Biểu tượng thất truyền c 16-30

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương 16

Chỉ huy Trent Anderson lao bổ trở lại Nhà tròn Điện Capitol, giận sôi vì nhóm an ninh của mình thất bại. Một người trong đội đã tìm thấy dải băng đeo và chiếc áo khoác nhà binh tại một hốc tường gần cổng phía đông.

Đây là chỗ thằng khốn thoát thân!

Anderson đã phân công các nhóm xem lại đoạn video khu vực bên ngoài, nhưng đến lúc họ tìm được gì đó thì gã kia đã cao chạy xa bay từ lâu.

Lúc này, khi bước vào Nhà tròn để xem xét tình hình, Anderson nhận thấy mọi việc đã được kiểm soát khá tốt. Lực lượng an ninh khéo léo phong toả cả bốn lối vào Nhà tròn bằng phương pháp kiểm soát đám đông sẵn có. Họ sử dụng một tấm màn chắn bằng nhung, bố trí bảo vệ trực để xin lỗi khách du lịch, và treo tấm biển mang dòng chữ PHÒNG NÀY TẠM THỜI ĐÓNG CỬA ĐỂ LÀM CÔNG TÁC VỆ SINH. Cả chục nhân chứng được dồn thành một nhóm ở mé phía đông gian phòng, bị tịch thu hết điện thoại di động và máy ảnh.

Anderson không muốn để ai gửi một bức ảnh chụp dù bằng điện thoại di động tới CNN.

Trong số những nhân chứng bị giữ lại có một người đàn ông tóc đen, cao ráo, mặc áo tuýt thể thao, đang cố tách khỏi nhóm để nói chuyện với viên Chỉ huy. Bấy giờ người đó đang tranh cãi khá gay gắt với các nhân viên an ninh.

- Lát nữa tôi sẽ nói chuyện với anh ta - Anderson gọi với tới chỗ nhân viên của mình - Còn bây giờ, hãy giữ tất cả mọi người trong sảnh chính cho tới khi chúng ta xác định được thứ này.

Anderson đưa mắt về cái bàn tay vẫn đứng trơ trơ ở giữa phòng.

Lạy Chúa lòng lành. Suốt mười lăm năm làm công tác an ninh tại Điện Capitol, anh đã trông thấy vài thứ kỳ lạ. Nhưng không có thứ nào như thế này.

Phải gọi pháp y tới đây nhanh để đưa cái đó ra khỏi khu vực của mình.

Anderson tiến lại gần hơn, thấy rõ rằng phần cổ tay đầm đìa máu đã được găm vào một đế gỗ có cắm chông để làm cho bàn tay đứng thẳng được. Gỗ và thịt, anh nghĩ. Các máy dò kim loại chịu chết. Vật duy nhất bằng kim loại là một chiếc nhẫn vàng lớn mà Anderson cho rằng đã từng bị dò ở cửa kiểm soát hoặc bị kẻ tình nghi tuốt khỏi ngón tay người chết để tự đeo.

Anderson cúi thấp xuống để xem xét bàn tay. Trông nó như tay một người đàn ông trạc tuổi 60. Cái nhẫn mang một dấu hiệu trang trí nào đó với một con chim hai đầu và chữ số 33. Anderson không biết biểu tượng này. Nhưng anh chú ý nhiều hơn đến những hình xăm nhỏ xíu trên đầu ngón cái và ngón trỏ.

Một tác phẩm quái gở khốn kiếp.

- Chỉ huy? - Một nhân viên an ninh bước vội tới, giơ điện thoại ra - Cuộc gọi đích danh Chỉ huy. Tổng đài an ninh vừa nối máy.

Anderson nhìn cấp dưới như nhìn một kẻ tâm thần.

- Tôi đang dở việc ở đây, - anh quát ầm lên.

Mặt anh chàng kia tái mét. Anh ta bịt ống nói và thì thào.

- CIA gọi.

Anderson sửng sốt. CIA đã biết vụ này rồi kia à?

- Gọi từ Phòng An ninh của họ.

Anderson đờ người. Chó chết thật. Anh khó chịu nhìn chiếc điện thoại trên tay cậu nhân viên.

Trong cái đại dương mênh mông nhung nhúc những cơ quan tình báo ở Washington này, Phòng An ninh (OS) của CIA chẳng khác gì Tam giác quỷ Bermuda - một khu vực nguy hiểm và bí ẩn mà tất cả những ai hiểu biết đều tìm cách tránh xa bất cứ khi nào có thể. OS do CIA thành lập và được trao quyền gần như thanh trừng nội bộ, chỉ để phục vụ một mục đích kỳ cục là kiểm soát chính CIA. Là một phòng nội chính rất có thế lực, OS theo dõi tất cả các nhân viên CIA để phát giác những hành vi trái phép: tham ô ngân quỹ, buôn bán bí mật, đánh cắp công nghệ, và sử dụng những hình thức tra tấn trái luật, đại loại như vậy.

Họ theo dõi các tình báo viên của nước Mỹ.

Với toàn quyền điều tra mọi vấn đề an ninh quốc gia, OS có phạm vi ảnh hưởng rất mạnh và rộng. Anderson không thể đoán được tại sao họ lại quan tâm đến sự cố ở Điện Capitol, hoặc làm cách nào mà họ biết nhanh đến vậy. Người ta đồn rằng OS có tai mắt khắp mọi nới. Tất cả những gì Anderson biết là họ có đường truyền tín hiệu trực tiếp từ các máy quay an ninh ở Điện. Sự cố này không phù hợp với định hướng quản lý của OS, nhưng thời gian cuộc gọi tới cho Anderson có vẻ quá trùng khớp, không thể là vụ gì khác hơn vụ bàn tay ghê tởm?

- Chỉ huy - như giơ một chủ khoai nóng rãy, nhân viên an ninh chìa điện thoại cho Anderson - Chỉ huy cần nhận cuộc gọi ngay bây giờ. Nó là từ... - Anh ta ngừng lại và chúm môi tạo hình hai chữ: SA-TO

Anderson cau mặt lườm anh chàng kia. Cậu đùa tôi đấy chắc? Anh cảm thấy bàn tay mình bắt đầu vã mồ hôi. Sato đích thân xử lý vụ này cơ? sỏ Phòng An ninh - Giám đốc Inoue Sato - là một huyền thoại của làng tình báo. Sinh ra sau vụ Trân Châu Cảng, trong hàng rào một trại giam của Nhật ở Manzanar California và phải trải qua bao nhiêu gian nan mới sống sót nổi, Sato cực kỳ thấm thía sự kinh khủng của chiến tranh, cũng như hiểu rõ tình báo quân sự kém hiệu quả thì nguy hại ra sao. Giờ đây, ở vào một trong những địa vị quyền lực và bí mật nhất của ngành tình báo Hoa Kỳ, Sato đã chứng tỏ mình là một người yêu nước kiên định và một đối thủ đáng sợ cho bất kỳ kẻ đối lập nào. Chẳng mấy khi lộ diện nhưng rất được công chúng nể sợ, vị Giám đốc OS thường lùng sục tại những vùng nước sâu của CIA, y như loài quái thú săn mồi, chỉ trồi lên khi nào định xơi tái nạn nhân của mình.

Anderson mới diện kiến Sato có một lần, nhưng ký ức về đôi mắt đen lạnh lùng ấy khiến anh cảm thấy được trao đổi chuyện này chỉ qua điện thoại là rất may rồi.

Anderson cầm điện thoại và đưa lên miệng.

- Giám đốc Sato, - anh cố nói bằng giọng thân thiện nhất - Tôi là Chỉ huy Anderson đây. Tôi có thể giúp...

- Tôi cần nói chuyện ngay với một người đàn ông đang hiện diện trong toà nhà anh quản lý - Giọng vị Giám đốc OS rất đanh, y như tiếng sỏi chà lên bảng viết. Cuộc phẫu thuật ung thư vòm họng để lại nơi cổ Sato một vết sẹo to tướng, và làm cho giọng nói trở nên uy hiếp người nghe một cách ghê gớm - Tôi muốn anh tìm ông ta cho tôi ngay lập tức.

Có thế thôi sao? Muốn tôi gọi một ai đó à? Anderson đột nhiên cảm thấy đầy hy vọng rằng có lẽ cuộc điện đàm này là hoàn toàn ngẫu nhiên.

- Giám đốc đang tìm ai?

- Robert Langdon. Tôi tin chắc rằng ông ta đang ở trong khu nhà của anh.

Langdon à? Cái tên nghe quen quen, nhưng Anderson không tài nào xác định được. Giờ anh chỉ thắc mắc liệu Sato đã biết về vụ bàn tay chưa.

- Hiện tôi đang ở trong Nhà tròn, - Anderson phân vân - nhưng ở đây cũng có một số khách du lịch... Giám đốc chờ chút - Anh buông điện thoại xuống và gọi vọng lại phía nhóm người - Này các vị, có vị nào tên là Langdon không?

Không gian lặng đi chốc lát, rồi một giọng trầm thấp vang lên từ đám du khách.

- Có tôi là Robert Langdon.

Sato biết tất cả mọi chuyện. Anderson nghển cổ, dõi mắt nhìn người vừa lên tiếng.

Chính là người đàn ông đã cố gắng tách khỏi đám đông để đến gặp anh lúc trước. Anh ta có vẻ đang mất bình tĩnh... nhưng trông rất quen.

Anderson đưa điện thoại lên miệng.

- Vâng, ông Langdon có ở đây.

- Đưa máy cho ông ấy - Sato xẵng giọng.

Anderson thở hắt ra. Đỡ quá.

- Chờ nhé!

Anh vẫy Langdon.

Khi người đàn ông đến gần. Anderson bỗng hiểu ra tại sao tên họ anh ta lại quen quen. Mình vừa đọc một bài báo về thằng cha này. Hắn làm cái quái gì ở đây không biết.

Mặc dù Langdon cao tới 1m80 và nở nang như vận động viên, nhưng Anderson thấy anh thiếu hẳn vẻ sắc sảo hay lạnh lùng đáng ra phải có ở một nhân vật nổi tiếng vì đã thoát chết trong vụ nổ ở Vatican và vụ săn lùng tội phạm ở Paris. Trông anh ta giống một kẻ cắm cúi đọc Dostoyevsky bên lò sưởi thư viện một trường Đại học tên tuổi nào đó hơn. Thằng cha này trốn tránh cảnh sát Pháp bằng cách náu vào một đống giày thì phải?

- Ông Langdon? - Anderson lên tiếng và bước tới đón - Tôi là Chỉ huy Anderson, phụ trách an ninh ở đây. Ông có một cuộc điện thoại.

- Gọi tôi? - Đôi mắt xanh da trời của Langdon lộ vẻ lo lắng và bất ổn.

Anderson đưa điện thoại ra.

- Gọi từ Phòng An ninh CIA.

- Tôi chưa bao giờ biết đến cơ quan đó cả.

Anderson mỉm cười e ngại.

- Chà, thưa ông, thế mà họ lại biết ông đấy.

Langdon đưa điện thoại lên tai.

- A lô?

- Ông Robert Langdon phải không? - Cái giọng cay nghiệt của Giám đốc Sato oang oang vọng ra từ chiếc loa tí xíu, to đến mức Anderson cũng nghe rõ.

- Vâng - Langdon đáp.

Anderson nhích lại gần hơn để nghe xem Sato nói gì.

- Tôi là Giám đốc Inoue Sato, thưa ông Langdon. Tôi đang phải xử lý một cuộc khủng hoảng, và tôi tin ông có những thông tin may ra giúp ích cho tôi.

Langdon lộ vẻ hy vọng.

- Có liên quan đến Peter Solomon phải không? Các vị biết ông ấy ở đâu chứ?

Peter Solomon à? Anderson chịu không hiểu đầu cua tai nheo ra sao.

- Thưa Giáo sư, - Sato nhắc nhở - Lúc này tôi là người đặt câu hỏi.

- Peter Solomon đang gặp nguy hiểm, - Langdon kêu lên - Một gã điên nào đó vừa...

- Xin lỗi, - Sato ngắt lời.

Anderson co rúm người. Không hay rồi. Ngắt mạch câu hỏi của một quan chức CIA chóp bu đúng là một sai lầm mà chỉ dân thường mới mắc phải. Chắc gã Langdon này tự cho mình là khôn đây.

- Nghe cho kỹ - Sato nói - Như chúng tôi vừa nói, đất nước đang đối mặt với một cuộc khủng hoảng. Người ta gợi ý cho tôi rằng ông có những thông tin ngăn chặn được cuộc khủng hoảng đó. Nào, tôi hỏi lại lần nữa. Ông nắm giữ những thông tin gì?

Langdon hoàn toàn mất phương hướng.

- Thưa Giám đốc, tôi chẳng hiểu Giám đốc đang đề cập tới chuyện gì. Bây giờ tôi chỉ quan tâm tới việc tìm Peter và...

- Không hiểu gì ư? - Sato gặng.

Anderson nhận ra Langdon bắt đầu phát cáu. Giọng vị Giáo sư lúc này nghe hung hăng tợn.

- Không hề, thưa ông. Chẳng hiểu tí nào cả.

Anderson chớp mắt. Sai lầm. Sai lầm. Sai lầm. Robert Langdon vừa mắc phải một sai lầm đắt giá trong cách ứng xử với Giám đốc Sato.

Và cũng quá muộn để sửa chữa rồi. Trước sự ngạc nhiên của Anderson, Giám đốc Sato xuất hiện ở mé bên kia Nhà Tròn, và đang tiến lại từ phía sau Langdon. Sato ngay trong toà nhà này. Anderson nín thở và chuẩn bị tinh thần xem tấn kịch sắp tới. Gã Langdon đúng là loại điếc không sợ súng.

Cái bóng lù lù của vị Giám đốc tiến lại gần hơn, điện thoại vẫn áp trên tai, đôi mắt đen như hai tia laser dính chặt vào lưng Langdon.

Langdon nắm chặt chiếc điện thoại của viên Chỉ huy cảnh sát và cảm thấy càng lúc càng thất vọng khi vị Giám đốc OS dồn ép anh.

- Tôi xin lỗi, thưa ông, - Langdon nói cộc lốc - nhưng tôi không hiểu được ý ông. Ông muốn gì ở tôi?

- Tôi muốn gì ở anh ư? - Giọng chói lói của vị Giám đốc OS vang qua chiếc điện thoại Langdon đang cầm, xóc óc và trống rỗng, như giọng một người đang hấp hối vì căn bệnh viêm họng liên cầu.

Trong khi vị Giám đốc nói, Langdon cảm thấy ai đó vỗ vào vai anh. Anh quay lại và mắt anh nhìn thẳng xuống... gương mặt của một phụ nữ Nhật Bản nhỏ thó. Bà ta có vẻ mặt dữ tợn, nước da lốm đốm, mái tóc thưa, hàm răng ám khói thuốc lá, và một vết sẹo trắng ởn dễ sợ chạy ngay qua cổ. Bàn tay xương xẩu của người phụ nữ cầm một chiếc điện thoại di động áp vào tai, và khi môi bà ta mấp máy, Langdon nghe thấy giọng nói khó chịu quen thuộc qua điện thoại di động của mình.

- Tôi muốn gì ở anh ư, thưa Giáo sư? - Bà ta bình thản gập điện thoại và đăm đăm nhìn anh - Trước hết, anh có thể thôi gọi tôi là ông được rồi.

Langdon trợn mắt nhìn, sượng trân.

- Thưa bà, tôi... xin lỗi. Tín hiệu điện thoại không tốt nên...

- Tín hiệu điện thoại rất tốt, thưa Giáo sư, - Sato gạt đi - Và tôi không đủ khoan dung để tiếp tục chịu đựng câu chuyện nhảm nhí này.

Chương 17

Giám đốc Inoue Sato chỉ cao xấp xỉ 1m50, nhưng là mẫu người đáng sợ, dễ trở nên dữ dội. Bà ta gầy trơ xương với những đường nét góc cạnh, làn da lốm đốm như đá hoa cương thô phủ địa y (hậu quả của một chứng bệnh da liễu gọi là bạch biến). Bà mặc áo khoác xanh lam nhàu nhĩ trông chẳng khác gì cái bao tải, bên trong là chiếc áo cánh cổ mở phơi ra toàn bộ vết sẹo chạy vắt ngang cổ. Theo các đồng nghiệp, hình thức làm đẹp duy nhất mà Sato chấp nhận là cạo ria mép.

Sato cai quản Phòng An ninh của CIA đã hơn mười năm. Bà có chỉ số IQ ngoại hạng và trực giác chính xác đến ghê người, hai yếu tố đó đem lại cho bà sự tự tin khiến bất kỳ ai không làm nổi những việc tưởng chừng bất khả thi đều phải khiếp sợ. Ngay cả khi nghe chẩn đoán mình bị ung thư cổ họng giai đoạn cuối, Sato cũng không gục ngã. Cuộc chiến với căn bệnh khiến bà phải rời bỏ công việc suốt một tháng, lấy đi phân nửa cơ quan thanh quản và làm trọng lượng cơ thể bà sụt mất một phần ba, nhưng bà đã quay lại văn phòng cứ như chưa hề có chuyện gì xảy ra. Xem chừng Inoue Sato là người không thể bị đánh bại.

Robert Langdon ngờ rằng có lẽ anh không phải là người đầu tiên nhầm Sato là nam giới trên điện thoại, nhưng vị Giám đốc ấy vẫn nhìn xoáy vào anh bằng đôi mắt đen đầy giận dữ.

- Một lần nữa, tôi rất xin lỗi, thưa bà, - Langdon phân bua - Tôi đang cố tìm hiểu lý do mình ở đây. Có một kẻ lừa tôi tới thủ đô tối nay. Hắn ta đang bắt giữ Peter Solomon - Anh rút từ trong áo vét của mình ra bản fax - Đây là thứ hắn gửi cho tôi lúc trước. Tôi cũng đã ghi lại số đuôi của chiếc máy bay mà hắn cử tới, có lẽ các vị nên gọi cho Cục Hàng không Liên bang và truy xem...

Sato chìa bàn tay nhỏ xíu giật lấy tờ giấy và đút tọt nó vào tôi, chẳng buồn mở ra.

- Giáo sư, tôi đang tiến hành một cuộc điều tra. Từ giờ cho tới lúc ông bằng lòng cung cấp những gì tôi muốn biết, tôi khuyến cáo ông nên im lặng, trừ phi được yêu cầu mở miệng.

Rồi bà xoay sang viên Chỉ huy trưởng.

- Chỉ huy Anderson - bà lên tiếng, bước lại thật sát và nhìn xoáy vào anh bằng đôi mắt đen nhỏ xíu - liệu anh có thể cho tôi biết đang xảy ra chuyện quái gì ở đây không? Nhân viên bảo vệ đằng cồng phía đông báo với tôi rằng các anh phát hiện thấy một bàn tay người. Đúng không?

Anderson bước tránh sang bên và trỏ cái vật đang nằm chình ình giữa sàn nhà.

- Vâng, thưa bà, chỉ mới vài phút trước.

Sato thờ ơ liếc bàn tay như thể đấy chỉ là một thứ quần áo đặt sai chỗ.

- Anh không hề đả động đến nó khi tôi gọi?

- Tôi... tôi tưởng bà biết rồi.

- Đừng nói dối tôi. - Anderson xụi lơ trước ánh mắt Sato, nhưng giọng anh vẫn rất tự tin.

- Thưa bà, tình huống hiện nay vẫn trong tầm kiểm soát.

- Tôi thực sự nghi ngờ điều đó! - Sato nhận xét với vẻ tự tin không kém.

- Tổ pháp y đang trên đường tới đây. Bất kỳ kẻ nào gây ra việc này cũng sẽ để lại dấu vân tay.

Sato lộ vẻ hoài nghi.

- Tôi cho rằng một kẻ đủ khôn ngoan vượt qua trạm kiểm tra an ninh của các anh với một bàn tay người thì chắc cũng đủ thông minh để không lưu lại dấu tay nào.

Điều đó có thể đúng, nhưng tôi nắm trách nhiệm điều tra.

- Nói thật nhé, bây giờ tôi sẽ giải thoát cho anh khỏi trách nhiệm đó Tôi sẽ tiếp quản vụ việc.

Anderson cứng người.

- Đây không thuộc lãnh địa của OS thì phải?

- Rất đúng. Đây là vấn đề an ninh quốc gia.

Bàn tay của Peter... liên quan đến an ninh quốc gia cơ à?

Đầy thắc mắc, Langdon sửng sốt theo dõi cuộc đối đáp giữa hai người kia. Anh cảm thấy Sato không có chung mục tiêu cấp bách như mình là tìm kiếm Peter. Xem ra vị Giám đốc OS đang quan tâm đến một vấn đề hoàn toàn khác.

Anderson cũng lộ vẻ bối rối.

- An ninh quốc gia ư? Với tất cả lòng kính trọng, thưa bà...

- Suy cho cùng, - Sato ngắt lời - vị trí của tôi cao hơn anh. Tôi nghĩ anh nên làm đúng như tôi nói, và hãy tuân thủ mà đừng cật vấn gì.

Anderson gật đầu và nuốt khan.

- Nhưng ít nhất chúng tôi cũng cần in dấu tay để khẳng định bàn tay kia là của Peter Solomon chứ?

- Tôi xin xác nhận điều đó, - Langdon thốt lên, thấm thía một sự thật chắc chắn đến tởm lợm - Tôi nhận ra chiếc nhẫn... và bàn tay ông ấy! - Anh ngừng lại - Nhưng những hình xăm thì rất mới. Kẻ nào đó vừa xăm cho ông ấy thôi.

- Sao cơ - Lần đầu tiên kể từ lúc xuất hiện, Sato tỏ ra lúng túng - Bàn tay bị xăm ư?

Langdon gật đầu.

- Ngón cái có hình vương miện. Ngón trỏ hình ngôi sao.

Sato đeo kính lên và bước lại phía bàn tay, lượn vòng xung quanh như một con cá mập.

- Ngoài ra. - Langdon nói - mặc dù các vị không nhìn thấy ba ngón còn lại, nhưng tôi dám chắc chúng cũng có những hình xăm trên đầu ngón tay.

Sato lộ vẻ ngạc nhiên trước thông báo đó và ra dấu với Anderson.

- Chỉ huy, anh có thể xem xét mấy đầu ngón tay khác cho chúng tôi được không?

Anderson cúi xuống bên cạnh bàn tay, rất thận trọng để không chạm vào nó. Anh áp má xuống gần sát sàn nhà và ngước lên nhìn mé dưới những ngón tay bị bẻ gập.

- Ông ấy nói đúng, thưa bà. Tất cả các ngón tay đều có hình xăm, mặc dù tôi không thể nhìn rõ đó là...

- Một mặt trời, một đèn lồng và một chìa khoá, - Langdon bổ sung luôn.

Giờ thì Sato quay hẳn lại phía Langdon, đôi mắt hẹp của bà ta như đang đánh giá anh.

- Làm thế nào mà ông biết chính xác như vậy?

Langdon trợn mắt nhìn trả lại.

- Hình ảnh một bàn tay người được vẽ dấu hiệu như thế trên các đầu ngón tay là một biểu tượng rất cổ xưa. Người ta gọi nó là Mật Thủ.

Anderson đứng thẳng lên.

- Thứ này mà cũng có tên gọi à?

Langdon gật đầu.

- Nó là một trong những biểu tượng bí mật nhất của the giới cổ đại.

Sato gõ gõ lên đầu mình.

- Vậy thì tôi băn khoăn rằng nó làm quái quỷ gì ở giữa Điện Capitol chứ?

Langdon ước sao mình có thể thoát khỏi cơn ác mộng này.

- Theo truyền thống, thưa bà, nó được sử dụng như một lời mời.

- Một lời mời... cho cái gì? - Sato hỏi.

Langdon nhìn xuống những biểu tượng trên bàn tay đáng sợ của bạn mình.

- Trong nhiều thế kỷ. Mật Thủ được sử dụng như một lời triệu tập huyền bí. Về cơ bản, nó là một lời mời tiếp nhận tri thức bí mật, những tri thức được bảo vệ mà chỉ một vài nhân vật chủ chốt mới được biết.

Sato khoanh đôi tay gầy gò trước ngực và đăm đăm nhìn Langdon bằng cặp mắt đen láy.

- Chà, thưa Giáo sư, ông vừa cằn nhằn rằng không hiểu tại sao mình ở đây... nhưng đến giờ ông thể hiện rất tốt điều ngược lại đấy.

Chương 18

Katherine Solomon khoác chiếc áo bờ lu trắng và bắt đầu lộ trình thường lệ của mình - "lượn vài vòng", như anh trai cô thường nói.

Như người mẹ lo âu ghé thăm đứa con đang ngủ. Katherine thò đầu vào phòng máy. Gian buồng dùng nhiên liệu hydro đang chạy rất êm, các két sao lưu của nó đều nằm yên trên giá.

Katherine tiếp tục men theo hành lang tới phòng lưu trữ dữ liệu. Như mọi khi, hai cỗ máy đa sao lưu toàn ảnh vẫn chạy ro ro yên ổn trong khoang chứa có kiểm soát nhiệt độ. Toàn bộ công trình nghiên cứu của mình đây. Katherine nghĩ thầm, ghé mắt nhìn vào qua lớp kính siêu bền dày gần 10 cm. Khác với phiên bản cũ to bằng tủ lạnh, các thiết bị chứa dữ liệu toàn ảnh trông chỉ như thiết bị âm thanh gọn nhẹ, mỗi cái được đặt trên một bệ hình trụ.

Các ổ đọc toàn ảnh trong phòng thí nghiệm đều đồng bộ và giống hệt nhau - cùng là nguồn đĩa sao lưu để bảo vệ các bản sao công trình của Katherine. Hầu hết các phác đồ sao lưu đều chủ trương nên có một hệ thống sao chép thứ cấp ở nơi khác đề phòng trường hợp động đất hoả hoạn, hoặc bị đánh cắp, nhưng Katherine và anh trai cô nhất trí rằng giữ bí mật mới là điều tối quan trọng; một khi các dữ liệu rời khỏi toà nhà để chuyển tới máy chủ ở nơi khác thì họ không dám chắc rằng liệu chúng còn giữ được bí mật hay không.

Hài lòng vì tất cả vẫn vận hành trơn tru. Katherine quay trở lại theo lối hành lang. Khi vòng qua góc tường, cô chợt nhận ra có điều khác thường bên kia phòng thí nghiệm. Chuyện gì thế nhỉ? Một quầng sáng đang chiếu rọi tất cả các thiết bị. Katherine chạy vội vào để nhìn cho rõ, lòng rất ngạc nhiên khi thấy ánh sáng phát ra từ phía sau bức tường kính Plexiglas của phòng điều khiển.

Anh ấy ở đây. Katherine lao như bay qua phòng thí nghiệm, đến cửa phòng điều khiển và đẩy bật nó ra.

- Anh Peter! - cô kêu lên và chạy bổ vào.

Người phụ nữ to béo ngồi ở bàn máy trong phòng điều khiển nhảy bật dậy.

- Ôi lạy Chúa! Chị Katherine? Chị làm em sợ hết hồn!

Trish Dunne là chuyên gia phân tích siêu hệ thống của Katherine, cũng là người duy nhất ngoài hai anh em Solomon được phép có mặt ở đây. Cô gái tóc đỏ 26 tuổi này là một thiên tài lập mô hình dữ liệu và đã khai thác được một tài liệu mật rất đáng giá của KGB. Cô rất ít khi làm việc vào những ngày nghỉ cuối tuần, nhưng tối nay, cô bận phân tích dữ liệu trên bức tường plasma của phòng điều khiển, bức tường này là một màn hình phẳng rất lớn trông chẳng khác gì màn hình điều khiển của NASA.

- Em xin lỗi. - Trish nói - Em không biết chị cũng ở đây. Em đang cố làm cho xong trước khi chị và anh trai chị tới.

- Cô vừa nói chuyện với Peter à? Anh ấy đến muộn và không trả lời điện thoại.

Trish lắc đầu.

- Em cá là Peter vẫn đang loay hoay với chiếc iPhone mà chị mới tặng anh ấy.

Katherine rất cảm kích sự hài hước của cô bạn đồng nghiệp, và sự có mặt của Trish làm cô nảy ra một ý tưởng.

- Nói thật thì tôi rất vui vì cô ở đây tối nay. Chưa chừng cô sẽ giúp được tôi đấy cô không phiền chứ?

- Bất cứ việc gì, em tin nó sẽ hay hơn xem đấu bóng.

Katherine hít một hơi thật sâu, cố giữ cho tâm trí bình tĩnh.

- Tôi chẳng biết phải giải thích thế nào, nhưng sớm hôm nay, tôi đã nghe được một câu chuyện rất bất thường...

Trish Dunne không đoán nổi Katherine Solomon đã nghe được chuyện gì, nhưng rõ ràng câu chuyện đó khiến chị ấy không vui. Đôi mắt xám vốn luôn điềm tĩnh nay lại lộ vẻ lo âu, và chị đã phải vén tóc ra sau tai ba lần kể từ lúc bước vào phòng - một "dấu hiệu" chứng tỏ chị ấy đang bối rối, như Trish thường nói. Một nhà khoa học xuất chúng, nhưng không biết che giấu cảm xúc của mình.

- Với tôi, - Katherine nói - câu chuyện này rất hoang đường... như một chuyện cổ tích xa xưa. Nhưng... - Cô ngừng lời, lại đưa tay gạt một lọn tóc ra phía sau tai.

- Nhưng sao ạ?

Katherine thở dài.

- Nhưng hôm nay, một nguồn tin rất đáng tin cậy đã cho tôi biết rằng chuyện cổ tích đó là có thật.

- Ồ... Chị ấy muốn dẫn câu chuyện đến đâu đây?

- Tôi định trao đổi với Peter, nhưng tôi sực nghĩ, biết đâu cô sẽ giúp tôi nảy ra ý tưởng nào đó trước khi tôi hỏi anh ấy. Tôi rất muốn biết liệu câu chuyện cổ tích này đã bao giờ được chứng thực trong lịch sử chưa.

- Trong lịch sử ư?

Katherine gật đầu.

- Ở đâu đó trên thế giới, bằng một thứ ngôn ngữ nào đó, vào một thời điểm nào đó trong lịch sử.

Kỳ quặc quá, Trish thầm nghĩ, những rất có khả năng. Mười năm trước, điều này là không tưởng. Nhưng ngày nay, với Internet, với mạng toàn cầu, và với quá trình số hoá những thư viện và bảo tàng lớn trên thế giới, mục tiêu của Katherine có thể thực hiện được bằng cách sử dụng một cơ chế tìm kiếm tương đối đơn giản có trang bị một loạt mô đun dịch thuật và vài ba từ khoá được lựa chọn kỹ.

- Không thành vấn đề - Trish nói. Nhiều cuốn sách nghiên cứu trong phòng thí nghiệm có chứa những đoạn ngôn ngữ cổ xưa, khi ấy Trish phải viết nhiều mô đun dịch thuật Nhận dạng ký tự quang học (OCR) chuyên dụng để tạo văn bản tiếng Anh từ các ngôn ngữ khó hiểu. Chắc chắn cô là chuyên gia siêu hệ thống duy nhất trên thế giới lập được các mô đun dịch thuật OCR bằng tiếng Frisian(32) cổ, tiếng Maek(33) và tiếng Akkadian(34).

Các mô đun rất có tác dụng, nhưng bí quyết xây dựng một cơ chế tìm kiếm kiểu nhện hiệu quả lại phụ thuộc vào việc lựa chọn các từ khoá đúng, độc đáo nhưng không hạn chế quá mức.

Trong lúc Trish suy nghĩ, Katherine đã ghi nhanh những từ khoá thích hợp ra một băng giấy. Viết được vài từ, cô dừng lại, nghĩ ngợi và tiếp tục thêm vài từ nữa.

- Được rồi đấy, - cuối cùng cô nói và đưa băng giấy cho Trish.

Trish đọc lướt danh sách các chuỗi tìm kiếm, và mở to mắt.

Katherine đang điều tra loại cổ tích quái quỷ gì đây?

- Chị muốn em tìm kiếm tất cả các cụm từ khoá này à? - Có một từ Trish còn không nhận ra. Liệu đây có phải là tiếng Anh không? - Chị cho rằng chúng ta sẽ tìm được những từ này ở cùng một chỗ à? Chính xác cả cụm ấy?

- Cứ thử đi.

Trish định nói không thể (impossible) nhưng ở đây, những từ bắt đầu bằng chữ cái I bị cấm. Katherine coi đó là vật cản tư duy rất nguy hiểm trong một lĩnh vực thường biến những định kiến sai lầm thành hiện thực được khẳng định. Trish Dunne thật sự ngại rằng việc tìm kiếm các cụm từ khoá này sẽ rơi vào phạm trù đó.

- Mất bao lâu để có kết quả? - Katherine hỏi.

- Vài phút để viết con nhện và cho nó hoạt động. Sau đó, có lẽ mất 15 phút để nó vận hành hết hiệu suất.

- Nhanh thế à? - Katherine phấn khởi.

Trish gật đầu. Các cơ chế tìm kiếm truyền thống thường cần trọn một ngày để lướt qua toàn bộ không gian trực tuyến, tìm kiếm các văn bản mới, phân tích nội dung của chúng và cho nó vào cơ sở dữ liệu thu thập được. Nhưng Trish không viết loại nhện đó.

- Em sẽ viết một chương trình gọi là người uỷ thác, - Trish giải thích - Không hợp pháp lắm, nhưng nó rất nhanh. Thực chất đó là một chương trình ra lệnh cho các cơ chế tìm kiếm của người khác làm việc thay cho mình. Hầu hết các cơ sở dữ liệu đều có chức năng tìm kiếm tích hợp trong, chẳng hạn thư viện, bảo tàng, các trường đại học, chính phủ. Cho nên em sẽ viết một con nhện chuyên dò ra cơ chế tìm kiếm của người ta, nhập các từ khoá của chị, và yêu cầu các cơ chế ấy hoạt động. Bằng cách này, chúng ta khai thác được sức mạnh của hàng nghìn cơ chế, làm việc thống nhất.

Katherine có vẻ rất ấn tượng.

- Xử lý song song.

Một loại siêu hệ thống.

- Em sẽ gọi chị nếu em phát hiện thấy gì đó.

- Rất cảm ơn cô. Trish - Katherine vỗ nhẹ vào lưng cô gái và đi ra phía cửa - Tôi sẽ ở bên thư viện.

Trish tập trung viết chương trình. Lập trình một con nhện tìm kiếm là nhiệm vụ quá ư tầm thường so với trình độ năng lực của cô, nhưng Trish Dunne không bận tâm. Cô sẵn sàng làm bất kỳ việc gì cho Katherine Solomon. Có lúc, Trish vẫn không tin nổi số phận may mắn lại đưa cô đến nơi này.

Cưng đã đi được một chặng đường dài, cưng nhỉ!

Chỉ mới hơn một năm trước, Trish bỏ công việc của một chuyên gia phân tích siêu hệ thống tại một trong vô vàn công ty hoạt động trong lĩnh vực công nghệ cao. Lúc rỗi rãi, cô nhận lập trình cho một số nơi và bắt đầu mở một blog chuyên ngành mang tên "Những ứng dụng trong phân tích siêu hệ thống máy tính" mặc dù cô nghĩ chẳng ai thèm đọc nó. Rồi một buổi tối, điện thoại của cô đổ chuông.

- Cô Trish Dunne phải không? - một giọng phụ nữ nhã nhặn hỏi thăm.

- Vâng, xin hỏi ai gọi thế ạ?

- Tôi là Katherine Solomon.

Trish gần như ngất xỉu tại chỗ. Katherine Solomon à?

- Tôi vừa đọc cuốn sách của chị, cuốn Lý trí học. Cánh cổng hiện đại đi tới tri thức cổ xưa, và tôi đã viết về cuốn đó trên blog của mình!

- Phải, tôi có biết, - người phụ nữ trả lời rất nhã nhặn - Và đó là lý do tôi gọi cho cô.

- Dĩ nhiên là thế. Trish nhận ra như vậy, cảm thấy chẳng biết nói sao.

Ngay cả những nhà khoa học xuất sắc cũng phải sử dụng Google.

- Blog của cô khiến tôi rất thích, - Katherine nói tiếp - Tôi không ngờ rằng kỹ thuật lập mô hình siêu hệ thống lại tiến xa đến vậy.

- Vâng, - Trish hồ hởi, với tâm trạng rất muốn được người khác biết đến - Mô hình dữ liệu là một công nghệ đang bùng nổ với những ứng dụng rất rộng lớn.

Hai người phụ nữ dành vài phút nói chuyện phiếm về công việc của Trish trong ngành siêu hệ thống, kinh nghiệm của cô trong việc phân tích, lập mô hình và dự đoán xu hướng của các trường dữ liệu lớn.

- Nói thực cuốn sách của chị rất cao siêu so với tôi. - Trish nói - nhưng tôi cũng đủ khả năng hiểu nó để thấy có sự giao thoa với công trình siêu hệ thống của tôi.

- Trên blog, cô nói rằng cô tin ngành lập mô hình siêu hệ thống có khả năng biến cải những nghiên cứu của lý trí học, phải không?

- Chắc chắn là như vậy. Tôi tin siêu hệ thống sẽ biến Lý trí học thành một môn khoa học thật sự.

- Khoa học thật sự à? - Giọng Katherine hơi đanh lại - Thế hiện giờ nó không phải...?

Ôi thôi hớ rồi.

- Ừm, ý tôi là Lý trí học có vẻ... huyền bí hơn.

Katherine cười.

- Không sao đâu, tôi đùa thôi. Tôi nghe nói điều đó luôn ấy mà!

Cũng phải. Trish nghĩ bụng. Thậm chí Viện Lý trí học ở California cũng mô tả lĩnh vực này bằng một thứ ngôn ngữ khó hiểu và bí ẩn, xem nó như ngành nghiên cứu về "sự tiếp cận tức thời và trực tiếp của con người đối với những kiến thức vượt xa sức mạnh lý trí và độ cảm nhận của các giác quan bình thường".

Trish được biết rằng từ lý trí xuất phát từ tiếng Hy Lạp cổ - nếu dịch thô là "kiến thức bên trong" hoặc "ý thức trực giác".

- Tôi rất quan tâm đến công trình siêu hệ thống của cô, - Katherine nói - và muốn xem nó liên hệ ra sao với dự án tôi đang tiến hành. Cô có sẵn lòng gặp tôi không? Tôi rất muốn được thử bộ não của cô.

Katherme Solomon muốn thử bộ não của mình ư? Chẳng khác gì bảo Maria Sharapova đi hỏi thủ thuật chơi tennis.

Ngày hôm sau, một chiếc Volvo trắng tiến vào sân nhà Trish và một người phụ nữ yểu điệu duyên dáng trong bộ đồ bò màu xanh bước ra. Trish lập tức cảm thấy mình thật hèn kém. Trời ạ, cô lẩm bẩm. Thông miinh, giàu có, mảnh mai - và chắc mình phải tin là Chúa rất lòng lành mất? Nhưng phong thái khiêm nhường của Katherine khiến Trish cảm thấy thoải mái ngay.

Hai người ngồi ở hiên sau khá rộng rãi của Trish, nhìn xuống một khuôn viên khang trang.

- Nhà cô rất đẹp, - Katherine nhận xét.

- Cảm ơn chị. Tôi gặp may khi còn học đại học, bán được bản quyền một số phần mềm do tôi viết.

- Vẫn về siêu hệ thống chứ?

- Một dạng tiền thân của siêu hệ thống. Sau vụ 11-9, chính phủ chặn và xâm nhập các trường dữ liệu lớn như thư điện tử dân sự, điện thoại di động, fax, văn bản, website để tìm kiếm các từ khoá liên quan đến những giao dịch liên lạc có tính khủng bố. Vì thế tôi viết một phần mềm cho phép họ nắm giữ trường dữ liệu theo hình thức thứ cấp khai thác từ đó một sản phẩm tình báo bổ sung - Cô mỉm cười - Điều quan trọng là phần mềm của tôi cho phép họ đo được thân nhiệt của nước Mỹ.

- Tôi không hiểu lắm?

Trish bật cười.

- A nghe hơi kỳ cục, tôi biết. Y tôi định nói là nó định lượng trạng thái tình cảm của cả nước. Nó cung cấp một loại phong vũ biểu đo ý thức chung - Trish tiếp tục giải thích việc một người có thể đánh giá được tâm trang của đất nước như thế nào bằng cách sử dụng một trường dữ liệu về thông tin liên lạc của cả nước dựa trên "mật độ xuất hiện" một số từ khoá và chỉ số tình cảm nhất định trong trường dữ liệu ấy Những thời điểm vui vẻ sẽ có ngôn ngữ vui vẻ hơn, và những thời điểm căng thẳng thì ngược lại. Chẳng hạn, trong tình huống xảy ra một vụ tấn công khủng bố, chính phủ có thể sử dụng các trường dữ liệu để đo sự thay đổi trong tâm lý nước Mỹ và đưa ra lời khuyên tốt hơn cho Tổng thống về tác động tình cảm của sự kiện ấy.

- Rất lý thú, - Katherine nhận xét, tay xoa cằm - Và cô đang tiến hành kiểm nghiệm một nhóm các cá nhân... như là một chủ thể đơn nhất.

- Chính xác. Một siêu hệ thống. Một chủ thể đơn nhất được xác định bởi số lượng hợp phần của nó. Chẳng hạn, cơ thể người gồm hàng triệu tế bào riêng lẻ, mỗi tế bào có những thuộc tính và mục đích khác nhau, nhưng có chức năng như một chủ thể đơn nhất.

Katherine hào hứng gật đầu.

- Như một đàn chim hoặc đàn cá. Chúng tôi gọi đó là hội tự hoặc ràng buộc.

Trish cảm thấy vị khách nổi tiếng này bắt đầu nhìn thấy tiềm năng ứng dụng kỹ thuật lập trình siêu hệ thống vào lĩnh vực Lý trí học của mình.

- Phần mềm của tôi, - Trish giải thích - được thiết kế để giúp các cơ quan chính phủ đánh giá tốt hơn và phản ứng phù hợp với những cuộc khủng hoảng quy mô lớn như dịch bệnh, các thảm hoạ quốc gia, khủng bố, đại loại thế - Cô ngừng lại - Dĩ nhiên, luôn có khả năng sử dụng nó theo những hướng khác... chẳng hạn là nắm bắt nhanh trạng thái tâm lý quốc gia và dự đoán kết quả một cuộc bầu cử hoặc xu hướng vận động của thị trường chứng khoán vào thời điểm mở cửa.

- Tuyệt vời!

Trish ra hiệu về phía ngôi nhà rộng rãi của mình.

- Chính phủ cũng nghĩ vậy.

Giờ thì đôi mắt xám của Katherine tập trung hết vào cô.

- Trish, cho tôi hỏi về vấn đề đạo đức do công trình của cô đặt ra nhé?

- Ý chị là gì?

- Ý tôi là phần mềm của cô rất dễ bị lợi dụng. Kẻ sở hữu nó sẽ tiếp cận được với những thông tin rất quan trọng không phải ai cũng biết. Cô không cảm thấy do dự khi tạo ra nó ư?

Trish không hề chớp mắt.

- Hoàn toàn không. Phần mềm của tôi không khác gì hơn là... một chương trình mô hình tập bay trong ngành hàng không. Một số người sử dụng sẽ thực hành bay cho các nhiệm vụ cứu trợ tới các nước chậm phát triển. Một số người lại sử dụng để tập điều khiển máy bay chở khách lao vào các toà cao ốc. Kiến thức là một công cụ, và như tất cả các công cụ, tác động của nó tuỳ thuộc vào người sử dụng.

Katherine ngả người ra sau, vẻ rất ấn tượng.

Vậy cho phép tôi hỏi cô một câu hỏi giả định.

Trish đột nhiên cảm thấy cuộc trò chuyện của họ chuyển thành một buổi phỏng vấn tuyển dụng.

Katherine cúi xuống và nhặt một hạt cát nhỏ xíu dưới bàn và giơ lên cho Trish nhìn.

- Theo tôi hiểu, - cô nói - công trình siêu hệ thống ấy giúp cô tính toán được trọng lượng của cả một bãi biển toàn cát... bằng cách cân một hạt cát.

- Vâng, về cơ bản đúng như vậy.

- Cô biết đấy, hạt cát nhỏ bé này có khối lượng. Một khối lượng rất nhỏ, nhưng vẫn là khối lượng.

Trish gật đầu.

- Và vì hạt cát này có khối lượng nên nó có trọng lực. Tất nhiên, cũng rất nhỏ, nhưng vẫn có.

- Vâng.

- Vậy thì, - Katherine nói, - nếu chúng ta có hàng nghìn tỉ hạt cát thế này và để chúng hấp dẫn nhau nhằm tạo nên... ví dụ mặt trăng đi thì trọng lực kết hợp của chúng đủ để dịch chuyển toàn bộ các đại dương và tạo ra thuỷ triều lên xuống trên hành tinh chúng ta.

Trish không hiểu rõ câu chuyện sẽ đi đến đâu, nhưng cô thấy thích thú với những điều mình đang nghe.

- Giờ chúng ta cùng giả định nhé? - Katherine nói, tay phủi hạt cát đi -Nếu tôi bảo cô rằng một suy nghĩ... tức là bất kỳ ý tưởng nhỏ nhoi nào hình thành trong tâm trí chúng ta... trên thực tế cũng có khối lượng thì sao nào? Nếu một suy nghĩ là một vật chất thật sự, một thực thể đo đếm được, với một khối lượng đo đếm được thì sẽ sao? Dĩ nhiên, đó là một khối lượng vô cùng nhỏ, nhưng vẫn cứ là khối lượng. Vậy hàm ẩn ở đây là gì?

- Nói một cách giả định ư? Chà, hàm ẩn rõ nét là... nếu một suy nghĩ cũng có khối lượng thì nó sẽ có trọng lực và có thể hút mọi vật về phía nó.

Katherine mỉm cười.

- Cô cừ lắm. Giờ ta tiến thêm một bước nhé. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu nhiều người cùng tập trung vào một suy nghĩ giống nhau? Tất cả những điều nảy ra từ những suy nghĩ đó sẽ hợp nhất lại, và khối lượng luỹ tích của suy nghĩ này bắt đầu tăng lên. Bởi vậy, trọng lực của nó cũng tăng lên.

- Đúng.

- Nghĩa là... nếu có đủ số người cùng nghĩ về một điều thì lực hấp dẫn của suy nghĩ đó trở nên hữu hình... tạo ra một lực thực sự - Katherine nháy mắt - Và có thể gây ra một ảnh hưởng đo đếm được lên thế giới vật chất của chúng ta đấy.

Chú thích:

(32) Tiếng Frisan là một nhóm ngôn ngữ tương đối gần gũi với tiếng Đức - ND.

(33) Tiếng Maek là một phương ngữ có thể đã mất, từng được sử dụng ở bán đảo Triều Tiên - ND.

(34) Akkadian là một ngôn ngữ đã mất, từng được sử dụng ở Lưỡng Hà cổ đại. Nó sử dụng hệ chữ viết hình nêm của người Sumer cổ đại. Tên gọi của ngôn ngữ này xuất phát từ tên thành phố Akkad, một trung tâm lớn của nền văn minh Lưỡng Hà - ND.

Chương 19

Giám đốc Inoue Sato đứng khoanh tay, mắt nhìn xoáy vào Langdon đầy vẻ hoài nghi trong khi phân tích những điều anh vừa nói.

- Gã nói rằng gã muốn ông mở khoá một cánh cổng cổ xưa phải không? Vậy tôi nên làm gì với câu chuyện đó đây, thưa Giáo sư?

Langdon nhún vai yếu ớt. Anh lại cảm thấy suy sụp và cố gắng không nhìn xuống bàn tay dễ sợ của bạn mình.

- Gã đã nói với tôi chính xác như vậy. Một cánh cổng cổ xưa... ẩn giấu đâu đó trong toà nhà này. Tôi bảo gã rằng tôi chẳng biết cổng kiếc nào cả.

- Nhưng tại sao hắn lại nghĩ rằng ông có thể tìm thấy nó?

- Tại gã bị điên, rõ ràng thế - Gã nói rằng Peter sẽ chỉ đường.

Langdon nhìn xuống ngón tay duỗi thẳng của Peter, và lại ngán ngẩm trước cái kiểu vặn vẹo câu chữ đầy ác ý của vị đại diện nhà chức trách. Peter sẽ chỉ đường. Langdon đưa mắt nhìn theo hướng ngón tay trỏ thẳng lên mái vòm bên trên. Một cái cổng ư? Trên đó chăng? Đúng là điên rồ.

- Gã đàn ông đã gọi cho tôi, - Langdon bảo Sato - là kẻ duy nhất biết tôi đến Điện Capitol tối nay, vì vậy bất kỳ ai thông báo cho bà rằng tôi ở đây tối nay, thì đó chính là người bà cần. Tôi thấy...

- Tôi có được thông tin từ đâu không phải là chuyện của ông, - Sato ngắt lời, giọng đanh lại - ưu tiên cao nhất của tôi lúc này là hợp tác với người đó, và tôi được biết ông là người duy nhất đủ khả năng đáp ứng những điều anh ta muốn.

- Còn ưu tiên cao nhất của tôi là tìm ra bạn tôi, - Langdon ủ rũ đáp lại.

Sato hít một hơi dài, rõ ràng sự kiên nhẫn của bà ta đang bị thách thức.

- Nếu muốn tìm thấy Solomon, chúng ta cần hành động, thưa Giáo sư bắt đầu bằng cách hợp tác với người có vẻ như biết rõ ông ấy đang ở đâu - Sato nhìn đồng hồ - Thời gian rất eo hẹp. Tôi dám khẳng định với ông rằng chúng ta bắt buộc phải nhanh chóng làm theo những đòi hỏi của người đàn ông này.

- Bằng cách nào chứ? - Langdon hỏi, vẻ ngờ vực - Bằng cách xác định và mở một cách cổng cổ xưa ư? Làm gì có cánh cổng nào, thưa Giám đốc Sato. Thằng cha đó bị tâm thần rồi.

Sato bước lại gần, chỉ cách Langdon chưa đầy nửa mét.

- Biết nói thế nào nhỉ... sáng nay gã điên của ông đã khôn khéo thao túng hai nhân vật vô cùng thông minh đấy - Bà ta nhìn thẳng vào Langdon rồi liếc về phía Anderson - Trong nghề của tôi, ai cũng hiểu rằng giữa điên rồ và thiên tài chỉ có một ranh giới rất nhỏ. Cho nên ít nhiều chúng ta cũng nên ngả mũ cúi chào gã này!

- Gã đã cắt phăng bàn tay của một con người!

- Đúng như vậy. Đó không phải là hành vi của một người lương thiện. Nhưng quan trọng hơn, thưa Giáo sư, rõ ràng gã ta tin rằng ông có thể giúp gã. Gã tìm cách đưa ông tới Washington, và chắc chắn phải có lý do gã mới làm thế chứ?

- Lý do duy nhất khiến gã nghĩ tôi mở được "cánh cổng" là bởi chính Peter đã nói với gã như vậy! - Langdon phản biện.

- Tại sao Peter Solomon lại nói thế nếu điều đó không phải sự thật?

- Tôi tin chắc Peter chẳng nói gì hết, và nếu có nói, thì đó là vì ông ấy bị ép buộc, bị rối trí... hoặc bị đe doạ.

- Phải. Người ta gọi đó là tra tấn ép cung, và hình thức ấy khá hiệu quả. Càng có lý do để ngài Solomon buột ra sự thật - Sato bình phẩm, như thể rất nhiều kinh nghiệm về thủ pháp này - Gã kia có giải thích tại sao Peter nghĩ chỉ mình ông mở được cánh cổng không?

Langdon lắc đầu.

- Thưa Giáo sư, nếu đúng như danh tiếng của ông thì ông và Peter Solomon đều cùng quan tâm đến một đề tài, đó là các bí mật, các bí quyết lịch sử, chủ nghĩa thần bí, đại loại như vậy. Trong tất cả các cuộc thảo luận với ông, Peter chưa bao giờ nhắc nhở đến một cánh cổng bí mật ở Washington D.C. ư?

Langdon không thể tin nổi mình lại phải nghe câu hỏi này từ một sĩ quan cao cấp của CIA.

- Tôi khẳng định như vậy. Peter và tôi trao đổi khá nhiều chuyện huyền bí, nhưng hãy tin tôi, tôi sẽ khuyên ông ấy đi kiểm tra lại đầu óc nếu có lần nào nói với tôi về một cánh cổng ẩn giấu đâu đấy. Đặc biệt lại là cánh cổng dẫn tới những Bí ẩn cổ xưa.

Sato ngước nhìn lên.

- Sao cơ? Người kia có nói cụ thể là cánh cổng này dẫn tới cái gì à?

- Phải, nhưng gã không cần nói thẳng ra - Langdon ra dấu về phía bàn tay - Mật Thủ là giấy mời chính thức để đi qua một cánh cống huyền diệu và nhận lấy những tri thức cổ - những tri thức mạnh mẽ có tên Bí ẩn cổ xưa... hoặc là tri thức bị lãng quên của mọi thời đại.

- Tức là ông đã nghe nói đến bí mật mà gã kia tin rằng được cất giấu ở đây.

- Rất nhiều nhà sử học nghe nói đến nó.

- Thế vì sao mà anh dám khẳng định cánh cổng đó không hề tồn tại?

- Kính thưa bà, tất cả chúng ta đều nghe nói đến Suối nguồn Tươi trẻ và Shangri-la(35), nhưng điều đó không có nghĩa là những thứ ấy tồn tại.

Máy bộ đàm của Anderson đột ngột ré lên rất to làm ngắt lời họ.

- Chỉ huy? - giọng trên máy bộ đàm gọi.

Anderson giật bộ đàm ra khỏi thắt lưng.

- Anderson đây.

- Thưa Chỉ huy, chúng tôi đã tìm kiếm xong. Ở đây không có ai khớp với mô tả. Còn mệnh lệnh gì không, thưa Chỉ huy?

Anderson liếc nhanh về phía Sato, rõ ràng là chờ đợi một lời quở trách, nhưng Giám đốc OS dường như không để tâm. Anderson bước xa khỏi chỗ Langdon và Sato, nói khẽ vào máy bộ đàm.

Sato vẫn chú tâm vào Langdon.

- Theo ông, bí mật mà gã kia tin rằng đang cất giấu ở Washington... chỉ là tưởng tượng?

Langdon gật đầu.

- Đó là một truyền thuyết rất lâu đời. Đã hàng nghìn năm rồi, từ thời tiền Công giáo, người ta đã đồn đại về bí mật của những Bí ẩn cổ xưa.

- Nhưng truyền thuyết ấy vẫn tồn tại?

- Khối tín điều vô lý hơn còn tồn tại nữa là - Langdon thường nhắc nhở sinh viên của mình rằng hầu hết các tôn giáo hiện đại đều có những câu chuyện không dễ kiểm chứng về mặt khoa học: tất cả mọi chuyện, từ Moses rẽ nước Hồng Hải... đến Joseph Smith sử dụng cặp kính thần để dịch Kinh Mormon từ những tấm vàng mà ông ấy tìm thấy ở tiểu bang New York. Việc nhiều người chấp nhận mộtý tưởng không phải là bằng chứng về giá trị của nó.

- Tôi hiểu. Vậy đích xác thì những... Bí ẩn cổ xưa này là gì?

Langdon thở hắt ra. Bà có hẳn vài tuần rảnh rỗi không?

- Nói ngắn gọn, Bí ẩn cổ xưa là một tập hợp kiến thức bí ẩn được tích luỹ từ rất lâu rồi. Người ta tin rằng khía cạnh đáng chú ý nhất của vốn kiến thức này là giúp kẻ thực hành nó tiếp cận được phần sức mạnh đang nằm im trong trí não con người. Những nhà thông thái nắm giữ được kiến thức này đã thề giữ bí mật với quần chúng bởi vì nó quá mãnh liệt và nguy hiểm cho những ai không được khai tâm.

- Nguy hiểm thế nào?

- Thông tin được giấu kín vì lý do tương tự như ta không để trẻ nhỏ nghịch diêm vậy. Nếu tích cực thì lửa sẽ đem lại ánh sáng... nhưng ở khía cạnh tiêu cực, lửa có khả năng huỷ diệt gớm ghê.

Sato gỡ cặp kính và săm soi Langdon.

- Giáo sư hãy cho tôi biết liệu ông có tin rằng kiến thức hùng mạnh đó thực sự tồn tại không?

Langdon không biết phải trả lời thế nào. Các Bí ẩn cổ xưa luôn là nghịch lý lớn nhất trong sự nghiệp học thuật của anh. Thực ra, mọi truyền thống huyền bí trên Trái đất này đều xoay quanh một ý tưởng.

- Ý tưởng ấy chấp nhận sự tồn tại của một thứ tri thức bí truyền có khả năng đem lại cho nhân loại những sức mạnh thần bí, thậm chí siêu phàm, chẳng hạn cỗ bài bói và Kinh Dịch giúp con người tiên đoán tương lai; thuật giả kim mang lại sự bất tử thông qua Hòn đá Triết học(36) huyền thoại; Wicca(37) cho phép những người thực hành nó ở cấp cao tạo ra được các loại bùa chú đầy quyền năng. Bản danh sách ấy còn kéo dài mãi.

Là một học giả, Langdon không thể phủ nhận các tư liệu lịch sử về những truyền thống này, đó là văn bản, hiện vật, và nhiều công trình nghệ thuật ám chỉ rằng người cổ đại có vốn tri thức rất cao song chỉ chia sẻ qua các huyền tích, truyền thuyết và biểu tượng, nhằm bảo đảm rằng những người được khai tâm mới đủ khả năng tiếp cận sức mạnh của vốn tri thức ấy. Tuy nhiên, là một người có tư tưởng thực tiễn và luôn biết nghi ngờ, Langdon vẫn không thực sự bị thuyết phục.

- Xin nói rằng tôi là một người hay hoài nghi - anh bảo Sato - Tôi chưa bao giờ bắt gặp thứ gì trong thế giới thực tiễn cho thấy sự hiện hữu của Bí ẩn cổ xưa, chúng chỉ là truyền thuyết, là một nguyên mẫu huyền thoại lặp đi lặp lại. Theo tôi, nếu quả thực con người sở hữu những sức mạnh kỳ diệu thì phải có bằng chứng chứ. Nhưng cho đến nay, lịch sử chưa hề ghi nhận một ai có sức mạnh siêu phàm cả.

Sato nhướng mày.

- Điều đó không hoàn toàn đúng.

Langdon do dự, nhận ra rằng với những người theo đạo, trên thực tế vẫn có tiền lệ về các vị nhân thần mà Jesus là minh chứng rõ rệt nhất.

- Phải thừa nhận rằng rất nhiều người giàu kiến thức tin tưởng vào sự tồn tại của vốn tri thức cao siêu ấy, nhưng tôi thì không tin - anh nói.

- Có phải Peter Solomon cũng thuộc số đó không? - Sato hỏi, liếc xuống bàn tay vẫn nằm trên sàn nhà.

Langdon không dám nhìn theo ánh mắt Sato.

- Peter xuất thân từ một dòng họ luôn có niềm đam mê đối với tất cả những gì cổ xưa và huyền bí.

- Phải chăng đó là một lời khẳng định? - Sato hỏi.

- Tôi có thể quả quyết với bà rằng cho dù tin vào sự tồn tại của những Bí ẩn cổ xưa. Peter cũng không khi nào tưởng đến việc tiếp cận chúng thông qua một cánh cổng ở Washington D.C. này. Ông ấy hiểu rõ những biểu tượng ẩn dụ, điều mà kẻ bắt giữ ông ấy rõ ràng mù tịt.

Sato gật đầu.

- Vậy ông tin rằng cánh cổng này là một ẩn dụ.

- Dĩ nhiên, - Langdon đáp - về mặt lý thuyết. Nó là một ẩn dụ rất quen thuộc, một cánh cổng bí ẩn mà người ta phải đi qua đó để được khai sáng. Cổng và cửa ngõ là những kiến trúc biểu tượng quen thuộc của nghi thức khai tâm. Tìm kiếm một cánh cổng theo đúng nghĩa đen chẳng khác gì cố tìm cho ra Cổng Thiên đàng.

Sato lộ vẻ trầm ngâm.

- Nhưng dường như kẻ bắt giữ Solomon tin rằng ông sẽ mở được một cánh cổng có thật?

Langdon thở hắt ra.

- Gã phạm phải một sai lầm giống như nhiều kẻ cuồng tín khác, đó là lẫn lộn giữa ẩn dụ với hiện thực.

Tương tự, các nhà giả kim ngày xưa đã lao tâm khổ tứ một cách vô ích nhằm biến chì thành vàng mà không hề nhận ra rằng quá trình này là một ẩn dụ về việc khai thác những tiềm năng đích thực của con người, giúp biến cải tư duy u tối, kém hiểu biết thành một tư duy sáng láng hơn.

Sato ra dấu về phía bàn tay.

- Nếu gã này muốn ông xác định cho gã một cánh cổng nào đó thì tại sao gã không đơn giản là hỏi ông cách tìm nó? Tại sao phải bày ra hành động điên rồ này? Tại sao lại gửi cho ông một bàn tay xăm hình?

Langdon đã tự hỏi mình đúng những câu hỏi này và vẫn chưa tìm ra câu trả lời.

- Chà, dường như kẻ mà chúng ta đang phải truy tìm, ngoài sự bất ổn về tâm thần, còn là kẻ có học vấn rất cao. Bàn tay này là bằng chứng cho thấy gã khá am hiểu về các Bí ẩn cũng như chìa khoá bí mật của chúng. Đấy là chưa kể lịch sử của căn phòng này.

- Tôi không hiểu.

- Mọi thứ gã làm tối nay đều được tiến hành theo đúng quy trình cổ xưa. Theo truyền thống. Mật Thủ là một lời mời thiêng liêng, và do đó nó phải được đưa ra ở một địa điểm thiêng liêng.

Sato nheo mắt.

- Đây là Nhà tròn của Điện Capitol, thưa Giáo sư, không phải là thánh đường dẫn tới những bí mật huyền thoại xa xưa.

- Trên thực tế, thưa bà. - Langdon đáp - tôi biết rất nhiều nhà sử học sẽ không đồng ý với bà về câu nói vừa rồi.

***

Lúc ấy, ở bên kia thành phố, Trish Dunne ngồi lọt giữa những bức tường plasma của Khối vuông. Chuẩn bị xong con nhện tìm kiếm, cô gõ năm cụm từ khoá mà Katherine đã đưa.

Chẳng đi đến đâu cả cho mà xem.

Cảm thấy không mấy lạc quan, cô cho con nhện hoạt động, bắt đầu trò chơi Đi câu cực kỳ phổ biến. Chỉ trong chớp mắt, các cụm từ liền được so sánh với mọi nội dung văn bản trên khắp thế giới... để tìm ra một trường hợp trùng khớp hoàn toàn.

Trish không khỏi thắc mắc về thực chất của câu chuyện, nhưng cô đã chấp nhận rằng làm việc với gia đình Solomon có nghĩa là không bao giờ biết hết toàn bộ mọi việc.

Chú thích:

(35) Shangri-la là một địa danh hư cấu được nói đến trong cuốn tiểu thuyết Chân trời bị mất năm 1933 của tác giả người Anh James Hilton. Trong sách, "Shangri-la" là một thung lũng huyền bí nằm ở cực phía tây của dãy núi Côn Lôn. Shangri-la trở thành đồng nghĩa với cõi thần tiên và đặc biệt là một vùng đất sung sướng vĩnh hằng không tưởng bí ẩn trên dãy Himalayan, tách biệt với thế giới bên ngoài. Trong tiểu thuyết, những người sống ở Shangri-la đều bất tử - ND.

(36) Hòn đá Triết học là một dụng cụ giả kim huyền thoại, được cho là có khả năng biến những kim loại cơ bản thành vàng. Đôi khi, người ta còn tin rằng nó chính là thứ thuốc trường sinh bất lão, rất hữu dụng để cải lão hoàn đồng và có khi còn đạt được sự bất tử - ND.

(37) Wicca là một tôn giáo dựa vào tự nhiên được phổ biến vào năm 1954 bởi một công chức hưu trí người Anh là Gerald Gardner. Đây là tôn giáo lớn nhất trong các tôn giáo không theo Cơ đốc. Các tín đồ Wiccan rất tôn sùng Trái đất cùng vị nữ thần và nam thần của mình. Quy tắc ứng xử chính của họ là cấm làm hại mọi người, kể cả bản thân, trừ một vài trường hợp tự vệ - ND.

Chương 20

Robert Langdon lén nhìn đồng hồ một cách lo lắng: 7 giờ 58 phút tối. Gương mặt cười của chú chuột Mickey cũng chẳng làm anh vui lên bao nhiêu. Mình phải đi tìm Peter. Mình đang lãng phí thời gian.

Sato đã tránh sang bên một lát để gọi điện, nhưng giờ bà ta quay trở lại chỗ Langdon.

- Thưa Giáo sư, tôi đang làm ông nhỡ việc gì đó phải không?

- Không, thưa bà, - Langdon đáp, kéo ống tay áo phủ trùm lên đồng hồ - Tôi chỉ đang rất lo lắng cho Peter.

- Tôi hiểu, nhưng tôi quả quyết rằng hiện giờ điều tốt nhất ông làm được cho bạn ông là giúp tôi tìm hiểu ý đồ của kẻ bắt giữ Peter.

Langdon không dám chắc, nhưng anh cảm thấy anh chẳng thể đi đâu được cho tới khi vị Giám đốc OS có được thông tin mà bà ta muốn.

- Ban nãy, - Sato lên tiếng - ông nói rằng Nhà Tròn này có phần thiêng liêng hợp với ý tưởng về các Bí ẩn cổ xưa?

- Vâng, thưa bà.

- Hãy giải thích cho tôi xem nào?

Langdon biết anh sẽ phải lựa chọn ngôn từ thật đơn giản. Anh đã dạy nhiều học kỳ về các biểu tượng huyền bí của Washington D.C., chỉ riêng toà nhà này thôi đã đủ liệt kê một danh sách bất tận những chi tiết tham khảo.

Quá khứ của nước Mỹ còn chứa khá nhiều bí mật

Mỗi lần Langdon giảng về biểu tượng học của nước Mỹ, đám sinh viên lại ngạc nhiên vì biết rằng ý định thực sự của các vị tiền bối lập quốc chẳng mảy may liên quan với những điều mà nhiều chính trị gia ngày nay tuyên bố.

Vận mệnh tiền định của nước Mỹ đã chìm nghỉm trong lịch sử

Thoạt đầu, các vị tiền bối sáng lập đặt tên thành phố này là "Rome", đặt tên con sông chảy qua đây là Tiber và dựng lên một thủ đô với nhiều đền thờ và thánh điện, tất cả đều được trang trí bằng hình ảnh của các vị thần vĩ đại trong lịch sử như Apollo, Minerva, Venus, Helios, Vulcan, Jupiter. Ở trung tâm thành phố, giống như nhiều thành phố cổ đại khác, họ xây dựng một cột tháp Ai Cập để làm lễ vật vĩnh cửu dâng hiến cổ nhân. Cột tháp ấy còn đồ sộ hơn cả cột tháp ở Cairo hay Alexandria, vươn tới độ cao 166,5 mét với hơn 30 tầng, thể hiện lời cảm tạ và kính trọng đối với vị cha già mà thành phố thủ đô này đang mang tên.

Washington.

Giờ đây, sau nhiều thế kỷ, bất chấp sự phân chia tôn giáo và thành bang của nước Mỹ, Nhà tròn vẫn lấp lánh những biểu tượng tôn giáo cổ xưa. Có cả tá thần thánh ở đây, nhiều hơn cả Đền Pantheon nguyên bản bên Rome. Dĩ nhiên, đền Pantheon của người La Mã đã bị cải sang Thiên Chúa giáo từ năm 609... nhưng đền Pantheon Hoa Kỳ thì chẳng bao giờ bị cải giáo cả, mọi dấu tích về lịch sử đích thực của nó vẫn nguyên vẹn như xưa.

- Có thể bà đã biết, - Langdon nói - Nhà tròn được thiết kế như vật hiến tế cho một trong những thánh điện huyền bí tôn nghiêm nhất thành Rome. Đền thờ Vesta(38).

- Như các vũ nữ ấy hả? - Xem ra Sato không tin nổi những trinh nữ canh giữ ngọn lửa lại có gì đó liên quan đến Điện Capitol ở Hoa Kỳ.

- Đền Vesta ở Rome mang hình tròn, - Langdon đáp - với một lỗ to trên sàn nhà, nơi các vũ nữ canh giữ ngọn lửa khai sáng linh thiêng. Nhiệm vụ của họ là giữ cho ngọn lửa không bao giờ tắt.

Sato nhún vai.

- Nhà tròn này quả đúng là hình tròn, nhưng tôi chẳng thấy cái lỗ nào trên sàn nhà cả.

- Không, làm gì còn nữa, nhưng có thời chính giữa căn phòng này có một cái lỗ lớn. Ở đúng vị trí bàn tay của Peter bây giờ - Langdon trỏ xuống sàn - Thực ra, bà vẫn tìm thấy trên sàn các dấu vết của hàng rào chắn bảo vệ mọi người khỏi bị ngã xuống lỗ đấy.

- Sao cơ? - Sato hỏi, chăm chú ngó sàn nhà - Tôi chưa bao giờ nghe nói đến điều đó.

- Có lẽ ông ấy nói đúng - Anderson trỏ một vòng núm sắt từng là vị trí các cọc lan can - Tôi trông thấy những thứ này đã bao lần, nhưng chẳng hiểu nổi tác dụng của chúng là gì.

Đâu phải chỉ riêng ông, Langdon nghĩ, hình dung ra hàng nghìn người, kể cả những nghị sĩ tiếng tăm, hằng ngày qua lại trung tâm Nhà tròn mà không hề biết rằng đã có thời, nếu đi như thế thì họ sẽ rơi tõm xuống Hầm ngầm Điện Capitol ngay bên dưới.

- Cái lỗ hổng trên nền bị lấp rồi - Langdon giải thích - Nhưng trước đây khách tới thăm Nhà tròn có thể nhìn thẳng xuống ngọn lửa cháy sáng ở bên dưới.

Sato quay lại.

- Lửa à? Ngay trong Điện Capitol ư?

- Giống như một ngọn đuốc khổng lồ ấy mà. Một ngọn lửa vĩnh cửu cháy sáng ở hầm ngầm ngay dưới chân chúng ta đây. Lổ hổng nhìn xuống ngọn lửa, khiến gian phòng giống một Đền thờ Vesta hiện đại. Thậm chí còn có hẳn một Vu nữ ở toà nhà này, một nhân viên liên bang gọi là Vu nữ Nhà hầm. Bà ta trông nom cho ngọn lửa cháy sáng suốt năm mươi năm trời, tới tận khi chính trị, tôn giáo và tác hại của khói khiến người ta buộc phải chấm dứt việc đốt lửa.

Cả Anderson và Sato đều tỏ ra ngạc nhiên.

- Ngày nay, thứ duy nhất gợi nhớ ngọn lửa một thời cháy sáng là chiếc la bàn hình ngôi sao bốn cánh gắn trên sàn nhà hầm, ở tầng dưới nơi họ đứng, tượng trưng cho ngọn lửa vĩnh cửu từng toả ánh sáng ra cả bốn hướng Tân Thế giới của nước Mỹ.

- Theo luận điểm của Giáo sư thì cái gã đã để bàn tay của Peter ở đây biết tất cả những tình tiết đó? - Sato chất vấn.

- Rõ ràng là như vậy, và còn biết hơn thế. Trong phòng này, có rất nhiều biểu tượng thể hiện niềm tin về những Bí ẩn cổ xưa.

- Tri thức bí mật, - Sato nói tiếp, giọng pha sự châm chọc - Kiến thức dẫn dắt con người tới những sức mạnh thần thánh, phải không?

- Vâng thưa bà.

- Nhưng điều đó không thích hợp lắm với nền tảng Thiên Chúa giáo của nước ta.

- Có lẽ thế, nhưng nó vẫn cứ đúng. Quá trình biến cải một con người thành một vị thần được gọi là phong thánh. Cho dù quý vị có biết về chủ đề biến cải người thành thần hay không thì nó vẫn là yếu tố cốt lõi trong hệ thống biểu tượng của Nhà tròn.

- Phong thánh ư? - Anderson vọt miệng, với vẻ mặt thảng thốt thừa nhận.

- Phải - Anderson làm việc ở đây. Ông ta biết rõ - Từ phong thánh (apotheosis) theo nghĩa đen là "quá trình biến cải thần thánh" quá trình một người thường trở thành thần linh. Nó xuất phát từ ngôn ngữ Hy Lạp cổ: apo là "trở thành" và theos là "thần thánh".

Anderson có vẻ rất ngạc nhiên.

- Phong thánh nghĩa là "trở thành thần" à? Vậy mà tôi không biết.

- Còn gì nữa thế? - Sato chất vấn.

- Thưa bà, - Langdon đáp - bức vẽ lớn nhất trong toà nhà này có tên Sự phong thánh của Washington, và nó mô tả rất rõ George Washington đang được biến cải thành một vị thần.

Sato tỏ vẻ không tin.

- Tôi chưa bao giờ nhìn thấy thứ gì tương tự.

- Thực lòng, tôi tin chắc bà đã thấy rồi - Langdon chỉ ngón trỏ thẳng lên trên - Nó ở ngay trên đầu bà đấy.

Chú thích:

(38) Trong thần thoại La Mã. Vesta là nữ thần đồng trinh của lò sưởi, nhà và gia đình. Vesta thường được hình tượng hoá bằng ngọn lửa thiêng cháy tại các đền thờ của bà - ND.

Chương 21

Bức Sự phong thánh của Washington, do Constantino Brumidi hoàn thiện năm 1865, là một bức bích hoạ rộng gần 420 mét vuông phủ kín trần Nhà tròn.

Được mệnh danh là "Michelangelo của Điện Capitol", Brumidi tuyên bố mình có khả năng trang trí Nhà tròn điện Capitol y như Michelangelo đã làm với Nhà nguyện Sistine bằng cách vẽ một bức bích hoạ lên tấm toan cao nhất gian phòng, tức trần nhà của nó. Cũng như Michelangelo, Brumidi đã thực hiện các tác phẩm tuyệt đẹp của mình ở Vatican. Tuy nhiên, Brumidi di cư sang Mỹ năm 1852, bỏ thánh điện lớn nhất của Chúa để đến với một thánh điện mới, Điện Capitol, công trình giờ đây kiêu hãnh với những tác phẩm bậc thầy của ông - từ bức tranh vẽ như thật ở Hành lang Brumidi(39) tới trụ ngạnh trần phòng Phó Tổng thống. Nhưng chính bức tranh khổng lồ trải kín Nhà tròn Điện Capitol mới được hầu hết các sử gia coi là kiệt tác của Brumidi.

Robert Langdon ngước nhìn bức bích hoạ phủ kín trần nhà. Anh thường thích thú quan sát phản ứng kinh ngạc của sinh viên trước hình ảnh kỳ lạ trong tranh, nhưng lúc này đây, anh chỉ thấy bế tắc vì một cơn ác mộng không sao lí giải nổi.

Giám đốc Sato đứng bên cạnh, tay chống nạnh, cau mày nhìn trần nhà cao tít bên trên. Langdon cảm nhận được bà ta cũng có phản ứng như bao người lần đầu dừng bước ngắm bức tranh ở ngay trái tim nước Mỹ...

Hoàn toàn bối rối.

Không chỉ riêng bà đâu, Langdon nghĩ thầm. Với hầu hết mọi người, càng ngắm Sự phong thánh của Washington, họ càng thấy nó lạ lùng.

- George Washington ở ngay trung tâm ấy. - Langdon nói, trỏ lên phần chính giữa mái vòm cao tới hơn 50 mét - Các vị thấy đấy, ông mặc áo choàng trắng, đang bước lên mây, dưới đám mây là một người thường, mười ba thiếu nữ hộ tống theo sau. Đây chính là thời điểm phong thánh... là quá trình Washington biến thành thần linh.

Sato và Anderson không nói năng gì.

- Gần đó - Langdon tiếp tục - các vị có thể thấy một loạt nhân vật xa xưa, lạ lùng: đó là các vị thần cổ đại. Họ đang trao cho cha ông chúng ta những tri thức tiên tiến. Kia là thần Minerva, đang truyền cảm hứng công nghệ cho các nhà phát minh vĩ đại như Ben Franklin, Robert Fulton, Samuel Morse - Langdon lần lượt chỉ rõ từng nhân vật - Trên kia, thần Vulcan giúp chúng ta tạo ra cỗ máy hơi nước. Cạnh đó, thần Neptune giảng giải cách đặt đường cáp xuyên đại dương. Kế bên là thần Ceres, nữ thần ngũ cốc và là nguồn gốc tạo ra từ ngũ cốc (cereal), bà ngồi trên chiếc máy gặt McCormick, công trình mang tính đột phá trong nông nghiệp, giúp Hoa Kỳ trở thành nước sản xuất lương thực hàng đầu thế giới. Bức tranh này công khai khắc hoạ cảnh tiền nhân của chúng ta tiếp nhận nguồn tri thức lớn lao từ các thần linh - Anh cúi đầu, nhìn Sato - Tri thức là một sức mạnh, và tri thức đúng đắn giúp con người thực hiện được những điều kỳ diệu, những nhiệm vụ phi thường.

Sato thu ánh mắt, nhìn trả Langdon và xoa xoa gáy.

- Lắp đặt đường cáp điện thoại thì liên quan gì đến việc làm thần!

- Có lẽ đúng như vậy với một người hiện đại, - Langdon đáp - Nhưng với George Washington, nếu biết chúng ta có khả năng trò chuyện với mọi người tận bên kia đại dương, bay nhanh bằng tốc độ âm thanh và đặt cả chân lên mặt trăng thì ông ấy sẽ cho rằng việc làm của chúng ta thật kỳ diệu, và tưởng chúng ta đều thành thần tiên cả rồi - Anh ngừng một lúc - Nhà Vị lai chủ nghĩa Arthur C. Clarke từng nói, "Các công nghệ tiên tiến chẳng khác biệt phép màu là mấy".

Sato mím môi, rõ ràng đang suy nghĩ rất ghê. Bà ta liếc xuống bàn tay, rồi nhìn theo hướng ngón trỏ duỗi thẳng lên mái vòm.

- Giáo sư, gã đó bảo ông là "Peter sẽ chỉ đường". Phải vậy không nhỉ?

- Vâng, thưa bà, nhưng...

- Chỉ huy, - Sato nói, rời mắt khỏi Langdon - anh có thể giúp chúng tôi quan sát bức tranh gần hơn được không?

Anderson gật đầu.

- Có một lối đi hẹp chạy vòng xung quanh bên trong mái vòm.

Langdon ngước nhìn cái lan can nhỏ xíu ngay bên dưới bức vẽ và cảm thấy toàn thân cứng đờ.

- Không cần phải lên tận đó đâu.

Trước đây, anh đã từng bước trên lối đi hẹp ít người thăm viếng đó cùng một thượng nghị sĩ Hoa Kỳ và vợ ông ta, anh gần như ngất xỉu do chóng mặt trước độ cao quá lớn và lối đi quá nguy hiểm.

- Không cần sao? - Sato gặng hỏi - Giáo sư, chúng ta biết có kẻ cho rằng căn phòng này chứa đựng một cánh cổng khả dĩ giúp gã trở thành thần thánh; chúng ta có một bức bích hoạ mô tả quá trình thay đổi của một con người thành một vị thần, và chúng ta có một bàn tay chỉ thẳng lên bức vẽ đó. Dường như tất cả mọi chi tiết đều giục chúng ta đi lên trên.

- Thực ra, - Anderson xen vào, mắt ngước nhìn trần - ít người biết rằng có một khoang bát giác bên trong mái vòm, mở ra mở vào được như một cánh cổng, quý vị có thể nhìn qua đó và...

- Khoan đã, - Langdon nói - ông nhầm đường rồi đấy. Cánh cổng mà gã kia đang tìm kiếm là một cánh cổng tượng trưng, một cánh cổng không tồn tại. Khi gã nói "Peter sẽ chỉ đường", là gã đang ẩn dụ. Động tác chỉ tay với ngón trỏ và ngón cái chĩa thẳng lên trên là một biểu tượng quen thuộc của những Bí ẩn cổ xưa, từng hiển hiện trong nghệ thuật cổ đại trên khắp thế giới. Động tác y hệt như thế này từng xuất hiện trong ba kiệt tác mã hoá nổi tiếng nhất của Leonardo da Vinci là Bữa tiệc Ly, Sùng bái Magi và Thánh John Người rửa tội. Nó là một biểu tượng về sự liên hệ huyền bí giữa con người với Chúa.

Thương hạ tương liên. Giờ đây, cách lựa chọn từ ngữ kỳ quái của gã điên bắt đầu hé lộ đôi phần hữu lý.

- Tôi chưa bao giờ nhìn thấy nó cả. - Sato nói.

Vậy thì hãy xem kênh ESPN, Langdon nghĩ bụng, anh luôn thích thú khi thấy những vận động viên chuyện nghiệp chỉ tay lên trời để cảm tạ Chúa sau khi ghi bàn hoặc về đích. Anh tự hỏi liệu có bao nhiêu người biết rằng họ đang tiếp tục một truyền thống từ thời tiền Công giáo là cảm ơn sức mạnh huyền bí của bề trên, nguồn sức mạnh mà trong một thời khắc ngắn ngủi đã biến cải họ thành một vị thần có khả năng thực hiện những điều kỳ diệu.

- Tôi tiết lộ một điều may ra có ích cho bà chăng, - Langdon nói - bàn tay của Peter không phải là bàn tay đầu tiên xuất hiện kiểu này trong Nhà tròn.

Sato nhìn Langdon như nhìn một người mất trí.

- Ông nói sao cơ?

