Chap 1:Thiên Thần

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Cậu là Thiên Thần số một ở nơi Thiên Đàng này,được Chúa mang tặng tâm hồn của kẻ thuần khiết nhất trong lịch sử Thiên Thần,Cậu cũng được làm Đội trưởng đội vệ binh số một của Thiên Đàng này.Chúa rất sủng ái Cậu coi cậu như con của mình,cho cậu rửa mặt bằng nước thánh một 1000 năm mới lấy được,Trên Thiên Đàng cậu được coi là Con Của Trời nhưng dưới địa ngục thì ngược lại cậu bị coi là Con Quỷ Đội Lớp Thiên Thần vì có một sự thật cậu chín là hôn phu của kẻ được gọi là Vệ Binh Mạnh Nhất Địa Ngục hai kẻ đối lập lại bị đối phương thu hút một cách đấm đuối.Chỉ có những con quỷ đỏ dưới Địa Ngục mới biết được cậu là hôn phu của Chủ nhân bọn nó,bọn nó đã nói với các Thiên Thần khác nhưng lại bị các Thiên Thần đó đánh bay về Địa Ngục.
———————Hết———————
Vì lười nên viết nhiêu đó thôi nha
Thiên thần là gì: là thiên thần là những thực thể ở trên cao, được tìm thấy trong nhiều tôn giáo. Theo niềm tin của ba tôn giáo chính thuộc độc thần giáo, các thiên sứ thường thi hành nhiệm vụ của các sứ giả. Bổn phận của thiên sứ là phục vụ Thiên Chúa. Thiên thần bản thân cũng là một vị Thánh.
Chức vụ của cậu:
Tổng lãnh thiên thần, Tổng lãnh thiên sứ, Thiên sứ trưởng, hay Trưởng thiên sứ là thứ bậc cao trong hàng ngũ các Thiên sứ. Tổng lãnh thiên thần được biết đến qua nhiều tôn giáo, truyền thống khác nhau, trong đó có Do Thái giáo, Kitô giáo, Hồi giáo và Bái hỏa giáo.

Từ Tổng lãnh Thiên thần (archangel) bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp αρχάγγελος archangelos = αρχ- arch- ("đầu tiên, bậc nhất, thủ lĩnh")và άγγελος angelos ("người đưa tin").

Chúa:
Nghĩa gốc của từ chúa là người làm chủ, có thể hiểu là người sở hữu, cai trị hoặc có quyền lực rất cao đối với một vùng đất đai, một cộng đồng dân cư (lãnh chúa), hoặc một tổ chức, một thiết chế nào đó. Trong khi chủ là âm Hán Việt tiêu chuẩn của chữ Hán 主 thì chúa là âm Hán Nôm-hóa. Nhìn chung

Chiến tranh trên thiên thần:
Theo Kitô giáo, Chiến tranh trên Thiên đàng là một cuộc chiến đã diễn ra khi mà Luyến thần Lucifer (một thiên thần sa ngã), lãnh đạo 1/3 các Thiên thần trên Thiên đàng, nổi loạn chống lại Thiên Chúa và các thiên thần trung thành với Người.

Thiên Thần Sa Ngã:
Trong các tôn giáo khởi nguồn từ Abraham, thiên thần sa ngã là những thiên thần bị trục xuất khỏi thiên đàng. Thuật ngữ "thiên thần sa ngã", tuy theo nghĩa đen không xuất hiện trong Kinh Thánh cũng như trong các thánh thư tôn giáo Abraham khác, nhưng được dùng để mô tả những thiên thần lầm đường lạc lối hay những thiên thần bị đuổi khỏi thiên đàng. Những thiên thần như vậy thường cám dỗ con người phạm tội, chống lại Thiên Chúa.

