bo bo sinh lien 334-358

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương 340: Đường sứ (1)

Mộ Dung Cầu Túy, Phương Chính Nam, Trình Vũ và Trình Đức Huyền cùng nhau trở về thành.



Nam Nha Thanh Tâm lâu. Trình Vũ và Trình Đức Huyền ngồi xuống nghe Triệu Quang Nghĩa kể về những việc đã xảy ra trên đường về kinh một lượt, Trình Vũ không khỏi lo lắng nói: "Thiên tuế, Triệu Phổ vi phạm lệnh cấm bán trộm gỗ lớn ở Tần Lũng, nhưng quan gia lại không hề trách tội, ngược lại còn giáng tội danh vu cáo đại thần cho đại tướng quân tả giám môn vệ vốn làm việc theo phép công, giáng xuống làm một chức quan nhỏ bé ở Nhữ Châu. Ngô Việt quốc bí mật đem vàng tặng cho Triệu Phổ, quan gia lại không hỏi tội hắn, người lại còn hỏi hắn kế sách, có thể thấy Triệu quan gia rất sủng ái Triệu Phổ, Triệu Phổ bây giờ đức cao vọng trọng, ti chức thấy chúng ta hiện giờ không dễ ra tay nữa."



Triệu Quang Nghĩa mỉm cười nói: "Điều đó cũng chưa chắc, sự chán ghét đối với một người sẽ được tích tụ dần theo năm tháng, nếu như vì hai việc nhỏ này mà lại đánh gục được một tể tướng đương triều sao, đó mới là điều kì lạ đấy. Những chuyện này chỉ là một đĩa rau trên bàn đầy thức ăn mà thôi, phải dần chôn một thêm một số sự hiềm khích ác cảm vào lòng quan gia, để cho quan gia dần nảy sinh sự chán ghét đối với Triệu Phổ. Điều mà quan gia kị nhất chính là thần tử không biết vị trí của mình, xúc phạm quyền uy thiên tử, quan gia đối với người khác nhân hậu, duy chỉ có điểm này là khác. Mấy ngày nay ta ở Khai Phong đã bí mật sắp xếp người đi tìm hiểu điểm yếu của Triệu Phổ, tiếp theo đó từ mặt này mà nắm thóp hắn, liên tiếp tiến hành tấn công hắn. Con đê nghìn dặm, vỡ tan bởi một tổ kiến, từng con kiến đào xuống, con đê dài Triệu Phổ này cũng sẽ có lúc bị phá hủy."



Hắn cười lạnh lùng, hơi nhìn về phía trước, nói: "Trọng Viễn, ngươi về đúng lúc lắm. Ngươi làm việc rất thận trọng, biết ăn nói, đại sự này của bổn vương đang muốn sắp xếp cho người làm đây. Trọng Viễn, ghé tai sát vào đây..."



Bên bến thuyền Biện Hà, Triệu Phổ và Dương Hạo cùng nhìn về chiếc thuyền lớn của Đường Quốc ở xa xa, không hẹn mà cùng đưa tay phủi phủi quan bào, đội lễ nhạc bên cạnh cũng đã chuẩn bị sẵn sàng.



Lần này Đường quốc xuất sứ, người được phái đến là con trai thứ bảy của Đường Nguyên Tông, đệ đệ của Lý Dục - Trịnh Vương Lý Tòng Thiện và sử bộ thượng thư Từ Huyễn. Một đoàn sứ ngoại giao long trọng như vậy có thể nói là chưa từng có bao giờ. Lý Tòng Thiện thì khỏi phải nói rồi, hắn là huynh đệ của hoàng đế Nam Đường, vương gia của Đường quốc, thân phận đương nhiên là cao quý. Còn Từ Huyễn lại là một tài tử có tiếng của Giang Nam, bảy tuổi đã biết làm thơ, mười tuổi có thể làm văn, mười sáu tuổi đã làm đại thần chuyên quản lý về thư kinh của Đường quốc, cùng nổi tiếng về văn thơ với người đệ đệ Từ Khải, hiệu xưng "Giang Nam nhị Từ", sau khi làm quan thì tên tuổi lại nổi tiếng ngang tể tướng Hàn Công Vu, người ta còn gọi hắn là Hàn Từ của Giang Nam.



Vì chuyện phải phái ai đi tiếp đón sứ thần Đường quốc mà trên triều mọi người đã thảo luận đi thảo luận lại nhiều lần. Đường quốc phái đến một vương gia và một sử lại thượng thư, theo lễ nghĩa thì Tống quốc cũng nên có người tương xứng về cấp bậc đi tiếp đón mới đúng. Nhưng vị Trịnh vương Đường quốc đó không nói làm gì, còn vị Từ thượng thư lại nổi tiếng khắp thiên hạ với ngòi bút và tài ăn nói, người này học thức uyên thâm, văn tài xuất chúng, môi thương lưỡi tiễn, phải quan hệ tiếp đón ngoại giao với một người như vậy quả thực nhiều quan viện Đại Tống trên triều đều có chút lo lắng.



Bây giờ Đại Tống chỉ có hai vương gia, một là Ngụy vương hay là Tấn vương. Ngụy vương còn trẻ tuổi, luận về học thức thì còn kém xa, không thể là đối thủ của Từ Huyễn. Chuyến đi xuất sứ đến Giang Nam lần này của hắn vừa mới tạo dựng được một chút danh tiếng, Triệu Khuông Dận yêu thương đứa con, không muốn hắn bị xấu hổ trước mặt Từ Huyễn, nên có lòng bảo vệ. Còn về Tấn vương, bây giờ còn kiêm cả chức vụ Phủ Doãn phủ Khai Phong, cũng không tiện làm một đại sứ tiếp đón. Hơn nữa, cứ nghĩ đến phải tiếp chuyện với Từ Huyễn thì Triệu Quang Nghĩa lại lo sợ khi mở miệng, hắn cũng không đồng ý ra mặt.



Cứ như thế, quan viên mà triều đình phái ra để nghênh đón sứ thần phải được chọn từ trong quan viên trong triều, một người có quyền cao chức trọng mới tương xứng với quy cách của đối phương. Danh của người, bóng của cây, sự nổi tiếng của cái mồm nói nhanh sắc bén như dao của Từ Huyễn đã truyền khắp thiên hạ, những trọng thần triều đình Đại Tống đều sợ mình không nói lại được với Từ Huyễn, đến lúc đó làm mất mặt triều đình lại còn làm xấu cả danh tiếng của mình, họ đều tìm đủ mọi cách để thoái thác, không có ai đồng ý đảm nhiệm cái chức này.



Chọn đi chọn lại, cuối cùng tể tướng đương triều chủ trì chấp pháp không thể đẩy được trách nhiệm, Triệu phổ đành phải đích thân xuất mã. Triệu Phổ thực ra cũng không tình nguyện lắm, con người Từ Huyễn này hắn chưa từng gặp qua, nhưng danh tiếng của đối phương thì hắn đã từng nghe thấy, Triệu Phổ hắn ngay cả một quyển "Luận ngữ" mà đến bây giờ mới học được một nửa, bảo hắn tiếp lời với đại học sĩ có miệng lưỡi sắc bén như Từ Huyễn, hắn nào có sự tự tin đó?



Có điều, hắn đã nhân hối lộ của Ngô Việt quốc, bị Triệu Khuông Dận tóm được, bây giờ chính là lúc lấy công chuộc tội, nào dám có ý chối từ? Đành phải gượng mình mà nhận vậy. Cũng may, quan gia đã nói, theo quy cách thì phải có một vị đại thần chức vị lớn sánh vai với vương gia, còn về sau khi nghênh đón thì tể tướng đương triều công việc bận rộn, không thể tiếp đãi suốt được, nên sau này sẽ do hồng lư tự phụ trách, như thế Triệu Phổ mới yên tâm.



Còn về phía hồng lư tự thì vị đại hồng lư tự tên Trương Đài Liễu đó vốn thường đã nhiều bệnh, vừa nghe thấy phải tiếp đón sứ thần Đường quốc lập tức đổ bệnh nằm liệt giường, mà trước đó, phàm là chuyện gì hắn cũng muốn tranh cao thấp với Dương Hạo, nhưng lần này đã hết sạch khí phách, hoàn toàn không có ý tranh sủng.



Dương Hạo lại chẳng biết Từ Huyễn là ai, không biết không sợ, Triệu Khuông Dận vừa nói hắn liền vui vẻ nhận lời. Đợi khi hắn trở về nhà, đem chuyện mình làm sai sứ nói ra thì Ngô Oa Nhi mới vội nói: "Quan nhân, nghe nói Từ Huyễn đó có cái miệng sắt, như thương như tiễn, rất lợi hại, trong triều các quan đều chối từ là vì sợ cái miệng của hắn.



Quan nhân trăm phương nghìn kế, đương nhiên không kém người ta, nhưng vị Từ đại học sĩ này kiến thức uyên thâm, lại không phải chỉ có cái miệng lợi hại. Lý Dục Giang Nam xây một tòa lầu, hắn tìm khắp thiên hạ các loại sách hay nhất để đề tên, đề câu đối thì chỉ có duy nhất bộ sách của Từ đại học sĩ, thâm hiểu cổ kim vô số điển tích điển cố, kinh sử, nếu như hắn nói đố mà quan nhân lại lờ mờ không hiểu ý, đối đáp thất lễ, mất mặt mình là chuyện nhỏ, nhưng lần này không phải là bình thường, mà là thể diện của triều đình Đại Tống. Trong triều có nhiều học sĩ uyên thâm sao lại không thấy một người nào chịu xuất đầu lộ diện vậy?"



Dương Hạo vừa nghe đã nổi cả gai ốc, lập tức tiến cung để từ chức sai sứ, tự thừa nhận mình học thức nông cạn, khó mà có thể ứng phó được với đệ nhất tài tử Giang Nam.



Triệu Khuông Dận cười ha ha, nói với hắn: "Dương khanh lúc đầu khi ở Quảng Nguyên, hỉ hả chửi mắng, chửi cho Lục Nhân Gia phun cả máu, lẽ nào bây giờ lại đối phó không nổi một Từ Huyễn sao?"



Dương Hạo cười khổ: "Quan gia, lúc đó mắng chửi Lục đại danh sĩ thần đã sử dụng một số thủ đoạn vô lại, dù sao thần cũng là tầng lớp áo vải, không sợ hạ thấp thân phận mình? Nhưng bây giờ...bây giờ thần lại đại biểu cho triều đình Tống quốc ta, sao có thể giở những thủ đoạn làm tổn hại quốc cách được?"



Triệu Khuông Dận cười giảo hoạt, nói: "Nếu nói về thuật quyền nghi cơ biến thì bách quan trong triều có ai bằng được khanh chứ. Quốc thể quốc cách đương nhiên cần được bảo toàn, nhưng đối phó với một nhân sĩ miệng lưỡi sắc bén như Từ Huyễn thì cho dù có tìm hết nhân sĩ bác học trong triều đình ta cũng khó mà tìm ra được đối thủ của hắn, nếu đã như vậy thì chi bằng để khanh ra ứng phó. Dương khanh không giỏi đọc sách, trong triều đình ta ai cũng biết, nếu như có chỗ nào sai sót cũng không bị coi là mất mặt mình."



Dương Hạo vừa nghe liền thầm nghĩ: "Ngài thật là quá độc, dám chắc ngài không thể chọn ra được người có khả năng đối phó với Từ Huyễn, lại cảm thấy người người đều biết Dương Hạo ta không hay chữ nên mới nghĩ ra chủ ý lấy hạ tứ đấu với thượng tứ này, lấy con lợn chết như ta ra để tưới nước sôi." Nghĩ vậy hắn liền nhéo cái mũi đồng ý.



Cứ như thế, hai người Triệu Phổ và Dương Hạo không hề tình nguyện bước lên nhận nhiệm vụ, gánh trách nhiệm nghênh đón đại sứ. Đương nhiên, Triệu Phổ là kiêm chức, Dương Hạo là người dẫn chính (toàn bồi), nên càng khổ hơn.



Thuyền của Đường quốc đã từ từ tiến lại gần bến thuyền. Trịnh vương Lý Tòng Thiện và sử bộ thượng thư đều y quan chỉnh tề, bước lên mũi thuyền nhìn về phía bến thuyền xa xa, thấy trên bến thuyền binh sĩ đã nghiêm trang, ở giữa có bắc lán nhiều màu, dưới lán có hai đại thần Đại Tống đang đứng. Lý Tòng Thiện và Từ Huyễn vội chỉnh lại y quan một lần nữa, chuẩn bị lên bờ gặp mặt.



Lần này họ đến đây đương nhiên là phụ trách một sứ mệnh ngoại giao vô cùng quan trọng. Tống quốc tấn công Hán Quốc của Mân Nam, chiến sự rất thuận lợi, họ ở Giang Nam nên hiểu càng rõ hơn tình hình chiến sự của Mẫn Nam so với Khai Phong. Mỗi ngày, những tin báo về thành Kim Lăng đều là tin Đại Tống đại thắng, Lý Dục bắt đầu không thể ngồi yên nữa.



Tình thế quả nhiên là giống như những gì Lâm Nhân Triệu đã dự liệu. Hán quốc, nơi mà lòng dân sớm đã mất hoàn toàn không phải là đối thủ của Tống quốc, bên cạnh Nam Hán không có một Khiết Đan cường đại chống đỡ thì lần này e rằng khó có thể bảo toàn được. Nam Hán một khi đã bị diệt, đến lúc đó Đường quốc sẽ bị rơi vào sự bao vây ba phía của Đại Tống, nếu như Đại Tống lại tìm cớ để thảo phạt Đường quốc thì... Ý nghĩ này vừa tới, Lý Dục liền ăn ngủ không yên, hắn suy nghĩ trăn trở, cuối cùng quyết định: Phải áp chế người ta trước.



Cái kế áp chế này của Lý Dục không giống như kế mà lúc đầu Lâm Nhân Triệu đã đưa ra là thỉnh hắn nhân lúc Tống triều động binh với Mân Nam, hậu phương bị trống, phát binh đánh Khai Phong. Lần này kế của Lý Dục là tiến một bước nhận sai, lấy nhu khắc cương. Vì thế hắn đã sai huynh đệ của mình và đại học sĩ Từ Huyễn đến gặp mặt hoàng đế Tống quốc, dâng cống các sản vật, tự tước quốc hiệu, thay hoàng đế Đường quốc xưng thành quốc vương Giang Nam.



Phong hiệu Tống quốc này chỉ cần chấp nhận thì Đường quốc đã tự hạ xuống một cấp, trở thành nước sở thuộc Tống quốc.



Theo như Lý Dục, Đường quốc ta đã trở thành thuộc quốc của Tống quốc, quốc vương Giang Nam ta trở thành thần tử của hoàng đế Tống quốc ngươi, ngươi làm hoàng đế mà lại có thể không ngại ngùng xuất binh tấn công thần tử luôn cung kính hòa nhã, từ xưa đến nay không có ý phản kháng sao? Lý Dục suy đi tính lại, cẩn thận sắp xếp một lượt, chuẩn bị những báu vật sản vậy, lựa chọn một dàn mỹ nữ Giang Nam rồi phái người mang đi.



Nguồn: http://4vn.eu/forum/showthread.php?t=71274&page=72#ixzz1zqVU0BBh

Chương 341: Đường sứ (2)

Lý Tòng Thiện chỉ là một thiếu niên mới hai mươi tuổi, một bậc nhân tài, nho nhã phóng khoáng. Từ Huyễn là một danh sĩ Giang Nam, lại là người nói chuyện nhả ra thơ, văn tài lưu loát. Danh sĩ này đúng là "hàng thật đúng giá", hắn ở trong quan trường không lâu, lời nói linh hoạt, đối đáp đâu ra đấy, so với loại kiêu ngạo như Lục Nhân Gia thì cao hơn nhiều.



Hai bên trò chuyện vui vẻ, dắt tay nhau vào thành. Thấy thành Biện Lương đường đi rộng rãi, phố phường phồn vinh, bến Biện Hà thuyền bè tấp nập, trên đường không nhìn thấy binh lính, hàng hóa nhiều như mây, đủ màu sắc và đầy không khí ấm no, Lý Tòng Thiện và Từ Huyễn không khỏi thấy kinh ngạc, không ngờ tốc độ hát triển của nơi đây lại nhanh đến vậy. Nhớ lại năm đó, khi mà Nam Đường ở vào giai đoạn phồn vinh nhất, có đến ba mươi châu, bao gồm cả Cống, Hoàn, Tô, Mân, Kinh, Hồ, dân chúng lúc đó lên đến năm trăm vạn người, binh cường mã tráng, vậy mà bây giờ đã tiêu tan, lại suy yếu rất nhiều, không khỏi thầm thương tiếc.



Triệu Phổ và Dương Hạo đưa hai vị quốc sứ tiến vào lễ tân viện, lại mở một bữa yến tiếc thiết đãi. Hỏi han ý kiến đối phương, biết được Đường quốc là tự tước quốc hiệu để xưng thần, thỉnh thần quy thuận, hai người họ cảm thấy không vui, nên yến tiệc bị hoãn lại, lập tức chuyển tin tức vào cung. Sau đó Triệu Phổ trở về phủ tể tướng, lập tức triệu tập mạc liêu, phân tích dụng ý của Đường quốc, thương lương kế sách ứng phó.



Buổi sáng hôm sau, Đường quốc Trình Vương Lý Tòng Thiện và Từ Huyễn lên điện diện kiến quân vương, tất cả các quan từ tứ phẩm trở lên đều có mặt chứng kiến. Lý Tòng Thiện và Từ Huyễn cũng là lần đầu tiên gặp mặt hoàng đế Tống quốc, thấy Triệu Khuông Dận ngồi trên ngai vàng, tai to mặt lớn, khí độ ung dung, hai mắt lấp lánh, không tỏ ra quá oai nghiêm mà nói chuyện lại khá thoải mái, trong sự anh vũ không mang theo sát khí. Bách quan trong triều ra vào rất có trật tự, tuân thủ lễ nghi, trật tự ngay ngắn, lại nghĩ lại cảnh tượng hôm qua đã ở Khai Phong, biết rõ Tống quốc đã tạo ra thành công sự thái bình, không khỏi có sự kính sợ.



Đường quốc sứ tiết bây giờ đến lại thỉnh cầu tự tước quốc hiệu, hạ thấp quốc cách, thỉnh làm thuộc quốc của Đại Tống, sau này tuân thuận Đại Tống, bình dân dẹp loạn, mỗi năm đều cống tấn Đại Tống hai vạn lượng bạc trắng. Hoàng đế cải hiệu xưng quốc vương, hoàng bào đổi thành tử sam, những nơi trang trí long phụng trong cung điện đều được cạo bỏ, con cháu vốn xưng "vương" thì đổi thành "công", những nha môn tương đương với Đại Tống cũng đều cần đổi tên, ví dụ như Thư Tỉnh, Môn Hạ Tỉnh, Thượng Thư Tỉnh, Ngự Sử Đài....đều đổi thành "tả, hữu nội sử phủ" "Ti Hội Phủ"....các chức quan cũng đổi lại, để tránh hiềm nghi.



Tất cả các điều kiện làm cho Triệu Khuông Dận thấy rất vui mừng, cả triều vui vẻ như mùa xuân, bây giờ mới chỉ là nói về ý của Đường quốc, Tống triều cũng phải đưa ra những điều kiện tương đương, không thể lập tức kí kết quốc thư xác lập quân thần địa vị của hai bên được.



Nhưng những lễ vật được nói đến thì lại lập tức được dâng lên. Ba mươi mĩ nữ Giang Nam được đưa đến đại điện, đó đều là những mĩ nữ yêu kiều đáng yêu, mắt đen da trắng, răng trắng, quần áo sặc sỡ, hương thơm ngào ngạt. Triệu Khuông Dận cười nhạt nhìn một lượt rồi ra hiệu bảo đưa vào hậu cung.



Từ Huyễn lại sai người mang lên các bảo bối, vàng bạc châu báu khác, Triệu Khuông Dận mỉm cười gật đầu chấp nhận. Tiếp theo đó Từ Huyễn lại dâng lên một đai ngọc có nạm vàng khảm ngọc, cực kì hoa lệ.



Tiểu nội thị dâng lên trước mặt hoàng đế, Triệu Khuông Dận chạm nhẹ vào, nghi ngờ nói: "Vật này cũng được coi là bảo vậy, nhưng lại không có tác dụng đặc biệt, tại sao lại dâng lên một mình như thế này?" Từ Huyễn cúi người xuống nói: "Thần thỉnh bệ hạ hãy thử ấn vào miếng ngọc ở giữa."



Triệu Khuông Dận nghi hoặc, cầm đai ngọc lên, ấn vào miếng ngọc giá trị nghìn vàng ở giữa lên, ấn một cái, thì nghe thấy một âm thanh leng keng vang lên, đai ngọc lập tức thẳng tắp, một lưỡi dao sắc bén bắn ra nửa thước, lưỡi dao sáng lóa, Triệu Khuông Dận không khỏi hai mắt sáng lên, thốt lên tán thưởng: "Hảo kiếm!"



Vẻ mặt Lý Tòng Thiện có chút đắc ý, nói: "Kiếm này là được thợ rèn nổi tiếng Long Tuyền dùng năm lượng vàng tinh anh luyện thành, mềm như lụa, nhưng thắng được cả thép, sắc bén vô cùng. Khi vô sự thì có thể thu gọn trong đai ngọc, nhưng khi gặp biến cố thì có thể rút ra để làm vũ khí phòng thân, đây là báu vật nước thần cẩn hiến cho bệ hạ."



Triệu Khuông Dận nghe xong liền cười ha ha: "Trẫm là thiên tử, đợi đến khi trẫm cần phải đích thân dùng kiếm để bảo vệ mình thì tình thế đại cục còn phải hỏi nữa sao?"



Lý Tòng Thiện thất kinh, vội vàng sợ hãi xưng tôi, Triệu Khuông Dận cười không nói gì, rút kiếm ra thử. Cánh tay mềm dẻo của Triệu Khuông Dận lượn vài đường kiếm, tiếng kiếm chém gió thanh thoát vang lên, nghe rất vui tai.



Cả triều đình văn võ bá quan đều không khỏi ngạc nhiên, kinh than tài nghệ kiếm thuật của Triệu Khuông Dận, kiếm đó là kiếm mềm, vốn không dễ chém, nhưng hắn lại có thể dứt khoát chém thẳng lên không trung liên hồi, rõ ràng là thủ pháp kì diệu. Lập tức có người cao giọng nói: "Bệ hạ thần dũng."



Lý Tòng Thiện mặt vàng như đất, Triệu Khuông Dận lại mỉm cười, an ủi vài câu, rồi bảo bọn họ về nơi đã được sắp xếp nghỉ ngơi, suy nghĩ kĩ lại chuyện Đường quốc tự tước quốc hiệu, quy thuộc Đại Tống.



Triều hội vừa tan, "Dương toàn bồi" liền dẫn Lý Tòng Thiện và Từ Huyễn trở về lễ tân viện, nghe họ nói điều kiện chi tiết mà Nam Đường tự tước quốc hiệu muốn đưa ra. Còn Triệu Phổ thì ở lại đi cùng khu mật sứ Lý Sùng Củ và Triệu Khuông Dận đến điện Văn Đức.



Khi đến điện Văn Đức thì khuôn mặt tươi cười của Triệu Khuông Dận lập tức biến mất, ánh mắt ngưng trọng nói: "Hai vị ái khanh, các khanh xem, tên Lý Dục này đang giở trò gì?"



Lý Sùng Củ khinh thường nói: "Quan gia, đây rõ ràng là Lý Dục đã thấy uy phong của binh mã Đại Tống, trong lòng sợ hãi, cho nên mới tự mình xin hạ cách làm vương, ý đồ dẹp loạn binh phạt. Lúc trước, cha hắn làm hoàng đế, vì khiếp sợ uy quyền của Thế Tông hoàng đế chiều Chu, không phải cũng từng tự hạ quốc cách một lần hay sao? Bây giờ Lý Dục chỉ là bắt chước làm theo cha hắn, thi triển trò cũ mà thôi."



Triệu Khuông Dận trầm ngâm nói: "'Cũng có thể, hoặc có thể đây là kế hoãn binh. Trẫm vừa nhận được tin báo, triều ta động binh với Mân Nam không lâu thì Đường quốc đã cho chỉnh đốn lại mười vạn hải quân, đại quân, có gì đó khác thường, nhưng không lâu sau đó lại đột nhiệt giải bỏ trạng thái khẩn cấp, không biết là xuất phát từ nguyên nhân gì? Bây giờ nghĩ lại, e rằng Lý Dục đã từng muốn nhân lúc trẫm động binh Mân Nam, để sơ hở phía Khai Phong mà đánh úp trẫm, sau đó không biết tại sao lại thôi, từ bỏ ý định đó." Nói đến đây, Triệu Khuông Dận có chút sợ hãi nói: "May mà hắn đã bỏ chủ ý đó.



Nếu không lúc đó người cô quả, đại quân thì ở bên ngoài, nguy cơ lương thực của Khai Phong vẫn chưa được giải quyết, một khi mười vạn tinh binh Đường tấn công thẳng vào Khai Phong, kinh đô chấn động, lòng dân hoang mang, dũng khí của đại quân tấn công Mân Nam cũng suy giảm, lúc đó lại truyền ra tin lương thực không đủ, đến lúc đó không phải chỉ thất bại một chỗ, mà tất cả đều thất bại, vận mệnh giang sơn Tống quốc ta không biết sẽ như thế nào nữa?"



Triệu Phổ mỉm cười nói: "Cơ hội tốt như vậy mà Đường quốc lại vứt bỏ, đây đúng là tự diệt mình, cũng là trời phù hộ cho Đại Tống ta. Quan gia, cơ hội tốt như vậy mà chúng chưa từng lợi dụng, bây giờ bình quyền của Tống quốc ta mạnh nhất từ trước tới nay, Lý Dục sao dám động vào mũi nhọn này chứ? Theo như thần thấy, Đường quốc phái sứ thần đến có lẽ không phải là kế hoãn binh, sợ là giống như Lý mật sứ đã nói, đây chính là bắt chước theo cha hắn, ý đồ lấy cách xưng thần để tạm thời bảo toàn quốc vận Giang Nam mà thôi."



Triệu Khuông Dận cười lạnh nói: "Bây giờ không giống ngày xưa, Trung Nguyên bây giờ tất cả đã vào tay trẫm, giường hắn bên cạnh, trẫm sao có thể để hắn ngủ ngon được?"



Triệu Phổ mỉm cười nói: "Bệ hạ đừng quên những nghị định đã nói từ lần trước với thần, nếu như muốn tổn hại ít nhất, tốc độ nhanh nhất, nắm được tận gốc thì phải bỏ qua các chuyện khác, đợi khi triều đình ta chuẩn bị ổn thỏa, rồi mới lại thảo phạt."



Triệu Khuông Dận hơi nhíu mày: "Điều trẫm lo lắng là thảo phạt Hán quốc là dùng danh nghĩa cứu giúp dân chúng Hán quốc cả triều đa phần là hoạn quan, ức hiếp dân chúng đến cùng cực. Nhưng nếu đã chấp nhận cho Lý Dục xưng thần, sau này Đường quốc lại luôn tỏ ra cung kính, sao trẫm có thể vô cớ thảo phạt được?"



Triệu Phổ tối hôm qua sớm đã bàn tính xong xuôi kế hoạch với đám người Mộ Dung Cầu Túy, lúc này trong lòng đã có mưu tính, liền nói: "Quan gia, tên Lý Dục này đúng là bê đá ném xuống chân mình, hắn tưởng rằng xưng thần với quan gia thì quan gia sẽ không có cớ để xuất binh sao? Ha ha, thần có kế này. Chúng có điều kiện thì chúng ta có thể đáp ứng hết, sau đó ban trạch viện, phong quan cho Trịnh vương Lý Tòng Thiện, để hắn lưu lại kinh sư không thả ra, nếu hắn đã thừa nhận là Tống thần thì chức vị mà quan gia ban cho hắn, hắn lại dám không nhận sao?



Đợi khi triều ta chuẩn bị sẵn sàng thì triệu Đường quốc Lý Dục đến tấn kiến, lấy thần gặp quân, là lẽ đương nhiên, nhưng có vết xe đổ phía trước của Lý Tòng Thiện, thì hắn tuyệt đối không dám đến, cho dù hắn dám đến thì chúng thần Đường quốc cũng không dám để cho hắn đi. Đến lúc đó, thần không phụng chỉ, quân muốn thảo phạt là là chuyện đương nhiên." Triệu Khuông Dận cười ha ha: "Được, vậy làm theo kế của khanh đi."



Ba quân thần lại bàn tính kế sách một hồi. Triệu Phổ và Lý Sùng Củ liền cáo từ rời đi. Triệu Khuông Dận xử lý thêm một số công văn tấu chương nữa, xong xuôi đang định về hậu điện nghỉ ngơi thì một khoái cước hồng lư tự được đưa vào điện, Triệu Khuông Dận vội vàng hỏi: "Lý Tòng Thiện và Từ Huyễn khi trở về đã nói những gì, nhắc đến điều kiện gì?"



Tên khoái cước đó cong người vái lạy nói: "Bẩm quan gia, Lý Tòng Thiện đó lại không nói nhiều lời, còn Từ Huyễn lại thao thao bất tuyệt, Đường quốc tuy có ý xưng thần, nhưng ngữ khí lại không muốn quá nhún nhường, trong lời nói có cả cương cả nhu, có ý ép triều đình chúng ta phải kí điều ước vĩnh viễn không xâm lược Đường quốc." Triệu Khuông Dận mắt lóe lên, vội hỏi: "Vậy Dương thiếu khanh đã trả lời như thế nào?"



Tên khoái cước đó nghe xong, khóe miệng liền nhếch ra, lộ ra một thần sắc cổ quái như cười mà như không.



Nguồn: http://4vn.eu/forum/showthread.php?t=71274&page=72#ixzz1zqVX86qy

Chương 342: thoại lao khắc tinh

ồng lư khoái cước đó nói: “Sau khi trở về đến lễ tân viện, Dương tả sứ đã theo lễ chế mở thịnh yến khoản đãi Trịnh vương và Từ Huyễn. Trong bữa tiệc Từ Huyễn miệng lưỡi lưu loát, kể về Giang Nam.”



Hắn vừa nói vừa dâng lên những gì đã ghi chép được. Triệu Khuông Dận nhận lấy, đọc rồi tán thưởng nói: “Quả nhiên không hổ là Giang Nam đệ nhất tài tử. Những lời này đề cập đến Lý Dục, làm cho người ta không có cảm giác chán ghét, là một tinh phẩm, khí độ vửa phải, lại ứng với khí tượng hôm nay, vừa lấy lòng Tống quốc ta, lại vừa không làm giảm uy phong Đường quốc. Trong những học sĩ triều đình ta, chỉ có Lô Chế Cáo mới so sánh được, những người khác không bằng, mà với học thức của Dương Hạo thì đương nhiên không có cách nào ứng phó được.”



Hồng lư khoái cước dạ một tiếng rồi nói: “Quan Gia nói đúng, Dương tả sứ chỉ giơ chén lên ca ngợi, mời rượu Từ Huyễn mà không đối đáp lại.”



Triệu Khuông Dận cười nói: “Tiếp tục nói đi, sau đó như thế nào?”



Hồng lư khoái cước nói: “Từ Huyễn thấy Dương tả sứ không tiếp lời, hứng thơ cũng dần giảm, lại uống thêm ba tuần rượu, rồi nói về việc Đường quốc xưng thần, nói đến chuyện này thì thao thao bất tuyệt. Tiểu thần trốn đằng sau bức bình phong đã ghi chép lại, do không kịp nên chỉ ghi lại những ý chính.”



Triệu Khuông Dận cười lạnh nói: “Từ Huyễn vốn là một nhân tài, nhưng hắn lại không hiểu được thời cục. Tình thế thiên hạ thống nhất là không thể ngăn cản. Từ Huyễn hắn chỉ dựa vào cái lưỡi không xương của mình mà nghĩ rằng có thể khống chế được cục diện thiên hạ trong tay hay sao? Thật là sự hạn hẹp của thư sinh! Hừ, hắn nói những gì?”



Hồng lư khoái cước nói: “Từ Huyễn nói, chủ của Đường quốc tấm lòng nhân hậu, từ trước đến nay tự lực cánh sinh, dẹp quân nổi loạn, làm an dân. Dưỡng binh là để tự bảo vệ mình, không có tâm dành thiên hạ. Bây giờ Tống chủ anh minh, thiên hạ quy tâm, Đường quốc cũng không phải là người lạc hậu, vì dân chúng mà tự tước quốc hiệu, hạ cách làm vương, thiện sự Đại Tống, dẹp binh yên dân,sau này Tống quốc và Đường quân thần hòa khí, vĩnh viễn không binh phạt, thực là chuyện may mắn. Ừm… đại ý là như vậy. Từ Huyễn xuất khẩu thành chương, lời như gió, những gì tiểu thần ghi lại quả thực không bằng…”



Triệu Khuông Dận từ từ thưởng thức, khóe miệng nở ra một nụ cười nhạt: “Câu này mấu chốt là ở chỗ dưỡng binh tự bảo vệ. Chúng xưng thần lại sợ trẫm mượn cơ hội dụng binh hoặc đóng quân ở đó. Câu này rõ ràng chính là Đường quốc có thể xưng thần nhưng ta không được động binh với Đường quốc, cũng không được đóng quân ở Đường, vì chúng có đủ sức tự bảo vệ. Ha ha ha… Dương Hạo nói như thế nào?” 



“Ừm… Dương tả sứ mỉm cười, chỉ tiếp rượu.”



Triệu Khuông Dận ngẩn ra: “Hắn một câu cũng không nói sao?”



“Không có.”



Triệu Khuông Dận ngẩn ra một hồi, lại nói: “Vậy Từ Huyễn lại nói gì?”



Hồng lư khoái cước nói: “Từ Huyễn lại nói Đường quốc hàng Tống là thành tâm, hy vọng quân vương Tống quốc ta cũng có lòng nhân nghĩa tiếp đãi Đường quốc, chớ sinh đao binh dẫn đến thiên hạ rối loạn. Hắn nói thiên hạ không có nước nào nghìn năm không diệt, vì được sủng mà mưu đồ bá vương, dẫn đến ngàn vạn lê dân thống khổ, không phải là phúc của dân chúng mà lại là tội nhân thiên cổ. Lại nói trên thế gian này không có người nào trăm năm không chết, nếu như Tống quốc ta muốn dùng vũ lực ép Đường, thì trên dưới Đường, từ quân đến dẫn sẽ đều một lòng, hợp chí thành thành, nếu không chống lại thì vạn tuế sẽ cười phỉ nhổ.”



Triệu Khuông Dận chỉ cười lạnh, lần này không đợi hắn hỏi, Hồng lư khoái cước liền bổ sung thêm một câu: “Dương tả sứ vẫn chỉ lộ mặt cười và uống rượu.”



“Nói tiếp đi.”



“Vâng, Từ Huyễn lại nói, Đường quốc phục Tống là vì muốn dập đao binh, dưỡng vạn dân. Lại thêm Quan Gia nhân đức, tất sẽ không đối xử hà khắc với người Đường, cho nên sẽ quy tâm. Nay Đường đã dâng biểu xưng thần, hy vọng quân vương Tống quốc ta sẽ có thể đối với chủ quân thần Đường quốc như phụ tử, mãi mãi hòa hợp, không gây binh biến. Nếu không, Đường chủ mấy mươi năm nhân chính được lòng dân, bây giờ nơi hiểm yếu Trường Giang có thể nương tựa, quân thần đồng lòng, Tống sư tuy mạnh nhưng cũng không thể mạnh bằng lòng dân.”



“Miệng lưỡi hắn thật lợi hại.”



Triệu Khuông Dận khinh thường nói: “Hiểm yếu Trường Giang có thể nương tựa sao? Bảo vệ Giang Nam bảo vệ Hoài Nam, Đường quốc Hoài Nam không bảo vệ, bây giờ đã vào hết trong tay Đại Tống ta, Trường Giang rãnh trời có thể yên hay sao? Trẫm luận thi từ không thể bằng hắn, nhưng câu này trẫm lại có thể bác bỏ lột hết da hắn. Đáng tiếc trẫm thân làm thiên tử, không thể đích thân phản bác hắn, quả thực là đáng tiếc. Dương Hạo ứng đối như thế nào?” Hồng lư khoái cước nhăn mặt lại, đáp: “Dương tả sứ chỉ mỉm cười mời rượu.”



Triệu Khuông Dận nghe rồi liền giống như bị truyền nhiễm, trán hắn cũng nhăn lại, nói: “Tiếp tục đi.”



“Vâng, Từ Huyễn đó vẫn tiếp tục nói, Đường quốc biên cương không rộng bằng Tống, binh tướng không dũng mãnh thiện chiến bằng Tống quốc, nhưng Giang Nam nhiền sông nhiều hồ, Đường có thủy quân mấy chục vạn, giỏi thủy chiến, mà binh mã phía bắc cảu ta cho dù đang nuôi thủy binh nhưng e rằng trong thời gian mười năm cũng khó trở thành vũ khí mạnh, mà binh thì sẽ dần già yếu. Vì điểm mạnh này của Đường, nếu Tống thiện đãi Đường thì Đường sẽ lấy thần lễ để đối quân, vĩnh viễn không phản kháng. Nếu không, Đường quốc chủ đã chính miệng nói rằng: ‘Nếu vương sư kiến thảo, bắt khom lưng quy phục, thì sẽ đích thân dẫn đầu sĩ tốt, dựa thành mà đánh. Cho dù có không dành được thắng lợi thì cũng không làm con quỷ của đất nước.’ ”



Triệu Khuông Dận cười lớn ha ha, khinh thường nói: “Thật là làm khó Lý Dục rồi, lại có thể nói ra được một câu đầy khí phách như vậy. Đáng tiếc, đây cuối cùng cũng là một câu nói khoác của một tên thư sinh thối mà thôi, Lý Dục hắn có thể làm được sao? Dương Hạo đáp thế nào?”



Hồng lư khoái cước nói: “Dương tả sứ mỉm cười…”



Triệu Khuông Dận nhăn mày, ngắt lời nói: “Chỉ mời rượu?”



“Ừm… vâng”



“…. Từ Huyễn đó lại nói gì?”



Hồng lư khoái cước cười khan nói: “Từ Huyễn không nói gì nữa, chỉ uống rượu.”



Triệu Khuông Dận im lặng chốc lát, xoay mình chợt cười: “Ha ha ha… ha ha ha… ha ha ha… nước chát chấm đậu phụ, vỏ quýt dày có móng tay nhọn, hóa ra khắc tinh của loại người như Từ Huyễn lại chính là Dương Hạo. Trẫm thật không lầm, ha ha, lấy ngu trói trí, Dương Hạo này quả thật đã làm cho tài tử như Từ Huyễn phải đuối lý, làm một cái miệng hồ lô, thật là buồn cười chết mất…”


***


Từ Huyễn tuyệt đối không nghĩ rằng khi mình đến Tống quốc, trong lòng đã chuẩn bị rất kĩ những lời hay ý đẹp mà lại gặp phải một tên dở hơi như Dương Hạo, những lời đó hoàn toàn không có đất dụng võ. Tính khí của tên Dương Hạo này rất tốt, chăm lo cho họ cũng không chút thiếu sót, nhưng bất kể là hắn có dùng mỹ tử nào để ám chỉ cho hắn, hay là chính diện đưa ra yêu cầu thì Dương Hạo chỉ mỉm cười, dáng vẻ như cao thâm khó lường, làm hắn phải đoán xem Dương Hạo rốt cuộc là đang có ý gì?



Từ Huyễn bị hắn dày vò đến mức một chút tức giận cũng không còn. Hắn muốn gặp Triệu Phổ? Không rảnh, tể tướng đại nhân bận rộn như vậy, thời gian đâu mà gặp? Muốn gặp Quan Gia? Nực cười, tể tướng còn không có thời gian thì Quan Gia sao có thể rảnh rỗi nghe hắn chứ. Thời gian cứ thế từng ngày trôi đi, thời cục càng lúc càng bất lợi đối với sứ đoàn Đường quốc.



Đầu tiên là tin tức Đường quốc tự hạ mình tước quốc hiệu đã được lan truyền ra, không những truyền khắp Đại Tống mà truyền đến khắp tứ phương, Khiết Đan phía bắc, tam phiên tây bắc, Ngô Việt Giang Nam, còn cả những dân chúng Đường quốc vốn bị che giấu cũng biết được. Hơn nữa còn biết rõ ràng rằng Đường quốc Trịnh vương Lý Tòng Thiện và sử bộ thượng thư Từ Huyễn bây giờ đã đang ở lễ tân viện của Khai Phong Đại Tống, mỗi ngày hồng lư tả khanh sứ Dương Hạo đều đích thân đến cùng đi nghe ca vũ khúc nhạc, mỹ tửu giai hào, đối đãi rất thịnh tình với họ. Cho dù quốc thư chính thức vẫn chưa được dâng lên, hai bên vẫn chưa hề ký kết điều khoản giữa quân quốc và thần quốc, nhưng việc này đã làm cho cả thiên hạ đều biết đến, họ không còn đường lui nữa rồi.



Đúng vào lúc này, một tiếng sét giữa trời xanh trong dự đoán đã vang lên, chiến sự ở Mân Nam đã kết thúc. Tống tấn công đã lấy được Bang Châu, Hạ Châu, tứ châu Chiêu, Đỗ, Liên, Thiều đại bại, hơn mười vạn quân Nam Hán như chóp của cánh hoa sen, Nam Hán lấy Quảng Châu làm trung tâm, cắt theo hai hướng Lĩnh Nam, bây giờ cuối cùng đều đã quy thuộc Trung Nguyên.



Tống quốc cả nước ăn mừng, Triệu Quan Gia đại thưởng cho quần thần, ngay cả nội thị đô tri Trương Đức Quân cũng được phục hồi lại nguyên tính, lại còn đường thưởng thêm gọi là Kế Ân. Vương Kế Ân vốn họ Vương, lúc đầu vào cung làm tiểu nội thị đã nhận đại thái giám họ Trương làm nghĩa phụ, cho nên đổi họ, gọi là Trương Đức Quân, bây giờ hồi phục lại danh tính, lại được Quan Gia ban tên, vô cùng lấy làm vinh hạnh. Ngay cả hắn cũng được phong thưởng thì có thể thấy bách quan trong triều, đám tướng lĩnh có công sẽ được thưởng lớn như thế nào rồi.



Trong triều bận rộn đến chuyện này nêu càng không để tâm tới đoàn sứ Đường quốc. Cần phải biết rằng đây chính là Đường quốc chạy đến muốn dâng thuận biểu quy hàng, nhưng đối với Đại Tống mà nói thì chuyện như thế này chẳng đáng là gì, không muốn lại được, Tống quốc đương nhiên sẽ làm cứng lên, Từ Huyễn đến lúc đó vẫn phải kiềm chế cơn giận, nhưng biết rõ huynh đệ mình bây giờ ăn ngủ bất an, Trịnh vương Lý Tòng Thiện đang lo lắng đợi tin tức, đến ngồi cũng không yên. Hắn không hy vọng xa vời rằng có thể nhận được những yêu cầu mà Từ Huyễn đã đưa ra, hắn chỉ là một thư sinh ngây thơ, hắn giống như huynh trưởng của hắn, không cần phải lột bộ mặt yêu cầu Tống triều giấy trắng mực đen viết chi tiết một số việc ra. Triệu Khuông Dận đã thừa nhận địa vị quân thần thì sẽ cần phải tuân thủ quy tắc của quân thần, nếu không… lẽ nào hoàng đế Tống quốc không sợ người đời cười hắn nói không giữ lời, chịu sự phỉ báng chế nhạo của người đời sao?”



Lý Tòng Thiện rõ ràng là đã quên mất chuyện Triệu Khuông Dận mấy năm trước tại Kim Giám điện đã thân thiết nhiệt thành mà bắt tay với tiết độ sứ Vĩnh An quân khi hắn chủ động đến quy hàng, rồi đã hứa với hắn gì rồi. Nội bộ sứ đoàn đàm phán xảy ra bất đồng ý kiến, mà Trịnh vương Lý Tòng Thiện bất luận là địa vị hay quan hệ thân thiết với Đường quốc chủ Lý Dục đều khác xa với Từ Huyễn, đàm phán đương nhiên là do hắn làm chủ.



Cho nên điều kiện đàm phán mỗi lúc lại hạ xuống, Tống quốc lại càng ghê gớm hơn, không những không chấp nhận thêm bất cứ điều kiện gì mà còn ngay cả với vấn đề vụn vặt liên quan đến lễ chế giao nộp quốc thư qua lại giữa hai bên sau này cũng bắt Đường quốc phải nhượng bộ nhiều, quy định trên chiếu thư mà hoàng đế Tống quốc gửi cho quốc vương Đường quốc không xưng là quốc vương Giang Nam mà trực tiếp xưng bằng tên.



Đối với Tống quốc mà nói đây có thể coi là song hỷ lâm môn, Hán quốc bị tiêu diệt, cương vực mở rộng, uy danh vang dội, còn Đường quốc lại là thêu hoa trên gấm. Vừa mới cử hành nghi thức Đường quốc quy thuận, chính thức xác lập danh phận quân thần, đại tướng Phan Mĩ đã áp giải hoàng đế Hán quốc Lưu Kế Nghiệp trở về Khai Phong, cho nên tiếp theo đó lại lập tức triệu tập nghi thức nạp hàng, và mời sứ tiết Đường quốc đến tham gia.



Triệu Khuông Dận ngồi trên cao, văn võ bá quan xếp hai hàng hai bên, các ngoại thần tham gia lễ cũng đứng ở trên điện, hoàng đế Hán quốc Lưu Kế Nghiệp bị đưa đến cung điện. Vị hoàng đế Hán quốc này là một hôn quân hiếm gặp, vì lo tông thất sẽ cướp hoàng vị mà đã chém sạch huynh đệ thúc bá cháu chắt. Hắn cho rằng đại thần có gia thất sẽ ôm lòng riêng, cho nên phàm như người làm quan nào đều phải tự thiến chính mình, khắp triều đại thần đều là hoạn quan và cung nữ.



Vị hoàng đế này sủng ái một nữ tử Ba Tư cực béo, sau khi làm cho hoang dâm ở hậu cung xong thì tự xưng làm “Tiêu Nhàn đại phu”, nhưng một người như vậy thể trạng lại rất đầy đặn, mi thanh mày tú, trên điện đối mặt với quân vương thi lễ như nghi, trả lời khôn khéo, giỏi ăn nói. Dương Hạo đứng bên cạnh nhìn, nhưng quả thật nhìn mãi không thấy một người như thế này lại là một kẻ hoang dâm vô đạo.



Triệu Khuông Dận lúc này tâm trạng rất tốt, tuy khinh thường không coi tên Lưu Kế Nghiệp này là người, nhưng thấy hắn quỳ ngoan ngoãn dưới kim điện, hô vạn tuế lại thấy rất vui vẻ, lập tức gia phong Lưu Kế Nghiệp làm đại tướng quân, gia tước Ân Xá hầu, và ban cho phủ đệ. Lưu Kế Nghiệp nơm nớp lo sợ, vốn nghĩ vị hoàng đế Tống quốc này sẽ chém đầu mình, không ngờ lại khoan dung như vậy, không khỏi vui mừng ngoài mong đợi, lập tức khấu đầu tạ ơn.



Triệu Khuông Dận cười ha ha, ban cho hắn ngồi. Lưu Kế Nghiệp nghìn ân vạn ta, ngồi xuống một bên. Triệu Khuông Dận lại sai người ban cho hắn mĩ tửu, không ngờ Lưu Kế Nghiệp vừa nhìn thấy mĩ tửu bê đến trước mặt, sắc mặt liền đại biến, lập tức trượt xuống khỏi ghế, quỳ xuống khóc lớn: “Bệ hạ tha mạng, bệ hạ tha mạng.”



Triệu Khuông Dận kinh ngạc, nhìn xung quanh rồi hỏi: “Đây… đây là trẫm ban cho mĩ tửu mà thôi, Ân Xá hầu sao lại khóc như vậy?”



Phan Mĩ cười nói: “Quan Gia có điều không biết, Ân Xá hầu khi còn làm hoàng đế Hán quốc, thường dùng một cách tốt nhất để giết đại thần, đó là ban rượu độc. Quan Gia lại thưởng rượu cho ngài ấy, ngài ấy liền cho rằng Quan Gia muốn giết ngài ấy.”



Triệu Khuông Dận vừa nghe xong liền cười ha ha, xua tay nói: “Đến đây, đem chén rượu đó cho trẫm.”



Triệu Khuông Dận cầm lấy chén rượu, uống một hơi cạn sạch. Lưu Kế Nghiệp thấy Triệu Khuông Dận uống hết chén rượu, lúc này mới hiểu được mình đã lấy dạ tiểu nhân đo lòng quân tử, không khỏi thấy xấu hổ.



Triệu Khuông Dận cười nhìn Lưu Kế Nghiệp nói: “Trẫm nếu muốn giết khanh thì sẽ đường đường chính chính chém đầu khanh, là quân vương của một nước, cần gì phải dùng thủ đoạn hèn hạ như vậy. Lưu khanh sau này chỉ cần an phận thủ thường, trung với Đại Tống thì lưỡi đao của trẫm tuyệt đối sẽ không để lên cổ khanh.”



Hắn vừa nói ánh mắt vừa cố tình mà như vô ý nhìn lướt qua Lý Tòng Thiện và Từ Huyễn. Hai người không khỏi chán nản cúi đầu xuống.



Triều hội đã tan, Triệu Khuông Dận liền bày yến tiệc ở trong cung, khoản đãi Ân Xá hầu, Lý Tòng Thiện và Từ Huyễn cũng đều đến. Trong bữa tiệc khả năng nịnh nọt của Lưu Kế Nghiệp nhanh chóng đã được sử dụng. Mới hôm qua hắn vẫn còn là một đế vương cao cao tại thượng, vậy mà hôm nay đã có thể nhanh chóng sắm cái vai mới của mình, làm một tên nịnh thần đạt tiêu chuẩn. Dương Hạo đứng một bên nhìn, lại không khỏi thầm bái phục tố chất người này. Lý Dục… sẽ có một ngày đến nơi này chứ, nếu như Lý Dục có được một nửa sự thức thời của Lưu Kế Nghiệp thì chắc cũng không phải chết bất đắc kì tử, ừm… cũng chưa chắc, Triệu Quang Nghĩa dù sao cũng không phải là Triệu Khuông Dận, lòng dạ hắn… hắn… hắn…



Dương Hạo giơ chén rượu lên, đột nhiên ngẩn ra tại chỗ, hắn không có cách nào xác định được thời gian mà Triệu Khuông Dận sẽ chết, nhưng hắn nhớ rất rõ, Tống lấy Nam Hán không lây, Triệu Khuông Dận liền chết bất đắc kì tử. Bây giờ triều đình đã đánh bại được Nam Hán, Quan Gia đã từng nói với hắn, sẽ phái hắn đi sứ Đường quốc, dò thám quân tình, ly gián quân thần chúng, sau đó… năm sau muộn nhất là đến cuối năm Tống quốc sẽ động thủ với Nam Đường, như vậy chính là nói Triệu Khuông Dận sẽ không còn nhiều thời gian nữa?



Triệu Khuông Dận ngồi trên đó, đang cùng cười nói với đám thần tử, Dương Hạo âm thầm nhìn hắn, con người trước mắt này là cái tên mà hắn đã từng nhìn thấy trong đống giấy, nhưng bây giờ mình lại có thể tận mắt nhìn thấy một người sống sờ sờ, con người này chắc chắn là một vị anh chủ tài trí đa mưu, không lâu sau này hắn lại bị hóa thành một cái tên, chỉ là một cái tên được sử sách ghi lại.



Từ trước tới nay chưa từng có một người nào có cảnh ngộ như Dương Hạo, hắn có thể tận mắt nhìn thấy một vĩ nhân đã được ghi chép trong lịch sử, lại chính tai nghe được tin về cái chết của hắn, cụ thể về cái chết của hắn. Hắn sẽ chết như thế nào? Nghi án thiên cổ rốt cuộc là như thế nào? Dương Hạo ngẩn ra nghĩ ngợi, tất cả những tiếng huyên náo bên tai đều không nghe thấy, hoàn toàn chìm vào suy nghĩ của mình…



“Dương khanh, Dương khanh… Dương Hạo!”



“Dạ! Thần ở đây.” Dương Hạo đột nhiên bừng tỉnh, thấy Triệu Khuông Dận đang gọi hắn, Trịnh vương Lý Tòng Thiện đang ngồi một bên, mặt vàng như đất, Từ Huyễn lại mặt xanh như đồng, không khỏi kinh ngạc.



Triệu Khuông Dận mỉm cười nói: “Lý khanh lời ăn tiếng nói phong lưu, làm cho trẫm rất vui, trẫm đã quyết định rồi, trẫm sẽ phong tước gia quan cho Lý khanh, cho Lý khanh lưu lại Khai Phong. Giang Nam chủ quốc khiển sứ đến triều đáp lễ qua lại mà, trẫm muốn phái khanh đến Đường để tuyên chiếu, đợi khi Từ khanh trở về thì khanh hãy cùng khanh ấy đi nhé.”



“Cơ hội của ta cuối cùng đã đến rồi, Triệu Quan Gia, còn ngài thì sao? Ngài còn có cơ hội không…”



Dương Hạo nhìn sâu vào mắt hắn, rồi khom lưng nói: “Thần… tuân chỉ!”


***


Lý Tòng Thiện bị giam lỏng ở Khai Phong không được rời khỏi. Từ Huyễn vì thế mà tìm mọi cách kháng nghị, nhưng kế này của Triệu Khuông Dận vốn là muốn xao sơn chấn hổ, ý là nhằm vào Lý Dục, nên hoàn toàn không để ý tới những kháng nghị đó. Sứ thần ngoại giao tuy có cái miệng khéo léo ba hoa chích chòe, cũng không có cách nào khác. Cũng may Lý Tòng Thiện chỉ bị giam lỏng ở phủ Khai Phong, còn các lễ nghĩa khoản đãi đều không hề suy giảm, tính mạng cũng không gặp nguy hiểm gì. Lý Tòng Thiện bình thản chịu đựng gian khổ, Từ Huyễn cũng hết cách, chỉ có thể xấu hổ nhẫn nại chuẩn bị phục mệnh về Đường quốc.



Hán quốc đã giành được, Triệu Khuông Dận bắt đầu chuẩn bị toàn lực cho việc nam phạt. Lúc này đã đến cuối mùa thu, nhưng trên mặt hồ Kim Thủy được tạo ra từ tiểu Tây Hồ ở phía tây thành Khai Phong lại khí thế ngút trời. Tiếng trống đập rộn rã, tiếng hô vang như xé gió, trên mặt sông là vô số các chiến hạm đang đua nhau chạy, trên những chiến hạm lớn bé đủ loại là đám binh sĩ đang ra sức hò hét đầy sự phấn chấn. Cảnh tượng vô cùng hùng vĩ, thuyền tiến thẳng mặt nước, bắn lên bia phía bờ, tiễn phóng như mưa, thế lực không thể ngăn cản được. 



Triệu Khuông Dận vuốt râu cười nói: “Đào hồ dẫn nước luyện binh, không thể luyện ra được thủy quân thiện chiến hay sao? Hừ! Trẫm luyện thủy binh trên hồ đấy, còn Từ Huyễn hắn chỉ luyện thủy binh trên giấy trắng, sao có thể giống nhau được.”



Khuôn mặt hắn đầy vẻ hài lòng, nhìn về tướng sĩ thủy quân đang luyện tập dũng mãnh như hổ báo phía trước, nói: “Hồi cung thôi.”



Hoàng đế ngồi trên giá hồi cung, nhưng đường về lại không phải là con đường đến. Triệu Khuông Dận ngồi trong ngự kiệu có chút ngạc nhiên, gọi nội thị đô tri tổng quản Vương Kế Ân đến hỏi: “Sao lại đi đường khác?”



Vương Kế Ân liền bẩm báo: “Quan Gia, một lượng lớn lương thực thủy vận đang được vận chuyển vào kinh, đang hướng về quan kho dự trữ, tắc cả lộ trình, sợ là sẽ làm lỡ thời gian của Quan Gia nên đã đi theo đường vòng.”



Triệu Khuông Dận vui mừng, lại hỏi: “Thủy vận Biện Hà vẫn còn có thể vận chuyển thêm lương thảo sao?”



Vương Kế Ân liền nói: “Thu sắc đã lên cao, nước sông nông hơn, khi vận chuyển không thể để thuyền nặng, đây là đợt vận chuyển cuối cùng trong năm nay.”



“Ừm.” Triệu Khuông Dận mỉm cười không nói.



Nguồn: http://4vn.eu/forum/showthread.php?t=71274&page=72#ixzz1zqVbBiyY

Chương 343: Cơn giận lôi đình

Đoàn người tiếp tục đi về phía trước, Triệu Khuông Dận ngồi bên trong kiệu xem xét cảnh tượng bên ngoài. Cả chặng đường đi long kỳ được giơ lên, dân chúng nhìn thấy nghi trượng đều cúi xuống bái chào, sắc mặt hoan hỉ. Đột nhiên đoạn đối thoại của mấy tên tiểu nội thị ở bên ngoài đại kiệu làm cho Triệu Khuông Dận chú ý.



“Kì lạ thật, ca ca, huynh xem ở bên kia. Ngự viện hoàng gia chúng ta từ lúc nào đã xây lên một trạch viện vậy?”



“Không biết nữa, chắc đó là nơi người trông viên lâm ở?”



“Phì! Ngươi mọc ra hai con mắt chó lại không biết sao đặt ở trên cái đầu lợn. Ngươi nhìn xem, trạch viện đó đầy vẻ huy hoàng, là nơi mà người trông viên lâm có thể ở được sao? Ta đoán đó là biệt cung mà quan gia đã cho xây.”



Triệu Khuông Dận nghe xong liền thấy rất kì lạ, liền quay đầu sang bên trái nhìn ra ngoài cửa sổ, quả nhiên thấy một mảnh viên lâm, trên khoảng đất mười mẫu có một kiến trúc bình địa vô cùng hào nhoáng mọc lên. Triệu Khuông Dận lại không biết đây là hoàng lâm uyển viên của nhà mình, vội gọi: “Vương Kế Ân, đến đây trẫm hỏi!”



Nội thị đô tri Vương Kế Ân liền chạy tới, Triệu Khuông Dận kề vào trước cửa sổ, chỉ tay ra bên ngoài nói: “Đây là ngự viên của hoàng gia ta sao? Từ lúc nào đã xây lên một trạch viện lớn như vậy, nhìn dáng vẻ trông rất xa xỉ, xây lên một biệt viện lớn như vậy sao chưa từng có người đến bẩm báo với trẫm?”



Vương Kế Ân liền nói: “Nô tài cũng không biết nguyên do, thỉnh quan gia cho nô tài đi tra xét rõ ràng rồi sẽ về tấu với quan gia.”



Triệu Khuông Dận trầm mặt xuống, gật gật đầu, ngồi trong kiệu nhắm mắt dưỡng thần.



Nghi trượng tiếp tục tiến về phía trước, Vương Kế Ân thì mang theo mấy người nữa đi dò hỏi. Khi Triệu Khuông Dận về đến cung, tắm rửa nghỉ ngơi thì Vương Kế Ân liền chạy về, cung kính bẩm báo: “Quan gia, nô tài đã thăm dò rõ ràng. Trạch viện trong ngự uyển hoàng gia đó không phải là kiến trúc trong cung, mà là viện trạch tư của tể tướng Triệu Phổ.”



Triệu Khuông Dận ngạc nhiên nói: “Trẫm nghe nói mảnh đất đó là ngự uyển của hoàng gia?”



“Vâng, đúng như vậy.”



Triệu Khuông Dận lửa giận bừng bừng, chỉ ngón tay cái vào mũi Vương Kế Ân, quát lên: “Ngự uyển hoàng gia, sao lại có thể xây trạch viện của Triệu Phổ gia, ngươi nói xem?”



Vương Kế Ân hoảng sợ, quỳ xuống, cuống quýt khấu đầu nói: “Nô tài không biết, nô tài không biết.”



Triệu Khuông Dận nghiến răng, phất áo nói: “Truyền chỉ, lệnh tông chính khanh tra xét rõ ràng rồi báo với trẫm.”


***


Vào một buổi chiều hai ngày sau, Triệu Khuông Dận mở tiệc ở Văn Đức điện, cùng hàn lâm học sĩ Lô Đa Tốn đàm văn luận đạo. Lô học sĩ giỏi kinh sử, thông minh trí nhớ tốt, văn từ nhanh nhẹn, phúc hữu thao lược. Trong triều đình có bách quan nhưng khi cùng Triệu Khuông Dận đối đáp học vấn thì không ai có thể đáp trôi chảy bằng hắn. Trong mắt Triệu Khuông Dận thì sự bác học của Lô học sĩ có thể xưng làm đệ nhất Đại Tống, cho nên không những thích nhất cùng hắn tham thảo học vấn mà còn rất kính phục hắn. 



Triệu Khuông Dận lại không biết vị Lô đại học sĩ này thực tài thực học đương nhiên là có thật, bất kể hắn hỏi gì thì vị Lô đại học sĩ đều có thể dẫn chứng rộng rãi, dẫn chứng từ các điển cố, quả thực là học vấn trong thiên hạ như thể đều ở trong đầu hắn vậy. Nhưng thực ra con người này không thực sự có trí nhớ giỏi như vậy mà là vì vị Lô học sĩ này còn kiêm sai sứ hoàng gia sử quản. Triệu quan gia rất thích đọc sách, mỗi lần lấy từ trong sử quán mang đi sách gì thì Lô Đa Tốn đều hỏi tiểu lại quản lý kho sách để biết rõ, sau đó đọc thâu đêm không ngủ, ghi nhớ học thuộc lòng những kiến thức then chốt nhất. Mỗi lần Triệu quan gia có chỗ nào không hiểu trong sách, hỏi các đại thần, người có thể lập tức đáp lời mà không có chỗ nào thiếu sót đương nhiên là Lô đại học sĩ hắn. 



Cứ như vậy, trong mắt Triệu Khuông Dận thì con người này chính là đệ nhất học vấn Đại Tống. Hai người đang đàm kinh luận sử, đang nói đến chỗ hứng lên cao thì tông chính khanh Trương Trì rón ra rón rén bước vào. Trương Trì là tông chính khanh, chủ quản những việc của hoàng tộc, nhưng phàm là những chuyện đề cập đến hoàng tộc thì xử lý rất phiền phức, người có thể làm chức quan này đa phần phải là người “mạnh vì gạo, bạo vì tiền”, linh hoạt nhanh nhẹn, rất giảo hoạt. Nhưng chỉ vần nhìn tướng mạo thì vị tông chính khanh tuổi ngũ tuần này lại có dáng vẻ mi thanh mục lãng, chính khí lẫm liệt. 



Gặp Triệu Khuông Dận, Trương tông chính liền khom lưng thi lễ: “Bệ hạ, thần phụng chỉ điều tra về tư trạch được xây trong ngự uyển của hoàng gia, đã điều tra ra kết quả.”



“Sao cơ? Mau nói nhanh lên.” Triệu Khuông Dận đặt chén xuống.



“Vâng!” Trương Trì chắp tay nói: “Thần đã điều tra, mảnh đất ngự uyển hoàng gia đó đã không còn là đất của hoàng gia nữa.”



Triệu Khuông Dận ngạc nhiên nói: “Ngự uyển hoàng gia cũng có thể thay tên đổi chủ hay sao? Nguyên nhân là gì?”



“Bẩm quan gia, mảnh đất đó đã bị Gián viện tả chính ngôn quan Hoa Mộ Tịch dùng mảnh đất đang để không ở Quảng Đức Kiều Đông đổi lấy, khế đất cũng đã đổi tên, cho nên mảnh đất đó đã không thuộc về hoàng gia nữa.”



Triệu Khuông Dận vừa kinh ngạc vừa giận: “Đây là đạo lý gì chứ? Hoa Mộ Tịch hắn… hừ. Mảnh đất đó là Triệu Phổ xây trạch viện, sao lại trở thành Hoa Mộ Tịch dùng đất rỗi để đổi là thế nào?”



Trương Trì nói: “Quan gia, mảnh đất mà Hoa ngự sử dùng để đổi ngự viện hoàng gia chính là đất của Triệu tướng công, cho nên mảnh đất đó đã đổi chủ nhân, chính là Triệu tướng công. Triệu tướng công dùng một mảnh đất mười mẫu để đổi lấy ngự uyển mười mẫu, dùng để xây trạch viện.”



Triệu Khuông Dận nghe thấy trong lòng cả kinh, thân là thần tử lại dám lấy đất tư đổi lấy hoàng điền, đây là mạo phạm hoàng gia, không thể tha thứ được nữa. Mà trong đó còn đề cập đến ngự sử đài hữu chính quan, là quan viên trọng yếu như thế , càng làm cho hắn cảnh giác. Ngự sử đài là giám sát nha môn của văn võ bách quan. Một giám sát trọng yếu chỉ đứng sau trung thừa mà lại có mối quan hệ thân thiết như vậy với Triệu Phổ, tên ngự sử đài đó còn có tác dụng gì nữa?



Triệu Khuông Dận ngẩn ra một lúc, xua tay nói: “Khanh đi đi.” Khi tông chính khanh lui đi, Triệu Khuông Dận lập tức phẫn nộ quát lớn: “Vương Kế Ân, truyền chỉ Đại Lý tự, điều tra kỹ cho trẫm, việc ngự uyển hoàng gia bị đổi chủ là có nguyên nhân gì. Hoa Mộ Tịch và Triệu Phổ có qua lại như thế nào.”



Vương Kế Ân đáp lời rồi lui đi, Lô Đa Tốn mắt đong đưa, đứng dậy nói: “Quan gia xin bớt giận, việc này từ từ điều tra mới được. Việc này đề cập đến thủ phụ, sao có thể làm lớn chuyện lên được.”



Triệu Khuông Dận tức giận nói: “Đề cập đến thủ phụ thì có làm sao? Đây quả thật là khi quân phạm thượng. Trẫm chưa từng nghĩ Triệu Phổ kết bè kết cánh làm chuyện gian dối, lại còn dám làm đến mức độ này. Phải nhẫn nại sao, không thể nhẫn nại được.”



“Quan gia bớt giận, quan gia bớt giận. Triệu tướng công là tể tướng đương triều, làm quan đã hơn mười năm, học trò khắp thiên hạ, trung thành và tận tâm với triều đình. Nếu như vì một chuyện nhỏ như thế này mà đột nhiên chỉ trích nặng nề, chỉ sợ lòng của quan lại trong thiên hạ sẽ lạnh lại. Hơn nữa, quan gia bây giờ đang muốn binh phạt Đường quốc, bày mưu tính kế, sao có thể thiếu được Triệu tướng công? Nếu như Triệu tướng công vì chuyện này mà thất ân thì sợ rằng khu mật sứ Lý Sùng Củ cũng sẽ sinh lòng sợ hãi. Một văn một võ này là trụ cột của triều đình, quan gia sao lại có thể vì chuyện nhỏ mà mất lớn được?”



Triệu Khuông Dận tức giận quá mà lại cười: “Triệu Phổ hắn ngay cả đất của hoàng gia cũng dám chiếm lấy, đây không phải là chuyện bình thường. Mười mẫu đất là chuyện nhỏ, nhưng hắn làm như vậy rõ ràng là không coi trẫm ra gì. Trẫm muốn trừng phạt hắn, còn phải suy tính trước sau ư? Hoàng đế mà phải như thế này sao, thật là…”



Hắn nói đến đây thì đột nhiên phản ứng lại, những lời mà Lô Đa Tốn nói dường như đang trôi nổi trong biển não của hắn, cứ từ từ lặp lại: “Triệu tướng công là tể tướng đương triều, làm quan đã hơn mười năm, học trò khắp cả thiên hạ, sợ lòng của quan lại trong thiên hạ sẽ lạnh lại, sợ rằng khu mật sứ Lý Sùng Củ cũng sẽ sinh lòng sợ hãi, một văn một võ này là trụ cột của triều đình.”



Quan lại khắp triều đình nhiều người là do Triệu Phổ tiến cử, khu mật sứ Lý Sùng Củ là thông gia của Triệu Phổ, đột nhiên, Triệu Khuông Dận lại có một cảm giác run sợ, sự phẫn nộ của hắn đã dần biến mất, đầu hắn tỉnh táo lại, trong ánh mắt đột nhiên trào lên một luồng sát khí.


***


Đại Lý Tự đã tra xét rõ, không ngờ vì một cái án mua đất mà lại liên đới tới một đại án khác. Triệu Khuông Dận lúc này mới kinh ngạc phát hiện ra, Xuyên Tây chuyển vận sứ mà chính mình đã khâm mệnh Triệu Hồ sau khi chiếu mệnh đưa xuống đã một năm mà lại vẫn nhàn nhã ở lại kinh thành, hoàn toàn chưa từng đi nhậm chức.



Còn sự vụ Xuyên Tây thì luôn do phó sứ chuyển vận phụ trách, việc lớn như vậy mà hoàng đế hắn lại không hề biết. Chiếu mệnh của hắn lại không thể điều động một chuyển vận sứ bé tẹo, mà các ti nha môn trong triều vì một câu nói của Triệu Phổ mà đã giấu kín chuyện này đi. Chuyển vận ti nha môn vì một thủ dụ của Triệu Phổ mà có thể lệnh cho chuyển vận phó sứ chủ trì sự vụ Xuyên Tây lâu đến một năm. Triệu Khuông Dận đột nhiên cảm thấy một sự kinh hãi từ sâu trong tim. Thánh chỉ của hắn rốt cuộc có tác dụng gì không? Phải chăng cả triều chính đều đã nằm trong tay Triệu Phổ?