Langdon chỉ chiếc điện thoại Blackberry của Sato.

- Hãy tìm cụm từ "George Washington Zeus" trên Google thử xem.

Sato có vẻ không tin tưởng lắm nhưng vẫn bấm bàn phím.

Anderson nhích lại gần, chăm chú nhìn qua vai bà ta.

Langdon nói:

- Nhà tròn này từng có một bức điêu khắc rất lớn hình George Washington để ngực trần... được khắc hoạ như một vị thần. Ông ngồi theo tư thế giống thần Zeus trong đền Pantheon, ngực trần, tay trái cầm một thanh kiếm, tay phải giơ lên với ngón cái và ngón trỏ duỗi ra.

Rõ ràng Sato đã tìm thấy một bức hình trên mạng, bởi vì Anderson đang đăm đăm nhìn chiếc Blackberry của bà ta, vẻ kinh ngạc.

- Xem nào, đó là George Washington ư?

- Phải, - Langdon nói - Được mô tả như thần Zeus.

- Nhìn tay ông ấy kìa, - Anderson nói, vẫn ngó đăm đăm qua vai Sato - Tay phải ông ấy ở tư thế y hệt như tay Solomon.

Thì tôi đã nói đấy thôi, Langdon nghĩ thầm, tay Peter không phải là Mật Thủ đầu tiên xuất hiện trong căn phòng này. Khi pho tượng George Washington cởi trần của Horatio Greenough được trưng bày lần đầu tại Nhà tròn, nhiều người đã đùa rằng chắc Washington đang cố lên trời để tìm vài bộ quần áo. Tuy nhiên, khi quan niệm tôn giáo của nước Mỹ thay đổi thì những lời bình phẩm bông đùa lại biến thành tranh cãi, và pho tượng bị dời tới một nhà kho trong khu vườn phía đông. Hiện nay, nó ngự tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia của Viện Smithsonian, nơi ai nhìn thấy cũng phải tin ngay rằng nó là một trong những mối hên hệ cuối cùng với thời đại Washington, khi người cha của đất nước nhìn xuống Điện Capitol như một vị thần... chẳng khác gì thần Zeus nhìn xuống đền Pantheon.

Sato bấm một số nào đó trên chiếc Blackberry, rõ ràng nhận thấy đã đến lúc phải kiểm tra với nhân viên của mình.

- Các anh tìm được gì? - Bà ta lắng nghe một cách kiên nhẫn - Tôi hiểu... - đoạn nhìn thẳng vào Langdon, sau đó đưa mắt sang bàn tay Peter - Anh chắc chứ? - Sato nghe một lúc lâu hơn - Được rồi, cảm ơn - Cuối cùng bà ta tắt máy và quay lại phía Langdon.

- Nhân viên hỗ trợ của tôi đã làm một số nghiên cứu và xác nhận sự tồn tại của cái mà ông gọi là Mật Thủ, chứng thực mọi điều ông kể: từ năm dấu hiệu trên đầu ngón tay là ngôi sao, mặt trời, chìa khoá, vương miện và đèn lồng đến thực tế rằng bàn tay này là một lời mời cổ xưa để nắm bắt tri thức bí mật.

- Tôi rất mừng, - Langdon đáp.

- Đừng vội, - bà ta đáp lại cộc lốc - Chúng ta lâm vào đường cùng rồi, trừ phi ông bằng lòng hé lộ hết những điều ông đang che giấu.

- Thưa bà?

Sato bước tới gần anh.

- Chúng ta lại trở về điểm xuất phát, thưa Giáo sư. Ông cung cấp cho tôi toàn những điều tôi có thể tham khảo được từ các nhân viên của mình. Vì thế tôi phải hỏi ông lần nữa. Tại sao người ta dụ ông tới đây tối nay? Điều gì khiến ông trở thành trường hợp đặc biệt? Điều gì ông biết mà người khác không biết?

- Chúng ta đã nói hết lúc nãy rồi, - Langdon phản đối - Tôi không hiểu tại sao gã này lại cho rằng tôi biết điều gì đó.

Langdon rất muốn gặng hỏi làm thế quái nào mà Sato lại hay tin anh có mặt ở Điện Capitol tối nay, nhưng anh không đề cập đến.

Chẳng đời nào Sato nói ra.

- Nếu tôi biết bước tiếp theo; - anh bảo - tôi sẽ nói với bà. Nhưng tôi không biết. Theo truyền thống, Mật Thủ là do đại sư đưa cho môn đệ. Và sau đó, rất nhanh sau đó, một loạt chỉ dẫn sẽ xuất hiện tiếp theo bàn tay... chỉ dẫn về bất cứ thứ gì, chẳng hạn về đền thờ, về tên ồng thầy sẽ dạy dỗ người đó. Nhưng gã này chỉ để lại cho chúng ta năm hình xăm? Khó lòng... - Chợt Langdon ngừng bặt.

Sato nhìn anh.

- Có chuyện gì thế?

Ánh mắt Langdon dõi trở lại bàn tay. Năm hình xăm. Anh bỗng nhận ra rằng những gì mình đang nói có thể không hoàn toàn đúng.

- Giáo sư? - Sato gọi giật giọng.

Langdon nhích dần về phía cái vật ghê gớm kia. Peter sẽ chỉ đường.

- Tôi sực nảy ra ý nghĩ rằng gã điên có để lại một thứ gì đó trong bàn tay nắm chặt kia, một bản đồ, một lá thư, hoặc một vài chỉ dẫn.

- Không có đâu, - Anderson góp ý - Các vị thấy đấy, ba ngón tay nắm không chặt lắm.

- Ông nói đúng, - Langdon đồng ý - Nhưng với tôi... - Anh cúi rạp xuống, cố gắng nhìn phía dưới các ngón tay để xem phần lòng bàn tay bị che khuất của Peter - nó không nhất thiết phải viết trên giấy.

- Viết bằng hình xăm chăng? - Anderson nói.

Langdon gật đầu.

- Ông có nhìn thấy gì trên lòng bàn tay không? - Sato hỏi.

Langdon cúi xuống thấp hơn, cố nhìn lên phần bên dưới các ngón tay nắm hờ.

- Góc này khó nhìn quá. Tôi không tài nào...

- Ôi chao - Sato thốt lên và bước lại gần anh - Cứ nậy cái vật khốn kiếp ấy ra.

Anderson bước tới chắn đường bà ta.

- Thưa bà! Nên đợi pháp y rồi hẵng chạm...

- Tôi muốn có câu trả lời - Sato đáp, bước nhanh qua viên Chỉ huy.

Bà ta cúi rạp xuống, gạt Langdon ra xa bàn tay.

Langdon đứng lên và như không tin vào mắt mình khi thấy Sato rút từ trong túi ra một cây bút, cẩn thận luồn nó xuống dưới ba ngón tay co quắp. Sau đó, bà ta lần lượt cạy các ngón tay lên cho tới khi bàn tay mở hoàn toàn. Lòng bàn tay phơi ra rất rõ.

Sato ngước mắt nhìn Langdon, gương mặt thoáng nụ cười.

- Lại đúng nữa, thưa Giáo sư.

Chú thích:

(39) Hành lang Brumidi là phần hành lang uốn vòm được trang trí công phu thuộc tầng 1 của khu Thượng viện trong Điện Capitol.

Chương 22

Katherine rảo bước trong thư viện, kéo ống tay áo bờ-lu và nhìn đồng hồ. Cô vốn không quen chờ đợi, nhưng lúc này, thế giới quanh cô như ngưng đọng cả rồi. Cô đang đợi kết quả tìm kiếm của Trish, đợi tin từ anh trai mình, và đợi cả cuộc gọi lại từ kẻ chịu trách nhiệm về toàn bộ tình trạng rối bời này.

Ước gì anh ta đừng nói với mình, Katherine nghĩ bụng. Bình thường, cô hết sức thận trọng trong chuyện kết giao, nhưng dù lúc chiều mới gặp người đàn ông đó lần đầu, cô đã thấy tin cậy anh ta chỉ sau vài phút. Tin hoàn toàn.

Anh ta gọi đến khi Katherine đang tận hưởng niềm vui thường lệ chiều Chủ nhật là theo dõi các tờ tạp chí khoa học trong tuần.

- Bà Solomon phải không ạ? - giọng nói nhẹ nhàng khác thường cất lên - Tôi là Bác sĩ Christopher Abaddon. Tôi hy vọng được trao đổi một lát về anh trai bà.

- Xin lỗi, ai thế nhỉ? - Katherine gặng hỏi, và làm thế nào ông ta lại có số điện thoại di động riêng của mình?

Bác sĩ Christopher Abaddon.

Katherine không có chút ấn tượng nào với cái tên này.

Người kia hắng giọng, cứ như thể vừa rơi vào tình huống lúng túng khó xử.

- Tôi xin lỗi, thưa bà Solomon. Tôi cứ đinh ninh anh trai bà đã kể với bà về tôi rồi chứ. Tôi là bác sĩ của Peter. Số điện thoại di động của bà nằm trong danh sách liên hệ khẩn cấp của ông ấy.

Tim Katherine như ngừng lại. Liên hệ khẩn cấp ư?

- Có chuyện gì không ổn à?

- Không... tôi không nghĩ vậy, - người kia đáp - Anh trai bà lỡ hẹn sáng nay, và tôi không thể liên lạc được bằng bất kỳ số nào của ông ấy. Peter chưa bao giờ lỡ hẹn mà không thông báo, và tôi thấy hơi lo. Tôi phân vân lắm trước khi gọi điện cho bà, nhưng...

- Không, không sao đâu, tôi rất biết ơn sự lo lắng của ông - Katherine vẫn cố gắng nhớ xem đã nghe đến tên người bác sĩ này chưa - Suốt từ sáng hôm qua tới giờ tôi chưa nói chuyện với Peter, nhưng chắc là do anh ấy quên bật điện thoại di động.

Gần đây Katherine có tặng cho anh mình một chiếc iPhone và ông vẫn chưa có thời gian để tìm hiểu cách sử dụng nó.

- Ông là bác sĩ của anh ấy à? - cô hỏi. Phải chăng Peter bị bệnh anh nhưng lại giấu mình?

Đường dây lặng đi một lúc.

- Tôi rất lấy làm tiếc, nhưng tôi đã phạm một sai lầm nghề nghiệp khá nghiêm trọng khi gọi cho bà. Peter bảo tôi rằng bà đã biết việc ông ấy đến chỗ tôi, nhưng giờ thì tôi biết là không phải như vậy.

Anh trai mình nói dối bác sĩ riêng ư? Katherine càng thêm lo âu.

- Anh ấy bị ốm à?

- Tôi xin lỗi, bà Solomon, nguyên tắc giữ bí mật giữa bác sĩ và bệnh nhân không cho phép tôi công khai tình trạng của anh trai bà, và tôi đã trót nói quá nhiều khi thừa nhận rằng ông ấy là bệnh nhân của tôi. Giờ tôi sẽ gác máy, nhưng nếu hôm nay bà liên lạc được với Peter, xin nhắc ông ấy gọi cho tôi để tôi biết là ông ấy vẫn ổn.

- Đợi một chút? - Katherine vội nói - Hãy cho tôi biết Peter gặp chuyện gì!

Bác sĩ Abaddon thở hắt ra, chừng như khó chịu vì sai lầm của mình.

- Bà Solomon, tôi có thể thấy rằng bà không vui, nhưng tôi không dám trách bà. Tôi xin khẳng định anh trai bà ổn thôi. Ông ấy chỉ vừa mới tới chỗ tôi ngày hôm qua.

- Hôm qua ư? Và anh ấy lại hẹn tiếp vào hôm nay à? Có vẻ gấp gáp quá nhỉ.

Người kia thở dài.

- Tôi nghĩ chúng ta nên dành cho Peter đôi chút thời gian rồi hãy...

- Tôi sẽ đến chỗ bác sĩ ngay bây giờ, - Katherine nói, rảo chân đi ra cửa - Bác sĩ ở chỗ nào nhỉ?

Im lặng.

- Bác sĩ Christopher Abaddon? - Katherine gọi - ông hãy cho tôi biết địa chỉ, hoặc tôi sẽ tự tra ra. Bằng cách nào thì tôi cũng sẽ đến chỗ ông thôi.

Người bác sĩ ngập ngừng.

- Nếu muốn tôi gặp, thưa bà Solomon, xin bà vui lòng đừng nói gì với Peter cho tới khi tôi có cơ hội giải thích sơ suất của mình được không?

- Vâng.

- Cảm ơn bà. Văn phòng của tôi ở Kalorama Heights - Anh ta đưa cho cô địa chỉ.

Hai mươi phút sau, Katherine Solomon đã có mặt trên những con phố trang nghiêm của khu Kalorama Heights. Cô đã gọi tới tất cả các số điện thoại của anh trai mình nhưng đều không thấy trả lời. Cô không cảm thấy quá lo lắng chuyện anh trai cô đang ở đâu, trái lại, việc anh ấy bí mật tới gặp một bác sĩ... mới là vấn đề.

Khi tìm được địa chỉ, Katherine ngơ ngác ngước nhìn toà nhà. Đây mà là phòng khám của một bác sĩ ư?

Toà tư gia sang trọng trước mắt cô nằm trong hàng rào bảo vệ bằng sắt rèn, lắp nhiều camera điện tử và có những khoảnh vườn tươi tốt. Katherine đang giảm tốc độ để kiểm tra địa chỉ cho chắc chắn thì một chiếc máy quay xoay về phía cô, và cánh cổng mở ra. Katherine ngập ngừng cho xe chạy vào và đỗ cạnh một chiếc Limousine dài, gần đó là một ga-ra đủ chỗ cho sáu chiếc xe.

Anh chàng này là bác sĩ gì không biết?

Lúc Katherine bước ra khỏi xe, cửa trước toà nhà mở ra và một nhân vật lịch lãm xuất hiện. Anh ta khá điển trai, cao lớn, và trẻ hơn cô hình dung. Mặc dù vậy, ở anh ta lại toát ra vẻ tinh tế và phong nhã thường thấy ở lứa già dặn hơn. Anh ta ăn mặc rất chỉnh tề comple sẫm màu thắt cà vạt hẳn hoi, mái tóc vàng dày uốn chải rất công phu.

- Bà Solomon, tôi là bác sĩ Christopher Abaddon. - anh ta lên tiếng, giọng chỉ như tiếng thì thầm.

Khi họ bắt tay nhau, Katherine nhận thấy làn da anh ta trơn mịn và được chăm sóc rất cẩn thận.

- Tôi là Katherine Solomon, - Katherine đáp, cố gắng không nhìn chằm chằm vào làn da nhẵn nhụi và bóng mịn một cách khác thường của người bác sĩ. Hình nhanh ta có hoá trang thì phải?

Khi Katherine bước vào phòng đợi được bài trí rất đẹp, nỗi bất an trong lòng cô bỗng tăng thêm. Nhạc cổ điển ngân nga êm dịu, và không khí toả mùi thơm như có người vừa đốt hương.

- Tuyệt vời thật - cô nhận xét - mặc dù nó không giống kiểu phòng khám mà tôi hình dung.

- Tôi có may mắn là làm việc ngay tại tư gia - Người kia dẫn Katherine vào phòng khách, nơi có đống lửa đang tí tách cháy - Xin bà cứ tự nhiên. Tôi đi pha trà. Tôi sẽ mang ra ngay để chúng ta còn nói chuyện - Anh ta rảo bước về phía bếp và biến mất.

Katherine Solomon chưa ngồi ngay. Trực giác của phụ nữ là một bản năng mạnh mẽ mà cô rất tin tưởng, và ở nơi này có gì đó làm cô gai người. Không một chi tiết nào gợi liên tưởng đến phòng khám của một bác sĩ như cô từng gặp. Phòng khách được trang hoàng toàn đồ cổ những tác phẩm nghệ thuật cổ điển phủ kín các bức tường, chủ yếu là tranh vẽ với nhiều chủ đề thần thoại rất lạ. Katherine dừng lại trước một tấm toan lớn hoạ Ba Kiều nữ với những tấm thân để trần, thể hiện rất ấn tượng nhờ các màu sắc sống động.

- Đó là bức sơn dầu nguyên bản của Michael Parkes - Bác sĩ Abaddon im lìm xuất hiện ngay bên cạnh Katherine, tay bưng một khay trà đang bốc khói - Tôi nghĩ chúng ta nên ngồi gần bếp lửa? - Anh ta dẫn cô qua phòng khách và mời cô ngồi - Không có gì phải lo lắng cả đâu.

- Tôi không lo lắng, - Katherine đáp lại, có phần hấp tấp.

Người chủ nhà mỉm cười trấn an.

- Thật ra, công việc của tôi là biết khi nào thì người khác lo lắng.

- Bác sĩ nói sao cơ?

- Tôi là bác sĩ tâm lý, thưa bà Solomon. Đó là chuyên môn của tôi.

- Tôi đã gặp gỡ anh trai bà được ngót một năm nay. Tôi là chuyên gia trị liệu của ông ấy.

Katherine thừ người. Anh trai mình đang phải trị liệu ư?

- Bệnh nhân nào chẳng tìm cách giữ bí mật việc điều trị của mình, - người đàn ông nói - Tôi thật sai lầm khi gọi cho bà, mặc dù nếu bao biện thì đúng là tại anh bà mà tôi mới nhầm lẫn như vậy.

- Tôi... tôi không hề hay biết.

- Tôi xin lỗi nếu khiến bà lo lắng, - người đàn ông nói, vẻ lúng túng - Tôi nhận ra bà chú ý đến gương mặt tôi lúc chúng ta gặp nhau, và vâng, tôi có hoá trang đấy - Anh ta tự sờ vào má mình, vẻ ngượng ngập - Tôi mắc bệnh về da liễu, nên muốn che giấu. Vợ tôi thường đắp mặt cho tôi, nhưng khi cô ấy vắng nhà thì tôi đành phải trông vào đôi tay vụng về của mình.

Katherine gật đầu, cô quá bối rối nên chẳng biết nói gì.

- Và mái tóc tuyệt vời này... - Anh ta sờ tay lên bộ tóc vàng óng của mình - Tóc giả đấy mà. Bệnh ngoài da của tôi ảnh hưởng cả tới các nang da đầu khiến tóc tôi bay sạch - Anh ta nhún vai - E rằng một trong những lỗi lầm của tôi là quá đỏm dáng.

- Thế thì lỗi của tôi là khiếm nhã mất rồi, - Katherine đáp.

- Không hề - Bác sĩ Abaddon mỉm cười trấn an - Chúng ta bắt đầu nhé? Có lẽ mời bà dùng chút trà nhỉ?

Họ ngồi trước đống lửa và Abaddon rót trà...

- Gặp anh trai bà mãi, đâm ra tôi có thói quen dùng trà. Ông ấy nói nhà Solomon toàn những người uống trà cả.

- Đó là truyền thống gia đình tôi, - Katherine đáp - Xin cho tôi trà đen, cảm ơn.

Họ nhâm nhi trà và chuyện phiếm vài phút, nhưng Katherine rất nóng lòng muốn biết thông tin về anh trai mình.

- Tại sao anh tôi lại tới gặp bác sĩ? - cô hỏi, và tại sao anh ấy lại không hề nói gì với mình? Phải thừa nhận, Peter đã từng chịu đựng nhiều chuyện đau buồn trong đời - mất cha từ rất sớm, và sau đó, chỉ trong vòng năm năm, ông phải chôn cất hết đứa con trai duy nhất lại đến mẹ mình. Mặc dù vậy, Peter luôn gắng sống theo hướng tích cực.

Bác sĩ Abaddon nhấp một ngụm trà.

- Anh bà đến đây bởi vì ông ấy tin tưởng tôi. Chúng tôi có một mối liên hệ vượt xa mối liên hệ thông thường giữa bác sĩ với bệnh nhân - Anh ta trỏ một tài liệu đóng khung ở gần bếp lò. Thoạt trông nó giống một tấm bằng, nhưng khi nhìn kỹ, Katherine nhận ra hình con phượng hoàng hai đầu.

- Bác sĩ là hội viên Tam điểm? - Mà lại là cấp cao nhất, chắc chắn thế.

- Peter và tôi là huynh đệ.

- Chắc chắn bác sĩ đã thực hiện việc gì đó rất quan trọng nên mới được mời lên cấp 33.

- Không hẳn, - Abaddon đáp - Tôi có tiền, và tôi tặng rất nhiều tiền cho các quỹ từ thiện của Hội.

Giờ thì Katherine nhận ra tại sao anh trai cô lại tin tưởng vị bác sĩ trẻ tuổi này. Một hội viên Tam điểm giàu có, quan tâm đến hoạt động nhân đạo và thần thoại cổ đại. Xem ra bác sĩ Abaddon có nhiều điểm chung với Peter hơn cô tưởng.

- Khi hỏi vì sao Peter tới gặp bác sĩ, là tôi muốn biết nguyên do anh ấy cần bác sĩ tâm lý, chứ không phải ngụ ý tại sao anh ấy chọn ông, - Katherine giải thích.

Bác sĩ Abaddon mỉm cười.

- Vâng, tôi biết. Tôi đang tìm cách né tránh câu hỏi một cách tế nhị. Thật sự thì đó không phải là chuyện tôi nên nói ra - Anh ta ngừng lại - Mặc dù tôi phải nói rằng tôi rất bối rối vì Peter giữ kín không cho bà biết các cuộc thảo luận giữa chúng tôi, bởi lẽ các cuộc thảo luận ấy có liên quan trực tiếp tới nghiên cứu của bà.

- Nghiên cứu của tôi à? - Katherine hỏi, hoàn toàn không còn e dè nữa. Peter nói về nghiên cứu của mình ư?

- Gần đây, anh trai bà có đến tôi để hỏi ý kiến chuyên môn về tác động tâm lý của những đột phá mà bà đang tiến hành trong phòng thí nghiệm.

Katherine suýt bị sặc trà.

- Thật sao? Tôi... rất ngạc nhiên, - cô cố trấn tĩnh. Peter đang nghĩ gì không biết? Anh ấy kể với bác sĩ tâm lý về công việc của mình ư?Họ đã quy ước với nhau rằng sẽ không hé lộ với bất kỳ ai về những gì Katherine đang tiến hành. Hơn nữa, chính anh trai cô là người đề xuất phải giữ bí mật kia mà.

- Thưa bà Solomon, chắc chắn bà biết rõ rằng Peter rất quan tâm xem chuyện gì sẽ xảy ra khi nghiên cứu của bà được công bố. Ông ấy nhìn thấy tiềm năng của một sự thay đổi triết học rất lớn trên thế giới... và ông ấy đến đây để thảo luận về những hậu quả có thể phát sinh, từ góc nhìn của khoa tâm lý.

- Tôi hiểu, - Katherine đáp, tách trà của cô run run.

- Chúng tôi thảo luận những vấn đề rất gai góc: Chuyện gì sẽ xảy ra với con người nếu những bí mật lớn nhất của cuộc sống bị phanh phui? Chuyện gì sẽ xảy ra khi những niềm tin mà chúng ta chấp nhận như những tín điều... đột nhiên được chứng minh là sự thật hay huyền thoại? Có thể có người sẽ nói, tốt nhất là cứ để cho những câu hỏi chưa lời giải đáp được yên thân.

Katherine không tin nổi những điều đang nghe, nhưng cô cố kìm nén cảm xúc của mình.

- Tôi hy vọng anh không phiền lòng, thưa bác sĩ Abaddon, nhưng tôi không muốn thảo luận chi tiết về công việc của mình. Tôi chưa có kế hoạch công bố cụ thể bất cứ điều gì. Tạm thời, những phát hiện của tôi vẫn được cất giữ an toàn trong phòng thí nghiệm.

- Rất hay - Abaddon ngả người trên ghế, trầm ngâm suy nghĩ một lát - Dù thế nào thì tôi cũng đã dặn Peter quay lại đây hôm nay vì hôm qua ông ấy có chút vấn đề. Khi chuyện đó xảy ra, tôi vẫn đang có khách...

- Vấn đề à? - Tim Katherine đập mạnh - Là suy sụp chăng? - Cô không thể hình dung nổi anh trai mình lại suy sụp vì vấn đề gì đó.

Abaddon nhẹ nhàng tiến tới.

- Tôi có thể thấy là tôi vừa làm bà không vui. Tôi rất xin lỗi. Trước tình hình rắc rối này, chắc bà cho rằng bà nên được nghe câu trả lời.

- Không phải vấn đề nên hay không, điểm mấu chốt là tôi chỉ còn Peter là người thân duy nhất, - Katherine đáp - Không ai hiểu anh ấy rõ hơn tôi, nếu bác sĩ cho tôi biết chuyện gì đang xảy ra thì có lẽ tôi sẽ giúp được bác sĩ. Chúng ta cùng chung một mong muốn là làm những điều tốt nhất cho anh Peter mà.

Bác sĩ Abaddon chìm vào im lặng khá lâu và sau đó chậm rãi gật đầu như thể tán đồng. Cuối cùng. anh ta lên tiếng.

- Nói cho rõ, thưa bà Solomon, sở dĩ tôi quyết định chia sẻ thông tin này với bà chỉ vì tôi nghĩ những hiểu biết của bà có thể giúp tôi hỗ trợ Peter.

- Dĩ nhiên rồi.

Abaddon rướn người ra phía trước, tì khuỷu tay lên đầu gối.

- Bà Solomon, hễ gặp anh trai bà, tôi lại cảm thấy ông ấy cứ bị dằn vặt ghê gớm vì một cảm giác tội lỗi nào đó. Tôi chưa bao giờ gặng hỏi tỉ mỉ bởi vì đó không phải là mục đích khiến ông ấy tìm đến tôi. Nhưng hôm qua, vì một vài lý do, tôi đã hỏi ông ấy - Abaddon nhìn xoáy vào cô Peter đã tâm sự hết, thật đột ngột và bất ngờ. Ông thổ lộ những điều tôi không tưởng nổi là sẽ được nghe... kể cả những chi tiết về cái đêm mẹ của ông bà qua đời.

Đêm Giáng sinh - gần mười năm về trước. Mẹ trút hơi thở cuối cùng ngay trên tay mình.

- Peter kể với tôi rằng mẹ của ông bà bị sát hại trong một vụ cướp tại tư gia. Một kẻ đã đột nhập để truy tìm một thứ mà hắn cho rằng anh trai bà đang cất giấu?

- Đúng vậy.

Mắt Abaddon ánh lên dò xét.

- Peter kể ông ấy đã bắn chết tên cướp.

- Phải.

Abaddon xoa xoa cằm.

- Bà còn nhớ kẻ đột nhập tìm kiếm thứ gì khi hắn mò vào nhà bà không?

Câu hỏi gợi lên một ký ức mà Katherine đã cố gắng đào sâu chôn chặt suốt mười năm nay.

- Hừm, yêu cầu của hắn rất kỳ cục. Tiếc rằng không ai trong chúng tôi hiểu hắn muốn nói gì. Chúng tôi đều ngơ ngác trước đòi hỏi của hắn.

- Chà, anh trai bà thì hiểu đấy.

- Sao cơ? - Katherine ngồi thẳng dậy.

- Ít nhất theo câu chuyện mà Peter kể với tôi hôm qua, ông ấy biết chính xác kẻ đột nhập tìm kiếm thứ gì. Vì không muốn giao nó nên ông ấy giả vờ không hiểu mà thôi.

- Vô lý! Anh Peter không thể biết người kia muốn gì. Những yêu cầu của hắn thật vô nghĩa!

