đây là thuyền trưởng của tôi, ngài Drinian.

Một người đàn ông bước lên trước, quỳ xuống một gối, trịnh trọng hôn tay Lucy. Nó thấy có Edmund và Reepicheep.

- Thế Eustace đâu? - Lucy hỏi.

- Đang nằm trên giường, - Edmund nói, - và anh không nghĩ chúng ta có thể làm được điều gì cho nó. Sẽ chỉ khiến nó cảm thấy tồi tệ hơn nếu người ta cố gắng đối xử tử tế với nó.

- Trong khi đó, - Caspian tiếp lời, - chúng ta cần phải trao đổi một chút.

- Tất nhiên chúng ta sẽ làm thế, - Edmund kêu lên, - nhưng trước tiên hãy nói về thời gian. Theo cách tính của chúng tôi thì một năm đã trôi qua kể từ lúc chúng tôi rời Narnia ngay trước khi cậu đăng quang. Ở Narnia thì bao năm đã qua rồi?

- Đúng ba năm. - Caspian đáp.

- Và mọi chuyện đều tốt đẹp chứ? - Edmund hỏi.

- Cậu sẽ không nghĩ là tôi bỏ vương quốc của mình lênh đênh trên biển trừ khi mọi chuyện đều ổn chứ? - Ông vua trẻ tuổi đáp. - Mọi việc không thể tốt đẹp hơn nữa. Không có rắc rối gì giữa những người Telmarine, người lùn, những con thú biết nói, thần rừng và những sinh vật còn lại. Chúng tôi đã giải quyết được mâu thuẫn với bộ tộc người khổng lồ ưa gây hấn ở biên giới bằng một chiến thắng đầy sức thuyết phục vào năm ngoái và bây giờ họ đã chịu chung sống hòa bình. Tôi cũng có một con người tuyệt vời thay thế tôi làm nhiếp chính trong thời gian tôi đi vắng - đó là chú lùn Trumpkin. Hai người còn nhớ ông ta không?

- Ôi Trumpkin thân yêu, - Lucy kêu lên, - tất nhiên tôi vẫn nhớ. Bạn không thể có một sự lựa chọn nào đúng đắn hơn.

- Trung thành như một con lửng, dũng cảm như... như bác chuột đây, thưa cô. - Drinian nói. Ông ta đang tính nói là như một con sư tử thì nhận thấy đôi mắt Reepicheep dán chặt vào mình.

- Tàu chúng ta đang đi đâu vậy? - Edmund hỏi.

- À, - Caspian đáp, - đây là cả một câu chuyện dài. Có lẽ các bạn vẫn còn nhớ khi tôi còn nhỏ, ông chú tiếm quyền của tôi - Miraz - đã thanh trừ bảy người bạn của cha tôi (những người đã đứng về phía cha tôi) bằng cách phái họ đi khai phá vùng biển Đông chưa một ai biết đến, ở bên ngoài quần đảo Đơn Côi.

- Phải, Lucy đáp, - và không một ai trong số họ trở về.

- Vâng, đúng thế. Và vào ngày đăng quang, với sự nâng đỡ của Aslan, tôi đã tuyên thệ rằng một khi tôi đã thiết lập được một cuộc sống yên bình cho toàn cõi Narnia này, tôi sẽ đích thân giong buồm về hướng đông trong vòng một năm một ngày để tìm lại những người bạn của cha tôi hoặc để biết về cái chết của họ mà tìm cách trả thù nếu có thể. Đây là tên tuổi của bảy vị trung thần đó: ngài Revilian, ngài Bern, ngài Argoz, ngài Mavramorn, ngài Octesian, ngài Restimar và... ồ còn một người nữa với cái tên khó nhớ.

- Ngài Rhoop, thưa bệ hạ. - Drinian đáp.

- Rhoop, Rhoop, đúng rồi. - Caspian đáp. - Đó là mục đích của chúng tôi. Nhưng Reepicheep còn có một dự định cao hơn. - Mọi con mắt đổ dồn về phía bác chuột.

- Cao vời vợi như tâm hồn tôi. - Chuột nói. - Mặc dù nó cũng thấp bé như thân hình của tôi. Đó là tại sao chúng ta không nên thử đến mảnh đất cuối cùng của thế giới về phía đông? Chúng ta có thể tìm thấy gì ở đấy? Tôi cho là có thể thấy đất nước của Aslan. Bao giờ Aslan vĩ đại cũng đến từ hướng đông ngang qua biển lớn.

- Tôi dám nói đó thật là một ý hay. - Edmund kêu lên thán phục.

- Nhưng mọi người có nghĩ, - Lucy nói, - rằng quê hương của Aslan có thể là một đất nước - tôi muốn nói là một nơi nào đó mà chúng ta có thể đi đến bằng tàu?

- Tôi cũng không rõ thưa nữ hoàng. - Reepicheep đáp. - Chuyện là thế này, từ khi tôi còn nằm trong nôi, một người đàn bà gỗ - một nữ mộc tinh đã đọc câu vè này cho tôi nghe:

Nơi bầu trời chạm xuống hôn biển cả

Nơi sóng dữ trở nên êm ả

Đừng nghi ngờ bé Reepicheep ơi

Hãy đi tìm những điều con mong đợi

Mênh mang ở tận phương Đông xa vời.

Tôi cũng không rõ nó có ý nghĩa gì, nhưng nó đã bỏ bùa tôi từ lúc ấy đến giờ.

Sau một quãng im lặng ngắn ngủi, Lucy lên tiếng:

- Và bây giờ chúng ta đang ở đâu hả Caspian?

- Thuyền trưởng sẽ nói rõ cho bạn biết hơn tôi.

Drinian lấy ra tấm hải đồ và trải rộng lên bàn.

- Hiện chúng ta đang ở đây, - ông nói, đặt ngón tay vào một điểm, - hoặc là vào trưa nay. Chúng ta đã được một ngọn gió lành yểm trợ từ Cair Paravel và đã dừng lại chếch về hướng bắc một chút ở Galma. Chúng tôi đã neo lại cảng một tuần, bởi vì công tước xứ này đã tổ chức một cuộc đấu thương đại quy mô dành cho đức vua Caspian và ở đây đức vua đã làm cho nhiều kỵ sĩ bị ngã ngựa.

- Và bản thân tôi cũng bị vài cú ngã ra trò, Drinian ạ. Một vết thương vẫn còn bầm tím đây này. - Vua nói.

- Và làm nhiều kỵ sĩ ngã ngựa. - Drinian lặp lại với một nụ cười. - Chúng tôi nghĩ công tước hẳn sẽ hài lòng lắm nếu đức vua hỏi cưới con gái ông ta nhưng không có chuyện như vậy.

- Một tiểu thư mắt lé và mặt toàn tàn nhang. - Caspian nói.

- Ôi, một cô gái đáng thương! - Lucy nói.

- Rồi tàu chúng tôi rời khỏi Galma, - Drinian tiếp tục, - hai ngày liền trời không có gió và phải dùng sức người chèo thuyền, sau đó trời bắt đầu nổi gió và chúng tôi chỉ đến được Terebinthia vào ngày thứ tư sau khi rời khỏi Galma. Nhưng vua xứ Terebinthia đã gửi đến một thông điệp không nên cho tàu cập bến vì ở đây đang xảy ra một nạn dịch, vì vậy chúng tôi đã đi quanh mũi Terebinthia vào một lạch nước nhỏ cách xa thành phố để lấy nước ngọt. Chúng tôi phải nằm cách xa bờ trong suốt ba ngày trước khi đón được ngọn gió đông nam và đậu ở ngoài khơi Bảy Đảo. Đến ngày thứ ba một con tàu của bọn cướp biển (người Terebinthia, nếu căn cứ vào cách trang bị trên tàu) đã đuổi kịp chúng tôi, nhưng khi chúng phát hiện thấy chúng tôi có đầy đủ những món vũ khí tốt nhất, nó bơi đi xa sau khi bắn một loạt tên về phía tàu chúng tôi.

- Chúng tôi buộc phải truy đuổi, xông lên tấn công và treo cổ bất cứ tên cướp nào trên tàu. - Reepicheep hào hứng nói.

- Và đúng năm ngày sau chúng tôi đã có thể thấy được Muil, nơi là điểm cực tây của Bảy Đảo. Sau đó chúng tôi lái tàu vòng qua eo biển, vào lúc mặt trời lặn thì đến Redhaven nằm trên đảo Brenn, nơi chúng tôi có những bữa tiệc tuyệt vời, cùng thực phẩm và nước ngọt. Sáu ngày trước đây chúng tôi rời Redhaven, tàu đi với một tốc độ lý tưởng nhờ thế tôi hy vọng có thể thấy được quần đào Đơn Côi vào ngày kia. Tính tổng lại, cho đến nay chúng tôi đã lênh đênh trên biển được gần 30 ngày và đã đi được hơn 400 hải lý tính từ Narnia.

- Sau quần đảo Đơn Côi sẽ là cái gì? - Lucy hỏi.

- Không một ai biết, thưa nữ hoàng. - Drinian đáp. - Trừ khi chính những người dân trên đảo nói cho chúng ta biết.

- Người ta sẽ không biết điều đó trong thời của chúng ta. - Edmund nói.

- Nếu thế, - Reepicheep nói, - sau khi rời quần đảo Đơn Côi, cuộc phiêu lưu của chúng ta mới chính thức bắt đầu.

Caspian gợi ý mời hai vị khách đi tham quan tàu một vòng trước bữa ăn, nhưng Lucy cảm thấy áy náy không yên bèn nói:

- Tôi nghĩ phải đi thăm Eustace. Mọi người cũng biết tình trạng say sóng kinh khủng ra làm sao. Nếu tôi có lọ thuốc tiên tôi sẽ chữa khỏi bệnh cho nó.

- Nhưng bạn vẫn còn, - Caspian đáp, - nếu không nhắc chúng tôi cũng quên mất. Khi bạn để lọ thuốc lại tôi nghĩ nó phải được coi như một trong những báu vật của hoàng gia thế là tôi luôn mang theo người. Nhưng... nhưng nếu bạn nghĩ... một việc vặt như say sóng cũng đáng để lãng phí...

- Chỉ mất có một giọt mà thôi.

Caspian mở một ngăn kéo dưới băng ghế lấy ra cái lọ kim cương tuyệt đẹp mà Lucy nhớ rất rõ.

- Hãy nhận lại báu vật của mình, nữ hoàng Lucy! - Vua nói khi hai người rời khỏi cabin đi ra ngoài boong tàu đầy nắng gió.

Trên boong có hai cửa sập vừa to vừa dài, ở trước và ở sau cột buồm, cả hai cái đều đang mở như bao giờ cũng thế vào những ngày đẹp trời để cho ánh sáng và khí trời lọt xuống lòng tàu. Caspian dẫn mọi người xuống một cái thang sau khi qua cửa sập. Ở đây họ thấy mình ở một nơi có nhiều băng ghế kê thành hàng, từ mạn tàu bên này sang mạn tàu bên kia và ánh sáng lùa vào qua những cái lỗ để gác mái chèo, nhảy nhót trên sàn tàu. Tất nhiên sàn tàu của Caspian không phải là một thứ gì kinh khủng như loại thuyền galley do những người nô lệ cầm chèo. Mái chèo chỉ được sử dụng khi gió yếu hoặc khi vào và ra khỏi cảng và tất cả mọi người (chỉ trừ Reepicheep có đôi chân ngắn củn) phải luân phiên nhau chèo thuyền. Ở mỗi bên thành tàu đều có một khoảng trống dưới băng ghế chứa đủ thứ như bao bột mì, thùng nước ngọt và rượu, thùng tô nô đựng thịt heo muối, bình mật, túi da đựng rượu, táo, hạt dẻ, pho mát, bánh quy, củ cải và những lát thịt heo muối xông khói. Từ trên trần - tức là bên dưới sàn tàu - treo lủng lẳng từng súc thịt, những túm hành khô và ở đây cũng có cả những người thủy thủ nằm nghỉ trên võng trong khi chờ đến phiên mình.

Caspian dẫn mọi người đi về phía đuôi tàu, bước qua hết băng ghế này sang băng ghế khác, ít nhất thì với cậu cũng là bước đi, còn với Lucy thì khác, có lúc nó bước cũng có khi phải nhảy qua, bác chuột chũi thì phải thực hiện những cú nhảy dài. Cứ như vậy họ đi đến một vách ngăn có trổ một cánh cửa. Caspian mở cửa dẫn họ vào một khoang nằm ngay bên dưới cabin của Lucy và cũng có diện tích như vậy. Tất nhiên nơi này không đẹp được như thế. Trần rất thấp và hai bên dốc xuống trong khi họ bước xuống vài bậc, thành thử khó có thể gọi là sàn tàu; và mặc dầu ở đây có những ô cửa sổ làm bằng sắt dầy nhưng lại không mở ra được vì nó nằm dưới mặt nước. Vào lúc này, khi con tàu lao lên, khoang tàu có một màu vàng óng bởi ánh sáng mặt trời và mờ mờ xanh bởi nước biển.

- Cậu và tôi, chúng mình sẽ ở đây Edmund ạ. - Caspian nói. - Chúng ta sẽ để người anh em họ của cậu nằm giường còn hai chúng ta thì mắc võng nằm.

- Thần cầu xin bệ hạ... - Drinian bắt đầu.

- Không, không đâu ông bạn ạ, - Caspian gạt đi, - chúng ta đã tranh cãi với nhau về điểm này rồi. Ông và Rhince (tên một thủy thủ) có trách nhiệm chèo lái con tàu sẽ phải quan tâm, lo lắng và lao động vất vả suốt đêm ngày trong khi chúng tôi chỉ hát mấy đoạn trường ca hoặc trò chuyện vì thế hai người phải ở cabin phía trên. Vua Edmund và tôi có thể nằm thoải mái và ấm cúng ở dưới này. Những người khách lạ làm sao thế?

Eustace mặt mày xanh lè, nhăn nhó lên tiếng hỏi đã có bất cứ dấu hiệu gì cho biết cơn bão yếu đi chưa. Nghe thế Caspian hỏi:

- Bão nào?

Drinian bật cười.

- Bão ư, ông chủ trẻ? - Ông hỏi giọng oang oang. - Đây là lúc tiết trời đẹp nhất, đẹp như người ta có thể mong đợi được.

- Lão là ai? - Eustace hỏi giọng khó chịu. - Đuổi lão ta đi đi. Giọng lão cứ khoan vào óc tôi đây này.

- Chị mang cho em một thứ có thể làm em cảm thấy dễ chịu hơn. Eustace ạ. - Lucy nói.

- Ôi thôi biến đi và để tôi một mình! - Eustace gầm gừ.

Thế nhưng nó vẫn nuốt một giọt mật từ lọ thuốc tiên của Lucy và mặc dầu nó la oai oái rằng thuốc có một vị rất ghê (vào lúc Lucy mở nắp lọ cả cabin tràn ngập một mùi thơm dễ chịu, khoan khoái) thì cũng chính giọt thuốc ấy đã làm khuôn mặt nó hồng hào lại sau vài giây và chắc chắn nó thấy khỏe khoắn hơn bởi vì thay vì rên la về trận bão và cái đầu đau nó đã bắt đầu đòi được lên bờ và nói rằng ở bến cảng đầu tiên nó sẽ “thảo một văn bản” kiện tất cả mọi người lên lãnh sự quán Anh. Nhưng khi Reepicheep hỏi lại “văn bản” là gì và nó “thảo” như thế nào (Reepicheep nghĩ đó là một phương thức mới mẻ chuẩn bị cho một đánh nhỏ), Eustace chỉ đáp cộc lốc:

- Lạ thật, chuyện đó mà cũng phải hỏi ư?

Tuy vậy, mọi người cũng thành công trong việc thuyết phục nó rằng họ đã đi hết tốc lực để đến mảnh đất gần nhất mà họ biết và họ không có khả năng đưa nó về lại Cambridge là nơi dượng Harold sống, cũng tương tự như họ không có khả năng đưa nó lên mặt trăng. Sau đó nó phụng phịu đồng ý thay bộ đồ mới để sẵn trước mặt và bước lên boong.

Bây giờ Caspian mới giới thiệu con tàu với khách mặc dù trên thực tế họ đã biết gần hết. Họ đi trên phần boong ở mũi tàu, người hoa tiêu đang đứng trên một cái bục nhỏ đặt bên trong phần cổ rồng mạ vàng và nhìn qua cái miệng mở rộng của nó. Bên trong cái phần boong này là bếp và là nơi sinh hoạt của người phụ trách việc neo buồm, người thợ mộc, đầu bếp và viên đội trưởng đội bắn cung.

Nếu bạn nghĩ thật kỳ cục khi đặt bếp ở mũi tàu và hình dung khói sẽ bay vào hết các khoang tàu thì đó là vì bạn nghĩ đến những con tàu chạy bằng hơi nước bao giờ cũng chạy trước ngọn gió. Với thuyền buồm, gió thổi đến từ phía sau và bất cứ cái gì có mùi đều bay xa về phía trước trong chừng mực có thể. Khách được dẫn lên khoang chiến đấu trên cao, thoạt tiên họ cảm thấy rất nguy hiểm vì con tàu lắc qua lắc lại và nhìn thấy boong tàu chạy tuột xuống phía dưới và trông như nhỏ lại. Bạn sẽ cảm thấy là nếu mình bị ngã khỏi đây thì chắc chắn bạn sẽ không rơi xuống boong tàu mà sẽ ngã xuống nước.

Sau đó lại đi xuống đuôi tàu nơi Rhince đang làm nhiệm vụ cùng với một người khác bên tay bánh lái lớn và ở phía sau cùng, nơi đuôi rồng giương lên lấp lánh ánh vàng có một băng ghế nhỏ. Con tàu có tên là Hướng tới Bình minh. Nó rất nhỏ so với con tàu của chúng ta hoặc thậm chí so với một tàu buồm hoặc tàu chiến hoặc tàu tam bản ở vào thời hoàng kim của Narnia dưới sự cai trị của Peter Đại đế và ba người em. Thực ra thì hầu như tất cả tàu bè đã biến mất dưới triều đại của các tiền bồi trong dòng họ Caspian. Khi chú Caspian là Miraz kẻ cướp ngôi phá bảy nhà quý tộc vốn là trung thần của Caspian thứ chin đi biển người ta đã phải mua một con tàu của người Galma và thuê cả những thủy thủ người Galma nữa.

Sau khi lên ngôi, Caspian bắt đầu tổ chức việc phổ biến trong dân chúng Narnia về ngành hàng hải và con tàu này là tác phẩm đẹp nhất, hoàn chỉnh nhất mà họ tạo ra. Con tàu nhỏ đến mức tất cả các khoảng không đều được tận dụng và người ta phải tính toán khéo léo lắm mới dành chỗ cho một cái chuồng gà (Lucy cho gà ăn) ở một bên thành tàu. Nhưng đó là một con tàu đẹp theo kiểu của nó, một “công nương” như các thủy thủ nâng niu gọi, với những chiếc cột, trụ, đường diềm có đường nét tinh xảo và màu sắc hài hòa, đẹp mắt.

Tất nhiên, Eustace chẳng bao giờ hài lòng với bất cứ thứ gì, nó cứ mải ba hoa về tàu chở khách, thuyền máy, thủy - phi cơ và tàu ngầm. (“Cứ như thể nó biết tất tần tật mọi chuyện về tàu bè”, Edmund làu bàu trong miệng.)

Hai anh em nó thì khỏi nói, chúng lập tức say mê con tàu như say mê tất thảy những gì thuộc về Narnia. Khi họ đến một cabin ở đuôi tàu ăn tối, chân trời phía tây đỏ rựng lên một gam màu rực rỡ diễm lệ hiếm thấy của ánh tà dương và nghe có vị gì mằn mặn nơi đầu môi và cái ý nghĩ một miền đất chưa từng được biết đến nơi tận cùng thế giới làm cho Lucy cảm thấy nó quá hạnh phúc để có thể nói nên lời.

Điều mà Eustace nghĩ thì tốt nhất là nên thể hiện bằng lời lẽ của nó bởi vì khi tất cả đã mặc lại bộ đồ khô ráo của mình vào sáng hôm sau, nó lập tức lấy một cuốn sổ tay nhỏ màu đen và một cây bút chì và bắt đầu ghi nhật ký. Bao giờ nó cũng mang bên người cuốn sổ này và ghi lại điểm số của nó, mặc dù nó chẳng quan tâm đến các môn học vì mục đích tự thân của chúng mà chỉ chú ý đến điểm số các môn học mà nó đạt được và thường lân la dò hỏi: “Này, điểm số của tôi cũng không đến nỗi nào. Còn mọi người thì sao?”

Nhưng bởi vì xem ra nó không có cơ hội lấy được những “điểm cao” ở con tàu này, nó bắt đầu ghi nhật ký. Đây là những dong nhật ký đầu tiên.

“Ngày 7 tháng Tám

Thế là đã qua 24 giờ trên con tàu quái quỷ này nếu như đây không phải là một cơn ác mộng. Suốt quãng thời gian đó một cơn bão kinh khủng hoành hành (có một điều tốt là tôi không bị say sóng). Những con sóng lớn liên tục chồm lên trước mũi tàu và tôi thấy con tàu suýt bị sóng biển nhấn chìm xuống đáy đến vài lần. Tất cả những người khác đều giả vờ là không nhận ra điều này hoặc là họ chỉ khoe mẽ, giương vây bởi vì như Harold đã nói, một trong những tính xấu nhất của bọn người tầm thường là nhắm tịt mắt lại trước sự thật. Thật là điên khùng khi đi ra biển trên một cái vật nhỏ tí, lạc hậu như thế này. Không lớn hơn một cái xuồng cứu hộ!!! Và tất nhiên nó hoàn toàn ở trong tình trạng thô sơ, man rợ. Không có salông, không radio, không phòng tắm, không có bàn ghế tử tế. Suốt chiều hôm qua tôi bị lôi đi khắp các xó xỉnh và phải chịu trận nghe Caspian khoe khoang con thuyền đồ chơi thảm hại đến mức nực cười của nó như thể đó là con tàu Queen Mary làm cho bất cứ ai cũng phát ốm lên. Tôi đã cố dạy cho nó hiểu một con tàu thật sự phải như thế nào nhưng dù có bổ óc nó ra thì cũng chịu, không thể “khai hóa” nó được.

Edmund và Lucy, tất nhiên, không ủng hộ tôi về mọi phương diện. Tôi cho rằng một đứa con gái nông cạn như Lucy đâu có nhận ra những mối nguy hiểm thật sự, còn Edmund thì bợ đỡ Caspian như tất cả mọi người ở đây. Người ta gọi nó là vua. Tôi tuyên bố mình là một “người Cộng hòa” thế là cái kẻ tự xưng là vua ấy bèn hỏi lại “Cộng hòa” có nghĩa là gì! Nó có vẻ chả biết bất cứ một thứ gì hết. Không cần phải nói rằng tôi bị tống vào một cabin tồi tệ nhất trong tàu, đúng là một gian hầm ngầm trong khi Lucy nghiễm nhiên ngự trong một căn phòng trên boong gần như là một phòng đẹp nếu so với toàn bộ những căn phòng còn lại. Caspian nói rằng đó là bởi vì nó là con gái. Tôi cố làm cho nó hiểu điều mà Alberta đã nói, rằng tất cả những chuyện ưu tiên nịnh đầm như thế chỉ hạ thấp bọn con gái nhưng nó cứ điếc đặc trước một lý thuyết như vậy. Với lại, nó cũng phải thấy là tôi sẽ bị ốm nếu bị nhốt trong một cái hốc kín mít như thế này lâu hơn nữa chứ. Edmund bảo tôi rằng chúng tôi không được phép phàn nàn bởi vì chính Caspian cũng ở chung với chúng tôi sau khi đã nhường phòng của nó cho Lucy. Cứ như thể chuyện này làm cho cái cabin nhỏ tí ấy không trở nên chật chội và tồi tệ đi. Suýt nữa thì tôi quên không nói đến một việc: ở đây có một con chuột tự cho mình cái quyền cọ cái mõm kinh tởm của nó vào má người khác và gọi đấy là môn cái “hôn”. Mặc ai muốn làm gì thì làm còn tôi sẽ xoắn đuôi nó một cái thật mạnh nếu nó toan làm thế với tôi. Thức ăn ở đây cũng làm người ta nôn mửa.

Mâu thuẫn giữa Eustace và Reepicheep thậm chí còn nảy sinh sớm hơn là người ta có thể chờ đợi. Ngày hôm sau, trước giờ ăn, trong lúc mọi người đang ngồi quanh bàn chờ ăn tối (biển làm cho ai cũng có cảm giác mau đói) thì Eustace chạy như bay đến, hai tay vung vẩy, miệng la bai bải:

- Cái con vật thối tha kia suýt nữa thì giết chết tôi rồi. Tôi kiên quyết đòi hỏi phải đặt con vật nguy hiểm này dưới sự kiểm soát nghiêm ngặt. Tôi có thể có hành động chống lại anh đấy, Caspian. Tôi ra lệnh cho anh phải trừng trị nó.

Đúng lúc đó Reepicheep xuất hiện, kiếm tuốt trần, ria mép chĩa ra dữ tợn nhưng chuột ta vẫn rất mực lịch thiệp như bao giờ cũng vậy.

- Xin mọi người bỏ quá cho, - chuột nói, - tôi đặc biệt xin nữ hoàng tha lỗi. Nếu tôi biết cậu ta đến tị nạn ở đây tôi đã đợi đến một lúc thích hợp để cậu ta chấn chỉnh lại hành vi của mình.

- Có chuyện gì vậy? - Edmund hỏi.

Mọi chuyện xảy ra như thế này: Reepicheep là người không bao giờ cảm thấy tàu chạy nhanh, thích ngồi trên thành tàu phía trước ngay bên cạnh đầu rồng, nhìn đăm đăm về chân trời phía đông miệng lẩm nhẩm hát bài hát đồng dao mà nữ mộc tinh đã từng hát cho bác nghe bằng cái giọng liu líu của loài chuột. Bác ta không hề bám vào vật gì, trong lúc con tàu băng băng lướt sóng, bác ta vẫn giữ được thăng bằng với một vẻ bình thản ung dung rất mực. Có lẽ chính cái đuôi dài, rủ xuống boong phía trong thành tàu đã có tác dụng giữ thăng bằng. Mọi người trên con tàu đều đã quen với thói quen này của bác, các thủy thủ còn lấy làm thích thú nữa bởi vì khi một người đang làm nhiệm vụ canh gác, người ấy cũng muốn có ai để trao đổi dăm câu ba điều.

Đó là lúc Eustace loạng choạng đi ra mũi tàu vừa đi vừa trượt chân vừa vấp dúi dụi - nó đã có đôi chân của người lính biển chưa thì tôi chưa nghe nói đến. Có lẽ nó muốn đứng nhìn xem có thấy đất liền không, hoặc có thể nó muốn lảng vảng ở trong bếp để thó một cái gì đó chăng. Dù vậy, khi nhìn thấy cái đuôi vắt vẻo ở thành tàu - và điều này thực sự là một cám dỗ - nó nghĩ không nên bỏ qua cơ hội tóm lấy cái đuôi xoay Reepicheep một hai vòng lên xuống, rồi bỏ chạy và cười cho thỏa thích. Đầu tiên kế hoạch này xem ra rất hay. Bác chuột không nặng hơn một con mèo cỡ trung bình. Trong nháy mắt, nó tóm lấy đuôi con chuột đang ngồi vắt vẻo trên thành tàu trông thật ngốc, những cái chân nhỏ xíu tòe ra và cái mõm há hốc. Nhưng thật không may, Reepicheep - người đã quen với việc chinh chiến suốt đời không bao giờ lơ là cảnh giác dù chỉ trong một tích tắc. Cũng chẳng để mất đi kỹ năng của mình nữa. Không dễ dàng khi rút kiếm ra khi bị người ta nắm đuôi quay mòng mòng trong không trung, nhưng Reepicheep làm được. Điều tiếp theo mà Eustace nhận ra là hai chat chích rất đau vào gan bàn tay và nó vội thả chuột ra. Bác chuột lập tức đứng thẳng lên như thể bác là một quả bóng nảy từ boong tàu lên và bây giờ bác đứng ngay trước mặt Eustace, một vật dài dài nhọn hoắt, sáng lóa như một mũi xiên vẫy loạn lên chỉ cách bụng thằng nhỏ chừng vài phân. (Không thể áp dụng luật đâm kiếm từ thắt lưng trở lên đối với chuột ở Narnia bởi vì chúng khó có khả năng chạm tới một độ cao hơn.)

- Thôi đi, - Eustace nói giọng cà lăm, - đi... đi... ngay. Cất cái vật này đi. Không... an toàn. Thôi... ngay... tao bảo đấy. Tao sẽ nói với Caspi... an. Tao sẽ khóa... mõm mày... trói mày lại.

- Tại sao không tuốt gươm ra? - Reepicheep nói giọng vui tươi. - Rút gươm ra và chiến đấu hoặc là tôi sẽ cho cậu một bài học.

- Tôi không có gươm. - Eustace nói. - Tôi... tôi là một người chuộng hòa bình. Tôi... tôi không tin vào bạo lực.

- Theo tôi hiểu, - Reepicheep nghiêm nghị nói, với thanh gươm tuốt trần, - có phải cậu không muốn tôi bảo vệ danh dự của mình?

- Tôi biết là ông có ý gì. - Eustace nói, xoa xoa bàn tay bị đâm. - Nếu ông không biết đùa cợt thì tôi cũng chẳng để cho mình phải loạn trí về ông.

- Nếu vậy thì hãy nhận lấy... nó sẽ... dạy cho cậu cách cư xử đàng hoàng... cách tôn trọng một hiệp sĩ... và một con chuột... và cái đuôi chuột...

Với mỗi một câu nhát gừng chuột lại đâm Eustace rất nhanh bằng thanh kiếm, một vật mỏng, đẹp đẽ làm bằng thép của người lùn, cũng tinh tế, hiệu quả như một ngọn roi bằng gỗ bulô, Eustace Clarence Lông Vịt được dạy dỗ trong một trường học không áp dụng các hình phạt bằng roi vọt vì thế điều này quá sức chịu đựng của nó. Đó là lý do tại sao, mặc dù không có đôi chân đi biển, chỉ mất chưa đầy một phút nó đã lao vào khoang đầu tàu, trốn chạy cuộc đuổi bắt nong bỏng của Reepicheep, sự thật thì đối với Eustace cả lưỡi kiếm lẫn cuộc rượt đuổi của chuột chỉ có thể gọi là một cảm giác “nóng - đỏ”.

Giải quyết vấn đề này cũng không quá khó một khi Eustace nhận ra rằng mọi người đều thực sự nghĩ đến một cuộc đấu kiếm tay đôi. Caspian còn đề nghị nó mượn kiếm của mình trong lúc Drinian và Edmund thảo luận Eustace phải chấp Reepicheep bao nhiêu để bù lại lợi thế chiều cao hơn hẳn của nó so với bác chuột. Cuối cùng, thằng bé phụng phịu xin lỗi bác chuột rồi cùng đi ra ngoài, để cho Lucy rửa tay, băng bó vết thương rồi đi vào giường nằm. Nó cẩn thận nằm nghiêng một bên.

CHƯƠNG 3

 Quần đảo Đơn Côi

- Nhìn thấy đất liền rồi. - Người hoa tiêu đứng ở mũi tàu kêu lên.

Lucy lúc ấy đang đứng nói chuyện với Rhince ở khoang dưới đuôi tàu, bèn chạy lên cầu thang và chạy ra mũi tàu. Trên đường đi nó gặp Edmund, hai người thấy Caspian, Drinian và Reepicheep đang đứng ở khoang đầu tàu. Sáng hôm ấy trời se lạnh, bầu trời có một màu xám nhạt, mặt biển xanh đậm hơn với những chiếc mũ bọt trắng xóa và kia, chếch một chút khỏi mũi tàu về phía quần đảo Đơn Côi là Felimath, hòn đảo gần nhất trong quần đảo hiện lên như một quả đồi thấp xanh rờn nổi lên trên mặt biển, phía sau hòn đảo đó, xa xa một chút là những cái dốc thoai thoải màu khói thuốc của người chị em của nó - đảo Doorn.

- Cũng là Felimath ngày ấy! Cũng là Doorn ngày xưa! - Lucy vỗ tay reo lên. - Ôi anh Edmund, bao lâu rồi kể từ ngày chúng ta nhìn thấy nơi này lần cuối?

- Tôi không thể hiểu được tại sao quần đảo này lại thuộc về Narnia? - Caspian nói. - Có phải Peter Đại đế đã chinh phục vùng này?

- Ồ không, Edmund đáp, - nơi này thuộc về Narnia trước cả thời của chúng tôi - từ thời Bạch Phù Thủy kia.

(Dù sao thì tôi cũng chưa bao giờ được nghe câu chuyện những hòn đảo xa xôi này đã được ghép vào lãnh thổ nước Narnia như thế nào, nếu như khi nào tôi biết thì câu chuyện này sẽ hết sức thú vị và tôi có thể kể lại trong một cuốn sách khác.)

- Tâu bệ hạ, chúng ta hạ neo ở đây chứ ạ? - Drinian hỏi.

- Tôi không nghĩ Felimath là nơi đổ bộ tốt. - Edmund nói. - Vào thời của chúng tôi nó hầu như không có dấu chân người và giờ đây có vẻ như nó vẫn thế. Người ta chủ yếu sống ở Doorn, có một ít sống ở Avra - đó là hòn đảo thứ ba, lúc này mọi người còn chưa thấy rõ đâu. Người ta chỉ chăn cừu ở Felimath thôi.

- Nếu vậy chúng ta hãy đi vòng qua mũi đất này, có lẽ thế chăng, - Drinian dè dặt đưa ra ý kiến, - sau đó sẽ đổ bộ lên đảo Doorn. Như thế có nghĩa là phải chèo cật lực.

- Tôi thật tiếc là chúng ta không cập tàu vào đảo Felimath. - Lucy nói. - Tôi chỉ muốn đặt chân lên đấy một lần nữa. Một nơi rất u tịch - một sự u tịch rất dễ chịu, rất êm đẹp... những lớp cỏ mềm, cỏ ba lá và làn gió biển mơn man trên má.

- Tôi cũng thích được sải bước trên đó. - Caspian nói. - Tôi sẽ nói với quý vị điều này: Tại sao chúng ta không bơi thuyền vào bờ rồi để thuyền quay về tàu còn chúng ta sẽ đi ngang qua đảo và con tàu Hướng tới Bình minh sẽ đón chúng ta ở phía bên kia?

Nếu như Caspian có kinh nghiệm hơn, như sau một thời gian nữa cậu trở thành nhà hàng hải lão luyện thì cậu hẳn không đưa ra một gợi ý như vậy nhưng vào lúc đó nó có vẻ là một ý kiến quá tuyệt vời để bác bỏ.

- Vậy thì cứ thế đi. - Lucy nói.

- Cậu sẽ đi với chúng tôi chứ? - Caspian hỏi Eustace, người cũng ra đứng trên boong tàu với cái tay bị băng.

- Bất cứ chỗ nào khiến tôi thoát khỏi con tàu đáng nguyền rủa này. - Eustace nói.

- Đáng nguyền rủa? - Drinian hỏi lại. - Cậu nói thế là có ý gì?

- Ở một đất nước văn minh như quê hương tôi, - Eustace nói, - tàu bè lớn đến nỗi khi ông ở trên tàu ông không hề có cảm giác đang lênh đênh trên biển.

- Trong trường hợp ấy cậu có thể ở lại trên bờ. - Caspian nói. - Ông vui lòng cho mọi người hạ thuyền chứ Drinian?

Vua, bác chuột, hai anh em nhà Pevensie và Eustace bước xuống thuyền và bơi vào bãi biển Felimath. Khi con thuyền bỏ họ lại đảo và quay về tàu, tất cả cùng ngoái đầu lại nhìn quanh. Họ ngạc nhiên khi thấy con tàu Hướng tới Bình minh trông mới nhỏ nhoi làm sao. Tất nhiên, Lucy đi chân đất vì nó đã hất đôi giày đi trong lúc ngã xuống biển, nhưng cũng không có trở ngại gì khi đi trên lớp cát mịn. Thật khoan khoái khi lại ở trên đất liền lần nữa, lại được ngửi mùi đất và mùi cỏ ngai ngái dẫu rằng thoạt đầu mặt đất dường như cũng nhô lên hạ xuống như con tàu dập dềnh trên sóng, như một việc bao giờ cũng xảy ra cho một người lênh đênh trên biển được một thời gian. Không khí ấm hơn trên tàu và Lucy cảm thấy cát mơn man đôi chân nó với một cảm giác thật dễ chịu khi nó bước qua. Nghe đâu đây là một con chim sơn ca cất cao tiếng hót.

Họ đi sâu vào trong đất liền rồi đi lên một ngọn đồi thấp có cái dốc khá gấp. Lên đến đỉnh tất nhiên họ dừng lại ngoái đầu nhìn và kia con tàu của họ sáng lên như một con bọ cánh cứng khổng lồ với bộ cánh màu sắc rực rỡ đang chậm dãi bò về phía tây bắc bằng những cái chân là những mái chèo. Họ vượt qua triền đồi bên kia và không nhìn thấy con tàu đâu nữa. Đảo Doorn nằm trải ra trước mặt họ, chỉ bị ngăn cách với Felimath bằng một cái lạch nước rộng chừng một dặm, sau nó và nằm chếch sang trái một chút là đảo Avra. Màu trắng của thành phố nhỏ Narrowhaven trên đảo Doorn đã có thể trông thấy thật dễ dàng.

- Trời ơi! Cái gì thế kia? - Edmund bất thần kêu lên.

Trên một thung lũng xanh rờn mà họ đang đi tới có 6 người đàn ông mặt mày dữ tợn, tất cả đều có vũ khí đang ngồi nghỉ chân bên một gốc cây.

- Đừng cho họ biết chúng ta là ai nhé. - Caspian dặn.

- Nhưng thưa bệ hạ tại sao lại không ạ? - Chuột Reepicheep hỏi, bác ta lấy làm khoan khoái lắm khi được ngự trên vai Lucy.

- Tôi cảm thấy dường như không ai trong số những người ở đây từng nghe một điều gì đó về Narnia trong một khoảng thời gian dài rồi. Rất có thể họ cũng không biết gì về triều đại của chúng ta. Trong trường hợp này sẽ không được an toàn lắm khi xuất hiện trước mặt người bản xứ với tư cách là một ông vua.

- Chúng ta cũng mang theo vũ khí cơ mà. - Reepicheep nói.

- Phải, Reep ạ, tôi biết điều đó. - Caspian nói vẻ nhẫn nại. - Nhưng nếu đây là vấn đề tái chinh phục lại ba hòn đảo này thì tôi muốn quay lại với một đội quân hùng hậu hơn.

Vào lúc này họ đã đi gần đến chỗ những người lạ, một người trong bọn - một người to con, râu tóc xồm xoàm đen nhánh - kêu to:

- Chúc quý khách một buổi sáng tốt lành.

- Chào các quý ông. - Caspian đáp lại với cái cúi đầu nhã nhặn. - Dám hỏi nơi đây vẫn còn dưới chế độ cai trị của thống đốc chứ ạ?

- Chắc chắn là vậy. - Người đàn ông đáp. - Đó là thống đốc Gumpas. Ông ấy sống ở Narrowhaven. Nhưng quý vị hãy dừng chân uống với chúng tôi một chút gì chứ?

Caspian cảm ơn lời mời, mặc dầu cả cậu lẫn những người còn lại đều không có thiện cảm gì với vẻ mặt của những người mới quen, họ vẫn ngồi xuống. Nhưng họ còn chưa kịp chạm môi vào ly rượu thì người đàn ông râu tóc đen đã gật đầu ra hiệu cho những người còn lại và nhanh như một tia chớp cả năm vị khách đã thấy mình bị ôm chặt trong những cánh tay cứng như thép. Có mấy phút vật lộn nhưng bên kia có lợi thế áp đảo nên chẳng bao lâu sau các du khách đã bị tước vũ khí, tay bị trói quặt sau lưng - trừ Reepicheep thì nằm gọn trong lòng bàn tay của kẻ bắt cóc và đang cắn tay người này một cách giận dữ.

- Cẩn thận với con vật này đấy Jacks. - Một kẻ có vẻ là thủ lĩnh nói. - Đừng có làm nó tổn hại. Nó sẽ kiếm được một món kha khá đấy, tao không nghi ngờ gì điều này đâu.

- Đồ hèn nhát! Quân thỏ đế! - Reepicheep chin chít kêu lên. - Trả cho ta thanh kiếm và thả chân ta ra nếu ngươi dám...

- Ái chà chà! - Kẻ buôn nô lệ trầm trồ thốt lên (bởi vì lão đúng là một kẻ như thế). - Ôi, nó biết nói, giời đất ạ! Tao chẳng dám mơ đến chuyện này đâu. Trời đánh thánh vật tao nếu tao không kiếm được hơn 200 đồng vàng (đồng Calormen, thứ tiền tệ chủ yếu ở vùng này trị giá bằng một phần ba bảng Anh).

- À ra các ông là thế. - Caspian nói. - Một kẻ chuyên bắt cóc trẻ con và một tên buôn nô lệ, tôi hy vọng các ông không tự hào về điều đó.

- Nào, nào, nào, - kẻ buôn nô lệ nói, - chúng mày đừng bắt đầu lên lớp như thế. Càng chấp nhận sự thật bao nhiêu thì sự việc càng dễ chịu cho cả lũ chúng mày bấy nhiêu, biết chưa? Tao không làm điều này vì vui thú. Tao cũng chỉ muốn kiếm sống như cứ kẻ nào khác thôi.

- Ông đưa chúng tôi đi đâu đây? - Lucy hỏi, khó khăn lắm mới mở miệng ra nói được.

- Qua bên Narrowhaven. - Tên buôn nô lệ đáp. - Ngày mai có phiên chợ ở đó.

- Ở đây có lãnh sự quán Anh không? - Eustace hỏi.

- Thế nó là cái quái quỷ gì vậy?

Nhưng sau khi Eustace phát mệt vì cố gắng giải thích khái niệm này, tên buôn nô lệ đã nói một cách cộc cằn:

- Thôi, tao nghe những lời nhảm nhí như thế là đủ lắm rồi. Con chuột này khá lắm còn nếu mày muốn nói gì thì có thể nói với cái đít con lừa. Đi thôi, chúng mày.

Sau đó bốn người tù bị trói lại với nhau, không đau lắm nhưng đủ để đảm bảo an toàn cho bọn cướp và chúng dẫn mọi người xuống bãi biển. Reepicheep được mang đi, bác ta đã thôi không còn cắn nữa trước lời đe dọa buộc mõm bác lại, nhưng bác có khối điều để nói và Lucy tự hỏi không biết có bất cứ ai chịu nổi những lời nhục mạ mà bác chuột nhà ta đã nói với kẻ buôn nô lệ này không. Nhưng bọn chúng chẳng tỏ thái độ gì cả chỉ nói: “Tiếp tục đi!” mỗi khi Reepicheep dừng lại lấy hơi, thỉnh thoảng chúng còn thêm vào: “Ôi, nói hay như trong một vở kịch.” hoặc: “Này Blimey, mày làm sao mà nghĩ ra được những điều như nó nói!” hoặc: “Ai là người huấn luyện con chuột này vậy?”. Những lời này làm cho Reepicheep giận sôi lên và cuối cùng bác gần như nghẹt thở và im bặt.

Khi họ xuống dưới bãi biển trông ra đảo Doorn họ thấy một thôn làng nhỏ, một con thuyền dài nằm trên bãi và xa hơn một chút là một con tàu đầy bùn trông rất bệ rạc.

- Nào những người bạn trẻ, - gã buôn nô lệ nói, - đừng có giở trò làm kinh động bất cứ ai... thì tụi bay thấy đấy chẳng có ai nghe chúng mày gào đâu. Lên thuyền!

Đúng lúc đó có một ông già râu dài, vẻ mặt hiền từ đẹp đẽ bước ra từ một trong những ngôi nhà (tôi nghĩ đó là một quán trọ) và nói:

- Chào Pug, nhiều hàng hơn mọi ngày hả?

Gã buôn nô lệ rõ ràng tên là Pug, kính cẩn cúi đầu chào rất thấp rồi nói bằng cái giọng ngọt như mía lùi:

- Vâng, thưa đại nhân.

- Ngươi đòi thằng nhỏ này bao nhiêu tiền? - Người kia hỏi, chỉ vào Caspian.

- À, - Pug đáp vẫn cái giọng ngọt nhạt ấy, - tôi biết đại nhân bao giờ cũng chọn thứ gì tốt nhất. Không thể lừa dối đại nhân bằng bất cứ thứ gì hạng hai. Thằng bé này tôi cũng lấy làm ưng bụng lắm. Ấy đấy... tôi cứ mong mãi có đúng cái loại này đấy. Chả là tôi có một trái tim yếu mềm và lẽ ra tôi không nên làm cái nghề này mới phải. Dù vậy, với một khách hàng tôn quý như đại nhân đây...

- Hãy nói cho ta biết cái giá ngươi đòi, con vật thối tha kia. - Nhà quý tộc nghiêm khắc nói. - Ngươi nghĩ ta muốn nghe câu chuyện nhăng nhít của ngươi về cái nghề buôn nô lệ dã man ấy sao?

- Ba trăm đồng vàng, thưa đại nhân, đó là tỏ lòng kính trọng đối với ngài đấy ạ, chứ với người khác thì...

- Ta trả cho ngươi 150 đồng.

- Ôi xin làm ơn, xin rủ lòng thương, - Lucy bật lên, - xin đừng chia rẽ chúng tôi, dù ông có làm gì... Ông không biết là... - nhưng đến đây nó dừng lại vì thấy cho đến lúc này Caspian vẫn không muốn để lộ thân phận của mình.

- Một trăm năm mươi đồng, thế thôi. - Nhà quý tộc đáp, giọng dứt khoát. - Còn về phần cô, cô bé ạ, tôi lấy làm tiếc là tôi không thế mua tất cả mọi người. Cởi trói cho cậu bé này, Pug. Và nghe đây, hãy đối xử tốt với những đứa còn lại một khi chúng vẫn ở trong tay ngươi. Chắc ngươi có biết đến câu ác giả ác báo chứ hả?

- Ôi trời! - Pug kêu lên thống thiết. - Đã có ai nghe nói một quý ông trong cái nghề này lại đối xử tốt với món hàng như tôi chưa? Phải, tôi đã đối xử với chúng như với những đứa con chính tôi đứt ruột đẻ ra ấy chứ.

- Giọng ngươi đủ hùng hồn để nghe như thật rồi đấy. - Người kia cười gằn.

Và giây phút đáng sợ nhất đã đến. Caspian được cởi trói và người chủ mới của cậu nói:

- Đi theo ta, cậu bé.

Lucy bất chợt bật khóc còn Edmund thì bàng hoàng. Nhưng Caspian ngoái đầu lại và nói:

- Vui lên đi các bạn. Tôi đoán chắc là cuối cùng mọi việc cũng đâu vào đấy thôi.

- Nào, thưa tiểu thư, - Pug nói, - đừng có mè nheo và làm cho mặt cô trở nên khó coi vào phiên chợ ngày mai. Cô là một cô bé ngoan và rồi cô sẽ thấy chẳng có gì phải khóc mếu cả.

Sau đó họ được đưa lên con tàu chở nô lệ, một con tàu tối đen dài hun hút và bẩn thỉu, nơi họ gặp nhiều tù nhân kém may mắn khác, bởi vì chính Pug là một tên cướp biển vừa trở về sau một đợt tuần tiễu trên đất liền và bắt cóc được những người mà hắn muốn. Bọn trẻ không gặp ai quen biết, tù nhân chủ yếu là người Calmia và Terebinthia. Ở đây chúng ngồi trên đống rơm bẩn thỉu, tự hỏi không biết có chuyện gì sẽ xảy ra với Caspian và cố an ủi Eustace đang than vãn như thể tất cả mọi người đều có lỗi trong chuyện này, chỉ có mình nó là vô can.

Trong khi đó thì Caspian có một khoảng thời gian dễ chịu hơn. Người đàn ông bỏ tiền ra mua cậu dẫn cậu đi xuống một con đường nhỏ nằm giữa hai dãy biệt thự và đi được một đoạn họ đến một khoảng đất trống nằm sau ngôi làng. Đến đây người đàn ông quay lại nhìn thẳng vào mặt cậu.

- Cậu bé không cần phải sợ tôi đâu. - Ông nói. - Tôi sẽ đối xử tử tế với cậu. Tôi đã mua cậu vì khuôn mặt cậu. Nó nhắc tôi nhớ đến một người.

- Cháu có thể hỏi đó là ai không, thưa ông?

- Cậu nhắc tôi nhớ đến chúa công của tôi, đức vua Caspian ở Narnia.

- Thưa tiên sinh, vậy thì tôi chính là ông chủ của tiên sinh. Tôi là vua Caspian của Narnia.

- Cậu nói ra điều này dễ dàng quá. Làm sao tôi biết đấy là thật?

- Đầu tiên hãy căn cứ vào khuôn mặt tôi. Thứ hai, bằng linh cảm tôi biết rõ ông là ai. Ông là một trong bảy người mà chú tôi là Miraz đã đày đi biệt xứ và là một trong những người mà tôi đích thân ra đi tìm kiếm: Argor, Bern, Octesian, Restimar, Mavramorn và... và tôi quên mất hai cái tên còn lại rồi. Và cuối cùng nếu tiên sinh vui lòng ban cho tôi một thanh kiếm tôi sẽ chứng minh trên cơ thể của bất cứ người nào trong một trận đấu công bằng để chứng minh tôi là Caspian, con trai của Caspian thứ chín, ông vua hợp pháp của Narnia, chúa tể của Cair Paravel, hoàng đế của quần đảo Đơn Côi.

- Ôi trời, - nhà quý tộc kêu lên, - cũng là cái giọng nói ấy, cái cách diễn đạt ấy. Chúa công của tôi - đức vua của tôi! - Và ở đấy, giữa cánh đồng, người đàn ông quỳ gối, hôn lên tay đức vua.

- Số tiền mà tiên sinh bỏ ra cho người của chúng tôi sẽ được đền bù xứng đáng từ ngân sách quốc gia. - Caspian nói.

- Nó còn chưa nằm trong túi Pug đâu, thưa bệ hạ. - Ngài Bern nói, bởi ông chính là cựu đại thần có cái tên là Bern. - Và không bao giờ có chuyện đó đâu, thần tin chắc như vậy. Thần đã đề đạt lên thống đốc hàng trăm lần bản kiến nghị bãi bỏ việc buôn bán nô lệ bẩn thỉu này.

- Ngài Bern kính mến, chúng ta cần phải trao đổi với nhau về tình hình những hòn đảo này. Nhưng trước hết tôi muốn biết câu chuyện riêng về ngài.

- Tâu bệ hạ, cũng chẳng có nhiều để nói. Tôi đến đây cùng với sáu người bạn sau bao nhiêu ngày lênh đênh trên biển. Rồi tôi đem lòng yêu một cô gái trên đảo, cảm thấy cuộc đời chìm nổi như thế là quá đủ rồi. Tôi cũng chẳng có ý muốn trở về cố hương một khi ông chú của bệ hạ còn nắm giữ binh quyền. Thế là tôi cưới vợ và kể từ đấy cắm rễ nơi mảnh đất này.

- Thế ông thống đốc Gumpas ấy là người thế nào? Ông ta vẫn coi vua Narnia là hoàng đế của mình chứ?

- Trên danh nghĩa thì đúng thế. Mọi việc đều được thi hành nhân danh đức vua. Nhưng ông ta sẽ không phải là người vui sướng hơn cả khi biết có một ông vua Narnia thật sự, còn sống hẳn hoi tìm đến mình. Nếu bệ hạ đi tay không, một mình đến gặp thống đốc ông ta sẽ không ngại giả vờ tuyên thệ lòng trung thành của mình đâu, nhưng ông ta không tin bệ hạ. Cuộc sống của bệ hạ sẽ nằm trong vòng nguy hiểm. Tâu bệ hạ, bệ hạ đến đây bằng gì?

- Con tàu của tôi đang neo đậu lại ngoài khơi. Chúng tôi có 36 tay kiếm nếu như buộc phải giao tranh. Chúng ta có nên đưa con tàu vào bến đánh úp Pug và giải phóng cho những người bạn của tôi bị hắn giam cầm không?

- Theo thiển ý của hạ thần thì ta không nên làm vậy. Ngay khi có một trận đánh nổ ra sẽ có hai hoặc ba con tàu rời khỏi Narrowhaven đến đây cứu viện cho Pug. Bệ hạ nên đưa ra một lực lượng hùng hậu hơn trong thực tế và bằng uy danh của một ông vua. Điều này không thể có trong một trận đánh đơn giản. Gumpas là một thằng đàn ông có trái tim của một con gà mái và làm vậy có thể khiến hắn kinh hồn khiếp vía.

Sau khi trao đổi thêm một vài điều nữa, hai người xuôi xuống bãi biển chếch một chút về hướng tây ngôi làng; ở đây, Caspian đưa một cái tù và lên môi thổi. (Cái tù và này không phải cái tù và của Narnia - tù và của nữ hoàng Susan đã để lại cho nhiếp chính vương Trumpkin sử dụng nếu đất nước trong tình trạng nguy cấp lúc vua không có mặt) Drinian đang ngồi ngóng đợi tin trên bờ, nhận ra ngay đó là kèn tín hiệu hoàng gia và con tàu Hướng tới Bình minh bắt đầu hướng vào bờ. Sau đó một con thuyền được thả xuống và vài phút sau Caspian và ngài Bern đã ở trên boong tàu giải thích cặn kẽ mọi việc cho Drinian nghe.

Thuyền trưởng cũng như Caspian chỉ muốn đưa con tàu của mình đến sát con tàu buôn nô lệ, tấn công nó nhưng Bern vẫn một mực phản đối:

- Hãy xuôi theo lạch nước này, ông thuyền trưởng, - Bern nói, - rồi vòng qua đảo Avra nơi dinh cơ của tôi ở đó. Nhưng trước hết hãy giương cao cờ hiệu của nhà vua, nắm chắc những tấm khiên, và cử càng nhiều người lên boong chiến đấu càng tốt. Ngoài ra còn cần có khoảng 5 cung thủ khi tàu đi vào bến và đưa ra các thông điệp.

- Thông điệp? Cho ai? - Drinian hỏi.

- Cho ai à? Tất nhiên không phải cho những con tàu khác nhưng phải làm sao cho Gumpas nghĩ như thế.

- Ồ, tôi hiểu rồi. - Drinian nói, xoa hai tay vào nhau. - Họ sẽ giải mã những tín hiệu của ta. Tôi sẽ nói gì đây? Toàn bộ các tàu quanh nam Avra tập hợp tại...

- Chính là thế. - Ngài Bern reo lên. - Điều này thật tuyệt diệu. Toàn bộ cuộc hành trình của họ - nếu như họ có bất cứ con tàu nào - sẽ ra khỏi tầm nhìn của Narrowhaven.

Mặc dù Caspian rất đau lòng khi nghĩ đến những người bị cầm tù trong con tàu buôn nô lệ của Pug, cậu không thể không thấy quãng thời gian còn lại trong ngày hết sức thú vị. Sẩm tối hôm đó (bởi vì họ phải lái tàu bằng các mái chèo) con tàu đi quanh mạn đông bắc của hòn đảo Doorn và thả neo ở một doi đất của đảo Avra. Họ bước lên một hải cảng rất đẹp ở bờ mạn đảo Avra nơi dinh thự đẹo đẽ của Bern chạy dài xuống đến tận mép nước. Người của Bern đa phần đang làm việc ngoài đồng đều là những người tự do và đây là một thái ấp tươi vui và thịnh vượng. Ở đây, thủy thủ đoàn đi lên bờ, được đãi một bữa tiệc thịnh soạn trong ngôi nhà thấp, có nhiều hàng cột nhìn ra vịnh. Bern cùng bà vợ duyên dáng và những cô con gái tươi vui của hai người đã làm cho đám thực khách vui hẳn lên. Sau khi trời tối hẳn, Bern phái một sứ giả đi thuyền sang Doorn để chuẩn bị một số việc cho ngày hôm sau, ông không nói rõ là việc gì.

CHƯƠNG 4

 Một cuộc lật đổ

Sáng hôm sau, Bern đánh thức các vị khách của mình dậy từ sáng sớm và sau bữa điểm tâm ông đề nghị Caspian ra lệnh cho người của mình chuẩn bị vũ khí sẵn sàng.

- Và quan trọng hơn cả, - ông nói thêm, - hãy làm sao cho tất cả mọi thứ đều được sửa soạn gọn gàng và lau chùi sáng bóng lên như thể đây là một buổi sáng diễn ra trận đấu đầu tiên trong một cuộc chiến tranh vĩ đại giữa những bậc lãnh đạo cao minh trước sự chứng kiến của toàn thế giới.

Mọi việc đã được tiến hành đúng như thế và rồi ba con thuyền chở đầy người của Caspian và chính ông vua trẻ, cùng với Bern và một vài người đàn ông bắt đầu tiến đến gần Narrowhaven. Cờ của nhà vua bay phần phật ở mũi tàu cùng với tiếng kèn trumpet hùng tráng.

Khi họ cập bến ở Narrowhaven, Caspian thấy cả một đám đông đang tụ tập chờ gặp họ.

- Đó chính là điều thần đã chuẩn bị vào đêm hôm qua. – Bern nói. – Họ đều là bạn bè của thần và là những người trung thành nhất.

Ngay khi Caspian bước lên bờ, đám đông đã nổ ra những tiếng hoan hô và kêu la vang dậy:

- Narnia muôn năm! Thánh thượng vạn tuế, vạn vạn tuế!

Cũng lúc đó – và điều này cũng được thực hiện bởi các sứ giả của Bern – chuông bắt đầu ngân nga từ nhiều khu vực khác nhau trong thành phố. Sau đó, Caspian cho người mang lá cờ của mình đi lên phía trước và đội kèn của nhà vua cũng hào hùng lên tiếng, những người lính tuốt kiếm ra khỏi bao, tạo cho khuôn mặt mình có một vẻ nghiêm trang, tươi vui và họ đều bước lên đường phố làm cho cả gạch lát đường cũng rung lên. Những chiếc áo giáp chiến trận sáng loáng (vì đó là một buổi sáng mặt trời lên rực rỡ) và khó ai có thể nhìn lâu vào đó. Đầu tiên chỉ có những người đã được Bern thông báo cho biết chuyện gì đang xảy ra và thực lòng mong muốn điều đó mới biểu lộ niềm vui sướng. Nhưng rồi tất cả đám trẻ con đều hòa vào đoàn người bởi vì chúng thích các cuộc diễu hành mà điều này lại hiếm khi xảy ra. Sau đó tất cả nam sinh trong các trường đều tham gia vào đám đông bởi vì cả họ nữa, họ cũng thích các đám rước và cảm thấy đoàn người này ồn ào hơn, náo động hơn bất cứ hoạt động nào diễn ra ở trường vào buổi sáng hôm ấy. Sau đó thì đến cả những bà già cũng thò đầu ra khỏi cửa và cửa sổ, nói chuyện, vui cười vì đây là một ông vua thật sự còn một ông thống đốc thì là gì so với một ông vua? Sau thì tất cả các cô gái trẻ cũng tham gia vì cùng một lý do và cũng bởi vì Caspian, Drinian và đám thủy thủ đều rất cường tráng và đẹp trai. Được một lúc tất cả thanh niên cùng ùa ra đường xem xem các bà các cô đang nhìn cái gì, vì thế vào lúc Caspian đến cổng lâu đài thì gần như cả thành phố đều đi theo và đều lớn tiếng tung hô. Ở trong toàn lâu đài kín cổng cao tường của mình, thống đốc Gumpas đang ngồi rối trí trước những bài báo cáo, những vụ việc, những luật lệ và những sự điều chỉnh cũng nghe thấy tiếng ồn.

Ở ngoài cổng, người thổi kèn trumpet của vua Caspian thổi một hồi dõng dạc rồi kêu to:

- Mở cổng cho đức vua Caspian xứ Narnia đến kinh lí thăm người đày tớ trung thành và tận tụy, thống đốc quần đảo Đơn Côi.

Vào những ngày này, mọi thứ ở các hòn đảo xa đều được thực hiện một cách chểnh mảng, bê trễ. Chỉ có một cánh cổng nhỏ phía sau là để ngỏ và từ đó chạy ra một người đàn ông tóc tai bù xù, đội một cái mũ dúm dó, bẩn thỉu thay cho mũ trụ, tay cầm một cây lao. Ông ta hấp háy đôi mắt trước đám rước rực rỡ.

- Hông...thệ...gặp, - ông ta lắp bắp (theo cách nói của ông ta có nghĩa là, “các ngươi không thể gặp thống đốc”). – Hông được gặp nếu như hông có hẹn trước... trừ hoảng thời gian từ 9 đến 10 giờ tối ngày thứ Bảy thứ hai hàng tháng.

- Hãy ngả mũ trước Narnia, đồ chó!

Ngài Bern hét lên như sấm động và giải quyết thái độ bất kính của người kia bằng một bàn tay cứng như sắt làm cho cái mũ cũ mèm của ông ta bay vèo ra xa.

- Ối... ối... ối! Cái gì thế này?

Người gác cổng rống lên, nhưng chẳng ai để ý đến ông ta. Hai người trong đám đông ủng hộ Caspian bước qua cổng hậu và sau khi lay những thanh sắt và giật thanh gióng ngang (bởi vì tất cả đều han rỉ) họ mở tung cả cánh cửa ra. Sau đó nhà vua cùng đoàn người tháp tùng sải bước qua một cái sân rộng. Lúc này đã có một vài cảnh vệ của thống đốc đang lảng vảng ở gần đấy với một vài người nữa (họ đang đứng, vừa xỉa răng vừa chép miệng) những người khác túa ra từ những cánh cửa khác nhau. Mặc dầu áo giáp của họ ở trong tình trạng xuống cấp, xộc xệch, những người này có vẻ cũng sẵn sàng chiến đấu nếu họ được chỉ huy hoặc biết rõ chuyện gì đang xảy ra; như vậy đây là một thời khắc có tính quyết định. Caspian không cho họ có thời gian suy nghĩ.

- Ở đây ai là người chỉ huy? – Vua hỏi.

- Chính là tôi, không hơn không kém, nếu ông hiểu tôi muốn nói gì. – Một chàng trai không mặc áo giáp đáp với giọng uể oải, điệu đà.

- Hãy nghe đây, - Caspian nghiêm giọng nói, - chủ ý của ta là làm sao cho cuộc tuần du lần này đến quần đảo Đơn Côi là một sự kiện tràn đầy niềm vui chứ không phải đem đến nỗi sợ hãi, đau khổ cho người dân. Nếu không phải vì mục đích ấy thì ta có chuyện muốn nói về tình trạng súng ống và tinh thần chiến đấu của bọn ngươi đấy. Không sao, các ngươi đã được tha thứ. Hãy mang đến đây một thùng rượu, mở ra cho mọi người cùng uống mừng sức khỏe của nhau. Nhưng đúng giờ ngọ ngày mai ta muốn gặp mọi người ở đây, ở cái sân này – những người lính có vũ trang chứ không phải trông như những tên ma cà bông. Hãy coi chừng hậu quả của sự phẫn nộ tột cùng của chúng ta.

Tên đội trưởng toan tán gẫu nhưng Bern đã lập tức kêu lên:

- Caspian vạn tuế!

Đối với đám quân ô hợp này một thùng rượu quan trọng hơn hẳn những chuyện khác nên họ ùa đến bên thùng rượu. Caspian ra lệnh cho phần lớn người của mình ở lại ngoài sân còn mình cùng với Bern, Drinian và bốn người khác bước vào trong lâu đài.

Ngồi sau cái bàn dài ở góc trong cùng của một phòng rộng cùng đủ loại thư ký chạy lăng xăng chính là thống đốc quần đảo Đơn Côi. Gumpas là một người đàn ông trông có vẻ như bị bệnh về mật với mái tóc trước đã từng có màu đỏ râu ngô giờ ngả sang màu xám xịt. Ông ta ngẩng mặt nhìn lên đúng vào lúc đám người lạ mặt đi vào, rồi lại nhìn ngay xuống đống giấy má nói với giọng máy móc.

- Thống đốc không tiếp khách nếu không có hẹn trước trừ khoảng thời gian từ 9-10 giờ tối ngày thứ Bảy thứ hai hàng tháng.

Caspian gật đầu với Bern, đoạn đứng sang một bên. Bern và Drinian bước lên trước một bước, mỗi người nắm lấy một bên bàn. Họ nhấc bổng bàn lên và lẳng sang một bên phòng làm nó lăn lông lốc, giấy tờ cùng thư từ, tài liệu, bút, lọ mực, hộp sáp... bay tứ tung. Sau đó không thô bạo nhưng kiên quyết như thể tay họ là những cái kìm thép, họ lôi Gumpas ra khỏi ghế và đặt ông này ngồi cách xa chiếc ghế chừng hơn một mét. Caspian lập tức ngồi xuống chiếc ghế đó, để thanh kiếm tuốt trần lên đầu gối.

- Ông thống đốc, - Caspian nói, đôi mắt nhìn chằm chằm vào Gumpas, - ông đã không chào đón chúng tôi theo đúng cái cách mà chúng tôi chờ đợi. Ta chính là vua Narnia.

- Không có công văn thông báo chuyện này, - viên thống đốc đáp, - không có gì hết cho đến giờ phút này. Chúng tôi không nhận được bất cứ một văn bản nào về chuyện này. Tất cả đều bất thường. Rất vui khi được xem xét bất cứ một lá đơn thỉnh cầu nào...

- Chúng tôi đến đây là để điều tra về tư cách và năng lực của thống đốc trong việc thực thi nhiệm vụ. – Caspian tiếp tục. – Có hai điều tôi đặc biệt cần một lời giải thích. Thứ nhất tôi không tìm thấy tài liệu cho thấy những hòn đảo này có gửi vật triều cống đến cho mẫu quốc Narnia, mà điều này vẫn được thực hiện từ 150 năm nay.

- Đó là một vấn đề sẽ được đưa ra trong phiên họp hội đồng tháng tới. – Gumpas nói. – Nếu có bất cứ ai đưa ra yêu cầu nào về việc điều tra này thì vấn đề sẽ được tường trình trong báo cáo tài chính của quần đảo vào cuộc họp đầu tiên năm tới, vậy tại sao...

- Ta cũng thấy điều này được thể hiện rất rõ ràng trong bộ luật, - Caspian tiếp tục, - rằng nếu việc triều cống không được thực hiện, toàn bộ số nợ của quần đảo Đơn Côi sẽ được trả bằng tài sản riêng của thống đốc.

Nghe đến đấy Gumpas mới tỏ vẻ quan tâm.

- Ồ, điều này đi ra ngoài vấn đề chính rồi. – Ông ta nói. – Đây là một điều không thể thực hiện được về phương diện tài chính... à... chắc đức vua chỉ nói cho vui thôi.

Miệng thì nói vậy nhưng trong đầu, ông ta đang tính toán xem có cách nào giũ bỏ được mấy vị khách không mời mà đến này không. Nếu ông ta biết được Caspian chỉ có một con tàu và một vài người bạn, thì ông ta ngoài mặt sẽ dùng lời ngon lẽ ngọt còn trong bụng thì hoạch định kế hoạch bao vây và giết sạch họ trong đêm nay. Nhưng thống đốc đã tận mắt thấy một con tàu chiến đang xuôi xuống lạch nước vào ngày hôm qua, thấy rõ sứ mệnh rõ ràng của nó và như ông ta suy đoán, chắc nó có yểm trợ. Lúc ấy ông ta còn chưa biết rằng đó là con tàu của nhà vua, vì gió không đủ mạnh để thổi căng lá cờ, làm cho hình ảnh con sư tử vàng hiện rõ, thế là ông ta chờ đợi xem tình hình thế nào.

Bây giờ thì thống đốc hình dung là Caspian có cả một đội quân hùng hậu ở Bernstead. Ông ta cũng chưa mảy may có ý nghĩ là trên đời này lại có bất cứ người nào có thể xông đến Narrowhaven chiếm những hòn đảo này khi chỉ có ngót 50 người trong tay, chắc chắn đó không phải điều ông ta hình dung là mình có thể làm.

- Thứ hai, - Caspian nói tiếp, - ta muốn biết tại sao ngươi lại cho phép nạn buôn bán nô lệ phi tự nhiên và tàn bạo như vậy hoạt động ở đây, một việc làm trái ngược với đạo lý, phong tục từ ngàn xưa và tập quán của nước ta.

- Một điều cần thiết không thể tránh khỏi, - thống đốc nói, - đó là một phần quan trọng trong sự phát triển kinh tế của những hòn đảo này, tôi xin đoán chắc với bệ hạ như vậy. Sự thịnh vượng hiện nay phụ thuộc rất nhiều vào điều đó.

- Người dùng nô lệ vào việc gì vậy? 

- Để bán lao động, thưa bệ hạ. Chủ yếu là bán sang thị trường Calormen, vả lại chúng ta còn có những thị trường khác. Chúng ta là một trung tâm buôn bán lớn.

- Nói một cách khác, - Caspian nói, - ngươi không cần đến họ. Hãy cho ta biết ngươi còn có mục đích gì khác không, ngoài việc góp phần làm giàu cho những kẻ như tên Pug?

- Bệ hạ đang sống tuổi thiếu niên tươi đẹp, - Gumpas nói, kèm theo một nụ cười cha chú, - thật khó có thể làm cho người hiểu được những vấn đề liên quan đến kinh tế. Thần có một bảng thống kê, thần có biểu đồ, thần có...

- Có thể ta đang sống trong những năm thiếu niên êm đềm. – Caspian đáp. – Nhưng ta tin mình có thể hiểu được những vấn đề buôn bán nô lệ cũng ngang bằng với ngài thống đốc đây. Và ta không thấy việc buôn bán dã man này có thể mang lại cho những hòn đảo này thịt hoặc bánh mì hoặc bia hoặc rượu hoặc gỗ làm nhà hoặc cải bắp hoặc sách vở hoặc nhạc cụ hoặc ngựa hoặc áo giáp hoặc bất cứ thứ gì đáng giá khác. Nhưng dù có hay không việc này phải chấm dứt ngay lập tức.

- Nhưng việc này có thể làm cho đồng hồ quay ngược lại. – Thống đốc thở phì phò đáp. – Đức vua không có ý niệm gì về tiến trình đi lên sự tiến bộ phải không ạ?

- Ta đã nhìn thấy cả hai điều đó trong một quả trứng. Ta gọi đó là “sự thoái hóa” ở Narnia, việc buôn bán này phải chấm dứt ngay lập tức, đã rõ chưa?

- Tôi không chịu bất cứ trách nhiệm nào cho một sự đánh giá như vậy.

- Thế thì tốt lắm, - Caspian đáp, - chúng ta giải phóng cho ông khỏi nhiệm vụ này. Ngài Bern, xin mời ngài đến đây.

Trước khi Gumpas thực sự ý thức được chuyện gì đang xảy ra, Bern đã quỳ xuống trước mặt nhà vua, hai tay đặt trong đôi tay vua, long trọng tuyên thệ sẽ cai trị quần đảo này phù hợp với quyền lợi, phong tục, tập quán và luật lệ của Narnia. Caspian nói:

- Tôi nghĩ chúng ta đã làm việc cần làm!

Sau đó cậu tiến hành nghi lễ phong tước cho Bern, kể từ nay ông trở thành công tước của quần đảo Đơn Côi.

- Còn về phần ông, cựu thống đốc Gumpas, ta xóa nợ cho ông về khoản vật triều cống. Nhưng trước giờ ngọ ngày mai ông cùng người nhà phải dọn ra khỏi tòa lâu đài, vì từ giờ trở đi nó là dinh cơ của ngài công tước, tân thống đốc quần đảo Đơn Côi.

- Coi đây, mọi việc có vẻ cũng hay đấy, - một trong những thư ký của Gumpas lên tiếng, - nhưng giá tất cả các quý ông thôi cái trò đóng kịch này và để cho chúng tôi làm việc một chút. Vấn đề đặt ra trước mắt chúng tôi là...

- Vấn đề là, - công tước nói, - anh cùng toàn bộ đám người kém cỏi các anh có thể rời khỏi đây mà không lảm nhảm thêm bất cứ điều gì nữa. Các người có thể chọn điều mình muốn.

Khi mọi chuyện đã được dàn xếp ổn thỏa, Caspian ra lệnh thắng ngựa – cũng chỉ có một vài con trong tàu ngựa và chúng chẳng được chăm nom chu đáo – rồi cùng với công tước, thuyền trưởng và vài người khác phóng ngựa qua thành phố đi đến chợ buôn bán nô lệ. Đó là một dãy nhà dài, thấp tè ở gần cảng. Cảnh tượng đập vào mắt họ rất giống những cuộc buôn bán trao đổi khác, nói cho rõ hơn, có một đám đông đứng túm tụm với nhau, Pug đứng trên một bục cao, nói oang oang bằng một giọng rè rè như ống bơ rỉ.

- Thưa quý ông, đây là tên nô lệ mang số 23. Một tên lực điền người Terebinthia, thích hợp với công việc thợ mỏ hoặc chèo thuyền galley... U25 nhé. Không có lấy một cái răng sâu. Xin các ngài hãy nhìn các bắp thịt của hắn. Cởi áo nó ra, Tacks. Hãy để cho các quý ông đây thực mục sở thị. Thế nào, bắp thịt ra trò hả? Nhìn vào bộ ngực hắn đi. Quý ông đứng ở góc đằng kia trả 10 đồng ư? Ngài khéo đùa quá. Mười lăm! Mười tám! Đồng ý trả 18 cho số 23? Có ai trả hơn 18 không nào? 21 à? Cảm ơn ngài! 21 trả cho...

Nhưng Pug ngừng lại, miệng há hốc khi thấy mấy người đi đến, nai nịt gọn gàng trong những chiếc áo giáp, mỗi bước đi lại làm vang lên những tiếng lách cách của binh khí.

- Tất cả các ngươi hãy quỳ gối trước mặt hoàng đế Narnia. – Công tước Bern nói.

Đám đông đứng đó đều nghe thấy có tiếng nhạc ngựa và tiếng vó ngựa dồn dập bên ngoài, một số còn nghe được những lời đồn đại về những việc diễn ra trong tòa lâu đài. Hầu hết mọi người quỳ xuống. Kẻ nào cứng đầu còn bị người bên cạnh kéo xuống.

- Cuộc sống của ngươi sẽ phải trả giá, tên Pug kia, vì đã đặt bàn tay bẩn thỉu của ngươi lên những bậc vua chúa. – Caspian tuyên bố. – Nhưng sự ngu dốt của ngươi được tha thứ. Việc mua bán nô lệ bị bãi bỏ hoàn toàn trên toàn thể lãnh thổ nước ta cách đây 15 phút. Ta tuyên bố tất cả nô lệ đều được tự do.

Vua giơ một tay lên để ngăn lại tiếng reo hò của những kẻ nô lệ và nói tiếp:

- Bạn bè của tôi đâu rồi?

- Cô gái nhỏ và cậu thiếu niên xinh trai ư? – Pug hỏi với nụ cười cầu thân. – Thưa vâng, họ sẽ có mặt ở đây ngay đấy ạ.

- Chúng tôi ở đây, Caspian! Chúng tôi ở đây, Caspian. – Cả Lucy và Edmund đều hét lên.

- Sẵn sàng phụng sự hoàng thượng. – Reepicheep lên tiếng từ một góc chợ.

Tất cả đều đã được bán nhưng những người mua còn nán lại một chút để mua thêm một vài nô lệ nữa nên họ chưa bị mang đi. Đám đông giạt sang một bên để ba người bước ra, những cái siết tay thật chặt và tiếng chào hỏi giữa bọn họ với Caspian vang lên. Hai thương gia người Calormen lập tức bước ra. Đó là những người trung niên có khuôn mặt ngăm ngăm với một bộ râu dài. Họ mặc những chiếc áo chùng và đội khăn màu cam, ở họ toát lên sự khôn ngoan, giàu có, lịch thiệp, khắc nghiệt và nệ cổ. Họ cúi đầu chào Caspian với một vẻ tôn kính nhất, cất lời ca tụng một hồi, nào là công đức của vua như mạch nước ngầm nuôi dưỡng, tưới bón cho “khu vườn thịnh vượng” và “phúc trạch dồi dào sẽ đến với lê dân bá tánh” cùng những triều đại loại như vậy. Nhưng tất nhiên điều mà họ muốn chỉ là lấy lại số tiền mà họ đã bỏ ra.

- Điều đó cũng công bằng thôi, thưa các ngài, - Caspian nói, - tất cả những người đã bỏ tiền ra mua nô lệ hôm nay đều được lấy lại tiền. Pug, hãy mang đến những đồng tiền minim cuối cùng của ngươi ra trả cho bọn họ (Một minim bằng 1/40 đồng vàng.)

- Có phải đức vua nhân từ muốn kẻ tiểu nhân này biến thành tên ăn mày? – Tên Pug rên lên như bị đánh đòn.

- Suốt cả đời mình ngươi đã sống trên những trái tim tan nát. – Caspian nói. – Và nếu ngươi có phải xòe tay ra ăn xin thì điều đó vẫn còn may mắn hơn một kẻ nô lệ. Nhưng còn người bạn kia của ta đâu rồi?

- Ôi cái thằng nhóc ấy ư? – Pug kêu lên. – Xin người cứ vui lòng nhận lại nó. Thật sung sướng khi có thể thoát khỏi nó. Từ cha sinh mẹ đẻ đến giờ tôi chưa từng gặp một món hàng nào như thế. Cuối cùng chỉ mong bán nó được 5 đồng thôi mà cũng chẳng ai chịu mua cho. Thậm chí đến cho không cũng không ai thèm rước. Không thể chạm vào người nó! Không được nhìn nó! Tacks đâu, mang cái của nợ của chúng ta ra đây.

Thế là, Eustace đã được giới thiệu khá đầy đủ và nó bước ra, mặt mày xưng xỉa trông đến ghét, và mặc dù nó không muốn mình bị bán đi như một nô lệ thì cũng không ai muốn mua một kẻ nô lệ có vẻ mặt khó chịu, dễ ghét như vậy. Nó đi thẳng đến Caspian, nói:

- Tao biết cả rồi. Sướng nhỉ! Ngồi đâu đó ung dung sung sướng một mình trong lúc chúng ta bị cầm tù. Tao cho rằng thậm chí mày cũng cóc tìm ra lãnh sự quán Anh. Tất nhiên là không rồi.

Đêm ấy họ có một bữa tiệc thịnh soạn trong lâu đài ở Narrowhaven. “Ngày mai mới thực sự bắt đầu cuộc phiêu lưu của chúng ta.” Reepicheep hào hứng nói khi bác ta trịnh trọng cúi chào mọi người trước khi lên giường ngủ. Nhưng không hẳn là ngày mai hay bất cứ điều gì như thế. Bởi vì ngay vào lúc này họ đã sẵn sàng bỏ lại những mảnh đất, vùng biển đã được biết đến sau lưng và sự chuẩn bị chu đáo nhất đã hoàn tất. Con tàu Hướng tới bình minh trống rỗng, được kéo lên bờ bởi 8 con ngựa cùng với những con lăn và từng bộ phận một được sửa chữa, chỉnh trang bằng những người thợ đóng tàu giỏi tay nghề nhất. Sau đó nó lại được hạ thủy, được trang bị đầy đủ lương ăn và thức uống như sức nó có thể chứa được cho bằng ấy người ăn trong vòng 28 ngày.

Nhưng cả với những điều này nữa thì Edmund vẫn cảm thấy ít nhiều thất vọng, trước mắt chỉ là cuộc du ngoạn hai tuần lễ đi về hướng đông và họ khó lòng hoàn thành ước mơ của mình. Trong khi việc hậu cần được tiến hành thì Caspian không bỏ lỡ một cơ hội hỏi thăm tất cả những thuyền trưởng lớn tuổi dày dạn kinh nghiệm mà cậu có thể tìm thấy ở Narrowhaven để tìm thêm thông tin xem thử họ có bất cứ kiến thức hay thậm chí nghe được một lời đồn nào về những miền đất xa xôi ở cuối trời đông không. Cậu đã bỏ nhiều thùng rượu từ hầm rượu trong lâu đài để đãi những người đàn ông dãi dầu mưa nắng với những bộ râu xám, ngắn củn và đôi mắt xanh trong trẻo nhưng cậu chỉ được đáp lại bằng những chuyện bịa dài dòng. Những người có vẻ trung hậu nhất đều nói rằng chẳng có mảnh đất nào bên ngoài quần đảo Đơn Côi, và nhiều người nghĩ rằng nếu bạn lái tàu đi quá xa về hướng đông bạn có thể chỉ lao vào những đợt sóng cồn của biển cả nơi hoàn toàn không có mảnh đất nào và rất có thể sẽ bị cuốn trôi ra ngoài rìa thế giới.

- Và như thế tôi cho rằng các bạn của hoàng thượng có nhiều khả năng bị rơi xuống đáy đại dương.

Những chuyện còn lại chỉ là những câu chuyện hoang đường nào là hòn đảo của những người không có đầu, những hòn đảo trôi theo dòng nước, những vòi rồng, những ngọn lửa rực cháy trong làn nước. Chỉ có một cậu chuyện duy nhất đáp ứng lòng mong mỏi tha thiết của Reepicheep, nói rằng, “ở bên ngoài nơi ấy là đất nước của Aslan. Nhưng nó ở đầu kia thế giới và mọi người không thể đến đấy được.” Khi người ta cật vấn người kể chuyện thì người này lại nói là anh ta cũng chỉ nghe được điều này từ cha mình.

Bern cũng chỉ có thể nói cho họ biết là ông quả có chứng kiến 6 người bạn đồng hành của mình lái tàu về hướng đông nhưng kể từ bấy đến giờ không ai nghe nói gì về họ nữa. Ông nói ra điều đó khi đứng với Caspian ở điểm cao nhất trên đảo Avra nhìn về phía đại dương ở hướng mặt trời mọc.

- Thần thường lên trên đây vào những buổi sáng tinh mơ, - công tước nói, - ngắm nhìn cảnh mặt trời đội biển đi lên và đôi khi nó có vẻ gần gũi như thể chỉ cách thần một vài dặm. Thần vẫn hay băn khoăn về bạn bè mình, tự hỏi có gì đằng sau chỗ mặt trời mọc kia. Chẳng có gì, mọi chuyện hầu như đã khẳng định điều đó, tuy vậy thần bao giờ cũng cảm thấy có phần xấu hổ vì đã ở lại nơi này. Nhưng thật tình, thần mong ước bệ hạ đừng đi tiếp. Chúng thần có thể cần đến sự giúp đỡ của bệ hạ. Việc đóng cửa thị trường buôn bán nô lệ có thể tạo ra một cục diện mới: chiến tranh với người Calormen là điều thần có thể thấy trước. Cầu xin hoàng thượng hãy nghĩ lại!

- Tôi đã có một lời thề, ông công tước thân mến ạ. Vả lại, nếu làm thế tôi biết nói gì với Reepicheep đây?

CHƯƠNG 5

 Đương đầu trong bão tố

Gần ba tuần đã trôi qua kể từ khi con tàu Hướng tới Bình minh được kéo ra khỏi cảng Narrowhaven. Những lời tạm biệt trang nghiêm đã được thốt ra, cả một đám đông tập hợp ngoài cảng để vẫy tay theo con tàu. Có tiếng cười, tiếng chúc tụng và cũng có cả những giọt nước mắt khi Caspian làm một bài diễn từ cuối cùng trước dân chúng quần đảo Đơn Côi và khi cậu dứt ra khỏi vòng tay của công tước và những người trong gia đình ông. Nhưng khi con tàu với cánh buồm màu tím lười nhác rung nhè nhẹ rồi từ từ kéo con tàu trôi xa bờ và tiếng kèn trumpet từ đuôi tàu nhỏ dần qua một vùng trời trước thì mọi người ai nấy đều im bặt. Rồi gió nổi lên, cánh buồm căng phồng, thủy thủ chạy tới chạy lui trên boong; chân vịt bắt đầu quay, những con sóng thật sự trườn dưới thân tàu và Hướng tới Bình minh lại là một con tàu sống động thật sự. Những người có phận sự chạy xuống lòng tàu, Drinian quan sát ở phía đuôi tàu. Con tàu mang dáng dấp một con rồng kiêu hãnh quay đầu về phía đông vòng sang phía nam đảo Avra.

Mấy ngày tiếp theo là khoảng thời gian đầy ắp niềm vui. Lucy nghĩ mình là cô bé may mắn nhất trên đời khi sáng sáng thức dậy nó nhìn thấy ánh phản chiếu của sóng nước hòa lẫn trong ánh mặt trời cùng nhảy nhót trên trần cabin và nó nhìn quanh một lượt tất cả những món đồ mà nó mới có được từ đảo Avra: giày đi biển, ủng cao ống, áo khoác, áo chẽn da và khăn quàng cổ. Nhờ thế nó có thể đi lại ung dung trên boong, nhìn vào kính viễn vọng từ khoang mũi tàu, thấy màu nước biển mỗi ngày mới bắt đầu lại biếc hơn và hít thở làm không khí mỗi ngày một ấm hơn. Sau đó là bữa điểm tâm ngon lành mà biển chỉ làm cho người ta ăn uống ngon miệng hơn mà thôi.

Nó để ra nhiều thời gian ngồi trên băng ghế nhỏ ở đuôi tàu chơi cờ với Reeoicheep. Thật thú vị khi nhìn cảnh bác chuột nâng quân cờ quá to đối với bác bằng cả hai chân trước và đứng kiễng chân khi đi đến giữa bàn cờ. Bác là một kiện tướng cờ và khi bác nhớ điều mình đang làm thì bao giờ bác cũng thắng. Nhưng đôi khi Lucy cũng thắng và những lúc ấy bác chuột làm một điều gì thật tức cười như kiểu cho một con sĩ đi một nước đẩy con hậu vào thế chiếu bí. Sở dĩ có chuyện này là bởi vì bất chợt bác quên mất rằng đây chỉ là một trò chơi mà nghĩ đây là một trận đánh thật sự và buộc con sĩ làm cái điều mà chắc chắn bác ta sẽ làm nếu bác ta ở vào vị trí của nó. Đầu óc bác ta chỉ chứa toàn những hy vọng cao vời, những nhiệm vụ bất khả thi hoặc đem đến cái chết hoặc chiến thắng lẫy lừng trong trận đánh cuối cùng.

Nhưng những ngày tươi đẹp ấy kéo dài không lâu. Rồi đến một buổi tối, trong lúc Lucy đang nhàn tản ngắm nhìn đường rẽ nước phía đuôi tàu khi con tàu chạy qua để lại thì nó thấy một đám mây lớn mỗi lúc một cao hơn bay đi với tốc độ cực nhanh ở phía chân trời tây. Rồi đám mây nứt ra để lộ một khe hở và ánh hoàng hôn màu vàng tràn ra từ đường nứt ấy. Tất cả những con sóng phía đuôi tàu hình như đều có một hình dạng bất thường và biển có màu xám nâu hoặc là môt màu vàng ệch như một tấm bạt bẩn thỉu. Không khí buốt lạnh. Con tàu phóng đi với một vẻ bồn chồn dường như nó cảm nhận được mối hiểm nguy phía sau. 

Cánh buồm vừa chùng xuống rũ rượi thì chỉ vài giây sau đã lại căng phồng lên hết cỡ. Trong lúc cô bé nghi nhận tất cả những điều này và tự hỏi không hiểu có phải có sự thay đổi hung hãn nào trong tiếng gió xung quanh không thì nó nghe Drinian kêu to:

- Tất cả lên boong!

Trong nháy mắt mọi người đã lao vào một tốc độ khẩn trương cực độ. Hai cửa sập được kéo xuống, các con thuyền cho ra ngoài, thủy thủ leo lên cột buồm cuốn lá buồm lại. Trước khi họ làm xong mọi việc thì cơn bão đã đổ ập xuống tàu. Lucy còn cảm tưởng biển mở ra như một vực thẳm mênh mông sâu hoắm ngay trước mũi con tàu còn nó thì chỉ còn mỗi việc là lao xuống đấy, bị hút xuống đáy vực, sâu hơn là nó có thể hình dung ra được. Một quả đồi nước màu xám ngắt, cao ngất ngưỡng, cao hơn cả cột buồm nhào đến đón con tàu. Trông như thể cái chết sẽ nhận chìm tất cả đến nơi rồi nhưng con tàu lại được ngọn sóng tung nước vọt lên không trung. Mũi tàu và đuôi tàu trở thành hai hòn đảo với những con sóng hung dữ ở giữa. Thủy thủ treo người trên cao, dán sát người vào trục cánh buồm, cố gắng một cách tuyệt vọng để điều khiển mảnh buồm. Một dây chão bị đứt, buông thõng xuống – trong lúc gió lặng được một chút – nó thẳng tắp và bất động như một que cời.

- Đi xuống ngay cô bé. – Drinian gào lên.

Và Lucy hiểu rằng những người đàn ông và đàn bà trên bộ chỉ làm cản trở công việc của những người đi biển bèn vâng lời. Điều này không dễ. Con tàu dựng đứng mạn phải lên làm cho sàn tàu dốc xuống như mái nhà. Nó buộc phải bò lổm ngổm quanh đầu cái thang, tay bám vào gờ và đứng im trong lúc hai người đàn ông leo lên thang sau đó lại leo xuống, thành thục như nó chỉ có thể mong ước làm được như vậy. Cũng may mà nó dùng sức bám thật chặt ở chân cầu thang bởi vì một con sóng khác gầm lên dữ dội ào qua con tàu dâng đến tận vai nó. Cả người Lucy đều ướt đẫm vì cột nước vừa rồi và vì mưa nữa, nhưng nước mưa thì lạnh buốt như nước đá. Sau đó nó liều mạng lao vào cửa cabin, ngã người vào trong, đóng sập cửa lại và trong khoảnh khắc, cảnh tượng hãi hùng diễn ra với tốc độ nhanh hơn trong đó họ rơi tõm vào một cái gì đó đen ngòm, hỗn độn như trong cơn ác mộng khủng khiếp với những tiếng răng rắc, rên rỉ, tiếng đập, tiếng va, tiếng gào, tiếng gầm vang dội của sóng và mớ âm thanh ấy trở nên dễ sợ hơn khi chúng vang lên ở đuôi tàu.

Cơn bão vẫn tiếp tục như vậy vào ngày hôm sau rồi ngày hôm sau nữa. Nó tiếp tục cho đến khi người ta thậm trí khó lòng hình dung ra được khoảng thời gian trước khi nó bắt đầu. Và bao giờ cũng phải có ba người ở tay bánh lái, phải cần đến ba người nữa để giữ cho một cái gì đó không bị cuốn trôi, bao giờ cũng phải có người ở chỗ máy bơm. Không có phút nào ngơi nghỉ cho bất cứ ai, không thể nấu nướng hay làm cho khô những gì đã ướt sũng, một vài người bị rơi khỏi boong tàu và họ không bao giờ còn nhìn thấy mặt trời.

Khi mọi việc đã trôi qua, Eustace ghi những dòng sau đâu vào quyển nhật kí:

Ngày 3 tháng 9,

Ngày đầu tiên sau hàng thế kỷ tôi mới lại có khả năng ngồi ghi lại mọi chuyện. Chúng tôi đã bị săn lùng, dồn đuổi trước một cơn bão dữ dội có một không hai suốt 13 ngày đêm. Tôi biết chính xác như thế vì tôi đã cẩn thận tính đếm dù tất cả những người khác đều nói chỉ có 12 ngày. Thật thú vị khi bị buộc phải tham gia một chuyến du hành cực kì nguy hiểm với những kẻ không có một xu kiến thức sơ đẳng về những chuyện như thế này. Tôi đã phải trải qua những thời khắc kinh hoàng, trồi lên, ngụp xuống trên những con sóng khổng lồ hết giờ này đến giờ khác, thường thì bị ướt sũng đến tận ruột và thậm trí người ta cũng chẳng có cố gắng cho chúng tôi ăn một bữa cho ra hồn nữa. Chẳng cần phải nói rõ ở đây không có đường dây vô tuyến hoặc thậm trí không có quả pháo hiệu, không có lấy một cơ hội đánh đi tín hiệu SOS để người ta đến cứu. Tất cả những điều này đều chứng minh những gì mà tôi đã kiên trì nói với họ rằng chỉ có điên khùng mới ra đi trong một món đồ chơi thảm hại như thế này. Mọi việc xem ra đủ xấu kể cả khi người ta chỉ có kẻ thù mà không có bạn. Caspian và Edmund cạn tàu ráo máng với tôi. Vào cái đêm chúng tôi mất cột buồm (bây giờ chỉ còn là một mảnh cụt mạ thôi) mặc dù tôi không khỏe chút nào chúng vẫn buộc tôi phải lên boong lao động quần quật như một tên nô lệ. Lucy múa mái chèo của nó mà nói rằng Reepicheep ao ước được đi chỉ vì con chuột này quá nhỏ. Tôi tự hỏi không biết nó có thấy rằng tất cả những gì mà con vật này làm cũng chỉ để phô trương hay không. Ở cái tuổi của nó thì đầu có ngu đến mấy cũng phải hiểu được điều này chứ. Hôm nay thì cuối cùng con tàu trời đánh thánh vật này cũng chạy một cách yên ả, mặt trời lại ló ra và cả bọn lải nhải về những món ném chó chó chết, cho gà gà toi và cũng đủ cho chúng tôi sống trong vòng mười sáu ngày nữa (Tất cả đàn gà bị cuốn trôi khỏi boong. Mà dẫu lũ gà không bị cuốn đi nữa thì cơn bão cũng là cho chúng chột không đẻ được). Khó khăn thật sự là vấn đề nước ngọt. Hai thùng nước bị rò rỉ và hầu như trống rỗng. (Lại là chuyện tính hiệu quả của người Narnia!) Nếu tiết kiệm một ngày chỉ dùng nửa lít thì chúng tôi cũng chỉ cầm cự được 12 ngày. (Vẫn còn nhiều rượu rum và rượu vang nhưng bọn họ cũng nhận ra rằng những thứ này chỉ làm cho họ khát hơn mà thôi.)

Tất nhiên chúng tôi có thể làm một việc khôn ngoan nhất là quay về hướng tây để về lại quần đảo Đơn Côi. Nhưng chúng tôi đã mất đứt 18 ngày để đến được đây, chạy như điên với trận cuồng phong truy đuổi sau lưng. Ngay cả khi chúng tôi đón được ngọn gió đông thì nó cũng chỉ làm cho chúng tôi đi xa hơn là có thể trở về. Nhưng tuyệt không có dấu hiệu gì của một trận gió đông – trên thực tế chẳng có gió máy gì cả. Trong khi người ta phải dùng đến mái chèo thì việc này mất khá nhiều thời gian và Caspian nói không ai có thể chèo thuyền với một nửa lít nước một ngày. Tôi biết rõ rằng mọi việc đều hỏng bét. Tôi đã cố giải thích cho họ hiểu là mồ hôi thực sự làm cho thân nhiệt giảm đi vì thế người ta cần ít nước hơn trong khi lao động chân tay. Caspian không thèm để ý đến lời giải thích của tôi, đúng là cung cách của con lừa của nó trước những vấn đề mà nó tắc tị.

Những kẻ khác ủng hộ ý định đi tiếp với hy vọng tìm thấy đất liền. Tôi cảm thấy mình có nhiệm vụ chỉ ra cho mọi người rõ không biết là có bất cứ mảnh đất nào trước mặt hay không và cố làm cho họ thấy thảm họa của những ý nghĩ viển vông, rồ dại. Thế mà thay vì đưa ra một kế hoạch có lí hơn họ lại quay ra hạch sách tôi, hoạch họe tôi đủ điều. Tôi buộc phải giải thích với một thái độ nhẹ nhàng, bình tĩnh trong khả năng có thể rằng tôi bị bắt cóc và mang đi trong chuyến đi ngu xuẩn này ngoài ý muốn và khó có thể cho rằng kéo họ ra khỏi thế kẹt này là nhiệm vụ của tôi.

Ngày 4 - 9

Vẫn đứng yên một chỗ. Khẩu phần ăn rất ít. Và tôi còn có ít hơn bất cứ ai. Caspian rất khéo đóng kịch, nó nghĩ là tôi không biết gì. Vì một lí do nào đó Lucy cố đền bù cho tôi bằng cách mời tôi một món gì đó trong khẩu phần của nó nhưng đó là là một việc mà cái thằng Edmund tự cao tự đại cứ xen vào chuyện của người khác không cho nó làm. Trời nóng hừng hực. Khát khô cả cổ suốt buổi tối.

Ngày 5 – 9

Vẫn đứng yên một chỗ mà trời thì còn nóng hơn. Cảm giác uể oải không còn chút sức lực và tôi chắc mình bị sốt. Tất nhiên họ đâu có khôn ngoan đến mức có dự trữ trong tàu một cái cặp nhiệt độ.

Ngày 6 – 9 

Một ngày kinh khủng. Thức dậy vào nửa đêm và biết là tôi đang sốt cao cần phải có nước uống. Bất cứ bác sĩ nào cũng nói như thế. Chỉ có Chúa mới biết là tôi là người cuối cùng có thể vượt qua bất cứ một điều không công bằng như thế nào nhưng tôi chẳng bao giờ dám mơ là khẩu phần nước lại áp dụng cho cả một người ốm. Thật ra tôi nên đánh thức những người khác dậy và hỏi xin nước nhưng tôi nghĩ làm như vậy có phần ích kỉ, thế là tôi trở dậy, cầm cái ly của mình rón rén đi ra khỏi cái hố đen ngòm mà chúng tôi đang ngủ, hết sức cẩn thận để không đánh thức Caspian và Edmund bởi vì chúng ngủ chập chờn kể từ những ngày nắng nóng và thiếu nước bắt đầu. Tôi bao giờ cũng quan tâm đến người khác mặc cho họ có tử tế với tôi hay không. Tôi ra được bên ngoài một cách ổn thỏa, bước vào gian phòng lớn, nếu bạn có thể gọi là căn phòng để hành lí và những băng ghế dài như thế. Thùng đựng nước để trong cùng. Tất cả đều diễn ra một cách êm thấm nhưng trước khi tôi múc được một cốc được đầy thì đã có người bắt gặp, còn ai vào đây nữa ngoài con chuột Reep. Tôi có giải thích là tôi đi lên boong để hít thở không khí trong lành (liên quan đến nước nôi đâu có dính dáng gì đến nó) và con chuột  bèn hỏi tại sao tôi lại mang cái ly theo. Nó làm lớn chuyện và cả tàu thức dậy. Người ta đối xử với tôi quá quắt lắm. Thử hỏi, mà ai cũng có thể đặt ra câu hỏi đó, cớ làm sao Reepicheep lại lẻn đến chỗ thùng nước vào lúc đêm hôm khuya khoắt như vậy. Nó nói nó quá nhỏ để có thể lợi dụng uống nước, nó chỉ đứng gác ở đây để không ai ngoài bạn bè nó được ngủ. Bây giờ mới lòi ra sự bất công thối tha của bọn họ: tất cả đều tin con chuột. Bạn có thể một mình chống lại điều này không?

Tôi phải công khai xin lỗi nếu không con vật bé nhỏ nguy hiểm kia sẽ xử lí tôi bằng thanh gươm của nó. Đến đây Caspian đã để lộ bộ mặt thật của nó, đúng là một tên bạo chúa dã man. Nó đã cao giọng cho tất cả mọi người đều nghe thấy là nếu từ nay trở đi bất cứ một ai bị bắt quả tang múc trộm nước đều sẽ “có hai chục”. Tôi chẳng biết điều đó có nghĩa là gì cho đến lúc Edmund giải thích cho tôi hiểu. Điều đó có dính dáng đến một cuốn sách mà bọn nhà Pevensie đã đọc.

Sau lời đe dọa hèn mạt này Caspian đổi giọng, tỏ ra hết sức cảm thông. Nói rằng nó rất tiếc cho tôi và rằng ai cũng cảm thấy phát sốt như tôi nên tất cả mọi người cần phải làm tất cả để vượt qua thời điểm khó khăn này vân vân và vân vân. Một kẻ đạo đức giả ngu xuẩn. Cả ngày hôm nay tôi chỉ nằm trên giường.

Ngày 7 – 9 

Hôm nay đã có gió nhẹ nhưng từ phương tây thổi tới. Con tàu đi được vài dặm theo hướng đông với một phần cánh buồm, một thứ mà Drinian gọi là buồm tạm – tức là rằm néo buồm được dựng thẳng lên và cột lại (họ cho là nó “bị quật”) bằng cái mẩu còn lại của một cột buồm thật sự. Vẫn khát nước kinh khủng.

Ngày 8 – 9

Tàu vẫn đi về hướng đông. Suốt ngày tôi chỉ ở trong phòng, không gặp ai trừ Lucy cho đến khi hai kẻ thù địch kia đi ngủ. Lucy chia cho tôi chút nước trong khẩu phần của nó, nó nói con gái không cần nhiều nước bằng con trai. Ấy, tôi cũng thường nghĩ như vậy nhưng bạn sẽ rõ điều này hơn khi ở biển.

Ngày 9 - 9

Đã thấy đất liền, một ngọn núi cao hiện lên xa xa về hướng đông nam.

Ngày 10 – 9 

Ngọn núi to hơn, rõ hơn nhưng vẫn còn xa vời vợi. Lần đầu tiên thấy hải âu bởi vì tôi không biết đã bao lâu rồi tôi không thấy loài chim biển này.

Ngày 11 – 9 

Bắt được mấy con cá và nấu bữa tối. Thả neo vào lúc 7 giờ tối, mức nước cao 3 sải ở cái vịnh nằm bên hòn đảo có ngọn núi cao kia. Thằng ngốc Caspian không cho chúng tôi lên bờ vì trời đã tối và nó sợ bị cướp bóc hoặc thú dữ. Tối nay khẩu phần nước được nhiều hơn một chút.

 Điều đang đợi họ trên hòn đảo này liên quan đến Eustace nhiều hơn bất cứ ai khác, nhưng lại không được kể bằng lời của nó bởi vì sau ngày 11 tháng 9 nó quên ghi nhật kí trong một khoảng thời gian dài.

Sáng hôm sau, bầu trời xám, nặng trĩu trên đầu, trời rất oi và những nhà phiêu lưu thấy mình ở trên đất liền đang đi men qua những vách đá và núi đá lởm chởm như trong một cái vịnh của người Nauy. Trước mặt họ, ngay ở phía đầu vịnh có một mảnh đất bằng phẳng mọc đầy loại cây gì trông giống cây tuyết tùng và từ trong đám cây rậm rạp đó một dòng suối ào ào chảy ra. Xa xa hơn là một con dốc gần như thẳng đứng chấm dứt ở cái đỉnh hình răng cưa và xa hơn nữa là màu đen mơ hồ hư ảo của một rặng núi cao ngất chui vào một đám mây xám nhạt, mờ mịt đến nỗi bạn không thấy rõ đỉnh. Ở những quả núi gần hơn nằm dọc hai bên vịnh, thỉnh thoảng có những sọc trắng mà ai cũng biết đó là thác nước mặc dầu với một khoảng cách xa như vậy họ không nhìn thấy một sự chuyển động hay nghe thấy một âm thanh nào. Thật ra cả vùng này hết sức yên tĩnh và nước trong vịnh phẳng lặng như một tấm gương, phản chiếu tất cả mọi chi tiết của dãy núi đá. Quang cảnh này sẽ là tuyệt đẹp trong một bức tranh nhưng lại quá nặng nề, phản cảm trong cuộc đời thực. Chắc chắn đây không phải là một mảnh đất hiếu khách.