Khái niệm thiên thần sa ngã bắt nguồn từ Sách Hê-nóc, một nguỵ điển của người Do Thái, hay từ giả thuyết rằng "các con trai của Đức Chúa Trời" (בני האלוהים) được đề cập trong Sáng Thế Ký 6:1–4 là những thiên thần. Trong giai đoạn ngay trước khi Tân Ước được biên soạn nên, một số giáo phái Do Thái giáo và nhiều Giáo phụ Ki-tô giáo đã đồng nhất hoá "các con trai của Đức Chúa Trời" được đề cập trong Sáng Thế Ký 6:1–4 với các thiên thần sa ngã. Kể từ sau thế kỷ 3, các rabbi Do Thái giáo và chức sắc Ki-tô giáo đã bác bỏ các kinh thư Hê-nóc và quan niệm về những người khổng lồ được sinh ra như kết quả của mối quan hệ bất chính giữa thiên thần và phụ nữ phàm trần. Học thuyết Ki-tô giáo cho rằng tội lỗi của thiên thần sa ngã đã có từ trước khi loài người xuất hiện. Theo đó, thiên thần sa ngã hay ác quỷ, được nhận diện là nhóm thiên thần do Satan cầm đầu nổi loạn chống lại Thượng Đế. Tuy nhiên, khi bước sang cuối thời kỳ Đền thờ thứ hai, ác quỷ không còn được xem là thiên thần sa ngã, mà họ chỉ đơn thuần là linh hồn còn sót lại của những đứa con quái dị do thiên thần sinh ra. Theo cách giải thích này, các thiên thần sa ngã đã có quan hệ ái tình với phụ nữ phàm trần và sinh ra những đứa con được miêu tả là người khổng lồ trong Kinh Thánh. Để thanh lọc những sinh vật này khỏi nhân gian, Thượng Đế đã tạo nên trận Đại Hồng Thủy. Tuy phần cơ thể bị phá hủy, phần linh hồn của chúng vẫn tồn tại và kể từ đó đi lang thang, vất vưởng trên mặt đất như quỷ dữ.[2]

Trong Hồi giáo, niềm tin về thiên thần sa ngã có thể được bắt nguồn từ những tường thuật của một số người đồng hành với nhà tiên tri Muhammad như Ibn Abbas (619–687) hay Abdullah ibn Masud (594–653).[3] Kể từ khi đạo Hồi được sáng lập, sự tồn tại của thiên thần sa ngã đã trở thành một đề tài tranh luận. Một số học giả Hồi giáo phản đối giả thiết về sự tồn tại của thiên thần sa ngã bằng cách đề cao lòng mộ đạo của họ, chứng minh qua các câu 16:49 và 66:6 trong Kinh Qur'an, dù cả hai câu này đều không tuyên bố rằng thiên thần miễn nhiễm với tội lỗi.[4] Trong giới học giả Hồi giáo, một trong những người đầu tiên phản đối khái niệm thiên thần sa ngã là Hasan xứ Basra (642–728), một nhà tu khổ hạnh có ảnh hưởng sống vào thời sơ kỳ Hồi giáo. Như để ủng hộ học thuyết về những thiên thần không thể mắc sai lầm, ông liệt kê từ Kinh Qur'an những câu đề cập tới lòng mộ đạo của thiên thần, đồng thời diễn giải lại những câu có thể đang gián tiếp thừa nhận sự tồn tại của thiên thần sa ngã. Vì lẽ đó, ông đã đọc thuật ngữ mala'ikah (thiên thần) dùng để chỉ Harut và Marut, hai thiên thần sa ngã được đề cập trong 2:102, thành malikayn (vua) thay vì malā'ikah (thiên thần) và miêu tả họ như người bình thường, đồng thời tán thành với quan điểm rằng Iblis là một jinn, chứ chưa từng là thiên thần bao giờ.[5] Cấp độ sai lầm chính xác của một thiên thần là không rõ ràng, thậm chí cả đối với các học giả chấp nhận sự tồn tại của thiên thần sa ngã. Theo một xác nhận chung, thiên thần chỉ không thể mắc sai lầm nếu họ là sứ giả hoặc chừng nào họ vẫn là thiên thần.[6]

Các học giả đã tranh luận về việc liệu jinn trong Kinh Qur'an có giống với các thiên thần sa ngã trong Kinh thánh hay không. Dù các dạng thánh linh trong Qur'an đôi khi khó có thể phân biệt được với nhau, jinn – theo miêu tả Hồi giáo truyền thống – dường như sở hữu những đặc điểm khác biệt với thiên thần sa ngã.[1][a]

__________________hết________________

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro