Biên Niên sử Narnia full 7 phần

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Phần 1 :Cháu trai pháp sư

Đây là câu chuyện kể về một sự kiện đã xảy ra lâu lắm rồi. Ngày ấy, ông nội bạn vẫn còn là một đứa trẻ. Đây cũng là một câu chuyện hết sức quan trọng bởi vì nó cho biết chuyện gì đã xảy ra giữa thế giới của chúng ta với mảnh đất Narnia từ buổi khai thiên lập địa.

Vào thời điểm ấy, thám tử tài ba Sherlock Holme vẫn sống ở đường Baker còn Bastables thì đang tìm kho báu ở đường Lewisham. Thời ấy, nếu bạn là một cậu bé, bạn sẽ phải mặc áo cổ cồn kiểu Eton thít chặt lấy cổ còn bọn học sinh ấy mà, đúng là được xếp thứ ba trong việc quậy – chỉ sau ai thì bạn biết rồi đấy. Nhưng các món ăn thì ngon hết biết, còn kẹo bánh thì… Thôi, tôi chả nói nó rẻ và ngon đến mức nào đâu, e sẽ làm bạn chảy nước miếng vì thèm mất thôi.

Phải vào thời ấy, có cô bé tên là Polly Plummer.

Cô bé sống trong một căn hộ nằm trong một dãy nhà liên kế dài. Một sáng nọ trong lúc ra vườn sau chơi cô thấy một thằng nhóc đang trèo lên bức tường nhà bên cạnh. Polly lấy làm thắc mắc bởi vì cho đến lúc ấy nó chưa hề trông thấy một nhóc nào ở nhà bên ngoài ông già Ketterley và cô Ketterley, vốn là hai anh em ruột – một ông già độc thân và một bà cô không chồng. Vì thế khi ngóng cổ nhìn sang, trên mặt con bé mang một dấu hỏi to đùng. Mặt cậu bé kia thì nhem nhuốc như hề. Khó có thể làm cho mặt nó bẩn hơn, kể cả khi nó nghịch đất nghịch cát rồi vì một lí do gì đó khóc nức nở và đưa hai tay lên lau mặt. Nhưng thật ra thì đó gần như là điều mà nó vừa làm.

- Xin chào. – Polly lên tiếng.

- Chào bạn. – Thằng bé nói. – Tên cậu là gì?

- Polly. Còn cậu?

- Digory.

- Tôi có thể nói, đó là một cái tên thật buồn cười. – Polly nói.

- Cũng không tức cười bằng nửa cái tên Polly.

- Tên cậu mới ngốc nghếch làm sao.

- Không phải như vậy. – Digory cãi lại.

- Dù sao thì tôi cũng sẽ đi rửa mặt. – Polly bực bội nói. – Đó là điều mà bạn cần làm, nhất là sau khi… - Nói đến đây, cô bé dừng lại. Nó định nói sau khi đằng ấy vừa vãi nước mắt ra, - nhưng đã kịp dừng lại vì nghĩ nói như thế không được lịch sự cho lắm.

- Được thôi, tôi cũng đang định…  – Digory nói, giọng vùng lên, đúng cái kiểu một thằng con trai đau khổ đến mức không thèm quan tâm đến việc có người biết nó vừa mới khóc nhè. – Cậu… cậu cũng thế thôi, - nó tiếp tục, - nếu cậu đã sống từ hồi nào đến giờ ở nông thôn… làm bạn với một con ngựa non và một dòng sông chảy  qua vườn nhà rồi lại bị bốc đến sống trong một cái hốc bẩn thỉu như thế này…

- London không phải là một cái hốc. – Polly nói giọng phẫn nộ.

Nhưng Digory, đau khổ đến mức đâu còn quan tâm đến người đối diện, đã nói tiếp:

- Nếu cha cậu phải đi sang tận Ấn Độ… cậu phải đến sống với một bà dì và một ông bác khùng (ai mà thích như thế?)… với một lí do họ phải chăm sóc mẹ cậu  – và nếu mẹ cậu bị ốm nặng và sắp… sắp… chết. – Nói đến đây mặt nó méo xẹo đi như cái kiểu người ta cố kìm lại những giọt nước mắt.

- Tôi không biết. Tôi xin lỗi. – Polly nhún nhường. Rồi vì không biết phải nói gì và cũng vì muốn Digory chú ý đến một đề tài khác vui vẻ hơn, nó hỏi:

- Thế ông Ketterley khùng thật sao?

- À… có thể là bác ấy khùng, - Digory nói, - cũng có thế bác ấy đang có một bí mật nào đó. Bác ấy có một phòng nghiên cứu ở gác xép và dì Letty cấm tôi không bao giờ được bước chân lên đấy. Phải… những việc này ngay từ đầu đã có một cái gì rất ám muội. À, mà có một chuyện này nữa. Mỗi khi bác ấy cố nói một điều gì đó với tôi trong bữa ăn – trong khi bác ấy thậm trí chưa bao giờ nói chuyện với em gái thì dì Letty bao giờ cũng cố chặn bác ấy lại. Dì nói “Không phải lo cho thằng bé đâu, Andrew” hoặc “Em chắc là Digory không muốn nghe chuyện đó” hoặc là “Nào, Digory, cháu có muốn ra ngoài vườn chơi không?”

- Thế bác ấy cố nói chuyện gì vậy?

- Tôi không biết, bác ấy không bao giờ đi quá xa. Nhưng còn có chuyện gì nữa… Một đêm – thực ra là đêm hôm qua – trong lúc tôi đi ngang qua chân cầu thang dẫn lên phòng áp mái để về phòng ngủ (tôi cũng chẳng thích thú gì cái chuyện đi ngang qua đấy đâu) tôi nghĩ mình nghe một tiếng kêu hốt hoảng.

- Có lẽ ông ấy nhốt một người vợ điên ở trên ấy.

- Phải, tôi cũng cho là thế.

- Hoặc giả ông ta đang làm tiền giả.

- Hoặc cũng có thế bác ấy là một tên cướp biển. Giống như người đàn ông ở đoạn đầu câu chuyện Đảo giấu vàng nên phải trốn chui trốn lủi tránh những tên đồng bọn cũ.

- Ái chà, tất cả những chuyện này có cái gì thật kích động đây! – Polly reo lên. – Thế mà tớ chưa bao giờ nghĩ là nhà bên ấy lại có gì hấp dẫn đâu.

- Cậu có thể nghĩ là nó thú vị. – Digory buồn bã nói. – Nhưng cậu sẽ không thích thế đâu, nếu buộc phải sống ở đó. Làm sao cậu thích được khi nằm nín thở lắng nghe tiếng bước chân của bác Andrew rón rén đi dọc hành lang vào buồng ngủ của cậu? Mà bác ấy có đôi mắt trông đến sợ.

Chuyện xảy ra vào những ngày đầu mùa hè. Năm ấy, cả hai đứa trẻ đều không đi nghỉ mát ngoài biển nên hầu như ngày nào chúng cũng gặp nhau.

Đó là một trong những mùa hè ẩm ướt và lạnh lẽo nhất trong bao năm qua. Thời tiết buộc chúng phải chơi những trò chơi trong nhà: bạn có thể gọi đó là những khám phá trong bốn bức tường. Tuyệt vời biết bao khi bạn có thể đi thám hiểm trong một ngôi nhà rộng hoặc trong cả một dãy nhà với một mẩu nến.

Từ lâu, Polly đã phát hiện ra rằng nếu nó mở một cánh cửa nhỏ trong gian phòng áp mái đựng đồ linh tinh, nó sẽ tìm thấy một cái bồn chứa nước và một góc tối sau bồn chứa, một nơi mà nó có thể vào được bằng cách bò cẩn thận từng chút một. Cái chỗ tối tăm ấy rất giống một địa đạo sâu hun hút, bức tường gạch ở một bên và mái nhà dốc thoai thoải ở bên kia. Có vài khe hở nhỏ trên mái nhà, giữa những viên đá đen, cho phép một vài tia sáng lọt vào. Không có sàn nhà ở lối đi này. Bạn phải đặt từng bước chân lên các rui nhà mà giữa các rui chỉ có vữa. Nếu đặt chân lên đấy bạn sẽ thấy mình rơi tọt xuống trần nhà phía dưới. Polly đã dùng một phần lối đi ngay bên cạnh bồn chứa như một cái hang của những kẻ buôn lậu. Nó tha đến đấy nào mấy hộp đựng đồ đã cũ mèm, mấy cái ghế bị gãy trong nhà bếp và những vật dụng tương tự. Nó gác những vật đó từ thanh rui này sang thanh rui khác làm thành một lối đi mới. Trong hang, nó cất giữ một cái hộp đựng tiền, có chứa nhiều vật lặt vặt khác, có cả một câu chuyện mà nó đang viết và thường là một vài trái táo. Nó cũng thường lặng lẽ uống một chút bia gừng ở đây: những cái chai cũ làm cho nơi này giống một cái hang của bọn buôn lậu thật sự.

Digory thích cái hang này (Polly không để cho bạn đọc câu chuyện nó đang viết) nhưng nó còn thích thám hiểm hơn.

- Coi này, - một hôm nó nói – cái lối đi này kéo dài đến đâu? Tớ muốn nói không biết có phải nó chỉ nằm trong khu vực nhà cậu không?

- Không, - Polly nói, - tường không xây cao đến tận mái nhà. Lối đi thông qua hai nhà, nhưng tớ không biết nó dài bao nhiêu.

- Nếu vậy chúng ta có thể đi suốt chiều dài của cả dãy nhà này.

- Có thể. – Polly nói. - Ồ, tớ muốn nói…

- Nói cái gì?

- Chúng ta có thể đi vào những căn nhà khác.

- Phải, và để bị tóm như những kẻ đào tường khoét ngạch. Không, xin cảm ơn.

- Đừng có suy diễn như thế. Tớ đang nghĩ đến căn hộ cạnh nhà cậu.

- Có chuyện gì vậy?

- Chuyện gì à? Thì nó là nhà hoang. Bố tớ bảo, nó bị bỏ hoang kể từ ngày nhà tớ dọn đến đây.

- Nếu vậy, tớ cho rằng chúng mình cũng nên thử nhìn qua một cái xem sao. – Digory nói. Nó còn dễ bị kích động hơn là bạn tưởng nếu căn cứ vào cái cách nó nói. Bởi vì nó đang hình dung ra tất cả những lí do – cũng như vào lúc này chắc bạn cũng đang nghĩ – là tại sao căn nhà lại bị bỏ hoang lâu đến thế. Cả Polly cũng vậy, tuy không đứa nào nói ra cái câu là nhà – có – ma. Cả hai đều cảm thấy một khi đã nói ra thành lời thì chúng đích thị là những đứa hèn nhát nếu sau đó không dám thám hiểm ngôi nhà này.

- Vậy chúng ta sẽ tìm hiểu ngay bây giờ chứ? - Digory hỏi.

- Ừm… được…

- Thôi nếu bạn chưa sẵn sàng, thì thôi vậy. – Digory gợi ý.

- Tớ dám liều nếu cậu cũng có gan. – Polly rắn rỏi đáp.

- Nhưng làm sao chúng ta biết được khi nào chúng ta bước sang ngôi nhà kế tiếp? – Hai đứa quyết định chúng sẽ đi ra khỏi phòng chứa đồ và cứ tiếp tục đếm từng bước khi đi qua các rui nhà. Bằng cách ấy chúng sẽ biết có bao nhiêu rui nhà trong một gian phòng. Sau đó chúng sẽ tính thêm bốn cái rui nữa, lối đi giữa hai gian phòng áp mái trong nhà Polly và cũng một con số tương tự như thế cho phòng cô hầu gái và phòng chứa đồ. Như vậy, chúng sẽ ước lượng được chiều ngang ngôi nhà. Khi đi gấp đôi khoảng cách đó, chúng sẽ đi hết nhà Digory và bất cứ cánh cửa nào mở ra sau đó sẽ dẫn chúng đến ngôi nhà áp mái của ngôi nhà không có người ở.

- Nhưng tớ không mong là nó bỏ hoang chút nào. – Digory nói.

- Thế cậu mong cái gì nào?

- Tớ muốn có một ai sống lén lút trong đó, chỉ đến và đi vào ban đêm, với một cái đèn lồng che kín. Có thể chúng ta sẽ khám phá ra một băng tội phạm nghiêm trọng và nhận được một phần thưởng. Tất cả tình trạng mục nát này đều nói lên rằng ngôi nhà bị bỏ hoang bao năm qua, trừ phi có một bí mật nào đó.

- Bố tớ nói có thể đó là do các ống nước. – Polly nói.

- Chà! Người lớn bao giờ cũng nghĩ ra những lời giải thích chán chết. – Digory nói.

Lúc này chúng đang đứng nói chuyện ở phòng áp mái, dưới ánh sáng ban ngày chứ không phải dưới ánh nến trong hang buôn lậu nên mọi chuyện dường như đơn giản hơn và cái ý nghĩ ngôi nhà bị ma ám xem ra không có sức thuyết phục.

Khi hai đứa đo đạc phòng áp mái, chúng dùng đến bút chì và làm nhiều việc khác. Đầu tiên, hai đứa đặt ra những câu trả lời khác nhau cho vấn đề này và kể cả khi chúng nhất trí với nhau thì tôi cũng không chắc là những vấn đề chúng đặt ra có đúng không nữa. Hai đứa nóng lòng muốn bắt đầu cuộc khám phá bí mật ngôi nhà hoang.

Chúng ta không được gây ra tiếng động. – Polly nói trong khi hai đứa trèo ra sau bồn nước. Đây là một trường hợp quan trọng, mỗi đứa cầm một ngọn nến (Polly có cả một kho nến dự trữ trong hang).

Lối đi vừa tối tăm, bụi bặm, vừa khó đi và chúng bước từ cái rui này qua cái rui khác mà không nói một lời, trừ một vài lần thì thào những câu như: Chúng ta đang đối diện với phòng gác mái nhà cậu – hoặc – chắc đã đi được nửa đoạn đường.

Không một đứa nào bị trượt chân và nến cũng không tắt. Cuối cùng hai đứa cũng đến đích và chúng thấy một cánh cửa nhỏ trổ ra từ bức tường gạch bên tay phải. Không có then cửa hoặc tay cầm ở phía bên này vì tất nhiên cái cửa được làm ra chỉ để đi vào chứ không phải để đi ra, nhưng có một cái móc (như bạn thường thấy ở bên trong một cái cửa tủ) và bọn trẻ cảm thấy yên tâm, thế là chúng có hai đường thoát lui.

- Để tớ vào nhé. – Digory nói giọng ngập ngừng.

- Tớ cũng sẽ liều nếu cậu dám. – Polly lặp lại câu nó đã nói lần trước. Cả hai đều cảm thấy chúng đang tiến gần đến một cái gì khá nguy hiểm, nhưng không đứa nào muốn rút lui trước. Digory mở cái móc một cách khó khăn. Cánh cửa bật mở và bất thình lình ánh sáng ban ngày làm cho chúng lóa mắt. Rồi với một sự kinh ngạc cao độ, chúng thấy trước mắt không phải là một cái phòng áp mái bỏ hoang mà là một căn phòng được bày trí đồ đạc, mặc dù khá trống trải và căn phòng chìm trong một sự im lặng đầy chết chóc. Sự tò mò của Polly đã thắng, nó thổi tắt ngọn nến và bước vào căn phòng kì lạ, không gây nên một tiếng động to hơn của một con chuột nhắt.

Tất nhiên căn phòng này chính là phòng áp mái nhưng lại được bày biện như phòng khách. Nhiều khoảng tường được kê kín bởi các kệ sách và nhiều kệ sách chất đầy sách vở. Một ngọn lửa bập bùng cháy sáng trong vỉ lò (xin bạn nhớ cho, đó là một mùa hè ẩm ướt và lạnh lẽo). Trước lò sưởi và quay lưng về phía hai đứa là một cái ghế bành lưng cao. Giữa cái ghế và Polly, và gần như nằm giữa phòng là một cái bàn lớn bày la liệt đủ loại sách in, tập vở, lọ mực, sáp dán thư và một cái kính hiển vi. Nhưng vật đập ngay vào mắt Polly là một cái khay gỗ màu đỏ tươi đựng mấy cái nhẫn. Nhẫn được sắp thành từng cặp, màu xanh đi đôi với màu vàng, chừa một khoảng trống rồi lại đến một cặp nhẫn tiếp theo. Những chiếc nhẫn này không lớn hơn những chiếc nhẫn bình thường và không ai không nhận ra bởi vì những chiếc nhẫn này phát sáng. Có thể nói đó là những vật nhỏ lấp lánh và đẹp nhất mà bạn có thể hình dung ra được. Nếu Polly nhỏ hơn một chút, hẳn nó sẽ muốn ngậm một cái trong miệng.

Căn phòng yên ắng đến mức bạn sẽ nhận ra ngay tiếng tích tắc đều đặn của một chiếc đồng hồ. Tuy vậy, bây giờ Polly nhận ra là căn phòng không hoàn toàn yên lặng. Có một tiếng rù rì rất mảnh, rất mơ hồ, rất khẽ khàng, khiến nó khó lòng nhận ra được. Nếu máy hút bụi được sáng chế ra vào thời ấy hẳn Polly sẽ nghĩ đó là tiếng động của một cái máy hút bụi hiệu Hoover đang hoạt động ở xa – cách đây mấy căn phòng và ở dưới mấy tầng lầu. Nhưng đây là một âm thanh dễ chịu hơn nhiều, giàu nhạc điệu  hơn, chỉ có điều nó quá nhỏ để bạn có thể nhận ra ngay.

- Ổn rồi, không có ai ở đây hết. – Polly ngoái đầu lại nói với Digory. Giọng nó chỉ to hơn tiếng thì thào một chút. Digory bước vào phòng, hai mắt hấp háy, cả người nhem nhuốc như vừa trong lỗ chui ra – thực ra thì cả Polly cũng vậy.

- Thế này thì không ổn rồi. – Digory nói. – Hoàn toàn không phải là nhà hoang. Tốt nhất hãy ra khỏi đây trước khi có người tới.

- Cậu nghĩ kia là cái gì? – Polly hỏi, chỉ vào những cái nhẫn lấp lánh.

- Ồ, thôi đi, càng sớm… - nó còn chưa kịp nói hết câu thì đã có một chuyện xảy ra.

Cái ghế bành lưng cao trước lò sưởi bất thần chuyển động và từ đó đứng lên – giống như một con quỷ lao ra từ một cái cửa sập trong kịch thần thoại – chính là cái bóng dáng u ám đầy đe dọa của bác Andrew. Thế là không phải chúng vào ngôi nhà hoang mà là đang đứng trong nhà Digory và ở trong căn phòng cấm. Cả hai đều ồ lên một tiếng, khi nhận ra sai lầm của mình. Chúng cảm thấy lẽ ra chúng phải biết trước là không nên đi quá xa như thế.

Bác Andrew cao lòng khòng, gầy trơ xương, khuôn mặt dài thòng, nhẵn nhụi không râu, với cái mũi nhọn hoắt, đôi mắt sáng long lanh và mái tóc bạc rối bù.

Digory ớ người ra không thốt lên được tiếng nào bởi vì trông bác Andrew một ngàn lần dữ tợn hơn bất cứ lúc nào trước đó. Tuy lúc đầu Polly không sợ hãi bằng bạn, nhưng chẳng bao lâu cô bé cũng hoảng thật sự. Bởi việc đầu tiên bác Andrew làm là đi đến cửa phòng, đóng sập cửa lại, quay chìa khóa trong ổ. Đoạn ông quay lại nhìn hai đứa chằm chặp: đôi mắt sáng quắc, những thớ thịt trên mặt nhúc nhích, ông nhe ra tất cả 36 cái răng.

- Bây giờ thì cô em gái ngu ngốc của ta sẽ không làm gì được các cháu.

Mọi việc thật dễ sợ và không hề giống bất cứ cái gì mà người ta chờ đợi ở một người lớn. Trái tim Polly thót lên đến tận cổ, nó và Digory quay lại nhìn chằm chằm vào cái cánh cửa mà chúng vừa chui qua. Bác Andrew hành động rất nhanh. Ông đi vòng ra sau lưng hai đứa, đóng sập cánh cửa lại và đứng chắn ngang. Đoạn ông xoa hai tay vào nhau, bẻ đốt ngón tay răng rắc – ông có những ngón tay dài, trắng xanh, thanh nhã.

- Bác rất vui khi được gặp các cháu. Hai đứa đúng là người mà bác cần.

- Làm ơn, thưa ông Ketterley, - Polly năn nỉ. – Sắp đến giờ ăn trưa rồi và cháu phải về nhà. Xin ông làm ơn cho chúng cháu ra ngoài.

- Chưa phải lúc này, một cơ hội tốt như vậy làm sao ta có thể bỏ qua được. Bác muốn cả hai đứa. Các cháu thấy đấy, bác đang tiến hành một thí nghiệm hết sức vĩ đại. Bác đang thử với một chú chuột bạch và nó dường như có tác dụng. Nhưng một con chuột bạch thì không thể nói với các cháu bất cứ điều gì. Và các cháu cũng không thể giải thích với nó khi nó quay lại.

- Coi này, bác Andrew, - Digory nói, - đã đến giờ ăn rồi và mọi người sẽ đi tìm chúng cháu. Bác phải để cho chúng cháu ra khỏi đây.

- Phải ư? – Bác Andrew hỏi lại.

Digory và Polly liếc nhìn nhau. Chúng không dám nói thêm điều gì nhưng những cái liếc mắt có nghĩa là: - Thôi lần này thì tiêu rồi – và – Chúng ta cố chịu đựng một lúc xem sao.

- Nếu bác để cho chúng cháu về nhà ăn trưa ngay bây giờ, - Polly nói, - chúng cháu sẽ trở lại đây sau bữa ăn.

- Ờ, mà làm sao ta biết chắc là các cháu sẽ làm như thế hả? – Bác Andrew nói với một nụ cười rất láu, nhưng sau đó ông có vẻ nghĩ lại.

- Thôi được, thôi được, nếu các cháu nhất định phải về thì bác cũng cho là các cháu nên đi đi. Bác cũng không dám hi vọng là hai bạn nhỏ như các cháu lại thấy có gì vui vẻ trong việc nói chuyện với một lão già vô dụng như ta. – Ông thở dài và nói tiếp. – Các cháu không biết đôi khi ta cảm thấy cô đơn như thế nào đâu. Nhưng không hề gì, cứ về ăn cơm đi. Nhưng mà này, ta phải cho cháu một món quà trước khi cháu ra về chứ? Không phải ngày nào ta cũng gặp một cô bé trong căn phòng làm việc cũ kĩ bẩn thỉu này đâu… nhất là, ta có thể nói… một cô bé đáng yêu như cháu.

Polly bắt đầu nghĩ rằng ông già này không hề điên chút nào.

- Cháu có muốn một cái nhẫn không cháu gái? – Bác Andrew nói với Polly.

- Có phải bác muốn nói một trong những chiếc nhẫn vàng hoặc xanh lá cây kia? Trông chúng thật đẹp ạ.

- Không phải nhẫn xanh lá cây. – Bác Andrew nói. – Bác e rằng, bác chưa thể cho cháu một cái nhẫn màu xanh. Nhưng bác rất vui được tặng cháu bất cứ chiếc nhẫn màu vàng nào… với tất cả tấm lòng quý mến của bác. Lại đây đi, thử một cái xem nào.

Lúc này Polly đã vượt qua được nỗi sợ hãi, nó biết rõ là ông già này không điên, và chắc chắn là những chiếc nhẫn kia có một sức hút không thể cưỡng lại được. Cô bé bước đến gần khay gỗ.

- Sao thế nhỉ? Cháu dám nói là những tiếng rù rì này nghe to hơn. – Polly nói. – Hình như chính những chiếc nhẫn phát ra cái tiếng rù rì này.

- Chỉ là một trò chơi vui vui của trí tưởng tượng, cháu yêu ạ. – Bác Andrew nói với một tiếng cười cụt lủn. Một tiếng cười bình thường không có gì đáng nói nhưng Digory đã nhìn thấy một vẻ háo hức gần như là tham lam trên gương mặt ông.

- Polly! Đừng ngốc như thế! – Nó thét lên. – Đừng chạm tay vào!

Quá trễ rồi. Đúng lúc nó bật ra thì Polly đã đưa tay ra chạm vào một trong những cái nhẫn. Và lập tức Polly biến mất không phát ra một tia chớp, một tiếng động hay một lời cảnh báo nào. Chỉ còn lại Digory và bác nó trong phòng.

Mọi việc xảy ra quá bất ngờ và quá kinh khủng, không giống bất cứ chuyện gì từng xảy ra với Digory kể cả trong một cơn ác mộng. Nó hét lên một tiếng. Bác Andrew nhanh nhẹn đưa tay ra bịt miệng nó lại.

- Đừng làm thế. – Ông thì thào vào tai nó. – Nếu cháu làm ồn, mẹ cháu sẽ nghe thấy mất. Cháu cũng biết là tiếng kêu sẽ làm cho mẹ cháu hoảng như thế nào.

Như sau này Digory kể lại, cái ý nghĩ kinh khủng về mối quan hệ ruột thịt với con người này bằng một cách nào đó làm cho nó chỉ chực nôn ọe. Nhưng tất nhiên nó không la hét nữa.

- Thế có phải hơn không? – Bác Andrew nói. – Có lẽ cháu khó mà chịu đựng nổi. Thật là một cú sốc khi một ai đó tan biến ngay trước mũi mình. Nó cũng làm cho bác giật cả mình khi chuyện ấy xảy ra với một con chuột bạch vào một đêm nọ.

- Lúc ấy bác cũng la lên? – Digory hỏi.

- Ồ, cháu có nghe thấy, đúng không? Bác hi vọng cháu không rěnh mň bác.

- Không, cháu không thèm làm thế, - Digory nói giọng phẫn uất, - nhưng chuyện gì sẽ xảy ra với Polly đây?

- Hãy chúc mừng bác đi, cậu bé. – Bác Andrew nói, xoa hai tay vào nhau. – Thí nghiệm của bác đã thành công. Cô bé đã tan biến – bốc hơi – ngay ở đây, ra khỏi thế giới này.

- Bác đã làm gì bạn ấy?

- Gửi cô bé… đi… đi đến một nơi khác.

- Bác nói thế nghĩa là sao? – Digory thảng thốt hỏi.

Bác Andrew ngồi xuống ghế bành, từ tốn đáp:

- À bác sẽ cho cháu biết mọi chuyện. Thế cháu đã bao giờ nghe nói đến bà già Lefay chưa?

- Đó có phải là một bà cô hay một người đại loại như thế không ạ?

- Không hẳn thế. Bà ấy là mẹ đỡ đầu của bác. Kia kìa, bà ở kia, trên bức tường đối diện.

Digory nhìn theo hướng tay chỉ và trông thấy một tấm ảnh đã phai màu chụp một bà già đội mũ bêrê. Bây giờ thì nó có thể nhớ lại là nó đã từng thấy tấm ảnh chụp cũng cái khuôn mặt này để trong một chiếc ngăn kéo cũ trong ngôi nhà của nó ở vùng quê. Nó đã hỏi mẹ người đàn bà đó là ai nhưng mẹ nó dường như không muốn nói nhiều về chủ đề này. Đó hoàn toàn không phải là một khuôn mặt dễ coi, Digory nghĩ, dù tất nhiên vào cái thời xa xưa ấy những tấm ảnh không nói lên được gì nhiều.

- Có cái gì… không… có chuyện gì không ổn về bà ấy phải không bác Andrew?

- À, - bác Andrew nói với một tiếng cười khùng khục trong cổ, - điều đó còn tùy thuộc vào cái điều mà cháu gọi là không ổn. Con người ta vốn rất rất thiển cận. Chắc hẳn bà có phần hơi kì cục vào lúc cuối đời… Làm những việc thiếu khôn ngoan. Đó là lí do tại sao người ta nhốt bà lại.

- Trong một nhà thương điên, bác muốn nói thế?

- Ồ, không, không, không phải thế. – Bác Andrew nói với một giọng sững sờ. – Không có chuyện như thế. Chỉ là… trong một nhà tù.

- Vậy… vậy bà ấy đã gây ra chuyện gì?

- Một người đàn bà tội nghiệp, bà ấy thật dại dột. Ôi, có nhiều chuyện lắm lắm. Chúng ta không nên sa vào tất cả những chuyện này. Bà bao giờ cũng rất tốt đối với bác.

- Nhưng bác coi chừng đấy, chuyện gì sẽ xảy ra với Polly? Cháu ước gì bác có thể…

- Chuyện gì cũng đều có thời điểm của nó, anh bạn ạ. – Bác Andrew vẫn thủng thỉnh nói tiếp. – Người ta thả bà Lefay ra trước khi bà qua đời và bác là một trong số ít người được bà cho phép gặp mặt vào lúc lâm chung. Bà rất ghét những kẻ tầm thường, dốt nát, cháu hiểu không? Bác cũng thế… bà cụ và bác cùng quan tâm đến một việc. Chỉ vài ngày trước khi qua đời, bà bảo bác đến một chiếc bàn làm việc cũ trong nhà bà, mở một ngăn kéo bí mật và mang đến cho bà một cái hộp nhỏ mà bác tìm thấy trong đó. Ngay lúc cầm cái hộp ấy lên, bác đã có thể nói rằng bác đang nắm trong tay một bí mật lớn nếu cứ căn cứ vào cái cảm giác tê buốt như kim châm ở hai bàn tay. Mẹ đỡ đầu đưa cái hộp cho bác, buộc bác phải hứa là ngay sau khi bà nhắm mắt ra đi, bác phải đốt cái hộp mà không được mở ra với những nghi thức nhất định. Lời hứa này bác đã không giữ được.

- Nếu vậy, bác là một kẻ xấu xa.

- Xấu xa? – Bác Andrew lặp lại với vẻ bối rối. - Ồ, bác biết rồi. Cháu muốn nói các cậu bé phải giữ lời hứa của mình. Rất đúng, bác chắc đó là một điều rất đúng đắn, phải đạo và bác mừng là cháu được dạy dỗ chu đáo về điểm đó. Nhưng tất nhiên cháu phải hiểu là lẽ phải cũng có ba, bảy đường: những điều là tuyệt đối đúng với các cậu bé con… và bọn đầy tớ… và đàn bà thậm chí với con người nói chung… làm sao những điều ấy có thể nghĩ là áp dụng được cả với những sinh viên xuất chúng, những nhà tư tưởng và hiền triết vĩ đại. Không đâu, Digory! Những người đàn ông như ta sở hữu một trí tuệ vĩ đại, siêu việt… giải phóng khỏi những quy luật thông thường cũng như chúng ta bị tước đoạt những niềm vui thông thường. Chúng ta, anh bạn thân mến ạ, chúng ta có một sứ mệnh cô đơn và cao cả.

Trong khi giãi bày cả cõi lòng như thế, bác Andrew thở dài, khuôn mặt có vẻ nghiêm trọng gần như cao quý và huyền bí đến nỗi trong một giây Digory thoáng có ý nghĩ tất cả những điều bác mình nói đều tốt đẹp. Nhưng rồi nó nhớ lại cái vẻ hiểm ác trên mặt bác nó vào cái lúc Polly biến mất và một lần nữa nó lại nhìn thấy qua những lời lẽ hay ho ấy một cái gì khác. – Tất cả đều là ngụy biện, - nó tự nhủ, - ông ta nghĩ rằng mình có quyền làm bất cứ việc gì mình muốn để có được cái mà mình thích.

- Tất nhiên, trong một khoảng thời gian dài, bác không dám mở cái hộp vì bác biết, có thể nó chứa đựng một cái gì hết sức nguy hiểm. Bởi vì mẹ đỡ đầu của bác là một người rất đặc biệt. Sự thật thì mẹ đỡ đầu của bác là một trong những người cuối cùng trên đất Anh này mang dòng máu thần tiên trong huyết quản (bà nói cùng thời với mình còn có hai người nữa. Một người là một nữ công tước, người kia là một bà giúp việc). Trong thực tế, Digory à, cháu đang nói chuyện với người đàn ông cuối cùng (dám thế lắm) có một người mẹ đỡ đầu siêu nhiên. Thật thế, sẽ có một cái gì đó để cháu có thể nhớ lại khi cháu, đến lượt mình, cũng lại trở thành một lão già.

- Cháu đoán bà ta là một bà tiên ác, - Digory thầm nghĩ và nó nói to ra cái ý nghĩ đang chiếm trọn tâm trí nó, - nhưng còn Polly thì sao ạ?

- Sao cháu cứ lải nhải mãi chuyện đó vậy? Cứ làm như thể chuyện đó có gì ghê gớm lắm ấy. Tất nhiên… nhiệm vụ đầu tiên của bác là nghiên cứu cái hộp. Nó rất cổ xưa. Bác cũng đủ kiến thức để nhận biết nó không thuộc về thời cổ Hi Lạp hoặc cổ Ai Cập, cũng không phải của người Babylon hoặc người Hittite hoặc người Trung Quốc. Nó còn lâu đời hơn tất cả những nền văn minh này. Rồi một ngày trọng đại cũng đến khi cuối cùng bác tìm ra sự thật. Cái hộp này thuộc về thời đại Atlanta, nó đến từ một hòn đảo đã biến mất trong vùng Atlantis. Điều đó có nghĩa là nó có niên đại lâu đời hơn vài thế kỷ so với bất cứ vật nào thuộc thế kỷ đồ đá mà người ta khai quật được ở châu Âu. Nó cũng không thô sơ và kém thẩm mĩ như những vật ấy. Từ thời bình minh của nhân loại, Atlantis đã là một kinh đô lớn với nhiều cung điện, đền đài và những người thông thái.

Bác Andrew dừng lại như thể chờ đợi Digory nói một cái gì đó. Nhưng thằng bé mỗi lúc một ác cảm với ông bác hơn nên nó lặng thinh không nói.

- Trong khi đó, - bác Andrew nói tiếp, - bác cũng đã tìm hiểu được nhiều điều, bằng những cách thức khác nhau – không thích hợp để giải thích cho một đứa trẻ - về Pháp thuật nói chung. Nói thế có nghĩa là bác đã đi đến chỗ có những ý niệm đúng đắn về những gì có thể có trong cái hộp đó. Bằng nhiều thử nghiệm khác nhau, bác đã có thể đi đến chỗ khoanh nhỏ vùng về những điều có thể xảy ra. Bác cũng đi đến chỗ nhận thức được là có một số người – phải, đấy là những kẻ kì lạ, quỷ quái – đã trải qua những kinh nghiệm hãi hùng, đáng sợ. Chính điều này đã khiến tóc bác bạc trắng như thế này. Người ta không trở thành một pháp sư mà chẳng vì cái gì cả. Cuối cùng, sức khỏe của bác cũng bị suy sụp. Nhưng rồi bác cũng khá hơn. Rốt cục, bác cũng đã biết chính xác.

Mặc dù ngồi ở đây không thể có ai nghe được câu chuyện giữa hai người, ông bác vẫn cúi người về phía trước thì thầm vào tai đứa cháu:

- Cái hộp Atlanta chứa một chất bột có thể mang người ta sang thế giới khác từ khi thế giới mà chúng ta đang sống chỉ mới bắt đầu.

- Là cái gì ạ? – Digory hỏi, bây giờ thì chính nó cũng bị lôi cuốn vào câu chuyện từ lúc nào không biết.

- Chỉ là bụi. Phải, chỉ là tro bụi. Chẳng có gì nhiều để xem xét, không có gì nhiều để khoe với cái thế giới nhọc nhằn này, cháu có thể nói như thế. À, nhưng khi bác nhìn vào đám bụi (bác rất cẩn thận để không chạm đến nó), bác đã nghĩ là mỗi một hạt bụi này đều đã từng ở trong một thế giới khác – bác không có ý nói là một hành tinh khác, cháu cũng biết đấy, các hành tinh cũng là một phần trong thế giới của chúng ta và cháu có thể đến được đấy nếu cháu đi đủ xa. Nhưng Một Thế Giới khác – một giới Tự nhiên khác – một vũ trụ khác, là một nơi cháu không thể tới được kể cả khi cháu du hành trong cái khoảng không bao la này của vũ trụ muôn đời và mãi mãi. Đó là một thế giới có thể đặt chân đến bằng một phép màu – là thế đấy. – Nói đến đây bác Andrew lại vặn hai tay vào nhau cho đến khi các đốt ngón tay của bác kêu côm cốp như tiếng than nổ đôm đốp trong lò sưởi.

- Bác biết, - ông bác tiếp tục, - rằng nếu ta có thể đưa nó về hình dạng thích hợp thì đám bụi này sẽ đưa ta quay lại cái chỗ mà từ đấy nó ra đi. Nhưng cái khó chính là ở chỗ làm sao đưa nó về hình dạng thích hợp. Tất cả những thử nghiệm đầu tiên của bác đều thất bại. Bác đã thử làm với bọn chuột bạch. Một số con lăn ra chết. Số khác lại nổ tung như quả bom.

- Làm như vậy thật vô cùng tàn ác. – Digory nói, nó đã từng có một con chuột như vậy.

- Sao cháu lại giữ mãi cái thành kiến ấy? Những con vật ấy chỉ có giá trị như vậy. Bác đã bỏ tiền ra mua chúng. Để coi nào, bác kể đến đâu rồi? À, phải, cuối cùng bác đã thành công trong việc chế tạo ra những chiếc nhẫn: những chiếc nhẫn màu vàng. Nhưng đến đây lại có một khó khăn khác nảy sinh. Bác chắc như đinh đóng cột là chiếc nhẫn màu vàng sẽ đưa bất cứ sinh vật nào chạm đến nó sang một thế giới khác. Nhưng điều đó thì có nghĩa lí gì khi bác không thể đưa chúng trở về để chúng nói cho bác biết chúng nhìn thấy những gì ở cái thế giới ấy.

- Chuyện gì sẽ xảy ra với chúng? – Digory ghê tởm nói. – Cả một đàn chuột lớn nếu như chúng không biết đường quay trở lại.

- Thôi nào, sao cháu cứ giữ mãi cách nhìn nhận mọi việc từ một quan điểm sai lạc như vậy? – Bác Andrew kêu lên với vẻ đã mất hết kiên nhẫn. –  Cháu không thể hiểu được rằng đây là một thí nghiệm vĩ đại vô tiền khoáng hậu sao? Toàn bộ vấn đề của việc đưa bất cứ ai sang một thế giới khác chính là để tìm hiểu xem cái thế giới ấy như thế nào.

- Vậy, tại sao bác không tự mình đi đến đấy?

Digory khó có dịp trông thấy bất kỳ một ai có vẻ sửng sốt và bị xúc phạm đến thế trước câu hỏi hết sức đơn giản này.

- Ta ư? Là ta ư? – Ông rống lên. – Thằng lỏi này mất trí rồi! Một người đàn ông ở tuổi này, trong tình trạng sức khỏe hiện nay mà lại lao đầu vào những nguy hiểm và những cú sốc rợn người của việc bất thần bị lẳng vào một thế giới khác ư? Ta chưa bao giờ nghe một điều gì vô lí đến như thế trong đời. Cháu có nhận ra mình vừa nói gì không hả? Cứ nghĩ coi, thế giới khác có nghĩa là… cháu có thể gặp bất cứ cái gì, phải, bất cứ cái gì.

- Vì vậy bác đã gửi Polly đến đó. – Digory nói, hai má đỏ lựng lên vì giận dữ. – Tất cả những điều cháu có thể nói – dù bác là bác ruột của cháu – rằng bác đã hành động như một kẻ tiểu nhân hèn nhát: đẩy một cô bé vào một nơi mà chính mình cũng sợ không dám đến.

- Câm miệng, ông mãnh! – Bác Andrew nói, chống cả hai tay lên bàn – Ta không thể nói chuyện theo kiểu này với một thằng nhóc con bẩn thỉu. Ngươi sẽ không hiểu đâu. Ta là một nhà bác học vĩ đại, một pháp sư cao cường, một nhà luyện đan thần thông đang tiến hành một thí nghiệm vô tiền khoáng hậu. Tất nhiên, ta cần các đối tượng để thử nghiệm. Ta ban phước cho linh hồn ngươi, chẳng lẽ ta… ta mà lại phải bảo ngươi rằng việc kế tiếp phải làm là xin phép lũ chuột bạch mỗi khi ta sử dụng chúng vào một mục đích thử nghiệm à? Không có một sự hiểu biết trác tuyệt nào có thể đạt được mà không kèm theo một sự hi sinh. Cái ý nghĩ ta phải tự mình thực hiện cuộc viễn du ấy thật lố bịch. Cũng giống như yêu cầu một vị thống soái phải cầm súng đánh nhau như một gã tân binh. Nói giả dụ, ta bị giết thì công việc của cả đời ta sẽ ra sao?

- Thôi, bác tắt cái đài ấy đi cho rồi. Bác có ý định đem Polly trở lại đây không?

- Ta đang định nói cho ngươi biết thì ngươi cứ cắt ngang một cách hỗn xược. Phải, ta đã tìm ra cách mang những vật ấy trở về. Chiếc nhẫn xanh sẽ làm việc đó.

- Nhưng Polly không có chiếc nhẫn ấy.

- Không có, đúng! – Andrew nói với một cái nhếch mép độc ác.

- Vậy thì bạn ấy không thể quay về? – Digory gào lên. – Làm như thế có khác nào bác đã giết bạn ấy.

- Con bé có thể quay về, - bác Andrew nói chậm rãi, - nếu có một ai đó chịu theo nó, đeo một cái nhẫn vàng và hai cái nhẫn xanh, một cái để trở về được, một cái để đưa cô bé quay lại.

Tất nhiên bây giờ Digory đã thấy cái bẫy mà nó bị mắc vào. Nó chằm chằm nhìn người bác không thốt ra câu nào dù cái miệng há hốc. Đôi má nó chuyển sang màu xanh mét.

- Bác hi vọng, - lúc này bác Andrew nói bằng một giọng cao và đầy quyền lực như thể ông là một người bác hoàn hảo vừa tặng cho đứa cháu ruột một món quà hoàn hảo với một lời khuyên tốt lành, - bác hi vọng Digory à, không phải cháu được sinh ra đời để vật vờ như một cọng lông chim trắng. Bác sẽ lấy làm tiếc lắm khi phải nghĩ, có một thành viên nào đó trong gia đình chúng ta không có đủ sự cao thượng, lòng nghĩa hiệp để từ chối giúp đỡ… ừm… một phụ nữ trong tình cảnh tuyệt vọng.

- Thôi im đi! – Digory nóng nảy nói. – Nếu bác có chút xíu lòng tự trọng và một cái gì như vậy, bác phải đích thân ra đi. Nhưng cháu biết, bác không làm gì có những thứ đó. Được rồi, cháu thấy mình phải liều một phen thôi. Bác đúng là đồ độc ác. Cháu cho rằng bác đã sắp đặt chuyện này, để bạn ấy ra đi mà không hề hay biết gì và cháu buộc phải đi tìm bạn ấy.

- Tất nhiên! – Bác Andrew nói với một nụ cười héo hắt, hằn học.

- Được lắm. Cháu sẽ đi ngay. Nhưng có một điều cháu rất muốn nói trước khi đi. Cháu cóc tin vào pháp thuật… cho đến tận hôm nay. Bây giờ cháu mới mở mắt ra và thấy nó có thật. Và nếu đúng là như thế, cháu cho rằng tất cả những truyện cổ tích ngày xưa đều ít nhiều phản ánh đúng sự thật. Bác chỉ là một lão phù thủy già độc ác, xấu xa, đê tiện… đúng cái loại phù thủy xấu xa trong các câu chuyện ấy. Và cháu chưa từng đọc một câu chuyện nào mà trong đó kẻ độc ác xấu xa lại có một kết cục có hậu và cháu cá là bác rồi sẽ lãnh một kết cục không ra gì… đúng với những gì bác đáng nhận lãnh.

Những điều Digory nói chưa hề vang lên trong ngôi nhà này. Bác Andrew giật mình chột dạ, khuôn mặt dúm dó lại trong một vẻ hãi hùng đến nỗi dù ông ta độc ác đến như thế nào bạn cũng gần như thấy thương hại ông ta. Nhưng chỉ một giây sau, Andrew đã xóa tan cái vẻ mặt ấy mà nói với một tiếng cười gằn:

- Phải, phải, bác cho rằng đó là một điều vẫn xảy ra trong suy nghĩ của một thằng bé lớn lên giữa đám đàn bà con gái như cháu. Ba cái chuyện cũ rích của các bà nội trợ hả? Digory à, cháu không cần lo cho hậu vận của bác. Không phải là tốt hơn khi lo cho sự an nguy của cô bạn gái nhỏ sao? Nó đã đi khá lâu rồi. Nếu như có bất cứ sự nguy hiểm nào ở nơi ấy thì không phải là điều đáng tiếc khi đến chậm một bước hay sao?

- Ái chà, bác quan tâm chu đáo quá đấy. – Digory đay nghiến. – Cháu phát ốm lên vì cái bài giảng đạo ấy đấy. Bây giờ cháu phải làm gì đây?

- Cháu nên học cách kiềm chế tình cảm của mình, con trai ạ. – Bác Andrew lạnh lùng nói. – Nếu không lớn lên cháu sẽ y hệt như dì Letty của cháu. Bây giờ thì đi theo bác.

Ông đứng dậy, đeo vào tay một đôi găng rồi đến bên chiếc khay đựng những chiếc nhẫn.

- Nó chỉ phát huy tác dụng khi thật sự chạm vào da thịt của cháu. Coi đây, với đôi găng tay này ta có thể cầm lên – như thế này – mà không có chuyện gì xảy ra. Nếu cháu bỏ vào trong túi áo thì cũng chẳng có chuyện gì hết nhưng tất nhiên, cháu phải cẩn thận, không cho tay vào trong túi mà vô tình chạm phải nó. Ngay từ lúc chạm tay vào cái nhẫn màu vàng này, cháu sẽ biến khỏi thế giới này. Khi cháu đã ở một thế giới khác, ta nghĩ – tất nhiên, điều này chưa được kiểm nghiệm, nhưng ta nghĩ thế - ngay lúc chạm vào cái nhẫn màu xanh lá cây cháu sẽ biến khỏi thế giới ấy – và ta hi vọng – sẽ lại xuất hiện ở đây. Bây giờ bác nhặt lên hai cái nhẫn xanh bỏ vào túi quần bên phải. Nhớ cẩn thận với cái túi quần có những chiếc nhẫn màu xanh nghe chưa. Chữ G cho màu xanh lá cây, còn chữ R cho bên phải. Cháu thấy chữ GR cũng là hai chữ cái đầu của từ màu xanh lá cây. Một cái cho cháu, một cái cho Polly. Bây giờ thì tự cháu hãy nhặt lên một chiếc màu vàng đi. Ta sẽ đeo nó vào ngón tay – nếu ta ở địa vị cháu. Như thế sẽ ít có khả năng đánh rơi nhẫn.

Digory gần như đã nhặt một chiếc nhẫn màu vàng lên thì nó khựng lại.

- Coi này, thế mẹ cháu thì sao? Giả sử mẹ hỏi cháu đi đâu?

- Cháu đi sớm thì sẽ về sớm. – Bác Andrew vui vẻ nói.

- Nhưng chính bác cũng không biết là cháu có thể trở về hay không cơ mà? – Digory hỏi lại.

Ông bác nhún vai đi ra phía cửa, xoay xoay chìa khóa rồi mở cửa, nói:

- Vậy thì cứ làm như cháu muốn. Xuống dưới nhà ăn cơm đi. Cứ để cho con bé bị thú dữ ăn thịt hoặc bị lạc đường nếu như đó là điều mà cháu lựa chọn. Tất cả cũng thế đối với ta. Có lẽ trước giờ uống trà, cháu nên ghé qua nhà Plummer giải thích cho mẹ nó rõ là bà ta sẽ không bao giờ gặp lại con gái nữa, chỉ vì cháu sợ không dám đeo một chiếc nhẫn.

- Lạy Chúa! Ước gì tôi đủ lớn để đập vỡ đầu ông ra.

Đoạn, nó cài nút áo khoác, hít một hồi thật sâu và cầm cái nhẫn màu vàng lên. Sau đó, nó nghĩ, như sau đó bao giờ nó cũng nghĩ, rằng nó không thể làm một việc gì đúng đắn hơn.

Bác Andrew và phòng làm việc của bác biến mất trong tích tắc. Rồi chỉ một khoảnh khắc sau, mọi việc rối nùi như một mớ bòng bong. Cái kế tiếp đập vào nhận thức của Digory là làn ánh sáng màu xanh nhạt đổ từ trên cao xuống người nó, phía dưới là một tấm mền đen. Có vẻ như nó không đứng trên một cái gì mà cũng không ngồi hoặc nằm. Không có một vật gì chạm vào người nó.

- Mình tin là mình đang ở trong nước, – Digory lẩm bẩm, - hoặc giả ở dưới nước. – Ý nghĩ này làm nó phát hoảng trong vòng một giây, nhưng gần như đúng vào lúc đó nó cảm thấy mình đang lao vùn vụt về phía trước. Rồi đầu nó bất thần nhô lên trong không khí và nó thấy mình đang bò lên bờ, lên một mảnh đất trải một thảm cỏ mềm, cạnh một hồ nước nhỏ.

Trong lúc đứng lên, nó nhận ra nó không bị ướt mà cũng không thở gấp như bất cứ ai cũng thế sau khi lặn dưới nước. Quần áo nó vẫn khô nguyên. Nó đang đứng bên một hồ nước nhỏ - mỗi chiều không lớn hơn ba, bốn mét – lọt thỏm giữa một khu rừng, cây cối mọc ken sát vào nhau và rậm rạp đến mức nó không thể nhìn thấy bầu trời. Ánh sáng lọt xuống chỗ nó đứng là ánh sáng màu xanh lá cây sau khi lọc qua những tán lá: mặt trời phía trên đầu chắc phải rực rỡ lắm, bởi vì mặc dù tắm trong ánh sáng màu xanh nhưng tất cả đều sáng sủa và ấm áp. Đó là một khu rừng yên ả nhất mà bạn có thể tưởng tượng ra. Không có chim chóc, côn trùng hay một ngọn gió. Hầu như bạn có thể cảm thấy cây cối đang lớn lên. Cái hồ mà nó vừa ngoi lên không phải là cái hồ duy nhất. Có hàng chục cái hồ khác, mỗi hồ cách nhau vài mét, chạy ra xa ngút tầm mắt. Hầu như bạn có thể cảm nhận được việc cây cối uống nước với những cái rễ đâm ra tua tủa. Khu rừng này rất sống động. Sau này khi cố miêu tả lại cảm nhận này, Digory bao giờ cũng nói – Đó là một nơi thật màu mỡ, màu mỡ như một cái bánh nhân mận vậy.

Điều kỳ lạ nhất là, trước khi nhìn  lại mình, nó quên mất một nửa những sự kiện đã dẫn nó đến đây. Dù sao thì nó cũng không nhớ ra Polly hay bác Andrew, thậm chí cả mẹ nó nữa. Nó chẳng sợ hãi cũng không kích động hay tò mò gì hết. Nếu có ai hỏi nó: - Cậu bé ở đâu đến vậy? – Chắc chắn nó sẽ trả lời: - Thì ở đây chứ ở đâu. Từ trước tới giờ tôi vẫn ở đây.  – Đó là cái cách thức mà các cảm xúc diễn ra – giống như với một người bao giờ cũng ở một chỗ mà không bao giờ buồn chán cho dù không có sự cố nào xảy ra. Giống như rất lâu sau đó nó bình luận: - Đó không phải là một nơi có bất kỳ chuyện gì xảy ra, cây cối cứ tiếp tục lớn lên, thế thôi. – Sau khi Digory đã nhìn quanh nhìn quẩn khu rừng hồi lâu, nó trông thấy một cô bé nằm cạnh một gốc cây, cách nó chỉ vài mét. Đôi mắt cô bé gần như khép lại nhưng không hẳn thế, cứ như thể cô bé đang trong tình trạng nửa thức nửa ngủ. Thế là nó chăm chú nhìn cô bé một lúc lâu nhưng không lên tiếng. Chợt cô bé mở mắt nhìn nó hồi lâu cũng chẳng nói gì. Sau đó, cô bé bắt đầu với một giọng mãn nguyện, mơ màng:

- Tôi nghĩ, tôi đã trông thấy bạn trước đây rồi.

- Thật lòng tôi cũng nghĩ thế. – Digory đáp. – Mà bạn ở đây bao lâu rồi?

- Bao giờ cũng ở đây. – Cô bé nói. – Ít nhất thì tôi cũng không rõ… Có thể đã lâu lắm rồi.

- Tôi cũng vậy.

- Không đâu, tôi vừa chỉ thấy bạn ngoi lên khỏi hồ nước.

Phải, tôi cho là thế. – Digory nói vẻ bối rối. – Tôi chẳng biết gì hết.

Một lúc lâu, không ai nói gì thêm.

- Nghe này, - cô bé lại lên tiếng, - tôi tự hỏi có thật chúng ta đã từng gặp nhau không? Tôi có một ý nghĩ – một hình ảnh trong đầu về một cậu bé và một cô bé giống như tôi với bạn – sống ở một nơi nào đó rất khác với nơi này – làm những việc cũng khác lắm. Có thể đó chỉ là một hình ảnh trong mơ.

- Tôi cũng có cùng giấc mơ ấy. – Digory nói – về một thằng con trai và một đứa con gái sống cạnh nhà nhau – và về một việc gì đó giống như là bò qua những xà nhà. Tôi nhớ cô bé có một khuôn mặt lem luốc.

- Bạn có lẫn lộn không đấy? Trong giấc mơ của tôi lại là một thằng nhóc mặt mày bẩn thỉu.

- Tôi không thể nhớ ra mặt thằng bé, - Digory nói vẻ tư lự, rồi kêu lên - Ối la la! Cái gì thế này?

- Tại sao vậy? Một con chuột bạch! Cô bé nói rõ hơn. Quả thật đó là một con chuột bạch béo mũm đang dúi mõm vào một bụi cỏ. Ngang cái bụng no tròn của con vật có buộc một cái nhẫn màu vàng lóng lánh.

- Coi này! Coi này! – Digory reo lên. – Nhìn đây, bạn có một cái ở ngón tay, tôi cũng có một cái như thế.

Đến đây cô bé ngồi dậy, cuối cùng nó cũng đã thực sự quan tâm đến việc này. Chúng chăm chú nhìn nhau, cố nhớ lại mọi chuyện. Và rồi đúng lúc đó đứa con gái kêu lên: - Ông Ketterley! – Thì thằng con trai cũng hét lên: - Bác Andrew! – Bây giờ chúng đã biết mình là ai và bắt đầu nhớ lại tất cả mọi chuyện. Sau vài phút nói chuyện nghiêm túc, chúng sắp đặt các dữ kiện cho khớp vào nhau. Digory giải thích cho bạn nó hiểu bác nó xấu bụng như thế nào.

- Bây giờ chúng ta phải làm gì? - Polly hỏi. – Đem con chuột bạch này về nhà ư?

- Đâu cần phải gấp gáp như thế. – Digory nói và ngáp sái cả quai hàm.

- Tớ nghĩ thế đấy, - Polly nói, - chỗ này yên tĩnh quá. Thật mơ màng. Cậu gần như chỉ muốn ngủ. Nếu chúng ta đắm chìm mình vào đấy một lần nữa chúng ta sẽ nằm xuống và chìm vào một giấc ngủ đến muôn đời.

- Nhưng cảnh vật ở đây thật đẹp.

- Đúng là thế. Nhưng chúng ta phải về nhà. – Polly nói và đứng dậy, thận trọng đi về phía con chuột bạch. Nhưng rồi nó đổi ý.

- Tốt nhất là cứ để nó lại đây. Ở đây nó hoàn toàn vui vẻ, bác cậu sẽ chỉ dùng nó cho những mục đích độc ác nếu chúng ta đem nó quay về.

- Tớ cũng nghĩ thế. – Digory thừa nhận. – Coi đây, ông ấy đối xử với chúng ta như thế nào. Nhưng mà chúng ta quay về nhà bằng cách nào đây?

- Tớ cho là hãy quay lại chỗ cái hồ nước.

Chúng bước lại gần hồ nước hơn, nhìn xuống mặt nước êm đềm không gợn sóng. Mặt hồ phản chiếu toàn bộ hình ảnh những thân cây rậm rạp xanh um, màu xanh làm cho hồ nước  như sâu thêm.

- Chúng ta chẳng có đồ tắm, - Polly nói.

- Nhưng chúng ta đâu cần tới nó, ngốc quá. – Digory nói. – Chúng mình cứ để cả quần áo mà lội xuống. Cậu không nhớ là nước không làm chúng ta ướt khi ngoi lên sao?

- Cậu bơi được không?

- Chút chút. Còn cậu?

- Hừm. Không được thạo lắm.

- Tớ không nghĩ là mình cần phải biết bơi. Chúng ta muốn lặn xuống đáy phải không nào?

Chẳng đứa nào thích thú với ý nghĩ nhảy tòm xuống hồ, nhưng cũng chẳng đứa nào nói ra điều đó. Hai đứa cầm tay nhau hô to: - Một – Hai – Ba – Ta cùng nhảy! – rồi lao xuống nước. Nước bắn tung té lên và tất nhiên hai đứa nhắm nghiền mắt lại. Nhưng khi mở mắt ra chúng thấy mình vẫn đang đứng nguyên, tay trong tay trong khu rừng xanh tốt và nước chỉ gần chạm đến mắt cá chân chúng. Thì ra cái hồ chỉ sâu vài phân. Hai đứa lại chạy lên bờ.

- Có chuyện trục trặc quái quỷ gì thế này? – Polly thốt lên, giọng sợ hãi nhưng cũng không quá sợ hãi như bạn nghĩ đâu. Bởi vì khó mà có cảm giác sợ hãi khi ở trong một khu rừng thanh bình yên ả đến như thế.

- Ồ, tớ biết rồi. – Digory reo lên. – Tất nhiên, nó không có tác dụng vì rằng chúng ta vẫn đeo cái nhẫn màu vàng. Màu vàng là để đi ra ngoài thế giới, cậu biết đấy. Màu xanh sẽ đưa chúng ta quay về. Chúng ta cần đổi nhẫn. Áo váy của bạn có túi chứ? Tốt. Vậy hãy cho cái nhẫn màu vàng vào cái túi áo bên trái. Tớ có hai cái nhẫn màu xanh. Đây, cái này của cậu.

Hai đứa đeo nhẫn màu xanh vào rồi quay lại hồ. Nhưng trước khi thử nhảy một lần nữa, Digory đã kêu ầm lên:

- Ôi trời!

- Lại có chuyện gì thế? – Polly hỏi.

- Tớ vừa nảy ra một ý tuyệt vời. Thế còn những cái hồ khác thì sao nhỉ?

- Bạn nói thế là có ý gì?

- Là thế này, nếu chúng ta có thể trở về thế giới của mình bằng cách nhảy xuống cái hồ này, thì tại sao chúng ta không thể đến một nơi khác bằng cách nhảy xuống một cái hồ khác? Giả sử có một thế giới khác ở dưới đáy mỗi cái hồ.

- Nhưng tớ nghĩ chúng ta đang ở thế giới khác, hoặc nơi khác, hoặc là bất cứ cái gì mà bác Andrew đã gọi. Bạn không muốn nói…

- Ồ, quên bác Andrew đi. – Digory cắt ngang. – Tớ không nghĩ là ông ta biết tất tần tật mọi chuyện đâu. Ông ta chưa bao giờ dẫn xác đến đây, chỉ nói về một thế giới khác, nhưng giả sử có tồn tại vài chục thế giới khác thì sao?

- Cậu muốn nói khu rừng này chỉ là một trong những thế giới ấy?

- Đúng, tớ không tin nơi này lại là toàn bộ một thế giới. Tớ nghĩ đây chỉ là… hừm… chỉ là một trạm trung chuyển.

Polly không nói gì, khuôn mặt lộ rõ vẻ bối rối.

- Cậu thấy không? – Digory nói tiếp. – Khoan, cứ nghe tớ nói hết đã. Hãy nghĩ về cái lối đi dưới mái nhà cậu. Nó đâu phải là một cái phòng trong bất cứ ngôi nhà nào. Một nghĩa nào đó, nó cũng không thuộc về một ngôi nhà  nào. Nhưng một khi cậu đã ở đó cậu có thể đi tiếp đến bất cứ ngôi nhà nào trong dãy nhà ấy. Sao khu rừng này lại không giống như vậy? Một chỗ không thuộc về bất cứ một thế giới nào nhưng một khi cậu đã tìm thấy nó, cậu có thể đi đến tất cả những nơi khác.

- Được rồi, thậm chí nếu cậu có thể… - Polly bắt đầu, nhưng Digory tiếp tục cứ như thể nó chẳng hề nghe bạn nói gì.

- Tất nhiên, điều này có thể giải thích được một số điều. Tại sao ở đây vắng lặng như mơ ngủ vậy? Chẳng có chuyện gì xảy ra ở đây. Giống như trong một căn nhà… trong những căn nhà người ta trò chuyện, làm việc nhà và ăn uống. Chẳng có gì xảy ra ở nơi chuyển tiếp giữa hai nhà, sau các bức tường, trên những trần nhà và dưới sàn nhà hoặc là trong cái lối đi thông của chúng ta. Nhưng một khi cậu ra khỏi lối đi ấy cậu có thể thấy mình ở bất cứ ngôi nhà nào. Tớ nghĩ chúng ta có thể bằng cách này đi đến bất cứ đâu. Chúng ta không cần nhảy xuống đúng cái hồ mà chúng ta đã tới. Hoặc là chưa… vào lúc này.

- Cánh rừng giữa hai thế giới. – Polly nói mơ mộng nói, - cái tên nghe chừng ngồ ngộ đấy chứ.

- Đi nào. – Digory giục giã. – Chúng ta sẽ thử cái hồ nào trước?

- Nghe đây. – Polly nói. – Tớ sẽ không thử bất cứ một cái hồ nào cho đến khi chúng ta biết chắc là có thể trở về nhà bằng cái hồ cũ. Chúng ta còn chưa rõ là liệu việc này có diễn ra đúng như là chúng ta nghĩ hay không?

- Phải. – Digory dài giọng. – Để rồi chui tọt vào tay bác Andrew, bị tước đi những cái nhẫn trước khi chúng ta có một trò vui nào. Không đâu, xin cám ơn!

- Sao chúng ta không thử về nhà từ cái hồ của mình? – Polly nói. – Chỉ để xem nó có công hiệu không. Nếu đúng là như thế, chúng ta sẽ thay nhẫn rồi quay về đây trước khi về đến phòng làm việc của bác Andrew.

- Có thể đi được một đoạn đường sao?

- Thì cũng phải mất một khoảng thời gian nào đó chứ. Tớ nghĩ sẽ mất một chút thời gian quay lại.

Digory còn làm nhặng xị lên một hồi rồi mới đồng ý, nhưng nó chịu đầu hàng chỉ bởi vì Polly nhất định cự tuyệt không làm một cuộc khám phá ở một thế giới nào nếu không biết rõ như hai với hai là bốn là nó có thể quay về nhà. Con bé cũng dũng cảm như thằng bạn trong những lúc nguy nan (như con ong bò vẽ chẳng hạn) nhưng nó không khoái tìm kiếm điều mới lạ ở một nơi chưa từng có ai nghe nói tới còn Digory lại là một loại người muốn biết tuốt mọi thứ và khi lớn lên nó sẽ trở thành giáo sư Kirke, sẽ xuất hiện trong những cuốn sách khác.

Sau một hồi cãi vã, chúng đạt đến thỏa thuận về việc đeo những chiếc nhẫn xanh lá cây. (- Màu xanh cho sự an toàn, - Digory nói, - vì thế cậu không thể quên nó là cái gì). Hai đứa sẽ giơ tay lên nhảy tùm xuống nước. Đúng lúc chúng sắp về đến phòng để sách của bác Andrew hoặc thế giới của chúng thì Polly sẽ la lên: - Đổi nhẫn. – Hai đứa sẽ tháo nhẫn màu xanh ra và đeo vào chiếc nhẫn màu vàng. Digory muốn là người được kêu lên câu: - Đổi nhẫn, - nhưng Polly không chấp nhận.

Thế là hai đứa đeo nhẫn màu xanh, cầm tay nhau đồng thanh la lớn: - Một – hai – ba – nhảy. Lần này mọi việc xảy ra như mong đợi. Thật khó có thể thuật lại cho bạn nghe cái cảm giác khi việc đó diễn ra bởi vì mọi thứ diễn ra quá nhanh. Đầu tiên có những luồng ánh sáng chuyển động rực rỡ trên màn trời đen như nhung. Digory bao giờ cũng nghĩ đó là những vì sao, thậm chí nó còn thề rằng, nó nhìn thấy sao Mộc ở cự ly rất gần – gần đến độ có thể nhìn thấy cả vầng trăng của nó. Rồi chẳng mấy chốc chúng đã nhìn thấy hàng dãy mái nhà san sát, những ống khói vươn lên bầu trời và chúng có thể nhìn thấy nhà thờ St.Paul, thế là chúng biết mình đang nhìn xuống thành London. Nhưng chúng có thể nhìn qua các bức tường nhà và hai đứa trông thấy bác Andrew mờ mờ tỏ tỏ nhưng mỗi lúc một rõ hơn và xác định hơn cứ như thể ông đang bước đến tiêu điểm. Nhưng trước khi ông hiện ra bằng xương bằng thịt thì Polly đã kêu lên: - Đổi nhẫn – và hai đứa đổi nhẫn cùng một lúc. Thế giới của chúng nhòa dần như trong một giấc mơ, ánh sáng màu xanh lá cây trên đầu mỗi lúc một đậm hơn cho đến lúc đầu chúng nhô lên khỏi mặt nước và hai đứa bước lên bờ. Vẫn là khu rừng ấy, xanh và sáng như bao giờ cũng thế. Tất cả mọi chuyện diễn ra trong chưa đầy một phút.

- Đến rồi! – Digory nói. – Thế là ổn, đến tiết mục phiêu lưu. Bất cứ cái hồ nào cũng được. Hãy thử cái này.

- Hượm đã, chúng ta còn chưa đánh dấu cái hồ ấy phải không?

Hai đứa nhìn nhau, khuôn mặt biến thành màu trắng bợt khi nhận ra cái việc kinh khủng mà Digory vừa làm. Có nhiều hồ nước trong rừng mà cái nào cũng giống cái nào, cây nào cũng giống nhau như tạc, vì thế nếu một khi chúng để lại sau lưng cái hồ dẫn chúng trở lại thế giới của chúng ta lẫn trong hàng trăm cái hồ khác thì chuyện gì sẽ xảy ra. Tay Digory run bắn lên khi nó mở con dao nhíp, vạch một đường dài trên bờ hồ, đất ở đây (tỏa ra một mùi rất dễ chịu) là loại đất đỏ màu mỡ và lớp đất mới lật nổi bật giữa màu xanh của cây cối.

- Thật là may, khi một trong hai chúng ta có ý thức về những chuyện như thế này. –Polly nhận xét.

- Thôi đi, đừng có huênh hoang về chuyện đó nữa. – Digory nói. – Đi thôi, tớ muốn tìm hiểu ngay xem có gì trong những cái hồ kia.

Khi hai đứa đứng ở trên bờ một cái hồ chúng chọn hú họa, trong lúc tim đập thùm thụp và khuôn mặt lộ vẻ sợ hãi. Hai đứa lại đeo chiếc nhẫn màu vàng rồi đồng thanh hô to: - Một – Hai – Ba – nhảy!

Tùm một cái, một lần nữa lại chẳng có chuyện gì xảy ra cả. Cái hồ té ra chỉ là một vũng nước nông choèn. Thay vì đến một thế giới khác, chúng chỉ làm ướt bàn chân và bắn nước lên ống chân lần thứ hai trong buổi sáng hôm ấy (nếu lúc ấy là buổi sáng; có vẻ như thời gian không trôi đi trong khu rừng giữa hai thế giới).

- Chết tiệt! Chán quá đi mất! – Digory thất vọng kêu lên. – Có chuyện gì trục trặc đây? Chúng ta đã đeo chiếc nhẫn màu vàng rồi cơ mà. Bác ấy chả bảo chiếc nhẫn màu vàng là để đi ra ngoài là gì.

Sự thật là bác Andrew chẳng biết gì về khu rừng giữa hai thế giới nên đã có những nhận định sai lầm về các chiếc nhẫn. Màu vàng không phải là để đi ra ngoài và nhẫn màu xanh không phải là cái để trở về hoặc ít nhất thì nó cũng không giống như ông nghĩ. Vật liệu để làm hai chiếc nhẫn này đều xuất phát từ gỗ ở khu rừng này. Chất liệu làm chiếc nhẫn màu vàng có năng lượng hút bạn đến khu rừng này bởi cái tính năng có xu hướng hút nó về chỗ cũ. Còn chất liệu làm chiếc nhẫn màu xanh lại cố đẩy nó ra xa chỗ của mình. Như vậy, nhẫn màu xanh lá cây sẽ đưa bạn ra khỏi khu rừng để đến một thế giới khác. Bác Andrew, như bạn có thể nhận thấy, đã mò mẫm giữa những thứ mà bác ta không thật hiểu biết như hầu hết các pháp sư đều như thế. Tuy nhiên, Digory không nhận ra sự thực này cả lúc ấy lẫn sau này. Sau khi trao đổi hồi lâu, cả hai đứa quyết định đeo thử chiếc nhẫn màu xanh để nhảy vào một hồ nước khác xem chuyện gì xảy ra.

- Mình cũng dám nếu cậu dám. – Polly nói. Nhưng nó nói thế bởi vì trong thâm tâm nó chắc mẩm chẳng có cái nhẫn nào có tác dụng trong một cái hồ mới, thế thì có gì phải đắn đo khi nhảy xuống một vũng nước. Tôi cũng chẳng dám cam đoan là Digory không có cảm giác tương tự đâu. Dù sao thì khi hai đứa đeo nhẫn màu xanh vào ngón tay, đi ra bờ hồ, cầm tay nhau – chắc chắn chúng vui nhiều hơn là sợ so với lần thử đầu tiên. – Một – Hai – Ba – nhảy! – Digory kêu lên và cả hai đứa cùng nhảy.

Lần này thì không còn gì phải nghi ngờ về phép màu nữa. Mỗi lúc một chìm sâu xuống, đầu tiên, chúng đi qua một vùng đen thăm thẳm, sau đó đến một mớ hỗn độn những cái bóng xoay xoay mờ ảo, có thể là bất cứ cái gì. Rồi xung quanh sáng dần lên. Bất thình lình hai đứa thấy mình đang đứng trên một vật cứng. Một khoảnh khắc trôi qua. Mọi thứ định hình và hai đứa có thể đưa mắt nhìn rõ ràng.

- Ôi chao, nơi này mới lạ làm sao! – Gigory thốt lên.

- Tôi không thích chút nào. – Polly nói và hơi rùng mình.

Cái chúng nhận ra đầu tiên là ánh sáng không giống như ánh sáng mặt trời mà cũng không giống như ánh sáng điện hoặc ánh đèn dầu, ánh nến hoặc bất cứ thứ ánh sáng nào mà chúng từng biết. Đó là một thứ ánh sáng ảm đạm có màu đỏ quạch chẳng vui vẻ chút nào – nó không ổn định mà cũng không nhấp nháy. Hai đứa đứng trong một khoảng đất rộng lát đá, chung quanh là những tòa nhà cao đồ sộ. Không có mái che trên đầu. Hai đứa đang đứng ở một nơi trông như một cái sân. Bầu trời có một gam màu tối rất khác thường – một màu xanh gần như chuyển sang màu đen. Khi bạn nhìn lên một bầu trời như vậy, bạn tự hỏi làm sao ánh sáng có thể lọt xuống dưới này.

- Thời tiết ở đây đến lạ. - Gigory nhận xét.  – Tớ tự hỏi không biết chúng ta có đến đúng vào lúc có một trận bão hay hiện tượng nhật thực không?

- Tớ không thích chuyện này chút nào. – Polly nhấn mạnh.

Cả hai đứa cũng không hiểu tại sao mình lại nói chuyện bằng những tiếng thì thầm. Và mặc dù chẳng có lí do gì để tiếp tục nắm tay nhau sau cú nhảy. Chúng vẫn không buông tay nhau ra.

Xung quanh chúng, các bức tường vươn lên rất cao, có rất nhiều khung cửa sổ lớn, không có kính nhưng bạn chẳng nhìn thấy gì ngoài một khoảng đêm đen thẫm. Thấp hơn một chút là những chiếc cổng mái vòng cung, hai bên có những cái cột to chống đỡ đang ngoác cái miệng đen ngòm ra trông như miệng con đường ray khoét vào chân núi. Trời lạnh tê lạnh tái.

Đá dùng để xây mọi thứ ở đây dường như có màu đỏ, nhưng có thể đó chỉ là hệ quả của cái ánh sáng kì lạ này. Rõ ràng là nó rất lâu đời. Nhiều viên đá lát trên sân đã bị nứt ngang nứt dọc. Không có viên nào vừa khít với viên nào và những cái góc sắc cạnh đã bị mòn hẳn đi. Một trong những cái cổng có mái cong gần như bị lấp đi một nửa bởi một đống gạch vụn. Hai đứa trẻ cứ quay đầu sang bên phải rồi lại bên trái, chăm chú nhìn những phía khác trong sân. Một trong những lí do khiến chúng làm vậy là vì chúng sợ có một ai đó – hoặc một vật gì đó – quan sát chúng từ những cái cửa sổ kia khi chúng quay lưng lại.

- Cậu có nghĩ là có bất cứ ai sống ở đây không? – Cuối cùng Digory thì thầm hỏi.

- Không. – Polly nói. – Tất cả đều trong tình trạng hoang tàn, đổ nát. Từ lúc đến đây đến giờ, chúng ta có nghe thấy tiếng động gì đâu.

- Ta cứ đứng im nghe ngóng thêm một chút xem sao. – Digory gợi ý.

Hai đứa đứng im phăng phắc dõng tai lên nghe ngóng như tất cả những âm thanh mà chúng nghe thấy chỉ là tiếng hai trái tim đập thùm thụp trong lồng ngực. Ít nhất thì nơi này cũng yên tĩnh như cánh rừng giữa hai thế giới. Nhưng vẫn có sự khác nhau giữa hai kiểu im lặng. Cái tĩnh lặng ở rừng cây, là cái im lặng có chiều sâu và ấm áp (bạn gần như có thể nghe thấy âm thanh của cây cối đang lớn lên) và như vậy nó tràn ngập sự sống, còn cái im lặng ở đây là cái im lặng trống rỗng, lạnh lẽo và chết chóc. Bạn không thể tưởng tượng là có cái gì có thể sinh trưởng ở nơi này.

- Thôi, về nhà đi. – Polly nói.

- Nhưng chúng ta còn chưa thấy gì mà! – Cậu bé nói. – Một khi đã đến đây rồi, chúng ta cũng phải nhìn ngó qua một chút chứ.

- Tớ chắc là chẳng có gì thú vị ở đây hết.

- Này, nếu bạn sợ cả cái việc nhìn ra xung quanh, một khi đã cất công đến đây thì việc tìm ra một chiếc nhẫn thần đưa bạn sang một thế giới khác còn có y nghĩa gì nữa?

- Ai nói chuyện sợ hãi vậy? – Polly bực bội hỏi lại, thả tay Digory ra.

- Tớ chỉ nghĩ là cậu không nhiệt tình khám phá nơi này thôi.

- Tớ sẽ đi đến bất cứ nơi nào cậu đi.

- Chúng ta có thể quay về bất cứ lúc nào mà chúng ta muốn. – Digory nói. – Bây giờ hãy tháo cái nhẫn màu xanh ra bỏ vào túi bên phải, tất cả những điều chúng ta cần làm là ghi nhớ rằng chiếc nhẫn vàng ở túi bên trái. Cậu có thể để tay gần túi như cậu muốn. Có điều, đừng cho tay vào túi hoặc chạm vào chiếc nhẫn vàng, nếu không cậu sẽ biến mất.

Polly làm theo đề nghị của Digory rồi hai đứa đi tới một cái cổng lớn dần vào trong tòa nhà. Khi đi đến ngưỡng cửa và có thể nhìn vào trong, chúng thấy trong nhà không tối đen như chúng tưởng. Một hành lang dài dẫn đến một căn phòng sáng nhờ nhờ rộng thênh thang, hết sức trống trải nhưng ở đầu kia căn phòng có một dây cột nối với nhau bằng những vòm cuốn và từ những nhịp cuốn này hắt xuống một thứ ánh sáng làm người ta mệt mỏi. Hai đứa đi ngang qua căn phòng với những bước đi e dè như sợ những cái hố bí mật trên sàn hoặc bất cứ thứ gì nằm trong phòng mà chúng có thể vấp phải. Có vẻ như đấy là một quãng đường dài. Khi đi hết chiều dài một căn phòng, chúng đi qua một cái cửa khác và thấy mình đứng trên một cái sân khác, rộng hơn.

- Coi bộ không có vẻ an toàn. – Polly nói, chỉ vào một chỗ phồng ra trên bức tường tựa hồ nó sắp sửa đổ xuống. Có một cái cột bị khuyết giữa hai nhịp cuốn. Một cái sà thấp xuống không có gì chống đỡ. Rõ ràng chỗ này đã bỏ hoang hàng trăm năm, có thể đến hàng ngàn năm.

- Nếu nó còn chịu đựng được đến bây giờ, tớ cho là nó còn có thể chịu đựng thêm một ít lâu nữa. – Digory nói. – Nhưng chúng ta phải thật nhẹ chân. Cậu cũng biết là đôi khi một tiếng động cũng có thể làm mọi vật đổ sập xuống như một trận tuyết lở trên đỉnh Alps vậy.

Chúng đi ngang qua sân, vào một lối đi khác và bước lên những bậc thềm rộng rãi rồi lại đi ngang qua những căn phòng rộng khác cho đến khi chúng hoa mắt và bối rối trước sự rộng lớn của nơi này. Mỗi lần chúng nghĩ là sắp sửa đi ra một khoảng trống để nhìn xem vùng đất xung quanh khu vực này như thế nào thì chúng lại đến một cái sân khác. Đây chắc phải là một nơi tráng lệ và đẹp đẽ khi sự sống ngự trị. Cái ở giữa sân chắc từng là một hồ nước có vòi phun. Một quái vật khổng lồ tạc bằng đá, hai cánh sải rộng, cái mỏ há to đến nỗi bạn có thể nhìn thấy một ống dẫn nước từ trong cuống họng. Dưới chân quái vật là một cái bồn rộng bằng đá nhưng nó khô rang như một khúc xương. Đó đây rải rác những cành khô tựa như có một loại cây keo từng quấn quanh các cây cột và đã góp phần kéo đổ những cây cột xuống. Nhưng tất cả đã chết từ lâu rồi. Không có kiến hoặc nhện hoặc bất kì một sinh vật sống nào mà bạn có thể trông đợi tồn tại ở một nơi hoang phế như thế này. Cả ở những khe đất giữa hai phiến đá lát đường bị nứt vỡ cũng không có cỏ hoặc rêu mọc lên được.

Không khí thê lương bao trùm toàn bộ cảnh vật, cả đến Digory cũng nghĩ là tốt nhất chúng nên đeo chiếc nhẫn vàng vào và quay về khu rừng ấm áp, xanh tươi, sống động giữa hai thế giới. Nhưng bước chân lại đưa hai đứa đến một cánh cửa làm bằng kim loại cũng có thể là vàng. Cánh cửa hơi hé mở. Tất nhiên chúng bước qua. Cả hai hơi giật mình lùi lại, hít một hơi thật dài, bởi vì cuối cùng ở đây cũng có một thứ đáng nhìn.

Trong vòng vài giây, chúng nghĩ căn phòng đầy người – hàng trăm người ngồi trong tư thế bất động. Cả Polly và Digory đều đứng ngây như phỗng ngơ ngác nhìn quanh phòng. Nhưng chẳng bao lâu sau khi chúng nhận định rằng cái mà chúng đang nhìn không thể là người thật. Không có một cử động, một hơi thở hay một âm thanh nào trong đám người này. Họ như những tác phẩm sáp tuyệt vời mà bạn từng trông thấy.

Lần này Polly đóng vai trò chủ động. Có một cái trong phòng làm cho một cô bé chú y đến hơn là một cậu con trai: tất cả những hình nhân ấy đều mặc những bộ quần áo đẹp lộng lẫy. Nếu bạn quan tâm đến trang phục thì bạn không thể không đến gần để nhìn cho rõ hơn. Vẻ rực rỡ của những gam màu trên những bộ quần áo không làm cho căn phòng có một vẻ tươi vui mà chỉ nhấn mạnh mặt sang trọng và uy nghi so với những căn phòng trống trải và bụi bặm khác. Căn phòng này cũng có nhiều cửa sổ hơn do đó cũng có nhiều ánh sáng hơn.

Tất cả các hình nhân ở đây đều mặc áo dài và đều đội vương miện. Trang phục kết hợp giữa các màu đỏ, xám bạc, tím đậm và xanh lá cây rất sống động. Có những chiếc áo thêu các họa tiết, những bức tranh về chim muông hoa lá, tất cả đều được thêu tay công phu và nền nã. Đồ trang sức thì có gắn những viên đá quí to tướng với vẻ lấp lánh đáng ngạc nhiên và hắt cái ánh sáng đặc biệt của nó ra từ những chiếc vương miện, những sợi dây chuyền đeo quanh cổ và lộ ra ở cả những chỗ có thể gắn đá quí vào được.

- Tại sao những chiếc áo này lại không bị mục nát nhỉ? – Polly hỏi.

- Phép thuật, – Digory thì thầm, – cậu không cảm thấy điều này ư? Tớ đoán căn phòng này vẫn ở dưới tác động màu nhiệm ấy. Tớ có thể cảm thấy điều đó ngay từ lúc chúng ta mới bước vào.

- Bất cứ bộ đồ nào ở đây cũng có giá trị ít nhất hàng trăm bảng. – Polly ước lượng.

Nhưng Digory quan tâm đến các khuôn mặt trong phòng hơn và thực sự điều này cũng đáng để cho nó quan sát. Đám người ngồi trên những chiếc ghế đá kê ở hai bên tường, giữa phòng là một khoảng trống và bạn có thể đi quanh nhìn vào tận mặt từng người.

- Những người này thật đẹp, mình nghĩ thế. - Digory nói.

Polly gật đầu. Tất cả các khuôn mặt mà chúng nhìn đều có một vẻ ưa nhìn nào đó. Cả đàn ông và đàn bà đều có vẻ nhân từ và thông thái. Dường như họ thuộc về một tộc người đẹp đẽ. Nhưng chỉ đi thêm vài bước nữa chúng thấy mặt của những người ngồi bên trong có một cái gì đó hơi khác. Những gương mặt thật nghiêm nghị. Bạn cảm thấy mình sẽ phải tra vấn đầu óc mình xem bạn đã có lúc nào gặp những gương mặt trông giống như thế chưa. Đi xa hơn một chút ở khu vực giữa phòng là những khuôn mặt mà chúng không có thiện cảm chút nào. Đó là những khuôn mặt mạnh mẽ, kiêu hãnh và rất thỏa mãn nhưng lại toát ra vẻ độc ác. Xa hơn một chút nữa là những khuôn mặt còn có vẻ nanh ác hơn. Đi thêm một đoạn nữa là những khuôn mặt vẫn còn độc ác nhưng không còn cái vẻ hơn hớn nữa. Thậm chí đó còn là những gương mặt tuyệt vọng cứ như thể họ đã gây ra khá nhiều tội lỗi và cũng phải gánh chịu những hậu quả ấy. Hình nhân cuối cùng đáng chú ý nhất – một người đàn bà ăn mặc sang trọng và đẹp hơn tất cả những người khác. Bà ta rất cao – mỗi người trong phòng đều cao hơn người trong thế giới của chúng ta – có một vẻ mặt vừa dữ dội vừa kiêu hãnh có thể làm cho bạn phải nín thở. Tuy vậy, đó cũng là một tuyệt thế giai nhân. Nhiều năm sau khi đã trở về già, Digory nói rằng suốt đời mình ông chưa bao giờ gặp một người phụ nữ nào đẹp hơn thế. Cũng là điều công bằng khi nói thêm rằng Polly luôn nhấn mạnh rằng mình chẳng phát hiện được nét quyến rũ nào trong người đàn bà này.

Đó là người cuối cùng nhưng còn có nhiều ghế trống quanh bà ta như thể căn phòng rộng thênh thang này có ý định chứa một bộ sưu tập hình nhân đồ sộ hơn.

- Ước gì chúng mình biết được những câu chuyện đằng sau những hình nhân này. - Digory nói. – Ta quay lại nhìn xem trên cái bàn ở giữa phòng kia có cái gì.

Vật kê giữa phòng không hẳn là một cái bàn, đó là một cái cột vuông, cao chừng hơn một mét, trên đó có gắn một cái khung nhỏ hình mái vòm làm bằng vàng, từ đó treo lủng lẳng, một cái chuông nhỏ bằng vàng. Cạnh chuông có đặt một cái búa nhỏ cũng bằng vàng dùng để đánh chuông.

- Tớ tự hỏi... tớ không biết... tớ không hiểu... – Digory lắp bắp.

- Hình như có dòng chữ gì viết ở đây. – Polly nói, cúi lom khom nhìn vào một bên cột.

- Trời đất, đúng là thế rồi. – Digory thốt lên. – Nhưng tất nhiên là chúng ta làm sao đọc được?

- Không đọc được à? Tớ không nghĩ thế đâu. – Polly nói.

Cả hai đứa đều căng mắt ra nhìn vào những con chữ. Và như bạn có thể đoán ra những con chữ khắc trên cột đá này trông rất lạ. Nhưng lúc này đã có một điều kì diệu xảy ra. Bởi vì khi chúng chăm chú nhìn như vậy thì dù hình dáng của những con chữ này không thay đổi nhưng hai đứa có cảm giác có thể hiểu được nghĩa của nó. Nếu Digory nhớ rằng trước đó vài phút nó đã nói rằng căn phòng này bị yểm bùa thì nó có thể đoán ra là bùa mê bắt đầu phát huy tác dụng. Nhưng nó đã phát cuồng lên vì tò mò để nghĩ ra được điều gì đó. Càng lúc nó càng háo hức muốn biết rõ cái gì được viết trên cây cột. Chẳng bao lâu sau, cả hai đứa đã hiểu được ít nhất thì những dòng thơ cũng toát lên một thông điệp như thế này:


Hãy lựa chọn, người khách lạ phiêu lưu


Gióng hồi chuông và làm một cú liều

Hay băn khoăn cho đến khi đầu bạn phát điên

Chuyện gì sẽ xảy ra, bạn biết không?

- Không sợ! – Polly nói trước. – Chúng ta không muốn có bất cứ một nguy hiểm nào.

- Ồ, nhưng bạn cũng đâu thấy có gì là không tốt! – Digory nói. – Chúng ta không thể rút lui vào lúc này, nếu thế thì bao giờ chúng ta cũng băn khoăn tự hỏi không biết chuyện gì sẽ xảy ra nếu chúng ta đánh chuông. Tớ sẽ không về nhà để rồi lại phát điên vì cứ phải nghĩ mãi đến những chuyện đó. Không có gì phải sợ.

- Đừng có ngốc như thế. Cứ làm như ai cũng bốc đồng như cậu. Thế nên có chuyện gì xảy ra thì sao?

- Tớ nghĩ bất cứ ai đến đây cũng sẽ phải tự hỏi lại chuyện này cho đến khi nó làm cho anh ta trở thành người gàn gàn, dở dở. Cậu thấy đấy, đó chính là cái gọi là pháp thuật. Tớ có thể cảm thấy nó bắt đầu có tác động đến tớ đấy.

- Còn tớ thì không. – Polly bực bội kêu lên. – Và tớ cũng không tin là chuyện đó xảy ra với cậu. Cậu chỉ cường điệu lên thôi.

- Dù là tất cả những gì cậu biết. Bởi vì nói gì thì nói cậu cũng chỉ là một nhóc con thôi. Bọn con gái chẳng bao giờ muốn biết cái gì ngoài chuyện ngồi lê đôi mách và những chuyện vớ vẩn linh tinh về những con người xung quanh.

- Trời đất, tôi mà là một con nhóc ư? – Polly hỏi lại, bây giờ thì nó bị chạm nọc thật sự. - Phải, phải rồi, cậu không cần phải đeo thêm con nhóc này một phút nào nữa. Tôi biến đây. Tôi biết về chỗ này như thế là quá đủ rồi. và tôi cũng ngán cậu đến tận cổ rồi, ông mãnh cứng đầu, vênh váo và thô lỗ ạ.

- Không có chuyện đó. – Digory nói bằng cái giọng gay gắt hơn là nó muốn, nó thấy bàn tay của bạn đã cho vào túi áo, chuẩn bị chạm vào túi, nó đã nắm lấy cổ tay bạn, đoạn dùng cùi chỏ gạt cánh tay kia của Polly. Nó nhanh nhẹn nghiêng người, nhặt chiếc búa gõ vào quả chuông vàng một tiếng đanh và nhẹ. Sau đó nó thả tay Polly ra. Hai đứa lùi ra sau, trừng trừng nhìn nhau, thở hổn hển. Polly bắt đầu bật khóc. Không phải vì sợ, thậm chí cũng không phải vì Digory đã làm đau cổ tay nó mà vì một cơn giận làm nóng cả người. Tuy vậy, hai giây sau đã có một chuyện xảy ra xua tan một trận cãi vã sắp sửa nổ ra.

Búa đánh vào chiếc chuông vàng phát ra một âm thanh ngọt ngào, du dương như bạn có thể chờ đợi, một âm thanh ấy không lớn lắm. Nhưng thay vì tắt đi, nó lại tiếp tục kéo dài. Mỗi lúc nó lại lớn hơn. Trong vòng một phút âm lượng của nó to gấp đôi lúc đầu và chẳng bao lâu đã oang oang đến nỗi nếu hai đứa cố hỏi một điều gì đó (nhưng lúc bấy giờ chúng không nghĩ đến chuyện nói năng – mà chỉ đứng ngây ra, mồm há hốc) thì tiếng chuông sẽ át cả tiếng nói. Rồi thoắt một cái âm thanh đó đã vang động đến mức dù chúng có gào lên thì cũng không thể nghe được câu gì. Vậy mà tiếng chuông vẫn tiếp tục lớn hơn, to hơn: vẫn cái âm giai ấy, vẫn âm điệu ngọt ngào ấy dù có một cái gì làm cho cả sự ngọt ngào cũng trở nên chối không thể chịu nổi. Bây giờ thì cả không gian trong đại sảnh này đều rung động bởi tiếng chuông. Hai đứa cảm thấy sàn nhà làm bằng đá rung chuyển dưới những nốt nhạc ma quái. Cuối cùng, tiếng chuông bắt đầu được cộng hưởng bởi một chuỗi tiếng động vừa dữ dội vừa khó xác định, thoạt đầu, nghe như tiếng rít của một con tàu từ đằng xa, sau đó nghe như tiếng của cả rừng cây răng rắc. Hai đứa nghe như có những vật rất nặng ầm ầm đổ sập xuống. Cuối cùng, đột ngột như một tiếng sấm làm hai đứa súyt bị hất tung lên trời, một phần tư trần nhà ở cuối phòng bị sụp xuống, một đám xà bần đổ rào rào quanh người hai đứa, trong lúc bốn bức tường đu đưa như cành cây trước gió. Tiếng chuông tắt hẳn. Đám mây bụi quang dần. Tất cả lại chìm trong không khí im lặng chết chóc.

Không có ai biết trần nhà đổ xuống là do pháp thuật hay là do tiếng động phát ra từ cái chuông khi được đánh lên và cái âm thanh ấy là một cái gì còn đáng sợ hơn những bức tường ọp ẹp mục rỗng nhưng vẫn còn đứng được.

- Hừm! Tôi hi vọng bây giờ thì cậu lấy làm mãn nguyện lắm rồi. – Polly thở hổn hển vừa nói, giọng chì chiết.

- À, dù sao thì tất cả cũng qua rồi. – Digory nói.

Thực ra cả hai đứa đều nghĩ thế nhưng đó là một nhầm lẫn lớn nhất trong đời chúng.

Hai đứa trẻ đứng nhìn chăm chăm vào cái cột có treo quả chuông bây giờ vẫn đang rung lên dù không còn tạo ra tiếng vang nào nữa. Chợt chúng nghe thấy một tiếng động nhẹ vang lên từ phía đầu căn phòng vẫn còn nguyên vẹn. Cả hai đứa quay phắt lại xem thử đó là cái gì. Một thoáng những hình nhân mặc áo thụng, cái hình nhân ở đầu xa nhất – người đàn bà mà Digory nghĩ là một tiên nữ giáng trần – đứng dậy khỏi chiếc ghế đang ngồi. khi bà ta đã đứng lên hẳn, hai đứa mới thấy bà ta còn cao hơn là chúng nghĩ nữa. Bạn có thể lập tức nhận ra không chỉ nhờ vào vương miện và bộ váy áo vương giả mà từ ánh mắt và khóe môi rằng đó là một nữ hoàng uy nghiêm nhất trên đời. Bà nhìn quanh phòng, lướt ánh mắt qua đống đổ nát rồi nhìn sang hai đứa trẻ. Bạn không thể căn cứ vào vẻ mặt của bà ta mà đoán được suy nghĩ của bà ta về hai hiện tượng này hoặc sẽ không biết được là liệu bà ta có ngạc nhiên về những gì trước mắt mình hay không. Người đàn bà bắt đầu sải những bước đi dài, cứng nhắc.

- Kẻ nào đánh thức ta dậy? Kẻ nào đã làm hỏng phép màu? – Bà ta lên tiếng hỏi.

- Tôi nghĩ chính là tôi đấy ạ. - Digory nói.

- Ngươi? – Nữ hoàng hỏi lại, đặt một tay lên vai thằng bé – bàn tay trắng trẻo, đẹp đẽ nhưng Digory cảm thấy nó mạnh như một cái kìm sắt.

- Ngươi? – Nhưng ngươi chỉ là một nhóc con, một thằng nhóc hết sức tầm thường. Chỉ cần một cái liếc mắt thì bất cứ ai cũng có thể thấy rằng người không có một giọt máu vương giả hay quí tộc nào chảy trong huyết quản. Làm sao những kẻ như bọn bay lại dám đặt chân vào cung điện này?

- Chúng tôi đến đây từ một thế giới khác, nhờ vào phép thuật. – Polly trịnh trọng nói, nó nghĩ đã đến lúc nữ hoàng phải chú ý đến nó cũng như bà đã để tâm đến Digory.

- Thật vậy sao? – Nữ hoàng hỏi giọng trầm trầm, vẫn chăm chú nhìn Digory mà không thèm liếc về phía Polly lấy một lần.

- Dạ, đúng thế ạ. - Digory đáp.

Nữ hoàng đưa bàn tay còn lại nâng cằm nó lên, làm thằng bé phải ngửa cả mặt lên để bà ta nhìn cho rõ hơn. Digory nhìn lại nhưng chẳng được mấy nỗi nó phải cụp mắt xuống. Một cái gì trong đôi mắt ấy có sức mạnh áp đảo nó. Sau khi nhìn nó thật kỹ trong vòng một phút, bà thả cằm nó ra và chậm rãi nói.

- Ngươi không phải là một pháp sư. Không có dấu ấn pháp thuật trên người. Có thể mi chỉ là một tên đầy tớ của một pháp sư. Nhờ vào pháp thuật của người khác mà đặt chân được đến đây.

- Đó là nhờ bác Andrew của tôi. – Digory nói.

Đúng lúc đó không phải ở trong phòng mà ở một chỗ nào đó rất gần, có một cái gì đó đã xảy ra: đầu tiên là tiếng ầm ầm, sau đó là tiếng gãy răng rắc rồi tiếng gầm của vôi vữa đất đá đổ xuống cùng một lúc, cả đại sảnh rùng rùng chuyển động.

- Ở đây rất nguy hiểm. – Nữ hoàng nói. – Cả tòa lâu đài này sẽ đổ sụp xuống. Nếu chúng ta không mau chạy khỏi đây trong vòng vài phút chúng ta có thể bị chôn sống trong đống hoang tàn này. – Tuy nói một điều nghiêm trọng như vậy mà giọng bà ta điềm tĩnh như thể chỉ thuần túy nói về giờ giấc trong ngày.

- Lại đây! – Bà nói thêm, chìa tay ra cho hai đứa. Polly là đứa không có thiện cảm với nữ hoàng ngay từ đầu, nó lại cảm thấy mếch lòng. Nó hẳn sẽ không đưa tay nếu có thể chống lại ý muốn của bà ta. Nhưng nữ hoàng nói với một vẻ bình thản dễ sợ, hành động của bà ta lại nhanh như ý nghĩ. Trước khi Polly biết chuyện gì xảy ra thì tay trái của nó đã nằm gọn trong một bàn tay lớn hơn, mạnh hơn nên nó chẳng còn có thể làm gì khác được.

- Thật là một người đàn bà khủng khiếp. – Polly thầm nghĩ. – Bà ta đủ mạnh để bóp gãy tay mình chỉ bằng một động tác. Bà ta chộp tay trái nên mình không thể chạm vào cái nhẫn vàng. Nếu mình thử thò tay phải sang túi bên trái thì có lẽ mình không thể cho tay vào túi được mà lại khiến cho bà ta tò mò. Dù có chuyện gì xảy ra, chúng mình cũng không được để cho bà ta biết được bí mật của những chiếc nhẫn. Mình chỉ hi vọng Digory đủ khôn ngoan để giữ mồm giữ miệng. Ước gì có thể nói riêng với nó một lời nhỉ.

Nữ hoàng lôi hai đứa trẻ ra khỏi đại sảnh của những hình nhân, chạy vào một hành lang dài rồi phóng qua một mê cung rối rắm gồm những căn phòng, cầu thang và sân trời. Chốc chốc họ lại nghe sau lưng mình tiếng vôi vữa, gạch đá ầm ầm đổ xuống, có những lúc ngay sát bên cạnh họ. Có một lần, một vòm cuốn lớn thình lình ập xuống chỉ một tích tắc sau khi họ đi qua. Nữ hoàng đi nhanh thoăn thoắt, bọn trẻ phải chạy gấp lên mới kịp bước chân bà – nhưng bà không lộ ra một vẻ gì sợ hãi. Thấy thế, Digory thầm nhủ: - Bà ấy can đảm lạ thường. Và mạnh mẽ nữa, ở bà có một cái gì đó khiến cho người ta gọi bà là nữ hoàng! Mình mong sao bà kể cho hai đứa nghe câu chuyện xung quanh chốn này.

Quả là bà có nói với chúng vài điều trong khi họ bở chạy.

- Đây là cửa nhà ngục – hoặc – Đây là lối dẫn đến phòng đại nhục hình – hoặc – Đây là phòng đại tiệc thời xưa, nơi cụ cố của ta đã khoản đãi 700 nhà quí tộc rồi giết tất cả bọn họ sau khi cả bọn cơm no rượu say. Tất cả bọn chúng đều có tư tưởng phản loạn.

Cuối cùng họ đi đến một đại sảnh lớn hơn, có cái trần cao hơn bất cứ căn phòng nào mà họ đã nhìn thấy. Căn cứ vào kích thước của nó và cánh cửa đồ sộ ở đằng xa, Digory nghĩ cuối cùng thì họ cũng đi đến cửa chính. Về điểm này thì nó đúng. Cánh cửa có một màu đen chết bằng gỗ mun hoặc bằng kim loại đen, một loại không được tìm thấy trong thế giới chúng ta. Cửa được đóng chặt lại bởi những gióng cửa vĩ đại, phần lớn cao quá tầm tay với và quá nặng để có thể nhấc lên. Digory tự hỏi làm thế nào họ có thể thoát ra ngoài được.

Nữ hoàng thả tay nó ra, giơ một cánh tay lên. Bà vươn thẳng người lên và đứng im bất động. Đoạn, bà nói một cái gì đó mà chúng không hiểu (nhưng lại khiến chúng nổi da gà) và làm một động tác như đang ném một vật gì đó vào cánh cửa. Nhưng cánh cửa cao và dày uỵch rung chuyển trong vòng một giây tựa hồ cửa được làm bằng lụa. Vài giây sau, nó vụn ra cho đến khi chẳng còn gì ngoài một đống bụi ở ngưỡng cửa.

- Chu cha! – Digory thốt lên, giọng thán phục.

- Pháp sư thầy của ngươi, cái ông bác của người ấy có một phần năng lực siêu phàm như ta chăng? – Nữ hoàng hỏi, một lần nữa lại nắm chặt bàn tay Digory. – Nhưng ta sẽ sớm biết được điều này thôi. Còn bây giờ ngươi cố mở to mắt ra mà ghi nhớ hết tất cả những điều đang diễn ra. Đó là điều sẽ xảy ra với những vật và những người cản trở ta.

Các mảng sáng đổ xuống từ cái cửa nát vụn và khi nữ hoàng dẫn hai đứa trẻ đi qua, chúng không lấy làm ngạc nhiên khi thấy mình đang ở ngoài trời. Gió thổi vào mặt họ lạnh buốt và nghe như có mùi thum thủm. Họ đang đứng trên bờ lũy cao, cả một miền đất rộng mênh mông trải ra trước mắt họ.

Thấp thấp phía dưới và ở gần đường chân trời là một mặt trời đỏ rực, rất lớn, còn lớn hơn mặt trời của chúng ta rất nhiều. Ngay lập tức, Digory có cảm tưởng là nó cũng đã già hơn mặt trời chiếu sáng trái đất: một mặt trời đã đi gần đến cái kết cục cuối cùng của mình, mệt mỏi rải cái ánh sáng lạnh lẽo úa tàn lên vạn vật. Bên trái mặt trời và chếch lên cao hơn một chút là một ngôi sao cô đơn, to và sáng trắng. Đó là hai vật duy nhất được nhìn thấy trên bầu trời xám xịt. Chúng làm thành một tập hợp thảm đạm. Trên mặt đất, ở tất cả các hướng, trải dài ngút tầm mắt là một thành phố rộng mênh mông không hề có sự sống. Tất cả những đền đài, tháp canh, lâu đài, tháp chuông và những chiếc cầu đều hắt ra cái bóng dài hắc ám dưới ánh sáng quành quạch của một mặt trời tàn úa. Nơi trước kia từng là một dòng sông lớn vắt ngang thành phố bây giờ nước đã cạn kiệt từ lâu và trên dòng sông rộng chỉ còn phủ một lớp bụi xám tang tóc.

- Hãy nhìn kỹ quang cảnh này bởi vì không có một cặp mắt nào được chứng kiến nó thêm một lần nữa. – Nữ hoàng phán. – Đây chính là Cham – thành phố vĩ đại, thành phố của hoàng đế của những ông hoàng. Phải, đó là một phép màu của thế giới, có lẽ là của tất cả các thế giới. Bác ngươi đã từng trị vì một thành phố hoàng tráng như thế này chưa, nhóc?

- Thưa không. – Nó toan giải thích là bác Andrew không lãnh đạo bất cứ một thành phố nào nhưng nữ hoàng đã nói tiếp.

- Bây giờ thì nó đang ngủ nhưng ta từng đứng ở đây khi trong không gian vang động âm thanh của thành phố: tiếng bước chân rầm rập, tiếng cót két của những bánh xe lăn, tiếng vun vút của những ngọn roi và tiếng rên rỉ đau đớn của bọn nô lệ, tiếng động như sấm rền của không biết bao nhiêu cỗ xe lao đi, cả tiếng trống chầu trong các điện thờ nữa... Ta đứng ở đây – lúc bấy giờ kinh thành tráng lệ này gần đi đến ngày tàn của nó – thì nghe thấy tiếng ồn ào kinh động của một trận chiến một mất một còn diễn ra trên khắp các thành phố, chỗ nào cũng có giao tranh, dòng sông Charn nhuộm đỏ máu. – Bà ngừng lại một lúc rồi nói tiếp. – Và trong một tích tắc ngắn ngủi, một người đàn bà đã xóa sạch nó, vĩnh viễn.

- Là ai vậy? – Digory hỏi bằng giọng yếu ớt, kỳ thực nó đã đoán ra câu trả lời.

- Chính là ta. – Nữ hoàng nói .– Ta – Jadis, nữ vương cuối cùng nhưng là nữ vương vủa cả thế giới.

Hai đứa trẻ đứng im, rùng mình trong gió lạnh.

- Đó là lỗi của chị ta. – Nữ hoàng lại tiếp tục. – Chị ấy đã đẩy ta đến chỗ làm chuyện đó. Có thể là lời nguyền của tất cả Quyền lực đều nằm trong tay chị ấy, mãi mãi. Bất cứ lúc nào ta cũng sẵn sàng làm hòa – phải, chính là thế và tha mạng cho chị ấy, nếu như chị ấy chịu nhường ngôi báu cho ta. Nhưng chị ấy rất bướng bỉnh, lòng kiêu hãnh thâm căn cố đế của chị ấy đã hủy hoại cả thế giới. Kể cả sau khi chiến tranh bắt đầu... Có một quy định bất di bất dịch là cả hai bên giao tranh không bên nào được dùng đến ma thuật. Vậy, ta phải làm sao? Thật là ngu độn hết sức! Cứ như thế chị ta không biết rằng pháp thuật của chị ta còn cao siêu hơn mình nhiều. Thậm chí chị ấy còn biết rõ ta còn biết được bí mật của Từ Húy. Chị ấy nghĩ – chà chà thật là một kẻ nhu nhược – rằng ta không dám dùng đến từ ấy.

- Nó là cái gì vậy? – Digory hỏi.

- Đó là bí mật của những bí mật – Nữ hoàng Jadis nói. – Từ lâu, các hoàng đế vĩ đại của dân tộc ta đã biết là có một từ nếu được nói ra với những nghi thức thích hợp sẽ hủy diệt tất cả sự sống, chỉ trừ cái người nói ra cái từ đó. Nhưng các hoàng đế cổ xưa quá yếu đuối và nhân từ đã ràng buộc mình bằng một lời thề đó là không bao giờ tìm hiểu sự thật về Từ Húy đó. Nhưng ta đã học được nó ở một nơi bí mật và đã phải trả một giá cực đắt để biết được điều đó. Ta sẽ không dùng đến nó cho đến khi chị ta buộc ta phải sử dụng. Ta buộc phải chiến đấu để chiến thắng chị mình bằng tất cả mọi phương tiện. Ta đã làm cho máu của kẻ thù chảy thành sông.

- Thật ghê tởm – Polly thì thầm.

- Trận đánh lớn cuối cùng, – nữ hoàng nói, - diễn ra trong một cơn cuồng loạn kéo dài suốt ba ngày đêm ở thành Charn. Suốt ba ngày, ta cứ đứng từ trên này nhìn xuống. Ta không dùng đến biện pháp cuối cùng cho đến lúc tên lính cuối cùng của ta ngã xuống. Và người đàn bà đáng nguyền rủa, chị ruột của ta dẫn đầu đoàn quân phiến loạn đi được nửa đoạn đường từ dưới thành kia đi lên bờ lũy này. Ta đã đợi cho đến lúc chúng tiến đến gần hơn, đủ để người này nhìn tỏ mặt người kia. Chị ấy chiếu đôi mắt độc ác đáng ghê tởm của mình lên người ta, reo lên đắc thắng: - Chiến thắng!

- Phải, - ta điềm tĩnh nói, - chiến thắng nhưng không dành cho ngươi. – Thế là ta nói ra Từ Húy. Và một tích tắc sau, chỉ còn lại mình ta sống sót dưới ánh sáng mặt trời.

- Nhưng còn người ta? – Digory kêu lên, thở hổn hển.

- Người nào, nhóc con?

- Tất cả những người dân bình thường? – Polly nói – Những người không hề làm hại đến bà. Tất cả đàn bà, trẻ con và súc vật.

- Ngươi có hiểu không? – Nữ hoàng nói (vẫn chỉ với Digory) – Ta chính là nữ vương. Họ là thần dân của ta. Họ có mặt trên đời này để làm gì nếu không phải là phục tùng y muốn của ta?

- Thật là một tai họa kinh khủng đối với bọn họ. - Thằng bé nói.

- Sao ta lại quên mất rằng, ngươi chỉ là một thằng nhóc tầm thường. Làm sao ngươi hiểu nổi những lí lẽ của luật trời! Ngươi phải hiểu là tiêu chuẩn đúng sai đối với ngươi hoặc bất cứ ai trong lũ người phàm phu, tục tử hay bọn dân đen kia đều không thể đem ra áp dụng với một nữ hoàng cao quí, vĩ đại như ta. Gánh nặng của cả thế giới đè nặng lên vai những người như ta. Chúng ta phải được giải phóng khỏi các quy luật. Chúng ta có một số mệnh cao quí và đơn độc.

Chợt Digory nhớ ra bác Andrew cũng nói đúng những lời như thế. Nhưng những lời này oai vệ hơn, uy nghiêm hơn khi phát ra từ miệng nữ hoàng Jadis, có lẽ bởi vì bác Andrew không cao quá hai thước mốt và không đẹp đến hớp hồn như vậy.

- Sau đó bà đã làm gì? – Digory hỏi.

- Ta đã phù phép cả đại sảnh nơi các hình nhân của tổ tiên ta ngồi. Sau đó ta thực hiện một trong những câu thần chú khiến ta có thể ngủ cùng với họ như một hình nhân, không cần thức ăn và hơi ấm... trong hàng ngàn năm cho đến khi có một người nào đó đến đánh vào cái chuông đánh thức ta dậy.

- Có phải Từ Húy đã làm cho mặt trời hóa ra như thế không ạ? – Digory hỏi.

- Như thế nào?- Jadis hỏi.

- Phồng to, đỏ quành quạch và lạnh lẽo.

- Nó bao giờ cũng như thế. - Jadis đáp. – Ít nhất nó cũng là như thế trong vòng hàng trăm năm qua. Thế mặt trời ở thế giới của ngươi không giống mặt trời này ư?

- Phải, nó nhỏ hơn, vàng hơn và tỏa ra nhiều nhiệt lượng hơn.

Nữ hoàng thở hắt ra một hơi dài: - À... à ra thế! – Và Digory nhìn thấy trên mặt bà vẻ tham lam háo hức mà nó đã nhìn thấy trên mặt bác Andrew cách đây không lâu. – Như vậy, thế giới của các ngươi non trẻ hơn.

Nữ hoàng đứng yên, trầm ngâm ngắm nhìn thành phố hoang tàn, chết chóc một lần nữa – và nếu bà ta có nuối tiếc cho việc làm độc ác của mình thì chắc chắn bà cũng không để lộ ra – cuối cùng bà ta nói:

- Bây giờ thì chúng ta phải đi thôi. Ở đây rất lạnh... vào giai đoạn cuối của tất cả các thời đại.

- Đi đâu? – Cả hai đứa đồng thanh hỏi.

- Đi đâu à? – Jadis nói giọng ngạc nhiên. – Thì đi đến thế giới của các ngươi chứ còn đi đâu nữa.

Polly và Digory nhìn nhau, rùng mình ghê tởm. Polly có ác cảm với bà nữ hoàng này ngay từ đầu, cả Digory nữa, sau khi nghe xong câu chuyện, nó cảm thấy chịu đựng sự có mặt của bà ta như thế là quá đủ. Chắc chắn đó không phải là loại người mà bạn muốn dẫn về nhà. Mà nếu chúng có muốn đi chăng nữa thì chúng cũng không biết phải làm cách nào để đưa bà ta đi cùng. Điều chúng mong muốn là hai đứa biến khỏi nơi này. Nhưng Polly không thể lấy cái nhẫn của nó và tất nhiên Digory không thể đi mà không có bạn. Nó đỏ mặt lên lắp bắp:

- À... à... thế giới của chúng tôi. Tôi... không... không biết là bà muốn đến đấy.

- Các người đến đây để làm gì nếu không phải là để đi tìm ta? – Jadis hỏi.

- Tôi chắc là bà không thích thế giới của chúng tôi một chút nào đâu. – Digory nói – Đó không phải là chỗ dành cho bà ấy có phải không Polly? Nó rất tẻ nhạt, chẳng có gì đáng xem, thật thế.

- Rồi nó sẽ là một nơi đáng nhìn khi ta làm chủ nó. – Nữ hoàng nhấn giọng.

- Ồ, nhưng bà không thể làm thế. - Digory nói. – Không có chuyện đó, bà cũng biết đấy.

Nữ hoàng mỉm một nụ cười khinh thường.

- Nhiều ông vua vĩ đại nghĩ rằng họ có thể chống lại Nguyên lão viện thành Charn. Nhưng tất cả đều thất bại, tên tuổi họ đều rơi vào quên lãng. Thằng lõi ngu ngốc! Bộ ngươi nghĩ rằng ta với vẻ đẹp có một không hai và pháp thuật vô biên lại không thể khiến cho thế giới của ngươi nằm gọn dưới chân ta trong vòng một năm sao? Chuẩn bị câu thần chú của ngươi mau và mang ta đến đó ngay lập tức!

- Chuyện này thật đáng sợ - Digory thì thầm với Polly.

- Có thể ngươi lo cho ông bác của ngươi? – Jadis hỏi. - Nhưng nếu y bày tỏ lòng tôn kính thích đáng với ta, y sẽ giữ được mạng sống và ngai vàng của mình. Ta không đến đấy để tranh giành với y. Ta chắc rằng bác ngươi phải là một pháp sư thần thông quảng đại nếu y biết cách gửi ngươi đến đây. Y là chúa tể của cả thế giới hay chỉ là một phần thôi?

- Ông ấy chẳng là vua ở bất cứ chỗ nào hết. – Digory nói.

- Ngươi nói láo. – Nữ hoàng phán. – Pháp thuật không phải bao giờ cũng đi đôi với dòng máu vua chúa hay sao? Đã có ai từng nghe nói một kẻ hạ tiện lại trở thành một pháp sư chưa? Ta có thể nhìn thấy sự thật trên mặt ngươi. Bác của ngươi là một ông vua vĩ đại và một Đại phù thủy ở thế giới của ngươi. Bằng tài nghệ của mình y đã nhìn thấy hình bóng của khuôn mặt ta – trong một chiếc gương thần hay một cái ao ma thuật gì đó. Vì say mê vẻ đẹp của ta mà y đã tạo ra một phép màu hiệu nghiệm có thể làm rung chuyển thế giới của ngươi cho đến cả nền tảng của nó để phóng cả hai đứa bay ngang qua khoảng không bao la giữa hai thế giới, cầu xin ân huệ của ta và đưa ta về với y. Trả lời ta đi, mọi việc không phải diễn ra như thế hay sao?

- Không, hoàn toàn không phải như thế. - Digory nói.

- Không có một chút sự thật nào. – Polly đột ngột hét lên. – Tại sao à? Đó là một sự bịa đặt từ đầu đến cuối.

- Lũ nhãi ranh! – Nữ hoàng gào lên đổ cơn giận lên Polly, túm tóc nó ở ngay trên đỉnh đầu là chỗ đau nhất. Nhưng khi làm như thế bà ta buộc phải thả tay cả hai đứa ra.

- Nào, - Digory hét lên và Polly hấp tấp hô theo. – Nhanh lên! – Cả hai đứa đồng loạt cho tay vào túi bên trái. Thậm chí chúng cũng không cần phải đeo nhẫn vào ngón tay nữa. Ngay lúc chúng chạm tay vào nhẫn, cả cái thế giới biến mất trước mắt chúng. Cả hai bị hút lên trên không và cái ánh sáng màu xanh ấm áp càng lúc càng trở nên gần hơn rõ hơn trên đầu chúng.