Mọi người đi vào bờ bằng hai con thuyền, ai nấy thỏa thích uống nước và tha hồ rửa mặt mũi trong dòng nước rồi ngồi xuống ăn sáng và nghỉ ngơi trước khi Caspian cử 4 người quay lại canh gác con tàu và một ngày làm việc bắt đầu. Có biết bao nhiêu việc phải làm. Những chiếc thùng trữ nước phải được đưa lên bờ, sửa lại những cái còn có thể sửa chữa được và tất cả được đổ đầy nước suối; một cây to – cây thông nếu họ có thể hạ xuống được – cần phải đốn ngã để làm một cái cột buồm mới; buồm cũng cần phải được sửa sang nhiều. Một đội săn được hình thành để bắn bất cứ con thú nào có trên đất liền, quần áo cũng cần được giặt sạch sẽ và mạng vá lại; ngoài ra còn vô số vật dụng bị hư hại trên boong cần phải làm lại, sửa sang. Còn về phía con tàu Hướng tới Bình minh – và cho đến lúc này họ mới nhận rõ nó hơn – khó có thể nhận ra đó chính là con tàu thanh lịch mới rời khỏi Narrowhaven hôm nào. Nó chỉ còn là một đống sắt chẳng có màu sắc gì và cũng không còn ra hình thù gì, một vật mà bất cứ ai cũng có thể nhầm với một con tàu đắm. Cả thuyền trưởng và thủy thủ đoàn trong cũng không khá hơn – gầy nhom, mặt mũi hốc hác, xanh mét, đôi mắt đỏ ngầu vì thiếu ngủ và bộ quần áo như đã rách mướp trên người.

Trong lúc Eustace nằm dưới một gốc cây, nghe tất cả những kế hoạch mà người ta thảo luận, nó cảm thấy trái tim trĩu nặng trong lồng ngực. Sẽ không có chuyện nghỉ ngơi đâu. Mọi việc xoay ra như thể ngày đầu tiên trên mảnh đất được mong mỏi từ lâu này sẽ là một ngày lao động nhọc nhằn như một ngày làm việc trên biển. Chợt một ý nghĩ tuyệt vời nảy ra trong óc nó. Không có ai để ý đến nó – mọi người đều bàn bạc về con tàu cứ như thể họ khoái những chuyện bốc mùi như thế. Vậy tại sao lại không chuồn đi một chỗ nào đó? Nó sẽ đi sâu vào trong đất liền tìm một nơi mát mẻ thoáng đãng ở trong núi, ngủ một giấc thật dài và không tham gia với bọn người kia cho đến khi ngày làm việc kết thúc. Nó cảm thấy việc làm này sẽ tốt cho nó. Nhưng cần phải cẩn thận để cho cái vịnh và con tàu lúc nào cũng trong tầm nhìn, mới xác định được đường về. Nó không thích bị bỏ lại một mình phía sau ở một nơi như thế này.

Ngay lập tức nó phác ra kế hoạch hành động. Nó lặng lẽ đứng dậy rời khỏi chỗ ngồi và đi len lỏi giữa các thân cây, cẩn thận bước đi với vẻ nhẩn nha và vô mục đích để bất cứ ai trông thấy cũng chỉ nghĩ nó đi tản bộ, vận động chân tay. Nó có ngạc nhiên chút ít khi thấy tiếng trò chuyện nhanh chóng im bặt phía sau, khu rừng bỗng trở nên yên tĩnh, ấm áp va xanh biếc làm sao. Nó bắt đầu bước đi nhanh hơn, tự tin hơn.

Chẳng bao lâu nó đã ra khỏi rừng. Mặt đất bắt đầu dốc đứng trước mặt nó. Cỏ khô trơn trượt dưới chân nhưng nó vẫn có thể đi tiếp nếu sử dụng cả hai tay, hai chân. Mặc dầu thở hổn hển và lau mồ hôi trán liên tục nó vẫn ráng sức bước tiếp. Điều này chứng tỏ cuộc sống mới dù không phải là điều nó mong muốn, về một mặt nào đó, vẫn có tác động tốt đối với nó.

Eutace bây giờ có điểm khác với Eustace ngày xưa. Eustace Lông Vịt của Harold và Alberta hẳn đã bỏ cuộc sau 10 phút cố sức.

Chậm rãi và sau vài lần nghỉ Eustace cũng trèo lên được đến đỉnh. Ở đây nó tưởng có thể nhìn được toàn cảnh vùng trung tâm hòn đảo nhưng mây đã xuống thấp hơn, sà đến gần hơn và một làn sương mù vùng biển cuộn lên, bao vây chung quanh nó. Nó ngồi nghỉ và ngoái đầu nhìn lại. Nơi nó đang ngồi cao đến nỗi cái vịnh nhỏ tí lại về bên dưới và biển lùi xa hàng dặm, nhưng vẫn hiện rõ. Làn sương mù trên núi buông xuống bủa vây quanh nó, dày đặc nhưng không lạnh. Eustace nằm xuống xoay sở tìm một tư thế nằm thật thoải mái.

Nhưng nó không thấy vui vẻ gì hoặc nếu có thì cảm giác ấy cũng không kéo dài. Nó bắt đầu – gần như lần đầu tiên trong đời – cảm thấy cô quạnh. Thoạt tiên cảm giác ấy đến một cách khó nhận biết. Tiếp đó là một cảm giác bất an, bồn chồn như khi bạn lo âu về một cái gì đó. Trên độ cao này, không gian tuyệt đối tĩnh mịch, không nghe thấy một tiếng động nhỏ nào. Chợt một ý nghĩ xâm chiếm đầu óc nó: nó đã nằm ở đây hành giờ rồi. Có lẽ những người kia đã đi khỏi đây. Có thể họ để mặc cho nó lang thang tách khỏi cốt bỏ nó lại đây một mình! Nó hốt hoảng nhảy chồm lên và bắt đầu đi xuống núi. Đầu tiên nó cố gắng đi thật nhanh, trượt dài trên cỏ và bị vấp té vài lần. Sau đó nó nghĩ đi như thế này khiếm nó đi quá xa về phía bên trái và khi dừng lại ngó dáo dác nó thấy một vách đá dựng đứng bên một sườn núi. Thế là nó lại hì hục leo lên cao, đến cái chỗ mà nó suy đoán là nên trèo xuống và nó lặp lại việc này một lần nữa, lần này thì chếch về phía tay phải. Sau đó mọi việc trở nên ổn thỏa hơn. Nó phải đi rất cẩn trọng bởi vì nó không thể nhìn xa quá một thước và xung quanh vẫn cái không khí nặng như đóng băng ấy. Chẳng có gì vui thú khi phải dò dẫm từng bước một như vậy trong khi trong đầu luôn văng vẳng một tiếng thì thầm dai dẳng:

“Nhanh lên, nhanh lên, nhanh lên!”

Bởi vì mỗi một giây trôi qua thì cái ý nghĩ bị bỏ lại một mình nơi hoang đảo lại càng trở nên khủng khiếp hơn, mạnh mẽ hơn. Nếu nó hiểu Caspian và anh em nhà Pevensie thì nó sẽ biết chắc là tất nhiên, không bao giờ lại có chuyện như thế. Nhưng nó đã thuyết phục được mình tin rằng hết thảy bọn họ đều là kẻ thù của nó, không hơn không kém.

- Cuối cùng… - Eustace thốt lên khi nó tuột xuống một cái dốc có những hòn đá nhỏ lổn nhổn (đá dăm, ấy là người ta gọi như thế) và thấy mình đứng trên một mảnh đất bằng phẳng. – Bây giờ thì ổn rồi, nhưng rừng cây đâu? Cái gì đen đen ở phía trước kia? Cái gì, mình nghĩ là sương mù đã tan mà.

Đúng, sương đã tan. Ánh mặt trời mỗi lúc một chói chang hơn làm nó chói mắt. Màn sương được vén lên. Nó đang ở một thung lũng hoàn toàn không quen biết và… chẳng thấy biển đâu cả.

CHƯƠNG 6

 Đảo hóa rồng

Vào lúc ấy mọi người đã rửa mặt mũi chân tay bên bờ sông và nhìn chung đã sẵn sàng nạp thêm năng lượng và nghỉ ngơi. Ba thiện xạ cừ nhất trong bọn đã lên những ngọn núi phía bắc vịnh và quay về với những tảng thịt dê được quay vàng trong ngọn lửa cháy rất đượm.

Caspian ra lệnh mang một thùng rượu lên bờ, loại rượu mạnh xứ Archenland cần cho tất cả. Công việc được tiến hành rất tốt và đây là một bữa tiệc vui. Chỉ đến lúc xơi đến con dê thứ hai, Edmund mới nhớ ra:

- Ô hay, Eustace Lông Vịt đâu rồi?

Vào lúc Edmund hỏi câu ấy thì Eustace đang hoảng hốt nhìn quanh vùng đất không quen biết. Đó là một thung lũng nhỏ và sâu, các vách đá bao vây nó dốc đứng đến nỗi nó trông giống như một cái hố hay cái hầm khổng lồ. Dưới chân Eustace cỏ mọc xanh rì mặc dù mặt đất rải rác những tảng đá và ở chỗ này chỗ khác Eustace nhìn thấy những vạt cỏ cháy đen như bạn có thể thấy ở hai bên đường có tàu hỏa chạy qua vào một mùa hè khô hạn. Cách đó khoảng 15 mét có một cái ao nước trong vắt, êm ả. Thoạt nhìn không thấy có bất cứ một sinh vật gì khác trên thảo nguyên, không một con thú, không chim chóc, cả đến một con côn trùng cũng không: Mặt trời bắt đầu đi xuống và những đỉnh núi dữ tợn cùng những vách núi đổ bóng qua vách đá bên thung lũng.

Tất nhiên bây giờ Eustace đã nhận ra nó đi nhầm hướng vì làn sương mù quái ác, thế là nó vội quay đầu tìm đường quay về. Nhưng ngay khi kịp nhìn cho rõ nó đã rùng mình sợ hãi. Rõ ràng nhờ một may mắn hi hữu mà nó tìm được con đường duy nhất để đi xuống, bên dưới nó là một mũi đất xanh rì, hẹp và dốc đứng với hai vách đá ở hai bên. Không có một con đường khả dĩ nào khác để quay trở lại. Nhưng nó có thể làm điều đó sau khi đã tận mắt nhìn thấy rõ mối nguy hiểm như thế nào? Đầu nó quay mòng mòng với ý nghĩ ấy. Nó quay lại, thầm nghĩ dù có bất cứ chuyện gì xảy ra thì cũng hãy cứ uống một ngụm nước mát lành trong chiếc ao kia trước đã. Nhưng ngay khi nó quay lại và trước khi bước lên phía trước một bước nó đã nghe có một tiếng động ngay sau lưng. Chỉ là một tiếng động nhỏ – nhưng vang lên rất to trong bầu không khí tuyệt đối im lặng – làm thằng bé sợ đến chết và nó như bị đông cứng lại trong vòng một giây.

Cách nó không xa, dưới chân một vách núi bên trái có một cái hố nông choẻn và tối om – có lẽ là lối vào một cái hang. Từ cửa hang hai cột khói mỏng bốc lên. Những hòn đá lỏng chỏng phía dưới cái hố tối om đó hình như đang chuyển động (gây ra tiếng động vang – đến tận chỗ Eustace) cứ như thể có một cái gì đó đang bò trong bóng tối phía sau mấy tảng đá.

Một cái gì đó đang bò. Còn tệ hại hơn nữa, một cái gì đó đang bò ra ngoài. Nếu là Edmund hoặc Lucy… hoặc chính bạn, hẳn bạn đã nhận ra “cái gì” đó ngay, nhưng Eustace chưa bao giờ đọc đúng cuốn sách phải đọc nên không biết. Cái vật đang bò ra khỏi hang ấy là cái gì mà Eustace không bao giờ tưởng tượng ra nổi – một cái mõm dài màu chì, đôi mắt đỏ sọc buồn tẻ, thân hình dài mềm dẻo, không có lông vũ hoặc lông tơ. Nó bò ngoằn ngoèo trên mặt đất, những chiếc chân mà khuỷu chân còn nhô cao hơn lưng con vật trông giống chân nhện, những cái móng guốc trông đến khiếp, đôi cánh như cánh dơi và cái đuôi gây nên những tiếng va đập trên những tảng đá. Hai cột khói bốc lên từ hai lỗ mũi của con vật. Bản thân thằng bé chưa hề nói đến hai từ Con Rồng mà nếu giả sử nó có nói đi chăng nữa thì điều đó cũng không làm cho sự việc trở nên bớt dễ sợ hơn.

Nhưng nếu như nó có biết một cái gì đó về loài rồng thì nó cũng sẽ không khỏi ngạc nhiên trước hành động của con rồng này. Rồng không vươn mình dậy cũng không vỗ đôi cánh, cũng chẳng khạc ra lửa từ cái mõm từ nó. Khói từ lỗ mũi nó bay ra cũng giống như khói bốc ra từ một ngọn lửa đã gần tàn. Con vật dường như không nhận ra sự có mặt của Eustace. Nó đủng đỉnh trường đến gần cái ao – chậm rãi và chốc chốc lại dừng lại. Cả trong lúc sợ cứng cả người, Eustace cũng nhận ra đó là một con vật già nua, buồn bã. Nó tự hỏi không biết mình có đủ gan để bò lên vách núi không, nhưng con vật có thể thám thính xung quanh nếu Eustace gây ra bất cứ tiếng động nào. Nó có thể trở nên nhanh nhẹn hơn. Có thể nó chỉ giả bộ mà thôi. Và liệu có ích gì khi cố trốn chạy bằng cách leo lên vách núi để thoát khỏi một con vật biết bay?

Con vật đã bò đến bờ hồ thò cái cổ đóng vẩy từng lớp nom rất kinh khủng qua lớp sỏi trên bờ để uống nước. Nhưng trước khi nó có thể uống nước, một tiếng kêu khủng khiếp hoặc tiếng rên khô khốc thoát ra từ trong họng nó và sau một vài cái vặn mình hoặc giãy giụa, con vật lăn sang một bên và nằm im phăng phắc với một cái móng giơ lên trời. Một dòng máu đen bầm phọt từ cái miệng ngoác ra của nó. Khói từ lỗ mũi nó biến thành màu đen, tụ lại một lúc rồi bay tản đi. Không còn gì thoát ra nữa.

Eustace không dám nhúc nhích một hồi lâu. Có lẽ đây là một trò lường gạt của con ác thú, cái cách nhử các du khách đến với cái chết của họ. Nhưng không thể đợi mãi, Eustace bước lên một bước đến gần, thêm hai bước nữa và dừng lại. Con rồng vẫn nằm bất động và Eustace nhận thấy ngọn lửa đỏ cũng phụt tắt khỏi đôi mắt nó. Cuối cùng thằng nhỏ bước đến gần con vật. Bây giờ thì nó chắc là con rồng đã chết. Với một cái rùng mình nó chạm tay vào con vật, chẳng có chuyện gì xảy ra.

Sự giải thoát quá lớn đến nỗi Eustace gần như bật ra một tràng cười hô hố. Nó bắt đầu có cảm giác như thể nó đã chiến đấu và giết chết con rồng thay cho việc chỉ thuần túy đứng đực ra nhìn nó chết. Nó không ngạc nhiên khi nghe có tiếng sấm. Gần như ngay sau đó mặt trời biến mất và trước khi nó uống nước xong thì những giọt mưa nằng nặng đã lộp bộp rơi xuống.

Thời tiết ở hòn đảo này không dễ chịu chút nào. Trong vòng chưa đầy một phút toàn thân Eustace đã ướt đẫm và nó gần như phải nhắm mắt lại trước một trận mưa dữ dội chưa từng có ai chứng kiến ở châu Âu, khiến cho việc trèo lên vách núi thoát ra khỏi cái thung lũng này không thể nào thực hiện nổi. Nó chạy bổ đến chỗ trú ẩn duy nhất – cái hang rồng. Vào đến nơi nó nằm xuống cố lấy lại nhịp thở.

Hầu hết chúng ta đều biết có thể tìm thấy được cái gì trong hang ổ của rồng, nhưng như tôi đã nói đã nói trước đó, Eustace chỉ đọc những cuốn sách không thích hợp với tuổi nó. Những cuốn sách ấy có khối chuyện để nói về xuất nhập khẩu, về chính phủ và nền tài chính kiệt quệ mà chả có một câu nào nói về loài rồng. Đó là lí do tại sao nó cảm thấy bối rối về nền cái hang mà nó đang nằm lên. Trên nền hang có rải một thứ quá nhọn để có thể là đá, quá rắn để có thể là gai, ngoài ra còn có rất nhiều vật tròn tròn, dẹt dẹt và tất cả đều kêu lạo xạo mỗi khi nó cử động. Ngoài cửa hang cũng còn đủ ánh sáng để xem xem đó là cái gì. Tất nhiên lúc ấy Eustace mới phát hiện ra cái điều mà bất cứ ai trong chúng ta cũng đoán ra ngay từ đầu – đó là kho châu báu. Có rất nhiều vương miện (đó là những vật nhọn), đồng tiền vàng, nhẫn, vòng đeo tay, vàng thỏi, ly chén, đĩa bằng ngọc quý.

Eustace (không giống như đại đa số những thằng con trai khác) chưa bao giờ dám mơ đến nhiều đồ quý đến như thế, nhưng nó thấy ngay lợi ích của những vật này khi sử dụng trong thế giới mà nó đã trượt vào một cách ngoài dự tính qua bức tranh treo trong phòng ngủ của Lucy – ngay trong nhà nó.

- Ở đây người ta không đánh thuế, - nó nói thành tiếng, - và mình cũng không phải nộp của báu cho chính phủ. Với những thứ này mình có thể có một quãng thời gian dễ chịu đây – có lẽ ở Calormen, nơi này xem ra có vẻ ít giả tạo nhất trong cái xứ quái quỷ này. Không biết mình có thể mang được bao nhiêu nhỉ? Cái lắc đeo tay này – những thứ cẩn trên lắc chắc chắn là kim cương – mình sẽ đeo vào cổ tay. Hơi rộng một chút nhưng không quá rộng nếu mình đeo lên trên khuỷu tay. Sau đó mình sẽ cho kim cương vào đầy các túi quần – còn dễ hơn là với vàng. Không biết bao giờ thì cơn mưa chết tiệt này chấm dứt đây?

Nó bước đến một chỗ êm ái nhất trong hang, nơi chủ yếu chứa vàng thỏi và ngồi xuống đợi.

Một cơn chấn động tinh thần, kể cả khi nó đã qua đi, nhất là nỗi sợ hãi kéo theo sau một cuộc đi bộ trên núi bao giờ cũng làm cho bạn mệt lả đi. Eustace ngủ ngay lập tức.

Trong lúc nó ngủ và ngáy o o thì những người khác ăn xong và đặc biệt lo lắng cho nó. Họ gào lên gọi tên nó: “Eustace ơi! Eustace ơi!” cho đến khi khản cả tiếng. Caspian còn thổi cả tù và.

- Nó không ở quanh đây đâu, nếu có thì nó đã nghe thấy rồi. – Lucy nói, mặt tái mét đi vì lo lắng.

- Cái thằng chết tiệt này! – Edmund rủa. – Không biết nó làm cái trò quái quỷ gì mà lại trốn đi như thế?

- Nhưng chúng ta phải làm cái gì đó. – Lucy nói. – Nó có thể bị lạc hoặc rơi xuống hố, hoặc bị một tộc người man rợ bắt cóc.

- Hoặc bị thú dữ giết chết. – Drinian bổ sung thêm.

- Nếu đúng thế thì chúng ta thoát được một của nợ rồi còn gì, tôi dám nói thế đấy. – Rhince lẩm bẩm.

- Ông Rhince, - Reepicheep lên tiếng, - ông đừng bao giờ nói một điều không giống mình như thế. Con người ấy không phải là bạn tôi nhưng lại là thân thích của nữ hoàng và như vậy, cậu ta là một trong những người thân của chúng ta, bổn phận của chúng ta là phải tìm cho ra cậu ta và trả thù cho cậu ấy nếu chẳng may cậu ta bị chết.

- Tất nhiên chúng ta phải đi tìm nó (nếu có thể). – Caspian nói giọng mệt mỏi. – Thật là phiền phức hết sức. Điều đó có nghĩa là phải thành lập đội tìm kiếm và những khó khăn vô tận. Chán mớ đời cái anh bạn Eustace này.

Trong khi đó thì Eustace chỉ làm mỗi một việc là ngủ khì khì và chỉ một cơn nhói đau nơi cánh tay mới đánh thức nó dậy được. Ánh trăng trắng ngần soi vào nơi cửa hang và cái giường châu báu xem ra mỗi lúc một êm ái hơn, thực ra thì nó khó có thể cảm thấy điều gì. Nó ngạc nhiên về cái nhói đau ở tay, nhưng dần dần nó nhớ đến cái lắc đeo tay mà nó đã kéo qua khuỷu tay và lúc này đang khít chặt một cách kì lạ. Chắc là cánh tay nó phồng lên trong lúc ngủ (đó là cánh tay trái).

Nó quờ tay phải sang để sửa lại cái vòng ở tay trái nhưng đã dừng lại trước khi di chuyển được một phần, hai môi nó cắn chặt lại trong cơn hoảng loạn. Bởi vì ngay trước mặt nó, chếch sang phải một chút, nơi ánh trăng đổ xuống rõ mồn một trên nền hang nó trông thấy một hình thù quái gở đang chuyển động. Nó biết cái hình thù này, đó là một cái móng rồng. Cái móng chuyển động khi Eustace cố cử động bàn tay và cũng dừng lại khi thằng bé ngồi bất động.

“Trời đất ơi, mình đúng là một thằng xuẩn, - Nó chợt nghĩ. – Tất nhiên con quái vật kia sống có đôi và vợ nó hoặc chồng nó đang nằm ngay bên cạnh mình”

Trong vòng vài phút nó không dám cử động dù chỉ là một thớ thịt. Nó nhìn thấy hai cột khói mỏng bốc lên ngay trước mắt, những cuộn khói đen bay ra từ mũi con rồng kia, trước khi nó chết. Phát hiện này khiến thằng bé phải nín thở. Hai làn khói biến mất. Khi nó không thể nín thở lâu hơn được nữa, nó thở ra một cách lén lút và ngay lập tức hai làn khói mỏng lại bốc lên. Dù vậy, Eustace không biết phải hiểu như thế nào nữa.

Nó đi đến quyết định cần phải hết sức cẩn thận di chuyển sang mé tay trái và cố bò ra khỏi hang. Có lẽ con vật đang ngủ – dù sao thì đây cũng là một cơ hội duy nhất. Nhưng tất nhiên trước khi xê dịch sang bên trái nó đưa mắt nhìn về phía ấy. Ôi kinh khủng quá! Có một cái móng vuốt rồng ở đây nữa.

Không ai nỡ quở trách Eustace nếu vào lúc ấy nó trào nước mắt. Nó ngạc nhiên trước kích thước những giọt nước mắt của nó khi những giọt lệ đó lóe sáng trong đống châu báu trước mặt. Cả đống châu báu đó cũng có vẻ như nóng một cách kì lạ, nó phát hiện hơi nước bốc lên từ đấy.

Nhưng khóc lóc thì được tích sự gì kia chứ. Nó phải cố tránh không đụng vào hai con rồng để ra khỏi hang. Nó bắt đầu giơ tay phải lên, chân trước và móng vuốt của con rồng cũng giơ lên với một động tác giống y hệt. Thế là nó nghĩ hãy thử đưa tay trái lên xem sao. Chân con rồng ở phía này cũng chuyển động giống y hệt như thế.

Hai con rồng ở hai bên nhại lại bất cứ cái gì mà thằng bé làm. Thần kinh nó căng ra, nó chỉ còn biết lồng lên bỏ chạy.

Vang lên những tiếng loảng xoảng, cọt kẹt, lanh canh khi Eustace lao ra khỏi hang làm cho nó nghĩ là cả hai con rồng đều đi theo nó. Eustace không dám nhìn lại. Nó chạy ra hồ nước. Cái hình thù xoắn lại của con rồng chết nằm phơi dưới ánh trăng đủ kinh dị để làm bất cứ ai cũng sợ mất mật, nhưng bây giờ thằng bé khó lòng nhận ra điều đó. Nó chỉ có một ý nghĩ là lao đầu xuống nước.

Nhưng đúng lúc nó lao xuống bờ hồ thì có hai việc xảy ra. Đầu tiên – điều xảy ra như một tiếng sấm giữa trời quang – nó nhận ra mình đã chạy bằng bốn chi – trời ơi, thế quái nào mà nó lại chạy như một con thú. Điều thứ hai, khi nó cúi xuống mặt nước, nó thoáng nghĩ là còn có một con rồng khác đang nhìn nó từ dưới đáy hồ. Nhưng rồi nó nhận ra sự thực.

Bóng con rồng dưới nước chính là hình ảnh phản chiếu của nó. Không có gì phải nghi ngờ nữa. Con rồng chuyển động khi nó có một cử động nào đó, nó ngoác miệng ra rồi lại ngậm vào khi Eustace làm động tác tương tự.

Nó đã biến thành rồng trong lúc ngủ. Nằm ngủ trong đống kho tàng của rồng với những ý nghĩ tham lam độc địa trong tim, nó đã biến mình thành một con rồng.

Điều này đã giải thích được tất cả. Không hề có hai con rồng nào trong hang như nó nghĩ. Cái móng bên phải và bên trái là của chính nó. Còn cái nhói đau ở cánh tay trái (hoặc là cái trước đã từng là tay trái) thì bây giờ nó đã thấy rõ bằng cách liếc nhìn bằng con mắt bên trái. Cái vòng tay vừa vặn với cánh tay của một cậu bé bây giờ trở nên quá nhỏ bé với cái chi trước dày chình chịch và to bè bè của một con rồng. Cái vòng lẳn sâu vào bắp thịt và ở hai bên cái vòng bắp thịt sưng phồng lên, đau nhức. Nó cúi xuống cắn cái vòng bằng những chiếc răng rồng, nhưng vô hiệu không sao cắn đứt được.

Mặc dù đau đớn nhưng cảm xúc đầu tiên của nó là một sự nhẹ nhõm. Bây giờ nó không còn phải sợ bất cứ một thứ gì nữa. Bản thân nó đã là một cái gì đó hết sức kinh hoàng rồi, chẳng có một thứ gì trên đời ngoài một hiệp sĩ (mà cũng không phải tất cả cái bọn hiệp sĩ ấy) dám chiến đấu với nó. Bây giờ thì nó sẽ thắng được cả Caspian và Edmund…

Nhưng cùng với ý nghĩ đắc thắng ấy nó hiểu ra rằng nó không muốn điều này chút nào. Nó chỉ muốn trở về giữa giống người; có thể nói chuyện, cười đùa và chia sẻ tất cả với họ. Thế mà bây giờ nó biến thành quái vật, bị cắt ra khỏi toàn bộ loài người. Cảm giác cô đơn kinh khủng xâm chiếm lòng nó và nó bắt đầu ngộ ra rằng những người kia không nhất thiết và hoàn toàn không phải là kẻ thù của nó. Nó tự hỏi không biết bản thân nó có phải là một thiếu niên dễ mến như nó bao giờ cũng tự cho mình là như vậy không. Nó nhớ giọng nói của mọi người. Nó sẽ sung sướng nghe được ngôn ngữ của con người dù cái lời ấy là của Reepicheep đi chăng nữa. Nghĩ đến đây, con rồng tội nghiệp – trước đã từng là Eustace – lòng đau buồn khôn xiết đã rống lên khóc nức nở. Một con rồng hùng mạnh với hàng lệ chứa chan ở trong một thung lũng hoang vắng dưới ánh trăng suông là một cảnh tượng khó lòng hình dung nổi, phải không các bạn của tôi?

Cuối cùng nó quyết định sẽ tìm đường quay lại bờ biển. Nó đã hiểu được rằng Caspian sẽ không bao giờ nhổ neo, bỏ nó ở đây một mình. Nó tin chắc bằng cách này hay cách khác nó sẽ có khả năng làm cho mọi người hiểu nó là ai.

Nó uống một hơi nước thật dài và rồi (tôi biết điều này nghe rất kinh khủng nhưng mà sẽ không quá kinh tởm nếu bạn suy nghĩ thấu đáo) nó ăn gần hết xác con rồng. Nó đã ăn được một nửa con rồng trước khi nhận ra là mình đang làm gì, bởi vì như bạn thấy mặc dù đầu óc nó vẫn là đầu óc của Eustace nhưng khả năng ăn uống và tiêu hóa lại là của một con rồng thật sự. Không có một cái gì làm cho con rồng thích hơn là xương thịt của chính đồng loại. Đó là lí do tại sao bạn khó tìm thấy có hơn một con rồng trên cùng một lãnh thổ.

Ăn xong nó quay ra tìm cách ra khỏi thung lũng. Nó bắt đầu với những cú nhảy và ngay từ bước nhảy đầu tiên nó nhận ra mình có thể bay được. Nó đã quên béng mất đôi cánh và điều này gây cho nó một bất ngờ lớn – sự ngạc nhiên thú vị đầu tiên mà nó có được trong một thời gian dài. Nó bay bổng lên không trung, nhìn thấy vô số ngọn núi trải ra dưới thân hình nó trong ánh trăng. Nó có thể trông thấy cái vịnh như một bàn tay bạc, con tàu Hướng tới Bình minh dập dềnh trên sóng đang thả neo ở đấy, ngọn lửa trại nhấp nháy trong rừng cây gần bãi biển. Từ trên độ cao ấy nó đáp xuống chỉ với một động tác trượt.

Lucy ngủ gà ngủ gật trong lúc nó ngồi đợi đội tìm kiếm quay lại với tin tức tốt lành về Eustace. Caspian dẫn đầu đoàn người, họ trở về rất muộn và mệt mỏi. Tin tức của họ thật đáng buồn, chẳng hề có dấu vết của Eustace nhưng họ bắt gặp xác một con rồng đã chết trong một lũng sâu. Họ cố làm cho mọi việc trở nên lạc quan hơn, mọi người trấn an nhau rằng không có đến hai con rồng ở đây, rằng con rồng này chết vào lúc 3 giờ chiều (đó là lúc họ tìm thấy cái xác) và như vậy khó có khả năng nó đã giết người một vài giờ trước đó.

- Trừ phi con rồng đã ăn thịt thằng lỏi và làm nó chết, cái thằng đó có thể đầu độc bất cứ cái gì. – Rhince nói, nhưng anh ta chỉ lẩm nhẩm trong miệng và không ai nghe thấy gì cả.

Nhưng khuya hôm đó Lucy từ từ tỉnh giấc, nó thấy mọi người đang túm tụm lại với nhau thì thì thầm thầm điều gì đó.

- Có chuyện gì vậy? – Lucy thầm hỏi và để tai nghe ngóng.

- Tất cả chúng ta phải chứng tỏ lòng dũng cảm cao độ. – Caspian nói. – Một con rồng vừa bay qua những ngọn cây kia và hạ cánh xuống bãi biển. Phải, tôi sợ là nó ở giữa ta và con tàu. Tên bắn không có tác dụng gì đối với lũ rồng! Mà bọn chúng cũng không sợ lửa.

- Nếu bệ hạ ra đi… - Reepicheep bắt đầu.

- Không được, Reepicheep, - vua nói giọng cứng rắn, - các bạn không thể chiến đấu một mình với nó. Nếu mọi người không hứa sẽ tuyệt đối nghe lời tôi trong chuyện này, tôi sẽ trói tất cả mọi người lại. Chúng ta hãy quan sát cho kĩ lưỡng đã. Ngay khi trời sáng hãy đi xuống bãi biển tấn công nó. Tôi sẽ dẫn đầu. Vua Edmund đi bên phải còn thuyền trưởng thì đi bên trái. Sẽ không có một sự dàn xếp nào khác. Trời sẽ sáng trong vòng một hoặc hai tiếng nữa. Một tiếng nữa chúng ta sẽ ăn bữa lót dạ, không có rượu nhé. Hãy để cho mọi việc được thực hiện trong yên lặng.

- Rồng có thể sẽ bay đi. – Lucy chợt lên tiếng.

- Thế thì còn tệ hại hơn, - Edmund nói, - bởi vì chúng ta không biết nó đi đâu. Nếu như có một con ong bò vẽ ở đây thì tôi muốn có thể nhìn thấy nó.

Những gì còn lại trong đêm đó thật là hãi hùng và khi đồ ăn được dọn lên nhiều người cảm thấy khó mà nuốt trôi được mặc dù họ hiểu rõ là mình cần phải ăn. Những giờ dài vô tận rồi cũng trôi qua, bóng tối mỏng dần, tiếng chim hót ríu ran đó đây, không gian trở nên lạnh hơn, ẩm ướt hơn đêm qua và Caspian nói:

- Bây giờ thì sẵn sàng hỡi các bạn của tôi!

Cả bọn đứng dậy, gươm giáo sẵn sàng, họ tập hợp thành một đội quân dũng mãnh, Lucy đi giữa, Reepicheep ngồi trên vai nó. Như thế này còn dễ chịu hơn là ngồi đấy mà đợi rồng đi đến và mọi người đều cảm thấy yêu quý người khác hơn những lúc bình thường. Một phút sau họ bắt đầu hành quân. Khi trời hửng lên một chút họ đi ra đến bìa rừng. Nằm trên bãi cát, giống như một con thằn lằn khổng lồ hoặc một con cá sấu mềm dẻo hoặc là một con rắn có chân – to hơn, dữ tợn và đầy bướu – chính là con rồng.

Khi nhìn thấy đoàn người, thay vì lao lên khạc ra lửa và xì khói, con rồng lại lùi lại – bạn có thể nói là nó đi lặc lè – quay về vũng nước ngoài vịnh.

- Nó lắc đầu như thế là nghĩa làm sao? – Edmund hỏi.

- Bây giờ nó lại gật gật đầu. – Caspian nói.

- Có một cái gì đó ứa ra từ đôi mắt nó. – Drinian nói.

- Mọi người không thấy sao, nó khóc đấy. – Lucy nói. – Đây là những giọt nước mắt.

- Tôi không tin điều đó đâu, thưa quý cô. – Drinian nói. – Nước mắt cá sấu thôi, đừng lơi là cảnh giác.

- Nó lắc đầu khi anh nói thế. – Edmund nhận xét. – Kìa, trông như thể nó muốn nói không. Nhìn coi, nó lại làm như thế lần nữa.

- Anh nghĩ là nó hiểu điều chúng ta nói? – Lucy hỏi.

Con rồng gật đầu thật mạnh.

Reepicheep nhảy khỏi vai Lucy bước lên phía trước, hỏi bằng giọng lanh lảnh:

- Rồng ơi, bác cũng hiểu được tiếng người à?

Rồng gật đầu.

- Thế bác có nói được không?

Rồng lắc đầu.

- Nếu vậy, - Reepicheep kết luận, - bọn tôi sẽ không mất thời gian hỏi han công việc của bác. Nếu bác thề sẽ thân thiện với chúng tôi thì hãy giơ chân trước bên tay trái lên cao hơn đầu.

Con rồng làm theo nhưng rất lóng ngóng, chân nó đau nhức và sưng phồng lên vì cái vòng vàng.

- Nhìn coi, có cái gì không ổn ở chân nó, - Lucy nói, - con vật đáng thương, có lẽ nó khóc vì cái vòng kia. Có thể nó đến để chúng ta chữa chạy cho nó như con sư tử ở Androcles.

- Hãy thận trọng, Lucy. – Caspian nói – Nó là một con rồng thông minh, nhưng nó có thể nói dối đấy.

Nhưng Lucy đã chạy lên phía trước, có bác Reepicheep ráng sức chạy theo như đôi chân ngắn củn của loài chuột có thể mang bác đi, tất nhiên hai cậu bé cùng Drinian cũng đi theo.

- Hãy cho tôi xem cái chân đau, - Lucy nói, - có thể tôi chữa được chăng?

Con rồng – trước từng là Eustace – vội chìa ra cái chân đau với một vẻ nhẹ nhõm bởi vì nó vẫn nhớ lọ thuốc của Lucy chữa cho nó khỏi bị bệnh say sóng như thế nào trước khi nó biến thành rồng. Nhưng rồi nó lại thất vọng ngay. Thuốc tiên có thể làm xẹp vết phồng và giảm đau nhưng không thể tháo cái vòng ra.

Mọi người xúm lại xem Lucy chữa trị, thình lình Caspian kêu lên:

- Nhìn này!

Và cậu nhìn chằm chằm vào cái vòng.

CHƯƠNG 7

 Trút bỏ lốt rồng

- Nhìn cái gì? – Edmund hỏi.

- Nhìn vào cái vật bằng vàng kia kìa. – Caspian nói.

- Một cái búa nhỏ với một viên kim cương gắn trên một ngôi sao. – Drinian nói. – Tại sao thế nhỉ, hình như tôi đã từng thấy. Đó là dấu hiệu của một nhà quý tộc người Narnia. Đó là chiếc vòng đeo tay của ngài Octesian.

- Đồ súc sinh. – Reepicheep hỏi con rồng. – có phải mày đã ăn thịt ông này không?

Rồng lắc đầu quầy quậy.

- Hoặc là có thể đây chính là ngài Octesian đã bị phù phép và hóa thành rồng. – Lucy giả định.

- Có thể là không phải cả hai khả năng đó. – Edmund lí luận. – Tất cả các con rồng đều thích sưu tập châu báu. Nhưng tôi nghĩ rất có khả năng là Octesian không đi xa hơn hòn đảo này.

- Rồng có phải là Octesian không? – Lucy hỏi rồng, rồi khi thấy rồng lắc đầu buồn bã, nó hỏi tiếp, - Thế rồng có phải là một người bị hóa phép không?

Rồng gật đầu quả quyết.

Im lặng một lúc, rồi một người hỏi – sau này người ta bàn cãi mãi không biết cái người hỏi câu hỏi ấy là Lucy hay là Edmund.

- Rồng… rồng… không phải là Eustace đấy chứ?

Eustace gật cái đầu rồng gớm ghiếc của nó thật mạnh, đập đuôi xuống nước và ai nấy đều lùi ra xa vì những giọt nước mắt to tướng của rồng. Nhiều thủy thủ còn thốt lên những tiếng mà tôi chẳng dám viết ra.

Lucy cố hết sức an ủi nó thậm chí còn thu hết can đảm để hôn lên cái mặt rồng đầy vẩy và gần như ai cũng thốt lên:

- Xui xẻo quá!

Nhiều người an ủi Eustace rằng nó sẽ trở lại hình người. Tất nhiên tất cả đều nóng lòng muốn nghe câu chuyện của nó nhưng nó không thể mở miệng ra nói được. Có hơn một lần trong những ngày tiếp theo đó nó cố gắng viết lên cát cho họ. Nhưng điều đó không bao giờ thành công. Bởi lẽ, thứ nhất, Eustace (chưa bao giờ đọc những cuốn đáng đọc) không biết phải bắt đầu câu chuyện như thế nào. Thứ hai, cơ bắp và hệ thần kinh ở chân một con rồng chưa bao giờ học viết và không được cấu tạo cho hoạt động viết chữ. Kết quả là nó không bao giờ viết xong trước khi nước triều dâng lên rửa sạch những điều đã viết ra, chỉ chừa lại một vài chữ mà nó nguệch ngoạc viết ra hoặc tình cờ quất đuôi lên. Kết quả là chỉ có một vài chữ vô nghĩa như sau:

TÔI… UỐN… NG… ỐNG… TÔI KHÔNG NÓI ỔNG HOANG… NÓ CHUYỆN… MƯA… DẬY.. TAY… ƠI…

Tuy vậy, mọi người đều thấy tính cách của Eustace trở nên dễ chịu hơn kể từ ngày nó biến thành rồng. Nó nóng lòng muốn giúp đỡ người khác. Nó bay ngang qua đảo, thấy ở đây toàn núi và cư dân ở đây chỉ là dê núi và heo rừng. Nó mang về tàu nhiều xác thú rừng để làm lương ăn. Nó cũng là một kẻ giết thú vật nhưng không làm cho con mồi đau đớn bởi vì nó giết chết con mồi chỉ bằng một cú quật đuôi và con mồi không hề hay biết (hãy cứ giả thuyết là như vậy) là nó đã bị hóa kiếp. Tất nhiên nó ăn thịt con mồi cho có sức và phù hợp với sự đòi hỏi của một cơ thể rồng, nhưng bao giờ cũng lén lút bởi vì bây giờ nó thích ăn thịt sống nhưng lại không thể chịu đựng được cảnh để cho người khác nhìn thấy nó ăn một cách man rợ như vậy.

Một hôm nó bay về căn cứ, lừ đừ mệt mỏi nhưng với một chiến thắng lớn, nó đã đánh trốc tận rễ một cây thông cực lớn ở một thung lũng xa để mang về dùng làm cột buồm. Vào buổi tối khi trời trở nên rét căm căm, như thỉnh thoảng vẫn có những hôm như vậy sau những trận mưa tầm tã, nó là nguồn an ủi cho mọi người, bởi vì cả đoàn chỉ có thể xúm lại dựa lưng vào cái thân hình ấm nóng của nó và chẳng mấy chốc họ thấy người khô ráo, ấm áp hẳn lên. Chỉ một hơi thở mạnh mẽ của nó cũng làm cháy lên một đống củi ẩm ướt nhất. Thỉnh thoảng nó lại cõng một vài người trên lưng bay vòng vòng để họ có thể nhìn thấy, từ từ trôi qua bên dưới họ là những triền đồi xanh, những vách đá cao ngất, những thung lũng xanh ngắt nhỏ như cái ống và xa tít bên ngoài biển khơi về phía đông là một điểm xanh đậm hơn trên chân trời xanh màu lá mạ và rất có thể đó là đất liền.

Chính niềm vui (thật là mới lạ đối với nó) được mọi người yêu mến và hơn nữa được yêu thương người khác là cái gì đã khiến Eustace không tuyệt vọng. Bởi vì là một con rồng là một cái gì rất đáng sợ. Nó thường rùng mình mỗi khi bắt gặp hình ảnh phản chiếu của chính mình khi nó bay qua một cái hồ trên núi. Nó ghét đôi cánh dơi, lớp vảy hình răng cưa trên lưng, những cái chân có móng guốc dữ tợn, dày trùng trục. Gần như nó rất sợ hãi khi chỉ có một mình, tuy vậy lại thấy xấu hổ khi có mặt bên những người khác. Vào những buổi tối khi nó không được cần đến như một chai nước nóng để chườm nó sẽ lẳng lẳng trườn ra khỏi trại, nằm cuộn tròn như một con rắn giữa khóm cây rừng và vịnh. Trong những trường hợp như vậy, trước sự kinh ngạc của nó, Reepicheep lại là nguồn an ủi nó thường xuyên nhất. Bác chuột quý tộc sẽ lặng lẽ chuồn khỏi đám đông cười nói vui vẻ, đến ngồi cạnh đầu rồng, cẩn thận không ngồi theo chiều gió để tránh những làn khói bốc ra từ mũi rồng. Ngồi ở đấy bác ta sẽ giải thích và lí luận rằng điều đã xảy ra cho Eustace là một minh họa rất thuyết phục cho sự xoay vần của bánh xe số phận. Rằng nếu Eustace có dịp ghé chơi thăm nhà bác ở Narnia (thật ra đó là một cái hang chứ không phải một ngôi nhà nên chỉ cái đầu rồng chứ đừng nói đến cả thân rồng cũng khó có thể chui lọt vào đấy) bác ta sẽ chỉ cho cậu bé thấy hơn một trăm bằng chứng về các vị hoàng đế, vua chúa, công tước, hiệp sĩ, thi sĩ, tình nhân, chiêm tinh gia, triết gia, pháp sư… những người đã rơi từ đỉnh cao chót vót của tiền tài danh vọng xuống những hoàn cảnh bi đát cùng cực nhất, nhưng nhiều người trong số họ đã phấn đấu vượt lên mọi trở ngại để vươn lên và sống một cuộc đời vui vẻ mãi mãi. Có lẽ điều này không có sức an ủi cho lắm vào lúc này nhưng nó đầy thiện chí và Eustace sẽ không bao giờ quên được.

Tất nhiên cái điều treo lơ lửng trên đầu mọi người như một đám mây là vấn đề phải làm gì với con rồng một khi họ sẵn sàng nhổ neo. Họ đã tránh không đề cập đến vấn đề này khi có mặt nó ở đấy nhưng nó không thể không nghe thấy những câu như thế này:

“Không biêt nó có nằm vừa một bên boong tàu không? Chúng ta sẽ phải chất đá lên phần kia cho cân bằng”.

Hoặc:

“ Nó có thể đi theo bằng cách bay trên trời không?”

Càng ngày Eustace càng hiểu ra rằng kể từ ngày đầu tiên đặt chân lên tàu nó đã là một mối phiền toái thực sự đối với mọi người và cho đến bây giờ nó vẫn còn là một mối họa lớn. Điều này gặm nhấm đầu óc nó cũng như cái vòng kim cương cứa vào da thịt nó. Eustace biết rằng dùng hàm răng vĩ đại cắn cái vòng chỉ làm cho mọi chuyện trở nên tồi tệ hơn nhưng đôi khi nó không thể không cắn cái vòng, nhất là vào những đêm oi bức.

Khoảng 6 ngày sau khi họ đổ bộ lên Đảo Rồng, Eustace tình cờ tỉnh giấc vào một buổi sáng tinh mơ nọ. Nền trời hửng lên một màu xám nhạt nên bạn chỉ có thể nhìn thấy những gốc cây quanh bạn chứ không nhìn thấy gì khác. Vào lúc đã hoàn toàn tỉnh giấc Edmund nghĩ cậu nghe thấy có cái gì đó chuyển động vì thế cậu chống một khuỷu tay, nhỏm người dậy nghe ngóng xung quanh: và kia cậu nghĩ mình trông thấy một bóng đen đang di chuyển về phía bìa rừng mọc lan ra tận bờ biển. Trong đầu cậu nảy ra ngay một ý nghĩ: “Ai thế nhỉ? Chúng ta đã biết chắc là không có một thổ dân nào trên đảo cơ mà.” Sau đó cạu nghĩ có thể là Caspian, dáng người cũng tầm tầm như thế, nhưng mà Caspian đang ngủ cạnh cậu và có thể thấy rõ là cậu ta đang nằm ngay đơ như khúc gỗ. Edmund kiểm tra lại gươm xem có đúng vị trí chưa rồi đứng dạy lên đi theo cái bóng nọ.

Cậu nhẹ nhàng đi ra bìa rừng và cái bóng đen vẫn còn đó. Bây giờ thì cậu thấy là cái bóng quá nhỏ so với Caspian và quá thô so với Lucy. Cái bóng không bỏ chạy. Edmund rút kiếm ra và đang định đối phó với người lạ thì cái bóng đã nói bằng một giọng thầm thì:

- Là anh à Edmund?

- Phải! Cậu là ai?

- Không biết em à? Em là Eustace đây?

- Lạy chúa tôi, - Edmund thốt lên, - ra thế đấy. Cậu em họ thân yêu…

- Suỵt! – Eustace nói, hơi lảo đảo như thể nó sắp té ngã.

- Chào cậu em! – Edmund nói, đỡ Eustace dậy. – Có chuyện gì vậy? Em bị ốm à?

Eustace im lặng một lúc khiến Edmund nghĩ là nó sắp ngất xỉu đến nơi, nhưng cuối cùng Eustace cũng nói:

- Điều này thật quá kì lạ. Anh không biết đâu… nhưng bây giờ thì ổn rồi. Chúng ta có thể đi đến chỗ nào đó nói chuyện không? Em còn muốn… chưa muốn gặp ai khác.

- Được, ở bất cứ nơi nào em muốn. – Edmund đồng ý. – Chúng ta có thể lại chỗ mấy tảng đá đằng kia. Anh muốn nói anh rất vui sướng khi gặp em – lại là em như xưa. Chắc là em đã trải qua một khoảng thời gian khủng khiếp nhất.

Họ đi ra chỗ mấy tảng đá chồng lên nhau, ngồi xuống, nhìn ra vịnh trong lúc da trời mỗi lúc một nhạt hơn, nhạt hơn, các vì sao dần dần biến mất trừ một ngôi sao rực rỡ mọc rất thấp cuối chân trời.

- Em sẽ không kể cho anh biết em… em đã biến thành con rồng như thế nào cho đến khi em có thể nói chuyện được với những người khác và cho nó vào dĩ vãng. – Eustace nói. – Dù sao em cũng không biết em đã là một con rồng cho đến khi em nghe tất cả mọi người dùng cái từ ấy vào lúc em quay lại đây, sáng hôm ấy. Em muốn cho anh biết em đã thôi làm rồng như thế nào. 

- Vậy em cứ kể tiếp đi.

- Phải, đêm qua mới thật là đêm… em cảm thấy đau khổ hơn bao giờ hết. Cái vòng tay chết tiệt này làm bất cứ cái gì dù là da thịt của một con rồng cũng phải đau đớn kinh khủng.

- Bây giờ thì ổn rồi chứ?

Eustace cất tiếng cười – một tiếng cười khác với kiểu cười trước đây của nó mà Edmund từng biết – rồi nó dễ dàng tháo cái vòng ra khỏi cánh tay.

- Nó đây này, bất cứ ai thích cũng có thể lấy… Phải, như em đã nói, em nằm thao thức, tự hỏi rằng chuyện quái quỷ nào sẽ xảy ra cho mình nữa đây. Và rồi, anh biết không, như trong những giấc mơ vậy. Em không biết…

- Cứ kể tiếp đi. – Edmund khích lệ.

- Phải, là thế này, em nhìn lên và trông thấy cái điều cuối cùng mà em nghĩ đến, một con sư tử lớn chậm rãi đi về phía em. Có một điều lạ lung là đêm qua không có trăng nhưng ánh trăng tràn ngập ở chỗ sư tử đứng. Nó lừng lững đến gần em hơn, hơn nữa. Anh cũng biết rằng, là một con rồng, em có thể đánh gục bất cứ con sư tử nào một cách dễ dàng. Nhưng đó không phải là cái nỗi sợ kiểu ấy. Em không sợ nó ăn thịt em, nhưng em… em sợ nó – anh có thể hiểu được điều này không? Phải, nó đến sát bên em, nhìn thẳng vào mắt em. Và em… em nhắm mắt thật chặt. Nhưng nào có ích gì bởi vì nó bảo em đi theo nó.

- Em muốn nói là nó nói như người?

- Em không rõ. Bây giờ khi anh đề cập đến điều này… em… em không nghĩ là nó nói. Nhưng cũng giống như là nó đã nói vậy. Em biết rằng em phải làm cái điều mà nó bảo em, thế là em đứng dậy đi theo nó và nó dẫn em đi một chặng đường dài lên núi. Bao giờ cũng có ánh trăng rọi xuống bất cứ chỗ nào mà sư tử đi đến. Cứ như vậy, cuối cùng chúng em đến một ngọn núi mà em chưa từng thấy trước đó. Ở đấy có một khu vườn – cây trái xum xuê và tất cả mọi thứ. Giữa vườn có một cái giếng. Em biết đó là một cái giếng bởi vì anh có thể nhìn thấy bọt sủi từ dưới đáy lên, có điều nó lớn hơn tất cả những cái giếng khác, lớn hơn nhiều… như một cái hồ tắm lớn, tròn, có những bậc thang bằng đá hoa cương bao quanh. Nước trong leo lẻo và em nghĩ nếu em đi xuống đắm mình trong dòng nước ấy thì cái đau đớn ở cánh tay sẽ dịu đi. Nhưng sư tử bảo em trước tiên hãy cởi quần áo ra. Anh hiểu không, em cũng không biết sư tử nói điều ấy bằng giọng nói oang oang hay dịu dàng nữa.

Em toan nói là em không thể cởi đồ vì em làm gì có quần áo thì một ý nghĩ lóe lên trong đầu em, phải rồi, rồng cũng có da như một loài bò sát mà rắn thì vẫn thay da hàng năm. “Ồ, tất nhiên rồi, - em nghĩ, - đó là ý nghĩ của sư tử”. Thế là em lấy móng vuốt cào lên người, vảy bắt đầu bong ra trên toàn thân. Được thể, em cào sâu hơn nữa và cùng với những cái vảy bong ra ở chỗ này chỗ kia, thịt da em cũng bắt đầu tróc ra một cách nhẹ nhàng khoan khoái như sau một cơn bạo bệnh hoặc như thể em là một củ hành bóc ra nhẹ nhàng từng lớp. Khoảng một hoặc hai phút sau, em bước ra khỏi cái đống vỏ đó. Em nhìn lại cái đống vảy bên cạnh, một đống rác rưởi đến tởm. Đó là một cảm giác bay bổng tuyệt vời nhất. Thế là em đi xuống giếng tắm.

Nhưng trước khi thò chân xuống nước, em nhìn xuống mặt nước và thấy một hình bóng khó coi thô thiển, xù xì, nhăn nheo, cóc cáy… cũng như trước. Ồ, không sao, em tự nhủ điều đó có nghĩa là em còn một bộ cánh nhỏ hơn dưới cái vỏ ngoài vừa bóc ra và thế nào em cũng phải thoát khỏi cái lốt này. Thế là em lại cào lại gãi tiếp, cả bộ cánh này cũng dễ dàng lột ra, em để nó lại cạnh đống trước và đi soi mình xuống giếng.

Một điều tương tự lại xảy ra và em nghĩ: “Chúa ơi, mình có bao nhiêu lớp da đây?” Bởi vì em nóng lòng muốn tắm một cái. Em lại cào nữa để thoát ra khỏi lớp da thứ ba như hai lần trước. Nhưng nhìn xuống nước em phát hiện có điều gì không ổn.

Đến đây sư tử nói – nhưng em không chắc có phải nó nói hay không:

- Con hãy vui lòng để ta cởi quần áo cho con chứ?

Quả là em rất sợ móng vuốt của sư tử, em có thể nói với anh như vậy, nhưng em đang ở trong tình trạng không còn sự lựa chọn nào khác. Thế là em lẳng lặng vươn dài người chìa lưng ra cho sư tử.

Cái cào sâu đến nỗi em nghĩ nó chạm cả vào tim em ấy chứ, khi sư tử bắt đầu lột da em, nỗi đau thật khôn cùng, chưa bao giờ em đau đớn đến thế. Chỉ có một điều khiến em có thể chịu đựng được là niềm vui cảm thấy mình đang trút bỏ một cái gì xấu xa. Anh biết không – đã có bao giờ anh bóc vẩy ở một vết thương còn mưng mủ chưa? Đau đớn kinh khủng… nhưng cũng là một sự giải thoát khi có thể trút bỏ.

- Anh hiểu đúng điều em muốn nói. – Edmund trầm ngâm lên tiếng.

“Phải, sư tử bóc cái lớp da xấu xí kinh tởm đó, cũng là cái việc em nghĩ là mình đã làm ba lần trước nhưng những lần ấy không đau tí nào, da chỉ bở ra như vỏ khoai – còn lớp da này nằm ở trên cỏ: dày hơn, đen hơn, trong còn đáng sợ kinh tởm hơn những lớp da trước. Bây giờ thì người em trơn trơn, mềm mại hơn như một cành cây non mới nhú và nhỏ hơn trước nhiều.

Sau đó sư tử nâng bổng em lên – em không muốn thế đâu bởi vì bây giờ em rất non nớt ở phần dưới, thực ra thì em chẳng còn da thịt gì – rồi ném em xuống nước. Đầu tiên em thấy đau buốt toàn thân, nhưng chỉ một vài giây thôi sau đó là một cảm giác khỏe khoắn, tươi mới tuyệt vời làm sao và ngay khi ngụp lặn vùng vẫy dưới nước, em phát hiện cái đau như cắn xé ở cánh tay đã biến mất. Rồi em hiểu được tại sao. Em lại là một cậu bé. Chắc anh nghĩ em không nói thật nếu em kể cho anh nghe em có cảm giác gì ở cánh tay mình. Em biết em không có bắp tay và một hình thể đẹp như tay Caspian, nhưng em rất vui khi nhìn xuống cánh tay mình.

Sau đó một chút, sư tử kéo em lên bờ và mặc quần áo cho em…

- Mặc quần áo cho em? Với những cái móng vuốt sư tử?

- Phải, em không nhớ chính xác cho lắm. Nhưng sư tử đã làm thế - bằng cái bộ đồ mà em đang mặc đây, đơn giản như thế. Thế rồi bất chợt em thấy mình đang ở đây. Điều đó làm cho em nghĩ tất cả là một giấc mơ.

- Không! Không phải một giấc mơ đâu – Edmund khẳng định.

- Tại sao?

- Bởi vì, bộ quần áo em đang mặc có thật và em ở đây, không còn trong lốt rồng nữa, đó là lí do thứ hai.

- Vậy anh nghĩ gì về chuyện này?

- Anh nghĩ em đã gặp Aslan, Eustace ạ.

- Aslan! – Eustace thốt lên. – Em đã nghe nói đến cái tên này vài lần kể từ ngày chúng ta đến với con tàu Hướng tới bình minh. Và em cảm thấy – em không biết là vì cái gì – em rất ghét cái tên ấy. Nhưng, trước đây có cái gì mà em không ghét đâu. Dù sao thì em cũng muốn xin lỗi. Em sợ rằng em đúng là một thằng nhóc tai quái, dễ ghét, xấu tính.

- Thôi được rồi. Nếu so sánh giữa hai chúng ta thì em không xấu bằng anh trong lần đầu tiên anh đến Narnia đâu. Có lẽ em chỉ là một con lừa còn anh lại là một kẻ phản bội.

- Vậy thì đừng nói với em điều đó. – Eustace nói. – Aslan là ai vậy? Anh có biết ông ấy không?

- Có, ông có biết anh. Ông là sư tử vĩ đại, con trai của Thương Hải Đại Vương, người đã cứu anh và cứu cả Narnia nữa. Tất cả bọn anh đều gặp ông ấy. Lucy gặp ông nhiều lần hơn cả. Và có lẽ chúng ta sẽ đến được quê hương của Aslan.

Một lúc lâu không có ai nói gì. Ngôi sao cuối cùng cũng tan chảy ở một góc trời mặc dù vẫn không thấy cảnh mặt trời mọc, đó là vì rặng núi nằm bên tay phải họ chắn ngang nhưng họ biết mặt trời đang lên cao dần vì bầu trời trên đầu và cái vịnh trước mặt chợt hồng rực lên. Rồi một vài loài chim thuộc giống yểng bắt đầu kêu lảnh lót trong cánh rừng sau lưng.

Họ nghe có tiếng bước chân rậm rịch sau lưng và cuối cùng tiếng tù và của Caspian vang lên. Khu trại đã thức dậy.

Niềm vui dâng đầy khi Edmund và Eustace vừa hồi sinh đi về phía vòng người quây quần bên ngọn lửa trại. Tất nhiên bây giờ mọi người được nghe đoạn đầu của câu chuyện. Ai cũng cảm thấy thắc mắc không biết con rồng kia đã ăn thịt ngài Octesian vài năm trước hay chính ông đã hóa thành con rồng rồi già đi mà chết. Số kim cương mà Eustace đã nhét đầy trong túi cũng đã biến mất cùng vời bộ quần áo nó mặc trước đây. Nhưng không có ai, nhất là Eustace lại muốn quay lại thung lũng đó để lấy vàng bạc.

Vài ngày sau con thuyền Hướng tới bình minh lúc này đã được sửa chữa, tân trang, làm mới lại sẵn sàng lên đường. Trước khi nhổ neo, Caspian cho khắc lên một vách đá đã được mưa nắng bào nhẵn trông ra vịnh những dòng chữ:

ĐẢO RỒNG

ĐƯỢC PHÁT HIỆN BỞI

CASPIAN THỨ MƯỜI, VUA XỨ NARNIA

VÀO NĂM THỨ 4 TRONG TRIỀU ĐẠI CỦA NGƯỜI

Ở ĐÂY CHÚNG TÔI NHẬN ĐƯỢC

SỰ GIÚP ĐỠ CỦA NGÀI OCTESIAN

VÀ CÁI CHẾT CỦA ÔNG.

Sẽ là điều tốt đẹp gần với sự thật nếu nói rằng kể từ đấy về sau, Eustace đã trở thành một thiếu niên đáng mến. Nói một cách chính xác hơn, nó bắt đầu thành một thằng con trai khác hẳn. Cũng có lúc nó tái phạm sai lầm, cũng có nhiều ngày nó trở nên khó chịu. Nhưng tôi lại không nhận ra hầu hết những lần ấy. Sự cải biến bắt đầu.

Cái vòng tay của ngài Octesian đã có một số phận thật kì lạ. Eustace không muốn giữ nó và đã đưa cho Caspian; Caspian lại tặng Lucy. Cô bé cũng không muốn giữ một vật như vậy.

- Được thôi, vậy thì để xem nó sẽ đi đâu nào.

Caspian nói và ném nó lên không trung. Lúc ấy mọi người đang đứng nhìn dòng chữ khắc trên vách đá. Cái vòng tay bay vút lên cao, lóe sáng dưới ánh mặt trời rồi mắc vào một hòn đá nhỏ chĩa ra, vừa khéo như trong trò chơi ném vòng. Nó lơ lửng ở lưng chừng núi, không ai có thể trèo từ dưới đất lên để lấy mà cũng chẳng ai có thể từ trên bò xuống để lấy được. Theo tôi biết, nó vẫn treo lơ lửng ở đó và có thể sẽ còn ở nguyên đó cho đến ngày tận thế.

CHƯƠNG 8

 Hai lần thoát chết

Ai cũng lấy làm vui mừng khi con tàu Hướng tới Bình Minh giong buồm từ giã đảo Rồng.

May thay họ đón được những ngọn gió lành đủ để đi xa khỏi vịnh và sáng sớm hôm sau đã đến một mảnh đất kì lạ mà một số người đã nhìn thấy khi bay qua những rặng núi lúc Eustace vẫn còn là rồng. Đó là một hòn đảo bằng phẳng, xanh tươi chẳng có gì ngoài lũ thỏ và một vài con dê, nhưng căn cứ vào những gì còn lại của một vài túp lều dựng bên vách đá, từ những vạt cỏ thiêu cháy bởi những đống lửa trại, họ cho rằng cách đây chưa lâu đã có người đặt chân lên đảo. Ngoài ra còn thấy mấy khúc xương và vũ khí bị gãy.

- Bọn cướp biển. – Caspian nói.

- Hoặc là tác phẩm của một con rồng. – Edmund đoán.

Một vật duy nhất khác thường mà họ tìm thấy ở đây là một chiếc thuyền nhỏ bằng da hay còn gọi là thuyền thúng đang nằm trên bãi cát. Nó được giấu trong một cái cũi làm bằng liễu gai. Đó là một chiếc thuyền nhỏ xíu; dài chừng hơn một mét, mái chèo vẫn còn nằm đúng vị trí. Mọi người suy đoán rằng hoặc chiếc thuyền này được làm cho một đứa trẻ hoặc là người ở vùng này là người lùn. Reepicheep quyết định giữ cái thuyền bởi nó cũng hợp với vóc dáng của bác. Thế là con thuyền được đưa lên tàu. Họ đặt tên nơi này là Đảo Cháy và lại rời đây ra đi vào lúc xế trưa.

Năm ngày tiếp theo họ đi theo ngọn gió nam - đông nam, không còn thấy đất liền đâu nữa chỉ có trời và nước, cũng không thấy con cá con chim nào cả. Đến ngày thứ sáu trời mưa như trút nước, mãi đến xế chiều mới tạnh. Eustace thua Reepicheep hai ván cờ và bắt đầu có tâm trạng bực dọc, cáu bẳn như cũ. Edmund thì nói rằng ước gì nó được cùng sang Mỹ với chị Susan. Thế rồi Lucy nhìn ra cửa sổ đuôi tàu, kêu lên:

- Hoan hô! – Tôi tin rằng mưa đã tạnh. Cái gì thế kia?

Tất cả đổ xô lên đuôi tàu. Mưa đã tạnh hẳn còn Drinian, đang làm nhiệm vụ hoa tiêu, thì nhìn chằm chằm vào một cái gì đó phía dưới tàu. Hoặc đúng hơn vào mấy thứ gì đó, trông như những tảng đá tròn, nhẵn nhụi, tạo thành một hàng dài vào khoảng hơn 10 mét.

- Nhưng đó không thể là đá. – Drinian khẳng định, - vì mới 5 phút trước còn không thấy nó.

- Và nó vừa biến mất. – Lucy nói.

- Và đến gần hơn!

- Đồ chết tiệt! – Caspian nói. – Cái vật ấy lại trôi theo hướng này.

- Và đi nhanh hơn tốc độ con tàu thưa bệ hạ. – Drinian đáp. – Nó sẽ xô vào chúng ta trong vòng một phút.

Tất cả mọi người nín thở, bởi vì chẳng có gì tốt lành khi bị một vật không quen biết truy đuổi dù là ở trên biển hay trên đất liền. Nhưng điều này hóa ra còn tệ hại hơn bất cứ điều gì người ta có thể hình dung được. Bất thình lình, khi chỉ còn cách mạn tàu một khoảng cách vụt một quả bóng criket, một cái đầu trông hết sức quái dị nhô lên khỏi mặt biển. Một cái đầu màu xanh lè và đỏ ối có đính thêm những vệt lốm đốm màu tím – chỉ chừa chỗ cho một vài con sò bám vào. Trông tựa như đầu ngựa mặc dù không có tai. Những con mắt to thô lố. được trời sinh ra để nhìn xuyên suốt qua bóng đen sâu thẳm của đại dương, một cái miệng ngoác ra toang hoác để lộ ra một dãy những chiếc răng đôi, nhọn hoắt hình con cá. Rồi từ từ nhô lên cái mà mới đầu mọi người tưởng là một cái cổ to cổ chảng, nhưng khi nó càng lúc càng nhô cao hơn thì mọi người biết đấy không phải là cái cổ mà là một thân hình dài khủng khiếp và cuối cùng cái mà mọi người nhìn thấy là vật mà nhiều người ngu ngốc cứ nhất định muốn tận mắt chứng kiến. Một con mãng xà biển vĩ đại. Những vòng cuộn của cái đuôi khủng khiếp ấy của nó có thể nhìn thấy từ đằng xa, đang từ từ cất lên cách mặt nước khoảng một sải tay. Bây giờ thì đầu rắn còn cao hơn cột buồm nữa.

Mọi người đổ xô đi tìm vũ khí, nhưng vũ khí thì liệu có ích gì, quái vật nằm ngoài tầm tay họ.

“Bắn, bắn!” – Đội trưởng bắn cung kêu lên, một vài người vâng lệnh, những mũi tên sượt qua lớp da rắn như thể đó là một chiếc đĩa sắt. Rồi, trong một phút giây chết chóc, tất cả mọi người đứng ngây ra, chằm chằm nhìn vào mắt vào miệng con quái vật tự hỏi nó sẽ nhảy xuống đâu.

Nhưng quái vật không bổ nhào xuống. Nó vươn cổ qua cái tàu ở một độ cao cách cột buồm chừng một mét. Nó vẫn vươn dài ra, dài ra cho đến lúc đầu nó thò qua thành tàu bên phải. Cái đầu hạ xuống – không phải xuống chỗ boong tàu có đám người chen chúc mà là thò xuống nước thành thử cả con tàu nằm dưới cái mái vòm của thân hình rắn, trên thực tế nó gần như đã chạm vào mạn phải con tàu.

Eustace (người đã cố gắng rất nhiều lần để cư xử cho phải đạo, chỉ đến khi trời mưa rả rích và hai ván cờ bị thua mới làm nó trở nên bẳn gắt) lúc ấy đã làm một việc dũng cảm đầu tiên trong đời. Nó đang mang thanh kiếm mà Caspian cho mượn. Đúng lúc thân hình con rắn sả thấp xuống mạn phải tàu nó nhảy lên thành tàu dùng hết sức đâm con quái vật. Sự thật thì nó chẳng làm nên công trạng gì ngoài việc làm gãy thanh kiếm tốt nhất nhì của Caspian, nhưng dù sao đấy cũng là một việc tốt đẹp với một người bắt đầu cho một sự khởi đầu mới.

 Những người khác hẳn đã theo gương nó nếu đúng lúc ấy Reepicheep không kêu lên:

- Đừng đánh! Đẩy đi!

Thật bất thường cái chuyện bác chuột lại đi khuyên người ta đừng đánh nhau nhất là lại trong giờ phút nguy ngập chết người này, thế nên mọi con mắt đổ dồn vào bác. Và khi bác nhảy phắt lên thành tàu thoăn thoắt đi về phía cái lưng con rắn, quay cái lưng nhỏ bé phủ một lớp lông xám vào sát cái thân hình khổng lồ đóng vẩy, trơn nhầy nhẫy của con rắn và bắt đầu ráng hết sức đẩy thì mọi người hiểu ý bác bèn chia nhau sang hai bên để làm một việc tương tự. Một lát sau thì ai cũng vỡ lẽ.

Quát vật đã dùng thân hình vĩ đại của nó thắt một vòng quanh con tàu. Một khi đã thít chặt vòng dây thì rắc một cái – cả con tàu sẽ chỉ là một mớ diêm trôi dật dờ trên sóng và nó sẽ nhặt từng món một lên. Cơ hội duy nhất của họ là cố đẩy cái thòng lọng về phía sau cho đến khi nó trượt khỏi đuôi tàu; hoặc giả làm đúng cái điều ấy theo một hướng khác, đẩy con tàu trôi ra khỏi thòng lọng.

Tất nhiên với một mình Reepicheep thì làm việc ấy có khác nào một người bình thường toan nhổ một ngọn tháp và bác ta suýt chết với cố gắng này trước khi người ta xô bác ta ra một bên. Chẳng bao lâu sau, tất cả thành viên trên tàu trừ Lucy và Reepicheep (đang sống dở chết dở) chia làm hai đội, đứng dọc thành tàu ngực người sau tì vào lưng người trước, như thế sức nặng của cả hàng người sẽ đổ vào người cuối cùng.

Hò dô ta nào, tất cả hợp sức đẩy vì sự sống còn của chính mình. Trong vài giây kinh khủng (có vẻ như kéo dài hàng giờ) chẳng có chuyện gì có vẻ như sắp xảy ra cả. Các khớp trên người như muốn long ra, mồ hôi túa ra như tắm, hơi thở dốc, hảo hển. Rồi họ cảm thấy con tàu như đang xê dịch. Cái thòng lỏng rắn như dịch ra khỏi cột buồm so với trước. Nhưng đồng thời cái vòng cũng siết chặt hơn. Bây giờ thì nguy hiểm thật sự đã kề cận bên cạnh. Họ có thể thoát khỏi thòng lọng hay là nó đã thít chặt lại rồi? Phải, vòng dây đã vừa khít. Con rắn tì người nó vào cột buồm phía đuôi tàu. Hàng chục người đổ nhào chạy về phía dưới tàu. Như vậy mà lại có điểm tốt. Thân hình con rắn sà thấp đến mức bây giờ họ có thể làm thành một hàng dài ngang qua phần đuôi tàu, hò nhau đẩy. Hi vọng trỗi dậy cao hơn cho đến khi mọi người nhớ ra là cái đuôi rồng của con tàu Hướng tới Bình Minh lại vượt lên cao hẳn. Không thể đẩy con quái vật qua cái đuôi tàu nhô cao như vậy được.

- Rìu, - Caspian gào lên giọng khản đặc, - cứ tiếp tục đẩy đi.

Lúc ấy Lucy, vốn biết chỗ để mọi vật trên tàu, nghe thấy tiếng Caspian vang đến boong tàu chính nơi nó đang đứng nhìn về đuôi tàu. Nhưng nó vừa đi đến nơi thì nghe có tiếng răng rắc rùng rợn tựa hồ một cây đại thụ bị đốn ngang, con tàu dềnh lên, lao vọt về phía trước. Bởi vì con rắn quyết định một cách ngu ngốc, thắt chặt thòng lọng lần cuối thế là toàn bộ phần đuôi rồng có trang trí, chạm trổ bị bẻ rời khỏi thân tàu và con tàu được giải thoát…

Đoàn người đã tận dụng hết sức lực của mình nên không nhận ra điều mà Lucy tận mắt chứng kiến. Kia, phía sau họ vài mét, cái thòng lọng làm bằng thân hình rắn biển nhanh chóng thu nhỏ lại rồi biến mất sau một cột nước bắn tung lên. Sau đó vài giờ Lucy có nói rằng (nhưng tất nhiên lúc ấy nó quá kích động và điều này có thể chỉ là chuyện tưởng tượng) nó trông thấy vẻ thỏa mãn lố bịch ngay trên một con vật. Bởi vì rõ ràng con vật này hết sức ngu ngốc, thay vì đuổi theo con tàu nó lại quay đầu mòng mòng rồi bắt đầu dí mũi quanh thân hình dài thượt của nó như thể nó chờ đợi tìm thấy xác con tàu Hướng tới Bình Minh ở đấy. Nhưng con tàu đã lao vọt đi xa, lướt vùn vụt trước một ngọn gió mới, sung sức. Cánh đàn ông người nằm người ngồi ngổn ngang trên boong tàu vừa thở như kéo bễ vừa rên rỉ cho đến lúc họ có thể tán dóc đôi câu và cười ồ cả lên vì chuyện này. Khi rượu rum được rót ra mọi người nâng cốc chúc mừng: ai cũng ca ngợi lòng quả cảm của Eustace (dù nó chẳng làm được tích sự gì) và trí thông minh của Reepicheep.

Sau đó họ lại lênh đênh trên biển suốt ba ngày nữa, chẳng thấy gì ngoài trời và nước mênh mông. Đến ngày thứ tư gió đổi sang hướng bắc và biển động dữ dội vào buổi chiều gần như trong một trận bão. Nhưng may thay cùng lúc đó họ đã nhìn thấy đất liền từ mạn trái mũi tàu.

- Tâu bệ hạ, - Drinian nói, - chúng ta phải cố hết sức tạt vào tị nạn ở mảnh đất kia bằng cách chèo vào và nằm lại trong vịnh, đợi cho đến lúc cơn bão qua đi.

Caspian đồng ý, nhưng việc chèo chống không thể cầm cự với sức gió giật đã không cho phép họ lại gần đảo trước khi chiều tối. Khi ánh ngày còn le lói chút hồi quang cuối cùng trước khi tắt hẳn con tàu cũng vào được bến cảng thiên nhiên đó và neo lại. Nhưng không ai lên bờ vào đêm ấy. Sáng ra họ thấy mình ở trong một cái vịnh xanh biếc của một vùng đất toàn đồi núi lởm chởm, hoang vu cao dần đều lên đến một đỉnh núi cao vượt lên tất cả. Từ phương bắc gió thổi ào ào đẩy một đám mây lớn vùn vụt lao tới. Họ hạ con thuyền xuống, chất xuống thuyền các thùng nước bây giờ đã cạn khô.

- Chúng ta sẽ lấy nước ở dòng chảy nào đây hả ông Drinian? – Caspian hỏi khi cậu ngồi vào con thuyền. – Hình như có hai con suối đổ xuống vịnh.

- Dường như có gì kì lạ ở đây, thưa bệ hạ. – Thuyền trưởng đáp. – Nhưng thần nghĩ sẽ gần hơn nếu đi về phía mạn phải tàu – vậy ta chọn con suối hướng đông.

- Trời sắp mưa đấy. – Lucy nói.

- Anh nghĩ mưa đổ xuống ngay bây giờ thôi. – Edmund vừa nói dứt lời thì làn nước đầu tiên quất xuống rát ràn rạt. Tôi nghĩ ta nên đi đến dòng suối kia. Ở đấy có cây cối và chúng ta có thể có chỗ nghỉ tạm.

- Đúng vậy, thế thì đi ngay đi. – Eustace phụ họa. – Chẳng có lí gì phải đứng đây dầm mưa không cần thiết.

- Nhưng Drinian đều đặn lái tàu quẹo sang mạn phải như một số người bướng bỉnh cầm vô lăng xe hơi cứ tiếp tục lái xe với tốc độ 70 km một giờ trong khi bạn mỏi mồm giải thích rằng họ đã đi sai đường.

- Họ nói đúng đấy Drinian. – Caspian nhắc nhở. – Tại sao ông không quay mũi thuyền một vòng và đi đến dòng suối phía Tây?

- Xin tuân lệnh thánh thượng. – Drinian xẵng giọng đáp. Ông đã có một ngày đầy âu lo căng thẳng với sự tráo trở của thời tiết ngày hôm qua và ông không thích nghe lời khuyên của những người không phải dân đi biển. Nhưng ông vẫn bẻ lái, ngược lại hướng mà ông cho là thuận lợi hơn.

Sau khi họ múc nước vào đầy các thùng chứa thì mưa cũng đã tạnh, Caspian cùng với Eustace, anh em nhà Pevensie và Reepicheep quyết định đi bộ lên ngọn đồi nhìn quang cảnh nơi này. Đó là một cuộc leo núi khó nhọc qua những lớp cỏ dại sắc như dao và những bụi thạch nam, họ không gặp một người hay một con chó nào ngoài hải âu. Khi đã lên được đến đỉnh, cả bọn thấy rõ đây là một hòn đảo nhỏ, có diện tích không lớn hơn 20 hecta.

Nhìn từ độ cao này biển cả không còn vẻ mênh mang hơn, cô quạnh như là nhìn từ boong tàu hoặc thậm chí từ bệ chiến đấu của con tàu Hướng tới Bình Minh.

- Thật điên, chị cũng thấy đấy. – Eustace nói nhỏ với Lucy trong lúc đưa mắt nhìn về chân trời phía Đông. – Cứ đi, đi mãi đến cái nơi mà không ai có ý nghĩ là sẽ đến được.

Nhưng nó nói thế là vì do thói quen chứ không có ác ý như trước đây nó đã từng nói.

Đứng lâu trên đỉnh rất lạnh bởi vì gió từ phương bắc vẫn liên tục thổi về.

- Đừng trở về bằng con đường lúc nãy, - Lucy đề nghị khi họ quay về, - hãy đi con đường dài hơn một chút xuống con suối đằng kia, chỗ Drinian muốn đến.

Mọi người đồng ý và khoảng 15 phút sau họ đi đến thượng nguồn dòng suối thứ hai. Nơi này thú vị hơn là họ mong đợi, một hồ nước bên chân núi, nhỏ mà sâu bao quanh bởi những vách núi chỉ để chừa một lối đi hẹp ở mạn trông ra biển nơi dòng nước chảy ra. Ở đây, họ thoát khỏi ngọn gió, cả bọn ngồi xuống gần một bụi thạch nam mọc trên bờ dốc để nghỉ ngơi.

Tất cả ngồi xuống, nhưng một người (đó là Edmund) lại nhảy lên đến thoắt một cái.

- Sao nó có thể mọc lên ở một nơi toàn sỏi đá như thế này? – Cậu nói, săm soi nhìn bụi thạch nam. – Cái vật khốn khổ ấy ở đâu vậy? – À, bây giờ tôi thấy rồi… Úi chà! Không phải là đá nhé, đó là cái chuôi kiếm. Không, trời đất ạ, đó là cả một thanh kiếm, nhưng đã bị rỉ sét cả. Nó phải nằm ở đây đến hàng thế kỷ rồi.

- Của người Narnia, cứ nhìn kĩ mà coi. – Caspian nói khi tất cả xúm lại xem thanh kiếm.

- Em cũng đang ngồi lên một vật gì đó, - Lucy kêu lên, - một vật gì rất cứng.

Vật này hóa ra là một mảnh còn lại của một cái áo giáp. Và lúc ấy ai nấy đều bò lổm ngổm trong bụi thạch nam, tìm kiếm, moi móc tất cả các gốc cây. Từng tí từng tí một họ tìm được một cái mũ trụ, một con dao găm, vài đồng bạc cắc không phải tiền Calormen mà là tiền xưa của người Narnia in hình sư tử và thảm thực vật, như bạn có thể trông thấy vào bất cứ ngày nào trong một ngày chợ phiên ở Đập Hải Ly hoặc Beruna.

- Rất có thể đây là tất cả những gì còn lại của một trong bảy nhà quý tộc. – Edmund gợi ý.

- Đó cũng là điều tôi nghĩ đến. – Caspian nói. – Tôi tự hỏi chuyện này là như thế nào. Không có dấu vết gì để lại trên dao găm. Không hiểu người này chết như thế nào?

- Và làm cách nào chúng ta có thể trả thù cho ông ta. – Reepicheep nói thêm.

Edmund là người duy nhất trong bọn từng đọc mấy cuốn truyện trinh thám tỏ vẻ suy nghĩ lung lắm.

- Coi đây, - cuối cùng cậu nói, - có một cái gì kì bí trong chuyện này, người này không thể bị giết trong một trận đấu.

- Tại sao? – Caspian hỏi.

- Không thấy có xương để lại. – Edmund nói. – Kẻ thù chỉ có thể cướp đi vũ khí và phải để cái xác lại. Có ai nghe nói đến chuyện một kẻ chiến thắng lại mang cái xác đi và để vũ khí lại chưa?

- Có lẽ ông ấy bị thú rừng giết chết. – Lucy gợi ý.

- Thế thì đó là một con thú cực kì thông minh, - Edmund nói, - vì nó biết cách cởi áo giáp của đối thủ ra.

- Biết đâu lại là một con rồng. - Caspian phỏng đoán.

- Không có chuyện như thế. - Eustace gạt đi.

- Một con rồng không thể làm việc đó. Tôi biết rõ như thế.

- Dù sao cũng nên đi khỏi nơi này. - Lucy nói. Nó không muốn nán lại nơi đây nữa sau khi Edmund đưa ra vấn đề về những khúc xương.

- Tùy ý mọi người. - Caspian nói và đứng lên. - Tôi không nghĩ ở đây có bất cứ cái gì dễ dàng cho chúng ta mang đi.

Cả bọn đi xuống và rẽ vào một hẻm núi nhỏ dẫn đến một hồ nước. Họ đứng lại nhìn xuống hồ nước sâu nằm lọt giữa những vách đá. Hôm ấy là một ngày hè oi ả, không ai trong bọn không thèm nhảy xuống dòng nước mát tắm cho thỏa thích và ai cũng muốn uống cho đã cái làn nước trong xanh thăm thẳm ấy. Thực vậy, Eustace đã cúi xuống chụm hai tay toan vục nước lên uống thì cả Lucy và Reepicheep đều đồng thanh kêu lên: “Coi kìa!” thế là nó quên mất chuyện uống nước, bất giác nhìn xuống giữa hồ.

Đáy hồ được thiên nhiên lót bằng những phiến đá màu xanh xám, dòng nước trong như lọc soi rõ xuống tận đáy và kia, ở giữa đáy hồ là một bức tượng to bằng người thật, rõ ràng là được đúc bằng vàng. Tượng ở tư thế nằm ngửa, hai tay giơ cao lên trên đầu. Đúng lúc cả bọn ngây người ngắm nghía bức tượng thì đám mây trên đầu tách ra, mặt trời hiện lên rọi ánh nắng chói chang xuống trần. Pho tượng vàng được mặt trời làm sáng rực lên từ đầu đến chân.

Lucy nghĩ đó là bức tượng đẹp nhất mà nó từng thấy.

- Trời đất! – Caspian thì thầm. – Thật đáng để chúng ta đến coi! Tôi tự hỏi chúng ta có thể vớt lên được không?

- Chúng ta có thể lặn xuống lấy thưa bệ hạ. – Reepicheep nói.

- Làm thế không được hay cho lắm. – Edmund nói. – Ít nhất nếu nó bằng vàng thì sẽ quá nặng để đưa lên. Và cái hồ này sâu ít nhất cũng từ bốn đến năm mét. Nhưng hãy chờ một chút. Thật may là tôi có mang theo cái xiên đi săn. Để coi xem cái hồ này sâu bao nhiêu. Cầm tay tôi, Caspian, trong lúc tôi cúi xuống đo mực nước.

Caspian nắm lấy tay Edmund và cậu cúi người xuống thả cái xiên xuống hồ.

Cái xiên mới đi được nửa chừng thì Lucy đã kêu lên:

- Em không tin là tượng làm bằng vàng đâu. Chỉ vì ánh sáng thôi. Coi kìa, cái xiên của anh cũng có cái màu ấy.

- Chuyện gì vậy? – Một vài giọng nói đồng loạt bật lên bởi vì Edmund tuột tay đánh rơi cái xiên.

- Tôi không thể giữ nổi. – Edmund nói. – Và Lucy đã đúng. Nó cũng có cái màu như pho tượng.

Nhưng rõ ràng Edmund có vấn đề gì đó với đôi ủng đang mang, ít nhất thì cậu cũng cúi xuống nhìn đôi ủng dưới chân, rồi đứng thẳng người, hét lên với một cái giọng chói tai đến mức khó ai có thể không nghe theo:

- Lùi lại! Lùi ngay khỏi bờ! Tất cả. Ngay bây giờ!

Mọi người líu ríu làm theo và giương mắt lên nhìn cậu.

- Nhìn đây, nhìn mũi ủng tôi mà xem. - Edmund nói.

- Có màu vàng. - Eustace ngỡ ngàng nói.

- Nó là vàng, vàng thật đấy. - Edmund cắt ngang. - Hãy sờ thử mà xem. Da đã bị tuột ra khỏi chỗ giày nhúng xuống nước, bây giờ nó nặng như chì.

- Nhân danh Aslan! - Caspian kêu lên. - Cậu không muốn nói…

- Phải, chính là thế đấy. - Edmund đáp giọng chắc nịch. - Nước đã biến mọi thứ thành vàng, đó là lý do tại sao nó trở nên nặng thế. Nước đã liếm vào mũi giày của tôi (cũng may mà tôi không đi đất) biến mũi giày thành vàng. Và cái con người đáng thương nằm dưới kia - phải mọi người thấy đấy.

- Như vậy đó hoàn toàn không phải là tượng. - Lucy hạ giọng, ngỡ ngàng.

- Đúng thế. Bây giờ mọi việc trở nên đơn giản hơn. Người này đến đây vào một ngày nóng nực. Ông ta cởi quần áo để trên vách núi kia - nơi chúng ta vừa ngồi. Quần áo thì đã mục nát cả hoặc là bị chìm tha đi làm tổ, chỉ còn vũ khí để lại đây. Rồi ông ta lặn xuống…

- Thôi đừng nói nữa. - Lucy nói, - mọi việc nghe kinh khủng quá.

- Như vậy chúng ta thoát chết trong đường tơ kẽ tóc. – Edmund nói

- Quả vậy. - Reepicheep nói. - Bất cứ ngón tay của ai, hoặc bàn chân, hoặc sợi ria hoặc mẩu đuôi vẫn có thể rơi xuống nước vào bất cứ lúc nào.

- Đúng như vậy, tất cả cũng thế thôi. - Caspian nói. - Chúng ta sẽ thử điều này ngay bây giờ.

Cậu cúi xuống nhổ một nhánh thạch nam. Rồi thật cẩn thận, cậu quỳ xuống bên bờ hồ nhúng cành cây xuống nước. Trước khi nhúng xuống đó là một cành thạch nam tươi nhưng đến lúc rút lên nó là một cành thạch nam bằng vàng ròng và xốp như chì.

- Ông vua nào sở hữu hòn đảo này, - Caspian nói giọng chậm rãi khuôn mặt đỏ bừng lên, - sẽ mau chóng trở thành ông vua giàu có nhất trong tất cả các ông vua trên dời. Tôi tuyên bố mảnh đất này mãi mãi là tài sản của người Narnia. Nó sẽ có tên là Đảo nước - Vàng. Và tôi đề nghị tất cả mọi người giữ bí mật chuyện này. Không ai được biết về điều này. Không một ai kể cả Drinian - nếu không sẽ bị tội chết, mọi người nghe rõ chưa?

- Cậu đang nói với ai đấy? - Edmund hỏi. - Tôi đâu phải là thần dân của cậu. Nếu có bất cứ chuyện gì thì nó phải xảy ra theo một cách khác. Tôi là một trong bốn hoàng đế cổ của Narnia và cậu phải có bổn phận trung thành với đức vua tối cao Peter anh tôi nữa.

- Thế là mọi chuyện xoay ra thế này phải không vua Edmund? - Caspian hỏi, đặt tay lên đốc kiếm.

- Ôi, có thôi đi không cả hai người? - Lucy nói. - Liên quan đến bọn con trai các anh thật tệ hại hết chỗ nói. Tất cả các anh chỉ là những thằng ngốc phách lối, nghênh ngang. Ôi iiii!

Tiếng nói của nó trượt đi thành một tiếng kêu dài. Và tất cả mọi người đều trông thấy cái mà nó đang nhìn.

Ngang qua một triền đồi xám trước mặt - xám vì thạch nam còn chưa ra hoa - không gây ra một tiếng động và không nhìn ai, sáng bừng lên như thể ông đagn được ánh mặt trời rọi chiếu trong khi trên thực tế mặt trời đã khuất sau một đám mây lớn, bước những bước thong thả với một tốc độ quá chậm so với con sư tử lớn nhất mà người ta từng thấy, chính là…Để tả lại cảnh này, về sau Lucy đã nói:

- Ông to như một con voi.

Nhưng lần khác nó chỉ nói: “Như một con ngựa kéo xe”

Nhưng tầm vóc không phải là vấn đề. Không một ai dám hỏi đó là cái gì. Ai cũng biết đấy là Aslan.

Không một ai biết ông đi đâu cả và đi như thế nào. Cả bọn ngơ ngác nhìn nhau như vừa thức giấc.

- Chúng ta đang nói chuyện gì vậy? – Caspian hỏi. – Tại sao tôi lại biến mình thành một con lừa thế này?

- Thưa bệ hạ, - Reepicheep nói, - đây là mảnh đất đáng bị nguyền rủa. Chúng ta hãy quay trở lại bờ biển ngay lập tức. Và nếu thần có vinh dự đặt tên cho hòn đảo này, thần sẽ gọi nó là Đảo Nước – Chết.

- Đúng, tôi nghĩ đó là một cái tên thích hợp, Reepicheep ạ, - Caspian nói, - mặc dầu bây giờ suy nghĩ về nó tôi không hiểu tại sao. Nhưng thời tiết dường như đã trở nên tốt hơn và tôi dám nói là Drinian muốn khởi hành ngay. Có bao nhiêu điều phải nói với ông ấy.

Nhưng trong thực tế họ không nói gì nhiều bởi kí ức về cái giờ cuối cùng ấy trở nên mơ hồ, lẫn lộn.

- Bệ hạ dường như bị ám ảnh bởi một điều gì khi họ quay lại bờ biển. - Drinian nói với Rhince vài giờ sau khi con tàu Hướng tới Bình minh một lần nữa lại được căng buồm lên và hòn đảo Nước - Chết đã lùi xa khuất sau chân trời, - Có một chuyện gì đã xảy ra với họ ở chỗ ấy. Điều duy nhất mà biết rõ là họ nghĩ đã tìm thấy thi thể của một trong những nhà quý tộc mà chúng ta đi tìm.

- Ông đừng nói thế thuyền trưởng ạ, - Rhince đáp. - Như vậy là đã biết tung tích ba người. Chỉ còn bốn người nữa thôi. Sau Tết chúng ta có thể về nhà được rồi. Điều này cũng tốt. Thuốc lá của tôi không còn nhiều. Chúc ngài ngủ ngon.

CHƯƠNG 9

 Hòn đảo của đội quân vô hình

Bây giờ, những ngọn gió liên tục thổi từ hướng tây bắc đã bắt đầu chuyển sang thổi từ hước tây. Mỗi buổi sáng khi mặt trời nhô lên khỏi mặt biển, mũi tàu cong cong của con tàu Hướng tới Bình minh lại làm thành một đường thẳng với mặt trời. Một vài người cho rằng mặt trời ở đây trông lớn hơn khi nhìn từ Narnia nhưng những người khác không đồng ý. Họ lại đi tiếp, đi mãi, sức gió nhẹ nhưng đều đặn; không thấy chim thấy cá, không thấy tàu bè hay đất liền. Đồ ăn thức uống dự trữ cũng cạn dần và một ý nghĩ gặm nhấm trong tâm trí họ là có lẽ họ đang đi trên một đại dương không hề có điểm dừng. Nhưng vào đúng ngày cuối cùng mà họ bắt đầu nghĩ thật là liều mạng nếu tiếp tục cuộc hành trình về phía đông nơi mặt trời mọc thì hình như ngay ở trước mặt, giữa họ và mặt trời đang lên, là một mảnh đất thấp nằm ngang với mặt biển trong bồng bềnh như một đám mây.

Họ thả neo trong một cái vịnh rộng vào khoản xế chiều và đi thuyền vào đất liền. Đó là một miền đất khác tất cả những nơi họ đã đi qua. Bởi vì khi họ đi ngang qua bãi biển cát vàng họ thấy nơi đây sao mà yên ắng, quạnh hiu như một vùng đất từ thuở trời đất hình thành đến nay vẫn chưa có bóng một sinh vật nào. Nhưng kìa, trước mặt họ là những bồn cỏ rất đẹp. Cỏ được xén phẳng, xanh mướt và mượt mà như chỉ có thể tìm thấy trong vườn của một dinh thự ở Anh có đến 10 người làm vườn đua nhau chăm bón. Cây cối, có rất nhiều cây, đều được trồng thành hàng đều tăm tắp và tuyệt không có một cành cây gãy hay một chiếc lá rơi trên mặt đất. Thỉnh thoảng có tiếng chim bồ câu gù nhau tình tứ, ngoài ra không có một tiếng động nào khác.

Đi được một lúc họ đến một con đường rải cát, thẳng tắp kéo dài về phía trước, không có cỏ mọc lên và không có cây cối ở hai bên đường. Xa xa, ở mãi cuối con đường, mãi bây giờ họ mới thấy một ngôi nhà dài, màu xám nhạt có vẻ hết sức hiu quạnh dưới ánh chiều tà.

Gần như ngay khi đoàn người đặt chân lên con đường thẳng tắp, một cục đá nhỏ lọt vào trong giày của Lucy. Khi bạn ở một miền đất lạ sẽ là khôn ngoan hơn nếu đề nghị người khác chờ mình trong khi lấy cục đá ra. Nhưng Lucy lại không làm thế; nó chỉ lặng lẽ tụt phía sau, ngồi xổm xuống để tháo giày. Dây giày thắt nút nên hơi khó cởi.

Trước khi nó cởi được nút dây giày ra thì những người kia đã đi trước một đoạn khá xa. Vào lúc nó lấy viên đá ra rồi lại mang giày vào thì nó đã không nghe thấy tiếng họ nữa. Nhưng gần như đúng lúc ấy nó nghe thấy có một tiếng động khác, không phải vọng đến từ hướng có ngôi nhà.

Cái nó nghe thấy là một tiếng động ầm ầm, nghe như có hàng chục lực điền đang lấy hết sức dộng mạnh cái vồ xuống đất. Tiếng động càng lúc càng vang đến gần hơn. Nó đứng quay lưng về phía một cái cây và bởi vì đây không phải là loại cây nó có thể trèo lên, nên chẳng có thể làm được gì ngoài việc ngồi chết trân và nép sau thân cây hy vọng không có ai trông thấy.

Thình thịch, thình thịch, thình thịch… bây giờ thì cái vật ấy đến rất gần vì nó cảm thấy mặt đất rung lên. Nhưng nó không nhìn thấy gì cả. Nó nghĩ cái vật hoặc những cái vật ấy chắc là ở phía sau lưng nó. Nhưng rồi tiếng động lại vang lên từ con đường mặt. Sở dĩ nó dám chắc như vậy không chỉ vì hướng đó có tiếng động mà còn bởi nó nhìn thấy cát bắn tung lên như thể mặt đất bị đánh nhưng cú rất mạnh. Tất cả những tiếng động ầm ấm kéo dài ấy đến gần hơn, chỉ còn các nó vào khoảng hơn 6 thước rồi thình lình im bặt. Một giọng nói cất lên. 

Lucy rùng mình, nghe gai ốc nổi lên dọc hai cánh tay, nó chẳng hề nhìn thấy ai cả, vẫn trống trải như từ lúc đầu – lúc họ vừa đặt chân đến đây. Và rồi một giọng nói cất lên:

- Các bạn, cơ hội của chúng ta đã đến rồi đó.

Tiếp đó cả một dàn đồng ca những tiếng nói khác cất lên: “Nghe đại ca đi! Thời cơ đã chín muồi, đại ca nói thế. Đúng quá, đúng quá, đúng quá! Đại ca chưa bao giờ nói một điều gì đúng hơn.

- Điều ta nói, - giọng nói lĩnh xướng tiếp tục, - là hãy xuống bãi biển giữa chúng ta và con thuyền rồi để cho mỗi đứa con trai của mẹ tìm vũ khí cho nó. Bắt lấy chúng khi chúng đi ra biển.

- Xin tuân phục. – Tất cả những giọng nói khác cùng ồ lên. – Đại ca chưa bao giờ đưa ra một kế hoạch tốt hơn. Cứ thế đi, thưa đại ca, không thể có một kế hoạch nào tốt hơn đâu.

- Vui lên đi, hỡi anh em, hãy phấn khởi lên! – Lại cái giọng nói đầu tiên. – Đi ta đi.

- Lại đúng nữa, đại ca lại đúng nữa rồi. – Dàn đồng ca reo lên. – Không thể có một cái lệnh nào hay hơn được. Đúng là điều chúng tôi đang định bảo nhau. Đi ta đi thôi.

Thình thịch thình thịch, tiếng động cũ lại bắt đầu ngay lập tức – thoạt tiên rất to rồi nhỏ dần và tắt lịm theo hướng đi ra biển.

Lucy biết rằng không có thời gian cho nó ngồi nghĩ vơ nghĩ vẩn xem những sinh vật vô hình kia là cái gì. Ngay khi những tiếng động tắt hẳn, nó đứng dậy cuống cuồng chạy hụt cả hơi theo tốp người đi trước. Bất cứ giá nào nó cũng phải biết chuyện gì đang xảy ra.

Trong khi những điều này diễn ra thì những người kia đã đến ngôi nhà. Đó là một tòa nhà thấp – chỉ cao hai tầng được làm từ một loại đá quý rất đẹp. Nhà có trổ nhiều cửa sổ và một phần được phủ dây thường xuân. Không gian tuyệt đối yên tĩnh và Eustave nói: “Tôi nghĩ đây là ngôi nhà hoang” nhưng Caspian lặng lẽ chỉ cho nó thấy một làn khói cuộn lên trời xanh từ ống khói.

Họ thấy một cái cổng lớn để ngỏ bèn đi qua và bước vào một cái sân chơi rải sỏi. Chỉ đến đây họ mới cảm thấy một giọng nói mách bảo rằng có một cái gì thật lạ lùng ở nơi này. Ở giữa sân có một cái bơm và dưới cái bơm là cái xô. Chẳng có gì là bất thường trong chuyện này nhưng tay quay của cái bơm chạy lên chạy xuống mặc dù không hề có ai ay tay bơm cả.

- Có một cái gì như là phép thuật ở nơi này. – Caspian nói.

- Máy móc! – Eustace hào hứng kêu lên. – Tôi thực sự tin rằng cuối cùng chúng ta đã đến một xứ sở văn minh.

Đúng lúc đó Lucy, cả người nóng rực, thở không ra hơi lao vào sân theo các bạn. Với một giọng như hụt hơi nó cố làm cho mọi người hiểu rõ những gì nó đã nghe được. Khi họ đã hiểu được phần nào thì cả những người lạc quan nhất cũng không tìm thấy lý do để cười lên được.

- Kẻ thù vô hình. – Caspian lẩm bẩm. – Cắt chúng ta ra khỏi tàu. Nghe ở đây có cái gì khó chịu.

- Em có ý kiến gì về cái loại sinh vật vô hình ấy không? – Edmund hỏi.

- Sao em biết được một khi em không nhìn thấy chúng?

- Có giống như người với tiếng những bước chân không?

- Em không nghe thấy bất cứ tiếng động nào như tiếng bước chân cả, chỉ có những giọng nói và những âm thanh thình thịch như tiếng vồ đập đất.

- Có vẻ như chúng ta có khả năng tìm ra. – Caspian nói. – Nhưng hãy ra khỏi cái cổng này. Có thể có một loại người nào đó đúng đây nghe lén những điều chúng ta nói.

Họ đi ra ngoài, quay lại con đường có hai hàng cây, bây giờ thì cả cây cối cũng có vẻ khả nghi.

- Thật chẳng khôn ngoan, - Estace nói, khi trốn những người mà chúng ta không thấy mặt. Có thể tất cả bọn họ đang vây quanh chúng ta.

- Này ông Drinian, - Caspian nói, - Chuyện gì sẽ xảy ra nếu tả bỏ con thuyền lại bên đi đến một chỗ khác ngoài vịnh ra hiệu cho tàu bơi vào đón chúng ta?

- Mực nước không đủ sâu để tàu vào, thưa bệ hạ.

- Chúng ta có thể bơi. – Lucy gợi ý.

- Các vị vua chúa hãy nghe lời tôi, - Reepicheep nói, - thật là ngớ ngẩn khi nghĩ đến chuyện trốn tránh một kẻ thù vô hình bằng bất cứ cái trò lén lút hoặc lẩn tránh nào. Nếu những sinh vật này muốn đưa chúng ta vào một trận chiến thì chắc chắn là chúng sẽ thành công. Và dù có chuyện gì xảy ra đi nữa tôi cũng muốn được giáp mặt với chúng hơn là bị tóm đằng đuôi.

- Tôi cũng nghĩ lần này Reepicheep nói đúng. – Edmund nói.

- Chắc chắn là nếu Rhince và những người còn lại thấy chúng ta đánh nhau họ sẽ phải làm một cái gì đó. – Lucy nêu ý kiến.

- Nhưng họ sẽ không nghĩ là chúng ta đánh nhau nếu họ không nhìn thấy đối phương. – Eustace nói với giọng khổ sở. – Họ chỉ nghĩ là chúng ta múa gươm trong không khí cho vui thôi.

Có một quãng im lặng hết sức căng thẳng, gò bó.

- Thôi được, - cuối cùng Caspian nói, - cũng phải làm tới thôi. Chúng ta hãy đối mặt với chúng. Quơ tay xung quanh người – cung tên giương lên, Lucy rút gươm ra đi, tất cả mọi người hãy sẵn sàng. Mà cũng có thể chúng sẽ thương lượng.

Thật là một cảm giác lạ lùng khi thấy những thảm cỏ, những cây cổ thụ trông hiền hòa là thế mà chứa đựng bao nhiêu hiểm họa. Các đoàn người quay lại bãi họ thấy con thuyền vẫn nằm nguyên chỗ cũ, trên bãi cát phẳng lặng tuyệt nhiên không có một bóng người. Không phải là không có ai trong bọn nghĩ là Lucy chỉ tưởng tượng ra những điều nó vừa nới với họ. Nhưng trước khi họ đi đến bãi cát một giọng nói đã cất lên vang vọng trong không trung:

- Không đi xa hơn nữa, khách lạ không đi xa hơn nữa. Chúng tôi muốn đàm phán trước. Ở đây chúng tôi có 50 người và còn nữa, vũ khí là những nắm đấm.

- Nghe ngài đi, nghe ngài đi. – Dàn đồng ca cất lên. – Đó là thủ lĩnh của chúng tôi. Các ngươi có thể tin lời ngài nói. Ngài đã nói với các ngươi sự thật, đúng thế.

- Tôi không thấy 50 chiến binh đâu cả. – Reepicheep nói.

- Đúng thế, đúng thế. – Giọng của thủ lĩnh vang lên. – Bọn ngươi không thấy chúng ta đâu. Tại sao ư? Bởi vì chúng ta vô hình.

- Cứ thế đi, đại ca, cứ thế đi. – Các giọng khác hòa theo. – Đại ca nói cứ như sách vậy. Họ không thể có câu trả lời nào tốt hơn được.

- Trật tự, Reep. – Caspian nói, rồi quay ra nói to hơn. – Các ông, những người vô hình, các ông muốn gì ở chúng tôi? Chúng tôi đã làm gì mà bị các ông coi như kẻ thù?