- Thú vị đấy - Bác sĩ Abaddon dừng lại và ghi chép vài điều - Như tôi đã nói, Peter kể với tôi là ông ấy biết rõ. Anh bà tin rằng nếu thuận theo kẻ đột nhập thì có lẽ mẹ của ông bà vẫn còn sống đến hôm nay. Quyết định này chính là căn nguyên tất cả cảm giác tội lỗi của ông ấy.

Katherine lắc đầu.

- Vớ vẩn hết sức...

Abaddon chùng người xuống, vẻ bối rối.

- Thưa bà Solomon, đây là một phản hồi rất hữu ích. Như tôi đã từng lo ngại, anh trai bà dường như hơi xa rời thực tế. Tôi phải thừa nhận rằng tôi sợ tình hình có thể trầm trọng thêm. Đó là lý do tại sao tôi dặn ông ấy quay lại đây hôm nay. ảo giác loại này không phải hiếm, nhất là khi chúng có liên quan đến những ký ức đau buồn.

Katherine lại lắc đầu.

- Anh Peter không hề bị ảo giác, thưa Bác sĩ Abaddon.

- Tôi đồng ý, có điều...

- Có điều gì cơ?

- Có điều việc ông ấy nhớ lại vụ tấn công mới chỉ là phần mở đầu một phần rất nhỏ của một câu chuyện dài và hoang đường mà ông ấy kể với tôi.

Katherine ngả người về phía trước.

- Anh Peter đã nói những gì với bác sĩ?

Abaddon cười buồn.

- Thưa bà Solomon, cho phép tôi hỏi câu này. Đã bao giờ Peter đề cập với bà về một thứ mà ông ấy tin rằng được cất giấu ngay tại Washington D.C.... hoặc về vai trò mà ông ấy đang đảm nhận để bảo vệ một kho báu khổng lồ gồm toàn những tri thức cổ xưa đã bị thất truyền chưa?

Katherine há hốc miệng.

- Bác sĩ đang nói về chuyện gì vậy?

Abaddon thở dài.

- Câu chuyện tôi sắp kể sẽ khiến bà khá sốc, thưa bà Katherine - Anh ta ngừng lại và nhìn xoáy vào cô - Nhưng nó sẽ vô cùng hữu ích nếu bà có thể nói cho tôi bất kỳ điều gì bà biết về nó - Anh ta với lấy chén trà của cô - Bà dùng thêm trà nhé?

Chương 23

Một hình xăm nữa.

Langdon lo lắng ép sát mình bên cạnh bàn tay đã duỗi ra của Peter và xem xét bảy biểu tượng nhỏ xíu giấu kín bên dưới những ngón tay co quắp không còn sinh khí.

- Hình như là các con số, - Langdon nói vẻ ngạc nhiên - Mặc dù tôi không nhận ra chúng.

- Nhóm đầu tiên là một số La Mã, - Anderson góp ý.

- Thực tình tôi không nghĩ vậy, - Langdon đính chính - Không hề có số La Mã I-I-I-X. Nếu viết đúng phải là V-I-I.

- Thế phần còn lại thì sao? - Sato hỏi.

- Tôi không chắc. Trông như là tám-tám-năm trong số Ả-rập vậy.

- Số Ả rập à? - Anderson hỏi - Trông chúng giống các con số thông thường.

- Các số chúng ta thường dùng chính là số Ả-rập - Langdon quen với việc phải giải thích điều này cho sinh viên của mình đến nỗi anh đã chuẩn bị hẳn một bài giảng về những tiến bộ khoa học của các nền văn hoá Trung Đông xưa kia, một trong những tiến bộ đó là hệ thống chữ số hiện đại của chúng ta, với nhiều ưu điểm hơn hẳn chữ số La Mã, chẳng hạn phát minh ra con số 0 và xây dựng được "hệ đếm theo vị trí". Dĩ nhiên, Langdon luôn kết thúc bài giảng với một câu nhắc nhở rằng cũng chính nền văn hoá Ả-rập đã cống hiến cho nhân loại từ al-kuhl, thứ đồ uống mà các tân sinh viên Harvard ưa chuộng và thường biết đến với tên gọi rượu.

Langdon xem xét kỹ hình xăm, cảm thấy rất khó hiểu.

- Tôi thậm chí còn không, chắc lắm về con số tám-tám-năm. Kiểu viết vuông vức trông rất lạ mắt. Có lẽ không phải là các con số.

- Vậy chúng là gì chứ? - Sato hỏi.

- Tôi không chắc. Toàn bộ hình xăm trông rất giống kiểu chữ... rune(40).

- Nghĩa là sao? - Sato hỏi.

- Hệ thống chữ cái rune chỉ bao gồm những đường thẳng. Các chữ viết đó được gọi là chữ rune và thường được dùng để khắc lên đá bởi vì các đường cong rất khó chạm khắc.

- Nếu đây là văn tự rune thì nghĩa của chúng là gì? - Sato hỏi.

Langdon lắc đầu. Kiến thức của anh cũng chỉ giới hạn ở bảng chữ cái rune cơ bản nhất là Futhark - một hệ thống chữ của người Giéc-manh thế kỷ thứ III - nhưng đây không phải là chữ Futhark.

- Thật tình, tôi thậm chí còn chưa dám chắc đây là chữ rune. Các vị cần hỏi một chuyên gia. Có hàng chục hình thức khác nhau như Halsinge(41), Manx(42), hay chữ chấm Stungnar...

- Peter Solomon là một hội viên Tam điểm, phải không?

Langdon tỏ vẻ ngạc nhiên.

- Phải, nhưng chuyện đó thì liên quan gì đến chuyện này? - Anh đứng thẳng lên, cao hơn hẳn người phụ nữ nhỏ bé.

- Ông cứ trả lời tôi đi. Ông vừa nói rằng các chữ cái rune được sử dụng để chạm lên đá, và theo tôi biết thì thành viên của Hội Tam điểm nguyên thuỷ là những người thợ đá. Tôi nói đến điều này là vì khi tôi yêu cầu văn phòng tìm kiếm mối liên hệ giữa Mật Thủ và Peter Solomon, kết quả của họ dẫn tới một mối liên hệ cụ thể - Bà ta dừng lại, như để nhấn mạnh ý nghĩa của những điều vừa khám phá - Hội Tam điểm.

Langdon thở hắt ra, cố kìm để khỏi nói thẳng với Sato những điều mà anh phải liên tục nhắc nhở sinh viên của mình: "Google" không có nghĩa là nghiên cứu, vào thời buổi mà việc tìm kiếm thông tin bằng các từ khoá ồ ạt, và phổ biến như hiện nay thì dường như mọi thứ đều có liên hệ với nhau. Thế giới đang trở thành một mạng lưới thông tin đan xen nhau và càng lúc càng trở nên dày hơn.

Langdon kiên nhẫn nói.

- Tôi không ngạc nhiên khi Hội Tam điểm xuất hiện trong kết quả tìm kiếm của nhân viên bà. Hội Tam điểm là một mắt xích rất rõ rệt giữa Peter Solomon và bất kỳ chủ đề bí ẩn nào.

- Phải, - Sato đáp, - đó là một lý do nữa khiến tôi ngạc nhiên, bởi buổi tối hôm nay ông chưa hề nhắc đến Hội Tam điểm. Sau hết, ông vừa giảng giải về những tri thức bí mật dành cho một thiểu số được khai sáng. Nghe có vẻ rất Tam điểm, phải không nhỉ?

- Đúng vậy... và nó cũng rất Rosicrucian(43), Kabbalistic(44), Alumbrados, hay bất kỳ hội kín nào.

- Nhưng Peter Solomon là một hội viên Tam điểm, một hội viên rất có thế lực là đằng khác. Dường như các hội viên Tam điểm đều sẽ rất quan tâm nếu chúng ta nói về các bí mật. Ai chẳng biết rằng Hội Tam điểm rất thích những bí mật.

Langdon nghe ra sắc thái ngờ vực trong giọng Sato, và anh chẳng mong muốn điều đó chút nào.

- Nếu bà cần thông tin gì về Hội Tam điểm, tốt hơn cả là nên trực tiếp hỏi một hội viên của họ.

- Thực ra tôi lại thích hỏi người tôi tin tưởng hơn, - Sato đáp.

Đối với Langdon, câu nói ấy vừa ngu ngốc vừa khiêu khích.

- Tôi xin mở ngoặc, thưa bà, toàn bộ triết lý Tam điểm được xây dựng trên cơ sở lòng trung thực và chính trực. Các hội viên Tam điểm là những người đáng tin cậy nhất mà bà có thể gặp được.

- Tôi thì lại thấy bằng chứng rất thuyết phục chứng minh ngược lại.

Langdon càng lúc càng không ưa Giám đốc Sato. Sau nhiều năm viết về truyền thống mô tả bằng hình tượng mang tính ẩn dụ và các biểu tượng của Hội Tam điểm, anh biết rằng hội này luôn là một trong những tổ chức bị hiểu sai và vu khống một cách thiếu công bằng nhất trên thế giới. Họ thường xuyên bị quy kết cho đủ thứ chuyện, từ thờ cúng quỷ dữ tới âm mưu lập một chính phủ cai trị toàn thế giới, nhưng chính sách của họ là không bao giờ phản ứng lại những kẻ chỉ trích mình, để tránh phải trở thành một mục tiêu dễ công kích.

- Nói gì thì nói, - Sato tiếp tục, giọng chua cay - chúng ta lại đi vào ngõ cụt, thưa ông Langdon. Dường như ông đã bỏ sót... hoặc giấu giếm tôi điều gì đó. Cái gã mà chúng ta đang phải đối phó bảo rằng Peter Solomon chọn riêng ông mà thôi - Bà ta ném cho Langdon một cái nhìn lạnh lẽo - Tôi nghĩ đã đến lúc chúng ta chuyển cuộc nói chuyện này về tổng hành dinh CIA. Biết đâu ở đó chúng ta lại gặp may hơn.

Lời doạ dẫm của Sato chẳng đe doạ nổi Langdon, nhưng lại tác động đến dòng suy tưởng của anh. Peter Solomon chọn riêng ông mà thôi. Câu nói này, kết hợp với chi tiết đề cập đến Hội Tam điểm, bỗng khiến Langdon giật mình. Anh nhìn xuống chiếc nhẫn trên ngón tay Peter. Chiếc nhẫn là một trong những vật sở hữu giá trị nhất của Peter - một vật gia bảo của dòng họ Solomon, mang biểu tượng phượng hoàng hai đầu - biểu tượng tối mật cho tri thức của Hội Tam điểm. Cái nhẫn vàng lóe sáng trong ánh đèn, gợi lại một ký ức bất ngờ.

Langdon sững sờ khi nhớ lại tiếng thì thào kỳ quái của kẻ bắt giữ Peter: Thật sự thì nó vẫn chưa hé mở gì với ông à? Tại sao ông lại được chọn nhỉ? Trong một khoảnh khắc kinh hoàng, mọi ý nghĩ của Langdon chợt tập trung lại, và màn sương được vén lên.

Ngay lập tức, mục đích khiến anh có mặt ở đây trở nên sáng rõ như ban ngày.

***

Cách đó mười dặm trên đường Suitland Parkway, trong lúc lái xe về phía nam. Mal'akh nghe thấy tiếng rung rõ rệt trên mặt ghế cạnh gã. Đó là chiếc iPhone của Peter Solomon, một thứ tỏ ra rất đắc dụng ngày hôm nay. Ảnh người gọi hiện trên màn hình, một phụ nữ trung niên quyến rũ với mái tóc đen dài.

KATHERINE SOLOMON ĐANG GỌI

Mal'akh mỉm cười, phớt lờ cuộc gọi. Số phận đang đưa ta lại gần hơn.

Gã đã lừa được Katherine Solomon tới nhà mình vào chiều nay chỉ vì một lý do - để xác định xem cô có thông tin gì giúp được cho gã không... có lẽ là một bí mật gia đình có thể giúp Mal'akh xác định được thứ gã tìm kiếm. Tuy nhiên, rõ ràng là anh trai Katherine đã chẳng nói gì với cô về những gì ông ta đang bảo vệ suốt nhiều năm qua. Thế nhưng Mal'akh lại biết được một điều khác từ Katherine. Một điều khiến cô phải mất vài tiếng cuộc đời trong ngày hôm nay.

Katherine đã xác nhận với gã rằng toàn bộ công trình nghiên cứu của cô nằm ở một địa điểm, cất giữ an toàn trong phòng thí nghiệm của cô.

Ta phải phá huỷ nó.

Nghiên cứu của Katherine rất có khả năng mở ra một cánh cửa hiểu biết mới, và một khi cánh cửa ấy chỉ hé ra thôi, những người khác sẽ tiếp bước. Chỉ còn là vấn đề thời gian trước khi mọi thứ thay đổi

Ta không thể để chuyện đó xảy ra. Thế giới phải nguyên trạng như nó vẫn thế... mông lung trong bóng tối ngu dốt.

Chiếc iPhone phát tín hiệu báo Katherine vừa gửi tới một thư thoại. Mal'akh nhận tin.

- Anh Peter, vẫn là em đây - Giọng Katherine nghe đầy lo lắng - Anh ở đâu vậy? Em đang nghĩ về cuộc trò chuyện của em với bác sĩ Abaddon... và em rất lo. Mọi thứ vẫn ổn chứ? Hãy gọi cho em. Em ở phòng thí nghiệm.

Thư thoại kết thúc.

Mal'akh mỉm cười. Katherine nên lo cho bản thân thay vì anh trai mụ. Gã ngoặt khỏi đường Suitland Parkway để sang phố Silver Hill.

Đi thêm chưa đầy một dặm nữa, trong bóng tối, gã nhận ra đường nét mờ mờ của toà nhà SMSC nép mình dưới bóng cây dọc đại lộ phía bên tay phải gã. Toàn bộ quần thể được bao quanh bởi một hàng rào thép gai cao ngất.

Một toà nhà được bảo vệ ư? Mal'akh cười thầm. Sẽ có người mở cửa cho ta vào.

Chú thích:

(40) Hệ chữ cái rune là một tập hợp những chữ cái có liên hệ với nhau dùng để viết nhiều ngôn ngữ Giéc manh khác nhau trước khi có hệ chữ cái La tin, từng được sử dụng ở Bắc Âu, Anh, bán đảo Scandinavia, và Iceland từ khoảng thế kỷ III đen thề kỷ XVII - ND.

(41) Hệ chữ cái rune rút gọn, chủ yếu tìm thấy trong các văn bia có niên đại vào thế kỷ X đến XII ở vùng Halsingland thuộc Thuỵ Điển. Hệ chữ này dường như là dạng đơn giản hoá của chữ rune Rok ở Thuỵ Điển - Na Uy và không có các nét đứng - ND.

(42) Manx là một ngôn ngữ Goidelic, có liên hệ gần gũi với ngôn ngữ Xen-tơ ở Ireland và Scotland - ND.

(43) Rosicrucianism (Hội Thập tự Hoa hồng) là thuyết thần học của một hội kín thần bí, hình thành ở Đức thời kỳ Trung cổ muộn, với học thuyết "xây dựng dựa trên những chân lý bí truyền của quá khứ cổ xưa", những thứ "được giữ kín trước người phàm, đem lại sự hiểu biết về tự nhiên, vũ trụ vật chất và lĩnh vực tinh thần" - ND.

(43) Kabbalah (nghĩa là "tiếp nhận") là một nguyên tắc và trường phái tư tưởng liên quan đến khía cạnh bí truyền của Do Thái giáo. Nó là một tập hợp những lời răn bí truyền nhằm giải thích mối quan hệ giữa một Đấng Sáng tạo toàn năng, bất tử với cái vũ trụ hữu hạn và có sinh có diệt do Ngài tạo ra. Kabbalah tìm cách định nghĩ bản chất của vũ trụ và con người, bản chất và mục đích của tồn tại, và nhiều câu hỏi khác. Nó cũng thể hiện phương pháp giúp hiểu những khái niệm này - ND.

Chương 24

Tâm trí Langdon đột nhiên thông suốt.

Mình hiểu tại sao mình lại ở đây.

Đứng ở chính giữa Nhà tròn, Langdon chỉ muốn quay mình chạy đi tránh xa bàn tay Peter, xa chiếc nhẫn vàng lấp lánh, xa hẳn con mắt ngờ vực của Sato và Anderson. Nhưng anh vẫn đứng bất động, tay nắm chặt thêm chiếc túi da đeo trên vai. Mình phải ra khỏi nơi này.

Hàm anh nghiến chặt lại, ký ức bắt đầu tái hiện quang cảnh buổi sáng lạnh lẽo nhiều năm về trước tại Cambridge(45). Lúc đó là 6 giờ sáng. Sau vài vòng bơi trong bể bơi trường Harvard, Langdon lên lớp như thường lệ. Anh vừa bước qua ngưỡng cửa, mùi bụi phấn quen thuộc đã ùa tới, trộn với hơi nước nóng quanh anh. Tiến được hai bước về phía bàn của mình, Langdon chợt đứng sững lại.

- Một người đang đợi anh ở đó - một quý ông lịch lãm với chiếc mũi khoằm và đôi mắt xám rất quý phái.

- Peter? - Langdon sửng sốt nhìn vị khách.

Nụ cười của Peter Solomon làm sáng bừng cả căn phòng vẫn còn tối lờ mờ.

- Chúc một buổi sáng tốt lành, Robert. Ngạc nhiên khi nhìn thấy tôi lắm sao? - Giọng ông nhẹ nhàng, nhưng đầy sức mạnh.

Langdon bước vội tới và nồng nhiệt bắt tay người bạn của mình.

- Một quý ông Yale đang làm gì ở khuôn viên Crimson lúc mới sáng bảnh mắt thế này?

- Nhiệm vụ bí mật đằng sau chiến tuyến quân thù ấy mà, - Solomon đáp và cười. Ông làm hiệu chỉ phần thắt lưng gọn gàng của Langdon - Bơi lội có tác dụng nhỉ! Trông dáng cậu rất bảnh rồi đấy.

- Thì đang cố làm cho anh tự thấy già nua thôi mà, - Langdon đùa theo - Rất vui được gặp anh, Peter. Có chuyện gì thế?

- Đi công tác vội qua, - người đàn ông đáp, liếc quanh gian phòng học vắng tanh - Xin lỗi vì làm phiền cậu. Robert, nhưng tôi chỉ có vài phút thôi Có việc tôi rất cần nhờ cậu... hết sức riêng tư. Mong cậu giúp đỡ.

Lạ đấy. Langdon tự hỏi không biết một anh Giáo sư đại học quèn như mình thì có thể làm được gì cho một quý ông có tất cả mọi thứ.

- Việc gì cũng được, - Langdon đáp, rất vui vì có cơ hội giúp đỡ người đã nhiệt thành tương trợ anh bấy lâu, nhất là khi cuộc đời giàu sang của Peter cũng phải chịu quá nhiều bi kịch.

Solomon hạ giọng.

- Tôi mong cậu giữ hộ tôi một thứ.

Langdon đảo mắt.

- Em hy vọng không phải con Hercules - Langdon đã từng đồng ý giúp Solomon trông con chó tai cụp nặng ngót 70 kg tên là Hercules trong khi ông đi vắng. Suốt thời gian ở với Langdon, con chó tỏ ra nhớ nhung thứ đò chơi nhai bằng da ở nhà và nó đã tìm một vật thay thế rất đáng giá trong phòng làm việc của anh: một cuốn Kinh thánh có minh hoạ, viết tay, bằng giấy da cừu nguyên bản từ thế kỷ XVII. Ấy thế mà cái "con chó khốn kiếp" đó vẫn chưa lấy làm hài lòng.

- Cậu biết là tôi vẫn đang tìm một bản để đền cho cậu mà, - Solomon ngượng ngùng nói.

- Không sao đâu. Em mừng là Hercules có năng khiếu tôn giáo đến thế.

Solomon cười khùng khục nhưng có vẻ thẫn thờ.

- Robert, hôm nay tôi đến đây là muốn nhờ cậu để mắt trông nom một thứ rất có giá trị với tôi. Tôi được thừa hưởng nó đã lâu, nhưng tôi không còn cảm thấy an tâm để nó trong nhà hay trong phòng làm việc nữa.

Langdon sinh dạ bồn chồn. Bất cứ thứ gì "rất có giá trị", trong thế giới của Peter Solomon đều xứng đáng cả một gia tài.

- Thế két ký gửi an toàn thì sao? - Chẳng phải phải gia đình anh có tài khoản trong một nửa số ngân hàng ở Mỹ đấy ư?

- Như thế lại phải làm giấy tờ và dính dáng đến đám nhân viên ngân hàng. Tôi muốn nhờ một người bạn đáng tin cậy, và tôi biết cậu có thể giữ bí mật - Solomon lục tôi áo và rút ra một gói nhỏ, trao nó cho Langdon.

Căn cứ vào phần mở đầu câu truyện đầy kịch tính, Langdon cứ nghĩ sẽ thấy một vật ấn tượng hơn, nhưng cái gói chỉ là một hộp vuông vức nhỏ nhắn, mỗi chiều chưa tới 10 cm, bọc trong lớp giấy gói màu nâu đã bạc và có buộc dây. Căn cứ vào sức nặng và kích cỡ của cái gói, có cảm giác thứ bên trong nó phải làm bằng đá hoặc kim loại.

Gì thế này?

Langdon xoay xoay cái hộp trên tay, và nhận thấy sợi dây buộc được bảo vệ rất cẩn thận ở một mặt với một dấu sáp đóng nổi, giống như trong các công văn thời xưa vậy. Con dấu khảm hình phượng hoàng hai đầu với chữ số 33 hằn rõ trên ngực - biểu tượng truyền thống của cấp bậc cao nhất trong Hội Tam điểm.

- Nói thật, Peter. - Langdon toét miệng cười - Anh là Đại Huynh trưởng của tổng Hội Tam điểm chứ đâu phải Giáo hoàng. Tại sao lại dùng nhẫn đóng dấu niêm phong các gói đồ?

Solomon liếc xuống chiếc nhẫn vàng của mình và cười khan.

- Tôi có niêm phong cái gói này đâu, Robert. Cụ cố của tôi đóng đấy. Ngót một thế kỷ nay rồi.

Langdon ngẩng phắt đầu lên.

- Sao cơ?

Solomon giơ ngón tay đeo nhẫn của mình lên.

- Chiếc nhẫn Tam điểm này là của cụ cố. Sau đó ông nội thừa hưởng, rồi cha... và cuối cùng là tôi.

Langdon giơ cái gói lên.

- Cụ cố anh bọc cái gói này một thế kỷ trước và không có ai mở nó ra à?

- Chính xác.

- Nhưng... sao lại không chứ?

- Bởi vì chưa đến lúc - Solomon mỉm cười.

Langdon trợn mắt.

- Đến lúc làm gì cơ?

- Robert, nói thì bảo phi lý, nhưng cậu biết càng ít càng tốt. Cứ bỏ cái gói này vào chỗ nào đó an toàn, và đừng cho ai biết tôi đã trao nó cho cậu là được.

Langdon cố tìm trong ánh mắt người bạn vong niên của mình một tia bông đùa. Solomon có xu hướng kịch tính hoá mọi việc, và Langdon băn khoăn không biết anh có đang bị trêu chọc không.

- Peter, chắc đây không phải là một âm mưu khôn khéo khiến em nghĩ rằng mình vừa được giao phó một bí mật lâu đời của Hội Tam điểm để rồi em sẽ tò mò và quyết định gia nhập Hội chứ?

- Cậu biết là Hội Tam điểm có tuyển người ngoài đâu. Vả lại, cậu đã nói với tôi rằng cậu không thích tham gia mà.

Điều này hoàn toàn đúng. Langdon rất kính trọng triết lý và các biểu tượng của Hội Tam điểm nhưng anh đã quyết định không bao giờ gia nhập hội; những lời tuyên thệ giữ bí mật sẽ ngăn cản anh thảo luận về Hội Tam điểm với các sinh viên của mình. Cũng chính vì lý do này mà Socrates(46) đã từ chối tham gia vào Eleusinian Mysteries(47).

Nhìn cái hộp nhỏ bé bí ẩn cùng con dấu Tam điểm. Langdon không thể không đặt ra câu hỏi rất hiển nhiên.

- Tại sao anh không giao thứ này cho một trong số các huynh đệ Tam điểm?

- Cứ cho là tôi có linh cảm rằng nó sẽ an toàn hơn khi được cất giữ bên ngoài hội đi, và đừng để kích thước nhỏ bé của cái gói đánh lừa cậu. Nếu lời cha tôi dặn dò là đúng thì nó đang chứa đựng một thứ ghê gớm lắm đấy - ông ngần ngừ - Một thứ bùa phép, đại loại như vậy.

- Ông ấy nói đến bùa phép phải không nhỉ? Theo định nghĩa, bùa phép là một vật có sức mạnh phép thuật. Theo truyền thống, bùa được dùng để đem lại may mắn, xua đuổi tà ma, hoặc hỗ trợ trong các nghi thức cổ xưa.

- Peter, anh thừa biết là bùa phép đã không còn thịnh hành từ thời Trung đại mà?

Peter kiên nhẫn đặt một tay lên vai Langdon.

- Tôi hiểu cậu cảm thấy thế nào, Robert ạ. Chúng ta quen nhau đã lâu đặc tính hay hoài nghi của cậu là một trong những thế mạnh cần có của một học giả, nhưng nó cũng lại là điểm yếu nhất của cậu. Tôi hiểu cậu đủ để không nghĩ đến việc đề nghị cậu tin... mà chỉ là tin tưởng. Mong cậu tin tưởng khi tôi nói rằng thứ bùa phép này rất mạnh. Cha tôi dặn nó có thể đem đến cho chủ sở hữu khả năng lập lại trật tự từ hỗn loạn.

Langdon đứng đờ người. Ý tưởng "trật tự từ hỗn loạn" là một trong những châm ngôn chính của Hội Tam điểm. Ordo ab chao. Mặc dù vậy thì vẫn rất vô lý nếu cho rằng có một thứ bùa biết truyền sức mạnh, chưa kể lại là loại sức mạnh đem lại trật tự từ trong hỗn loạn.

- Thứ bùa này, - Solomon nói tiếp - sẽ rất nguy hiểm nếu rơi vào tay kẻ ác, và thật tệ là tôi đủ cơ sở để tin rằng những kẻ rất có thế lực đang nhăm nhe đánh cắp nó - Langdon còn nhớ rõ vẻ nghiêm túc trong đôi mắt ông - Tôi mong cậu giữ gìn nó hộ tôi một thời gian. Cậu làm được chứ?

Đêm ấy, Langdon ngồi một mình bên bàn ăn trong bếp cùng với cái gói và cố gắng hình dung xem thứ gì bên trong. Cuối cùng, cho rằng tất cả chỉ do thói quen quan trọng hoá vấn đề của Peter, anh cất cái gói vào két tường trong thư viện, rồi từ đấy quên bẵng nó.

Cho tới sáng nay.

Cuộc điện thoại từ gã đàn ông nói giọng miền nam.

- Ồ thưa Giáo sư, tôi suýt quên! - viên trợ lý nói sau khi thông báo cho Langdon các chi tiết về việc sắp xếp chuyến đi tới Thủ đô cho anh - ông Solomon còn một đề nghị nữa.

- Vâng? - Langdon đáp, tâm trí lan man tới bài thuyết trình mà anh vừa đồng ý đảm nhận.

- Ông Solomon có để một lời nhắn cho Giáo sư - Người kia bắt đầu đọc một cách chật vật, như thể đang cố giải mã thủ bút của Peter - Hãy bảo Robert... mang... theo cái gói nhỏ có niêm phong mà tôi gửi anh ấy nhiều năm trước - Gã dừng lại - Câu này có ý nghĩa gì với Giáo sư không?

Langdon sực nhớ tới cái hộp nhỏ vẫn nằm yên trong két tường suốt thời gian qua, anh ngạc nhiên đáp.

- Có. Tôi biết Peter muốn nói gì.

- Và Giáo sư có thể mang nó theo chứ?

- Dĩ nhiên. Báo với Peter rằng tôi sẽ mang theo.

- Tuyệt vời - Viên trợ lý thở phào - Chúc Giáo sư có một buổi thuyết trình lý thú tối nay. Chúc Giáo sư thượng lộ bình an.

Trước khi rời nhà, Langdon lấy cái gói vẫn bọc kỹ ở đáy két và bỏ nó vào túi xách.

Giờ anh đang đứng trong Điện Capitol, lòng chắc chắn duy nhất một điều. Peter Solomon sẽ vô cùng sững sờ khi biết Langdon đã phụ lòng ông như thế nào.

Chú thích:

(45) Đây là thành phố Cambridge thuộc bang Massachusetts. Hoa Kỳ. - ND.

(46) Socrates là một triết gia Hy Lạp cổ đại, người được mệnh danh là bậc thầy về truy vấn. Thời trẻ ông nghiên cứu các loại triết học thịnh hành lúc bấy giờ, đó là nền triết học nỗ lực tìm hiểu vũ trụ thiên nhiên chung quanh chúng ta. Socrates được coi là người đặt nền móng cho thuật hùng biện dựa trên hệ thống những câu hỏi đối thoại. Ông có tư tưởng tiến bộ, nổi tiếng về đức hạnh với quan điểm: "Hãy tự biết lấy chính mình". Ông bị chính quyền khi đó kết tội làm bại hoại tư tưởng của thanh niên do không thừa nhận hệ thống các vị thần cũ được thành Athènes thừa nhận và bảo hộ và truyền bá các vị thần mới. Vì thế ông bị tuyên phạt tự tử bằng thuốc độc. Sinh thời ông không mở trường dạy học, mà thường coi mình là có sứ mệnh của thần linh, nên phải đi dạy bảo mọi người và không làm nghề nào khác Socrates thường nói chuyện với mọi người tại các nơi công cộng, không lấy tiền. Học trò xuất sắc của ông là đại hiền triết Platon - ND.

(47) Mật nghi (các nghi thức bí truyền) Eleusis là các nghi lễ khai tâm được tổ chức hằng năm trong tín ngưỡng thờ thần Demeter và Persephone ở vùng Eleusis thuộc Hy Lạp cổ đại. Các huyền tích và nghi thức bí truyền này bắt đầu từ khoảng năm 1600 trước Công nguyên và tồn tại 2000 năm. Các nghi thức, nghi lễ và tín điều được giữ kín, vì người ta tin lễ khai tâm giúp gắn kết những người thờ cúng với các vị thần và hứa hẹn đem lại sức mạnh thần thánh cùng các phần thưởng ở thế giới bên kia - ND.

Chương 25

Lạy Chúa, Katherine nói đúng. Y như mọi khi.

Trish Dunne sửng sốt nhìn kết quả tìm kiếm hiển thị trên bức tường plasma trước mặt. Cô cứ đinh ninh lệnh tìm kiếm sẽ không cho ra kết quả gì cả, nhưng trên thực tế, lúc này cô đã có hơn một chục kết quả, và kết quả vẫn tiếp tục xuất hiện.

Có một kết quả trông rất hứa hẹn.

Trish xoay người và gọi to về phía thư viện.

- Chị Katherine? Em nghĩ chị muốn xem cái này đấy!

Đã vài năm kể từ lần cuối cùng Trish chạy một con nhện tìm kiếm, và kết quả tối nay khiến cô rất kinh ngạc, vài năm trước, kiểu tìm kiếm này là vô vọng. Nhưng giờ đây, dường như lượng tư liệu số hoá trên thế giới tăng vọt đến mức người ta có thể tìm thấy bất kỳ thứ gì.

Thật khó tin, chuỗi từ khoá còn chứa một từ mà Trish thậm chí chưa bao giờ nghe nói đến... và lệnh tìm kiếm vẫn tìm thấy từ đó.

Katherine chạy ào qua cửa phòng điều khiển.

- Cô thu được gì rồi?

- Cả loạt ứng viên - Trish trỏ bức tường plasma - Các tài liệu này đều chứa nguyên văn những cụm từ khoá của chị.

Katherine vén tóc ra sau tai và lướt qua danh sách.

- Chị đừng vội vui mừng, - Trish nói thêm - em có thể đoan chắc với chị rằng hầu hết mớ tài liệu này không phải là những gì chị đang tìm kiếm. Người ta gọi chúng là lỗ đen. Hãy nhìn kích thước của file mà xem. Cực kỳ lớn. Chúng tương tự tệp nén lưu lại hàng triệu thư điện tử, hàng loạt bộ bách khoa thư đồ sộ hoặc tin nhắn trên toàn cầu suốt mấy năm qua, đại loại như thế. Xét theo kích thước và nội dung đa dạng của chúng thì những file này chứa nhiều từ khoá đến mức chúng tiếp nhận bất kỳ cơ chế tìm kiếm nào đến gần.

Katherine trỏ một kết quả ở gần đầu danh sách.

- Cái này thì sao?

Trish cười. Katherine rất nhanh mắt, tin ngay ra file duy nhất có kích thước nhỏ.

- Mắt chị tinh lắm. Đúng, đó là ứng viên duy nhất của chúng ta đấy Trên thực tế, file đó nhỏ đến mức nó có thể không dài quá một trang đâu.

- Mở ra xem nào - Giọng Katherine đầy hồi hộp.

Trish không thể tin nổi là một tài liệu độ một trang lại chứa tất cả những chuỗi tìm kiếm lạ lùng mà Katherine đưa cho cô. Tuy nhiên, khi cô nhấn vào tài liệu để mở nó, các cụm từ hiện ra rất... rõ rệt và dễ nhận thấy trên văn bản.

Katherine sải bước tới gần, mắt dán chặt vào bức tường plasma.

- Tài liệu này đã bị... lọc.

Trish gật đầu.

- Chào mừng đến với thế giới văn bản số hoá.

Lọc tài liệu tự động đã trở thành một cách làm chuẩn mực khi cung cấp những tài liệu số hoá. Lọc tài liệu là một quá trình trong đó máy chủ cho phép người sử dụng tìm kiếm toàn bộ văn bản, nhưng chỉ tiết lộ một phần nhỏ của nó, tức là phần nội dung khớp với các từ khoá yêu cầu. Bằng cách loại bỏ đa số nội dung văn bản, máy chủ tránh được việc vi phạm bản quyền và cũng gửi kèm cho người sử dụng một thông điệp gợi tò mò: Tôi có thông tin quý vị đang tìm kiếm, nhưng nếu quý vị muốn phần còn lại, quý vi sẽ phải mua nó.

- Chị thấy đấy, - Trish nói, lướt qua trang văn bản đã bị lược bỏ rất nhiều - tài liệu này có đủ tất cả những cụm từ khoá của chị.

Katherine im lặng, đăm đăm nhìn đoạn văn bản hổng lỗ chỗ.

Trish để cho cô đọc khoảng một phút rồi quay trở về đầu trang.

Mỗi cụm từ khoá của Katherine đều được gạch chân và viết hoa, kèm theo một phần nội dung văn bản tìm thấy, đó là vài từ xuất hiện mỗi bên của cụm từ cần tìm.

Trish không hình dung nổi nội dung của tài liệu, và còn "đồ hình" là cái quái gì nữa không biết?

Katherine háo hức bước lại gần màn hình.

- Tài liệu này từ đâu ra vậy? Ai viết nó?

Trish đang xử lý tài liệu.

- Cho em một giây thôi. Em đang tìm cách truy nguyên.

- Tôi cần biết ai viết tài liệu này, - Katherine nhắc lại, giọng đanh hơn - Tôi muốn xem phần còn lại của nó.

- Em đang tìm cách, - Trish đáp, giật mình vì giọng nói sắc lạnh của Katherine.

Lạ thay, vị trí của file không hiển thị như một địa chỉ web truyền thống mà lại là một địa chỉ Giao thức Intemet (IP) số.

- Em không truy được IP, - Trish thông báo - Tên miền không xuất hiện. Xem nào! - Cô kéo cửa sổ gốc của mình lên - Em sẽ chạy lệnh truy dấu.

Trish gõ chuỗi lệnh để ping(48) tất cả các "bước truyền" giữa máy móc trong phòng điều khiển của cô và bất cứ máy nào đang lưu tài liệu này.

- Truy tìm ngay nào, - cô nói và cho chạy lệnh.

Lệnh truy dấu hoạt động cực nhanh, và một danh sách dài dằng dặc các thiết bị mạng xuất hiện gần như ngay lập tức trên bức tường plasma. Trish lướt xuống phía dưới... xuống nữa... qua tất cả các thiết bị định tuyến và chuyển đổi có kết nối với máy của cô...

- Thế quái nào ấy nhỉ?

Lệnh truy dấu của cô dừng lại trước khi đến được máy chủ của tài liệu. Vì một lý do nào đó, lệnh ping của cô vấp phải một thiết bị mạng nuốt chửng nó thay vì hất nó trở lại.

- Xem chừng lệnh truy dấu của em bị chặn, - Trish nói. Trường hợp này cũng có thế xảy ra ư?

- Cho chạy lại đi.

Trish chạy lệnh truy dấu khác và gặp kết quả tương tự.

- Không được. Ngõ cụt rồi. Hình như tài liệu này nằm trên một máy chủ không thể truy dấu được - Cô nhìn những bước truyền cuối cùng ngay trước "ngõ cụt" - Nhưng em đoan chắc với chị rằng nó nằm đâu đó ở Washington D.C. này thôi.

- Cô đùa đấy à?

- Có gì lạ đâu chị, - Trish nói - Các chương trình nhện này chạy xoắn ốc theo yếu tố địa lý, có nghĩa là những kết quả đầu tiên luôn gần quanh đây, thêm nữa, một trong các chuỗi tìm kiếm của chị là "Washington D.C." mà.

- Nếu dùng giao thức "who is"(49) thì sao? - Katherine gợi ý - Liệu nó có cho cô biết ai sở hữu tên miền không?

Hơi vớ vẩn nhưng không phải là một ý tưởng tồi. Trish tìm tới cơ sở dữ liệu "who is" và chạy lệnh tin kiếm IP, hy vọng khớp được các con số bí ẩn với một tên miền có thật. Tâm trạng thất vọng của cô giờ đã bớt nhờ sự tò mò càng lúc càng tăng. Người nào có tài liệu này nhỉ? Các kết quả "who is" xuất hiện rất nhanh, nhưng không có kết quả nào thích hợp, Trish đành giơ tay chịu thua.

- Hình như địa chỉ IP này không tồn tại. Em không thể dò ra thông tin gì về nó.

- Rõ ràng IP có tồn tại. Chúng ta vừa tìm thấy một tài liệu lưu trữ ở đó mà!

- Đúng, và hiển nhiên ai đó có tài liệu này không hề muốn để lộ nhận dạng. Em không biết nói gì với chị. Truy dấu hệ thống thực sự không phải là sở trường của em: Có lẽ chị nên mời ai đó có kỹ năng xâm nhập hệ thống. em thì chịu thua rồi.

- Cô quen ai như thế không?

Trish quay lại, đăm đăm nhìn sếp của mình.

- Chị Katherine, em đùa đấy. Chính xác thì đó không phải là một ý hay đâu.

- Nhưng nó có tác dụng phải không? - Katherine xem đồng hồ.

- A vâng... luôn luôn. Về mặt kỹ thuật thì rất dễ dàng.

- Cô có quen ai không?

- Các hacker hả? - Trish cười - Phân nửa số đồng nghiệp cũ của em thạo việc này.

- Có ai cô tin tưởng không?

Chị ấy nói thật đấy à?

Nhận thấy Katherine cực kỳ nghiêm túc, cô vội đáp:

- Chà, vâng. Em biết một người nhờ được. Anh ấy là chuyên gia an ninh hệ thống của chúng em, một chuyên viên máy tính siêu hạng. Anh ấy muốn hò hẹn với em, kiểu bông lơn ấy mà, nhưng đó là một anh chàng tốt, và em tin tưởng anh ấy. Anh ấy làm việc tự do.

- Cậu ta có kín tiếng không?

- Anh ấy là một hacker. Dĩ nhiên là anh ấy phải kín tiếng. Đó là việc anh ấy làm mà. Nhưng em tin chắc anh ấy sẽ đòi ít nhất 1000 đô la chỉ để nhìn...

- Gọi cho cậu ta đi. Trả cậu ấy gấp đôi nếu tìm ra kết quả nhanh.

Trish không biết điều nào khiến cô khó chịu hơn, giúp Katherine Solomon thuê một hacker hay gọi cho anh chàng mà đến nay vẫn không sao chấp nhận nổi việc cô chuyên gia phân tích siêu hệ thống tóc đỏ béo lùn lại cự tuyệt lời tán tỉnh của mình.

- Chị chắc chắn chứ?

- Dùng điện thoại trong thư viện ấy, - Katherine dặn - Nó có thể chặn các cuộc gọi đến, và đương nhiên là không sử dụng tên tôi nhé.

- Vâng - Trish đi ra cửa, nhưng dừng lại khi nghe thấy iPhone của Katherine kêu. Nếu may mắn, tin nhắn đang tới kia sẽ là thông tin giúp cô thoát khỏi nhiệm vụ không lấy gì làm thú vị này. Cô nấn ná đợi Katherine lấy iPhone ra khỏi túi áo choàng và đọc màn hình.

Katherine Solomon nhẹ cả người khi nhìn cái tên xuất hiện trên iPhone.

Có thế chứ!

PETER SOLOMON

- Tin nhắn của anh tôi, - cô nói, mắt liếc Trish.

Trish lộ vẻ hy vọng.

- Có lẽ chúng ta nên hỏi ý kiến ông ấy... trước khi liên hệ với một hacker chăng?

Katherine đọc tài liệu trên bức tường plasma và nghe thấy rõ giọng nói của bác sĩ Abaddon. Có thể tìm được... thứ mà anh trai bà tin rằng đang giấu ở thủ đô. Katherine không còn biết tin vào điều gì nữa, và tài liệu kia ẩn chứa thông tin về những ý tưởng cường điệu rõ ràng đã làm Peter ám ảnh.

Katherine lắc đầu.

- Tôi muốn biết ai viết tài liệu này và nó nằm ở đâu. Cứ liên hệ đi.

Trish cau mày và đi ra phía cửa.

Cho dù tài liệu này có thể giải thích được điều bí ẩn về những gì anh trai cô đã nói với bác sĩ Abaddon hay không, chí ít hôm nay cũng đã giải quyết xong một khó khăn. Cuối cùng thì anh trai cô đã biết cách sử dụng chức năng nhắn tin trên chiếc iPhone mà Katherine tặng cho ông.

- Và nhớ báo cho giới truyền thông nhé. - Katherine gọi với theo Trish - Ngài Peter Solomon vĩ đại vừa gửi được tin nhắn đầu tiên.

***

Ở bãi đỗ xe bên kia phố chếch với SMSC. Mal'akh đứng bên cạnh chiếc Limousine của gã, duỗi chân và đợi cú điện thoại mà gã biết chắc là sẽ tới. Mưa đã ngớt, mặt trăng mùa đông bắt đầu ló ra khỏi những đám mây. Vẫn là vầng trăng đã chiếu xuống Mal'akh qua mắt vòm trần nhà Thánh điện Hội Tam điểm ba tháng trước trong lễ nhập môn của gã.

Thế giới đêm nay khác hẳn.

Trong khi chờ đợi, dạ dày gã lại quặn lên. Việc nhịn ăn hai ngày qua, mặc dù rất khó chịu, lại rất cần thiết cho việc chuẩn bị của gã.

Đó là nghi thức cổ xưa. Chỉ ít lâu nữa, tất cả những khó chịu thể xác sẽ không còn đáng kể nữa.

Đứng dưới trời đêm lạnh lẽo, Mal'akh cười khùng khục khi thấy khá mỉa mai là số phận đã gửi gắm gã vào cổng một nhà thờ nhỏ. Ở đây nép giữa Trung tâm Nha khoa Sterling và một siêu thị nhỏ, là một thánh đường nhỏ bé.

TOÀ NHÀ VINH QUANG CỦA CHÚA.

Mal'akh đăm đăm nhìn ô cửa sổ, ở đó hiện rõ một phần tuyên ngôn mang tính học thuyết của nhà thờ: CHÚNG CON TIN RĂNG ĐỨC JESUS CHRIST ĐƯỢC SINH RA BỞI CHÚA THÁNH THẦN, DO ĐỨC MARY ĐỒNG TRINH SINH NỞ, VÀ VỪA LÀ CHÚA VỪA LÀ CON NGUỜI TOÀN HẢO.

Mal'akh mỉm cười. Phải. Jesus trên thực tế là cả hai - con người và Chúa - nhưng điều kiện tiên quyết của thánh thần không phải là có một bà mẹ trinh nữ. Mà là cách thức trở thành thánh thần.

Tiếng chuông điện thoại di động vang lên trong đêm, khiến mạch gã đập nhanh. Chiếc điện thoại đang đổ chuông lúc này là điện thoại của Mal'akh, loại rẻ tiền dùng một lần mà gã mới mua hôm qua. Nhận dạng của người gọi cho biết đó là cuộc gọi mà gã đang trông đợi.

Một cuộc gọi nội hạt, Mal'akh trầm ngâm, nhìn ngang qua bên kia phố Silver Hill về phía đường viền mái nhà dích dắc vượt lên khỏi các ngọn cây, lờ mờ dưới ánh trăng. Mal'akh bật điện thoại.

- Tôi là bác sĩ Abaddon, - gã nói, cố tình trùng giọng xuống.

- Katherine đây. - giọng người phụ nữ vang lên - Cuối cùng tôi cũng đã có tin của anh trai mình.

- Ồ tôi thấy nhẹ cả người. Ông ấy thế nào?

- Anh ấy đang trên đường tới phòng thí nghiệm của tôi - Katherine thông báo - Anh ấy đề xuất mời anh cùng tham gia với chúng tôi.

- Sao cơ ạ? - Mal'akh vờ ngập ngừng - Trong phòng thí nghiệm... của bà à?

- Chắc chắn là anh ấy rất tin tưởng anh. Anh ấy chưa bao giờ mời bất kỳ ai tới đó cả.

- Hẳn ông ấy nghĩ một cuộc viếng thăm sẽ giúp ích cho những cuộc thảo luận của chúng tôi, nhưng tôi cảm thấy như thế hơi mang tính chất xâm phạm.

- Nếu anh trai tôi nói rằng anh được hoan nghênh thì anh sẽ được hoan nghênh. Thêm nữa, Peter nói anh ấy có nhiều điều cần trao đổi với cả hai chúng ta, và tôi rất muốn được biết ngọn ngành mọi chuyện đang diễn ra.

- Vậy thì được. Chính xác thì phòng thí nghiệm của bà ở đâu?

- Tại Trung tâm Hỗ trợ Bảo tàng Smithsonian. Anh có biết chỗ đó không?

- Không. - Mal'akh nói, dõi mắt qua bãi đỗ xe về phía toà nhà - Thực ra tôi đang ở trong xe, và tôi có hệ thống chỉ dẫn. Địa chỉ thế nào nhỉ?

- Số 4210 phố Silver Hill.

- Vâng, chờ tôi chút. Tôi sẽ nhập vào hệ thống - Mal'akh đợi khoảng mười giây và lên tiếng - à, hay quá, có vẻ như tôi ở gần hơn mình nghĩ. Hệ thống GPS cho biết tôi chỉ mất khoảng chục phút là tới nơi.

- Tuyệt. Tôi sẽ gọi cho bộ phận an ninh và báo với họ rằng anh sẽ qua đó.

- Cảm ơn bà.

- Gặp anh sau.

Mal'akh nhét điện thoại vào túi và ngó về phía SMSC. Mình tự mời mình liệu có khiếm nhã không nhỉ? Mỉm cười, gã rút chiếc iPhone của Peter Solomon ra và đọc lại tin nhắn gã gửi cho Katherine vài phút trước đó.

Đã nhận được tin nhắn của em. Vẫn ổn. Bận suốt ngày. Quên cá hẹn với bác sĩ Abaddon. Xin lỗi không giới thiệu cậu ta sớm hơn. Chuyện dài lắm. Giờ đang tới phòng thí nghiệm. Nếu được, mời bác sĩ Abaddon cùng tham gia với chúng ta. Anh hoàn toàn tin tướng cậu ấy, và anh có nhiều việc cần nói với cá hai người. - Peter

Không có gì lạ, giờ chiếc iPhone của Peter phát tín hiệu nhận trả lời từ Katherine.

Anh Peter, chúc mừng anh đã học được cách nhắn tin! Biết anh vẫn ổn em rất yên tâm. Đã nói chuyện với Bs. A., cậu ta đang tới phòng thí nghiệm. Lát gặp! - K.

Siết chặt chiếc iPhone của Solomon, Mal'akh cúi xuống phía dưới chiếc Limousine và gài điện thoại vào giữa bánh trước và vỉa hè.

Chiếc điện thoại này phục vụ gã rất đắc lực... nhưng giờ đã đến lúc nó cần biến mất không dấu vết. Gã leo lên sau tay lái, cài số, và cho xe trườn lên phía trước cho tới khi nghe tiếng rắc rắc đanh gọn vì bị nghiền nát của chiếc iPhone.

Mal'akh lùi xe trở lại bãi đỗ và chăm chú nhìn bóng toà nhà SMSC phía xa. Mười phút. Nhà kho của Peter Solomon chứa hơn 30 triệu báu vật, nhưng đêm nay, Mal'akh đến đây để phá huỷ hai thứ giá trị nhất mà thôi.

Tất cả những nghiên cứu của Katherine Solomon.

Và chính Katherine Solomon.

Chú thích:

(48) Ping là một tiện ích đi kèm trong UNIX, Intemet và các hệ thống mạng TCP, IP. Ping tương đương với một tiếng la trong hẻm núi và lắng nghe tiếng vọng lại của nó. Ta "ping" một máy chủ khác trên hệ thống mạng để xem máy chủ đó có thể tiến đến được từ máy chủ của ta hay không. Câu lệnh có dạng ping ip address, trong đó ip address là địa chỉ IP của máy chủ mà bạn muốn liên lạc Ping sử dụng giao thức ICMP (Intemet Control Message Protocol: Giao thức điều khiển thông báo trên Intemet) để giải quyết công việc của nó. Nói một cách cụ thể, nó gửi đi một thông báo kiểu tiếng vang ICMP đến máy chủ được chỉ định - ND.

(49) Whois là một giao thức giúp người dùng truy vấn thông tin về domain và IP thông qua cơ sở dữ liệu của các Whois server. Có 2 loại: Whois Domain và Whois IP. Whois Domain cho phép lấy thông tin khách hàng đăng ký từ cơ sở dữ liệu Whois của nhà đăng ký tên miền, còn Whois IP cho phép lấy thông tin về địa điểm (nhà cung cấp dịch vụ Internet, quốc gia) của máy chủ - ND.

Chương 26

- Giáo sư Langdon ư? - Sato gọi - ông nhìn thấy ma đấy à? Ông không sao chứ?

Langdon xốc chiếc túi xách lên vai và đặt bàn tay của mình lên nó, tưởng như hành động này ít nhiều giúp anh giấu kỹ hơn cái gói hình khối hộp bên trong. Anh cảm nhận được mặt mình xám ngoét.

- Tôi... chỉ thấy lo cho Peter.

Sato nghếch mặt, liếc xéo anh.

Langdon đột nhiên cảnh giác, sự can thiệp của Sato tối nay rất có thể liên quan đến cái gói nhỏ mà Solomon tin tưởng giao cho anh.

Peter đã cảnh báo: Những kẻ rất có thế lực đang nhăm nhe đánh cắp nó. Thứ bùa này sẽ rất nguy hiểm nếu rơi vào tay kẻ ác. Langdon không lý giải nổi tại sao CIA lại cần một chiếc hộp nhỏ chứa bùa phép... hoặc cái gì tương tự bùa phép. Ordo ab chao chăng?

Sato bước lại gần hơn, đôi mắt đen đầy soi mói.

- Tôi cảm thấy ông đã phát hiện ra gì đó thì phải?

Langdon toát mồ hôi.

- Không, không hẳn.

- Ông đang toan tính gì vậy?

- Tôi chỉ... - Langdon ngập ngừng, chẳng biết nên nói thế nào.

Anh không có ý định tiết lộ về sự tồn tại của cái gói nằm trong túi mình, nhưng nếu Sato dẫn anh tới CIA thì chắc chắn cái túi sẽ bị khám xét - Thực ra... - anh bịa chuyện - tôi có một ý tưởng khác về những con số trên bàn tay Peter.

Sato không biểu lộ gì.

- Sao nào? - Bà ta liếc Anderson, lúc đó vừa quay lại sau khi đón nhóm pháp y mới tới.

Langdon nuốt khan và cúi rạp xuống bên bàn tay, băn khoăn không biết nên nói gì với họ bây giờ. Mày là một giáo viên cơ mà? Robert, ứng biến đi. Anh quan sát kỹ lần cuối bảy biểu tượng nhỏ xíu, hy vọng gợi ra được chút liên tưởng nào đó.

Chẳng ích gì. Trống rỗng.

Langdon dùng khả năng ghi nhớ bằng hình ảnh duyệt lại các bộ bách khoa thư về biểu tượng trong óc mình, nhưng chỉ tìm được một điểm khả dĩ bấu víu. Nó xuất hiện với anh ngay từ đầu, nhưng xem chừng không thuyết phục lắm. Tuy nhiên, lúc này không còn nhiều thời gian cân nhắc nữa.

- Chà, - anh bắt đầu nói - dấu hiệu đầu tiên khiến một nhà ký tượng học biết rằng mình đang đi sai hướng khi giải đoán các biểu tượng và mật mã là diễn giải các biểu tượng bằng cách sứ dụng nhiều ngôn ngữ tượng hình. Chẳng hạn, khi tôi nói với quý vị câu này là của La Ma và A rập thì đó là một phân tích kém bởi vì tôi sử dụng nhiều hệ thống biểu tượng. Với chữ La Mã và chữ rung cũng y như vậy.

Sato khoanh tay và nhướng mày như muốn nói "Tiếp đi xem nào!"

- Nhìn chung, giao tiếp được thực hiện bằng một ngôn ngữ, không phải nhiều ngôn ngữ, vì thế trước bất kỳ văn bản nào, công việc đầu tiên của nhà ký tượng học là phải tìm một và chỉ một hệ thống biểu tượng nhất quán áp dụng cho toàn bộ văn bản đó.

- Giờ ông đã thấy một hệ thống duy nhất?

- Chà, vâng... à không - Kinh nghiệm về sự đăng đối của các biểu tượng hai chiều đối xứng đã dạy cho Langdon biết rằng đôi khi các biểu tượng có ý nghĩa nếu nhìn từ nhiều góc độ. Trong trường hợp này, anh nhận ra trên thực tế có một cách để quan sát cả bảy biểu tượng bằng một ngôn ngữ duy nhất - Nếu chúng ta thay đổi bàn tay một chút, ngôn ngữ sẽ trở nên nhất quán.

Lạ thay, thao tác Langdon sắp thực hiện dường như giống hệt với điều mà kẻ bắt giữ Peter gợi ý lúc gã nói ra câu ngạn ngữ Hermetic cổ xưa. Thương hạ tương liên.

Langdon rùng cả mình khi nhoài người lên, vớ lấy cái đế gỗ cắm bàn tay Peter. Nhẹ nhàng. anh xoay ngược cái đế để cho các ngón tay duỗi trỏ thẳng xuống phía dưới. Những biểu tượng trong lòng bàn tay lập tức thay đổi:

- Nhìn từ góc độ này, - Langdon nói - X-I-I-I trở thành một số La Mã có giá trị: số 13. Đồng thời, có thể diễn giải các ký tự còn lại bằng cách sử dụng bảng chữ cái La Mã: SBB - Langdon cho rằng phân tích của mình sẽ chỉ dẫn tới những cái nhún vai hời hợt, nhưng nét mặt Anderson lập tức thay đổi.

- SBB à? - viên Chỉ huy kêu lên.

Sato quay phắt về phía Anderson.

- Nếu tôi không nhầm thì nó khá giống một hệ thống đánh số quen thuộc trong Điện Capitol này.

Anderson tái mặt.

- Đúng thế.

Sato nở một nụ cười thâm hiểm và gật đầu với Anderson.

- Chỉ huy, theo tôi nào. Tôi muốn nói vài lời riêng với anh.

Khi Giám đốc Sato dẫn Chỉ huy Anderson ra khỏi tầm nghe, Langdon còn lại một mình ngơ ngác. Chuyện quái gì đang diễn ra đây vậy?

***

Chỉ huy Anderson băn khoăn không hiểu tại sao tình hình tối hôm nay lại diễn biến kỳ lạ đến thế. Bàn tay nói tới SBB13 ư? Anh ta rất ngạc nhiên vì có kẻ ngoại đạo lại nghe nói tới SBB... thậm chí rành rẽ là SBB13. Ngón tay trỏ của Peter Solomon không muốn bảo họ lên trên như lúc đầu... mà chỉ theo một hướng hoàn toàn ngược lại.

Giám đốc Sato dẫn Anderson tới một khu vực yên tĩnh gần bức tượng đồng của Thomas Jefferson.

- Chỉ huy, - bà ta hỏi - tôi tin anh biết chính xác SBB13 nằm ở chỗ nào phải không?

- Dĩ nhiên rồi.

- Anh có biết bên trong là gì không?

- Không, không thể biết nếu không xem. Tôi nghĩ nó dừng hoạt động mấy thập kỷ nay rồi.

- Chà, anh sẽ mở nó nhé!

Anderson rất khó chịu vì bị sai khiến ngay trong toà nhà do mình quản lý.

- Thưa bà, như thế rất dễ có vấn đề. Tôi sẽ phải kiểm tra bảng phân công nhiệm vụ trước đã. Bà biết đấy, hầu hết các tầng phía dưới đều là văn phòng riêng hoặc nhà kho, và quy trình an ninh rất coi trọng sự riêng tư...

- Anh sẽ mở SBB13 cho tôi, - Sato nói - hoặc tôi sẽ gọi OS và cử một đội mang theo máy phá tường tới đấy.

Anderson trợn mắt nhìn Sato một lúc lâu rồi rút bộ đàm ra, đưa lên miệng.

Anderson đây. Tôi cần ai đó mở SBB. Trong vòng năm phút nữa, cho người tới gặp tôi tại đó nhé.

Giọng trả lời nghe có vẻ lúng túng.

- Chỉ huy, xin xác nhận là anh vừa nói SBB phải không?

- Đúng. SBB. Cử ai đó tới ngay lập tức, và tôi cần đèn pin - Anderson tắt bộ đàm. Tim anh ta đập rộn lên khi Sato bước lại gần, hạ giọng thấp hơn nữa.

- Chỉ huy, thời gian rất gấp - bà ta thì thào - và tôi muốn anh đưa chúng tôi xuống SBB13 càng nhanh càng tốt.

- Vâng, thưa bà.

- Tôi cũng cần anh giúp một việc khác nữa.

Mở cửa và xông vào vẫn còn chưa đủ ư? Anderson đang ở tình thế không phản đối được, nhưng vẫn không quên chú ý rằng Sato đến nơi chỉ vài phút sau khi bàn tay của Peter xuất hiện trong Nhà tròn, và giờ đây bà ta đang tận dụng tình huống này để đòi xâm nhập khu vực riêng của Điện Capitol. Dường như tối nay bà ta đã đi quá giới hạn cho phép.

Sato ra hiệu về phía vị Giáo sư.

- Cái túi da trên vai Langdon.

Anderson liếc mắt nhìn.

- Sao cơ?

- Tôi cho rằng người của anh đã soi cái túi đó khi Langdon vào toà nhà này?

- Dĩ nhiên. Tất cả các túi đều được soi kỹ.

- Tôi muốn xem bản soi đó. Tôi muốn biết trong túi có cái gì.

Anderson nhìn chiếc túi mà Langdon đeo khư khư suốt buổi tối.

- Nhưng... hỏi thẳng ông ta thì không đơn giản hơn à?

- Yêu cầu của tôi có gì không rõ chăng?

Anderson lại rút bộ đàm ra và thông báo đề nghị của Sato. Sato cho biết địa chỉ Blackberry và yêu cầu người của anh ta gửi cho mình một bản X quang số hoá qua email ngay khi họ tìm được nó.

Anderson miễn cưỡng nghe theo.

Lúc này nhóm pháp y đang định thu lấy bàn tay để chuyển cho Cảnh sát Điện Capitol, nhưng Sato ra lệnh cho họ gửi thẳng tới đơn vị của bà ta ở Langley. Anderson quá mệt mỏi nên chẳng buồn phản đối. Anh ta đã bị cỗ xe lu Nhật Bản nhỏ xíu ấy nghiến dẹp lép rồi.

- Tôi muốn cả cái nhẫn đó nữa - Sato gọi với theo nhóm pháp y.

Kỹ thuật viên trưởng toan tranh cãi, nhưng nghĩ lại chẳng nên. Anh ta tháo cái nhẫn vàng khỏi tay Peter, đặt nó vào một túi lấy mẫu sạch sẽ và đưa cho Sato. Bà ta đút tọt nó vào túi áo khoác rồi quay về phía Langdon.

- Chúng ta đi chứ, Giáo sư. Mang theo đồ đạc của ông.

- Chúng ta đi đâu? Langdon hỏi lại.

- Cứ theo ông Anderson thôi.

Ờ, Anderson nghĩ, và theo sát tôi đấy! SBB là khu vực rất ít người ghé thăm trong Điện Capitol. Để tới đó, họ sẽ phải qua một mê cung toàn những căn buồng bé xíu và những lối đi hẹp nằm ngay bên dưới tầng hầm. Cậu con trai út của Abraham Lincoln bị lạc dưới đó và suýt bỏ mạng. Anderson bắt đầu ngờ rằng nếu Sato có ý đồ gì thì chắc Robert Langdon sẽ chịu số phận tương tự.

Chương 27

Chuyên gia an ninh hệ thống Mark Zoubianis luôn tự hào rằng mình có khả năng làm nhiều công việc: Lúc này, anh ta đang ngồi trên ghế phô-tơi với một chiếc điều khiển TV, một điện thoại không dây, một máy tính xách tay, một máy PDA, và một bát Pirate's Booty(50) to tướng. Một mắt thì để ý trận đấu của đội Redskins đã tạm tắt tiếng còn một mắt để vào chiếc máy tính, Zoubianis đang nói chuyện qua tai nghe Bluetooth với một phụ nữ đã bặt tin tức hơn một năm nay.

- Thế quái nào mà Trish Dunne lại gọi tới vào đúng buổi tối có trận đấu quyết định thế này chứ? Lại một lần nữa thể hiện sự vô lý của mình, người đồng nghiệp cũ đã chọn đúng trận đấu của đội Redskins làm thời điểm để chuyện phiếm với Zoubianis và nhờ giúp một việc. Sau một hồi chuyện trò qua loa về những ngày trước kia và nói rằng cô nhớ những lời bông đùa tuyệt vời của anh ta, Trish đi thẳng vào vấn đề chính: cô đang tìm cách xác định một địa chỉ IP ẩn, có lẽ đó là một máy chủ bảo mật thuộc khu vực Washington D.C. Máy chủ này có một văn bản nhỏ và cô muốn truy cập vào nó... hoặc ít ra thì cũng khai thác thông tin xem tài liệu thuộc về ai.

Đúng người nhưng không đúng lúc, Zoubianis bảo cô. Thế là Trish tuôn ra tràng giang đại hải những lời tán tụng, hầu hết đều là sự thật, và Zoubianis chẳng biết mình gõ một địa chỉ IP rất lạ vào máy tính tự lúc nào.

Zoubianis nhìn con số và nhận ra ngay rằng công việc không dễ dàng gì.

- Trish. IP này có định dạng hiện đại lắm. Nó được viết theo một giao thức thậm chí còn chưa trình ra công chúng. Có lẽ nó thuộc giới quân sự hoặc tình báo chính phủ.

- Quân sự à? - Trish cười - Tin em đi, em vừa lôi một tài liệu soạn lại từ máy chủ này mà, và nó không phải của quân đội.

Zoubianis kéo cửa sổ gốc của mình lên và thử truy dấu.

- Em bảo rằng truy dấu của em bị tắc à?

- Vâng. Hai lần. Cùng một bước truyền.

- Của anh cũng thế - Anh ta kéo một trình dò tìm chẩn đoán và chạy thử - Thế IP này có gì hay ho vậy?

- Em chạy một trình uỷ thác sử dụng cơ chế tìm kiếm ở IP này và thu được một tài liệu đã lọc. Em cần xem nội dung còn lại của lài liệu.

- Em sẵn sàng trả tiền, nhưng em không tài nào xác định được ai là người sở hữu IP hay làm cách nào truy cập được nó.

Zoubianis cau mày nhìn màn hình.

- Em có chắc không đấy? Anh đang chạy một trình chẩn đoán, và mã tường lửa trông... rất thâm nghiêm.

- Thế anh mới được trả nhiều tiền.

Zoubianis ngẫm nghĩ. Họ trả cho anh ta cả đống tiền để làm một việc dễ dàng.

- Hỏi một câu thôi, Trish. Tại sao em quan tâm đến vụ này thế?

Trish do dự.

- Em làm giúp một người bạn.

- Chắc phải là bạn rất đặc biệt.

- Vâng.

Zoubianis cười khan nhưng không nói gì. Tôi biết tỏng mà.

- Thế nào, - Trish lên tiếng, vẻ nôn nóng - Anh đủ khả năng xác định IP này chứ? Phải không?

- Có, anh đủ khả năng, và ờ, anh biết em đang định quay anh như quay dế đây.

- Anh sẽ mất bao lâu?

- Không lâu đâu! - Zoubianis đáp, tay vẫn gõ bàn phím - Anh có thể thâm nhập vào máy trên hệ thống của họ trong vòng mười phút. Khi nào vào được và tìm thấy gì, anh sẽ gọi lại cho em.

- Em rất cảm ơn. Thế anh vẫn ổn chứ?

Giờ cô nàng mới thèm hỏi?

- Trish, Chúa ơi, em gọi cho anh đúng buổi tối có một trận đấu quan trọng và giờ em muốn chuyện phiếm à? Thế em muốn anh thâm nhập IP này hay không đây?

- Cảm ơn anh, Mark. Em sẽ đợi anh gọi lại.

- Mười lăm phút nữa - Zoubianis gác máy, vớ lấy bát Pirate's Booty và bật tiếng trận đấu bóng lên.

Ôi phụ nữ!

Chú thích:

(50) Pirate's Booty là đồ ăn nhanh do công ty Robert's American Gourmet Food sản xuất. Loại đồ ăn này chủ yếu làm từ nguyên liệu tự nhiên và pho mát thật - ND.

Chương 28

Bọn họ đưa mình đi đâu không biết

Vội vã theo Anderson và Sato đi sâu vào lòng Điện Capitol, Langdon cảm thấy nhịp tim mình tăng lên theo mỗi bước chân. Họ bắt đầu hành trình qua cổng tây Nhà tròn, men xuống một cầu thang bằng đá cẩm thạch và sau đó quay ngược lại qua một ô cửa rộng để vào căn buồng nổi tiếng ngay bên dưới nền Nhà tròn.

Nhà hầm điện Capitol.

Không khí ở đây khá ngột ngạt, Langdon bắt đầu cảm thấy nỗi sợ bị mắc kẹt. Trần nhà rất thấp. ánh sáng yếu ớt toả xuống làm nổi bật bốn mươi cây cột Doric đồ sộ đỡ phần nền bằng đá rất rộng ngay phía trên đầu. Thư giãn nào Robert.

- Lối này, - Anderson lên tiếng, rảo chân ngoặt sang trái, băng qua khoảng không gian hình tròn rất rộng.

Rất may, tầng hầm đặc biệt này không có cái xác nào cả. Thay vào đó nó chỉ có vài bức tượng, một mô hình Điện Capitol, và một khu lưu trữ thấp tè cất cái bục linh cữu bằng gỗ để đặt quan tài trong các buổi tang lễ cấp nhà nước. Bọn họ hấp tấp đi qua, thậm chí không đưa mắt liếc cái la bàn cẩm thạch bốn điểm ở chính giữa nền nhà, nơi Ngọn lửa Vĩnh cửu từng cháy sáng.

Anderson dường như rất vội vã. Sato lại một lần nữa chúi đầu vào chiếc Blackberry. Langdon nghe nói dịch vụ điện thoại di động được phát triển và phổ biến khắp mọi góc của Điện Capitol để phục vụ hàng trăm cuộc gọi của chính phủ diễn ra ở đây hằng ngày.

Sau khi băng chéo qua tầng hầm, cả nhóm bước vào một phòng nghỉ sáng lờ mờ và bắt đầu đi ngoắt ngoéo qua một loạt hành lang và ngõ cụt rối tinh rối mù. Cái mê cung này có nhiều ô cửa đánh số, mỗi cửa đều mang một con số xác định. Langdon đọc các cửa trong khi đi lòng vòng theo hai người kia.

S154... S153... S152...

Anh không biết những gì đang nằm sau các cánh cửa kia, nhưng chí ít đã có một việc trở nên sáng tỏ, đó là ý nghĩa của hình xăm trên lòng bàn tay Peter Solomon. SBB13 có vẻ như là một ô cửa được đánh số ở đâu đó dưới tận cùng Điện Capitol.

- Những cánh cửa này để làm gì vậy? - Langdon hỏi, tay ép chặt túi xách vào sườn và băn khoăn tự hỏi cái gói nhỏ của Solomon liệu có tác dụng gì với cánh cửa đánh số SBB13 không.

- Văn phòng và nhà kho, - Anderson nói - Văn phòng riêng và nhà kho - anh ta bổ sung, liếc nhìn Sato.

Giám đốc OS thậm chí không rời mắt khỏi cái Blackberry của mình.

- Trông chúng nhỏ xíu. - Langdon nhận xét.

Hầu hết những căn buồng này chỉ để làm cảnh, nhưng chúng vẫn là nhóm bất động sản được săn lùng nhất ở Thủ đô. Đây là trung tâm của Điện Capitol thời kỳ đầu, Phòng họp Thượng viện cũ ở trên chúng ta hai tầng.

- Thế còn SBB13? - Langdon hỏi - Đó là văn phòng của ai?

- Chẳng của ai. SBB là khu nhà kho riêng, và tôi phải nói trước rằng tôi thắc mắc không biết...

- Chỉ huy Anderson, - Sato ngắt lời mà không hề rời mắt khỏi chiếc Blackberry - Chỉ cần đưa chúng tôi tới đó thôi.

Anderson nghiến chặt răng và im lặng dẫn họ đi qua một khu pha lẫn giữa nhà kho với mê cung. Trên phần lớn các bức tường, những tấm biển chỉ dẫn đều chỉ về cả hai phía trước và sau, rõ ràng là cố gắng định vị các khu văn phòng cụ thể trong mạng lưới hành lang nhằng nhịt này.

S142 tới S152...

ST1 tới ST70...

H1 tới H166 và HT1 tới HT67...

Langdon không chắc có thể tìm được đường ra khỏi đây một mình. Nơi này đúng là một mê cung. Từ tất cả những gì thu thập được, anh nhận ra số hiệu văn phòng bắt đầu bằng chữ S hay H là tuỳ thuộc vào việc chúng nằm ở khu vực Thượng hay Hạ viện.

Những nơi có ghi ST và HT rõ ràng là một cấp mà Anderson gọi là Cấp Bậc thang.

Vẫn chưa thấy biển đề SBB.

Cuối cùng họ cũng tới một cánh cửa bằng thép nặng nề gắn ổ khoá bằng thẻ từ.

TẦNG SB

Langdon cảm thấy họ đang tiến gần đến đích.

Anderson định lấy thẻ của mình nhưng rồi lại ngập ngừng, cảm thấy không thoải mái với yêu cầu của Sato.

- Chỉ huy, - Giám đốc OS giục - Chúng ta không có cả đêm đâu.

Anderson miễn cưỡng nhét thẻ vào. Cánh cửa thép bật mở. Anh ta đẩy hẳn nó ra, cả bọn bước qua và tiến vào một tiền sảnh. Cánh cửa nặng nề đóng lại sau lưng họ.

Langdon không rõ mình hy vọng nhìn thấy gì ở tiền sảnh này, nhưng chắc chắn nó hoàn toàn khác với khung cảnh đang hiện ra trước mắt. Anh nhìn đăm đăm vào chiếc cầu thang dẫn xuống dưới.

- Lại xuống tiếp à? - anh thốt lên, rồi ngừng lại một lúc - Còn tầng nào bên dưới tầng hầm cơ à?

- Phải, - Anderson xác nhận - SB là viết tắt của "Hầm Thượng viện".

Langdon rên lên. Thật kinh khủng.

Chương 29

Một tiếng đồng hồ trôi qua, mới lại có ánh đèn pha rọi lên đoạn đường gom nhiều cây cối dẫn vào SMSC. Vì nhiệm vụ, người bảo vệ vặn nhỏ tiếng chiếc ti vi xách tay của mình và giấu suất ăn nhanh xuống phía dưới quầy. Chẳng đúng lúc chút nào. Đội Redskins đang kết thúc pha nỗ lực mở màn của mình, mà anh thì không muốn bỏ lỡ nó.

Khi chiếc xe hơi lại gần hơn, người bảo vệ kiểm tra tên họ ghi trong sổ trực đặt trước mặt.

Bác sĩ Christopher Abaddon.

Katherine Solomon vừa gọi để báo cho bộ phận An ninh biết khách của mình sắp tới. Người bảo vệ không biết vị bác sĩ này là ai, nhưng rõ ràng phải là một bác sĩ rất ngon lành, vì ông ta đến bằng chiếc Limousine dài màu đen. Cỗ xe sang trọng dài ngoằng dừng lại bên cạnh phòng bảo vệ, và người lái xe hạ kính cửa sổ xuống êm ru.

- Chào anh, - gã lái xe lên tiếng, đưa tay lột mũ. Anh ta có vóc dáng vạm vỡ, đầu cạo trọc lốc, cũng đang nghe trận đấu bóng trên đài - Tôi đưa bác sĩ Christopher Abaddon tới gặp bà Katherine Solomon.

Người bảo vệ gật đầu.

- Xin cho xem giấy tờ tuỳ thân.

Gã lái xe tỏ vẻ ngạc nhiên.

- Xin lỗi, bà Solomon chưa gọi trước sao?

Người bảo vệ gật đầu, lén liếc nhìn màn hình ti vi.

- Tôi vẫn phải quét và ghi lại dữ liệu của khách khứa. Rất xin lỗi, quy định mà. Tôi cần xem giấy tờ tuỳ thân của bác sĩ.

- Không sao - Gã lái xe quay về phía sau ghế ngồi của anh ta và nói bằng giọng khẽ khàng qua tấm vách ngăn cách. Trong khi đó, người bảo vệ lại lén theo dõi trận đấu. Đội Redskins giờ đã ổn định được thế trận, nên người bảo vệ chỉ mong làm xong thủ tục cho chiếc Limousine này trước khi bước vào ván mới.

Gã lái xe lại quay lên và chìa ra tấm thẻ mà rõ ràng anh ta vừa nhận lấy qua tấm vách ngăn.

Người bảo vệ cầm thẻ và nhanh chóng quét qua hệ thống của mình. Tấm bằng lái xe đăng ký ở Washington D.C., chủ nhân là Christopher Abaddon sống ở khu Kalorama Heights. Tấm ảnh cho thấy một quý ông tóc vàng điển trai mặc áo cộc tay màu xanh dương, đeo cà vạt, miệng túi cài chiếc khăn mùi xoa bằng sa tanh. Sao lại có người đeo khăn mùi xoa bỏ túi tới Bộ Phương tiện Cơ giới chứ?

Tiếng reo hò nổi lên từ ti vi, người bảo vệ ngoái lại vừa kịp lúc nhìn thấy một cầu thủ áo đỏ nhảy múa ở khu vực cuối sân, ngón tay anh ta chỉ lên trời.

- Mình bỏ lỡ rồi, - người bảo vệ rên rỉ, quay ra phía cửa sổ.

- Được - anh nói, trả thẻ cho gã lái xe - Các vị xong xuôi rồi.

Chiếc Limousine lăn bánh qua, người bảo vệ quay về với cái ti vi của mình, hy vọng sẽ được xem cảnh chiếu lại.

***

Mal'akh lái chiếc Limousine chạy theo lối đi ngoằn ngoèo mà không thể nhịn được cười. Bảo tàng bí mật của Peter thật rất dễ đột nhập. Tuyệt hơn nữa, tối nay là lần thứ hai trong vòng hai mươi tư giờ qua Mal'akh lọt được vào một trong những khu vực kín đáo của Solomon. Đêm qua, gã đã thực hiện một cuộc viếng thăm tương tự tới tư gia ông ta.

Mặc dù có một điền trang rất lớn ở Potomac, nhưng phần lớn thời gian Peter Solomon ngụ tại thành phố, trong căn hộ áp mái của mình ở Dorchester Arms. Toà nhà ông ở, cũng như hầu hết mọi khu nhà dành cho các đại gia, là một pháo đài thực sự. Tường rất cao. Cổng có bảo vệ. Khách khứa ra vào phải đăng ký. Bãi đỗ xe ngầm có bảo đảm an ninh.

Mal'akh đã lái chiếc Limousine này tới phòng bảo vệ của toà nhà, bỏ chiếc mũ khỏi cái đầu trọc lốc, và nói rành rẽ.

- Tôi chở bác sĩ Christopher Abaddon. Ông ấy là khách mời của ngài Peter Solomon - Mal'akh nói năng cứ như thể gã đang tuyên bố mình là Công tước xứ York vậy.

Người bảo vệ kiểm tra sổ ghi chép, rồi xem căn cước của Abaddon.

- Vâng, tôi biết ngài Solomon đang đợi bác sĩ Abaddon - Anh ta ấn nút và cánh cổng mở ra - Ngài Solomon ở căn hộ tầng áp mái. Mời khách của anh dùng thang máy cuối cùng bên phải. Nó chạy thẳng lên tận nơi.

- Cảm ơn anh - Mal'akh đội mũ lên và lái xe qua.

Khi vòng xe vào sâu ga ra, gã dõi tìm các máy quay an ninh. Chẳng có gì. Rõ ràng, những người sống ở đây không phải hạng đột nhập xe hơi người khác, cũng không ưa việc bị theo dõi rình mò.

Mal'akh đậu xe vào một góc tối gần thang máy, hạ vách ngăn giữa khoang lái và khoang khách, rồi trườn ra phía sau chiếc Limousine.

Khi đã yên vị, gã lột chiếc mũ lái xe của mình và đội mớ tóc giả lên.

Chỉnh chang lại áo vét và cà vạt, gã kiểm tra qua gương soi để chắc chắn rằng lớp hoá trang vẫn nguyên vẹn. Gã không được phép mạo hiểm, nhất là tối nay.

Ta đã chờ đợi việc này quá lâu rồi.

Vài giây sau, Mal'akh bước vào thang máy riêng. Thang chạy êm ru lên tận tầng trên cùng. Khi cửa mở ra, gã thấy mình ở trong một phòng chờ rất trang nhã. Vị chủ nhà của gã đã đợi sẵn.

- Bác sĩ Abaddon, xin chào.

Mal'akh nhìn vào đôi mắt xám nổi tiếng của người đàn ông và cảm thấy tim mình đập mạnh.

- Ông Solomon, tôi rất biết ơn vì ông đã dành thời gian gặp tôi.

- Kìa, xin cứ gọi tôi là Peter.

Hai người bắt tay. Khi nắm lấy bàn tay người đàn ông lớn tuổi, Mal'akh nhìn thấy chiếc nhẫn vàng Tam điểm... trên chính bàn tay đã từng cầm súng chĩa vào gã. Một giọng nói thì thầm vọng về từ dĩ vãng xa xăm. Nếu ông bóp cò, tôi sẽ ám ảnh ông mãi mãi.

- Mời vào, - Solomon nói, dẫn Mal'akh tới một phòng khách lịch sự có những ô cửa sổ rộng nhìn ra quang cảnh tuyệt đẹp của Washington D.C.

- Tôi ngửi thấy mùi trà thì phải? - Mal'akh hỏi khi bước vào.

Solomon có vẻ rất ấn tượng.

- Cha mẹ tôi luôn tiếp khách bằng trà. Tôi cũng tiếp nối truyền thống đó - ông đưa Mal'akh vào phòng khách, bữa tiệc trà đang đợi trước lò sưởi - Kem hay đường nào?

- Đen thôi, xin cảm ơn.

Lại một lần nữa Solomon tỏ ra ấn tượng.

- Rất thanh đạm - ông rót cho cả hai mỗi người một tách trà đen - Anh nói cần thảo luận với tôi một chuyện rất nhạy cảm và chỉ có thể thảo luận riêng mà thôi.

- Cảm ơn. Tôi rất biết ơn ông đã dành thời gian.

- Anh và tôi giờ là huynh đệ trong Hội Tam điểm, người một nhà với nhau rồi. Hãy cho biết tôi giúp gì được anh.

- Trước hết, tôi muốn cảm ơn ông về vinh dự nhận cấp bậc 33 vài tháng trước. Điều này vô cùng có ý nghĩa với tôi.

- Tôi rất vui, nhưng xin nhớ những quyết định đó không phải của riêng tôi. Do Hội đồng Tối cao bầu mà.

- Dĩ nhiên rồi - Mal'akh tin chắc Peter Solomon có thể đã bỏ phiếu phủ quyết, nhưng trong Hội Tam điểm, cũng như ở tất cả những nơi khác, tiền là sức mạnh. Sau khi đạt được cấp độ 32 tại chi hội của mình, Mal'akh chỉ đợi có một tháng rồi quyên góp một khoản tiền trị giá hàng triệu đô la cho quỹ từ thiện đứng tên Đại Tổng Hội Tam điểm. Hành động tự nguyện hết sức hào phóng này, như Mal'akh tiên liệu, đủ mạnh để giúp gã nhanh chóng được mời vào đẳng cấp 33 tinh tuý. Nhưng ta vẫn chưa được biết về các bí mật.