- Bỏ tay ra! Bỏ tay ra! – Polly gào lên. - Tớ có chạm vào người cậu đâu. – Digory nói.

Lúc này đầu chúng đã ngoi lên khỏi hồ nước, và một lần nữa sự thanh bình đầy nắng ấm của khu rừng giữa hai thế giới lại ủ chúng vào lòng. Nơi này trở nên đẹp đẽ hơn, ấm áp hơn, yên bình hơn bao giờ hết sau khi đã trải qua cái thế giới hoang tàn hắc ám mà chúng vừa bỏ lại sau lưng. Tôi nghĩ rằng nếu có cơ hội, hẳn chúng sẽ lại quên mình là ai, từ đâu đến. Và lại nằm lăn ra cỏ, sung sướng được là chính mình, và trong lúc nửa mê, nửa tỉnh, lắng nghe sự sống chuyển mình trong từng thớ gỗ. Nhưng lần này có một cái gì đó khiến chúng tỉnh táo trong chừng mực có thể, bởi vì ngay khi đặt chân lên cỏ, chúng đã thấy mình không chỉ một mình. Nữ hoàng hay mụ phù thủy (tùy bạn muốn gọi thế nào cũng được) cũng cùng đi với chúng bằng cách túm chặt lấy tóc Polly. Đó là lí do tại sao Polly lại hét lên: – Bỏ tay ra!

Sự kiện này đã chứng minh được một đặc tính khác của chiếc nhẫn mà bác Andrew chưa nói cho Digory chỉ vì bác cũng chưa biết nốt. Để di chuyển từ thế giới này sang thế giới khác bằng cách sử dụng một trong những chiếc nhẫn, bạn không cần phải đeo nhẫn hay trực tiếp chạm vào nó: chỉ cần bạn chạm tay vào cái người đang chạm vào nó là đủ. Ở khía cạnh này, chiếc nhẫn hoạt động như một cục nam châm, ai cũng biết rằng, nếu bạn nhặt một cái kim bằng một cục nam châm thì bất chứ cái kim nào chạm vào cái kim đầu tiên cũng sẽ bị nhấc lên theo.

Lạ lùng làm sao, ở nơi này, nữ hoàng Jadis không còn là mình nữa. Cả người bà tái nhợt đi và với vẻ xanh xao bệnh hoạn ấy, bà ta chẳng còn cái vẻ đẹp chim sa cá lặn nữa. Bà ta khuỵu người xuống, vẻ như không thở được, cứ như thể không khí nơi đây làm bà ta bị ngạt. Ít nhất thì bây giờ không đứa nào cảm thấy sợ bà ta nữa.

- Bỏ ra! Bỏ tóc tôi ra! – Polly nói. – Bà đang làm cái gì vậy?

- Này, bỏ tóc bạn ấy ra ngay lập tức! – Digory xẵng giọng.

Hai đứa quay lại, vật lộn với phù thủy. Chúng mạnh hơn bà ta và chỉ mất vài giây chúng đã buộc được bà ta phải bỏ tay ra. Người đàn bà loạng choạng lùi lại, thở hổn hển, đôi mắt tràn ngập một vẻ kinh hoàng.

- Nhanh lên Digory! Đổi nhẫn mau và đi đến cái hồ quay về nhà.

- Cứu ta! Làm ơn đi mà! – Phù thủy kêu lên giọng lả đi, trong khi lê bước đi theo hai đứa. Hãy mang ta đi theo! Các ngươi không thể độc ác đến nỗi để ta ở lại cái chỗ kinh khủng này. Nó sẽ giết ta mất.

- Âu cũng là luật trời thôi. – Polly mỉa mai. – Hãy nhớ bà đã ra tay tàn sát bao người dân vô tội trong thế giới của bà. Nhanh lên nào Digory. – Hai đứa đã đeo chiếc nhẫn màu xanh nhưng Digory ngần ngại. – Ôi phiền quá! Chúng ta đang làm cái gì vậy? – Nó không khỏi cảm thấy thương hại bà hoàng độc ác.

- Này, đừng có ngu ngốc như vậy. – Polly nói. – Mười chọi một tớ cá là bà ta chỉ vờ vịt thôi. Đi mau!

Cả hai nhảy xuống cái hồ nước dẫn về nhà. – Thật là một điều tốt đẹp khi chúng ta nghĩ đến chuyện đánh dấu cái hồ này. – Polly thầm nghĩ. Nhưng trong lúc nhảy xuống Digory cảm thấy hai ngón tay to và lạnh kẹp chặt lấy tai nó. Khi chúng chìm sâu xuống và những cái bóng lờ mờ, rối rắm trong thế giới của chúng ta bắt đầu rõ nét hơn, ngón cái và ngón trỏ riết vào tai nó mỗi lúc một mạnh hơn. Rõ ràng phù thủy đã phục hồi công lực. Digory giãy giụa, đá loạn lên nhưng vô hiệu. Chẳng mấy chốc, chúng đã thấy mình đứng trong phòng đọc sách của bác Andrew. Ông đứng đực ra, gương mắt nhìn sinh vật đẹp tuyệt với mà Digory mang về từ một thế giới khác.

Trong lúc ông ngây người nhìn, thì cả Polly lẫn Digory đều ngạc nhiên không kém. Không còn nghi ngờ gì nữa, phù thủy đã qua cơn yếu lả. Vào lúc ấy, nếu bạn thấy bà ta ở trong thế giới của mình với những vật thông thường bao quanh, bạn hẳn sẽ được một phen kinh hồn bạt vía. Ở Charn, nhìn bà ta đã đủ giật mình. Ở London trông bà ta thật đáng sợ, bởi vì chỉ đến lúc ấy người ta mới nhận ra vóc dáng khổng lồ của mụ. - Không thể là người. – Digory nói khi nó nhìn mụ phù thủy, cũng có thể là nó đúng, đã có người từng nói, trong hoàng tộc Charn có dòng máu của người khổng lồ. Nhưng chiều cao ngất ngưởng ấy không có gì đáng kể so với diễm lệ, sự dữ tợn và man dại của mụ. Trông mụ ta mười lần sống động hơn hầu hết mọi người bạn gặp ở London. Bác Andrew cúi rạp người, tay xoa xoa vào nhau và trông có vẻ, nói thật nhé, thất sắc đến nỗi ba hồn bảy vía đều bay đâu mất. Đứng bên cạnh phù thủy, ông không khác gì một tên lùn dúm dó, dị dạng và như sau này Polly thường nói có một vẻ gì đó na ná giống nhau trên khuôn mặt ông và phù thủy, và cái gì gì đó hiện rõ trên hai khuôn mặt. Đó là cái vẻ mà tất cả những pháp sư, phù thủy độc ác đều có – Dấu ấn – như Jadis đã nói khi bà ta không tìm thấy nó trên khuôn mặt Digory. Nhìn thấy hai người này đứng bên nhau cũng có một điểm tốt. Bạn sẽ không bao giờ cảm thấy sợ bác Andrew nữa cũng giống như cái việc bạn không sợ một con giun, khi đã gặp một con rắn chuông hoặc sợ một con bò cái sau khi đã chạm trán một con bò tót đang nổi điên.

- Xì, – Digory thầm nghĩ, - bác ấy mà là một pháp sư. Không dám đâu, bà ta mới là một phù thủy chính hiệu.

Bác Andrew cứ cúi gập người xuống và xoa xoa tay vào nhau mãi. Bác cố moi trong óc một điều gì đó thật phong nhã nhưng miệng bác khô khốc và bác không sao thốt ra được tiếng nào – Thử nghiệm – với những chiếc nhẫn như bác vẫn gọi hóa ra đã thành công ngoài sự mong đợi vì xưa nay vốn tập tọng học đòi làm pháp thuật, bác bao giờ cũng loại trừ tất cả các nguy hiểm (như người ta có thể làm được) đối với người khác. Chưa từng có một chuyện như thế này xảy ra với bác.

Bây giờ thì Jadis lên tiếng, giọng không to lắm nhưng có một cái gì đó trong giọng nói của mụ làm căn phòng rung lên:

- Pháp sư, cái kẻ đã mời ta đến thế giới này ở đâu?

- À… à… thưa quý bà, - bác Andrew vừa nói vừa thở rất khó nhọc, - tôi có được vinh dự cao quý nhất… một phần thưởng lớn… một niềm vui ngoài sự mong đợi… nếu như chỉ với tư cách là người… có cơ hội thực hiện bất cứ sự chuẩn bị nào… tôi… tôi… tôi…

- Pháp sư đâu, tên ngu ngốc kia? – Jadis xẵng giọng.

- Tôi… chính là tôi thưa bà. Tôi hi vọng bà sẽ thể tất cho bất cứ… hừm… sự vô lễ… thất kính nào mà bọn nhóc con hư hỏng này đã vô phép với quý bà. Tôi xin đoán chắc với quý bà là ở đây không có một dự tính nào…

- Ngươi? – Nữ hoàng nói với cái giọng càng lúc càng ghê rợn hơn. Rồi chỉ với một sải chân, mụ đã bước ngang qua căn phòng, túm lấy một nắm tóc bạc của bác Andrew, giật ngửa lên để nhìn vào tận mặt bác. Sau đó, mụ chăm chú nhìn khuôn mặt ấy theo cái cách đã ngắm nghía mặt Digory lúc còn ở cung điện Charn. Bác Andrew hấp háy đôi mắt, cắn môi bồn chồn trong suốt khoảng thời gian đó. Cuối cùng, người đàn bà thả bác ra, đột ngột đến mức bác loạng quạng lùi lại ngã dụi người vào bức tường sau lưng.

- Ta thấy, - mụ nói, giọng miệt thị đến điều, - ngươi đúng là một pháp sư… thấp kém nào đó. Đứng lên đi, đồ chó và đừng có bò lê như thể ngươi đang nói về sự bằng vai phải lứa của ngươi. Làm thế nào mà ngươi lại biết được Ma thuật? Ta xin thề là trong ngươi không có lấy một giọt máu quý tộc.

- Thưa… không… có lẽ là không theo cái nghĩa nghiêm ngặt của từ này. – Bác Andrew lúng búng nói. – Không hẳn là hoàng tộc, thưa quý bà. Tuy vậy, dòng họ Ketterley cũng là dòng họ lâu đời đấy ạ. Và dòng họ Dorsetshire thưa bà…

- Câm miệng! – Phù thủy gắt lên. – Ta biết ngươi là hạng người nào rồi. Một pháp sư bé nhỏ, cả mèng chỉ lẩn mẩn với đống sách vở cũ rích và những quy tắc. Không có pháp thuật nào trong tim và máu ngươi. Các loại pháp sư như ngươi đã tuyệt diệt trong thế giới của ta ngàn năm rồi, nhưng ở đây ta cho phép ngươi được làm tôi tớ hầu hạ ta.

- Bề tôi sẽ là người hạnh phúc nhất - sung sướng được phục vụ bề trên bất cứ điều gì - một diễm phúc, thật thế ạ.

- Câm miệng lại! Ngươi lép bép quá nhiều đấy. Hãy nghe ta giao nhiệm vụ đầu tiên đây. Theo ta thấy chúng ta đang ở một thành phố lớn. Đem đến ngay cho ta một cỗ xe hoặc một tấm thảm biết bay hoặc một con rồng đã được thuần hóa hoặc bất cứ một cái gì được các vương tôn, công tử hoặc giới đại quý tộc ở xứ này sử dụng. Sau đó đưa ta đến nơi ta có thể có những bộ trang phục, nữ trang và bọn nô lệ xứng đáng với địa vị của ta. Ngày mai ta sẽ bắt đầu thuần phục thế giới này.

- Tôi… bề tôi… kẻ đầy tớ này sẽ đi gọi ngay một cỗ xe ạ! – Bác Andrew lập bập nói.

- Khoan đã, - phù thủy ra lệnh đúng lúc bác đi ra đến cửa, - đừng có mơ đến chuyện phản bội ta nhé. Con mắt ta có thể nhìn xuyên tường, đọc ý nghĩ của kẻ khác vanh vách. Nó sẽ dõi theo ngươi đến bất cứ nơi nào ngươi đến. Hễ ta phát hiện ra dấu vết bất trung đầu tiên, ta sẽ trừng phạt ngươi ngay lập tức để cho bất cứ cái gì ngươi ngồi lên đều biến thành một cục sắt nung đỏ rực và bất cứ khi nào ngươi nằm xuống thì cái giường sẽ lập tức biến thành một giường băng vô hình dưới thân ngươi. Bây giờ thì cút mau!

Ông già lủi thủi đi khỏi, dáng vẻ giống như một con chó với cái đuôi cụp xuống giữa hai chân sau.

Hai đứa trẻ đứng lại, sợ rằng Jadis sẽ hỏi tội về chuyện xảy ra trong khu rừng. Tuy vậy mọi việc có vẻ như là phù thủy sẽ không nhắc đến chuyện đó vào lúc này và cả sau này cũng thế. Tôi nghĩ (và Digory cũng nghĩ) rằng đầu óc mụ thuộc vào loại không thể lưu giữ cái gì về cái chốn yên tĩnh ấy, dù bạn có thường xuyên đưa mụ lên đó rồi bỏ mụ lại đấy thật lâu thì mụ cũng sẽ không có ý niệm gì về nơi ấy. Lúc này chỉ còn lại mình mụ với hai đứa trẻ, mụ cũng tuyệt nhiên không để ý đến bất cứ đứa nào. Và điều đó cũng đúng với con người mụ. Ở Charn, mụ không hề để mắt tới Polly (cho đến phút cuối) bởi vì Digory mới là người mụ muốn dùng cho lợi ích của mình. Bây giờ đã có trong tay bác Andrew, mụ không thèm để ý đến Digory nữa. Tôi thì tôi cho rằng hết thảy những bà phù thủy đều như thế. Họ không quan tâm đến người khác hoặc vật khác trừ khi họ có thể dùng người hoặc vật ấy vào một việc gì đó - họ thực dụng dễ sợ. Im lặng ngự trị trong phòng khoảng một hoặc hai phút. Nhưng bạn có thể căn cứ vào cách Jidas nhịp nhịp chân trên sàn mà nói rằng mỗi lúc mụ một mất kiên nhẫn hơn.

Sau đó mụ nói:

- Chà, không biết cái con rối già kia đang làm cái giống gì. Lẽ ra ta phải mang theo người một cái roi. – Phù thủy đi qua đi lại trong phòng làm việc của bác Andrew tìm kiếm một vật gì đó, vẫn không thèm liếc qua bọn trẻ lấy một cái.

- Ái chà! – Polly buột miệng, thở ra một hơi dài, nhẹ nhõm. – Giờ thì tớ phải về nhà đây. Đã muộn lắm rồi, tớ sẽ gặp phải chuyện lôi thôi đấy.

- Ừ, đi đi, nhưng cậu hãy quay lại đây càng sớm càng tốt nhé. Có mụ ta ở đây thật là đại họa. Chúng mình phải nghĩ ra một kế sách nào đó.

- Chuyện ấy thì cậu cứ để cho bác Andrew lo. Chính ông ta là người bắt đầu tất cả những chuyện rắc rối liên quan đến pháp thuật pháp thiếc này.

- Thì mọi chuyện vẫn vậy thôi. Cậu sẽ quay lại ngay chứ? Thôi đi mà, cậu không thể để tớ lại một mình trong một tình thế khó khăn như thế này.

- Tớ sẽ về nhà theo đường thông trên trần. – Polly nói, giọng tỉnh queo, lạnh lùng. - Đó là cách nhanh nhất. Và nếu cậu muốn người bạn này quay lại, cậu không thể không xin lỗi phải không?

- Xin lỗi! - Digory kêu lên. - À phải, nếu đây không phải là một cô bé. Mà tớ đã làm gì sai trái?

- Chẳng làm gì, tất nhiên rồi. - Polly dài giọng nhạo báng. - Chỉ thiếu một chút nữa đã vặn gãy tay tôi trong căn phòng có người sáp, như một tên côn đồ hèn nhát. Chỉ đánh chuông như một thằng đại ngốc… chỉ quay đầu lại ở cánh rừng để mụ ta có thời gian tóm vào tai cậu trước khi chúng ta nhảy xuống hồ. Cậu chỉ làm có bằng ấy việc thôi…

- Ôi! – Digory kêu lên, giọng hết sức ngao ngán. - Ồ, phải, tớ sẽ nói lời xin lỗi. Tớ rất tiếc về những việc xảy ra ở lâu đài Charn. Bây giờ tớ chính thức xin lỗi. Vậy, cậu hãy tỏ ra biết điều và hãy quay lại nhé. Tớ sẽ sợ lắm đấy nếu cậu không quay lại.

- Tớ không thấy có chuyện gì xảy ra với cậu. Ông Ketterley mới là người phải nghỉ trên chiếc ghế nung đỏ và nằm trên giường băng, phải không?

- Không phải chuyện đó. – Digory nói. – Tớ lo là lo cho mẹ tớ. Giả sử mụ phù thủy tìm đến phòng mẹ, mụ ta có thể làm cho mẹ tớ sợ đến chết.

- Ồ, tớ biết rồi. - Polly nói bằng một giọng nghe có vẻ khang khác. - Được thôi, chúng ta sẽ gọi nó là Pax. Tớ sẽ quay lại - nếu có thể. Nhưng bây giờ tớ phải đi đây.

Nói đoạn, nó bò qua cái cửa nhỏ đi vào đường thông trên trần. Cái con đường tối đen qua các rui nhà ấy mới vừa có vẻ đầy đe dọa và mạo hiểm là thế mà giờ đây lại hiền hòa thân thuộc biết bao nhiêu.

Chúng ta phải quay lại với bác Andrew. Trái tim tội nghiệp, già nua của ông đập như trống làng khi ông thất thểu đi xuống cầu thang, vừa đi vừa rút khăn tay chậm mồ hôi. Khi xuống đến phòng ngủ ở ngay tầng dưới, ông khóa trái cửa lại. Việc đầu tiên mà ông làm là quờ quạng trong tủ quần áo tìm một chai rượu và một cái ly mà bao giờ ông cũng giấu ở đấy nơi mà dì Letty không nghĩ đến chuyện lục soát để tìm một chai rượu. Ông rót ra đầy đến ngọn thứ chất lỏng dành cho những người lớn xấu tính và chỉ với một động tác dốc hết vào cổ. Đoạn ông hít một hơi thật dài.

- Thật thà mà nói, - ông lẩm bẩm một mình, - ta sợ đến run bắn cả người. Một sự kiện chấn động nhất. Ở vào cái tuổi này nữa chứ!

Ông rót đầy ly thứ hai và cũng nốc cạn ngay lập tức, sau đó ông thay quần áo. Bạn chưa bao giờ trông thấy cái bộ quần áo ấy đâu nhưng mà tôi có thể nhớ rất rõ. Ông đeo một cái cổ cồn cao, cứng nhắc và trắng toát, cái lúc nào cũng làm cho bạn phải hất ngược cằm lên. Ông mặc ra ngoài một cái áo khoác màu trắng, có trang trí họa tiết rồi gài một dây xích đồng hồ bằng bạc lên trước ngực. Bên ngoài ông lại khoác thêm một chiếc áo choàng dài, đẹp nhất mà ông chỉ dành cho những dịp đi dự đám cưới hoặc đám tang. Ông lấy ra cái mũ ống và đánh cho nó sáng bóng lên.

Trên cái bàn cạnh tủ áo có một bình hoa (do dì Letty cắm), ông chọn lấy một bông đẹp nhất rồi cài vào khuy áo. Sau đó ông mở ngăn kéo nhỏ bên trái lôi ra một chiếc khăn mùi xoa sạch (thuộc loại khăn tuyệt đẹp mà ngày nay bạn không kiếm đâu ra) rồi nhỏ lên đấy vài giọt nước hoa. Đoạn, ông lấy ra một cặp kính có dải ruy băng dài màu đen, đeo lên mắt và đứng ở trước gương ngắm nghía.

Trẻ con có cái ngốc nghếch của trẻ con, người lớn cũng có cái ngớ ngẩn của người lớn. Đến lúc này ông già Andrew cũng bắt đầu cưa sừng làm nghé theo cái kiểu như người xưa vẫn thường nói: ông già với trẻ lên ba là một. Một khi phù thủy không còn ở cùng một phòng với ông nữa thì ông cũng mau chóng quên rằng mụ đã làm cho ông bở vía như thế nào. Ông chỉ nghĩ đến mỗi vẻ đẹp chim sa cá lặn của mụ. Ông cứ mãi lẩm bẩm một mình: - Chu cha, một  người đàn bà đẹp tuyệt trần, trời đất, một người đẹp có một không hai. Một tạo vật siêu tuyệt. Một cách nào đó ông cũng cố quên đi hai đứa bé đang trong tay tạo vật siêu tuyệt này mà sung sướng rằng chính pháp thuật của mình đã đưa người đẹp tới đây từ một thế giới không được ai biết đến.

- Andrew cậu bé của ta, - ông nói với chính mình khi soi vào trong lòng, - cậu còn ngon lành ra phết ở cái tuổi của mình đấy. Một gã trai hết sức ưu tú!

Bạn thấy chưa, ông già ngu ngốc này bắt đầu tưởng tượng là phù thủy đã đem lòng say mê mình. Hai ly rượu rõ to rõ ràng là đã có tác động trong chuyện này, và cả những bộ đồ đẹp nữa. Nhưng mà dù sao thì ông ta cũng phù phiếm như một con công trống. Đó là lý do tại sao ông ta lại trở thành một pháp sư.

Ông khóa cửa lại, đi xuống lầu rồi sai cô hầu gái ra ngoài tìm một cỗ xe đẹp (ngày ấy, ai cũng có một vài người hầu hạ). Andrew đưa mắt nhìn vào phòng khách. Ở đấy như ông mong đợi, có dì Letty. Bà đang bận rộn vá một vài tấm nệm. Tấm nệm đang trải ra sàn gần cửa sổ và bà đang quỳ lom khom bên cạnh.

- Chào em Lettia thân yêu. – Bác Andrew bắt đầu. – À… à... mà anh ra ngoài có chút việc. Bé có thể cho anh mượn 5 bảng không bé? (Bé – là cách ông gọi cô em gái già chưa chồng).

- Không đâu, Andrew thân yêu. – Dì Letty đáp với giọng nghiêm nghị, nhỏ bé, vẫn không ngẩng đầu lên khỏi việc đang làm. – Em đã nói với anh không biết bao nhiêu lần rồi, em sẽ không cho anh mượn tiền nữa đâu.

- Thôi mà, cầu xin bé đừng làm khó anh, bé thân yêu. Chuyện này tối quan trọng. Bé sẽ đặt anh vào tình thế vô cùng rắc rối, tế nhị mà bé không biết rõ đâu.

- Andrew, - dì Letty nói to, ngẩng đầu lên nhìn thằng vào mặt ông anh, - em tự hỏi tại sao anh không hề xấu hổ khi hỏi mượn tiền của em?

Đó là cả một câu chuyện dài lê thê, chán phát ốm lên của người lớn khi họ bắt đầu bằng những ngôn từ này. Đại loại, bạn chỉ cần biết là bác Andrew, với tư cách là – người quản lý công việc làm ăn cho Letty thân yêu – đã chẳng làm được trò trống gì và với một chồng hóa đơn trả cho rượu mạnh và xì gà (mà dì Letty bao giờ cũng phải xùy tiền ra trả  hết lần này đến lượt khác) đã làm cho đồng vốn của cô em gái cạn dần so với ba năm về trước.

- Bé thân yêu, em không hiểu đâu. Quả là hôm nay anh có một số việc phải chi phí. Anh phải làm một cái gì đó để tiêu khiển. Thôi mà, đừng rầy rà thêm nữa.

- Ai? Lạy Chúa tôi, anh đi vui thú với ai thế anh Andrew?

- À… à… chả là có một vị khách đặc biệt vừa ghé qua.

- Chuyện ba láp ba xàm. – Dì Letty kêu lên. – Suốt một giờ qua đâu có nghe tiếng chuông kêu cửa gì đâu.

Đúng lúc đó, cửa phòng khách thình lình bật mở. Dì Letty nhìn lên, xiết bao kinh ngạc khi thấy một người đàn bà cao lừng lững như cái tháp mặc một tấm áo dài lộng lẫy để lộ đôi cánh tay và đôi mắt sáng quắc đứng sừng sững bên ngoài. Đó chính là phù thủy.

- Nào tên nô lệ kia, ta phải đợi cỗ xe đến đón ta đi trong bao lâu đây? – Phù thủy gầm lên như sấm rền. Bác Andrew dúm người lại lảng ra xa. Lúc này, khi phù thủy hiện ra, bao nhiêu ý nghĩ ngu xuẩn, vẩn vơ, lãng mạn lúc ông đứng soi gương đã biến sạch khỏi đầu. Nhưng dì Letty lập tức đứng dậy đi ra khỏi phòng.

- Andrew, em có thể hỏi cô ả này là ai không? – Bà hỏi, trong giọng nói nghe như có hơi thở của băng giá.

- Một người nước ngoài xuất chúng… hết sức quan… trọng. – Ông ấp úng.

- Chuyện vớ vẩn. – Dì Letty nói rồi quay sang phù thủy. – Ra khỏi nhà tôi ngay, đồ con gái trắc nết mặt dạn mày dày kia, nếu không tôi sẽ gọi ngay cảnh sát đến. – Bà nghĩ phù thủy là một loại con gái hạ đẳng làm việc trong một rạp xiếc và bà thấy đôi cánh tay trần trông hết sức chướng mắt.

- Con mụ này là ai vậy? – Jadis hỏi. – Quỳ xuống đồ rác rưởi, trước khi ta vật chết mi.

- Không ăn nói thô bạo trong nhà này, xin cô chú ý cho, thưa quý cô.

Vào lúc đó, dưới con mắt của bác Andrew dường như phù thủy còn vươn người cao hơn nữa. Lửa tóe ra từ đôi mắt mụ, phù thủy vung một cánh tay lên cũng với cái dáng điệu và phát ra những từ kinh khủng đã biến cánh cổng vĩ đại của kinh thành Charn thành tro bụi cách đây không lâu. Nhưng chẳng có chuyện gì xảy ra trừ việc dì Letty nghĩ những từ kinh khủng này chỉ có nghĩa như những từ tiếng Anh thô tục, bèn nói:

- Tôi nghĩ như thế là quá lắm. Người đàn bà này say rồi. Đồ nát rượu. Cô ả thậm chí không còn nói năng cho ra hồn nữa.

Đó là một thời khắc kinh hoàng đối với phù thủy, mụ bất thần nhận ra rằng quyền năng biến người thành tro bụi, một điều khả thi trong thế giới của mụ lại không hề phát huy tác dụng trong thế giới của chúng ta. Nhưng mụ không để mất tinh thần dù chỉ trong một giây. Không hề lãng phí thời gian suy nghĩ về sự bất lực của mình, mụ bất ngờ lao lên, một tay túm cổ, một tay túm chân cô gái già giơ cao lên quá đầu như thể dì Letty không hề nặng hơn một con búp bê rồi ném bà qua suốt chiều dài căn phòng. Trong lúc dì Letty vẫn bay trong không trung thì cô hầu gái (người có cả một buổi sáng đầy kích động) thò đầu vào cửa và nói:

- Thưa ngài, xe đã sẵn sàng như ngài muốn.

- Dẫn đường, tên nô lệ. – Phù thủy quay ra nói với bác Andrew. Ông bắt đầu lầu bầu cái gì có về - hành động bạo lực đáng tiếc – cần phải có hành động tự vệ thực sự - nhưng chỉ cần một cái liếc mắt của Jadis đã làm ông phải nín khe. Mụ đẩy ông ra khỏi phòng rồi ra khỏi nhà; Digory chạy xuống cầu thang vừa đúng lúc nhìn thấy cánh cửa trước sập lại sau lưng họ.

- Chị Jiminy! – Nó gọi. – Bà ta lại lang thang ở London cùng với bác Andrew! Tôi tự hỏi không biết còn có chuyện gì diễn ra nữa đây?

- Ồ, thưa cậu Digory, - người hầu gái lên tiếng (chị ta hẳn có một ngày tuyệt đẹp), - tôi nghĩ Miss Ketterly đang bị đau đấy ạ. – Thế là cả hai chạy vào phòng khách xem ở đó có chuyện gì xảy ra.

Nếu dì Letty rơi xuống một cái tủ lạnh hoặc thậm chí một tấm thảm thì e tất cả những khúc xương già nua của bà sẽ gãy vụn ra mất nhưng nhờ vào một hồng phúc to lớn, bà lại rơi vào tấm nệm bông. Dì Letty là một người đứng tuổi rất chi là nghiêm nghị: thì các bà các cô không chồng ngày ấy đều như vậy đấy. Sau khi đã lấy lại bình tĩnh và sau khi ngồi im phăng phắc vài phút, bà nói chẳng có chuyện gì nghiêm trọng trừ một vài chỗ trầy xước. Chẳng bao lâu sau bà đã làm chủ được tình thế.

- Lurah, - bà nói với cô hầu gái (người chưa bao giờ trải qua một ngày như thế này), - mau đến ngay đồn cảnh sát báo với họ là có một kẻ tâm thần rất nguy hiểm đang ở đây. Tôi sẽ đi cho bà Kirke ăn trưa ngay.

Bà Kirke tất nhiên là mẹ của Digory.

Sau bữa trưa của mẹ Digory là đến bữa ăn của nó và dì Letty. Sau đó nó ngồi suy nghĩ lung lắm.

Vấn đề là ở chỗ làm cách nào đưa phù thủy trở về thế giới của mụ hoặc bằng bất cứ cách nào đưa mụ ra khỏi thế giới của chúng ta càng sớm càng tốt. Dù có chuyện gì xảy ra thì cũng không thể để phù thủy lang thang trong ngôi nhà này. Mẹ tuyệt đối không được thấy mặt mụ. Và nếu có thể, mụ cũng không được lang thang trên các đường phố London nữa. Digory không có mặt trong phòng khách vào lúc phù thủy cố - thiêu - dì Letty ra tro nhưng nó đã chứng kiến cảnh Jadis - thiêu hủy - cổng thành kiên cố ở Charn, vì thế nó chỉ biết pháp thuật ghê gớm của phù thủy mà không biết là mụ đã  để mất tất cả những năng lực siêu phàm ấy khi bước chân vào thế giới này. Vào lúc này, như nó có thể thấy, phù thủy có thể đã phá hủy cung điện Buckingham hoặc Nhà Quốc hội và chắc chắn có một số cảnh sát bây giờ đã biến thành tro bụi. Dường như Digory không thể làm gì để cứu vãn tình hình được nữa.

- Những chiếc nhẫn dường như có thể hoạt động như  nam châm. – Digory nghĩ. – Nếu như mình có thể chạm vào người mụ rồi chạm vào cái nhẫn vàng thì cả hai sẽ bay đến cánh rừng đệm giữa hai thế giới. Không biết ở đấy mụ có bị xỉu đi như lần trước không? Có một cái gì đấy ở đó tác động đến mụ hoặc có thể đó chỉ là một cú sốc khi mụ bị lôi ra khỏi thế giới quen thuộc của mình. Cứ cho là mình sẽ liều mạng làm việc đó, nhưng mình biết kiếm mụ ở đâu! Mình không nghĩ là dì Letty sẽ cho mình ra ngoài trừ khi mình phải giải thích ngọn ngành là mình sẽ đi đâu. Mà mình thì không có hơn hai xu. Mình cần một khoản tiền đủ để đi xe buýt hoặc xe ngựa nếu để tìm mụ, mình buộc phải lang thang khắp London. Dù sao thì mình cũng không mảy may có ý niệm cần phải đi đâu. Không biết là bác Andrew có còn bên cạnh mụ ta không nữa.

Cuối cùng có vẻ như điều duy nhất mà Digory có thể làm là ngồi đợi bác Andrew và phù thủy quay về. Nếu mọi việc xảy ra đúng như nó dự đoán, nó phải lao ra ngoài, bám vào người phù thủy đồng thời chạm tay vào chiếc nhẫn vàng trước khi mụ có cơ hội bước vào nhà. Điều đó có nghĩa là nó phải canh gác cửa trước như một con mèo rình trước hang chuột. Nó không được rời vị trí dù chỉ trong một tích tắc. Thế là nó đi vào phòng ăn và dán mắt vào cửa sổ như người ta thường nói. Đó là một cửa sổ vòm, từ đó bạn có thể nhìn từ bậc thềm trên đến cửa trước, ngoài ra còn có thể nhìn ngược nhìn xuôi xuống phố; như thế không có ai xuất hiện ở ô cửa trước mà bạn không nhìn thấy. - Không biết giờ này Polly đang làm cái gì nữa. – Digory thầm hỏi.

Nó ngồi đó nghĩ vẩn vơ nhiều chuyện trong nửa giờ chậm rì đầu tiên. Bạn không cần phải sốt ruột bởi vì tôi sẽ là người nói cho bạn biết mọi chuyện. Polly về nhà trễ so với giờ ăn trưa, ai cũng thấy là giày và vớ con bé ướt sũng. Khi người nhà hỏi nó đi đâu và làm những chuyện quái quỷ gì, nó bảo nó đi ra ngoài với Digory Kirke. Trả lời vài câu hỏi thóc mách khác, nó bảo sở dĩ đôi giày bị ướt là do nó lội xuống vũng nước và vũng nước ấy ở trong một khóm rừng. Hỏi rừng ở đâu thì nó lại tắc tị không nói được. Khi người ta hỏi có phải cánh rừng ấy ở trong một công viên không thì nó trả lời với giọng vồ vập là nó cũng nghĩ thế. Từ những dữ kiện đó, mẹ Polly đi đến một kết luận là Polly đã đi ra ngoài mà không xin phép ai, lại đến một nơi mà nó không biết rõ, vào một khu rừng xa lạ và nghịch bẩn đến mức như vầy trong một vũng nước. Bấy nhiêu sự việc đủ để bà mẹ đưa ra một phán quyết: - Polly không ngoan và nó không được phép chơi với thằng nhóc Kirke nữa để đề phòng một chuyện gì tương tự có thể xảy ra. Thế là nó phải ngồi ăn bữa trưa sau khi các thành viên ngoan ngoãn khác đã dùng bữa xong và phải lên giường ngủ trưa trong vòng hai tiếng. Đó là một kỉ luật thường được áp dụng vào thời ấy.

Trong lúc Digory dán mắt vào cửa sổ phòng ăn, Polly nằm trên giường, cả hai đứa đều nghĩ thời gian trôi chậm dễ sợ. Tôi cũng như thế thôi, nếu tôi ở trong hoàn cảnh của Polly, đợi cho hai giờ cấm túc trôi qua, trong khi cứ vài phút Digory lại nghe tiếng bánh xe lăn  qua trên đường phố hoặc một chiếc xe chở bánh của bác thợ làm bánh mì hoặc một thằng nhỏ đầu sai của bác hàng thịt đi ra từ một góc phố và lần nào nó cũng nghĩ: - Ồ, mụ ta đã về, - để rồi nhận ra nó lại bé cái nhầm. Trong những lần báo động giả này, mỗi phút trôi qua đều dài đằng đẵng trong đó tiếng đồng hồ kêu tích tắc một cách đều đều và một con ruồi trâu cứ bay lên bay xuống, vo ve quanh cửa sổ làm cho Digory có cảm giác rất khó chịu. Đó là một trong những thời khắc yên lặng và nhàm chán nhất của buổi chiều và bao giờ cũng nghe phảng phất có mùi thịt cừu.

Trong suốt mấy giờ chờ đợi dài đằng đẵng ấy có một việc nhỏ xảy ra mà tôi cũng nên điểm qua bởi vì sau đó nó trở nên rất quan trọng. Có một quý bà đến thăm mẹ Digory, mang biếu một chùm nho, và vì cánh cửa phòng để ngỏ, Digory không thể không nghe thấy tiếng trò chuyện giữa khách và dì Letty từ phòng khách vọng ra.

- Ôi, những trái nho trông mới ngon lành làm sao! - Đó là giọng dì Letty. - Tôi chắc nếu trên đời này có một cái gì đó có thể làm cho em tôi khỏe lại thì đó là thứ này. Mabel đáng thương, yêu quý của chúng tôi! Tôi e là chỉ có trái cây từ mảnh đất của tuổi thanh xuân vĩnh cửu mới giúp được em nó lúc này. Bây giờ thì chẳng có gì ở trên đời này có thể làm được gì nhiều. – Đến đây, cả hai đều hạ giọng thì thầm nói nhiều chuyện khác mà nó không nghe được. Nếu cách đây mấy hôm, nó nghe được câu chuyện miền đất của tuổi trẻ vĩnh cửu nó sẽ nghĩ ngay là bà dì già nua của mình chỉ nói những chuyện tầm phào vô nghĩa như người lớn vẫn thế và nó chẳng thèm để tâm đến làm gì. Lúc này nó cũng gần như đã nghĩ như thế. Nhưng bất thình lình một ý nghĩ lóe lên trong đầu nó, rằng giờ thì nó biết (mà dì Letty lại không hề biết) là có tồn tại cả những thế giới khác và bản thân nó đã từng đặt chân đến một nơi như vậy. Rất có thể là có tồn tại Mảnh đất của Tuổi trẻ vĩnh hằng, ở một nơi nào đó. Hầu như chuyện gì cũng có thể xảy ra. Rằng có một thứ trái cây ở một miền đất khác có thể chữa bệnh cho mẹ nó. Ái chà… chắc bạn cũng rõ là khi trong bạn nảy sinh một niềm hi vọng nào đó thì bạn sẽ tha thiết mong muốn nó xảy ra như thế nào đến mức bạn gần như phải bóp chết hi vọng đó bởi vì nó quá tốt đẹp để có thể là hiện thực. Chẳng phải có bao nhiêu điều kì lạ xảy ra đó sao? Digory đang có trong tay những chiếc nhẫn màu nhiệm. Chắc chắn là có nhiều thế giới mà nó có thể bay đến qua mỗi hồ nước trong rừng. Nó có thể đi qua tất cả những cái hồ đó. Và rồi mẹ sẽ khỏe lại. Mọi thứ lại đâu vào đấy. Nó phấn khích với ý nghĩ này đến mức quên cả chuyện phải ngồi rình phù thủy. Tay nó đã sẵn sàng cho vào cái túi nó để chiếc nhẫn màu vàng thì nghe có tiếng vó ngựa nện rầm rập xuống đường phố.

- Chu cha! Chuyện gì thế vậy? – Digory nghĩ. – Xe chữa cháy à? Không biết nhà nào bị cháy đây. Lạy Chúa tôi, đến rồi. Bởi vì đó là mụ ta.

Tôi đâu cần phải giải thích cho bạn hiểu “mụ ta” ám chỉ cái gì, phải không?

Một cỗ xe ngựa ầm ầm lao tới. Không có ai ngồi trên ghế của người đánh xe. Trên nóc xe – không ngồi mà đứng sừng sững, thỉnh thoảng lại nghiêng người để giữ thăng bằng bởi vì cỗ xe lao đi hết tốc lực với một bánh xe văng lên trời – chính là Jadis, nữ hoàng của những bà hoàng và là Thần khủng bố của xứ Charn: Hai hàm răng trắng nhe ra, đôi mắt như bốc lửa, mái tóc dài bay phần phật phía sau như đuôi sao chổi. Mụ ta ra roi quất con ngựa, không thương xót. Lỗ mũi ngựa nở rộng và đỏ rực, hai bên sườn nó bọt phun trắng xóa. Con ngựa phóng như điên đến cửa trước, sượt qua cột đèn đường trong đường tơ kẽ tóc, đoạn dừng hai chân sau lên đá hậu. Cỗ xe lao vào cột đèn vỡ ra thành mấy mảnh. Phù thủy với một cú nhảy ngoạn mục rất đúng lúc đã ngồi ngay ngắn lên lưng ngựa. Mụ sửa lại tư thế, cúi người về phía trước thì thầm một điều gì đó vào tai nó. Chắc chắn đó là những lời không có tác dụng làm con ngựa đang hăng máu dịu đi mà chỉ làm cho nó trở nên bất kham hơn. Con ngựa lại dựng hai chân sau lên đá lần nữa, tiếng hí của nó nghe như tiếng gào thét. Nó khua móng, nhe răng, mắt đỏ nọc và bờm dựng đứng lên. Chỉ có một kị sĩ tài ba mới có thể ngồi vững trên lưng nó.

Trước khi Digory lấy lại được hơi thở, một loạt các việc khác dồn dập xảy ra. Một chiếc xe thứ hai lao đến sau chiếc thứ nhất, nhảy ra khỏi xe là một người đàn ông to béo mặc áo choàng dài và một viên cảnh sát. Sau chiếc xe có khoảng 20 người (đa số là những cậu bé chạy việc vặt) cưỡi xe đạp, rung chuông xe ầm ĩ, miệng la hét như điên. Cuối cùng là một đám đông chạy bộ: tất cả đều mệt sau một đoạn đường chạy thục mạng nhưng rõ ràng là họ rất khoái trò này. Các cửa sổ trông ra đường của tất cả các ngôi nhà đều bật mở, một cô hầu gái hoặc một người bán thịt xuất hiện ở mỗi cánh cửa đi vào nhà. Họ không muốn bỏ qua một dịp vui vẻ.

Trong khi đó, một ông già bắt đầu vùng vẫy như điên để thoát ra khỏi cỗ xe bị vỡ nát. Vài người lao đến giúp đỡ ông ta, nhưng bởi vì người này thì muốn lôi qua cửa này, người khác lại muốn kéo ông ra chỗ khác thành thử ông không thể chui ra nhanh như mình muốn. Digory đoán ông già đó chính là bác Andrew nhưng nó không thể nhìn rõ mặt bởi vì chiếc mũ ông đã chụp xuống che khuất một phần khuôn mặt.

Digory lao ra, nhập vào đám đông.

- Người đàn bà ấy, chính bà ta! – Một người đàn ông to béo kêu lên chỉ vào Jadis. – Hãy thực hiện trách nhiệm của mình đi, ông đội. Bà ta đã cướp cửa hiệu của tôi, thiệt hại hàng trăm, hàng ngàn bảng đấy. Coi kìa, coi cái sợi dây ngọc trai đeo quanh cổ cô ả kìa, của tôi đấy. Cô ả còn tặng tôi một bên mắt tím đen đấy, còn nữa…

- Công nhận người đẹp chơi đẹp thật. – Một người trong đám đông nói. – Một con mắt đẹp như thế thì tôi cũng muốn nhìn ngắm nữa là. Cái đẹp thì phải được… Lạy Chúa tôi, khiếp… đàn bà gì mà bốc thế… Chu cha!

- Ông phải đặt một miếng bít tết tươi ngon lên mắt, thưa ông, đó là việc cần làm ngay, - một cậu loong toong trong một cửa hàng thịt pha trò.

- Nào bây giờ thì, - người có vẻ quan trọng nhất trong đám cảnh sát nói, - tất cả chuyện này là như thế nào đây?

- Báo cáo ông, cô ta… - người chủ hiệu to béo toan bắt đầu thì có một người la lớn.

- Đừng để lão già trong xe kia trốn thoát. Bắt lão lại. – Lão già đích thị là bác Andrew, thành công trong việc chui ra khỏi xe đang đứng xoa xoa mấy chỗ bị đau.

- Nào bây giờ, - viên cảnh sát quay sang bác, - chuyện này nghĩa là thế nào đây?

- Womfle – pomfy – shomf. – Giọng lập bập của Andrew vang ra bên từ bên trong cái mũ.

- Không phải chuyện đùa. – Viên cảnh sát nói giọng nghiêm khắc. – Ông sẽ thấy ngay là chuyện này chẳng có gì buồn cười hết. Bỏ mũ ra nghe chưa?

Nói thì dễ hơn làm. Trong khi bác Andrew cố gắng một cách vô vọng để gỡ cái mũ ra thì có hai viên cảnh sát đỡ vành mũ, giúp ông kéo nó ra.

- Cảm ơn, cảm ơn, - bác Andrew nói với giọng yếu ớt, - cảm ơn nhiều. Trời ơi, tôi được một phen hú vía. Có ai vui lòng cho tôi xin một hớp rượu mạnh không?

- Bây giờ xin ông vui lòng đi theo tôi. – Ông sĩ quan cảnh sát rút ra một cuốn sổ to tổ bố và một cái bút chì bé tẹo. – Ông chịu trách nhiệm về người phụ nữ trẻ kia phải không?

- Coi kìa! – Một vài giọng nhao nhao cất lên và viên cảnh sát nhảy ra sau rất đúng lúc. Con ngựa nhắm đá vào ông một đòn chí mạng nếu ông không tránh được. Phù thủy điều khiển ngựa chạy vòng tròn để mụ có thể đối mặt với đám đông trên lưng con ngựa dựng đứng người lên trên hai chân sau. Mụ lăm lăm trên tay một con dao dài, loang loáng, bận rộn giải phóng con ngựa ra khỏi cỗ xe vỡ nát.

Trong lúc đó, Digory cố len lỏi đến gần vị trí mà nó có thể chạm tay vào phù thủy. Điều này không dễ dàng chút nào bởi vì phía gần nó nhất thì có quá nhiều người đang chen lấn xô đẩy nhau, để sang được phía bên kia thì nó phải lách qua được những cái móng ngựa đang giương lên và một hàng rào bao quanh lãnh địa trước nhà, bởi vì nhà họ Ketterley có một tầng hầm. Nếu bạn biết bất cứ cái gì về lũ ngựa, nhất là khi bạn chứng kiến cảnh một con ngựa đang lúc nổi xung, bạn sẽ nhận ra chỉ có mất trí mới dám đối mặt với nó. Digory hiểu biết về loài ngựa nhưng nó vẫn nghiến chặt hàm răng lại sẵn sàng liều một phe ngay khi có cơ hội làm thế.

Một người đàn ông mặt đỏ gay đỏ gắt, đôi một chiếc mũ quả dưa lách vai đi qua đám đông chen lên trước.

- Chào ông cảnh sát, - người này nói, - con ngựa người đàn bà kia đang cưỡi là của tôi, cả cỗ xe mà cô ả làm thành một đống gỗ vụn kia nữa.

- Mỗi lúc một việc, xin ông, mỗi lúc giải quyết một việc thôi. – Viên cảnh sát xua tay.

- Nhưng không còn thời gian nữa. – Người chủ xe nói. – Tôi biết rõ con ngựa này hơn ông. Nó không thuần như một con ngựa bình thường. Nếu cô ả kích động nó, sẽ có khối người thiệt mạng vì nó. Thưa ngài, hãy để tôi trị nó.

Viên cảnh sát quá hài lòng khi có một lý do chính đáng để tránh xa con ngựa đang nổi điên. Chủ xe tiến lại gần con ngựa một bước, nhìn Jadis và nói bằng một giọng không phải là thiếu thiện chí.

- Thưa cô, để tôi kìm nó lại giúp cô xuống ngựa. Cô là một tiểu thư lá ngọc cành vàng và cô không muốn tất cả đám đông này chạy theo cô, phải thế không? Cô nên về nhà, làm một ly trà ngon và nằm xuống nghỉ ngơi một lát. Sau đó cô sẽ cảm thấy khá hơn nhiều. – Cũng lúc đó người đàn ông chìa tay ra cho con ngựa, nói với nó: - Yên nào, Strawberry 1. Đứng yên nào.

- Đồ chó! – Cái giọng tách bạch lạnh lùng của phù thủy vang lên át hẳn những giọng nói khác. – Đồ chó, bỏ tay ra khỏi con ngựa hoàng gia của ta. Ta chính là nữ hoàng Jadis.

- Ô hô! Nữ hòn! Ngươi là Nữ hòn? Chúng ta đang chứng kiến chuyện quái gì thế này? Một giọng nói vút lên. Rồi một giọng khác hùa vào: - Chào mừng Nữ hòn của Colney Atch. – Rồi nhiều tiếng nói cùng cất lên nhao nhao. Một màu hồng rực lên trên đôi má của phù thủy trong lúc mụ ta nhè nhẹ cúi chào. Những tiếng trêu chọc vừa tắt đi thì những tràng cười khác lại rộn lên, bây giờ thì phù thủy hiểu đám đông chỉ đem mình ra làm trò cười. Khuôn mặt đẹp chợt biến sắc và mụ ta đổi sang cầm dao bên tay trái. Rồi, không hề có dấu hiệu cảnh báo, mụ làm một việc khiến mọi người dựng tóc gáy vì sợ. Dễ dàng và nhẹ nhàng như thể đó là một việc làm tầm thường nhất trên đời, mụ đưa tay phải ra nhổ một trong những thanh giằng cột đèn. Mụ phù thủy đánh mất pháp thuật của mình trong thế giới của chúng ta thì mụ lại không bị mất đi sức mạnh, mụ có thể dễ dàng bẻ gãy một thanh sắt như thể nó chỉ là một cái que cắm kẹo mạch nha. Phù thủy ném vũ khí lên không trung, giơ tay đón bắt, vung lên thị uy rồi thúc ngựa xông lên.

- Bây giờ thì có cơ hội cho mình rồi. – Digory thầm nghĩ. Nó lao giữa con ngựa và hàng rào và bắt đầu chạy lên trước. Giá như con ngựa dữ chỉ khựng lại một giây thì nó đã tóm được gót chân phù thủy. Phù thủy vừa nện thanh sắt xuống cái mũ của ông cảnh sát trưởng; ông này ngã xụi lơ như một con kị trong trò chơi ki 9 con.

- Nhanh lên Digory! Phải chặn lại ngay. – Một giọng nói vang lên sau lưng nó. Đó là Polly chạy lao ra đường ngay khi nó được phép ra khỏi giường.

- Cậu hãy giúp một tay. – Digory hổn hển nói. – Bám chặt lấy tớ. Cậu hãy lo chuyện cái nhẫn. Màu vàng, nhớ nhé. Đừng chạm vào nó cho đến khi tớ bảo.

Lại một cú đánh nữa và một người cảnh sát ngã gục xuống đường. Một giọng gào lên sôi sục vì giận dữ:

- Lôi con mụ kia xuống. Lấy một vài viên đá lát đường. Gọi quân đội đến.

Nhưng đại đa số mọi người lo tránh càng xa phù thủy càng tốt. Tuy vậy người đánh xe rõ ràng vẫn là người dũng cảm nhất và nghĩa hiệp nhất bởi vì anh vẫn là người chạy theo con ngựa, với lối chạy lắt léo để tránh đòn, nhưng vẫn cố nắm cương con Strawberry.

Đám đông hò hét, la ó vang trời. Một hòn đá trượt qua đầu Digory. Rồi giọng phù thủy vang lên rõ ràng, âm vang như tiếng chuông nhà thờ lớn và nghe trong giọng nói có cảm giác mụ ta lấy làm khoái trá lắm lắm.

- Lũ rác rưởi. Các ngươi sẽ phải trả một giá thật đắt cho chuyện này một khi ta đã chinh phục được cả thế giới này. Không có một hòn đá nào trong thành phố này còn nguyên vẹn. Ta sẽ biến nó thành một Charn, hay Felinda hay Sorlis hay như Bramandin.

Cuối cùng Digory cũng nắm được vào mắt cá chân phù thủy. Mụ dùng gót đá một cái vào miệng nó. Vì đau mà nó mất thăng bằng. Môi nó bị rách, miệng nó chảy máu. Từ một chỗ nào đó rất gần vang lên giọng bác Andrew trong một tiếng kêu gào run rẩy:

- Thưa bề trên… bà chủ trẻ yêu quý của bề tôi… vì các thánh thần tối cao, xin bà chủ hãy bình tâm lại.

Digory cố gắng tóm lấy gót phù thủy lần thứ hai nhưng lại bị trượt. Nhiều người bị thương bởi thanh sắt. Digory nỗ lực thêm một lần nữa, nó tóm lấy cái gót, giữ thật chặt như cái chết không chịu lùi bước và nó hét lên bảo Polly:

- Đi!

Và rồi tạ ơn đấng tối cao. Những khuôn mặt hoảng sợ giận dữ biến mất. Những giọng nói hoảng hốt, tức tối tắt hẳn. Tất cả, trừ giọng nói của bác Andrew. Ngay bên cạnh Digory trong bóng đêm dày đặc, cái giọng rền rĩ ấy vang lên:

- Ôi, ôi đây là một cơn mê sảng à? Tất cả thế là hết ư? Tôi không thể chống lại. Như thế là không công bằng. Tôi không bao giờ muốn trở thành một pháp sư. Tất cả chỉ là một sự hiểu lầm. Tất cả là lỗi lầm của bà mẹ đỡ đầu của tôi. Tôi phải chống lại điều này. Trong tình trạng sức khỏe của tôi, dòng họ Dorsetshire cổ xưa…

- Thật chán chết. – Digory nghĩ. – Chúng mình đâu có muốn đem bác ấy theo, cái mũ của mình… thật là một buổi cắm trại ngoài trời. Này Polly, cậu có mặt ở đây không?

- Có, mình đây này. Nhưng cậu đừng có xô đẩy chứ.

- Tớ đâu có xô đẩy ai. – Digory bắt đầu nhưng trước khi nó có thể nói thêm bất cứ điều gì thì đầu mọi người đã nhô lên khỏi mặt nước, chung quanh họ là khoảng không ấm áp, xanh rờn và rực rỡ ánh mặt trời. Vừa bước lên khỏi hồ nước Polly đã kêu lên:

- Nhìn kìa? Chúng ta mang theo cả con ngựa già nữa. Và cả ông Ketterley, anh đánh xe. Một cái nồi chứa đầy nhóc những con cá.

Vừa lúc phù thủy thấy mình, một lần nữa lại ở trong rừng, mặt mụ tái nhợt đi, đầu cúi gục xuống cho đến khi mặt chạm vào bờm ngựa. Bạn có thể thấy mụ không còn chút sức lực nào. Bác Andrew vẫn run lẩy bẩy. Con ngựa Strawberry lắc lắc đầu, hí lên một tiếng vui mừng, có vẻ như đã thuần lại. Cho đến lúc ấy Digory mới thấy con ngựa Strawberry tỏ ra im lặng, đôi tai vừa mới đây còn dựng đứng lên trên đầu bây giờ đã trở lại đúng vị trí và ngọn lửa hừng hực không còn bốc cháy trong đôi mắt nó nữa.

- Tốt lắm, cậu bé. – Anh đánh xe nói, vỗ vỗ lên cổ con ngựa Strawberry. – Tốt hơn rồi. Đừng lo lắng cậu bé.

Strawberry làm một việc thông thường nhất trên đời, cảm thấy khát nước (điều này cũng chẳng có gì lạ) nó thong thả đi đến cái hồ gần nhất, bước xuống uống nước. Digory vẫn nắm gót chân phù thủy, Polly vẫn giữ tay Digory. Một tay anh đánh xe đặt lên bờm con ngựa, bác Andrew vẫn chưa hoàn hồn, một tay vẫn bám chặt lấy bàn tay còn lại của anh đánh xe.

- Nhanh lên, - Polly nói, liếc nhìn Digory, - nhẫn xanh. – Vì thế mà con ngựa không bao giờ uống được một ngụm nước ở đây. Ngược lại cả đoàn người và con ngựa thấy mình chìm vào trong bóng đêm. Strawberry hí vang; bác Andrew vẫn không thôi rên rỉ. Digory nói: - Đây cũng là một chút may mắn.

Im lặng một lúc. Đoạn Polly lên tiếng:

- Chúng ta không nên ở gần quá đúng không?

- Có vẻ như chúng ta đang ở một nơi nào đó, - Digory nói. – Ít nhất thì tớ cũng đang đứng trên một vật cứng.

- Tại sao, ừ mà tớ cũng thấy thế, bây giờ tớ phải suy nghĩ một chút. – Polly nói. – Nhưng sao trời lại tối quá vậy? Này, cậu có nghĩ là chúng ta đến nhầm cái hồ khác hay không?

- Có lẽ đây là Charn. – Digory nói. – Chỉ có điều chúng ta ở lại đây vào giữa ban đêm thôi.

- Đây không phải là Charn. – Giọng phù thủy vang lên. – Đây là một thế giới trống rỗng. Chẳng có gì ở đây hết.

Nhưng thật ra đây là một Cõi hư vô khác thường. Không hề có một ngôi sao. Trời tối đen đến nỗi không thể nhìn thấy bất cứ vật gì và bất kể là bạn nhắm mắt hay mở mắt thì cũng không có gì khác biệt. Dưới chân họ là vật gì bằng phẳng và lành lạnh. Cũng có thể là mặt đất nhưng chắc chắn không có cỏ và cây cối. Không khí khô và lạnh nhưng không hề có gió.

- Số phận cuối cùng cũng đã tuyên án với ta. – Phù thủy nói với giọng bình thản nghe rợn cả người.

- Đừng nói thế, - bác Andrew lảm nhảm, - công nương yêu quý của tôi, xin nàng đừng nói những lời như thế. Có thể mọi việc không đến nỗi tệ hại như thế đâu. Này anh bạn xà ích – người bạn quý hóa của tôi, anh bạn có mang theo người một chai rượu không? Một vài giọt cay cay là cái mà tôi cần nhất vào lúc này.

- Thôi nào, thôi nào! – Giọng người đánh xe vang lên rắn rỏi, bình tĩnh và đầy sức động viên. – Hãy bình tĩnh, tất cả mọi người, đó là điều tôi muốn nói. Không có ai có cái xương nào bị gãy chứ? Tốt. Thế là vẫn còn có cái gì đó để cảm tạ trời đất sau một cú rơi tự do như thế! Không có ai dám chờ đợi điều này sau những chuyện như vậy đâu. Chà chà, nếu chúng ta rơi xuống một cái mỏ nào đó – xem chừng đó có thể là một cái trạm mới mẻ trong lòng đất – thế thì thế nào cũng có ai đó đến đón chúng ta đi, cứ chờ xem! Và nếu chúng ta phải chết – điều mà tôi sẽ không phủ nhận là không thể xảy ra – phải, thế thì các vị hãy nhớ là những điều tồi tệ hơn có thể xảy ra ngoài biển và con người ta ai cũng phải chết vào một lúc nào đó. Thế nên chả có gì phải sợ nếu như chúng ta biết sống một cách tử tế, đúng đắn. Nếu quý vị hỏi tôi, tôi nghĩ điều tốt nhất mà chúng ta có thể làm để giết thời gian là cùng nhau hát một bài.

Và anh hát trước. Anh bắt nhịp vào một bài ca tạ ơn cho một mùa gặt bội thu, tất cả đã được gom vào trong kho an toàn. Không phải là một bài hát phù hợp với một nơi chẳng có gì mọc lên được từ hồi khởi thủy, nhưng đấy là bài hát mà anh nhớ nhất. Người đánh xe có một chất giọng tốt và bọn trẻ hòa giọng cùng với anh; bài hát vang lên đầy lạc quan, phấn khởi. Chỉ có bác Andrew và phù thủy là không tham gia.

Đến cuối bài hát, Digory cảm thấy có ai đó chạm vào khuỷu tay nó và căn cứ vào cái mùi rượu mạnh, mùi xì gà và quần áo mới hồ nó nghĩ đó chính là bác Andrew. Bác thận trọng kêu nó ra một chỗ khuất. Khi họ đã đi đủ xa, ông ghé vào tai nó thì thà thì thầm làm nó nhột:

- Này, nhóc. Cháu hãy chạm vào cái nhẫn đi. Chúng ta hãy biến khỏi đây.

Nhưng phù thủy có đôi tai cực thính.

- Đồ ngu! – Mụ hét lên, nhảy ngay xuống ngựa. – Ngươi quên là ta có thể nghe được suy nghĩ của người khác sao? Thả thằng nhỏ ra! Nếu ngươi bày trò phản trắc ta sẽ trừng trị ngươi bằng một cách mà ngươi chưa bao giờ nghe thấy ở tất cả các thế giới, kể từ ngày khởi đầu đến bây giờ.

- Và, - Digory nói thầm, - nếu bác nghĩ cháu là một con heo bẩn thỉu có thể thoát thân một mình để lại Polly, anh đánh xe và con ngựa ở một nơi như thế này thì bác nhầm to rồi.

- Mày là một thằng lỏi ngang ngạnh, hỗn xược. – Ông bác nó càu nhàu.

- Suỵt! – Người đánh xe lên tiếng. Tất cả im lặng lắng nghe.

Cuối cùng, trong bóng đêm sâu thẳm đã có một cái gì đó xảy ra. Một giọng hát cất lên. Nghe như từ rất xa. Digory cảm thấy khó mà xác định được nó vang lên từ hướng nào. Có những lúc nó như vang lên từ tất cả các hướng. Lại có khi, Digory nghĩ, nó vọng lên từ trong lòng đất dưới chân họ. Ở giai điệu trầm trầm, nó đủ thấp để có thể là tiếng vọng của chính mặt đất. Một bài ca không lời. Thực ra cũng khó xác định giai điệu của nó. Chẳng qua đó chỉ là một chuỗi tiếng động tuyệt vời nhất mà Digory từng nghe, bởi vì mọi phép so sánh đều khập khiễng. Phải, một tiếng động có một âm giai đẹp đến không ngờ. Con ngựa dường như cũng thích nghe, nó hí lên bằng tiếng kêu tán thưởng của loài ngựa; sau nhiều năm kéo xe khách trên kinh thành, nó thấy mình trở về cánh đồng xưa, nơi nó chạy nhảy tung tăng từ lúc còn là một chú ngựa non; rồi nó như thấy lại cái người mà nó vẫn nhớ và yêu thương đang chạy ngang qua cánh đồng, đến với nó với một nắm đường trên tay.

- Tuyệt! – Anh đánh xe kêu lên. – Âm thanh này, sao mà hay đến thế!

Sau đó có hai điều kì lạ cùng xảy ra. Một là cái giọng ấy đột ngột hòa chung vào nhiều giọng khác; nhiều đến nỗi bạn không thể đếm xuể. Tất cả các giọng hòa quyện vào nhau, nốt cao nhất còn cao hơn cả nốt đô trưởng: những giọng ca mảnh, xao xuyến và trong như tiếng hạc. Điều ngạc nhiên thứ hai là màn đêm đen như nhung trên đầu bất chợt lấp lánh các vì sao. Màn trời không hiện dần lên những chấm sao như ta vẫn thấy trong một đêm mùa hạ; chỉ là vừa mới đây còn chẳng có gì ngoài một màn đen nhức nhối thế mà chớp mắt một cái đã thấy có hàng ngàn, hàng ngàn những điểm sáng lung linh – những ngôi sao đơn lẻ, những chòm sao, những hành tinh sáng hơn và lớn hơn bất cứ vì tinh tú nào ta nhìn thấy từ trái đất. Nền trời trong vắt không hề có một gợn mây. Những ngôi sao mai và những giọng hát mới xuất hiện đồng thời. Nếu bạn nghe và chứng kiến điều này như Digory, bạn sẽ cảm thấy một niềm tin xác tín rằng chính là các ngôi sao đang rì rào ca hát và rằng chính cái giọng đầu tiên sâu thẳm ấy đã làm chúng xuất hiện và khiến chúng cùng cất lên tiếng hát.

- Vinh quang thay! – Người đánh xe nói. – Tôi hẳn sẽ trở thành một người tốt đẹp hơn trong đời một khi đã được biết đến những thứ như thế này.

Bây giờ giọng hát chính đã vươn cao hơn, cao hơn, mang âm hưởng chiến thắng; những giọng hát bè phụ họa theo sau khi cùng hòa với nó được một lúc, bắt đầu trở nên yếu dần. Và lúc này lại có một cái gì khác xảy ra.

Ở một quãng xa xôi và ngang bằng với mặt đất, vệt màu đen dần dần chuyển sang màu tro. Một ngọn gió mơn man, lành lạnh hết sức sảng khoái bắt đầu nổi lên. Bầu trời chỗ này từ từ nhạt dần một cách đều đặn. Bạn có thể nhìn thấy bóng dáng các ngọn đồi thẳng đứng, in các bóng đen thẫm của nó lên nền trời. Suốt thời gian đó giọng chính vẫn tiếp tục ca hát.

Chẳng bao lâu sau đã có đủ ánh sáng để người này có thể nhìn tỏ mặt người kia. Người đánh xe và hai đứa trẻ há to miệng, đôi mắt sáng ngời lên; họ đang uống vào lòng chuỗi âm thanh với dáng vẻ tựa hồ như nó nhắc nhở họ nhớ đến một cái gì đó. Bác Andrew cũng há hốc mồm ra nhưng không phải vì vui mừng. Môi ông trễ xuống làm như quai hàm dưới sắp long ra khỏi khuôn mặt. Đôi vai cụp hẳn lại và hai đầu gối run lẩy bẩy. Ông không thích cái giọng hát này chút nào. Nếu có thể thoát khỏi cái âm thanh này bằng cách chui vào một cái lỗ chuột trũi, ông hẳn sẵn lòng làm thế. Nhưng phù thủy lại có cái vẻ như thể bằng một cách nào đó mụ có khả năng thẩm âm tốt hơn bất cứ ai trong bọn. Cái miệng chúm chím, đôi môi hơi mím lại, hai tay nắm chặt vào nhau. Kể từ lúc bài hát bắt đầu, mụ đã có cảm giác rằng cả thế giới này tràn ngập một phép màu khác hẳn pháp thuật của mụ và nó áp đảo hơn. Đó là điều mụ không sao chịu nổi. Mụ có thể nghiền nát cả thế giới này hoặc tất cả những thế giới khác nếu như có thể chặn được tiếng hát. Con ngựa đứng yên, hai tai dựng đứng về phía trước và giật mạnh.  Chốc chốc nó lại khịt khịt mũi và giậm giậm móng xuống đất. Nó không còn giống một con ngựa kéo xe già nua mỏi mệt nữa; nhìn nó bạn có thể tin rằng nó đã tham gia nhiều trận chiến oanh liệt.

Bầu trời đằng đông chuyển dần từ màu trắng sữa sang màu hồng phớt và từ màu hồng sang ráng vàng mỡ gà. Giọng hát cao hơn, cao hơn cho đến khi cả không gian rung động vì tiếng hát ấy. Đúng lúc nó chuyển sang nốt đô trưởng kéo dài hùng tráng nhất của một khúc ca khải hoàn thì mặt trời nhô lên.

Digory chưa bao giờ trông thấy một mặt trời như vậy. Mặt trời ở Charn già hơn mặt trời của chúng ta, mặt trời ở đây lại trẻ hơn. Bạn có thể hình dung rằng nó cười vui  suốt chặng đường đi lên của nó. Những tia nắng mặt trời chiếu xiên ngang mảnh đất giúp các du khách bất đắc dĩ có ý niệm đầu tiên về cái nơi họ vừa đặt chân đến. Đó là một thảo nguyên có một con sông rộng, nước chảy xiết, uốn lượn tìm đường chảy về hướng Đông như để đến tận chỗ của mặt trời. Có nhiều rặng núi cao ở hướng Nam, phía Bắc là những ngọn đồi lúp xúp. Đây là một thung lũng chỉ thuần túy có đất, đá và nước, không hề có một cái cây, một bụi cây, thậm chí một cọng cỏ cũng không hề nhìn thấy. Mặt đất có nhiều màu, những gam màu nóng sống động và tươi rói làm cho máu bạn chảy rần rật đầy hứng khởi cho đến khi bạn nhìn thấy chính Người Ca sĩ thì bạn quên đi tất cả mọi thứ khác.

Đó là một con sư tử. To lớn, bộ lông dài và rậm, rực sáng; nó đứng, ngước mặt về phía mặt trời lên. Cái miệng nó mở to trong khi hát và nó đứng cách đoàn người chừng khoảng 300 mét.

- Đây là một thế giới chết tiệt - Phù thủy nói.

- Chúng ta phải bay khỏi đây ngay. Chuẩn bị làm phép.

- Tôi hoàn toàn đồng ý với công nương. – Bác Andrew hùa theo ngay. - Một nơi khó chịu nhất. Tuyệt nhiên không có dấu chân con người, chưa được khai phá. Trời ơi, nếu như tôi mạnh hơn và có một khẩu súng.

- Trời đất! - Người đánh xe nói. - Ông không nghĩ là ông sẽ bắn nó đấy chứ?

- Ai sẽ bắn? - Polly hỏi.

- Chuẩn bị làm phép, lão già ngu ngốc kia. - Jadis ra lệnh.

- Chắc chắn rồi thưa công nương. - Bác Andrew nói vẻ ranh mãnh. - Cần phải có hai đứa bé chạm vào người tôi. Đeo cái nhẫn đi về nhà ngay, Digory. Ông chỉ muốn bỏ đi khỏi đây mà không có phù thủy.

- Ồ, đó là chiếc nhẫn, phải không? - Jadis kêu lên. Mụ hẳn sẽ cho tay vào túi Digory trước khi nó kịp trở tay, nhưng trẻ con hành động mau lẹ hơn, nó nắm lấy tay Polly, hét lên:

- Cẩn thận! Nếu bất cứ ai trong các người tiến gần thêm một vài phân, cả hai chúng tôi sẽ biến mất để mặc các người ở lại đây. Phải, tôi có trong túi quần chiếc nhẫn sẽ đưa Polly và tôi về nhà. Nhìn đây, tay tôi đã sẵn sàng. Vì thế hãy giữ một khoảng cách. Em rất tiếc cho anh (Nó nói với người đánh xe) và con ngựa nhưng em không thể làm gì khác. Còn về các người - nó quay sang bác Andrew và phù thủy, - cả hai đều là pháp sư vì thể các người sẽ thích sống chung với nhau.

- Bài hát, xin mọi người vui lòng giữ trật tự. - Người đánh xe nổi cáu. Tôi muốn lắng nghe giai điệu này. – Bởi vì bây giờ bài hát đã thay đổi tiết tấu.

Sư tử đi đi lại lại trên mảnh đất trơ trụi, vừa đi vừa hát một bài ca mới. Đó là một bài ca dịu dàng hơn, du dương hơn bài trước, trong đó nó mời gọi các vì sao và mặt trời. Phải, đây là một giai điệu trữ tình, nghe như tiếng róc rách của dòng suối. Trong lúc nó bước đi và ca hát như vậy, cả thảo nguyên chuyển sang màu xanh biếc với cỏ non lún phún mọc từ chỗ sư tử đứng và chạy lan ra xa như một dòng nước. Cỏ chạy lên sườn đồi như sóng gợn. Trong vòng một vài phút nó bò lên chân núi ở các rặng núi xa xa, làm cho cái thế giới non trẻ này mỗi lúc một trở nên mềm hơn, dịu hơn. Bây giờ đã có thể nghe tiếng gió đùa nhẹ trong lá cỏ, rồi chẳng mấy chốc đã có những vật khác xuất hiện cùng với cỏ. Trên các triền núi cao, bụi thạch nam mọc lên một màu xanh lam. Những bụi cây to hơn, xanh hơn hiện lên trong thung lũng. Digory không biết là có chúng cho đến khi có một lùm cây mọc lên ngay cạnh nó. Đầu tiên nó là một vật nhỏ và nhọn rồi nó chĩa ra hàng chục cánh tay, sau đó một màu xanh biếc phủ lên những cánh tay đó và nó lớn lên với tốc độ một giây một centimet, bây giờ thì có hàng chục những vật như thế bao quanh Digory. Khi nó cao ngang tầm cậu bé, - Digory mới nhận ra. - Ồ, đó là một cái cây!

Thật phiền toái, như sau này Polly nói, khi bạn không được yên tĩnh một mình ngắm cảnh tượng có một không hai này. Đúng lúc Digory thốt lên. - Ồ, cây đang mọc! - thì nó lại phải nhảy lên vì bác Andrew đã len lén đến gần nó, toan thò tay vào túi nó. Mưu toan này của ông pháp sư già cũng chẳng đi đến đâu, dù ông có lấy được chiếc nhẫn cũng vậy, bởi vì ông nhắm đến cái túi bên phải là cái túi mà ông nghĩ có chiếc nhẫn màu xanh có thể đưa ông về nhà. Tất nhiên Digory không muốn mất đi một chiếc nào.

- Dừng tay! - Phù thủy hét lên. – Lùi lại! Không, lùi xa hơn nữa. Bất cứ ai tiến đến gần một trong hai đứa, trong phạm vi mười bước chân ta sẽ móc óc kẻ đó ra ngay. - Mụ ta giơ thanh sắt mà mụ ta đã nhổ ở cột đèn, sẵn sàng làm đúng lời đe dọa. Một cách nào đó, chẳng ai dám nghi ngờ khả năng đánh trúng mục tiêu của phù thủy. - Thế ra ngươi muốn lẻn về thế giới của mình với thằng lỏi để mình ta ở lại nơi này?

Cuối cùng cơn giận của bác Andrew đã thắng được nỗi sợ của ông.

- Phải, thưa bà, tôi muốn thế đấy. - Ông dõng dạc nói. – Chẳng cần gì phải nghi ngờ điều đó. Và tôi hoàn toàn có quyền làm thế. Tôi đã chịu đựng một sự đối xử nhục nhã nhất, tồi tệ nhất. Tôi đã làm hết sức mình để chứng minh với bà là người ta phải cư xử như thế nào trong một xã hội văn minh. Tôi được đền đáp như thế nào? Bà đã ăn cướp - tôi phải lặp lại cái từ này - ăn cướp của một nhà kim hoàn đáng được kính trọng. Bà cứ nhất định buộc tôi phải chiều lòng bà bằng những món đắt tiền - nếu không muốn nói là một hành động phô trương - trong bữa trưa, vì thế mà tôi buộc phải đem cắm chiếc đồng hồ và sợi dây xích vàng (và để tôi nói cho bà biết, không một thành viên nào trong gia đình tôi có thói quen đến tiệm cầm đồ, trừ chú em họ Edward, người mà giờ đây đang ở Yeomanry). Trong suốt bữa ăn khó tiêu hóa mà tôi cảm thấy tồi tệ ngay từ đầu - cử chỉ và cách nói năng của bà đã thu hút sự chú ý thiếu thiện cảm của những người có mặt trong nhà hàng. Tôi cảm thấy bị làm nhục ở nơi công cộng. Tôi sẽ không bao giờ dám ló mặt ở nơi đấy lần nữa. Bà đã tấn công cảnh sát. Bà ăn cướp….

- Ôi, thôi xin ông đừng nói nữa, đừng nói chuyên ấy nữa. - Người đánh xe can. – Hãy quan sát và lắng nghe những gì đang diễn ra. Đừng cãi vã nữa.

Chắc chắn là có nhiều cái để nhìn và nghe. Cái cây mà Digory chú ý nhìn, vào lúc này đã là một cây sồi vạm vỡ xòa những tán lá xum xuê vẫy nhẹ trong gió sớm ngay trên đầu nó. Họ đứng trên một thảm cỏ xanh, mát lạnh sương sớm có điểm những đóa hoa cúc và hoa mao lương vàng rộm. Xa xa một chút, dọc theo bờ sông, bên kia lau sậy mọc lên xanh biếc; ở bên này mọc chen nhiều loài thực vật nở hoa: cây lý chua, tử đinh hương, hồng dại và đỗ quyên. Con ngựa cúi xuống ngoạm một miệng đầy cỏ non ngon lành.

Trong suốt thời gian sư tử cất tiếng hát, nó đều đặn đi lại, ngang dọc, lên xuống không nghỉ. Rõ ràng mỗi một vòng nó đi như vậy nó lại tiến đến gần các lữ khách của chúng ta hơn. Polly cảm thấy bài hát của sư tử mỗi lúc một thêm ý vị hơn bởi vì nó biết mình đã bắt đầu thấy được mối liên hệ giữa tiếng hát và những việc đang diễn ra xung quanh. Một hàng cây linh sam đen đen mọc lên từ đỉnh một ngọn đồi cách chỗ họ đứng chừng 100 mét và nó cảm thấy việc này có liên quan đến một nốt nhạc kéo dài, sâu lắng mà sư tử hát lên một giây trước đó. Khi sư tử chuyển sang một chuỗi âm thanh có tiết tấu nhanh hơn, bay bổng hơn, Polly không còn ngạc nhiên nữa khi thấy hoa anh thảo mọc lên khắp nơi. Như vậy, với một niềm tin không thể diễn thành lời, nó cảm biết một cách chắc chắn rằng tất cả mọi thứ được – gọi ra (theo cách nói của nó) từ đầu ông sư tử. Khi bạn nghe khúc nhạc của sư tử, bạn cũng nghe thấy những cái sư tử tạo hình, khi bạn nhìn xung quanh, chứng kiến quá trình ấy. Điều này thú vị đến nỗi nó không còn tâm trí để lo ngại chuyện gì nữa. Nhưng Digory và người đánh xe không khỏi cảm thấy một chút hồi hộp vì sao mỗi vòng sư tử lại tiến đến gần nó hơn. Trong khi đó, răng bác Andrew nghiến vào nhau trèo trẹo, hai đầu gối ông bủn rủn đến nỗi dẫu có muốn ông cũng không thể bỏ chạy.

Chợt phù thủy xồng xộc bước đến gần sư tử. Nó đang bước đến, vẫn luôn miệng hát, với những bước chân chậm rãi, chắc nịch. Người và vật cách nhau chừng hai mét. Phù thủy giơ tay ném thanh sắt vào đầu sư tử.

Không có ai, nhất là người đó lại là Jadis, lại ném trượt trong một khoảng cách gần như vậy. Thanh sắt nhắm vào tinh mũi, giữa hai con mắt của sư tử nhưng nó lại trượt đi, cắm xuống cỏ. Sư tử vẫn bước tới. Bước di chuyển không nhanh hơn hay chậm hơn trước. Bạn không thể nói rõ là liệu sư tử có biết nó đang bị tấn công hay không. Dù những bước đi của nó không hề gây nên tiếng động, bạn vẫn cảm thấy mặt đất rung lên dưới sức mạnh của mỗi bước chân.

Phù thủy rít lên và bỏ chạy, chỉ trong vòng vài giây mụ đã thoát khỏi tầm nhìn, lẫn vào giữa các hàng cây. Bác Andrew cũng lập cập chạy theo, vấp phải một rễ cây, ngã khuỵu, dập mặt xuống một dòng suối nhỏ chảy xuống nhập với dòng suối lớn. Hai đứa trẻ đứng yên không nhúc nhích, thậm chí chúng cũng không biết mình muốn làm gì nữa. Sư tử không mảy may quan tâm đến chúng, cái miệng rộng màu đỏ há to nhưng chỉ để thoát ra lời ca tiếng hát chứ không phải để càu nhàu, đe dọa ai. Nó đi sát đến bên họ, gần đến nỗi có thể đưa tay ra sờ lên bờm nó. Nhưng họ sợ nó quay lại, nhìn họ, mặt khác, bằng một cảm giác kì lạ nào đó họ lại muốn nó làm như vậy. Nhưng rồi cả bọn nhận ra nó đi qua họ như thể họ là những sinh vật vô hình và không tỏa ra mùi gì cả. Sau khi vượt qua họ vài bước, nó quay lại đi qua họ lần nữa, tiếp tục cuộc hành lễ kì lạ về hướng đông.

Bác Andrew vừa ho vừa đứng dậy, miệng lắp ba lắp bắp:

- Bây giờ thì Digory, chúng ta đã gạt bỏ được mụ phù thủy, còn con sư tử dữ tợn cũng đã đi xa rồi. Đưa tay cho bác và đeo nhẫn vào đi.

- Bác tránh ra, - Digory nói, chạy lùi ra khỏi ông bác. – Tránh xa bác ấy ra, Polly. Đến đây, đứng cạnh tớ đây này. Này, cháu cảnh cáo bác đấy nhé, chỉ cần bác tiến lên một bước là tụi cháu biến mất đấy.

- Hãy làm cái điều tôi bảo ngay bây giờ, ông mãnh, - Bác Andrew tức giận nói. – Ông mãnh, ông là một thằng nhóc con quá đáng lắm: hư thân mất nết, không biết nghe điều hay lẽ phải của người lớn.

- Và không sợ gì hết. - Digory đế theo, - chúng cháu muốn ở lại đây xem chuyện gì đang diễn ra. Cháu từng nghĩ bác muốn biết về thế giới khác lắm cơ mà. Sao bây giờ bác lại đâm ra sợ sệt như một con rùa rụt đầu vậy?

- Thích thú cái gì! – Bác Andrew gào lên. – Hãy coi tình trạng mà ta đang lâm vào đây này. Đây lại là cái áo khoác và áo choàng bảnh nhất của ta cơ chứ.

Chắc chắn là trông bác ta rất thảm hại, bởi một điều, lúc đầu bạn càng tơ tuốt điệu đà bao nhiêu thì trông bạn càng tơi tả bấy nhiêu sau khi chui ra từ một cỗ xe ngựa vỡ nát và ngoi lên từ một dòng suối đầy bùn.

- Bác không nói, - ông nói thêm, - rằng nơi này không phải là nơi thú vị. Nếu như bác trẻ hơn một chút thì việc đầu tiên mà bác làm sẽ là đưa đến đây một vài chàng trai. Một trong những người tham gia vào đội săn thú lớn. Cần phải làm một điều gì đó cho vùng đất này. Khí hậu ở đây rất tuyệt, bác chưa bao giờ được hít thở bầu không khí như thế này. Bác tin là nó sẽ rất tốt cho sức khỏe của bác nếu như các điều kiện xung quanh trở nên dễ chịu hơn. Giá mà chúng ta có một khẩu súng.

- Súng sẽ bị cuốn đi. – Người đánh xe nói. - Tôi nghĩ tôi đi xem có thể kì cọ tắm rửa cho con Strawberry không. Tôi dám nói là loài ngựa còn khôn hơn một số người đấy. - Anh quay về phía Strawberry và bắt đầu huýt sáo gọi nó như một tay xà ích chính hiệu.

- Bác vẫn nghĩ là con sư tử này có thể bị một khẩu súng bắn chết sao? - Digory hỏi. - Nó có bị thanh sắt đâm trúng đầu đâu.

- Tất cả là do lỗi của bà ta, - bác Andrew mạnh miệng kết luận, - sao có thể hành động lỗ mãng như vậy được. Đây là một việc làm có thiên hướng tinh thần. - Ông vừa nói vừa xoa hai tay vào nhau, bẻ các đốt ngón tay răng rắc; đúng là một lần nữa bác lại quên mất chuyện phù thủy đã làm bác kinh hồn bạt vía như thế nào, những lúc mụ có mặt ở gần.

- Đó là một việc làm độc ác, - Polly kêu lên, - con sư tử có làm gì hại mụ ta đâu?

- Ối la la! Cái gì thế này? – Chợt Digory la lên rồi lao về phía trước xem xét một cái gì đó cách đấy vài mét.

- Này, Polly, - nó quay lại gọi bạn, - đến đây coi đi.

Bác Andrew đến coi cùng nó, không phải bởi vì bác tò mò muốn xem mà chỉ vì bác muốn bên cạnh bọn trẻ - có thể có cơ hội ăn cắp nhẫn của chúng. Nhưng mà khi ông nhìn thấy cái mà Digory đang nhìn thì cả ông bắt đầu cảm thấy thích thú. Đó chính là mô hình nhỏ của một cái cột đèn, cao khoảng một mét nhưng điều thú vị là nó đang cao và to hơn trong lúc họ đứng nhìn; trong thực tế nó đang lớn lên như một cái cây.

- Nó cũng sống - tớ muốn nó phát sáng. – Digory nói. Và cậu bé đã nói đúng, mặc dù tất nhiên, ánh mặt trời rực rỡ làm cho ngọn lửa nhỏ trong ngọn đèn khó nhìn thấy, trừ khi là bạn phải lấy tay che lại.

- Đáng kinh ngạc, đáng kinh ngạc nhất đấy. – Bác Andrew lầm bẩm. – Cả đến tôi cũng không bao giờ mơ đến một phép màu như vậy. Chúng ta đang ở trong một thế giới, nơi hết thảy mọi thứ, đến cả cái cột đèn cũng có sự sống và cũng tăng trưởng. Bây giờ thì tôi tự hỏi hạt giống của cái cột đèn này từ đâu mà có?

- Bác không thấy à? - Digory hỏi. – Đó là nơi thanh sắt rơi xuống - chính là cái thanh giằng mà phù thủy nhổ ra từ trước cửa nhà ta. Nó đã cắm xuống đất và bây giờ mọc lên như một cây cột đèn con. Nhưng bây giờ nó không còn là – con - nữa mà nó đã cao bằng Digory trong khi nó say sưa phân tích.

- Thế đấy! Thật tuyệt vời, trên cả tuyệt vời – Bác Andrew nói, vặn hai tay vào nhau nhanh hơn bao giờ hết. - A ha ha! Họ đã cười vào pháp thuật của ta. Cô em ngu ngốc của ta đã nghĩ ta bị tâm thần. Ta tự hỏi bây giờ thì bọn họ sẽ nói gì đây? Ta đã khám phá ra một thế giới mà trong tất cả mọi thứ đều tuôn trào sự sống và sức tăng trưởng. Colombus, bây giờ người ta sẽ nói về Colombus. Chậc chậc, nước Mỹ thì là cái gì so với nơi này chứ? Khả năng thương mại của nơi này là vô tận. Hãy mang đến đây mấy mẩu sắt cũ, vùi nó xuống và từ đây sẽ mọc lên những đầu xe lửa mới tinh, tàu chiến nữa, bất kì cái gì mà người ta muốn. Mang những thứ phế liệu vô giá trị đến đây và ta có thể bán nguyên giá trị tại Anh. Ta sẽ là triệu phú. Lại còn khí hậu nữa chứ! Ta cảm thấy mình trẻ lại đến mươi tuổi. Ta có thể chạy đến đây như một nơi hồi phục sức khỏe. Một lần điều dưỡng ở đây có thể trị giá 20,000 bảng một năm. Tất nhiên ta sẽ chỉ cho ít người, thật ít người biết bí mật này. Điều đầu tiên cần làm là bắn chết con thú dữ kia.

- Ông cũng giống như phù thủy, - Polly nói - tất cả những điều ông nghĩ đến đều chỉ là chuyện chém giết.

- Và sau đó là quan tâm đến bản thân. - Bác Andrew tiếp tục như trong một giấc mơ hạnh phúc. - Sẽ không thể biết rõ giới hạn tuổi thọ của ta nếu ta đến định cư ở nơi này. Đây là một vấn đề lớn cần xem xét nếu như người ta sắp sang tuổi lục tuần. Ta sẽ không lấy gì làm ngạc nhiên nếu ta không già thêm một ngày nào trên đất nước này. Tuyệt vời ! Hỡi mảnh đất của tuổi thanh xuân vĩnh cửu.

- Trời ơi! – Digory reo lên. - Mảnh đất của tuổi trẻ, bác nghĩ đây chính là mảnh đất đó à? - Tất nhiên là nó vẫn nhớ chuyện mà dì Letty đã nói với bà khách mang chùm nho đến biếu mẹ nó và những hi vọng quá đỗi ngọt ngào lại xâm chiếm nó. - Bác Andrew, bác có nghĩ là ở đây có bất cứ thứ gì có thể chữa khỏi bệnh cho mẹ cháu không?

- Cháu đang nói cái gì vậy? Đây đâu phải là một tiệm thuốc. Nhưng, như ta đã nói…

- Bác không quan tâm đến mẹ cháu, không mảy may quan tâm. - Digory bật lên, dữ dội - Cháu nghĩ lẽ ra bác phải quan tâm đến chứ, đấy là em gái bác và là mẹ cháu. Thôi được rồi, không thành vấn đề. Cứ để cháu đi hỏi sư tử xem nó có giúp cháu không. - Digory quay lại và quả quyết bước đi. Polly đợi một chút rồi cũng đi theo nó.

- Này! Đứng lại! Quay lại đây! Thằng nhóc kia phát điên mất rồi. - Bác Andrew kêu lên. Ông đi theo bọn trẻ, cẩn thận giữ một khoảng cách an toàn vì ông vừa không muốn xa những chiếc nhẫn màu xanh vừa không muốn ở quá gần sư tử.

Vài phút sau, Digory đã đến bìa rừng và đến đây nó dừng lại. Sư tử vẫn cất giọng hát nhưng bây giờ bài hát lại thay đổi tiết tấu một lần nữa. Cũng giống như cái mà ta gọi là một làn điệu, nhưng nó vốn rộng hơn nhiều. Nó làm cho Digory nóng người và đỏ bừng cả hai má. Nó cũng có một tác động nào đó đến bác Andrew bởi vì Digory có thể nghe bác lẩm bẩm: - Một cô gái mạnh mẽ, say sưa làm sao. Đáng tiếc là tính khí quá bốc, nhưng đó là một người đàn bà đẹp về mọi phương diện, một người đàn bà đẹp. - Nhưng tác động của bài hát đến hai người chả là gì so với tác động của nó đến vạn vật trên vùng đất này.

Bạn có thể hình dung ra một dải đất cỏ mọc sùng sục như nước sôi trong nồi không? Bởi vì đó là miêu tả chính xác nhất cho những gì đang xảy ra. Ở tất cả mọi phía, đất phồng lên thành những cái gò, khác nhau về kích cỡ. Có cái không lớn hơn một cái hang chuột, có cái lại to như một cái xe cút kít, có cái còn to bằng cả hai ngôi nhà. Những gò này chuyển động, phình to cho đến khi nó nổ tung ra và các mảnh vụn của nó vương vãi trên mặt đất. Từ mỗi cái gò ấy chui ra một con vật. Nhưng con chuột trũi ra đời cũng giống như các con vật mang cái tên ấy chui ra từ trong hang chuột trên cánh đồng nước Anh. Lũ chó nhặng xị lên ngay từ lúc ló đầu ra ngoài được và vùng vẫy bốn chân hệt như bạn thấy bọn cún con làm khi nó cố chui ra khỏi cái lỗ bé tí trên bờ giậu. Loài hươu nai ra đời kì lạ nhất, bởi vì tất nhiên sừng gạc của chúng ló ra được một lúc rồi cả người con vật mới chui ra, thế nên lúc đầu Digory đã nghĩ nó là những cái cây. Ếch nhái ra đời gần bờ sông rồi nhảy bòm bõm xuống nước và từ đấy dậy lên bản đồng ca ồm ộp của chúng. Loài hổ, báo và những con vật họ mèo, ngồi ngay xuống, phủ sạch đất cát bám ở phần đuôi rồi leo thoăn thoắt lên cây, mài cho sắc những vuốt ở chi trước. Từng bầy chim bay ra từ những lùm cây. Bươm bướm chập chờn liệng vòng. Ong miệt mài hút nhụy hoa cứ như thể chúng không để cho một giây phút nào trôi qua một cách lãng phí. Nhưng khoảnh khắc thú vị nhất là khi một cái gò to nhất bùng nổ như một trận động đất nhỏ rồi từ đó chui ra cái lưng lù lù, cái đầu khôn ngoan to tướng và bốn cái chân đần đẫn như cột đình của con voi. Bây giờ thì bạn khó có thể nghe thấy rõ bài ca của sư tử, có quá nhiều tiếng động bốn chung quanh: tiếng quạ kêu quang quác, tiếng bồ câu gù nhau tình tứ, tiếng gà gáy ò ó o o o, tiếng lừa kêu be be, tiếng ngựa hí, tiếng chó sủa oăng oẳng, tiếng gâu gâu, tiếng rống ò ò của đàn bò, tiếng nghé ọ của đàn bê và tiếng voi rống.

Nhưng cho dù Digory không nghe được bài hát của sư tử, cậu bé cũng có thể nhìn rõ sư tử. Nó quá lớn, bộ lông quá rực rỡ để bạn có thể đưa mắt nhìn đi chỗ khác. Những loài vật khác không có vẻ gì sợ hãi nó. Thật vậy, Digory vừa mới nghe tiếng móng guốc sau lưng thì một giây sau đã thấy con ngựa già Strawberry phi nước kiệu chạy qua gia nhập vào đại gia đình thú vật. (Không khí ở đây rõ ràng là thích hợp với nó cũng như tốt cho sức khỏe của ông già Andrew. Nó không còn có vẻ một con ngựa kéo xe già nua mệt mỏi ở London lúc nó đá bốn vó lia lịa và dựng đứng đôi tai lên). Và bây giờ, lần đầu tiên, sư tử thôi không hát nữa. Nó đi tới đi lui trong bầy thú (bao giờ cũng là hai con một lần) và chạm mũi nó vào mũi hai con vật. Nó khẽ chạm mũi vào hai con hải li trong một bầy hải li, hai con báo trong một đàn báo, một con hươu đực và một con hươu cái trong bầy hươu. Có một số loài vật nó chỉ đi qua. Nhưng cặp mà nó vừa giao tiếp liền tách ra khỏi bầy đi theo nó. Cuối cùng nó đứng im, tất cả những con vật mà nó vừa ngửi tiến đến gần tạo thành một vòng rộng quanh nó. Những con vật khác không được nó chạm vào bắt đầu tản đi xa.  Tiếng động do chúng gây ra dần dần tan trong khoảng không. Những con thú được chọn đứng im phăng phắc, tất cả dán mắt vào sư tử. Chỉ có loài vật họ mèo là đôi khi còn ve vẩy cái đuôi còn những loài khác đứng bất động. Lần đầu tiên trong ngày, không gian hoàn toàn tĩnh lặng, trừ tiếng nước rầm rì ngoài dòng sông.

Trái tim trong lồng ngực Digory đập như điên dại, nó biết một điều gì tối quan trọng sắp sửa xảy ra. Nó vẫn không quên người mẹ gần đất xa trời nhưng nó biết rằng dù là chỉ vì mẹ thì nó cũng không nên cắt ngang mọi việc như thế này.

Sư tử với đôi mắt không hề chớp, nhìn tất cả các con vật một cách dữ dội như thể sắp sửa thiêu cháy chúng chỉ bằng cái nhìn của mình. Và dần dần tất cả có một sự thay đổi. Những loại vật bé nhỏ: thỏ, chuột trũi và những con vật cùng họ từ từ lớn lên. Những con vật lớn – bạn có thể nhận ra to nhất là loài voi thì lại bé đi một chút. Nhiều con vật ngồi trên hai chân sau. Đa số nghiêng đầu sang một bên như thể chúng phải tập trung lắm lắm để hiểu một điều gì đó. Sư tử há to mồm, nhưng không có một âm thanh nào phát ra; nó thở ra một làn hơi dài, ấm áp; dường như làn hơi làm chấn động tất cả các con vật như ngọn gió làm xào xạc các hàng cây. Cao tít trên đầu, trên lớp da trời màu xanh lá mạ, các vì sao lại bắt đầu ngân nga tiếng hát; một thứ âm thanh tuần túy, xa cách, cao vời, khó hiểu. Tiếp đó là một tia chớp nhanh như ngọn lửa (nhưng không đốt cháy ai) lóe lên từ bầu trời và từ sư tử, làm cho mỗi giọt máu trong người hai đứa trẻ đều sôi lên, rồi một giọng nói âm vang, sâu thẳm nhất mà chúng từng nghe được âm vang trong không trung:

- Narnia, Narnia, Narnia. Hãy thức dậy! Hãy yêu thương! Hãy suy nghĩ! Hãy dùng lời! Hãy là cây cối biết đi! Là con thú biết nói! Là dòng nước linh thiêng!

Tất nhiên đấy là tiếng nói của sư tử. Từ lâu bọn trẻ đã biết chắc rằng nó có thể nói, biết trước rồi mà nghe vẫn cảm thấy sốc; vừa thú vị vừa dễ sợ khi nghe giọng nói của sư tử.

Từ sau các hàng cây những con người thiên nhiên bước ra, những vị thần và nữ thần của vạn vật, cùng đi với họ là những thần Rừng, thần Dê và những chú Lùn. Nhảy lên khỏi dòng sông là Thủy thần với những cô con gái Naiad của ông. Và tất cả những vị thần cùng các loài thú và chim chóc, với những chất giọng khác nhau; trầm hoặc bổng; trong vắt hoặc khàn khàn đều lên tiếng:

- Cúi chào Aslan. Chúng tôi nghe và tuân phục. Chúng tôi nghe và tuân phục. Chúng tôi đã thức dậy. Chúng tôi yêu. Chúng tôi nghĩ. Chúng tôi nói. Chúng tôi hiểu...

- Nhưng, làm ơn, chúng tôi còn chưa hiểu nhiều. – Một giọng mũi hơi khụt khịt vang lên. Giọng nói này làm hai đứa trẻ giật mình bởi vì đó chính là con ngựa thồ lên tiếng.

- Anh bạn già Strawberry! – Polly thốt lên. – Ôi, tôi thật lấy làm sung sướng: nó là con vật được chọn đã trở thành con thú biết nói.

Và người đánh xe, lúc này đã đứng bên bọn trẻ, bèn nói:

- Thật đáng kinh ngạc cho dù tôi luôn nói rằng con ngựa này khôn ngoan phải biết.

- Muôn loài muông thú, ta ban cho các ngươi chính bản thân mình. – Aslan nói với giọng vừa hân hoan vừa mạnh mẽ. – Ta trao cho các ngươi mảnh đất Narnia này mãi mãi. Ta để lại cho các ngươi rừng núi, sông ngòi, cây trái. Ta tặng các ngươi các vì sao và chính bản thân ta. Những con thú khác mà ta không chọn cũng chính là bản thân các ngươi đó. Hãy đối xử với chúng với tinh thần hòa ái, yêu mến chúng nhưng đừng trở về con đường của chúng để không còn là những – Con – thú – biết – nói. Bởi vì dù các ngươi đã được lựa chọn nhưng các ngươi cũng có thể lại câm lặng như chúng. Đừng làm thế! Đừng làm thế!

- Không đâu thưa Aslan, chúng tôi sẽ không làm như thế, không làm như thế! – Tất cả lên tiếng. Ngay lúc đó một con quạ gáy xám vênh váo đã thêm vào với giọng quang quác: - Không sợ chuyện đó đâu! – Giọng nó nghe rất chói và chua loét trong không khí im phăng phắc vì các con vật khác đã im bặt – và có lẽ bạn cũng sẽ thấy điều đó kinh khủng như thế nào nếu ở vào trường hợp của nó – một phen bị - quê - trước mắt mọi người. Quạ gáy xám xấu hổ đến nỗi nó giấu đầu dưới cánh như khi nó chuẩn bị đi ngủ. Tất cả những con thú khác bắt đầu nhao nhao lên cười đùa bằng đủ loại âm thanh kì lạ khác nhau và tất nhiên đó là những thứ mà bạn chưa từng nghe thấy trong thế giới chúng ta. Muông thú toan kiềm chế cơn cười đùa nhưng Aslan nói:

- Muôn loài nghe đây: cười thì được nhưng sợ hãi thì không. Giờ đây các ngươi không còn là những con vật không biết nói và không có trí khôn nữa, nhưng điều đó không có nghĩa là lúc nào cũng phải tỏ ra nghiêm trọng. Bởi vì những chuyện đùa vui cũng như sự phán xét sẽ đến cùng với lời nói.

Thế là tất cả các con vật không cần phải giữ ý giữ tứ nữa. Không khí tưng bừng đến nỗi quạ gáy xám lại lấy được can đảm bay đến đậu trên đầu ngựa thồ, giữa hai tai ngựa, xốc xốc đôi cánh và nói:

- Thưa Aslan! Aslan! Tôi có phải là người tạo ra trò đùa đầu tiên không ạ? Từ nay ai cũng sẽ được biết đến một điều quạ gáy xám chính là người tạo ra trò đùa đầu tiên.

- Không, anh bạn nhỏ, - sư tử nói, - ngươi không phải là người đầu tiên tạo ra trò vui; ngươi chỉ là kẻ bị đem ra cười đầu tiên mà thôi.

Nghe thấy thế muôn loài cười rộ lên, nhưng lần này quạ gáy xám không lấy làm xấu hổ nữa, nó cũng cười thật to cho đến khi con ngựa lắc đầu, quạ mất thăng bằng rơi xuống, nhưng rồi nó nhớ ra nó có cánh (các loài vật vẫn cảm thấy quá mới mẻ với cơ thể mình) nó bay lên trước khi rơi bịch xuống đất như một hòn đá.

- Và bây giờ, - Aslan tuyên bố, - Narnia đã được sinh thành. Điều tiếp theo chúng ta phải nghĩ đến giữ cho nó được an lành. Ta sẽ chọn một số trong các ngươi vào hội đồng tư vấn. Đi đến đây với ta hỡi thủ lĩnh của những chú lùn, và ngươi nữa – Thủy thần cùng Mộc tinh, cú, cả hai quạ đen và voi Cồ. Chúng ta cần trao đổi, bởi vì thế giới này mới sinh ra chưa đầy năm giờ mà Cái Ác đã đặt chân đến.

Những con vật mà sư tử điểm mặt bước lên trước và sư tử dẫn đầu hội đồng đi về hướng Đông. Những con vật ở lại bắt đầu nhao lên, nói những câu như thế này:

- Ngài nói cái gì đã đến thế giới này? Cái Áo a? Cái Áo là gì vậy?... Không, ngài không nói Cái Áo mà là Cáo Lão... Ồ, đó là cái gì vậy ?

- Nhìn kìa, - Digory nói với Polly. – Chúng ta phải đi theo sau ông... Aslan ấy... tớ muốn nói sư tử. Tớ phải nói chuyện với ông ấy.

- Cậu nghĩ là có thể làm như vậy a? Tớ chẳng dám đâu.

- Tớ phải làm thế. Vì mẹ tớ. Nếu có bất cứ ai có thể cho tớ một cái gì khiến cho mẹ tớ khỏe lại thì người ấy hẳn là Aslan.

- Anh sẽ đi cùng các em. – Người đánh xe nói. – Anh thích tất cả mọi thứ về sư tử. Anh cũng không nghĩ đến chuyện những con thú khác sẽ đi theo chúng ta. Anh có lời muốn nói với anh bạn già Strawberry.

Thế là cả ba cùng hùng dũng – hoặc tạo một vẻ hùng dũng như họ có thể tỏ ra – đi theo Aslan và bầy thú. Những con vật biết nói bận rộn nói chuyện, làm thân với nhau nên không không để ý đến ba người cho đến lúc họ đi đến gần, chúng không nghe thấy tiếng bác Andrew – đứng run lẩy bẩy trong đôi ủng cài khuy còn khá tốt – hét lên (nhưng không phải bằng cái giọng cao nhất của ông):

- Digory! Quay lại! Quay lại ngay lập tức, bác ra lệnh cho các cháu. Bác cấm cháu không được đi thêm một bước nào nữa.

Bây giờ thì họ đã đứng giữa bầy thú, các con vật ngừng nói chuyện, đưa mắt nhìn họ:

- Này, - cuối cùng anh chàng hải ly lên tiếng, - nhân danh Aslan, những người này là ai ?

- Làm ơn... – Digory vừa bắt đầu với cái giọng thở không ra lời, thì thỏ đã nói: - Theo tôi nghĩ, đây là một loại rau diếp lớn.

- Không, chúng tôi không phải rau diếp, thành thật mà nói không phải như thế. – Polly hấp tấp nói. – Chúng tôi không phải là cái gì ngon lành để ăn đâu.

- Đấy, - chuột trũi nói, - họ biết nói. Có ai từng nghe nói rau diếp có thể nói được chưa?

- Có thể họ là chuyện đùa thứ hai. – Quạ gáy xám gợi ý.

Báo hoa, đang rửa mặt, bèn dừng lại một chút rồi nói:

- Ái chà, nếu thế thì họ chẳng có gì buồn cười so với chuyện đùa đầu tiên. Ít nhất thì tôi cũng chẳng thấy có yếu tố gì gây cười ở bọn họ hết. – Nó ngáp một cái rõ to rồi tiếp tục rửa mặt.

- Ồ, làm ơn, - Digory nói – tôi đang vội lắm. Tôi muốn gặp sư tử.

Suốt trong thời gian đó, người đánh xe cố bắt cho được ánh mắt của Strawberry. Bây giờ thì nó đã nhìn anh.

- Nào, Strawberry, bạn cũ, - anh nói, - mày biết tao mà. Mày sẽ không đứng ở đây mà nói là mày không biết gì về tao chứ?

- Vật kia đang nói chuyện gì vậy anh bạn ngựa? – Vài giọng nói cất lên.

- À, - Strawberry từ tốn bắt đầu, - tôi cũng không biết rõ đâu, tôi nghĩ hầu hết chúng ta không biết rõ về bất cứ chuyện gì. Nhưng tôi có một ý nghĩ là tôi có nhìn thấy một vật như thế này trước đây – hoặc là một cái gì khác – trước khi Aslan đánh thức tất cả chúng ta dậy chỉ một vài phút. Tất cả là một mớ hỗn độn. Như trong một giấc mơ. Nhưng có những thứ giống như ba người này trong giấc mơ ấy.

- Cái gì? – Người đánh xe bật lò xo. – Không biết tao ư? Chính tao là người thường mang cho mày món bột kê nóng vào những buổi tối khi mày không được khỏe, phải không nào? Tao là người chải lông cho mày đúng chưa? Tao không bao giờ quên khoác bao tải lên người mày khi mày đứng trong gió lạnh, nhớ chưa? Tao chẳng phải bao giờ cũng nghĩ đến mày sao, Strawberry?

- Ký ức bắt đầu trở về đấy. – Ngựa thủng thẳng với giọng ưu tư, - Phải, để tôi nghĩ coi, để tôi nhớ lại. Đúng, ông thường cột một vật gì đen đen kinh khủng sau lưng tôi rồi đánh tôi, bắt tôi phải chạy và dù tôi có chạy nhanh như thế nào đi nữa thì cái vật đen ấy bao giờ cũng vun vút bám theo đánh lên lưng tôi.

- Tao với mày đều phải kiếm sống mà! – Người lái xe chép miệng nói. – Mày cũng như tao thôi. Nếu chúng ta không cần làm việc thì không bị roi vọt cũng chẳng có tàu, chẳng có cỏ, chẳng có cháo kê, chẳng có yến mạch; phải làm việc thì tao mới có tiền mua chứ, điều này thì không ai phủ nhận được, phải không?

- Yến mạch? – Ngựa hí vang, dựng đôi tai lên. – À phải, tôi nhớ ra một vài điều gì về nó. Phải, tôi nhớ ra một chút rồi. Ông bao giờ cũng ngồi ở một chỗ nào đó phía sau, còn tôi bao giờ cũng chạy phía trước, kéo theo ông và cái vật đen đen phía sau. Tôi biết một mình tôi làm tất cả mọi việc.

- Mùa hè, tao thừa nhận: Công việc cho mày, chỗ mát mẻ cho tao. Nhưng còn mùa đông thì sao anh bạn? Mày thì được ủ cho ấm, còn tao thì ngồi đầu xe, đôi chân lạnh như băng, cái mũi buốt như kim châm trong gió rét, hai tay tê dại không còn cầm nổi dây cương nữa.

- Đó là một vùng đất dữ dội, khắc nghiệt. – Strawberry nói. – Không có cỏ. Toàn là sỏi đá.

- Đúng, ngựa của tao, chú mày nói quá đúng. Công việc nhọc nhằn quá lắm. Chẳng phải tao vẫn nói rằng những tảng đá lát đường không tử tế với bất cứ con ngựa nào hay sao? Bữa trưa ấy! Tao cũng không thích chuyện đó hơn mày đâu. Mày là một con ngựa vùng quê, tao cũng là một anh dân cày. Thường vẫn hát trong dàn đồng ca nhà thờ khi tao còn ở nhà. Nhưng ở đấy không có chỗ cho tao sống nữa.

- Thôi thôi. – Digory năn nỉ. – Làm ơn cho chúng tôi đi tiếp. Sư tử mỗi lúc một đi xa hơn. Mà tôi thì rất... rất muốn được nói chuyện với ông ấy.

- Nghe đây Strawberry, - người đánh xe nói tiếp, - anh bạn trẻ này có một cái gì đó trong đầu và anh ta nhất định phải nói về nó với sư tử là người mà mày gọi là Aslan. Giả dụ mày cho phép cậu ấy cưỡi lên lưng mày (một điều mà cậu ấy sẽ lấy làm biết ơn lắm) rồi đưa cậu ấy đến chỗ sư tử thì sao? Còn tao và cô bé này sẽ chạy theo sau.

- Cưỡi à? – Strawberry kêu lên. - Ồ, tôi nhớ ra rồi. Thế nghĩa là ngồi lên lưng tôi. Tôi nhớ là có một người nhỏ bé đứng trên hai chân thường làm như thế... từ lâu lắm rồi. Cậu ta thường dúi vào mõm tôi những vật gì vuông vuông, cưng cứng,... có màu trắng. Ôi, cái vị của nó sao mà tuyệt vời, ngọt ngào hơn cả cỏ non.

- À đấy là đường.

- Làm ơn đi Strawberry, - Digory nài nỉ, - hãy để cho tôi cưỡi và để cho tôi đến chỗ Aslan đi.

- Được, không có vấn đề gì. Không phải là ngay tắp lự, nào nhảy lên đi.

- Strawberry tốt bụng. - Người đánh xe nói. – Ê, chú em, để ta giúp chú một tay.

- Digory lẹ làng nhảy lên lưng ngựa cảm thấy rất thoải mái bởi vì trước đó nó đã cưỡi một con ngựa non mà không dùng đến dây cương.

- Tế lên trước thôi, Strawberry. – Nó kêu lên.

- Tôi cho rằng cậu không có một nắm cái chất trắng trắng, ngòn ngọt ấy cho tôi đâu nhỉ?

- Không, tôi e là mình không có.

- Thôi được, không thể khác được. – Strawberry thở dài và cả hai phóng đi.

Lúc đó có một con chó Bull lớn khịt khịt mũi đánh hơi và gườm gườm nhìn quanh rồi nói:

- Coi kìa! Kia không phải là một sinh vật khác trong những sinh vật kì lạ kia hay sao? Cái vật đứng đằng kia kìa, cạnh bờ sông, trong lùm cây ấy.

Bầy thú quay ra nhìn và trông thấy bác Andrew, đứng bất động trong bụi đỗ quyên với hy vọng không bị chú ý tới.

- Lại đây! – Vài giọng nói hùa theo. – Lại đằng ấy tìm đi. – Thế là, trong lúc Strawberry phóng như bay mang Digory về hướng Aslan đi – Polly và người đánh xe chạy theo – thì hầu hết các con thú quay về phía bác Andrew với những tiếng gầm, rống, sủa, hú, tru và nhiều tiếng ồn vui vẻ khác.

Chúng ta hãy dừng lại một chút và giải thích toàn bộ cảnh này dưới góc nhìn của bác Andrew. Nó không gây nên một ấn tượng tương tự như với người đánh xe và bọn trẻ. Bởi vì cái các bạn nhìn và nghe tùy thuộc rất nhiều vào nơi bạn đứng: nó cũng còn tùy thuộc vào việc bạn thuộc loại người nào nữa.

Kể từ khi những con thú đầu tiên xuất hiện, bác Andrew đã co dúm người lại lùi dần, lùi dần về phía một lùm cây. Tất nhiên ông cũng quan sát tất cả, nhưng ông không quan tâm nhiều đến việc chúng làm, chỉ lo lắng xem chúng lao về phía mình hay không. Cũng như phù thủy, ông hết sức thực dụng. Ông không chú tâm đến việc Aslan đã chọn một cặp thú trong mỗi loài. Tất cả những cái ông chứng kiến hoặc nghĩ là mình chứng kiến chỉ là đám đông những con vật nguy hiểm, hung dữ, chúng đang được tự do ở ngay sát nách ông. Và ông cứ thắc mắc hoài là tại sao những con thú khác không tránh xa con sư tử khổng lồ kia.

Vào cái giây phút trọng đại là lúc những con thú cất tiếng nói, ông đã bỏ qua một điều bởi một lý do rất đặc biệt. Khi sư tử lần đầu tiên cất tiếng hát, kể cũng lâu rồi, lúc ấy trời còn tối đen như mực, ông vẫn biết chuỗi âm thanh đó là một bài ca, nhưng ông không thích nó một chút nào. Nó khiến ông nghĩ về mọi vật theo cái cách mà ông không muốn; không, ông không muốn lòng mình rung lên, hoặc óc mình nảy ra những ý nghĩa mới mẻ dưới tác động của nó. Khi mặt trời lên và ông thấy ca sĩ là một con sư tử (- chỉ là một con tử, - như ông tự nhủ) ông đã cố hết sức để buộc mình phải tin là nó không hát và chưa bao giờ hát – chỉ gầm rú như bất cứ một con sư tử nào trong sở thú ở thế giới chúng ta. “Tất nhiên nó làm sao hát được, mình chỉ tưởng tượng mà thôi, - ông nghĩ, - tiếc là mình đã để cho đầu óc trở nên hỗn độn hết cả. Có đời nào lại có người nghe thấy một con sư tử hát bao giờ?”

Thế là bài hát của sư tử càng kéo dài và đẹp đẽ bao nhiêu thì bác Andrew tội nghiệp càng phải cố gắng bấy nhiêu để buộc mình phải tin rằng bác ta chẳng nghe thấy gì ngoài tiếng gầm rống. Rắc rối là ở chỗ khi bạn cố gắng làm cho đầu óc mình trở nên ngu muội thì bạn thường thành công. Trường hợp của bác Andrew cũng thế. Quả là ông chẳng nghe thấy gì ngoài tiếng gầm rú trong bài ca của Aslan. Chẳng bao lâu sau ông không còn nghe thấy một điều gì như thế nữa, kể cả khi có muốn cũng vậy. Cuối cùng khi sư tử nói: - Narnia đã thức dậy, - ông không hề nghe thấy những lời này, chỉ thấy nó nhe nanh, nhe vuốt. Khi những con thú khác trả lời, ông chỉ nghe thấy tiếng sủa, tiếng gầm gừ, tiếng tru, tiếng hú. Và khi chúng cười – phải, bạn có thể hình dung ra đấy – thì đó là điều tồi tệ nhất trong những điều xảy ra đối với bác Andrew. Chưa bao giờ ông thấy nhiều con thú ghê rợn, khát máu, dữ tợn đến thế trong đời. Đã thế trước cơn tức giận và sợ hãi rụng rời của ông, ngay trước mũi ông, ba người kia lại tiến về phía trước để gặp bầy thú.

- Một lũ xuẩn! – Ông thẩm rủa. – Bây giờ những con thú dữ kia sẽ ăn cả những chiếc nhẫn cùng với hai đứa nhóc con, thế là mình sẽ không bao giờ có thể về nhà được nữa. Cái thằng quỷ Digory kia đúng là thằng mất dạy! Bọn kia thì xấu tính. Nếu chúng muốn vứt bỏ cái mạng của chúng thì cũng cóc phải việc của mình. Nhưng còn mình? Có vẻ như chúng chẳng lo gì đến điều đó. Chẳng có nghĩ đến mình?

Cuối cùng khi cả bầy thú kéo về phía ông, ông quay đầu chạy thục mạng. Bây giờ bất cứ ai cũng có thể thấy không khí ở thế giới mới chào đời này tốt cho người già như thế nào. Ở London, ông quá già để có thể chạy, thế mà ở đây ông chạy với một tốc độ chắc chắn sẽ giúp ông giật được huy chương vàng trong cuộc thi cự ly 100 mét ở một trường dự bị đại học của Anh. Đuôi chiếc áo đuôi tôm bay phần phật phía sau tạo nên một hình đẹp. Nhưng tất nhiên nó chẳng có lợi gì. Nhiều con thú phía sau chạy rất nhanh; đây là cuộc chạy đua đầu tiên trong đời chúng và chúng ao ước được thi thố sức mạnh của những cơ bắp trẻ trung.