- Chúng tôi muốn cái mà cô bé kia có thể làm cho chúng tôi. – Thủ lĩnh nói. (Các giọng khác giải thích đó cũng chính điều mà họ muốn nói).

- Cô bé à? – Reepicheep nói. – Quý cô đây là nữ hoàng đó.

- Ta không biết gì về các nữ hoàng. – Giọng thủ lĩnh tiếp tục.

- Chúng tôi không biết hơn, không biết hơn. – Các giọng nói khác phụ họa. – Nhưng chúng tôi muốn cái điều mà cô bé kia làm cho chúng tôi.

- Là gì vậy? – Lucy hỏi.

- Và điều đó là điều tổn hại đến sự an toàn hay danh dự của nữ hoàng, - Reepicheep dõng dạc nói thêm, - các người sẽ biết có bao nhiêu kẻ bị chết trước khi chúng tôi ngã xuống đấy.

- Phải, - giọng thủ lĩnh tiếp tục, - đây là cả một câu chuyện dài. Hay chúng ta ngồi xuống nói chuyện với nhau?

Đề nghị này được các giọng nói khác tán thưởng một cách nhiệt thành như những người Narnia vẫn đứng.

- Phải, chuyện là thế này, - vẫn giọng thủ lĩnh. – Hòn đào này thuộc về một đại phù thủy từ thời nào thì không ai nhớ được. Và tất cả chúng tôi là – theo cách nói thông thường – tôi có thể nói chúng tôi đã là đày… tớ của ông. Phải, để rút ngắn câu chuyện, vị pháp sư mà tôi đang nói đến ấy đã bảo chúng tôi làm một việc mà chúng tôi không thích, có thế thôi. Tại sao vậy? Chỉ vì chúng tôi không thích, có thế thôi. Thế là vị pháp sư ấy nổi trận lôi đình. Ở đây tôi cần lưu ý quý vị là ông ta là chủ nhân hòn đảo này và đảo chủ hiếm khi nổi giận.

Ông là người thẳng thắn, trực tính kinh khủng, quý vị biết đấy… nhưng để coi, tôi kể đến đâu rồi? Ổ, phải, thế là vị pháp sư ấy đi lên lầu (quý vị phải biết là ông ta giữ tất cả những dụng cụ làm phép ở đấy, còn bọn chúng tôi sống ở bên dưới), tôi nói, ông đi lên cầu thang và yểm bùa chúng tôi. Biến chúng tôi thành những kẻ xấu xí. Nếu các người nhìn thấy diện mạo chúng tôi lúc này thì các người phải cảm ơn trời cao vì đã không phải chịu cảnh này. Các người cũng không thể tin được, trước khi trở nên xấu ma chê quỷ hờn bọn chúng tôi đẹp như thế nào đâu. Phải, chúng tôi đã trở nên xấu xí đến nỗi chỉ nhìn nhau thôi đã trở thành một cực hình không thể chịu đựng nổi.

Sau đó chúng tôi đã làm gì? Để tôi nói cho quý vị rõ. Chúng tôi đơi cho đến khi theo tính toán thì đảo chủ kiêm pháp sư đã ngủ say. Thế là buổi chiều hôm ấy, cả bọn chúng tôi rón rén đi lên đầu tìm cuốn sách pháp thuật dày chình chịch như làm bằng đồng, để xem coi chúng tôi có thể làm được gì để giải lá bùa xấu xí. Cả bọn rung từ đầu đến chân, mồ hôi túa ra như tắm; thôi tôi cũng chẳng giấu làm gì, tôi đoan chắc với quý vị là chúng tôi chẳng tìm thấy cách giải lá bùa xấu xí. Thời gian trôi qua và sợ rằng đảo chủ có thể thức dậy vào bất cứ lúc nào – tất cả chúng tôi ướt đẫm mồ hôi, tôi cũng chẳng lừa dối quý vị làm gì – và để rút ngắn câu chuyện, thì tôi xin nói vắn tắt, dù điều này đúng hay không đúng thì chúng tôi cũng đã thấy một phép màu làm cho người ta trở nên trong suốt. Chúng tôi nghĩ thà trở nên vô hình còn hơn biến thành một lũ dị hình dị tướng. Tại sao? Là bởi vì chúng tôi thích như thế hơn. Thế là đứa con gái nhỏ của tôi, cũng trạc tuổi cô bé này, một cô bé xinh xắn trước khi trở nên méo mó như bây giờ - nhưng ít nhất việc này cũng sớm được sửa chữa – phải, con gái tôi nói là bùa này chỉ được hóa giải bởi một cô bé hoặc chính vị pháp sư. Không biết các vị có hiểu tôi muốn nói gì không, chỉ có một cô bé mới giúp chúng tôi được. Tại sao vậy? Bởi vì chẳng có chuyện gì xảy ra cả. Thế là Clipsie của tôi đọc phép thuậ, tôi cần phải nói để quý vị biết là con bé đọc hay lắm. Phải, tất cả chúng tôi trở nên vô hình như quý vị có thể tưởng tượng được. Tôi có thể cam đoan rằng quả là một sự nhẹ nhõm khi không phải thấy người thân của mình trở nên xấu xí, quái dị. Đầu tiên thì là thế. Nhưng lâu rồi chúng tôi phát chán đến tận cổ với việc trở nên vô hình vô ảnh như thế này. Còn một việc nữa. Chúng tôi không bao giờ nghĩ đến chuyện vị pháp sư (mà tôi đã đề cập đến ở phần trước) cũng trở nên vô hình. Nhưng kể từ đấy chúng tôi không bao giờ nhìn thấy ông ta nữa. Vì thế chúng tôi không rõ là ông đã chết, hay đã đi khỏi hay chỉ ngồi ở trên lầu cũng trong suốt như chúng tôi. Và có lẽ cũng đang lẩn quẩn đâu đây. Tin tôi đi, trong chuyện này có nghe ngóng cũng chẳng được tích sự gì bởi ông ta bao giờ cũng đi chân trần, không gây nên một tiếng động nào lớn hơn một con mèo đâu. Và tôi xin nói với quý vị rằng điều này lớn hơn điều mà thần kinh quý vị có thể chịu đựng được.

Đấy là câu chuyện của vị thủ lĩnh, nhưng ngắn hơn nhiều bởi vì tôi đã lược bỏ giọng phụ họa của dàn đồng ca. Thực ra ông ta không bao giờ nói quá 6, 7 từ mà không bị cắt ngang bởi sự đồng tinh và tán thưởng của “đàn em” đông đảo và điều này khiến mọi người suýt nữa mất hết cả kiên nhẫn. Khi câu chuyện kết thúc, tất cả im lặng một lúc lâu.

- Nhưng, - cuối cùng Lucy lên tiếng, - nhưng tất cả những điều này có liên quan gì đến chúng tôi? Tôi chẳng hiểu gì cả.

- Ôi trời, tha lỗi cho tôi nếu tôi đã đi ra ngoài lề mà không đi ngay vào điểm chính. – Giọng thủ lĩnh.

- Chính thế, chính thế. – Các giọng khác hò lên với một sự hưng phấn quá độ. Không ai có thể khái quát mọi chuyện rõ ràng hơn, khôn ngoan hơn. Tiếp tục đi, đại ca, tiếp tục đi.

- Vậy tôi có cần kể lại tất cả những chuyện này một lần nữa hay không? – Giọng thủ lĩnh đề nghị.

- Ồ không, không, chắc chắn là không cần. – Cả Caspian và Edmund cùng lên tiếng.

- Được vậy tôi đi thẳng vào đề nhé. Chúng tôi đã đợi thật lâu đến bây giờ mới gặp một cô bé dễ thượng đến từ một vùng đất khác, đó là cô đấy, thưa tiểu thư. Cô có thể đi lên lầu lấy cuốn sách pháp thuật, tìm được cách hóa giải lá bùa đã khiến chúng tôi trở nên vô hình, chỉ thế thôi. Tất cả chúng tôi đã long trọng thề là sẽ không để cho những người khách lạ đầu tiên đặt chân lên hòn đảo này (tôi muốn nói họ phải đi cùng với một bé gái dễ thương vì nếu không đó lại lài một vấn đề khác), chúng tôi quyết không để cho họ còn sống sót mà rời khỏi đây nếu họ không làm cái điều tối cần thiết đối với chúng tôi. Đó là lí do tại sao, thưa các quý khách, nếu cô bé này không hóa giải được lá bùa, thì đối với chúng tôi, phải cắt cổ các ngài là một điều chúng tôi chẳng muốn đâu. Đây chỉ thuần túy là công việc, như quý vị có thể thấy, hoàn toàn không phải là một sự thù địch.

- Tôi không thấy vũ khí của các người, - Reepicheep hỏi, - phải chăng nó cũng vô hình?

Chuột vừa nói xong thì tất cả đã nghe thấy tiếng vèo vèo trong không khí, rồi một lưỡi mác cắm phập vào một thân cây sau lưng họ, lưỡi vẫn còn rung lên bần bật.

- Đó là một lưỡi mác, thế đấy. – Giọng thủ lĩnh vang lên.

- Đúng thế, đúng thế, đại ca không thể nói đúng hơn được. – Dàn đồng ca lại họa theo.

- Nó được phóng từ tay tôi. – Giọng thủ lĩnh tiếp tục. – Rời khỏi chúng tôi, nó lập túc trở nên hữu hình.

- Nhưng tại sao ông lại muốn tôi làm việc này? – Lucy hỏi. – Tại sao không phải là một người trong các ông? Các ông không có một cô bé nào ư?

- Chúng tôi không dám, không dám. – Tất cả đồng thanh. – Chúng tôi sẽ không bao giờ đi lên thang lầu nữa.

- Nói một cách khác, - Caspian nói, - các ông đòi hỏi cô bé này phải đối mặt với những nguy hiểm mà các ông không dám để cho em gái hoặc con gái mình làm.

- Đúng vậy, đúng vậy. – Các giọng nói reo lên hồ hởi. – Quý khách là người có học, hẳn rồi, ai cũng có thể thấy rõ điều đó.

- Tất cả những chuyện vô nhân đạo này…, - Edmund bắt đầu nhưng Lucy lại xen vào:

- Tôi phải đi lên lầu vào ban đêm hay ban ngày?

- Ban ngày, ban ngày, chắc chắn rồi, - giọng thủ lĩnh reo lên, - không phải ban đêm. Không ai đòi hỏi cô làm điều này. Lên lầu vào ban đêm? Xì.

- Được rồi tôi sẽ làm việc này. – Lucy nói. – Không, - cô bé quay sang những người khác, - đừng cố cản tôi. Mọi người không thấy là chỉ vô ích hay sao? Ở đây họ có hàng mấy chúc người. Chúng ta không thể đánh nhau với họ. Mặc khác đây còn là một cơ hội.

- Nhưng còn pháp sư? – Caspian hỏi.

- Tôi biết. – Lucy nói. – Rất có thể ông ta không quá xấu như họ làm ra như thế. Bạn không có ý nghĩ rằng đây không phải là những người dũng cảm sao?

- Chắc chắn họ cũng không lấy gì làm thông minh cho lắm. – Eustace nói.

- Nghe đây, Lu, - Edmund lên tiếng, - chắc chắn bọn anh sẽ không để cho em làm một việc gì như thế. Cứ hỏi Reep đi, anh chắc ông ấy sẽ nói như thế.

- Nhưng việc này sẽ cứu sống em cũng như tất cả mọi người. Em không muốn mình bị cắt ra từng mảnh bằng những thanh kiếm vô hình này cũng với những người khác.

- Về điểm này nữ hoàng nói đúng. – Reepicheep nói. – Nếu chúng ta có bất cứ sử bảo đảm nào để cứu Lucy ra khỏi trận đánh này thì nhiệm vụ của chúng ta sẽ hết sức đơn giản. Nhưng theo chỗ tôi hiểu thì không. Việc họ đòi hỏi không xâm phạm đến danh dự của nữ hoàng mà là một hành động anh hùng, cao quý. Nếu nữ hoàng đã quyết liều một phen với tay pháp sư tôi không thấy có lý do gì để phản đối.

Ai cũng biết Reepicheep bình sinh không sợ bất cứ một thứ gì trên đời và bác nói ra điều này mà không cảm thấy băn khoăn. Nhưng bọn con trai, tất cả những người thường xuyên có những điều phải ngại thì đỏ bừng mặt lên. Rõ ràng đây là một lí lẽ mà họ buộc phải nhượng bộ. Tiếng reo hò vang dậy của những người vô hình nổ ra như pháo khi những người khách lạ thông báo kế hoạch của họ và giọng thủ lĩnh cất lên (được tất cả đoàn người nhiệt thành tán thưởng) mời những người Narnia đến ăn bữa tối và nghỉ đêm ở chỗ họ. Eustace không muốn nhận lời nhưng Lucy nói: “Chị chắc họ không có mưu đồ gì đâu. Họ không phải loại người đó”, và những người khác cũng đồng ý. Thế là cùng với những tiếng rầm rập vang động (những tiếng động này còn lớn hơn khi họ đến cái sân lát đá), tất cả quay lại ngôi nhà.

CHƯƠNG 10

 Cuốn sách pháp thuật

Những người vô hình đãi khách một bữa tiệc đáng được liệt vào hàng vương giả.Thật ngộ nghĩnh khi nhìn thấy bát đĩa được mang ra bàn mà không nhìn thấy người phục vụ. Vẫn thật buồn cười kể cả khi họ đi đứng bình thường, dọc ngang trong phòng như bạn có thể chờ đợi mọi việc xảy ra với những bàn tay vô hình. Nhưng không phải như vậy. Họ tiến hành công việc trong phòng ăn dài bằng hàng loạt những cú bật hay nhảy dựng lên. Điểm nhảy cao nhất của mỗi món ăn kà khoảng 5 mét trong không trung, sau đó món ăn ấy hạ xuống dừng lại bất thần ở độ cao khoảng gần một mét so với sàn nhà. Khi món ăn lại là loại chất lỏng như súp hoặc món canh hầm thì kết quả thật tai hại.

- Em bắt đầu nổi cơn tò mò về những người này. – Eustance nói nhỏ với Edmund. – Anh có nghĩ họ đúng là người không? Em dám nói họ giống như những con châu chấu hoặc con ếch khổng lồ.

- Có vẻ như vậy lắm, - Edmund nói, - nhưng đừng cấy ý nghĩ đó vào đầu Lucy. Con bé không thích côn trùng đâu, nhất là những con to bự.

Bữa tiệc hẳn sẽ tuyệt vời hơn nếu nó không quá lộn xộn và câu chuyện không gồm toàn những lời lĩnh xướng có môt dàn đồng ca nhao nhao phụ họa.Những người vô hình đồng ý về tất cả mọi chuyện. Hầu hết những nhận xét của họ đều thuộc loại không dễ gì mà phản bác lại được, đại loại như:” Điều mà bao giờ tôi cũng nói là khi một người đói bụng, y sẽ rất muốn ăn.” Hoặc : “Sau khi mặt trời lặn bao giờ cũng là đêm đen.” Hoặc thậm chí là: “Ồ, anh vừa lội xuống nước. Nước ướt nhỉ?”

Lucy không thể không liếc nhìn vào cái cánh cửa mở ngoác ra đen ngòm ơ chân cầu thang mà nó nhìn rất rõ từ nơi mình ngồi – và tự hỏi không biết mình sẽ tìm thấy cái gì ở đây sau khi đi lên những bậc thang này vào sáng mai. Nhưng mặt khác đây là một bữa ăn ngon lành với món súp nấm, gà luộc, thịt heo hầm với quả lí gai ngoài ra còn có những món ăn như nho Hy Lạp đỏ, sữa đông, kem, sữa nóng và rượu mật ong. Khách rất khoái món rượu mật ong này và sau đó anh bạn Eustace đã phải lấy làm tiếc vì say rượu.

Sáng hôm sau lúc Lucy thức dậy, cô bé có cảm giác như phải bắt đầu một ngày có một kì thi hóc búa hoặc là một ngày bạn phải đến gặp nha sĩ để làm răng. Đó là một buổi sáng dễ chịu, đàn ong rù rì bay vào bay ra qua cửa sổ phòng ngủ và thảm cỏ dưới kia có vẻ thân quen như một nơi nào đó ở Anh Cát Lợi. Lucy đứng dậy thay quần áo, cố gắng nói chuyện và ăn uống một cách bình thường trong bữa điểm tâm. Sau đó dưới sự chỉ dẫn của giọng nói thủ lĩnh phải làm gì, làm gì trên lầu, cô bé chào tạm biệt các bạn, rồi không nói gì thêm, bước lên cầu thang không một lần ngoái đầu nhìn lại.

Trong nhà rất sáng và đó là một điểm thuận lợi. Thực ra cửa sổ thẳng trước mặt cô bé, ở ngay đầu cầu thang. Trong lúc leo lên từng bậc thang nó có thể nghe thấy tiếng tích – tắc, tích – tắc đều đặn của chiếc đồng hồ cổ kính để trong tiền sảnh dưới nhà. Sau đó nó đi lên lâu một và rẽ tay trái để lên tiếp cầu thang thứ hai; ở đây cô bé không nghe thấy tiếng đồng hồ nữa. 

Bây giờ thì Lucy đã lên đến bậc thang trên cùng. Nó đưa mắt nhìn quanh thấy một hành lang dài và rộng, có một ô cửa sổ lớn ở cuối cùng. Rõ ràng lối đi này chạy hết chiều dài ngôi nhà. Hai bên lối đi được chạm trổ, ốp gỗ, bên dưới có trải thảm và hai bên có nhiều cánh cửa mở ra. Nó đứng im không nghe thấy một tiếng động gì dù là tiếng chit chit của một con chuột nhắt, hoặc tiếng vo ve của một con ruồi hoặc tiếng rèm cửa lay nhè nhẹ hoặc bất cứ tiếng động nào ngoài tiếng đập thùm thụp của con tim nó. 

- Cánh cửa cuối cùng ở bên tay trái. – Nó nói to với chính mình. Hình như khó có thể đi đến cái cửa cuối cùng. Để đến được đây nó phải đi qua hết phòng này đến phòng khác.Trong bất cứ căn phòng nào cũng có thể có pháp sư – đang ngủ hoặc đã thức hoặc vô hình hoặc đã chết. Nhưng đó là điều không nên nghĩ tới. Lucy bắt đầu đếm bước, tấm thảm rất dày, đôi chân cô bé không gây nên một tiếng động nào.

- Chả có gì phải sợ cả. – Lucy tự nhủ. – Đây là một hành lang yên tĩnh, sáng sủa ; có lẽ hơi quá tĩnh lặng. Sẽ dễ chịu hơn nếu như không có những kí hiệu lạ sơn màu đỏ trên các cánh cửa – những đường nét phức tạp , rối vào nhau rõ ràng là có một ý nghĩa nào đó và rất có thể nó không chứa đựng một ý nghĩ tốt lành. Cũng sẽ tốt hơn nếu không có những cái mặt nẹ treo trên tương. Không phải là nó xấu xí – không hoàn toàn xấu xí – nhưng những hố mứt trống rỗng có vẻ rất quái gở và nếu là bạn, bận cũng sẽ hình dung là những chiếc mặt nạ này sẽ làm một chuyện mờ ám gì đó ngay khi bạn quay lưng đi.

Qua cánh cửa thứ 6, lần đầu tiên Lucy bị một phen hú vía thật sự. Trong vòng một giây nó cảm thấy chắc chắn là có một khuôn mặt nhỏ, độc ác, lởm chởm râu rìa, lò ra khỏi bức tượng, nhăn mặt với nó. Nó buộc mình phải dừng lại nhìn vào cái vật ấy. Đó hoàn toàn không phải là một khuôn mặt, mà là một tấm gương nhỏ, có kích thước và hình dáng bằng đúng khuôn mặt nó, có tóc ở trên đầu và chòm râu ở bên dưới thành thử khi bạn nhìn vào gương khuôn mặt bạn lồng vào đúng cái khuôn khiến cho mái tóc và bộ râu trông như là của bạn.

“Chẳng qua mình bắt được cái bóng phản chiếu của mình ở đuôi mắt khi mình đi qua khỏi thôi. – Lucy tự nhủ. – Tất cả chỉ có thế thôi,chẳng có hại gì hết”.Nhưng nó không thích hình ảnh phản chiếu của mình có râu và tóc như thế chút nào.( Tôi không biết đó là Tấm gương Râu bởi vì tôi không phải là một phù thủy).

Trước khi đi đến cánh cửa cuối cùng bên tay trái, Lucy bắt đầu hoang mang khong biết có phải hành lang đã kéo dài hơn so với lúc nó bắt đầu cuộc hành trình không và không biết đây có phải là một phần trong ma thuật của ngôi nhà này không. Nhưng cuối cùng nó cũng đi đến nơi và cánh cửa mở ra.

Đó là một căn phòng rộng có ba cửa sổ, sách được chất từ dưới sàn nhà lên đến trần; nhiều hơn số sách mà Lucy trông thấy từ trước đến giờ; thôi thì đủ loại, có những cuốn mini loại bỏ túi, có những cuốn mỏng tang, có cuốn day cộp, có cuốn còn to hơn cả cuốn Thánh kinh trong nhà thờ. Tất cả đều bọc da và tỏa ra mùi bụi lưu cữu, mùi của học thuật và ma thuật. Nhưng nó biết, theo lời chỉ dẫn, nó không cần bận tâm đến bất cứ cuốn nào trong số này. Bởi vì cuốn Pháp thuật đang nằm trên bàn đọc sách kê ở chính giữa phòng. Nó biết rằng nó sẽ phải đứng mà đọc(dù sao thì cũng không có ghế ngồi) và nó cần phải đứng quay lưng ra cửa trong lúc đọc sách. Thế là nó quay ra đóng cửa.

Nhưng cửa không đóng lại.

Một số người có thể không đồng ý với Lucy về điểm này nhưng tôi nghĩ cô bé nói đúng. Cô bé nói rănggf nó sẽ không cảm thấy có vẫn đề gì nếu cửa có thể đóng lại được chứ cứ đứng đọc sách ở một nơi như thế với một cánh cửa mở ngay sau lưng mình thì thật là đáng sợ. Tôi thì tôi cũng sợ phải biết đấy, nhưng tôi biết mình không làm được gì trong chuyện này. Một vấn đề làm nó lo lắng rất nhiều là độ dày đáng kể của cuốn sách. Giọng nói của thủ lĩnh đã không giúp được gì cho nó trong việc tìm ra cái đoạn nói đến việc làm cho mọi vật vô hình trở nên hữu hình. Thậm chí ông ta còn tỏ vẻ ngạc nhiên lắm lắm khi nghe nó hỏi về chuyện đó. Ông ta chờ đọi nó đọc từ đầu cho đến cái đoạn ấy; rõ ràng ông ta không hề nghĩ rằng còn có một cách khác để tìm ra một đoạn cần đọc trong một cuốn sách.”Mình có thê mất đến hàng chục ngày hay vài tuần!” Lucy thở dài, nhìn vào cuốn sách đại tướng,”Và mình có cảm giác là sẽ phải ở lại đây lâu hơn là mình muốn.”

Nó đi đến bên bàn, đặt tay lên cuốn sách; những ngón tay tê tê như có một dòng điện chạy qua như thể sách là một vật tích điện. Nó cố mở sách nhưng thoạt đầu không sao mở được, tuy vậy đó chỉ là vì sách bị buộc chặt bởi hai cái móc bằng chì và khi nó đã tháo móc ra thì có thể mở sách ra thật dễ dàng. Trời ơi, thật là một cuốn sách có một không hai. Đây là sách viết tay chứ không phải là sách in với một nét chữ rõ ràng, khoáng đạt, nét đi xuống thì đậm nét đi lên thì nhạt, những con chữ to dễ đọc hơn chữ in và đẹp đến nỗi Lucy nhìn chằm chằm vào đấy đến một phút, quên cả việc đọc. Tờ giấy giòn, kháng, tỏa ra một mùi hương dìu dịu. Bên lề và quanh những chữ cái viết hoa bắt đầu mỗi phép màu đều có tranh minh họa.

Không có tít và tựa đề ở đầu tranh, cách thức làm phép được đề cập một cách trực tiếp và thoạt tiên xem như chẳng có gì quan trọng trong những việc này. Chỉ là những mẹo vặt để chữa mụn cơm (bằng cách rửa tay dưới ánh trăng trong một cái chậu bằng bạc) chữa đau răng và chứng chuột rút và cách thu hút để bắt gọn một đàn ong. Bức tranh về người đàn ông đau răng trông sống động đến nỗi bạn cảm thấy ê cả hai hàm nếu nhìn vào nó lâu lâu một chút, những con ong nghệ có đốm bay quanh phép màu thứ tư thì vào lúc bạn nhìn có vẻ như đôi cánh chúng đang rung lên vù vù.

Lucy khó có thể dứt mình ra khỏi trang sách thứ nhất, nhưng khi nó lật sang trang sau thì dường như mọi chuyện lại còn thú vị hơn. “Mình phải đọc tiếp thôi,” nó tự nhủ. Cứ thế nó đọc đến trang 30 và nếu có thể ghi ngớ tất cả thì nó sẽ biết cách tìm ra một kho báu bị chon kín, nhớ lại những điều đã chìm trong quên lãng, quên những thứ mà nó muốn quên và cách thức để biết là người ta có nói thật hay không. Nó còn có thể hô phong hoán vũ, cầu đảo để trời làm mưa, rắc tuyết, buông sương mà và làm ra bão tuyết, biết cách đưa người ta vào một giấc ngủ hàng trăm năm và làm sao biến một cái đầu trên vai một người thành ra đầu lừa (như họ đã làm với Bottom đáng thương). Nó càng đọc được nhiều bao nhiều thì các bức tranh càng trở nên tuyệt vời và giống như thật bấy nhiêu.

Sau đó nó đọc đến một trang có nhiều bức tranh minh họa rực rỡ đến nỗi khó đọc được chữ nghĩa trên đó. Khó – nhưng nó đã hiểu ra được những từ đầu tiên. Đó là một phép màu mà các cô các bà chắc sẽ rất thích. Thế các bạn nữ có muốn mình có một vẻ đẹp nghiêng ngả cả trời đất không?

Lucy thích thú ghé mặt mình gần, săm soi từng bức tranh một , mặc dầu thoạt nhìn chúng có vẻ nhiều chi tiết và rối rắm, bây giờ nó có thể giải mã để hiểu được ý nghĩa của từng bức . Đầu tiên là bức tranh về một cô gái đứng trước án thư đang đọc sách. Cô gái ăn mặc giống hệt Lucy. Trong bức tranh tiếp theo, Lucy (bởi vì cô gái trong tranh chính là Lucy) đang đứng, đôi môi hé mở, khuôn mặt biểu lộ một vẻ kinh hãi đang lẩm bẩm đọc kinh hoặc kể lại một cái gì đó. Trong bức tranh thứ ba, vẫn là Lucy đấy những lại có một phong cách và vẻ đẹp của một vị thần tiên. Thật lạ lùng khi chứng kiến bức tranh lúc đầu nhỏ bằng hai ngón tay mà bây giờ Lucy trong tranh to như Lucy ngoài đời; hai Lucy nhìn vào mắt nhau và Lucy thật phải quay đi một vài phút bởi vì nó hoa cả mắt trước vẻ đẹp của Lucy trong tranh, dầu nó có thể nhận có một sự giống nhau giữa nó và Lucy tuyệt mỹ kia. Và bây giờ có nhiều bức tranh hơn và chúng thay đổi liên tục như trong một cuốn phim. Nó thấy chính mình ngồi trên ngai vàng đặt ở một cái bệ cao trong một cuộc đấu thương ở Calormen, tất cả các ông hoàng trên trời này đều đến đây đánh nhau vì sắc đẹp của nó. Sau đấu trường là đến chiến trường đẫm máu, trong đó cả xứ Narnia và Archenland; Telmar và Calormen, Galma và Terebinthia đều bị giày xéo trong cơn cuồng nộ của các ông vua, các ngài công tước và những chúa đất, tất cả đều chiến đấu một mất một còn để chiếm được trái tim người đẹp, sau đó bức tranh thay đổi, hiện lên hình ảnh Lucy vẫn với sắc đẹp siêu phàm những đã quay lại nước Anh. Và Susan (người bao giờ cũng là người đẹp nhất nhà) từ nước Mỹ trở về. Susan trong tranh trông giống hệt như Susan ngoài đợi nhưng lại tầm thường hơn với vẻ mặt nanh ác. Susan ghen tị trước vẻ đẹp choáng ngợp của Lucy nhưng ghen tị thì làm được gì, bây giờ cũng chẳng ai them quan tâm đến Susan nữa.

- Chà… phép màu này… phép màu này… mình không cần. Mình không quan tâm, thật thế. – Nó nói. – Mình không quan tâm. Bởi nó có một trực cảm rất mạnh là nó không được nghĩ đến điều ấy.

Nhưng đến khi nó nhìn lại cái mở đầu cho phép màu ấy, ở chính giữa mà nó nhớ rất rõ là không hề có bức tranh nào, bây giờ nó tìm thấy khuôn mặt cao quý, vĩ đại của sư tử, của chính Aslan đang đăm đăm nhìn nó. Bức tranh được tô một màu vàng rực rỡ dường như đến từ một nơi nào đó ngoài tranh sách, và sau này mỗi khi nhớ lại, nó không dám chắc là bức tranh ấy không hề chuyển động chút nào. Dù sao thì nó cũng hiểu rất rõ biểu hiện trên khuôn mặt ông. Ông đang gầm lên và bạn có thể nhìn thấy tất cả những cái răng. Nó sợ run lên cầm cập, lập tức giở sang trang khác.

Một lát sau nó giở đến một trang nói về phép thuật cho biết bạn của mình nghĩ gì về mình. Bây giờ Lucy rất muốn thử cái phép màu kia, cái phép màu cho bạn có được vẻ đẹp rực rỡ. Thế là nó cảm thấy rằng để bù đắp cho cái việc không thử phép màu ấy nó cần phải thử một phép khác. Nó hối hả - vì sợ mình sẽ đổi ý – nói ra những từ bùa thú( không có cái gì có thể khiến tôi nói ra cho bạn biết đó là những từ gì đâu). Rồi nó ngồi đợi xem chuyện gì xảy ra.

Vì chẳng có cái gì xảy ra hết nó bắt đầu nhìn vào bức tranh. Ngay lập tức nó nhìn thấy cái điều cuối cùng mà nó chờ đợi – một bức tranh về một toa tàu danh cho học sinh lớp ba, hai cô học trò nhỏ ngồi trong đó. Nó nhận ra chúng ngay lập tức; đó là Marjorie Preston và Anne Featherstone. Chỉ có điều bây giơ tất cả là một cái gì lớn hơn một bức tranh. Nó là một cuốn phim sống. Lucy có thể nhìn thấy những cột dây điện thoại trôi vụt qua bên ngoài cửa sổ toa tàu. Rồi từ từ (như khi chiếc radio xè xè bắt đầu hoạt động) nó nghe thấy hai cô trò nhỏ nói chuyện:

- Tớ có thể biết trước những gì xảy ra trong học kì này của cậu không? – Anne hỏi. – Chắc là cậu kết bạn khăng khít với con nhỏ Lucy Pevensie chứ?

- Không hiểu đằng ấy có ý gì với chữ khăng khít. – Marijorie nói.

- Ồ có, cậu hiểu đấy, - Anne nói, - học kỳ trước cậu chẳng quấn lấy nó là gì.

- Không có đâu, không có chuyện đó đâu. – Marjorie nói. – Bây giờ tớ hiểu mọi chuyện hơn rồi. Chẳng có đứa nào dỏm như nó . Tớ đã chán nó đến tận cổ từ trước khi khóa học kết thúc cơ.

- Được, bọn bay quá lắm , sẽ không có chuyện đó trong năm học tới đâu! – Lucy hết lêm. – Con quỷ nhỏ hai mặt! – Nhưng giọng nói của nó ngay lập tức nhắc nhở nó là nó đang nói với bức tranh và Marjoria thật đang ở rất xa trong một thế giới khác.

“Trời ơi, - Lucy tự nhủ, - thế mà mình lại nghĩ nó tốt cơ chứ! Mình đã làm cho nó bao nhiêu chuyện trong năm học vừa rồi, và mình đã gắn bó với nó, trong khi nhiều đứa khác “ nghỉ chơi” với nó. Mà nó cũng biết rõ điều đó. Còn con nhỏ Anne nữa, cũng thế thối! Mình tự hỏi có bao nhiêu đứa bạn như thế? Ở đây còn có rất nhiều bức tranh khác.” Thôi, mình không muốn nhìn nữa. Không, Không đâu.” Và với một cố gắng khá lớn nó lật trang khác nhưng trước đó một giọt nước mắt giận dữ nằng nặng đã rơi trên trang sách.

Ở trang tiếp theo nó đọc thấy một phép màu “cho một sự tươi thắm mới trong tâm hồn.” Có ít tranh hơn nhưng tất cả đều rất đẹp. Nó thấy mình đọc như đọc một câu chuyện hơn là đọc về một pháp thuật. Truyện kéo dài đến ba trang và trước khi nó đọc hết một trang nó đã quên mất là mình đang đọc. Nó sống trong câu chuyện ấy như thể đó là một câu chuyện có thật và tất cả những bức tranh cũng là thật .Khi giở đến trang thứ ba và đọc đến dòng cuối cùng, nó nói: “Đây là một câu chuyện hay nhất trong số những truyện mình từng đọc hoặc có bao giờ còn được đọc trong cả cuộc đời. Ước gì có thể đọc nó trong vòng 10 năm nữa. Nhưng ít nhất thì mình cũng phải đọc lại mới được.”

Nhưng ở đây, một phần phép thuật của cuốn sách phát huy tác dụng. Bạn không thể lật lại những trang trước. Những trang bên tay phải đã đọc qua thì còn có thể đọc lại, chứ trang bên tay trái thì không.

- Ôi thật đáng tiếc! Mình chỉ muốn đọc lại một lần nữa. Mà thôi, ít ra thì mình cũng vẫn còn nhớ. Để coi… nó kể về… về… ôi trời ơi… tất cả cứ trôi tuột đi đâu ấy. Thậm chí cả cái trang cuối cùng cũng trống trơn. Thật là một cuốn sách kỳ cục. Sao mình lại có thể quên sạch như vậy nhỉ? Đó là về một cái ly, một thanh kiếm, một cái cây và một ngọn đồi xanh, mình biết rõ lắm cơ mà. Nhưng mình lại không sao nhớ ra các tình tiết và mình biết làm gì bây giờ?

Lucy không bao giờ có thể nhớ lại được; và cũng kể từ đó với Lucy, một câu chuyện hay là câu chuyện nhắc nó nhớ lại cái câu chuyện trong cuốn sách pháp thuật mà nó đã đọc qua và đã quên.

Lucy lại tiếp tục lật từng trang và ngạc nhiên khi thấy một trang chẳng có tranh minh họa gì hết, nhưng dòng chữ đầu tiên lại là Thuật làm cho những vật giấu kín trở nên hiện hình. Nó đọc suốt một lượt để biết chắc tất cả những từ khó rồi nói to lên. Lucy biết ngay rằng nó có tác dụng bởi vì khi cô bé nói, màu sắc đã trở về với những chữ viết hoa ở đầu trang và những bức tranh bắt đầu xuất hiện bên lề. Mọi việc diễn ra cũng giống như khi bạn hơ trên ngọn lửa một cái gì viết bằng mực hóa học và những con chữ lần lượt hiện lên, chỉ có khác là thay vì có màu xin xỉn của vỏ chanh ủng những kí tự này lại có màu vàng, xanh và đỏ. Đó là những bức tranh kì cục có chứa nhiều hình thù mà Lucy không thích nhìn. Đoạn nó nghĩ: “Mình cho rằng mình đã làm cho mọi vật hiện hình chứ không chỉ dành cho những người ồn ào kia. Có thể còn có nhiều thứ khác vô hình lảng vảng ở một nơi như thế này. Chắc chắn là mình không muốn thấy chúng một chút nào.

Đúng lúc đó nó nghe thấy tiếng những bước chân nhẹ nhàng mà chắc chắn đi dọc hành lang sau lưng nó, tất nhiên nó nhớ ra là người ta đã bảo nó rằng pháp sự thường đi chân đất và không gây ra một tiếng động lớn hơn con mèo. Bao giờ quay mặt ra để đón nhận cũng tốt hơn là để cho bất cứ một thứ gì đổ ập đến từ sau lưng. Và Lucy đã làm thế.

Rồi khuôn mặt nó bừng sáng và trong một khoảng khắc (tất nhiên là nó không biết điều đó) trông nó cũng đẹp gần bằng Lucy trong tranh. Nó chạy ra, hai tay dang rộng, miệng reo lên một tiếng sung sướng. Bởi vì đứng ở ngưỡng cửa chính là Aslan, sư tử, vị chúa tể của tất cả các bậc hoàng đến. Aslan vững như ngọn Thái Sơn, có thật và ấm áp vô cùng. Ông để cho cô bé ôm hôn mình, vùi mặt vào cái bờm tỏa hào quanh của mình. Và từ cái âm thanh trầm trầm, âm vâng nghe như tiếng động âm âm trong lòng đất vọng ra từ trong người ông, Lucy có ý nghĩ là ông đang kêu rù rù như môt con mèo lớn.

- Ôi Aslan! – Lucy nói với một giọng pha chút hờn dỗi. – Đừng chọc quê con mà, cứ như thể bất cứ điều gì con làm cũng khiến người hiện hình ấy.

- Thì đúng thế. Con không nghĩ là ta không tuân theo chính luật lệ mà ta đề ra đấy chứ?

Sau một phút im lặng, ông nói tiếp:

- Con gái, ta nghĩ con vừa nghe trộm.

- Nghe trộm?

- Con nghe hai cô bạn học trong trường nói về mình.

- Ôi thế à? Con lại không nghĩ đó là nghe trộm. Đấy không phải là phép thuật ư?

- Do thám người khác bằng bùa phép thì cũng giống như rình mò họ bằng bất kì cách nàokhacs. Mà con đánh giá sai bạn con rồi. Nó yếu đuối nhưng nó yêu mến con. Nó sợ cô bạn lớn hơn nó nên nói ra những điều nó không muốn.

- Con không nghĩ là con sẽ quên được những điều con đã nghe bạn ấy nói.

- Không đâu, rồi con sẽ quên thôi.

Trời ơi, con đã phá hỏng mọi chuyện phải không ạ? Có phải người có ý muốn nói chúng ta sẽ tiếp tục là bạn bè nếu không có chuyện đó…và đã là những người bạn lớn…có thể là suốt đời, còn bây giờ chúng con sẽ không…

- Con gái, chẳng phải có lần ta đã giải thích rằng không có người nào lại được báo cho biết trước chuyện gì xảy ra sao?

- Vâng thưa Aslan, ông đã nói thế. Con xin lỗi. Nhưng làm ơn…

- Cứ nói đi trái tim thân thiết của ta.

- Con có bao giờ được đọc lại câu chuyện ấy… câu chuyện mà con không thể nhớ lại ấy không? Người sẽ kể cho con nghe chứ, Aslan. Xin người, xin người, xin người!

- Được, ta sẽ kể cho con nghe hết năm này đến năm khác. Nhưng bây giờ thì đến đây. Chúng ta phải gặp chủ nhân ngôi nhà này.

CHƯƠNG 11

 Những người Ngốc - Một chân vui vẻ

Lucy đi theo sư tử vĩ đại ra ngoài hành lang và ngay lập tức trông thấy một ông già đi chân đất, mặc áo chùng đỏ, trên mái đầu bạc trắng là một vòng hoa có gài lá sồi, bộ râu dài đổ đến tận thắt lưng và ông chống một cây gậy tạc những hình thù kì lạ.

Trông thấy Aslan, ông cúi đầu chào rất thấp:

- Xin nghênh đón ngài tại một trong những ngôi nhà của ngài.

- Ông có mệt lắm không hả Coriakin, khi phải chỉ huy những kẻ ngu ngốc mà ta đã giao cho ông ở đây?

- Không thưa ngài, - pháp sư đáp, - họ có ngu ngốc thật nhưng là những kẻ vô hại. Tôi bắt đầu đem lòng quý mến họ. Có những lúc, có lẽ tôi đã tỏ ra thiếu kiên nhẫn trong khi đợi đến ngày có thể chỉ huy họ bằng sự khôn ngoan thay vì phép thuật thô thiển này.

- Tất cả đều đúng lúc, Coriakin ạ.

- Vâng tất cả đều rất đúng lúc, thưa ngài. – Pháp sư đáp. – Ngài có muốn xuất hiện trước bọn họ không?

- Không. – Sư tử đáp với một tiếng gầm nho nhỏ trong cổ, Lucy nghĩ điều đó có nghĩa là một tiếng cười. – Ta sẽ làm cho họ sợ đến mức mất trí. Nhiều ngôi sao sẽ trở nên già đi và đến nghỉ ngơi ở các hòn đảo trước khi người của ông đủ trưởng thành cho điều đó. Và hôm nay trước khi mặt trời xuống núi ta phải đến thăm Chú lùn Trumpkin đang ngồi trong lâu đài Cair Paravel đếm từng ngày, chờ ông chủ Caspian của mình trở về. Ta sẽ kể cho ông ta nghe tất cả câu chuyện của các con, Lucy à. Đừng có vẻ buồn rầu như thế. Chúng ta sẽ sớm gặp lại.

- Nhưng thưa Aslan, người gọi thế nào là sớm ạ? – Lucy nói.

- Đối với ta lúc nào cũng là sớm cả. – Aslan nói và trong tích tắc ông biến mất chỉ còn lại một mình Lucy với pháp sư.

- Đi rồi! – Pháp sư nói. – Chỉ còn lại cháu và ta bị bỏ lại tiu nghỉu. Bao giờ cũng thế đấy, cháu không thể giữ chân ông ấy, không giống như một con sư tử được thuần hóa. À mà cháu có thích cuốn sách của ta không?

- Có nhiều phần cháu rất thích. – Lucy đáp. – Thế ông biết là cháu ở đây từ đầu phải không ạ?

- Ồ, tất nhiên ta đã biết rõ như vậy kể từ lúc ta để cho bọn người ngu ngốc kia tự biến mình thành vô hình và biết từ lâu rằng cháu là người sẽ đến đây để giải thoát cho chúng. Có điều ta không biết rõ là vào ngày nào mà thôi. Mà ta cũng không đặc biệt chú ý đến mọi chuyện vào buổi sáng hôm nay. Cháu thấy đấy, chúng cũng làm cho ta trở nên vô hình mà ở trong tình trạng ấy bao giờ cũng cảm thấy buồn ngủ. Woa oa, đấy ta lại ngáp nữa rồi. Cháu có đói không?

- Dạ, có lẽ cũng hơi đói một chút. Cháu cũng không biết bây giờ là mấy giờ ạ.

- Đi thôi! Tất cả mọi sự dịch thời gian đối với Aslan đều là một khoảnh khắc ngắn ngủi, nhưng trong ngôi nhà của ta ai nấy đều đói bụng vào một giờ nhất định.

Ông dẫn cô bé đi một đoạn rồi mở rộng cánh cửa. Bước vào trong, Lucy nhìn thấy mình trong một căn phòng tuyệt đẹp đầy hoa và chan hòa ánh nắng mặt trời. Chiếc bàn trong phòng trống trơn nhưng đấy là một chiếc bàn màu nhiệm và chỉ một lời của ông già, khăn bàn, ly, đĩa bằng bạc và thức ăn đã hiện lên.

- Hy vọng đây là những món cháu thích. – Ông nói. – Ta đã cố dành cho cháu những món cháu thích ở nơi quê nhà hơn là những món cháu có thể gặp sau này.

- Ôi thật là những món tuyệt vời! – Lucy thốt lên, mà đúng như thế thật, có món trứng rán, thịt cừu lạnh, thịt cừu hầm sôi sùng sục, đậu xanh, dâu, nước chanh ép dùng trong bữa ăn và tráng miệng bằng một ly sôcôla, riêng pháp sư thì chỉ uống rượu và ăn bánh mì. Không có gì đáng ngại về ông và chằng bao lâu Lucy đã vui vẻ trò chuyện với ông như với một người bạn cũ.

- Khi nào phép màu sẽ phát huy tác dụng ạ? Khi nào thì những người ngốc kia lại hiện hình ạ? – Lucy hỏi.

- Ồ, bây giờ họ đã hiện hình rồi, nhưng chắc họ vẫn còn đang ngủ, bao giờ họ cũng đánh một giấc cho đến trưa.

- Bây giờ khi họ đã hiện hình bình thường rồi ông có làm cho họ không còn diện mạo xấu xí nữa không? Ông sẽ trả lại cho họ gương mặt đẹp như lúc trước chứ?

- Ồ, đấy là một vấn đề tế nhị. Cháu thấy đấy, chỉ có họ mới nghĩ trước đây mình rất đẹp. Họ nói họ bị làm cho xấu đi, nhưng mà không phải vậy, đó không phải là điều ta nghĩ. Nhiều người có thể nói rằng sự thay đổi là theo chiều hướng tốt hơn.

- Nếu vậy bọn họ bị lừa dối một cách kinh khủng?

- Đúng thế hoặc ít ra là kẻ cầm đầu, hắn dạy cho bọn người còn lại. Bọn họ bao giờ cũng tin mỗi lời hắn nói.

- Chúng cháu cũng nhận ra điều đó, tất cả sẽ tốt đẹp hơn nếu không có hắn. Tất nhiên ta có thể biến hắn thành ra một cái gì đó hoặc thậm chí yểm bùa đề làm cho họ không tin hắn lấy một lời nữa. Nhưng ta không thích làm thế. Dù sao thì có một người cho ta tôn thờ cũng tốt hơn là không có ai để mà tin yêu và nghe theo.

- Thế ra họ không ngưỡng mộ ông ư?

- Không phải ta, - pháp sư nói, - họ không thể tôn thờ ta.

- Vậy ông làm họ trở thành xấu xí để làm gì? Cháu muốn nói cái gì mà họ gọi là sự xấu hóa.

- À, họ không chịu làm cái điều họ được chỉ bảo với lời hơn lẽ thiệt. Công việc của họ là làm vườn và chăn nuôi – không phải cho ta như họ tưởng tượng mà là cho bản thân mình. Họ chẳng bao giờ thực sự làm gì nếu ta không bắt buộc. Tất nhiên để chăm cây cối cháu cần phải có nước chứ. Có một dòng suối rất lành ở trên đồi chảy xuống cách đây chừng nửa dặm. Từ con suối ấy có một dòng chảy thẳng qua vườn. Tất cả những điều ta đòi hỏi ở họ chỉ là lấy nước từ cái nhánh đó thay vì lặn lội đến tận nguồn mà mỗi ngày chỉ xách được hai ba xô nước để tự làm khổ mình và đánh đổ mất một nửa số nước trên đường đi. Nhưng bọn họ không thấy được vấn đề. Cuối cùng họ từ chối thẳng thừng.

- Chẳng lẽ tất cả bọn họ đều ngu ngốc như vậy sao?

Pháp sư thở dài ngao ngán:

- Cháu không thể hình dung nổi những rắc rối mà họ gây ra cho ta đâu. Vài tháng trước bọn họ đem rửa bát đĩa trước bữa ăn nói rằng sau đó không cần phải rửa lại. Ta còn bắt gặp họ trồng khoai luộc xuống đất để khỏi phải luộc lần nữa khi khoai đã mọc thành cây và ra củ. Một hôm có một con mèo bị rơi vào một thùng sữa thế mà có đến 20 người xúm vào quấy sữa mà không nghĩ đến chuyện bắt con mèo ra. Nhưng ta thấy cháu đã dùng bữa xong rồi. Nào, ta đi coi xem những người ngốc này thế nào.

Họ đi vào một căn phòng khác để đầy những món đồ tinh vi khó có thể hiểu được cách sử dụng như máy đo độ cao giữa các thiên thể, mô hình vũ trụ, máy đo tốc độ phóng đi của tên và đạn, máy đếm nhịp thở, máy đo kinh vĩ. Khi họ đi đến bên cửa sổ, pháp sư nói:

- Đây. Đây là những người đầu nhồi bông của cháu.

- Cháu chẳng thấy ai cả. Những cái vật như hình nấm này là cái gì vậy ạ?

Họ đứng nhìn xuống những vật điểm lấm tấm trên thảm cỏ mượt, trông rất giống những cây nấm nhưng mà là những cây nấm khổng lồ. Thân nấm cao khoảng một mét, chiếc mũ nấm có đường kính tương tự. Khi nhìn kĩ, Lucy nhận thấy thân nấm không gắn ở giữa mũ nấm mà lại gắn vào một bên làm cho nó có một vẻ thiếu cân bằng. Ngoài ra còn có một cái gì đó nữa – giống như một cái bọc nhỏ - nằm trên cỏ dưới chân nấm. Thực ra, Lucy càng nhìn những vật này kĩ bao nhiêu thì càng ít giống cây nấm bấy nhiêu. Một phần vì mũ nấm không tròn như lúc đầu Lucy nghĩ, thực ra thì nó dài hơn là tròn và rộng dần ra ở đầu đằng kia. Có nhiều mẫu như vậy, khoảng 50 hoặc hơn.

Đồng hồ điểm ba tiếng.

Đúng lúc đó một việc kỳ lạ nhất xảy ra. Mỗi cái “nấm” bất thình lình nhảy lộn ngược lại.

Những cái bọc nhỏ nằm dưới chân nấm bây giờ lại là đầu và thân, còn thân nấm thì lại thành chân. Nhưng lại không có hai chân cho mỗi cái thân mà lại chỉ có một cái chân duy nhất dày chình chịch ở vị trí chính giữa (chứ không phải một bên như một người bị cụt một chân) và ở dưới cùng là một bàn chân to tướng – một bàn chân với những ngón chân to bè cong lên một chút làm cho nó trông giống một chiếc canô nhỏ. Bây giờ thì nó rõ tại sao trông giống như những cây nấm. Họ nằm ngửa, cái chân duy nhất giơ thẳng lên trời và bàn chân tòe ra như để che nắng. Sau đó nó biết được đấy là cách nghỉ ngơi thông thường của họ bởi vì bàn chân to như cái mũ nấm có thể che mưa che nắng và họ nằm dưới cái chân mình cũng tựa như ta nằm trong lều.

- Ồ, đây là một điều thú vị nhất đấy! – Lucy reo lên, bật cười khanh khách. – Có phải ông biến họ thành ra như thế?

- Đúng, đúng, ta đã làm cho những kẻ ngốc kia biến thành những người một chân. – Pháp sư đáp. Ông cũng cười đến mức nước mắt chảy giàn giụa trên má. – Nhưng hãy coi kìa! Đó là một việc đáng quan sát lắm. Tất nhiên những người một chân tí hon này không đi hoặc chạy như chúng ta mà lại nhảy tanh tách như một con bọ chét hoặc con cóc. Coi cú nhảy họ thực hiện kìa! Như thể mỗi cái chân đều có đệm lò xo. Mỗi lần họ đáp xuống lại gây nên những tiếng nện thình thịch như tiếng vồ đập đất vốn đã làm cho Lucy bối rối vào ngày hôm qua. Còn bây giờ họ nhảy nhót tứ tung và í ới gọi nhau:

- Này các bạn! Chúng ta không còn vô hình nữa rồi!

- Chúng ta đã hiện hình. – Một người đội mũ đỏ có núm tua rua nói, người này chắc hẳn là thủ lĩnh. – Và điều mà ta muốn nói là khi ta đã hiện hình thì người này có thể nhìn rõ người kia.

- Đúng thế, đúng thế thưa đại ca. – Tất cả ồ lên. – Vấn đề là ở chỗ đó. Không ai có cái đầu sáng suốt hơn đại ca, không ai diễn đạt điều đó một cách giản dị hơn, đúng đắn hơn.

- Cô bé đã cho lão già một cú bất ngờ, cái cô bé ấy. – Thủ lĩnh nói. – Lần này chúng ta đã đánh bại lão.

- Trời, đúng với những điều đàn em muốn nói làm sao! – Dàn đồng ca phụ họa. – Bây giờ đại ca đã mạnh hơn bao giờ hết thưa đại ca. Hãy cứ thế, cứ thế.

- Họ dám nói về ông như thế ư? – Lucy hỏi. – Thế mà mới hôm qua họ còn tỏ ra sợ ông. Chẳng lẽ họ không biết là ông có thể nghe thấy hay sao?

- Đó là một trong những điểm tức cười về những người ngu ngốc này. – Pháp sư nói. – Mới một phút trước họ nói như thể ta điều hành tất cả, nghe được mọi chuyện lớn nhỏ và cực kì nguy hiểm. Ngay sau đó họ lại nghĩ là có thể lừa ta vào một cái bẫy mà một đứa trẻ lên ba cũng thấy sờ sờ ra. Chúa ban phước lành cho họ.

- Họ sẽ được quay về hình dáng thích hợp chứ ạ? Ồ, cháu hi vọng sẽ không phải là việc làm độc ác nếu cứ để họ như thế. Họ có vẻ không phiền lòng về điều này phải không? Dường như họ rất hạnh phúc. Cháu muốn nói – nhìn cái cách họ nhảy kia kìa. Trước kia họ thế nào ạ?

- Những người lùn bình thường chẳng dễ thương được như những người cháu đã gặp ở Narnia đâu.

- Thật tiếc nếu đưa họ trở về với con người cũ. – Lucy tư lự. – Họ rất vui vẻ và cũng thật dễ thương. Ông có nghĩ là có gì thay đổi nếu cháu bảo cho họ biết điều này không?

- Ta chắc là có thể - với điều kiện cháu nhét được điều đó vào trong đầu họ.

- Ông sẽ đi với cháu để thử xem chứ?

- Không, không. Cháu sẽ làm tốt hơn nhiều nếu không có ta.

- Cảm ơn bữa ăn trưa của ông thật nhiều. – Lucy nói rồi nhanh nhẹn đi ra ngoài. Nó chạy như bay xuống cái cầu thang mà mới sáng nay nó còn hồi hộp bước lên, và đâm thẳng vào Edmund đang đứng đợi ở chân cầu thang. Tất cả mọi người đều cùng đứng với Edmund để chờ nó và lương tâm của Lucy có bị cắn rứt ít nhiều khi nó nhìn thất những khuôn mặt lo của họ và nhận ra nó đã quên bẵng họ trong suốt thời gian qua.

- Tất cả đều ổn. – Nó kêu lên. – Mọi chuyện đều rất tuyệt. Pháp sư là một người trung hậu… và em đã gặp người – Aslan.

Sau đó nó lao qua chỗ họ như một ngọn gió và chạy ra vườn. Và ở đây mặt đất rung lên với những bước nhảy, không gian ngân lên tiếng cười nói của người một chân. Cả hai loại tiếng động đó to lên gấp đôi khi họ trông thấy vị cứu tinh.

- Đây, cô ấy đến đây, đến đây! – Tất cả reo lên. – Ba lời hoan hô dành cho cô gái nhỏ. Thế là cô bé đã qua mặt lão già một cách ngoạn mục, thật thế.

- Và chúng tôi thật sự lấy làm tiếc, - thủ lĩnh nói, - chúng tôi không thể mang lại niềm vui được nhìn thấy chúng tôi trước khi bị làm cho xấu xí như thế này… Bởi vì… cô bé sẽ không thể tin được là có một sự khác biệt như thế nào đâu. Sự thật là thế đấy, bây giờ thì không thể chối cãi rằng chúng tôi là những sinh vật xấu kinh hồn, giờ thì có thể rõ chúng tôi không lừa dối cô.

- Phải, chúng ta là thế đấy, thưa đại ca, chúng ta là thế. – Những người còn lại ngân dài giọng trong lúc nảy lên nảy xuống như những quả bóng đồ chơi. – Đại ca bao giờ cũng chỉ nói đúng mà thôi.

- Nhưng tôi lại không hề nghĩ như thế. – Lucy hết hơi hết sức gào to để người một chân có thể nghe được. – Tôi nghĩ trông mọi người rất dễ thương.

- Nghe cô ấy nói kìa, nghe kìa. – Những người một chân reo to. – Đúng làm sao, tiểu thư nói đúng làm sao, thưa cô! Chúng tôi rất dễ thương. Cô không thể tìm ra ai bảnh hơn. – Họ nói thế mà không hề ngỡ ngàng và dường như cũng không nhận ra là họ đã thay đổi suy nghĩ đến 180 độ.

- Cô ấy nói… - thủ lĩnh lên tiếng, - rằng chúng ta… chúng ta… dễ thương trước khi trở nên xấu xí đấy.

- Rất đúng, thưa đại ca, đúng là như thế. – Các giọng khác nói ngân lên. – Đó là điều cô ấy đã nói. Chúng tôi biết cô ấy nói thế.

- Không phải. – Lucy gào to. – Tôi nói lúc này trông các ông rất dễ thương.

- Cô bé đã nói thế, đã nói thế, - thủ lĩnh nói, - rằng chúng ta từng rất đẹp.

- Hãy nghe cả hai người, cả hai người. – Cả bọn ồ lên. – Đây là một cặp dành cho nhau. Bao giờ họ cũng chỉ nói những điều đúng đắn nhất. Họ không thể nói hay hơn được.

- Nhưng chúng tôi đang nói hai điều trái ngược nhau. – Lucy nói, giậm giậm hai chân vì mất hết cả kiên nhẫn.

- Hai người là thế, hẳn rồi, là thế, - dàn đồng ca lại ào lên, - chẳng có gì đối lập cả. Cứ thế đi, cứ thế đi.

- Các người thật… khiến cho người ta phát điên lên. – Lucy nói và đành bỏ cuộc. Nhưng những người một chân có vẻ hoàn toàn hài lòng nên quyết định rằng cuộc nói chuyện như thế là thành công. Trước khi mọi người đi ngủ vào buổi tối hôm ấy, một chuyện khác xảy ra làm cho những người này còn mãn nguyện hơn nữa với cái chân độc nhất của mình.

Caspian và tất cả những người Narnia đã quay trở lại bờ biển ngay khi họ có thể để nhắn tin về cho Rhince và những người khác đang ở trên boong tàu Hướng tới Bình minh bởi vì họ đang rất lo lắng. Tất nhiên những người một chân đi cùng với khách, nảy lên bần bật như một quả bóng và bao giờ cũng đồng ý với người khác bằng cái giọng nghe choang choác cho đến lúc Eustace đau khổ thốt lên:

- Tôi chỉ muốn pháp sư làm cho họ trở nên vô thanh thay vì vô hình. (Chẳng bao lâu sau nó đã phải hối tiếc vì đã trót nói như vậy bởi vì sau đó nó lại phải mất công giải thích rằng vô thanh là một việc khiến bạn không nghe thấy tiếng, và mặc dù đã bỏ nhiều công lao khó nhọc nó không bao giờ biết chắc là nó có làm cho họ thực sự hiểu ra vấn đề không và điều làm nó bực bội nhất là cuối cùng họ lại nói: “Ồ, cậu ta không biết cái cách mà đại ca chúng ta thường nói. Nhưng cậu có thể học thêm, anh bạn trẻ ạ. Hãy nghe ngài đi ngài sẽ dạy cậu cách ăn nói. Đây mới thật là người thầy dạy về hùng biện dành cho cậu đấy!). Khi mọi người đến bên bãi biển, Reepicheep nảy ra một sáng kiến rất tuyệt. Bác hạ cái thuyền thúng của mình xuống rồi ngồi vào thuyền chèo cho đến khi toàn bộ những người một chân này thích mê tơi. Sau đó bác đứng lên thuyền và nói:

- Này những người một chân thông minh, sáng giá, các người không cần đến thuyền đâu. Mỗi người đã có một chân thay thuyền rồi. Hãy nhẹ nhàng nhảy xuống nước xem chuyện gì xảy ra nào.

Thủ lĩnh quay đầu lại, cảnh cáo những người còn lại là họ sẽ thấy nước rất ướt, nhưng một hai người trẻ nhất trong bọn họ muốn thử ngay xem sao; vài người khác theo gương họ, cuối cùng thì cả bọn làm theo. Cảnh đó diễn ra thật thú vị. Bàn chân to tướng của họ cũng tựa như một cái bè tự nhiên hay một con thuyền. Khi Reepicheep dạy họ cách làm mấy mái chèo thô sơ và cách chèo thì tất cả nhất loạt chèo quanh vịnh và quanh con tàu của khách và nhìn từ xa trông như một đội thuyền gồm toàn những chiếc canô nhỏ với một người lùn mập mạp đứng ở phía đuôi. Tất cả bọn họ đều hò nhau bơi thuyền, các chai rượu từ trên tàu đưa xuống như những giải thưởng, các thủy thủ cúi lom khom qua mạn tàu cười vang cho đến khi đau cả bụng.

Những người ngốc này rất khoái chí trước một cái tên mới: Ngốc – Một chân. Với họ dường như cái đó là một cái tên tuyệt vời mặc dù họ không sao đọc cho đúng được. “Ốc Một chân, Ốc Muôn chân, Một quân. Đó chính là cái từ cửa miệng để chúng ta gọi về mình”. Nhưng chẳng bao lâu họ đã ghép tên mới với tên cũ thành ra Ngốc – Chân và đó là lý do họ có cái tên ấy trong hàng thế kỉ sau đó.

Buổi tối hôm ấy những người khách Narnia ăn tối trên lầu với pháp sư, Lucy nhận ra cả tầng lầu trên cùng này trông rất khác và nó không còn cảm giác sờ sợ nữa. Những kí hiệu kì bí trên cánh cửa trông có vẻ bí ẩn nhưng bây giờ lại có một thông điệp vui tươi, tốt lành, cả cái Gương Râu bây giờ trông buồn cười hơn là đáng sợ. Trong bữa ăn đó, nhờ vào phép màu, mỗi người đều có những món ăn thức uống mà mình thích nhất. Sau bữa ăn pháp sư thực hiện một pháp thuật tuyệt vời nhất và hữu ích nhất.

Ông đặt hai tờ giấy bằng da thuộc còn để trắng lên bàn rồi yêu cầu Drinian cho ông biết chính xác hải trình của họ cho đến tối nay. Trong lúc Drinian nói, tất cả những điều ông mô tả hiện lên trên tấm da thuộc bằng một nét vẽ rõ ràng cho đến khi cuối cùng mỗi tờ giấy trở thành một tấm bản đồ Biển Đông, cho thấy vị trí của Galma, Terebinthia, Bảy Đảo, quần đảo Đơn Côi, đảo Rồng, đảo Cháy, đảo Nước – Chết và đảo của Người Ngốc. Tất cả đều tuyệt đối chính xác cả về kích thước lẫn vị trí. Đó là hai tấm bản đồ đầu tiên và tốt hơn bất cứ tấm bản đồ nào ra đời sau đấy mà không có sự giúp đỡ của phép màu. Thoạt nhìn tấm bản đồ này trông không có gì khác với những tấm bản đồ thông thường nhưng khi pháp sư cho họ mượn kính lúp của ông, mọi người thấy những vùng núi đồi và sông ngòi hiện lên như thật và thoắt một cái tấm bản đồ trở thành những bức tranh hoàn hảo về những vật thật kì diệu đến nỗi bạn có thể nhìn thấy cả các tòa lâu đài, chợ bán nô lệ và đường phố Narrowhaven, tất cả đều rõ mồn một, bất kể là bạn ở cách nó bao xa, cũng giống như mọi vật hiện lên khi nhìn vào kính viễn vọng. Nhược điểm duy nhất của nó là đường giáp giới với biển cò chưa hoàn thiện bởi vì bản đồ chỉ thể hiện những gì mà Drinian chính mắt trông thấy. Khi vẽ xong, pháp sư giữ một bản, còn một bản thì tặng cho Caspian và kể từ đấy nó vẫn được treo trong phòng cơ mật của nhà vua ở lâu đài Cair Paravel.

Pháp sư không nói gì cho họ biết về biển và đất liền nằm xa hơn về phía đông. Tuy vậy, ông cho họ biết bảy năm về trước ông có thấy một con tàu Narnia đi qua vùng biển của ông, trên boong tàu có ngài Revilian, Argoz, Mavramorn và Rhoop: như vậy, họ suy đoán người đàn ông vàng mà họ trông thấy nằm trong hồ Nước – Chết có khả năng là ngài Restimar.

Ngày hôm sau, pháp sư dùng pháp thuật sửa chữa lại những chỗ hư hỏng ở đuôi tàu do rắn biển gây nên, ông còn tặng họ nhiều món quà hữu ích khác. Đó là một cuộc chia tay lưu luyến bịn rịn nhất. Khi con tàu đã nhổ neo vào hai giờ chiều, tất cả những người Ngốc – Chân đều bơi ra ngoài vịnh tiễn, họ reo hò ầm ĩ cho đến khi con tàu đi ra khỏi tầm nghe.

CHƯƠNG 12

Đảo ác mộng

Sau cuộc phiêu lưu đó họ đi về phương Nam hơi chếch sang hướng đông một chút trong suốt 12 ngày với sức gió vừa phải. Bầu trời ngày nào cũng trong veo, không khí ấm áp, không thấy cá biển chim trời, trừ một lần có gặp một hai con cái voi từ đằng xa phun lên những cột nước vào mạn tàu bên phải. Lucy và Reepicheep cứ ngồi đánh cờ suốt. Rồi đến ngày thứ 13, từ trên đài quan sát Edmund nhìn thấy một cái gì trông như ngọn núi cao đen thẫm vươn mình lên khỏi mặt biển ngay trước mũi tàu của họ.

Họ thay đổi hải trình hướng cho tàu đi vào gần mảnh đất đó, chủ yếu bằng các mái chèo bởi vì gió không chiều lòng người lại đổi sang thổi theo hướng đông bắc. Khi trời nhập nhoạng tối họ vẫn thấy còn cả một quãng đường dài trước mặt và phải chèo suốt đêm. Sáng hôm sau, thời tiết vẫn đẹp nhưng là một sự bình lặng đơn điệu. Cái khối đen vẫn lù lù nằm trước mặt, đã gần hơn, to hơn nhưng vẫn mờ mờ, tỏ tỏ thế là một vài người nghĩ đường vẫn còn xa lắm còn những người khác lại nghĩ họ đi vào vùng có sương mù.

Vào lúc 9 giờ sáng, thật bất ngờ, nó ở gần ngay trước mũi và có thể thấy đó không phải là một mảnh đất mà cũng không phải là một đám sương mù dày đặc theo cái nghĩa thông thường mà là một khối đen. Kể cũng khó miêu tả, nhưng bạn có thể hình dung nó là một cái gì giống như khi bạn nhìn vào miệng một đường hầm tàu hỏa - một đường hầm vừa dài hun hút vừa ngoằn ngoèo vì thế bạn không thể thấy ánh sáng cuối đường hầm. Mọi chuyện xảy ra như thế này. Đi được vài bước bạn còn thấy đường ray, những hành khách đang gà gật và lớp sỏi trên đường đi dưới ánh sáng lồ lộ ban ngày, rồi tàu đi đến một nơi tranh tối tranh sáng và bất thình lình không hề có một đường ngăn cách, tất cả biến mất trong một bóng đêm dày đặc êm mượt như nhung.

Nó vẫn ở đấy thôi. Cách mũi tàu vài thước những người Narnia còn ngửi thấy mùi khỏe khoắn của nước biển xanh lơ ngả sang xanh lá cây. Xa hơn một chút nữa, họ có thể thấy nước biển nhạt dần có màu xam xám như nó vẫn thế vào lúc chiều tối. Nhưng xa hơn chút nữa là một bức màn đen dày đặc như thể họ đi vào đêm ba mươi không trăng và không có lấy một vì sao.

Caspian hét lên bảo những người neo buồm cho tàu quay lại, tất cả mọi người trừ những người đang làm nhiệm vụ chèo thuyền đều chạy ra ngoài mũi tàu, căng mắt ra nhìn. Nhưng chẳng có gì để nhìn. Sau lưng họ là biển và mặt trời, trước mặt họ là Bóng Đen vĩ đại.

- Chúng ta có nên đi vào đấy không? - Caspian kéo dài giọng, hỏi.

- Không, theo ý kiến của thấn. - Thuyền trưởng đáp.

- Chúng tôi cũng nghĩ như thuyền trưởng. - Vài thủy thủ đồng thanh nói.

 - Gần như tôi cũng nghĩ thế. - Edmund nói.

Lucy và Eustace không nói gì nhưng chúng cảm thấy vui trong lòng khi mọi việc diễn ra như thế. Chợt giọng nói chin chít rành mạch của Reepicheep vang lên phá vỡ sự im lặng.

- Tại sao lại không? Có ai vui lòng giải thích cho tôi rõ không?

Chẳng có ai có lòng nào giải thích nên bác nói tiếp:

- Nếu tôi đang nói chuyện với mấy bác nông phu hoặc mấy tên nô lệ thì tôi có thể cho đấy là một sự gợi ý xuất phát từ sự hèn nhát. Nhưng tôi hi vọng sau này ở Narnia không loan ra một cái tin là một nhóm những người cao quý nhất, tinh hoa nhất đang ở độ tuổi rực rỡ nhất trong đời lại cụp đuôi bỏ trốn chỉ vì họ sợ bóng tối.

- Nhưng cái phong cách quý hóa ấy thì có ích gì khi đi qua cái bóng tối dày đặc này chứ? - Drinina hỏi lại.

- Ích lợi à? - Reepicheep đáp. - Ích lợi ư, thuyền trưởng? Nếu với cái từ này ông muốn nói đến chuyện đổ đầy cái ví của chúng ta, thì tôi thừa nhận nó chẳng có ích lợi gì hết. Từ trước đến giờ, theo như chỗ tôi biết chúng ta đâu có giong buồm lênh đênh nơi chân trời góc biển này để tìm kiếm cái gì có lợi mà là tìm kiếm những cuộc phiêu lưu và danh dự đấy chứ. Và đây sẽ là một cuộc phiêu lưu lí thú nhất mà tôi từng nghe thế mà bây giờ ta lại lùi bước thì chẳng phải điều này bôi nhọ danh dự của chúng ta hay sao?

Một vài thủy thủ làu bàu trong miệng nghe như: “Danh dự cái con khỉ ấy”, còn Caspian thì nói:

- Ôi chán ông thật đấy, Reepicheep. Tôi gần như mong là chúng tôi không mang ông đi theo. Thôi được, nếu ông mà đã nói thế thì tôi cho rằng chúng ta nên đi tiếp. Trừ phi Lucy không muốn thế.

Lucy cảm thấy rất rõ ràng rằng nó nên từ chối, nhưng điều mà nó nói ra miệng lại là:

- Tôi cũng muốn liều một phen.

- Ít nhất thì bệ hạ cũng ra lệnh cho bật đèn lên chứ? - Thuyền trưởng hỏi.

- Bằng tất cả mọi phương tiện. - Caspian ra lệnh. - Phải nhìn cho thật rõ, thuyền trưởng ạ.

Thế là ba ngọn đèn lồng ở đuôi tàu, ở mũi và trên cột buồm đều được thắp sáng, Drinian còn ra lệnh đối thêm hai ngọn đuốc ở giữa tàu. Sau đó tất cả bọn đàn ông, trừ những người làm nhiệm vụ cầm chèo ở phía dưới đều được lệnh lên boong, gươm giáo lăm lăm và ở trong tư thế sẵn sàng chiến đấu. Lucy và hai cung thủ mang đầy đủ cung và tên đứng trên đài quan sát. Rynelf đã giương cung lên trong tư thế sẵn sàng nhắm bắn.

Reepicheep, Edmung, Eustace và Caspian, nửa thân trên sáng lên trong chiếc áo giáp sẵn sàng đứng bên cạnh Rynelf. Drinian cầm bánh lái.

- Và bây giờ, nhân danh Aslan, tiến lên! - Caspian hô vang. - Chậm mà chắc. Tất cả mọi người im lặng, nghe lệnh!

Với một tiếng chuyển mình răng rắc và một tiếng rền, con tàu Hướng tới Bình minh lao về phía trước khi người ta bắt đầu chèo thuyền. Lucy, đứng cao trên đài quan sát, nhìn được cảnh tượng đáng ghi nhớ vào đúng cái lúc mà họ tiến vào trong bóng đen. Đầu tàu đã biến mất trong lúc mặt trời còn nhuộm vàng đuôi tàu. Lucy muốn ghi trong đầu cảnh tượng này. Mới ở cái giây này, đuôi tàu sơn son thếp vàng, biển xanh lơ và bầu trời ngát… tất cả còn hiện diện trong ánh mặt trời thì một tích tắc sau, biển và trời đã biến mất, ngọn đèn ở đuôi tàu - một vật khó nhận ra vào cái phút trước - bây giờ là vật duy nhất cho biết con tàu kết thúc ở đâu. Phía trước ngọn đèn, Lucy có thể trông thấy cái bóng đen đen của Drinian cúi xuống tay bánh lái. Bên dưới cô bé hai ngọn đuốc làm hiện rõ hai mảng nhỏ trên boong tàu, ánh sáng loang loáng của những thanh kiếm, mũ trụ và phía trước là một hòn đảo khác trong ánh sáng ở phần boong mũi tàu. Tách ra khỏi phần dưới, tàu quan sát chỉ được chiếu sáng bởi ngọn đèn treo trên cột buồm, hình như là chỗ nhận được ít ánh sáng nhất trong cái thế giới thu nhỏ đang trôi vào trong bóng đen đông đặc này. Và những ngọn đèn ấy - như bao giờ cũng xảy ra với những nuồn sáng mà bạn có khi ở vào những thời điểm không thích hợp - trông có vẻ ma quái và thiếu tự nhiên. Lucy chợt rùng mình sợ hãi.

Họ đi như thế được bao lâu trong bóng đen thì không ai biết rõ. Trừ tiếng cọt kẹt của cọc chèo và tiếng mái chèo khuấy nước tuyệt không có thứ gì khác cho biết là họ đang di chuyển. Edmund, đứng ở mũi tàu nhìn ra, không thấy bất cứ một cái gì ngoài ánh phản chiếu của ngọn đèn trước mặt. Đó là một ánh phản chiếu trơn như mỡ, những con sóng gợn lên trước mũi tàu vừa nặng nề, vừa mờ nhạt và thiếu sức sống. Thời gian chậm chạp trôi qua, tất cả mọi người, trừ những người chèo thuyền, đều rùng mình ớn lạnh. Bất thình lình, từ một chỗ nào đó - bây giờ thì không ai có cảm giác về phương hướng rõ ràng nữa - vang lên một tiếng kêu thê lương rùng rợn, cũng có thể đó không phải là giọng con người hoặc đúng là của một người nào đó nhưng trong cơn kinh hoàng tột độ đã không còn có cái âm thanh phát ra trong thanh quản con người nữa.

Caspian cố nói một điều gì đó nhưng cổ họng cậu khô đắng lại - chợt vang lên cái giọng rin rít của Reepicheep nghe the thé hơn bình thường trong cái không khí im lặng hãi hùng này:

- Ai gọi đấy? Nếu ngươi là một kẻ thù thì chúng ta không sợ đâu, còn nếu ngươi là bạn thì kẻ thù của ngươi sẽ được dạy cho biết thế nào là lễ độ.

- Xin cứu vớt! - Cái giọng ban nãy kêu lên. - Xin hãy rủ lòng thương! Dù đại nhân chỉ ở trong một giấc mơ thì hãy ra tay cứu độ. Hãy đưa tôi lên tàu, dù sau đó có giết tôi chết cũng được. Nhân danh tất cả những tấm lòng từ bi, đừng bỏ đi, đừng để tôi ở lại mảnh đất bị nguyền rủa, bị ma ám này.

- Ông ở đâu? - Caspian hét lên. - Hãy lên boong tàu ông sẽ được đón tiếp.

Nghe vang lên một tiếng kêu nữa, không biết là vì vui mừng hay sợ hãi và họ biết có một người đang bơi lại gần tàu.

- Dừng lại và hãy kéo người này lên, các ông. - Caspian ra lệnh.

- Vâng, thưa bệ hạ. - Đám thủy thủ đáp. Vài người xúm lại thành tàu với những sợi dây chão và một người cầm một ngọn đuốc cúi người qua thành tàu. Một khuôn mặt trắng bệch, hoang dại nhô lên khỏi mặt nước đen ngòm và rồi thấy có tiếng lao sao, tiếng lôi kéo và hàng chục cánh tay bè bạn đưa ra, người lạ mặt được kéo lên boong.

Edmund nghĩ trong đời mình cậu chưa bao giờ trông thấy một người nào có vẻ man rợ hơn. Mặc dầu trông ông ta không già lắm nhưng mái tóc bù xù thì bạc trắng hết. Khuôn mặt gầy, dúm dó, quần áo của ông ta chỉ là một mảnh giẻ tả tơi ướt sũng mắc lên người. Nhưng điều đáng chú ý nhất là đôi mắt - mở to như thế ông ta không hề có mi mắt - trợn trừng không còn thần sắc trong một nỗi kinh hoàng khôn xiết. Vừa đặt chân lên boong tàu, người này đã hoảng hốt kêu lên.

- Chạy đi! Chạy đi! Tàu phải bơi đi ngay. Chèo, chèo, chèo mạnh vào vì cả mạng sống của mình để thoát khỏi cái bờ biển bị ma ám này.

- Cứ bình tĩnh, - Reepicheep nói, - bình tĩnh lại kể cho chúng tôi nghe xem mối đe dọa là gì. Chúng tôi không quen với việc bỏ chạy trước bất cứ nguy hiểm nào.

Người lạ giật mình đến thót một cái khi nghe thấy giọng nói của bác chuột, người mà cho đến lúc ấy ông ta mới nhận ra.

- Dù sao thì mọi người cũng phải cao chạy xa bay. - Ông ta hổn hển nói. - Đây là hòn đảo nơi giấc mơ biến thành sự thật.

- Nếu vậy nó là hòn đảo tôi đã tìm kiếm từ rất lâu rồi, - một thủy thủ nói như cố ý làm cho người lạ bớt căng thẳng, - tôi sẽ cưới cô nàng Nancy nếu chúng tôi đặt chân được đến đây.

- Và tôi sẽ tìm thấy Tom vẫn còn sống hẳn hoi. - Người khác đế theo.

- Một lũ ngốc! - Người lạ nói, giậm chân giận dữ. - Đó chính là cái loại chuyện viễn tưởng đã mang tôi đến đây, và tôi thà bị chết đuối hoặc không bao giờ được sinh ra trên đời còn hơn. Các ông có nghe tôi nói gì không? Đấy là nơi những giấc mơ… phải, những giấc mơ, các ông có hiểu không - đến với cuộc đời, trở thành sự thật. Không phải là ước mơ mà là những cơn mơ, những cơn ác mộng.

Im lặng bao trùm lên trong vòng nửa phút, rồi với tiếng lách cách của chiếc áo giáp, cả thủy thủ đoàn chen nhau chạy xuống cửa sập chính nhanh như đôi chân mềm nhũn có thể mang họ đi được, vớ lấy mái chèo, chèo thục mạng như họ chưa từng làm thế trong đời. Drinian xoay bánh lái, người neo buồm làm những động tác quyết liệt mà chưa có ai từng làm thế bao giờ. Mọi người chỉ mất có nửa phút để nhớ lại những giấc mơ mà họ đã có trong đời - những giấc mơ làm cho bạn sợ không dám ngủ tiếp nữa - và nhận ra việc đặt chân lên một miền đất nơi giấc mơ biến thành hiện thực thật ra đáng sợ như thế nào.

Chỉ có Reepicheep là đứng yên không nhúc nhích.

- Thế này là thế nào thưa bệ hạ, có phải người có ý định chịu đựng sự chống đối này, sự hèn nhát này? Đó là một sự hoảng loạn. Một sự tháo chạy đớn hèn.

- Chèo đi, chèo đi! - Caspian gào đến rách cả họng! - Hãy cứu lấy tất cả chúng ta! Đầu tàu quay đúng hướng chưa Drinian? Ông muốn nói gì thì cứ việc, Reepicheep ạ. Có những cái con người không thể đối mặt.

- Vậy thì, tôi thật may mắn vì đã không phải là một con người. - Reepicheep đốp lại với một cái cúi chào cứng ngắc.

Lucy đứng trên đài chiến đấu đã nghe được tất cả những điều này. Trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, một trong những giấc mơ mà nó đã cố hết sức quên đi lại quay trở lại rõ mồn một trong tâm trí như thể nó chỉ vừa mới thức giấc. Thế là họ bỏ chạy, để hòn đảo kì bí đó lại sau lưng trong bóng đêm mịt mùng. Trong một giây nó chỉ muốn chạy xuống boong đứng bên cạnh Edmund và Caspian. Nhưng làm thế thì có ích gì? Nếu những cơn ác mộng thành sự thật thì cả Edmund lẫn Caspian đều có thể biến thành một cái gì rất đánh sợ nếu nó đến gần. Lucy nắm chặt lấy tay vịn và cố lấy lại bình tĩnh. Họ đang chèo cật lực trở lại chỗ có ánh sáng, mọi chuyện rồi sẽ ổn trong vòng vài phút nữa. Nhưng giá như mọi cái đều ổn thỏa được vào lúc này!

Mặc dầu việc chèo thuyền gây nhiều tiếng ồn nó vẫn không phá vỡ được sự im lặng bịt bùng đang chụp lên con tàu. Mọi người đều biết sẽ tốt hơn nếu không nghe ngóng, không căng ta ra đón mỗi động tĩnh phát ra từ trong bóng tối dày đặc. Nhưng không ai lại không để ý lắng nghe. Chẳng bao lâu sau ai cũng nghe thấy một tiếng động gì đó. Tai mỗi người lại nghe thấy một điều khác nhau.

- Ông có nghe thấy một tiếng động… nghe như thế… như thể một cái kéo khổng lồ đang mở ra, đóng lại… Ở đằng kia? - Eustace hỏi Rynelf. 

- Suỵt, tôi chỉ nghe thấy tiếng con gì đó đang bò lên ở hai bên sườn tàu. 

- Nó đang làm cái gì đó với cột buồm. - Caspian nói.

- Úi chà! - Một thủy thủ bật lên. - Tiếng cồng bắt đầu rồi. Tôi đã biết rõ là như thế mà.

Cố không nhìn vào cái gì (đặc biệt là không nhìn ra sau lưng), Caspian đi xuống đuôi tàu đến buồng lái của Drinian.

- Thuyền trưởng, - cậu hỏi với cái giọng nhỏ như vừa chạy hụt cả hơi, - chúng ta chèo được bao lâu rồi - tôi muốn nói chèo từ chỗ gặp người lạ.

- Có lẽ được 5 phút ạ. - Drinian cũng thì thào đáp lại.- Có gì không ạ?

Đôi tay Drinian run lên trên bánh lái, một dòng mồ hôi lạnh túa ra trên mặt ông. Cũng đúng cái ý nghĩ ấy xuất hiện trong đầu tất cả mọi người. “Chúng ta sẽ không bao giờ thoát ra được, không bao giờ. - Những người chèo thuyền rên rỉ. - Ông ấy đã lái chúng ta đi sai đường. Chúng ta sẽ quay mòng mòng ở một chỗ. Sẽ không bao giờ thoát ra được.”

Người lạ mặt, nãy giờ vẫn nằm cuộn thành một đống trên sàn bây giờ ngồi bật dậy, tuôi ra những âm thanh nửa cười nửa khóc thật quái gở:

- Không bao giờ thoát ra được. - Ông ta tru lên từng hồi. - Là thế đấy. Tất nhiên. Chúng ta sẽ không bao giờ thoát ra được. Tôi thật là một thằng ngu mới nghĩ các người có thể giúp cho tôi trốn thoát dễ dàng. Không, không, không bao giờ thoát ra được.

Lucy gục đầu vào gờ của đài quan sát, thì thầm:

- Aslan, Aslan, nếu người thương yêu tất cả chúng con xin người hãy ra tay cứu đỡ vào lúc này. - Bóng đen không nhạt bớt chút nào nhưng Lucy bắt đầu cảm thấy đỡ hơn - từng chút một: “Sau cùng sẽ không có chuyện gì xảy ra với chúng ta,” nó nghĩ.

- Coi kìa! - Cái giọng khàn khàn của Rynelf vang lên từ mũi tàu. Đã có một vệt sang đằng mũi tàu, mọi con mắt đều dồn lại, chăm chú quan sát vệ sang lan rộng ra đổ xuống con tàu. Nó không xua tan được bóng tối bao quanh nhưng cả con tàu sáng bừng lên như có ánh đèn pha chiếu vào. Caspian hấp háy mắt, nhìn quanh thấy khuôn mặt của những người bạn đồng hành biểu lộ những cảm xúc lẫn lộn, mãnh liệt. Tất cả mọi người đều nhìn chằm chằm về một hướng và đằng sau mỗi người là cái bóng đen, sắc cạnh của chính mình.

Lucy nhìn về phía ánh sáng rồi dần dần trông thấy một cái gì trong đó. Đầu tiên nó giống một cây thập tự sau lại trông như một chiếc máy bay, rồi lại giống một cái diều và cuối cùng là một vật có đôi cánh đang vẫy lên, chiếc đầu dài ra. Đó là một con hải âu cực lớn. Nó bay lượn ba vòng quanh cột buồm rồi lập tức đậu trên đỉnh đầu rồng ở mũi tàu. Nó kêu lên bằng một giọng mạnh mẽ, ngọt ngào nghe như là tiếng người dù không ai hiểu nó muốn nói gì. Sau đó nó dang rộng đôi cánh, bay lên và bắt đầu từ từ bay về phía trước hơi chếch một chút về mạn bên phải. Drinian lái tàu theo nó, không mảy may nghi ngờ sự hướng đạo tốt lành của nó. Không một ai, trừ Lucy biết rằng trong khi lượn quanh cột buồm nó thì thầm với cô bé: “Cản đảm lên, trái tim thân thương của ta!” Cái giọng ấy Lucy biết rất rõ chính là của Aslan và cùng với giọng nói ấy là một hơi thở thơm tho phả lên người cô bé.

Trong vòng vài phút bóng tối như mực ở trước mặt chuyển dần sang màu xám nhạt và gần như ngay trước khi họ le lói một tia hi vọng thì cả con tàu đã lọt vào một thế giới xanh biếc, ấm áp và chan hòa ánh sáng mặt trời. Chợt mọi người đều nhận ra là chẳng có gì phải sợ và cũng chưa bao giờ họ sợ. Họ nháy mắt trong vùng ánh sáng và nhìn nhau. Vẻ rực rỡ của con tàu làm họ kinh ngạc: họ đã có phần lo rằng sẽ thấy bóng tối bám vào nước sơn màu trắng, màu xanh lá cây và màu vàng của con tàu làm cho nó dơ bẩn hay trở nên mờ xỉn đi. Đầu tiên là một người, rồi hai người và sau đó là ba người cùng cười phá lên:

- Tôi e rằng chúng ta đã biến mình thành một lũ ngốc. - Rynelf nói.

Lucy không mất nhiều thời gian bước xuống boong tàu nơi nó tìm thấy tất cả mọi người đang xúm quanh người khách lạ. Trong một lúc lâu ông ta quá hạnh phúc để có thể nói nên lời, ông ta ngây dại nhìn biển, nhìn mặt trời, lấy ta sờ lên thành tàu và dây tàu như muốn cảm thấy chắc chắn là mình đang thức trong khi những giọt nước mắt chảy ròng ròng xuống má.

- Cảm ơn. - Cuối cùng ông ta nói. - Mọi người đã cứu sống tôi khỏi… nhưng thôi không nói đến chuyện đó nữa. Bây giờ hãy cho tôi biết mọi người là ai. Tôi là một người Telmarine ở Narnia và khi tôi còn đôi chút giá trị, người ta ai cũng gọi tôi là ngài Rhoop.

- Còn tôi là Caspian, vua xứ Narnia, tôi giong buồm đi tìm ông và những người bạn đồng hành của ông năm xưa vốn là bạn của cha tôi.

Ngài Rhoop quỳ gối hôn lên tay đức vua:

- Tâu thánh thượng, người hãy ban cho thần một ân huệ.

- Là điều gì vậy? - Caspian hỏi.

- Đừng bao giờ đưa thần quay lại đây. - Ông nói, chỉ tay về phía đuôi tàu. Tất cả đều nhìn theo nhưng họ chỉ thấy biển xanh rực rỡ và bầu trời xanh trong veo. Đảo Đen và bóng đêm đã biến mất.

- Trời ơi! - Ngài Rhoop kêu lên. - Mọi người đã phá hủy được nó ư?

- Tôi không nghĩ đấy là công trạng của chúng tôi.

- Tâu bệ hạ, - Drinian hỏi, - ngọn gió này đang thổi theo hướng đông nam. Thần có thể cho gọi những anh bạn đáng thương đang chèo thuyền lên boong và cho giương buồm lên không? Cũng đến lúc để cho họ được nghỉ ngơi trên võng.

- Được, - Caspian nói, - và hãy rót rượu groc ra cho tất cả mọi người. Chao ôi, tôi cảm thấy có thể ngủ suốt 24 tiếng đồng hồ.

Thế là buổi chiều hôm ấy, với một niềm vui lớn, họ lái tàu về hướng đông nam theo một ngọn gió lành. Và không một ai nhận ra khi nào thì con hải âu biến mất.

CHƯƠNG 13

 Giấc ngủ một trăm năm

Ngọn gió không ngừng thổi nhưng mỗi ngày một yếu đi cho đến lúc sóng biển hiền lành mấp mô trên mặt biển và con tàu nhẹ trôi hết giờ này đến giờ khác như đi trên mặt hồ phẳng lặng. Đêm đêm họ thấy ở chân trời phía đông một chòm sao mới chưa ai nhìn thấy ở Narnia và có lẽ như Lucy nghĩ với một cảm giác buồn vui lẫn lộn rằng một chòm sao như thế này có lẽ chưa có đôi mắt nào được nhìn thấy. Những ngôi sao mới này vừa to vừa sáng và những đêm ấy trời rất ấm áp. Hầu hết mọi người đều ngủ trên boong tàu và trò chuyện cho đến khuya hoặc tựa vào mạn tàu tận hưởng vũ điệu sáng chói của bọt nước bắn tung trước mũi tàu.

Đó là một buổi chiều đẹp đến bất ngờ, hoàng hôn liền với màu đỏ tía và nhuộm hồng cả trời nước. Hai sắc hồng và tía ấy loang xa, loang xa, nâng bầu trời thêm cao hơn, xa hơn; đúng lúc ấy họ nhìn thấy đất liền từ mạn tàu bên phải. Nó từ từ trôi đến gần họ và ráng chiều phía sau lưng làm cho mảnh đất ấy giống như thể mũi đất hay doi đất của một vùng đất kì lạ đang phôi thai trong một ngọn lửa. Khi tàu trôi dọc theo bờ biển, cái mũi tàu phía tây bây giờ nhô lên sau đuôi tàu, có màu đen tương phản với màu trời đỏ rực trông rõ nét như vừa được cắt ra từ một tấm bìa, chỉ đến lúc ấy họ mới có thể có được cái nhìn rõ hơn về hòn đảo ấy, không có núi nhưng có rất nhiều ngọn đồi lượn êm ả với những sườn đồi trông như những cái gối. Một mùi hương hấp dẫn bay ra từ mảnh đất ấy- cái mà Lucy gọi là “mùi của nỗi nhớ mơ hồ” còn Edmund gọi nói (và Rhince nghĩ) là hơi thum thủm nhưng Caspian thì nói: “Tôi biết các vị có ý muốn nói gì”.

Họ lái con tàu qua một cách êm thấm, qua hết điểm này đến điểm khác hi vọng tìm thấy một cảng sâu, nhưng rồi họ cũng tự hài lòng với một cái vịnh rộng và nông. Mặc dù trời yên biển lặng nhưng vẫn có những đợt sóng nhào ào lên bãi cát và họ không thể đưa con tàu vào sâu theo ý muốn. Họ thả neo ở một chỗ rất tốt gần bãi biển, rồi cả đoàn người ướt lướt thướt đổ bộ lên bờ nhờ hai chiếc thuyền. Ngài Rhoop ở lại trên boong tàu, ông không muốn nhìn thấy thêm một hòn đảo nào nữa. Suốt thời gian ở lại đây, họ nghe thấy tiếng những thùng gỗ nhỏ và dài đập vào nhau.

Có hai người ở lại canh chiếc thuyển, Caspian dẫn đầu đoàn người đi sâu vào đất liền nhưng không đi xa quá vì lúc ấy chiều đã quá muộn để khám phá ra điều gì và chẳng bao lâu ánh sáng cuối cùng cũng sẽ tắt. Không cần đi quá xa để tìm thêm bất kì điều gì nữa. Thung lũng êm đềm trải ra trước mặt vịnh không thấy có đường xá hay lối đi hoặc dấu vết có người ở. Dưới chân họ rải rác đó đây là những loài thảo mộc thân mềm cùng với một loài cây bụi mà Edmund và Lucy cho là thạch nam. Eustace là một trò rất khá môn thực vật học thì bảo là không phải và chắc chắn là nó đúng, đây là một loài cây có thể cùng họ với thạch nam. Khi họ đi chưa đầy khoảng cách một mũi tên bay tính từ bờ biển thì Drinian nói: “Coi kìa! Cái gì thế kia?” Mọi người dừng lại.

- Đó là một hàng cây đại cổ thụ? - Caspian đoán chừng.

- Tháp, tôi nghĩ thế - Eustace đáp.

- Có thể là những người khổng lồ- Edmund nói bằng một giọng nhỏ hơn.

- Có một cách để tìm hiểu về nó là cứ đi thẳng tiến về phía nó. - Reepicheep nói, rút gươm ra và xông lên dẫn đầu.

- Tôi nghĩ đó là một đống tàn tích. – Lucy nói khi họ đi đến gần hơn một chút và dự đoán của nó hóa ra lại đúng nhất.

Bây giờ vật họ trông thấy có hình ovan rất rộng được lát bằng những phiến đá nhẵn bóng, bốn chung quanh có những hàng cột màu xám nhưng không có trần. Chạy suốt từ đầu này đến đầu kia là một cái bàn dài trải một tấm vải màu đỏ đậm. Dọc hai bên bàn kê rất nhiều chiếc ghế bằng đá chạm trổ cầu kì, trên ghế có đặt những tấm gối dựa lưng bằng lụa. Trên bàn bày biện một bữa tiệc xa hoa, linh đình chưa từng thấy kể cả thời đại Peter Đại đế làm vua ở Cair Paravel. Có gà tây, ngỗng, chim công, đầu heo đực, lườn hươu. Còn có bánh ngọt nặn hình con tàu có đầy đủ buồm, bánh hình con rồng, con voi, còn có bánh putđing kem, tôm hùm đỏ rực, cá hồi sáng lên mờ mờ, trái cây thì có hạt dẻ, nho, dứa, đào, lựu, chanh và cà chua. Đồ uống được để trong những chiếc bình bằng vàng và bạc, những chiếc ly có hình dáng rất kỳ lạ và mùi trái cây cùng mùi rượu bay về phía họ hứa hẹn bao nhiêu là ngọt ngào, hạnh phúc.

- Tôi đã nói mà! – Lucy nói.

Họ đi đến gần hơn, không khí im lặng như ở dưới đáy giếng.

- Thực khách đâu nhỉ?- Eustace hỏi.

- Chúng ta có thể thay họ, thưa ngài- Rhince nói.

- Coi kìa!- Edmund giật giọng nói. Bây giờ thì họ đã vào bên trong những chiếc cột và đứng ở giữa lối đi. Mọi người nhìn theo tay Edmund chỉ. Không phải tất cả các cái ghế đều bỏ trống. Ở đầu bàn đằng kia có ba cái ghế có một cái gì đó- hoặc có thể là có ba vật gì đó.

- Đó là những cái gì vậy?- Lucy thì thầm hỏi.-Giống như có ba con hải ly ngồi bên bàn.

- Hoặc là những tổ chim lớn. Edmund nói.

- Với tôi thì nó giống một đống cỏ khô.- Caspian bình luận.

Reepicheep chạy lên trước, nhảy phắt lên một cái ghế rồi lên bàn và chạy dọc bàn ăn, làm cho bước đi của bác giống điệu nảy của một vũ công giữa những chiếc ly châu báu, những đống trái cây hình kim tự tháp và những bình muối bằng ngà. Bác chạy thẳng lại chỗ có cái màu xam xám bí ẩn ở cuối bàn: nhìn ngó, chạm cả vào đấy rồi kêu lên:

- Sẽ không có giao tranh đâu, tôi nghĩ thế. 

Mọi người đến gần, ngồi trên ba cái ghế là ba người đàn ông, mặc dầu thật khó nhận ra đấy là người cho đến khi bạn tới thật gần. Tóc họ màu xám mọc đến tận long mày cho nên hầu như khuôn mặt họ bị che kín, râu họ mọc dài trùm qua bàn, phủ lên và quấn quanh những cái đĩa, những cái ly có chân như cây mâm xôi quấn quýt lấy hàng rào cho đến khi tất cả quyện lại thành một đám râu tóc rậm rịt, khổng lồ đổ xuống một bên bàn chạm cả xuống đất. Mớ tóc sau gáy họ trùm lên lưng ghế cho nên toàn thân họ bị giấu kín. Thực ra ba người đàn ông này chỉ có râu và tóc.

- Họ chết rồi à?- Caspian hỏi.

- Tôi không nghĩ thế thưa bệ hạ. - Reepicheep nói; cầm lấy một bàn tay ra khỏi mớ râu tóc rối bời - Tay vẫn ấm và mạch vẫn đập.

- Cả hai người này và người này nữa. - Drinian nói.

- Vậy ra họ chỉ ngủ thôi. - Eustace nói.

- Dù vậy, đó là một giấc ngủ dài, - Edmund nói, - nên râu tóc họ mới mọc tốt như rừng thế kia.

- Chắc là một giấc ngủ bị bỏ bùa.- Lucy nói.-Ngay từ lúc đặt chân lên hòn đảo này tôi đã cảm thấy nó được bao bọc trong không khí huyền bí. Ôi, mọi người có nghĩ là chúng ta có thể phá vỡ được nó không ?

- Chúng ta sẽ cố. - Caspian nói, bắt đầu lay người gần nhất trong ba người đang ngủ say. Lúc đầu ai cũng nghĩ là cậu sẽ thành công bởi vì người đàn ông thở mạnh và làu bàu trong cổ.

- Tôi không đi về phương đông nữa đâu. Không phải đi vì Narnia nữa. – Nhưng ông ta gần như lại chìm ngay vào trong một giấc ngủ sâu hơn trước và như vậy cái đầu nặng nề của ông ta gục thấp hơn vài phân xuống dưới bàn và tất cả mọi nỗ lực đánh thức ông ta dậy đều vô ích. Chuyện đánh thức người thứ hai cũng diễn ra tương tự. Ông ta nói mớ : “Không phải sinh ra để sống như loài vật. Hãy đi về phía đông trong khi vẫn còn cơ hội - mảnh đất phía sau mặt trời” và lại chìm sâu vào giấc ngủ. Người thứ ba chỉ nói: “Cho xin chút mù tạt nào”.

- Không phải đi vì Narnia nữa, phải thế không ?- Drinian nói.

- Ông ta nói đúng thuyền trưởng ạ.- Caspian nói. – Tôi nghĩ cuộc tìm kiếm của chúng ta đã đến đoạn cuối. Hãy nhìn những chiếc nhẫn trên tay họ, chúng cho biết họ là ai : Đây là ngài Revilian. Đây là ngài Argoz và đây là ngài Mavramorn.

- Nhưng chúng ta không thể đánh thức họ dậy. – Lucy nói. - Phải làm gì bây giờ?

- Xin bệ hạ thứ lỗi cho hạ thần, - Rhince nói, -nhưng tại sao ta không ngồi vào bàn khi trao đổi mọi chuyện ? Chúng ta không phải ngày nào cũng thấy những bữa tiệc như thế này đâu.

- Nhưng không phải dành cho cuộc sống của ông. - Caspian nói.

- Bệ hạ nói chí phải, chí phải. – Một vài giọng nói của các thủy thủ nhao nhao lên. - Quá nhiều điều kì bí ở đây. Càng quay lại tàu sớm bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu.

- Vấn đề là ở chỗ ấy đấy, - Reepicheep chin chít kêu lên,- chính vì ăn thức ăn ở đây mà những vị quan khách này đã ngủ một giấc bảy năm. Tôi sẽ không đụng đến dù chỉ một miếng để giữ cái mạng mình. – Drinian nói.

- Ánh sáng đã tắt đi một cách khác thường- Rynelf nói.

- Quay lại tàu, quay lại tàu ngay. - Một vài người kêu lên.

- Tôi nghĩ thế, - Edmund nói, - họ nói đúng đấy. Chúng ta có thể quyết định làm gì với ba người này vào ngày mai. Nếu không dám ăn những món này thì chẳng có lý gì ở lại đây cả đêm. Cả nơi này bốc mùi quái dị và nguy hiểm.

- Tôi hoàn toàn tán thành ý kiến của vui Edmund, - Reepicheep nói,- cũng như những việc có liên quan đến các thành viên khác trên tàu nói chung. Còn bản thân tôi, tôi sẽ ngồi ở bàn này cho đến lúc trời sáng.

- Để làm cái quái gì vậy ?- Eustace hỏi.

- Bởi vì, - bác chuột nói, - đây là một cuộc phiêu lưu lớn và với tôi không có nguy hiểm nào lớn hơn ngoài việc biết được rằng khi trở lại Narnia tôi đã để lại một bí mật lớn sau lưng chỉ vì sợ hãi.

- Tôi sẽ ở lại với bác, Reep ạ. –Edmund nói.

- Và tôi nữa. –Caspian nói.

- Cho tôi ở lại với. –Lucy reo lên. Sau đó cả Eustace cũng tình nguyện ở lại. Đó là một hành động quả cảm bởi vì nó chư bao giờ đọc hoặc nghe về những chuyện như thế cho đến khi tham gia vào đoàn thám hiểm trên tàu Hướng tới Bình minh cho nên với nó, quyết định này khó khăn hơn so với những người khác.

- Thần sẽ ở lại với bệ hạ... - Drinian bắt đầu.

- Không, thuyền trưởng của tôi ạ. Chỗ của ông là ở trên tàu và ông sẽ có một ngày làm việc cật lực trong lúc chúng tôi chỉ rong chơi.

Họ tranh luận hồi lâu, nhưng cuối cùng Caspian cũng có được điều mình mong muốn. Trong lúc đoàn thủy thủ đi ra bờ biển trong ánh chiều nhập nhoạng, không một ai trong năm người ở lại ngoài Reepicheep tránh được cảm giác ơn ớn trong lòng.

Chọn một chỗ ngồi trên cái bàn nguy hiểm này mất khá nhiều thời gian, chắc chắn ai cũng có cùng một lí do chỉ có điều không ai nói ra thôi, bởi vì đó là một sự lựa chọn khó khăn. Người ta sẽ cảm thấy khó mà ngồi cả đêm cạnh ba cái vật lông lá đến rùng rợn này- những kẻ mà nếu chưa chết thì cũng không còn sống theo cái nghĩa thông thường. Mặt khác nếu ngồi ở đầu bàn đằng này để bạn có thể không phải nhìn họ trong khi trời mỗi lúc một tối hơn thì bạn cũng đồng thời không thể thấy họ cử động và có thể chẳng nhìn thấy họ tí nào vào lúc 2 giờ sáng. Thôi đừng nên nghĩ đến chuyện đó.

Thế là họ đi thơ thẩn quanh bàn hết vòng này đến vòng khác, nói với nhau : ”Ngồi chỗ kia được không ?”, ”Ồ, có lẽ nên ngồi xa xa một chút.” Hoặc : “tại sao không ở bên này ?” Sau cùng, họ quyết định ngồi ở giữa bàn, gần những người đang ngủ hơn là đầu bàn bên kia. Lúc đó là vào khoảng 10 giờ và trời đêm đen sẫm, Lucy sẽ thích hơn nếu như có chòm sao sư tử, con tàu và những người bạn cũ trên bầu trời Narnia.

