Biểu tượng thất truyền c 73-95

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương 73

Chỗ ẩn náu. Câu trả lời

Mấy từ đó cứ ong ong trong tâm trí Langdon khi anh cùng Katherine bước qua cửa ngách Toà nhà Adams ra trời đêm mùa đông lạnh lẽo. Người gọi bí mật kia đã chỉ dẫn vị trí của mình theo kiểu mã hoá, nhưng Langdon vẫn hiểu. Katherine có vẻ tin tưởng đích đến ấy một cách đáng ngạc nhiên: Còn nơi nào tốt hơn để tìm một Đức Chúa Đích thực?

Vấn đề là làm sao tới được đó.

Langdon nhìn quanh, cố gắng xác định phương hướng. Trời tối om, nhưng may là trong trẻo. Họ đang đứng trong một khoảnh sân nhỏ. Phía xa, Mái vòm Điện Capitol hiện lên tráng lệ, Langdon sực nhớ đã mấy tiếng rồi kể từ khi đặt chân tới đây, bây giờ anh mới được bước chân ra ngoài trời.

Bài thuyết giảng của mình quá cực nhọc.

- Robert, nhìn kìa, - Katherine trỏ về phía Toà nhà Jefferson(75).

Phản ứng đầu tiên của Langdon khi nhìn thấy toà nhà là sự ngạc nhiên, bởi họ đã di chuyển thật xa dưới lòng đất bằng một cái băng chuyền. Tuy nhiên, phản ứng thứ hai của anh là giật mình cảnh giác.

Lúc này Toà nhà Jefferson rất ồn ào, xe tải và xe con ùn ùn kéo tới, tiếng người la hét, quát tháo. Lại có cả đèn rọi thì phải?

Langdon nắm lấy tay Katherine.

- Mình đi thôi!

Họ băng qua khoảnh sân, lao về phía đông bắc, mau chóng khuất dạng sau một toà nhà hình chữ U rất đẹp. Langdon nhận ra đó là Thư viện Folger Shakespeare. Toà nhà đặc biệt này xem ra là lớp nguỵ trang rất thích hợp cho họ tối nay, vì ở đó có bản thảo gốc tiếng Latin cuốn Newatlantis của Francis Bacon, trình bày một quan điểm viễn tưởng mà những người sáng lập nước Mỹ dựa vào để xây dựng mô hình thế giới mới trên nền tảng tri thức cổ xưa. Mặc dù vậy. Langdon vẫn không dừng lại ở đây.

- Chúng ta cần một chiếc taxi.

Họ đến góc giao giữa phố Số 3 và phố East Capitol. Xe cộ khá thưa thớt, Langdon đưa mắt tìm taxi, lòng thấy mất dần hy vọng. Anh và Katherine vội vã đi dọc phố Số 3, tiến lên phía bắc, cố tránh xa Thư viện Quốc hội. Đi hết cả một dãy nhà Langdon mới nhìn thấy một chiếc taxi đang vòng qua góc phố. Anh ra hiệu cho xe chậm lại, chiếc xe sáp tới.

Radio xe đang bật nhạc vùng Trung Đông. Anh chàng lái xe gốc Ả rập mỉm cười thân thiện. Đợi hai người chui vào xe xong, anh ta hỏi.

- Đi đâu đây?

- Chúng tôi cần tới...

- Khu Tây bắc! - Katherine xen ngang, chỉ theo hướng phố Số 3 chạy xa khỏi Toà nhà Jefferson - Cho xe về Nhà ga Union, sau đó rẽ trái vào Đại lộ Massachusetts. Chúng tôi sẽ cho anh biết phải dừng lại chỗ nào.

Người lái xe nhún vai, đóng vách ngăn bằng kính Plexiglas và lại vặn nhạc lên.

Katherine dùng ánh mắt nhắc nhở Langdon: "Đừng để lộ hành trình". Cô trỏ tay ra cửa sổ. Một chiếc trực thăng màu đen đang bay là là cố tiếp cận khu vực này. Chết thật. Rõ ràng Sato rất quyết tâm lấy lại cái kim tự tháp của Solomon.

Khi chiếc trực thăng đáp xuống giữa hai toà nhà Jefferson và Adams, Katherine quay sang Langdon, nét mặt thêm lo âu.

- Tôi xem điện thoại di động của anh một lát được không?

Langdon đưa điện thoại cho cô.

- Peter kể với tôi rằng anh có khả năng ghi nhớ bằng hình ảnh - cô vừa nói vừa hạ kính cửa xe xuống - Và anh nhớ tất cả mọi số điện thoại anh từng bấm phải không?

- Phải, nhưng mà...

Katherine ném mạnh điện thoại ra ngoài. Langdon xoay người trên ghế nhìn chiếc điện thoại di động của mình lăn lông lốc và vỡ tung trên vỉa hè phía sau họ.

- Sao chị lại làm thế?

- Ngắt liên lạc, - Katherine nói, ánh mắt nghiêm trang - Kim tự tháp là hy vọng duy nhất để tìm ra Peter. Tôi không định để CIA giằng nó khỏi tay chúng ta.

Trên hàng ghế trước, Omar Amirana lắc lư đầu và rên ư ử theo tiếng nhạc. Đêm trôi thật chậm, anh cảm thấy may mắn vì cuối cùng cũng có khách. Chiếc taxi vừa chạy qua Công viên Stanton thì giọng nói quen thuộc của nhân viên điều hành vang lên trên bộ đàm.

- Trung tâm điều phối đây. Các xe trong khu vực Công viên Quốc gia chú ý. Chúng tôi vừa nhận được một bản tin từ chính quyền, thông báo có hai kẻ bỏ trốn gần Toà nhà Adams...

Omar ngạc nhiên lắng nghe nhân viên điều phối mô tả đúng đôi trai gái ngồi trong xe anh. Anh lén nhìn qua kính chiếu hậu. Omar phải thừa nhận, anh chàng cao ráo kia thật sự trông rất quen. Hay là mình đã nhìn thấy anh ta trên chương trình America"s Most Wanted(76) nhỉ?

Rất thận trọng, Omar với lấy máy bộ đàm.

- Trung tâm điều phối? - Anh nói khẽ vào bộ đàm - Đây là xe một-ba-bốn. Hai người mà trung tâm vừa nhắc đến đang ở trong xe tôi...

Trung tâm lập tức hướng dẫn những việc Omar cần làm. Tay run bắn, người lái xe bấm phím gọi số máy mà nhân viên điều phối vừa đưa. Giọng trả lời rất ngắn gọn và hiệu quả, như của một quân nhân.

- Đặc vụ Turner Simkins, Nhóm tác chiến CIA đây. Ai đấy?

- A tôi là lái xe taxi... - Omar đáp - Trung tâm bảo tôi gọi cho ông để thông báo về hai...

- Những kẻ chạy trốn đang trên xe của anh phải không? Chỉ trả lời đúng hoặc không thôi.

- Đúng.

- Họ có nghe được cuộc trò chuyện này không? Có hoặc không?

- Không. Vách ngăn...

- Anh đang chở họ đi đâu?

- Hướng tây bắc, đến Đại lộ Massachusetts.

- Địa điểm cụ thể?

- Họ không nói.

Đặc vụ CIA lưỡng lự.

- Hành khách nam còn mang theo cái túi da không?

Omar liếc qua kính chiếu hậu, quét nhanh mắt sang bên cạnh.

- Còn! Cái túi đó không có chất nổ hay thứ gì bên trong...

- Nghe kỹ đây, - đặc vụ kia nói - Anh không gặp nguy hiểm chừng nào anh làm theo đúng hướng dẫn của tôi. Rõ chưa?

- Vâng, thưa ông.

- Tên anh là gì nhỉ?

- Omar, - anh chàng lái taxi đáp, mồ hôi vã ra như tắm.

- Nghe này, Omar, - người kia bình tĩnh dặn - Anh hành động rất tốt. Tôi muốn anh lái xe chậm hết mức để tôi kịp cho người chặn đường. Anh có hiểu không?

- Vâng, thưa ông.

- Xe anh có thiết bị đàm thoại nội bộ để trao đổi với khách ngồi sau chứ?

- Vâng, thưa ông.

- Tốt. Vậy đây là những gì tôi muốn anh làm.

Chú thích:

(75) Toà nhà Thomas Jefferson là toà nhà lâu đời nhất trong số ba toà nhà của Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ, xây dựng trong thời gian 1890 đến 1897. Toà nhà này là nơi tập hợp các tác phẩm của những điêu khắc và hoạ sĩ trường phái "Phục Hưng Mỹ", thể hiện sự tiến bộ của nền văn minh, được nhân cách hoá vào những vĩ nhân. Phần ngoại thất, các vòm cửa sổ được trang trí các đầu tượng chân dung - ND.

(76) Chương trình America's Most Wanted là một chương trình truyền hình Mỹ do hãng 20th Century Fox sản xuất, và là chương trình phát sóng lâu nhất trong lịch sử mạng truyền hình của Fox. Mục đích của chương trình là giới thiệu và hỗ trợ việc thực thi luật pháp trong việc bắt giữ những tội phạm trốn chạy bị truy nã, và cả những người có trong danh sách 10 đối tượng bị truy nã gắt gao nhất của FBI - ND.

Chương 74

Vườn Bách thảo Hoa Kỳ (USBG) - bảo tàng sống của nước Mỹ - nằm ngay cạnh Điện Capitol. Ở chính giữa vườn này là một nhà kính cao ngất, ôm trọn khu rừng mưa nhiệt đới có biệt hiệu Rừng rậm. Trong rừng trồng toàn những thân cao su lừng lững, những cây đa bóp cổ, và một lối đi có mái che dành cho các du khách ưa mạo hiểm.

Bình thường, Warren Bellamy luôn cảm thấy tràn trề sinh lực trước mùi đất ngai ngái của Rừng rậm và ánh mặt trời lấp lóe qua lớp hơi nước mù mịt phì ra từ các vòi xịt trên trần kính. Nhưng đêm nay, Rừng rậm ngập trong ánh trăng lại khiến ông kinh sợ. Người đầm đìa mồ hôi. Bellamy oằn mình chống chọi cơn tê buốt đang lan khắp hai cánh tay vẫn bị trói quặt sau lưng.

Giám đốc Sato đi đi lại lại trước mặt ông, thản nhiên rít thuốc lá - một hành động huỷ hoại sinh thái trong môi trường được chăm chút hết sức cẩn thận này. Gương mặt bà ta gần như ma quái sau đám khói thuốc trộn lẫn ánh trăng chảy xuống từ trần kính phía trên.

- Vậy là tối nay - bà ta tiếp tục - khi ông đến Điện Capitol và phát hiện ra sự có mặt của tôi... ông đã quyết định. Thay vì thông báo cho tôi biết, ông lại lặng lẽ mò xuống SBB, táo gan tấn công Chỉ huy Anderson và tôi, rồi giúp Langdon tẩu thoát cùng kim tự tháp và cái chóp - Bà ta xoa xoa vai - Một lựa chọn thật thú vị.

Dẫu lựa chọn lại tôi sẽ vẫn hành động như vậy, Bellamy nghĩ.

- Peter đâu? - ông giận dữ chất vấn.

- Làm sao tôi biết được? - Sato tỉnh bơ.

- Bà biết tất cả mọi việc! - Bellamy quát lại, chẳng buồn che giấu nỗi nghi ngờ rằng con người này đứng sau tất cả mọi việc - Bà biết đường tìm đến Điện Capitol. Bà biết đường tìm Robert Langdon. Thậm chí bà còn biết chụp X quang túi xách của anh ta để tìm cái chóp. Rõ ràng có kẻ đã cung cấp cho bà rất nhiều thông tin tay trong.

Sato cười lạnh tanh và bước lại gần Bellamy hơn.

- Đó là lý do khiến ông tấn công tôi phải không? Ông coi tôi là kẻ thù chăng? Ông cho rằng tôi đang tìm cách đánh cắp cái kim tự tháp bé xíu ấy? - Sato rít một hơi thuốc và phả khói qua lỗ mũi - Nghe cho kỹ đây. Không ai hiểu rõ hơn tôi về tầm quan trọng của việc giữ bí mật. Cũng như ông, tôi tin rằng có nhiều thông tin mà công chúng tuyệt đối không nên biết. Tuy nhiên đêm nay, có những thế lực đang tự tung tự tác mà tôi e rằng ông chưa lường hết. Cái gã bắt cóc Peter Solomon sở hữu quyền năng rất ghê gớm... một quyền năng mà rõ ràng ông chưa nhận ra. Tin tôi đi, gã là một quả bom hẹn giờ di động... đủ sức kích thích một loạt sự kiện chắc chắn gây đảo lộn cả thế giới này.

- Tôi không hiểu - Bellamy nhổm khỏi ghế, cánh tay đau điếng vì cái còng.

- Ông không cần hiểu. Ông cần tuân lệnh. Bây giờ, hy vọng duy nhất để ngăn chặn thảm hoạ ghê gớm là hợp tác với gã này... và trao cho gã đúng những gì gã muốn. Nghĩa là, ông hãy gọi cho Langdon và bảo anh ta quay lại cùng ngọn tháp và cái chóp. Với sự quản thúc của tôi, anh ta sẽ giải mã các văn tự trên kim tự tháp, thu thập các thông tin gã kia đòi hỏi và cung cấp cho gã đúng những gì gã muốn.

Vị trí của cầu thang xoáy ốc dẫn tới những Bí mật cổ xưa ư?

- Tôi không thể làm như vậy. Tôi đã thề giữ bí mật.

Sato nổi cáu.

- Tôi mặc mẹ chuyện ông thề thốt, tôi sẽ quẳng ông vào tù...

- Cứ việc doạ dẫm - Bellamy thách thức - Tôi sẽ không giúp bà đâu.

Sato hít một hơi thật sâu và thì thào bằng giọng đáng sợ.

- Thưa ông Bellamy, ông chưa hiểu những gì đang thực sự diễn ra đêm nay, phải không?

Sự im lặng căng thẳng kéo dài vài giây, cuối cùng được phá vỡ nhờ tiếng điện thoại của Sato. Bà ta thò tay vào túi, nôn nóng móc điện thoại ra.

- Nói đi. - bà ta ra lệnh và chăm chú nghe trả lời - Taxi của họ đang ở đâu? Bao lâu? Được, tốt lắm. Mang họ tới Vườn Bách thảo. Lối dành riêng ấy, và nhớ phải lấy được cái kim tự tháp chết tiệt cùng chóp của nó nhé.

Sato tắt máy, quay lại phía Bellamy với nụ cười tự mãn.

- Giờ thì tốt rồi... ông sắp hết giá trị sử dụng rồi.

Chương 75

Robert Langdon ngó mông lung ra khoảng không, mỏi mệt đến nỗi xe đang chạy rề rề mà anh cũng chẳng buồn giục tài xế lái nhanh hơn. Bên cạnh anh, Katherine rơi vào trạng thái trầm tư, xem chừng chán nản bởi sự thiếu hụt thông tin về tầm quan trọng của kim tự tháp.

Cô và Langdon vừa dượt lại tất cả các chi tiết quanh ngọn tháp, cái chóp và những sự việc kỳ lạ tối nay, song vẫn chẳng hiểu tại sao kim tự tháp này lại được coi là bản đồ chỉ dẫn.

Jeova Sanctus Unus? Bí mật giấu trong Tổ Chức?

Người liên lạc bí mật đã hứa sẽ cho họ biết câu trả lời nếu họ đến gặp ông. Ở một chỗ trú trong thành Rome, phía bắc sông Tiber.

Langdon biết "thành Rome mới" của tiền nhân đã được đặt tên là Washington ngay từ buổi đầu lịch sử, nhưng những dấu tích về giấc mơ nguyên thuỷ của họ thì vẫn còn: nước sông Tiber vẫn chảy vào sông Potomac, các thượng nghị sĩ vẫn họp bên dưới bản sao mái vòm giáo đường St. Peter, các vị thần Vulcan và Minerva vẫn nhìn xuống ngọn lửa đã tắt từ lâu của Nhà tròn.

Những câu trả lời mà Langdon và Katherine tìm kiếm rõ ràng đang đợi họ ở phía trước, cách đây vài dặm. Hướng Tây bắc, trên Đại lộ Massachusetts. Đích đến của họ trên thực tế là nơi lánh nạn nằm mé bắc nhánh sông Tiber của Washington. Langdon mong sao người lái xe tăng tốc.

Đột nhiên, Katherine bật dậy trên ghế cứ như thể vừa đột ngột nhận ra điều gì.

- Chúa ơi, Robert! - Cô quay sang anh, mặt trắng bệch, do dự một lát rồi nhấn mạnh - Chúng ta đang đi sai đường!

- Không, đường này đúng mà, - Langdon gạt đi - Hướng tây bắc, trên Đại lộ Massachu...

- Không! Ý tôi là chúng ta sẽ tới nhầm chỗ!

Langdon bối rối. Anh đã cho Katherine biết người đàn ông nọ ám chỉ địa điểm nào. Nó có mười tảng đá lấy từ núi Sinai, một hòn từ thiên đường, và một hòn mang nét mặt người cha bí ẩn của Luke. Chỉ có duy nhất một toà nhà phù hợp với mô tả trên, và chính là điểm đích của chiếc taxi này.

- Katherine, tôi tin chắc đúng là nơi đó.

- Không! - Katherine kêu lên - Chúng ta không cần tới chỗ ông ấy nữa. Tôi đã đoán ra kim tự tháp và cái chóp! Tôi biết chúng chỉ điều gì rồi!

Langdon tỏ ra ngạc nhiên.

- Chị biết rồi!

- Đúng! Chúng ta phải tới Quảng trường Tự Do!(77)

Langdon không hiểu đầu cua tai nheo ra sao. Quảng trường Tự Do, mặc dù gần đây thôi, nhưng nghe chừng chẳng liên quan chút nào.

Jeova Sanctus Unus! - Katherine giải thích - Một đức Chúa đích thực của người Do Thái. Biểu tượng thiêng liêng của người Do Thái là ngôi sao Do Thái, dấu ấn của Solomon, một biểu tượng quan trọng đối với Hội Tam điểm! - Cô moi tờ một đô la trong túi ra - Cho tôi mượn cây bút.

Langdon rút bút khỏi túi áo.

- Xem này - Katherine trải tờ tiền lên đùi, đón cây bút và trỏ vào dấu Quốc ấn ở mặt sau tờ tiền - Nếu áp dấu ấn Solomon lên dấu Quốc ấn của Hoa Kỳ... - Cô vẽ biểu tượng ngôi sao Do Thái lên đúng hình kim tự tháp - Hãy xem anh thấy gì nào!

Langdon ngó xuống tờ tiền rồi ngơ ngác nhìn lại Katherine.

- Robert, hãy nhìn kỹ hơn xem Anh không nhận thấy tôi đang chỉ ra thứ gì ư?

Langdon quan sát lại hình vẽ.

ẢNH

Ý cô ấy là sao?

Langdon đã từng nhìn thấy hình ảnh này. Nó rất quen thuộc với giới lý luận, như một "bằng chứng" cho thấy Hội Tam điểm nắm giữ ảnh hưởng bí mật đối với nước Mỹ thời kỳ đầu. Khi ngôi sao sáu cánh được đặt trùng khít lên dấu Quốc ấn của Hoa Kỳ, đỉnh ngôi sao sẽ trùng với con mắt thông huyền... và, rất kỳ lạ, năm cánh còn lại trỏ đúng các chữ cái M-A-S-O-N (Hội Tam điểm).

- Katherine, đây chỉ là một sự trùng hợp, tôi không thấy nó có liên hệ gì với Quảng trường Tự Do.

- Xem lại đi! - Katherine yêu cầu, giọng gần như giận dữ - Anh không thấy chỗ tôi đang chỉ sao? Ngay đây này. Anh không nhận ra à?

Chỉ trong tích tắc. Langdon nhìn ra.

***

Đội trưởng nhóm tác chiến CIA Turner Simkins đang đứng bên ngoài Toà nhà Adams, tai áp chặt điện thoại di động, gắng sức lắng nghe cuộc trao đổi diễn ra ở băng sau chiếc taxi. Có chuyện gì đó vừa xảy ra. Nhóm của anh ta định leo lên một chiếc trực thăng Sikorsky UH-60 cải tiến để bay lên phía tây bắc và lập chốt chặn, nhưng tình hình đột ngột thay đổi.

Vài giây trước, Katherine Solomon cho rằng họ đang đi sai địa điểm. Lời giải thích của cô về đồng đô la và ngôi sao Do Thái nghe thật rối rắm đối với anh chàng đội trưởng, và rõ ràng cũng chẳng mấy minh bạch với Robert Langdon. Chí ít là lúc đầu. Nhưng bây giờ xem chừng Langdon đã hiểu ý cô.

- Chúa ơi, chị nói đúng! - Langdon buột miệng - Thế mà tôi không nhận ra sớm hơn!

Tiếng đó Simkins nghe tiếng đập mạnh vào vách ngăn, rồi tiếng vách ngăn mở ra.

- Thay đổi kế hoạch - Katherine nói như quát với người lái taxi - Đưa chúng tôi tới Quảng trường Tự Do.

- Quảng trường Tự Do ạ? - Omar bồn chồn hỏi lại - Không lên phía tây bắc Massachusetts nữa à?

- Khỏi cần! - Katherine dằn giọng - Quảng trường Tự Do! Rẽ trái từ đây! Đây! Từ đây?

Đặc vụ Simkins nghe thấy tiếng taxi ngoặt gấp. Katherine tiếp tục thảo luận một cách phấn khích, lần này là về bản mẫu Quốc ấn bằng đồng đặt tại Quảng trường Tự Do.

- Thưa bà, xin xác nhận lại - giọng người lái taxi xen vào, nghe rất căng thẳng - Chúng ta sẽ tới Quảng trường Tự Do ở góc Đại lộ Pennsylvania và Phố 13?

- Phải! - Katherine đáp - Mau lên!

- Rất gần thôi. Hai phút nữa.

Simkins mỉm cười. Làm tốt lắm, Omar. Anh ta lao nhanh tới chiếc trực thăng, thét gọi cả đội.

- Chúng ta tóm được họ rồi! Quảng trường Tự Do! Đi!

Chú thích:

(77) Quảng trường Tự Do (Freedom Plaza), thoạt tiên có tên Westem Plaza, là một quảng trường ở Tây Bắc Washington D.C., nằm tại góc giao của Phố 14 và Đại lộ Pennsylvania, ngay sát Công viên Pershing. Thiết kế năm 1880, quảng trường này chủ yếu bằng đá, được lát theo bản mô tả một phần quy hoạch Thành phố Washington của Pierre (Peter) Charles L'Enfant. Phần lớn quảng trường được nâng cao hơn so với cốt nền đường phố. Đầu phía tây của quảng trường có một đài phun nước lớn, còn đầu phía đông có bức tượng Kazimierz Pulaski cưỡi ngựa. Quảng trường được đặt lại tên theo Martin Luther King. Jr., người viết bài diễn thuyết "Tôi có một giấc mơ" tại Khách sạn Willard gần đó. Năm 1988, một hộp thời gian chứa cuốn Kinh thánh, chiếc áo choàng, và vài di vật khác của King được đặt tại đây. Nó sẽ được mở lại vào năm 2088. Vị trí của quảng trường chính là nơi giao nhau của các tuyến tàu điện ngầm. Nhà ga Federal Triangle Metro, đối diện với quảng trường qua Đại lộ Pennsylvania, dành cho tuyến Xanh lam và tuyến Da cam. Còn Ga Metro Center với các tuyến Đỏ, Xanh lam, Da cam thì nằm trên Phố 13, cách đó hai dãy nhà - ND

Chương 76

Quảng trường Tự Do là một tấm bản đồ.

Nằm ở góc Đại lộ Pennsylvania giao với Phố 13, bề mặt lát đá rộng mênh mông của khu vực này tái hiện đường phố Washington đúng như thiết kế nguyên bản của Pierre L'Enfant. Quảng trường Tự Do là điểm đến quen thuộc của khách du lịch, không chỉ vì tấm bản đồ khổng lồ thú vị mà còn vì luật sư Martin Luther Kinh Jr., từng viết phần lớn bài phát biểu "Tôi có một giấc mơ" tại Khách sạn Willard gần đó. Tên quảng trường được đặt lại cũng là để tôn vinh ông.

Omar Amirana chở du khách tới Quảng trường Tự Do đã rất nhiều lần, nhưng hai hành khách tối nay rõ ràng không phải là người tham quan thông thường. CIA đang truy lùng họ? Omar chưa kịp đỗ lại bên lề thì hai người ấy đã nhảy ra.

- Chờ ở đây nhé! - người đàn ông mặc chiếc áo khoác vải thô dặn Omar - Chúng tôi sẽ quay lại ngay!

Dứt lời, họ chạy vội ra chỗ tấm bản đồ khổng lồ, vừa quan sát hình các đường phố giao cắt nhau, vừa chỉ trỏ trao đổi. Omar nhìn theo, rồi vớ lấy điện thoại di động chỗ bảng điều khiển.

- A lô, ông vẫn còn đó chứ?

- Phải! - một giọng quát to, rất khó nghe do tiếng ầm ầm bên phía anh ta - Giờ họ ở đâu?

- Đã ra chỗ tấm bản đồ. Hình như đang tìm kiếm gì đó.

- Đừng để họ thoát khỏi tầm mắt anh, - đặc vụ kia hét to - Tôi sắp đến nơi rồi!

Omar tiếp tục theo dõi. Hai kẻ bị truy đuổi nhanh chóng tìm được dấu Quốc ấn nổi tiếng, một trong những tấm huy chương bằng đồng lớn nhất trên đời. Họ nấn ná ở đó chốc lát rồi trỏ về phía tây nam. Người đàn ông mặc áo vải tuýt chạy bổ trở lại taxi. Thấy anh ta hổn hển lao đến nơi, Omar nhanh chóng bỏ điện thoại xuống.

- Hướng nào đi Alexandria, Virginia? - anh ta hỏi.

- Alexandria à? - Omar chỉ về tây nam, đúng hướng mà hai người khách vừa trỏ lúc nãy.

- Tôi hiểu rồi! - người đàn ông lào phào, vẫn thở hồng hộc, đoạn xoay ra hét to với người phụ nữ - Chị nói đúng! Alexandria!

Giờ người phụ nữ lại trỏ ngang quảng trường tới tấm biển "Tàu điện ngầm", sáng rực gần đó.

- Tuyến Xanh lam chạy thẳng tới Alexandria. Chúng ta cần đến ga King Street!

Omar phát hoảng. Ôi không.

Người đàn ông quay lại trả tiền cho Omar, trả nhiều hơn cả cuốc xe.

- Cảm ơn. Chúng tôi đi đây - Anh ta vớ lấy tôi da và nhấc chân chạy.

- Đợi chút! Tôi có thể chở các vị! Tôi thường xuyên đến đấy!

Nhưng đã quá muộn. Người đàn ông và người phụ nữ mau chóng băng qua Quảng trường Tự Do, khuất dạng trên cầu thang dẫn xuống ga tàu điện ngầm Metro Center.

Omar vớ lấy điện thoại di động.

- Thưa ông! Họ xuống lối tàu điện ngầm. Tôi không ngăn được. Họ sẽ đón tàu Tuyến Xanh lam để đến Alexandria!

- Cứ ở nguyên tại chỗ! - Chỉ huy nhóm đặc vụ thét to - Tôi sẽ tới nơi trong vòng mười lăm giây nữa!

Omar cúi nhìn mớ tiền mà người đàn ông vừa đưa. Tờ tiền trên cùng rõ ràng là tờ mà họ viết vào. Nó có hình một ngôi sao Do Thái chồng lên dấu Quốc ấn Hoa Kỳ, những cánh sao trùng đúng vào các chữ cái ghép thành từ MASON (Hội Tam điểm).

Bất chợt, có tiếng rung ù ù trỗi lên xung quanh, cứ như thể một chiếc máy kéo sắp đâm vào taxi của Omar. Anh ta ngước mắt nhìn, nhưng đường phố vắng tanh. Tiếng động cứ lớn dần rồi đột nhiên, một chiếc trực thăng đen bóng xuất hiện trong màn đêm và đáp xuống chính giữa tấm bản đồ của Quảng trường Tự Do.

Một nhóm người mặc quần áo đen nhảy ào ra. Hầu hết chạy ngay về phía ga tàu điện ngầm, chỉ có một người hối hả tiến đến chỗ taxi của Omar. Anh ta giật mạnh cánh cửa bên.

- Omar? Phải anh không?

Omar gật đầu, không nói năng gì được.

- Họ có cho anh biết họ đi đâu không? - anh ta hỏi.

- Alexandria! Nhà ga King Street, - Omar thốt lên - Tôi đề nghị chở họ, nhưng...

Họ có nói sẽ tới chỗ nào ở Alexandria không?

- Không? Họ nhìn dấu Quốc ấn đúc đằng kia, sau đó họ hỏi về Alexandria, và trả tôi thứ này - Anh ta đưa cho đặc vụ CIA tờ tiền có hình vẽ kỳ lạ.

Trong khi anh chàng đặc vụ săm soi tờ tiền, Omar đột nhiên chắp nối được tất cả mọi việc. Hội Tam điểm! Alexandria! Một trong những toà nhà nổi tiếng nhất của Hội Tam điểm ở Mỹ nằm tại Alexandria.

- Chính chỗ đó, - anh ta thốt lên - Đài kỷ niệm George Washington? Nó nằm ngay bên kia Nhà ga King Street.

- Đúng thế, - đội trưởng nhóm đặc vụ tán thành, rõ ràng cũng vừa nhận ra điều tương tự.

Bấy giờ, nhóm đặc vụ ban nãy từ nhà ga chạy trở ra.

- Chúng ta để sổng rồi? - một người nói to - Tuyến Xanh lam vừa khởi hành! Họ không còn dưới đó!

Đặc vụ Simkins xem đồng hồ và quay sang phía Omar.

- Tàu điện ngầm mất bao lâu tới được Alexandria?

- Ít nhất mười phút. Có lẽ còn hơn.

- Omar, anh làm tốt lắm. Cảm ơn anh.

- Vâng. Chuyện này là sao vậy?

Nhưng đặc vụ Simkins đã chạy trở lại chiếc trực thăng. Nó liệng về phía nam, ngang qua Đại lộ Pennsylvania, đoạn biến mất trong màn đêm.

***

Ngay bên dưới đường phố nơi chiếc taxi đỗ, một đoàn tàu điện ngầm đang tăng tốc rời khỏi Quảng trường Tự Do. Trên tàu, Robert Langdon và Katherine Solomon ngồi nín thở, chẳng ai nói một lời trong khi đoàn tàu lao vút đi đưa họ tới đích đến.

Chương 77

Ký ức luôn tái hiện qua cùng một hình ảnh.

Gã ngã... lao thẳng xuống dòng sông phủ kín băng dưới đáy vực sâu. Phía trên, đôi mắt xám lạnh lùng của Peter Solomon soi chằm chặp qua nòng súng của Andros.

Gã rơi... thế giới phía trên cứ lùi xa dần, đến khi đám mây hơi nước mù mịt quanh dòng thác thượng nguồn trùm kín lấy gã thì vạn vật cùng biến mất.

Trong khoảnh khắc, mọi thử trắng xoá, như thiên đường.

Rồi thân thể gã nện thịch xuống lớp băng.

Lạnh. Tối tăm. Đau đớn.

Gã rũ người... một sức mạnh ghê gớm lôi gã đi và đẩy gã dúi dụi qua những tảng đá trong khoảng không giá buốt kinh hồn. Phổi gã rát bỏng do thiếu dưỡng khí, các cơ trên ngực đã co rút vì lạnh nên gã không tài nào hít thở nổi.

Mình đang ở dưới lớp băng.

Băng gần con thác rõ ràng là rất mỏng do dòng nước chảy xiết, nên Andros rơi xuyên qua cả lớp băng ấy, bị dòng nước cuốn đi, và giờ thì mắc kẹt dưới một lớp trần trong suốt. Gã bấu vào mặt dưới lớp băng, cố gắng phá vỡ nó nhưng thiếu điểm tựa. Cơn đau dữ dội từ vết thương trên vai đã tan biến, và cảm giác nhức buốt do viên đạn ghém gây ra cũng vậy, cả hai đều không còn do cơ thể gã đang tê cóng.