Hôm nay là một buổi triều hội nhỏ, chỉ cần các thần tử tâm phúc của các nha môn trọng yếu nhất nhập cung thị giá. Triệu Phổ từ từ bước đến Hoàng Nghi điện, đột nhiên cảm thấy bên người mình thừa ra một thứ gì đó, lại thiếu đi một thứ gì đó. Quan sát kỹ hai bên hắn mới phát hiện ra thông gia khu mật sứ Lý Sùng Củ không đến, mà hai quan nhi nhàn rỗi là tham chi chính sự Tiết Cư Chính, Lữ Du Khánh lại áo quan chỉnh tề đứng ở đó.



Triệu Phổ mơ hồ không hiểu bước lại. Tiết Cư Chính và Lữ Du Khánh liền kiến lễ với đại thần, Triệu Phổ gật đầu, tiện miệng hỏi: “Sao hai người lại tới vậy? Lý khu mật sứ sao lại chưa tới hậu giá?” 



Hai vị tham tri chính tuy trên dang nghĩa là phó tể tướng, nhưng luôn chỉ là hai thứ để trang trí, hoàn toàn không được sắp xếp làm việc gì, họ cũng nhìn nhau đầy vẻ không hiểu.



Chỉ trong chốc lát, nội thị đô tri Vương Kế Ân đã đến, đứng trước điện tuyên chỉ: “Đồng trung thư bình chương sự Triệu Phổ, tham tri chính sự Lữ Du Khánh, tham tri chính sự Tiết Cư Chính tiếp chỉ.”



Ba người liền phủi y phục rồi quì xuống, Vương Kế Ân nói: “Quan gia có khẩu dụ, triều đình ta khai cương thác thổ, cương vực, nhân khẩu không ngừng mở rộng, một mình Triệu Phổ khó có thể chu toàn vạn cơ, nay lệnh cho Lữ Du Khánh, Tiết Cư Chính nhậm chức nha biện sai, cùng với Triệu Phổ chủ trì quốc chính. Trẫm đột nhiên mắc bệnh nhẹ, hôm nay triều hội nghỉ. Khâm thử.”



“Thần… thần tuân chỉ.” Cả bang không hẹn mà cùng run người lên. Lữ Du Khánh và Tiết Cư Chính là vì vui mừng quá mà không thể khống chế được, còn Triệu Phổ lại là vì sợ hãi không lý do. Hắn hoàn toàn không biết hoàng đế tại sao lại đột nhiên hạ mệnh lệnh như vậy, để cho hai phó tể tướng chia quyền của hắn, mà trước đó không có dấu hiệu bất thường gì.



Triệu Phổ hồn bay phách lạc đứng dậy, ngay cả việc chúc mừng theo lễ tiết hai vị phó tể tướng cũng quên mất. Đến khi hai người họ từ lễ đi về, Triệu Phổ vẫn đứng yên lặng giữa đại điện, rất lâu, rất lâu không thấy động đậy. Khi về tới phủ, Triệu Phổ mới nhớ đến việc hôm nay thông gia Lý Sùng Củ không lên triều, lẽ nào thông gia sớm biết chuyện này, cho nên cố ý trốn tránh? Triệu Phổ bi phẫn không thôi, sai một tâm phúc đến thăm dò chỗ Lý Sùng Củ. Tin tức mà hắn nhận được làm cho hắn lạnh toát: Lý Sùng Củ hôm nay không lên triều không phải vì bệnh, cũng không phải biết trước được chuyện này nên tránh, mà hắn cũng đã nhận được khẩu dụ của thánh thượng: Vì quân vụ bận rộn, từ hôm nay trở đi, khu mật sứ cứ lên sử nha làm việc bình thường, không cần phải lên triều hậu chỉ nghe tuyên.



Xảy ra chuyện gì rồi, nhất định là đã xảy ra chuyện gì đó, nhưng rốt cuộc là vì nguyên nhân gì?



Triệu Phổ lo lắng rối loạn. Hắn vẫn còn chưa kịp đi dò hỏi tỉ mỉ thì đã biết được vấn đề là ở đâu rồi. Xuyên Tây chuyển vận sứ Triệu Hồ bị bãi quan, thi trượng hình, vĩnh viễn mất đi tư cách làm quan; ngự sử đài giám quan hữu chính Hoa Mộ Tịch giáng quan xuống làm sĩ tào tham quân, lưu đày đến huyện Sinh Liên, đến đó xử lý những án tố tụng như hôn nhân, điền thổ, ẩu đả.



Triệu Phổ cầm bản đồ ra xem cả nửa ngày, cũng không biết được huyện Sinh Liên là ở chỗ nào, tìm người hỏi thăm một lượt mới biết đó là một vùng đất thuộc Mân Nam mà triều đình mới thu phục được, nghe nói đầu tiên phải đến Phiên Vũ Quảng Nguyên, sau đó ngồi thuyền, lại ngồi xe, cuối cùng là cưỡi lừa, vượt qua mấy ngọn núi lớn mới có thể đến được vùng đất đó.



Triệu Phổ vô cùng hoang mang. Hắn liền triệu tập mạc liêu để thương lượng đối sách, nghiên cứu xem làm thế nào mới có thể thu hồi được thánh chỉ, liên tiếp ba ngày mà cũng không bàn bạc ra được ý hay, mà thủ đoạn của Triệu Khuông Dận lại như bão vũ lôi đình, không động thì thôi, mà động một cái là như ông trời nổi giận, làm cho người ta hoàn toàn không có sức đấu trả.



Một môn khách của Lý Sùng Củ tố cáo hắn nhận hối lộ, tuy không có chứng cứ xác thực, nhưng Triệu Khuông Dận vẫn xử lý một cách nhanh chóng mà trước đây chưa từng có. Lý Sùng Củ bị giáng chức, điều ra xa khỏi cái chức trọng yếu chủ quản tam quân khu mật sứ, còn môn khách tố cáo thì được nhận mệnh làm chủ bộ của một huyện, phong đồng tiến sĩ.



Ngay sau đó, Triệu Khuông Dận hạ chiếu trọng tuyển đường hậu quan. Đường hậu quan là tướng phủ thuộc lại, tể tướng có quyết định gì, có mệnh lệnh gì đều phải thông qua họ để truyền đạt lại, nhưng những cánh tay đắc lực chỉ trong một đêm đều đã bị thay thế hết. Và chế độ này từ bây giờ cứ ba năm tất cả đường hậu quan đều phải thay một lần, không được chậm trễ.



Cho dù mù thì bây giờ cũng có thể thấy rõ ý của hoàng đế là gì. Tất cả những người muốn thăng quan đều đã biết mình phải làm gì rồi. Đám người vốn đi theo Triệu Phổ đều vô cùng hoang mang, đều cho rằng tòa nhà lớn đã bị lung lay, có một số người bắt đầu tự tìm cho mình một đường khác. Nhưng Triệu Phổ vẫn rất bình tĩnh, mỗi ngày vẫn đóng dấu, áp ban, tấu sự, thượng triều như bình thường, thần thái rất ung dung, hoàn toàn giống như trước.



Hắn rất tin tưởng, bây giờ tuy thất sủng, nhưng hoàng đế vẫn không thể thiếu hắn. Một đế vương nếu muốn giữ vững được giang sơn thì phải bảo đảm được thế lực trong triều cân bằng, tuyệt đối không thể để một nhà độc đại. Không sai, hắn đã đắc ý mà quên mất điều này, hắn đã chọc vào gân của Triệu Khuông Dận, nhưng trừng phạt như bây giờ chắc cũng đủ rồi chứ? Bây giờ ta mà đổ xuống thì lấy ai ra mà khống chế Triệu Quang Nghĩa đây? Hoàng đế dù sao cũng cao cao tại thượng, có rất nhiều việc không thể đích thân làm. Hắn có thể giống ta sao, ngày ngày đêm đêm, giờ giờ khắc khắc quan sát nhất cử nhất động của Triệu Quang Nghĩa, phòng xem hắn có hạ thủ gì không?



Nhưng Triệu Phổ lại vẫn đánh giá thấp sự quyết đoán và lửa giận của Triệu Khuông Dận. Khi cái án mà hắn chuyên quyền, tham ô nhận hối lộ bị vạch ra, trực tiếp được tấu lên Triệu Khuông Dận thì Triệu Khuông Dận cuối cùng cũng đã hạ được quyết tâm: Bãi truất tể tướng. 



Tờ chiếu thư đã đến được phủ tể tướng, nói rằng tể tướng Triệu Phổ vất vả công lao lớn, ngày đêm lo cho quốc sự, thể xác và tinh thần đã mệt mỏi, không thể chịu nổi nữa. Quan gia thương xót cho về địa phương nghỉ ngơi mấy năm, gia phong Triệu Phổ làm tiết độ sứ, đồng bình chương sự của tam thành Hà Dương. Vẫn để trên đầu cái chức tể tướng, chỉ là một tể tướng rời xa khỏi kinh thành, thì có còn được coi là tể tướng nữa hay không?



Bại rồi, thật sự bại rồi. Triệu Phổ thất bại tâm phục khẩu phục. Hắn chưa từng nghĩ một Triệu Quang Nghĩa trong mắt hắn chỉ nhỏ giống như cọng lông tơ mà lại có thể có thủ đoạn thâm hiểm như thế này, không đánh thì thôi, mà đánh thì sẽ là một đòn chí mạng, làm cho hắn ngay cả cơ hội trả đòn cũng không có.



“Tướng gia, tướng gia. Đây là những tin tức mà thuộc hạ vừa mới thu thập được.” Mộ Dung Cầu Túy kích động mà chạy vào trong thư phòng. Triệu Phổ, người vừa nhận được tin miễn chức đang ngồi bất động trong đó, chỉ nhếch mày lên nhìn. Mộ Dung Cầu Túy liền nói: “Tướng gia, ngài xem, đây là tình báo cấu kết ngầm giữa Triệu Quang Nghĩa và nội thị đô tri Vương Kế Ân, còn có cái này nữa, hắn còn nhân cơ hội thưởng phạt người dập lửa mà trọng thưởng cấm quân tướng sĩ, đây rõ ràng là có lòng lôi kéo.”



Triệu Phổ cười nhạt: “Lời đồn, không căn cứ, đoán mò, có thể lật được Tấn vương ư?”



Mộ Dung Cầu Túy ngẩn ra, nói: “Tướng gia, những chứng cứ này tuy không lật được hắn, nhưng lại làm nảy sinh sự nghi ngờ trong lòng quan gia, đối với hắn sẽ có lòng đề phòng.”



Triệu Phổ lắc đầu cười: “Đặt xuống đi.”



“Vâng.” Mộ Dung Cầu Túy thấy sắc mặt hắn không tốt, liền đặt những tin tức tình báo ghi chép được xuống, nhẹ nhàng lui ra ngoài.



Ánh mắt Triệu Phổ hướng về những thứ trên bàn, một lúc lâu liền bỏ cái chụp đèn dầu xuống, cầm từng tờ tư liệu đưa vào ngọn lửa rồi vứt xuống đất.



Triệu phu nhân vừa mới nhận được tin tức, vội vàng chạy đến thư phòng, thấy cảnh tượng đó liền hỏi rõ những vật đó là gì, không khỏi nghi ngời nói: “Quan nhân sao lại đốt những thứ đó?” 



Triệu Phổ cười nhạt nói: “Phàm là chuyện gì cũng để lại một chút thì ngày sau sẽ gặp lại.”



Trầm ngâm một hồi, Triệu Phổ liền nói: “Phu nhân, đi chuẩn bị một chút đi, chúng ta chuẩn bị rời kinh.”



Triệu phu nhân im lặng lui ra ngoài. Triệu Phổ đốt đến tờ giấy cuối cùng, ngồi yên lặng một lúc, mài mực rồi viết một tờ tấu chương cuối cùng. Tấu chương này giống như một tờ báo cáo công tác những năm vừa rồi của tể tướng hắn, bên trong còn nhắc đến Tấn vương Triệu Quang Nghĩa, có viết “hoàng đệ trung hiếu toàn đức”, đối với Triệu Quang Nghĩa, hắn đã thêm những từ ngữ khen ngợi vào.



Hắn đã bại rồi, hắn phải để cho mình một con đường lui, đây là sắp đặt cho hậu sự, sắp đặt cho tốt thì mới có một con đường sống.



Đêm nay Dương Hạo cũng đã sắp xếp xong hậu sự. Hắn sắp phải đi đến Nam Đường. Hắn gọi Diệu Diệu đến, nhìn ánh đèn dầu, dáng vẻ vui mừng, ngồi một lúc lâu.


***


“Gần đây… chuyện làm ăn ở Nữ Nhi quốc như thế nào?” Dương Hạo chần chừ hồi lâu, mới ép ra được một câu. Diệu Diệu không nhìn được mà cười, chu môi lên nói: “Rất tốt. Danh tiếng của Nữ Nhi quốc chúng ta đang dần lớn mạnh. Bây giờ những người đến Nữ Nhi quốc đều là quyền quý nhân gia, đồ đạc tuy là quý giá, chất lượng tốt nhất. Đừng thấy khách đến không bằng người địa phương, nhưng cứ tùy tiện làm ăn cũng có thể kiếm được bằng mười, trăm vụ buôn bán.”



“Ừm, vậy thì tốt, ngươi… ngươi…”



“Sao cơ?” Đôi mày nhàn nhạt của Diệu Diệu liếc nhìn Dương Hạo, nàng nhìn vẻ mặt của Dương Hạo liền biết tất có chuyện, nhưng dáng vẻ ấp úng, trông rất khó mở miệng của hắn thì nàng chưa từng nhìn thấy, trong lòng không khỏi thấy kì lạ.



“Ờ! Ngươi, tiền trong tay ngươi còn đủ dùng không?”



“Ừm, lão gia có phải là muốn lấy một khoản ra dùng không? Tiền còn dư trong tay chỉ đủ để lưu chuyển hàng hóa mà thôi. Nếu lão gia không vội thì nô gia có thể rút ra dần dần, cứ mười ngày sẽ kết toán một lần, để lại một khoản tiền cần phải lưu thông hàng hóa, số dư còn lại thì có thể rút hết cho lão gia. Nếu không e rằng việc lưu thông hàng hóa sẽ không ổn, mà Nữ Nhi quốc vừa mới mở không lâu, làm như vậy e là…”



Dương Hạo vội xua tay: “Không phải, không phải, lão gia không có ý muốn lấy tiền từ chỗ ngươi. Lão gia ý là nói… là nói… ừm. Ngươi gần đây vẫn khỏe chứ? Ta thấy hình như ngươi gầy hơn trước thì phải, mặt có huyết khí kìa.”



Nguồn: http://4vn.eu/forum/showthread.php?t=71274&page=72#ixzz1zqVfMiBY

Chương 344: Lưỡng sương tình

Diệu Diệu xoa mặt mình, khuôn mặt trái xoan đỏ cả lên, đôi mắt xinh đẹp đong đưa, mang mấy phần đùa đùa: “Có lão gia tọa trấn kinh sư, nô gia có người tâm phúc, làm việc không cảm thấy vất vả, nô gia cũng cảm thấy mình có nhiều thịt hơn.”



Nàng đột nhiên lo lắng hỏi: “Nô gia bây giờ có phải là đã béo hơn không?”



“Không, không, bây giờ rất được rồi, chỗ cần béo đã béo lên, chỗ cần gầy đã gầy đi, vừa đẹp, vừa đẹp.”



Diệu Diệu không kiềm được mà cúi xuống ngắm lại mình, rồi dùng ánh mắt thích thú nhìn Dương Hạo. Dương Hạo ho khan một tiếng, không nhìn nàng ta, ánh mắt hướng về chỗ khác, nói: “À, đúng rồi, Tiểu Vũ là thị vệ theo sát ta, ta định đem hắn trở lại bên mình, còn về Nữ Nhi quốc, điều Trương Ngưu Nhi và Lão Hắc đến giúp đỡ. Còn Mỗ Y Khả thì lão gia sẽ có sắp xếp khác, cũng phải… khụ khụ…”



“Những chuyện này lão gia chỉ cần dặn dò một tiếng là được, không cần phải bàn bạc với Diệu Diệu.” Diệu Diệu nghi hoặc nói, ánh mắt hơi sáng lên, thần sắc đột nhiên có chút thay đổi: “Lão gia, phải thay người quản lý Nữ Nhi quốc sao?” Nàng cúi đầu xuống, buồn bã nói: “Việc này, lão gia cũng không cần phải thương lượng với Diệu Diệu, càng không cần phải khó khăn mở miệng như thế, chỉ cần lão gia ra lệnh là được.”



Mồm thì nói như vậy, nhưng trong lòng nàng vẫn rất khó chịu. Làm một nha hoàn bên cạnh Dương Hạo hay là làm chủ của Nữ Nhi quốc thì đối với nàng mà nói không có gì khác biệt, nhưng nghĩ tới việc có thể nàng làm việc không tốt, lão gia chán ghét mình, trong lòng nàng cảm thấy rất khó chịu.



“Diệu Diệu, ngươi hiểu nhầm rồi, lão gia không phải có ý đó.”



Dương Hạo mồ hôi toát cả ra. Kết hôn giả thôi mà, ở hiện đại cũng không phải tin tức gì mới, đề di dân, để phân phối chỗ ở, chẳng qua là cả hai đều biết chân tướng. Mà bây giờ tin tức hắn giả chết càng ít người biết càng tốt, sẽ không trở thành cái miệng lớn, đặc biệt là sau này sẽ không có người qua lại nữa, nào có thể nói ra chân tướng? Vì thế mà hắn thực sự rất khó mở lời.



Sau bức bình phong đột nhiên có tiếng ho nhẹ vang lên, Oa Oa thong thả bước ra: “Quan nhân, bên tỷ tỷ còn có chuyện muốn bàn bạc với chàng.”



“Ừm, được được. Cứ như thế đã, cứ như thế đã.” Dương Hạo như gặp được đại xá, vội vàng đứng dậy, cười gượng gạo với Diệu Diệu, nhấc chân bước đi. Diệu Diệu kinh ngạc nhìn bóng dáng Dương Hạo biến mất hút, lại nhìn Ngô Oa Nhi, thấy nàng ấy đã ngồi xuống trước mặt mình, ánh mắt như cười mà như không cười, lập tức cảnh giác…



Chiếc kiệu trở về tới Nữ Nhi quốc, một quản sự liền bước lên trước: “Diệu Diệu cô nương, có một số chuyện muốn bẩm báo với cô nương.”



“Ông bận gì thì cứ làm đi. Hôm nay cũng muộn rồi, sáng mai lại nói.”



“Ừm. Vâng.” Quản sự đó ngạc nhiên nhìn Diệu Diệu, vị đại quản sự này vốn bình thường những chuyện lớn chuyện nhỏ được dặn dò bất kể là lúc nào, ở nơi nào đều kịp thời bẩm báo với nàng ấy. Hôm nay sao nhìn nàng ấy lại mặt đỏ tía tai, giống như say rượu, nhưng không ngửi thấy mùi rượu.



Vị quản sự đó kinh ngạc nhìn Diệu Diệu bước nặng nề biến mất vào trong phòng lớn. “Bịch” một tiếng đóng cửa lại, Diệu Diệu dựa vào cửa, tay ấn lấy ngực, thì nghe tiếng tim mình đập thình thịch giống như một con nai bị buộc dây vào cổ, đang muốn chạy thoát khỏi lồng ngực nàng.



Nàng thở hổn hển mấy hơi, lấy vội chén trà lạnh ở trên thư án uống, cái cảm giác như trên mây vẫn không biến mất. Diệu Diệu nhéo mạnh vào đùi mình một cái, đau quá liền kêu lên, Diệu Diệu ngẩn ra, khóe miệng từ từ nhếch lên, lẩm bẩm tự nói: “Không phải nằm mơ, ta không phải nằm mơ, lão gia… lão gia thực sự muốn nạp ta làm thiếp.” 



Nghĩ như vậy nước mắt Diệu Diệu đột nhiên tuôn rơi, trong lòng vẫn có một niềm vui khó tả, làm cho nàng muốn hét lên mấy tiếng vui sướng. Cho dù nàng đã nhận được sự yêu mến của Dương Hạo, còn được làm chủ của Nữ Nhi quốc, nhưng nàng đối với tương lại lại luôn có một cảm giác mơ hồ băn khoăn. Cho dù nàng vẫn còn nhỏ nhưng với thân phận và sự từng trải của nàng, tâm tư của nàng cũng đã thành thục hơn rồi, cái cảm giác mơ hồ này luôn tồn tại trong lòng nàng.



Bây giờ cuối cùng cũng đã được vén mây mù ra rồi, nàng cuối cùng cũng đã có chỗ dựa, còn đức lang quân mà nửa đời sau nàng sẽ dựa vào rồi hầu hạ lại chính là Dương Hạo, người nàng đã ngưỡng mộ từ lâu, nàng còn gì không thỏa mãn nữa?



Diệu Diệu trở lại phòng ngủ của mình, đóng chặt cửa lại, đột nhiên hô lên một tiếng vui mừng, nhảy vọt từ dưới đất lên giường, áp khuôn mặt đang nóng phừng phừng vào trong gối, sau đó lại lấy tay xoa xoa mặt, khóe miệng nở một nụ cười đầy hạnh phúc ngọt ngào……



Lão gia sắp phải đi sứ Đường quốc, thư nạp thiếp ngày mai sẽ tìm người đến làm, đợi lão gia trở về mới có thể chính thức làm viên phòng với nàng. Không sao. Chỉ cần xác lập được cái quan hệ này thì bảo nàng phải đợi bao lâu cũng được. Lão gia muốn nạp thiếp rốt cuộc là có mấy phần vì thích nàng hoặc là vì không muốn giao Nữ Nhi quốc cho người ngoài chăm lo, ngoài nàng ra không có ai thích hợp hơn cả, cho nên mới nghĩ rằng nhất cử lưỡng tiện, nàng cũng không muốn nghĩ nữa.



Quan trọng là nàng sẽ trở thành người của lão gia. Lão gia là người đàn ông mà nàng yêu, nơi đây sẽ trở thành nhà của nàng vĩnh viễn, đối với một tiểu nha đầu như nàng mà nói thì nơi đi về này đã là thiên đường, nàng thấy thế đã đủ rồi.



Diệu Diệu ôm lấy gối, lăn một vòng trên giường, nhẹ nhàng kêu lên: “Lão gia.”



Trong nhất thời, nàng như cảm nhận được Dương Hạo như thể đang nằm bên cạnh nàng, đang ôm lấy cái eo của nàng, đôi mắt sáng quắc đang nhìn nàng, làm cho nàng xấu hổ không biết trốn vào đâu.



“Soạt!” Cửa mở ra, Mỗ Y Khả cầm chiếc đèn lồng xuất hiện trước cửa… soi đèn nhìn nàng nói: “Diệu Diệu tỷ, tỷ về rồi đấy à, ý, tỷ làm sao vậy?”



Trên giường, Diệu Diệu ngồi dậy, chiếc thoa tóc rơi xuống, mái tóc hơi rối, đôi mắt sáng như gương. Nàng vuốt mái tóc mình, ngượng ngùng nói: “Là Nguyệt Nhi à, còn… còn chưa ngủ sao? Ta không sao, ừm, có chút mệt mỏi, hôm nay muốn nghỉ ngơi sớm một chút, muội đặt đèn vào đó rồi cũng đi ngủ sớm đi.”



“Vâng.” Mỗ Y Khả đặt đèn xuống bàn, quay người nhìn Diệu Diệu với ánh mắt tò mò, lúc này mới mang một nụ cười mơ hồ đi ra ngoài.



Diệu Diệu ngồi trên giường, đợi cánh cửa đóng lại, liền vội vàng chạy đến bàn, cầm lấy gương soi. Dưới ánh đèn vẻ xuân tình trên khuôn mặt như hoa hải đường đang nở, làm cho Diệu Diệu xấu hổ thẹn thùng: “Nguyệt Nhi nhất định không nhìn ra đâu, nhất định không nhìn ra.”



Nàng tự an ủi mình, nhìn vào gương thấy đôi lông mi dài của mình cũng đang cười, mắt cũng đang cười, khuôn mặt trái xoan hồng nhuận, đôi môi chúm chím hoa anh đào. Nàng không kìm nổi mà đưa tay lên ấn mạnh vào má mình: “Xấu hổ, xấu hổ, đồ tiểu nha đầu mặt không có da.”



Vừa mắng mình, khóe miệng nàng và ánh mắt lại vừa nhếch lên, đôi môi nhỏ hồng hào trong gương trông rất đáng yêu. “Quan nhân sẽ thích chứ? Nếu như ngài ấy hôn vào đôi môi nhỏ của mình.”



Tâm hồn Diệu Diệu đang bay bổng trên mây, lúc này một tiếng “kẹt” vang lên, cánh cửa phòng lại mở ra, Nguyệt Nhi thò đầu vào, thấy Diệu Diệu đang chải đầu trước gương, tay lại mân mê trên khuôn mặt, giống như đang trang điểm.



“Còn có chuyện gì nữa?” Diệu Diệu quay đầu lại, hỏi một câu lại quay đầu đi.



“Ừm, không có gì. Diệu Diệu tỷ, tỷ… thực sự không sao chứ?”



“Không có, không có. Muội mau đi ngủ đi.”



“Ừm. Vâng.” Mỗ Y Khả đóng cửa lại, không hiểu gãi đầu: “Sắp đi ngủ rồi mà còn trang điểm làm gì. Diệu Diệu tỷ hôm nay thật kì lạ.”


***


Sau khi Triệu Phổ rời kinh, trong triều lại xảy ra hai chuyện lớn, một là Giao Châu thứ sử Đinh Tiệp khiển sứ tiến kinh xưng thần nạp cống. Giao Châu ở xa Thiên Nam, cũng chính là Việt Nam của hậu thế. Lúc đầu, Đinh Bộ Lĩnh tự lập làm vương, xưng làm Vạn Thắng Vương, khi đó đã đến xưng thần với Hán quốc. Hắn sai con trai là Đinh Liễn đến thỉnh phong Hán quốc, hoàng đế Hán quốc phong con trai hắn làm Tĩnh Hải quân tiết độ sứ.



Mấy năm nay thế lực Đại Tống càng ngày càng lớn, Đinh Bộ Lĩnh liền qua mặt Hán quốc, xưng thần với Tống quốc.



Bây giờ Tống quốc đã diệt được Hán quốc. Để tránh cuộc đụng độ với nhà Tống năm Nhâm Thân (972), Đinh Tiên Hoàng sai con là Đinh Liễn mang đồ vật sang cống. Vua nhà Tống sai sứ sang phong cho Tiên Hoàng làm Giao Chỉ quận vương và phong cho Nam Việt vương Đinh Liễn làm Tĩnh Hải quân tiết độ sứ An Nam đô hộ.



Triệu Khuông Dận đương nhiên rất vui mừng. Nghi thức tiếp đón vừa được tổ chức long trọng xong thì từ đất Thục lại truyền đến tin tức, thủ lĩnh tà giáo Cừ Châu Lý Tiên Tụ có hơn vạn người, đi khắp nơi cướp bóc, giơ cờ tạo phản. Thục quốc là nước đầu tiên sau Kế Kinh Hồ bị Tống quốc tiêu diệt, bây giờ đã chịu sự thống trị của Tống bảy, tám năm. Nhưng thời cuộc dao động, vẫn là thường có người tạo phản. Triệu Khuông Dận biết được tin, biết ngồi trên thiên hạ rất khó, đối với những sự việc trước mắt vẫn chưa có sức mạnh cực lớn nên không dám sơ ý, lập tức mệnh lệnh cho toàn các chi châu phụ trách tiêu diệt loạn phỉ.



Đồng thời lệnh cho Tiết Cư Chính, Lữ Du Khánh, Lô Đa Tốn vạch ra những kế sách an dân, đề phòng dân Thục phụ đi theo đám phỉ. Mấy vị tể tướng này vừa nhận được đại quyền, làm việc hết sức mình, rất nhanh đã tìm ra được kế sách. Triệu Khuông Dận lập tức ban hành chiếu chỉ thi hành, hủy bỏ thuế hôn nhân của Thục quốc, đây là một hạng mục thuế được thiết lập từ thời Thục quốc. Ngay cả kết hôn cũng cần phải nộp thuế, cũng khó trách Thục vương lại có thể hút được nhiều mồ hôi nước mắt của dân chúng như vậy. Tống quốc sau khi có được Thục vẫn thi hành rất nhiều chế độ cũ, không có thay đổi, đến tận bây giờ mới có chút cải biến.



Dân Thục khi giao nộp thuế hai mùa hạ, thu thì đa phần dùng tơ tằm để giao nộp. Nhưng bây giờ quốc gia đã phồn thịnh, đối với các vật dụng, trang sức cao cấp càng lúc nhu cầu càng nhiều lên, giá cả tơ lụa cũng đã tăng lại càng tăng, mà quan phủ đất Thục vẫn dựa theo giá cả tơ lụa của chế độ nhiều năm trước để thu thuế, lúc này cũng đã làm chỉnh sửa. Sau này các phủ trưng thu thuế thì các sản phẩm tơ lụa đều dựa theo giá thị trường.



Tất cả những việc này một mặt là ra sức đả kích loạn đảng Lý Tiên, một mặt dùng thủ đoạn ân huệ để làm an dân, vừa đấm vừa xoa, dẹp loạn mối họa…….



Lúc này Khiết Đan bắc quốc mọi việc cũng đang rối loạn. Các bộ tộc Khiết Đan không có biểu hiện rõ ràng về sự chống đối triều đình, triều đình cũng không thể dùng thủ đoạn vũ lực để áp chế, chỉ có thể phân hóa, lôi kéo, dụ dỗ. Hoàng đế Da Luật Hiền cơ thể bệnh tật, không có đủ sức lực để xử lý những việc này, đành phải để hoàng hậu Tiêu Xước chủ trì triều chính, để sắp xếp những vương công đại thần, thật sự làm nàng ta vô cùng mệt mỏi.



Việc nội bộ vẫn chưa xử lý xong thì bộ lạc Nữ Chân lại xâm phạm tới biên cương, giết chết đô giám Đạt Lý, cướp bóc người và súc vật đi. Một bộ lạc Nữ Chân bé nhỏ mà lại dám xâm phạm Khiết Đan, Tiêu Xước biết được tin liền hạ lệnh Da Luật Hưu Ca thống binh thảo phạt. Bên này đại quân tập kết còn chưa kịp xuất binh thì bộ lạc Nữ Chân đã sai sứ đến tiến cống, lại mang theo mấy cái đầu tới, nói là đầu của những kẻ tội phạm đã xâm hại biên cương và giết tướng sĩ Khiết Đan.



Lúc này người Nữ Chân không có chỗ ở cố định, muốn tìm thì vô cùng khó khăn, thêm nữa nội bộ chưa ổn định, mà người Nữ Chân lại chủ động hàng phục. Bây giờ Da Luật Hiền đang bệnh tình không thể chấp chính, lại không dễ động binh nên Tiêu Xước đành phải chấp thuận. Đến ngày mừng thọ của hoàng đế Khiết Đan, các bộ tộc đều đến chúc mừng, Nữ Chân tiện cả đôi đường, sau khi đến thỉnh tội thì tiện thể chúc mừng. Bắc Hán cũng sai sứ đến, cống tiến những vật phẩm mà chúng ra sức đục khoét được. 




Ngày mừng thọ của Da Luật Hiền, buổi sáng gặp mặt thủ lĩnh các bộ lạc, tối đến lại cùng với hoàng hậu đến Ngũ Phượng lâu để thưởng đêm. Da Luật Hiền sức khỏe không tốt, vừa mới thấy hơi lạnh liền khoác thêm một chiếc áo, đứng trên thành lâu nhận những lời chúc của đám thần tử, thưởng thức đăng cảnh. Lúc này, một tên thị vệ vội vàng chạy tới, ghé sát vào tai một cung nhân mấy câu, cung nhân đó lập tức chạy đến sau lưng Tiêu hậu, nhỏ tiếng bẩm báo. Tiêu hậu đỡ hoàng đế đứng lên, quay đầu nhìn vào khuôn mặt tái xanh của Da Luật Hiền, sợ hắn không thể đứng lâu, phải đi nghỉ, mà giờ các sứ tiết, thủ lĩnh các bộ tộc đều đang ở đây, đến lúc đó không thể tránh mình phải ra mặt, liền thở dài một tiếng, vẫy tay gọi La Đông Nhi, lệnh cho nàng đi xử lý việc này.



La Đông Nhi xuống dưới lầu, nhìn thấy sứ giả Ngạc Ba Đa đang đứng dưới mái hiên. Ngạc Ba Đa thấy xung quanh không có người, chỉ có hai thị nữ đứng ở cửa, liền lấy từ trong túi áo ra một chiếc túi vải nhỏ, dâng lên, cười nói: “La thượng quan, đây là vật mà ngài nhờ tiểu nhân. Một chiếc thoa hình đầu phượng, ngài xem có được không?” La Đông Nhi liền mở chiếc túi ra. Chiếc này có chín phần giống với chiếc thoa mà ngày trước Dương Hạo đã tặng nàng, nàng liền luôn mồm cảm ta, lấy ra mấy quan tiền đưa cho hắn. Mắt nàng đong đầy lệ, dường như sắp tuôn trảo cả ra.



Trong ngực Ngạc Ba Đa còn có mười bảy, mười tám chiếc thoa nữa. Hắn sợ chiếc thoa này không đúng ý La thượng quan, đến lúc đó hắn sẽ lấy từng cái ra cho nàng chọn lựa. Thấy vẻ mặt của La Đông Nhi, hắn liền thở phào nhẹ nhõm.



La Đông Nhi ngẩn ra một hồi lâu, một lúc mới tỉnh lại, vội vàng lau sạch nước mắt, nói: “Nương nương đang ở trên lầu ngắm đèn lồng, bảo ta hỏi ngươi chuyến đi nam lần này người Tống đã đối đáp thế nào.”



Ngạc Ba Đa lại chưa từng được tận mắt nhìn thấy bức tín, nhưng đã nghe Đại Tống hồng lư tự công tào Liễu Lâm Tây nói qua đại khái, liền nói một lượt ý của Đại Tống. La Đông Nhi nghe thấy triều đình Tống lại mô phỏng ngữ khí ngang ngược của Khiết Đan, viết một bức tín trả lời như vậy, tuy rằng đầy buồn bực nhưng cũng không khỏi có chút buồn cười.



Nàng tuy là một dân nữ, nhưng tàng thư của phụ tân nàng lại có rất nhiều sách. Nàng cũng đã đọc được không ít các loại sách, vốn biết quan lại Trung Nguyên làm việc từ trước đến nay luôn rất coi trọng quy tắc, những văn thư như thế này không phải họ không thể viết ra, mà là với tính cách của những quan lại đó, họ luôn lấy thái độ cảm hóa của thượng quốc mà nói, rất khó có thể dùng những thủ đoạn vô lại đấu với vô lại như thế này để giao thiệp quốc sự. Nàng có chút buồn cười, nói: “Ta biết rồi, trở về ta sẽ bẩm báo với nương nương, để nương nương định đoạt rồi sẽ trả lời.”



“Vâng, vâng, vâng. Bây giờ trời cũng đã lạnh rồi, nhưng vì triều đình mà xuất sứ, tiểu nhân cũng không từ gian khổ, nếu như còn cần phải xuất xứ đến Tống triều thì tiểu nhân cũng đành chấp thuận. Đến lúc đó vẫn mong La thượng quan giúp tiểu nhân nói mấy lời tốt đẹp.”



Ngạc Ba Đa nói rồi lại đặt một cái hộp lớn, một cái túi lớn xuống đất. Hắn thấy chiếc thoa mà La Đông Nhi muốn tìm chẳng đáng mấy văn tiền, liền biết được vị nữ quan này không tham vàng bạc châu báu, cho nên đã dày công mua một số y phục đẹp của người Hán và một đống phấn hồng loại thượng hạng nhất Nữ Nhi quốc, nghĩ rằng có thể từ đó lấy lòng được La thượng quan.



Quả nhiên, La Đông Nhi vừa nhìn thấy những thứ này thì khuôn mặt liền hiện lên vẻ hoan hỉ, vốn định lập tức bảo người ta đi về, nhưng giờ lại thấy người ta tặng mình những đồ rất vừa ý, liền nói chuyện thêm mấy câu. Hỏi: “Khi ngươi ở Tống triều, Tống quan đối với ngươi rất là trọng đại, là đại thần hồng lư tự nào đã tiếp đãi ngươi vậy? Nghe nói hồng lư tự Khanh Chương Đài cùa Tống triều sức khỏe không tốt, thường không lên nha, vậy tờ quốc thư này chắc là do thiếu khanh Cao Tường viết?”



Ngạc Ba Đa cười bồi nói: “La thượng quan có điều không biết rồi, khi tiểu nhân đến Tống triều, Tống triều vừa mới ban chức vị thiếu khanh hồng lư tự cho một người, tên là Dương Hạo, nghe nói vốn là Nam nha hỏa tình viện sứ. Người này không học hành gì cả, tính tình thì lỗ mãng, cho nên mới viết ra được bức quốc thư vô lại mạo phạm hoàng thượng ta như vậy. Nhưng cũng thật là kì lạ, Tống đế lại cho phép hắn viết thế, hắn thật không sợ hoàng thượng tức giận xuất binh thảo phạt Tống hay sao? Thượng quan? La thượng quan? Ngài làm sao vậy?”



La Đông Nhi môi tái đi. Nàng định thần, giọng run lên hỏi: “Ngươi nói, ngươi nói hồng lư tự thiếu khanh mới nhậm chức tên họ là gì?”



“Họ Dương tên Hạo.”



“Tứ ca đã từng nói Hạo ca ca đã đổi họ thành Dương Hạo. Chẳng lẽ… không phải… không phải huynh ấy, huynh ấy sao lại có thể làm một chức quan cao như hồng lư tự thiếu khanh chứ, hơn nữa huynh ấy đã ra khỏi phủ Khai Phong rồi, chẳng lẽ là cùng họ cùng tên?”



La Đông Nhi vội vàng hỏi: “Người này bao nhiêu tuổi, xuất thân từ đâu?”



Ngạc Ba Đa nói: “Tiểu nhân chưa từng gặp hắn, có điều nghe Liễu Công Tào nói người này không có học thức gì cả, lại không biết là gặp được vận may gì mà lúc đầu hắn đã trốn thoát được đại quân mà hoàng hậu nương nương đích thân dẫn đầu đi truy đuổi khi hắn di dân bắc Hán. Vì công lao này mà hắn được làm tri phủ Lô Lĩnh Châu, không lâu sau lại được điều về Khai Phong nhậm chức Nam nha hỏa tình viện trưởng, kết quả là lại bợ đỡ được Triệu Quang Nghĩa, lên làm chức vị hồng lư thiếu khanh. Tính ra ở Đại Tống, người mà thăng quan nhanh như hắn ngoài hắn ra không có người thứ hai. Ý? La thượng quan, hình như ngài không được khỏe?”



“Không sao, ta không sao, ngươi nói tiếp đi, còn có tin tức gì của hắn nữa?”



La Đông Nhi vừa kinh ngạc vừa vui mừng. Nàng không hề ngơ được lại có thể nghe được tin tức về Dương Hạo ở đây. Con người mà nàng luôn nhơ mong đó tuy ở xa tận chân trời nhưng lúc nào cũng như đang đứng ở trước mặt nàng vậy. La Đông Nhi hai má đỏ lên, đôi mắt phát ra ánh sáng, tha thiết hỏi.



Ngạc Ba Đa buông tay xuống nói: “Hết rồi. Tiểu nhân chỉ nghe thấy Liễu Công Tào nói mấy câu đó thôi. Xem dáng vẻ khinh thường của ông ta thì có lẽ Dương Hạo này là một người tùy tiện, trong triều có vẻ có nhiều người rất đố kị với hắn. Con người này viết quốc thư như vậy cũng quá là chọc giận chúng ta. La thượng quan hãy bẩm báo lại với nương nương để nương nương phản bác lại hắn. Nói không chừng quan nhi trong triều cũng muốn đẩy hắn xuống, tên tiểu tử khốn kiếp dám coi thường quốc chủ Khiết Đan sắp phải xuống đài rồi.”



La Đông Nhi hé miệng, lật mặt nói: “Người là sứ tiết Khiết Đan ta, trong lời nói không được làm giảm bớt uy phong của Bắc Quốc. Nói lời lại thô lỗ như vậy, mở miệng ra là tiểu tử khốn kiếp, làm sao có thể làm sứ tiết Khiết Đan được. Nếu cứ như thế này thì bổn quan không dám đảm bảo cho ngươi nam hành đâu.”



Ngạc Ba Đa vừa nghe thấy con đường tiền tài bị cắt đứt, vội vàng cười bồi: “Tiểu nhân chẳng qua là chỉ dám nói trước mặt ngài thôi… được, được, được. Tiểu nhân nhất định sẽ cẩn trọng, cho dù là không có người ngoài cũng sẽ không dám có lời bất kính với quan nhi Tống triều nữa.”



La Đông Nhi nói: “Như vậy mới đúng. Ngươi lui xuống trước đi, việc này để ta bẩm báo rõ với nương nương rồi sẽ tính tiếp.”



“Vâng.” Ngạc Ba Đa cũng không biết đã đắc tội chỗ nào với nàng, vội vàng đáp một lời rồi lui ra. La Đông Nhi ngồi xuống ghế, tay đặt lên bàn, ngẩn ngơ suy nghĩ những điều Ngạc Ba Đa đã nói một hồi lâu, rồi lấy chiếc thoa ra ngắm nhìn, mày hơi nhíu lên, mỉm cười. Một lúc sau, những tiếng ồn ào trên lầu vang lên, lúc này nàng mới thức tỉnh. Nàng cất chiếc thoa vào trong ngực, dặn dò thị nữ cất những y phục và đồ trang điểm Hán đi, rồi vội chạy lên lầu, bước chân rất nhanh và nhẹ, giống như một con nai con hoạt bát vậy. 




“Thực Đồ Li xúc phạm thần mộ, theo luật phải chết. Hoàng thượng, xử chết hắn đi.” Trên lầu có một số người đang gào thét.



Trước mặt Da Luật Hiền có một người thị vệ đang quỳ, vẻ mặt tái nhợt, phủ phục bất động dưới đất. La Đông Nhi nhấc y bào bước lên lầu, thấy quang cảnh kì lạ, liền hỏi một thị vệ đứng ở bên: “Vừa nãy mọi thứ vẫn tốt mà, sao lại thế này?”



Thị vệ đó liền đáp: “Thượng quan, Thực Đồ Li vừa nãy đã chạm vào thần mộ, đại nhân các bộ lạc vô cùng phẫn nộ, thỉnh hoàng thượng xử chết hắn.”



La Đông Nhi nghe xong thầm kinh ngạc. Thần mộ này là một lá cờ lớn, dựng ở trên Ngũ Phượng lâu, trên thần mộ có hình một đầu bạch lang, đó là vật tổ của tộc người Khiết Đan, rất thần thánh, người bình thường chưa được phép thì không được lại gần. Nếu như ai chạm vào thần mộ thì sẽ bị luận tội mà trảm. Thực Đồ Li là một thị vệ trẻ tuổi đôn hậu, sao lại phạm phải một lỗi lớn như vậy.



Những thủ lĩnh bộ lạc đó làm ầm cả lên, Da Luật Hiền chỉ khoanh tay không nói. Hắn mới cỡ hơn hai mươi tuổi, cơ thể gầy dong dỏng, khuôn mặt trắng bệch, nhìn có vẻ rất nho nhã yếu đuối, giống như một sĩ tử nam thân vậy. Những kẻ bên cạnh hắn đều là cận thân thị vệ, thủ lĩnh các bộ lạc mặt mày dữ tợn, giống như một con bạch hạc lạc vào bầy sói. Cho dù hắn khoác những bộ y phục dầy dặn nhưng vẫn cảm thấy trống trải.



“Thực Đồ Li, tại sao ngươi lại chạm vào thần mộ?” Da Luật Hiền đột nhiên chậm rãi hỏi.



“Tiểu nhân… tiểu nhân… vốn đang đứng bên cạnh để ngắm đèn, nhưng vì nhiều người chen chúc, tiểu nhân bị người ta xô vào, liền đưa tay ra bám lấy vật gì đó bên cạnh, lúc này mới chợt nhớ ra bên cạnh mình là thần mộ. Tiểu nhân biết tội, tiểu nhân đáng chết, đáng chết.” Thực Đồ Li liên tục khấu đầu. Da Luật Hiền thở dài một hơi, nói: “Hóa ra là như vậy, không biết không có tội. Thực Đồ Li bình thường rất cần mẫn, có trách nhiệm với chức trách, làm hết phận sự. Ừm… lôi ra ngoài phạt đánh ba mươi gậy.”



Thực Đồ Li ngẩn ra, không dám ngẩng đầu lên, vẫn không thể tin được những gì đã nghe thấy. La Đông Nhi mắt sáng lên, vội quát: “Thực Đồ Li, còn không mau tạ ân?”



Thực Đồ Li liền khấu đầu nói: “Tạ hoàng thượng khai ân, tạ hoàng thượng khai ân.”



“Chờ đã!” Một người từ bên cạnh chầm chậm bước ra, cười nói: “Hoàng thượng nhân từ, nhưng kẻ mạo phạm thần mộ đáng phải chết, việc này luật đã định. Hoàng thượng một câu thả người, e rằng không thỏa đáng.”



Da Luật Hiền liếc nhìn hắn, giọng nhàn nhạt nói: “Da Luật Văn, hà tất phải hà khắc như vậy, hành động của Thực Đồ Li chỉ là vô ý, không thể gọi là mạo phạm thần mộ. Nếu vì thế mà chém đầu thì quá tàn nhẫn.”



Vị quý tộc này tên là Da Luật Văn, tự Yến Vân, là một kẻ cạnh tranh quyền lực khi Da Luật Hiền còn chưa kế vị. Bây giờ Da Luật Hiền tuy đã làm hoàng đế, nhưng hắn vẫn thường xuyên chống đối lại Da Luật Hiền, vừa thấy Da Luật Hiền có lòng muốn tha cho Thực Đồ Li, hắn lập tức ra mặt ngăn cản. Vừa nghe lý do của Da Luật Hiền, hắn liền cười một cách khinh thường: “Hoàng thượng quá nhân từ rồi đó. Chủ của Khiết Đan ta phải có cái uy của hổ báo, thưởng phạt phân minh, luật lệ nghiêm khắc, sao có thể có lòng nhân từ của đàn bà được. Đối với một thị vệ cỏn con như vậy mà đã nhân từ như thế, làm sao có thể thống soái được trăm vạn hổ lang Khiết Đan ta?”



Tiêu Xước đứng bên cạnh Da Luật Hiền, cười lạnh lùng, La Đông Nhi vội vàng bước tới. Phía sau Da Luật Văn vốn có một người đang đứng xem náo nhiệt, đột nhiên lại bị vẻ đẹp của Tiêu hậu làm cho mê mẩn, đôi mắt lập tức dán chặt vào không thôi. Ngẩn ngơ nhìn hồi lâu, ánh mắt lại chuyển hướng sang bên cạnh, bất giác vô cùng kinh ngạc, lập tức thu người lại vào đám đông.



Nếu như La Đông Nhi có thể chú ý đến hắn thì sẽ phát hiện ra, người này chính là nhị thiếu gia Đinh Thừa Nghiệp. Đinh Thừa Nghiệp ẩn trốn trong bóng tối, nhìn La Đông Nhi và ngẩn ra: “Ả ta, ả ta là La Đông Nhi sao? Tuy khí chất có chút không giống, nhưng người thì giống như đúc, nếu không phải ả thì trên thế gian này nào có người nào giống như thế chứ? Sao ả ta lại ở đây, ả là phi tử của hoàng đế hay là gì?”



Đinh Thừa Nghiệp ngày đó bị biên quân Khiết Đan bắt được, hắn dò hỏi khắp nơi, hoàn toàn không có người nào biết đến nam nha đại tướng quân Lư Nhất Sinh gì đó, chỉ biết được rằng Đinh Thừa Nghiệp là một kẻ điên khùng nói nhảm. Chúng dày vò hắn làm hắn sống không được chết không xong, khổ không còn lời nào để nói. Lúc này may mắn hắn đã gặp được Da Luật Văn.



Da Luật Văn cao tám thước, mặt mày dữ tợn, là một dũng sĩ có tiếng của Khiết Đan, hắn vốn có quan hệ với Nam Viện đại vương. Người này tính tình háo sắc, mà nam nữ đều không kị. Thấy kẻ nô lệ Đinh Thừa Nghiệp tuy đầu bù tóc rối, nhưng mặt mũi thanh tú, rất anh tuấn, lập tức nổi lòng thương tiếc, liền mang hắn về làm người hầu hạ bên cạnh.



Đinh Thừa Nghiệp bước vào ngõ cụt, chỉ còn một lựa chọn là xấu hổ nhẫn nại làm cận vệ của Da Luật Văn và trở thành người được Da Luật Văn sủng ái nhất, như hình với bóng. Lần này đến chúc thọ hoàng đế, Da Luật Văn cũng mang theo kẻ được sủng ái này đến Ngũ Phượng lâu. Bây giờ vừa nhìn thấy La Đông Nhi, Đinh Thừa Nghiệp liền nghĩ ngay đến thân phận của mình. Đầu tiên là xấu hổ không thôi, sau đó là lùi lại đằng sau theo tiềm thức, kĩ lưỡng dò xét dáng vẻ của La Đông Nhi, thấy nàng đứng bên cạnh nương nương, giống như con sóng cuộn trào ở Bắc quốc, trong lòng hắn không khỏi vừa thấy đố kị vừa thấy hận.



La Đông Nhi chưa từng chú ý đến vị cố nhân này. Nàng đứng bên cạnh Tiêu hậu, chỉ nghe thấy Da Luật Văn khua môi múa mép, rõ ràng là nói hoàng đế nhân từ, nhưng lại ngầm châm chọc hắn yếu đuối, lại kích động rất nhiều những thủ lĩnh bộ lạc vốn không phục vị hoàng đế này kêu la hò hét, làm cho mặt của Da Luật Hiền lúc trắng lúc đỏ, có chút không đấu lại được.



Tiêu hậu ở bên cạnh đột nhiên cười lạnh một tiếng: “Da Luật Văn, miệng ngươi thì nói cái gì mà thưởng phạt phân minh, luật lệ nghiêm khắc. Hoàng thượng thống trị Bắc quốc, nhận mệnh của trời, hoàng đế có lòng nhân nghĩa, muốn tha cho Thực Đồ Li, đây là chỉ ý. Ngươi thân làm thần tử lại dám chất vấn nghi ngờ, tìm mọi cách khiêu khích, đây là đạo lý gì của một thần tử chứ? Luật lệ nghiêm khắc ở đâu chứ?”



Da Luật Văn nhìn về phía Tiêu Xước, mĩ nhân dưới ánh đèn mắt ngọc mày ngà, màu da như mỹ ngọc, đôi môi ẩn hiện hồng nhuận, hắn không khỏi nổi lên lòng tham, tươi cười nói: “Nương nương, thần chỉ là làm hết bổn phận thôi. Thấy hoàng thượng có chỗ nào không đúng thì xuất ngôn khuyên giải mà thôi, nào dám khiêu khích hoàng thượng chứ?”



“Nếu đã như vậy, hoàng đế khai ân đã là hạ chỉ ý, Da Luật huynh hà tất phải nhiều lời chứ. Thần mộ đại diện cho hoàng quyền, hoàng quyền là hoàng thượng, hoàng thượng muốn làm như thế nào thì kẻ làm thần tử chỉ có thể phục tùng. Đây là quy tắc, huynh nói xem?”



Người nói đang khoanh tay đứng bên cạnh, điềm nhiên nói. Người này tên là Tiêu Thác Trí, là người của Tiêu gia, cũng là tướng quân thống lĩnh đại quân một phương. Đứng một bên khác là Da Luật Long Vận, cũng chính là Hàn Đức Nhượng, trầm giọng nói: “Lời của hoàng thượng là thánh chỉ, là một thần tử ai dám không phục tùng là bất trung. Ai có lòng bất trung thì đầu tiên phải hỏi lưỡi đao trong tay ta đã, rồi hãy hỏi hoàng thượng cũng không muộn.”



Da Luật Văn thấy đám người Tiêu Xước đầy vẻ hăm dọa, trong lòng có chút cân nhắc, rồi hừ một tiếng, không nói gì nữa……



Dưới đèn, Tiêu Xước mặc tiểu y, thả mái tóc ra, cái dáng vẻ vốn uy nghiêm ngang tàn lập tức chen vào vài phần quyến rũ. Nàng nằm xuống giường, La Đông Nhi cũng mặc tiểu y ngồi một bên, nhẹ nhàng bóp vai của Tiêu Xước. Tiêu Xước thở dài một tiếng, nói: “Hôm nay ngươi cũng thấy rồi đấy, những người đó dám ngang nhiên làm khó hoàng thượng, trong lòng chúng nào có vị hoàng thượng này chứ?”



Nàng xua xua tay nói: “Hôm nay ngươi cũng mệt rồi, ngủ đi, không cần xoa bóp nữa.”



La Đông Nhi nghe theo lời nằm xuống một bên. Hai mỹ nhân như hai đóa sen xinh đẹp. Tiêu Xước duỗi mái tóc ra, nằm xuống gối, nhắm mắt nghĩ ngợi một lúc rồi nói: “Phải điều động thêm một lần nữa những người của đại quân nắm giữ hoàng thành, phải hết sức thay bằng người của chúng ta, nếu không chúng ta không thể ngủ yên giấc được. Còn ngươi nữa, ngươi phải nhanh chóng bắt tay vào làm đi. Sau này những cung vệ quân này sẽ giao hết cho ngươi, đây là chuyện quan trọng nhất của chúng ta.”



La Đông Nhi nhẹ nhàng nói: “Nương nương cứ sai bảo, Đông Nhi xin nghe theo. Còn hồi thư của Tống quốc…” 



Tiêu Xước nói: “Ngày mai sẽ suy nghĩ nên làm thế nào. Trẫm cũng không ngờ hồi thư của người Tống lại cương quyết như vậy, chẳng lẽ họ đã nhìn ra trong nội bộ của chúng ta đang rối loạn, không thể xuất binh? Ừm… khiển sứ của Đường quốc đã cầu viện ta, trẫm định phái Da Luật Văn đến Đường quốc một chuyến, thể hiện rõ thái độ của Bắc quốc ta, để Tống triều có chút kiêng kị, ngươi thấy thế nào?”



“Đường quốc? Tại sao lại không phái người đến Tống quốc. Nếu như nương nương để ta xuất sứ đến Tống quốc, đi gặp Hạo ca ca…” La Đông Nhi suy nghĩ miên man, Tiêu Xước không hiểu quay đầu sang hỏi: “Sao không trả lời?”



“Ừm… nương nương, Da Luật Văn luôn có sự bất kính đối với hoàng thượng, sao có thể phái hắn đi xuất sứ được?”



Tiêu Xước cười cười, nói: “Hắn rời khỏi thượng kinh, trẫm mới dễ động thủ sắp xếp lại người của chúng ta, tránh để hắn gây trở ngại.”



Nàng xoa xoa cánh tay mượt mà, vươn người thổi tắt ngọn đèn, nói: “Ngủ đi, bất kề là có chuyện gì thỉ cứ để mai chúng ta bàn tiếp.”



Ngọn đèn đã tắt, trong phòng lập tức tối đen lại, hai nữ nhi đều mang trong lòng một tâm sự riêng, không hẹn mà cùng thở dài một tiếng.



Nguồn: http://4vn.eu/forum/showthread.php?t=71274&page=72#ixzz1zqWuxaqC

Chương 345: Giang Nam tuyên phủ

Một người luôn âm trầm như Dương Hạo đột nhiên lại rầm rộ tổ chức hôn sự, chỉ có điều cái gọi là “luôn âm trầm” chỉ là cảm giác bằng lòng của hắn. Quan thân bách tính Khai Phong luôn cảm thấy rằng vị quan nhi làm việc gì cũng hấp tấp, rầm rộ, tuyệt đối không phải là kẻ âm trầm.



Dương Hạo lấy một vợ và nạp hai thiếp, nghi thức ba mĩ nhân quy phòng được đồng thời tổ chức. Vị thê này họ Đường tên Diễm Diễm, Dương Hạo sớm đã loan tin khắp nơi, người trong toàn thành đều biết vị Đường Diễm Diễm này là đại tiểu thư của Đường gia Tây Bắc. Còn một trong hai vị thiếp kia nguyên là đệ nhất hành thủ Biện Lương Ngô Oa Nhi, đây chỉ là bổ sung nghi thức, người bên cạnh sớm đã biết nàng ta đã được Dương Hạo nạp phòng rồi. Còn một vị thiếp khác lại là Lâm Âm Thiều, dò hỏi kĩ lưỡng mới biết đó chính là trạng nguyên Diệp bảng trong cuộc thi hoa khôi lần thứ nhất. Hồng hoa lục diệp đều ở bên cạnh, ai lại không ngưỡng mộ tán thưởng Dương Hạo có diễm phúc tề nhân chứ.



Trong hôn sự này của Dương Hạo, ngay cả một quan viên trong quan trường hắn cũng không mời, người tham gia hôn lễ duy chỉ có tứ đại bang chủ tào vận Biện Lương và các thuộc hạ. Hắn tổ chức một bữa tiệc rất khoa trương tại Thiên Kim Nhất Tiếu Lâu. Điều hắn sợ chính là Đường gia ngăn cản hoặc Tấn vương gia quấy nhiễu từ bên trong. Nhưng rất lạ là Đường gia ngay cả một chút động tĩnh cũng không có, còn bên Tấn vương thì kì thực hoàn toàn không biết Đường gia muốn kết thân với mình, đương nhiên cũng không có cử động gì.



Dương Hạo rất cẩn thận, hắn vốn nghĩ hôn sự này không biết sẽ phải trải qua bao nhiêu sóng gió, không ngờ lại bình yên tổ chức thành. Diệu Diệu nhận được một tờ hôn thư, tuy chưa viên phòng, nhưng thân phận đã được xác lập, Diệu Diệu vô cùng vui mừng, nhưng nàng lại không biết Dương Hạo là có ý định khác.



Ngô Oa Nhi và Đường Diễm Diễm sớm đã cùng thương nghị ngầm với Dương Hạo, đợi khi hắn vừa đi thì hai người sẽ mang theo của cải âm thầm đi theo, đầu tiên là phải dàn xếp thỏa đáng, sau đó sẽ đi về Đường quốc hội họp với hắn, để ba người có thể “cùng chết”. Còn về phía Diệu Diệu, nàng đã có tờ hôn thư này thì chính là thiếp thất theo pháp định của hắn, nếu như hắn xảy ra chuyện thì Diệu Diệu sẽ trở thành người thân duy nhất trên đời của Dương Hạo, sẽ có quyền thừa kế tất cả tài sản của hắn.



Dương Hạo sắp xếp thỏa đáng “hậu sự”, buổi sáng ngày hôm sau liền lên kim điện chào từ biệt quân vương. Triệu quan gia ở trên điện bảo hắn có thể tùy cơ ứng biến, hành động chủ yếu của hắn trong chuyến đi này là đến Đường quốc thăm dò tình hình quân thần Đường triều, nắm vững địa lý Đường quốc để Tống quốc có thể chuẩn bị tốt cuộc thảo phạt Đường quốc, biến Đường quốc thành đất của Trung Nguyên.



Để cho hắn có thể thuận tiện hành sự, quan gia cho hắn tự lựa chọn người đi cùng, Triệu Khuông Dận còn phái thêm hồng lư tự Tiêu Hải Đào làm tuyên phủ phó sứ, rút một số lính trinh thám từ hoàng thành ti ra, ngoài ra còn điều động một đội quân hơn một trăm người từ cấm vệ quân làm nghi trượng cho hắn. Những cấm vệ quân này đều là những đại hán cao tám thước trở lên, thân hình vạm vỡ khôi ngô, võ thuật cao cường, do một vị chỉ huy sứ tên Trương Đồng Chu dẫn đầu.



Khi ra khỏi đại nội hoàng cung, Dương Hạo lại bị Trình Đức Huyền đang đứng đợi ở cửa cung kéo đến Nam nha. Dương Hạo trong lòng không yên ổn, vốn nghĩ Triệu Quang Nghĩa chịu đựng đến bây giờ mới ra tay, không ngờ khi gặp Triệu Quang Nghĩa, Triệu Quang Nghĩa lại đẩy vẻ tươi cười, không chút giận dữ, hoàn toàn không nhắc đến việc hắn thành thân, chỉ nói đến việc hắn phạt hành.



Dương Hạo không hiểu rõ chân tướng, nhưng thấy hắn thể hiện như vậy, thì cũng thấy yên lòng lại. Nếu như vị vương gia này giữ cái thái độ “quân tử báo thù mười năm chưa muộn”, thì hắn cũng không sợ. Lầm này hắn đi giống như giao long vào biển, một khi đã ra biển thì sẽ không có ngày gặp lại, Triệu Quang Nghĩa có âm mưu quỷ kế gì thì đều không thể dùng được.



Theo như người bên cạnh thì lúc này lại nhìn ra Tấn vương lễ hiền hạ sĩ như thế nào, biết làm người như thế nào. Cho dù bây giờ Triệu Phổ đã đổ, trong triều Triệu Quang Nghĩa là độc đại, cái tên khâm sai Dương Hạo bây giờ cũng chỉ thuộc vào hàng nha nam nhàn rỗi, đối với Triệu Quang Nghĩa không có tác dụng gì nữa, nhưng Triệu Quang Nghĩa lại vẫn quan tâm thân thiết đến hắn, ngược lại hẳn với Ngụy vương. Dương Hạo đã từng làm phó sứ cùng với hắn đến Giang Nam tuần hành, vậy mà lúc này hắn lại hoàn toàn không có thể hiện gì, có phần giống như khúc gỗ.



Từ biệt Tấn vương, điểm lại cấm quân, mang theo mật thám mà hoàng thành ti sai đến, Dương Hạo và tuyên phủ phó sứ Tiêu Hải Đào hẹn Sử bộ thượng thư Đường quốc Từ Huyễn ở lễ binh viện, đang định cùng đến bến thuyền để rời đi thì đại hồng lư tự, kẻ luôn mang danh bạo bệnh Chương Đài Liễu chạy đến, ngồi cùng kiệu với hắn, trong kiệu nói mấy lời ân cần dạy dỗ.



Dương Hạo còn tưởng rằng vị đại hồng lư tự có chuyện gì cấp bách, nghe hắn nói một tràng mới biết hóa ra hắn toàn nói về việc phải chú ý khi làm sứ thần ngoại giao. Xuất sứ là đại biểu cho triều đình, nhất cử nhất động đều phải cẩn thận, đề phòng thất lễ, quá tự nhiên thì không được, còn nếu quá khiêm nhường thì cũng sẽ tổn hại quốc thể, đại loại là các việc như thế, việc nào Dương Hạo cũng gật gật đồng ý.



Chương Đài Liễu lại nói: “Tả khanh sứ, lần này đi phàm chuyện gì cũng phải tùy cơ ứng biến, cần cẩn thận. Có những lúc ngôn từ của ngài không có chỗ nào thất lễ, nhưng đối phương vẫn có thể gài bẫy làm cho ngài mất mặt. Nếu như không cẩn trọng sẽ giống như Đào thượng thư năm xưa, rơi vào vòng vây của người ta, rồi để cả thiên hạ chê cười.”



Dương Hạo có chút ngạc nhiên, thượng thư đương triều họ Đào chỉ có một vị, chính là hàn lâm học sĩ thừa chỉ, hộ bộ thượng thư Đào Cốc, nhưng vị này đã từng đi sứ Đường quốc sao? Lại còn có chỗ thất lễ bị người khác chê cười nữa ư?



Dương Hạo vội vàng hỏi, Chương Đài Liễu liền nói: “Đào thượng thư khi ở tiền triều Thế Tông hoàng đế đã là hàn lâm học sĩ, nếu như ông ta không xảy ra chuyện xấu hổ thì sao bây giờ chỉ là một hộ bộ thượng thư hữu danh vô thực chứ? Đáng nhẽ ông ấy sớm đã phải là tể tướng rồi. Nguyên nhân chính là khi ông ấy làm hàn lâm học sĩ tiền triều đã từng xuất sứ Đường quốc, lại trúng phải kế của người ta, làm cho thân bại danh liệt.”



Chương Đài Liễu tỉ mỉ kể lại chuyện, Dương Hạo mới hiểu được căn nguyên. Lúc đó Đường quốc vẫn là do phụ thân của Lý Dục Lý La làm hoàng đế, còn Triệu Khuông Dận lúc đó mới chỉ là một vị quan triều Chu, đồng điện xưng thần với vị đại học sĩ Đào Cốc này. Đào Cốc phụng mệnh Thế Tông hoàng đế xuất sứ Nam Đường, lúc đầu khi đến Đường quốc, không hề nói cười, đầy vẻ nghiêm trang, người người đều biết hắn là một quân tử đạo đức nên đối xử rất nghiêm túc kính cẩn với vị sứ thần Đại Chu này.



Lúc đó người phụ trách tiếp đón Đào Cốc chính là đại thần Đường quốc nổi tiếng “phóng đãng” Hàn Tái Hi. Hàn Tái Hi lại tỏ vẻ coi thường sứ giả bày, hắn đã giở trò với Đào Cốc. Đào Cốc sáng sớm nào cũng đi tản bộ trong dịch quán mà hắn ở. Có một hôm hắn đột nhiên phát hiện có một nữ nô tì mới đến. Nữ nô này tuy chỉ là một hạ nhân quét dọn trong viện, quần áo rách rưới, cả người là vẻ bần hàn, thoa cài tóc cũng là dùng một cành trúc nhỏ gọt mỏng đi, dáng vẻ cân đối, nhưng khuôn mặt dáng điệu lại vô cùng bất tục.



Đào Cốc rất kinh ngạc, cảm thấy một nhân vật như vậy không nên làm hạ nhân, liền dừng lại hỏi han vài câu với nàng, lúc này mới biết người thiếu phụ này họ Tần tên Nhược Lan, vốn cũng là thư hương môn đệ (người có học), vì chồng bị bệnh mà chết, không có chỗ nương nhờ nên mới phải vào dịch quán tìm một công việc tạm thời để qua ngày.



Trời còn thương xót cỏ cây huống hồ là con Giang Nam. Đào Cốc thấy một người xinh đẹp như vậy không khỏi có lòng thương tiếc, thường xuyên chăm sóc cho nàng. Qua lại nhiều lần, vị Đào đại nhân này đã nảy sinh tư tình với vị thiếu phụ xinh đẹp. Có một buổi tối, vị thiếu phụ này không rời khỏi dịch quán mà lại bước vào phòng ngủ của Đào Cốc.



Cái cảm giác lưu luyến bịn rịn thật là khó chịu, Đào Cốc biết làm vậy sẽ phải gánh hậu quả, nhưng lại không thể buông được.



Một đêm tình không đủ liền tình đêm đêm. Từ đó hai người cùng ở với nhau như phu thê. Khi tình nồng thắm, Đào Cốc đã đồng ý với lời thỉnh cầu của nàng, còn vì nàng mà viết một bài thơ để làm vật chứng cho tình yêu. Bài thơ đó viết: “Hảo nhân duyên, ác nhân duyên, nại hà thiên, chích đắc bưu đình nhất dạ miên. Biệt thần tiên, tỳ bà bát tẫn tương tư điều, tri âm thiểu, đãi đắc loan yêu tục đoạn huyền. Thị hà niên?”



Qua mấy ngày, chủ của Đường quốc, Lý La mở yến tiệc trong cung mời Đào Cốc. Lý La bảo mĩ nhân tiếp rượu, Đào đại học sĩ giả vờ gượng ép, làm ra vẻ chính nhân quân tử, miệng thì liên tục từ chối, làm cho Lý La rất mất hứng.



Hàn Tái Hi đứng bên cạnh cười lạnh một tiếng, vỗ tay ba cái, lạc khúc liền vang lên, một mĩ nhân xinh đẹp từ sau bức màn uyển chuyển bước ra, giọng thanh thoát cất tiếng hát: “Hảo nhân duyên, ác nhân duyên, nại hà thiên, chích đắc bưu đình nhất dạ miên. Biệt thần tiên, tỳ bà bát tẫn tương tư điều, tri âm thiểu, đãi đắc loan yêu tục đoạn huyền. Thị hà niên?”



Đào Cốc vừa nghe thấy mặt liền tái nhợt, ca từ này chính là lúc hắn tình nồng trên gối đã viết cho thiếu phụ góa bụa. Một lúc liền định thần nhìn lại, ca nữ xinh đẹp đó chẳng phải là người thiếu phụ đã đầu ấp tay gối mấy đêm trước với hắn – Tần Nhược Lan hay sao?



Hóa ra nàng ta hoàn toàn không phải là thiếu phụ ở góa, mà là một ca kĩ của phủ Hàn Tái Hi. Bài thơ tình mà sứ tiết Chu quốc xuất sứ thông gian với thiếu phụ ở góa lại được vang lên ở quốc yến, làm cho Đào Cốc xấu hổ không có đất để chui xuống. Từ lúc đó hắn không thể ngẩng mặt trước người Đường. Khi hắn về nước, người Đường chỉ phái mấy tiểu lại bưng một hũ rượu nhạt ra bờ sông tiễn hắn, thể hiện sự khinh thường cực độ đối với hắn.



Đào Cốc xấu hổ, nhẫn nại quay trở về Khai Phong, vốn tưởng rằng sự nhục nhã của mình đã kết thúc, ai ngờ đây mới chỉ là bắt đầu. Hắn cho rằng sẽ chỉ bị tiêu tan tiền tài, ai ngời tin tức đã nhanh chóng về tới Chu quốc, khi hắn trở về Khai Phong, hắn đã cảm nhận sâu sắc sự oán trách của mọi người với sự thiếu đạo đức của hắn.



Vì chuyện này mà Đào Cốc tuy tài học đầy mình, nhưng trên con đường thăng tiến luôn gặp phải trở ngại. Từ khi có bài học phản diện này, người Chu mỗi lần xuất sứ Đường quốc, quả thật ai cũng rất thanh liêm, tuyệt đối không nhận hối lộ, làm chuyện bậy, nữ sắc càng tuyệt đối không chạm tới, họ sợ sẽ dẫm lại vết xe đổ của người xưa. Bây giờ triều Chu đã trở thành triều Tống, tể tướng phóng đãng Hàn Tái Hi cũng đã bệnh chết hai, ba năm trước, nhưng quy củ này vẫn không thay đổi. Cho nên chỉ cần có người xuất sứ Đường quốc thì cái kẻ xui xẻo Đào Cốc này lại bị lôi ra, làm bài học nhắc nhở mọi người phải cẩn thận.



Lão già Chương Đài Liễu cảm thấy Dương Hạo là một kẻ khác lạ trong triều đình Đại Tống. Người ta thường nói: “nhất mệnh, nhị vận, tam phong thủy, tứ tích âm đức, ngũ đọc sách.” Người ta vận khí tốt, tường thành cũng không ngăn nổi, còn mình, một kẻ đọc sách đã lớn tuổi như thế này mà lại không thể bì được với hắn, tên thuộc hạ này sớm muộn cũng sẽ trèo lên đầu mình. Cho nên hắn không từ gian khổ mà chạy tới ân cần dặn dò, vừa là vì quốc thể, vừa là để thể hiện sự thân tình.



Dương Hạo nghe hết câu chuyện thì kiệu cũng tới bến thuyền. Dương Hạo chắp tay chào tạm biệt đại hồng lư hồi phủ, hắn mỉm cười: “Dám chắc vị Chương Đài Liễu này cả đường đưa tiễn chính là vì nhắc nhở ta cẩn thận với viên đạn bọc đường của Đường quốc.



Ha ha ha, ta còn sợ người ta đến quyến rũ ta sao? Không có người đến cấu xé ta, ta còn phải chủ động gây họa thị phi ấy chứ. Lần này đi sứ Đường, ta đây là đi chết mà. Chương đại nhân, xin lỗi, Dương mỗ đã phụ lòng tốt của ngài rồi.”


***


Trường Giang mấy nghìn dặm bắt nguồn từ Thanh Hải, chảy qua Tam Hiệp, bắt qua Giang Hán, thông với Ngô Việt, khí thế hừng hực, sóng xiết cuồn cuộn. Hạ du Trường Giang mênh mông sâu không thấy đáy, chỉ có hai bến đò, một là bến Thái Thạch, một là bến Qua Châu.



Giữa hai bến này lại có một Kim Lăng thiên cổ Nhất Giang Vũ Thành.



Kim Lăng lấy núi làm thành, lấy Trường Giang làm rãnh trời. Cái thế hiểm dựa sông núi làm cho một số người vừa nhìn đã dậy lên khí độ vương giả, coi đây là đất đóng đô. Nhưng những vương triều đã định đô ở đây người nào cũng đoản mệnh. Nghe nói đó là vì phong thủy của Kim Lăng quá tốt, sớm đã bị người ta phá hỏng.



Nghe nói thời chiến quốc, có một phương sĩ (chỉ những người cầu tiên học đạo) đã nhìn ra mảnh đất này vương khí cực thịnh, đã hiến kế giấu vàng để trấn vương khí, cho nên Sở Uy Vương lệnh cho người điêu khắc một người bằng vàng, giấu bên dưới cầu Bảo Tháp của Sư Tử Sơn trong thành Kim Lăng bây giờ, sau có còn xây một kim lăng để trấn vương khí, từ đó nơi đây có cái tên Kim Lăng này.



Khi Tần Thủy Hoàng tuần du Vân Mộng, phương sĩ trường sinh với đạo thuật cực cao của hắn một lần nữa đã nhìn ra nơi đây có vương khí rất mạnh, liền bẩm báo lại với Tần Thủy Hoàng. Sự quyết đoán của Tần Thủy Hoàng mạnh hơn nhiều Sở Uy Vương, cái gì mà chôn người bằng vàng, cái gì mà trấn vương khí? Tần Thủy Hoàng cười lạnh một tiếng, trực tiếp sai người cắt đứt long mạch của Phương Sơn, lại dẫn sông Hoài xuyên qua thành Kim Lăng để trôi hết vương khí.



Từ đây Phương Sơn bị cắt đứt, sông Hoài xuyên qua, tảng đá hổ cứ long môn đã bị mất đi khí bá vương. Dòng sông Hoài tĩnh lặng chảy qua hơn mười dặm.



Nhưng những quân chủ không tin vào điềm gở cũng có, hơn nữa địa giới Giang Đông quả thực cũng không tìm ra được nơi nào thích hợp hơn Kim Lăng để làm đô thành, cho nên Đường quốc vẫn dựng đô ở đây. Bây giờ đã truyền tới ba đời, đã đến tay Lý Dục. Lý Dục e ngại thế lực của Đại Tống, đã tự tước bỏ đi cái tên Nam Đường quốc, mà trở thành thần tử của Đại Tống, đổi tên thành Giang Nam quốc chủ, khí thế của vương giả này đã mất đi một nửa.



Tin tức Lý Tòng Thiện xuất sứ Tống quốc, lại bị giam lỏng ở Khai Phong đã được truyền về, Lý Dục hay tin liền vô cùng kinh hãi. Chưa đợi tuyên phủ khâm sai Tống quốc đến đã hạ lệnh gọi Triệu Khuông Dận là hoàng đế, hắn xưng quốc chủ, trung thư môn hạ đổi thành hữu tả nội sứ, thượng thi tỉnh thành ti hội phủ, ngự sử đài đổi thành ti hiến phủ, triều lâm viện đổi thành tu văn quán, khu mật viện đổi thành quang chính viện, hồng lư tự hạ thẳng xuống lễ tân viện, lập tức dỡ bỏ biển, đổi thành biển của nha môn theo chế độ mới.



Mấy đệ đệ đã phong vương cũng nhất loạt đổi thành công. Lý Tòng Thiện phong làm Sở quốc công, Lý Tòng Tỏa phong thành Giang quốc công, Lý Tòng Khiêm phong thành Ngạc quốc công. Khi con thuyền lớn mà Dương Hạo và Từ Huyễn đi dừng ở bến Qua Châu thì Lý Dục đang chỉ huy người bắc thang trèo lên phía trên của cung điện, dùng búa để đập hết những hình thiên nga, long phượng đi, cải chế thì phải cải chế triệt để.



Lý Dục đang bận rộn thì một nội thị luống cuống chạy tới, thì thầm to nhỏ mấy tiếng với hắn. Lý Dục nghe xong mày liền nhíu lên, chần chừ một lúc, đành thở dài một tiếng rồi phất áo bước ra khỏi Thanh Lương điện.



Vừa bước ra khỏi Thanh Lương điện thì có một mĩ nhân mặc y phục trong cung liền chạy tới trước mặt hắn, khóc lóc thảm thiết, quỳ xuống và liên tục nói: “Quan gia , quan gia, người nhất định phải cứu Trịnh vương nhé, bây giờ ngài ấy ở Tống quốc không biết sống chết như thế nào, thần thiếp vô cùng nóng ruột. Quan gia, ngài ấy là huynh đệ của người, quan gia nhất định phải cứu ngài ấy nhé.”



Lý Dục lúng túng không biết phải làm thế nào, áo bào bị vị phu nhân đó giữ chặt, không thể dứt ra. Hắn đành phải cúi xuống đỡ phu nhân đó dậy, an ủi mấy câu: “Nàng mau đứng dậy đi, mau đứng dậy đi, làm như thế này chẳng ra thể thống gì cả. Trẫm đã ra quốc thư khẩn cầu với Tống đế, Tống đế chắc sẽ thả Tòng Thiện về nước, nàng không phải lo lắng đến thế đâu.”



Vị phu nhân quỳ dưới đất này chính là vương phi của Trịnh vương Lý Tòng Thiện, nghe nói tướng công bị giam lỏng ở Tống, không được về triều, nên không khỏi lo lắng sốt ruột, vội vàng chạy đến cung để kiến giá. Vương phi của Trịnh vương nước mắt ngắn nước mắt dài, Lý Dục đỡ nàng dậy, lại nói: “Còn nữa, sau nhất định không được gọi trẫm là quan gia nữa, chỉ có thể gọi là quốc chủ thôi. Trịnh vương cũng không được gọi, gọi là Sở quốc công, nhớ đấy, nhớ đấy.”



Trịnh vương phi gạt nước mắt nói: “Quan… quốc chủ, hoàng đế Tống quốc nếu đã giam cầm Trịnh… Sở quốc công thì sao có thể dễ dàng thả được. Là quốc chủ đã phái phu quân của thần thiếp đi, bây giờ ngài ấy không về được, thiếp chỉ có thể đến cầu khẩn quốc chủ thôi. Nếu như phu quân của thần thiếp có mệnh hệ gì thì thần thiếp cũng không thể sống nổi. Quốc chủ nhất định phải cứu tính mạng của ngài ấy.”



Lý Dục mặt đỏ tía tai, dùng lời ngọt để trấn an: “Không cần lo lắng, ta nhất định sẽ nghĩ cách, nhất định sẽ nghĩ ra cách. Bây giờ sứ tiết Tống quốc sắp đến rồi, ta phải đi làm quốc lễ, bây giờ không tiện nói chuyện, có chuyện gì đẻ sau hẵng tính tiếp.”



Trịnh vương phi nói: “Khiển sứ người Tống đến sao? Quốc chủ, chúng bất nhân thì ta bất nghĩa, hay quốc chủ cũng giam lỏng sứ tiết của chúng, bảo Tống triều lấy phu quân của thần thiếp để trao đổi.”



Lý Dục dậm chân nói: “Đúng là nữ nhân thiển cận, nếu như vậy chẳng phải là chuẩn bị gặp nhau bằng đao kiếm hay sao?”



Thấy Trịnh vương phi ngẩn ra, Lý Dục lại thở dài một hơi, lẩm bẩm: “Còn cần phải giam lỏng hắn sao? Tuyên phủ… tuyên phủ, cũng biết Tống sứ này muốn tuyên phủ đến bao giờ mới được coi là tuyên phủ kết thúc để trở về nước. Ôn thần muốn tống mà cũng không tống didc, nàng lại còn muốn trẫm giữ hắn lại sao?” 



Trịnh vương lúng túng nói: “Vậy… vậy phải làm như thế nào mới được?”



Lý Dục dung hòa lại vẻ mặt, nói: “Nàng cứ hồi phủ đi, đừng quá lo lắng, trẫm sẽ nghĩ ra cách. Tòng Thiện là huynh đệ máu mủ của trẫm, trẫm sao có thể không cứu nó?”



Sau khi dùng một loạt những lời ngon ngọt an ủi, khuyên nhủ Trịnh vương phi đang khóc lóc hồi phủ, Lý Dục đứng ở trước Thanh Lương điện, lẩm bẩm tự nói: “Triệu Khuông Dận phong Tòng Thiện là Thái Ninh tiết độ sứ, phong phủ đệ ở Lương Dương, chỉ ở lại kinh sư lĩnh bổng lộc, không cần phải lập chức. Lại phong mẫu thân của Tòng Thiện – Lăng thị làm đại phu nhân Ngô quốc, những người đồng hành với nó đều được ban thưởng gia phong. Đây chẳng phải là làm cho ta xem sao, muốn ta đầu hàng Đại Tống hắn.



Nhưng ta vốn là quân vương của một nước, bây giờ đã tự hạ mình làm vương, xưng thần với Tống, làm như vậy vẫn chưa đủ sao? Không biết Triệu Khuông Dận có cái mồm to đến mức nào nữa? Hắn cũng nên biết đủ chứ. Ừm… hắn nên biết đủ, bên ta vẫn còn mấy mươi đại tinh binh, vượt xa Thục Hán, Triệu Khuông Dận hắn cũng không thể không kiêng kị chút nào. Đợi khi sứ tiết Khiết Đan đến rồi, ta sẽ để cho hắn biết Đường quốc ta với Khiết Đan có quan hệ mật thiết, đến lúc đó Tống triều e sợ bị địch đánh hai mặt, tất sẽ thả cho Tòng Thiện trở về, nhất định sẽ là như thế!”


***


“Nương nương người xem, mặc Hồ phục tà ngắn cổ gập này vào, lại phối thêm những trang sức mà quan gia đã đích thân thiết kế, phải chăng có mùi vị khác?”



Hai mĩ nhân đứng trước gương, trong đó một người mặc Hồ phục tà ngắn, cổ áo lật được làm bằng lông hồ ly trắng, mắt ngọc mày ngà, đầy vẻ chói lóa, thần thái hiền dịu, giọng nói mượt mà, đó chính là Tiểu Chu hậu. Còn người kia mặc một bộ y phục màu xanh ngọc, có dáng vẻ phiêu diêu thoát tục, đôi mắt long lanh như sóng mùa thu.



Hai người đều có dáng vẻ vô cùng thon thả, cân đối. Tiểu Chu hậu vốn là một thiếu phụ nho nhã xinh đẹp, giờ lại mặc Hồ phục này vào lại có thêm vài phần anh tuấn, xem ra rất giống một cô nương mười bảy, mười tám chưa từng xuất giá.



Tiểu Chu hậu không khỏi tươi cười nói: “Quả nhiên Minh Nhi muội tử thật khéo tay. Kiểu cách y phục may rất đẹp, hơn nữa mặc vào lại vô cùng vừa vặn. Đợi quan gia hồi cung, sẽ làm cho ngài ấy ngạc nhiên. Nào, chúng ta đánh cờ đi.”



Hai mĩ nhân cùng đi tới một bên, ngồi xuống bệ, bàn cờ đã được bày sẵn. Thiếu nữ mặc y phục màu ngọc bích vừa sắp cờ vừa nói: “Nghe nói quan gia đã đến xưng thần với Tống triều, đổi đế thành vương, sợ rằng cách gọi quan gia này từ giờ về sau cũng sẽ không thể xưng được nữa.”



Tiểu Chu hậu cười không cho là thật, nói: “Minh Nhi nghĩ quá rồi, chẳng qua chỉ là đổi cách xưng hô thôi mà, Nam Đường ta vẫn là Nam Đường, có gì khác biệt chứ. Mà có đổi tên thì chúng ta xưng ở trong cung, Tống triều sao có thể biết được chứ?”



Minh Nhi thở dài một tiếng, lắc đầu không nói.



Tiểu Chu hậu nhíu mày lên, có chút kinh ngạc nhìn nàng ta, hỏi: “Minh Nhi, có chuyện gì vậy?”



Minh Nhi thở dài nói: “Minh Nhi chỉ là lo lắng, lo lắng Tống đế sẽ không chịu buông tha.”



Tiểu Chu hậu ngạc nhiên nói: “Sao lại thế được? Phải biết rằng Đường quốc không những có Trường Giang tam hào yểm hộ, lại còn có mười mấy vạn dũng sĩ Giang Đông muốn đánh là có thể đánh ngay, chúng có thể làm được gì ta chứ? Đường quốc ta đã xưng thần với chúng, Trung Nguyên nhất đế, duy chỉ có hắn Triệu thị mà thôi, bá nghiệp đế vương đã vào tay hắn, hắn còn muốn gì nữa chứ?”



Minh Nhi muốn nói lại thôi, Tiểu Chu hậu thấy vậy liền nói: “Minh Nhi muội muội, chúng ta quen biết nhau tuy thời gian có ngắn nhưng hai bên đều rất tâm đầu ý hợp, ta xem muội như tỷ muội người thân, có lời gì muốn nói muội cứ nói thẳng ra, cho dù có chỗ nào không thỏa đáng thì bổn cung cũng sẽ không trách đâu.” Nói rồi Tiểu Chu hậu xua xua tay, bảo mấy nội thị cung nhân lập tức lui ra khỏi điện.



Minh Nhi này họ Mạc tên Dĩ Minh, Mạc Dĩ Minh Mạc cô nương là cháu gái xa của tiết độ sứ trấn hải Lâm Nhân Triệu, khi mệnh phụ quý nữ nhập cung làm Ngụy hoàng hậu, phu nhân Lâm Nhân Triệu đã đưa nàng ta tới đây. Cô nương này dáng vẻ yêu kiều, ăn nói lễ phép, rất được lòng Tiểu Chu hậu, qua lại nhiều hai người đã trở thành bằng hữu thân thiết trong chốn khuê phòng.



Mạc Dĩ Minh nhìn xung quanh, che mồm nhỏ tiếng nói: “nương nương ở trong thâm cung không biết chuyện trong thiên hạ. Nương nương có biết dã tâm của Triệu Khuông Dận vô cùng lớn, không những chí ở thiên hạ, mà hơn nữa lại là một kẻ vô cùng háo sắc không?”



Tiểu Chu hậu ngạc nhiên nói: “Không phải chứ? Bổn cung nghe nói phi tần của Triệu Khuông Dận rất ít, không phải là kẻ đam mê tửu sắc?”



Nói đến đây, nàng đột nhiên hừ nhẹ một tiếng, có chút không vui nói: “Phi tần của Triệu Khuông Dận so với hoàng đế Đường quốc ta còn ít hơn bảy, tám phần. Nếu hắn đã bị coi là háo sắc thì vị quan gia của chúng ta phải gọi là gì?”



Mạc cô nương bĩu môi ra, khinh thường nói: “Điều đó không có nghĩa là hắn không háo sắc. Chỉ là người này tầm mắt quá cao mà thôi. Người nói xem, nếu hắn không háo sắc tại sao lại có nhiều phi tần để chọn như thế mà lại nạp Hoa Nhị phu nhân Thục quốc nhập cung chứ? Người ta đã có chồng rồi, chồng lại từng là quân vương của một nước, lại đã đầu hàng Tống, là Tống thần. Làm gì có cái đạo lý quân đoạt thần thê chứ, nếu hắn không háo sắc sao có thể bất chấp lễ nghĩa như vậy?”



“Minh Nhi nghe ai nói vậy?”



“Minh Nhi ở trong dân gian, có thể nghe được rất nhiều tin tức mà nương nương không thể nghe thấy. Nghe nói Triệu Khuông Dận đã từng hạ quyết tâm, thứ nhất là bình định Trung Nguyên, có được tứ hải, hai là có thể chiếm được hai đại mĩ nhân trong thiên hạ, như thế sẽ không phụ cuộc đời này.”



Nữ nhân đều có lòng thích cái đẹp. Tiểu Chu hậu luôn tự phụ với sắc đẹp của mình, vừa nghe thấy lời này lập tức nổi sự hiếu kì, hỏi: “Là hai vị mĩ nhân nào cơ?” 



Minh Nhi nói: “Một là Hoa Nhị phu nhân của Thục quốc, người kia chính là nương nương người đấy.”



Tiểu Chu hậu nghe xong kinh ngạc nói: “Sao lại có chuyện này được?”



“Ham muốn của nam nhân một là quyền, hai là sắc. Triệu Khuông Dận có dã tâm như vậy có gì là lạ chứ? Năm đó Tào Mạnh Đức nhất thế kiêu hùng không phải cũng đã có một sủng nguyện chính là ‘ta nguyện thứ nhất quét sạch tứ hải, để thành nghiệp đế; thứ hai nguyện đạt được nhị kiều Giang Đông, chết cũng không hối tiếc’ hay sao?”



Tiểu Chu hậu trong lòng rối bời nói: “Tống đế lại là một con người như vậy sao?”



Minh Nhi thở dài nói: “Nếu không phải là như vậy thì tại sao Thục đế Mạnh Thác đang khỏe mạnh như vậy mà vừa đến Khai Phong, nhận gia phong Thái Sư kiên Trung Thư Lệnh Tần quốc công thì chỉ bảy ngày sau đã bị bạo bệnh một cách ly kỳ rồi chết? Tất cả âm mưu chính là vì Hoa Nhị phu nhân. Thục thái hậu rõ ràng biết con trai chết một cách kỳ lạ, nhưng không thể làm gì được. Bà ta vốn là người Bắc Hán, liền thỉnh cầu Triệu Khuông Dận cho trở về cố hương để mong thoát họa.



Một vị phu nhân già yếu còn có thể có uy nghiêm gì nữa, vậy mà Triệu Khuông Dận vẫn không thả bà ta đi, lại còn vờ vịt nói rằng đợi khi hắn diệt Bắc Hán xong sẽ đích thân đưa bà ta về cố hương. Thục thái hậu tự biết khó tránh khỏi kiếp nạn vì vậy mới tuyệt thực mà chết. Nếu không, người nghĩ mà xem, bà ta vốn muốn thỉnh cầu trở về cố hương, sao lại đột nhiên có ý muốn chết? Quan gia nếu như không sớm tính mưu thì… tha cho muội muội có lời bất kính, sợ rằng… sẽ có một ngày quan gia sẽ bước theo gót của Mạnh Thác.”



“Bộp!” Quân cờ rơi xuống bàn cờ, Tiểu Chu hậu mặt biến sắc.



Minh Nhi mỉm cười, không nói nhiều lời nữa. Cơm phải ăn từng miếng một, thuốc phải uống từng ngụm một, đầu tiên là phải làm cho vị Tiểu Chu hậu này tâm trí rối loạn, rồi từ từ thông qua nàng ta để ảnh hưởng đến vị hoàng đế kém cỏi này.



Nguồn: http://4vn.eu/forum/showthread.php?71274-Lich-Su-Quan-Su-Bo-Bo-Sinh-Lien-Nguyet-Quan-Full-Text&page=73#ixzz1zqX21exV

Chương 346: Gây chuyện thị phi 

Vị hoàng đế Đường quốc bình sinh chỉ có bốn cái tốt. Một là mĩ nhân, hai là thơ từ, ba là nịnh phật, bốn là chơi cờ. Đứng đầu chính là nữ sắc. Mĩ nhân trong hậu cung của Lý Dục, tiểu Chu hậu là người được sủng ái nhất. Có lẽ là nếu thông qua sự can ngăn của văn võ bá quan trong triều sẽ không làm được việc gì, còn nếu dùng vị nương tử này, thông qua màn chăn gối của tiểu Chu hậu lại có thể đạt được mục đích của mình.



Minh Nhi không nói nữa, chỉ yên lặng đánh cờ. Khi tiểu Chu hậu từ từ tiêu hóa được cái tin tức đáng sợ này, tiểu Chu hậu liền lẩm bẩm tự nói: “Tin tức này thực sự ta chưa từng nghe thấy. Nếu như Tống đế mong có được bổn cung thì e rằng không ổn rồi. Sứ tiết Tống triều Dương Hạo lại sắp đến rồi, bổn cung sẽ bào người cẩn thận theo dõi hắn, nếu như Tống đế có dã tâm không từ với Đường quốc ta thì tất sẽ có hành động khác thường.”



“Bộp!” Quân cờ trong tay Mạc cô nương liền rơi xuống.



Mạc Dĩ Minh kinh ngạc nói: “Nương nương nói… sứ tiết Tống triều sắp tới sao? Người đó họ tên là gì?”



Tiểu Chu hậu nói: “Người này họ Dương tên Hạo, sao thế, Minh Nhi muội muội đã từng nghe thấy cái tên này ư?”



“Chưa từng nghe thấy.” Mạc cô nương mắt lóe lên, cắn nhẹ môi, trong lòng thầm oán hận: “Sao ta đến đâu thì hắn lại đến đấy vậy, tên khốn này không chịu để cho người ta yên.”


***


Dương Hạo và Từ Huyễn ra khỏi bến thuyền, đi theo sự dẫn dắt của quan viên lễ tân viện Đường quốc lên kiệu đến thành Kim Lăng.



Lý Dục bây giờ xưng thần với Tống, không dám huênh hoang ra vẻ để sứ thần Tống quốc nhìn thấy. Dương Hạo vừa đến thành Kim Lăng liền tiến thẳng đến phía vương cung, đến cổng vương cung Dương Hạo lại do một ti lễ cung đình đích thân dẫn vào trong đại điện, quốc chủ Giang Nam Lý Dục đã đích thân ra nghênh đón. Bây giờ Lý Dục đã bỏ bộ long bào để khoác lên tử y.



Dương Hạo vừa nhìn thấy đại nhân vật có tiếng trong sử sách, không khỏi thấy thất vọng. Sự đẹp đẽ không có từ nào sánh nổi, không có ai bì kịp của Lý Dục trong lòng Dương Hạo cho dù bây giờ tuổi tác có lớn một chút thì tuyệt đối không thể là một công tử nho nhã, ít nhất cũng nên là một đại thúc có diện mạo đẹp đẽ, mặt ngọc mày ngà.



Nhưng con người mặc tử y trước mặt lại quan chẳng ra quan, dân chẳng ra dân, người hơi béo một chút, khuôn mặt tròn và hơi béo, hơn nữa cả mồm đầy răng to, điểm đặc biệt là trong mắt hắn mọc ra hai cái đồng tử mà khi nhìn về phía người đối diện mà lại như đang liếc nhìn chỗ khác, làm cho người ta thấy không được thoải mái.



Con người này trong truyền thuyết là một đấng hoàng đế của thơ ca, chính là người đã viết ra những câu thơ tuyệt thế sao? Cảm giác của hắn giống như vỡ mộng vậy, hoàng đế thơ ca trong lòng hắn hóa ra lại cà một người có dáng vẻ như thế này.



Dương Hạo thầm thở dài. Lý Dục bước lên trước: “Đường quốc chủ Lý Dục xin ra mắt khâm sai thượng quốc, hậu chỉ.”



Khí độ của Lý Dục vẫn rất ung dung bình tĩnh, vừa thấy Dương Hạo đến liền chắp tay thi lễ. Dương Hạo nhớ đến cái phong thái lúc Lục Nhân Gia đến Quảng Nguyên dự tiệc với Trình đại tướng quân, Dương Hạo liền cúi mặt xuống, miệng hơi nhếch lên, mô phỏng lại cái dáng vẻ đáng ghét không coi ai ra gì của Lục Nhân Gia, hắn giơ tay lên nói: “Hóa ra là Giang Nam Đường quốc chủ, xin mời.”



Vừa nói vừa vẫy tay, tuyên phủ phó sứ Tiêu Hải Đào liền chạy tới hai tay dâng lên thánh chỉ, Dương Hạo tuyên đọc thánh chỉ trên kim điện, chính thức gia phong Lý Dục làm Giang Nam quốc chủ, đọc xong một loạt những lời an ủi gia miễn, Lý Dục tạ ân lĩnh chỉ, Dương Hạo lúc này mới bỏ cái thế của sai sứ, làm lễ kiến gặp vương gia.



Dương Hạo hành lễ chính là học cái đức tính của Lục Nhân Gia, chắp tay tùy ý, mắt lại không nhìn vào mắt Lý Dục, thể hiện rất rõ cái ý làm lễ lấy lệ, qua quýt. Thấy trên khuôn mặt của những tùy thị, đại thần Đường quốc có chút phẫn nộ, thái độ của Dương Hạo càng ngông nghênh hơn, ngay cả hồng lư tự tuyên phủ phó sứ Tiêu Hải Đào của Tống quốc cũng đều thấy lo lắng, luôn ra hiệu bằng mắt với hắn, bảo hắn thu bớt lại cái sự hống hách.



Lý Dục phái huynh đệ và Từ Huyễn đến Tống quốc xưng thần, bây giờ hắn đã trở thành Tống thần, Từ Huyễn trở về rồi, nhưng huynh đệ hắn thì lại trở thành con tin của Tống quốc. Hắn đường đường là đế vương của một nước, bây giờ lại chắp tay xưng thần với người ta thì cũng thôi vậy, nhưng giờ lại còn phải nịnh nọt, hạ vế với một tên quan nhỏ ngũ phẩm Tống triều như Dương Hạo, vậy mà trên mặt hắn lại không có chút phẫn nộ nào.



Dương Hạo thấy vậy không khỏi thầm than thở: “Nêu như Lý Dục có nửa phần khí chất, có gan chủ động chiến với Tống triều, cho dù có bị thất bại, bây giờ ngầm chịu đựng thì vẫn được coi là một đấng kiêu hùng. Đáng tiếc con người này lại cam chịu khuất phục, chỉ là loại muốn an phận thủ thường mà thôi. Hắn có thể an nhàn đến khi nào chứ?”



Lý Dục đưa Dương Hạo vào điện ngồi. Sau một hồi nói chuyện, liền sai người bày tiệc trong cung, văn võ bá quan cùng tiếp đón. Chức quan nhỏ bé này của Dương Hạo vốn không xứng để ngồi ngang hàng với Lý Dục, cho dù hắn là sứ thần của thượng quốc, truyền xong ý chỉ cũng không có tư cách nhận lễ của Lý Dục. Bảo hắn vào ngồi cùng chẳng qua là lời khách sáo, không ngờ Dương Hạo lại không hề có một chút khiêm nhường nào, liền thoải mái bước vào chỗ ngồi ngang hàng với quốc chủ một nước.



Có một số đại thần Đường quốc tức đến cắn chặt răng, dường như sắp đứng dậy chiến đấu ngay tại chỗ, nhưng họ đều bị ánh mắt ra hiệu đầy nghiêm khắc của Lý Dục ngăn lại. Vì thế, trong tiếng nhạc hân hoan của bữa tiệc lại ngầm ẩn chứa một luồng phẫn nộ cực lớn, không khí trở nên có chút kì dị, nhưng Dương Hạo lại làm như hoàn toàn không cảm thấy.



Rượu đã qua tam tuần, Lý Dục liền thử dò xét, nói: “Dương tả sứ hôm nay nhận mệnh thánh thượng đến Đường quốc ta, thuyền xe mệt nhọc, cả đường vất vả, hôm nay ta bày yến tiệc này để tẩy phong trần, bày tỏ sự thăm hỏi tới ngài. Đường quốc ta tuy không thể thịnh vượng bằng Đại Tống, nhưng Giang Nam vẫn có cảnh đẹp của Giang Nam. Dương tả sứ khó lắm mới có được một chuyến đến đây, mời ngài ở lại mấy hôm để ta có thể tận nghĩa chủ nhà.” 



Dương Hạo cười mà như không cười, nói: “Ha ha ha, quốc chủ khách khí rồi. Hạ quan phụng mệnh của thánh thượng tuyên phủ Giang Nam, tuyên phủ thôi mà, chung quy tuyên ý chỉ cho quốc chủ là được rồi, còn dân quân Giang Nam đương nhiên cũng cần phải an ủi, địa lý Đường quốc cũng phải đi một lượt để xem, phong tục dân gian cũng cần hiểu một chút. Trở về mà quan gia hỏi ở Đường quốc biết được những gì mà hạ quan lại không đáp được, há chẳng phải làm quan gia không vui hay sao?”



Lý Dục nghe xong trong lòng thầm nghĩ: “Đúng là không ngoài dự liệu, hắn sẽ không cam tâm rời khỏi đây. Bây giờ ta đã xưng thần với Tống quốc, tên Dương Hạo chắc chắn sẽ mượn thế của Tống để ức hiếp làm nhục ta, làm tăng uy thế của Tống quốc. Hắn vừa tới đây mà đã kiêu ngạo như vậy, không biết nếu hắn ở lại thêm mấy ngày nữa thì sẽ gây ra thêm chuyện gì đây. Phải làm thế nào để cho hắn sớm rời khỏi bây giờ?”



Màn múa đã kết thúc, tám mĩ nữ mặc y phục màu phỉ thúy thi lễ chào rồi từ từ lui ra ngoài. Chiếc màn trước cung điện buông xuống, đột nhiên một đài hoa sen bằng vàng ngọc nhẹ nhàng trượt vào, đài sen đó xoay chuyển nhẹ, ánh sáng kì ảo của nó làm cho người ta cảm thấy lóa mắt, ngay cả Dương Hạo, kẻ đang nghênh ngang kiêu ngạo cũng không khỏi phải thu lại cái vẻ ngông cuồng, nhìn chăm chú về phía trước. 


Đài hoa sen đó dừng lại ở giữa điện, giữa đài sen mọc ra một đóa hoa sen tuyệt đẹp, từng cánh hoa nở ra, nhìn như một đóa hoa thật, tiếp theo đó là có một làn hương thơm ngát từ trong đóa sen đó tỏa ra. Dương Hạo không hề ngờ rằng ca vũ trong cung đình Đường quốc lại có một thiết kế tinh xảo như thế này, so với thiết kế vũ đài trong Thiên Kim Nhất Tiếu Lâu cũng có phần nhỉnh hơn.



Vì đài hoa sen này đều là dùng vàng để tạo thành, cho nên so với thiết kế vũ đài của Thiên Kim Nhất Tiếu Lâu có hiệu quả làm cho người ta chú ý hơn. Nhưng thiết kế vũ đài trong Thiên Kim Nhất Tiếu Lâu lại là thứ mà người ở thời đại này không thể tưởng tượng ra được. Đài hoa sen mà có chứa người bên trong này đã dùng kĩ thuật trượt để mở ra, hơn nữa bên trong còn ngầm đặt vào một loại hương thơm đặc biệt, để tăng thêm tính thực của nó. Đây là thủ bút của ai vậy, sao lại có được tế bào nghệ thuật, tâm tư lãng mạn như vậy?



Dương Hạo không khỏi tán thưởng nói: “Đài hoa sen này là do ai nghĩ ra vậy, thật là quá tuyệt mĩ.”



Lý Dục không khỏi lộ ra vẻ đắc ý, cười nói: “Đài hoa này là do ta và vương hậu kết hợp nghĩ ra, thật là đã lọt vào mắt thần của Dương tả sứ.”



“Tuyệt, quá tuyệt.”



Lý Dục mỉm cười: “Dương tả sứ có thể tiếp tục xem xem, bên trong đài hoa kì diệu này vẫn còn có một diệu nhân nữa.”



“Sao cơ? Vậy ta phải đợi để tận mắt xem mới được.”



Sau đó tiếng sáo trúc vang lên, cánh hoa mở dần ra, khi hương thơm bay khắp đại điện thì một mĩ nhân ẩn giữa đóa hoa nhẹ nhàng uyển chuyển đứng dậy. Dương Hạo không khỏi kinh ngạc kêu lên. Một đóa hoa nhỏ như vậy, bên trong nếu mà giấu một đứa bé bốn năm tuổi thì còn dễ dàng, nhưng đây rõ ràng lại là một nữ tử xinh đẹp mười bảy mười tám tuổi, quả thật là kì diệu.



Từ sau cái lần đến Quảng Nguyên gặp nữ thích khách giả mạo lên đài hiến nghệ, tận mắt thấy một người xương mềm một cách kì diệu, thì đây là lần đầu tiên Dương Hạo thấy một nữ tử có thể luyện được nhuyễn cốt công đến mức này.



Nàng ca kĩ đó mặc một bộ y phục màu hồng, cơ thể mềm mại yểu điệu, nàng đứng trên đài sen cong lưng uốn lượn. Lúc này Dương Hạo mới phát hiện ra chân nàng chỉ đi một đôi tất làm nổi rõ đôi chân thon thả của nàng, tà váy bay bay, cơ thể cũng chuyển động theo, như thể đang lướt trên mặt nước vậy.



Ánh mắt của Dương Hạo rất nhanh đã tập trung lên đôi chân của mĩ nữ đang múa đó, đôt tất đó không phải là một đôt tất vải bình thường, mà là đôi tất tầng màu trắng, làm cho đôi bàn chân của nàng bó lại, giúp cho nàng khi múa động tác xoay chuyển có thể dùng đầu mũi chân mà đỡ được cả cơ thể. Xem ra đôi tất này cũng có tác dụng như giày múa ba lê.



Cái đẹp của mĩ nhân thường được người ta chú ý đến bởi bộ ngực đầy đặn, cổ tay thon nhỏ, eo nhỏ nhắn, màu da, ngũ quan, nhưng vẻ đẹp ở đôi chân lại khó làm người ta chú ý đến nhất, chỉ có một người đầy linh tính và cảm tính mới có thể cảm nhận được một mùi vị kiều diễm từ đôi chân ngọc nhẹ nhàng đó.



Dương Hạo không phải là người mắc bệnh yêu chân, lúc này cũng không phải đã nhìn ra nước da của đôi chân đẹp đó có phải là mượt mà óng ả hay không, nhưng đôi mắt vẫn không ngừng nhìn vào đôi chân ấy, trong lòng có cảm giác như đôi chân của Lăng Ba tiên tử, một cảm giác phong trần. Ngôn ngữ cơ thể của mĩ nhân nếu có thể biểu đạt được tốt thì tuyệt đói sẽ làm cho nam nhân động lòng hơn là ngũ quan tuyệt mĩ của nàng ta. Dương Hạo trước đây chưa từng nhìn thấy, hắn tin rằng sau này cũng sẽ không thể lại nhìn thấy được một đôi chân tuyệt đẹp mà lại có kĩ nghệ như vậy.



“Quốc chủ, vị vũ kĩ của cung đình quý quốc quả thật là kĩ nghệ cao cường.” Dương Hạo thầm tán thưởng một hồi lâu, rồi không khỏi thở dài mà khen một câu, đôi mắt vẫn không ngừng nhìn theo sự chuyển động của đôi chân ấy. 


Lý Dục cười tự đắc nói: “Đây là vũ kĩ quan nương trong cung của ta, vũ kĩ tuyệt diệu, là đệ nhất hậu cung.”



“Quan nương?” Trong lòng Dương Hạo động: “Quan nương? Trong các mĩ nữ có tiếng được ghi lại vào sử sách, ngoài tiểu Chu hậu ra thì còn nhắc tới quan nương, hóa ra người đó chính là người đang đứng trước mặt mình. Nghe nói quan nương thích đôi chân nhỏ, nên thường mang đôi tất bó giống như giày ba lê này, mục đích là để cho đôi chân càng đẹp hơn, có thể đứng lên bằng mũi chân, bảo sao hậu nhân của họ vẫn cứ thích bó chân một cách kì quặc đến tận hai triều Minh Thanh.”



Lý Dục thấy Dương Hạo ngẩn ra, hai mắt xuất thần, trong lòng không khỏi giật mình: “Lẽ nào vị sứ thần Đại Tống này đã mê mẩn quan nương rồi? Nếu như hắn cố chấp không đi khỏi Đường quốc ta, ép ta vào thế khó xử, phải chăng ta nên để quan nương…”



Quan nương là vũ kĩ ở trong cung Đường, những vũ kĩ này nếu như hoàng đế có hứng thú với au thì đều có thể triệu họ đến hầu hạ, nhưng họ lại không được coi như là phi tần trong hậu cung, không có thân phận gì, tùy ý có thể điều ra khỏi cung. Nếu như dùng một vũ kĩ là có thể đối lấy được thái bình thì cũng đáng.



Lý Dục trong lòng ngầm có ý như vậy, nhưng khi ngẩng đầu lên nhìn thấy mĩ nhân kiêu sa, nhảy múa điêu luyện lại cảm thấy tiếc không nỡ.


***


“Dương tả sứ, trong dịch quán đã sắp xếp ổn thỏa nơi ở của ngài rồi, hạ quan sẽ đưa Dương tả sứ về đó nghỉ, có được không?”



Cung yến đã tan, mọi người ra khỏi hoàng cung, một viên quan của Đường quốc chạy tới trước mặt Dương Hạo kính lễ nói.



Vị quan viên với vẻ mặt đầy nịnh nọt này vẫn còn khá trẻ, khoảng hai lăm, hai sáu tuổi, dung mạo rất thanh tú. Vị quan này tên là Dạ Vũ, họ của hắn khá là hiếm gặp. Hắn vốn là đại hồng lư của Đường quốc, nhưng bây giờ Đường triều đã cải chế, từ hoàng đế xuống, tất cả đều hạ cấp theo quy cách, vị Dạ đại hồng lư này cũng bị cách xuống làm lễ tân viện trưởng.



Vị Dạ đại nhân này là một quan viên xuất thân chính kinh, hắn vốn là một vị tú tài thi rớt, vì gia đình bần hàn không có lộ phí lên đường đi thi, tạm thời xin sống ở trong chùa, giúp hòa thượng chép kinh để kiếm mấy bữa cơm. Hoàng đế Đường quốc sùng phật đạo, mấy trăm nghìn tự viện đều đương hương khói cường thịnh, đám hòa thượng người nào người nấy đều béo tròn, có quyền tiền bạc, nên thuê vị tú tài này vể làm kẻ chép kinh.



Vị Dạ đại nhân này có giọng ca hay, ngày ngày ở trong chùa chép kinh, nghe thấy đám hòa thượng xướng kinh, tai nghe nhiều thành nhiễm, rồi học được. Rồi đột nhiên một ngày, sau khi hắn chép kinh xong liền đến trước viện, khoa chân múa tay, tùy ý xướng lên một khúc kinh. Tuy không có tiếng gõ mõ, nhưng phật âm lại vang lên thanh thoát nghiêm trang, đúng lúc Lý Dục đến lễ phật nghe thấy được.



Lý Dục giỏi thơ ca, giỏi múa hát, lại giỏi phật học, liền cùng với hắn đàm đạo một hồ. Dạ đại nhân đương nhiên là đối đáp trọn vẹn, vì hắn đã chép không biết bao nhiêu kinh phật. Lý Dục vô cùng vui mừng, biết rằng bụi che ngọc sáng, liền lập tức ban cho hắn một chức quan, cho nhập triều để lo lễ phật mỗi lần xuất cung. Cứ như vậy mà hắn dần dần thăng cao hơn, chưa đầy hai năm mà hắn đã lên được cái vị trí cao ngất ngưởng hồng lư tự này.



Dạ hồng lư nhận được chỉ mệnh của Lý Dục, phải hết sức tiếp đón vị sứ thần Đại Tống này, tránh để hắn gây chuyện thị phi ở Kim Lăng, nhưng hắn có yêu cầu gì thì cố gắng đáp ứng hết. Dạ Vũ vốn chỉ có dựa vào việc nịnh bợ Lý Dục mà thăng quan, chứ thực ra hắn không có mấy tài cán thực sự. Bây giờ tỏ thái độ như vậy cũng là chuyên môn chính của hắn, đương nhiên hắn có thể thoải mái mà làm.



Dương Hạo mỉm cười nói: “Bổn quan vẫn chưa thấy mệt, lần đầu đến Kim Lăng, chưa từng được biết đến sự phồn hoa của nơi này, nên ta muốn đi dạo quanh phố phường một chút.”



Dạ Vũ có chút khó xử nói: “Việc này… những nghi trượng của khâm sứ đều phải dẫn theo sao?”



Dương Hạo lúc này mới chợt nhớ ra, hắn bật cười nói: “Nói cũng đúng, vậy về dịch quán trước đã, uống miếng trà cho mát họng rồi sẽ ra phố dạo.”



Sau đó hắn liền vẫy vẫy tay về đội nghi trượng. Mọi người cùng về dịch quán, Dương Hạo đến phòng của mình, cởi bỏ áo quan, mặc vào y phục nhẹ nhàng thoải mái, thường ngày. Đang sắp xếp đồ đạc của mình thì hồng lư tự thừa Tiêu Hải Đào liền vội vàng chạy tới, lo lắng nói: “Đại nhân, hôm nay trên triều đình Đường quốc, đại nhân làm như vậy với Giang Nam quốc chủ quá thất kính rồi, phô trương như vậy e rằng sẽ gây bất lợi đối với sứ mệnh lần này của chúng ta.”



Dương Hạo cười nói: “Tiêu thừa tự nghĩ nhiều rồi, chúng ta lần này đến Đường quốc, cho dù có cẩn thận như thế nào đi chăng nữa, thì ngài nói xem liệu họ sẽ không nảy sinh sự đề phòng với chúng ta sao? Bất kính với Lý Dục, nếu hắn dám động thủ cũng không sao, nhưng nếu hắn đã nhẫn nhịn như vậy thì việc ta làm đã có hiệu quả đánh phủ đầu. Giang Nam quốc chủ còn phải nhẫn nhịn với chúng ta, vậy người bên cạnh sao dám gây khó dễ với chúng ta chứ. Chúng ta muốn du tẩu tứ phương, thăm dò địa hình, làm tình báo há chẳng phải dễ dàng hơn sao?”



Tiêu Hải Đào chớp chớp mắt nói: “Những lời đại nhân nói, hình như… cũng có chút lý.” 


Dương Hạo vỗ vai hắn, nói: “Không phải có chút lý mà là rất có lý. Chúng ta còn có một sứ mệnh, chính là ly gián quân thần họ, gây bất hòa giữa văn võ. Ngài nghĩ xem, chúng ta hừng hực khí thế tới, Lý Dục lại nhẫn nhịn nhún nhường, một hoàng đế chỉ biết nhún nhường thì trong mắt các thần tử của hắn sẽ có cảm giác gì chứ? Quốc chủ không thể dựa vào được, vậy thì đám thần tử đó sẽ dần có ý định tìm con đường khác, kẻ có lòng trung thành tận tâm cũng sẽ nản lòng, sĩ khí suy giảm. Dương mỗ chỉ cần một hành động đã có thể tiến tới gần mục đích, sao lại không làm chứ?”



Tiêu Hải Đào vuốt chòm râu cân nhắc một hồi, đột nhiên tán thưởng: “Kế này của Dương tả sứ quả thật là tuyệt diệu, hạ quan hồ đồ rồi.”



Dương Hạo cười ha ha nói: “Bây giờ hiểu rõ cũng chưa muộn, cả chặng đường ngài phải chạy ngược chạy xuôi, cũng mệt rồi, đi nghỉ ngơi chút đi, bổn quan ra phố dạo chút.”



Tiêu Hải Đào vội nói: “Đại nhân mới tới Kim Lăng, đây là lúc mà vạn người trông theo, lại còn có Dạ đại nhân Đường quốc đi cùng, sợ là khó có thể thu thập được tin tức tình báo gì có tác dụng.”



Dương Hạo thở dài, buông hai cánh tay xuống nói: “Tiêu đại nhân này, ngài xem, ta là khâm sứ Tống quốc, cho dù ta có không phô trương thì sao lại có thể không gây sự chú ý chứ? Những việc thăm dò quân tình, vẽ địa đồ đương nhiên là phải do ngài đem người đi làm rồi.



Còn bổn quan bây giờ chính là một ngọn đuốc, ta tự thiêu chính mình, để sự chú ý của tất cả mọi người hướng vào người ta, tiện cho ngài hành sự, đây chính là sứ mệnh của ta. Ngài hiểu không?”



“Hiểu rồi.” Tiêu Hải Đào vui vẻ gật đầu: “Đại nhân thật là giỏi.”



Dương Hạo chớp chớp mắt cười với hắn: “Giỏi chỗ nào?”



“Chỗ nào cũng giỏi.”



“Ha ha ha.” Dương Hạo cười lớn vang cả ra ngoài, Dạ Vũ vừa từ ngoài cửa đã nghe thấy tiếng, hắn làm vẻ mặt tươi cười bước tới nói: “Dương tả sứ thật là cao hứng, có chuyện gì mà vui vẻ thế?”



Dương Hạo cười liếc mắt nhìn hắn, nói: “Đại nhân cả người quan phục, bây giờ ra đường không tiện. Ý, Tiêu đại nhân, hai người dáng người tương đương nhau, mượn tạm một bộ thế nào?”



Dương Hạo và Dạ Vũ mặc hai bộ thường phục bước ra ngoài phố, ngay cả một kẻ hầu cũng không mang theo, càng không nói tới thị vệ. Dương Hạo làm như vậy là để hình thành một thói quen, nếu không cái đám thị vệ trước gọi sau hô, lúc nào cũng đi bên cạnh, nếu đột nhiên có một ngày hắn không mang theo thị vệ bên mình mà đột nhiên là “chết”, thì sẽ không tránh khỏi người ta nghi ngờ.



Dạ Vũ thật không biết vị Dương đại nhân này có chỗ nào mà cao hứng đến thế, lại vui vẻ đi dạo, hắn đành phải cố gắng mà đi hầu cùng. Dương Hạo du tẩu đến con phố lớn, một là muốn đến xem đường phố, tìm cớ để đắc tội với người ta, tốt nhất là đắc tội với võ tướng của Nam Đường, như vậy mình đột nhiên “chết” mới có lý do chính đáng, không làm cho đối phương và Triệu Khuông Dận nghi ngờ mình giả chết. Hai là muốn quen với hình thế của Kim Lăng, tìm một nơi để mình “chết”, đồng thời để cho người ta nghĩ rằng mình có thói quen đi dạo phố.



Cứ như vậy, hắn từ từ bước đi, dạo đông dạo tây, đến tận gần trưa mới tới được Kê Lung, nơi phồn hoa náo nhiệt nhất Nam Đường. Phố Kê Lung rất phồn thịnh, nhà nhà đều là cửa tiệm, đủ các loại hàng hóa ngành nghề buôn bán: tiệm gạo, tiệm tơ lụa, tiệm gốm sứ, tiệm dược…



Dương Hạo nhìn đông ngó tây, giống như một con rắn không đầu chạy loạn xạ vậy, làm cho Dạ Vũ Dạ đại nhân chạy theo sau mệt đến mềm nhũn cả chân, khổ không nói lên lời. Mắt thấy Dương Hạo chạy khắp nơi nhìn ngó, giống như đang tìm vật gì vậy, Dạ Vũ đột nhiên chột dạ, hỏi dò: “Dương tả sứ, trời đã vào chính ngọ, ngài xem chúng ta có nên tìm một quán rượu nào đó, gọi mấy món ăn ngon, rồi tìm mấy ca kĩ vũ nữ tiếp rượu cho vui không?”



Dương Hạo vốn không có ý này, nhưng vừa nghe thấy hắn nói vậy liền kêu hay. Dạ Vũ thầm bĩu môi khinh thường: “Chẳng trách hắn ngay cả một thị vệ cũng không muốn mang theo, hóa ra là muốn thưởng thức mùi vị dịu dàng của mĩ nữ Giang Nam ta. Ngươi cứ nói sớm đi chứ, hại ta phải chạy theo ngươi đến mềm nhũn cả chân. Có đều vị sứ thần này cũng quá nóng vội cơ.”



Dạ hồng lư lấy lại tinh thần, đang muốn đưa Dương Hạo đến một thanh lâu mà mình quen thuộc, thì phía trước có mười mấy vị hộ binh đột nhiên vây quanh một vị tướng quân anh tuấn trẻ tuổi, chạy bước lớn tới, bước chân đột nhiên tăng tốc. “Bên trong, xông vào đó.” 



Nguồn: http://4vn.eu/forum/showthread.php?71274-Lich-Su-Quan-Su-Bo-Bo-Sinh-Lien-Nguyet-Quan-Full-Text&page=73#ixzz1zqX6tc1H

Chương 347: Ta vô địch rồi

Vị tướng quân trẻ tuổi kia bước bước lớn rất nhanh, người bên cạnh nhìn thấy đều tự động nhường đường cho hắn, nhưng ai mà ngờ được Dương Hạo lại đột nhiên xông lên. Vị tướng quân đó không kịp tránh bước, va mạnh vào người hắn, lập tức hắn trừng mắt lên, nhưng chưa kịp làm gì thì Dương Hạo đã tức giận nói: “Khốn kiếp, đi đường mà không mở to mắt ra nhìn à?”



Vị tướng quân đó ngẩn ra, không kịp tức giận, một lúc liền cười nói: “Thật là hung hăng càn quấy, ngươi không biết bổn tướng quân là ai sao?”



Trong lúc hai người đang đối đáp nhau thì đám thủ hạ của vị tướng quân đó đã bao vây xung quanh, với cái dáng vẻ hùng hồn ấy, có lẽ chỉ cần vị tướng quân đó hạ lệnh một tiếng thì sẽ lập tức động thủ.



Dương Hạo trong lòng thầm vui mừng. Bây giờ giữa đường gây sự, kết oán với tướng lĩnh Đường quốc, mọi ánh mắt đều nhìn vào, đây đúng là một lý do tốt để “tìm cái chết”. Mặt hắn càng tỏ ra ngông nghênh hơn, cười nói: “Ta thấy ngươi có vẻ giống một tên sở khanh mặt mũi trắng trẻo, giống như một con thỏ trong chỗ đám nữ nhân, không ngờ lại là một vị tướng quân. Thất kính, thất kính, ta cũng đã quên mất người phía nam yếu đuối, hóa ra đường đường là đại tướng thống binh cũng có dáng vẻ như vậy, ha ha…



Vị tướng quân đó lướt mắt qua, trong ánh mắt đầy sự phẫn nộ, không đợi hắn ra lệnh, thủ hạ võ sĩ đã rút binh khí ra, một tên trong số đó liền quát lớn lên: “Sao lại có một tên cuồng nhân như thế chứ, dám bất kính với tướng quân chúng ta như vậy. Người đâu, đánh cho hắn sống dở chết dở rồi tống vào đại lao.”



Dân chúng xung quanh vừa thấy sắp động vũ lực liền lập tức tránh đi, Dương Hạo thầm nghĩ: “Đến đúng lúc lắm, chỉ dựa vào mấy con tép này thì sao có thể làm ta bị thương chứ, cứ đánh với chúng một trận, đợi khi nào thân phận sáng tỏ, cái tên tướng quân đó biết ta là sứ tiết Tống quốc, thì có giận nữa cũng không dám hành hung người giữa đường nữa. Ha ha, cái dây này coi như đã kết xong rồi.”



Dương Hạo dậm chân đứng thế bất đinh bất bát, hai tay dang ra, khinh thường nói: “Thế nào, muốn động thủ sao? Đến đây, đến đây, ta cho ngươi biết sự lợi hại của ta.”



Lúc này Dạ Vũ hốt hoảng xông tới, nói: “Dương tả sứ bớt giận, Hoàng Phủ tướng quân bớt giận. Mọi người đều là… đều là thần tử của một triều. Đừng làm tổn thương hòa khí.”



Vị Hoàng Phủ tướng quân liếc mắt nhìn Dạ đại nhân, lạnh lùng nói: “Đại hồng lư, kẻ này là ai?”



Dạ Vũ toát cả mồ hôi, nói: “Vị này là Dương Hạo Dương đại nhân, sứ thần Tống quốc. Dương đại nhân, vị này là thần vệ thống quân đo chỉ huy sứ của Đường quốc Hoàng Phủ Kế Huân đại nhân. Không đánh không quen biết, hai vị đại nhân chỉ là ngẫu nhiên va phải nhau thôi, đừng động thủ làm thương hòa khí.”



Dương Hạo thật không thể nhớ ra Nam Đường lại có một vị tướng quân Hoàng Phủ gì đó, cái họ kép này hắn biết được cũng chỉ là do đọc các truyện võ hiệp, cái gì mà Nam Cung, Đông Phương, Tây Phương, Bắc Cung, Đệ Ngũ, Hách Liên, Lệnh Cô… những người mà có cái họ kép như thế đều có cơ hội rất lớn trở thành võ lâm thế gia. Hắn nghĩ một lúc rồi trợn mắt lên, cười lạnh nói: “Cái gì mà Hoàng Phủ Bạch Phủ chứ, bổn quan chưa từng nghe thấy. Người này là địa tướng quân của Đường quốc các vị ư? Nhìn không có giống mà, nếu như đổi lại mặc một bộ y phục nữ nhân thì có lẽ lại giống một ngụy nương tuyệt sắc ý chứ.”



Đám quân sĩ không hiểu ngụy nương là thứ gì, nhưng Dương Hạo lại đem tướng quân của họ so sánh với nam xướng ở trong chỗ các cô nương, giờ lại nói thay vào bộ y phục nữ nhân, đoán cũng biết không phải là lời hay ho gì. Những binh sĩ vốn đã rất căm thù, phản cảm với cái sự huênh hoang của người Tống, giờ lại nghe thấy vậy lập tức nổi giận đùng đùng, tiếng binh khí soạt soạt vang lên, xông về phía Dương Hạo. 



Dạ Vũ càng hoảng sợ, định xông tới cản, không ngờ Hoàng Phủ Kế Huân động tác còn nhanh hơn hắn, một bước đã nhảy phắt lên phía trước mặt Dương Hạo. Dương Hạo chuẩn bị tư thế sẵn sàng chờ hắn xuất chiêu để nghênh chiến, thì lại nhìn thấy Hoàng Phủ Kế Huân mặt mày tươi cười, chắp quyền nói: “Hóa ra là sứ thần Tống quốc, Dương Hạo Dương đại nhân. Ngưỡng mộ, ngưỡng mộ đã lâu, hôm nay được gặp mặt quả thật có phúc ba đời.”



Dương Hạo ngẩn ra, con người này thật biết kiềm chế, nếu như với tình hình này mà còn động thủ thì cái thái độ cố tình gây sự cũng sẽ bị thể hiện quá rõ ràng. Trong lúc hắn đang ngẩn ra thì Hoàng Phủ Kế Huân đã quay lại lớn tiếng quát: “Tất cả bỏ kiếm xuống, sao lại dám vô lễ với sứ thần thượng quốc như vậy?”



Hoàng Phủ Kế Huân vừa dứt lời liền quay đầu lại, mặt mày rạng rỡ nói: “Kế Huân sớm biết người bắc to lớn phóng khoáng, anh võ. Nhưng lại không ngờ ngay cả Dương sứ giả là một bậc văn nhân mà tính cũng nóng như lửa vậy. Hôm nay đúng là không đánh không quen biết.”



Dạ Vũ thấy vậy vô cùng mừng rỡ, vội vàng chạy lên trước nói: “Đúng vậy, đúng vậy. Hai vị đại nhân hôm nay gặp được nhau cũng là có duyên phận. Dương tả sứ, vị Hoàng Phủ Kế Huân tướng quân này là thần vệ thống quân đô chỉ huy sứ của Đường quốc ta, phụ trách bảo vệ Kim Lăng, dẫn đầu bốn vạn tinh binh, là tướng lĩnh được quốc chủ tin cậy nhất. Giờ khó có cơ hội được gặp mặt như thế này, chi bằng để hạ quan làm chủ, ba người chúng ta tìm một chỗ nào đó uống mấy chén rượu, nói chuyện một chút.”



Dương Hạo trong lòng cảm thấy rất buồn bực, muốn kết thù một cái mà cũng khó vậy sao? Nhưng hắn chạy đến Giang Nam không thể để chuyện cố tình gây thù chuốc oán quá lộ liễu, hơn nữa Oa Oa và Diễm Diễm còn chưa tới, việc này cũng không gấp. Đành phải đổi thái độ, tuy vẫn kiêu ngạo nhưng ngữ khí đã mềm mỏng hơn nhiều: “Như vậy mới đúng chứ. Hoàng Phủ tướng quân tuy là võ tướng, thủ hạ lại có nhiều binh khí, nhưng nếu muốn vô lễ với bổn quan thì đó sẽ là bất kính với Tống quốc. Dương Hạo tuy không có vật gì phòng thân nhưng cũng sẽ không làm yếu đi uy phong của Tống quốc đâu, cùng lắm thì đánh một trận sống mái với Hoàng Phủ tướng quân.”



“Không đánh được, không đánh được.” Hoàng Phủ Kế Huân mặt mày tươi cười, liên tục xua tay. Đối với những lời bất kính của Dương Hạo dường như không có một chút nào để bụng: “Nam nhi Giang Bắc phóng khoáng, kiêu dũng thiện chiến, đều có võ nghệ cao cường, người Nam chúng ta quả thực không bằng được. Đại quân Tống quốc nếu như nam phạt thì sẽ như núi Thái Sơn đè lên quả trứng vậy, Đường quốc ta chưa đến ba ngày sẽ bị vong quốc. Bây giờ quốc chủ ta đã xưng thần với Tống, lưỡng quốc hữu hảo, chính là thuận theo ý trời. Bổn tướng quân đối với sứ giả thượng quốc luôn có kính sợ từ trong lòng, tuyệt đối không dám bất kính.”



Hoàng Phủ Kế Huân đường hoàng công khai thừa nhận vũ lực của Đường quốc không bằng Tống quốc, hơn nữa lại còn nịnh nọt đến tận mức này, làm cho đám sĩ tốt bên cạnh cũng phải quay sang nhìn nhau vừa giận vừa xấu hổ. Hoàng Phủ Kế Huân lại coi như là không có gì, bước tới nắm lấy cánh tay Dương Hạo, cười nói: “Bổn tướng có chức trách ở đây nên không thể đến nghênh đón sứ thần, hôm nay gặp ở đây quả thật là có duyên phận. Nào nào, chúng ta tìm một chỗ tốt rồi uống mấy chén rượu. Đây là lòng mong mỏi của ta, Dương tả sứ nhất định phải vui lòng đồng ý, chớ chối từ.”



Dương Hạo không ngờ tên tướng quân huyết khí sùng sục, khí khái bất phàm này lại chính là một đối thủ khó đấu, muốn gây hấn đánh nhau với hắn cuối cùng kết cục lại là như thế này, bị hắn nắm lấy cánh tay mà kéo đi, ân cần bắt chuyện, thật đúng là dở khóc dở cười.



“Việc này… bổn quan lúc nãy đúng là có chút vô lễ, Hoàng Phủ tướng quân đừng có giận nhé.”



Hoàng Phủ Kế Huân cười nói: “Bắc quốc khí thế ngang tàng, đại nhân nóng nảy như thế cũng là bình thường, không có gì vô lễ cả. Bổn tướng quân luôn cho rằng người bắc mạnh mẽ, không có đối thủ. Đường quốc ta nếu như lấy trứng chọi đá thì không tới ba ngày tất sẽ bị diệt vong, giờ thuận theo ý trời mà xưng thần với Tống, bổn tướng quân và đại nhân cũng coi như là đồng liêu cùng một điện rồi. Có chút va chạm gì mà tức giận chứ. Nào nào, chúng ta cùng đi uống rượu.”



“Trời ơi, cái tên Hoàng Phủ này đúng là một trăm cân mỳ nấu được một chút điểm tâm, hắn đúng là đồ bỏ đi. Lý Dục mắt mũi thế nào mà lại để cho một kẻ như thế này làm đại tướng thống lĩnh đại binh vậy. Động một cái là lại nói chưa tới ba ngày sẽ diệt vong, quả thật đúng là một Uông Tinh Vệ (một kẻ hán gian nổi tiếng của Trung Quốc trong thời kháng chiến chống Nhật) của Đường quốc.



Dương Hạo khóc dở mếu dở, đành phải để cho hắn kéo đến một tửu lầu…



Hoàng Phủ Kế Huân luyện võ từ nhỏ, binh thư thao lược, quả thật là võ tướng xuất thân thế gia. Cha của hắn là Hoàng Phủ Huy là một người rất kiêu dũng, lúc trước từng làm thần vệ quân đô ngu hầu, Giang Nam tiết độ sứ. Khi Sài Vinh, chỉ huy sứ của Chu quốc tấn công Nam Đường, Hoàng Phủ Huy là ứng viện sứ hành doanh phía bắc Đường quốc, dụng binh lão luyện, tiến thoái đều có tính toán kĩ lưỡng, Chu binh rất kiêng kị hắn.



Ở trận chiến Đồ Châu thành, Hoàng Phủ Huy nổi dậy sát khí, xông xuống thành đánh nhau với đại tướng công thành Triệu Khuông Dận. Đây cũng là kẻ địch hiếm có xưa nay mà Sài Vinh Chu quốc và Triệu Khuông Dận Tống quốc bây giờ đều rất khâm phục. Sau này qua các trận đánh, Hoàng Phủ Huy bị Sài Vinh bắt được. Sài Vinh rất khoan dung đối với hắn, có lòng thu nạp, nhưng Hoàng Phủ Huy không chịu bị chi phối, người bị trọng thương không chịu chữa trị, vài ngày sau vết thương nặng hơn mà chết. 



Hoàng Phủ Kế Huân là trung thần chi hậu, cho nên Lý Dục rất tin tưởng hắn, không ngừng thăng quan cho hắn, đến bây giờ hắn đã làm phòng ngự Kim Lăng. Chỉ đáng tiếc, hổ phụ sinh khuyển từ. Hoàng Phủ Kế Huân không những không có dũng khí như cha hắn, mà ngay cả lòng trung hiếu cũng không có, hoàn toàn phục tùng Tống quốc mà không có chút ý chí chiến đấu nào.



Theo như hắn thấy thì người bắc thiện võ hơn người nam, nam bắc giao tranh thì nhất định bắc sẽ thắng mà nam sẽ bại. Đây là quy luật vĩnh viễn không thể thay đổi được, cho nên xưng thần với Tống là con đường tốt nhất dành cho Đường quốc. Cho nên Dương Hạo tuy có kiêu ngạo bất kính, Hoàng Phủ Kế Huân không những không giận mà còn tươi cười nịnh nọt, hình như hắn còn muốn lấy dẫn chứng cho luận điệu của hắn cho nên đã nói thêm: “Một quan văn thư sinh mà đã như vậy, thì sự hung tàn của người bắc chỉ nghĩ thôi đã có thể hiểu được. Không thể địch nổi, không thể địch nổi.”



Trên Phiêu Hương lầu, một khúc tỳ bà mượt mà như nước chảy vang lên, tinh tinh tang tang, cao thấp trầm bổng, nhưng vị văn bào sĩ tử ngồi trên chỗ cao đó lại mặt mày nhăn nhó, hoàn toàn không có chút vui vẻ nào, nghe nhạc rồi uống liên tiếp ba chén rượu.



Người này khoảng trên dưới ngũ tuần, dung mạo thanh thoát, nhìn trông phong nhã bất tục, chỉ là mặt mày nhăn nhó buồn phiền, cũng không biết là có chuyện gì không vui. Một thiếu nữ trẻ tuổi xinh đẹp đang gảy đàn liền dừng lại, đưa đàn cho thị nữ ở bên cạnh, nhẹ nhàng đi tới bên cạnh hắn, ngồi xuống đưa tay ra rót rượu cho hắn, dịu dàng nói: “Khu mật đại nhân bình thường thích nhất nghe nô gia gảy đàn, hôm nay sao lại mặt mũi ủ rũ vậy, có phải khúc nhạc này của nô gia không hợp với ý đại nhân không?”



Vị khu mật đại nhân thở dài một hơi, lẩm bẩm tự nói: “Khúc nhạc của nàng vẫn tuyệt diệu như lúc trước, nhưng vận khí Đường quốc ta không còn như xưa nữa, bổn quan chợt cảm thấy cảm khái trong lòng, sao lại không buồn chứ?”



Vị khu mật đại nhân nói rồi liền nâng chén rượu lên uống cạn.



“Khu mật đại nhân…” Người ca nữ đó muốn khuyên giải nhưng lại không biết phải mở lời như thế nào.



Vị khu mật đại nhân đó cười chua chát nói: “Cái gì mà khu mật đại nhân, bây giờ khu mật viện đã bị cách xuống thành quang chính viện. Bổn quan bây giờ là quan chính viện phụ chính. Ha ha, Sanh Hàn cô nương, cô cứ gọi ta là phủ chính đại nhân, nghe như thế thuận tai hơn.”



Ca nữ đó nhìn hắn, không nói gì cả, chỉ nhẹ nhàng tiếp rượu cho hắn.



Vị khu mật đại nhân này họ Trần tên Kiều, tự Tử Kiều, là một trụ cột trong triều của Đường quốc, khi Đường quốc lâm nguy đã từng nói với hoàng thượng và các thần tử: “Đất nước lâm nguy, thần nguyện trung thành với triều đình, thần có chết cũng không oán hận.”



Lý Dục từ sau khi tại vị đã lệnh cho hắn làm sứ bộ thị lang hàn lâm học sĩ thừa chỉ môn hạ thị lang kiêm khu mật viện sứ. Bây giờ Đường quốc đã xưng thần với Tống, tất cả các nha môn đều hạ xuống một cấp, khu mật viện đổi thành quang chính viện, cái chức khu mật viện sứ của hắn trở thành quang chính viện phụ chính. Có điều vẫn là tổng lĩnh của tất cả các đội quân.



Trần Kiều nắm lấy cánh tay thơm ngát của mỹ nhân, cười khổ nói: “Hàn Tái Hi, lão già này thật là có phúc, khi hắn làm tể tướng hoang đường, ngang ngược, hưởng tận phúc, khi đó quân Tống vẫn chưa công phạt Nam Đường thì ông ta đã thoải mái mà lên đường. Bây giờ chỉ còn lại mình ta, một mình hứng chịu, chịu sự sỉ nhục của người Tống mà không làm được gì.”



Đôi lông mày thanh tú của Sanh Hàn cô nương hơi nhíu lên, nhẹ nhàng nói: “Đại nhân, bây giờ Đường quốc chúng ta không phải đã xưng thần với Tống rồi sao, người Tống chẳng nhẽ vẫn xuất binh thảo phạt Đường?”



Trần Kiều cười khổ nói: “Thứ mà Triệu Khuông Dận muốn là đất đai và dân chúng giàu có Giang Nam, chứ không phải là Giang Nam quốc chủ xưng thần với hắn. Dã tâm của hắn nếu như chỉ có vậy thì Trần Kiều ta đã xem thường hắn rồi. Đáng tiếc, hoàng đế không nghe trung ngôn, không nghe trung ngôn nữa rồi.”



Hắn buồn bã lắc đầu, thở dài rồi từ từ nói: “Đắc thì lên cao, thất thì đi xuống, đa sầu đa hận cũng ung dung. Hôm nay có rượu thì hôm nay say, ngày mai buồn thì ngày mai lại buồn. Nào, mĩ nhân, chúng ta hãy vui tận hôm nay, việc ngày mai ngày mai lại nói.”



Nói xong hắn quàng tay qua vai Sanh Hàn cô nương. Sanh Hàn cô nương nâng chén rượu lên uống một ngụm, rồi đưa miệng tới chạm vào miệng hắn. Hương thơm của chiếc chén da thịt làm cho hắn thấy vui hơn.



Khi đôi môi hai người vừa chạm vào nhau thì nghe thấy phía dưới lầu có tiếng người quát lớn: “Cái đồ khốn nạn, bổn tướng quân hôm nay mời khách quý đến đây, sao lại dám để cho đám người tầm thường này đến hầu chứ? Sanh Hàn đâu? Cô nương đó eo nhỏ, môi mỏng, là mĩ nhân thùy mị Giang Nam ta, sao không gọi nàng ấy đến tiếp đãi khách quý của bổn tướng quân?”