Họ quấn chặt người trong những chiếc áo khoác đi biển, ngồi im lặng chờ đợi. Đầu tiên còn cố gắng chuyện gẫu nhưng câu chuyện rời rạc chẳng dẫn đến đâu cả. Và họ cứ ngồi yên hàng giờ, suốt thời gian đó vẳng lại bên tai họ tiếng sóng vỗ bờ.

Hàng giờ trôi qua, dài như hàng thế kỷ rồi đến một lúc tất cả biết rằng họ có ngủ thiếp đi một lát sau đó thì tất cả choàng tỉnh dậy, tỉnh như sáo. Những ngôi sao đã di chuyển đến những vị trí khác với những điểm mà họ ghi nhận vào lúc trước. Màn đêm đen như nhung trừ một vài vệt màu xám nhợt nhạt ở phương đông. Tất cả đều lạnh run lên, cảm thấy khát khô cả cổ còn người thì cứng đơ ra. Chẳng ai nói gì bởi vì cuối cùng có một việc đã xảy ra.

Trước mặt họ, bên ngoài những cây cột là một sườn đồi thâm thấp. Từ trên sườn đồi ấy bỗng có một cái cửa mở ra, rồi có ánh sáng xuất hiện ở lối đi, một cái bóng đi ra và cánh cửa khép lại sau lưng nó. Cái bóng cầm một ngọn đèn rất sáng giúp họ có thể phân biệt rõ mọi vật.

Cái bóng từ từ tiến đến gần, gần hơn, cuối cùng nó dừng lại ở đầu bàn đối diện với họ. Bây giờ họ có thể thấy đó là một thiếu nữ cao dong dỏng, mặc một tấm áo dài có màu xanh da trời, để lộ hai cánh tay. Cô gái không đội mũ, mái tóc vàng đổ xuống ngang lưng. Khi cả bọn nhìn cô gái họ nghĩ trước đây họ chưa biết thế nào là một người con gái đẹp.

Ngọn đèn mà cô gái mang đến là một ngọn nến cao có cái chân đế bằng bạc và cô đặt nó lên trên bàn. Nếu không gian có thoảng lên những ngọn gió biển hây hẩy chắc ngọn nến sẽ tắt ngay, nhưng ở đây ngọn lửa bốc thẳng, đều đặn như thể nó ở trong một căn phòng đóng chặt các cánh cửa sổ và màn buông xuống kín mít. Đồ vàng và bạc trên bàn sáng lên dưới ánh nến.

Bây giờ Lucy mới nhận ra một vật nằm dài trên bàn, từ trước đến giờ thoát khỏi sự quan sát của nó. Đó là một con dao bằng đá, sắc như thép, một vật nom rất cổ quái và có phần nào hiểm ác.

Không ai thốt lên dù chỉ một lời. Rồi, Reepicheep lên tiếng trước, sau đó là Caspian, trong lúc tất cả đều đứng lên bởi vì họ cảm thấy cô gái mang trong mình một dòng máu cao quý.

- Du khách từ ngàn dặm đến bàn ăn của Asian, - cô gái mở lời, - sao lại không nếm qua mĩ vị trên bàn ?

- Thưa cô nương, - Caspian nói, - chúng tôi sợ những món ăn này bởi vì nghĩ nó đã đưa những người bạn kia vào giấc ngủ yêu thuật.

- Họ chưa hề nếm qua. - Cô gái nói.

- Làm ơn cho biết, - Lucy nôn nóng hỏi, - vậy điều gì đã xảy ra với họ ?

- Bảy năm về trước, - cô gái nói, họ đến đây trên một con tàu có cánh buồm rách nát và những tấm ván đã sẵn sàng rời ra từng mảnh. Có một số người đi với họ và một vài thủy thủ; khi đến bàn ăn này một người nói: ”Đây là một chỗ tốt đây. Chúng ta hãy hạ buồm neo lại nơi đây và buông chèo rồi tận hưởng những ngày còn lại trong bình yên”. Người thứ hai nói: ”Không được, chúng ta hãy nhổ neo, giong buồn về Narnia về hướng tây. Rất có thể là Miraz cũng đã chết”. Còn người thứ ba, một người có dáng chỉ huy nhất thì lại vụt đứng dậy và nói: “Không, lạy trời cao! chúng ta là người và là người Telmarine không phải là loài thú vật. Tất cả những điều chúng ta cần làm là thực hiện hết cuộc phiêu lưu này đến cuộc phiêu lưu khác. Chúng ta sẽ không sống một cuộc đời yên lặng không hề có sóng gió gì. Hãy để phần đời còn lại trôi qua trong việc tìm kiếm một thế giới chưa có người ở phía sau nơi mặt trời mọc”. Trong lúc họ tranh luận như vậy thì người thủ lĩnh nắm lấy chuôi con dao đá nằm trên bàn, toan chiến đấu với những người đồng đội. Nhưng đấy không phải là một vật để cho ông ta chạm tay vào. Khi ngón tay ông vừa chạm vào cán dao thì một giấc ngủ bất thường đã chụp xuống cả ba người. Và cho đến lúc bùa mê chưa được giải thì họ không bao giờ thức dậy.

- Con dao đá là vật gì vậy ?- Eustace hỏi.

- Không có ai trong quý khách biết điều này sao ? - Cô gái hỏi.

- Tôi... tôi nghĩ mình đã nhìn thấy một cái gì giống như thế này đã lâu rồi - Lucy nói - Có một con dao như thế, Bạch Phù Thủy đã dùng khi mụ giết Aslan ở Bàn Đá... đã từ lâu lắm rồi.

- Chính là nó đấy, - cô gái đáp, và nó được mang đến đây để bảo tồn như một cổ vật trong khi thế giới còn tồn tại.

Edmund là người duy nhất mỗi lúc một tỏ ra căng thẳng hơn, nhưng cuối cùng cậu cũng lên tiếng:

- Coi đây, tôi hy vọng mình không phải là kẻ hèn nhát khi nói về những món ăn này, tôi... tôi muốn nói... tôi dám chắc là tôi không muốn tỏ ra vô phép. Nhưng chúng tôi đã kinh qua nhiều cuộc phiêu lưu kỳ lạ trong cuộc hành trình này... mà chẳng có cái nào giống cái nào. Khi tôi nhìn vào mặt cô tôi không thể không tin vào những điều cô nói : nhưng một chuyện như thế này cũng từng xảy ra...với một phù thủy. Sao chúng tôi biết được cô là bạn?

- Ngài không thể biết. - Cô gái đáp. - Ngài có thể tin - hoặc không.

Sau một hồi im lặng cái giọng nhỏ rin rít của Reepicheep vang lên :

- Thưa bệ hạ, - bác nói với Caspian, - xin bệ hạ hãy rót rượu vào ly cho tôi, cái bình quá to đối với tôi để có thể nhấc lên. Tôi sẽ uống mừng sức khỏe công nương này.

Caspian làm theo và bác chuột đứng lên bàn, nâng chiếc ly vàng giữa hai bàn chân nhỏ tí mà nói :

- Thưa công nương, xin chúc mừng sức khỏe.

Sau đó, bác quay ra tấn công món chim công để lạnh, chỉ một lát sau mọi người đã theo gương bác. Tất cả đều đói ngấu và bữa tiệc nếu không đúng là loại bạn cần dùng cho bữa lót dạ vào lúc tinh mơ thì lại là một bữa ăn khuya tuyệt vời.

- Tại sao lại gọi đây là bàn của Aslan ?- Lucy thắc mắc.

Bàn được dọn ra theo yêu cầu của người- cô gái đáp,- cho những ai lỡ đường ghé chân qua đây. Có người còn gọi hòn đảo này là Nơi tận cùng thế giới bởi vì mặc dầu quý khách có thể giong buồm đi xa hơn, đây là nơi bắt đầu của sự kết thúc.

- Nhưng làm sao bảo quản được thức ăn ? - Anh bạn Eustace rất thực tế bèn hỏi.

- Bàn ăn này được dọn mới hằng ngày. Lát nữa quý khách sẽ thấy.

- Và chúng ta sẽ phải làm gì với ba người say ngủ này ? - Caspian hỏi. - Trong thế giới mà những người bạn của tôi sống (cậu gật đầu về phía Eustace và anh em nhà Pevensie) người ta có một câu chuyện về một hoàng tử hoặc một ông vua gì đó bước vào tòa lâu đài nơi tất cả mọi người đang ngủ một giấc ngủ 100 năm. Trong câu chuyện này chàng sẽ không hóa giải được phép thuật cho đến khi hôn lên môi công chúa.

- Còn ở đây thì khác. - Cô gái đáp. - Ở đây chàng không được hôn công chúa cho đến khi chàng phá bỏ được lời nguyền.

- Nếu vậy, - Caspian hỏi, - nhân danh Aslan, nàng hãy cho tôi biết tôi phải làm gì vào lúc này ?

- Cha thiếp sẽ dạy cho chàng điều đó. - Người con gái đáp.

- Cha cô nương ?- Mọi người cùng nhao nhao lên hỏi. – Là ai vậy ? Và ông ấy ở đâu ?

- Ở kia kìa.- Cô gái nói và quay lại, chỉ vào cái cửa ở ven đồi. Bây giờ họ có thể nhìn mọi vật rõ hơn, vì trong lúc họ nói chuyện, những vì sao đã mờ dần, những vệt mây trắng loang dần trên cái nền xám nhạt ở chân trời phía đông.

CHƯƠNG 14

 Điểm bắt đầu của Nơi tận cùng thế giới

Cánh cửa lại từ từ mở ra, một cái bóng cao và thẳng nhưng không mảnh mai như cô gái bước ra. Nó không mang vật chiếu sáng mà dường như ánh sáng đi theo nó. Khi cái bóng đến gần, Lucy thấy đó là một ông già. Chòm râu bạc như cước đổ xuống đôi bàn chân trần phía trước còn mái tóc bạc phơ thì dài chấm gót ở phía sau; chiếc áo chùng ông mặc được là từ bộ lông của một con cừu trắng như tuyết. Trông ông lão vừa ưu nhã vừa trang nghiêm đến mức, ngay lập tức các du khách của chúng ta đứng lên khỏi ghế và kính cẩn đứng chờ.

Nhưng ông lão tiếp tục bước đi mà không nói một lời nào với những người khách lạ, ông sang bên kia bàn và ngồi đối diện với con gái. Sau đó cả hai cùng đưa tay lên cao, quay mặt về hướng đông. Trong tư thế như vậy họ cất tiếng hát. Ước gì tôi có thể viết lại nhạc và lời bài hát này, nhưng không ai có mặt ở đây nhớ được chút gì về âm luật và ca từ của nó. Sau này Lucy kể lại là cung bậc của nó rất cao, gần như là chói lói nhưng hay vô cùng. Đó là một loại bài hát trong lành, sảng khoái, đúng là một ca khúc đánh thức muôn loài. Trong lúc hai người cất tiếng hát, những làn mây xám cuốn khỏi chân trời phía đông. Mảng trời màu sữa lớn dần cho đến khi có toàn một màu trắng êm mượt, biển cũng sáng lên ánh bạc. Một lúc sau (hai người vẫn cất cao giọng hát liên tục) phương đông màu trắng chuyển sang hồng rực, không có một gợn mây và cuối cùng mặt trời nhô lên khỏi mặt biển, tia nắng dài của nó chiếu đến tận cái bàn nơi họ đang ngồi với những bát dĩa vàng và bạc cùng con dao đá.

Trước đó, một hoặc hai lần, những người Narnia đã từng hỏi không biết mặt trời ở xứ sở của nó có lớn hơn so với mặt trời họ nhìn thấy ở Narnia không. Lần này thì chuyện đó đã trở nên xác định, không còn gì phải nghi ngờ nữa. Tia nắng chiếu vào những giọt sương mai và những bộ đồ ăn trên bàn rực rỡ hơn tất cả những sớm mai rực rỡ mà họ từng chứng kiến trên đời. Như sau này Edmund nói: “Mặc dầu nhiều sự kiện xảy ra trong cuộc hành trình này rất thú vị nhưng khoảnh khắc ấy là điều thú vị nhất”. Bây giờ thì đoàn người biết chắc là họ đã thực sự đi đến Nơi tận cùng thế giới.

Sau đó có một cái gì đó từ trung tâm mặt trời lên bay đến chỗ họ, nhưng tất nhiên không ai có thể nhìn không chớp mắt về phía đó để xác định đó là cái gì. Từ trên không trung vang lên nhiều giọng hát – những giọng hát ca lên chính cái bài hát mà cha con thiếu nữ đang hát nhưng bằng một chất giọng thô hơn nhiều và bằng một ngôn ngữ chưa có ai biết. Chẳng bao lâu sau có thể thấy chủ nhân của những giọng hát đó: Những con chim lớn, toàn thân trắng phau bay đến thành từng đàn hàng trăm ngàn con. Đàn chim rọi sáng lên tất cả, lên bãi cỏ, lên lối đi, lên bàn ăn, lên vai, lên đầu, lên tay cho đến khi tất cả trông như có một lớp tuyết dày phủ lên. Bởi vì cũng giống như tuyết nó không chỉ trùm lên một màu trắng mà còn làm cho vạn vật mờ đi, xóa nhòa các đường nét. Lucy, nhìn ra từ đôi cánh của những con chim đậu lên người nó, thấy một con chim bay về phía ông già với một cái gì dính ở cổ trông như một trái cherry đỏ rực nếu không phải là một hòn than đá nhỏ đang cháy, một vật quá rực rỡ để nhìn vào. Con chim đặt vật đó vào miệng ông già. Sau đó đàn chim ngừng hát, lăng xăng bận rộn trên bàn ăn. Sau khi chúng bay lên tất cả những gì có thể ăn hoặc uống đều biến mất. Từ chiếc bàn ăn dài, đàn chim trắng bay lên hàng trăm hàng ngàn con, mang đi tất cả những gì không thể ăn được như là xương, vỏ mềm của các loại hạt, vỏ cứng của sò. Chúng dàn thành một đội hình rất đẹp bay về nơi mặt trời mọc. Bây giờ thì chúng không còn hát nữa, tiếng đập cánh của chúng dường như làm cho không khí xao động. Còn ở đây chiếc bàn ăn được dọn sạch sẽ trống trơn, ba nhà quý tộc Narnia vẫn ngủ li bì.

Cuối cùng ông già cũng quay vè phía những người khách lạ chào đón họ.

- Thưa cụ, - Caspian nói, - cụ sẽ nói cho chúng cháu cách hóa giải phép thuật đã làm cho ba nhà quý tộc Narnia rơi vào giấc ngủ dài thế nay chứ?

- Ta vui lòng nói với con điều đó, con trai ạ. - Ông già nói. - Để phá bỏ được lời nguyền này con phải giong buồm đến Nơi tận cùng thế giới, hoặc đến gần chỗ đó như sức con có thể tới được sau đó khi quay về con phải để lại ít nhất là một người bạn đồng hành ở phía sau.

- Và điều gì sẽ xảy ra với người này? - Reepicheep hỏi.

- Người ấy sẽ đi tiếp đến nơi cực đông và sẽ không bao giờ quay trở lại thế giới này nữa.

- Đó là điều trái tim tôi hằng khao khát. - Reepicheep nói.

- Bây giờ chúng cháu đã ở gần Nơi tận cùng thế giới rồi, phải không cụ? - Caspian hỏi. - Cụ có biết gì về những vùng biển, vùng đất xa hơn đây nữa về hướng đông không ạ?

- Rất lâu rồi ta đã từng trông thấy nơi ấy con trai ạ, nhưng ta lại nhìn xuống từ trên trời cao, do vậy ta không thể nói ra những lời chỉ dẫn mà một người đi biển cần.

- Ông cụ muốn nói ông ấy bay lên trên không ư? - Eustace buột miệng hỏi.

- Ta có một chặng đường dài trên không trung, con trai ạ - Ông già đáp. - Ta chính là Ramandu. Nhưng ta thấy các con nhìn đi hướng khác và không nghe cái tên này. Cũng dễ hiểu thôi, khi Ramandu này là một ngôi sao không hoạt động nữa thì phải đến hàng ngàn năm sau mới có bất cứ ai trong số các con biết một chút gì đó về cái thế giới này. Và những thiên thể đã thay đổi rất nhiều.

- Trời đất, - Edmund kêu lên trong cổ, - ông ấy là một vì sao đã tắt.

- Vậy ông không còn là một vì sao nữa ư? – Lucy hỏi.

- Ta là một ngôi sao đang nghỉ ngơi, con gái ạ. - Ramandu đáp. - Khi ta mọc lần cuối, ta hom hem tiều tụy, già nua ngoài sức tưởng tượng của các con và được đem đến hòn đảo này. Bây giờ thì ta không đến nỗi tàn tạ như thế. Mỗi buổi sáng một con chim lại mang đến cho ta một trái dâu – lửa từ thung lũng của mặt trời và mỗi một quả dâu như thế lại khấu trừ cho ta vài năm tuổi tác. Khi nào ta trở lại trẻ như một đứa trẻ vừa sinh vào ngày hôm qua thì ta sẽ lại lên cao lần nữa (bởi vì chúng ta đang ở rìa phía đông trái đất) và một lần nữa ta bước đi trong một vũ trụ tuyệt vời.

- Trong thế giới của chúng cháu, - Eustace láu táu nói, - một ngôi sao là một quả cầu khổng lồ chứa khí gas cháy phừng phực.

- Thậm chí trong thế giới của con, con trai ạ, thì đó cũng không phải là một ngôi sao mà chỉ là những thứ làm ra nó. Còn trong thế giới này thì các cháu đã gặp một ngôi sao rồi đó bởi vì ta nghĩ rằng các cháu đã gặp mặt Coriakin.

- Vậy ông ấy cũng là một ngôi sao đang nghỉ hưu à? - Lucy hỏi.

- Ồ không, không hẳn là như thế. Ông ta không hẳn được nghỉ ngơi khi còn có nhiệm vu chăn dắt bọn người Ngốc. Các con có thể coi đó là một hình phạt. Lẽ ra ông ta sẽ còn chiếu sáng hàng ngàn năm nữa trên bầu trời phương nam vào mùa thu nếu tất cả mọi việc đều diễn ra tốt đẹp.

- Ông ấy đã gây ra chuyện gì vậy, thưa cụ? - Caspian hỏi.

- Con trai, không phải là việc của con, một người con trai của Adam không nên biết về những lỗi lầm mà một ngôi sao có thể phạm phải. Nhưng thôi, chúng ta đã để mất nhiều thời gian chuyện vãn rồi. Các con đã có quyết định chưa? Sẽ giong buồm đi tiếp về hướng đông rồi để một người ở lại đó mãi mãi nhằm phá bỏ phép thuật ư? Hay các con quay lại tàu về hướng tây?

- Chắc chắn rồi thưa bệ hạ, - Reepicheep nói, - không có gì phải băn khoăn trong chuyện này. Đó chính là một phần trong cuộc tìm kiếm của chúng ta - giải phóng cho ba người này khỏi giấc ngủ trăm năm.

- Tôi cũng nghĩ thế Reepicheep ạ. - Caspian nói. - Trái tim tôi sẽ tan nát nếu chúng ta không đi đến được cái nơi mà tất cả chúng ta đều khao khát, một khi con tàu Hướng tới bình minh vẫn mang ta đi được. Nhưng tôi đang nghĩ đến thủy thủ đoàn. Họ chỉ hợp đồng đi tìm kiếm bảy nhà quý tộc, không phải đi đến Nơi tận cùng thế giới. Nếu chúng ta khởi hành từ đây chúng ta sẽ tìm ra điểm địa đầu thế giới, nơi cực đông. Không ai biết đường đi dài ngắn thế nào. Họ đều là những con người can trường nhưng tôi thấy có dấu hiệu một số người tỏ ra mệt mỏi với chuyến đi và chỉ mong tàu chúng ta quay mũi trở về Narnia. Tôi không nghĩ là tôi lại có thể bắt họ đi xa hơn, ngược lại với hiểu biết và ý muốn của họ. và ở đây lại còn ngài Rhoop đáng thương nữa. Ông ấy bị đánh gục mất rồi.

- Con trai, - ngôi sao nói, - điều này không phụ thuộc vào ý muốn của riêng con. Con không thể đi đến Nơi tận cùng thế giới với những người không tự nguyện hoặc những kẻ lừa dối. Làm như thế sẽ không bao giờ phá bỏ được lời nguyền. Họ phải biết rõ họ đi đâu và tại sao. Còn người đàn ông mà con nói là ai vậy?

Caspian kể lại cho Ramandu câu chuyện về Rhoop.

- Ta có thể cho người ấy điều mà ông ta cần hơn cả. - Ramandu nói. - Trên hòn đảo này, giấc ngủ không có giới hạn, hoặc không thể đo lường, một giấc ngủ trong đó tiếng bước chân nhẹ nhất của một giấc mơ cũng không bao giờ nghe thấy. Hãy để ông ấy ngồi cạnh ba người bạn kia, uống vào trong lòng sự lãng quên cho đến khi các con quay về.

- Được, hãy làm như thế đi Caspian, tôi chắc đó là điều mà ông ấy mong muốn. - Lucy nói.

Đúng lúc đó họ bị quấy rầy bởi tiếng của nhiều bước chân và giọng nói: Drinian và toàn bộ thủy thủ đang đến gần. Họ dừng lại vì kinh ngạc khi thấy Ramandu và con gái, và rồi bởi vì đây rõ ràng là những người rất mực cao quý, đoàn thủy thủ nhìn những chiếc dĩa trống trơn và những bình rượu cạn với ánh mắt đầy luyến tiếc.

- Thuyền trưởng của tôi, - vua nói với Drinian, - hãy cử hai người quay lại tàu với lời nhắn gửi đến ngài Rhoop. Bảo với ông ấy rằng những người bạn đồng hành cũ của ông ấy đang ngủ ở đây - một giấc ngủ không mộng mị - và đó là điều ông ta có thể chia sẻ với họ.

Khi việc này đã được tuân theo, Caspian bảo tất cả mọi người ngồi và thông báo cho mọi người còn lại biết mọi chuyện. Khi cậu kết thúc có một khoảng im lặng kéo dài, rồi một số người thì thầm trao đổi cho đến lúc ông đội trưởng chèo thuyền đứng lên nói:

- Một số người trong chúng tôi muốn được biết việc này kéo dài mất bao lâu, thưa bệ hạ. Khi nào chúng tôi được về nhà, liệu chúng tôi có được quay đầu về từ đây hay ở một chỗ nào khác không? Hiện nay đang có gió tây và tây bắc, biển lại êm. Nếu gió đổi chiều thì liệu tôi còn có hy vọng về Narnia nữa không? Liệu có đủ lương ăn nếu chúng ta buộc phải chèo thuyền về đến tận quê nhà hay không?

- Đó là kiểu nói chuyện của những người không hiểu gì về biển. - Drinian nói. - Bao giờ cũng có gió tây rất mạnh ở những vùng biển này vào suốt mấy tháng hè và gió bao giờ cũng đổi chiều vào những tháng sau Tết. Ta sẽ được đón luồng gió chính để lái buồm xuôi về hướng tây còn nhanh hơn là chúng ta mong muốn nữa.

- Đúng thế, thưa ông chủ. - Một người thủy thủ già gốc người Galma nói. - Ông sẽ gặp thời tiết xấu từ phía đông đổ xuống và tháng giêng, tháng hai. Muôn tâu bệ hạ, nếu cho phép thì thần muốn ở lại đây vào mùa đông và quay về vào tháng ba.

- Thế ông ăn gì nếu ông trú đông ở đây? - Eustace hỏi.

- Cái bàn này, - Ramandu trả lời thay, - bao giờ cũng đầy ắp những món ăn dành cho các bậc đế vương vào lúc mặt trời lặn.

- Bây giờ thì các người nói thế thôi? - Một vài thủy thủ nói.

- Thưa đức vua và tất cả các quý ông quý bà, - Rynelf nói, - ở đây có một điều mà tôi muốn làm rõ. Không ai trong chúng ta bị ép buộc tham gia trong chuyến đi này. Chúng ta là những người tính nguyện. Một số người giờ đây đang nhìn bàn ăn mà nghĩ đến những bữa tiệc đế vương là những người đã lớn tiếng nói về những cuộc phiêu lưu hào hùng vào cái ngày chúng ta khởi hành từ Cair Paravel và thể rằng họ sẽ không trở về chừng nào chúng ta chưa đi đến nơi trời và đất gặp nhau. Và đứng trên bến cảng hôm ấy còn có những kẻ sẵn sàng đánh đổi tất cả để đi theo chúng ta. Những mơ mộng trên giường ngủ toa tàu dành cho một thằng bé con bao giờ cũng đẹp hơn lời thề của một bậc đại trượng phu. Không hiểu các vị có lãnh hội được những điều tôi nói không. Điều tôi muốn nói là, tôi nghĩ những thằng đàn ông như chúng ta sẽ có một vẻ xuẩn ngốc, lố bịch - như những người Ngốc - Chân - nếu chúng ta về nhà, gãi đầu gãi tai mà bảo rằng, chúng ta đã đi đến điểm bắt đầu của Nơi tận cùng thế giới nhưng lại không có gan đi tiếp.

Một vài thủy thủ bật cười, tán thưởng nhưng một số người thì lại chép miệng ý nói thế cũng chẳng sao.

- Điều chúng ta sắp làm sẽ kém vui nhiều, - Edmund thì thầm nói với Caspian, - nếu một nửa số người này ở lại.

- Hượm đã, - Caspian nói nhỏ với bạn, - tớ vẫn còn một quân bài chưa ngả.

- Bác có định nói bất cứ điều gì không Reep? - Lucy hỏi nhỏ.

- Không. Tại sao nữ hoàng lại chờ đợi tôi làm điều đó? - Reepicheep đáp lại bằng một giọng mà hết thảy mọi người đều nghe thấy. - Tôi có dự tính cả rồi. Nếu có điều kiện tôi sẽ đi vê hướng đông trên con tàu Hướng tới Bình minh. Khi bị nó bỏ rơi tôi sẽ tự chèo về hướng mặt trời mọc trên con thuyền thúng của tôi. Nếu thuyền chìm, tôi sẽ tự bơi vậy. khi không thể bơi xa hơn nữa, không thể bò đến được mảnh đất của Aslan hoặc nằm lại bên lề thế giới cạnh một thác nước hùng vĩ nào đó, tôi sẽ chìm xuống chết, mũi hướng về phía mặt trời lên và Reepicheep sẽ là kể đứng đầu họ nhà chuột biết nói ở Narnia.

- Nghe đây, - một thủy thủ nói, - tôi cũng định nói một điều tương tự, tôi thật không chịu đựng nổi khi nghe người ta nói về cái thuyền thúng. - Anh nói thêm, hạ giọng nhỏ xuống. - Tôi sẽ không để cho mình bị một con chuột qua mặt.

Nghe đến đấy, Caspian lập tức chen vào:

- Các bạn, tôi nghĩ các bạn đã không hiểu mục đích của chúng tôi. Các bạn nói như thể chúng tôi đã đến với các bạn, mũ cầm trên tay cầu xin các bạn đi cùng. Hoàn toàn không phải như thế. Chúng tôi gồm vua Edmund, nữ hoàng Lucy, và Eustace người bà con của họ; ngài Reepicheep đây - một đại hiệp thực sự và thuyền trưởng Drinian ra đi với mục đích tới được nơi cùng trời cuối đất. Chọn trong số đông ra những người như các bạn - sẵn lòng đương đầu với số phận vì một sứ mệnh quang vinh - là niềm vui của chúng tôi. Nhất định không có chuyện van xin ai tham gia. Đó là lý do tại sao vào lúc này đây chúng tôi yêu cầu ngài Drinian và ông Rhince đứng ra lựa chọn cẩn thận trong số các bạn, những người lính can trường nhất, cứng cỏi nhất, cừ khôi nhất, những người đi biển dày dạn kinh nghiệm nhất, những người có dòng máu thuần khiết nhất, những người trung thành nhất, có cuộc sống và phong cách trong sạch nhất và hãy ghi vào danh sách đưa cho tôi. - Caspian dừng lại rồi nói tiếp bằng một giọng cao hơn, nhanh hơn. - Nhân danh Bờm Sư Tử, các vị có nghĩ rằng được chứng kiến cái làm nên điệp khúc cuối của một bản khải hoàn là một ân huệ trời cho không? Tất cả những người đi với chúng tôi sẽ được truyền lại danh hiệu Người tiên phong cho con cháu, khi tàu cập bến ở Cair Paravel người ấy sẽ được ban vàng bạc hoặc đất đai đủ để sống giàu sang suốt đời. Còn bây giờ, các bạn hãy đi dạo quanh hòn đảo này. Nửa giờ sau tôi sẽ nhận lại danh sách mà ngài Drinian đưa cho tôi.

Một sự im lặng ngượng ngập bao trùm lên đám đông, rồi những người thủy thủ cúi đầu chào, tản đi hướng này hướng khác, thành từng nhóm nhỏ, bàn tán râm ran.

- Bây giờ đến chuyện ngài Rhoop. - Caspian nói.

Nhưng quay về phía đầu bàn, cậu nhìn thấy Rhoop đã ngồi đó từ lúc nào. Ông lặng lẽ đến, không để ai nhận ra và ngồi xuống bên cạnh ngài Argoz. Con gái của Ramandu đứng sau lưng ông. Ramandu đặt cả hai tay lên mái đầu của Rhoop. Ngay cả dưới ánh sáng ban ngày mà cũng thấy ánh sáng bạc phát ra từ đôi tay của vì sao già. Dường như có một nụ cười làm tươi lên sắc mặt hốc hác và tiều tụy của Rhoop. Ông chìa một tay ra cho Lucy, tay còn lại cho Caspian. Có vẻ như ông muốn nói một điều gì đó. Rồi một nụ cười làm bừng sáng cả khuôn mặt ông như thể ông đang đón nhận một cảm xúc tuyệt vời; một tiếng thở dài mãn nguyện thoát ra, đầu ông gục xuống và ông ngủ thiếp đi.

- Rhoop tội nghiệp? - Lucy thì thầm. - Thật đáng mừng. Chắc ông ấy đã trải qua những giai đoạn đáng sợ nhất.

- Đừng bao giờ nghĩ về những chuyện đó nữa. - Eustace nói.

Lời lẽ của Caspian, có lẽ nhờ sự giúp đỡ của những phép màu trên hòn đảo này mà có được một tác động đúng như cậu mong đợi. Có rất nhiều người nóng lòng muốn được tham gia chuyến đi và họ có một cảm giác thật khác biệt với những người ở lại. Tất nhiên, bất cứ khi nào có một thủy thủ bảo là anh ta đã quyết định và tình nguyện tham gia vào thủy thủ đoàn thì những người còn chưa quyết định lại cảm thấy mình thuộc về cái thiểu số mỗi lúc một teo lại dần, đồng thời với một cảm giác bất an. Thế là khi thời hạn nửa giờ dần qua có một vài người đã phải mượn đến mánh khóe “tranh thủ” tình cảm Drinian và Rhince để được lọt vào danh sách, nhưng bạn ạ, họ làm điều này một cách dễ thương lắm nên cũng chả nên trách họ. Chẳng bao lâu sau chỉ còn lại ba người không muốn đi, họ cố thuyết phục những người khác ở lại với mình. Chẳng bao lâu nữa chỉ còn có một. Cuối cùng một người còn lại ấy bắt đầu sợ cảnh bị bỏ lại một mình và cũng thay đổi ý định.

Nửa giờ trôi qua, tất cả quay lại Bàn tiệc của Aslan với một niềm háo hức, trong lúc Drinian và Rhince ngồi xuống cạnh Caspian thông báo kết quả. Caspian chấp nhận tất cả trừ người quyết định xin đi vào phút chót. Tên anh ta là Pittencream và anh ta ở lại đảo Ngôi Sao trong thời gian những người kia ra đi đến Nơi tận cùng thế giới.

Suốt thời gian ấy anh ta lấy làm ân hận vì đã bỏ mất cơ hội ra đi cùng mọi người. Anh ta không phải là loại người thích nói chuyện với Ramandu và cô con gái (mà họ cũng chẳng thích nói chuyện với anh ta). Trời cứ đổ mưa suốt và mặc dầu đêm nào cũng có những món ngon vật lạ Pittencream cũng không cảm thấy ngon miệng. Anh kể rằng mình thường rùng mình sởn gáy khi cứ phải ngồi chòng chọc một mình (trong lúc trời mưa rả rích như không bao giờ tạnh) với bốn nhà quý tộc ngủ gục ở một đầu bàn. Khi những người khác trở về đón anh, anh thấy mình bị gạt ra ngoài lề và lạc lõng đến nỗi khi tàu về đến quần đảo Đơn Côi anh quyết định ở lại với người Calormen. Ở đấy anh thường kể cho mọi người nghe về chuyến phiêu lưu của mình ở Nơi tận cùng thế giới cho đến khi cuối cùng chính anh cũng tin mình đã đến đấy thật. Thế là bạn có thể nói, ở một mặt nào đó anh ta sống vui vẻ, hạnh phúc cho đến tận cuối đời. Nhưng mà anh không bao giờ có thể chịu đựng nổi lũ chuột. Thế đấy.

Đêm hôm ẩy tất cả đánh chén với nhau quanh chiếc bàn lớn ở giữa những hàng cột nơi những món ăn hết lại đầy một cách thần kì. Sáng hôm sau, một lần nữa con tàu Hướng tới Bình minh lại nhổ neo đi về hướng đông trước khi bầy chim trắng bay đến rồi lại bay đi.

- Thưa tiểu thư, - Caspian nói, - tôi hy vọng lại được nói chuyện với nàng khi tôi có thể hóa giải được pháp thuật.

Và người con gái của một vì sao đã tắt ngước mắt nhìn lên chàng trai, mỉm cười e lệ.

CHƯƠNG 15

 Kinh thành dưới đáy biển

Chẳng bao lâu sau khi rời khỏi mảnh đất của Ramandu, học bắt đầu có cảm giác mình đã đi ra ngoài thế giới. Tất cả đều khác lạ. Điểm thứ nhất là tất cả mọi người đều phát hiện họ không có nhu cầu ngủ như trước. Không ai muốn lên giường ngủ cũng như không cảm thấy đói, thậm chí họ cũng không muốn nói chuyện trừ khi là với những tiếng thì thầm. Một vấn đề nữa là ánh sáng. Có quá nhiều ánh sáng. Mặt trời mỗi sáng đi lên đều trông to gấp đôi, nếu không phải gấp ba kích thước bình thường của nó. Sáng sáng (điều này đem đến cho Lucy một cảm giác kì lạ hơn tất cả những gì khác) đàn chim lớn lông trắng phau phau, bài hát của chúng với thanh quản của con người bằng một thứ ngôn ngữ mà không ai hiểu. Chúng bay qua đầu họ và biến mất nơi đuôi tàu trên chặng đường bay đến ăn sáng ở Bàn tiệc của Aslan. Một lúc sau, chúng lại quay lại và biến mất ở chân trời phía đông.

- Trời ơi, nước biển mới trong làm sao! – Lucy thầm thì một mình, cúi người qua mạn trái con tàu vào đầu giờ chiều ngày hành trình thứ hai.

Nước trong biển trong leo lẻo. Điều đầu tiên mà cô bé nhận thấy là một vật nhỏ mày đen, có kích thước bằng một chiếc giày, trôi cùng tốc độ với con tàu. Thoạt tiên, Lucy nghĩ đó là một vật gì trôi nổi trên mặt nước. Nhưng rồi cái vật trôi nổi ấy gặp phải mẩu bánh mì mốc mà người đầu bếp vừa ném ra khỏi khoang bếp. Mẩu bánh mì trông như thể sắp đụng vào cái vật mày đen đen ấy, nhưng không, trông kìa, nó vượt lên trước vật đen đó và bất ngờ, Lucy nhận thấy vật đen không nổi trên mặt nước nữa, nó đột nhiên phình ra to gấp mấy lần sau đó thu lại về với kích thước bình thường.

Bây giờ thì Lucy biết rằng nó đã nhìn thấy một chuyện gì tương tự như thế xảy ra ở đâu đó! Nó đưa tay lên vò đầu, nhăn mặt, thè cả lưỡi ra trong nỗ lực làm sống lại hình ảnh ấy. Cuối cùng nó cũng nhớ ra. Tất nhiên, cũng như cái mà bạn nhìn thấy tư mổ cửa sổ toa tầu vòa một ngày nắng đẹp. Bạn nhìn thấy bong đen của chính con tàu bạn đang ngồi chạy dọc theo những cánh đồng cùng tốc độ với con tàu. Rồi bạn đi đến một con đường nhỏ chạy qua rừng và bất thình lình cái bóng ấy lao đến gần bạn, trở nên lớn hơn chạy đua cũng bãi cỏ bên vệ đường. Rồi khi bạn ra khỏi con đường nhỏ xuyên qua rừng ấy – vụt một cái – một lần nữa cái bóng đen ấy lại trở lại bình thường và chạy đồng hành với những cánh đồng.

“Đó là cái bóng của chúng ta” – bóng của con tàu Hướng tới bình minh! Bóng của chúng ta chạy theo ở dưới tận đáy biển. Vào cái lúc nó trở nên to hơn, chính là nó đã đi qua một quả đồi dưới biển. Nước ở đây trong hơn là mĩnh nghĩ? Thú vị làm sao, chắc mình đã nhìn xuống tận đáy biển, sâu thật sâu dưới đáy.

Ngay sau khi rút ra kết luận này nó lại nhận ra một điều khác, rằng cái dải rộng màu bạc nó nhìn thấy (mà không chú ý đến nhiều) chính là cát dưới lòng biển còn tất cả những vệt đen hơn hoặc sáng hơn không phải là ánh sáng hay những cái bóng trên mặt nước mà là những vật thật dưới đáy. Ví dụ vào lúc này họ đang đi qua một cùng màu xanh chuyển dần sang tím nhạt với những dải rộng màu xám nhạt đang uốn lượn mềm mại ở giữa. Bây giờ, khi biết đó là đáy biển nó phân biệt mọi vật rõ ràng hơn. Nó có thể nhìn ra một đám đen đen ở cao hơn một đám đen đen khác đang vẫy nhè nhẹ.

- Giống như cây cối đang lay động trong gió – Lucy nói – và mình tin rằng đúng là như thế. Đó là một cánh rừng dưới đáy biển.

Tàu lướt phía trên cánh rừng đó và bây giờ cái dải nhạt màu đỏ hòa nhập vào một dải nhạt màu khác. “Nếu mình ở dưới đó – Lucy nghĩ – cái dải đỏ sẽ là một con đường đi qua rừng và cái chỗ mà hai dải đó gặp nhau sẽ là ngã tư đường. Chao ôi, ước gì mình được xuống dưới đó. Xem kìa! Cánh rừng đã chấm dứt. Mình tin rằng cái dải đó thực sự là một con đường. Mình có thể nhìn thấy nó đi qua bãi cát. Màu có khác đi – kia đó được đánh dấu bởi một cái gì ở ngoài cùng - những con đường lốm đốm. Có lẽ đó là đá. Và bây giờ nó mở rộng hơn. Nhưng nó không chỉ rộng hơn mà còn gần hơn. Lucy nhận ra điều đó bởi vì con đường – trên đó bóng con tàu đi qua – đang phóng về phái nó. Và con đường – bây giờ thì nó cảm thấy chắc chắn là một con đường – bắt đầu chạy dích dắc. Rõ ràng nó đang chạy lên một quả đồi rất dốc. Khi Lucy ngoảnh đầu nhìn lại cái mà nó thấy thì cũng giống như cảnh mà bạn nhìn xuống một con đường đèo từ trên đỉnh một ngọn đồi. Thậm chí nó còn nhìn thấy những tia nắng chiếu qua mực nước sâu xuống tận thung lũng rừng cây và trong một khoảng cách cực lớn mọi thứ hòa tan vào nhau (có nhiều ánh mặt trời chiếu xuống hơn, nó nghĩ) có màu xanh biếc.

Tuy vậy, nó không để mất nhiều thời gian nhìn lại phía sau, cảnh tượng ở phía trước thú vị hơn nhiều. Con đường bây giờ đã chạy lên đỉnh đồi và đâm thẳng về phía trước. Những vệt đốm nhỏ chuyển động trên con đường đó. Bây giờ đến một cảnh tượng tuyệt vời nhất, may mắn làm sao khúc biển này lại ngập tràn ánh nắng mặt trời – như tia nắng có thể lọt qua độ sâu của mực nước – và ánh nắng làm cảnh vật dưới đáy biển sáng bừng lên. Những khối vuông vức màu ngọc hoặc trắng ngà nhô ra những cục u bướu và những đường gờ hình tăng cưa lởm chởm. Con tàu đang ở vị trí chiếu thẳng xuống nên thoạt tiên nó không thể mường tượng nổi đó là cái gì. Nhưng mọi thứ trở nên đơn giản hơn khi nó nhìn vào cái bóng chúng. 

Mặt trời lúc này đang đổ qua vai Lucy, nên bóng của mọi vật trải dài trên lớp cát phía sau. Và căn cứ vào những cái bóng đó nó nhận ra cái này là tháp chuông, cái kia là toàn tháp nhọn, cái nọ là thánh đường Hồi giáo và những mái nhà kiểu Gotic.

- Trời ơi, đây là thành phố hay một lâu đài nguy nga đồ sộ đây? – Lucy tự hỏi – Nhưng mình tự hỏi tại sao nó lại xây trên đỉnh một ngọn núi cao nhỉ?

Một thời gian dài sau đó, khi Lucy đã trở về nước Anh và kể lại tất cả những chuyện này với Edmund, hai anh nó đã giải thích được lý do, và tôi chắc rằng đó là một lập luận xác đáng.

Trong vương quốc dưới biển, bạn càng ở độ sâu bao nhiêu thì càng tối càng lạnh bấy nhiêu và những chỗ tối tăm lạnh lẽo ấy là nơi những sinh vật biển nguy hiểm sinh sống – những con mực khổng lồ, rắn biển và thủy quái. Thung lũng là những miền hoang dã không phải là nơi đất lành. Các cư dân trong lòng biển sợ các thung lũng của họ cũng như ta ngại những chốn sơn cùng thủy tân. Họ mơ về những ngọn núi cao cao cũng giống như ta hướng về những thảo nguyên xanh tươi. Trên những ngọn núi cao (hay như ta nói ở chỗ nông) nước ấm hơn, cuộc sống cũng dễ chịu hơn. Những người thợ săn liều lĩnh hoặc các chiến binh dũng cảm của biển khơi đi xuống các vực sâu để chinh phục và tìm kiếm các cuộc phiêu lưu, rồi trở về những ngôi nhà làm trên núi cao để nghỉ ngơi, đón nhận không khí thanh bình, tham gia vào những hoạt động cộng đồng, thể thao, khiêu vũ và âm nhạc.

Tàu đi ngang qua thành phố trong khi lòng biển đi cao dần lên, chỉ cách đáy con tàu khoảng 100 mét. Những con đường dưới nước biến mất họ đi qua một vùng đát trông như một công viên tự nhiên, rải rác đó đây những cánh rừng nhỏ tươi màu. Và rồi – Lucy suýt nữa kêu to lên vì kích động – nó nhìn thấy hải nhân.

Có khoảng từ 15 đến 30 người như vậy, tất cả đều cưỡi những con hải mã – không phải là những con cá ngựa nhỏ xíu xiu mà bạn thấy trong bảo tang Hải dương học đâu mà là những con ngựa thực sự còn to hơn con người nữa. Chắc đây là một tốp người quyền quí sang trọng, Lucy nghĩ, bởi nó thoáng thấy ánh lấp lánh của vàng mười trên trán một số người và những dải ngọc lục bảo hoặc một loại đá quý màu cam phất phới bay trên vai họ, lay động theo dòng nước.

- Trời ơi, chán cái lũ cá này quá! –Lucy thất vọng kêu lên bởi vì lúc ấy có một đàn cá nhỏ, con nào con nấy béo tròn bơi gần sát mặt nước ở vào khoảng cách giữa Lucy và các cư dân biển. Nhưng mặc dầu ngăn không cho Lucy nhìn thấy đoàn người kia, đàn cá lại đem đến một điều bất ngờ thú vị nhất. Bất thình lình một con cá nhỏ, dữ tợn – một loại mà Lucy chưa từng trông thấy bao giờ, từ bên dưới phóng thẳng lên đớp, chộp và lăn xuống đất nhanh như cắt với một con cá béo mập ngậm trong miệng. Tất cả những hải nhân, vẫn đang ngồi trên lưng ngựa, nhất loại ngẩng đầu lên xem chuyện gì xảy ra. Trước khi con cá săn quay về với chủ mang theo chiến lợi phẩm của nó, một con cá săn khác lại phóng lên từ chỗ tốp người biển. Lucy gần như chắc chắn là chính người kia vừa ra lệnh cho cá săn bơi đi kiếm mồi hoặc thả cho nó bơi đi, tựa hồ như ông ta giữ nó lại trong tay hay trong cổ tay mình chờ cho đến khi cơ hội chín muồi mới thả ra.

“Ối la la, mình dám tuyên bố đây là một đoàn người đi săn. Hoặc đúng hơn là một nhóm đi săn bằng “đại bang”. Phải, chính là thế đấy. Họ phóng đi những con các nhỏ, dữ tợn từ nắm tay mình, cũng như cái cách ta buộc con chim ưng và cổ tay khi chúng ta còn là vua và nữ hoàng ở Cair Paravel thời xưa vậy. Rồi để cho chim bay đi, không, phải nói để cho chúng bơi đi đến chỗ con mồi. Làm cách nào mà …”

Nó bất thần dừng lại vì cảnh tượng bên dưới đã thay đổi. Đám hải nhân đã nhìn thấy con tàu Hướng tới Bình minh. Đàn cá đã tản mát bơi đi tứ phía; đám hải nhân đích than bơi lên cao xem xem cái vật lù lù mày đen xen vào giữa họ và mặt trời kia là gì. Và bây giờ họ đã lên đến sát mặt nước, nếu họ có thể hít thở không khí thay cho nước thì Lucy đã có thể trò chuyện với họ. Cả đàn ông lẫn đàn bà. Tất cả đều đội mũ miện nhỏ theo cùng một kiểu, nhiều người đeo chuỗi ngọc trai. Họ không bận quần áo, than hình họ có màu ngà lâu năm, tóc màu tím đậm. Ông vua đi giữa (không ái có thể không nhận ra đấy là một ông vua) nhìn thẳng vào mặt Lucy vẻ kiêu hãnh và dữ dội. Các hiệp sĩ cũng nhìn như thế. Khuôn mặt các quý bà lại lộ vẻ hết sức kinh ngạc. Lucy cảm thấy rất rõ là họ chưa hề nhìn thấy một con tàu hay một con người trần thế nào – mà làm sao họ sống trong vùng biển bên ngoài Nơi tận cùng thế giới này – lại thấy được một con tàu nào?

- Em đang nhìn cái gì thế Lu? – Một giọng nói vang lên sau lưng nó.

Lucy đang tập trung hết tâm trí vào những cảnh vật dưới nước giật mình khi nghe tiếng nói và quay lại, nó nhận thấy một cánh tay tê cứng vì tì quá lâu lên thành tàu trông một tư thế. Drinian và Edmund đang đứng cạnh nó.

- Nhìn kìa! - Nó nói

Cả hai cùng nhìn xuống nhưng ngay lập tức Drinian nói nhanh bằng giọng cổ:

- Quay đi ngay quí vị, đừng quay lưng về phía biển. Và đừng để lộ ra ngoài cái vẻ chúng ta đang nói một chuyện gì quan trọng.

- Tại sao vậy? Có chuyện gì vậy? – Lucy hỏi nhưng vẫn quay mặt đi.

- Không bao giờ để cho thủy thủ nhìn thấy cảnh này – Drinian đáp – Cánh đàn ông chúng tôi sẽ đem long say mê những mỹ nhân ngư hoặc là bị quyến rũ bởi những vương quốc dưới đáy biển mà nhảy xuống nước, Tôi được biết những chuyện như thế này thường xảy ra ở những vùng biển lạ. Bao giờ cũng là một tai họa ghê gớm nếu gặp những hải nhân.

- Nhưng chúng tôi đã quen với họ - Lucy cãi lại – Từ ngày còn ở Cair Paravel khi anh cả Peter làm vua tối cao cơ. Họ thường nhô lên mặt biển và còn ca hát trong lễ đăng quang của chúng tôi – Lu à, anh nghĩ đây có thể là một loại khác – Edmund nói – Những người quen của chúng ta có thể vừa sống trên cạn vừa sống dưới nước. Anh nghĩ những người này không thể như thế. Trong vẻ mặt của họ khi họ đương nhô lên giống như họ sẽ tấn công chúng ta ngay nếu có dịp. Họ có vẻ rất dữ tợn.

- Dù sao thì… - Drinian nói, đúng lúc đó có hai tiếng động vang lên. Một là một vật gì rơi xuống nước. Tiếng động còn lại là tiếng kêu thất thanh từ trên đài quan sát:

- Có người té xuống biển!

Sau đó, mọi người tíu tít cả lên. Một vài thủy thủ vội vã trèo lên cao sẵn sang hạ buồm, một số người ào ào chạy xuống hầm tàu cầm lấy mái chèo còn Rhince, lúc ấy đang làm nhiệm vụ ở đuôi tàu ghì mạnh vào bánh lái quay tàu lại chỗ có người vừa rơi khỏi mạn tàu. Nhưng đến lúc ấy mọi người đều biết đấy không phải là người nhà Reepicheep.

- Cái con chuột chết tiệt này! – Drinian càu nhàu – Nó gây rắc rối còn hơn tất cả mọi người cộng lại. Hễ có bất cứ một chuyện không ổn nào là y như rằng nó là nguyên nhân chính. Phải cho nó vào kẹp sắt – quẳng xuống sống tàu – cho đày ra đảo hoang – cắt trụi râu nó đi. Đã có ai thấy một con vật nhỏ bằng ngón tay mà nhiều sự hơn chưa?

Tất cả những lời mắng mỏ này đều không có nghĩa là Drinian không thích Repicheep. Ngược lại là khác, ông rất thích bác chuột thế nên mới lo phát cuồng lên, sự lo lắng thái quá đã làm cho thuyền trưởng phát bẳn- cũng giống như mẹ bạn sẽ giận dữ hơn một người dưng, khi thấy bạn chạy qua đường, ngay trước mũi một cái xe hơi. Tất nhiên không ai sợ Reepicheep chết đuối bởi vì bác là một kiện tướng bơi lội, nhưng có ít nhất ba người biết rõ cái gì ở dưới mặt nước, họ hoảng hốt khi nghĩ đến những lưỡi giáo dài, độc ác trong tay hải nhân.

Trong vòng vài phút con tàu đã vòng lại và mọi người ai cũng thấy cái chấm đen trên mặt nước chính là Reepicheep. Bác ta đang nói liến thoắng với một sự kích động ghê gớm, nhưng với một cái miệng đầy nước chẳng ai hiểu là bác ta đang nói gì.

- Con chuột này sẽ làm rối tung mọi chuyện lên nếu chúng ta không có biện pháp ngăn chặn lại. – Drinian kêu lên.

Drinian lao sang một bên mạn tàu, dòng một sợi dây thừng xuống nước rồi hét lên với thủy thủ:

- Được rồi được rồi. Về chỗ đi. Tôi hy vọng tôi có thể kéo con chuột này lên mà không cần ai giúp một tay.

Thế là Reepicheep trò lên dây – không nhanh thoăn thoắt như mọi lần vì bộ long ướt sũng làm cho bác di chuyển khó khăn hơn – Drinian cúi xuống thì thầm với bác:

- Đừng nói. Dù chỉ một lời.

Nhưng khi bác chuột ướt lướt thướt nhảy xuống boong tàu họ mới vỡ lẽ bác ta chẳng quan tâm gì đến hải nhân cả.

- Ngọt quá! – Bác kêu lên chin chit – Ngọt quá, ngọt quá!

- Bác nói chuyện gì vậy? – Drinian nổi đóa. – Bác không cần phải vẩy nước lên người tôi và những người khác.

- Tôi nói cho mọi người biết là nước ngọt – chuột láu táu nói, - ngọt, ngọt chứ không mặn.

- Nhưng mọi người vẫn đứng ngớ ra mất một lúc, không hiểu được tầm quan trọng của lời tuyên bố này. Nhưng khi Reepicheep một lần nữa đọc lại một câu trong lời sấm:

“Nơi nào nước biển ngọt lừ

Chuột ơi hãy nhớ chính là Cực Đông”

thì mọi người mới xôn xao hẳn lên.

- Lấy cho tôi một cái xô, Rynelf – Drinian ra lệnh.

Cái xô được mang đến và ông hạ xuống múc một nước nước lên. Nước trong xô sáng lên như thủy tinh.

- Có lẽ bệ hạ muốn nếm thử trước? – Thuyền trưởng hỏi Caspian.

Nhà vua cầm xô nước bằng hai tay, nâng lên môi, nếm một chút rồi uống một hơi dài và ngẩng đầu lên. Khuôn mặt cậu thay đổi. Không chỉ có đôi mắt mà tất cả người cậu đều được chiếu sáng từ bên trong.

- Phải, nó ngọt. Đó là nước ngọt thật sự. Tôi chắc rằng mình sẽ không mất mạng vì nó. Còn nếu phải chết thì đó là điều mà tôi lựa chọn … với những gì mà tôi biết… gì đến lúc này.

- Cậu nói rõ hơn xem nào? – Edmund đề nghị.

- Nó… nó nhẹ hơn bất cứ thứ chất lỏng nào khác.

- Là thế đấy – Reepicheep nói. – Nhẹ để có thể uống được. Chắc chúng ta đang đến điểm hẹn rồi.

Im lặng một lúc, sau đó Lucy quyd xuống sàn tàu uống nước trong cái xô.

- Đó là một cái gì ngọt ngào nhất, khoan khoái nhát mà tôi từng nếm – Nó há miệng ra thở dài khoan khoái – Nó giàu năng lượng và như có gaz. Chúng ta sẽ không cần ăn bất cứ cái gì nữa.

Lần lượt từng người cúi xuống uống nước. Im lặng một lúc lâu. Họ cảm thấy trong người khỏe khoắn, mạnh mẽ hẳn lên, rồi dần dần họ nhận ra một tác dụng khác. Như tôi đã nói ở trên, có quá nhiều ánh sáng kể từ khi họ rời hòn đảo của Ramandu – mặt trời quá lớn. (dù không nóng), biển quá chói, không khí quá sáng. Bây giờ ánh sáng không yếu đi – nếu có bất cứ điều gì xảy ra thì nó lại còn mạnh hơn – nhưng họ có thể chịu được. Mọi người có thể nhìn thẳng vào mặt trời mà không phải chớp mắt. Họ có thể chịu được ánh sáng ở cường độ cao hơn so với trước. Boong tàu, cánh buồm, khuôn mặt mọi người, cơ thể họ mỗi lúc một sáng hơn, cả đến những sợi dây tời cũng như đang phát sáng. Sáng hôm sau mặt trời lên, to gấp năm, gấp sáu lần kích thước cũ. Họ nhìn chằm chằm vào nó và có thể thấy cả những cọng long của những con chim từ đó bay ra.

Suốt ngày hôm ấy không có một từ nào thốt ra trên boong tàu cho đến tận giờ ăn trưa (không ai muốn ăn, uống nước dù là cũng đã quá đủ vội), Drinian nói:

- Tôi chịu, không sao hiểu nổi. Không có lấy một hơi thở của gió. Cánh buồm rũ rượi. Biển lặng như mặt nước hồ thu vậy mà chúng ra lại lao đi vùn vụt như thể có một trận cuồng phong sau lưng.

- Tôi cũng đã nghĩ đến điều này – Caspian nói – Có thể chúng ra rơi vào một dòng hải lưu rất mạnh.

- Hừm! – Edmund nói – Không phải là quá dễ chịu nếu trên thế giới thực sự có điểm tận cùng và chúng ta đang đến cái điểm đó hay sao?

- Cậu muốn nói – Caspian hỏi Edmund – rằng chúng ta có thể… đổ nhào qua cái mốc ấy?

- Đúng, đúng – Reepicheep kêu lên, vỗ vỗ hai chân trước – đó đúng là điều tôi bao giờ cũng hình dung – thế giới này giống như một cái bàn tròn khổng lồ và nước ở tất cả các đại dương vô tận dồn lại tràn qua mép. Con tàu này sẽ nâng chúng ta lên… đứng trên đầu nó rồi một lúc nào đó chúng ta có thể nhìn qua mép… và rồi rơi, rơi, rơi nhào xuống, nhanh, thật nhanh,…

- Và ông nghĩ cái gì sẽ đợi chúng ta ở dưới đáy? – Drinian hỏi.

- Có lẽ đó là đất nước của Aslan – Chuột nói, đôi mắt sáng lên như hai hạt cườm – Cõ lẽ nó, chẳng có đáy gì hết. Nhưng dù nó có là cái gì đi nữa thì đó không phải là điều xứng đáng được tìm hiểu hay sao – một khoảnh khắc đứng ngoài rìa thế giới!

- Nhưng bác hãy nghe đây – Eustace nói – tất cả những điều này đề sai bét. Thế giới tròn… tôi muốn nói tròn như quả bóng, chứ không phải như một cái bàn.

- Trái Đất thì như thế thật – Edmund nói – Nhưng còn thế giới này thì sao?

- Có phải cậu muốn nói – Caspian hỏi – rằng ba người đến từ một thế giới tròn (tròn như một quả bóng) vậy mà sao, Edmund, cậu chưa bao giờ cho tôi biết điều đó? Các cậu thật là tê. Bởi vì chúng tôi có những câu truyện huyền thoại trong đó có nói về những thế giới tròn mà tôi thì bao giờ cũng yêu thích những câu chuyện đó, nhưng tôi lại chưa bao giờ tin là nó có thật. Bao giờ tôi cũng mong được đến đấy, bao giờ tôi cũng ước ao được sống ở đấy. Ôi, tôi có thể từ bỏ tất cả mọi thứ - tôi tự hỏi tại sao các bạn có thể đi vào thế giớ của chúng tôi mà chúng tôi lại không thể đi đến thế giới của các bạn? Nếu như tôi có một cơ hội! Chắc là sẽ thú vị lắm khi được sống trong một cái gì giống như một quả bóng. Các bạn đã từng đến những nơi mà người ta đi lộn ngược đầu chưa?

Edmund lắc đầu:

- Không phải như thế, không có gì đặc biệt thú vị ở một thế giới tròn khi bạn có mặt ở đấy đâu.

CHƯƠNG 16

 Nơi tận cùng thế giới

Reepicheep là người duy nhất trên boong tàu cùng với Drinian và hai anh em nhà Pevensie trông thấy hải nhân. Bác ta lặn xuống ngay khi thấy Hải vương vung ngọn giáo lên, bởi bác cho đấy là một kiểu đe dọa hoặc thách thức và muốn giải quyết vấn đề ở chỗ này hay chỗ khác.

Nhưng cái thực sự đáng kinh ngạc là té ra nước ở đây lại ngọt đã chiếm toàn bộ suy nghĩ của bác và trước khi bác nhớ ra đó là tốp hải nhân thì Lucy và Drinian đã kéo bác sang một bên dặn đi dặn lại là không được đề cập đến những điều bác đã nhìn thấy.

Mọi việc hóa ra họ chẳng cần phải bận tâm quá nhiều đến chuyện này bởi vì lúc này con tàu đang băng qua một vùng biển dường như không có người. Không có ai trừ Lucy nhìn thấy bất kỳ một hải nhân nào, mà nó cũng chỉ thấy thoáng qua thôi, tàu họ đi qua một vùng nước tương đối nông và đáy biển mọc toàn rong tảo. Chỉ đến khoảng giữa trưa Lucy mới trông thấy một đàn cá lớn đang ăn cỏ biển. Tất cả đều ăn với tốc độ đều đặn giống nhau và tất cả chuyển động theo cùng một hướng.

- Trông giống hệt như một đàn cừu vậy. – Lucy nghĩ.

Bất thình lình nó một cô gái biển trạc tuổi nó đang đứng giữa đàn cá. Ồ, cô bé này toát ra một vẻ lặng lẽ, cô đơn, tay cô cầm một cái gì như là cái gậy vậy. Lucy khẳng định cô gái này là một mục đồng hay đúng hơn – một mục ngư – còn đàn cá thì cũng giống như một bầy cừu đang ăn trên đồng cỏ. Cả cô gái và đàn cá đều lên đến gần mặt nước. Đúng lúc cô gái trượt đi trong một vùng biển cạn thì Lucy chồm người qua thành tàu, rồi cả hai dường như đối diện với nhau, cô gái biển ngẩng lên nhìn thẳng vào mặt Lucy. Cả hai không ai nói gì và một tích tắc sau con tàu đã trôi qua, cô gái biển bị đuôi tàu che khuất. Cô gái biển không có cái vẻ hoảng sợ hay giận dữ như những hải nhân khác. Lucy cảm thấy mến người bạn đó ngay lập tức và tin chắc rằng cô bé kia cũng dành cho nó một tình cảm tương tự. Chỉ trong một giây ngắn ngủi mà bằng một cách nào đó họ đã trở thành bạn bè. Chắc chắn là không có cơ hội để họ gặp lại nhau lần nữa trong thế giới này hoặc một thế giới khác. Nhưng nếu có thể, họ sẽ chạy đến bên nhau với đôi tay dang rộng.

Sau nhiều ngày không có gió thổi căng cánh buồm và không có sóng sủi tăm trước mũi, tàu đi ngang qua một vùng biển không có sóng, và lướt nhẹ về phía đông. Mỗi ngày, mỗi giờ qua đi, ánh sáng lại trở nên chói chang hơn nhưng ai cũng có thể chịu đựng được. Không có ai ăn hoặc ngủ mà cũng chẳng có những nhu cầu đó, nhưng họ vẫn múc nước từ đáy biển hơn, thứ nước mạnh hơn rượu vang mà lại sóng sánh hơn, lỏng hơn nước bình thường. Họ lặng lẽ uống mừng sức khỏe nhau từng hơi dài. Trong thủy thủ đoàn có một vài người đứng tuổi nhưng từ khi uống thứ nước này họ ngày một trẻ ra. Cứ như thế mọi người uống vào trong mình thứ nước của niềm vui và sự phấn khích. Nhưng sự hưng phấn không khiến người ta thích nói.

Thật ra càng đi xa bao nhiêu họ lại càng trở nên kiệm lời bấy nhiêu rồi đến lúc mọi người hầu như chỉ nghĩ thầm. Cái bình yên của vùng biển cuối cùng đã ngấm vào trong từng mạch máu của họ.

- Ngài Drinian, - một hôm Caspian hỏi thuyền trưởng, - ngài nhìn thấy cái gì ở đằng trước kia?

- Thưa đức vua, thần chỉ thấy một màu trắng. Tất cả từ bắc đến nam, suốt chân trời là một màu trắng như mắt thần có thể nhìn thấy được.

- Đó cũng là cái tôi thấy, - Caspian nói, - và tôi không thể hình dung nó là cái gì.

- Nếu chúng ta ở một vĩ độ cao hơn, thưa bệ hạ, - Drinian nói, - thần dám nói đó là băng tuyết. Nhưng điều này không thể xảy ra, không phải ở đây. Thưa bệ hạ, theo ý thần chúng ta nên cho người chèo, để tàu chạy ngược dòng hải lưu. Dù vật ấy là cái gì thì chúng ta cũng không muốn tông vào nó với một tốc độ như thế này.

Họ làm theo lời khuyên của Drinian và tiếp tục di chuyển với tốc độ chậm hơn, chậm hơn. Cái màu trắng vẫn không bớt đi vẻ huyền bí khi họ đến gần. Nếu đó là đất liền thì đây là vùng đất kì lại bởi vì nó bằng phẳng như mặt hồ và cũng cao ngang mực nước biển. Khi họ đến gần hơn, Drinian ghì mạnh vào tay lại, quay con tàu về phương nam làm mạn trái tàu quay ngược lại với dòng nước và họ chèo chếch về hướng nam dọc theo cái gờ trắng mênh mong đó. Làm như thế, họ tình cờ có được một phát hiện quan trọng rằng dòng hải lưu chỉ rộng khoảng từ 10 đến 15 mét và toàn bộ mặt biển vẫn phẳng lặng như mặt hồ. Đây là một tin tức làm nức lòng thủy thủ đoàn, những người đã bắt đầu nghĩ rằng chuyến trở về đảo Ramandu bằng cách chèo ngược dòng hải lưu trong suốt hải trình sẽ là một môn thể thao hạng nặng. (Điều này cũng giải thích tại sao cô bé chăn đàn cừu – cá lại bị bỏ rơi nhanh đến thế ở mạn đuôi tàu. Cô bé ấy không ở trong lòng hải lưu, nếu không thì cô cũng trôi về hướng đông cùng với tốc độ của con tàu).

Vẫn không có ai đoán ra cái vật trắng xóa mênh mông ấy là cái gì. Con thuyền được hạ xuống để làm nhiệm vụ khám phá. Những người ở trên tàu có thể nhìn thấy con thuyền hầu như lao thẳng vào giữa cái khối trắng mênh mông ấy. Họ nghe vọng lại giọng nói của tốp người trên thuyền (rõ mồm một qua mặt biển êm đềm) những giọng nói cao vút đến không ngờ. Sau đó là một quãng im lặng. Ryneft ngồi ở mũi thuyền, đo mực nước; một lát sau con thuyền quay lại trở đầy cái gì trăng trắng trong lòng thuyền. Mọi người xúm lại lại một bên mạn thuyền đón nghe tin tức.

- Li li, tâu thánh thương! – Ryneft kêu to, đứng thẳng người lên.

- Anh nói cái gì? – Caspian hỏi.

- Li li nở đầy hoa, tâu bệ hạ. – Ryneft nói. – Cũng giống như ngoài hồ hay trong mảnh vườn ở quê nhà.

- Coi này! – Lucy kêu lên, cô bé ngồi ở đuôi thuyền, giơ hai cánh tay ướt đẫm sương với một vòng ôm đầy những bông hoa cánh dài, trắng muốt điểm những chiếc lá dẹp, rộng bản.

- Ở đấy có sâu không Ryneft? – Drinian hỏi.

- Buồn cười lắm chưa thuyền trưởng. – Ryneft nói. – Vẫn khá sâu. Khoảng ba sải rưỡi.

- Đây không phải là những bông hoa li li… không phải là li li ở quê hương chúng tôi. – Eustace nói.

Chắc chắn không phải thế rồi, nhưng loài hoa này cũng rất giống với hoa li li. Sau một hồi bàn bạc, thảo luận, con tàu Hướng tới Bình minh quay lại dòng hải lưu và bắt đầu trôi về hướng đông qua hồ Li Li hay biển Bạc (họ cố dùng thử cả hai cái tên này nhưng cái tên biển Bạc còn trụ lại được, bây giờ vẫn còn trên bản đồ của Caspian) và phần kì lại nhất của cuộc hành trình của họ bây giờ mới bắt đầu.

Chẳng bao lâu sau một vùng biển mở ra bát ngát và cái họ để lại phía sau chỉ là đường viền mỏng màu xanh ở chân trời phía tây. Màu trắng mênh mông, có điểm thêm màu vàng nhạt trải ra quanh họ ở mọi hướng chỉ trừ phía đuôi tàu, nơi con đường họ đi đã rẽ những bông li li sang hai bên và để lại một vạt nước rộng sáng ngời lên như thủy tinh màu xanh lá cây đậm. Quang cảnh ở nơi biển Cuối này chẳng khác chi biển Bắc Cực và nếu đôi mắt họ không khỏe như mắt chim ưng thì ánh mặt trời chiếu lên cái nền trắng lóa ấy – đặc biệt là vào lúc sáng sớm khi mặt trời lớn nhất – sẽ trở nên không thể nào chịu đựng nổi. Vào đêm cái nền trắng ấy làm cho ánh ngày kéo dài hơn. Có vẻ như li li không bao giờ chấm dứt. Ngày qua ngày, từ hàng dặm đến hàng hải lý toàn loài hoa trắng ấy bay lên một làn hương mà Lucy cảm thấy rất khó miêu tả lại: ngọt ngào, hẳn rồi nhưng không phải mùi ngòn ngọt gây ngủ hoặc quá hắc mà là một mùi thơm gợi cảm giác buồn buồn, hoang dại và tươi mới đi thẳng lên não bạn làm cho bạn cảm thấy mình chỉ muốn đánh nhau với một con voi. Lucy và Caspian nói với nhau:

- Tôi cảm thấy không thể chịu đựng điều này lâu hơn nữa nhưng mà tôi lại không muốn dừng lại.

Họ phải đo mực nước thường xuyên hơn nhưng chỉ mấy ngày sau nước bắt đầu cạn hơn, sau đó tiếp tục cạn hơn nữa. Rồi đến một ngày họ phải chèo tàu ra khỏi hải lưu và cảm thấy mình đang đi tới tốc độ của một con sên. Chẳng bao lâu sau con tàu Hướng tới Bình minh không thể đi xa hơn nữa về phía đông. Sự thật thì chỉ có một bàn tay thông minh mới cứu nó khỏi cảnh mắc cạn.

- Hạ thuyền xuống, - Caspian hạ lệnh, - triệu tập mọi người ở đuôi tàu. Tôi cần phải nói chuyện với tất cả.

- Cậu ta định làm cái gì đấy? – Eustace thì thầm hỏi Edmund. – Trong mắt cậu ấy có một vẻ gì rất lạ.

- Tôi nghĩ tất cả chúng ta đều thế. – Edmund nói.

Họ cùng Caspian đứng trên sàn tàu cao nhất ở phía đuôi và chẳng bao lâu tất cả mọi đã tập trung ở chân thang để nghe nhà vua trẻ nói chuyện:

- Các bạn thân mến, - Caspian nói, - giờ đây chúng ta đã hoàn thành sứ mệnh mà vì nó chúng ta giã từ Cair Paravel. Bảy trung thần đã được tìm thấy tung tích và như ngài Reepicheep đây hứa, sẽ ở lại đây mãi mãi thì khi quay về đảo Ramandu, không còn phải nghi ngờ gì nữa, các bạn sẽ thấy các ngài Revilian, Argoz, Mavramorn đã được đánh thức khỏi giấc ngủ trăm năm. Đối với ngài, thuyền trưởng Drinian ạ, tôi tin tưởng giao vào tay ngài con tàu này và lệnh cho ngài giương buồm lên quay về Narnia với tốc độ nhanh nhất và nhớ không được cập bến vào Đảo Nước Chết. Theo chỉ thị của tôi, chú lùn Trumpkin, người đang giữ quyền nhiếp chính sẽ trọng thưởng cho tất cả các bạn theo lời tôi đã hứa. Mọi người sẽ được ấm nó sung sướng suốt đời. Và nếu tôi không trở về nữa thì ước muốn của tôi là nhiếp chính, giáo sư Cornelius, bác lửng Trufflehunter và ngài Drinian đây sẽ chọn ra một vị vua Narnia hợp với lòng dân…

- Nhưng muôn tâu bệ hạ, - Drinian cắt ngang, - người muốn thoái vị ư?

- Tôi sẽ đi cùng Reepicheep đến chỗ không thể đi xa hơn được nữa.

Những tiếng thì thầm hoang mang đầy xáo trộn vang lên trong đám đông.

- Chúng tôi sẽ dùng chiếc thuyền. – Caspian nói. – Mọi người sẽ không cần đến nó trong lúc trời yên biển lặng như thế này và các bạn có thể đóng một cái mới ở đảo Ramandu. Còn bây giờ…

- Caspian, - Edmund đột ngột lên tiếng, giọng nghiêm nghị, - một ông vua không thể làm như thế.

- Chắc chắn rồi, - Reepicheep phụ họa, - đương kim hoàng thượng không thể làm thế.

- Đúng như vậy. – Drinian khẳng định.

- Không thể à? – Caspian hỏi, giọng rít lên, trông cậu lúc này không phải là không có nét giống ông chú Miraz.

- Dám xin thánh thượng tha lỗi, - Ryneft nói vọng lên từ boong tàu bên dưới, - nếu một trong chúng tôi làm điều tương tự sẽ bị gán cho tội phản nghịch.

- Ngươi quá chớn rồi đó Ryneft. – Caspian dằn giọng.

- Không, thưa bệ hạ. Anh ta nói hoàn toàn đúng. – Drinian kêu lên.

- Nhân danh Bờm Sư Tử, - Caspian lớn tiếng, - trẫm cho là các ngươi ở đây thảy là thần dân của trẫm, không phải bạn bè bằng vai phải lứa.

- Tôi thì không, - Edmund nói, - và tôi có thể nói cậu không thể làm như thế được.

- Sao lại không thể? – Caspian hỏi lại. – Cậu nói thế là có ý gì?

- Nếu điều này lọt tai bệ hạ hơn thì chúng tôi muốn nói bệ hạ không nên làm thế. – Reepicheep nói với một cái cúi đầu trịnh trọng. – Bệ hạ là vua ở Narnia. Làm như thế bệ hạ đã phụ lòng tin mà toàn bộ thần dân ở Narnia đã gửi gắm vào người và điều này đặc biệt không phải với Trumpkin. Bệ hạ không thể thỏa mãn máu thích phiêu lưu của mình với tư cách là một con người cá nhân. Và nếu người không nghe ra được cái lí lẽ này thì những người trung thành nhất trên con tàu này sẽ theo gương tôi tước vũ khí của bệ hạ, trói bệ hạ lại cho đến khi bệ hạ hiểu được lí lẽ.

- Đúng như thế. – Edmund nói. – Giống như người ta đã làm với Ulysses khi chàng ta muốn lại gần các nàng Siren.

Tay Caspian đã đặt lên đốc kiếm thì Lucy nói giọng nhỏ nhẹ:

- Và bạn đã hứa với con gái của Ramandu là sẽ quay về.

Caspian khựng lại:

- Ồ, phải. Quả có thế! – Nhà vua đáp, phân vân hồi lâu rồi gào lên cho mọi người cùng nghe:

- Được, các người đã thắng. Cuộc hành trình đã kết thúc. Tất cả chúng ta hãy quay về. Đưa thuyền lên boong.

- Thưa bệ hạ, - Reepicheep nói, - không phải tất cả chúng ta đều quay về. Tôi, như đã giải thích từ trước…

- Im ngay! – Caspian gầm lên như sấm. – Ta đã nhận được bài học nhưng ta sẽ không để cho mình bị mua chuộc. Con chuột này, ngươi không thể im lặng một chút được ư?

- Bệ hạ đã tuyên thệ, - Reepicheep nghiêm nghị, - là trở thành một chúa tể tốt của các loài thú biết nói ở Narnia .

- Thú biết nói thì đúng. – Caspian dằn giọng. – Nhưng ta không nói về những con thú nói không bao giờ ngừng.

Đến đây vua lao ầm ầm xuống thang trong cơn giận dữ, lao vào ca bin của mình và đóng sập cửa lại.

Nhưng chỉ vài phút sau, khi mọi người kéo đến chỗ cậu, họ thấy cậu đã thay đổi; khuôn mặt tái nhợt, những giọt lệ long lanh trong mắt.

- Thật tệ hại. – Caspian nói. – Đúng là tôi cần phải tu tâm dưỡng tính cho tốt vì tất cả những gì mà tôi đã làm để xứng đáng với địa vị cao nhất của mình. Aslan đã nói với tôi, không – tôi không có ý là ông thật sự có mặt ở đây. Ca bin này không vừa với ông, ít ra là thế. Nhưng tất cả cũng vẫn hết sức kinh khủng. Và ông nói – ông nói… trời ơi tôi không thể chịu đựng nổi. Ông nói đúng cái điều đáng sợ nhất. Các bạn có thể đi tiếp – Reep… và Edmund… và Lucy… và Eustace; riêng tôi lại phải quay về. Một mình. Ngay lập tức. Còn gì công bằng trong chuyện này chứ?

- Caspian thân mến, - Lucy nói, - bạn cũng biết rõ là tất cả chúng tôi rồi cũng phải trở về thế giới của mình không chóng thì chầy cơ mà.

- Phải, - Caspian đáp với một tiếng nấc nghẹn ngào, - nhưng như thế này thì sớm hơn tôi tưởng.

- Bạn sẽ cảm thấy tâm trạng khá hơn khi quay về hòn đảo của Ramandu. – Lucy an ủi.

Sau đó Caspian cũng phấn khởi hơn đôi chút nhưng đó là một cuộc chia tay đau khổ cho cả hai bên mành tôi thì không muốn nhấn mạnh điểm này.

Vào khoảng hai giờ chiều sau khi cho một ít lương thực và nước uống (dầu họ nghĩ mình không cần ăn uống) cùng với con thuyền thúng của Reepicheep đặt trong lòng thuyền, con thuyền nhỏ tách ra khỏi con tàu Hướng tới Bình minh, bơi qua thảm hoa li li kéo dài đến vô tận. Cờ xí được giăng khắp tàu, những tấm khiên sáng lóa đồng loạt vung lên để tiễn chào. Con tàu cao, to và thân thuộc như mái nhà xưa khi những người trong truyền ngoảnh đầu nhìn lại từ vị trí thấp hơn của họ, giữa một biển li li bao quanh. Trước khi nó ra khỏi tầm mắt, họ thấy con tàu bắt đầu và bò từ từ về hướng tây bằng các mái chèo. Mặc dầu Lucy cảm thấy những giọt lệ cay xè trong mắt nó cũng không quá buồn như bạn có thể nghĩ đâu. Ánh sáng, sự tĩnh lặng, cái mùi hương lẫn lộn của biển Bạc và thậm chí theo một cách kì lạ nào đó cả sự cô liêu cũng có cái gì rất thi vị.

Không cần phải dùng mái chèo vì dòng nước đẩy thuyền băng băng về hướng đông. Không ai trong số họ cảm thấy cần ăn hoặc ngủ. Suốt đêm ấy và cả ngày hôm sau họ trôi về hướng đông và khi bình minh ngày thứ ba bắt đầu rạng lên ở phía trước – với một sự chói chang mà cả bạn và tôi đều không chịu nổi đâu, kể cả khi chúng ta đeo kính râm màu đen – họ thấy một cảnh tượng kì vĩ. Như thể có một bức tường dựng lên giữa họ và chân trời, một bức tường lung linh, chao động, một bức tường màu xám chuyển dần sang xanh biếc. Rồi mặt trời đi lên, ở bước đi đầu tiên họ nhìn thấy nó qua bức tường và rồi nó chuyển thành những gam màu lộng lẫy sắc cầu vồng. Bây giờ thì họ biết rằng bức tường đó chính là một con sóng rất cao và rất dài – một con sóng hòa vào không phân chia giới hạn với một nơi mà bạn có thể đã nhìn thấy trên đỉnh một thác nước. Nó cao hơn 10 thước và dòng hải lưu đẩy họ lao nhanh về phía đó.

Bạn có thể cho rằng họ nghĩ điều đó vô cùng nguy hiểm. Không, họ không nghĩ thế đâu. Tôi không cho là có bất cứ ai trong bọn nghĩ đến bản thân mình. Bởi vì bây giờ họ thấy mọi thứ không phải sau lớp sóng mà phía sau mặt trời. Không thể nhìn về phía mặt trời nếu mắt họ không trở nên mạnh hơn, khỏe hơn nhờ nước của biển Cuối, để bây giờ họ có thể nhìn mặt trời đi lên, thấy nó một cách rõ ràng và cả những gì phía sau nó nữa.

Cái mà họ thấy - ở phương đông, phía sau mặt trời - là một rặng núi. Nó cao đến nỗi không ai trong số họ có thể nhìn thấy ngọn núi hoặc có bao giờ quên được nó. Không có ai nhớ là đã nhìn thấy bầu trời ở hướng này. Và rặng núi kia chắc là ở bên ngoài thế giới. Bởi vì bất cứ dãy núi nào chỉ cao bằng khoảng một phần tám mươi nó thì đã bị băng tuyết phủ trắng xóa. Còn những quả núi này thì ấm áp, tươi xanh, mọc lên dày kín những rừng cây và thỉnh thoảng có những thác nước, dù bạn nhìn lên đến độ cao nào.

Bất thình lình một ngọn gió thổi đến từ hướng đông, làm ngọn sóng tung bọt và đổ ào một làn nước ngọt ngào quanh người họ. Tất cả chỉ kéo dài khoảng một giây nhưng cái điều mà một giây ngắn ngủi đó mang lại thì không một đứa nào trong ba đứa có thể quên được. Nó mang đến cả làn hương lẫn âm thanh đầy nhạc tính. Edmund và Eustace không bao giờ đề cập đến cái giây ngắn ngủi ấy. Lucy thì chỉ nói:

- Nó làm tim tôi muốn vỡ ra. Tại sao, vì nó quá buồn ư? Buồn ư? Không bao giờ.

Không ai trên con thuyền này có lúc nào nghi ngờ là khi bước ra ngoài Nơi tận cùng thế giới, họ sẽ bước vào mảnh đất của Aslan.

Đúng lúc đó, với một tiếng lạo xạo, con thuyền bị mắc cạn. Nước không đủ cao để cho thuyền đi tiếp.

- Đây là nơi tôi tiếp tục đi một mình. – Reepicheep tuyên bố.

Không một ai cố ngăn cản bác chuột lại bởi vì bây giờ dường như mọi chuyện đã xảy ra theo định mệnh hoặc đúng như nó phải diễn ra. Họ giúp bác chuột hạ cái thuyền thúng xuống. Đoạn Reepicheep tháo thanh trường kiếm ra.

- Tôi đã không cần đến nó nữa.

Bác nói và ném thanh kiếm ra xa trong biển li li. Thanh kiếm cắm mũi xuống, đốc kiếm chĩa lên trời nhô lên khỏi mặt nước một chút. Bác chuột cúi chào từ biệt mọi người, cố tỏ ra buồn bã để đồng cảm với họ nhưng thực ra mừng run lên. Lucy, lần đầu tiên cũng là lần cuối cùng làm cái điều mà cô bé bao giờ cũng mong muốn, ôm bác vào hai bàn tay mà vuốt ve. Sau đó bác vội vã nhảy vào cái thuyền thúng, cầm lấy mái chèo và dòng nước đẩy con thuyền nhỏ trôi tiếp – một điểm đen nổi bật giữa đám li li trắng ngần. Không có một cây li li nào mọc lên ở bức tường sóng, nó là một bờ dốc xanh rờn, thoai thoải.

Con thuyền thúng lao đi mỗi lúc một nhanh hơn; và kia, nó lao vụt lên vách bức tường sóng một cách ngoạn mục. Trong vòng một phần trăm của giây họ thoáng thấy bóng con thuyền có Reepicheep ngồi bên trong vượt qua đỉnh ngọn sóng. Sau đó thì nó biết mất và kể từ đấy không nghe thấy ai nói là có gặp bác chuột Reepicheep nữa. Nhưng tôi tin là bác ta vẫn sống vui vẻ ở đất nước của Aslan và vẫn sống cho tới tận hôm nay.

Khi mặt trời lên cao, những ngọn núi bên ngoài thế giới mờ dần. Con sóng vẫn còn đó nhưng chỉ còn bầu trời biếc xanh ở phía sau.

Những người bạn trẻ bước ra khỏi thuyền lội nước – không phải về phía ngọn sóng mà về phía nam bức tường nước bên tay trái. Họ không thể nói với bạn lí do tại sao họ lại làm như thế; đó là số phận của họ. Và mặc dầu họ có cảm tưởng – mà cũng là sự thật – rằng họ đã trưởng thành hơn nhiều trên con tàu Hướng tới Bình minh, bây giờ họ lại cảm thấy mình non nớt, dang cả hai tay ra trong lúc lội bì bõm qua những cây hoa li li. Họ không cảm thấy mệt, nước âm ấm và càng lúc càng cạn hơn. Cuối cùng họ đặt chân lên một mảnh đất khô toàn cát rồi đi đến một bãi cỏ - cả một bình nguyên bát ngát phủ đầy lớp cỏ ngắn và mịn - nằm ngang bằng với biển Bạc và trải dài đi bốn phương tám hướng mà không có lấy một chỗ nhấp nhô dù chỉ một cái hang chuột.

Và tất nhiên như mọi điều vẫn xảy ra ở một nơi hoàn toàn bẳng phẳng và không có cây cối, nơi đây trông như thể bầu trời sà thấp xuống gặp đồng cỏ ngay trước mặt bạn. Trước khi đi tiếp họ có một ấn tượng kì lạ nhất là cuối cùng chính ở đây trời và đất đã gặp nhau, tạo thành một bức tường xanh, rực sáng nhưng vững chắc và có thật hơn bất cứ vật nào khác. Chẳng bao lâu sau họ biết chắc về điều đó. Và bây giờ nó đến thật.

- Mời quý khách dừng chân và ăn điểm tâm. – Cừu non đon đả mời chào với một giọng ngọt ngào đặc biệt.

Đến đây là lần đầu tiên họ nhận ra là có một đống lửa đang cháy sáng trên bãi cỏ và một con cá đang được nướng trên ngọn lửa đó. Họ ngồi xuống ăn cá nướng, bụng đói cồn cào – lần đầu tiên có cảm giác đó sau bao nhiêu ngày qua. Đó là món ăn ngon lành nhất mà họ từng nếm.

- Làm ơn nói cho tôi biết cừu ơi, - Lucy hỏi, - đây có phải là đất nước của Aslan không?

- Không phải dành cho các bạn. – Cừu đáp. – Bởi vì đối với các bạn cánh cửa mở vào đất nước của Aslan lại ở chính trong thế giới của các bạn.

- Cái gì? – Edmund phấn khích kêu lên. – Cũng có một con đường dẫn đến đất nước của Aslan từ thế giới của chúng tôi ư?

- Mỗi thế giới đều có một con đường để đi đến xứ sở của tôi.

Trong lúc cừu nói thế, bộ lông trắng lóa mắt như tuyết của nó bở ra để lộ một bộ lông vàng rực và thân hình cừu cũng thay đổi, to dần ra. Và đây, Aslan đứng trước mặt mọi người, ánh sáng phát ra từ cái bờm vĩ đại của ông.

- Ôi, Aslan! – Lucy reo lên. – Người sẽ nói cho chúng con biết cách đi đến đất nước của ngài từ thế giới của chúng con chứ?

- Ta sẽ nói với các con điều này suốt đời. – Aslan nói. – Nhưng ta sẽ không cho các con con đường ấy dài hay ngắn, chỉ biết là nó phải chạy qua một dòng sông. Nhưng đừng sợ, bởi vì ta chính là Người Xây Cầu vĩ đại. Bây giờ thì hãy đến đây, ta sẽ mở một cánh cửa trên bầu trời và trả các con về mảnh đất của chính mình.

- Con cầu xin Aslan, - Lucy khẩn khoản, - trước khi chúng con đi, người sẽ bảo cho chúng con biết khi nào chúng con được phép trở về Narnia chứ? Xin vui lòng. Và xin người hãy làm cho điều đó sớm xảy ra.

- Con thân yêu của ta, - Aslan nói giọng rất đỗi dịu dàng, - con và anh con sẽ không bao giờ quay lại Narnia nữa!

- Ôi, Aslan!!! – Cả Edmund và Lucy cùng kêu lên thất vọng não nề.

- Các con đã lớn quá rồi, - Aslan nói, - cũng đã đến lúc các con phải gần gũi với thế giới của mình hơn.

- Không phải là chuyện Narnia, người cũng biết đấy. – Lucy thổn thức mãi mới nên lời. – Đó là… chính là người. Chúng con không thể gặp người ở đấy. Sao chúng con có thể sống một khi không bao giờ được gặp người nữa?

- Nhưng các con sẽ gặp lại ta, con thân yêu ạ! – Aslan nói.

- Vậy… vậy người cũng có ở đó? – Edmund vồn vã hỏi.

- Đúng thế. Nhưng ở đấy ta có một cái tên khác. Các con cần phải học hỏi để biết về ta dưới cái tên ấy. Đó là lí do vì sao các con lại được mang đến Narnia, biết về ta đôi chút ở đây và có thể biết về ta rõ hơn ở nơi ấy.

- Vậy Eustace cũng không được quay lại đây phải không ạ? – Lucy hỏi.

- Con gái, có phải con thực sự muốn biết điều đó? Nào đến đây, ta sẽ mở cửa bầu trời cho các con.

Trong một tích tắc, tất cả những bức tường xanh vỡ vụn (giống như một bức màn mục nát), một luồng ánh sáng trắng kinh khủng bên ngoài bầu trời rọi xuống, cảm giác về cái bờm của sư tử, cái hôn của Aslan lên trán mỗi đứa trẻ và rồi tất cả lại có mặt trong một căn phòng ngủ ở nhà dì Alberta ở Cambridge.

 Chỉ có hai điều cần đề cập đến. Một là Caspian cùng đoàn người của mình an toàn trở về đảo Ramandu. Ba nhà quý tộc đã thức dậy khỏi giấc ngủ triền miên. Caspian làm đám cưới với con gái của Ramandu rồi tất cả quay về Narnia, người con gái ấy sau này trở thành một hoàng hậu vĩ đại, một người mẹ và người bà vĩ đại của rất nhiều đời vua ở Narnia. Còn chuyện thứ hai là việc quay về thế giới của chúng ta. Chẳng bao lâu sau mọi người nhận ra cái câu: “Bạn không thể nghĩ đó cùng là một thằng Eustace đâu,” trở nên thường xuyên hơn. Tất cả mọi người đều nghĩ như thế, trừ dì Alberta, dì nói rằng nó trở nên tầm thường, nhạt nhẽo, đáng chán và điều đó chắc là do chịu ảnh hưởng mấy đứa trẻ bên nhà Pevensie.

 HẾT TẬP 5

[1] Nguyên văn là Scrubb, có nghĩ là rất tầm thường, hèn mọi, người còi, vật còi, không có gì đáng nói đến

CHIẾC GHẾ BẠC

 Jill cảm thấy rất khổ sở vì kỳ học ngớ ngẩn tại ngôi trường chán ngắt của mình. Khi Eustace đang cố gắng an ủi cô bé bằng những câu chuyện về vùng đất kỳ diệu mà cậu đã ghé thăm trong kỳ nghỉ trước, cô liền quyết định hy vọng duy nhất cho cả hai là chạy trốn khỏi trường và tìm đến vùng đất huyền bí ấy.

 Chuyến phiêu lưu hấp dẫn và đầy gian truân ở Narnia bắt dầu khi cả hai thoát ra được khỏi trường, và cũng là ra khỏi nước Anh, ra khỏi thế giới này. Aslan đã giao nhiệm vụ cho bọn trẻ là phải tìm ra Rilian, con trai yêu dấu của nhà vua Caspian, người đã biến mất khi đang truy đuổi kẻ giết mẹ mình. Để giúp Jill và Eustace, Aslan đưa ra bốn dấu hiệu mà chúng phải tuân theo. Do vội vã và gặp quá nhiều chuyện lạ, chúng đã quên mất ba dấu hiệu sau. Thời gian và cơ hội dường như chống lại lũ trẻ ngay từ khi cuộc hành trình bắt đầu.

 Đây là chuyến phiêu lưu thứ sáu trong bộ truyện hấp dẫn: Biên niên sử về Narnia

CHƯƠNG 1

 Chạy trốn

Vào một ngày thu ảm đạm, Jill Pole ngồi khóc phía sau khu nhà tập thể thao. Con bé khóc tấm tức bởi vì nó bị ức hiếp quá đáng. Đây không phải là một câu chuyện về giáo dục vì thế mà tôi sẽ tránh hết mức để không nói nhiều về trường học của Jill, một chủ đề chẳng lấy gì làm thú vị cả. Đó là một ngôi trường học dành cho cả học sinh nam và nữ, thường được gọi một cách nôm na là trường “trộn”; có người nói điều đó không có ý nghĩa là xáo trộn như đầu óc của những người điều hành ngôi trường đó. Những người có trọng trách giáo dục thế hệ trẻ ở đây cho rằng bọn con trai và con gái phải được phép làm cái điều mà chúng muốn. Và thật không may điều mà mươi, mười lăm đứa con trai, con gái to xác thích thú nhất lại là bắt nạt những đứa bé hơn. Đó là một cái gì khủng khiếp với lũ trò nhỏ và nếu nó diễn ra trong một trường học bình thường sẽ phát hiện và ngăn chặn ngay trong nửa học kỳ đầu nhưng trường này thì không. Mà nếu có đi chăng nữa thì những đứa ỷ mạnh hiếp yếu cũng không bị đuổi học hay bị kỷ luật. Hiệu trưởng nghĩ rằng đó là những trường hợp lí thú cho ngành nghiên cứu tâm lí và cho gọi lũ đầu bò đầu bướu kia đến, nói chuyện với chúng hàng mấy giờ liền. Giả sử chúng lại biết cách nói đúng cái điều mà hiệu trưởng muốn nghe thì kết quả thật mĩ mãn, chúng sẽ trở thành “cục cưng”, thành những đứa trẻ có “cá tính” và được trọng đãi hơn hẳn những đứa khác.

Đó là lí do tại sao Jill Pole khóc một cách oan ức khi ngồi bên lề một con đường mòn lầy lội chạy phía sau lưng khu nhà thể thao với những lùm cây dại um tùm, vào một ngày mùa thu xám xịt như thế. Nó khóc còn chưa đã thì có một thằng nhóc đi đến từ góc khu nhà thể thao, hai tay thọc vào túi quần, vừa đi vừa huýt sáo. Suýt nữa thì nó đâm sầm vào Jill.

- Này, mắt mũi để đi đâu vậy? – Jill Pole cáu kỉnh hỏi.

- Không sao, - thằng con trai nói , - bạn không cần bắt đầu… - Nói đến đây thằng nhỏ nhận ra cái đứa đang khóc nhè là ai. – À, Pole hả, có chuyện gì vậy?

Jill nhăn mặt theo cái kiểu mà bạn vẫn làm khi bạn định nói một cái gì đó nhưng lại biết rằng chỉ cần mở miệng ra là sẽ lại bật khóc ngay.

- Lại bọn chúng à, tớ cho là thế… chuyện như cơm bữa ấy mà… - Đứa con trai nói mặt mày nhăn nhó, thọc hai tay sâu hơn nữa vào túi quần.

Jill gật đầu. Dù có muốn đi chăng nữa thì nó cũng không cần phải mở miệng. Cả hai đứa đều hiểu.

- Bây giờ thì nghe đây, - thằng con trai nói, - tình hình cũng chẳng có gì khá với chúng ta…

Nó định dùng từ tốt nhưng nó lại nói như một người lớn bắt đầu một bài lên lớp. Đột nhiên, Jill nổi khủng (một điều vẫn thường xảy ra khi bạn muốn khóc cho đã thì có một kẻ đến quấy rầy).

- Cút đi và cứ lo cho việc của mình ấy. Không ai mượn cậu đến đây thương lượng, phải không? Mà bản mặt cậu thì cũng đâu dễ thương gì mà đến đây bảo tôi phải làm cái này cái nọ? Tôi cho rằng cậu muốn giảng đạo rằng tôi phải dành hết thời gian ra để nịnh nọt, bợ đỡ chúng, cầu xin ân huệ và múa máy trước mặt chúng… cũng như cậu phải không?

- Ôi lạy Chúa. – Đứa con trai nói ngồi phịch xuống vệ cỏ cạnh lùm cây bụi nhưng rồi lại đứng phắt dậy bởi vì cỏ ướt sũng. Chẳng may tên nó lại là Eustace – Lông Vịt nhưng nó không phải là một đứa không ra gì.

- Pole! – Nó kêu lên. – Nói thế có công bằng không đấy? Trong học kì này tớ có làm gì để phải nghe cậu nói như thế không? Chẳng phải tớ đã đứng về phe Carter trong vụ con thỏ là gì? Chẳng phải tớ đã giữ bí mật về… về Spivvins kể cả khi bị hành hạ đấy sao? Và chẳng phải tớ…

- Tôi… tôi không biết mà tôi cũng cóc quan tâm. – Jill vừa nói vừa nấc lên.

Lông Vịt thấy rằng Jill không biết rõ nó đang nói gì nữa bèn rụt rè đưa cho bạn một viên kẹo bạc hà. Nó cũng cho vào miệng một viên. Dần dần, Jill bắt đầu nhìn nhận sự việc dưới một ánh sáng khác.

- Lông Vịt à, tớ xin lỗi. – Nó nói. – Tớ thật không phải. Cậu đã làm tất cả những việc như vậy thật, trong học kì này.

- Vậy thì hãy xóa bỏ cái năm học trước đi nếu có thể. – Eustace nói. – Bây giờ tớ đã là một người khác rồi. Tớ… lạ quá, tớ đích thị đã là một người khác.

- Đúng, đúng là cậu có thay đổi thật. – Jill thừa nhận.

- Cậu cũng nghĩ đó là một sự thay đổi, phải vậy không? – Eustace hỏi.

- Không phải chỉ có tớ nhận ra. Ai cũng nói như thế hết. Bọn chúng cũng đã nhận ra. Eleanor Blakiston nghe Adela Pennyfather nói như thế trong phòng thay đồ nữ mới ngày hôm qua thôi. Nó nói: “Có một đứa nào đó đã nắm được cái thằng lỏi Lông Vịt. Không thể điều khiển được nó trong niên học này. Chúng ta sẽ phải đưa nó vào danh sách chăm sóc kế tiếp đấy.

Eustace rùng mình. Bất cứ ai trong trường Thực nghiệm này cũng biết “được bọn chúng chăm sóc” nghĩa là gì.

Hai đứa trẻ ngồi yên lặng một lúc, nghe tiếng lá cây nguyệt quế kêu xào xạc rồi lìa cành rơi xuống đất.

- Sao cậu lại thay đổi quá nhiều so với năm học trước vậy? – Bất ngờ, Jill cất tiếng hỏi.

- Có biết bao nhiêu chuyện kì lạ đã xảy ra với tớ trong mùa hè vừa rồi. – Eustace nói với giọng mơ màng, bí ẩn.

- Là những chuyện gì? – Jill hỏi gặng.

Eustace ngồi im hồi lâu. Đoạn nó nói:

- Coi này Pole, cậu và tớ đều ghét nơi này, cũng nhiều như bất kỳ ai có thể không ưa một cái gì đó, có phải vậy không?

- Với tớ thì đúng là như thế.

- Vậy thì tớ có thể tin tưởng vào cậu không?

- Tất nhiên rồi.

- Nhưng đây thật sự là một bí mật ghê gớm. Pole à, tớ muốn hỏi… cậu có phải là một người có lòng tin không? Nghĩa là tin vào những cái mà bọn ở đây có thể đem ra cười nhạo ấy.

- Tớ chưa bao giờ có dịp chứng tỏ điều ấy, nhưng tớ nghĩ mình thuộc tuýp người như vậy.

- Cậu có tin tớ không nếu tớ nói rằng, tớ đã ở bên ngoài thế giới… bên ngoài trái đất này… trong mùa hè vừa rồi?

- Tớ chẳng hiểu cậu đang nói cái quái gì nữa.

- Vậy thì hãy quên chuyện cái thế giới khác đi. Giả sử tớ bảo với cậu rằng tớ đã ở một nơi mà các con thú có thể nói tiếng người… nơi có những phép màu và những con rồng… phải, nơi có tất cả những thứ mà cậu có thể thấy được trong truyện cổ tích thì sao?

Lông Vịt cảm thấy ngượng ngùng vô cùng khi nó nói ra điều này và mặt nó đỏ bừng cả lên.

- Sao cậu đến được đấy? – Jill hỏi. Nó cũng cảm thấy không khí gượng gạo làm sao ấy.

- Chỉ có một cách duy nhất… bằng một phép màu. – Eustace hạ giọng gần như là tiếng thì thào. – Tớ cùng với hai người anh chị họ. Chúng tớ chỉ… bị lôi đi. Họ đã từng đến đấy. 

Bây giờ trong khi cả hai hạ thấp giọng thì thầm, Jill cảm thấy chuyện này có vẻ dễ tin hơn. Rồi bất chợt một ý nghi ngờ kinh khủng ập đến và nó nói (một cách dữ dằn đến nỗi lúc ấy trông nó như một con hổ cái).

- Này, tớ mà phát hiện ra là cậu đang lừa tớ thì tớ sẽ không bao giờ nói chuyện với cậu nữa, không bao giờ, không bao giờ, không bao giờ!

- Không mà. Tớ thề là tớ không nói láo. Tớ xin thề… lấy tất cả mọi thứ ra mà thề.

(Lúc tôi còn đi học, người ta thường nói: “Tôi xin lấy Kinh thánh ra mà thề”. Nhưng Kinh thánh không được khuyến khích trong trường Thực nghiệm.)

- Được rồi, tớ chấp nhận, tớ tin cậu.

- Và không nói cho bất cứ ai chứ?

- Cậu bắt tớ làm thế để làm gì?

Cả hai đều tỏ ra rất kích động khi đề cập đến những chuyện này. Hứa xong, Jill đưa mắt nhìn lên bầu trời mùa thu ủ dột, nghe tiếng lá thu rụng lộp độp và nghĩ về tất cả những điều kiện vô hy vọng ở trường Thực nghiệp (với một học kì kéo dài 13 tuần và vẫn còn tới 7 tuần trước mắt) nó nói:

- Nhưng suy nghĩ cho cùng điều đó liệu có ích gì? Bọn mình đâu có ở đấy mà đang ở đây. Sung sướng gớm nhỉ, làm gì có cách nào thoát khỏi đây. Hay là chúng ta có thể!?

- Đó chính là điều tớ cũng đang tự hỏi. Khi bọn tớ từ Chỗ Ấy quay về đây. Một người đã nói rằng hai đứa trẻ nhà Pevensie (là anh chị họ của tớ) sẽ không bao giờ quay lại đấy nữa. Cậu biết không, họ đã đến đó ba lần rồi. Tớ cho là họ đã hết phần. Nhưng ông ấy không nói là tớ không nói là tớ không được đến. Chắc chắn ông ấy sẽ nói… nếu không thì điều đó có nghĩa là tớ có thể quay trở lại được đúng không nào? Và tớ không thể không tự hỏi, liệu chúng ta có thể… có thể…?

- Cậu muốn nói, có một cái gì đó làm cho nó xảy ra đúng không?

Eustace gật đầu:

- Cậu muốn nói chúng ta phải vẽ một vòng tròn trên mặt đất… rồi viết những kí tự kì quặc vào trong vòng tròn đó… rồi đứng vào giữa… và lẩm nhẩm đọc thần chú hay bùa chúa gì đó?

- Phải. – Eustace nói sau một hồi suy nghĩ rất lung. – Tớ tin rằng đó chính là cái mà tớ đang nghĩ đến, mặc dù tớ chưa bao giờ làm như thế. Nhưng mà bây giờ té ra là… tớ có ý nghĩ tất cả những cái vòng và những chuyện như vậy đều là chuyện nhảm nhí. Tớ không nghĩ là ông thích đâu. Có vẻ như là chúng ta buộc ông phải làm điều đó. Trên thực tế chúng ta chỉ có thể hỏi xin mà thôi.

- Cái người mà cậu cầu cứu và cứ nói mãi đến ai vậy?

- Ở đấy người ta gọi ông là Aslan.

- Cái tên nghe thật lạ.

- Còn không kì lạ bằng một nửa con người ông. – Eustace nói, giọng trang nghiêm kính cẩn. – Nhưng chúng ta hãy cứ làm đi. Cũng chẳng có hại gì, chỉ cầu xin thôi mà. Chúng ta hãy đứng cạnh nhau, như thế này này. Hai tay đưa ra phía trước, lòng bàn tay úp xuống dưới ; như cái cách họ đã làm ở đảo của Ramandu.

- Đảo của ai ?

- Tớ sẽ kể cho cậu nghe vào một lần khác. Ông có thể muốn chúng mình quay mặt về hướng đông. Coi nào, đâu là hướng đông ?

- Tớ không biết.

- Thật là một điều kì lạ, bọn con gái… chúng không bao giờ biết các phương trong la bàn. – Eustace nói.

- Cậu cũng không biết đấy thôi. – Jill phật ý cãi lại.

- Tớ biết, nếu cậu đừng cắt ngang như thế. Bây giờ thì tớ xoay xoả được rồi. Đây là hướng đông, cứ nhìn thẳng vào bụi nguyệt quế ấy. Nào, bây giờ cậu sẽ nói theo tớ nhé.

- Nói cái gì ?

- Tất nhiên là nói những tớ định nói. Nào bây giờ… (Eustace bắt đầu kêu lên: Aslan, Aslan, Aslan !

- Aslan, Aslan, Aslan ! – Jill lặp lại.

- Xin người hãy đưa chúng con đến…

Đúng lúc ấy một giọng nói từ bên kia dãy nhà tập thể thao vang lên rõ mồn một.

- Con ranh Pole hả? Ừa, tao biết nó ở đâu rồi. Chắc vừa vãi nước mắt ở sau phòng tập này thôi. Để tao lôi cổ nó ra nhé?

Jill và Eustace liếc nhìn nhau, cùng chui tọt vào trong bụi nguyệt quế và bắt đầu bò lên cái dốc cao trơn trượt sau những bụi cây rậm rạp với một tốc độ đáng được khen thưởng. (Nhờ vào cái phương pháp dạy dỗ kì cục ở trường Thực nghiệm này, bọn trẻ tuy không gặt hái được nhiều thành tích trong các môn tiếng Pháp hoặc Toán hoặc tiếng Latin hoặc bất cứ môn học nào khác nhưng lại giỏi trong bộ môn “lủi”, chúng lẩn thật nhanh và lặng lẽ khi bị BỌN CHÚNG tìm.)

Lủi được khoảng trên dưới một phút, hai đứa dừng lại nghe ngóng, qua tiếng bước chân mà biết được mình đang bị bám theo.

- Ước gì cánh cửa kia lại mở ra nhỉ! – Eustace kêu lên trong lúc thở hổn hển chạy tiếp, Jill gật đầu. Trên đỉnh dốc có một bức tường bằng đá, trên bức tường có trổ một cái cửa và đi qua cánh cửa ấy bạn có thể ra ngoài đồng hoang. Cửa bao giờ cũng đóng chặt. Cũng có lần người ta thấy cánh cửa mở và có lẽ đó là một trường hợp duy nhất. Nhưng bạn cũng có thể hình dung là ký ức về cái lần duy nhất ấy khiến cho người ta nuôi hi vọng mà thử mở cửa lần nữa bởi vì nếu tình cờ cửa không khoá thì đó sẽ là lối thoát duy nhất ra khỏi khuôn viên nhà trường, khi đang bị truy đuổi đằng sau.

Bây giờ Jill và Eustace, cả người nóng rực lên và lấm lem sau một hồi bò lổm ngổm trong bụi cây rậm rạp, đã đến chỗ bức tường, há miệng thở hồng hộc. Cánh cửa im ỉm đóng như thường lệ.

- Chắc chắn là chẳng có chuyện gì xảy ra. – Eustace nói, đặt tay lên nắm cửa và rồi. “Ôi, trời ơi!!” bởi vì tay nắm cửa xoay nhẹ nhàng và cánh cửa mở ra.

Chỉ mới một giây trước thôi hai đứa đã nghĩ chúng sẽ ba chân bốn cẳng chạy vù qua nếu cửa may mắn không bị khoá. Bây giờ, khi cánh cửa thực sự mở ra thì chúng lại đứng ngây ra như phỗng. Bởi vì cái mà chúng nhìn thấy khác xa những gì mà chúng chờ đợi.

Trong đầu chúng hình dung, phía sau cánh cửa là một cái dốc, thạch thảo mọc cao tốt như rừng và chạy dài trên cánh đồng hoang cho đến khi gặp chân trời xám xịt tiết cuối thu. Nhưng mà không, ánh mặt trời chói chang đang chờ chúng sau cánh cửa. Ùa qua khung cửa là cái ánh nắng rực rỡ của một ngày hè tháng sáu tràn vào gara nhà bạn khi bạn vừa mở cửa. Nó làm cho những giọt nước mưa đọng trên cỏ long lanh như những hạt cườm và làm rõ những vết bẩn nhem nhuốc trên khuôn mặt còn đọng những vệt nước mắt của Jill.

Với một ông mặt trời rực rỡ như vậy thì chắc chắn thế giới trông sẽ khác đi nhiều lắm – đó là điều mà hai đứa có thể thấy rõ. Chúng thấy dưới chân mình, mặt đất trải ra mịn màng, mượt mà hơn, tươi sáng hơn tất cả những gì mà Jill từng nhìn thấy trước đó. Trên nền trời xanh thắm có những vật gì đó chao qua liệng lại, rực rỡ đến nỗi chỉ có thể là những viên kim cương biết bay nếu không thì là những con bướm sặc sỡ cỡ đại tướng.

Mặc dù đó chính là cảnh tượng mà nó hằng ao ước, nhất là vào lúc này, Jill vẫn cảm thấy sờ sợ. Nó nhìn vào mặt Lông Vịt, thấy bạn mình cũng có vẻ sợ hãi như vậy.

- Đi thôi, Pole! – Nó nói với một giọng như vừa chạy hết cả hơi.

- Chúng ta biết đường quay về chứ? Ở đây có an toàn không? – Jill hỏi.

Đúng lúc đó có một giọng hét lên sau lưng chúng, cái giọng nanh ác, đê tiện, hằn học:

- Ra đây ngay, Pole? Ai cũng biết là mày ở đâu rồi. Xuống đây ngay!

Đó là giọng Edith Jackle, không phải là một đứa trong “bọn chúng” chỉ là một tên tay sai, chuyên đơm đặt bịa chuyện để tăng công.

- Nhanh lên! – Eustace kêu lên. – Đưa tay đây. Chúng ta không được để lạc mất nhau.

Trước khi Jill biết được chuyện gì đang xảy ra thì Eustace đã chộp lấy tay nó, kéo nó qua cánh cửa, ra ngoài khuôn viên trường học, ra khỏi nước Anh, ra khỏi thế giới của chúng ta, bước vào nơi ấy.

Giọng nói của Edith Jackle tắt ngấm một cách bất thần như giọng nói trong radio tắt phụt khi chúng ta ngắt điện. Trên đầu hai đứa vang lên những âm thanh rộn rã náo nức hơn, hoá ra đó là tiếng chim hót. Bầy chim tạo ra những âm thanh náo nhiệt – rất giống với âm nhạc mà lại là một sự phối nhạc nhiều bè – hiện đại đến nỗi thoạt nghe bạn không thể cho là đó là tiếng chim hót như ta vẫnn nghe trong thế giới loài người. Tuy vậy, làm nền cho những âm thanh náo nhiệt đó vẫn là một sự tĩnh lặng sâu xa. Sự im lặng này cùng với không khí trong lành làm Jill nghĩ chúng đang ở trên một đỉnh núi cao chất ngất.

Eustace vẫn nắm chặt tay bạn, cả hai bước lên trước, mắt ngơ ngác nhìn quanh. Jill nhìn sững vào những cây đại thụ trông giống như cây tuyết tùng – tuy cao lớn hơn nhiều – mọc ở khắp mọi nơi. Nhưng bởi vì chúng không mọc gần nhau và cũng không có những thân cây thấp hơn nên không có gì cản tầm nhìn của khách bộ hành sang trái hay qua phải. Nhìn đi hút tầm mắt, Jill nhận thấy cảnh quan chỗ nào cũng thế: mặt đất bằng phẳng, những con chim lông vàng ánh vun vút bay qua, những con chuồn chuồn xanh biếc vẫy những đôi cánh mỏng, những con chim khoác bộ lông bảy sắc cầu vồng, màu xám xanh của bóng râm và một cái gì giống như sự trống trải. Không có lấy một hơi gió nhẹ trong không gian mát lạnh và sáng sủa này. Quả là một khu rừng hết sức cô tịch.

Thẳng ngay trước mặt chúng không có cây cối gì! Chỉ có bầu trời xanh biếc. Hai đứa cứ lẳng lặng đi thẳng không nói gì cho đến lúc Jill nghe Eustace kêu lên: “Nhìn kìa!” và cảm thấy mình bị bạn kéo giậtn ngược trở lại. Chúng đứng ở bên bờ một vực thẳm.

Jill là một trong những người may mắn, nó có cái đầu chịu đựng được độ cao. Ít nhất thì nó cũng không sợ khi đứng trên đỉnh một ngọn núi cao nhìn xuống. Nó lấy làm bực bội vì thằng bạn Long Vịt cố kéo nó giật lại – cứ làm như mình là một con nhóc vậy – nó nghĩ và giật ra khỏi tay bạn. Khi thấy mặt thằng bạn trắng bệch ra, nó còn chế nhạo:

- Ê cậu làm sao zvậy? – Và để chứng tỏ là mình không sợ, nó bước đến gần sát mép vực, thực ra còn quá mức mà nó định làm. Đứng ở đấy nó nhìn xuống.

Bây giờ thì Jill nhận ra là Lông Vịt cũng có lý do để sợ đến mức tái mét mặt mày thế kia bởi vì không có một vực thẳm nào trong thế giới của chúng ta sâu đến thế. Hãy hình dung bạn đứng trên đỉnh một vách đá cheo leo nhất mà bạn từng biết và hãy tưởng tượng là bạn đang nhìn xuống tận đáy vực. Sau đó trở lại hình dung là cái vách núi ấy chạy mãi xuống dưới, mười lần sau hơn, hai mươi lần sau hơn. Và khi bạn nhìn xuống cái vực sâu thẳm không đấy ấy bạn thấy có một cái gì trăng trắng, thoạt nhìn có thể lẫn với một đàn cừu, nhưng rồi bạn từ từ nhận ra đó là mây – không phải là những lớp mây chất ngất, chồng chất lên nhau to như những quả núi và cuối cùng giữa cái khe của những núi mây chất chồng ấy bạn thoáng thấy cái đáy vực, sâu hun hút. Bạn khó có thể xác định đó là một cánh đồng, một rừng cây hay nước và nó còn xa hơn khoảng cách giữa bạn với những đám mây nằm ở lưng chừng núi ấy.

Jill nhìn chằm chằm xuống dưới. Rồi nó nghĩ, sau cùng nó cũng nên lùi lại một bước khỏi mép vực; nhưng nó lại không thích để cho Lông Vịt nghĩ là chính nó cũng hoảng. Tuy vậy, nó đột ngột quyết định, nó cóc cần biết Lông Vịt nghĩ gì, dù sao thì nó cũng phải tránh xa cái vực thẳm rợn người ấy và từ nay trở đi sẽ không cười nhạo những người sợ độ cao nữa. Nhưng khi cố cử động, nó hoảng hồn khi thấy mình không thể di chuyển được. Đôi chân nó dường như đã biết thành bột mát tít rồi. Mọi vật bồng bềnh trôi trước mắt nó.

- Cậu làm cái quái gì thế Pole? Quay lại, đừng hành động như một kẻ điên rồ, ngu ngốc như thế! – Lông Vịt hét lên, nhưng Jill có cảm giác như giọng nói của bạn nó vọng đến từ rất xa. Nó cảm thấy bạn đang nắm lấy tay mình nhưng bây giờ thì nó không còn điều khiển được tay chân nữa rồi. Một phút giằng co ở ngay trên mép vực. Jill quá sợ và choáng váng để biết rõ việc nó đang làm. Nhưng có hai thứ mà nó sẽ nhớ suốt đời (điều này thường quay về trong những giấc mơ của nó). Một là việc nói vùng vẫy để thoát khỏi đôi tay của Lông Vịt và việc kia là cùng lúc đó vang lên tiếng thét kinh hoàng của Lông Vịt; bạn nó mất thăng bằng và lộn nhào xuống vực.

Cũng may là lúc đó nó không có thời gian suy nghĩ về việc mình làm. Một con thú lớn, bộ lông sáng lên rực rỡ nhưng không rõ là màu gì lao đến bên mép vực. Con thú nằm xuống, thân hình to lớn dán xuống đất và (đây mới là một điều kì lạ) con vật há to miệng thổi. Nó không gầm lên cũng không khịt khịt mũi, chỉ đơn giản phả ra một làn hơi từ cái miệng rộng há to, hơi thở phát ra đều đặn như một cái máy hút bụi đang làm việc. Jill nằm xuống, gần con thú đến nỗi nó có thể cảm thấy hơi thở rung lên đều đặn trong thân hình con vật. Con bé nằm bẹp xuống đất là bởi vì nó không thể đứng dậy. Nó gần như sắp ngất xỉu, thực ra thì nó thầm mong mình bất mình không còn nhận thức được gì; nhưng chuyện này không phải bao giờ cũng đến như người ta mong muốn. Cuối cùng nó nhìn thấy, sâu tít phía dưới một vệt đen nhỏ bồng bềnh trôi khỏi vách đá và nhè nhẹ bay lên, đồng thời cũng bay xa hơn; nhưng vào lúc vật đen đen bay ngang bằng đỉnh núi thì nó cũng đã bay đi quá xa, mất hút. Rõ ràng cái vật ấy bay xa khỏi đỉnh núi nvới một tốc độ cực nhanh. Jill không thể không nghĩ là con vật nằm cạnh mình đã thổi cho vật đen bay đi.

Thế là nó quay lại nhìn con vật. Đó là một con sư tử.

CHƯƠNG 2

 Bay đi từ nóc nhà thế giới

Không liếc nhìn Jill, sư tử đứng dậy phà một hơi cuối cùng. Rồi dường như thỏa mãn với việc làm của minh, nó quay lưng, thong thả bỏ đi vào trong rừng.

“Chắc đây là một giấc mơ, hẳn thế. - Jill tự nhủ. - Lát nữa thôi mình sẽ tỉnh dậy.” - Nhưng điều đó không đúng, hai mắt nó vẫn mở thao láo.

- Ước gì chúng mình không bao giờ đến mảnh đất chết tiệt này. - Jill nói một mình - mình tin là cái thằng Lông Vịt ấy cũng chả biết quái gì hơn mình. Nếu biết rõ thì tại sao nó đưa mình đén đây mà không báo trước gì cho mình cả. Không phải lỗi của mình nếu nó lăn xuống vực. Nếu nó để cho mình yên thì có phải cả hai đứa đều không làm sao rồi không. Nhưng nó nhớ lại tiếng thét kinh hoàng của Lông Vịt khi lăn xuống miệng vực và bật khóc.

Khóc cũng có lợi, theo một nghĩa nào đó, khi nước mắt vẫn tiếp tục chảy . Nhưng sớm muộn gì thì bạn cũng thấy mắt mình ráo hoảnh và sau đó phải quyết định mình sẽ làm gì. Khi Jill thôi khóc nó cảm thấy mình khát nước kinh khủng. Nó đang nằm úp mặt xuống đất và bây giờ nó ngồi dậy. Chim chóc đã ngừng hót, trong rừng hết sức im lặng trừ một tiếng động nhỏ dai dẳng nghe như vang lên từ một nơi nào rất xa. Nó để tai nghe ngóng và biết rằng đó là tiếng nước chảy.

Jill đứng dậy, thận trọng nhìn xung quanh. Không thấy có dấu hiệu sư tử quanh đây, nhưng chung quanh toàn là cây cối và rất có thể sư tử vẫn lảng vảng quanh đây mà nó chưa nhìn thấy. Theo suy đoán của nó, nếu đã nhìn thấy một con thì trong thực tế rất có thể có nhiều hơn một con. Nhưng nó khát khô cả cổ và nó thu hết can đảm đi tìm nước uống. nó nhón chân bước đi, cẩn thận nấp sau gốc cây, mỗi bước lại dừng lại, ngước mắt nhìn quanh.

Khu rừng yên tĩnh, mênh mông đễn nỗi khó phân biệt được tiếng nước chảy từ phía nào. Tuy vậy cứ theo hướng nó đang đi, tiếng nước chảy mỗi lúc một rõ hơn. Cứ thế nó đến một khoảng rừng thưa trông thấy một dòng nước sáng loáng như thủy tinh chảy qua một tảng đá, rồi trôi đi xa khỏi nó. Mặc dầu nước làm cho cơn khát của nó mười lần dữ dội hơn nhưng nó vẫn không lao đến chỗ dòng nước. Nó đứng ngây ra như hóa đá, miệng há hốc. Nó có lí do đích đáng để làm thế: ngay cạnh dòng suối là sư tử.

Sư tử nằm, đầu cất cao, hai chân trước duỗi trước mặt, giống hệt tư thế của những con sư tử đá ở quảng trương Trafalgar. Jill biết rằng sư tử đã nhìn thấy mình bởi vì đôi mắt nó chĩa thẳng vào đôi mắt của nó trong một khoảnh khắc rồi nó quay đầu đi - cứ làm như sư tử biết rõ Jill và cho rằng con bé chẳng có gì đáng cho nó để mắt tới.

"Nếu mình bỏ chạy thì nó sẽ đuổi theo mình ngay. - Jill suy tính. - Còn nếu mình cứ bước lên tiếp thì sẽ chạy thẳng vào miệng nó." Dù sao thì Jill cũng không thể nhúc nhích dẫu có muốn thế đi chăng nữa, nhưng nó cũng không thể đưa mắt nhìn đi chỗ khác, đúng là không thể không nhìn vào mắt sư tử. cảnh này kéo dài bao lâu nó cũng không biết chắc, có thể kéo dài đến hàng giờ. Cái khát đã trở nên không sao chịu đựng nổi đến nỗi nó gần như đi đến chỗ quyết định thà làm mồi cho sư tử mà được vục miệng vào dòng nước kia còn hơn là đứng nhìn dòng nước trong mát thế kia mà không được uống.

- Nếu khát thì mi cứ việc uống đi.

Đó là tiếng nói đầu tiên mà nó nghe được kể từ tiếng hét cuối cùng của Lông Vịt ở ngay trên mép vực. Cái giọng ấy lại cất lên lần nữa: "Nếu khát thì mi cứ đến mà uống." Tất nhiên, Jill nhớ là Lông Vịt đã từng nói có những con thú biết nói ở thế giới khác. Rõ ràng nó thấy môi con vật mấp máy còn tiếng nói thì không giống tiếng con người lắm: mạnh hơn, sâu hơn, và hoang dã hơn. Giọng nói không làm nó bớt sợ đi mà lại làm nó sợ hãi theo một cách khác.

- Không khát à?

- Tôi khát muốn chết đây.

- Vậy thì uống đi.

- Tôi có thể… có thể… ông không phiền khi đi chỗ khác trong khi tôi uống nước chứ?

Sư tử chỉ trả lời bằng một cái nhìn và một tiếng gầm nho nhỏ trong cổ và khi Jill nhìn cái khối lù lù bất động ấy nó nhận ra yêu cầu một ngọn núi dịch chuyển vì bản thân nó còn dễ hơn. Trong khi ấy tiếng róc rách ngọt ngào đầy sức quyến rũ của dòng suối làm cho nó như muốn điên lên.

- Ông có hứa không…không làm gì tôi khi tôi đến gần không?

- Ta chẳng hứa hẹn điều gì cả. - sư tử trả lời.

Lúc này, Jill đã khát cháy cả ruột gan nên không nhận ra là mình đã bước lên một bước.

- Ôn không ăn thịt bé gái chứ?

- Ta nuốt cả con trai, con gái, đàn ông, đàn bà, vua và các bậc hoàng đế, thành phố và vương quốc. - Sư tử đáp. Nó nói không phải để gây ấn tượng, một giọng nói có vẻ để ăn năn hay dọa dẫm hay giận dữ gì cả. Chỉ đơn giản nói ra sự thật mà thôi.

- Vậy, tôi không dám đến uống nước đâu.

- Thế thì mi cứ việc chết vì khát. - Sư tử đáp.

- Thôi được. - Jill kêu lên, dấn thêm một bước nữa - Tôi cho rằng sẽ phải đi tìm một dòng suối khác thôi.

- Không còn dòng suối nào khác.

Jill không óc ý nghi ngờ lời sư tử - không một ai nhìn vào khuôn mặt nghiêm nghị ấy mà lại không tin - và đột nhiên Jill đi đến một quyết định. Đó là một quyết định khó khăn nhất mà nó buộc phải làm - nó bước thẳng đến bên dòng suối, quỳ gối, và vục nước lên uống: một thứ nước mát lành nhất mà nó từng được uống. Bạn không cần uống nhiều, vì nó thỏa mãn cơn khát ngay lập tức. Trước khi uống, Jill dự định sẽ bỏ chạy ngay sau khi nó uống xong. Nhưng bây giờ nó nhận ra đó sẽ là một việc làm nguy hiểm nhất. Nó đứng thẳng người lên và cứ đứng yên như vậy, đôi môi vẫn còn ướt nước suối.

- Lại đây! - Sư tử nói và Jill làm theo. Nó gần như đứng sát hai chân trước của sư tử và can đảm nhìn thẳng vào mặt sư tử, nhưng nó không chịu đựng được ánh mắt ấy lâu, bèn cụp mắt xuống.

- Bé gái kia, - sư tử hỏi, - cậu con trai đâu?

- Nó bị rơi khỏi vách đá! - Jill trả lời rồi nói thêm: - Thưa… ông! - Nó lúng túng không biết gọi sư tử như thế nào cho phải, xem ra không lễ phép lắm nếu nói trống không..

- Sao cậu bé lại bị ngã, bé gái kia?

- Nó cố chặn cho tôi khỏi ngã xuống… thưa ông.

- Tại sao mi lại đứng sát mép vực như thế, bé gái kia?

- Tôi chỉ muốn chứng tỏ… thưa ông.

- Đó là một câu trả lời rất khá, bé gái kia ạ. Đừng bao giờ làm thế nữa. Và bây giờ (nói đến đây lần đầu tiên khuôn mặt sư tử trở nên ít nghiêm khắc hơn) - mi cần biết là cậu bé kia an toàn. Ta đã thổi nó sang Narnia. Nhưng cái việc của mi sẽ khó khăn hơn, bởi cái việc mà mi đã làm.

- Nhiệm vụ gì thưa ông?

- Cái nhiệm vụ mà vì nó ta đã gọi hai đứa từ nước Anh đến đây.

Câu nói làm Jill thấy bối rối ghê gớm. "Chắc sư tử nhầm mình với ai khác." nó nghĩ nhưng lại không dám nói với sư tử điều đó mặc dầu nó cảm thấy mình sẽ đâm đầu vào một rắc rối chết người nếu không làm thế.

- Cứ nói hết những suy nghĩ của mình ra đi, bé gái kia, ta cho phép đấy. - Sư tử nói.

- Tôi tự hỏi… tôi muốn nói… không biết có sự nhầm lẫn nào ở đây không? Bởi vì không có ai gọi tôi và Lông Vịt tới đây cả, ông cũng biết đấy. Chính là chúng tôi đã yêu cầu được đến đây. Lông Vịt đã bảo chúng tôi sẽ gọi…gọi một ai đó…tên là gì thì tôi không nhớ rõ…và có thể cái người ấy sẽ cho chúng tôi bước vào một thế giới khác. Chúng tôi đã làm thế…và chúng tôi thấy cửa mở ra.

-Các ngươi sẽ không kêu tên ta lên trừ khi ta gọi các ngươi. - Sư tử nói.

- Nếu vậy thì ông là cái người gì gì ấy phải không ạ?

- Đúng thế. Và bây giờ hãy lắng nghe nhiệm vụ của mình. Cách đây rất xa, ở Narnia có một ông vua già, ông ấy hiện rất phiền não vì không có người con trai mang dòng máu của mình để thừa kế ngai vàng. Sở dĩ như vậy bởi vì người con trai duy nhất của ông đã bị đánh cắp khỏi vòng tay của ông nhiều năm trước. không một ai ở Narnia biết hoàng tử đi đâu, còn sống hay đã chết. nhưng chàng hoàng tử đó vẫn còn sống. Ta trao cho con nhiệm vụ này, hãy tìm chàng hoàng tử bị mất tích đó cho đến khi hoặc là con tìm thấy chàng ta về giao lại cho phụ vương hoặc là mất mạng trong những cố gắng ấy hoặc giả sẽ quay lại thế giới của con.

- Nhưng… cháu… cháu sẽ phải làm việc gì ạ?

- Ta sẽ cho con biết, con gái. - Sư tử nói. - Đây là những điều ta sẽ hướng dẫn con trong lúc thực hiện cuộc tìm kiếm. Thứ nhất, ngay khi Eustace đặt chân lên Narnia nó sẽ gặp người bạn cũ thân yêu của mình. Nó phải chào người bạn này ngay lập tức, để nó làm thế con phải là một sự giúp đỡ tích cực cho cả hai bên. Thứ hai, khi đã tới Narnia, các con phải đi về phương bắc cho tới khi tới được thành phố cổ đổ nát của những người khổng lồ cổ đại. Thứ ba, các con phải tìm ra một văn tự được viết lên một phiến đá trong thành hpố hoang tàn và làm theo những lời chỉ dẫn trên đó. Thứ tư, các con sẽ nhận biết ra hoàng tử bị mất tích (nếu con tìm ra chàng) qua đặc điểm này: chàng ta sẽ là người đầu tiên mà các con gặp trong cuộc hành trình yêu cầu các con làm một việc gì đó nhân danh ta dưới cái tên Aslan.

Khi sư tử nói xong, Jill nghĩ mình cũng phải nói một điều gì đó. Thế là nó nói:

- Cảm ơn ông. Cháu đã hiểu rồi.

- Con gái, - Aslan nói bằng một giọng dịu dàng hơn trước, - có lẽ con chưa thật hiểu như con nghĩ đâu. Đầu tiên hãy ghi nhớ. Nào hãy nói lại ta nghe bốn điều đó theo đúng thứ tự.

Jill cố lặp lại nhưng không thật đúng. Sư tử phải nhắc lại cặn kẽ một lần nữa và bắt nó phải lặp đi lặp lại cho đến khi nó có thể nói lại nhiệm vụ một cách trơn tru không chê vào đâu được. Aslan tỏ ra rất nhẫn nại vì thế khi cái việc nhàm chán này đã trôi qua, Jill thu hết can đảm hỏi:

- Nhưng thưa ông làm sao cháu có thể đến được Narnia?

- Bằng hơi thở của ta. Ta sẽ thổi con về phía tây thế giới như đã thổi Eustace.

- Làm sao cháu đuổi kịp bạn ấy để nói về việc đầu tiên phải làm. Nhưng không sao! Cháu cho rằng việc ấy cũng chẳng có gì quan trọng. nếu cậu ấy muốn gặp bạn bè cũ thì cậu ấy cứ đi mà trò chuyện, có phải thế không ạ?

- Con sẽ không có thời gian rảnh rỗi đâu. - Sư tử nói. - Đó là lí do tại sao ta gọi con đến ngay. Đến đây. Đi trước mặt ta, chúng ta sẽ đi đến mép vực.

Jill hiểu rất rõ rằng không còn thời gian để lãng phí và đó là do lỗi của nó. "Nếu mình không làm cái trò ngu ngốc đó thì giờ này mình đã đi cùng Lông Vịt rồi và nó đã nghe chỉ thị trực tiếp từ miệng Aslan". Không phí một giây, nó vội vàng làm theo lời sư tử. Đó là những bước đi khó khăn; quay lại dứng bên cái vực sâu không đáy ấy, nhất là khi sư tử không đi ngang hàng với nó mà đi đằng sau với những bước chân mềm mại không gây nên một tiếng động nào.

Nhưng truóc khi nó đi đến gần mép vực thì giọng nói phía sau đã cất lên.

- Đứng im. Chỉ trong một tích tắc nữa ta sẽ thổi con đi. Nhưng trước tiên hãy nhớ, hãy ghi lòng tạc dạ những chỉ dẫn.Tự nhắc lại mỗi khi con thức dậy vào buổi sáng, khi con nằm xuống ngủ vào mỗi đêm cả khi thức giấc vào lúc nửa đêm nữa. Dù cho bất cứ chuyện gì lạ lùng xảy ra với con thì cũng đừng để nó làm cho đầu óc con lẫn lộn với những dấu hiệu khác. Còn nữa ta cho con một lời cảnh cáo. Ở đây, trên đỉnh núi này, ta nói với con một cách rõ ràng; ta sẽ không thường xuyên xuống dưới Narnia đâu. Ở đây không khí trong lành nhẹ bỗng, đầu óc con sáng sủa dễ tiếp th nhưng một khi rơi xuống Narnia rồi không khí ở đấy sẽ nặng hơn, đặc hơn đấy. Cẩn thận, nó sẽ làm cho đầu óc con lẫn lộn, rối rắm. Những điều mà con hình dung ở đây không giống như những điều như con chờ đợi khi gặp ở đấy đâu. Đó là lí do tại sao con phải học nằm lòng bốn dấu hiệu trên và không được quan tâm đến vẻ bề ngoài. Hãy ghi nhớ những dấu hiệu và tin vào nó. Ngoài ra thì không có chuyện gì khác. Bây giờ thì con của Eve... vĩnh biệt!

Lời chào của sư tử nhẹ bỗng và bây giờ tiếng nói tắt dần. Jill ngoái đầu nhìn lại. Vô cùng kinh ngạc, nó thấy vách đá lùi lại sau nó hàng ngàn mét còn sư tử thì bị thu nhỏ lại thành một vành trăng vàng sáng rực trên đỉnh núi. Con bé mắm môi mắm lợi và nắm chặt hai bàn tay vì sợ hơi thở của sư tử nhưng hơi thở ấy nhẹ đến nỗi nó thậm chí không nhận ra là mình đã rời khỏi mặt đất và bây giờ chẳng có gì ngoài khoảng không hàng ngàn mét phía dưới thân hình nó. Nó sợ hãi, nhưng chỉ trong vòng một giây thôi, bởi vì thế giới bên dưới dường như ở đâu đó xa vời vợi và chẳng có gì chạm đến nó được. còn một điều nữa, được bay trong hơi thở của sư tử xem ra rất dễ chịu. Bạn có thể nằm ngửa, nằm úp, nằm nghiêng tùy thích, cứ như thể đang ở trong nước vậy (chỉ cần bạn giỏi bơi lội thôi). Thật là sảng khoái, nó di chuyển cùng một tốc độ hơi thở của sư tử; ở đây lại không có gió và không khí rấ ấm. ít nhất thì bay như vậy cũng không giống trên máy bay bởi vì không có tiếng ồn và không có sự rung động nào. Nếu Jill đã ở trên một khinh khí cầu thì nó cũng sẽ thấy chuyến bay này giống như thế, thậm chí còn thích hơn.

Khi quay đầu nhìn lại, lần đầu tiên nó thấy được kích thước thật sự của quả núi mà nó vừa rời khỏi. Nó tự hỏi một ngọn núi cao chót vót như vậy cớ sao lại không hề có băng tuyết. "Nhưng mình cho rằng mọi thứ đều khác đi rất nhiều khi ở thế giới này." Đoạn nó nhìn xuống dưới nhưng nó đang ở một độ cao quá lớn nên nó không biết rõ là mình đang bay trên đất liền hay trên biển cũng như tốc độ bay của nó.

- Nhưng lạy thần Jupite! Bốn lời dặn của Aslan, - chợt Jill nhớ ra, - mình phải ôn lại mới được.

Nó hoảng hồn trong một hoặc hai giây đầu nhưng rồi nó thấy mình vẫn nói đúng. "Thế là ổn rồi." - Nó nói và nằm ngửa người trong không khí như nằm trên ghế sofa với một tiếng thở dài mãn nguyện.

- Phải, mình dám nói là mình đã ngủ thiếp đi. - Jill thầm nhủ, nó nghĩ mình đã bay được vài tiếng.

- Hay thật, ngủ trong không trung nữa cơ chứ! Không biết đã có ai làm như vậy trước mình chưa? ồ chán thật, có lẽ Lông Vịt đã có được những trải nghiệm này. Cũng bay như thế này, chỉ có trước mình một chút. Để coi xem dưới đất như thế nào.

Trải ra vô tận phía dưới nó là cái gì giống như một bình nguyên xanh đậm. không thấy có núi đồi gì, chỉ có những vật gì trăng trắng rất lớn từ từ trôi qua. "Có thể đó là mây, - nó nghĩ, - nhưng còn lớn hơn những đám mây mình nhìn thấy từ trên đỉnh núi, có lẽ nó to hơn bởi vì nó gần hơn. Chắc mình đã xuống thấp hơn. Chán cái ông mặt trời này thật."

Mặt trời treo cao trên đầu nó lúc mới bắt đầu cuộc hành trình bây giờ rọi thẳng vào mặt nó. Điều đó cũng có nghĩa là mặt trời đã xuống thấp, tiến đến gần nó hơn. Lông Vịt đã rất đúng khi nói rằng Jill (nói chung tôi không biết nhiều về các cô gái đâu) rất kém cái khoản định hướng. Nếu Jill giỏi môn này thì nó phải biết là khi mặt trời bắt đầu rọi vào mặt nó thì điều đó có nghĩa là nó đã bay đến gần chân trời phía tây rồi.

Chăm chú nhìn xuống bình nguyên xanh thẳm phía bên dưới, dần dần nó nhận ra những chấm nhỏ màu nhạt hơn, sáng hơn ở chỗ này, chỗ kia. "Đó là biển, còn kia mình tin là những hòn đảo. quả đúng thế. Chắc nó sẽ cảm thấy ganh tị nếu biết rằng, Lông Vịt đã từng nhìn thấy một số hòn đảo này khi đứng trên boong tàu thậm chí còn đặt chân đến, nhưng lúc này thì nó còn chưa biết điều đó. Sau đó một chút nó nhìn thấy những nếp nhăn li ti trên cái mặt phẳng xanh biếc phía bên dưới và những nếp nhăn ấy là những con sóng lớn ngoài đại dương nếu bạn nhìn tận mắt. Bây giờ dọc theo đương chân trời là một đường kẻ sọc màu đen, mỗi lúc một to hơn, vùn vụt tiến đến gần, nhanh đến nỗi bạn thấy nó lớn lên từng giây. Đó là dấu hiệu đầu tiên nói cho Jill biết, nó bay với tốc độ nhanh như thế nào và nó biết cái vệt đang dày lên ấy chính là mặt đất.

Bất thình lình từ phía bên trái nó (vì gió đang thổi đến từ phương nam) một đám mây trắng lớn kéo đến, băng băng lao về phía nó, lần này cũng cùng một tốc độ với nó. Truóc khi biết mình đang ở đâu thì nó rơi tọt vào một đám sương mù ẩm ướt, lạnh lẽo làm nó bạt cả hơi, nhưng nó chỉ ở trong đám mây đó trong vòng một giây. Nó hấp háy mắt trong ánh mặt trời và thấy quần áo mình ướt cả (nó đang mặc áo thể thao, áo len chui đầu, váy đồng phục học sinh, chân mang vớ dày và một đôi giày nặng chình chịch; đó là một bộ quần áo mặc trong những ngày lầy lội ở Anh). Nó từ từ đáp xuống thấp hơn và đúng lúc ấy nó nhận thấy một cái mà tôi cho rằng đáng lí nó phải biết từ trước nhưng điều này vẫn thường đến như một bất ngờ và một cú sốc. Đó là tiếng ồn, Cho đến lúc ấy nó đã ngao du trong một sự im lặng tuyệt đối.

Lần đầu tiên nó nghe thấy tiếng sóng biển, tiếng kêu của bầy hải âu, đồng thời nó cũng ngửi thấy trong không khí cái vị mằn mặn của biển. Không hề có một sự nhầm lẫn nào về tốc độ di chuyển của nó. Jill thấy hai con sóng ập đến gặp nhau nghe đến ầm một cái và bọt tung lên trắng xóa nhưng nó khó lòng nhìn rõ cho đến khi sóng đã lùi lại sau nó hàng trăm mét. Mặt đất lao đến trước mặt nó với một tốc độ chóng mặt. nó có thể nhìn thấy những rặng núi gần hơn bên tay trái, thấy các mũi đất, vịnh, rừng cây, cánh đồng và các bãi biển cát vàng trải dài. Tiếng sóng vỗ vào bờ mỗi lúc một lớn hơn át những tiếng động khác ở bốn chung quanh.

Bất thình lình mặt đất mở ngay ra truóc mặt và nó thấy mình đang bay đến gần cửa sông. Bây giờ thì nó sà thấp lắm rồi chỉ còn cách mặt đất vài mét. Một con sóng cao xô đến chạm cả vào chân nó, tung bọt lên làm nó ướt đến tận thắt lưng. Nhưng nó đã bay chậm lại. Thay vì bị mang sang bờ bên kia nó lại bị trượt về phía cửa sông bên này. Có quá nhiều cái đột ngột đập vào mắt nên nó khó có thể nhận thức được tất cả cùng một lúc: cỏ xanh mượt, một con tàu màu sắc rực rỡ đến nỗi trông giống một viên ngọc khổng lồ; tháp chuông, các bức tường thành, cờ xí bay phấp phới trong không trung; một đám đông ăn mặc đỏm dáng trông thật vui mắt với những bộ áo giáp sáng choang, vàng bạc lấp lánh, kiếm kích và âm nhạc. Tất cả đỏ nhào vào với nhau thành một mớ hỗn độn. Cái đầu tiên mà nó biết là cảm giác sung sướng khi đáp xuống một bụi cây rậm rạp cạnh bờ sông và kia, chỉ cách nó vài mét là Long Vịt. Ý nghĩ đầu tiên bật ra trong đầu nó là trông cậu bạn mới lôi thôi, bẩn thỉu và đáng chán làm sao. Và ý nghĩ thứ hai là "Sao mình lại ướt mèm thế này?"

CHƯƠNG 3

 Cung điện của vua Caspian

Cái làm cho Lông Vịt trông đáng chán như vậy (và cả Jill nữa, nếu nó nhìn thấy bóng mình) là vì chúng lại rơi vào đúng vào một nơi tráng lệ, lộng lẫy vô cùng, thế nên tôi sẽ bắt đầu miêu tả ngay.

Qua một khe núi ở giữa hai quả núi, Jill nhìn thấy đất liền khi nó từ từ đáp xuống đất. Ráng chiều vàng suộm đổ xuống một đồng cỏ bằng phẳng. Từ đấy cho đến ngút tầm mắt, những chiếc chong chóng chỉ chiều gió sáng lấp lánh trong ánh tà dương và trải ra trước mặt nó là một tòa lâu đài với bao nhiêu tháp lớn, tháp nhỏ đua nhau vươn cao trên bầu trời. Đó là một tòa lâu đài tráng lệ nhất mà Jill trông thấy cả trong tranh ảnh lẫn ngoài đời. Ở gần nó nhất là một bến cảng với kè đá làm toàn bằng đá hoa cương trắng và đang thả neo trên cảng là một con tàu to cao, phần boong ở mũi tàu, đuôi tàu nhô cao sơn son thiếp vàng lộng lẫy. Một là cờ lớn giương cao ở cột buồm chính và nhiều lá cờ đuôi nheo vẫy phần phật trong gió, dãy khiên sáng lóa như bạc để bọc thành tàu.

Một tấm ván cầu được bắc lên tàu; ở ngay gần cầu tàu và như thể chuẩn bị bước lên boong là một cụ già. Ông mặc một chiếc áo choàng không tay màu đỏ không cài khuy phía truóc để lộ ra một chiếc áo giáp bằng bạc bên trong. Một chiếc vương miện nhỏ bằng bạc gắn lên đầu. bộ râu dài trắng như lông cừu buông xuống tận thắt lưng. Ông già đứng thẳng, tì một tay lên vai một quan đại thần ăn mặc cũng sang trọng nhưng trẻ hơn ông. Càng nhìn kĩ bạn càng thấy rõ hơn nét già nua, yếu đuối của nhà vua, cứ như thể chỉ cần một cơn gió thổi qua là cũng đủ làm ông gục ngã và trong đôi mắt mờ đục lọt giữa những túi thịt nhăn nheo như có ngấn lệ.

Ngay trước mặt nhà vua - ông đang chuẩn bị nói một điều gì đó với thần dân của mình trước khi lên tàu - là một chiếc ghế nhỏ có bánh xe và thắng vào chiếc ghế là một con cừu nhỏ, không lớn hơn một con chó săn mồi cỡ lớn. Ngồi trong ghế là một người lùn béo húp híp. Ông ta phục sức trang trọng không kém nhà vua, nhưng bởi vì ông quá mập mạp lại đang ngồi với cái lưng lèn giữa một đống gối và nệm nên hiệu quả đâm ra trái ngược: nó làm cho ông trông giống một cái bọc bằng lông, lụa và nhung trông chả ra một hình thù gì cả. Ông cũng già nua như ông vua nhưng trông có thần sắc hơn và cũng khỏe khoắn hơn, đôi mắt tinh anh có cái nhìn sắc bén. Đầu người lùn để trần, hói trọi và rất to, sáng lên như một viên bida khổng lồ trong ánh hoàng hôn.

Xa hơn phía sau và đứng thành nửa vòng tròn là đám người mà Jill lập tức nhận ra là đám triều thần của nhà vua. Một đám đông nổi bật với những bộ trang phục lông lẫy và những cái áo giáp sáng loáng. Đứng từ xa nhìn lại trông họ giống một đám hoa muôn hồng nghìn tía hơn là một đám đông. Nhưng cái thật sự làm cho Jill mở to mắt há hốc mồm ra nhìn là lúc đoàn người di chuyển nếu như "người" là danh từ thích hợp để miêu tả họ. Bởi vì thực ra chỉ có 4, 5 người trong số đó, còn lại là những gì bạn không thể nhìn thấy trong thế giới của chúng ta: thần rừng, thần đê, nhân mã; ít nhất thì Jill cũng có thể gọi tên được những loại này bởi vì nó đã từng xem tranh vẽ về họ. Cả người lùn nữa. ở đây có những loài vật mà nó biết rất rõ: gấu, lửng, chuột chũi, báo, chuột đồng và rrất nhiều loài chim khác nhau. Vẫn có cái gì đó phân biệt chúng với những con vật cũng được gọi bằng cái tên ấy ở Anh. Một số loài lớn hơn rất nhiều - chẳng hạn như chuột, chúng đi bằng hai chân sau, hai chân trước quơ quơ phía trước. Nhưng ngoài chuyện đó ra thì trông chúng cũng rất đặc biệt. Bạn có thể căn cứ vào biểu hiện trên nét mặt chúng mà biết rằng chúng có thể nói năng, suy nghĩ và có một cuộc sống tình cảm như con người.

"Chao ơi!" - Jill nghĩ - "Thì ra tất cả những điều này đều là thật." Nhưng chỉ một giây sau nó lại nghĩ: "Không hiểu họ có phải là bạn không?" Bởi vì nó vừa thoáng thấy ở vòng ngoài đám đông một hoặc hai người khổng lồ và một số sinh vật mà nó không biết là thuộc về giống gì nữa.

Đúng lúc đó, Aslan và những điều cần ghi nhớ lại trở về trong tâm trí nó. Nó đã quên bẵng những điều này đi trong vòng nửa tiếng vừa rồi.

- Lông Vịt! - nó thì thào chộp lấy cánh tay bạn - Nào nhanh lên! Cậu có thấy ai quen biết trong đám người kia không?

- Thế ra cậu cũng xuất hiện hả? - Lông Vịt dài giọng hỏi với vẻ bực bội (bởi vì nó có lí do để tỏ ra bực tức như thế). - Này, cậu có thể im miệng được không? Tớ muốn nghe xem họ nói gì.

- Đừng cư xử như một thằng ngốc nữa. - Jill nói. - Không được phí một giây nào hết. Cậu có thấy người quen cũa nào ở đây không? Nếu có cậu hãy đến nói chuyện với họ ngay lập tức.

- Cậu đang nói cái quái gì vậy?

- Chính Aslan - là ông sư tử… đã bảo cậu phải làm thế. - Jill nói nhưng giọng nó không đủ sức thuyết phục. - tớ… tớ đã gặp ông ấy.

- Ồ cậu đã gặp người, thật không? Thế ông nói gì?

- Ông ấy bảo người cậu gặp đầu tiên ở Narnia là một người bạn cũ và cậu phải nói chuyện với người đó ngay lập tức.

- Nhưng mà những người này tớ chưa từng gặp trong đời, với lại tớ cũng không chắc rằng đây có phải là Narnia không nữa.

- Tớ nhớ cậu nói đã ở đây một lần rồi.

- Thế cậu nghĩ tớ nói láo hay sao?

- À tớ biết rồi! Cậu bảo tớ…

- Vì chúa, cậu hãy ngậm miệng lại và nghe xem họ nói gì.

Nhà vua nói gì đó với người lùn nhưng Jill không nghe ra ông nói gì. Như nó có thể đoán ra, người lùn không trả lời mặc dù ông ta gập đầu một cái xong lại lắc đầu lia lịa. sau đó vua cấp cao giọng nói với toàn bộ cử tọa: giọng ông yếu ớt, run run, thường vỡ ra một nghẹn ngào và Jill nghe được rất ít. Nhất là khi ông nói về những tên người và địa danh mà nó chưa từng nghe nói đến. Nói xong nhà vua cúi xuống, hôn lên hai má người lùn, đoạn ưỡn thân hình hom hem lên và giơ tay phải lên như chúc phúc cho đám đông rồi với những bước run rẩy, ông bước lên cầu tàu và bước lên boong. Triều thần rõ ràng xúc động trước sự ra đi của nhà vua. Khăn mùi xoa được rút ra, tiếng nức nở vang lên khắp mọi nơi. Chiếc cầu tàu được rút lên, tiếng kèn trumpet vang lên từ phía đuôi tàu. Và con tàu từ từ rời bến. (Nó kéo theo một con thuyền có mái chèo nhưng Jill không nhìn thấy.)

- Bây giờ… - Lông Vịt bắt đầu nhưng nó không nói thêm được gì vì đúng lúc đó có một vật lớn màu trắng - Jill chợt nghĩ đó là một con mèo - bay lướt qua không trung và hạ xuống đất nhẹ nhàng trên đôi chân. Đó là một con cú lông trắng như tuyết thuộc loại khổng lồ bởi vì khi đứng nó cao bằng một người lùn.

Nó hấp háy mắt, ngó nghiêng cái đầu như thể nó bị cận thị, rồi nghiêng đầu sang nó nói bằng một giọng cổ rất trầm vì thế mà phải rúc lên:

- Tu huýt, tu huýt! Hai người là ai?

- Tôi tên tục là Lông Vịt, còn đây là Pole, - Eustace nói, - bạn vui lòng cho biết chúng tôi đang ở đâu, được chứ?

- Trên mảnh đất Narnia trước hoàng cung Cair Paravel của đức vua Narnia.

- Có phải đức vua vừa bước lên tàu?

- Quá đúng, quá đúng. - Cú đáp giọng buồn bã, vừa lắc lư cái đầu to tướng. - Nhưng hai người là ai? Có một cái gì như phép lạ ở hai người? Tôi đã thấy hai người bay đến. Những người khác mải theo dõi cảnh vua ra đi nên không nhận ra điều này. Trừ cú này. Tôi tình cờ nhìn thấy các bạn lúc đang bay.

- Chúng tôi được Aslan phái tới đây - Eustace hạ thấp giọng nói.

- Tu huýt, tu huýt! - Cú rúc lên một hồi, xù bộ lông trắng bóc lên. - Trời ơi, điều này là quá sức so với khả năng tiếp nhận của tôi, nhât là vào lúc đầu giờ chiều thế này. Tôi chỉ là mình khi màn đêm buông xuống.

- Và chúng tôi tới đây với sứ mệnh tìm hoàng tử bị thất lạc. - Jill nói, nãy giờ nó nôn nóng chờ để xen vào câu chuyện.

- Đây là lần đầu tiên tôi được nghe chuyện này đấy. - Eustace thắc mắc - Hoàng tử nào vậy?

- Tốt nhất các bạn nên đến nói chuyện với ngài nhiếp chính - Cú nói - Ông ấy đấy, ở chỗ kia, trên cỗ xe lừa kéo ấy. Đó là Trumkin - Người lùn.

Con chim đi trước dẫn đường, vừa bước đi khệnh khạng trên đôi chân vừa rúc lên:

- Huýt tu huýt! Thật là một chuyện có một không hai! Bây giờ mình chả nghĩ được điều gì. Chờ cho trời tối đã.

- Thế đương kim hoàng thượng tên là gì? - Eustace hỏi.

- Caspian thứ mười - Cú trịnh trọng đáp còn Jill thì thắc mắc cớ sao Lông vịt lại bước hụt một cái, suýt nữa là té ngã. Mặt thằng bạn nó biến sắc với một vẻ hoảng hốt. Nó nghĩ nó chưa thừng thấy một thằng con trai nào có vẻ mặt đau khổ đến như vậy. nhưng trước khi nó có thời gian nghĩ ngợi thêm điều gì thìchúng đã đến gần người lùn khi ông ta đang sắp lại dây cương trên lưng con lừa, chuẩn bị quay về hoàng cung.

Đám đông triều thần tản đi theo cùng một hướng; đi thành từng tốp hai, ba người một cũng giống như cảnh người ta ra về sau khi tan một trận đấu hay một cuộc đua.

- Tu huýt! E hèm! Thưa ngài nhiếp chính, - cú mào đầu, cúi xuống một chút và rúc cái mỏ của nó bảo bên tai người lùn.

- Hả? Cái gì vậy? - người lùn hỏi lại bằng giọng oang oang.

- Hai người lạ, thưa ngài.

- Hai kẻ lang thang à, anh bạn muốn nói gì?[1] - Người lùn hỏi lại. - Tôi chỉ thấy hai đứa trẻ con lôi thôi lếch thếch, ăn mặc đến là kì cục thôi. Mà chúng muốn gì vậy?

- Tên tôi là Jill - Đứa con gái nói, bước lên trước một bước, nó nóng lòng muốn giải thích.tầm quan trọng của cái sứ mệnh đặc biệt mà vì nó chúng được phái tới đây.

- Đứa con gái tên tên là Jill - Cú nói lại với cái giọng ồm ồm to nhất của loài cú.

- Cái gì? - Người lùn hỏi lại. - Bọn con gái bị giết?[2] Ta không tin đâu, dù chỉ một lời. Con gái nào? Ai giết ai?

- Chỉ có một cô gái thưa ngái. - Cú sửa lại. - tên cô bé là Jill.

- Nói thẳng ra đi nào, quanh co mãi. - Người lùn cáu kỉnh, - đừng có đứng đó mà phù phù và mổ mổ vào tai ta như thế. Ai bị giết?

- Chẳng có ai bị giết hết. - cú rúc lên.

- Ai?

- CHẲNG CÓ AI!!!

- Được, được rồi ngươi không phải hét lên như thế. Ta có điếc đâu. Vậy ngươi muốn nói gì khi ngươi gặp ta và nói rằng không có ai bị giết? Tại sao lại không có ai bị giết?

- Tốt hơn, cú cứ bảo ông ấy tên tôi là Eustace. - Lông Vịt nói.

- Thằng nhỏ là Eustace thưa ngài. - Cú rú lên chói cả tai.

- Vô tích sự à?[3] - Người lùn nói giọng bực bội. - Ta dám nói nó đúng là như thế đấy. Vậy còn mang nó đến đây là nghĩa làm sao. Này,…

- Không phải là useless mà là EUSTACE.

- Trước nó từng như thế phải không? Này, ta chẳng hiểu ông nói cái gì hết, hẳn thế. Để ta nói cho ông biết chuyện là như thế nào ông Glimfeather ạ, khi ta còn trẻ, nơi đây có vô số con thú và con chim biết nói… trên một đất nước mà người ta có thể ăn nói tự do. Không có cái kiểu thì thà thì thào, bỏ nhỏ và rỉ tai như thế này. Những chuyện này trở nên khó mà chịu nổi khi người ta ở vào một cái tuổi nào đấy. Không phải cho một giai đoạn nào đấy thưa ngài. Này Urnus, vui lòng tìm xem kèn Trumpet của ta ở đâu…

Một thần rừng bé nhỏ nãy giờ vẫn đứng đằng sau khuỷu tay người lùn, nghe thấy thế liền chìa ra cho Trumkin một cái tai nghe bằng bạc. nó được làm giống như một nhạc cụ được gọi là "con rắn" vì cái ống quấn quanh cổ người lùn. Trong khi ông ta sắp xếp dây nhợ lại thì cú Glimfeather bất thần nói với bọn trẻ giọng thì thầm:

- Đầu óc tôi lúc này cũng sáng ra một chút rồi. Đừng nói một điều gì về hoàng tử bị mất tích cả nghe chưa. Tôi sẽ giải thích sau. Cái gì không nên làm thì đừng làm. Thật là một việc…

- Bây giờ, - người lùn nói, - thưa ông Glimfeather, nếu ông có bất cứ điều gì hợp tình hợp lí thì cứ nói. Hãy hít một hơi thật sâu và đừng nói như bắn súng ấy.

Với sự giúp đỡ của hai đứa nhỏ, bất chấp việc người lùn cứ ho khan liên tục, Glimfeather giải thích rằng những đứa trẻ lạ mặt này được Aslan phái đến thăm triều đình Narnia. Người lùn liếc nhanh đôi mắt về phía hai đứa và đôi mắt đã có một cái nhìn khác.

- Được chính sư tử gửi đến… hả? - Ông hỏi - Và từ… từ… cái Nơi Ấy…bên ngoài… Nơi tận cùng thế giới…

- Thưa ngài, đúng thế ạ. - Eustace nói oang oang vào loa của tai nghe.

- Con trai của Adam và con gái của Eve hả? - Người lùn hỏi tiếp. - Nhưng ở trường Thực nghiệm, học sinh chưa bao giờ được nghe thấy hai cái tên này nên hai đứa lặng im không đáp và hình như người lùn cũng không để ý.

- Được rồi xin chào quý khách. - Ông nói rồi bắt tay hai đứa trong lúc cái đầu to tướng hơi cúi xuống một chút. - Các bạn sẽ được đón tiếp trọng thể. Nếu đức vua, ông chủ tội nghiệp của tôi không vừa lên tàu đến Bảy Đảo thì người sẽ hết sức vui lòng đón nhận các bạn. Việc này sẽ làm người nhớ lại những tháng năm tuổi trẻ. Còn bây giờ đã đến giờ ăn tối. Các bạn sẽ cho tôi biết nội dung công việc của mình trước toàn bộ hội đồng của tôi vào sáng mai. Ngài Glimfeather, hãy chăm lo chuẩn bị quần áo cho khách cùng tất cả những chuyện có liên quan khác. Quý khách phải được phục vụ chu toàn theo nghi thức long trọng nhất. Này Glimfeather, hãy ghé tai lại gần đây nào.

Đến đây, người lùn ghé sát miệng vào tai cú, ý định chỉ cho riêng cú biết, nhưng như tất cả những người điếc khác, ông không điều khiển được âm lượng của mình thành thử cả hai đứa đều nghe ông nói: Phải quan tâm để ý xem hai đứa nó có được tắm rửa sạch sẽ không, nghe chưa?

Sau đó người lùn giật cương con lừa về lâu đài với tốc độ giữa đi nước kiệu và đi bộ (đó là một vật kéo béo núc na núc ních) trong khi thần rừng, cú, và hai đứa trẻ chậm rãi theo sau với những bước ngắn. Mặt trời đã lặn sau dãy núi và trời trở lạnh.

Họ đi ngang qua bãi cỏ qua một vườn cây trái và qua cổng bắc lâu đài lúc này đang mở rộng cả hai cánh. Vào bên trong họ thấy một cái sân rộng bên trong trồng toàn cỏ. Nến đã được thắp lên, hắt ánh sáng qua cửa sổ đại sảnh phía bên tay phải họ và từ các công trình kiến trúc ở ngay trước mặt họ.

Cú dẫn khách đi vào khu vực này, ở đây một người có khuôn mặt vui vẻ nhất được gọi ra giao nhiệm vụ chăm sóc Jill. Người này không cao hơn Jill và cũng mảnh dẻ hơn nhiều tuy rõ ràng đã là một phụ nữ truỏng thành. Chị mềm mại và duyên dáng như một cây sậy, mái tóc thướt tha như một cọng rong lá dài và dường như trên tóc còn có rêu. Chị dẫn Jill tới một căn phòng hình tròn thuộc về một trong những tháp nhọn. Trong phòng có một bồn tắm nhỏ gắn xuống sàn, một lò sưởi đẹp chất mấy súc củi đang cháy tỏa ra một mùi thơm dễ chịu và một ngọn đèn treo rủ xuống từ cái trần có hình mái vòm với một sợi dây xích bạc. Cửa sổ phòng nhìn ra huóng tây của xứ sở Narnia kì lạ, và khi Jill nhìn ra cửa sổ nó thấy ráng hồng của hoàng hôn vẫn đỏ rựng lên sau mấy dãy núi xa xa. Cảnh tượng khêu gợi trong lòng con bé về một cuộc phiêu lưu kì thú mà nó cảm thấy bây giờ mới chỉ vừa bắt đầu. Tắm táp xong, nó chải tóc gọn gàng và mặc lên người bộ quần áo đã được sắp sẵn cho nó - những đồ không chỉ tạo nên cảm giác thoải mái mà còn rất ưa nhìn, tỏa ra một mùi huong dìu dịu và tạo ra những âm thanh vui tươi khi cử động. Nó đang định quay lại cửa sổ ngắm lại cảnh vật nên thơ bên ngoài một lần nữa thì bị quấy rối bởi một tiếng gõ lên cánh cửa.

- Mời vào. - Jill nói. Đó là Lông Vịt cũng đã tắm gội và diện lên người bộ quần áo tuyệt vời của người Narnia. Nhưng khuôn mặt nó không thể hiện vẻ vui thích gì.

- Ồ, cuối cùng cũng gặp được cậu, - nó nói giọng bực dọc, ném phịch người xuống một cái ghế, - tớ đã phải cất công đi tìm cậu.

- Phải, cậu đã đến. tớ phải nói với cậu Lông Vịt ạ. Tất cả mọi chuyện ở đây chẳng phải quá thú vị và đặc biệt lắm sao! - Jill hào hứng nói, lúc này nó chẳng còn nhớ gì về những dấu hiệu và chàng hoàng tử mất tích.

- Ồ thì ra đó là điều cậu nghĩ? - Lông Vịt buông thõng một câu rồi nói thêm sau một chút im lặng: - Tớ ước gì chúng ta không bao giờ đến đây cả.

- Tại sao?

- Tớ không thể chịu đựng cảnh nhìn thấy vua Caspian… trở thành một lão già run lẩy bẩy… lọm khọm, hom hem như thế. Thật là… thật là quá đáng sợ.

- Điều đó thì có liên quan gì đến cậu cơ chứ?

- Ờ, cậu làm sao mà hiểu nổi. Phải, bây giờ nghĩ lại mới thấy cậu không hiểu được cũng là phải. Tớ còn chưa nói cho cậu biết thế giới này có một hệ thời gian khác hẳn với chúng ta.

- Cậu thử nói rõ xem sao!

- Thời gian mà cậu ở đây không hề bị khấu trừ vào thời gian cậu ở trái đất. Cậu hiểu không? Thế có nghĩa là mặc cho chúng ta ở đây bao lâu thì chúng ta cũng vẫn về trường thực nghiệm vào đúng lúc chúng ta rời khỏi đấy.

- Thế thì vui quá! Hoan hô!

- Ồ cậu im đi! Sao cậu cứ có thói quen cắt ngang câu chuyện như thế? Khi cậu quay về Anh - về thế giới của chúng ta - cậu không thể nói bao nhiêu tháng năm đã trôi qua ở đây. Có thể hàng trăm năm đã trôi qua ở Narnia, trong khi ở Anh mới chỉ có một năm. Anh em nhà Pevensie đã giải thích cho tớ rõ điều đó, nhưng như một thằng ngốc tớ lại quên mất. Và bây giờ rõ ràng cả 70 năm đời người đã trôi qua ở Narnia kể từ lần cuối tớ đến đây. Giờ thì cậu đã thủng ra chưa? Tớ… tớ quay lại đây để thấy Caspian trở thành một ông già gần đất xa trời.

- Nếu vậy nhà vua là một trong những người bạn cũ của cậu! - Jill nói. Một ý nghĩ kinh khủng làm nó đứng chết trân.

- Tớ vui sướng lắm đấy khi nghĩ về ông ta như một người bạn cũ? - Lông Vịt hỏi lại với dáng điệu đau khổ. - Phải, từng là một người bạn tốt như những thằng con trai với nhau. Ngày ấy Caspian chỉ lớn hơn mình một vài tuổi. Bây giờ nhìn hình ảnh ông già râu tóc bạc phơ mà nhớ lại hình ảnh thằng bé Caspian vào cái buổi sáng mà chúng tớ đổ bộ lên quần đảo Đơn Côi, hay là lúc vật lộn với rắn biển, ôi thật là kinh khủng quá! Thà quay lại đây mà nhận được cái tin Caspian đã chết còn hơn.

- Thôi im mồm đi! - Jill nói với một vẻ mất hết kiên nhẫn. - Điều này còn tệ hơn là cậu nghĩ đấy. Chúng ta đã để tuột mất dấu hiệu thứ nhất.

Tất nhiên Lông Vịt chẳng hiểu mô tê gì, thế là Jill phải kể lại cho bạn nghe câu chuyện giữa Aslan và nó cùng bốn dấu hiệu trong trọng trách tìm lại hoàng tử được giao phó cho chúng.

- Cậu thấy đấy, cậu đã gặp lại người bạn cũ như Aslan đã nói, lẽ ra cậu phải đến nói chuyện với ông ấy ngay, bây giờ thì mọi chuyện đã hỏng bét ngay từ đầu.

- Nhưng làm sao tớ biết được?

- Nếu cậu chịu khó nghe tớ nói khi tớ cố bảo cậu thì có phải đã xong việc rồi không.

- Phải, và nếu cậu đừng bày đặt ra cái màn "biểu diễn" ngu xuẩn ở ngay mép vực và suýt nữa giết chết tớ - phải, tớ nói là giết người và tớ sẽ nói điều náy thường xuyên nếu muốn để cậu dựng hết tóc gáy lên - nếu không có chuyện đó thì cả hai đã cùng đến đấy và cùng được nghe thông báo phải làm gì rồi.

- Tớ chỉ giả thuyết ông ấy là người đầu tiên cậu trông thấy thôi, - Jill nói, - nhưng cậu đến truớc tớ mấy tiếng đồng hồ đấy chứ. Cậu có chắc chắn là cậu không trông thấy ai khác không?

- Tớ chỉ đến truớc cậu một phút thôi. chắc là Aslan đã thổi cho cậu bay nhanh hơn tớ. Để bù lại khoảng thời gian đã mất: cái khoảng thời gian cậu đã để lãng phí.

- Đừng có xấu tính như thế. – Jill nói. - Trời ơi, cái gì thế này?

Đó là tiếng chuông trong lâu đài mời mọi người đi ăn tối và như thế cái cuộc đấu khẩu sắp trở thành một cuộc đấu khẩu có cấp độ gay gắp bậc một bị cắt ngang một cách vui vẻ. Cả hai đều có một bữa ăn ngon miệng.

Ăn tối trong đại sảnh của một toà lâu đài là kinh nghiệm tuyệt vời nhất mà hai đứa chưa từng trải qua bởi vì mặc dù Eustace đã đến thế giới này một lần rồi nhưng lần ấy nó chỉ lênh đênh trên biển và không biết gì về cuộc sống tiện nghi, sang trọng của ngưòi Narnia ở chốn kinh kì.. Những lá cờ rủ từ trên trần xuống, mỗi món ăn đều được phục vụ với tiếng kèn trumpet và trống định âm. Món khai vị là món súp và chỉ nghĩ đến thôi bạn đã thấy thèm rỏ dãi, đặc sản là món cá pavende, ngoài ra còn thịt heo, nem công, chả phượng, cùng các loại bánh, các loại kem, các loại quả nấu đông, trái cây, hạt dẻ cùng tất cả các loại rượu và nước ép trái cây. Thậm chí cả Eustace cũng thấy tươi tỉnh hơn, và nhận ra có những món ăn giông giống. Xong tiết mục ăn uống, một ca sĩ mù bước ra giữa phòng và bắt đầu ngâm nga trường ca cổ xưa về hoàng tử Cor và Aravis và con ngựa Bree có tên là trường ca Con ngựa và cậu bé kể lại một cuộc phiêu lưu xảy ra ở Narnia, Calormen và những vùng đất lân cận, về kỉ nguyên Vàng, khi hoàng đế Peter Đại đế còn trị vì ở Cair Paraven.

Khi hai vị khách của chúng ta khó nhọc lê bước lên cầu thang trở về giường ngủ, miệng ngáp đến sái cả quai hàm, Jill nói:

- Tớ đoán tối nay chúng ta sẽ được một giấc ngủ ngon.

Đó là một ngày đầy ắp sự kiện và có rất ít người đoán ra chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo với những bạn trẻ này.

CHƯƠNG 4

 Nghị viện của những bạn cú

Có một điều thật buồn cười là bạn càng buồn ngủ bao nhiêu thì lại càng nấn ná chưa chịu lên giường bấy nhiêu, nhất là khi bạn lại có đủ may mắn có cả một lò sưởi trong phòng. Jill cảm thấy nó không thể thay đồ đi ngủ, trước tiên nó phải ngồi trước lò sưởi một lúc đã. Một khi đã ngồi xuống rồi, nó lại không muốn đứng dậy nữa. Nó tự nhủ đến lần thứ năm “mình phải đi ngủ thôi,” nhưng nó vẫn không đứng dậy và rồi nó giật mình bởi một tiếng gõ lên cánh cửa sổ.

Jill đứng dậy, kéo màn cửa sổ, đầu tiên nó chẳng nhìn thấy gì ngoài màn đêm. Đoạn nó nhảy lên và lùi lại bởi vì có một cái gì đó to lù lù xông đến bên cửa sổ đập ầm ầm lên cửa kính. Một ý nghĩ đáng sợ nảy lên trong óc nó - có thể ở đây người ta có những con bướm đêm khổng lồ. Nhưng sau đó cái vật to lớn ấy lại lao đến, lần này nó chắc chắn là mình nhìn thấy một cái mỏ và chính cái mỏ này đã đập vào cửa kính. “Một con chim to khủng khiếp, - Jill nghĩ, - lại là một con chim ưng chăng?” Nó không chờ mong gì một cuộc viếng thăm dù là của một con chim ưng đi chăng nữa nhưng nó vẫn mở cửa sổ, nhìn ra. Ngay lập tức, con vật ấy bay đến đậu trên bậu cửa, che lấp cả cửa sổ làm Jill phải nhường chỗ cho nó. Con vật kêu rúc lên từng hồi. Đó chính là Glimfeather.

- Suỵt, suỵt! Tu huýt, tu huýt! - Cú nói. - Đừng làm ồn. Bây giờ hai bạn đã thật sự muốn thực hiện sứ mệnh của mình chưa?

- Cú muốn nói về hoàng tử mất tích? - Jill hỏi. - Phải, tất nhiên là chúng tôi muốn làm chứ. Bây giờ nó nhớ rõ mồn một giọng nói và khuôn mặt của sư tử, điều mà nó đã tạm quên đi trong bữa ăn tối và lúc ngồi nghe đọc thơ ở đại sảnh.

- Tốt, vậy không còn thời gian để lãng phí đâu. Cô bé mau chuẩn bị rời khỏi đây ngay. Tôi sẽ đi đánh thức cậu kia dậy. Sau đó tôi sẽ quay lại đây. Tốt nhất cô bé nên cởi bộ triều phục này ra và mặc vào một bộ đồ đi đường. Tôi sẽ trở lại cùng với hai người nữa. Tu huýt!

Rồi không chờ nghe câu trả lời, cú bay mất.

Nếu Jill có nhiều kinh nghiệm trong những cuộc phiêu lưu, hẳn nó đã nghi ngờ lời của cú, nhưng điều này không hề thoáng hiện trong đầu nó và cái ý nghĩ đầy kích động về một cuộc chạy trốn giữa ban đêm làm nó quên cả buồn ngủ. Nó mặc lại cái áo len và chiếc quần soọc, cho một con dao du lịch dài vào thắt lưng quần soọc, một vật có thể có ích trong cuộc hành trình. Ngoài ra nó còn lấy thêm một vài vật mà người phụ nữ có mái tóc thướt tha mang đến cho nó. Nó chọn một cái áo khoác dài tới đầu gối, một cái mũ trùm (“sẽ cần đến khi trời mưa”, nó nghĩ) và cái khăn tay và một cái lược. Sau đó nó ngồi xuống đợi.

Mắt nó díp lại, đầu nặng dần khi cú quay lại.

- Nào, chúng tôi đã sẵn sàng! - Cú nói.

- Cú dẫn đường đi, tôi còn chưa thông thuộc đường đi lối lại ở đây.

- Tu huýt, chúng ta sẽ không đi qua lâu đài đâu. Đó là điều không bao giờ nên làm. Cô bé sẽ cưỡi lên lưng tôi. Chúng ta sẽ làm một chuyến bay.

- Ôi! - Jill thốt lên, đứng ngây ra, miệng há hốc; nó không thích cái ý nghĩ này lắm. Chẳng phải là tôi quá nặng đối với cú sao?

- Tu huýt, tu huýt! Đừng có ngốc thế. Tôi đã mang cậu bé kia đi rồi. Nào đi thôi, nhưng trước hết hãy tắt đèn đi đã.

Ngọn đèn phụt tắt, màn đêm mà nó nhìn ra từ cửa sổ không quá tối - không còn đen sẫm nữa mà có màu xanh xám. Cú đậu trên bậu cửa sổ, lưng quay vào phòng và dang rộng hai cánh ra. Jill trèo lên cái lưng ngắn, tròn lẳn của cú, kẹp hai đầu gối dưới đôi cánh cú để ôm cho chặt hơn. Bộ lông cú tạo cảm giác ấm áp, mềm mại nhưng lại trơn quá chẳng có gì để bám vào.

- Mình không biết là Lông Vịt có thích đi như thế này không? - Jill ngẫm nghĩ. Đúng lúc đó với một cú xuất phát đột ngột, họ rời bệ cửa sổ, đôi cánh tạo nên âm thanh o o quanh tai Jill và không khí ban đêm lạnh, ẩm ướt tạt vào mặt nó tê tê buôn buốt.

Trời đêm sáng hơn là nó tưởng, mặc dù trên trời vẫn loáng thoáng có những đám mây, nó vẫn thấy một dải nước lấp lánh ánh bạc sáng lên mỗi khi mặt trăng ló ra khỏi đám mây. Cánh đồng bên dưới có màu xám tro còn cây cối thì đen sẫm. Thỉnh thoảng trong không trung nổi lên những cơn gió rét đầy xáo động, như vậy có nghĩa là chẳng bao lâu sau mưa sẽ kéo đến.

Cú lượn một vòng và bây giờ lâu đài lại hiện lên trước mắt họ. Chỉ có một vài cửa sổ là còn sáng ánh đèn. Họ bay qua tòa lâu đài về hướng bắc, ngang qua con sông: không khí trở nên lạnh buốt và Jill nghĩ nó có thể nhìn thấy cái bóng phản chiếu của cú trong dòng nước phía dưới. Chẳng bao lâu sau họ đã bay trên bờ bắc con sông rồi bay qua một vùng cây cối mọc tốt um tùm.

Cú đớp một cái gì đó mà Jill không nhìn rõ lắm.

- Ôi làm ơn, đừng, đừng giỡn như thế. Cú suýt làm tôi lộn cổ rơi xuống đất đấy.

- Mong cô bỏ quá cho. - Cú đáp. - Chả là tôi vừa thộp được một con dơi. Ấy, chả có cái gì béo bở, nói một cách nôm na, như cái anh dơi bé nhỏ, béo chút cha chút chít ấy. Để tôi bắt cho cô một con nhé?

- Không, không, xin cảm ơn. - Jill vội nói với một cái rùng mình.

Bây giờ cú đã bay thấp hơn một chút và một vật to lù lù đem sẫm lừng lững lao về phía họ. Jill có vừa đủ thời gian để nhận ra đó là một ngọn tháp - một phần của ngọn tháp đổ nát với rất nhiều dây thường xuân bao quanh. Khi nó thấy mình đang cúi rạp người xuống để tránh đụng vào thành cửa sổ thì cũng là lúc cú ép nó chui vào một lỗ hổng đầy mạng nhện và dây thường xuân - tức là từ trong đêm xanh xám và trong lành chui vào một chỗ đen tối ở trên nóc tháp.

Bên trong sực mùi ẩm mốc. Vào cái lúc tuột khỏi lưng cú, nó biết (bằng một cách nào đó người ta vẫn thường biết rõ) rằng nơi đây đang có nhiều người. Khi bốn chung quanh vang lên những tiếng tu huýt từ trong bóng tối dày đặc thì nó biết nơi đây có cả một bầy cú. Nó cảm thấy nhẹ cả người khi có một giọng vang lên:

- Cậu đấy à, Pole?

- Phải cậu không, Lông Vịt?

- Bây giờ, - Glimfeather nói, - khi mọi người đã có mặt đông đủ, tôi nghĩ chúng ta nên triệu tập hội nghị cú.

- Tu huýt, tu huýt! Anh nói đúng. Đó là việc phải làm. - Vài giọng khác vang lên.

- Hượm đã, - Lông Vịt lên tiếng, - có một vài điều tôi muốn làm cho rõ.

- Nói đi, nói đi, nói đi! - Đàn cú giục. Jill thì nói: - Mở màn trước đi.

- Tôi cho rằng tất cả các bạn… các bạn cú, ý tôi muốn nói thế… - Lông Vịt bắt đầu. - Tôi cho rằng tất cả các bạn đều biết rằng vua Caspian thứ mười, trong những năm niên thiếu đã lái tàu đến Nơi tận cùng thế giới ở cực đông. Phải, tôi đã cùng đi với nhà vua trong chuyến đi ấy; cùng với nhà vua, ngài Reepicheep, thuyền trưởng Drinian và tất cả những người khác. Tôi biết điều này nghe rất khó tin nhưng người ta không già đi trong thế giới của chúng tôi cùng với tốc độ như ở thế giới này. Điều tôi muốn nói là, tôi là một người bạn của vua và nếu hội nghị của các bạn có bất cứ một âm mưu nào chống lại vua thì tôi sẽ không tham gia đâu.

- Tu huýt, tu huýt, tất cả chúng tôi đều là người của nhà vua.

- Vậy, hội kín này có nghĩa là sao?

- Chỉ là vì, - Glimfeather nói, - chỉ là vì nếu ngài nhiếp chính Trumpkin nghe nói các vị đi tìm vị hoàng tử mất tích, ngài sẽ không để cho các bạn đi đâu. Ông ấy sẽ giam các bạn lại ngay.

- Trời đất! - Lông Vịt kêu lên. - Ông không có ý ám chỉ Trumpkin là kẻ phản bội đấy chứ? Ngày ấy khi còn đi biển tôi đã được nghe nói nhiều về ông. Caspian… tôi muốn nói nhà vua tuyệt đối tin tưởng ông ấy.

- Ồ không, - giọng một con cú khác xen vào, - Trumpkin không phải là một kẻ phản bội. Nhưng đã có hơn 30 người anh hùng (những hiệp sĩ nhân mã, người khổng lồ và những người quả cảm) lúc này hay lúc khác đã ra đi tìm hoàng tử nhưng không một người nào quay trở về. Cuối cùng vua quyết định không cho phép những người dũng cảm nhất Narnia mất mạng trong cuộc tìm kiếm vô vọng đứa con thất lạc của mình. Và bây giờ không ai được phép làm cái chuyện ấy nữa.

- Nhưng chắc chắn ông ấy sẽ để cho chsung tôi đi, - Lông Vịt nói, - khi ông biết tôi là ai và được ai phái đến.

- Phải, đã phái hai chúng tôi đến, Jill nói thêm.

- Đúng, - Glimfeather nói, - tôi nghĩ có khả năng vua sẽ làm như vậy. Nhưng vua đang đi xa, còn Trumpkin là người hết sức nguyên tắc. Ông ấy thẳng thắn như một lưỡi thép nhưng đồng thời cũng rất bảo thủ và không biết nhân nhượng. Các bạn sẽ không bao giờ làm cho ông hiểu được là đã đến lúc nên cho phép có một ngoại lệ.

- Tôi nghĩ ông ấy đã quan tâm chúng tôi bởi vì chúng tôi là những con cú… ai cũng biết là loài cú khôn ngoan như thế nào. - Một con cú nói. - Nhưng bây giờ Trumpkin đã quá già và ông ấy luôn miệng nói: Lũ các anh chỉ là bọn chíp hôi. Tôi biết các anh từ khi các anh còn trong trứng. Đừng có trứng khôn hơn vịt. Cua và bánh xốp!

Con cú này nhại giọng Trumpkin giống y hệt và xung quanh nổi lên tiếng cười ồ ồ của loài cú. Hai đứa trẻ bắt đầu nhận thấy những công dân Narnia nghĩ về Trumpkin cũng giống như bọn học sinh ở trường nghĩ về ông thầy Crusty, một người mà bọn học trò có hơi ngại chút xíu, nhưng đứa nào cũng có thể đem ông ra làm trò vui và không ai không yêu mến.

- Đức vua sẽ đi xa trong vòng bao nhiêu ngày? - Lông Vịt hỏi.

- Giá như chúng tôi biết được! - Glimfeather nói. - Các bạn thấy đấy, gần đây có lời đồn rằng người ta đã trông thấy Aslan ở ngoài đảo Terebinthia - tôi nghĩ thế. Thế là nhà vua tuyên bố rằng ông sẽ thực hiện thêm một nỗ lực trước khi chết hòng được diện kiến Aslan và xin lời khuyên của người xem nên chọn ai nối ngôi. Nhưng chúng tôi sợ rằng nếu không gặp được Aslan ở Terebinthia, vua sẽ tiếp tục đi về phía đông, đến Bảy Đảo, quần đảo Đơn Côi hoặc còn đi xa hơn nữa. Vua không hề hé răng nói chuyện đó nhưng tất cả chúng tôi đều biết nhà vua không bao giờ quên được cuộc hành trình đến Nơi tận cùng thế giới năm xưa. Tôi tin rằng sâu thẳm trong trái tim mình, ngài chỉ muốn đến đấy thêm một lần nữa.

- Thế thì ngồi đây đợi nhà vua trở về cũng chẳng có ích gì. - Jill thở dài nói.

- Đúng, chả được gì thật. - Cú nói. - Việc là thế đấy. Giá như hai người thưa chuyện với vua ngay. Ngài sẽ dàn xếp mọi chuyện - có thể sẽ cử quân đội đi cùng hai người để đi tìm hoàng tử cũng nên.

Jill nín khe, lòng thầm hy vọng đứa bạn mình đủ tinh thần cao thượng để không nói cho họ nhà cú biết tại sao chuyện này lại không xảy ra. Thực ra thì thiếu chút nữa Eustace đã nói toạc ra, nhưng nó chỉ lẩm bẩm trong miệng: “Đó không phải là lỗi tại tô!”

- Được thôi. Chúng ta sẽ xoay xở chuyện này mà không có sự giúp đỡ ấy. Nhưng có một điều mà tôi muốn biết: Đây chỉ là hội nghị của loài cú như các anh gọi và tự coi là tất cả đều đường đường chính chính không có điều gì khuất tất hết. Nhưng tại sao lại phải bí mật ghê gớm thế này - kéo nhau đến một tòa tháp đổ nát vào lúc đêm hôm khuya khoắt như thế này?

- Tu huýt, tu huýt! - Vài con cú cùng rúc lên một lượt. - Vậy, chúng tôi có thể gặp nhau ở đâu? Còn gặp vào lúc nào nữa ngoài ban đêm?

- Các bạn thấy đấy, - Glimfeather giải thích, - hầu hết các loài thú ở Narnia đều có các thói quen bất thường. Họ làm mọi chuyện vào ban ngày, lúc mặt trời chói chang nhất (úi chà!) những lúc ấy người ta nên đi ngủ mới phải. Kết quả là vào ban đêm họ trở nên mù lòa, ngu độn đến mức các bạn không thể moi một lời nào của họ. Loài cú chúng tôi có một thói quen gặp nhau vào những giờ hợp lí theo cách của mình khi chúng tôi muốn thảo luận về mọi việc.

- Tôi hiểu rồi. - Lông Vịt nói. - Vậy hãy tiếp tục đi. Kể cho chúng tôi nghe về hoàng tử bị mất tích đi.

Sau đó một con cú già chứ không phải Glimfeather kể lại câu chuyện sau:

Khoảng 10 năm về trước vào một sáng tháng Năm, Rilian con trai vua Caspian, một thiếu niên anh tuấn cùng cưỡi ngựa với hoàng hậu đi đến miền Bắc Narnia. Cùng đi với họ có cả một đoàn hộ giá gồm các lãnh chúa và công nương, tất cả làm thành một đám rước lộng lẫy với lá cây tươi cài trên đầu, tù và giắt bên hông nhưng họ không mang theo đội chó săn vì họ đi trẩy hội chứ không phải đi săn bắn. Vào khoảng giữa trưa, họ đến một trảng rừng thưa tươi đẹp nơi có một dòng nước mát lanh phun lên từ trong lòng đất, ở đáy, họ xuống ngựa, ăn uống và trò chuyện vui vẻ.

Sau bữa trưa, hoàng hậu cảm thấy buồn ngủ, họ bèn trải áo khoác ra cho bà ngả lừng trên bãi cỏ mềm. Hoàng tử Rilian cùng đoàn người đi xa hơn một chút để câu chuyện và tiếng cười nói của họ không đánh thức bà dậy. Vào lúc ấy có một con rắn lớn từ từ bò ra khỏi một lùm cây um tùm, quăng mình vào cánh tay hoàng hậu. Tất cả nghe tiếng bà kêu thét bèn đổ xô về phía bà, hoàng tử Rilian là người chạy đến đầu tiên. Chàng trai nhìn thấy con vật trườn khỏi bà bèn đuổi theo nó với thanh gươm tuốt trần. Đó là một con rắn lớn màu xanh lá cây sáng lấp lánh, thuộc loại cực độc và chàng trai nhìn thấy nó rất rõ, nhưng nó đã trườn thật nhanh vào bụi cây rậm rịt gần đó và chàng trai không thể chui vào. Thế là chàng quay lại chỗ người mẹ. Mọi người đang xúm xít quanh bà, nhưng có làm gì cũng uổng công, chỉ cần nhìn qua mặt bà, hoàng tử cũng hiểu rằng không có danh y nào trên đời có thể làm được gì cho bà. Trong lúc vẫn còn một chút tàn hơi, hoàng hậu dường như cố hết sức nói với con trai một điều gì đó. Nhưng hàm bà đã cứng lại, lời lẽ dính vào nhau và bà đã không kịp truyền đạt lại lời trăng trối trước khi nhắm mắt. Thế là chỉ chưa đầy nửa phút sau khi bị rắn cắn, hoàng hậu đã từ giã cõi đời.

Đoàn người mang xác hoàng hậu quay về Cair Paravel, ở đây tiếng khóc đau khổ của Rilian, đức vua và toàn đân Narnia vang lên.

Bà là một bà hoàng vĩ đại, thông minh, duyên dáng và vui vẻ, một cô dâu mà vua Caspian đã đem về trong chuyến đi đến Nơi tận cùng thế giới. Người ta nói rằng dòng máu của một vì sao tuôn chảy trong huyết mạch của bà. Hoàng tử chịu đựng mất mát này một cách khó khăn nhưng kiên cường, như sức chàng có thể chịu đựng được. Sau đó, người ta thường thấy chàng một mình một ngựa phóng đến khu rừng ở phía bắc tìm con rắn độc, hòng giết chết nó để trả thù cho mẹ. Không ai đề cập gì đến chuyện này mặc dù mỗi khi hoàng tử trở về nhà từ những chuyến săn lùng ấy bao giờ chàng cũng có vẻ mệt mỏi, tuyệt vọng. Khoảng một tháng sau cái chết của hoàng hậu, có người nói họ có thể nhận thấy một sự thay đổi ở chàng. Trong mắt chàng có cái vẻ của một người đàn ông dã gặp yêu mà và dầu chàng đi ra ngoài suốt ngày, ngựa của chàng không thấy có biểu hiện mệt nhọc sau khi chạy đường trường. Người bạn lớn tuổi của chàng trong số các quan đại thần là ngài Drinian, từng là thuyền trưởng của vua cha trong cuộc hành trình đáng nhớ đi đến Nơi tận cùng thế giới.

Vào một buổi tối, Drinian đã nói với hoàng tử:

- Điện hạ hãy sớm chấm dứt việc đi tìm con rắn đó. Trả thù một con vật không có trí khôn không phải là một cuộc trả thù chân chính. Điện hạ đã hành hạ mình một cách vô ích.

Trước sau, hoàng tử chỉ đáp:

- Nhưng thưa bác, cháu gần như đã hoàn toàn quên con rắn đó trong bảy ngày qua.

Drinian hỏi lại:

- Vậy thì tại sao hoàng tử ngày nào cũng cưỡi ngựa đến cánh rừng phía bắc?

- Thưa bác, cháu đã gặp một tạo vật hoàn mĩ nhất trên đời.

- Điện hạ yêu quí, người cho phép thần đi ngựa cùng với người để thần có dịp gặp được tạo vật đẹp đẽ đó chứ?

- Vâng, cháu sẵn lòng giới thiệu với bác. - Rilian nói.

Ngày hôm sau vào giờ lành họ thắng ngựa và phi nước đại về phía khu rừng phía bắc, dừng chân ở đúng chỗ dòng nước phun lên cũng là nơi hoàng hậu đã giã từ cõi đời. Drinian lấy làm lạ, trong thế gian rộng lớn này không hiểu sao hoàng tử lại chọn một nơi như thế này để đến. Họ ngồi lại cho đến đúng giờ ngọ và khi mặt trời ở điểm cao nhất, Drinian ngẩng đầu lên giật mình trông thấy một thiếu nữ dung nhan diễm lệ. Nàng đứng ở phía bắc dòng suối, không nói một lời chỉ chìa tay ra cho hoàng tử như thể muốn yêu cầu chàng đi theo nàng. Thiếu nữ này có thân hình dong dỏng cao, rất mực quý phái; cả người nàng như tỏa ra một làn ánh sáng và nàng quấn quanh người một tấm vải mỏng xanh biếc như da rắn lục. Hoàng tử nhìn người đẹp như một gã đàn ông si tình đã đánh mất cả linh hồn. Nhưng bất thình lình người đẹp biến mất, Drinian không biết là nàng đi đâu, sau đó hai người trở về Cair Paravel. Có một điều cứ lởn vởn mãi trong đầu Drinian, đối với ông, tấm vải màu xanh sáng ngời của người đàn bà chứa đựng một cái gì đen tối, độc ác.

Drinian dằn vặt rất nhiều, ông tự hỏi không biết có nên báo cho nhà vua biết điều này không, nhưng ông không muốn mình trở thành một kẻ thất hứa và thích đưa chuyện chút nào. Vì thế mà ông giữ bí mật cho riêng mình. Nhưng sau này ông đã phải ân hận nghĩ rằng giá như mình sớm nói ra chuyện đó. Bởi vì ngày hôm sau hoàng tử Rilian lại cưỡi ngựa đi một mình, đêm ấy chàng không quay lại lâu đài. Kể từ đó dù người ta đã lùng sục khắp Narnia và các vùng lân cận cũng không tìm được một dấu vết gì về chàng dù là con ngựa, hay cái mũ, hay cái áo khoác hoặc bất cứ vật gì thuộc về chàng. Đến lúc ấy, Drinian với trái tim như bị cắt ra từng mảnh đã tìm đến vua Caspian mà nói:

- Tâu bệ hạ, hãy xử tử thần ngay lập tức, như một kẻ phản bội kinh tởm nhất. Chính vì sự câm lặng ngu muội của mình mà thần đã hủy hoại con trai của bệ hạ.

Và ông kể lại cho vua nghe toàn bộ câu chuyện. Nghe xong, Caspian chộp lấy cây rìu chiến, chạy bổ về phía Drinian toan giết ông, Drinian vẫn đứng ngây như cán chổi, chờ đón cái chết bổ xuống đầu. Nhưng khi cái rìu đã vung lên rồi, Caspian thình lình quẳng đi và kêu lên:

- Ta đã mất người vợ yêu, cả đứa con trai duy nhất, lẽ nào bây giờ lại để mất nốt người bạn trung thành?

Nói xong, nhà vua quàng tay quanh cổ Drinian, ôm hôn bạn, cả hai cùng bật khóc và tình bạn của họ không bao giờ bị chia cắt.

Đấy là câu chuyện về Rilian. Nghe xong, Jill nói:

- Tôi đoán con rắn và người đàn bà đẹp kia là một.

- Đúng, đúng, tất cả chúng tôi đều nghĩ thế! - Bầy cú rúc lên.

- Nhưng chúng tôi không nghĩ là nó đã giết hoàng tử, - Glimfeather nói, - bởi vì không thấy có dấu vết để lại.

- Chúng tôi cũng biết điều đó. - Lông Vịt nói. - Aslan cho Pole biết rằng hoàng tử vẫn còn sống, đang ở một nơi nào đó.

- Ấy, chính điều đó làm cho mọi chuyện trở nên tồi tệ hơn. - Con cú già nhất nói. - Nó có nghĩa là người đàn bà kia đã lợi dụng chàng để tiến hành một âm mưu thâm độc nào đó chống lại Narnia. Từ lâu lắm rồi, bắt đầu từ ngày khởi thủy, Bạch Phù Thủy đã xuất hiện từ phương bắc khiến cho mảnh đất của chúng tôi chìm trong băng tuyết hàng mấy trăm năm. Chúng tôi nghĩ chúng cũng có thể cùng một giuộc với nhau.

- Vậy thì còn chần chừ gì nữa, Pole và tôi sẽ đi tìm hoàng tử ngay. Các bạn có giúp chúng tôi không?

- Hai người có bất cứ manh mối nào không? - Glimfeather hỏi.

- Có. - Lông Vịt đáp. - Chúng tôi biết là cần phải đi về phía bắc. Và cũng biết cần phải đến thành phố đổ nát của những người khổng lồ.

Chợt trong phòng tối vang lên tiếng tu huyast to hơn bao giờ hết: tiếng giậm chân và đập cánh của những con cú và rồi cả bầy chim đều rúc lên nói cùng một lượt. Tất cả giải thích rằng chúng rất tiếc là chúng không thể đi tìm hoàng tử Rilian cùng bọn trẻ.

- Các bạn chỉ đi vào ban ngày, chúng tôi lại thích đi ban đêm. Không thể được, không thể được!

Một vài con cú còn nói thêm rằng thậm chí ở đây trong cái tháp hoang này cũng không đủ tối để cho chúng bắt đầu và rằng hội nghị diễn ra như thế là cũng quá lâu rồi. Thực ra chỉ mỗi việc nhắc đến cuộc hành trình đến thành phố đổ nát của những người khổng lồ đã làm nhụt nghĩa khí của những con cú. Nhưng anh bạn Glimfeather nói:

- Nếu họ muốn đi con đường ấy - đến Ettinsmoor - chúng ta phải giới thiệu họ với một trong những cư dân vùng đầm lầy. Đó chính là những người duy nhất có thể giúp đỡ hai người bạn trẻ này.

- Đúng, đúng, làm thế đi. - Bầy cú đồng tình.

- Được rồi. - Glimfeather nói tiếp. - Tôi sẽ mang một người. Ai sẽ cõng người kia nào? Việc này phải làm ngay trong đêm nay.

- Có tôi, tôi xung phong bay đến vùng đầm lầy. - Một con cú lên tiếng.

- Cô bé đã sẵn sàng chưa? - Glimfeather hỏi Jill.

- Tôi nghĩ Pole đã ngủ. - Lông Vịt đáp.

CHƯƠNG 5

 Puddleglum

Jill đã ngủ thiếp đi. Vào lúc hội nghị cú bắt đầu nó đã ngáp ngắn ngáp dài và bây giờ thì nó ngủ tít thò lò. Nó chẳng vui tí nào khi bị đánh thức dậy và thấy mình đang ngủ gục trên sàn nhà đầy bụi ở một tháp chuông bỏ hoang, xung quanh tối đen như mực, chen chúc với những con cú. Nó còn kém vui hơn nữa khi nghe họ sắp đặt kế hoạch đi đến một nơi nào đó - rõ ràng không phải đến một cái giường - mà trên lưng một con cú.

- Dậy thôi, Pole, nhổ rễ dậy! - Đấy là tiếng của Lông Vịt. - Đây là một cuộc phiêu lưu mà.

- Tớ chán ngấy phiêu lưu mới chả phiêu bạt rồi. - Jill nhấm nhẳn đáp.

Tuy vậy, nó hài lòng trèo lên lưng Glimfeather và chỉ hoàn toàn tỉnh giấc bởi cái lạnh bất ngờ trong không trung khi cú mang nó trên lưng bay vào trong đêm tối. Trăng đã lặn và đêm không có sao. Từ đằng xa nó có thể thấy rõ một cửa sổ đơn độc, lơ lửng trong không trung vẫn còn sáng ánh đèn. Không có gì phải nghi ngờ, đó là cửa sổ của một trong những cái tháp ở Cair Paravel. Ánh sáng đơn độc trong đêm làm cho nó thèm được quay lại căn phòng xinh đẹp, cuộn người trong đống chăn nệm, nhìn ánh lửa hắt ra từ lò sưởi nhảy múa trên tường rồi chìm vào trong một giấc ngủ ngọt ngào. Nó cho hai tay vào lớp áo khoác quấn chặt quanh người. Chợt nó nghe có hai giọng nói vang lên trong đêm tối ở cách xa nó một chút - Lông Vịt và tài xế của nó đang trò chuyện vui vẻ.

- Làm như nó không biết mệt là gì. - Jill nghĩ. Con bé không nhận ra là bạn nó trước đấy đã có những chuyến đi kỳ thú trong thế giới này và không khí ở Narnia đã trả lại cho nó sức lực mà nó có được khi phiêu du đến miền Cực Đông cùng với vua Caspian.

Jill phải tự bấu vào người để tỉnh ngủ bởi vì nó biết rằng nếu nó ngủ gật trên lưng Glimfeather nó có thể ngã xuống đất. Cuối cùng hai con cú cũng kết thúc chuyến bay, Jill trượt thân hình tê cứng khỏi lưng Glimfeather và thấy nó đang đứng trên mảnh đất thuộc bình nguyên. Một ngọn gió lạnh buốt thổi thốc tới. Rõ ràng đây là một nơi không có cây cao.

- Tu huýt, tu huýt! - Glimfeather rúc lên. - Dậy đi anh bạn Puddleglum. Dậy đi. Việc có liên quan đến sư tử đây.

Một lúc lâu không nghe thấy có tiếng trả lời. Rồi từ đằng xa, một ngọn đèn nhỏ khi mờ khi tỏ hiện ra, di chuyển lại gần. Cùng với nó là một giọng nói:

- Bớ các bạn cú! Có chuyện gì mà làm huyên náo lên thế? Đức vua băng hà ư? Giặc giã đánh chiếm Narnia ư? Lũ lụt chăng? Hay là bọn rồng kéo đến?

Khi đốm sáng đến gần hơn, hóa ra đó là một ngọn đèn lồng lớn. Jill không nhìn rõ cái người cao ngòng, hẹp ngang đang cầm đèn. Ông ta dường như chỉ có tay và chân. Cú nói chuyện với ông ta, giải thích mọi chuyện nhưng Jill quá mệt để theo dõi câu chuyện của họ. Nó cố làm cho mình tỉnh táo một chút khi nhận ra người ta đang từ giã mình. Sau đó nó cũng không nhớ ra được chuyện gì nhiều trừ một điểm - sớm hơn hoặc muộn hơn một chút - nó và Lông Vịt cúi lom khom bước vào một cái cổng thấp và rồi (lạy Chúa) nó nằm xuống một vật gì êm êm, âm ấm rồi một giọng nói vang lên:

- Các cháu nằm xuống đây... đó là chỗ tốt nhất chúng tôi có thể thu xếp được. Chỗ các cháu nằm sẽ lạnh cóng và cứng ngắc, ẩm ướt nữa, tôi không ngạc nhiên về điều đó. Không chợp mắt được, chắc thế, dù vậy ở đây sẽ không có sấm chớp, hoặc lụt lội, hoặc giả mái lều sẽ đổ ụp xuống người chúng ta, như tôi đã từng chứng kiến tất cả những chuyện như thế. Cần phải làm tốt...

Nhưng con bé đã ngủ thiếp đi trước khi cái giọng rề rà đó dừng lại.

Khi bọn trẻ thức dậy vào sáng hôm sau, chúng thấy mình đang nằm trên một cái ổ rơm khô ráo, ấm áp trong một góc tối. Một ô cửa sổ hình tam giác mở ra để ánh sáng ban mai ùa vào.

- Chúng mình đang ở đâu vậy? - Jill hỏi.

- Trong túp lều của một cư dân vùng đầm lầy. - Eustace đáp.

- Cái gì?

- Một cư dân đầm lầy. Đừng hỏi tớ là cái gì. Tối qua, tớ cũng chẳng thấy cái gì cả. Thôi tớ dậy đây. Cũng phải đi ra ngoài nhìn một lượt.

- Thật chẳng hay ho gì khi tỉnh dậy trong bộ quần áo của người khác. - Jill nói và uể oải ngồi dậy.

- Tớ thì nghĩ, thật thoải mái khi không phải thay đồ gì hết.

- Hoặc giặt giũ nữa, chắc vậy. - Jill nói mỉa. Nhưng Lông Vịt đã đứng dậy, ngáp một cái rõ to, vươn vai rồi lom khom ra khỏi lều. Jill cũng làm theo.

Cảnh vật bên ngoài thật khác xa với một Narnia mà chúng ta đã thấy vào ngày hôm trước. Chúng đang ở trên một bình nguyên bát ngát bị cắt ra thành vô số hòn đảo nhỏ bởi cơ man những con kênh dẫn nước. Những hòn đảo nhỏ này phủ đầy một loại cỏ khô xơ xác, bốn chung quanh mọc lên loài cây bấc và những bụi lau sậy. Thỉnh thoảng có những thảm cây bấc chạy dài hàng hecta đất. Từng đám mây dày đặc các loài chim liên tục đậu xuống ruộng, vỗ cánh bay lên, rồi lại đậu xuống đó; đó là những con ngỗng trời, dẽ giun, vạc và diệc. Có nhiều túp lều giống như cái lều chúng đã nghỉ đêm tối qua nằm rải rác đó đây, nhưng cách nhau khá xa, bởi vì cư dân vùng đầm lầy thích sự riêng tư, cô tịch.

Trừ một rẻo cây rừng dài vài dặm ở phía nam và phía tây, quanh vùng không có một cây cao nào. Đầm lầy trải dài về phía đông cho đến tận những cồn cát lúp xúp nơi chân trời và bạn có thể căn cứ vào cái mùi mằn mặn thoảng trong làn gió thổi về từ hướng ấy tới mà nói rằng biển cũng ở gần đâu đây. Về hướng bắc là những dải đồi thấp và nhạt màu dựng như thành như lũy với những núi đá lớn. Phần còn lại là một vùng đầm lầy đơn điệu. Nơi này chắc sẽ hết sức ảm đạm quạnh hiu trong những buổi chiều đông mưa phùn gió bấc. Nhưng dưới ánh mặt trời rực rỡ của một buổi ban mai, với một làn gió sớm se lạnh, với không gian vang dậy tiếng chim kêu, có một cái gì đó thật trong lành, thật tươi mát và gần như là tốt đẹp trong vẻ hiu quạnh của vùng này. Bọn trẻ cảm thấy tinh thần phấn chấn hẳn lên.

- Tớ tự hỏi chủ nhà là ai?- Jill hỏi.

- Người đầm lầy. - Lông Vịt nói, cứ như nó tự hào là mình biết rõ cái từ ấy lắm. - Tớ cho là... ối la la... chắc hẳn là ông ấy rồi.

Bây giờ thì cả hai đứa đã nhìn thấy, người ấy ngồi quay lưng về phía chúng, đang ngồi câu cá cách chỗ hai đứa đứng chừng 50 mét. Thoạt đầu khó mà nhận ra ông, bởi toàn thân ông có màu cũng na ná như cái màu đầm lầy chung quanh và bởi cái dáng ngồi bất động như pho tượng.

- Tớ cho rằng, tốt nhất chúng ta nên đến nói chuyện với ông. - Jill nói và Lông Vịt gật đầu đồng ý. Cả hai đều cảm thấy có chút hồi hộp.

Khi chúng đến gần hơn, cái bóng ngoái đầu lại, phô ra với khách một khuôn mặt dài và gầy gò với đôi má hóp, đôi môi mỏng mím chặt, cái mũi nhọn hoắt và cái cằm không có râu. Ông ta đội một cái mũ cao và nhọn như cái tháp chuông nhà thờ với cái vành bẹt và rộng. Tóc của ông, nếu có thể gọi cái đang trùm lên đôi tai to kia là tóc, thì lại có màu xanh lá cây pha xám và mỗi lọn tóc như vậy lại dẹp lép chứ không tròn vì thế mà trông nó giống như những ống sậy nhỏ. Vẻ mặt nghiêm nghị, nước da xám lục đờ, xỉn màu và bạn có thể nhận ra ngay là ông có một cái nhìn bi quan u ám về cuộc đời.

- Chúc các quý khách một buổi sáng tốt lành. - Ông lên tiếng. - Mặc dù tôi dùng chữ “tốt lành”, nhưng tôi không có ý nói là trời sẽ không có mưa hoặc tuyết, hoặc sương giá, hoặc sấm sét. Các cháu đã thức suốt, tôi dám nói như thế.

- Không ạ, chúng cháu ngủ rất ngon. - Jill nhanh nhảu đáp, chúng cháu đã có một đêm ngủ rất say đấy ạ.

- À ra vậy. - Người đàn ông nói, lắc đầu nhè nhẹ. - Rõ là các cháu đã làm được điều tốt nhất trong hoàn cảnh tồi tệ nhất. Thế được rồi. Các cháu đã được nuôi dạy rất tốt. Các cháu đã học được cách khoác một cái áo tốt đẹp cho mọi vật.

- Nhưng chúng cháu còn chưa biết tên bác ạ. - Lông Vịt nói.

- Puddleglum là tên tôi. Nhưng nếu các cháu có quên thì cũng không sao. Tôi bao giờ cũng có thể nói lại cho các cháu nhớ.

Mỗi đứa ngồi xuống, mỗi đứa ở một bên. Bây giờ thì chúng thấy chân tay ông rất dài vì thế mặc dù thân hình ông không lớn hơn người lùn là bao, ông lại cao hơn tất cả mọi người khi đứng lên. Bàn tay ông có màng giống như chân ếch và đôi bàn chân trần của ông đung đưa trong vũng nước đầy bùn. Trên người ông khoác một cái áo rộng thùng thình màu gụ.

- Tôi đang cố câu một vài con lươn để làm món lươn hầm trong bữa trưa của chúng ta. - Puddleglum nói. - Nhưng mà không biết tôi có bắt được con nào không và không biết các cháu có thích lươn như tôi không.

- Tại sao không ạ? - Lông Vịt hỏi.

- Bởi vì không có lý do nào khiến các cháu thích cung cách ẩm thực của chúng tôi mặc dù tôi không hề nghi ngờ là các cháu sẽ làm như thể không có chuyện gì xảy ra. Với lại trong lúc tôi câu lươn nếu hai cháu cố nhóm lửa thì cũng chẳng hề gì. Củi ở sau lều ấy. Có lẽ củi rất ẩm. Các cháu có thể nhóm lửa ngoài trời. Hoặc các cháu nên nhóm lửa trong lều kẻo lỡ trời mưa thì công toi. Đây là hộp đánh lửa. Tôi chắc là các cháu không biết sử dụng đâu.

Nhưng Lông Vịt đã có kinh nghiệm trong những việc như thế này từ trong cuộc phiêu du vừa rồi. Hai đứa trẻ chạy về lều, tìm thấy một đống củi khô cong và như vậy nhóm lửa lên còn dễ hơn là dập lửa đi. Trong lúc Lông Vịt ngồi canh đống lửa thì Jill đi ra ngoài dòng kênh gần nhất để rửa ráy, giặt giũ - chẳng phải là việc gì thích thú cho lắm. Sau đó nó lại ngồi canh bếp lửa để Lông Vịt đi làm việc tương tự.

Cả hai đều cảm thấy người ngợm sạch sẽ, tươi tắn, khỏe khoắn nhưng đói ngấu.

Rồi ông chủ nhà cũng quay về nhập bọn với chúng bên đống lửa. Mặc dầu ông dự đoán không bắt được con lươn nào nhưng ông lại mang về hơn chục con mà ông đã lột da, làm sạch. Ông cho tất cả vào một cái nồi to và điều chỉnh ngọn lửa cho đúng ý rồi mồi một tẩu thuốc. Người ở vùng này hút một loại thuốc lá rất lạ và rất nặng (có người nói họ trộn thuốc lá với bùn) và bọn trẻ nhìn làn khói mỏng từ tẩu thuốc của ông không bốc lên trời khi thoát ra khỏi cái tẩu, mà lại chìm xuống phía dưới, thấm xuống đất như một làn sương mù. Khói của nó rất đen làm Lông Vịt ho sặc sụa.

- Những con lươn này phải hầm lâu lắm đấy và chắc là cả hai cháu sẽ ngất xỉu đi vì đói trước khi món lươn chín. Tôi biết một cô bé... nhưng tốt nhất là không nên kể cho các cháu nghe chuyện này. Nó chỉ làm cho các cháu mất tinh thần mà việc này thì có cho tiền tôi cũng không làm. Vì thế để các cháu không nghĩ đến cái đó, chúng ta có thể thảo luận về các kế hoạch của mình.

- Vâng, cứ làm thế đi ạ! - Jill hồ hởi reo lên. - Bác có thể giúp chúng cháu đi tìm hoàng tử Rilian chứ ạ?

Ông chủ nhà hóp má lại suy nghĩ cho đến khi khuôn mặt ông chỉ còn trơ xương ra.

- Phải, tôi không biết là có giúp được gì cho các cháu không, tôi cũng không biết có bất cứ ai có thể giúp được không. Có lý do khiến chúng ta không thể tiến hành cuộc hành trình đến miền bắc được, không phải vào cữ này, khi mùa đông có thể đến sớm hơn. Mùa đông sẽ đến sớm, cứ nhìn vào mọi vật là thấy ngay thôi. Nhưng các cháu đừng để nó làm mình mất tinh thần như thế. Phía trước có không biết bao nhiêu trở ngại: kẻ thù, núi đồi, sông suối phải vượt qua, chúng ta có thể bị lạc đường, không có gì ăn, có những lúc chùn chân mỏi gối... và chúng ta khó mà biết thời tiết thay đổi như thế nào. Với lại trong khi chúng ta đi chưa đủ xa để làm được điều gì thì rất có thể chúng ta lại đi quá xa để có thể quay đầu lại.

Cả hai đều nhận thấy ông đã nói “chúng ta” chứ không nói “các cháu” và hai đứa đồng thanh kêu lên:

- Bác sẽ đi với chúng cháu ư?

- Ồ phải, tất nhiên là tôi sẽ đi cùng. Có thể như thế, các cháu thấy đấy. Nhưng tôi không dám mong chờ cái cơ hội được chứng kiến cảnh đức vua quay về Narnia. Vào lúc này hẳn ngài đã ra khỏi hải phận Narnia, khi lên tàu ra đi ngài ho rất dữ. Đấy, lại còn Trumpkin nữa. Ông ấy yếu đi rất nhanh. Các cháu sẽ chứng kiến một vụ mùa thất bát sau một mùa hè hạn hán kinh khủng cho mà xem. Tôi sẽ không ngạc nhiên khi quân thù tấn công chúng ta. Cứ nhớ lời tôi đi.

- Thế chúng ta bắt đầu như thế nào đây? - Lông Vịt hỏi.

- À, - Puddleglum nói giọng kéo dài ra, - tất cả những người đi tìm kiếm hoàng tử Rilian đều bắt đầu từ dòng suối nơi ngài Drinian nhìn thấy người đàn bà nọ. Đa số đi về phía bắc và vì không một ai trở về, chúng ta không thể nói chính xác là họ đi đến đấy như thế nào.

- Chúng ta cần bắt đầu bằng việc đi tìm thành phố đổ nát của người khổng lồ. - Jill tuyên bố. - Chính Aslan đã nói như thế.

- Cần bắt đầu bằng việc tìm nó cho bằng được, phải không? - Puddleglum trả lời bằng một câu hỏi. - Không nên bắt tay chỉ bằng cách đi tìm, tôi cho là thế, đúng không?

- Tất nhiên, đó là điều mà cháu muốn nói đấy ạ. - Jill nói. - Và rồi, khi chúng ta đã tìm ra...

- Phải, khi ấy! - Puddleglum nói, giọng khô khan.

- Có ai biết nó ở đâu không? - Lông Vịt hỏi.

- Tôi không biết bất cứ ai cả. - Ông già nói. - Và tôi cũng không nói là tôi chưa từng nghe về cái thành phố hoang tàn này. Dù vậy các cháu không thể bắt đầu từ suối nước phun đâu. Các cháu phải đi qua Ettinsmoor. Đó là nơi có thể tìm thấy thành phố này nếu như quả nó có mặt ở trên đời. Nhưng tôi đã đi xa về hướng đó như hầu hết mọi người mà chưa thấy một thành phố hoang phế nào như các cháu nói, vì thế mà tôi không muốn lừa dối các cháu làm gì.

- Vậy Ettinsmoor ở đâu ạ? - Lông Vịt hỏi.

- Nhìn về hướng bắc kia kìa. - Puddleglum nói, chỉ ống tẩu về phía đó. - Có nhìn thấy những ngọn đồi và vách đá không? Đó là nơi bắt đầu của Ettinsmoor. Nhưng có một con sông ngăn cách nơi đó với chúng ta, đó là sông Shribble. Không có cầu, tất nhiên.

- Cháu cho rằng chúng ta có thể tìm một khúc sông cạn để lội qua. - Lông Vịt gợi ý.

- Có thể chúng ta gặp những người dân bản địa và họ có thể chỉ đường cho chúng ta. - Jill nói.

- Cháu đã đúng khi nói về việc gặp gỡ người dân ở đấy.

- Họ là loại người như thế nào ạ? - Cô bé hỏi.

- Sẽ không hay lắm nếu tôi bình phẩm thế này thế nọ về cung cách của người khác. Biết đâu các cháu có thể thích cách thức của họ.

- Phải, nhưng họ là ai ạ? - Jill nhấn mạnh. - Có quá nhiều sinh vật kỳ lạ trên đất nước này, cháu muốn biết họ là muông thú hay chim chóc hay người lùn hay một loại gì đó.

Puddleglum huýt một hồi sáo dài:

- Chậc, các cháu không biết thật à? Tôi nghĩ mấy anh bạn cú phải nói cho các cháu biết rồi chứ. Họ là những người khổng lồ.

Jill co dúm người lại. Nó chẳng thích giống người này chút nào, dù là trong một cuốn truyện và nó từng gặp một khổng lồ trong một cơn ác mộng. Khi thấy khuôn mặt của Lông Vịt tái xanh như chàm đổ, nó nghĩ: “À, mình đoán cậu ta còn sợ thót tim hơn cả mình nữa.” Điều đó làm cho nó cảm thấy mình can đảm hơn.

- Từ lâu lắm rồi đức vua đã bảo với cháu là... - Lông Vịt nuốt nước bọt một cách khó khăn, - ấy là khi cháu cùng đi biển với ngài... rằng ngài đã đánh thắng bọn người khổng lồ này và bắt họ hằng năm phải triều cống cơ mà.

- Đúng thế. - Puddleglum nói. - Đúng là họ sống hòa bình với chúng ta. Chừng nào chúng ta còn ở bên này con sông Shribble thì họ không làm gì động đến lông chân chúng ta. Còn như sang phía bờ sông bên kia - đến sứ Moor của họ - thực ra bao giờ cũng có những chuyện như vậy. Nếu chúng ta không đến gần họ quá và nếu trong chừng mực họ quên đi mình là ai... và nếu chúng ta không bị phát hiện, thì rất có thể chúng ta có thể đi qua đấy được.

- Coi này! - Lông Vịt cáu lên, bất thần mất hết tự chủ như người ta dễ dàng lâm vào tình cảnh như thế khi bị một nỗi sợ hãi kinh khủng chế ngự. - Tôi không tin là mọi chuyện đều xấu bằng một nửa những gì mà bác làm ra vẻ như thế, cũng giống như bác nói giường ở đây quá cứng và củi quá ướt vậy. Mà tôi cũng không nghĩ Aslan lại cử chúng tôi đến đây nếu có quá ít cơ may thành công như thế.

Nó đã tưởng rằng chủ nhà sẽ phản ứng lại một cách giận giữ, nhưng ông chỉ nói:

- Đây là vấn đề tinh thần, Lông Vịt à. Đó chỉ là cách nói. Cháu cứ khoác bộ mặt tốt đẹp lên mọi sự. Nhưng tất cả chúng ta đều phải thận trọng với tâm trạng của mình, thấy trước tất cả những mặt xấu, những khó khăn để cùng nhau vượt qua. Đừng cãi vã, cháu biết đấy. Dù ở bất cứ mức độ nào thì cũng đừng bắt đầu chuyện đó quá sớm. Tôi biết những cuộc thám hiểm như thế này thường có chung một kết cục: rút dao ra dí vào người khác, tôi sẽ không ngạc nhiên đâu, trước khi mọi việc đã xong xuôi. Nhưng chúng ta càng tránh xa điều ấy lâu bao nhiêu...

- Phải, nếu bác cảm thấy việc này vô vọng đến thế thì tốt nhất là bác cứ ở lại cho xong. Pole và tôi có thể đi một mình, phải không Pole?

- Im đi, và đừng có ngốc như một con lừa như thế, đồ Lông Vịt! - Jill nạt bạn, nó chỉ sợ vì thế mà bác cư dân vùng đầm lầy này lại đổi ý.

- Cháu không nên mất tinh thần, Pole ạ. - Puddleglum điềm đạm nói. - Bác sẽ đi, chắc chắn và nhất định như thế. Bác không thể để mất đi cơ hội này. Nó sẽ đem đến cho các cháu những điều tốt lành. Ấy người ta vẫn nói... tôi muốn nói... những người ở đây thường nói... rằng tôi là một kẻ đầu óc lông bong, viển vông, không coi cuộc đời này là một cái gì đủ nghiêm trọng. Nếu họ đã nói thế một lần rồi thì họ còn nói 1000 lần nữa. “Puddleglum à, - họ vẫn nói, - nhìn chung anh dư thừa sức lực, hay nhảy tưng tưng chỗ này chỗ kia và quá cao hứng. Anh cần phải biết là cuộc đời này đâu phải chỉ toàn món ếch hầm và bánh nhân lươn đâu. Cần có một cái gì đó làm cho anh trầm lắng xuống một chút mới được. Chúng tôi chỉ nói thế vì lợi ích của anh thôi, anh bạn Puddleglum ạ”. Ấy đấy họ vẫn nói với tôi như thế đấy. Bây giờ thì công việc là như thế này - hành trình ngược lên miền bắc ngay khi mùa đông bắt đầu, tìm hoàng tử mà chắc chắn là chàng không có ở đây. Tìm đường đến một thành phố chỉ còn là một đống gạch vụn mà chưa ai trông thấy bao giờ - sẽ là như thế đấy. Nếu những giả thuyết này không đứng vững thì tôi cũng không biết chuyện gì sẽ xảy ra đâu. - Nói đến đây ông xoa hai bàn tay có màng như chân ếch lại với nhau như ông đang chuẩn bị nói ở hội nghị hay trong một vở kịch câm. - Bây giờ, để coi cái món lươn này đã chín chưa.

Món ăn được dọn ra, tỏa mùi thơm lừng, hai đứa trẻ sực nhớ đến cái dạ dày háu đói của chúng. Đầu tiên ông chủ nhà còn không dám tin là chúng thích món ăn này, sau đó ông mới ngả người ra sau mà nói một câu sẽ làm khách bất bình ghê lắm:

- Thức ăn cho dân đầm lầy có thể rất độc với con người đấy.

Sau bữa ăn họ uống trà trong những cái hộp thiếc (như bạn thấy những người phu làm đường vẫn có) trong khi Puddleglum xì xụp uống cái gì đó từ một cái nồi đen vuông chằn chặn. Ông mời lũ trẻ húp ngay trong nồi, nhưng chúng nghĩ làm như thế không được văn minh lịch sự cho lắm.

Thời gian còn lại hôm ấy họ chuẩn bị cho chuyến đi sẽ khởi hành vào sáng sớm hôm sau. Puddleglum là người lớn nhất trong bọn sẽ vác ba cái mền với một tảng thịt heo muối thật to cuộn bên trong. Jill sẽ mang món lươn còn dư, một ít bánh quy và hộp đánh lửa. Lông Vịt có nhiệm vụ mang những cái áo khoác của hai đứa khi chúng không cần mặc đến. Lông Vịt mang theo cây cung tốt thứ hai của Puddleglum bởi vì nó cũng võ vẽ học được thuật bắn cung trong lúc nó đi tàu về phương đông dưới sự chỉ huy của Caspian. Tất nhiên, chủ nhà cầm cây cung tốt nhất mặc dù bác ta nhấn mạnh là với các yếu tố gió, độ ẩm của dây cung, ánh sáng kém và những ngón tay cứng ngắc thì tỉ lệ bắn trúng bất cứ cái gì là 1 trên 100. Cả bác và Lông Vịt đều có kiếm - thằng bé đã mang theo người chiếc kiếm để trong phòng của nó ở lâu đài Cair Paravel, còn Jill thì hài lòng với con dao bỏ túi. Chuyện dao kiếm đã bắt đầu khơi lên một cuộc cãi vã nhưng vừa lúc chúng định chọi nhau thì Puddleglum đã xoa hai tay vào nhau mà nói: “Ấy đấy. Tôi biết ngay mà. Chuyện bất đồng như thế này thường xảy ra trong những chuyến đi xa!” thì cả hai cùng im bặt.

Ba người đi ngủ sớm. Nhưng lần này hai đứa trẻ có một đêm dài trằn trọc. Đó là bởi vì Puddleglum sau khi nói: “Tốt nhất là hai đứa hãy cố ngủ đi, mặc dù tôi cho rằng không ai trong chúng ta có thể chợp mắt được.” - đã ngủ lăn ra và rúc lên một tiếng đều đều, vang động cả căn lều nhỏ. Cuối cùng, Jill cũng rơi vào giấc ngủ, nó nằm mơ về tiếng còi tàu, tiếng thác nước đổ ầm ầm và thấy mình bị lèn vào trong một toa tàu đang chạy trong đường hầm.

CHƯƠNG 6

 Vùng đất hoang dã phía bắc

Vào khoảng 9 giờ sáng hôm sau, ba bóng người đơn độc dò dẫm tìm đường đi qua sông Shribble bằng cách lội qua những chỗ nước cạn hoặc bước qua những tảng đá rải rác nằm dưới lòng sông. Đó là một dòng nước cạn, dù nó gây nên những tiếng réo ào ào, ngay cả Jill cũng không bị ướt quá đầu gối khi họ sang bên bờ bắc. Trước mặt họ vào khoảng 50 mét, mặt đất cao dần lên. Đây là nơi bắt đầu đồng hoang, lổn nhổn nhiều gò bãi và thường có nhiều vách đá dựng đứng.

- Tôi cho rằng kia đúng là con đường dành cho chúng ta! - Lông Vịt nói chỉ về phía tay trái, cũng là hướng tây, nơi có một dòng suối bắt đầu từ đồng hoang chảy đến một khe núi hẹp. Nhưng Puddleglum lắc đầu:

- Người khổng lồ sống chủ yếu ở các hẻm núi. Cháu có thể nói một hẻm núi cũng giống như một đường phố đối với họ vậy. Tốt nhất chúng ta cứ thẳng trước mặt mà đi, dù đường đi có hơi bị dốc.

Họ tìm thấy một nơi có thể bò lên được. Khoảng mười phút sau họ đã đứng trên đỉnh, thở dốc. Họ quay lại thật lâu về phía bình nguyên của Narnia rồi quay mặt về hướng bắc. Đồng hoang bát ngát, đìu hiu trải dài đến tận chân trời xa tít như mắt họ có thể nhìn tới được. Bên trái họ là mảnh đất mấp mô những gò đụn. Jill nghĩ rằng đây chính là đỉnh đèo của người khổng lồ và không muốn nhìn lâu về phía này. Họ đi tiếp.

Mặt đất xốp, nảy nảy dưới bước chân của họ và phía trên đầu là ánh nắng yếu ớt của mặt trời đầu đông. Họ càng đi sâu vào trong bao nhiêu thì cái không khí cô tịch càng tăng lên bấy nhiêu: người ta có thể nghe thấy tiếng kêu của chim le le và nhìn thấy một con diều hâu đơn độc bay qua. Vào xế trưa họ dừng lại để nghỉ ngơi, uống nước từ một cái hố nhỏ cạnh dòng suối, Jill bắt đầu cho rằng cuối cùng nó đã có thể cảm nhận được cái không khí lãng mạn thú vị của cuộc phiêu lưu bèn hào hứng nói ra mồm điều này.

- Chúng ta còn chưa gặp chuyện mà. - Puddleglum nói.

Việc cuốc bộ tiếp sau trạm dừng chân bao giờ cũng giống như bài học buổi sáng sau giờ nghỉ giải lao hoặc một chặng đường đi tàu nữa sau khi chuyển tàu ở ga xép - không bao giờ tiếp tục với tốc độ như cũ. Khi họ lại lên đường đi tiếp, Jill nhận thấy đỉnh đèo đã tiến đến gần hơn. Những tảng đá bớt tròn trịa mà chĩa thẳng lên trời. Thực ra trông chúng như những ngọn tháp nhỏ bằng đá. Mà chúng có những hình thù mới quái dị làm sao!

- Mình tin rằng, - Jill thầm nghĩ, - tất cả những câu chuyện về những người khổng lồ đều có khả năng xuất phát từ những tảng đá có hình thù buồn cười kia. Nếu đến đây vào lúc tranh tối tranh sáng có thể dễ dàng hình dung những tảng đá này là những khổng lồ. Nhìn cái tảng đá kia coi. Có thể nghĩ hòn đá trên cùng là một cái đầu. Có hơi quá to so với một thân hình nhưng sẽ ổn với một tên khổng lồ xấu xí. Và cả cái đám lởm chởm kia - mình cho rằng đó là bụi thạch thảo hoặc tổ chim - thực vậy, nhưng có thể nói đó là tóc và râu. Hai cái đính vào hai bên là hai tai. Thực ra tai như thế thì to quá nhưng mình dám nói là người khổng lồ có cái tai rất to, như tai voi vậy. Và ối... ối!

Máu nó chợt như đông lại. Tảng đá chuyển động. Đó là một người khổng lồ thực sự. Không thể nhầm lẫn được, nó đã nhìn thấy tảng đá quay đầu lại. Bây giờ Jill thoáng thấy một khuôn mặt như mặt hổ phù, ngu độn, với đôi má phồng tướng lên. Tất cả đều là người khổng lồ, không phải là đá. Có khoảng từ 40 đến 50 người như vậy, họ đứng thành hàng. Rõ ràng chân họ ở dưới đáy hẻm núi, còn khuỷu tay họ thì đặt trên đỉnh núi, như cái cách những tên đại lãn uể oải đứng tựa vào một bức tường sau bữa ăn sáng vậy.

- Cứ nhìn thẳng phía trước mà đi. - Puddleglum thì thầm, ông cũng đã nhận ra họ. - Đừng nhìn bọn chúng. Làm gì thì làm, tốt nhất là không được bỏ chạy. Chúng sẽ đuổi theo ngay tức khắc.

Thế là họ cứ đi tiếp, giả bộ như không nhìn thấy những người khổng lồ, cũng giống như đi qua cổng một ngôi nhà có con chó dữ, có điều còn đáng sợ hơn nhiều. Có hàng chục hàng chục những tên khổng lồ như vậy. Họ không có vẻ giận dữ hoặc hiền lành hoặc để tâm đến chuyện gì. Không có dấu hiệu cho thấy họ nhìn thấy đoàn lữ khách.

Chợt nghe như có một vật nặng lao đi trong không khí rồi ầm một cái, một ụ đá to tướng đổ kềnh về phía trước, cách ba người chừng 20 bước. Và rồi ầm ầm - một tảng đá khác lại đổ vật xuống phía sau họ 20 bước.

- Họ đang nhắm vào chúng ta à? - Lông Vịt hỏi, răng đánh vào nhau cầm cập.

- Ồ không, - Puddleglum đáp, - chúng ta sẽ an toàn hơn nếu bọn họ ở đây. Họ đang cố đánh vào cái ụ đá bên phải. Họ không đánh trúng, thấy chưa? Như thế này cũng đủ an toàn; họ ném kém lắm, họ chơi trò chọi đá vào những buổi sáng đẹp trời nhất. Đó là trò chơi duy nhất mà họ đủ thông minh để hiểu luật chơi.

Thật là một khoảng thời gian rợn tóc gáy. Có vẻ như hàng người khổng lồ kéo dài không bao giờ dứt và không bao giờ chán trò chơi chọi đá, một số hòn đá lăn đến ba người ở cự li rất gần. Ngoài nguy cơ nhận cả một khối đá khổng lồ vào đầu thì chỉ nhìn và nghe giọng nói của họ cũng đủ làm cả những người cứng bóng vía nhất cũng phải ớn lạnh nơi sống lưng, Jill cố không nhìn họ.

Khoảng 25 phút sau rõ ràng là giữa những người khổng lồ này có một cuộc cãi vã. Chuyện này chấm dứt trò chọi đá, nhưng chẳng phải là dễ chịu khi ở trong vòng bán kính một dặm với những người khổng lồ đang cãi cọ nhau om sòm. Họ rống lên, nhiếc móc nhau bằng những từ dài thong vô nghĩa có đến 20 âm. Họ tức sùi bọt mép, lồng lên như con ngựa bất kham và nhảy cỡn lên trong cơn giận dữ, mỗi cú nhảy như vậy đều làm mặt đất rung lên như có bom nổ. Họ nện lên đầu nhau những chiếc búa đá xù xì to tướng nhưng sọ họ rắn đến nỗi những chiếc búa đá chỉ nảy lên tựa như bạn đấm vào bị bông. Rồi có một quái nhân lãnh được một cú đánh như vậy đã đánh rơi búa của mình bèn hú lên như điên như dại vì hắn bị đánh trúng vào ngón tay. Nhưng hắn ngu ngốc đến mức lại làm y hệt như thế vào mấy phút sau.

Đây là một cơ hội tốt cho ba lữ khách, họ có thể cao chạy xa bay vì sau một giờ chơi trò choảng nhau, tất cả bọn người khổng lồ này đều bị đau đến nỗi cả lũ ngồi xuống và ôm mặt khóc hu hu. Khi họ ngồi xuống, đầu họ thấp hơn đỉnh đèo vì thế bạn không nhìn thấy họ nữa, nhưng Jill vẫn nghe thấy họ kêu gào, rền rĩ và nức lên từng hồi như những đứa trẻ to xác, kể cả khi đoàn lữ khách của chúng ta đã bỏ họ lại phía sau cả dặm đường.

Đêm ấy họ cắm trại ngoài đồng hoang, Puddleglum chỉ cho bọn trẻ cách tận dụng chiếc mền mang theo bằng cách nằm đấu lưng lại nhau (làm như vậy vừa ấm, bạn lại vừa có cả hai cái mền đắp lên người). Đêm ấy trời rất lạnh, mặt đất rắn lại hơn, lổn nhổn đá dăm. Puddleglum bảo hai đứa rằng, chúng sẽ cảm thấy thoải mái hơn nếu nghĩ rằng trời có thể còn lạnh hơn nữa và rằng còn phải đi xa, xa hơn nữa về phía bắc, nhưng nghĩ như thế cũng chẳng làm cho bọn trẻ cảm thấy khá hơn.

Họ đi ngang qua Ettinsmoor trong nhiều ngày liền, để dành thịt heo muối lại và chủ yếu sống nhờ vào những con chim vùng đồng hoang (tất nhiên đấy không phải là những con chim biết nói) mà Eustace và Puddleglum bắn được. Jill lấy làm ghen tị vì Eustace biết bắn cung, một điều mà bạn nó học được trong chuyến đi với Caspian. Có vô số các dòng nước chảy ngang dọc đồng hoang và họ chẳng bao giờ thiếu nước.

Jill nghĩ rằng trong những cuốn truyện kể về những người sống bằng nghề săn bắn, người ta chẳng bao giờ kể lại công việc bếp núc nhếch nhác, bẩn thỉu, mất thời gian của việc nhổ lông và làm sạch những con chim vừa bị bắn chết kể cả cái việc chuyện đó làm ngón tay bạn cứng lại như thế nào. Điều may mắn nhất là hầu như họ không phải đối mặt với những người khổng lồ, chỉ có một người trông thấy họ, nhưng hắn chỉ cười hô hố rồi lại quày quả quay đi lo tiếp công việc của hắn.

Đến ngày thứ mười, họ đến một nơi cảnh quan thay đổi hẳn. Họ đã tới phía bắc của đồng hoang, đứng nhìn xuống một cái dốc dài, rất cao dẫn đến một miền đất khác, khắc nghiệt khô cằn hơn. Dưới cái dốc đó là những vách đá dựng đứng, xa hơn nữa là một vùng núi cao, những ngọn núi cao đen thẫm, những thung lũng đá, những hẻm núi sâu và hẹp đến mức người ta khó lòng nhìn qua được. Những dòng suối, thình lình xuất phát từ những đoạn đèo đổ xuống những cái vực sâu đen tối. Không cần phải nói thì bạn cũng biết chính Puddleglum là người chỉ cho hai đứa thấy những đống tuyết phủ trên sườn núi hắc ám

- Tôi sẽ chẳng lấy gì làm ngạc nhiên khi thấy sẽ có nhiều tuyết hơn ở mạn núi bên kia. - Ông nói thêm.

Họ phải đi một lúc mới đến được chân dốc và khi đến nơi họ đứng nhìn xuống , từ trên đỉnh dốc, dòng sông phía dưới họ chảy vắt từ đông sang tây. Có một bức tường được tạo nên bởi những đỉnh núi xa mờ, một bức tường xanh rờn, ánh nắng không chiếu tới được, toàn những thác ghềnh và những dòng nước xiết. Tiếng gầm của những dòng thác thậm chí còn làm rung động cả mặt đất nơi họ đang đứng.

- Trèo xuống những vách đá này thì chúng ta sẽ tránh được việc không bị chết đuối trong dòng sông dưới kia. - Puddleglum nói.

- Thế cái gì kia? - Bất thần Lông Vịt hỏi và chỉ tay lên mạn sông bên tay trái họ. Lúc này tất cả đều nhìn thấy điều cuối cùng mà họ chờ đợi - một cây cầu. Đúng, cầu hẳn hoi nhé. Một cây cầu lớn, cong cong bắc ngang qua hẻm núi từ đỉnh bên này vắt sang đỉnh bên kia, thân cầu hình mái vòm, cao vượt lên khỏi hai đỉnh núi là nơi bắt đầu hai chân cầu như cái cổng vòm nhà thờ St.Paul cao vượt lên khỏi những ngôi nhà dọc hai bên đường phố.

- Trời ơi, cái cầu của người khổng lồ! - Jill kêu lên.

- Hoặc là của một mụ phù thủy, có vẻ như thế lắm. - Puddleglum nói. - Chúng ta phải dè chừng xem có pháp thuật gì ở những chỗ như thế này không. Tôi nghĩ đây là một cái bẫy. Tôi nghĩ nó sẽ hóa thành sương mù tan ra vào đúng lúc chúng ta đi đến giữa cầu.

- Ôi, vì Chúa, đừng biến mình thành một cái mền ướt như vậy. - Lông Vịt kêu lên. - Vì lẽ quái quỷ gì mà nó không thể là một cây cầu thực sự được cơ chứ?

- Thế cháu nghĩ là có bất cứ tên khổng lồ nào mà chúng ta gặp lại có đủ đầu óc để xây được một cái như thế à?

- Nhưng chẳng lẽ nó lại không được xây dựng bởi một giống người khổng lồ khác hay sao? - Jill hỏi. - Cháu muốn nói nó được xây dựng bởi những người khổng lồ sống từ hàng trăm năm trước, những người khôn ngoan hơn giống người hiện đại. Rất có thể nó cũng được tạo nên bởi những người đã xây dựng nên thành phố khổng lồ mà chúng ta đang đi tìm. Nếu thế, điều này hẳn có nghĩa là chúng ta đã đi đúng hướng - cây cầu cổ dẫn đến thành phố cổ!

- Đúng là phút lóe sáng của thiên tài, Pole ạ. - Lông Vịt nói. - Có thể lắm, đi nào.

Thế là họ quay lại đi về phía cầu. Khi chạm vào thành cầu họ biết chắc là nó đủ vững chắc. Mỗi phiến đá ở đây to như những phiến đá ở Stonehenge và chắc là phải được đẽo bởi những người thợ giỏi tay nghề mặc dù giờ đây nhiều phiến đá đã bị rạn và sứt mẻ. Hàng lan can rõ ràng được chạm trổ hết sức công phu, một số hình chạm khắc vẫn còn được giữ lại: những khuôn mặt và hình nổi tạc những người khổng lồ, quỷ đầu trâu, những con mực, con rết và cả những vị hung thần kinh khủng. Puddleglum dù không tin cho lắm nhưng cũng hài lòng cùng hai đứa trẻ đi sang bờ bên kia.

Việc đi qua cầu khá khó khăn và mất nhiều thời gian. Ở nhiều chỗ, phiến đá lát mặt cầu đã rơi đâu mất hoặc nát vụn để lại những lỗ hổng to tướng, qua những lỗ hổng đó bạn thấy dòng sông hung hãn réo ầm ầm ở dưới độ sâu hàng ngàn thước. Họ còn thấy một con đại bàng bay qua dưới chân họ. Càng lên cao bao nhiêu cái lạnh càng len lỏi vào tận trong xương thịt bấy nhiêu, gió thốc mạnh làm họ khó mà giữ được thăng bằng mỗi khi bước đi một bước. Gió cũng làm cho cây cầu chao đảo như đưa võng.

Khi đã lên được đến đỉnh và có thể nhìn xuống dốc cầu xa hơn phía bên dưới, họ thấy một cái gì trông tựa như những dấu tích còn lại của một con đường khổng lồ cổ đại, trải dài trước mặt họ đến tận tâm rặng núi xa xa. Nhiều tảng đá lát đường đã bị mất có những vạt cỏ xanh mọc lên thay vào chỗ đó. Từ đằng xa đang lao về phía họ là hai người tầm vóc như người bình thường trong độ tuổi trưởng thành. Họ đang cúi rạp trên mình ngựa, phóng về phía họ.

- Cứ đi tiếp. Tiến thẳng về phía họ. - Puddleglum nói. - Bất cứ kẻ nào xuất hiện ở một nơi như thế này đều không có vẻ là bạn, nhưng chúng ta không được để cho chúng nghĩ là mình sợ.

Vào lúc họ ra khỏi cây cầu, đặt chân lên bãi cỏ, hai người lạ mặt đã tiến lại gần. Đó là một hiệp sĩ nai nịt từ đầu đến chân mặc áo giáp với tấm che mặt kéo xuống kín mít. Cả thanh kiếm và con ngựa của hiệp sĩ đều có một màu đen tuyền; không có hình trang trí trên tấm khiên cũng không có cờ hiệu trên mũi giáo, người còn lại là một thiếu nữ duyên dáng ngự trên lưng một con ngựa bạch, con ngựa đáng yêu đến nỗi bạn chỉ muốn hôn lên mũi nó và cho nó một cục đường ngay lập tức. Thiếu nữ ngồi trên yên theo kiểu các quý bà tức là vắt hai chân sang một bên, bận một chiếc áo dài màu xanh sáng ngời tung bay trong gió còn đáng yêu và xinh đẹp hơn nhiều.

- Chúc các lữ khách một ngày tốt lành. - Thiếu nữ kêu lên bằng một giọng thánh thót như khúc hát ngọt ngào nhất của loài chim, lưỡi cong lên một cách duyên dáng khi phát âm những âm rung. - Quý vị là những người hành hương đáng yêu nhất đi qua cái vùng hoang tàn đổ nát này đấy.

- Có thể là như thế, thưa bà. - Puddleglum đáp, giọng cứng ngắc với dáng đề phòng.

- Chúng tôi... đi tìm thành phố cổ đổ nát của người khổng lồ. - Jill nhanh nhảu nói.

- Thành phố đổ nát ư? - Thiếu nữ nói. - Đó sẽ là một nơi hết sức kỳ lạ dưới cái nhìn của quý vị. Dám hỏi các vị sẽ làm gì khi tìm thấy nó?

- Chúng tôi đến để... - Jill bắt đầu, nhưng Puddleglum đã chen vào:

- Xin quý bà thứ lỗi. Nhưng chúng tôi còn chưa biết gì về bà và người bạn đồng hành, một hiệp sĩ câm lặng phải không ạ? Vả lại hai người cũng đâu có biết gì về chúng tôi. Thế nên chúng tôi không thể ngay lập tức nói với người lạ về công việc của mình. Xin quý bà rộng lượng bỏ qua cho. Chắc là sắp có mưa rồi, quý vị có nghĩ thế không?

Thiếu nữ cất tiếng cười khanh khách, một tiếng cười giòn tan, giàu nhạc tính nhất mà bạn có thể hình dung được.

- Các em, tốt lắm, các em có một người giám hộ giàu kinh nghiệm, khôn ngoan và thận trọng. Ta nghĩ chẳng có hại gì khi cứ để cho ông ta giữ những lời khuyên khôn ngoan ấy cho mình; còn ta thì cứ tự do làm những gì ta muốn. Ta vẫn thường nghe đến cái tên thành phố Hoang phế của bọn khổng lồ nhưng chưa từng gặp ai có thể mách bảo ta đường đến đấy. Con đường này dẫn đến một thị trấn và lâu đài Harfang, nơi cư ngụ của những người khổng lồ dễ thương. Họ là một giống người hiền lành, văn minh, cẩn trọng và lịch sự trong khi bọn Ettinsmoor thì ngu ngốc, hung bạo, dữ dằn, dã man và mang nhiều thú tính. Ở Harfang có thể các em nghe nói đến hoặc chẳng có ai biết gì về thành phố Hoang phế nhưng chắc chắn các em sẽ tìm được nhà trọ tốt và những người chủ vui vẻ. Nếu khôn ngoan, các em hãy trú đông ở đấy hoặc ít nhất cũng nấn ná lại đấy ít ngày để nghỉ ngơi, lấy lại sức. Ở đấy các em sẽ được tắm hơi, lại có giường êm nệm ấm, ngọn lửa cháy sáng trong lò sưởi, bánh mì chiên và nướng nóng giòn, bánh ngọt và cả rượu mạnh nữa. Tất cả được bày biện trên bàn đến bốn lần một ngày.

- Trời ơi! - Lông Vịt kêu lên, nuốt nước bọt một cái rõ to. - Lại có những thứ như thế ư? Cứ nghĩ đến việc lại được ngả lưng trên giường nệm lần nữa!

- Phải, và được ngâm mình trong bồn nước nóng. - Jill phụ họa. - Chị có nghĩ là họ sẽ mời chúng em ở lại không? Chúng em không quen biết họ mà, chị cũng thấy đấy!

- Chỉ cần nói với họ rằng, thiếu nữ Áo Xanh nhờ các em gửi lời chào họ và gửi gắm cho họ hai đứa bé ngoan người miền Nam đến dự lễ hội mùa thu là được.

- Ôi, cảm ơn chị, cảm ơn chị nhiều lắm. - Cả Jill lẫn Lông Vịt đều nồng nhiệt cảm ơn.

- Nhưng hãy cẩn thận. Dù các em đến Harfang vào ngày nào thì cũng nhớ đừng đi vào cổng thành quá muộn. Bởi vì họ đóng cổng thành chỉ vài tiếng sau giờ ngọ và theo phong tục này, họ sẽ không mở cửa cho bất cứ ai một khi đã hạ gióng ngang cài cửa, bất kể là người ấy có việc cần kíp thế nào cũng vậy.

Bọn trẻ với những đôi mắt xanh ngời sáng, nồng nhiệt cảm ơn cô gái xinh đẹp, thiếu nữ vẫy tay chào từ biệt bọn chúng. Puddleglum vùng đầm lầy bỏ cái mũ nhọn hình tháp ra cúi chào với dáng điệu cứng nhắc. Hiệp sĩ Im Lặng và thiếu nữ Áo Xanh phóng ngựa tế lên dốc cầu để lại tiếng vó ngựa khua giòn giã trên mặt đường lát đá.

- Thế là, tôi đã biết được một số điều: cô ả từ đâu đến và sẽ đi đâu. Không phải là loại người mà các cháu chờ đợi gặp ở nơi hoang vu như ở mảnh đất của người khổng lồ, phải vậy không? Chẳng có gì tốt lành đâu, tôi dám chắc như thế. - Puddleglum nói.

- Trời đất ạ! - Lông Vịt kêu lên. - Cháu nghĩ một người có vẻ ngoài xinh đẹp như thế thật khó có tâm địa xấu xa. Cứ nghĩ đến những bữa ăn nóng sốt, những căn phòng ấm cúng... Cháu hi vọng Harfang không cách đây quá xa.

- Tớ cũng nghĩ thế. - Jill nói. - Nghĩ coi, chị ấy có cái áo chúa thật. Còn con ngựa nữa chứ!

- Cũng vậy thôi, - Puddleglum lẩm bẩm, - ước gì tôi biết nhiều hơn về cô ả.

- Cháu đang định hỏi một vài điều về chị ấy, - Jill nói, - nhưng làm sao cháu mở miệng ra hỏi được khi bác lại bảo không muốn nói với chị ấy bất cứ điều gì về chúng ta?

- Phải. - Lông Vịt đế theo. - Và tại sao bác lại có thái độ bất hợp tác và khó chịu như vậy? Bác không thích họ à?

- Họ? - Puddleglum hỏi lại. - Họ là ai? Tôi chỉ thấy có một người mà thôi.

- Thế bác không tính hiệp sĩ vào ư?

- Tôi chỉ thấy một bộ áo giáp câm như hến.

- Cháu cho là anh ta quá nhút nhát, - Jill nói giọng mơ màng, - hoặc có thể là chàng chỉ muốn nhìn nàng và nghe giọng nói quyến rũ của nàng mà thôi. Cháu chắc mình cũng như thế nếu ở địa vị của chàng.

- Tôi thì tự hỏi, các cháu sẽ thật sự nhìn thấy gì nếu kéo tấm che mặt ở cái mũ trụ lên và nhìn vào bên trong.

- Chà, bác có thôi đi không. - Lông Vịt kêu lên. - Cứ nghĩ về hình dáng trong cái áo giáp đó đi! Nếu không phải là thân hình người đàn ông thì là cái gì?

- Nếu lại là một bộ xương thì sao? - Puddleglum hỏi với một sự vui vẻ đáng ghét. - Hoặc có thể, - bác ta nói thêm sau một hồi suy nghĩ, - chẳng có cái quái gì cả. Tôi muốn nói các cháu chẳng thấy gì hết. Chỉ là một kẻ vô hình.

- Thật thế chứ bác Puddleglum? - Jill rùng mình. - Bác có những ý nghĩ đen tối, kinh khủng quá đi mất! Sao bác lại có thể nghĩ về người khác như vậy?

- Thôi, thôi, quên những ý nghĩ hắc ám của bác ta đi. - Lông Vịt nói. - Bác ta bao giờ chẳng chờ đợi những điều xấu nhất và bao giờ bác ta chẳng sai. Hãy nghĩ về những người khổng lồ dễ thương và hãy mau chóng đến Harfang nhanh như chúng ta có thể đi được. Ước gì tớ biết được đường còn bao xa nữa.

Không khí bắt đầu nóng lên bằng cuộc cãi vã đầu tiên trong số những cuộc đấu khẩu mà Puddleglum đã tiên đoán, chứ không phải là chuyện vặt như Jill và Lông Vịt vẫn hay sa vào. Cuộc cãi nhau đầu tiên này là một sự bất đồng ý kiến nghiêm trọng. Puddleglum không muốn họ đến Harfang chút nào. Bác bảo mình không có khái niệm là trên đời này lại có những người khổng lồ “dễ thương” và dù sao trong lời chỉ giáo của Aslan cũng không thấy nghe nói đến chuyện ở lại chỗ người khổng lồ dù là dễ thương hay dễ ghét. Trong khi đó bọn trẻ, phát ốm lên vì cảnh mưa gió sụt sùi, những bữa ăn chỉ có chim nướng giữa đồng trống và cảnh màn trời chiếu đất nơi hoang thì nhất định muốn đến thăm những người khổng lồ “dễ thương”. Cuối cùng, Puddleglum đành phải nhượng bộ với một điều kiện: Hai đứa kia phải trịnh trọng hứa là trừ khi được ông cho phép, chúng tuyệt đối không được nói với người khổng lồ việc chúng đến từ Narnia hoặc mục đích tìm hoàng tử Rilian. Hai đứa sẵn sàng hứa và họ đi tiếp.

Sau khi nói chuyện với thiếu nữ Áo Xanh, mọi việc trở nên xấu đi theo hai cách. Thứ nhất, vùng đất này mỗi lúc một trở nên khắc nghiệt hơn. Con đường họ đi dường như kéo dài ra vô tận, những thung lũng hẹp nhấp nhô trong đó ngọn gió bấc cứ quất rát ràn rạt vào mặt họ. Chẳng có chỗ nào khả dĩ để nhóm lên một ngọn lửa mà cũng chẳng có cái hốc nhỏ nào tàm tạm một chút để chui vào tránh gió như họ đã gặp được ở ngoài đồng hoang bên kia cầu. Mặt đất lại toàn sỏi đá làm cho chân bạn đau nhức vào ban ngày, rã rời, tê buốt vào ban đêm.

Thứ hai, dù thiếu nữ có ý định gì khi nói với chúng về Harfang thì tác động của những lời lẽ đó đến bọn trẻ con cũng là một tác động xấu. Chúng chẳng còn nghĩ được gì ngoài chiếc giường ấm áp, bồn nước nóng, những bữa ăn bốc khói và mọi việc sẽ tuyệt vời như thế nào khi lại có một mái nhà trên đầu. Bây giờ chúng chẳng còn đầu óc đâu mà nghĩ đến Aslan hoặc thậm chí cả hoàng tử mất tích. Jill bỏ mất thói quen nhắc đi nhắc lại lời dặn của Aslan vào mỗi buổi sáng và buổi tối. Đầu tiên nó tự nhủ, nó quá mệt. Nhưng chẳng bao lâu sau thì nó cũng quên béng chuyện này. Và mặc dầu có thể bạn cho rằng, ý nghĩ về việc có được một khoảng thời gian sung sướng ở Harfang sẽ làm chúng vui hơn nhưng thực ra chúng lại cảm thấy thân thương hơn, ưa ca thán và cau có với nhau hơn và nhất là với Puddleglum.

Cuối cùng vào một buổi chiều, họ đến một hẻm núi mà họ phải đi rất lâu mới vượt qua được để đến một chỗ có những hàng thông đen mọc lên san sát hai bên đường. Họ nhìn về phía trước và thấy rằng còn phải vượt qua mấy quả núi. Trước mặt họ là một thung lũng hoang vắng toàn sỏi đá, xa hơn nữa là rặng núi đỉnh phủ tuyết trắng xóa. Nhưng giữa họ và dãy núi xa mờ đó là một ngọn đồi thoai thoải với cái ngọn bị phạt ngang trông rất kỳ:

- Coi kìa! Coi kìa. - Jill reo lên chỉ tay qua thung lũng. Ở đấy, trong ráng chiều nhập nhoạng họ thấy có những đốm sáng phía tây ngọn đồi dèn dẹt nọ. Ánh sáng! Không phải ánh trăng, ánh lửa mà là ánh sáng phát ra từ những ô cửa sổ chạy thành dãy như một lời chào mời giản dị, chất phác. Nếu bạn chưa bao giờ lang thang nơi đồng không mông quạnh, ngày cũng như đêm làm bạn với sự cô liêu, gian khổ; không phải chỉ ngày một ngày hai, mà hết tuần sang tháng bạn sẽ khó lòng hiểu được cảm xúc của họ.

- Harfang! - Cả Lông Vịt lẫn Jill đều kêu lên sung sướng, kích động.

- Harfang! - Puddleglum lặp lại bằng một giọng buồn tẻ, ủ rũ. Nhưng bác ta lại kêu lên ngay sau đó: - Ối trời ơi! Ngỗng trời! - Và cái cung trên vai bác kêu lên tách một cái. Bác quay lại với một con ngỗng béo mỡ màng. Trời đã quá muộn để nghĩ đến chuyện đi vào Harfang ngày hôm ấy. Họ có một bữa ăn nóng sốt, một đống lửa và hưởng một buổi tối ấm áp nhất trong suốt hơn một tuần qua. Đống lửa tàn dần, đêm càng lúc càng tê buốt và khi họ thức dậy vào sáng hôm sau, cái mền đắp của họ đã cứng cả lại vì sương giá.

- Không hề gì! - Jill nói, giậm giậm hai chân vào nhau. - Tối nay sẽ được tắm bồn nước nóng.

CHƯƠNG 7

 Trận đồ bát quái

Không thể nói khác được, ngày hôm ấy bắt đầu một cách tồi tệ. Trên đầu là một khoảng không vắng bóng mặt trời, mây cuộn lên thành từng đám, mỗi lúc một dày thêm vì tuyết, dưới chân sương móc đen thẫm mặt đất, mỗi khi có một cơn gió thổi qua bạn lại có cảm giác nó chỉ chực lột da bạn ra. Khi xuống dốc đi vào thung lũng, họ thấy nó là một phần của con đường xa cũ nhưng hoang tàn hơn bất cứ chỗ nào họ đã đi qua. Họ phải tìm đường qua những tảng đá lớn ngổn ngang, những ụ đá và đi ngang qua một bãi xà bần, con đường quá thô bạo khắc nghiệt đối với những đôi chân sưng tấy. Mặc dù họ đã kiệt sức nhưng trời lại quá lạnh để có thể dừng lại.

Vào khoảng 10 giờ sáng, bông tuyết nhỏ đầu tiên lơ lửng bay xuống đậu lên cánh tay Jill. Mười phút sau tuyết đã rơi rất đều. Hai mươi phút sau thì mặt đất đã có một cái áo khoác mới trắng tinh khôi. Thêm nửa giờ nữa những bông tuyết nom nhẹ nhàng là thế đã trở thành một cơn bão tuyết thật sự, một cơn bão xem ra sẽ kéo dài suốt cả ngày và cứ thổi táp vào mặt họ khiến họ không thể nhìn cái gì ra cái gì được nữa.

Để hiểu những điều xảy ra sau đó, xin bạn hãy ghi nhớ cho là hầu như họ không nhìn thấy gì. Khi họ đến gần ngọn đồi thấp đã chia cách họ với cái nơi mà họ nhìn thấy những cửa sổ sáng ánh đèn ngày hôm qua thì nói chung họ không thể nhìn được toàn cảnh. Bây giờ chỉ có một câu hỏi là cách mấy bước có thấy đường không. Dẫu là như vậy, bạn cũng phải căng mắt ra mà nhìn. Không cần nói chắc bạn cũng hiểu là họ chỉ lẳng lặng cúi đầu mà bước và không hề nói gì với nhau.

Khi tới chân đồi họ thoáng thấy một cái gì như là những tảng đá ở hai bên – những tảng đá hình vuông, nếu bạn nhìn thật kỹ, nhưng trong hoàn cảnh của ba vị khách của chúng ta thì còn ai có tâm trạng mà nhìn. Vấn đề làm họ quan tâm là những tảng đá này chắn ngang đường họ đi, cao khoảng gần mét rưỡi. Puddleglum với đôi chân dài ngoẵng chẳng gặp khó khăn gì trong việc nhảy lên trên đã giúp hai đứa trẻ trèo lên. Đó là một việc rầy rà và làm hai đứa trẻ ướt hết cả người nhưng lại không hề gì đối với Puddleglum bởi vì tuyết bây giờ đóng một lớp dày ở trên gờ tường đá. Sau đó, họ lại phải trèo lên một cái dốc rất cao – một lần Jill bị ngã – một quãng đường dài khoảng một trăm thước gồ ghề lổn nhổn đầy đá, rồi lại đến một bức tường đá thứ hai. Có tất cả bốn cái như thế, thật là một lối đi khác thường.

Sau khi họ đã nhọc nhằn qua được bốn chướng ngại đó thì không còn gì phải nghỉ ngơi nữa, bây giờ họ đã ở trên đỉnh một cái đồi bẹt. Cho đến lúc ấy, độ dốc của đồi còn che chắn cho họ ít nhiều, bây giờ họ hứng trọn cơn gió đang lồng lên như điên như dại. Không còn gì phải nghi ngờ nữa, họ đang ở trên đỉnh cái đồi bẹt. Bởi vì ngọn đồi – kì lạ thay, hình như bị một lưỡi dao khổng lồ phạt ngang một nhát tạo nên một khoảnh đất mặt bàn rất rộng nơi cơn bão thả sức tung hoành mà không có gì cản lại. Ở đây, tuyết khó mà nằm yên trên mặt đất được, gió cứ thổi liên tục, hất tuyết lên khỏi mặt đất thành từng phiến và từng đám như đám mây rồi tạt cả vào mặt khách bộ hành. Quanh đôi chân họ nhiều cuộn tuyết xoáy tròn chạy quẩn như bạn thỉnh thoảng vẫn thấy hiện tượng này ở sân băng. Mà thực vậy, ở nhiều nơi mặt tuyết gần như phẳng lặng như mặt băng. Nhưng ở đây, cứ như để cho mọi việc trăm phần tồi tệ hơn, mặt đất còn bị cắt dọc cắt ngang thành những bờ lũy hay giao thông hào kì lạ, chia quả đồi bị phạt ra thành những khối hình vuông và chữ nhật. Tất nhiên, họ buộc phải trèo qua những bờ giao thông này mà chúng thì to nhỏ khác nhau cao từ nửa mét đến gần hai mét, dày nhất thì đến đôi ba mét. Ở mạn bắc của những cái bờ này tuyết đã đóng dày và sau mỗi lần trèo lên bạn lại ngã oành oạch vào đống tuyết, thế là ướt sũng cả người.

Vật lộn để đi lên phía trước với cái mũ trùm dựng lên và cái đầu gục xuống, đôi bàn tay tê cứng thọc vào trong áo khoác Jill thoáng thấy những vật kì lạ trên cái vạt đất mặt bàn kinh khủng này – những thứ bên tay phải nó thì trông giống như ống khói nhà máy, bên trái thì nom như vách núi dễ sợ, dựng đứng hơn bất cứ vách núi nào. Nhưng nó không chú ý mà cũng chẳng mảy may có một ý nghĩ nào về chúng. Điều duy nhất có trong suy nghĩ của nó là đôi bàn tay tê cóng (và cái mũi, cái cằm, đôi tai buốt như kim châm) cùng bồn nước ấm và cái giường êm ái ở Harfang.

Đột nhiên nó vấp ngã, trượt đi khoảng hai mét rồi tuột xuống một cái rãnh rộng tối om om có vẻ như chỉ đến lúc ấy mới xuất hiện trước mặt nó – nửa giây sau nó đã rơi bịch xuống đáy. Hình như nó đang ở trong môt cái gì giống như cái hào hoặc cái rãnh chỉ rộng chưa đầy một mét. Mặc dầu bị đau sau cú trượt, gần như điều đầu tiên mà nó cảm nhận là một sự nhẹ nhõm vì đã thoát khỏi ngọn gió ác nghiệt, chả là thành hào cao quá đầu nó mà. Điều thứ hai nó nhận ra là khuôn mặt lo lắng của Lông Vịt và Puddleglum đang cúi xuống nhìn nó từ bên trên.

- Cậu có đau không Pole? – Lông Vịt la lớn.

- Chắc là gãy cả hai chân thôi, còn gì phải nghi ngờ nữa. – Puddleglum hét vọng xuống.

Jill đứng lên giải thích là nó không việc gì hết, nhưng hai người vẫn muốn kéo nó lên.

- Cậu ngã xuống cái gì vậy? – Lông Vịt hỏi.

- Một loại giao thông hào, hoặc có thể là một cái rãnh hoặc cái gì đại loại như thế. – Jill đáp. Này, cái rãnh này chặt thẳng ngay phía trước.

- Phải, lạy thần Jupite. – Lông Vịt kêu ầm lên, - nó chạy thẳng về phía bắc. – Không biết đó có phải là một loại đường đi hay không? Nếu là thế thì chúng ta có thể tránh được ngọn gió quỷ quái khi ở dưới hào. Dưới đấy có nhiều tuyết không?

- Ít lắm. Tuyết đã bị thổi thốc lên trên, tớ nghĩ thế.

- Cái gì ở chỗ đằng kia?

- Chờ chút. Để tớ chạy lại coi thử. – Jil đứng lên, chạy dọc theo con hào, nhưng trước khi đi được một đoạn, con hào đột ngột rẽ ngoặt sang phải. Nó la lên thông báo cho hai người kia về thông tin này.

- Cái gì ở khúc quẹo kia? – Lông Vịt hỏi.

Bây giờ gần như Jill phải lấy tay quờ quạng tìm đường đi trong con đường ngoắt ngoéo và tối om om phía dưới – hoặc gần như ở trong lòng đất – trong khi Lông Vịt đi theo gờ vách đá. Nó không có ý định một mình đi quanh các góc như thế nhất là khi nó nghe Puddleglum luôn miệng kêu oang oác sau lưng nó: 

- Này cẩn thận đấy Pole! Ở nơi như thế này con đường dám dẫn đến một cái hang rồng lắm đấy. Trên xứ sở của bọn khổng lồ có thể có những con giun đất khổng lồ hoặc con bọ cánh cứng khổng lồ.

- Tớ không nghĩ là nó dẫn đến bất cứ đâu. – Jill nói, vội vã quay trở lại.

- Tớ lại rất muốn xem qua một cái. – Lông Vịt nói. – Ý cậu muốn nói gì khi bảo không dẫn đến đâu, tớ muốn thử xem, có được không?

Nói rồi nó ngồi xuống miệng hào (những kẻ đã ướt sũng cả người rồi cũng không màng đến chuyện bị ướt thêm một chút nữa) và nhảy phắt xuống dưới. Nó đẩy Jill sang một bên để đi qua, dù nó không nói gì, Jill biết rõ là nó nghĩ Jill đang sợ. Thế là con bé đi theo bạn, nhưng cẩn thận không đi trước.

Tuy vậy, tất cả đã chứng minh đây là một khám phá vô ích. Chúng rẽ sang bên tay phải rồi đi thẳng được vài bước. Đến đây lại phải có sự lựa chọn, đi thẳng hay quẹo sang phải.

- Chẳng được tích sự gì, Lông Vịt nói, liếc nhìn lối rẽ bên tay phải. Nó lại đưa chúng ta trở về chỗ cũ – về phía nam thôi. Thằng bé tiếp tục đi thẳng nhưng một lần nữa, chỉ mới đi được vài bước chúng lại thấy một lối rẽ sang phải. Nhưng đến đây thì không còn sự lựa chọn nào nữa bởi vì đường giao thông hào chúng đi theo đến đây đã dẫn đến lối cụt.

- Chẳng được cái quái gì. – Lông Vịt càu nhàu. Jill không mất thời gian quay lại chỗ cũ vì Puddleglum với đôi tay dài nghêu không gặp khó khăn gì trong việc kéo hai đứa lên.

Nhưng lên trên đó có khác gì bị tra tấn. Ở dưới hào kín gió, đôi tai chúng đã ấm lên, chúng có thể nhìn rõ ràng, nghe dễ dàng và nói với nhau mà không cần phải hét đến vỡ họng. Thật đau khổ khi lại phải trèo lên mặt đất hứng lấy ngọn gió rét buốt không biết thương xót là gì. Mọi chuyện còn tồi tệ hơn khi Puddleglum chọn đúng lúc này để nói:

- Cháu vẫn còn nhớ rõ những dấu hiệu chứ, Pole? Bây giờ chúng ta phải làm theo lời chỉ dẫn nào đây?

- Ôi thôi, dẹp cái bài học chán ốm người đi. – Pole nói. – Một cái gì về một ai đó đề cập đến cái tên Aslan, cháu cho là thế. Nhưng cháu đang mệt muốn chết và không muốn nhớ một cái gì ở đây hết.

Như bạn đã thấy, nó đã làm sai thứ tự chỉ dẫn. Đó là vì nó đã thôi không ôn lại các dấu hiệu trước khi đi ngủ. Nó vẫn biết rõ những điều ấy nhưng nó đã thôi không nhắc lại với mục đích để chắc chắn là những điều đó không bị đảo lộn thứ tự vào đúng lúc cần đến mà không cần nghĩ ngợi. Câu hỏi của Puddleglum làm phiền nó bởi vì trong thâm tâm nó vẫn thường áy náy vì đã không biết rõ bài học của Aslan ở cái mức độ như nó cần phải biết. Sự bực dọc này cùng với nỗi khốn đốn vì lạnh và mệt khiến nó cất tiếng kêu ca:

- Chán mớ đời mấy cái bài học này.

Trong thâm tâm, nó không hề có ý muốn nói thế.

- Vậy, điều tiếp theo là gì? – Puddleglum gặng hỏi. – Không biết các cháu có nhớ không? Chắc lẫn lộn hết rồi. Đối với tôi, cái đồi này, cái miếng đất bằng chằn chặn mà chúng ta đang đứng dường như là một nơi đáng dừng lại để xem xét. Các cháu có nhận thấy...

- Trời đất ơi! – Lông Vịt kêu ầm lên. – Dừng lại ngắm cảnh vào lúc này ư? Vì Chúa, ta hãy đi tiếp thôi!

- Này nhìn kìa! Nhìn kìa! – Giọng Jill bỗng rít lên và nó giơ tay chỉ. Mọi người quay lại, trông thấy: chếch về phía bắc một chút, cao hơn hẳn cái ngọn đồi bằng phẳng mà họ đang đứng, một dãy ánh đèn xuất hiện. Lần này cảnh vật còn hiện rõ trước mắt các du khách hơn là đêm hôm trước: đây là những ô cửa – những ô cửa sổ nhỏ làm cho người ta nghĩ đến những phòng ngủ thân thương; những ô cửa sổ lớn làm người ta nghĩ đến những đại sảnh ấm cúng với ngọn lửa reo vui trong lò sưởi, súp nóng hoặc món thịt thăn bò rưới nước sốt bốc khói đặt trên bàn.

- Ái chà, Harfang yêu dấu! – Lông Vịt kêu lên.

- Tất cả đều rất tốt. – Puddleglum nói. – Nhưng điều mà tôi muốn nói là...

- Thôi im đi! – Jill nổi cáu. – Chúng ta không được lãng phí một phút nào. Ông không nhớ rằng thiếu nữ Áo Xanh đã nói người ta đóng cửa thành sớm hay sao? Chúng ta phải đến đúng lúc, nhất định là phải thế. Tất cả chúng ta sẽ chết mất nếu bị bỏ lại bên ngoài trong một đêm như thế này.

- Nhưng bây giờ còn chưa phải là đêm. – Puddleglum bắt đầu.

Nhưng cả hai đứa đều kiên quyết nói:

- Đi thôi.

Hai đứa hấp tấp đi trên mặt đất trơn trượt, cứ như chúng sợ để mất đi dù chỉ một phút. Puddleglum đành tặc lưỡi đi theo vừa đi vừa lẩm bẩm một câu gì đó. Lúc này họ buộc phải đi ngược gió và bọn trẻ không nghe thấy bác ta nói gì dù có muốn đi chăng nữa. Mà chúng thì không muốn nghe. Chúng chỉ nghĩ đến bồn nước ấm, một cái gì nong nóng để uống vào bụng, cái giường êm ái, cái ý nghĩ nóng bỏng nếu đến Harfang trễ sẽ bị nhốt bên ngoài... Ôi thật là một điều gần như quá sức chịu đựng của con người.

Dù họ vội vã thế nào đi nữa, việc đi qua quả đồi phạt ngọn rộng lớn này cũng mất nhiều thời gian. Thậm chí sau khi đã vượt qua rồi vẫn còn phải trèo xuống nhiều bậc đá ở sườn đồi bên kia. Nhưng cuối cùng họ cũng xuống được dưới đất và có thể thấy Harfang như thế nào.

Nó tọa lạc trên một ngọn núi cao mặc dù nhiều ngọn tháp của nó giống một ngôi nhà hơn là một tháp canh lâu đài. Rõ ràng những người khổng lồ “dễ thương” không sợ bị tấn công. Nhiều cửa sổ trổ trên bức tường bao bên ngoài không cao lắm – một điều mà không ai làm trong một pháo đài thực sự. Nhiều cửa ra vào trổ lung tung – một điều thật không cần thiết vì thế người ta có thể dễ dàng đi vào đi ra mà không cần qua cổng chính.

Những gì chứng kiến khiến hai đứa trẻ phấn khởi hẳn lên, chúng thấy nơi này thân thiện hơn, chẳng có vẻ gì đáng sợ. Đầu tiên chiều cao và độ dốc của ngọn núi làm cho cả bọn chùn bước, hoảng hồn, nhưng dần dần chúng nhận thấy một lối đi dễ dàng hơn ở bên tay trái và con đường họ đi cũng đánh vòng sang phía ấy. Đó là một cuộc leo dốc khó khăn nhất sau chuyến đi gian khổ trong ngày, đôi chân Jill không tuân lệnh nó nữa. Hai người kia đã phải dìu nó đi tiếp một trăm mét cuối cùng.

Rồi họ cũng đứng trước cổng thành. Khung lưới sắt được kéo lên và cánh cổng mở ra.

Dù có còn hơi sức hay không, thì bạn cũng cần phải có đủ can đảm để bước tới gần cánh cổng của những người khổng lồ. Mặc cho tất cả những dự đoán đen tối về Harfang, hóa ra Puddleglum vẫn là người gan dạ nhất.

- Đi đều bước. Dù cảm thấy thế nào thì cũng đừng vác bộ mặt sợ hãi như thế. Chúng ta đã làm một việc ngu xuẩn nhất đời là dẫn xác đến đây. Nhưng một khi đã ở đây, điều tốt nhất có thể làm là cứ thản nhiên bước tới.

Với những lời lẽ như thế, Puddleglum sải bước đi qua cổng, cố ý đứng dưới mái che nơi giọng nói của bác có thể vọng ra xa và kêu tên một cách oai vệ:

- Bớ anh gác cổng. Có khách đến tá túc qua đêm đây!

Trong lúc đứng đợi xem có gì xảy ra không bác gỡ cái mũ ra, đập đập để đám tuyết đọng trên vành mũ rộng rơi xuống.

- Tớ bảo này, - Lông Vịt thì thào với Jill, - ông ta có thể chỉ là cái mền ướt nhưng gan dạ và táo bạo ra phết.

Cửa mở, để lọt ra ngoài ánh sáng mê li của một bếp lửa đỏ và người gác cổng hiện ra. Jill cắn chặt môi vì sợ nó sẽ hét ầm lên. Có thể đó còn chưa phải là người khổng lồ bự con nhất. Bạn hãy hình dung thế này: ông ta cao hơn một cây táo nhưng không phải cái kiểu cao kều như một cái cột điện. Mái tóc đỏ rực cứng quèo, cái áo chẽn bằng da có những mảnh kim loại ép chặt làm cho nó có vẻ là một cái áo giáp, đầu gối để trần đầy lông lá và một cái gì trông như bột mattít ở đôi chân. Người này cúi lom khom, trợn trừng mắt nhìn Puddleglum.

- Các người là giống vật gì vậy?

Jill lấy hết can đảm, nắm chặt hai bàn tay lại rồi ngửa cổ kêu lớn với người khổng lồ:

- Thưa ông... thiếu nữ Áo Xanh gửi lời chào đến đại vương ở Harfang và gửi đến đây hai đứa trẻ miền Nam dễ thương chúng tôi và một người vùng đầm lầy... tên bác ấy là Puddleglum, để dự lễ hội mùa thu. Nếu việc này không có gì trở ngại... tất nhiên. – Nó nói thêm.

- Ô hô, - người gác cổng đáp, - thế thì lại là chuyện khác. Vào đi, những người tí hon, vào đi. Tốt nhất là các người hãy vào phòng chờ trong khi ta báo cáo lên đại vương. – Người này cúi xuống nhìn bọn trẻ lần nữa với đôi mắt hiếu kì: - Mặt xanh bủng, mình không biết là mặt người lại có cái màu này đấy. Nhưng quan tâm đến làm gì. Mình dám nói là bọn chúng nhìn nhau lại thấy vừa mắt. Thì người ta chả nói, ong lại thích ong là gì.

- Mặt chúng tôi tái xanh chỉ vì lạnh đấy thôi. – Jill nói. – Bình thường mặt chúng tôi không có cái màu này đâu.

- Vậy thì mời vào đây sưởi ấm. Vào đi những con tôm bé nhỏ! – Người gác cổng nói.

Cả bọn đi theo người này vào phòng chờ. Mặc dầu vậy họ vẫn giật thót cả người khi nghe tiếng cánh cửa khổng lồ đóng sập lại sau lưng. Nhưng họ lập tức quên ngay điều đó khi nhìn thấy cái mà họ ao ước suốt từ bữa tối hôm qua – một bếp lửa mà đây lại là một bếp lửa khổng lồ. Trông có đến bốn hoặc năm cây gỗ lớn cháy rừng rực trong lò, tỏa ra một làn hơi nóng đến nỗi họ không thể đến quá gần. Ba người ngồi phịch xuống sàn gạch, đủ gần bếp lửa để họ có thể chịu được hơi nóng của nó táp lên người và thở ra những hơi dài khoan khoái.

- Này anh bạn trẻ, - người gác cổng nói với một người khổng lồ khác đang ngồi ở góc nhà, trợn trừng mắt nhìn những vị khách bất ngờ, hai con ngươi to tướng như muốn lọt ra khỏi tròng, - chạy ngay đến chỗ đại vương báo cáo lại điều này.

Rồi ông ta lặp lại những lời Jill đã nói với mình. Người khổng lồ trẻ hơn cúi xuống ném ra một cái nhìn thóc mách thêm một lần nữa rồi cất tiếng cười hô hố vang dội làm khách dúm người lại. Nhưng rồi hắn cũng bỏ đi.

- Này, con ếch kia, - người gác cổng nói với Puddleglum, - trông ngươi giống như thể muốn có một cái gì lên dây cót hả? – Ông ta lấy ra một cái chai đen cao gần bằng Puddleglum nhưng 20 lần to hơn.

- Để coi xem nào, để coi xem nào! – Người gác cổng lẩm bẩm. – Ta không thể đưa ra một cái ly vì ngươi có thể chết đuối trong đó. Để coi xem. Cái nắp lọ tiêu có thể thích hợp đây. Vào trong kia ngươi không được hé răng ra nghe chưa? Cái chất bạc này cứ để mãi ở đây và đấy không phải là lỗi của ta.

Nắp lọ tiêu không giống như nắp lọ tiêu ở ta, nó hẹp hơn và thẳng đứng làm thành một cái chén uống rượu rất thích hợp với Puddleglum khi người gác cổng đặt nó xuống sàn cạnh bác ta. Bọn trẻ cho rằng Puddleglum sẽ từ chối vì bác chả luôn miệng nói ra những lời nghi ngờ người khổng lồ là gì. Nhưng bác ta lại làu bàu:

- Quá trễ để nghĩ đến việc phòng bị, bây giờ đằng nào chúng ta cũng chui vào đây rồi và cánh cửa đã sập lại sau lưng.

Sau đó bác ta nhấp một chút: “Mùi khá lắm, - bác nói, - nhưng chả bõ bèn gì. Cần phải biết chắc chứ.” Bác ta làm luôn một ngụm lớn: “Vị được lắm, nhưng đây mới chỉ là ngụm đầu tiên. Tiếp tục thì sao? – Bác uống một ngụm to hơn. – Ái chà, cũng có cảm giác như thế trên đường đi xuống. Lại một ngụm nữa. Nếu có gì nhộn nhạo ở dưới đáy thì tôi chẳng lấy gì làm ngạc nhiên đâu.” – Và bác ta ngửa cổ dốc hết chỗ rượu vào họng. Bác liếm môi, nói với bọn trẻ:

- Kể cũng đáng thử một phen. Nếu tôi có bị cong lại, bị cháy, bị biến thành thằn lằn hoặc một cái gì đó thì các cháu sẽ biết đường mà từ chối bất cứ cái gì mà người khác mời mình. Nhưng người khổng lồ ngồi quá cao để nghe được những lời Puddleglum lẩm nhẩm trong miệng, ông ta cứ cười khà khà một cách thích chí rồi nói với cái giọng ông ổng:

- Ôi con ếch, ngươi cũng thuộc giống người à? Xem ngươi nói kìa!

- Không hẳn... là một con người... mà là một cư dân vùng đầm lầy, - Puddleglum nói với giọng nhừa nhựa, - không... không phải con ếch luôn... mà là một cư dân vùng đầm lầy.

Đúng lúc ấy cánh cửa mở ra, người khổng lồ trẻ hơn bước vào nói: 

- Đưa họ vào chính điện ngay.

Bọn trẻ con đứng dậy, nhưng Puddleglum vẫn ngồi dưới sàn lải nhải:

- Cư dân vùng đầm lầy, cư dân vùng đầm lầy. Rất đáng trọng... đáng trọng.

- Chỉ đường cho bọn họ đi, anh bạn trẻ. – Người gác cổng nói. – Cậu mang người ếch này đi thì tốt hơn. Hắn vừa làm một giọt, chỉ tốt cho hắn thôi.

- Không... có gì... là không ổn với tôi. – Puddleglum nói. – Không phải là ếch... không ếch iếc gì có... liên quan đến tôi. Tôi là một...

Nhưng người khổng lồ trẻ hơn đã tóm lấy lưng bác ta nhón lên và ra hiệu cho hai đứa trẻ đi theo mình. Bằng một cách thức chẳng lấy gì làm vẻ vang như vậy, họ đi ngang qua sàn lâu đài. Puddleglum bị kẹp trong hai ngón tay người khổng lồ giãy giụa một cách vô vọng và lúc này trông bác ta quả có giống một con ếch thật. Nhưng hai đứa không có thời gian để ý đến chuyện đó bởi vì chẳng bao lâu sau họ đã đi vào một cái cửa vĩ đại ở tòa nhà chính – tim hai đứa đập rộn lên như trống đánh và sau khi lật đật chạy qua mấy dãy hành lang, mỗi lúc một gắng sức hơn để theo kịp bước đi của người khổng lồ, đôi mắt chúng hấp háy trước ánh sáng rực rỡ trong một căn phòng thênh thang, nơi các ngọn đèn rực sáng và lửa hừng hực trong lò sưởi, cả hai nguồn sáng ấy đều phản chiếu lên trần nhà và các gờ thếp vàng lộng lẫy. Có nhiều người khổng lồ hơn là họ có thể đếm; tất cả đều mặc những bộ đồng phục lộng lẫy, đứng thành hai hàng, bên phải và bên trái. Trên hai cái ngai vàng ở tít đầu kia căn phòng, có hai thân hình cao to lừng lững, chắc đó là vua và hoàng hậu.

Đến trước ngai vàng chừng 5, 6 mét thì họ dừng lại. Lông Vịt và Jill làm một cố gắng vụng về để cúi chào (bọn con gái không được dạy chào nhún gối trong trường Thực nghiệm) và người khổng lồ cẩn thận đặt Puddleglum xuống sàn. Ở đó bác đổ sụp xuống trong một tư thế ngồi chồm hổm. Với tứ chi dài lòng thòng, thật thà mà nói, trông bác ta giống một con nhện khổng lồ một cách kì lạ...

CHƯƠNG 8

 Trong lâu đài của người khổng lồ

- Này Po le, cậu phải nói gì đi chứ? – Lông Vịt thì thầm.

Jill cảm thấy cổ họng mình khô khốc và nó không thể phát ra được tiếng nào. Nó chỉ gật đầu lơ đãng với Lông Vịt.

Nghĩ rằng mình sẽ không bao giờ tha thứ cho bạn (hoặc Puddleglum), Lông Vịt liếm môi, lấy hết sức nói thật to với vua khổng lồ:

- Muôn tâu bệ hạ, thiếu nữ Áo Xanh nhờ chúng tôi chuyển lời chào đến bệ hạ và hi vọng rằng bệ hạ có thể sẽ mời chúng tôi ở lại đây dự lễ hội mùa thu.

Vua và hoàng hậu nhìn nhau, mỉm cười theo cái cách mà Jill không thích chút nào. Nó thấy nhà vua còn dễ mến hơn hoàng hậu. Ông có một bộ râu rất đẹp, quăn quăn, cái mũi thẳng như mũi diều hâu và trông ông có cái vẻ của một người khổng lồ tốt bụng. Hoàng hậu là một người khổng lồ phì nộn, cái cằm xệ xuống che lấp cả cổ và hai má chảy xuống thành túi thịt – như vậy bà không thể là một người dễ coi vào thời xuân sắc. Còn bây giờ khi bà mười lần to béo hơn thì trông bà rất khó coi. Chợt vua thè lưỡi ra liếm môi. Ai cũng có thể làm như vậy. Nhưng eo ơi lưỡi của ông vừa to vừa đỏ lại thò ra ngoài một cách bất ngờ làm cho con bé sợ khiếp vía.

- Ôi những đứa bé ngoan! – Hoàng hậu nói. (Có lẽ suy cho cùng bà ấy cũng là một người dễ chịu, Jill nghĩ.)

- Phải, đúng là như thế. – Vua phán. – Những đứa trẻ phi thường. Chào mừng các cháu đã đến triều đình của ta. Đưa tay cho ta nào.

Ông chìa bàn tay phải vĩ đại của mình ra – một bàn tay sạch sẽ với mấy cái nhẫn trên ngón tay, nhưng lại có những chiếc móng nhọn hoắt, kinh khủng. Bàn tay quá đồ sộ để bắt tay một đứa trẻ đang giơ lên cho ông, thay vì thế ông cắm cả cánh tay chúng lắc lắc.

- Vật gì thế này? – Vua trỏ vào Puddleglum.

- Một cư dân đáng kính vùng đầm lầy, thưa bệ hạ. – Puddleglum nói.

- Ối trời ơi! – Hoàng hậu kêu thét lên, kéo cái váy lên mắt cá chân. – Một vật kinh tởm! Nó còn sống.

- Bác ấy không sao đâu, thưa hoàng hậu. – Lông Vịt hấp tấp nói. – Hoàng hậu sẽ mến bác ấy hơn khi đã biết về bác ấy. Cháu biết chắc là như thế.

Tôi hi vọng bạn không mất cảm tình với cô bạn Jill trong phần còn lại của cuốn truyện này, nếu tôi kể với bạn là đúng lúc ấy nó bỗng bật khóc. Cũng có nhiều lí do để biện minh: chân, tay, tai và mũi nó đã bắt đầu nóng ran lên, hôm qua nó chưa được ăn gì, đôi chân nhức nỗi nó cảm thấy khó mà đứng lâu hơn được nữa. Dù sao thì những giọt nước mắt lúc ấy cũng làm được một việc tốt hơn bất cứ điều gì khác bởi vì hoàng hậu đã nói:

- Ôi cô bé đáng thương! Hoàng thượng, chúng ta đã làm một việc không đúng là để cho khách đứng lâu như vậy. Nhanh lên, các ngươi! Hãy đưa họ đi. Đem đến cho họ thức ăn, đồ uống và chuẩn bị sẵn một bồn nước nóng nghe chưa. Hãy chăm sóc cô bé. Mang đến cho cô bé kẹo que, búp bê, thuốc, bất cứ cái gì con cần, con gái ạ – sữa nóng pha với rượu và hương liệu, kẹo trứng chim, hoa carum, bài hát ru và đồ chơi. Đừng khóc nữa cô bé, không thì con không có bụng dạ nào ăn bất cứ món gì dọn ra trong bữa tối đâu.

Jill cảm thấy xấu hổ như tôi và bạn cũng có thể thấy như vậy khi nghe nói đến đồ chơi và búp bê và mặc dầu kẹo que, kẹo chứng chim có thể là những món hấp dẫn theo cách của nó, Jill thầm hi vọng là có một cái gì đó “người lớn” hơn được nêu ra. Tuy vậy, lời lẽ ngớ ngẩn của hoàng hậu đem đến một kết quả tuyệt vời vì Puddleglum và Lông Vịt lập tức được những thị đồng dẫn đi còn Jill thì được một thị nữ đưa về phòng.

Căn phòng của Jill có diện tích bằng một nhà thờ và hẳn sẽ tối om nếu trong phòng không có một lò sưởi to tướng đang cháy rừng rực và những tấm thảm dày chình chịch màu đỏ rực lót dưới sàn. Những điều thú vị bắt đầu lần lượt xảy ra. Nó được giao tận tay cho người nhũ mẫu già của hoàng hậu, một người theo tiêu chuẩn của người khổng lồ là một bà già bé nhỏ, thân hình già nua gần như bị gập đôi lại vì tuổi tác, còn theo quan điểm của những người bình thường thì là một nữ khổng lồ đủ thấp để khi vào một căn phòng cao mà không bị cụng đầu vào trần nhà. Bà già rất được dù Jill thật lòng mong muốn bà đừng có tặc lưỡi liên tục và nói những câu như thế này: “Ối la la! Đây là một hoa cúc!” và: “Đây là một con vịt!” Hoặc: “Rồi chúng ta sẽ ổn thôi, cô bé thân yêu ạ”.

Bà già đổ đầy bồn tắm một thứ nước âm ấm dễ chịu rồi giúp nó trèo vào trong. Nếu bạn biết bơi (như Jill) thì bồn tắm của người khổng lồ có thể được gọi là một bể bơi cỡ nhỏ. Khăn tắm của họ mặc dù thô và cứng cũng rất được việc. Trong thực tế bạn không cần phải làm động tác lau khô người mà chỉ cần quấn quanh người rồi lại bên lò sưởi ngồi tận hưởng cảm giác khoan khoái sau khi tắm nước nóng và nhìn ngọn lửa reo vui trong lò sưởi. Sau khi mọi việc đã đâu vào đấy, Jill mặc bộ quần áo sạch sẽ, mới tinh và ấm áp lên người. Một bộ đồ thật đẹp có hơi rộng so với nó nhưng rõ ràng là được may cho người bình thường chứ không phải cho người khổng lồ. “Mình cho rằng nếu cô gái mặc váy xanh kia cũng hay đến đây thì họ vẫn thường có những vị khách như chúng ta.” – Jill nghĩ.

Ngay sau đó nó nhận thấy mình đã đúng ở điểm này. Trong phòng có một cái bàn, một cái ghế vừa cỡ cho một người bình thường dọn ra cho nó; dao, nĩa và muỗng cũng có kích thước phù hợp với một người bình thường. Thật vui sướng khi được ngồi vào bàn và có cảm giác toàn thân mình vừa ấm áp vừa sạch sẽ. Đôi bàn chân nó vẫn còn đau nhức nhưng có dịu đi khi được đi chân trần trên thảm. Khi đặt chân xuống, lớp thảm dày trùm lên cả mắt cá chân tạo cảm giác ve vuốt đối với đôi chân đi bộ đã nhiều ngày. Bữa ăn – tôi cho rằng, chúng ta phải gọi là bữa tối mặc dù khá gần với bữa tiệc trà gồm có súp gà và tỏi tây, gà tây nướng nóng hổi, bánh putđinh bốc khói, hạt dẻ rang và trái cây thì còn phải nói, cứ việc chén thỏa sức.

Điều phiền toái duy nhất là bà nhũ mẫu cứ đi vào đi ra liên tục, mỗi lần đi vào bà lại mang theo một món đồ chơi to đùng – một con búp bê bự sư, còn to hơn cả Jill, một con ngựa gỗ có bánh xe, kích thước chắc cũng bằng con voi con, một cái trống to bằng cái thùng và một con cừu nhồi bông cỡ đại. Những món đồ chơi thô thiển, vụng về, sơn xanh sơn đỏ lòe loẹt trong rất nghịch mắt. Jill nhắc đi nhắc lại là mình không cần những món này nhưng nhũ mẫu cứ khăng khăng:

- Tút tút tút tút. Cháu sẽ cần tất cả những món đồ này sau khi nghỉ ngơi một lát, bà biết mà. Te he he! Bai, cháu nhé… Một con bé quý hóa quá đi. Hi hi hi!

Cái giường không phải là dành cho một người khổng lồ, chỉ to bằng bốn tờ áp phích mà bạn thấy dán ở những khách sạn kiểu cũ, trông nhỏ tí trong một căn phòng rộng mênh mông. Nó thật sung sướng khi được nhảy lên giường.

- Tuyết vẫn còn rơi phải không nhũ mẫu ơi? – Nó hỏi giọng ngái ngủ.

- Không. Bây giờ thì chỉ còn mưa thôi, con vịt yêu quý ạ! – Bà khổng lồ già nói. – Mưa sẽ quét đi lớp tuyết dơ bẩn. Bé yêu quý báu có thể ra ngoài chơi nhởn vào ngày mai!

Bà hôn nó đánh chụt một cái rồi đi ra ngoài sau khi đã chúc nó ngủ ngon.

Tôi nghĩ được một người khổng lồ hôn chẳng phải là điều thú vị, Jill cũng nghĩ như thế nhưng chỉ 5 phút sau nó đã ngủ không còn biết trời trăng gì nữa.

Cơn mưa dai dẳng suốt buổi tối, suốt cả đêm, tạt vào cửa kính tòa lâu đài, nhưng Jill không hề hay biết gì, cứ ngủ li bì qua giờ ăn khuya, qua cả giấc nửa đêm. Rồi đến cái thời khắc đáng sợ nhất trong đêm khi không có cái gì động đậy trừ vài con chuột trong lâu đài. Đúng lúc ấy Jill có một giấc mơ. Hình như nó thức dậy trong chính căn phòng này, ngọn lửa trong lò thấy đượm hơn, đỏ rực những hòn than và trong ánh lửa nó thấy một con ngựa gỗ khổng lồ. Con ngựa lăn trên bánh xe chạy khắp gian phòng rộng rồi dừng lại ngang với đầu con bé. Nhưng bây giờ thì không phải là một con ngựa nữa mà là một con sư tử cũng to lớn như con ngựa. Rồi, nó lại không phải là con sư tử gỗ mà là sư tử thật, là sư tử nó đã gặp trên ngọn núi ở bên ngoài đầu kia thế giới. Và một mùi thơm tổng hợp của tất cả các loại hương thơm trên đời tràn vào phòng. Nhưng có một cái gì đó không ổn trong tâm trí nó, mặc dù nó chịu không nghĩ ra được đó là cái gì và nước mắt chảy giàn giụa trên má nó, làm ướt cả gối. Sư tử bảo nó lặp lại những dấu hiệu, nhưng nó thấy đầu óc mình rỗng không. Cuối cùng một nỗi kinh hoàng xâm chiếm trùm lên nhấn chìm nó xuống. Aslan quắp nó vào trong những cái móng của mình (nó có thể cảm thấy đôi môi và hơi thở của ông nhưng không thấy răng) đưa nó đến bên cửa sổ, buộc nó phải nhìn ra ngoài. Trăng sáng vằng vặc, một dòng chữ hiện lên, chạy ngang thế giới hay ngang trời thì nó cũng không rõ nữa, hàng chữ viết BÊN PHÍA DƯỚI TÔI. Sau đó giấc mơ tan dần và khi nó tỉnh giấc vào nửa buổi sáng hôm sau nó không nhớ được gì về giấc mơ đó.

Nó trở dậy, thay đồ và ăn điểm tâm trước lò sưởi, vừa ăn xong thì nhũ mẫu mở cửa bước vào nói:

- Đây, những người bạn của bé con đến chơi với cháu đây.

Đó là Lông Vịt và Puddleglum.

- Ôi! Chào buổi sáng. – Jill nói. – Vui quá hả? Tớ đã ngủ suốt 15 tiếng đồng hồ. Tớ cảm thấy tuyệt lắm. Còn cậu?

- Tớ cũng thế nhưng Puddleglum bảo ông ấy bị nhức đầu. Ái chà, cửa sổ của cậu có một cái ghế. Nếu chúng tớ có một cái như thế thì đã có thể đứng lên nhìn ra ngoài.

Cả bọn đứng lên ghế nhìn, ngay sau đó Jill kêu lên:

- Ôi thôi chết chắc rồi!

Mặt trời chiếu sáng rực rỡ và trừ một hai đống tuyết ùn lên, phần lớn tuyết đã được quét sạch bởi trận mưa chiều tối và đêm qua. Phía dưới họ, trải ra như một tấm bản đồ là cái ngọn đồi bị phạt đỉnh mà họ khó khăn lắm mới vượt qua được vào chiều ngày hôm qua. Đứng từ đây nhìn lại không thể nhầm nó với bất cứ cái gì ngoài đống tàn tích của một thành phố khổng lồ. Một vùng bằng phẳng mà đến lúc này Jill mới xác định rõ là bởi vì nó được san bằng và được lát đá mặc dầu ở rất nhiều chỗ mặt đá lát đã bị vỡ vụn. Những cái gờ chữ chỉ còn lại trong các bức tường của tòa nhà lớn có thể đã từng là lâu đài hoặc đền đài của những người khổng lồ. Một mảng tường vĩ đại cao chừng 150 mét vẫn còn đứng vững – chính là cái mà Jill từng nghĩ là một vách núi. Vật trông giống ống khói nhà máy thì là những cây cột chống đồ sộ, chỉ có điều chúng cũng bị phạt ngọn nhưng ở những độ cao khác nhau; mảnh vỡ của chúng nằm ngay dưới chân trông như những thân cây đổ của một núi đá kì quái. Những cái gờ mà họ đã trèo xuống ở mặt phía bắc và cả những cái gờ mà họ đã trèo lên ở mặt phía nam – không còn nghi ngờ gì nữa – chính là những gì còn lại của những bậc thềm khổng lồ. Và kia là những con chữ lớn màu đen chạy ngang suốt chiều dài cái sàn tạo thành dòng chữ: TA.

Cả ba nhìn nhau, thất vọng và sau một cái huýt sáo ngắn ngủi Lông Vịt nói cái điều mà cả bọn đều nghĩ: dấu hiệu thứ hai và thứ ba đã bị bỏ qua. Cũng lúc ấy giấc mơ của Jill hiện lên trong đầu nó.

- Đó là lỗi của tôi. – Nó nói, giọng đau khổ. – Tôi… tôi đã thôi không nhắc lại các dấu hiệu vào lúc đi ngủ. Nếu trong đầu tôi lúc nào cũng có điều ấy, hẳn tôi đã biết ngay đó là thành phố, dù nó có bị lấp dưới tuyết cũng vậy.

- Tôi mới thật là tệ. – Puddleglum nói. – Tôi đã thấy, hoặc gần như là thế. Thực lòng tôi đã nghĩ sao nơi này giống một thành phố hoang tàn đến thế…

- Bác là người duy nhất không có lỗi trong chuyện này. – Lông Vịt nói. – Bác đã cố ngăn chúng cháu lại.

- Nhưng lại không cố làm đến cùng. Tôi đã không có quyết tâm để làm thế. Đáng lẽ tôi đã phải làm thế. Đâu phải tôi không ngăn nổi các cháu bằng cách mỗi tay nắm lấy một đứa kéo lại.

- Sự thật là, - Lông Vịt nói, - chúng cháu chỉ nghĩ đến mỗi một điều là làm sao mau mau chóng chóng đến nơi có giường êm nệm ấm mà không nghĩ đến bất cứ một điều gì khác. Ít nhất thì với cháu là như vậy. Kể từ lúc gặp người đàn bà đi cùng với người hiệp sĩ câm lặng ấy, chúng cháu chẳng nghĩ được chuyện gì khác. Gần như chúng cháu đã quên mất hoàng tử Rilian.

- Tôi sẽ không ngạc nhiên đâu nếu đó chính là mục đích của cô ả.

- Có một điều cháu chưa thật hiểu, - Jill lên tiếng, - đó là tại sao chúng ta lại không thấy dòng chữ kia? Hay là nó chỉ mới hiện lên vào đêm hôm qua? Có thể nào ông – Aslan – đã viết nó vào ban đêm? Cháu có một giấc mơ kì lạ. – Và nó kể cho mọi người nghe về giấc mơ đêm qua.

- Cái gì, cậu thật ngốc. – Lông Vịt kêu lên. – Chúng ta đã thấy. Chúng ta đã nhảy vào trong những cái chữ ấy. Chúng ta nhảy xuống chữ A trong chữ TA. Đó là cái rãnh mà cậu rơi xuống. Chúng ta đã đi quanh quẩn trong đó về hướng bắc rồi quẹo sang phải và đi thẳng rồi cứ đi như vậy sang con chữ khác… thật ngu hết chỗ nói!

Lông Vịt đấm mạnh vào cửa sổ, nói tiếp:

- Như thế không tốt đâu, Pole. Tớ biết cậu đang nghĩ gì, bởi vì chính tớ cũng đang nghĩ thế. Cậu đang nghĩ sẽ tốt làm sao nếu Aslan viết những lời chỉ thị trên những phiến đá ở thành phố đổ nát sau khi chúng ta đã đi qua. Như thế sẽ là lỗi của ông chứ không phải là lỗi của chúng ta. Có phải thế không? Không! Chúng ta phải thừa nhận lỗi lầm của mình. Tất cả chỉ có bốn dấu hiệu phải đi theo mà chúng ta đã bỏ mất ba rồi.

- Cậu muốn nói tớ làm lỡ mất ba? – Jill nói. – Điều đó cũng đúng thôi. Tớ đã làm hỏng mọi chuyện kể từ lúc cậu đưa tớ đến Narnia này. Tất cả là thế đấy, tớ rất tiếc… thì cậu cũng vậy thôi, những lời chỉ dẫn. BÊN DƯỚI TA dường như chẳng có ý nghĩa gì.

- Không, nó có nghĩa đấy. – Puddleglum nói. – Nó có nghĩa là chúng ta nên tìm kiếm hoàng tử ở bên dưới thành phố này.

- Nhưng làm sao chúng ta có thể!? – Jill hỏi gặng, giọng hoang mang.

- Vấn đề là ở chỗ, - Puddleglum đáp, xoa xoa hai bàn tay to tướng như chân ếch vào nhau, - chúng ta có thể làm điều đó bây giờ không. Không có nghi ngờ gì nữa, nếu lúc nào cũng tâm niệm đến công việc thì khi ở thành phố Hoang phế, hẳn chúng ta cũng có thể tìm ra một cái cửa nhỏ hoặc một cái hang hoặc một đường địa đạo hoặc gặp một ai đó có thể giúp. Cũng có thể (các cháu không bao giờ biết được) là lại gặp được chính Aslan cũng nên. Phải tìm được đường đi xuống phía dưới những tảng đá lát đó, bằng cách này hay cách khác. Những lời dạy của Aslan bao giờ cũng đúng, không có ngoại lệ. Còn làm việc đó như thế nào vào lúc này – đó lại là một vấn đề khác đấy.

- Phải, cháu cho rằng chúng ta phải quay lại đấy. – Jill nói.

- Dễ dàng như thế sao? – Puddleglum hỏi lại. – Chúng ta phải vượt qua cái cửa này trước đã.

Cả bọn quay đầu nhìn cửa ra vào biết chắc rằng không ai trong bọn với tới được tay nắm và gần như chắc chắn là không ai xoay nổi tay nắm dù có với tới được.

- Hai người có nghĩ là họ sẽ để cho chúng ta đi ra ngoài nếu chúng ta đề nghị không? – Jill hỏi. Không ai nói gì nhưng cả bọn đều nghĩ: Chưa chắc đâu.

Ý nghĩ đó làm gai ốc nổi lên khắp người. Puddleglum kịch liệt chống lại ý kiến cho rằng nên nói với những người khổng lồ sứ mệnh thật sự của họ, sau đó yêu cầu chủ nhà cho phép họ thực hiện nhiệm vụ. Tất nhiên, bọn trẻ không thể làm thế nếu không được sự cho phép của ông bởi vì chúng đã trịnh trọng hứa hẹn. Cả ba đều cảm thấy gần như chắc chắn là họ không có cơ hội trốn khỏi lâu đài vào đêm ấy. Một khi họ đã ở trong phòng riêng với cánh cửa đóng chặt họ sẽ là tù nhân cho đến sáng mai. Tất nhiên, đêm đến họ có thể yêu cầu để cửa mở nhưng như vậy sẽ chỉ làm nảy sinh những mối nghi ngờ.

- Cơ hội duy nhất của chúng ta là, - Lông Vịt nói, - cố lẻn ra ngoài vào ban ngày. Vào giờ trưa cũng phải có lúc những người khổng lồ này ngủ chứ? Và nếu… nếu chúng ta lẻn xuống bếp thì rất có thể có một cánh cửa sau nào đó để ngỏ?

- Khó có thể coi đó là một cơ hội, - Puddleglum nói, - nhưng chúng ta phải tranh thủ tất cả các khả năng.

Sự thật là kế hoạch của Lông Vịt cũng không đến nỗi vô hi vọng như bạn có thể nghĩ thế. Nếu bạn muốn lẻn ra khỏi nhà mà không muốn bị ai bắt gặp thì vào lúc một hai giờ chiều lại có vẻ là khoảng thời gian thuận lợi hơn là vào giấc nửa đêm. Cửa và cửa sổ thường để mở vào ban ngày và chẳng may có bị ai trông thấy, bạn có thể giả vờ là bạn không định đi xa và cũng chẳng có mục đích nào cả. (Sẽ khó mà làm cho cả người lớn lẫn người khổng lồ tin vào điều đó nếu bạn bị túm cổ vào lúc đang trèo qua cửa sổ phòng ngủ lúc 1 giờ sáng.)

- Dù vậy chúng ta phải làm thế nào để cho họ không nghi ngờ gì cả. – Lông Vịt nói. – Chúng ta phải giả bộ là rất thích ở đây và chỉ mong ngóng chờ đến ngày lễ hội.

- Được, tổ chức vào tối ngày mai. – Puddleglum nói. – Tôi có nghe một người nói thế.

- Tôi rõ rồi, - Jill nói, - chúng ra phải giả bộ rất kích động trước sự kiện này, cứ hỏi mãi về chuyện này. Dù sao thì họ cũng nghĩ mình chỉ là bọn trẻ ranh, như vậy xem ra mọi việc sẽ dễ dàng hơn.

- Vui lắm đấy! – Puddleglum nói với một tiếng thở dài. – Đó là điều mà chúng ta cần phải đóng kịch. Còn vui vẻ được hay sao? Làm như chúng ta không chú ý gì đến thế giới này không bằng. Vui đùa! Tôi nhận thấy hai cháu còn nhỏ thế mà không làm được như tôi. Bao giờ tôi cũng vui như đi xem hội. Như thế này này! – Và ông biểu diễn một nụ cười trông như mếu.

- Vui đùa, - nói đến đây bác ta lại nhảy cỡn lên nhưng với một vẻ mặt bí xị ủ dột, - các cháu sẽ nhanh chóng học được điều này thôi nếu chịu khó để mắt đến tôi. Các cháu thấy đấy, thiên hạ đánh giá tôi là một anh chàng vui nhộn hài hước đấy. Tôi dám nói là hôm qua hai cháu đã nghĩ là tôi say mèm như một tên nát rượu. Nhưng tôi xin đoan chắc với các cháu là, tôi chỉ làm bộ thế thôi. Tôi… tôi đã có một ý nghĩ rất bổ ích… Ở một phương diện nào đó.

Sau này khi hai đứa có dịp ôn lại những tình tiết về cuộc phiêu lưu này, chúng vẫn không cảm thấy lời nói đó đúng lắm, nhưng chúng biết Puddleglum tin vào điều đó nên mới làm như thế.

- Được rồi. Sẽ làm ra vẻ vui hơn hớn! – Lông Vịt nói. – Bây giờ, nếu có thể làm cho một ai đó mở cửa cho chúng ta nhỉ. Trong khi vờ vịt vui vẻ ở đây, chúng ta có thể tìm hiểu đôi điều về tòa lâu đài này.

May mắn sao lúc đó cánh cửa mở ra, nhũ mẫu nhảy bổ vào phòng, miệng liến thoắng:

- Nào bé cưng của tôi! Có muốn xem đại vương và tất cả triều thần chuẩn bị đi săn không? Một cảnh tượng ngoạn mục lắm đấy.

Họ không để mất thời gian, ba chân bốn cẳng chạy vượt qua bà vú già rồi theo cầu thang đầu tiên chạy xuống dưới lầu. Tiếng khèn, tiếng sủa nhặng xị của đàn chó săn và giọng nói ông ổng của những người khổng lồ đã chỉ đường cho họ. Đoàn người đi săn đều đi bộ, bởi vì trong thế giới này không có những con ngựa khổng lồ dành cho họ và hình thức thể thao này chỉ được tiến hành bằng đôi chân như kiểu đi săn thỏ bằng chó săn ở Anh. Chó săn cũng chỉ có vóc dáng bình thường. Khi không thấy có ngựa nghẽo gì, thoạt tiên Jill đã đinh ninh là bà hoàng béo phệ sẽ không bao giờ chạy bộ theo lũ chó và họ sẽ chẳng có cơ hội trốn thoát nếu như bà ở nhà suốt ngày. Nhưng ngay sau đó nó thấy bà ngự trên một cái kiệu có sáu chàng khổng lồ trai tráng khiêng. Bà già ngốc nghếch đó phục sức toàn một màu xanh biếc và đeo một cái tù và bên người. Hai mươi hoặc ba mươi người khổng lồ, trong đó có nhà vua, đã tập hợp lại cho bộ môn giải trí này. Những giọng nói oang oang, những tiếng cười sằng sặc đủ để làm cho bạn điếc đặc cả hai tai. Thâm thấp bên dưới, ngang với chiều cao của Jill là bầy chó săn với những cái đuôi vẫy rối rít, những tiếng sủa, những cái lưỡi thè ra, nhểu nước dãi và những cái mũi dụi dụi vào tay người đầy vẻ thân thiện. Puddleglum nghĩ rằng đã đến lúc bác ta phải thể hiện một tinh thần vui vẻ, bông lươn (một điều có thể phá hỏng mọi thứ nếu bị phát giác), trong khi đó Jill khoác lên mặt nó một nụ cười con nít dễ yêu nhất, rồi chạy đến bên kiệu của bà hoàng, nó hét to đến váng cả óc:

- Thưa hoàng hậu! Người lại đi xa sao? Người sẽ trở về chứ?

- Ôi con thân yêu, ta sẽ quay về vào tối nay.

- Ôi thế thì tốt quá. Tuyệt vời làm sao! – Jill kêu lên. – Chúng cháu có thể tham dự buổi lễ tối mai chứ ạ? Mong sao… mong sao cho chóng đến đêm mai! Chúng cháu thích ở đây lắm ạ. Trong khi hoàng hậu đi ra ngoài, chúng cháu có thể đi lại trong lâu đài, thăm thú cảnh vật không ạ? Làm ơn cho phép chúng cháu…

Hoàng hậu bảo “được”, nhưng tiếng cười của các triều thần gần như át hẳn tiếng nói của bà.

CHƯƠNG 9

 Những kẻ ăn thịt người

Hai người kia phải thừa nhận ngày hôm ấy Jill lập được nhiều chiến công. Ngay sau khi vua và đám triều thần rời cung điện đi săn nó đã làm một vòng quanh lâu đài, hỏi han đủ thứ chuyện với một dáng điệu trẻ con, hết sức hồn nhiên, ngây thơ nên chẳng ai nghi ngờ là nó có âm mưu gì. Mặc dù lưỡi nó không lúc nào nằm yên, bạn cũng khó mà nghe ra được nó nói nói gì: chỉ nghe thấy tiếng nói ríu rít liến thoắng và tiếng cười như nắc nẻ. Nó làm cho mọi người mê tít: từ người giữ ngựa, người gác cổng đến các cô hầu gái và thị nữ… Các nhà quý tộc lớn tuổi đều đi săn cả. Nó chịu để cho những người khổng lồ hôn hít và đánh yêu, nhiều người còn tỏ ra thương xót nó, gọi nó là “cô bé tí hon tội nghiệp” dù không một ai giải thích được tại sao họ lại gọi như thế.

Nó đặc biệt làm thân với bọn người làm ở khu vực bếp và phát hiện được một điều “tối quan trọng” là cửa hậu ở buồng rửa bát đĩa có thể đưa cả bọn ra khỏi bức tường thành mà không cần phải đi qua sân chầu hoặc qua cổng chính. Trong khu nhà bếp nó đóng vai một đứa phàm ăn tục uống, chén tất cả những gì mà người đầu bếp và phụ bếp vui vẻ xén ra cho nó. Khi ở trên lầu, nó hỏi các thị nữ về cách phục vụ trong đêm hội: nó được phép ngồi lại bao lâu, nó có được khiêu vũ với khổng lồ thiếu nhi không… và rồi (điều này làm cho nó đỏ nhừ cả mặt mỗi khi nhớ lại) nó nghiêng đầu sang một bên theo một cái mốt ngu ngốc mà người lớn, người khổng lồ và cả những người tự cho là khôn ngoan nữa nghĩ là hết sức quyến rũ, rồi lắc những lọn tóc quăn và làm ra vẻ bồn chồn nói:

- Ồ cháu ước gì bây giờ là đêm mai. Cô có nghĩ là thời gian sẽ trôi qua thật nhanh không?

Các nữ khổng lồ bật cười và bảo nó là một tạo vật tí hon xinh xẻo nhất, một số người sau đó còn lấy khăn tay to tướng chạm lên đuôi mắt làm như họ khóc đến nơi rồi.

- Bọn chúng thật dễ thương ở cái tuổi này. – Một người nói với một người khác. – Phải, thật hết sức đáng thương…

Lông Vịt và Puddleglum cũng đã làm hết sức mình để đóng trò. Nhưng bọn con gái làm những chuyện này giỏi hơn con trai. Thậm chí cả bọn con trai cũng giả vờ tốt hơn mấy cư dân vùng đầm lầy. Trong bữa ăn trưa có một việc đã xảy ra làm cho ba người thêm nóng lòng muốn rời lâu đài của những người khổng lồ “dễ thương” hơn lúc nào hết.

Họ dùng bữa ăn ở đại sảnh, một cái bàn nhỏ kê riêng cho họ ngay gần lò sưởi. Ở một cái bàn lớn hơn, cách đấy hai mươi mét có chừng 5, 6 người khổng lồ ngồi ăn. Câu chuyện của họ ồn ào, mệt óc nên chẳng mấy chốc hai đứa không để ý nghe nữa, cũng như cái cách mà bạn không để ý đến tiếng còi nhà máy ngoài cửa sổ hoặc tiếng xe cộ ầm ầm chạy ngoài đường. Họ ăn món thịt hươu nguội, một loại thức ăn Jill chưa hề nếm qua và nó rất thích.

Bất thình lình Puddleglum quay lại, khuôn mặt bác ta tái xanh đi đến nỗi bạn có thể nhìn thấy cái màu xanh đít ếch dưới làn da mai mái màu bùn bình thường của bác.

- Chớ ăn thêm một miếng nào nữa. – Bác nói.

- Có gì không ổn à? – Hai đứa hỏi, giọng cũng hạ thấp xuống thì thào như bác.

- Các cháu không nghe mấy người kia nói chuyện với nhau à? “Thịt đùi hươu mềm mà ngon thật.” – Một tên nhận xét. “Nếu vậy thì con hươu đực này là một kẻ dối trá, một kẻ khác nói. “Tại sao mày lại nói như thế?” Tên thứ nhất hỏi lại. “À người ta kể rằng khi bị sa lưới nó đã nói: “Đừng giết tôi, thịt tôi dai lắm. Các người sẽ không thích đâu”. Thế đấy, đã hiểu chưa?”.

Lúc đầu Jill không nhận ra ý nghĩa của toàn bộ câu chuyện này. Nhưng rồi nó cũng hiểu khi đôi mắt Lông Vịt mở to kinh hoàng và nói:

- Thế chúng ta vừa ăn thịt một con hươu biết nói.

Phát hiện này tác động đến ba người một cách khác nhau. Jill là một nhân vật mới mẻ đối với thế giới này cảm thấy thương cho con hươu tội nghiệp và nghĩ những người khổng lồ thật tàn ác khi giết hại và ăn thịt một con vật như vậy. Lông Vịt đã ở thế giới này một thời gian và ít nhất thì nó cũng có một người bạn thân thiết là một con thú biết nói thì có cảm giác thật kinh khủng, y như cái cách mà bạn ghê tởm một kẻ sát nhân. Còn Puddleglum, một người Narnia chân chính thì cảm thấy nôn nao cả người và bủn rủn chân tay như khi bạn phát hiện ra mình vừa ăn thịt một đứa trẻ.

- Rồi cơn giận dữ của Aslan sẽ bổ lên đầu chúng ta, - bác nói, - vì chúng ta không quan tâm đến các dấu hiệu. Chúng ta sẽ bị nguyền rủa, tôi nghĩ thế. Nếu được phép thì điều tốt nhất chúng ta có thể làm là rút dao ra đâm vào tim mình.

Dần dần, cả Jill cũng nhìn nhận sự việc theo quan điểm của ông. Dù sao thì cũng không ai muốn ăn tiếp nữa. Khi cho là tình hình khá an toàn, họ lặng lẽ rút lui khỏi đại sảnh.

Lúc này cũng đã gần đến cái giờ họ hy vọng có thể bỏ trốn, ai nấy đều rất hồi hộp. Ba người lảng vảng ngoài hành lang và đợi cho đến khi tòa lâu đài trở nên yên tĩnh. Thực khách nán lại phòng ăn rất lâu sau khi đã dùng bữa xong. Người hói đầu đang cao hứng kể một chuyện gì đó. Nhưng cuối cùng mọi người cũng tản về phòng, ba nhà phiêu lưu của chúng ta lén lút xuống khu vực nhà bếp nhưng ở đây cũng vẫn còn người hoặc ít nhất thì cũng còn những người phụ bếp đang rửa ráy, dọn dẹp.

Cả ba đều thấy như có lửa đốt trong lòng trong lúc chờ cho đến khi những người phụ bếp làm xong công việc, rồi từng người một lau tay cho khô và bỏ đi. Nhưng vẫn còn lại một khổng lồ già. Bà lão cứ đi vơ đi vẩn trong bếp và một lúc sau ba người kinh hoàng nhận ra là bà ta chẳng có ý định đi đâu hết.

- Chà, các cháu thân mến, - bà thủng thẳng nói với họ, - đấy, công việc thế là đã ổn rồi đấy. Bây giờ hãy đặt một ấm nước lên. Lát nữa có thể pha một ấm trà. Có thể duỗi chân duỗi tay một chút, cũng phải trông nom phòng rửa bát, gớm mấy đứa nhỏ đáng yêu ấy, chúng bảo tôi cứ để cửa mở.

- Dạ phải. – Lông Vịt nói.

- Đúng vậy, tôi bao giờ cũng để cửa mở để con Miu có thể đi ra đi vào, cái con vật tội nghiệp ấy!

Đoạn bà lão ngồi xuống cái ghế, gác chân lên một cái ghế khác.

- Không biết tôi có kịp chợp mắt một chút không, - bà lại ca cẩm, - nếu như cái đám người đi săn đáng tội ấy không quay về quá sớm…

Cả bọn đã khấp khởi mừng thầm khi bà nói đến chuyện “chợp mắt” lại xìu ngay xuống khi bà nhắc đến chuyện đoàn người đi săn sắp quay về.

- Thường thì họ về vào lúc nào vậy? – Jill ướm hỏi.

- Ôi dào, chả biết được đâu. Nhưng này, các cháu đi đi và giữ im lặng một chút nhé.

Họ rút lui về tận đầu đằng kia gian bếp và đang định lặng lẽ chuồn qua cánh cửa phòng rửa bát nếu bà lão khổng lồ không ngồi dậy, mở choàng mắt, xua đi một con ruồi.

- Đừng làm gì cho đến khi biết chắc là bà ta đã ngủ, - Lông Vịt thì thào, - không thì hỏng hết việc đấy.

Cả ba lại đi vào góc bếp ngồi chờ đợi và quan sát. Cái ý nghĩ những người đi săn có thể trở về vào bất cứ lúc nào thật là kinh khủng. Bà khổng lồ già này cứ cựa quậy không yên. Mỗi khi họ tưởng là bà ta đã ngủ rồi thì bà lại làm một cử động nào đó.

Mình không thể chịu nổi. – Jill nghĩ. Để bình tâm lại, nó đưa mắt nhìn quanh. Ngay trước mặt nó là một cái bàn to, rộng, sạch sẽ với hai chồng đĩa dùng để đựng bánh ngọt đã rửa sạch sẽ và một cuốn sách đang mở sẵn. Tất nhiên, đấy là những cái đĩa khổng lồ và Jill nghĩ là nó có thể ngả lưng trên một trong những cái đĩa ấy. Thế là nó trèo lên một băng ghế cạnh bàn, đôi mắt vô tình nhìn vào dòng chữ:

VỊT TRỜI: Loại chim tuyệt vời này có thế chế biến bằng nhiều cách.

“Thì ra đây là một cuốn sách dạy nấu ăn.” – Jill nghĩ, nó không quan tâm cho lắm chỉ liếc nhìn qua vai, mắt bà lão đã nhắm lại nhưng trông bà không có vẻ đã ngủ hẳn. Jill lại nhìn vào trang sách. Nó được sắp xếp theo vần a, b, c và khi mắt nó dừng ở cột tiếp theo nó thấy tim mình như ngừng đập.

CON NGƯỜI: Động vật hai chân bé nhỏ ưu việt này từ lâu đã được đánh giá là một món ăn cao cấp. Theo truyền thống, thịt người là một phần của Lễ hội Mùa thu, được dọn ra giữa món cá và món ăn phụ. Mỗi người…

Nhưng con bé không thể nào đọc tiếp được nữa. Nó quay đầu lại. Khổng lồ già đã thức và đang ho một tràng dài. Nó ra hiệu cho hai người kia và chỉ vào cuốn sách. Họ cũng trèo lên chiếc ghế nhìn vào trang sách đang mở ra. Trong lúc Lông Vịt đọc về đoạn thịt người được chế biến như thế nào thì Puddleglum chỉ vào một cột kế tiếp:

CƯ DÂN VÙNG ĐẦM LẤY: Có một số tài liệu cho rằng loài vật này không được xếp vào loại thực phẩm phù hợp với những người khổng lồ bởi vì thịt nó có thớ rất dai và có mùi tanh. Tuy vậy, có thể khử mùi tanh bằng cách…

Jill khẽ đá vào chân bác ta và cả chân Lông Vịt, cả ba cùng nhìn lại. Miệng bà già hơi hé ra, từ lỗ mũi thoát ra một âm thanh mà vào lúc ấy đối với đôi tai của họ còn du dương hơn bất cứ một bản nhạc tuyệt vời nào – tiếng ngáy. Vấn đề bây giờ là nghệ thuật đi nhón chân – đừng đi quá nhanh cũng không được thở mạnh – để qua phòng rửa bát (cái phòng này của người khổng lồ bốc lên một mùi đến sợ). Cuối cùng thì họ cũng ra bên ngoài ánh mặt trời nhợt nhạt đầu đông.

Họ đang ở trên đỉnh dốc một con đường nhỏ, gồ ghề chạy xuống một cái dốc rất cao. Nhưng tạ ơn Chúa, thành phố hoang phế hiện lên ở bên phải lâu đài. Chỉ trong vòng vài phút họ đã quay trở lại con đường rộng dốc đứng chạy xuống từ cổng chính lâu đài. Từ mỗi cửa sổ ở mặt này đều có thể nhìn toàn cảnh. Nếu chỉ có một hoặc hai hoặc năm cửa sổ thì cũng còn có lý do khả dĩ để không ai cảm thấy phải thận trọng, e dè. Nhưng đằng này lại có đến năm mươi cửa sổ chứ không phải là năm. Bây giờ họ cũng nhận ra rằng con đường mà họ đang đi – thật ra thì cả vùng đất giữa họ và thành cổ không có một chỗ núp nào dù là cho một con cáo. Một vùng toàn loại cỏ thô cứng, sỏi và những tảng đá nhỏ. Cứ như để là cho tình hình thêm tệ hại hơn, họ lại đang mặc những bộ quần áo mà người khổng lồ đưa cho tối qua, trừ Puddleglum vì không có bộ nào vừa với bác ta. Jill mặc một cái váy màu xanh có phần hơi rợ quá và cũng quá lòe xòe đối với nó, bên ngoài lại choàng thêm một cái áo khoác màu đỏ tươi có đính những dải lông màu trắng. Lông Vịt thì mang vớ dài đỏ rực, áo chẽn và áo khoác màu xanh, một thanh gươm chuôi vàng và một chiếc mũ có cắm lông chim.

- Quần mới áo… đẹp quá nhỉ? – Puddleglum làu bàu. – Cứ sáng rực lên trong một ngày mùa đông. Một cung thủ tồi nhất trên đời cũng sẽ không bắn trượt nếu hai đứa ở trong tầm ngắm. Lại nói chuyện về cung tên, thật đáng tiếc chúng ta đã bỏ quên ở lâu đài. Những bộ quần áo này có hơi mỏng quá không?

- Vâng, cháu đã bắt đầu lạnh cóng cả người đây. – Jill nói. Mới vài phút trước khi họ còn ở trong bếp nó đã tưởng là chỉ cần ra khỏi tòa lâu đài thì cuộc chạy trốn của họ kể như là hoàn tất. Bây giờ nó nhận ra là giai đoạn nguy hiểm nhất vẫn còn chưa đến.

- Cứ đều bước, đều bước. – Puddleglum nói. – Đừng ngoái đầu nhìn lại. Cũng đừng đi quá nhanh. Dù sao thì cũng không được bỏ chạy. Cứ làm như thể chúng ta đang đi tản bộ, và rồi nếu có ai nhìn thấy chúng ta, điều ấy dám xảy ra lắm, thì hắn cũng sẽ không đem lòng ngờ vực. Cái mà chúng ta có vẻ giống bọn người đang chạy trốn là chúng ta tiêu đời đấy.

Đoạn đường đến thành phố Hoang phế dường như dài ra vô tận, đi mãi cũng không hết. Nhưng họ cũng đã sắp đến nơi rồi. Chợt vang lên một tiếng động. Hai người kia há hốc mồm kinh hoảng. Jill không biết tiếng động có nghĩa là cái gì thì hỏi: Cái gì vậy?

- Tiếng khèn đi săn. – Lông Vịt thì thầm.

- Ngay lúc này cũng không được bỏ chạy. – Puddleglum nói. – Không, cho đến khi tôi ra lệnh.

Lần này Jill không thể không liếc nhìn ra sau. Và kia, cách họ khoảng nửa dặm, đoàn đi săn đã trở về, ngay phía sau lưng họ, hơi chếch về phía tay trái.

Họ vẫn đi tiếp. Bất thình lình tiếng huyên náo của một cuộc truy đuổi vang lên, tiếp đó là tiếng la hét và tiếng reo hò vang dậy như sấm.

Bọn chúng phát hiện ra rồi, chạy mau! – Puddleglum phát lệnh. Jill nâng đuôi váy dài lên – thật là một thử thách khi chạy với đuôi váy lòe xòe như vậy – và co giò chạy. Không còn nghi ngờ gì nữa, nguy hiểm đã cận kề. Nó có thể nghe tiếng khèn rõ mồn một. Nhưng giọng của nhà vua còn to hơn: “Đuổi theo chúng, đuổi theo chúng nếu không ngày mai chúng ta không có món bánh nhân thịt người đâu.”

Bây giờ thì Jill là người chạy sau cùng. Vướng víu bởi cái váy dài, nó trượt phải những viên đá cuội trên đường, tóc chui cả vào miệng, một cơn đau chạy ngang ngực nó: Tiếng khèn mỗi lúc một gần hơn, khẩn trương hơn. Bây giờ nó phải chạy lên một dốc đá dẫn đến cái bậc thềm thấp nhất của bậc thang khổng lồ. Nó không mảy may có ý nghĩ là họ sẽ làm gì khi chạy được đến đấy hoặc liệu có ích gì kể cả khi họ chạy lên được đến đỉnh. Nhưng nó không còn đầu óc nghĩ đến chuyện đó. Bây giờ nó là một con thú đang bị săn đuổi, chừng nào còn có một đoàn người đuổi theo nó thì nó còn phải chạy cho đến lúc gục xuống mới thôi.

Puddleglum dẫn đầu. Khi đến bậc thềm thứ nhất, bác ta dừng lại, nhìn về phía tay phải và bất thình lình lao vào một cái lỗ hoặc một cái hố ở dưới bậc thềm. Đôi chân dài của bác thò ra rồi biến mất như chân nhện. Lông Vịt chỉ do dự trong một giây rồi cũng chui vào và biến mất theo gương bác. Một phút sau Jill chạy đến, người lảo đảo, thở không ra hơi. Đó là một cái lỗ trông đến chán – một vết nứt toang hoác giữa đất và bậc thềm đá, rộng khoảng một mét và cao chừng 30 phân. Bạn phải ép sát mặt xuống đất mà lết và bạn không thể trườn nhanh được. Jill cảm thấy hàm răng lũ chó săn sắp đớp vào gót nó trước khi nó chui được vào trong cái lỗ kia.

- Nhanh lên, nhanh lên! Đá. Lấp lối vào đi! – Giọng của Puddleglum vang lên sát bên cạnh nó.

Cái hố đen ngòm trừ một chút ánh sáng le lói nơi cửa hang mà họ mới bò vào. Hai người kia đang khẩn trương lèn cái hang lại. Nó có thể thấy hai tay bé nhỏ của Lông Vịt và hai tay to tướng giống chân ếch của Puddleglum đang moi lấp đá như điên. Rồi nó nhận ra việc làm đó quan trọng như thế nào và bắt đầu nạy những viên đá to đưa cho họ. Đúng lúc lũ chó sủa nhặng lên và chạy quẩn bên miệng hang thì họ cũng vừa lấp xong. Bây giờ chẳng còn chút ánh sáng nào.

- Chui vào sâu hơn, nhanh lên! – Giọng Puddleglum vang lên cấp bách.

- Hãy cầm tay nhau mà bò. – Jill nói.

- Ý kiến hay đấy. – Lông Vịt nói. Nhưng phải mất một lúc họ mới quờ được tay nhau trong bóng tối. Lũ chó đang đánh hơi bên ngoài cửa hang.

- Cứ thử đứng lên xem sao. – Lông Vịt gợi ý. Họ làm theo và thấy là có thể đứng lên thoải mái. Rồi, Puddleglum chìa tay ra sau cho Jill (con bé chỉ muốn đứng ở giữa chứ không phải đứng sau cùng), họ bắt đầu dùng chân dò dẫm tìm đường và loạng choạng tiến về phía trước trong cái bóng tối như bưng lấy mắt. Có nhiều hòn đá dăm lỏng chỏng dưới chân họ. Được một lúc, Puddleglum tiến đến một bức tường đá. Họ quay sang bên phải và đi tiếp. Cái hang có rất nhiều chỗ ngoắt nghéo, quanh co. Bây giờ thì Jill không có khái niệm gì về phương hướng và cũng chẳng biết miệng hang nằm ở đâu.

Vấn đề là, - giọng Puddleglum vang lên ở phía trước, - phải đi như thế nào để nó không dẫn ta về chỗ cũ (có thể thế lắm chứ) và đãi lũ khổng lồ một món ăn ngon trong bữa tiệc của chúng, còn chuyện lạc đường trong lòng quả đồi này nữa chứ. Cá mười ăn một là không có những con rồng, thì cũng hang sâu, khí độc, hầm nước và … Ối! Đi đi nào! Hãy cứu lấy bản thân mình! Tôi… 

Sau đó mọi việc diễn ra rất nhanh. Có một tiếng kêu man dại, tiếng rào rào, bụi đất, tiếng sỏi đá, tiếng những tảng đá đổ ầm ầm và Jill thấy mình đang trượt, trượt, trượt dài xuống một cách vô hy vọng, tốc độ trượt mỗi lúc một nhanh gần như theo phương thẳng đứng. Không phải là một cái dốc trơn, bằng phẳng mà toàn là những hòn đá răm và đất đóng cục. Kể cả khi bạn có đứng lại được thì cũng không có ích gì. Bất cứ chỗ nào mà bạn đặt chân lên cũng đều trơn như bôi mỡ và nó xô bạn xuống phía dưới. Nhưng Jill thì nằm hơn là đứng. Cả bọn càng trượt đi xa bao nhiêu thì càng gặp rắc rối với đất đá bấy nhiêu. Nhìn chung, tất cả mọi thứ cùng lao xuống (kể cả bản thân họ) nhanh hơn, gây ra nhiều tiếng động hơn, bụi mịt mù hơn và bẩn hơn. Từ tiếng la thất thanh và tiếng nguyền rủa của hai người phía trước, Jill hiểu rằng những hòn đá mà nó cuốn theo đã đập mạnh vào người Lông Vịt và Puddleglum. Bây giờ nó lao xuống với một tốc độ dễ sợ và cảm thấy thân hình nó sẽ vỡ ra từng mảnh khi lao xuống đáy.

Tuy vậy, bằng một cách nào đó mọi chuyện lại không xảy ra như vậy. Có nhiều vết trầy xước và cái chất dinh dính trên mặt Jill rõ ràng là máu. Có cả một đống đất đá cuội, những cục đá to hơn chất đống chung quanh và một phần trên người nó, nhiều đến nỗi nó không thể đứng dậy. Tất cả chỉ là một màn đen mịt mùng và việc bạn mở mắt hay nhắm mắt không có gì phân biệt. Không có một tiếng động. Đây là giờ phút tồi tệ nhất mà Jill từng biết đến trong đời. Giả sử, nó chỉ có một mình, giả sử những người khác… rồi nó nghe có những cử động gần đâu đây. Sau đó có cả ba – bằng những giọng run rẩy – cùng lên tiếng giải thích là hình như mình không có cái xương nào bị gãy.

- Có thể chúng ta không bao giờ được lôi lên. – Đó là giọng của Lông Vịt.

- Các cháu có nhận thấy ở dưới này rất ấm không? Thế có nghĩa là chúng ta trượt một quãng đường rất dài, dễ đến gần một dặm.

Không ai nói gì. Sau đó một chút Puddleglum nói thêm:

- Hộp đánh lửa của tôi rơi mất rồi.

Chẳng ai nghĩ ra được cái gì để làm. Rõ ràng là chẳng có thể làm gì được. Lúc ấy họ quá mệt để nghĩ ra được điều gì chứ không phải là họ nghĩ mình đang ở vào một tình thế tuyệt vọng.

Một lúc thật lâu sau, không hề có một sự báo trước nào, họ nghe thấy một giọng nói hoàn toàn xa lạ vang lên. Họ biết ngay là đó không phải là cái giọng duy nhất trên đời này mà mỗi người trong bọn đều thiết tha trông đợi: tiếng nói của Aslan. Cái giọng này thiếu âm sắc, mờ đục, nếu bạn cảm nhận được một giọng nói tối đen như cái ống bịt kín hai đầu có nghĩa là gì thì cái giọng này là như vậy.

- Cái gì khiến các ngươi lọt xuống dưới đây hỡi sinh vật ở thế giới trên kia?

CHƯƠNG 10

 Chuyến du hành không có mặt trời

- Ai đấy?- Cả ba lữ khách của chúng ta đều đồng thanh kêu lên.

- Ta là người lính biên phòng của Vương quốc Dưới Lòng Đất và cùng với ta là một đội quân hàng trăm người đất trang bị vũ khí đến tận răng. - Giọng nói kia vang lên. - Hãy mau cho ta biết các ngươi là ai và công việc của các ngươi ở Vương quốc Dưới Lòng Đất này là gì?

- Chúng tôi tình cờ rơi xuống đây. - Puddleglum đáp với một sự thành thật vừa đủ.

- Có rất nhiều người rơi xuống, chỉ có rất ít người trở về với mảnh đất có ánh sáng mặt trời. - Giọng kia đáp lại. – Hãy sẵn sàng đi với ta đến gặp nữ hoàng của Vương quốc Dưới Lòng Đất.

- Bà ấy sẽ làm gì chúng tôi? – Lông Vịt hỏi, giọng ngờ vực.

- Tôi không biết mệnh lệnh của người, tôi chỉ việc tuân phục chứ không được thắc mắc gì hết.

Trong khi người này nói có một tiếng động nghe như một tiếng nổ giòn êm tai và ngay lập tức một thứ ánh sáng lạnh, màu xám có pha chút màu xanh lóe lên, mờ mờ trong hang. Cái hy vọng rằng người nói chỉ ba hoa chích chòe về một đội quân vũ khí đầy người đã tắt ngấm. Jill thấy mình nhấp nháy đối mắt, nhìn sững vào đám đông chen chúc bên nhau. Một đội quân gồm đủ các kích cỡ, từ những thần lùn giữ của nhỏ xíu chỉ cao vài chục phân cho đến những người cao hơn một người đàn ông bình thường. Tất nhiên, tất cả đều mang giáo ba ngạnh trên tay. Ai cũng đều có một màu da xanh mét dễ sợ và tất cả đều đứng im trong tư thế chào chờ. Ngoài hai đặc điểm đó ra, họ rất khác nhau. Một số có đuôi, một số để những bộ râu rậm rịt, người thì có khuôn mặt tròn, dịu dàng và to như trái bí ngô, người lại có những chiếc mũi dài và nhọn hoắt, kẻ phô ra những chiếc mũi dài, mềm oặt như một cái vòi nhỏ trong khi đó lại có những khuôn mặt gắn lên một cái mũi tròn to tướng. Vài người có một cái sừng nhỏ ngay giữa trán. Chỉ đến lúc này Jill mới nhận ra bọn họ giống nhau ở một khía cạnh: mỗi khuôn mặt trong hàng trăm khuôn mặt ấy đều có một vẻ buồn bã ủ dột. Phải, trông họ rầu rĩ đến nỗi sau cái nhìn đầu tiên Jill hầu như quên phắt mất rằng lúc đầu nó còn sợ họ bây giờ nó chỉ muốn làm cho họ vui lên.

- Được đấy. - Puddleglum nói, xoa hai tay vào nhau. – Đó là chính cái điều mà tôi đang mong đợi. Nếu những người này mà không dạy tôi có cái nhìn nghiêm túc về cuộc sống thì tôi không biết nó sẽ như thế nào. Hãy nhìn cái anh chàng với bộ ria màu hạt dẻ hoặc cái người với…

- Đi lên! – Chỉ huy đội quân người đất ra lệnh.

Chẳng có thể làm gì khác được nữa, ba người đứng tụm lại nắm tay nhau thật chặt. Ai cũng muốn chạm vào tay người đồng chí của mình trong một khoảnh khắc như thế này. Người đất đứng vây quanh họ, giậm những đôi chân to và mềm, có cái 10 ngón, có cái 12 ngón, cũng có bàn chân không có ngón.

- Hành quân! - Người chỉ huy nói và tất cả đều bước đi theo.

Làn ánh sáng lạnh lẽo phát ra từ một quả cầu lớn treo ở đầu một cây sào dài và vị thần lùn giữ cửa có dáng người cao nhất cầm đèn đi đầu đoàn quân. Dưới ánh sáng ảm đạm của ngọn đèn ba lữ khách bất đắc dĩ có thể thấy mình đang ở trong một cái hang tự nhiên; tường và trần hang đều nổi bướu, xoắn lại và tạo thành hàng ngàn những hình thù quái dị. Sàn hang lát đá dốc xuống trong lúc họ đi tiếp.

Đối với Jill, hoàn cảnh này tồi tệ hơn đối với những người khác bởi vị nó ghét những chỗ tối tăm, âm u và tù hãm. Trong lúc họ đi tiếp cái hang trở nên thấp hơn, hẹp hơn và cuối cùng người cầm đèn đứng sang một bên, các chú lùn giữ của - từng người từng người một - khom lưng cúi xuống (tất cả mọi người chỉ trừ những người thấp nhất) chui vào một cái khe nhỏ tối đen như hũ nút rồi biến mất. Jill có cảm giác nó không thể chịu đựng lâu hơn nữa.

Tôi không thể bước vào trong, không thể, không thể. – Nó nói, giọng vỡ ra. Người đất chẳng nói gì, tất cả đều hạ mũi giáo xuống chỉ vào nó.

- Không sao đâu Pole. – Puddleglum nói. Những người bự con hơn không thể bò vào trong nếu sau này nó không được nới rộng hơn. Ở dưới này cũng có mặt tiện lợi, chúng ta sẽ không bị mắc mưa.

- Ôi, bác không hiểu đâu. Cháu không thể - Jill rền rĩ.

- Hãy nghĩ đến cái lúc tớ rơi xuống vực, Pole ạ. – Lông vịt nói. – Bác đi trước, còn cháu sẽ đi sau bạn ấy.

- Được thôi. – Puddleglum nói, quỳ sụp xuống đất. - Cháu theo sát gót bác nhé, còn Lông Vịt sẽ bám theo cháu. Biết đâu chúng ta sẽ cảm thấy dễ chịu hơn.

- Dễ chịu!- Jill dài giọng nói, nhưng nó cũng nằm bẹp xuống và cả ba nối tiếp nhau bò vào trong. Đó là một nơi thật kinh khủng. Bạn phải lết mặt xuống sàn trong khoảng nửa giờ mặc dầu cũng có thể nó chỉ kéo dài 5 phút.

Nóng phát sốt lên, Jill cảm thấy nó sắp chết ngạt đến nơi rồi. Cuối cùng thì cũng có một chút ánh sáng le lói ở phía trước, địa đạo được nới rộng ra, trần hang cao hơn. Cả ba người – toàn thân nóng rực, bẩn thỉu, run lẩy bẩy - bước vào một cái hang khác rộng đến nỗi khó có thể coi là một cái hang.

Cả hang sáng lên một thứ ánh sáng mờ mờ, mơ ngủ vì thế ở đây người ta không cần đến ngọn đèn lồng kì lạ của người đất nữa. Sàn hang êm như nhung do một loại rêu nào đó, trong hang còn mọc lên một loại cây có cành, có thể gọi là thực vật nhưng lại có những hình thù kì lạ, thân mềm và xốp giống như nấm. Chúng mọc cách nhau một khoảng đều đặn làm thành một khu rừng, nói đúng ra trông nó giống một công viên. Thứ ánh sáng màu rêu xám, dường như được hắt ra từ những cái cây này và từ đám rêu dưới sàn, nhưng không đủ mạnh để chiếu đến trần hang cao vời vợi. Người đất lại tập hợp thành đội ngũ đi qua cái nơi buồn ngủ, nhẹ nhàng và êm ái này. Một đội quân buồn, nhưng là một nỗi buồn êm dịu như một khúc hát ru.

Ở đây, họ đi qua hàng chục những con thú có hình thù kì lạ nằm trên thảm rêu, có thể là chúng đã chết hoặc đang ngủ, Jill không thể phân biệt rõ ràng được. Đa số những con vật này thuộc loài rồng hay có họ với loài dơi; cả Puddleglum cũng không biết tên bất cứ con vật nào trong số đó.

- Sống ở đây chúng có lớn lên không?- Lông Vịt hỏi người cầm đầu.

Người này tỏ vẻ ngạc nhiên khi nghe câu hỏi nhưng vẫn đáp lại:

- Không. Tất cả đều là những con vật lọt xuống đây qua những kẽ hở hay những hang động. Phải, chúng đều từ mảnh đất bên trên lọt xuống dưới này. Rất nhiều kẻ xuống nhưng không thấy kẻ nào quay về được mảnh đất sáng lên dưới ánh mặt trời. Tương truyền rằng tất cả bọn chúng sẽ thức dậy vào ngày tận thế.

Đôi môi người này khép lại như một cái hộp sập nắp xuống khi nói xong điều đó; sự im lặng sâu như đáy giếng ở nơi này làm cho bọn trẻ không dám mở miệng nói nữa. Đôi chân trần của những chú lùn giữ của giẫm lên lớp rêu dày không gây nên một tiếng động nào. Không có gió, không có chim. Không nghe thấy tiếng nước chảy. Không nghe thấy tiếng hơi thở từ những sinh vật kì lạ này.

Họ đi thêm một vài dặm nữa, đến một bức tường đá, trên đó có trổ một cái cửa thấp dẫn đến một cái hang khác. Tuy vậy nó cũng không quá tệ như cái lối đi vào vừa rồi và Jill đi qua mà không phải cúi đầu xuống. Họ vào một cái hang nhỏ hơn, dài và hẹp, có hình dáng và kích thước bằng một nhà thờ.

Chiếm gần hết chiều dài của cái hang là một người đàn ông to lớn đang say ngủ. Người này còn to lớn hơn bất cứ người khổng lồ nào, nhưng khuôn mặt không giống với người khổng lồ - một gương mặt với những đường nét đẹp đẽ, thanh thoát toát lên một vẻ cao quý. Bộ ngực người này dâng lên hạ xuống nhẹ nhàng dưới bộ râu trắng như tuyết buông dài đến tận thắt lưng. Một làn ánh sáng bạc, trong ngần (không ai biết là phát ra từ đâu) tỏa xuống toàn bộ người ông.

- Là ai đấy?- Puddleglum lên tiếng hỏi. Bởi vì đã lâu không có ai nói điều gì, Jill lấy làm ngạc nhiên là bác ta lại có gan mở miệng hỏi.

- Đó là cha Thời gian già nua, người đã có thời làm vua trên mặt đất. – Viên chỉ huy nói. – Bây giờ ông già bị chìm xuống Vương quốc Dưới Lòng Đất và nằm ở đây mà mơ về tất cả những việc mình đã làm ở thế gian trên kia. Nhiều người chìm xuống mà ít người nổi lên mảnh đất có ánh sáng mặt trời. Người ta nói ông già sẽ thức dậy vào ngày thế giới bị hủy diệt.

Ra khỏi cái hang này họ lại đến một cái hang khác, rồi lại một cái hang khác và hang khác nữa cho đến khi không thể đếm xuể nữa, nhưng bao giờ họ cũng đi xuống dốc, mỗi cái hang lại thấp hơn cái hang trước. Ý nghĩ về trọng lượng và chiều cao của lớp đất trên đầu làm họ nghẹn thở. Cuối cùng họ cũng đến một nơi mà người đội trưởng ra lệnh đốt cái đèn lồng buồn thảm lên. Sau đó họ bước vào một cái hang rộng và tối đến mức họ không nhìn thấy gì trừ cái vật ngay trước mũi họ, đó là một dải cát nhàn nhạt chạy xuống sát mặt nước phẳng lặng. Tại đây bên cạnh một cái cầu tàu nhỏ có một con tàu không có cột buồm hoặc cánh buồn nhưng lại có rất nhiều mái chèo. Đoàn người đi tiếp lên boong tàu rồi đi về mũi tàu nơi có chừa một khoảng trống phía trước băng ghế cho những người ngồi chèo và một cái ghế xoay gắn vào phía trong thành tàu.

- Có một điều mà tôi muốn biết, - Puddleglum nói, - đó là không biết có bất cứ ai trong thế giới của chúng tôi - ở trên mặt đất, ý tôi là thế - có một chuyến đi như thế này chưa?

Nhiều người lên tàu ở những bãi biển mờ nhạt. – Người chỉ huy đáp. – Và…

- Thôi được, tôi biết rồi. – Puddleglum cắt ngang. – Và chỉ có rất ít người quay về mảnh đất nơi có ánh sáng mặt trời chứ gì. Anh không cần phải nhắc lại câu ấy nữa. Anh đúng là một kẻ chỉ có duy nhất một ý tưởng, đúng không?

Bọn trẻ nhích lại gần Puddleglum. Bọn chúng nghĩ bác ta chỉ là một cái mền ướt lúc còn ở trên mặt đất, nhưng từ khi xuống dưới lòng đất thì dường như ông là chỗ dựa duy nhất mà chúng có. Cái lồng đèn yếu ướt được treo ở giữa tàu, người đất ngồi vào sau các mái chèo và con tàu bắt đầu chuyển động. Ngọn đèn chỉ hắt ánh sáng đi được một đoạn đường ngắn. Nhìn về phía trước họ chẳng thấy gì ngoài mặt nước đen thẫm êm đềm nhòa lẫn vào với bóng đêm đen dày đặc.

- Ôi, không biết chuyện gì sẽ đến với chúng ta đây?- Jill hỏi giọng tuyệt vọng.

- Trong những lúc như thế này cháu đừng để mất tinh thần, Pole ạ. – Puddleglum khích lệ nó. – Còn có một điều mà ai cũng cần phải ghi nhớ. Chúng ta đã trở về với đúng trận tuyến. Có phải ta cần phải xuống phía dưới thành phố Hoang phế đúng không nào và chúng ta đang ở dưới nó. Thế là ta đã làm theo lời chỉ dẫn.

Lát sau người ta mang thức ăn đến cho họ, những cái bánh nhũn nhũn, nhạt nhẽo khó nuốt. Không khí buồn tẻ ngấm dần vào người cũng ru các du khách vào trong giấc ngủ. Thức dậy mọi việc vẫn y như cũ, người đất vẫn tiếp tục khua mái chèo, con tàu vẫn tiếp tục trườn đi và cái màn đen chết chóc vẫn tiếp tục buông xuống như băng kín lấy mắt. Họ lại ăn những món nhạt nhẽo rồi lơ mơ ngủ, thức dậy và ăn và lại ngủ… bao nhiêu lần như vậy thì không ai có thể đếm hết được. Điều tệ hại nhất là bạn bắt đầu có cảm giác như thể bao giờ bạn cũng sống trên con tàu ấy trong bóng đen vĩnh cửu ấy và bắt đầu hoang mang không biết là có thật trên đời này còn có một mặt trời, còn có bầu trời xanh biếc, còn có gió, có chim… hay tất cả những điều đó chỉ hiện diện trong mơ.

Đến lúc họ gần như đã mất hết khả năng hy vọng hoặc sợ hãi về bất cứ điều gì thì cuối cùng họ cũng thấy le lói một chút ánh sáng trước mặt: một thứ ánh sáng hắt ra từ ngọn đèn lồng treo trên cao. Rồi bất thình lình một trong những luồng sáng ấy tiến đến gần và họ thấy mình đang đi ngang qua một con tàu khác. Sau đó họ còn gặp một vài con tàu nữa. Rồi, cứ nhìn chằm chằm đến nhức cả mắt họ thấy một trong những ngọn đèn trước mặt chiếu sáng trên một cái gì giống như một bến tàu, những bức tường, ngọn tháp và những đám đông đang di chuyển. Nhưng vẫn tuyệt nhiên không có một tiếng động nào.

- Lạy thần Jupite!- Lông Vịt kêu lên. – Một thành phố!

Chẳng bao lâu sau hai người kia thấy là nó đã nói đúng.

Nhưng đó là một thành phố thật kỳ lạ. Chỉ có vài ngọn đèn mà lại ở cách xa nhau đến nỗi không đủ thắp sáng cho một vài túp lều nhỏ trong thế giới của chúng ta. Nhưng đó đây, ở một vài nơi cũng le lói chút ánh sáng nhờ đó bạn có thể thoáng thấy cái gì như là hình ảnh của một cửa biển lớn. Bạn có thể thấy ở một nơi này mấy con tàu đang chất hàng hoặc dỡ hàng; ở một nơi khác là các kiện hàng và nhà kho; ở những nơi khác nữa là những bức tường và các cây cột chống khiến ta liên tưởng đến những cung điện và đền đài. Ở bất cứ nơi nào ánh sáng rọi xuống cũng thấy một đám đông vô tận – hàng trăm ngàn người đất, chen vai sát cánh bên nhau bước đi với những bước chân không gây nên tiếng động – làm công việc của họ ở những đường phố chật hẹp, những quảng trường rộng lớn, hoặc trên những bậc thềm cao. Lao động miệt mài, không ngừng nghỉ của họ tạo ra những tiếng động rì rầm, êm ái trong lúc con tàu tiến đến gần hơn, gần hơn; nhưng tuyệt không nghe thấy tiếng hát, tiếng la hét, tiếng chuông hoặc giả tiếng cót két của bánh xe. Thành phố yên lặng, gần như chìm trong màn đen hoặc như phía trong một tổ kiến nằm sâu trong hang núi.

Con tàu chở họ bắt đầu vào cảng rồi buông neo. Ba lữ khách được đưa lên bờ và giải vào trong thành phố. Đám đông “người đất, không ai giống ai, chen vai đi bên nhau trên những đường phố chật như nêm cối, ánh sáng buồn thảm chiếu xuống những khuôn mặt kì quái và buồn như chấu cắn. Không một ai chú ý đến những người lạ mặt. Mọi người đều có vẻ bận rộn cũng như buồn bã là bản tính cố hữu của họ dù Jill không thể phát hiện ra là họ bận rộn chuyện gì nữa. Một dòng người vô tận, chuyển động, chen lấn, vội vã và những tiếng động rù rì, nhè nhẹ.

Cuối cùng họ đi đến một tòa lâu đài lớn, dù chỉ có một vài ô cửa sổ ánh sáng đèn. Ở đây, họ đi qua cổng, ngang qua một cái sân, trèo lên nhiều cầu thang, đi qua nhiều hành lang rồi đến một gian phòng sáng tù mù. Nhưng ở góc xa nhất – ôi mới vui làm sao- có một lối đi tràn ngập một thứ ánh sáng khác hẳn: ấm áp, vàng hung, trung thực giống như ánh sáng của ngọn đèn mà con người vẫn dùng. Dưới ánh sáng ấy người ta trông thấy ở cuối lối đi một cái cầu thang cuốn đi lên giữa hai bức tường bằng đá. Ánh sáng hình như hắt từ trên xuống. Hai người đất đứng hai bên lối đi, trông giống như hai người lính canh hoặc hai người gác cổng. Người chỉ huy đến bên hai người này, nói một câu như là một mật khẩu:

- Nhiều người lọt xuống Vương quốc Dưới Lòng Đất.

- Và ít nguời trở về mảnh đất có ánh sáng mặt trời. – Họ đáp như thể đó là một khẩu lệnh. Ba người chụm đầu lại với nhau bàn bạc, trao đổi. Cuối cùng một trong hai người đất đứng gác nói.

- Tôi đã bảo ông là nữ hoàng đã đi xa lo công việc của bà. Tốt nhất chúng ta nhốt những người này vào ngục đợi đến khi bà quay về. Có bao nhiêu người đi xuống Vương quốc Dưới Lòng Đất chỉ có ít người trở về thế giới có ánh nắng mặt trời.

Đúng lúc đó cuộc trao đổi giữa bọn họ bị cắt ngang bởi một chuỗi âm thanh – đối với Jill đó là một âm thanh tuyệt vời nhất trên đời. Nó vọng từ trên xuống, từ trên đầu cầu thang – rõ ràng, trong trẻo – giọng của một con người đích thực, giọng một chàng trai trẻ.

- Ngươi giữ cái cuộn gì ở dưới ấy thế Mullugutherum? Những kẻ đến từ thế giới trên kia phỏng? Mang chúng lên đây cho ta và ngay vào lúc này.

- Xin hoàng thân nhớ là, - Mullugutherum bắt đầu nhưng giọng nói buồn tẻ ấy đã bị cắt ngang một cách trịnh thượng.

- Chỉ có sự tuân lời mới làm hài lòng hoàng thân của ngươi, cái tiếng lầm rầm già cỗi kia ạ. Mang chúng lên đây ngay.

Mullugutherum lắc lắc đầu, ra hiệu cho ba người đi theo mình rồi đưa họ đi lên cầu thang. Lên mỗi bậc cầu thang, ánh sáng lại trở nên sáng tỏ hơn. Hai bên tường treo những tấm thảm quý. Cái đèn tỏa ra một ánh sáng như vàng ròng lọc qua một tấm màn mỏng nơi đầu cầu thang. Người đất vén màn và đứng ra hai bên. Ba người khách bất đắc dĩ bước vào. Họ đang đứng ở trong một gian phòng tuyệt đẹp: những tấm thảm quý, ngọn lửa rực rỡ trong một lò sưởi sạch bóng, rượu vang đỏ và những chiếc ly pha lê sáng lấp lánh trên bàn. Một chàng trai có mái tóc vàng óng đứng lên chào đón họ. Người này rất điển trai toát ra một vẻ vừa ngang tàng vừa tốt bụng dẫu rằng vẫn có một vẻ gì như một sự ám ảnh bệnh hoạn trên khuôn mặt đẹp ấy. Chàng ta bận một bộ đồ màu đen, nhìn toàn thể có một cái gì đó giống với Hamlet – hoàng tử Đan Mạch.

- Đón chào những con người đến từ thế giới trên kia. – Chàng kêu lên. – Nhưng khoan đã! Xin quý vị tha lỗi! Ta đã gặp hai đứa bé xinh đẹp này và cả người giám hộ kì lạ này nữa. Có phải quý vị là ba người mà ta đã gặp ở cây cầu ở vùng biên giới Ettinsmoor khi ta cưỡi ngựa tháp tùng bà chúa của lòng ta không?

- Ôi, vậy ra anh là kị sĩ đen không hề mở miệng? – Jill kêu lên.

- Còn người kia là nữ hoàng của Vương quốc Bóng Đêm? – Puddleglum hỏi, giọng toát lên vẻ ác cảm và Lông Vịt, người cũng có ý nghĩ tương tự như thế, kêu lên:

- Bởi vì nếu đúng như thế, tôi nghĩ bà ta hết sức độc ác khi xúi bẩy chúng tôi đến lâu đài của những người khổng lồ để bọn họ ăn thịt chúng tôi. Thế chúng tôi đã làm gì hại đến bà ta nào, tôi rất muốn biết đấy?

- Cái gì? – Hiệp sĩ Đen nói với một cái cau mày. Nếu em không quá nhỏ đối với một hiệp sĩ, thì ta và em sẽ phải quyết đấu cho đến khi một trong hai ta phải chết vì lời thóa mạ này. Ta không chịu được một lời nói nào bôi nhọ danh dự bà chúa của ta đâu. Nhưng điều này thì ta bảo đảm, dù nàng nói gì với em thì nàng cũng chỉ nói với một ý định tốt đẹp. Em còn chưa biết rõ đâu. Đó là một đóa hoa thơm kết tinh tất cả mọi thứ đức tính như trung hậu, từ ái, kiên định, dịu dàng, dũng cảm và vô số những đức tính quý giá khác. Ta chỉ nói những điều ta biết. Nàng rất tốt với ta và ta không có cách gì để đền đáp nàng, chỉ tính riêng những điều nàng làm cho ta cũng đủ thành một câu chuyện đáng ngưỡng mộ. Nhưng mà thôi, các người có công việc gì ở trong lòng đất này?

Trước khi Puddleglum kịp chặn lại thì Jill đã phụt ra:

- Chúng tôi đang đi tìm hoàng tử Rilian ở Narnia. – Ngay sau đó nó nhận ra đó là một sai lầm chết người bởi vì những người này có thể là kẻ thù của họ. Nhưng hiệp sĩ Đen không tỏ vẻ quan tâm.

- Rilian? Narnia? – Chàng trai hỏi vẻ hờ hững. - Narnia à? Đó là mảnh đất nào vậy? Sao ta chưa hề nghe thấy nhỉ? Chắc nó phải ở xa những nơi mà ta biết đến hàng trăm dặm. Nhưng thật là một hoang tưởng kỳ lạ khi nó đưa các người đến đây trong mưu toan tìm kiếm cái người này – mà các ngươi gọi hắn là gì nhỉ? Billian? Trillian? Tìm hắn trong vương quốc của bà chúa lòng ta ư? Thật vậy, theo chỗ ta biết thì không có một người như vậy?

Chàng trai cười sằng sặc, quá ồn ào để có thể coi là bình thường khiến Jill phải nghĩ: “Mình không biết đó có phải là cái gì không ổn trên khuôn mặt này không? Có phải là anh ta có cái gì hơi điên điên?”

- Chúng tôi đã được cho biết là phải đi tìm một thông điệp trên những phiến đá của thành cổ. – Lông Vịt nói tiếp. – Và chúng tôi đã thấy dòng chữ BÊN DƯỚI TÔI.

Hiệp sĩ còn cười nói ồn ào hơn nữa: Các người bị đánh lừa rồi. Những dòng chữ đó chẳng có ý nghĩa gì đối với cuộc tìm kiếm của các ngươi. Nếu các ngươi hỏi nữ hoàng của ta, nàng sẽ cho các ngươi một lời khuyên quý báu nhất. Bởi vì đó là những từ còn lại của một nguyên bản dài hơn từ thời cổ đại mà nàng nhớ rất rõ. Nó nằm trong hai câu thơ sau:

Dù bị vùi trong đất đen và không còn ngôi vị

Khi tôi còn một hơi thở, trái đất này còn ở bên dưới tôi.

Mọi chuyện thật ra cũng đơn giản thôi, có một ông vua vĩ đại của những người khổng lồ, bị chôn sống dưới đất vì thế lời nói khoác này đã được khắc lên những hòn đá phía trên lăng mộ của ông ta. Một thời gian sau một vài hòn đá đã bị vỡ và được mang đi nơi khác để xây dựng tòa nhà mới, những hòn đá bị vỡ vụn chỉ còn là rác rưởi, gạch vụn và như vậy chỉ còn mấy từ cuối cùng đó. Chẳng phải là trò cười vui nhất trên đời khi các ngươi cho rằng đó là những lời được viết cho các ngươi hay sao?

Câu nói như một gáo nước lạnh dội xuống đầu Lông Vịt và Jill bởi vì dường như chúng cũng nghĩ rất có thể mấy từ này không có liên quan gì đến sứ mệnh của chúng và việc chúng bị mang đến đây chỉ là một tai nạn thuần túy.

- Đừng để ý đến lời nói của hắn, Puddleglum trấn an. Không phải tan nạn gì đâu. Người đưa đường chỉ lối cho chúng ta là Aslan và người đã ở đây khi vua khổng lồ khắc những dòng chữ này, người biết rõ những gì sẽ đến kể cả chuyện này nữa.

- Người dẫn đường của các em đúng là một ông già Khốt ta bít. – Hiệp sĩ nói với một tràng cười hô hố, trống rỗng khác.

Jill bắt đầu cảm thấy tiếng cười ấy có cái gì rất khó chịu.

- Dường như đối với tôi, thưa ngài, - Puddleglum nói, - thì bà chúa hay bà hoàng gì đó của ngài chắc cũng là người sống đủ lâu nếu bà nhớ được cả câu thơ này khi lần đầu tiên nó được viết ra.

- Ăn nói sắc sảo lắm anh chàng người - ếch kia. - Hiệp sĩ nói, vỗ vỗ lên vai Puddleglum và lại cười hô hố lên lần nữa. – Và ngươi đã nói đúng sự thật. Nàng chính là thần linh bất tử, không biết đến tuổi già và cái chết. Ta là người chịu ơn nàng, tấm lòng khoan dung độ lượng của nàng đối với một kẻ phàm trần khốn khổ như ta thì không có đủ lời ca ngợi. Bởi vì quý vị cần phải biết rằng ta phải chịu đựng mọi tai ách quái đản nhất và không một ai ngoài nàng lại đối xử với ta bằng một tấm lòng nhẫn nại và nhân từ đến như thế. Nhẫn nại, ta đã nói thế ư? Nhưng sự thật còn vĩ đại hơn nhiều. Nàng đã hứa sẽ đưa ta lên làm vua ở trên trần, một khi ta đã làm vua rồi thì nàng sẽ trở thành hoàng hậu của ta. Nhưng đây là câu chuyện quá dài nếu các vị khách lại phải đứng thế kia. Này các ngươi, hãy mang rượu và thức ăn dành cho người trần đến để khoản đãi các vị khách quý của ta. Mời các quý ngài ngồi xuống. Cô bé hãy ngồi vào cái ghế này. Mọi người có thể nghe đầu đuôi câu chuyện.

CHƯƠNG 11

 Trong lâu đài dưới lòng đất

Khi bữa ăn được dọn ra gồm có bánh nhân bồ câu, thịt nguội, sa lát trộn và các loại bánh ngọt, mọi người kéo ghế lại gần bàn, bắt đầu bữa ăn còn hiệp sĩ thì tiếp tục với một giọng tâm tình:

- Các bạn nên biết một điều, chính tôi cũng không rõ mình là ai và do đâu mà tôi đến cái thế giới của đêm tối này. Tôi không... không nhớ là đã có khi nào tôi có mặt ở một nơi nào đó chưa, tôi chỉ biết một điều là nàng đã cứu tôi khỏi một lời nguyền độc ác, đưa tôi đến đây nhờ vào lòng tốt vô biên của nàng. (Này ông bạn chân ếch trung hậu, ly của ông đã cạn. Hãy cho phép tôi rót đầy rượu đó.) Với tôi thì rất có thể là ngay vào lúc này tôi cũng đang là nạn nhân của một yêu thuật mà chỉ có một mình nữ hoàng mới có thể giải phóng cho tôi. Đêm nào cũng vậy có một giờ đầu óc tôi có một sự thay đổi ghê gớm, sau đó là trong tâm hồn và thể xác tôi. Lúc ấy tôi giận dữ, điên loạn sẵn sàng lao vào những người thân yêu nhất mà chém giết họ, vì thế mà phải trói tôi lại. Chẳng bao lâu sau, tôi biến thành một quái vật giống một mãng xà khổng lồ, đói khát, dữ tợn, chỉ muốn ăn sống nuốt tươi kẻ khác. (Mời ngài dùng thêm một miếng thịt bồ câu nữa, tôi khẩn khoản xin ngài đấy.) Ấy là người ta kể lại cho tôi như thế và chắc chắn là họ nói sự thật vì bà chúa của tôi cũng nói thế. Còn bản thân tôi thì chẳng biết điều gì ráo trọi, bởi vì khi cái giờ ấy trôi qua, tôi tỉnh lại và quên tất tần tật những việc làm tàn bạo của mình, lại trở về với hình thể cũ với một tâm trí lành mạnh – chỉ có một sự khác biệt nho nhỏ là tôi thấy trong người hơi mệt mỏi. (Mời tiểu thư ăn một trong những cái bánh mật này, người ta mang đến cho tôi từ một vùng đất còn chưa được khai hóa, đâu như ở tận phương đông xa xôi.) Bằng tài nghệ của mình, nữ hoàng của tôi biết rằng tôi sẽ được giải phóng khỏi yêu thuật một khi nàng đưa tôi lên làm vua ở một nơi nào đó trên kia và vào đúng thời điểm... chiếc vương miện được đặt trên đầu tôi. Mảnh đất ấy đã được chọn lựa, đúng cái chỗ mà chúng tôi sẽ tấn công. Người đất của nàng đã đào đất ngày cũng như đêm không ngơi nghỉ ở bên dưới, bây giờ thì con đường ấy đã khá dài và dâng lên cao đến nỗi hầu như nó chỉ còn cách mặt đất có một bước chân nữa mà thôi. Chẳng bao lâu, phải, chẳng bao lâu nữa số phận của những con người trên kia sẽ tự tìm đến họ. Bản thân nàng cũng đi đào đất tối nay và tôi đang đợi lời nhắn để đến chỗ nàng. Thế là chỉ còn một lớp đất mỏng ngăn cách tôi với vương quốc của tôi và nó sẽ bị phá vỡ ngay. Với sự hướng dẫn và giúp đỡ của nàng cùng hàng ngàn người đât sau lưng, tôi sẽ trang bị đầy đủ vũ khí mà xông lên phía trước, ra đòn bất ngờ tấn công vào giữa đội hình quân thù, giết ngay tên cầm đầu, chiếm cứ hậu phương của bọn chúng và không còn nghi ngờ gì nữa sẽ được đội vương miện trên đầu chỉ trong vòng không đầy 24 tiếng đồng hồ.

- Đó sẽ là cả một điều may mắn nhọc nhằn đối với họ, phải không? – Lông vịt hỏi.

- A ha, anh bạn này có một trí tuệ sắc sảo đến không ngờ đấy – Hiệp sĩ kêu lên – Bởi vì thật thà mà nói, trước đây toi chưa hề nghĩ đến chuyện này. Tôi biết bạn muốn nói điều gì rồi.

Trông vẻ mặt thì biết, hình như chàng ta hơi khó chịu, chỉ một chút thôi và điều này cũng chỉ kéo dài một hai giây, nhưng khuôn mặt ấy nhanh chóng trở nên thanh thản và chàng lại cười rộ lên với tiếng cười ồn ào của mình.

- A ha ha! Thật là vui và tức cười khi nghĩ đến bọn người trên kia, cứ cắm đầu làm công việc của mình mà không hề hay biết bên dưới những cánh đồng và những chiếc sân bình an của họ, chỉ cách một sải là một đội quân đông vô kể, sẵn sàng tấn công họ như một mạch nước ngầm phun lên vào lúc nào không biết. Mà bọn họ không nghi ngờ gì điều này nhé. Chà chà chà, một khi ngậm ngùi nghĩ lại thất bại của mình họ sẽ khó mà cười được với ý nghĩ này.

- Tôi chẳng thấy điều này có gì đáng cười cả - Jill nói – Tôi nghĩ rằng anh sẽ là một bạo chúa hết sức tàn ác.

- Cái gì? – Hiệp sĩ nói, vẫn cười ha hả và tiếp tục vỗ vỗ lên đầu Jill với một điệu bộ vừa tức tối vừa kẻ cả - Cô bé của chúng ta là một chính khách sâu sắc gớm hả? Nhưng đừng sợ, cô em yêu quý ạ. Để lãnh đạo vùng đất này, ta sẽ làm theo lời khuyên của bà chúa lòng ta và nàng cũng sẽ là hoàng hậu của ta. Một lời của nàng sẽ là mệnh lệnh đối với ta cũng như lười của ta sẽ trở thành luật lệ đối với những kẻ mà ta chinh phục được.

- Ở nơi tôi sống – Jill nói, mỗi lúc một thêm ghét con người này – người ta không coi trọng những người đàn ông làm nô lệ cho vợ đâu.

- Em sẽ nghĩ khác đi cô bé ạ, khi có người đàn ông của mình, ta báo trước cho em biết điều đó – Hiệp sĩ nói, rõ ràng đang nghĩ rằng chuyện này rất buồn cười – Còn với bà chúa của ta thì lại là một vấn đề khác. Ta vui lòng sống dưới sự chỉ đạo của nàng, người bao giờ cũng cứu ta ra khỏi vô vàn nguy hiểm. Không một từ mẫu nào dịu dàng chăm sóc đến cái đau của con hơn bàn tay dịu dàng của nàng đối với ta. Tại sao à, giữa bộn bề công việc và những mối quan tâm lớn nhỏ của mình, nàng vẫn tìm ra thời gian để cưỡi ngựa với ta lên mảnh đất trên kia rất nhiều lần với mục đích làm cho đôi mắt ta quen với ánh sáng mặt trời. Mỗi lần như vậy ta đều phải ngụy trang đến tận răng, kéo tấm che mặt xuống để không ai thấy mặt ta và ta cũng không được nói chuyện với bất cứ ai. Bởi vì nàng đã biết, nhờ phép thuật siêu việt của nàng, rằng làm như vậy ta sẽ tránh được những tai họa ghê gớm nhất. Nàng tài giỏi hơn ta gấp vạn lần. Đấy chẳng phải là một người đàn bà đáng cho một người đàn ông thờ phụng hay sao?

- Nghe ra có vẻ là một quý bà đáng quý biết bao – Puddleglum nói bằng một giọng có hàm ý ngược lại. Họ đã chán nghe những lời tán dương nữ hoàng của hiệp sĩ Đen. Puddleglum thầm nghĩ:” Mình tự hỏi không biết đây có phải là trò lỡm mà phù thủy đặt ra cho cái thằng xuẩn này không?” Lông Vịt lại có ý nghĩ đơn giản hơn:” Anh chàng này chỉ là một đứa trẻ to xác, bị cột vào dải tạp dề của người đàn bà này, rõ là một cục đất sét”. Còn Jill thì cho rằng:” Hắn ta là một con heo ích kỷ, ngu ngốc nhất mà mình từng biết, kẻ đã để cho người khác xỏ vào mũi mà dắt đi”.

Nhưng khi bữa ăn kết thúc, tâm trạng của hiệp sĩ thay đổi, không còn tiếng cười ha hả nữa.

- Các bạn ạ, cái giờ đày đọa khủng khiếp của tôi gần đến rồi đất. Tôi sẽ xấu hổ lắm nếu các bạn chứng kiến cảnh ấy dù rằng tôi sợ phải bị bỏ lại một mình đến chết đi được. Người ta sẽ đến ngay bây giờ, trói tôi vào chiếc ghế đằng kia. Trời ơi, cần phải làm như vậy, họ bảo tôi như thế, bởi vì trong cơn cuồng nộ tôi sẽ phá hủy tất cả những gì mà tôi chạm tay tới được.

- Quả thật, - Lông Vịt nói, - Tôi rất đau lòng trước việc anh bị quỷ ám một cách kinh khủng như vậy, nhưng người ta sẽ làm gì chúng tôi khi họ đến đây trói anh? Họ đã bảo sẽ đưa chúng tôi vào ngục tối mà chúng tôi thì không thích những nơi như vậy chút nào. Thà ở đây với anh... cho đến khi anh cảm thấy bình thường... nếu có thể thu xếp như vậy.

Đó cũng là một ý hay. Theo lệ thường không có ai ngoài nữ hoàng ở lại bên tôi vào cái giờ quỷ ám ấy. Với sự quan tâm chu đáo rất mực đến danh dự của tôi, nàng không muốn bất cứ đôi tai nào khác ngoài nàng phải chịu đựng những lời lẽ ghê tởm tôi văng ra trong cơn điên loạn. Nhưng tôi không dễ thuyết phục những tên nô bộc này để chúng cho phép các bạn ở lại chỗ tôi đâu. Hình như tôi đã nghe thấy tiếng bước chân nhẹ nhàng của chúng đang đi lên cầu thang. Hãy mau đi qua cái cửa đằng kia, nó dẫn đến khu phòng dành riêng cho tôi. Ở đấy, các bạn cứ đợi tôi quay về khi họ đã cởi trói cho tôi, hoặc nếu muốn có thể quay lại chứng kiến cơn cuồng loạn của tôi.

Họ làm theo lời ý đó, đi về gian phòng của hiệp sĩ theo một cánh cửa đến bây giờ họ mới thấy. Họ vui mừng nhận thấy nó dẫn họ đến một hành lang, không phải tối om om mà sáng ánh đèn, Họ thử đi qua nhiều cánh cửa khác tìm thấy (cái mà họ cần nhất vào lúc này) nước để rửa mặt, thâm chí nơi đây còn có cả một tấm gương nữa.

- Thế mà anh ta không mời bọn mình rửa mặt mũi chân tay trước khi ăn – Jill càu nhàu trong khi lau khô mặt – Ích kỷ, đồ con heo ích kỉ!

- Chúng ta quay lại hay ở lại đây nào? – Lông Vịt hỏi.

- Ở lại đây, tôi quyết định như thế - Jill nói – Tôi chẳng muốn chứng kiến cái cảnh tên điên ấy bị quỷ ám đâu – Tuy mạnh miệng nói vậy, nhưng trong thâm tâm nó vẫn cảm thấy đôi chút tò mò.

- Không, ta nhất định phải quy lại đấy – Puddleglum nói. – Ta có thể thu thập được thông tin, mà chắc đấy mới là điều mà chúng ta cần. Tôi chắc nữ hoàng này là một phù thủy và là kẻ thù của chúng ta. Người đất có thể đập lên đầu ba chúng ta ngay lúc trông thấy chúng ta. Tôi đánh hơi thấy cái mùi rất đặc trưng của nguy hiểm, dối trá, yêu thuật, phản trắc. Phải, ở chính nơi đây là một điều mà tôi chưa đánh hơi thấy trước đó. Chúng ta cần phải mở to hai mắt và dỏng hai tai lên.

Họ quay lại hành lang, nhè nhẹ đẩy vào cánh cửa.

- Ổn rồi, - Lông Vịt nói, - điều đó có nghĩa là không có người đất nào còn ở đó. – Sau đấy, tất cả quay lại căn phòng ban nãy họ ngồi ăn với nhau.

Cửa chính lúc này đã đóng chặt, màn buông xuống kín mít che cả lối đi họ bước vào lúc đầu. Hiệp sĩ đang ngồi trên một chiếc ghế bạc có kích thước và kiểu dáng kì lạ, chàng ta bị trói chặt vào đó với những vòng dây thừng quanh mắt cá chân, đầu gối, khuỷu tay, cổ tay và thắt lưng. Mồ hôi lấm tấm trên trán anh, trên khuôn mặt hiện lên một vẻ đau đớn khôn tả.

- Mời các bạn vào đây, - Anh ta nói, ngước mắt lên nhìn thật nhanh. – Cơn điên loạn còn chưa chụp xuống người tôi. Đừng làm ồn, bởi vì tôi đã bảo bọn người kia là các bạn đã đi ngủ. Nào… bây giờ tôi cảm thấy nó đang đến. Nhanh lên. Hay nghe đây, trong lúc tôi còn làm chủ được bản thân. Khi con quỷ quay lại ám tôi, rất có thể tôi sẽ yêu cầu, van xin, lạy lục và đe dọa, buộc các bạn cởi trói cho tôi. Người ta nói tôi thường làm thế. Tôi sẽ gọi các bạn bằng những mỹ từ tốt đẹp nhất và những hình dung từ xấu xa nhất. Nhưng chớ có nghe tôi nói. Hãy bịt tai lại và làm cho trái tim mình trơ lì ra. Bởi vì trong khi tôi bị trói thì các bạn còn an toàn. Một khi tôi đã được giải phóng khỏi cái ghế này thì việc đầu tiên tôi sẽ nổi cơn điên loạn và sau đó... – Anh rùng mình ghê tởm – Tôi sẽ biến thành một con mãng xà kinh tởm nhất.

- Không cần phải sợ, chúng tôi sẽ không thả anh ra đâu. – Puddleglum nói. – Chúng tôi không muốn dính dáng gì với những người điên và những con rắn độc.

- Tôi cũng nghĩ thế. – Jill và Lông Vịt đồng thanh đáp.

- Dù sao thì, - Puddleglum nói nhỏ, - các cháu cũng đừng quá vững tin. Hãy cảnh giác. Chúng ta đã gặp sai lầm lần trước rồi. Hắn ta có vẻ rất ma mãnh đấy, tôi không nghi ngờ gì điều đó đâu. Có dám tin tưởng nhau không? Có dám hứa rằng dù hắn có nói gì chúng ta cũng sẽ không chạm vào sợi dây trói không? Bất kể là hắn có nói gì, được không?

- Đã hẳn rồi, - Lông Vịt nói chắc như đinh đóng cột.

- Trên đời này không một điều gì hắn nói và làm có thể khiến tôi thay đổi ý kiến, - Jill khẳng định.

- Suỵt! Có một điều gì đó đã xảy ra. – Puddleglum nói.

Hiệp sĩ kêu lên một tiếng, khuôn mặt tái dại đi như chàm đổ và anh oằn người dưới sợi dây trói. Không biết vì thương hại chàng trai hay còn có một lý do nào khác, Jill nghĩ trông anh ta dễ mến hơn lúc trước.

- Ôi trời! – Anh ta rên rỉ. – Yêu thuật, yêu thuật... Một cái lưỡi nhầy nhụa, lạnh lẽo, rối tinh rối mù và nặng nề của ma thuật, quái đản. Chôn sống người ta. Kéo người ta xuống lòng đất, dìm vào trong bóng đêm đầy ám muội... bao nhiêu năm trôi qua rồi? Trong cái hố đen tối ghê rợn này? Dòi bọ bao quanh ta. Xin hãy rủ lòng thương, hãy thả ta ra, để ta quay trở về, để ta được cảm thấy làn gió mơn man trên má và bầu trời xanh biếc trên đầu... Đã từng có một hồ nước nhỏ. Khi soi mình vào đấy ta có thể thấy những hàng cây mọc quanh bờ hồ... biếc xanh, mơn mởn và ở dưới đáy, sâu, sâu hơn nữa là bầu trời xanh thăm thẳm.

Lúc đầu anh nói nhỏ, tựa như nói với chính mình, đến đây anh nhìn lên, mắt xoáy sâu vào họ, giọng nói to hơn, rõ ràng hơn:

- Nhanh lên! Đây là lúc tôi tỉnh nhất. Đêm nào tôi cũng tỉnh. Nếu tôi được giải thoát khỏi chiếc ghế ma thuật này, thì tôi sẽ tỉnh táo mãi mãi. Sẽ lại là chính mình như ngày xưa. Người ta trói tôi vào ghế chính là vì muốn tước đi của ta cái cơ hội ấy. Các bạn không phải là kẻ thù. Tôi không phải là tù nhân của các bạn. Nhanh lên! Hãy cắt dây trói!

- Đứng xa ra. – Puddleglum nói với hai đứa trẻ.

- Tôi khẩn khoản cầu xin mọi người hãy nghe tôi. – Hiệp sĩ nói tiếp, cố trấn tĩnh để nói năng từ tốn. – Có phải họ nói với các bạn rằng nếu được giải thoát khỏi cái ghế này tôi sẽ giết các bạn và biến thành một con rắn? Qua nét mặt các bạn tôi biết sự thật là như thế. Nhưng đó là một điều dối trá. Đây mới là lúc tôi là chính mình, quảng thời gian còn lại tôi bị bùa mê thuốc lú. Các bạn không phải là ngời đất mà cũng không phải là phù thủy. Tại sao lại về phe bọn chúng? Cầu xin các bạn hãy cởi trói cho tôi!

- Đừng! Đừng! Đừng! – Ba người khách quay ra bảo nhau như vậy.

- Ôi trái tim trong lồng ngực các bạn là đá hay sao? Hãy tin tôi đi, trước mặt các bạn là một con người đã chịu đựng nỗi thống khổ mà không một kẻ phàm trần nào chịu đựng nổi. Tôi đã làm gì sai trái với các bạn mà các bạn nỡ đứng về phía kẻ thù, buộc tôi phải chịu một nỗi đau khổ ghê gớm đến dường này? Giây phút này sẽ mau chóng trôi qua. Các bạn phải cứu tôi ngay trước khi quá muộn. Khi cái giờ quý báu này trôi qua, tôi sẽ lại trở nên mê mụ - thành một món đồ chơi, một con chó nịnh bợ, liếm gót, không, đúng hơn là một con tốt đen, một công cụ trong tay... một phù thủy tàn ác nhất. Một có trong đầu một kế hoạch nham hiểm nhất để chống lại con người. Chỉ có đêm nay mụ mới đi ra ngoài. Các bạn sẽ tước đi của tôi một cơ hội duy nhất không bao giờ quay lại nữa.

- Thật kinh khủng. Tớ ước gì chúng ta không có mặt ở đây cho đến khi cái giờ này trôi qua. – Jill nói.

- Hãy kiên định! – Puddleglum nhắc nhở.

Giọng người tù bây giờ cất cao lên trở thành một tiếng rền.

- Hãy thả ta ra. Trao cho ta thanh kiếm của ta! Kiếm của ta. Nếu ta được tự do một lần nữa, ta sẽ trả thù người đất nào dám nói điều này trong vòng 1000 năm.

- Cơn cuồng loạn bắt đầu, - Lông Vịt nói, - tớ hy vọng sợi dây trói đủ chắc.

- Phải, - Puddleglum tán thành. Hắn ta sẽ có sức mạnh bằng hai lúc bình thường nếu được tự do... Tôi không giỏi kiếm kích. Hắn sẽ thịt được hai ta, sau đó thì Pole lại phải đối phó với mãng xà.

Người tù lúc này đang gồng cả người lên làm căng sợi dây trói ở cổ tay và mắt cá chân.

- Hãy nghe đây, nghe đây! Có một đêm tôi đã dứt đứt được dây trói. Nhưng lúc ấy phù thủy có mặt ở đây. Đêm nay mụ không có mặt để làm việc đó. Hãy giải phóng cho tôi, tôi là bạn. Tôi là kẻ thù của kẻ thù các bạn.

- Khôn ngoan lắm, có phải không? – Puddleglum hỏi, không phải là không có vẻ nao núng.

- Một lần và mãi mãi, tôi cầu xin hãy thả tôi ra. Bằng tất cả tình yêu và nỗi sợ, bằng bầu trời xanh trên đầu ở trên kia, nhân danh sư tử vĩ đại, nhân danh Aslan, tôi xin các bạn... 

- Ối! – Ba người rên lên như thể họ bị đánh.

- Đó là một dấu hiệu. – Puddleglum nói.

- Đó là dấu hiệu bằng lời! – Lông Vịt nói, thân trọng hơn.

- Trời ơi, ta phải làm gì bây giờ? – Jill hỏi.

Đó là một bài toán hóc búa. Còn có ích gì cái lời mà họ đã hứa với nhau là họ sẽ không làm gì để thả hiệp sĩ ra. Phải làm gì nếu người tù chỉ tình cờ thốt lên cái tên rất đỗi yêu thương đối với họ? Mặt khác họ thuộc lòng các dấu hiệu làm gì nếu họ không tuân theo? Tuy vậy, liệu Aslan có ý muốn nói hãy cởi trói cho bất cứ ai – dù là một thằng điên – chỉ vì người này kêu tên ông không? Có phải là một sự ngẫu nhiên không? Hay là nữ hoàng của vương quốc bóng tối đã biết các dấu hiệu vây bắt hiệp sĩ Đen phải học cái tên này chỉ để cài bẫy họ? Nhưng giả sử đây là một dấu hiệu thật sự? Họ đã đánh trượt ba lần và bây giờ không dám để vụt mất lần thứ tư.

- Ôi giá mà chúng ta biết được! – Jill nói.

- Tôi nghĩ chúng ta biết. – Puddleglum nói.

- Ý bác nói mọi cái sẽ được sắp đặt đúng chỗ nếu chúng ta cởi trói cho người này? – Lông Vịt hỏi lại.

- Tôi cũng không rõ nữa. Các cháu thấy đấy, Aslan không cho Pole biết chuyện gì sẽ xảy ra. Người chỉ nói cho cô bé biết cần phải làm gì. Anh chàng này có thể là cái chết của cả ba chúng ta nếu chúng ta cởi trói cho hắn. Nhưng cần phải làm theo các dấu hiệu, không được bỏ lỡ.

Họ đứng ngây ra nhìn nhau, đôi mắt sáng rực. Đó là một khoảnh khắc đáng sợ.

- Được thôi! – Bất thình lình Jill kêu lên. – Hãy để cho chuyện này trôi qua. Tạm biệt, tất cả mọi người! – Họ bắt tay nhau. Hiệp sĩ đang gầm lên, bọt mép sùi ra trên má.

- Bắt đầu nào, Lông Vịt. – Puddleglum nói. Bác ta và Lông Vịt tuốt kiếm ra đi đến bên người tù.

- Nhân danh Aslan, - họ nói và bắt đầu cắt dây trói một cách máy móc. Ngay khi người tù được tự do anh nhảy lên một bước đi hết chiều ngang căn phòng, vớ lấy thanh kiếm của mình (đã bị tước khỏi tay anh) đang nằm trên mặt bàn và rút kiếm ra khỏi vỏ.

- Đầu tiên là mày! – Anh hét lên, lao đến chỗ chiếc ghế bạc. Đó là một nhát kiếm mạnh mẽ. Chiếc ghế bay lên trước khi long ra thành từng mảnh và trong một tích tắc, những mảnh ghế vỡ sáng lấp lánh trên sàn nhà là tất cả những gì còn lại của chiếc ghế bạc. Nhưng khi chiếc ghế vỡ tan, có một tia chớp phát ra cùng với một tiếng động nghe như một tiếng sấm nhỏ, trong vài phút một cái mùi khiến người ta buồn nôn tràn ngập trong phòng.

- Đó chính là bùa phép độc ác của phù thủy, - anh nói, - ít nhất thì bà chủ của mày cũng không thể dùng với những nạn nhân khác.

Anh quay lại nhìn những người vừa giải thoát cho mình và cái vẻ không ổn hay bất cứ một cái gì như vậy đã biến khỏi khuôn mặt anh.

- Cái gì thế này? – Anh kêu lên, quay qua Puddleglum. – Trước mặt tôi có phải là một cư dân vùng đầm lầy – một cư dân Narnia thật sự, chân chính và còn sống hẳn hoi?

- Ồ vậy ra cuối cùng anh cũng nghe nói đến Narnia? – Jill hỏi.

- Chẳng lẽ vào lúc lú lẫn tôi lại quên tất cả ư? – Hiệp sĩ hỏi. – Bây giờ thì tất cả những trò yêu ma quỷ quái này đã trôi qua. Các bạn có thể tin là tôi biết Narnia bởi vì tôi là Rilian, hoàng tử Narnia và vua Caspian là cha tôi.

- Thưa điện hạ, - Puddleglum kêu lên, quỳ một gối xuống đất (mấy đứa trẻ cũng làm theo), - chúng tôi đến đây không có mục đích gì ngoài việc đi tìm kiếm người.

- Vậy các em là ai, những vị ân nhân của tôi? – Hoàng tử hỏi Lông Vịt và Jill.

- Chúng em được chính Aslan phái đến từ thế giới bên ngoài Nơi tân cùng thế giới để tìm kiếm hoàng tử. – Lông Vịt nói. – Em là Eustace người đã cũng cha anh đi tàu đến đảo Ramandu.

- Tôi đã nợ ba người một món nợ lớn hơn cái mà suốt đời tôi không đền đáp được. Nhưng còn cha tôi thì sao? Người còn sống không?

- Bệ hạ đã lái tàu về phương đông trước khi chúng tôi rời khỏi Narnia. Nhưng thưa điện hạ, người cần phải biết là bệ hạ đã tuổi cao sức yếu. Mười ăn một là người sẽ không cầm cự nổi trong chuyến đi này.

- Phụ vương đã già? Vậy tôi, tôi đã bị phù thủy phù phép bao lâu rồi?

- Đã hơn mười năm trôi qua kể từ lúc điện hạ bị lạc trong khu rừng ở miền Bắc Narnia.

- Mười năm! Hoàng tử kêu lên, hai tay ôm lấy mặt như muốn xua đuổi quá khứ. Phải, tôi tin lời ông. Bây giờ khi trở lại là chính mình tôi có thể nhớ lại quãng đời bị yêu thuật chi phối dù biết rằng quãng thời gian mê mụ ấy tôi không biết mình là ai. Bây giờ, các bạn thân mến... Khoan đã, tôi nghe có tiếng chân đi lên – không phải là tiếng chân người. Chỉ là tiếng bước đi của những cái móng guốc nhồi lên – kinh tởm! – trên cầu thang. Khóa cửa lại cậu bé. Hoặc cứ để thế. Tôi có một ý hay hơn. Tôi sẽ lừa bọn người đất này nếu Aslan còn cho tôi một trí khôn. Hãy làm theo tôi.

Anh đi ra mở cửa vẻ kiên quyết, khốc liệt và mở tung cánh cửa.

CHƯƠNG 12

 Nữ hoàng của Bóng Tối

Hai người đất xuất hiện như thay vì bước vào phòng họ lại đứng dạt sang hai bên, đầu cúi rất thấp. Bước ra chỗ có ánh sáng là người cuối cùng mà các nhân vật ta nghĩ đến hoặc muốn gặp vào lúc này: thiếu nữ Áo Xanh hay nữ hoàng Bóng Tối. Mụ đứng một lúc ngoài ngưỡng cửa, họ có thể thấy đôi mắt đẹp đảo một vòng: ba người không quen nhưng đã từng gặp mặt, cái ghế bạc bị phá hủy, hoàng tử đã được cởi trói với thanh kiếm tuốt trần trên tay.

Thiếu nữ trắng bợt cả người đi nhưng Jill biết đó không phải là một cái màu tái nhợt khi người ta sợ hãi mà là vì hết sức giận dữ. Thoạt đầu mụ xoáy đôi mắt vào hoàng tử, chỉ có cái nhìn chết chóc trong đó. Rồi dường như mụ đổi ý.

- Các người lui ra đi. – Mụ nói với hai người đất. – Đừng quấy rầy bọn ta trừ phi ta kêu lên vì đau đớn cho đến chết.

Người đất tuân lệnh bỏ đi ngay, phù thủy đóng cửa, khóa trái lại.

- Bây giờ, hoàng tử của ta, cơn điên loạn đêm đêm còn chưa đến với chàng hay là nó trôi qua sớm hơn thường lệ? Sao chàng lại không bị trói? Những kẻ lạ mặt này là ai? Có phải chính họ đã phá hủy chiếc ghế vốn là chỗ trú ẩn duy nhất của chàng?

Toàn thân hoàng tử run rẩy như cành cây rung lên trong gió nhẹ khi nghe những lời mụ nói. Chẳng có gì phải ngạc nhiên, không dễ gì dứt bỏ được yêu thuật đã đầu độc anh hơn mười năm qua chỉ trong vòng nửa giờ đồng hồ. Đoạn với một nỗ lực vượt bạc, anh nói:

- Thưa nữ hoàng, sẽ không cần đến cái ghế ấy nữa. Và nàng, người đã nói lại với tôi hàng trăm lần rằng nàng vô cùng xót thương cho tôi vì đã bị trói buộc vào một yêu thuật tàn ác, thì không còn hồ nghi gì nữa, nàng hẳn sẽ vui mừng vì những yêu thuật đó giờ đây sẽ chấm dứt mãi mãi. Vâng, dường như chỉ có một sơ suất nhỏ trong cách nữ hoàng xử lý chuyện này. Đây là những người bạn của tôi, họ vừa giải thoát cho tôi. Bây giờ khi bộ não sáng suốt lành mạnh đã trở lại với tôi và có hai điều tôi muốn nói với nàng. Thứ nhất là về cái kế hoạch để tôi lãnh đạo đội quân người đất tiến đánh lên thế giới trên kia và bằng cách đó đưa tôi lên ngôi chí tôn ở những đất nước chưa làm hại gì đến tôi: giết hại người vô tội ư, chiếm đoạt ngai vàng của họ như một tên giắc ngoại xâm đầy thú tính ư? Bây giờ tôi đã thoát khỏi những cơn mê mụ và tự nhận ra đó là một việc làm đầy tội lỗi nhất, trời không dung đất không tha. Điều thứ hai, tôi là con trai đức vua Narnia, là Rilian – hoàng tử duy nhất của vua Caspian thứ mười, còn được người đời gọi là Caspian – Người chinh phục biển. Như vậy thưa nữ hoàng, mục đích và cũng là nghĩa vụ của tôi là phải lập tức rời triều đình của bà trở về quê nhà. Xin bà vui lòng hãy đảm bảo cho tôi và các bạn của tôi được an toàn và hướng dẫn chúng tôi ra khỏi Vương quốc Dưới Lòng Đất.

Phù thủy không nói một lời nào, chỉ nhẹ nhàng đi ngang qua phòng, không lúc nào rời mắt khỏi hoàng tử. Khi đến gần một cái hộp nhỏ gắn trên tường cách không xa lò sưởi là mấy, mụ mở hộp bốc ra một nắm bột màu xanh ném vào lò sưởi. Ngọn lửa không cháy bùng lên nhưng từ trong lò bốc ra một mùi hương ngọt lừ, ngai ngái, mơ màng, mông lung. Trong lúc cuộc đấu khẩu diễn ra, cái mùi này mỗi lúc một mạnh hơn, tràn ngập cả căn phòng khiến người ta khó mà suy nghĩ mạch lạc được. Sau đó mụ lấy ra một loại nhạc cụ giống như cây đàn măng đô lin rồi múa những ngón tay lên những sợi dây đàn với những cử động đều đều, buồn tẻ mà thoạt đầu không làm cho bạn chú ý đến. Nhưng bạn càng ít để ý đến nó bao nhiêu nó lại càng thấm sâu vào trí não và huyết quản bạn bấy nhiêu. Nó cũng làm cho người ta khó lòng sử dụng trí óc. Sau khi đàn thêm một hồi nữa (trong lúc ấy cái mùi ngòn ngọt kia mỗi lúc một mạnh hơn) mụ bắt đầu nói bằng một chất giọng thẽ thọt đầy ma mị:

- Narnia? Narnia ư? Ta thường nghe chàng nhắc đến cái tên ấy trong cơn điên loạn của mình. Hoàng tử thân yêu ơi, chàng loạn trí mất rồi. Không có mảnh đất nào có cái tên như thế.

- Thế mà vẫn có đấy, thưa bà. - Puddleglum nói. – Bà biết không, tình cờ làm sao tôi lại sống ở đấy từ ngày cha sinh mẹ đẻ đến giờ.

- Thật ư? Vậy ta hỏi ngươi mảnh đất đó ở đâu?

- Trên kia. – Puddleglum nói giọng mạnh mẽ, chỉ tay lên trên đầu. – Tôi... tôi không biết chính xác là ở đâu.

- Thế sao? – Nữ hoàng hỏi với một tiếng cười khúc kha khúc khích, âm điệu rất dịu dàng, đáng mến. – Chẳng lẽ lại có một đất nước ở giữa đống sỏi đá và vôi vữa hoang tàn ở trên kia?

- Không. – Puddleglum nói, cố gắng hít một hơi dài. – Nó là thế giới trên kia.

- Là cái gì, hoặc ở đâu, xin hãy nói ra... Chẳng lẽ ngươi gọi nó... là thế giới trên kia... ?

- Thôi đi, đừng có làm bộ ngu ngốc như thế, - Lông Vịt nói, nó đã phải cố hết sức chống lại sức mê hoặc của mùi thơm và tiếng đàn đều đều, - cứ như là bà không biết gì hết! Nó ở trên đầu tôi, nơi bà có thể nhìn thấy bầu trời, mặt trời và trăng sao. Tại sao, bà chưa ở đó bao giờ à? Chúng tôi đã gặp bà ở trên đấy rồi đó.

- Xin em trai bé nhỏ hãy tha lỗi cho ta, - phù thủy lại khúc khích cười (bạn không thể nghe thấy một tiếng cười nào dễ thương hơn đâu). – Sao tôi chẳng nhớ gì về cuộc gặp gỡ ấy nhỉ? Nhưng mà chúng tôi thường gặp mặt bạn bè ở những nơi xa lạ, khi chúng tôi mơ. Và trừ khi tất cả các giấc mơ đều giống nhau, còn không thì em không thể yêu cầu tôi phải nhớ tường tận tất cả.

- Thưa bà, - hoàng tử nói với một vẻ trang nghiêm, - tôi đã thưa với bà rằng tôi là hoàng tử con vua Narnia.

- Vậy thì bạn thân mến, - phù thủy nói với một giọng vuốt ve tựa như mụ đang dỗ dành một đứa trẻ, - chàng sẽ là vua của nhiều miền đất tưởng tượng trong xứ sở tưởng tượng.

- Chúng tôi đã có mặt ở đó. – Jill đốp lại. Nó giận dữ bởi vì nó có thể thấy ma thuật đang tác động đến nó từng phút một. Nhưng tất nhiên, trong thực tế nó vẫn cầm cự được và chứng tỏ yêu thuật không tác động gì được đến nó.

- Và tôi không hề nghi ngờ, em là nữ hoàng ở Narnia, phải không cô bé xinh đẹp? – Phù thủy vẫn nói với cái giọng vừa ngọt nhạt vừa mai mỉa.

- Tôi không phải là một người như thế. – Jill dằn giọng, giậm chân vì bực tức. – Chúng tôi đến từ một thế giới khác.

- À ra đây là một trò chơi còn thú vị hơn mọi trò chơi khác. – Phù thủy tiếp. – Nói cho tôi nghe, cô bé, cái thế giới ấy ở đâu ra vậy? Có tàu thủy và xe ngựa qua lại giữa nơi đó và có thế giới của chúng tôi không?

Tất nhiên có nhiều điều ùa đến trong óc Jill cùng một lúc: trường thực nghiệm, con bé Adela Renyfather, ngôi nhà nó ở, chiếc radio, những rạp chiếu phim, xe hơi, máy bay, tem phiếu và những hàng người rồng rắn xếp hàng trước các cửa hàng. Nhưng tất cả sao mà mờ ảo và xa xôi làm vậy. (Và tiếng đàn tưng tưng tưng đều đều vẫn vang lên dưới ngón tay phù thủy). Jill không thể nhớ ra tên gọi những sự vật và sự việc trong thế giới của chúng ta. Nhưng nó cũng không hề gợn lên ý nghĩ là nó đã bị yểm bùa bởi vì ma thuật bây giờ đã phát huy toàn bộ sức mạnh của nó và tất nhiên bạn càng bị bùa phép làm cho lú lẫn bao nhiêu thì bạn lại càng nghĩ mình tỉnh táo bấy nhiêu. Nó nghe chính miệng mình nói (và vào lúc ấy nói ra như thế thật nhẹ nhõm biết bao):

- Không, tôi cho rằng cái thế giới ấy cũng chỉ là một giấc mơ.

- Đúng, tất cả chỉ là một giấc mộng. – Phù thủy đáp, vẫn luôn tay gảy đàn.

- Vâng, tất cả chỉ là giấc chiêm bao. – Jill đáp.

- Không bao giờ có một thế giới như vậy. – Phù thủy nói.

- Không! – Cả Lông Vịt và Jill đều phụ họa, không hề có một thế giới như vậy.

- Chẳng có thế giới nào ngoài vương quốc bóng tối của ta. – Phù thủy nói.

- Chẳng có thế giới nào ngoài vương quốc của nữ hoàng. - Hai đứa trẻ đế theo.

Puddleglum vẫn đấu tranh với bản thân một cách quyết liệt.

- Tôi không biết các người có hàm ý gì với câu nói một thế giới... Bác ta gắng gượng nói như một người không có đủ dưỡng khí. – Nhưng bà có thể chơi cây đàn đó cho đến khi ngón tay của bà rụng hết mà vẫn không làm cho tôi quên được Narnia và cái thế giới trên kia. Chúng tôi có thẻ không gặp lại nó nữa, tôi chẳng ngạc nhiên đâu. Bà có thể xóa sạch thế giới đó, nhuộm cho nó trở nên đen tối như thế giới này, đó là tất cả những gì mà tôi biết. Không có gì giống như thế cả. Nhưng tôi biết là mình đã từng ở đó. Tôi đã thấy bầu trời lấp lánh những vì sao. Tôi đã thấy mặt trời nhô mình lên khỏi mặt biển mỗi buổi sáng và chìm sau dãy núi khi đêm về. Tôi đã thấy mặt trời vào cả buổi trưa nhưng tôi không thể nhìn thẳng vào bởi vì nó quá rực rỡ.

Lời lẽ của Puddleglum vậy mà lại có tác dụng. Ba người kia cảm thấy lại có thể thở được, họ nhìn nhau như những người vừa mới bừng dậy khỏi giấc chiêm bao.

- Chính là thế đấy! – Hoàng tử kêu lên. – Tất nhiên! Ân huệ của Aslan đa ban cho anh bạn Puddleglum kiên cường, trung hậu. Tất cả chúng ta đều đã đi đến giới hạn cuối cùng. Sao chúng ta lại có thể quên được nhỉ? Tất nhiên, tát cả chúng ta đều từng nhìn thấy mặt trời.

- Lạy thần Jupite, chính là thế đây! – Lông Vịt nói. – Puddleglum tốt lành! Cháu tin bác là ngời duy nhất ở đây vẫn còn lý trí.

Chợt vang lên giọng nói của phù thủy – tiếng gù êm ái như tiếng một con chim bồ câu rừng hót lên từ những cành cây du cao trong một khu vườn cổ vào lúc xế chiều một ngày hè mơ màng – và cái giọng ấy nói:

- Mặt trời mà tất cả các ngươi đang nói đến là cái gì vậy? Các ngươi có ý gì khi nói đến các từ ấy?

- Phải, chúng tôi có ý cả đấy... – Lông Vịt đáp.

- Có thể nói cho ta nghe nó như thế nào không hả? – Phù thủy hỏi (tưng, tưng, tưng, cây đàn vẫn nỉ non, ma mị).

- Xin vui lòng phục vụ nữ hoàng. – Rilian nói, hết sức lạnh lùng và lịch thiệp. – Bà hãy nhìn lên cây đèn kia kìa. Nó tròn, màu vàng, tỏa ánh sáng khắp phòng và được treo cao hơn tất cả, từ trên trần. Cái mà chúng tôi gọi là mặt trời thì cũng giống như ngọn đèn chỉ khác là nó lớn hơn rất nhiều và cũng sáng hơn rất nhiều. Nó tỏa sáng cho cả trần gian và được treo cao tít trên bầu trời.

- Treo trên cái gì hở hoàng tử của tôi? – Phù thủy hỏi, rồi, trong lúc họ vẫn chưa nghĩ ra câu trả lời thì mụ nói thêm cùng với tiếng cười dịu dàng, thánh thót trong như tiếng hạc. Mọi người thấy không, khi các người cố hết sức diễn tả mặt trời như thế nào thì các người không thể làm được. Chỉ có thể nói là nó giống một ngọn đèn. Mặt trời của các người thực ra chỉ là một giấc mơ và trong giâc smow ấy không có cái gì có thể giống với một vật khác. Đèn là một vật thật, mặt trời chỉ là một huyền thoại, một câu chuyện dành cho bọn con nít.

- Phải, tôi đang nhìn thấy nó, vào lúc này, - Jill nói, với giọng khó khăn vô hi vọng. Nó phải làm như thế. Dường như đối với con bé điều khẳng định này có một ý nghĩa rất lớn.

Chậm rãi và trang nghiêm, phù thủy lặp lại:

- Không hề có mặt trời!

Chẳng ai nói gì, mụ lặp lại giọng nhẹ nhàng hơn, sâu lắng hơn: “Không hề có mặt trời”.

Sau một chút im lặng và sau một cuộc vật lộn trong tâm tưởng, cả bốn người cùng nói 

- Bà nói đúng. Không thể có mặt trời. - Thật là nhẹ cả người khi nhượng bộ và nói điều ấy ra.

- Trước đây không có mặt trời – Phù thủy tiếp.

- Không có. Không bao giờ có mặt trời! – Hoàng tử nói, rồi đến Puddleglum và hai đứa trẻ.

Trong mấy phút cuối Jill cảm thấy có một cái gì mà nó phải nhớ ra, nhất định phải nhớ ra, bằng bất cứ giá nào. Và bây giờ thì nó đã nhớ ra. Nhưng nói ra điều đó sao mà khó đến thế. Nó cảm thấy như có một sức nặng khủng khiếp đang đè lên môi nó. Cuối cùng với một nỗ lực dường như hút hết cả sức lực trong người, nó bật lên:

- Có... có Aslan!

- Aslan? – Phù thủy lặp lại giọng thất thanh vì thế mà tiếng đàn có yếu đi một chút. Cái tên đẹp quá! Nó có nghĩa là gì thế?

- Ông là một con sư tử vĩ đại, người đã kêu gọi chúng tôi ra khỏi thế giới mà chúng tôi đang sống. – Lông Vịt hấp tấp nói – và gửi chúng tôi đến đây với sứ mệnh đi tìm hoàng tử Rilian.

- Thế sư tử là gì?

- Ôi thôi thôi! – Lông Vịt sốt ruột kêu lên. – Bà không biết thật à? Làm sao chúng tôi tả lại cho bà được? Bà đã từng thấy mèo chưa?

- Chắc chắn rồi. Ta yêu mèo lắm.

- Vậy thì sư tử rất giống mèo – chỉ có điều... giống như một con mèo khổng lồ - với một cái bờm. Ít nhất cũng không giống bờm ngựa đâu, hiểu không... mà giống... giống bộ tóc của ông quan tòa hơn. Màu vàng óng. Và mạnh kinh khủng.

Phù thủy lắc đầu nhè nhẹ:

- Ta thấy chúng ta cũng chẳng... chẳng có được gì tốt hơn với con sư tử mà các ngươi đã nói cũng như với mặt trời vớ vẩn gì đó. Các ngươi nhìn ngọn đèn, tưởng tượng ra một ngọn đèn to hơn, sáng hơn và gọi nó là mặt trời. Các ngươi thấy một con mèo, bây giờ các ngươi lại muốn có một con mèo to hơn, đẹp hơn và gọi nó là sư tử. Ồ, phải, cái đó gọi là một sự giả vờ mặc dù thật tình mà nói nó chỉ thích hợp khi các ngươi là con nít mà thôi. Coi này, cái cách các ngươi sắp đặt những chuyện vờ vịt chẳng có dây mơ rễ má gì với thực tại vào trong thế giới của ta – một thế giới duy nhất tồn tại... Sao mà vụng thế! Cả đến những đứa bé thò lò mũi cũng quá già với những trò chơi như vậy. Hoàng tử của ta... chàng đã là một người đàn ông trưởng thành rồi còn thế à, xấu hổ cho chàng quá đi mất. Chẳng lẽ chàng không cảm thấy mất mặt trong một trò chơi như thế sao? Mọi người hãy đến đây. Dẹp những trò trẻ con sang một bên. Ta có việc cho tất cả các người trong một thế giới có thật. Ở đây không có Narnia, không có thế giới bên trên, không có bầu trời, mặt trời và Aslam gì cả. Bây giờ tất cả hãy ngủ đi. Chúng ta sẽ bắt đầu một cuộc sống khôn ngoan hơn vào ngày mai. Nhưng đầu tiên hãy lên giường, ngủ một giấc thật sâu, với chiếc gối mềm – một giấc ngủ không có những giấc mơ ngu xuẩn.

Hoàng tử và hai đứa trẻ đứng đó, đầu cúi gằm, hai má đỏ lên, đôi mắt lim dim, tất cả sức mạnh của họ đều biến đi đâu mất, yêu thuật hầu như đã hoàn thành sứ mệnh của nó. Riêng Puddleglum tuyệt vọng tập trung hết sức mạnh tinh thần bước đến bên lò sưởi. Sau đó bác ta làm một việc hết sức bất ngờ. Bác biết việc này không làm bác đau như với con người bởi vì chân bác có màng, rất cứng và có máu lạnh giống như chân vịt. Nhưng bác cũng biết, việc làm này đủ làm cho bác nhớ cái đau này suốt đời. Và với đôi chân trần bác ra sức dập tắt ngọn lửa, một lúc sau lò sưởi có cái bụng rộng hầu như chỉ còn là một đám tro với một vài súc củi đang cháy. Thế rồi có ba việc xảy ra cùng một lúc và ngay lập tức.

Đầu tiên bầu không khí ngòn ngọt, ngai ngái, nằng nặng trong phòng loãng dần. Dù không thể dập tắt được cả đống lửa – ngọn lửa từ một hai thanh củi còn lại làm cháy xém cả đôi chân Puddleglum – nhưng nó không còn tác dụng mê hoặc nhiều nữa. Ngay lập tức đầu óc mọi người trong hẳn ra. Hoàng tử và hai đứa trẻ ngẩng đầu lên, hai mắt mở to.

Việc thứ hai, phù thủy với giọng rít lên the thé khác hẳn với cái giọng ngọt ngào mà mụ vẫn dùng từ trước đến giờ, la lên choe chóe:

- Mày đang làm cái gì vậy? Dám động đến ngọn lửa của tao hả con vật rác rưởi sống nơi bùn lầy nước đọng kia? Tao sẽ biến máu thành lửa trong huyết mạch của mày.

- Một lời thôi, thưa bà, - bác nói, rời khỏi bếp lửa với đôi chân tập tễnh vì đau, - chỉ một lời thôi. Tất cả những điều bà nói đều đúng, tôi sẽ không lấy gì làm ngạc nhiên đâu. Tôi là một thằng bao giờ cũng thích nhìn sự vật ở cái khía cạnh đen tối nhất để rồi sau đó khoác lên cho nó bộ mặt tốt đẹp nhất trong chừng mực có thể. Vì thế tôi không phủ nhận những điều bà nói. Nhưng ở đây có một việc đáng nói hơn. Giả sử chúng tôi chỉ mơ mộng hoặc bịa đặt ra tất cả những thứ đó – cỏ cây, hoa lá, mặt trời, trăng sao và cả Aslan. Cứ cho là chúng tôi làm như vậy đi. Trong trường hợp này tất cả những điều chúng tôi muốn nói là những cái giả vờ như bà nói ấy xem ra còn quan trọng hơn những cái có thật rất nhiều lần. Giả sử cái vương quốc của bà – cái hố đen ngòm này là thế giới thật duy nhất. Vậy thì với tôi nó chỉ là một sự thật thảm hại. Thật là một điều nực cười khi chính bà nghĩ đến điều này. Rằng chúng tôi chỉ là những đứa trẻ đang tham gia một trò chơi tưởng tượng... cứ cho là bà nói đúng đi. Bốn đứa trẻ chúng tôi tham gia trò chơi về một thế giới tưởng tượng, thế mà cái thế giới ấy lại đá bay cái thế giới có thật nhưng trống rỗng của bà. Đó là lý do tại sao tôi đấu trang cho cái thế giới tưởng tượng này. Tôi đứng về phía Aslan kể cả khi người không hề dẫn dắt cuộc chơi. Tôi sẽ vẫn sống như một người Narnia chân chính trong khả năng của mình dẫu cho trên ời chẳng có một nơi nào có cái tên như vậy. Vì thế cảm ơn lòng tốt của bà đã đãi chúng tôi một bữa ăn ngon, nếu hai quý ông và tiểu thư đây đã sẵn sàng, chúng tôi sẽ rời khỏi lâu đài của bà ngay. Ra đi từ trong bóng tối, bỏ cả đời mình ra để tìm thế giới tưởng tượng kia. Tôi nghĩ cuộc sống của chúng tôi chắc cũng không kéo dài nhưng đó chỉ là một mất mát nhỏ nhoi nếu như thế giới chỉ là một cái hố tối tăm như bà nói.

- Hoan hô! Ông già Puddleglum nói hay lắm! – Cả hai đứa trẻ cùng reo lên. Nhưng hoàng tử bất thần kêu lên: - Cẩn thận! Coi chừng phù thủy!

Khi họ nhìn về phía đó, có bao nhiêu tóc trên đầu đều dựng đứng lên vì sợ.

Cây đàn rơi khỏi tay phù thủy. Hai cánh tay mụ dường như ép sát vào nguời, đôi chân nhập lại làm một và hai bàn chân biến mất. Cái váy dài màu xanh ôm chặt lấy thân người dày mãi lên, cứng nhắc và hình như toàn thân mụ biến thành một khối, quằn quại như một cột xanh khi đôi chân nhập vào nhau. Và cái cột màu xanh ấy uốn quanh, xoay tròn như thể nó không có khớp hoặc giả toàn là những cái khớp. Đầu mụ ngả ra sau trong khi cái mũi mỗi lúc một dài hơn, dài hơn, những bộ phận khác trên khuôn mặt biến mất chỉ trừ đôi mắt. Một đôi mắt lớn, bừng bừng lửa giận không còn lông mày lông mi nữa. Tất cả những điều này xảy ra nhanh như tia chớp và bạn chỉ nhìn như bị thôi miên thôi. Trước khi có đủ thời gian để có bất cứ phản ứng gì thì việc biến hóa đã hoàn tất, người đàn bà đẹp đã biến thành con mãng xà khổng lồ, xanh biếc như màu rắn lục to bằng cả người Jill và thoắt một cái nó đã quấn ai ba vòng quanh chân hoàng tử. Nhanh như chớp, một vòng thòng lọng nữa lại phóng tới toan siết chặt cánh tay cầm kiếm của hoàng tử. Nhưng Rilian đã hành động chính xác. Anh giơ hai cánh tay lên, cái thòng lọng sống xiết quanh ngực anh – sẵn sàng bẻ gãy các rẻo xương sườn như bẻ thanh củi khô.

Hoàng tử giơ tay trái lên tóm lấy cổ rắn, cố bóp cổ nó cho đến khi nó ngẹt thở. Nó nhỏng cái mặt (nếu như bạn có thể gọi đó là cái mặt) cách mặt chàng vài chục phân. Cái lưỡi dài hình chía phóng ra, thụt vào lia lịa nhưng không thể phóng tới chỗ mặt chàng. Tay phải Rilian vung lên, lấy hết sức đâm một nhát mạnh như trời giáng. Trong khi đó thì Lông Vịt và Puddleglum rút vũ khí ra, xông tới trợ giúp. Cả ba cùng đâm một lúc: nhát đâm của Lông Vịt (thậm chí không làm trầy một cái vẩy rắn) thì vào phần thân rắn ngay phía dưới cánh tay hoàng tử. Cú đâm của hoàng tử và Puddleglum thì vào hai bên cổ rắn. Với nhứng đòn như thế vẫn chưa đủ mạnh để giết nó, mặc dù nó đã nới lỏng vòng siết ở chân và ngực Rilian. Với nhiều nhát kiếm nữa họ chặt đứt đầu rắn. Điều kinh khủng nhất là cái vòng dây thòng lọng chuyển động như một cuộn dây, duỗi dài ra khi rắn chết và những gì còn lại sau cuộc vật lộn với mãng xà trông thật kinh hồn táng đởm. Hoàng tử sau khi đã lấy lại được nhịp thở bèn nói:

- Các quý ngài, tôi xin chân thành cảm ơn.

Sau đó cả ba người anh hùng nhìn nhau, thở hổn hển, không ai nói lên lời hồi lâu. Jill ngồi xuống một cách khôn ngoan và cũng không lên tiếng, mặc dù nó thầm nghĩ:” Mình chỉ hy vọng là không ngất đi. Không bật khóc hoặc làm một điều gì đó ngu xuẩn”.

- Mẹ tôi sẽ được ngậm cười nơi chín suối. – Rilian tuyên bố. – Không nghi ngờ gì nữa, đây chính là thanh xà mà tôi đã theo đuổi một cách vô vọng bên suối nước trong khu rừng phía bắc hơn 10 năm về trước. Bao nhiêu năm qua tôi đã làm nô lệ cho kẻ đã giết chết mẹ tôi. Tuy vậy, thưa các ngài tôi lấy làm sung sướng là cuối cùng người đẹp dịu ngọt đã hiện hình thành xà tinh. Sẽ không phải lắm đối với trái tim và danh dự của tôi khi phải giết một người đàn bà. Nhưng tiểu thư đây có chuyện gì không? – Chàng muốn nói đến Jill.

- Tôi không sao đâu, cảm ơn.

- Cô gái, - hoàng tử nói, cúi đầu rất thấp trước cô bé, - cô là tấm gương của lòng dũng cảm vì thế tôi cam đoan rằng trong thế giới của mình cô mang dòng máu của lớp người cao quý. Mời các bạn đến đây. Vẫn còn một chút rượu. Chúng ta hãy uống một chút cho lại sức và chúc sức khỏe của nhau. Sau đó hãy bàn định kế hoạch.

- Một ý kiến cực kì đấy, thưa hoàng tử. – Lông Vịt hồ hởi nói.