Dòng nước chảy xiết xô Andros qua một khúc quanh. Cơ thể gã gào thét đòi dưỡng khí. Đột nhiên, gã vướng vào mấy cành cây, rồi húc phải một thân cây bị đổ. Xem nào! Gã cuống cuồng túm lấy cái cành, cố nhoi "lên mặt nước, tìm chỗ hổng nơi cành cây xuyên qua lớp băng. Khi đầu ngón tay sờ thấy một lỗ hổng nhỏ xíu xung quanh cành cây, gã bèn giật mạnh phần mép, cố gắng phá cho cái lỗ rộng hơn. Một lần, hai lần, chỗ hổng đã rộng ra đến vài phân.

Tì người vào cành cây, Andros ngửa mặt lên và áp miệng vào lỗ hổng nhỏ xíu. Không khí mùa đông ùa vào phổi thật ấm áp, dòng dưỡng khí lại tiếp thêm hy vọng. Gã bấu chặt chân vào thân cây, huých mạnh lưng và vai lên phía trên. Lớp băng xung quanh thân cây đổ bị cành nhánh và mẩu vụn xuyên thủng, thành thử đã yếu đi nhiều, nay gã tì chân vào thân cây là có thể dùng đầu dùng vai húc vỡ lớp băng để nhoi lên màn đêm mùa đông. Không khí tràn vào phổi gã. Lúc ấy hầu như cả người vẫn còn chìm nghỉm dưới nước, gã bèn dưới dần lên, hết dùng hai chân đẩy lại dùng tay kéo, cuối cùng ra khỏi nước, gã nằm thở hổn hển trên lớp băng trần trụi.

Andros gỡ tấm mặt nạ trượt tuyết ướt sũng, nhét vào túi, nhìn lại phía thượng nguồn tìm Peter Solomon, nhưng khúc quanh của dòng sông đã chắn mất tầm mắt. Cơn đau ở ngực lại dội lên, gã lặng lẽ kéo một cành cây nhỏ phủ kín lỗ hổng trên băng để che nó đi. Đến sáng, cái lỗ sẽ đóng băng trở lại.

Andros loạng choạng tiến vào rừng, tuyết bắt đầu rơi. Gã không biết mình chạy bao xa, cuối cùng cũng ra khỏi rừng và leo lên bờ kè bên cạnh con đường nhựa. Bấy giờ tuyết rơi dày hơn, gã gần như hôn mê, thân nhiệt xuống rất thấp, vừa lúc một cặp đèn pha từ xa tiến tới.

Andros vẫy tay rối rít, chiếc xe bán tải mang biến số Vermont lập tức đỗ lại. Một người đàn ông luống tuổi áo đỏ nhảy ra khỏi xe.

Andros lảo đảo tiến lại phía ông ta, tay bịt chặt chỗ ngực đang chảy máu.

- Tôi bị thợ săn... bắn nhầm! Tôi cần tới... bệnh viện!

Không chút do dự, ông già giúp Andros leo lên ghế bên và bật máy sưởi.

- Bệnh viện gần nhất ở đâu?

Andros không biết, nhưng gã trỏ về phía nam.

- Cửa rừng tiếp theo - Chúng ta sẽ không đến bênh viện.

Ngày hôm sau, người ta đưa tin ông già Vermont nọ mất tích, nhưng không ai biết ông biến mất chỗ nào trên lộ trình của mình trong cơn bão tuyết mịt mùng. Cũng chẳng có ai liên hệ vụ mất tích ấy với một tin thời sự cùng lúc chạy trên trang nhất các báo - vụ sát hại Isabel Solomon.

Khi tỉnh giấc. Andros thấy mình đang nằm trong phòng ngủ tồi tàn của một nhà nghỉ rẻ tiền bị bỏ không vì đang mùa giá rét. Gã nhớ là đã tìm cách đột nhập vào đây, xé ga trải giường băng vết thương, rồi chui vào một cái giường ọp ẹp dưới đống chăn bụi mù.

Bụng đói ngấu.

Andros tập tễnh lê tới phòng tắm, trông thấy cả đống mẩu đạn ghém máu me trong bồn rửa, mới lơ mơ nhớ rằng mình đã moi chúng ra khỏi lồng ngực. Gã nhướng mắt nhìn chiếc gương bẩn thỉu rồi từ từ gỡ lớp băng thấm máu để xem xét vết thương. Phần cơ rắn chắc ở ngực và bụng đã ngăn đạn ghém chui vào sâu hơn, nhưng tấm thân hoàn hảo trước đây giờ lỗ chỗ vết thương. Viên đạn duy nhất mà Peter Solomon bắn rõ ràng đã xuyên suốt bả vai gã, để lại một cái lỗ đẫm máu.

Song tệ hơn hết thảy là Andros không lấy được thứ mà vì nó gã phải lặn lội cả quãng đường để tới Potomac. Cái kim tự tháp. Dạ dày cào cấu ghê gớm, gã đành lê bước ra chỗ xe ông già, hy vọng tìm được chút thức ăn. Chiếc xe bán tải bị phủ cả đống tuyết, và Andros tự hỏi không biết gã đã ngủ bao lâu trong cái nhà nghỉ cũ nát này. Ơn Chúa là mình còn tỉnh dậy. Andros không tìm thấy thức ăn ở ghế trước, nhưng trong hộc để đồ có vài viên thuốc giảm đau. Gã bốc một nắm và cố chiêu mấy vốc tuyết để nuốt trôi.

Mình cần thức ăn.

Vài giờ sau, chiếc xe bán tải chạy ra khỏi khu nhà nghỉ cũ. Trông nó chẳng còn dấu vết gì của chiếc xe tiến vào hai ngày trước đó. Mui ca bin đã bay mất, các nắp đậy bánh xe, ba đờ xốc và tất cả những thứ có thể tháo dỡ cũng chung số phận. Biển số Vermont không còn, và được thay bằng biển số của một chiếc xe tải bảo trì cũ đỗ cạnh thùng Dumpster(78) của nhà nghỉ. Andros cũng vứt hết vào Dumpster mấy tấm ga thấm máu, mảnh đạn ghém và mọi bằng chứng cho biết gã đã từng xuất hiện ở đây.

Andros chưa từ bỏ cái kim tự tháp, nhưng tạm thời phải biết chờ đợi. Gã cần giấu mình, dưỡng lành vết thương và trên hết, cần ăn. Gã tìm được một quán ăn ven đường, gọi trứng, thịt nướng, bánh khoai tây và ba ly nước cam. Ăn xong, gã còn gọi thêm đồ ăn mang đi. Ra đường, Andros bật cái đài cũ rích trên xe để nghe. Gã đã kiêng xem truyền hình và đọc báo kể từ lúc bắt đầu thử thách này. Khi nghe đến bản tin thời sự địa phương, gã chết sững.

- Các nhân viên điều tra của FBI tiếp tục tìm kiếm kẻ đột nhập có vũ trang đã sát hại bà Isabel Solomon tại tư gia ở Potomac hai hôm trước. Dường như kẻ sát nhân đã ngã xuống băng và bị cuốn trôi ra biển, - người đọc bản tin thông báo.

Andros như hoá đá. Isabel Solomon đã chết? Gã lái xe trong im lặng sững sờ, vẫn lắng nghe cho hết bản tin.

Bây giờ cần phải đi xa, thật xa khỏi nơi này.

***

Căn hộ ở Upper West Side có tầm nhìn rất đẹp hướng ra Công viên Trung tâm. Andros chọn nơi này vì màu xanh lục mênh mông bên ngoài cửa sổ gợi gã nhớ lại khung cảnh vùng Adriatic. Lẽ ra nên lấy làm mừng vì đã sống sót, nhưng Andros không cảm thấy thế.

Lòng gã luôn trống trải, và ý đồ đánh cắp kim tự tháp của Peter Solomon vẫn nung nấu không nguôi.

Andros dành khá nhiều giờ nghiên cứu truyền thuyết Kim tự tháp Tam điểm. Hình như chẳng ai khẳng định được sự tồn tại của ngọn tháp đó nhưng tất cả đều nhất trí rằng nó hứa hẹn những tri thức và sức mạnh gớm ghê. Kim tự tháp Tam điểm là có thật. Andros tự nhủ.

Thông tin tay trong của ta không thể sai được.

Số phận đã đặt kim tự tháp vào tầm tay Andros, và gã biết rằng việc bỏ qua nó chẳng khác gì cầm một tấm vé số độc đắc mà không chịu đem đổi lấy tiền. Ta là kẻ duy nhất không phải hội viên Tam điểm biết rõ kim tự tháp là có thật... cũng như biết rõ người đang bảo vệ nó.

Nhiều tháng qua đi, mặc dù cơ thể đã lành lặn lại nhưng Andros không còn tự mãn như lúc sinh sống ở Hy Lạp nữa. Gã ngừng luyện tập cũng thôi chiêm ngưỡng mình khoả thân trong gương. Gã cảm thấy dường như cơ thể đang lão hoá. Làn da từng rất hoàn hảo giờ đầy vết sẹo càng khiến gã thêm buồn nản. Gã vẫn ỷ lại vào thuốc giảm đau y như quãng thời gian đợi hồi phục, và cảm thấy cơ thể mình đang trượt ngược lại lối sống đã từng dẫn gã tới Nhà tù Soganlik. Gã không quan tâm. Thể xác thèm khát thứ gì thì cứ thoả mãn nó thấy.

Một đêm, Andros tới làng Greenwich mua ma tuý của một thằng cha có xăm hình tia chớp dài ngoằn ngoèo trên cánh tay. Andros hỏi về hình xăm và tay kia cho biết hắn dùng nó để che vết sẹo dài do một vụ tai nạn xe hơi.

- Hằng ngày, hễ nhìn vết sẹo là tao lại nhớ tới vụ tai nạn, - tên buôn ma tuý nói - tao bèn xăm đè một biểu tượng của sức mạnh cá nhân. Thế là tao trở lại cân bằng như trước.

Đêm đó, trong cơn phê thuốc, Andros lảo đảo tìm tới một hiệu xăm trong vùng, và cởi phăng áo ra.

- Tôi muốn che những vết sẹo này, - gã tuyên bố. Ta phải tự tin trở lại.

- Che đi à? - Nghệ nhân xăm hình nhìn ngực gã - Bằng gì chứ?

- Hình xăm.

- Được nhưng ý tôi là hình xăm như thế nào?

Andros nhún vai, chẳng muốn gì hơn là che giấu những thứ xấu xí gợi nhớ quá khứ của mình.

- Tôi không biết. Ông chọn giúp đi.

Nghệ nhân lắc đầu và đưa cho Andros một tập sách nói về truyền thống xăm mình cổ xưa.

- Hãy trở lại khi nào anh sẵn sàng.

Andros phát hiện ra năm mươi ba cuốn sách về xăm mình trong Thư viện Công cộng New York, gã đọc sạch số sách đó trong vài tuần. Tìm lại niềm say mê đọc sách, gã bắt đầu mang hàng ba lô sách đi đi về về giữa thư viện và căn hộ của mình, nơi gã đọc nghiến ngấu số sách ấy trong khi ngắm nhìn Công viên Trung tâm.

Những cuốn sách về hình xăm đã mở ra một thế giới kỳ lạ mà Andros chưa bao giờ biết đến, một thế giới của biểu tượng, huyền bí, truyền thuyết và pháp thuật. Càng đọc, gã càng nhận ra mình thật mù quáng. Gã bắt đầu ghi chép các ý tưởng, mọi phác thảo và những giấc mơ lạ lùng của mình. Khi không còn tìm thấy những điều hữu ích ở thư viện nữa, gã bỏ tiền nhờ những người buôn sách quý mua giúp một số sách hiếm hoi trên thế giới. De Praestigiis Daemonum(79), Lemegeton(80). Ars Almadel(81)... Grimorium Verumb(82)... Ars Notoria(83) ... vân vân. Andros đọc hết, và ngày càng tin chắc rằng thế giới vẫn có nhiều kho báu giành cho mình. Có những bí mật vượt xa hiểu biết của con người.

Sau đó gã phát hiện ra tài liệu của Aleister Crowley, một nhân vật thần bí rất hiểu biết thời đầu thế kỷ XX nhưng lại bị nhà thờ coi là "kẻ xấu xa nhất từng sống trên đời". Tư tưởng tầm thường luôn hãi sợ những tư tưởng vĩ đại Andros nghiên cứu sức mạnh của các nghi thức và bùa phép, học những từ ngữ thiêng liêng mà nếu nói ra đúng cách sẽ hiệu dụng như chìa khoá mở cánh cổng vào thế giới khác. Có một thế giới bí ẩn ngoài thế giới này... một thế giới có thể cho ta sức mạnh. Dù cực kỳ thèm khát nguồn sức mạnh đó, Andros vẫn biết rằng cần phải hoàn tất một số quy định và nhiệm vụ trước.

Muốn biến thành thần thánh, phải làm cho chính mình trở nên linh thiêng, Crowley viết như vậy.

Nghi thức "hiến tế" cổ xưa từng rất phổ biến trên Trái đất. Dân Do Thái đốt lễ vật tại Thánh điện, dân Maya chặt đầu người trên các đỉnh kim tự tháp ở Chichen Itza, rồi Jesus Christ hy sinh thân mình trên thập giá, những sự kiện này đều chứng tỏ người cổ đại rất hiểu yêu cầu hiến sinh của thần linh. Hiến sinh là nghi thức nguyên thuỷ để con người được tạo hoá ân tứ và làm cho chính mình trở thành thần thánh.

Sacra - linh thiêng.

Face - tạo dựng.

Mặc dù nghi thức hiến sinh đã bị bãi bỏ từ lâu nhưng sức mạnh của nó vẫn còn nguyên vẹn. Có rất nhiều nhân vật huyền bí hiện đại, kể cả Aleister Crowley, vẫn thực hành Nghệ thuật này, hoàn thiện nó theo thời gian và dần dần biến cải bản thân cho cao siêu hơn. Andros thèm được thay đổi mình như họ. Nhưng gã biết gã sẽ phải vượt qua một cây cầu rất nguy hiểm khi làm việc đó.

Máu chính là thứ tách biệt ánh sáng với bóng tối.

Một đêm, có con quạ bay qua cửa sổ phòng tắm để ngỏ và bị kẹt lại trong căn hộ của Andros. Nó bay chập choạng lung tung một lát rồi đậu lại, rõ ràng chấp nhận thực tế là không thể thoát ra. Andros đã đủ kiến thức để nắm bắt tín hiệu. Ta đang được thúc giục phải tiến xa hơn.

Tóm chặt con chim trên tay, gã đứng bên bàn thờ dựng tạm trong bếp và giơ cao con dao sắc, mồm đọc to câu thần chú mà gã nhớ.

"Camiach, Eomiahe, Emial, Macbal, Emoii, Zazean... nhân danh những tên tuổi thần thánh nhất trong số các thiên thần ở Cuốn sách Assamaian(84) cầu khẩn các ngài phù hộ để con thực hiện việc này bằng sức mạnh của Một đức Chúa đích thực".

Sau đó Andros hạ dao xuống và thận trọng chọc vào mạch máu chính trên cánh bên phải của con chim đang hoảng sợ. Con quạ bắt đầu chảy máu. Nhìn dòng máu đỏ chảy xuống chiếc cốc kim loại, Andros hơi gai người. Thế nhưng, gã vẫn tiếp tục.

"Đấng Adonai Toàn năng, Arathron, Ashai, Elohim, Elohim, Elion, Asher Eheieh, Shaddai... xin hỗ trợ con đem dòng máu này phát huy sức mạnh và hiệu quả ở tất cả những nơi con muốn, và ở tất cả những nơi con cần".

Đêm đó, Andros mơ thấy chim... một con phượng hoàng khổng lồ bay lên từ biển lửa. Sáng hôm sau gã thức giấc, cảm nhận trong người một nguồn năng lượng mới mẻ vô chừng. Gã chạy bộ trong công viên, nhanh hơn và xa hơn tưởng tượng. Chạy mệt rồi, gã dừng lại để tập chống đẩy. Không thể đếm được bao nhiêu lần. Vậy mà gã vẫn tràn trề sinh lực.

Đêm đó, Andros lại mơ thấy chim phượng hoàng.

Mùa thu quay về với Công viên Trung tâm, động vật nháo nhào tìm kiếm thức ăn cho mùa đông sắp tới. Andros không ngại lạnh, những cái bẫy được bố trí rất kín đáo của gã lúc nào cũng đầy ắp chuột và sóc còn sống. Gã cho chúng vào ba lô vác về nhà, thực hiện những nghi thức ngày càng phức tạp.

Emanual, Massiach, Yod, He, Vaud... xin hãy nhìn nhận con là kẻ xứng đáng.

Các nghi thức đẫm máu tiếp thêm sinh lực cho Andros, làm gã cảm thấy trẻ ra mỗi ngày. Gã tiếp tục đọc miệt mài những văn bản thần bí cổ xưa, những trường ca thời trung cổ, các triết gia sơ khai... Càng hiểu biết về bản chất đích thực của mọi vật, gã càng nhận ra rằng con người đã đánh mất toàn bộ hy vọng. Chúng mù quáng... lang thang vô định trong một thế giới mà chúng chẳng bao giờ hiểu nổi.

Andros vẫn là một con người, nhưng gã cảm thấy mình đang tiến hoá thành một thứ gì đó khác. Vĩ đại hơn. Thiêng liêng hơn. Thể lực dồi dào của gã trỗi dậy sau một thời gian ngủ yên, thậm chí mạnh mẽ hơn trước nhiều. Cuối cùng gã cũng hiểu được mục đích thực sự của nó. Cơ thể này chính là chiếc thuyền chở trí tuệ - kho báu mạnh nhất của ta.

Andros biết tiềm lực thật sự của mình vẫn chưa được phát huy, và gã nghiên cứu sâu hơn nữa. Số phận của ta là gi? Tất cả các văn bản cổ xưa đều nói đến cái thiện và cái ác... nói đến nhu cầu phải lựa chọn giữa hai thứ đó của con người. Mình đã lựa chọn lâu rồi, gã biết như vậy, nhưng gã không cảm thấy hối tiếc. Cái ác là gì nếu không phải là một quy luật tự nhiên? Hết ánh sáng là đến bóng tối. Hết trật tự là đến hỗn loạn. Entropy(85) là yếu tố căn bản. Mọi thứ đều phải suy tàn. Ngay cả tinh thể, dù có trật tự hoàn hảo đến đâu thì cuối cùng cũng biến thành phân tử bụi.

Có kẻ sáng tạo... cũng có người phá huỷ.

Song tới tận khi đọc cuốn "Thiên đường bị mất"(86) của John Milton thì Andros mới thấy rõ rệt số phận mình. Gã đọc về vị thần sa ngã, một chiến binh quỷ sứ đấu tranh chống lại ánh sáng, một nhân vật can đảm, một vị thần có tên Moloch.

Moloch hạ phàm với tư thế thánh thần. Sau này Andros biết rằng, cái tên Moloch dịch sang ngôn ngữ cổ đại sẽ trở thành Mal'akh.

Và ta cũng vậy.

Như tất cả những biến cố lớn lao, quá trình thay đổi này cần bắt đầu với một lễ hiến sinh... nhưng không phải bằng chuột hay chim.

Không, nó đòi hỏi một sự hiến sinh thật sự Chỉ có một sự hiến sinh đáng giá thôi.

Đột nhiên, Andros thấy thông suốt hơn bất kỳ nhận thức nào trước kia. Toàn bộ số phận gã đã hiện lên rõ rệt. Suốt ba ngày liền, gã phác hoạ bản thân trên một tấm giấy lớn, để ra kết quả là hình ảnh tương lai của chính mình.

Andros treo bức phác hoạ có kích thước thật lên tường và chăm chú ngắm nghía như thể soi gương.

Ta là một kiệt tác.

Ngày hôm sau, gã mang bức vẽ của mình tới cửa hàng xăm hình.

Gã đã sẵn sàng.

Chú thích:

(78) Dumpster là tên gọi một loại dụng cụ chứa rác, một kiểu thùng chứa rác lưu động. Từ Dumpster xuất phát từ hệ thống Dempster-dumpster, do anh em nhà Dempster thiết kế những năm 1930, dùng để tự động bốc dọn toàn bộ rác trong các thùng chứa đã được chuẩn hoá lên các xe chở rác - ND.

(79) De Praestigiis Daemonum et Incantationibus ac Venificiis (Cuốn sách về những hình ảnh của quỷ sứ, các câu thần chú và chất độc), viết năm 1563, là tác phẩm có ảnh hưởng nhất của Johannes Wier (1515-1588), nhà vật lý, nhà than bí học và nhà nghiên cứu ma quỷ người Hà Lan. Ông là một trong những người đầu tiên viết các tác phẩm lên án việc khủng bố giới phù thuỷ - ND.

(80) Lemegeton, tên đầy đủ là Lesser Key of Solomon (Chìa khoá Solomon), là một bộ sách về ma thuật khuyết danh ở thế kỷ XVII và là một trong những bộ sách phổ biến nhất trong lĩnh vực này - ND.

(81) Ars Almadel (Nghệ thuật Almadel) là phần thứ tư trong bộ Lesser Key of Solomon. Phần này nói về cách chế tạo almadel, một thẻ sáp có những biểu tượng bảo vệ vẽ bên trên dùng để đặt bốn cây nến. Ngoài ra còn có những chỉ dẫn liên quan đến màu sắc, chất liệu và nghi thức cần thiết để thiết lập almadel và các cây nến. Ars Almadel cũng nói về các thiên thần sẽ được gọi lên, và giải thích rằng chỉ được gọi đến họ vì những lý do hợp lý và đúng đắn, kèm theo cách khấn - ND.

(82) Grimorium Verumb (Ma thuật đích thực hay Ma thuật chân lý), là một cuốn sách về ma thuật, được cho là do "Alibeck Người Ai Cập" sống ở Memphis viết năm 1517. Nhưng giới học giả nhất trí rằng cuốn sách thật sự có từ thế kỷ XVIII và những bản sách đầu tiên xuất hiện bằng tiếng Pháp và Italia - ND.

(83) Ars Notoria (Nghệ thuật cao quý) là phần thứ năm và phần cuối cùng trong bộ Lesser Key of Solomon. Đây là cuốn sách ma thuật được biết đến từ thời Trung đại, khẳng định rằng nghệ thuật này do Đấng Sáng tạo truyền cho vua Solomon qua một thiên thần. Sách có hẳn một tập hợp các câu cầu nguyện kèm theo những từ ngữ thần chú bằng vài thứ tiếng (Do Thái, Hy Lạp, v.v...), cách đọc lên, và mối liên hệ giữa những nghi thức này với cách lĩnh hội tất cả các khoa học. Theo cuốn sách, đọc đúng các câu thần chú sẽ giúp đem lại kiến thức về khoa học, trí nhớ sáng suốt, tinh thần vững vàng, và khả năng hùng biện. Sách cũng trình bày những quy tắc phải tuân thủ để bảo đảm đạt kết quả tốt ND.

(84) Cuốn sách Thiên đàng - ND.

(85) Entropy được định nghĩa như là một đơn vị đo lường năng lượng trong mối tương quan với nhiệt độ tuyệt đối, hay là đơn vị đo sự phân tán đồng thời của năng lượng ở một nhiệt độ nhất định. Thuật ngữ này do nhà vật lý người Đức là Rudolí Clausius nghĩ ra năm 1865. Nguyên gốc, entropy được dùng để mô tả "nhiệt năng tiêu hao" từ các cỗ máy nhiệt hoặc các thiết bị cơ khí không có khả năng vận hành với hiệu suất 100% để chuyển hoá năng lượng. Về sau, thuật ngữ này có thêm nhiều cách giải thích khi con người hiểu thêm về hoạt động của các phân tử - ND.

(86) Thiên đường bị mất (Paradise Lost) là một trường ca của nhà thơ người Anh John Milton ở thế kỷ XVII. Nguyên gốc, nó được xuất bản năm 1667, gồm 10 tập. Bản in lần hai năm 1674 chia lại thành 12 lập với đôi chỗ chỉnh lý và phần chú giải về luật thơ. Trường ca là câu chuyện về sự sa ngã của loài người: việc Adam và Eve bị quỷ Satan cám dỗ và bị trục xuất khỏi Vườn Địa đàng. Mục đích của Milton, như nêu trong Tập I, là "lý giải sự đối xử của Chúa với con người" và cuộc xung đột giữa mối lo vĩnh cửu với sự tự nguyện của Chúa - ND.

Chương 78

Đài tưởng niệm George Washington toạ lạc trên đỉnh đồi Shuter's ở Alexandria, bang Virginia. Được chia thành ba cấp phân biệt Doric, Ionic và Corinthian với độ phức tạp về mặt kiến trúc tăng dần từ chân lên đến đỉnh, công trình đứng đó như một biểu tượng hữu hình cho con đường vươn tới tri thức của loài người. Lấy cảm hứng từ ngọn hải đăng Pharos ở Alexandria, Ai Cập, toà tháp đồ sộ này có chóp là một kim tự tháp Ai Cập với đỉnh chạm hình ngọn lửa.

Bên trong gian phòng cẩm thạch hoa lệ là pho tượng đòng khổng lồ tái hiện George Washington trong bộ lễ phục của Hội Tam điểm cùng với cái bay thật mà ông dùng để xây viên đá đầu tiên cho Điện Capitol. Bên trên gian phòng này là chín tầng khác nhau được đặt những cái tên như Hang động, Phòng Hầm mộ, và Nhà nguyện Hiệp sĩ Thánh chiến. Trong số các báu vật được cất giữ tại đây có hơn hai vạn tập tài liệu của Hội Tam điểm, một bản sao chiếc hòm đựng Pháp điển, và thậm chí cả một mô hình thu nhỏ gian phòng đặt ngai vàng trong đền thờ vua Solomon.

Chiếc trực thăng UH-60 bay là là phía trên sông Potomac, đặc vụ CIA Simkins xem đồng hồ. Sáu phút nữa tàu của họ mới đến. Anh ta thở hắt ra và ngó qua cửa sổ về phía Đài tưởng niệm sáng ngời ở phía chân trời. Anh phải thừa nhận rằng toà tháp rực rỡ kia trông ấn tượng chẳng kém bất kỳ công trình nào ở khu vực Công viên Quốc gia. Simkins chưa từng vào trong Đài tưởng niệm, và đêm nay cũng thế thôi. Nếu mọi việc diễn tiến theo đúng kế hoạch thì Robert Langdon và Katherine Solomon sẽ chẳng bao giờ bước ra được khỏi ga tàu điện ngầm.

- Đằng kia! - Simkins quát bảo phi công, tay chỉ về ga King Street phía bên kia Đài tưởng niệm.

Viên phi công cho trực thăng chao nghiêng và đậu xuống một bãi cỏ dưới chân đồi Shuter's.

Khách bộ hành ngạc nhiên khi thấy nhóm Simkins nhảy ra khỏi máy bay, lao nhanh qua phố xuống ga King Street. Tại khu vực cầu thang, một số hành khách chuẩn bị khởi hành phải nhảy vội ra khỏi lối đi dán mình vào tường khi nhóm đặc vụ mặc đồ đen rầm rập chạy qua họ.

Nhà ga King Street lớn hơn Simkins dự đoán, phục vụ cả mấy tuyến khác nhau như tuyến Xanh lam, tuyến Vàng, tuyến Amtrak. Anh ta xem bản đồ hệ thống trên tường, tìm Quảng trường Tự Do và tuyến tàu điện ngầm trực tiếp chạy tới vị trí này.

- Tuyến Xanh lam, sân ga phía nam! - Simkins hô lớn - Xuống đó và giải tán hết mọi người!

Đồng đội anh ta vọt đi.

Simkins chạy tới quầy vé, trình thẻ công vụ và nói như quát với người phụ nữ ngồi trong.

- Mấy giờ thì chuyến tàu tiếp từ ga trung tâm mới đến?

Người phụ nữ lộ vẻ hoảng sợ.

- Tôi không chắc lắm. Cứ mười một phút có một chuyến của tuyến Xanh lam. Không có lịch trình cố định.

- Từ chuyến tàu trước đến giờ là bao lâu rồi?

- Năm... hoặc sáu phút? Chỉ khoảng thế thôi.

Tunner nhẩm tính. Tuyệt. Chuyến tàu tiếp theo sẽ là của Langdon.

***

Bên trong một toa tàu điện ngầm đang phóng rất nhanh. Katherine Solomon bồn chồn nhổm dậy trên chiếc ghế nhựa cứng. Mấy bóng đèn huỳnh quang sáng rực trên đầu khiến cô chói mắt, và cô đang phải cố kìm không để hai mí mắt sụp xuống, dù chỉ một giây thôi. Langdon ngồi cạnh cô trong toa xe vắng tanh, đờ đẫn nhìn chiếc túi da dưới chân, mí mắt cũng nặng trĩu, nhịp rung lắc đều đặn của toa xe như ru anh vào trạng thái mơ màng.

Katherine hình dung ra những thứ lạ lùng trong túi Langdon. Tại sao CIA lại muốn giành lấy kim tự tháp này. Bellamy nói Sato truy lùng ngọn tháp có thể là do bà ta biết rõ tiềm năng thực sự của nó. Nhưng cho dù kim tự tháp thực sự tiết lộ nơi cất giấu những bí mật cổ xưa thì Katherine thấy cũng thật khó tin là điều đó hấp dẫn được CIA.

Nhưng một lần nữa, cô nhắc nhở mình rằng đã nhiều lần người ta phát hiện ra CIA thực hiện những chương trình cận tâm lý học chẳng khác gì chủ nghĩa thần bí và ma thuật cổ xưa. Năm 1995, vụ bê bối "Stargate/scannate"(87) đã tiết lộ một công nghệ mật của CIA gọi là quan sát từ xa - một dạng suy tưởng ngoại cảm giúp người quan sát dõi con mắt tinh thần của mình tới bất kỳ nơi nào trên trái đất và theo dõi nơi đó mà không cần phải có mặt trực tiếp. Dĩ nhiên công nghệ này chẳng có gì mới mẻ. Giới thần bí gọi đó là du hành thiên thể(88) dự đoán... còn các tín đồ Du già thì gọi là trải nghiệm ngoại thân. Tiếc thay, các công dân Mỹ nhút nhát coi công nghệ đó là ngớ ngẩn, và chương trình bị đình chỉ. Ít nhất là về mặt công khai.

Nực cười thay, Katherine lại nhận ra mối liên hệ đáng kể giữa những chương trình bất thành của CIA và các đột phá của riêng cô trong ngành Lý trí học.

Katherine rất muốn gọi cho cảnh sát để xem họ đã phát hiện được gì ở khu Kalorama Heights, nhưng lúc này cô và Langdon đều không còn điện thoại, và việc liên lạc với giới chức sẽ là một sai lầm, chẳng thể biết Sato có thể vươn tay tới tận đâu.

Kiên nhẫn nào, Katherine. Chỉ còn vài phút nữa, họ sẽ tới nơi ẩn náu an toàn, làm khách của một người đàn ông quả quyết rằng mình có câu trả lời cho mọi chuyện. Katherine hy vọng những câu trả lời của ông ta, cho dù là gì, sẽ giúp cô cứu được anh trai.

- Robert? - cô thì thào, ngước nhìn bản đồ tàu điện ngầm - Trạm tiếp theo là của mình đấy.

Langdon lờ đờ tỉnh lại.

- Phải rồi, cảm ơn chị - Khi đoàn tàu sầm sập lao tới ga, anh gom chiếc túi và nhìn Katherine không mấy chắc chắn - Cứ hy vọng chúng ta đến nơi yên ổn.

***

Lúc Tunner Simkins chạy tới nhập vào nhóm của mình, sân ga tàu điện ngầm đã được giải tán xong. Các đồng đội của anh ta toả rộng, trấn giữ vị trí phía sau dãy cột đỡ chạy dọc chiều dài sân ga. Có tiếng ầm ầm vọng tới từ đường hầm ở phía đầu kia của nhà ga. Khi âm thanh ấy to dần, Simkins cảm thấy làn không khí nóng nực cuộn lên xung quanh.

Không thoát được đâu ông Langdon ạ.

Simkins ngoảnh nhìn hai đặc vụ mà anh ta đã dặn theo sát mình.