- Đuổi theo! Đuổi theo! – Chúng la lên. – Có lẽ đấy là Cái Áo! Bắt lấy! Xé xác hắn ra. Quây tròn hắn lại. Nhanh lên! Ura!

Trong vòng vài phút một vài con đã chạy lên trước mặt ông, xếp thành một hàng dài cản đường. Một số con khỏe chạy phía sau. Nhìn đâu ông cũng chỉ thấy một sự khủng bố. Những cái sừng nhọn chĩa lên, bộ mặt hung dữ của những con voi. Những con gấu nặng nề, quá nghiêm trọng trong mọi việc và heo rừng gầm lên phía sau lưng. Hổ, báo với những khuôn mặt đầy mỉa mai (ấy là ông nghĩ thế) chằm chằm nhìn ông với vẻ lạnh lùng rồi ve vẩy cái đuôi. Cái làm ông sợ nhất là một số con vật đang há mõm, nhe nanh. Thực ra chúng há miệng ra để thở nhưng ông lại nghĩ chúng làm thế để chuẩn bị ăn tươi nuốt sống ông.

Bác Andrew dừng lại, run như cầy sấy, quay ngược quay xuôi tìm đường trốn. Suốt đời mình ông chưa bao giờ thích những con vật, cả vào thời kỳ tốt đẹp nhất, thường thì ông sợ chúng và tất nhiên, những năm làm các cuộc thí nghiệm độc ác trên thú vật khiến ông chỉ thêm sợ và ghét chúng hơn mà thôi.

- Bây giờ thì thưa quý ông, - con chó Bull nói với phong cách thuần túy sự vụ, - ông là thú vật, cây cỏ, hay khoáng chất? – Chỉ vậy thôi mà bác Andrew nghe ra là: Xe... xé x... ác... ra... a...a!

Bạn có thể nghĩ rằng những con thú này quá ngu ngốc mới không biết ngay là bác Andrew cũng là một loại sinh vật giống như hai đứa bé và người đánh xe. Nhưng xin bạn hãy nhớ là thú vật chẳng biết gì về quần áo cả. Chúng nghĩ váy áo của Polly, bộ đồ hiệu Norfolk của Digory và chiếc mũ quả dưa của người đánh xe cũng là một phần gắn vào họ, tựa như lông và da của chúng. Thậm chí chúng cũng không biết cả ba chỉ là một giống người nếu họ không tự nói ra và nếu Strawberry không biết rõ như thế. Bác Andrew cao hơn hai đứa bé nhiều, lại quá gầy so với người đánh xe. Ông mặc toàn màu đen, trừ cái áo trắng khoác bên ngoài (mà vào lúc này nó cũng chẳng còn giữ được màu trắng nữa), mái tóc bờm xờm muối tiêu (bây giờ thì rối bù) không có chút gì giống với cái ở trên đầu ba người kia. Vì vậy, thử hỏi làm sao mà chúng không lẫn lộn cho được. Tệ hơn cả, dường như ông lại không có khả năng nói chuyện.

Nhưng ông đã cố mở miệng. Khi con chó Bull nói với ông (nhưng ông nghĩ đầu tiên nó nhe nanh sau đó thì gầm gừ với ông) ông đã giơ hai bàn tay run rẩy ra nói trong tiếng thở khò khè:

- Cún con ngoan ngoãn, anh bạn chó đáng thương, - Nhưng thú rừng không thể hiểu ông hơn ông hiểu chúng. Muông thú chẳng nghe ra lời nào cả, đó chỉ là những âm thanh lào thào mơ hồ. Có thể là cũng không phải như vậy nốt, bởi vì không có con chó nào mà tôi biết – ít nhất là trong tất cả những con chó biết nói ở Narnia – thích được gọi là – Cún con ngoan ngoãn – cả, cũng giống như bạn đâu có thích người ta gọi mình là – này thằng oắt con kia? – phải không?

Đến đây thì bác Andrew gục xuống, ngất đi.

- Thấy chưa! – Một con cầy hương nói. – Chỉ là một cái cây thôi. Tôi bao giờ cũng nghĩ như thế. (Bạn hãy nhớ là những con vật này chưa bao giờ thấy một người bất tỉnh hay thậm chí ngã xuống).

Con chó Bull ngửi ngửi bác Andrew từ đầu đến chân, sau đó ngẩng đầu lên và nói:

- Đây là một con thú. Chắc chắn là một con thú. Có lẽ là cũng loại với những động vật kia!

- Tôi thì tôi không nghĩ thế. – Một con gấu nói. – Một con vật thì không thể nằm sấp thế kia. Chúng ta là động vật và chúng ta đâu có nằm như thế. Chúng ta đứng, như thế này này. – Nó đứng lên trên hai chân sau, lùi lại một bước, vấp phải một cành cây và ngã ngửa ra.

- Trò đùa thứ ba, trò đùa tếu thứ ba! – Quạ gáy xám thích chí kêu ỏm tỏi.

- Tôi vẫn nghĩ đó là một cái cây, - Cầy hương khăng khăng.

- Nếu đấy là một cái cây, - một con gấu khác nói, - thì phải có tổ ong trên đấy chứ.

- Tôi chắc nó không phải là một cái cây. – Một con lửng nói.

- Tôi thì tôi cho rằng nó đã toan nói một cái gì đó trước khi ngã gục xuống.

- Đó chỉ là tiếng gió lùa vào các cành lá của nó. – Cầy hương vẫn khăng khăng.

- Chắc anh không hiểu rồi, - quạ gáy xám nói với con lửng. – Thế nên anh mới nghĩ nó là một động vật biết nói. Nó đâu có nói cái quái gì đâu.

- Vậy chắc anh thì biết. – Voi lên tiếng (đó là thím voi bởi vì đức ông chồng của thím đã được Aslan gọi đi). – Anh thì biết hẳn, nó có thể là một loại động vật nào đó. Biết đâu cái vật trăng trắng ở phía sau cũng là một loại mặt? Những cái lỗ ấy không phải là mắt và miệng hay sao? Tất nhiên là không thấy mũi. Nhưng mà này – e hèm – người ta không thể có đầu óc hẹp hòi, thiển cận. Ít ai trong chúng ta có một cái được gọi một cách chính xác là cái mũi. – Nói rồi thím vươn dài cái vòi ra với một vẻ kiêu hãnh mà bạn có thể châm chước được.

- Tôi cực lực phản đối nhận xét này. – Chó Bull nói.

- Chị voi có thể là đúng đấy các bác ạ. – Heo vòi nói.

- Để tôi nói cho các bạn nghe điều này, - lừa nói với vẻ nhẹ nhõm, - có thể đó là một loài động vật không biết nói nhưng lại biết suy nghĩ.

- Có thể làm nó đứng lên được không? - Voi nói với vẻ cân nhắc. Nó dùng cái vòi nhẹ nhàng nâng thân hình cứng đơ của bác Andrew lên, nhưng lại dựng ông lên ở tư thế trồng cây chuối. Từ trong túi áo của ông rơi ra hai đồng nửa xôrơren, ba đồng nửa curon, và 6 đồng penxơ. Nhưng vô ích, bác Andrew vẫn đổ xụp xuống.

- Thấy chưa – vài giọng nói vang lên. – Nó đâu phải một con vật. Nó không có sự sống.

- Tôi bảo các bác đó là một con vật. – Con chó Bull vẫn khăng khăng. – Đấy các bác cứ tự ngửi đi thì biết ngay thôi.

- Ngửi không thôi thì chưa phải là tất cả. – Voi nói.

- Tại sao? – con chó Bull hỏi lại. – Nếu như người ta không thể tin vào cái mũi của mình thì hắn còn biết tin vào cái gì đây?

- À, vào đầu óc của mình, có lẽ thế. – Voi đáp giọng nhu mì.

- Tôi cực lực phản đối luận điểm này. – Chó Bull nói.

- Vậy thì chúng ta phải làm một cái gì với nó chứ. – Voi nêu ý kiến. – Bởi vì nó có thể là Cái Áo, và nó phải được đem đến trình diện trước Aslan. Tất cả các bác nghĩ sao? Đây là động vật hay một loại thực vât?

- Cây! Cây! – Hàng chục giọng đồng thanh đáp.

- Được lắm! – Voi đáp. – Vậy, nếu nó là một cái cây, nó cần phải được trồng xuống đất, chúng ta hãy đào một cái hố.

Hai con chuột chũi giải quyết một phần công việc rất nhanh. Có một cuộc  tranh cãi về việc bác Andrew cần phải được trồng xuống hố như thế nào, và ông khó mà thoát khỏi việc bị trồng lộn ngược đầu xuống đất. Một vài con nói rằng chân ông là cành và vì vậy mà cái vật xam xám, tua tủa (chúng muốn nói đến cái đầu) chính là bộ rễ. Nhưng rồi một số con khác lại lý sự phần chân của ông dơ bẩn dính nhiều bùn đất hơn và nó dài đúng như một bộ rễ phải thế. Rốt cuộc ông được trồng đứng. Chúng để ông đứng rồi lấp đất đến ngang đầu gối.

- Cái cây này có vẻ đã héo queo. – Lừa nói.

- Tất nhiên nó cần được tưới nước. – Voi phụ họa. - Tôi nghĩ tôi có thể nói (mà không có ý xúc bất cứ ai có mặt) rằng đó có lẽ là một loại hình công việc thích hợp với cái kiểu mũi của tôi.

- Tôi cực lực phản đối ý kiến này. – Chó Bull bật lò xo.

- Nhưng thím voi đã lẳng lặng đi ra sông, hút đầy một vòi nước rồi quay lại chỗ bác Andrew. Con vật khôn ngoan phun hết mấy gallon 1 nước vào người ông, nước chảy lòng ròng trên bộ đồ của ông cứ như thể ông mặc nguyên quần áo mà tắm. Cuối cùng nước đã làm ông hồi tỉnh. Đó cũng là một sự thức tỉnh!!! Nhưng chúng ta hãy để ông già lại đấy để ngẫm nghĩ về những việc làm không phải của mình (nếu ông còn có xu hướng làm bất cứ điều gì hợp lý) mà quay về với những việc quan trọng hơn.

Con Strawberry phi nước kiệu mang theo Digory trên lưng cho đến khi tiếng ồn do bầy thú gây nên xa dần rồi tắt hẳn, bây giờ thì người và ngựa đã đến gần chỗ Aslan và nhóm cố vấn đã được chọn. Digory vẫn biết rằng nó không nên cắt ngang một cuộc họp nghiêm trọng đến thế nhưng nó cần phải làm như vậy. Chỉ một lời của Aslan thôi là voi đực, hai con quạ đen, cùng tất cả những con thú khác tránh ra một bên. Digory nhảy xuống ngựa và thấy mình đứng đối diện với Aslan. Một Aslan to lớn hơn, oai phong hơn, đẹp đẽ hơn với bộ lông vàng rực rỡ hơn và cũng đáng sợ hơn là nó nghĩ. Nó không dám nhìn thẳng vào đôi mắt to sáng rực ấy.

- Xin làm phúc... thưa ông sư tử… thưa ngài Aslan, - Digory lắp bắp. – ông có thể… tôi có thể… xin ông hãy cho tôi một loại trái cây màu nhiệm nào đó trên xứ sở này để làm cho mẹ tôi khỏe lại không?

Nó hết lòng hi vọng là sư tử sẽ nói – được – và nó sợ chết khiếp nếu sư tử trả lời – không – Nhưng nó giật mình lùi lại khi sư tử không nói cả hai từ ấy.

- Đây là cậu bé, - Aslan nói, không nhìn Digory mà nhìn vào những con thú trong hội đồng – đây là cậu bé đã làm điều đó!

- Lạy trời, mình đã làm cái gì vậy? – Digory nghĩ.

- Con trai của Adam! – Sư tử nói với nó. – Có một phù thủy độc ác từ bên ngoài xâm nhập vào mảnh đất Naria mới mẻ tinh khôi của ta. Hãy nói cho những con thú tốt lành này biết mụ ta đến đây như thế nào?

Có hàng chục khả năng biến báo mà Digory có thể điểm qua trong tâm trí nó, nhưng nó đủ thông minh để quyết định không nói cái gì ngoài sự thật.

- Tôi đã đưa phù thủy đến đây thưa Aslan. – Nó đáp lại với một giọng rất khẽ.

- Với mục đích gì?

- Tôi chỉ muốn đưa mụ ta ra khỏi thế giới của chúng tôi và trả mụ về thế giới của mụ. Tôi tưởng tôi đã mang mụ trở về chỗ của mụ kia.

- Làm thế nào mụ đến được thế giới của ngươi, hỡi con trai của Adam?

- Bằng... bằng pháp thuật…

Sư tử không nói gì thêm và Digory biết rằng nó nói như thế là chưa rõ nghĩa.

- Đó là ông bác của tôi thưa Aslan, - nó tiếp, - chính bác ấy đã phái chúng tôi ra ngoài thế giới của mình bằng những chiếc nhẫn màu nhiệm, ít nhất là tôi buộc phải đi bởi vì ông đã đẩy Polly đi trước, sau đó chúng tôi gặp mụ phù thủy ở một nơi gọi là Charn và mụ ta bám theo chúng tôi khi…

- Ngươi đã gặp phù thủy? – Aslan hỏi bằng một giọng trầm ấm vang trong cổ, nghe có sự đe dọa.

- Mụ ta thức giấc, - Digory đau khổ và khó nhọc nói tiếp trong khi mặt nó trắng bệch ra, - tôi muốn nói tôi đã đánh thức mụ dậy. Chỉ bởi vì tôi muốn biết cái gì sẽ xảy ra nếu tôi đánh vào một cái chuông. Polly không muốn thế. Đó không phải là lỗi của bạn ấy. Tôi… tôi đã đánh bạn ấy. Tôi biết tôi không nên làm thế, tôi nghĩ mình có phần nào bị mê hoặc bởi những dòng chữ viết trên cột đá.

- Thật ư? – Aslan hỏi, vẫn bằng cái giọng trầm sâu tận trong lồng ngực.

- Không. Bây giờ thì tôi hiểu là không phải như thế. Tôi chỉ giả vờ là như vậy thôi

Một quãng lặng dài. Trong đầu Digory quay cuồng một ý nghĩ. – Mình làm hỏng mọi chuyện rồi. Bây giờ thì chẳng có cơ hội nào lấy được bất cứ cái gì cho mẹ nữa.

Một lần nữa sư tử là người phá tan im lặng, nhưng nó không nói với cậu bé.

- Bằng hữu của ta, - nó nói, - trước khi một thế giới mới mẻ, tinh khôi mà tôi trao cho các bạn qua được giờ thứ bảy thì một lực lượng hắc ám đã đặt được chân vào, được đánh thức dậy bởi đứa con này của Adam mang tới đây.

Bầy thú, kể cả Strawberry nhất loại quay lại nhìn Digory cho đến khi nó cảm thấy chỉ có một mong muốn là mặt đất nứt ra nuốt chửng nó.

- Nhưng cũng không nên xóa bỏ một cái gì. – Aslan nói tiếp vẫn với hội đồng thú. – Tội ác sẽ đến theo con đường của nó nhưng cũng vẫn còn khá xa. Ta sẽ xem xét để cái điều tồi tệ nhất chỉ bổ xuống đầu ta mà thôi. Trong khi đó, chúng ta hãy sắp đặt sao cho trong hàng trăm năm tới, nơi đây sẽ là mảnh đất của niềm vui, của nụ cười và của hạnh phúc. Và nếu dòng giống của Adam đã gây nên họa lớn thì dòng giống của Adam sẽ phải góp một tay cứu vãn điều đó. Lại gần đây, cả hai người kia.

Câu cuối cùng Aslan nói với Polly và người đánh xe đúng lúc họ vừa đi đến. Polly, cả mắt và miệng đều tròn xoe nhìn Aslan bất giác nắm chặt lấy tay người lái xe. Người này liếc nhìn Aslan một cái, bỏ cái mũ quả dưa trên đầu ra; chưa có ai nhìn thấy anh mà không có cái mũ đó trên đầu. Khi bỏ mũ ra trông anh trẻ hơn, có cái vẻ của một anh trai làng hơn đồng thời cũng ít đi cái vẻ của một người lính đánh xe ở London hơn.

- Con trai, - Aslan nói với người đánh xe, - ta đã biết con khá lâu rồi. Con có biết ta chăng?

- Không, thưa ngài, - người đánh xe đáp, - ít nhất thì tôi cũng không biết ngài theo cách nói thông thường. Tuy nhiên, tôi cảm thấy bằng một cách nào đó, nếu tôi được tự do nói ra những gì trong đầu, tôi có thể… nói… chúng ta đã gặp nhau bằng một cách nào đó.

- Nó là thế đấy. – Sư tử nói. – Con biết nhiều hơn cái con nghĩ là mình biết và con sẽ sống để biết về ta rõ hơn. Sao, mảnh đất này có làm vừa lòng con không?

- Đây là mảnh đất lành, thưa ngài.

- Con có muốn sống ở đây mãi mãi không?

- Ồ ngài thấy đấy, tôi đã là người đàn ông có gia đình. Nếu vợ tôi cũng ở đây thì cả hai chúng tôi sẽ không muốn quay lại London nữa đâu, tôi nghĩ thế. Cả hai chúng tôi đều là dân quê mà.

Aslan hất cái đầu bờm xờm lên, há to miệng nhả ra một nốt nhạc kéo dài, không to lắm nhưng mà đầy sức mạnh. Trái tim của Polly nảy lên trong lồng ngực khi nghe nốt nhạc này. Nó cảm thấy đó chính là một tiếng gọi mà bất cứ ai nghe thấy lời hiệu triệu này đều phải tuân phục nó dù có bao nhiêu thế giới và thế hệ ngăn cách cũng vậy. Và thế là trong nó tràn ngập một sự xao xuyến ngỡ ngàng nên nó không lấy gì làm ngạc nhiên hay giật mình khi thình lình trông thấy một phụ nữ trẻ có khuôn mặt thật thà, nhân hậu bước ra từ hư vô đến đứng ngay bên cạnh mình. Nó biết ngay đấy là vợ người đánh xe đã bị bứt ra khỏi thế giới của mình không phải bằng bất cứ một chiếc nhẫn thần chán chết nào mà bằng một cách đơn giản, nhanh chóng và nhẹ nhàng như một con chim tung cánh bay về tổ ấm. Người phụ nữ này rõ ràng là đang giặt đồ bởi chị vẫn khoác cái tạp dề, tay áo xắn lên đến khuỷu và hai bàn tay vẫn còn bọt xà bông. Nếu chị có thời gian diện bộ đồ đẹp nhất (cái mũ điệu nhất của chị có gắn những bông hoa anh đào giả) hẳn chị sẽ được coi là đẹp, còn bây giờ thì chị chỉ ở mức dễ thương thôi.

Tất nhiên, chị nghĩ mình đang mơ. Đó là lý do tại sao chị không lao đến bên chồng hỏi anh xem chuyện gì đang xảy ra với họ. Nhưng khi chị nhìn sư tử, chị không còn chắc đây là một giấc mơ nữa, tuy vậy vì một lý do nào đó chị không tỏ vẻ quá sợ hãi. Chị hơi nhún gối chào như một vài cô gái quê cũng biết chào người lạ theo kiểu này. Sau đó chị đến khoác tay chồng và đứng đó nhìn quanh với đôi chút e ngại.

- Các con của ta, - Aslan nói, nhìn chăm chú vào đôi vợ chồng trẻ, - các con sẽ là vua và hoàng hậu đầu tiên ở Narnia.

Người đánh xe há hốc mồm vì kinh ngạc, còn vợ anh thì đỏ bừng hai má.

- Các con sẽ trị vì và đặt tên cho tất cả các loài thú này, phán xử mọi việc giữa chúng với nhau, bảo vệ chúng khỏi kẻ thù khi kẻ thù xuất hiện. Mà thế lực xấu thì trước sau cũng sẽ xuất hiện bởi vì phù thủy độc ác đã có mặt ở thế giới này.

Người đánh xe nuốt nước bọt khan hai, ba lần rồi đằng hắng:

- Cầu xin ngài bỏ quá cho, - anh nói, - và cảm tạ ngài rất nhiều nhưng tôi chắc (và nhà tôi cũng thế) rằng tôi không phải là kẻ làm được một việc như thế. Tôi không được học hành đến nơi đến chốn, ngài cũng rõ đấy.

- Phải, - Aslan đáp, - nhưng con có thể dùng cuốc, xẻng, cày, bừa và làm ra thức ăn từ đất chứ?

- Vâng thưa ngài, tôi có thể làm được loại công việc đó, chả là tôi được nuôi dưỡng trong môi trường đó mà.

- Nếu vậy, các con có thể cai trị muông thú một cách công bằng, tử tế, luôn nhớ rằng chúng không phải là nô lệ như những con thú câm trong cái thế giới con sinh ra, mà là những con thú biết nói và những sinh vật tự do.

- Tôi đã hiểu thưa ngài, - người đánh xe đáp, - tôi sẽ cố gắng làm những việc đúng đắn với các loài thú.

- Và các con cũng nuôi dạy con cháu của mình đúng như thế chứ?

- Tôi sẽ cố, thưa ngài. Tôi sẽ làm hết sức mình, chúng mình sẽ làm như thế phải không, Nellie?

- Và các con sẽ không thiên vị ai trong số con cháu mình cũng như giữa các con thú khác hoặc để cho loài này hiếp đáp loài khác hoặc lợi dụng chúng chứ?

- Tôi không bao giờ để cho những chuyện đó xảy ra thưa ngài và đó là sự thật. Tôi sẽ trả cho chúng cái mà tôi có được ở chúng. – Người đánh xe nói. (Trong cuộc trao đổi này giọng anh từ tốn, mỗi lúc một biểu cảm hơn, gần với cái giọng nhà quê khi anh còn bé và ít đi âm sắc đanh gọn và liến thoắng của một người ở khu đông London.)

- Và nếu kẻ thù kéo đến mảnh đất này (bởi vì trước sau gì chúng cũng đến) và chiến tranh nổ ra thì con sẽ là người đầu tiên đứng mũi chịu sào và là người cuối cùng rút lui chứ?

- Chính là thế, thưa ngài. – Người đánh xe đáp giọng chậm rãi. – Một người đàn ông không biết chính xác mọi chuyện cho đến khi anh ta thử sức mình. Tôi dám nói tôi có thể trở thành một người nhân hậu. Không bao giờ đánh nhau trừ khi là với nắm đấm của chính mình. Tôi sẽ cố - thế đấy – tôi hi vọng sẽ cố... hoàn tất công việc của mình.

- Nếu vậy, con có thể làm tất cả những gì mà một ông vua phải làm. Lễ đăng quang của con sẽ được tiến hành ngay bây giờ. Con và con cháu của con sẽ được ban phước, một số người sẽ là vua ở Narnia, một số khác sẽ làm chủ Archenland nằm cao cao trên những rặng núi phương Nam. Còn con, con gái bé bỏng của ta (nói đến đây sư tử quay sang Polly) chào mừng con đã đến đây. Con tha thứ cho cậu bé cái hành động thô bạo nó đã làm ở đại sảnh của các Hình nhân trong lâu đài hoang tàn xứ Charn đáng bị nguyền rủa chứ?

- Thưa Aslan. Chúng cháu đã làm hòa rồi ạ.

- Thế thì tốt, bây giờ đến lượt cậu bé.

Nãy giờ Digory vẫn mím chặt môi lại. Mỗi lúc nó một trở nên bứt rứt, khó chịu. Nó chỉ biết hi vọng dù có bất cứ chuyện gì xảy ra thì nó cũng không òa khóc hoặc làm bất cứ chuyện gì ngớ ngẩn.

- Con trai của Adam, - Aslan nói, - ngươi có sẵn lòng chuộc lại việc làm sai trái mà ngươi đã mang đến đất nước Narnia tươi đẹp vào đúng ngày nó chào đời không?

- Nhưng… tôi không biết mình có thể làm được gì. - Digory nói. – Ngài thấy đấy, phù thủy đã bỏ chạy và…

- Ta hỏi, ngươi sẵn sàng chứ? – Sư tử nhắc lại.

- Thưa vâng. – Digory nói. Trong đầu nó quay cuồng một ư nghĩ man dại chỉ chực bật ra: Tôi sẽ cố giúp ông nếu ông hứa sẽ giúp mẹ tôi khỏi bệnh. Nhưng nó kịp nhận ra là Aslan không phải là loại người bạn có thể đặt điều kiện hoặc mặc cả. Vào lúc nó đáp: - Thưa vâng. – Nó chỉ nghĩ đến mẹ, đến những hi vọng lớn lao mà nó ấp ủ và bây giờ đang chết dần; cổ họng nó nghẹn lại, nước mắt cay xè trong mắt và nó thốt lên: - Nhưng làm ơn… làm ơn… thế ngài không… không thể cho tôi một cái gì chữa khỏi bệnh cho mẹ tôi sao?

Nói đến đây nó thôi không nhìn bốn cái chân to tướng và những cái móng khủng khiếp của sư tử nữa. Trong cơn tuyệt vọng nó ngẩng lên nhìn vào mặt sư tử. Điều nó chứng kiến làm nó ngạc nhiên hơn bất cứ chuyện gì khác xảy ra trong đời nó. Bởi vì khuôn mặt hung hung ấy cúi xuống sát khuôn mặt nó và (điều kì diệu của những điều kì diệu) chính là những giọt lệ long lanh đọng trong mắt sư tử. Đó là những giọt lệ to và trong trẻo không kém gì với giọt nước mắt nằng nặng trong khóe mắt Digory và trong giây lát nó cảm thấy sư tử còn thương xót mẹ nó hơn chính bản thân nó nữa.

- Con trai của ta, con trai của ta, - Aslan nói, - ta biết. Nỗi buồn này lớn lắm. Chỉ có con và ta trên mảnh đất này là biết đến điều đó. Chúng ta hãy là bạn tốt của nhau. Nhưng ta còn phải nghĩ đến hàng thế kỷ sắp tới trên mảnh đất Narnia này. Phù thủy mà con đã mang đến đây sẽ quay lại Narnia. Bây giờ thì chưa đâu. Ta có ý định trồng ở Narnia một cái cây khiến phù thủy không dám lai vãng đến đây. Cái cây ấy sẽ bảo vệ Narnia khỏi cái ác trong vòng nhiều năm. Như thế mảnh đất này sẽ có một buổi sáng trong lành kéo dài trước khi có bất cứ đám mây nào kéo đến che khuất mặt trời. Con phải lấy cho ta hạt giống của cái cây ấy.

- Vâng, thưa ngài. – Digory nói. Nó cũng không biết việc ấy sẽ được hoàn thành như thế nào nhưng nó cảm thấy bây giờ mình có khả năng làm được điều đó. Sư tử hít một hơi dài, cúi đầu xuống thấp hơn nữa trao cho cậu bé một nụ hôn của sư tử. Ngay lập tức Digory cảm thấy luồng sức mạnh và một ý chí vững vàng ùa vào trong huyết mạch.

- Con thân yêu, - Aslan nói, - ta sẽ nói cho con biết việc mà con phải làm. Hãy quay đầu nhìn về phía Tây và cho ta biết con nhìn thấy cái gì ở đấy.

- Con thấy một rặng núi thật hùng vĩ, thưa Aslan. – Digory nói. – Con thấy một dòng nước lao xuống từ các vách đá tạo thành một thác nước, phía sau các vách đá là những cánh rừng xanh tươi phủ kín những ngọn đồi cao. Xa hơn nữa là những rặng núi cao hơn gần như đen thẫm. Và xa tít phía sau là những dãy núi lớn, tuyết phủ trắng trên đỉnh – giống như những bức tranh về dãy núi Alps. Sau nữa thì chẳng còn gì ngoài bầu trời.

- Mắt con nhìn tốt lắm – Aslan nói. – Đất của Narnia chấm dứt ở chỗ thác nước chảy xuống và một khi con lên đến đỉnh các vách đá cheo leo kia, con đã ra ngoài Narnia mà xâm nhập vào miền Tây hoang dã. Con cần phải đi qua những quả  núi này cho đến khi tìm thấy một thung lũng xanh tươi có hồ  nước trong suốt đến tận đáy, quanh hồ là những ngọn núi phủ đầy băng tạo thành bức tường bao. Cuối hồ có một ngọn đồi xanh dốc thoai thoải. Trên đỉnh đồi có một khu vườn. Giữa vườn có một cái cây. Hãy hái một quả táo trên cây đưa về đây cho ta.

- Vâng, thưa ngài. – Digory đáp. Nó còn chưa mảy may có ý niệm gì về việc làm cách nào nó trèo lên được vách đá, tìm đường đi qua các đỉnh núi nhưng nó không muốn nói ra vì sợ điều đó sẽ nghe có vẻ như nó đang tạo ra một cái cớ thoái thác. Nó nói thêm: - Thưa Aslan, con hy vọng ngài không gấp quá. Con không thể đi đến đấy và quay về thật nhanh được.

- Con trai nhỏ của Adam, con cần phải được giúp đỡ. - Aslan nói, rồi quay qua con ngựa từ đầu đến giờ vẫn đứng yên lặng phía sau, ve vẩy cái đuôi đuổi những con ruồi và nghiêng đầu lắng nghe như thể câu chuyện đang diễn ra có đôi điều khó hiểu. – Ngựa yêu, ngươi muốn trở thành một con ngựa có cánh chứ?

Bạn chỉ cần chứng kiến cái cách nó rung bờm và nở rộng lỗ mũi, gõ móng chân sau xuống đất cũng đủ biết rõ là nó muốn trở thành một con ngựa biết bay như thế nào. Nhưng nó chỉ nói một cách giản dị:

- Nếu ngài muốn, thưa Aslan – nếu ngài thật sự muốn – tôi chỉ không hiểu tại sao lại là tôi – tôi không lấy gì làm xuất sắc cho lắm.

- Có cách. Và là cha của những con ngựa biết bay. – Aslan ngân lên bằng cái giọng làm cho cả mặt đất cũng rung lên. – Tên ngươi là Fledge.

Con ngựa nhảy sang một bên cùng với cách nó đã nhảy trong những ngày đau khổ xa xưa khi nó phải gò lưng kéo xe. Đoạn nó hí vang, vươn dài cổ ra sau như thể có một con ruồi trâu cắn vào vai nó và chỉ muốn cào vào cái chỗ đang ngứa ran lên. Và rồi cũng như các con thú bật lên từ lòng đất, từ đôi vai của Fledge nhú ra một đôi cánh dang rộng, lớn hơn cánh chim ưng, lớn hơn cánh thiên nga, lớn hơn cánh thiên thần vẽ trên cửa sổ các nhà thờ. Lông cánh có màu hạt dẻ sáng bóng và màu đồng. Ngựa dang cánh bay vút lên trên không trung. Lên cao hơn Aslan và Digory khoảng gần 10 mét, nó khịt khịt mũi hí vang và chồm lên. Sau một vòng lượn tròn, nó hạ cánh xuống đất, bốn móng cùng một lúc, dáng vẻ ngượng ngùng và lóng ngóng nhưng hết sức sung sướng.

- Tốt chứ Fledge?

- Ngươi sẽ mang con trai của Adam đến thung lũng nằm lọt giữa các đỉnh núi mà ta vừa nói đến chứ?

- Cái gì? Bây giờ ư? Ngay lập tức à? – Strawberry – hay Fledge như bây giờ chúng ra phải gọi nó như thế - kêu lên: – Hoan hô! Đến đây cậu bé, tôi đã mang những thứ như cậu trên lưng trước đây rồi. Lâu, đã lâu lắm rồi. Những cánh đồng xanh và những miếng đường.

- Hai người con gái của Eve thì thầm cái gì đấy? – Aslam hỏi, bất thình lình quay sang Polly và vợ người đánh xe, hai người này đã làm bạn với nhau.

- Nếu ngài cho phép, - hoàng hậu Helen nói (bây giờ Nellie – vợ người đánh xe đã có danh hiệu cao quý này), - tôi nghĩ cô bé này cũng muốn đi theo nếu không có gì phiền ạ.

- Vậy ngươi, Fledge, ý người thế nào? – Sư tử hỏi.

- Ồ, tôi không ngại mang hai người, kể cả khi họ không phải là hai nhóc con. Tôi chỉ hi vọng là bạn voi không muốn đi cùng.

Voi không có ý muốn đó và ông vua mới của xứ Narnia giúp hai đứa trẻ nhảy lên lưng ngựa, nghĩa là vua đẩy mạnh Digory lên lưng ngựa và bế Polly đặt lên một cách nâng niu, trìu mến như thể cô bé được làm bằng sứ và có thể vỡ ra từng mảnh, rồi nói:

- Các bạn trẻ ngồi yên rồi, Strawberry – Fledge, ta có thể nói như thế. Đây là một chuyến đi nguy hiểm đấy.

- Đừng bay quá cao. – Aslan nói. – Đừng có bay trên những đỉnh núi băng tuyết. Hãy tìm những thung lũng và những miền cỏ xanh mà bay qua đấy. Bao giờ cũng có đường đi. Bây giờ thì hãy bay đi cùng với lời chúc phúc của ta.

- Ồ Fledge! – Digory nói và cúi xuống vỗ lên chiếc cổ bóng láng của con ngựa. – Sẽ vui lắm đấy. Ôm chặt lấy tớ, Polly.

Chỉ một loáng tất cả đã bị bỏ lại bên dưới hai đứa và chúng lượn vòng khi con Fledge như một con bồ câu khổng lồ, đánh một vòng rồi hai vòng trước khi thực hiện một chuyến bay dài về hướng tây. Nhìn xuống dưới Polly khó có thể nhìn thấy vua và hoàng hậu, kể cả Aslan cũng chỉ là một chấm vàng rực lên trên thảm cỏ xanh. Chẳng bao lâu gió đã tốc thẳng vào mặt hai đứa và đôi cánh của Fledge đã ở vào một vị trí cân bằng.

Dải đất Narnia nhiều màu, với những thảm cỏ, núi đá, những bụi thạch và nhiều loại cây khác nhau nằm trải dài phía dưới họ, con sông chảy qua miền đất tươi đẹp này như một dải ruy băng bằng thủy ngân. Hai đứa có thể nhìn rõ đỉnh những ngọn đồi thấp chạy về phía bắc, ở bên phải chúng; vượt qua những quả đồi là một vùng đất hoang, mọc đầy thạch nam rộng mênh mông, uốn lượn nhịp nhàng trải ra tới tận chân trời. Bên tay trái là những dãy núi cao hơn nhiều nhưng chốc chốc lại có những thảo nguyên mà khi nhìn xuống bạn có thể thấy những cánh rừng thông dốc cao và một thoáng miền đất phía nam nằm giữa những quả núi trông xanh biếc xa vời.

- Đó chính là đất nước Archenland – Polly nói.

- Phải, nhưng hãy nhìn về phía trước đi.

Và kia một dãy núi cheo leo sừng sững trước mặt chúng làm thành một rào cản và chúng gần như hoa mắt khi thấy ánh nắng mặt trời nhảy nhót trên một thác nước hùng vĩ bởi có một con sông lớn cuồn cuộn chảy xuống từ cao nguyên miền Tây và từ đáy ầm ầm tung bọt trắng đổ xuống đất Narnia. Người và ngựa đang ở trên một độ cao mà tiếng nước gầm thét đổ xuống chỉ còn là một âm thanh yếu ớt, mơ hồ nhưng tuy vậy ngựa vẫn chưa bay đủ cao để vượt qua được những ngọn núi cao tạo thành bức tường thành chót vót.

- Chúng ta buộc phải bay theo đường dích dắc để vượt qua đây. – Fledge nói – Ngồi cho chắc nhé.

Nó bắt đầu bay vòng vèo mỗi lúc một cao hơn. Không khí lạnh buốt, chúng có thể nghe thấy tiếng diều hâu gọi nhau ở bên dưới.

- Này, quay lại đi! Nhìn ra phía sau kìa. – Polly nói. – Bây giờ các bạn nhỏ có thể nhìn thấy toàn bộ thung lũng Narnia trải ra đến đâu và ngay phía trước chân trời phía đông là một dải biển. Ngựa có cánh bay cao đến nỗi dãy núi hình răng cưa xa xa sau những đồng  hoang phía bắc chỉ là những chấm nhỏ và dải đồng bằng trông như những hạt cát ở về phía nam.

- Tôi mong có ai đó ở đây để bảo cho chúng ta biết tất cả những nơi này là đâu. – Digory nói.

- Tớ cho là người ấy không có mặt ở bất cứ đâu. Tớ muốn nói là không có ai cả và chẳng có gì xảy ra. Thế giới này mới chỉ được bắt đầu vào ngày hôm nay thôi mà.

- Chưa, nhưng rồi con người sẽ kéo đến đây, - Digory nói, - và họ viết lên lịch sử của chính mình, cậu cũng biết đấy.

- Nếu vậy thì sẽ là một điều tốt đẹp khi họ còn chưa có mặt ở đây. – Polly nói. – Bởi vì con người không phải được sinh ra để biết đến những chuyện như thế, chiến tranh, niên đại và tất cả những thứ thối nát ấy. Bây giờ thì chúng đã vượt qua được vách đá và chỉ vài phút sau vùng thảo nguyên của Narnia đã chìm sâu đằng sau. Chúng đang bay qua một đất nước hoang dã chỉ có những ngọn đồi dốc đứng và những cánh rừng già đen sẫm và vẫn đi theo hướng dòng sông. Những rặng núi cao đã hiện ra lù lù trước mặt. Mặt trời nằm thành một đường thẳng với du khách và chúng khó có thể nhìn rõ vật gì theo hướng ấy. Bởi vì, mặt trời mỗi lúc một xuống thấp hơn, thấp hơn cho đến khi vùng trời phía tây trông giống như một miệng lò luyện vàng lớn, nấp sau một ngọn núi răng cưa làm cho dãy núi sáng rực và sắc nét như thể được cắt ra từ một tấm bìa carton.

- Ở đây cũng không ấm áp hơn. – Polly nói.

- Và đôi cánh tôi bắt đầu đau nhức lên đây này. – Fledge nói. – Không thấy tăm hơi cái thung lũng có một cái hồ như Aslan đã nói. Hay là ta hạ cánh, tìm một chỗ tàm tạm để nghỉ đêm hả? Chúng ta sẽ không đến được đó trước lúc trời tối đâu.

- Phải, chắc chắn là cững đến giờ ăn tối rồi. – Digory nói.

Thế là Fledge bắt đầu hạ cánh thấp dần. Trong lúc chúng xuống gần mặt đất hơn (đó là một vùng đồi thấp) không khí mỗi lúc một ấm áp hơn. Sau nhiều giờ bay trên cao, chẳng nghe thấy gì ngoài tiếng vỗ cánh của Fledge, thật dễ chịu khi lại được nghe thấy những âm thanh thân thuộc của mặt đất – tiếng trò chuyện của dòng sông với bờ đá và tiếng xào xạc của hàng cây trong gió nhẹ. Cái mùi ấm áp tốt lành của mặt đất được mặt trời sưởi ấm cùng với hương của cỏ hoa, tất cả ùa đến đón bọn trẻ. Cuối cùng Fledge hạ cánh an toàn. Digory nhảy xuống trước rồi giúp Polly xuống ngựa. Cả hai được sung sướng duỗi dài đôi chân tê cứng.

Thung lũng mà chúng hạ xuống nằm ở trung tâm các dãy núi vươn cao hơn tất cả, sáng rực lên như một đóa hồng thắm đỏ trong ánh chiều tà.

- Tớ đói quá rồi. – Digory nói.

- Vậy thì chén đi. – Fledge nói, ngoặt một mồm đầy cỏ non. Đoạn nó ngẩng đầu lên, vẫn nhai cỏ rau ráu làm cho vài cọng thò ra hai bên mép trông như một hàng ria, rồi nói: - Ăn đi, đừng mắc cỡ. Có đủ cỏ cho tất cả chúng ta.

- Nhưng chúng tôi không thể ăn cỏ. – Digory nói.

- Hưm, hừm! – Fledge nói, miệng nhồm nhoàm đầy cỏ. – Hừm, vậy thì không biết phải làm gì cho hai bạn. Cỏ ngon lắm.

Polly và Digory nhìn nhau, mất hết cả tinh thần:

- Vậy mà đã tưởng là sẽ có một ai đó chuẩn bị bữa ăn cho chúng ta. - Digory nói.

- Tôi chắc Aslann sẽ đáp ứng yêu cầu này nếu như cậu hỏi ngài. – Con ngựa nói nhỏ.

- Ông ấy sẽ không biết nếu điều đó không được nói ra hay sao? – Polly hỏi.

- Tôi không nghi ngờ điều đó. – Ngựa nói (vẫn với một miệng đầy cỏ). – Nhưng tôi nghĩ là ngài thích được thỉnh cầu hơn.

- Nhưng trời ạ, bây giờ chúng tôi phải làm gì đây? – Digory hỏi.

- Tôi chắc mình không rõ chuyện này rồi. – Fledge nói. - Trừ khi các người thử ăn cỏ. Các người sẽ thích ăn cỏ hơn là mình tưởng đấy.

- Thôi đừng có ngu xuẩn nữa. – Polly nói, giậm chân xuống đất. – Tất nhiên con người không thể ăn cỏ, cũng như loài ngựa không thể ăn sườn cừu.

- Vì Chúa, xin đừng nói chuyện sườn cừu nữa được không. Nó chỉ làm cho mọi việc tồi tệ hơn mà thôi. – Digory kêu lên rồi bảo Polly là tốt nhất cô bạn nên quay về nhà bằng cái nhẫn để kiếm cái gì ăn ở đấy, bản thân nó không thể đi được vì nó đã hứa thực hiện nhiệm vụ Aslan giao, với lại giả sử Digory có mặt ở nhà rất có thể có một chuyện gì đó xảy ra ngăn không cho nó ra đi. Nhưng Polly nói nó không thể bỏ bạn trong lúc khó khăn. Digory cảm ơn người bạn tốt.

- Mà này, tớ vẫn còn một bịch kẹo nhỏ trong túi, ít còn hơn không. – Polly nói.

- Thế là quá tốt rồi, nhưng cậu hãy cẩn thận đừng chạm vào nhẫn khi cho tay vào túi đấy.

Đó là một nhiệm vụ khó khăn và đòi hỏi một sự khéo léo, chính xác nhưng cuối cùng chũng cũng làm được. Cái túi nhỏ bằng giấy mềm xèo và rất dính khi chúng móc ra khỏi túi, thế là lại có vấn đề nên xé cái bịch giấy đựng kẹo hay là lấy kẹo ra. Một số người lớn (bạn cũng biết họ có thể xé to những chuyện nhỏ như thế nào) họ sẽ chấp nhận cả hai cùng nhịn đói còn hơn là chia đều số kẹo trên. Có chín cái tất cả. Theo ý kiến của Digory thì nên chia đều tám cái cho hai đứa còn một cái cấy xuống đất bởi vì như nó lý luận: Nếu một thanh sắt từ cột đèn cũng có thể mọc lên một cột đèn thật sự thì tại sao cái kẹo lại không thành cây kẹo cơ chứ?

Thế là chúng đào một cái lỗ nhỏ ngay trên lớp đất bề mặt rồi vùi mẩu kẹo xuống. Chúng chia nhau, mỗi đứa ăn bốn cái, cố làm sao cho cái kẹo càng lâu tan trong miệng càng tốt. Đúng là voi ăn thuốc gió, thậm chí cả đến giấy gói kẹo chúng cũng ăn luôn.

Fledge đã chén xong một bữa cỏ ngon lành bèn nằm khềnh ra đất. Hai đứa trẻ đứng bên cạnh nó, mỗi đứa ngồi ở một bên, dựa vào thân hình ấm áp của nó, Fledge xòe cánh che lên người hai đứa và thế là chúng có một mái nhà ấm cúng. Nhìn những ngôi sao non trẻ, rực sáng trên bức màn nhung đen của một thế giới mới, hai đứa nói với nhau về đủ mọi thứ chuyện làm thế nào mà từ cái hi vọng điên rồ tìm được thuốc cải  tử hoàn sinh cho mẹ Digory lại dẫn đến việc Aslan giao cho nó một trọng trách lớn lao với đất nước Narnia như thế. Hai đứa nhắc lại với nhau về tất cả những dấu hiệu để nhận ra những nơi mà chúng phải đến – hồ nước xanh, ngọn đồi với một vườn cây trên đỉnh. Câu chuyện uể oải dần khi chúng bắt đầu thiu thiu ngủ. Bất thình lình Polly choàng tỉnh, ngồi phắt dậy và nói:

- Suỵt!

Người và vật căng tai lắng nghe.

- Có lẽ chỉ là tiếng gió thổi qua cành cây thôi. – Digory thì thào.

- Tôi không chắc đâu. – Fledge nói. – Dù sao thì cũng đợi đấy! Kìa, nó lại đến. Nhân danh Aslan, nó là một cái gì đó.

Con ngựa vùng dậy gây ra một tiếng động lớn và bọn trẻ tư thế sẵn sàng. Fledge chạy nước kiệu vòng vòng, vừa chạy vừa ngửi ngửi đánh hơi và hí vang. Bọn trẻ nhón chân đi lại nhòm ngó sau mỗi gốc cây, bụi cỏ. Hai đứa vẫn nghĩ là chúng nhìn thấy một cái gì đó, có lúc Polly hoàn toàn chắc chắn là nó nhìn thấy một vật đen và cao bước đi rất nhanh về hướng tây. Nhưng chúng chẳng khám phá đươc gì, cuối cùng Fledge lại nằm xuống và hai đứa trẻ lại rúc (nếu đây là một từ phù hợp) dưới đôi cánh nó. Hai đứa lập tức ngủ ngay. Fledge thức lâu hơn một chút, ngoáy đôi tai tới lui trong bóng đêm, thỉnh thoảng lại cảm thấy có một luồng run rẩy dưới làn da như thể có một con ruồi chạm vào, nhưng cuối cùng nó cũng ngủ.

- Dậy đi Digory! Dậy thôi Fledge! – Đó là giọng của Polly. – Cái kẹo đã trở thành cây kẹo bơ rồi. Và trời sáng rồi, đẹp quá!

Mặt trời buổi sớm vừa mới lên khỏi đường chân trời, ánh nắng chiếu qua rừng cây, lá cây vẫn còn mang màu xam xám với những giọt sương long lanh và làm cho những sợi tơ nhện trông như được dệt bằng loại chỉ bạc cực mỏng. Ngay bên cạnh chúng là một thân cây nhỏ, gỗ đen, cao cỡ một cây táo nhỏ, lá cây trắng nhờ nhờ, mỏng như giấy, giống như một loài cây gọi là luna. Trên cành chi chít những trái cây nhỏ màu nâu nom tựa như quả chà là.

- Hoan hô! – Digory nói. – Nhưng trước hết tớ phải đi ngâm mình xuống nước một lát đã.

Nó chạy qua một hoặc hai bụi hoa, đi về phía bờ sông. Bạn đã bao giờ tắm ở một dòng sông trên núi, chảy qua một cái khe hẹp qua những hòn đá màu đỏ, xanh và vàng chưa? Cũng sướng như tắm biển vậy; ở một vài khía cạnh nó thậm chí còn tuyệt vời hơn. Tất nhiên, Digory phải mặc lại bộ quần áo cũ vì không có thời gian để giặt và phơi khô, nhưng dù sao được tắm như vậy cũng là một kỷ niệm thú vị. Nó quay về và đến lượt Polly ra sông tắm; ít nhất thì Polly cũng nói là nó làm như vậy nhưng chúng ta biết là nó không biết bơi mà thôi tốt nhất là không nên đặt ra quá nhiều câu hỏi trong chuyện này. Fledge cũng tìm đường ra bờ sông nhưng nó chỉ đứng ở giữa dòng cúi xuống uống một hơi dài, đoạn lúc lắc cái bờm và hí vang lên vài lần.

Polly và Digory bắt đầu – làm việc – với cây kẹo bơ. Quả của nó rất ngon; không hẳn như kẹo bơ – mềm hơn và có nước – nhưng là một loại quả nhắc ta nhớ đến loại kẹo bơ. Fledge cũng có một bữa ăn sáng ngon lành, nó nếm thử một trái kẹo bơ và thích loại này nhưng nói thêm, nó ưng ăn cỏ vào bữa điểm tâm hơn. Sau đó với một chút bịn rịn, bọn trẻ lên lưng ngựa và chặng đường thứ hai bắt đầu.

Thậm chí mọi chuyện còn tuyệt hơn ngày hôm qua nữa, một phần vì ai cũng cảm thấy khỏe khoắn, tươi tắn, một phần vì mặt trời mới mọc, lại ở ngay sau lưng chúng ta và tất nhiên mọi thứ đều đẹp hơn khi ánh sáng chiếu sau lưng bạn. Một chuyến bay tuyệt vời. Những ngọn núi hùng vĩ tuyết phủ trắng đỉnh sừng sững vươn lên khắp nơi tạo thành một thế giới trinh bạch, tinh khôi. Những thung lũng phía dưới có màu ngọc lục bảo, các dòng suối lớn nhỏ chảy xuống từ các sông bằng để nhập vào dòng sông lớn đều có màu xanh biếc của da trời khiến cho việc bay qua đây sánh ngang với việc bay qua một bộ sưu tập kim cương khổng lồ. Hai đứa trẻ thầm mong đoạn đường này của cuộc hành trình kéo dài hơn. Nhưng chẳng bao lâu cả hai bất giác hít căng cả lồng ngực, hỏi nhau: - Cái gì thế vậy? – Bạn có ngửi thấy mùi gì không? Và nó từ đâu bay lại vậy? – Bởi vì đó là một mùi hương thần diệu, ấm áp hiếm có trên đời, tựa như nó tổng hợp mùi thơm của những loại trái cây ngon lành nhất cùng với hương của tất cả các loài hoa trên đời. Làn hương ngây ngất tỏa ra từ một nơi nào đó ở trên cao.

- Nó đến từ thung lũng có cái hồ nước. – Fledge gợi ý.

- Chính là thế đấy, - Digory nói, - và nhìn kìa. Có một hồ nước ở chỗ ngọn đồi đằng kia. Xem kìa, nước hồ mới trong xanh làm sao!

- Đến nơi rồi!!! – Cả ba cùng thốt lên.

Fledge sà xuống thấp hơn, thấp hơn, chao cánh thành những vòng rộng. Những đỉnh núi băng tuyết vươn lên cao hơn, cao hơn. Không gian mỗi lúc một thêm ấm áp và ngọt ngào hơn, ngọt ngào đến mức gần như làm cho lệ dâng lên trong mắt bạn. Bây giờ Fledge trượt xuống trong không gian với đôi cánh dang rộng bất động và bốn móng cào cào để đáp xuống đất. Ngọn đồi dốc thoai thoải chạy về phía chúng. Một phút sau, ngựa hạ cánh xuống triền đồi, thân hình hơi chao đảo một chút. Hai đứa trẻ ngã xuống, lăn mấy vòng trên lớp cỏ mềm, ấm áp; cỏ không làm chúng đau chút nào. Chúng bò dậy thở hơi mạnh một chút, chỉ là vì đang rất phấn khích mà thôi.

Người và ngựa đang đứng ở vào khoảng ba phần tư quãng đường lên đỉnh, chúng lập tức trèo lên cao. (Tôi không nghĩ Fledge có thể leo cao mà không có đôi cánh giữ thăng bằng và thỉnh thoảng lại vẫy nhẹ). Bao quanh đỉnh đồi là một bức tường cao, thực ra đó là một lũy đất cỏ mọc dày. Bên trong bức tường có nhiều cây cối mọc lên. Cành cây chìa cả ra ngoài bức tường, những chiếc lá không chỉ khoe ra màu xanh lá mà còn cả màu da trời và màu bạc mỗi khi gió thổi qua làm xao động các lá cành. Khi các lữ khách của chúng ta lên đến đỉnh, họ phải đi gần hết một vòng quanh bức tường cỏ mới tìm thấy cổng đi vào: một cái cổng cao ngất bằng vàng, quay mặt về hướng Đông, im ỉm khóa.

Cho đến lúc ấy, tôi vẫn nghĩ Fledge và Polly đều cho rằng chúng nên vào trong cùng với Digory. Nhưng đến cổng chúng không nghĩ thế nữa. Bạn chưa từng thấy một nơi nào có vẻ riêng tư rõ ràng đến thế đâu. Chỉ cần liếc nhìn một cái là bạn hiểu nó hoàn toàn không thuộc về mình. Cũng chỉ có người dại dột mới nghĩ đến chuyện bước vào trong nếu anh ta không được giao cho một sứ mệnh quan trọng đặc biệt. Digory hiểu ngay ra rằng những người khác không nên và không thể vào cùng với nó. Thế là nó một mình bước đến trước cánh cổng.

Khi đến gần hơn nó đọc thấy những dòng chữ bạc viết trên cánh cửa vàng như thế này:


Vào vườn qua cánh cổng vàng


Hái một trái táo mà mang cho người

Những kẻ trộm cắp trèo qua

Sẽ chỉ có nỗi xót xa trong lòng!

- Hái một trái táo mà mang cho người, - Digory lẩm bẩm một mình. – Phải, đó là điều mình sắp làm. Mình cho rằng nó có nghĩa là mình không được phép ăn. Mình không biết cho cái trái ấy vào miệng sẽ như thế nào nhỉ. Vào vườn qua cánh cổng vàng. Ồ phải, ai còn muốn trèo tường khi có thể đi qua cổng! Nhưng làm sao để mở cổng đây?

Nó đặt tay lên cánh cổng và cửa lập tức mở vào bên trong, bản lề quay êm ru mà không gây nên một tiếng động.

Bây giờ nó thấy chỗ này còn riêng tư hơn bao giờ hết. Nó đi vào vườn với vẻ mặt nghiêm nghị, ngơ ngác nhìn chung quanh. Bên trong vườn im lặng như tờ. Cả đến cái vòi phun nước ở giữa đường đi cũng không gây nên một tiếng động nhỏ. Mùi thơm dễ chịu quấn quýt chung quanh nó: đây là một nơi hạnh phúc nhưng sao có vẻ nghiêm trang quá.

Nó nhận ra cái cây phải tìm ngay lập tức, phần vì nó mọc lên ở vị trí trung tâm, phần vì những quả táo lớn bằng bạc lúc lỉu trên các cành chiếu sáng cả một vùng đầy bóng râm, nơi mà mặt trời không chiếu tới được. Nó đi thẳng đến chỗ cây táo hái một quả bỏ vào túi áo ngực của chiếc bu dông hiệu Norfolk nhưng nó không thể không ngắm nghía và ngửi trái táo một cái trước khi bỏ vào túi.

Mọi việc sẽ suôn sẻ hơn nếu nó không làm thế. Một cảm giác nôn nao tràn lên trong lòng và nó thèm được nếm thử trái táo quá đi mất. Nó vội vã cho táo vào túi. Trên cây còn cơ man là trái. Liệu có gì không ổn nếu nếm thử một trái không? Sau cùng, nó nghĩ những dòng chữ trên cánh cổng có thể không hẳn là lệnh cấm, chắc chỉ là một lời khuyên – mà ai lại quan tâm đến một lời khuyên cơ chứ! Ngay cả khi đó là một lệnh cấm thì ăn một quả táo có phạm phải một tội tày đình không? Chẳng phải nó đã tuân theo một phần quy định khi lấy một quả táo – cho người khác – đó sao?

Trong khi suy tính như vậy nó vô tình nhìn lên cành cây trên ngọn. Và kia, ngay trên đầu nó có một con chim tuyệt đẹp bám trên cành. Tôi nói – bám – bởi vì hình như nó đang ngủ, nhưng có lẽ không hẳn như thế. Một con mắt hơi hé ra tạo thành một khe hở nhỏ như sợi chỉ. Con chim lớn hơn một con chim ưng, cái ức màu vàng như nghệ, một cái mào đỏ chót trên đầu và cái đuôi dài màu tím.

- Điều đó chứng tỏ, - sau này Digory thường nói khi kể lại chuyện này cho người khác nghe, – rằng bạn phải thật thận trọng khi đặt chân lên những xứ sở kì diệu như thế này. Bạn không bao giờ thấy hết được cái gì đang quan sát bạn. – Riêng tôi thì nghĩ, Digory sẽ không lấy một quả cho mình trong bất cứ trường hợp nào. Những bài học liên quan đến hành động – cầm nhầm của người khác -  đã ăn sâu vào đầu óc các cậu bé vào thời ấy hơn là với lớp trẻ bây giờ. Dù vậy, chúng ta cũng không lấy gì làm chắc chắn lắm.

Digory toan quay ra cổng thì nó dừng lại nhìn quanh thêm một lần nữa. Chợt nó sững người vì sợ. Nó không chỉ có một mình. Và kia, chỉ cách nó có vài bước chính là phù thủy. Mụ ném đi cái lõi quả táo mà mụ vừa ăn. Nước trong quả táo có màu sẫm hơn là bạn nghĩ và nó để lại một dấu vết đáng sợ quanh miệng mụ. Digory đoán ra ngay: mụ đã trèo qua tường. Nó cũng bắt đầu hiểu ý nghĩa của câu thơ cuối cùng về việc chứa chất trong lòng những dục vọng và chỉ chuốc lấy thất vọng mà thôi. Mặc dù trông phù thủy có vẻ mạnh mẽ và cao ngạo hơn bao giờ hết, thậm chí ở một khía cạnh nào đó còn có vẻ chiến thắng, nhưng mặt mụ lại trắng bệch ra như muối.

Tất cả những điều này lướt qua tâm trí Digory trong vòng một giây, đoạn nó nhón chân chạy hết sức về phía cổng. Phù thủy đuổi theo nó. Digory vừa vượt qua thì cánh cổng đã tự động khép lại  sau lưng nó. Điều đó tạo cho nó một lợi thế nhưng sẽ kéo dài không lâu. Vào lúc nó chạy đến chỗ các bạn, miệng la lớn: - Nhảy lên, nhảy lên ngựa đi Polly! Bay đi Fledge! – thì mụ phù thủy đã trèo qua bức tường, hoặc nhảy phắt một cái và theo sát đằng sau nó.

- Đứng yên đấy, - Digory gào lên, quay mặt về phía phù thủy, - nếu không tất cả chúng tôi sẽ biến mất. Không được bước lên dù chỉ một li.

- Thằng nhỏ ngu ngốc, - phù thủy nói, - tại sao trông thấy ta ngươi lại bỏ chạy? Ta đâu có ý hại ngươi. Nếu không dừng lại nghe ta nói, ngươi sẽ bỏ lỡ một điều có thể làm ngươi hạnh phúc suốt đời.

- Tôi chẳng muốn nghe cái điều đó đâu, cảm ơn. - Digory nói. Nhưng thực ra nó cũng tò mò muốn biết đó là cái gì.

- Ta biết vì việc gì mà ngươi phải đến đây. – Phù thủy tiếp tục giọng ngọt ngào hơn. – Bởi vì chính ta đã ở bên các ngươi trong rừng suốt đêm qua và đã nghe được câu chuyện của các ngươi. Ngươi đã hái một quả táo trong vườn kia. Bây giờ ngươi đã bỏ nó vào túi ngực. Ngươi sẽ mang về cho sư tử mà không hề nếm thử; để cho nó ăn, để cho nó xài. Ngươi khờ quá! Ngươi không biết trái cây này là cái gì ư? Ta sẽ cho ngươi biết. Đó là thứ trái cây của tuổi thanh xuân vĩnh hằng, là quả táo trường thọ. Ta biết nó như thế bởi vì ta vừa được nếm và ta đã cảm thấy có gì khang khác trong người nên ta biết ta sẽ không bao giờ già đi, không bao giờ chết. Ăn đi nhóc, ăn ngay đi; ngươi và ta sẽ sống đến muôn đời, sẽ trở thành vua và hoàng hậu của thế giới này hoặc ở thế giới của ngươi – nếu như ngươi quyết định quay về đó.

- Không, cảm ơn, - Digory nói, - tôi không thèm sống thêm sau khi những người tôi biết đều chết cả. Chỉ muốn sống hết thời hạn của mình, rồi chết và đi lên thiên đường.

- Nhưng còn người mẹ mà ngươi giả vờ yêu thương thì sao?

- Nó sẽ làm được gì cho mẹ tôi? – Digory hỏi.

- Ngươi thấy đấy, đồ ngốc, chỉ cần cắn một miếng táo là mẹ ngươi sẽ lập tức khỏi bệnh. Ngươi đang có quả táo trong túi. Ở đây chỉ có chúng ta với nhau, sư tử thì ở rất xa. Hãy sử dụng pháp thuật của ngươi và trở về thế giới của ngươi. Chỉ một phút sau ngươi đã có mặt bên giường bệnh của mẹ, đưa cho bà trái táo cải tử hoàn sinh. Năm phút sau ngươi đã thấy màu hồng ửng lên trên khuôn mặt mẹ ngươi. Bà ấy sẽ báo cho ngươi biết là những đau đớn đã qua. Rồi chỉ một lát sau bà lại bảo mình đã khỏe hơn. Sau đó bà ấy sẽ ngủ thiếp đi – hãy nghĩ về điều này; một giấc ngủ tự nhiên, ngọt ngào, kéo dài mấy giờ không đau đớn, không cần đến thuốc. Ngày hôm sau mọi người sẽ trầm trồ là bà ấy đã phục hồi nhanh như thế nào. Chẳng bao lâu bà sẽ khỏe lại như người bình thường. Tất cả người thân thuộc cũng đều khỏe lại. Gia đình ngươi sẽ lại hạnh phúc. Ngươi sẽ lại giống những thằng con trai khác.

- Ôi! - Digory kêu lên như thể nó đau đớn lắm, đặt cả một tay lên đầu. Bây giờ thì nó hiểu mình đang đứng trước một lựa chọn nghiệt ngã.

- Sư tử đã làm được cái gì cho ngươi mà ngươi tình nguyện làm nô lệ cho nó? - Phù thủy hỏi. – Nó còn có thể làm gì được ngươi nữa một khi ngươi đã trở về thế giới của mình? Mẹ ngươi sẽ nghĩ gì nếu bà ta biết ngươi có thể cất đi cái gánh nặng đau đớn, đưa bà ấy về lại với cuộc sống và tránh cho cha ngươi không bị tan nát trái tim, thế mà ngươi lại không làm… thay vì thế ngươi lại làm thằng nhỏ sai vặt cho một con thú hoang ở một thế giới xa lạ chẳng có gì dính líu tới ngươi hết?

- Tôi… tôi không nghĩ Aslan chỉ là một con thú. - Digory nói, giọng khô khốc.Ông ấy… tôi cũng không biết nữa.

- Vậy thì nó còn là một cái gì tồi tệ hơn. - Phù thủy nói. – Coi kìa nó đã làm gì ngươi vậy? Ngẫm mà coi, nó làm cho ngươi trở thành một kẻ không tim. Đó là điều nó làm cho tất cả những kẻ nghe lời nó đấy. Một thằng nhóc độc ác không biết thương sót là gì! Ngươi, ngươi thà để cho mẹ mình chết còn hơn là…

- Thôi im đi, - Digory khốn khổ kêu lên vẫn với cái giọng khô khan. – Bà nghĩ tôi không hiểu chuyện à? Nhưng tôi… tôi đã hứa.

- À… chính ngươi không biết mình đã hứa cái gì nữa. Và ở đây không có ai để ngăn cản ngươi.

- Mẹ tôi, - Digory nói, lời lẽ bật khỏi miệng nó một cách khó khăn, - mẹ sẽ không thích thế - bà có những quy tắc rằng buộc nghiêm ngặt về việc nói phải giữ lời - tuyệt đối không được ăn cắp… và cả những chuyện như thế. Mẹ sẽ bảo tôi không được làm như thế - ngay lập tức, chắc chắn thế - nếu mẹ ở đây.

- Nhưng bà ấy không cần biết đến những điều này. - Phù thủy nói, giọng ngọt ngào hơn là bạn có thể nghĩ là một người có vẻ mặt dữ dằn như thế lại có thể có được. – Ngươi không cần phải nói cho mẹ ngươi biết đã có được quả táo bằng cách nào. Cả cha ngươi cũng không cần biết. Không một ai ở thế giới của ngươi cần biết đến điều đó. Ngươi cũng không nên mang con nhỏ kia về thế giới của mình, biết chưa?

Đến đây thì phù thủy phạm phải một sai lầm chết người. Tất nhiêu Digory biết Polly có thể quay về thế giới của mình với chiếc nhẫn của nó dễ dàng cũng như Digory. Nhưng rõ ràng phù thủy không biết điều đó. Lời gợi ý độc ác rằng nó nên để Polly ở lại bất thình lình làm cho tất cả những điều khác mà phùy thủy nói đều trở nên xấu xa, đáng tởm. Ngay cả trong lúc lòng dạ đang rối bời về bệnh tình của mẹ, đầu óc nó cũng bắt đầu sáng ra và nó nói (bằng một giọng khác hẳn, dõng dạc hơn):

- Coi này; bà định dẫn tôi đi đâu đây? Tại sao đột nhiên bà lại có tình cảm quý hóa với mẹ tôi như vậy? Bà có mưu toan gì thế? Bà định chơi trò gì thế?

- Digory, vì những điều tốt đẹp cho cậu, - Polly thì thầm vào tai nó, - nhanh lên! Đi khỏi đây ngay. – Nãy giờ Polly không dám xen vào cuộc tranh luận, bởi vì bạn cũng biết rằng người sắp chết không phải là mẹ nó.

- Vậy thì bay lên. – Digory nói, giúp cô bạn trèo lên lưng ngựa còn bản thân nó thì hấp tấp nhưng lên thật nhanh trong khả năng cho phép. Con ngựa dang rộng cánh bay lên.

- Đi đi đồ ngốc! – Phù thủy gào theo. – Hãy nghĩ đến ta, thẳng lỏi, khi ngươi nằm xuống già nua, yếu đuối và sắp chết… nhớ rằng ngươi đã ném đi một cơ hội có được tuổi trẻ bất diệt.

Chúng đã bay lên cao nhưng vẫn nghe thấy tiếng gầm gào của phù thủy. Nhưng phù thủy cũng không phí thời gian nhìn theo chúng, mụ đã bỏ đi vào hướng bắc, trượt xuống một cái dốc dài.

Chúng ra đi từ sáng sớm và khu vườn cũng không ở xa cho lắm cho nên Fledge và Polly đều nói rằng chúng dễ dàng quay lại Narnia trước khi trời tối. Digory không mở miệng trong suốt chặng đường về, cả Fledge và Polly đều ngại không dám nói chuyện với nó. Digory hoang mang, nó không dám chắc là điều mình làm có đúng không nhưng mỗi khi nhớ đến những giọt nước mắt long lanh trong mắt Aslan nó nghĩ là mình đã hành động đúng.

Fledge bay cả ngày một cách đều đặn với đôi cánh không mỏi về phương đông theo hướng của con sông chảy qua vùng núi đồi, vượt qua những quả đồi mọc đầy cây rừng, vượt qua thác, bay xuống, bay xuống đến với những cánh rừng của Narnia đang đen lại bởi cái bóng của vách đá cao sừng sững, cho đến khi cuối cùng cả bầu trời nhuộm đỏ ánh tà dương sau lưng chúng và bọn chúng nhìn thấy một bầy thú tụ tập bên bờ sông. Chẳng bao lâu Digory đã có thể trông thấy Aslan giữa bầy muôn thú, Thần Rừng, Thần Dê, Mộc tinh đứng giạt sang hai bên nhường đường cho nó. Digory chạy đến chỗ Aslan, đưa ra quả táo và nói:

- Thưa ngài, con đã mang về cho ngài quả táo mà ngài muốn.

- Làm tốt lắm. – Aslan nói bằng cái giọng làm cho mặt đất rung chuyển. Đến đây thì Digory biết rằng tất cả cư dân ở Narnia đã nghe thấy những lời này và rằng câu chuyện của họ sẽ được truyền từ cha sang con trong hàng trăm năm và có thể là mãi mãi. Nhưng nó không có cái cảm giác của một kẻ có tội khi phải giáp mặt với người phán xử bởi vì nó đã không có một ý định nào như thế. Bây giờ nó thấy mình có thể nhìn thẳng vào mắt sư tử. Nó quên mất nỗi buồn lo của chính mình và cảm thấy hoàn toàn hài lòng về bản thân.

- Làm tốt lắm, hỡi con trai của Adam. – Sư tử nói một lần nữa. – Chính vì trái táo này mà con đói khát và rơi lệ. Đừng đưa cho ta, chính tay con hãy gieo hạt giống này xuống đất để nó trở thành vật che chở cho Narnia. Hãy ném quả táo về phía bờ sông vì đất ở đấy tươi xốp hơn.

Digory làm theo lời sư tử. Tất cả mọi người đều giữ im lặng và bạn có thể nghe thấy tiếng bịch nhẹ nhàng khi quả táo rơi xuống lớp bùn xốp.

- Ném tốt lắm. – Aslan nói. – Bây giờ ta hãy tiến hành làm lễ đăng quang cho đức vua Frank và hoàng hậu Helen của xứ Narnia.

Đến lúc này hai đứa trẻ mới nhìn thấy hai người. Họ mặc những bộ quần áo trông rất lạ mắt và rất đẹp, từ đôi vai họ rũ xuống tà áo dài. Có bốn chú lùn nâng vạt áo cho vua, trong khi bốn cô con gái thủy thần nâng vạt áo cho hoàng hậu. Đầu họ để trần, Helen xõa cho mái tóc buông xuống lưng và trông chị xinh đẹp hẳn lên. Nhưng cả kiểu tóc và quần áo đều không phải là nguyên nhân chính làm cho họ có một vẻ sáng rỡ, nhất là nhà vua. Tất cả những nét lỗ mãng, khôn vặt, ưa gây gổ mà anh tiêm nhiễm trong thời gian làm nghề đánh xe ở London đã bị xóa sạch, chỉ còn sự dũng cảm và lòng nhân hậu mà anh bao giờ cũng có và bây giờ nó nổi bật hơn. Có lẽ không khí mới mẻ của thế giới trinh nguyên này đã làm được điều đó, hoặc nhớ việc anh được tiếp xúc với Aslan hoặc là do cả hai.

- Nghe tôi đi. – Fledge thì thầm với Polly. – Ông chủ cũ của tôi thay đổi cũng gần như bản thân tôi vậy! Bây giờ thì ông ấy là một ông chủ thực sự.

- Phải, nhưng đừng thổi phù phù vào tai tối như thế. – Polly nói. – Nhột quá.

- Bây giờ, - Aslan nói, - với trái cây thiêng này một số người trong các con đã cứu vãn được một phần rắc rối do các con đem lại. Nào hãy xem chúng ta có thể tìm thấy cái gì ở đằng kia.

Digory nhìn thấy bốn cây mọc ở bốn góc, các cánh cây đan hoặc buộc vào nhau chặt đến nỗi chúng tạo thành một loại chuồng canh giữ thú vật. Hai con voi dùng vòi và vài chú lùn với những chiếc rìu nhỏ, chẳng mấy chốc đã phá bỏ được hàng rào. Bên trong có ba vật. Vật thứ nhất là một cây con hình như được làm bằng vàng, vật thứ hai là một cây bằng bạc, còn vật thứ ba trông hết sức khốn khổ trong một bộ quần áo đầy bùn đất, ngồi với dáng đầu quá tai ở giữa hai cái cây kia.

- Trời ơi! – Digory thầm thì. – Bác Andrew!

Để giải thích tất cả những điều này chúng ta phải quay lại một chút. Bạn cũng nhớ là muông thú đã trồng ông xuống rồi tưới nước lên người ông. Khi nước làm cho ông tỉnh dậy, ông thấy mình mẩy ướt sũng, đôi chân bị chôn xuống đất đến gần đầu gối (chỗ đất ấy chẳng bao lâu đã trở thành bùn nhão) và bốn chung quanh ông là một tập hợp các loài thú mà ông chưa bao giờ dám nghĩ tới dù có ngày sẽ phải gặp. Có lẽ không có gì phải ngạc nhiên khi ông bắt đầu la hét om tỏi. Đó là một việc làm có ích bởi vì cuối cùng nó thuyết phục muông thú (kể cả lợn rừng châu Phi) tin rằng ông còn sống. Thế là chúng nhổ ông lên (cái quần của ông bây giờ trông thật gớm ghiếc). Ngay sau khi đôi chân được giải phóng, ông toan bỏ chạy nhưng cái vòi voi quấn ngang người đã chấm dứt toan tính đó. Các loài đều nghĩ cần phải giữ ông lại ở một chỗ an toàn đợi đến khi Aslan có thời gian để mắt đến và quyết định sẽ làm gì với ông. Thế là muông thú làm một cái lồng hay một cái cũi chung quanh ông. Đoạn, chúng đưa cho ông bất cứ cái gì mà chúng nghĩ là ông có thể ăn.

Con lừa nhặt một đống quả khế ném vào nhưng bác Andrew không có vẻ quan tâm đến. Sóc thì mang đến rất nhiều hát dẻ, nhưng tù nhân chỉ lấy hai tay ôm đầu và cố tránh bọn chúng. Một vài con chim bay qua bay lại cần mẫn tìm sâu thả xuống cho ông. Gấu tỏ ra đặc biệt tử tế. Nó tìm kiếm suốt buổi chiều mới được một tổ ong rừng và thay vì chén một mình (một điều sẽ khiến nó khoái lắm) thì con vật chu đáo này lại mang đến cho bác Andrew. Nhưng trong thực tế điều này là một thất bại lớn nhất. Gấu gắn cái tổ ong kiếm được ấy lên cái cây làm hàng rào và không may tổ ong đập vào mặt bác (không phải tất cả các con ong đều đã chết). Gấu vốn là con vật không lấy làm phiền lòng khi bị đập vào mặt bởi một tổ ong nên nó không hiểu cớ làm sao bác Andrew lại loạng choạng lùi lại, trượt té và ngồi bệt xuống đất. Lại một điều xui xẻo khác, bác ngồi lên mấy trái khế.

- Dù sao thì, - lợn rừng châu Phi nói, - cũng có một ít mật chảy vào miệng sinh vật ấy và điều đó cũng làm được một việc tốt. - Muông thú đâm ra quý mến con vật kỳ lạ này và hi vọng Aslan sẽ cho phép chúng giữ lại nó. Những con vật khôn ngoan hơn bây giờ cũng hiểu là ít nhất thì những tiếng kêu phát ra từ miệng sinh vật lạ cũng có ý nghĩa. Chúng đặt tên cho bác Andrew là Brandy bởi vì ông thường xuyên gào thét.

Tuy vậy, cuối cùng chúng cũng để cho ông yên tĩnh được một đêm. Aslan bận rộn suốt cả ngày trong việc hướng dẫn vua và hoàng hậu làm quen với vai trò mới, cũng như phải làm những việc quan trọng khác nên không đủ thời gian để ý đến già Brandy tội nghiệp. Với hạt dẻ, đào, táo và chuối mà bọn thú mang đến cho ông, chắc chắn ông có một bữa tối no nê, nhưng không hẳn là ông đã trải qua một đêm dễ chịu.

- Đem con thú kia ra đây! – Aslan ra lệnh.

Một trong những con voi dùng vòi quắp bác Andrew ra, để bác dưới chân sư tử. Ông quá sợ để có thể bỏ chạy.

- Thưa Aslan, ngài làm ơn nói một điều gì đó đừng để… bác ấy quá sợ hãi, đồng thời ngài cũng làm một cái gì đó để ngăn không cho bác ấy quay lại đây lần nữa. – Polly nói.

- Con gái nghĩ là ông ấy muốn như thế nào?

- Vâng thưa Aslan, bác ấy có thể gửi một số người đến. Bác ấy rất kích động khi thấy thanh sắt giằng ở cột đèn có thể mọc thành một cây cột đèn và bác ấy nghĩ…

- Ông ta nghĩ những chuyện thật điên rồ, con gái ạ. – Aslan chậm rãi nói. – Thế giới này chỉ nảy nở ra sức sống mới trong vòng vài ngày nhờ bài hát mà ta hát lên để kêu gọi sự sống vẫn bảng lảng trong không khí và sôi sục trong lòng đất. Nhưng nó sẽ không kéo dài đâu. Tuy vậy, ta không thể nói điều đó với ông già tội lỗi kia mà ta cũng không thể an ủi ông ta. Người này đã cố làm cho mình không có khả năng nghe bài hát của ta. Dù ta có nói với ông ta thì ông ta cũng chỉ nghe thấy tiếng gầm, tiếng rống mà thôi. Ôi những người con của Adam, các ngươi thật khôn ngoan trong việc chống lại tất cả những cái có thể là tốt cho mình! Nhưng ta sẽ cho ông ta một món quà duy nhất nếu ông ta vẫn còn có khả năng đón nhận.

Sư tử cúi cái đầu vĩ đại xuống với vẻ buồn bã, hà hơi vào khuôn mặt đang khiếp đảm của pháp sư.

- Ngủ đi. – Aslan nói. – Hãy ngủ đi và hãy thoát khỏi những gông xiềng mà ngươi đã tạo ra cho mình dù chỉ trong vài giờ. – Bác Andrew lập tức nằm lăn ra, đôi mắt nhắm lại, bắt đầu thở một cách yên bình.

- Mang ông ta để sang một bên và đặt nằm xuống. – Aslan nói. – Nào những chú lùn! Hãy chứng tỏ nghề thợ rèn của các chú. Hãy cho ta thấy các chú làm vương miện cho vua và hoàng hậu như thế nào.

Có nhiều những người lùn hơn là bạn có thể tưởng tượng chạy ùa về phía cây vàng. Họ tước tất cả những chiếc lá, bẻ một vài cành chỉ trong khoảng thời gian đủ để bạn có thể gọi cái tên – Jack Jobinson – lên.

Bây giờ thì bọn trẻ có thể thấy nó không chỉ giống vàng mà còn thật sự là một thứ vàng ròng rất mềm. Tất nhiên nó mọc lên từ cái đồng nửa xôvơren lăn ra từ trong túi áo bác Andrew khi bác bị dốc ngược người lên, còn cây bạc mọc lên từ nửa curon. Từ một nơi nào đó, hình như là như vậy, hiện lên một đống củi cành để đốt, một cái đe nhỏ, búa, kẹp sắt và ống bễ. Ngay sau đó (những chú lùn này mới say sưa với công việc của mình làm sao) ngọn lửa được nhen lên, ông bễ reo ù ù, vàng được nung chảy ra, búa bắt đầu nhịp nhàng đập xuống. Hai con chuột trũi mà Aslan giao cho nhiệm vụ đào đất (điều mà chúng thích nhất) từ sớm, đổ ra cả một đống đá quý xuống dưới chân những người lùn. Dưới đôi tay khéo léo của những người thợ rèn bé nhỏ, hai cái vương miện đã bắt đầu tượng hình – không xấu xí, nặng nề như những vương miện ở Châu Âu mà có vẻ thanh tao, duyên dáng, cao quý đến nỗi bạn chỉ muốn đội nó lên đầu và khi làm thế trông bạn sẽ đẹp hẳn lên. Vương miện của vua được gắn hồng ngọc, của hoàng hậu được gắn ngọc lục bảo. Khi vương miện được làm nguội bằng cách ngâm xuống dòng sông, Aslan bảo Frank và Helen quỳ trước mặt mình rồi đặt vương miện lên đầu họ. Đoạn sư tử nói:

- Đứng lên đi hỡi vua và hoàng hậu xứ Narnia, cha mẹ của nhiều đời vua chúa ở Narnia , các đảo và xứ Archenland. Hãy công chính, nhân từ và quả cảm. Ta ban phước cho các ngươi.

Tiếng hoan hô ồ lên như sóng dậy bằng những tiếng hí, tiếng rống, tiếng gầm, tiếng vỗ cánh và vua cùng hoàng hậu đứng đó dáng trang nghiêm, hơi có phần rụt rè nhưng lại cao quý hơn bởi cái vẻ rụt rè ấy. Trong khi Digory vẫn vỗ tay nó nghe thấy cái giọng trầm ấm vang của Aslan vang lên bên cạnh.

- Nhìn kìa!

Tất cả mọi người đều quay đầu lại, ai nấy đều hít một hơi dài vừa ngạc nhiên vừa hân hoan. Cách họ một chút, cao vượt lên trên đầu họ là một cái cây chắc chắn chưa hề có trước đấy. Chắc chắn nó lặng lẽ mọc lên ở đấy nhanh như một lá cờ đi lên khi bạn kéo sợi dây ở cột đăng quang. Cây dang rộng cành lá hút vào mình nhiều ánh sáng còn hơn là một cái chụp đèn , những quả táo bạc ló ra khỏi mỗi cuống lá như một vì sao lấp lánh. Chính cái mùi của nó, hơn tất cả những chuyện khác, làm cho người và vật đều nín thở. Trong một khoảng khắc, khó ai có thể nghĩ đến một chuyện gì khác.

- Con trai của Adam, - Aslan nói, - con gieo hạt tốt đấy. Và các ngươi, dân của xứ Narnia, hãy coi nó là mối quan tâm đầu tiên của mình và hãy bảo vệ cây này bởi vì nó là tấm khiên che chở cho các ngươi. Phù thủy, kẻ mà ta từng nhắc tới đã chạy đến miền Bắc của thế giới này; mụ ta sẽ sống ở đó và sẽ mạnh hơn nhiều với những pháp thuật hắc ám. Nhưng một khi cái cây này còn sinh trưởng còn sum suê, mụ ta sẽ không bao giờ dám bén mảng xuống Narnia đâu. Mụ ta sẽ không dám đến gần cây trong vòng một trăm dặm; bởi vì mùi của nó là niềm vui, sự sống, sức khỏe đối với các ngươi lại là cái chết, sự kinh hoàng và tuyệt vọng đối với mụ.

Trong lúc tất cả nghiêm trang ngắm nhìn cái cây thì Aslan bất thần quay đầu (một luồng hào quang tỏa ra từ cái bờm sự tử khi ông làm thế) đưa mắt nhìn hai đứa trẻ.

- Có chuyện gì thế các con? – Sư tử hỏi bởi vì ông bắt gặp hai đứa thì thầm và lấy khuỷu tay hích vào nhau.

- Ồ, thưa Aslan! – Digory nói, mặt đỏ lên. – Con quên không thưa với ngài, phù thủy đã ăn một trong những trái táo này, một quả táo từ cái cây giống như cây táo này.

Nó không có ý định nói ra tất cả những điều mà nó nghĩ, nhưng Polly đã lập tức nói ra tất cả hộ nó. (Digory bao giờ cũng sợ trở thành một kẻ lố bịch trước mặt người khác hơn Polly).

- Thế là chúng cháu nghĩ, thưa Aslan, - Polly nói, - chúng cháu nghĩ rằng ở đây có thể có một nhầm lẫn gì đó và phù thủy thực sự không sợ mùi của những quả táo này.

- Tại sao con lại nghĩ thế hả con gái của Eve? – Sư tử hỏi.

- Đó là vì mụ ta đã ăn một quả.

- Con gái ạ, đó lại là lý do tại sao tất cả những quả táo còn lại trở thành nỗi kinh hoàng đối với mụ. Đó là điều sẽ xảy ra với kẻ nào hái táo và ăn không đúng lúc, không đúng cách. Táo thì rất ngon nhưng nó lại mang theo sự kinh hoàng ngay sau đó.

- Ồ, cháu biết rồi. – Polly nói. – Bởi vì mụ ta đã ăn cắp một vật không thuộc về mình thì nó cũng sẽ không có tác động tốt gì đối với mụ ta. Cháu muốn nói nó sẽ không làm mụ ta trẻ mãi không già và sống mãi phải không ạ?

- Than ôi! – Aslan nói, lắc lắc đầu. – Nó sẽ như thế. Mọi thứ bao giờ cũng tuân theo bản chất tự nhiên của nó. Mụ đã thắng được khao khát trong trái tim, mụ sẽ có một sức trẻ không bao giờ mệt mỏi và những tháng ngày bất tận của một nữ thần. Nhưng độ dài của tháng ngày đối với một trái tim xấu xa, độc ác chỉ là độ dài của đau khổ và điều này thì mụ cũng bắt đầu được nếm qua rồi đó. Con người ta có được cái mà mình muốn nhưng không phải bao giờ cũng thích nó đâu.

- Cháu… cháu suýt ăn một quả, thưa Aslan. – Digory nói. - Cháu có…

- Điều đó không có gì lạ. – Aslan nói. – Bởi vì trái táo bao giờ cũng tác động… nó phải tác động… nhưng nó sẽ không đem lại hạnh phúc cho bất cứ ai hái táo chỉ vì ý muốn của bản thân. Nếu bất cứ người Narnia nào, không được phép cũng hái trộm một quả rồi trồng xuống đây với mục đích bảo vệ Narnia thì nó cũng bảo vệ xứ này. Nhưng như thế sẽ chỉ làm cho Narnua trở thành một vương quốc hùng cường và độc ác như Charn, là một nơi mà ta không muốn tạo nên chút nào. À, mà phù thủy dụ dỗ con lấy một quả táo, có phải không?

- Vâng, thưa Aslan. Mụ ta muốn con lấy một quả mang về cho mẹ con.
- Ta hiểu, rồi nó cũng làm cho mẹ con lành bệnh, nhưng nó không mang lại niềm vui cho con và mẹ con đâu. Rồi sẽ có một ngày cả con và bà ấy đều nhìn lại và nói thà là chết vì bệnh tật còn hơn.

Digory không nói gì, nước mắt dâng lên làm cho nó nghẹn ngào. Thế là tất cả những hy vọng cứu sống mẹ đã tan tành mây khói; nhưng cũng lúc đó nó biết rằng Aslan biết rõ chuyện gì sẽ xảy ra và có những cái còn đáng sợ hơn cả việc cái chết cướp đi một người mà mình rất mực yêu thương. Và bây giờ Aslan lại nói, gần như một tiếng thì thầm:

- Con trai ạ, đó là điều sẽ xảy ra với một trái táo đánh cắp. Đó không phải là cái sẽ diễn ra bây giờ. Cái mà ta cho con lúc này sẽ mang đến niềm vui. Trong thế giới của con nó sẽ không mang đến một sự sống bất diệt, nhưng nó có khả năng chữa lành bệnh tật. Đi đi, hãy hái một trái táo cho mẹ con.

Trong vòng một giây Digory khó mà hiểu nổi chuyện gì đang xảy ra. Cứ như thể cả thế giới này xáo tung và lộn ngược lên. Và rồi như một người trong giấc mơ, nó đi đến gần trái táo. Vua và hoàng hậu chúc mừng nó, tất cả các con thú cũng reo mừng theo. Nó hái một quả cho vào trong túi áo. Đoạn nó quay lại chỗ Aslan.

- Làm ơn… cho phép chúng cháu về nhà ngay bây giờ ạ.

Nó quên không nói câu: - Cảm ơn ngài. – Nhưng nó muốn nói thế và Aslan hiểu hết.

- Các con không cần đến nhẫn nữa một khi ta đi với các con. – Giọng Aslan vang lên. Bọn trẻ chớp mắt nhìn nhau. Một lần nữa họ lại ở cánh rừng giữa các thế giới, bác Andrew nằm trên cỏ vẫn ngủ li bì, Aslan đứng bên họ.

- Đến đây, - Aslan nói, - đã đến lúc các con trở về. Nhưng ở đây có hai điều các con cần ghi nhớ một là một lời cảnh cáo; điều còn lại là một mệnh lệnh. Nhìn đây các con!

Hai đứa đưa mặt nhìn và thấy trên thảm cỏ có một cái hố nhỏ, đáy mọc đầy cỏ, ấm áp và khô ráo.

- Lần cuối cùng khi các con ở đây, - Aslan nói, - cái hố này còn là một hồ nước nhỏ, khi các con nhảy xuống các con đã đi đến cái thế giới có một mặt trời đang hấp hối hắt ánh sáng úa tàn lên một đống hoang tàn đổ nát ở Charn. Bây giờ thì không còn ao hồ gì hết. Thế giới này đã cáo chung như thể nó chưa hề tồn tại. Dòng giống của Adam và Eve hãy coi đó là một lời cảnh cáo.

- Vâng thưa Aslan, - cả hai đứa trẻ đồng thanh đáp. Polly nói thêm, - nhưng thế giới của chúng con cũng đâu có tồi tệ như thế giới ấy ạ.

- Còn chưa đến mức như thế, con gái của Eve ạ. Còn chưa. Nhưng nó có xu hướng dẫn đến chuyện đó. Không có gì đảm bảo là một số kẻ độc ác trong các con không tìm ra một bí mật xấu xa như ở Thế giới Suy Vong và dùng nó để thiêu hủy tất cả những vật thể sống. Và chẳng bao lâu, rất nhanh thôi, trước khi hai con trở thành một ông già và một bà lão, những cường quốc trong thế giới của các con sẽ nằm trong tay nhưng tên bạo chúa không quan tâm đến niềm vui lành mạnh, sự công bình và tình người hơn nữ hoàng Jadis. Hãy làm sao cho thế giới của các con được thức tỉnh. Đó là lời cảnh báo, đó cũng là một yêu cầu. Ngay khi có thể hãy tước những cái nhẫn màu nhiệm của bác Andrew, chôn nó đi để không ai có thể sử dụng nó nữa.

Hai đứa nhìn lên mặt sư tử khi ông nói những lời này. Và bất thình lình (chúng không hề biết tại sao điều đó lại xảy ra) khuôn mặt của sư tử dường như hóa thành một biển vàng xao động trong đó hai đứa bập bềnh trên lớp sóng, rồi một cái gì rất đỗi ngọt ngào và cũng hết sức mạnh mẽ, trào lên chúng, bủa vây chúng, ấp ủ chúng và thấm sâu vào trong chúng làm cho chúng cảm thấy mình chưa bao giờ thực sự hạnh phúc hoặc khôn ngoan hoặc tốt lành, thậm chí chưa bao giờ thực sự sống và tỉnh táo như thế trong đời. Ký ức về khoảnh khắc này bao giờ cũng lắng đọng lại trong tâm hồn hai đứa, lâu dài như cuộc sống của chúng, nếu có bao giờ chúng buồn rầu hoặc sợ hãi hoặc giận dữ thì ý nghĩ về tất cả những điều tốt đẹp vàng rực này, và cảm xúc về nó vẫn còn đó, thật gần gũi cứ như thể ở một góc nào đó hoặc chỉ ở sau một cánh cửa, những điều tốt đẹp ấy sẽ quay trở lại, sẽ làm cho chúng biết rõ từ sâu thẳm trong lòng là tất cả sẽ lại đâu vào đấy. Chỉ một phút sau cả ba người bọn họ (lúc này bác Andrew đã thức giấc) đã bổ nhào vào giữa thành London ồn ào, nồng nực đầy những mùi thức ăn nóng hổi.

Họ đang đứng trên vỉa hè bên ngoài cửa vào nhà Ketterley, trừ việc phù thủy, con ngựa Strawberry và người đánh xe đã biến mất, mọi việc vẫn đúng như khi họ rời đây ra đi. Kia là cái cột đèn, thiếu đi một thanh giằng, nọ là xác của chiếc xe ngựa bị vỡ và đây là đám đông. Người ta xôn xao bàn tán, có người quỳ xuống bên cạnh người cảnh sát bị thương nói những lời như thế này: - Ông ấy tỉnh rồi – hoặc – Ông thấy trong người như thế nào ông bạn? – hoặc – Xe cứu thương sẽ đến đây ngay lập tức.

- Lạy Chúa tôi! – Digory thầm nghĩ. – Mình tin là những cuộc phiêu lưu này chưa từng xảy ra.

Hầu hết mọi người lao đi tìm kiếm Jadis và con ngựa như điên. Không ai để ý gì đến lũ trẻ bởi vì họ không nhìn thấy chúng biến mất mà cũng không nhận thấy chúng quay về. Còn về phần bác Andrew ngoài việc quần áo của bác nhàu nát, bẩn thỉu và vết mật ong ở khóe miệng, bác chẳng có gì đáng để người ta nhìn đến. May thay cửa trước của ngôi nhà đang mở, người hầu gái đang đứng ở ngưỡng cửa nhìn ngó cho vui (cô gái này có một ngày vui đáo để) thế là hai đứa trẻ không gặp khó khăn gì trong việc đẩy bác Andrew vào nhà trước khi có bất cứ ai thắc mắc về vẻ ngoài thảm họa của bác.

Ông chạy lên cầu thang trước cả hai đứa, đầu tiên chúng lo ngại rằng ông sẽ chui vào gác xép, giấu đi những chiếc nhẫn màu nhiệm. Nhưng chúng không cần lo ngại lâu. Cái mà ông quan tâm là chai rượu giấu trong tủ áo và ông lập tức biến vào trong phòng ngủ, khóa trái cửa lại. Khi ông ra ngoài (ông ở trong phòng không lâu) ông đã khoác lên người một chiếc áo khoác và đi thẳng vào phòng tắm.

- Cậu có thể đi lấy những chiếc nhẫn còn lại không, Polly? Tớ muốn đến ngay chỗ mẹ.

- Được. Gặp lại cậu sau. – Polly nói và thoăn thoắt chạy lên cầu thang dẫn lên gian áp mái.

Digory mất một phút để lấy lại nhịp thở sau đó nó nhẹ nhàng đi vào phòng mẹ. Bà vẫn nằm ở đấy như nó thấy nhiều lần khác, người tựa lên một chồng gối, khuôn mặt gầy guộc, vàng vọt đáng thương đến nỗi bạn sẽ cảm thấy đôi mắt rưng rưng lệ khi nhìn bà. Digory lấy quả táo của sự sống ra khỏi túi áo.

Và cũng như việc phù thủy Jadis nom rất lạ khi bạn thấy mụ trong thế giới của bạn so với khi gặp mụ ta trong thế giới mà mặt trời sắp tắt, quả táo của khu vườn trên núi trông cũng rất khác. Tất nhiên trong phòng người bệnh có đủ các màu khác nhau; màu rực rỡ nắng vàng bên ngoài cửa sổ và chiếc áo choàng cũ màu xanh nhạt rất đẹp của mẹ. Vào cái lúc Digory móc quả táo trong túi ra, mọi vật trong phòng dường như không còn màu gì nữa. Tất cả mọi thứ, thậm chí cả ánh nắng vàng xộm khi nãy cũng bay màu và có vẻ nhàn nhạt, nhôm nhoam. Vẻ rực rỡ của quả táo đã hất những luồng ánh sáng lạ lên trần. Không có một vật gì đáng nhìn nữa: bạn không thể đưa mắt đi chỗ khác. Hương táo của tuổi trẻ vĩnh hằng làm cho ta nghĩ đến một cánh cửa dẫn đến thiên đường.

- Ôi, con yêu… quả táo sao… dễ thương lạ. - Người mẹ trầm trồ thốt lên bằng giọng yếu ớt.

- Mẹ sẽ ăn táo chứ, đúng không ạ? Con xin mẹ ăn ngay bây giờ

- Mẹ không biết là bác sĩ có cho phép không? – Bà mẹ đáp – Nhưng quả tình… mẹ cảm thấy gần như là mình có thể ăn được.

Digory gọt táo, bổ ra thành nhiều miếng và ân cần đưa cho bà từng miếng một. Chẳng bao lâu sau bà đã nở một nụ cười, ngả đầu xuống chồng gối và thiếp đi: một giấc ngủ tự nhiên, êm đềm, một giấc ngủ thật sự không phải dùng đến những loại thuốc giống như con dao hai lưỡi – chính là cái mà Digory biết là mẹ mình cần nhất trên đời. Chỉ ít giây sau nó đã đọc thấy một sự thay đổi kín đáo trên khuôn mặt mẹ. Nó quỳ xuống cạnh giường, nhẹ nhàng hôn mẹ rồi rón rén ra khỏi phòng với trái tim đập thình thịch trong lồng ngực. Trong suốt những giờ còn lại của ngày hôm ấy, mỗi khi nhìn mọi vật xung quanh và thấy chúng tầm thường chẳng hề có gì màu nhiệm nó lại cảm thấy khó mà hi vọng vào một điều gì tốt đẹp nhưng mỗi khi nhớ lại khuôn mặt của Aslan thì hi vọng lại được nhen nhóm trong lòng.

Đêm hôm ấy nó chôn hạt táo trong vườn sau.

Sáng hôm sau khi bác sĩ đến thăm bệnh nhân như thường lệ, Digory cúi người qua tay vịn cầu thang nghe ngóng. Bác sĩ đi ra ngoài với dì Letty và nói:

- Cô Ketterley, đây là một ca đặc biệt nhất mà tôi biết trong suốt cuộc đời hành nghề y của mình. Nó giống như… giống như một phép màu vậy. Tôi còn chưa muốn nói với cậu bé bất cứ chuyện gì vào lúc này; chúng ta không nên gieo những hạt giống hy vọng có thể là hão huyền. Nhưng theo thiên ý của tôi… - Đến đây giọng ông trầm hẳn xuống, không còn nghe rõ nữa.

Buổi chiều nó ra vườn sau, huýt sáo theo quy ước bí mật với Polly (cô bé không được phép đi ra ngoài từ ngày hôm trước).

- Có may mắn gì không? – Polly hỏi, kiễng chân nhìn bức tường. – Tớ muốn hỏi về mẹ cậu

- Tớ nghĩ… tớ nghĩ… sẽ có một điều gì đó xảy ra. Nhưng nếu cậu không phiền thì tớ chưa muốn nói vào lúc này… còn quá sớm. Còn về những chiếc nhẫn thì sao?

- Tớ đã lấy tất cả rồi. Coi này, tất cả đều ổn, tớ đang mang bao tay. Hãy chôn nhẫn đi.

- Ừ, cứ làm đi. Tớ đã đánh dấu nơi tớ chôn hạt táo ngày hôm qua.

Polly nhảy qua tường sang bên vườn nhà Digory và hai đứa cùng đi đến chỗ chôn hạt táo. Hóa ra Digory không cần đánh dấu làm gì. Một cái gì đó đã mọc lên. Nó không lớn nhanh đến mức bạn có thể nhìn thấy sự tăng trưởng của nó như một cái cây mọc ở Narnia, nhưng nó cũng đã nhú lên khỏi mặt đất. Chúng lấy một cái xẻng đào đất lên, vùi xuống đấy tất cả những chiếc nhẫn pháp thuật, kể cả những chiếc nhẫn trong túi hai đứa.

Vào khoảng một tuần sau, mọi việc đã trở nên chắc chắn: mẹ Digory đã khỏe hẳn. Hai tuần sau bà đã có thể ra ngoài vườn ngồi chơi. Một tháng sau cả ngôi nhà đã khác hẳn. Dì Letty làm tất cả những việc mà mẹ thích, các cửa sổ mở rộng cánh, những tấm màn che màu cháo lòng được kéo sang một bên để cho nắng tràn ngập vào phòng, hoa tươi được trưng ở khắp mọi nơi, có nhiều món ăn ngon hơn, cây đàn piano cũ cũng được mở bung nắp, mẹ lại cất tiếng hát và tham gia những trò chơi với Polly và Digory, vui đến nỗi dì Letty phải nói: - Mabel, chị dám nói em là đứa bé to đầu nhất trong ba đứa.

Khi mọi việc trở nên xấu đi bạn sẽ thấy nó có khuynh hướng xấu quá đi ở nhiều mặt, nhưng khi một việc đã tốt thì nó sẽ kéo theo nhiều việc tốt hơn. Vào khoảng sáu tuần sau có một lá thư dài của cha Digory từ Ấn Độ gửi về, trong đó có những tin vui nức lòng: Ông trẻ Kirke vừa qua đời và điều này có nghĩa là cha sẽ được thừa kế gia tài. Cha Digory sẽ giải ngũ và rời Ấn Độ để về nhà mãi mãi. Và một trang trại ở nông thôn, một thứ mà Digory cứ nghe nói suốt về nó mà chưa được nhìn thấy sẽ trở thành nhà của họ, một ngôi nhà đồ sộ với những bộ sưu tập áo giáp cổ, chuồng ngựa, chuồng nuôi chó, dòng sông, công viên, một ngôi nhà hóng mát mùa hè, những mảnh vườn xinh, những cánh rừng nhỏ và có cả dãy núi đồi nhấp nhô làm hậu cảnh. Thế là Digory cũng rõ như bạn là họ sẽ sống một cuộc đời vui vẻ, hạnh phúc mãi mái. Nhưng có lẽ bạn cũng muốn biệt thêm một hoặc hai điều.

Polly và Digory bao giờ cũng là bạn tốt của nhau, gần như mùa hè nào cô cũng đến nghỉ hè với họ trong ngôi nhà đẹp ở miền quê, ở đây cô học cưỡi ngựa, bơi lội, vắt sữa bò, nướng bánh và leo núi.

Ở Narnia các con thú sống trong thanh bình, vui vẻ. Dù là phù thủy hay bất cứ kẻ thù nào cũng đều không dám đến quấy nhiễu cuộc sống êm ả đầy niềm vui ở xứ sở này trong vài trăm năm. Vua Frank và hoàng hậu Helen cùng con cháu sống cuộc đời hạnh phúc ở Narnia. Người con trai thứ hai trở thành vua Archenland. Các chàng trai lấy các tiên nữ, các cô gái kết hôn với các sơn thần hoặc thủy thần. Cái cột đèn mà phủ thủy cắm xuống đất (mà không biết) chiếu sáng cả ngày lẫn đêm trong rừng Narnia vì thế mà nơi này được gọi là Cột đèn hoang và nhiều năm sau đó khi một đứa trẻ khác từ thế giới của chúng ta đến Narnia vào một đêm tuyết rơi nó thấy ngọn đèn vẫn cháy sáng. Cuộc phiêu lưu ấy, nói một cách khác có liên quan đến những người mà tôi vừa kể cho các bạn nghe. Nó là như thế này. Cái cây mọc lên từ hạt táo mà Digory chôn ở vườn sau lớn lên và trở thành một cây táo khỏe mạnh. Mọc trên đất của chúng ta, cách xa giọng nói của Aslan và không khí non trẻ của Narnia. Nó không cho ra những quả táo đã cứu sinh một người gần đất xa trời như mẹ Digory dù nó vẫn sai quả hơn bất cứ cây táo nào ở Anh; như thế cũng là quá tốt có phải không các bạn của tôi? Nhưng trong thân cây, trong từng giọt nhựa, nó không bao giờ quên một cây khác là mẹ của nó ở Narnia. Thỉnh thoảng nó cũng chuyển động một cách bí ẩn khi không hề có gió thổi: tôi nghĩ rằng điều xảy ra vào lúc có gió to ở Narnia và cái cây con ở Anh run rẩy bởi vì lúc ấy cây mẹ ở Narnia đang lung lay, chao đảo trong cơn lốc tây nam tàn bạo.

Tuy vậy rất có thể nó đã chứng minh rằng nó vẫn mang trong mình một cái gì đó liên hệ với cố hương. Bởi vì khi Digory ở vào tuổi trung tuần (khi ấy ông đã trở thành một học giả nổi tiếng, một giáo sư và một nhà du lịch lớn) và ngôi nhà cũ của dòng họ Ketterly thuộc về ông, có một trận bão lớn quét qua miền Nam nước Anh nhổ bật cái cây đó lên. Ông không thể chịu đựng được cái ý nghĩ nó sẽ bị đem chẻ ra làm củi đun nên đã cho người cưa gốc đóng một cái tủ áo và mang về để trong ngôi nhà lớn của ông ở nông thôn. Mặc dù bản thân ông không khám phá ra được đặc tính kỳ diệu nào của cái tủ áo ấy thì đã có người khác làm được điều đó. Thế là bắt đầu những chuyến đi đi về về giữa Narnia và thế giới của chúng ta mà bạn có thể đọc được ở những cuốn sách khác.

Khi Digory và cha mẹ cậu về sống trong ngôi nhà lớn ở nông thôn, họ đã đưa bác Andrew về sống với họ; bởi vì cha của Digory nói: - Chúng ta phải cố giữ ông già này tránh xa những rắc rối, và thật không công bằng lắm khi chị Letty đáng thương bao giờ cũng phải chăm nom anh ấy.

Bác Andrew không bao giờ thử làm bất cứ pháp thuật nào trong suốt quãng đời còn lại. Ông đã rút ra được bài học xương máu. Càng lớn tuổi ông càng trở nên dễ mến và ít ích kỷ hơn trước. Nhưng bao giờ ông cũng thích đưa khách khứa vào phòng chơi bida kể cho họ nghe câu chuyện về người đàn bà bí ẩn, một nữ hoàng ngoại quốc mà ông đã được vinh hạnh đưa đi chơi khắp London.

- Một người đàn bà tính  khí thật dễ sợ, - ông nói, - nhưng là một người đàn bà đẹp, thưa quý vị, một người đàn bà đẹp thật sự.

Phần 2

Sư Tử, Phùy Thủy Và Cái Tủ Áo

Đã từng có bốn đứa trẻ tên là Peter, Susan, Edmund và Lucy. Câu chuyện này kể về một chuyện đã xảy ra với chúng trong thời gian chúng bị đưa đi khỏi London để tránh những trận công kích. Chúng sơ tán đến nhà một giáo sư già sống ở trung tâm đất nước, cách ga xe lửa gần nhất 10 dặm và cách bưu điện 2 dặm. Ông không có vợ con và sống trong một tòa nhà rộng mênh mông với một bà quản gia tên là Macready và ba người giúp việc. (Tên họ là Iry, Margaret và Betty nhưng họ không xuất hiện trong chuyện này nhiều). Giáo sư tuổi đã già, rất già, tóc râu bờm xờm, bạc trắng cả trên mặt lẫn trên đầu và bọn trẻ đem lòng quý mến ông ngay lập tức. Nhưng vào cái buổi tối đầu tiên, khi ông đứng chờ đón chúng ở cửa trước, trông ông lạ đến nỗi Lucy (cô em út) cảm thấy hơi sờ sợ, còn Edmund (đứa áp út) thì lại buồn cười và nó phải giả tảng là đang hỉ mũi để che giấu điều này.

Ngay sau khi chúc giáo sư ngủ ngon, bọn trẻ lên lầu ngủ đêm đầu tiên và bọn con trai đã kéo sang phòng con gái để tán chuyện.

- Chúng ta đã đi đến nơi đến chốn. – Peter nói.- Mọi chuyện rồi sẽ tuyệt lắm đấy! Chà chà, ông già này sẽ để cho chúng ta muốn làm gì tùy thích.

- Em nghĩ đấy là một ông già đáng mến!- Susan nói.

- Ồ, đừng giở cái giọng ấy ra đi!- Edmund nói, nó đang mệt mà lại phải giả vờ là không mệt, điều này bao giờ cũng khiến nó trở nên cáu bẳn, khó chịu.- Đừng có tiếp tục cái kiểu ăn nói như thế.

- Như thế là thế nào? – Susan hỏi.- Dù sao thì cũng đến giờ em đi ngủ rồi đấy.

- Cứ làm như mẹ người ta ấy, Edmund dấm dẳn. – Chị là cái thớ gì mà bảo tôi đi ngủ? Chị đi ngủ đi!

- Cả mấy anh em mình cùng đi ngủ không hơn sao?- Lucy hỏi.- Chắc chắn là lại cãi vã nếu chúng ta tiếp tục nói chuyện theo kiểu này.

- Không, khoan hãy đi ngủ.- Peter nói.- Để anh bảo cho các em biết, đây là một kiểu gia đình không có ai để ý đến việc chúng ta làm đâu. Dù sao họ cũng không nghe thấy chúng ta đâu. Từ đây đi xuống phòng ăn cũng mất đến mười phút cùng với đủ loại cầu thang và hành lang.

- Có tiếng động gì vậy?- Lucy giật mình lên tiếng. Đó là ngôi nhà lớn hơn bất cứ căn nhà nào mà nó đã thấy và ý nghĩ về tất cả những hành lang dài dằng dặc cùng một dãy các cánh cửa dẫn vào những căn phòng trống trải khiến nó cảm thấy hơn rờn rợn.

- Chỉ là một con chim thôi, đồ ngốc,- Edmund nói.

- Đó là một con cú, - Peter nói. – Đấy là một nơi tuyệt vời dành cho chim chóc. Anh đi ngủ đây. Anh nói thế đấy, hãy mở một cuộc thám hiểm nơi này vào sáng ngày mai. Các em có thể tìm thấy bất cứ cái gì ở một nơi như thế này. Có nhìn thấy những dãy núi trên đường chúng ta đi đến không? Còn những cánh rừng nữa? Có thể có đại bàng. Có thể có hươu đực. Sẽ có cả chim ưng nữa.

- Và con lửng! – Lucy reo lên.

- Cáo!- Edmund đế thêm.

- Và thỏ nữa!- Susan nói.

Nhưng sáng hôm sau chỉ có một cơn mưa dai dẳng, xám xịt làm thành một bức màn dày và khi nhìn qua cửa sổ bạn chẳng nhìn thấy núi, cũng chẳng nhìn thấy rừng cây thậm chí cả dòng suối chảy qua vườn cũng không.

- Trời thế này thì không tạnh nổi đâu.- Edmund nói.

Bọn trẻ vừa ăn điểm tâm với giáo sư xong và đang ở trên lầu trong một căn phòng rộng dành cho chúng – một căn phòng dài, trần thấp có hai cửa sổ nhìn về một hướng và hai cửa sổ nhìn về một hướng khác.

- Đừng có làu bàu nữa, Edmund. – Susan nói.- Chị dám cả mười ăn một rằng nó sẽ tạnh trong vòng một giờ hoặc hơn một chút. Dù sao thì chúng ta còn may mắn chán. Ở đây còn có radio và rất nhiều sách.

- Không phải dành cho anh,- Peter nói,- anh đang định khám phá ngôi nhà đây.

Thế là cuộc phiêu lưu bắt đầu. Đấy là một kiểu nhà dường như bạn không bao giờ khám phá hết và nó chứa toàn những yếu tố bất ngờ. Mấy cánh cửa đầu tiên mà chúng mở ra chỉ dẫn đến những căn phòng ngủ bỏ trống và chỉ cần liếc mắt qua cũng hiểu những căn phòng này sinh ra là để có chức năng ấy, nhưng chẳng mấy chốc bốn anh em đã đi đến một phòng rất dài treo tranh. Ở đấy chúng phát hiện ra một bộ sưu tập áo giáp, tiếp đó là một căn phòng toàn màu xanh với một chiếc đàn harp kê ở một góc phòng.

Sau đó chúng đi xuống ba bậc rồi bước lên năm bậc vào một phòng nhỏ trên lầu. Phòng có cửa mở ra hành lang khác, từ đó dẫn đến một dãy phòng thông nhau, phòng nào cũng đầy ắp sách – hầu hết là sách cổ, có nhiều cuốn to hơn cả một cuốn Kinh Thánh trong nhà thờ nữa. Chẳng bao lâu sau chúng đứng ngoài hành lang nhìn vào một căn phòng thật trống trải có một tủ áo lớn thuộc loại tủ gương. Chẳng có gì trong căn phòng nếu không kể một chai màu xanh xỉn đặt trên bệ cửa sổ.

- Chẳng có gì ở đây hết. – Peter nói và cả bọn ra đi, chỉ trừ Lucy.

Con bé ở lại vì nó nghĩ kể cũng đáng mở cửa cái tủ áo này mặc dù nó cảm thấy gần như chắc chắn cửa tủ sẽ khóa. Nhưng trước sự ngạc nhiên của nó, cửa tủ dễ dàng mở ra và hai viên băng phiến lăn xuống sàn.

Nhìn vào trong tủ nó thấy có treo vài chiếc áo khoác – hầu hết là những chiếc áo khoác dài bằng lông thú. Chẳng có gì làm cho Lucy thích thú hơn việc ngửi và sờ vào những trang phục may bằng lông thú. Nó lập tức chui vào trong tủ, đứng giữa đám quần áo lông, cọ mặt vào từng cái. Tất nhiên là nó để cửa tủ mở vì nó biết rằng chỉ có đại ngốc mới nhốt mình vào bên trong bất cứ cái tủ nào. Khi đã bước thêm một hai bước, nó thấy một lớp quần áo khác treo ở dãy bên trong. Trong này đen tối như mực, nó phải đưa tay ra quờ quạng phía trước vì sợ lại làm cho trán mình sưng u lên một cục nếu đâm đầu vào tấm ván phía sau tủ áo. Nó bước thêm một bước – rồi hai hoặc ba bước nữa – bao giờ cũng chắc mẩm sẽ chạm tay vào tấm gỗ mặt sau lưng tủ. Nhưng ngạc nhiên làm sao, phía trước mặt nó vẫn trống trơn.

- Đây hẳn là một cái tủ khổng lồ. – Lucy thầm nghĩ, dấn thêm mấy bước nữa, đưa tay ra trước gạt lớp vải mềm mại sang một bên để lấy lối đi. Chợt nó thấy có vật gì lạo xạo dưới chân.

- Không biết đấy có phải là mấy con mối không? – Nó nghĩ, cúi xuống lấy tay sờ sờ dưới chân. Nhưng thay vì sờ phải lớp gỗ nhẵn bóng ở dưới đáy tủ áo nó lại thấy một vật gì ươn ướt, tơi như bột và lạnh ngắt. – Quái lạ thật.- Nó buột miệng rồi tiếp tục bước thêm một vài bước nữa.

Vài giây sau nó thấy một vật gì cọ vào mặt mình; tay nó không còn chạm phải những chiếc áo lông mềm mại nữa mà là một cái gì cứng, thô ráp và thậm chí sắc nhọn như cái gai.

- Sao vật này giống như một cành cây vậy?- Lucy kêu lên, chợt nó nhìn thấy ánh sáng trước mặt, không phải chỉ cách vài phần như nó mường tượng về tấm ván lưng tủ áo mà cách nó một quãng khá xa. Một vật gì lạnh và mềm rơi xuống người nó.

Chỉ một phút sau nó thấy rõ mình đang đứng giữa rừng trong một đêm tối trời, lớp tuyết xốp dưới chân và những bông tuyết bay lả tả trong không trung. Lucy cảm thấy hơi sờ sợ, đồng thời nó cũng rất tò mò và có cái gì như là kích thích nữa. Nó liếc nhìn ra sau và kia sau những thân cây đen đen nó vẫn có thể nhìn thấy lối đi dẫn vào cái tủ áo và thậm chí còn thoáng thấy căn phòng trống trải mà nó vừa đi ra. (Tất nhiên nó còn nghĩ đến việc để cửa ngỏ bởi vì sẽ là ngu xuẩn lắm lắm nếu nhốt mình vào bên trong một tủ áo). Có vẻ như ánh ngày vẫn còn bảng lảng đâu đây.

“Mình vẫn có thể quay lại nếu như có gì không ổn”, Lucy thầm nhủ. Nó bước về phía trước, tuyết kêu lạo xạo dưới chân và nó cứ thế đi qua rừng cây về phía có nguồn ánh sáng. Khoảng mười phút sau nó đi đến một nơi có cái cột đèn. Trong lúc nó đứng đấy ngắm nghía cái cột đèn, tự hỏi làm sao lại có một cái cột đèn mọc lên ở giữa rừng và phải làm gì tiếp theo thì nó nghe có tiếng bước chân lẹp xẹp đi đến gần và chẳng bao lâu sau một người hình dáng kỳ lạ bước ra sau một khóm cây rừng, đi vào vùng được ánh đèn chiếu sáng. Người này chỉ nhỉnh hơn Lucy một chút, tay cầm một chiếc dù phủ đầy tuyết trắng. Nửa người phần trên của ông giống người nhưng đôi chân thì lại giống chân dê (lông chân đen như mun, bóng mướt và thay cho bàn chân là móng vuốt của loài dê). Ông ta cũng có đuôi nhưng thoạt tiên Lucy không nhìn thấy bởi vì nó được kẹp gọn gàng bằng cánh tay đang cầm dù, vì không muốn để cái đuôi bị kéo lê trong tuyết. Ông quấn một chiếc khăn phu la đỏ quanh cổ và nước da của ông cũng có màu hung đỏ. Người đàn ông này có một khuôn mặt nhỏ dễ mến nhưng ngộ nghĩnh với một chòm râu nhọn và một mái tóc quăn loăn xoăn ở hai bên thái dương. Một tay ông, như tôi đã tả, cầm một cây dù, tay còn lại cầm mấy bịch giấy đựng hàng màu nâu. Với những gói giấy ấy và trong không gian mờ mờ tuyết trắng có vẻ như ông vừa đi mua quà Noel về. Đó là một vị thần rừng nửa người nửa dê. Và khi nhìn thấy Lucy, ông giật mình làm rơi tất cả những gói đồ xuống đất.