CHƯƠNG 13

 Không có vua

Tất cả cảm thấy họ nhận được một cái gì đó từ cái mà Lông Vịt gọi là “nghỉ xả hơi”. Trước đấy thanh xà đã khóa cửa và bảo bọn người hầu không được quấy rầy mụ cho nên không có nguy cơ bị can thiệp từ bên ngoài, ít nhất là trong lúc này. Tất nhiên việc đầu tiêu của họ là chăm sóc cái chân bỏng của Puddleglum. Một vài chiếc áo sơ mi sạch của hoàng tử được xé ra thành từng dải, cùng với một chút bơ và dầu trộn sa lát còn lại bên trên bàn ăn làm thành một loại thuốc trị bỏng. Khi cái chân bị bỏng đã tạm ổn, cả bọn ngồi xuống nghỉ ngơi một chút và thảo luận kế hoạch trốn thoát khỏi Vương quốc Dưới Lòng Đất.

Rilian giải thích rằng có rất nhiều cửa ngõ dẫn lên thế giới bên trên, anh đã đi qua hầu hết các lối ra đó ít nhất cũng một hai lần. Nhưng anh chưa từng ra ngoài một mình, bao giờ cũng có thanh xà đi cùng. Và bao giờ anh cũng đến những nơi này bằng cách đi trên con tàu qua biển Bóng Đêm. Người đất sẽ nói sao khi anh đi ra cảng không có thanh xà đi cùng mà lại với ba người lạ mặt, lại còn ra lệnh chuẩn bị một con tàu. Phải làm sao để không gây nên một nghi ngờ nào? Rất có thể người đất sẽ đặt ra những câu hỏi khó mà trả lời được. Nhưng có một lối ra mới, một lối đi chuẩn bị cho cuộc xâm lăng vào thế giới bên trên, ở ngay bên cạnh bờ biển và cách đây vài dặm. Hoàng tử biết rằng nó sắp được hoàn thành, chỉ còn một lớp đất vài chục phân ngăn cách lối đi ấy với làn không khí lấp lánh ánh mặt trời bên trên. Cũng có thể là con đường đó đã hoàn thành. Có lẽ thanh xà quay trở về để bảo với anh điều đó và để bắt đầu cuộc tấn công. Còn nếu không phải như thế thì họ cũng có thể tự đào nốt để thoát ra trong một vài giờ đồng hồ nữa – nếu như họ may mắn không bị phát hiện và nếu như con đường đang đào không bị canh gác. Đấy mới là vấn đề!

- Nếu mọi người hỏi ý kiến tôi... – Puddleglum vừa bắt đầu thì Lông Vịt đã cắt ngang:

- Này, có tiếng động gì thế nhỉ?

- Tôi cũng đang thắc mắc đây! – Jill nói.

Thật ra tất cả bọn họ đều nghe thấy tiếng động đó nhưng nó bắt đầu như thế nào và tăng dần lên ra sao thì họ không biết. Bỏi vì lúc đầu nó chỉ là một tiếng động mơ hồ như một cơn gió nhẹ hoặc một vật gì đó chuyển động ở rất xa. Sau đó nó lớn dần lên thành tiếng rì rầm như của biển rồi lại thành tiếng ầm ầm, ào ào. Bây giờ thì hình như nó là một tiếng nói, rồi lại chuyển thành tiếng động ì ì ào ào không rõ là cái gì nữa.

- Nhân danh sư tử, - hoàng tử Rilian nói, - có vẻ như hòn đảo câm lặng này cuối cùng cũng đã tìm được cái lưỡi của nó. – Anh đứng dậy, bước đến bên cửa sổ, kéo màn nhìn ra. Những người còn lại cũng đến gần cửa sổ nhìn ra ngoài.

Cái đầu tiên họ nhận ra là một quầng lửa đỏ rất lớn. Ánh sáng phản chiếu của nó làm thành một mảng đỏ trên mái vòm rộng mênh mông của Vương quốc Dưới Lòng Đất, cao gần một ngàn thước trên đầu họ, nhờ đó họ có thể thấy cái trần đá có lẽ đã được giấu kín trong bóng tối kể từ khi thế giới này hình thành. Quầng đỏ này đến từ đầu kia thành phố vì thế nhiều tòa nhà, sừng sững và đe dọa, vươn cái bóng đen ngòm lên đối lập với nó. Quầng lửa quét ánh sáng của nó xuống những đường phố xung quanh tòa lâu đài. Trên những đường phố này đang có một cái gì đó thật kì lạ đang diễn ra. Những đám đông người đất im lặng, gần như kết thành một khối đã biến mất. Thay vào đó là những bóng người lao đi thành từng tốp gồm một, hoặc hai, hoặc ba người. Họ hành động giống như những kẻ không muốn ai nhìn thấy: lẩn khuất sau những cái bóng của các trụ tường hay cổng ra vào, sau đó lại lao ra chỗ trống để tìm chỗ nấp mới. Nhưng điều kì lạ nhất đối với bất kì ai biết người đất vốn câm lặng suốt đời này lại là tiếng ồn. Tiếng la hét huyên náo vang lên từ khắp mọi hướng. Nhưng từ phía cảng vọng lên tiếng gầm trầm trầm mỗi lúc một lớn hơn gần như làm rung chuyển cả thành phố.

- Có cái gì xảy ra với người đất vậy? – Lông Vịt hỏi. – Có phải họ đang la hét không?

- Điều này thật khó tin. – Hoàng tử nói. – Tôi chưa bao giờ nghe thấy một trong những tên quỷ lùn đó nói một câu trong suốt 10 năm mệt mỏi vì bị giam cầm ở đây. Có một cái gì quái quỷ ở đây, tôi nghĩ thế.

- Còn đám cháy đằng kia? – Jill hỏi. – Điều này có ý nghĩa gì?

- Nếu cháu hỏi tôi, - Puddleglum nói, - tôi dám nói rằng đó là một ngọn lửa ở tâm của trái đất nổ ra để bắt đầu một trân núi lửa mới. Nếu chúng ta đang ở giữa một núi lửa thì tôi cũng chẳng lấy gì làm ngạc nhiên đâu.

- Nhìn con tàu kia! – Lông Vịt rối rít kêu lên. – Sao nó bơi nhanh thế? Chẳng có ai chèo thuyền cả.

- Coi kìa! Coi kìa! – Hoàng tử kêu lên. – Nó vượt qua cảng nó ở trên phố rồi. Tất cả các con tàu đều đang bơi về phía thành phố. Trời ơi biển đang dâng cao. Lũ sẽ dâng đến chỗ chúng ta. Sáng danh Aslan, tòa lâu đài này sẽ được đẩy lên cao hơn. Nhưng nước dâng lên nhanh quá sức tưởng tượng.

- Ôi, điều gì có thể xảy ra đây? – Jill kêu lên. – Lửa, nước và tất cả những người đất đang lẩn quất trên đường phố.

- Để tối nói cho quý vị biết điều này có nghĩa gì. – Puddleglum nói. – Xà tinh đã hóa phép sao cho vào lúc mụ tiêu đời thì cả vương quốc của mụ cũng sẽ tan tành. Mụ ta thuộc về hạng người sẽ không màng đến cái chết của mình nếu biết rằng kẻ giết mụ rồi cũng sẽ chịu thiêu cháy hoặc chôn sống hoặc bị chết đuối ngay sau đó.

- Có phải thế không ông bạn Puddleglum? – Hoàng tử nói. – Khi lưỡi kiếm của chúng ta chặt đứt đầu thanh xà thì chúng cũng hủy diệt tất cả các phép thuật của mụ và mảnh đất này tan ra thành những mảnh nhỏ. Chúng ta đang chứng kiến ngày cuối cùng của Vương quốc Bóng Tối?

- Đúng thế thưa điện hạ. – Puddleglum nói. – Trừ khi nó cũng xăy ra cùng với ngày tận thế.

- Nhưng chúng ta sẽ ngồi ở đây... và chờ... chết hay sao? – Jill hỏi.

- Không, theo ý tôi, - hoàng tử đáp, - phải cứu ngựa của tôi, con Than Đá và ngựa của thanh xà, con Bông Tuyết (một con vật cao quý và giá trị hơn hẳn chủ nó) đang ở trong chuồng ngựa ngoài sân. Sau đó chúng ta sẽ xoay xở để thoát lên mảnh đất trên kia và hãy cầu nguyện là chúng ta tìm được lối ra. Hai con ngựa có thể mang được cả bốn người trên lưng và rất có thể chúng ta sẽ vượt qua được dòng nước lũ.

- Điện hạ không mặc áo giáp ư? – Puddleglum hỏi. – Tôi không thích vẻ mặt của bọn người kia lắm.

Bác ta chỉ xuống đường phố và tất cả cùng nhìn xuống. Hàng chục hàng trăm sinh vật (bây giờ khi đến gần hơn, trông họ rõ ràng là người đất) đang tiến đên từ phía cảng. Nhưng bọn họ không di chuyển như một đám đông không có vũ trang. Họ có dáng điệu của những người lính hiện đại trong một trận tấn công, thoắt ẩn thoắt hiện với chiến lược mai phục vì không muốn bị nhìn thấy từ cửa sổ lâu đài.

- Tôi không dám nhìn vào bên trong cái áo giáp ấy nữa. – Hoàng tử nói. – Bao năm qua tôi ở trong nó như ở trong một cái nhà tù di động, nó thấm đẫm yêu thuật và sự nô lệ. Nhưng tôi sẽ dụng tấm khiên.

Rilian rời phòng và mau chóng quy trở lại, có một cái gì rất mới mẻ trong đôi mắt anh.

- Nhìn đây các bạn. – Anh nói và giơ cao khiên về phía họ. – Một giờ trước nó còn có màu đen và không có hình trang trí, còn bây giờ thì nhìn đây!

Tấm khiên sáng trắng như bạc và trên đó đỏ hơn cả máu hoặc trái anh đào là hình Aslan.

- Không còn nghi ngờ gì nữa, - hoàng tử nói, - điều này có nghĩa là Aslan là vị thần bảo hộ của chúng ta, bất kể là bốn chúng ta còn sống hay đã chết. Bốn người như một. Bây giờ tất cả chúng ta hãy quỳ xuống hôn lên hình ông rồi tay người nị hãy đặt lên tay người kia như thề sinh tử có nhau như những người bạn chân chính. Sau đó chúng ta sẽ xuống phố và đón nhận cuộc phiêu lưu đang chờ đợi chúng ta.

Họ làm như hoàng tử nói. Nhưng khi Lông Vịt đặt tay lên trên tay Jill, nó nói:

- Cho một tình bạn lâu dài, Jill ạ. Xin lỗi vì có lúc tớ đã hèn nhát và khó chịu. Tớ hy vọng cậu sẽ về đến nhà an toàn.

Còn Jill thì nói:

- Cho một tình bạn mãi mãi, Eustace. Tớ... tớ cũng cảm thấy có lỗi vì có lúc tớ chỉ là một con heo xấu tính.

Và như vậy đây là lần đầu tiên chúng dùng đến tên thánh của nhau, bởi vì người ta không còn làm như thế ở trường học nữa.

Hoàng tử mở cửa, tất cả bước xuống cầu thang: Ba người với thanh kiếm tuốt trần còn Jill thì với con dao rút ra khỏi vỏ. Bọn người hầu đã biến mất và gian phòng lớn ở chân cầu thang hoàn toàn trống trải. Tiếng động bên ngoài lâu đài không dễ vọng đến đây như khi họ ở gian phòng trên lầu. Nơi này im lặng như cõi chết và hoàn toàn vắng vẻ. Khi họ rẽ vào một góc dẫn đến một đại sảnh ở tầng trệt họ gặp người đất đầu tiên – một sinh vật trắng trẻo mập ú với một khuôn mặt hao hao như heo đang ăn lấy ăn để đồ ăn thừa trên bàn. Người này kêu lên một tiếng (tiếng kêu cũng giống tiếng eng éc của một con heo hoảng sợ) rồi chui tọt xuống dưới một băng ghế, thò cái đuôi dài ra ngoài làm cho Puddleglum suýt chút nữa thì giẩm phải. Sau đó nó phóng vụt qua cái cửa phía đối diện, nhanh đến nỗi loáng một cái họ đã không thấy nó đâu cả.

Từ đại sảnh họ đi ra sân. Jill là đứa mùa hè vừa rồi đã được học cưỡi ngựa nên nhận ra ngay cái mùi mồ hôi ngựa vừa thân quen, vừa hồn hậu thật dễ chịu và đấy là một điều khá đặc biệt ở một nơi như Vương quốc Bóng Tối. Đúng lúc đó Eustace kêu lên:

- Trời ơi! Nhìn kìa!

Một quả đạn pháo bắn lên từ đâu đó bên ngoài lâu đài, vỡ ra thành vô số những ngôi sao nhỏ màu xanh.

- Pháo sáng! – Jill hoang mang thốt lên.

- Đúng thế, - Eustace nói, - nhưng cậu không thể cho là người đất bắn pháo sáng ăn mừng. Đó có thể là pháo hiệu.

Điều đó có nghĩa là chẳng có gì tốt lành đối với chúng ta, tôi nghĩ như thế! – Puddleglum nói.

- Các bạn ạ, - hoàng tử lên tiếng, - khi ai đó tham gia vào cuộc phiêu lưu như thế này, người đó phải đoạn tuyệt với hy vọng và nỗi sợ hãi. Nếu không thì cái chết hoặc sự giải thoát sẽ đến quá trễ để cứu vớt danh dự hoặc sự đúng đắn của anh ta. Ôi, chào những người bạn thân quen của ta! – Vừa nói anh vừa mở cửa chuồng ngựa. – Chào những người anh em! Sẵn sàng chưa Than Đá? Nhẹ nhàng thôi Bông Tuyết! Bọn ngươi không bị lãng quên đâu.

Hai con ngựa này đang hoảng sợ vì luồng ánh sáng bất thần và những tiếng động lạ.

Jill là người hết sức sợ hãi khi phải đi qua hết cái hang đen tối này đến cái hang tối đen khác thì giờ đây lại không hề sợ hãi trước những con vật đang giậm bốn vó và hí vang. Nó cùng hoàng tử đóng yên cương cho hai con vật trong vòng vài phút. Ôi chao, trông hai con ngựa mới hiên ngang và đẹp đẽ làm sao khi chúng đi ngang qua sân, đầu hất cao. Jill nhảy lên lưng con Bông Tuyết và Puddleglum ngồi sau lưng nó. Eustace cưỡi chung với hoàng tử trên lưng con Than Đá. Sau đó với tiếng móng ngựa nên giòn giã, họ phóng ra khỏi cổng chính lâu đài đi ra phố.

- Không có nhiều nguy cơ bị chết cháy. Đó là điều lạc quan. – Puddleglum nhận xét, chỉ về phía tay phải. Ở đấy, cách họ chừng một trăm thước, nước biển dâng cao đến lưng chừng các bức tường nhà.

- Kiên cường lên! Phấn chấn lên! – Hoàng tử nói. – Con đường đang đi xuống thấp. Nước chỉ đang cao lưng chừng những ngọn đồi cao nhất trong thành phố. Nó sẽ đến gần hơn trong nửa giờ đầu tiên và sẽ đến gần hơn trong vòng nửa giờ sau. Nỗi lo ngại của tôi còn hơn thế.

Nói đoạn anh cầm kiếm chỉ vào một người đất cao lớn có những răng nanh như heo rừng, lúp xúp chạy theo sau người này là sáu người khác với những hình thù kỳ quái. Họ vừa mới lao ra từ dãy phố bên kia và chạy đến nấp dưới bóng các ngôi nhà, nơi không ai thấy họ.

Hoàng tử dẫn đầu, bao giờ cũng nhằm hướng quầng lửa đỏ đi tới nhưng hơi chếch về bên trái. Kế hoạch của anh là đi vòng quanh đống lửa (nếu đó quả là lửa) đi lên cao hơn với hy vọng là họ có thể tìm đến chỗ con đường mới đào. Không giống như ba con người kia. Anh tỏ ra rất hào hứng. Anh huýt sáo suốt đường đi và lẩm nhẩm hát những khúc hát trong một bài hát cổ về hoàng tử Corin – Bàn tay thép ở Archenland. Sự thật là, anh quá vui với việc được giải phóng khỏi pháp thuật đen tối đã ám ảnh mình trong suốt 10 năm qua cho nên tất cả những nguy hiểm khác đối với anh chỉ là những cuộc phiêu lưu kì thú. Ba người còn lại thì cho rằng đây là một chuyến đi có một không hai.

 Phía sau họ là tiếng loảng xoảng của những con tàu mắc cạn và tiếng đổ ầm ầm của ngôi nhà. Trên đầu họ là một mảng rực rỡ đầy ánh sáng của cái gọi là bầu trời của Vương quốc Bóng Tối này. Trước mặt họ là quầng sáng kì bí, vào lúc này dường như không lớn hơn nữa. Cũng từ hướng đó vằng lại tiếng huyên náo ồn ào của một chuỗi những tiếng gào thét, chí chóe, tiếng huýt sáo, tiếng cười đùa, tiếng ré, tiếng kêu rống... pháo sáng, pháo hiệu đủ loại bay lên từ nhiều hướng trong không gian đen đặc. Không một ai đoán ra đó là cái gì. Họ đang ở gần một khu vực được thắp sáng: một phần bởi quầng lửa đỏ, một phần bởi những bó đuốc của bọn người đất. Nhưng cũng có nhiều nơi những luồng sáng này không chiếu tới được và ở đấy là một màn đêm che phủ. Đi vào đi ra những nơi này là bóng những người đất lao vào hay trượt đi, bao giờ đôi mắt cũng lấm lét liếc nhìn những người khách lạ, bao giờ cũng cố không để bốn nhà phiêu lưu của chúng ta vượt ra khỏi tâm mắt. Thôi thì có đủ những khuôn mặt to nhỏ, những đôi mắt thô lố giống mắt cá, những cặp mắt ti hí giống mắt gấu. Họ khoác trên người nhiều bộ lông, mềm thì như lông chim, cứng thì như lông nhím, ngoài ra còn sừng, nanh, mũi, những cái mũi trông như ruột mèo và những cái cằm quá dài đến nỗi trông như những bộ râu. Thỉnh thoảng lại có một tốp người rất đông từ ở đâu ùn ùn kéo lại. Thấy thế, hoàng tử múa kiếm lên làn thành một trân mưa kiếm. Đám sinh vật ấy với đủ loại tiếng kêu, gào, la ó, ủn ỉn hoặc cục cục chạy táo tác trong những chỗ tối.

Con đường họ chọn lên cao dần như vậy tránh được dòng nước đang dềnh lên trong khi cả thành phố đã trở thành một hòn đảo nhưng họ lại phải đối mặt với một vấn đề còn nghiệm trọng hơn. Bây giờ họ đã tiến đến gần quầng sáng đỏ và gần như còn ở ngang hàng với nó, mặc dầu họ cũng không còn xác định rõ nó là cái gì nữa. Nhưng nhờ ánh sáng của nó, họ có thể thấy rõ kẻ thù hơn. Vài trăm – mà không- có lẽ đến vài ngàn người đất đnag tiến về phía quầng sáng. Nhưng họ làm thế một cách hối hả và mỗi khi phải dừng lại, họ quay đầu đối mặt với đám du khách.

- Nếu điện hạ hỏi tôi, - Puddleglum nói, - tôi sẽ nói rằng những người này chỉ muốn chặn đường tiến của chúng ta.

- Tôi cũng nghĩ thế anh bạn Puddleglum ạ. – Hoàng tử nói. – Chúng ta không thể mở đường máu qua một đám đông như vậy. Các bạn hãy nghe đây! Chúng ta hãy phóng ngựa qua chỗ nước cạn ở gần bìa nhà đằng kia. Ngay khi tới được đấy, hai người ngồi sau hãy ngảy xuống nuos vào bóng của nó. Tiểu thư đây và tôi sẽ phóng ngựa lên vài bước, Một số con quỷ này sẽ bám theo chúng ta, tôi không nghi ngờ điều đó đâu, bọn chúng đông đặc phía sau mà. Puddleglum, bác có cánh tay dài, nếu có thể được hãy tóm lấy một đứa, khi nó đi qua chỗ mai phục. Chúng ta có thể có được lời khai của nó về những chuyện đang diễn ra hoặc biết được chúng có âm mưu gì chống lại chúng ta.

- Nhưng chớ để cho đồng bọn của họ lao đến chỗ chúng ta hòng giải thoát cho con tin, - Jill nói bằng giọng không kiên quyết lắm.

- Vâng, thưa tiểu thư, - hoàng tử nói, - cô sẽ thấy chúng tôi chiến đấu đến hơi thở cuối cùng bảo vệ cho cô và sẽ cố để nhận được khen ngợi trước mặt sư tử. Bây giờ thì nào ông bạn Puddleglum tốt lành!

Người bạn Puddleglum vùng đầm lầy lao vào trong bóng tối nhanh như một con mèo. Những người khác, trong một hai phút đáng sợ cũng đi theo. Rồi bất thình lình từ phía sau họ nổ ra một chuỗi những tiếng eng éc như heo bị chọc tiết, cùng với giọng quen thuộc của Puddleglum.

- Chà chà, một cuộc đi săn may mắn đấy. – hoàng tử kêu lên, lập tức quay ngoắt con Than Đá lại và phóng đến hồi nhà. – này Eustace, cậu hãy giúp tôi giữ cương ngựa con Than Đá.

Hoàng tử nhảy xuống ngựa, cả ba người chăm chú nhìn trong khi Puddleglum lôi tù binh của mình ra nơi ánh sáng. Rõ ràng đấy là một chú lùn giữ của tội nghiệp nhất, người chỉ cao một mẩu (chắc chưa được một thước). Người này có một cục tròn trên đỉnh đầu, nom như cái mào gà trống, đôi mắt ti hí màu hồng hồng, cái miệng và cái cằm vừa to vừa tròn đến nỗi khuôn mặt trông như mặt một con hà mã ngắn củn. Nếu không phải đang ở trong hoàn cảnh hiểm nghèo, hẳn mọi người sẽ cười phá lên khi thấy một khuôn mặt tức cười đến thế.

- Này người đất kia, - hoàng tử nói, dáng người cao lớn cúi xuống người lùn, dí thanh gươm vào sát cổ tên tù binh, - nói ngay, như một người đất trung hậu và ngươi sẽ được trả tự do. Còn nếu ngươi bày đặt chơi trò gian lận ngươi sẽ chỉ là một cái xác không hồn. Này anh bạn Puddleglum, sao nó có thể nói được trong khi anh khóa mõm nó chặt như thế?

- Nếu không làm thế nó sẽ quay ra cắn tôi. – Puddleglum đáp. – Giả sử tôi có đôi tay mềm yếu nhu nhược của con người (ngoại trừ đôi tay của điện hạ tôn kính) thì bây giờ nó đã đầm đìa máu rồi. Vâng, ngay cả một cư dân vùng đầm lầy cũng ghét bị nhai ngấu nghiến.

- Thưa ông, - hoàng tử nối với người đất, - một lần cắn nữa là ông sẽ hồn lìa khỏi xác đấy. Puddleglum, bỏ mõm nó ra.

- Eng éc, eng éc, - người đất quàng quạc kêu lên, - để tôi đi, để tôi đi. Không phải là tôi... Tôi không làm điều đó.

- Không làm cái gì? – Puddleglum hỏi.

- Bất cứ điều gì tôn ông nói tôi cũng đã làm.

- Cho ta biết tên ngươi, - hoàng tử ra lệnh – và người đất các ngươi đang làm cái gì vậy?

- Ôi làm ơn, thưa ngài... làm ơn, thưa các quý ông, quý bà, - người lùn nói giọng sợ sệt, - xin hãy hứa là không nói lại với nữa hoàng bất cứ điều gì tôi nói.

- Nữ hoàng, như ngươi gọi, - hoàng tử nói giọng cứng rắn, - đã chết rồi. Chính tay ta đã giết chết.

- Cái gì? – Người đất kêu lên, trong nỗi kinhg ngạc tột độ, há to cái miệng tức cười làm cho nó ngoác ra một cách còn nực cười hơn. Chết á? Phù thủy đã chết? Bởi bàn tay tôn ông? – Tên này thở ra một hơi dài vì nhẹ nhõm rồi nói thêm: - Như vậy tôn ông chính là bạn!

Hoàng tử rút thanh kiếm lại một vài phân. Puddleglum để để cho tên tù binh ngồi dậy. Nó nhìn cả bốn người với đôi mắt đỏ, lấp lánh, vẫn còn ủn ỉn một hai tiếng và bắt đầu cầu nguyện.

CHƯƠNG 14

 Dưới đáy thế giới

- Tên tôi là Golg. - Chú lùn giữ của nói. - Và tôi sẽ thưa lại với các tôn ông những gì mình biết. Khoảng một tiếng đồng hồ trước, tất cả chúng tôi đang làm việc của mình (lẽ ra tôi phải nói việc của mụ) một cách buồn bã, âm thầm như chúng tôi vẫn làm thế trong suốt bao nhiêu năm qua. Rồi bỗng nghe vang lên một tiếng loảng xoảng lớn rồi ầm ầm. Nghe thấy thế ai cũng bụng hỏi dạ: “sao vậy kìa, mình chưa hề nghe thấy một bài hát hoặc một điệu vũ hay một tiếng nổ trong một thời gian dài, tại sao lại có chuyện này?” Mọi người đều nghĩ hay là mình bị bùa phép. Sau đó ai cũng tự nhủ: Mình sẽ được ban phước lành nếu biết được vì sao lại phải mang trên lừng cái gánh nặng này, chả việc gì phải mang cái gánh nặng này lâu hơn nữa. Là thế đấy. Chúng tôi đồng loạt ném xuống đất tất cả những bao tải, gánh nặng và dụng cụ. Sau đó chúng tôi quay lại nhìn cái quầng lửa đỏ ở đằng kia. Mọi người buột miệng hỏi: “Cái gì thế kia?” Rồi lại tự trả lời: “Đó là một vết nứt hay một nhát rạch mỗi lúc một rách to ra để cho một luồng ánh sáng ấm áp, thân thiện từ một nơi nào sâu dưới chân ta hàng ngàn sải phóng lên.”

- Trời đất ơi! - Eustace kêu lên. - Vẫn còn những mảng đất sâu hơn nữa hay sao?

- Vâng, thư tôn ông. - Golg nói. - Đó là miền đất Hứa mà chúng tôi gọi là Bism. Còn nơi chúng ta đang đứng đây được chúng tôi gọi là Đất Nông. Nơi này quá gần mặt đất để có thể là nơi phù hợp với chúng tôi. Còn các vị, chắc các vị sống nơi bề mặt? Mọi người cũng thấy đấy, chúng tôi là những sinh vật khốn khổ bị phù thủy dùng yêu thuật bắt mang lên đây làm việc cho mụ. Nhưng chúng tôi đã quên tất cả chuyện đó, chỉ đến khi vết nứt rách ra và yêu thuật biến mất mới nhớ ra được. Suốt thời gian qua, chúng tôi đã không còn biết mình là ai hoặc mình thuộc về nơi nào nữa. Chúng tôi không thể làm bất cứ việc gì hoặc nghĩ ra bất cứ thứ gì ngoài những thứ mà mụ cài đặt vào đầu chúng tôi, mà đó thì toàn là những điều buồn não, sầu thảm. Hầu như tôi đã quên mất việc nói đùa, hát hò hoặc nhảy múa. Nhưng đúng lúc tiếng nổ bùng lên, vết nứt rộng ra và biển bắt đầu dềnh lên thì những điều đó lại quay về. Và tất nhiên tất cả chúng tôi đều muốn mau chóng chui qua vết nứt quay về chốn cũ. Các vị có thể thấy đằng kia người ta đang bắn đạn rốckét lên trời và đứng trồng cây chuối vì vui sướng. Tôi sẽ rất biết ơn quý vị nếu quý vị cho phép tôi tham gia với họ.

- Tôi nghĩ tin này thật tuyệt vời. - Jill nói. - Tôi lấy làm sung sướng là chúng mình đã giải phóng cho tất cả những người đất này cũng như bản thân chúng ta khi chặt đứt đầu con mãng xà độc ác. Tôi cũng rất sung sướng khi thấy họ không phải là những sinh vật đáng sợ và không phải trải qua những đau khổ như hoàng tử.

- Dường như tất cả mọi chuyện đều tốt Pole ạ. - Puddleglum nói với giọng cảnh giác. - Nhưng những người đất này, theo tôi, họ không có vẻ là đang chạy trốn. Trông giống một đội đằng đằng sát khí thì đúng hơn. Hãy nhìn thẳng vào mặt tôi đi ông bạn Golg và bảo với chúng tôi rằng các ông không chuẩn bị cho một trận đánh.

- Tất nhiên là như thế, thưa ông. Ông biết đấy, chúng tôi không biết rằng phù thủy đã chết. Chúng tôi nghĩ mụ đang đứng quan sát từ trong lâu đài. Chúng tôi cố chuồn đi mà không bị phát hiện. Và rồi bốn người hiện lên trên lưng ngựa, kiếm kích sáng quắc. Tất nhiên ai cũng tự nhủ: “Có chuyện rồi.” bởi vì ai mà không biết tôn ông đây là người của phù thủy. Chúng tôi đã quyết định thà chịu chết chứ không chịu từ bỏ hy vọng về lại miếng đất Hứa tươi đẹp.

- Tôi sẵn sàng chứng thực đây là một người đất rất trung hậu. Còn tôi, anh bạn Golg quý mến ạ, tôi cũng như các anh vậy bị bùa phép và sống một cuộc đời nô lệ. Bây giờ thì có một vấn đề khác quan trọng hơn: Anh có biết đường đi đến chỗ lối đi mới đào mà mụ phù thủy muốn quân đội chúng ta sẽ tấn công trên trần không?

- Éc éc! - Golg kêu lên. - Có, tôi biết đó là một con đường kinh khủng. Tôi sẽ chỉ cho các vị biết nơi nó bắt đầu. Nhưng tôi xin nói trước không có điều gì trên đời này có thể ép tôi đi cùng quý vị đi trên con đường ấy. Tôi thà chết còn hơn.

- Vì sao vậy? - Lông Vịt sốt ruột hỏi. - Chẳng lẽ chuyện đó lại đáng sợ hơn cái chết hay sao?

- Quá gần mặt đất, - Golg vừa nói vừa run. - đó là điều tồi tệ nhất mà phù thủy đã làm với chúng tôi. Tất cả chúng tôi sẽ bị đưa qua con đường mở ra bên ngoài thế giới. Người ta nói trên đó không có mái che, chỉ có một cái gì trống rỗng, khủng khiếp gọi là bầu trời. Con đường đã đào lên cao đến mức chỉ còn vài nhát cuốc nữa sẽ đưa các ông ra ngoài. Tôi không dám đi đến gần đâu.

- Hoan hô! Hoan hô cái điều mà anh bạn nói! - Eustace kêu lên, còn Jill nói thêm:

- Nó không đáng sợ chút nào đâu. Chúng tôi thích nơi ấy. Chúng tôi sống ở đó.

- Tôi biết nhữn người ở trên mặt đất sống ở đấy. - Golg nói. - Nhưng tôi nghĩ đó là bởi quý vị không thể tìm được đường đi sâu vào trong lòng đất. Các vị không thể thích ở trên ấy được - con người bò giống như con ruồi ở bề mặt thế giới.

- Thế anh có nghĩ đến việc chỉ đường cho chúng tôi không? - Puddleglum hỏi.

- Giờ lành đã điểm! - Hoàng tử kêu lên, bắt đầu lên đường bằng cách tung người nhảy lên con ngựa chiến, Lông Vịt nhảy lên ngồi phía sau, Puddleglum trèo lên ngồi sau Jill và Golg dẫn đường.

Trong lúc đi như vậy, Golg luôn miệng gào to thông báo tin tức tốt lành về cái chết của thanh xà và rằng bốn người trần gian không phải là kẻ thù. Nghe được tin này, người này lại truyền tin cho người kia và trong vòng vài phút cả Vương quốc Bóng Tối vang lên những tiếng la hét, reo hò vang dậy; hàng trăm, hàng ngàn người đất nhảy cỡn lên, quay vòng xe goòng, trồng cây chuối, biểu diễn trò nhảy cóc, bắn lên những quả pháo lớn, vây quanh hai con ngựa Than Đá và Bông Tuyết. Hoàng tử phải kể lại câu chuyện chàng bị yêu thuật và đã được giải thoát như thế nào đến lần thứ mười.

Dưới sự hướng dẫn của Golg, họ đi đến đầu một cái vực rất lớn dài khoảng 300 mét và rộng chừng sáu bảy chục mét. Họ xuống ngựa đi đến bên miệng vực nhìn xuống. Một làn hơi nóng bốc lên phả vào mặt họ, trộn với một cái mùi không giống với bất cứ mùi nào họ đã ngửi qua. Nó đậm đặc, nồng nàn có cái gì kích thích họ phải hắt hơi. Dưới đáy vực sáng đến nỗi lúc đầu nó làm họ lóa mắt không còn nhìn thấy vật gì. Khi đã làm quen với ánh sáng họ nghĩ đó là một con sông lửa, hai bờ sông có thể là những cánh đồng và những khu rừng nhỏ tỏa ra một nguồn nhiệt nóng bỏng không thể nào chịu đựng nổi - dầu nó bốc lên nhiều hơi nước so với một dòng sông. Những vệt màu xanh da trời, màu đỏ, màu xanh lá cây và màu trắng trộn lẫn vào nhau. Một tấm kính cửa sổ màu khi mặt trời rực rỡ miền nhiệt đới chiếu thẳng vào trong một buổi trưa hè có thể gây ra một hiệu quả tương tự. Tuột xuống hai bờ vực dốc đứng, trông như những con ruồi đen, tương phản với luồng ánh sáng gay gắt, là hàng trăm người đất đang bò xuống.

- Thưa quý ông, quý bà, - Golg nói (khi bốn người quay lại nhìn Golg họ không thấy gì ngoài một khối đen vì tất cả đều bị lóa mắt) - thưa quý vị, tại sao mọi người không xuống xứ Bism một phen? Ở dưới đấy, quý vị sẽ được hạnh phúc hơn khi là sống ở cái miền đất trần trụi lạnh lẽo và không có gì che chở trên kia. Hoặc ít nhất thì cũng hãy xuống thăm dưới ấy một lần.

Jill tin chắc là không ai trong số ba người kia lại đi nghe theo một lời mời như thế. Trước sự sợ hãi của nó, hoàng tử lên tiếng:

- Phải đó, anh bạn Golg, tôi cũng nửa phần muốn đi xuống với anh… Bởi vì đây sẽ là một cuộc phiêu lưu kì thú, rát có thể chưa từng có người nào đến được Bism và sẽ không có ai có dịp được đến đây nữa. Sau nhiều năm nữa, tôi cũng không biết mình có chịu đựng được khi nhớ lại rằng đã có một lần tôi có cơ hội được thăm dò đến tận đáy quả đất này mà tôi lại khước từ không. Nhưng mà con người có thể sống ở dưới đó không? Anh không thể bơi qua dòng sông lửa này phải không?

- Ồ, không thưa tôn ông. Không phải chúng tôi. Chỉ có bọn rồng lửa mới sống trong lửa mà thôi.

- Rồng lửa của các anh là loài thú nào vậy? - Rilian hỏi.

- Thật khó có thể xếp nó vào loài nào, thưa tôn ông. - Golg nói. - Bởi vì chúng quá nóng để nhìn vào. Nhưng chúng rất giống những con rồng nhỏ. Khi nói chuyện thì miệng phun ra lửa. Chúng thông minh tuyệt vời trong nghệ thuật ăn nói: rất ý vị, không ngoan và hết sức thuyết phục.

Jill vội vã liếc nhìn Eustace. Nó cảm thấy thằng bạn thích cái ý tưởng đi xuống cái vực này còn ít hơn nó nữa. Trái tim nó thắt lại khi thấy vẻ mặt bạn nó thay đổi. Trông Eustace giống hoàng tử hơn là cái thằng có biệt danh Lông Vịt ở trường Thực nghiệm. Bởi vì tất cả những cuộc phiêu lưu mạo hiểm vào những ngày nó đi trên con tàu của vua Caspian lại ùa về trong kí ức.

- Thưa hoàng tử, - nó nói, - nếu người bạn cũ của tôi - bác chuột Reepicheep - có mặt ở đây hẳn bác ta sẽ nói chúng ta không thể từ chối cơ hội phiêu du đến xứ Bism mà không gây nên một nghi vấn lớn về danh dự của mình.

- Đi xuống dưới đấy, tôi sẽ chỉ cho quý vị vàng, bạc và kim cương thứ thiệt.

- Nói bá láp! - Jill bật lên một cách thô bạo. - Cứ như thể chúng tôi chưa từng ở bên dưới những cái mỏ còn sâu hơn cả đây nữa.

- Phi. - Golg nói. - Tôi có nghe về những vết xước tí tẹo ở bề mặt mà những người thợ đào mỏ trên kia gọi là hầm mỏ. Nhưng đó là những nới mà các quý vị chỉ có một thứ vàng chết, bạc chết và kim cương chết mà thôi. Xuống đến Bism chúng ta sẽ thấy những thứ đó còn sống và không ngừng tăng trưởng. Ở đấy tôi sẽ lấy cho quý vị những chùm hồng ngọc mà quý vị có thể ăn như ăn thứ trái cây ngon lành nhất và làm cho quý vị một ly nước kim cương ép. Các vị sẽ không thèm chạm ngón tay vào cái thứ đá lạnh lẽo chết ngắc ở những cái hõm nông choèn kia một khi đã nếm trải một thứ sống động ở Bism.

- Cha tôi đã đi đến Nơi tận cùng thế giới - Rilian nói cân nhắc. - Sẽ không hổ danh con vua Caspian nếu tôi được dịp đi xuống tận đáy thế giới.

- Nếu điện hạ muốn gặp phụ vương sau bao năm bặt vô âm tín - một điều tôi nghĩ sẽ làm cho bệ ha sung sướng đến nỗi ngài sẽ sống thêm được mấy tuổi - Puddleglum nhắc, - thì đã đến lúc chúng ta đi theo con đường mới đào để quay về.

- Còn tôi sẽ không đi xuống cái hố ấy, mặc cho ai muốn nói gì thì nói. - Jill khẳng định.

- Tại sao, nếu quý vị muốn quay lại thế giới trên kia, thì con đường đi tới còn ngắn hơn. Và có lẽ nước vẫn tiếp tục dâng cao…

- Ôi, xin hãy đi lên ngay. - Jill nài nỉ.

- Tôi cũng sợ là đành phải làm thế thôi. - Hoàn tử nói với một tiếng thở dài tiếc nuối. Nhưng tôi đến phải dứt một nửa trái tim mình ở Bism này thôi.

- Xin làm ơn! - Jill cầu khẩn một lần nữa.

- Con đường đâu? - Puddleglum hỏi.

- Kia, nơi có những ngọn đèn thắp sáng suốt dọc đường - Golg nói. - Quý vị có thể thấy đoạn đầu con đường ở phía bên kia vực.

- Đèn cháy sáng trong vòng bao lâu? - Puddleglum hỏi. Đúng lúc đó có một tiếng gì xèo xèo, rít lên như tiếng nói của lửa (sau đó họ tự hỏi có phải là tiếng nói của rồng lửa không) vang lên từ đáy vực sâu.

- Nhanh lên! Nhanh lên! Nhanh lên! Đến vách núi! Các khe hở đang liền lại, khép miệng lại, khép lại. Nhanh lên! Nhanh lên!

Đúng lúc đó những tiếng nổ chói tai vang lên cùng những tiếng rít và tiếng ầm ầm của những tảng đá đổ vào nhau. Trong khi họ giương mắt nhìn thì cái vực thu hẹp lại. Từ hai bên miệng vực, những người đất chậm chân xô nhau nhào cả xuống đó. Họ không có đủ thời gian để tụt khỏi những tảng đá, mà quăng mình về phía trước. Hoặc vì luồng hơi nóng bốc lên từ đáy vực hoặc vì một lí do gì đó, các du khách của ta thấy họ bay vèo vèo xuống vực như những chiếc lá. Đống lá chất lên dày hơn cho đến khi những thân hình đen đen của họ điểm lấm tấm trên dòng sông lửa và trong các rừng cây như những viên kim cương đen.

- Vĩnh biệt mọi người! Tôi đi đây! - Golg kêu lên và lao xuống vực. Vài người đất còn sót lại cũng noi theo gương anh ta. Cái vực bây giờ không lớn hơn một dòng suối, rồi thu hẹp lại nhỏ như cái khe trong một cái hộp gỗ và cuối cùng chỉ còn là một sợi chỉ sáng cực mảnh. Rồi với một sự va chạm như thể có một ngàn con tàu chở hàng đâm sầm vào một tấm đêm đôi, đôi môi của vách đá khép liền lại. Cái mùi nồng nặc và cái nóng hầm hập biến mất. Du khách ở lại một mình trong Vương quốc Dưới Lòng Đất và vào lúc này trông nó thảm đạm hơn lúc nào hết. Những ngọn đèn treo trên đường hắt ra một thứ ánh sáng nhạt nhòa, mờ ảo và thê lương.

- Này, tôi cá mười ăn một là chúng ta đã ở lại đây quá lâu, nhưng dù sao chúng ta vẫn phải thử một phen. Tôi cho rằng những ngọn đèn này sẽ tắt trong vòng năm phút. - Hoàng tử nói.

Họ thúc ngựa chạy nước đại nhỏ rồi chạy hết tốc lực trên con đường mờ mờ ảo ảo nhìn rất đẹp. Nhưng gần như ngay sau đó con đường lại đi xuống dốc. Họ đã tưởng rằng Golg chỉ sai đường nếu không nhìn thấy bên kia thung lũng những ngọn đèn vẫn cháy sáng và chạy lên cao dần như tầm mắt có thể nhìn thấy. Ở dưới đáy thung lũng, ánh đèn chiếu lên một dòng nước đang chảy xiết.

- Nhanh lên! - Hoàng từ kêu lên. Họ phì nhanh xuống dốc. Mọi chuyện diễn ra vừa khớp với nhau bởi vì chỉ 5 phút sau, thủy triều dâng lên đổ vào thung lũng với sức nước làm quay guồng máy xay. Nếu như phải bơi quâ dòng nước xoáy như thế, lũ ngựa khó lòng vượt qua nổi. Nhưng may thay nước chỉ cao vài chục phân, mặc dù nó xoáy quanh chân ngựa và họ an toàn sang đầu thung lũng bên kia.

Sau đó người và ngựa chậm chạp, mệt mỏi leo lên dốc. Phía trước mặt chẳng có gì để nhìn ngoài ánh sáng nhợt nhạt của những ngọn đèn chạy lên cao, lên cao mãi theo hết tầm mắt. Quay đầu lại họ có thể thấy dòng nước đang tràn đi mọi nẻo. Mỗi quả đồi ở thế giới trong lòng đất này đều là một hòn đảo và chỉ có trên những hòn đảo này mới có những ngọn đèn thắp sáng. Chốc chốc lại có một ánh đèn ở một chỗ nào đó phụt tắt. Chẳng bao lâu sau khắp nơi cũng chỉ là bóng đêm, trừ con đường mà họ đang đi và ở những khu vực thấp hơn sau lưng họ mới còn ánh đèn soi xuống dòng nước.

Mặc dầu có lí do cấp bách để vộ vã, hai con ngựa không thể đi mãi mà không có lúc nghỉ. Họ dừng lại cho ngựa lấy sức. Trong khoảng không im lặng có thế nghe thấy tiếng nước vỗ ì oạp.

- Tôi tự hỏi cái người khổng lồ gọi là Cha Thời gian ấy có bị nhấn chìm trong nước không? - Jill hỏi. - Và tất cả những con vật kì lạ nữa.

- Tớ không nghĩ là chúng ta đã đi lên cao như vậy. - Eustace đáp. - Cậu không nhớ là chúng ta đã phải đi xuống qua bao nhiêu đồi dốc mới đến được Biển Đêm sao? Tớ không nghĩ là nước đã dâng lên đến cái hang của Cha Thời gian.

- Có thể là thế. - Puddleglum nói. - Nhưng tôi quan tâm đến những ngọn đèn trên con đường này hơn. Coi kìa, nó có phần yếu đi, phải không?

- Nó bao giờ cũng thế. - Jill nói.

- À, - Puddleglum thừa nhận, - nhưng bây giờ ánh sáng ngả sang màu xanh hơn.

- Bác không muốn nói là bác nghĩ nó sắp tắt đấy chứ? - Eustace hỏi.

- Này, cháu không trông chờ nó kéo dài mãi mãi, bất kể là nó được cấu tạo như thế nào, có đúng thế không? - Puddleglum đáp lại. - Nhưng đừng thất vọng, Lông Vịt àh. Tôi cũng để mắt đến mực nước và tôi không nghĩ nó sẽ dâng quá cao đâu.

- Một sự cảm thông nho nhỏ, các bạn ạ, - hoàng tử nói, - nếu chúng ta không thể tìm được đường về, tôi xin tất cả tha lỗi cho. Tôi chỉ còn biết đổ lỗi cho lòng kiêu hãnh và sự phù phiếm của mình vì nó đã làm chsung ta lãng phí một khoảng thời gian quý báu trong chuyện Bism. Nào, ta đi tiếp thôi.

Trong vòng một hai giờ tiếp theo, có lúc Jill nghĩ Puddleglum đã nói đúng về các ngọn đèn, có lúc lại nghĩ điều này chỉ có trong trí tưởng tượng của nó. Trong khi ấy, mặt đất đã thay đổi. Họ đi đến một độ cao nới cái trần của vương quốc trong lòng đất đã gần sát trên đầu và dưới ánh sáng tù mù họ đã có thế nhìn mọi vật rõ hơn. Những bức tường xù xì khổng lồ kéo lại gần hơn ở nơi này. Thực ra con đường đang dẫn họ đến một địa đạo dốc đứng. Họ nhìn thấy những cái cuốc chim, xẻng, xe goòng và những dấu vết khác cho biết những người đào đất còn đang làm dở dang công việc. Nếu biết chắc sẽ thoát lên được bề mặt thì tất cả còn cảm thấy vui, nhưng cái ý nghĩ là cứ phải tiếp tục đi sâu mãi vào một cái hố mỗi lúc một thu hẹp hơn, khó đi hơn và khó lòng quay đầu lại chẳng có gì đáng mừng cả.

Cuối cùng cái trần sà thấp đến nỗi Puddleglum và hoàng tử cụng đầu vào. Mọi người nhảy xuống dắt ngựa. Con đường gập ghềnh, lởm chởm khó đi hơn nên mỗi bước đi đều phải hết sức thận trọng. Jill nhận thấy bóng tối mỗi lúc một dày đặc hơn. Không có gì phải nghi ngờ vào điểm này nữa, khuôn mặt của ba người kia nom xa lạ và khủng khiếp dưới ánh sáng xanh lè. Bất thình lình Jill - không thể ngăn được - bèn kêu lên một tiếng nho nhỏ: ngọn đèn trước mặt họ phụt tắt và ngọn đèn phía sau cũng vậy. Họ ở trong một bóng tối như bưng lấy mắt.

- Can đảm lên các bạn! - Giọng hoàng tử Rilian vang lên. - Dù chúng ta sống hay chết thì Aslan cũng là vị chúa tể cao quý, tốt đẹp của chúng ta.

- Đúng thế, thưa điện hạ. - Puddleglum nói. - Và mọi người hãy nhớ cũng có mặt tốt khi bị kẹt ở dưới này. Chúng ta đỡ được một khoản ma chay tốn kém.

Jill cắn chặt môi (nếu bạn không muốn để người khác biết mình sợ hãi như thế nào thì đó là một việc khôn ngoan nên làm bởi vì giọng nói sẽ làm bị lộ tâm trạng của bạn ngay).

- Chúng ta cần đi tiếp, còn hơn là đứng lại đây. - Eustace nói và khi Jill cảm thấy sự run rẩy trong giọng nói của thằng bạn, nó biết mình đã khôn ngoan hơn khi không dám tin tưởng vào bản thân mình.

Puddleglum và Eustace đi trước, đưa hai tay ra trước mặt quờ quạng vì sợ đổ nhào phải bất cứ cái gì, Jill và hoàng tử đi theo, dắt ngựa.

- Này, - một lát sau giọng nói của Eustace vang lên, - không biết là mắt tôi có vấn đề gì không hay là cái vệt sáng đằng kia là có thật?

Trước khi có bất cứ ai trả lời thắc mắc đó, Puddleglum kêu lớn:

- Dừng lại! Tôi đi đến đoạn đường cùng rồi. Đây là đất, không phải đá. Cậu nói gì đấy hả Lông Vịt?

- Sáng danh Aslan, - hoàng tử nói, - Eustace nói đúng. Có một cái gì…

- Nhưng đó không phải là ánh sáng ban ngày mà chỉ là một loại ánh sáng xanh, lạnh lẽo! - Jill nói.

- Dù vậy. - Có còn hơn không. - Eustace nói tiếp, - chúng ta có thể đến đó không?

- Nó không ở ngay trên đầu, - Puddleglum nói, phía trên chúng ta, ở bên ngoài cái bức tường mà tôi cụng đầu phải. Dù nó là cái gì Pole à, cô hãy đứng lên vai tôi thử xem có thể với tới nó được không?

CHƯƠNG 15

 Jill mất tích

Trong cái vùng tối mịt mùng mà họ đang đứng, ánh sáng không soi rõ bất cứ vật gì ở phía bên dưới. Những người khác chỉ nghe chứ không thấy Jill làm gì trong khi trèo lên đứng trên vao Puddleglum. Họ ít nhiều hình dung những chuyện đang diễn ra khi nghe tiếng Puddleglum:

- Này cô bé, đừng cho ngón tay vào trong mắt tôi.

- Cũng đừng nhét cả bàn chân vào miệng tôi!

- Được rồi cứ thế đi!

- Bây giờ tôi giữ hai chân cô. Như vậy cô sẽ rảnh hai tay mà bám vào gờ đất.

Sau đó họ nhìn lên và chắc mấy chốc đã thấy bóng cái đầu của Jill hiện lên trong mảng sáng mờ nhạt.

- Cái gì vậy? – Cả bọn kêu lên, nôn nóng.

- Đó là một lỗ hổng. – Jill la lớn. – Tôi có thể chui vào được nếu tôi đứng cao hơn một chút.

- Cậu đã nhìn thấy cái gì vậy? – Eustace hỏi.

- Chẳng thấy gì nhiều. – Jill nói. – Puddleglum, thả chân cháu ra để cháu có thể đứng trên vai bác thay vì chỉ ngồi. Cháu sẽ giữ được thăng bằng nếu tựa được vào tường.

Họ có thể nghe tiếng nó cử động, sau đó một phần thân hình nó biến vào khoảng không màu xam xám của miệng hố, thực ra thì từ đầu đến thắt lưng.”

- Nghe này… - Jill bắt đầu nhưng bất thình lình giọng nó vỡ ra thành một tiếng kêu. Không phải tiếng kêu thất thanh, mà là một âm thanh như thể họng nó bị chặn lại, hoặc có một vật gì chui vào chẹn lấy thanh hầu. Sau đó nó cũng tìm thấy cái lưỡi của mình và cố hết sức la lên thật lớn, nhưng không ai nghe được một lời nào. Ánh sáng tắt phụt đi trong vòng một hoặc hai giây rồi họ thấy có tiếng giằng co, vật lộn và giọng nói hổn hển của Puddleglum:

- Nhanh lên! Giúp tôi! Giữ hai chân cô bé. Có ai kéo nó. Ôi thôi... muộn quá rồi !

Cái lỗ hổng lại hiện ra và ánh sáng lành lạnh chiếu qua đó, mọi thứ lại trở nên rõ ràng. Jill đã biến mất.

- Jill ! Jill ! – Họ kêu lên như điên như cuồng nhưng không có tiếng ai đáp lại.

- Làm thế quái nào mà bác lại không giữ được chân cô ấy chứ ?

- Tôi không biết nữa, Lông Vịt. – Puddleglum mếu máo. – Tôi sinh ra đời đã là một sự nhầm lẫn rồi, không có gì phải ngạc nhiên về điều đó. Định mệnh ! Định mệnh là cái chết của Jill, cũng như định mệnh đã bắt tôi ăn thịt con hươu biết nói ở Harfang. Tất nhiên đó cũng không phải hoàn toàn là lỗi của tôi.

- Thật là... nỗi đau đớn và nhục nhã nhất đã bổ xuống đầu chúng ta. – Hoàng tử than thở. – Chúng ta đã đẩy một cô bé con vào tay kẻ thù, còn bản thân thì đứng đây trong vòng an toàn.

- Đừng tô đen hiện thực như vậy, thưa điện hạ. – Puddleglum nói. – Chúng ta cũng chẳng an toàn đâu ngoài việc cầm chắc sẽ bị chết vì đói trong cái nấm mồ sống này.

Mọi chuyện xảy ra với Jill như thế này. Ngay khi thò đầu nhìn vào cái hốc nó thấy mình như đang nhìn xuống qua một cái cửa sổ ở trên lầu chứ không phải là nhìn xuống qua một cái cửa sập nhỏ trên sàn nhà. Nó đã ở trong bóng tối quá lâu nên thoạt đầu mắt nó không nhìn ra ngay mọi vật một cách rõ ràng, nó chỉ biết một điều là nó đang nhìn vào cái thế giới có mặt trời, có ánh sáng ban ngày mà nó hết lòng mong mỏi được trông thấy một lần nữa.

Không khí lạnh cóng, ánh sáng nhàn nhạt và xanh màu lá mạ. Không gian vang lên nhiều hợp âm rộn rã và có những vật trăng trắng bay lả tả trong không khí. Đó là lúc nó hét lên bảo Puddleglum để cho nó đứng lên vai bác ta.

Khi làm thế nó nhìn và nghe rõ hơn. Những tiếng động mà nó nghe thấy chia làm nhiều loại: tiếng di chuyển của những đôi chân theo nhịp phách, tiếng dìu dặt của mấy chiếc vĩ cầm, tiếng réo rắt của ba ống sào và tiếng đập thùng thùng rộn ràng của một cái trống. Nó cũng xoay xở để có một vị trí nhìn cho rõ ràng hơn. Nó đang nhìn qua một cái lỗ ở lưng chừng một bờ lũy và phóng tầm mắt xuống một nơi thấp hơn nó chừng 4,5 mét. Tất cả mọi thứ đều trắng. Có nhiều người đang di chuyển qua lại. Nó định thần lại, há hốc miệng ra nhìn: Những thần rừng bé nhỏ, thanh nhã, những nữ mộc tinh đầu đội vương miện bằng lá tươi, mái tóc dài tha thướt bay bay phía sau lưng. Trong vòng một giây nó có cảm giác như thể họ đang làm một cái gì đó rất kì quái, lạ lùng. Sau đó, nó phát hiện đám người kia đang khiêu vũ- một điệu vũ với những bước đi phức tạp mà bạn phải mất một lúc mới hiểu ra. Rồi mọi vật vụt đến trong óc nó như một tia chớp rằng cái vật trăng trắng trên mặt đất chính là tuyết. Và tất nhiên có những vì sao lấp lánh trên nền trời xanh đen đang buông một lớp sương muối. Những vật đen sẫm, cao cao phía sau các vũ công là hàng cây. Cuối cùng, họ không chỉ lên được trên mặt đất mà lại còn lên đúng trung tâm Narnia. Jill cảm thấy có thể ngất đi vì vui sướng ; và âm nhạc – những giai điệu thật hoang dã, thật ngọt ngào, say đắm mà cũng rất đỗi kì lạ là một phép màu tốt đẹp đối với nó cũng như trước kia tiếng đàn của thanh xà chỉ làm cho đầu óc mê mụ đi.

Điều này kể ra thì dài nhưng với Jill chỉ là một khoảnh khắc ngắn ngủi. Nó lập tức quay ra hét lên với những người đứng ở dưới:

- Nghe này ! Tất cả ổn rồi. Chúng ta ra ngoài, chúng ta về đến…

Nhưng lí do nó không nói được trọn ý là vì một chuyện khác. Đi một vòng quanh các vũ công là những chú lùn, tất cả đều diện những bộ quần áo đẹp nhất, chủ yếu là màu đó, đội những chiếc mũ chỏm có viền lông trắng và những dải tua rua màu vàng. Ngoài ra họ mang những đôi ủng cao to tướng làm bằng bông. Trong lúc đi thành vòng họ luôn tay ném những nắm tuyết. (Đấy là những vật trắng mà Jill nhìn thấy đang bay bay trong không gian). Họ không ném tuyết vào các vũ công như những cậu bé nghịch ngợm, ngu ngốc vẫn làm ở Anh mà ném tuyết qua sàn nhảy theo đúng nhịp phách với một sự chính xác tuyệt đối và nếu tất cả các vũ công đều bước đi đúng nhịp thì không ai bị tuyết ném trúng người. Nó được gọi là Vũ điệu Tuyết và được tổ chức hàng năm ở Narnia vào đêm trăng đầu tiên có tuyết. Tất nhiên đó vừa là một trò chơi vừa là một điệu múa bởi vì thỉnh thoảng cũng có một vũ công nào đó đi lỡ một nhịp và lãnh trọn nắm tuyết vào mặt, thế là tất cả cùng cười ầm lên. Nhưng với một đội vũ công tài giỏi, các nhạc công sẽ giữ cho vũ điệu kéo dài hàng giờ mà không có chuyện gì xảy ra. Một đêm đẹp trời, không khí se lạnh với tiếng trống bập bùng, tiếng chim kêu và ánh trăng lành lạnh... tất cả chỉ làm cho dòng máu núi rừng, hoang dã trong họ thêm cuồng nhiệt hơn và họ có thể nhảy múa cho đến khi sáng bạch.

Cái làm cho Jill không nói được hết câu chỉ là một nắm tuyết của một chú lùn đứng đối diện qua sàn nhảy chui tọt vào miệng Jill. Nó chẳng lấy thế làm buồn lòng, dù có nhận được 20 nắm tuyết vào lúc ấy. Nhưng dù ạn cảm thấy hạnh phúc như thế nào bạn cũng không thể nói được với cái mồm đầy tuyết. Và sau khi đã có thể lắp bắp được, trong niềm vui sướng tột độ nó quên đi những người bạn đang đứng phía dưới trong bóng tối, còn chưa biết nếp tẻ ra sao. Nó cố sức thò đầu vào cái lỗ hổng và kêu lên với các vũ công:

- Cứu với ! Xin mọi người hãy cứu ! Chúng tôi bị chôn dưới đất. Hãy đến đây đào để lôi chúng tôi lên.

Những người Narnia, tất nhiên, không nhận ra là có một cái hố nhỏ ở lưng chừng đồi, lấy làm ngạc nhiên đưa mắt dáo dác nhìn quanh, một lúc sau mới phát hiện ra tiếng nới từ đâu phát ra. Khi nhìn thấy Jill, họ chạy về phía ấy, có bao nhiêu người có thể bò lên được sườn đồi thì có bấy nhiêu cánh tay chìa ra cho nó. Jill nắm lấy tay họ chui ra khỏi hố và trượt xuống sườn đồi, đầu cắm xuống trước nhưng nó cũng đứng lên được và lên tiếng giục giã, rối rít:

- Ôi nhanh lên, hãy đào đất bới họ lên ! Còn ba người nữa với hai người. Một trong số đó là hoàng tử Railian.

Lúc này nó đang đứng giữa một đám đông, bởi vì ngoài các vũ công còn có rất nhiều người xem, những người mà lúc nãy nó chưa trông thấy và bây giờ họ đang ùa đến. Sóc nhảy xuống như mưa từ những cành cây, cú cũng thế. Nhím lạch ạch chạy đến nhanh trong khả năng cho phép của đôi chân ngắn củn. Gấu và lửng đi còn chậm hơn nữa. Một con báo lớn vừa đi đến vừa quật đuôi kích động. Nó là nhân vật cuối cùng.

Nhưng ngay khi mọi người hiểu ra điều mà Jill muốn nói họ trở nên hoạt bát ngay.

- Cuốc chim và xẻng đâu, các cậu? Mang những thứ đó lại đây ngay. Mang dụng cụ lại đây. – Những chú lùn kêu lên, vắt chân lên cổ mà chạy.

- Đánh thức ngay họ nhà chũi, họ chính là những người thợ mỏ cừ khôi, họ cũng được việc như các chú lùn vậy. – Một giọng nói cất lên.

- Này cô bé, cô bé nói gì về hoàng tử Rilian vậy ? – Một giọng khác hỏi.

- Xì ! – Báo đen nói. – Đứa bé tội nghiệp sợ đến phát điên lên vì bị chôn sống. Nó không biết mình vừa nói gì đâu.

- Ừ nhỉ. – Một con gấu già nói. – Tại sao nó lại nói hoàng tử Rilian là một con ngựa ?

- Không, nó đâu có nói như thế. – Sóc nói với giọng bực mình.

- Đúng, nó nói thế đấy. – Một con sóc khác khẳng định.

- Điều đó đu...úng mà. Đ...đ...đừng có ngớ ngẩn như thế. – Jill nói, hai hàm răng đánh vào nhau lập cập vì lạnh.

Thấy vậy một trong những mộc tinh chạy đến quấn quanh người nó một cái áo choàng lông mà một chú lùn đã đánh rơi khi vội đi tìm cuốc, xẻng. Mộc tinh đề nghị một thần rừng chạy qua một quãng rừng ngắn đến cái hang phát ra ánh lửa ấm cúng kiếm một cái gì có thể làm cho cô bé nóng người lên. Nhưng trước khi chuyện ấy xảy thì các chú lùn đã quay lại với những dụng cụ đào mỏ. Rồi Jill nghe thấy có tiếng kêu oai oái:

- Xin chào! Này, ngươi làm cái gì đấy? Bỏ gươm xuống!

- Ồ một thằng nhóc, không phải thế!

- Chu cha thằng nhóc dữ thật.

Jill vội vã chạy đến gần và không biết nên cười hay nên mếu khi thấy khuôn mặt Eustace: tái mét, bẩn thỉu phóng ra từ cái hố đen ngòm, tay phải khua kiếm loạn lên về phía bất cứ ai đến gần nó.

Tất nhiên Eustace vừa phải trải qua khoảng thời gian khác hẳn Jill. Nó nghe thấy bạn mình kêu lên rồi biến mất vào một nơi chẳng biết rõ là cái gì nữa. Giống như hoàng tử và Puddleglum nó nghĩ kẻ thù đã bắt sống bạn. Từ lỗ hổng hình ra nó không biết cái ánh sáng nhàn nhạt xanh xanh ấy là ánh trăng. Nó nghĩ cái lỗ hồng này chỉ dẫn đến một cái hang khác, được thắp sáng bởi chất phốt pho ma quái và tràn ngập những con quái vật – chỉ có trời mới biết là con gì – của cái thế giới tối tăm trong lòng đất. Thế là khi thuyết phục được Puddleglum công kênh mình lên vai, nó tuốt kiếm nghênh chiến và thò đầu ra ngoài – nó đã sẵn sàng thực hiện một hành vi anh hùng nhất. Hai người kia cũng chỉ muốn liều chết một phen nhưng cái lỗ quá nhỏ để họ chui qua. Eustace to con hơn và cũng vụng về hơn Jill nên khi nhìn ra nó cụng đầu vào đất đá làm một đám tuyết lở xuống rơi lả tả lên mặt nó. Và thế là khi có thể mở mắt nhìn lại, nó thấy hàng chục hình thù các kiểu chạy ùa về phía nó, thế nên không có gì lạ khi nó có một vẻ đằng đằng sát khi như vậy.

- Đứng lại, Eustace, dừng lại! – Jill kêu lên. – Tất cả những người này đều là bạn. Cậu không thấy à ? Chúng ta đã đến đúng Narnia. Mọi thứ đều đâu vào đấy cả.

Lúc này thì Eustace đã rõ mọi chuyện, nó xin lỗi những chú lùn (họ bảo nó đừng quan tâm đến chuyện đó). Hàng chục cánh tay mập mạp, lông lá của các chú lùn kéo nó ra khỏi hố như đã từng giúp Jill mấy phút trước. Sau đó Jill lại trèo lên miệng hố, thò đầu vào cái lỗ hổng tối om thông báo tin tốt lành cho những người đứng dưới. Nói xong nó nghe thấy tiếng người bạn già lẩm bẩm:

- Ôi, rõ tội nghiệp Pole. Chuyện này quá sức chịu đựng của con bé. Chắc là nó phát điên rồi, mình còn lạ gì. Lại nhìn thấy ảo ảnh đấy thôi.

Jill chạy đến chỗ Eustace, hai đứa bắt tay nhau và hít những hơi dài khoan khoái trong bầu không khí tự do lúc nửa đêm. Một cái áo ấm được mang đến cho Eustace, một cái gì nong nóng mang đến cho hai đứa uống. Trong lúc hai đứa đứng nhấp nháp thì các chú lùn đã gạt hết tuyết và dọn quang chung quanh cái hố bên sườn đồi. Rồi tiếng búa và tiếng cuốc chim vui vẻ vang lên giống như tiếng bước chân nhảy múa của các thần rừng và các mộc tinh mười phút trước.

Mới chỉ có mười phút trước! Tuy vậy, rõ ràng là đối với Jill và Eustace tất cả các mối hiểm họa vừa qua: Vương quốc Bóng Đêm, hơi nóng và sự ngột ngạt trong lòng đất.. tất cả tựa hồ chỉ có trong một giấc chiêm bao. Một khi đã thoát ra bên ngoài, trong không khí lạnh buốt với vầng trăng và những vì sao lớn trên đầu (những ngôi sao ở Narnia ở gần hơn những ngôi sao trong thế giới chúng ta) và với tất cả những khuôn mặt vui vẻ vây quanh, không đứa nào có thể tin là có một vương quốc trong lòng đất.

Khi hai đứa trẻ uống xong món đồ uống nóng, một chục hoặc hơn các chú chuột chũi xuất hiện, chúng vừa thức giấc, vẫn còn ngái ngủ và đi đến với vẻ miễn cưỡng. Nhưng ngay khi chúng hiểu ra là có chuyện gì thì chúng đã vui vẻ tham gia vào công cuộc chung. Thận chí cả các thần rừng cũng biết cách làm cho mình trở nên có ích; họ chở đất đi trên những chiếc xe đẩy nhỏ. Lũ cóc nhảy múa, thoắt từ bên này sang bên kia với một sự kích động lớn và Jill không bao giờ hiểu được chính xác chúng nghĩ gì khi làm như thế. Gấu và cú thì hài lòng với vai trò cố vấn và cứ mời mãi bọn trẻ vào cái hang (mà Jill thấy có phát ra ánh lửa) để sưởi ấm và ăn tối. Nhưng bọn trẻ không chịu đi khi chưa trông thấy những người bạn đồng hành của mình được giải phóng.

Không có ai trong thế giới chúng ta có thể làm tốt cái việc mà chú lùn và chuột chũi đảm nhiệm ở Narnia, nhưng tất nhiên họ không coi đấy là công việc mà là một thú vui. Vì thế mà chẳng bao lâu sau họ đã nới cái hốc thành một cái hố rộng đen ngòm ở sườn đồi. Và từ cái hố đó đi ra chỗ sáng trăng – một cảnh tượng sợ chết khiếp nếu người ta không biết họ là ai – đầu tiên là cái hình thù lêu nghêu toàn tay với chân, và các mũ hình tháp chuông của cư dân vùng đầm lầy, sau đó là hai con ngựa và cuối cùng là hoàng tử Rilian.

Khi Puddleglum xuất hiện, các tiếng la hét nổ ra tứ phía.

- Trời ơi, té ra là một anh chàng cung quăng – ông bạn cũ Puddleglum – ông bạn Puddleglum già nua ở vùng đầm lầy miền Đông. Anh bạn làm gì ở đây vậy, Puddleglum? Người ta đã đi tìm anh ở khắp nơi – ngài Trumpkin đã cho dán cáo thị - có treo cả phần thưởng nữa…

Nhưng tất cả những tiếng lao xao ồn ào này lập tức phụt tắt. Không gian chìm trong im lặng cũng nhanh như những tiếng nói chuyện tắt đi trong một phòng học ồn ào khi thầy hiệu trưởng mở cửa bước vào. Bởi vì vào lúc này tất cả đã trông thấy hoàng tử Rilian.

Không có ai nghi ngờ dù chỉ trong một giây rằng đây không phải là hoàng tử. Rất nhiều con thú, mộc tinh, thần rừng và chú lùn vẫn còn nhớ mặt anh từ cái ngày hoàng tử chưa bị phù phép. Một số những cư dân lớn tuổi còn nhớ cả người cha – vua Caspian – vào những năm tuổi trẻ và giờ đây như thấy lại hình ảnh của vua Caspian thuở nào. Nhưng tôi nghĩ dù thế nào họ cũng vẫn nhận ra dù anh có nước da xanh, nhợt nhạt của người cớm nắng sau nhiều năm bị nhốt trong lòng đất, đã thế anh lại mặc một bộ đồ đen, bẩn thỉu do chui trong lòng đất, mái tóc để dài rối bời, vẻ mặt bơ phờ mệt mỏi… nhưng vẫn có một cái gì đó trên khuôn mặt anh khiến người ta không thể nhầm được. Đó là cái vẻ chỉ có trên khuôn mặt những ông vua chân chính ở Narnia, người đứng đầu thiên hạ dưới sự chỉ định của Aslan và nhờ thế được ngồi ở Cair Paravel trong chiếc ngai vàng của Peter Đại đế. Ngay lập tức tất cả đều bỏ mũ ra, cúi xuống, khuỵu một bên gối xuống chào. Rồi chỉ vài giây sau không gian im lặng bị rung động bởi tiếng chào đón chúc tụng hân hoan, những cái bắt tay, những cái hôn, những vòng tay thân ái của người này dành cho người kia và lệ rưng rưng trong mắt Jill. Không khí tưng bừng của phút giây trùng phùng đủ đền bù cho tất cả những gian nan vừa trải.

- Thưa điện hạ, - chú lùn cao tuổi nhất nói, - chúng thần đang tổ chức một bữa tiệc vui trong cái hang đằng kia, chuẩn bị cho việc kết thúc Vũ điệu Tuyết.

- Tốt lắm, tốt lắm, cha già ạ. – Hoàng tử nói. – Bởi vì chưa từng có bất cứ vị hoàng tử, hiệp sĩ hay một quý ông hoặc một bác gấu nào lại có một cái dạ dày khỏe và háu đói như bốn kẻ lang thang chúng tôi tối nay.

Trong lúc đám đông đi qua những hàng cây về hang, Jill nghe Puddleglum nói với những người vây quanh bác ta:

- Không, không, chuyện của tôi thì có thể chờ được. Không có gì đáng nói về những chuyện đã xảy ra với tôi. Bây giờ hãy cho tôi biết tin tức. Đừng có cố lảng tránh điều đó bởi vì tôi nóng lòng muốn nghe ngay lập tức. Nhà vua có bị đắm tàu không? Có vụ cháy rừng nào không? Không có chiến tranh với người Calormen chứ? Hay là có xuất hiện vài con rồng? Tôi không ngạc nhiên trước những chuyện như thế đâu.

Nghe thế tất cả các loài thú đều cười ồ lên:

- Ối la la! Đích thực là anh Puddleglum vùng đầm lầy… không chệch vào đâu được.

Hai đứa gần như sắp khuỵu xuống vì cái mệt và cái đói, nhưng hơi ấm trong hang, hình ảnh muôn loài với ngọn lửa hồng nhảy nhót trên vách hang, tủ áo, những cái ly, cái đĩa, cái nĩa và cái sàn hang lát đá nhẵn nhụi… cái không khí có cái gì giống với gian bếp trong một nông trại thân quen đã làm chúng hồi sức chút ít. Dù vậy chúng cũng ngủ thiếp đi trước khi bữa ăn được dọn sẵn sàng và trong lúc chúng ngủ, hoàng tử Rilian kể lại cho những bác gấu và các chú lùn khôn ngoan về cuộc phiêu lưu của bọn họ. Bây giờ thì mọi người đã rõ chuyện thanh xà độc ác (rõ là cùng một giuộc với Bạch Phù Thủy kẻ đã làm cho mùa đông kéo dài hàng trăm năm ở Narnia) đã sắp đặt tất cả những chuyện này như thế nào. Bắt đầu là việc giết hoàng hậu, mẹ của Rilian và yểm bùa làm cho anh mất hết lý trí. Sau đó là kế hoạch đào một con đường đi lên Narnia từ dưới lòng đất, rồi tấn công lên và làm chủ nó thông qua quân cờ Rilian. Làm sao hoàng tử nghĩ được cái đất nước mà mụ sẽ đưa chàng lên làm vua (trên danh nghĩa còn thực chất chỉ là một nô lệ của mụ) lại chính là tổ quốc thân yêu của anh. Qua câu chuyện của bọn trẻ họ thấy xà tinh đã có quan hệ liên minh thân thiện với bọn khổng lồ ăn thịt người ở Harfang như thế nào.

- Thưa điện hạ, bài học rút ra từ tất cả những chuyện này là, - chú lùn cao tuổi nhất nói, - bọn phù thủy miền bắc trước sau cũng chỉ muốn có một điều thôi; nhưng ở mỗi một giai đoạn chúng lại có một âm mưu khác để thôn tính nước ta.

CHƯƠNG 16

 Trở về

Sáng hôm sau khi Jill tỉnh giấc và thấy mình đang nằm trong hang, nó kinh hoàng nghĩ rằng mình đã trở lại Vương quốc Bóng Tối. Nhưng khi nó nhận ra là mình đang nằm trên một cái mềm lông đắp trên người và nhìn thấy ngọn lửa tươi vui (như vừa mới nhen) trong một cái lò sưởi xây bằng đá và xa hơn, ánh sáng tinh khôn của một sớm ban mai đã tràn vào cửa hang thì nó lại nhớ lại cái sự thật vui vẻ hôm qua. Họ có một bữa tiệc liên hoan thật tuyệt, tất cả đều chen chúc vào trong hoang mặc dù nó buồn ngủ díp cả mắt lại khi bữa tiệc đã tàn. Nó có một ký ức mơ hồ về việc các chú lùn quay quần bên bếp lò với những cái chảo rang còn lớn hơn cả bản thân họ nữa. Có tiếng gì vừa xèo xèo, mùi xúc xích nướng thơm lừng và còn nhiều xúc xích, nhiều hơn nữa. Không phải loại xúc xích khốn khổ một nửa độn mì hoặc bột đậu xanh mà là loại xúc xích thật sự, có gia vị, mỡ màng, nóng hổi, bỏ vào môi trôi vào miệng. Những cái ly cối đựng đầy có ngọn một thứ sôcôla sủi bọt, khoai tây chiên, hạt dẻ rang thơm lừng, táo nướng với nho nhồi ở giữa và món kem… ôi tuyệt vời, nó làm bạn có cảm giác như mình trở thành một người khác, với cảm giác mát lạnh trong cổ sau khi vừa xơi xong những món nóng.

Jill ngồi dậy nhìn quanh. Puddleglum và Eustace nằm cách nó không xa vẫn ngủ say tít.

- Chào hai người. – Jill kêu to. – Bộ quý vị không tính dậy hay sao?

- Suỵt suỵt! – Một giọng ngái ngủ vang lên ở đâu phía trên đầu co bé. – Mọi thứ rồi sẽ đâu vào đấy. Được một giấc ngủ ngon hả? Đừng làm ồn chứ.

- A ha, tôi tin là, - Jill reo lên đưa mắt nhìn một đám lông trắng mịn như tơ đang đậu trên một cái đồng hồ cũ kĩ để ở góc hang, - tôi tin kia chính là Glimfeather.

- Thì đúng, thì đúng thế, - Cú rúc lên, thò đầu ra khỏi một bên cánh, đoạn mở một con mắt ra – Tôi mang một thông điệp đến cho hoàng tử vào lúc 2 giờ sáng. Bọn soc truyền tin vui nức lòng đế chỗ chúng tôi. Còn chúng tôi mang tin nhắn khẩn đến cho hoàng tử. Chàng đã đi. Các bạn cũng phải đi theo. Chúc một ngày tốt lành! Và cái đầu cú lại rúc vào một bên cánh.

Dường như không thể moi thêm được tin gì từ cú nữa, thế là Jill đứng dậy nhìn quanh xem có chỗ nào rửa mặt mũi và có cơ hội ăn điểm tâm không. Ngay lúc đó một thần rừng bé nhỏ chạy và hang với tiếng móng guốc nện côm cốp trên sàn đá.

- Ôi, cuối cùng cô bé đã dậy, con gái của Eva ạ. Có lẽ cháu nên đánh thức con trai của Adam dậy. hai cháu sẽ rời khỏi đây trong vòng ít phúc nữa. Hai vị nhân mã đã có nhã y mời các cháu cưỡi lên lưng họ để trở về Cair Paravel. – Đến đây ông nói them giọng nhỏ hơn: - Tất nhiên cháu cũng nhận ra đây là một vinh dự đặc biệt chưa từng thấy nghe thấy ở Narnia chứ? Được bay đi trên lưng nhân mã! Tôi không biết là đã từng nghe có ai được vinh dự này chưa. Không nên để cho họ chờ đợi lâu.

- Thế hoàng tử đâu? – Đó là câu hỏi đầu tiên của Puddleglum và Eustace lúc mở mắt thức dậy.

- Chàng đã đi gặp vua cha ở Cair Parave. – Vị thần rừng có tên là Orruns nhanh nhảu đáp. Con tàu của đức vua có thể cập bến sớm. Có vẻ như vua đã gặp được Aslan – tôi không biết là trong mộng hay được gặp mặt hẳn hoi – trước khi tàu đi quá xa. Aslan đã bảo vua quay tàu về và nói ngài sẽ tìm thấy người con thất lạc lâu ngày đang đợi mình ở Cair Paravel.

Eustace đã tỉnh táo, nó và Jill giúp Orruns một tay chuẩn bị bữa ăn sáng. Người ta bảo Puddleglum cứ nằm nghỉ trên giường. Một nhân mã tên là Cloudbirth, một người chữa bệnh rất mát tay sẽ đến khám vết thương ở chân cho bác.

- Ối giời! Puddleglum vội nói với giọng gần như là mãn nguyện . – Chắc ông ta chỉ muốn cắt béng cái chân của tôi đến đầu gối thôi, tôi thì tôi còn lạ gì. Cứ chờ xem ông ta có làm như thế không.

Trong thâm tâm bác ta rất vui sướng, khi được nằm nướng trên giường.

Bữa điểm tâm có món trứng ốp la và bánh mì nướng, Eustace chén rất nhiệt tình cứ như thể nó chẳng hề ăn một bữa tối thịnh soạn vào nửa đêm hôm qua.

- Này, con trai của Adam, - thần rừng ngạc nhiên khi thấy Lông Vịt tọng hết miếng này đến miếng khác vào miệng, - không cần thiết phải vội vã như vậy. Tôi không nghĩ là các nhân mã đã ăn xong bữa sáng của họ.

- Nếu như vậy thì họ dậy trễ đấy. Tôi đoán bây giờ cũng đã quá 10 giờ rồi.

- Ồ không, - Orruns nói, - họ trở dậy trước khi trời sáng.

- Thế thì chắc họ phải đợi thật lâu mới được ăn sáng. – Eustace đưa ra kết luận.

- Cũng không phải vậy nốt. Họ bắt đầu ăn vào ngay cái phút mà họ thức dậy.

- Khiếp! Chắc họ ăn hàng thúng uống hàng thùng hả?

- Ôi, con trai của Adam, cậu không hiểu ư? Một nhân mã vừa có cái dạ dày của con người vừa có cái dạ dày của một ngựa. Tất nhiên cả hai cái đều muốn ăn sáng. Đầu tiên bác ta ăn cháu với cá pavenđơ và cật, rồi ăn thịt hun khói, trứng tráng, thịt heo muối để lạnh, bánh mì nướng, mứt cam, café và bia. Sau đó bắc ta bắt đầu chiều theo cái bao tử ngựa trong cơ thể mình bằng cách gặm cỏ trong vòng một hai tiếng rồi tráng miệng với món cám nóng và một ít lúa mạch, cuối cùng là một túi đường. Đó là lí do tại sao việc đòi hỏi một nhân mã ở lại đến cuối tuần lại đặc biệt đến như vậy.

Vừa lúc đó nghe vang lên tiếng vó ngựa đạp vào đá rào rào ở ngoài cửa hang và bọn trẻ ngẩng đầu nhìn lên. Hai nhân mã, một râu đen, một râu vàng phủ dài xuống bộ ngực trần vĩ đại, đang đứng đợi chúng, đầu hơi cúi xuống một chút để có thể nhìn vào hang. Thế là hai đứa nhanh chóng kết thúc bữa sáng của chúng. Không ai dám nghĩ một nhân mã có vẻ buồn cười khi gặp họ. Họ là những người trang nghiêm, đường bệ, toát lên một vẻ khôn ngoan cổ kính, một điều họ học được từ cái vì sao và không dễ gì làm họ biểu lộ niềm vui hay sự giận dữ. Nhưng cơn giận của họ thì dữ dội và khủng khiếp như một trận bão tố một khi nó xảy ra.

- Tạm biệt nhé bác Puddleglum thân yêu! – Jill nói và đi đến bên giường của bác Puddleglum già. – Cháu xin lỗi việc chúng cháu từng gọi bác là cái mền ướt.

- Cả cháu cũng thế! – Eustace nói. – Bác chính là người bạn tốt nhất trên đời.

- Và chúng cháu hy vọng sẽ được gặp bác lần nữa. – Jill nói them.

- Không có cơ hội ấy đâu, tôi dám nói thế đấy. Tôi cũng không nghĩ rằng tôi còn có thể thấy cái túp lều của mình. Còn hoàng tử - một thanh niên dễ mến là thế - các cháu có nghĩ là chàng ta đủ mạnh mẽ không? Người khỏe mạnh mấy cũng bị hủy hoại vì sống lâu ở dưới lòng đất như thế. Coi xem, cả những người trai tráng vẫn có thể ra đi vào bất cứ lúc nào.

- Puddlegum! – Jill phì cười. – Bác đúng là một tên đại bịp dễ thương nhất trên đời. Bác nói thì nghe sầu não như đang trong đám ma nhưng cháu tin bác là một người vui vẻ nhất. Bác nói như một kẻ hèn nhát sợ tất cả mọi thứ trên đời trong khi bác thật sự dũng cảm… như một chúa tể sơn lâm vậy.

- Lại nói đến đám ma… - Puddleglum bắt đầu, nhưng Jill đã nghe thấy hai nhân mã sốt ruột gõ móng phía sau lưng và nó đã làm bác già ngạc nhiên bằng cách dang hai tay ôm cái cổ cò của bác, hôn lên khuôn mặt mai mái đến chụt một cái, trong khi Eustace bắt tay bác thật chặt. Sau đó cả hai đứa chạy về phía nhân mã còn Puddleglum lại ngả lưng xuống giường miệng lẩm bẩm một mình:

- Thật không bao giờ mình ngờ được con bé lại làm thế. Cứ như thể mình là  một gã bảnh trai không bằng.

Cưỡi trên người một nhân mã, không có gì phải nghi ngờ, chính là một vinh dự lớn (trừ Jill và Eustace chắc chắn trên đời này không có người nào được hưởng vinh dự đó) nhưng cũng có chỗ bất tiện. Bởi vì không có ai còn biết quý mạng sống của mình lại dám gợi ý là nên thắng yên cương trên người một nhân mã mà cưỡi ngựa không yên thì chẳng có gì sung sướng, nhất là Eustace một đứa chưa bao giờ học cưỡi ngựa. Nhân mã là một loại sinh vật hết sức lịch thiệp – theo cái lối trang trọng, tao nhã của lớp người nệ cổ. Khi phóng qua những cánh rừng Narnia họ không hề quay đầu lại, bình thản kể cho bọn trẻ nghe về đặc tính của các loại rễ cây và thảo mộc, sự tác động qua lại giữa các hành tinh, chín cái tên của Aslan cùng ý nghĩa của từng cái tên và những chuyện đại loại như vậy. Nhưng dù đau ê cả người vì bị xóc, hai đứa trẻ vẫn vui lòng hi sinh bất cứ cái gì để thực hiện lại chuyến đi ấy một lần nữa: được thăm lại những khóm rừng, những sườn đồi sáng lên lấp lánh dưới lớp tuyết tinh khôi, được nghe lại tiếng chào hỏi làm quen của lũ thỏ, sóc và chim chóc gặp trên đường, được ngửi lại một lần nữa bầu không khí ở Narnia và giọng nói của cây cỏ ở đây.

Họ đi về phía sông, một dòng nước sáng ngời, xanh biếc tuôn chảy dạt dào trong ánh nắng mùa đông, xa xa phía dưới là cây cầu cuối cùng (ở gần thị trấn Beruna với những ngôi nhà mái đỏ ấm cúng). Khách qua sông bằng những chiếc sà lan do những người chèo đò cầm lái hoặc chính xác là những người – cung quăng như Puddleglum bởi vì loại người này ở Narnia chủ yếu sống bằng nghề chở đò hoặc đánh bắt cá, nghĩ là gắn bó với sông nước. Sau khi đã qua phà, họ đi dọc bờ nam và đến Cair Paravel. Và kia chính là con tàu lộng lẫy cờ hoa mà hai đứa trẻ đã gặp khi lần đầu tiên đặt chân đến đây. Con tàu đang trôi về bến như một con thiên nga lớn. Tất cả những triều thần lại tụ họp trên đồng cỏ nằm giữa lâu đài và bến cảnh để đón vua Caspian trở về. Rilian đã thay bộ đồ đen bằng một chiếc áo choàng màu đỏ khoác ra ngoài áo giáp bạc. Anh đầu để trần nôn nóng ra đứng sát tận mép nước cùng với người lùn Trumpkin trên cỗ xe lừa, để đón đợi cha mình. Hai đứa bé cảm thấy cò phần nào e ngại. Thế là chúng hỏi nhân mã xem chúng có thể ngổi trên lưng họ lâu hơn một chút để quan sát mọi việc từ trên cao không. Nhân mã đồng ý.

Tiếng kèm trumpet bằng nạc phát ra một điệu nhạc hùng tráng từ boong tàu, âm nhạc lướt trên mặt sông đến tận chỗ đám đông đứng đợi. Các thủy thủ ném xuống một sợi dây tời, chuột (tất nhiên là các bạn chuột biến nói) và người – cung quăng điều khiên con tàu bơi dần vào bờ, các hạc công ẩn mình đâu đó trong đám đông bắt đầu tấu lên một khúc nhạc khải hoàn hùng tráng. Ngay lập tức một con thuyền galley hạ xuống, những chú chuột chạy lên chạy xuống chiếc cầu rút.

Jill nghĩ sẽ nhìn thấy vị vua già từ từ bước ra. Nhưng rõ ràng là có trục trặc nào đó. Một quý ông với khuôn mặt tái mét bước lên, quỳ trước mặt hoàng tử và Trumpkn nhưng không ai nghe thấy họ nói gì với nhau. Nhạc vẫn chơi nhưng bạn có cảm giác có một cái gì đó làm cho bầu không khí trở nên bồn chồn. Sau đó, bốn nhà quý tộc khiêng một vật dài từ từ hiện ra trên boong tàu. Khi họ bắt đầu đi trên cầu tàu bạn có thể trông thấy cái họ đang khiêng: đó là vị vua già, xanh xao đang nằm bất động trên giường. Họ đặt cái giường xuống. Hoàng tử quỳ xuống bên cha, ôm lấy cha già. Họ có thể vị vua giơ tay lên chúc phúc cho con trai. Mọi người kêu lên chúc mừng nhưng đó là những tiếng kêu ỉu xìu buồn bã bởi vì ai cũng biết là có một điều gì đó không ổn. Chợt đầu nhà vua ngã xuống gối, các nhạc công ngừng chơi đàn, không khí im lặng chết choc bao trùm lên tất cả. Hoàng tử vẫn quỳ bên giường vua gục đầu xuống đấy, khóc.

Có tiếng thì thầm và chuyện động trong đám đông. Sau đó, Jill nhận ra tất cả những người đội mũ trùm đều bỏ mũ xuống – trong số đó có cả Eustace. Rồi Jill nghe thấy tiếng phần phật và rậm rịch vang lên từ lâu đài, phóng tầm mắt về phía đó nó thấy một lá cờ lớn với hình ảnh sư tử vàng rực được mang xuống cột cờ. Sau đó cùng với những tiếng nỉ non của các dụng cụ đàn dây và tiếng rền rĩ ai oán của tù và, một khúc nhạc lễ tang bắt đầu được tấu lên, chậm rãi, bi thương. Lần này âm nhạc làm tin bạn như muốn vỡ ra, nhức nhối.

Cả hai đứa cùng tụt khỏi lưng nhân mã (những sinh vật này không để ý đến chúng nữa).

- Ước gì tớ đang ở nhà. – Jill phụng phịu nói.

Eustace gật đầu, chẳng nói năng gì, chỉ cắn môi.

- Ta đã đến! – Một giọng nói sâu thẳm vang lên từ phía sau, hai đứa giật mình quay lại thấy đó là Aslan, tỏa ánh hào quang, có thật và mãnh mẽ đến nỗi so với ông tất cả những sinh vật khác trông đều nhợt nhạt như cái bóng. Trong vài giây Jill quên mất việc ông vua vừa băng hà mà chỉ nhớ đến việc nó đã khiến Eustace rơi xuống vực, đã quên hầu hết các dấu hiệu và nhớ lại những lỗi lầm của mình cả những cuộc cãi vã. Nó chỉ muốn nói: “Con xin lỗi!” nhưng sao nó không thể mở miệng ra nói được. Sư tử đến gần, nhìn chúng với cái nhìn thấu suốt và cúi xuống, chạm đầu lưỡi vào khuôn mặt xanh xao của từng đứa và nói:

- Đừng nghĩ đến những chuyện này nữa. Không phải bao giờ ta cũng trách mắng đâu. Các con đã hoàn thành công việc tao giao phó.

- Thưa Aslan, - Jill nói, - chúng con có thể về nhà bây giờ không ạ?

- Hẳn rồi. Ta đến để đưa các con về mà.

Đoạn ông há miệng thổi. Nhưng lần này bọn trẻ không cảm thấy mình bay trong không trung mà dường như chúng vẫn đứng nguyên tại chỗ, trong khi hơi thở hoang dại của Aslan thổi cho con tàu, ông vua vừa băng hà, tòa lâu đài, tuyết trắng và bầu trời mùa đông bay đi. Bởi vì tất cả những thứ này đều bay bồng bềnh trong không khí tựa như những làn khói còn bản thân chúng thì lại bất thình lình đứng trên một thảm cỏ xanh mượt giữa một rừng cây đại thụ, bên cạnh một dòng suối trong mát, nên thơ vào một ngày hè tươi sáng tràn ngập ánh mặt trời và long lanh tiếng chim kêu. Rồi hai đứa trẻ phát hiện ra rằng một lần nữa chúng lại đứng trên đỉnh núi cao vượt lên và nằm bên ngoài cái thế giới trong đó có Narnia. Đó là đỉnh núi của Aslan. Điều kì lạ là bản nhạc tiễn biệt dành cho vua Caspian vẫn vang lên mặc dù không có ai biết được nó vang lên từ đâu. Chúng đang đi dọc theo bờ suối, sư tử đi phía trước và bởi vì ông quá đẹp còn bản bi ca thì tràn ngập một âm hưởng tuyệt vọng, Jill không hiểu mắt nó ứa lệ vì cái gì.

Thế rồi Aslan dừng lại, bọn trẻ nhìn xuống dòng suối. Và kia, trên lớp sỏi vàng óng giữa lòng suối, là vua Caspian, đã chết, nước chảy qua người ông như một lớp thủy tinh lỏng. Bộ râu dài trắng như bông lay nhẹ trong lòng nước như một loài rong. Cả ba người đứng lại, khóc. Cả Aslan cũng khóc: những giọt nước mắt lớn của sư tử vĩ đại, mỗi một giọt nước mắt còn quý hơn cả trái đất tựa như nó là một khối kim cương độc nhất. Jill nhận thấy rằng Eustace không giống một đứa trẻ khóc nhè hay một thằng con trai đang khóc và muốn giấu điều này, bạn nó khóc như một người đàn ông trưởng thành. Ít nhất thì đây cũng là một điều gần với cái điều nó có thể chịu được được, bởi vì trong thực tế, như sau này nó nói, con người dường như không có tuổi khi ở trên ngọn núi này.

- Con trai của Adam, - Aslan nói, - con hãy vào bụi kia bẻ một cái gai mà con tìm thấy trong đó rồi đưa lại đây cho ta.

Eustace vâng lời. Cái gai dài chừng ba phân, sắc như một mũi kim.

- Hãy đâm nó vào móng vuốt của ta, con trai của Adam. – Aslan nói, giơ bàn chân trước bên phải lên, chìa cái móng lớn ra cho Eustace.

- Con nhất định phải làm như thế sao? – Eustace nói.

- Đúng! – Aslan đáp.

Thế là Eustace cắn chặt hai hàm răng lại, ấn cái gai nhọn vào móng Aslan. Từ đó trào ra một giọt máu còn đỏ hơn tất cả những gì đỏ nhất mà bạn có thể nhìn thấy hoặc tưởng tượng. Giọt máu nhỏ xuống dòng nước bên trên cái xác của nhà vua. Cũng lúc đó điệu nhạc bi thương ngừng bặt. Xác vua Caspian bắt đầu có sự thay đổi. Bộ râu bạc trắng chuyển dần sang màu xám, rồi từ màu xám sang vàng, ngắn hơn, ngắn hơn rồi biến mất; đôi má hóp nhăn nheo trở nên tròn trịa, căng mọng; những nếp nhăn mở dần rồi biến mất. Đôi mắt vua mở to, cả mắt và môi đều cười và thoắt một cái vua nhảy lên, đứng trước mặt họ - một chàng thanh niên hay đúng hơn một chú bé (nhưng Jill không thể xác định rõ điều này bởi vi người ta không có một độ tuổi nhất định ở đất nước của Aslan. Tất nhiên, trên đất nước này những đứa trẻ ngu ngốc nhất là những bé thơ đúng nghĩa nhất còn những người lớn ngu ngốc nhất lại là những người trưởng thành nhất) cậu bé nhào đến chỗ Aslan vòng đôi tay bé nhỏ để ôm lấy cái cổ to lớn của sư tử, hôn ông một cái bằng nụ hôn của một ông vụ và Aslan hôn đáp lại bằng cái hôn của một vị chúa tể.

Cuối cùng Caspian quay sang hai đứa bé. Nhà vua bật ra một tràng cười tươi vui với một niềm vui bồng bột trẻ thơ:

- Cái gì thế này? Eustace ư? Eustace! Thế là cuối cùng cậu cũng đến được Nơi tận cùng thế giới. Lưỡi gươm tốt thứ hai của tôi đã bị cậu làm gãy khi đâm con rắn biển đâu rồi?

Eustace bước lên một bước với đôi tay dang rộng, nhưng rồi nó lùi lại, hoảng sợ.

- Coi này! Tôi nghĩ… - nó lập bập trong miệng, - tất cả đều rất tốt. Nhưng… nhưng không phải bệ hạ… Tôi muốn nói không phải bệ hạ đã…

- Ồ, đừng có ngốc như thế chứ. – Caspian nói.

- Nhưng, - Eustace nói, đưa mắt nhìn Aslan, - không phải… ông ấy… ông ấy đã chết rồi sao?

- Phải, - sư tử nói bằng giọng nhẹ nhàng và Jill nghĩ rất có thể ông đang cười nho nhỏ trong cổ, - ông ấy đã chết. Con biết đây, hầu như ai cũng phải chết. Ta cũng vậy. Nhưng có một số người không biến đi hẳn.

- Ồ, - Caspian nói, - tôi biết cái gì làm cậu bối rối rồi. Cậu nghĩ tôi là ma hoặc một cái gì đó rất ngớ ngẩn. Nhưng cậu không thấy sao tôi sẽ là ma nếu xấu hiện ở Narnia vào lúc này. Bởi vì tôi không còn thuộc về bất cừ nơi nào nữa. Nhưng người ta không thể là ma trên đất nước của mình. Tôi có thể là ma nếu tôi đi đến thế giới của bạn không? Tôi không rõ điều này đâu. Nhưng tôi cho rằng không phải trong thế giời các bạn bởi vì các bạn đang ở đây.

Một hy vọng lớn bùng lên trong lòng hai đứa bé. Nhưng Aslan lắc cái đầu vĩ đại với cái bờm vang rực rỡ.

- Không, các con thân yêu! Khi các con gặp ta ở đây một lần nữa các con có thể ở lại. Nhưng không phải lúc này. Các con phải quay lại cái thế giới của mình một thời gian.

- Thưa ngài, - Caspian nói, - con bao giờ cũng mong muốn được tận mắt thấy thế giới của họ. Điều ấy có gì sai không ạ?

- Con không thể mong muốn những gì sai trái nữa, bởi vì bây giờ con đã chết con trai ạ. Con sẽ thấy được thế giới của họ - trong vòng năm phút tính theo thời gian của họ. Sẽ không lâu hơn để con sắp đặt mọi thứ đúng chỗ.

Rồi Aslan giải thích nơi mà Jill và Eustace sẽ trở về và tất cả những điều cần biết về trường Thực nghiệm: xem ra ông hiểu cũng rõ như chúng vậy.

- Con gái, - Aslan nói với Jill, - con hãy bẻ một cành cây trong bụi.

Jill làm theo, ngay lập tức cành cây trong tay nó biến thành một cái roi đi ngựa.

- Bây giờ thì con trai của Aslan, con hãy rút gươm ra nhưng chỉ dùng chuôi gươm thôi bởi vì đấy chỉ là những kẻ nhút nhát và những đứa trẻ, không phải là những chiến binh thật sự dành cho con đâu.

- Người sẽ đến cùng chúng con ư, Aslan? – Jill hỏi.

- Bọn họ chỉ thấy cái lưng ta mà thôi. – Aslan nói. – Ông dẫn họ đi nhanh qua rừng và trước khi họ đi được một đoạn thì bức tường ở trường Thực nghiệm đã hiện ra trước mặt. Đến đây Aslan gầm lên vang động làm cho cả đến mặt trời cũng run rẩy trên trời cao và bức tường cao khoảng 10 thước sụp đổ trước mặt họ. Cả một mảng lớn. Mọi người nhìn qua chỗ bức tường sụp thấy xa xa phía dưới bụi cây là mái nhà của khu thể thao, cũng cái bầu trời mùa thu ảm đạm mà hai đứa trẻ đã thấy trước lúc bắt đầu cuộc phiêu lưu.

Aslan quay lại nhìn Jill và Eustace, phà hơi thở vào người chúng, chạm lưỡi vào trán chúng. Đoạn ông nằm giữa đống gạch vụn của mảnh tường vừa bị phá, quay lại lưng vàng óng lại nước Anh, khuôn mặt cao quý hướng về phía xứ sở của mình. Cùng lúc đó Jill trông thấy một đám người mà nó biết rõ đang chạy qua bụi nguyệt quế về phía nó. Hầu hết băng đảng du côn đều có trong số này – Adela Pennyfather, Cholmondely Major, Edith Winterblott, “Spotty” Sorner, Bannister Cồ, và hai anh em sinh đôi nhà Garrett rất dễ ghét. Nhưng bất thình lình chúng dừng lại. Khuôn mặt chúng tay đổi, cái vẻ ti tiện, giả dối, độc ác và gian gải gần như biến mất chỉ còn lại biểu hiện duy nhất của nỗi kinh hoàng. Bởi vì trước mắt chúng một mảnh tường sập xuống, một con sư tử to như một con vui nằm ở ngay chỗ bức tường đổ và ba người mặc những bộ áo quần lộng lẫy, vũ khí trong tay xông về phía chúng. Nhờ sức mạnh của Aslan truyền cho, Jill múa gậy về phía bọn con gái, Caspian và Eustace vung chuôi gươm về phía bọn con trai với những đường kiếm tài tình đến nỗi chỉ trong vòng hai phút mấy đứa du côn bỏ chạy như lũ chó bị dội nước sôi, miệng la oai oái:

- Quân giết người! Bọn phát xít! Sư tử! Không công bằng!

Đúng lúc đó hiệu trưởng (là một phụ nữ) vội chạy đến xem có chuyện gì không. Đến khi bà thấy một con sư tử, bức tường bị phá hủy một mảng cùng Caspian, Jill và Eustace ( hai đứa này bà không nhận ra được), bà lên cơn kích động, vội vã quay về văn phòng gọi điện cho cảnh sát báo cáo rằng có một con sư tử trốn thoát khỏi một rạp xiếc và mấy người tù trại đã phá vỡ tường bao quanh trường. Bọn họ mang theo những thanh kiếm tuốt trần.

Trong lúc nhốn nháo như vậy, Jill và Eustace lặng lẽ lẩn vào trong phòng ngủ thay bộ đồ rực rỡ của người Narnia mặc lạc bộ đồng phục học sinh vào, còn Caspian thì trở về thế giới của mình. Sau một làn hơi của Aslen, bức tường tự khắc liền lại như cũ. Khi cảnh sát đến họ không thấy sư tử cũng chẳng có bức tường bị phá lẫn người tù nào. Hiệu trưởng đã hành động như một người mắc chứng “hoang tưởng” và thế là có một cuộc điều tra về toàn bộ vấn đề này. Trong cuộc điều tra ấy tất cả những vấn đề Thực nghiệm đều được đưa ra ánh sáng và có ít nhất 10 người bị cho nghỉ việc. Sau đó bạn bè của bà hiệu trưởng thấy bà không được việc với tư cách là một hiệu trưởng, đã mở một cuộc thanh tra với sự tham gia của những người làm công tác hiệu trưởng khác. Khi đã có bằng chứng cho thấy bà không đủ phẩm chất và tài năng để đảm nhiệm cương vị của mình họ đã đưa bà vào nghị viện và ở đấy bà sống hạnh phúc cho đến hết đời.

Vào một đêm nọ, Eustace chôn bộ quần áo đẹp của nó một cách bí ẩn ở một góc trường, còn Jill thì lén đem nó về nhà và diện bộ đồ đó trong một đêm dạ hội hóa trang và kì nghỉ tiếp theo. Kể từ ngày ấy, mọi chuyện xảy ra theo chiều hướng tốt hơn ở trường Thực nghiệm và nó trở thành một ngôi trường tốt.

Còn cách thật xa nơi ấy, tận Narnia xa xôi, vua Rilian an táng cha của mình, Caspian – nhà hàng hải – và thương nhớ tiên hoàng rất nhiều. Nhà vua trẻ điều hành đất nước rất giỏi. Narnia là một xứ sở của niềm vui trong suốt khoảng thời gian Rilian làm vua, mặc dầu Puddleglum – người sau đó ba tuần đã có một cái chân “ngon lành” như chân mới – thường chỉ ra rằng những sớm mai tươi đẹp bao giờ cũng kép theo những buổi chiều ẩm ướt, u ám và bạn không thể mong mặt trời hạnh phúc sẽ chiếu sáng muôn đời. Cái hố bên sườn đồi vẫn để nhỏ và thường thường vào những ngày hè oi bức, người Narnia đến đây với những con tàu, đèn đuốc sáng trưng, cùng nhau đi xuống biển đêm vĩnh cửu. Họ giong buồm vui chơi và ca hát trong không khí mát lạnh, đen mượt như nhung của mặt biển, rồi kể cho nhau nghĩ những câu chuyện về các thành phố nằm sâu phía dưới. Nếu có bao giờ bạn có được may mắn đến Narnia, chớ quên ghé thăm những cái hang này, bạn nhé.

 HẾT TẬP 6

[1] Cú nói là người lạ (stranger), người lùn nghe ra là rangers có nghĩa là kẻ lang thang.

[2] Cú nói Jill nhưng người lùn nghe thành killed (bị giết) nên mới có sự hiểu nhầm này.

[3] Cú nói Eustace nhưng người lùn nghe ra Useless nên ông ta mới nói là vô tích sự.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#thoại