- Chuẩn bị sẵn thẻ công vụ và vũ khí đi. Loại tàu này là tàu tự động, nhưng vẫn có một trưởng tàu để mở cửa. Tìm anh ta nhé!

Bấy giờ, đèn pha của đoàn tàu đã xuất hiện trong đường hầm, tiếng phanh rít lên trong không khí. Khi đoàn tàu ầm ầm lao tới ga và bắt đầu chạy chậm lại, Simkins cùng hai đặc vụ nhô ra, tay vẫy phù hiệu công vụ CIA và căng mắt cố tìm trưởng tàu trước khi anh ta mở tung các cửa.

Đoàn tàu tiến lại gần rất nhanh. Trong toa thứ ba, Simkins đã nhìn thấy gương mặt đầy ngạc nhiên của viên trưởng tàu rõ ràng đang cố suy đoán tại sao ba người mặc đồ đen đều vẫy phù hiệu Công vụ với anh ta. Simkins chạy lại phía đoàn tàu lúc này đang sắp dừng hẳn.

- CIA! - Simkins thét to, giơ thẻ của mình ra - KHÔNG được mở cửa!

Đoàn tàu chầm chậm lướt qua, Simkins bước về phía toa của viên trưởng tàu, quát to.

- Không được mở cửa tàu! Anh có hiểu không?! KHÔNG được mở cửa tàu!

Đoàn tàu dừng hẳn lại, viên trưởng tàu mở to mắt, gật đầu lia lịa.

- Có chuyện gì thế?! - anh ta hỏi qua cửa sổ hông.

- Không cho tàu chạy vội, - Simkins nói - Và đừng mở tưng các cửa.

- Được rồi.

- Cho chúng tôi vào toa thứ nhất được không?

Viên trưởng tàu gật đầu. Vẻ sợ hãi, anh ta bước ra khỏi tàu, khoá cửa lại, đoạn cùng Simkins và mấy đặc vụ kia tiến tới toa thứ nhất, rồi giơ tay mở cửa.

- Khoá lại nhé. - Simkins nói và rút súng ra.

Anh ta cùng hai đồng sự nhanh chóng bước vào toa xe thứ nhất. Viên trưởng tàu khoá cửa lại phía sau họ.

Toà thứ nhất chỉ có bốn hành khách, ba cậu choai choai và một bà già, tất cả đều giật mình ngơ ngác khi nhìn thấy ba người đàn ông có vũ trang bước vào. Simkins giơ thẻ công vụ lên.

- Không có vấn đề gì hết. Cứ ngồi nguyên tại chỗ.

Simkins cùng người của anh ta bắt đầu tìm kiếm, dồn dần về phía cuối toa tàu đã khoá kín - đây là phương pháp "bóp thuốc đánh răng", như cách gọi thời anh ta còn được đào tạo ở Farm. Tất cả hành khách lúc này đều ở trên tàu. Đi hết nửa toa tàu, nhóm đặc vụ vẫn chưa nhìn thấy ai có chút gì đó giống mô tả về Robert Langdon và Katherine Solomon. Tuy nhiên, Simkins còn rất tự tin. Trên toa không có chỗ nào để núp cả. Không phòng vệ sinh, không buồng kho, và không cả lối thoát thay thế. Cho dù mục tiêu có phát hiện việc họ lên tàu và chạy về phía sau thì cũng chẳng thoát ra nổi. Không thể cạy được cửa, mà Simkins cũng đã bố trí người đứng canh trên sân ga và cả hai đầu của đoàn tàu.

Cứ kiên nhẫn.

Tuy nhiên, lúc tiến vào toa thứ hai, Simkins bắt đầu bực mình. Ở toa tàu áp chót này chỉ có duy nhất một hành khách, một người Hoa.

Simkins và nhóm đặc vụ tiến dần qua toa tàu, tìm kiếm bất kỳ chỗ nào khả dĩ ẩn náu. Không hề có.

- Toa cuối, - Simkins nói, tay lăm lăm vũ khí và cùng hai đồng sự tiến về ngưỡng cửa toa cuối cùng của đoàn tàu. Vừa bước tới nơi, cả ba đã đứng sững lại, giương mắt lên trân trối.

Quái quỷ...?! Simkins bước nhanh về phía cuối toa tàu trống trơn, tìm kiếm phía sau tất cả ghế ngồi rồi trở lại chỗ người của mình, máu như sôi lên.

Bọn chúng biến đi đằng chó nào không biết?!

Chú thích:

(87) "Dự án Stargate" là mật danh của một trong những nghiên cứu do Chính phủ Hoa Kỳ tiến hành từ năm 1972 đến 1995, nhằm mục đích điều tra khả năng sử dụng các năng lực tâm thần trong các chiến thuật quân sự - ND.

(88) Du hành thiên thể là một cách hiểu mang tính bí truyền về bất kỳ dạng trải nghiệm ngoài cơ thể nào thừa nhận sự tồn tại của một "thiên thể" tách biệt với nhục thể và có khả năng thoát ra khỏi nhục thể đó. Du hành thiên thể mô tả việc thiên thể rời khỏi nhục thể để du hành trong thiên hà - ND.

Chương 79

Cách Alexandria, bang Virginia tám dặm về phía bắc. Robert Langdon và Katherine Solomon đang bình tĩnh rảo bước qua bãi cỏ rộng còn đẫm hơi sương.

- Chị nên làm diễn viên thì hơn - Langdon nói, vẫn còn rất ấn tượng trước suy nghĩ nhanh nhẹn và khả năng ứng phó của Katherine.

- Anh cũng không tệ đâu - Cô mỉm cười đáp.

Thoạt đầu Langdon hết sức lúng túng với vở kịch bất ngờ của Katherine ở trong taxi. Chẳng hề báo trước, cô đột ngột đòi tới Quảng trường Tự Do vì bỗng nhớ ra một ngôi sao Do Thái và dấu Quốc ấn của nước Mỹ. Cô vẽ một đồ hình nổi tiếng lên tờ đô la và giục Langdon nhìn kỹ chỗ cô muốn chỉ.

Cuối cùng, Langdon cũng nhận ra thứ Katherine đang nói tới không phải là tờ đô la mà là bóng đèn tín hiệu nhỏ xíu ở lưng ghế lái xe. Bóng đèn bị phủ bụi nên anh vốn không chú ý đến nó. Tuy nhiên, khi nghiêng người tới trước, Langdon thấy rõ bóng đèn đó sáng, toả ra màu đỏ đục. Anh cũng thấy rõ mấy chữ lờ mờ phía dưới bóng đèn.

HỆ THÔNG ĐÀM THOẠI TRONG XE - ĐANG BẬT

Giật mình, Langdon ngoảnh nhìn Katherine. Ánh mắt hốt hoảng của cô giục anh trông lên ghế trước. Langdon làm theo, kín đáo liếc nhanh qua tấm vách ngăn. Điện thoại di động của gã lái xe đặt trên bảng điều khiển, mở sẵn, sáng đèn và hướng về loa đàm thoại nội bộ.

Trong khoảnh khắc, Langdon hiểu ngay hành động của Katherine.

Họ biết chúng ta ở trên taxi... họ đang nghe ta nói.

Langdon không biết anh và Katherine còn bao nhiều thời gian cho tới lúc chiếc taxi dừng lại, nhưng anh biết mình phải hành động thật nhanh. Ngay lập tức anh tham gia màn kịch vì đã nhận ra đề xuất tới Quảng trường Tự Do của Katherine chẳng liên quan gì đến kim tự tháp, mà liên quan đến một ga tàu điện ngầm lớn - Ga Trung tâm, từ đó họ có thể bắt các tuyến Đỏ, Xanh lam hoặc Da cam theo bất kỳ hướng nào trong sáu hướng đi.

Tới Quảng trường Tự Do, họ nhảy ra khỏi taxi và Langdon vào vai, diễn một vài khúc ứng tác của riêng anh, cố tình để lại dấu hiệu chỉ đường tới Đài tưởng niệm ở Alexandria rồi mới cùng Katherine chạy xuống ga tàu điện ngầm, bỏ qua tuyến Xanh lam và tiếp tục tới tuyến Đỏ, đón tàu chạy theo hướng ngược lại.

Đi về phía bắc, vượt qua sáu nhà ga, họ tới một khu vực sang trọng yên tĩnh gần Tenleytown. Điểm đến của họ là công trình cao nhất ở khu vực này, hiện ra lừng lững phía chân trời, ngay Đại lộ Massachusetts, trên một bãi cỏ được cắt tỉa công phu.

Giờ đã "tháo cũi sô lồng", theo như lời Katherine, hai người thong thả đi qua bãi cỏ ẩm ướt. Bên tay phải họ là một khu vườn theo phong cách trung cổ, nổi tiếng với những bụi hồng lâu đời và vọng lâu Ngôi nhà Bóng mát. Họ băng qua vườn, tiến thẳng tới toà nhà lộng lẫy theo chỉ dẫn. Một nơi trú ẩn chứa mười tảng đá lấy từ núi Sinai, một hòn từ thiên đường, và một hòn mang nét mặt người cha bí ẩn của Luke.

- Tôi chưa bao giờ đến đây ban đêm cả, - Katherine nói, ngước mắt nhìn những ngọn tháp sáng rực - Thật đẹp.

Langdon hoàn toàn đồng ý, giờ mới nhớ ra rằng nơi đây thật sự cực kỳ ấn tượng. Kiệt tác tân Gothic này toạ lạc ở đầu phía bắc của khu Embassy Row, vài năm trước anh từng đến một lần để viết bài về nó cho một tạp chí trẻ em với hy vọng thanh thiếu niên có hứng thú ghé thăm công trình kỳ vĩ này. Bài viết của anh mang nhan đề "Moses, đá Mặt trăng và Chiến tranh giữa các vì sao", về sau đã trở thành một phần trong các tài liệu du lịch.

Đại Giáo đường Quốc gia Washington, Langdon nghĩ bụng, cảm thấy hơi hồi hộp sau nhiều năm trở lại. Còn nơi nào tốt hơn để tìm hiểu về Đức Chúa đích thực chưa?

- Nhà thờ này thực sự có mười tảng đá lấy từ núi Sinai à? - Katherine hỏi, nguýt nhìn tháp chuông đôi.

Langdon gật đầu.

- Gần chỗ bàn thờ chính. Chúng tượng trưng cho mười điều răn gửi tới Moses trên núi Sinai.

- Thế còn tảng đá mặt trăng?

Một tảng đá từ thiên đường.

- Phải. Một trong những ô cửa sổ lắp kính màu được gọi là Cửa sổ Vũ trụ, mẩu đá mặt trăng gắn ở đó.

- Hay thật, nhưng chi tiết cuối cùng nghe chừng hoang đường - Katherine nhìn quanh, đôi mắt đẹp thoáng nét hoài nghi - Một bức tượng của... Darth Vader(89) chăng?

Langdon bật cười.

- Người cha bí ẩn của Luke Skywalker(90) à? Chính xác đấy. Vader là một trong những pho tượng nổi tiếng nhất của Giáo đường Quốc gia - Anh chỉ tít lên mấy ngọn tháp phía tây - Hơi khó nhìn vào ban đêm, nhưng ở kia kìa.

- Darth Vader thì làm gì ở Đại Giáo đường Quốc gia Washington này chứ?

- Một bài thi cho bọn trẻ tạc miệng máng xối hình mặt quỷ. Darth đã giành chiến thắng.

Họ tới bậc cấp rộng dẫn lên lối cửa chính nằm sâu trong khuôn cửa vòm cao 24 mét, bên trên là một ô cửa sổ hoa hồng đẹp mê hồn.

Langdon đặt chân lên bậc cấp, tâm trí vẩn vơ nghĩ tới người lạ mặt đã gọi cho anh. Xin đừng nói tên... Cho tôi biết có phải anh đã bảo vệ được tấm bản đồ người ta uỷ thác cho anh không? Vai Langdon đau rát vì đeo ngọn kim tự tháp đá nặng trĩu, anh chỉ mong được hạ nó xuống. Chỗ ẩn náu và câu trả lời.

Khi lên tới bậc trên cùng, họ gặp hai cánh cửa gỗ đồ sộ.

- Chúng ta chỉ việc gõ cửa thôi à? - Katherine hỏi.

Langdon cũng đang băn khoăn thì có tiếng cửa kẹt mở.

- Ai đó? - một giọng nói yếu ớt vang lên. Một gương mặt nhăn nheo xuất hiện ở cửa. Ông ta mặc áo choàng thầy tu, ánh nhìn hoàn toàn trống rỗng, đôi mắt trắng đục và mờ tịt vì bệnh đục thuỷ tinh thể.

- Tên tôi là Robert Langdon, - anh đáp - Cô Katherine Solomon và tôi đang tìm một chỗ ẩn náu.

Ông già mù loà thở phào.

- Ơn Chúa. Tôi đang mong gặp hai vị.

Chú thích:

(89) Darth Vader là một nhân vật trong bộ phim truyện Chiến tranh giữa các vì sao (Star Wars). Darth Vader là tên của Anakin Skywalker sau khi gia nhập mặt tối của thần lực. Sau trận kịch chiến với thầy mình là Obi-Wan Kenobi ở hệ nham thạch, anh ta thất bại và bị dung nham ở hệ hành tinh ấy thiêu đốt làm biến dạng cơ thể. Chúa tể Darth Sidious đem anh ta về chữa trị và cho anh ta chiếc mặt nạ đen. Từ đó anh ta trở thành Darth Vader cùng với đội quân nhân bản thống lĩnh thiên hà. Trong tập bốn của bộ phim, Darth Vader giết Obi-Wan Kenobi khi ông đang cố gắng bảo vệ Luke Skywalker, con "trai của Anakin Skywalker, và các bạn của anh. Khi thấy chính con trai mình sắp bị giết, Darth Vader đã liều mình hy sinh để cứu con - ND.

(90) Luke Skywalker là con trai của Anakin Skywalker (Darth Vader). Mẹ của Luke, Padmé Amidala, qua đời khi sinh anh và người em gái của anh, công chúa Leia Amidala Skywalker vì quá đau buồn trước những sai lầm của cha anh. Khi vừa sinh ra, anh được hiệp sĩ Jedi Obi-Wan Kenobi đưa về quê nội ở hành tinh Tatooine để trốn tránh sự truy sát của người Sith do Darth Sidious chỉ huy. Tại đây, anh đã lớn lên với thân phận một nông dân nghèo khổ, làm nghề thu mua những người máy cũ. Tình cờ, anh có được hai người máy R2D2 và C3PO của công chúa Leia. Những thông tin cầu cứu của công chúa Leia đã dẫn anh tìm đến Ben Kenobi, tên của Obi-Wan Kenobi khi mai danh ẩn tích. Chính Obi-Wan Kenobi đã dạy anh những bài học đầu tiên để trở thành một hiệp sĩ Jedi cũng như bước vào cuộc chiến cùng quân khởi nghĩa chống lại Đế chế độc tài do Darth Sidious và cha anh, Darth Vader, cầm đầu. Trong phần cuối của bộ phim, Luke đánh bại được Vader nhưng sau đó thua Palpatine. Khi Palpatine định giết Luke, cha anh tỉnh ngộ và chấp nhận cái chết để tiêu diệt Palpatine cũng là để cứu con trai mình - ND.

Chương 80

Warren Bellamy bỗng cảm thấy một tia hy vọng.

Giám đốc Sato vừa nhận cuộc gọi của một đặc vụ và lập tức mắng xa xả.

- Thôi được rồi, đám ăn hại các anh nên tìm ngay họ đi! - bà ta quát vào điện thoại - Chúng ta không còn bao nhiêu thời gian đâu!

Sato tắt máy và đi đi lại lại trước mặt Bellamy như thể đang cố gắng quyết định xem phải làm gì tiếp theo.

Cuối cùng, bà ta dừng bước ngang chỗ ông và quay sang.

- Ông Bellamy, tôi hỏi ông câu này một lần nữa, và chỉ một lần nữa thôi - Bà ta nhìn xoáy vào mắt viên Kiến trúc sư - ông có biết Robert Langdon đi đâu không? Có hay không?

Bellamy biết rất rõ, nhưng ông lắc đầu.

- Không.

Ánh nhìn sắc lạnh của Sato không rời khỏi mắt người đàn ông.

- Tiếc rằng một phần công việc của tôi là phát hiện khi nào thì người ta nói dối.

Bellamy ngoảnh đi.

- Xin lỗi, tôi không giúp gì được bà.

- Kiến trúc sư Bellamy. - Sato nói - Hồi tối, vừa sau 7 giờ, ông đang ăn cơm ở một nhà hàng ngoại ô thì nhận được điện thoại của một người, thông báo hắn đã bắt cóc Peter Solomon.

Bellamy rùng mình ớn lạnh và ngoảnh lại nhìn Sato. Làm thế nào mà bà biết chuyện đó?

- Gã kia, - Sato nói tiếp - bảo ông rằng gã đã cử Robert Langdon tới Điện Capitol để thực hiện một nhiệm vụ... một nhiệm vụ cần sự giúp đỡ của ông. Gã cảnh cáo rằng nếu Langdon không hoàn thành nhiệm vụ này thì Peter Solomon bạn ông sẽ chết. Hoảng sợ, ông gọi tất cả các số của Peter nhưng không được. Đương nhiên sau đó ông chạy vội tới Điện Capitol.

Bellamy không tưởng tượng nổi bằng cách nào Sato biết về cuộc điện thoại này.

- Khi chạy trốn khỏi Điện Capitol, - Sato rít một hơi thuốc rồi tiếp - ông gửi một tin nhắn cho kẻ bắt cóc Solomon, quả quyết với hắn rằng ông và Langdon đã thành cộng trong việc giành được Kim tự tháp Tam điểm.

Bà ta lấy thông tin ở đâu nhỉ? Bellamy tự hỏi. Ngay cả Langdon cũng không biết mình gửi tin nhắn. Ngay sau khi bước vào đường hầm dẫn sang Thư viện Quốc hội, Bellamy đến phòng điều khiển hệ thống điện để bật đèn. Trong khoảng thời gian riêng tư đó, ông đã quyết định gửi một tin nhắn nhanh cho kẻ bắt cóc Solomon, báo với gã về sự can thiệp của Sato, nhưng cũng trấn an rằng ông - Bellamy - và Langdon đã đoạt được Kim tự tháp Tam điểm và trên thực tế đang hợp tác với gã. Dĩ nhiên đây chỉ là lời nói dối, song Bellamy hy vọng kế hoãn binh ấy sẽ kéo dài thời gian, cho Peter Solomon và cả cho việc giấu kim tự tháp.

- Ai nói với bà tôi đã gửi tin nhắn? - Bellamy cật vấn.

Sato cầm chiếc điện thoại di động của Bellamy trên ghế băng cạnh ông.

- Chẳng khó khăn mấy.

Bellamy sực nhớ rằng khi bị bắt. Ông đã bị bọn đặc vụ tịch thu cả điện thoại lẫn chìa khoá.

- Về những thông tin còn lại - Sato nói - Luật Yêu nước cho tôi quyền được nghe trộm điện thoại của bất kỳ ai tôi coi là mối đe doạ tiềm tàng đối với an ninh quốc gia. Trong mắt tôi, Peter Solomon là một mối đe doạ như thế, và tối hôm qua, tôi đã hành động.

Bellamy cố gắng lắm mới hiểu được những điều Sato nói.

- Bà nghe trộm điện thoại của Peter Solomon?

- Phải. Nhờ thế mà tôi biết gã bắt cóc đã liên lạc với ông ở nhà hàng. Ông gọi vào điện thoại di động của Peter và để lại một tin nhắn giải thích những chuyện vừa xảy ra.

Bellamy thừa nhận bà ta nói đúng.

- Chúng tôi cũng nghe lén được một cuộc gọi của Robert Langdon, lúc ấy đang có mặt ở Điện Capitol và hoàn toàn không hiểu tại sao mình lại bị lừa tới đó. Tôi tới Điện Capitol ngay, tới trước ông vì tôi ở gần hơn. Còn vì sao tôi muốn xem X quang cái túi của Langdon... ngay khi nhận ra Langdon dính vào chuyện này, tôi đã cho nhân viên kiểm tra lại cuộc gọi tưởng như vô hại vào sáng sớm giữa Langdon và điện thoại di động của Peter Solomon, trong đó kẻ bắt cóc tự nhận là trợ lý của Solomon, thuyết phục Langdon đến giảng bài và dặn mang theo cả cái gói nhỏ Peter đã gửi anh ta. Thấy Langdon không đả động gì tới cái gói, tôi đã yêu cầu xem bản chụp X quang chiếc túi.

Bellamy thấy khó nghĩ. Phải thừa nhận rằng câu chuyện của Sato rất xuôi tai, nhưng vẫn còn thiếu điều gì đó.

- Vì sao bà lại nghĩ Peter Solomon là mối đe doạ đối với an ninh quốc gia chứ?

- Tin tôi đi, Peter Solomon đúng là mối đe doạ rất nghiêm trọng đối với an ninh quốc gia, - Sato ngắt lời - Và nói thẳng nhé, ông cũng vậy đấy, thưa ông Bellamy.

Viên Kiến trúc sư bật ngồi thẳng dậy, chiếc còng xiết chặt lấy cổ tay ông.

- Bà nói sao cơ?

Vị Giám đốc OS cố nặn ra một nụ cười.

- Đám Hội viên Tam điểm các người chơi một trò chơi đầy rủi ro. Các người giấu giếm một bí mật rất, rất nguy hiểm.

Bà ta đang nói về những Bí mật cổ xưa chăng?

- Rất may, các người đã luôn làm tốt công việc giữ kín mọi bí mật của mình. Nhưng rủi thay, gần đây các người lại bất cẩn, và tối nay, bí mật nguy hiểm nhất của các người sắp bị tiết lộ cho cả thế giới. Trừ phi chúng ta ngăn chặn được việc đó, bằng không tôi đoán chắc với ông rằng hậu quả sẽ cực kỳ tai hại.

Bellamy trợn mắt thảng thốt.

- Giá như ông không tấn công tôi, - Sato nói - thì ông đã nhận ra rằng ông và tôi cùng hội cùng thuyền.

Cùng hội cùng thuyền. Những từ này làm lóe lên trong Bellamy một ý tưởng hầu như vô lý. Phải chăng Sato là thành viên của Đông Tinh hội? Đông Tinh hội - thường được coi là tổ chức chị em của Hội Tam điểm - cũng có triết lý tương tự về lòng nhân ái, về tri thức bí mật, và có tư tưởng phóng khoáng. Cùng hội cùng thuyền ư? Mình đang bị còng tay! Còn bà ta thì nghe trộm điện thoại của Peter.

- Ông sẽ giúp tôi ngăn chặn gã này, - Sato nói - Hắn có khả năng gây ra một biến động lớn khiến cho đất nước không gượng dậy nồi nữa.

Gương mặt bà ta trơ như đá.

- Vậy sao các vị không theo dõi hắn?

Dường như Sato cho rằng câu hỏi đó là thừa.

- Ông nghĩ rằng tôi không thử làm sao? Kết quả truy tìm từ điện thoại di động của Solomon đã mất dấu trước khi chúng tôi kịp xác định vị trí. Một số máy khác của hắn có vẻ là số chỉ dùng một lần, gần như không thể truy dấu được. Hãng máy bay tư cho chúng tôi biết rằng chuyến bay của Langdon do trợ lý của Solomon đăng ký, bằng số di động của Solomon, bằng thẻ Marquis Jet của Solomon. Không có cách nào cả. Mà cho dù tìm ra đúng hang ổ thì tôi cũng không thể mạo hiểm xông vào và tìm cách tóm hắn được.

- Tại sao lại không?!

- Tôi không muốn cắt nghĩa việc đó, vì đây là thông tin mật, - Sato đáp, rõ ràng sự kiên nhẫn đang cạn dần - Tôi đề nghị ông hãy tin tôi lần này.

- Chà, tôi không tin được.

Mắt Sato lạnh như băng. Bà ta đột ngột xoay người và gọi vọng qua Rừng rậm.

- Đặc vụ Hartmann? Cái cặp nhé!

Bellamy nghe thấy tiếng rít của cánh cửa điện tử, và một đặc vụ sải bước vào Rừng rậm. Anh ta mang theo một chiếc cặp bằng titan rất đẹp và đặt nó lên mặt đất bên cạnh vị Giám đốc OS.

- Cứ để mặc chúng tôi, - Sato nói.

Anh chàng đặc vụ rời đi, cánh cửa lại rít lên, rồi mọi thứ chìm vào im lặng.

Sato nhặt chiếc cặp kim loại, đặt nó lên đùi và bấm khoá. Sau đó bà ta từ từ ngước mắt nhìn Bellamy.

- Tôi không muốn phải làm việc này, nhưng thời gian của chúng ta sắp hết, mà ông thì khiến tôi không còn sự lựa chọn nào khác.

Bellamy nhìn xoáy vào chiếc cặp lạ lùng và càng thêm sợ hãi. Bà ta sẽ tra tấn mình chăng? Ông lại cố kéo căng chiếc còng tay.

- Trong cặp có gì thế?!

Sato mỉm cười.

- Một thứ sẽ thuyết phục ông phải nhìn nhận mọi việc giống như tôi. Tôi cam đoan như vậy.

Chương 81

Không gian ngầm, nơi Mal'akh thực hiện Nghệ thuật, được nguỵ trang rất khéo léo. Với những người mới bước vào tầng hầm nhà gã, rõ ràng nơi đó rất bình thường - một gian hầm đặc trưng với nồi hơi, tủ điện, củi đun, và đủ thứ chổi cùn rế rách. Tuy nhiên, gian hầm lộ liễu ấy chỉ là một phần không gian ngầm của Mal'akh. Phần còn lại khá rộng, dùng để phục vụ những hoạt động kín đáo thì nằm sau những bức tường ngăn.

Không gian làm việc riêng tư của Mal'akh là một dãy phòng nhỏ, mỗi phòng dùng cho một mục đích riêng. Lối vào duy nhất là một đường dốc bí mật dẫn từ phòng khách sang, nhìn qua không tài nào phát hiện được.

Tối nay, khi Mal'akh theo đường dốc đi xuống, những dấu ấn và ký hiệu xăm trổ trên da thịt gã dường như cũng trở nên sống động dưới ánh sáng màu xanh da trời toả ra từ hệ thống đèn chuyên dụng trong tầng hầm. Gã bước qua vài cánh cửa khép kín và tiến thẳng tới gian phòng rộng nhất ở cuối hành lang.

"Thánh điện tối linh", như cách gọi ưa thích của Mal'akh, là một căn phòng vuông vức mỗi chiều đúng 12 feet(91) Mười hai là dấu hiệu của Hoàng đạo. Mười hai là số giờ trong ngày. Mười hai là số cánh cổng vào thiên đàng. Ở chính giữa gian buồng đặt một chiếc bàn đá, mỗi chiều 7 feet. Bảy là con dấu Khai huyền. Bảy là số bậc cấp của Đền thánh. Bên trên chiếc bàn có treo một ngọn đèn được tính toán kích cỡ rất cẩn thận, phát sáng theo chu kỳ các màu đã định sẵn, cứ sáu tiếng lại hoàn tất một chu kỳ theo Bảng Giờ thiêng. Giờ Yanor là màu xanh lam. Giờ Nasnia màu đỏ. Giờ Salam màu trắng.

Lúc này là giờ Caerra, ánh sáng trong phòng mang màu phớt tía. Mặc độc một chiếc khố lụa quấn quanh bẹn và cơ quan sinh dục đã thiến, Mal'akh bắt đầu công việc chuẩn bị.

Gã cẩn thận pha trộn các loại hoá chất tạo khói lát nữa sẽ dùng để làm cho bầu không khí thêm phần thiêng liêng. Sau đó, gã gấp chiếc áo choàng lụa mới nguyên mà gã sẽ mặc thay cho cái khố hiện giờ. Cuối cùng, gã tẩy uế một bình nước dùng để xức dầu thánh cho lễ vật. Xong xuôi, gã xếp tất cả những thứ đã chuẩn bị sẵn lên một chiếc bàn sát tường.

Tiếp đó, gã đến bên cái giá, lấy ra một hộp nhỏ bằng ngà, mang nó tới chỗ chiếc bàn và đặt xuống đó cùng những thứ khác. Mặc dù chưa sẵn sàng dùng đến nhưng gã vẫn náo nức mở nắp hộp để ngắm nghía báu vật.

Một con dao.

Trong lòng hộp ngà, nằm yên vị giữa lớp nhung đen là con dao hiến lễ mà Mal'akh dành riêng cho tối nay. Năm ngoái gã đã bỏ ra 1,6 triệu đô la để mua nó ở chợ đen đồ cổ tại Trung Đông.

Con dao nổi tiếng-nhất trong lịch sử

Con dao quý giá này có niên đại rất xa xưa, lưỡi thép, chuôi bằng xương, thiên hạ cho rằng nó đã tuyệt tích. Bao nhiêu thế kỷ qua, con dao từng thuộc sở hữu của vô số nhân vật quyền thế. Mấy thập kỷ gần đây, nó biến mất, chìm nghỉm trong một bộ sưu tập tư nhân bí mật. Mal'akh phải mất rất nhiều công sức mới giành được. Gã ngờ rằng con dao đã không uống máu trong vài thập kỷ... có khi còn vài thế kỷ rồi. Đêm nay, nó sẽ lại được tận hưởng sức mạnh hiến sinh đúng với mục đích ra đời.

Mal'akh nhẹ nhàng nhấc con dao ra khỏi "ngôi nhà" êm ái của nó và kính cẩn lau thật sáng lưỡi dao bằng một vuông lụa thấm nước tẩy uế. Kỹ năng của gã đã tiến bộ rất nhiều kể từ những trải nghiệm sơ đẳng đầu tiên ở New York. Nghệ thuật hắc ám mà Mal'akh thực hiện được định danh khác nhau trong các ngôn ngữ khác nhau, nhưng dù mang tên gì thì nó vẫn là một ngành khoa học chính xác. Kỹ nghệ nguyên thuỷ này từng nắm giữ chìa khoá mở ra nhiều cánh cổng quyền lực, nhưng nó bị lãng quên đã lâu, bị giáng cấp xuống thành một thứ mang màu sắc huyền hoặc và ma thuật. Một số ít người vẫn còn thực hành Nghệ thuật này, nhưng họ bị coi là điên rồ. Mal'akh hiểu rất rõ rằng đây không phải là công việc dành cho những kẻ kém năng lực. Nghệ thuật hắc ám cổ xưa, cũng giống như khoa học hiện đại là một lĩnh vực liên quan đến những công thức chính xác, những nguyên liệu cụ thể và thời gian biểu nghiêm ngặt.

Nghệ thuật này không phải là loại ma thuật hắc ám vô tác dụng do mấy kẻ tò mò thực hiện nửa vời; mà giống như vật lý nguyên tử, nó có tiềm năng khơi dậy sức mạnh khủng khiếp, kèm theo lời cảnh báo ghê gớm: Kẻ nào non nớt mà cứ tiến hành thì rất dễ bị tác động ngược và bị huỷ diệt.

Ngắm nghía lưỡi dao linh thiêng một lát, Mal'akh hướng sự chú ý của mình sang một tấm giấy da mịn khá dày nằm trên chiếc bàn trước mặt. Đích thân gã đã chế tờ giấy này từ da cừu non. Theo quy ước cừu non rất thanh khiết bởi chúng chưa trưởng thành về mặt sinh dục. Bên cạnh mảnh da là một cái đĩa bạc, một cái bút do gã chế tạo từ lông ống của một con quạ, và ba ngọn nến cháy le lói được bố trí quanh một cái bát bằng đồng thau. Cái bát này có chứa một thứ chất lỏng màu đỏ dày tới nửa phân.

Thứ chất lỏng ấy là máu của Peter Solomon.

Máu chính là chất cồn của sự vĩnh hằng.

Mal'akh cầm bút lông, đặt tay trái lên tờ giấy da, gã chấm đầu bút vào máu và cẩn thận vẽ đường viền bàn tay xòe rộng của mình. Vẽ xong, gã tô thêm năm biểu tượng của những Bí mật cổ xưa vào năm đầu ngón tay của bản vẽ.

Vương miện... tượng trưng cho ngôi vua sắp tới của ta.

Ngôi sao... tượng trưng cho những thiên đường đã định ra số phận ta.

Mặt trời... tượng trưng cho sự khai sáng linh hồn ta.

Đèn lồng... tượng trưng cho thứ ánh sáng le lói trong vốn hiểu biết của con người.

Và chiếc chìa khoá... tượng trưng cho thứ còn thiếu, mà tối nay ta sẽ sở hữu nốt.

Mal'akh hoàn thiện bức vẽ bằng máu và giơ tấm giấy da lên, ngắm nghía công trình của mình dưới ba ngọn nến. Gã đợi cho tới khi máu khô hẳn rồi gấp tờ giấy da dày làm ba. Vừa lẩm nhẩm một câu thần chú siêu nhiên, Mal'akh vừa châm tờ giấy da vào ngọn nến thứ ba.

Nó bùng cháy. Gã đặt mảnh da cháy bùng bùng vào chiếc đĩa bạc và để nó cháy hết. Khi ngọn lửa tàn, chất carbon trong da động vật biến thành một thứ bột than đen. Đợi lửa tắt hẳn, Mal'akh cẩn thận trút tro than vào chiếc bát đồng đựng máu. Sau đó, gã dùng lông quạ khuấy đều lên.

Chất lỏng trong bát chuyển màu đỏ sậm, gần như đen.

Bưng bát lên bằng cả hai tay, Mal'akh nâng cao quá đầu và tạ ơn, miệng lẩm nhẩm những lời khấn hiến sinh của cổ nhân. Sau đó, gã cẩn thận đổ hỗn hợp đen kịt ấy vào một lọ thuỷ tinh và đậy nút lại.

Đây là mực dùng để vẽ lên khoảng da chưa xăm trổ trên đỉnh đầu và hoàn thiện nốt kiệt tác của gã.

Chú thích:

(91) Foot, đơn vị đo lường của Anh, tương đương 0,3m. Ở nhiều chi tiết trong toàn bộ tiểu thuyết này, dịch giả đã quy đổi đơn vị này sang hệ mét quen thuộc với độc giả người Việt. Tuy nhiên, chỗ này dịch giả buộc phải dùng đúng đơn vị foot do con số đi kèm có liên quan đến nội dung chuyện. Nếu đổi sang hệ mét, con số sẽ bị thay đổi, không khớp với nội dung - ND.

Chương 82

Đại Giáo đường Washington là nhà thờ lớn thứ sáu trên thế giới, cao hơn cả một cao ốc ba mươi tầng và chứa được hơn ba nghìn tín đồ cùng lúc. Kiệt tác theo phong cách Gothic này được tô điểm bằng hơn hai trăm ô cửa sổ lắp kính màu nghệ thuật, một chùm năm mươi ba quả chuông và một bộ đàn gồm 10.647 ống.

Tuy nhiên tối nay, Đại Giáo đường hoàn toàn vắng lặng.

Đức cha Colin Galloway - chánh xứ nhà thờ - trông như người đã sống tới mấy mươi đời. Còng gập và nhăn nheo trong bộ áo thầy tu màu đen giản dị, ông lầm lũi lê bước đi trước. Langdon và Katherine im lặng theo sau, xuyên qua bóng tối trải khắp 120 mét dọc sảnh chính, trên lối đi giữa hai hàng ghế giáo đường. Lối đi này lượn rất nhẹ sang trái, tạo cảm giác êm ái. Tới Giao lộ chính, cha chánh xứ dẫn họ bước qua vách ngăn toà giảng - vách ngăn tượng trưng giữa khu vực giáo dân với thánh điện bên kia.

Thánh đường ngào ngạt mùi hương trầm. Không gian linh thiêng này ngập tràn bóng tối, chỉ tản mát chút ánh sáng phản xạ gián tiếp từ vòm trần trang trí hình lá bên trên. Cờ hiệu năm mươi bang treo cao trên vị trí của ban hợp xướng nhà thờ, xung quanh bày vài tấm bình phong chạm khắc các sự kiện trong kinh thánh. Cha Galloway vẫn đi tiếp, rõ ràng là đã thuộc lòng lộ trình. Có lúc, Langdon những tưởng họ đang tiến thẳng tới chỗ bàn thờ, nơi gắn mười phiến đá lấy từ núi Sinai, nhưng vị chánh xứ già lại rẽ sang trái và dò dẫm qua một cánh cửa ẩn kín dẫn vào gian trái dành cho công việc hành chính.

Họ đi dọc một hành lang ngắn tới một văn phòng, ngoài cửa có tấm biển tên bằng đồng:

ĐỨC CHA TIẾN SĨ COLLN GALLOWAY

CHÁNH XỨ ĐẠI GIÁO ĐƯỜNG

Galloway mở cửa và bật đèn, rõ ràng rất quen với việc ghi nhớ nghi thức xã giao dành cho khách khứa. Ông giục họ bước vào và đang cửa lại.

Văn phòng chánh xứ nhỏ nhưng trang nhã, có nhiều giá sách cao, một bàn làm việc, một tủ chạm và một buồng tắm riêng. Trên tường treo mấy tấm thảm từ thế kỷ XVI và vài bức tranh tôn giáo. Vị chánh xứ già trỏ hai chiếc ghế da đặt đối diện bàn mình. Langdon ngồi xuống bên Katherine, lòng đầy cảm kích, vì cuối cùng cũng được buông chiếc túi nặng trịch ra. Anh thả nó xuống sàn nhà, ngay dưới chân.

Nơi trú ẩn và câu trả lời, Langdon nghĩ thầm, yên vị trên chiếc ghế thoải mái.

Ông già dò dẫm vòng ra sau bàn và ngồi xuống chiếc ghế có phần lưng tựa khá cao. Sau đó, thở ra mệt mỏi, ông ngẩng lên, đăm đăm nhìn họ qua đôi mắt mờ đục. Nhưng khi lên tiếng, giọng ông rõ và khỏe đến không ngờ.

- Tôi biết là chúng ta chưa hề gặp nhau, - Galloway mở lời - nhưng tôi cảm thấy quen thuộc với cả hai vị.

Ông rút khăn tay ra và chấm chấm lên miệng.

- Giáo sư Langdon, những tác phẩm của anh không xa lạ gì với tôi, kể cả bài báo rất xuất sắc về những biểu tượng của nhà thờ này. Còn cô Solomon, anh trai Peter của cô và tôi là huynh đệ Tam điểm với nhau đã nhiều năm nay rồi.

- Anh Peter đang gặp chuyện không hay, - Katherine bứt rứt báo.

- Tôi có nghe nói - ông già thở dài - Và tôi sẽ dốc hết sức để giúp các vị.

Langdon nhận thấy cha chánh xứ không đeo nhẫn Tam điểm trên tay, anh biết rằng nhiều hội viên, nhất là những người trong giới tu sĩ, thường chọn cách giấu kín thân phận của mình.

Họ bắt đầu trò chuyện. Rõ ràng cha Galloway đã nắm được một vài diễn biến hồi tối nhờ tin nhắn của Warren Bellamy. Nay nghe Langdon và Katherine bổ sung phần còn lại, trông cha càng có vẻ lo lắng.

- Tức là - đức cha nói - cái gã đã bắt cóc Peter yêu quý của chúng ta khăng khăng đòi Giáo sư giải mã kim tự tháp để đối lấy mạng sống của anh ấy?

- Vâng, - Langdon đáp - Gã nghĩ đó là tấm bản đồ dẫn tới nơi cất giấu những Bí mật cổ xưa.

Cha chánh xứ hướng đôi mắt mờ đục kỳ lạ của mình về phía Langdon.

- Tai tôi mách cho tôi biết rằng Giáo sư hoài nghi Bí mật cổ xưa, bản đồ và mọi điều tương tự.

Langdon không muốn lãng phí thời gian vào chủ đề này.

- Con hoài nghi hay tin tưởng đều không quan trọng. Quan trọng là phải giúp Peter. Tiếc rằng khi chúng con giải mã xong kim tự tháp, nó cũng chẳng chỉ tới đâu cả.

Ông già ngồi thẳng dậy.

- Các vị đã giải mã kim tự tháp?

Katherine bèn đỡ lời, nhanh nhẹn giải thích rằng mặc dù Bellamy đã cảnh báo và Peter cũng yêu cầu Langdon không được mở cái gói, nhưng cô vẫn mở ra vì ưu tiên trước nhất là giúp anh trai mình. Cô kể với cha chánh xứ về chóp vàng, về ma trận Albrecht Durer, và về việc ứng dụng nó để giải bức mật mã Tam điểm gồm mười sáu chữ cái thành câu Jeova Sanctus Unus.

- Một Đức Chúa đích thực? Nó chỉ nói có vậy thôi à? - Galloway hỏi.

- Vâng, thưa cha, - Langdon đáp - Rõ ràng kim tự tháp là một bản đồ ẩn dụ, chứ không phải bản đồ địa lý.

Cha chánh xứ chìa tay.

- Cho tôi sờ thử xem.

Langdon mở khoá túi xách, lôi kim tự tháp ra và cẩn thận đặt nó lên bàn, ngay trước mặt đức cha.

Langdon và Katherine lẳng lặng quan sát. Galloway dùng đôi tay gầy yếu kiểm tra từng phân đá, từ bề mặt khắc chữ đến phần đe trơn nhẵn và cuối cùng là chóp cụt. Kiểm tra xong, ông lại chìa tay ra.

- Thế còn cái chóp?

Langdon nhấc lấy hộp đá nhỏ, bê nó lên bàn và mở nắp, đoạn anh moi cái chóp, đặt nó vào hai tay ông già. Cha chánh xứ lại kiểm tra như lần trước, sờ kỹ từng phân, dừng lại lâu hơn ở mấy chữ chìm trên cái chóp, rõ ràng là hơi khó khăn để nhận biết dòng văn tự nhỏ xíu được khắc rất đẹp này.

- Bí mật giấu trong Tổ Chức, - Langdon trợ giúp - Hai chữ Tổ và Chức viết hoa.

Galloway đặt cái chóp lên kim tự tháp cụt và sờ soạng để khớp chúng vào nhau, khuôn mặt không biểu lộ điều gì. Ông ngừng lại chốc lát, như thể đang cầu nguyện, rồi kính cẩn đưa hai tay rờ rẫm khắp lượt ngọn tháp hoàn chỉnh vài lần. Sau đó, ông tìm cái hộp hình khối, cầm lên và cũng thám thính rất cẩn thận, các ngón tay dò kỹ cả bên trong và bên ngoài.

Xong xuôi, Galloway thả hộp xuống và ngả người ra sau ghế.

- Giờ hãy cho tôi biết, - ông lên tiếng, giọng đột nhiên trở nên nghiêm nghị - Tại sao các vị lại đến chỗ tôi?

Câu hỏi khiến Langdon ngỡ ngàng.

- Thưa cha, chúng con đến bởi vì cha bảo như vậy. Ông Bellamy cũng dặn chúng con hãy tin tưởng cha.

- Thế nhưng hai vị không hề tin ông ấy cơ mà?

- Con không hiểu?

Đôi mắt trắng đục của cha chánh xứ nhìn xuyên qua Langdon.

- Hộp đựng chóp có niêm phong. Bellamy dặn không được mở nó ra, nhưng các vị cứ mở. Thêm nữa, chính Peter Solomon cũng yêu cầu anh không được mở nó. Nhưng anh đã mở.

- Thưa cha. - Katherine can thiệp - chúng con chỉ cố gắng giúp Peter. Cái tên bắt giữ anh ấy đòi phải giải mã...

- Tôi có thể thông cảm, - cha chánh xứ tuyên bố - nhưng các vị thu được gì bằng cách mở gói ra? Chẳng có gì cả. Kẻ bắt giữ Peter đang tìm kiếm một địa điểm, và gã sẽ không thoả mãn với câu trả lời Jeova Sanctus Unus.

- Con đồng ý, - Langdon thừa nhận - tiếc rằng kim tự tháp chỉ vỏn vẹn có vậy. Ở trên con đã nói, tấm bản đồ dường như mang tính ẩn dụ hơn là...

- Anh lầm rồi, thưa Giáo sư, - cha chánh xứ ngắt lời - Kim tự tháp Tam điểm là một tấm bản đồ thực sự. Nó chỉ tới một địa điểm có thật Anh không hiểu điều đó, bởi vì anh chưa giải mã được đầy đủ kim tự tháp. Thậm chí còn chưa đến gần.

Langdon và Katherine nhìn nhau kinh ngạc.

Cha chánh xứ đặt hai tay lên ngọn tháp, gần như vuốt ve nó.

- Tấm bản đồ này, cũng như bản thân Bí mật cổ xưa, có nhiều tầng ý nghĩa. Các vị vẫn chưa chạm đến bí mật đích thực của nó.

- Thưa cha Galloway. - Langdon nói - Chúng con đã dò kỹ từng phân kim tự tháp và cái chóp, chẳng thấy gì khác cả.

- Với hiện trạng này của nó thì không có đâu. Nhưng mọi vật thay đổi được mà.

- Thưa cha?

- Giáo sư, anh biết đấy, kim tự tháp này hứa hẹn một trong những sức mạnh biến cải phi thường. Theo truyền thuyết, nó có thể thay hình đổi dạng... biến đổi diện mạo vật chất của mình để tiết lộ các bí mật.

Tương tự trường hợp hòn đá lừng danh đưa thanh kiếm Excalibur(92) vào tay Vua Arthur. Kim tự tháp Tam điểm có thể tự thay đổi theo lựa chọn... và tiết lộ bí mật của nó cho những người xứng đáng.

Langdon cảm thấy tuổi tác đã làm ông già lẩn thẩn.

- Con xin lỗi, thưa cha. Cha đang nói rằng kim tự tháp này có thể biến đổi về mặt vật lý theo đúng nghĩa đen phải không ạ?

- Giáo sư, nếu tôi ra tay biến hoá kim tự tháp ngay tại đây, anh sẽ tin những gì mình chứng kiến chứ?

Langdon không biết trả lời sao.

- Con cho rằng chẳng còn lựa chọn nào khác.

- Tốt lắm. Lát nữa thôi, tôi sẽ làm đúng như thế - ông lại thấm miệng - Cho phép tôi nhắc quý vị rằng đã có thời ngay cả những bộ óc sáng láng nhất cũng tin là trái đất dẹt, vì nếu trái đất tròn thì chắc chắn các đại dương sẽ chảy trôi hết. Thử tưởng tượng xem họ sẽ chỉ trích thế nào nếu các vị tuyên bố "Trái đất không chỉ hình cầu mà còn tồn tại một sức mạnh bí ẩn vô hình giữ mọi thứ lại trên bề mặt của nó"!

- Nhưng lực hấp dẫn thì khác xa khả năng biến cải đồ vật bằng cách chạm tay của cha chứ, - Langdon phản đối.

- Thế ư? Không lẽ chúng ta vẫn đang sống trong đêm trường Trung cổ, vẫn ham chỉ trích lời gợi ý về các lực lượng "bí ẩn" mà chúng ta không thể nhìn thấy hoặc hiểu được? Lịch sử dạy chúng ta nhiều điều, một trong số đó là đừng cười nhạo những ý tưởng kỳ lạ, vì một ngày kia chúng sẽ trở thành chân lý đáng phụng thờ. Tôi tuyên bố có thể biến đổi kim tự tháp này chỉ với một cái chạm tay, và anh nghi ngờ sự tỉnh táo của tôi. Sẽ khả quan hơn nếu anh là một nhà sử học. Lịch sử đầy rẫy những bộ óc vĩ đại từng công bố bao điều tương tự, họ nhất quyết cho rằng con người sở hữu nhiều khả năng bí ẩn mà tự mình lại không hay biết.

Langdon hiểu rằng đức cha nói đúng. Câu cách ngôn nổi tiếng của phái Hermes: "Các ngươi không biết mình là thần thánhư?" là một trong những nền tảng của các Bí mật cổ xưa. Thương hạ tương liên...Con người được tạo ra theo hình ảnh của Chúa... Phong thần. Bức thông điệp về khả năng thần thánh (hoặc tiềm năng ẩn kín) của chính con người là chủ đề được nhắc đi nhắc lại trong văn tự cổ của rất nhiều tín ngưỡng: Thậm chí Kinh thánh cũng nói: Các con là Chúa (Thánh ca 82:6)!

- Giáo sư. - Galloway lên tiếng - tôi nhận ra rằng anh, cũng như nhiều người có học thức khác, thường kẹt giữa các thế giới, một chân trong tâm linh, một chân trong vật chất. Lòng anh khát khao muốn tin nhưng tri thức của anh lại từ chối chấp nhận. Là một học giả, anh nên học hỏi những bộ óc vĩ đại của lịch sử - ông ngừng lời và hằng giọng - Nếu tôi nhớ không lầm thì một trong những bộ óc vĩ đại nhất từng phát biểu: "Thực tế vẫn tồn tại nhiều điều chúng ta không lý giải nổi. Đằng sau bí ẩn của tự nhiên còn lắm thứ tinh tế, vô hình và khó diễn tả. Tôn giáo của tôi chính là lòng tôn kính dành cho những sức mạnh nằm ngoài khả năng lĩnh hội của con người".

- Ai nói câu đó nhỉ? - Langdon thắc mắc - Gandhi à?

- Không, - Katherine nhắc - Albert Einstein.

Katherine Solomon đã đọc toàn bộ trước tác của Einstein và rất ấn tượng trước sự sùng kính sâu sắc ông dành cho những điều bí ẩn. Einstein còn tiên đoán rằng một ngày nào đó công chúng sẽ cảm nhận được như mình. Tôn giáo của tương lai, ông dự báo, là một tôn giáo vũ trụ. Nó sẽ vượt cả Chúa trời, sẽ chẳng có giáo lý hay học thuyết.

Dường như Robert Langdon đang phải đánh vật với ý tướng này.

Katherine có thể cảm nhận được sự thất vọng ngày càng tăng của anh đối với vị giám mục già, và cô hiểu vì sao. Họ lặn lội đến đây để tìm câu trả lời nhưng chỉ gặp được một ông già mù huyên thiên về việc biến đổi đồ vật bằng một cái chạm tay. Niềm say mê thái quá của Galloway đối với các sức mạnh bí ẩn còn khiến Katherine nhớ tới anh trai cô.

- Thưa cha - Katherine nói - anh Peter đang gặp nguy hiểm. Chúng con thì bị CIA truy đuổi. Warren Bellamy đặn chúng con tới đây để nhờ cha giúp đỡ. Con không biết kim tự tháp ngụ ý gì hay chỉ dẫn tới đâu nhưng nếu việc giải mã có thể giúp Peter thì chúng con sẽ làm. Ông Bellamy dặn hãy giấu kín ngọn tháp, dù phải hy sinh mạng sống của Peter, nhưng gia đình con chẳng gặt hái được gì từ nó, trừ đau khổ. Bất kể kim tự tháp đang gìn giữ bí mật nào thì nó cũng sẽ kết thúc tối nay.

- Cô nói đúng, - ông già đáp, giọng chua chát - Nó sẽ kết thúc tối nay. Cô đã thu xếp để điều đó chắc chắc xảy ra rồi - ông thở dài - Cô Solomon, gỡ niêm phong cái hộp tức là khởi động một loạt sự kiện vô phương cứu chữa. Có những sức mạnh đã vận hành mà các vị vẫn chưa hay biết. Không thể vãn hồi được nữa đâu.

Katherine sửng sốt nhìn đức cha. Có sắc thái tiên tri trong giọng nói của ông già, cứ như thể ông đang đề cập đến bảy niêm ấn ở sách Khải Huyền hoặc cái hộp Pandora(93) vậy.

- Thưa cha, - Langdon xen vào - Một kim tự tháp đá mà khởi động được sự kiện gì đó ư? Con không tài nào hiểu nổi.

- Dĩ nhiên là anh không hiểu, Giáo sư ạ - ông già trân trân nhìn lại - Mắt anh chưa có khả năng nhận ra điều đó.

Chú thích:

(92) Excalibur là thanh kiếm huyền thoại của Vua Arthur, có ẩn chứa sức mạnh huyền bí bên trong và tượng trưng cho chủ quyền hợp pháp đối với Vương quốc Anh. Theo Từ điển về Thành ngữ và Truyện ngụ ngôn của tác giả Ebenezer Cobham Brewer, Excalibur được vay mượn từ thành ngữ Latin Ex calce liberatus hay "liberated from the stone" (giải phóng từ phiến đá). Trong Cái chết của vua Arthur, Thomas Malory cho rằng Excalibur mang nghĩa "cắt thép". Theo những tư liệu còn lại về vua Arthur, có hai huyền thoại tách bạch nhau về xuất xứ của thanh kiếm. Đầu tiên là "Thanh kiếm trong đá", xuất hiện đầu tiên trong bài thơ Merlin của Robert de Boron, trong đó Excalibur chỉ có thể được rút ra khỏi đá bởi Arthur, vị vua hợp pháp. Truyền thuyết thứ hai xuất hiện trong sách Post-Vulgate Suite du Merlin (về sau được Thomas Malory sử dụng trong tác phẩm của mình). Ở đây, Arthur nhận được Excalibur từ Tiên nữ của Hồ nước sau khi làm gãy thanh gươm đầu tiên của mình trong một cuộc đánh nhau với vua Pellinore. Vị tiên đã miêu tả thanh kiếm "Excalibur, thanh kiếm cắt thép", và Arthur nhận nó từ một cánh tay đưa lên khỏi mặt hồ. Khi Arthur sắp chết. Ông bảo Sir Bedivere trả lại thanh kiếm bằng cách ném nó xuống hồ. Trước khi thanh kiếm chạm mặt nước, một cánh tay trồi lên tóm lấy thanh gươm và kéo nó xuống hồ. Cả hai mặt của lưỡi kiếm Excalibur đều có khắc chữ. Một mặt là "take me up" (Vung tôi lên), trên một mặt kia là "cast me away" (Ném tôi đi), tiên đoán trước việc Excalibur sẽ trở về với nước. Thêm vào đó, khi Excalibur được rút ra khỏi vỏ lần đầu tiên, lưỡi kiếm phát ra ánh sáng như của ba mươi ngọn đuốc, làm loá mắt kẻ thù. Ngay cả vỏ của Excalibur cũng có năng lực riêng: người cầm nó sẽ không bị nguy hiểm đến tính mạng vì bị thương hay mất máu. Về sau. Morgan le Fay lấy trộm vỏ kiếm và ném xuống hồ, và vỏ kiếm mất tích từ ấy - ND.

(93) Trong thần thoại Hy Lạp, Pandora là người phụ nữ đầu tiên. Thần Zeus ra lệnh cho thần thợ rèn Hephaestus tạo ra nàng từ đất như một hình phạt đối với loài người do việc Prometheus lấy trộm lửa. Mỗi vị thần giúp tạo ra nàng bằng cách tặng cho nàng một tài năng riêng. Theo truyền thuyết, do tính tò mò, Pandora đã mở một cái vò, làm tất cả những thói xấu của loài người thoát ra, chỉ còn xót lại đúng Hy vọng do nàng kịp đóng nắp vò lại - ND.

Chương 83

Giữa không khí ẩm ướt của Rừng rậm, Bellamy vẫn cảm nhận được mồ hôi đang lăn dọc lưng mình. Cổ tay bị còng đau nhói, nhưng mọi sự chú ý của ông đều tập trung vào cái cặp titan đáng ngại mà Sato vừa mở ra trên chiếc ghế băng giữa hai người.

Những gì trong chiếc cặp này, Sato đã nói, sẽ buộc ông phải nhìn nhận mọi việc theo cách của tôi. Tôi bảo đảm điều đó.

Người phụ nữ châu Á nhỏ thó mở chiếc cặp kim loại ngoài tầm mắt của Bellamy nên ông vẫn chưa nhìn được bên trong nó, thay vào đó trí tưởng tượng của ông liền hoạt động rất ghê. Hai tay Sato đang thao tác trong lòng chiếc cặp, và Bellamy đoán rằng bà ta sắp sửa lôi ra một loạt dụng cụ sắc lém, sáng loáng.

Đột nhiên một nguồn sáng nhấp nháy bên trong chiếc cặp, càng lúc càng rực rỡ hơn, soi rõ khuôn mặt Sato. Hai tay bà ta vẫn tiếp tục hoạt động, và màu sắc ánh sáng thay đổi. Một lúc sau, Sato nhấc tay ra, nắm lấy toàn bộ chiếc cặp và xoay nó về phía Bellamy để ông nhìn được bên trong.

Bellamy phải nheo mắt lại trước ánh sáng của một thứ có lẽ là máy tính xách tay đời mới kèm ống nghe điện thoại, hai chiếc ăng ten và một bàn phím kép. Thoạt tiên Bellamy thấy nhẹ cả người, song cảm giác ấy mau chóng chuyển thành tâm trạng bối rối khó hiểu.

Màn hình mang biểu tượng của CIA và dòng chữ:

BẢO MẬT TRUY CẬP

NGƯỜI SỬ DỤNG: INOUE SATO

CẤP PHÉP BẢO MẬT: CẤP ĐỘ 5

Bên dưới cửa sổ truy cập của máy tính, một biểu tượng đang nhấp nháy:

"Xin đợi một lát..."

ĐANG GIẢI MÃ TỆP TIN...

Bellamy đưa mắt nhìn Sato, bà ta cũng đang ngó ông đăm đăm.

- Tôi không muốn để ông trông thấy thứ này. - bà ta nói - Nhưng ông khiến tôi không còn lựa chọn nào khác.

Màn hình lại nhấp nháy, Bellamy liếc xuống khi file dữ liệu mở ra, nội dung của nó tràn kín toàn bộ màn hình LCD.

Bellamy nhìn sững màn hình, cố gắng ghi nhận những thông tin xuất hiện. Dần dần hiểu ra, ông cảm thấy máu rút hết khỏi mặt mình.

Ông trợn mắt kinh hãi, không tài nào ngoảnh đi nổi.

- Nhưng... không thể nào! - viên Kiến trúc sư kêu lên - Tại sao... lại như thế được?

Mặt Sato đằng đằng sát khí.

- Nói đi, ông Bellamy. Ông phải nói cho tôi biết.

Khi đã thực sự thấu hiểu ý nghĩa của những điều phơi bày trên màn hình, Warren Bellamy cảm thấy toàn bộ thế giới đang chao đảo quay cuồng bên bờ thảm hoạ.

Lạy Chúa... mình đã phạm một sai lầm khủng khiếp!

Chương 84

Đức cha Galloway cảm thấy tràn đầy sức sống.

Cũng như tất cả mọi người, ông biết rằng rồi có lúc mình sẽ phải trút bỏ xác phàm, nhưng tối nay chưa phải là thời khắc đó. Quả tim của ông đang đập nhanh, mạnh... tâm trí thì hoàn toàn sáng suốt.

Còn có việc phải làm.

Khi lướt đôi tay viêm khớp qua các bề mặt nhẵn nhụi của kim tự tháp, Galloway không dám tin vào cảm nhận của mình. Chưa bao giờ ta ngò rằng đời ta sẽ được chứng kiến khoảnh khắc này. Bao nhiêu thế hệ qua, các mảnh của tấm bản đồ biểu hình bị tách rời và luôn được giữ gìn sao cho cách xa nhau. Giờ thì Châu về Hợp Phố.

Galloway tự hỏi phải chăng đây là thời khắc đã được dự báo trước.

Thật lạ là số phận chỉ định hai người không phải hội viên Tam điểm để ráp cái kim tự tháp. Dù sao thì điều đó cũng có vẻ phù hợp.

Những bí mật đang di chuyển ra khỏi nội bộ... ra khỏi bóng tối...tiến vào ánh sáng.

- Giáo sư, - cha chánh xứ lên tiếng, xoay đầu về hướng có tiếng thở của Langdon - Peter đã nói tại sao ông ấy muốn anh trông giữ cái gói nhỏ chưa?

- Ông ấy kể rằng có những nhân vật quyền thế muốn đánh cắp nó - Langdon đáp.

Cha chánh xứ gật đầu.

- Phải. Peter cũng nói với tôi như vậy.

- Thế ạ? - Bên trái Galloway, tiếng Katherine đột ngột vang lên - Anh con đã trao đổi với cha về kim tự tháp này?

- Dĩ nhiên. - Galloway đáp - Anh cô và tôi từng thảo luận rất nhiều chuyện. Tôi nguyên là Đại Huynh trưởng tại Thánh điện, và thỉnh thoảng anh cô vẫn đến gặp tôi hỏi ý kiến. Chừng một năm trước, anh ta có tới đây, tâm trạng vô cùng bối rối. Anh ấy ngồi đúng chỗ cô đang ngồi bây giờ, và hỏi tôi có tin vào những điềm báo siêu nhiên không.

- Điềm báo ư? - Katherine kêu lên đầy lo lắng - Ý cha là... những ảo mộng?

- Không hẳn. Bản năng hơn cơ. Peter kể rằng anh ta cảm thấy một thế lực hắc ám hiện diện ngày càng rõ trong cuộc sống của mình. Có gì đó đang theo dõi... rình rập... tìm cách hãm hại anh ấy.

- Rõ ràng Peter đã đúng. - Katherine đồng tình - vì chính cái gã giết mẹ chúng tôi và Zachary lại mò tới Washington, rồi trở thành một trong những huynh đệ Tam điểm của Peter.

- Phải - Langdon tham gia câu chuyện - nhưng điều đó không giải thích được sự can thiệp của CIA.

Galloway lưỡng lự.

- Những kẻ có quyền luôn tìm cách có nhiều quyền lực hơn nữa.

- Nhưng... còn CIA? - Langdon hỏi xoáy thêm - Và các bí mật khó hiểu? Vẫn còn thiếu dữ kiện nào đó.

- Đúng như vậy, - Katherine tán thành - CIA phát triển nhờ các tiến bộ công nghệ và luôn thử nghiệm các môn khoa học bí ẩn như ESP, theo dõi từ xa, tước đoạt giác quan và các trạng thái tâm thần kích thích mạnh bằng dược lý. Tất cả đều chỉ là một, đó là khai thác tiềm năng trong trí não con người. Một trong những điều tôi học được từ anh Peter là: Khoa học và chủ nghĩa thần bí có liên hệ rất mật thiết chỉ phân biệt với nhau qua cách tiếp cận. Mục tiêu của chúng giống nhau... nhưng phương pháp thì khác hẳn.

- Nghe Peter nói, lĩnh vực nghiên cứu của cô là một dạng khoa học thần bí hiện đại, đúng không? - Galloway hỏi.

Lý trí học. - Katherine gật đầu đáp - Và nó đang chứng minh rằng con người có những sức mạnh mà chính bản thân họ không thể hình dung nổi - Cô ra dấu về phía một ô cửa sổ lắp kính màu mô tả hình ảnh "Jesus toả sáng, quen thuộc, tức là hình Đức Chúa với hào quang toả ra từ đầu và tay - Trên thực tế, con chỉ dùng thiết bị tích điện kép (CDD) hạ nhiệt để chụp bàn tay một thầy lang chữa bệnh bằng đức tin. Kết quả thu được là những dòng năng lượng tuôn trào qua các đầu ngón tay trong khi ông ta làm việc... y như hình ảnh Jesus trong ô cửa sổ lắp kính màu của cha kia.

Một trí óc được đào tạo rất bài bản, Galloway nghĩ thầm, cố giấu một nụ cười. Cô có biết Jesus chữa bệnh như thế nào không?

- Con nhận ra rằng, - Katherine tiếp - y học hiện đại cười nhạo các thầy lang và thầy pháp, nhưng con đã tận mắt chứng kiến công việc của họ. Các máy ảnh CCD ghi lại rất rõ cảnh thầy lang truyền một trường năng lượng lớn từ các đầu ngón tay sang bệnh nhân và làm thay đổi cấu trúc tế bào của họ, đúng như thế. Nếu đó không phải là sức mạnh thần thánh thì thật không biết gọi là gì.

Đức cha Galloway phì cười. Katherine có niềm đam mê nhiệt thành y hệt anh trai cô.

- Peter từng so sánh Lý trí học với những người tiên phong bị chế giễu vì kiên trì với ý tưởng dị giáo về một trái đất hình cầu xưa kia.

Chỉ qua một đêm, những người mở đường ấy từ hạng ngu ngốc trở thành các anh hùng, khám phá ra nhiều thế giới mới mẻ và nới rộng đường chân trời cho cả nhân loại trên hành tinh. Peter nghĩ rằng cô cũng sẽ làm được như thế. Anh ấy rất kỳ vọng vào công việc của cô. Suy cho cùng, mọi thay đổi triết học lớn trong lịch sử đều bắt đầu từ một ý tưởng mạnh dạn.

Dĩ nhiên, Galloway biết rằng người ta không nhất thiết phải vào phòng thí nghiệm để tận mắt trông thấy bằng chứng về ý tưởng mới mẻ táo bạo hay nghe lời đề xuất về tiềm năng chưa khai phá của con người. Chính Đại Giáo đường này đã từng tổ chức nhiều buổi cầu nguyện chữa bệnh cho người ốm và liên tục chứng kiến những kết quả thực sự kỳ diệu, những biến đổi vật lý đáng được ghi chép về mặt y học. Vấn đề không nằm ở chỗ liệu có phải Chúa đã ban cho con người sức mạnh to lớn hay không... mà ở chỗ chúng ta làm cách nào giải phóng được sức mạnh ấy.

Đức Cha kính cẩn vòng hai bàn tay quanh Kim tự tháp Tam điểm và nói khẽ.

- Các bạn, tôi không biết chính xác ngọn tháp chỉ tới đâu... nhưng tôi biết rõ điều này. Có một kho báu tinh thần rất lớn được cất giấu đâu đó ngoài kia... một kho báu đã kiên nhẫn chờ đợi trong bóng tối hàng bao thế hệ. Tôi tin rằng nó là tác nhân có sức mạnh biến đổi cả thế giới - ông chạm tay vào phần đỉnh chóp vàng - Kim tự tháp hoàn chỉnh đã được ráp lại... thời khắc lịch sử sắp đến. Cổ nhân đã tiên đoán về khả năng của một giai đoạn khai sáng có tính bước ngoặt... Tại sao lại không nhỉ?

- Thưa cha, - Langdon lên tiếng, giọng khiêu khích - tất cả chúng ta đều đã quá quen với sự mặc khải của Thánh John và ý nghĩa thật sự của sách Khải huyền, nhưng lời tiên tri trong Kinh thánh thì hầu như không...

- Ôi lạy Chúa, sách Khải huyền là một mớ rác rưởi - đức cha đáp - Chịu chẳng biết đọc nó thế nào. Tôi đang đề cập đến những trí tuệ sáng láng diễn đạt bằng thứ ngôn ngữ minh bạch, chẳng hạn các dự đoán của Thánh Augustine, Tử tước Francis Bacon, Newton, Einstein, và còn nhiều nhiều nữa, tất cả đều tiên đoán về một thời điểm khai sáng mang tính biến đổi. Ngay cả Jesus cũng nói "Chẳng có gì giấu giếm được mãi, và cũng chẳng có bí mật nào lại không lộ ra ánh sáng".

- Đó là lời tiên đoán rất an toàn, - Langdon nói - Kiến thức phát triển theo cấp số nhân. Chúng ta càng biết nhiều thì khả năng học hỏi càng lớn, và tốc độ mở mang cơ sở tri thức càng cao hơn.

- Đúng vậy, - Katherine thêm vào - Có thể thấy rõ điều đó trong khoa học. Mỗi công nghệ mới sáng chế đều trở thành phương tiện để phát minh ra những công nghệ mới khác... và nó cứ thế mà phát triển. Đó là lý do tại sao năm năm qua khoa học lại tiến nhanh hơn so với cả năm ngàn năm trước đó. Một sự phát triển ghê gớm. Ví von theo kiểu toán học là cùng với thời gian, đường cong hàm mũ mô tả quá trình gần như trở thành đường thẳng đứng, và sự phát triển diễn ra nhanh kinh khủng.

Căn phòng chìm vào im lặng. Cha Galloway cảm thấy hai vị khách của mình vẫn chưa suy luận được bằng cách nào kim tự tháp sẽ dẫn họ tới những phát hiện mới. Đó là lý do vì sao số phận đưa các vi đến với tôi, ông nghĩ thầm. Tôi phải đảm nhân vai trò này.

Đã nhiều năm, Đức cha Colin Galloway, cùng với các huynh đệ Tam điểm của mình, giữ vai trò người gác cổng. Còn giờ đây mọi thứ đang thay đổi.

Ta không còn là người gác cổng nữa... Ta là người chỉ đường.

- Giáo sư Langdon? - Galloway lên tiếng, vươn tay qua bàn - Hãy cầm lấy tay tôi.

Robert Langdon do dự ngó bàn tay Galloway chìa ra trước mặt mình.

- Chúng ta sắp cầu nguyện ư?

Rất nhã nhặn, anh đặt bàn tay phải của mình vào bàn tay nhăn nhúm của cha chánh xứ. Ông già nắm lấy nhưng không cầu nguyện. Thay vào đó, ông lần tìm ngón trỏ của Langdon và đưa nó vào lòng hộp đá từng cất giữ chóp vàng.

- Mắt anh đã đánh lừa anh. - cha chánh xứ nói - Phải chi nhìn bằng đầu ngón tay như tôi thì anh sẽ nhận ra rằng cái hộp này còn điều đáng lưu tâm.

Langdon nghiêm túc đưa đầu ngón tay miết xung quanh lòng hộp, nhưng anh chẳng cảm thấy gì. Bên trong hoàn toàn nhẵn nhụi.

- Cứ tìm kỹ đi. - Galloway nhắc.

Cuối cùng, đầu ngón tay của Langdon cũng nhận ra một vòng tròn nhỏ xíu nhô lên, một chấm cực nhỏ ở chính giữa đáy hộp. Anh bỏ tay ra và săm soi kỹ càng bên trong. Anh không thể nhìn thấy chấm tròn nọ bằng mắt thường. Nó là gì nhỉ?

- Anh có nhận ra biểu tượng đó không? - Galloway hỏi.

- Biểu tượng ư? - Langdon nói - Con chẳng nhìn thấy gì cả.

- Ấn mạnh nó xem nào.

Langdon làm đúng như yêu cầu, ấn đầu ngón tay xuống cái chấm.

Ông ấy mong đợi chuyện gì xảy ra đây.

- Nhấn ngón tay của anh xuống - cha chánh xứ nhắc - ấn mạnh.

Langdon liếc nhìn Katherine, cô bối rối đưa tay vén một lọn tóc ra sau tai.

Vài giây trôi qua, cha chánh xứ gật đầu.

- Được rồi, bỏ tay ra đi. Quá trình giả kim đã hoàn tất.

Giả kim ư? Robert Langdon buông tay khỏi cái hộp đá và ngơ ngác ngồi im. Chẳng có gì thay đổi. Cái hộp vẫn nằm nguyên trên bàn.

- Có gì đâu, - Langdon nói.

- Hãy kiểm tra đầu ngón tay anh xem, - cha chánh xứ bảo - Anh sẽ thấy một sự biến đổi.

Langdon nhìn ngón tay mình, sự biến đổi duy nhất là trên da anh xuất hiện vết lõm do một cục bướu tròn tạo ra: một vòng tròn nhỏ xíu với một chấm ở chính giữa.

ẢNH

- Bây giờ anh đã nhận ra biểu tượng chưa? - Galloway hỏi.

Langdon đã nhận ra, nhưng việc ông già cảm nhận rõ đến từng chi tiết mới thực sự khiến anh ấn tượng. Nhìn bằng đầu ngón tay quả là một kỹ năng cao siêu.

- Đó là thuật giả kim, - Katherine nói, xích ghế của mình vào gần hơn và nhìn kỹ ngón tay Langdon - Đây là biểu tượng cổ của vàng.

- Đúng vậy - Galloway mỉm cười và vỗ lên cái hộp - Chúc mừng Giáo sư. Anh đã giành được thứ mà mọi nhà giả kim trong lịch sử đều mong ước. Từ một chất liệu vô giá trị, anh đã tạo ra vàng.

Langdon cau mày thờ ơ. Mẹo vặt của Galloway xem ra chẳng mấy hữu ích.

- Một ý tưởng rất thú vị, thưa cha, nhưng con e rằng biểu tượng vòng tròn với một chấm chính giữa này có tới hàng chục ý nghĩa. Nó được gọi là bàn huyền điểm, và là một trong những biểu tượng được sử dụng rộng rãi nhất trong lịch sử.

- Anh đang nói gì thế? - cha chánh xứ hỏi, giọng đầy vẻ hoài nghi.

Langdon sửng sốt vì một hội viên Tam điểm lại không thông thuộc ý nghĩa tinh thần của biểu tượng này.

- Thưa cha, bàn huyền điểm có vô số nghĩa. Ở Ai Cập cổ đại, nó đại diện cho thần mặt trời Ra, thiên văn học hiện đại vẫn sử dụng nó như biểu tượng của vầng thái dương. Trong triết học phương Đông, bàn huyền điểm thể hiện sự thấu suốt về mặt tinh thần của Huệ nhãn, của hoa hồng thiêng liêng, và là biểu tượng của sự khai trí. Các tín đồ Kabbalah dùng nó để chỉ Kether (Sephiroth(94) tối cao và "điều sâu kín nhất trong tất cả những điều sâu kín"). Chủ nghĩa thần bí sơ khai gọi bàn huyền điểm là Thần nhãn, nó cũng là nguồn gốc của Thấu nhãn trên dấu Quốc ấn. Những người theo trường phái Pythagoras sử dụng bàn huyền điểm làm hình ảnh đại diện cho Monad - Chân lý Thần thánh, Kiến thức Nguyên thuỷ, sự tương thông giữa trí tuệ và tâm hồn, và...

- Thôi đủ rồi! - Galloway bật cười - Cảm ơn Giáo sư. Anh nói rất đúng.

Langdon nhận ra đức cha vừa đùa cợt mình. Ông ấy biết rõ tất cả.

- Bàn huyền điểm, - Galloway nói, vẫn tủm tỉm cười - là biểu tượng của Bí ẩn cổ xưa. Vì lý do đó, tôi cho rằng không phải ngẫu nhiên mà nó hiện diện trong hộp. Theo truyền thuyết, bí mật của tấm bản đồ này được cất giấu ở những chi tiết nhỏ nhất.

- Hay lắm, - Katherine lên tiếng - nhưng ngay cả khi người ta cố ý bố trí biểu tượng này ở đây thì nó cũng chẳng đưa chúng ta đến gần việc giải mã hơn chút nào, phải không ạ?

- Lúc nãy cô nói dấu sáp niêm phong mà cô bóc có in hình chiếc nhẫn của Peter?

- Vâng.

- Và anh thì mang theo chiếc nhẫn đó?

- Vâng - Langdon thọc tay vào túi, anh móc chiếc nhẫn ra khỏi túi nhựa rồi đặt lên bàn trước mặt cha chánh xứ.

Galloway nhặt chiếc nhẫn và bắt đầu sờ các bề mặt của nó.

- Chiếc nhẫn độc đáo này được tạo ra cùng thời Kim tự tháp Tam điểm. Theo truyền thống thì hội viên nào chịu trách nhiệm bảo vệ kim tự tháp sẽ đeo nhẫn. Tối nay, khi phát hiện bàn huyền điểm nhỏ xíu ở đáy hộp đá, tôi đã nhận ra rằng chiếc nhẫn là một phần của biểu hình.

- Thật thế ư?

- Tôi đoán chắc như vậy. Peter là người bạn thân nhất của tôi, anh ấy đã đeo chiếc nhẫn này nhiều năm rồi. Tôi rất quen thuộc với nó - ông già trả chiếc nhẫn lại cho Langdon - Anh tự xem đi.

Langdon nhận lấy chiếc nhẫn và cẩn thận kiểm tra. Anh rà các ngón tay lên con phượng hoàng hai đầu, con số 33, dòng chữ ORDO AB CHAO, và cả dòng chữ Tất cả được tiết lộ ở cấp 33... vẫn không nhận thấy chi tiết nào hữu dụng. Sau đó, khi lần xuống xung quanh vành ngoài đai nhẫn, Langdon đột ngột dừng lại. Anh giật mình lật chiếc nhẫn lên và chăm chú quan sát đáy đai nhẫn.

Galloway hỏi:

- Anh tìm thấy rồi phải không?

- Con nghĩ là như vậy! - Langdon đáp.

Katherine xích ghế lại gần hơn.

- Gì vậy?

- Dấu hiệu cấp độ trên đai nhẫn, - Langdon đáp, chìa cho cô xem - Nó nhỏ đến mức ta không phát hiện nổi bằng mắt thường, nhưng khi sờ bằng tay, ta có thể khẳng định là nó ăn lõm xuống, giống một dấu khắc tròn nhỏ xíu.

Dấu hiệu cấp độ bố trí ở chính giữa phần đáy đai nhẫn... và phải thừa nhận rằng trông đúng bằng kích cỡ của cái chấm nổi ở đáy hộp.

- Cùng cỡ thì phải? - Katherine nhích lại gần hơn nữa, miệng kêu lên đầy phấn khích.

- Có một cách kiểm chứng - Langdon cầm chiếc nhẫn và đưa vào trong hộp, lựa cho hai hình tròn trùng khít nhau. Khi anh ấn xuống, vòng tròn nổi trong hộp khớp đúng vào phần lõm của chiếc nhẫn. Có một tiếng tách mơ hồ nhưng đanh gọn.

Tất cả cùng nhổm dậy.

Langdon chờ đợi, nhưng không có gì khác lạ.

- Sao thế?! - cha chánh xứ hỏi.

- Chẳng có gì cả, - Katherine đáp - Cái nhẫn khớp đúng chỗ... nhưng không có gì xảy ra hết.

- Không có sự biến đổi lớn lao nào ư? - Galloway lộ vẻ bối rối.

Chưa xong, Langdon ngẫm nghĩ, đăm đăm nhìn xuống phù hiệu phượng hoàng hai đầu và con số 33 đúc nổi của chiếc nhẫn. Tất cả được tiết lộ ở cấp độ 33. Anh suy nghĩ rất lung, về Pythagoras, về hình học thiêng liêng, về các góc, rồi băn khoăn tự hỏi liệu cấp độ có mang ý nghĩa toán học nào không.

Nhịp tim dần đập rộn lên, Langdon đưa tay cầm chiếc nhẫn đang dính chặt lấy đáy hộp. Sau đó anh chậm rãi xoay nó sang phải. Tất cả được tiết lộ ở cấp độ 33.

Anh xoay chiếc nhẫn 10 độ... 20 độ... 30 độ...

Những gì xảy đến tiếp theo, Langdon chưa bao giờ chứng kiến cả.

Chú thích:

(94) Cây Sephiroth bao gồm 10 vòng tròn, đại diện cho các con số từ 1 đến 10 và được liên kết với nhau bằng 22 kênh - 22 chữ cái Do Thái. Mười số và 22 chữ cái tạo ra con số huyền bí 32, biểu hiện cho 32 con đường đi tới Trí tuệ. Số và chữ được xem là chìa khoá mở kho tàng tri thức, vì bằng cách sắp xếp chúng theo một hệ thống bỉ mật, những điều bí ẩn của tạo hoá sẽ được hé lộ - ND

Chương 84

Đức cha Galloway cảm thấy tràn đầy sức sống.

Cũng như tất cả mọi người, ông biết rằng rồi có lúc mình sẽ phải trút bỏ xác phàm, nhưng tối nay chưa phải là thời khắc đó. Quả tim của ông đang đập nhanh, mạnh... tâm trí thì hoàn toàn sáng suốt.

Còn có việc phải làm.

Khi lướt đôi tay viêm khớp qua các bề mặt nhẵn nhụi của kim tự tháp, Galloway không dám tin vào cảm nhận của mình. Chưa bao giờ ta ngò rằng đời ta sẽ được chứng kiến khoảnh khắc này. Bao nhiêu thế hệ qua, các mảnh của tấm bản đồ biểu hình bị tách rời và luôn được giữ gìn sao cho cách xa nhau. Giờ thì Châu về Hợp Phố.

Galloway tự hỏi phải chăng đây là thời khắc đã được dự báo trước.

Thật lạ là số phận chỉ định hai người không phải hội viên Tam điểm để ráp cái kim tự tháp. Dù sao thì điều đó cũng có vẻ phù hợp.

Những bí mật đang di chuyển ra khỏi nội bộ... ra khỏi bóng tối...tiến vào ánh sáng.

- Giáo sư, - cha chánh xứ lên tiếng, xoay đầu về hướng có tiếng thở của Langdon - Peter đã nói tại sao ông ấy muốn anh trông giữ cái gói nhỏ chưa?

- Ông ấy kể rằng có những nhân vật quyền thế muốn đánh cắp nó - Langdon đáp.

Cha chánh xứ gật đầu.

- Phải. Peter cũng nói với tôi như vậy.

- Thế ạ? - Bên trái Galloway, tiếng Katherine đột ngột vang lên - Anh con đã trao đổi với cha về kim tự tháp này?

- Dĩ nhiên. - Galloway đáp - Anh cô và tôi từng thảo luận rất nhiều chuyện. Tôi nguyên là Đại Huynh trưởng tại Thánh điện, và thỉnh thoảng anh cô vẫn đến gặp tôi hỏi ý kiến. Chừng một năm trước, anh ta có tới đây, tâm trạng vô cùng bối rối. Anh ấy ngồi đúng chỗ cô đang ngồi bây giờ, và hỏi tôi có tin vào những điềm báo siêu nhiên không.

- Điềm báo ư? - Katherine kêu lên đầy lo lắng - Ý cha là... những ảo mộng?

- Không hẳn. Bản năng hơn cơ. Peter kể rằng anh ta cảm thấy một thế lực hắc ám hiện diện ngày càng rõ trong cuộc sống của mình. Có gì đó đang theo dõi... rình rập... tìm cách hãm hại anh ấy.

- Rõ ràng Peter đã đúng. - Katherine đồng tình - vì chính cái gã giết mẹ chúng tôi và Zachary lại mò tới Washington, rồi trở thành một trong những huynh đệ Tam điểm của Peter.

- Phải - Langdon tham gia câu chuyện - nhưng điều đó không giải thích được sự can thiệp của CIA.

Galloway lưỡng lự.

- Những kẻ có quyền luôn tìm cách có nhiều quyền lực hơn nữa.

- Nhưng... còn CIA? - Langdon hỏi xoáy thêm - Và các bí mật khó hiểu? Vẫn còn thiếu dữ kiện nào đó.

- Đúng như vậy, - Katherine tán thành - CIA phát triển nhờ các tiến bộ công nghệ và luôn thử nghiệm các môn khoa học bí ẩn như ESP, theo dõi từ xa, tước đoạt giác quan và các trạng thái tâm thần kích thích mạnh bằng dược lý. Tất cả đều chỉ là một, đó là khai thác tiềm năng trong trí não con người. Một trong những điều tôi học được từ anh Peter là: Khoa học và chủ nghĩa thần bí có liên hệ rất mật thiết chỉ phân biệt với nhau qua cách tiếp cận. Mục tiêu của chúng giống nhau... nhưng phương pháp thì khác hẳn.

- Nghe Peter nói, lĩnh vực nghiên cứu của cô là một dạng khoa học thần bí hiện đại, đúng không? - Galloway hỏi.

Lý trí học. - Katherine gật đầu đáp - Và nó đang chứng minh rằng con người có những sức mạnh mà chính bản thân họ không thể hình dung nổi - Cô ra dấu về phía một ô cửa sổ lắp kính màu mô tả hình ảnh "Jesus toả sáng, quen thuộc, tức là hình Đức Chúa với hào quang toả ra từ đầu và tay - Trên thực tế, con chỉ dùng thiết bị tích điện kép (CDD) hạ nhiệt để chụp bàn tay một thầy lang chữa bệnh bằng đức tin. Kết quả thu được là những dòng năng lượng tuôn trào qua các đầu ngón tay trong khi ông ta làm việc... y như hình ảnh Jesus trong ô cửa sổ lắp kính màu của cha kia.

Một trí óc được đào tạo rất bài bản, Galloway nghĩ thầm, cố giấu một nụ cười. Cô có biết Jesus chữa bệnh như thế nào không?

- Con nhận ra rằng, - Katherine tiếp - y học hiện đại cười nhạo các thầy lang và thầy pháp, nhưng con đã tận mắt chứng kiến công việc của họ. Các máy ảnh CCD ghi lại rất rõ cảnh thầy lang truyền một trường năng lượng lớn từ các đầu ngón tay sang bệnh nhân và làm thay đổi cấu trúc tế bào của họ, đúng như thế. Nếu đó không phải là sức mạnh thần thánh thì thật không biết gọi là gì.

Đức cha Galloway phì cười. Katherine có niềm đam mê nhiệt thành y hệt anh trai cô.

- Peter từng so sánh Lý trí học với những người tiên phong bị chế giễu vì kiên trì với ý tưởng dị giáo về một trái đất hình cầu xưa kia.

Chỉ qua một đêm, những người mở đường ấy từ hạng ngu ngốc trở thành các anh hùng, khám phá ra nhiều thế giới mới mẻ và nới rộng đường chân trời cho cả nhân loại trên hành tinh. Peter nghĩ rằng cô cũng sẽ làm được như thế. Anh ấy rất kỳ vọng vào công việc của cô. Suy cho cùng, mọi thay đổi triết học lớn trong lịch sử đều bắt đầu từ một ý tưởng mạnh dạn.

Dĩ nhiên, Galloway biết rằng người ta không nhất thiết phải vào phòng thí nghiệm để tận mắt trông thấy bằng chứng về ý tưởng mới mẻ táo bạo hay nghe lời đề xuất về tiềm năng chưa khai phá của con người. Chính Đại Giáo đường này đã từng tổ chức nhiều buổi cầu nguyện chữa bệnh cho người ốm và liên tục chứng kiến những kết quả thực sự kỳ diệu, những biến đổi vật lý đáng được ghi chép về mặt y học. Vấn đề không nằm ở chỗ liệu có phải Chúa đã ban cho con người sức mạnh to lớn hay không... mà ở chỗ chúng ta làm cách nào giải phóng được sức mạnh ấy.

Đức Cha kính cẩn vòng hai bàn tay quanh Kim tự tháp Tam điểm và nói khẽ.

- Các bạn, tôi không biết chính xác ngọn tháp chỉ tới đâu... nhưng tôi biết rõ điều này. Có một kho báu tinh thần rất lớn được cất giấu đâu đó ngoài kia... một kho báu đã kiên nhẫn chờ đợi trong bóng tối hàng bao thế hệ. Tôi tin rằng nó là tác nhân có sức mạnh biến đổi cả thế giới - ông chạm tay vào phần đỉnh chóp vàng - Kim tự tháp hoàn chỉnh đã được ráp lại... thời khắc lịch sử sắp đến. Cổ nhân đã tiên đoán về khả năng của một giai đoạn khai sáng có tính bước ngoặt... Tại sao lại không nhỉ?

- Thưa cha, - Langdon lên tiếng, giọng khiêu khích - tất cả chúng ta đều đã quá quen với sự mặc khải của Thánh John và ý nghĩa thật sự của sách Khải huyền, nhưng lời tiên tri trong Kinh thánh thì hầu như không...

- Ôi lạy Chúa, sách Khải huyền là một mớ rác rưởi - đức cha đáp - Chịu chẳng biết đọc nó thế nào. Tôi đang đề cập đến những trí tuệ sáng láng diễn đạt bằng thứ ngôn ngữ minh bạch, chẳng hạn các dự đoán của Thánh Augustine, Tử tước Francis Bacon, Newton, Einstein, và còn nhiều nhiều nữa, tất cả đều tiên đoán về một thời điểm khai sáng mang tính biến đổi. Ngay cả Jesus cũng nói "Chẳng có gì giấu giếm được mãi, và cũng chẳng có bí mật nào lại không lộ ra ánh sáng".

- Đó là lời tiên đoán rất an toàn, - Langdon nói - Kiến thức phát triển theo cấp số nhân. Chúng ta càng biết nhiều thì khả năng học hỏi càng lớn, và tốc độ mở mang cơ sở tri thức càng cao hơn.

- Đúng vậy, - Katherine thêm vào - Có thể thấy rõ điều đó trong khoa học. Mỗi công nghệ mới sáng chế đều trở thành phương tiện để phát minh ra những công nghệ mới khác... và nó cứ thế mà phát triển. Đó là lý do tại sao năm năm qua khoa học lại tiến nhanh hơn so với cả năm ngàn năm trước đó. Một sự phát triển ghê gớm. Ví von theo kiểu toán học là cùng với thời gian, đường cong hàm mũ mô tả quá trình gần như trở thành đường thẳng đứng, và sự phát triển diễn ra nhanh kinh khủng.

Căn phòng chìm vào im lặng. Cha Galloway cảm thấy hai vị khách của mình vẫn chưa suy luận được bằng cách nào kim tự tháp sẽ dẫn họ tới những phát hiện mới. Đó là lý do vì sao số phận đưa các vi đến với tôi, ông nghĩ thầm. Tôi phải đảm nhân vai trò này.

Đã nhiều năm, Đức cha Colin Galloway, cùng với các huynh đệ Tam điểm của mình, giữ vai trò người gác cổng. Còn giờ đây mọi thứ đang thay đổi.

Ta không còn là người gác cổng nữa... Ta là người chỉ đường.

- Giáo sư Langdon? - Galloway lên tiếng, vươn tay qua bàn - Hãy cầm lấy tay tôi.

Robert Langdon do dự ngó bàn tay Galloway chìa ra trước mặt mình.

- Chúng ta sắp cầu nguyện ư?

Rất nhã nhặn, anh đặt bàn tay phải của mình vào bàn tay nhăn nhúm của cha chánh xứ. Ông già nắm lấy nhưng không cầu nguyện. Thay vào đó, ông lần tìm ngón trỏ của Langdon và đưa nó vào lòng hộp đá từng cất giữ chóp vàng.

- Mắt anh đã đánh lừa anh. - cha chánh xứ nói - Phải chi nhìn bằng đầu ngón tay như tôi thì anh sẽ nhận ra rằng cái hộp này còn điều đáng lưu tâm.

Langdon nghiêm túc đưa đầu ngón tay miết xung quanh lòng hộp, nhưng anh chẳng cảm thấy gì. Bên trong hoàn toàn nhẵn nhụi.

- Cứ tìm kỹ đi. - Galloway nhắc.

Cuối cùng, đầu ngón tay của Langdon cũng nhận ra một vòng tròn nhỏ xíu nhô lên, một chấm cực nhỏ ở chính giữa đáy hộp. Anh bỏ tay ra và săm soi kỹ càng bên trong. Anh không thể nhìn thấy chấm tròn nọ bằng mắt thường. Nó là gì nhỉ?

- Anh có nhận ra biểu tượng đó không? - Galloway hỏi.

- Biểu tượng ư? - Langdon nói - Con chẳng nhìn thấy gì cả.

- Ấn mạnh nó xem nào.

Langdon làm đúng như yêu cầu, ấn đầu ngón tay xuống cái chấm.

Ông ấy mong đợi chuyện gì xảy ra đây.

- Nhấn ngón tay của anh xuống - cha chánh xứ nhắc - ấn mạnh.

Langdon liếc nhìn Katherine, cô bối rối đưa tay vén một lọn tóc ra sau tai.

Vài giây trôi qua, cha chánh xứ gật đầu.

- Được rồi, bỏ tay ra đi. Quá trình giả kim đã hoàn tất.

Giả kim ư? Robert Langdon buông tay khỏi cái hộp đá và ngơ ngác ngồi im. Chẳng có gì thay đổi. Cái hộp vẫn nằm nguyên trên bàn.

- Có gì đâu, - Langdon nói.

- Hãy kiểm tra đầu ngón tay anh xem, - cha chánh xứ bảo - Anh sẽ thấy một sự biến đổi.

Langdon nhìn ngón tay mình, sự biến đổi duy nhất là trên da anh xuất hiện vết lõm do một cục bướu tròn tạo ra: một vòng tròn nhỏ xíu với một chấm ở chính giữa.

ẢNH

- Bây giờ anh đã nhận ra biểu tượng chưa? - Galloway hỏi.

Langdon đã nhận ra, nhưng việc ông già cảm nhận rõ đến từng chi tiết mới thực sự khiến anh ấn tượng. Nhìn bằng đầu ngón tay quả là một kỹ năng cao siêu.

- Đó là thuật giả kim, - Katherine nói, xích ghế của mình vào gần hơn và nhìn kỹ ngón tay Langdon - Đây là biểu tượng cổ của vàng.

- Đúng vậy - Galloway mỉm cười và vỗ lên cái hộp - Chúc mừng Giáo sư. Anh đã giành được thứ mà mọi nhà giả kim trong lịch sử đều mong ước. Từ một chất liệu vô giá trị, anh đã tạo ra vàng.

Langdon cau mày thờ ơ. Mẹo vặt của Galloway xem ra chẳng mấy hữu ích.

- Một ý tưởng rất thú vị, thưa cha, nhưng con e rằng biểu tượng vòng tròn với một chấm chính giữa này có tới hàng chục ý nghĩa. Nó được gọi là bàn huyền điểm, và là một trong những biểu tượng được sử dụng rộng rãi nhất trong lịch sử.

- Anh đang nói gì thế? - cha chánh xứ hỏi, giọng đầy vẻ hoài nghi.

Langdon sửng sốt vì một hội viên Tam điểm lại không thông thuộc ý nghĩa tinh thần của biểu tượng này.

- Thưa cha, bàn huyền điểm có vô số nghĩa. Ở Ai Cập cổ đại, nó đại diện cho thần mặt trời Ra, thiên văn học hiện đại vẫn sử dụng nó như biểu tượng của vầng thái dương. Trong triết học phương Đông, bàn huyền điểm thể hiện sự thấu suốt về mặt tinh thần của Huệ nhãn, của hoa hồng thiêng liêng, và là biểu tượng của sự khai trí. Các tín đồ Kabbalah dùng nó để chỉ Kether (Sephiroth(94) tối cao và "điều sâu kín nhất trong tất cả những điều sâu kín"). Chủ nghĩa thần bí sơ khai gọi bàn huyền điểm là Thần nhãn, nó cũng là nguồn gốc của Thấu nhãn trên dấu Quốc ấn. Những người theo trường phái Pythagoras sử dụng bàn huyền điểm làm hình ảnh đại diện cho Monad - Chân lý Thần thánh, Kiến thức Nguyên thuỷ, sự tương thông giữa trí tuệ và tâm hồn, và...

- Thôi đủ rồi! - Galloway bật cười - Cảm ơn Giáo sư. Anh nói rất đúng.

Langdon nhận ra đức cha vừa đùa cợt mình. Ông ấy biết rõ tất cả.

- Bàn huyền điểm, - Galloway nói, vẫn tủm tỉm cười - là biểu tượng của Bí ẩn cổ xưa. Vì lý do đó, tôi cho rằng không phải ngẫu nhiên mà nó hiện diện trong hộp. Theo truyền thuyết, bí mật của tấm bản đồ này được cất giấu ở những chi tiết nhỏ nhất.

- Hay lắm, - Katherine lên tiếng - nhưng ngay cả khi người ta cố ý bố trí biểu tượng này ở đây thì nó cũng chẳng đưa chúng ta đến gần việc giải mã hơn chút nào, phải không ạ?

- Lúc nãy cô nói dấu sáp niêm phong mà cô bóc có in hình chiếc nhẫn của Peter?

- Vâng.

- Và anh thì mang theo chiếc nhẫn đó?

- Vâng - Langdon thọc tay vào túi, anh móc chiếc nhẫn ra khỏi túi nhựa rồi đặt lên bàn trước mặt cha chánh xứ.

Galloway nhặt chiếc nhẫn và bắt đầu sờ các bề mặt của nó.

- Chiếc nhẫn độc đáo này được tạo ra cùng thời Kim tự tháp Tam điểm. Theo truyền thống thì hội viên nào chịu trách nhiệm bảo vệ kim tự tháp sẽ đeo nhẫn. Tối nay, khi phát hiện bàn huyền điểm nhỏ xíu ở đáy hộp đá, tôi đã nhận ra rằng chiếc nhẫn là một phần của biểu hình.

- Thật thế ư?

- Tôi đoán chắc như vậy. Peter là người bạn thân nhất của tôi, anh ấy đã đeo chiếc nhẫn này nhiều năm rồi. Tôi rất quen thuộc với nó - ông già trả chiếc nhẫn lại cho Langdon - Anh tự xem đi.

Langdon nhận lấy chiếc nhẫn và cẩn thận kiểm tra. Anh rà các ngón tay lên con phượng hoàng hai đầu, con số 33, dòng chữ ORDO AB CHAO, và cả dòng chữ Tất cả được tiết lộ ở cấp 33... vẫn không nhận thấy chi tiết nào hữu dụng. Sau đó, khi lần xuống xung quanh vành ngoài đai nhẫn, Langdon đột ngột dừng lại. Anh giật mình lật chiếc nhẫn lên và chăm chú quan sát đáy đai nhẫn.

Galloway hỏi:

- Anh tìm thấy rồi phải không?

- Con nghĩ là như vậy! - Langdon đáp.

Katherine xích ghế lại gần hơn.

- Gì vậy?

- Dấu hiệu cấp độ trên đai nhẫn, - Langdon đáp, chìa cho cô xem - Nó nhỏ đến mức ta không phát hiện nổi bằng mắt thường, nhưng khi sờ bằng tay, ta có thể khẳng định là nó ăn lõm xuống, giống một dấu khắc tròn nhỏ xíu.

Dấu hiệu cấp độ bố trí ở chính giữa phần đáy đai nhẫn... và phải thừa nhận rằng trông đúng bằng kích cỡ của cái chấm nổi ở đáy hộp.

- Cùng cỡ thì phải? - Katherine nhích lại gần hơn nữa, miệng kêu lên đầy phấn khích.

- Có một cách kiểm chứng - Langdon cầm chiếc nhẫn và đưa vào trong hộp, lựa cho hai hình tròn trùng khít nhau. Khi anh ấn xuống, vòng tròn nổi trong hộp khớp đúng vào phần lõm của chiếc nhẫn. Có một tiếng tách mơ hồ nhưng đanh gọn.

Tất cả cùng nhổm dậy.

Langdon chờ đợi, nhưng không có gì khác lạ.

- Sao thế?! - cha chánh xứ hỏi.

- Chẳng có gì cả, - Katherine đáp - Cái nhẫn khớp đúng chỗ... nhưng không có gì xảy ra hết.

- Không có sự biến đổi lớn lao nào ư? - Galloway lộ vẻ bối rối.

Chưa xong, Langdon ngẫm nghĩ, đăm đăm nhìn xuống phù hiệu phượng hoàng hai đầu và con số 33 đúc nổi của chiếc nhẫn. Tất cả được tiết lộ ở cấp độ 33. Anh suy nghĩ rất lung, về Pythagoras, về hình học thiêng liêng, về các góc, rồi băn khoăn tự hỏi liệu cấp độ có mang ý nghĩa toán học nào không.

Nhịp tim dần đập rộn lên, Langdon đưa tay cầm chiếc nhẫn đang dính chặt lấy đáy hộp. Sau đó anh chậm rãi xoay nó sang phải. Tất cả được tiết lộ ở cấp độ 33.

Anh xoay chiếc nhẫn 10 độ... 20 độ... 30 độ...

Những gì xảy đến tiếp theo, Langdon chưa bao giờ chứng kiến cả.

Chú thích:

(94) Cây Sephiroth bao gồm 10 vòng tròn, đại diện cho các con số từ 1 đến 10 và được liên kết với nhau bằng 22 kênh - 22 chữ cái Do Thái. Mười số và 22 chữ cái tạo ra con số huyền bí 32, biểu hiện cho 32 con đường đi tới Trí tuệ. Số và chữ được xem là chìa khoá mở kho tàng tri thức, vì bằng cách sắp xếp chúng theo một hệ thống bỉ mật, những điều bí ẩn của tạo hoá sẽ được hé lộ - ND

Chương 85

Biến cải.

Đức cha Galloway nghe rõ mọi việc xảy ra, và vì thế ông không cần phải nhìn thấy.

Phía bên kia bàn, Langdon và Katherine đều lặng phắc, rõ ràng là đang sững sờ ngó cái hộp đá vừa biến đổi ngay trước mắt họ.

Galloway không nén nổi nụ cười. Ông đã đoán trước được kết quả, mặc dù chưa rõ diễn biến mới sẽ giúp họ giải quyết câu đố của kim tự tháp ra sao, nhưng chí ít ông cũng thích thú tận dụng cơ hội hiếm hoi này để dạy một chuyên gia ký tượng học Harvard đôi điều về các biểu tượng.

- Giáo sư. - cha chánh xứ lên tiếng - ít người nhận ra rằng các hội viên Tam điểm rất sùng kính hình hộp, hay đá khối theo cách gọi của chúng tôi, bởi vì nó chính là hình thức thể hiện ba chiều của một biểu tượng khác... xa xưa hơn, một biểu tượng hai chiều - Galloway không hỏi xem liệu anh Giáo sư kia có nhận ra biểu tượng đang nằm ngay trước mặt họ không. Đó là một trong những biểu tượng cổ và nổi tiếng nhất thế giới.

***

Robert Langdon chăm chăm nhìn cái hộp đã thay hình đổi dạng trên bàn, tâm trí rối bời. Mình không hề biết.

Mới đây thôi, anh thọc tay vào hộp đá, cầm chiếc nhẫn Tam điểm và nhẹ nhàng xoay nó. Khi chiếc nhẫn xoay được 33 độ, cái hộp đột nhiên thay đổi ngay trước mắt anh. Khớp nối rã ra làm các mảnh vuông vốn là thành hộp tách rời nhau. Cái hộp sụm xuống, các thành và nắp hộp bung mở, bật cạch xuống mặt bàn.

ẢNH

Khối hộp trở thành một cây thánh giá, Langdon nghĩ. Giả kim thuậi tượng trưng.

Katherine kinh ngạc nhìn cái hộp đã bung.

Kim tự tháp Tam điểm có liên quan đến... Thiên Chúa giáo ư?

Trong khoảnh khắc, Langdon cũng nảy ra thắc mắc tương tự. Suy cho cùng, thánh giá Thiên Chúa giáo là một biểu tượng được các hội viên Tam điểm sùng kính, và chắc chắn có nhiều hội viên Tam điểm là tín đồ Thiên Chúa. Tuy nhiên, trong Hội Tam điểm còn khối người theo đạo Do Thái, Hồi, Phật. Ấn Độ và cả những tôn giáo mà vị tổ thần vẫn chưa được đặt tên. Hiển nhiên rất ít khả năng họ ưu tiên mỗi mình biểu tượng Thiên Chúa giáo. Ý nghĩa thực sự của hình chữ thập chợt lóe lên trong óc anh.

- Đó không phải là thánh giá, - Langdon cất tiếng và đứng dậy - Hình thập tự với bàn huyền điểm ở chính giữa là một biểu tượng nhị nguyên, tức một biểu tượng được tạo ra từ việc hợp nhất hai biểu tượng khác.

- Anh nói sao? - ánh mắt Katherine dõi theo Langdon trong khi anh đi đi lại lại.

- Từ thế kỷ thứ tư trở đi, thập tự mới trở thành biểu tượng Thiên Chúa giáo - Langdon giải thích - Trước đó rất lâu, nó được người Ai Cập sử dụng để thể hiện sự giao hoà hai chiều giữa con người và thần thánh. Thượng hạ tương liên. Nó là biểu hiện hữu hình cho giao lộ nơi con người và thánh thần hợp làm một.

- Ra vậy.

- Bàn huyền điểm, - Langdon nói - chúng ta đều biết nó mang rất nhiều ý nghĩa, một trong những nghĩa ít phổ biến nhất là hoa hồng. Hoa hồng là biểu tượng của giới giả kim về sự hoàn hảo. Nhưng khi đặt bông hồng vào chính giữa cây thập tự thì ta sẽ tạo ra một biểu tượng khác hẳn, đó là Thập tự Hoa hồng.

Galloway ngả người trên ghế, tủm tỉm cười.

- Ối chà chà! Giờ thì các vị hiểu ra rồi đấy.

Katherine cũng đứng lên.

- Tôi chưa thật hiểu đâu!

- Thập tự Hoa hồng, - Langdon cắt nghĩa - là một biểu tượng phổ biến trong Hội Tam điểm. Thực ra, chi phái Scottish Rite có một cấp độ gọi là "Hiệp sĩ Thập tự Hoa hồng" nhằm tôn vinh tổ chức Thập tự Hoa hồng vốn có nhiều đóng góp cho triết lý bí truyền của Hội Tam điểm xưa kia. Chắc Peter đã từng kể cho chị nghe về tổ chức Thập tự Hoa hồng. Trong đội ngũ họ có hàng chục nhà khoa học vĩ đại, tỉ dụ Hohn Dee, Elias Ashmole, Robert Fludd...

- Có - Katherine nói - Trong quá trình nghiên cứu, tôi đã đọc tất cả các tuyên ngôn của họ.

Mọi nhà khoa học đều nên làm như vậy, Langdon nghĩ thầm. Giáo phẩm Thập tự Hoa hồng - tên chính thức là Giáo phẩm Thập tự Hoa hồng Cổ xưa và Bí truyền - có một lịch sử huyền bí ảnh hưởng sâu rộng đến khoa học và gần như song hành cùng truyền thuyết về các Bí ẩn cổ xưa. Tri thức bí mật của các bậc hiền triết chỉ được ký thác cho những bộ óc sáng láng nhất để truyền lại đời sau. Phải thừa nhận rằng, danh sách những thành viên nổi tiếng của Thập tự Hoa hồng có thể lập nên một bộ từ điển vĩ nhân với những tên tuổi chói sáng thời Phục hưng châu Âu, chẳng hạn Paracelsus, Bacon, Fludd, Descartes, Pascal, Spinoza, Newton và Leibniz.

Theo học thuyết Thập tự Hoa hồng, trật tự được "xây dựng trên những chân lý mật truyền của quá khứ", những chân lý này hứa hẹn một nguồn hiểu biết sâu sắc về "lĩnh vực tinh thần" mà "hạng phàm phu tục tử" không bao giờ được phép biết đến. Qua nhiều năm tháng phát triển, biểu tượng của hội huynh đệ này luôn là một đoá hồng nở rộ trên cây thập tự trang trí lộng lẫy, nhưng sau đó, nó bắt đầu đơn giản hoá thành vòng tròn bao quanh dấu chấm gắn trên cây thập tự không trang trí - hình thức biểu thị sơ sài nhất của hoa hồng trên hình thức biểu thị sơ sài nhất của thập tự.

- Peter và tôi thường thảo luận về triết lý Thập tự Hoa hồng, - Galloway nói với Katherine.

Trong khi cha chánh xứ phác hoạ mối quan hệ tương hỗ giữa Hội Tam điểm và tổ chức Thập tự Hoa hồng, tâm trí Langdon quay trở lại với ý nghĩ dai dẳng bám lấy anh suốt cả buổi tối nay. Jeova Sanctus Unus. Cụm từ này có mối liên hệ nào đó với giả kim. Anh vẫn chưa nhớ được chính xác Peter từng nói gì với mình về Jeova Sanctus Unus, nhưng việc nhắc đến Thập tự Hoa hồng lại khuấy động ý nghĩ ấy lên. Nghĩ đi nào, Robert! Người ta cho rằng sáng lập viên Thập tự Hoa hồng, - Galloway vẫn giảng giải - là Christian Rosenkreuz, một người Đức theo chủ nghĩa thần bí. Nghe cái tên cũng biết chỉ là biệt danh, và biệt danh ấy có thể là của Francis Bacon. Mặc dù chẳng có bằng chứng gì, nhiều sử gia vẫn tin rằng Bacon sáng lập ra tổ chức này...

- Một biệt danh! - Langdon đột nhiên kêu lên, bản thân anh cũng phải kinh ngạc vì phát hiện đó - Đúng rồi. Jeova Sanctus Unus là một biệt danh?

- Anh đang nói về chuyện gì thế? - Katherine gặng hỏi.

Mạch máu trong người Langdon chảy nhanh hơn.

- Suốt buổi tối, tôi cố nhớ xem Peter đã nói gì với tôi về Jeova Sanctus Unus và mối quan hệ của cụm từ ấy với ngành giả kim. Cuối cùng tôi đã nhớ ra! Nó không có liên hệ nhiều với ngành giả kim mà chỉ với một nhà giả kim! Một nhà giả kim rất nổi tiếng?

Galloway cười húng hắng.

- Đến lúc rồi đấy, Giáo sư ạ. Tôi đã nhắc tới cái tên này hai lần và cả từ biệt danh nữa.

Langdon đăm đăm nhìn vị chánh xứ già.

- Cha biết rồi ư?

- Chà, tôi đã tự đề ra vài giả thuyết khi nghe anh bảo phần chữ khắc nói đến Jeova Sanctus Unus và được giải mã bằng cách sử dụng ma phương giả kim của Durer, đến khi anh tìm ra Thập tự Hoa hồng, tôi càng thêm chắc chắn. Chắc anh cũng biết, trong số tư liệu cá nhân của nhà khoa học mà chúng ta đang đề cập có cả một bản sao các tuyên ngôn Thập tự Hoa hong với chú giải kỹ càng.

- Là ai cơ? - Katherine hỏi.

- Một trong những nhà khoa học vĩ đại nhất thế giới! - Langdon đáp - Ông là một nhà giả kim, thành viên Hiệp hội Hoàng gia London, hiệp sĩ Thập tự Hoa hồng, và ông đã ký biệt danh lên một số tài liệu khoa học bí mật nhất của mình, biệt danh ấy là Jeova Sanctus Unus!

- Một Đức Chúa đích thực? - Katherine hỏi - Khiêm nhường nhỉ?

- Thực tế là một người rất vĩ đại đấy, - Galloway đính chính - ông ký tên như vậy bởi vì, cũng giống các bậc thầy giả kim cổ đại, ông hiểu bản thân mình chính là thánh nhân. Thêm nữa, mười sáu chữ cái trong Jeova Sanctus Unus có thể sắp xếp lại để ra được tên thật của ông theo tiếng Latin, cho nên nó là một biệt danh hoàn hảo.

Katherine lộ vẻ bối rối.

- Đảo các chữ cái trong Jeova Sanctus Unus thì sẽ được tên Latin của một nhà giả kim nổi tiếng ư?

Langdon vớ lấy mảnh giấy và cây bút chì trên bàn cha chánh xứ, miệng nói tay viết.

- Trong tiếng Latin, J và I có thể thay thế cho nhau, V và U cũng vậy. Theo đó, các chữ cái trong Jeova Sanctus Unus có thể sắp xếp lại thành đúng tên thật của người này.

Langdon viết ra mười sáu chữ cái: Isaacus Neutonuus.

Anh trao mảnh giấy cho Katherine và nói.

- Tôi chắc chị biết tiếng ông ấy.

- Isaac Newton? - Katherine hỏi lại, mắt nhìn tờ giấy - Đó là những gì dòng chữ khắc trên Kim tự tháp đang cố cho chúng ta biết ư?

Nhất thời, Langdon tưởng như mình đang quay trở lại Tu viện Westminster, đứng trước ngôi mộ hình kim tự tháp của Newton, nơi anh giác ngộ được một điều tương tự. Tối nay, nhà khoa học vĩ đại lại xuất hiện một lần nữa. Dĩ nhiên, đó không phải là sự trùng hợp... kim tự tháp, những điều bí ẩn, khoa học, tri thức mật truyền... tất cả đan xen vào nhau. Tên tuổi của Newton luôn là cột chỉ đường cho những người kiếm tìm tri thức bí mật.

- Isaac Newton, - Galloway lên tiếng - chắc chắn có liên hệ với cách giải mã ý nghĩa của kim tự tháp này. Tôi không tường tận mối liên hệ ấy nhưng...

- Quả là thiên tài - Katherine thốt lên, mắt mở to - Hoá ra đó là cách biến đổi kim tự tháp!

- Chị tìm ra rồi ư? - Langdon hỏi.

- Phải - Katherine đáp - Tôi không tin nổi là chúng ta lại không nhận thấy! Nó sờ sờ ngay trước mắt đây. Một quy trình giả kim rất đơn giản. Tôi có thể biến đổi cái kim tự tháp này bằng khoa học cơ bản. Khoa học của Newton!

Langdon căng óc cố hiểu.

- Đức cha Galloway, - Katherine nói - Cha vừa đọc cái nhẫn, nó nói rắng...

- Khoan! - người giáo sĩ già nua đột nhiên giơ ngón tay làm hiệu im lặng. Rất nhẹ nhàng, ông nghiêng đầu sang một bên như thể đang lắng nghe. Lát sau, ông đứng phắt dậy - Các bạn, rõ ràng kim tự tháp này có những bí mật còn chưa hé lộ. Tôi không hiểu cô Solomon lĩnh hội được gì, nhưng nếu cô ấy biết bước tiếp theo cho hai người thì coi như vai trò của tôi đã hoàn thành. Hãy thu dọn đồ đạc và không phải nói gì thêm với tôi nữa cả. Cứ để tôi ở lại trong bóng tối một lát. Tôi không muốn nhận lấy thứ thông tin mà các vị khách của chúng ta sắp tìm cách ép tôi chia sẻ.

- Các vị khách ư? - Katherine hỏi, cố lắng tai nghe - Con chẳng nghe thấy tiếng ai cả.

- Cô sẽ nghe thấy thôi, - Galloway đáp, tiến thẳng ra cửa - Nhanh lên đi!

- Ở bên kia thành phố, một trạm điện thoại đang cố gắng liên lạc với một máy di động đã vỡ nát trên Đại lộ Massachusetts. Không dò được tín hiệu, nó chuyển hướng cuộc gọi sang tin nhắn thoại.

- Robert! - giọng Warren Bellamy đầy hốt hoảng - Anh ở đâu?! Gọi ngay cho tôi. Có chuyện kinh khủng đang xảy ra!

Chương 86

Mal'akh đứng bên chiếc bàn đá, tiếp tục công việc chuẩn bị trong ánh đèn xanh da trời ở tầng hầm nhà gã. Cái dạ dày rỗng tuếch cứ quặn lên, nhưng gã chẳng buồn bận tâm. Quãng đời lệ thuộc vào những ham muốn thể xác đã lùi xa rồi.

Quá trình biến đổi đòi hỏi phải có sự hy sinh.

Cũng như mọi nhân vật tiến hoá cao về mặt tinh thần trong lịch sử, Mal'akh nguyện đi theo con đường của mình bằng cách hy sinh những phần da thịt cao quý nhất. Hoá ra yêm hoạn ít đau đớn hơn gã tưởng, không những thế còn là một hành vi quá sức phổ biến. Mỗi năm có hàng nghìn người đàn ông tiến hành phẫu thuật cắt bỏ tinh hoàn với đủ mọi động cơ, từ chuyển đổi giới tính, kiểm soát lạm dụng tình dục tới những tín điều tinh thần sâu xa. Lý do của Mal'akh thì cao quý hơn nhiều. Cũng như nhân vật Attis tự thiến trong truyền thuyết, Mal'akh biết rằng để đạt được sự bất tử cần phải đoạn tuyệt hoàn toàn với thế giới trần tục của nam và nữ.

Một trong những giải pháp cho điều đó là trở thành người lưỡng tính.

Thiên hạ ngày nay thường xa lánh những ai ái nam ái nữ, chứ cư dân cổ đại đều thấu hiểu sức mạnh nội tại của sự hy sinh mang tính bước ngoặt này. Các tín đồ Thiên Chúa giáo sơ khai từng được nghe chính Đức Jesus ca ngợi mặt tốt của hành động xuống tóc ngọc hành trong Phúc âm Matthew 19:12: "Có những người tịnh thân vì lợi ích của Nước Thiên đàng. Ai chấp nhận được điều ấy thì để cho họ chấp nhận".

Peter Solomon cũng đã hy sinh thịt da, nhưng một bàn tay thì mới chỉ là cái giá rất nhỏ trong cả một dự án lớn. Hết đêm nay, ông ta sẽ còn phải hy sinh nhiều, nhiều hơn thế nữa.

Để sáng tạo, ta phải phá huỷ.

Đó là bản chất của thế giới phân cực.

Dĩ nhiên, Peter Solomon đáng phải chịu số phận đang chờ đợi ông ta tối nay. Kết cục cũng xứng đáng thôi. Cách đây khá lâu, Peter từng đóng vai trò quan trọng trong quãng đời phàm tục của Mal'akh. Vì thế cũng nên để ông ta đóng tiếp vai trò quan trọng trong quá trình chuyển đổi vĩ đại của gã. Người đàn ông này sẽ phải nếm trải tất cả những hãi hùng và đau đớn mà ông ta gây ra trước đây. Peter Solomon không phải là hạng chính nhân quân tử như thiên hạ lầm tưởng bấy nay.

Ông ta sẵn sàng hy sinh cả đứa con trai dứt ruột đẻ ra.

Peter Solomon từng đặt ra cho con trai mình, Zachary, một lựa chọn khó khăn - tiền bạc hay tri thức. Zachary đã chọn lầm. Quyết định ấy về sau kéo theo cả chuỗi sự kiện mà rốt cục là lôi chàng trai trẻ xuống vực sâu địa ngục, Nhà tù Soganlik. Zachary Solomon đã chết trong nhà lao Thổ Nhĩ Kỳ đó. Cả thế giới biết chuyện... nhưng có một điều họ không biết, rằng lẽ ra Peter Solomon đã có thể cứu sống con mình.

Ta có mặt ở đó, Mal'akh nghĩ. Ta nghe rõ tất cả.

Mal'akh không bao giờ quên cái đêm ấy. Quyết định tàn nhẫn của Solomon đồng nghĩa với dấu chấm hết cho con trai ông ta, Zach, nhưng lại là sự chào đời của Mal'akh.

Phải có kẻ chết để những người khác được sống.

***

Ánh đèn bắt đầu đổi màu khiến Mal'akh nhận ra là đã khá muộn.

Gã hoàn tất nốt việc chuẩn bị rồi quay lên lối dốc. Đã đến lúc trở lại với những vấn đề của thế giới phàm tục.

Chương 87

Tất cả được tiết lộ ở độ 33, Katherine nghĩ thầm trong lúc chạy.

Mình biết cáchbiến đổi cái kim tự tháp? Câu trả lời nằm sờ sờ trước mắt họ suốt buổi tối nay.

Lúc này, chỉ còn mình Katherine và Langdon băng qua khu phụ của nhà thờ, lần theo những tấm biển chỉ lối tới "Sân", Đúng như cha chánh xứ nói, ra khỏi giáo đường là sang một khoảng sân rộng có tường bao.

Khoảnh sân này là một khu vườn ngũ giác tách biệt tới xung quanh, có một đài phun nước bằng đồng theo trường phái hậu hiện đại Katherine rất ngạc nhiên khi thấy tiếng nước phun vang vọng khá ồn ào trong sân. Nhưng cô mau chóng nhận ra đó không phải là âm thanh của đài phun nước.

- Trực thăng! - cô kêu lên, đúng lúc một luồng sáng xuyên thủng trời đêm phía trên đầu họ - Chạy vào bên dưới cánh cổng kia!

Ánh sáng chói loà của một ngọn đèn rọi đổ tràn xuống khoảnh sân. Bấy giờ Langdon và Katherine cũng tới được mé bên kia sân, lẩn vào dưới mái vòm kiểu Gothic của một đường hầm dẫn ra bãi cỏ bên ngoài. Họ thu mình chờ đợi. Chiếc trực thăng lao qua trên cao, bắt đầu lượn quanh nhà thờ theo từng vòng tròn rộng.

- Cha Galloway đã nói đúng về chuyện các vị khách, - Katherine nói giọng thán phục. Mắt kém khiến tai thính hẳn. Chính tai cô thì kêu ong ong như đang chạy đua với mạch đập.

- Lối này. - Langdon nói, nắm lấy cái túi và di chuyển qua đường hầm.

Đức cha Galloway đã đưa cho họ một chiếc chìa khoá cùng những chỉ dẫn rất rành rẽ. Rủi thay, khi đi hết đường hầm, họ phát hiện ra còn cách địa điểm cần tới một bãi cỏ trống rất rộng, hiện đang tràn ngập ánh đèn từ chiếc trực thăng trên cao.

- Chúng ta không thể băng qua được, - Katherine nói.

- Cứ bình tĩnh... xem kìa - Langdon trỏ một bóng đen hiện rõ trên bãi cỏ phía bên trái. Mới đầu, bóng đen đó không có hình thù xác định nhưng nó lớn lên rất nhanh và cấp tập di chuyển về phía họ, càng lúc càng rõ nét, càng lúc càng mau, trải rộng ra, cuối cùng biến thành một hình chữ nhật màu đen khổng lồ có hai cái chóp cao vút.

- Phần mặt tiền nhà thờ che khuất ánh đèn đấy, - Langdon nói.

- Họ đang đáp xuống trước nhà!

Langdon nắm lấy tay Katherine.

- Chạy nào!

***

Bên trong nhà thờ, Đức cha Galloway di chuyển qua lối chính, xuống gian giữa giáo đường để đi ra cửa trước. Lần đầu tiên sau nhiều năm, ông cảm thấy bước chân mình thật nhẹ nhàng.

Ông nghe rõ tiếng trực thăng lơ lửng trước nhà thờ, ông cũng hình dung ra ánh đèn rọi qua ô cửa sổ hoa đằng trước, tạo nên nhiều màu sắc rực rỡ khắp giáo đường. Ông hồi tưởng những ngày tháng còn trông thấy màu sắc. Thật trái khoáy là chính thế giới tối tăm không chút ánh sáng hiện nay lại soi tỏ nhiều điều cho ông. Ta đang nhìn rõ hơn bao giờ hết.

Galloway được gọi đến bên Chúa từ thuở thanh niên, từ đó trở đi, ông yêu giáo hội bằng cả trái tim mình. Giống như nhiều giáo hữu thiết tha dâng hiến trọn đời cho Chúa, nay Galloway đã quá chán chường. Bao nhiêu năm qua, ông luôn căng thẳng vì phải tranh đấu chống lại những kẻ ngu dốt.

Ta chờ đợi điều gì?

Từ các cuộc Thập tự chinh, Toà án dị giáo, tới chính trị nước Mỹ, cái tên Jesus luôn bị sử dụng như một đồng minh trong tất cả các hình thức tranh giành quyền lực. Từ thuở khai thiên lập địa, những kẻ ngu dốt luôn là những kẻ to mồm nhất, thường sai khiến đám đông nhẹ dạ và buộc họ phải tuân lệnh. Chúng bảo vệ dục vọng phàm tục bằng cách trích dẫn Kinh thánh mà chẳng hiểu mô tê gì. Chúng rêu rao sự tàn bạo của mình như bằng chứng cho sự hối lỗi. Sau ngần ấy tháng năm, cuối cùng loài người cũng tìm ra cách huỷ hoại hoàn toàn mọi điều từng rất tốt đẹp về Jesus.

Đêm nay, việc gặp gỡ biểu tượng Thập tự Hoa hồng đã tiếp thêm hi vọng cho Galloway, gợi ông nhớ tới những lời tiên tri trong tuyên ngôn của tổ chức này, ông đã đọc các tuyên ngôn ấy không biết bao lần và nay vẫn còn nhớ.

Chương Một: Đức Jehova sẽ cứu rỗi nhân loại bằng cách hé mở nhiều bí mật vốn chỉ dành riêng cho không người được chọn.

Chương Bốn: Cả thế giới sẽ trở thành một cuốn sách, mọi mâu thuẫn giữa khoa học và thần học sẽ được hoá giải.

Chương Bảy: Trước ngày tận thế, Chúa sẽ tạo ra một dòng thác ánh sáng tâm linh để xoa dịu khổ đau cho con người.

Chương Tám: Trước khi thiên khải này thành hiện thực, thế giới sẽ phải trải qua một cơn say bắt nguồn từ cốc rượu độc đựng đầy cuộc sống lầm lạc của giống nho thần học.

Galloway biết giáo hội lạc lối đã lâu, nên muốn dành đời mình để đưa nó về đường chính. Giờ đây, ông nhận ra rằng thời khắc ấy đang đến gần.

Trước bình minh luôn là thời điểm tối tăm nhất.

***

Đặc vụ CIA Turner Simkins đứng chênh vênh trên thanh chân chống của chiếc trực thăng Sikorsky trong khi nó đáp dần xuống bãi cỏ đẫm sương. Tới nơi, anh ta nhảy xuống, chạy lại nhóm của mình rồi phất tay ra hiệu cho chiếc máy bay vọt trở lại không trung để giám sát các lối ra.

Không có ai rời khỏi toà nhà này cả.

Chiếc trực thăng bay trở lại bầu trời đêm. Simkins và cả nhóm chạy lên dãy bậc cấp dẫn tới cửa chính nhà thờ. Anh ta chưa kịp quyết định gõ cánh cửa nào trong số sáu cánh cửa thì một cánh trong số đó đã mở ra.

- Có chuyện gì vậy? - một giọng nói bình tĩnh vang lên trong bóng tối.

Simkins khó khăn lắm mới nhận ra một bóng người còng gập trong chiếc áo choàng thầy tu.

- Cha là Đức cha Colin Galloway?

- Phải, - ông già đáp.

- Tôi đang tìm Robert Langdon. Cha có gặp anh ta không?

Ông già bước lên trước, đăm đăm nhìn Simkins bằng đôi mắt trống rỗng.

- Chuyện ấy hoạ có phép tiên mới xảy ra.

Chương 88

Sắp hết giờ rồi!

Chuyên gia phân tích an ninh Nola Kaye cảm thấy sốt ruột. Cô đã uống tới cốc cà phê thứ ba và nó bắt đầu chạy cồn cào trong người cô như một dòng điện.

Sato vẫn chưa liên lạc lại.

Cuối cùng điện thoại cũng đổ chuông, Nola vồ lấy nó.

- OS, - cô đáp Nola đây.

- Nola, tôi là Rick Parrish thuộc an ninh hệ thống.

Nola sững lại. Không phải Sato.

- Chào Rick. Có chuyện gì thế?

- Tôi muốn gửi cho cô một cảnh báo. Bộ phận của chúng tôi thu được mấy thông tin liên quan đến nội dung công việc cô đang xử lý tối nay.

Nola đặt cốc cà phê xuống. Làm thế quái nào mà anh biết tôi đang xử lý gì tối nay?

- Anh bảo sao cơ?

- Xin lỗi, chúng tôi đang chạy thử chương trình CI mới - Parrish nói - Nó liên tục cho biết số hiệu đơn vị làm việc của cô.

Giờ thì Nola đã hiểu anh chàng đồng nghiệp đang nói về chuyện gì. Cục hiện đang thí nghiệm một phần mềm "tích hợp cộng tác" mới nhằm cung cấp cảnh báo tức thời cho các bộ phận khác nhau của CIA khi họ tình cờ cùng xử lý các trường dữ liệu liến quan. Trong thời buổi đầy rẫy đe doạ khủng bố căng thẳng thế này thì chìa khoá để ngăn chặn thảm hoạ thường đơn giản chỉ là một cảnh báo cho bạn biết rằng có người ở dưới kia đang phân tích những dữ liệu mà bạn cần. Đối với riêng Nola thì phần mềm CI này gây phiền toái nhiều hơn trợ giúp, cô gọi nó là phần mềm gián đoạn liên tục.

- Phải, tôi quên mất, - Nola nói - Anh thu được gì thế?

Cô chắc chắn rằng không ai khác trong cơ quan biết về vụ việc, nói gì đến can thiệp vào. Công việc duy nhất mà Nola thực hiện trên máy tối nay là tìm cho Sato những chủ đề bí truyền liên quan đến Hội Tam điểm. Tuy nhiên, cô vẫn thử đi bài liều.

- Chậc, nhìn chung chẳng có gì, - Parrish nói - nhưng tối nay chúng tôi vừa chặn một hacker, và chương trình CI liên tục cho biết tôi đang chia sẻ thông tin với cô.

- Một hacker à? Nola nhấp cà phê.

- Tôi vẫn đang nghe đây.

- Khoảng một tiếng trước, - Parrish nói - chúng tôi truy ra một gã tên là Zoubianis đang tìm cách truy cập một tệp tin thuộc cơ sở dử liệu nội bộ của chúng ta. Hắn cho biết người ta thuê hắn làm việc đó, còn thì hắn không tường tận mục đích truy cập cũng như không ngờ rằng nó nằm trên một máy chủ của CIA.

- Vậy à?

- Chúng tôi đã thẩm vấn xong, hắn hoàn toàn vô can. Nhưng có điều lạ ở đây một cơ chế tìm kiếm nội bộ nào đó đã đánh dấu mấy lần liền trong tối nay lên chính tệp tin mà Zoubianis muốn truy cập. Hình như có ai đó đã sục vào hệ thống của chúng ta, chạy một lệnh tìm kiếm từ khoá đặc biệt, và tạo ra một file tự lọc. Vấn đề là, các từ khoá mà họ sử dụng thực sự rất lạ. Trong đó có một từ được CI thông báo rằng trùng khớp ở cấp độ cao, một từ chỉ xuất hiện trên hệ thống dữ liệu của chúng ta - Anh ta ngừng lại - Cô có biết từ... biểu hình không?

Nola đứng bật dậy, làm cà phê đổ sánh cả ra mặt bàn.

- Các từ khoá khác cũng lạ không kém, - Parrish nói tiếp - Kim tự tháp, cổng...

- Xuống đây ngay đi, - Nola vừa ra lệnh vừa lau vội mặt bàn - Và mang theo tất cả những gì anh thu thập được!

Những từ này rõ ràng có nghĩa gì đó với cô phải không?

- NHANH LÊN!

Chương 89

Chủng viện Giáo sĩ Nhà thở lớn là một toà dinh thự trang nhã kiểu lâu đài toạ lạc ngay bên Đại Giáo đường Quốc gia. Xuất phát từ ý tưởng của giám mục Tân giáo đầu tiên ở Washington, Chủng viện này được thành lập nhằm đào tạo chuyên sâu cho các giáo sĩ đã thụ phong. Hiện nay, chủng viện vẫn cung cấp một loạt chương trình về thần học, tư pháp toàn cau, phương pháp chữa bệnh và duy linh.

Ngay trước khi trực thăng bay vọt trở lại bầu trời bên trên nhà thờ và rọi đèn pha sáng trưng như ban ngày, Langdon và Katherine đã kịp băng nhanh qua bãi cỏ, dùng chìa khoá của cha Galloway để mở cửa vào Chủng viện. Họ dừng lại ở tiền sảnh, thở hổn hển và quan sát xung quanh. Các ô cửa sổ cung cấp đủ ánh sáng nên Langdon thấy không cần thiết phải bật đèn, vả chăng làm thế khác gì báo cho chiếc trực thăng trên kia biết họ đang ở đâu. Hai người đi dọc hành lang trung tâm, băng qua một loạt phòng họp, phòng học và khu vực tập trung. Nội thất nơi đây gợi cho Langdon nhớ tới các toà nhà theo trường phái tân Gothic của Đại học Yale, đẹp mê hồn ở bề ngoài và thực dụng đến kỳ lạ ở bên trong. Người ta đã cải tiến nhiều để bên cạnh vẻ trang nhã vốn có thì những toà nhà ấy còn đủ khả năng chịu được cường độ đi lại cao.

- Lối kia. - Katherine ra hiệu về phía cuối sảnh.

Cô vẫn chưa giải thích rõ với Langdon về khám phá mới liên quan đến kim tự tháp, nhưng hiển nhiên nó được gợi ý nhờ sự xuất hiện của Isaacus Newtonuus. Lúc băng qua bãi cỏ, cô chỉ kịp nói vắn tắt rằng có thể biến đổi kim tự tháp bằng cách ứng dụng khoa học thường thức, và rằng các công cụ cần thiết chắc chắn có đủ trong toà nhà này. Langdon không biết Katherine cần gì, cũng chẳng đoán ra cách cô định hô biến một khối đá hoa cương và vàng đặc, nhưng hễ nhớ đến cảnh chiếc hộp vuông hoá thành thập tự hoa hồng, anh lại sẵn lòng tin tưởng.

Đi tới cuối sảnh. Katherine cau mày, rõ ràng vẫn chưa nhìn thấy thứ đang cần.

- Toà nhà này có cả ký túc xá, đúng không?

- Đúng, cho các buổi hội thảo lưu trú.

- Vậy thì nhà bếp phải bố trí đâu đó quanh đây chứ nhỉ?

- Chị đói à?

Katherine nhăn mặt nhìn lại.

- Không, tôi cần một phòng thí nghiệm.

À phải. Langdon mau chóng phát hiện ra một cầu thang đi xuống gắn tấm biển đầy hứa hẹn, mô tả một hình vẽ rất được ưa chuộng ở nước Mỹ.

ẢNH

Trông rất công nghiệp với hàng lô bát to bằng thép không gỉ, gian bếp dưới tầng hầm này ắt hẳn được thiết kế để phục vụ ăn uống cho số lượng người đông đảo. Bếp không có cửa sổ. Katherine đóng cửa chính và bật đèn, hệ thống quạt khói liền tự động chạy. Cô bắt đầu lục các chạn bát để tìm dụng cụ cần thiết.

- Robert, - cô bảo - đặt kim tự tháp lên bàn bếp đi.

Langdon làm theo yêu cầu, lôi kim tự tháp ra khỏi túi và đặt chóp vàng lên trên, cảm tưởng mình giống một tay phụ bếp học việc đang nhận lệnh của Daniel Boulud(95). Trong lúc đó, Katherine vặn vòi cho nước nóng chảy vào một chiếc nồi lớn.

- Anh nhấc hộ tôi cái nồi lên bếp!

Langdon ì ạch bê cái nồi lõng bõng lên, Katherine bật bếp ga và vặn to lửa.

- Chúng ta luộc tôm hùm à? - Langdon hỏi, giọng đầy hy vọng.

- Hài hước thế! Không, chúng ta đang làm giả kim, và nói cho chính xác thì đây là nồi mỳ ống, không phải nồi tôm hùm - Katherine trỏ cái giá hấp cô vừa nhấc ra khỏi nồi và đặt lên bàn bếp bên cạnh kim tự tháp.

Mình ngớ ngẩn thật! Món mỳ luộc sẽ giúp chúng ta giải mã kim tự tháp à?

Katherine không để ý đến câu nói ấy, giọng cô nghiêm túc.

- Tôi tin chắc rằng anh cũng biết, có một lý do mang tính lịch sử và biểu tượng khiến Hội Tam điểm chọn số 33 làm cấp độ cao nhất của mình.

- Dĩ nhiên tôi biết, - Langdon đáp.

Thời Pythagoras, khoảng sáu thế kỷ trước Công nguyên, truyền thống số bí thuật(96) tôn 33 làm số cao nhất trong tất cả các Số Chủ. Nó là con số thần thánh, tượng trưng cho Chân lý Thiêng liêng. Truyền thống này tồn tại trong Hội Tam điểm và nhiều nơi khác. Không phải ngẫu nhiên mà các tín đồ Thiên Chúa giáo được dạy rằng Jesus bị câu rút ở tuổi 33, mặc dù chẳng có bằng chứng lịch sử xác đáng nào. Người ta còn nói: khi kết hôn với Mẹ Đồng trinh Mary, Joseph 33 tuổi; Jesus có 33 phép màu; tên của Chúa trời được nhắc đến 33 lần trong Sáng thế ký; rồi theo Hồi giáo, tất cả cư dân thiên đàng mãi mãi tuổi 33... đó đều không phải là ngẫu nhiên.

Katherine nói:

- Ba mươi ba là con số thiêng trong nhiều truyền thống thần bí.

- Đúng vậy - Langdon vẫn chưa tìm ra mối liên hệ giữa chuyện này với nồi mỳ ống.

- Hẳn anh không lấy làm lạ nếu một nhà giả kim kiêm hội viên Thập tự Hoa hồng kiêm tín đồ chủ nghĩa thần bí như Isaac Newton cũng coi số 33 là đặc biệt.

- Tôi không lạ lẫm gì - Langdon đáp - Newton say mê số bí thuật, tiên tri, chiêm tinh, nhưng cái đó...

- Tất cả được tiết lộ ở cấp độ 33.

Langdon móc chiếc nhẫn của Peter ra khỏi túi, đọc dòng chữ khắc rồi lại liếc nhìn nồi nước.

- Xin lỗi, tôi vẫn chưa hiểu.

Robert, hồi tối cả hai chúng ta đều cho rằng "cấp độ 33" là nói đến cấp độ Hội Tam điểm. Song khi xoay cái nhẫn lệch đi 33 độ, hộp đựng biến đổi và trở thành một cây thập tự. Tới lúc đó, chúng ta mới nhận ra từ độ được dùng theo một nghĩa khác.

- Phải. Độ đo góc.

- Chính xác. Nhưng độ còn một nghĩa thứ ba nữa.

Langdon nhìn nồi nước trên bếp.

- Nhiệt độ.

- Chính xác? - Katherine đồng ý - Nó hiện hiện trước mặt chúng ta suốt cả buổi tối. "Tất cả được tiết lộ ở 33 độ". Nếu đẩy nhiệt độ của kim tự tháp lên mức 33... chưa chừng nó sẽ tiết lộ điều gì đó.

Langdon biết Katherine Solomon cực kỳ thông minh, nhưng dường như cô đã quên một chi tiết khá hiển nhiên.

- Nếu tôi không lầm thì 33 độ gần ngưỡng đóng băng(97) rồi, chẳng lẽ ta lại cho kim tự tháp vào tủ lạnh?

Katherine mỉm cười.

- Không đâu, vì chúng ta tuân theo công thức nấu ăn của nhà giả kim vĩ đại kiêm hội viên Thập tự Hoa hồng thần bí, người đã ký tên Jeova Sanctus Unus lên các tài liệu của mình.

Isaacus Newtonuus viết cả công thức nấu ăn à?

- Robert, nhiệt độ là chất xúc tác giả kim cơ bản, và không phải lúc nào cũng được đo bằng thang Fahrenheit hay Celsius. Có những thang nhiệt độ lâu đời hơn, một trong số đó là phát minh của Isaac...

- Thang nhiệt Newton! - Langdon kêu lên, nhận ra Katherine nói đúng.

- Phải! Isaac Newton sáng chế ra một hệ thống định lượng nhiệt độ dựa hoàn toàn vào các hiện tượng tự nhiên. Nhiệt độ băng tan chính là điểm gốc của Newton, ông gọi nó là "độ số 0" - Cô thăm dò - Nhiệt độ nước sôi là nhân tố chính của mọi quy trình giả kim, tôi nghĩ anh đã đoán ra mức ông ấy gán cho nó rồi?

- Ba mươi ba.

- Vâng, 33! Độ 33. Trên thang nhiệt Newton, nhiệt độ của nước sôi là 33 độ. Tôi nhớ đã từng hỏi Peter tại sao Newton lại chọn con số đó. Sự lựa chọn nghe chừng hơi ngẫu nhiên. Nước sôi là quy trình giả kim căn bản nhất, mà ông ấy lại chọn con số 33? Sao không phải là 100? Sao không phải là một cái gì đó tao nhã hơn? Anh tôi giải thích rằng, với một người theo chủ nghĩa thần bí như Isaac Newton, không con số nào tao nhã hơn 33.

Tất cả được tiết lộ ở độ 33. Langdon liếc nồi nước rồi đưa mắt sang kim tự tháp.

- Ngọn tháp này được làm bằng đá hoa cương và vàng đặc. Chị quả thực cho rằng nước sôi đủ nóng để làm nó biến đổi ư?

Nhìn nét cười trên gương mặt Katherine. Langdon hiểu ra cô đang nắm vững điều gì đó mà anh chưa biết. Rất tự tin, cô tiến lại gần bàn bếp, nhấc kim tự tháp bằng đá hoa cương cùng chóp vàng và đặt cả vào giá hấp. Sau đó, cô cẩn thận hạ nó xuống nồi nước đang sôi sùng sục.

- Chúng ta cùng xem nhé!

***

Bên trên Đại Giáo đường Quốc gia, viên phi công CIA cho trực thăng chuyển sang chế độ lơ lửng tự động và quan sát toàn bộ vòng ngoài toà nhà cùng các khoảnh sân. Không có dấu hiệu chuyển động.

Thiết bị tầm nhiệt không thể xuyên qua tường đá nhà thờ, nên anh ta không biết đồng đội mình đang làm gì bên trong, nhưng nếu có ai đó tìm cách lọt ra ngoài, thiết bị nhiệt sẽ phát giác được ngay.

60 giây sau, một thiết bị cảm biến nhiệt chợt phát tín hiệu. Cũng hoạt động theo cùng nguyên tắc với các hệ thống an ninh gia đình, thiết bị dò nhiệt chuyên phát hiện độ chênh lệch lớn về nhiệt độ.

Thông thường điều này đồng nghĩa với việc một hình người di chuyển qua một khoảng trống có nhiệt độ thấp hơn thân nhiệt, nhưng lần này trên màn hình lại xuất hiện một thứ giống đám mây, cho thấy một mảng khí nóng đang bay là là qua bãi cỏ. Viên phi công mau chóng nhận ra nguồn nhiệt là một cái lỗ thông khí bên hông Chủng viện Nhà thờ lớn.

Chuyện thường, anh ta nghĩ bụng, những dạng biến thiên nhiệt độ kiểu này rất phổ biến. Chắc ai đó đang nấu ăn hoặc giặt giũ. Nhưng vừa định quay đi, anh ta bỗng nhận thấy có điều bất ổn: Không có xe hơi đậu trong bãi và không hề có ánh đèn ở bất kỳ đâu trong toà nhà.

Viên phi công nghiên cứu hệ thống hình ảnh trên chiếc UH-60 một lúc khá lâu sau đó anh ta gọi bộ đàm cho đội trưởng.

- Simkins, chắc chẳng có gì, nhưng...

***

- Chỉ số nhiệt nóng sáng? - Langdon phải thừa nhận phương pháp của Katherine quả là thông minh.

- Khoa học thường thức ấy mà, - Katherine nói - Các chất khác nhau nóng sáng ở những nhiệt độ khác nhau. Chúng ta gọi đó là điểm báo nhiệt. Khoa học luôn phải sử dụng những điểm báo này.

Langdon đăm đăm nhìn ngọn tháp và cái chóp chìm trong nước.

Hơi nước bắt đầu bốc cao trên nồi nước sôi sùng sục, tuy vậy Langdon không cảm thấy mảy may hy vọng. Anh liếc đồng hồ, tim bỗng đập rộn lên: đã 11 giờ 45 phút đêm.

Chị tin rằng sẽ có gì đó phát sáng khi nó nóng lên à?

- Không phải là phát sáng, Robert ạ. Mà là nóng sáng. Khác biệt rất lớn đấy. Nóng sáng gây ra do sức nóng và chỉ xảy ra ở một nhiệt độ cụ thể. Chẳng hạn, khi tôi thép thanh, các nhà sản xuất thép thường phun lên đó một lớp phủ trong suốt nóng sáng ở một nhiệt độ định sẵn. Nhờ đó họ sẽ biết khi nào thì các thanh thép hoàn thiện. Anh nhớ cái nhẫn tâm trạng không? Chỉ cần đeo nó vào ngón tay, thân nhiệt sẽ làm nó đổi màu.

- Katherine, kim tự tháp này ra đời vào thế kỷ XIX? Một nghệ nhân có thể chế tạo các khớp nối ẩn kín trong một hộp đá, nhưng họ lấy đâu ra chất phủ nhiệt trong suốt vào thời ấy?

- Có đấy! - Katherine đáp, ngong ngóng nhìn cái kim tự tháp đang chìm trong nước - Các nhà giả kim sơ khai thường xuyên sử dụng phốt pho hữu cơ làm điểm báo nhiệt. Người Trung Quốc sản xuất pháo hoa màu sắc rực rỡ, và thậm chí người Ai Cập... - Katherine bỗng im bặt, chăm chú nhìn xuống nồi nước sôi.

- Sao vậy? - Langdon dõi theo ánh mắt cô, nhưng chẳng phát hiện được gì cả.

Katherine cúi hẳn xuống, nhìn chăm chú hơn. Đột nhiên, cô quay người và chạy băng qua bếp ra phía cửa.

- Chị định đi đâu thế? - Langdon gọi to.

Katherine dừng phắt lại bên công tắc đèn bếp, tắt nó đi. Toàn bộ đèn cùng quạt khói ngừng hoạt động, khiến cả gian phòng chìm vào bóng tối và sự im lặng hoàn toàn. Langdon quay lại phía kim tự tháp và căng mắt nhìn cái chóp ngập nước dưới màn hơi mù mịt. Lúc Katherine trở về bên cạnh anh. Langdon bỗng há hốc miệng, hầu như không tin nổi vào mắt mình.

Đúng như Katherine dự đoán, một phần nhỏ của cái chóp kim loại bắt đầu sáng lên trong làn nước. Các con chữ xuất hiện, càng lúc càng sáng rõ khi nhiệt độ nước tăng lên.

- Ký tự! - Katherine thì thào.

Langdon gật đầu, chết lặng đi. Những từ ngữ sáng rực đang hiện dần ngay bên dưới dòng chữ khắc trên cái chóp. Rành rành chỉ có ba từ tuy chưa xác định được ý nghĩa của những từ ấy, Langdon đã băn khoăn tự hỏi liệu chúng có tiết lộ mọi điều mà họ đang mong đợi suốt tối nay không. Kim tự tháp là một bẩn đồ thực sự. Cha Galloway đã nói như vậy, và nó chỉ tới một địa điểm có thật. Đợi các chữ cái sáng rõ hẳn, Katherine tắt bếp, và nước từ từ ngừng sủi bọt. Cái chóp lúc này hiện ra mồn một bên dưới mặt nước phẳng lặng.

Giờ đã có thể đọc được ba từ phát sáng nọ.

Chú thích:

(95) Daniel Boulud (sinh ngày 25-3-1955 tại Saint-Pierre de Chandieu, Pháp) là một đầu bếp kiêm chủ nhà hàng nổi tiếng với nhiều nhà hàng ở New York City Las Vegas. Palm Beach, Miami. Vancouver và Bắc Kinh. Ông nổi tiếng nhất với nhà hàng mang tên mình, Daniel, tại New York City - ND.

(96) Số bí thuật hiện diện trong nhiều hệ thống, truyền thống hay tín điều về mối quan hệ bí truyền giữa các con số và các sự vật hay sinh vật. Số bí thuật rất phổ biến với các nhà toán học cổ đại, như Pythagoras - ND.

(97) Lưu ý độc giả, ở đây có sự khác biệt về thang nhiệt độ. Các nước Âu-Mỹ sử dụng thang nhiệt độ Fahrenheit thay vì thang độ Celsius như chúng ta. Vì thế 33 độ F tương đương 0,5556 độ C - ND.

Chương 91

Langdon và Katherine lao vội lên cầu thang tầng hầm và chạy xuống hành lang tối om để tìm lối ra đằng trước. Không còn nghe thấy tiếng cánh quạt trực thăng trên đầu nữa, Langdon cảm thấy tràn trề hy vọng rằng họ có thể thoát ra mà không bị phát giác và tìm đường tới Kalorama Heights để gặp Peter.

Người ta đã tìm thấy ông ấy. Peter vẫn còn sống.

Ba mươi giây trước, sau khi gác máy kết thúc cuộc nói chuyện với nữ nhân viên an ninh, Katherine vội vã vớt kim tự tháp và cái chóp bốc hơi ngùn ngụt ra khỏi nồi, rồi cứ để nó chảy nước ròng ròng như thế mà thả luôn vào túi Langdon. Bây giờ anh vẫn cảm nhận được hơi nóng của nó phả ra qua lớp da.

Niềm vui tìm thấy Peter tạm thời lấn át mọi mong muốn suy luận thêm về thông điệp trên cái chóp - Tám Quảng trường Franklin - nhưng chỉ cần đến được chỗ Peter, lo gì không có thời gian cho việc đó.

Khi vòng qua góc tường chỗ đầu cầu thang, Katherine dừng lại chốc lát và trỏ vào phòng khách phía bên kia sảnh. Qua ô cửa sổ xây lồi ra ngoài, Langdon trông thấy một chiếc trực thăng đen bóng im lìm đỗ trên bãi cỏ. Viên phi công đứng một mình bên máy bay, quay lưng lại phía họ và đang nói chuyện trên bộ đàm. Gần đó còn có một chiếc Escalade đen lắp kính màu.

Langdon và Katherine di chuyển trong bóng tối vào phòng khách, nhòm qua cửa sổ xem còn thành viên nào của đội đặc vụ nữa không.

May thay, cả bãi cỏ rộng mênh mông bên ngoài Đại Giáo đường vắng tanh vắng ngắt.

- Chắc là họ ở bên trong nhà thờ, - Langdon đoán.

- Không phải thế đâu, - một giọng nói trầm trầm vang lên phía sau.

Langdon và Katherine quay phắt lại để xem ai vừa lên tiếng. Ngay ở ngưỡng cửa phòng khách, hai bóng người mặc áo đen đang chĩa súng có ống ngắm la-de vào họ. Langdon còn nhìn rõ đốm đỏ sáng rực nhảy nhót trên ngực anh.

- Rất vui được gặp lại ông, Giáo sư, - một giọng nói gắt gỏng quen thuộc vang lên. Đám đặc vụ tách ra, và bóng dáng nhỏ thó của Giám đốc Sato thản nhiên bước vào, băng qua phòng khách và dừng lại ngay trước mặt Langdon - Tối nay ông đã đưa ra những lựa chọn không hợp lý chút nào.

- Cảnh sát đã tìm thấy Peter Solomon,- Langdon buộc lòng phải lên tiếng - ông ấy đang rất nguy kịch, nhưng vẫn còn sống. Mọi chuyện kết thúc rồi.

Sato không để lộ ra rằng liệu bà ta có ngạc nhiên trước thông tin ấy không. Bà bước về phía Langdon và chỉ dừng lại khi còn cách anh vài phân, ánh mắt vẫn hết sức điềm tĩnh.

- Giáo sư, tôi dám quả quyết với ông rằng, chuyện này chưa đâu vào đâu để mà kết thúc cả. Bây giờ cảnh sát có nhập cuộc thì mọi việc chỉ tổ nghiêm trọng thêm. Như tôi đã nói hồi tối, đây là một tình huống cực kỳ tế nhị. Lẽ ra ông đừng nên bỏ chạy cùng với cái kim tự tháp thì hơn.

- Thưa bà. - Katherine buột miệng - tôi cần gặp anh trai tôi. Bà cứ việc lấy kim tự tháp, nhưng bà phải để...

- Tôi phải? - Sato hỏi vặn, quay ngoắt sang Katherine - Chắc cô là cô Solomon? - Bà ta nhìn Katherine với đôi mắt rực lửa rồi ngoảnh lại bảo Langdon - Đặt cái túi da lên bàn.

Langdon liếc nhanh hai đốm la-de trên ngực mình. Anh thả túi xuống bàn cà phê. Một đặc vụ thận trọng tiến lại, mở khoá và vạch hai vành túi. Đám hơi nước bị giữ bên trong liền phà ra ngoài. Tay đặc vụ chĩa ngọn đèn vào lòng túi, chăm chú quan sát một lúc khá lâu vẻ lúng túng, sau đó gật đầu với Sato.

Giám đốc OS bước tới và ngó vào cái túi. Kim tự tháp cùng cái chóp ướt sũng lấp loáng trong quầng sáng của ngọn đèn pin. Sato cúi xuống, nhìn thật sát cái chóp vàng. Langdon nhận ra là bà ta mới chỉ trông thấy nó trên bản chụp X quang.

- Chữ khắc - Sato lục vấn - Nó có ý nghĩa gì không? "Bí mật giấu trong Tổ Chức à?

- Chúng tôi không dám chắc, thưa bà.

- Tại sao kim tự tháp lại nóng bốc hơi thế này?

- Chúng tôi thả nó vào nước sôi, - Katherine nói không chút do dự - Đó là một phần của quy trình giải mã. Chúng tôi sẽ thuật lại tất cả mọi chuyện, nhưng hãy để chúng tôi đi gặp Peter. Anh ấy đã trải qua...

- Các vị luộc kim tự tháp ư? - Sato hỏi lại.

- Tắt đèn pin đi. - Katherine nói - Hãy quan sát cái chóp. Có thể bà vẫn còn nhìn được đấy.

Tay đặc vụ tắt đèn. Sato quỳ xuống trước cái chóp. Từ chỗ đứng của mình, Langdon thấy nội dung trên cái chóp vẫn còn sáng lờ mờ.

- Tám Quảng trường Franklin ư? - Sato nói, giọng ngạc nhiên.

Phải, thưa bà. Mấy chữ đó được viết bằng thứ sơn nóng sáng hoặc một loại tương tự. Độ 33 thực ra là...

- Thế còn địa chỉ? - Sato hỏi - Gã kia cần thông tin này đây phải không?

- Phải, - Langdon đáp - Hắn tin rằng kim tự tháp là tấm bản đồ ghi địa điểm, là chìa khoá mở vào một kho tàng, và kho tàng đó là những Bí mật cổ xưa.

Sato lại quan sát cái chóp, vẻ hoài nghi lộ rõ.

- Hãy cho tôi biết - bà ta hỏi, giọng pha đôi chút sợ hãi - các vị đã liên lạc với gã đàn ông ấy chưa? Đã đưa cho gã địa chỉ này chưa?

- Chúng tôi đã thử - Langdon kể lại nội dung cuộc gọi tới số di động của gã bắt cóc.

Trong khi nghe Langdon nói, Sato liên tục đưa lưỡi liếm hàm răng vàng khè. Nghe xong, bà ta quay sang một đặc vụ, hạ thấp giọng đầy kiềm chế, mặc dù bộ dạng gần như điên tiết trước diễn biến mới này.

- Đưa ông ta vào đi. Ông ta ngồi trong chiếc SUV ấy.

Tay đặc vụ gật đầu và thông báo vào máy bộ đàm:

- Đưa ai vào cơ - Langdon hỏi.

- Người duy nhất có khả năng dàn xếp tình trạng lộn xộn khốn kiếp mà các vị vừa gây ra!

- Lộn xộn gì chứ? - Langdon vặc lại - Bây giờ Peter đã được an toàn, mọi việc...

- Lạy Chúa! - Sato nổi khùng - Vấn đề không nằm ở Peter! Bên Điện Capitol tôi đã cố giải thích như vậy, nhưng ông chọn cách chống đối chứ không phải hợp tác với tôi! Rồi ông làm rối beng mọi việc. Ông đã cắt đứt liên lạc với gã kia khi tự phá điện thoại di động của mình (mà lúc đó chúng tôi đang lần theo ông). Địa chỉ này, mặc xác nó ở đâu, cái địa chỉ mà ông vừa phát hiện này là cơ hội duy nhất để chúng tôi bắt thằng điên ấy. Tôi cần ông chơi trò chơi của hắn, đưa địa chỉ cho hắn, như thế chúng tôi mới biết phải tóm hắn ở chỗ quái quỷ nào!

Langdon chưa kịp phản ứng thì Sato đã trút cơn thịnh nộ còn lại lên Katherine.

- Còn cô, cô Solomon! Cô biết chỗ thằng điên này sống phải không? Tại sao cô không nói với tôi mà lại đi gọi một kẻ tuần tra tới nhà hắn? Cô không thấy là cô đã huỷ hoại mọi cơ hội tóm hắn ở đó. Tôi rất mừng là anh trai cô được an toàn, nhưng để tôi nói cho cô rõ, tối nay chúng ta phải đối mặt với một tình thế gay go mà tác hại của nó không chỉ giáng xuống gia đình cô. Tác hại ấy sẽ ảnh hưởng đến toàn thế giới. Kẻ bắt cóc anh trai cô có sức mạnh rất ghê gớm, và chúng tôi cần tóm hắn ngay lập tức.

Khi Sato kết thúc bài diễn văn của mình thì cái bóng lịch lãm, dong dỏng cao của Warren Bellamy tiến ra khỏi bóng tối và bước vào phòng khách. Trông ông rúm ró, thâm tím và run bần bật... như thể vừa đi qua địa ngục.

- Warren! - Langdon đứng lên - ông ổn chứ?

- Không, - viên Kiến trúc sư đáp - Không ổn lắm.

- Ông biết chưa nhỉ? Peter an toàn rồi!

Bellamy gật đầu, mặt mũi đầy vẻ bàng hoàng, cứ như thể trên đời chẳng có gì đáng phải để ý cả.

- Có, tôi vừa được nghe cuộc đàm thoại của các vị. Tôi rất mừng.

- Warren, đang xảy ra chuyện quái gì vậy?

Sato cắt ngang:

- Các vị có thể nói chuyện sau một phút nữa. Ngay bây giờ, ông Bellamy sẽ liên hệ với gã điên kia và nói chuyện với hắn. Đúng như ông ấy đã thực hiện cả buổi tối nay.

Langdon chẳng hiểu ra sao.

- Tối nay Bellamy không hề liên lạc với gã kia! Gã thậm chí còn không biết Bellamy can dự vào việc này!

Sato quay sang Bellamy và nhướng mày.

Viên Kiến trúc sư thở dài.

- Robert, tôi không hoàn toàn trung thực với anh trong buổi tối hôm nay.

Langdon chỉ còn biết đứng ngây ra nhìn.

- Tôi nghĩ mình đã làm đúng... - Bellamy nói, đầy vẻ sợ hãi.

- Phải, - Sato xen vào - giờ ông sẽ làm đúng... và tốt nhất là tất cả chúng ta nên cầu Chúa để việc ông làm có tác dụng.

Như thể phụ hoạ cho giọng điệu vênh vang của Sato, chiếc đồng hồ trên mặt lò sưởi bắt đầu đổ chuông báo nửa đêm. Sato lôi ra một chiếc túi Ziploc đựng vài đồ vật và đẩy về phía Bellamy.

- Đồ đạc của ông đây. Điện thoại di động của ông chụp được ảnh chứ?

- Vâng, thưa bà.

- Tốt. Chụp cái chóp đi.

***

Mal'akh vừa nhận được tin nhắn của Warren Bellamy, thành viên Hội Tam điểm. Hồi tối gã đã phái ông ta tới Điện Capitol để hỗ trợ Robert Langdon. Bellamy, cũng như Langdon, đều muốn Peter Solomon còn sống trở về nên quả quyết với Mal'akh rằng ông sẽ giúp Langdon lấy và giải mã kim tự tháp. Suốt buổi tối, Bellamy đã gửi nhiều e-mail cập nhật thông tin tới điện thoại di động của gã.

Tin này sẽ thú vị đây. Mal'akh thầm nghĩ và mở tin nhắn.

...

Từ: Warren Bellamy

bị tách khỏi Langdon

nhưng cuối cùng cũng có thông tin anh

muốn, gửi kèm bằng chứng.

gọi lại để biết nốt phần còn thiếu.

- wb - một tệp đính kèm (jpeg)

...

Gọi lại để biết nốt phần còn thiếu à? Mal'akh mở tệp tin đính kèm, lòng đầy thắc mắc.

Tệp tin là một bức ảnh.

Vừa nhìn thấy bức ảnh. Mal'akh đã buột thở hổn hển, tim đập rộn lên vì phấn khởi. Trong ảnh là hình chụp cận cảnh một kim tự tháp bằng vàng nhỏ xíu. Cái chóp huyền thoại! Dòng chữ khắc trên bề mặt mang một thông điệp đầy hứa hẹn: Bí mật giấu trong Tổ Chức.

Mal'akh nhìn tiếp xuống dưới và đờ đẫn cả người. Cái chóp dường như đang phát sáng. Không tin nổi, gã chăm chú nhìn dòng chữ phát sáng lờ mờ và nhận ra rằng truyền thuyết hoàn toàn có thật: Kim tự tháp Tam điểm tự biến đổi để tiết lộ bí mật của nó với những người xứng đáng.

Mal'akh không biết quá trình biến đổi kỳ diệu này diễn ra như thế nào, và gã cũng chẳng quan tâm. Nội dung đang phát sáng rõ ràng chỉ tới một địa điểm cụ thể ở ngay thủ đô này, chính xác như lời đồn đoán. Quảng trường Franklin. Rủi thay, bức ảnh chụp cái chóp lại có cả ngón tay trỏ của Warren Bellamy, đặt rất khéo lên cái chóp để che đi một phần thông tin quan trọng.

ẢNH

Gọi lại để biết nốt phần còn thiếu. Giờ Mal'akh đã hiểu ý của Bellamy.

Viên Kiến trúc sư Điện Capitol đã hợp tác suốt buổi tối, nhưng bây giờ, ông ta lại chọn một lối chơi rất mạo hiểm.

Chương 92

Langdon, Katherine, và Bellamy ngồi chờ trong phòng khách Chủng viện cùng với Sato, dưới ánh mắt trông chừng của mấy đặc vụ CIA có vũ trang. Trên bàn cà phê trước mặt họ, túi da của Langdon vẫn để mở, chóp vàng nhô hẳn ra ngoài. Mấy chữ Tám Quảng trường Franklin đã nhoà hẳn, không lưu lại bằng chứng gì cho thấy chúng từng tồn tại.

Katherine đã năn nỉ Sato để cô đi gặp anh trai mình, nhưng Sato chỉ lắc đầu, mắt gắn chặt vào điện thoại di động của Bellamy. Nó nằm trên mặt bàn, vẫn chưa đổ chuông.

Tại sao Bellamy lại không nói thật với mình? Langdon thầm thắc mắc. Suốt buổi tối, viên Kiến trúc sư đã liên lạc với kẻ bắt cóc Peter, khẳng định với gã rằng Langdon đang giải mã kim tự tháp và công việc rất tiến triển. Đó là một mánh lừa, một cố gắng nhằm kéo dài thời gian cho Peter. Trên thực tế, Bellamy luôn cố công gắng sức để cản trở bất kỳ ai đe doạ tiết lộ bí mật của kim tự tháp. Nhưng bây giờ hình như ông ta lại đổi phe, sẵn sàng cùng Sato đem bí mật ấy ra mạo hiểm với hy vọng bắt được gã kia.

- Bỏ tay anh khỏi người tôi? - một giọng già nua vang lên trong sảnh - Tôi bị mù chứ không thiểu năng. Tôi thông thuộc đường lối ở chủng viện này mà!

Cha Galloway vẫn lớn tiếng phản đối trong lúc một đặc vụ CIA lôi ông vào phòng khách và buộc ông ngồi xuống ghế.

- Ai ở đây vậy? - Galloway hỏi, đôi mắt trống rỗng bắn ra những tia nhìn vô hồn - Lực lượng nghe chừng rất hùng hậu. Các vị can bao nhiêu người để giam giữ một ông già thế? Thật là...

- Chúng tôi có tất cả bảy người, - Sato lên tiếng - Có cả Robert Langdon. Katherine Solomon và huynh đệ Tam điểm của cha là Warren Bellamy.

Galloway sụp xuống, thái độ sừng sộ cũng xẹp luôn.

- Chúng tôi ổn mà, - Langdon trấn an - và cũng vừa biết tin Peter đã an toàn. Tình trạng của ông ấy rất xấu, nhưng đang được cảnh sát trợ giúp.

- Ơn Chúa, - Galloway nói - Thế còn...

Một âm thanh lạch cạch khá to khiến mọi người trong phòng bật dậy. Điện thoại di động của Bellamy rung bần bật trên bàn cà phê. Ai nấy im phăng phắc.

- Được rồi, ông Bellamy. - Sato nói - Đừng làm hỏng việc nhé. Ông biết cái giá phải trả rồi đấy.

Bellamy hít một hơi thật sâu và thở ra, đoạn ông cúi xuống nhấn nút loa ngoài để nhận cuộc gọi.

- Bellamy đây, - ông đáp, nói to vào chiếc điện thoại trên bàn.

Loa rột rẹt, phát ra tiếng thì thào nhẹ hẫng quen thuộc. Hình như gã nọ đang liên lạc bằng điện thoại mở loa ngoài trên xe hơi.

- Quá nửa đêm rồi đấy, ông Bellamy. Tôi sắp giúp Peter thoát khỏi nổi khổ ải của lão ta đây.

Sự im lặng ngột ngạt bao trùm căn phòng.

- Cho tôi nói chuyện với ông ấy.

- Không được đâu, - gã kia đáp - Chúng tôi đang đi xe. Lão bị trói ở trong cốp.

Langdon và Katherine đưa mắt nhìn nhau rồi lắc đầu ra hiệu cho mọi người. Hắn đánh lừa đấy! Hắn không còn giữ Peter nữa!

Sato làm dấu cho Bellamy tiếp tục.

- Tôi cần bằng chứng cho thấy Peter còn sống, - Bellamy nói - Tôi sẽ không đưa phần còn lại của...

- Đại Huynh trưởng của ông cần một bác sĩ. Đừng mất thời gian mặc cả nữa. Cho tôi biết số phố ở Quảng trường Franklin, và tôi sẽ đưa Peter tới đó cho ông...

- Tôi đã bảo anh là tôi muốn...

- Này! - gã kia quát lên - Hoặc tôi tắt máy và Peter Solomon sẽ chết ngay lập tức.

- Anh nghe tôi nói đây - Bellamy cương quyết - Nếu muốn phần còn lại của địa chỉ, anh phải chơi theo luật của tôi. Gặp tôi tại Quảng trường Franklin. Đưa Peter còn sống tới đó, tôi sẽ báo với anh số của toà nhà.

- Làm sao tôi biết được ông sẽ không dẫn nhà chức trách tới?

- Vì tôi không thể mạo hiểm lá mặt lá trái với anh. Mạng sống của Peter không phải là quân bài duy nhất anh có. Tôi biết thật sự cái gì được đem đặt cược tối nay.

- Ông nên hiểu - gã đàn ông đe doạ - nếu tôi hơi cảm thấy có ai khác ngoài ông ở Quảng trường Franklin, tôi sẽ đi thẳng, và ông không bao giờ còn tìm thấy dấu vết nào của Peter Solomon nữa. Dĩ nhiên... điều đó mới là nỗi lo vụn vặt nhất thôi.

- Tôi sẽ đến một mình, - Bellamy trả lời - Khi anh trao trả Peter, tôi sẽ giao ra mọi thứ anh cần.

- Trung tâm quảng trường nhé, - gã kia hẹn - Tôi sẽ phải mất tối thiểu hai mươi phút để tới đó. Ông nên cố đợi tôi.

Máy tắt.

Ngay lập tức, cả phòng huyên náo trở lại. Sato thét to các mệnh lệnh, vài đặc vụ vồ lấy bộ đàm và tiến thẳng ra cửa.

- Đi nào! Đi nào!

Giữa cảnh hỗn loạn, Langdon đưa mắt nhìn Bellamy, mong một lời giải thích về những việc đang thực sự diễn ra tối nay, nhưng ông già đã bị kéo thốc ra cửa.

- Tôi cần gặp anh Peter! - Katherine la lối - Các người phải để chúng tôi đi!

Sato bước lại gần Katherine.

- Tôi không phải làm bất kỳ việc gì cả, thưa cô Solomon. Thế đủ rõ chưa?

Katherine đứng sững tại chỗ, tuyệt vọng nhìn đôi mắt ti hí của Sato.

- Cô Solomon, ưu tiên hàng đầu của tôi là tóm được gã kia tại Quảng trường Franklin. Cô sẽ ngồi lại đây cùng với một người của tôi trong khi tôi đi thực hiện nhiệm vụ. Sau đó, chỉ sau đó mà thôi, chúng ta mới thu xếp cho anh trai cô.

- Bà quên mất một điều, - Katherine nói - Tôi biết chính xác gã này sống ở đâu. Chỉ mất đúng năm phút đi ngược lên khu Kalorama Heights, chúng ta sẽ tìm thấy bằng chứng giúp ích cho bà? Hơn nữa, bà nói rằng bà muốn giữ kín vụ này. Ai biết được Peter sẽ nói gì với nhà chức trách khi anh ấy tỉnh lại.

Sato bặm môi, rõ ràng đang cân nhắc ý kiến của Katherine. Bên ngoài, cánh quạt trực thăng bắt đầu quay. Giám đốc OS cau mày, quay sang bảo một nhân viên.

- Hartmann, anh lấy chiếc Escalade đưa cô Solomon và ông Langdon tới Kalorama Heights. Không được để Peter Solomon trao đổi với bất kỳ ai. Hiểu chưa?

- Rõ, thưa bà, - tay đặc vụ đáp.

- Tới nơi thì gọi cho tôi. Báo cáo những gì anh tìm thấy, và đừng để hai người này ra khỏi tầm mắt của anh.

Đặc vụ Hartmann mau mắn gật đầu, rút chìa khoá chiếc Escalade và tiến thẳng ra cửa.

Katherine bám sát anh ta.

Sato quay lại phía Langdon.

- Chúng ta sẽ tái ngộ sớm thôi, Giáo sư ạ. Hẳn ông coi tôi là kẻ thù, nhưng tôi dám khẳng định rằng không phải thế. Đến chỗ Peter ngay đi. Sự việc chưa kết thúc đâu.

Cha Galloway ngồi im lặng bên bàn cà phê, gần chỗ Langdon, ông đã mò được kim tự tháp trong chiếc túi da để ngỏ và đang lần tay khắp bề mặt còn nóng của khối đá.

Langdon hỏi:

- Cha, cha có đi gặp Peter không?

- Tôi chỉ làm vướng chân các vị thôi - Cha Galloway buông tay khỏi túi và kéo khoá bao lấy kim tự tháp - Tôi sẽ ở lại đây và cầu nguyện cho Peter phục hồi. Chúng ta có thể nói chuyện sau. Khi cho Peter xem kim tự tháp, anh nhắn giúp với anh ấy một câu hộ tôi nhé?

- Được ạ - Langdon xốc chiếc túi lên vai.

Galloway hắng giọng:

- Nhắn anh ấy rằng Kim tự tháp Tam điểm luôn giữ bí mật của nó... rất thành thật!

- Con không hiểu.

Ông già nháy mắt.

- Chỉ cần chuyển lời như vậy. Peter sẽ hiểu.

Nói xong, cha Galloway cúi đầu và lẩm nhẩm cầu nguyện.

Langdon để cha xứ lại và vội vã bước ra ngoài, lòng hết sức bối rối.

Katherine đã ngồi sẵn trên ghế trước chiếc SUV để chỉ đường cho tay đặc vụ. Langdon trèo lên ghế sau. Anh vừa mới đóng cửa thì chiếc xe khổng lồ đã lao vọt qua bãi cỏ, phóng thẳng về phía bắc, tới Kalorama Heights.

Chương 93

Quảng trường Franklin nằm ở góc tây bắc khu thương mại Washington, bao quanh là các phố K và 13. Nơi này tập trung nhiều toà nhà lịch sử, trong đó nổi tiếng nhất là Trường Franklin với sự kiện Alexander Graham Bell phát đi bức điện tín không dây đầu tiên trên thế giới vào năm 1880.

Từ đằng tây, một chiếc trực thăng UH-60 bay vút tới khoảng không bên trên quảng trường sau một hành trình kéo dài vài phút từ điểm xuất phát là Đại Giáo đường Quốc gia. Còn nhiều thời gian.

Sato nghĩ, đăm đăm nhìn xuống mặt đất phía dưới. Điều quan trọng nhất bây giờ là các đặc vụ phải kín đáo ổn định vị trí trước khi mục tiêu đến. Hắn nói rằng tối thiểu hai mươi phút nữa mới tới được đây.

Theo lệnh Sato, phi công cho máy bay treo đứng trên nóc toà nhà cao nhất trong khu vực. Đây là cao ốc Một Quảng trường Franklin nổi tiếng, một toà nhà văn phòng cao vút và rất uy tín, trên nóc có hai ngọn tháp vàng. Dĩ nhiên, việc đáp lên đây là trái pháp luật, nhưng chiếc trực thăng chỉ ở đó vài giây, phần nạng đuôi cũng chỉ chạm hờ vào nóc nhà rải sỏi. Khi tất cả đã nhảy xuống, phi công lập tức bay lên, lùi sang phía đông rồi cho trực thăng bay tới "độ cao câm" và kín đáo hỗ trợ từ bên trên.

Sato đứng đợi trong khi nhóm tác chiến thu thập đồ đạc và chuẩn bị cho Bellamy thực thi nhiệm vụ của ông. Kiến trúc sư vẫn còn choáng váng vì tệp tin trên máy tính bảo mật của Sato. Như tôi đã nói... một vấn đề an ninh quốc gia. Bellamy nhanh chóng hiểu ý Sato và bây giờ đã hợp tác hoàn toàn.

- Tất cả đã xong, thưa bà, - Đặc vụ Simkins báo cáo.

Theo lệnh Sato, các đặc vụ hộ tống Bellamy băng qua nóc nhà, biến mất trong gian tum, đi thẳng xuống tầng trệt để vào vị trí của họ.

Sato bước tới mép toà nhà và nhìn xuống. Khu công viên hình chữ nhật đầy cây cối phía dưới phủ kín cả dãy phố. Có đủ phương tiên che chắn... Nhóm của Sato hoàn toàn hiểu rõ tầm quan trọng của việc tạo công cụ nguỵ trang mà không bị phát giác. Nếu mục tiêu cảm thấy họ hiện diện ở đây và quyết định bỏ chạy... bà Giám đốc thậm chí còn không muốn nghĩ đến điều đó.

Gió ở trên này khá giật và lạnh. Sato ôm vòng tay quanh mình và trụ hai bàn chân thật vững để tránh bị xô ra mép tường. Từ điểm cao nhìn xuống, Sato thấy Quảng trường Franklin nhỏ hơn bình thường, nhà cửa cũng thưa thớt hơn. Bà tự hỏi toà nhà nào là số Tám Quảng trường Franklin, và đang nóng lòng chờ câu trả lời từ chuyên gia phân tích Nola.

Bellamy và các đặc vụ tái xuất hiện, trông như bầy kiến túa ra từ bóng đổ của những tàng cây. Simkins bố trí cho Bellamy một vị trí quang đãng gần trung tâm công viên vắng vẻ. Sau đó anh ta và đồng đội tản ra xung quanh, khuất khỏi tầm nhìn, vài giây trôi qua, chỉ còn lại mình Bellamy đi tới đi lui, run rẩy trong ánh sáng của một ngọn đèn đường gần trung tâm công viên.

Sato thờ ơ quan sát.

Bà châm điếu thuốc và rít một hơi dài, tận hưởng cảm giác ấm áp thấm vào phổi. Hài lòng thấy mọi việc phía dưới đều đã đâu vào đấy, bà rời khỏi mép tường và chờ đợi hai cú điện thoại: một của chuyên gia phân tích Nola và một của đặc vụ Hartmann lúc này đang tới Kalorama Heights.

Chương 94

Chậm lại. Langdon bấu chặt lấy băng ghế sau của chiếc Escalade trong khi nó bay qua một góc rẽ, gần như chỉ lướt bằng hai bánh xe.

Đặc vụ CIA Hartmann hoặc rất hào hứng được thể hiện tài nghệ lái xe với Katherine, hoặc anh ta được lệnh phải tới gặp Peter Solomon trước khi ông hồi sức đủ để nói những điều không nên nói với cơ quan chức năng địa phương.

Phóng xe với tốc độ cao bất chấp đèn đỏ ở khu Embassy Row đã khá phiền phức nhưng lúc này họ còn đang phóng như bay qua khu dân cư ngoằn ngoèo ở Kalorama Heights. Katherine đã tới tư gia gã kia vào đầu giờ chiều, nên lúc này cứ liên tục hét to chỉ hướng cho xe chạy.

Cứ mỗi khúc quanh, chiếc túi da dưới chân Langdon lại xô lên tụt xuống. Langdon nghe rõ tiếng lanh canh của cái chóp, rành rành là nó đã rơi ra khỏi đỉnh kim tự tháp và hiện đang nảy tưng tưng dưới đáy túi. Sợ cái chóp bị hư hại, anh lùa tay vào túi. Chóp vàng vẫn ấm, nhưng dòng chữ toả sáng giờ đã mờ hẳn và biến mất, chỉ còn lại dòng chữ khắc ban đầu:

Bí mật giấu trong Tổ chức

Đang định đặt cái chóp vào ngăn bên, Langdon chợt nhận thấy bề mặt nhẵn nhụi của nó có phủ nhiều hạt trắng trơn nhỏ xíu. Bối rối, anh cố gắng phủi đi, nhưng chúng bám rất chặt và cứ chuội khỏi tay anh... giống như nhựa. Gì thế nhỉ?Langdon nhận ra bề mặt kim tự tháp đá cũng phủ kín những đốm trắng nhỏ xíu. Langdon dùng móng tay cạy ra một ít, vê vê giữa các đầu ngón tay.

- Sáp ư? - anh buột miệng.

Katherine ngoái lại.

- Chuyện gì vậy?

- Có một ít sáp phủ khắp bề mặt kim tự tháp và cái chóp. Tôi không hiểu nổi. Thứ đó từ đâu ra ấy nhỉ?

- Trong túi anh có thứ gì bằng sáp chăng?

- Tôi không nghĩ thế.

Xe vòng qua một góc phố. Katherine trỏ tay qua kính chắn gió và ngoảnh sang bảo đặc vụ Hartmann.

- Kia kìa! Chúng ta tới rồi.

Langdon ngước lên và nhìn thấy ngọn đèn xoay tròn của một chiếc xe an ninh đỗ trên lối đi trước nhà. Cánh cổng trên lối đi ấy đã kéo sẵn sang bên, đặc vụ Hartmann liền cho chiếc SUV lao thẳng vào bên trong.

Đây là một biệt thự lộng lẫy. Tất cả đèn đóm bên trong đều sáng choang, cửa trước mở toang. Khoảng nửa tá xe cộ đỗ bừa bãi trên lối đi và cả bãi cỏ, chắc hẳn đều phóng đến đây rất vội vã. Một vài chiếc còn nổ máy, đèn pha bật sáng, hầu hết đều rọi vào nhà, nhưng có một chiếc rọi xiên đi, khiến những người mới đến loá mắt.

Đặc vụ Hartmann cho xe dừng gấp trên bãi cỏ, bên cạnh một chiếc xe bốn chỗ màu trắng dán đề can rực rỡ: AN NINH ƯU TIÊN. Mấy ngọn đèn xoay tròn và quầng ánh sáng chói loà rọi thẳng vào mặt khiến họ chẳng nhìn rõ gì cả.

Katherine lập tức nhảy ra và lao vội lên nhà. Langdon xốc túi lên vai mà không kịp kéo khoá lại. Theo sát Katherine, anh băng qua bãi cỏ lên cửa trước mở rộng. Có tiếng nói vọng ra từ bên trong. Phía sau Langdon, chiếc SUV kêu bíp bíp khi đặc vụ Hartmann khoá xe và vội vã bước theo họ.

Katherine chạy hộc tốc lên các bậc cấp, lao qua cửa chính và biến mất sau lối vào. Langdon bước qua ngưỡng cửa ngay sau cô và kịp nhìn thấy Katherine đã băng qua phòng chờ và đang phóng xuống hành lang chính dẫn về phía có tiếng nói. Trước mặt cô, ở cuối sảnh, có một chiếc bàn ăn, một phụ nữ mặc đồng phục an ninh đang ngồi quay lưng lại phía họ.

- Bà sĩ quan? - Katherine kêu lên và chạy vội tới - Peter Solomon đâu?

Langdon tất tả chạy theo, nhưng ngay lúc ấy, mắt anh chợt bắt được một chuyển động khác lạ. Qua cửa sổ phòng khách. anh trông thấy cánh cổng phía bên trái mình đang đóng lại. Quái lạ. Mắt anh còn nhận thấy một chi tiết khác... chi tiết anh đã sơ suất bỏ qua do bị những ngọn đèn xoay và ánh sáng chói chang làm loá mắt lúc mới tới. Nửa tá xe hơi đỗ bừa bãi trên lối vào chẳng có vẻ gì giống xe cảnh sát hay các phương tiện cấp cứu như Langdon vẫn hình dung.

Toàn là Mercedes... Hummer... rồi Telsa Roadster! Đúng lúc ấy. Langdon còn nhận ra tiếng ồn ào anh nghe thấy trong nhà không phải là gì khác hơn tiếng máy thu hình phía phòng ăn.

Langdon lập tức giảm tốc và thét với xuống hành lang.

- Katherine, khoan đã!

Nhưng khi quay lại, anh thấy Katherine không còn chạy nữa.

Cô đang chới với.

Chương 95

Katherine Solomon biết mình đang ngã... nhưng cô không hiểu nổi tại sao lại như vậy.

Cô đang lao xuống sảnh để chạy tới phòng ăn gặp nhân viên an ninh thì đột nhiên vấp phải một chướng ngại vật vô hình, cả người cô bổ nhào về phía trước rồi cứ thế ngã ra.

Giờ thì cô đang tiếp đất... và trong trường hợp này là một mặt sàn lát gỗ.

Katherine ngã sấp mặt, sức ép làm phổi cô chấn động. Phía trên cô, một giá mắc áo nặng nề chao đảo và đổ ụp xuống, suýt trúng người cô Katherine nhấc đầu lên, há hốc miệng để thở, cô bối rối nhận ra rằng nữ nhân viên an ninh ngồi trên ghế không hề cử động. Lạ hơn nữa, chân giá mắc áo hình như có buộc một sợi dây mảnh, căng ngang qua hành lang.

Sao trên đời này lại có kẻ...?

- Katherine! - Langdon thét to gọi cô. Katherine lật nghiêng mình để nhìn lại anh, máu trong người bỗng như đông cứng. Robert! phía sau anh! Katherine cố thét lên, nhưng hụt hơi, chỉ biết giương mắt hãi hùng nhìn Langdon lao bổ xuống sảnh đỡ cô, hoàn toàn không biết rằng đằng sau anh, Hartmann đang loạng choạng bước qua ngưỡng cửa, tay bịt chặt cổ họng. Máu phun ra qua các kẽ tay người đặc vụ khi anh lần đến chuôi chiếc tô vít dài thò ra ở cổ mình. - Hartmann đang chật chưỡng tiến bước thì kẻ tấn công xuất hiện.

Lạy Chúa... không!

Trần như nhộng trừ một thứ đồ lót lạ lùng trông chẳng khác gì manh khố, gã đàn ông kềnh càng rõ ràng đã nấp sẵn trong phòng chờ: Từ đầu tới chân, thân hình cuồn cuộn cơ bắp của gã phủ kín những hình xăm kỳ lạ. Cửa trước đang khép dần, gã đàn ông lao nhanh xuống sảnh, ngay sau Langdon.

Đặc vụ Hartmann ngã xuống sàn đúng lúc cánh cửa trước đóng sầm lại. Langdon giật mình xoay người, nhưng gã đàn ông xăm trổ đã tiến sát đến, gí một thiết bị vào lưng anh. Một quầng sáng chớp lên kèm theo tiếng điện xẹt sắc lạnh. Katherine thấy Langdon cứng đờ người. Hai mắt mở to trợn trừng, anh đổ ập về phía trước, ngã rầm xuống trong trạng thái tê liệt hoàn toàn. Người anh đập mạnh vào cái túi da, kim tự tháp bung ra sàn nhà.

Không buồn liếc mắt nhìn nạn nhân của mình, gã đàn ông xăm trổ bước qua Langdon và tiến thẳng tới chỗ Katherine. Cô bò lui vào phòng ăn, và va phải một cái ghế. Nữ nhân viên an ninh, vốn được đặt tựa lên ghế, lúc này mới lắc lư và rơi phịch xuống sàn chình ình ngay bên cạnh cô. Nét mặt vô hồn của người phụ nữ còn nhuốm đầy sợ hãi, miệng nhồi nùi giẻ.

Gã đàn ông to lớn bước tới chỗ Katherine trước khi cô có đủ thời gian phản ứng. Gã tóm lấy vai cô bằng một sức mạnh khủng khiếp.

Nét mặt gã, giờ không còn phủ lớp hoá trang nữa, quả là kinh khủng. Các cơ của gã gồng lên, Katherine bị đè sấp xuống như con búp bê vải. Một cái đầu gối nặng trịch đè lên lưng cô, nhất thời, Katherine tưởng đâu mình đã bị bẻ làm đôi. Gã đàn ông tóm lấy hai tay cô và kéo giật ra sau.

Lúc này, đầu nghiêng sang một bên và má áp xuống nền thảm, Katherine trông thấy Langdon, cơ thể anh vẫn co giật, mặt ngoảnh đi chỗ khác Cách đó một quãng, trên tiền sảnh, đặc vụ Hartmann nằm bất động.

Chất kim loại lạnh lẽo siết lấy cổ tay Katherine. Hoảng hốt nhận ra mình đang bị trói bằng dây thép, cô cố gắng vùng vẫy, nhưng hành động đó càng làm hai tay cô đau buốt.

- Loại dây này sẽ cứa đứt da bà nếu bà cử động, - gã đàn ông lên tiếng, hoàn tất việc trói chặt tay Katherine và chuyển xuống trói hai mắt cá chân cô cũng với thao tác thành thạo y như vậy.

Katherine đạp gã, và tên đàn ông nọ đấm mạnh vào phía sau đùi phải cô, khiến chân cô tê dại. Chỉ trong mấy giây, mắt cá chân cô đã bị trói nghiến.

- Robert! - Katherine cố sức bật ra tiếng gọi.

Langdon đang rên rỉ trên sàn hành lang. Anh nằm đè lên cái túi da, kim tự tháp đá nằm lật nghiêng gần phía đầu anh. Katherine nhận ra ngọn tháp là hy vọng cuối cùng của cô.

- Chúng tôi đã giải mã xong kim tự tháp - cô nói với kẻ tấn công - Tôi sẽ cho anh biết mọi điều!

- Phải, bà sẽ phải làm vậy - Nói đoạn, gã giật nùi giẻ trong mồm người phụ nữ đã chết và nhét mạnh vào miệng Katherine.

Cô như ngửi thấy mùi tử thần.

***

Cơ thể Robert Langdon giờ không còn là của anh nữa. Anh vẫn nằm im, tê dại và bất động, má áp xuống nền gỗ. Từng nghe nói đến loại súng gây choáng, anh biết rằng chúng làm cho nạn nhân tê liệt bằng cách khống chế tạm thời hệ thần kinh. Chúng hoạt động theo cơ chế phá vỡ cơ điện và gây ra sức mạnh ngang với một tia sét. Cơn đau dường như ngấm vào từng phân tử trong cơ thể Langdon. Bất chấp ý chí tập trung cao độ, anh vẫn không thể buộc các cơ bắp tuân theo mệnh lệnh của mình.

Đứng dậy! Mặt úp sấp, đờ đẫn trên sàn nhà, Langdon cố hớp lấy từng ngụm không khí và khó nhọc hít vào. Anh vẫn chưa thấy mặt kẻ đã tấn công mình, chỉ thấy đặc vụ Hartmann nằm trong một vũng máu loang rộng. Langdon cũng nghe tiếng Katherine vùng vẫy và thương lượng, nhưng rồi giọng cô bỗng nghẹt lại, như thể đã bị gã kia nhét gì đó vào miệng.

Đứng dậy, Robert! Mày phải giúp Katherine! Chân Langdon bắt đầu dội lên nhói buốt, các giác quan đang phục hồi, dù đau đớn và dữ dội, nhưng chúng vẫn chưa hoàn toàn theo ý anh.

Cử động đi!

Thoạt tiên cảm giác trở lại với hai cánh tay bằng dấu hiệu giật nhẹ, tiếp đến là cảm giác ở mặt và cổ. Với nỗ lực phi thường. Langdon cố xoay đầu, rê má mình trên sàn gỗ để nhìn xuôi xuống phòng ăn.

Tầm nhìn của anh bị kim tự tháp đá che khuất. Nó đã văng ra khỏi túi và đang nằm nghiêng trên sàn, đế chỉ cách mặt anh vài phân.

Nhất thời, Langdon không hiểu mình đang nhìn thấy gì. Cái hình vuông bằng đá trước mặt rõ ràng là đế của kim tự tháp, nhưng giờ trông khác hẳn. Rất khác. Nó vẫn vuông, và vẫn bằng đá... nhưng không còn trơn nhẵn và phẳng phiu nữa mà phủ kín nhiều hình khắc. Tại sao lại thế? Langdon căng mắt nhìn mấy giây liền, tự hỏi liệu mình có bị ảo giác không. Mình đã quan sát phần đế tháp cả chục lần... và không hề có hình khắc nào cả.

Rồi anh tìm ra nguyên nhân.

Phản xạ hô hấp bắt đầu hoạt động trở lại, Langdon đột ngột hít thở được. Anh nhận ra rằng Kim tự tháp Tam điểm vẫn còn chứa đựng nhiều bí mật. Mình vừa chứng kiến một quá trình biến đổi nữa.

Trong nháy mắt, Langdon hiểu ra đề nghị cuối cùng của cha Galloway. Nhắn anh ấy rằng Kim tự tháp Tam điểm luôn giữ bí mật của nó... rất thành thật. Lúc đó, nghe câu nói có vẻ kỳ cục, nhưng bây giờ Langdon đã thấu suốt, cha Galloway muốn gửi cho Peter một mật mã. Hài hước thay, mật mã ấy được trình bày trong một cuốn sách kinh dị tầm thường mà Langdon từng đọc nhiều năm về trước.

Thành thật.

Từ thời Michelangelo, các điêu khắc gia thường che giấu khiếm khuyết trong tác phẩm của mình bằng cách bôi sáp nóng vào những khe hở rồi phết bột đá lên sáp. Phương pháp này bị coi là lừa đảo, do đó bất kỳ tác phẩm điêu khắc "không có sáp" nào - theo đúng nghĩa từ vựng là sine cera - sẽ được coi là một tác phẩm nghệ thuật "thành thật". Cụm từ dần trở nên phổ biến. Ngày nay, người ta vẫn ký dưới các lá thư của mình dòng "sincerely" (rất chân thành) như một lời hứa rằng họ viết "không có sáp", rằng điều họ nói là sự thật.

Các hình khắc ở đế tháp được che giấu bằng chính phương pháp ấy. Khi Katherine luộc kim tự tháp theo chỉ dẫn trên chóp vàng, lớp sáp liền chảy ra, để lộ phần chữ trên đế. Lúc đến phòng khách, Galloway dùng tay sờ toàn bộ kim tự tháp, và hiển nhiên là ông đã phát hiện ra những ký hiệu ở phần đáy.

Trong khoảnh khắc, Langdon quên hết mọi nguy hiểm mà anh và Katherine đang phải đối mặt. Anh đăm đăm nhìn các ký hiệu kỳ lạ nọ, không hiểu chúng mang ý nghĩa gì... hay suy cho cùng chúng hé lộ điều gì, nhưng có một điều rất chắc chắn: Kim tự tháp Tam điểm vẫn còn chứa đựng những bí mật! Tám Quảng trường Franklin chưa phải là câu trả lời cuối cùng.

Không biết do khám phá mới mẻ này gây cảm xúc mạnh hay chỉ đơn giản là nhờ thời gian kéo dài, Langdon đột nhiên nhận ra đã kiểm soát được cơ thể mình.

Dù rất đau, anh vẫn cố quơ tay sang một bên, đẩy chiếc túi khỏi tầm mắt để nhìn về phía phòng ăn.

Anh hoảng hồn nhận thấy Katherine bị trói chặt, một nùi giẻ lớn nhồi kín miệng cô. Langdon gắng gồng người, cố nhổm dậy trên hai đầu gối, nhưng chỉ lát sau, anh đờ người sửng sốt. Cửa ra vào phòng ăn xuất hiện một hình dáng hãi hùng, một nhân dạng Langdon chưa từng trông thấy.

Nhân danh Chúa...?!

Langdon lăn mình, đạp mạnh hai chân, cố gắng lui ra sau, nhưng thằng người khổng lồ xăm trổ kia đã vồ lấy anh, lật ngửa anh ra và cưỡi lên anh. Gã kê đầu gối lên hai bắp tay Langdon để ghìm chặt anh xuống sàn nhà. Ngực gã rung rung hình một con phượng hoàng hai đầu. Cổ, mặt và cái sọ nhẵn thín của gã phủ kín một lô xích xông biểu tượng khó hiểu quái đản. Langdon biết đó là loại dấu thường sử dụng trong những nghi lễ ma thuật.

Langdon chưa kịp phân tích gì thêm thì gã khổng lồ đã dùng tay túm chặt hai tai anh, nhấc đầu anh lên khỏi sàn nhà và, bằng một sức mạnh kinh hồn, nện mạnh xuống sàn gỗ cứng.

Không gian trở nên đen kịt.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#gakute