- Trời cao phù hộ cho tôi! - Thần rừng kêu lên.

- Xin chào!- Lucy lên tiếng. Nhưng thần rừng bận rộn nhặt các gói giấy nên thoạt đầu ông không nói gì. Sau khi nhặt xong thì ông cúi chào cô bé thật thấp.

- Chào buổi tối tốt lành, chào buổi tối tốt lành. – Thần rừng nói. – Tha thứ cho tôi … tôi không muốn tỏ ra quá tọc mạch … nhưng tôi muốn hỏi … không phải lẽ lắm … nhưng cô bé có phải là con gái của Eve không?

- Cháu tên là Lucy. – Cô bé đáp, không thật hiểu người đàn ông muốn nói gì.

- Nhưng cô có … bỏ quá cho tôi … khi gọi cô là cô bé không? – Thần rừng hỏi.

- Tất nhiên cháu là một cô bé.

- Vậy cô là con người?

- Tất nhiên cháu là người chứ! – Lucy nói, vẫn không bối rối.

- Để cho chắc chắn, để cho chắc chắn. – Thần rừng nói. – Sao mà tôi ngu ngốc thế! Nhưng tôi chưa hề trông thấy con của Adam và con gái của Eve bao giờ. Có thể nói … - Ông dừng lại như thể muốn nói một cái gì đó bất chợt hiện ra trong đầu, nhưng đã kịp nhớ ra và dừng lại đúng lúc. – Rất vui, rất hân hạnh.- Ông nói tiếp. – Cho phép tôi tự giới thiệu. Tên tôi là Tumnus.

- Rất vui được gặp ông, thưa ông Tumnus. – Lucy nói.

- Tôi có thể mạo muội hỏi không hỡi Lucy, con gái của Eve? – Tumnus trang trọng hỏi. – Làm thế nào cô vé đến được Narnia?

- Narnia? Narnia là cái gì? – Lucy hỏi.

- Đâu là xứ sở Narnia, nơi chúng ta dang đứng, nằm giữa cột đèn và lâu đài vĩ đại Cair Paravel trên bờ biển Đông. Còn cô bé … phải chăng cô đến đây từ cánh rừng hoang ở miền Tây?

- Cháu … cháu đi qua cái tủ áo của căn phòng bỏ trống. – Lucy nói.

- À! – Ông Tumnus nói với giọng rầu rĩ. – Nếu như tôi học địa lý chu đáo hơn vào lúc còn nhỏ thì còn gì phải nghi ngờ nữa, tôi đã biết tất cả về những mảnh đất xa lạ ấy. Bây giờ thì quá muộn mất rồi.

- Nhưng đấy không phải là một đất nước gì cả.- Lucy nói, suýt nữa thì bật cười to. – Nó ở ngay đằng kia thôi … Ít nhất thì cháu cũng không chắc lắm. Ở đấy đang là mùa hè.

- Trong khi đó ở Narnia lại là mùa đông và nó kéo dài quá lâu… À mà hai chúng ta có thể bị cảm lạnh nếu cứ đứng nói chuyện ở chỗ tuyết rơi như thế này. Con gái của Eve từ mảnh đất xa xôi ở Spare Oom nơi mùa hè vĩnh cửu ngủ đi trong thành phố tươi đẹp War Drobe 1 … liệu cô bé có vui lòng quá bộ đến dùng trà với tôi không?

- Cám ơn ông rất nhiều, thưa ông Tumnus. Nhưng e rằng cháu phải quay về thôi.

- Nó ở ngay khúc quẹo kia ấy mà. – Thần rừng nói - Ở đấy có lò sưởi đang cháy rừng rực… bánh mì nướng… và cá mòi… cả bánh kem nữa.

- Ôi, ông thật tốt bụng quá, nhưng cháu không thể ở lâu được.

- Nếu cô bé khoác tay tôi, con gái của Eve ạ, tôi sẽ có thể che dù cho cả hai người. Lối này. Bây giờ chúng ta đi thôi.

Thế là Lucky thấy mình đi trong rừng, khoác tay một sinh vật kì lạ với dáng vẻ như họ đã biết nhau từ hồi nảo hồi nào rồi.

Chẳng bao lâu họ đến một nơi mặt đất mấp mô lổn nhổn những cục đá và con đường đồi vòng lên lượn xuống. Xuống đến chỗ thấp nhất của một thung lũng nhỏ, ông Tumnus bất thần rẽ ngang tựa hồ sắp đâm thẳng vào một tảng đá lớn khác thường, nhưng vào phút chót Lucy thấy ông dẫn cô bé đi vào một cái cửa hang. Vào bên trong cô bé phải nheo nheo mắt vì ánh lửa rực rỡ từ trong lò hắt ra. Rồi ông Tumnus cúi xuống, gắp một mẩu gỗ nhỏ đang cháy khỏi bếp lửa bằng một cái kẹp nhỏ và thắp lên một ngọn đèn.

- Giờ thì chúng ta sẽ không phải đợi lâu đâu. – Ông nói và lập tức đặt một ấm nước lên bếp lò.

- Lucy nghĩ, nó chưa hề thấy một nơi nào dễ thương hơn. Đó là một cái hang nhỏ, khô ráo, sạch sẽ, vách hang là đá đỏ, một tấm thảm nhỏ trải dưới sàn. Trong hang có hai cái ghế (“một cho tôi, một cho khách” – ông Tumnus nói). Một cái bàn, một cái tủ áo, một cái mặt lò sưởi đặt trên bếp lửa. Treo trên một vách hang là chân dung một thần rừng già với chòm râu bạc. Ở một góc hang có một cánh cửa mà Lucy nghĩ là dẫn đến phòng ngủ của ông Tumnus. Sát vào một vách hang là cái kệ chất đầy sách vở. Lucy nhìn ngắm những vật này trong khi chủ nhà pha trà. Có những cuốn sách như Cuộc đời và thư từ của Silenus; Nữ thần và cách thức của họ; Con người, Tu sĩ và người nuôi chim săn; Một nghiên cứu về những huyển thoại nổi tiếng; Con người có phải là huyền thoại?

- Bây giờ, hỡi người con gái của Eve! Hãy lại đây! – Chủ nhà lên tiếng.

Đó là một bữa tiệc trà rất thú vị. Có món trứng chiên phồng, trứng trần hai phần cho chủ và khách, ngoài ra còn có cá mòi ăn với bánh mì nướng, bánh mì phết bơ, bánh mì với mật ong và cuối cùng là bánh mì cam phủ đường. Khi Lucy đã ăn no bụng thì thần rừng bắt đầu trò chuyện. Ông kể những mẩu chuyện rất hay về đời sống trong rừng. Những buổi khiêu vũ lúc nửa đêm, các tiên nữ sống trong cái giếng như thế nào, những nữ mộc tinh và thần hoa, đến khiêu vũ với các thần rừng ra sao. Chuyện về những đội đi săn quyết lùng cho được con hươu đực trắng như sữa, chả là nó có thể ban cho người bắt được nó ba điều ước. Những bữa tiệc và những đội đi tìm kho báu gồm những chú lùn Đỏ ở những hang động trong lòng đất. Thời xa xưa khi mùa hạ còn ở trong những cánh rừng xanh biếc, ông già Silenus thường cưỡi trên lưng con lừa mập ú vào rừng chơi, thỉnh thoảng chính thần Bacchus 2 cũng xuất hiện, lúc đó các dòng suối trong rừng chảy ra rượu vang thay cho nước lã và cả khu rừng buông mình cho những cuộc vui kéo dài suốt tuần.

- Không phải lúc nào cũng là mùa đông như bây giờ. – Tumnus buồn rầu nói thêm. Sau đó để cho tâm trạng phấn chấn thêm, ông lấy từ trong ngăn tủ ra một cái sáo nhỏ trông rất lạ có vẻ như được tết bằng rơm và bắt đầu thổi. Âm điệu của nó làm cho Lucy muốn khóc, muốn cười, muốn nhảy múa và muốn đi ngủ cùng một lúc. Cứ như thế nhiều giờ trôi qua, Lucy lắc đầu và nói:

- Ôi, ông Tumnus, cháu thật xin lỗi khi phải ngắt quãng cảm hứng của ông, cháu thích khúc nhạc của ông lắm nhưng quả là cháu phải về nhà. Cháu chỉ có thể ở lại vài phút thôi ạ.

- Như thế là không tốt … vào lúc này, cô bé ạ. – Thần rừng nói, bỏ cái ống sáo xuống, nhìn Lucy lắc đầu vẻ mặt buồn rười rượi.

- Không tốt? – Lucy hỏi, đứng phất dậy và cảm thấy hoảng thật sự. – Ông nói thế nghĩa là thế nào? Cháu phải về nhà ngay bây giờ. Người nhà sẽ thắc mắc không biết có chuyện gì xảy ra với cháu. – Nhưng ngay sau đó nó say sang hỏi, giọng dịu đi: - Ông Tumnus ơi, có chuyện gì xảy ra vậy?

Đôi mắt nâu của thần rừng ứa lệ, những giọt nước mắt bắt đầu chảy dài xuống má, tong tong từ mũi chảy xuống, cuối cùng ông lấy hai tay ôm mặt, thổn thức.

- Ông Tumnus! Ông Tumnus! – Lucy nói trong nỗi hoảng sợ. – Đừng khóc nữa! – Đừng thế mà! Có chuyện gì vậy? Ông không được khỏe sao? Ông Tumnus, hãy nói cho cháu biết có chuyện gì không ổn đi.

Nhưng thần rừng vẫn khóc như thể trái tim đã hoàn toàn tan vỡ. Đến nước này thì Lucy không chịu nổi, nó đến bên cạnh choàng tay quanh vai ông, đưa cho ông chiếc khăn mùi xoa của nó nhưng ông vẫn không dịu đi. Ông chỉ cầm lấy khăn, lau mãi nước mắt rồi dùng cả hai tay vắt cho ráo nước khi khăn ướt đẫm không thể dùng để thấm thêm nước mắt nữa. Chỗ Lucy đứng ướt lép nhép vì nước mắt thần rừng như những giọt mưa ngoài mái hiên cứ tí tách nhỏ xuống.

- Ông Tunmus ơi! Đừng khóc nữa … Nín đi … nín ngay đi. Ông phải xấu hổ chứ, một Thần rừng như ông mà lại thế à? Mà ông khóc về chuyện quái quỷ gì vậy?

- Hu, hu, hu! – Ông Tumnus nức nở không ra lời. – Tôi khóc vì tôi là một thần rừng tồi tệ… hức … hức.

- Cháu không hề nghĩ ông là một thần rừng như thế. Cháu nghĩ ông là một thần rừng thật tốt. Ông là một vị thần dễ mến nhất mà cháu từng gặp đấy.

- Hức hức … cô bé nói thế vì cô bé không biết … Ông Tumnus nói giữa những tiếng nấc nghẹn ngào.

- Không, tôi là một kẻ tồi tệ nhất mà … tôi không nghĩ là có một thần rừng nào xấu xa đến thế kẻ từ khi thế giới này hình thành.

- Nhưng mà ông đã làm diều gì vậy?

- Người cha già của tôi, đây ảnh của ông treo trên chốc lò sưởi kia kìa. Cha tôi sẽ không đời nào làm một việc như thế này.

- Một việc như thế nào?

- Như cái việc mà tôi đã làm. Làm tôi tớ phục vị Bạch Phù Thủy. Tôi là thế đấy. Tôi được Bạch Phù Thủy thuê làm tay sai.

- Bạch Phù Thủy? Nhưng bà ta là ai chứ?

- Là người đã gí cả xứ Narnia này dưới ngón tay cái của mình. Chính bà ta đã làm cho nơi đây lúc nào cũng là mùa đông. Mùa đông vĩnh viễn, không bao giờ có Giáng Sinh; cứ thử nghĩ đến chuyện ấy xem!

- Kinh khủng thật. Vậy bà ta trả cho ông cái gì?

- Làm một việc tồi tệ nhất. – Ông Tumnus nói với một tiếng rên sâu thằm trong lồng ngực. – Một kẻ chuyên đi bắt cóc người cho mụ, tôi là thế đấy. Hãy nhìn tôi đi người con gái của Eve. Cô bé có tin là một gã thần rừng nào đó có thể đến gặp một cô bé ngây thơ trong rừng – một người chưa từng làm một việc gì hại đến gã – giả vờ thân thiện với cô bé ấy, mời cô bé ấy về nhà, về cái hang của mình, rồi tìm cách ru cho cô bé ấy ngủ để đem giao nộp cho Bạch Phù Thủy không?

- Không, - Lucy khẳng định, - cháu dám chắc ông không đời nào làm một chuyện như thế.

- Nhưng tôi … tôi lại… làm đấy!

- Thế thì, - Lucy nói, giọng kéo dài ra (bởi vì nó vừa muốn nói thật vừa không muốn tỏ ra quá nghiêm khắc) – thế thì đó là một việc làm xấu, nhưng ông đã ăn năn hối lỗi, vì vậy cháu nghĩ ông sẽ không bao giờ lặp lại chuyện này nữa.

- Con gái của Eve, thế cô bé không hiểu à? Đó không phải là việc tôi đã làm, mà là việc tôi sắp làm… vào ngay lúc này.

- Ông muốn nói gì? – Lucy kêu lên, mặt trắng bệch.

- Cô là một đứa trẻ. Bạch Phù Thủy đã lệnh cho tôi là nếu tôi gặp một đứa con trai của Adam hoặc một con gái của Eve thì tôi phải lập tức bắt chúng đem giao cho mụ ấy. Cô bé là người đầu tiên mà tôi gặp. Tôi đã giả vờ thân thiện với cô, mời cô về hang uống trà, và trong suốt thời gian qua tôi chỉ chờ cho đến khi cô lăn ra ngủ để ra khỏi hang mách với mụ.

- Ồ, nhưng ông sẽ không làm thế, ông Tumnus – Lucy nói. – Ông không làm thế, có phải không? Sự thực, sự thực ông sẽ không làm thế.

- Và nếu tôi không làm, - thần rừng nói, bắt đầu khóc lóc, - trước sau gì phù thủy cũng sẽ phát hiện ra. Bà ta sẽ cắt đuôi tôi, cưa hai cái sừng cụt đi, sẽ nhổ từng cọng râu, sẽ vung cây gậy phép trên bộ móng guốc đẹp đẽ của tôi mà biến thành bộ móng thảm hại của một con ngựa. Có thể, bà ấy còn giận dữ ghê gớm đến mức biến tôi thành đá và tôi sẽ thành tượng một thần rừng trong ngôi nhà khủng khiếp của bà ta cho đến khi bốn ngai vàng trong lâu đài Cair Paravel có chủ. Nhưng chỉ có trời mới biết khi nào chuyện đó xảy ra hoặc có lẽ nó sẽ không bao giờ xảy ra cũng nên.

- Cháu xin lỗi, ông Tumnus, nhưng làm ơn hãy để cho cháu về nhà.

- Tất nhiên là tôi sẽ làm thế. Tất nhiên tôi nên làm thế. Bây giờ thì tôi đã rõ rồi. Trước khi gặp cô bé tôi còn chưa gì về con người… Tất nhiên tôi không thể giao nộp cô cho Phù Thủy… không, bởi bây giờ tôi đã biết rõ cô. Nhưng chúng ta phải đi ngay lập tức. Tôi sẽ đưa cô quay lại chỗ cột đèn. Tôi hy vọng cô sẽ tìm được đường quay về Spare Oom và War Drobe, được chứ?

- Chắc chắn cháu có thể tìm được đường về.

Lucy chạy từ căn phòng bỏ trống qua hành lang và tìm thấy ba anh chị nó.

- Ổn rồi,- nó lặp lại,- em đã quay về rồi.

- Em đang nói chuyện gì vậy, Lucy?- Susan hỏi.

- Cái gì? – Lucy kinh ngạc hỏi.- chẳng phải các anh chị đang đi tìm em hay sao?

- A, vậy ra em chơi trốn tìm, phải không? Peter nói.- Bé Lu tội nghiệp chơi trốn tìm mà không ai biết! Em phải trốn lâu hơn nữa nếu muốn mọi người đi tìm em chứ?

- Nhưng em đã đi hàng mấy tiếng đồng hồ cơ mà.

- Man man! - Edmund kêu lên, đập đập lên đầu, man quá đi.

- Em nói gì vậy Lu?- Peter hỏi.

- Em muốn nói….sau bữa ăn sáng em đi vào trong tủ áo, em đi cũng phải mấy tiếng ấy, em còn dùng tiệc trà và có nhiều chuyện xảy ra.

- Đừng có ngốc thế, Lucy.- Susan nói.- Bọn chị vừa mới ra khỏi phòng thì em chạy theo thôi.

- Nó không ngốc chút nào đâu.- Peter nói.- Nó chỉ bịa chuyện cho vui thôi, phải không Lu? Mà tại sao lại không được làm như thế chứ?

- Không, anh Peter, em không bịa đâu. Nó...  nó là một cái tủ kì lạ. Có rừng cây trong đó, có cả tuyết rơi, còn có thần rừng và một phù thủy và nơi ấy gọi là Narnia; không tin anh đến thử xem.

Những đứa trẻ khác không biêt phải nghĩ thế nào nữa, nhưng Lucy kích động đến nỗi cả bọn quay lại căn phòng nọ. Lucy chạy trước mọi người, mở tung cánh cửa tủ, kêu lên:

- Nào, vào trong đi và mọi người sẽ tự chứng kiến.

- Cái gì đây? Em đúng là đồ con ngỗng.- Susan nói, thò đầu vào trong, gạt những chiếc áo lông sang một bên, - chỉ là một cái tủ áo bình thường, coi này, đằng sau còn có cả tấm ván che nữa.

Cả bọn thò đầu vào, gạt những chiếc áo lông sang một bên nhìn vào tận bên trong, và tất cả những cái chúng nhìn thấy,-  cả Lucy cũng vậy – chỉ là một cái tủ hết sức bình thường. Chẳng thấy rừng, chẳng thấy tuyết, chỉ thấy cái lưng tủ với một cái giá mắc áo mà thôi. Peter bước hẳn vào trong, gõ gõ đốt ngón tay lên đó để chắc rằng nó là một tấm gỗ cứng.

- Một trò lừa khéo thật đấy , Lucy ạ, - nó nói khi nhảy ra khỏi tủ - em đã lừa cho bọn anh bước vào, anh thừa nhận, bọn anh đã tin em đến một nửa rồi.

- Nhưng chuyện này không phải là chuyện bịa tí nào, hoàn toàn là thật đấy. Sao bây giờ nó lại khác đi cơ chứ. Chuyện thật trăm phần trăm đấy. em xin thề.

- Thôi đi Lu, - Peter nói,- em đi quá xa rồi đấy. Em đã lừa được bọn anh rồi, bây giờ em có thôi đi không ?

Lucy đỏ mặt tía tai, cố nói một điều gì đó, nhưng nó biết mình khó có thể nói lên lời, thế là nước mắt nó trào ra.

Mấy hôm sau, con bé cảm thấy thật khổ sở. Tuy vậy, nó có thể làm cho mối quan hệ giữa mấy anh chị em trở nên dễ chịu, thoải mái,- vào bất cứ lúc nào, -  nếu nó ép được mình nói ra rằng nó chỉ bịa ra toàn bộ câu chuyện này để mua vui thôi. Nhưng Lucy không làm như vậy, là một cô bé trong sáng và nó biết là mình đúng, vậy nên nó không thể bắt mình nói như thế được. Những đứa kia nghĩ nó nói láo mà lại là một lời nói láo ngô nghê nên chúng làm cho nó thấy thật khốn khổ. Hai đứa lớn trêu ghẹo cô em mà không có ác ý, nhưng Edmund có những lúc rất tai quái và trong trường hợp này nó không vô tư chút nào. Nó trêu trọc, chế giễu em gái, hỏi đi hỏi lại Lucy là nó có tìm thấy bất cứ một đất nước nào khác trong những cái tủ khác trong nhà không. Điều làm cho mọi chuyện trở nên xấu hơn với Lucy là những ngày này lại là những ngày đẹp trời. Thời tiết thì khỏi chê, bọn trẻ chơi ngoài trời từ sáng đến tối : bơi lội, câu cá, trèo cây, nằm chơi trong bụi thạch thảo. Tuy vậy, Lucy không hoàn toàn tận hưởng được niềm vui này. Mọi việc cứ diễn ra thế cho đến một hôm trời lại đổ mưa.

Ngày hôm ấy, cho đến tận chiều cũng không có dấu hiệu trời sẽ hửng lên một chút, bọn trẻ quyết định chơi trò trốn tìm. Susan là người bị bịt mắt và ngay sau khi những đứa khác tản đi tìm chỗ trốn, Lucy bước vào căn phòng có cái tủ áo. Nó không có ý định trốn  trong tủ áo bởi nó cũng bắt đầu tự tra vấn mình xem có thật là Narnia và thần rừng không phải hiện về trong mơ không. Toà nhà này rộng thênh thang, lại có kiến trúc phức tạp và có vô số chỗ trốn thế là nó nghĩ mình có thời gian nhìn qua cái tủ áo một lần rồi tìm chỗ nấp khác. Nhưng vừa đến bên tủ áo thì nó nghe tiếng bước chân ngoài hành lang và rồi nó không biết làm gì khác ngoài việc nhảy vào trong tủ, khép cánh cửa lại sau lưng. Nó không đóng sập cửa lại bởi vì nó biết rằng chỉ có ngốc nghếch mới nhốt mình trong một cái tủ đóng chặt cho dù nó không phải là cái tủ kì lạ đi chăng nữa.

Bây giờ thì nó biết tiếng chân bước mà nó nghe thấy là của Edmund, bước vào vừa đúng lúc thấy Lucy biến mất sau cánh cửa tủ. Ngay lập tức Edmund quyết định trốn vào trong  tủ - không phải vì nó nghĩ đây là một chỗ trốn tốt mà chỉ vì nó muốn tiếp tục chọc quê em gái về cái miền đất tưởng tượng kia.Vẫn những chiếc áo lông treo thành hàng như cũ, vẫn cái mùi băng phiến ấy, vẫn khoảng không chật hẹp tối mờ mờ và sự im lặng ấy ; không hề có dấu hiệu của Lucy.

- Nó tưởng tượng mình là chị Susan đến tìm nó. – Edmund tự nhủ. – Thế là con bé đứng im như phỗng ở bên trong.

Thằng bé chui vào tủ, đóng cánh cửa lại, quên rằng mình đang làm một chuyện ngu ngốc. Đoạn nó bắt đầu quờ quạng tìm Lucy trong bóng tối. Nó nghĩ sẽ tìm thấy em trong vòng vài giây và rất ngạc nhiên khi thấy mọi chuyện không phải như vậy. Nó quyết định mở cửa tủ để cho ánh sáng hắt vào. Nhưng nó không thể tìm cửa ra. Nó không thích điều này chút nào và bắt đầu quờ quạng như điên về mọi hướng, thậm chí nó còn la lớn :

- Lucy, Lucy ! em đâu rồi ? Anh biết em ở đây mà.

Không có tiếng đáp lại và Edmund nhận thấy tiếng vọng của giọng nói của nó không phải là trong một cái tủ kín mà là giọng nói vang lên nơi đồng trống. Nó cũng đột ngột thấy lạnh cóng cả người rồi nó thấy ở xa le lói chút ánh sáng.

- Lạy chúa, - Edmund nói, - chắc cánh cửa tự động mở ra. – Nó quên mất Lucy và bước về phía có ánh sáng – cũng là chỗ nó nghĩ cánh cửa vừa mở ra. Thay vì thấy mình vừa bước vào một căn phòng trống, nó thấy mình bước ra khỏi bóng râm của một cây thông đen xum xuê để đi ra một khoảng cây cối thưa thớt hơn trong rừng.

Tuyết vỡ ra lạo xạo dưới chân nó, tuyết trĩu nặng lên các cành cây. Trên đầu, da trời ửng một màu xanh lá mạ, giống như bầu trời mà bạn có thể thấy vào một buổi sáng mùa đông đẹp trời. Ngay trước mặt nó, giữa hai thân cây lớn là một mặt trời vừa lên cao hồng rực và trong sáng. Không gian tuyệt đối yên tĩnh như thể nó là sinh vật duy nhất ở vùng đất này. Không có lấy một con chim cổ đỏ hay một con sóc chuyền cành; cây cối trải dài ra ngút tầm mắt ở tất cả các hướng. Edmund rùng mình.

Bây giờ thì nó nhớ ra là mình đang đi tìm Lucy và nó đã tai quái thế nào khi chọc quê em gái “về một vùng đất hão” nhưng mà bây giờ té ra lại không phải là “ hão” chút nào. Nó nghĩ chắc em gái mình đang ở đây ngay bên cạnh, thế là nó gào to :

- Lucy, Lucy ! anh cũng đang ở đây - Edmund đây.

Không có tiếng trả lời.

- Nó vẫn còn đang giận mình về những điều mình đã trêu trọc nó vừa rồi. – Edmund nghĩ. Dù không thích phải thừa nhận là mình sai, nó cũng không muốn ở một nơi xa lạ hết sức xa lạ và lạnh lẽo này một mình, nó lại kêu to lần nữa :

- Này Lu ! Anh xin lỗi đã không tin em. Bây giờ thì anh biết là em đúng rồi. Ra ngoài đi. Ta làm hòa nhé.

Vẫn không có tiếng trả lời.

- Đúng là đồ con gái, - nó lầm bầm một mình, - chắc lại đang đừng phụng phịu ở một xó nào đó, không chấp nhận lời xin lỗi.

- Nó nhìn quanh một lượt, khẳng định là nó không thích nơi này chút nào và gần như đã quyết định quay về thì nghe thấy ở nơi xa xôi trong rừng vang lên tiếng nhạc ngựa. Nó để tai lắng nghe, tiếng réo rắt mỗi lúc một gần hơn, gần hơn và cuối cùng hiện ra trước mặt nó một cỗ xe trượt có hai con tuần lộc kéo.

Tuần lộc có kích thước bằng con ngựa giống Shetland, bộ lông trắng đến nỗi so với nó, tuyết trên cành khó có thể gọi là có màu trắng, cặp sừng nhiều nhánh trông như được dát vàng và sáng lên lấp lánh như một vật trong bếp lò khi ánh mặt trời rọi vào. Bộ dây cương bằng da màu đỏ chói treo những chiếc lục lạc. Ngồi ở vị trí điều khiển chiếc xe trượt là một chú lùn mập mạp cao khoảng chín tấc nếu đứng thẳng lên. Ông ta bận một chiếc áo may bằng lông gấu Bắc Cực, đầu đội một cái mũ trùm đầu màu đỏ có một quả tua rua dài bằng vàng rủ xuống từ cái chỏm nhọn, bộ râu vĩ đại dài đến tận đầu gối được coi như một tấm mền ấm. Sau người lùn, ngồi ở vị trí cao hơn ở chính giữa xe trượt, là một người khác, - một người đàn bà cao lớn – cao hơn bất cứ người đàn bà nào mà nó đã gặp. Bà ta quấn quanh cổ một chiếc khăn lông trắng muốt, tay phải cầm một chiếc gậy dài và thẳng. Chiếc vương miện ngay ngắn trên đầu. Khuôn mặt trắng toát - không hẳn là xanh xao mà trắng như tuyết hoặc như tờ giấy trắng hoặc như một miếng đường đóng băng, nhưng đôi môi lại đỏ chót. Đó là một khuôn mặt đẹp xét dưới bất cứ góc độ nào nhưng là một vẻ đẹp cao ngạo, lạnh lùng và nghiệt ngã.

Cỗ xe trượt lao về chỗ Edmund đứng tạo nên một bức tranh nên thơ, có cái gì hư hư thực thực; tiếng chuông réo rắt, người lùn luôn tay vung roi lên và tuyết bay lên lả tả ở hai bên thành xe.

- Dừng lại! – người đàn bà ra lệnh, người lùn giật dây cương rất gấp khiến hai con tuần lộc gần như khựng lại ngay tức khắc. Đoạn chúng mau chóng lấy lại thăng bằng vừa nhai nhai cái gì trong mồm vừa thở hổn hển. Trong làn không khí giá lạnh, hơi thở từ mũi chúng tạo những luồng khói.

- Này, nói đi, ngươi là ai? – người đàn bà hỏi, đôi mắt sáng quắc chiếu vào Edmund với cái nhìn dữ dội.

- Tôi … tôi… tôi tên là Edmund. – Nó ấp úng. Nó không thích cái cách người đàn bà này nhìn nó.

Người đàn bà cau mày.

- Đây là cái lối mày thưa chuyện với một nữ hoàng đấy à? – Bà ta hỏi, trông còn có vè dữ dội hơn nữa.

- Xin bà tha thứ, thưa nữ hoàng, tôi không biết rõ điều đấy ạ.

- Không biết nữ hoàng xứ Narnia? – Bà ta la lên. – A ha ha ! ngươi sẽ biết rõ ta là ai ngay bây giờ. Nhưng ta nhắc lại - Ngươi là ai?

- Thưa nữ hoàng, - Edmund nói, - tôi không biết ý bà định nói gì. Tôi đang đi học – ít nhất thì tôi đang trong kỳ nghỉ hè.

- Nhưng ngươi là ai? – Nữ hoàng hỏi lại – Có phải là một người lùn đã cạo sạch râu đi không?

- Không, thưa nữa hoàng – Edmund nói, - tôi chưa có râu, tôi còn là một thằng nhóc.

- Thằng nhóc! Ngươi muốn nói, ngươi chính là con trai của Adam ư?

Edmund đứng yên, chẳng nói gì. Lần này nó quá bối rối chẳng hiểu câu hỏi này có ý nghĩa gì.

- Ta thấy mày đúng là một thằng ngu xuẩn, cũng có thể mày còn là bất cứ thứ gì khác. Trả lời ta ngay lập tức, không thì ta mất hết kiên nhẫn đấy. Mày có phải là người không?

- Phải, thưa bà.

- Vậy ngươi đến lãnh địa của ta bằng cách nào?

- Thưa nữ hoàng, tôi đi đến đây qua một cái tủ áo.

- Tủ áo? Ngươi nói thế là thế nào?

- Tôi...tôi chỉ mở cửa một tủ áo và nhìn thấy mình đang ở đây, thưa bà – Edmund nói.

- A ha! – Nữ hoàng nói với bản thân mình hơn là nói với thằng bé – Một cánh cửa từ thế giới của con người! Ta đã nghe được những chuyện như thế này. Nó có thể hủy diệt tất cả. Nhưng thằng nhóc này chỉ có một mình, ta dễ dàng đối phó với nó.

Nói xong, mụ đứng lên nhìn tận mặt Edmund cho rõ, đôi mắt tóe lửa và chiếc gậy làm phép vung lên. Edmund có thể cảm thấy mụ chuẩn bị làm một cái gì đó thật dễ sợ nhưng nó dường như không có khả năng cử động. Rồi trong lúc thằng bé phó mặc mọi sự thì xem ra mụ lại đổi ý.

- Cậu bé đáng thương của ta – nữ hoàng nói với giọng lưỡi khác hẳn – coi kìa, con của ta bị lạnh cóng cả người! Hãy đến đây ngồi trên xe cùng với ta nào, ta sẽ quấn khăn lông quanh người con và chúng ta sẽ cùng nhau trò chuyện.

Edmund không thích sự dàn xếp này chút nào nhưng nó không dám cưỡng lời, nó trèo lên xe trượt, ngồi ngay dưới chân nữ hoàng, mụ lấy khăn quấn quanh người nó và thắt lại rất khéo.

- Một cái gì nong nóng để uống chăng? – Nữ hoàng hỏi – Con có thích vậy không?

- Vâng, thưa nữ hoàng – Edmund đáp, hai hàm răng đánh vào nhau cầm cập.

Nữ hoàng móc ra từ chỗ nào đó trong mớ quần áo quấn quanh người, lấy ra một cái lọ nhỏ trông như làm bằng bạc. Đoạn giơ một cánh tay lên, mụ nhỏ một giọt trong lọ rơi xuống lớp tuyết bên cạnh xe trượt. Edmund nhìn thấy cái giọt ấy lơ lửng trong không khí trong vòng một giây, nó sáng lấp lánh như một viên kim cương. Nhưng vào cái lúc nó chạm xuống bề mặt lớp tuyết thì có tiếng xèo xèo và kìa, một chiếc ly kim cương đựng đầy một cái gì bốc hơi nghi ngút. Người lùn lập tức cầm lấy đưa cho Edmund với một cái cúi đầu và một nụ cười mỉm, nhưng đó không phải là một nụ cười thiện chí. Edmund cảm thấy dễ chịu hơn khi nó bắt đầu nhấp môi vào cái thứ nước uống nóng hổi đó. Đấy là một cái gì nó chưa từng nếm qua: ngọt lịm, sủi bọt và béo ngậy.

Đầu tiên là cảm giác tê tê ở đầu lưỡi, rồi một làn sóng ấm áp, thoải mái lâng lâng lan đi từ đầu đến ngón chân.

- Thật là chán nếu chỉ uống mà không ăn, con trai của Adam ạ – Nữ hoàng nhìn nó nói. –Vậy con thích ăn gì nhất?

- Bánh thạch rắc đường, thưa nữ hoàng. – Edmund đáp.

- Nữ hoàng bèn nhỏ một giọt nữa rơi xuống lớp tuyết trắng, ngay lập tức trên tuyết xuất hiện một vật gì nom như một chiếc hộp trên có cột một dải băng bằng lụa xanh – một cái hộp mà khi mở ra chắc chắn có mấy khoanh bánh thạch rắc đường loại thượng hảo hạng. Mỗi miếng bánh đều tan trong miệng với một vị ngọt dịu và có màu nhạt hơn ở giữa; Edmund chưa bao giờ được nếm một thứ gì ngon lành đến như vậy. Bây giờ thì nó cảm thấy ấm áp, khỏe khoắn, lâng lâng, bay bổng.

Trong khi nó mải mê ăn, người đàn bà hỏi nó hết câu này đến câu khác. Thoạt đầu nó cũng nhớ ra là vừa ăn ngồm ngoàm vừa nói là một việc không đúng phép tắc những chẳng bao lâu nó cũng quên mất chuyện đó và chỉ nghĩ đến chuyện tọng vào miệng càng nhiều càng tốt. Càng ăn nhiều bao nhiêu nó càng thèm ăn thêm bấy nhiêu và nó không thể tự hỏi mình tại sao nữ hoàng lại có vẻ tò mò tọc mạch quá vậy. Mụ ta khiến nó khai ra rằng nó có một anh, một chị và một em gái; em gái nó đã từng đến Narnia gặp một thần rừng ở đây và chẳng ai trong số anh chị của nó biết gì về Narnia cả. Nữ hoàng tỏ vẻ quan tâm trước những sự việc về tất cả bốn anh em và cứ hỏi đi hỏi lại mãi về chuyện đó.

- Ngươi có chắc là chỉ có bốn đứa ngươi không? Hai đứa con trai của Adam và hai đứa con gái của Eve, không nhiều hơn, không ít hơn chứ?

Và Edmund, với một miệng đầy bánh thạch, nói luôn miệng.

- Vâng như tôi đã khẳng định từ trước. – nó quên không thêm câu “thưa nữ hoàng! – nhưng mụ ta không còn để ý nhiều đến việc ấy nữa.

Cuối cùng khi món bánh đã ăn sạch đến miếng cuối cùng, Edmund thèm thuồng nhìn dán vào cái hộp rỗng, thầm mong mụ sẽ hỏi xem nó có muốn ăn thêm nữa không. Tất nhiên, nữ hoàng biết tỏng nó nghĩ gì, bởi vì mụ ta chứ không phải nó là người biết rằng đó là thứ bánh có ếm bùa, rằng bất cứ ai đã từng ăn qua một miếng sẽ muốn ăn thêm, ăn thêm nhiều nữa và nếu được phép cứ tì tì ăn mãi cho đến lúc nứt bụng ra mà chết. Nhưng mụ không mời nó ăn thêm mà lại nói:

- Con trai của Adam, ta rất muốn gặp anh chị và em gái con. Có thể mang chúng đến đây gặp ta được không?

- Tôi sẽ cố, - Edmund đáp, mắt vẫn không rời chiếc hộp bánh rỗng.

- Bởi vì nếu ngươi quay lại đây một lần nữa – mang theo anh chị em ngươi, tất nhiên – ta có thể cho ngươi nhiều bánh thạch rắc đường cũng ngon lành như thế này. Bây giờ ta không thể có ngay bánh cho ngươi, phép màu này chỉ sử dụng một lần. Nhưng ở nhà ta, nó lại là một vấn đề khác.

- Vậy tại sao chúng ta không thể quay về nhà bà ngay bây giờ? – Edmund hỏi. Khi nó mới bước lên xe trượt nó đã sợ bà ta có thể đưa nó đến một nơi nào đó xa lạ mà nó không biết đường vê, bây giờ nó đã quên mất nỗi sợ dó.

- Nhà ta ở là một nơi rất dễ thương – Nữ hoàng nói – Ta chắc là ngươi sẽ thích lắm, hơn nữa ta lại chẳng có con. Ta muốn có một thằng con trai kháu khỉnh để có thể nuôi dạy như một hoàng tử, sau này khi ta không còn trên đời nữa nó sẽ làm vua. Trong vai trò hoàng tử, đứa bé ấy sẽ được đội vương miện bằng vằng này, ăn bánh thạch rắc đường suốt ngày này... Và con là đứa bé lanh lợi nhất, đẹp trai nhất mà ta biết. Ta nghĩ ta sẽ phong cho con làm hoàng tử vào một ngày nào đó, khi con đưa những đứa kia đến gặp ta.

- Tại sao không phải ngay bây giờ? – Edmund hỏi. Mặt nó đỏ lên và như thể trông nó chẳng “lanh lợi” cũng chẳng “tuấn tú” như lời nữ hoàng nói.

- Ồ nếu ta đưa con đến đây lúc này, ta sẽ không được gặp các anh chị em con. Ta rất muốn biết mối quan hệ anh em thân thiết giữa các con. Con sẽ là hoàng tử và sau này sẽ là vua hiểu chưa? Con cần phải có triều thần và các nhà quý tộc chứ. Anh con sẽ được phong công tước, còn chị và em gái sẽ là các công nương.

- Họ chẳng có gì đặc biệt cả – Edmund nói, - Với lại cháu sẽ mang họ đến vào lần khác vậy.

- Nhưng một khi con đã ở trong nhà ta, con có thể sẽ quên tất cả bọn họ. Con sẽ cảm thấy vui thú đến mức sẽ không muốn nghĩ về đất nước của con nữa. Vậy hãy trở lại đây vào một ngày khác, cùng với họ.

- Nhưng cháu không còn biết đường về nhà nữa – Edmund nói.

- Dễ ợt. Con có thấy các cột đèn kia không? – Nữ hoàng hỏi và chỉ cây gậy phép về phía cái cột đèn mà Lucy đã gặp thần rừng ở đó – Cứ thẳng theo con đường đó là thế giới của con người. Và bây giờ nhìn về phía con đường kia, - vừa nói mụ vừa chỉ về đường ngược lại – nói cho ta biết con có thể nhìn thấy hai ngọn đồi cao vượt lên lên trên những hàng cây kia không?

- Cháu nghĩ là có thấy.

- Vậy thì nhà của ta ở giữa hai ngọn đồi đó. Lần sau đến đây, con chỉ việc tìm cột đèn và đi về hướng hai ngọn đồi kia, sau khi băng qua khu rừng này, con sẽ đến lâu đài của ta. Nhưng phải nhớ mang theo anh chị em con. Ta sẽ nổi giận nếu con đến một mình đấy.

- Cháu sẽ cố làm thật tốt ạ.

- Còn nữa, con không được nói với chúng dù chỉ một lời về ta. Sẽ vui hơn nếu bí mật này chỉ có chúng ta biết với nhau thôi, phải không? Hãy dành cho họ một bất ngờ. Chỉ cần chúng đến hai ngọn đồi kia – một cậu bé thông minh như con sẽ nghĩ ra những lý do để làm việc đó. Khi bước vào lâu đài của ta, chỉ cần nói: “Hãy xem ai sống ở đây”, hoặc đại loại như thế. Chắc như thế sẽ tốt hơn. Nếu em gái ngươi đã gặp một trong những thần rừng, nó có thể nghe những điều quái lạ về ta – những câu chuyện kinh khủng ấy có thể làm cho nó sợ không dám đến gặp ta. Bọn thần rừng láo lếu có thể nói bất cứ chuyện gì. Con cũng biết đấy, còn bây giờ...

- Làm ơn, làm ơn – Edmund đột nhiên nói, - làm ơn cho cháu chỉ một mẫu bánh thạch rắc đường nữa để cháu ăn trên đường về nhà, được không ạ?

- Không, không – người đàn bà nói với một tiếng cười khô khốc – con phải đợi cho đến lần sau – Nói xong mụ ta ra hiệu cho người lùn đánh xe đi, nhưng chiếc xe vừa đi khỏi, nữ hoàng đã quay lại vẫy tay với Edmund, kêu lớn – Lần sau, lần sau nhé! Đừng quên đấy! Hãy đến sớm nghe.

Edmund vẫn đứng ngây người nhìn theo xe trượt thì nó nghe thấy có ai gọi tên mình. Quay đầu nhìn lại, nó trông thấy Lucy đi về phía nó từ phía ở bên kia khu rừng.

- Ôi, Edmund – nó kêu lên – thế là anh cũng đến được đây. Nơi này rất dễ thương đúng không và bây giờ...

- Được rồi, anh biết là em nói đúng, sau cùng đó là một cái tủ có phép màu. Anh sẽ xin lỗi nếu em muốn. Nhưng mà nãy giờ em chui vào cái xó xỉnh nào vậy? Anh ...anh cứ tìm em suốt?

- Nếu em biết anh cũng đi vào thì em đã đợi anh – Lucy hấp tấp nói, nó quá vui mừng và kích động khi thấy anh chàng khó ưa đã chịu nói lời xin lỗi và đỏ mặt lên như thế nào, vì thế mà không nhận thấy trên mặt Edmund có một cái vẻ gì là lạ – Em vừa ăn trưa với ông Tumnus thân yêu, vị thần rừng ấy mà, ông ấy không bị liên lụy gì và Bạch Phù Thủy không làm gì ông trong chuyện thả cho em về nhà. Thế là ông nghĩ mụ ta không phát hiện ra và có thể mọi việc rồi cũng đâu vào đấy cả.

- Bạch Phù Thủy ư? Là ai vậy? – Edmund hỏi.

- Mụ ta là một người hết sức đáng sợ. Mụ ta tự xưng là nữ hoàng của Narnia dù mụ ta không hề có cái quyền ấy. Tất cả những thần rừng, nữ mộc tinh và sơn thần cùng muông thú và các chú lùn đều sợ mụ – ít nhất thì tất cả những người tốt – đều căm ghét mụ. Mụ có thể biến người ta thành đá và làm đủ mọi chuyện kinh khủng khác. Mụ ta hóa phép sao cho ở Narnia lúc nào cũng là mùa đông và không bao giờ có ngày Noel. Mụ đi trên một cỗ xe trượt có những con tuần lộc kéo, tay cầm một cây gậy phép, đầu đội vương miệng.

Edmund thấy trong người khó chịu vì ăn quá nhiều đồ ngọt và nghe em nói, nó biết mình đã kết bạn với một kẻ nguy hiểm nên càng thấy bứt rứt không yên. Nhưng nó vẫn muốn được ăn bánh thạch rắc đường hơn bất cứ điều gì khác trên đời.

- Ai bảo em những chuyện nhảm nhí về Bạch Phù Thủy vậy?

- Ông Tumnus – thần rừng.

- Em không nên tin vào những điều mà mấy ông thần rừng này nói – Edmund làm mặt nghiêm, cố tỏ ra nó còn biết nhiều về họ hơn Lucy.

- Ai nói với anh về chuyện đó?

- Ai mà chẳng biết rõ điều đó, cứ hỏi bất cứ ai đi nếu em thích. Nhưng, đứng trong tuyết như thế này là một môn thể thao chẳng có lợi gì. Về nhà thôi.

- Vâng, đi về nhà thôi. Ôi Edmund, em rất lấy làm sung sướng là anh đã đến đây. Bây giờ hai ngươi kia sẽ tin vào Narnia vì cả hai anh em mình đều đã tới. Vui quá là vui! Là la là...

Nhưng Edmund khó mà nghĩ là chuyện này có gì vui đối với nó cũng như đối với Lucy. Nó phải thừa nhận là Lucy đúng trong tất cả mọi chuyện và nó cảm thấy những người khác cũng sẽ đứng về phe các thần rừng và muôn thú, nhưng nó đã bước hơn một chân về phía phù thủy mất rồi. Nó không biết phải làm gì và liệu nó có thể giữ được bí mật không, một khi tất cả đều nói về Narnia.

Hai anh em đã đi được một đoạn, chợt thình lình chúng cảm thấy áo lông cọ vào mặt thay cho cành cây và chỉ một tích tắc sau chúng đã đứng bên ngoài cái tủ áo trong căn phòng trống trải.

- Em thấy...anh có vẻ làm sao ấy, Edmund. Anh có khỏe không?

- Anh không sao, - Edmund nói, nhưng điều đó không đúng. Nó cảm thấy khó thở trong người.

- Vậy thì đi thôi, - Lucy nói, - đi tìm những người khác đi. Có rất nhiều chuyện để kể cho họ. Cùng với nhau, chúng ta sẽ có thể biết nhiều cuộc phiêu lưu thú vị.

Bởi vì trò chơi trốn tìm vẫn tiếp tục, Edmund và Lucy mất một chút thời gian để tìm hai đứa kia. Cuối cùng khi chúng gặp lại nhau (ở trong một căn phòng dài bày các bộ áo giáp) Lucy bật lên:

- Anh Peter! Chị Susan! Tất cả đều đúng. Edmund cũng đã nhìn thấy rồi. Đúng là có một đất nước mà mọi người có thể đi đến đấy qua tủ quần áo. Edmund và em đã vào đấy rồi. Đúng là chúng em đã gặp nhau trong rừng. Nói đi, Edmund, kể cho họ tất cả những chuyện đó đi.

- Kể tất cả những gì hả Edmund? – Peter hỏi.

Và bây giờ chúng ta đi đến phần gay cấn nhất của câu chuyện. Vào lúc ấy Edmund đã cảm thấy khó ở lắm rồi, nó lại khó chịu và bực bội vì nỗi Lucy mới là người nói đúng nhưng mà nó vẫn chưa quyết định là cần phải làm gì. Khi Peter bất thình lình hỏi nó câu hỏi này, nó đi đến một quyết định tức thì – làm một việc hèn hạ và độc ác nhất mà nó có thể nghĩ ra. Nó quyết định phản bội Lucy.

- Nói đi! – Susan nhắc.

Thế là Edmund làm ra vẻ đàn anh, cứ như thể nó cao hơn em gái mấy cái đầu (dù nó chỉ hơn em gái có một tuổi) rồi xì một tiếng kinh khủng và nói:

- Phải, em và Lucy chơi đóng trò, giả vờ là tất cả câu chuyện của nó về đất nước trong cái tủ áo là có thật. Thực ra chả có gì hết.

Cô bé Lucy tội nghiệp nhìn anh một cái rồi chạy vụt ra khỏi phòng.

Edmund càng lúc càng tỏ ra xấu chơi hơn, nó chắc mẩm là nó đã thắng một quả nữa và tiếp tục nói thêm:

- Đấy nó lại thế nữa. Không biết có chuyện gì xảy ra với nó đây? Đó là cái tệ nhất của bọn con nít, bọn chúng bao giờ cũng, thật là…

- Nghe đây, - Peter nói, quay sang em trai giọng quyết liệt. – Im mồm! Em tỏ ra quá độc ác với Lucy kể từ lúc nó nói chuyện ngớ ngẩn về cái tủ áo, thế mà bây giờ em lại chơi nó cái trò này và lại khơi ra cho nó lặp lại những chuyện ấy. Anh tin là em làm như thế chỉ đơn giản là vì thói tai quái.

- Nhưng chuyện này rất ngớ ngẩn. – Edmund chống chế.

- Phải, tất cả đều rất ngớ ngẩn, - Peter nói, - nhưng hãy nhớ điểm này. Lu hoàn toàn bình thường khi chúng ta rời khỏi nhà đi sơ tán, nhưng từ khi đến đây có vẻ có một cái gì đó kỳ lạ nảy ra trong đầu nó hoặc giả nó trở thành một kẻ nói dối đáng sợ nhất. Nhưng dù thế nào đi nữa thì việc em, mới hôm qua còn trêu ghẹo, chọc quê nó về chuyện đó, hôm nay lại khuyến khích nó nói dối lại là điều tốt hay sao?

- Em cho rằng… em cho rằng…- Edmund ấp úng nhưng nó không nghĩ ra được cái gì để nói.

- Em chẳng biết gì hết, - Peter nói, - đó chỉ là một thói đùa dai độc ác. Em bao giờ cũng tỏ ra tàn nhẫn với bất kỳ ai nhỏ hơn em; chúng ta đã thấy rõ điều này ở trường, từ lâu rồi.

- Thôi im đi, - Susan gắt lên, - cãi vã nhau như thế này thì làm được gì. Mau đi tìm Lucy thôi.

Không có gì đáng ngạc nhiên khi một hồi sau chúng tìm thấy Lucy đang khóc nức nở. Chẳng có điều gì chúng nói làm con bé thôi khóc. Nó khăng khăng khẳng định câu chuyện của mình, rồi nói:

- Em không quan tâm đến điều mọi người nghĩ, em cũng cóc cần mọi người nói gì. Các anh chị cứ việc kể cho giáo sư hoặc viết thư cho bố mẹ hoặc làm bất cứ thứ gì mọi người muốn. Em biết đã gặp một thần rừng ở đấy – và em ước gì em ở lại đấy cho rồi, các người… tất cả các người đều độc ác, vô lý.

Đó là một buổi tối buồn bã. Lucy rất đau lòng còn Edmund cảm thấy kế hoạch đã không diễn ra theo ý nó. Hai đứa lớn thì nghĩ Lucy phát rồ. Chúng đứng ngoài hành lang thì thầm với nhau hồi lâu sau khi Lucy đã đi ngủ.

Kết quả là sáng hôm sau chúng quyết định tìm đến giáo sư kể lại mọi chuyện cho ông nghe.

- Ông ấy sẽ viết thư cho bố mẹ nếu ông nghĩ đúng là có chuyện xảy ra với Lucy, - Peter nói, - việc này vượt ra ngoài quyền hạn của chúng ta.

Thế là hai đứa đến gõ cửa thư phòng và nghe giáo sư nói: “Mời vào”. Ông đứng lên tìm ghế cho hai đứa ngồi và bảo ông sẵn sàng giúp đỡ chúng. Sau đó ông ngồi yên chăm chú lắng nghe, đôi môi mím lại, không hề cắt ngang câu chuyện cho đến khi hai đứa nói xong. Nghe xong, ông cũng yên lặng hồi lâu. Đoạn ông tằng hắng và nói ra cái điều cuối cùng mà hai đứa có thể hình dung ra:

- Sao các cháu biết câu chuyện của em các cháu là không đúng sự thật?

- Ồ, nhưng mà… - Susan bắt đầu, nó ấp a ấp úng và dừng lại. Ai cũng có thể căn cứ vào mặt của ông già mà biết ông hoàn toàn nghiêm túc. Susan cố trấn tĩnh, rồi nói:- Nhưng Edmund nói chúng chỉ giả vờ thôi.

- Đó là vấn đề, - giáo sư từ tốn nói, - một vấn đề cần cân nhắc kỹ lưỡng… cần xem xét cẩn thận. Ví dụ - các cháu bỏ qua cho ta câu hỏi này nhé – theo kinh nghiệm của các cháu thì trong hai đứa ấy, đứa nào tỏ ra đáng tin cậy hơn? Bác muốn nói, ai trung thực hơn?

- Đó là một câu hỏi rất hay thưa giáo sư. – Peter lên tiếng ngay. – Cho đến lúc này, cháu có thể nói Lucy là người như vậy.

- Thế còn cháu thì sao? – Giáo sư quay sang hỏi Susan.

- Dạ, nói chung cháu có thể nói như Peter, nhưng điều này không thể là sự thật – tất cả những chuyện về khu rừng và thần rừng ấy.

- Ồ, đó là một cái gì đó vượt ra ngoài tầm hiểu biết của bác, - giáo sư nói, - và buộc tội dối trá cho một người mà bao giờ cháu cũng nghĩ là trung thực là một vấn đề rất nghiêm trọng, phải, là một vấn đề nghiêm trọng.

- Chúng cháu sợ rằng đây, thậm chí là một cái gì đáng sợ hơn lời nói dối. – Susan nói. – Chúng cháu nghĩ có thể có một chuyện gì không ổn với Lucy.

- Cháu muốn nói đến sự điên loạn? – Giáo sư nói bằng giọng khách quan. - Ồ, các cháu có thể dễ dàng đi đến quyết định đó. Nhưng nếu nhìn con bé và nói chuyện với nó thì thấy nó không điên.

- Nếu vậy thì… - Susan bật lên rồi im lặng. Nó chưa bao giờ nghĩ là một vị giáo sư lại có thể nói những lời như thế và nó không biết nghĩ như thế nào cho phải.

- Logic! – Giáo sư nói, nửa như nói với chính mình. – Tại sao người ta lại không dạy môn logic học trong trường phổ thông nhỉ? Ở đây chỉ có ba khả năng: hoặc là các em cháu nói dối hoặc là nó nói sự thật hoặc là nó bị điên. Các cháu đã rõ Lucy không có thói quen nói dối và rõ ràng là nó không bị điên. Vậy thì cho đến lúc này, trừ khi có thêm những dữ kiện mới, ta có đi đến giả thiết rằng Lucy nói thật.

Susan trố mắt nhìn ông, nó khẳng định chắc chắn rằng ông không đem chuyện này ra làm trò đùa nếu căn cứ vào vẻ mặt của ông.

- Nhưng sao chuyện này có thể đúng được ạ? – Peter hỏi.

- Tại sao cháu lại nói thế?

- Bởi vì thứ nhất là, - Peter nói, - nếu chuyện này là đúng tại sao mọi người lại không tìm thấy cái đất nước ấy một khi đi vào tủ áo? Cháu muốn nói, chúng cháu đã tận mắt nhìn vào nhưng chúng cháu có thấy gì đâu, thậm chí lúc ấy Lucy cũng không thể giả vờ là chuyện đó có thật.

- Điều này thì có quan hệ gì? – Giáo sư hỏi.

- Vâng thưa giáo sư, nếu tất cả chuyện đó là thật thì bao giờ nó cũng phải có ở đó chứ?

- Vậy sao? – Giáo sư hỏi lại, lần này Peter cũng không biết phải nói thế nào nữa.

- Mà lại không mảy may mất một chút thời gian nào, - Susan lên tiếng, - Lucy không có thời gian để đi bất cứ đâu, dù là có một nơi như thế đi chăng nữa. Nó chạy theo chúng cháu vừa lúc chúng cháu ra khỏi phòng. Trong vòng chưa đến một phút, thế mà nó giả vờ là đã đi hàng giờ.

- Đó chính là cái điều làm cho câu chuyện của cô bé có vẻ đáng tin hơn. – Giáo sư thủng thẳng nói. – Nếu thực sự có một cánh cửa trong ngôi nhà này dẫn đến một thế giới khác (và bác phải báo cho các cháu biết đây là một ngôi nhà kỳ lạ, cả đến bác cũng biết rất ít về nó), nếu giả sử cô bé đã bước vào một thế giới khác thì bác sẽ không lấy làm ngạc nhiên khi phát hiện ra rằng thời gian trong cái thế giới ấy có cách vận hành khác thời gian của chúng ta vì thế bất kể cháu có ở đấy bao lâu chăng nữa nó cũng sẽ không khấu trừ đi bất cứ khoảng thời gian nào ở đây. Mặt khác, bác không nghĩ là một cô bé ở tuổi nó lại phát minh ra điều như thế này. Nếu Lucy giả vờ, nó sẽ trốn ở đâu đó trong một thời gian cần thiết trước khi chạy ra kể cho các cháu nghe mọi chuyện.

- Nhưng như vậy bác muốn nói, - Peter ngỡ ngàng hỏi, - có thể có những thế giới khác - ở bất kỳ đâu, có thể ở một góc nào đó – có phải như thế không ạ?

- Không chuyện gì là không có thể xảy ra. – Giáo sư đáp, gỡ cặp kính lão ra bắt đầu lau kính trong khi ông lẩm bẩm một mình: - Mình tự hỏi không hiểu họ dạy bọn trẻ cái gì ở trong trường học.

- Nhưng chúng ta phải làm gì ạ? – Susan hỏi. Nó cảm thấy câu chuyện bắt đầu đi quá xa.

- Cô bé, - giáo sư nói, bất thần ngước lên nhìn hai đứa với một vẻ gần như dữ dội. – có một kế hoạch mà chưa ai có thể lập ra chi tiết và nó đáng được liều một phen.

- Cái gì vậy ạ? - Susan hỏi.

- Mỗi người chúng ta nên suy ngẫm thật kỹ về chuyện này. – Ông nói. Và thế là chấm dứt cuộc tranh luận.

Sau đó mọi chuyện trở nên tốt đẹp với Lucy. Peter có thể thấy rằng Edmund thôi không chọc phá nó nữa, cả Lucy lẫn những đứa khác đều cảm thấy không nên nói về chuyện cái tủ áo nữa. Nó trở thành một đề tài cấm kỵ. Và thế là thời gian trôi đi, có vẻ như tất cả các cuộc phiêu lưu đã chấm dứt, nhưng thật ra không phải như vậy.

Tòa nhà của giáo sư – một nơi mà cả giáo sư cũng biết rất ít về nó – cổ xưa và nổi tiếng đến nỗi người ở khắp nước Anh này thường kéo đến xin được vào tham quan. Đó là một loại nhà cổ được đề cập đến trong sách lịch sử bởi có vô số câu chuyện liên quan đến nó, trong đó có cả những chuyện kể thậm chí còn kỳ lạ hơn cả câu chuyện tôi đang kể cho bạn nghe nữa kìa. Khi có một đoàn khách tham quan đến xin được vào chiêm ngưỡng ngôi nhà, bao giờ giáo sư cũng vui lòng mở rộng cánh cửa và bảo bà quản gia Macready đưa họ đi một vòng, giới thiệu với họ về những bức tranh và bộ sưu tập áo giáp cùng những quyển sách cổ quý hiếm. Bà Macready không thích trẻ con và cũng không thích bị cắt ngang trong khi bà đang thuyết trình với khách về tất cả những gì mà bà biết, cũng như không biết. Gần như vào ngay buổi sáng đầu tiên bà đã bảo Peter và Susan (cùng những lời huấn thị nghiêm nghị khác): “Làm ơn nhớ giùm tôi là các cháu phải tránh ra chỗ khác mỗi khi tôi dẫn khách đi tham quan ngôi nhà”. “Cứ làm như thể bất cứ ai trong anh em mình cũng muốn phí mất một nửa buổi sáng với một đám người lạ hoắc ấy”. Edmund dè bỉu và ba đứa kia cũng nghĩ như thế. Đó là lý do tại sao cuộc phiêu lưu lần thứ hai lại bắt đầu.

Mấy hôm sau, vào một buổi sáng, trong lúc hai đứa con trai đang ngắm nghía những bộ áo giáp và tự hỏi chúng có thể lấy xuống xem một chút không thì hai đứa con gái chạy vào phòng nói:

- Nhìn kìa, bà Macready và một đám người hiếu kỳ sắp đến đây đấy.

- Biến thôi. – Peter nói và cả bốn đứa đi về phía cánh cửa ở cuối phòng bên kia. Nhưng khi chúng ra khỏi phòng Xanh, rồi ra ngoài hành lang và đi vào thư viện, chúng lại nghe tiếng người xôn xao ở phía trước và nhận ra bà Macready sẽ đưa những người khách tham quan của bà theo cầu thang sau – thay vì đi theo lối cầu thang trước như chúng nghĩ. Và như thế hoặc là chúng sẽ “mất đầu” hoặc là bà Macready sẽ chộp được lỗi của chúng, hoặc những phép thuật trong ngôi nhà này sẽ sống lại đuổi theo chúng đến Narnia – dường như chúng phải đi lang thang khắp nơi cho đến khi Susan nói:

- Đến mệt với những người thích nhòm ngó này. Thôi hãy vào chờ ở phòng tủ quần áo cho đến khi họ đi qua. Không ai theo chúng ta đến đây đâu.

Nhưng vừa vào bên trong thì chúng nghe tiếng người xôn xao ngoài hành lang rồi có tiếng ai đó đụng vào cánh cửa – và rồi chúng thấy tay nắm cửa xoay xoay.

- Nhanh lên! Peter nói. – Không còn chỗ nào khác. – Và nó mở cửa tủ. Cả bốn đứa cùng chui vào, ngồi xuống thở hổn hển trong bóng tối. Peter khép cửa nhưng không đóng kín lại bởi vì nó nhớ, như bất cứ một người khôn ngoan nào là không bao giờ, không bao giờ nên nhốt mình bên trong một tủ quần áo.

- Mình chỉ muốn bà Macready nhanh nhanh chân lên và đưa những người này đi cho rồi, - Susan than vãn, - khiếp, lèn cả lũ vào đây ngột muốn chết.

- Mà lại còn mùi long não gớm ghiếc này nữa chứ, - Edmund phụ họa.

- Chị cho rằng cái tủ quần áo ở đây đầy băng phiến, - Susan nói tiếp, - chỉ có mục đích làm cho bọn gián tránh xa nơi đây mà thôi.

- Có cái gì đó chọc vào anh – Peter lên tiếng.

- Sao trong này lại lạnh thế nhỉ? – Susan hỏi.

- Em có nói anh mới nhớ ra, quả thật trời lạnh thật đấy – Peter đáp. – Úi chà, lại còn có cái gì ướt mèm nữa chứ. Có chuyện gì xảy ra ở đây vậy? Anh đang ngồi lên một cái gì ướt nhẹp à. Đã thế mỗi lúc nó lại một ướt hơn. – Peter vừa nói vừa ngọ ngoạy đôi chân.

- Ra ngoài đi. – Edmund nói. – Họ đi rồi.

- Ối trời ơi! – Susan kêu lên giọng thất thanh. Mấy đứa kia hỏi có chuyện gì, - Tôi ngồi trên một cành cây, - Susan đáp, - và coi nè… có ánh sáng… ở đằng kia.

- Thế à, nhưng mà trời ơi, em nói đúng – Peter ngỡ ngàng thốt lên. – Và nhìn kia - ở đằng kia. Bao nhiêu là cây. Cái vật ướt mèm chính là tuyết. anh tin là sau cùng chúng ta đã vào khu rừng Lucy nói.

Bây giờ thì không còn nhầm lẫn vào đâu được nữa, cả bốn đứa đứng ngây người ra chớp chớp mắt trước ánh sáng ban ngày của một ngày mùa đông. Sau lưng chúng là những chiếc áo khoác mắc thành dãy, trước mặt chúng là những thân cây tuyết đọng trắng lốp.

Peter quay sang Lucy.

- Tha lỗi cho anh vì đã không tin em – Nó nói. – Thành thật xin lỗi. Em chịu bắt tay dàn hòa không?

- Tất nhiên rồi. – Lucy nói, lắc lắc tay anh cả.

- Và bây giờ chúng ta sẽ làm gì tiếp đây? – Susan hỏi.

- Làm gì à? – Peter nói. – Còn phải hỏi, đi tiếp và khám phá khu rừng này.

- Chu cha. – Susan nói, giậm giậm chân, - lạnh phát khiếp. Mọi người nghĩ sao về việc mượn những chiếc áo này?

- Ê, nó không phải là của chúng ta. – Peter nói giọng phân vân.

- Em chắc không ai bắt lỗi chuyện đó đâu, - Susan nói, - với lại chúng ta đâu có mang nó ra khỏi nhà, thậm chí chúng ta còn không mang nó ra khỏi tủ nữa.

- Anh cũng chưa bao giờ nghĩ thế, Susan à. – Peter nói. – Tất nhiên, cứ mượn đỡ cũng được, không có vấn đề gì. Chẳng có ai quy tội em chôm cái áo chừng nào em lại bỏ nó vào trong tủ nơi em lấy xuống. Anh cho rằng cả đất nước này đều nằm trong tủ áo.

Cả bọn đều thấy rằng sáng kiến của Susan là rất có lý. Những chiếc áo khoác quả là dài quá khổ so với bọn trẻ và khi khoác áo lên người chúng thì lại giống áo choàng quý tộc hơn là áo bành tô

Cả bọn đều thấy ấm người lên, mỗi đứa đều nghĩ đứa kia trông bảnh hơn trong bộ đồ mới và cũng thích hợp hơn với khung cảnh.

- Chúng ta có thể giả bộ mình là những nhà thám hiểm Bắc Cực.

- Như thế này cũng đủ kích động lắm rồi, không cần phải giả bộ làm chi. – Peter nói khi nó bắt đầu dẫn đầu đoàn thám hiểm đi về phía khu rừng. Trên đầu, trời tối sẫm lại với những đám mây đen kịt, rất có thể sẽ có tuyết rơi dày hơn trước lúc trời tối.

- E hèm… nghe em này, - mãi đến lúc này Edmund mới mở miệng, - chúng ta không nên đi về phía bên trái nếu chúng ta muốn đến chỗ cột đèn, phải không?

Trong lúc bột phát nó quên khuấy đi rằng nó phải đóng kịch là chưa từng đi vào khu rừng này bao giờ. Nhưng một khi đã nói ra rồi thì không cứu vãn được và nó biết đã trót để lộ mình. Cả bọn dừng lại, những đứa kia trừng mắt nhìn nó. Peter huýt sáo.

- Thế là em đã ở đây? – Nó dằn giọng hỏi – Lần ấy Lu nói nó gặp em ở đây – và em đã làm tất cả để hóa ra rằng Lu là kẻ dối trá.

Một sự im lặng chết chóc.

- Phải, mày là đồ súc sinh độc ác! – Peter buông ra một câu giận dữ rồi nhún vai và không nói thêm gì nữa.

Cả bốn đứa tiếp tục đi, riêng Edmund lẩm bẩm trong miệng: “Ta sẽ bắt tất cả bọn bay trả giá cho chuyện này, cả cái lũ đạo đức giả, hợm hĩnh, cứng đầu!”

- Bây giờ chúng ta đi đâu đây? – Susan hỏi, chủ yếu là vì muốn thay đổi đề tài.

- Anh nghĩ Lu sẽ là người lãnh đạo. – Peter nói. – Chúa biết là nó xứng đáng với vai trò đó. Em sẽ dẫn tụi anh đi đâu đây Lucy?

- Đi đến gặp ông Tumnus có được không ạ? – Lucy hỏi. – Ông ấy là một vị thần rừng rất dễ thương mà em đã kể cho mọi người nghe.

Cả bọn đều đồng ý và trong rừng vang lên tiếng những bước chân nhẹ tênh, vui vẻ. Lucy chứng tỏ nó có lo lắng không biết mình có khả năng tìm được đường không nhưng rồi nó nhận ra một thân cây có dáng kỳ lạ ở một góc và một nơi mặt đất trở nên lồi lõm. Chúng đi xuống một thung lũng nhỏ và cuối cùng đến trước cánh cửa dẫn vào sơn động của ông Tumnus. Nhưng có một sự bất ngờ đáng sợ đang đợi chúng.

Cánh cửa bị bật khỏi bản lề và bị vỡ nhiều chỗ. Bên trong động tối om và lạnh lẽo, tỏa ra mùi ẩm mốc và cái mùi của một nơi không có hơi người đã lâu ngày. Tuyết dồn thành đống ở ngưỡng cửa, đóng cứng lại trên nền hang, trộn lẫn với vật gì đen đen, nhìn kỹ hóa ra là tro và những mẩu củi cháy nham nhở. Có ai đó vứt những thanh củi đang cháy dở ra khỏi hang rồi lấy chân dập đi. Bát đĩa bị vỡ nằm rải rác trong phòng và bức ảnh của cha ông Tumnus bị rạch nát bằng một con dao.

- Đây là một nơi tang thương. – Edmund nói, - chẳng phải chỗ đáng lui tới.

- Cái gì thế này? – Peter hỏi, cúi xuống. Nó thấy một mảnh giấy dính vào tấm thảm trên sàn.

- Tờ giấy viết cái gì vậy anh Peter? – Susan hỏi.

- Phải, anh nghĩ là nó viết cái gì đấy, nhưng anh không thể đọc ở trong chỗ tối như thế này, hãy ra chỗ sáng đọc.

Cả bọn ra khỏi hang, xúm quanh Peter khi nó đọc to những dòng chữ này: “Cựu chủ nhân trong sơn động này – thần rừng Tamnus – đã bị bắt và đang chờ hình phạt vì tội mưu phản chống lại nữ hoàng tối cao Jadis – nữ chúa Narnia, chủ nhân của lâu đài Cair Paravel, hoàng đế của quần đảo Đơn Côi. Hắn cũng bị khép vào tội chứa chấp kẻ thù  của nữ hoàng, đồng đảng với bọn phản nghịch giấu mặt và những kẻ thân thiện với con người.

Trong khi hai đứa con trai thì thầm với nhau ở phía sau, hai đứa con gái thình lình kêu lên: “Ôi!” rồi đứng phắt lại.

- Chim cổ đỏ! – Lucy kêu lên. – Chim cổ đỏ bay mất tiêu rồi.

Đúng như thế, nó bay khuẩt khỏi tầm nhìn.

- Bây giờ chúng ta phải làm gì đây? – Edmund nói, ném cho Peter một cái nhìn như muốn nói:” Thấy chưa, em đã bảo mà.”

- Suỵt! Nhìn kìa! – Susan nói.

- Cái gì? – Peter hỏi.

- Có một cái gì đang chuyển động trong các lùm cây trên đầu ở về phía tay trái.

Tất cả căng mắt ra nhìn và đứa nào cũng có cảm giác bất an.

- Đấy, nó lại di chuyển nữa. – Susan lại lên tiếng.

- Lần này anh trông thấy nó rồi. – Peter nói. – Nó vẫn ở đấy. Đằng sau cái cây to kia kìa.

- Đó là con gì vậy? – Lucy hỏi, cố hết sức để không tỏ ra lo lắng quá.

- Dù nó là cái gì thì nó cũng đang theo dõi chúng ta. – Peter nhận định. – Chắc chắn là nó không muốn bị phát hiện.

- Về nhà thôi, - Susan nói. Và rồi dù không ai nói ra lời, đứa nào cũng thình lình nhận ra cái sự thật mà Edmund vừa nói với Peter ở cuối chương trước. Rằng chúng có thể gặp rắc rối to.

- Đó… đó… là một con vật. – Susan nói. – Nhìn kìa! Nhìn kìa! Nhanh lên!Đấy, nó đấy.

Lần này thì cả bọn đã nhìn rõ: một cái mặt nhọn có hàng ria dài đang nhìn xuống chúng từ sau một thân cây. Con vật không rút lui ngay. Thay vì thế nó đặt một chân lên mõm như cái kiểu người ta đặt một ngón tay lên môi ra hiệu cho bạn im lặng. Đoạn nó biến mất. Tất cả bọn trẻ đứng ngây người, nín thở. Một lát sau con vật kỳ lạ lách ra khỏi chỗ nấp, đưa mắt nhìn len lén xung quanh như thể nó e ngại có ai đó đang quan sát và nói: “Suỵt!” rồi ra hiệu cho bọn trẻ đi theo nó vào một hành cây rậm rạp hơn – là nơi mà nó đang trốn – và một lần nữa nó lại biến mất.

- Anh biết nó là con gì rồi, - Peter nói, - đó là con hải ly. Anh đã thấy cái đuôi nó.

- Nó muốn chúng ta đi theo nó, - Susan bảo, - và nó ra hiệu cho chúng ta không được làm ồn.

- Anh cũng biết thế, - Peter nói tiếp, - vấn đề là ở chỗ chúng ta có nên đi theo nó không? Em nghĩ sao hả Lucy.

- Em nghĩ con hải ly này rất dễ thương. – Lucy đáp.

- Nhưng làm sao chúng ta biết rõ được? – Edmund hỏi.

- Chúng ra không thể liều một phen với nó ư? – Susan nói. – Peter, em cảm thấy cứ dừng ở đây thì có ích gì đâu, em thấy kiến bò bụng rồi đó.

Lúc này hải ly lại thò đầu ra thân cây lần nữa và nôn nóng nhìn bọn trẻ.

- Thì đi vậy, - Peter chép miệng nói, - cứ thử liều một phen. Đằng nào cũng thế thôi, chúng ta đã bị bao vây rồi nếu hải ly là một kẻ thù.

Cả bọn nhích lại gần nhau hơn, thận trọng bước đến chỗ hải ly. Sau thân cây bốn anh em Peter tìm thấy nó. Con thú lùi lại phía sau một chút, nói với họ bằng một giọng cổ khàn khàn nghe như tiếng thì thầm:

- Vào nữa, vào sâu trong này. Ở ngay đây. Đi mé ngoài không an toàn đâu. Chỉ đến khi nó dẫn bọn trẻ đến một chỗ tối, nới bốn cây cổ thụ mọc sát bên nhau, cành lá giao nhau tạo thành mái che trên đầu và dưới chân có thể nhìn thấy mặt đất màu nâu lẫn với những chiếc lá thông hình kim – bởi vì tuyết không thể rơi xuống được dưới này – hải ly mới bắt đầu câu chuyện của nó.

- Các bạn có phải là con trai của Adam và con gái của Eva không? – Nó hỏi.

- Chúng tôi là con người. – Peter đáp.

- Suỵt, - hải ly nói, - khẽ khẽ thôi. Nơi này tai vách mạch rừng.

- Tại sao, mà bác sợ cái gì kia chứ? – Peter hỏi. - Ở đây chắng hề có ai ngoài chúng ta với nhau.

- Còn cây cối, - hải ly đáp, - chúng bao giờ cũng để tai nghe ngóng. Hầu hết cây cối ở về phe chúng ta nhưng vẫn có những cây quay lưng lại chính nghĩa, về phe “kẻ ấy”. Các bạn biết tôi muốn nói đến ai rồi đấy! – Vừa nói nó vừa gật gật đầu.

- Nói chuyện về hai phe, - Edmun nói, - làm sao chúng tôi biết các bác là bạn hay thù?

- Tôi không muốn tỏ ra thô lỗ, hải ly ạ, - Peter nói thêm,- nhưng bác thấy đấy chúng tôi hoàn toàn xa lạ với nơi này.

- Đúng, rất đúng. – Hải ly nói. – Đây chính là bằng chứng.

Vừa nói hải ly vừa giơ lên cho bọn trẻ một vật gì nho nhỏ, trăng trắng. Bốn đứa nhìn chăm chăm vào vật đó với vẻ ngơ ngác cho đến khi Lucy kêu khẽ:

- Ồ, phải rồi. Đó là chiếc khăn tay của em – cái khăn em đã tặng cho ông Tumnus đáng thương.

- Đúng thế. – Hải ly nói. –Anh bạn tội nghiệp của tôi đã bị bắt và trước đấy một hôm anh ấy tình cờ trao cho tôi. Tumnus nói nếu có bất cứ chuyện gì xảy ra cho anh ấy, tôi phải gặp các bạn tại đây và dẫn các bạn đến… - Nói đến đây hải ly chợt im bặt và gật gù một hai cái ra chiều bí mật. Đoạn nó ra hiệu cho bọn trẻ xích lại gần đến mức mặt chúng chạm vào hàng ria của con vật. Hải ly thì thầm:

-  Có lời đồn Aslan sẽ xuất hiện – có lẽ ngài đến rồi cũng nên.

Đến đây có một việc kỳ lạ xảy ra. Không một đứa trẻ nào trong bọn biết Aslan là ai hơn bạn đọc của tôi nhưng vào lúc hải ly nói ra cái tên ấy ai cũng cảm thấy có một cái gì khác hẳn. Có lẽ một điều như vậy cũng thường xảy ra trong giấc mơ của bạn, có một ai đó nói một cái gì với bạn, tuy bạn không hiểu rõ nhưng trong giấc mơ của bạn, điều ấy hình như có một ý nghĩ gì đó rất lớn lao - hoặc nó là một cái gì rất mực đáng sợ có thể làm cho giấc mơ trở thành một cơn ác mộng, cũng có thể nó có một ý nghĩ quá kỳ diệu để diễn đạt thành lời, và cái ý nghĩ ấy khiến cho giấc mơ trở thành một kỷ niệm làm cho bạn ghi nhớ suốt đời và hằng ao ước là bạn lại có thể đắm mình trong giấc mơ ấy một lần nữa. Một chuyện tương tự như vậy đã xảy ra. Nghe cái tên Aslan, mỗi đứa trong bọn đều cảm thấy có một cái gì đó nảy lên trong lòng mình. Edmund cảm thấy lòng thắt lại với một cảm giác lo sợ huyền bí. Peter đột nhiên thấy mình can đảm hơn, liều lĩnh hơn. Susan như ngửi thấy một mùi hương ngọt ngào hoặc một khúc nhạc tươi vui trùm lên khắp người mình, ủ mình vào trong đó. Lucy thì có cảm giác hân hoan như khi bạn thức dậy vào một buổi sáng đẹp trời và nhận ra hôm ấy bắt đầu một kỳ nghỉ lễ hoặc một mùa hè tươi sáng.

- Ông Tumnus làm sao rồi? – Lucy hỏi. – Ông ấy đâu?

- S..u…ỵ..t, - hải ly nói, - ông ấy không ở đây. Tôi phải dẫn các bạn đến một chỗ chúng ta có thể có một cuộc trao đổi thật sự và có một bữa ăn trưa.

Không có ai, trừ Edmund , cảm thấy có bất cứ một chút băn khoăn nào trong việc tin cậy vào hải ly và mọi người, kể cả Edmund đều tỉnh cả người khi nghe đến từ”ăn trưa”. Thế là chúng vội vã đi theo người bạn mới đang thoăn thoắt dẫn đường phía trước với một sự nhanh nhẹn đánh ngạc nhiên. Hải ly bao giờ cũng chọn những khu vực rậm rạp nhất trong rừng. Họ đi như thế trong vòng một giờ. Ai nấy đều thấm mệt và đói bụng thì bất chợt cây cối trước mặt họ thưa dần và mặt đất bắt đầu dốc nghiêng. Một phút sau họ đã bước đến một khoảng trống thoáng đãng và bầu trời mở ra trước mắt(mặt trời vẫn rực rỡ). Cả bọn nhìn xuống một cảnh tượng tuyệt đẹp.

Họ đang đứng ngoài bìa một thung lũng hẹp và dốc, ở dưới cái đáy lòng chảo của nó có một dòng sông lớn chảy qua – ít nhất thì nó cũng vẫn chảy như thể chưa hề bị đóng băng. Cả bọn phóng tầm mắt ra xa thấy một cái đập xây vắt qua sông và lúc ấy bọn trẻ bất ngờ nhớ ra rằng, tất nhiên loài hải ly giỏi nghề đắp đập. Chúng cảm thấy chắc chắn rằng chính bác hải ly này đã đắp cái đập kia. Bọn trẻ cũng nhận ra là lúc này hải ly có một vẻ mặt rất khiêm tốn – chính là cái vẻ mặt của một người khi bạn đi thăm khu vườn tươi tốt do chính họ chăm bón hoặc đọc một câu chuyện hay do họ viết ra. Vì thế khi Susan nói:” Cái đập đẹp thật!” thì đấy chỉ là một phép xã giao thông thường. Nhưng hải ly không suỵt một tiếng mà lại nói:

- Chuyện nhỏ, thuần túy là một chuyện nhỏ. Và nó còn chưa được hoàn tất.

Phía trên đập có thể vốn là một hồ nước sâu nhưng bây giờ, tất nhiên , nó là một cái sân băng màu xanh đậm, phẳng lặng. Phía dưới đập, thấp hơn nhiều cũng là một lớp băng nhưng thay vì láng bóng thì sân băng này lại đông thành một lớp bọt và những lớp sóng nhấp nhô như thể nước đang nổi sóng đúng vào lúc cái lạnh âm hàng chục độ ập xuống. Chỗ nước trào qua đập bắn tung lên bây giờ là một bức tường băng sáng lấp lánh tựa hồ một bên đập phủ đầy những bông hoa, tràng hoa hoặc lớp bọt đường trắng tinh khiết. Quá giữa đập một chút mọc lên một ngôi nhà nhỏ hình dáng đến buồn cười, trông giống như một tổ ong khổng lồ và phía trên một cái ống nhỏ gắng bên mái, một làn khói móng màu xám nhạt cuộn lên. Khi bạn nhìn thấy những cụm khói mỏng ấy (nhất là vào lúc bạn đang đói) bạn sẽ lập tức nghĩ ngay đến việc nấu nướng và cảm thấy bụng cồn cào như xát muối.

Đó là điều mà bốn anh em Peter nhìn thấy, nhưng Edmund còn nhận ra một cái khác nữa. Phía hạ lưu của dòng sông này có một dòng sông nhỏ chảy xuống từ một thung lũng nhỏ khác, nhập chung vào với nó. Nhìn về hướng này Edmund có thể thấy hai ngọn đồi nhỏ mà Bạch Phù Thủy đã chỉ cho nó khi nó chỉ nghĩ đến món bánh thạch rắc đường và việc làm vua. “Mình tự hỏi không biết Peter khoái chuyện đó như thế nào?” – nó tự hỏi và những ý nghĩ đáng sợ ùa vào đầu óc nó.

- Về đến nhà rồi! – Hải ly nói. – Có vẻ như bà xã tôi đang chờ đón mọi người. Để tôi đi trước dẫn đường, xin cẩn thận kẻo trượt té đấy.

Mặt đập khá rộng, đủ chỗ đi qua; đó là một loại đường đi rất hẹp – mặc dù nó không phải loại đường để cho người ta đạp chân lên – bởi vì nó được phủ một lớp bằng tinh khiết nhất. Sau khi vắt qua một cái hồ phẳng lặng đóng băng, nó đột ngột đổ ập xuống con sông thấp hơn phía bên kia. Đi theo lộ trình này hải ly dẫn mọi người đi thành hàng một đến giữa đập, nơi họ có thể đứng nhìn lên thượng nguồn và nhìn xuống hạ nguồn. Sau khi đi quá lên một chút, họ đến trước cửa một nếp nhà nhỏ.

- Tới nơi rồi bà nó ơi. – Hải ly gọi vợ. – Tôi đã tìm ra họ. Đây là những người con trai và con gái của Adam và Eva. – Sau đó cả bọn bước vào nhà.

Điều đầu tiên Lucy nhận ra là một tiếng động đều đều và cảnh tượng đầu tiền nó nhìn thấy là một con hải ly có vẻ mặt tử tế đang ngồi ở góc nhà. Một sợi chỉ ngậm trong miệng, hải ly vợ đang miệt mài đạp máy may và tiếng động mà Lucy nghe thấy là từ chiếc máy này. Hải ly vợ ngừng chân đạp máy, đứng lên đon đả đón khách.

- Chào mừng quý vị đã đến đây. – Hải ly cái nói, xòe tất cả những cái móng nhăn nheo lên. – Cuối cùng!Cứ nghĩ xem, tôi đã cố sống để thấy cái ngày này…Phải, khoai tây luộc đã chín, nước trong ấm đã reo vang và ông nó ơi, ông hãy đi bắt cho chúng tôi một ít cá tươi.

- Xong ngay. – Hải ly chồng nói và đi ra khỏi nhà (có Peter đi theo). Họ đi trên lớp băng trên hồ nước sâu, nơi hải ly đã đục một cái hố nhỏ trên mặt băng và mỗi ngày lại đục rộng thêm ra bằng một cái rìu nhỏ. Họ mang theo một cái xô. Hải ly ngồi yên lặng bên mép hồ (có vẻ như bác không màng đến chuyện bị chết cóng), chăm chú nhìn xuống hồ, đoạn bất thần thọc một chân xuống và trước khi bạn nói xong từ “Jack Robinson” thì hải ly đã tóm được một con cá hồi tuyệt đẹp. Hải ly tiếp tục làm theo cách đó đến khi bắt được rất nhiều cá.

Trong khi đó,hai cô bé giúp hải ly vợ đổ nước vào trong ấm, dọn bàn, cho các đĩa ăn lên bếp lò để hãm lại cho nóng, múc ra một ly cối bia cho hải ly chồng từ trong một thùng bia để ở góc nhà rồi đặt nồi và chảo lên trên bếp. Lucy thầm nghĩ gia đình bác hải ly có một ngôi nhà nhỏ thật ấm cúng mặc dầu nó không có gì giống với sơn động của ông Tumnus. Trong nhà không có sách vở và cũng không có tranh ảnh, thay cho giường là những tấm ván gỗ gắn vào tường giống như trên tàu thủy. Từ trần nhà thả xuống những xâu hành khô và những tảng thịt xông khói. Trên bốn bức tường treo lủng lẳng nào ủng cao su, quần áo vải dầu, rìu, mấy cái kéo lớn, cuốc xẻng, những dụng cụ trộn vôi vữa, cần câu, lưỡi đánh cá và mấy các bao tải lớn. Khăn trải bàn ăn dù rất sạch nhưng lại khá thô.

Vừa lúc cái chảo chiên phát ra những tiếng xèo xèo thì Peter và hải ly bước vào nhà với một xô cá mà hải ly vừa mổ bụng và làm sạch ở bên ngoài. Bạn có thể hình dung những con cá tươi rói mới bắt dưới sông lên tỏa mùi thơm quyến rũ như thế nào khi chúng được chiên trong chảo dầu nóng và mấy đứa trẻ háu đói hết lòng mong cá mau chín ra sao. Thậm chí chúng còn thấy đói hơn khi hải ly chồng tuyên bố:

- Chao ôi, chúng tôi đã sẵn sàng ngồi vào bàn ăn đây.

Susan vớt khoai tây ra rổ để cho ráo nước rồi cho tất cả vào một cái chảo không, chiên giòn một mặt trong khi Lucy giúp hải ly vợ múc món cá hồi ra đĩa; chỉ vài phút sau mọi người kê ghế ra (trong nhà hải ly chỉ có những chiếc ghế ba chân, không kể chiếc ghế xích đu đặc biệt của hải ly vợ kể ở gần bếp lò) và chuẩn bị thưởng thức một bữa ăn ngon lành.

Mỗi đứa trẻ được một ly bự đầy sữa béo (hải ly chồng uống bia). Một tảng bơ lớn màu vàng đặt ở giữa bàn ăn để mọi người xén bao nhiêu tùy thích khi ăn kèm với khoai tây. Tất cả bốn đứa đều nghĩ – và tôi cũng đồng ý với chúng – là không có gì ngon lành như cái món cá nước ngọt nếu bạn ăn nó sau khi bắt cá lên khỏi sông nửa tiếng đồng hồ, rồi gắp cá ra khỏi chảo nửa phút trước khi ăn. Sau khi đã chén xong món cá, hải ly vợ lại mang ra khỏi bếp lò một thứ bánh ống có phết môt thứ mứt cam trong, dẻo, nóng hổi, tuyệt vời, đó là một thứ ngoài sự mong đợi của các vị khách háu đói. Cũng lúc đó bà đặt một ấm nước lên bếp lửa, thế là khi ăn xong món bánh ống phết mứt cam thì trà cũng đã pha xong và sẵn sàng rót ra ly. Khi mỗi vị khách có trên tay một ly trà và lại ngồi thoải mái vào ghế của mình để có thể dựa lưng vào tường, thở ra những làn hơi mãn nguyện, hải ly chồng nói:

- Bây giờ, nếu các bạn đợi được tôi mồi một tẩu thuốc và thư giãn một chút, bác đẩy ly bia rỗng ra xa và kéo đến trước mặt mình một ly trà nóng bốc khói, thì chúng ta bắt đầu bàn công việc. Trời ơi, lại có tuyết rơi nữa rồi. – Hải ly nói thêm đưa mắt nhìn ra ngoài cửa sổ. - Như thế mà lại tốt, bởi vì nó có nghĩ là chúng ta sẽ không bị những vị khách không mời quấy rối và nếu có bất cứ ai cố gắng đuổi theo chúng ta, hắn sẽ không tìm thấy dấu vết gì hết.

- Vâng, bây giờ bác làm ơn cho chúng cháu biết chuyện gì đã xảy ra cho ông Tumnus – Lucy nói.

- Thật xấu – Hải ly nói, lắc đầu quầy quậy.- Thật là xấu, thật xấu, không có gì nghi ngờ, bác ấy đã bị bọn mật thám mang đi. Tôi biết được điều này là từ một chú chim đã tận mắt chứng kiến.

- Nhưng bác ấy bị giải đi đâu ạ? – Lucy lo lắng hỏi.

- À, người ta nhìn thấy họ lần cuối khi đang đi về hướng Bắc và tất cả chúng ta đều hiểu điều đó có ý nghĩa gì.

- Không, chúng cháu không hiểu.- Susan nói.

Ông chủ nhà lắc đầu với vẻ buồn bã:

- Tôi e rằng điều đó có nghĩa là chúng giải bác ấy đến nhà mụ ta.

- Nhưng chúng cháu phải làm gì để giúp đỡ bác ấy đây, bác hải ly? – Lucy hỏi với hơi thở gấp, vẻ âu lo ra mặt.

- À, trong chuyện ấy các bạn không thể nói chắc được. Chẳng có bao nhiêu tin tức trong lâu đài lọt ra ngoài. Tượng đá. Có quá nhiều những pho tượng, người ta kháo nhau như thế, trong sân lâu đài, trên các bệ cầu thang và trong đại sảnh. Đó là những người bị mụ ta hóa phép – nói đến đây hải ly dừng lại rùng mình – biến thành đá.

- Nhưng bác hải ly, - Lucy nôn nóng nói, - chúng ta có thể - cháu muốn nói chúng ta phải làm một cái gì đó để cứu bác ấy. Chuyện này liên quan đến sinh tử và tất cả là lỗi của cháu.

- Tôi không nghi ngờ là các cháu sẽ cứu bác ấy nếu có thế làm được, các cháu yêu quý ạ. – Hải ly vợ đáp thay chồng, - nhưng các cháu không có cơ hội đột nhập vào lâu đài trái với ý muốn của mụ và cũng khó mà trở ra ngoài mà vẫn còn nguyên cái cổ trên vai.

- Chúng ta không nghĩ ra một kế nào hay sao? – Peter hỏi. – Cháu muốn nói, ta có thể cải trang như thế nào đó hoặc đóng giả những người bán hàng rong hoặc bất cứ ai – để theo dõi chờ cho đến khi mụ phù thủy đi ra ngoài. Ôi, thế nào cũng phải có một cách nào chứ. Ông thần rừng này đã liều mạng cứu em gái cháu bác hải ly ạ. Chúng cháu không thể để mặc ông ấy…bị hóa đá hoặc để cho người ta muốn làm gì ông ấy thì làm.

- Chẳng có ích gì đâu, con trai của Adam, - hải ly nói, - dù các cháu hoặc tất cả loài người có cố gắng đến mấy cũng không được. Nhưng bây giờ Aslan đang đến.

- Ồ phải, kể cho cháu nghe về Aslan đi, - mấy giọng nói cùng bật lên một lượt, và một lần nữa một cảm giác kỳ lạ - như những tín hiệu đầu tiên báo xuân sang, như những tin tức tốt lành – lại tràn ngập trong lòng chúng.

- Aslan là ai ạ? – Susan hỏi.

- Aslan ư? Tại sao các cháu lại không biết nhỉ? Ngài là vua. Ngài là chúa tể của cả vùng này nhưng lại không thường xuyên ở đây, các cháu có hiểu không? Chưa một lần xuất hiện trong đời tôi cũng như trong cuộc đời cha tôi. Nhưng tin tức cho chúng tôi biết là ngài sẽ đối phó với Bạch Phù Thủy. Chính là ngài chứ không phải là các cháu có thể cứu được ông Tumnus.

- Bà ta sẽ không hóa phép biến ông ta thành tượng được hay sao? – Edmund hỏi.

- Ngài yêu thương cháu, con trai của Adam ạ, đó là một sự thực hết sức đơn giản! Hải ly đáp với một tiếng cười sảng khoái. – Hóa phép biến ngài thành đá ư? Nếu mụ có thể đứng trên đôi chân và nhìn thẳng vào mặt ngài thì công lý là một việc làm oanh liệt nhất mà mụ có thể làm được và nhiều hơn là điều tôi có thể mong muốn ở mụ. Không, không, ngài sẽ xếp đặt mọi việc vào chỗ của nó theo một trật tự từ lâu đã được thể hiện trong những vần thơ này:

Và bây giờ tất nhiên bạn muốn biết chuyện gì đã xảy ra với Edmund. Nó đã ăn hết đĩa thức ăn của mình không lấy gì làm ngon miệng lắm bởi vì trong suốt bữa ăn nó chỉ nghĩ đến món bánh thạch rắc đường - và chẳng có gì làm hỏng hương vị của một món ăn ngon bằng ký ức về một món ăn được phù phép. Nó cũng nghe câu chuyện bên bàn ăn nhưng chẳng mấy hào hứng bởi vì nó cứ nghĩ những đứa kia không quan tâm đến nó và cố quay lưng lại với nó. Đó là một sai lầm, nhưng những ý nghĩ như thế nó sẽ cảm thấy dễ chịu hơn. Nó ngồi đó, lắng nghe cho đến lúc hải ly nói đến Aslan và những dự tính cho cuộc họp mặt ở Bàn Đá. Đó là lúc nó bắt đầu lặng lẽ chuồn ra sau lớp màn cửa. Bởi vì chỉ cần nghe nhắc đến cái tên Aslan là nó lại có một cảm giác hoảng loạn bí ẩn, trong khi những đứa khác lại có cảm giác phấn chấn kỳ lạ.

Đúng vào lúc hải ly đọc bài thơ về dòng giống Aslan thì Edmund lặng lẽ xoay nắm cửa và trước khi hải ly bảo cho lũ trẻ biết phù thủy không phải là người, mà nửa thần thánh nửa khổng lồ, thì Edmund lẻn ra ngoài, thận trọng khép cánh cửa lại sau lưng.

Cho đến lúc này chắc bạn cũng chẳng nghĩ là Edmund lại xấu xa đến nỗi nó thực sự muốn anh chị em nó biến thành đá. Nó chỉ muốn ăn bánh thạch và trở thành hoàng tử (để sau này lên làm vua) và trả thù Peter đã gọi nó là đồ súc sinh. Còn về chuyện phù thủy sẽ xử trí như thế nào với những đứa kia thì nó chỉ không muốn mụ ta hậu đãi chúng - chắc chắn là không muốn mụ đặt những đứa kia ngồi ngang hàng với nó - nhưng nó cố tin rằng mụ ta sẽ không xử tệ với anh em nó. “Bởi vì, - nó tự nhủ, - tất cả những người này đều nói xấu nữ hoàng chỉ vì họ là kẻ thù của bà ta và chắc chắn một nửa những điều họ nói là không thật. Bà ấy đối với mình rất tốt, còn tốt hơn họ đối với mình. Mình tin bà là nữ hoàng thật sự. Dù sao thì bà ấy cũng tốt hơn Aslan đáng sợ!” - Ít nhất thì đấy cũng là cái cớ nó viện ra để bào chữa cho việc mình làm. Tuy vậy, đó không phải là cái cớ có sức thuyết phục vì trong tâm nó biết rằng Bạch Phù Thủy vừa xấu xa vừa độc ác.

Điều đầu tiên nó nhận ra khi đã ra đến bên ngoài và thấy tuyết rơi lả tả chung quanh là nó để quên áo choàng trong nhà hải ly. Và tất nhiên không có cơ hội quay lại nhà lấy áo. Thứ hai, nó thấy một ngày đã gần tàn bởi vì chúng đã ngồi bên bàn ăn gần ba tiếng đồng hồ mà ngày mùa đông thì ngắn chẳng tày gang. Nó đã quên không nghĩ đến điểm này, nhưng dù sao nó cũng đã làm hết sức mình rồi. Thế là nó dựng cổ áo lên và loạng choạng đi trên mặt đập nước (may thay, không trơn lắm vì tuyết rơi nhiều) để sang bờ bên kia.

Mọi việc trở nên khó khăn hơn khi nó sang được đến bờ bên kia. Mỗi phút trôi qua trời một tối hơn và nó khó lòng nhìn xa quá một mét. Rồi chẳng còn thấy đường đi nữa. Nó ngã oành oạch trên những đống tuyết vun cao, trượt vào những vũng nước đóng băng, tuột xuống những cái bờ dốc đứng và đập ống quyển vào những tảng đá cho đến khi nó vừa ướt lướt thướt, vừa lạnh, vừa thâm tím khắp mình mẩy.

Sự im lặng và hoang sơ ở nơi này quả là đáng sợ. Tôi thực tình nghĩ rằng nó đành bỏ cuộc quay về làm lành với những người khác nếu nó không động viên mình bằng những câu nói: “Nếu mình lên ngôi vua thì việc đều tiên mình làm là cho làm mấy con đường thật ngon lành.” Tất nhiên điều này hướng nó đến những ý nghĩ được làm vua và tất cả những việc mà một ông vua có thể làm và như vậy nó tự lên dây cót tinh thần cho mình. Nó ấn định trong đầu là sẽ xây một tòa lâu đài cho mình như thế nào, mua bao nhiêu xe, có lẽ xây cả một rạp chiếu bóng cho riêng mình rồi cho lắp đặt cả một đường tàu hỏa lớn chạy đây đó trong vùng nữa. Nó đang tính đến việc đặt ra luật lệ chống lại loài hải ly cùng những đập nước và làm thế nào đặt Peter vào trong vòng kiểm soát thì thời tiết thay đổi. Đầu tiên, tuyết ngừng rơi, một ngọn gió nổi lên, lạnh thấu xương. Cuối cùng, gió đã lùa những đám mây đi và mặt trăng ló ra. Đó là một đêm rằm và trăng rọi ánh sáng trắng lên mặt đất phủ toàn tuyết trắng, làm cho tất cả sáng bừng lên gần như là ban ngày vậy, chỉ có những cái bóng của vạn vật là lẫn vào với nhau.

Nó sẽ không bao giờ tìm được đường đi nếu Hằng Nga không hiện ra khi nó đến gần con sông kia - chắc bạn còn nhớ nó đã nhìn thấy (lúc vừa mới đến nhà hải ly) một nhánh sông nhỏ chạy ra dòng sông lớn ở khu vực hạ lưu. Bây giờ nó đã đi đến đấy và men theo bờ sông. Nhưng cái thung lũng mà nó đã lò dò bước thấp bước cao rất dốc, lổn nhổn đầy sỏi đá khó đi hơn thung lũng nó vừa đi qua, nơi đây cũng mọc lên nhiều bụi cây dại khiến nó không làm sao phân biệt được trong đêm. Tệ hơn nữa, nó bị ướt từ đầu đến chân vì mỗi khi lom khom cúi người luồn dưới các cành cây thì có cả một đống tuyết lớn đổ ụp lên lưng nó. Mỗi lần như thế nó lại cảm thấy căm ghét Peter hơn - cứ như thể tất cả những chuyện này đều do lỗi của Peter mà ra.

Nhưng cuối cùng nó cũng lần đến được một nơi mặt đất trở nên bằng phẳng hơn và một thung lũng lớn mở ra trước mặt. Ở đây, bên bờ sông bên kia, rất gần chỗ nó đứng và nằm giữa một cánh đồng lọt giữa hai ngọn đồi, nó trông thấy cái có thể là nhà của phù thủy. Lúc này trăng sáng hơn bao giờ hết. “Nhà” thực ra là một lâu đài nhỏ có vẻ như gồm toàn những ngọn tháp; những ngọn tháp nhỏ, đầu ngọn đâm thẳng lên bầu trời trông sắc nét như những cái kim. Nhìn toàn cảnh trông nó giống như một chiếc mũ lừa hoặc là mũ của một mụ phù thủy. Lâu đài sáng lên dưới ánh trăng và cái bóng dài của nó hắt xuống tuyết có một vẻ gì ma quái. Edmund bắt đầu cảm thấy rờn rợn khi nhìn nó.

Nhưng đã quá trễ khi nghĩ đến chuyện qua đầu lại. Nó đi ngang qua mặt sông băng đến tòa lâu đài. Không có một cái gì lay động trong đêm, không nghe thấy một tiếng động dù khẽ đến mấy. Nó cứ đi, đi mãi, qua hết cái tháp này đến tháp khác để tìm lối đi vào. Phải đi gần hết một vòng mới tìm thấy. Đó là một cái cổng có mái vòm đồ sộ và những cánh cổng sắt vĩ đại thì đã mở rộng đón chào từ lúc nào.

Edmund bước đến bên cổng, nhìn vào trong sân và nó thấy một con sư tử to lớn thu người trong tư thế sẵn sàng nhảy chồm lên. Edmund nấp trong bóng tối của cái cổng, sợ không dám bước tiếp mà cũng sợ không dám bỏ đi, hai đầu gối của nó dúm vào nhau, mềm nhũn. Nó đứng đóng đinh tại chỗ, hai hàm răng đánh vào nhau lập cập vì lạnh cóng nếu không phải vì sợ hãi. Nó đứng đấy bao lâu rồi cũng không rõ nhưng với Edmund thì đó là một khoảng thời gian đằng đẵng kéo dài hàng giờ liền.

Rồi cuối cùng nó bắt đầu tự hỏi tại sao con sư tử lại đứng im phăng phắc như vậy - bởi vì sư tử không hề động đậy kể từ khi Rdmund dán mắt nhìn. Thế là Edmund nhích lên từng tí một, vẫn giữ không ra khỏi bóng cái cổng trong chừng mực có thể. Bây giờ trong góc nhìn mới, nó thấy sư tử không hề nhìn về phía nó. (“nhưng giả sử nó quay đầu lại thì sao?” - Edmund nghĩ). Sự thật thì sư tử đang nhìn chăm chăm vào một vật khác - một chú lùn nhỏ bé đứng quay lưng lại cách nó chừng một mét. “A ha! - Edmund nghĩ. - Khi nó nhảy về phía người lùn mình sẽ có cơ hội lẻn qua”. Nhưng sư tử vẫn không hề nhúc nhích, cả người lùn cũng vậy. Cuối cùng, Edmund cũng nhớ ra những điều người ta nói về việc Bạch Phù Thủy hóa pháp mọi vật thành đá. Đúng lúc đó nó cũng nhận ra rằng trên đầu và lưng sư tử có một lớp tuyết phủ. Không một sinh vật nào lại để cho người phủ đầy tuyết như vậy. Thế là vẫn chậm chạp từng bước với trái tim đập thình thịch như muốn nổ tung trong lồng ngực, Edmund đi đến gần con sư tử. Bây giờ thậm chí nó còn có ý định chạm vào người sư tử, cuối cùng nó thò tay ra thật nhanh. Chỉ là một hòn đá lạnh cóng. Nó đã hoảng hồn chỉ vì một pho tượng đá!

Edmund thở phào, trút ra bao nỗi lo âu và mặc dù trời rét căm căm nó cảm thấy cả người chợt ấm lên từ đầu đến chân và cũng lúc đó nó nảy ra một ý nghĩ tuyệt vời. “Có thể, đây chính là Aslan “vĩ đại” mà bọn họ đã nói tới. Nữ hoàng đã bắt được nó và đã biến thành đá, thế là đi đời tất cả những ý nghĩ hay ho về nó. Xì! Ai thèm sợ Aslan!”

Nó đứng cạnh con sư tử đá, hả hê vui sướng rồi nó làm một việc rất ngu ngốc và rất con nít. Móc ra một mẩu bút chì trong túi, nó vẽ một hàng ria trên môi trên sư tử và một cặp kính trên mắt sư tử. Đoạn nó nói: “A ha, Aslan già ngu ngốc! Làm sao mà ngươi lại hóa thành đá thế này? Ngươi nghĩ mình hùng mạnh lắm kia mà?” Nhưng cả nét vẽ nguệch ngoạc trên mặt con vật bằng đá cũng không làm mất đi vẻ dữ dội, buồn bã và cao quý; đôi mắt sư tử mở trừng trừng dưới ánh trăng và Edmund chẳng cảm thấy vui vẻ chút nào với việc làm của mình. Nó quay đi, bắt đầu đi ngang qua sân.

Đến giữa sân, nó thấy hàng chục pho tượng đứng rải rác đó đây, trông giống như những quân cờ trên bàn cờ khi ván cờ đã chơi đến giữa chừng. Có tượng thần nửa người nửa dê, tượng chó sói, cáo và loài thú họ mèo. Cũng có những bức tượng đá tạc những thân hình rất đẹp nom như các cô gái, Edmund không biết đó là những hoa tinh. Có cả một bức tượng lớn - một quái vật đầu người mình ngựa, một con ngựa có cảnh và một con vật có thân hình dài uốn lượn mềm mại mà Edmund cho rằng đó là một con rồng. Tất cả những bức tượng này sống động một cách kỳ lạ, sáng lên dưới ánh trăng trong, lạnh lẽo và là một công trình kỳ lạ nhất trưng bày trong sân lâu đài. Ở chính giữa sân là một bức tượng hình người rất lớn, cao như một cái cây, khuôn mặt dữ tợn, mái tóc bù xù, một cái búa lớn nắm trong bàn tay phải. Dẫu biết rằng đây chỉ là một người khổng lồ bằng đá, Edmund cũng không dám đi ngang qua. Đến lúc này nó mới thấy có ánh lửa phát ra từ một cái cửa ở góc sân xa nhất. Nó đi về phía ấy, trông thấy những bậc thang bằng đá dẫn lên cái cửa để ngỏ. Nó lần từng bậc thang đi lên. Nằm chắn ngang ngưỡng cửa là một con chó sói to tướng.

- Không sao, không sao, - nó luôn miệng nhắc nhở mình, - chỉ là một con chó sói đá thôi mà. Nó không thể đả thương mình được. - Rồi nó nhấc chân toan bước qua người con sói. Bất thình lình sói nhỏm dậy, lông dựng đứng trên lưng, cái miệng ngoác ra đỏ lòm và một giọng gầm gừ cất lên.

- Ai đấy? Ai đấy? Đứng im, kẻ lại mặt, nói cho ta biết người là ai.

- Nếu... níu... vun... vun lòng ngài! - Edmund nói, run như cầy sấy nên nó vừa nói nhịu vừa nói ngọng. - Tôi là Edmund... con trai... của Adam, là người đã gặp nữ hòn hôm trước và... tôi đến để... báo tin... anh chị em tôi hiện đang ở Narnia - rất gần đây... trong ngôi nhà của hải ly và - bà muốn được gặp họ.

- Ta sẽ thưa lại với nữ hoàng. - Sói nói. - Trong lúc ấy ngươi hãy đứng nguyên tại chỗ nếu ngươi còn quý cái mạng của mình.

Nói xong, sói biến vào trong. Edmund đứng yên chờ đợi, những ngón tay nó tê buốt thâm tím lại trong cái lạnh cắt da cắt thịt, trái tim nó đập như lồng lên trong lồng ngực. Cuối cùng thì Maugrim đội trưởng đội thám báo của nữ hoàng cũng quay lại, nói:

- Mời vào! Mời vào! Một trong những kẻ may mắn được hưởng ân huệ của nữ hoàng - nếu không sẽ chẳng có may mắn nào hết.

Và Edmund bước vào, cố hết sức để không vấp phải những cái móng to tưởng của sói.

Nó thấy mình trong một đại sảnh chạy dài, không khí nơi đây ảm đạm, rờn rợn, bốc mùi. Trong phòng có rất nhiều pho tượng. Ở gần cửa nhất là một thần rừng bé nhỏ có khuôn mặt đau đớn khôn tả và Edmund không thể không nghĩ có lẽ đó chính là bạn của Lucy. Ánh sáng duy nhất phát ra từ một ngọn đèn độc nhất để ngay bên cạnh chỗ Bạch Phù Thủy đang ngồi.

- Tôi đã đến, thưa nữ hoàng. - Edmund kêu lên, hối hả bươn về phía trước.

- Sao ngươi dám vác xác đến đây một mình? - Phù thủy hỏi với một giọng làm Edmund ớn lạnh suốt xương sống. - Ta chẳng bảo ngươi phải mang những đứa khác đến cùng hay sao?

- Vâng, thưa nữ hoàng... tôi... tôi đã làm hết sức mình... đã mang họ đến... thật gần. Họ đang ở trong một ngôi nhà nhỏ xây trên đập nước - với vợ chồng hải ly.

Một nụ cười trông như một cái nhe răng cắn từ từ xuất hiện trên khuôn mặt đẹp lạnh lùng của phù thủy.

- Đấy là tất cả những tin tức của ngươi hay sao?

- Không! Thưa nữ hoàng. - Edmund nôn nóng kêu lên rồi hấp tấp thuật lại tất cả những gì nó nghe được trước khi rời nhà hải ly.

- Cái gì! Aslan ư? - Nữ hoàng kêu lên - Aslan à! Có thật thế không? Nếu ta phát hiện ngươi nói láo...

- Thưa nữ hòn tôi chỉ... lặp lại những gì họ đã nói. - Edmund lặp bặp trong miệng.

Nhưng nữ hoàng không còn để ý đến nó nữa, mụ vỗ hai tay vào nhau. Ngay lập tức người lùn mà Edmund đã gặp lần trước xuất hiện.

- Chuẩn bị xe trượt cho ra, - mụ ra lệnh, - hãy dùng bộ dây cương không có lục lạc.

Bây giờ chúng ta lại quay về với vợ chồng hải ly và ba anh em nhà kia. Hải ly chồng vừa nói dứt câu: “Chúng ta không nên lãng phí một giây!” thì đứa nào đứa nấy đã vội vã khoác áo lạnh lên người, trừ hải ly vợ bắt đầu lấy ra những cái túi chất lên bài và nói:

- Ông nó à, hãy lấy một ít dăm bông. Đây có một bịch trà, đường và mấy que diêm. Có ai lấy giùm tôi hai hoặc ba ổ bánh mì ở cái hũ sành trong góc nhà không?

- Bà đang làm gì vậy, bà hải ly? - Susan kêu lên.

- Chuẩn bị đồ ăn cho mỗi chúng ta, cô bạn nhỏ ạ. - Hải ly vợ đáp giọng tỉnh rụi. - Cô không nghĩ là chúng ta sẽ bắt đầu một chuyến đi mà không chuẩn bị lương ăn chứ?

- Nhưng chúng ta làm gì còn thời gian! - Susan nói. Nó đã cài nút áo lên đến tận cằm. - Phù thủy có thể xuất hiện bất cứ lúc nào.

- Đó là điều tôi đã nói. - Hải ly chồng lặp lại một cách máy móc.

- Tất cả hãy làm quen với chuyện này đi. - Bà chủ nhà nói. - Cứ nghĩ xem, ông nó. Mụ ta không thể đến đây ít nhất trong vòng mười lăm phút nữa.

- Nhưng chúng ta không nên lề mề trong khi chúng ta có thể thu xếp gọn nhẹ. - Peter xen vào. - Nếu chúng ta có thể đến Bàn Đá trước phù thủy?

- Bà không nhớ sao bà hải ly? - Susan nói. - Đúng lúc mụ đến đây mà không thấy chúng ta mụ sẽ phóng hết tốc lực đuổi theo.

- Mụ sẽ làm thế. - Hải ly vẫn từ tốn. - Nhưng chúng ta không thể đến đấy trước mụ dù chúng ta có làm gì đi chăng nữa, bởi vì mụ đi bằng xe trượt còn ta thì đi bộ.

- Vậy thì... chúng ta không có hy vọng gì sao? - Susan hỏi.

- Đừng có làm rộn lên thế cô bạn thân yêu. - Hải ly vợ thủng thẳng. - Mà hãy lấy ra đây một nửa tá khăn tay sạch, trong ngăn kéo ấy. Tất nhiên vẫn có tia sáng cuối đường hầm. Chúng ta không thể tới trước mụ nhưng chúng ta có thể xóa mọi dấu vết và đi đến đấy bằng những cách thức mà mụ không ngờ đến nhất và có lẽ chúng ta sẽ vượt qua được.

- Điều đó thì cũng đúng, bà xã ạ. Nhưng mà lần này chúng ta trật mất rồi.

- Ấy chớ, xin ông đừng làm tối chuyện lên nữa. Đấy! Thế là tốt rồi. Đây là năm ổ bánh mì, cái bé nhất dành cho người nhỏ nhất, là cô đấy, Lucy ạ. - Hải ly vợ nói thêm, nhìn Lucy.

- Ôi, xin nhanh nhanh lên cho! - Lucy nói gấp gáp.

- Được rồi, giờ thì tôi đã sẵn sàng. - Cuối cùng bà chủ nhà nói, cho phép ông chồng giúp bà mang đôi ủng lội tuyết vào. - Mình à, tôi cho rằng cái máy may quá nặng để mang theo.

- Phải, đúng thế. - Ông chồng nói. - Quá nặng và bà nó không nghĩ là bà có dịp dùng nó trên bước đường chạy loạn đấy chứ?

- Tôi không thể xua đi ý nghĩ phù thủy sẽ đặt bàn tay bẩn thỉu của mụ lên đấy. - Bà vợ giận dữ. - Có thể mụ sẽ đập vỡ hoặc cướp đi.

- Ôi, làm ơn nhanh nhanh lên cho! - Cả ba anh em đồng thanh năn nỉ.

Cuối cùng họ cũng ra khỏi nhà, hải ly chồng khóa cửa lại (“sẽ làm cho mụ tốn một ít thời gian!” - Hải ly nói) và họ lên đường, gói lương ăn vắt vẻo trên vai.

Tuyết đã ngừng rơi và trăng bắt đầu con đường lên đỉnh trời lúc họ xuất hành. Họ đi hàng một, dẫn đầu là hải ly chồng rồi đến Lucy, Peter, Susan, và đi tập hậu là hải ly vợ. Hải ly chồng dẫn đoàn người đi qua đập sang bên tả ngạn rồi men theo một con đường mòn gập ghềnh, ngoắt ngoéo đi qua những lùm cây mọc gần bờ sông. Bốn bề thung lũng sáng lên dưới ánh trăng ngà, vượt lên cao hơn hẳn họ ở hai bên đường.

- Tốt nhất là cứ đi theo con đường này. - Hải ly chồng nói. - Phù thủy sẽ đi ở khu vực cao bởi vì chúng không thể đánh xe trượt xuống độ dốc này.

Đây sẽ là một quang cảnh nên thơ; nếu được ngồi trên một chiếc ghế bành êm ái nhìn ra ngoài cửa sổ, hẳn Lucy sẽ thấy làm thích thú lắm. Nhưng đoàn người cứ đi, đi mãi; mỗi bước đi cái bao trên vai lại thêm nặng hơn, và Lucy bắt đầu tự hỏi mình còn phải đi bao lâu nữa. Nó đứng lại một chút đưa mắt nhìn dòng sông băng sáng lên đến lóa mắt dưới một vầng trăng đầy đặn như chiếc đĩa bạc trên nền trời cao vút cùng vô số những vì sao, nó không thể không liếc nhìn những cái chân nhỏ ngắn củn của hải ly chồng đang thoăn thoắt, liên liến bước đi trên tuyết, ngay trước mắt nó như thể chúng không bao giờ dừng lại. Rồi mặt trăng lại biến mất và cùng với việc đó tuyết lại bắt đầu đổ xuống. Cuối cùng Lucy mệt đến nỗi nó vừa lê bước vừa ngủ gật cho đến lúc nó thình lình nhận ra hải ly chồng đã rẽ khỏi bờ sông đi về phía tay phải dẫn họ đi lên một ngọn đồi rất dốc tới một ngọn cây lớn, cành lá ken vào nhau rậm rạp. Khi Lucy đã hoàn toàn tỉnh ngủ nó phát hiện ra rằng hải ly chồng đã biến vào trong một cái hang bên bờ sông được bụi cây um tùm che kín, chỉ khi nào bạn ở ngay miệng hang thì mới nhận ra nó. Thực ra, lúc Lucy nhận ra chuyện gì đang diễn ra nó chỉ trông thấy mỗi cái đuôi mập mạp, ngắn củn của hải ly. Lucy lập tức khom người xuống bò theo hải ly. Đoạn nó nghe thấy tiếng người bò, tiếng thở phì phò sau lưng và chỉ một lát sau cả năm người đã lèn chặt trong hang.

- Đây là một chỗ nào vậy? - Đó là giọng Peter, mệt mỏi, yếu ớt trong bóng tối. (Tôi hy vọng bạn đọc hiểu được tôi muốn nói gì khi dùng từ yếu ớt để miêu tả giọng nói).

- Đây là một chỗ trú ẩn của họ nhà hải ly chúng tôi trong những lúc nguy cấp. - Hải ly chồng nói. - Một chỗ hết sức bí mật. Không phải là một chỗ tốt lắm nhưng chúng ta có ngủ được vài giờ.

- Nếu mọi người không làm rối tinh lên vào lúc chuẩn bị, tôi đã mang theo mấy chiếc gối rồi. - Hải ly vợ nói giọng tiếc rẻ.

Không phải là một cái hang dễ thương như hang của bác Tumnus, Lucy thầm nghĩ, chỉ là một cái hầm trú ẩn, nhưng được cái nó cũng khô ráo và tàm tạm. Cái hang nhỏ đến nỗi khi cả năm nằm xuống họ phải sát vào nhau như những con cá ướp và như thế cũng được lợi là truyền hơi ấm cho nhau bởi vì chặng đường dài đi bộ đã làm họ cảm thấy trong người ấm lên. Giá như nền hang bằng phẳng một chút thì tốt biết mấy! Hải ly vợ chuyền tay mọi người trong bóng tối một cái chai nhỏ để mỗi người uống một ngụm - đó là thứ chất lỏng làm người ta húng hắng ho và đằng hắng luôn miệng - nghe như có cái gì vương vướng trong cổ - nhưng đồng thời nó cũng sưởi ấm bạn từ bên trong sau khi đã trôi tuột vào trong bụng. Một lúc sau ai nấy đều ngủ thiếp đi.

Đối với Lucy hình như chỉ một phút sau nó đã giật mình thức dậy (nhưng kỳ thực là nhiều giờ sau) vì lạnh và người ngợm cũng đờ ra, nó nghĩ mình cần một bồn nước ấm. Rồi, nó cảm thấy những sợi ria dài chọc vào má nó nhột nhột và nhìn thấy ánh sáng của một ngày lạnh lẽo ùa vào cửa hang. Nó lập tức tỉnh ngủ và những người khác cũng thế. Thực ra họ nhất loạt ngồi dậy, mắt và miệng cùng mở to lắng nghe một âm thanh giống như tiếng động mà tất cả đều nghĩ (và thỉnh thoảng tưởng tượng là họ có nghe thấy) là mình nghe thấy trong cuộc đi bộ đêm qua. Đó là tiếng leng keng réo rắt của một cái chuông bạc. Hải ly chồng vọt ra khỏi hang nhanh như một tia chớp vào ngày cái lúc bác nghe thấy âm thanh đó. Có lẽ bạn nghĩ, cũng như Lucy đã nghĩ vào lúc ấy, rằng đó là một việc làm dại dột phải không? Nhưng không, đó là một việc làm khôn ngoan đấy. Hải ly chồng biết là mình có thể len lỏi bên bờ sông giữa nhiều loại cây vừa những lùm cây mâm xôi mà không bị phát hiện, và điều mà bác ta muốn hơn hết là phát hiện ra đường đi của cỗ xe trượt của phù thủy. Những người còn lại ngồi yên trong hang chờ đợi và nghe ngóng. Họ đợi chừng năm phút, rồi họ nghe thấy một tiếng động làm Lucy thầm nghĩ: “Bác ấy đã bị phát hiện. Mụ phù thủy đã bắt được bác ấy!”. Họ mới nhẹ nhõm làm sao khi ngay sau đó nghe rõ tiếng hải ly gọi họ từ bên ngoài.

- Ổn rồi! - Bác la lớn. - Ra ngoài thôi bà nó. Con trai ra ngoài đi, con gái cũng ra ngoài đi, Adam. Ổn rồi. Mụ ta không phải!

Đó là một câu nói chẳng tuân thủ ngữ pháp gì cả nhưng mà đấy là cách nói của hải ly khi chúng quá vui mừng, kích động. Ý tôi muốn nói là ở Narnia chứ ở thế giới của chúng ta cái bọn hải ly ấy có nói chuyện bao giờ đâu.

Thế là những người trong hang lồm cồm bò ra khỏi hang, hấp háy mắt dưới ánh sáng mặt trời, toàn thân họ đầy đất, bốc mùi ẩm mốc trong hang, quần áo xộc xệch, tóc tai bù xù và đôi mắt thiếu ngủ.

- Ra thôi. - Tiếng hải ly chồng kêu váng, thiếu điều muốn nhảy lên vì vui sướng. - Lại đây mà nhìn! Đấy là một ngón đòn chí tử đối với mụ phù thủy. Cứ như thể quyền lực của mụ ta đã bị đè bẹp.

- Ông muốn nói gì vậy hải ly? - Peter vừa hổn hển vừa hỏi khi cả bọn hì hục leo lên bờ lũy cao để nhìn xuống thung lũng.

- Tôi đã bảo các bạn, - hải ly nói, - là phù thủy đã làm cho nơi đây bao giờ cũng là mùa đông rét mướt và không có ngày Giáng sinh đúng không? Tôi chẳng từng nói thế là gì? Bây giờ thì đến đây mà nhìn này!

Cả bọn kéo nhau lên đỉnh đứng nhìn xuống.

Một cái xe trượt cũng do hai con tuần lộc kéo cùng những cái chuông treo trên bộ dây cương. Nhưng chúng to hơn những con vật kéo xe của phù thủy nhiều, bộ lông không có màu trắng toát mà có màu nâu ấm áp. Ngồi trên xe trượt tuyết là một người mà ai cũng biết đấy là ai ngay từ cái nhìn đầu tiên. Một người cao lớn bận một chiếc áo dài màu đỏ rực (đỏ như màu trái ô rô) đội một cái mũ có lông quay vào mặt trong. Người này có râu dài và rậm, bạc trắng - trông như một đám bọt nước chảy từ thác xuống - đổ dài xuống ngực. Ai cũng biết ông dù bạn cũng biết là người như ông không chỉ có ở Narnia mà thôi, bởi vì bạn đã nhìn thấy hình ảnh ông và nghe nói về ông cả trong thế giới của chúng ta - cái thế giới ở bên này cánh cửa tủ áo. Nhưng khi bạn nhìn thấy những hình ảnh ông ở Narnia thì có đôi chút khác biệt. Một số bức tranh vẽ về ông già Noel trong thế giới chúng ta làm cho ông chỉ có một vẻ tếu tếu, vui nhộn. Nhưng giờ đây, khi ba đứa trẻ nhìn ông chúng không nghĩ như vậy. Ông thật to lớn, thật oai phong, thật vui tươi và sinh động đến nỗi ba đứa trẻ nín thở, đứng im phăng phắc. Vui mừng đấy nhưng cũng hết sức nghiêm trang.

- Cuối cùng ta đã tới. - Ông nói. - Phù thủy đã giam giữ ta suốt một thời gian dài, nhưng cuối cùng ta đã thoát ra được. Aslan đang đến. Phép thuật của phù thủy đã yếu đi nhiều.

Lucy cảm thấy tỏa khắp người một cơn chấn động của một niềm vui sâu xa mà bạn chỉ có thể đón nhận khi bạn thật nghiêm trang và thật thanh thản.

- Bây giờ, - ông già Noel nói, - ta ban phát quà cho mọi người. Đây là một cái máy may mới tốt nhất dành cho bà hải ly. Tôi sẽ cho vào nhà bà khi ghé qua.

- Nếu ông sẵn lòng, thưa ông. - Hải ly vợ nói, làm động tác chào nhún gối. - Nhưng cửa nhà lại khóa mất rồi.

- Ổ khóa và then cài không làm nên một khác biệt nào đối với tôi. - Ông già Noel đáp. - Còn phần thưởng cho ông, hải ly ạ, khi về đến nhà ông sẽ thấy cái đập nước đã được hoàn tất, những chỗ rò rỉ đã được sửa lại cho hoàn chỉnh và có cả một cái cửa đập mới, vừa khít.

Hải ly chồng sung sướng đến nỗi bác ngoác to cái mõm nhọn, đứng ngớ người ra một lúc chẳng biết nói gì.

- Peter, con của Adam! - Ông già Noel gọi.

- Thưa ông, có ạ.

- Đây là những món quà cho con, một công cụ chứ không phải đồ chơi. Cũng sắp đến lúc phải sử dụng đến nó rồi đó. Hãy dùng cho thật khéo nhé.

Nói xong ông trao cho Peter một thanh gươm và một cái khiên lấp lánh ánh bạc ở giữa có khắc hình một con sư tử đang đứng chồm hai chân lên trước - một con sư tử đỏ rực cái màu đỏ của trái dâu chín mọng trên cành khi bạn vừa hái xuống. Chuôi gươm bằng vàng ròng cùng với một bao kiếm và một sợi dây đeo ngang bụng, tất cả mọi thứ đều cần thiết và đều vừa với vóc dáng của Peter khiến nó sử dụng một cách tiện lợi. Peter trang nghiêm và im lặng tiếp nhận món quà bởi vì nó cảm thấy đây là những món quà có một ý nghĩa rất nghiêm túc.

- Susan, con gái của Eve, đây là những món quà dành cho con. - Ông già đưa cho cô bé một cái cung cùng nhiều mũi tên và một cái tù và bằng ngà. - Con chỉ được dùng cung tên vào trường hợp bất đắc dĩ, bởi ta không muốn con gái phải tham gia vào chuyện đánh nhau. Tên không dễ đi lạc mục tiêu đâu. Khi con đặt tù và lên miệng thổi thì bất kể là con đang ở đâu, cũng có một sự trợ giúp nào đó đến với con.

Cuối cùng ông nói:

- Lucy, con gái của Eve, con hãy đến đây nào. - Lucy bước lên trước. Ông trao cho nó một cái lọ nhỏ, trông như làm bằng thủy tinh (nhưng sau đó mọi người nói nó được làm bằng kim cương) và một con dao găm nhỏ.

- Trong cái lọ này, - ông nói, - có một loại rượu quý làm bằng mật của một trong những loài hoa lửa mọc trên những rặng núi của mặt trời. Nếu con hoặc bạn bè con bị thương, chỉ một giọt rượu cũng có thể làm người bị thương khỏe lại. Con dao găm là để con tự vệ trong những trường hợp cần thiết. Bởi vì con cũng không được sinh ra cho những cuộc giao tranh.

- Tại sao, thưa ngài? - Lucy hỏi. - Con nghĩ... con cũng không biết rõ... nhưng con nghĩ mình cũng có đủ lòng can đảm.

- Không phải là chuyện đó đâu. Nhưng các cuộc chiến trở nên dã man hơn khi có phụ nữ tham gia. Và bây giờ, - nói đến đây chợt ông có vẻ nghiêm nghị hơn, - có một thứ dành cho tất cả mọi người vào lúc này! - Đoạn ông lấy ra (tôi nghĩ là ông lấy ra từ trong cái túi to mà ông vắt sau lưng, nhưng suốt từ nãy đến giờ không có ai thấy) một cái khay lớn để năm cái ly, năm cái đĩa, một tô đựng đường thẻ và một bình kem cùng một ấm trà thật to đang sôi xèo xèo và tỏa hơi nghi ngút. Ông kêu to:

- Giáng sinh vui vẻ! Giáng sinh vui vẻ!

Ông già Noel vung roi lên, cả ông, cả bầy tuần lộc và cỗ xe đều biến mất trước khi bất cứ ai trong bọn kịp nhận ra ông đã bắt đầu biến đi như thế nào.

Peter vừa rút thanh gươm ra khỏi vỏ, khoe với hải ly chồng thì hải ly vợ đã nheo nhéo:

- Ấy chết! Ấy chết! Đừng đứng đực ra như thế cho đến khi ấm trà nguội cả. Hãy tỏ ra là những người đàn ông. Đến đây giúp chúng tôi mang khay trà ra làm một bữa điểm tâm. May quá, may quá, chính tôi đã nghĩ đến chuyện mang theo con dao ăn đấy.

Thế là cả bọn đi xuống dốc, quay về hang và hải ly chồng giúp cắt bánh mì, giăm bông thành từng lát để làm bánh sandwich. Hải ly vợ rót trà ra ly, ai nấy đều ăn rất ngon miệng. Trước lúc họ ăn xong bữa sáng, hải ly chồng nói:

- Bây giờ đã đến lúc thực hiện một cái gì rồi.

Trong khi đó Edmund rơi vào một tình cảnh khốn khổ nhất. Khi người lùn đi khuất để chuẩn bị xe, nó chờ đợi mụ phù thủy sẽ ban phát ân huệ cho nó như mụ đã làm lần trước. Nhưng mụ không hề nói gì. Và cuối cùng, nó thu hết can đảm để mở mồm nói:

- Thưa nữ hoàng, xin bà cho tôi một ít bánh thạch rắc đường, được không ạ? Bà.... bà đã nói....

- Câm mồm, thằng ngốc! - Mụ quát lên nhưng sau đó lại đổi ý và nói nhỏ như thể nói với chính mình. - Tuy vậy, cũng không nên để cho thằng nhỏ bị xỉu dọc đường. - Một lần nữa mụ lại vỗ tay. Một người lùn khác hiện ra.

Người lùn bỏ đi thoăn thoắc rồi quay lại với một tô sắt đựng nước lã và một cái đĩa sắt đựng mấy mẩu bánh mì khô. Người lùn nhe răng cười với một dáng điệu kệch cỡm, đặt thức ăn và nước uống xuống sàn ngay bên cạnh Edmund và cười hè hẹ:

- Bánh thạch rắc đường cho cậu hoàng tử nhỏ đây. Ha! A ha! A ha!

- Mang đi đi. – Edmund nói, mặt bí xị.

- Tôi không muốn ăn bánh mì khô.

Nhưng phù thủy bất thần quay sang nó với vẻ mặt đáng sợ đầy đe dọa đến nỗi nó phải xin lỗi và bắt đầu nha nhá mẩu bánh mì đã bị thiêu khiến nó khó nuốt trôi.

- Mày sẽ có đủ chuyện mà vui sướng trước khi mày nếm bánh mì lần nữa. – Phù thủy nói.

Trong khi nó vẫn đứng nhá bánh mì thiu thì người lùn đầu tiên quay lại thông báo xe trượt đã sẵn sàng. Bạch Phù Thủy đứng lên, lệnh cho Edmund đi theo mình. Tuyết lại trút xuống khi họ ra đến ngoài sân nhưng phù thủy không hề chú ý đến điều đó và bảo Edmund ngồi cạnh mụ trên xe trượt. Nhưng trước khi phóng xe đi, mụ gọi Maugrim và nó phóng đến – một con chó sói thật to xác, đáng sợ.

- Hãy mang theo ngươi những con sói nhanh nhẹn nhất và đến ngay nhà hải ly – phù thủy ra lệnh, - giết chết không tha bất cứ thứ gì ngươi tìm thấy ở đấy. Nếu chúng không còn ở đấy nữa thì lập tức đi đến Bàn Đá nhưng nhớ không để bọn chúng trông thấy, hiểu chưa? Núp vào một chỗ và chờ ta ở đấy. Trong khi đó ta phải vượt qua nhiều dặm đường về phía tây trước khi tìm ra một nơi có thể vượt qua sông. Ngươi có thể bắt kịp lũ người này trước khi chúng đến được Bàn Đá. Ngươi biết phải làm gì nếu tìm được chúng rồi đó!

- Thần đã nghe kỹ và xin tuân lệnh, thưa nữ hoàng. – Sói rú lên, lập tức phóng vào trong bóng đêm tuyết rơi dày đặc nhanh như một con ngựa phi nước đại. Chỉ vài phút sau nó đã gọi một con sói khác và cả hai phóng xuống đập nước đến đánh hơi trước cửa nhà hải ly. Tất nhiên chúng thấy ngôi nhà trống rỗng. Thật là đại họa nếu đêm ấy trời đẹp bởi vì bọn chó sói sẽ theo dấu chân họ và cá mười ăn một là chúng sẽ đuổi kịp họ trước khi họ về đến hang. Lúc bấy giờ tuyết bắt đầu rơi lại, cái lạnh đánh bạt hơi người và dấu chân thì được tuyết che phủ.

Trong khi đó người lùn ra roi điều khiển hai con tuần lộc, cỗ xe chở phù thủy và Edmund lao ra khỏi cổng, lướt đi trong bóng đêm lạnh như kim châm. Đây là một chuyến đi cực hình đối với Edmund bởi vì trên người nó chỉ phong phanh một bộ quần áo mỏng, chiếc áo choàng lông ấm áp đã để lại nhà hải ly. Trước khi cỗ xe được một phần tư giờ thì phía trước Edmund đã vun lên một đống tuyết mới mà nó thì quá mệt để đưa tay gạt đi. Chẳng bao lâu cái lạnh đã luồn đến tận xương. Ôi, hoàn cảnh của nó mới vô vọng làm sao! Bây giờ xem ra phù thủy không hề có ý định đưa nó lên làm vua. Tất cả những lý do nó đã viện ra để làm cho chính mình tin rằng phù thủy tốt đẹp, tử tế và đứng về phía mụ là một lựa chọn đúng đắn lúc này vang lên mới chua chát làm sao. Nó sẵn lòng đánh đổi bất cứ cái gì để được gặp lại mấy đứa kia – kể cả Peter – vào ngay lúc này. Cách duy nhất an ủi nó lúc này là cố thuyết phục mình rằng đây có lẽ chỉ là cơn ác mộng và nó có thể thức dậy bất cứ lúc nào. Trong khi cỗ xe lướt đi hết giờ này đến giờ khác, tất cả có vẻ như xảy ra trong mơ thật.

Chuyến đi dài hơn là tôi có thể miêu tả dù tôi có viết hết trang này hết trang khác đi nữa. Nhưng tôi phải lướt qua và dừng lại vào lúc tuyết đã ngừng rơi, mặt trời hiện ra và họ phóng đi dưới ánh sáng ban ngày. Họ vẫn đi, đi mãi, không có một âm thanh nào ngoài tiếng tuyết lạo xạo dưới bánh xe… miên man, bất tận cùng tiếng kêu răng rắc của bộ dây cương. Cuối cùng phù thủy nói”

- Này có cái gì đằng kia? Dừng lại!

Cỗ xe lập tức dừng lại.

Edmund hết lòng hy vọng mụ sẽ nói một cái gì đó về chuyện ăn sáng. Nhưng mụ cho xe dừng lại vì một lý do hoàn toàn khác. Cách chỗ đậu xe lại không xa, bên một gốc cây đang diễn ra một bữa tiệc khá vui vẻ, một con sóc cùng vợ và bầy con, hai thần dê, một người lùn, một con cáo già đang ngồi quây quanh bàn. Edmund không thể nhìn rõ là chúng ăn cái gì nhưng cái mùi tỏa ra sao mà quyến rũ đến thế. Một món gì được trang điểm với những quả ô rô, Edmund không chắc là cái mà nó nhìn thấy có phải là món pudding nhân mận không. Vào lúc chiếc xe trượt dừng lại, cáo – rõ ràng là kẻ cao niên nhất trong hội – đứng lên vẫn cầm một cái ly thủy tinh bằng chi trước bên phải như thể toan nói điều gì đó. Nhưng khi thực khách thấy một cỗ xe dừng lại và ai là người ngồi trên đó, niềm vui lập tức biến mất. Sóc bố ngừng nhai, chiếc nĩa đang nửa đường đến miệng nó, một trong những thần dê ngớ người ra, cái nĩa vẫn ngậm trong miệng, những con sóc con thì kêu lên chin chít giọng hãi hùng.

- Thế này là thế nào? – Bạch Phù Thủy dằn giọng. Không ai mở miệng. – Nói đi! Quân vô lại! – Mụ gầm lên. – Hay chúng mày muốn thằng lùn của tao tìm thấy lưỡi chúng mày trong ngọn roi của nó? Bữa tiệc xa hoa phung phí chiều theo thói tham ăn tục uống của bọn bây có nghĩa gì? Bọn bây kiếm đâu ra tất cả những thứ này?

- Thưa nữ hoàng, - cáo thưa, - chúng thần được ban cho đấy ạ. Và thần có thể mạo muội uống mừng sức khỏe của nữ hoàng.

- Ai cho bọn bây?

- Là…. Là… già Noel ạ. – Cáo lắp bắp.

- Cái gì? – Phù thủy gầm lên, nhảy xuống xe và chỉ với vài bước mụ đã đến bên bàn tiệc của những con thú đang hoảng sợ đến mất mật. – Hắn không thể ở đây! Sao bọn bây dám… nhưng không. Nói mau: bọn bây đã nói láo, chúng mày có thể được xá tội nếu nói thật.

Lúc bấy giờ một con sóc con không biết đầu óc để đâu đã láo táo nói:

- Ông ấy đã đến… đã đến… đã đến! – Nó choe chóe kêu lên đánh nhịp cái muỗng xuống bàn, Edmund thấy mụ phù thủy cắn chặt môi đến nỗi một giọt máu rịn ra một bên má trắng bệch của mụ. Phù thủy giơ cây gậy phép lên.

- Đừng, đừng, làm ơn, đừng! – Edmund kêu lên thất thanh, nhưng trong lúc nó đang kêu oai oái như vậy thì mụ đã vẫy cây gậy phép và ngay lập tức cái nhóm thực khách tươi vui đã biến thành mấy bức tượng thú ( một con với cái nĩa mãi mãi chỉ ở nửa đường dẫn đến cái miệng há to) ngồi quanh một cái bàn đá, cả mấy cái đĩa và món bánh pudding  mận cũng hóa đá.

- Còn về phần mày, - phù thủy nói, lườm Edmund một cái thật đáng sợ khi trèo lên xe trượt, - việc này dạy cho mày bài học khi xin ân huệ cho những tên do thám và những kẻ phản bội. Đi ngay thôi.

Lần đầu tiên trong câu chuyện này, Edmund cảm thấy thương cho người khác ngoài bản thân nó. Thật tội nghiệp khi nghĩ đến những con thú bé nhỏ bị hóa đá ngồi kia trong câm lặng, suốt ngày dài đến đêm thâu cho đến khi rêu mọc khắp người và những khuôn mặt cũng mủn dần ra.

Bây giờ họ lại lên đường đi tiếp. Chẳng bao lâu sau Edmund cảm thấy tuyết tạp vào mặt mình có vẻ ướt hơn đêm qua. Cũng lúc đó nó cảm thấy đỡ lạnh hơn. Trời bắt đầu có sương mù. Trong thực tế mỗi phút trôi đi sương mù một buông dày hơn và trời ấm dần lên. Cỗ xe trượt cũng không chạy nhanh với tốc độ như trước nữa. Đầu tiên nó nghĩ là vì bầy tuần lộc đã thấm mệt, nhưng ngay sau đó nó thấy đấy không phải là lý do thật sự. Chiếc xe lắc, trượt và cứ nẩy lên liên tục như thể nó va phải những tảng đá cục. Dù người lùn vẫn luôn tay vung vung roi lên, hai con tuần lộc đáng thương kéo chiếc xe đi chậm dần, chậm dần. Vẳng trong không gian có một âm thanh gì đó, nhưng tiếng bánh xe nẩy lên và tiếng người lùn oang oang quát hai con tuần lộc làm cho Edmund không sao có thể xác định được đó là tiếng gì cho đến khi bất thình lình xe trượt đứng khựng lại rồi cứ ỳ ra đó, không thể nhúc nhích thêm một đoạn nào nữa. Có một quãng im lặng và trong khoảng im lặng hiếm hoi ấy, Edmund cuối cùng đã có thể nghe được âm thanh kia một cách rõ ràng hơn. Đó là tiếng lao xao, rì rào… có cái gì rất đổi ngọt ngào và kỳ lạ… mà không cũng không hẳn là kỳ lạ, bởi vì hình như nó đã nghe thấy âm thanh này ở đâu đó! Rồi bất thình lình nó nhớ ra tất cả. Đó là tiếng nước chảy. Xung quanh nó, cả ở những nơi không nhìn thấy, hàng chục hàng trăm dòng nước nhỏ, róc rách, rì rào, ào ào, bắn tung lên thành tia và thậm chí còn reo vang nữa. Tim nó nảy lên trong lồng ngực (dù nó khó mà biết được tại sao) khi nhận ra băng giá đã tan. Gần chỗ nó đứng, tuyết trên cành tan nhanh nhỏ thành từng giọt tí tách tí tách xuống mặt đất. Và rồi khi nhìn lên một cái cây mọc gần đấy, nó thấy cả một lớp tuyết dày trượt khỏi cành cây và lần đầu tiên kể từ lúc đặt chân lên Narnia nó thấy một cây linh sam xanh thẵm. Nhưng nó không có thời gian nhìn ngó hay nghe ngóng gì nữa bởi vì phù thủy đã quát:

- Đừng có ngồi ỳ ra như thế đồ ngốc! Đứng lên giúp một tay đi.

Tất nhiên Edmund phải tuân lệnh. Nó nhảy xuống xe, ngoài trời tuyết vẫn rơi – nhưng nhẹ như rây bột như có như không. Nó giúp người lùn lôi cái xe ra khỏi một cái hố đầy bùn trơn như bôi mỡ. Họ cố kéo cái xe lên và bằng việc đánh đập hai con tuần lộc một cách dã man, người lùn cũng thành công trong việc làm cho xe chạy thêm được một đoạn nữa.

Lúc này tuyết trên mặt đất tan rất mau và những tán cây xanh nõn bắt đầu xuất hiện ở khắp mọi nơi. Nếu như bạn không phải nhìn mãi một thế giới mênh mông tuyết trắng như Edmund, bạn sẽ khó mà hình dung được cảm giác nhẹ nhõm thư thái trong lòng khi nhìn những thân cây lá cành xanh biếc sau khi nó rùng mình trút bỏ chiếc áo choàng trắng vĩnh cửu. Cỗ xe lại dừng lại lần nữa.

- Không xong rồi, thưa nữ hoàng. – Người lùn nói. – Chúng ta không thể đi tiếp được trong tình trạng băng tan.

- Vậy thì phải đi bộ thôi. – Phù thủy đáp.

- Chúng ta sẽ không bao giờ đuổi kịp bọn chúng nếu đi bộ. – Người lùn làu bàu trong miệng. – Không, nếu chúng đã bắt đầu đi rồi.

- Ngươi làm cố vấn cho ta hay làm nô lệ cho ta? – Phù thủy hỏi. – Cứ làm như ta ra lệnh. Trói giật cánh khuỷu cái thằng người kia cho ta, giữ chặt lấy đầu dây trói. Cầm lấy cái roi của ngươi. Cắt dây cương cho mấy con tuần lộc, chúng sẽ tự khắc tìm được đường về nhà.

Người lùn vâng lời chủ, vài phút sau Edmund thấy mình bị lôi đi xềnh xệch với đôi tay bị trói ra sau lưng và đôi chân chạy ríu vào nhau. Nó té ngã dúi dụi vào những ổ gà, những vũng nước đầy bùn và những bãi cỏ ướt rượt, mỗi lần bị vấp té như thế nó lại nghe thấy tiếng người lùn chửi rủa và thỉnh thoảng lại nhận một roi vào lưng. Phù thủy theo sát ngay sau người lùn, luôn miệng ra lệnh:

- Nhanh lên! Nhanh nữa lên!

Mỗi phút trôi qua những mảng màu xanh lại lộ ra lớn hơn, nhiều hơn và mảng tuyết trắng nhỏ đi, ít đi. Mỗi phút trôi qua lại càng có nhiều hơn những cây cổ thụ vặn mình thoát khỏi cái áo choàng trắng. Chẳng bao lâu sau, nhìn đi phía nào cũng chỉ thấy màu xanh thẫm của linh sam, thông hoặc những cành cây khẳng khiu, đen đúa, trụi lá của cây sồi và cây du. Làn sương mù chuyển từ trắng đục sang màu vàng nhạt, rồi trời trong hẳn ra. Luồng ánh sáng rực rỡ của mặt trời đẹp đẽ đổ xuống khoảng rừng trên đầu bạn và bạn có thể nhìn thấy mảng da trời xanh biếc qua những cành cây đan xen trên đầu.

Rồi, những việc còn kỳ diệu hơn nữa xảy ra. Thoáng một cái như có phép màu, bạn thấy lấp ló ở một trảng rừng là một cây bu lô bạc, Edmund trông thấy dưới mặt đất nở đầy một loại hoa be bé xinh xinh màu vàng rộm – hoa celandine. Tiếng nước chảy róc rách âm vang hơn. Họ đi đến bên một dòng suối. Trên dòng nước chảy xuôi không có một giọt băng nào.

- Chú ý vào việc của mày ấy. – Người lùn quát to, giật sợi dây trói một cách thô bạo khi thấy nó quay đầu nhìn dòng nước.

Nhưng tất nhiên điều này không thể ngăn Edmund quan sát vạn vật. Chỉ năm phút sau nó đã nhìn thấy hàng chục cây hoa nghệ tây mọc lên quanh một gốc cây cổ thụ, nở ra những bông hoa màu vàng suộm, màu tím biếc và màu trắng trong. Rồi nghe vẳng đâu đây âm thanh quyến rũ tuyệt vời hơn tiếng nước chảy. Gần con đường mòn họ đi qua, một con chim chợt cất tiếng hót từ một cành cây cao. Đáp lại tiếng hót của nó là tiếng của một con chim khác lảnh lót vang lên đâu đó ở một khoảng cách xa hơn. Và rồi như có tín hiệu của nhạc trưởng, tiếng ríu rít, tiếng cúc cu của hàng trăm con chim vang lên ở khắp nơi làm thành một khúc ca náo nức vui tươi của mùa xuân.

Trong vòng năm phút, cả khu rừng âm vang tiếng chim hót mê say, rộn rã và nhìn đâu Edmund cũng thấy chim đậu trên cành, chim bay trên đầu, chim vờn đuổi nhau,cãi cọ nhau chíu chít với cái giọng tươi vui, hoặc sà xuống một cành cây nào đó dùng mỏ nhởn nhơ rỉa lông, rỉa cánh.

- Nhanh lên! Có bước mau lên không thì bảo? – Phù thủy gầm gừ.

Không còn dấu vết gì của sương giá nữa. Bầu trời trong hơn, xanh hơn, thỉnh thoảng những cụm mây trắng như bông lững lờ trôi thành từng hình thù khác nhau trên đầu. Trên một trảng cỏ rộng, hoa anh đào nở rộ. Một làn gió nhẹ nổi lên, rắc những giọt sương trên cành cây xuống cỏ và mang đi làn hương tinh khiết, lành lạnh của hoa cỏ mùa xuân, phả vào mặt khách bộ hành. Cây cối bừng lên một sức sống trọn vẹn, thanh tân. Loài thông rụng lá và loài bulô đã phủ đầy những lộc non xanh nõn, cây kim tước thì nảy ra những chiếc lá có màu của vàng ròng. Chẳng bao lâu sau, cả những cây sồi với những cái cành đen đúa, gầy guộc cũng đã nhú lên vô vàn những chiếc lá mảnh dẻ tinh tế như được một bàn tay tuyệt khéo thêu nên. Một con ong bay vù vù qua đường họ đi.

- Băng tan hết rồi. – Người lùn nói, bất thình lình dừng lại. - Mùa xuân đã về. Chúng ta phải làm gì bây giờ đây? Mùa đông của bà đã bị đánh bại. Đó là việc Aslan đã làm.

- Nếu một trong hai đứa bay nhắc đến cái tên ấy một lần nữa, - phù thủy đe, - tụi bay sẽ chết không kịp ngáp.

Trong lúc người lùn và Bạch Phù Thủy nói với nhau như thế, thì cách đấy vài dặm, vợ chồng hải ly và bọn trẻ cũng đi bộ hết giờ này đến giờ khác trong một không khí giống như một giấc mơ tuyệt vời. Trước đấy, họ đã cởi áo khoác ra, bây giờ không ai bảo ai, họ dừng lại nói với nhau những điều dâng lên nơi đầu lưỡi.

- Coi kìa! Đó là chim bói cá! – Hoặc: - Tôi nói đó là hoa dạ lan hương! – Hoặc: - Ôi cái mùi mới dễ chịu làm sao! Hoặc: - Lắng nghe tiếng hót cảu con chim hét kia đi.

Cả bọn người lại bước đi. Im lặng, để cho những âm thanh này ngấm sâu vào người, đi qua những nơi mặt trời ấm áp rọi xuống những bụi cây xanh um, mát lạnh rồi lại đi ra một trảng rộng mọc đầy rêu nơi những cây du xòe tán lá non mới nhú trên đầu họ. Những bước chân dẫn đến một vùng mọc đầy những cây lý chua đang nở hoa và từ những bụi táo gai đưa ra một mùi hương ngây ngất tràn ngập cả không gian.

Họ cũng ngạc nhiên như Edmund khi thấy trước mắt mình mùa đông đang giật lùi vào hậu cảnh và chỉ trong vòng một vài giờ đã chuyển từ tháng giêng rét mướt sang tháng năm tưng bừng mùa xuân về. Họ còn chưa biết rõ (như phù thủy) rằng sở dĩ chuyện này xảy ra là do Aslan đã xuất hiện ở Narnia. Nhưng tất cả mọi người đều biết vì phép thuật của phù thủy và mùa đông ngụ tại đây trong một khoảng thời gian dài vô tận; và như thế tất cả mọi người đều biết rõ một khi mùa xuân màu nhiệm đã bắt đầu thì điều đó có nghĩa là có gì đó không ổn, hoàn toàn không ổn trong kế hoạch của phù thủy. Sau khi băng tuyết bắt đầu tan, họ cũng nhận ra là phù thủy không còn dùng xe trượt tuyết được nữa. Vì thế mà họ không cần phải vội vã mà cho phép mình thư giãn, thưởng ngoạn cảnh xuân về. Lúc này đoàn người cũng đã thấm mệt, nhưng không phải vì cái mệt bã người mà là tình trạng uể oải, yên tĩnh, chậm chạp như mơ ngủ khi bạn đi đến chặn cuối của một ngày vừa mới được mở ra. Susan hơi đau nơi gót chân.

Họ đã tới con sông lớn, đi theo một nhánh sông nhỏ chảy về phía bên phải (có nghĩa là chênh chếch đi về phía nam) để đi về phía Bàn Đá. Ngay cả khi đó không phải là con đường phải đi thì họ cũng không thể cứ đi theo bờ sông một khi băng bắt đầu tan bởi vì khi những tảng tuyết tan ra, con sông chẳng mấy chốc đã trở thành một dòng lũ – một dòng nước vàng đục gầm thét, reo vang, tuyệt vời – và con đường ven bờ sông đã nằm trong dòng nước.

Bây giờ mặt trời đã xuống thấp, ánh sáng đỏ hơn, những cái bóng vươn dài hơn và khách bộ hành bắt đầu nghĩ đến trạm dừng chân.

- Không còn lâu nữa đâu. – Hải ly nói, dẫn mọi người đi lên ngọn đồi qua một vùng mọc đầy rêu (lớp rêu mềm tạo một cảm giác rất dễ chịu dưới bàn chân mệt mỏi của họ). Chẳng bao lâu sau họ đi đến một vùng mọc san sát những thân cây cao trên một diện rộng. Việc leo lên đồi sau một ngày dài đi bộ làm chân họ nặng như đeo đá và họ thở dốc từng hồi. Trong lúc Lucy đang tự hỏi không biết họ có lên được đến đỉnh mà không nghỉ giải lao không thì cả bọn thình lình nhận ra là họ đã ở trên đỉnh đồi. Và dưới mắt họ trải ra một quang cảnh như sau:

Họ đang ở một khoảng rộng xanh rời, từ đó họ có thể nhìn xuống từng cây trải dài ngút tầm mắt ở khắp mọi hướng, trừ phía trước mặt. Ở đấy về phía đông xa xăm có một cái gì đó trải rộng, lấp lánh và chuyển động..

- Trời ơi! – Peter thì thầm với Susa. – Đấy là biển.

Ở chính giữa ngọn đồi là Bàn Đá. Đó là một phiến đá lớn xù xì màu xám nhạt, được nâng đở bởi bốn tảng đá đâm thẳng lên trời. Hình như nó có mặt từ khi trời đất sinh ra, trên mặt bàn có những nét khắc rất kỳ lạ với những ký tự có thể là con chữ của một thứ ngôn ngữ chưa được biết đến, tạo cho bạn có một cảm giác lạ lùng khi nhìn vào đó. Tiếp theo, họ nhìn thấy một cái lều dựng ở bên sườn đồi. Một cái lều rất đẹp – nhất là vào lúc này, khi ánh mặt trời chiều hôm rực rỡ tỏa trên đầu. Xung quanh lều căng lên một thứ lụa màu vàng ánh, dây chằng màu đỏ và cột đều bằng ngà, trên một cây cột cái có một tấm biển họa hình một con sư tử màu đỏ trong tư thế chồm người lên, tấm biển nhè nhẹ đung đưa theo ngọn gió biển đang mơn man trên mặt họ. Trong khi nhìn ngắm như vậy họ nghe có tiếng nhạc vang lên phía tay phải và quay đầu lại trông thấy cái mà vì nó họ đã lặn lội đến đây.

Aslan đứng giữa một đám sinh vật tụ tập quanh ông thành hình nửa vầng trăng. Trong đám đông có các mộc tinh, hoa tinh, thủy tinh hiện hình dưới vóc dáng của người đàn bà (được gọi là những hoa thần và thủy thần trong thế giới của chúng ta) mang theo những nhạc cụ bộ dây và chính họ đang gảy đàn. Bọn trẻ thấy bốn nhân mã là một sinh vật đầu người mình ngựa. Cái phần ngựa thì to lớn giống ngựa kéo xe cho cánh nhà nông ở Anh, cái phần người thì giống người khổng lồ, đẹp mà nghiêm nghị. Cũng có cả một con kỳ lân rất đẹp, một con nhân ngưu, một con bồ nông, một con đại bàng và một con chó rất lớn. Đứng cạnh Aslan là hai con báo lớn, một con cầm vương miệng, một con cầm cờ hiệu.

Trông thấy Aslan, vợ chồng hải ly và bọn trẻ lúng túng không biết phải nói gì, làm gì cho phải. Những người chưa từng đặt chân đến Narnia có thể lầm tưởng rằng một cái gì đó không thể vừa tốt vừa xấu; vừa hiền hòa vừa dữ dội. Nếu mấy người bạn trẻ này đã từng nghĩ thế thì bây giờ chúng được dịp sửa sai. Bởi vì khi nhìn vào mặt Aslan, chỉ cần thoáng thấy cái bờm vàng óng, đôi mắt thấy suốt trang nghiêm, cao quý, vĩ đại thì chúng đã thấy không thể nhìn lâu vào đôi mắt ấy mà không cảm thấy toàn thân run rẩy.

- Đi lên đi. – Hải ly chồng thì thầm.

- Không, - Peter khe khẽ. – Ông đi trước đi.

- Không, con trai của Adam phải đi trước thú vật. – Hải ly chồng thì thào thúc giục.

- Susan, - Peter ghé tai em thì thầm, - em thì sao? Em đi trước nhé!

- Không, - Susan nói nhỏ - anh là anh lớn mà.

Tất nhiên chúng càng chần chừ bao nhiên thì càng cảm thấy ngượng ngập bấy nhiêu. Cuối cùng thì Peter nhận thấy đây là việc của nó. Thế là nó rút thanh gươm ra đưa lên đầu làm cử chỉ chào hỏi, rồi hấp tấp nói với mọi người:

- Tiến lên đi! Can đảm lên nào! – Rồi nó đến trước mắt sư tử và nói:

- Chúng tôi đã đến, thưa Aslan.

- Hân hạnh chào đón Peter- con trai của Adam. – Aslan đáp. – Chào mừng Susan và Lucy – con gái của Eva. Chào đón vợ chồng ông bạn hải ly!

Giọng sư tử trầm ấm, ngân vang, trong giây lát không ai còn có cảm giác bồn chồn, bất an nữa, mà dâng lên trong lòng họ một niềm vui lặng lẽ, sâu xa và họ không cảm thấy bối rối mặc dù cứ đứng ngay ra đó chẳng biết phải nói gì.

- Thế người thứ tư đâu? – Aslan hỏi.

- Nó đã phản bội chúng tôi, gia nhập hàng ngũ của Bạch Phù Thủy rồi, thưa Aslan- Hải ly nói.

Có một cái gì đó khiến Peter phải nói đỡ.

- Đó cũng có một phần lỗi của tôi, thưa Aslan. Tôi đã trút giận lên đầu nó và tôi nghĩ điều này đã xui khiến nó làm bậy.

Aslan không nói gì về lời bào chữa của Peter cũng như lời buộc tội của hải ly, chỉ đứng nhìn nó, ánh mắt không hề thay đổi. Dường như mọi người đều cảm thấy không có gì để nói.

- Thưa Aslan, - Luccy nói, - có thể làm bất cứ điều gì để cứu Edmund không ạ?

- Việc gì phải làm rồi sẽ được làm, - Aslan đáp, - nó có thể sẽ khắc nghiệt hơn là mọi người tưởng.

Sau đó, Aslan lại im lặng hồi lâu. Trước đây, Lucy nghĩ trông ông mới uy phong, cao quý và thanh thản làm sao, bây giờ nó lại nghĩ trông ông cũng buồn bã nữa. Nhưng chỉ một phút sau biểu hiện đó đã biến mất. Sư tử lắc bờm, gõ móng vào nhau (“Những cái móng vuốt sẽ đáng sợ lắm, - Lucy thầm nghĩ, - nếu ông ấy không biết cách cắt móng”) và nói:

- Trong khi chờ đợi hãy bày yến tiệc ra. Các quý bà, hãy đưa những người con gái của Eva vào lều và chăm sóc họ.

Khi các cô gái đi rồi, Aslan đặt một chân trước lên vài Peter – mặc dù nó mịn như nhung nhưng nó cũng rất nặng, - và nói:

- Đến đây đi con trai của Adam, ta sẽ chỉ cho con tòa lâu đài mà con sẽ lên làm chủ, có thể nhìn thấy từ chỗ này.

Peter với thanh gươm trên tay đi cùng với sư tử ra ngoài bờ lũy quay mặt về phía đông. Trước mặt họ bày ra một khung cảnh tuyệt đẹp. Mặt trời đang ở sau lưng họ, điều đó có nghĩa là tất cả mảng đất phía dưới họ đang nằm trong ánh sáng chập choạng chiều hôm – khu rừng, những ngọn đồi, những thung lũng và trôi đi ngoằn ngoèo như một con rắn bạc là hạ lưu của một con sông lớn. Xa xa nữa, cách đây hàng trăm dặm đường là biển cả và sau biển cả là chân trời đùn lên những đám mây vừa chuyển sang màu hồng rực của buổi hoàng hôn. Nhưng đúng ở cái chỗ mà đất Narnia gặp biển – thật ra là cửa sông lớn – có một cái gì đó mọc lên trên một quả đồi nhỏ và sáng lên lấp lánh. Nó sáng rực bởi vì đó là một tòa lâu đài và bởi vì ánh sáng mặt trời sà thấp phản chiếu ráng vàng vào tất cả các cửa sổ quay về phía Peter, nhưng đối với Peter, trông nó giống một vì sao cực lớn làm tổ trên bờ biển.

- Đó chính là Cair Paravel, con trai ạ, - sư tử nói. - Ở đó có bốn ngai vàng, có một cái dành cho con với tư cách là vua. Ta sẽ chỉ cho con thấy bởi vì con là anh cả và con sẽ là ông vua tối cao của đất nước này.

Một lần nữa Peter lại im lặng, bởi vì đúng lúc đó có một âm thanh cất lên phá vỡ sự im lặng. Nghe như tiếng tù và nhưng âm điệu phong phú hơn, sống động hơn.

- Đó là tiếng tù và của em gái con, - Aslan nói với Peter bằng giọng rất khẽ, khẽ đến nối nghe như tiếng thì thầm và nói một cách bất nhã thì có thể sư tử đang kêu rừ rừ…ừ…ừ

Mất một lúc Peter không hiểu gì cả. Rồi khi nó thấy tất cả các sinh vật đều chạy về phía trước và nghe Aslan nói với một cái vẫy móng chân: “Quay lại đi! Hãy làm sao để hoàng tử xứng đáng là một trang dũng sĩ!” thì nó hiểu, bèn mau chóng phóng như bay về phía lều. Ở đấy, nó chứng kiến một cảnh tượng thật đáng sợ.

Các mộc tinh, hoa tinh và thủy tinh tan tác mỗi người mỗi ngả. Lucy chạy hết sức về phía anh trai, mặt trắng bệch như tờ giấy. Đoạn nó thấy Susan nhảy lên một thân cây, đánh đu trên cành, một con vật to lớn màu xám đuổi theo nó. Đầu tiên, Peter nghĩ đó là một con gấu. Rồi nó nhận ra con vật trông giống con chó nòi Alsaty dù thân hình nó quá to đối với một con chó. Cuối cùng nó biết đó là một con sói. Con vật đứng trên hai chi sau dùng hai chi trước chụp và cào vào gốc cây. Lông trên lưng sói dựng đứng cả lên. Peter tự hỏi tại sao em mình không trèo cao hơn, hoặc ít nhất thì cũng phải co hai chân lên bám chắc vào thân cây, rồi nó nhận ra cô bé sắp ngất đi và nếu có thể nó sẽ ngã xuống đất mất.

Peter không cảm thấy mình gan dạ chút nào, trái lại nó cảm thấy mình sắp ngất đi. Nhưng dẫu vậy điều đó không thay đổi việc nó phải làm. Nó lao về phía con thú, bổ gươm vào một bên sườn con vật. Nhát gươm này không phóng trúng đích bởi vì nhanh như chớp con vật quay đầu lại, đôi mắt tóe lửa, cái miệng ngoác ra trong một tiếng tru dài giận dữ. Nếu nó không điên cuồng mà tru lên như thế hẳn đã kịp thời há miệng nuốt chửng cậu bé. Và mọi việc diễn ra như thế này – dù rằng nó xảy ra quá nhanh và Peter không kịp nghĩ ngợi gì – nó chỉ có thời gian cúi xuống thật nhanh cắm phập lưỡi gươm, với tất cả sức lực của nó, vào chỗ trái tim nằm giữa hai chi trước của con sói. Tiếp sau là một khoảnh khắc đáng sợ, lẫn lộn, mơ hồ như chuyện xảy ra trong một cơn ác mộng, nó lôi kéo, vật lộn với con sói nửa như con sống nửa như đã chết. Hàm răng sói nhe ra bập vào trán Peter, tất cả chỉ còn là máu, lông và sức nóng sau một trận chiến đấu sống còn, nó rút thanh gươm ra, đứng thẳng người dậy lau mồ hôi khỏi mặt và khỏi mắt. Nó cảm thấy một cơn uể oải chạy khắp toàn thân.

Sau đó Susan nhảy xuống đất. Hai anh em run rẩy chạy đến bên nhau và tôi không nói là không có những cái hôn và những giọt nước mắt ở hai đứa. Ở Narnia không có ai nghĩ xấu về bạn nếu bạn làm thế.

- Nhanh lên! Nhanh lên! – Aslan kêu to. – Nhân Mã! Đại Bàng! Ta trông thấy một con sói nữa trong bụi rậm. Đó, ngay sau lưng các ngươi. Nó vừa mới lảng ra xa. Đuổi theo nó, tất cả mọi người. Nó đang chạy đến với bà chủ của nó đấy. Bây giờ đến lượt tất cả đi tìm phù thủy, giải cứu cho đứa con thứ tư của Adam.

Ngay lập tức trong không trung vang lên tiếng ồn như sấm động của móng vuốt, tiếng đập cánh của hàng chục con chim và những con vật nhanh nhất biến mất trong khi bóng đêm đang chụp xuống.

Peter vẫn còn chưa lấy lại được nhịp thở, quay lại nhìn thấy ngay Aslan bên cạnh.

- Con quên chưa lau sạch thanh gươm. Aslan nói.

Đúng là thế, Peter đỏ mặt cúi nhìn lưỡi gươm sáng quắc dính đầy máu và lông chó sói. Nó cúi xuống chùi sạch thanh gươm và một bụi cỏ đoạn lau khô vào vạt áo.

- Đưa nó cho ta và quỳ xuống, con trai của Adam. – Aslan nói.

Khi Peter làm theo, Aslan lấy sống gươm chạm vào người Peter và nói:

- Đứng dậy đi, hiệp sĩ Peter – Diệt – Chó – Sói. Và dù có bất cứ chuyện gì xảy ra cũng đừng bao giờ lau sạch thanh gươm của mình.

Bây giờ chúng ta lại phải quay về với Edmund. Khi nó buộc phải đi một đoạn đường dài dằng dặc và tự hỏi không biết là liệu có ai có thể đi xa như thế không thì phù thủy cũng dừng lại trong thung lũng tối mờ mờ rợp dưới bóng thông và thủy tùng. Edmund chỉ còn biết nằm vật ra đất, ngửa mặt lên trời nhưng nó không nhìn gì cả, miễn là người ta cho phép nó được nằm yên một lát. Nó mệt đến nỗi không nhận ra là mình đã đói và khát như thế nào. Phù thủy và người lùn đứng ngay bên cạnh nó, thì thào trao đổi với nhau:

- Không, - người lùn nó, - bây giờ chuyện đó không còn có tác dụng nữa, thưa nữ hoàng. Vào giờ này chắc chúng đã đến Bàn Đá rồi.

- Có thể sói sẽ đánh hơi thấy chỗ chúng ta và mang tin tức đến đây. – Phùy thủy nói.

- Dù hắn có đem tin tới thì chắc gì đã là tin vui. – Người lùn nói.

- Bốn ngai vàng ở Cair Paravel, - phù thủy nói, - chuyện gì xảy ra nếu chỉ có ba cái ngai có chủ? Điều đó không ứng với lời sấm.

- Thì bây giờ chuyện ấy cũng có khác biệt đâu nếu người ấy có mặt ở đây? – Người lùn nói, thậm trí lúc này hắn cũng không dán nhắc đến tên Aslan trước mặt chủ.

- Hắn có thể không ở đây đâu. Và rồi… rồi chúng ta sẽ lấp đầy ngai vàng kia ở Cair.

- Tuy vậy mọi việc có thể thuận lợi hơn, - người lùn thì thầm, - nếu chúng ta giữ lại thằng nhỏ này – đến đây hắn chỉ tay vào Edmund – để thương lượng.

- Phải, và chờ cho bọn kia đến cứu. – Phù thủy nói, giọng đầy vẻ mỉa mai. – Vậy thì, tốt nhất nên làm ngay những việc phải làm.

- Ta muốn nó sẽ diễn ra ở chính Bàn Đá. – Phù thủy nói. – Đó là một chỗ thích hợp. Đó là nơi trước đây bao giờ cũng diễn ra những việc như thế này.

- Sẽ mất một khoảng thời gian dài trước khi Bàn Đá lại có thể được sử dụng vào vị trí thích hợp của nó. – Người lùn nói thêm.

- Đúng thế. Phải, ta sẽ bắt đầu ngay. Đúng lúc đó, nghe vút một cái, sói lao đến trước mặt chúng, bốn móng cào cào xuống mặt đất.

- Thần đã thấy họ. Tất cả bọn họ đang ở Bàn Đá với người ấy. Họ đã giết chết đội trưởng Maugrim. Thần trốn trong bụi cây và nhìn thấy hết. Một trong số con trai của Adam đã giết chết Maugrim. Chạy thôi! Mau chạy thôi!

- Không! – Phù thủy gầm lên. – Tại sao lại phải bỏ chạy? Đi nhanh lên! Triệu tập tất cả người của ta lại và bảo đến gặp ta nhanh với hết sức có thể. Triệu tập cả khổng lồ, ma sói, nữ mộc tinh ở về phe chúng ta. Gọi cả ma cà rồng, yêu quái, thủy quái, quỷ đầu trâu. Gọi tất cả lực lượng đen đến cùng những yêu tinh, phù thủy, những hồn ma và những cư dân trong rừng nấm mũ độc. Chúng ta sẽ chiến đấu. Cái gì? Ta không còn cây gậy phép trong tay sao? Ta không thể biến tất cả bọn chúng thành đá ngay khi chúng xuất hiện sao? Nhanh lên, ta còn chút việc phải hoàn thành ngay khi bọn bay đi.

Con thú dữ tợn cúi đầu, quay lưng và phóng đi như một mũi tên đen.

- Nào, - phù thủy nói, - chúng ta chẳng có bàn ghế gì cả, để ta coi xem nào, hay là để nó dựa vào một gốc cây.

Edmund thấy mình bị túm lấy đôi bàn chân, bị lôi đi xềnh xệch một cách thô bạo. Đoạn người lùn ấn lưng nó vào một gốc cây, trói nó vào gốc cây khiến nó không còn cựa quậy được. Nó thấy phù thủy cởi áo khoác ngoài. Cánh tay trần của mụ trắng toát đến rợn người. Bởi vì nó trắng quá nên Edmund chỉ nhìn thấy nó ngoài ra không thấy cái gì khác nữa. Trời đã về chiều, và chỗ nó bị trói trời còn tối hơn bởi những tán cây đen thẫm.

- Chuẩn bị cho nạn nhân. – Phù thủy nói. Người lùn tháo cúc cổ áo nó ra, vén áo nó lên đến tận vai. Đoạn hắn nắm tóc giật ngửa đầu nó ra sau khiến nó phải ngửa cằm lên. Sau đó, Edmund nghe thấy một âm thanh lạ nghe rất dễ sợ. Mất một lúc nó không hiểu đó là cái gì. Rồi nó nhận ra: Đó là tiếng liếc lưỡi dao vào đá để mài cho sắc.

Đúng lúc đó nó nghe thấy những tiếng động ồn ào nổi lên bốn xung quanh- tiếng vó ngựa, tiếng đập cánh, tiếng la hét của Bạch Phù Thủy – tất cả thành một mớ hỗn độn, hư hư thực thực nhưng rất đáng sợ…Sau đó nó thấy mình được cởi trói. Những cánh tay mạnh mẽ nâng nó lên rồi lại nghe thấy nhiều giọng nói xôn xao, với giọng điệu tử tế, với những câu đại loại như thế này: “Để cậu bé nằm xuống… đổ cho cậu ta một chút rượu… uống cái này đi… từ từ thôi… cậu sẽ khỏe lại trong vòng một phút. Rồi nó nghe nhiều tiếng nói vang lên cùng một lúc, không phải nói với nó mà họ nói với nhau:

- Ai bắt được phù thủy?

- Tôi nghĩ anh bắt được mụ chứ.

- Tôi không thấy mụ sau khi tôi đánh con dao văng khỏi tay mụ… Tôi… tôi đuổi theo người lùn… anh muốn nói là mụ đã trốn thoát ư?

- Một người không thể làm tất cả mọi chuyện cùng một lúc, - cái gì vậy? Ôi xin lỗi, chỉ là một gốc cây mục.

Nhưng đến đây Edmund lại ngất đi.

Ngay lập tức, đoàn quân đi cứu Edmund được Aslan phái đi gồm nhân mã, kỳ lân, hươu, nai và đại bàng quay về Bàn Đá mang theo Edmund. Nhưng nếu chúng chứng kiến những gì xảy ra trong thung lũng, sau khi chúng đã bỏ đi, tôi nghĩ chúng có thể sẽ ngạc nhiên lắm lắm.

Không gian hoàn toàn yên ắng, vầng trăng trong sáng từ từ hiện lên; nếu bạn có mặt ở đây bạn sẽ thấy ánh trăng chiếu sáng một gốc cây đổ, lên một tảng đá có hình thù rất đẹp. Nhưng nếu nhìn kĩ hơn nữa bạn sẽ dần dần có ý nghĩ có một cái gì kì quái ở cả gốc cây lẫn tảng đá. Tiếp đó bạn sẽ nghĩ gốc cây trông đặc biệt giống một người đàn ông bé nhỏ mập mạp đang cúi lom khom dưới đất. Và nếu bạn quan sát đủ lâu bạn sẽ thấy gốc cây đi từ từ đến chỗ tảng đá, còn tảng đá thì ngồi xuống nói chuyện với gốc cây; bởi vì trong thực tế, gốc cây và tảng đá chính là phùy thủy và tên đồ đệ của mụ ta. Với pháp thuật tu luyện rất lâu của đời mình, phù thủy có thể làm cho mọi vật trong khác với chính nó. Mụ đã có sẵn trong đầu, việc gì cần làm vào đúng lúc con dao văng ra khỏi tay mụ. Nhưng mụ vẫn giữ thật chặt cây gậy phép nên nó vẫn ở chỗ an toàn.

Khi những đứa trẻ kia thức giấc vào sáng hôm sau (chúng nằm trong những tấm nệm trải trong lều) điều đầu tiên mà chúng nghe thấy được – từ miệng hải ly vợ - là Edmund đã được cứu thoát và đưa về trại đêm qua, và lúc này nó đang ở bên Aslan.

Vừa ăn sáng xong chúng đã chạy ra ngoài và kia chúng thấy Aslan và Edmund đang đi dạo trên một thảm cỏ còn long lanh sương sớm, cách xa những người khác. Không cần thiết phải kể cho bạn nghe (mà cũng chẳng có ai nghe thấy) điều Aslan đã nói, nhưng đó một cuộc trao đổi mà Edmund sẽ không bao giờ quên được. Khi anh em nó đến gần, Aslan quay lại gặp chúng dẫn theo Edmund.

- Đây là người anh em của các con, - Aslan nói, - và… cũng không cần thiết phải nói với nó về những việc đã qua.

Edmund bắt tay từng đứa và lần lượt nói với mỗi đứa lời xin lỗi.

- Không hề gì! – Anh chị em nó đều nói. Đứa nào cũng muốn nói ra rằng một khi mọi việc đã trôi qua chúng lại là bạn của Edmund như trước – một điều thật tự nhiên và đơn giản – nhưng tất nhiên chẳng đứa nào nói ra vào lúc ấy. Trước khi chúng có thời gian cảm thấy bối rối thì Báo tiến đến gần Aslan, báo cáo:

- Thưa ngài, có một sứ giả từ bên phù thủy đến tha thiết xin được hội kiến.

- Để hắn đến đây. – Aslan nói.

Báo quay đi và mau chóng quay lại, dẫn theo gã người lùn của phù thủy.

- Ngươi mang theo thông điệp gì , hỡi đứa con của Đất? –Aslan hỏi.

- Nữ hoàng của Narnia, nữ vương của quần đảo Đơn Côi muốn được đến đây an toàn và hội kiến với ngươi, về một vấn đề có lợi cho cả đôi bên.

- Nữ hoàng Narnia! – Hai ly chồng đay lại. – Ai vậy?

- Im lặng nào hải ly. – Aslan từ tốn nói. – Tất cả những danh hiệu rồi sẽ được trả về những người xứng đáng, phù hợp với nó. Trong khi chưa đến lúc, chúng ta không tranh cãi về chuyện này. Hãy về nói với bà chủ của ngươi, hỡi đứa con của Đất, rằng, ta đảm bảo về an toàn cho bà ta với điều kiện bà ta phải để cây gậy phép ở phía sau, ở chỗ cây sồi lớn đằng kia.

Điều kiện đưa ra được chấp thuận và hai con báo cùng đi với người lùn để xem xem điều kiện này có được tuân thủ nghiêm chỉnh không.

- Nhưng sứ giả mụ lại biến hai con báo thành đá thì sao? – Lucy thì thầm với Peter.

Bản thân tôi cũng nghĩ như thế khi hai con báo đi đến gần phù thủy, dù sao thì lúc đến gần, lông chúng cũng dựng đứng trên lưng và cả đuôi cũng vậy – y như một con mèo khi nó trông thấy một con chó lạ.

- Không sao đâu. – Peter thì thầm lại. – Aslan sẽ không phái chúng đi nếu có một nguy cơ như vậy.

Vài phút sau chính phù thủy bước lên đồi đến trước mặt Aslan. Ba đứa trẻ người Anh mới nhác thấy phù thủy đã thấy một cơn ớn lạnh chạy dọc sống lưng. Đó đây có một vài tiếng gầm bị kìm trong họng bầy thú. Dù mặt trời vẫn chiếu sáng rực rỡ, cả người và vật đều cảm thấy ớn lạnh. Chỉ có hai người xem ra vẫn hoàn toàn bình thản đó là Aslan và phù thủy. Có một cái gì đó vô cùng kỳ lạ khi nhìn hai khuôn mặt này ở cạnh nhau - một khuôn mặt vàng óng và một khuôn mặt trắng bệch như thần Chết. Nhưng phù thủy không nhìn thẳng vào mặt Aslan, chính hải ly vợ đã nhận ra điều này.

- Ông có một kẻ phản bội ở đây, Aslan ạ! – Phù thủy nói.

Tất nhiên những người có mặt đều hiểu là mụ ám chỉ Edmund. Nhưng thằng bé đã không còn chỉ nghĩ đến mình sau tất cả những gì nó vừa trải qua và sau cuộc nói chuyện với Aslan sáng nay. Nó vẫn nhìn thẳng vào mặt Aslan. Điều phù thủy nói xem ra không có tác động gì.

- Phải. – Aslan nói. – Sự chống đối của nó không nhằm vào ngươi.

- Ông đã quên mất phép thuật Sâu rồi sao? – Phù thủy hỏi.

- Cứ cho là ta đã quên. – Aslan nói giọng trang nghiêm. – Hãy nói cho ta biết về phép thuật Sâu đi.

- Nói cho ngươi à? – Phù thủy đay lại, giọng mụ chợt rít lên. – Bảo cho ngươi biết cái gì được viết trên Bàn Đá cạnh chúng ta ư? Nói cho ngươi biết rằng những dòng chữ khắc sâu như bị xiên trên những hòn lửa ở đồi Bí Mật kia là có nghĩa gì ư? Bảo cho ngươi biết cái gì được khắc trên cây quyền trượng của Thượng Hải Đại Vương ư? Ít nhất thì ngươi cũng biết phép thuật mà Đại Vương đã sử dụng ở Narnia này ngay từ đầu. Ngươi biết rõ rằng mỗi kẻ phản bội lọt vào tay ta đều là một con mồi hợp pháp của ta, và đối với những kẻ ấy ta có quyền thẳng tay trừng trị.

- Ê, hải ly chồng nói, - như thế ngươi đi đến chỗ tưởng tượng của mình là một nữ hoàng – thực ra ngươi chỉ là một tên đồ tể của Đại Vương. Ta biết…

- Im đi, hải ly! – Aslan nói với một tiếng gầm nho nhỏ trong cổ.

- Và như thế, - phù thủy nói tiếp, - thằng người kia là của ta. Cuộc sống của nó là vật đền bù cho ta. Máu của nó là tài sản của ta.

- Vậy thì đến lấy đi. – Một nhân ngưu to lớn nói với một tiếng rống kinh khủng.

- Đồ ngu, - phù thủy nói với một nụ cười độc ác gần như cái nhe răng cắn, ngươi thực sự nghĩ rằng ông chủ của ngươi có thể cướp đi quyền của ta chỉ thuần túy bằng sức lực ư? Ông ta biết phép thuật Sâu còn rõ hơn thế. Ông ta biết rằng trừ phi ta có được máu theo luật định, bằng không thì cả Narnia này sẽ bị vùi dập và tàn lụi trong nước và lửa.

- Đúng là như thế, - Aslan nói, - ta không phủ nhận điều đó.

- Ôi, thưa Aslan, - Susan thì thầm vào tai sư tử, - lẽ nào chúng ta không thể… con muốn nói, ông không thể, phải không? Chúng ta không thể làm gì với phép thuật Sâu sao? Không có cái gì ông không thể làm được để chống lại nó, phải không?

- Chống lại phép thuật của Đại Vương? – Aslan nó, quay sang nhìn nó, có một cái gì như một cái cau mày trên mặt ông. Và không ai có bao giờ làm ông có biểu hiện ấy thêm một lần nữa.

Lúc này Edmund đang đứng ở bên cạnh Aslan, suốt thời gian đó nó nhìn vào mặt ông. Một cảm giác nghèn ngẹn khó thở nơi cuống họng và nó tự hỏi không biết có nên nói một điều gì không nhưng ngay sau đó nó cảm thấy nó không được phép làm bất cứ một cái gì ngoài việc chờ đợi và làm những điều được chỉ thị.

- Lùi lại sau, tất cả mọi người. – Aslan nói. – Ta muốn nói chuyện riêng với phù thủy.

Tất cả tuân lệnh. Đó là một khoảng thời gian kinh khủng – chờ đợi và tự hỏi không biết sư tử và phù thủy nói với nhau những chuyện gì mà lại có một vẻ trang nghiêm đến thế.

Lucy nói:

- Ôi anh Edmund! – Và bắt đầu khóc.

Peter đứng quay người lại, mọi người nhìn ra ngoài biển xa xăm. Vợ chồng hải ly đứng bên nhau, chụm mông vào với nhau, đầu cúi gục. Nhân mã thì giậm chân xuống đất vẻ bồn chồn, nhưng mọi người tuyệt đối im lặng cho đến phút cuối, vì thế bạn có thể nghe thấy cả những tiếng động nhỏ như tiếng vo ve của một con ong nghệ bay qua hoặc tiếng những con chim chao cánh bay trong cánh rừng phía dưới hoặc tiếng gió vi vu thổi qua làm rừng cây xào xạc. Cuộc đàm phán giữa Aslan và Bạch Phù Thủy vẫn tiếp tục.

Cuối cùng, họ nghe thấy giọng nói của Aslan:

- Tất cả các ngươi có thể quay lại, ta đã dàn xếp xong chuyện này. Phù thủy đã từ bỏ lời tuyên bố đòi máu người anh em này.

Cả ngọn đồi chợt râm ran âm thanh của sự sống như thể ai nấy nãy giờ đều nín thở và chỉ bây giờ mới thở ra được, sau đó là tiếng trao đổi xôn xao.

Phù thủy quay đi, một niềm vui đắc thắng thể hiện trên khuôn mặt khi mụ dừng lại nói to:

- Nhưng ta làm sao biết lời hứa này có được thực hiện hay không?

- Ha ha ha! – Aslan gầm lên, nhỏm người khỏi ngai, cái miệng rộng há ra mỗi lúc một to lớn, tiếng gầm mỗi lúc một vang dội hơn và phù thủy sau khi chằm chằm nhìn lại với cái miệng há hốc vội vén tà váy lên bỏ chạy bán sống bán chết.

Phù thủy vừa chạy khuất, Aslan đã nói:

- Chúng ta phải rời khỏi chỗ này ngay, nơi đây sẽ được dùng cho những mục đích khác. Tối nay chúng ta sẽ cắm trại ở khúc sông cạn Beruna.

Tất nhiên ai cũng thèm được biết nội dung cuộc dàn xếp giữa phù thủy và Aslan đến chết đi được nhưng khuôn mặt ông lộ vẻ nghiêm nghị rất mực và bên tai họ vẫn âm vang tiếng gầm của ông nên chẳng ai dám hỏi.

Sau bữa ăn, ở một khoảng trống trên ngọn đồi (bởi vì bây giờ mặt trời lại đổ nắng dữ dội làm cả những ngọn cỏ cũng như héo đi), mọi người bận rộn tháo gỡ cái lều xuống và dọn dẹp mọi thứ. Trước hai giờ trưa họ đã tập trung lại và khởi hành về hướng đông bắc với một nhịp điệu thong thả bởi vì họ không cần phải đi xa.

Trong lúc bắt đầu cuộc hành trình, Aslan giải thích cho Peter rõ kế hoạch cắm trại của ông.

- Ngay khi phù thủy kết thúc phần việc của mình, - Aslan nói, - mụ và bọn lâu la gần như chắc chắn sẽ quay về lâu đài của mình chuẩn bị cho một cuộc bao vây đại quy mô. Chỉ có hai khả năng, hoặc là phá được vòng vây hoặc là con bó tay chịu thua.

Đoạn Aslan phác ra hai giai đoạn cho một trận đánh lớn – giai đoạn một là vây đánh phù thủy và đám lâu la trong rừng, giai đoạn hai tấn công vào lâu đài của mụ. Trong cuộc trao đổi Aslan chỉ bảo Peter cách chỉ huy một chiến dịch với những gợi ý như thế này:

“-Con phải đặt nhân mã ở chỗ này, chỗ này” hoặc “- Con phải tổ chức một đội thám báo để xem xét động tĩnh của quân địch” cùng nhiều chỉ dẫn khác cho đến lúc cuối cùng Peter buột miệng hỏi:

- Ngài sẽ có mặt ở đó chứ Aslan?

- Ta không thể hứa với con điều này. – Sư tử đáp và lại tiếp tục đưa ra những lời chỉ dẫn khác.

Ở đoạn cuối cuộc hành trình có vẻ như Susan và Lucy là những người được gặp Aslan nhiều hơn cả. Ông không nói nhiều, khuôn mặt lộ vẻ trầm ngâm, buồn bã.

Mãi đến gần tối họ mới tới chỗ thung lũng trải rộng ra, con sông cũng rộng hơn và nông hơn. Đó chính là khúc sông Beruna và Aslan ra lệnh dừng lại bên bờ sông. Nhưng Peter nói:

- Có lẽ sẽ tốt hơn nếu cắm trại cách xa đây một chút – phòng trường hợp phù thủy sẽ tập kích vào lúc nửa đêm hoăc bất cứ chuyện gì như vậy?

Aslan dường như đang đắm chìm trong một vấn đề khác, giật mình với một cái lắc đầu làm rung rung cái bờm vĩ đại:

- Hả? Chuyện gì vậy?

Peter nói lại ý kiến của mình một lần nữa.

- Không…- Aslan nói với một giọng đều đều, như thể chuyện này không có gì nghiêm trọng – Không, mụ sẽ không tấn công vào tối nay đâu. – Đoạn ông thở dài, rồi lại nói thêm, - Dù sao đó cũng là một ý hay, một điều mà một người lãnh đạo cần nghĩ đến. Nhưng chuyện này không có gì nghiêm trọng. – Thế là, họ vẫn tiến hành cắm trại tại đây.

Tâm trạng của Aslan ảnh hưởng đến mọi người vào buổi tối hôm ấy. Peter bồn chồn, lo lắng không yên trước trận đánh lớn đầu tiên trong đời nó, cái tin có thể Aslan không tham dự là một cú sốc lớn. Bữa tối diễn ra trong không khí yên lặng. Ai cũng cảm thấy có một cái gì rất khác với tối hôm trước hoặc thậm chí mới sáng sớm hôm nay. Có vẻ như những thời khắc vui vẻ mới chỉ vừa bắt đầu đã đến hồi kết thúc.

Cảm giác này ám ảnh Susan nhiều đến nỗi, nó không thể nhắm mắt ngủ yên. Sau khi nó nằm đếm nhẩm để dỗ giấc ngủ và trở qua trở lại hồi lâu, nó nghe thấy tiếng Lucy thở dài rồi cũng trở mình trong bóng tối.

- Em cũng không ngủ được hay sao?

- Không ạ, em tưởng chị ngủ rồi chứ. Em muốn nói chuyện này chị Susan.

- Chuyện gì thế?

- Em có một cảm giác dễ sợ lắm – như thể có một chuyện gì đó thật đáng sợ xảy ra cho ông ấy hoặc chính ông ấy sẽ làm một chuyện kinh thiên động địa.

Chiều nay dường như Aslan ở trong một tâm trạng bất an. – Susan nói. – Lucy à, điều ông ấy nói không có mặt trong trận đánh nghĩa là làm sao? Em không nghĩ là ông ấy lánh đi chỗ khác, để mặc chúng ta xoay xở tối nay chứ?

- Bây giờ ông ấy ở đâu? – Lucy hỏi chị. – Có phải đang ở trong lều không ạ?

- Chị không nghĩ như thế.

- Chị Susan ơi, chúng ta hãy ra bên ngoài quan sát một chút. Biết đâu chúng ta có thể gặp được Aslan.

- Được, ta đi thôi. – Susan nói. – Thà là ra ngoài còn hơn cứ nằm thao thức trong này.

Hai đứa con gái lặng lẽ đi ra ngoài, thận trọng lách qua những người và vật đang say ngủ để ra khỏi lều. Trăng sáng vằng vặc, đêm hoàn toàn thanh tĩnh trừ tiếng nước chảy êm đềm qua nhưng hòn đá tảng. Chợt Susan đột ngột nắm lấy tay Lucy nói:

- Coi kìa!

Ở ngoài bìa khu vực đóng quân, đứng chỗ cây cối bắt đầu mọc, họ trông thấy Aslan đang chậm rãi rời xa trại tiến vào sâu trong rừng. Không nói một lời, hai đứa lập tức đi theo sư tử.

Sư tử đi trước hai đứa theo sau, cùng đi lên một cái dốc bên ngoài thung lũng, rồi từ từ đi về phía bên phải – rõ ràng là đi đúng con đường mà họ đã đi hồi chiều từ ngọn đồi Bàn Đá đến đây. Cứ thế họ cắm cúi đi miết lẫn vào những cái bóng ngả dài, đen đen rồi lại đi ra chỗ ánh trăng suông; đôi chân họ ướt đẫm những giọt sương mai nặng hạt. Trông ông có vẻ gì rất khác với một Aslan mà bọn chúng từng biết. Đuôi cụp xuống, đầu cúi gằm, những bước chân chậm chạp như thể ông đã mệt mỏi rã rời. Sau đó, khi họ đi qua một vùng đất rộng, trống trải không hề có một cái bóng nào để cho hai đứa trống, Aslan dừng lại, quay đầu nhìn quanh. Chạy trốn cũng chẳng có ích gì thế là hai đứa đi về phía ông. Khi chúng đi đến gần, ông hỏi:

- Ôi bọn trẻ, bọn trẻ, tại sao các con lại đi theo ta?

- Chúng cháu không thể chợp mắt được. – Lucy hấp tấp nói rồi nhận ra là nó không cần phải nói thêm gì nữa vì Aslan biết tất cả những điều chúng đang nghĩ.

- Làm ơn…ông có thể cho chúng cháu đi với ông…đến bất cứ nơi nào mà ông tới không? – Susan hỏi.

- À…Aslan nói vẻ ưu tư, buồn bã. Đoạn ông nói. – Ta sẽ vui lắm nếu có người bầu bạn tối nay. Phải, các con có thể đi theo ta nếu các con hứa sẽ dừng lại khi ta bảo các con làm thế, sau đó hãy để ta đi tiếp một mình.

- Vâng, cảm ơn ông, cảm ơn ông. Chúng con sẽ làm thế.

Họ bắt đầu đi tiếp. Sư tử đi giữa hai chị em nhưng ông mới đi chậm làm sao! Cái đầu to lớn, uy nghiêm gục xuống khiến cho cái mũi gần chạm xuống cỏ. Chợt sư tử trượt chân và rên lên một tiếng sâu thẳm trong lồng ngực.

- Ôi Aslan! Ông Aslan thân yêu! – Lucy nói. – Có chuyện gì không ổn phải không ạ?

- Ông bị bệnh ư, ông Aslan? – Susan lo lắng.

- Không, ta chỉ buồn và cô đơn kinh khủng. Hãy đặt tay lên bờm ta để ta có thể cảm thấy là các con đang ở bên cạnh và chúng ta hãy cứ đi như thế!

Thế là hai cô bé làm cái điều mà chúng không bao giờ dám làm nếu không được ông cho phép, cũng là cái điều mà chúng mong muốn được làm kể từ lúc nhìn thấy Aslan lần đầu tiên, đó là cho bàn tay lạnh cóng vào cái biển lông vàng óng đẹp đẽ, vừa vuốt ve vừa bước đi. Bây giờ chúng nhận ra mình đang đi lên cái dốc dẫn lên ngọn đồi có Bàn Đá. Chúng đi lên trên đồi nơi cây cối mọc lên cao hơn cả và khi đi đến chỗ cái cây cuối cùng – một cây cổ thụ có một vài bụi cây mọc lên xung quanh – Aslan dừng lại, nói:

- Ôi các con, các con phải dừng lại đây thôi. Và dù có bất cứ chuyện gì xảy ra cũng chớ để ai phát hiện ra, rõ không? Tạm biệt các con.

Cả hai đứa đều bật khóc tức tưởi (dù chúng khó mà hiểu được vì lẽ gì) và ôm choàng lấy sư tử, hôn lên bờm, lên mũi, lên móng vuốt và đôi mắt lớn buồn rầu. Sau đó sư tử quay đi, lững thững bước lên đỉnh đồi. Lucy và Susan chui vào trong bụi cây, ngồi đấy nhìn theo ông và đây là những điều chúng chứng kiến.

Cả một đám đông lố nhố, hỗn độn đứng quanh Bàn Đá và dầu đêm ấy trăng rất sáng, chúng vẫn mang theo nhiều ngọn đuốc khói đen. Nhưng mà đó là những kẻ nào chứ? Những tên khổng lồ ăn thịt người với hàm răng nhọn lểu gớm guốc, ghê tởm, bầy sói dữ tợn, những con nhân ngưu, hắc mộc tinh và hắc thảo tinh. Những sinh vật còn lại thì tôi chả dám miêu tả đâu kẻo những người lớn lại không cho phép các bạn nhỏ đọc cuốn sách này mất. Những tộc người man rợ, các mụ phù thủy gớm ghiếc, những hình thù quái dị như bạn thấy lúc bị bóng đè, hồn ma, yêu tinh, hồ ly, cáo… Trên thực tế ở đấy có tất cả những kẻ cùng phe với phù thủy đã được sói triệu tập đến theo lệnh của mụ. Và đứng ngay ở giữa, bên cạnh cái Bàn Đá là Bạch Phù Thủy.

Nghe vang lên tiếng tru và những tiếng rên đầy sợ hãi trong đám các con vật khi lần đầu tiên chúng trông thấy sư tử vĩ đại dang sải bước về phía chúng. Trong một khoảnh khắc cả đến phù thủy cũng ngây ra vì sợ. Đoạn mụ cố trấn tĩnh và bật ra một tiếng cười lảnh lót, điên dại.

- Thằng ngu! – Mụ kêu lên. – Thằng ngu đã dẫn xác đến. Trói chặt nó lại cho ta.

Lucy và Susan nín thở chờ đợi tiếng gầm của sư tử và cú nhảy bổ của ông vào vòng vây của kẻ thù. Nhưng chuyện đó đã không xảy ra. Bốn mụ phù thủy xấu xí, vừa cười nhăn nhở vừa liếc mắt nhìn, vẻ độc ác và đểu cáng. Tuy vậy đầu tiên chúng lùi lại, không phải không có phần khiếp sợ trong lúc tiến đến bên sư tử.

- Trói hắn lại, nghe chưa! – Bạch Phù Thủy nhắc lại. Bốn phù thủy xấu xí lao về phía ông, miệng ré lên khoái trá khi thấy ông không hề chống cự. Đoạn những sinh vật khác – đám đười ươi và người lùn độc ác ùa cả lại giúp phù thủy xấu xí. Chúng đạp sư tử lăn xuống đất, trói bốn cẳng lại với nhau, miệng la hét khoái trá như thể chúng lập được một chiến công oanh liệt lắm, kỳ thực, nếu sư tử muốn thì chỉ cần đạp một chân là cả lũ đã chết nhăn răng. Nhưng sư tử không hề gây ra một tiếng động nào, kể cả khi bọn lâu la hò hét, thít chặt sợi dây và lôi sư tử đến chỗ Bàn Đá.

- Dừng lại! – Bạch Phù Thủy ra lệnh. – Trước tiên hãy cạo bờm hắn cho ta.

Một loạt tiếng cười độc ác nữa vang lên từ bầy lâu la. Một tên khổng lồ đi đến gần sư tử với cái kéo tỉa cây to tướng rồi ngồi xuống phía trước đầu sư tử. Xoẹt – xoẹt – xoẹt, lưỡi kéo chạm vào nhau lách cách và từng nạm lông vàng óng, quăn quăn rơi xuống đất. Khi khổng lồ lùi lại bọn trẻ, từ chỗ lấp của mình có thể trông thấy Aslan nhỏ hẳn lại và trông rất lạ khi không có cái bờm. Kẻ thù của ông cũng nhận ra sự khác biệt này.

- A ha ha, nó chỉ là một con mèo bự mà thôi! – Một con kêu lên.

- Đây là cái kẻ mà tất cả chúng ta đều sợ ư? – Một con vật khác rống lên đầy khoái trá.

Rồi cả lũ tiểu yêu chạy vòng quanh Aslan, chế nhạo ông với những câu như thế này:

- Ê con mèo, ê con mèo! Miu miu thảm hại!

- Ê hôm nay mày bắt được mấy con chuột nhắt vậy?

- Mày có muốn có một đĩa sữa không hả, mèo lười?

- Sao chúng có thể làm như thế? – Lucy thốt Lên, nước mắt chảy ròng ròng trên má. – Đồ súc sinh! Đồ dã man! – Lúc này sau khi đã trải qua phút bàng hoàng, đối với nó khuôn mặt cạo nhẵn của sư tử trông còn quả cảm hơn, đẹp đẽ hơn và nhẫn nại hơn bao giờ hết.

- Khóa mồm nó lại! – Phù thủy nói. Trong lúc lũ lâu la làm mọi việc để cho đầu sư tử vào rọ, chỉ cần ông tớp một miếng thì đã nghiến đứt hai hoặc ba cánh tay của bọn chúng. Nhưng ông không hề động đậy. Chính điều này có vẻ như làm cho đám đông hèn nhát kia nổi khùng lên. Tất cả xúm lại quanh Aslan. Những kẻ trước kia nghe thấy tên ông thì hồn xiêu phách tán bây giờ xán lại gần để chứng tỏ lòng can đảm của mình. Trong vòng mấy phút, hai cô bé không thể nhìn thấy ông – ông bị cả một đám đầu trâu mặt ngựa và yêu tinh đủ loại vây chặt: đá ông, đánh ông, phỉ nhổ vào người ông và chế giễu ông. Cuối cùng bọn hèn nhát này cũng thấy thế là đủ. Chúng bắt đầu lôi xềnh xệch sư tử đến chỗ Bàn Đá, đứa kéo đứa đẩy. Sư tử to lớn đến mức, khi chúng đã kéo ông được đến đấy rồi thì chúng cũng phải cố gắng hết sức mới nhấc được ông lên mặt bàn. Ở đây, chúng lại trói ông thêm nhiều vòng và siết chặt dây trói.

- Quân hèn nhát! Quân hèn nhát! – Susan nức nở. – Chúng vẫn sợ ông, thậm chí cả vào lúc này hay sao?

Khi Aslan bị trói chặt (chặt đến nỗi bây giờ trông ông chỉ còn là một cuộn dây khổng lồ) và nằm chơ vơ trên Bàn Đá, một sự im lặng trùm lên đám đông. Bốn phù thủy xấu xí, cầm bốn đầu dây đứng ở bốn góc bàn. Bạch Phù Thủy xắn tay áo lên cao như mụ đã từng phơi ra đôi cánh tay vào đêm hôm nọ, trước mặt Edmund. Mụ bắt đầu mài dao. Dưới ánh trăng quái gở như màu của những ngọn đuốc, hai cô bé có cảm giác con dao như được làm bằng đá chứ không phải bằng sắt và nó có một hình thù gớm ghiếc, xấu xa

Cuối cùng, mụ bước đến gần. Đứng ngay cạnh đầu Aslan. Khuôn mặt mụ lộ vẻ hả hê, nhăn nhúm lại với một niềm say sưa bệnh hoạn, trong khi khuôn mặt của Aslan vẫn ngước lên trời cao, lặng lẽ, không giận dữ cũng không sợ hãi, chỉ có hơi buồn buồn. Rồi, ngay trước lúc đâm một nhát, mụ cúi xuống, nói với giọng run run:

- Nào, bây giờ ai là người chiến thắng? Đồ ngu, đại ngu, bộ ngươi tưởng ngươi làm tất cả những điều này thì có thể cứu sống được cái thằng phản phúc kia hay sao? Bây giờ ta sẽ giết ngươi thay cho việc giết nó như hiệp ước giữa chúng ta và như thế Phép thuật Sâu sẽ giảm đi. Nhưng một khi ngươi đã chết rồi thì có gì ngăn cản ta không lấy mạng nó nào? Còn ai có thể giằng thằng nhóc ấy ra khỏi tay ta nào? Hãy biết là ngươi đã dâng Narnia cho ta mãi mãi, ngươi đã chết trong tay ta mà vẫn không thể cứu được thằng nhỏ. Hãy nhớ một điều này cái chết của ngươi thật lãng xẹt, vô ích.

Bọn trẻ không dám chứng kiến cảnh chém giết, chúng sợ không dám nhìn, lấy hai tay bịt măt.

Trong khi hai đứa trẻ vẫn nấp trong bụi, hai bàn tay ôm lấy mặt, chúng nghe thấy giọng Bạch Phù Thủy thét lên:

- Nào hãy theo ta, chúng ta sẽ giải quyết những gì còn lại của cuộc chiến này. Không cần mất nhiều thời gian với việc tàn sát bọn người vô lại cùng với thằng phản phúc kia bởi bây giờ tên đại ngu, con mèo to xác đã chết rồi.

Bọn trẻ bị một phen kinh hoàng bạt vía khi chứng kiến những gì xảy ra tiếp theo. Với những tiếng gào rú điên dại, tiếng quàng quạc của bầy chim dữ, tiếng tù và chói tai vân vân, cả đám lâu la hung tợn của Bạch Phù Thủy ầm ầm chạy xuống dốc, ngang qua ngay chỗ hai đứa nấp. Chúng cảm thấy bầy ma quỷ lướt đi như một ngọn gió lạnh buốt ghê rợn và mặt đất dưới chân chúng rung chuyển dưới vó của bọn quỷ đầu trâu. Bầu trời trên đầu tối sầm lại, không gian sực lên mùi hôi hám với tiếng đập cánh của hàng loạt những con kên kên và dơi khổng lồ dang đôi cánh bẩn thỉu, đen đúa của chúng bay đi. Nếu lúc khác, hẳn hai chị em gần như chết ngất đi vì sợ nhưng lúc này nỗi buồn, sự nhục nhã và kinh hoàng về cái chết của Aslan đang tràn ngập tâm trí chúng và chúng chẳng còn biết sợ cho bản thân nữa.

Ngay khi không gian trở nên yên tĩnh, hai chị em bò ra khỏi chỗ nấp. Chị Hằng lúc này đã đi xuống thấp hơn, những đám mây mỏng lướt qua mặt chị như một tấm mạng che mặt nhưng vẫn đủ soi cho chúng thấy sư tử nằm chết trong vòng dây trói. Hai đứa trẻ quỳ xuống đám cỏ ướt đẫm sương, hôn lên khuôn mặt lạnh ngắt, vuốt ve bộ lông đẹp đẽ - hay cái còn lại của bộ lông ấy - và khóc cho đến khi tưởng như không còn giọt nước mắt nào nữa. Đoạn hai đứa trẻ nhìn nhau, nắm chặt tay nhau vì một sự cô đơn thuần túy và lại khóc nữa, sau đó cả hai đều im lặng. Cuối cùng Lucy lên tiếng:

- Em không thể chịu đựng được mỗi khi nhìn cái rọ kinh tởm này. Không biết mình có thể gỡ nó ra không?

Cả hai cố sức. Sau một hồi cố gắng rất ghê (vì các ngón tay của chúng cứng đờ ra và trời lúc này đang vào thời khắc đen tối nhất trong đêm) chúng đã thành công. Khi bọn trẻ nhìn khuôn mặt Aslan không bị chụp trong cái rọ, chúng lại bật khóc lần nữa, hôn lên đấy, vuốt ve nó, dùng tay lau máu và những vết dơ như chúng có thể làm được. Tâm trạng chúng lúc này cô đơn, tuyệt vọng và kinh khủng hơn là tôi có thể mô tả lại.

- Chị không biết chúng ta có đủ sức tháo dây trói ra không? - Susan hỏi.

Nhưng kẻ thù của chúng, chỉ vì sự hằn học thuần túy mà đã siết dây trói chặt đến mức bọn con gái không làm sao tháo các mối dây ra được.

Tôi hy vọng không có ai trong số những người đọc sách này lại có lúc nào cảm thấy đau khổ cực độ như chị em Susan và Lucy vào đêm hôm ấy.

Nhưng nếu bạn cũng ở vào hoàn cảnh ấy - nếu bạn thức suốt một đêm dài và khóc cho đến lúc cả người bạn cứ rỗng tuột hết ra, bạn sẽ đi đến kết luận là có một chuyện gì đó đã đến hồi chung cuộc trong cái sự im lặng sâu xa này, sẽ có ý nghĩ như thể sẽ không có một chuyện gì có thể xảy ra được nữa. Hết giờ này đến giờ khác trôi qua trong một sự bình lặng chết chóc và chúng khó mà nhận ra là người mình đang lạnh dần, lạnh dần. Dù vậy, cuối cùng Lucy cũng nhận ra hai điều. Thứ nhất, bầu trời ở phía đông ngọn đồi đang hửng dần lên so với một tiếng đồng hồ trước đó. Thứ hai, có một chuyển động khó nhận biết trong lớp cỏ dưới chân nó. Đầu tiên nó không chú ý đến chuyện này. Điều đó thì có ý nghĩa gì cơ chứ? Bây giờ hết thảy chẳng còn có ý nghĩa gì nữa! Nhưng rồi nó cũng thấy cái-có-thể-là-bất-cứ-cái-gì-ấy đã bắt đầu di chuyển đến phía những hòn đá nằm bên phải Bàn Đá. Và bây giờ cái-ấy lại di chuyển trên người Aslan. Lucy ghé mắt nhìn kỹ. Đó là những vật màu xám, nhỏ bé.

- Eo ơi! - Susan kêu lên từ phía bên kia bàn. - Kinh tởm quá! Đây là những con chuột nhắt ghê tởm, chúng bò trên người ông. Đi đi, lũ khốn kiếp chúng mày! - Nói rồi nó đưa tay lên toan làm lũ chuột hoảng sợ mà chạy đi.

- Khoan đã! - Lucy kêu lên, nãy giờ nó vẫn đứng yên, chăm chú quan sát. - Chị có thể nhìn rõ chúng đang làm gì không?

Cả hai đứa cúi thấp xuống hơn, mở to mắt nhìn.

- Chị tin là... - Susan nói. - Nhưng sao kỳ lạ quá! Chúng đang gặm đứt dây trói.

- Đó cũng là điều em nghĩ. - Lucy đáp. - Em nhớ rằng đây là những con chuột bè bạn. Tội nghiệp những con vật bé nhỏ này... chúng không nhận ra là ông đã chết. Chúng nghĩ cởi dây trói cho ông cũng là làm một việc tốt.

Trời sáng dần. Lần đầu tiên hai chị em đã nhìn rõ khuôn mặt trắng bệch của nhau. Chúng có thể nhìn rõ bầy chuột đang gặm những sợi dây trói; hàng chục, thậm chí hàng trăm con chuột đồng bé nhỏ. Cuối cùng, từng tí một sợi dây đã được gặm đứt.

Bầu trời đằng đông đã có một màu sữa trắng đục, những vì sao mờ dần rồi biến mất chỉ còn lại một vì sao lớn nhất ngự nơi thấp nhất ở chân trời phía đông. Hai đứa trẻ cảm thấy lúc này còn lạnh hơn cả đêm qua. Lũ chuột đã tản đi đâu mất.

Hai đứa giật ra những đoạn dây còn lại. Aslan trông lại là mình khi không còn những vòng dây trói. Khuôn mặt đã mất hết sức sống của ông mỗi lúc lại có một vẻ cao quý hơn với những tia sáng bắt đầu của một ngày mới.

Trong khu rừng sau lưng chúng đã nghe thấy tiếng một con chim cất tiếng hót cho một ngày mới bắt đầu. Đã suốt mấy giờ liền không gian tuyệt đối yên tĩnh nên tiếng chim hót làm hai đứa giật mình. Rồi nghe có tiếng đáp lại của một con chim khác. Chẳng bao lâu có vô số những chú chim cùng cất tiếng. Rõ ràng một ngày mới đã bắt đầu, đêm đen đã bị đẩy lùi.

- Chu chu, em lạnh quá!

- Chị cũng vậy! Hai chị em mình nên đi lại cho ấm người đi!

Hai đứa đi về mạn đồi phía đông, đứng nhìn xuống. Ngôi sao lớn gần như đã biến mất. Cả một vùng đất trỉa ra bên dưới với một màu xám đen và xa xa ngoài kia ở nơi cuối chân trời, mặt biển ửng lên một màu xanh nhợt nhạt. Bầu trời bắt đầu chuyển sang màu đỏ. Hai đứa đi tới đu lui nhiều lần đến nỗi chúng không thể đếm được số lần chúng đi đi lại lại giữa chỗ Aslan nằm và bờ lũy phía đông khi cố gắng làm cho ấm người lên. Chao ơi, chân chúng mới rã rời làm sao. Cuối cùng, chúng dừng lại một lúc nhìn về phía biển và lâu đài Cair Paravel (mà bây giờ chúng mới nhìn rõ hơn). Màu đỏ chuyển dần thành ráng vàng dọc theo cái đường thẳng nơi bầu trời và mặt biển gặp nhau, và màu vàng ấy làn dần lên chỗ mặt trời mọc. Đúng lúc ấy hai đứa nghe thấy một tiếng động lớn vang ở phía sau - một cái gì vỡ ra chói tai nghe như thể có một người khổng lồ dang thẳng đôi tay khổng lồ đập vỡ một cái đĩa khổng lồ.

- Cái gì vậy? - Lucy hỏi, hoảng hốt chộp lấy cánh tay chị.

- Chị... chị rất sợ... không dám quay đầu lại... có một cái gì rất kinh khủng đã xảy ra.

- Chúng đã làm một cái gì còn xấu xa hơn đối với ông. - Lucy kêu lên. - Đi đi! - Nó quay lại, kéo Susan đi theo mình.

Mặt trời lên làm cho vạn vật trông khác hẳn đi - tất cả những gam màu và hình khối đều đều thay đổi và mất một lúc chúng không phát hiện ra một điều gì quan trọng. Giờ thì chúng đã thấy rõ rồi. Cái Bàn Đá bị vỡ ra làm hai mảnh với tiếng động kinh khủng vừa rồi, mỗi mảnh rơi xuống một nơi và không thấy Aslan đâu nữa.

- Trời đất ơi! - Hai đứa con gái khóc nức lên, chạy về phía đó.

- Ối trời, thật là tệ hại quá, - Lucy nức nở, - bọn chúng cũng phải để cái xác lại chứ!

- Kẻ nào đã làm việc này? - Susan kêu lên. - Chuyện này có ý nghĩa gì? Lại là một pháp thuật nữa hay sao?

- Phải! - Một giọng nói trầm hùng vang lên sau lưng chúng.

- Một phép màu nữa! - Hai đứa ngơ ngác nhìn nhau. Và kia, sáng bừng lên dưới ánh sáng bình minh, to lớn hơn bao giờ hết là Aslan - đang đứng lắc lắc cái bờm (bây giờ nó đã mọc dài lại).

- Ôi, Aslan! - Cả hai đứa đồng thanh kêu lên, chằm chằm nhìn ông, nỗi sợ hãi cũng lớn gần bằng với niềm vui.

- Như vậy là ông không chết thật ư? - Lucy lên tiếng trước.

- Lúc này thì chưa.

- Không phải... không phải... ông là... một... - Susan hỏi với một giọng run rẩy. Nó không thể làm cho mình thốt lên từ “hồn ma”. Aslan cúi cái đầu vàng rực xuống, liếm lên trán nó. Hơi thở ấm áp và cái mùi đặc biệt từ người ông ủ lên người nó.

- Thế trông ta giống như thế sao? - Ông hỏi.

- Ồ, ông là thật, là thật! Ôi Aslan! - Lucy kêu lên, rồi cả hai ôm chầm lấy sư tử, hôn tới tấp.

- Nhưng chuyện này là thế nào ạ? - Susan hỏi khi chúng đã phần nào trấn tĩnh lại.

- Có nghĩa là mặc dù phù thủy đã cho rằng mình biết tất cả mọi yêu pháp nhưng vẫn còn có những điều mà mụ chưa biết. Kiến thức của mụ chỉ dừng lại ở buổi khai thiên lập địa. Nhưng nếu mụ có thể nhìn về một giai đoạn xa xưa hơn, vào cái thời kỳ yên lặng và hỗn mang trước khi trời và đất hình thành mụ sẽ biết được câu thần chú khác. Mụ sẽ biết rằng khi có một nạn nhân tự nguyện - người này không mắc phải tội phản bội - chịu chết thay cho kẻ đó thì Bàn Đá sẽ vỡ làm đôi và Cái Chết tự nó sẽ bắt đầu quay đầu lại. Và bây giờ...

- Ồ vâng. Bây giờ thì sao ạ? - Lucy nói, nhảy tưng tưng, nồng nhiệt vỗ hai tay như điên.

- Ôi các con! Ta cảm thấy sức lực như đã quay về với ta. Ôi các con, hãy đuổi bắt ta nếu như các con có thể làm được điều đó!

Sư tử đứng lặng một giây, đôi mắt sáng long lanh, những cơ bắp ở tứ chi run rẩy rồi vẫy vẫy cái đuôi. Đoạn ông nhảy lên cao qua đầu chúng rồi đáp xuống đất ở phía bên kia cái bàn. Cười như nắc nẻ mặc dù không hiểu tại sao mình lại cười như thế, Lucy bò qua bàn để tóm được Aslan. Ông lại nhảy lên một lần nữa. Cuộc đuổi bắt như mèo đuổi chuột bắt đầu. Chạy vòng quanh đỉnh đồi, khi bọn trẻ không còn hy vọng bắt được thì ông lại chạy chậm một chút để cho chúng suýt tóm được đuôi rồi lại thoắt một cái nhảy lên khiến hai đứa mừng hụt. Ông tung hai đứa lên không trung bằng bốn vó lớn có lớp lông mịn mượt rồi lại giơ móng ra đón bắt chúng. Có một lúc sư tử đột ngột khựng lại khiến cả ba lăn lông lốc trong tiếng cười hạnh phúc cùng với bộ lông mượt và những đôi tay, đôi chân. Đó là một trò chơi vận động rất trẻ con mà chưa có ai từng mục kích ở ngoài Narnia và dù nó giống với trò chơi trọng một trận đánh hay là chơi với một con mèo con thì Lucy cũng không bao giờ có thể nghĩ ra được một chuyện như thế này. Điều buồn cười nhất là lúc cuối cùng khi cả ba nằm lăn chiêng và thở hổn hển dưới ánh mặt trời, bọn con gái vẫn không hề cảm thấy mệt hoặc đói hoặc khát.

- Bây giờ, - Aslan nói, - đến lúc bắt tay vào việc rồi. Ta cảm thấy phải gầm lên một trận mới được. Tốt nhất các con hãy lấy tay bịt tai lại.

Hai đứa làm theo. Aslan đứng yên, khi ông há to miệng gầm lên, vẻ mặt của ông trông dữ tợn đến nỗi chúng không dám nhìn vào, tất cả cây cối trước mặt nghiêng ngả trước luồng gió thoát ra từ tiếng gầm như một cánh đồng cỏ ngả rạp xuống trước một cơn gió mạnh. Gầm xong, sư tử nói:

- Chúng ta có cả một chặng đường dài phải vượt qua. Các con hãy cưỡi lên người ta.

Nói đoạn, sư tử quỳ chân xuống để cho hai đứa trèo lên cái lưng vàng óng, ấm áp của mình; Susan ngồi trước, ôm chặt lấy bờm sư tử, Lucy ngồi phía sau ôm chặt lấy người chị. Rướn cả người lên cao với hai đứa trẻ trên lưng, sư tử phóng đi nhanh hơn bất cứ một con ngựa nào, lao xuống đồi, biến vào trong rừng rậm.

Chuyến đi này có lẽ là kỷ niệm đáng nhớ nhất của hai đứa trên miền đất Narnia. Bạn đã từng cưỡi một con ngựa phi nước đại chưa? Hãy hình dung trong đầu về chuyện đó, hãy xóa đi tiếng vó ngựa dồn dập, tiếng leng keng của chiếc nhạc ngựa, thay vào đó hãy mường tượng ra những bước chân vĩ đại lướt đi không một tiếng động. Rồi lại thấy trong óc mình không phải bộ lông màu đen hoặc xám hoặc màu hạt dẻ của một con ngựa mà là một bộ lông dựng lên vừa mềm mại, vừa vàng óng như tơ và một cái bờm tung bay the gió. Rồi lại hình dung bạn bay lên với tốc độ gấp đôi đường bay của một con ngựa đua về nhất trong tất cả các cuộc đua. Nhưng đây lại là một cuộc đua không cần chạy theo lộ trình đã định và không bao giờ làm cho bạn mệt mỏi.  Sư tử cứ phi lên trước, không để lỗi một nhịp chân, không do dự một giây, băng đi với một kỹ thuật hoàn hảo, lách qua các gốc cây, nhảy vụt qua các lùm cây, các bụi thạch nam, các dòng suối nhỏ, lội qua những dòng suối lớn hơn và bơi qua những dòng sông rộng nhất.

Mà đâu phải bạn đang phi qua một con đường, hoặc một công viên hay một khoảng trống trên một cao nguyên mà bạn đang đi ngang qua xứ sở Narnia diệu kỳ đấy chứ - một xứ sở đang độ xuân về, băng qua những bãi biển, những vạt rừng sừng sững, những cây sồi ngập mình trong nắng sớm, qua những vườn cây hoang dã mọc lên những cây anh đào nở hoa trắng muốt, băng qua những thác nước gầm rú, những tảng đá rêu phong, những cái hang cộng hưởng âm thanh, vút lên những đỉnh dốc đầy gió, sáng bừng lên với những bụi kim trước, hay qua những vách núi mọc đầy thạch nam, nhảy xuống những cái vực; lao xuống nữa, xuống nữa, xuống những thung lũng lòng chảo hoang sơ trải ra ngút tầm mắt màu xanh mát của một cánh đồng hoa.

Đến gần trưa thì họ thấy mình đang lao xuống một triền đồi rất dốc ở gần một lâu đài, một tòa lâu đài nhỏ xíu như một món đồ chơi nếu từ trên nhìn xuống - một tòa lâu đài như gồm toàn những tháp canh nhọn hoắt. Nhưng sư tử đang lao xuống với một tốc độ làm cho nó mỗi lúc một phóng to hơn và trước khi hai đứa trẻ có thời gian tự hỏi trước mắt là cái gì thì cả ba đã phóng đến bên cạnh. Không còn giống như một tòa lâu đài đồ chơi nữa mà nó là một lâu đài thật sự, mọc lên sừng sững với vẻ hắc ám trước mặt chúng. Không có khuôn mặt nào nhìn ra từ lỗ châu mai và các cánh cổng đóng chặt. Và Aslan, thậm chí không phi chậm lại, vọt qua cổng như một viên đạn.

- Hang động của Bạch Phù Thủy. - Aslan kêu váng lên. - Các con hãy bám chặt lấy ta.

Một giây sau cả thế giới như lộn tùng phèo lên, bọn trẻ cảm thấy như chúng đã để tất cả ruột gan lại phía sau, bởi vì sư tử gồng cả người lên trong một cú nhảy mạnh hơn, xa hơn tất cả các cú nhảy khác mà ông đã thực hiện trong đời và ầm một cái - có lẽ bạn nên gọi đó là một cú lao hơn là một cú nhảy - vượt qua hai bức tường cao vòi vọi quanh lâu đài. Hai đứa bé thở không ra hơi, tuy không hề bị thương và lăn khỏi lưng sư tử, ngã xuống giữa một cái sân rộng thênh thang lót đá ngổn ngang những pho tượng.

- Chỗ này đẹp quá! - Lucy reo lên. - Tất cả những con vật bằng đá này - và cả con người nữa! Giống như... giống như một viện bảo tàng vậy.

- Suỵt, - Susan nói, - chờ đó, Aslan sẽ làm một cái gì đó.

Ông làm như thế thật. Ông nhảy qua mình con sư tử đá và phà hơi thở lên người nó. Sau đó không chờ thêm một giây nào ông vẫy đuôi lia lịa - cũng gần giống với cái cảnh một con mèo đùa nghịch với cái đuôi của mình - rồi thở một luồng hơi vào một người lùn bằng đá, cái người (mà nếu như bạn còn nhớ) đứng cách đấy vài mét quay lưng về phía sư tử. Tiếp đó Aslan nhảy qua một nữ thần rừng đứng phía ngoài người lùn, rồi lại thoắt một cái nhảy qua con thỏ đá bên tay phải và đi về phía hai nhân mã. Đúng lúc đó Lucy kêu lên:

- Ôi Susan, chị nhìn kìa, nhìn con sư tử kia kìa!

Tôi nghĩ rằng bạn đã từng thấy một người di một que diêm đang cháy vào một mảnh giấy, miếng giấy thoạt tiên cưỡng lại ngọn lửa. Trong vòng một giây không có chuyện gì xảy ra và sau đó, bạn nhận thấy một tia lửa nhỏ bò vào mép tờ giấy. Chuyện xảy ra bây giờ cũng tương tự như vậy. Một giây sau khi Aslan phà hơi vào sư tử đá trông nó vẫn im lìm như vậy. Rồi một dải ánh sáng vàng rất mỏng bắt đầu chạy dọc suốt cái lưng cẩm thạch trắng xóa - lan ra, lan rộng ra mãi cho đến khi cái màu vàng ấy trùm lên toàn thân pho tượng cũng như ngọn lửa bừng lên nuốt trọn tờ giấy báo. Trong khi mông nó rõ ràng vẫn là đá thì sư tử rung bờm và cái bờm đá nặng nề tung lên thành những nạm lông sống động. Rồi nó há to cái miệng đỏ, ấm áp và sinh động làm thoát ra một tiếng gầm thật lớn. Bây giờ thì hai chân sau của nó đã sống lại, nó nhấc một chân lên gại gại lên người. Khi nhìn thấy Aslan, sư tử vội chạy theo, nhảy quẩn bên cạnh, miệng rên ư ử vì vui mừng và nó nhảy lên liếm vào mặt Aslan. Tất nhiên ánh mắt lũ trẻ con nhìn hút theo sư tử nhưng rồi cảnh tượng chung quanh kỳ tuyệt đến nỗi chúng cũng quên luôn con vật. Ở khắp nơi, các pho tượng quay về với sự sống. Sân lâu đài không còn giống với một viện bảo tàng nữa mà giống một vườn thú hơn. Các con vật đuổi theo Aslan, nhảy múa quanh ông cho đến khi ông gần như bị đám đông che khuất. Thay cho màu trắng chết chóc trùm trên sân vài phút trước là các mảng màu khác nhau: màu hạt dẻ bóng láng hai bên sườn nhân mã; những cái sừng màu chàm của mấy con kỳ lân; những bộ lông chim óng ánh; những con cáo lông hung đỏ; chó và thần dê; những đôi tất màu vàng và mũ chùm màu đỏ tía của người lùn; những nữ thần cây bu lô có màu bạc và nữ thần sồi tươi mát với cái áo màu xanh trong suốt, thần cây thông rụng lá lại có màu xanh rực đến nỗi trông như ngả sang màu vàng. Thay vì một sự im lặng muôn đời của cõi chết, cả lâu đài lúc này vang lên những tiếng kêu, tiếng la, tiếng sủa, tiếng rống, tiếng gầm, tiếng rú, tiếng hí, tiếng giậm chân hạnh phúc; nghe lẫn trong đám âm thanh hỗn độn còn có cả câu hát, tiếng cười.

- Ôi, xem kìa! - Susan kêu lên với một giọng khác. - Chị tự hỏi... ý chị muốn nói không biết thế kia có an toàn không nữa.

Lucy nhìn lại và thấy Aslan vừa phả hơi thở vào đôi chân của một người khổng lồ bằng đá.

- Tất cả rồi sẽ ổn! - Aslan vui sướng kêu lên. - Một khi đôi chân này đã được đặt vào đúng chỗ, tất cả những bộ phận khác sẽ theo sau.

- Đó không hẳn là điều chị muốn nói. - Susan thì thầm với Lucy. Nhưng đã quá trễ để làm bất cứ cái gì kể cả khi Aslan nghe thấy điều nó nói. Sự sống đã bò vào đôi chân người khổng lồ. Bây giờ ông ta đang giậm giựt đôi chân. Một giây sau khổng lồ nhấc cây gậy tày lên khỏi vai, dụi dụi mắt và nói:

- Chúa phù hộ cho tôi! Chắc tôi đã ngủ thiếp đi. Kìa cái con mụ phù thủy nhỏ chết tiệt kia đang chạy quanh sân. Có chỗ nào cho ta đặt chân xuống không. Nhưng khi tất cả la lên giải thích chuyện gì đã xảy ra và khi khổng lồ đặt một tay lên vành tai để nghe rõ hơn rồi lại yêu cầu mọi người lặp lại cho đến khi hiểu ra thì ông ta cứ gập người xuống, cái đầu không thấp hơn một đống rơm. Ông ta đưa tay lên chạm vào vành mũ, lặp đi lặp lại một điều gì đó với Aslan, khuôn mặt xấu xí nhưng trung hậu đỏ bừng lên (loại người khổng lồ này trở nên rất hiếm ở Anh, vì thế mà chỉ có rất ít những người khổng lồ tốt tính và tôi xin cược mười ăn một là bạn chưa từng thấy một người khổng lồ nào đỏ mặt. Đó cũng là một điều đáng được quan sát lắm đấy).

- Nào bây giờ ta hãy vào bên trong lâu đài! - Aslan nói. - Mọi người nhìn cho kỹ nhé. Trên lầu, dưới nhà, trong phòng riêng của phù thủy! Không bỏ qua một xó nào hết. Các người không bao giờ có thể biết rõ tất cả những ngóc ngách mà một người tù khốn khổ có thể bị giam giữ đầu.

Tất cả ùa vào trong nhà, chỉ trong vòng vài phút là toàn bộ lâu đài cổ lỗ, ẩm mốc, âm u, ảm đạm và đáng sợ đã vọng lên tiếng mở các cánh cửa, tiếng nhiều người gọi nhau cùng một lúc.

- Đừng quên gian tầng hầm - phụ một tay đẩy cánh cửa này nào - ồ, ở đây còn có một cái cầu thang phụ - thì tôi đã nói mà - đây là một con kanguru khốn khổ. Gọi Aslan đến đây đi. Phù - cái mùi làm người ta buồn nôn. Nhìn cái cửa sập kìa - trên kia kìa. Xem cả cái đống này này!

Điều tốt đẹp hơn cả là khi Lucy hộc tốc chạy lên cầu thang miệng kêu lớn:

- Aslan, ông Aslan! Cháu tìm thấy ông Tumnus rồi. Xin ông nhanh lên cho!

Một phút sau đó Lucy và thần rừng bé nhỏ đã nắm tay nhau, nhảy múa hân hoan vì vui sướng. Thần rừng không phải chịu số phận bị biến thành đá và tất nhiên rất háo hức muốn nghe chuyện Lucy kể.

Cuối cùng cuộc lùng soát trong căn cứ của Bạch Phù Thủy cũng chấm dứt. Toàn bộ lâu đài trở nên trống trải, cửa lớn cửa nhỏ được mở rộng cánh để cho ánh sáng và không khí ngát hương của mùa xuân tràn vào bởi những chỗ tối tăm, độc ác này đang rất cần một cái gì đó lành mạnh, tươi mới. Cả đám đông các pho tượng vừa được giải phóng lại ùa ra ngoài sân. Đến đây một người (tôi nghĩ là Tumnus) lên tiếng:

- Làm sao chúng ta có thể ra ngoài đây? - Bởi vì Aslan đã nhảy qua tường và các cánh cổng vẫn khóa chặt.

- Tất cả sẽ ổn. - Aslan nói, đoạn ông giơ một chân sau lên khẽ đạp vào người khổng lồ. - Này! Đến lượt nhà ngươi đó! - Sư tử gầm lên vang dội. - Tên ngươi là gì?

- Thưa, là khổng lồ Rumblebuffin ạ, nếu như điều đó có thể làm ngài hài lòng. - Khổng lồ nói, giơ tay lên chạm vào vành mũ.

- Vậy thì, Rumblebuffin, ngươi giúp chúng ta ra ngoài, được chứ?

- Chắc chắn rồi thưa ngài. Đó còn là một trò vui đối với tôi. Vui lòng đứng tránh xa cổng, tất cả những sinh vật tí hon xinh xinh kia.

Đoạn, ông ta chỉ sải một bước đã ra đến cánh cổng và - choang choang choang - cây gậy tày khổng lồ vung lên. Hai cánh cổng nứt ra ở cú đập thứ nhất, kêu răng rắc ở cú đánh thứ hai và rung lên bần bật ở cú thứ ba. Sau đó ông ta nắm lấy hai cái trụ lớn ở hai bên, sau một vài phút nện huỳnh huỵch và lắc hai cái trụ, cả một mảng tường ập xuống hai bên, tạo nên một đống đổ nát như trong một trận động đất. Sau khi bụi đã lắng xuống bạn sẽ thấy thật kỳ lạ cái việc bạn có thể đứng trên khoảng sân lát đá khô cằn và dữ tợn này mà nhìn qua mảng tường sập, thấy bãi cỏ xanh rờn, những hàng cây lay động trong gió, những dòng suối lấp lóa ánh nắng trong từng, những dải đồi xanh tươi phía xa và xa hơn nữa là bầu trời.

- Ra đi, nếu không người tôi đầm đìa mồ hôi như thế này! - Khổng lồ nói, thở hồng hộc như một cái đầu máy xe lửa khổng lồ. - Đi ra khỏi đây đi. Tôi cho rằng không không ai trong hai tiểu thư này có mang theo một cái gì như là... như là một cái khăn mùi xoa.

- Có, tôi có đây! - Lucy nói, kiễng chân lên đưa cho khổng lồ chiếc khăn tay của nó.

- Xin cảm ơn tiểu thư. - Khổng lồ Rumblebuffin nói, cúi rạp người xuống chào. Một phút sau Lucy được một phút hoảng hồn khi nó thấy mình lơ lửng trong không trung bị kẹp giữa ngón tay cái và ngón tay trỏ của khổng lồ. Nhưng khi nó bị đưa đến gần mặt người này, ông ta giật mình nhìn nó sửng sốt đoạn nhẹ nhàng đặt nó xuống đất, miệng lẩm bẩm:

- Tha thứ cho tôi. Tôi đã gắp nhầm cô bé này. Xin hãy tha thứ cho tôi, tiểu thư nhé. Tôi lại tưởng cô là cái khăn tay chứ!

- Không sao! - Lucy nói rồi bật cười. - Đây, nó đây này. - Lần này khổng lồ cố nhón cho được cái khăn nhưng đối với ông ta nó chỉ như một viên kẹo ngọt đối với bạn, vì thế khi Lucy thấy khổng lồ nghiêm trang đưa cái khăn qua lại trên khuôn mặt to bè ửng đỏ thì nó nói ngay. - Cháu e rằng nói chẳng được tích sự gì nhiều với ông, thưa ông Rumblebuffin.

- Không phải vậy. Không phải vậy. - Khổng lồ nói vẻ lịch thiệp. - Chưa từng có một cái khăn nào dễ thương hơn. Thật đẹp, thật tiện lợi. Tôi... tôi không biết tả thế nào cho phải.

- Ông ấy là một người khổng lồ dễ thương! - Lucy nói với Tumnus.

- Ồ, phải! - Người này mau mắn trả lời. - Tất cả những người thuộc dòng họ Buffin đều thế. Đó là một loại người khổng lồ đáng kính nhất ở Narnia. Không được khôn ngoan cho lắm, có lẽ thế (nhưng tôi chưa gặp một người khổng lồ nào khôn ngoan cả) tuy vậy đó là một dòng họ lâu đời, có truyền thống. Nếu ông ấy không thuộc loại này thì mụ ta sẽ không bao giờ biến ông ta thành đá.

Đến đây Aslan giậm cả bốn vó xuống đất yêu cầu mọi người giữ trật tự.

- Công việc trong ngày của chúng ta còn chưa hoàn tất. - Ông nói. - Nếu Bạch Phù Thủy cuối cùng sẽ bị đánh bại trước giờ đi ngủ, thì chúng ta phải tìm đến nơi trận đấu đang diễn ra, ngay bây giờ.

- Và tham gia chiến đấu, tôi hy vọng như thế, thưa ngài. - Nhân mã cao lớn nhất thêm vào.

- Tất nhiên. - Aslan kêu lớn. - Bây giờ, những ai di chuyển không nhanh - như trẻ con, người lùn và những sinh vật bé nhỏ - hãy cưỡi lên lưng những con vật có tốc độ: sư tử, nhân mã, kỳ lân, ngựa, khổng lồ và đại bàng. Những động vật nào có khứu giác phát triển tốt cùng với loài sư tử chúng ta hãy vượt lên dẫn đầu, đánh hơi xem trận đánh đang diễn ra ở đâu, hãy bảo vệ lẫn nhau!

Tất cả ồ lên những tiếng kêu vui mừng, phấn khởi. Nhưng người vui mừng hơn cả là sư tử, nó cứ nhắng lên, chạy quanh làm ra vẻ bận rộn lắm những kỳ thực chỉ để nói với bất cứ ai mà nó gặp: “Đã nghe ngài nói gì chưa? Sư tử chúng tôi. Có nghĩa là ngài và tôi. Loài sư tử chúng tôi. Đó chính là điểm tôi thích ở Aslan. Không phân biệt, không-đứng-ra-một-bên. Loài sư tử chúng tôi. Có nghĩa là ngài và tôi.” - Nó cứ nói đi nói lại mãi câu đó cho đến lúc Aslan phân công nó cõng trên lưng ba người lùn, một nữ thần rừng, hai con thỏ và một lửng. Điều này làm nó kém hào hứng đi một chút.

Khi tất cả đã sẵn sàng - một con chó chăn cừu loại lớn đã đắc lực giúp Aslan phân công cho hợp lý - người và vật phóng qua chỗ bức tường sập xuống. Sư tử và chó đi trước đánh hơi về mọi hướng. Nhưng rồi bất thình lình một con chó săn lớn nhận được mùi và sủa rộ lên. Không còn thời gian để lãng phí nữa. Chẳng bao lâu tất cả chó, sư tử, chó sói, và những động vật đi săn khác chạy hết tốc lực, mũi vẫn cắm xuống đất tiếp tục đánh hơi và đoàn thú phía sau bị tụt lại chừng nửa dặm, chạy vừa với cái sức mà chúng có thể chịu đựng được. Âm thanh sôi động như trong một cuộc đi săn cáo của người Anh, chỉ có điều nghe hay hơn bởi vì thỉnh thoảng đâu đó lại vọng lên tiếng sủa vui tươi của bầy chó săn hòa với tiếng gầm vang của một con sư tử và thỉnh thoảng vang lên tiếng rống trầm hùng hơn, oai phong hơn của chính Aslan.

Nhanh hơn, nhanh hơn và cái mùi của một trận đánh càng lúc càng dễ nhận ra hơn rồi đúng cái lúc họ đến đường vòng của một thung lũng hẹp quanh co, Lucy nghe thấy vượt lên trên tất cả những âm thanh khác, đó là một tiếng rền âm âm kéo dài gây cho nó một cảm giác thật kỳ lạ. Những tiếng la hét, tiếng rít, tiếng va chạm của các loại binh khí bằng thép.

Sau khi vượt ra khỏi thung lũng, Lucy có thể thấy ngay nguyên nhân. Peter, Edmund và tất cả đội quân đứng về phía Aslan đã chiến đấu một cách tuyệt vọng với cái đám yêu ma quỷ quái mà nó đã nhìn thấy vào đêm hôm trước. Chỉ có điều giờ đây dưới ánh sáng ban ngày trông chúng còn quái gở, độc ác và dị dạng méo mó hơn. Đội quân của Peter - lúc này đang quay lưng về phía Lucy - có vẻ ít ỏi một cách thảm hại. Trên chiến trường rải rác một vài pho tượng, rõ ràng là phù thủy đã dùng đến cây gậy phép. Nhưng vào lúc này có vẻ như mụ không cần sử dụng đến nó. Mụ đánh nhau bằng con dao đá. Đối thủ của mụ là Peter - cả hai ra đòn rất nhanh làm cho Lucy khó có thể hình dung cục diện của trận đấu, nó chỉ nhìn thấy con dao đá và thanh gươm của Peter chạm vào nhau nhanh như chớp trông tựa như có đến ba con dao và ba thanh gươm. Hai kỳ phùng địch thủ này đang quần nhau giữa trận tiền. Quân của mỗi bên dạt về hai phía. Bất cứ chỗ nào mắt phù thủy phóng đến cũng có những chuyện kinh khủng xảy ra.

- Nhảy khỏi lưng ta, các con! - Aslan hét lên.

Cả hai đứa lăn xuống đất. Với một tiếng gầm làm rung chuyển cả đất Narnia, từ cây cột đèn ở phía tây đến bãi biển phía đông, con sư tử vĩ đại chồm về phía Bạch Phù Thủy. Lucy nhìn thấy mụ ngước mắt nhìn Aslan và trong vòng một giây đôi mắt mụ biểu lộ nỗi kinh hoàng và sững sờ.

Sư tử và phù thủy lăn xả vào nhau, nhưng lần này phù thủy núng thế hơn, cùng lúc đó tất cả những sinh vật mà Aslan đã giải phóng khỏi tòa lâu đài của phù thủy lao vào, quyết sống mái với đám yêu ma. Người lùn với những chiếc rìu đánh trận, chó với hàm răng nhọn hoắt, khổng lồ với cây gậy tày trứ danh (chỉ riêng đôi chân của ông đã xéo nát hàng chục kẻ thù), kỳ lân với những chiếc sừng, nhân mã với kiếm kích và móng vuốt. Đội quân mỏi mệt của Peter cất tiếng hò reo hòa cùng với tiếng reo hò vang trời dậy đất của đội quân mới kéo đến. Quân thù ré lên và rên rỉ cho đến khi cả khu rừng vọng lại những âm thanh hỗn độn dữ dội của trận chiến.

Trận chiến đấu kéo dài thêm vài phút sau khi đoàn quân tiếp viện kéo đến. Hầu hết kẻ thù đã bị giết trong đợt tấn công đầu tiên của Aslan và đồng đội của ông; số ít thấy chủ soái của mình là Bạch Phù Thủy đã chết thì cũng vội vàng bỏ chạy. Cảnh tiếp theo mà Lucy chứng kiến là Peter và Aslan bắt tay nhau. Nó cảm thấy thật lạ lùng khi ông anh cả vào lúc này – khuôn mặt tái xanh, nghiêm nghị và trông anh có phần nghiêm nghị hơn cái tuổi của mình.

- Đều là công của Edmund cả, thưa Aslan. – Peter nói. – Chúng tôi hẳn đã bị đánh cho tả tơi không còn mảnh giáp nếu không có cậu ấy. Phù thủy biến đội quân của chúng tôi thành đá ở hai cánh tả và hữu. Nhưng không gì có thể làm Edmund dừng lại. Nó đánh theo cách của mình với ba tên khổng lồ ăn thịt người ở cái chỗ mà mụ vừa biến một con báo của chúng ta thành tượng. Khi tiếp cận với mụ, nó đã khôn ngoan vung thanh gươm vào cây gậy phép của mụ chứ không đánh thẳng vào người mụ, cây gậy phép sẽ biến nó thành tượng thay vì làm nó đau đớn. Đó cũng chính là cái lỗi mà tất cả mắc phải khi đánh nhau với mụ: cố làm cho mụ bị thương. Một khi cây gậy phép của mụ đã gãy rồi chúng tôi có nhiều lợi thế hơn – nếu không chúng tôi sẽ bị tổn thất nặng nề. Edmund bị thương rất nặng. Đi, ta đi tìm nó thôi.

Họ tìm thấy Edmund đang được hải ly vợ chăm nom ở cách chỗ trận đánh diễn ra một quãng. Người nó nhuộm đầy máu, cái miệng há ra thở dốc và khuôn mặt có màu xanh rất đáng ngại.

Và rồi, lần đầu tiên Lucy nhớ ra cái lọ kim cương quý giá được ông già Noel tặng cho như một món quà Noel. Đôi tay nó run đến mức khó có thể mở nắp lọ, nhưng cuối cùng nó cũng làm được và đổ mấy giọt vào miệng anh trai.

- Còn nhiều người bị thương nữa. – Aslan nhắc, trong khi Lucy vẫn lo lắng nhìn vào khuôn mặt xanh mét của Edmund tự khỏi không biết cái thứ rượu này có làm nên được điều kỳ diệu không.

- Vâng, con biết. – Lucy nóng nảy đáp. – Xin chờ một phút.

- Con gái của Eve, - Aslan nói với một giọng nghiêm trang hơn, - những người khác cũng sắp chết đến nơi rồi. Cần phải có nhiều người chết hơn vì Edmund hay sao?

- Con xin lỗi ông Aslan. – Lucy nói và đứng dậy đi theo ông. Nửa giờ sau đó họ rất bận rộn. Lucy chăm sóc những con người bị thương trong lúc Aslan trả những người bị hóa đá về với cuộc sống. Cuối cùng khi Lucy đã xong việc, nó quay lại chỗ anh trai nằm và thấy Edmund đã đứng lên, không chỉ lành các viết thương và trông còn khỏe mạnh, có khi sắc hơn cái vẻ đẹp trước kia rất nhiều.

Đúng thế, trông Edmund đẹp đẽ hơn học kỳ khủng khiếp đầu tiên mà nó đã làm mọi việc đâm ra hỏng bét. Bây giờ nó lại trở về là chính mình, có thể nhìn bằng mắt vào mắt bạn. Trong trận đánh này, Aslan đã giúp nó trở thành một trang hiệp sĩ thực sự.

- Có phải Edmund biết điều Aslan đã làm cho mình? – Lucy thì thào hỏi chị gái. – Có phải anh ấy biết cuộc thương lượng giữa Aslan và phù thủy?

- Suỵt! Không. Tất nhiên là không. – Susan nói.

- Không nên nói cho anh ấy biết hay sao?

- Ồ, chắc chắn là không nên. – Susan nói. – Điều này quá khủng khiếp đối với Edmund. Thử nghĩ coi, em sẽ cảm giác như thế nào nếu em là cậu ấy.

- Dù sao thì em vẫn nghĩ anh ấy nên biết điều đó. – Lucy khăng khăng.

Nhưng đúng lúc đó cuộc trao đổi của hai đứa bị cắt ngang.

Đêm ấy chúng ngủ ngay tại đấy. Làm cách nào mà Aslan có được thức ăn cho bọn trẻ thì tôi không biết, nhưng bằng một cách nào đó chúng thấy mình ngồi trên một bãi cỏ trước một bàn trà rất ngon vào lúc 8 giờ tối. Ngày hôm sau đoàn quân bắt đầu đi về hướng đông dọc theo bờ sông. Lâu đài Cair Paravel nằm trên một ngọn đồi nhô cao vượt lên trước mặt họ. Phía trước mặt là những cồn cát với những tảng đá lớn, vụng biển, rong tảo biển và cái mùi mặn mòi của biển với hàng dặm dài những lớp sóng ngả sang màu xanh lá cây ào lên bờ bãi, vỡ ra thành hàng trăm con sóng nhỏ. Và kia, nghe vẳng trong không gian tiếng kêu của bầy hải âu. Bạn đã từng nghe thấy chưa? Bạn có nhớ không? Tối hôm ấy sau bữa tiệc trà, bốn anh em lại đi ra bờ biển lần nữa, tháo giày và cởi vớ ra giẫm chân trần trên cát để có thể cảm thấy cát lạo xạo dưới chân.

Ngày hôm sau có nhiều việc làm quan trọng hơn. Trong đại sảnh lâu đài Cair Paravel – một gian phòng đẹp tuyệt vời với mái lợp bằng ngà, bức tường phía tây treo đầy những bộ lông chim công, cửa phía đông trông ra biển. Trước sự hiện diện của tất cả bạn bè và trong tiếng kèn trumpet rộn rã, Aslan trang trọng đặt vương miện lên đầu bốn anh em và dẫn họ ngồi vào bốn cái ngai vàng trong lúc quần thần hô vang: “Vua Peter vạn tuế! Nữ hoàng Susan vạn tuế! Vua Edmund vạn tuế! Nữ hoàng Lucy vạn tuế!”

- Một khi đã trở thành vua hoặc nữ hoàng của Narnia thì bao giờ cũng là vua hoặc nữ hoàng. Hãy đảm nhiệm tốt vai trò của mình hỡi con trai của Adam! Hãy làm tốt chức năng của mình hỡi con gái của Eve! – Aslan cao giọng nói.

Qua cánh cửa mở rộng về phía đông, vang lên bài ca của các thủy thần và các nàng tiên cá. Họ bơi đến gần bờ cất tiếng hát ca ngợi những vị vua và nữ hoàng mới của mình.

Thế là những bạn trẻ ngồi trên ngai vàng, những cây quyền trượng được đặt vào tay họ và họ trao phần thưởng với tấm lòng trân trọng đến tất cả bạn bè, đến Tumnus – thần rừng, vợ chồng hải ly, người khổng lồ Rumblebuffin, báo hoa, những con nhân mã tốt bụng, những người lùn trung hậu và cả sư tử. Đêm ấy, trong lâu đài Cair Paravel có một bữa tiệc lớn chưa từng thấy, người ta ăn chơi, nhảy múa, vàng lóe sáng và rượu chảy ra như suối. Đáp lại tiếng đàn trong lâu đài là lời ca tiếng hát của những cư dân ngoài biển mạnh mẽ hơn, ngọt ngào hơn, kỳ lạ hơn.

Trong không khí tưng bừng như vậy thì sư tử lặng lẽ bỏ đi. Khi vua và các nữ hoàng nhận ra là Aslan không có mặt ở đó, không có lời bàn luận gì về chuyện này. Bởi vì vợ chồng hải ly đã nói trước với họ: “Ngài đến và đi. Mới hôm nay mọi người gặp ngài nhưng ngày mai có thể là không gặp nữa. Ngài không thích bị trói buộc – và tất nhiên ngài có nhiều nơi khác phải quan tâm. Mọi việc đều ổn thôi. Ngài sẽ thường xuyên ghé qua đây. Chỉ có điều đừng tạo áp lực với ngài. Mọi người cũng biết đấy, ngài là một con người của Tự nhiên không quen với nếp sống của một con sư tử đã được thuần hóa.”

Và bây giờ bạn cũng thấy đấy, câu chuyện này đã gần (nhưng chưa hẳn) đến đoạn kết. Hai vị vua và hai vị nữ hoàng cai trị vùng này rất giỏi, họ sống một khoảng thời gian đầy hào hứng và hạnh phúc ở Narnia. Sau khi đã lên ngôi, họ dành ra phần lớn thời gian để tìm kiếm bọn lâu la của Bạch Phù Thủy và tiêu diệt chúng. Thực sự là trong một thời gian dài có những lời đồn đại về những con vật rất độc ác lảng vảng trong những khu rừng sâu, ám người này, giết người kia, thảng một lần cũng có người thảng thấy bóng ma sói và lời đồn về một mụ phù thủy độc ác nào đó thường xuất hiện. Nhưng cuối cùng tất cả bọn yêu ma quỷ quái này đều đã bị quét sạch. Bốn người đề ra những đạo luật sáng suốt, giữ cho mảnh đất này sống trong cảnh yên vui thanh bình: những cây cho bóng mát và quả ngọt không còn bị chặt bừa bãi, những người lùn và thần dê còn trẻ được đưa đến trường, họ có chính sách quản thúc những kẻ ưa kiếm chuyện và ưa can thiệp vào chuyện của người khác, khuyến khích những người bình thường được sống một cuộc sống tự do thoải mái. Họ cũng đuổi những tên khổng lồ hung tợn (bọn này rất khác với khổng lồ Rumblebuffin) về phía bắc Narnia, mỗi khi bọn này liều mạng vượt qua biên giới. Họ còn mở rộng mối quan hệ hữu nghị và giao hảo với những nước lân bang bên kia bờ biển, thỉnh thoảng cũng sang thăm các nước láng giềng hoặc tiếp đón trọng thể bạn bè. Bốn anh em đã lớn lên và thay đổi rất nhiều cùng thời gian trôi qua. Peter cao hơn, bộ ngực nở nang và là một chiến binh vĩ đại, được xưng tụng là vua Peter Dũng mãnh. Susan trở thành một thiếu nữ cao dong dỏng và rất mực duyên dáng với mái tóc đen huyền đổ xuống tận gót chân. Vua ở các nước bên kia bờ biển cử đại sứ sang cầu hôn nàng tới tấp. Nàng được gọi là Susan Hiền dịu. Edmund trang nghiêm và kín đáo hơn anh trai, rất sáng suốt trong việc điều hành đất nước và phân xử mọi chuyện một cách phân minh, được gọi là Edmund Công chính. Còn về phần Lucy, cô bao giờ cũng là một thiếu nữ tóc vàng vui vẻ, làm cho tất cả các hoàng tử ở các vùng khác nhau đều ao ước rước được nàng về dinh làm hoàng hậu. Còn người dân trong vương quốc của nàng thì xưng tụng nàng là nữ hoàng Lucy Can đảm.

Cuộc sống của họ là một niềm vui bất tận và nếu như họ nhớ về quãng đời trong thế giới chúng ta thì nó cũng đẹp như người ta nhớ về một giấc mơ vậy. Một năm nọ lại là Tumnus (người lúc này đã đứng tuổi và bắt đầu trở nên bệ vệ) đi xuống mạn bờ sông mang đến cho các vua và các nữ hoàng tin tức về một con sơn dương trắng như tuyết một lần nữa lại xuất hiện trong khu rừng của ông – loài hươu này sẽ ban cho bạn những điều ước nếu bắt được nó. Thế là bốn anh em cùng với những viên quan đại thần trong triều cưỡi ngựa mang theo tù và cùng một đàn chó săn đuổi theo sơn dương. Họ không săn bắn được gì cho đến khi họ thoáng thấy bóng nó. Sơn dương khiến họ thúc ngựa chạy như bay qua những vùng đất gồ ghề, rồi bằng phẳng, qua những cánh rừng thưa rồi đến vùng rừng rậm cho đến khi ngựa của các triều thần mệt nhoài đành bỏ cuộc chỉ còn bốn anh em đi tiếp. Họ thấy sơn dương chui vào một bụi rậm và ngựa chịu không thể đi qua. Đến đây vua Peter nói (bây giờ họ đã nói chuyện với nhau bằng một phong cách khác sau một thời gian dài sống trong cung đình): “Vua và các nữ hoàng kính mến, chúng ta hãy xuống ngựa đuổi theo con thú vừa chạy vào bụi rậm kia, bởi vì trong suốt đời mình, trẫm chưa hề thấy con mồi nào đáng mơ ước hơn thế”.

- Tâu bệ hạ, - ba người đồng thanh đáp, - hãy làm như thế đi.

Thế là họ xuống ngựa, cột ngựa vào những thân cây và đi bộ vào khu rừng sâu hun hút. Đi được một đoạn, nữ hoàng Susan lên tiếng:

- Hoàng huynh, hoàng đệ và hoàng muội, ta lấy làm ngạc nhiên lắm, dường như ta thấy có mọc lên một cái cây bằng sắt.

- Thưa hoàng tỉ, - vua Edmund nói, - nếu nhìn kỹ người sẽ nhận thấy đó là một cây cột bằng sắt, có một cái đèn lồng treo trên cao.

- Nhân danh bờm sư tử, bằng một phép màu, - vua Peter nói, - Aslan đã đặt một cột đèn ở cái nơi cây cối mọc tươi tốt và cao lớn đến nỗi nếu đèn có thắp sáng đi chăng nữa, thì nó cũng chẳng chiếu được ánh sáng xuống cho con người.

- Thưa bệ hạ, - nữ hoàng Lucy lên tiếng, - có vẻ như cái cột này được chồng ở đây trước và ngọn đèn kia được treo lên thì ở đây cây cối vẫn còn rất thấp, hoặc mặc thưa hơn, hoặc chẳng có cây cối gì hết. Bởi vì đây là một cánh rừng non trẻ còn cái cột đèn kia thì đã quá lâu đời rồi.

Cả bốn dừng lại trầm tư nhìn cột đèn. Đoạn vua Edmund nói:

- Ta không rõ chuyện này lắm, nhưng ngọn đèn trên cái cột này có một tác động lạ lùng đến ta. Một ý nghĩ vụt đến trong đầu ta rằng ta đã nhìn thấy nó trước đây rồi, hình như trong một giấc mơ hoặc trong một giấc mơ của những giấc mơ.

- Đúng thế, - tất cả cũng kêu lên, - ta cũng có cảm giác như vậy.

- Hơn nữa, - nữ hoàng Lucy nói, - nó sẽ không ra khỏi đầu ta nếu chúng ta đi qua cột đèn này. Vậy thì điều đó có nghĩa là hoặc chúng ta sẽ có những cuộc phiêu lưu kỳ lạ hoặc sẽ có một sự thay đổi lớn trong tương lai của mỗi chúng ta.

- Hoàng muội, - vua Edmund nói, - ta chia sẻ với muội cũng cái suy nghĩ đó.

- Và ta nữa, - nữ hoàng Susan nói, - nhưng theo ý kiến của ta, chúng ta nên quay về chỗ buộc ngựa và thôi không đuổi theo con hươu trắng nữa.

- Hoàng muội, - vua Peter lên tiếng, - trong vấn đề này ta xin hoàng muội tha thứ cho ta. Chưa bao giờ, kể từ ngày chúng ta lên làm vua và nữ hoàng ở Narnia mà chúng ta lại không giải quyết những vấn đề trọng đại như các trận chiến, những bữa đại tiệc, những trận đấu võ, việc phân định phải trái và có vẻ như mọi chuyện đều tốt đẹp. Nhưng bao giờ cũng vậy, đồng thời với việc chúng ta đạt được một cái gì thì lại có một cái gì khác cần hướng tới.

- Hoàng tỉ, - nữ hoàng Lucy xen vào, - huynh trưởng của chúng ta nói rất chí lý. Với ta thật đáng hổ thẹn nếu vì bất cứ nỗi sợ hãi nào hay nguy cơ nào mà chúng ta phải từ bỏ không đi theo một con vật tuyệt đẹp và chúng ta mong muốn.

- Ta cũng có ý này, - vua Edmund phụ họa, - và ta tha thiết muốn tìm ra ý nghĩa của việc này. Vì nó ta sẵn sàng từ bỏ viên kim cương đẹp nhất ở toàn Narnia và trên tất cả các đảo.

- Như vậy nhân danh Aslan, - nữ hoàng Susan nói, - nếu tất cả đồng lòng thì chúng ta hãy đi tiếp và đón nhận bất cứ cuộc phiêu lưu nào rơi xuống chúng ta.

Thế là bốn anh em vua chúa đi tiếp vào rừng sâu và trước khi họ đi quá xa, tất cả thình lình nhớ lại nhớ lại một vật mà họ từng nhìn thấy gọi là cột đèn. Trước khi bước thêm khoảng hai mươi bước nữa họ nhận ra không phải là họ tìm đường đi qua các cành cây mà lại đi qua những lớp áo khoác. Một phút sau cả bốn lóng ngóng đi qua cánh cửa tủ bước vào căn phòng trống trải, không còn là các vua và nữ hoàng và chỉ là Peter, Susan, Edmund, Lucy trong bộ quần áo cũ. Vẫn là cái ngày ấy, giờ ấy khi tất cả ùa vào trốn trong tủ áo. Bà Macready và khách tham quan vẫn nói chuyện sôi nổi ngoài hành lang, may họ không bước vào căn phòng để trống làm gì và bọn trẻ không bị phát hiện.

Câu chuyện đến đây có lẽ cũng đã kết thúc được rồi nếu bọn trẻ không cảm thấy cần phải giải thích với giáo sư tại sao bốn cái áo khoác trong cái tủ của ông lại biến mất. Giáo sư là một người rất đặc biệt, ông không bảo chúng là ngu ngốc cũng không quy tội chúng nói láo mà hoàn toàn tin vào câu chuyện đó.

- Không, - ông nói, - bác không nghĩ việc quay lại Narnia qua tủ áo để lấy lại mấy cái áo là việc làm khôn ngoan. Các cháu không nên quay lại Narnia bằng con đường này. Mà những cái áo ấy cũng chẳng dùng lại được nếu các cháu có thể làm thế. Cái gì à? Phải, tất nhiên các cháu sẽ quay lại Narnia lần nữa, vào một ngày nào đó. Một khi đã là vua ở Narnia thì sẽ mãi là vua ở đấy. Nhưng đừng cố làm như vậy thêm một lần nữa. Cái gì phải đến sẽ xảy đến vào lúc các cháu không hề mong đợi. Đừng bàn tán quá nhiều về chuyện này dẫu là giữa các cháu với nhau chăng nữa. Cũng đừng đề cập đến chuyện này với bất cứ ai trừ phi là các cháu thấy họ cũng có những cuộc phiêu lưu tương tự. Đó là cái gì? Rồi các cháu có hiểu hết không? Ồ, các cháu rồi sẽ hiểu tất tật. Những điều kỳ lạ người ta nói - kể cả những niềm vui của họ - sẽ bộc lộ những điều bí mật. Hãy mở to mắt ra mà nhìn. Trời đất ạ, không hiểu ngày nay người ta dạy các cháu những gì ở trường?

Và thế là câu chuyện về cuộc phiêu lưu trong tủ áo đến đây là hết. Nhưng nếu giáo sư nói đúng thì đấy mới chỉ là bắt đầu những cuộc phiêu lưu ở Narnia.

Đây là câu chuyện phiêu lưu xảy ra ở Narnia, Calormen và những miền đất ở giữa hai đất nước này vào thời đại Vàng khi Peter Đại đế trị vì xứ Narnia cùng vua Edmund, nữ hoàng Susan và nữ hoàng Lucy.

Ngày ấy, ở miền nam xa xôi của xứ Calormen, bên một cái vịnh nhỏ ăn ra biển, có một người đánh cá nghèo khổ tên là Arsheesh, ở cùng với lão có một thằng bé gọi lão là cha. Tên thằng bé là Shasta. Hầu như ngày nào Arsheesh cũng chèo thuyền ra khơi đánh cá từ lúc trời tờ mờ sáng, đến chiều tối, lão thắng con lừa của mình vào một cỗ xe, chất lên xe đầy cá tươi và đi một chặng đường chừng một dặm hoặc xa hơn một chút về phía nam vào trong làng  bán cá. Nếu việc buôn bán diễn ra suôn sẻ, lão sẽ về nhà với tâm trạng vui vẻ và chẳng nói gì với Shasta, nhưng nếu việc buôn bán ế ẩm, lão sẽ moi ngay ra lỗi của nó và có thể sẽ thượng cẳng chân, hạ cẳng tay với nó. Bao giờ chẳng dễ tìm ra lỗi của nó vì mọi việc trong nhà đều đến tay nó: vá và giặt lưới này, nấu cơm nấu nước này, quét dọn, lau chùi ngôi nhà nhỏ mà hai người cùng chung sống này.

Shasta chẳng hề quan tâm đến bất cứ cái gì nằm ở phía nam ngôi làng của nó, bởi vì nó đã từng đi với ông Arsheesh một hoặc hai lần đến đó và nó biết rằng chẳng có cái gì thú vị ở đấy hết. Ở đó nó cũng gặp những người đàn ông giống như cha nó mặc những chiếc áo choàng dài, nhơ bẩn, đi những đôi guốc mộc để tòe cả những ngón chân ra ngoài, đầu đội khăn, râu để dài, nói nhẩn nha từng tiếng một về những chuyện chán ngắt. Nhưng Shasta lại quan tâm đến tất cả những gì nằm ở phía bắc bởi vì chưa từng có ai đi về hướng này và nó cũng không được phép đi đến đấy. Khi nó ngồi ở ngoài sân vá lưới một mình, nó thường háo hức nhìn về hướng bắc. Bạn sẽ chẳng nhìn thấy bất cứ thứ gì ngoài một cái dốc cỏ mọc um tùm dẫn đến một đỉnh đồi trọc và xa hơn nữa là bầu trời, có lẽ còn có một vài con chim bay qua liệng lại trên đầu.

Đôi khi nếu có Arsheesh ở đây Shasta khẽ hỏi:

- Ôi cha ơi, có cái gì ở phía sau quả đồi kia vậy?

Khi ấy, nếu lão đánh cá ở trong một tâm trạng bực bội lão sẽ cho nó một cái bạt tai và bảo nó hãy chú tâm vào công việc. Còn nếu đang cao hứng hoặc khoan khoái trong long thì lão lại nói:

- Ôi con trai, đừng cho phép đầu óc mình trở nên lộn xộn vì những câu hỏi vô ích. Bởi vì có một nhà thơ đã nói: Tập trung cho công việc là cội rễ của sự giàu có còn những ai hỏi những câu bâng quơ chẳng liên quan gì đến mình chỉ giống như lái con tàu của sự điên rồ đâm vào dải đá ngầm của sự bần cùng.

Shasta thì nghĩ phía sau ngọn đồi kia chắc chắn phải có một bí mật thú vị nào đó mà cha nó muốn giấu nó. Thực ra, người đánh cá nói như vậy vì lão cũng chẳng biết có cái gì nằm ở phía bắc. Mà lão cũng chẳng thèm bận lòng. Lão có một lối suy nghĩ rất chi là thực tiễn.

Một hôm, có người lạ từ phương nam đi tới, người này không có bất cứ một điểm chung nào với những người đàn ông mà Shasta đã gặp. Ông ta cưỡi một con ngựa đốm, nom ra  dáng một con ngựa chiến khỏe mạnh, bờm rủ xuống, đuôi dài, bàn đạp và yên cương đều có giát bạc trắng. Người khách lạ đội mũ nhà binh, đầu nhọn bằng kim loại của cái mũ trụ chĩa lên từ khoảng giữa của cái khăn quấn đầu bằng lụa và ông ta mặc một cái áo giáp có dây xích. Ở một bên hông, ông ta đeo lủng lẳng một cây mã tấu chạm trổ, sau lưng đeo một cái khiên tròn có đóng những cái mấu bằng đồng. Tay phải ông nắm chặt một cái giáo. Người lạ có nước da màu bánh mật nhưng điều này không làm cho Shata ngạc nhiên, bởi vì tất cả mọi người ở Calormen đều có nước da thẫm như thế; điều làm nó thắc mắc là bộ râu nhuộm màu đỏ, quăn quăn và bóng nhẫy bởi một loại dầu xức có mùi thơm.

Nhưng lão đánh cá Arsheesh thì căn cứ vào cái vòng vàng đeo trên cổ tay người lạ mà biết ông ta là một Tarkaan tức là một lãnh chúa lớn; thế là lão quỳ mọp trước mặt người khách, thấp đến nỗi râu chạm cả xuống đất và ra dấu cho Shasta cùng quỳ theo.

Người khách lạ yêu cầu được ngủ nhờ một đêm và tất nhiên người đánh cá đâu dám khước từ. Tất cả những món ngon lành được dọn ra trước mặt Tarkaan (mà ông ta cũng chẳng thèm chú ý đến nhiều), còn Shasta như bao giờ cũng thế, mỗi khi người đánh cá có khách, chỉ được nhận một khoanh bánh mì khô và cái lệnh trốn đi cho khuất mắt. Trong những trường hợp này nó thường ngủ với con lừa trong cái chuồng lừa nhỏ có cài then. Nhưng chiều hôm ấy còn quá sớm để đi ngủ và Shasta đến tuổi ấy mà còn chưa được biết rằng nghe lén sau các cánh cửa là một việc làm sai trái, bèn ngồi bên ngoài ghé tai vào một khe hở của bức tường gỗ nghe lỏm câu chuyện giữa cánh đàn ông với nhau. Đây là những gì mà nó nghe được.

- Này ông chủ nhà, - Tarkaan nói, - tôi muốn mua thằng bé nhà ông.

- Ôi thưa ông chủ, - người đánh cá đáp, - (và Shasta biết cùng với giọng điệu này một cái vẻ tham lam bao giờ cũng hiện lên rõ mồn một trên khuôn mặt cha nó) – có cái giá nào khiến kẻ tôi tớ nghèo hèn của ngài bán đi đứa con duy nhất, người thân duy nhất, chỗ tựa nương duy nhất lúc về già? Chẳng phải là một trong những nhà thơ của chúng ta đã nói: “Tình cảm tự nhiên mạnh hơn món súp và đứa con trai duy nhất quý hơn ngọc đỏ” đó sao?

- Quả có thế. – Khách đáp giọng khô khan. – Nhưng có một nhà thơ khác lại nói: Kẻ nào mưu toan đánh lừa sự khôn ngoan đã mang sẵn trên lưng tai họa”. Thôi đừng có nhét thêm vào cái miệng già nua của lão những lời dối trá nữa, thằng bé này không phải là con lão bởi vì đôi má lão đen sạm chẳng kém gì ta, còn thằng bé này lại đẹp đẽ da trắng trẻo không khác gì cái bọn người man rợ đáng bị nguyền rủa nhưng lại có vẻ ngoài đẹp đẽ miền bắc xa xôi kia.

- Đúng như một câu danh ngôn đã nói rằng, - người đánh cá lại leo lẻo, - thanh gươm không qua khỏi tấm khiên và con mắt của sự thông thái chọc thủng tất cả sự giả trá! Ôi vị khách lỗi lạc của tôi, hãy biết rằng ví nghèo rớt mồng tơi mà tôi không thể lấy vợ và có con. Nhưng cũng vào cái năm mà Tisroc (Thánh thượng vạn tuế, vạn vạn tuế) bắt đầu triều đại thịnh trị và nhân đức của mình, có một đêm rằm trăng đẹp đến mức làm hài lòng các vị thánh thần nhưng lại tước mất giấc ngủ của tôi. Vì thế tôi rời khỏi cái giường trong túp lều rách nát này đi ra ngoài bãi biển hòng làm cho mình khuây khỏa bằng cách ngắm nhìn mặt biển, vầng trăng và hít thở không khí se lạnh ban đêm. Chợt tôi như nghe thấy tiếng mái chèo khua nước của một con thuyền đang bơi về phía mình và sau đó là một tiếng kêu yếu ớt. Chỉ một lát sau, con sóng đẩy vào bờ một con thuyền nhỏ, trên chẳng có gì ngoài một người đàn ông ốm nhách vì vừa đói vừa khát – người này dường như vừa tắt thở trước đấy (bởi vì thi thể ông ta còn âm ấm) – một bình nước bằng da không còn lấy một giọt và một đứa trẻ vẫn còn thoi thóp. “Không còn nghi ngờ gì nữa”, tôi nghĩ, “Những kẻ khốn khổ này vừa thoát khỏi một vụ đắm tàu, nhưng nhờ vào sự sắp đặt đáng kính phục của các vị thánh thần, người đàn ông này đã chịu đói khát để cho đứa trẻ này được sống sót, ông ta đã trút hơi thở cuối cùng khi nhìn thấy đất liền.” Như vậy, nhờ noi theo và luôn ghi nhớ rằng thánh thần không bao giờ quên không thưởng cho những ai giúp đỡ kẻ khốn và cũng cảm động bởi một tình thương yêu (bởi vì kẻ đầy tớ của ngài là một người đàn ông có trái tim mềm yếu, vị tha…)

- Im đi, hãy để những lời dông dài ấy cho những lời cầu nguyện của ngươi. – Tarkaan cắt ngang. – Biết ngươi nhặt thằng bé về nuôi thế là đủ. Và thằng bé ấy đã đền lại hạt cơm ngươi cho nó ăn gấp mười lần, bằng chính lao động của nó – như ai cũng có thể thấy rõ. Còn bây giờ thì nói ngay cho ta biết ngươi đòi cái giá bao nhiêu bởi vì những lời lẽ ba hoa của ngươi làm rác tai ta lắm.

- Ngài đã rất khôn ngoan khi nói rằng lao động của thằng bé đối với tôi là một cái gì không thể đo hết giá trị, điều này cũng sẽ được tính thêm vào cái giá ấy. Bởi vì nếu bán nó đi thì không còn gì phải nghi ngờ hoặc là tôi phải mua lại một đứa khác hoặc là phải thuê một nhân công để làm công việc của nó.

- Ta sẽ trả cho ngươi 15 đồng. – Tarkaan nói.

- Mười lăm đồng! – Arsheesh kêu lên bằng một giọng nửa như rên rỉ, nửa như kêu gào. – Mười lăm đồng để nương tựa khi tuổi già sức yếu, để đem lại niềm vui trong mắt tôi. Đừng có chế giễu bộ râu bạc của tôi như thế Tarkaan, dẫu ngài có muốn như vậy. Cái giá của tôi là 70 đồng.

Nghe đến đây Shasta đứng dậy nhón chân bỏ đi. Nó đã nghe đủ những điều cần nghe bởi vì nó biết tỏng những chuyện mặc cả trong làng và biết rõ nó sẽ diễn ra như thế nào. Chắc chắn thì cuối cùng Arsheesh sẽ bán nó với cái giá nhiều hơn 50 đồng và ít hơn 70 đồng. Rằng ông ta và Tarkaan sẽ mất đến hàng giờ để đi đến thỏa thuận đó.

Chắc bạn cũng không cần phải mường tượng ra nỗi lòng của Shasta. Nó cũng như bạn và tôi rất xót xa nếu nghe được sự trao đổi trong đó cha mẹ ruột bán chúng ta đi làm nô lệ cho nhà người. Có một điều, cuộc sống hiện tại của nó không khá hơn hoàn cảnh của một kẻ tôi đòi là bao; với tất cả những gì nó biết thì người khách lạ có tác phong quyền quý cưỡi trên con ngựa đẹp này có thể đối xử với nó còn tử tế hơn Arsheesh. Còn một điều nữa, câu chuyện về việc tìm thấy nó trên một con thuyền khiến nó rất hào hứng và có một cái như là một sự giải thoát. Nó thường cảm thấy băn khoăn bối rối bởi vì nó không sao yêu thương được người mà nó vẫn gọi là cha và theo chỗ nó biết thì một đứa con trai cần phải yêu thương cha mình. Bây giờ thì rành là nó không có một mối quan hệ nào với ông ta. Điều này giải phóng nó ra khỏi một vấn đề đè nặng lên lương tâm nó.

- Vậy ra mình có thể là một người nào đó, - nó nghĩ, - có thể là con trai của một Tarkaan hoặc là con trai của chính Tisroc (Thánh thượng vạn tuế, vạn vạn tuế) – hoặc là con trai của một vị thần!

Nó đang đứng ngoài bãi cỏ trước túp lều trong khi nghĩ ngợi những chuyện này. Ánh chiều chạng vạng. Đêm phương nam buông xuống rất nhanh, vài vì sao đã hiện lên trên nền trời, nhưng ráng chiều hôm vẫn còn bảng lảng cuối chân trời phía tây. Cách chỗ nó đứng không xa, con ngựa của người khách lạ, được cột tạm vào một cái vòng sắt gắn trên vách chuồng gia súc đang gặm cỏ. Shasta bước đến gần, vỗ vỗ lên cổ nó. Con ngựa vẫn tiếp tục bứt từng nạm cỏ không thèm chú ý đến nó.

Rồi có một ý nghĩ khác lóe lên trong đầu nó, không hiểu cái ông Tarkaan này thuộc loại người nào? – Nó nói to lên thành tiếng. – Thật là tuyệt vời nếu ông ta là một người tử tế. Mấy người nô lệ ở nhà chúa đất đằng kia chẳng phải làm lụng gì nhiều. Họ mặc những bộ quần áo rõ đẹp và ngày nào cũng được ăn thịt. Có thể ông ấy sẽ đưa mình đi ra trận, rồi mình sẽ xông pha nơi chiến trường, cứu sống ông ấy, sau đó… sau đó ông ấy sẽ giải phóng cho mình và nhận mình làm con, ban cho mình một tòa lâu đài, một cỗ xe và một bộ áo giáp. Nhưng mà, nếu ông ta là một người cực kỳ độc ác thì sao? Ông ta có thể xiềng mình lại, bắt mình phải lao động khổ sai, ước gì mình có thể biết được. Làm sao có thể biết rõ đây? Mình đoán con ngựa này biết, nếu như nó có thể nói được.

Con ngựa ngẩng đầu lên, Shasta vuốt ve cái mũi mịn như satanh của nó:

- Ước gì ngươi có thể nói được, anh bạn già ạ!

Và rồi trong vòng một giây nó ngỡ như mình đang nằm mơ, bởi vì ngựa nói một cách rõ ràng, dù với cái giọng ồm ồm trầm và đục:

- Nhưng tôi có thể nói được.

Shasta nhìn chằm chằm vào đôi mắt to của con ngựa. Mắt nó cũng mở to gần bằng mắt ngựa và một nỗi kinh ngạc không thể diễn tả được.

- Làm thế nào mà anh có thể nói được?

- Suỵt! Đừng có gào tướng lên như thế. Ở quê hương tôi khó mà kiếm ra được con ngựa nào không biết nói.

- Vậy quê hương anh nằm ở đâu vậy?

- Narnia, - cái giọng ồm ồm của con ngựa ngân lên, - mảnh đất hạnh phúc Narnia – Narnia của những đỉnh núi mọc đầy bụi thạch nam, những sườn dốc mọc đầy húng dây, Narnia của bao nhiêu dòng sông lớn nhỏ, những thung thũng nước ngập xâm xấp, những hang động rêu phong, những cánh rừng già sâu hun hút vang lên tiếp đập búa chan chát của những chú lùn. Ôi, cái không khí thần tiên của Narnia! Một giờ sống ở đấy còn tốt đẹp hơn một ngàn năm sống ở Calormen! – Ngựa dừng lại với một tiếng hí nghe như một tiếng thở dài não ruột.

- Vậy tại sao anh lại đến đây?

- Bị bắt cóc hay bị ăn trộm hoặc bị sập bẫy, cậu muốn gọi thế nào thì tùy. Lúc ấy tôi còn là một chú ngựa non. Mẹ đã cấm tôi không được lang thang xuống những sườn dốc phía nam, đi vào đất Archenland hoặc đi xa hơn nhưng tôi đâu có nghe. Thế là nhân danh Bờm Sư Tử tôi đã phải trả giá cho sự ngu xuẩn của mình. Suốt bao nhiêu năm qua tôi đã phải làm tôi tớ cho con người, che dấu bản chất thật mà giả ngô giả ngọng giả ngây giả điếc như lũ ngựa câm điếc của họ.

- Tại sao anh không bảo cho họ biết anh là ai?

- Tôi đâu có ngu như vậy. Một khi người ta biết tôi có thể nói được, họ sẽ đem tôi ra trưng ngoài hội chợ và canh chừng tôi kỹ hơn bao giờ hết. Cơ hội trốn thoát cuối cùng đã qua rồi.

- Tại sao? – Shasta vừa mới bắt đầu nhưng ngựa đã cắt ngang.

- Coi này, tại sao chúng ta lại phí vào những câu hỏi vô bổ như vậy? Cậu muốn biết về ông chủ của tôi, Tarkaan Anradin? Vậy thì, ông ta là người xấu. Không chỉ quá xấu với tôi bởi vì người ta không thể đối xử tệ bạc như vậy với một con ngựa hiếm có như tôi. Nhưng có lẽ cậu cứ chết ngay tối nay còn hơn là làm đầy tớ trong nhà ông ta ngày mai.

- Nếu vậy, tốt hơn cả là hãy cao chạy xa bay. – Shasta nói, mặt tái đi.

- Phải, nên làm thế, nhưng tại sao không bỏ trốn cùng tôi?

- Vậy ra anh cũng muốn bỏ chạy?

- Phải, nếu cậu cùng đi với tôi. Đây là cơ hội cho cả hai chúng ta. Cậu xem đấy nếu tôi chạy rông mà không có người cưỡi, dân tình trông thấy sẽ nói ngay: “Rõ là một con ngựa bị lạc!” thế là họ vắt chân lên cổ mà đuổi theo tôi. Với một người điều khiển, tôi có cơ hội chạy trốn trót lọt. Đây là chỗ cậu giúp tôi, mặt khác, cậu không thể đi xa với đôi chận vụng dại kia (đôi chân người sao mà vô nghĩa lí thế nhỉ) mà không bị tóm. Ngồi trên mình tôi cậu có thể bỏ xa bất cứ một con ngựa nào trên đất nước này. Đấy là chỗ tôi giúp cậu. Mà này, tôi hy vọng cậu biết cưỡi ngựa.

- Có, tất nhiên. Ít nhất thì tôi cũng đã từng cưỡi lừa.

- Cưỡi trên cái gì? – Ngựa hí lên với một vẻ bị xúc phạm (Ít nhất thì nó cũng có ý đó. Còn câu nói của nó vang lên trong một tiếng hí kéo dài “Cưỡi c-á-i g-ì-ì-ì-ì?” Những con ngựa biết nói bao giờ cũng có cái xấc xược nhất là khi chúng nổi giận).

- Nói một cách khác, - ngựa tiếp tục, - cậu cóc biết cưỡi ngựa gì hết. Đó là một điểm bất lợi. Thôi được, tôi sẽ dạy cậu dọc đường vậy. Nếu cậu không biết cưỡi ngựa, vậy cậu có biết ngã không?

- Tôi cho rằng ai cũng có thể ngã được.

- Tôi muốn nói cậu có thể ngã rồi đứng dậy mà không mít ướt để rồi lại dám trèo lên lưng ngựa, lại bị ngã mà vẫn không sợ bị tôi hất xuống đất không?

- Tôi… để tôi thử xem sao. – Shasta ngập ngừng.

- Con vật nhỏ bé đáng tội nghiệp, - ngựa nói với giọng dịu hơn, - tôi quên mất cậu cũng chỉ là một nhóc con. Chúng ta sẽ khơi dậy một kỵ sỹ giỏi trong cậu vào đúng thời điểm. Còn bây giờ chúng ta không nên cắm cổ chạy ngay, hãy chờ đến khi hai kẻ trong lều kia đều ngủ cả. Trong khi đó chúng ta có thể lên kế hoạch. Ông chủ Tarkaan của tôi đang trên đường đi đến phía bắc, đến một thành phố lớn, đó là Tashbaan, kinh đô của Tisroc…

- Nhưng mà… - Shasta nói bằng một giọng như bị sốc, - chẳng phải anh cần phải nói thêm “Thánh thượng vạn tuế, vạn vạn tuế” hay sao?

- Để làm gì? Tôi là một công dân Narnia tự do. Tại sao tôi phải nói theo giọng lưỡi của bọn nô lệ và bọn ngu xuẩn nhỉ? Tôi đâu có muốn ông ta trường sinh bất tử mà tôi cũng biết rõ là ông ta không thể sống mãi cho dù tôi có thực lòng mong muốn thế. Và tôi có thể thấy cậu cũng là một người dân miền Bắc như tôi cho nên cái khẩu hiệu miền Nam ấy thì miễn nhé. Bây giờ quay lại kế hoạch của chúng ta. Như tôi đã nói, người kia đang đi về hướng bắc tới Tashbaan.

- Điều đó có nghĩa là ta nên đi về hướng nam?

- Tôi không cho là thế. Cậu xem, lão ta nghĩ tôi cũng câm điếc và ngu xuẩn như những con ngựa khác của lão. Bây giờ nếu quả tôi là như thế thì ngay khi được bứt dây xích tôi sẽ quay về nhà, trở lại cái chuồng và bãi cỏ của mình; trở lại lâu đài của lão cách đây 2 ngày đường về phía nam. Phải, đó là nơi lão sẽ quay lại tìm tôi. Lão không bao giờ nghĩ đến chuyện tự tôi lại chạy về phương bắc. Và dù sao thì lão cũng nghĩ có một kẻ nào đó trong các thôn làng dọc đường trông thấy lão cưỡi ngựa đi qua đã theo đến tận đây bắt trộm tôi.

- Hoan hô. Như vậy chúng ta sẽ đi về phương bắc. Suốt đời tôi chỉ ao ước được đi về phương đó.

- Tất nhiên rồi. Điều đó có trong máu cậu. Tôi chắc cậu là một dân miền Bắc thật sự. Nhưng đừng có la to thế. Tôi nghĩ bọn họ sẽ đi ngủ ngay thôi.

- Để tôi lén quay lại đấy thăm dò xem sao. – Shasta gợi ý.

- Đó cũng là một ý tốt. Nhưng cẩn thận đừng để bị tóm đấy.

Lúc này trời đã tối hẳn, không gian vắng lặng như tờ ngoại trừ tiếng sóng vỗ vào bờ, một điều mà Shasta khó nhận ra vì nó đã nghe tiếng động này ngày cũng như đêm, lâu như nó có thể nhớ được. Lúc nó đến gần, túp lều của người đánh cá đã tắt hết ánh lửa. Nó đứng ở cửa trước nghe ngóng, không có động tĩnh gì. Khi đi vòng đến cái cửa sổ duy nhất, nó có thể nghe thấy, sau một hai giây, âm thanh quen thuộc của tiếng ngáy rít lên từng hồi của người đánh cá già. Thật ngộ nghĩnh khi nghĩ rằng tất cả sẽ tốt đẹp, nó sẽ không bao giờ phải nghe tiếng ngáy này nữa. Shasta nín thở không phải là không thấy buồn buồn, nhưng niềm vui vẫn lấn át nỗi buồn. Nó nhẹ bước trên bãi cỏ, đến chỗ chuồng lừa, mò mẫm tìm chìa khóa ở nơi mà nó biết vẫn thường giấu chìa khóa. Nó thận trọng mở khóa, tìm thấy bộ yên cương đã được cho vào trong chuồng, khóa kín suốt đêm. Nó cúi xuống, hôn lên mũi con lừa: “Tao xin lỗi, chúng tao không thể đem mày theo.”

- Rốt cuộc cậu cũng tới. – Ngựa lên tiếng khi nó đến bên cạnh. – Tôi đã bắt đầu tự hỏi là không biết có chuyện gì xảy ra với cậu chứ.

- Tôi đến để lấy mấy món đồ của anh trong chuồng. Bây giờ anh có thể bảo tôi cách đặt yên cương.

Trong vòng vài phút, Shasta vào việc, thận trọng tránh không cho nhạc ngựa rung lên, trong khi ngựa nói như thế này: “Thắt đai chặt hơn nữa” - “Cậu sẽ thấy một cái khóa ở phía dưới.” – “Cậu cần phải làm cho bàn đạp ngắn hơn một chút.” Khi tất cả đã được làm xong, ngựa nói:

- Bây giờ chúng ta đã có bộ dây cương để điều khiển, nhưng cậu không cần dùng đến nó. Hãy buộc vào dưới yên, lỏng thôi để tôi có thể làm điều mà mình muốn với cái đầu của mình. Hãy nhớ là cậu không được đụng đến bộ dây cương đấy.

- Nếu vậy thì nó sinh ra để làm gì?

- Thường thì dùng để  điều khiển tôi. Nhưng bởi vì tôi định làm tất cả để tự định hướng lộ trình, vì thế cậu vui lòng giữ bàn tay cho chính mình thôi. Còn nữa, tôi sẽ không cho phép cậu được nắm bờm tôi đâu.

- Nhưng mà nếu tôi không được cầm cương cũng không được nắm bờm, thế tay tôi biết dung vào việc gì?

- Cậu cứ nắm lấy đầu gối của mình ấy. Đó cũng làm một mẹo trong thuật cưỡi ngựa. Kẹp hai đầu gối vào lườn tôi, chặt như cậu có thể cố được; ngồi thẳng lưng, thẳng đuỗn như khúc cây ấy, giữ chặt hai khuỷu tay. À mà này, cậu làm gì với đinh thúc ngựa vậy?

- Móc vào gót chân. Ít nhất thì tôi cũng biết được điều này.

- Vậy thì hãy tháo ra và cho vào trong cái túi yên. Chúng ta có thể bán lấy tiền khi đến Tashbaan. Sẵn sàng chưa? Bây giờ tôi nghĩ cậu có thể trèo lên được rồi.

- Ôi, anh cao kinh khủng. – Shasta vừa thở phì phò vừa nói sau khi cố gắng đầu tiên của nó gặp thất bại.

- Này tôi là một con ngựa hẳn hoi nhé. Bất cứ ai cũng có thể nghĩ tôi là một đụng cỏ khô nếu căn cứ vào cái cách cậu cố trèo lên lưng tôi. Đấy, bây giờ thì khá hơn rồi. Ngồi yên và nhớ những gì tôi bảo cậu về cái đầu gối đấy. Thật buồn cười khi nghĩ là tôi, từng mang trên mình lính kỵ binh xông pha trận mạc và thắng bao cuộc đua bây giờ lại mang một cái bao khoai tây như cậu trên lưng chứ. Dù sao thì cũng xuất phát thôi. – Ngựa cười khùng khục trong cổ, không hề có ác ý.

Chắc chắn là cuộc hành trình đêm hôm ấy được bắt đầu một cách thận trọng. Đầu tiên ngựa đi về hướng nam, từ cái chòi của người đánh cá tới một con sông nhỏ chảy ra biển, ngựa khôn ngoan để lại những dấu chân trên bùn chỉ về hướng nam. Nhưng ngay khi ra đến giữa khúc sông cạn ngựa đã quay lại lội ngược dòng và đi tiếp cho đến khi cách túp lều đánh cá chừng một trăm mét. Sau đó, ngựa chọn bên bờ khô ráo không để lại dấu chân và đi về phía bắc. Rồi, vẫn với những bước đi thong thả, nó lại quay về phía lều, đi quanh lều, quanh một gốc cây, quanh chuồng lừa và dòng suối nhỏ, tất cả những nơi này – như Shasta đã biết rõ như lòng bàn tay – đều chìm trong bóng đêm xám tro của một đêm mùa hạ. Đến đây, người và ngựa phi thẳng lên đồi, đến cái bờ lũy bao giờ cũng là đường biên giới của cái thế giới mà Shasta đã biết. Nó không thể nhìn thấy cái gì phía trước trừ cỏ và một khoảng trời mở ra, trông cứ như không có điểm dừng: hoang dã, cô đơn và tự do.

- Có thể nói, - ngựa nhận xét, - đây là một nơi dành cho một cuộc phi nước đại, phải không?

- Ấy chớ, chưa phải vào lúc này. Tôi không biết làm sao. Làm ơn đi ngựa. Tôi còn chưa biết tên anh.

- Breehy-hinny-brinny-hoohy-hah. – Ngựa đáp.

- Tôi không thể gọi đầy đủ tên anh được. Hay là tôi gọi anh là Bree có được không?

- Được, nếu đó là điều tốt nhất cậu có thể làm, tôi cho là đành phải thế thôi. Vậy tôi sẽ gọi cậu là gì?

- Tôi tên là Shasta.

- Hừm! – Bree nói. – Đó là một cái tên khó phát âm thật đấy. Nhưng bây giờ phải phi nước đại thôi. Như thế dễ dàng hơn chạy nước kiệu nhiều… nếu như cậu biết rõ, bởi vì cậu không phải đứng lên và bị ngã. Kẹp chặt hai đầu gối lại, mắt nhìn thẳng về trước ngay ở điểm giữa đôi tai tôi. Đừng có nhìn xuống đất. Khi cậu nghĩ mình sắp ngã chỉ việc kẹp hai đầu gối lại chặt hơn và ngồi thẳng hơn. Sẵn sàng chưa? Nào, vì Narnia và phương bắc. Tiến lên!

Đến gần trưa hôm sau thì Shasta bị đánh thức dậy bởi một cái gì âm ấm, mềm mềm lướt nhẹ trên mặt nó. Thằng bé mở mắt và thấy mình đang nhìn vào cái mặt dài dài của con ngựa; mũi và môi ngựa gần như chạm vào mặt nó. Chợt nó nhớ lại những sự kiện đầy kích động đêm hôm trước và ngồi nhổm dậy. Nhưng trong khi làm như thế, nó rên lên một tiếng đau đớn.

- Ôi Bree! – Nó thở hổn hển. – Tôi đau quá đi mất. Khắp cả người… Tôi khó mà cử động được.

- Chào anh bạn trẻ! – Bree nói. – Tôi e là cậu sẽ cảm thấy người hơi cứng một chút. Thật ra không phải là một cú ngã đâu. Cậu ngã dễ đến hàng chục lần ấy, cỏ ở vùng này thật êm, tốt bời bời nên rơi xuống đây gần như là một lạc thú. Chỉ có một lần không được êm ái lắm là khi ngã vào một bụi kim tước. Không… đây là một chuyến đi tự nó đã gay go ngay từ phút ban đầu… Bữa sáng thì sao? Tôi thì tôi chén rồi.

- Ăn sáng mới chả ăn tối, mọi chuyện đều xoay ra thế này sao? – Shasta than vãn. – Tôi nói cho anh biết, tôi không sao cử động được.

Nhưng con ngựa cứ rúc mãi cái mũi vào người thằng bé và dùng một móng gõ nhè nhẹ lên người nó cho đến lúc nó gượng đứng lên. Shasta đưa mắt nhìn quanh và bây giờ  mới rõ nơi nó đang đứng. Sau lưng chúng là một bãi đất nhỏ mọc lên nhiều cây cối. Trước mặt là một vạt đất mềm, điểm lác đác những đóa hoa trắng chạy thoai thoải xuống sườn một vách đá… Rất sâu phía dưới – vì thế mà tiếng sóng xô vào bờ đá nghe rất yếu ớt, mờ nhạt – chính là mặt biển. Shasta chưa bao giờ nhìn xuống từ một độ cao như thế, cũng chưa bao giờ nhìn quá lâu đến thế. Bãi biển trải dài ra cả hai phía, hết mũi đất này đến mũi đất khác và ở những điểm này bạn có thể nhìn thấy bọt biển màu trắng chạy xô lên những tảng đá nhưng không gây nên một tiếng động nào vì khoảng cách quá xa. Những con hải âu chao liệng trên đầu, làm hơi ấm rung ring trên mặt đất. Đó là một ngày nóng nực. Nhưng cái mà Shasta quan tâm nhất là bầu không khí. Nó không biết là có thiếu mất một cái gì đó, mãi một lúc nó mới nhận ra là không có mùi cá trong không khí. Bởi vì lẽ tự nhiên cả khi ở trong nhà cũng như lúc ngồi giữa các tấm lưới nó chưa bao giờ xa cái mùi tanh tanh ấy từ hồi biết nghĩ đến giờ. Làn không khí mới mẻ này thật trong lành, sảng khoái và ngày hôm qua trở nên xa lơ xa lắc, xa đến nỗi trong giây lát nó quên đi những vết thâm tím và những thớ thịt đau nhức mà hỏi:

- Này Bree, anh đã nói cái gì đó về bữa điểm tâm phải không?

- Đúng, tôi đã nói thế. Tôi nghĩ cậu sẽ tìm thấy một thứ gì đó trong cái túi buộc sau yên ngựa. Nó treo trên cái cây kia nơi mà cậu đã treo lên vào đêm hôm qua – hoặc đúng hơn là vào sớm hôm nay.

Chúng lục lại cái túi ngựa và kết quả rất đáng mừng – một miếng thịt chả, chỉ có điều hơi có mùi thiu, một chùm vả khô, một tảng pho mát xanh, một bình rượu nhỏ và một ít tiền, vào khoảng 40 đồng tất cả, một kho báu còn lớn hơn những gì Shasta đã từng thấy được.

Trong lúc Shasta ngồi xuống – phần vì đau phần vì cẩn thận – lưng tựa vào gốc cây và bắt đầu tấn công món chả nướng, thì Bree với một vài nắm cỏ đứng bên cạnh bầu bạn với nó.

- Không phải là một hành động trộm cắp khi dùng số tiền này chứ? Shasta hỏi.

- Ồ, - ngựa nói, ngẩng đầu lên với cái mồm đầy cỏ, - tôi chưa bao giờ nghĩ tới chuyện này. Một con ngựa tự do và biết nói năng không thể có hành vi ăn trộm, hẳn thế. Chúng ta là tù nhân và những kẻ bị bắt giữ trên đất nước của kẻ thù. Số tiền này, suy cho cùng cũng là của ăn cướp, của phi nghĩa. Với lại làm sao cậu có được lương ăn nếu không có số tiền này? Tôi cho rằng như tất cả mọi người, cậu không thể ăn những món ăn có sẵn trong tự nhiên như cỏ và lúa yến mạch.

- Tôi không ăn nổi.

- Đã thử bao giờ chưa?

- Có, tôi đã làm thế. Nuốt không nổi. Anh cũng không nhá nổi nếu anh là tôi.

- Xem ra cậu chỉ là một con thú nhỏ kỳ quặc. Ôi, loài người các cậu! – Ngựa triết lý.

Khi Shasta chén xong bữa sáng (thực ra còn ngon lành hơn bất cứ bữa ăn nào nó đã nếm qua), Bree nói:

- Tôi nghĩ mình nên lăn lộn một vòng trước khi cậu lại đặt bộ yên cương lên người tôi. – Nói xong nó làm liền – Sướng quá, đã thật! – Nó nói, cọ cọ lưng xuống bãi cỏ vẫy cả bốn vó trong không trung.

- Cậu cũng nên làm theo tôi. Một cách thư giãn tuyệt nhất đấy.

Nhưng Shasta bật cười như nắc nẻ và nói:

- Ôi trông anh thật tức cười khi nằm ngửa ra như thế.

- Tôi chẳng nhìn thấy điều đó! – Bree nói.

Nhưng đột nhiên nó lăn qua một bên, ngẩng đầu lên nhìn chằm chằm vào mặt Shasta, rồi lại cúi đầu xuống ngẫm nghĩ.

- Có thật là làm như thế trông rất tức cười không? Cậu không nghĩ như thế, đúng không? Đó quả là một việc mà ngựa biết nói không bao giờ làm – một trò vụng về, ngu ngốc mà tôi học được từ những con ngựa câm điếc. Thật là đáng sợ khi phát hiện ra tôi đã nhiễm phải những thói quen xấu, hạ đẳng trong khi tôi lại đang quay về Narnia. Cậu nghĩ sao, Shasta? Nói thật đi? Không phải nể nang e ngại gì đâu. Cậu có nghĩ là một con ngựa thật sự, một con ngựa tự do, một con ngựa biết nói, có thể lăn lộn như vậy không?

- Làm sao tôi biết được? Với lại tôi nghĩ tôi chẳng nên bận tâm về điều đó nếu tôi là anh. Việc tôi quan tâm là chúng ta phải đi đến đó như thế nào. Anh biết đường chứ?

- Tôi biết đường đến Tashbaan. Sau đó chúng ta phải… Nhưng thế nào chúng ta cũng vượt qua hoang mạc đó, đừng sợ. Tại sao à, lúc đó chúng ta sẽ thấy những rặng núi phía bắc. Cứ nghĩ đi. Nghĩ đến Narnia và miền Bắc. Chẳng có gì chặn được đường chúng ta đi. Tôi sẽ vui sướng lắm khi không phải đi qua Tashbaan. Chúng ta sẽ an toàn hơn khi tránh xa những thành phố lớn.

- Chúng ta có thể tránh được không?

- Không, nếu không đi theo con đường vòng vèo trong đất liền và con đường này sẽ dẫn chúng ta đến vùng đất canh tác và những đường giao thông chính, mà tôi lại không thông thuộc đường xá. Đi qua vùng này, chúng ta sẽ chẳng gặp gì ngoài cừu, thỏ, chim hải âu và vài thằng nhóc chăn cừu. À mà này, cậu đã chuẩn bị khởi hành chưa?

Chân của Shasta đau nhức nhối khi nó đóng yên cương cho Bree và trèo lên yên ngựa, nhưng ngựa tỏ ra ân cần hơn, suốt buổi chiều hôm ấy nó bước đi những bước thong thả. Khi trời sẩm tối, người và ngựa đi xuống một cái dốc chạy xuống một thung lũng và trông thấy một ngôi làng. Trước khi vào trong làng Shasta xuống ngựa, đi tập tễnh mua một ổ bánh mì, một ít hành muối và củ cải muối. Ngựa thì tung tăng ngoài cánh đồng trong bóng chiều chạng vạng và gặp Shasta ở một chỗ cách xa nơi có người ở. Việc này đã có trong kế hoạch chung của cả hai vào đêm thứ hai.

Đó là những ngày tươi đẹp đối với Shasta, mỗi ngày nó một cảm thấy khỏe hơn, hứng khởi hơn cho đến lúc rốt cuộc những cơ bắp của nó rắn chắc lại và nó không ngã oành oạch như trước nữa. Nhưng cho đến cuối kỳ luyện tập, Bree vẫn dài giọng chê nó ngồi trên lưng ngựa như một bao bột mì. (“Mặc dầu việc chạy trốn khá an toàn, anh bạn trẻ ạ, tôi vẫn lấy làm xấu hổ khi bị thiên hạ bắt gặp đi với cậu trên đường cái.”) Nhưng mặc cho những lời lẽ gay gắt, độc địa, Bree là một người thầy nhẫn nại. Không ai có thể dạy bạn cưỡi ngựa tốt hơn một con ngựa. Shasta học cưỡi ngựa nước kiệu, đi nước kiệu nhỏ, học nhảy và học cách ngồi dính vào lưng ngựa kể cả khi Bree bất thần dựng hai vó trước lên hoặc đột ngột chồm sang phải hay trái – một điều mà Bree bảo nó, là một việc mà bạn phải làm bất cứ lúc nào trong một trận đánh.

Sau đó tất nhiên Shasta nài Bree kể cho nó nghe về những trận đánh, những cuộc giao tranh mà Bree mang Tarkaan giữa chốn hòn tên mũi đạn. Bree cũng kể cả về những cuộc hành quân bắt buộc, những lần phải lội qua những con sông chảy xiết, nhiệm vụ và những cuộc giao tranh dữ dội giữa các đội kỵ binh với nhau, trong những trường hợp ấy những con ngựa chiến cũng đánh nhau hết mình không kém gì con người. Là những nòi ngựa quý, chúng cũng được huấn luyện cách dùng răng, đá bổng và cả đá hậu một cách đúng lúc để làm sao cả người lẫn ngựa bên đối phương đều ngã lăn xuống dưới nhát kiếm hoặc cái rìu đánh trận phía quân ta. Nhưng Bree không muốn nói nhiều về những cuộc giao tranh như Shasta háo hức muốn nghe. (“Đừng nói nhiều về chuyện này, anh bạn trẻ ạ. Chỉ là những cuộc đánh nhau của Tisroc mà tôi phải tham gia với tư cách một tên nô lệ, một kẻ câm điếc không hơn không kém. Hãy trả tôi về những trận đấu ở Narnia, nơi tôi sẽ lao vào trận với tư cách là một con người tự do ở giữa những người của tôi. Đấy mới là những trận đấu đáng được nói đến. Narnia và miền Bắc. Ô hô, aha!!!”). Shasta sớm nhận ra là, một khi Bree nói bằng cái giọng đó thì y như rằng nó chuẩn bị phi nước đại.

Sau khi họ cứ phiêu bạt như thế hết miền này sang miền khác, đi qua nhiều vịnh, mũi đất và làng mạc theo sức nhớ của Shasta thì vào tuần trăng sáng chúng bắt đầu đêm đi ngày nghỉ. Chúng để lại những vực sâu sau lưng và bắt đầu đi qua vùng bình nguyên rộng lớn có một khu rừng cách đường đi nửa dặm về phía tay trái. Biển giờ đây ẩn mình sau những cồn cát lúp xúp cũng cách chúng một khoảng cách tương tự. Chúng cứ rong ruổi như vậy được khoảng một giờ, thỉnh thoảng chạy nước kiệu, có khi đi bước một, đột nhiên Bree dừng lại:

- Có chuyện gì vậy? - Shasta hỏi.

- Suỵt! – Bree kêu lên, vươn dài cổ ra, dựng đứng đôi tai lên. – Này, cậu có nghe thấy gì không? Nghe đi!

- Nghe như có tiếng một con ngựa khác, ở giữa chúng ta và khu rừng. – Shasta nói sau khi để ý lắng nghe được chừng một phút.

- Phải, đó một con ngựa, và đó cũng là điều mà tôi không thích.

- Có thể đấy chỉ là một bác nông dân cưỡi ngựa về nhà trễ chăng?

- Đừng có nói với tôi như thế. Đây không phải là một nông phu cưỡi ngựa, cũng không phải là một con ngựa nhà nông. Cậu có thể căn cứ vào âm thanh phát ra để suy đoán không hả? Đây là một kỵ sĩ thực sự đấy, Shasta. Tôi sẽ cho cậu biết đó là cái gì. Có một Tarkaan đang đi ngựa ngoài bìa rừng. Không cưỡi trên một con ngựa chiến – bước chân này quá nhẹ đối với một con ngựa chiến. Đây là một con ngựa cái nhà nòi, tôi dám đoán chắc như thế đấy.

- Nhưng bây giờ nó đã dừng lại, bất kể nó là ngựa chiến hay ngựa nòi thì nó cũng đã dừng lại.

- Cậu nói đúng, Shasta. Tại sao người đó dừng lại khi chúng ta vẫn tiếp tục phóng đi? Cậu bé ơi, tôi tin là có một ai đó cuối cùng đã bám gót chúng ta.

- Vậy chúng ta phải làm gì bây giờ? – Shasta thì thào hỏi. – Anh có nghĩ ông ta nhìn thấy chúng ta cũng như đã nghe thấy chúng ta không?

- Không đâu, với ánh sáng như thế này và khi chúng ta đứng yên một chỗ. Nhưng nhìn kìa một đám mây đang bay đến. Tôi sẽ đợi cho đến khi nó che khuất mặt trăng. Rồi chúng ta sẽ nhẹ nhàng như một con chuột đi về bên phải, xuống bờ biển. Chúng ta có thể trốn giữa các cồn cát nếu điều xấu thi nhau kéo đến.

Chúng đợi đến khi trăng hoàn toàn khuất sau một đám mây rồi, đầu tiên là những bước đi rón rén sau là nước kiệu nhỏ, người và ngựa đi xuống bãi biển.

Đám mây trở nên dày hơn, đen hơn lúc ban đầu và chẳng bao lâu trời tối đen như mực.

Đúng vào lúc Shasta đang bụng bảo dạ, “Bây giờ thì chúng ta chắc ở gần cồn cát rồi”, thì tim nó nhảy lên chẹn lấy cổ vì một âm thanh kinh hoàng đột ngột vang lên trong bóng tối trước mặt – một tiếng gầm nghe như bực bội, vừa buồn bã vừa hết sức dữ dội.

Ngay lập tức Bree quay đầu phi thục mạng vào sâu trong đất liền.

- Cái gì vậy? – Shasta thở hổn hển, hỏi.

- Sư tử. – Bree đáp, không phi chậm lại mà cũng không ngoái đầu lại.

Sau đó chẳng còn nghe thấy gì nữa ngoài tiếng vó ngựa ruổi mau, ruổi mau. Cuối cùng chúng phóng bạt mạng qua một khúc sông rộng, nông choẹt; Bree dừng lại khi sang đến bờ bên kia. Shasta nhận thấy toàn thân con ngựa run bần bật, mồ hôi toát ra như tắm.

- Dòng nước này có thể đánh át mùi của chúng ta. – Bree vừa thở hồng hộc vừa nói sau khi đã hoàn hồn được phần nào. – Bây giờ chúng ta có thể đi thong thả được rồi.

Trong lúc đi, Bree nói:

- Shasta à, tôi lấy làm xấu hổ cho bản thân mình. Tôi đã hoảng sợ như một con ngựa Calormen điếc đặc, tầm thường. Thật thế. Tôi chẳng giống một con ngựa biết nói chút nào. Tôi không hãi gươm, giáo và tên bay nhưng tôi không thể chịu đựng được… loài vật này. Tôi nghĩ tôi sẽ chạy nước kiệu một chút.

Tuy vậy, chỉ khoảng một phút sau nó đã chuyển sang phi nước đại và chẳng có gì phải ngạc nhiên vì chuyện đó. Bởi vì tiếng gầm lại vang lên, lần này thì từ phía cánh rừng bên tay trái.

- Hai con! – Bree rên lên.

Khi họ chạy nước kiệu được vài phút mà không nghe tiếng sư tử gầm nữa, Shasta nói:

- Tôi biết! Con ngựa kia lúc này đang phi nước đại bên chúng ta. Chỉ cách chúng ta một khoảng cách ném một hòn đá thôi.

- Thế… thì… tốt rồi… ồi! – Bree nói, vẫn thở hồng hộc. – Tarkaan… Tarkaan… sẽ có gươm… sẽ bảo vệ chúng ta.

- Nhưng Bree, chúng ta cũng có thể bị sư tử giết cũng như bị bắt. Hoặc tôi có thể bị bắt. Người ta sẽ treo cổ tôi lên vì tội ăn trộm ngựa. – Shasta không sợ sư tử nhiều như Bree vì nó chưa gặp sư tử bao giờ, còn Bree thì đã gặp.

Bree chỉ trả lời bằng cách khịt khịt mũi nhưng nó từ từ phi chệch về bên tay phải. Thật kỳ lạ, trong lúc đó con kia lại chệch đi về phía bên tay trái và khoảng cách giữa chúng được nới rộng ra. Nhưng đúng lúc đó lại nghe vang lên từ hai phía tiếng gầm của sư tử và ngay lập tức một con chạy sát lại bên phải, con kia chạy gần hơn về bên trái, khoảng cách giữa hai con ngựa gần lại. Hai con sư tử cũng ở đâu đây. Tiếng gầm của loài dã thú này nghe như gần ngay bên cạnh và dường như chúng dễ dàng theo kịp bước chạy nước rút của hai con ngựa. Chợt, đám mây trên đầu tản đi đâu hết. Trăng hiện ra, sáng đến kinh ngạc, soi vạn vật tỏ tường như dưới ánh sáng ban ngày. Hai con ngựa, hai kỵ sĩ trong đêm, bám sát nhau, quyết liệt như trong một cuộc đua. Sau này, Bree nói đó là một cuộc đua hay hơn bất cứ một cuộc đua nào ở Calormen.

Bây giờ thì Shasta đã phó mặc tất cả cho hoàn cảnh, nó bắt đầu tự hỏi sư tử sẽ ăn thịt nó bằng cách ngoạm một hai miếng hay còn đùa nghịch với nạn nhân như một con mèo vầy vò một con chuột, và điều ấy nếu xảy ra sẽ đau đớn như thế nào. Cũng vào lúc đó một điều thỉnh thoảng vẫn xảy ra vào những khoảnh khắc kinh hoàng nhất, nó mở to các giác quan ghi nhận mọi chuyện. Nó thấy người kỵ sĩ kia là một người nhỏ nhắn, mảnh dẻ mặc áo giáp (dưới ánh trăng chiếc áo sáng lên lấp lánh). Người này cưỡi ngựa rất điệu nghệ. Và không để râu.

Có một cái gì đó bằng phẳng và sáng loang loáng trải dài trước mặt họ. Trước khi Shasta có thời gian phán đoán xem đó là cái gì thì một cột sáng tung lên cao và nó thấy miệng mình đầy nước muối mằn mặn. Thì ra cái vật sang sáng ấy là một lạch nước dài nằm dọc bên bờ biển.

Hai con ngựa lao xuống bơi, nước ngập đến đầu gối Shasta. Một tiếng gầm vang lên giận dữ phía sau họ, ngoái đầu nhìn lại, Shasta thấy một con vật có vóc dáng thật khủng khiếp, lông lá bờm xờm đứng thu mình bên mép nước, nhưng chỉ có một con. “Chắc chúng ta đã bứt được khỏi con kia.” – Shasta thầm nghĩ.

Sư tử rõ ràng nghĩ là con mồi không đáng làm cho nó ướt người và dù sao thì cuộc rượt đuổi trong dòng nước cũng không dẫn tới đâu cả. Hai con ngựa, bơi sát bên nhau. Lúc này đã ra đến giữa dòng và bờ đối diện cũng đã nhìn rõ hơn. Tarkaan vẫn không nói một câu. “Nhưng ông ta sẽ nói, - Shasta nghĩ, - một khi đã lên bờ. Nhưng mình thì biết nói gì đây? Phải bịa ra một câu chuyện thôi.”

Rồi bất thình lình hai giọng nói cũng bật lên bên cạnh nó.

- Trời ơi, tôi mệt quá chừng! – Một giọng nói cất lên.

- Ngậm miệng lại. Hwin, và đừng tỏ ra ngu ngốc như thế! – Giọng kia đốp lại.

- Mình đang nằm mơ sao? – Shasta thầm nghĩ. – Mình dám thề là con ngựa kia vừa nói.

Chẳng bao lâu hai con ngựa không còn bơi nữa mà bắt đầu lội nước, một lát sau đã nghe thấy tiếng nước chảy xuống từ đuôi và mình ngựa, và tiếng sỏi kêu lạo xạo dưới tám cái móng ngựa. Họ đi sâu vào đất liền. Trước sự ngạc nhiên của Shasta, Tarkaan có vẻ như không muốn để ý gì kẻ tình nghi. Người này thậm trí còn không nhìn nó mà lại như nóng ruột, thúc ngựa chạy thẳng. Tuy vậy, Bree lập tức nhún vai theo cái cách của loài ngựa.

- Bree-hoo-hah! – Nó khịt khịt mũi. – Ngồi cho vững vàng nhé! Tôi đã nghe rồi, thật thế. Không việc gì phải giả vờ nữa , cô nàng. Tôi nghe thấy rồi. Cô là một con ngựa biết nói, một con ngựa Narnia cũng như tôi.

- Nếu quả là như vậy thì việc gì đến ngươi nào? – Kỵ sĩ lạ mặt lên tiếng, đặt tay lên chuôi gươm. Nhưng giọng nói ấy đã mách bảo Shasta một điều.

- Cái gì, hóa ra là một cô gái! – Nó thốt lên.

- Nếu tôi chỉ là một cô gái thật thì việc ấy có liên quan gì đến anh? – Người lạ đốp lại. – Anh chắc chắn chỉ là một thằng nhóc nhỏ: một thằng nhóc tầm thường, thô lỗ cũng có thể là một thằng nhóc đi ở, đã ăn trộm ngựa của ông chủ.

- Đó là tất cả những gì cô biết sao? – Shasta nói.

- Cậu ấy không phải là một tên ăn cắp Tarkheena bé nhỏ ạ. – Bree lên tiếng. – Ít nhất, nếu có bất cứ hành vi ăn cắp nào thì có thể nói tôi đã ăn cắp cậu ấy. Và dẫu cho việc này không liên quan gì đến tôi, tiểu thư cũng không nghĩ là tôi lại đi qua mặt người đồng hương trên đất nước xa lạ này mà không chào cô nàng một tiếng chứ? Đây là một việc rất tự nhiên.

- Tôi cũng nghĩ đó là một việc hợp lý. – Ngựa cái nói.

- Ta muốn ngươi ngậm cái mõm lại, Hwin! – Cô gái xẵng giọng. – Coi xem ngươi đã dẫn chúng ta đến những chuyện rắc rối như thế nào.

- Tôi không biết rõ chuyện rắc rối xảy đến cho cô. – Shasta nói. – Cô có thể gạt chuyện đó đi như cô muốn. Chúng tôi sẽ không giữ chân cô đâu.

- Không, anh làm nổi việc đó đâu! – Cô gái nói.

- Coi xem những sinh vật gọi là con người này mới hay sinh sự làm sao! – Bree nói với con ngựa cái. – Họ cũng tệ như mấy con lừa vậy. Ta hãy thử nói chuyện có lý hơn xem sao. Tôi hiểu rồi, có phải câu chuyện của cô bạn cũng giống như câu chuyện của tôi không? Bị bắt cóc từ lúc còn nhỏ - những năm dài làm trâu làm ngựa cho bọn người Calormen phỏng?

- Đúng thế! – Ngựa cái đáp kèm với một tiếng hí buồn bã.

- Bây giờ thì sao, có lẽ cũng… đi trốn phỏng?

- Nói cho nó biết đó không phải là việc của nó đi, Hwin! – Cô gái nói.

- Không, tôi không nói đâu, Aravis! – Ngựa cái nói, ngửa cổ lên. – Phải, tôi cũng chạy trốn như anh thôi. Tôi chắc một con ngựa chiến dòng dõi như anh sẽ không phản lại chúng tôi đâu. Phải, chúng tôi đang trên bước đường chạy trốn, đến Narnia.

- Thế thì, chúng tôi cũng thế. – Bree đáp. – Tất nhiên, cô bạn đã đoán ra ngay. Một thằng nhóc cưỡi ngựa (hoặc cố gắng cưỡi một con ngựa chiến oai hùng) trong một đêm kinh hoàng như đêm nay thì mười ăn một chắc chắn là những kẻ đang trên bước đường trốn chạy. Và nếu tha thứ cho sự mạo muội thì một Tarkheena thân phận cao quý đi ngựa lúc đêm hôm – mặc bộ áo giáp của ông anh – nóng nảy với bất cứ ai muốn can thiệp hỏi han… phải, nếu chuyện này không có gì ám muội thì xin cứ gọi tôi là một cục đất vứt đi.

- Vậy thì ngươi đúng đấy! – Aravis nói. – Ngươi đoán trúng rồi đấy. Hwin và ta đang bỏ chạy. Chúng ta cố chạy đến Narnia. Bây giờ thì ngươi còn gì để nói nào?

- Trong trường hợp này, không có cái gì ngăn chúng ta đi cùng nhau, phải vậy không nào? – Bree nói. – Thưa quý cô Hwin, tôi tin cô sẽ chấp nhận sự giúp đỡ cũng như bảo vệ mà tôi sẵn lòng phục vụ cô trong bước đường chạy trốn, phải không?

- Tại sao ngươi cứ nói chuyện với ngựa của ta mà không nói với ta? – Cô gái hỏi.

- Tha lỗi cho tôi Tarkheena! – Bree đáp (với một cái hất đầu nhè nhẹ ra sau). – Nhưng đó là kiểu nói chuyện của bọn người Calormen. Chứ chúng tôi đây, Hwin và tôi, là những cư dân Narnia tự do, và nếu tiểu thư muốn chạy đến đấy thì tiểu thư cũng là một người như vậy. Trong trường hợp này, Hwin không phải là ngựa của tiểu thư nữa. Cũng tương tự như vậy có thể nói tiểu thư là người của nàng ta.

Cô gái mở miệng toan nói gì nhưng rồi lại thôi. Rõ ràng, trước đây cô đã nhìn nhận mọi việc dưới ánh sáng này.

- Nhưng mà, - cô gái nói sau một hồi im lặng, - tôi không hiểu rõ lý do khiến chúng ta phải đi cùng với nhau. Như thế chẳng phải chúng ta dễ bị phát hiện hơn hay sao?

- Ít có khả năng hơn. – Bree nói. Còn Hwin thì tiếp lời: - Hãy đi với nhau đi. Tôi sẽ cảm thấy vững tâm hơn. Chúng ta không thông thuộc đường đi lối lại. Tôi chắc anh bạn này biết nhiều hơn chúng ta.

- Thôi đi, Bree! – Shasta lên tiếng. – Cứ để mặc họ, anh không thấy là họ không muốn đi cùng với chúng ta sao?

- Chúng tôi muốn! Hwin khẳng định.

- Nghe đây! – Cô bé nói. – Tôi không ngại đi chung với anh, ngựa chiến ạ, nhưng còn cậu ta thì sao? Làm sao biết được, nếu anh ta là một kẻ do thám thì sao?

- Sao cô không nói trắng ra là tôi không… đủ tốt với cô? Shasta bực dọc nói.

- Bình tĩnh nào Shasta! Câu hỏi của Tarkheena không phải là không có lý, tôi xin bảo lãnh cho chàng trai này, Tarkheena. Với tôi, cậu ấy là một người trung thực, đó là một người bạn tốt. Có một điều chắc chắn, nếu cậu ấy không phải là người Narnia thì cũng là người Archenland.

- Vậy thì được. Chúng ta hãy đi cùng với nhau! – Cô gái nói nhưng là với con ngựa và rõ ràng là Tarkheena cần con ngựa Bree chứ không phải là cậu bé Shasta.

- Thế là tốt rồi! – Bree nói. – Bây giờ giữa chúng ta và con thú khủng khiếp kia có dải nước ngăn cách, hai người có thể gỡ yên cương ra để chúng tôi nghỉ ngơi một lát và nghe chuyện của nhau.

Hai đứa trẻ tháo yên cương và lũ ngựa nhẩn nha gặm cỏ, Aravis đưa ra mấy món ngon lành từ cái túi buộc sau yên ngựa. Nhưng Shasta xị mặt ra từ chối, lấy cớ rằng nó không đói. Nó cố nói ra điều đó một cách trang nghiêm và cao quý nhưng bởi vì túp lều của người đánh cá không phải là trường đào tạo những cung cách quý phái, lịch sự kết quả thành ra hỏng bét. Khi nó ngỡ là mình thất bại, nó còn trở nên vụng về hơn và khuôn mặt càng bí xị. Trong khi đó câu chuyện giữa hai con ngựa diễn ra rất rôm rả. Chúng cùng nhớ lại một vài địa điểm ở Narnia – “cánh đồng cỏ mạn trên đập Hải Ly” và phát hiện ra chúng còn là anh em họ xa với nhau. Điều này làm cho không khí mỗi lúc một trở nên gượng gạo hơn giữa hai thiếu niên cho đến lúc Bree nói:

- Bây giờ Tarkheena hãy kể cho chúng tôi nghe câu chuyện của mình đi, cô không cần phải vội vã – lúc này tôi cảm thấy hết sức khoan khoái.

Aravis lập tức bắt đầu câu chuyện, dù nó vẫn ngồi trong một tư thế cũ nhưng nó đã có một tác phong và một giọng điệu khác hẳn. Bởi vì ở Calormen, cách kể chuyện (dù chuyện đó là thật hay bịa) là một môn học bạn được dạy dỗ rất chu đáo, cũng như cách học trò người Anh học cái môn viết bài luận vậy. Duy chỉ có một điều khác, là người ta muốn nghe các câu chuyện trong khi tôi chưa từng nghe nói có bất cứ ai muốn đọc những bài luận của học sinh.

Cô gái vào đề ngay:

- Tên tôi là Aravis Tarkheena và tôi là con gái duy nhất của Kidrash Tarkaan, cháu gái của Rishti Tarkaan, chắt của Kidrash Tarkaan thuộc dòng dõi của Ilsombreh Tisroc – con trai của Ardeeb Tisroc, tức là con cháu trực hệ của thần Tash. Cha tôi là lãnh chúa tỉnh Calavar, cũng là người được quyền mang dép đứng trước mặt Tisroc (Thánh thượng vạn tuế, vạn vạn tuế) Mẹ tôi (làm hòa với các thánh thần) đã sớm lên trời gặp họ và cha tôi vội tục huyền. Một trong những người anh em của tôi đã ngã xuống trong một trận đấu chống lại quân phiến loạn diễn ra ở miền Tây xa xôi, người kia chỉ là một đứa bé.

Bây giờ nói sang chuyện người vợ mới của cha tôi. Dì ghẻ rất ghét tôi và mặt trời chết hẳn trong mắt bà ta chừng nào tôi còn sống trong nhà với cha tôi. Thế là bà ta xúi bẩy cha tôi hứa gả tôi cho Ahoshta Tarkaan. Lão già Ahoshta xuất thân hèn mọn mặc dù những năm sau này lão đã chiếm được cảm tình của Tisroc (Thánh thượng vạn tuế, vạn vạn tuế) bằng những lời nịnh hót và xúc xiểm đầy ác ý, bây giờ hắn đã được phong quý tộc làm chủ nhiều thành phố lớn và có khả năng được chọn làm quan tể tướng khi ngài tể tướng đương nhiệm từ trần. Ahoshta là một lão già cũng đã ở vào tuổi lục tuần, có một cái bướu to trên lưng và mặt lão giống mặt một con vượn. Nhưng cha tôi phần vì nghe lời thẽ thọt của người vợ trẻ đã cử một người mai mối đến nói hay nói tốt về tôi với lão già kia và chắc là những điều về tôi làm lão đẹp ý, Ahoshta nhắn tin rằng lão sẽ cưới tôi vào cuối mùa hè năm nay.

Khi tin tức lọt đến tai tôi, đúng là mặt trời tối sầm lại, tôi nằm lì trên giường khóc suốt một ngày. Ngày thứ hai tôi bò dậy, rửa mặt mũi sạch sẽ, lắp yên cương cho con ngựa Hwin của tôi, mang theo con dao găm sắc bén mà anh trai tôi đã mang theo trong những cuộc chinh chiến của miền Tây, rồi phóng ra khỏi nhà. Khi ngôi nhà của cha mẹ đã khuất hẳn sau lưng, tôi phóng ngựa đến một vùng đất xanh tươi trống trải ở giữa một khu rừng không một bóng người. Tôi xuống ngựa, lấy dao ra. Đoạn tôi vạch áo ở chỗ mà tôi nghĩ là trái tim. Tôi cất tiếng cầu xin tất cả các thánh thần rằng một khi sang thế giới bên kia người đầu tiên mà tôi gặp là anh trai. Sau đó tôi nhắm mắt, nghiến chặt hai hàm răng lại chuẩn bị ấn lưỡi dao vào ngay tim. Nhưng trước khi tôi kịp làm thế, con ngựa này đã nói với tôi bằng giọng của một thiếu nữ: “Ôi cô chủ, đừng bao giờ hủy hoại bản thân mình, bởi vì nếu còn sống cô còn cơ hội có một tương lai tươi sáng hơn trong khi tất cả những người chết chỉ là những cái xác mà thôi.”
- Điều tôi nói nghe không hay bằng một nửa điều cô thuật lại! – Ngựa cái lẩm bẩm.

- Suỵt, cô bạn, đừng chen ngang! – Bree nói, rõ ràng nó rất thích câu chuyện này. – Cô ấy kể chuyện bằng một phong thái Calormen quý phái nhất và không một nghệ nhân kể chuyện nào trong triều đình của một Tisroc kể hay hơn. Làm ơn kể tiếp đi, Tarkheena.

- Khi tôi nghe ngôn ngữ của con người bật ra từ miệng con ngựa cái – Aravis tiếp tục, tôi tự nhủ nỗi sợ chết đã làm đầu óc tôi lú lẫn và tạo ra những ảo giác. Tôi cảm thấy nhục nhã lắm vì trong dòng họ của tôi không ai sợ cái chết hơn sợ muỗi cắn. Thế là tôi chuẩn bị đâm vào tim mình lần thứ hai, nhưng Hwin đã đến gần hơn, dí đầu nó vào giữa tôi và con dao, nêu ra cho tôi những lời lẽ thuyết phục nhất, quở trách tôi như người mẹ mắng mỏ đứa con gái của mình. Bấy giờ tôi lấy làm kinh ngạc lắm lắm, quên cả việc quyên sinh, quên cả lão già Ahoshta và nói: “Này ngựa cái của Tarkheena, làm sao ngươi học được cách nói năng như một người con gái vậy?” Thế là Hwin bảo tôi là ở Narnia có những con vật biết nói và nó nghe phong thanh người ta đã ăn trộm nó ở đó khi nó còn rất bé. Rồi con vật kể cho tôi nghe về rừng núi, sông ngòi ở Narnia, về những tòa lâu đài và những con tàu lớn cho đến khi tôi thốt lên: “Nhân danh thần Tash con của Araroth và Zardeenah – nữ thần của Đêm tối, tôi có một ước mong lớn đó là được đặt chân đến cái đất nước Narnia này.” Nghe thế con ngựa bèn nói: “Cô chủ của tôi, nếu đến Narnia cô sẽ hạnh phúc, bởi vì trên mảnh đất đó không một thiếu nữ nào bị buộc phải lấy chồng trái với ý nguyện của cô ấy.”
Chúng tôi trò chuyện hồi lâu và hy vọng lại quay về, tôi rất sung sướng là đã chưa tự kết liễu đời mình. Sau đó, chúng tôi thảo luận một kế hoạch cùng nhau bỏ trốn. Chúng tôi quay về nhà, tôi bận lên người những bộ quần áo trông vui mắt nhất, rồi ca hát và nhảy múa trước mặt cha tôi, giả bộ hết sức vui sướng vì đám cưới mà ông sắp đặt cho mình. Tôi cũng nói với ông: “Thưa cha, vì niềm vui sướng của đôi mắt con, cho phép con được đi vào rừng cùng với một thị nữ và sống một mình ở đó ba ngày để làm những nghi thức thiêng liêng dâng lên Zardeenah, nữ thần của Đêm tối và của các nàng trinh nữ như là một phong tục và một việc làm thích hợp đối với các cô trinh nữ khi họ phải từ biệt các nghi thức thờ cúng Zardeenah và chuẩn bị làm một người vợ. Ông trả lời ngay: “Con gái của ta, niềm vui của đôi mắt ta, cứ làm những gì con muốn.” Nhưng vừa đi khuất khỏi tầm nhìn của ông, tôi lập tức tìm đến người hầu hạ ông lâu năm nhất. Lão bộc tâm phúc nhất, người đã từng để tôi ngồi trên đầu gối ông lúc tôi còn bé, và là người yêu thương tôi còn hơn cả yêu không khí và ánh sáng. Tôi bắt ông thề độc phải giữ bí mật và nhờ ông viết hộ tôi một lá thư. Ông sa nước mắt, van nài tôi hãy đổi ý nhưng cuối cùng ông cũng nói: “Nghe tức là vâng lời.” Và làm tất cả theo ý tôi. Sau đó tôi niêm phong lá thư và giấu vào trong ngực áo.”
- Nhưng lá thư viết gì? – Shasta hỏi.

- Hãy yên lặng, anh bạn trẻ. – Bree nhắc. – Cậu làm hỏng câu chuyện mất thôi. Cô ấy sẽ kể tiếp cho chúng ta nghe về lá thư vào đúng thời điểm. Kể tiếp đi Tarkheena!

“Sau đó tôi bảo một con hầu đi với tôi vào rừng để thực hiện các nghi lễ với Zardeenah và bảo cô ta đánh thức tôi vào lúc rạng sáng. Tôi tỏ ra rất vui vẻ với cô ta, đem rượu chuốc cho cô ta say; nhưng tôi đã lén trộn vào ly của cô ta vài thứ mà tôi biết sẽ làm cô ta ngủ li bì suốt một ngày một đêm. Ngay khi kẻ ăn người làm trong nhà cha tôi đã bắt đầu ngủ, tôi trở dậy, mặc vào người chiếc áo giáp của anh tôi mà tôi bao giờ cũng để trong phòng riêng để nhớ về anh ấy. Tôi cho vào bao lưng tất cả số tiền tôi có cùng với mấy món trang sức mà tôi đã tuyển lựa rất kĩ. Tôi cũng chuẩn bị một ít lương khô và tự tay đóng yên cương cho con ngựa, rồi lén ra đi vào khoảng canh hai. Tôi dự định không đi vào rừng nơi mà cha tôi chắc sẽ cho người đến đấy tìm tôi mà đi về hướng bắc rồi chuyển sang hướng đông để đến Tashbaan.

Ba ngày đã trôi qua và tôi biết cha tôi sẽ không kiếm tôi vì bị lừa bởi những lời tôi đã nói với ông. Vào ngày thứ tư chúng tôi đến thành phố Azim Balda. Thành phố này nằm ở nơi gặp gỡ của nhiều con đường và từ đó những người lính của Tisroc (Thánh thượng vạn tuế, vạn vạn tuế) cưỡi trên lưng những con ngựa hay, tỏa đi khắp nơi trong đế chế và nó cũng là một nơi gửi thư thuận tiện nhất. Thế là tôi tìm đến viên quan trông coi việc thông tin liên lạc trong Bưu cục hoàng gia ở Azim Balda và nói: “Thưa ngài, đây là lá thư từ ông chú tôi là Ahoshta Tarkaan gửi đến cho Kidrash Tarkaan chúa đất vùng Calavar. Hãy nhận năm đồng và lập tức chuyển lá thư đến tay người nhận.” Ông này lập tức nói ngay: “Nghe tức là vâng lệnh.”
Lá thư ấy giả danh Ahoshta viết ra và đại loại nó có nội dung như thế này: “Ahoshta Tarkaan gửi đến Kidrash Tarkaan lời chào và chúc bình an vô sự - nhân danh thần Tash không gì cưỡng lại được và không gì lay chuyển được. Vì biết được danh tiếng ngài mà tôi làm một cuộc hành trình đến dinh cơ của ngài đặng thực hiện những nghi lễ cho hôn ước giữa tôi và con gái ngài là Aravis Tarkheena, một việc làm vui lòng thần Vận mệnh và các vị thần thánh khác thế nên tôi đã gặp được con gái ngài trong rừng khi nàng chấm dứt các nghi lễ và việc cúng lễ thần Zardeenah theo phong tục dành cho các nàng trinh nữ. Khi tôi biết được nàng là ai tôi hết sức vui mừng với vẻ đẹp và sự khôn ngoan ở nàng, tôi đã bị tình yêu thiêu đốt và rõ ràng mặt trời sẽ tắt trong mắt tôi nếu tôi không cưới nàng ngay lập tức. Theo nghi lễ tôi đã tiến hành những thủ tục cúng tế cần thiết và cưới con gái ngài vào đúng cái giờ khắc mà tôi đã gặp nàng rồi đưa nàng về nhà mình. Thưa cha, cả hai con cầu xin cha hãy đến chỗ chúng con ngay lập tức để chúng con có được niềm vui được gặp mặt cha và nhận lời chúc phúc của cha; xin cha cũng mang đến đây toàn bộ số của hồi môn của vợ con, số tiền mà với địa vị cao quý của con và những phí tổn kinh khủng mà con phải trả cho hôn lễ, con có lời thỉnh cầu nó phải được mang đến ngay không chậm trễ. Bởi vì giữa cha vợ và hiền tế có một mối thâm giao lâu đời, con tự nhủ rằng cha sẽ không nổi giận với đám cưới vội vã của chúng con, tất cả chỉ vì một tình yêu mãnh liệt mà con dành cho con gái yêu của cha. Con cầu mong cha có được sự quan tâm của tất cả thần linh.”
Sau khi làm việc đó, tôi vội vã rời khỏi Azim Balda, không còn phải lo rằng cha tôi sẽ cho người đuổi theo và dự tính rằng, cha tôi, khi đã nhận được một lá thư như thế sẽ gửi đến cho Ahoshta hoặc đích thân đến chỗ ông ta và trước khi vụ việc được khám phá ra thì tôi đã an toàn đi khỏi Tashbaan. Đó là toàn bộ câu chuyện của tôi cho đến khi tôi bị sư tử đuổi theo và gặp các người ở lạch nước mặn này.
- Vậy chuyện gì sẽ xảy ra với cô gái – cái người bị cô đánh thuốc mê ấy? – Shasta hỏi.

- Chắc chắn là cô ta sẽ bị đánh một trận vì tội ngủ dậy muộn. – Aravis nói giọng tỉnh rụi. – Thực ra cô ả là một công cụ và là kẻ do thám của dì ghẻ. Tôi rất lấy làm sung sướng với việc người ta sẽ nện cho ả một trận.

- Tôi cho rằng như thế khó gọi là một cử chỉ đẹp.

- Tôi không cần phải làm bất cứ điều gì chỉ để làm hài lòng anh. – Aravis đốp lại.

- Còn một điều khác trong câu chuyện của cô khiến cho tôi cảm thấy thật khó hiểu. – Shasta tiếp. – Cô còn chưa phải là một thiếu nữ trưởng thành. Tôi không tin là cô lớn tuổi hơn tôi. Tôi không tin là cô đã đủ tuổi. Sao cô có thể lấy chồng vào tuổi này được?

Aravis không nói không rằng, còn Bree thì may mắn nói ngay:

- Shasta, biết thì thưa thốt không biết thì dựa cột mà nghe, người ta sớm thành gia thất trong những gia đình quý tộc.

Shasta đỏ mặt đến tận chân tóc (dù đêm không đủ ánh sáng để cho những người kia phát hiện ra điều đó) và cảm thấy bị quê độ một phen. Aravis hỏi Bree về câu chuyện của nó. Bree kể lại ngay và Shasta nghĩ rằng nó đã nhấn mạnh một cách không cần thiết những cú ngã và sự vụng về trong việc cưỡi ngựa của nó. Rõ ràng Bree nghĩ câu chuyện của nó rất buồn cười nhưng Aravis không cười. Khi Bree kể xong cả bọn bèn đi ngủ.

Ngày hôm sau cả bọn, hai con ngựa và hai đứa trẻ, tiếp tục cuộc hành trình. Shasta thật lòng nghĩ rằng chuyến đi sẽ thú vị hơn nếu nó và Bree đi riêng. Bởi vì bây giờ chủ yếu là Bree và Aravis trò chuyện với nhau. Bree sống quá lâu ở Calormen, bao giờ cũng ở giữa các Tarkaan và ngựa của họ, vì thế mà nó biết chuyện về nhiều người và nhiều nơi chốn mà Aravis cũng biết. Cô bé thường nói thế này: “Nhưng nếu ngươi đã tham dự trận đấu ở Zulindreh, ngươi đã gặp người em họ Alimash của ta, anh ta phụ trách đội xe vận tải.” Còn Bree thì nói ngay: “Cô cũng biết đấy; có bao giờ tôi có dính líu gì đến xe cộ hoặc các loại ngựa kéo xe đâu. Anh ta không phải là kỵ binh. Chỉ là một nhà quý tộc bẩm sinh. Anh ta đổ đầy một túi đường cho tôi sau khi đã tháo hàm thiếc ra.” Hoặc giả Bree nói: “Tôi đi xuống một cái hồ ở Mezreel một mùa hè nọ” thế là Aravis vội đế ngay vào: “Ồ, Mezreel! Tôi có một người bạn ở đó tên là Lasaraleen Tarkheena. Thật là một chỗ vui hết biết. Những trang viên rộng bát ngát này, còn Thung lũng của Một ngàn mùi hương nữa chứ.” Bree không hề có ý loại Shasta ra khỏi câu chuyện mặc dù thỉnh thoảng cậu bé cũng muốn đi đến chỗ gần như nghĩ là nó chủ ý muốn thế. Những người biết quá nhiều chuyện khó có thể không phô bày và nếu bạn có mặt ở đó bạn cũng khó mà không có cảm giác mình bị gạt ra ngoài.

Hwin là một con ngựa cái quá nhút nhát trước một con ngựa chiến dày dạn kinh nghiệm trường đời như Bree nên nó hiếm khi mở miệng. Còn Aravis sẽ không bao giờ nói với Shasta nếu có thể tránh được.

Tuy vậy, chẳng bao lâu sau chúng có những chuyện quan trọng hơn để quan tâm. Đoàn người ngựa đã đến gần Tashbaan. Có nhiều ngôi làng to hơn, trù phú hơn và nhiều người đi lại trên đường hơn. Bây giờ chúng đi chủ yếu vào ban đêm còn ban ngày thì tìm chỗ trốn. Sau mỗi một trạm dừng chân chúng lại tranh luận rất hăng xem chúng sẽ làm gì một khi đến Tashbaan. Mọi người đều muốn lảng tránh khó khăn này nhưng bây giờ thì không còn lảng tránh được nữa. Trong những cuộc tranh luận này từng bước một Aravis trở nên bớt lạnh lùng, kênh kiệu với Shasta hơn; bạn sẽ dễ hòa đồng với người khác hơn khi có cùng một mối quan tâm nào đó và có một đề tài trao đổi với nhau.

Bree nói việc đầu tiên phải làm là tất cả hãy hẹn gặp nhau ở một chỗ quy định nào đó, chỗ này phải cách xa Tashbaan để nếu có chuyện gì xui xẻo, có thể tách ra khi đi qua thành phố. Theo ý kiến đó, địa điểm tốt nhất là khu lăng tẩm của các vị vua cổ đại nằm bên rìa một hoang mạc. “Những thứ kiểu như đá tổ ong,” nó nói, “thì mọi người không thể không nhận ra. Mà điểm tốt nhất ở đây là không một người Calormen nào bén mảng đến gần vì họ nghĩ nơi này bị ma ám và họ rất mê tín.”

Aravis hỏi lại có thật nơi này có ma quỷ không thì Bree đáp nó là một con ngựa Narnia tự do và nó không tin những câu chuyện vớ vẩn loại này của người Calormen. Sau đó, Shasta cũng nói nó không phải là người Calormen và cũng không mảy may để tâm vào những chuyện cũ rích về hồn ma bóng quỷ. Điều này cũng không hoàn toàn đúng đâu nhưng nó lại gây ấn tượng mạnh với Aravis (mặc dù vào lúc ấy nó cũng làm cô bé bực mình) và tất nhiên Aravis nói nó cũng không thèm để ý đến lũ ma quỷ. Mọi chuyện được quyết định là lăng tẩm ở bên kia thành phố sẽ là nơi thích hợp, ai cũng cảm thấy mọi chuyện rồi sẽ thuận lợi cho đến lúc Hwin khiêm tốn chỉ ra rằng vấn đề thực sự không phải là ở chỗ họ hẹn gặp nhau ở đâu một khi đã đi qua Tashbaan mà là làm cách nào họ có thể đến được đó.

- Chúng ta sẽ giải quyết việc này vào ngày mai. – Bree đáp. – Còn bây giờ là lúc chợp mắt một lúc.

Nhưng vấn đề này không dễ dàn xếp. Ý kiến của Aravis là họ sẽ bơi qua sông mạn phía dưới thành phố vào ban đêm và không nên đặt chân vào thành. Nhưng Bree có hai lý lẽ chống lại. Một là cửa sông ở đây rất rộng và sẽ là một chuyến bơi dài đối với Hwin nhất là khi phải mang một người trên lưng. (Nó cũng nghĩ đó là một quãng sông quá dài đối với nó, nhưng nó chỉ không nhớ ra điều đó mà thôi). Lý lẽ thứ hai là có nhiều tàu bè trên sông và tất nhiên bất cứ ai đứng trên boong cũng sẽ nhìn thấy hai con ngựa bơi qua sông và điều này chắc chắn sẽ gây nên một cuộc điều tra.

Shasta nghĩ chúng nên đi đến con sông mạn trên thành phố và vượt qua khúc sông cạn hơn. Nhưng Bree giải thích là dọc hai bờ con sông này có những khu vườn và nhà nghỉ mát của các Tarkaan và Tarkheena, họ thường cưỡi ngựa dạo chơi hoặc có những bữa tiệc trà trên sông. Trên thực tế, đó là nơi có nhiều khả năng gặp một ai đó nhận ra nó hoặc Aravis nhất.

- Thế thì chúng ta sẽ cải trang. – Shasta nói.

- Hwin chậm rãi nói là có vẻ như đối với nó cách an toàn nhất là cứ đi qua cổng thành bởi vì người ta dễ trà trộn trong đám đông hơn. Nhưng nó cũng ủng hộ ý định cải trang. Nó nói:

- Hai người hãy mặc những bộ quần áo rách rưới, trông như nông dân hoặc những kẻ nô lệ. Áo giáp của Aravis và yên cương cần cho vào một bọc đặt lên lưng chúng ta, bọn trẻ con sẽ vờ dắt ngựa đi đâu đó và mọi người sẽ nghĩ chúng ta chỉ là những con ngựa thồ.

- Hwin thân mến! – Aravis nói với giọng gần như khinh miệt. – Làm như có người có thể nhầm Bree với một con người thồ, dù ngươi có cải trang cho nó như thế nào cũng vậy.

- Tôi cũng không nghĩ thế. – Bree nói, khịt khịt mũi và ngấc đầu ra sau một chút.

- Tôi biết đó không phải là một kế hoạch tốt. – Hwin nói. – Nhưng tôi nghĩ đó là cơ hội duy nhất của chúng ta. Tôi và anh đã lâu lắm rồi không được chải bờm và chúng ta trông không còn là mình nữa (hay ít nhất thì tôi cũng chắc là mình không được như xưa). Tôi nghĩ nếu chúng ta vấy bùn lên người và đi với cái đầu gục xuống như thể mệt mỏi và lười nhác – không còn muốn nhấc chân lên nữa thì chúng ta có thể không bị ai để ý đến đâu. Đuôi của chúng ta có thể cắt ngắn đi: anh cũng biết đấy làm sao cho nó có một vẻ thật xơ xác.

- Cô bạn thân yêu của tôi, - Bree nói, - cô có hình dung nổi trông mình ra cái giống gì khi đi vào Narnia trong bộ dạng ấy không?

- À nhưng mà, - Hwin đáp với vẻ khiêm nhường (nó là một con ngựa cái rất nhạy cảm) – cái chính là đi được đến nơi.

Dù không ai thích ý tưởng này cho lắm nhưng kế hoạch của Hwin xem ra có vẻ khả thi hơn cả. Đó là một kế hoạch có phiền phức một chút và liên quan đến một cái mà Shasta gọi là hành động trộm cắp còn Bree thì gọi là một cuộc “đột kích”. Một nông trại bị mất vài bao bột vào tối hôm ấy, còn một bác nông dân khác thì bị mất một cuộn dây thừng, nhưng bộ quần áo con trai rách rưới dành cho Aravis thì được trả bằng tiền mặt hẳn hoi, điều này diễn ra trong một làng chúng đi qua. Shasta trở lại với các bạn với vẻ chiến thắng khi màn đêm buông xuống. Bạn bè đợi nó ở giữa một đám cây cối tươi tốt ở chân một vùng đồi thấp mọc đầy cây lấy gỗ nằm bên phải con đường chúng đi. Ai nấy đều cảm thấy phấn khích vì đấy là ngọn đồi cuối cùng; khi đi lên trên đỉnh có thể đứng nhìn xuống Tashbaan.

- Tôi ước gì chúng ta có thể đi qua đấy an toàn. – Shasta thì thầm tâm sự với Hwin.

- Tôi cũng muốn thế. – Hwin nói với vẻ đồng cảm.

Đêm hôm ấy họ len lỏi theo con đường mòn của những người đi đốn củi trong rừng. Sau khi đã ra khỏi khu rừng, đứng ở ngoài bìa rừng họ có thể nhìn thấy hàng ngàn ánh lửa ở thung lũng phía dưới. Shasta không hề có khái niệm gì về một thành phố lớn và cảnh tượng này làm nó phát hoảng. Cả bọn ăn bữa tối và bọn trẻ đi ngủ. Hai con ngựa đánh thức chúng vào sáng hôm sau.

Những vì sao vẫn còn hiện rõ trên bầu trời, cỏ lạnh và ướt, nhưng chân trời ngang với mặt biển ở bên tay phải chúng đã rạng dần. Aravis một mình đi vào trong một lùm cây và trở ra trông rất khác trong bộ đồ rách rưới mới mua lại, còn bộ quần áo của nó thì bỏ trong tay nải. Áo giáp, khiên, thanh mã tấu, hai cái yên ngựa cùng các vật dụng khác đều được cho vào trong những cái bao. Hai con ngựa lấm lem bùn đất làm cho chúng có một vẻ ngoài hết sức dơ bẩn và để cho hai đứa trẻ kia cắt ngắn đuôi. Dụng cụ duy nhất để làm việc này là thanh mã tấu của Aravis. Đó là một việc làm mất nhiều thời gian và khiến lũ ngựa rất đau.

- Tin lời tôi đi. – Bree kêu lên. – Nếu tôi không phải là một con ngựa biết nói, tôi đã đá vào mặt cậu một cái đẹp ra trò! Tôi tưởng cậu phải cắt nó, chứ đằng này lại dứt ra. Cậu phải biết là đau ghê gớm như thế nào.

Nhưng mặc cho đêm tối và những ngón tay lạnh cóng, cứng đờ, cuối cùng những việc làm đáng chán này cũng đã thực hiện xong, các bao hàng được buộc lên lưng ngựa, dây thừng thắt thòng lọng (chúng được dùng thay cho yên và dây cương) trong tay bọn trẻ và cuộc hành trình bắt đầu.

- Nhớ là, - Bree nói, - chúng ta phải luôn ở bên nhau nếu có thể được. Vạn bất đắc dĩ có chuyện gì xảy ra ta sẽ gặp nhau ở lăng mộ cổ, ai đến trước sẽ đợi những người còn lại.

- Và cũng xin nhớ, - Shasta nói, - hai bạn ngựa, các bạn đừng có quên mình là ai mà cất tiếng nói nhé, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng phải im lặng.

Đầu tiên Shasta không nhìn thấy bất cứ cái gì trong thung lũng bên dưới ngoài một biển sương mù với một vài tòa nhà mái vòm và tháp nhọn vươn lên từ cái biển ấy; nhưng khi trời sáng dần lên và sương mù tan dần nó thấy rõ hơn. Một dòng sông rộng chẻ ra làm hai nhánh và trên hòn đảo bị kẹp giữa hai nhánh sông ấy, thành phố Tashbaan sừng sững mọc lên, đó là một trong những kỳ quan của thế giới. Viền quanh hòn đảo là một bức tường thành kiên cố rất cao được củng cố thêm bởi quá nhiều ngọn tháp đến nỗi nó mau chóng bỏ ý định đếm thử. Từ chỗ nó đứng cũng có thể nghe thấy tiếng sóng nước vỗ vào kè đá. Bên trong bức tường, thành phố Tashbaan trải ra trên một ngọn đồi, nhà cửa mọc lên chi chít với cung điện dọc ngang của Tisroc và đền thờ lớn thờ thần Tash nằm cao cao trên đỉnh; những lối đi bậc thang, đường phố này nằm trên đường phố kia, những con đường ngoằn ngoèo dích dắc, hoặc những bậc thang lớn được chia cách bởi những cây cam, cây chanh, những khu vườn trên mái bằng, những ban công, những chiếc cổng mái vòm cao vút, những hàng cột chạm trổ, những cái tháp nhọn hoắt, những bức tường có lỗ châu mai, những cái tháp trên giáo đường và các tháp canh. Cuối cùng, mặt trời nhô lên khỏi mặt biển, mái vòm khổng lồ mạ bạc của thánh đường phản chiếu tia sáng mặt trời làm Shasta cứ hoa hết cả mắt lên.

- Đi đi Shasta. – Bree luôn miệng giục.

Dọc hai bờ sông chảy qua thung lũng, mọc lên những khu vườn kế tiếp nhau; thoạt nhìn tưởng đâu là một khu rừng, chỉ khi đến gần bạn mới nhìn thấy những bức tường trắng của vô số những ngôi nhà lấp ló sau những hàng cây. Chẳng bao lâu sau, Shasta ngửi thấy hương thơm ngạt ngào của các loài hoa trái. Vào khoảng mười lăm phút sau họ đi xuống vùng cây cối đó, cất bước trên con đường bằng phẳng với một bên là những bức tường quét vôi trắng và cây cối mọc ngả qua tường.

- Tôi muốn nói, - Shasta thốt lên, giọng ngỡ ngàng, - nơi này tuyệt vời thật!

- Tôi cũng dám nói thế. – Bee tán thưởng. – Nhưng tôi ước chúng ta đi qua đây an toàn để sang đầu bên kia thành phố Narnia và miền Bắc.

Vào lúc đó một âm thanh trầm trầm, rộn ràng lớn dần lên, lớn lên mãi cho đến khi cả thung lũng dường như rung động vì nó. Đó là một âm thanh đầy nhạc tính nhưng có tiết tấu mạnh và trang nghiêm đến nỗi nghe hơi rờn rợn.

- Đó là tiếng tù và thổi báo hiệu giờ mở cổng thành. – Bree nói. – Chúng ta sẽ vào thành trong vòng vài phút nữa. Nào Aravis, rũ cái vai của cô xuống một chút, bước chân nặng nề hơn và giấu cái điệu bộ đại tiểu thư của cô đi. Hãy cố hình dung cô vừa nhận một cú đá và một cái bạt tai, rồi cô hãy gọi tất cả những cái tên cô nhớ được mà chửi.

Nếu chuyện đến nước ấy, - Aravis nói, - sao ngươi không gục cái đầu xuống một chút, bớt cong cái cổ đi và cố đừng làm ra vẻ một chàng ngựa chiến oai hùng có được không?

- Suỵt! – Bree nói. – Đến nơi rồi.

Quả thế thật. Chúng đi đến bờ sông, con đường trước mặt nối với một cái cầu có nhiều nhịp cuốn. Dòng nước nhảy múa và sáng lên trong nắng sớm; xa xa về phía tay phải, ở mạn cửa sông chúng thoáng thấy nhiều chiếc tàu với cánh buồm lặng gió. Một đoàn khách bộ hành trước họ xô lấn nhau đi lên cầu, đa số là nông dân đi sau những con lừa và la chở nặng hàng hoặc bản thân họ đội những cái sọt lớn trên đầu. Bọn trẻ con và hai con ngựa trà trộn vào trong đám đông.

- Có chuyện gì không ổn ư? – Shasta thì thầm với Aravis, người đang có một vẻ mặt là lạ.

- Phải, tất cả những cái này đều thú vị đối với anh. – Aravis đay nghiến. – Tashbaan là một nơi huy hoàng lắm đấy. Còn tôi thì sao, đáng lẽ tôi được ngồi ung dung trên kiệu, phía trước là bọn lính đi trước mở đường, sau lưng là mấy tên nô lệ và có lẽ đang đi đến dự tiệc trong hoàng cung của Tisroc (Thánh thượng vạn tuế, vạn vạn tuế) – chứ không phải lén lút như một con nô lệ thế này. Đối với anh thì mọi chuyện có khác đấy.

Shasta nghĩ tất cả những chuyện này đều rất ngu xuẩn. Ở dưới chân cầu bên kia là bức tường thành cao vòi vọi và cánh cổng bằng đồng thau mở rộng cánh trên lối đi vào nhưng trông vẫn rất hẹp bởi vì nó quá cao. Khoảng một nửa tá lính canh, tì người vào những ngọn giáo, đứng canh ở hai bên. Aravis không thể không có ý nghĩ: “Tất cả bọn họ sẽ đổ xô vào chú ý đến ta, kính cẩn chào ta nếu biết rõ ta là con cái nhà ai.” Nhưng những thành viên khác không hề có ý nghĩ đó, chỉ nghĩ đến chuyện làm sao để vượt qua một cách trót lọt và hi vọng bọn lính không căn vặn bất cứ điều gì. May thay, lính canh không hỏi han gì. Nhưng có tên lính nhặt củ cà rốt trong sọt của một bác nông dân ném vào người Shasta với một tiếng cười khả ố và bảo:

- Này, thằng bồi ngựa! Bắt lấy nó, nếu chủ mày phát hiện mày dùng con ngựa đua của ông ta để thồ hàng thì liệu hồn đấy!

Sự cố này làm thằng bé sợ thót cả tim vì tất nhiên nó chứng tỏ không một ai biết chút gì về ngựa mà lại nhầm con ngựa chiến Bree với một con ngựa thồ.

- Tôi chỉ tuân theo lệnh của ông chủ tôi thôi ạ. – Shasta nói.

Nhưng sẽ tốt hơn nếu nó biết cách ngậm miệng lại bởi vì tên lính kia đã thụi cho nó một quả vào mặt, suýt nữa thì làm cho nó ngã quay đơ xuống đường và nói:

- Nhận lấy cái này, đồ thối tha, nó sẽ dạy cho mày phải ăn nói với một người tự do như thế nào cho phải phép.

Sau sự cố này, cả đoàn vẫn tiếp tục đi vào trong thành mà không bị chặn lại. Shasta chỉ khóc chút ít, nó đã quen với những cú đấm tựa như quả tạ.

Bên trong cổng thành, Tashbaan không còn cái vẻ hào nhoáng ban đầu khi nhìn nó từ đằng xa. Con phố đầu tiên chật hẹp, hầu như không có cánh cửa sổ nào mở ra ở hai bên đường phố. Phố xá ở đây đông đúc hơn là Shasta nghĩ: đông đúc cũng một phần bởi đám nông dân (trên đường ra chợ phiên) đi cùng với bọn chúng, ngoài ra còn những người bán hàng nước, bánh kẹo, những người phu khuân vác, lính tráng, lũ ăn mày, những đứa trẻ rách như tổ đỉa, những bầy gà, đàn chó hoang và những người nô lệ đi chân đất. Bạn sẽ quan tâm đến điều gì nhiều hơn nếu bạn ở một chỗ có cái mùi bốc ra từ những người đã lâu không tắm giặt, những con chó bẩn thỉu, mùi hành tỏi thối và hàng đống rác rưởi nằm ở mọi chỗ mọi nơi?

Shasta giả vờ đi trước nhưng kì thực chỉ có Bree là biết đường  và nó hướng dẫn cậu bé bằng cách lấy mũi thúc vào người nó. Chúng rẽ sang trái và bắt đầu leo lên một cái dốc khá cao. Không khí ở đây trong lành hơn, dễ chịu hơn vì hai bên đường có viền những hàng cây và chỉ có phía bên tay phải là có nhà, phía  bên trái nhìn ra những mái nhà ở một khu vực thấp hơn của thành phố và từ đây có thể nhìn thấy con đường dẫn ra bờ sông. Rồi, họ đi qua một chỗ quẹo chữ chi sang bên phải và tiếp tục đi lên những con đường dích dắc chạy về trung tâm thành phố. Chẳng bao lâu họ đã đến những đường phố đẹp hơn. Những bức tượng lớn tạc những vị thần và những anh hùng dân tộc Calormen đứng trên những cái bệ sáng choang. Có lẽ chúng được làm ra để gây ấn tượng chứ không phải là thành quả của những công trình nghệ thuật. Hàng cọ và những cái cổng có mái che cùng cột đỡ hoa văn che mát những vỉa hè ngập nắng. Chốc chốc, nhìn qua những cái cổng mái cong này, Shasta thoáng thấy những tán cây xanh biếc, những cái vòi phun ra nước bạc và thảm cỏ êm mượt. Chắc bên trong phải tuyệt lắm, nó thầm nghĩ.

Ở mỗi một chỗ rẽ, Shasta lại thầm hy vọng là chúng sắp thoát ra khỏi dòng người nhưng chuyện đó không bao giờ xảy ra. Càng đi lên tốc độ càng chậm lại, lâu lâu cả bọn buộc phải dừng lại. Chốc chốc lại vang lên một giọng nói oang oang: “Tránh đường, tránh đường cho Tarkaan” hoặc “Nhường đường cho Tarkheena” hoặc “Cho quận chúa thứ 15” hoặc “Cho ngài đại sứ” và nghe thế đám đông ai nấy đều chạy giạt đi, ép sát người vào bờ tường và phía trên những cái đầu lố nhố của đám đông, họ thấy một chúa đất hoặc một mệnh phụ phu nhân – nguyên nhân của tất cả những vụ ồn ào này – đang ngồi ung dung trên một cái kiệu do năm hoặc sáu người nô lệ lực lưỡng khênh trên đôi vai trần. Bởi vì Tashbaan chỉ có duy nhất một luật lệ giao thông đó là bất cứ ai trong đám dân đen đều phải nhường đường cho những người giàu có hoặc vai vế nếu không bạn sẽ nhận được một ngọn roi hoặc một mũi giáo đâm vào mông.

Họ đang ở trên một đường phố rất đẹp ở gần khu vực cao nhất trong thành phố (cũng là hoàng cung phức tạp, tráng lệ và xa hoa của Tisroc) và thật là tai họa nếu dừng lại ở đây.

- Tránh đường! Tránh đường! – Một giọng nói lại vang lên. – Tránh đường cho ông hoàng tộc người Trắng, thượng khách của Tisroc (Thánh thượng vạn tuế, vạn vạn tuế), tránh đường cho vua xứ Narnia!

Shasta cố nép sang một bên lề và bắt Bree quay lại. Nhưng không một con ngựa nào chứ đừng nói là một con ngựa biết nói ở Narnia dễ dàng quay lại. Một người đàn bà với một cái sọt đầy lèn trên tay đi ngay phía sau Shasta, dúi thật mạnh cái sọt lên vai nó và nói: “Đi đi chứ, mày là cái thá gì mà dám xô đẩy vậy?” Một người khác đẩy nó từ một phía khác và trong lúc bối rối, nó để tuột mất sợi dây cương giữ con Bree. Sau đó cả đám đông sau lưng nó dồn lại chật cứng như nêm khiến nó không sao nhúc nhích được. Thế là nó thấy mình, một cách ngoài dự tính, đang ở vòng người ngoài cùng và có thể xem toàn cảnh đám rước đang đi dọc con phố.

Không giống bất kỳ một đám rước nào mà nó đã chứng kiến trước đó. Người đi ở hàng đầu luôn miệng kêu “Tránh đường, tránh đường” là người Calormen duy nhất. Không có kiệu. Tất cả mọi người đều đi bộ. Có khoảng sáu, bảy người và Shasta chưa từng thấy ai giống như họ, bởi lẽ tất cả mọi người đều có nước da trắng trẻo (cũng như nó) và hầu hết đều có mái tóc vàng. Họ không ăn mặc như người Calormen. Họ để chân trần từ đầu gối trở xuống. Chiếc áo choàng của họ may bằng một thứ vải mịn sáng màu, thực ra khó có thể nói rõ là màu gì – là màu xanh thăm thẳm của những cánh rừng hay là màu vàng tươi của hoa mao lương hay màu xanh của lộc non mới nhú? Thay vì quấn khăn trên đầu, họ lại đội những chiếc mũ bằng bạc hay bằng thép gì đó, một số cái mũ có nạm kim cương có cái còn có một đôi cánh tai nhỏ ở hai bên. Cũng có người để đầu trần. Thanh gươm họ mang dài và thẳng chứ không cong như thanh mã tấu của người Calormen. Thay cho cái vẻ đăm chiêu gần của hầu hết người Calormen, họ bước đi nhẹ nhõm, đu đưa cả thân hình, để cho tay và vai cử động thoải mái. Họ vừa đi vừa cười nói rất hồn nhiên. Bạn có thể thấy là họ sẵn sàng làm bạn với bất cứ ai thân thiện và không cho, dù là một quả sung, đối với ai không như vậy. Shasta nghĩ nó chưa thấy những người có vẻ đáng mến như vậy trong đời.

Nhưng không có thời gian để tận hưởng những cảm nghĩ ấy nữa vì ngay lập tức có một việc ngoài dự kiến xảy ra. Người có vẻ là người đứng đầu những người đẹp đẽ này bất thình lình chỉ vào Shasta kêu lên: “Nó đây rồi! Kẻ đào tẩu đây rồi!” và chộp gọn lên vai nó. Tiếp đó người này cho nó một bạt tai – không phải là một bạt tai ác ý nhưng cũng đủ mạnh để bạn biết mình đang bị phạt vì làm một việc xấu – và người này cau mày nói them: “Thật đáng xấu hổ, cậu hoàng tử nhỏ! Thật là nhục nhã và xấu hổ. Đôi mắt nữ hoàng Susan đỏ mọng lên vì đau khổ. Cháu đã làm gì vậy? Trốn khỏi nhà suốt đêm! Cháu đã ở đâu vậy?”

Shasta sẽ cố trốn dưới thân hình con ngựa Bree và cố lẩn vào đám đông nếu nó có cơ hội cuối cùng, nhưng những người tóc vàng đã quây tròn quanh nó và túm chặt lấy nó.

Tất nhiên nó toan nói rằng nó chỉ là con trai của người đánh cá khốn khổ Arsheesh và chắc những người quyền quý ngoại tộc này đã nhầm nó với một ai khác. Nhưng sau đó thì sao? Giữa bàn dân thiên hạ nó sẽ buộc phải giải thích dài dòng rằng nó là ai và đang làm gì bởi người ta sẽ hỏi ngay nó lấy ngựa ở đâu, Aravis là ai và sau đó thì vĩnh biệt với bất cứ cơ hội nào đi qua đượcTashbaan.

Shasta đưa mắt nhìn Bree cầu cứu, nhưng Bree không có ý định để cho tất cả mọi người trong đám đông biết nó có thể nói được. Còn về phần Aravis, thậm chí Shasta còn không dám nhìn nó vì sợ sẽ thu hút sự chú ý. Không có thời gian suy tính nữa vì người đứng đầu đám người Narnia đã nói:

- Peridan? Hãy nắm chặt một bàn tay của hoàng tử một cách cung kính, để tay kia cho ta nắm. Bây giờ thì đi về nhà. Tâm trí chị của ta sẽ thảnh thơi và được giải tỏa khi nhìn thấy cậu bé này, lại an toàn trong khu vực dành cho chúng ta.

Thế là trước khi đi được nửa đoạn đường ngang qua Tashbaan, tất cả kế hoạch của bọn chúng bị phá hủy, thậm chí không có cơ hội nói lời từ biệt với các bạn nữa. Shasta thấy nó đang đi giữa những người xa lạ và hoàn toàn không có khả năng đoán ra là chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo. Vua Narnia – bởi vì Shasta có thể nhìn vào cung cách của những người còn lại đối với chàng mà đoán ra chàng chính là đức kim thượng của họ - hỏi nó liên tiếp nhiều vấn đề - nó đã ở đâu, tại sao lại đi ra ngoài, đã làm gì với quần áo của mình và chàng không biết là nó lại nghịch ngợm như vậy. Chỉ có điều vua dùng từ “nghịch” thay cho từ “quậy phá”.

Shasta không trả lời vì nó không biết việc trả lời những câu hỏi như vậy có đẩy nó vào tình huống nguy hiểm hay không.

- Trời đất, chuyện gì nữa đây? – Vua kêu lên. – Ta phải nói cho cháu biết sự im lặng hèn hạ này sẽ ở lại trong máu của cháu thậm chí còn lì lợm hơn là nó có thể trốn thoát đấy. Sao hả? Một ông vua Archenland dám làm dám chịu chứ không phải gục đầu xuống như một tên nô lệ người Calormen.

Tình cảnh thật trớ trêu làm sao bởi Shasta cảm thấy ông vua trẻ này là một người đẹp nhất, đáng kính nhất, người đã khơi lên trong lòng nó những xúc cảm tốt đẹp nhất.

Những người lạ dẫn nó đi, nắm chặt hai tay nó trong lúc đi dọc theo một đường phố hẹp xuống một cầu thang ngắn rồi lại đi lên những bậc thang khác cho đến khi đến một cái cổng rộng trổ vào một bức tường trắng có hai hàng cây bách cao cao, đen thẫm ở hai bên.

Bước qua cổng, Shasta thấy mình ở trong một cái sân rộng, đồng thời cũng là một khu vườn. Một hồ nước bằng cẩm thạch trong đó có một vòi phun đang tóe lên không trung những  bụi nước li ti. Những hàng cây cam xanh tốt mọc quanh hồ, xa hơn là thảm cỏ mượt, bốn bức tường trắng bao quanh thảm cỏ phủ đầy những cây hồng leo. Tiếng ồn, bụi bặm và đám đông ngoài đường phố bất thình lình lùi xa, biến mất. Shasta bị lôi nhanh qua khu vườn đi vào một lối đi hơi tối. Người xướng lệnh ở lại phía bên ngoài. Sau đó họ dẫn nó đi qua một hành lang nơi sàn đá tuyệt đẹp tạo cảm giác mát rượi dưới chân nó. Tốp người đi lên một cầu thang rộng. Một vài phút sau nó thấy mình đang hấp háy mắt vì chói trong một đại sảnh rộng thênh thang, thoáng mát với những cánh cửa sổ mở rộng, tất cả đều quay về hướng bắc, nên mặt trời không chiếu vào được. Trên sàn trải một tấm thảm với sự phối màu đẹp hơn tất cả những gì nó từng thấy trên đời này và khi dẫm chân lên đấy nó có cảm tưởng như thể mình đang đi trên một thảm rêu dày, mát lạnh.

Dọc theo các bức tường là những chiếc ghế sô pha thấp với những chiếc nệm trang nhã. Trong phòng có nhiều người, một số người trông rất kì lạ, theo ý của Shasta. Nhưng nó không có thời gian để suy nghĩ thêm khi một người phụ nữ đẹp mà nó cho rằng chỉ có thể là một nàng tiên trên trời, chạy lại quàng hai tay quanh người nó, hôn lên trán nó và nói:

- Ôi Corin, Corin, sao cháu có thể như thế? Hai cô cháu ta đã từng thân nhau như thế… kể từ lúc mẹ cháu mất đi. Ta sẽ phải nói gì với phụ vương của cháu nếu ta trở về nhà mà không có cháu? Điều này chắc sẽ gây nên một cuộc chiến huynh đệ tương tàn giữa hai nước láng giềng hữu hảo Archenland và Narnia. Thật là… bạn bè mà thế… thật xấu quá… sao cháu lại đối xử với ta như thế?

“Rõ ràng là mình bị nhầm với hoàng tử Archenland,” Shasta thầm nghĩ, “hoặc là một cái gì như thế. Đây chắc là những người Narnia. Không hiểu hoàng tử thật đang ở đâu?” Nhưng những ý nghĩ này cũng không giúp nó mở miệng ra nói được câu nào.

- Corin, từ hôm trước tới giờ cháu ở đâu vậy? – Người phụ nữ hỏi, tay vẫn đặt lên vai Shasta.

- Cháu… cháu không biết. – Shasta lắp bắp.

- Là như thế đấy chị ạ, - vua nói, - em không thể moi được một lời từ miệng nó dù chỉ là nói thật  hay nói dối,

- Thưa các bậc đế vương! Thưa nữ hoàng Susan! Thưa vua Edmund! – Một giọng nói cất lên và khi Shasta quay lại nhìn người nói, thiếu chút nữa nó đã nhảy dựng lên vì kinh ngạc. Đó là một trong những người kì lạ mà nó thoáng thấy ngay từ cái nhìn đầu tiên khi vừa bước vào phòng. Người này cao gần bằng Shasta, từ thắt lưng trở lên giống như người nhưng đôi chân lại giống như chân dê, gầy và cong cong phủ một lớp lông đen dày bóng mượt cùng móng guốc. Phía sau là một cái đuôi rõ dài. Da người này có màu đỏ, tóc hơi quăn, chòm râu dê ngắn và nhọn. Trên đầu mọc ra hai cái sừng. Ông ta chính là một thần rừng, một sinh vật mà Shasta chưa từng nhìn thấy dù là trong một bức tranh hay gặp ở ngoài đời. Nhưng nếu bạn đã đọc cuốn truyện “Sư tử, phù thủy và cái tủ áo” bạn có thể biết đó chính là vị thần rừng có tên là Tumnus, người mà nữ hoàng Lucy, em của nữ hoàng Susan đã gặp vào ngày đầu tiên khi cô bé thấy mình ở Narnia. Nhưng bây giờ thì ông ta cũng đã khá già và cho đến nay Peter, Susan, Edmund và Lucy đã cai trị đất nước Narnia được nhiều năm rồi.

- Tâu đức vua và nữ hoàng, - thần rừng nói, - hoàng tử nhỏ đã bị say nắng. Coi kìa! Cậu ấy choáng váng, không còn biết mình đang ở đâu nữa.

Tất nhiên, sau đó mọi người thôi không trách mắng Shasta nữa, cũng không căn dặn thêm. Nó được hưởng sự quan tâm lo lắng, người ta đặt nó nằm xuống ghế sopha, kê dưới đầu nó một chiếc gối, cho nó uống nước ép trái cây lạnh và họ bảo nhau giữ yên lặng.

Chưa từng có một chuyện như thế này xảy ra trong đời nó và nó cũng không thể hình dung là có bất cứ một cái gì làm nó sung sướng hơn việc nằm thoải mái trên chiếc ghế sopha êm ái như thế này, nó cũng không nghĩ là trên đời này còn có bất cứ thứ gì ngon lành hơn nước ép trái cây này. Nó vẫn đang băn khoăn tự hỏi chuyện gì xảy ra với những người bạn của nó, làm thế nào để nó có thể trốn khỏi đây để gặp lại họ ở lăng mộ và rồi chuyện gì sẽ xảy ra nếu Corin thật xuất hiện. Nhưng không một điều nào trong những lo lắng này có vẻ quá cấp bách khiến cho nó mất đi cảm giác khoan khoái. Cả sau đó nữa, khi những món ăn ngon lành hơn được dọn ra cho nó.

Trong khi đó những người có mặt trong đại sảnh thoáng mát này lại có vẻ rất kích động. Ngoài thần rừng còn có hai người lùn (một loài sinh vật mà nó chưa từng trông thấy trên đời) và một con quạ rất lớn. Số còn lại đều là người: những người đã trưởng thành nhưng còn trẻ và hết thảy bọn họ, đàn ông cũng như đàn bà đều có khuôn mặt xinh đẹp hơn, giọng nói dịu dàng dễ nghe hơn đại đa số những người Calormen. Chẳng bao lâu sau, Shasta bị chính những câu chuyện đang diễn ra xung quanh thu hút.

- Bây giờ thì chị ơi, - nhà vua nói với nữ hoàng Susan (người đã hôn Shasta), - chị nghĩ sao? Chúng ta đã ở thành phố này đúng ba tuần lễ. Chị đã có quyết định về việc cưới một trong những người ngưỡng mộ chị - cái ông hoàng Rabadash này chưa?

Nữ hoàng lắcđầu:

- Không, em ạ! Không bao giờ, cho dù chị có tất cả số châu báu ở Tashbaan này cũng vậy.

- Ô hô! – Shasta thầm nhỉ. – Mặc dù họ là những bậc vua chúa, họ vẫn là chị em chứ không phải là vợ chồng của nhau.

“Chị quyết định rất đúng, chị ạ. Em sẽ yêu chị kém đi nhiều nếu chị chọn người này. Em chẳng đã nói với chị - ngay từ lần đầu tiên khi đại sứ của Tisroc đến Narnia cầu hôn và sau đó khi hoàng tử này làm khách của chúng ta ở cung điện Cair Paravel – rằng em sẽ ngạc nhiên lắm lắm nếu có bao giờ chị cảm thấy trong lòng mình một chút thiện cảm dành cho hắn ta sao?”

“Đó là hành động dại dột của chị, Edmund ạ. Vì thế chị xin em tha thứ. Tuy vậy, khi mới xuất hiện ở Narnia thì đúng là vị hoàng tử này khoác một bộ mặt khác với con người thật hiện nay ở Tashbaan. Chị có thể dẫn ra vài ví dụ, những chiến công tuyệt vời mà anh ta lập được trong những cuộc đấu thương trên ngựa và những cuộc đấu võ mà vua Peter của chúng ta đã tổ chức mừng đón khách. Đó là chưa kể cái vẻ lịch lãm, hiền lành, khả ái mà anh ta trưng ra với chúng ta trong bảy ngày ấy nữa chứ. Nhưng ở đây, trong thành phố của mình, anh ta đã lộ ra một bộ mặt khác.

- À! – Quạ quàng quạc. – Như các cụ ngày xưa vẫn nói: Hãy nhìn con gấu trong chuồng trước khi bạn đánh giá nó.

- Điều đó rất đúng anh bạn Sallowpad ạ. – Một trong những người lùn nói. – Và còn một câu nữa: “Vài ngày chung sống với nhau, Ta sẽ biết được vàng thau thôi mà.”
- Phải. – Nhà vua kết luận. – Bây giờ chúng ta đã biết rõ con người này: hắn chỉ là một tên bạo chúa độc ác, ham mê khoái lạc, có lối sống xa hoa, bản chất khát máu và ngạo mạn.

- Vậy thì nhân danh Aslan! – Susan nói. – Chúng ta hãy mau rời khỏi Tashbaan ngay ngày hôm nay.

- Nhưng có một trở ngại, - Edmund nói. – Đã đến lúc em phải nói rõ với chị về những nghi ngờ trong đầu em trong mấy ngày qua. Peridan, khanh hãy trông chừng ngoài cửa xem có tên do thám nào không. Tất cả ổn chứ? Được. Bây giờ chúng ta phải rút vào bí mật.

Mọi người ai nấy đều có vẻ nghiêm trọng. Nữ hoàng Susan bật dậy, chạy đến bên em trai.

- Ôi Edmund! Có chuyện gì vậy? Có một vẻ gì rất khủng khiếp trên mặt em!

- Bà chị quý mến, nữ hoàng đáng kính! - Đức vua Edmund nói. - Bây giờ chị phải tỏ rõ lòng can đảm của mình. Bởi vì em sẽ nói với chị một cách hết sức đơn giản rằng chúng ta đang trong một mối nguy hiểm không nhỏ đâu.

- Là cái gì vậy, Edmund? - Nữ hoàng hỏi.

- Chuyện là thế này, - Edmund nói, - em không nghĩ là chúng ta dễ dàng rời khỏi Tashbaan. Một khi hoàng tử còn hy vọng chị sẽ nhận lời lấy hắn, chúng ta còn là những vị khách quý. Nhưng thề có Bờm Sư Tử, em nghĩ rằng ngay khi hắn nghe được lời chối từ của chị chúng ta sẽ không hơn gì những kẻ tù binh.

Một trong số người lùn huýt sáo khe khẽ.

- Thần xin lưu ý các chúa thượng, xin lưu ý! - Quạ Sallowpad nói. - Vào dễ ra khó, như con tôm chui vào trong đó!

- Sáng nay trẫm đã ở bên hoàng tử, - nhà vua tiếp tục, - xem ra hắn có phần (thật đáng tiếc) đánh hơi thấy ý nguyện của mình gặp phải trở ngại. Hắn lấy làm bực dọc vì sự lần lữa và những câu trả lời mơ hồ của chị. Sáng hôm nay hắn đã dùng sức ép để biết được ý của chị. Nói cho rõ hơn, điều đó có nghĩa là tước đi những hy vọng của hắn. Với một vài lời chế giễu thông thường nhẹ nhàng về thói đỏng đảnh của đàn bà, hắn ngầm có ý rằng lời cầu hôn của hắn có thể bị khước từ một cách lạnh lùng. Hắn trở nên giận dữ và rất nguy hiểm. Đó cũng là một kiểu đe dọa, dầu nó được che dấu dưới một tấm mạng lịch sự trong mỗi lời hắn nói ra.

- Đúng là như thế, - ông Tumnus nói, - khi tôi ăn cơm tối với tể tướng đêm qua, một chuyện tương tự như thế cũng đã xảy ra. Ông ta hỏi tôi thích Tashbaan như thế nào. Tôi đã nói (bởi vì tôi không thể nói một cách huỵch toẹt ra rằng tôi gớm ghét mỗi một viên đá ở đây và tôi nói như thế mà không hề dối lòng) với ông ta là khi những ngày hè nóng nực đang đến gần, trái tim tôi lại hướng về những cánh rừng râm mát và những sườn đồi đẫm sương ở Narnia. Ông ta rặn ra một nụ cười chẳng có gì là tốt đẹp và nói: “Ở đây chẳng có gì ngăn cản ông nhảy múa với những bàn chân bé nhỏ kia: bao giờ chúng tôi cũng tạo điều kiện cho ông, đổi lại hoàng tử chúng tôi phải có được người trong mộng.”

- Có phải em muốn nói ông ta ép buộc chị phải làm vợ ông ta?

- Đó là điều làm em lo lắng, Susan ạ. Vợ hoặc đúng hơn nô lệ, một điều còn kinh khủng hơn nữa.

- Nhưng sao ông ta có thể hành xử như vậy? Chẳng lẽ Tisroc không tính đến chuyện Peter Đại đế của chúng ta sẽ không bỏ qua chuyện này hay sao?

- Dạ đúng thế, - Viên cận thần Peridan nói với đức vua. - Họ sẽ không điên khùng đến mức đó đâu. Bộ họ nghĩ không có gươm giáo, cung tên ở Narnia hay sao?

- Trời đất, - nhà vua kêu lên, - ta đoán Tisroc không sợ Narnia nhiều lắm đâu. Vương quốc của chúng ta khá nhỏ bé. Mấy rẻo đất nhỏ dọc theo biên giới của một quốc gia rộng lớn bao giờ cũng làm ngứa mắt những ông vua của những nơi này. Khi lần đầu tiên ông ta phái hoàng tử sang đây với tư cách là một trong những người cầu hôn có thể là ông ta chỉ mong có được một dịp nuốt chửng chúng ta. Rất có thể ông ta hy vọng chỉ một miếng ngoạm cả Narnia lẫn Archenland.

- Cứ để cho ông ta thử đi, - một người lùn nói, - về đường biển chúng ta mạnh không kém gì họ, còn muốn thôn tính nước ta bằng đường bộ thì phải vượt qua sa mạc.

- Đúng thế, anh bạn ạ. - Edmund nói, - nhưng có thật sa mạc là một vũ khí chắc chắn không? Để xem anh bạn Sallowpad nói gì nào?

- Tôi thuộc rõ sa mạc như thuộc lòng bàn tay. - Quạ nói. - Bởi vì tôi đã bay dọc ngang qua nó từ lúc đầu xanh tuổi trẻ. (Bạn có thể đoán là Shasta dỏng hết cả hai tai để nghe những lời này) - Tôi chắc chắn một điều này: nếu Tisroc đi qua một ốc đảo xanh tươi, ông ta có thể không bao giờ cầm đầu một đạo quân lớn vượt qua đó để đến được Archenland. Bởi một lẽ, mặc dầu họ có thể đến đó vào cuối ngày hành quân đầu tiên thì những dòng nước ở đây cũng quá nhỏ so với cái khát của cả người lẫn ngựa. Nhưng còn có một con đường khác nữa.

Shasta tập trung lắng nghe và khắc sâu vào trong óc.

- Ông ta sẽ tìm ra được con đường này, - quạ nói tiếp, - nếu khởi hành từ khu lăng tẩm của những hoàng đế cổ đại và ruổi ngựa về phía tây bắc sao cho ngọn núi đôi của Mount Pire bao giờ cũng thẳng ngay trước mặt. Cứ thế, chỉ trong một ngày hoặc lâu hơn một chút ông ta sẽ đến đầu một lũng đá, hẹp đến nỗi một người có thể đứng cách xa năm, bảy mét mà không nhận ra sự tồn tại của nó. Từ trên nhìn xuống cái lũng này, anh ta không nhìn thấy gì: cỏ xanh không, nước không và chẳng có gì tốt lành cả. Nhưng nếu cưỡi ngựa xuống đó anh ta sẽ đến một con sông và có thể cưỡi ngựa đi dọc theo con sông đến Archenland.

- Vậy, người Calormen có biết con đường hướng tây này không? - Nữ hoàng hỏi.

- Này các bạn, - Edmund lên tiếng, - tất cả những chuyện này thì có ích gì? Chúng ta đâu có tự hỏi bên Narnia hay Calormen sẽ thắng khi chiến tranh nổ ra. Chúng ta quan tâm đến làm sao cứu được danh dự của nữ hoàng và cuộc sống của chúng ta ở thành phố hủy diệt này. Bởi vì cho dù anh trai chúng ta - Peter Đại đế - có đánh bại Tisroc đến hàng chục lần thì trước đó đầu chúng ta đã bị lìa khỏi cổ và vẻ duyên dáng của nữ hoàng Susan cũng sẽ bị đánh đồng xuống hàng thê thiếp hoặc kẻ nô lệ cho tên hoàng tử này.

- Thưa đức vua, chúng ta có vũ khí, - một người lùn lên tiếng nói, sau đó là ngôi nhà phòng vệ hợp lý này.

- À, về chuyện đó, - nhà vua nói, - tôi không nghi ngờ rằng mỗi người trong chúng ta đều bán tính mạng mình ở ngoài cổng và bọn chúng không thể đụng đến nữ hoàng trước khi bước qua xác của chúng ta. Tuy vậy, chúng ta cũng chỉ là những con chuột chiến đấu trong những cái bẫy khi đến cái nước ấy.

- Hoàn toàn đúng, - quạ quàng quạc kêu lên, - những cái cuối cùng trong ngôi nhà này sẽ viết nên những câu chuyện rất hay, nhưng cũng chẳng làm nên trò trống gì. Sau khi bị đẩy lùi đợt đầu tiên, kẻ thù bao giờ cũng phóng hỏa đốt nhà.

- Tôi là nguyên nhân của tất cả những chuyện này, - Susan nói, nước mắt giàn giụa, - ôi nếu như tôi đừng bao giờ rời khỏi Cair Paravel! Những ngày cuối cùng trước khi các sứ thần đến mới hạnh phúc làm sao! Chuột đồng trồng cả một vườn cây ăn quả cho chúng ta… ôi… ôi… ôi… hức… hức…

Thế là cô gục mặt vào hai bàn tay thổn thức hồi lâu.

- Can đảm lên chị Su, can đảm lên, - Edmund nói, - hãy nhớ rằng… nhưng có chuyện gì xảy ra với ông vậy, ông Tumnus?

- Thần rừng đang nắm chặt lấy hai cái sừng ở trên đầu cứ như thể ông đang cố giữ cái đầu bằng cách nắm chặt lấy nó và lắc qua lắc lại trong một cơn đau ghê gớm.

- Đừng để ý đến tôi, đừng nói gì với tôi hết, - Tumnus nói, - tôi nghĩ, tôi khó có thể thở được. Đợi chút, đợi chút, đợi chút.

Có một quãng im lặng đầy bối rối, rồi thần rừng ngước nhìn lên, hít một hơi dài, lau trán và nói:

 - Khó khăn duy nhất là làm sao có thể bước xuống tàu của chúng ta… với một số lương ăn… mà không bị phát hiện ra và bị ngăn lại.

- Phải, - Người lùn nói giọng khô khan, - nói thế khác gì nói cái khó duy nhất của gã khố rách áo ôm trong việc cưỡi ngựa là y không có ngựa.

 - Hượm đã, hượm đã, - Tumnus nói với vẻ thiếu kiên nhẫn, - tất cả những điều chúng ta cần là xuống tàu ngay ngày hôm nay để lấy một thứ gì đó trên tàu.

- Đúng! - Edmund nói, không phải là không có chút hoài nghi.

- Nếu vậy, - thần rừng nói, - sao đức vua của chúng ta không mời hoàng tử đến dự một bữa đại tiệc được tổ chức trên con tàu Splendor Hyaline của chúng ta vào tối ngày mai? Hãy làm cho lời mời ấy có được cái lời lẽ thật duyên dáng, tình cảm như nữ hoàng có thể nghĩ ra mà không làm phương hại gì đến danh dự của nàng, như vậy sẽ gieo cho hoàng tử một hy vọng là nàng đã xiêu lòng.

- Đó là một lời khuyên rất đích đáng. - Quạ kêu lên.

- Và như vậy, - Tumnus nói hào hứng, - ai cũng cho là chúng ta cần xuống tàu cả ngày để chuẩn bị đón khách. Một số người trong chúng ta đi chợ, bỏ một ít tiền ra cho người bán trái cây, bán thịt và bán rượu làm như thể chúng ta đang chuẩn bị cho bữa tiệc. Chúng ta cũng sẽ hợp đồng thuê một số ảo thuật gia, diễn viên xiếc, vũ nữ và những người thổi tiêu đến biểu diễn trên tàu vào tối mai.

- Tôi thấy rất có lí. - Vua Edmund nói, xoa hai tay vào nhau.

- Và như vậy, - Tumnus nói tiếp, - tất cả chúng ta sẽ lên tàu tối nay, ngay khi trời tối…

- Chúng ta sẽ giương buồm và lái tàu đi. - Nhà vua tiếp lời.

- Và ra biển. - Tumnus kêu to, nhảy cỡn lên và bắt đầu khiêu vũ.

- Và hãy đến mũi đất phía bắc của chúng ta. - Một người lùn nói.

- Giong buồm về nhà! Narnia và miền Bắc muôn năm! - Những người còn lại hô vang.

- Và sáng hôm sau trở dậy, hoàng tử sẽ thấy con chim xanh của mình đã bay mất! - Peridan vừa nói vừa vỗ tay.

- Ôi Tumnus thân yêu, - nữ hoàng nói, cầm hai tay thần rừng và cùng nhảy múa với ông, - ông đã cứu tất cả chúng ta.

- Nhưng hoàng tử nhất định sẽ truy đuổi chúng ta. - Một nhà quý tộc khác nói. Tên của người này Shasta chưa nghe thấy.

- Đó là điều tôi ít lo ngại nhất. - Edmund nói. - Tôi đã quan sát tất cả tàu bè trên sông và thấy không có tàu chiến hạng lớn hoặc thuyền galê tốc độ. Tôi mong hắn đuổi theo chúng ta! Bởi vì Splendor Hyaline có khả năng đánh chìm bất cứ loại tàu bè nào của người Calormen, một khi chúng ta có thể an toàn lên tàu.

- Tâu bệ hạ, - quạ nói, - chúng ta đã thấy không có kế hoạch nào tốt hơn kế hoạch của thần rừng mặc dù chúng ta đã thảo luận điều này trong bảy ngày qua. Và bây giờ như lũ chim chúng tôi thường nói, làm tổ trước khi đẻ trứng. Bàn luận như thế là đủ rồi, chúng ta hãy chuẩn bị cái ăn thức uống sau đó bắt tay ngay vào việc.

Mọi người đều đứng dậy, các cánh cửa mở ra, các quý tộc và các sinh vật khác đứng dạt sang hai bên để vua và nữ hoàng đi ra trước. Shasta tự hỏi không biết nó phải làm gì như ông Tumnus đã nói:

- Cứ nằm xuống đi hoàng tử, tôi sẽ mang đến cho cậu một bữa tiệc nhỏ trong vài phút nữa. Cậu không cần phải đi đâu cho đến khi tất cả chúng ta đã sẵn sàng để lên tàu.

Shasta lại ngả đầu xuống gối và chẳng bao lâu chỉ còn lại một mình nó trong phòng.

“Tình thế này thực sự khủng khiếp.” Shasta nghĩ. Nhưng nó không hề có ý định nói cho những người Narnia này biết sự thật và xin họ giúp đỡ. Lớn lên bên cạnh một người keo kiệt và nghiệt ngã như Arsheesh, nó có một thói quen bất di bất dịch là không bao giờ tâm sự với bất cứ một người lớn nào nếu có thể đừng được. Nó nghĩ người lớn bao giờ cũng phá hỏng hoặc ngăn chặn bất cứ điều gì bạn định làm hoặc cố gắng làm. Thậm chí nó còn nghĩ, cho dù nhà vua xứ Narnia có thể thân thiện với hai con ngựa vì chúng là những con vật biết nói ở Narnia thì ngài cũng sẽ ghét Aravis bởi vì cô bé là người Calormen và có thể sẽ bán cô làm nô lệ hoặc sẽ gửi cô về với cha. Còn về phần mình, nó nghĩ: “Lúc này mình không thể bảo với họ rằng mình không phải là hoàng tử Corin. Nếu họ biết mình không phải là người của họ, chắc chắn họ sẽ không để cho mình sống sót mà ra khỏi ngôi nhà này. Mình đã nghe được kế hoạch của họ và họ sẽ đem lòng nghi kị là mình phản bội họ, đem chuyện này mật báo cho Tisroc. Có thể họ sẽ giết mình. Nếu hoàng tử Corin thật xuất hiện, tất cả mọi chuyện sẽ bại lộ và họ sẽ làm thế.” Bạn thấy đấy, thằng bé này chẳng mảy may có ý niệm gì về cách ứng xử của những người tự do và cao quý.

- Mình phải làm gì bây giờ? Biết làm gì đây? - Nó lẩm bẩm. - Cái gì đây… lại là cái người bé tẹo chân dê này nữa.

Thần rừng bước vào, dáng đi nhún nhảy với một cái khay trên tay, to gần bằng người ông. Thần rừng đặt cái khay lên cái bàn chạm trổ, bên cạnh ghế sopha của Shasta, đoạn ngồi bệt xuống tấm thảm trải sàn, đôi chân dê bắt chéo.

- Bây giờ thì mời hoàng tử xơi một bữa ngon lành. Đây có thể là bữa cuối cùng của cậu ở Tashbaan.

Đó là bữa cơm ngon lành theo phong cách ẩm thực của người Calormen. Tôi không biết bạn có thích nó hay không nhưng Shasta thì rất thích. Có món tôm, salad trộn, chim dẽ giun nhồi quả hạnh và nấm tuýp, súp thập cẩm nấu với gan gà, gạo tẻ, nho khô và hạt dẻ. Tráng miệng thì có dưa hấu ướp lạnh, nước quả phúc bồn tử ướp đông, dâu tằm nấu đông và bất cứ món ăn ngon lành nào có thể chế biến với nước đá. Còn có một bình đựng một thứ rượu gọi là rượu “trắng” mặc dầu nó lại có màu vàng nhạt.

Trong lúc Shasta đánh chén, thần rừng nhỏ bé tốt bụng nghĩ rằng nó vẫn bị say nắng, nên luôn miệng nói về những ngày tháng tốt đẹp mà họ đã chia sẻ cùng nhau ở quê nhà, về phụ vương của nó - vua Lune xứ Archenland - và về lâu đài xinh xắn nằm gần những ngọn đồi phía nam hẻm núi.

- Đừng quên, - ông Tumnus nhắc, - hoàng tử đã được ấn định là sẽ nhận bộ áo giáp đầu tiên và con ngực chiến đầu tiên vào ngày sinh nhật sắp tới. Sau đó, cháu sẽ bắt đầu học đấu thương và cưỡi ngựa đấu thương. Trong vòng vài năm nếu mọi chuyện diễn ra một cách tốt đẹp, vua Peter hứa với phụ vương cháu là sẽ phong cháu tước hiệp sĩ ở Cair Paravel. Trong thời gian đó có nhiều chuyến đi qua lại giữa Narnia và Archenland. Tất nhiên, các cháu vẫn nhớ là đã hứa sẽ đến chỗ ta tuần lễ diễn ra Lễ hội Mùa hè. Sẽ có những đống lửa trại, những vũ điệu diễn ra suốt đêm của các thần rừng và các nữ mộc tinh, hoa tinh và ai mà biết được… có thể chúng ta sẽ gặp Aslan!

Shasta ăn xong, thần rừng bảo nó nằm yên một chỗ.

- Sẽ không có hại gì nếu cậu ngủ đi một chút. - Ông nói thêm. - Sẽ mất khá nhiều thời gian để chuẩn bị lên tàu. Và rồi… quê nhà! Narnia và miền Bắc!

- Shasta đã có một bữa ngon lành và tất cả những điều nó nghe Tumnus nói hiện lên thật sống động trong tâm trí nó. Nó chỉ có một hy vọng là hoàng tử Corin thật đừng xuất hiện rồi nó… rồi nó… sẽ được mang lên một con tàu.

Tôi sợ rằng nó không nghĩ đến chuyện gì sẽ xảy ra với Corin thật khi cậu hoàng tử này bị bỏ lại một mình ở Tashbaan. Nó cũng chẳng lo lắng gì lắm cho Aravis và Bree đang đợi nó ở khu lăng mộ cổ. Nó tặc lười “Mình còn biết làm gì nữa nào? Dù sao thì Aravis cũng nghĩ cô ta quá cao quý đối với mình, không có mình thì cô ta vẫn xoay sở tốt mọi chuyện.” Cứ như thế, nó thầm suy tính rằng đến Narnia bằng đường biển chán vạn lần hơn việc phải cực nhọc đi qua sa mạc.

Shasta có kiểu tính toán thiệt hơn mà tôi cho là cũng sẽ nảy ra trong óc bạn nếu như bạn phải thức dậy từ lúc tờ mờ sáng, cuốc bộ cả một chặng đường dài và trải qua bao biến cố đầy kích động sau đó lại có một bữa ăn ngon lành chưa từng thấy, ngả lưng trên chiếc ghế sôpha êm ái trong một căn phòng mát lạnh, tuyệt đối yên tĩnh, chỉ lâu lắm mới có tiếng một con ong rù rì bay qua cánh cửa sổ mở rộng. Dần dần, nó cũng rơi vào một giấc ngủ.

Chợt nó bị đánh thức bởi một tiếng động lớn. Nó nhảy dựng khỏi ghế sôpha, mở mắt trừng trừng. Nó nhận thức ngay từ cái nhìn đầu tiên rằng nó đã ngủ được vài giờ bởi vì ánh sáng chiếu vào phòng và những cái bóng ngoài sân đã khác đi nhiều. Nó cũng thấy cái gì đã gây nên tiếng động: một cái bình sứ đắt tiền đặt trên bệ cửa sổ bị rơi đánh choang một tiếng, vỡ thành vài chục mảnh. Nhưng nó khó có thể tập trung vào những chuyện đó khi nó trông thấy hai bàn tay bám lấy bệ cửa sổ từ phía bên ngoài. Những ngón tay nắm chặt hơn (làm cho các đốt ngón tay trắng bệch ra) rồi từ từ nhô lên cái đầu, đôi vai. Một tích tắc sau một thằng bé trạc tuổi Shasta ngồi chễm chệ trên bệ cửa sổ, một chân vắt vẻo vào trong phòng.

Shasta chưa bao giờ soi mặt mình vào trong một tấm gương. Dù có làm thế, nó cũng có thể không nhận ra là thằng bé kia (vào những lúc bình thường) giống nó như lột. Trước đến giờ chưa có một đứa trẻ nào có đôi mắt đen láy, ngời sáng vừa tinh nghịch vừa đáng tin cậy như cậu hoàng tử nhỏ này. Cậu ta còn bị khuyết một cái răng cửa và bộ quần áo hẳn là bằng lụa quý và rất trang nhã nhưng bây giờ bị rách bươm và bẩn thỉu, có một vài vết bùn và máu dính trên mặt nó.

- Đằng ấy là ai? - Thằng bé mới đến hỏi, giọng thì thào.

- Anh là hoàng tử Corin? - Shasta hỏi lại.

- Phải, tất nhiên rồi. Nhưng mà cậu là ai?

- Tôi… tôi chẳng là ai cả… chẳng là ai… thật thế, tôi muốn nói, - Shasta lắp bắp, - Đức vua Edmund bắt được tôi đi trên đường vì tưởng nhầm là anh. Tôi cho rằng chúng ta có vẻ ngoài giống nhau… Tôi có thể đi ra ngoài theo cái lối anh đi vào không?

- Được, nếu cậu giỏi leo trèo. - Corin nói. - Nhưng việc gì cậu phải vội vã như vậy? Tôi muốn nói chúng ta có thể có được khối trò vui từ cái việc nhầm lẫn này.

- Không, không được. - Shasta nói. - Chúng ta phải đổi vị trí cho nhau ngay. Thật đáng sợ nếu Tumnus quay lại, gặp cả hai chúng ta ở đây. Tôi đã phải giả vờ là anh đấy. Anh đã lẻn vào đây một cách bí mật. Vậy anh ở đâu suốt thời gian qua?

- Một thằng nhóc mất dạy ngoài đường dám nói lời chế giễu nữ hoàng Susan. - Hoàng tử Corin nói. - Thế là tôi hạ cho nó đo ván. Nó vừa gào vừa chạy vào một ngôi nhà và thằng anh to xác của nó xông ra. Tôi cũng đốn ngã luôn thằng anh. Sau đó hai đứa quay ra đuổi theo tôi cho đến khi chúng tôi đâm sầm vào ba ông già mang theo giáo mác gọi là Đội tuần canh. Tôi phải chiến đấu với họ và lần này tôi là kẻ bị đốn ngã. Lúc bấy giờ trời đã tối. Đội tuần canh giải tôi đi, nhốt tôi vào một nhà kho. Tôi mới hỏi xem họ có muốn làm vài xị rượu không, họ đáp là nếu được một chút cay cay cũng không có chuyện gì. Tôi bèn đưa họ đến một tiệm rượu, mua cho họ mấy xị, họ ngồi xuống uống cho đến lúc ngã lăn chiêng ra. Tôi nghĩ đã đến lúc chuồn và lặng lẽ trốn đi. Mới được mấy bước tôi lại chạm trán với thằng đầu tiên - cái thằng đã gây ra tất cả những chuyện rắc rối này và nó vẫn lảng vảng quanh đấy. Tôi lại đánh cho nó ngã lăn ra đất. Tiếp đó tôi trèo lên ống máng, leo lên một mái nhà và nằm yên ở đấy cho đến tận sáng. Sau đó thì tôi tìm cách quay về đây. Ái chà, có cái gì uống cho đã khát không?

- Không, tôi uống hết mất rồi. Bây giờ hãy chỉ cho tôi cái lối anh đã đi vào, chúng ta không nên lãng phí thời gian. Coi nào, tốt hơn, anh hãy nằm xuống ghế sôpha và giả vờ… Ờ nhưng mà tôi quên mất, điều này sẽ không có ích gì với những vết thâm và con mắt bầm tím kia. Anh chỉ việc nói với họ sự thật, sau khi tôi đã rời khỏi đây an toàn.

- Thế anh tưởng tôi định nói với họ chuyện gì nữa chứ? - Hoàng tử hỏi lại với một vẻ bị xúc phạm. - Mà anh là ai?

- Không còn thời gian nữa. - Shasta nói với một tiếng thì thào kích động. - Tôi là người Narnia, tôi tin là như thế; dù sao thì cũng là người miền Bắc. Nhưng từ đó đến giờ tôi đã lớn lên ở Calormen. Tôi đang đi trốn, vượt qua hoang mạc với một con ngựa biết nói tên là Bree. Nào, nhanh lên! Tôi có thể ra khỏi đây như thế nào?

Coi này. - Corin nói. - Anh hãy nhảy từ kệ cửa sổ này xuống mái hiên dưới kia. Nhưng anh phải thật nhẹ nhàng, đi nhón chân thôi kẻo người ta nghe thấy đấy. Sau đó, đi về phía tay trái, anh có thể bước xuống bức tường nếu anh giỏi môn leo trèo. Rồi cứ men theo tường anh sẽ đến một góc vườn, từ đó hãy nhảy xuống một đống rác bên ngoài.

- Cảm ơn. - Shasta nói, lúc này nó đã ngồi trên bệ cửa sổ. Hai đứa trẻ nhìn vào mặt nhau, thình lình nhận ra chúng là bạn.

- Tạm biệt. - Corin nói. - Chúc may mắn. Tôi hy vọng bạn trốn thoát an toàn.

- Tạm biệt. - Shasta cũng nói. - Tôi dám nói, bạn sắp có những cuộc phiêu lưu đấy.

- Hy vọng không có chuyện gì xảy ra với bạn. - Hoàng tử nói. - Bây giờ thì nhảy xuống đi, nhẹ thôi! - Và cậu hoàng tử bé nói tiếp khi Shasta đã nhảy xuống mái hiên bên dưới. - Tôi hy vọng chúng ta sẽ gặp nhau ở Archenland. Hãy đến gặp cha tôi, vua Lune, nói với ông, anh là bạn tôi nhé. Cẩn thận. Tôi nghe như có ai đang đi đến gần.

Shasta rón rén nhón chân chạy qua mái nhà nóng giãy lên dưới đôi bàn chân trần của nó. Chỉ vài phút sau, nó đã bò sang được bức tường và cứ men theo tường mà đi đến một góc vườn, từ trên nhìn xuống nó thấy một đường phố nhỏ hẹp, hôi hám, có một đống rác to tướng ở ngay bên ngoài bức tường như Corin đã nói. Trước khi nhảy xuống, nó liếc nhìn xung quanh để xem mình đang ở đâu. Rõ ràng, bây giờ nó đang đứng trên độ cao nhất của hòn đảo mà từ đó Tashbaan mọc lên. Mọi thứ đều thoai thoải chạy xuống trước mắt nó, những mái nhà bằng phẳng bên dưới các mái nhà bằng chằn chặn khác, ở bên dưới nữa là các tháp canh và các bức tường có lỗ châu mai chĩa lên từ tường thành phía bắc. Bên ngoài tường thành là dòng sông và ngoài dòng sông là một sườn dốc thoai thoải mọc đầy những hàng cây lâu năm, xa hơn nữa là một cái gì mà nó chưa từng trông thấy trong đời, một cái gì xam xám ngả sang vàng, rộng mênh mông; phẳng lặng như mặt biển êm ả, trải dài hàng dặm. Ở ngoài cái đường viền xa tít tắp của nó là một quần thể màu xanh rất lớn nhưng lồi lõm với những góc cạnh lởm chởm, một số có đỉnh trắng xóa. "Hoang mạc! Núi!" Shasta nghĩ.

Nó nhảy xuống đống rác và chạy lọt tọt xuống đồi thật nhanh trong khả năng cho phép. Nó chạy xuống một đường hẻm hẹp, chẳng bao lâu nó đã đến một đường phố rộng hơn có nhiều người hơn. Không có ai bận tâm để mắt đến một thằng bé rách rưới đang chạy thục mạng trên đôi chân trần. Nó vẫn lo sợ và căng thẳng cho đến khi rẽ vào một khúc quẹo và từ đó nhìn thấy cổng thành ngay trước mặt. Ở đây nó lại bị dồn ép, xô đẩy một cách thô bạo vì có rất nhiều người cũng muốn mau chóng ra ngoài thành; trên chiếc cầu ngoài cổng, đám đông bắt đầu di chuyển chậm lại, giống như người ta đang đứng xếp hàng hơn là một đám đông. Thật là khoan khoái khi đứng bên ngoài cổng thành, nghe tiếng nước chảy hai bên thành cầu, hít thở bầu không khí trong lành, dễ chịu sau khi đã chịu đựng cái nóng, tiếng ồn và cái mùi không lấy gì làm dễ chịu của Tashbaan.

Shasta đã sang được đầu cầu bên kia, nó thấy đám đông tản dần, ai cũng hoặc đi về bên trái hoặc đi về bên phải dọc theo bờ sông. Nó đi thẳng con đường trước mặt chạy giữa các khu vườn có vẻ như không có nhiều dấu chân lại qua như những con đường khác. Mới đi được một lát nó đã thấy mình chỉ còn một mình và đi thêm một chút nữa nó thấy mình đang đi lên đỉnh dốc. Đến đây nó đứng lại, nhìn quanh. Cứ như thể đây là nơi tận cùng thế giới bởi vì chỉ cách nó vài mét, bãi cỏ xanh thình lình chấm dứt và cát bắt đầu: cát mênh mông, phẳng lặng như trên bãi biển chỉ có điều không mặn vì nó không bao giờ ướt. Những rặng núi lúc này trông xa xôi hơn bao giờ hết,  mà lại có vẻ như muốn đe dọa khách bộ hành đơn độc.

Đi thêm một đoạn nữa, nó trông thấy bên tay trái là một nơi chắc phải là khu lăng tẩm nếu theo lời mô tả của Bree; những tảng đá lớn có hình dáng như những tổ ong khổng lồ. To lù lù, đen thẫm, hắc ám, những ngôi mộ cổ này cau có nhìn Shasta, trong lúc mặt trời đang đi xuống phía sau lưng.

Shasta biết chắc đó là hướng tây và chạy vội về phía khu lăng tẩm. Nó không thể không nhình quanh, tìm kiếm bất cứ dấu hiệu nào của các bạn mặc dầu ánh mặt trời buổi hoàng hôn chiếu thẳng vào mặt nó khiến nó khó có thể nhìn thấy bất cứ cái gì. "Tất nhiên, - nó thầm nghĩ, - họ sẽ ở phía xa nhất chứ không ở phía này nơi ai cũng có thể thấy họ đi từ thành phố đến."

Có tất cả mười hai ngôi mộ, mỗi cái có một cái cổng có mái che thâm thấp dẫn đến một khoảng không đen tối, sâu hun hút. Các ngôi mộ không được xây theo một thứ tự nào cả vì thế phải mất khá nhiều thời gian đi quanh hết ngôi mộ này đến ngôi mộ kia để biết chắc là bạn đã bao quát cả bốn mặt của tất cả các ngôi mộ. Đó là điều Shasta đã làm và nó không hề thấy một bóng người quanh đây.

Không gian tuyệt đối tĩnh lặng nhất là ở một nơi bắt đầu hoang mạc như nơi này và bây giờ mặt trời đã biến mất hoàn toàn.

Bất thình lình từ một nơi nào đó phía sau lưng Shasta vang lên một tiếng động khủng khiếp. Tim nó nhảy thót lên tận cổ, nó phải cắn vào lưỡi để không hét lên. Chỉ vài giây sau nó nhận ra đó là tiếng tù và trong thành Tashbeen thổi lên vào lúc đóng cổng thành. "Đừng có biến mình thành một kẻ nhát gan, ngu ngốc như vậy chứ. - Nó tự mắng mình. - Thật ngớ ngẩn, đó cũng là cái âm thanh mình đã nghe thấy hồi sáng." Nhưng rõ ràng có một sự khác biệt lớn giữa một âm thanh bạn nghe thấy trong lúc đi cùng với bạn bè vào lúc sáng tinh mơ với cái tiếng động bạn nghe thấy khi chỉ có một mình ở một nơi vắng vẻ thê lương với những xác thối rữa của các vị hoàng đế vào cái lúc ánh ngày đã tắt. Bây giờ khi cổng thành đã đóng lại Shasta biết không có cơ hội gặp lại bạn bè vào đêm nay. Hoặc là họ bị nhốt lại trong thành Tashbaan, - Shasta nghĩ, - hoặc là họ đã đi tiếp mà không đợi mình. Đó là điều mà Aravia sẽ làm. Nhưng Bree thì không đâu. Ồ, nó không làm như thế, phải không?

Nghĩ như thế về Aravis, thêm một lần nữa Shasta lại phạm sai lầm. Cô bé có thể rất kiêu hãnh và khắc nghiệt nhưng cô cũng trung thực như một lưỡi kiếm và không bao giờ bỏ rơi bạn bè dù cô có thích người ấy hay không.

Bây giờ thì Shasta hiểu là nó phải ở cả đêm một mình (mà trời thì càng lúc càng đen sẫm lại) và nó bắt đầu e sợ nơi này hơn. Có một cái gì đầy khủng bố trong những tảng đá lớn câm lặng này. Nó đã cố hết sức để không nghĩ đến những hồn ma nhưng nó không thể chịu đựng  lâu hơn nữa.

- Ôi! Cứu! Cứu! - Bất thần nó la lên bởi vì đúng lúc đó nó cảm thấy có cái gì chạm vào chân mình. Tôi không nghĩ là có gì đáng trách khi bất cứ một ai hét lên khi có một cái gì đến từ phía sau anh ta và chạm vào người anh ta; không đâu nếu ở một nơi như thế này và trong thời điểm mà anh ta đã sợ đến chín phần rồi. Dù sao thì Shasta cũng không quá sợ đến mức phải bỏ chạy. Bất cứ cái gì cũng còn tốt hơn là bị đuổi vòng vòng trong khu mộ cổ, nơi an nghỉ cuối cùng của những vị hoàng đế cổ đại, bởi có một cái gì đó làm nó không dám ngoái lại sau lưng. Thay vì thế nó làm cái điều tỉnh táo nhất mà nó có thể nghĩ ra. Nó nhìn sang một bên, trái tim như nổ ra vì nhẹ nhõm. Chạm vào người nó chỉ là một con mèo.

Ánh sáng quá yếu để soi cho Shasta nhìn rõ con mèo trừ một điều - là nó rất to và uy nghiêm. Có vẻ như nó đã sống một mình ở đây từ rất lâu rồi. Đôi mắt của nó khiến cho bạn nghĩ nó biết những bí mật nhưng nó sẽ không đời nào tiết lộ cho bạn.

- Miu! Miu! - Shasta nói với nó. - Ta hi vọng ngươi không phải là con mèo biết nói.

Con mèo nhìn nó chăm chú hơn, đoạn đủng đỉnh bỏ đi và tất nhiên Shasta đi theo nó. Mèo dẫn nó đi qua các ngôi mộ, hướng về phía sa mạc hoang vu. Đến đây con mèo ngồi xuống, lưng thẳng tắp với cái đuôi cuộn quanh chân, đôi mắt nhìn ra xa xăm về phía Narnia và miền Bắc và nó cứ ngồi thế hồi lâu dáng im lìm như thể nó đang quan sát một kẻ thù giấu mặt.

Shasta nằm xuống bên cạnh, lưng quay về phía con mèo, mặt hướng về lăng tẩm bởi vì nếu bạn đang lo sợ thì không có gì tốt hơn việc nhìn thẳng vào nguy cơ ấy trong khi cảm thấy có một cái gì đó ấm áp và vững vàng sau lưng. Cát không phải là một cái gì êm ái dễ chịu đối với bất cứ ai nhưng Shasta đã sống trong cảnh màn trời chiếu đất hàng mấy tuần lễ rồi nên nó cũng khó nhận ra điều đó. Chẳng bao lâu sau nó cũng ngủ thiếp đi, mặc dầu trong mơ nó vẫn tiếp tục tự hỏi chuyện gì đã xảy ra với Bree, với Aravis và Hwin.

Nó bất thần thức giấc bởi một âm thanh chưa hề nghe thấy trước đó. "Có lẽ đó chỉ là một cơn ác mộng." Shasta tự nhủ. Cùng lúc đó nó nhận ra con mèo đã biến mất mà nó ước gì con mèo đừng bỏ đi như thế. Nhưng nó vẫn nằm im không nhúc nhích cũng không hề mở mắt ra bởi vì nó biết chắc là nó sẽ còn phát hoảng hơn nếu nó ngồi dậy nhìn về những ngôi mộ và cảnh hoang vu xung quanh: điều này cũng tựa như cảnh bạn hoặc tôi đang nằm im phăng phắc với tấm vải trải giường trùm kín lên đầu. Tiếng động đầy đe dọa nọ lại vang lên lần nữa - một tiếng kêu chói tai, the thé vang lên từ phía sa mạc sau lưng Shasta. Thế là tất nhiên nó buộc phải mở choàng mắt ra và ngồi dậy.

Trăng sáng như ban ngày. Những ngôi mộ cổ - to hơn và gần hơn là nó tưởng - có màu tro tai tái dưới ánh trăng. Thật là mỗi lăng mộ đều giống một người khổng lồ cổ quái, trùm lên người một cái áo dài màu xám che kín cả đầu và mặt. Đó không phải là một cái gì đó bạn muốn nhìn lần thứ hai lúc bạn buộc phải trải qua một đêm dài một mình ở một nơi thê lương đáng sợ. Nhưng tiếng động lại vang lên ở hướng đối diện, từ hoang mạc, Shasta lại phải quay lưng lại khu lăng tẩm (một điều mà nó không muốn chút nào) và nhìn chằm chằm về phía biển cát phẳng lặng. Tiếng kêu man dại lại vang lên một lần nữa.

"Mình hy vọng không phải là mấy con sư tử nữa." - Shasta nghĩ. Sự thật thì tiếng kêu này không có gì giống với tiếng sư tử gầm vào cái đêm thằng bé gặp Aravis và Hwin mà là tiếng kêu của lũ chó rừng. Nhưng tất nhiên Shasta không biết điều này. Và dẫu có biết thì nó cũng không muốn gặp một con chó rừng đâu.

Tiếng kêu lại vang lên lần nữa rồi lần nữa. "Dù đó là loài động vật gì thì cũng không chỉ có một vài con, - Shasta thầm nghĩ. - Và chúng mỗi lúc một tiến lại gần hơn".

Tôi tin rằng nếu Shasta là một cậu bé thông minh, từng trải, biết phán đoán nó sẽ hiểu rằng nó nên đi qua khu lăng tẳm để đến gần bờ sông hơn, ở những nơi có người, thú hoang không dám đến quá gần. Nhưng Shasta lại sợ ma, ít nhất thì nó cũng nghĩ là có thể có ma. Quay lại khu lăng tẩm có nghĩa là đi qua những cái cửa mở vào cái bụng đen ngòm của các nhà mồ và cái gì sẽ đi ra từ đấy? Điều này có thể là ngu ngốc nhưng Shasta cảm thấy thà là nó liều mạng với thú hoang còn hơn. Tuy vậy, khi tiếng tru hoang dại của bọn chó rừng mỗi lúc một gần hơn thì nó đổi ý.

Nó toan bỏ chạy thì thình lình một con vât to lù lù xuất hiện. Trăng sáng nhưng lại ở phía sau con vật nên Shasta chỉ thấy một khối đen lừng lững có một cái đầu bờm xờm rất lớn và nó đi bằng bốn chân. Hình như con vật không thấy Shasta, bởi vì nó bất thần dùng lại, quay đầu về phía sa mạc và làm thoát ra một tiếng gầm được các ngôi mộ dội lại thành tiếng sấm rền làm rung chuyển cả mặt đất dưới chân Shasta. Khi tiếng tru của các con vật khác lập tức im bặt thì Shasta nghĩ nó có thể nghe thấy tiếng những bước chân lặng lẽ chuồn ra xa. Chỉ đến lúc ấy con thú khổng lồ mới quay đầu nhìn Shasta.

"Một con sư tử, trời đất ơi, đó là một con sư tử. - Shasta nghĩ. - Mình hết đời rồi! Không hiểu là chuyện đó có đau đớn lắm không. Ước gì nó xong phắt cho rồi. Không biết có bất cứ chuyện gì xảy ra sau khi người ta chết không. Ô... ôi ôi... Nó tới rồi." Và Shasta nhắm nghiền mắt lại, hai hàm răng nghiến chặt.

Nhưng thay cho răng nanh và vuốt ngọn nó lại cảm thấy có cái gì ấm áp phục xuống cạnh chân nó. Một lúc sau nó he hé mắt ra nhìn, rồi bật lên thành tiếng: "Sao thế nhỉ, nó không to kinh khủng như mình hình dung. Chỉ bằng một nửa. Mình dám thề đó chỉ là một con mèo. Quái lạ, sao mình có thể nghĩ là nó to hơn cả một con ngựa thồ?"

Chính Shasta cũng không rõ mình có nằm mơ hay không, bởi vì con vật đang nằm dưới chân thằng bé, nhìn nó chăm chăm bằng đôi mắt to, màu xanh lá cây không hề chớp với một cái nhìn thấu suốt lại chính là một con mèo, dù chắc chắn là con mèo lớn nhất mà bạn từng thấy trong đời.

- Ôi miu ơi, - Shasta hổn hển nói, - tao thật mừng khi gặp lại mày lần nữa. Tao đang sống trong những giấc mơ thật hãi hùng.

Một lần nữa, nó lại nằm xuống, đấu lưng lại với con mèo như người và vật đã là thế vào lúc chập tối. Hơi ấm từ con vật truyền cả sang thằng bé.

- Tao sẽ không bao giờ làm gì có hại đối với bất cứ một con mèo nào, chừng nào tao còn sống trên đời. - Shasta nói, nửa với con mèo nửa với chính mình. - Mày biết không, tao đã có lần làm như thế đấy. Tao... tao ném đá vào một con mèo hoang đói khát làm nó suýt chết. Ê này, mày làm cái gì vậy? - Bởi vì mèo quay lại cào vào Shasta một cái. - Ồ không, không có chuyện như thế. - Shasta nói. - Chẳng có lẽ chú mày cũng là một con vật hiểu được điều tao nói hay sao?

Nhưng chẳng bao lâu nó ngủ thiếp đi.

Sáng hôm sau thức dậy, con mèo đã đi đâu mất, mặt trời cũng đã lên cao và cát nóng bỏng. Cảm thấy khát cháy cổ, Shasta ngồi dậy, dụi dụi mắt. Sa mạc trắng xóa một màu chói chang và mặc dầu vẫn nghe âm âm tiếng vọng xa xôi của một thành phố trở dậy cho một ngày mới, chỗ nó ngồi tuyệt đối yên tĩnh. Nó nhìn sang bên trái về hướng tây nơi mặt trời không làm nó chói mắt và có thể nhìn thấy những dãy núi xanh xanh hiện lên trên cát trắng. Những đường viền của các ngọn núi hiện lên rõ ràng, sắc nét đến độ trông như thể chúng chỉ cách thằng bé bằng khoảng cách ném đi một hòn đá. Nó có thể phân biệt được một quả núi cao, xanh biếc chia ra làm hai đỉnh và cho rằng đó chính là ngọn Mount Pire. "Đó là hướng đi của chúng ta theo lời quạ nói, - nó thầm nghĩ, - như thế ta có thể biết rõ đường đi nước bước mà không cần phí thời gian mỏi cổ ngồi đợi những người kia." Nghĩ thế nó đứng lên đánh dấu hướng đi về phía đỉnh Mount Pire bằng cách ấn mạnh những dấu chân nhỏ bé, chắc nịnh xuống cát.

Việc tiếp theo cần phải làm là kiếm cái gì cho vào bụng. Shasta bèn quay lại khu lăng tẩm - nơi này trông hết sức bình thường dưới ánh sáng ban ngày và nó tự hỏi sao có lúc nó lại sợ chỗ này đến thế. Nó thong thả xuối xuống vùng đất canh tác bên bờ sông. Ở đấy có một số người qua lại nhưng không đông lắm vì cổng thành đã mở được vài giờ và đám đông sáng sáng tụ tập bên ngoài cũng đã vào thành. Nó không gặp khó khăn gì trong việc "đột kích" (như cách nói của Bree). "Đột kích" liên quan đến việc mắt trước mắt sau nhảy qua một bức tường bao quanh một khu vườn nhanh tay vặt cái nọ, hái cái kia, kết quả nó kiếm được ba trái cam, một trái dưa hấu, một hoặc hai trái vả và một trái lựu. Sau đó nó đi xuống bờ sông, nhưng không đến quá gần cầu và uống no một bụng nước. Nước sông trong leo lẻo, mát rười rượi, thế là nó cởi phắt bộ quần áo vừa nhơm nhớp mồ hôi vừa dày chình chịch vì bụi đường ra, ngụp luôn cả người xuống nước, lặn một hơi dài. Tất nhiên, Shasta là dân biển, cả một đời lớn lên bên sông nước, nó đã tập bơi hầu như cũng cùng lúc với tập đi. Tắm xong nó lên bờ, ngả người trên bãi cỏ nhìn qua dòng sông về phía Tashbaan - một lần nữa lại ngắm vẻ tráng lệ, sức mạnh và ánh hào quang của chốn kinh kỳ. Nhưng đồng thời thằng bé cũng chạnh nghĩ đến những cạm bẫy của nơi này. Chợt nó nhận ra là có thể những người kia đã đến khu lăng tẩm trong lúc nó tắm sông (và đi tiếp mà không có mình như thể không hề có mình trên đời) - thế là nó vội vội vàng vàng mặc lại bộ quần áo bẩn thỉu, xấu xí và chạy hùng hục đến lăng tẩm. Chạy được đến nơi cũng là lúc nó vừa nóng vừa khát và thế là thật uổng công tắm trong dòng nước mát.

Khi bạn chỉ có một mình và đang nóng lòng chờ đợi một chuyện gì đó thì ngày kéo dài hàng trăm giờ. Shasta có nhiều chuyện phải nghĩ và tất nhiên khi ngồi một mình nghĩ ngợi ngày lại càng dài thêm. Nó nghĩ đến những người Narnia và đặc biệt là đến hoàng tử Corin. Nó tự hỏi chuyện gì sẽ xảy ra khi họ khám phá ra là thằng bé nằm trên ghế sôpha nghe lỏm toàn bộ các kế hoạch bí mật của họ thực ra không phải là Corin. Thật là một cảm giác bứt rứt, khó chịu khi nghĩ rằng tất cả những con người đáng mến ấy lại cho rằng nó là một người phản bội.

Trong lúc mặt trời khệnh khạng đi từ chân trời lên đến đỉnh đầu rồi lại từ từ đi xuống về phía tây mà vẫn không có ai tới mà cũng chẳng có chuyện gì xảy ra, Shasta càng lúc càng cảm thấy nóng ruột, bồn chồn. Tất nhiên nó nhận ra là khi quy ước với nhau họ chỉ quy ước địa điểm gặp chứ không thỏa thuận sẽ đợi trong bao lâu. Nó không thể đợi ở đây suốt đời. Chẳng bao lâu nữa ánh sáng sẽ lại tắt và nó không muốn trải qua một đêm như đêm hôm trước nữa. Hàng chục kế hoạch lướt qua đầu nó, cái nào cũng bất khả thi và cuối cùng nó chọn một kế hoạch tệ hơn tất cả. Nó quyết định đợi cho đến khi trời tối sẽ quay lại bờ sông, ăn trộm vài quả dưa hấu trong khả năng nó có thể mang được rồi một mình đi đến Mount Pire, tin tưởng vào con đường mà nó đã đánh dấu trên cát sáng nay. Thật là một ý nghĩ rồ dại và nếu nó đọc những cuốn sách viết về các cuộc hành trình qua sa mạc nó sẽ không bao giờ có cái ý nghĩ ngớ ngẩn ấy. Tiếc thay Shasta chả đọc sách bao giờ.

Nhưng trước khi mặt trời lặn đã có một chuyện xảy ra. Shasta đang ngồi trong cái bóng râm của một nhà mồ thì nó ngẩng đầu lên và nhìn thấy hai con ngựa đang phóng về phía mình. Tim nó nảy lên một cái khi nó nhân ra đó là Bree và Hwin. Nhưng chỉ một giây sau, trái tim lại tụt xuống tận đầu ngón chân. Không thấy bóng Aravis đâu. Hai con ngựa phóng đi dưới sự điều khiển của một người đàn ông lạ mặt, khắp người đeo đầy binh khí, bộ chế phục trang nhã cho biết đấy là một đầy tớ cấp cao trong một gia đình quyền quý. Bree và Hwin không còn là những con ngựa thồ nữa mà được đóng đầy đủ yên cương. Điều này có nghĩa gì? "Một cái bẫy chăng? - Shasta nghĩ. - Có ai đó đã bắt được Aravis, có lẽ họ đã tra tấn nó và nó đã khai ra tất cả. Họ muốn mình chạy ra khỏi chỗ nấp, nói chuyện với Bree rồi bắt mình luôn! Nếu mình không làm thế, mình sẽ không còn cơ hội gặp gõ họ nữa. Ôi, sao mình mong được biết chuyện gì đã xảy ra thế." Nghĩ bụng, nó lại nấp kín trong một nhà mồ, đứng bên trong nhìn ra và tự hỏi cần phải làm gì để bớt những rủi ro.

Vậy chuyện gì đã xảy ra? Khi Aravis thấy Shasta lập tức bị những người Narnia mang đi và nó chỉ còn có một mình với hai con ngựa (rất mực khôn ngoan đã không thốt lên một câu nào) thì nó không để mất bình tĩnh dù chỉ trong một khoảng khắc ngắn ngủi. Nó nắm lấy dây cương con Bree và vẫn đứng tại chỗ giữ hai con ngựa lại, mặc dầu trái tim đập như gõ búa trong lồng ngực, nó vẫn không hề để lộ sự bối rối. Vào lúc những người trong hoàng tộc Narnia quay đi, nó cố gắng đi tiếp. Nhưng trước khi nó kịp đi lên một bước lại có một người cầm cờ hiệu khác (Chán mớ đời những người này. - Aravis nghĩ.) miệng loa loa:

- Tránh đường, tránh đường! Tránh đường cho Tarkheena Lasaraleen.

Đi ngay sau người này là bốn người nô lệ vũ trang đến tận răng và sau đó là bốn người phu khênh kiệu. Một chiếc kiệu căng những tấm vải lụa, mỗi bước đi lại vang lên những âm thanh réo rắt trong ngần của những chiếc chuông bạc và làm tràn ngập đường phố mùi thơm nồng nàn của hương liệu quý và các loài hoa. Đi sau kiệu là những nữ nô lệ trong những bộ quần áo rực rỡ, tiếp đến là bọn giám mã, người chạy việc, người thị đồng và vân vân. Đến đây Aravis phạm phải sai lầm đầu tiên.

Nó biết Lasaraleen khá rõ - gần như hai người học cùng trường với nhau, họ thường xuyên chung nhà và có cùng một đám bạn. Aravis không thể không ngẩng mặt lên nhìn xem Lasaraleen dạo này ra sao bởi vì cô bạn vừa lấy chồng và bây giờ đã là một bậc mệnh phụ phu nhân trong triều.

Thật là một sai lầm chết người. Đôi mắt của hai cô gái gặp nhau, ngay lập tức Lasaraleen ngồi thẳng dậy và kêu lên với cái giọng lanh lảnh:

- Aravis? Chị làm cái gì ở đây vậy? Cha chị...

Không để phí một giây và không chậm một tích tắc, Aravis thả cho hai con ngựa chạy đi, bám lấy một bên kiệu, rướn người lên thì thầm một cách đầy kích động vào tai bạn:

- Đừng nói nữa! Chị có nghe thấy em nói không? Đừng nói gì! Chị phải giấu em. Hãy bảo người của chị...

- Nhưng chị bạn thân yêu! - Lasaraleen bắt đầu với cái giọng cao chói lọi như lúc nãy. (Ít nhất thì cô ta cũng không ngại để cho người khác trố mắt nhìn mình, thực ra cô ta còn thích trở thành mục tiêu chú ý nữa là đằng khác.)

- Cứ làm như em bảo đi, nếu không em sẽ không bao giờ nói chuyện với chị nữa. - Aravis thì thào giọng gấp gáp. - Làm ơn, làm ơn nhanh nhanh lên, Lasa! Chuyện này hết sức quan trọng. Lệnh cho người của chị dẫn hai con ngựa đi theo kiệu. Hãy buông rèm xuống che kín kiệu và đưa em đến một nơi em không bị ai phát hiện. Làm ơn, nhanh nhanh lên!

- Được thôi, chị thân yêu. - Las nói với giọng uể oải. - Này! Bọn ngươi mau dắt hai con ngựa của Tarkheena đến đây cho ta (câu này nói với bọn nô lệ). Khênh kiệu về nhà. Này chị, chị có nghĩ là chúng ta nên buông rèm vào một ngày như thế này không? Em muốn nói...

Nhưng Aravis đã nhanh tay thả rèm xuống, nhốt mình và bạn trong chiếc kiệu lộng lẫy, thơm ngát nhưng có phần hơi ngột ngạt như một loại lều trại kín mít.

- Không được để cho ai nhìn thấy em. - Aravis nói. - Cha em không biết là em đang ở đây. Em đang bỏ trốn.

- Ôi chị thân yêu, xem ra mọi chuyện có vẻ mê ly quá. Em thèm nghe chuyện của chị đến chết đi được. Ấy, chị ngồi lên áo của em rồi. Chị không phiền chứ? Thế này thì tốt rồi. Áo mới đấy. Chị có thích không? Em mua ở...

- Ôi chị Lasa, xin chị hãy nghiêm túc. - Aravis nói. - Cha em... chị có biết là ông ấy đang ở đâu không?

- Chị không biết gì thật à? Tất nhiên, bác ấy đang ở đây. Bác trai vừa tới đây hôm qua và đang lùng sục khắp nơi để tìm chị. Bác ấy nghĩ chị đang ở chỗ em ấy chứ, nghĩ coi, bác ấy chẳng hề hay biết gì. Đó là chuyện vui nhất mà em biết đó, và... - Lasaraleen tiếp tục cười ngặt nghẽo hồi lâu. Bất cứ cái gì cũng làm cho cô cười được với một tiếng cười hơi bị to quá, vô tư quá, theo ý kiến của Aravis.

- Chuyện chẳng có gì buồn cười hết. - Nó nói. - Chuyện này hết sức nghiêm trọng. Chị có thể giấu em ở đâu nào?

- Không có gì khó khăn cả, chị bạn thân yêu ạ. - Lasaraleen mãi mới nói được thành lời... - Em sẽ đưa chị về nhà. Phu quân em đi vắng và sẽ chẳng có ai trông thấy chị đâu. Chậc! Kéo rèm xuống thế này thì kỳ cục quá. Em muốn nhìn mọi người đi lại. Còn có nghĩa lí gì khi mặc một chiếc áo mới đi ra đường mà lại buông rèm kín mít như thế này.

- Em hy vọng không ai nghe thấy tiếng chị khi chị la oang oang như thế. - Aravis nói.

- Không, không, tất nhiên chẳng có ai nghe thấy đâu. - Lasaraleen đáp vẻ lơ đãng. - Nhưng chị còn chưa nói với em, chị nghĩ gì về bộ cánh mới này.

- Còn một điều này. Chị phải nói với bọn nô lệ của chị đối xử tử tế với hai con ngựa. Đó là một phần bí mật. Chúng là những con ngựa biết nói ở Narnia đấy.

- Tuyệt nhỉ! Thú vị quá đi mất thôi! Ôi, chị thân yêu, chị đã thấy nữ hoàng man rợ người Narnia chưa? Nàng ta hiện đang có mặt ở đây. Thiên hạ kháo nhau là hoàng tử Radadash say mê nữ hoàng như điếu đổ. Trong vòng hai tuần qua người ta đã tổ chức những bữa tiệc linh đình nhất, những cuộc đi săn quy mô nhất. Em thì em chẳng thấy cô ta đẹp ở chỗ nào hết. Nhưng mà... đàn ông Narnia thì thật sự hấp dẫn. Em vừa tới dự một bữa tiệc tổ chức bên bờ sông vào tối hôm kia, em mặc cái...

- Làm cách nào ngăn không cho bọn đầy tớ của chị kháo ầm lên là chị có một vị khách - ăn mặc như một kẻ ăn mày - đang ở trong nhà chị? Chuyện này dễ lọt đến tai cha em lắm.

- Không cần làm lớn chuyện. Chúng ta sẽ có những bộ y phục phù hợp với chị ngay lập tức. Đây, chúng ta về đến nơi rồi!

Những người phu dừng lại, kiệu được hạ xuống. Khi màn che được kéo lên, Aravis thấy mình đang ở trong một khu vực sân vườn cũng giống như cái sân mà Shasta được mang đến vài phút trước một khu vực khác của thành phố. Lasaraleen muốn vào nhà ngay nhưng Aravis nhắc bạn với một tiếng thì thầm đầy kích động là phải cấm bọn kẻ ăn người ở không được hé môi với bất cứ ai về vị khách kì lạ của bà chủ.

- Xin lỗi, thế mà chuyện này lại chạy khỏi đầu em cơ chứ. - Lasaraleen nói. - Này bọn kia. Tất cả các ngươi và cả ngươi nữa, tên gác cổng... Không một đứa nào được phép ra khỏi cửa ngày hôm nay. Bất cứ kẻ nào bép xép về tiểu thư này, đầu tiên sẽ bị bỏ đói, bỏ khát suốt sáu tuần liền, sau đó sẽ bị đánh cho đến chết rồi bị thiêu sống. Nghe rõ chưa?

Mặc dù Lasaraleen nói cô ta thèm nghe chuyện của Aravis muốn chết, cô ta không tỏ ra dấu hiệu nóng lòng muốn biết chuyện của bạn. Thực ra cô ta thích nói hơn là thích nghe. Chủ nhà khẩn khoản bảo bạn hãy đi tắm hơi ở một nhà tắm xa xỉ và tiện nghi (người Calormen rất nổi tiếng với loại hình thư giãn này), sau đó cô chủ đã cho khách mặc một bộ đồ đẹp nhất rồi mới thong thả nói chuyện của mình. Việc Lasaraleen làm rộn cả nhà lên để chọn quần áo khiến Aravis suýt phát điên. Nó nhớ là bạn mình bao giờ cũng bắng nhắng như vậy: khoái chuyện áo áo quần quần, chuyện tiệc tùng và chuyện ngồi lê đôi mách. Aravis, trái lại, chỉ thích cung tên, ngựa, chó và bơi lội. Bạn có thể nghĩ là hai cô rất thân nhau nhưng kì thực người nọ nghĩ người kia là ngu ngốc. Nhưng cuối cùng rồi hai người cùng ngồi lại với nhau sau bữa tối (chủ yếu là món kem đánh bông, nước quả đông, trái cây và thức ăn ướp lạnh các loại) trong một căn phòng trần thiết kế xa hoa tráng lệ (một căn phòng mà Aravis sẽ thích hơn nếu con khỉ được nuông chiều của Lasaraleen không leo trèo, phá phách ngay trước mặt khách) Lasaraleen cũng nhớ ra là cần phải hỏi bạn tại sao lại bỏ nhà đi lang thang.

Khi Aravis kể xong câu chuyện của mình, Lasaraleen nói:

- Nhưng bạn thân ơi, tại sao chị lại không cưới Ahoshta Tarkaan? Ai cũng say mê ông ta hết. Phu quân của em nói ông ấy có nhiều khả năng tở thành một trong những người vĩ đại nhất ở Calormen này. Ông ta sẽ được phong chức tể tướng một khi ông già Axartha chết. Chị có biết điều đó không?

- Em không quan tâm. Em không thể chịu được lão già ấy, thế thôi.

- Nhưng chị hãy nghĩ cho kĩ đi. Ba tòa lâu đài, một trong số đó là một tòa lâu đài tuyệt đẹp ở mạn hồ Ilkeen. Em nghe người ta nói đến hàng chuỗi ngọc trai loại cực hiếm. Tắm bằng sữa lừa nhé. Và chị cứ nhìn em đây thì rõ.

- Lão ta cứ việc giữ châu báu và lâu đài của mình ở càng xa tôi càng tốt. - Aravis nói xẵng giọng.

- Chị bao giờ cũng là một cô gái chẳng giống ai hết Aravis à. Hay chị còn muốn khều sao trên trời?

Tuy vậy cuối cùng Aravis cũng làm cho cô bạn hiểu là nó hết sức nghiêm túc và thậm chí còn khiến bạn thảo luận các kế hoạch với nó nữa. Không có gì khó khăn trong việc đưa hai con ngựa ra cổng thành phía bắc và sau đó đi ra khu lăng tẩm. Không có ai dám chặn lại hạch sách một giám mã trong bộ chế phục đẹp đẽ cưỡi một con ngựa chiến và dẫn theo một con ngựa cái đeo yên cương đầy đủ đi về mạn bờ sông, mà Lasaraleen thì có nhiều kẻ như vậy để sai khiến vào cái việc cỏn con này. Vấn đề về Aravis thì không dễ dàng như thế. Aravis gợi ý rằng nó có thể ngồi kiệu buông kín rèm để bọn phu kiệu khênh ra ngoài thành. Nhưng Lasaraleen bảo nó rằng kiệu chỉ được dùng trong thành phố và nếu có một cái kiệu đi ra ngoài sẽ gây nên nghi vấn.

Khi họ đã bàn bạc được một lúc lâu - lâu hơn là Aravis nghĩ bởi vì nó khó mà khiến cho bạn tập trung vào vấn đề chính - thì cũng đến lúc Lasaraleen vỗ hai tay với nhau kêu lên:

- Ôi em có một ý kiến cực hay nhé, có một cách ra khỏi thành phố mà không đi qua cổng thành. Vườn thượng uyển của Tisroc (Thánh thượng vạn tuế, vạn vạn tuế) chạy thẳng ra sông và ở đó có một cái cửa mở thông ra sông. Tất nhiên, nó chỉ dành cho những người trong hoàng cung - nhưng mà chị cũng biết rõ, bà chị thân yêu (nói đến đây, cô ta lại cười ngặt nghẽo một lúc) chúng em cũng gần như người trong cung cấm. Em muốn nói, chị thật may mắn khi gặp được em. Tisroc vĩ đại (Thánh thượng vạn tuế, vạn vạn tuế), Người rất nhân từ. Hầu như ngày nào chúng em cũng được mời lên hoàng cung và nó cũng như là ngôi nhà thứ hai của chúng em ấy mà. Em yêu tất cả các hoàng tử và công chúa trong cung. Em đặc biệt tôn thờ hoàng tử Rabadash. Em nghĩ mình có thể gặp bất cứ mệnh phụ phu nhân hoặc công nương trong triều vào bất cứ giờ nào, ngày cũng như đêm. Vậy thì tại sao em không đến hoàng cung cùng với chị sau khi trời tối rồi để chị ra ngoài thành theo đường thông ra sông? Bao giờ cũng có một vài thuyền bé neo đậu bên ngoài hoặc một cái gì đó đại loại như vậy. Kể cả khi chúng ta bị bắt...

- Thế thì tất cả sẽ mất hết. - Aravis nói.

- Ồ chị thân yêu, đừng quá kích động như vậy, em đang định nói kể cả khi chúng ta bị bắt thì mọi người cũng chỉ cho đó là một trò quậy phá của em thôi. Lasaraleen quá nổi tiếng với những chuyện đó mà! Thử hình dung xem, một ngày kia chuyện này sẽ nổi đình nổi đám như thế nào.

- Em muốn nói, với em tất cả sẽ chấm hết. - Aravis nói với giọng có phần lạnh lùng.

- Ồ... à... phải... em hiểu ý chị muốn nói gì rồi. Vậy chị có nghĩ ra bất cứ kế hoạch nào khả dĩ hơn không?

Aravis cũng chịu thua, đành trả lời:

- Không. Chúng ta cũng đành nhắm mắt đưa chân vậy thôi. Bao giờ chúng ta bắt đầu?

- Ồ, tối nay thì không được. - Lasaraleen đáp. - Tất nhiên tối nay thì không được rồi. Có một bữa đại tiệc tối nay (em phải gọi bọn đầy tớ đến làm đầu trong một vài phút nữa), ối cha cha, cả tòa lâu đài sẽ rực rỡ đèn hoa. Bao nhiêu vương tôn công tử! Thôi, để đến tối mai vậy.

Thật là một tin xấu đối với Aravis nhưng nó cũng phải chấp nhận hoàn cảnh. Buổi chiều trôi qua rất chậm, nó thở phào nhẹ nhõm khi Lasaraleenđi ra ngoài bởi vì Aravis phát ngán tiếng cười ngặt nghẽo nhạt như nước ốc, câu chuyện liên tu bất tận về áo xống, tiệc tùng, cưới xin, đính ước và những vụ xì căng đan lớn nhỏ trong kinh thành. Nó đi ngủ sớm và trong suốt bao ngày qua chỉ đến bây giờ nó mới hiểu niềm sung sướng của việc lại được nằm trên giường với nệm gối thơm tho sạch sẽ.

Ngày hôm sau trôi qua còn chậm hơn nữa, Lasaraleen muốn lật lại vấn đề, luôn miệng nói với Aravis rằng Narnia là đất nước của băng tuyết vĩnh cửu và là mảnh đất của yêu ma, phù thủy, chỉ có là người điên mới nghĩ đến chuyện đi đến đó.

Mà lại đi với một thằng nông dân nữa chứ? - Lasaraleen bĩu môi dè bỉu. - Chị ơi, hãy suy nghĩ về việc này đi. Không được đâu.

Aravis đã nghĩ nhiều về chuyện này, nó đã quá mệt mỏi với sự nông cạn và ngu ngốc của bạn thế nên lần đầu tiên nó nghĩ rằng thà đi lang thang khắp đó đây với Shasta trong cảnh màn trời chiếu đất còn hơn sống trong cuộc đời vương giả xa hoa ở thành Tashbaan. Nó chỉ nói một cách đơn giản:

- Chị quên mất rằng em rồi đây cũng chỉ là một kẻ vô danh tiểu tốt như cậu ta mà thôi. Dù sao thì em cũng đã hứa rồi.

- Hãy nghĩ cho kỹ đi. - Lasaraleen nói gần như rít lên. - Nếu chị còn có đầu óc thì chị phải trở thành đệ nhất phu nhân của tể tướng đại thần chứ.

Nhưng Aravis đã bỏ ra ngoài để nói riêng vài lời với mấy con ngựa:

- Hai ngươi phải đi với một giám mã ra lăng tẩm trước khi trời tối. Không phải là ngựa thồ nữa. Các ngươi sẽ được đóng đầy đủ yên cương. Sẽ có đầy đủ thức ăn trong túi yên của Hwin, còn Bree sẽ mang theo một bao da đựng nước. Người đàn ông này được lệnh đưa hai ngươi đi uống nước ở ngoài sông, phía bên kia cầu.

- Narnia và miền Bắc. - Bree thì thầm. - Nhưng nếu Shasta không có mặt ở đó?

- Phải đợi thôi, tất nhiên rồi. - Aravis nói. - Ta hy vọng bọn ngươi cũng được nghỉ ngơi thoải mái rồi.

- Chưa bao giờ có một tàu ngựa tốt hơn như thế trong đời tôi. - Bree nói. - Nhưng nếu chồng cái nàng Tarkheena hay cười ấy lại trả tiền cho tay giám mã trưởng để mua loại yến mạch hảo hạng thì tôi nghĩ ông ta đã bị tên kia lừa cho một vố to đấy.

Aravis và Lasaraleen ăn tối trong một căn phòng trang hoàng lộng lẫy với rất nhiều cột sơn son thếp vàng.

Vào khoảng hai giờ sau họ sẵn sàng bắt tay vào việc, Aravis ăn mặc như một hầu gái cao cấp trong nhà quyền quý và đeo mạng che mặt. Họ đã thỏa thuận với nhau rằng nếu có bất cứ một câu hỏi nào được đặt ra, Lasaraleen sẽ nói rằng Aravis là nô lệ mà một trong những công chúa đã ban thưởng cho mình.

Hai cô gái đi bộ ra ngoài. Vài phút sau họ đã đi đến cổng lâu đài. Tất nhiên ở đây có rất nhiều lính ngự lâm nhưng viên chỉ huy biết rõ Lasaraleen nên đã lệnh cho đám lính tập hợp lại chào khách. Hai người lập tức đến Đại sảnh đường xây bằng đá hoa cương đen. Một số triều thần cùng bọn nô lệ của họ và những người khác vẫn còn đi lại nơi này, điều đó khiến cho hai cô gái bớt vẻ nghi ngờ đi. Họ đi qua phòng cột bề thế nguy nga đến phòng tượng, ngang qua hàng dãy cột sừng sững, qua cả cánh cửa đồng của chính điện, nơi có để ngai vàng. Tất cả đều lộng lẫy, tráng lệ không sao tả xiết. Đó chỉ là những gì họ trông thấy trong ánh sáng chập chờn.

Bây giờ thì họ đã bước vào khu vườn thượng uyển thoai thoải trải dài trên một sườn dốc với những lối đi như bàn cờ. Đi hết chiều dài ngự hoa viên, họ đến hoàng cung cũ. Trời đã tối và họ tìm thấy mình ở một mê cung rối rắm. Các hành lang được thắp sáng bằng những bó đuốc trong những cái rọ gắn trên tường. Lasaraleen dừng lại ở một chỗ, lưỡng lự mất một lúc không biết rẽ phải hay rẽ trái.

- Đi đi, mau mau lên! - Aravis thì thào, tim nó đập như trống đánh vì nó sợ rằng cha nó có thể thình lình xuất hiện ở bất cứ chỗ rẽ nào.

- Em đang tự hỏi. - Lasaraleen phân vân nói. - Đến đây em cũng không chắc chắn lắm. Em nghĩ là phải rẽ trái. Phải, em gần như biết chắc là phải rẽ trái. Vui quá ha?

Họ rẽ sang trái và thấy mình đang ở một lối đi chỉ có một chút ánh sáng mờ mờ và chẳng bao lâu đã bước gấp xuống một cái dốc khá cao.

- Đúng rồi, chúng mình đi đúng đường rồi. - Lasaraleen nói. - Em vẫn nhớ những cái bậc này.

Đúng lúc đó có một vùng sáng chuyển động xuất hiện trước mặt. Một giây sau có hai bóng đen của hai người đàn ông đi giật lùi mang những bó đuốc lớn, họ hiện ra từ một chỗ rẽ ở ngay bên cạnh hai cô gái. Tất nhiên chỉ có đi trước các bậc thiên tử người ta mới đi giật lùi như thế. Aravis cảm thấy bàn tay Lasaraleen bóp chặt cánh tay nó - một cái bóp bất thần gần như cắm sâu vào da thịt nó và điều đó có nghĩa là người đang nắm lấy tay nó thực sự hoảng sợ. Aravis thầm nghĩ, thật là vô lý khi Lasaraleen lại sợ Tisroc đến thế nếu ông vua này thực sự là một trong những người bạn của cô ta. Nhưng không có thời gian để nghĩ ngợi lung tung. Lasaraleen vội vã quay đầu bỏ chạy lên đầu cầu thang - chạy nhón chân - và nhớn nhác nhìn lướt qua các bức tường.

- Đây có một cái cửa, nhanh lên!

Họ bước vào, nhẹ nhàng khép cánh cửa lại sau lưng và phát hiện ra mình đang ở trong một căn phòng tối như được lèn chặt lại. Qua tiếng thở dồn dập, ngắt quãng của Lasaraleen, Aravis hiểu được nỗi lo sợ khủng khiếp của cô bạn cũ.

- Cầu xin thần Tash phù hộ cho chúng con! - Lasaraleen khấn vái. - Biết làm thế nào đây nếu đức vua bước vào đây? Chúng ta có thể trốn thoát không?

Dưới chân họ là một tấm thảm mềm. Họ rón rén bước vào phòng, vấp phải một cái ghế sôpha.

- Hãy chui xuống cái ghế này. - Lasaraleen thì thào. - Chao ôi, em ước gì chúng ta không đi đến đây.

Có một khoảng trống giữa cái ghế sôpha và bước tường có che rèm, hai cô gái chui vào chỗ đó. Lasaraleen cố gắng để có một chỗ tốt hơn, che kín nó hoàn toàn. Phần trên khuôn mặt của Aravis thò ra khỏi chỗ nấp sau ghế sôpha, thành thử nếu có ai bước vào phòng mang theo đuốc và tình cờ nhìn vào góc này, người ấy sẽ nhìn thấy nó ngay. Nhưng tất nhiên vì nó có mạng che mặt nên cái mà họ nhìn thấy chẳng là cái gì ngoài một vầng trán và một cặp mắt. Aravis xoay xở một cách tuyệt vọng để làm cho Lasaraleen chừa cho nó một khoảng trống để nó nhích xuống. Nhưng vào lúc này cô bạn chỉ còn lo cho bản thân, vì vậy trong lúc cấp bách đã nhéo vào tay nó thật đau và giẫm lên chân nó. Sau đó cả hai ngưng chiến, ngồi im phăng phắc thở như kéo bễ. Hơi thở của chúng có vẻ to một cách khủng khiếp, ngoài ra không nghe thấy một tiếng động nào khác.

- Ở đây an toàn chứ? - Cuối cùng Aravis thì thào, giọng nó còn nhẹ hơn cả hơi thở.

- Em... em... em... nghĩ thế. - Lasaraleen bắt đầu. - Nhưng cái đầu khốn khổ của em... - Đúng lúc ấy vùng lên tiếng động kinh hoàng nhất mà chúng có thể nghe được vào lúc ấy: tiếng mở cánh cửa, sau đó là ánh đuốc. Bởi vì Aravis không thể giấu cái đầu nó sau ghế, nó có thể nhìn thấy tất cả.

Đầu tiên là hai nô lệ - họ vừa câm vừa điếc như Aravis có thể đoán ngay ra, nhờ thế họ mới được sử dụng vào những việc cơ mật nhất - đi giật lùi vào phòng, tay mang ngọn đuốc. Họ đứng ở hai bên đầu ghế sôpha. Đây là một điều may mắn bới vì một người nô lệ to lừng lững đứng án ngữ trước mặt khiến người ta khó nhìn thấy Aravis, trong khi đó nó vẫn có thể nhìn qua khe hở giữa hai gót chân của người này. Tiếp theo là một ông già béo núc ních đội một cái mũ có chóp nhọn trông rất kì cục, nhờ vào cái mũ đó người ta biết ngay người này là Tisroc. Ít nhất thì số ngọc ngà, châu báu trên người ông ta cũng có giá trị hơn tất cả các bộ trang phục và vũ khí của những người quý tộc Narnia cộng lại, nhưng ông ta lại quá phì nộn và cái thân hình phì ra ở tất cả mọi phía ấy lại được khoác lên một mớ gồm những diềm xếp nếp, dải vải, đăng ten, quả tua rua và bùa chú nên Aravis không thể không nghĩ là trang phục của người Narnia (dù ở bất cứ địa vị nào) trông vẫn dễ coi hơn. Đi sau ông ta là một thanh niên rất cao, đầu quấn khăn có đính kim cương và lông chim, bên hông có giắt một thanh mã tấu có cái bao bằng ngà voi. Người này tỏ vẻ rất kích động, đôi mắt và hàm răng lóe sáng trong ánh nến. Đi sau cùng là một lão già nhỏ xíu, trên lưng nhô lên một cục bướu, khuôn mặt khô xác, nhăn nheo của lão làm cho Aravis nhận ra ngay với một cái rùng mình ghê tởm: đó chính là tân tể tướng, vị hôn phu của nó: Ahoshta Tarkaan.

Ngay khi cả ba bước vào phòng thì cánh cửa đã khép lại sau lưng họ, Tisroc ngồi xuống một cái ghế đi văng với một tiếng thở dài đầy thỏa mãn, người thanh tiên đứng vào chỗ của mình, ngay trước mặt vua, còn tân tể tướng thì quỳ mọp xuống đất thành một đống dị hình, gục cả mặt và hai khuỷu tay xuống sàn.

- Ôi – thưa – cha – của – con – và - niềm – vui – của – đôi – mắt – con! – Người thanh niên bắt đầu, miệng lẩm bẩm nói với ngữ điệu vừa nhanh vừa sầu thảm vừa trống rỗng như thể Tisroc không hề là niềm vui trong đôi mắt anh ta. – Người sống mãi muôn đời nhưng người hoàn toàn thiêu rụi con. Nếu phụ vương ban cho con những thuyền galây chạy nhanh nhất thì vào lúc mặt trời mọc con đã nhìn thấy con tàu của bọn man rợ đáng nguyền rủa kia và có lẽ con đã đuổi kịp nó. Nhưng phụ vương lại thuyết phục con cứ đứng chờ xem có phải chúng chỉ chạy quanh vịnh tìm một chỗ thả neo tốt hơn không. Bây giờ thế là mất toi một ngày. Bọn chúng đã đi… đi khỏi tầm kiểm soát của ta. Con bé giả mạo, cái đồ…, - đến đây người thanh niên thêm vào một loạt các tính từ chẳng có gì hay ho để nghe hoặc in vào sách. Bởi vì tất nhiên người thanh niên đó là hoàng tử Rabadash và con bé không ra gì ấy chính là nữ hoàng Susan

- Hãy bình tĩnh con trai. – Tisroc nói. – Suy cho cùng sự ra đi của những vị khách này làm cho vết thương cũng dễ dàng liền miệng trong trái tim của một vị chủ nhà sáng suốt.

- Nhưng con muốn có cô ta. – Hoàng tử kêu lên. – Con phải có cô ta. Con sẽ chết mất nếu không có được cô ta. Một đứa con gái có trái tim đen tối, ngạo mạn, giả trá của một con chó thấp hèn. Con không thể ngủ được, thức ăn không nuốt trôi xuống miệng và đôi mắt con tối sầm lại chính là vì sắc đẹp của nó. Con phải có được nữ hoàng của bộ tộc man di, mọi rợ đó

- Như một nhà thơ thiên tài đã nói, - tể tướng kêu to, ngẩng mặt lên (khuôn mặt có phần nào nhem nhuốc) khỏi tấm thảm trải sàn, - rằng hãy hút cạn nước trong một vòi phun đáng mơ ước để dập tắt ngọn lửa tình yêu của tuổi trẻ.

Câu nói này dường như làm cho hoàng tử điên tiết hơn.

- Đồ chó! – Hắn hét to, dang thẳng chân đá vào mông lão già đang quỳ trước mặt. – Mày dám mở mồm ra trích dẫn thơ trước mặt tao à? Tao đã có đủ những câu châm ngôn thơ thẩn trong ngày hôm nay rồi đấy, tao không chịu thêm được nữa đâu. – Tôi e rằng Aravis chẳng lấy gì làm tội nghiệp cho vị hôn phu của nó.

Rõ ràng Tisroc đang đắm chìm trong suy nghĩ và sau một hồi im lặng, ông như nhận ra chuyện gì đang xảy ra bèn nói vẻ bình thản:

- Con trai, hãy thôi cái trò đấm đá một vị tể tướng dễ bị tổn thương và đã được giải thoát khỏi sự tăm tối đi; bởi lẽ một viên kim cương quý giá vẫn giữ được nguyên giá trị của nó dẫu có bị vùi trong đống phân đi chăng nữa. Vì thế tuổi già và sự khôn ngoan vẫn đáng được trân trọng dù nó ở trong một con người hèn hạ trong đám thần dân của ta. Vì vậy con hãy thôi nổi nóng, nói cho trẫm biết khao khát của con và lời thỉnh cầu của con.

- Khao khát của con và lời thỉnh cầu của con ư, thưa phụ vương? Đó chính là việc phụ vương phải lập tức triệu tâp tất cả binh mã hùng mạnh của người rồi hạ lệnh kéo đến mảnh đất Narnia ba lần đáng nguyền rủa, để tiêu hủy nó, nhấn chìm nó trong biển gươm và lửa, cộng nó thêm vào đế chế không biên giới của người, giết chết Peter Đại đế và tất cả anh em hắn, chỉ để lại mình Susan. Con nhất định phải cưới cô ta làm vợ, mặc dầu việc phải làm là sẽ dạy cho cô ả một bài học nhớ đời.

- Con phải hiểu, con trai của trẫm, - Tisroc nói, - không có một lời nào con thất ra sẽ khiến ta mở một cuộc chiến chống lại Narnia đâu.

- Nếu người không phải là phụ vương của con và không phải là một Tisroc sống lâu muôn tuổi. – Hoàng tử nói, hai hàm răng nghiến lại.  – Con dám nói đó là lời lẽ của một kẻ hèn nhát.

- Và nếu mi không phải là con trai ta, - hoàng tử Rabadash dễ bị kích động nhất ạ, - người cha đáp, - cuộc đời ngươi sẽ ngắn lại một cách đáng kể và cái chết sẽ diễn ra từ từ sau khi mi nói những lời như thế (giọng nói lạnh lùng, điềm tĩnh của Tisroc khi nói những điều này làm cho máu trong người Aravis như bị đông lại).

- Nhưng tại sao thưa phụ vương? – Hoàng tử nói, lần này có vẻ kính trọng hơn. – Tại sao chúng ta không nghĩ đến chuyện trừng phạt Narnia, như thế chẳng tốt hơn việc treo cổ một tên nô lệ lười biếng hoặc hóa kiếp một con ngựa già để làm thịt cho chó hay sao? Với hàng ngàn mũi giáo, có thể chinh phục được xứ này trong vòng 5 tuần. Nó là một vết dơ khó coi trên cái áo hoàng đế của phụ vương.

- Đó là điều rõ ràng nhất. – Tisroc nói. – Những quốc gia bé tẹo, man rợ này tự gọi là đất nước tự do (cũng tương tự với việc ta nói đó là một đất nước lười biếng, vô chính phủ, vô tích sự chẳng làm gì sinh lợi) chúng còn ghét thánh thần và tất cả những người văn minh, khôn ngoan.

- Vậy tại sao chúng ta lại phải chịu đựng một mảnh đất như Narnia mà tồn tại quá lâu như vậy?

- Thưa hoàng tử chắc điện hạ cũng biết, - tể tướng lên tiếng, - cho đến năm phụ vương vô cùng cao quý của ngài bắt đầu triều đại thịnh trị và kéo dài vô tận của mình thì mảnh đất Narnia còn phủ đầy băng tuyết và được cai trị bởi một phù thủy quyền uy nhất.

- Điều này thì ta biết rất rõ, ông tể tướng lắm lời ạ. – Hoàng tử xẵng giọng. – Ta còn biết phù thủy đã chết, vì thế mà băng tuyết cũng tan hết và bây giờ Narnia là một miền đất giàu đẹp đầy hoa thơm trái ngọt.

- Thưa hoàng thái tử thông thái nhất trên đời, sự thay đổi này có được là bởi sự phong hùng xưng đế ồn ào của bọn người man di mọi rợ tự gọi mình là vua và nữ hoàng Narnia. Điều này thì không còn gì phải nghi ngờ đâu ạ.

- Ta cũng có nhận định của mình. – Rabadash nhấn mạnh. – Đó là do sự thay đổi vị trí của các vì tinh tú và sự vận hành của các yếu tố trong tự nhiên.

- Tất cả những chuyện này, - Tisroc nói, - nổi lên thành vấn đề trong những cuộc đàm luận của những người thông thái. Trẫm không bao giờ tin rằng đằng sau một sự thay đổi lớn như vậy và việc giết chết một phù thủy quyền năng đến thế lại không có sự giúp đỡ của một pháp thuật cao cường. Những chuyện như thế có thể chờ đợi ở các xứ hoang dã man rợ nơi các cư dân chủ yếu là bọn quỷ dưới hình thù của những con vật có thể nói tiếng người và cả những con quái vật nửa người nửa thú. Theo những lời đồn đại trong dân chúng thì Peter Đại đế, một kẻ chắc chắn bị các vị thánh thần ruồng bỏ nhưng lại được một con quỷ cực kì xấu xa, hiểm ác có sức mạnh vô địch hiện thân dưới lốt một con sư tử phù trợ. Vì thế mà tấn công Narnia là một sự đầu tư mạo hiểm, bất trắc, yếu tố rủi ro rất cao và trẫm không định đưa tay ra xa hơn khả năng có thể rút lại được.

- Đất nước Calomen này được thánh thần ban phước, - tân tể tướng lại ngẩng đầu lên nịnh hót lần nữa, - nên mới có được một vị chúa tể làm cho thánh thần cũng phải vừa lòng đẹp ý bởi sự khôn ngoan, thận trọng tuyệt vời của mình! Đúng như Tisroc khôn nogan và không thể bác bỏ được đã nói, thật là đau khổ khi buộc phải để tay mình cách xa cái đĩa tuyệt đẹp như Narnia. Như một nhà thơ tài năng đã nói… - nhưng đến đây Ahoshta nhận thấy cử động nóng nảy của các đầu ngón chân của hoàng tử nên bất thần im bặt.

- Đó là một nỗi đau không thể nào nguôi ngoai được. – Tisroc nói với cái giọng trầm và nhỏ nhẹ của mình. – Sáng nào mặt trời cũng tối sầm trong mắt trẫm, mỗi đêm trẫm lại thêm trằn trọc khó ngủ hơn khi nhớ là Narnia vẫn còn tự do.

- Thưa phụ vương, giả dụ con hiến cho phụ vương một kế hoạch giúp phụ vương có thể vươn dài cánh tay để lấy Narnia mà vẫn rút về không hề hấn gì một khi cố gắng của chúng ta không đi đến đâu thì sao ạ?

- Nếu con chỉ cho trẫm cách ấy, Rabadash ạ, con sẽ là gia tài lớn nhất của trẫm.

- Nếu vậy xin cha hãy nghe con. Ngay trong đêm nay và đúng vào giờ này con sẽ chọn 200 con tuấn mã rồi vượt qua sa mạc. Phải đảm bảo là bọn quần thần của phụ vương không kẻ nào biết được chuyện này. Sáng ngày kia là con đã có mặt ở cổng lâu đài Lune ở Anvard của Archenland. Bọn chúng thân thiện với chúng ta và không phòng bị gì cả, vì vậy con sẽ chiếm lấy Anvard trước khi chúng có thời gian cựa quậy chân tay. Sau đó con sẽ vượt qua ngọn đèo ngăn cách giữa hai nước và xuôi xuống Narnia đến tận Cair Pavarel. Peter Đại đế sẽ không có mặt ở đấy; khi con rời nơi ấy hắn còn đang chuẩn bị tấn công lại bọn khổng lồ ở biên giới phía bắc. Con sẽ tìm đến Cair Pavarel, cũng sẽ dễ dàng như đi vào một cánh cửa mở sẵn, và chỉ việc xông thẳng vào. Con sẽ tỏ ra thận trọng, lịch thiệp và làm đổ ít máu người Narnia nhất trong khả năng có thể. Con sẽ án binh bất động chờ đợi cho đến khi con tàu Splendor Hyaline cập bến với nữ hoàng Susan trên boong, rồi con sẽ tóm con chim vừa bay mất của con ngay khi nàng đặt chân lên đất liền, để nàng ngồi ngay trước yên ngựa của con rồi ruổi ngựa, ruổi ngựa, ruổi ngựa quay về Anvard. Như vậy có được không ạ?

- Nhưng điều này khó có khả năng xảy ra con trai ạ, để cướp được người đàn bà này, không con thì vua Edmund sẽ phải mất mạng.

- Chúng chỉ có một nhóm nhỏ. Con sẽ ra lệnh cho mười tên trong đám quân của con tước vũ khí của hắn và trói hắn lại. Con sẽ cố gắng kìm chế khao khát cháy bỏng muốn uống máu hắn để không gây nên cuộc chiến tranh khốc liệt giữa phụ vương và Peter Đại đế.

- Nhưng nếu Splendor Hyaline lại về đến Cair Pavarel trước con thì sao?

- Với ngọn gió lười nhác vào mùa này ư? Không, con không nghĩ thế thưa phụ vương.

- Cuối cùng, cậu con trai tài trí của trẫm, con đã nói rõ cách thức làm thế nào để con có được người đàn bà của xứ sở man di kia mà không nói cách thức giúp ta thôn tính được người Narnia.

- Thưa phụ vương, nó có thể trốn thoát khỏi tay cha không khi con và đoàn kỵ binh của con đã đến và đi qua Narnia như một mũi tên vừa lao ra khỏi cung? Chúng ta sẽ có được Anvard mãi mãi đúng không? Khi nắm được Anvard rồi cha đã ngồi ở ngay cổng vào Narnia và các đơn vị đồn trú của cha ở Anvard sẽ tăng quân số vùn vụt cho đến lúc nó trở thành một đội quân vô địch.

- Mọi việc xem ra dễ hiểu và có thể đoán trước được. Nhưng làm sao trẫm có thể rút tay về nếu như tất cả những chuyện này đều xôi hỏng bỏng không?

- Con tuyên bố rằng con tự ý hành động như thế mà phụ vương không biết và ngược lại với ý muốn của phụ vương, không được cha ban phước và chẳng qua là hành động ngông cuồng của một tình yêu cuồng nhiệt và của tuổi trẻ bốc đồng.

- Nhưng nếu Peter Đại đế yêu cầu chúng ta phải trả lại người em gái của hắn thì sao?

- Thưa phụ vương, xin người hãy tin chắc là hắn không làm thế đâu. Mặc dầu vì phù phiếm, người đàn bà này đã từ chối lời cầu hôn của con nhưng Peter Đại đế là một người rất khôn ngoan, quỷ quyệt, hắn hiểu rõ và không muốn đánh mất địa vị tôn quý và lợi ích của việc liên minh với hoàng tộc của chúng ta. Hắn có thể thấy trước những đứa cháu trai và con hắn ngồi trên ngai vàng ở Calormen.

- Hắn sẽ không thấy trước đâu nếu ta sống mãi muôn đời và biết đánh giá tâm tư của con ta. – Tisroc nói, giọng khô khan hơn bình thường.

- Thưa phụ vương, niềm vui trong đôi mắt con, - hoàng tử nói tiếp sau một hồi im lặng, gượng gạo, - chúng ta sẽ giả mạo một lá thư của nữ hoàng, viết rằng nàng yêu con và không có ý muốn quay về Narnia. Bởi vì ai cũng biết phụ nữ thay đổi ý định của mình như chong chóng. Và cho dù chúng không tin lời lẽ trong thư, chúng cũng không dám đem quân đến Tashbaan để cướp nàng về.

- Tể tướng khôn ngoan của trẫm, - Tisroc quay sang nói chuyện với Ahoshta, - hãy thể hiện sự khôn ngoan của khanh với lời đề nghị lạ lùng này.

- Muôn tâu thánh thượng, sức mạnh của tình cha con không phải là điều còn chưa được biết đến với hạ thần và thần thường nghe cổ nhân nói rằng đứa con trong mắt người cha còn quý báu hơn cả ngọc granat đỏ. Như vậy làm sao thần dám cả gan bộc bạch cõi lòng mình với bệ hạ trong một vấn đề có thể nguy hiểm đến tính mạng hoàng thái tử cao quý?

- Không có gì phải nghi ngờ, - Tisroc đáp, - ngươi có cái gan ấy đấy. Bởi vì ngươi biết rõ hậu quả của việc không làm theo lời ta, đó là một cái gì mà ngươi khó lòng tránh nổi.

- Nghe tức là vâng lời. – Người đàn ông khốn khổ rên lên. – Thưa Tisroc khôn ngoan rất mực, vấn đề thứ nhất: nguy hiểm đối với hoàng tử nhìn chung mà nói thì cũng không lớn lắm như suy tính ban đầu. Chắc chắn các thánh thần tối cao không đứng về bọn mọi rợ vì chúng không thờ cúng họ bao giờ, thơ ca của chúng cũng khác thơ ca của ta với đầy rẫy những cách ngôn và dụ ngôn hữu ích mà chỉ toàn về tình yêu và chiến trận. Vì vậy không có vẻ gì cao quý hơn, đáng ngưỡng mộ hơn một cuộc đầu tư điên loạn thế này… Ối… á! Lão già kêu oai oái bởi vì hoàng tử nghe đến từ “điên loạn” đã đá đít lão mấy cái.

- Thôi đi, con trai. – Tisroc nói. – Còn ngươi, tể tướng đáng mến, dù hoàng tử có thôi đá đít khanh hay không chớ để cho dòng hùng biện của mình bị ngắt quãng. Bởi vì không có gì thích hợp hơn với những kẻ nghiêm trang, đúng mực bằng việc chịu đựng những bất tiện nho nhỏ với một đức tính kiên định.

- Nghe tức là vâng lời. – Tể tướng nói, oằn người đi, vì thế mà nhích cái phần dưới thân hình lão ta ra xa mũi bàn chân Rabadash một chút. – Theo thiển ý của thần thì không dễ gì tha thứ… nếu không muốn nói là đáng quý trọng trong đôi mắt người đời. Giống như, e hèm… cố gắng liều lĩnh này, nhất là khi nó được thúc đẩy của tình yêu dành cho một người đàn bà. Vì thế, nếu chẳng may hoàng tử rơi vào tay chúng chắc chắn chúng sẽ không giết ngài đâu. Không những thế rất có thể… dù hoàng tử thất bại trong việc chiếm đoạt nữ hoàng thì khi chứng kiến sự dũng cảm vô song của chàng và niềm đam mê cháy bỏng của chàng… biết đâu được… trái tim nữ hoàng có thể sẽ hướng về chàng.

- Ngươi cũng nói ra được một điểm có lý đấy , lão già bẻm mép ạ. – Rabadash nói. – Rất tốt, dù sao thì điều này cũng đến được với cái đầu ngu si của ngươi.

- Lời khen của chủ nhân làm cho đôi mắt thần sáng bừng lên. Ahoshta nói. – Điều thứ hai, thưa Tisroc vĩ đại, triều đại của người phải và sẽ kéo dài ra vô tận… và thần nghĩ, với sự giúp đỡ của các vị thánh thần rất có thể Anvard sẽ rơi vào tay hoàng thái tử và như thế chúng ta có thể nuốt chửng Narnia.

Một quãng im lặng kéo dài, căn phòng trở nên im phăng phắc đến nỗi hai cô gái không dám thở mạnh. Cuối cùng Tisroc nói:

- Đi đi, con trai. Đi mà làm những điều con đã nói nhưng đừng chờ sự giúp đỡ hay khuyến khích từ phía cha. Cha sẽ không báo thù cho con nếu con bị giết hoặc không giải cứu cho con nếu con bị bọn mọi rợ bắt làm tù binh và nếu – dù thành công hay thất bại – con làm đổ một giọt máu hoàng tộc Narnia một cách không cần thiết và gây nên một cuộc chiến tranh giữa hai nước, ân điển của cha sẽ không bao giờ tới tay con đâu, người em trai kế của con sẽ thay vị trí của con ở Calormen. Có thể thần Tash sức mạnh vô địch và không gì lay chuyển được sẽ nâng đỡ thanh gươm và ngọn giáo của con.

- Nghe là vâng lệnh. – Rabadash kêu lên, quỳ xuống một lát hôn chân người cha già rồi lao ra khỏi phòng. Điều này làm cho Aravis nhẹ cả người, nó bây giờ đang bị dồn ép kinh khủng. Tisroc và tể tướng vẫn ở lại trong phòng.

- Này tể tướng, - Tisroc nói, - khanh phải đảm bảo là không một kẻ nào còn sống được biết về cuộc hội đàm giữa ba chúng ta tối nay.

- Muôn tâu thánh thượng, - Ahoshta nói, - chuyện này chắc chắn là không có ai biết được vì theo thiển ý mà thần đã đưa ra và đã được bệ hạ cùng sự thông tuệ không gì sánh được của người chuẩn y, ba người chúng ta gặp nhau ở hoàng cung cũ nơi không có một buổi họp nào được tổ chức và bọn nô lệ trong cung không có đứa nào lai vãng đến đây.

- Thế thì tốt! – Tisroc nói. – Nếu bất kỳ kẻ nào biết được ta sẽ thấy y chết trong vài giờ. Vì thế mà tể tướng thận trọng của trẫm, hãy quên chuyện đó. Chúng ta hãy quẳng kế hoạch của hoàng tử ra khỏi tim. Nó ra đi mà ta không hề hay biết cũng không được ta đồng ý chỉ vì sự ngông cuồng, liều lĩnh và hiếu chiến của tuổi trẻ. Không có ai kinh ngạc hơn ta và khanh khi được tin Anvard đã nằm trong tay nó, nghe chưa?

- Nghe tức là vâng lệnh.

- Đó là lý do tại sao khanh không bao giờ được nghĩ, dù trong tấc lòng sâu kín của mình rằng ta là một người cha có trái tim cứng rắn nhất trên đời – phái đứa con trai trưởng đi làm một việc cũng có thể là đi tìm cái chết của nó – đã vui mừng cũng như ngươi, kẻ không bao giờ yêu thương hoàng tử. Chậc, chậc… trẫm đi guốc vào bụng khanh.

- Muôn tâu chúa thượng toàn thiện toàn bích, - tể tướng nói, - so với người, thần chẳng yêu hoàng tử cũng như không yêu cuộc sống của mình, không yêu bánh mì và nước uống, không yêu ánh sáng mặt trời…

- Tình cảm của khanh đã được nâng cao và trở nên đúng mức. Ta cũng không yêu những thứ này so với vinh quang và sức mạnh của cây quyền trượng. Nếu hoàng tử thành công thì chúng ta sẽ có Archenland và có thể sau đó là Narnia. Nếu nó thất bại – ta còn có 18 người con trai khác. Trong khi đó Rabadash với tư cách là hoàng thái tử đã trở nên nguy hiểm. Có đến những năm Tisroc ở Tashbaan này chết trước thời hạn bởi những đứa con trưởng, những thái tử thông minh đã trở nên mệt mỏi vì chờ đợi đến lượt mình được ngồi vào ngai vàng. Tốt nhất nó nên làm nguội dòng máu nóng của mình ở nước ngoài còn hơn là để bầu máu nóng đó sôi sục trong tình trạng ăn không ngồi rồi ở đây. Còn bây giờ, ông tể tướng tuyệt vời ạ, sự lo âu của người cha đã khiến ta buồn ngủ. Lệnh cho các nhạc công đến phòng ngủ của trẫm. Nhưng trước khi đi ngủ, ngươi nên viết thư xá tội cho người đầu bếp thứ ba. Trẫm cảm thấy trong người có những triệu chứng rõ ràng của bệnh khó tiêu.

- Nghe tức là vâng lệnh. – Tể tướng nói. Lão bò giật lùi ra cử, đứng dậy, vái mấy cái rồi đi ra. Sau đó Tisroc vẫn ngồi im lặng trên đi văng một lúc cho đến khi Aravis bắt đầu lo lắng rằng ông ta đã ngủ thiếp đi. Nhưng cuối cùng với một tiếng cọt kẹt lớn và một tiếng thở dài, Tisroc nâng tấm thân nặng nề lên, ra lệnh cho bọn đầy tớ mang đuốc ra bên ngoài rồi cũng đi ra khỏi phòng. Cánh cửa đóng lại sau lưng ông vua, một lần nữa căn phòng lại tối đen như mực và hai cô gái có thể tự do thở bình thường.

- Ôi thật kinh khủng quá! Một việc hết sức đáng sợ! – Lasaraleen thở hổn hển nói. – Chị ơi em mới sợ làm sao chứ. Em run hết cả người lên đây này. Chị sờ thử mà coi.

- Đi thôi. – Aravis nói, bản thân nó cũng run như cầy sấy. – Họ đã quay về hoàng cung mới. Một khi đã ra khỏi căn phòng này chúng ta cũng được an toàn. Hãy đưa em xuống cửa đập càng nhanh càng tốt.

- Trời đất, sao chị có thể làm thế được? – Lasaraleen rít lên. – Em không còn có thế làm gì được nữa – ít nhất không phải vào lúc này. Cái đầu khốn khổ của em! Không, chúng ta hãy nghỉ lại ở đây một chút rồi sau đó quay về nhà!

- Tại sao lại quay về? – Aravis hỏi.

- Ôi chị không hiểu à? Sao chị không biết thông cảm vậy? – Lasaraleen nói, bắt đầu khóc thút thít. Nhưng Aravis quyết định lúc này không phải là lúc mủi lòng thương xót.

- Nghe đây. – Nó nói và nắm lấy tay lắc cho bạn một cái nhớ đời. – Nếu chị nói một tiếng nữa về chuyện quay trở lại và nếu chị không lập tức đưa em đến cửa đập – chị có biết em sẽ làm gì không? Em sẽ chạy ra ngoài giữa lối đi, kêu ầm lên. Rồi người ta sẽ đến bắt cả hai chúng ta.

- Vậy thì cả hai chúng ta sẽ bị… giết… ! – Lasaraleen lắp bắp. – Chị… chị… không nghe Tisroc (Thánh thượng vạn tuế, vạn vạn tuế) nói gì ư?

- Có nghe và em thà chết ngay bây giờ còn hơn làm vợ Ahoshta. Thôi đi nào!

- Ôi, chị thật là độc ác. Coi xem, em đang ở trong tình trạng như thế nào!

Cuối cùng Lasaraleen cũng phải nhượng bộ bạn. Cô dẫn bạn đi xuống những bậc thang mà lúc trước cả hai đã đi lên. Họ đi xuôi theo một hành lang khác và cuối cùng ra ngoài trời. Bây giờ họ đã ở bên ngoài ngự hoa viên nằm trên sườn dốc thoai thoải và đi xuống con đường dẫn tới tường thành. Vầng trăng uy nghi trên nền trời trong vắt. Một trong những hạn chế của những cuộc phiêu lưu là khi bạn đến  những phong cảnh nên thơ bạn thường quá đỗi hồi hộp và khẩn trương để tận hưởng vẻ đẹp của nó. Vì thế mà Aravis (mặc dù nhiều năm sau vẫn hào hứng nhớ lại kỷ niệm này) lại có một ấn tượng mờ nhạt về bãi cỏ màu xám bạc dưới ánh trăng, những vòi phun nước sủi bọt lặng lẽ và những cái bóng dài đen thẫm của hàng cây bách.

Khi họ đi đến cuối con đường và bức tường thành cau có hiện lên trước mặt bọn họ, Lasaraleen run đến nỗi không sao mở được gióng cửa. Aravis làm thay cho bạn. Và cuối cùng trước mắt cô bé cũng hiện lên dòng sông lấp lánh ánh trăng bạc, một doi đất nhỏ, vài con thuyền lững lờ nhàn tản thả trên dòng sông.

- Vĩnh biệt chị, cảm ơn chị và xin lỗi nếu em đã thô bạo với chị. Nhưng cứ nghĩ coi, em sẽ tự do bay đến bất cứ nơi nào!

- Ôi Aravis thân yêu! Chị không đổi ý chứ? Bây giờ chị đã thấy Ahoshta đại nhân vĩ đại thế nào rồi chứ?

- Vĩ đại? Một tên nô bộc chuyên liếm gót đáng kinh tởm thì có. Một con giun tức giận khi bị chà đạp nhưng vẫn nhẫn nhịn như không vì hi vọng có thể đứng thẳng lưng lên bằng cách xúi giục Tisroc – bạo chúa – đẩy con trai vào chỗ chết. Thật đáng ghê tởm! Em thà cưới thằng rửa chén ở chỗ cha em còn hơn dính líu đến một con quái vật như lão.

- Aravis! Aravis! Sao chị có thể nói ra những điều kinh khủng như thế? Cả về Tisroc (Thánh thượng vạn tuế, vạn vạn tuế) nữa. Nếu đức vua đã làm thế thì chắc chắn là một việc hợp lý.

- Tạm biệt chị. – Aravis nói. – Em nghĩ cái áo của chị rất dễ thương. Ngôi nhà của chị cũng rất đẹp. Và em chắc chị có một cuộc sống vui vẻ, dễ chịu – dầu nó không thích hợp với em. Chị hãy nhẹ nhàng đóng cửa lại sau lưng em nhé.

Nó vùng ra khỏi vòng tay ôm đầy tình cảm của bạn rồi nhảy xuống một con thuyền đáy bằng đẩy thuyền đi và chỉ một lúc sau đã ra đến giữa dòng. Vầng trăng tròn vành vạnh lơ lửng trên đầu. Có một vầng trăng lớn hơn ở sâu phía dưới, tận đáy sông. Trời đêm mát lạnh và trong lành. Khi  nó chèo tới gần bờ bên kia nó còn nghe thấy tiếng một con cú mèo kêu khi đi ăn đêm. “Trời ơi, như thế này mới tuyệt chứ!” – Aravis nghĩ. Nó bao giờ cũng sống ở làng quê và nó ghét mỗi một phút sống ở Tashbaan.

Khi bước lên bờ, nó thấy dưới ánh trăng, mặt đất dần dần lên cao hơn, cây cối bị đốn ngang. Nhưng rồi nó cũng tìm được đúng cái con đường mà Shasta đã tìm ra, cũng cái nơi mà cỏ chấm dứt và cát bắt đầu rồi cũng như Shasta, nó nhìn sang trái và thấy những ngôi nhà mồ lù lù, đen đen, hắc ám. Đến mức này thì mặc dù là một cô gái can đảm, trái tim nó vẫn thắt lại vì sợ. Giả sử những người kia không ở đây! Giả sử có những hồn ma! Tuy vậy Aravis vẫn hếch cằm lên (và cắn nhẹ vào lưỡi) đi thẳng về những ngôi mộ.

Trước khi đến nơi, nó nhìn thấy Bree, Hwin và tên giám mã.

- Bây giờ ngươi có thể quay về với bà chủ của ngươi. – Aravis ra lệnh (mà quên là tên này không thể làm thế cho đến khi cổng thành được mở lại vào sáng ngày mai). – Đây là tiền trả cho công khó nhọc của nhà ngươi.

- Nghe tức là vâng lệnh! – Tên giám mã nói và ngay lập tức chạy như bay về phía thành phố. Chẳng cần phải bảo hắn đi mau, hắn cũng đã nghĩ nhiều về ma quỷ ở một nơi như thế này rồi.

Trong vòng một vài giây đầu, Aravis bận rộn hôn lên mũi và vỗ vỗ lên cổ hai con ngựa cứ như thể chúng chỉ là những con ngựa thông thường.

- Kia kìa, Shasta đã đến! Tạ ơn sư tử! – Bree hí vang.

Aravis quay đầu nhìn quanh, và kìa, vừa đúng lúc Shasta ra khỏi chỗ núp ngay sau khi nó thấy tên giám mã đã đi khuất.

- Bây giờ, - Aravis nói, - không nên để chậm một phút nào! – Với những lời lẽ liến thoắng nó kể cho cả bọn nghe về mưu đồ của Rabadash.

- Quân khốn nạn phản trắc! – Bree kêu lên, lắc bờm và giậm bốn vó. – Một cuộc đột kích vào lúc thiên hạ thái bình như thế này mà không đưa ra một dấu hiệu nào báo trước. Nhưng chúng ta sẽ cho mỡ vào lúa yến mạch của hắn. Chúng ta sẽ đến nơi trước hắn.

- Thật không? – Aravis hỏi, tung người lên lưng con Hwin. Shasta nhìn theo, thầm ước ao nó cũng làm được như thế.

- Brooh-hoo! – Bree hí vang. – Lên ngựa đi Shasta! Chúng ta cũng có thể có một sự khởi đầu tốt đẹp!

- Hắn nói hắn sẽ lên đường ngay lập tức! – Aravis nói.

- Đó là cách nói của con người. – Bree nói. – Nhưng nó không thể tập hợp ngay một lúc hai trăm con ngựa và kị sĩ. Không thể cho ngựa uống nước, cho ngựa ăn no bụng rồi chuẩn bị vũ khí, lương ăn và đóng yên cương trong vòng một phút. Nào, chúng ta đi theo hướng nào? Thẳng hướng bắc ư?

- Không. – Shasta nói. – Tôi biết đường đi. Tôi đã đánh dấu rồi. Tôi sẽ giải thích sau. Rẽ sang trái một chút hai bạn ngựa. Đây – nó đây!

- Nào, - Bree nói, - phi nước đại suốt một ngày một đêm không nghỉ như cái câu chuyện vẫn kể lại là một điều không tưởng hai bạn nhỏ ạ. Chỉ có thể đi và chạy nước kiệu nhỏ: những bước nước kiệu chắc chắn và có lúc đi bước một để lấy sức. Mỗi khi chúng tôi đi thì hai người có thể xuống ngựa đi bộ theo. Hwin, cô bạn đã sẵn sàng chưa? Nào chúng ta đi! Narnia và miền Bắc!

Giai đoạn đầu của chuyến đi thật thú vị. Đêm đã qua được mấy tiếng đồng hồ rồi và cát không còn phả ra hơi nóng mặt trời mà nó hấp thụ vào ban ngày, không khí mát lạnh, trong lành và sảng khoái. Dưới ánh trăng, sa mạc trải ra mênh mông về tất cả các hướng, xa mãi, xa mãi khi tầm mắt có thể vươn tới được. Cát sáng lên nhờ nhờ như thể nó là một dòng nước lững lờ trôi hoặc như một cái khay bạc khổng lồ. Trừ tiếng vó ngựa của hai con Bree và Hwin, trong không gian mênh mông không vang lên một tiếng động nào cả. Shasta suýt nữa thì ngủ gục nếu thỉnh thoảng nó không xuống ngựa và đi bộ một đoạn.

Họ cứ đi như thế trong vòng nhiều giờ. Rồi đến lúc trên trời không còn trăng nữa. Họ lại đi tiếp trong bóng tối hết giờ này qua giờ khác. Sau đó Shasta nhận ra là nó có thể nhìn thấy cổ Bree rồi vai Bree ở phía trước mỗi lúc một rõ hơn. Rồi từ từ Shasta bắt đầu thấy hiện lên một mặt phẳng màu xám mênh mông. Hoàn toàn giống cõi chết, như một cái gì đó trong một thế giới đã chết, Shasta mệt bã cả người, mỗi lúc nó một cảm thấy lạnh hơn và đôi môi khô đi. Chẳng có gì ngoài tiếng sột soạt của  bao da, tiếng nhạc ngựa và tiếng vó ngựa – không giống như tiếng vó ngựa nện trên con đường cái quan mà là âm thanh êm êm trên cát mênh mông, khô hạn.

Cuối cùng sau nhiều giờ ê ẩm ngồi trên mình ngựa, xa xa phía bên tay phải Shasta xuất hiện một vạch dài màu xám nhạt nhô lên trên đường chân trời. Rồi cái vạch ấy chuyển sang màu đỏ. Cuối cùng bình minh cũng xuất hiện nhưng chẳng có con chim nào cất giọng ca đón chào. Shasta lấy làm sung sướng là có thể đi bộ một đoạn vì bây giờ nó lạnh đến tê dại cả người.

Bất thình lình mặt trời nhô lên và mọi thứ đều thay đổi trong nháy mắt. Cát xám hóa màu vàng và lấp lánh như thể lẫn trong cát là những hạt kim cương. Về phía bên tay trái, bóng Shasta, Hwin, Bree và Aravis ngả dài cùng chạy đua với chúng. Ngọn núi đôi Mount Pire hiện lên trước mặt, sáng lóa lên dưới ánh ban mai và Shasta biết trông nó có nhỉnh hơn trước.

- Sang trái một chút, sang trái một chút. – Shasta reo lên.

Bây giờ thì ổn rồi, khi nó ngoái đầu lại nhìn, Tashbaan chỉ còn nhỏ xíu và xa vời. Khu lăng mộ không còn thấy rõ nữa, nó bị nuốt chửng trong cái gò đơn độc có cái rìa lởm chởm từ đó mọc lên thành phố của Tisroc. Ai nấy đều phấn chấn hơn.

Nhưng tâm trạng này kéo dài không được bao lâu. Mặc dù Tashbaan trông xa vời vợi khi lần đầu ngoái nhìn lại, nhưng nó không lùi xa hơn nữa khi chúng đã đi được mấy giờ liền. Shasta đã thôi không còn chốc chốc lại ngoái cổ ra sau nữa vì làm thế chỉ khiến nó có cảm giác là họ vẫn giậm chân tại chỗ. Sau đó ánh nắng cũng trở thành một điều phiền toái. Cát vàng hất ngược nắng vàng làm cho đôi mắt nó nhức nhối mà nó thì không thể nhắm mắt lại. Nó buộc phải ngước mắt lên cao hơn và cứ nhìn thẳng về phía Mount Pire để định hướng. Đi một lúc nữa thì đến vấn đề nhiệt độ. Nó nhận ra điều này khi lần đầu tiên nó xuống ngựa, đi bộ: vừa chạm chận xuống đất thì cát nóng hừng hực đã phả hơi nóng vào mặt rát không kém gì hơi nóng phả ra từ miệng lò. Lần thứ hai đi bộ còn tệ hơn nữa. Nhưng đến lần thứ ba, khi đôi chân trần của nó vừa chạm đất thì nó vội hét lên vì đau đớn và vội vàng cho một chân lên bàn đạp, chân kia vắt trên lưng Bree.

- Xin lỗi anh bạn Bree. – Nó vừa nói vừa thở hổn hển. – Tôi không thể đi được. Cát làm bỏng chân tôi.

- Tất nhiên! – Ngựa phì phò đáp lại. – Cứ nghỉ cho tôi đi. Thôi cứ ngồi yên trên đấy. Không thể làm khác được.

- Tất cả đều ổn đối với cô. – Shasta nói với Aravis đang thất thểu đi bên cạnh Hwin. – Bởi vì cô có mang giày mà.

Aravis không nói câu nào, vẻ mặt rất nghiêm trang. Hãy cứ hi vọng là nó không đem lòng ganh tị với bạn nhưng thực ra thì nó có bực bội đấy. Lại tiếp tục bước đi nước kiệu rồi đi bộ rồi lại chuyển sang đi nước kiệu, tiếng chuông leng keng, tiếng bao da kêu răng rắc răng rắc dưới ánh nắng như thiêu như đốt, mùi mồ hôi ngựa, mồ hôi người, cái vầng sáng chói chang trước mặt và cái đầu nhức ong ong. Lúc nào cũng như thế hết dặm này đến dặm khác. Tashbaan trông không có vẻ lùi xa thêm một bước nào. Những ngọn núi trước mặt cũng không nhích lại gần hơn. Bạn cảm thấy bao giờ cũng vẫn như vậy – tiếng chuông leng keng buồn tẻ, tiếng bao da răng rắc răng rắc, mùi ngựa và hơi người dưới sức nóng mặt trời dữ dội.

Tất nhiên người ta phải nghĩ ra đủ mọi trò hòng giết thời gian và tất nhiên tất cả đều chẳng có tích sự gì. Người ta cố không nghĩ đến giải khát – nước ép trái cây ướp lạnh trong một tòa lâu đài ở Tashbaan, nước suối trong vắt róc rách giữa đôi bờ, sữa cừu – thứ sữa béo mát lạnh nghe thân quen nơi đầu lưỡi béo ngậy nhưng không quá béo – nhưng bạn càng cố không nghĩ đến nó bao nhiêu lại càng thấy hiện lên trong đầu mình hình ảnh của nó rõ nét bấy nhiêu.

Cuối cùng cảnh vật trước mắt cũng đã có một sự thay đổi – một tảng đá mọc chồi lên giữa trảng cát, dài chừng hai mươi mét, cao khoảng ba mươi mét. Tảng đá không hắt được bao nhiêu bóng râm xuống cát bởi vì mặt trời lúc này đã lên cao. Cả bọn chen chúc đứng dưới cái bóng nhỏ của nó một lúc. Ở đây chúng ăn và uống một chút nước. Không dễ gì cho ngựa uống nước từ trong một túi da nhưng Bree và Hwin rất khéo léo với đôi môi của chúng. Không ai ăn no uống đủ, không ai bàn luận gì. Toàn thân hai con ngựa nổi bọt trắng xóa, chúng thở ồn ào như một chiếc đầu máy. Bọn trẻ tái nhợt cả người đi vì mất nước và mất sức.

Sau vài phút nghỉ ngơi cho lại sức, người và ngựa lại tiếp tục cuộc hành trình. Cũng những âm thanh ấy, cũng những cái mùi ấy, cái ánh sáng chói mắt ấy cho đến lúc bóng của họ bắt đầu ngả sang bên phải rồi mỗi lúc một kéo dài ra, dài ra hơn cho đến lúc có vẻ như chúng kéo dài ra đến tận chân trời phía đông. Đủng đỉnh và chậm rãi, mặt trời chuyển dần sang chân trời phía tây. Bây giờ khi mặt trời đã xuống thấp hẳn, may mắn làm sao cái ánh chói chang không biết thương xót là gì từ dưới cát bốc lên cũng biến mất, dù hơi nóng dưới chân vẫn hầm hập phả lên như trước. Bốn cặp mắt háo hức nhìn quanh tìm dấu hiệu của cái thung lũng mà con quạ Sallowpad đã nói. Nhưng hết dặm này đến dặm khác vẫn lại chỉ là mặt cát vàng bằng lặng. Ánh ngày đã tắt hẳn, hầu hết các vì sao đều dừng bước, hai đứa trẻ dập dềnh trên yên ngựa khổ sở vì cái khát và mệt mỏi. Không đợi đến lúc mặt trăng xuất hiện, Shasta – bằng giọng nói như quát với âm thanh khào khào của một người mà mồm miệng đã khô không khốc – kêu lên:

- Nó kia kìa!

Bây giờ thì không còn nhầm lẫn nữa. Ngay trước mặt hơi chếch về phía tay phải một chút là một hẻm núi dốc thẳng xuống, hai bên hẻm núi, mọc lên những gò đá. Hai con ngựa quá mệt để mở miệng nói nhưng chúng tiến lên trước và trong vòng một hoặc hai phút chúng đã đi vào trong hẻm núi. Thoạt tiên ở đây còn khó chịu hơn là ở ngoài sa mạc mênh mông, bởi vì hai bên vách núi tiến sát vào nhau hẹp đến mức thiếu không khí và ánh trăng khó lọt xuống được đến đây. Cái dốc tiếp tục đổ xuống rất gấp trong khi các tảng đá ở hai bên thì vươn cao, cao mãi lên. Đi được một đoạn họ bắt gặp một vài loài cây – cây xương rồng gai góc và những loại cỏ thô ráp có thể đâm thủng cổ tay bạn. Chẳng bao lâu sau vó ngựa đã đạp rào rạo lên đá, sỏi thay vì cát. Cả bọn háo hức căng mắt ra ở mỗi khúc quẹo – mà ở đây thì có rất nhiều khúc quẹo – để tìm chỗ có nước. Hai con ngựa gần như đã kiệt sức, con Hwin luôn bị vấp, thở như kéo bễ và kéo lê cái xác theo sau Bree. Cả bọn gần như đã tuyệt vọng thì chợt thấy một vũng bùn và một dòng nước mảnh như một sợi dây chảy qua lớp cỏ xanh và mềm. Dòng nước tí tách chảy thành một dòng suối nhỏ rồi con suối lại phình to ra thành một dòng suối thực sự tuôn chảy giữa đôi bờ; được một đoạn dòng suối trở thành sông và rồi (sau những thất vọng sâu sắc hơn tôi có thể miêu tả được) cũng đến lúc Shasta – vẫn đang trong trạng thái bàng hoàng mê mẩn – chợt nhận ra Bree đã dừng lại còn nó thì trượt xuống từ lúc nào. Trước mặt đoàn lữ hành là một dòng thác nhỏ đang đổ xuống một hồ nước rộng. Cả hai con ngựa đều lao xuống hồ, cúi đầu xuống uống nước, uống mãi, uống mãi.

- Ôi… ôi! – Shasta kêu lên, lội xuống nước, nước chỉ đến đầu gối và nó vục đầu vào dòng nước đang chảy. Đó có lẽ là khoảnh khắc đáng quý nhất đời nó.

Vào khoảng mười phút sau cả người lẫn ngựa (hai đứa trẻ đã ướt gần hết cả người) lóp ngóp lội ra khỏi dòng nước và đưa mắt nhìn quanh. Trăng đã lên cao đủ để rọi ánh sáng xuống vực. Hai bên bờ sông cỏ rất mềm, bên ngoài bãi cỏ là những thân cây cao và cây bụi mọc cao dần lên trên bờ đá. Chắc phải có một loài cây bụi nào đó giấu mình e ấp sau một tảng đá, đang hé mở những cánh hoa thẹn thò của nó vì trong không gian đầy bóng râm này bỗng tràn ngập một mùi hương tuyệt diệu và sảng khoái. Và vọng ra từ những chỗ tối nhất trong lùm cây là một âm thanh mà Shasta chưa từng nghe thấy bao giờ - tiếng hót của một con chim họa mi.

Mọi người đều đã quá mệt để nói chuyện hoặc ăn uống. Những con ngựa không đợi để được tháo yên cương vội nằm kềnh xuống đất. Cả Aravis và Shasta cũng bắt chước làm theo.

Vào khoảng mười phút sau, Hwin thận trọng nói:

- Chúng ta không được ngủ đâu. Phải nghe ngóng xem Rabadash có động tĩnh gì không.

Không được ngủ, - Bree nói, - chỉ ngả lưng một chút thôi.

Shasta biết rõ (trong một phút) rằng cả bọn rồi sẽ thiếp đi nếu nó không đứng dậy và làm một cái gì đó, nó cảm thấy chính nó phải làm làm việc đó. Thật ra nó đã quyết định sẽ đứng lên thuyết phục mọi người làm theo. Nhưng hãy hượm một chút, chỉ một chút thôi, một chút thôi…

Chẳng bao lâu sau, mặt trăng đã lên cao hơn, sáng tỏ. Con chim họa mi hót véo von ở khoảng trời trên đầu hai con ngựa và hai đứa trẻ, tất cả lịm đi trong một giấc ngủ mỏi mệt.

Aravis là người thức dậy đầu tiên. Mặt trời đã lên cao, mấy giờ dịu mát đầu buổi sáng đã trôi qua một cách lãng phí. “Lỗi của mày. – Aravis giận dữ tự mắng mình trong khi nó ngồi bật dậy và bắt đầu đánh thức những người khác. – Không ai lại đi mong đợi lũ ngựa thức dậy sau một ngày đi đường kinh khủng như thế, kể cả khi chúng biết nói. Tất nhiên cũng không thể hi vọng gì được ở Shasta. Nó có được dạy dỗ rèn luyện gì đâu. Mày mới là người phải có bổn phận.”

Bọn còn lại vẫn đang ngái ngủ ngơ ngác sau một giấc ngủ nặng như chì.

- Heigh – hoo – broo – hoo. – Bree nói. – Ngủ với nguyên bộ yên cương  như thế này ư? Tôi sẽ không làm như thế này bao giờ nữa. Thật chẳng ra thể thống gì…

- Thôi nào, nhanh nhanh lên! – Aravis nói. – Chúng ta đã mất toi gần một nửa buổi sáng rồi đấy. Không được phép lãng phí một phút nào nữa.

- Này này, một gã trai tráng như tôi phải có đầy một bụng cỏ chứ. – Bree nói.

- Tôi e là chúng ta không chần chừ được nữa. – Aravis nói.

- Chỉ trong chớp nhoáng thôi thì sao? – Bree hỏi. Chúng ta chẳng đã vượt qua sa mạc là gì?

- Nhưng chúng ta còn chưa đặt chân đến Archenland. – Aravis nói, - và chúng ta phải đi đến đấy trước Rabadash.

- Ôi tưởng gì, chúng ta đã bỏ xa hắn hàng dặm đường cơ mà, - Bree cười ầm lên, - chẳng phải chúng ta đã đi con đường ngắn hơn hay sao? Không phải anh bạn quạ của cậu đã nói đây là lối đi tắt hay sao Shasta?

- Nó không nói đây là lối đi ngắn hơn, - Shasta đáp, - mà chỉ nói đây là con đường đi tốt hơn, vì có nước. Nếu ốc đảo này đúng là ở phía bắc Tashbaan thì tôi e con đường này lại xa hơn.

- Nhưng tôi không thể tiếp tục mà không có gì bỏ bụng. – Bree nói. – Shasta, tháo yên cương ra cho tôi.

- Làm ơn, - Hwin nói, vẻ thẹn thò, - tôi… tôi cũng có cảm giác giống như Bree, tôi… tôi không thể gắng gượng hơn được nữa. Nhưng khi lũ ngựa chúng ta mang con người (cùng với đinh thúc ngựa và roi) trên lưng chẳng phải là chúng ta bị bắt buộc phải đi tiếp khi mệt nhoài, khi mình không muốn hay sao? Và như vậy chúng ta cảm thấy dường như chúng ta vẫn có thể tiếp tục. Tôi… tôi muốn nói... không biết chúng ta có nên cố gắng vượt qua khi… bây giờ đã là những kẻ tự do không. Tất cả cho Narnia mà!

- Tôi nghĩ, thưa quý cô, - Bree nói có vẻ ưu tư lắm, - rằng tôi cũng có biết một chút về các chiến dịch, những cuộc hành quân gấp rút và cái ngưỡng mà một con ngựa có thể chịu đựng hơn một chút.

Nghe bạn nói thế Hwin không đáp vì thực chất nó là một con ngựa cái thuần tính nhất, như một người bản tính dịu dàng dễ xúc động, nó cũng mau chóng lấy lại bình tĩnh. Thực ra nó đã đúng và nếu như Bree mang một Tarkaan trên lưng nó cũng sẽ thấy rằng nó đủ sức cho một chuyến đi kéo dài vài giờ cực nhọc nữa. Nhưng một trong những hậu quả tồi tệ nhất của việc trở thành một kẻ nô lệ và bị ép buộc phải làm việc ngoài ý muốn của mình là khi không có ai ép buộc bạn nữa bạn cũng cảm thấy mình mất đi cái năng lực ép buộc chính bản thân mình.

Thế là cả bọn chờ đợi trong lúc Bree ăn cỏ và uống nước, tất nhiên Hwin và bọn trẻ cũng ăn và uống nữa. Gần đến 11 giờ trưa thì chúng mới sẵn sàng đi tiếp. Thậm chí đến lúc ấy, Bree cũng đi đứng uể oải hơn ngày hôm trước. Chính là Hwin dù mệt mỏi và đuối sức hơn trong hai con ngựa đã vượt lên trước.

Thung lũng cùng với con sông êm ả dầy phù sa, thảm cỏ, rêu, hoa dại và những bụi đỗ quyên là một nơi tuyệt vời đến nỗi bạn chỉ muốn đi chậm lại.

Sau khi họ đi xuống dốc được vài giờ, thung lũng trải rộng ra trước mắt và họ có thể thấy rõ cái gì nằm ở phía trước. Con sông mà họ đang đi theo chảy đến đây thì nhập với một con sông lớn hơn, dòng nước rộng và chảy xiết theo hướng từ trái sang phải. Bên kia con sông rộng này là một vùng đất tươi đẹp trải ra êm đềm trên những ngọn đồi thấp, hết dãy đồi này đến dãy đồi khác cho đến tận những dãy núi phía bắc. Bên tay phải đoàn lữ khách là những dãy núi cao chót vót, trên trán một hai ngọn núi cao hơn, tuyết phủ trắng xóa. Bên trái họ là những dải đồi phủ kín thông, những vách đá đen thẫm, những cái đèo hẹp và những đỉnh núi xanh xanh trải dài ngút tầm mắt. Shasta không còn nhận ra đâu là Mount Pire nữa. Thẳng trước mắt nó là dãy núi khuất sau một rặng núi phủ đầy cây cổ thụ um tùm, rậm rạp, tất nhiên đó là cái đèo ngăn cách Archenland với Narnia.

- Broo – hoo – hoo, phương Bắc, phương Bắc xanh tươi! Bree hí vang. Tất nhiên những quả đồi thấp kia có vẻ xanh tươi hơn, đẹp đẽ hơn bất cứ cái gì mà Aravis và Shasta, với con mắt của người phương nam, có thể hình dung ra. Tinh thần chúng phấn chấn hẳn lên khi đi xuống vùng châu thổ nơi hai con sông gặp nhau.

Con sông đổ về hướng đông bắt nguồn từ những dãy núi cao hơn ở vùng phía tây, nước chảy xiết, tung bọt trắng xóa và chẳng ai dám nghĩ đến chuyện bơi qua. Nhưng sau khi đi đi lại lại xem xét rồi đi dọc bờ sông vài lần, họ đã tìm ra một chỗ nước đủ nông để có thể lội qua. Tiếng dòng nước chảy, những vòng nước xoáy ở khuỷu chân ngựa, không khí mát lạnh đầy kích thích và những con chuồn chuồn chấp chới bay qua bay lại làm tràn ngập trong tâm hồn cậu bé phương Nam một sự phấn khích mới mẻ, kỳ lạ.

- Các bạn ơi, chúng ta đã ở Archenland rồi. – Bree nói với giọng tự hào khi nó khua bốn vó lên làm nước bắn tung tóe khi sang bên bờ bắc. – Tôi nghĩ con sông mà chúng ta vẫn lội qua có tên là Mũi Tên Bay.

- Tôi hy vọng chúng ta đến đúng lúc. – Hwin thì thầm. Sau đó cả bọn bắt đầu đi lên dốc, chậm rãi, theo một con đường ngoắt ngoéo và họ phải vượt qua những quả đồi rất dốc. Một vùng đất tươi đẹp như một công viên khổng lồ không có đường sá, nhà cửa. Cây cối mọc rải rác khắp nơi, không đủ dày và rậm rạp để tạo thành rừng. Shasta sống cả đời ở một nơi trơ trụi hầu như không có bóng cây cao, chưa bao giờ trông thấy quá nhiều cây và quá nhiều loại cây như thế. Nếu bạn có mặt ở đây thì bạn sẽ nhận ra (mà Shata thì không) là nó đang ngắm nhìn những cây sồi, cây bu lô, thanh lương trà và dẻ rừng… Những chú thỏ phóng ra từ tất cả các hướng khi họ đi qua và họ vừa nhác thấy một bầy hươu lướt đi giữa những lùm cây.

- Thế này không phải là một cảnh tượng kì diệu ư? – Aravis thốt lên.

Lên đến đỉnh đồi đầu tiên, Shasta ngoái đầu lại nhìn. Không còn thấy Tashbaan đâu nữa, sa mạc không có gì thay đổi trừ một vệt đường nhỏ hẹp, xanh tươi mà họ vừa đi qua chạy dài đến tận chân trời.

- Ôi trời! – Nó bất thần thốt lên. – Cái gì thế kia?

- Cái gì? – Bree hỏi, quay đầu lại. Cả Hwin và Aravis đều làm theo.

- Kia kìa. – Shasta nói, chỉ tay về một hướng. – Trông như có khói. Có phải là một đám cháy không?

- Bão cát đây, tôi dám nói như thế. – Bree đáp.

- Không có gió làm sao có bão được? – Aravis thắc mắc.

- Ôi trời! – Hwin kêu lên. – Nhìn kìa, có cái gì lấp lánh trong đó. Lại có mũ trụ và áo giáp nữa. Có cái gì đang di chuyển, di chuyển theo lối này.

- Lạy thánh Tash! – Aravis nói. – Quân đội đấy. Đó là Rabadash.

- Tất nhiên rồi. – Hwin nói. – Đó là cái làm tôi lo sợ nhất. Nhanh, nhanh lên! Chúng ta cần phải đến Anvard trước họ. – Rồi không nói thêm một câu, nó lồng lên phi nước đại về phương bắc. Bree cũng hất đầu lên, tế như bay theo bạn.

- Nhanh lên, Bree, nhanh lên! – Aravis ngoái lại la lớn.

Đó là cuộc đua vắt kiệt sức lũ ngựa. Khi chúng đã vượt lên một đỉnh đồi, chúng lại tìm thấy một thung lũng khác và môt đỉnh đồi khác vươn lên từ cái thung lũng ấy. Và mặc dù cả bọn đều biết họ đi đúng hướng thì không ai biết rõ họ còn cách Anvard bao xa. Từ trên đỉnh đồi thứ hai. Shasta ngoảnh đầu nhìn lại. Thay vì một đám mây bốc lên từ sa mạc, bây giờ nó nhìn thấy một đám gì đen đen, di động, giống như một đám kiến ở phía bờ bên kia con sông Mũi Tên Bay. Không còn gì phải nghi ngờ nữa, quân địch đang tìm một chỗ nước cạn để lội qua.

- Họ đã đến bên sông rồi! – Nó hét lên một cách man dại.

- Nhanh lên! Nhanh lên! – Aravis la lớn. – Chúng ta sẽ chẳng làm nên cơm cháo gì nếu không đến được Anvard đúng lúc. Phi nước đại đi Bree, hãy phi hết tốc lực. Nhớ rằng anh là một con chiến mã.

Đó là tất cả những điều mà Shasta đã cố ngăn mình không la lên để chỉ đạo, bởi vì nó nghĩ: “Con ngựa tội nghiệp đã làm tất cả những điều nó có thể làm rồi”, vì thế mà nó kịp kiềm lại không nói nữa. Chắc chắn đó là điều hai con ngựa đã làm, nếu không phải là tất cả những điều có thể thì cũng là những điều chúng nghĩ mình có thể làm. Bree đuổi kịp Hwin và cả hai sóng đôi phóng qua một vạt cỏ. Có vẻ như Hwin không thể giữ được tốc độ như thế này lâu hơn nữa.

Nhưng ngay sau đó, cảm xúc của mọi người đã hoàn toàn thay đổi chỉ vì một tiếng động phía sau lưng. Đó không phải là âm thanh mà họ nghĩ là sẽ vang lên vào lúc này như tiếng vó ngựa, tiếng gươm giáo khua lách cách và trộn lẫn vào những âm thanh này có thể là tiếng kêu xung trận của người Calormen. Nhưng Shasta biết ngay đó là cái gì. Chính là tiếng gầm dữ tợn mà nó nghe thấy vào đêm trang nọ trong lần đầu tiên nó gặp Aravis và Hwin. Bree cũng biết rõ. Đôi mắt nó đỏ sọc, đôi tai dán sát vào hộp sọ. Cho đến lúc này, Bree mới biết là nó còn chưa chạy nhanh – thật sự nhanh – hết khả năng cho phép. Shasta có thể cảm nhận được ngay lập tức sự thay đổi đó. Chỉ trong vài giây, Bree và Shasta đã bứt lên trước Hwin.

“Như thế thật không công bằng, - Shasta thầm nghĩ, - mình tưởng một khi đã ở đây thì tránh xa được lữ sư tử chứ!”

Nó ngoái đầu nhìn lại. Sau lưng nó, một con vật to lớn, lông màu hung, thân hình kéo dài áp sát đất như một con mèo vút qua bãi cỏ để đến một cái cây khi có một con chó lạ chạy vào vườn. Cứ mỗi giây trôi qua, khoảng cách giữa nó và con thú một rút ngắn hơn.

Nó lại nhìn về phía trước và trông thấy một vật mà nó không biết là gì thậm chí cũng không hề nghĩ đến. Con đường của chúng bị chặn lại bởi một bức tường xanh um toàn cành lá cao khoảng hơn ba thước. Trên bức giậu xanh tốt đó trổ ra một cái cổng và cánh cổng đang mở ra. Chính giữa cổng có một người đàn ông cao lớn mặc áo choàng dài chấm xuống đôi chân đất, áo ông mặc có màu giống như lá rừng mùa thu. Người đàn ông tì vào một cây gậy thẳng đứng. Bộ râu bạc trắng buông dài đến đầu gối.

Shasta ghi nhận tất cả chỉ với một cái liếc mắt, đoạn ngoái ra phía sau lần nữa. Bây giờ thì sư tử sắp bắt kịp Hwin đến nơi rồi. Nó sắp sửa há miệng tợp một cái vào chân sau con ngựa cái. Không còn một tia hy vọng trên cái mặt dài với đôi mắt mở rộng, sùi bọt trắng xóa của Hwin nữa.

- Dừng lại! – Shasta quát vào tai Bree. – Chúng ta phải quay lại. Phải giúp họ.

Sau này bao giờ Bree cũng giải thích là nó không nghe thấy thậm chí không hiểu điều này. Và bởi vì nhìn chung nó là con ngựa trung thực, ta phải chấp nhận lời giải thích của nó thôi.

Shasta rút chân khỏi bàn đạp, vắt cả hai chân sang bên trái, do dự trong một phần trăm giây khiếp đảm đó rồi nhảy xuống đất. Đó là một cú đáp đất đau kinh khủng và làm cho mình mẩy nó một phen nhừ tử nhưng trước khi hiểu thế nào là đau đớn, nó đã bật dậy chạy lại giúp Aravis. Shasta chưa làm một chuyện như thế này bao giờ và khó mà hiểu được tại sao mình lại làm điều ấy vào lúc này.

Một trong những tiếng hí kinh khủng nhất của loài vật bật ra khỏi miệng Hwin. Aravis cúi rạp người ngay trên cổ con ngựa và có vẻ như đang cố rút thanh gươm ra. Lúc này cả ba – Aravis, Hwin và sư tử gần như ở ngay phía trên Shata. Trước khi cả ba đổ ụp lên người thằng bé, sư tử chồm thân hình to lớn lên đứng trên hai chân sau, nó to hơn cả một con sư tử trong hình dung của bạn rồi thình lình chộp xuống Aravis bằng cái vuốt bên phải. Shasta có thể nhìn thấy tất cả những móng vuốt của nó đều giương ra. Aravis hét lên một tiếng, người lảo đảo trên yên ngựa. Sư tử đã chộp xuống vai cô bé. Shasta nửa điên nửa tỉnh vì kinh hoàng, hấp tấp quăng người về phía con ác thú. Nó không hề có vũ khí, cả đến một cái gậy hoặc một cục đá cũng không. Nó hét vào mặt sư tử - thật ngu ngốc – đúng như cái cách người ta quát một con chó: “Quay về nhà! Quay về nhà!”

Trong vòng một phần tư giây, nó nhìn thẳng vào cái miệng đang ngoác ra dữ tợn của sư tử. Rồi trước sự kinh ngạc đến bàng hoàng của nó, sư tử vẫn đang đứng trên hai chân sau, bất thần khựng lại, cúi đầu xuống, hạ hai chân trước xuống và bỏ đi.

Mất một lúc Shasta còn chưa dám tin vào mắt mình rằng, dã thú đã đi khỏi. Nó quay đầu chạy bán sống bán chết về cái cổng trổ trên bức tường cây xanh mà lần đầu tiên nó nhớ là đã nhìn thấy Hwin loạng choạng gần như sắp sụm xuống cũng vừa chạy vào cổng. Aravis ngồi trên yên ngựa nhưng lưng nó đẫm máu.

- Vào trong đi, vào bên trong đi con gái! – Ông già có bộ râu dài trong chiếc áo chùng nói, sau đó ông quay sang bảo Shasta: - “Vào nhà đi con trai!” khi nó thở hồng hộc chạy đến. Nó nghe tiếng cánh cửa đóng lại phía sau lưng, người đàn ông lạ mặt, râu dài giúp Aravis xuống ngựa. Họ đang ở bên trong một khoảng đất rộng tròn vành vạnh được bảo vệ bởi một bức giậu kín, xanh ngắt, cao cao. Một cái hồ phẳng lặng như một tấm gương, đầy ắp nước, trông như thể mặt hồ cũng ngang bằng với mặt đất nằm ngay trước mặt Shasta và bờ hồ phía bên kia hoàn toàn bị che khuất dưới đám cành lá um tùm của một cái cây lớn nhất và đẹp nhất mà Shasta từng thấy. Sau hồ nước là một nếp nhà nhỏ thấp tè bằng đá vôi với cái mái tranh dốc nghiêng cổ lỗ. Nghe vang lên từ đầu bên kia khoảnh đất tiếng be be của một vài con dê. Mặt đất bằng phẳng trải đầy một thứ cỏ mềm mại, xanh non, tuyệt đẹp.

- Ông… ông… có phải ông là, - Shasta vừa nói vừa thở hồng hộc, - là vua Lune xứ Archenland phải không ạ?

Ông già lắc đầu:

- Không. – Ông đáp bằng một giọng từ tốn. – Ta là ẩn sĩ phương nam. Bây giờ, con trai ạ, đừng phí thời gian hỏi này hỏi nọ nữa mà hãy vâng lời ta. Cô bé này đã bị thương, ngựa thì kiệt sức. Rabadash đã tìm ra khúc sông cạn để vượt qua con sông Mũi Tên Bay. Nếu con chạy đi ngay lúc này mà không bỏ phí một giây nào, con vẫn đến kịp để báo tin cho vua Lune.

Tim Shasta như muốn ngừng đập trong lồng ngực khi nó nghe thấy những lời này và cảm thấy nó không còn lại một chút sức lực nào nữa. Lòng nó đau quặn lại trước yêu cầu xem ra rất tàn nhẫn và không công bằng chút nào đối với nó. Shasta còn chưa biết rằng nếu bạn lập được một kì tích nào đó thì phần thưởng mà bạn có được chỉ là việc bạn buộc phải làm một cái gì khác còn khó khăn hơn, cao cả hơn. Nhưng tất cả những điều nó nói ra chỉ là:

- Vậy, đức vua đâu?

Ẩn sĩ quay lại dùng cây gậy chỉ trỏ.

- Coi đây. Kia là một cái cổng khác, đối diện với cái cổng con vừa bước vào. Hãy mở cổng mà thẳng tiến: bao giờ cũng đi thẳng dù là qua đất bằng hay đồi dốc, nơi có đường đi hay chốn không có dấu chân người, qua nơi khô rát hay chốn đầm lầy… bằng pháp thuật của mình ta biết là con sẽ tìm ra vua Lune bằng cách con cứ thẳng con đường trước mặt mà đi. Nhưng phải chạy, chạy, bao giờ cũng phải chạy.

Shasta gật đầu, chạy về phía cửa bắc và biến mất. Sau đó ẩn sĩ đưa Aravis, người mà nãy giờ ông vẫn đỡ bằng tay trái, vào nhà, nửa dẫn cô bé, nửa dìu cô bé đi theo. Một lát sau, ông bước ra khỏi lều.

- Bây giờ, hỡi những người anh em họ, - ông nói với hai con ngựa, - đến lượt các ngươi đó.

Không đợi câu trả lời mà thực tế bọn chúng cũng không hơi sức đâu để lên tiếng – ông  tháo bộ yên cương cho hai con ngựa. Đoạn, ông xoa bóp vỗ về chúng, khéo léo đến nỗi cả một tay giám mã trong cung vua cũng không thể làm tốt hơn.

- Người anh em, - ẩn sĩ nói, - hãy bỏ tất cả những chuyện này ra khỏi đầu và hãy tự chăm sóc mình cho tốt. Có nước mát và cỏ ngọt đấy. Các ngươi cũng sẽ có món cám nóng sốt sau khi ta vắt sữa những con dê vốn là anh em họ với ta.

- Thưa ngài, - cuối cùng hì Hwin cũng tìm thấy tiếng nói của nó, - Tarkheena sẽ sống chứ ạ? Sư tử không giết được cô ấy đúng không ạ?

- Ta biết những chuyện đang diễn ra là nhờ vào tài nghệ của mình, - ẩn sĩ nói với một nụ cười, nhưng lại biết rất ít về tương lai. Vì vậy mà ta không biết bất cứ một người đàn ông, hoặc đàn bà, hoặc thú rừng trong thế giới này có thể còn sống sót cho đến khi mặt trời lặn tối nay hay không. Nhưng cứ yên tâm đi. Thiếu nữ này có thể sẽ sống lâu như số phận của cô bé cho phép.

Khi Aravis tỉnh dậy, nó thấy mình đang nằm sấp trên một cái giường thấp đặc biệt êm ái trong một căn phòng mát mẻ, giản dị với nhưng bức tường đá sần sùi trống trơn.

Nó không hiểu tại sao mình lại nằm sấp nhưng khi nó cố trở mình thì một cảm giác đau đớn cháy bỏng xuyên suốt lưng nó. Aravis vụt nhớ lại và nhận ra mọi chuyện. Nó chỉ không hiểu được cái giường được làm bằng cái gì mà lại co giãn đàn hồi một cách êm ái làm vậy. Thực ra giường được làm bằng cây thạch nam là một loại cây mà nó chưa từng biết trên đời.

Cánh cửa mở ra, ẩn sĩ bước vào mang theo một cái tô lớn bằng gỗ. sau khi cẩn thận đặt cái tô xuống, ông già đến bên giường hỏi:

- Con thấy trong người thế nào, con gái?

- Lưng con đau rát, cha ạ, - Aravis nói, - ngoài ra thì ổn ạ.

Ông già quỳ xuống bên giường, áp bàn tay lên trán nó rồi bắt mạch.

- Không sốt. – Cuối cùng ông nói. – Rồi con sẽ khỏe thôi. Thật vậy, không có lý do gì mà con lại không khỏe lại vào ngày mai. Nhưng bây giờ thì uống cái này trước đã.

Ông cầm cái tô gỗ lên, kề vào môi cô bé, Aravis không khỏi nhăn mặt khi nếm cái chất đó, bởi vì sữa dê rất gây khi bạn không quen uống. Nhưng nó đang khát nên cố uống tiếp và cảm thấy trong người khỏe hơn khi uống cạn tô sữa.

- Bây giờ thì con gái, con có thể ngủ như con muốn. Vết thương của con đã được rửa sạch, băng bó và mặc dầu con vật ra đòn rất khéo, vết thương cũng không nghiêm trọng hơn nếu bị cắt bằng một ngọn roi da. Đây chắc là một con sư tử kì lạ, thay vì nhấc con ra khỏi yên và dùng hàm răng dữ tợn tấn công con, nó lại chỉ đập cái vuốt lên lưng con. Mười vết cào, đau đấy nhưng không sâu và không nguy hiểm.

- Vậy có thể nói con đã gặp may.

- Con gái ạ. Ta đã sống qua 109 mùa đông trên đời này và chưa bao giờ gặp bất cứ cái gì gọi là may mắn. Có một cái gì đó về nó mà ta không sao hiểu được; nhưng nếu có cái gì chúng ta cần biết thì con hãy chắc chắn là trước sau gì chúng ta cũng sẽ biết thôi.

- Chuyện gì xảy ra với Rabadash và 200 con ngựa của hắn ạ? – Aravis hỏi.

- Chúng sẽ không đi qua con đường này, ta nghĩ thế. - Ẩn sĩ nói. – Chắc chúng sẽ tìm ra một chỗ nước cạn về hướng đông so với chúng ta. Từ đấy chúng sẽ đi thẳng đến Anvard.

- Shasta tội nghiệp! – Aravis thở dài. – Không biết cậu ấy đi được bao xa rồi? Cậu ấy sẽ đúng lúc chứ ạ?

- Có nhiều khả năng, - ông già từ tốn nói, - nhiều khả năng!

Aravis lại nằm xuống, lần này thì nằm nghiêng về một bên và nói:

- Con đã ngủ được một lúc lâu phải không ạ? Hình như trời đang tối dần.

Ẩn sĩ nhìn ra ngoài qua cái cửa sổ duy nhất quay về phương bắc.

- Không phải bóng đen của đêm tối đâu. – Ông nói. – Đó là mây buông xuống từ đỉnh Bão Tố đó. Mưa gió bão bùng trong vùng này bao giờ cũng đến từ cái nơi ấy. sẽ có sương mù dày đặc vào tối nay.

Ngày hôm sau, ngoài cái lưng vẫn còn đau rát, Aravis cảm thấy khỏe đến nỗi sau bữa điểm tâm (với món cháo yến mạch và kem), ẩn sĩ nói nó có thể trở dậy. Tất nhiên nó lập tức đi ra ngoài nói chuyện với hai con ngựa. Thời tiết đã thay đổi và khoảng đất được rào lại có một màu xanh mơn mởn trông giống như một cái chén màu xanh vĩ đại, vào lúc này đang tràn ngập ánh nắng mặt trời. Đây chính là một nơi thanh bình, cô đơn và lặng lẽ. Hwin lập tức chạy lóc cóc đến gặp Aravis và hôn cô bé một cái hôn của ngựa.

- Nhưng Bree đâu? – Aravis hỏi khi cả hai đã hoàn thành thủ tục hỏi thăm sức khỏe và giấc ngủ của nhau.

- Ở đằng kia kìa. – Hwin nói, hất cái mũi của nó về phía trảng cỏ đằng xa. – Tôi ước gì tiểu thư có thể đến nói chuyện với hắn. Có một cái gì đó không ổn. Tôi chẳng moi được một lời của hắn.

Cả hai đi đến chỗ Bree đang nằm, mặt quay vào tường; mặc dầu nó nghe thấy tiếng hai người đi đến gần, nó vẫn một mực không quay đầu lại mà cũng không nói một lời.

- Chào buổi sáng, anh bạn Bree. – Aravis lên tiếng. – Sáng nay anh thấy trong người thế nào?

Bree lẩm bẩm một cái gì đó nhưng không ai hiểu ra được là nó nói cái gì.

- Ẩn sĩ nói là có thể Shasta sẽ đến chỗ vua Lune đúng lúc, - Aravis tiếp tục, - thế là có vẻ như tất cả những khó khăn của chúng ta đã qua. Cuối cùng ta sẽ đến được Narnia, Bree ạ.

- Tôi sẽ không bao giờ thấy Narnia. – Bree nói với giọng trầm trong cổ.

- Anh không khỏe ư? Bree thân yêu?

Cuối cùng nó cũng quay đầu lại, khuôn mặt buồn tủi mà chỉ có loài ngựa mới có.

- Tôi sẽ quay lại Calormen thôi. – Nó rầu rĩ nói.

- Cái gì? – Aravis hỏi. – Quay lại với thân phận nô lệ ư?

- Phải. Cuộc đời nô lệ chính là cái phù hợp với tôi. Tôi còn mặt mũi nào gặp lại những con ngựa tự do ở Narnia đây?... Tôi… tôi đã để một con ngựa cái, một cô bé và một cậu bé lại phía sau… phó mặc họ cho sư tử ăn thịt… chạy bán sống bán chết để cứu lấy cái tấm thân chết tiệt của mình!

- Tất cả đều chạy trong khả năng của mình để có thể… để thoát thân. – Hwin nói.

- Shasta thì không. – Bree quặc lại. – Ít nhất thì cậu ta cũng chạy đúng hướng: quay ngược trở lại và điều đó khiến tôi cảm thấy nhục nhã không sao chịu nổi. Tôi, một kẻ vẫn huênh hoang tự gọi mình là một chiến mã oai hùng từng khoác lác về hàng trăm trận đánh lớn nhỏ thế mà lại bị hạ bởi một thằng nhóc – chỉ là một đứa trẻ, một con ngựa non thuần túy, một kẻ chưa từng cầm một thanh gươm hay nhận được một sự nuôi dạy tử tế hoặc có một tấm gương sáng trong đời!

- Tôi biết, - Aravis nói, - bởi vì tôi cũng có cảm giác giống như anh. Shasta quả là rất anh hùng. Tôi cũng tồi tệ như anh thôi, Bree à. Tôi đã từng coi thường cậu ấy, khinh rẻ cậu ấy, ngay từ lúc chúng ta gặp nhau, thế mà bây giờ hóa ra cậu ấy lại là người ưu tú hơn tất cả. Nhưng tôi nghĩ sẽ tốt hơn nếu ta ở lại, chúng ta sẽ cảm thấy tồi tệ hơn nếu chúng ta quay lại Calormen.

- Với cô thì mọi chuyện đều ổn thỏa. Cô có làm gì để cảm thấy nhục nhã đâu, tôi thì đã mất tất cả.

- Con ngựa tốt bụng của ta, - ẩn sĩ nói, ông đến bên từ lúc nào mà không ai biết, vì đôi chân trần của ông đi trên một lớp cỏ mềm, ướt đẫm sương không gây nên một tiếng động nào, - con ngựa tốt đẹp của ta, ngươi không đánh mất cái gì hết ngoài cái tính tự phụ, cao ngạo. Đừng, đừng, người anh em. Đừng bỏ ngoài tai và lắc lắc cái bờm như vậy. Nếu như ngươi cũng khiêm tốn như một phút vừa rồi chắc ngươi đã học được cách nghe những điều hay lẽ phải. Ngươi không phải là con ngựa vĩ đại như ngươi từng nghĩ, từ lúc sống giữa những con ngựa không biết nói. Tất nhiên, ngươi dũng cảm và thông minh hơn chúng. Ngươi không thể khác được. Nhưng điều đó tuyệt đối không có nghĩa là ngươi là một cái gì đó thật đặc biệt. Chừng nào ngươi hiểu mình chẳng có gì đặc biệt thì ngươi sẽ là một con ngựa khá lắm và nói chung có thể hòa hợp được với mọi người. Bây giờ nếu ngươi và người anh em bốn chân kia đeo vòng ra cửa bếp, chúng ta sẽ thấy một nửa máng đựng cám nóng sốt.

Vượt ra khỏi cổng, Shasta thấy mình đang ở trên một triền dốc mọc đầy cỏ non và những bụi thạch nam lúp xúp chạy đến những hàng cây xanh xa xa. Nó chẳng có một ý nghĩ hay một kế hoạch nào: nó chỉ cắm đầu, cắm cổ mà chạy và như thế là đủ. Bắp chân nó run rẩy, một cơn đau kinh khủng bắt đầu ở một nửa thân người, mồ hôi thánh thót nhỏ xuống làm cay xè cả mắt rồi lại làm cho mắt sáng lên. Đôi chân nó cũng run lẩy bẩy và có hơn một lần nó suýt ngã khuỵu đầu gối vào một tảng đá.

Nơi đây, cây cối mọc dày hơn, rậm hơn và càng lúc càng có nhiều khoảng trống mọc đầy dương sỉ diều hâu. Hôm ấy là một ngày nắng nóng, buồn tẻ và lũ ruồi hình như đông gấp đôi bình thường. Ruồi vo ve bay quanh mặt Shasta, nhưng nó cũng chẳng xua đi nữa. Nó đã có nhiều việc để làm.

Chợt nó nghe thấy có tiếng tù và – không phải là cái âm thanh dồn dập, thúc bách như tiếng tù và ở Tashbaan mà là tiếng kèn hiệu triệu tươi vui. Chỉ một lúc sau đó đã bước vào một mảng rừng hoang và thấy mình ở giữa một đám người.

Ít nhất thì với nó đây cũng là một đám đông. Thực ra chỉ có khoảng 15 hoặc 20 người, tất cả đều là những quý ông trong những bộ đồ đi săn màu xanh lá cây trông rất lạ mắt, một số ngồi trên yên ngựa, một số cầm dây cương đứng cạnh ngựa của mình. Ở giữa đám người có một người đang giữ bàn đạp cho một người khác nhảy lên lưng ngựa. Và người đàn ông trèo lên lưng ngựa là một ông vua có đôi mắt long lanh, đôi má tròn đỏ ửng như trái táo và một vẻ vui nhộn nhất mà bạn có thể hình dung ra.

Vừa thoáng thấy Shasta, ông vua này đã quên luôn chuyện trèo lên mình ngựa. Ông dang rộng vòng tay, khuôn mặt sáng bừng lên, miệng thốt ra một câu với một giọng trầm, âm vang:

- Corin! – Con trai của ta! Đi bộ, ăn mặc rách rưới như thế này! Chuyện gì…

- Không ạ! - Shasta vừa hổn hển vừa lắc đầu quầy quậy. – Không phải là hoàng tử Corin ạ. Cháu… biết mình giống hoàng tử… cháu đã gặp hoàng tử ở Tashbaan. Hoàng tử gửi lời chào.

- Ông vua trong mắt nhìn Shasta với một vẻ bối rối cao độ.

- Ngài… ngài có phải là vua… vua Lune không ạ? -  Shasta vừa thở vừa nói. Rồi không đợi câu trả lời, - nó nói giọng ngắt quãng. - Xin đứa vua… chạy ngay về… Anvard… đóng cổng thành… kẻ thù kéo đến… Rabadash với hai trăm kỵ sĩ.

- Cháu có dám chắc điều đó không, cháu bé? - Một người trong bọn hỏi.

- Chính mắt cháu… cháu đã nhìn thấy họ… Đuổi theo họ từ Tashbaan đến đây.

- Chỉ bằng đôi chân kia ư? - Người đàn ông lúc nãy hỏi tiếp, đôi lông mày nhướn lên.

- Bằng ngựa… một ẩn sĩ… - Shasta đáp, chẳng ra ngô ra khoai gì cả.

- Không hỏi nữa Darrin. - Nhà vua phán. - Ta đã nhìn thấy sự thật trên mặt cậu bé. Chúng ta phóng ngựa đi thôi các ngài. Con ngựa phóng dự phòng kia hãy để cho cậu bé cưỡi. Cháu có thể phóng ngựa thật nhanh không cháu bé?

Để trả lời, Shasta đặt một chân lên bàn đạp của con ngựa mà người ta dẫn đến trước mặt nó và một giây sau nó đã ngồi chĩnh chện trên lưng ngựa. Nó đã làm điều này hàng trăm lần với con Bree, hàng trăm lần trong mấy tuần vừa rồi nên bây giờ phong thái của nó rất khác so với lần đầu nó lên ngựa, để cho Bree phải nhận xét là nó trèo lên một con ngựa mà như trèo lên một đống rơm.

Nó rất vui lòng khi nghe nhà quý tộc Darrin nói:

- Tâu bệ hạ, cậu bé này là một kỵ sĩ thực thụ. Thần cam đoan là có dòng máu quý tộc trong cậu bé này.

- Dòng máu của nó, đó là một điều… -Nhà vua tư lự nói. Ông lại quay sang nhìn Shasta chăm chú một lần nữa, có một vẻ gì kì lạ gần như là háo hức trong đôi mắt sáng, điềm tĩnh của ông. Vào lúc này cả nhóm đã chuyển sang phóng nước kiệu đều đều. Yên ngựa của Shasta rất êm ái nhưng nó rất lóng ngóng khi sử dụng dây cương bởi vì nó chưa bao giờ dùng đến cái món này khi ngồi trên lưng con Bree cao ngạo. Thỉnh thoảng nó lại liếc nhìn xem những người khác làm gì (cũng như việc một số người chúng ta vẫn làm ở những bữa tiệc khi không dám chắc dao và nĩa được dùng vào việc gì) và cố điều khiển những ngón tay của mình cho đúng cách. Nhưng nó không dám thử điều khiển con ngựa, nó tin là con ngựa phải đi theo cả đoàn. Con ngựa Shastan cưỡi chỉ là một con ngựa bình thường không thuộc giống ngựa biết nói nhưng nó cũng đủ thông minh để nhận ra là cậu bé ngồi trên lưng hoàn toàn không có kinh nghiệm gì: không có roi, không có đinh thúc ngựa và không thật sự làm chủ được tình thế. Đó là lý do chẳng bao lâu sau, Shasta thấy mình tụt lại sau cùng.

Dù sao thì thằng bé cũng cảm thấy mình cưỡi ngựa như thế là ổn. Không có ruồi vo ve chung quanh, chỉ có làn không khí ngát hương rừng ve vuốt trên mặt, nó cũng đã lấy lại được nhịp thở của mình. Nhiệm vụ của nó đã được hoàn thành. Lần đầu tiên kể từ khi đến Tashbaan (có vẻ như dài đằng đẵng) nó mới có được cảm giác thơ thới trong lòng.

Nó ngước nhìn lên xem những rặng núi cao cao đã tiến gần hơn chưa. Nhưng chỉ thấy thất vọng, nó chẳng nhìn thấy gì cả, chỉ có một màu xám mơ hồ, mông lung đổ cuộn về phía trước mặt. Nó chưa bao giờ ở một đất nước có địa hình đồi núi nên lấy làm ngạc nhiên.” Đó là một đám mây, - nó tự nhủ, - một đám mây đang sà thấp xuống. Mình thấy rồi. Cao cao trên những quả đồi kia đúng là bầu trời. Mình sẽ thấy bên trong một đám mây có cái gì. Vui thật! Mình phải thường xuyên ngạc nhiên đây.”

Ở bên tay trái nó và hơi chếch về phía sau một chút mặt trời đã sẵn sàng đi ngủ. Bây giờ họ đã đi đến một nơi giống như là một con đường rừng khó đi, đoàn người ngựa phía trước vẫn phóng nhanh, ngựa của Shasta tụt lại sau cùng, bị bỏ lại một đoạn khá xa. Một hoặc hai lần con đường có những khúc cua rất gấp (hai bên đường cánh rừng vẫn trải dài) và nó mất dấu những người trong đoàn khoảng một hoặc hai giây.

Chợt họ rơi vào một đám sương mù, hoặc chính là sương mù buông xuống trùm lên người họ. Thế giới có một màu xám đục. Shasta không có đủ kinh nghiệm để biết rơi vào trong một đám mây mù thì lạnh và ẩm ướt như thế nào, lại như bị bưng kín đôi mắt.

Màu xám đã trở thành màu đen với một tốc độ nhanh kinh khủng. Một ai đó trong tốp người dẫn đầu chốc chốc lại thổi tù và, mỗi một lần như vậy âm thanh của nó lại có vẻ vọng đến từ một nơi xa xôi hơn. Bây giờ Shasta không thể nhìn thấy bất cứ ai trong bọn nữa, nhưng tất nhiên nó lại có thể nhìn thấy họ ngay khi nó quẹo vào một con đường mới, ấy là nó nghĩ thế. Nhưng khi nó đã đánh một vòng cua rồi, nó vẫn không trông thấy họ. Thực ra nó chẳng nhìn thấy cái gì hết. Ngựa của nó bây giờ chuyển sang đi bước một.

- Nhanh lên ngựa ơi, nhanh lên! - Nó năn nỉ. Có tiếng tù và vọng đến nhưng nghe hết sức mơ hồ. Bree bao giờ cũng bảo nó rằng nó phải chĩa gót chân quay ra ngoài thế là Shasta hiểu rằng chẳng có con ngựa nào muốn người cưỡi ngựa thúc gót chân vào hông nó.

Có vẻ như đây là lúc Shasta nên làm ngược lại lời khuyên của Bree:

- Nghe đây mày, - nó nói, - nếu mày không bước lên trước, mày biết tao sẽ làm gì không?Tao sẽ thúc gót vào lườn mày đó. Tao sẽ làm thế thật đấy! - Tuy vậy con ngựa không để tâm đến lời đe dọa đó. Thế là Shasta sửa lại tư thế ngồi trên yên ngựa, khép hai đầu gối lại và nghiến răng nghiến lợi thúc thật mạnh gót chân vào hai bên lườn ngựa.

Kết quả duy nhất là con ngựa giả bộ phóng nước kiệu được dăm bảy bước rồi lại trở về với những  bước đi đủng đỉnh. Trời đã tối hẳn và xem ra họ đã thôi không thổi tù và nữa. Âm thanh duy nhất là tiếng vặn răng rắc của các cành cây.

“Thôi được, mình cho là dù có đi chậm như thế này thì đến một lúc nào đó mình cũng sẽ đến một chỗ nào đó chứ. - Shasta bụng bảo dạ. - Chỉ mong sao mình không rơi vào giữa đội quân của Rabadash thôi.”

Nó cứ đi tiếp như thế hồi lâu, bao giờ con ngựa cũng đủng đỉnh đi như trêu ngươi. Nó bắt đầu cảm thấy ghét con ngựa cùng với cảm giác cồn cào như có kiến bò bụng.

Bây giờ nó đó đến một nơi mà con đường chia ra là hai ngả. Nó đang băn khoăn tự hỏi con đường nào dẫn đến Anvard thì một tiếng động vang lên phía sau lưng làm nó giật mình. Đó là tiếng vó ngựa chạy nước kiệu.” Rabadash đấy, - nó nghĩ, hoàn toàn không thể đoán ra được là Rabadash sẽ chọn con đường nào. – Nhưng nếu mình chọn lối này, - Shasta suy tính, - hắn có thể chọn lối kia, còn nếu mình ở lại chỗ rẽ này hắn sẽ tóm được mình.”Nó bèn nhảy xuống ngựa, lôi con ngựa đi nhanh hết sức theo con đường bên tay phải.

Âm thanh của đoàn kỵ binh mỗi lúc một đến gần và chỉ vài phút sau Shasta nhận thấy đoàn người đã đi đến ngã rẽ. Nó nín thở, đợi xem họ đi theo con đường nào.

Chợt một giọng nói trầm trầm ra lệnh:

- Đứng lại!

Một vài giây sau vang lên tiếng bầy ngựa, tiếng thở phì phò, tiếng khua móng guốc, tiếng nhai rào rào, tiếng vỗ vỗ lên cổ ngựa. Rồi một giọng nói cất lên:

- Tất cả bọn bay hãy nghe đây. Bây giờ chúng ta chỉ còn cách lâu đài Anvard chỉ vài dặm. Hãy nhớ các mệnh lệnh. Một khi chúng ta đã đặt chân đến Narnia, có khả năng chúng ta sẽ đến đây vào lúc rạng sáng, thì các ngươi phải hạn chế việc chém giết trong khả năng có thể. Trong cuộc phiêu lưu này, các ngươi phải nhớ một giọt máu Narnia còn quý giá hơn một ga lông 1 máu trong người các ngươi. Trong cuộc phiêu lưu này, ta nhắc lại một lần nữa, các thánh thần sẽ đem đến cho chúng ta những giờ vui vẻ hơn và các ngươi không được để bất cứ cái gì còn sống sót ở giữa Cair Paravel và miền tây hoang dã. Nhưng bây giờ chúng ta còn chưa ở Narina. Ở Archenland lại là một chuyện khác. Trong cuộc tấn công vào thành trì của vua Lune không gì quan trọng bằng tốc độ. Hãy chứng tỏ hào khí của bọn bay. Nó cũng là nhuệ khí của ta trong vòng một giờ nữa. Nếu chiến thắng, tất cả sẽ là của bọn ngươi. Ta không cần một chiến lợi phẩm nào hết. Hãy thẳng tay chém giết bất cứ một thằng đàn ông nào trong thành, giết cả những đứa trẻ mới ra đời ngày hôm qua. Tất cả những thứ khác là của bọn bay, cứ việc chia chác như bọn ngươi muốn – đàn bà, vàng bạc, châu báu, vũ khí và rượu. Nếu ta thấy kẻ nào chùn bước khi chúng ta đến cổng thành, kẻ ấy sẽ bị thiêu sống. Nhân danh thần Tash không gì chống lại được và không bao giờ nhân nhượng – Tiến lên!

Khi đoàn kỵ binh phóng ngựa đi và tiếng vó ngựa nhỏ dần, Shasta mới thấy mình lại có thể thở ra được. Bọn chúng chọn con đường còn lại.

Shasta nghĩ bọn chúng phải mất một khoảng thời gian để đi qua chỗ nó bởi vì mặc dầu nó đã nói và nghĩ đến chuyện hai trăm con ngựa suốt cả ngày hôm ấy, nó thật sự không hiểu con số ấy có ý nghĩ gì. Cuối cùng những âm thanh của đoàn kỵ binh đã tắt hẳn và chỉ còn một mình nó đứng giữa tiếng kêu răng rắc của các cành cây.

Bây giờ thì nó đã biết đường đến Anvard nhưng tất nhiên nó sẽ không tự đến nộp mạng bởi vì điều đó chỉ có nghĩa là nó sẽ lọt vào giữa đội quân của Rabadash.” Nhưng mình biết làm cái gì bây giờ?” Shasta tự hỏi. Nó lại leo lên mình ngựa, tiếp tục con đường mà nó đã chọn với một hy vọng le lói là có thể tìm được một túp lều nào đó xin một bữa ăn và một chỗ tá túc. Tất nhiên nó cũng có ý nghĩ quay lại lều ẩn sĩ để gặp Bree, Hwin và Aravis nhưng nó không thể làm thế vì nó không biết đường quay về.

- Rốt cuộc, - Shasta nói, - con đường này cũng phải dẫn đến một nơi nào đó chứ?

Nhưng vấn đề phụ thuộc vào điều mà bạn muốn nói về cái “nơi nào ấy”. Con đường tiếp tục dẫn đến một nơi theo cái nghĩa là cây cối ở đây mọc rậm rạp hơn, tất cả tối om và ẩm thấp nên không khí mỗi lúc một lạnh hơn, ẩm hơn. Những làn gió buốt giá, lạ lùng một mực thổi sương mù bay qua chỗ nó dù gió không bao giờ thổi át sương mù đi. Nếu Shasta từng sống ở một vùng rừng núi nó hẳn nhận ra điều này có nghĩa là càng lúc nó càng lên cao hơn, rất có thể nó đã lên đến đỉnh đèo. Nhưng Shasta chẳng biết tí gì về núi đồi hết.

“Quả thật, mình có lẽ chính là thằng nhóc hẩm hiu nhất trên đời này. Mọi thứ đều đâu vào đấy với tất cả những người khác, chỉ trừ mình. Những ông hoàng bà chúa Narnia rời khỏi Tashbaan an lành, mình thì bị bỏ lại phía sau. Aravis, Bree và Hwin bây giờ đang yên ấm như bất cứ một ai khác trong nhà ẩn sĩ già; chỉ có mình là bị phái đi. Vua Lune và người của ông đã an toàn ở trong cung, đóng cổng thành lại thật lâu trước khi Rabadash kéo quân đến, riêng mình bị bỏ lại ở cái chốn khỉ ho cò gáy này.”

Mệt mỏi rã rời và chẳng còn lại chút hi vọng gì, thằng bé cảm thấy thương thân đến nỗi nước mắt chảy ròng ròng xuống má.

Đặt dấu chấm hết cho cảnh bi lụy này là một nỗi sợ hãi ập đến bất thần. Shasta phát hiện ra là có một ai đó đang đi phía sau nó. Bóng đêm dày đặc như bưng lấy mắt nó. Con vật (hay người đó) đi khẽ  khàng đến nỗi nó khó lòng mà nghe thấy tiếng bước chân. Chỉ nghe thấy tiếng hơi thở. Người bạn đồng hành vô hình của nó thở phì phà phì phò rất to và Shasta có cảm giác đó là một sinh vật rất lớn. Khi nó nhận ra tiếng thở ấy mỗi lúc một dồn dập hơn thì nó cũng phát hiện ra là mình không biết vật ấy đi cạnh nó đã bao lâu rồi. Thật là một cú sốc kinh hoàng.

Chợt một ý nghĩ lóe lên trong đầu nó, đó là điều nó đã nghe được từ lâu rằng có rất nhiều người khổng lồ ở các đất nước phương bắc. Nó cắn chặt môi trong nỗi hoảng loạn. Nhưng bây giờ nó lại có một chuyện để lo lắng và nó thôi không khóc thương thân nữa.

Con vật (trừ khi đó là một người) đi bên cạnh nó lặng lẽ đến nỗi Shasta bắt đầu hy vọng là nó chỉ tưởng tượng ra mà thôi. Nhưng đến lúc nó tưởng như đã chắc chắn về điều đó thì nó lại nghe vang lên tiếng thở dài sâu xa của bóng đêm ngay bên cạnh nó. Không thể là sản phẩm của trí tưởng tượng! Dù sao thì nó cũng cảm thấy một hơi thở nóng hổi của tiếng thở dài ấy phủ lên bàn tay trái lạnh cóng của nó.

Nếu con ngựa này có bất cứ một điểm gì tốt hoặc nếu nó biết cách làm một điều gì đó khiến con ngựa này trở nên hữu dụng, nó hẳn sẽ liều mạng hy sinh tất cả mọi thứ để bỏ chạy và thúc ngựa phi nước đại một cách man dại. Nhưng nó lại không biết cách điều khiển con ngựa theo ý mình. Thế là nó cứ tiếp tục để con ngựa đi thủng thỉnh như thế và người bạn đồng hành vô hình vô ảnh đi theo, thở phì phò bên cạnh nó. Cuối cùng nó không thể chịu đựng lâu hơn nữa.

- Ông là ai? - Nó  hỏi, tiếng nói không to hơn một tiếng thì thào.

- Một người đợi quá lâu để bạn cất lên tiếng nói. – Vật vô hình trả lời, giọng không lớn lắm nhưng âm vang và sâu lắng.

- Ông… ông không… không phải là người khổng lồ chứ?

- Có lẽ gọi ta là một người khổng lồ cũng được. Nhưng ta không giống như cái mà người ta gọi là khổng lồ đâu.

- Cháu chẳng nhìn thấy ông. - Shasta nói sau khi nhìn chằm chằm vào chỗ phát ra tiếng nói. Rồi nó nói (vì một ý nghĩ khủng khiếp chợt ùa vào đầu nó) gần như là hét lên: - Ông… không… không… phải là một cái gì đã chết chứ? Làm ơn… làm ơn… đi khỏi đây đi. Cháu đã làm gì hại đến ông nào? Ôi trời ơi, cháu chỉ là một đứa trẻ bất hạnh nhất trên đời này thôi.

Một lần nữa nó cảm thấy hơi thở ấm áp mà vật ấy phả lên tay và mặt nó.

- Coi đấy… đâu có phải là hơi thở của một con ma. Hãy nói cho ta biết nỗi buồn của cháu.

Đúng là hơi thở của người bạn đồng hành làm cho Shasta cảm thấy phần nào bình tâm hơn, thế là nó kể lại chuyện nó không biết một tí gì về cha mẹ ruột và nó được nuôi dạy một cách hà khắc trong túp lều của một người đánh cá như thế nào. Tiếp theo, nó kể về việc nó bỏ trốn, người và ngựa bị sư tử đuổi và phải bơi qua lạch nước để thoát thân ra sao, về mối nguy hiểm của cả bọn khi ở Tashbaan, về cái đêm hãi hung chỉ có một mình ở khu lăng mộ, về tiếng hú gầm đuổi theo nó ở sa mạc. Sau đó là câu chuyện về cái nóng và cái khát trong cuộc hành trình qua sa mạc và về việc chúng sắp đạt đến đích thì một con sư tử đuổi theo và làm Aravis bị thương như thế nào. Và còn nữa, đã lâu lắm rồi nó chưa có cái gì bỏ vào miệng.

- Ta không cho đó là những điều xui xẻo. - Cái giọng lạ lại vang lên, chân thực.

- Thế ông nghĩ một người gặp quá nhiều sư tử như vậy không phải là một người kém may mắn hay sao?

- Chỉ có duy nhất một con sư tử thôi.

- Ông nói như thế nghĩ là sao? Cháu chẳng vừa bảo ông là có hai con sư tử vào cái đêm đầu tiền là gì và…

- Chỉ có một mà thôi, nhưng nó di chuyển rất nhanh.

- Sao ông biết?

- Vì ta là con sư tử ấy. – Và trong lúc Shasta há hốc cả miệng ra không nói được tiếng nào thì giọng nói kia lại tiếp tục: - Ta là con sư tử đã buộc cháu gặp Aravis. Ta là con mèo lớn đã an ủi cháu trong ngôi nhà của những xác chết. Ta là con sư tử đã đuổi bầy chó rừng đi trong lúc cháu ngủ. Ta là con sư tử đã đem đến cho những con ngựa sức mạnh mới mẻ của nỗi sợ trong dặm đường cuối cùng để cháu có thể gặp vua Lune đúng lúc. Ta cùng là con sư tử mà cháu không thể nhớ được đã đẩy cái thuyền trên đó, cháu, một đứa trẻ còn thoi thóp thở vào bờ, nơi có một người đánh cá nghèo khổ thức dậy vào lúc nửa đêm ra bãi biển để đón nhận cháu.

- Vậy cũng chính là ông đã làm Aravis bị thương?

- Chính là ta.

- Nhưng tại sao?

- Con trai ạ. Ta nói với con chuyện về con chứ không phải về cô bé đó. Ta không nói với một người bất cứ cái gì khác ngoài những gì liên quan đến người ấy.

- Vậy ông là ai ạ?

- Là bản thân ta. – Sư tử đáp với giọng trầm ấm, âm vang đến nỗi mặt đất như rung lên.

- Là chính bản thân ta! – Lần này tiếng nói lớn hơn, rõ ràng hơn và vui tươi hơn. – Là bản thân ta thôi! – Lần thứ ba giọng nói vang lên như một tiếng thì thầm êm dịu mà bạn phải lắng tai mới nghe thấy. Tuy vậy nó như được phát ra từ bốn phía chung quanh Shasta như thể muôn lá cây cùng thủ thỉ cái lời ấy.

Shasta không còn sợ là cái giọng nói thuộc về một vật đó có thể ăn thịt nó hay là cái giọng nói của ma quỷ nữa. Nhưng một cái gì đó mới mẻ khác lạ làm nó run rẩy cả người. Tuy vậy nó cũng cảm thấy sung sướng nữa.

Làn sương mù chuyển từ đen sang xám nhạt rồi từ màu xám sang màu trắng sữa. Điều này có thể đã xảy ra trước đó nhưng trong lúc nói chuyện với cái vật ấy nó không nhận ra bất cứ một thứ gì khác. Bây giờ khi làn sương bàng bạc quanh nó trở thành một màu trắng sáng bừng lên, đôi mắt nó bất giác chớp lia lịa. Nó biết cái đêm dài đằng đẵng ấy cuối cùng cũng đã trôi qua. Nó đã có thể nhìn thấy bờm, tai và đầu con ngựa dễ dàng hơn.

Một luồng ánh sáng màu vàng hắt xuống nó từ bên tay trái. Nó nghĩ là mặt trời đã rơi xuống đấy. Nó quay mặt sang trái và thấy đang sải bước bên cạnh nó, cao hơn con ngựa nó đang cưỡi là một con sư tử. Con ngựa không tỏ vẻ gì sợ hãi hoặc giả nó không nhìn thấy gì. Chưa có ai thấy một con vật đáng sợ hơn và đẹp đẽ hơn.

Cũng may là Shasta sống quá lâu ở miền Nam Calormen nên không được nghe nhiều những câu chuyện thì thầm ở Tashbaan về một con quỷ dữ tợn Narnia xuất hiện trong lốt một con sư tử. Và tất nhiên nó biết không chuyện nào trong số ấy nói đúng về Aslan, sự tử vĩ đại – con trai của Thương Hải Đại Vương, vị chúa tể tối cao của các ông vua ở Narnia. Chỉ mới liếc nhìn khuôn mặt ấy, nó đã vội tụt  khỏi yên ngựa và ngã lăn xuống đất. Nó không thể nói được bất cứ câu nào và nó cũng không muốn nói bất cứ điều gì bởi nó biết nó không cần nói bất cứ cái gì hết.

Vị chúa tể tối cao của tất cả những ông vua cúi xuống người nó. Cái bờm vĩ đại. Một mùi thơm là lạ trang nghiêm phảng phất quanh bờm, ủ lên người nó. Sư tử cúi đầu chạm lên trán thằng bé bằng đầu lưỡi mềm mềm. Shasta ngẩng đầu lên, mắt họ gặp nhau. Bất thình lình ánh sáng nhạt màu của lớp sương mù và ánh hào quang rực rỡ của sư tử quyện vào nhau tạo thành một vầng sáng lan ra xa và quyện lại như những lớp sóng rồi tất cả biến mất. Shasta chỉ còn lại một mình bên con ngựa trên một triền đồi cỏ mọc xanh um, dưới một bầu trời xanh thẳm. Và đó đây tiếng chim lại rộn lên.

“Tất cả chỉ là một giấc mơ ư?” – Shasta tự hỏi. Nhưng đây không thể là một giấc mơ bởi vì trên lớp cỏ trước mặt nó còn in lại dấu những cái vuốt lớn của bàn chân trước bên phải sư tử. Dấu vuốt chân làm cho con người ta phải bạt vía khi nghĩ đến một khối lượng phải lớn như thế nào mới để lại được một dấu vết như thế. Nhưng có một thứ còn đáng chú ý hơn kích thước của một dấu chân. Khi Shasta nhìn xuống nó thấy nước bắt đầu phun lên từ đáy vết chân. Chẳng bao lâu nước đã dâng đầy rồi tuôn chảy thành một dòng suối nhỏ chảy qua đồi, qua Shasta, lai láng trên bãi cỏ.

Shasta cúi đầu, uống nước – một hơi thật dài rồi nhúng cả mặt xuống nước và vã nước lên đầu. Dòng nước trong như lọc, mát lạnh làm cho nó thấy khỏe lại. Sau đó nó đứng lên, lắc đầu cho nước chảy khỏi tai, vén mái tóc ướt lên khỏi trán và bắt đầu nhìn ngắm mọi vật xung quanh.

Rõ ràng là một ngày mới chỉ vừa mới bắt đầu. Mặt trời cũng chỉ vừa mới mọc lên và vừa nhô lên khỏi một cánh rừng thấp ở phía dưới xa xa bên tay phải nó. Cái vùng đất mà nó đang nhìn hoàn toàn mới mẻ đối với nó. Đó là một thung lũng rộng lớn, xanh biếc rải rác có những thân cổ thụ trên đó nó thấy cái ánh sáng lấp loáng của một dòng sông tìm đường chảy về phía tây bắc. Ở mạn xa của thung lũng, thấy một dãy núi đá cao cao, nhưng có vẻ như vẫn thấp hơn rặng núi mà nó đã nhìn thấy hôm qua. Nó bắt đầu đoán xem mình đang ở đâu. Nó quay đầu ra sau và thấy cái dốc nó đang đứng thuộc về dãy núi cao hơn.

- Mình cho rằng. – Shasta nói thành tiếng, - đây chính là dãy núi đồ sộ nằm giữa Archeland và Narnia. Mình đã ở sườn núi bên kia vào ngày hôm qua. Chắc là đêm hôm qua mình đã vượt qua đèo. Thật là may mắn khi mình đã làm được điều đó. Ít nhất thì cũng không phải là may mắn mà là vì ông ấy. Và bây giờ mình đang ở Narnia.

Nó quay lại tháo yên cương cho ngựa, sau đó tháo cả dây cương nữa.

- Dù sao mày cũng là một con ngựa thật quá quắt. – Nó nói.

Ngựa ta dửng dưng không thèm chú ý đến nhận xét này và cúi đầu gặm cỏ. Con ngựa này đánh giá Shasta rất thấp.

- Ước gì mình cũng có thể ăn cỏ! – Shasta nghĩ. – Không có gì tốt đẹp khi đi đến Anvard, nơi ấy đang bị vây hãm. Thôi thì cứ đi xuống thung lũng xem xem có bất cứ cái gì có thể ăn được không.

Thế là nó đi xuống đồi, những giọt sương nặng hạt làm đôi chân trần của nó buốt như kim châm. Được một lúc nó đi vào một rừng cây. Một lối đi nhỏ có thể xem như một con đường mòn chạy xuyên qua rừng, thằng bé đi theo con đường đó, chưa được vài phút một giọng nói nặng nặng khò khè nói với nó:

- Chào buổi sáng, người hàng xóm.

Shasta vui vẻ nhìn quanh tìm xem ai vừa chào, nó trông thấy một vật bé nhỏ tua tủa những gai nhọn trên mình, với khuôn mặt đen trũi chạy tọt ra khỏi một bụi cây. Ít nhất thì tầm vóc của kẻ này quá nhỏ bé so với một con người nhưng lại quá lớn đối với một con nhím bởi vì đó chính là một con nhím.

- Chào buổi sáng! – Shasta đáp. – Nhưng tôi không phải là người hàng xóm. Thực ra tôi là một kẻ xa lạ ở đây.

- À, ra thế! – Nhím nói với vẻ tò mò.

- Tôi đến từ bên kia dãy núi. Từ Archenland, bạn biết chứ?

- À, Archenland! Thật là một chặng đường dài khủng khiếp. Tớ chưa đến đấy bao giờ.

- Và tôi nghĩ mọi người ở đây nên biết là đội quân tàn bạo người Calormen đang tấn công Anvard vào thời điểm này.

- Cậu nói nhảm cái gì thế? – Nhím nói, giọng còn khò khè hơn. - Cứ nghĩ mà coi, người ta nói Calormen ở cách xa đây hàng trăm hàng ngàn dặm, ở tận cùng thế giới qua biển kia – một biển cát mênh mông.

- Cũng không xa như bạn nghĩ đâu. Chẳng phải cũng nên làm một cái gì đó ngăn chặn cuộc tấn công Anvard sao? Chẳng phải cũng nên thông báo cho vua của bạn biết?

- Chắc chắn rồi. Nhất định là phải làm một cái gì đó chứ. – Nhím nói. – Nhưng cậu thấy đấy, tờ đang trên đường tìm chỗ cho một giấc ngủ ngày ngon lành đây. Chào anh bạn láng giềng nhé.

Câu nói cuối cùng nhím nói với một con thỏ khổng lồ có bộ lông màu bánh bích quy vừa ló đầu ra khỏi một lùm cây vào một lúc nào đó. Nhím lập tức thông báo với thỏ thông điệp nó nhận được từ Shasta. Thỏ đồng ý ngay rằng đây là một thông tin rất quan trọng và người ta phải nói với một ai đó để cần làm ngay một cái gì đó.

Thế là thỏ vội phóng đi. Vài phút sau đã có nhiều con thú khác gia nhập bọn với chúng. Một số con nhảy xuống từ những cành cây trên đầu, một số chui ra từ những cái hang dưới đất cho đến khi hội đồng gồm có năm thỏ, một sóc, hai ác là, một thần rừng, một chuột và tất cả đều nhất trí quan điểm với nhím. Sự thật là vào thời đại Vàng khi mà phù thủy cùng mùa đông băng giá đã bị tiêu diệt và Peter Đại đế lên cai trị ở Cair Paravel, những cư dân bé nhỏ trong rừng ở Narnia có một cuộc sống thanh bình và hạnh phúc đến nỗi họ đâm ra lơ là cảnh giác.

Tuy vậy, hai nhân vật có suy nghĩ hết sức thực tiễn đã đi đến khu rừng nhỏ. Một là một người lùn Đỏ tên là Duffle. Người kia là một con hươu đực, một sinh vật có một vẻ đẹp cao quý với đôi mắt ướt long lanh mở to, hai bên sườn lốm đốm sao và bộ vó mảnh và duyên dáng đến độ trông như thể bạn có thể bẻ gẫy nó chỉ với hai ngón tay.

- Sư tử vẫn sống! – Người lùn hồ hởi hô lên ngay khi nghe xong tin tức. – Và nếu như thế tại sao chúng ta lại tụ tập ở đây để bàn chuyện? Kẻ thù đã đến Anvard. Tin tức phải được đưa đến ngay Cair Paravel. Quân đội phải được triệu tập, Narnia phải giúp đỡ vua Lune.

- À, - nhím cự lại, - nhưng anh không thể tìm thấy Peter Đại đế ở Cair. Ngài đã đi đến miền Bắc để tiễu trừ bọn khổng lồ. Mà hễ cứ nói đến bọn này – những người hàng xóm ạ - là y như rằng đầu óc tôi ….

- Ai sẽ mang đi tin tức nào? – Người lùn cắt ngang. – Có ai đi nhanh hơn tôi không?

- Tôi. - Hươu đực nói. – Thông điệp tôi phải mang đi là gì? Có bao nhiêu người Calormen?

- Hai trăm, dưới sự chỉ huy của Rabadash. Và… - Nhưng hươu đã đi mất rồi, cả bốn vó cùng chạm đất một lúc và chỉ trong nháy mắt cái mông trăng trắng của nó đã biến mất giữa những hàng cây xa xa.

- Không hiểu là anh ấy đi đâu. – Thỏ nói. – Anh ấy không tìm được vua Peter ở Cair đâu…

- Anh ấy sẽ tìm đến nữ hoàng Lucy. – Người lùn nói. - Và sau đó – trời ơi! Có chuyện gì không ổn với người này vậy? Trông nó xanh nhợt như tàu lá. Tại sao thế? Tôi nghĩ nó sắp xỉu đi. Có lẽ vì đói quá. Anh ăn bữa cuối vào lúc nào, anh bạn trẻ?

- Sáng ngày hôm qua. – Shata nói giọng yếu ớt.

- Đi thôi, nào, đi thôi. – Người lùn vừa nói vừa quàng cánh tay mập mạp quanh thắt lưng Shasta để đỡ nó. – Những người anh em, chậc chậc… tất cả chúng ta phải lấy làm xấu hổ chứ! Đi với tôi anh bạn. Ăn một bữa điểm tâm ra trò. Điều này có ích hơn là chỉ có nói, nói, nói.

Với rất nhiều những lời lầm bầm, bắng nhắng tự trách mình, người lùn nửa dìu Shasta nửa dắt nó đi với một tốc độ khá nhanh, họ vào sâu trong rừng rồi đi xuống phía bên kia một quả đồi nhỏ. Đó là một quãng đường dài hơn là Shasta muốn vào lúc này và đôi chân nó nhũn ra trước khi hai người bước ra khỏi rừng cây đến một quả đồi trọc. Ở đây, nó thấy một ngôi nhà nhỏ xinh xinh có một ống khói và cánh cửa sổ đang rộng mở. Khi họ đi gần đến cửa, Duffle kêu to:

- Này, những người anh em. Có khách tới dùng bữa sáng đây.

Gần như ngay lập tức, cùng với những tiếng xèo xèo trong chảo rán là một mùi thức ăn thơm lừng xộc vào mũi Shasta. Cái mùi vị ấy nó chưa từng ngửi thấy trong đời, nhưng tôi thì hy vọng là bạn đã trải qua cái kinh nghiệm ấy. Thực ra đó là mùi thịt hun khói, trứng, nấm rơm và tất cả đều dậy mùi trong chảo mỡ.

- Chú ý đến cái đầu, anh bạn ạ. – Duffle nói khi Shasta cụng trán vào khung cửa ra vào. – Bây giờ cậu hãy ngồi xuống. Cái bàn hơi thấp đối với cậu, cả cái ghế cũng thấp nữa. Nhưng thế cũng ổn rồi. Đây là món cháo yến mạch, còn đây là hũ kem, và đây là cái muỗng.

Vào lúc Shasta húp xong tô cháo thì hai người anh em của Duffle (tên là Rogin và Bricklethumb) cũng đặt món thịt hun khói, trứng và nấm rơm cùng một bình cafe nóng, một bình sữa và bánh mỳ nướng nóng hổi lên bàn.

Tất cả những món ăn này đều mới mẻ và ngon lành đối với Shasta bởi vì thức ăn của người Calormen rất khác. Thậm chí nó còn không biết những cái lát nâu nâu là cái gì vì từ thuở cha sinh mẹ đẻ đến giờ nó đã nhìn thấy bánh mỳ bao giờ đâu. Nó cũng không biết cái chất vàng vàng, mềm mềm phết lên bánh mì gọi là gì, bởi vì ở Calormen gần như bạn bao giờ cũng dùng mỡ heo thay cho bơ.

Ngôi nhà nhỏ nó đang ngồi cũng rất khác với cái lều đầy mùi cá tanh của Arsheesh và những căn phòng trải thảm, chỗ nào cũng có cột trong các lâu dài ở Tashbaan. Mái nhà ở đây rất thấp, tất cả đều được làm bằng gỗ, trên tường có một cái đồng hồ cúc cu, bàn trải khăn kẻ ô vuông đỏ và trắng, một chậu hoa trồng những bông hoa rừng, những tấm rèm nhỏ che những ô cửa sổ có chấn song gỗ dày. Thật bất tiện khi sử dụng ly, chén đĩa, dao ăn và nĩa của những người lùn. Tuy những món đồ này rất hữu dụng nhưng lại rất nhỏ, thế là ly hoặc đĩa của Shasta phải liên tục được làm cho đầy lên và mỗi lần như thế những người lùn lại nhao nhao nói với nhau: “ Làm ơn thêm bơ”, “Một ly café nữa nhé”, “Tôi muốn thêm một ít nấm rơm nữa”, hoặc “Thế còn món trứng chiên thì sao?” Sau cùng khi họ đã ních no căng cả bụng, những người lùn bắt thăm xem ai là người phải rửa bát đĩa và Rogin là cái người không may mắn đó. Duffle và Bricklenthumb đưa khách ra ngoài cùng ngồi trên một băng ghế dài dựa sát tường. Họ duỗi chân duỗi tay sưởi nắng, thở dài khoan khoái vì một bữa ăn ngon và vì một buổi sớm trong lành. Hai người lùn mồi lửa vào tẩu thuốc của họ. Sương đã rơi khỏi những cọng cỏ non, không khí mới ấm áp làm sao; thật ra nếu không có những ngọn gió mát lạnh phe phẩy, trời còn oi bức nữa là khác.

- Bây giờ người khách lạ ạ, - Duffle trịnh trọng nói, - tôi sẽ chỉ cho cậu xem địa hình của mảnh đất này. Từ đây, cậu có thể thấy gần như toàn bộ miền nam Narnia và chúng tôi thật sự tự hào về cảnh quan nơi này. Thẳng ngay bên tay trái cậu, sau những quả đồi trước mặt, cậu có thể thấy rặng núi tây. Quả đồi tròn phía tay phải cậu được gọi là Đồi Bàn Đá. Sau nữa…

Nhưng đúng lúc đó ông ta bị cắt ngang bởi tiếng ngáy khò khò của Shasta, sau chuyến đi kéo dài suốt đêm qua và sau bữa điểm tâm ngon lành nó đã lăn ra ngủ. Ngay khi nhận ra điều này những người lùn rất mực tử tế, ân cần đã ra hiệu cho nhau đừng làm rộn giấc ngủ của cậu bé, họ thì thào, gật gật đầu, đứng dậy nhón chân bỏ đi. Những việc làm của họ chắc chắn cũng đủ làm cậu bé thức dậy nếu nó ít mệt mỏi hơn một chút.

Nó ngủ một giấc say sưa gần như suốt một ngày để thức dậy đúng vào giờ ăn tối. Giường trong ngôi nhà này quá nhỏ so với nó, nhưng họ đã làm cho nó một cái giường khác bằng cách trải cây thạch nam lên sàn, và nó ngủ ngay một mạch không cựa quậy, không mơ mộng từ tối đến sáng. Hôm sau chủ và khách vừa ăn điểm tâm xong thì nghe thấy những âm thanh lanh lảnh náo nức từ bên ngoài vọng vào.

- Kèn trumpet! – Những người lùn reo lên và cùng với Shasta chạy ùa ra ngoài.

Tiếng kèn lại vang lên rộn rã, đây lại là một điều mới mẻ với Shasta. Không lớn và nghiêm trang như tiếng tù và ở Tashbaan, cũng không náo nức, tươi vui như tiếng tù và của vua Lune mà trong sáng, hùng tráng và dũng mãnh. Tiếng kèn vọng ra từ rừng cây phía đông, chẳng bao lâu đã nghe lẫn trong khúc quân hành cả tiếng vó ngựa. Vài phút sau hàng quân đi đầu hiện ra.

Dẫn đầu là ngài Peridan trên một con tuấn mã màu hồng, tay giương cao ngọn cờ lớn của Narnia hình một con sư tử màu đỏ trên nền xanh. Shasta nhận ra người này ngay. Tiếp sau là ba người chạy thành một hàng ngang, hai người cưỡi trên hai con ngựa chiến to lớn. Một người cưỡi trên con ngựa non. Ngồi trên mình hai con ngựa chiến là vua Edmund và một thiếu nữ tóc vàng, khuôn mặt tươi như đóa hoa xuân, đầu đội mũ trụ, mình mặc áo giáp, vai đeo cung tên và một bó tên lớn đeo cạnh sườn. (“Đó là nữ hoàng Lucy”. Duffle thì thầm). Cưỡi trên con ngựa non chính là Corin. Sau đó là đội quân chủ lực, những chiến binh trên những con ngựa thường, những chiến binh trên những con ngựa biết nói (bọn chúng không so đo đã để cho các chiến binh cưỡi lên trong những tình huống bắt buộc và khi ở Narnia nổ ra chiến tranh), những con nhân mã, những chú gấu chiến đấu dữ tợn; những chú chó to lớn biết nói và sau cùng là sáu người khổng lồ. Đó là những người khổng lồ tốt bụng ở Narnia. Nhưng dù vẫn biết là họ ở về phe mình, thoạt đầu Shasta vẫn cảm thấy họ rất khó coi; có những điều cần phải có thời gian mới làm quen được.

Khi nhà vua và nữ hoàng đi  đến cửa ngôi nhà của mấy chú lùn, họ bắt đầu cúi rạp thân hình thấp tị xuống chào, vua Edmund nói dõng dạc:

- Nào các bạn! Hãy dừng chân ta làm miếng gì lót dạ.

Không gian tức thì vang lên những tiếng ồn ào, người ta nhảy xuống ngựa, mở những gói lương ăn mang theo và vừa làm vừa xôn xao trò chuyện. Corin chạy ngay đến chỗ Shasta nắm lấy cả hai tay bạn, kêu lên:

- Cái gì thế này? Thế là anh đã ở đây, thế ra anh đã vượt qua được tất cả sao? Ồ tôi vui sướng lắm. Bây giờ chúng ta sẽ có một vài trò vận động. Thế không phải là một may mắn hay sao? Chúng tôi cũng chỉ vừa cập bến cảng ở Cair Paravel sáng hôm qua thôi và người đầu tiên mà chúng tôi gặp chính là hươu Chevy với cái tin về cuộc tấn công Anvard. Anh có nghĩ….

- Bạn hoàng tử đâu nào? – Vua Edmund hỏi ngay khi xuống ngựa.

- Bệ hạ có thấy không? – Corin hỏi. – Đây là bản sao của cháu, chính là cậu bé mà bệ hạ đã nhầm với cháu ở Tashbaan.

- Kì lạ thật, cậu bé này giống cháu như đúc. – Nữ hoàng Lucy kêu lên. – Hệt như hai giọt nước, thật là một điều kỳ lạ.

- Thưa đức vua, - Shasta nói với vua Edmund, - cháu không phải là một kẻ phản bội, thật thế. Cháu ở trong một tình thế buộc  phải nghe theo kế hoạch của các ngài. Tuy thế cháu không bao giờ nghĩ đến chuyện đem điều đó ra kể cho kẻ thù của các ngài.

- Ta biết cháu không phải là một kẻ phản bội, cậu bé ạ. – Vua Edmund nói, đặt một tay lên đầu Shasta. – Nhưng tại sao cháu không nói gì khi bị nhận nhầm là một người khác và lần sau nhớ đừng nghe những chuyện không dành cho mình nghe chưa? Dù sao thì tất cả cũng tốt rồi.

Sau đó, tất cả trở nên nhốn nháo; người đến, kể đi nườm nượp và chỉ vài phút sau Shasta đã không thể thấy Corin, Edmund và Lucy trong đám đông. Nhưng Corin là một loại trẻ con không dễ gì mà không để cho người khác biết tới nó và chẳng cần đợi lâu, Shasta đã nghe vua Edmund kêu lớn:

- Nhân danh Bờm Sư Tử, hoàng tử Corin, thế này là quá đủ rồi đấy. Hoàng tử không bao giờ khá hơn được hay sao? Một mình cậu làm cho tim người ta lo lắng hơn là toàn bộ quân đội của ta. Ta thà có một trong đoàn ong bắp cày dưới trướng hơn là có chú mày.

Shasta len lỏi trong đám đông xem có chuyện gì xảy ra, nó trông thấy Edmund với vẻ mặt vô cùng giận dữ, Corin cúi xuống tỏ vẻ hơi xấu hổ, một chú lùn lạ mặt ngồi dưới đất mặt nhăn mày nhó. Một cặp thần rừng rõ ràng là vừa giúp chú lùn cởi áp giáp.

- Nếu ta có mang theo rượu thuốc, -  nữ hoàng Lucy nói, - ta có thể mau chóng chữa lành vết thương cho chú lùn nhưng Peter Đại đế đã nghiêm khắc ra lệnh cho ta không được mang theo trong những cuộc đụng độ thông thường mà phải để dành cho những trận giao tranh đặc biệt nghiêm trọng.

Chuyện gì đã xảy ra? Ngay sau khi Corin nói chuyện xong với Shasta, có ai khều khều vào khuỷu tay nó, đó là chú lùn Thornbut, cũng là một người lính.

- Có chuyện gì vậy Thornbut? – Corin hỏi.

- Thưa hoàng tử, - Thornbut nói, kéo nó ra một bên, - hôm nay chúng ta sẽ hành quân qua đèo rồi tiếp đó sẽ tiến đến hoàng cung của phụ vương hoàng tử. Có thể sẽ có một cuộc giao tranh trước khi trời tối.

- Tôi biết rồi. – Corin nói. – Tuyệt quá phải không?

- Tuyệt hay không thì còn chưa biết, nhưng tôi nhận được nghiêm lệnh của vua Edmund là phải trông nom hoàng tử và không để hoàng tử tham gia vào việc giao tranh. Cậu sẽ chỉ được phép chứng kiến và như thế là phù hợp với cái tuổi non nớt của hoàng tử.

- Thật ngớ ngẩn. – Corin bùng lên. – Tất nhiên ta phải xông trận chứ. Tại sao nữ hoàng Lucy lại đi cùng với đội bắn cung được?

- Nữ hoàng sẽ làm điều gì mà người thích. Còn hoàng tử thì ở dưới sự giám sát của tôi. Hoặc là tôi có được lời hứa trang nghiêm xứng với địa vị của một ông hoàng trẻ tuổi rằng hoàng tử sẽ giữ cho con ngựa non của mình đi sát cạnh con ngựa của tôi – chỉ cách không đầy nửa cái đầu ngựa – cho đến khi tôi cho phép hoàng tử được đi tách ra hoặc là theo lời đức vua Edmund chúng ta phải khóa cổ tay hai người lại với nhau như hai tù binh.

- Ta sẽ cho ngươi lăn kềnh ra nếu người dám trói tay ta lại.

- Tôi muốn được thấy hoàng tử làm thế đấy!

Nói như vậy rõ ràng là như châm dầu vào lửa đối với một thằng bé có tính khí như Corin. Chỉ trong vòng một tích tắc, nó và chú lùn đã lăm lăm tay búa tay kiếm. Đó là một cuộc chiến ngang sức với vì nếu tay Corin dài hơn và nó có chiều cao hơn hẳn thì chú lùn lại nhiều kinh nghiệm hơn và lì đòn hơn. Nhưng cuộc đấu không bao giờ diễn ra (sẽ là một cuộc đấu khốc liệt trên một triền đồi dốc như vậy) bởi vì thật xui xẻo, chú lùn vấp phải một hòn đá ngã dập mặt xuống đất và khi chú lùn cố đứng dậy thì phát hiện đầu gối mình bị rạn, một vết thương ra trò sẽ không cho phép chú đi đứng hoặc cưỡi ngựa ít nhất là trong vòng hai tuần lễ.

- Cháu đã làm gì thế này, - vua Edmund mắng, - tước đi của chúng ta một chiến binh dày dạn kinh nghiệm, lại ngay trước lúc trận chiến diễn ra nữa chứ?

- Cháu sẽ thay thế vị trí của ông ấy, thưa ngài. – Corin nói.

- Xì, - Edmund nói, - không ai nghi ngờ lòng quả cảm của cháu nhưng một cậu bé tham gia trong một trận chiến chỉ là một mối nguy cho chính nó mà thôi.

Đúng lúc ấy vua lại được mời đi để giải quyết một vụ việc khác và Corin sau khi đã lịch thiệp xin lỗi chú lùn, chạy ngay đến chỗ Shasta thì thầm vào tai nó:

- Nhanh lên! Còn có một con ngựa non dự phòng nữa và bây giờ có áo giáp của chú lùn, hãy mặc vào trước khi có ai đó nhận ra.

- Để làm gì? – Shasta hỏi.

- Để tớ và cậu có thể tham gia chiến đấu, tất nhiên rồi. Đằng ấy không muốn thế à?

- À, ồ, có chứ, tất nhiên. – Shasta nói. Nhưng nó chưa hề nghĩ đến chuyện này và bắt đầu có cảm giác gai gai đau như kim châm nơi xương sống.

- Được rồi. – Corin nói. – Trùm áo qua đầu đi. Bây giờ thì thắt dây lưng lại. Chúng ta phải cưỡi ngựa đi gần ở cuối hàng và phải giữ im lặng như những chú chuột nhắt ấy.

Một khi trận đánh đã bắt đầu người ta sẽ quá bận rộn để chú ý đến chúng ta.


Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#narnia