***

Mặc dù lâu nay người ta cứ xì xầm rằng "Tất cả sẽ được tiết lộ ở cấp 33", nhưng Mal'akh không khai thác nổi điều gì mới mẻ hay hợp với mục đích tìm kiếm của mình. Tuy vậy, gã cũng chẳng mong sẽ được nghe người ta chia sẻ bí mật. Nội bộ Hội Tam điểm càng vào sâu càng thu hẹp... hẹp đến mức dẫu vài năm nữa Mal'akh cũng chưa chắc được đặt chân vào. Nhưng gã chẳng cần. Việc nhập môn chỉ để phục vụ mục đích này. Có gì đó rất hiếm gặp đã xảy ra ngay trong Phòng Thánh lễ, và nó đã đem lại cho Mal'akh quyền năng vượt trên tất cả. Ta khéo còn phải chơi theo quy định của các người nữa.

- Ông có nhận ra rằng chúng ta đã từng gặp nhau nhiều năm về trước không? - Mal'akh nói và nhấp một ngụp trà.

Solomon lộ vẻ ngạc nhiên.

- Thật sao? Tôi không nhớ.

- Cũng đã lâu lắm rồi - Và Christopher Abaddon không phải tên thật của tôi.

- Xin lỗi. Đầu óc tôi đang già đi từng ngày. Xin nhắc lại xem tôi quen anh như thế nào nhỉ?

Mal'akh mỉm cười lần cuối với người đàn ông gã căm ghét hơn bất kỳ ai khác trên cõi đời này.

- Thật tiếc là ông không còn nhớ.

Bằng một động tác thuần thục, Mal'akh rút từ trong túi một thiết bị nhỏ xíu, giơ ra và phóng mạnh nó tới ngực ông già. Một tia chớp xanh lè nhá sáng, khẩu súng gây choáng kêu xèo xèo sắc lạnh, và một cơn đau buốt trùm lên Peter Solomon khi hàng triệu volt điện chạy qua người ông. Mắt mở lớn. Ông già gục xuống ghế, bất động. Bấy giờ Mal'akh đứng dậy, cúi nhìn người đàn ông, vẻ thèm khát như một con sư tử sắp ăn thịt con mồi bị thương của nó.

Solomon há hốc miệng, cố thở.

Mal'akh nhìn thấy nỗi sợ hãi trong mắt nạn nhân của gã và tự hỏi có bao nhiêu người từng được chứng kiến ngài Peter Solomon vĩ đại rúm ró thế này. Mal'akh tận hưởng cảnh tượng vài giây. Gã nhấp một ngụm trà, đợi cho ông già thở trở lại.

Solomon quằn quại, cố nói.

- Tạ... tại sao? - cuối cùng ông cũng bật ra thành tiếng.

- Vậy ông nghĩ sao? - Mal'akh hỏi lại.

Solomon thực sự ngơ ngác.

- Anh muốn... tiền ư?

Tiền à? Mal'akh cười phá lên và nhấp một ngụm trà nữa.

- Tôi đã tặng cho Hội Tam điểm hàng triệu đô la, tôi đâu có cần tiền - Tôi đến để lầy tri thức, và thứ đó làm cho tôi giàu có.

- Vậy thì... anh muốn gì?

- Ông nắm giữ một bí mật. Ông sẽ cho tôi biết điều đó tối nay.

Solomon cố nhấc đầu lên để có thể nhìn vào mắt Mal'akh.

- Tôi không... hiểu.

- Đừng dối trá nữa! - Mal'akh gào lớn, tiến sát lại ông già đã bị tê liệt. - Tôi biết có một thứ đang được cất giấu ở Washington này.

Đôi mắt xám của Solomon tỏ ra thách thức.

- Tôi không hiểu anh đang nói về chuyện gì!

Mal'akh nhấp một ngụm trà nữa và bỏ cái chén vào khay.

- Ông đã nói câu này với tôi mười năm về trước, vào đúng cái đêm mẹ ông chết.

Đôi mắt Solomon mở to.

- Mày...?

- Lẽ ra bà ấy đã không chết. Nếu ông đưa cho tôi thứ mà tôi muốn...

Gương mặt ông già nhăn nhúm vì đau đớn... và không sao tin nổi.

- Tôi đã cảnh cáo ông, - Mal'akh nói - nếu ông bóp cò, tôi sẽ ám ảnh ông mãi mãi.

- Nhưng mày...

Mal'akh lao bổ tới, một lần nữa dí thật mạnh khẩu súng điện vào ngực Solomon. Lại một tia lửa xanh lè nhá lên, và Solomon hoàn toàn tê liệt.

Mal'akh bỏ khẩu súng điện vào túi và thản nhiên uống nốt chén trà. Uống xong, gã lau miệng bằng chiếc khăn tay vải lanh thêu chữ lồng và cúi nhìn nạn nhân của mình.

- Chúng ta đi nào!

Cơ thể Solomon bất động, nhưng mắt ông vẫn mở to.

Mal'akh cúi xuống và thì thầm vào tai ông già.

- Tôi sẽ đưa ông tới một nơi chỉ có sự thật mà thôi.

Không nói thêm lời nào. Mal'akh nhét chiếc khăn tay vào miệng Solomon. Sau đó, gã xốc ông già bất động lên đôi vai vạm vỡ của mình và tiến ra phía thang máy. Trên đường đi ra, gã nhặt lấy chiếc iPhone cùng chìa khoá của Solomon để trên bàn.

Tối nay, ông sẽ cho tôi biết tất cả những bí mật của ông

Mal'akh nghĩ thầm. Kể cả lý do tại sao ông để mặc tôi chết nhiều năm về trước.

Chương 30

Tầng SB.

Tầng hầm Thượng viện.

Càng đi sâu xuống, Robert Langdon càng thấy tâm lý trĩu nặng nỗi sợ không gian hẹp. Khi họ tiến vào phần nền móng nguyên thuỷ của toà nhà, không khí trớ nên đặc quánh, tựa hồ không có hệ thống thông gió. Các bức tường ở đây được xây lẫn lộn bằng đá và gạch màu vàng.

Giám đốc Sato vẫn bấm phím chiếc Blackberry suốt dọc đường đi Langdon cảm thấy đằng sau điệu bộ thận trọng kia, bà ta đang nghi ngờ điều gì đó, nhưng chính anh cũng thấy ngờ vực về bà ta.

Sato vẫn không nói cho Langdon biết bằng cách nào bà ta hay tin anh có mặt ở đây tối nay. Vấn đề an ninh quốc gia ư? Có thời anh đã phải rất nhọc nhằn mới hiểu được mối quan hệ giữa chủ nghĩa thần bí cổ đại và vấn đề an ninh quốc gia. Lại một lần nữa, anh thấy khó khăn trong việc tìm hiểu những điều liên quan đến tình huống này.

Peter Solomon tin tưởng gửi gắm mình một lá bùa... một thằng điên dối trá đã lừa mình mang nó tới Điện Capitol và muốn mình dùng nó để mở một cánh cổng bí mật... có lẽ nằm ở trong một căn phòng gọi là SBB13.

Mọi việc không được rõ ràng lắm.

Vừa theo hai người kia hối hả bước đi, Langdon vừa cố gắng gạt bỏ khỏi tâm trí mình hình ảnh hãi hùng về bàn tay có hình xăm bị biến cải thành Mật Thủ của Peter. Hình ảnh kinh khủng ấy đi kèm với tiếng ông nói: Những bí ẩn cổ xưa, Robert ạ, sinh ra nhiều huyền tích... nhưng điều đó không có nghĩa rằng bản thân chúng là hư cấu.

Mặc dù đã dành cả đời nghiên cứu về những biểu tượng và lịch sử kỳ bí. Langdon vẫn tỉnh táo phản đối mọi ý tưởng về Bí ẩn cổ xưa cũng như lời hứa hẹn phong thần phong thánh của các bí mật ấy.

Phải thừa nhận rằng, tài liệu lịch sử có chứa một bằng chứng không thể chối cãi, theo đó tri thức bí ẩn khởi nguồn từ Mật phái ở Ai Cập cổ đại rồi được lưu truyền qua nhiều thế hệ. Phần lớn các ghi chép cho thấy nó rút vào bóng tối đến tận thời Phục Hưng mới tái xuất ở châu Âu, và được gửi gắm cho một nhóm khoa học gia tinh tuý Nhóm này làm việc giữa bốn bức tường của Hiệp hội Hoàng gia London - cơ sở khoa học hàng đầu châu Âu - và được mệnh danh rất khó hiểu là Đại học Vô hình.

Cái "đại học" ẩn dạng này nhanh chóng trở thành bộ tham mưu của những trí tuệ sáng láng nhất thế giới, như Isaac Newton, Francis Bacon, Robert Boyle, và cả Benjamin Franklin. Danh sách tín đồ hiện đại cũng không kém phần ấn tượng, nào là Einstein, Hawking, nào là Bohr, Celsius - những bộ óc vĩ đại đã đem lại nhiều bước nhảy vọt phi thường trong hiểu biết của nhân loại. Một số người cho rằng thành tựu tiên tiến ấy là kết quả của việc họ được tiếp xúc với tri thức cổ xưa cất giấu ngay trong Đại học Vô hình. Langdon không bao giờ tin giả thuyết này, mặc dù chắc chắn là có rất nhiều "công việc bí ẩn" diễn ra trong mấy bức tường này.

Năm 1936, cả thế giới kinh ngạc khi phát hiện ra nhiều tài liệu riêng tư cho thấy Isaac Newton rất say mê nghiên cứu thuật giả kim cổ đại và tri thức thần bí, trong số đó có một bức thư viết tay gửi cho Robert Boyle khuyến nghị ông này giữ "im lặng" về những kiến thức bí mật mà họ đã tiếp thu được. "Đừng truyền bá nó", Newton viết, kẻo sẽ gây ảnh hưởng rất lớn đến thế giới".

Cho đến giờ người ta vẫn tranh cãi về ý nghĩa của câu cảnh báo lạ lùng này.

- Giáo sư, - Sato đột ngột lên tiếng, rời mắt khỏi cái Blackberry của bà ta - mặc dù ông khăng khăng nói rằng ông không lý giải nổi tại sao mình lại ở đây tối nay, nhưng có lẽ ông phải thấy nảy ra manh mối nào đó về ý nghĩa chiếc nhẫn của Peter Solomon chứ!

- Tôi sẽ cố gắng xem sao, - Langdon đáp, tập trung trở lại.

Sato lôi cái túi đựng mẫu vật ra và đưa cho Langdon.

Cho tôi biết về những biểu tượng trên chiếc nhẫn.

Bấy giờ họ đang bước dọc một hành lang vắng vẻ. Langdon kiểm tra chiếc nhẫn quen thuộc. Mặt nhẫn có hình một con phượng hoàng hai đầu quắp một dải băng mang dòng chữ ORDO AB CHAO, trên ngực nó vẽ con số 33.

- Phượng hoàng hai đầu mang số 33 là biểu trưng cho cấp bậc cao nhất trong Hội Tam điểm - Nói cho đúng, cấp độ rất uy tín này chỉ tồn tại riêng trong Phân hội Scottish(51). Tuy nhiên, các nghi thức và tầng bậc của Hội Tam điểm là một hệ thống tôn ti trật tự rất phức tạp mà Langdon không định đi vào chi hết tối nay - Về cơ bản, cấp bậc 33 là vị trí danh dự tinh tuý dành cho một nhóm nhỏ những hội viên Tam điểm xuất chúng. Tất cả các cấp độ khác có thể đạt được bằng cách hoàn thành xong cấp độ trước đó, nhưng việc leo lên đến cấp 33 thì lại bị khống chế. Phải mời mới được vào.

- Và ông biết rõ Peter Solomon là một thành viên của giới tinh tuý?

- Dĩ nhiên. Quan hệ thành viên gần như là một bí mật.

- Và ông ấy là nhân vật cao cấp nhất?

- Hiện tại thì đúng. Peter đứng đầu Hội đồng Tối cao Cấp độ 33, một cơ quan điều hành của Phân hội Scottish ở Mỹ.

Langdon luôn thích đến thăm tổng hành dinh của họ - Thánh điện, một kiệt tác cổ điển với phần trang trí mang tính biểu trưng có thể so sánh với Nhà nguyện Rosslyn ở Scotland.

Giáo sư, ông có chú ý thấy dòng chữ khắc quanh riềm nhẫn không? Đề là "Tất cả được tiết lộ ở cấp 33".

Langdon gật đầu.

- Đây là một chủ đề rất phổ biến trong những truyền thuyết về Hội Tam điểm.

- Theo chỗ tôi hiểu, thế nghĩa là nếu một hội viên lên tới cấp 33 cao nhất thì anh ta sẽ được tiết lộ một điều gì đó thật đặc biệt?

- Phải, truyền thuyết thì như vậy, nhưng có lẽ không đúng với thực tế. Thiên hạ cứ đồn đoán rằng chỉ một số ít có chọn lọc trong tầng lớp cao nhất của Hội Tam điểm mới được chia sẻ một bí mật lớn lao nào đó. Song tôi ngờ rằng sự thật có lẽ không kịch tính đến thế.

Peter Solomon thường nửa đùa nửa thật về sự tồn tại của một bí mật quý giá trong Hội Tam điểm, nhưng Langdon luôn cho rằng đó chỉ là một ý đồ ranh mãnh nhằm lôi kéo anh gia nhập hội này.

Tiếc thay, những sự kiện tối nay không phải là đùa, và việc Peter nài anh giữ cái gói niêm phong trong túi này không hề gợn chút nào ranh mãnh.

Langdon khổ sở nhìn cái túi nhựa có chiếc nhẫn của Peter.

- Bà Giám đốc, - anh hỏi - tôi giữ thứ này có được không?

- Để làm gì?

- Nó rất có giá trị với Peter, và tối nay tôi muốn trả lại cho ông ấy.

Nét mặt Sato đầy nghi ngại.

- Hi vọng ông tìm được cơ hội đó.

- Cảm ơn - Langdon bỏ chiếc nhẫn vào túi.

Họ tiếp tục tiến sâu hơn vào mê cung, Sato lại lên tiếng:

- Tôi hỏi câu nữa. Nhân viên của tôi nói rằng khi kiểm tra các khái niệm "cấp 33" và "cánh cổng" liên quan đến Hội Tam điểm, họ tìm thấy hàng trăm tài liệu tham khảo đề cập đến kim tự tháp. Tại sao thế?

- Điều đó không có gì lạ cả - Langdon đáp - Những người xây dựng Kim tự tháp Ai Cập là tiền nhân của thợ đá hiện đại, và kim tự tháp cùng với các chủ đề về Ai Cập, rất phổ biến trong hệ thống biểu tượng Hội Tam điểm.

- Biểu tượng gì chứ?

- Kim tự tháp thể hiện sự khai sáng. Nó là một biểu tượng kiến trúc qua đó con người cổ đại muốn chứng minh rằng họ có khả năng thoát khỏi cõi thế tục, vươn tới thiên đường, tới mặt trời vàng và cuối cùng là tới nguồn sáng tối thượng.

Sato đợi thêm một lát.

- Không còn gì khác sao?

Không còn gì khác sao? Langdon chẳng vừa mới nói đến một trong những biểu tượng tao nhã nhất lịch sử đấy thôi. Một cấu trúc mà qua nó con người nâng mình lên thế giới của thần thánh.

- Theo nhân viên của tôi - Sato tiếp tục - dường như tối nay có một mối liên hệ chặt chẽ hơn nhiều. Họ nói rằng có một truyền thuyết rất phổ biến về một kim tự tháp cụ thể ở đây, tại Washington này, một kim tự tháp liên hệ đặc biệt với Hội Tam điểm và các bí ẩn cổ xưa.

Giờ thì Langdon hiểu Sato đang nhắc đến điều gì, và anh cố gắng xua tan ý tưởng này trước khi họ lãng phí thêm thời gian.

- Tôi không lạ gì truyền thuyết đó, thưa bà Giám đốc, nhưng nó thuần tuý là sản phẩm tưởng tượng. Kim tự tháp Hội Tam điểm là một trong những huyền tích lâu đời nhất của Washington D.C., có lẽ bắt nguồn từ kim tự tháp trên Quốc ấn của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ.

- Tại sao ông không đề cập đến chuyện này sớm hơn?

Langdon nhún vai.

- Bởi vì nó không có cơ sở thực tế. Như tôi đã nói, nó là một huyền tích. Một trong rất nhiều huyền tích liên quan đến Hội Tam điểm.

- Và huyền tích cụ thể này có liên hệ trực tiếp đến các Bí ẩn cổ xưa?

- Chắc chắn rồi, giống như rất nhiều huyền tích khác. Các Bí ẩn cổ xưa là nền tảng cho vô số truyền thuyết tồn tại trong lịch sử, chẳng hạn những câu chuyện về tri thức hùng mạnh nằm trong vòng bảo vệ của các Hiệp sĩ đền thánh, Hội Thập tự Hoa hồng, tổ chức Illuminati(52), nhóm Alumbrados... và còn nhiều nhiều nữa. Tất cả đều dựa trên những bí ẩn cổ xưa. Kim tự tháp Hội Tam điểm chỉ là một ví dụ.

- Tôi hiểu rồi. - Sato đáp - Nhưng thực tế thì truyền thuyết này nói gì?

Langdon ngẫm nghĩ câu hỏi đó một lát rồi mới trả lời.

- Chà, tôi không chuyên lắm về các luận thuyết hư cấu, nhưng tôi được đào tạo về thần thoại học, và hầu hết các câu chuyện đều tiến triển như thế này: Các bí mật cổ xưa - hay gọi là tri thức thất truyền của mọi thời đại - từ lâu đã được coi là kho báu quý giá nhất của nhân loại và như tất cả các kho báu, chúng được bảo vệ rất cẩn mật. Các bậc hiền nhân được khai sáng, những người hiểu được sức mạnh thật sự của vốn tri thức này, rất sợ tiềm lực kinh khủng của nó. Họ biết rằng nếu kiến thức bí mật này rơi vào tay những kẻ chưa được khai tâm thì kết quả có thể rất tai hại; như chúng ta đã nói trước đó, những công cụ hùng mạnh có thể được sử dụng cho cả việc thiện lẫn việc ác. Vì thế, để bảo vệ các Bí ẩn cổ xưa và cũng là bảo vệ nhân loại, những người đầu tiên nắm bắt được tri thức đã thành lập ra các hiệp hội bí mật. Bên trong những hội này, họ chỉ chia sẻ tri thức của họ với những thành viên được khai sáng, truyền bá tri thức đó trong vòng các trí giả mà thôi. Nhiều người tin rằng chúng ta có thể xem lại và tìm thấy những tàn dư lịch sử của những người từng nắm được các bí ẩn... trong các câu chuyện về pháp sư, phù thuỷ và đạo nhân.

- Thế còn Kim tự tháp Hội Tam điểm? - Sato hỏi - Thứ đó thì liên quan gì chứ?

- Chà, - Langdon đáp, chân rảo bước nhanh hơn để theo cho kịp - đây là chỗ mà lịch sử và truyền thuyết bắt đầu giao thoa. Theo một số tài liệu, vào thế kỷ XVI ở châu Âu, hầu như tất cả các hội kín này đều biến mất, bị tiêu diệt bởi một làn sóng khủng bố tôn giáo. Người ta nói rằng, hội viên Tam điểm là những người cuối cùng còn tồn tại và gìn giữ các bí mật cổ xưa. Cũng dễ hiểu là họ sợ rằng nếu một ngày nào đó tổ chức của họ bị xoá sổ như những tổ chức tiền thân, thì các bí mật cổ xưa sẽ bị thất truyền mãi mãi.

- Thế còn kim tự tháp? - Sato lại nhấn mạnh.

Langdon bắt đầu giải thích.

- Truyền thuyết Kim tự tháp Hội Tam điểm rất đơn giản. Nó nói rằng, để hoàn thành trách nhiệm bảo vệ vốn tri thức vĩ đại cho các thế hệ tương lai, Hội Tam điểm quyết định giấu nó vào một pháo đài - Langdon cố gắng nhớ lại các chi tiết về câu chuyện - Một lần nữa, tôi nhấn mạnh đây chỉ là truyền thuyết, nhưng rất hay được viện dẫn, Hội Tam điểm đem tri thức bí mật của họ từ Cựu Thế giới tới Tân Thế giới, tức là tới đây, nước Mỹ này, một mảnh đất mà họ hy vọng sẽ thoát khỏi chế độ tôn giáo tàn bạo, và ở đây, họ xây dựng một pháo đài bất khả xâm phạm - một kim tư tháp bí mật - được thiết kế đế bảo vệ các bí mật cố xưa cho tới khi nào tất cả nhân loại sẵn sàng tiếp nhận sức mạnh ghê gớm mà tri thức này có thể đem lại. Theo truyền thuyết Hội Tam điểm đặt trên đỉnh kim tự tháp vĩ đại của họ một khối vàng đặc sáng rực rỡ làm biểu tượng cho kho báu quý giá bên trong - cái kho tri thức co xưa có thể giúp con người phát huy hết tiềm năng của mình. Hoá thành thần thánh.

- Câu chuyện hay đấy, - Sato nói.

- Vâng. Hội Tam điểm bị chinh phục bởi tất cả các loại huyền tích kỳ cục.

- Rõ ràng ông không tin rằng có một kim tự tháp như thế tồn tại.

- Dĩ nhiên là không rồi, - Langdon đáp - Không hề có bằng chứng gì cho thấy các bậc tiền bối hội viên Tam điểm của chúng ta đã xây dựng một loại kim tự tháp nào đó ở nước Mỹ, càng không thể ở Washington D.C. này. Rất khó giấu được một kim tự tháp, đặc biệt là một cái đủ lớn để chứa được toàn bộ tri thức đã bị thất truyền của mọi thời đại.

Theo lời Langdon, truyền thuyết chẳng bao giờ giải thích chính xác xem cái gì nằm bên trong Kim Tự tháp Hội Tam điểm - dù đó là những văn bản cổ, những văn tự huyền bí, những phát kiến khoa học, hay cái gì đó bí hiểm hơn thế nữa - nhưng huyền tích thật sự nói rằng thông tin quý giá bên trong được mã hoá rất khéo léo... và chỉ ai có tâm hồn khai sáng nhất mới đủ sức thấu hiểu.

- Nhưng dù sao - Langdon tiếp - câu chuyện này rơi vào một thể loại mà giới biểu tượng học chúng tôi gọi là một "lai tạp nguyên mẫu", một hình thức pha trộn của những huyền tích kinh điển, vay mượn thêm nhiều yếu tố từ kho tàng thần thoại đến mức nó chỉ có thể là một sản phẩm hư cấu... không thể là sự thật lịch sử được.

Khi dạy sinh viên về các lai tạp nguyên mẫu, Langdon sử dụng ví dụ là các truyện thần tiên, được kể lại qua nhiều thế hệ và phóng đại dần theo thời gian, vay mượn rất nhiều của nhau để trở thành những câu chuyện đạo lý với những yếu tố ước lệ tương tự - những thiếu nữ đồng trinh, các hoàng tử đẹp trai, những toà lâu đài bất khả xâm phạm, và những phù thuỷ hùng mạnh. Nhờ các câu chuyện thần tiên, trận chiến "thiện và ác" bám rễ trong chúng ta từ thời còn thơ ấu thông qua các câu chuyện: Merlin chống lại Morgan le Fay, Thánh George chống lại Rồng, David chống lại quái vật Goliath, Nàng Bạch Tuyết chống lại Mụ phù thuỷ, và thậm chí là Luke Skywalker chiến đấu với Darth Vader.

Họ ngoặt qua một góc tường và theo Anderson xuống một quãng cầu thang ngắn nữa, Sato gãi gãi đầu.

- Giải thích cho tôi điều này nhé. Nếu tôi không nhầm thì các kim tự tháp từng được coi là những cánh cổng bí ẩn mà qua đó, các pharaoh băng hà có thể bay lên thế giới thần linh, có phải không nhỉ?

- Đúng đấy.

Sato dừng lại đột ngột và nắm lấy tay Langdon, ngước nhìn anh với vẻ mặt nửa ngạc nhiên nửa hoài nghi.

- Kẻ bắt cóc Peter Solomon bảo ông tìm một cánh cổng bí mật, và ông không hề nghĩ rằng gã đang nói về Kim tự tháp Hội Tam điểm trong huyền tích này ư?

- Nói gì thì nói, Kim Tự tháp Hội Tam điểm chỉ là một câu chuyện thần tiên. Nó hoàn toàn do tưởng tượng mà ra.

Sato bước lại sát anh hơn, tới mức Langdon ngửi thấy cả hơi thở sặc sụa mùi thuốc lá của bà ta.

- Tôi hiểu vị trí của ông trong chuyện này, thưa Giáo sư, nhưng vì cuộc điều tra, tôi không thể loại bỏ yếu tố so sánh. Một cánh cổng dẫn tới vốn tri thức bí mật ư? Theo kẻ bắt cóc Peter Solomon, nghe chừng chỉ ông mới mở được.

- Chà, tôi khó lòng tin...

- Ông tin điều gì không quan trọng. Dù sao đi nữa, ông cũng phải thừa nhận rằng bản thân gã đó có thể đang tin chắc vào khả năng tồn tại của Kim Tự tháp Hội Tam điểm.

- Gã là một kẻ mất trí! Gã cũng có thể tin rằng SBB 13 là lối vào một kim tự tháp khổng lồ ngầm dưới lòng đất, nơi chứa đựng tri thức đã bị thất truyền của cổ nhân!

Sato đứng lặng đi, đôi mắt rực sáng.

- Rắc rối mà tôi đang phải xử lý tối nay không phải là một chuyện thần tiên, thưa Giáo sư. Nó rất thật, tôi dám quả quyết với ông như thế.

Một sự im lặng lạnh lẽo bao trùm lấy họ.

- Thưa bà? - Cuối cùng Anderson lên tiếng, ra hiệu về phía cánh cửa bảo vệ cách đó 3 mét - Chúng ta gần đến nơi rồi, nếu chúng ta đi tiếp.

Cuối cùng Sato cũng thôi không nhìn xoáy vào Langdon nữa mà ra hiệu cho Anderson tiếp tục.

Họ theo viên Chỉ huy lực lượng an ninh đi qua ô cửa để vào một lối đi hẹp. Langdon ngó quanh, hết bên trái rồi bên phải.

Thật không thể tưởng tương được.

Anh chưa bao giờ trông thấy hành lang nào dài đến thế này.

Chú thích:

(51) Phân hội Scottish là một trong vài phân hội của Hội Tam điểm. Một phân hội gồm vài cấp bậc kế tiếp nhau do những tổ chức hoặc cơ quan khác nhau của Hội Tam điểm tấn phong, hoạt động dưới sự kiểm soát của cơ quan trung ương. Cơ quan trung ương của Phân hội Scottish là Hội đồng Tối cao. Phân hội Scottish là một trong những cơ quan trực thuộc Hội Tam điểm, nơi một huynh trưởng có thể gia nhập để tiếp tục lĩnh hội những nguyên tắc của Hội. Phân hội Scottish được hình thành dựa trên những lời giáo huấn đạo đức và triết lý do hội hành nghề (craft lodge hoặc Blue Lodge) đưa ra - ND.

(52) Tổ chức Illuminati là một hội kín được sáng lập vào thế kỷ XVI bởi những người khai sáng giỏi nhất Italia, gồm các nhà vật lý, thiên văn học, toán học, nhằm chia sẻ mối quan tâm của họ về những tín điều không chính xác của nhà thờ. Tên gọi Illuminati có nghĩa là "Những người khai sáng" - ND.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#gakute