Sau đó thì nghe thấy một phụ nhân lên tiếng nói: “Hoàng Phủ tướng quân bới giận. Sanh Hàn cô nương đang tiếp một vị khách quý, tất cả các cô nương khác trong viện của nô gia đều đã được gọi đến đây để tướng quân chọn lựa.”



“Phục vụ khách quý của ta đương nhiên là phải chọn đệ nhất mĩ nữ của lầu này rồi. Lão bà bà, có phải bà không muốn sống ở cái đất Kim Lăng này nữa không? Bổn tướng thân là đệ nhất võ thần của Kim Lăng, thống lĩnh cả mấy vạn hùng binh, ngay cả ta mà cũng phải kính nể vị khách quý này, ta không cho phép bà chậm trễ như thế. Ta mặc kệ nàng ấy đang tiếp ai, gọi nàng ta ra đây cho ta, nếu không bổn tướng sẽ triệu binh tới đập nát cái Phiêu Hương lâu này của bà.”



Trần Kiều nhíu mày lại, đẩy Sanh Hàn ra, nén tức giận xuống dưới lầu. Sanh Hàn vội vàng đuổi theo, nhưng đi được hai bước liền dừng lại, thở dài.



Dương Hạo ngồi bên cạnh, thờ ơ lạnh nhạt, nhưng thấy Hoàng Phủ Kế Huân kiêu ngạo như vậy lại không nói gì. Hắn vốn không phải là người có tính cách như vậy, nhưng lần này đến Nam Đường hắn lại cố ý gàn dở, nếu như lúc này mà lại khuyên giải người ta thì hành động đó khó tránh khỏi sau này làm cho người ta nảy sinh nghi ngờ, vì thế hắn chỉ ngồi yên mà không động sắc.



Hoàng Phủ Kế Huân không thể đắc tội được, nhưng vị khu mật sứ trên lầu kia cũng không thể chọc vào. Lão bà đó vô cùng khó xử, đang không biết nên làm thế nào thì Trần Kiều đột nhiên từ trên lầu bước xuống, lạnh lùng nói: “Ta còn tưởng là ai đang gây rối không để yên cho lão phu uống rượu, hóa ra là Hoàng Phủ tướng quân. Nhìn khắp cả cái thành Kim Lăng này cũng chỉ có Hoàng Phủ tướng quân mới dám khoa trương kiêu ngạo như thế trước mặt lão phu thôi.”



Hoàng Phủ Kế Huân nhìn thấy Trần Kiều, không khỏi có chút xấu hổ. Trần Kiều bây giờ là tổng lĩnh tất cả đại sự của quân đội Đường quốc, văn là tể tướng, võ là khu mật, đó chính là thượng ti của hắn. Cho dù trên thực tế tất cả mọi sự phòng vệ canh phòng đều do Hoàng Phủ Kế Huân phụ trách, hắn mới là võ tướng thực sự của thành Kim Lăng, trực tiếp nhận nhiệm vụ từ hoàng thượng, nhưng trên lễ chế thì hắn vẫn là thuộc hạ của Trần Kiều.



Trần Kiều hừ lạnh một tiếng: “Lão phu đang uống rượu trên lầu, Hoàng Phủ tướng quân nếu đã đến rồi hay là cũng lên trên đó uống mấy chén?”



Hoàng Phủ Kế Huân lúc này đã định thần lại, ung dung nói: “Ta còn tưởng là ai có mặt lớn mà được Sanh Hàn cô nương tiếp đãi, hóa ra là phụ chính đại quan. Trần đại nhân, vị này là khâm sứ Tống quốc, Dương Hạo Dương đại nhân. Hạ quan bây giờ không thể lên trên ấy được, nếu phụ chính đại nhân có nhã hứng thì xin mời xuống đây cùng uống mấy chén rượu nhạt.”



“Dương Hạo?” Trần Kiều chuyển mắt nhìn qua, thấy Dương Hạo không khỏi ngẩn ra. Hắn là phụ chính đại thần, hôm nay đã từng gặp Dương Hạo lúc thượng triều, không ngờ giờ có thể trùng phùng ở đây.



Việc đã rơi vào đầu mình, Dương Hạo cũng không thể đặt mình ở ngoài.



“Đai tướng quân Đường quốc không dám đắc tội với ta, còn cố hết sức nịnh nọt. Người ta khiêm tốn đến mức cứ mở mồm ra là nói ba ngày sẽ vong quốc, quả thực là không có cách nào gây thù kết oán được, vậy chi bằng đắc tội với vị phụ chính đại thần Đường quốc này vậy, hiệu quả chắc chắn sẽ khác.”



Dương Hạo nghĩ đến đây liền cười cười đứng dậy, học cái vẻ mặt cảu Lục Nhân Gia, một cái dáng vẻ “dì không thương cậu không yêu”, nói: “Hôm nay bổn quan ngẫu nhiên gặp được Hoàng Phủ tướng quân, rồi cùng đến Phiêu Hương viện uống rượu, nghe nói Sanh Hàn cô nương ở đây gảy tỳ bà hay tuyệt luân, nên muốn thưởng thức một chút. Bây giờ xem ra Sanh Hàn cô nương đang phục vụ đại nhân, không biết đại nhân có chịu thả Sanh Hàn cô nương xuống đây để bổn quan có thể thưởng thức một chút tiếng đàn tuyệt luân không?”



Hoàng Phủ Kế Huân ngồi bên cạnh mày liền nhíu lên, châm chọc nói: “Sanh Hàn cô nương đâu phải chỉ có gảy đàn hay đâu. Đợi đại nhân thưởng thức mùi vị của nàng ta thì sẽ biết nàng ta còn có chỗ nào hay hơn nữa.”



Trần Kiều thấy hai người họ đứng trước mặt mình mà dám nói ra những lời hạ lưu đó, hoàn toàn không coi mình ra gì, không khỏi tức đến xanh mặt. Dạ Vũ ngồi bên cạnh đổ cả mồ hôi lạnh, hôm nay đúng là bà cô hắn va phải tà rồi, hai vị đại nhân có vị trí cực cao, một văn một võ của thành Kim Lăng, một trước một sau đều bị đụng phải.



“Xem ra vị Trần phụ chính này sẽ không ngon ngọt được như Hoàng Phủ tướng quân, mà hoàng thượng đã chính miệng nói rằng đáp ứng hết các yêu cầu của Dương Hạo, chi mong cho hắn không gây sự ở Đường quốc. Nhưng vị Trần phụ chính này cũng không phải là người dễ dây, giờ phải làm thế nào mới tốt đây?”



Trong lòng Trần Kiều đột nhiên lóe lên. Hắn tuy không sợ Dương Hạo, cũng không sợ vì chuyện hai người tranh đoạt mĩ nhân mà chọc giận triều Tống, nhưng hắn là phụ chính đại thần Đường quốc, hắn không phải là loại tể tướng hoang đường nghìn năm có một như Hàn Tái Hi năm xưa. Bây giờ Dương Hạo dựa vào thế lực của Tống quốc, thể hiện rõ không coi hoàng thượng ra gì, làm sao có thể sợ một tể tướng như hắn. Bên cạnh lại còn có một con chó cậy người như Hoàng Phủ Kế Huân, nếu thật sự tranh chấp, tin tức truyền ra bên ngoài thật sự sẽ trở thành chuyện cười, quét sạch thể diện của Đường quốc. 



Nghĩ đến đây, trong lòng Trần Kiều càng cảm thấy hận, nhưng trên mặt lại chỉ lạnh lùng hừ một tiếng: “Dương tả sứ đã có nhã hứng như vậy thì hãy ở lại đây để Hoàng Phủ tướng quân cùng ngài uống rượu. Tửu hứng của lão phu đã hết, không thể tiếp đại nhân.” Nói rồi ông ta phất áo đi khỏi.



Dương Hạo thấy thế thì vô cùng thất vọng. Vốn tưởng rằng lần này sẽ làm được, nhưng ai ngờ vị Trần Kiều này cũng là loại súng đèn cầy, chỉ có thể nhìn mà không thể dùng. Hắn thầm nghĩ: “Mẹ kiếp, sao ta lại đen đủi như thế, muốn đắc tội với một người mà cũng khó thế sao? Khi ở Khai Phong ta giấu cái đuôi đi để làm người thế mà toàn bị đắc tội với người ta. Nhưng đến đây tác oai tác quái muốn gây thù chuốc oán, nhưng Hoàng Phủ tướng quân hết sức nịnh nọt, tể tướng đương triều lại trốn tránh. Lão tử quyền đả nam sơn kính lão viện, cước đá bắc hải ấu kỉ viên, ta vô địch rồi.”



Hoàng Phủ Kế Huân thấy Trần Kiều bỏ đi thì không khỏi đắc ý, quát lão bà bà: “Còn ngẩn ra đấy làm gì. Mau đi gọi Sanh Hàn cô nương xuống tiếp đãi Dương tả sứ.”



Hoàng Phủ Kế Huân vừa nói dứt lời thì Sanh Hàn cô nương đã từ trên lầu thong thả bước xuống. Hoàng Phủ Kế Huân mặt mày hớn hở nói: “Sanh Hàn cô nương, nào nào, mau đến đây, mau đến đây gặp mặt vị đại nhân này, nàng phải tiếp đãi thật tốt đấy nhé, nếu làm cho Dương đại nhân vui thì bổn quan sẽ trọng thưởng.”



Sanh Hàn cô nương lật mặt, làm một lễ với hắn, lạnh nhạt nói: “Nô gia không giỏi uống rượu, toàn thân mệt mỏi, e là khó có thể phục vụ đại nhân, Hoàng Phủ tướng quân thứ tội.” Nói rồi liền bước đi. Hoàng Phủ Kế Huân vô cùng tức giận: “Đứng lại, vị đại nhân này là sứ giả thượng quốc, ngay cả bổn tướng quân cũng không dám bất kính, ngươi lại dám thất lễ hay sao?” 



Sanh Hàn bỗng nhiên quay người lại, đôi mày xinh đẹp hơi nhíu lên, lạnh nhạt nói: “Nô gia thiển cận, chỉ ở Kim Lăng, chỉ biết đến Trần phụ chính, biết Hoàng Phủ tướng quân, chứ lại không biết cái gì mà sứ giả thượng quốc.”



“Thật là to gan, còn dám cãi lại.” Hoàng Phủ Kế Huân tức giận rút kiếm ra, Dạ Vũ đang ngồi ở một bên liền tiếp tục làm kẻ hòa giải.



Hoàng Phủ Kế Huân nào có thể để mất thể diện như vậy ở trước mặt Dương Hạo, một tay đẩy Dạ Vũ ra, tay cầm kiếm quát lên: “Tiện tỳ không biết tốt xấu, chẳng qua ngươi chỉ là một xướng kỹ lấy thanh sắc làm vui người ta mà thôi, thế mà lại dám nói như vậy với bổn quan, bây giờ ta không thể giữ ngươi lại nữa, nạp mạng cho ta.”



Sanh Hàn cô nương ngẩng khuôn mặt xinh đẹp trắng trẻo lên trước mặt Hoàng Phủ Kế Huân, tươi cười nói: “Hoàng Phủ tướng quân nói sai rồi, nô gia chỉ là một xướng kỹ lấy thanh sắc làm vui người ta mà thôi, là một kẻ hèn không biết khí tiết phẩm hạnh là cái gì.”



Hoàng Phủ Kế Huân không ngờ nàng ta còn dám cãi lại, trong lời nói còn đầy sự châm biếm, đúng là đang mắng mình, càng tức giận không thôi, muốn lập tức rút kiếm ra đâm, nhưng cánh tay lại bị giữ chặt lại, người này có sức cực lớn, Hoàng Phủ Kế Huân không thể động đậy được. Hắn quay đầu lại nhìn thì thấy Dương Hạo đã tiến lên trước. Dương Hạo cười nói: “Hoàng Phủ tướng quân bớt giận, mỹ nhân thì phải dỗ, không thể dọa, ha ha ha. Ép nàng ta ở lại cũng không còn hứng thú, để nàng ta đi đi.”



Dương Hạo đã mở lời thì Hoàng Phủ Kế Huân liền nghe lời ngay, lập tức thu kiếm lại, hừ một tiếng: “Tiện tỳ, hôm nay may cho ngươi đấy.” Rồi hắn quay lại mặt mày tươi cười nói: “Tả sứ đại nhân đại lượng, khí độ phi phàm, có tấm lòng nhân nghĩa, không hổ là nhân vật của thượng quốc.”



Dương Hạo nhìn bóng Sanh Hàn bước đi, thầm cười khổ: “Tể tướng tướng quân Đường quốc lại không thể ngẩng cao đầu bằng một xướng kỹ. Cuối cùng cũng có người chịu đắc tội với ta, nhưng nàng ta đắc tội với ta thì có tác dụng gì chứ, lẽ nào ta phải ngụy tạo hiện trường, nói Dương Hạo chết dưới bụng đàn bà sao? Vậy Oa Oa và Diễm Diễm phải làm sao đây?”


***


Ở phủ đệ của Lâm Nhân Triệu tại Kim Lăng, Chiết Tử Du đổi tên thành Mạc Dĩ Minh sau khi nghe Trương Thập Tam bẩm báo rõ nhất cử nhất động của Dương Hạo sau khi rời cung, không khỏi kinh ngạc nói: “Đây không giống hắn, hắn ngang ngược, ngông nghênh như vậy mục đích là gì?”



Nhíu mày suy nghĩ một hồi lâu, Chiết Tử Du lắc đầu nói: “Hành sự của tên này càng ngày càng làm cho người ta khó đoán ra. Không được, tên này ở lại đây, lại còn cùng cái tên khốn Hoàng Phủ Kế Huân cấu kết với nhau, nói không chừng lại làm hỏng đại sự của ta. Ta phải nghĩ ra cách đuổi hắn trở về Khai Phong.”



Trương Thập Tam buông tay nói: “Tiểu thư, bây giờ Dương Hạo đang dựa thế lực của Tống quốc mà đến đây, đến tể tướng còn không dám đắc tội với hắn, theo như tiểu nhân thấy, Lý Dục cũng sợ hắn, làm thế nào để tống được hắn đi chứ?”



Chiết Tử Du mỉm cười: “Ngươi quên mất câu chuyện Đào Cốc sao? Đi chuẩn bị kiệu, ta muốn lập tức tiến cung gặp tiểu Chu hậu.



Nguồn: http://4vn.eu/forum/showthread.php?71274-Lich-Su-Quan-Su-Bo-Bo-Sinh-Lien-Nguyet-Quan-Full-Text&page=73#ixzz1zqXBB9BN

Chương 348:Dục tốc bất đạt

“Nương nương có từng nghe nói tên sứ giả Tống quốc Dương Hạo đó ngày đầu tiên đến Kim Lăng đã khoa trương thế lực, đi khắp nơi gây sự không? Đầu tiên là hắn cố ý va chạm với Hoàng Phủ tướng quân, tiếp đó lại tranh đoạt cô nương Sanh Hàn ở Phiêu Hương lâu với Trần phụ chính đại nhân, suýt nữa đánh nhau, may mà hai vị đại nhân nghĩ cho đại cục, luôn cố nhẫn nhịn, như vậy mới chưa xảy ra xung đột. Vị sứ giả Tống này kiêu ngạo như thế tuyệt đối sẽ không chịu thôi một cách dễ dàng. Theo như Minh Nhi thấy hắn là cố ý khiêu khích để gây chuyện thị phi, sau đó tạo cớ để xâm lược, ý đồ của Triệu Khuông Dận e rằng chính là nhằm vào giang sơn Đường quốc và nương nương.”



Chiết Tử Du sau khi tiến cung, thấy tiểu Chu hậu đang nghiên cứu làm ra một loại bánh mới, nàng ra liền vừa ngồi tham mưu một bên, vừa nịnh nọt mấy câu, khi tiểu Chu hậu đang vui vẻ thì liền nhắc đến câu chuyện này.



Tiểu Chu hậu vừa nghe thấy vậy thì vẻ mặt vui mừng lập tức biến mất, lo lắng nói: “Hôm nay quan gia về cung cũng từng oán trách Tống sứ bất kính, kiêu ngạo vô lễ trước triều đình, làm cho quan gia vô cùng mất mặt.



Tuyên phủ (tuyên chiếu và an ủi) thì tuyên phủ đi, người này đến với danh nghĩa tuyên phủ nhưng hắn chỉ tuyên chứ không phủ, rồi còn dương oai diễu võ, vô cùng bất kính. Triều Tống lại phái một người như vậy đến đúng là không coi Đường quốc ta ra gì. Muội muội bây giờ cũng nói như vậy, xem ra Tống triều quả nhiên có ý đồ khác, việc này… việc này phải làm thế nào bây giờ?”



Chiết Tử Du mắt gợn sóng, mỉm cười nói: “Nương nương đã từng nghe nói tới chuyện hộ bộ thượng thư của đương kim Tống quốc, là đại học sĩ thời Chu Đào Cốc đã từng xuất sứ Đường quốc chưa?”



Tiểu Chu hậu che miệng cười: “Hảo nhân duyên, ác nhân duyên, nại hà thiên… hi hi, bài thơ này đương nhiên là bổn cung đã từng nghe thấy. Sau khi Hàn Tái Hi chết, vị thần tiên tỷ tỷ Tần Nhược Lan cô nương trong bài thơ của vị Đào Cốc đó đã bị bán đến phủ Tào học sĩ, bổn cung lúc đó vẫn chưa nhập cung, đã từng gặp qua nàng ta một lần. Lúc đó Tần cô nương tuy đã lớn tuổi rồi nhưng phong sắc vẫn còn, có thể thấy năm xưa diện mạo quả thật bất tục, khó trách Đào học sĩ đó thần hồn điên đảo. Mà sao muội muội lại nhắc đến chuyện đó?”



Chiết Tử Du thầm thở dài: “Vị tiểu Chu hậu này tuy tuổi lới hơn ta, nhưng đáng tiếc lại là hoa lan trồng trong chậu, được chiều chuộng mà sống, tính tình ngây thơ lãng mạn, chỉ biết thơ ca, cầm kỳ thi họa, hoàn toàn không biết đến sự hiểm ác của con người, thật là không có chút cơ mưu gì cả. Ta đã nói đến như vậy rồi mà vẫn không hiểu ra.”



Vừa thầm thở dài nàng vừa nói: “Dương Hạo này ở mãi Đường quốc mà không chịu đi, chúng ta không thể làm rắn để hắn đi, vậy sao không học cái cách mà Hàn đại học sĩ đã dùng với Đào Cốc, để cho hắn tự thấy xấu hổ mà rời đi, biết khó phải rời? Đó là tự hắn thất lễ nghĩa, không liên quan đến Đường quốc ta.”



Tiểu Chu hậu vui vẻ nói: “Ý! Cách này quả thật không tồi, cách muội muội nghĩ ra quả là diệu kế.”



Nhưng nàng nghĩ một lát rồi lại chần chừ nói: “Nhưng mà tên Dương Hạo này cũng quá thô tục, lại vì một xướng kỹ mà tranh chấp giưa chốn đông người với tể tướng Trần Kiều, không thèm để ý đến thể diện thần tử của Tống quốc, cho dù chúng ta để một vũ kỹ đến mê hoặc hắn, sợ rằng sau khi hắn phong tình hoa nguyệt cũng không cho rằng đó là vô sỉ, ngược lại còn lấy làm vinh dự, lúc đó sao chịu rời đi?”



“Ừm! Nương nương nghĩ thế cũng rất có khả năng.”



Chiết Tử Du trầm tư một lát, vỗ tay cười nói: “Có rồi, Dương Hạo không có yêu thể diện như Đào Côc, nếu như dính líu với một vũ kỹ bình thường thì chắc hắn sẽ không lấy làm xấu hổ, nhưng nếu như nữ nhân này là nữ nhân trong cung Đường ta thì lại không giống. Cho dù hắn có vô sỉ đến mức nào thì nếu như một sứ thần như hắn mà lại dính dáng đến nữ nhân trong cung Đường thì đó là chuyện đại đại thất lễ. Một khi chuyện bại lộ thì ngay cả triều đình Tống quốc cũng mất mặt, nói không chừng một khi hắn trở về Khai Phong sẽ lập tức bị bãi miễn chức quan, làm sao còn dám ngông nghênh nữa.”



Tiểu Chu hậu hơi biến sắc: “Muội muội, lời này là nói sai rồi. Phi tần trong hậu cung tuy nhiều, có một số mĩ nhân cho dù chưa từng được hưởng ân phúc của quan gia, nhưng dù sao cũng đều là phi tần có danh phận, nếu như bảo họ đi dụ dỗ Dương Hạo thì cho dù Dương Hạo không thể tiếp tục ở Đường quốc, nhưng thể diện của quan gia cũng không còn, không biết trong thiên hạ sẽ có bao nhiêu người sẽ chê cười quan gia bị người Tống làm nhục. Đây không phải là vì nhỏ mà mất lớn sao?” 



Chiết Tử Du thản nhiên nói: “Nương nương không cần phải lo lắng, hãy để Minh Nhi nói hết. Đầu tiên, người mê hoặc sai sứ tuy là người trong cung nhưng tuyệt đối không được là phi tần của quốc chủ. Vũ kỹ ca nữ, cung nữ, thị tỳ đều là người trong cung, như thế sẽ không ảnh hưởng tới quốc thể. Đây là điều thứ nhất.



Thứ hai, chúng ta tuy dụ để đuổi Dương Hạo rời đi chứ không phải học Hàn Tái Hi, thật sự để một vũ kỹ câu hợp với hắn. Cái danh Hàn Tái Hi phóng đãng, cả thiên hạ đều biết, nương nương không thể dính vào những chuyện như thế, Minh Nhi sao lại có thể không biết nặng nhẹ chứ? Ý của Minh Nhi là sai một cung nữ xinh đẹp thông minh, tạo ra một số sự kiện hiểu lầm ám muội với hắn. Sự việc chỉ cần làm to lên thì hắn không thể nào biện bạch được, sẽ giống như con bọ hung đội phân về nhà, âm thầm mà cút khỏi đây.”



Tiểu Chu hậu lật mặt nói: “Muội muội là khuê tú đại gia, sao có thể nói ra được những lời lẽ như thế nhỉ?”



Nói rồi nàng ta lại cười khì khì, che miệng nói: “Có điều cách này quả thật không tồi, chúng ta sẽ làm cho cái tên Tống sứ cố tình gây sự đó ăn một vố lớn để phải nhanh chóng rời khỏi Đường quốc ta, Tống quốc cũng không tiện phái một tuyên phủ sứ khác đến nữa. Đến lúc đó chúng không có cớ gì để hại ta nữa, Đường quốc sẽ có thể thái bình rồi.”



Chiết Tử Du nói: “Nương nương thành kính lễ phật, lấy lòng thiện để đối với người, nên luôn quá nhân từ với người khác. Dương Hạo cho dù có phải trở về thì dã tâm của Triệu Khuông Dận cũng sẽ không vì thế mà từ bỏ đâu, chẳng qua chỉ là bớt một cái cớ mà thôi, như thế chỉ có thể giúp Đường quốc ta kéo dài thêm chút thời gian. Nương nương nên khuyên quốc chủ kết giao hảo hữu nhiều với các nước Đại Lý phương nam, Phiên Khương phương tây, Ngô Việt phương đông, Khiết Đan phương bắc, tạo thành một liên kết vững mạnh. Đồng thời trọng dụng các trọng thần tài giỏi trung thành, cải chính tề dân, huấn luyện binh mã, tăng cường thực lực của Đường quốc. Chỉ khi thực lực Đường quốc lớn mạnh, hữu quốc nhiều, thì người Tống mới kiêng nể, không dám dễ dàng động binh.”



Tiểu Chu hậu thở dài nói: “Quan gia trị nước thuận theo thời thế, văn võ trong triều hiền minh, bây giờ chẳng nhẽ lại không biết phải tự cường sao? Chỉ là Đường quốc ta ở một góc của Giang Nam, dù sao cũng khó có thể bì được với cường thế của Tống quốc, đây cũng là chuyện bất đắc dĩ, bổn cung là người ở hậu cung, chăm coi chuyện của lục cung, sao có tiện can dự vào chứ? Hơn nữa, quan gia gần đây vì chuyện này mà thường xuyên mất ngủ, bổn cung cũng không nỡ lại tăng thêm phiền muộn cho quan gia nữa.”



Chiết Tử Du trong lòng tự biết rằng chuyện này không thể gấp, liền không nói nữa, chuyển chủ đề, nói: “Nếu như muốn tên Dương Hạo đó rơi vào cạm bẫy thì đầu tiên là phải chọn được một giai nhân thông minh lanh lợi, trong lòng nương nương có nghĩ tới người nào thích hợp không?”



Tiểu Chu hậu trầm ngâm suy nghĩ một lát, nói: “Diểu nương thế nào? Nàng ấy chính là quan nương. Khi quan gia mở yến tiệc, Tống sứ Dương Hạo thái độ cao ngạo, không coi ai ra gì, duy chỉ đến khi Diểu nương hiến vũ thì hắn mới dán mắt không rời vào, rõ ràng là hắn đã động lòng với Diểu nương rồi. Quan nương là vũ kỹ trong cung, lại không phải là phi tần của quan gia, thân phận rất phù hợp, cộng thêm nàng ấy diệu vũ tài tình, là mỹ nhân của Đường quốc ta, chắc chắn có thể làm cho Dương Hạo động lòng.”



Chủ ý này tuy là do Chiết Tử Du đưa ra, nhưng khi nghe thấy tiểu Chu hậu tán dương đôi chân xinh đẹp của Diểu nương có thể cám dỗ Dương Hạo thì trong lòng nàng lại có chút không vui: “Những tên đàn ông thối này quốc sắc thiên hương đều đã nhìn chán rồi, giờ lại chuyển sang nhìn chân nữ nhân. Một đôi chân cũng có thể quyến rũ đàn ong đến, đúng là chẳng ra sao.”



Tin tức trong quốc tiệc, Tống sứ Dương Hạo nhìn không rời mắt khỏi đôi chân xinh đẹp của Diểu nương đã được truyền ra khắp các ca kỹ vũ nữ, Chiết Tử Du cũng biết chuyện này, nàng khinh thường nghĩ: “Đôi chân của những vũ kỹ đó cả ngày đều bị bó lại, thon nhỏ như măng, đẹp không thể tả, nhưng khi đi tất vào thì so với bổn cô nương còn thua xa. Những tên đàn ông thối đó mù hết cả mắt chó cũng nên, Dương Hạo cũng thế, cá mè một lứa, thật không biết hắn đã mê mẩn cái gì nữa.”



Chiết Tử Du có chút ghen tuông, suy nghĩ vẩn vơ miên man, tiểu Chu hậu thấy vẻ mặt kỳ lạ của nàng, liền hỏi: “Muội muội có phải cảm thấy có chỗ nào không ổn không?”



Chiết Tử Du lấy lại thần thái, vội nói: “Ừm, không phải, Minh Nhi đang nghĩ người này đã chọn được rồi, nhưng phải làm sao để tìm được cơ hội thích hợp ra tay. Diểu cô nương là vũ kỹ trong cung, hắn lại là ngoại thần của Tống triều, muốn họ gặp mặt nhau không phải là dễ. Nơi để “quyến rũ” phải là ở trong cung mới hợp tình hợp lý. A, có rồi, nương nương có thể bảo quan gia thường xuyên mời hắn đến uống rượu. Cứ như vậy thì một là có thể nắm được hành tung của hắn, tránh để cho hắn ra ngoài gây sự, hai là lại có thể thể hiện lễ tiết của Đường triều ta với Tống triều. Còn về việc hắn “không thủ quy củ” ở trong cung, làm ra chuyện thất lễ thì đó cũng hợp lý hơn.”



Tiểu Chu hậu nghe xong thì vô cùng vui mừng, gật đầu cười. Người thiếu nữ xinh đẹp mới hai mươi ba tuổi này quả thực là hoa lan trong nhà kính chưa từng gặp gió mưa, luận đến sự từng trải thì vẫn còn non nớt hơn Chiết Tử Du nhiều. Mỗi ngày, những việc mà nàng ta phải động não suy nghĩ chỉ có mấy chuyện như nghiên cứu thuốc nhuộm vải, mài phấn làm son, khó mà có cơ hội để nàng ta có thể đi trêu đùa một vị sứ thần Tống quốc. Vì thế nên tiểu Chu hậu không khỏi thấy mới lạ, thấy chuyện này rất hứng thú. Nàng xoa xoa tay, nóng lòng như muốn nhảy lên.



Hai người bàn luận một chút, thì Chiết Tử Du thấy sắc trời đã tối, cấm quân sắp sửa đóng cửa, liền đứng dậy cáo từ. Tiểu Chu hậu thấy vậy liền vội kéo tay Chiết Tử Du lại, hăng hái nói: “Việc này ngày mai sẽ bắt đầu làm, cũng cần phải mất mấy ngày mới có thể dụ được Dương Hạo vào bẫy mà không bị sơ hở gì. Muội muội đừng vội đi như thế, bổn cung thiết kế ra mấy chiếc lư hương, bảo đám thợ rèn làm theo, vừa mới làm xong. Đúng lúc muội muội ở đây, hãy chơi cùng ta một lúc rồi đi cũng không muộn.”



Chiết Tử Du dừng lại, tiểu Chu hậu sai người bê mấy chiếc khay được sơn ra. Trên mỗi chiếc khay đều có đặt một vật, bên trên nắp có phủ khăn màu đỏ, cao thấp to nhỏ tương đương nhau, khi kéo chiếc khăn ra thì thấy đó là mấy chiếc lư hương bằng ngọc, tạo hình tuyệt mỹ, điêu khắc tinh xảo, thế gian hiếm thấy. Dám chắc vị tiểu Chu hậu này không những là một thầy thiết kế trang phục múa, thiết kế đồ hóa trang giỏi mà còn là một thầy thiết kể sản phẩm công nghệ tài hoa.



Tiểu Chu hậu vui vẻ nói: “Muội muội đến đây xem, những chiếc lư hương ta thiết kế này có tên là “bát tử liên”, nó được làm bằng mỹ ngọc điêu khắc thành hai đài sen, ở trên đài sen có rất nhiều những lỗ nhỏ, hương thơm sẽ được tỏa ra từ đó, làn khói thơm sẽ tỏa ra từ những lỗ nhỏ này, tạo nên một cảnh tượng rất đẹp. Còn có cái này nữa, tên nó là “chiết yêu sư tử” (sư tử khom lưng). Bên trên chiếc lư có khắc một con sư tử con, hương thơm sẽ từ miệng nó tỏa ra.



Còn cái này tên là “phụng khẩu anh” (miệng phượng hoàng), bên trên chiếc lư khắc một con chim kin phượng xòe cánh, ngẩng cổ lên trời, hương thơm từ miệng tỏa ra, tư thế như thể sắp bay. Muội hãy nhìn tiếp cái này, thời gian điêu khắc nó rất dài. Chiếc lư hương này gọi là “tiểu doanh châu”, chỗ bằng bằng biển cả, chỗ gồ lên làm núi, khói sẽ từ chỗ giữa biển và núi từ từ tỏa ra, rất giống cảnh thần tiên.”



Tiểu Chu hậu giới thiệu một lượt các điểm đặc sắc của từng chiếc lư hương một, những loại ngọc làm thành những chiếc lư hương này như ngọc thái cổ, ngọc dung hoa đỉnh… đều là những thứ kim ngọc hiếm thấy trong nhân gian, thêm nữa các đường nét thiết kế cũng rất tuyệt diệu. Chiết Tử Du thầm nghĩ: “Chu hậu là hoàng hậu của một nước, thân làm quốc mẫu cần phải có trách nhiệm khuyên giải quân vương, quan tâm đến dân chúng, nhưng nàng ta lại không hề bỏ lỡ việc hưởng lạc. Nàng ta là một tài nữ hiếm có trong nhân gian, lại rất có sáng tạo, nhưng đáng tiếc công việc chính của nàng ta lại chẳng có liên quan gì đến an nguy của dân chúng.”



“Người đâu, cho hương vào, đốt lên để xem xem.” Tiểu Chu hậu ra lệnh một tiếng, liền có một cung nữ cho một loại hương thượng đẳng vào bên trong rồi đốt lên. Trong tức khắc, một hương thơm ngát kỳ diệu tỏa ra khắp điện. Làn hương vừa bay lên cao thì đúng lúc Lý Dục từ ngoài điện bước vào, thấy cảnh tượng tuyệt mĩ như thế không khỏi sáng mắt lên.



Hắn phất tay cố ý bảo nội thị không phải hành lễ nữa, nhẹ nhàng bước vào bên trong, đứng bên cạnh bức màn thưởng thức. Sự phong tình vạn chủng của tiểu Chu hậu hắn sớm đã thưởng thức quen rồi, phong thái uyển chuyển không có lời nào có thể miêu tả hết được, nhưng Chiết Tử Du đứng bên cạnh nàng cũng không hề kém cạnh một chút nào. Nhưng điều khó có được chính là vị Mạc Dĩ Minh Mạc cô nương này lại có đầy vẻ anh khí, làm cho khí chất của nàng khác hẳn so với tiểu Chu hậu.



Vị Mạc cô nương quả nhiên không hổ xuất thân từ thế gia võ tướng, anh khí bừng bừng nhưng lại không che mất thiên sắc của nàng. Mỗi người có một vẻ đẹp riêng, họ cùng đứng với nhau làm cho xung quanh như phải nghiêng ngả. Lý Dục không khỏi mừng vui tán thưởng: “Tuyệt, quá tuyệt. Lư hương này thật tuyệt, mĩ nhân đứng trong làn hương khói, mờ ảo càng tuyệt diệu hơn.”



“A, dân nữ không biết quốc chủ giả đáo, thỉnh quốc chủ thứ tội.” Chiết Tử Du đang đứng ung dung ở bên cạnh lư hương, vừa thấy Lý Dục đứng bên cạnh vội vàng quỳ xuống thi lễ.



“Mạc cô nương cứ đứng dậy, trong đại nội không cần phải tuân theo quá nhiều quy tắc.”



Lý Dục vuốt râu mỉm cười, nói: “Ta thấy nương nương và cô nương đứng trong làn khói, mờ ảo như tiên nữ, vẻ đẹp thoát tục, làm cho lòng ta trào dâng một cảm giác khó tả, đột nhiên lại có hứng thơ. Người đâu, đem tứ bảo trong thư phòng của ta tới đây.”



Tứ bảo trong thư phòng chuyên dùng của Lý Dục thứ nào cũng là báu vật. Giấy, nghiên mực, mực, bút, bốn thứ này đều được làm từ những chất liệu quý giá nhất và cực kì tinh xảo. Nó dùng đề Lý Dục viết những bài từ khi có hứng. Còn về từ của hắn càng là thiên hạ nhất tuyệt, không biết đã làm xiêu lòng bao thiếu nữ đang tuổi mộng mơ.



Lúc trước tiểu Chu hậu mới có mười lăm tuổi, vì tỷ tỷ là đại Chu Hậu lâm trọng bệnh nên nhập cung thăm nom, lúc đó đã bị hảo từ tuyệt mĩ vô song của Lý Dục động tới trái tim non nớt lãng mạn của thiếu nữ, trái tim đó dần thắt chặt vào người tỷ phu.



Lý Dục lúc đó nhìn thấy nàng Chu Nữ Anh ngây thơ, xinh đẹp hoạt bát liền bị vẻ đẹp của nàng làm động lòng, lập tức viết cho nàng một bài từ: “Tầm xuân tu thị tiên xuân tảo, khán hoa mạc đãi hoa chi lão. Phiếu sắc ngọc nhu kình. Phôi phù tràn diện thanh. Hà tu tần tiếu sán! Cầm uyển xuân quy vãn. Đồng túy dữ nhàn bình, thi tùy đảo cố thành.”



Câu “Tầm xuân tu thị tiên xuân tảo, khán hoa mạc đãi hoa chi lão” lại rất hợp với câu “Hoa khai kham tiết trực tu chiết. Mạc đãi vô hoa không chiết chi” của Lã Động Tân, có một sự kì diệu dị khúc, rõ ràng lúc đó đã nổi dậy tương tư với tiểu Chu hậu.



Sau một hồi hàn huyên, hắn lại viết cho nàng một bài từ nữa: “Bồng lai viện bế thiên thai nữ, họa đường trú tầm vô nhân ngữ. Phao chẩm thúy vân quang, dụ y văn dị hương. Tiềm khai châu tỏa động, hận giác ngân bình mộng. Kiểm mạn tiếu doanh doanh, tương khán vô hạn tình.” Bài từ này càng thắt chặt lấy trái tim nàng thiếu nữ.



Nữ Anh khi đó mới có mười lăm tuổi, ý tình cũng mới nở, cái tài tình của Lý Dục là không cần nhiều lời, thêm nữa lúc đó hắn cũng còn trẻ, lại là đế quân của một nước, tôn quý vô cùng, vị đệ nhất sát thủ tán gái muốn đối phó với một nàng thiếu nữ xinh đẹp như tiểu Nữ Anh chẳng phải là quá dễ dàng hay sao? Cho nên tiểu Nữ Anh đã bị rơi vào tay hắn.



Hai bài từ đã lấy được một giai nhân, nhưng nó lại giết chết một vị hoàng hậu. Việc Lý Dục viết tăng hai bài từ cho tiểu Nữ Anh đã bị truyền khắp cung, rồi truyền cả ra ngoài. Đại Chu Hậu thần hồn phách lạc. Chuyện nam nhân có thê có thiếp trong nhân gian cũng là chuyện bình thường, trong mắt nữ nhân nó cũng không có gì kì lạ, huống hồ Lý Dục lại là một quân vương. Còn tiểu Chu hậu thì lại không cảm thấy việc mình và tỷ tỷ cùng phục vụ một phu có gì là không thỏa đáng. Nhưng đại Chu Hậu vốn rất được Lý Dục sủng ái, việc Lý Dục và muội muội tư thông thâm tình, gần gũi thân thiết đối với nàng mà nói không tránh khỏi hụt hẫng. Khi nghe thấy cung nữ nói Lý Dục lúc này đang làm chuyện tốt với muội muội thì từng từ từng câu tỏng bài từ ấy càng như dao như tiễn đâm vào người, khiến cho đại Chu Hậu vô cùng đau khổ.



Lúc đó đứa con của nàng vừa mới chết yểu, phu quân lại thay tình đổi ý, bảo sao nàng không đau đớn cho được? Đại Chu Hậu với tâm hồn thiếu nữ đã tan nát, từ khi nghe tin tức này liền ngoảnh mặt vào tường, đến chết cung không chịu nhìn mặt Lý Dục và muội muội. Bệnh của nàng tuy nặng nhưng vốn không phải là chứng bệnh phải chết, nhưng sau này thuốc cũng khó cứu được nàng, việc nàng chết đương nhiên không phải là không có liên quan đến việc nàng suốt ngày buồn bực u uất.



Nhưng nếu như nói Lý Dục hư tình giả ý với nàng thì cũng không đúng, đối với đại Chu Hậu và tiểu Chu hậu hắn quả thật đều yêu thương vô cùng, chỉ là hắn lại không thật sự hiểu được tâm tư nữ nhân, không biết khi đại Chu Hậu lâm trọng bệnh mà mình lại đi tìm niềm vui khác chính là gây một vết thương trầm trọng với nàng.



Hai bài từ của Lý Dục vừa được một hậu lại vừa mất một hậu, ma lực của nó quả thật không nhỏ. Bây giờ nhìn thấy trong làn khói lượn lờ, Chiết Tử Du xinh đẹp tuyệt mĩ đang đứng ẩn hiện, trái tim ngu ngốc thương hoa tiếc ngọc của Lý Dục lại nổi lên, lúc này liền có ý định nạp nàng ta vào cung



Tiểu Chu hậu chính là bị hai bài từ của hắn mê hoặc, vừa thấy hắn tán thưởng hai mĩ nữ mĩ miều, lại nói ý thở lên cao, đôi mắt lại không ngừng nhìn chằm chằm vào người Chiết Tử Du, nàng lập tức hiểu ra tâm ý của hắn. Tuy biết đế vương nạp phi tần, bản thân mình không thể ngăn được, nhưng trong lòng vẫn có chút không vui.



Nhưng thoáng cái nàng ta đã thay đổi ý nghĩ, mình với Lý Dục đã kết tình duyên đến giờ cũng đã được tám năm, lại không có một đứa con trai nối dõi nào. Phi tử hậu cung tuy nhiều, trong đó những người nhận được sủng ái của quan gia cũng không phải là thiểu số, nhưng đến giờ vẫn không có gì, quan gia đến giờ chỉ có một đứa con trai. Thân làm hoàng đế, con trai nếu như có hơi ít thì dẫn đến nếu thái tử bệnh tật sẽ làm cho mọi người lo lắng không yên. 


Chiết Tử Du thường hay nhập vào đầu nàng những thứ như xã tắc, dân sinh, quân chính, kinh tế, tiểu Chu hậu dần dần cũng thấm được một chút ý thức về nguy cơ. Từ góc độ này mà nói thì nàng ta cảm thấy quan gia có nạp thêm mấy nữ tử mà vừa ý hắn thì cũng không có gì là quá tổn hại, cho dù có tổn thất thì chỉ cần hoàng thất có nhiều con trai nối dõi, giang sơn và lòng dân sẽ ổn định thêm vài phần.



Mạc Dĩ Minh vừa nhìn đã thấy có phúc tướng tề phu tề gia, có cơ thể và tướng mạo đa tử đa nữ, lại là tỷ muội tâm đầu ý hợp với mình. Nếu như nàng ấy có thể nhập cung thì mình không những có nhiều thêm một người bên cạnh nói chuyện hầu bạn cho bớt buồn, mà quan gia lại vừa có thêm một trợ thủ đắc lực để duy trì giang sơn, sinh con nối dõi. Mà mình là hoàng hậu, những hoàng tử mới sinh sẽ đều do mình dưỡng dục, đứa bé mới sinh sẽ không giống như đương kim thái tử, chỉ ít hơn mình có mấy tuổi, hai bên khó tránh có mâu thuẫn. Vì thế nên nàng đứng yên không nói gì.



Nhưng Mạc cô nương dường như không hiểu phong tình, hoàn toàn tỏ ra không biết lời tán thưởng của quốc chủ này chính là biểu thị có ý với mình, bài từ đó cũng vì mình mà viết. Nàng vội vàng nhìn ra bên ngoài, rồi nói với Lý Dục: “Quốc chủ, cấm cung sắp đóng cửa rồi, dân nữ không phải là người trong cung, ở lại lâu không tiện, xin cáo từ quốc chủ với nương nương.”



Chiết Tử Du hành lễ rồi từ từ lui ra. Lý Dục ngẩn ngơ, nhìn theo bóng hình nàng xa dần.



Nội thị bê tứ bảo từ trong thư phòng ra, khom lưng nói: “Quan gia, tứ bảo đã được đưa đến.”



Lý Dục phất tay một cái, hết hứng thú nói: “Mang đi đi, ta hết hứng thơ rồi.”



Chiết Tử Du vừa đi ra khỏi cung điện, đứng dưới bậc thang liền mỉm cười: “Đường đường là đế vương của một nước, đất nước lâm nguy thế mà chỉ biết đến thơ với ca, tỏ vẻ phong nhã. Cái loại ngu xuẩn như vậy lại dám có ý với Chiết Tử Du ta. Hừ! Bổn cô nương sao có thể để mắt đến một kẻ bỏ đi như ngươi chứ!”


***


“Đại nhân, đây là thiệp mời của Hoàng Phủ Kế Huân, mời đại nhân đến Tê Hà Sơn du ngoạn.”



Tiêu Hải Đào tiếc nuối đưa thiệp lên nói: “Đáng tiếc không phải là đi Yến Tử Phàn, nếu không đã có thể cẩn thận xem xét tình hình doanh trại thủy binh của quân địch rồi.”



Dương Hạo liếc mắt nhìn, cầm lấy thiệp mời rồi đột ngột vứt đi, cười lạnh lùng: “Hoàng Phủ Kế Huân tuy chỉ là một tên nhu nhược nịnh nọt, nhưng không phải là một con lợn ngu si không có não, sao có thể làm chuyện ấy được?”



“Còn đây là thiếp mời của Đông Đài ngự sử đại nhân Câu Nhật mới ngài đến dự yến tiệc, cũng may là thời gian lệch một ngày với cuộc hẹn của Hoàng Phủ Kế Huân. Ha ha ha, Đường triều thấy Đại Tống ta thế mạnh, các quan viên muốn dưa dẫm vào chúng ta cũng không ít, càng làm quen, kết giao nhiều với đám quyền quý trong triều thì càng có lợi cho việc dò hỏi tin tức của chúng ta, mượn sức của chúng để lật đổ đám trung thần trong triều Đường.”



“Ừm, Tiêu tự thừa nói có lý. Có điều những lời mời yến tiệc quá nhiều, làm sao có thể ứng phó lại đây. Câu ngự sử và Tằng tham quán do Tiêu tự thừa ngài phụ trách nhé, còn về lời mời của Hoàng Phủ Kế Huân…”



Hắn vừa nói tới đây thì đột nhiên có một tiểu lại vội vã chạy vào, khom người làm lễ nói: “Đại nhân, quốc chủ Giang Nam khiển sứ mời đại nhân ngày mai vào cung dự yến tiệc.”



Dương Hạo ngẩn ra, thuận tay nhặt chiếc thiệp của Hoàng Phủ Kế Huân mà hắn vừa vứt xuống, đưa cho Tiêu Hải Đào, nói: “Cái này lại phiền đại nhân rồi.” Sau đó hỏi kỹ càng tiểu lại, rồi xua tay bảo hắn lui ra, hắn trầm tư suy nghĩ: “Khi ở quốc yến ta đã chẳng nể mặt hắn mấy phần, tên Lý Dục chó chết này lại vẫn cảm thấy chưa đủ hay sao? Lại mời ta vào cung dự yến tiệc. Ha ha ha, tình hình bây giờ khá giống lúc ta ở Phủ Cốc, kẻ nào cũng có ý đồ tiếp cận ta, chỉ là lúc đó ta muốn cầu gặp Chiết Ngự Huân một lần mà không được, bây giờ Lý Dục này lại cứ chạy đến để nịnh nọt ta. Không biết bên Diễm Diễm và Oa Oa đã sắp xếp đến đâu rồi, phải cần bao lâu nữa mới đến được đây?



Nguồn: http://4vn.eu/forum/showthread.php?71274-Lich-Su-Quan-Su-Bo-Bo-Sinh-Lien-Nguyet-Quan-Full-Text&page=73#ixzz1zqXFP5YC

Chương 349: Lệ ảnh

Khi Dương Hạo đang thắt dây đai áo trong dịch quán thì Bích Túc cũng vừa tới được khu phố náo nhiệt của Kim Lăng. Hắn đứng ở phố Kê Lung hỏi thăm người ta dịch quán ở đâu, rồi tìm một khách điếm để ở tạm, đợi đến tối, lợi dụng cơ hội dùng khả năng trèo tường của mình để lén đi gặp Dương Hạo. Ánh mắt hắn đang nhìn xung quanh tìm khách điếm thì chợt nhìn thấy một bóng người lướt qua ở phía không xa. Hắn nhớ mang máng bóng dáng quen quen đó, trong tích tắc, bất giác người hắn rung lên một cái. Hắn vội vàng nhanh bước đuổi theo.



Nhưng đường phố đông đúc chật ních người, trước mặt nhiều người như thế này hắn không thể giở công phu khinh thân của mình. Khi hắn ra khỏi đám người đông đúc đó thì thấy có tới ba bốn ngõ ngách, cũng không biết mĩ nhân đã đi đằng nào rồi. Hắn đứng lại ở đầu đường, buồn bã vô cớ.


***


Bích Túc sau khi đến thành Kim Lăng thì đầu tiên là tìm một khách điếm ở lại, đến đêm liền thay y phục đột nhập vào dịch quán, tìm đến phòng ở của tiết độ sứ Tống quốc. Khi gặp được Dương Hạo thì hắn báo cáo tỉ mỉ rõ ràng những việc xảy ra gần đây ở phủ Khai Phong.



Sau khi Dương Hạo đi, Diễm Diễm và Oa Oa cũng nhanh chóng thu dọn hành lý và được các thị vệ tâm phúc mà Mục Vũ và Dương Hạo đưa từ Lô Lĩnh Châu về hộ tống. Khi rời khỏi Khai Phong thì đầu tiên là theo đuôi đoàn nghi trượng nam hành của khâm sai vài ngày, sau khi xác định không có ai đi theo liền chuyển sang tây hành, hướng về phía Hoa Sơn. Theo tình hình thực tế mà nói, nơi đó là nơi ít có tranh loạn, đồng thời cũng dễ ẩn cư, đây cũng là việc mà Dương Hạo đã thương lượng ổn thỏa trước với họ, đợi họ sắp xếp xong hết thì sẽ hội ngộ ở Kim Lăng.



Ở bên Khai Phong, biết được chân tướng sự việc, Tao Trư Nhi đã đồng ý chăm sóc cho Diệu Diệu. Còn về trạch viện thì giống như lần trước Oa Oa rời khỏi Biện Lương, tất cả các gia nô hộ viện đều để lại, hoàn toàn không để lộ dấu vết gì. Còn đám người Trương Ngưu Nhi và Lão Hắc cũng giao cho Diệu Diệu quản lý, họ vốn xuất thân từ quản sự nội viện và bảo tiêu hộ viện, làm những việc này còn giỏi hơn cả Mục Vũ, đúng là cánh tay đắc lực của Diệu Diệu.



Dương Hạo nghe thấy mọi chuyện đã sắp xếp ổn thỏa, trong lòng không khỏi vui mừng, liền bảo Bích Túc về khách điếm nghỉ ngơi vài ngày trước, rồi sớm đi tìm Diễm Diễm và Oa Oa thương lượng địa điểm hội hợp, đợi khi họ đến thì kịp thời thông báo với mình.



Bích Túc nghe xong lập tức vui mừng trong lòng vì đúng như ý hắn muốn. Hắn cáo từ Dương Hạo rồi nhân đêm tối lại mò ra khỏi dịch quán, trở về khách điếm.



Mấy ngày tiếp theo đó, Lý Dục năm ngày lại tổ chức một đại yến, ba ngày tổ chức tiểu yến, đối đãi vô cùng ân cần với Dương Hạo. Thực ra Lý Dục vì thái độ cao ngạo của Dương Hạo, trong lòng quả thực không muốn tiếp tục qua lại với hắn nữa, nhưng nghe thấy tiểu Chu hậu kể về những hành động của hắn ở Kim Lăng, hắn thật sự thấy lo lắng cái tính cách thích đi khắp nơi gây chuyện thị phi này của Dương Hạo sẽ làm nảy sinh xung đột với đại thần Đường quốc. Hắn cho dù có bất kính thế nào với mình thì cũng không dám có hành động thái quá, như thế chi bằng mượn yến tiệc để trói chân hắn bên cạnh mình, đợi đến khi hắn về nước.



Cái bệnh mọt sách của Lý Dục rất nặng, hắn luôn cho rằng khi Tống quốc thảo phạt Hán, hắn không những không đồng ý xuất binh trợ giúp Hán, mà còn giúp Tống viết thư cho Hán quốc, khuyên Lưu Kế Hưng đầu hàng. Lại còn nhanh chóng xưng thần với Tống trước khi Hán quốc bị diệt vong, hạ cách cải chế, tự nhận mình là thần tử, đối với Tống quốc cũng được coi như là chí nhân chí nghĩa. Triệu Khuông Dận nếu đã tiếp nhận mình là thần tử Tống quốc thì sẽ không có lí do gì để thảo phạt Đường quốc nữa. Hắn muốn giữ Dương Hạo bên người chủ yếu là sợ thái độ quá kiêu ngạo của hắn sẽ làm cho một số đại thần văn võ Đường quốc bất kính với hắn, sẽ dấn đến bất lợi cho ngoại giao. Cho nên hắn đã làm theo kiến nghị của tiểu Chu hậu, thường xuyên mời Dương Hạo vào cung dự tiệc.



Lời mời của Lý Dục, Dương Hạo không thể không đi. Mấy ngày này Bích Túc lại ở khắp các phố lớn ngõ nhỏ, đi tìm ý trung nhân đó của mình.



Bích Túc là một tên háo sắc, cũng đã từng có rất nhiều nữ nhân, không chỉ là các nữ tử vì tiền bạc ở trong thanh lâu, mà dựa vào tướng mạo của hắn cũng có thể dụ dỗ được cả đống các khuê nữ con đại gia, quý phụ hào môn. Nhưng người mà làm cho hắn động lòng như vậy thì đây lại là lần đầu tiên hắn gặp.



Khi Dương Hạo sai hắn đi dò là tin tức của dân chúng khu Giang Hoài, hắn đã gặp được cô nương ấy. Tuy hai bên chưa từng nói chuyện, cũng chưa từng có bất kỳ tiếp xúc nào, nhưng hắn đã yêu nàng ta mất rồi, đến giờ cũng không thể dứt ra được. Đó cũng chỉ vì cô nương chưa từng nói chuyện với hắn ấy khi nhờ hắn tránh đường để đi đã mỉm cười dịu dàng với hắn.



Nụ cười ấy dịu dàng thân thiết, Bích Túc nhớ mang máng hình như khi còn nhỏ mẫu thân mình cũng mỉm cười như thế. nhiều năm rồi, trong chiến tranh loạn lạc, người thân của hắn đều đã chết hết không còn ai, hắn vô thân vô thích, lưu lạc giang hồ, giống như cây phù du trôi nổi, chưa từng có mùi vị tình yêu, tình thân. Kết quả lại vì một nụ cười hiền dịu của một cô gái không quen biết chạm vào tận sâu trong trái tim hắn.



Cô gái đó lại là một ni cô. Muốn tìm nàng ấy có dễ gì đâu.



Trước đây Giang Nam có bốn trăm tám mươi tự, hương khói nghi ngút. Nhưng bây giờ Giang Nam trong tay Lý Dục đâu chỉ có bốn trăm tám mươi ngôi chùa chứ.



Lý Dục háo mĩ sắc, thi từ, tín phật, đánh cờ. Giang Nam là đất của tín phật, từ sau khi Lý Dục kế vị, càng lúc càng trở nên thịnh vượng. Mỗi ngày sau khi thoái triều, hắn đều cùng tiểu Chu hậu thay y phục mặc tăng y vào, ngồi niệm kinh. Trung thư xá nhân Trương Bạc vốn không tín phật, nhưng muốn nịnh nọt hoàng đế, nên mỗi lần gặp Lý Dục hắn lại ngồi cùng đàm đạo phật pháp, vì thế hắn nhanh chóng nhảy lên trở thành sủng thần bên cạnh Lý Dục. Lấy hắn làm gương, văn võ bá quan trong triều như tổ ong vò vẽ, đều trở nên tín phật. 



Giang Nam phật tự vốn đã rất nhiều, Lý Dục lại hạ chiếu xây thêm cả hơn một nghìn phật tự trên Ngưu Đầu Sơn của thành Kim Lăng, trong cung vì thế mà phải chi ra một khoản không nhỏ, thậm chí ngay cả trong cung uyển cũng xây một tòa Tĩnh Đức tự. Trong một thời gian chỉ ngay trong thành Kim Lăng mà tăng đồ đã nhiều đến gần mười vạn người. Những tăng nhân này không phải làm gì, chỉ ngồi đếm tiền, ăn uống, hưởng lạc, hết việc còn đi hành dân chúng, làm cho dân tình ai oán.



Hơn nữa người xuất gia không cần phải nộp thuế, phục binh dịch, làm lính, cho nên trong cổ đại để đề phòng sức lao động thiếu hụt mà triều đình đa phần đếu nghiêm khắc hạn chế số lượng tăng nhân, nếu không người xuất gia quá nhiều, tài lực, vật lực của quốc gia sẽ bị tổn hại. Thế tông hoàng đế Hậu Chu Sài Vinh cũng chính vì nguyên nhân này mà đã ra tay diệt phật pháp, hủy hơn ba vạn phật tự, để cho mười vạn tăng nhân hoàn tục về trồng ruộng. Nhưng Lý Dục thì lại làm ngược lại. Hắn không những hủy bỏ chế độ tiến hành kiểm tra nghiêm khắc việc “phổ độ” đối với người xuất gia, mà còn vì hắn là tín đồ phật giáo, còn lấy thân phận hoàng đế đích thân ra mặt tranh đoạt tín đồ với Đạo giáo, quy định nếu như đạo sĩ nào đồng ý chuyển sang tín phật thì quan phủ sẽ thưởng cho hai lạng vàng.



Cho nên, khắp nơi từ chỗ phồn thịnh hay những nời hoang dã đều có hòa thượng. Trong đó có rất nhiều người vì lợi ích, ví dụ như có người nương tựa cửa phật thực ra chỉ là đệ tử ghi danh, nhưng sản nghiệp trong nhà đều trở thành đất phật, tiền thuế triều đình một đồng cũng không lấy. Lại có người giả đi làm đạo sĩ, vừa được chứng nhận làm đạo sĩ lập tức đổi sang làm hòa thượng, nhân cơ hội để lĩnh tiền thưởng của triều đình.



Cũng may có sự giàu có sung túc của hai đời tổ phụ của Lý Dục để lại mới có thể chịu nổi sự giày xéo của hắn đến tận bây giờ. Đường quốc lúc này quốc lực suy thoái đến mức độ này, lòng quân lòng dân lay động, không thể không có liên quan đến việc này. Khi những tăng nhân không làm mà có ăn ngày càng nhiều, chỉ dựa vào hương hỏa dân chúng cung phụng thì không có cách nào duy trì sự tồn tại của nhiều tự viện như thế. Lý Dục đã hạ chỉ tăng lữ sẽ do triều đình cung dưỡng, khoản chi cho tăng lữ này còn lớn hơn gấp nhiều lần so với chi cho quân đội.



Vì thế mà làn gió tín phật của Giang Nam càng thịnh, người xuất gia đâu đâu cũng có, chỉ tính am ni cô cũng đã không dưới một trăm chiếc. Nam nhân muốn vào am ni cô không phải là chuyện dễ dàng, huống hồ còn muốn tìm người trong cả đám ni cô đó. Bích Túc lại không thể bảo trụ trì gọi tất cả các ni cô xinh đẹp ra cho hắn nhìn. Hắn đã tìm hai ngày rồi mà không có tin tức gì của nàng ni cô đó, ngược lại còn bị một số lão ni cho rằng hắn là kẻ dâm tặc muốn trộm hương cướp ngọc.



Bích Túc chợt nghĩ ra gì đó, hắn liền cải trang nữ nhân, giả lên am thắp hương khấn phật, cứ như vậy am ni cô nào hắn cũng có thể vào được mà không bị ai ngăn cản. Bích Túc bây giờ cũng đang rảnh rỗi, hắn liền đi dọc khắp các am ni cô tìm một lượt. Theo bình thường mà nói thì quy mô của am ni cô và số lượng ni cô vẫn ít hơn nhiều so với tự viện, nhưng nếu muốn gặp được hết các ni cô trong một am để tìm người cũng không phải là chuyện dễ dàng. Chỉ có lúc tụng kinh trên đại điện thì tất cả các tăng lữ mới tập trung lại, vì thế mỗi lần hắn đến một am ni cô, hắn đều kiên nhẫn đợi đến lúc các ni cô ra tụng kinh. 



Hôm nay hắn đến am Tĩnh Tâm cũng không ngoại lệ. Hắn châm hương, cúng tiền, đi đi lại lại trong am cho đến khi đám ni cô ra đại điện tụng kinh. Bích Túc đứng bên ngoài đại điện đi qua đi lại mấy vòng, vẫn không nhìn thấy nàng ni cô trong lòng hắn đâu, không khỏi thờ dài rồi rời khỏi đại điện. Khi hắn bước vào nhị tiền lạc viện, đang định quay người rời đi thì vô tình quay đầu lại, đột nhiên nhìn thấy một bóng người vừa lướt qua bức tường màu vàng, bước vào khu nhà trái.



Trong lòng Bích Túc đột nhiên rung lên, tất cả các ni cô bây giờ đều ở trong điện niệm kinh, ni cô này sao lại không ở đấy? Hắn vô thức mà đuổi theo, thì nhìn thấy ni cô đó đang gánh hai thùng nước, lững thững đi vào một góc am, bộ y phục màu mã não rộng thùng thình nhưng không có thể che được dáng người thon thả tuổi trăng rằm của nàng. Chỉ cần nhìn lướt qua, hai con mắt của Bích Túc đã sáng lên: “Là nàng ấy. Là nàng ấy! Trời xanh không phụ người có lòng, cuối cùng mình cũng đã tìm được rồi.”



Lập tức Bích Túc như bị trúng tà, hai chân bất giác chủ động di chuyển, từ phía sau đuổi lên.



Những ngày này Dương Hạo thường xuyên ra vào đại nội hoàng cung, đã trở thành thường khách của hậu cung. Qua lại nhiều cũng không thể thường xuyên tỏ ra bất kính với Lý Dục, thái độ của hắn dần dần khách khí hơn. Lý Dục thấy vậy vô cùng vui mừng, nghĩ rằng sự thành tâm thành ý của mình đã có thể làm cho sứ tiết Tống quốc kiêu căng ngạo mạn dần dần có ý sùng kính đối với mình, vì thế hắn càng đối xử ân cần hơn với khách. 



Khi thưởng thức rượu thịt thì tất nhiên phải có ca vũ làm bạn. Diểu nương là đệ nhất ca vũ trong cung, đương nhiên mỗi lần thiết tiệc nàng đều phải lên biểu diễn.



Diểu nương vốn là một nữ tử hái hoa sen ở Giang Nam, mười sáu tuổi đã được chọn vào cung. Mẫu thân nàng vốn là người Ba Tư, cho nên Diểu nương là con lai, mắt hơi có màu xanh, hốc mắt giống người châu Âu, rất gợi cảm, phong tình vạn chủng. Điệu múa hái sen mà nàng đã sáng tạo ra vô cùng tuyệt diệu. Thân hình thon như mạ non của nàng một khi đã chuyển động thì giống như đóa sen Lăng Ba, xinh đẹp quyến rũ vô cùng, cho nên Lý Dục vô cùng thích thú với nàng.



Diểu nương tuy không phải là phi tần của Lý Dục, nhưng cũng là nữ nhân được hắn rất sủng ái, hắn thường để nàng ở bên hầu hạ. Vì tương thân với Dương Hạo, lại không phải là quốc yến nên ngoài Dương Hạo ra thì ở đây chỉ toàn là những vũ kĩ và nội thị trong cung, không cần phải kiêng kị nhiều, vì thế sau khi rượu say sưa, Lý Dục không khỏi có những cử chỉ thân mật với Diểu nương.



Nhất cử nhất động của vị Diểu nương này đều đầy vẻ gợi tình. Trước mặt Dương Hạo nàng càng tỏ ra phong tình hơn, mắt liếc nhìn Dương Hạo.



Dương Hạo không khỏi thở dài, nghĩ: “Giang Nam phong vật, quả nhiên không thể nghiêm cẩn bằng phương bắc. Phi tần, ca kĩ trong cung đình Tống quốc tuyệt đối sẽ không làm ra những hành động như thế này với hoàng đế trước ngoại thần. Tên Lý Dục này quả thật không giống một hoàng đế.”



Những hoàng đế giống Lý Dục thực ra lại ít thấy. Việc mây mưa trước đây của hắn với người nữ tử chưa thành hoàng hậu không cần nói làm gì, mà bây giờ ngay cả Nữ Anh đã làm hoàng hậu, cuộc sống của hai người sau hôn nhân cũng hoàn toàn không che giấu. Cảnh hai người họ phong tình cũng không có giấu giếm. Thế nên, lúc này hắn lại thân mật với một vũ kĩ trước mặt Dương Hạo nào sẽ để ý tới việc cố kị chứ.



Chiếc “chén da” của Diểu nương ngậm rượu rồi mớm vào mồm Lý Dục, nàng ta như ý thức được Dương Hạo đang nhìn mình, cơ thể mềm mại ngả vào lòng Lý Dục, nhưng ánh mắt lại chuyển động nhìn về phía Dương Hạo mỉm cười, rõ ràng mang đầy tình ý trong đó. Dương Hạo chợt giật mình, vội cúi mặt xuống: “ Giai nhân trong hậu cung Lý Dục có cả hơn ba nghìn người, nhưng Lý Dục lại chỉ có một, những oán phụ thâm cung này e là đều muốn mà không được, bất mãn, nên ngay cả trước mặt Lý Dục cũng dám đưa tình với ta.”



Đang suy nghĩ miên ma thì một vị nội thị chạy vào dâng biểu, hắn ghé tai nói với Lý Dục mấy câu. Lý Dục nhăn mày lại, buông tay ra khỏi cái eo thon thả của Diểu nương, không vui nói: “Ta và Dương tả sứ đang thưởng rượu, ngươi không nhìn thấy sao?”



Nội thị đó sợ hãi nói: “Quốc chủ, những cái án tử tù này đã để quá lâu rồi, xin thỉnh quan gia ngự lãm rồi phê chuẩn ạ.”



Dương Hạo thấy thế liền cười nói: “Quốc sự là trọng, quốc chủ hãy đi phê duyệt tấu chương đi. Hạ quan mượn ý rượu cũng đã nhiều, giờ xin cáo từ.”



Lý Dục lại vẫn chưa hết hứng, liền cười với hắn: “Ta rất thích đánh cờ, tuy giỏi nhất cờ vây nhưng cờ tướng cũng rất thích. Lúc nãy nghe thấy hạ pháp cờ tướng đấy của Dương tả sứ, cảm thấy rất hứng thú, ta đang muốn mở mang một chút đây. Dương tả sứ đừng đi vội, Diểu nương sẽ dẫn Dương tả sứ đi thường hoa trong cúc uyển, ta đi một lát rồi sẽ trở lại.”



Rồi hắn hạ lệnh tan tiệc, đi theo nội thị đến thư phòng xử lý tấu chương. Còn Dương Hạo thì được Diểu nương dẫn ra hậu uyển. Diểu nương đã từng được tiểu Chu hậu dặn dò, lại có lòng muốn làm xấu mặt Dương Hạo, đáng tiếc mãi vẫn chưa có cơ hội thích hợp để hai người có thể gặp mặt riêng, chỉ có thể đưa tình bằng ánh mắt, lại thi triển thủ đoạn hồ ly tinh trước mặt Lý Dục để làm cho Dương Hạo động lòng.



Đáng tiếc, khi nàng múa hát trên điện, Dương Hạo tuy không rời mắt nhìn nàng, thường tỏ vẻ tán thưởng với nàng, nhưng trong hoàn cảnh một mình gặp gỡ lại rất quy củ, không hề liếc mắt. Thực ra đây cũng là căn bệnh thường gặp của đại đa số nam nhân, khi ngồi dưới đài thì có thể bình phẩm từ đầu đến chân mĩ nữ trên đài, nhưng khi đối diện với người đó thì lại rất khó mở lời.



Dương Hạo hỏi gì đáp nấy. Tâm tư của nhân vật Giang Nam này lại vô cùng tinh nhanh, thêm nữa là sự trêu chọc của vị Diểu nương này lại quá nho nhã cao siêu, chỉ dựa vào chút học vấn của Dương Hạo sao có thể hiểu ra được?



Nhưng Diểu nương lại không biết điều đó. Nàng ta nói ra một loạt các lời trêu ghẹo, to gan lớn mật, nhưng Dương Hạo lại chỉ ậm ừ gật đầu, vẫn rất tuân thủ lễ nghĩa. Diểu nương không khỏi thầm nghi hoặc: “Vị Tống sứ này rốt cuộc là một chính nhân quân tử không háo sắc hay là cảm thấy kiêng kị với thân phận của ta? Để ta thử hắn xem.”



“Dương đại nhân, ngài thấy hoa cúc nở có đẹp không?”



Dương Hạo nhìn theo hướng chỉ tay của Diểu nương, thì thấy đằng không xa có rất nhiều các loại hoa cúc đủ các màu trắng ngọc, vàng nhạt, phấn hồng, đỏ, tím nhạt đang đua sắc, nở đầy cả vườn, giống như mĩ nữ đang cười, thật làm cho người ta phải trầm trồ khen ngợi.



Diểu nương chỉ tay vào một cành hoa cúc màu trắng gần đó, cười nói: “Cành hoa cúc này có một cái tên, gọi là ‘nguyệt hạ vũ nương’. Đại nhân, ngài xem hình dáng cánh hoa này có giống một mĩ nhân đang múa dưới ánh trăng không?”



Diểu nương làm ra vẻ như rượu say vô lực, nàng ta đứng sát vào Dương Hạo, khi đưa tay ra chỉ nhành hoa thì cố ý dí sát bộ ngực đầy đặn của mình vào ngực Dương Hạo, lại cố ý chà đi chà lại, cái cảm giác mềm nẩy đó đúng là có thể làm chết người. Dương Hạo cảm thấy hơi thở của nàng như một bông hoa lan, cơ thể nghiêng nghiêng, như chỉ cần hắn nghiêng đầu một cái là đã có thể hôn lên trán của nàng, hắn liền dứt khoát lùi lại một bước, cười nói: “Vốn Dương mỗ vẫn chưa nhìn ra hình dạng, nhưng Diểu nương nói như vậy ta quả nhiên thấy rất giống.”



“Haizz, ý rượu của bổn quan lại dậy lên rồi, hơi say rồi. Diểu nương đi nghỉ đi, bổn quan không cần có người đi cùng đâu, quốc chủ công sự bận rộn. Dương mỗ muốn một mình đi lại ở đây để tỉnh hơi rượu.”



Diểu nương nghe thấy thế không khỏi ngẩn ra. Từ khi nàng xuất hiện với vẻ đẹp lộng lẫy, không biết đã có bao nhiêu nam nhân muốn theo đuổi, núp dưới váy nàng, nhưng chủ động tránh né nàng Dương Hạo lại là người đầu tiên. Chẳng lẽ người này thật sự là một quân tử có phẩm hạnh cao khiết, hay là chuyện Đào Cốc năm đó đã làm cho hắn cảnh giác hơn? Diểu nương không tiện tỏ thái độ quá nồng hậu, đành phải cười nhạt mà đáp lại, rồi từ từ lui đi.



Lý Dục xử lí công vụ không phải là do tiểu Chu hậu sai người cố ý bảo hắn rời đi, nếu không nói không chừng đã có thể lợi dụng cơ hội này để tạo một vụ tai tiếng tình ái không thể biện bạch được cho Dương Hạo. Lý Dục bị người ta làm mất hứng rượu thực ra là mưu mô của đám nội thị, mục đích của chúng không phải là tạo cho Diểu nương cơ hội mà là muốn mưu tài cho mình.



Hóa ra Lý Dục tín phật, cho nên hắn đã đem luật pháp quốc gia ra làm trò chơi. Mỗi khi có dịp ăn chay mà có án hành quyết tử tù, hắn lại không xử theo luật, mà liền cho mỗi một phạm nhân một chiếc đèn mệnh, đặt ở trong tự viện của hoàng cung, mỗi buổi sáng hắn sẽ đến kiểm tra, nếu như ngọn đèn nào cả đêm không tắt, thì tử tù đó sẽ được miễn tội chết, đổi sang hình phạt khác.



Mỗi tháng phật gia đều có một ngày ăn chay. Nghe nói ngày này sẽ có nhất tôn Bồ Tát hạ thế, theo như dân gian thì ngày này nếu như niệm kinh bồ tát thì có thể diệt được tất cả tội lỗi, tăng thêm phần phúc.



Lý Dục lệnh cho nếu đến không tắt thì sẽ được tha tội cũng chính là mô phỏng Bồ Tát, nhưng hắn không biết trên thực tế hắn lại là Bồ Tát thần tài cho đám hoạn quan và hòa thượng.



Quy định này đã lâu, cả Đường quốc đều biết, nhưng một khi có án xử tử tù thì người thân của tử tù không tiếc tiền tài, hối lộ nội thị trong cung và hòa thượng trong cung miếu, cố ý đem cái án này che giấu lại, đợi đến ngày ăn chay mới dâng lên cho Lý Dục, đặc biệt là chọn lúc Lý Dục đang bận việc khác, làm cho hắn không có lòng dạ nào mà đọc chi tiết án.



Hòa thượng trong cung miếu nhận tiền của gia đình tử tù thì sẽ cẩn thận chăm sóc đến ngọn đèn của tử tù đó, cho dù nửa đêm có bị gió thổi tắt mất, hoặc dầu bị hết thì họ sẽ lén bảo tiểu tăng đi châm lại hoặc cho thêm dầu, để cứu tính mạng người đó. Không biết đã có bao nhiêu tên ác bá đã được bảo toàn tính mạng bằng cách này. 



Ngày ăn chay lại thẩm tra án tù. Nếu đã có quy định như vậy rồi thì Lý Dục nào sẽ giống Triệu Khuông Dận, tỉ mỉ đọc lại từng án thẩm tra, làm như vậy thì làm gì còn hứng thú cho việc khác nữa? Hắn vội vàng đọc lướt qua một lượt, phê chuẩn từng cái một rồi vẫn như quy tắc cũ, viết tên tử tù lên một tấm bài, treo vào đế đèn, rồi đưa vào Tĩnh Đức tự ở hậu cung.



Lý Dục dùng tốc độ nhanh nhất để hoàn thành đám án tử tù đó, rồi vội vàng chạy ra hậu uyển. Hắn rất muốn để Dương Hạo biểu diễn cách chơi cờ tướng với những quy tắc mới cho mình xem, ai ngờ trong vườn cúc lại không có bóng một ai. Lý Dục ngạc nhiên nhìn xung quanh, gọi hai tiểu lại tới sai bảo: “Dương tả sứ chắc đang đi dạo đâu đó trong vườn. Hai người các ngươi chia nhau đi tìm cho ta, bảo là đến gặp ta.”



Hai tiểu nội thị đó đáp một tiếng rồi chia nhau đi tìm, đi một vòng để tìm kiếm.



Dương Hạo vừa nãy đi vào đình để nghỉ, đang bước vào trong đình thì đột nhiên thấy một tiểu cung nữ dẫn một cô nương từ vườn hoa bước ra, nhìn bóng dáng có tám chín phần giống Chiết Tử Du. Dương Hạo vô cùng kinh ngạc, bất giác không tự chủ được mà đuổi theo. Kết quả là đi theo bóng dáng đó lại lọt vào một vườn hoa, rất khó tìm được người, quay đi quay lại nửa ngày trời thì hắn phát hiện ra mình đã bị lạc đường, xung quanh đều là hoa thơm đủ loại, nhưng đều không giống hoa cúc, hắn nghĩ chắc chắn đã lạc vào một biệt viện khác. Hắn cũng biết đại nội cung cấm không được đi lung tung, nhưng cứ nghĩ đến Chiết Tử Du hắn lại cắn chặt răng, tiếp tục men theo con đường hoa đó về phía trước.



Nguồn: http://4vn.eu/forum/showthread.php?71274-Lich-Su-Quan-Su-Bo-Bo-Sinh-Lien-Nguyet-Quan-Full-Text&page=73#ixzz1zqXJx13X

Chương 350: Chạy khắp nơi (1) 

Dương Hạo men theo con đường hoa đi về phía trước. Những bụi hoa này dày đặc, cao gần bằng người, đường đi lại quanh co, ở giữa lại có rất nhiều các lối rẽ, cứ lượn đi lượn lại. Hắn đi một cách không mục đích về phía trước, đột nhiên thấy phía trước con đường nhỏ đã hết đường, lúc này lại nghe thấy phía trước có tiếng cười nói của nữ nhân. Dương Hạo liền cúi thấp người xuống chui vào trong bụi hoa. Một lát thì có hai cung nữ xách một chiếc giỏ hoa từ bên cạnh cười nói đi qua.



Dương Hạo đứng thẳng người dậy nhìn theo bóng họ. Lúc nãy hắn ở phía xa nên không nhìn rõ cung nữ dẫn đường cho người thiếu nữ giống Chiết Tử Du đó dáng vẻ như thế nào. Giờ thấy hai cung nữ này mặc y phục hoàn toàn giống người đó, Dương Hạo cũng không chắc có đúng là Chiết Tử Du hay không, liền đi theo hai người.



Theo lí thuyết thì Chiết Tử Du không thể xuất hiện ở cung Đường. Trong thiên hạ những người có dáng vẻ na ná nhau cũng rất nhiều, cũng không thể chỉ dựa vào hình dáng mà đã nhận định đó là Chiết Tử Du. Nhưng nếu Dương Hạo không tận mắt nhìn thì sẽ không thể yên tâm được. Hắn đi ra khỏi vườn hoa thì thấy trước mặt xuất hiện một lầu các. Lầu này được thiết kế rất đẹp, còn cắm đủ các loại hoa để trang trí, giống như động phủ của thần tiên vậy, đầy vẻ hoang dã.



Dương Hạo xoa xoa tay tiến vào trong thì thấy trong đại điện rất rộng, bên trong có mấy bức bình phong bằng ngọc lưu ly dài tám thước, hia bên là cột đèn đủ các loại, bên trên là những ngọn đèn lưu ly rất giá trị. 



Dương Hạo nhìn thấy cảnh tượng bên trong liền có chút giật mình. Lúc này hắn mới nhận thức được đây là hậu cung của Lý Dục. Nếu thật sự Chiết Tử Du ở đây thì lẽ nào nàng ấy là phi tần của Lý Dục? Nghĩ như vậy chân hắn không khỏi bước nhanh hơn, vội vàng đi qua tấm bình phong, bên trong lại là một chiếc mành châu, từng viên ngọc để kết thành bức mành này đều to đều bằng nhau như một, chỉ nguyên bức mành này cũng đã là một báu vật giá trị liên thành rồi.



Dương Hạo không nghĩ nhiều, vén mành lên rồi lướt vào trong, thì thấy lại là một căn phòng đầy hoa, bàn ghế hay đồ trang sức đều là loại cực phẩm, phía sau lại là mấy bức bình phong nữa. Dương Hạo bước nhanh vào trong, thì thấy sau bức bình phong là một chiếc giường gấm, hai bên có rèm buông xuống, bên trên giường có một ngọc nữ đang ngủ rất ngon.



Dương Hạo lập tức ngẩn ra. Nhìn xung quanh thấy không có ai. Ánh mặt trời bây giờ mới chiếu lên giường. Mĩ nhân ngủ trên chiếc giường đó quay mặt vào trong, đang ngủ trưa rất ngon, như thể hoàn toàn không biết có nam nhân đã xông vào khuê phòng của mình. Trên người nàng chỉ mặc một bộ áo ngủ mỏng manh, cơ thể mê người cùng các đường nét đều lúc ẩn lúc hiện dưới lớp áo ngủ.



Dàng người nàng thon nhỏ, lưng có chút gầy nhưng đôi mông lại đầy đặn tròn trịa. Mĩ nhân trong giấc mơ có lật mình mấy lần, chiếc áo ngủ mong manh ôm lấy cơ thể làm cho cánh mông và eo sau lộ ra thấy rõ, ẩn hiện mùi vị xác thịt, mái tóc đen dài buông xuống giường, càng lộ vẻ dịu dàng đáng yêu.



“Nàng có phải là Tử Du không? Chắc không phải, nữ tử này dáng người có vẻ giống Tử Du nhưng cơ thể Tử Du vẫn còn mùi thiếu nữ ngây ngô, đôi chân sẽ không đầy đặn như vậy.” 



Dương Hạo trong lòng nghĩ như thế, nhưng đôi chân lại không tự chủ bước từng bước tới phía đầu giường, hơi nghiêng người ra để nhìn, vẻ đẹp tuyệt mĩ của mĩ nhân đó lọt vào trong mắt hắn. Trái tim Dương Hạo bất giác đập thình thịch. Một nữ tử rất anh tuấn, lông mày đen mượt, mũi cao thanh thoát, má trắng như tuyết, đôi môi đỏ mọng kiều diễm ướt át, dáng vẻ đó tuyệt đối không phải là Chiết Tử Du.



Dương Hạo thở dài nhẹ nhõm, đang định bước nhanh đi thì không ngờ lại đúng lúc mĩ nhân đó mở mắt, uể oải ngáp một cái, đầu cũng quay lại, khóe mắt đột nhiên nhận ra có người. Đôi mắt xinh đẹp của nàng ta mở to ra, Dương Hạo phản ứng cũng nhanh, mĩ nhân vừa xoay người thì hắn cũng nhảy phắt người lui ra khỏi đó, lướt qua tấm bình phong, nhanh như ma quỷ.



Mĩ nhân đó vẫn chưa nhìn thấy dung mạo người đó, vốn còn tưởng rằng đó là nội thị trong cung, nhưng khi thấy hắn biến nhanh như thế lập tức khuôn mặt xinh như hoa tái nhợt đi. Nàng xoay người ngồi dậy, hai tay chống xuống giường, vội vàng di chuyển vào phía trong. Cử động của nàng rất nhanh, làm cho áo ngủ đang mặc hờ bị tuột xuống, lộ ra một mảng vai sáng loáng như ngọc, bộ ngực cũng để lộ đôi gò bồng cao vút. Mĩ nhân đó lại không để ý xuân quang của mình bị lộ, chỉ run giọng kêu lên: “Người đâu! Người đâu!”



“Thật là khổ, đây là hậu cung của Đường triều, truyền ra ngoài ta không cần phải giả chết nữa, Lý Dục cho dù có nhu nhược đến mức nào cũng sẽ không dung thứ cho ta xâm nhập vào hậu cung mạo phạm phi tử của hắn đâu.”



Dương Hạo thầm than khổ, hắn bước nhanh ra khỏi đại điện. Bên trong cung điện có mấy người cung nữ chạy vội vàng ra, lo lắng nói: “Nương nương, nương nương, có chuyện gì thế?”



“Nương nương? Nàng ta là tiểu Chu hậu?”



Dương Hạo ngồi xổm dưới gốc cây, nỗi sợ vẫn chưa tiêu tan, thầm nghĩ: “Nàng ta chính là tiểu Chu hậu, người nổi tiếng thiên cổ? Đáng tiếc lúc nãy không nhìn kĩ dáng vẻ nàng ta. Có điều may mà ta chạy nhanh, nàng ta chắc chưa nhìn rõ bộ dạng của ta.”



Dương Hạo đang nghĩ thì có hai cung nữ đã vội vàng chạy đến, đứng dưới điện đưa tay ra kéo sợi chuông dưới mái hiên. “Tang tang tang” một loạt tiếng kêu vang lên, hóa ra phía dưới mái của cung điện có buộc một tấm bản đồng được chết tạo mất nửa tháng, kéo sợi dây phía dưới nó thì bản đồng sẽ kêu lên. Tiếng kêu càng lúc càng vang dội.



Chỉ trong thời gian chốc lát, từ phía xa xa đã có tiếng kêu hét truyền tới, bước chân nặng nề như sấm. Cũng không biết có bao nhiêu võ sĩ áo giáp sắt, tay cầm thương chạy ào về đây nữa. “Hỏng rồi!” Dương Hạo vốn muốn nhìn rõ đường rồi mới lui, nhưng thấy tình hình này thì không thể phân biệt rõ đông tây nam bắc, lập tức cất bước chuồn mất.



Nếu như mà bị người ta bắt được ở đây thì cho dù có cả trăm cái miệng cũng không thể giải thích được, sẽ có một kết cục như thế nào hắn hiểu rất rõ. Cho dù Lý Dục không giết hắn thì Triệu Khuông Dận cũng sẽ không tha cho hắn. nếu như vậy đợi khi Diễm Diễm và Oa Oa đến đây thì chỉ có thể nhặt xác hắn thôi.



Bốn phương tám hướng đều có người chạy tới tẩm cung của hoàng hậu nương nương. Dương Hạo men theo con đường nhỏ, chạy ra không xa thì phía trước đã có hàng loạt tiếng chân ầm ầm vang lên, Dương Hạo lập tức nghiêng người ẩn vào trong bụi cây. Người hắn luồn luồn dưới bụi cây mà di, dường như không lúc nào dừng lại. Phía trước lại có một khe suối nhỏ, Dương Hạo nhanh chóng mượn sức hai tay mà chống xuống đất, cong lưng nhảy phắt qua như con cá, hai chân chạm nhẹ nhàng xuống đất, rồi lại lập tức chạy tiếp.



Động tác của hắn rất nhanh, mấy cung nữ cũng chạy trên con đường đó dường như hoàn toàn không có phát giác thấy hành tung của hắn mà chỉ vội vàng chạy đến tẩm cung của hoàng hậu. Dương Hạo chạy nhanh trên con đường này, hắn cới áo bào bên ngoài ra, lộn ngược lại mặc lên người, lại dùng tay áo che khuôn mặt lại, chạy một lúc thì thấy phía không xa dần dần hiện lên một chiếc tiểu đình màu đỏ nhạt.



Chiếc tiểu đình này không lớn lắm, có lẽ chỉ cao hơn đỉnh đầu chưa tới nửa thước, độ rộng cũng chỉ khoảng ba thước, nhưng cách thiết kế, trang trí lại khá hoa lệ, bên ngoài còn được bao bọc bởi màn mỏng màu hồng. Chiếc đỉnh này là kiệt tác của Lý Dục. khi hắn thưởng hoa trong ngự hoa viên, nếu như thấy cung nữ, phi tử nào xinh đẹp, vừa lúc có hứng sẽ đưa cung nữ đó vào đình, buông màn xuống và mây mưa luôn ở đó. Nhưng Dương Hạo lại không biết tác dụng đó của tiểu đỉnh này, nên hắn có chút không hiểu.



“Bên kia có người, bắt lấy hắn!”



Ở phía trước đột nhiên có mấy quân sĩ xuất hiện, vừa nhìn thấy Dương Hạo vội vàng chạy tới thì lập tức rút đao ra đánh tới. Bây giờ mà chạy sang bốn bên cũng không kịp. Hắn đột nhiên nhìn thấy một hòn giả sơn rộng hơn một thước, liền lập tức dẫm một chân xuống, mượn lực nhảy lên ngọn giả sơn trước mặt. Dương Hạo luồn nhanh như con mèo con, hai chân đạp lên đỉnh hòn giả sơn, rồi nhảy phắt đi, cả người hắn chui lọt vào trong hoa lâm rồi chạy thẳng vào trong tiểu đình có màn mỏng màu hồng.



“Ý! Ở đây là chỗ để ở sao?”



Trên tiểu đình này có đỉnh che, bốn phía đều có màn màu hồng bao phủ. Khi Dương Hạo xông vào đây mới phát hiện ra bên trong chỉ có kê một chiếc giường, trên trải một chiếc thảm nhung mềm loại cực phẩm. Dương Hạo không biết đây là nơi phong lưu của Lý Dục, lúc này cũng không nhìn kĩ. Hắn ghé mắt nhìn qua lớp màn, thấy mấy tên thị vệ đại nội đang cầm đao đi vòng quanh truy đuổi gần hòn giả sơn.



Dương Hạo không dám quay đầu lại, hắn nhìn ra xa khoảng mười mấy trượng, thì thấy phía trước có mấy cây đại thụ, phía sau lại là một hàng rào cây dày đặc tạo thành một bức tường, không có cách nào xuyên qua được. Dương Hạo chân không chạm đất, mượn lực nhảy vọt tới phía trước, hai chân đạp vào thân cây, lại mượn sức mà nhảy xa hơn mấy thước, tay đưa ra nắm lấy cành cây, hai chân lại co lên, đạp mạnh rồi vọt qua bức tường cây, biến mất trước mắt đám thị vệ đại nội.



Chiết Tử Du đang nhàn nhã đi dạo trong cung điện.



Lúc đầu nàng đã thuyết phục được Lâm Nhân Triệu hiến kế cho Lý Dục, khuyên Lý Dục phải dụng binh với Tống trước, kết quả là Lý Dục sợ thế lực lớn mạnh của Tống, mất cơ hội tuyệt vời nhất để bảo vệ xã tắc, thậm chí còn có thể làm đệ nhất thiên hạ. Lúc đó Chiết Tử Du đã nhìn thấy vị hoàng đế này là một người đàn ông nhu nhược đến mức nào, làm một vị hoàng đế ngu ngốc đến mức nào.



Nhưng nàng tuy khinh thường một kẻ như Lý Dục nhưng lại vẫn phải mượn thế lực của hắn. Những tấu sớ hiến kế của văn võ đại thần không thể được Lý Dục tiếp nhận, nàng liền chuyển sang con đường hậu cung. Trong thiên hạ có những vị hoàng đế nghe không lọt tai những lời can gián của thần tử, nhưng đối với ái phi và cận thị sủng tín bên cạnh thì lại rất nghe theo. Còn về Lý Dục, hắn có phải là loại người này không thì phải thử mới biết được. Cho nên Chiết Tử Du đã chuyển sang con đường đánh từ hậu cung, đặc biệt là từ tiểu Chu hậu, người có sức ảnh hưởng lớn nhất với Lý Dục, lợi dụng nàng ta để nói ra chủ trương của mình, hi vọng có thể ảnh hưởng tới những quyết định của Lý Dục.



Hôm nay nàng tiến cung có sớm một chút, tiểu Chu hậu vẫn chưa ngủ trưa dậy, cho nên Chiết Tử Du được cung nữ dẫn vào điện khác để đợi.



Quy mô của nơi này không hề kém hơn tẩm cung của tiểu Chu hậu. Trên thực tế, ở đây vốn chính là tẩm cung của đại Chu Hậu, đại Chu Hậu đã lâm bệnh và ra đi ở đây. Từ sau khi đại Chu Hậu qua đời, Lý Dục luôn cảm thấy có lỗi với nàng nên từ đó đã không còn đến đây. Còn tiểu Chu hậu thì lúc đó tuổi còn nhỏ, ngây thơ không nhận biết được gì, nhưng dần dần lớn lên, cũng đã nhận thức được cái chết của tỷ tỷ có liên quan rất lớn với mình, vì thế cũng tuyệt đối không bước chân tới đây. Cho nên cung điện làm theo quy cách hoàng hậu này bị bỏ không, nó đã được sửa lại thành nơi để phi tần, mệnh phụ phu nhân nghỉ ngơi chờ ý chỉ của hoàng thượng.



Chiết Tử Du ngồi trong đây một lúc, thấy nhàm chán liền đứng dậy đi ngắm nghĩa các thứ xung quanh. Nàng nhìn thấy trên chiếc án ở góc điện có một chiếc tỳ bà, liền bước tới xem. Đại Chu Hậu tinh thông thư sử, giỏi ca hát, đặc biệt là chơi tỳ bà rất hay. Chiếc tỳ bà này trước đây đại Chu Hậu còn sống đã dùng. Tuy hoàng đế và nương nương không còn đến đây nhưng trong cung điện này mọi thứ vẫn được quét dọn sạch sẽ, chiếc đàn tỳ bà cũng được bảo quản rất tốt.



Chiết Tử Du gảy đàn mấy tiếng, đột nhiên lại nhớ tới chuyện Dương Hạo và khu mật sứ Trần Kiều tranh giành mĩ nhân ở Phiêu Hương lầu. Nàng Sanh Hàn đó cũng là lấy tiếng tỳ bà để trở thành nổi tiếng khắp Giang Nam. Trong lòng nàng đột nhiên nổi lên tính hiếu thắng. Nàng đưa tay lên lấy chiếc đàn xuống, quay trở về ghế cẩm để ngồi, suy nghĩ một lát rồi đưa tay lên gẩy. Những âm thanh sát phạt theo ngón tay nàng mà vang lên.



Nguồn: http://4vn.eu/forum/showthread.php?71274-Lich-Su-Quan-Su-Bo-Bo-Sinh-Lien-Nguyet-Quan-Full-Text&page=74#ixzz1zqXRVXy2

Chương 351: Hai vị tăng

Dương Hạo, Tiêu Hải Đào, hai vị tống sứ đến Thải Thạch Phàn theo lời mời của Hoàng Phủ. Chuyến đi này không phải theo yêu cầu của quan, nhưng vẫn có những người có trách nhiệm tháp tùng đi theo như Dạ Vũ và Đại Hồng Lư.



Vốn dĩ Hoàng Phủ Kế Huân muốn mời Dương Hạo đến vùng núi non du hý một phen, bởi lúc này khắp núi là rừng phong lá đỏ tựa như lửa Hỏa Diệm sơn, cảnh tượng đẹp mê hồn người, hơn nữa cũng gần thành Kim Lăng. Có điều, Dương Hạo nói: “Cảnh phương Bắc ta đã xem quá nhiều rồi, đã đến Giang Nam thì đi xem song núi, đó mới gọi là biết ‘phong cảnh Giang Nam’”.



Muốn lấy lòng Dương Hạo, viên quan ưa nịnh hót của triều Tống Hoàng Phủ Kế Huân chiều theo nguyện vọng này. Thiết nghĩ, Yến Tử Phàn đã có quân đóng, như vậy hắn không thể bị dẫn thế trước về trọng địa quân sự, vì thế, Hoàng Phủ yên tâm du ngoạn một chuyến đến Thải Thạch Phàn.



Thải Thạch Phàn cũng là một cửa sông quan trọng, có điều nơi đây buôn bán tấp nập, so với vùng Kinh Hồ thì nơi đây người qua kẻ lại đông đúc hơn, không cấm du khách, bình thường cũng không có trú quân. Hơn nữa, nói về phong cảnh, thì Thải Thạch Phàn cũng nổi tiếng trong nước, địa thế hiểm yếu, nước chảy xiết nên có câu “Thiên cổ một tú”, so với Yên Tử Phàn thì nơi đây còn đẹp hơn vài phần. Do có câu chuyện xưa về Lý Thái Bạch say rượu bắt nguyệt ở đây rồi bị chết đuối mà càng tăng thêm không khí thần bí, khiến người ta muốn đi tìm cái u phóng thắng địa.



Đoàn người đến gần Thải Thạch Phàn, xuống kiệu rảo bước, qua cầu Tỏa Khê, thấy từ mặt đất bằng phẳng có núi Ngưu Chử nhô lên, ngọn núi này đối mặt với Đại Giang hướng Tây Bắc, ba mặt có sông bao quanh, giống như một con ốc xanh lơ lửng trên mặt nước. Trong núi cây xanh rậm rì, thâm tú tươi tốt, vách núi đá phía tây nhô lên giữa hồ chính là Thải Thạch Phàn nổi tiếng. Chỗ Tây Bắc giáp chỗ lõm của sông, mọi người gọi là Tây Đại Oa, sườn núi phía Bắc gọi là Oa Ngưu Vĩ, địa thế hiểm trở, rừng cây phía Nam rậm rập, đình các kín đáo.



Trích Tiên Lâu được xây dựng để thờ Lý Bạch trên núi Ngư Chử, lên lầu mà nhìn về phía xa, trước mắt là dòng Trường Giang hùng vĩ, sau lưng là dãy núi liền nhau, vòng vây dày đặc, phong cảnh u nhã, khiến con người ta cảm thấy thật thoải mái.



Tiêu Hải Đào trông ra bốn phía, chỉ cảm thấy nơi đây dễ thủ khó công, một khi chiến tranh xảy ra mà đem quân đến đây, phá bến sông đi, thu nạp đội thuyền, nơi hiểm yếu này có thể đánh bại một vạn quân địch, liền không kìm nén được mà rằng: “Tuy nói rằng có bảo vệ Trường Giang ắt cũng có bảo vệ sông Hoài, nhưng con sông Trường Giang này quả thực là một nơi hiểm yếu, mặc dù Quan Gia ngồi cầm giữ đất Hoài Nam, điều binh khiển tướng, cung cấp quân nhu không thành vấn đề, nhưng có Trường Giang ở đây, muốn lấy nước Đường cũng không phải là chuyện nhỏ. Nếu như loại bỏ Giang Nam thì đã sớm thái bình rồi, nhưng phương Bắc có mãnh hổ, Tây Bắc tam đầu lang, Kinh Hồ Thục Việt tất cả đều mới, lòng dân không yên, một khi tổn hại quá lớn thì e rằng nước Tống ta sẽ trở thành mục tiêu khải du của người khác. Nơi này thiên nhiên hiểm yếu, cần phải bẩm báo cho Quan Gia để Quan Gia thận trọng trong quyết định mới được.”



Tiêu Hải Đào lặng lẽ quan sát địa lý, Dương Hạo lại quấn lấy Hoàng Phủ Kế Huân và Dạ Vũ, niềm nở tiếp rượu, trò chuyện vui vẻ. Rượu quá tam tuần, Dương Hạo tỏ vẻ lơ đãng nói: “Giang Nam sơn thanh thủy tú, thủy thổ nơi đây sinh ra những nhân vật không tầm thường. Giống như Hoàng Phủ tướng quân vậy, một tướng quân trẻ tuổi khôi ngô giỏi giang, Dạ đại nhân cũng học vấn bác học đầy mình, thật đúng là đầu đường gặp thương buôn cũng mang ba phần nhã nhặn”.



Hoàng Phủ Kế Huân vừa nghe vừa khiêm tốn đáp: “Tả sứ quá lời rồi, nếu nói về nam nhi anh hùng thì vẫn thuộc về hào kiệt Giang Bắc, dân chúng gan dạ lại anh võ bất phàm, nếu đấu vũ lực, phương Nam bọn tôi muôn vàn người cũng khó lòng kháng cự. May là ngã chủ anh minh, xưng thần cống nạp cho triều Tống để thiên hạ được hưởng thái bình, nếu không, một khi xảy ra chiến tranh, binh mã của Đường quốc ta…”



Dương Hạo vừa nghe vị tướng quân này nói vừa muốn tung ra “Luận ba ngày mất nước của hắn”, mặc dù mình là Tống thần, nhưng nghe cũng thấy khó chịu, chỉ cảm thấy tên này quả thực là một kẻ vô sỉ cực độ. Dạ Vũ đứng một bên cũng cảm thấy ngại ngùng, bèn cắt ngang câu nói của Hoàng Phủ Kế Huân, cười ha ha mà rằng: “Nếu nói nam nhi thì sao, nam nhi Giang Bắc dù không thua Giang Nam, nhưng nói đến mỹ nhân, thì phải kể tới mỹ nhân Giang Nam nước ta rồi. Mỹ nữ Giang Nam mềm mại như suối chảy, các cô gái phương Bắc hào sảng phóng khoáng, tính tình cởi mở, còn nói đến nhu mì mềm mại thì con gái Giang Nam có vài phần nữ tính ý vị hơn.”



“Ách… người bên cạnh không nói gì, khi Dương Mỗ đến quốc vương tham gia yến tiệc, cung nữ tỳ thị, vũ nữ ca kỹ...ai cũng đều hết sức yểu điệu, vóc người mềm mại. So với con gái Giang Bắc thì những người phụ nữ như vậy có thể hiếm thấy. Những người phụ nữ đó tuy chỉ là vũ nữ nô tỳ mà cũng đã đẹp nhường ấy, con gái Giang Nam ắt hẳn cũng xinh đẹp phong tình. Bởi vậy, Dương Mỗ không thể tránh khỏi suy nghĩ, nếu như trong cung tuyển mỹ nữ, một vạn người chọn lấy một thì nên chọn thế nào đây? Quốc vương ngồi chiếm giữ Giang Nam, trong cung mỹ nữ giai nhân ắt đã phải kín chỗ rồi chăng?”



Hoàng Phủ Kế Huân nghe nói đến chuyện mỹ nữ thì mặt mày hớn hở, cười hì hì đáp: “Những lời này của tả sứ quả không phải là giả, con gái Giang Nam chúng tôi nhu mì như nước mùa xuân, quả đúng là có ý vị rất đặc biệt. Có điều, Quốc vương chỉ sủng ái một người duy nhất là Hoàng Hậu, mấy năm nay đã không nạp thêm phi tần, hi hi, không giấu các vị, Quốc vươngchúng tôi rất yêu nương nương, kể cả nương nương có độ lượng thì Quốc vương cũng sợ bà bực mình mà không dám tuyển thêm thiếp. Quốc vương xưa nay qua đêm với các cung nữ được tuyển vào cung thường bất binh, nhưng cũng không từng sắc phong qua. Nói ra, những cung nữ xinh đẹp này nếu như ai may mắn mang thai cốt nhục của Hoàng thượng thì dẫu Quốc vương không nói, nương nương cũng sẽ sắc phong cho người đó. Chỉ đáng tiếc là, những người may mắn được qua đêm cùng hoàng thượng lại chưa ai có được diễm phúc đó.”



Nói đến đây, hắn quay sang Dương Hạo nháy mắt cười nói: “Dương sứ lần này đến Giang Nam, cảnh vật con người cũng đã xem không ít, nhưng vẫn chưa được nếm thử mùi vị mềm mại của mỹ nữ Giang Nam chúng tôi thì phải, hihi, nếu như có thể đêm nay sau khi về Kim Lăng hãy để tại hạ sắp xếp? Đãi đại nhân mà được thưởng thức hương vị này một lần ắt hẳn sẽ suốt đời không quên…”



“Khụ, khụ!” Hồng Lư tự khanh Dạ Vũ ngồi bên nghe thấy vậy liền vội vàng ngồi lại cho ngay ngắn và ho khan hai tiếng.



Hoàng Phủ Kế Huân liếc hắn một cái, cười mắng: “Đàn ông mà, nói chuyện gió trăng vốn là lẽ đương nhiên, cổ họng Dạ đại nhân thấy ngứa sao, ông chả phải giả vờ ngay thẳng, lầu xanh Họa Toàn chả đã quen nhẵn mặt ông? Tôi nghe nói, mới tháng trước thôi ông đã lấy thêm một thiếp, là một cô gái rất đẹp, năm nay mới chỉ 30, không phải là tuổi mụ chứ? Chà chà, quả là trâu già thích gặm cỏ non, bây giờ lại giả vờ như một người ngay thẳng….”



Dạ Vũ bị hắn bóc mẽ trước mặt Dương Hạo, nhất thời không nói được gì mà chỉ đỏ mặt, nhưng hắn không thể đắc tội với Dương Hạo, Hoàng Phủ Kế Huân và tâm phúc của hoàng đế hắn cũng không thể đắc tội, đành cười khô hai tiếng, suy nghĩ miên man sang chuyện khác, nhất thời không tìm được câu nào để nói cho hợp đề tài.



Dương Hạo tiếp lời cười nói: “Đúng vậy, nơi này phong cảnh hữu tình, Dạ đại nhân có chi phải xấu hổ, nói ra, Dạ đại nhân cũng không thể coi là già, ở quê tôi, có một lão phu tử tên là Tra Ngữ Minh, năm nay hơn 80 mà vẫn cưới một cô gái mới 18 tuổi làm thiếp, có người từng trêu chọc thì hắn nói ‘Tân nương 18 tân lang 80, kẻ đầu bạc đi với người hồng trang, uyên ương bị lý thành song dạ, nhất thụ lê hoa áp hải đường’ ”



Hoàng Phủ Kế Huân cười nói: “Tuyệt, tuyệt, ‘nhất thụ lê hoa áp hải đường’, lối so sánh này thật tuyệt, dùng chữ ‘áp’ lại càng hay, chỉ có điều vị tiên sinh họ Tra này tuổi cao quá, sợ rằng có muốn ‘áp’ cũng không nổi nữa rồi, hahaha…”



Tiêu Hải Đào và Dạ Vũ nghe nói không nhịn nổi cười, mắt Dương Hạo cũng lấp lánh sáng, nhân cơ hội đó liền nói: “Đúng vậy, lão phu tử trong thôn có diễm phúc như thế thật khiến người ta ngưỡng mộ. Đúng rồi, Hoàng Phủ tướng quân nói rằng Quốc vương mấy năm gần đây không nạp phi tần phải không? Thật kỳ lạ, khi bản quan đến dự yến tiệc cũng đã gặp không ít cung tần mỹ nữ, nhưng họ không để tóc giống như phụ nữ đã có chồng, còn về cách trang điểm cũng không giống thị nữ trong cung, điều này quả có chút kỳ lạ”.



Dạ vũ bị lấy ra so sánh với lão Tra 80 đã có phần xấu hổ, nghe nói vậy liền tiếp lời: “Tả sứ đại nhân, điều đó cũng không có gì là kỳ lạ, các thiên kim đều phải vào cung yết kiến nương nương một lần, như tả sứ đã thấy, đều là người nhà của các vị đại thần cả”.



Hắn khom lưng chắp tay khen: “Quốc vương và nương nương nước tôi thường ngày gần gũi với mọi người, cùng vui cái vui của bách tính, còn thường xuyên xuất cung du ngoạn, lên chùa dâng hương lễ Phật, các chư vị mệnh phụ, thiên kim của triều thần càng thường xuyên được tiếp kiến để tặng lễ vật. Đúng rồi, cháu gái của Lâm Nhân Triệu đại tướng quân Mạc Thu Nương cũng chính là được nương nương để mắt đến trong lần đi tháp tùng Lâm phu nhân vào cung, hiện là tâm phúc của nương nương, tình cảm như chị em vậy”.



“Cháu gái của Lâm Hổ Tử?”



Dương Hạo không khỏi giật mình, Lâm Hổ Tử? Oa Oa đã từng nói rằng Tử Du đã từng đàm luận với Lâm Hổ Tử, muốn mượn quân Đường để thừa cơ nội bộ quân Tống trống rỗng chưa kịp xuất binh để đánh úp, nhưng kế hoạch đó đã bị Lý Dục cản được. Cô nương mình đã gặp ở trong cung trông hao hao giống Tử Du, không lẽ…



Một ý nghĩ táo bạo đột nhiên xuất hiện trong đầu Dương Hạo : Nếu như Tử Du không từ bỏ ý định, sau khi nguy cơ Khai Phong cạn lương thực bị phá sản nàng không chịu quay về Tây Bắc mà lại đến Giang Nam, thì…, cô nương ta từng gặp trong cung có dáng dấp 9 phần giống với Tử Du, e rằng đó đúng là Tử Du, nếu như quả thật là nàng, thì nàng đến nước Đường, trà trộn trong cung nhà Đường với mục đích gì?



Nghĩ như vậy, Dương Hạo thấy như ngồi trên đống lửa, mưu đồ của Tử Du thật to lớn, nàng muốn bằng mọi giá phải thay đổi số mệnh. Ở Khai Phong, nàng bất động thanh sắc mà mang tới cho triều Tống một trận đại họa cơ hồ rung chuyển cả xã tắc, có trời mới biết nàng đến Giang Nam với mục đích gì, ngộ nhỡ gặp phải tai họa gì thì liệu nàng có bị nguy hiểm đến tính mạng? Những chuyện đại sự liên quan đến quân quốc, một khi sự tình đổ bể thì cũng không thương tiếc đến phận nữ nhi.



Trong ấn tượng của hắn, thì Tống quốc diệt Đường đại khái là chuyện của hai năm về trước, khi có chiến tranh, kể cả một con cá vô tội cũng không tránh khỏi bị tai ương, huống hồ Tử Du trà trộn làm việc trong cung đình, cũng tuyệt đối không phải là một con cá vô tội, mà là một con yêu tinh làm mưa làm gió.



Dương Hạo chỉ hận một nỗi là không thể bay ngay về thành Kim Lăng, xem Mạc cô nương rốt cuộc có phải là Chiết Tử Du hay không, nhưng ngoài mặt vẫn phải giả vờ không có gì, chỉ trầm ngâm nói: “Mạc cô nương? À…, ta đã gặp cô nương xinh đẹp ấy rồi, khi đó cô ấy chỉ mới vào cung, không làm bạn với các mệnh phụ khác, nghĩ ra chính là Mạc cô nương mà Dạ đại nhân nhắc đến”.



“Vậy đích là cô nương ấy rồi”. Hoàng Phủ Kế Huân có chút thèm thuồng nói: “Mạc cô nương đích thị là xinh đẹp phi phàm, chẳng trách Dương sứ mới gặp đã khó quên, hihi, không giấu tả sứ đại nhân, cô cháu gái của Lâm Nhân Triệu cũng mới đến Kim Lăng trước đó không lâu, khi tại hạ lần đầu gặp gỡ cũng bị vẻ đẹp của nàng khiến cho động lòng”.



Hắn tiếc hận mà lắc lắc chiếc dĩa, than thở: “Với thân hình diện mạo đẹp như nàng, vốn cũng xứng đôi với bổn tướng quân, chỉ có điều… tại hạ với cậu của nàng không hợp nhau, nếu không thì…quả thật muốn đem người tới cầu thân”.



Dương Hạo nghe nói Mạc cô nương chỉ mới xuất hiện ở Kim Lăng không lâu, trong lòng nghi ngờ rất nhiều, rất muốn ngay lập tức đi kiểm tra thân phận của nàng, nhưng đi du ngoạn Thải Thạch Phàn là chủ kiến của hắn, hắn không thể ngay lập tức đòi về, liền nói: “Dương Mỗ tửu lượng có hạn, không thể uống tiếp được, đêm nay chỉ e không thể ở lại Trích Tiên Lâu này được, hà hà, hai vị đại nhân, chi bằng chúng ta nhân hứng này lại du ngoạn Phàn Thượng một phen, sau khi trở về uống một ấm trà rồi quay lại Kim Lăng thành đi thôi”.



Hoàng Phủ Kế Huân cười ha hả nói: “Tả sứ đại nhân quả thật là nhanh quá, mới nghe nói đến mỹ nhân Giang Nam đã không thể ngồi yên được rồi”.



Dương Hạo cảm thấy buồn cười, thuận miệng nói: “Cái này, vẻ đẹp của sơn thủy đương nhiên khiến người lưu luyến, vẻ đẹp của con người càng khiến hồn xiêu phách lạc, ông và ta chẳng lẽ không phải là người cùng một đạo sao?”



Hoàng Phủ Kế Huân cười nói: “Đúng, đúng, hơn nữa… trên người mỹ nhân cũng có sơn thủy, còn đẹp hơn gấp 10 lần sơn thủy của Thải Thạch Phàn này, khiến người ta say mê quên trời đất, haha…”



Hắn cười to đứng dậy, một tay kéo Dạ Vũ, cười nói: “Đi thôi, còn ngồi giả vờ làm gì nữa, chúng ta cùng Dương tả sứ đi thăm sơn thủy, rồi về Kim Lăng thưởng thức sơn thủy mỹ nhân”



“ Ôi, cái này…, Hoàng Phủ tướng quân… lão phu…”



Dạ Vũ làm mặt khó, bị Hoàng Phủ Kế Huân lôi kéo đứng dậy: “Cố mà làm”, rồi đi cùng bọn họ đi thăm phong cảnh Trích Tiên lâu.



Đi dọc theo mép sông, nước sông cuồn cuộn sóng, Dương Hạo cùng đoàn người đi qua “Hành Ngâm kiều”, tới “Nghiễm tế tự” được xây dựng vào thời Đông Ngô du ngoạn một phen, dâng hương, rồi bốn người tới “Nga Mi đình” uống trà.



“Nga Mi đình” nằm ở vị trí hiểm mà sâu, cao và nhìn ra xa được, cảnh tượng hết sức tú lệ. Phía trước bên tay trái đình gần sông, vốn là một khối đá bằng phẳng được gọi là Liên Bích Bàn, khối đá nằm cheo leo trên vách, hướng ra ngoài sông, địa hình hiểm trở khó thấy. Theo truyền thuyết, Lý Bạch đã từng ở đây bắt nguyệt mà qua đời.



Dương Hạo đợi đám người ngồi nghỉ ngơi trong đình rồi một mình đi men theo mép đình, chuẩn bị rời Thải Thạch Phàn, đi được một lúc chợt thấy có một tăng nhân đi đến, vị tăng nhân đó thở hổn hển và dừng chân nghỉ tạm, trông thấy Dương Hạo một mình đi tới, phía trước có vài tên binh sĩ đang đuổi người dẹp đường, người bên đường đều dạt sang đi men trên vệ đường sườn núi trơn tuột. Vị tăng nhân mang theo nước, đi một đôi giày rách đứng trên cỏ nơi có những hòn đá vỡ, đi lại có phần khó khăn, Dương Hạo nhìn thấy liền nói: “ Đường này mọi người đều có thể đi, đừng để mọi người bị quấy nhiễu vì bọn ta”.



Đám binh sĩ đang diễu võ dương oai hò hét, không nghe thấy lời của Dương Hạo, Hoàng Phủ Kế Huân lập tức kêu lên: “Không nghe thấy lời của tả sứ dặn dò hay sao, không được đuổi bọn họ đi, đường nhỏ thì tránh, chúng ta hoàn toàn có thể đi lại được”.



Vị tăng nhân áo rách đang định tránh đường, nghe thấy vậy liền dừng bước, mắt nhìn bọn họ, khi Dương Hạo đi đến bên ông ta, vị tăng nhân này đột nhiên chắp tay mỉm cười nói: “ Bần tăng nghe mọi người gọi đại tướng quân là tả sứ, nhưng không biết vị tả sứ này là chức ti trong nha môn nào?”



Dương Hạo nhìn dò xét ông ta, vị tăng nhân này chỉ khoảng 35, 36 tuổi, mặt gầy mà đen, nhưng hai mắt lại có thần, liền nghỉ chân cười nói: “Hòa thượng xuất gia mà vẫn quan tâm đến chức quan của ta sao?”



Vị tăng nhân đó cười nói: “Bần tăng có biết 1, 2 quan chế của chế độ triều đình, nhưng chức quan tả sứ này thì bần tăng lần đầu nghe qua, cảm thấy có chút hiếu kỳ”.



Dạ Vũ đứng bên nói: “Vị này chính là Tống quốc Hồng lư tự tả khanh Dương Hạo đại nhân, khâm thừa lệnh vua mang chức tả sứ, vị hòa thượng này là tăng nhân của Nghiễm Tế Tự sao? Trong chùa không phải có giếng sao, tại sao lại phải mang theo nước?”



“À, hóa ra là quan nhân nước Tống, thảo nào!”



Vị tăng nhân đó nhìn Dương Hạo, vừa mỉm cười và vừa chắp tay nói với Dạ Vũ: “Bần tăng vốn là một gã tú tài, thi nhiều lần không đỗ, buồn chán nên mới cạo đầu đi tu, nhưng không phải là ở Nghiễm Tế Tự, trung tăng lữ, không thể ngồi lại chùa, chỉ có thể ở trên núi, nước cũng phải tự mình xuống núi mà lấy”.



Hoàng Phủ Kế Huân cười nói: “Hóa ra là một hòa thượng tự do, miếu chưa có, vậy ngươi cũng không có pháp hiệu rồi, ngươi vừa không ngồi sư, lại không có cao tăng cho ngươi quy y, vậy cũng chỉ xem như bỏ đi khỏi nhà?”



Vị tăng nhân đó lại liếc nhìn Dương Hạo, mỉm cười nói: “Người xuất gia tu hành chính là có Phật trong tâm, có hay không cao tăng cho quy y thì có hề gì? Khoác áo cà sa chưa chắc đã là người xuất gia, không có giấy tờ cũng không nhất định không xuất gia, còn về pháp hiệu, bần tăng thật ra đã tự lấy cho mình một pháp hiệu rồi, đó là… “Nhược Băng”.



Hoàng Phủ Kế Huân ngửa mặt lên trời cười to: “Haha, Nhược Băng hòa thượng, ngươi muốn cùng bổn tướng quân nói chuyện thiên cơ sao? Bản tướng quân cũng chỉ là nhàn tình nỗi nhã hứng, tránh ra tránh ra, bản tướng quân phải đi về Kim Lăng, đi thưởng thức cái sơn thủy mà hòa thượng các ngươi không bao giờ được thưởng thức, haha…”



Nhược Băng hòa thượng mỉm cười, khóe miệng ánh lên loe lóe, Hoàng Phủ Kế Huân nghênh ngang đi xuống núi, Dương Hạo đi đến bên Nhược Băng hòa thượng, đột nhiên cảm giác được ánh mắt của ông ta vẫn dõi theo mình, đi được vài bước, Dương Hạo không nén được liền quay đầu lại nhìn, chỉ thấy vị tăng nhân đó vẫn đứng trên đất, mắt vẫn dõi theo hắn, nhìn thấy hắn quay đầu lại, vị hòa thượng cũng không dời mắt nhìn, một cái nhìn thật sâu và chăm chú, hai tay hợp thành chữ thập, mỉm cười tạm biệt hắn…



Dương Hạo hơi chút chần chừ, Dạ Vũ đã nhanh chân chạy tới bên cạnh, ân cần nói: “Tả sứ xin chậm bước, đường núi nguy hiểm, cần hết sức cẩn thận…”



Dương Hạo không rảnh suy nghĩ nhiều, đành xoay người bước đi, đến khi tới được dưới chân núi thì bất giác quay đầu lại, chỉ thấy bóng vị hòa thượng nọ vẫn đứng giữa lưng chừng núi, xa xa dõi theo, giống như…



Một suy nghĩ xuất hiện trong đầu Dương Hạo: “Vị hòa thượng Nhược Băng này, nhất định là có chút cổ quái!”



***



Từng túm tóc rơi xuống đất, cuối cùng hiện ra trước mặt mọi người là một cái đầu nhẵn bóng lưỡng, một bàn tay đặt trên chiếc đầu đó, người xoa chiếc đầu đó là một lão hòa thượng già mặc áo cà sa đại hồng, từ bi thiện mục.



“A di đà Phật, từ hôm nay trở đi, con đã là đệ tử của Kê Minh ta rồi. Bất kể làm người hay tham thiền, đều phải làm điều có đức. Đức, có thể rửa sạch những tạp niệm của con, làm trong sạch trái tim con, không để con bước đi trong mịt mờ khổ ải. Mà hành, thì lại nắm giữ đức, đi làm việc thiện, tích lũy công đức, tu thành chính quả, sẽ được tự tại. Lão nạp xuống tóc cho con, con đã là đệ tử của lão nạp. Đức Hạnh, những điều lão nạp đã dạy con nhất định phải ghi nhớ, biết chưa?”



“Đức Hạnh ghi nhớ lời chỉ dạy của sư phụ!”



Chiếc đầu bóng lưỡng đó dập thật sâu xuống khấu tạ, lòng bàn tay hướng lên đệm, thái độ hết sức thành kính, có điều vẫn phải nói ra điều khúc mắc trong lòng: “Có điều…, sư phụ, pháp hiệu chỉ có thể lấy hai chữ, không thể lấy ba chữ được sao?”



“Haha, điều đó cũng không hẳn, pháp hiệu lấy như thế nào cũng tùy vào các vị tọa sư. Chỉ có điều từ trước đến nay, pháp hiệu hai chữ đã được sử dụng phổ biến trong các tự viện, lâu ngày, các tự viện cũng thành tục lệ dùng hai chữ. Nếu như một tự viện có quá nhiều tăng lữ thì việc dùng hai chữ đặt pháp hiệu cũng không thích hợp nữa, cũng có thể dùng ba chữ, đương nhiên, còn có những sư phụ để khuyên thích kinh nghĩa thêm rõ ràng cũng đặt cho đồ đệ của mình pháp hiệu có ba chữ. Thật ra, pháp dụ của sư phụ cùng với con vốn đã ba chữ rồi, chúng ta là người xuất gia, pháp hiệu chính thức có một chữ thích nữa”.



“ Ách…, sư phụ, chữ thích bình thường đâu có gọi, ý của đồ đệ là, có thể đặt một pháp hiệu có 3 chữ bên cạnh chữ Thích kia ra không?”



Lão hòa thượng hơi nhíu mày, có chút không bằng lòng mà nói: “Đức Hạnh, tại sao con cứ phải chọn pháp hiệu ba chữ mới yên?”



“Đồ đệ cảm thấy… ba chữ thì có uy phong”



“ Vậy để ta đặt cho ngươi một pháp hiệu có bốn chữ, chẳng phải là càng thêm uy phong hay sao?”



“ Thế thì càng tốt, thế càng tốt, đa tạ sư phụ”



Lão hòa thượng giơ tay lên, tay chỉ như Phật đà niêm hoa, dứt khoát vứt trên đầu bóng loáng một chiếc bát nhỏ, nhẹ nhàng nói: “ Đồ nhi này sai trái cũng nhiều, lẽ nào ngươi muốn được gọi là Thích Ca Mâu Ni sao?”



“ Vậy…,…” Hòa thượng quỳ trên mặt đất cười khan hai tiếng nói: “Đồ đệ biết sai rồi”.



“ Thiện tai, thiện tai”.



Lão hòa thượng lại khôi phục lại dáng vẻ cao tăng từ bi của mình: “Đức Hạnh à, con mới quy y, vẫn còn là một tiểu sa di, sau này ở lại bên cạnh lão nạp, theo lão nạp tu hành phật pháp, thế nào?”



Đức Hạnh quỳ gối xuống mà rằng: “Sư phụ, đệ tử vốn là đệ tử nhà giàu, gia cảnh cũng ưu nhai, nay đã hướng Phật, muốn làm lại từ đầu, tu luyện thể xác và tinh thần, khi nhập tự, đệ tử đã từng nhìn thấy tự trái có vườn rau, vài vị sư huynh đang làm việc, dù vất vả nhưng lại lấy đó là việc tích công đức, do đó… đệ tử muốn đến vườn rau, bắt đầu từ chữ ‘Hành’”.



Bảo Kính đại sư ngẩn người, ông là trụ trì phương trượng trong tự Kê Minh, rất được tôn sùng, đã rất lâu rồi không tự mình thu nhận đệ tử, do đệ tử này dung mạo thanh tú, lại được trời phú cho đôi mắt quyến rũ, so với con gái thì còn đẹp hơn vài phần, khiến cho người ta nhìn thấy rất ưng mắt, mà Bảo Kính đại sư lại là đệ nhất thiên tự phương trượng đại sư ở Kim Lăng, thường xuyên tiếp đãi các khách quý từ trong cung đến, nên tự tay cạo đầu xuất gia cho người đệ tử này. Bảo Kính đại sư không nghĩ đến chuyện hắn sẽ chủ động yêu cầu đi trồng rau, yêu cầu này thật sự là…



Nghĩ lại, đệ tử Đức Hạnh này ăn nói đường hoàng, hôm nay thủ tọa cùng hai vị sư đệ trụ trì Giới luật viện, bản thân nắm giữ quyền phương trượng thực sự không tiện làm trái ý. Tên đệ tử đó là đệ tử nhà giàu, vị tất phải chịu khổ như vậy, những ngày tới cứ cho hắn ở bên cạnh là được, vì vậy ông mỉm cười nói: “Thiện tai, thiện tai, con đã có lòng như vậy tức trong tâm đã có phật, thôi được, vậy ta cho con vào vườn rau tu hành một thời gian. Còn về mấy vị tăng lữ trong vườn rau, hà hà… về mặt phật pháp và giới luật, con không được thỉnh giáo họ, bất quá cũng không thể coi như sư huynh, con là thân truyền đệ tử của lão nạp, thân phận cao hơn bọn họ, những người đó đều là hòa thượng của con. Đức Huệ, đưa sư đệ của con đến vườn rau, gặp vài hòa thượng của sư đệ.”



“Vâng!” một tăng nhân tầm trung niên xuất hiện,chắp tay thi lễ và mỉm cười nói với Đức Hạnh: “Sư đệ hãy đi theo sư huynh”.



Đức Hạnh mặt nghiêm túc, theo hòa thượng Đức Huệ đi ra bảo điện Đại Hùng, tiến vào vườn rau phía Đông, từ xa đã ngửi thấy mùi hôi của phân ủ, mặt hơi chau, khóe miệng nở ra một nụ cười gượng: “Hì hì, lão tử xuất gia rồi, lần này xem lão ni cô có còn tránh được ta hay không”



Xốc mạnh lại bả vai, đột nhiên thấy hành động của mình là hơi bất nhã, liền vội vàng đứng lại thẳng người, mắt nhòm mũi, mũi dòm tim, bước đi dưới cái nhìn nghiêm khắc của hòa thượng Đức Huệ trên đồng ruộng thổ canh.



Hôm đó, Bích Túc theo đuổi người nữ ni trẻ tuổi xinh đẹp nhất thời bị kích động không nói được gì. Người nữ ni đó đặt quang gánh xuống, chăm chú nhìn hắn, mặt nở một nụ cười kinh ngạc mà lễ phép. Sau một hồi kích động, hắn ta mới nói: “Cô nương, ta… ta rất thích nàng, ta có thể biết tên nàng được không?”



Vị nữ ni đó nghe thấy liền hoảng sợ mở to mắt lên nhìn hắn, khi đó, Bích Túc mới sực nhớ ra là mình đang mặc trang phục của con gái, bèn vội vàng nói: “Ta không phải là phụ nữ, ta là nam giới, nàng xem, nàng xem…”



Hắn ta ngửa cổ cho cô xem yết hầu, rồi lại vỗ vỗ vào ngực, tiếng nói cố tình phóng to đôi chút: “Từ khi nhìn thấy cô nương, tại hạ đã nhớ mãi không quên. Nàng không nhớ ta có đúng không? Hôm đó tại quán trọ Chuẩn An, nàng đi ra, ta tiến vào, chúng ta đã đi qua nhau, nàng còn cười với ta, nàng nghĩ xem, nghĩ thử xem có nhớ ra hay không? Nụ cười của nàng ngọt ngào quá, khiến ta hồn xiêu phách lạc, vì vậy nên mới không thể quên được…”



Con ngươi của tiểu ni cô chớp lia lịa, tựa hồ như nhớ ra cái gì, mặt có đôi chút thẹn thùng như một đám mây hồng bay qua, Bích Túc cuối cùng cũng đã nói ra những điều trong lòng, liền đứng dậy nói: “Cô nương, nàng đẹp như vậy, hà cớ sao lại xuất gia làm ni cô, phí uổng cả một đời nơi cửa phật? Quả là lãng phí báu vật trời cho. Tại hạ từ sau lần nhìn thấy cô nương đã tương tư trằn trọc, còn theo cô nương đến tận Giang Nam, đáng tiếc là sau khi qua sông lại để lạc mất bóng nàng, nhưng trời run rủi cho ta hôm nay lại được gặp lại nàng, nàng nói xem, đó không phải là duyên phận thì là gì?”



Vị ni cô nọ mặt đỏ bừng, lắc đầu lia lịa, tay chỉ vào mình, nhìn thấy hắn ta không hiểu mới nắm lấy tràng hạt đeo ở cổ đưa cho hắn xem.



Bích Túc ngạc nhiên nói: “Nàng không nói được ư? Nàng bị câm sao?”



Ánh mắt vị ni cô hiện lên vẻ buồn bã, Bích Túc không kiềm chế được liền nắm chặt lấy đôi tay nhỏ bé của ni cô, xúc động nói: “Không sao, dẫu cho nàng có câm cũng không có vấn đề gì, ta thích nàng, chính là nàng. Khi ta thích nàng, nàng cũng đâu có nói gì với ta, ta nói nhiều như thế, sau này chỉ cần mình ta nói, ta nói nàng nghe, nhà sẽ càng yên tĩnh, nàng hoàn tục đi theo ta được không? Đi theo ta, làm vợ ta nhé, ta rất thật lòng, ta cũng không phải là kẻ xấu xa, ta… Trên thực tế ta là quan đại thần trong triều đình, thân thế trong sạch, tiền đồ sáng lạn…”



Vị ni cô nọ bị hắn ta nắm chặt tay, mặt đỏ lựng, giãy giụa hai cái không được đành đứng yên, không phản kháng nữa mà chỉ lắc đầu lia lịa. Bích Túc vội vàng nói: “Nói cho ta biết, nàng có chịu làm vợ ta không? Nếu như nàng đồng ý, ta sẽ đi tìm trụ trì đại sư đến chuộc nàng… À, không phải, hoàn tục, có phật tổ làm chứng, gật đầu không tính chỉ tính lắc đầu, nàng đồng ý làm vợ ta không?”



Tiểu ni cô quẫn quá đành co người, lắc đầu lia lịa, Bích Túc mới nói: “Nàng lắc đầu? Tức là nàng đồng ý rồi, chúng ta đi thôi.”



Tiểu ni cô lại càng dùng lực để lắc đầu, rồi thoáng cái lại gật đầu, gật đầu lia lịa.



“Nàng gật đầu? Vậy là đồng ý hay không đồng ý?”



Vị tiểu ni cô đơn thuần đáng yêu, vừa nghe hắn hỏi liền kiên quyết và tự nhiên lắc đầu. Bích Túc cười mà nói: “Vậy là đồng ý rồi hả? Vậy chúng ta đi thôi, nếu trụ trì không đồng ý thì chúng ta bỏ trốn! Nàng… nàng là người con gái đầu tiên khiến ta biết rung động.”



Bích Túc quả là mặt dày vô sỉ khi nói như vậy. Trước kia hắn đã từng quyến rũ thiếu phụ nhà đại hộ nhân gia, rồi các thiên kim cũng không ít, những lời ngon tiếng ngọt để lừa gạt phụ nữ hắn cũng không thiếu, nhưng không hiểu sao, đối với vị ni cô không nói được kia hắn lại không giống như trước kia, để lộ ý đồ của mình ngay từ đầu.



Nghe hắn nói vậy, vị vi cô kia không gật cũng không lắc nữa, con ngươi nàng sáng lên một chút, mặt đỏ lên rồi trắng nhợt đi. Bích Túc không để ý, kéo tay cô chạy, khi quay đầu lại nhìn thì Bích Túc mới hoảng sợ giật mình, trước mặt hắn là bốn vị ni cô, trung niên có, nhỏ có, già có, cao có, gầy có, trắng có, đen có, tất cả đều đang trừng mắt nhìn hắn.



Bích Túc kêu lên: “Có thật là các người đi không dẫm phải một con kiến hay không? Tại sao không phát ra âm thanh gì, nửa đêm đồng loạt xuất hiện hù dọa ta.”



Một vị ni cô cao to với làn da đen quát lớn: “Tên điên khùng to gan, dám cải trang thành nữ… Muốn trà trộn vào trong đám ni cô để làm gì đây?”



“Ta…ta… Gia gia đây muốn tìm vợ để cưới, sao hả?” Bích Túc lại giở trò trêu đùa vô lại.



Vị ni cô to béo kia không nói hai lời, trợn mắt, giơ cao tay, rồi chỉ nghe thấy một tiếng “Bốp” vang lên, vòng tràng hạt trên tay bà đã giội mạnh xuống đầu Bích Túc, Bích Túc bị đánh cho lảo đảo, trên đầu sưng lên vài cục, hắn tức giận kêu lên: “Tay khỏe ghê nhỉ, ngươi là một người xuất gia, lẽ nào có thể ra tay đánh…”



“Bốp!” Vòng tràng hạt đó không biết bện bằng loại dây gì mà không đứt, vị ni cô to béo kia vẫn tiếp tục dùng tràng hạt đánh tới tấp, vừa đánh vừa lớn tiếng quát: “Tên lưu manh này, đã cải trang thành nữ vào đây lại còn dám rủ rê đồ đệ của ta, người đâu, bắt tên to gan lớn mật này lại cho ta, đem lên quan xử lý”.



Một đám ni cô ùa lên, Bích Túc thấy vậy liền lập tức ôm đầu trốn như chuột, cố gỡ gạc cục diện: “Gia gia không đánh con gái, bằng không thì ta cho các ngươi biết tay. Tiểu ni cô xinh đẹp, nàng không cần sợ, ta sẽ đưa nàng về, sáng sớm mai ta và nàng sẽ thành thân, ai da, ai dùng gạch đánh ta…”



Đám ni cô đó vẫn quyết không tha, đuổi theo hắn ra tận sân tự, nghe tiếng các ni cô hò hét, dân chúng cũng ùa ra trợ giúp. Ngay lúc đó, Dương Hạo đang đứng ở đầu đường nhìn thấy, Bích Túc đến bước đường cùng bèn giở trò leo tường hòng thoát thân, lần này đích thực là bị mang tiếng kẻ cướp rồi, nhưng cũng chỉ lần này thôi mà.



Từ nay về sau Bích Túc muốn trốn vào gặp vị ni cô xinh đẹp kia cũng không còn dễ nữa rồi, hắn cũng gây chú ý trong đám khách hành hương, hắn muốn giả làm nữ cũng không thành, thế là Bích Túc đành quay về, mỗi tối đều len lén lẻn vào ni am, ẩn nấp ở một nơi bí mật nhìn ngắm tiểu ni cô.



Sau vài ngày quan sát, qua lời nói chuyện của đám ni cô, Bích Túc được biết pháp hiệu của tiểu ni cô đó là Tĩnh Thủy Nguyệt, một pháp hiệu có ba chữ, hắn mới quyết định cũng cạo đầu đi tu, muốn Bảo Kính đại sư đặt cho hắn một pháp hiệu có ba chữ, giống như của tiểu ni cô kia để xứng đôi.



Tĩnh Thủy Nguyệt không cha không mẹ, vốn là một đứa trẻ bị bỏ rơi, năm 9 tuổi bị mắc bệnh nặng nên cổ họng có vấn đề, cô thành ra câm nhưng không điếc. Do không thể nói chuyện nên cô cũng không gây ra bất kì chuyện gì tồi tệ trong tự, khi làm bài tập cũng không phải xướng kinh, do vậy cô chỉ ở trong am quét dọn, nấu cơm, làm vài việc lặt vặt.



Còn vị ni cô to béo kia là trụ trì trong am Bảo Nguyệt, chính bà năm đó đã hóa duyên và thu nhận Thủy Nguyệt về, bà là sư phụ của Thủy Nguyệt, tình cảm giống như mẹ con, do vậy hôm đó khi nhìn thấy Bích Túc lén lút giả gái trà trộn vào am để bắt cóc Thủy Nguyệt, bà mới nổi trận lôi đình, đánh cho hắn một trận nên thân.



Bích Túc hằng ngày ngồi lặng lẽ trong góc tường, ngồi xổm trên xà nhà để nhìn lén tiểu ni cô tát nước, dọn dẹp, vá áo, nấu gơm, sao kinh, mỉm cười…



Dần dà, mỗi nét cười của Tĩnh Thủy Nguyệt in hằn trong đầu của hắn, nếu như hồi đầu hắn để ý cô chỉ vì nét cười mê hồn đó, thì lúc này đây, tình cảm trong hắn đã ngày một trở nên sâu đậm, thứ tình cảm kỳ diệu không thể giải thích mà người ta vẫn hay gọi là “Ái tình”, giờ đây Bích Túc chỉ có thể kín miệng không để lộ ra kế hoạch của mình, chỉ có thể nhốt nó thật sâu mà thôi…



Sau vài ngày quan sát, hắn phát hiện ra rằng những chiếc áo cà sa phải vá không phải chỉ là áo của những ni cô, trong đó còn có những áo khác do các hòa thượng đem tới. Mà theo thường lệ sẽ có hòa thượng đưa rau củ cùng quần áo tới, đồng thời đem quần áo đã được giặt sạch và vá xong xuôi đi. Những ni cô trong am đều đối xử rất hòa nhã với các hòa thượng. Bích Túc lặng lẽ nghe ngóng, rồi sau đó mới hiểu ra những hòa thượng đó đều là người của Kê Minh tự, Tịnh Tâm am cũng là thuộc Kim Minh tự, thuộc quyền quản hạt của Kê Minh tự.



Do thế, Bích Túc liền đến Kê Minh tự xuất gia.



Đi trên điền canh, nhìn những cây cải bắp lên huề huề, Bích Túc cảm thấy giống như được nhìn thấy tiểu ni cô xinh đẹp đang nhìn hắn thản nhiên cười, trong lòng vì thế cũng cảm thấy một cảm giác ngọt ngào…



***



“Hồng Tụ Chiêu” vốn là một lầu xanh có tiếng trong thành Kim Lăng.



Dương Hạo đến Hồng Tụ Chiêu không phải vì danh tiếng của nơi này, mà là vì một câu nói của Hồng Lư Dạ Vũ: “Dương tả sứ nhìn xem, ở bên ngõ chếch đối diện kia chính là phủ của Lâm Nhân Triệu tướng quân.”



Vì câu nói này mà Dương Hạo thấy cũng một công đôi việc, còn Hoàng Phủ Kế Huân thì không ngừng lải nhải khuyên Dương Hạo: “Thế thì đi đến Hồng Tụ Chiêu đi, gọi chút rượu thịt ăn rồi tính tiếp”.



Những cô nương ở Hồng Tụ Chiêu quả thật không tồi, những nha hoàn phục vụ bàn tiệc cũng đều xinh đẹp động lòng người. Bốn người Dương Hạo cùng lên lầu tìm chỗ ngồi, gọi rượu và món nhậu, gọi thêm vài vũ nữ ra nhảy múa, bốn người vừa ăn vằ nói chuyện, Dạ Vũ và Tiêu Hải Đào còn thi nhau chúc rượu, khiến ý thơ lại lên lai láng, Hoàng Phủ Kế Huân dù là võ tướng cũng nổi hứng đối ứng một phen, chỉ có Dương Hạo là không mấy hào hứng, tuy thế do là chủ tướng nên cũng không ai làm khó cho chàng.



Rượu quá ba tuần, thức ăn cũng nếm đủ năm món, con mắt của bậc chính nhân quân tử Dạ Vũ và Tiêu Hải Đào bắt đầu xoay vòng theo những vòng eo của vũ nữ, hứng thơ đã hết nhưng hứng tình lại lên. Hoàng Phủ Kế Huân thấy thế liền cười và gọi má mì đến, bảo mụ ta đem vài cô nương xinh đẹp đến cho các đại gia chọn.



Mụ tú bà dù không biết Hoàng Phủ Kế Huân là ai, nhưng xem cách ăn mặc, lại còn có quân binh theo hầu thì cũng đoán ra hắn không phải người thường, liền gọi ngay những cô nương xinh đẹp nhất lầu ra, đứng thành một hàng cho bọn họ lựa chọn.



Dương Hạo là người mà Hoàng Phủ Kế Huân nịnh nọt, đương nhiên phải ưu tiên cho chàng chọn trước. Dương Hạo từ chối, Hoàng Phủ Kế Huân thấy vậy cũng không nài, bèn nhường cho Dạ Vũ và Tiêu Hải Đào chọn. Hai người liền lẳng lơ mà nhìn mỹ nữ như mèo thấy mỡ, giả đò khước từ hai câu rồi cũng chọn lấy cho mình một cô nương xinh đẹp. Hai người không hẹn mà gặp, cùng chọn trúng một cô nương trẻ tuổi xinh đẹp, mơn mởn như một đóa hoa mới nở.



Hoàng Phủ Kế Huân lại mời Dương Hạo chọn, Dương Hạo biết thời đại này sĩ tử chơi gái cũng vẫn được coi là phong lưu, cũng không phải là chuyện gì ghê gớm lắm. Những cô nương trước mặt dù là gái phong trần nhưng dung mạo cũng diễm lệ, khí chất nho nhã mà không dung tục, không lộ chút gì là gái phong trần, xem ra rất ưng mắt, không khiến cho người khác phản cảm. Thế nhưng cái ngõ chếch đối diện kia vẫn như có sợi dây vô hình nào đó níu giữ Dương Hạo, khiến sự tập trung của chàng đều hướng ra phía ngoài, làm gì có tâm trạng nào mà thưởng ngoạn cái “sơn thủy” này.



Nguồn: http://4vn.eu/forum/showthread.php?71274-Lich-Su-Quan-Su-Bo-Bo-Sinh-Lien-Nguyet-Quan-Full-Text&page=74#ixzz1zqXWxphg

Chương 352: Song sát 

Thấy Dương Hạo vẫn dùng dằng không quyết, Hoàng Phủ Kế Huân thầm nghĩ: “Những vị cô nương này đều không phải là dạng tầm thường, chẳng lẽ vị tướng quân này lại không thể chọn ư? Là do không ưng mắt hay là sợ ta ghi nhớ lại chuyện này mà về bẩm báo? Chuyện này thật chẳng ra sao cả, tự hắn muốn chơi đùa một chuyến cơ mà, quả thực muốn lấy lòng tên sứ thần người Tống này cũng không đơn giản chút nào.”



Hoàng Phủ Kế Huân làm mặt rầu mà rằng: “Hiệp kỹ phong lưu, có điều cũng chỉ là sự thường thôi mà. Tả sứ đại nhân nếu như chẳng nể mặt tại hạ thì tại hạ sẽ cảm thấy mình không xứng để giao lưu với đại nhân mất.”



Dương Hạo thấy Hoàng Phủ Kế Huân có chút giận, liền tiến đến gần cười nhỏ nói: “Hoàng Phủ tướng quân chớ trách, bản quan… bản quan thực ra có chút thích sự trong sạch, không muốn dính dáng tới những cô gái phong trần này, chứ không phải chê hảo ý của tướng quân đâu, xin thứ tội, thứ tội”.



Hoàng Phủ Kế Huân chợt hiểu ra, liền chuyển giọng vui vẻ mà rằng: “À, hóa ra là vậy, haha, thế thì không sao”.



Hoàng Phủ Kế Huân phẩy tay, những cô gái đó liền lui vào trong. Trông thấy Hoàng Phủ Kế Huân đứng dậy, mụ tú bà liền thấp thỏm mà hỏi nhỏ: “Vị đại nhân đó… không ưng cô nương nào ư?”


Hoàng Phủ Kế Huân nói: “Ở đây có ai là vẫn còn trong trắng không?”



“À… hóa ra là muốn tìm người mới, vẫn còn trong trắng,thế thì có đấy, tuy nhan sắc không phải là hết sức xinh đẹp, thế nhưng lại là người thông minh lanh lợi, chỉ sợ không hợp để hầu hạ quan khách…”


“Không sao, cứ gọi ra đây, để cho bạn ta lựa chọn. Bạn của ta thích những cô nương vẫn còn trong sáng, hihi…, chậm đã!”



Hoàng Phủ Kế Huân lại gọi bà ta lại, giọng trầm xuống mà nói một cách lạnh lung: “Chỉ cần là hàng chưa bóc tem, bản quan có thể để yên cho ngươi làm ăn, còn nếu dám cả gan dùng máu gà giấu trong người để giả làm gái tân thì, hứ, nếu bị ta phát hiện ta sẽ cho Hồng Tụ Chiêu của các người phải đóng cửa”.



“Lão thân nào dám ạ, nhất định sẽ chọn hàng thật giá trị để mang đến”. Mụ tú bà vừa cười hihi vừa xuống nhà, Hoàng Phủ Kế Huân quay người cười nói: “Dương tả sứ vừa nãy nói, ủa.. Dương tả sứ đang nhìn gì vậy?”



Thấy Dương Hạo quay hẳn nửa người ra ngoài cửa sổ, dường như không nghe thấy những điều hắn vừa nói, hắn liền chạy đến bên cửa sổ, dõi theo ánh mắt của Dương Hạo, nhưng chỉ nhìn thấy một cô gái đang thong thả treo đèn ở đầu thành Kim Lăng, bước chân thanh nhã, dáng vẻ là một cô nương quý tộc. Hai mắt của Hoàng Phủ Kế Huân chợt sáng lên: “Mạc cô nương?”



Dương Hạo nhìn thấy Chiết Tử Du, trong lòng vừa mừng vừa sợ, lại có chút lo lắng cho nàng. Mới nghe Hoàng Phủ Kế Huân kêu tên nàng, Dương Hạo trầm xuống: “Cô nương này chính là cháu gái của Lâm Nhân Triệu đại nhân?”



“ Đúng là vị cô nương này, tả sứ đại nhân…”



Dương Hạo vừa định thần lại, quay người nhìn Hoàng Phủ mỉm cười: “Hôm đó người mà ta đã gặp trong cung điện chính là vị cô nương này, tư thái quyến rũ, quả là không tầm thường. Hôm nay lại nhìn thấy cô ấy ở đây, đúng là không hẹn mà gặp, đi thôi, chúng ta đi gặp cô ấy”.



“Ôi, tả sứ đại nhân…”



Hoàng Phủ Kế Huân còn chưa nói xong, Dương Hạo đã nhanh chóng xuống lầu, Hoàng Phủ Kế Huân chỉ biết há mồm ngạc nhiên mà nghĩ: “Cũng biết là vị tả sứ này thích con gái nhà lành, nhưng mà…. Cũng đừng tìm con gái nhà quan phủ chứ, nàng ta thân phận cao quý, há mà dễ đối phó? Ôi…”



Con ngươi trong mắt Hoàng Phủ Kế Huân vừa liếc vừa nghĩ: “Mạc cô nương là cháu gái của Lâm Nhân Triệu, hắn mà đi, ngộ nhỡ ăn nói không đúng thì Mạc cô nương nhất định sẽ giận hắn, hai người kết thù chuốc oán, Lâm Nhân Triệu ngộ nhỡ đắc tội với đại thần triều Tống thì sẽ hay ho lắm đây, hihi…”



Nghĩ đến đây, Hoàng Phủ Kế Huân lòng mừng vui khấp khởi, nhanh chóng chạy xuống nhà đuổi theo Dương Hạo, mụ tú bà đang dẫn vị cô nương nọ lên lầu, nhìn thấy hai người hớt hải chạy xuống vội nói với theo: “Tướng quân đại nhân, các ngài đi đâu vậy?”



Hoàng Phủ Kế Huân quát: “Tránh ra, tránh ra, đừng làm nhỡ việc bản tướng quân đi đùa giỡn với con gái nhà lành”.





************************************************** ****





Dương Hạo sau khi rời Hồng Tụ Chiêu liền rảo bước nhanh về phía Chiết Tử Du, vẫn nghe văng vẳng tiếng của tú bà đằng sau lưng: “Quan khách đi thong thả, hoan nghênh quan khách lần sau lại ghé chơi…”



Chiết Tử Du nghe được liền quay lại nhìn, vừa đúng lúc Dương Hạo đến bên, lòng nàng đột nhiên lo lắng khiếp hãi, lúc này đây muốn tránh cũng không còn kịp nữa rồi. Dương Hạo chạy đến trước mặt nàng, nhìn sâu vào mắt nàng, thấy nàng lộ vẻ bối rối, thật khó mà nhìn thấy được vẻ mặt này của Tử Du, Dương Hạo không kìm được bèn mỉm cười nói: “Vị cô nương này có phải là Mạc cô nương ở Lâm phủ hay không?”



Trong mắt Tử Du như có gợn sóng vừa chạy qua, bình thản đáp: “Không sai, chính là bản cô nương, không rõ công tử là ai, tại sao lại chặn đường ta?”



“Nàng không rõ ta là ai ư?” Dương Hạo có chút bực tức hỏi: “Ta không phải đã bảo nàng ngoan ngoãn quay về Tây Bắc rồi sao? Tại sao nàng còn chạy đến Kim Lăng làm gì? Nàng e sợ cho thiên hạ bất loạn phải không?”



Tử Du chớp chớp mắt, nhưng vẫn tỏ vẻ kinh ngạc nói: “Xin hỏi vị công tử, ta có quen biết với công tử sao? Những lời công tử nói ta nghe không hiểu gì hết, hay là công tử nhận nhầm ta với ai chăng?”


Dương Hạo ngẩn người, nhìn cô ta không có vẻ gì là nói dối cả, chẳng lẽ đúng là ta đã nhận nhầm người, xem diện mạo thì không thể nhầm được, đến cả giọng nói cũng là độc nhất vô nhị, làm sao có thể nhầm được? Dương Hạo vô thức quay đầu lại nhìn, chỉ thấy Hoàng Phủ Kế Huân vừa chạy từ Hồng Tụ Chiêu xuống, dáng chứng như đang tọa sơn quan hổ đấu, liền quay đầu lại mà nói: “Ở đây không có người ngoài, nàng còn không thừa nhận?”



Tử Du từ từ ngẩng khuôn mặt xinh đẹp của mình lên nói: “Người nói chuyện thật không có chút đạo lý, bản cô đương đang đi trên đường bị ngươi chặn lại nói những điều hồ đồ, lại còn trách cứ ta? Mau mau tránh ra, bằng không, ta mà cao giọng hô hoán thì những người đi đường sẽ nghĩ ngươi là kẻ lưu manh mà đánh cho ngươi một trận đấy”.



Dương Hạo cười nói: “Võ công của nàng không giỏi sao? Cần gì cứ phải giả bộ yếu mềm để cho người khác đánh ta, nếu nàng có thể giương mắt nhìn người khác đánh ta thì đã không cứu ta lúc ở Châu Quan rồi”. Dương Hạo nhỏ nhẹ nói: “ Tử Du, lúc ở trong phòng ta đã thấy một mũi tên, ta biết, nàng cuối cùng vẫn không nỡ rời xa ta, cho nên mới đi cứu ta, đúng không?”


Vừa nói, hắn vừa đút tay vào trong áo, lấy ra một chiếc khăn tay và mở ra, bên trong là một mũi tên, đầu mũi tên xám xịt, chứng tỏ bị tẩm độc.



Chiết Tử Du nhìn hắn bằng ánh mắt đáng thương, nhẹ nhàng lắc đầu nói: “Ôi, trông người cũng không đến nỗi, không ngờ lại là một kẻ điên”. Vừa nói nàng vừa đi vòng quanh người hắn một vòng, Dương Hạo quay lại chặn trước mặt nàng, cắn răng mà kêu lên: “CHIẾT! TỬ ! DU!”



“Ngươi lớn tiếng như vậy làm gì, dọa ta sợ chết khiếp”. Chiết Tử Du vỗ vỗ ngực, không biết làm sao, nhìn thấy Dương Hạo dáng vẻ bực tức, đột nhiên trong lòng thấy vui vui, khóe miệng mặc dù vẫn không cười những vẫn không nén được mà có hơi chút nhếch lên.



Dương Hạo vui vẻ nói: “Nàng thừa nhận mình là Tử Du rồi sao?”


Tử Du bĩu môi, nửa cười nửa không nói: “Miệng ở trên mặt người, ngươi muốn gọi ta là cái gì chẳng được, trời đã tối rồi, bản cô nương phải về phủ nghỉ ngơi, còn không tránh đường cho ta đi”.



Dương Hạo lại chặn đường nói: “Tử Du, lúc đầu ta hẹn thề son sắt, nói sẽ không phụ nàng, kết quả lại…” là ta hổ thẹn với nàng, cũng không dám níu kéo nàng, nhưng… bất kể như thế nào, tình cảm của ta với nàng vẫn không hề thay đổi, nàng thân gái một mình đến nước Đường này làm gì? Chuyện quân sự không phải là chuyện của nữ nhi có thể giải quyết được, hãy ngoan ngoãn quay về Tây Bắc đi, được không?”



Nghe hắn nói những chuyện như vậy, Chiết Tử Du hết sức tức giận, không nén được mà trợn mắt nhìn hắn, giọng lạnh lùng nói: “Ngươi nhớ kĩ lại được không, ta đã sớm nói với ngươi rồi, Tử Du không phải là tên ta, không cho phép ngươi gọi ta như vậy nữa”.



Dương Hạo nghe xong vừa bực vừa buồn cười, có điều trông thấy Tử Du có dáng vẻ đanh đá như thế, trong lòng cảm thấy nàng rất đáng yêu. Đây mới đích thực là tính cách của nàng, trước kia nàng hơi lý tính, ôm đồm quá nhiều việc, dù rất khả kính, nhưng lại khiến người khác không dám lại gần.



Hắn không kiềm được mà nói: “Nàng vẫn còn không chịu thừa nhận ư? Tử Du, xin nàng nói cho ta biết, nàng chạy đến Kim Lăng này rốt cuộc muốn làm cái gì?”



“Đó là chuyện của ngươi hả? Ngươi nói ta là Chiết Tử Du thì ta chính là Chiết Tử Du đây, thôi được, ngươi cứ việc đứng đó diễu võ dương oai đi, ta là thượng khách của nước Đường, quân thần của nước Đường rất tin tưởng ta, nói không chừng ngươi có thể nói rõ mưu đồ của ta cho nước Tống, còn có thể chặt đầu ta đem dâng nước Tống, như vậy Dương đại nhân có thể lập công lớn rồi”.



Dương Hạo cả giận: “Nàng nói hồ đồ cái gì vậy, nàng biết rõ ta sẽ không để nàng tổn hại đến một cọng tóc, kể cả có phải mất cái mạng này. Ta rất lo lắng cho nàng, Tử Du, nàng không nên tự cho mình là thông minh nữa, nói cho cùng, nàng chỉ là một tiểu cô nương, chuyện thiên hạ nàng sao có đủ sức cứu vãn đại thế được?”



Tử Du cảm thấy lòng rộn ràng, nhưng lại tức giận mà rằng: “Ngươi không hại ta? Ngươi hại ta còn không ít sao? Ta cũng không muốn nói ngươi nữa, chúng ta hiện nay đã không còn quan hệ gì nữa, chuyện của ta ngươi chớ quản”.



Vừa nói nàng vừa liếc nhìn nơi có treo đèn lồng đỏ bên kia đường, không nén được cơn giận mà nói: “Đúng là giỏi quá đi, có được người đẹp cùng búp bê mua vui còn không đủ sao, thản nhiên đi dạo thanh lâu mua vui”.



“Nàng ghen rồi sao? Dương Hạo cảm thấy trong giọng nói Tử Du có vẻ chua chát, đột nhiên thấy vui vẻ hẳn lên.



“Ta ghen ư? Ghen cái đầu ngươi!” Chiết Tử Du đỏ mặt nói: “Ngươi đừng có cho rằng mình đa tình nữa được không? Ta… ta chỉ là cảm thấy ngươi không xứng với hai người phu nhân của ngươi thôi”.


Dương Hạo trong lòng khấp khởi, đổi giọng nghiêm trang nói: “À, về vấn đề này nàng không cần bận tâm. Bọn họ vừa hiền hậu lại vừa hào phóng, thường xuyên dặn dò ta ra ngoài chơi cũng không vấn đề gì, chỉ cần nhớ đường về nhà là được”.



Mũi Chiết Tử Du cảm thấy mũi mình như có ai vặn lấy: “Ngươi… giờ giọng lưỡi của ngươi khá lắm, đã trở thành một kẻ tùy tiện rồi”.



Dương Hạo nhún vai nói: “Cũng chẳng còn cách nào khác, đàn ông không hư hỏng thì đàn bà không yêu mà. Con người ai cũng có thể thay đổi, chung quy cũng là trời sinh thành mà ra, nàng chẳng phải cũng đã thay đổi rất nhiều rồi hay sao?”



Lửa giận bốc lên ngùn ngụt, Tử Du không thèm quay đầu lại nhìn tên vô sỉ này nữa, Dương Hạo thấy dáng vẻ Tử Du như vậy, nụ cười trên môi dần tắt. Rốt cuộc nàng đến thành Kim Lăng làm gì kia chứ? Không được, ta nhất định phải cản nàng, tránh cho nàng đem bản thân và cả họ Chiết không còn đất quay đầu. Thế nhưng… nàng đến nước Đường, ra vào cung như thế là nhằm mục đích gì?”


Hoàng Phủ Kế Huân chạy đến, cười hì hì nói: “Dương tả sứ, vị cô nương này tính tình cứng nhắc, khó đối phó lắm phải không?”



“Ừm, đích xác là rất mạnh mẽ”. Dương Hạo vuốt cằm, mắt mơ mộng liếc nhìn bóng của Tử Du, “có điều, bản quan thích kiểu phụ nữ như thế này,… rất hợp với ta”.



Hoàng Phủ Kế Huân dò xét nhìn Dương Hạo, cười mà nói: “Dương sứ là quan của triều Tống, đến quốc vương nước Đường còn phải nể nang ngài hai ba phần, tất nhiên là không sợ cái ô của cô ta rồi, không…, con ngựa hoang dã này tính tình chưa được thuần dưỡng, nhưng cũng khó mà chạm lắm phải không?”



Dương Hạo bốc đồng nói: “Vậy chúng ta đánh cược nhé?”



“Hay, ta với tả sứ sẽ đánh cuộc với nhau, nếu như tả sứ thắng, bản tướng quân sẽ dâng hai tay tặng tả sứ căn nhà mới tậu của tại hạ, còn nếu như tả sứ thua…”


“Tùy ngươi xử”.



“Haha, nghe nói tả sứ xuất thân người Nam Nha, bản tướng quân vốn rất hâm mộ vương triều Tấn, nếu có cơ hội, xin tả sứ thay mặt dẫn kiến”.



“Nhất định thế, haha, chúng ta đi uống rượu thôi, chờ hai vị đại nhân kia đi ra, chúng ta cùng nhau về phủ nghỉ ngơi, bản quan còn phải suy nghĩ xem dùng cách gì để thắng được căn nhà của ngươi.”



Hai người vừa cuời nói vừa quay trở lại lầu xanh, chỉ trông thấy Tiêu Hải Đào đang sửa sang lại y phục ngồi uống trà, Dương Hạo nhìn hắn kinh ngạc mà rằng: “Tiêu đại nhân nhanh như thế ư?”


Dương Hạo vừa nói ra mới biết mình lỡ lời, nhưng may thay Tiêu Hải Đào cũng không để ý mà nói: “Cái việc này thì chỉ cần sung sướng là ra, chúng ta mất tiền, lẽ nào còn phải tốn công sức cho cái kẻ thu tiền hay sao?”



Dương Hạo cười khan nói: “À… Tiêu đại nhân nói có lý”



Ba người ngồi xuống, lại một lần nữa gọi rượu thịt ra nhắm và tiếp tục nói chuyện phiếm. Mụ tú bà dắt cô gái kia đến rồi thận trọng hỏi dò ý của Hoàng Phủ Kế Huân, lúc này đây hắn mới nhìn được dung mạo của tiểu nha đầu kia. Hoàng Phủ Kế Huân thích vóc dáng thon thả, dáng vẻ phong tình thành thục của cô nương ấy, nhưng không tiện nói. Dương Hạo thì như đang thiếu thiếu cái gì đó, Hoàng Phủ Kế Huân biết rõ bị Tống sứ này chỉ thích thú với việc dụ dỗ con gái nhà lành, nên cũng không nài, xua tay bảo tú bà dẫn cô gái kia đi.



Ba người lại ngồi uống rượu, cho đến khi khách trên lầu đã bắt đầu tản về gần hết, cũng không thấy bóng dáng Dạ Vũ đâu. Dương Hạo không khỏi thầm nghĩ: “Cái tên Dạ Vũ này người gầy như que củi, thế mà lại khỏe như vậy, hắn mà cố được thêm một lúc nữa thì ngay đến cả ta cũng đành bái hắn”.



Hoàng Phủ Kế Huân sớm đã không nhẫn nại được nữa, thấy Dương Hạo lộ vẻ mất kiên nhẫn liền chửi đổng một câu: “Lão già này, da bọc xương, không ngờ lại khỏe thế, vui thú đến hơn nửa ngày rồi mà vẫn còn…”



“A…” Dương Hạo hướng mắt nhìn hắn rồi ho khẽ một tiếng: “Đến rồi”.



Hoàng Phủ Kế Huân quay đầu nhìn, chỉ thấy Dạ Vũ đang từ từ đi đến, cứ như hồn ma đang lượn lờ. Hoàng Phủ Kế Huân không khách khí nói: “Dạ đại nhân già mà kiên cường, thật đúng là sinh ra để được sướng”.



Dạ Vũ cười thỏa mãn: “Cũng được, cũng được. Ba vị đại nhân cũng vui vẻ chứ hả?”



“ Vui, vui chết đi được ấy. Có điều đều không vui như Dạ đại nhân, đã mấy giờ rồi, chúng ta mau về thôi”. Ba người đợi lâu đã sốt ruột, vừa nhìn thấy hắn đi ra bèn đứng dậy hết lượt, Dạ Vũ đi theo đằng sau nói: “Cứ thế đi à? Chúng ta không uống bát canh gà, chậm rãi nhâm nhi chút sao…”



Hoàng Phủ Kế Huân nói: “Lão đại nhân của ta ơi, ông đừng đứng đó mà nhìn nữa, đã mấy giờ rồi? Sắp nửa đêm rồi, sáng sớm mai ông còn phải lên triều, ta không…”


Dạ Vũ cười hì hì nói: “Hổ thẹn, hổ thẹn quá, ai da, cuối cùng cũng đến tuổi rồi, không được như năm đó, không bằng năm đó…”



Dạ Vũ tự biên tự diễn, đoàn người lần lượt xuống lầu, chỉ nghe thấy những tiếng cười nói vọng ra từ phía các gian phòng. Do đêm khuya tĩnh mịch, khách uống rượu đã về hết, những tiếng nói chuyện trong lầu trở nên rõ mồn một, vọng ra tiếng một thiếu nữ nói: “Ai da, đêm nay thật là khiến người ta mệt chết”



Tiếng một người khác nói: “Tỷ tiếp vị khách kia thì nhàn, chỉ bằng thời gian uống một chén trà nhỏ hắn đã ra hết rồi, xem ra muội tiếp tên khách già họ Dạ kia còn gầy hơn khách của ta, thế mà lại mạnh dữ vậy sao?”



Nghe thấy thế, Hoàng Phủ Kế Huân liền lập tức dừng bước, tò mò dỏng tay lên nghe ngóng, phàm là đàn ông thì đều có hứng với những chủ đề này.



Nhưng lại chỉ nghe thấy tiếng của thiếu nữ kia đáp: “ Dũng mãnh cái con khỉ nhà hắn chứ. Mới nằm lên người người ta đã ra rồi, muội còn tưởng lão bất tỉnh, ai ngờ hắn không cam tâm, nhưng trên bảo dưới không nghe, hại muội phải dốc toàn lực giúp lão, qua bốn tuần hương mới thấy có chút biến chuyển, nửa cứng nửa mềm vừa đưa vào đã lại ỉu xìu, đúng là mệt xác với lão già…”



“Phì”, từ miệng Hoàng Phủ Kế Huân phun ra một tiếng xé rách không gian yên tĩnh, vai run lên, Dương Hạo mặt co rúm lại, nhìn vẻ mặt đang cố nhịn cười của Tiêu Hải Đào, lại nhìn gương mặt nửa trắng nửa đen của Dạ đại nhân, chàng khẽ ho khan vài tiếng rồi nói: “Vốn tưởng Dạ huynh là một cái họ hiếm gặp, không ngờ ở Hồng Tụ Chiêu cũng có một vị sư huynh khác họ Dạ”.



Dạ đại nhân như người trút được gánh nặng nói: “Đúng vậy đúng vậy, không ngờ còn có người họ Dạ giống ta, đúng là khéo thật, haha, khéo thật”.



Hoàng Phủ Kế Huân không nhịn được mà bật cười lớn: “Dạ đại nhân, sao ông không đi kết giao với vị huynh đệ họ Dạ kia nhỉ? Biết đâu lại chẳng là người một nhà”.



“Nào có khéo thế…” Dạ đại nhân cười khô nói: “Đêm đã khuya rồi, chúng ta mau đi thôi”. Vừa nói ông ta vừa băng băng đi trước dẫn đường. Khi ánh trăng trên trời soi rọi khắp người, Dạ đại nhân mới cúi mặt chửi thề: “Lần tới nhất định tìm một đứa trẻ hơn chút, những đứa con gái phong tình thế này quả thật không chơi được”.




************************************************** ***




Cũng dưới ánh trăng đó, một con thuyền lớn bỏ neo ngoài khơi Hạo Hàn. Thả neo chắc chắn để con thuyền đứng yên trên mặt biển, theo những con sóng mạnh vỗ, chiếc thuyền giống như một con thú lớn đang thở phì phò.



Trên thuyền, nơi gian phòng xa hoa và lộng lẫy nhất thuyền, bóng hai người mờ ảo giống như những con sóng dập dềnh, những tiếng rên rỉ và hổn hển từ giường vọng ra, cùng với tiếng sóng hòa vào làm một.



“A…” tình cảm mãnh liệt được phóng thích cùng với tiếng gầm nhẹ, có tiết tấu và nhịp nhàng dần lắng vào màn đêm yên tĩnh.



Quá nửa đêm, màn trướng mở ra, một nam tử hán ngực đầy lông thô ráp, người mặc một chiếc quần ngắn màu da báo, tóc tai bù xù trèo xuống đất, đi đến bên bàn trà, rót một ấm trà. Bên trong tấm mành mỏng, bóng một người đang ngồi dậy, từ từ mặc quần áo.



Người đàn ông để ngực trần uống no nước, đi tới phía trước cửa sổ, mở toang rèm cửa, nhìn ánh trăng soi rọi vào trong thuyền, làm mờ cả ánh sáng của hai ngọn nến đang cháy trên bàn. Người đàn ông đó rẽ tóc lại đàng hoàng, nhìn dung mạo thì đúng là hoàng tộc Khiết Đan ở Bắc quốc Da Luật Văn, hắn ngửi theo mùi hương của biển trong gió, hắn chỉ tay lên bờ và hỏi: “Chỗ kia là nơi nào? Chúng ta còn cách thành Kim Lăng bao xa?”



Chiếc màn trên giường được mở ra, một người thanh niên trẻ tuổi mặc quần áo màu trắng như màu của ánh trăng xuất hiện, mặt mũi khôi ngô, răng trắng môi hồng, trên má còn có vài tia đỏ, đó là Đinh Thừa Nghiệp.



Hắn đi tới chỗ Da Luật Văn, nhìn về phía bờ rồi nói: “Nghe lão Đại nói, bên bờ kia là nơi ở của Hoa Đình Huyền. Còn bên cạnh, nơi có nhiều đảo nhỏ là Đại Kim Sơn, Tiểu Kim Sơn và Đảo rùa. Như vậy, cũng không lâu nữa chúng ta có thể đến cửa sông Trường Giang, đi thẳng vào thành Kim Lăng được rồi”.



Hoa Đình Huyền vừa được nhắc tới được xây dựng ở nước Đường như thiên bảo, cũng là Thượng Hải ngày nay. Đinh Thừa Nghiệp tuy không nói ra, nhưng nhà hắn làm nghề buôn, đối với mỗi địa danh đều có biết chút ít, hắn cũng biết chỉ cần đi thêm chút nữa là có thể đến Trường Giang, từ đó thẳng tiến vào thành Kim Lăng.



Da Luật Văn gật đầu, mắt sáng lên, lưỡi đao trên tay hắn sáng lên dưới trăng: “Tốt lắm, sáng sớm mai chúng ta sẽ thả chim ưng Ha Lực Cái, đợi nó bay về đến kinh thành thì chúng ta cũng đến Kim Lăng rồi.”



Đinh Thừa Nghiệp nghĩ tới chuyện sắp xảy ra mà mặt trắng bệch, có chút lo lắng. Da Luật Văn mỉm cười liếc nhìn hắn một cái, nói: “Thành công có được trong những cái nhỏ bé, phú quý có được trong nguy hiểm, muốn có thành công lớn, cũng phải trả một cái giá nào đó chứ, muốn xưng đế xưng bá thì có đôi khi phải tan xương nát thịt, có gì mà phải lo? Nếu như lần này ta có thể trở thành hoàng đế thì ngươi cũng sẽ theo ta mà lên như diều gặp gió, nhưng nếu ta thất bại…”



Da Luật Văn nói lạnh lùng: “có điều sớm thì cũng phải mười mấy năm nữa mới phải vào quan tài, có gì mà phải sợ”.



Đinh Thừa Nghiệp vội nói: “Thần không sợ. Chỉ có điều, đại nhân ở tận Giang Nam xa xôi, lại đòi chiếm phương Bắc khó khăn, cuối cùng có thể thành công được hay không thì cũng khó đoán được. Thần chỉ e rằng…”



Da Luật Văn cười ha hả nói: “Sợ rồi hả? Chuyện này chúng ta đã chuẩn bị rất lâu rồi, chờ đến hôm nay mới phát động, nước chảy thành sông, chúng ta có ở Thượng Kinh hay không thì cũng đã không quan trọng nữa rồi”.



Hắn trở về bên bàn, ngồi nói: “Từ khi Tiêu Tư Ôn giết Mục Tông rồi lập Gia Luật Hiền, chúng ta đã chuẩn bị rồi. Tiêu Tư Ôn chết đột ngột, đó là bước đầu tiên. Chỉ là chúng là sai ở chỗ cứ ngỡ Gia Luật Hiền yếu ớt, không khống chế nổi đại cục, Tiêu Tư Ôn mà chết là xong, ai ngờ hắn không chịu thua, còn lôi ở đâu ra được một mụ hoàng hậu đáng gờm”.



Hắn thở dài, không nén được than thở mà nói: “Cái này, thực ra vốn là nữ trung cân độn, nhìn thấy triều cương không yên, liền đến biên giới Tống ngăn chặn thế hùng, kích động quân Tống Bắc phạt, khiến quân địch bên ngoài tiến đến Thượng Kinh, nhân cơ đó mà phong thưởng lớn, có ân thì kết lão thần, có công được thưởng tân Tấn, Hàn Đức đem toàn bộ gia đình họ Tiêu dồn vào ở khu thân quân, 12 cung một phủ, tổng binh lực cũng có khoảng 10 vạn người, đều là những người tinh nhuệ. Có thể thấy, chúng ta mới chỉ được tạm thời ổn định, chúng ta vẫn tiếp tục chuẩn bị, cho đến hôm nay mới phát động”.



Hắn lại cười nói: “Mượn địch trợ giúp, quả đúng là diệu kế. Tiêu Xước mượn quân Tống để tự bảo vệ mình, phạt Tống lấy lập uy, cái này chỉ có cô ta mới có thể làm được. Ta Da Luật Văn đương nhiên cũng có thể sử dụng. Cô ta mà muốn phản ta bằng cách nhân cơ hội dùng lực lượng của ta ở Thượng Kinh trừ khử ta. Tốt lắm! Ta cho cô ta cơ hội này, tương kế tựu kế, giành được quyền phát động trước, bí mật kết liễu hoàng thượng, Hàn Đức, Gia Luật Cách, Tiêu Thác…



Lý Dục muốn mượn thế của Khiết Đan khiến cho quân Tống bẽ mặt. Ta có thể nể mặt hắn, rồi dìm hắn xuống nước, chuyến đi này đến Giang Nam, tìm cơ hội giết Tống sứ, triều đình nhà Tống đã làm chủ trung nguyên, thế lực không dễ dàng khiêu khích, nhất định nước ta phát động thì nước Đường không còn chỗ tháo lui, chỉ có cách liên minh với chúng ta, chặn đường lui của quân Tống. Quân Tống bắc phạt, khí thế ngùn ngụt, khi đó Thượng Kinh cũng không tránh khỏi loạn lạc.



Ngươi chớ coi ta hôm nay ủng hộ Gia Luật Hiền, nếu như có một ngày thiên hạ thái bình thì thôi, đến khi đó, gia tộc Gia Luật nếu như chỉ có ta Da Luật Văn mới đủ sức nắm càn khôn trong tay, thì bọn họ chỉ có nước mời ta đứng lên thôi”.



Đinh Thừa Nghiệp lo lắng nói: “Vậy còn Tiêu hậu?”



Da Luật Văn nói: “Tiêu Xước, hừ, mụ ta và hoàng đế thì có tình cảm gì đâu chứ? Tiêu Tư Ôn cho bà ta cuộc hôn nhân này, vào cung làm hoàng hậu, chẳng qua là để Vũ gia và hoàng tộc Gia Luật của ta mãi mãi bảo vệ sự hưng thịnh của họ Tiêu mà thôi. Hoàng đế chỉ cần gia tộc Gia Luật của ta thành công, lấy Gia Luật Hiền hay là Da Luật Văn cũng đều có gì khác nhau đâu?



Tiêu Xước vốn là một người thông minh, hiểu được tiến thoái, hiểu rõ được mất, đến lúc đó, để bảo tồn sự an toàn của họ Tiêu, cũng tránh cho Thượng Kinh bị một phen náo động, bà ta chỉ cần thuận tình lập ta lên làm vua, làm hậu của ta, hahaha, giang sơn mỹ nữ, dễ như trở bàn tay, cái nguy hiểm này lẽ nào không đáng để mạo hiểm?”



“Thần rõ rồi”. Trong mắt Đinh Thừa Nghiệp như có một tia sáng lóe lên: “Kế hoạch này mới nghe thì có vẻ khó khăn, chỉ cần ở Thượng Kinh thành công giết hại hoàng thượng, giết được bè lũ Gia Luật Cách, Hán Đức, Hán Thác Trí… rồi dẫn quân Tống bắc phạt, hoàng hậu nương nương bất kể là vì xã tắc hay là vì gia tộc họ Tiêu, hay là vì chính bà ta, thì cũng chỉ có thể vứt bỏ ân oán cá nhân, nghênh đón đại nhân là điều đương nhiên.”



“Không sai!” Da Luật Văn đắc ý cười nói: “Khi rời khỏi Thượng Kinh, ta còn là chi huy sứ của đoàn quân binh mã của gia tộc, khi về Kinh, ta dã là hoàng đế của Khiết Đan, haha.., cái gì mà báo oán, đợi ta lên làm hoàng đế rồi thì ta sẽ sủng ái nàng vài đêm, cái tên ốm yếu vô dụng Gia Luật Hiền đó sẽ bị nàng quên lãng ngay thôi, cô ả sẽ chẳng thể nào quên được cái ngọt ngào mà ta mang lại đâu, hahaha…”



Đinh Thừa Nghiệp lộ vẻ cười hưng phấn: “Không biết vị sứ giả mà nước Tống cử đến nước Đường là người như thế nào, đại nhân chuyến này đi…”


Da Luật Văn cười nói: “Mặc kệ hắn là người thế nào, đợi tin thắng lợi từ Thượng Kinh truyền đến, ta sẽ cho hắn một nhát đi đời nhà ma”.








Chiết Tử Du chậm rãi bước đi trên đường, từ phía xa Trương Thập Tam cũng đang định đi tới, thấy Chiết Tử Du thủ thế, liền cảnh giác, nhìn bốn phía một lượt rồi mới quay lại hòa mình trong dòng người.


Chiết Tử Du tức giận nghiến răng, Dương Hạo, tên khốn nạn, đi theo ta đến nửa ngày rồi, chẳng lẽ sau này ngươi cứ định ngày ngày theo ta, vậy thì muốn làm việc gì cũng khó rồi.



Nàng đi tới một quầy hàng phía trước, tiện tay cầm lên một món đồ trang sức, khóe mắt lấp lánh thì nhìn thấy Dương Hạo đi tới, liền lập tức đứng thẳng người, giả vờ đang ngó quần áo của mấy vị tiểu thư qua đường.



Dương Hạo dày mặt đi đến: “ Hà hà, Mạc cô nương quả thực có con mắt nhìn đời, quần áo của vị tiểu thư kia quả thật là rất đẹp phải không”.



Chiết Tử Du ngẩng mặt nói: “Vậy thì làm sao?”



Dương Hạo cười nói: “Nếu như nàng thích thì ta sẽ cho người lột quần áo của cô ta đem về cho nàng, còn quần áo của nàng thì sẽ thuộc về ta, có được không?”



Chiết Tử Du trừng mắt, nói: “Vô lại!” rồi quay người đi, Dương Hạo khẽ nhíu mày đuổi theo.



Một con đường, hai con đường, ba con đường, Chiết Tử Du chỉ có thể coi hắn là không khí, Dương Hạo lơ đễnh tự hỏi tự đáp, quyết làm một cái đuôi bám theo. Chiết Tử Du không kiềm chế được bèn dậm chân sẵng giọng: “Ngươi theo ta làm gì?”.



“Không có gì, ta chỉ muốn biết nàng muốn làm gì… À, ta biết rồi nhé”



Chiết Tử Du giật mình: ”Ngươi biết cái gì rồi?”



Dương Hạo lộ ra nét cười bí mật: ”Nàng không muốn rời xa ta, biết ta phải đến nước Đường nên nàng mới đến trước để đón ta, cố tình tạo cơ hội cho đôi ta gặp gỡ, có đúng không?”



Chiết Tử Du vừa bực vừa buồn cười, đột nhiên thấy trong lòng rối bời, với dáng điệu không thay đổi, Dương Hạo cảm thấy như có cảm giác được yêu một lần nữa, cái cảm giác lẫn lộn lại ngọt ngào khiến nàng cảm thấy có chút sợ hãi, nàng hỏi: ”Dương công tử, Dương tiên sinh, Dương đại gia, rõ ràng là công tử theo dõi ta có đúng không?”



Dương Hạo làm vẻ mặt vô tội nói: ”Đâu có đâu, chỉ là ta đã có mưu đồ trước là sẽ gặp nàng thôi mà”



” Ngươi... ngươi thật là vô lại!” Chiết Tử Du tức đến dậm chân, đúng lúc hắn ta không biết làm gì thì đột nhiên nghe vọng đến một tiếng la chiêng, phía trước xuất hiện một đoàn binh sĩ, vai khiêng kiệu, vừa đi vừa quát lớn: ”Sứ giả Khiết Đan đến, mau tránh đường!”



Chiết Tử Du tròn mắt, cười nói: ”Khiết Đan xuất sứ đến nước Đường, hihi, từ bây giờ ngươi có việc để làm rồi nhé, không cần phải đi theo quấy rầy ta nữa”.


Dương Hạo quay mặt lại nhìn đám người, vừa nghe được mấy câu, hắn quay đầu lại cười nói nhỏ với Tử Du hai chữ: ”Mơ hão!”



**************************



Vua nước Đường nghênh tiếp sứ tiết Khiết Đan hết sức long trọng. Từ trước đến nay, Khiết Đan và vua nước Đường vẫn giao lưu buôn bán trên biển với nhau, lần này Lý Dục nhiệt tình mời Khiết Đan đến chơi, có thể nói là đã cố nén nỗi khổ tâm trong lòng, một mặt xưng thần với Tống sứ, cốt để quân Tống không tìm ra lý do để đánh Đường, mặt khác vẫn giao du với quân Khiết Đan thế lực hùng mạnh, chiêu này gọi là kim giấu trong bọc, nay tiết sứ Khiết Đan đã đến, hắn tự nhiên lại muốn khoa trương thanh thế.



Dương Hạo không mấy để ý đến sứ giả Khiết Đan. Nhưng Tiêu Hải Đào thì có vẻ hơi căng thẳng, liên tục phái người đến dò la tình hình Khiết Đan. Trước mặt Dương Hạo thì tức giận mà rằng: “Đại nhân, nước Đường đã xưng là thần của nước Tống, là chư thần của nước Tống, nay chưa được sự đồng ý của nước Tống ta lại tự do giao du với Khiết Đan, như vậy há còn đạo lý gì nữa? Thật không hợp lý!”


“Thì sao? Ừm, chờ Mạc cô nương rời khỏi hoàng cung thì ngươi lập tức nói cho ta biết, đi mau, tiếp tục theo dõi cô ta”. Dương Hạo phẩy tay đuổi một gã thị vệ ra ngoài, quay người lại nói một cách lười nhác: “Khiết Đan đã thiết lập quan hệ ngoại giao với nước Tống ta, không phải là quân địch của nước Tống. Nước Đường có quan hệ với họ cũng là có gì đáng chỉ trích? Nước Đường chỉ là một nước chư hầu của nước Tống, nhưng cái quyền tự chủ này cũng phải có chứ hả?”



Tiêu Hải Đào tức giận không nói, một lát sau có được chút tin tức lại chạy đến tìm Dương Hạo: “Đại nhân, sứ giả Khiết Đan đến chơi, nhà Đường bày ra yến tiệc thịnh soạn cùng 360 người nghênh đón, Đại nhân, khi chúng ta tới, họ chỉ cử ra có 120 nghênh đón thôi. Bên trọng bên khinh như vậy làm sao hợp lý? Nước Đường là nước chư hầu của chúng ta, đối xử với chúng ta như vậy chẳng phải không hợp đạo sao?”



“Kể cả bọn họ cử ba ngàn sáu trăm người ra thì đã sao? Bản quan không để ý đến những cái đó.”



Tiêu Hải Đào sốt ruột nói: “Đại nhân, đây không phải là chuyện không có lễ với chúng ta, Đại nhân cầm lễ tiền đến là đại diện cho thiên tử của nước Tống, nhưng lễ nghi lại bị thua kém người Khiết Đan, như vậy quả là mất thể diện nước Tống ta quá ạ.”



“Vậy ngươi bảo làm sao bây giờ? Để Lý Dục xin lỗi, sau đó chúng ta ra khỏi thành, phái 360 người hành lễ, rước đón chúng ta lại từ đầu sao? Đó chẳng phải là trò hề hay sao? Tiêu tự thừa, bình tĩnh một chút, ta nghĩ đang có người hy vọng chúng ta giận quá mất khôn đấy!”



“Vâng!”



Chớp mắt đã đến trưa, Dương Hạo vừa dùng bữa xong, vừa mới uống một ấm trà, Tiêu Hải Đào lửa giận bừng bừng đến: “Đại nhân, muốn nhẫn nại cũng không thể nhẫn nại nổi nữa. Sứ giả Khiết Đan đã cống nạp dê cừu mỹ tửu, áo long cừu cho vua Đường, vua Đường lấy vàng bạc châu báu đáp lễ là được rồi, còn trao kim ấn cho họ, làm sao họ có quyền lấy kim ấn ra trao thưởng?”


Dương Hạo trừng mắt nói: “Ai bảo bản quan không biết? Ta nào biết hắn có quyền lực gì ? Ngươi nói xem hắn có quyền đó hay không?”



“Cái này… hạ quan không nhớ rõ có tiền lệ này hay không, đại nhân chờ hạ quan đi kiểm tra luật cổ lễ xem sao. Nếu như không hợp lý, chúng ta có thể căn cứ vào đó để công khai lên án Lý Dục”.


Dương Hạo nghe câu được câu chăng, cũng không để tâm lắm, Tiêu Hải Đào thì đi đi lại lại với Quy thừa tướng, lúc này đây đang hết sức chú ý động tĩnh của triều đình.



“Đại nhân đại nhân” Tiêu Hải Đào lật đật chạy lại “Đại nhân, quốc tiệc thiết đãi sứ giả Khiết Đan sắp kết thúc, đoàn sứ giả sắp về nhà khách. Vua Giang Nam còn phải đích thân đến tiễn ra cửa ngọ môn, đến đại nhân đại diện cho thiên tử nước Tống mà còn không được hành lễ như thế, vua Giang Nam thật đúng là không ra thể thống gì cả.”


Dương Hạo than thở nói: “ Tiêu tự thừa, xem ông vã mồ hôi kìa, đến đây, ngồi uống cốc trà đi”.



“ Tạ đại nhân, hạ quan không uống, người nước Đường quá đề cao dân Khiết Đan, không sợ quân Tống ta sao? Hứ, hạ quan lại đi xem tình hình thế nào”. Tiêu Hải Đào chớp mắt đã không thấy đâu nữa, Dương Hạo nhìn theo bóng ông ta mà dở khóc dở cười: “Cái tên Tiêu tự thừa này, khi tức lên thật đáng yêu, nhưng thật ra như vậy cũng có chút khí tiết”.



Một thị vệ lanh lẹ tay chân đi tới, đứng bên Dương Hạo nhỏ giọng nói: “Đại nhân, thuộc hạ thừa lệnh theo dõi Mạc cô nương, cô ấy vào cung đã lâu mà vẫn chưa thấy ra, sau đó thay quần áo thường phục, nói nhỏ với tên phu xe vài câu, sau đó Mạc cô nương ở trong đó đến đêm mới ra”.



“Hả?” Dương Hạo trợn tròn mắt: “Lâu như vậy sao?” Cô ta đang tính trốn ta hay sao? Hừ, dễ mà qua mặt được ta sao? Ta đi ngủ trước, để mai tập trung tinh thần tiếp tục đấu với cô”.


Dương Hạo vừa đứng dậy, Tiêu Hải Đào mặt mũi đỏ gay chạy lại nói : ”Đại nhân, người chắc chắn là không biết ai là người đích thân ra tiễn đoàn sứ giả Khiết Đan về nhà khách đâu”


Dương Hạo liếc mắt nói: ”Chắc là Dạ Vũ đại nhân chứ gì, ông ta không phải là đại hồng bột hay sao, tiếp đãi sứ giả cũng là nhiệm vụ của ông ta mà”


”Hì!”



Tiêu Hải Đào dậm mạnh chân, tức giận nói: ”Dạ Vũ tất nhiên phải có mặt rồi, nhưng còn có một người trong cung đích thân đến, đó chính là đại thần thủ phủ của Đường Quốc, Khu Mật sứ Trần Kiều, hắn ta vốn là tể tướng của nước Đường mà. Khi đại nhân mới vào cung, hắn còn không đích thân đón tiếp. Đây là điều sỉ nhục và khinh miệt đối với nước Tống ta, đại nhân phải lập tức vào cung, kháng nghị đến cùng với vua Giang Nam!”



Dương Hạo ngáp một cái, nhổ ra một lá chè, rồi làm như không có việc gì mà nói: ”Không có việc gì khác sao? Nếu không có việc gì khác thì bản quan đi ngủ đây, nghe nói ở đây xuân vây thu thiếu, quả thật là không giả. Đất Giang Nam này đã vào đông, đúng là có cảm giác như đang vào thu, thật dễ buồn ngủ, Tiêu đại nhân nếu không có việc gì làm thì cũng đi ngủ đi, cho lại tinh thần, chạy đi thêm vài nơi nữa, cố gắng thu thập hết thông tin về đường đi, sông ngòi, ao hồ, đóng quân... rồi ghi lại, như vậy mới là việc đúng đắn.”



Dương Hạo thắt lại thắt lưng, thản nhiên đi mất. Tiêu Hải Đào đứng nhìn theo bóng chàng đi mất mà phát run.



Dương Hạo nằm khoảng hai tuần hương thì chìm sâu vào giấc ngủ, khi đang say say ngủ thì Tiêu Hải Đào lại tức giận chạy vào: ”Đại nhân, đại nhân.”


Dương Hạo quay lưng ngồi dậy, cười khổ sở nói: ”Tiêu tự thừa, lại nghe ngóng được chuyện gì mà không nhịn nổi như vậy?”



Tiêu Hải Đào phẫn nộ nói: ”Hạ quan không phải là nghe ngóng được tin gì cả, mà là tận mắt nhìn thấy. Sứ giả Khiết Đan vừa mới vào dịch quán đã chê ỏng eo là ở nơi đó xa xôi quá, sân cũng không bằng nơi chúng ta đang ở. Bọn họ còn muốn chúng ta dọn đi nơi khác, nhường nơi này cho bọn họ, Chương chỉ huy lý luận với bọn họ còn bị bọn họ động hủ, đã làm bị thương mười mấy binh sĩ quân ta rồi!”


Dương Hạo ngẩn người, mắt trở nên mơ hồi... Rồi bỗng nhiên quát lớn: ”Thị vệ của chúng ta đều là cấm quân, nói về võ công thì cũng không thua kém bọn Khiết Đan, sao lại để chúng động thủ uy hiếp như thế?”



Tiêu Hải Đào nói: ”Đại nhân không biết đấy thôi, bọn họ chỉ nhằm mục đích gây sự. Chương chỉ huy nghe nói binh sĩ xảy ra tranh chấp đã mang quân đến hòa giải, vốn không muốn động thủ với bọn chúng, đến gươm giáo cũng không mang theo, nhưng đối phương lại dùng binh đao, lẽ nào chúng ta chịu thiệt? Hồng Lư tự Dạ Vũ cũng có mặt nhưng hắn không khống chế được bọn Khiết Đan kia, đại nhân, chúng là theo lý mà nói phải là thượng khách của nước Đường, vua Đường đối đãi, nghênh tiếp chúng ta là trách nhiệm của ông ấy, nhưng đến nay lại để xảy ra chuyện như thế này, ông ta còn như người ngoài cuộc không can dự. Đại nhân nên đến làm rõ lý lẽ với lão ta”.



”Kháng nghị cái đầu ông, Tiêu đại nhân, ông không thể nói chuyện khác được à?”



Dương Hạo tức đến nỗi nói thô lỗ với Tiêu Hải Đào, chàng vừa mặc quần áo vừa nói: ”Phàm mà kháng nghị, thì đa phần đều là những kẻ ở vị thế thấp mà nói cao, chứ nếu không cần chi phải kháng nghị? Kháng nghị có cái tác dụng gì, bọn họ làm như thế nào chúng ta sẽ làm như thế, đánh cho bọn hắn đi về gặp tổ tiên không phải là xong ư?”


”Hả, phải... phải động thủ sao?”



Tiêu Hải Đào lắp bắp nói. Ông ta không ngờ rằng một người tính tình tốt như thế, tốt đến mức tưởng chừng như mềm yếu lại có thể dữ đến như vậy, ông ta kinh ngạc nói: ”Cái này, cái này sợ rằng không ổn, chúng ta là ngoại sứ, đến nước Đường làm khách. Có xảy ra chuyện gì thì cũng cần chủ nhà lộ mặt, nếu như chúng ta ở trong nhà khách đánh nhau với hội Khiết Đan thì chẳng phải cũng là loại vô lễ nghĩa giống chúng hay sao? Nước Đường sẽ được thể mà lên mặt. Vua nước Đường truy ra ngọn ngành thì chúng ta sẽ không bị thiệt đâu”.


”Theo lý cái con khỉ mốc!”



Nguồn: http://4vn.eu/forum/showthread.php?71274-Lich-Su-Quan-Su-Bo-Bo-Sinh-Lien-Nguyet-Quan-Full-Text&page=74#ixzz1zqbgEfPR

Chương 353: Xung đột 

Dương Hạo xỏ giày, đứng thẳng lưng, lấy thanh gươm mà Chiết Tử Du tặng chàng treo trên tường xuống, vừa giơ kiếm, vừa hét lên một tiếng “cha”, chàng nhìn kiếm, đút kiếm lại vào vỏ rồi đeo lên lưng. Vừa buộc lại đai lưng vừa nói: “ Thời Hán vũ đế, đại tướng Lý Nghiễm Lợi đã đổ máu trong cuộc chiến Đại uyển, thây phơi ngàn dặm, đó không phải là vì Tổ quốc của ông ta đó sao? Theo cách nói của ngươi là không hợp đạo lý, không hợp đạo lý thì làm sao? Sau trận chiến đó thắng lợi rực rỡ, các chư quốc Tây vực nhìn ông ta như thế nào? Từng hoàng thổ thế đạo, tịnh thủy bát phố, tất cung tất kính. Nếu như tặng cả thần tiên nữa thì e rằng trên thiên giới các thiên sứ bất mãn. Khi Lý Nghiễm Lợi đem quân đi, các nước chư hầu đều đích thân nghênh tiếp từ 10 dặm, khi về nước thì các quân vương mang theo vàng bạc châu báu ra đích thân đón tiếp thiên tử Trung nguyên.



Cuối cùng Hán vũ đế không còn được cường thịnh như xưa nữa thì thế nào? Quốc vương nước Khang khi tiếp kiến sứ giả chư hầu đã sắp xếp để sứ giả Ô Tôn của Đại Hán sau cùng, rồi quốc vương càng thêm ngạo mạn không nói một lời mà giết chết sứ giả, kết quả nước Hán nổi giận, phái thêm vài sứ giả đến rồi đều bị giết chết, tại sao phải tiền cung hậu cứ? Do thực lực mà thôi. Ngươi có lễ nghĩa và ngươi hy vọng người khác tôn trọng ngươi? Vậy ngươi đi đoạt lấy chức quân vương đi, có một vài người nói nhẹ không ưa chỉ ưa nặng, không cần biết có lễ nghĩa gì hết đâu, đi thôi!”



Dương Hạo vừa nói xong liền bỏ ra ngoài, Tiêu Hải Đào ngẩn ra hồi lâu mới vội vàng giật mình nói: “Nếu biết sớm đại nhân vốn nóng tính thế hạ quan đã không bẩm báo cho ngài, việc này làm to ra cũng đành vậy nhưng chớ có làm đến mức không gì cứu vãn nổi”.



“Bây giờ thần ưng của ta hẳn đã bay về đến Thượng Kinh rồi chứ nhỉ?”



Gia Luật Văn nhìn về phía bầu trời xanh xa xôi, suy nghĩ một lát, rượu Giang Nam mềm mại thơm ngon, dù trên bàn tiệc rất sung sướng thoải mái, nhưng đó chỉ có tác dụng làm cho mặt thêm chút hồng, không thể biến đổi được gì.



Đinh Thừa Nghiệp đi đến trước mặt hắn, nói: “Đúng vậy, với tốc độ bay của Ha Lực Cái thì giờ đã đến Thượng Kinh rồi. Đại nhân không ở Thượng Kinh để tự mình chủ trì đại cục , không biết ở đó tình hình ra sao”



Gia Luật Văn mỉm cười nói: “Ta ở Thượng Kinh, bọn họ lúc nào cũng sẽ đề cao cảnh giác, không chỉ ta, kể cả quân bộ tộc của ta cũng sẽ đều bị quan sát chặt chẽ. Bất kể là ai cũng đều không ngờ tới rằng, khi ta đang ở Giang Nam xa xôi lại có thể xảy ra cuộc phản động công kích, xuất kích bất ngờ mới có công hiệu”.


Hắn vuốt vuốt râu, dương dương tự đắc: “ Người Hán các ngươi binh thư hữu vân, có năng lực mà không thể dương oai, có thể dụng mà không thể dùng, đó chính là đạo lý. Ta rời Thượng Kinh, Tiêu Xước tự cho là được kế, bọn họ mới lơi là cảnh giác và cho ta cơ hội. Lúc này đây ta mà ở thượng Kinh tự tay nắm giữ quân bộ tộc càng dễ dàng đắc thủ. Bọn họ tuyệt đối không nghĩ rằng ra- một kẻ ‘ốm yếu bệnh tật’, phụ thân đại nhân cũng rời đất bộ tộc, bí mật đến Thượng Kinh khống chế quân bộ tộc của ta, haha.. chứ không hề biết phụ thân đại nhân của ta lúc nào sẽ phát động”.



Đinh Thừa Nghiệp an ủi: “Đại nhân không cần phải quá lo lắng, lão Vương gia cưỡi ngựa cả đời, kinh nghiệm chinh chiến cũng phong phú hơn người, chắc chắn sẽ chọn được người thích hợp nhất để tiến hành chiến lược này”.



Lúc này, một thị vệ vội vã chạy vào bẩm báo: “Đại nhân, người Tống không chịu dọn đi, chúng thần đã cãi nhau một phen, hai bên bắt đầu động thủ rồi ạ”.



Gia Luật Văn trừng mắt nói: “Người của chúng ta không bị thiệt chứ?”



Tên thị vệ đó liền cười hi hi mà rằng: “Đại nhân yên tâm, nhờ phúc lớn của đại nhân, chúng ta đã chuẩn bị kĩ trước khi đến, ai cũng có giắt vũ khí theo người, đánh bị thương vài người của bọn chúng, người của chúng ta thì không ai bị thương cả. Có điều, chúng ngậm bồ hòn, đợi binh lính đến đều đã mang theo vũ khí, sợ rằng muốn đánh một trận lớn”.



Gia Luật Văn cười ha hả nói: “Chúng dám? Ta cũng đang muốn bọn chúng mang binh đến đây, đi, ta ra xem”.



Đinh Thừa Nghiệp vội vàng khuyên: “Đại nhân, hiện nay ở Thượng Kinh vẫn chưa có tin tức gì đích xác, chi bằng đừng sinh sự vẫn hơn”.



Gia Luật Văn hiểu ý mà cười: “Đương nhiên bây giờ ta vẫn chưa thể giết Dương Hạo, có điều cũng phải cho hắn mất hết uy phong”.



Đinh Thừa Nghiệp ngẩn người, mặt đột nhiên trắng bệch: “Dương Hạo? Dương Hạo là ai?”



Gia Luật Văn nói: “Sứ giả của nước Tống là Dương Hạo, nghe nói hắn khi ở Tây Bắc đã giao lưu với Gia Luật Cách, ắt hẳn là một con người văn võ song toàn, chúng ta đi gặp hắn”. Gia Luật Văn nắm chặt con dao giắt lưng rồi đi, Đinh Thừa Nghiệp ngây người đứng tại chỗ.



“Dương Hạo, có phải là Dương Hạo không?” Đinh Thừa Nghiệp nghĩ lại cái người đã khiến cho mình sợ đến mức lâm vào cảnh như thế này. Bất giác ngọn lửa căm giận từ từ bốc lên, hắn kéo vành mũ trên đầu xuống che mặt, theo Gia Luật Văn ra ngoài.



Dạ Vũ đứng ở giữa hai bên, khom người thở dài nói: “Chư vị, chư vị, chư vị từ xa đến đây làm khách, đều là thượng khách của nước Đường, có gì thì từ từ thương lượng với nhau, hà cớ gì phải vì chuyện nhỏ này mà mất hòa khí?”



Chương Đồng Châu quát lớn: “Chương Gia chúng ta vốn đường đường là nam tử hán, hôm nay các ngươi làm bị thương vài anh em, ngươi bảo ta là phải nhân nhượng ư, họ Chương chúng ta không sợ, Dạ đại nhân, mời ngài tránh ra một bên, hôm nay Chương Đồng Châu ta nhất định phải đòi công bằng từ bọn Khiết Đan.”



Chương Đồng Châu đứng bên cấm quân thị vệ,quần áo chưa kịp chỉnh tể, rõ ràng là nghe tin xong liền chạy đến ngay, sau lưng có một vài binh sĩ cầm dao, mâu, do đến muộn nên một vài binh sĩ đã bị thiệt, chỉ huy đang cùng giao thiệp với đối phương, do đó chưa có ai lên chiếm thế. Hai bên mặt đối mặt, Gia Luật Văn mặc chiếc quần da báo, chân đi giầy, rõ ràng là một đại hán của Khiết Đan, thế mà trong tay lại cầm theo không ít vũ khí, khiến ai cũng chăm chú nhìn theo, rõ ràng là đã có sự chuẩn bị kĩ trước khi đến đây.


Bọn họ nghe thấy Chương Đồng Châu nói như vậy thì cười ha hả mà rằng: “ Người nhà Tống các ngươi chỉ là giỏi khoa môi múa mép, có bản lĩnh gì thực sự thì mau thể hiện ra đây, người Khiết Đan chúng ta mới thực sự là những bậc anh hùng hảo hán, các ngươi có bản lĩnh thì thử giết ta xem, ta sẽ cho các ngươi nếm mùi lợi hại, chứng thực tiếng tăm hảo hán! Nếu như các ngươi không có tài cán gì thì hãy cuốn gói đi vẫn còn kịp, còn chỗ này bọn ta ở là chắc rồi.”



Hai bên lửa giận bừng bừng, đều đang muốn nhảy vào nhau đánh lộn. Dạ Vũ khổ sở khom mình khuyên giải: “Các ngài bình tĩnh đã, có gì nói chuyện với nhau, ai đó đi mời sứ giả Gia Luật và Dương trái sứ đến, bản quan thật sự không can nổi rồi”,



Ngẩng đầu lên thấy Dương Hạo và Tiêu Hải Đào đang đi đến, Dạ Vũ không nén nổi mừng rỡ: “Tiêu tự thừa ngài đến đúng lúc lắm, mời ngài can ngăn dùm, tử viết, lễ chi dùng, cùng vi quý. Tiên vương chi đạo, tư vi đắc ý. Ồn ào như thế này Đường quốc chúng tôi thật mất mặt quá, thật chẳng giống ai rồi.”



Tiêu Hải Đào vốn định ra mặt khuyên can, để tránh cho Dương Hạo phải ra tay. Nhưng nghe thấy những lời nói này lại thấy rất bực mình, không nén nổi mà lớn tiếng phản bác: “ Dạ hồng lư há lại muốn đoạn chương thủ nghĩa? Đã có câu: ‘Lễ chi dùng, cung vi quý. Tiên vương chi đạo, kỳ vi mỹ’. Vừa muốn cái này lại muốn cái kia, như vậy không được. Biết lễ nghĩa thì hòa hảo, bằng không thì khó lắm. Hôm nay là do người Khiết Đan thất lễ trước, Dạ đại nhân đến không làm gì được lại chỉ trích người Tống chúng tôi thất lễ hay sao?”


Hai bên võ sĩ giương cung giương kiếm, hai người cầm đầu ở hai bên lại không hề qua lại một lời, bên này dường như chuẩn bị biện luận thì bên kia cũng sẵn sàng giở lý, không chỉ những võ sĩ hai bên nghe không hiểu, đến Dương Hạo cũng không hiểu.



Hóa ra Dạ Vũ trích dẫn lời của Khổng Tử, nói về dĩ hòa vi quý. Ở nơi này từ xưa đến nay đều rất chuộng nói đạo lý, khiến người ta mâu thuẫn thì lại không thủ lễ, mà Tiêu Hải Đào lại phản bác ông ta, như vậy theo cách nói của Khổng Tử thì là vạn sự dĩ hòa vi quý. Nhưng Khổng Tử cũng nói rằng nếu như bất kể làm việc lớn nhỏ gì cũng đều dĩ hòa vi quý thì không thể khống chế quy củ pháp luật, như vậy là làm mất nguyên tắc.



Hai tên mọt sách đáng thương bị hai võ sĩ dẹp ra không thương tiếc, dường như trong mắt họ, hai tên ưa lý luận kia chỉ là một cọng cỏ mà thôi. Dương Hạo nghe bọn họ cứ lẩm bẩm những lý lẽ phản biện mà phát bực, tiến lên vài bước mà nói: “Việc này Khổng Tử cũng không thể giải quyết nổi đâu, hãy để lão tử ta giải quyết”.



Quân Tống nghe thấy vậy liền quắc mắt, dạt sang hai bên cho Dương Hạo và Tiêu Hải Đào đi lên, tay nắm chặt gươm, hai người từng bước từng bước đi lên phía trước.



“ Đại nhân, chúng thần có lý trước. Chỉ tại bọn chúng động thủ đả thương người của chúng ta trước. Đại nhân, chúng thần không ngại đi vào cung…”



“Người đâu, Tiêu tự thừa mệt rồi, mau đỡ ông ấy vào trong nghỉ ngơi”



“Tuân lệnh!” Hai tên cấm vệ quân người Hán lưng hùm vai gấu, thân cao thước tám xuất hiện, đỡ hai bên Tiêu tự thừa rồi kéo ông ta vào trong.



Dạ Vũ mặt trắng bệch hỏi: “Dương trái sứ định giải quyết thế nào?”



Dương Hạo sắc mặt trầm xuống, điềm nhiên nói: “Dùng thanh kiếm trong tay ta”.



Dạ đại nhân vừa nghe thấy liền hốt hoảng: “Dương trái sứ tuyệt đối không được, nếu như các ngài ra tay thì sự tình sẽ càng thêm phức tạp, hạ quan…”



“Người đâu, Dạ đại nhân cũng mệt rồi, mau kéo ông ấy đi nghỉ ngơi”



Những lời nói này không phải xuất phát từ miệng Dương Hạo mà là từ thủ lĩnh Khiết Đan. Hắn cười hì hì nhại theo câu nói của Dương Hạo, ngay lập tức cũng có hai tên lính Khiết Đan chạy tới kéo Dạ Vũ sang một bên.



“Không được động thủ, không được giết người” Dạ Vũ và Tiêu Hải Đào bị kéo vào trong cùng thi nhau hét lớn.



Dương Hạo nhìn con người cao to đang đứng vững như bàn thạch trước mặt, đó chính là thủ lĩnh Khiết Đan. Khí thế như núi, tay nắm chặt chuôi đao to đùng, chuôi đao bằng đồng sáng chói ngời, không biết đã bị ngón tay cái của hắn chạm vào biết bao lần. Hắn híp hai mắt trầm giọng nói: “Bản quan là Chỉ huy sứ của bộ tộc Khiết Đan, các hạ là ai?”



Dương Hạo cũng hơi nheo mắt nói: “Bản quan là Hồng Lư Tự Thiếu Khanh Dương Hạo của Tống quốc, chính là các người đã đến đây làm hại người của ta?”



“Roẹt” một cái, hai bên binh sĩ của Khiết Đan và nước Tống đều nhất tề rút gươm, làm thành một vòng vây hình tròn bao quanh hai người, một quan văn, một quan võ. Một người cầm gươm, một người cầm đao, hai bên nhìn nhau tóe lửa như sắp sửa lao vào nhau đến nơi



Nguồn: http://4vn.eu/forum/showthread.php?71274-Lich-Su-Quan-Su-Bo-Bo-Sinh-Lien-Nguyet-Quan-Full-Text&page=74#ixzz1zqbjnSNw

Chương 354:Miệng nói một đằng, lòng nghĩ một nẻo



Nguồn: http://4vn.eu/forum/showthread.php?71274-Lich-Su-Quan-Su-Bo-Bo-Sinh-Lien-Nguyet-Quan-Full-Text&page=74#ixzz1zqblBxZt

Là lão tử đây, a!”



Lý Giai vừa nói xong, đột nhiên một lưỡi kiếm sáng như tia chớp vụt tới, nhanh tới mức hắn không kịp phản ứng, hắn cảm thấy mặt mày xây xẩm, chỉ có thể hét lên một tiếng thảm thiết, Dương Hạo đã thu lại lưỡi kiếm sắc bén.



Lý Giai hồn xiêu phách tán, tay chân lạnh ngắt, toàn thân run rẩy, đao thị uy này đã khiến hắn tưởng chừng như mình bị bổ ra làm hai, cả người đứng hồi lâu không nhúc nhích được, mãi lâu sau mới bắt đầu nhúc nhích, hai tay hơi động đậy, cúi đầu nhìn lại mình.



Hắn vẫn khỏe mạnh nguyên vẹn, chỉ có điều khi vừa cử động, quần áo trên người bị xẻ đôi làm hai, đai lưng bay lả tả rơi xuống đất, cả thân hình trần như nhộng đứng đó, một dòng máu chảy từ rên mặt xuống sống mũi, xuống ngực, Lý Giai không nén nổi một tiếng kêu rên rỉ.



Dương Hạo thở dài nói: “Bị thương đến da thịt sao? Tại hạ học nghệ không giỏi, quả thực lấy làm xấu hổ”.



“ Ngươi, ngươi…ngươi” Lý Giai như trông thấy quỷ, tay run rẩy chỉ vào Dương Hạo, không nói được lời nào.



“ Xem ra các người cùng nhau xông lên đi, hắn ta một mình sợ không trụ được đâu”.



Dương Hạo cười khinh miệt, lấy ngón trỏ chỉ vào bọn võ sĩ Khiết Đan đang đứng sợ hãi, lúc này đây bọn chúng mới dường như sực tỉnh, lửa giận ngùn ngụt bốc lên, ai nấy đều rút đao ra khỏi bao, nhưng đã bị Chương Đồng Châu kịp thời ngăn lại.



Trong mắt những chuyên gia thì đường kiếm đó của Dương Hạo có tốc độ rất cao, hơn nữa đường kiếm lại chuẩn và ổn định. Kiếm pháp này căn bản là không cần thêm ai tiến lên trợ giúp. Mặc dù như vậy, Dương Hạo chỉ là trái sứ khâm sai của nhà Tống, một khi để xảy ra chuyện gì thì cái chức vụ thị vệ của hắn cũng không gánh nổi trách nhiệm, nên Chương Đồng Châu tự mình dành lấy hai thanh đao, tiến lên trước hai bước, chăm chú dõi theo nhất cử nhất động của Dương Hạo, lúc nào cũng sẵn sàng nhảy lên ứng cứu.



Dương Hạo cầm chặt Thanh Sương kiếm, lưỡi kiếm như cầu vồng, nhân nhược du long, tay áo tung bay phấp phới, mặc dù bốn phương tám hướng đều là những tay võ sĩ Khiết Đan với tay dao sắc bén, ánh mắt lạnh lung giống như cuồng phong ngày tuyết, nhưng hắn vẫn như tuyết trung độc vũ, phóng khoáng tự tại.



“Quan Thiên Hành, bị thương chỗ nào không?”



Bọn thị vệ cấm quân thấy vậy hoa cả mắt, chỉ thấy Dương Hạo hét lớn một tiếng, người thị vệ có tên Quan Thiên Hành kia ngẩn người, bước lên trước một bước hành lễ, cao giọng bẩm báo: “Khởi bẩm trái sứ, thuộc hạ bị đạp ở bên trái”.



“Hừ!”



Lời của Quan Thiên Hành vừa dứt, Dương Hạo liền phi một cước, kiếm thế thượng liêu, hai thanh đao cũng đồng thời trợ giúp, một chân đá vào sườn dưới của tên đại hán Khiết Đan, chỉ nghe thấy tên kia hét lên một tiếng, lăn lộn xuống dưới đất như một con lật đật. “Hự”, máu từ trong mồm hắn tuôn ra ồng ộc, hắn dùng đao chống người dậy, thế nhưng đòn này của Dương Hạo đã khiến hắn trọng thương, không thể nào động đậy được, chỉ hơi động một chút máu lại phun ra, cả người hắn đổ gục trên mặt đất, mặt trắng bệch.



“Lý Trư Bà, ngươi bị thương ở đâu?”



“Thuộc hạ, vai phải của thuộc hạ bị trúng đao”- tên đại hán dâu dài vừa giữ bả vai vẫn đang rỉ máu vừa nói.



Ánh dao như một dải lụa phất qua trước mặt, Dương Hạo đưa lưỡi dao tiến vào nhanh như gió. Lưỡi đao vừa ào ào đưa ra, một võ sĩ Khiết Đan nắm chặt đao trong tay cũng nhanh tay đỡ đòn, đòn của Dương Hạo như gió lốc bay tới. “Leng keng leng keng”, tiếng binh đao chạm nhau tóe lửa, tay cầm đao buông thõng, bị một đao khác bay đến, chỉ nghe thấy “hự” một tiếng, tên đó đi lùi lại phía sau vài bước, đao trong tay rơi xuống đất. Cánh tay phải buông thõng, máu tươi từng giọt từng giọt theo dọc bàn tay nhỏ xuống.



“Ai bị thương ở đâu mau lên báo cáo”.



Dương Hạo gào to một tiếng, bọn cấm vệ quân như lên tinh thần, lần lượt nêu tên như học sinh đi học điểm danh.


“Đại nhân, ty chức Đạm Mãn Đình, đầu gối bị thương”




“Đại nhân, thuộc hạ Quách Tư Thân, bị thương ở ngón tay”



“Đại nhân, thuộc hạ Thu Tội…”



“Thuộc hạ Lưu Lưu…”



Dương Hạo quay lại, nhìn binh sĩ. Hắn không mảy may chú ý đến những việc khác mà chữa trị cho từng người, đợi đến khi không còn một binh sĩ nào đến báo cáo tình hình bị thương nữa, hắn mới lo đến thân mình. Lúc này, đã có bảy, tám võ sĩ Khiết Đan mất sức chiến đấu, đang phải rời chiến tuyến. Dương Hạo cười một tràng dài, lưỡi kiếm trong tay bắt đầu hóa thủ vi công, trên chiến trận không ngừng phát ra những tiếng kêu kinh ngạc cùng những mảnh vụn của quần áo sau trận chiến. Đợi đến khi Dương Hạo hiên ngang thu kiếm trở về, ngang nhiên đứng cách chỗ đối phương ba tấc, trước mặt hắn giờ là một tên thân thể cường tráng, tóc tai bù xù, đứng lẫn trong đám người.



Tên võ sĩ đó tay cầm đao, không tiến cũng chẳng lùi, đứng trước đám quân Tống đang cười nhạo chỉ thấy mặt tím bầm, nhưng lại không biết làm gì cho phải.



Gia Luật Văn vừa mới đến nửa đường, chỉ thấy một viên quan nhà Tống đang đánh cho thuộc hạ của hắn hồn xiêu phách tán, trong lòng cũng không khỏi lo sợ. Hắn không ngờ rằng vị quan văn nhà Tống này lại có thể có kiếm thuật hay như vậy, so với khả năng của hắn thì Gia Luật Văn quả thật không phải là đối thủ. Nếu như người này chính là Dương Hạo, thì chỉ e là có mười nhát, trăm nhát, chứ cả nghìn nhát cũng không thể chặt đứt cơ thể của hắn ta.



Hắn thấy thị vệ của mình bị đánh cho tơi tả, trong lòng hết sức căm hận. Đợi cho Dương Hạo quay người bước đi, trên chiến trường chỉ còn bảy tám tên thị vệ bị Dương Hạo dùng đòn chẻ quần áo vẫn đang nằm đấy. Mỗi người một vẻ xấu xí, nhận cái nhìn chế nhạo của người Tống. Mặt xanh mét, Luật Văn bước tới, trầm giọng mắng tên thị vệ đang trần truồng nằm đó: “Còn không mau cút đi? Còn chưa đủ mất mặt hay sao?”



Dương Hạo ngay lập tức quay người lại, thấy hắn cười trầm nói: “Các hạ thật uy phong, thật là thủ đoạn, tại hạ sứ giả Khiết Đan Gia Luật Văn vẫn còn chưa được thỉnh giáo, chẳng hay các hạ tôn tính đại danh chi?”



Dương Hạo cười ha hả nói: “Nói hay lắm, bản quan là sứ giả nhà Tống, tên Dương Hạo”



Gia Luật Văn bình tĩnh cười nói với “Tống sứ” : “Các hạ thân là sứ giả nhà Tống, đại diện cho quốc phong của một nước. Tuy ngài có kiếm thuật tuyệt diệu, nhưng dùng thủ đoạn đê hèn để lăng nhục võ sĩ nước khác, thật không đáng mặt chính nhân quân tử. Đây là hành vi của riêng mình Tống sứ, hay người Tống các người đều cũng một giuộc như vậy?”



Dương Hạo quay đầu nhìn Tiêu Hải Đào cười nói: “Ngươi xem, khi ngươi hơn hắn, hắn phải chịu cúi đầu hành lễ thỉnh giáo ngươi rồi. Giả dụ hôm nay người bị bại trận thê thảm là ta, thì ắt hẳn hắn sẽ lấy dao mà mổ lợn ăn mừng mất.”



Gia Luật Văn mặt đỏ lên, hắn đích thực đã thấy võ công của Dương Hạo quả rất lợi hại, ắt hẳn nếu hắn mà có ra tay thì cũng không phải là đối thủ của Dương Hạo, cho nên mới giở giọng văn ra. Không ngờ Dương Hạo kiếm đã sắc bén, miệng hắn còn sắc sảo hơn, khiến Gia Luật Văn đột nhiên giận dữ, tay nắm chặt chuôi đao, nghiến răng nói: “Các hạ còn tiếp tục lăng nhục sứ giả Khiết Đan chúng ta? Các hạ tưởng rằng quân Khiết Đan chúng ta không có người tài giỏi hay sao? Người đâu, mau bắt tên sứ giả họ Tống này cho ta, ai có gan dám phản kháng, lập tức giết không tha.”



Đám đông binh sĩ Khiết Đan hô hào ầm ĩ, lần lượt lôi đao ra, xông lên phía trước. Trông thấy bọn người Khiết Đan cố tình khiêu khích trước mặt đông đảo mọi người, ai cũng hằm hằm vác theo binh khí, quân Tống lại không nhiều người, ngay lập tức, họ quây thành vòng, những vệ binh cấm quân bị thương và không có tấc sắt trong tay thì đứng ở giữa, những người có vũ khí đứng ngoài, tạo thành hàng rào bảo vệ.



Đột nhiên, Chương Đồng Châu tiến đến bên Dương Hạo, giọng khẩn cấp: “Mời đại nhân lùi xuống”



“Vội cái gì?” Dương Hạo đủng đỉnh lấy ra một chiếc khăn tay trắng như tuyết để trong áo, để thanh kiếm cao ngang ngực, cẩn thận lau lưỡi kiếm. Cho đến khi trên thanh kiếm hết sạch mùi tanh của máu tươi, Dương Hạo mới dừng tay, ném chiếc khăn thấm máu đi. Chiếc khăn bay theo cơn gió lớn đang nổi lên, lượn vài vòng trong không trung, bay qua mái nhà, bay quá sân sau, qua khóm hoa, qua đầu rất nhiều chiến sĩ quân Tống.



Đa phần vũ khí của quân Tống là cung tên, quân lính ai cũng đều được trang bị cung tên, trên trận địa dày đặc những mũi tên đang được giương lên sẵn, hình thành một phòng tuyến dày đặc không có khe hở, tất cả mũi tên đều đã được giương lên sẵn sàng. Quân Khiết Đan ở đây, có ai là có tốc độ nhanh hơn đường đi của mũi tên đây?



Mặt Gia Luật Văn liền biến sắc, Dương Hạo cười gằn: “Bản quan đem theo Tống quốc lễ tiền mà đến, lễ tiền ở đây, tức là vua nước Tống ở đây. Nơi này là nơi đoàn sứ giả Tống quốc ở, tượng trưng cho lãnh thổ nước Tống, ai dám tiến lên một bước, coi như đó là hành vi xâm phạm lãnh thổ. Các tướng sĩ của ta phải canh giữ nơi này, nếu như có ai dám xâm phạm, giết không tha!”



Quân Tống ầm ầm vâng lệnh, Dương Hạo cũng chẳng thèm nhìn Gia Luật Văn lấy một cái, quay người bước đi, Dạ Vũ cũng đã thoát được khỏi vòng vây của bọn Khiết Đan, vội vàng nói: “Dương trái sứ xin dừng bước, mọi người không nên làm mất hòa khí, có gì thì có thể từ từ thương lượng”.



Dương Hạo mạn tiếng nói: “Nếu như sứ giả Khiết Đan có thành ý và xin lỗi chúng tôi về chuyện xâm phạm Tống quốc, bồi thường cho những binh sĩ bị thương của ta, bản quan sẽ bày tiệc rượu coi họ như thượng khách. Bằng không, chẳng có gì cần phải thương lượng hết. Đây là địa phận nước Đường, nếu như có xảy ra vấn đề gì, quý quốc sẽ khó lòng mà không bị liên lụy. Dạ đại nhân, đại nhân và quốc vương nợ chúng tôi một lời giải thích đó, chúng tôi vẫn đang đợi các ngài.”







Trong cung Đường, Chương Bác đang chơi cờ với Lý Dục tại thư phòng, Chương Bác tuy rằng chỉ là nịnh bợ Lý Dục, nhưng hắn cũng đích thị là một kẻ tài tình. Hắn không tín Phật, nhưng để lấy lòng Lý Dục, hắn lại nghiên cứu tinh thông Phật học, nói những đạo lý nhà Phật làu làu. Hắn đánh cờ cũng rất giỏi, nước cờ của hắn có thể gọi là cao minh, đến Lý Dục cũng còn kém hắn một bậc.



Hắn biết Lý Dục không muốn bị nhường cờ, nếu như giả vờ ngẫu nhiên để cho Lý Dục thắng một ván, hai ván thì còn được, chứ thực ra hai bên đều đã biết rõ thực lực của nhau, muốn nhường cờ mà không để lại dấu thì cũng khó mà làm nổi, do đó khi đánh cờ hai bên tuyệt đối không có chuyện nhường nhịn gì.



Chương Bác giở hết thực lực ra, Lý Dục liền hết cờ ngay lập tức. Lúc này, khi hắn sắp mất nước đến nơi và đang phải đau đầu suy nghĩ, tìm cách gỡ giải thế cờ, thì một người trong cung đi vào, đến gần hắn thủ thỉ: “Quốc vương, đại lý tự khanh Tiêu Nghiễm cầu kiến”.



Lý Dục đang chăm chú với bàn cờ, không buồn ngẩng đầu lên mà phất tay nói: “Bảo hắn đợi ta một lát”


Người cung nhân nọ khẽ “vâng” một tiếng rồi lặng lẽ ra ngoài.



Tiêu Nghiễm chờ ở bên ngoài đi tới đi lui, sốt ruột như đang bị kiến cắn, đợi mãi mà vẫn chưa thấy Lý Dục triệu kiến, bèn nhờ viên cung nhân nọ lại vào lại bẩm báo. Nhưng khi viên thị vệ ra ngoài vẫn chỉ nói hắn đợi thêm một chút. Vì đã vào giục vài lần mà chưa thấy có kết quả, viên thị vệ kia cũng sợ kinh động mà không dám vào gọi nữa.



Tiêu Nghiễm giận dữ, đẩy viên thị vệ sang một bên rồi xông thẳng vào thư phòng, thấy quốc vương vẫn đang ngồi đánh cờ, mặt còn đang hỉ hả vui sướng. Tiêu Nghiễm không suy nghĩ gì, tiến đến gần bàn cờ, Lý Dục lúc này vẫn còn chưa phát giác, cơn giận trong người Tiêu Nghiễm bùng lên, hắn không nghĩ được gì nữa, hất tung bàn cờ đang chơi xuống nền nhà văng tung tóe.



Lý Dục giận dữ, đứng bật dậy, trông thấy Tiêu Nghiễm hắn mới sực nhớ ra lúc nãy thị vệ có vào bẩm báo vài lần là có Tiêu Nghiễm xin yết kiến. Lý Dục tức giận nói: “Hành vi này của ngươi có phải là muốn học Ngụy chinh làm phản phải không?”



Tiêu Nghiễm không sợ mà nổi giận nói: “Ngụy chinh thiên cổ danh thần, Tiêu Nghiễm sao dám so bì! Thần không bằng Ngụy chinh, Quốc vương đương nhiên cũng không bằng Đường Thái Tông”



Thấy Tiêu Nghiễm có vẻ còn tức giận hơn cả mình, Lý Dục quay ra cười ngược: “Thôi đi, ta tham tiếc ván cờ, làm chậm việc bẩm báo của khanh, là ta có lỗi. Vậy rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì mà khiến cho Tiêu Nghiễm đây nóng lòng như lửa đốt vậy?”



Tiêu Nghiễm vẫn chưa hết bực dọc: “Sứ giả Khiết Đan và nhà Tống xung đột, hai bên dánh nhau một trận lớn rồi. Hôm nay hai bên đã đem nước Đường ta ra làm chiến trường, đao ra khỏi võ, tiễn thượng huyền, hết sức căng thẳng, hoàn toàn không coi nước Đường ta ra gì. Thần thấy sắp lớn chuyện rồi, quốc vương còn ngồi đây ung dung đánh cờ?”



Lý Dục trước còn ngơ ngác, sau lại đổi thái độ, vui vẻ cười nói: “Hai bên đã mâu thuẫn nhanh như vậy sao? Nhưng là do bên Tống khiêu khích chăng? Có ai bị chết không?”



Tiêu Nghiễm nói: “Cũng không phải là do bên Tống khiêu khích, mà là sứ giả Khiết Đan đòi chiếm nơi ở của bên Tống. Hai bên sau trận khẩu chiến, sứ giả Khiết Đan đã đánh bị thương bảy, tám người nhà Tống, khiến Dương tống sứ tức giận đả võ sĩ Khiết Đan, hai bên coi như hòa. Nhưng chả ai chịu nhường ai , hôm nay vẫn còn giương cung bạt kiếm, Dạ đại nhân vẫn sợ hãi không dám rời đi, phái người đi bẩm báo với thần, bảo thần cấp báo lên Hoàng thượng để Người cấp tốc nghĩ cách giải quyết!”



“Đúng là do người Khiết Đan khiêu khích sao? Không ai bị thương thật chứ?” Lý Dục tỏ vẻ thất vọng, hắn đã mở yến tiệc thịnh soạn thiết đãi người Khiết Đan là cố ý đón tiếp thịnh soạn hơn nhà Tống một bậc, muốn chọc tức Dương Hạo, nếu như Dương Hạo sách nhiễu lại hắn thì hắn sẽ mượn cơ quân Khiết Đan ở đ ây mà đổ trách nhiệm lên bọn Tống sứ.



Nước Tống vốn là chủ quốc của nước Đường, mâu thuẫn này cũng nhân tiện mà chuyển ra ngoài. Nếu như Dương Hạo căm hận khiêu khích đoàn sứ giả Khiết Đan thì thật đúng ý, hắn khong những có thể mượn đao Khiết Đan để trừ khử cái gai trong mắt, hơn nữa như vậy cũng có cái cớ mà đuổi hắn về nước, nhân tiện trừ bỏ được cái gai trong mắt, sau đó giả vờ là để tránh mâu thuẫn thêm gay gắt giữa hai bên, giữ gìn thượng quốc sứ tiết, làm cho Dương Hạo có cảm giác đã được mang ân đức mà rời đi.



Thật không ngờ, người khiêu khích trước lại chính là đoàn Khiết Đan, nếu như Dương Hạo phẫn nộ phản kích lại, đánh chết người Khiết Đan thì lúc đó tình thế hỗn loạn đến mức không gì cứu vãn nổi nữa rồi. Đó sẽ là chuyện của hai bên nhà Tống và Khiết Đan, Lý Dục không có cách nào giải quyết, thậm chí, hắn có thể ung dung ngồi thế tọa sơn quan hổ đấu.



Thế nhưng cả hai bên đều không đi đến nước không cách gì cứu vãn, hai bên đều chưa dốc hết thế lực, bản thân hắn là vua muốn giả câm giả điếc cũng không xong, chuyện này quả thật giả lơ không được mà ra tay cũng không xong.



Lý Dục chắp hai tay đi đi lại lại trong phòng, cuối cùng thở dài mà rằng: “Triệu ngay Hoàng phủ Kế Huân, phái binh mã đến khống chế cục diện, chớ để sứ giả hai bên lại tiếp tục xung đột”.


“Thật không ngờ tên Dương Hạo này lại có kiếm thuật siêu như vậy, ta thật đã đánh giá thấp bọn sứ giả nhà Tống.” Gia Luật Văn bực mình đi đi lại lại trong phòng, hai mắt đỏ rực đầy sát khí.


Đinh Thừa Nghiệp đứng bên cạnh, khuôn mặt khôi ngô đang méo mó vặn vẹo, hắn cũng không ngờ, tên Dương Hạo này quả thật đúng là người đó, nếu như đây không phải Dương Hạo thì bây giờ hắn sao được tiêu diêu tự tại? Nếu như người đó không phải là Dương Hạo, hắn đã không phải là Đinh Thừa Nghiệp. Hắn đã dời đến Khai Phong, bao vinh hoa phú quý của hắn, hà tất phải bỏ hết để nằm ngửa mua vui cho tên Khiết Đan lỗ mãng này? Là nam mà phải ẻo lả như nữ, leo lẻo nghênh đón, thử hỏi còn có chi nhục hơn?



Nghĩ tới Dương Hạo, Đinh Thừa Nghiệp hận một nỗi không phanh thây hắn ra được thành trăm mảnh, tự mình giày xéo hắn dưới ruộng. Thật không ngờ hắn còn trở thành sứ giả của nhà Tống, đến Giang Nam làm thượng khách. Ngày xưa nhà Đinh là một nhà gia nô, bây giờ lại bị dồn đến tình cảnh này, thử hỏi ông trời có công bằng không?”



Khi nhìn thấy Dương Hạo từ xa, hắn đã phải sợ hãi núp sau lưng những võ sĩ Khiết Đan, xấu hổ khi gặp lại hắn. Nhưng ánh mắt căm hận lại cứ nhìn chòng chọc vào Dương Hạo, hận nỗi không thể giết chết hắn, xé xác hắn ra, như vậy mới thỏa cơn tức. Vừa nghe thấy lời của Gia Luật Văn, Đinh Thừa Nghiệp nói: “Đại nhân, tên đó nếu như võ công cao cường như vậy, nếu chúng ta muốn ra tay e rằng cũng khó. Hơn nữa hắn có vòng trong vòng ngoài bảo vệ, phòng thủ vững chắc, võ công lại cao siêu, muốn hạ hắn, chỉ có thể án binh bất động chờ cơ hội, kiếm vài võ sĩ đắc lực đi khử hắn.”


“Không vội!” Gia Luật Văn cắn răng cười thầm nói: “Đợi Thượng Kinh bên kia có tin tức đã rồi hẵng tính”. Hắn thở dài một hơi, quắc mắt nói: “So với đại sự của chúng ta thì một tên Dương Hạo có là cái gì. Có điều, nỗi nhục này ta quyết không bỏ qua”.



“Đại nhân, tên Dương Hạo này dám làm nhục các võ sĩ Khiết Đan, tước quần áo khiến các võ sĩ trần như nhộng trước mặt các quan thần nhà Đường, điều này thật là một điều phỉ báng lớn, không thể bỏ qua”.



“Ta đương nhiên sẽ không cho qua vụ này, hắn là người ta nhất định phải giết, có điều phải đợi chờ thời cơ”. Gia Luật Văn nhướn lông mày, trên mặt lộ ra một nụ cười đầy hàm ý: “Ngươi khá lắm, coi nỗi nhục của ta là nỗi nhục của ngươi, một lòng một dạ suy nghĩ cho bản quan, haha, đúng là ta đã không nhìn lầm ngươi.”



Vừa nói, Gia Luật Văn vừa nắm lấy bả vai Đinh Thừa Nghiệp, hôn lên trán hắn một cái, Đinh Thừa Nghiệp dù đã quen với kiểu “sủng ái” này của hắn, nhưng giữa ban ngày ban mặt thế này mặt y cũng đỏ lựng lên. Không dám quá mạnh tay đẩy Gia Luật Văn ra, hắn chỉ dám khẽ giãy ra. Thấy biểu hiện đó của Đinh Thừa Nghiệp, Gia Luật Văn càng làm tới, bàn tay to bản của hắn theo đà giật phăng dây lưng của Đinh Thừa Nghiệp, ngón tay thô sần nhéo mông y một cái.



Đinh Thừa Nghiệp lùi lại một bước, nâng chén trà lên đưa cho Gia Luật Văn, nói tránh đi: “Đại nhân, Lý chỉ huy cùng những binh sĩ đang còn quỳ trong điện, nếu như đại nhân đã nguôi cơn giận thì nên thả cho họ đứng dậy thôi”.



“Lý Giai?” Gia Luật Văn quắc mắt, cười lạnh nhạt: “Mười mấy tên võ sĩ mà không làm tổn hại được một sợi tóc của Dương Hạo, đúng là lũ bỏ đi, còn cần làm gì? Bọn chúng bị Dương Hạo làm mất mặt như vậy cũng là nỗi nhục của ta đây, chủ nhục thần tử, bọn chúng lẽ nào không đáng chết?”



Gia Luật Văn nổi cơn giận làm Đinh Thừa Nghiệp như chợt hiểu ra lời nói của y như thêm dầu vào lửa, liền đưa trà tới bên Luật Văn, nghĩ tới Lý Dục cùng những binh sĩ bị lột quần áo trước mặt quân nhà Tống, y cũng không nén nổi tức giận, ném chén trà xuống đất vỡ tan tành.



Đôi lông mày của y khẽ nhíu lại, đằng đằng sát khí: “Đi. Mấy tên ngu xuẩn còn dập đầu tạ tội, gia quyến của bọn chúng có thể vì cái chết của bọn chúng mà nhận được trợ cấp, miễn làm nô lệ, nếu không, hừ!”



Những bộ quần áo giáp của đội quân Đường đang tiến vào sân, chỉ có thể trông thấy cờ của đoàn sứ giả Khiết Đan và nhà Tống bay phấp phới, hai bên lấy cờ làm điểm mốc, mỗi bên tự lấy bao bố, xe cộ làm thành phòng tuyến, từng đoàn quân đi phòng tuyến, giơ gươm rút cung, dường như nơi đây đã thực sự trở thành chiến trường.



Hoàng Phủ Kế Huân vừa nhìn đã kinh sợ thất sắc, luôn miệng nói : “Quân ta mau vào giữa, tránh để hai bên xảy ra xô xát”.



Đoàn quân hòa bình của nhà Đường rầm rập tiến vào sân với những mũi giáo nhọn hoắt dựng đứng, hình thành một phòng tuyến kiên cố dày đặc.



Một vị chỉ huy sứ chắp tay xin chỉ thị: “Tướng quân, nếu như bọn hắn không nghe lời khuyên, kiên quyết tấn công đối phương, làm hại đến cả quân ta thì chúng ta có dùng vũ lực ngăn lại không?”


Hoàng Phủ Kế Huân trừng mắt quát mắng: “ Người Bắc rất mạnh, há cùng một trận chiến? Nhớ rõ, chúng ta cần phải bảo toàn”



Vị chỉ huy kia nghe thấy vậy cố nén giận mà rằng: “Tướng quân, Khiết Đan và nhà Tống đều là người Bắc, không rõ ý của đại nhân là chỉ bên nào?”



“Người Tống và Khiết Đan đều không được phép đắc tội, có điều quân Khiết Đan là hàng xóm của nước ta, là hàng rào che chở cho nước Đường chúng ta. Không được đắc tội, nhớ lấy, nhớ lấy”.



Hoàng Phủ Kế Huân dặn dò kỹ lưỡng, những tấm phòng ngự cũng đã được bố trí thỏa đáng, hắn mới thu mắt nhìn khắp nơi một lượt, quan sát cẩn thận rồi tiến vào sân của đoàn sứ giả Khiết Đan.



Trong sân đoàn Tống sứ, Tiêu Hải Đào vừa đi thăm quan chiến hào một vòng trở về, thấy Dương Hạo đang ung dung ngồi uống trà, không nén được mà nói: “Người Khiết Đan đang theo dõi chúng ta từng tí một, e rằng bọn chúng vẫn chưa từ bỏ được ý đồ đâu, triều đình đang chủ trương trước tiến phía Nam sau mới đến Bắc, một khi đã thống nhất thiên hạ lúc đó mới vui vẻ kết giao cùng Bắc quốc. Hôm nay triều đình đã chuẩn bị lệ binh, chuẩn bị tiến công Giang Nam, nếu ngộ nhỡ kích động Bắc quốc thì ngọn lửa chiến tranh ắt bị dấy lên, làm hỏng việc quốc gia đại sự của chúng ta. Dương trái sứ, ngài và tôi không cáng đáng nổi đâu”.



Dương Hạo mỉm cười nói: “Không sao, người này có thể thay mặt Khiết Đan đi sứ Nam Đường. Nhất định là bên cạnh Gia Luật Hiền và Tiêu hoàng hậu có thân tín bên cạnh. Như hôm nay ta thấy, trong nội bộ Gia Luật Hiền và Tiêu hoàng hậu ắt đã có nhiều bộ tộc nổi loạn không nghe lời, nếu như bọn sứ giả ở nước Đường bị chúng ta xỉ nhục, điều này truyền ra ngoài sẽ khiến dân không phục, nhân cơ hội các bộ tộc nổi loạn sẽ mượn cớ lật đổ Gia Luật Hiền và Tiêu hoàng hậu đó sao? Nước Khiết Đan dựng nước đã lâu, nhưng suy nghĩ vẫn ấu trĩ man di, đừng thấy chúng dã man, tướng mạo thô kệch, chốn quan trường thì thiên hạ như một, báo xỉ không báo thù, báo công không báo quá, việc này bọn chúng đã chịu nhịn một bước, làm sao giấu nổi thiên hạ? Chuyến này trở về sẽ bị thất sủng là cái chắc”.


“Chỉ hy vọng như thế”. Tiêu Hải Đào bán tín bán nghi, lo lắng không yên.



Đúng lúc đó, Dạ Vũ hấp tấp chạy đến, mặt trắng bệch nói: “Xảy ra chuyện lớn rồi, xảy ra chuyện lớn rồi. Sứ giả Khiết Đan đang rất tức giận khi bị Dương trái sứ lột quần áo, đã ra lệnh cho họ tự sát. Bảy tám di thể trần như nhộng vẫn đang nằm trong sân, nhìn sợ phát khiếp. Dương trái sứ à, mối thù này cho qua thôi, có được không, có được không?”



Tiêu Hải Đào vừa nghe thấy đã nhảy dựng lên, kinh hoàng nói: “Có việc này sao? Chết rồi, vậy là đi toi rồi. Chúng ta quân số có hạn, nếu như chúng lợi dụng đêm tối đánh lén thì e rằng nơi đây khó an toàn. Đại nhân, hay là chúng ta vào cung để triều đình cho binh mã bảo vệ an toàn đi thôi”.



Dương Hạo nghe thấy vậy cũng hơi lo lắng, nhưng rồi lại trấn tĩnh lại rất nhanh. Hai vị đại nhân gọi mãi, nhưng hắn vẫn bình chân như vại, đợi hai người nói xong, hắn mới hớp một ngụm trà rồi thản nhiên nói: “Dạ đại nhân, người đã chết chẳng phải tâm tính là ổn định sao?”



Dạ Vũ ngạc nhiên : “Hả?”



Dương Hạo cười như chẳng có chuyện gì xảy ra: “Nếu người chết tâm tính ổn định rồi thì ngay cả cách làm việc cũng tỉnh rồi”.



Nói rồi hắn đứng dậy nói: “Ông xem, bị nhục thì lại giận cá chém thớt, bức thuộc hạ tự sát để tránh làm mất thể diện bản thân, không cho tiếng thất bại lan ra ngoài. Như vậy là triết học lang hả? Mà người Tống chúng ta thì không như thế, chúng ta hành nghĩa nhân đạo, là vương đạo, như vậy mới có thể tin tưởng và thân thiết. Dạ đại nhân, ông nói có phải vậy không?”



Nói rồi hắn vẫy Tiêu Hải Đào lại gần nói nhỏ: “Nay hiểu”



Sau khi nói nhỏ câu đó, Tiêu Hải Đào liên tục gật đầu, vội vã cất bước đi, Dương Hạo đến bên Dạ Vũ, vỗ vai hắn vài cái rồi cười cười nói: “Kết bạn cũng vậy, có khi hai mắt phải lau đi lau lại cho rõ thì mới không nhận lầm người. Vua nước Đường là người thông minh, Dạ đại nhân cũng là người thông minh, tôi nghĩ chắc các ngài cũng không làm chuyện gì ngu xuẩn phải không?”



Trán Dạ Vũ lấm tấm mồ hôi, nghe những lời đó của Dương Hạo hắn nhất thời không dám ho he gì, chỉ nghĩ thầm trong đầu: “Hắn đã nhìn ra dụng ý của ta rồi sao?”


Ánh đèn rực rỡ về đêm, sóng xô mạn thuyền, dập dà dập dềnh.



Lúc này đây ánh trăng đang chiếu rọi sông Tần Hoài, gần hai bên bờ, những cửa hàng rực rõ đèn đuốc. Chiết Tử Du đang thơ thẩn dạo chơi ven sông, nhưng bất giác lại quay đầu lại xem để xác định rõ là không bị ai bám theo, sau đó chợt quay người đi vào một quán trà nhỏ ven thư viện Giang Nam.



Thư viện này được xây dựng từ đời Đông Tấn, tể tướng Vương Đạo nhà Đông Tấn cho rằng “Trị quốc lấy việc bồi dưỡng nhân tài thương nhân làm trọng”. Do đó ven bờ sông Tần Hoài người ta xây dựng nên một thái học, đến nay trở thành thư viện Giang Nam. Do thư viện được xây tựa vào ngói xanh gạch trắng nên quanh đó có rất nhiều cửa hàng bán tứ bảo, cũng có nhiều quán trà và tửu lầu.


Chiết Tử Du tiến vào quán trà, ước chừng thời gian khoảng một nén hương, cô liền tha quần áo giả dạng làm một người dân thường, sau đó chuồn ra ngoài qua lối cửa sau, ngó xung quanh không có ai cô mới nhanh chóng chạy ra khỏi ngõ nhỏ, lẩn vào đám người xung quanh.



Chiết Tử Du tiếp tục ở lại trong trà quán, chậm rãi nhâm nhi cốc trà rồi bỏ lại vài đồng tiền lẻ, chậm rãi lên lầu ngắm cảnh xung quanh. Đứng trên lầu cô vẫn không thấy có người bám theo, lúc này cô mới thở phào nhẹ nhõm, tuy nhiên trong lòng vẫn có chút hậm hực: “Tên xấu xa, chỉ có lời ngon tiếng ngọt là nhanh, chẳng có chút nhẫn nại nào cả, chẳng có chút thành ý nào cả!”



“Haha cô nương đúng là khó chiều. Tiến đến gần thì không thích, mà chạy ra xa thì lại hận. Quay người lại, Chiết Tử Du giống như một con thỏ bị dồn đến bước đường cùng, quay đầu nhìn lại chỉ thấy ngọn đèn lập lòe đằng xa. Nguời đứng kia mặc y phục trắng như tuyết, phong độ nhẹ nhàng. Không lẽ đó là người mà Tử Du gọi là ‘tên xấu xa’?



Chiết Tử Du nhất thời đỏ mặt, đôi mắt không giấu nổi vẻ xấu hổ nhìn vào người kia nói: “Đúng là đáng ghét, tại sao ta đi đâu ngươi cũng theo đó?”



Dương Hạo nói: “Miệng thì nói thế nhưng trong lòng lại không nghĩ thế, âu đó cũng là cái đặc quyền của nữ giới”.



Chiết Tử Du hờn dỗi: “Ngươi nói gì?”



Dương Hạo nhìn sang bên phía “Đào hoa lâu” ở đối diện, mỉm cười nói với Chiết Tử Du: “Mời trước không bằng ngẫu nhiên mà gặp. Mạc cô nương, có thể vui lòng cùng tại hạ đến “Đào hoa lâu” uống vài chung không?”




**************



Trong gian nhã thất, hai chén rượu trắng được rót ra, hai người ngồi bên nhau, bên ngoài cửa sổ là dòng nước sông chảy xuôi về hướng Tần.



Có lẽ đã lâu không bình tâm ngồi với nhau như vậy, quan hệ bây giờ và quá khứ đã không còn như nhau nữa, là bạn? Hay là thù? Có tình? Hay vô tình? Tất cả những suy nghĩ cứ không ngừng xuất hiện trong đầu hai người.



Chiết Tử Du yên lặng ngắm nhìn Dương Hạo, hắn ta không có nhiều thay đổi mấy, do mới chưa đầy hai mươi tám tuổi nên vẫn chưa để râu, dưới cằm rất nhẵn nhụi. Hôm nay người ngồi đây là một vị đại quan ngũ phẩm trong triều đình, một người thanh niên trẻ tuổi có cặp mắt sáng và có hồn, mang theo cái vẻ ôn hòa và hơi có nét cười.



Chỉ có sau khi trải nghiệm được những thăng trầm của cuộc đời, phong thái và ánh mắt của hắn mới có thay đổi, càng thêm tự tin hơn, càng thêm già dặn hơn, và cũng càng thêm sắc sảo. Nhìn lúc này, cái vẻ tự tin, cảm giác trầm trầm khiến cTử Du vừa thấy thân thiết vừa thấy thích thú.



Đàn ông là phải như thế, ngoan cường, cơ trí, có một cảm giác tự tin nắm giữ hết thảy mọi điều, nhưng tuyệt đối không mù quáng tự đại, những người trẻ tuổi nông nổi sẽ không có cái vị thành thục già dặn. Nếu như nói mới đầu điểm hấp dẫn nhất của Dương Hạo là cách ăn nói uyển chuyển thú vị, là nét dịu dàng và lương thiện, nếu như mới đầu Dương Hạo “hớp hồn” Tử Du bằng trái tim si tình hắn dành cho Đông Nhi, thì giờ đây điều khiến Tử Du động lòng chính là bởi vẻ trưởng thành của hắn.



Nhìn Dương Hạo lúc này, Tử Du có cảm giác hắn như một cái cây, cành lá rậm rạp tươi tốt, dần dần mọc lên thành một cây đại thụ, cành cây thô to, có thể che nắng che mưa, có thể tựa vào để nghỉ ngơi, đúng là cảm giác này, thứ cảm giác khiến Tử Du vừa mệt mỏi, lại vừa muốn tránh…



Nàng vốn là người con gái tinh tế, xưa nay vốn ghét loại đàn ông tục tằn, chính vì thế Dương Hạo mới hút hồn nàng bằng nét dịu dàng và tinh tế. Thế nhưng trái tim thiếu nữ cũng rất dễ thay đổi, khi nàng coi Dương Hạo như người đàn ông của đời mình thì nhìn ở góc độ khác, nàng cần một người có năng lực điều khiển được nàng, là một người đàn ông kiên cường, tự tin.



Nàng như ngọn cỏ mọc tự nhiên trên thảo nguyên, mềm mại mà cao ngạo, không phải nam tử hán nào cũng có thể dễ dàng đưa tay ra hái. Nàng sẽ trốn tránh và cự tuyệt, bởi nàng chỉ thuộc về một người, cam tâm tình nguyện trở thành người con gái của người đó, nàng chỉ hy vọng có được một đôi tay vững chắc, một con người mạnh mẽ kiên cường.



Tâm tư tình cảm này thật khó lý giải, giống như khi một cô gái khi kết giao với ngươi, ngươi chỉ tiếc một điều là không thể ngày ngày đem tặng cô ta hoa hồng, nhưng khi cô ta trở thành vợ của ngươi rồi, ngươi lại ham mê theo đuổi những người phụ nữ ở ngoài, đa số phụ nữ đều hay thay đổi, chỉ hận một nỗi ngươi cũng có thể lập tức thay đổi được như thế.



Dương Hạo dần dần đã nhìn ra sự thay đổi nơi suy nghĩ của Tử Du, hắn phát hiện ra rằng mình là người hay thích giở trò trêu chọc và cố ý đả kích, tuy khiến Tử Du tức giận và muốn “xù lông”, nhưng cũng khiến nàng có cảm giác vui vẻ… Hai người dùng một thân phận mới để tiếp cận lẫn nhau, dần dần bị thu hút, dần làm mới mối quan hệ. Dù biết rằng hai người sẽ không thể có kết quả, nhưng nghĩ tới nghĩ lui, hắn vốn chỉ định phá hỏng những việc Tử Du làm ở Nam Đường, nhưng không hiểu thế nào mà lại rơi vào lưới tình, càng thông minh, con người ta lại càng dễ rơi vào sự mê hoặc của tình ái.



Nguồn: http://4vn.eu/forum/showthread.php?71274-Lich-Su-Quan-Su-Bo-Bo-Sinh-Lien-Nguyet-Quan-Full-Text&page=74#ixzz1zqbpoKK4

Chương 355: Tự thiên cơ


“Mạc cô nương, uống một ly nữa nhé?” Dương Hạo nâng cốc, ranh mãnh gọi tên hiện giờ của nàng.


Chiết Tử Du nhìn thấy nụ cười đó liền hậm hực, nhưng đúng là… nàng không hề ghét Dương Hạo một chút nào. Nàng nâng cốc, nhẹ nhàng chạm cốc cùng Dương Hạo, rượu trôi xuống bụng, hai má càng thêm đỏ hồng: “Dương đại nhân, không phải ngày nào ngài cũng rảnh đấy chứ… thế nên mới có nhiều thời gian nhàn nhã như vậy?”



“Ai nói là ta không có việc gì làm?” Dương Hạo nâng chén rượu, cười đáp: “Hôm nay ta vừa làm chuyện đại sự, đánh nhau một trận lớn, xem ra Mạc cô nương ở Kim Lăng cũng không có nhiều tai mắt lắm, nên mới không biết gì cả”.


“Mới đánh nhau một trận lớn ư?” Chiết Tử Du tròn mắt, vội hỏi: “Với ai thế? Tại sao?”



Dương Hạo kể chuyện xung đột với sứ giả Khiết Đan cho Tử Du nghe, Tử Du nghe xong mỉm cười nói: “Người Khiết Đan vốn ngang ngược dã man… Nếu ngài càng nhân nhượng thì chúng sẽ được voi đòi tiên. Chúng chỉ tôn kính người mạnh, ngài đánh lại chúng quả không sai, nếu như ngài nhân nhượng dàn xếp ổn thỏa thì sợ rằng sẽ có người tạo phản, huống hồ đây là nỗi nhục quốc gia, các quan lại trong triều Tống sẽ không để yên đâu. Thế nhưng ngài chớ cho rằng người Khiết Đan là quang minh chính đại, đường đường nam tử hán. Bọn họ chỉ như những con sói đói ăn, giảo hoạt như hồ ly, chỉ nhân cơ hội lợi dụng ta rồi đâm lén. Trong tình hình như thế này sao ngài còn dám một mình ra ngoài?”



“Ta đã cẩn thận hết sức rồi, bọn chúng mà muốn trả thù ta thì cũng chẳng ra tay nhanh như vậy đâu”.



Tử Du trừng mắt, sẵng giọng: “Ngông cuồng, học được chút bản lĩnh đã vội ra oai trong thiên hạ không có địch thủ? Ngươi phải biết rằng đao thương nhìn thấy thì dễ tránh, nhưng ám tiễn thì khó phòng. Nếu như trên đường bất ngờ có tên phóng ra, ngươi tránh không kịp thì biết làm sao? Hoặc giả lúc ngươi trốn ra đây bọn chúng nhân cơ hội lẻn vào dịch quán ra tay lén sao?”



Dương Hạo thở dài nói: “Ta là hồng tư lự thiếu khanh, là một quan văn. Là thủ lĩnh của đoàn sứ giả, ta là người chịu trách nhiệm chiến hay hòa, coi bọn chúng như địch hay bạn, mà không phải do ta đi quảng cáo ta có nhiều võ nghệ, thì có sao? Nếu như đoàn sứ giả nhà Tống có chuyện gì thì hồng lư thiếu khanh ta thiếu mất một lưỡi gươm bảo hộ rồi, điều đó thật đáng buồn.



Người mà ta đem ra ngoài đều là những thượng đẳng cấm quân, bọn họ võ công cao cường, họ đều biết nên làm gì, cảnh giới, phòng ngự, hoặc tác chiến, không cần ta phải vẽ đường, họ cũng đã tự chuẩn bị tốt, không có chuyện gì đâu.



Hôm nay ta đã kết mối thù với Khiết Đan, nếu còn để tiếp tục bị bọn chúng bắt nạt thì ta quả thật nên bắt chước Gia Luật Văn xin bọn chúng tự sát đi cho rồi”’


Nói đến đây, hắn hiếu kỳ quay mặt nhìn Tử Du, mỉm cười nói: “Đúng là kỳ lạ. Bộ tộc Khiết Đan là bộ tộc bắt nguồn từ dân tộc Tiên Bi, nhưng phủ Chiết cũng bắt nguồn từ bộ tộc Tiên Bi Chiết Lan, nói ra thì nàng có họ hàng tổ tông với bọn chúng đấy, sao lại coi quân Khiết Đan là kẻ thù nhỉ?”



Chiết Tử Du trừng mắt nói với hắn: “Ngươi mới là kẻ không hiểu gì hết. Triệu Khuông rốt cuộc có ân đức gì với nhà ngươi mà đáng cho ngươi phải trung thành và tận tâm đi theo bảo vệ hắn? Cùng chung tổ tiên, đúng là chuyện nực cười, nếu như trong thiên hạ này có cột mốc đánh dấu ai là bạn ai là thù thì nội bộ Khiết Đan cũng sẽ làm loạn không ngừng, Trung Nguyên cũng sẽ chỉ có Đại Vũ vua nước Hạ thôi, vạn thế nhất thống rồi.



Mười sáu châu Yến Vân đa phần là người Hán, nhưng nếu các ngươi xuất binh đi cho bọn họ nhận tổ quy tông… Ngươi thử xem mà xem, bọn chúng nghênh tiếp ngươi mỹ tửu hay là mũi tên nhọn? Bọn họ tuyệt đối không mềm tay hơn Khiết Đan đâu. Nếu như nói là cùng tổ tiên thì hai triều vua Tùy Đường còn được gọi là có huyết thống hơn, ngày xưa Hung nô là dân tộc nô lệ, nhiều người phương Bắc mang họ Dương đều có chung huyết thống với họ.



Ngươi cũng họ Dương, biết đâu ba trăm năm trước hai chúng ta lại chẳng có cùng tổ tiên? Nói không chừng ta còn phải gọi ngươi là biểu ca, tại sao ngươi không giúp ta nhỉ?”



Nói đến đây, nàng ta không nén nổi một tiếng phì cười.



Dương Hạo nghe xong cười khổ não: “Đi thôi, ta đã quen nhìn nhận vấn đề bằng con mắt của người hậu thế rồi, nay nàng nói với ta những điều như thế khác nào đàn gảy tai trâu?”



Chiết Tử Du khẽ thở dài nói: “Họ Chiết chúng ta gia thế cư vận, từ đời Đường đã từng cai quản phủ châu, luôn đi theo người mạnh. Lịch Đường, Tấn, Chu, Tống, tất cả đều là những kẻ mạnh cần chống lại. Mà nguyên nhân giống như ngươi vừa nói, họ Thị của ta có cùng tổ tiên với người Khiết Đan, cư dân vùng Tây Bắc gần gũi với Mạc Bắc, một khi bọn họ được thiên hạ, họ sẽ thâu tóm Tây Bắc còn nhanh và khôn ngoan hơn người Trung Nguyên, chúng ta theo nước Tống, xưng thần cống nạp… xuất quân ra trợ giúp nhà Tống thảo phạt Bắc Hán, kiềm chế Khiết Đan, chỉ là để giúp cho bản thân có đất sinh tồn mà thôi”.



Nói đến đây, mặt nàng bỗng lộ ra một nụ cười chua xót: “Chúng ta vốn tưởng rằng nhà Tống sẽ thu nạp nhà Đường, rồi sau đó phiên chắn người Tây Bắc họ Thị như ta, nhưng ai có ngờ đâu nhà Tống thôn tính các nước chư hầu nhanh quá, Triệu Khuông có dã tâm bành trướng quá kinh tởm, hắn đã thốt ra lời thề rằng chỉ cần họ Chiết ta chịu làm thần phục vụ Trung Nguyên, thì chúng sẽ để cho họ Thị ta tiếp tục cai quản phủ châu, nhưng hài cốt của gia phụ còn chưa tàn hắn đã nuốt lời hứa”.



Dương Hạo nghe xong khẽ lắc đầu nói: “Bất kể Triệu quan gia có giữ lời hay không, Tây Bắc vẫn không thể có sức để chống lại Trung Nguyên, đó là sự thực… biết rõ là không thể nào vậy thì còn ngoan cố làm gì? Ngoài những người đã chết thì bách tính biết làm sao đây?”



Chiết Tử Du buồn rầu nói: “Huynh trưởng nhà ta không cam tâm giao tổ tông cơ nghiệp ra, ta đây cũng chỉ có bổn phận trợ giúp huynh ấy. Bất kể nhà Chiết của ta tốt hay Triệu gia nhà các ngươi tốt, đều là vì một nhà một họ mà thôi. Thiên hạ cũng đều dùng chiêu đó, dùng để xem lòng dân trong thiên hạ thế nào. Ngươi đi khuyên nhủ Triệu Khuông xem hắn có vì thiên hạ thái bình mà vứt bỏ đi mục đích thôn tính Tây Bắc hay không? Chẳng những thế, hắn còn muốn con cháu nhà họ Triệu phải có được một cơ nghiệp vững như thái sơn.”



Dương Hạo nói: “Người thức thời mới là kẻ hào kiệt, thiên hạ đại thế, phân lâu ắt hợp, từ khi triều Đường bị tiêu vong đến nay, ngọn lửa chiến tranh Trung Nguyên nổi lên không lúc nào dừng, rung chuyển ầm ầm, lòng người ai cũng mong đến ngày thái bình, Tống quốc nhân thế đó ra đời, Triệu gia thế lực hùng hậu, Tây Bắc vốn căn bản không có đất mà đối đầu. Cũng như thế, tại sao lại không sớm dự định? Đúng là phải dệt gấm thêu hoa cũng không bằng có than sưởi ngày đông, chước xuất binh quyền, chủ động quy phục hoặc là bị đánh dập, kết cục không giống nhau chút nào”.



Hai má Chiết Tử Du đỏ ửng: “Ngươi dựa vào cái gì mà nói chắc chắn như thế? Chiết gia ta không có lực lượng để chống lại nhà Tống, cũng chưa từng nghĩ đến việc làm cho nhà Tống diệtvong, nhưng muốn tự bảo vệ mình thì cũng không phải là không thể thử”.



“Chính là do không thể nên ta mới khuyên nàng.”



Dương Hạo trầm giọng: “Tử Du, ta không muốn làm hại nàng, càng không thể hứa bừa với nàng, nói thực lòng, người giành được Trung Nguyên ắt sẽ là Đại Tống, Phủ châu sớm muộn cũng sẽ phải hạ cờ đầu hàng Tống mà thôi, đây sẽ là kết cục của trận chiến thế giới kéo dài, sau ba trăm năm nữa, thiên hạ sẽ được hưởng những tháng ngày thái bình, sau đó một trang sử mới sẽ được bắt đầu, Tây Bắc sẽ đi đâu về đâu đây? Nàng tuy là nữ nhi nhưng phải mang theo rất nhiều trọng trách của Chiết gia, cũng là người có ảnh hưởng rất lớn đến Lệnh Huynh, tại sao nàng không khuyên hắn ta thuận theo ý trời?”



“Ngươi nói gì?”



Chiết Tử Du tức giận đứng lên, sau đó ngay lập tức nhận ra mình đang thất thế nên lại từ từ ngồi xuống ghế, mặt trắng bệch nhìn Dương Hạo, hồi lâu sau mới nói: “Ngươi.. ngươi dựa vào gì mà dám khẳng định? Nếu như ngươi nhìn vào thực lực của nước Tống mà đoán Đại Tống sẽ thống nhất được Trung Nguyên thì cũng không có gì lạ, nhưng ngươi nói… ngươi nói được vận mệnh của nước Tống trong ba trăm năm nữa, lời này là từ đâu ra, sao ngươi biết đích xác như thế?”



Dương Hạo trầm ngâm hồi lâu mới nói: “Nguyên nhân từ bên trong, ta không thể nào giải thích rõ ràng cho nàng hiểu, nhưng ta sẽ không nói nọ nói kia để làm nàng mơ hồ, càng không thể nói dối nàng, Tử Du, những lời ta nói đều là sự thực, nàng ở nước Đường sẽ không ổn đâu, hãy quay về Phủ Châu đi, đi khuyên Lệnh Huynh đi, đứng lấy trứng chọi với đá nữa”.



Chiết Tử Du kinh ngạc không hiểu, trong lòng chợt nghĩ, Dương Hạo là tông đồ của Lữ Tổ, Lữ Tổ được nhân gian cho là người nửa người nửa tiên, dù đã hơn trăm tuổi nhưng dung mạo chỉ mới như một người ngoài ba mươi, có lẽ ông ta có phép thần thông thật? Ông ta là người tinh thông bói toán, hơn nữa lại có những dự đoán chuẩn xác hơn cả Trần Đoàn, Trần Đoàn chỉ có thể phán được con cháu đời sau của Triệu Khuông sẽ có cơ làm đế vương, còn Lữ Tổ thì lại có thể đoán ra những chuyện ba trăm năm sau ư?



Chiết Tử Du mặt biến sắc, nàng vốn là người cơ trí nhưng lúc này đây cũng thiếu kiên nhẫn, trong lòng nghĩ ngợi một hồi, đột nhiên nghĩ tới Trần Đoàn vẫn ôm mối tâm bệnh trong lòng, không nén nổi mà nói: “Vậy thì… ngươi có biết vận mệnh của ta như thế nào không?”



Dương Hạo trầm mặc không nói, mãi sau mới lắc đầu nói: “Ta không biết…”



Chiết Tử Du cúi đầu, hồi lâu mới ngẩng đầu lên, ánh mắt hướng về phía Dương Hạo: “Nếu như những lời ngươi nói không… nước Đường… nhất định sẽ bị tiêu diệt dưới tay Đại Tống?”



Dương Hạo nghiêm nghị nói: “Đúng vậy, hơn nữa đó sẽ là chuyện xảy ra trong vòng ba trăm năm nữa”.


Chiết Tử Du nheo đôi mắt xinh đẹp của mình lại, chậm rãi hỏi: “Vậy thì, ai là người tiêu diệt nước Đường?”



Dương Hạo cố lục soát lại trí nhớ của mình, chăm chú suy nghĩ hồi lâu mới nói: “Phan Mỹ, Tào Bân!”



Chiết Tử Du nghe nói những lời khẳng định như vậy, mặt biến sắc… Nếu như những sự thực đó sớm đã được khẳng định thì còn đi tranh đấu làm gì? Nghĩ đến đó trong lòng đột nhiên rối bời.



Dương Hạo thấy thế liền khuyên: “Ta khuyên nàng một lần nữa, không phải là do ta là trung thần của Triệu Khuông, mà là ta lo lắng cho nàng, không muốn nàng đi bước đi sai lầm”.



Tần Hán Tùy Đường, mỗi nước đều có vận mệnh riêng, bất kể là nó huy hoàng hay là sẽ đi đến chỗ diệt vong, thì nhà Chiết đã thống trị Phủ Châu hơn hai trăm năm, dù chưa xưng vương xưng tướng hay chứng tỏ được thế lực với các nước khác, nhưng hơn hai trăm năm nay đã không thua kém gì với Đại Đường rực rỡ, nay lại bắt ra hàng, không chỉ không phải với Lệnh Huynh, mà cũng sẽ khiến cho liệt tổ liệt tông phải thất vọng.



Chiết Tử Du hít một hơi thật sâu, ngẩng đầu nói: “Được. Vậy ta sẽ ngồi đây xem, nếu như nước Tống chinh phạt nước Đường, đích xác như lời ngươi nói, Triệu Khuông ra chiếu đã thống binh đại tướng là Phan Mỹ, Tào Bân, ta sẽ không nói hai lời, ngay lập tức quay về Tây Bắc, khuyên gia huynh bỏ cuộc, bảo toàn phú quý. Còn nếu như những lời của ngươi không phải là sự thực…”



Dương Hạo mừng rỡ, nhướng mày nói: “Vậy từ nay về sau ta sẽ không khuyên nàng nữa, càng không phá rối nàng nữa”.



************************************************** ******


“Được rồi, tiễn ta đến đây thôi”. Chiết Tử Du dừng bước, nhìn lên chỗ lồng đèn đỏ treo cửa nhà họ Lâm, quay người nhìn Dương Hạo, lòng nặng nề nói: “Ta… phải về đây, ta hứa với chàng, sẽ ghi nhớ chuyện này. Chàng đi về nhớ cẩn thận nhé, lần sau… tuyệt đối không được ra ngoài một mình đâu đấy!”



Dương Hạo nghe thấy những lời nói của Tử Du cuối cùng cũng có phần nhẹ nhõm, liền không để ý đến mấy chuyện vụn vặt nữa, chỉ nghe thấy trong lời nói có phần quan tâm, không nén được niềm vui sướng mà nói: “Cứ như vậy mà về sao?”


“Hả?” Chiết Tử Du khẽ nhíu mày, kinh ngạc nói: “Còn có chuyện gì sao?”



Dương Hạo làm mặt nghiêm trang nói: “Cái này… không có hôn chúc ngủ ngon sao?”



Chiết Tử Du khẽ đỏ mặt, xấu hổ cúi mặt xuống đất nói: “Đừng có mà mặt dày nữa được không? Ta van ngươi đấy Dương trái sứ, hai chúng ta hiện nay không có chút quan hệ nào đâu.”



Dương Hạo bị lời nói đó thức tỉnh, nghĩ tới những dự định của mình, hắn không khỏi buồn bã. Chiết Tử Du thấy vậy không đành lòng, bèn hạ giọng nói: “Trời đã khuya rồi, chàng về phủ phải cẩn thận, nhớ kỹ, lần sau không được một mình ra ngoài nữa. Ta… ta phải về đây…”



“Tử Du!” Dương Hạo đột nhiên ôm chặt lấy Tử Du, ngắm nhìn thật lâu vào gương mặt xinh đẹp của nàng, nhẹ nhàng nói: “Chỉ một cái thôi, một lần này thôi, một đời này thôi, lần cuối cùng…”



Hắn muốn nói thật lòng mình với Tử Du, có lẽ không cần đợi đến lúc triều Tống đánh Đường, hắn cũng sẽ biến mất khỏi tầm nhìn của nàng, vĩnh viễn. Và cơ hội này có lẽ là cơ hội duy nhất sẽ không bao giờ có được nữa, thế nhưng những lời định nói cứ như vướng lại trong cổ họng, không thể nào cất lên lời.



Chiết Tử Du mơ hồ nhận thấy vẻ khác thường nơi Dương Hạo, không khỏi ngạc nhiên mà ngẩng đầu lên, muốn nhìn xem hắn có gì khác thường không, chợt đụng luôn phải gương mặt đang cúi xuống của Dương Hạo, đôi môi đầy quyến rũ đang ở ngay trước mặt, chỉ cần cúi đầu là có thể cảm nhận được vị ngọt ngào và dịu dàng.



“Đêm nay không phạm tội, ta cũng có lỗi với tửu”, Dương Hạo thì thào nói, nhẹ nhàng nâng cằm Tử Du lên, từ từ áp lại gần.


Khi chỉ còn cách đôi môi Tử Du một khoảng cách ngắn, Dương Hạo cảm thấy trong hơi thở mình như nóng rực lên, gấp gáp, một cái gì đó lạnh lẽo đột nhiên chạy từ trán tới cổ, ngăn động tác của hắn lại. Dương Hạo hơi khựng lại, chậm rãi đứng thẳng người, nhìn thấy Tử Du vẫn đứng đó, tay rút ra một con dao ngắn, mũi dao chĩa thẳng vào cổ họng hắn.



“Cho ngươi ba phút, mau rời khỏi đây, đừng giở trò điên dồ nữa, mau cút về phủ đi… Nhớ bảo vệ kĩ cái mạng chó của nhà ngươi, đừng có mà sập bẫy của quân Khiết Đan, nếu không đây sẽ là lần cuối chúng ngươi còn được mở mồm nói chuyện”.


Tử Du vừa dứt lời, giơ cao tay cầm dao, sẵng giọng: “Còn không mau cút đi!” nói xong nàng quay người chạy vào phủ.


Dương Hạo sờ sờ mũi, nhìn bóng nàng chạy khuất trước mắt, lẩm bẩm: “ Coi như là nàng đang liếc mắt đưa tình…”


“Đại nhân, cuối cùng ngài cũng đã về rồi, làm thần lo muốn chết”. Dương Hạo vừa trở về, Tiêu Hải Đào đã vui mừng nói, vội vã đón hắn về.



Dương Hạo cười cười nói: “Ta sẽ cẩn thận, bên Khiết Đan thế nào rồi, có động tĩnh gì không?”



Tiêu Hải Đào cùng hắn trở về phủ, nói: “Bọn binh sĩ canh phòng rất nghiêm ngặt, quân Đường như một bức tường kiên cố, bên kia vẫn không có chút động tĩnh gì, vua Giang Nam vừa cho người qua, mời đại nhân vào cung dự yến tiệc, xem ra muốn điều hòa vụ việc. Người Khiết Đan chỉ phái vài tay cao thủ qua thăm dò, lặng lẽ vào trong dịch quán của chúng ta, muốn thăm dò động tĩnh, bị sa lưới của chúng ta, nhưng hỏi gì chúng cũng không nói, cũng không dám nhận là người Khiết Đan, đến nay vẫn đang chờ đại nhân về giải quyết.”



Đang nói, Chương Đồng Nhân người mặc áo giáp bước vào, chào “Đại nhân”, đằng sau hắn là hai đoàn binh sĩ, trong đó có hai võ sĩ mặc y phục đen, miệng bị bịt kín, hai mắt dữ dằn như hai con rắn độc, nhìn chằm chặp như muốn ăn tươi nuốt sống Dương Hạo, trên mặt hiện lên nét u ám hiểm độc.



Dương Hạo cười nói: “Chương chỉ huy, ngươi làm tốt lắm, hai con tép này chẳng có gì cần phải hỏi cả, cũng chẳng cần đến chúng”. Hắn liếc một cái rồi cười nói: “Ai có thể chứng minh hắn là quân địch lẻn vào dịch quán của ta? Đây có thể là một tai họa, đem giết hắn đi rồi vứt vào sân Khiết Đan, nếu không, ngày mai sẽ có người bị cắn ngược lại đấy, lại nói chúng ta đi bắt người của kẻ khác…”



Hai tên võ sĩ Khiết Đan nghe thấy vậy thất kinh, chúng không ngờ tên sứ giả người Tống này lại tàn nhẫn như vậy, liền giãy giụa đứng lên, nhưng không làm gì được dưới sức khống chế của lính nhà Tống.



Dương Hạo vội vã hướng về phía sảnh, dặn dò: “Hôm nay tâm trạng của bản quan rất tốt, không muốn nhìn thấy máu, các ngươi lập tức đi xử lý cái bọn ghê tởm này đi, nhớ là trên mặt phải không có máu, trên người nhìn không ra vết thương”.


“Hả?” Chương Đồng Nhân kinh ngạc mở to mắt: “Vậy thì làm sao giết được?”



“Chỉ huy sứ đại nhân, thuộc hạ có cách” một tên thân binh đứng cạnh nói nhỏ, cười trộm.



********************



Dương Hạo và Gia Luật Văn cùng bước lên kim điện, mới hôm qua hai người còn là đối thủ của nhau, hôm nay đã cùng nhau đứng trên triều đình nhà Đường. Mặc dù y phục rất trang trọng, dáng vẻ trang nghiêm, nhưng không khí đối địch giữa hai người hiện lên rất rõ rệt. Hai người vừa bước lên cung điện, Gia Luật Văn đứng trước mặt Lý Dục khiển trách thuộc hạ của Tống sứ do tranh cãi với quân của hắn nên dẫn đến việc người của hắn phải động thủ trả thù, sáng sớm hôm nay bên nhà Tống còn giết chết một thuộc hạ của hắn để hả giận, yêu cầu vua Đường phải nghiêm khắc trừng trị hung thủ, đòi lại công bằng cho Khiết Đan.



Dương Hạo thầm nghĩ: “Bọn người này nhìn trông lỗ mãng hiểm độc, ta đã nói mà, hai bên khi đã dụng binh thì nói cho cùng, đánh nhau bất quá thì mỗi bên chiếm một khoảng sân, tại sao còn phái người đến thăm dò bên ta, hắn rất có thể đã thăm dò ra được tình hình của bên ta. May là ta đã có dự liệu từ trước, quả là không sai”.



Dương Hạo không chút hoang mang, không cần chờ Lý Dục hỏi đã ung dung mà rằng: “Quốc vương, sứ giả Khiết Đan chủ động khiêu khích, mới hôm qua người Khiết Đan còn chủ động khiêu chiến, có ý đồ muốn chiếm dịch quán của chúng tôi, hơn nữa còn đánh bị thương vài người. Dương Hạo ta đây chẳng qua chỉ là ngăn chặn hành vi bạo lực dã man của người Khiết Đan mà thôi, đó chỉ được gọi là chống đỡ. Bên chúng tôi quản giáo binh lính rất nghiêm khắc, không thể có chuyện ám sát sứ giả người Khiết Đan được đâu. Về chuyện này, Hoàng Phủ Kế Huân đại nhân đêm qua đã phái binh lính canh gác tại hai dịch quán, đại nhân có thể là người làm chứng”.



Hoàng Phủ Kế Huân nghĩ thầm “Người Bắc ngoan cường, không thể là kẻ địch của người Nam chúng ta được.. chủ trương này không thể thay đổi, nếu như hôm nay người Tống là người Bắc, người Khiết Đan cũng là người Bắc, đều không thể làm hại đến bên nào. Nhưng so sánh ra thì nhà Tống là hàng xóm láng giềng, thế lực uy hiếp cũng to hơn, có lẽ nên nghiêng về nhà Tống một chút, hơn nữa lời của Dương Hạo cũng không phải hoàn toàn là sai, người Khiết Đan ắt sẽ không thể giận ta được”.


Nghĩ vậy, Hoàng Phủ Kế Huân liền vội vã đứng lên bẩm báo: “Quốc vương, thần phụng mệnh sai lính đi canh gác phủ của hai bên, đêm qua bình yên, hai bên quả thực không xảy ra bất cứ xích mích nào”.



Gia Luật Văn giận dữ nói: “Quốc vương, đúng là bọn họ muốn giết người cho hả giận, tất nhiên sẽ không đường hoàng mà đến. Ở nước Đường này, ngoài vị sứ giả nhà Tống kia thì ta chẳng còn có thù oán với ai nữa. Mới sáng hôm qua hai bên còn nảy sinh mâu thuẫn, đến đêm người của ta đã bị giết rồi, không phải là bọn họ làm thì còn ai vào đây? Người Khiết Đan chúng tôi nhận lời mời của vua Đường đến đây vì mối hòa hảo hai nước, nay người của ta bị đối đãi như thế, Quốc vương nên tính xem xử lý thế nào.”



Hắn cao giọng nói, tiếng như xé gió rít gào khiến Lý Dục mặt trắng bệch, vội vã đứng lên trấn an: “Gia Luật Văn đại nhân chớ phẫn nộ, về việc này ta nhất định sẽ đi…”



Dương Hạo đột nhiên mở miệng nói: “Gia Luật Văn đại nhân, xin hỏi vị thuộc hạ kia của ngài bị thương ở đâu?”


Gia Luật Văn lạnh người, quay sang nhìn hắn nói: “ Sáng sớm hôm nay ta đã phát hiện ra di thể bị vứt sau vườn hoa của chúng ta. Trên người không có vết thương nào, nhưng tên thị vệ đó không thể tự dưng mà chết. Nhất định là đã có người ám sát, chuyện này… xin Quốc vương minh xét kỹ càng, nhất định phải điều tra ra chân tướng, nếu không bản quan sẽ không bỏ qua chuyện này”.



Nguồn: http://4vn.eu/forum/showthread.php?71274-Lich-Su-Quan-Su-Bo-Bo-Sinh-Lien-Nguyet-Quan-Full-Text&page=75#ixzz1zqbxVE00

Chương 356: Lễ Phật

Dương Hạo “hừ” một tiếng rồi nói: “ Sứ giả của quý quốc có người chết… điều này thì có liên quan gì đến người Tống chúng tôi? Tự dưng quay ra cắn càn, bản quan đây cũng đang định nhờ vua Đường điều tra cho rõ ràng chuyện đó. Thi thể của tên thị vệ đó ở đâu? Mau cho mang lên đây, bản quan sẽ kiểm chứng, ta tuyệt đối không làm chuyện gì xấu xa, không sợ ai kiểm tra”.



Gia Luật Văn khẽ nhíu mày, hô to: “Tốt! Thi thể vẫn đang được chờ ở ngoài điện, mời Quốc vương sai người đem vào trong”.


Hai tên lính buông vũ khí, chạy xuống điện khiêng di thể đó lên, Gia Luật Văn chỉ vào thi thể đó mà nói lớn: “Quốc vương, đây chính là thị vệ cường tráng của tôi, người này bị chết ắt hẳn là do bị ám sát, mà hung thủ thì nhất định là bọn người Tống”.



Dương Hạo vòng quanh di thể vài vòng, thi thể đó đã được thay một bộ quần áo bình thường chứ không phải là bộ quần áo tối hôm qua, quần áo xộc xệch, tóc tai rối bời. Gia Luật Văn ắt sẽ không thay quần áo cho tên thị vệ, điều đó chỉ gây cho hắn thêm phiền phức. Dù sao hắn cũng muốn sinh sự, huống hồ thực sự đã có một người chết.


Dương Hạo ngồi xổm xuống bên cạnh xác chết, nói: “Quốc vương, trên người nạn nhân bốc lên toàn mùi rượu, có lẽ là chết do uống quá nhiều rượu”.



Gia Luật Văn thoáng giật mình, hắn chỉ nghe nói người mà hắn phái đi đã bị biến thành một xác chết vứt sau vườn, liền ra lệnh đi kiểm tra, toàn thân nạn nhân không có vết thương, hắn thiết nghĩ dù không dò la ra được chút thông tin có ích nào từ dịch quán của nhà Tống nhưng ít nhiều cũng có cái xác chết này làm công cụ để chiếm ưu thế, do vậy hắn mới đem theo cái xác đến đây. Người Khiết Đan rất có tôn ti trật tự, thân là hoàng tộc, hắn không thể tự mình đi kiểm tra một cái xác chết được.



Vừa nghe thấy Dương Hạo nói trên thi thể có mùi rượu, Gia Luật Văn không khỏi tức giận trong lòng: “Cái tên hỗn tướng này, hôm qua ta phái hắn đi làm việc cho ta, thế mà hắn còn dám đi uống rượu. Tiêu rồi, ta bảo hắn cố ý để bị giam trong ngục của nhà Tống để làm bằng chứng quân Tống bắt giam người vô cớ, khiến bọn chúng hết đường chối tội. Thế mà tự dưng lại không cẩn thận thế này”.



Gia Luật Văn ngoan cố: “Người Khiết Đan chúng tôi rất giỏi uống rượu, một ngày ba bữa, không bữa nào là không uống rượu, có mùi rượu thì có gì là kỳ lạ?”



Dương Hạo cười cười, hắn ngẩng đầu quay sang Hoàng Phủ Kế Huân vẫy tay, Hoàng Phủ Kế Huân thấy Lý Dục không tỏ ý từ chối bèn vội vã chạy lại hỏi: “Dương trái sứ, có chuyện gì thế ạ?”



Dương Hạo thò tay lấy tấm vải che người nạn nhân ra một bên, trên mặt nạn nhân dính đầy bùn, cỏ dại đã bị dẫm nát và vài cánh hoa, nói với Hoàng Phủ Kế Huân: “Đại nhân thử ngửi kỹ xem, xem có mùi gì?”


Hoàng Phủ Kế Huân ngửi ngửi rồi nói: “A… là mùi rượu”



Dương Hạo nói: “Thi thể đã cứng ngắc, chết từ lúc nửa đêm mà bây giờ vẫn còn mùi rượu thì ắt là đã uống không ít phải không”



Kỳ thực mùi rượu cũng không nồng, nếu không ngửi kĩ thì cũng khó phát hiện, nhưng Hoàng Phủ Kế Huân cũng không biết người chết đã chết từ bao giờ, nếu như trước khi chết mà uống nhiều thì trên người đương nhiên là sẽ có mùi rượu, cho nên hắn gật đầu lia lịa mà nói : “Dương trái sứ nói có lý, người này ắt hẳn là đã uống không ít”.



Gia Luật Văn cả giận: “Rút cuộc các ngươi muốn làm gì?”



Dương Hạo không thèm để ý đến hắn, nói với Hoàng Phủ Kế Huân: “Ngài thử ngửi kĩ xem, còn có mùi gì khác không?”


Hoàng Phủ Kế Huân lại ngửi ngửi, không có mùi gì khác cả. Hắn lại tiến lại gần sát để ngửi, mũi gần như đã dí sát vào mặt người chết, ngửi kĩ, mặt của Hoàng Phủ Kế Huân lộ ra một nét mặt kỳ quái.



“Thế nào? Hoàng Phủ đại nhân có cảm nhận được là mùi gì không?”



“Cái này… không tiện nói. Dường như là… rất giống… mùi nước tiểu”



“Bộp bộp” Dương Hạo vỗ mạnh vào vai hắn khen: “Oa, đúng là anh hùng như nhau, ta cũng ngửi thấy mùi nước tiểu”.


“Hức hức”, Hoàng Phủ Kế Huân nghĩ lại lúc nãy mặt mình vừa dí sát vào mặt người chết mà ngửi liên tục, không khỏi cảm thấy kinh.



Dương Hạo quay người sang nói với Lý Dục: “Quốc vương, võ sĩ Khiết Đan vóc người cao to lực lưỡng, nếu như có người thử tấn công thì trên người ắt hẳn phải có vết thương, do vậy, không có khả năng hắn bị ám sát”



Gia Luật Văn nghiến răng cười nói: “Không phải là ngươi giết thì lẽ nào hắn tự sát?”



Dương Hạo giống như một thầy sư đi đến trước mặt thi thể, chậm rãi mà nói: “Người này uống rượu… lại chết trong vườn hoa lúc nửa đêm, trên mặt còn có bùn và cánh hoa, Hoàng Phủ Kế Huân đại nhân cũng đã cẩn thận kiểm tra, trên cổ hắn ta còn có mùi nước tiểu, như vậy, bản quan có thể đưa ra kết luận, người này không phải là bị giết, cũng không phải do ngộ sát, mà là một chuyện xảy ra ngoài ý muốn”.



Lý Dục nghe thấy vậy liền vội hỏi: “Ngoài ý muốn? Mời Dương trái sứ nói rõ ràng hơn xem, rốt cuộc là chuyện ngoài ý muốn như thế nào?”



Dương Hạo nghiêm trang chắp tay nói: “Qua việc khám nghiệm của bản quan và Hoàng Phủ đại nhân, mùi rượu trên người nạn nhân không nồng, hơn nữa trên mặt còn có mùi nước tiểu. Căn cứ vào dấu vết, bản quan thiết đoán… người này ắt hẳn uống nhiều nên say, nửa đêm tỉnh giấc, muốn ra ngoài tiểu tiện, do uống quá nhiều mà bị ngã và hôn mê bất tỉnh. Do mũi và miệng bị ngập trong đống nước tiểu của mình mà bị tắc thở. Đây là giải thích hợp lý, cũng là gần với sự thực nhất”.



Lời Dương Hạo vừa dứt, cả triều đình liền xôn xao. Gia Luật Văn tức giận như nhất Phật xuất thế, nhị Phật thăng thiên, lớn tiếng gào lên: “Người không thể vô sỉ đến mức này, quá mức vô sỉ… Vô sỉ quá! Đổi trắng thay đen, chỉ hươu nói ngựa, ngôn từ bừa bãi, quá ư là vô liêm sỉ… tất cả những lời này lại có thể xuất phát từ miệng của sứ giả nhà Tống”.



Lối dùng từ của Gia Luật Văn thật cũng không đơn giản, một câu chửi mà đến Lão Tử và Tôn Tử đều có mặt, Dương Hạo ung dung cười: “Đừng có nghe theo cái nhân nghĩa đạo đức của Lão Tử, đạo đức kinh đều là do Lão Tử viết ra thôi”.



Gia Luật Văn nổi trận lôi đình, đoạt lấy binh khí từ tay một tên lính, đứng ở tư thế như đang dùng hoành thương nhảy ngựa. Dương Hạo trông thấy liền vội vàng rút thanh bảo kiếm ra, tay trái nắm chặt kiếm quyết, hét lớn: “Nghèo lý lẽ nên phải động thủ sao?”



Lý Dục thấy hai bên đang chuẩn bị đánh nhau, không khỏi mừng thầm trong lòng, trên mặt thì giả bộ cuống quýt, đứng lên hô lớn: “Mau mau kéo hai vị sứ giả ra, có gì từ từ nói, đừng có để mất hòa khí đôi bên”.



Khi hai bên chuẩn bị lao vào nhau, Lý Dục cho người kéo họ ra, dùng lời nói để điều đình, sau đó bày tiệc rượu mời hai vị sứ giả mỗi người ngồi một bên cùng uống rượu, vừa lấy thân phận Quốc vương ra trợ cấp cho nạn nhân kia, đồng thời ẻm chuyện này đi.



Đợi tiệc rượu tàn, Lý Dục mới nói: “Hai vị sứ giả từ xa tới Đường Quốc, đều là khách quý của ta, ta không hy vọng chúng ta vì những hiểu lầm nhỏ nhặt mà làm hỏng quan hệ hòa hảo của Khiết Đan và nước Tống. Hai vị sứ giả đều là những bậc thâm minh đại nghĩa, hy vọng có thể lấy việc nước làm trọng, hóa giải mọi hiểu lầm. Sáng mai ta sẽ đi Kê Minh Tự, lễ phật dâng hương, mời hai vị cùng đi, hy vọng dưới đất Phật từ bi thanh tịnh, với trái tim từ bi của Đức Phật chúng ta sẽ hóa giải được mọi tức giận trong lòng hai vị.”



Dương Hạo và Gia Luật Văn liếc nhau, đồng thanh “hừ” một tiếng, sau đó nhất tề chắp tay nói: “Quốc vương đã mời, ngoại thần cáo từ”. Nói rồi hai người cùng nhau quay lưng bỏ đi.



Lý Dục nhìn bóng hai người đi khuất, mép nở ra một nụ cười hoan hỉ, ngoắc tay gọi một tên thị vệ dặn dò: “Đi, mời Gia Luật Văn đến Thanh Lương điện cùng ta”



Lúc này, Trần Kiều đang lẳng lặng đợi tại Thanh Lương điện…


*************************************************



Gia Luật Văn vừa quay trở lại dịch quán, Đinh Thừa Nghiệp đã lập tức chạy lại nghênh đón: “Đại nhân, ở Thượng Kinh có tin rồi”.



“Hả?” Gia Luật Văn vội vàng hỏi: “Là thư của phụ vương? Nói gì?”



“Tiểu nhân không dám bóc thư của Lão Vương gia, thư vẫn còn đây, mời đại nhân xem”.



Gia Luật Văn vội vã nhận lấy lá thư, trở lại phòng, bóc phong bì lấy ra một lá thư mỏng, xem cẩn thận. Sau một hồi mới đứng dậy, đi lại trong phòng.



Đinh Thừa Nghiệp không đợi được nữa, tiến đến hỏi: “Đại nhân, Lão vương gia nói thế nào?”



Gia Luật Văn cười lạnh nói: “Không như ta dự liệu. Trước khi ta rời kinh Tiêu Xước hoàng hậu đã bắt đầu khai trừ tay chân vệ quân trong cung của ta rồi.”



Đinh Thừa Nghiệp thất kinh: “Bà ta đã ra tay trước rồi? Vậy ta nên làm thế nào đây?”



Gia Luật Văn nói: “Không sao, Tiêu Xước chỉ dám trực tiếp khống chế tay chân của ta trong cung, còn quân bộ tộc… bà ta vẫn không dám ra tay. Trong thư Phụ vương ta cũng đã nói, bà ta đã dẹp hết những thân tín trong cung của ta, sợ rằng chúng sẽ tạo phản, do đó lúc này không thích hợp để thực hiện kế hoạch xóa sổ bọn thủ lĩnh, hãy chiếm lấy Thượng Kinh trước đã”.



“Ý của Phụ vương là tạm thời cứ để bà ta tung hoành, loại bỏ hết thân tín trong cung của ta, để cho bà ta lơ là… Sau đó, đợi thời cơ thích hợp các đại thần của bộ tộc sẽ tiến đến Thượng Kinh, đợi đến Phóng Thâu nhật, khi Hoàng đế xuất cung vi hành sẽ tiến hành tập kích, tiêu diệt hết đám Gia Luật Hiền, Hàn Đức Nhượng, Gia Luật Thể, Tiêu Thác Trí… rồi điều quân binh vây Thượng Kinh. Sau đó đích thân ta sẽ ở nơi này phát động, kích động quân Tống Bắc phạt, nội ngoại bức bách, buộc Tiêu hoàng hậu phải bỏ ngai vàng, tôn ta làm vua, sau đó ta sẽ lấy bà ta làm hậu”.








Đinh Thừa Nghiệp thất vọng hỏi: “Phóng thâu nhật? Tức là vào ba ngày 13, 14, 15? Vậy là chỉ còn nửa tháng nữa…”



Gia Luật Văn mỉm cười nói: “Không sai, chỉ còn nửa tháng nữa thôi. Ngươi còn vội hơn cả ta cơ à, được làm Hoàng đế là điều không đơn giản, nửa tháng nữa mà còn chê dài sao?”



Đinh Thừa Nghiệp nói: “À… thần không có ý như thế, chỉ là những tên sứ thần nhà Tống kia dám làm nhục đại nhân, tiểu nhân thật bất bình, chỉ muốn ngay lập tức chém cho hắn trăm nhát… để trút giận cho đại nhân”.



Gia Luật Văn nhận được tin của Thượng Kinh, trong lòng đang vui sướng, nghe thấy vậy liền cười hi hi mà nói: “Ngươi thật tận tâm với ta. Hừ, cái bọn đó dám làm nhục ta, ta sẽ không để cho bọn chúng sống. Đợi thời cơ đến, ngày đó, ta sẽ nhẫn nại đợi, nửa tháng nữa… rất nhanh thôi, sẽ đến rất nhanh thôi…”



Hôm sau, sứ giả nước Tống cùng sứ giả Khiết Đan cùng đi với Lý Dục đến Kê Minh Tự lễ phật.



Trong vườn trồng rau, từng bó rau tươi non được đặt trên xe, Đức Hạnh đại sư phẩy tay nói: “Được rồi, các ngươi đem quần áo đã được giặt sạch lại đây, một lát nữa phải đưa đến Tĩnh Tâm Am…”



“Rõ ạ, tiểu sư thúc”, vài tên tiểu hòa thượng chắp tay rời đi, Bích Túc quay đầu lại đã thấy bọn chúng đi xa, liền vội vàng lôi kéo Tĩnh Thủy Nguyệt đến dưới một gốc cây to, lôi từ trong áo ra một quả lê vàng mọng, đưa cho nàng ta mà rằng: “Này, rất tươi ngon đấy nhé, ta đã rửa rồi, nàng ăn đi.”



Tĩnh Thủy Nguyệt mỉm cười, nhẹ nhàng lắc đầu, nhưng Bích Túc đã cố dúi vào tay nàng, kéo nàng ngồi xuống phiến đá gần đó mà nói: “Đây là chút lòng tốt của ta, nàng thử xem đi mà, ngọt lắm ấy, ăn đi, thử một miếng thôi cũng được.”


Tĩnh Thủy Nguyệt chần chừ đôi chút rồi cũng đón lấy quả lê, cắn một miếng nho nhỏ.



“Có ngon không?”


Tĩnh Thủy Nguyệt nhai khẽ, gật gật đầu. Bích Túc như cởi tấm lòng, nắm chặt tay nàng nói: “Nếu như nàng thấy ngon thì lần sau ta sẽ mang cho nàng ăn, để cho nàng mỗi ngày đều được ăn”.



Tĩnh Thủy Nguyệt bị kéo tay, mặt đỏ lên vì xấu hổ, nàng vội vã rút tay lại, chỉ chỉ vào chuỗi tràng hạt đeo trước ngực, rồi lại chỉ ra phía vườn sau, trừng mắt nhìn hắn.



Bích Túc cười hì hì nói: “Ta xuất gia cũng là vì nàng, Phật tổ cũng biết là ta thích nàng, Phật sẽ không trách tội chúng ta đâu”.



Tĩnh Thủy Nguyệt luống cuống, vội vã thả quả lê ra, chắp tay, miệng lắp bắp dường như đang ăn năn hối cải trước Phật tổ.



“Thủy Nguyệt, trước kia ta là một kẻ vô sỉ, cũng là kẻ lãng tử thâu hương thiết ngọc, cho dù nhà ta là đại gia cũng không hề có ý hướng thiện. Cho đến khi ta gặp nàng, Thủy Nguyệt, nàng là Bồ Tát sống của ta, ta càng ở gần nàng thì Phật càng ở gần ta. Phật không phải là người phổ độ chúng sinh hay sao, nàng từ bi như vậy, hãy chiếu độ cho ta đi, chỉ cần nàng lấy ta nàng đã biến một người xấu thành người tốt, tích được biết bao công đức, còn nhiều hơn nàng ngồi niệm kinh cả đời”.


Lời nói ngọt ngào của Bích Túc khiến Tĩnh Thủy Nguyệt động lòng, từ bé đến lớn chẳng có ai nói với nàng như thế, nàng muốn nghe, nhưng lại sợ, muốn chạy trốn, nhưng lại không nỡ để hắn bị tổn thương, thế là chỉ còn biết lấy tay bịt kín hai tai, nhắm chặt mắt, dáng điệu đáng yêu vô cùng.



“Ta đã nói rồi, ta nói rất nhiều mà, dẫu cho nàng không nói được, chúng ta thành thân trong nhà cũng không sợ bị tĩnh mịch”. Bích Túc kéo tay nàng: “Thủy Nguyệt tốt, tiểu sư thái, nghe niệm kinh cũng là niệm kinh, chỉ cần nàng thích, sau này nhà chúng ta sẽ bố trí giống phật đường, mỗi ngày nàng đều có thể niệm kinh, Kim Cương Kinh, Pháp Hoa Kinh, Lăng Nghiêm kinh… nàng muốn nghe bao lâu ta cũng đều có thể niệm cho nàng nghe, nhà chúng ta sẽ treo một cái chuông thật to, mỗi ngày ta sẽ là quan nhân của nàng, giúp nàng đánh chuông, đợi chúng ta có con ta cũng sẽ cạo đầu cho chúng thành tiểu sa di, ta sẽ là phương trượng, nàng là chủ trì…”



Tĩnh Thủy Nguyệt nghe đến mức hai mắt mở to ra, lắc đầu quầy quậy, Bích Túc liền cười nói: “Sao hả? Nàng không muốn con cái chúng ta mới ra đời đã làm tiểu hòa thượng sao? À… nói cũng đúng thôi, chúng là cục cưng của chúng ta, nhất định sẽ khôi ngô tuấn tú, làm sao nỡ mà gọt đầu chúng”.



Tĩnh Thủy Nguyệt xấu hổ, mặt đỏ rần, Bích Túc nhẹ nhàng nói: “Thủy Nguyệt, nàng có biết không, nàng là người phụ nữ đẹp nhất hạ giới, đợi tóc nàng mọc dài ra, nhất định sẽ càng đẹp hơn…”



Tĩnh Thủy Nguyệt không thể ngồi được nữa, nhét trả Bích Túc quả lê, nhảy dựng lên chạy mất.



“Này!” Bích Túc gọi với theo, nhìn theo bóng nàng khuất dần, mỉm cười nói: “Tiểu sư thái của ta khi cười giống như Bồ Tát vậy, thật mê hồn”. Hắn nắm chặt quả lê, cắn một miếng thật to ở chỗ Thủy Nguyệt vừa ăn, chạy theo hướng Thủy Nguyệt vừa đi”.


************************************************** ****



Kê Minh Tự, trong Phật đường, đại sư Bảo Kính mặc áo cà sa đỏ cùng với một vài đại sư khác đang ngồi bên Lý Dục. Lý Dục vừa dâng hương và tiền dầu cho chùa, đang ngồi cùng các vị hòa thượng, đích thân dùng dao cắt “xí giản” cho các hòa thượng. “Xí giản” chính là giấy vệ sinh dùng khi vào nhà tiêu, lúc đó giấy vệ sinh tương đối hiếm nên các hòa thượng phải làm sạch bằng những mảnh trúc nhỏ, nên giấy vệ sinh có nhu cầu rất lớn.



Bảo Kính đại sư nhìn thấy trong tự có chuyện chướng mắt, lại nằm ngay trong tầm mắt của nhà vua, liền không chịu được mà quát lên: “Đức Hạnh, ngươi đang làm gì vậy?”



Bích Túc đuổi theo Thủy Nguyệt, đang ngọt ngào dưới bóng cây, nói đến đoạn cao trào nên không phát hiện ra có người đang đến gần, nghe thấy phương trượng quát, hắn mới giật mình nhảy dựng lên, muốn tìm một lý do để lấp liếm đi nhưng chợt nhìn thấy Dương Hạo đang đứng đó nên bất giác ngẩn ra, quên cả trả lời.



Lý Dục vốn là một tín đồ của Phật tử, đồng thời cũng là một tài tử đa tình, hắn nhìn lén sang vị ni cô đang đứng đó, thấy cô là một người khá xinh đẹp. Với hắn, dù cô ta đã xuất gia với hắn cũng không có ý nghĩa gì mấy, bởi đã từng có chuyện hòa thượng lén cưỡng hiếp ni cô, sau khi sự việc xảy ra đã bị trừng trị nặng. Lý Dục thấy vậy mới nói vài câu giải vây cho đôi uyên ương: “Nơi này không phân định rõ quy định giữa hòa thượng với ni cô, Phật tâm không kiên định, bọn họ tư thông tâm tình, các ngươi nếu như muốn trừng trị họ thật nghiêm, sau đó đuổi họ ra khỏi tự thì chẳng phải đã cho họ đạt được tâm nguyện đó sao? Theo ý Trẫm, đối với những tăng nhân không tịnh như vậy thì hãy phạt họ đi bái Bồ Tát ba trăm lần là được”.



Hoàng đế nói như vậy, các nhà sư trong tự cũng không dám không nghe, do đó, trước mặt tăng nhân Giang Nam và rất nhiều người ở đó, chuyện quyến rũ con gái nhà lành cũng không được coi là chuyện lạ nữa, như sách nói: “Gian lạm công hành, vô sở cấm chỉ” (Làm việc sai trái ngay giữa ban ngày ban mặt mà không bị cấm).



Nhưng Kê Minh Tự là đệ nhất phật tự, đứng đầu nước Đường, Bảo Kính đại sư có yêu cầu vô cùng nghiêm ngặt, hơn nữa quan trọng nhất là hôm nay đệ tử của ông đã làm sai quy định, lại còn ngay trước mặt bao huynh đệ, trước mặt ông ta, hơn nữa còn ngay trước mắt vua Đường, tất nhiên không giận sao được.



Bích Túc lúng ta lúng túng không nói nên lời, Dương Hạo nhìn thấy hắn cũng không ngạc nhiên, cho tên tiểu tử này an phận trong thành Kim Lăng để chờ nghe ngóng tin tức, thế mà hắn lại khoác áo cà sa trốn trong chùa. Tên này đúng là hết thuốc chữa, Dương Hạo cũng nhất thời không biết nên giải vây cho hắn thế nào.



Lý Dục có chút bực mình, nhìn cẩn thận tên tiểu sa di và vị ni cô kia, nam thanh nữ tú, thật đúng là một cặp trời sinh. Lý Dục hiểu rõ nhất cách thưởng thức người đẹp, trong lòng cũng có phần thích thú, nhưng mặt không dám biểu lộ, liền cuời nói với Bảo Kính đại sư: “Tự chủ cần chi phải phẫn nộ, tôi thấy đôi này dung mạo thanh tú, làm sao lại có thể làm những chuyện nhơ bẩn được, để ta đi hỏi bọn chúng xem sao”.



Lý Dục tiến lên hai bước, Bảo Kính đại sư đi theo sau, cẩn thận dò xét hai người. Tĩnh Thủy Nguyệt đã quá sợ hãi mà đứng nép vào một bên, mặt trắng bệch, Lý Dục thấy có chút đáng thương liền làm mặt ôn hòa mà hỏi: “Sư phụ này ở đây cùng vị nữ nhi này làm gì?”



Dương Hạo vội ho một tiếng, nhắc nhở: “Tiểu hòa thượng, vị này là vua Giang Nam, làm sao mà ngươi lại không biết lễ nghĩa, mau hành lễ đi”



Bích Túc vốn không sợ hãi, nếu như Bảo Kính đại sư thực muốn đuổi hắn ra khỏi tự cũng chẳng sao, mục đích của hắn chủ yếu là tiếp cận Thủy Nguyệt mà thôi… Thủy Nguyệt tuy không từng bày tỏ thái độ với hắn, nhưng rõ ràng thái độ đối với hắn cũng khác, khi nghe hắn nói còn đỏ mặt mỉm cười, dù có chút cáu giận nhưng cũng chứng minh rõ là nàng cũng thích hắn, không sợ không có cơ hội đi tìm nàng nói chuyện. Nhưng khi nghe nói người đứng trước mặt mình chính là vua Đường, hắn mới bắt đầu thấy bối rối.



Dương Hạo cũng sốt ruột thay hắn, thấy Bích Túc cứ lắp bắp không thể mở miệng ra nói được, mặt Lý Dục cũng đã bắt đầu lộ vẻ khó chịu, Bích Túc lúc này đây chợt nghĩ đến khi giả mạo làm cao tăng Tây Tạng ở Khai Phong Dương Hạo đã từng nói: “Cao tăng mà, đều thích những lời nói sắc bén. Người khác nói những gì, chỉ cần ngươi cảm thấy không cần trả lời thì cứ trả lời nước đôi như không biết gì, ngươi yên tâm, càng nói chuyện không đâu thì càng giống Thiên Cơ, người ta càng cảm thấy nhà ngươi Phật học uyên bác. Người ta không hiểu thì đến hỏi cũng không dám hỏi ngươi, càng nói nữa, ngươi vốn là hòa thượng giả trang, có những điều ngươi nói không giống người xuất gia, nhưng cũng cứ kệ đi”.



Nghĩ tới đây, Bích Túc đột nhiên ưỡn ngực nói: “Người xuất gia nhảy ra khỏi Tam giới, không ở trong Ngũ hành, không bái Phật không bái tục, trước mặt Quốc vương, tiểu tăng cũng không cần phải bái. Mà thật ra Quốc vương mới là người cần bái tiểu tăng đây”.



Bảo Kính đại sư nghe thấy vậy đột nhiên giận dữ, Tĩnh Thủy Nguyệt thấy hắn nói vậy với Quốc vương cũng sợ hãi run rẩy, Lý Dục thì lại cười hỏi: “Tiểu sư phụ học những lời này ở đâu?”



Bích Túc cuống lên nói bừa: “Cái này… Kính tăng tức là kính phật, kính phật tức là kính pháp, tức là cung dưỡng tam bảo, mới được hưởng phúc. Tiểu tăng tuy chỉ là một vị tăng nhân bình thường nhưng lại là tín đồ của Phật, Quốc vương nếu như muốn ta hành lễ thì chẳng khác chi bắt Phật hành lễ, vậy là Quốc vương đã tạo tội rồi



Nguồn: http://4vn.eu/forum/showthread.php?71274-Lich-Su-Quan-Su-Bo-Bo-Sinh-Lien-Nguyet-Quan-Full-Text&page=75#ixzz1zqc32Mx7

Chương 357: Mây mưa sắp đến

Dương Hạo nghe thấy vậy không nhịn nổi cười, cái tên Bích Túc này quả là gan không nhỏ, chẳng phải là cao tăng gì, những lời nói của hắn đều bị Phương trượng nắm thóp, đang đứng ở kia tức khí bừng bừng mà hắn còn nói ra được. Còn vị tiểu ni cô kia cũng thật xinh đẹp, tên tiểu tử Bích Túc này cũng có mắt nhìn đấy chứ.



Lý Dục ngẫm nghĩ lời nói của Bích Túc, đột nhiên như tỉnh ra điều gì bèn quay sang nói với tiểu hòa thượng: “Tiểu sư phụ lễ Phật không lễ tục, nói cũng có lý, có thể thấy với trái tim kiên định hướng Phật như vậy tiểu sư phụ sắp đạt đến bậc cao tăng rồi. Nhưng không rõ tiểu sư phụ ở đây làm gì?”



Bích Túc đảo mắt một vòng rồi nói: “Thế Quốc vương ở đây làm gì? Tiểu tăng ở đây làm gì?”



Lý Dục cười nói: “Quả nhân hôm nay đến vốn là để lễ Phật”


Bích Túc nói: “Bần tăng ở đây cũng là để lễ Phật”



“Tiểu hòa thượng bái như vậy chẳng lẽ là thích Phật?” Lý Dục liếc vị ni cô kia một cái, câu hỏi này cơ hồ như cố ý thoát ra, nhưng thấy thân là Quốc vương, hình như không nên nói những lời này nên hắn lại ra vẻ trịnh trọng: “Quả nhân dâng hương lễ Phật, Phật trong Đại Hùng bảo điện, không biết vị sư phụ này lễ Phật ở đâu?”



Bích Túc càng bịa càng thấy vào, vung tay mà nói: “Nơi này một cành cây một cọng cỏ, điện các diêm ngói, ngài tôi cô ấy, đều có tính Phật, đều là Phật ta”.



Gia Luật Văn càng nghe càng mù mờ, không nhịn được mà cười khẩy nói: “Tiểu hòa thượng, ngươi ở đây với vị tiểu ni cô kia lôi lôi kéo kéo, đã là phạm vào sắc giới rồi, lại còn bốc phét, rõ ràng là người không tịnh, ắt hẳn là hòa thượng giả danh, ăn thịt uống rượu, muốn nói gì thì nói cũng đã là phạm tội rồi, còn đứng đó tự biên tự diễn”.



Bích Túc trợn mắt nói: “Rượu thịt đi qua dạ dày, Phật Tổ nằm lại trong tâm, cầm giới chưa chắc trong tâm đã có Phật, có Phật trong tâm chưa chắc đã phải cầm giới, đức Phật từ bi cũng không nổi trận lôi đình. Ngài ắt hẳn biết Phật tổ vốn là một vị hoàng tử, lấy vợ sinh con, ăn thịt uống rượu, thế mà vẫn tu hành ư?”



Bảo Kính đại sư quát to: “Đức Hạnh, ngươi thật to gan, thật hết cách để nói chuyện với ngươi. Đó là những chuyện Phật tổ làm trước khi thành Phật, còn sau đó đã giác ngộ bên dưới gốc bồ đề”.



Lý Dục nghĩ ngợi rồi nói: “Rượu thịt đi qua dạ dày, chỉ có Phật ở lại trong tâm. Hay! Nói hay lắm, Phật gia kiêng rượu thịt, đó là quy định có từ thời Lương Võ Đế… Khi niệm Phật thác bác hóa duyên, thi xá cái gì thì ăn cái đó, nhưng chính xác không phải là rượu thịt. Tiểu sư phụ có tính Phật, lại tuệ căn, có thể nói ra những điều ấy, rượu thịt đi qua dạ dày, chỉ có Phật ở lại trong tâm, câu này có thể nói ra quả là bậc đại thánh”.



Bảo Kính nghe thấy vua nói vậy bèn chỉ biết cung kính mà rằng: “Quốc vương Phật pháp cao thâm, có cách khiến giải khác đi, lão nạp không sao sánh bằng”.



Bích Túc thấy vua nói một câu, Bảo Kính liền nghe một câu, trong lòng thầm nghĩ: “Sư phụ của ta là đệ nhất đại sư của nhà Đường, các hòa thượng khác đều phải nghe lời ông ta, nhưng Lý Dục nói gì ông ta cũng không dám cãi lời, nếu như ta có thể leo lên cái cây này, ông ta dặn dò Thủy Nguyệt lấy ta thì ắt Tĩnh Tâm am cũng phải nghe theo”.


Nghĩ tới đây, hắn liền nảy ra ý định phàn giao với Lý Dục, bèn nói: “Quốc vương đã đến đây lễ Phật, nhìn thấy tiểu tăng rồi sao còn không bái?”



Bảo Kính kinh sợ, đang muốn trách mắng thì Lý Dục lại quay về phía hắn hành lễ nói: “Bậc sư phụ giáo dục đúng là… tín đồ Lý Dục xin được hành lễ”.



Bích Túc nhận lễ, cũng không thi lễ lại, Lý Dục thấy vậy cũng có cảm giác khó lường, chỉ cảm thấy tên hòa thượng này nói năng sắc bén… dung mạo thì khôi ngô khác thường, nói không chừng có thể là tiên đồng hạ phàm của Bồ Tát hóa thành hắn. Nghĩ vậy nên Lý Dục nhìn hắn với thái độ có đôi chút hoảng sợ.



Hai người lại nói chuyện với nhau, cũng nhân đó mà hỏi chuyện riêng của Bích Túc với vị ni cô kia. Bích Túc đã qua cơn sợ hãi, lại đang hứng khởi nói chuyện mây núi trời đất, rõ là không biết sợ ai, người bình thường ai cũng nghe ra là hắn đang nói phét, nhưng Lý Dục – kẻ thông thuộc Phật pháp thì lại cứ bị những lời nói của Bích Túc rót vào tai, thấy lời nào cũng có lý, thậm chí còn nảy sinh lòng tin phục với Bích Túc.



Hai người nói chuyện một lúc lâu, Lý Dục vẫn chưa nói hết ý nhưng do đã đến lúc phải về nên hắn lấy giấy bút chỗ Bảo Kính đại sư, viết lên một vài chữ to rồi nói: “Hôm nay được đối đáp với tiểu sư phụ, quả nhân được mở rộng tầm mắt, chữ này là quả nhân tặng cho sư phụ làm quà. Hôm sau quả nhân muốn mời sư phụ vào cung nói chuyện Phật pháp, xin tiểu sư phụ chớ từ chối”.


Dương Hạo xem ý nghĩa của chữ kia, không khỏi không thấy buồn cười. Bích Túc thì gãi gãi cái đầu trọc, nói nhỏ: “Chữ quốc vương viết ra đáng giá nghìn vàng, thật đáng tiếc… Quốc vương viết trên bức tường này thì ai cũng có thể gỡ tường ra đi bán”


Lý Dục nghe xong cười lớn, chỉ cảm thấy từng câu từng chữ của tiểu sư phụ này quả thực không tầm thường, giống như nhặt được bảo bối, hắn xem Bích Túc như bậc thần thánh.



Sau khi cung kính tiễn Lý Dục đi khỏi, Bảo Kính mới quay lại điện, nhìn thấy những chữ trên tường mà phát rầu. Thủ Tọa đại sư nghe nói Quốc vương viết lên tường, cũng hoan hỉ dẫn theo vài hòa thượng đến xem. Trên tường treo chữ, bên dưới còn có một cái lồng để bảo vệ cho ngự bút mới dán. Vừa nhìn thấy Bảo Kính đại sư đang đứng trước tường tức khí, Thủ Tọa đại sư không nén được mà nói: “Phương trượng, Quốc vương ta lấy đệ tử của Phương trượng – Đức Hạnh làm đề tài viết chữ, cái này là phúc của chùa ta, cớ sao ngài lại nhìn như thế là ra đạo lý gì?”



Bảo Kính chỉ chữ treo trên tường, mặt sầu não mà nói: “Sư huynh, huynh đến xem kĩ đi, xem xem Quốc vương nói đến điều gì?”



Thủ Tọa đại sư nhìn lên tường, chỉ thấy trên tường là những chữ rồng bay phượng múa, trên đó viết “Thiển châm đê xướng ôi hồng ỷ sắc đại sư, uyên ương tự chủ, trụ trì phong lưu giáo pháp”. Thủ Tọa đọc đi đọc lại hai lần vẫn không hiểu ý nói gì, quay sang nhìn Bảo Kính như muốn nhờ ông ta giải đáp dùm, bất giác ông “a” lên một tiếng, bối rối nói: “Cái này… cái này phải làm sao cho phải?”



“Thiển châm đê xướng ôi hồng ỷ sắc đại sư, uyên ương tự chủ, trụ trì phong lưu giáo pháp”, câu này rõ ràng là có ý nói Bích Túc muốn lấy vợ sinh con, theo đuổi ni cô, đó là điều có thể. Lý Dục hiện giờ tuy là đã mất đi đế hiệu, nhưng vẫn là Hoàng đế của Giang Nam, lời của Hoàng đế viết xuống như thánh chỉ, nào ai dám không tuân theo?



Nhất là khi trong câu này còn nói đến chủ trì, làm sao có thể vờ như không thấy. Nhưng muốn tuân theo thì chẳng lẽ phải trao chức Phương trượng cho tên Bích Túc kia? Nếu như Bích Túc làm Phương trượng thì Kê Minh Tự sẽ đi về đâu? Bảo Kính và Thủ Tọa đối mặt với nhau, cảm giác không tưởng tượng nổi Kê Minh Tự sẽ như thế nào.



Lúc này đây Bích Túc mắt la mày lém bước vào, đứng sau hai vị, cười hì hì rồi chắp tay thi lễ nói: “Sư phụ, Thủ Tọa đại sư đã mời, Kê Minh Tự vãn là đệ nhất của nước Đường. Trong tự có khoảng 3.000 tăng nhân, đệ tử có thể làm Phương trượng của chùa này không? Quốc vương đã phong cho đệ tử chức Phong lưu giáo pháp, đó cũng là Phật hiệu, trụ trì của chùa vẫn cần nhờ vào phó Phương trượng này, đệ tử…”



Hắn thấy trên đầu hắn như có bao ngôi sao sáng lấp lánh, mặt mày hớn hở mà nghĩ: “Hahaha… phen này xem nàng còn dám kháng chỉ của ta không?”


************************************************** ****



Lý Dục khởi giá, đại đội ngựa người chậm rãi hồi cung. Trên đường, bách tính bị quân lính dẹp gọn vào hai bên đường, trong đám người chen chúc đó có một khuôn mặt vàng vọt, quần áo rách rưới… chỉ có đôi mắt là trong veo như suối chảy, dáng người gày gò đi theo đoàn người cả một đoạn đường dài.



Ánh mắt của hắn nhìn chằm chằm vào sứ giả Khiết Đan như tìm tòi điều gì, dường như không tìm thấy người hắn cần tìm, hắn khẽ nhíu mày nói: “Rõ ràng là hắn có đến Giang Nam, nghe nói đó là tâm phúc của Gia Luật Văn, lẽ nào Gia Luật Văn không đem theo hắn? Chẳng lẽ hắn lại có tư cách làm bạn của Gia Luật Văn, lúc nào cũng ở bên cạnh Lý Dục?”



Hắn rảo nhanh bước đi, chạy theo một đoàn người đi phía trước, vừa tìm tòi trong đoàn nghi thức, vừa tìm kiếm dọc hai bên mà vẫn không thấy bóng dáng ấy, lại nhìn lên phía trên thì chỉ thấy đám Lý Dục và Gia Luật Văn. Ánh mắt hắn lại nhìn sang người đang cưỡi ngựa trắng bên cạnh Lý Dục, thân thể cao to cường tráng, đang mỉm cười nhìn về phía bách tính hai bên đường, chậm rãi đi qua họ.



Tên mặt vàng đó khẽ dụi mắt, đi nhanh vài bước, suýt nữa hắn đụng phải quang gánh của những bà bán hàng rong, vội vàng hắn chạy tới đầu cầu, nơi binh lính đứng nghiêm kín mít không dễ gì chen qua nổi, mắt lại hướng về phía người cưỡi ngựa trắng đang đi tới, đôi mắt sáng ngời càng lúc càng mở to, khẽ kêu lên như một kẻ đang mộng du: “Nhị ca, đúng là nhị ca…”


Chỉ trông thấy Lý Dục vịn tay vào thành xe ngựa, đằng sau một quãng ngắn là những chiến mã cao to, bên phải là sứ giả Khiết Đan Gia Luật Văn, còn bên trái kia…, mặc dù khí chất không giống với những gì hắn nhớ trong quá khứ, nhưng dung mạo kia thì hắn không thể nhìn lầm, đúng là nhị ca…








Hắn, chính là Ngọc Lạc, là nữ giả trang thành nam, cô độc đến Bắc quốc, vượt hàng ngàn dặm để tìm dấu tích Đinh Thừa Nghiệp. Đoạn đường khó khăn vất vả, không biết phải chịu khổ thế nào mới có thể lần ra tin tức Đinh Thừa Nghiệp đang ở Thượng Kinh, dưới trướng của chỉ huy sứ bộ tộc – Gia Luật Văn. Nàng lặn lội đến Thượng Kinh, đã từng thấy Đinh Thừa Nghiệp theo bên cạnh Gia Luật Văn, nhưng cái tên Gia Luật Văn ấy bên cạnh luôn có hàng đống người bảo vệ, canh phòng kín mít, khiến nàng không có cơ hội tiếp cận.



Nàng không biết rằng, sở dĩ Gia Luật Văn cho người canh phòng như vậy là bởi hắn vẫn đang cảnh giới với Hoàng đế và Tiêu hoàng hậu. Do không thể tìm cách tiếp cận với Đinh Thừa Nghiệp, nàng hết sức buồn rầu, may thay nghe ngóng được tin Gia Luật Văn sẽ đi sứ, nàng cũng tìm cách theo đuôi đến. Tại đây, đúng là sự cảnh giới của Gia Luật Văn không kinh khủng như ở Thượng Kinh, nhưng rất lạ là từ khi đến nước Đường này, Đinh Thừa Nghiệp không mấy khi ra ngoài cùng hắn.


Mãi đến giờ Đinh Ngọc Lạc mới biết nguyên nhân, thì ra Dương Hạo cũng ở đây.



Nhìn Dương Hạo, Đinh Ngọc Lạc bất giác rơi lệ. Nàng vốn là một tiểu thư vô lo vô nghĩ, nhưng đột nhiên gặp biến cố, cha già chết thảm, đại ca tàn phế, may mắn thay nàng thoát được. Tiểu đệ mà nàng hết mực yêu thương lại trở thành kẻ thù giết cha, còn người anh cùng cha khác mẹ của nàng lại do điều tiếng thiên hạ mà coi nàng như người qua đường.



Nàng có thể chịu đựng những áp lực hành hạ, vượt ngàn dặm đến Thượng Kinh, rồi lại đến Kim Lăng, đi qua ba nước, tâm lực đã tàn. Khi nhà Đinh gặp phải đại nạn, khi đói khổ, khi không còn nơi nào để nương tựa, đều là Dương Hạo đã giúp nàng.


Nàng sớm đã coi Dương Hạo như một người anh để nàng có thể dựa dẫm, nhưng hôm nay… Chàng đang đứng trước mặt mà Ngọc Lạc lại không còn mặt mũi nào đi gặp chàng.



Đại ca đã nói, Đinh Thừa Nghiệp chính là hung thủ giết cha, hắn không những là nguyên nhân gián tiếp khiến mẫu thân Dương Hạo qua đời mà còn là kẻ thù không đội trời chung, cũng là nguyên nhân trực tiếp khiến anh em bất hòa. Trước khi giết chết được hắn ta thì nàng không còn mặt mũi nào đến tạ tội với nhị ca, nàng chỉ có thể khẽ cắn chặt răng, mở to mắt nhìn Dương Hạo tiến tới gần, cách nàng vừa gần mà lại vừa xa… Tất cả những đau khổ và mệt mỏi, nàng chỉ có thể tự mình gánh chịu.



Khi đoàn nghi thức của Lý Dục rời đi, dân chúng mới bắt đầu tản đi, Đinh Ngọc Lạc đứng đơn độc trên đầu cầu, lặng lẽ cúi đầu, hai hàng lệ rơi xuống, hòa vào dòng nước sông…



************************************************** *****


Lý Dục hồi cung, đang hưng phấn về hậu cung để kể chuyện hôm nay nói chuyện với tiểu sư phụ Đức Hạnh cho Hoàng hậu nghe, thì một viên cung nhân vội vàng đuổi theo nói: “Quốc vương, hiệu thư lang Uông Hoán xin cầu kiến”.


Hiệu thư lang là người cốt cán của trường, là viên quan hiệu đính những lỗi sai, cũng không phải là chức quan gì to tát, nhưng Lý Dục thích nhất là thu thập những cuốn sách lẻ cổ đã bị thất lạc, rất xem trọng những điển tích văn chương, do vậy khi nghe Uông Hoán xin cầu kiến thì hắn cho rằng Uông Hoán lại phát hiện ra cái gì đó hay ho chăng, nên vội vàng nói: “Cho hắn vào”.



Uông Hoán vào cung, nhìn thấy Lý Dục liền nổi giận đùng đùng nói: “Thần nghe nói hôm nay đến Kê Minh tự lễ phật người đã quyên vạn tiền?”



Lý Dục vừa nghe đã biết hắn đến đây là vì cái gì, mặt liền trầm xuống, bực mình nói: “Không sai, có sao nào?”



Uông Hoán lại nói: “Thần còn nghe nói, Quốc vương thấy một hòa thượng không thanh thủ quy giới, không những không trừng phạt nặng mà còn nói chuyện trên trời dưới bể cùng hắn, còn đề chữ tặng hắn?”



Lý Dục bực mình cười: “Quả nhân ở đây hay là ở ngoài cung quả thật chuyện gì cũng không qua nổi mắt khanh. Việc lớn việc nhỏ trong cung trong chốc lát đã truyền ra bên ngoài, bên ngoài có động tĩnh gì cũng lập tức bay vào cung. Hiệu thư lang, khanh còn không quay về Tàng Thư các để chỉnh lý sách đi, còn cố ý chạy tới đây cầu kiến ta là vì chuyện này sao? Việc của ta liên quan gì đến khanh?”



Nói rồi hắn phất áo bỏ đi. Uông Hoán thấy vậy đành thất lễ, chạy theo kéo lấy áo Lý Dục mà nói: “Quốc vương dừng bước, thường nhân nịnh phật, tất nhiên là không can dự tới thần. Nhưng xã tắc Giang Nam ở trong tay người, thiên hạ đang dõi theo người, mà Quốc vương lại không chú ý câu nói, hoang đãi chính sự. Đến nạn đói năm nay dân chết đầy đường, quân thù thì dòm ngó nơi biên giới, thế mà Quốc vương lại hậu tăng bạc dân, xin hỏi người phục vụ Hoàng thất là Tăng hay là dân?”


Lý Dục biết hắn tuy là con mọt sách nhưng tấm lòng cũng trung thành và tận tâm, dù những lời hắn nói không dễ nghe nhưng cũng chỉ là nghĩ cho dân cho nước. Thấy vậy, hắn bèn an ủi nói: “Khanh vẫn còn dũng khí nói với trẫm những điều này, quả là đất nước ta còn phúc. Quả nhân tín phật cũng là để cảm hóa dân chúng hướng thiện. Khi ta xuất cung, nào ta có nhìn thấy cảnh dân chúng chết đói ngoài đường đâu, khanh nói những lời đó ngây thơ quá, tuy nhiên là do tính tình ngươi thuần phác, trẫm không trách ngươi đâu.”



Vừa nói xong hắn lại quay lưng rảo bước, Uông Hoán tiến tới trước mặt Lý Dục, đau khổ nói: “Quốc vương, ngày xưa Lương Võ Đế tín Phật, lấy máu viết Phật thư, xả thân làm nô lệ nhà Phật, cắt tóc đi tu, cuối cùng cũng chết đói trên bàn thành. Nay Quốc vương tiêu pha xa xỉ, lại thích Bồ tát, không quản chuyện chính sự lại đi mê tín vào chuyện Phật, không nghe những lời nói từ đáy lòng, thần e rằng Quốc vương sẽ rơi vào kết cục còn không bằng được Lương Võ Đế.”



Lý Dục nghe thấy Uông Hoán đem hắn so sánh cùng tên hôn quân Lương Võ Đế, trong lòng hết sức phẫn nộ, cười lạnh mà rằng: “Quả nhân đâu có dùng máu viết Phật thư, cũng không xả thân vì Phật. Liên Hành Nhân nói, vô vi mà trị, không lạm thi cực hình lệ pháp, làm sao rơi vào kết cục như Lương Võ Đế được? Thậm chí khanh nói bừa như thế, chẳng lẽ muốn giống Phan Hữu, Lý Bình hay sao?”



Phan Hữu vốn là Trung thư xá của nước Đường, Lý Bình là đại phu của nước Đường, hai người đã từng nói những điều giống như Uông Hoán hôm nay, khiến Lý Dục phẫn nộ, bị tống vào nhà giam, hai người cuối cùng phải tự vẫn trong ngục.


Uông Hoán ưỡn ngực nói: “Thần hôm nay đến, đúng là muốn giống như Phan Hữu, Lý Bình. Nếu như Quốc vương muốn giết Uông Hoán, Uông Hoán cũng nguyện xuống suối vàng kết bạn cùng Phan Hữu, Lý Bình.”



Lý Dục nghe xong cười lạnh một tiếng, ung dung nói: “Hư ngôn võng sự, mua danh chuộc tiếng”.



Uông Hoán nghe thấy vậy giận tím mặt, hắn vốn là một thư sinh bần kinh, thường không vận động mấy, nay bị Lý Dục kích động chỉ biết tức giận đến mức hoa mày chóng mặt, chân tay lạnh buốt, mắt hoa lên, cơ hồ như muốn ngất đi.



Lý Dục thấy vậy liền quay sang hai bên dặn dò: “Người đâu, mau dìu hắn đi”. Vừa nói hắn vừa đùng đùng bỏ đi. Lý Dục bị những lời nói của Phan Hữu làm hỏng tâm trạng vui vẻ của hắn, buồn bã tới hậu cung, cũng không cho người truyền báo mà lẳng lặng tiến vào, liền nghe thấy bên trong vọng ra tiếng nói của hai người đang rì rầm to nhỏ, Lý Dục liền khựng lại, dỏng tai lắng nghe…



Trong phòng có tiếng con gái: “Quốc vương đi đến Kê Minh tự dâng hương rồi? Trái tim Quốc vương thật nhân hậu, sùng tín Phật pháp, vốn bản tính của Quốc vương đã là Phật tâm rồi, không thể nào bỏ qua, nhưng nay cường địch ở bên, giang sơn nước Đường có nguy cơ bị mất, đến nước này Quốc vương nên dốc tâm xây dựng thủy quân lớn mạnh, tu sửa lại thuyền chiến, chiêu mộ anh tài, đẩy mạnh thế lực để tránh người Tống sang xâm lược từ phía Nam. Phân tâm vào quá nhiều việc thực chẳng ra sao cả. Nương nương, hiện trong dân gian có người nói nước Tống có dã tâm, không chịu để yên cho nước Đường đâu. Có rất nhiều nười nói, nước Tống đã mở rộng thành trì bên ngoài Khai Phong, đang luyện thủy quân, rõ ràng không chút che dấu, thử hỏi đại chiến hạm, luyện thủy quân như thế, nếu như không có ý với nước Đường thì là vì sao?”



Lý Dục nghe tiếng đoán người nói chính là Mạc cô nương, lần trước trái tim đa tình của hắn đã từng rung động trước Mạc cô nương, muốn nhờ cô nương viết thủ từ, ai ngờ cô ta lại không đồng ý, làm cho Lý Dục bị tổn thương. Bây giờ Mạc cô nương lại đang nói đến những chuyện của bản thân mình, Lý Dục cảm thấy hiếu kỳ, bèn muốn đứng nghe thêm xem cô ta nghĩ thế nào về mình, nên không nói lời nào, im lặng đứng phía sau bức bình phong nghe ngóng.



Chỉ nghe thấy tiếng Tiểu Chu nói tiếp: “Thực ra Quốc vương biết thừa dã tâm của nước Tống chứ, nhưng thực lực không đủ, không phải Quốc vương không thể dốc hết sức cứu vãn, nhưng nếu như huy động lực lượng lớn đi luyện binh thì e rằng sẽ là cái cớ để nước Tống lập tức xuất binh sang Đường. Đến nay Quốc vương vẫn im hơi lặng tiếng, muốn chủ động xưng thần với nước Tống là chẳng qua muốn lùi một bước, khiến bọn Tống không tìm ra cớ mà đánh nước Đường ta mà thôi.



Nước Đường ta có hơn 10 vạn binh lính tinh nhuệ, người Tống vừa không có lý do danh chính ngôn thuận, lại luyện binh trong hồ, nếu thật sự muốn đánh e rằng họ cũng không có cơ hội tốt, Triệu Khuông đâu có ngu mà không biết đánh giá điều đó? Còn về việc quân Tống cho đóng thuyền thì cũng chỉ là muốn dọa chúng ta thôi, chứ chưa chắc đã cố tình thảo phạt Đường Quốc. Hôm nay nước tống có được giang sơn nước Hán cũng cần có quân binh và chiến hạm canh giữ lãnh thổ chứ.”



Nguồn: http://4vn.eu/forum/showthread.php?71274-Lich-Su-Quan-Su-Bo-Bo-Sinh-Lien-Nguyet-Quan-Full-Text&page=75#ixzz1zqiLGx5o

Chương 357: Mây mưa sắp đến

Dương Hạo nghe thấy vậy không nhịn nổi cười, cái tên Bích Túc này quả là gan không nhỏ, chẳng phải là cao tăng gì, những lời nói của hắn đều bị Phương trượng nắm thóp, đang đứng ở kia tức khí bừng bừng mà hắn còn nói ra được. Còn vị tiểu ni cô kia cũng thật xinh đẹp, tên tiểu tử Bích Túc này cũng có mắt nhìn đấy chứ.



Lý Dục ngẫm nghĩ lời nói của Bích Túc, đột nhiên như tỉnh ra điều gì bèn quay sang nói với tiểu hòa thượng: “Tiểu sư phụ lễ Phật không lễ tục, nói cũng có lý, có thể thấy với trái tim kiên định hướng Phật như vậy tiểu sư phụ sắp đạt đến bậc cao tăng rồi. Nhưng không rõ tiểu sư phụ ở đây làm gì?”



Bích Túc đảo mắt một vòng rồi nói: “Thế Quốc vương ở đây làm gì? Tiểu tăng ở đây làm gì?”



Lý Dục cười nói: “Quả nhân hôm nay đến vốn là để lễ Phật”


Bích Túc nói: “Bần tăng ở đây cũng là để lễ Phật”



“Tiểu hòa thượng bái như vậy chẳng lẽ là thích Phật?” Lý Dục liếc vị ni cô kia một cái, câu hỏi này cơ hồ như cố ý thoát ra, nhưng thấy thân là Quốc vương, hình như không nên nói những lời này nên hắn lại ra vẻ trịnh trọng: “Quả nhân dâng hương lễ Phật, Phật trong Đại Hùng bảo điện, không biết vị sư phụ này lễ Phật ở đâu?”



Bích Túc càng bịa càng thấy vào, vung tay mà nói: “Nơi này một cành cây một cọng cỏ, điện các diêm ngói, ngài tôi cô ấy, đều có tính Phật, đều là Phật ta”.



Gia Luật Văn càng nghe càng mù mờ, không nhịn được mà cười khẩy nói: “Tiểu hòa thượng, ngươi ở đây với vị tiểu ni cô kia lôi lôi kéo kéo, đã là phạm vào sắc giới rồi, lại còn bốc phét, rõ ràng là người không tịnh, ắt hẳn là hòa thượng giả danh, ăn thịt uống rượu, muốn nói gì thì nói cũng đã là phạm tội rồi, còn đứng đó tự biên tự diễn”.



Bích Túc trợn mắt nói: “Rượu thịt đi qua dạ dày, Phật Tổ nằm lại trong tâm, cầm giới chưa chắc trong tâm đã có Phật, có Phật trong tâm chưa chắc đã phải cầm giới, đức Phật từ bi cũng không nổi trận lôi đình. Ngài ắt hẳn biết Phật tổ vốn là một vị hoàng tử, lấy vợ sinh con, ăn thịt uống rượu, thế mà vẫn tu hành ư?”



Bảo Kính đại sư quát to: “Đức Hạnh, ngươi thật to gan, thật hết cách để nói chuyện với ngươi. Đó là những chuyện Phật tổ làm trước khi thành Phật, còn sau đó đã giác ngộ bên dưới gốc bồ đề”.



Lý Dục nghĩ ngợi rồi nói: “Rượu thịt đi qua dạ dày, chỉ có Phật ở lại trong tâm. Hay! Nói hay lắm, Phật gia kiêng rượu thịt, đó là quy định có từ thời Lương Võ Đế… Khi niệm Phật thác bác hóa duyên, thi xá cái gì thì ăn cái đó, nhưng chính xác không phải là rượu thịt. Tiểu sư phụ có tính Phật, lại tuệ căn, có thể nói ra những điều ấy, rượu thịt đi qua dạ dày, chỉ có Phật ở lại trong tâm, câu này có thể nói ra quả là bậc đại thánh”.



Bảo Kính nghe thấy vua nói vậy bèn chỉ biết cung kính mà rằng: “Quốc vương Phật pháp cao thâm, có cách khiến giải khác đi, lão nạp không sao sánh bằng”.



Bích Túc thấy vua nói một câu, Bảo Kính liền nghe một câu, trong lòng thầm nghĩ: “Sư phụ của ta là đệ nhất đại sư của nhà Đường, các hòa thượng khác đều phải nghe lời ông ta, nhưng Lý Dục nói gì ông ta cũng không dám cãi lời, nếu như ta có thể leo lên cái cây này, ông ta dặn dò Thủy Nguyệt lấy ta thì ắt Tĩnh Tâm am cũng phải nghe theo”.


Nghĩ tới đây, hắn liền nảy ra ý định phàn giao với Lý Dục, bèn nói: “Quốc vương đã đến đây lễ Phật, nhìn thấy tiểu tăng rồi sao còn không bái?”



Bảo Kính kinh sợ, đang muốn trách mắng thì Lý Dục lại quay về phía hắn hành lễ nói: “Bậc sư phụ giáo dục đúng là… tín đồ Lý Dục xin được hành lễ”.



Bích Túc nhận lễ, cũng không thi lễ lại, Lý Dục thấy vậy cũng có cảm giác khó lường, chỉ cảm thấy tên hòa thượng này nói năng sắc bén… dung mạo thì khôi ngô khác thường, nói không chừng có thể là tiên đồng hạ phàm của Bồ Tát hóa thành hắn. Nghĩ vậy nên Lý Dục nhìn hắn với thái độ có đôi chút hoảng sợ.



Hai người lại nói chuyện với nhau, cũng nhân đó mà hỏi chuyện riêng của Bích Túc với vị ni cô kia. Bích Túc đã qua cơn sợ hãi, lại đang hứng khởi nói chuyện mây núi trời đất, rõ là không biết sợ ai, người bình thường ai cũng nghe ra là hắn đang nói phét, nhưng Lý Dục – kẻ thông thuộc Phật pháp thì lại cứ bị những lời nói của Bích Túc rót vào tai, thấy lời nào cũng có lý, thậm chí còn nảy sinh lòng tin phục với Bích Túc.



Hai người nói chuyện một lúc lâu, Lý Dục vẫn chưa nói hết ý nhưng do đã đến lúc phải về nên hắn lấy giấy bút chỗ Bảo Kính đại sư, viết lên một vài chữ to rồi nói: “Hôm nay được đối đáp với tiểu sư phụ, quả nhân được mở rộng tầm mắt, chữ này là quả nhân tặng cho sư phụ làm quà. Hôm sau quả nhân muốn mời sư phụ vào cung nói chuyện Phật pháp, xin tiểu sư phụ chớ từ chối”.


Dương Hạo xem ý nghĩa của chữ kia, không khỏi không thấy buồn cười. Bích Túc thì gãi gãi cái đầu trọc, nói nhỏ: “Chữ quốc vương viết ra đáng giá nghìn vàng, thật đáng tiếc… Quốc vương viết trên bức tường này thì ai cũng có thể gỡ tường ra đi bán”


Lý Dục nghe xong cười lớn, chỉ cảm thấy từng câu từng chữ của tiểu sư phụ này quả thực không tầm thường, giống như nhặt được bảo bối, hắn xem Bích Túc như bậc thần thánh.



Sau khi cung kính tiễn Lý Dục đi khỏi, Bảo Kính mới quay lại điện, nhìn thấy những chữ trên tường mà phát rầu. Thủ Tọa đại sư nghe nói Quốc vương viết lên tường, cũng hoan hỉ dẫn theo vài hòa thượng đến xem. Trên tường treo chữ, bên dưới còn có một cái lồng để bảo vệ cho ngự bút mới dán. Vừa nhìn thấy Bảo Kính đại sư đang đứng trước tường tức khí, Thủ Tọa đại sư không nén được mà nói: “Phương trượng, Quốc vương ta lấy đệ tử của Phương trượng – Đức Hạnh làm đề tài viết chữ, cái này là phúc của chùa ta, cớ sao ngài lại nhìn như thế là ra đạo lý gì?”



Bảo Kính chỉ chữ treo trên tường, mặt sầu não mà nói: “Sư huynh, huynh đến xem kĩ đi, xem xem Quốc vương nói đến điều gì?”



Thủ Tọa đại sư nhìn lên tường, chỉ thấy trên tường là những chữ rồng bay phượng múa, trên đó viết “Thiển châm đê xướng ôi hồng ỷ sắc đại sư, uyên ương tự chủ, trụ trì phong lưu giáo pháp”. Thủ Tọa đọc đi đọc lại hai lần vẫn không hiểu ý nói gì, quay sang nhìn Bảo Kính như muốn nhờ ông ta giải đáp dùm, bất giác ông “a” lên một tiếng, bối rối nói: “Cái này… cái này phải làm sao cho phải?”



“Thiển châm đê xướng ôi hồng ỷ sắc đại sư, uyên ương tự chủ, trụ trì phong lưu giáo pháp”, câu này rõ ràng là có ý nói Bích Túc muốn lấy vợ sinh con, theo đuổi ni cô, đó là điều có thể. Lý Dục hiện giờ tuy là đã mất đi đế hiệu, nhưng vẫn là Hoàng đế của Giang Nam, lời của Hoàng đế viết xuống như thánh chỉ, nào ai dám không tuân theo?



Nhất là khi trong câu này còn nói đến chủ trì, làm sao có thể vờ như không thấy. Nhưng muốn tuân theo thì chẳng lẽ phải trao chức Phương trượng cho tên Bích Túc kia? Nếu như Bích Túc làm Phương trượng thì Kê Minh Tự sẽ đi về đâu? Bảo Kính và Thủ Tọa đối mặt với nhau, cảm giác không tưởng tượng nổi Kê Minh Tự sẽ như thế nào.



Lúc này đây Bích Túc mắt la mày lém bước vào, đứng sau hai vị, cười hì hì rồi chắp tay thi lễ nói: “Sư phụ, Thủ Tọa đại sư đã mời, Kê Minh Tự vãn là đệ nhất của nước Đường. Trong tự có khoảng 3.000 tăng nhân, đệ tử có thể làm Phương trượng của chùa này không? Quốc vương đã phong cho đệ tử chức Phong lưu giáo pháp, đó cũng là Phật hiệu, trụ trì của chùa vẫn cần nhờ vào phó Phương trượng này, đệ tử…”



Hắn thấy trên đầu hắn như có bao ngôi sao sáng lấp lánh, mặt mày hớn hở mà nghĩ: “Hahaha… phen này xem nàng còn dám kháng chỉ của ta không?”


************************************************** ****



Lý Dục khởi giá, đại đội ngựa người chậm rãi hồi cung. Trên đường, bách tính bị quân lính dẹp gọn vào hai bên đường, trong đám người chen chúc đó có một khuôn mặt vàng vọt, quần áo rách rưới… chỉ có đôi mắt là trong veo như suối chảy, dáng người gày gò đi theo đoàn người cả một đoạn đường dài.



Ánh mắt của hắn nhìn chằm chằm vào sứ giả Khiết Đan như tìm tòi điều gì, dường như không tìm thấy người hắn cần tìm, hắn khẽ nhíu mày nói: “Rõ ràng là hắn có đến Giang Nam, nghe nói đó là tâm phúc của Gia Luật Văn, lẽ nào Gia Luật Văn không đem theo hắn? Chẳng lẽ hắn lại có tư cách làm bạn của Gia Luật Văn, lúc nào cũng ở bên cạnh Lý Dục?”



Hắn rảo nhanh bước đi, chạy theo một đoàn người đi phía trước, vừa tìm tòi trong đoàn nghi thức, vừa tìm kiếm dọc hai bên mà vẫn không thấy bóng dáng ấy, lại nhìn lên phía trên thì chỉ thấy đám Lý Dục và Gia Luật Văn. Ánh mắt hắn lại nhìn sang người đang cưỡi ngựa trắng bên cạnh Lý Dục, thân thể cao to cường tráng, đang mỉm cười nhìn về phía bách tính hai bên đường, chậm rãi đi qua họ.



Tên mặt vàng đó khẽ dụi mắt, đi nhanh vài bước, suýt nữa hắn đụng phải quang gánh của những bà bán hàng rong, vội vàng hắn chạy tới đầu cầu, nơi binh lính đứng nghiêm kín mít không dễ gì chen qua nổi, mắt lại hướng về phía người cưỡi ngựa trắng đang đi tới, đôi mắt sáng ngời càng lúc càng mở to, khẽ kêu lên như một kẻ đang mộng du: “Nhị ca, đúng là nhị ca…”


Chỉ trông thấy Lý Dục vịn tay vào thành xe ngựa, đằng sau một quãng ngắn là những chiến mã cao to, bên phải là sứ giả Khiết Đan Gia Luật Văn, còn bên trái kia…, mặc dù khí chất không giống với những gì hắn nhớ trong quá khứ, nhưng dung mạo kia thì hắn không thể nhìn lầm, đúng là nhị ca…








Hắn, chính là Ngọc Lạc, là nữ giả trang thành nam, cô độc đến Bắc quốc, vượt hàng ngàn dặm để tìm dấu tích Đinh Thừa Nghiệp. Đoạn đường khó khăn vất vả, không biết phải chịu khổ thế nào mới có thể lần ra tin tức Đinh Thừa Nghiệp đang ở Thượng Kinh, dưới trướng của chỉ huy sứ bộ tộc – Gia Luật Văn. Nàng lặn lội đến Thượng Kinh, đã từng thấy Đinh Thừa Nghiệp theo bên cạnh Gia Luật Văn, nhưng cái tên Gia Luật Văn ấy bên cạnh luôn có hàng đống người bảo vệ, canh phòng kín mít, khiến nàng không có cơ hội tiếp cận.



Nàng không biết rằng, sở dĩ Gia Luật Văn cho người canh phòng như vậy là bởi hắn vẫn đang cảnh giới với Hoàng đế và Tiêu hoàng hậu. Do không thể tìm cách tiếp cận với Đinh Thừa Nghiệp, nàng hết sức buồn rầu, may thay nghe ngóng được tin Gia Luật Văn sẽ đi sứ, nàng cũng tìm cách theo đuôi đến. Tại đây, đúng là sự cảnh giới của Gia Luật Văn không kinh khủng như ở Thượng Kinh, nhưng rất lạ là từ khi đến nước Đường này, Đinh Thừa Nghiệp không mấy khi ra ngoài cùng hắn.


Mãi đến giờ Đinh Ngọc Lạc mới biết nguyên nhân, thì ra Dương Hạo cũng ở đây.



Nhìn Dương Hạo, Đinh Ngọc Lạc bất giác rơi lệ. Nàng vốn là một tiểu thư vô lo vô nghĩ, nhưng đột nhiên gặp biến cố, cha già chết thảm, đại ca tàn phế, may mắn thay nàng thoát được. Tiểu đệ mà nàng hết mực yêu thương lại trở thành kẻ thù giết cha, còn người anh cùng cha khác mẹ của nàng lại do điều tiếng thiên hạ mà coi nàng như người qua đường.



Nàng có thể chịu đựng những áp lực hành hạ, vượt ngàn dặm đến Thượng Kinh, rồi lại đến Kim Lăng, đi qua ba nước, tâm lực đã tàn. Khi nhà Đinh gặp phải đại nạn, khi đói khổ, khi không còn nơi nào để nương tựa, đều là Dương Hạo đã giúp nàng.


Nàng sớm đã coi Dương Hạo như một người anh để nàng có thể dựa dẫm, nhưng hôm nay… Chàng đang đứng trước mặt mà Ngọc Lạc lại không còn mặt mũi nào đi gặp chàng.



Đại ca đã nói, Đinh Thừa Nghiệp chính là hung thủ giết cha, hắn không những là nguyên nhân gián tiếp khiến mẫu thân Dương Hạo qua đời mà còn là kẻ thù không đội trời chung, cũng là nguyên nhân trực tiếp khiến anh em bất hòa. Trước khi giết chết được hắn ta thì nàng không còn mặt mũi nào đến tạ tội với nhị ca, nàng chỉ có thể khẽ cắn chặt răng, mở to mắt nhìn Dương Hạo tiến tới gần, cách nàng vừa gần mà lại vừa xa… Tất cả những đau khổ và mệt mỏi, nàng chỉ có thể tự mình gánh chịu.



Khi đoàn nghi thức của Lý Dục rời đi, dân chúng mới bắt đầu tản đi, Đinh Ngọc Lạc đứng đơn độc trên đầu cầu, lặng lẽ cúi đầu, hai hàng lệ rơi xuống, hòa vào dòng nước sông…



************************************************** *****


Lý Dục hồi cung, đang hưng phấn về hậu cung để kể chuyện hôm nay nói chuyện với tiểu sư phụ Đức Hạnh cho Hoàng hậu nghe, thì một viên cung nhân vội vàng đuổi theo nói: “Quốc vương, hiệu thư lang Uông Hoán xin cầu kiến”.


Hiệu thư lang là người cốt cán của trường, là viên quan hiệu đính những lỗi sai, cũng không phải là chức quan gì to tát, nhưng Lý Dục thích nhất là thu thập những cuốn sách lẻ cổ đã bị thất lạc, rất xem trọng những điển tích văn chương, do vậy khi nghe Uông Hoán xin cầu kiến thì hắn cho rằng Uông Hoán lại phát hiện ra cái gì đó hay ho chăng, nên vội vàng nói: “Cho hắn vào”.



Uông Hoán vào cung, nhìn thấy Lý Dục liền nổi giận đùng đùng nói: “Thần nghe nói hôm nay đến Kê Minh tự lễ phật người đã quyên vạn tiền?”



Lý Dục vừa nghe đã biết hắn đến đây là vì cái gì, mặt liền trầm xuống, bực mình nói: “Không sai, có sao nào?”



Uông Hoán lại nói: “Thần còn nghe nói, Quốc vương thấy một hòa thượng không thanh thủ quy giới, không những không trừng phạt nặng mà còn nói chuyện trên trời dưới bể cùng hắn, còn đề chữ tặng hắn?”



Lý Dục bực mình cười: “Quả nhân ở đây hay là ở ngoài cung quả thật chuyện gì cũng không qua nổi mắt khanh. Việc lớn việc nhỏ trong cung trong chốc lát đã truyền ra bên ngoài, bên ngoài có động tĩnh gì cũng lập tức bay vào cung. Hiệu thư lang, khanh còn không quay về Tàng Thư các để chỉnh lý sách đi, còn cố ý chạy tới đây cầu kiến ta là vì chuyện này sao? Việc của ta liên quan gì đến khanh?”



Nói rồi hắn phất áo bỏ đi. Uông Hoán thấy vậy đành thất lễ, chạy theo kéo lấy áo Lý Dục mà nói: “Quốc vương dừng bước, thường nhân nịnh phật, tất nhiên là không can dự tới thần. Nhưng xã tắc Giang Nam ở trong tay người, thiên hạ đang dõi theo người, mà Quốc vương lại không chú ý câu nói, hoang đãi chính sự. Đến nạn đói năm nay dân chết đầy đường, quân thù thì dòm ngó nơi biên giới, thế mà Quốc vương lại hậu tăng bạc dân, xin hỏi người phục vụ Hoàng thất là Tăng hay là dân?”


Lý Dục biết hắn tuy là con mọt sách nhưng tấm lòng cũng trung thành và tận tâm, dù những lời hắn nói không dễ nghe nhưng cũng chỉ là nghĩ cho dân cho nước. Thấy vậy, hắn bèn an ủi nói: “Khanh vẫn còn dũng khí nói với trẫm những điều này, quả là đất nước ta còn phúc. Quả nhân tín phật cũng là để cảm hóa dân chúng hướng thiện. Khi ta xuất cung, nào ta có nhìn thấy cảnh dân chúng chết đói ngoài đường đâu, khanh nói những lời đó ngây thơ quá, tuy nhiên là do tính tình ngươi thuần phác, trẫm không trách ngươi đâu.”



Vừa nói xong hắn lại quay lưng rảo bước, Uông Hoán tiến tới trước mặt Lý Dục, đau khổ nói: “Quốc vương, ngày xưa Lương Võ Đế tín Phật, lấy máu viết Phật thư, xả thân làm nô lệ nhà Phật, cắt tóc đi tu, cuối cùng cũng chết đói trên bàn thành. Nay Quốc vương tiêu pha xa xỉ, lại thích Bồ tát, không quản chuyện chính sự lại đi mê tín vào chuyện Phật, không nghe những lời nói từ đáy lòng, thần e rằng Quốc vương sẽ rơi vào kết cục còn không bằng được Lương Võ Đế.”



Lý Dục nghe thấy Uông Hoán đem hắn so sánh cùng tên hôn quân Lương Võ Đế, trong lòng hết sức phẫn nộ, cười lạnh mà rằng: “Quả nhân đâu có dùng máu viết Phật thư, cũng không xả thân vì Phật. Liên Hành Nhân nói, vô vi mà trị, không lạm thi cực hình lệ pháp, làm sao rơi vào kết cục như Lương Võ Đế được? Thậm chí khanh nói bừa như thế, chẳng lẽ muốn giống Phan Hữu, Lý Bình hay sao?”



Phan Hữu vốn là Trung thư xá của nước Đường, Lý Bình là đại phu của nước Đường, hai người đã từng nói những điều giống như Uông Hoán hôm nay, khiến Lý Dục phẫn nộ, bị tống vào nhà giam, hai người cuối cùng phải tự vẫn trong ngục.


Uông Hoán ưỡn ngực nói: “Thần hôm nay đến, đúng là muốn giống như Phan Hữu, Lý Bình. Nếu như Quốc vương muốn giết Uông Hoán, Uông Hoán cũng nguyện xuống suối vàng kết bạn cùng Phan Hữu, Lý Bình.”



Lý Dục nghe xong cười lạnh một tiếng, ung dung nói: “Hư ngôn võng sự, mua danh chuộc tiếng”.



Uông Hoán nghe thấy vậy giận tím mặt, hắn vốn là một thư sinh bần kinh, thường không vận động mấy, nay bị Lý Dục kích động chỉ biết tức giận đến mức hoa mày chóng mặt, chân tay lạnh buốt, mắt hoa lên, cơ hồ như muốn ngất đi.



Lý Dục thấy vậy liền quay sang hai bên dặn dò: “Người đâu, mau dìu hắn đi”. Vừa nói hắn vừa đùng đùng bỏ đi. Lý Dục bị những lời nói của Phan Hữu làm hỏng tâm trạng vui vẻ của hắn, buồn bã tới hậu cung, cũng không cho người truyền báo mà lẳng lặng tiến vào, liền nghe thấy bên trong vọng ra tiếng nói của hai người đang rì rầm to nhỏ, Lý Dục liền khựng lại, dỏng tai lắng nghe…



Trong phòng có tiếng con gái: “Quốc vương đi đến Kê Minh tự dâng hương rồi? Trái tim Quốc vương thật nhân hậu, sùng tín Phật pháp, vốn bản tính của Quốc vương đã là Phật tâm rồi, không thể nào bỏ qua, nhưng nay cường địch ở bên, giang sơn nước Đường có nguy cơ bị mất, đến nước này Quốc vương nên dốc tâm xây dựng thủy quân lớn mạnh, tu sửa lại thuyền chiến, chiêu mộ anh tài, đẩy mạnh thế lực để tránh người Tống sang xâm lược từ phía Nam. Phân tâm vào quá nhiều việc thực chẳng ra sao cả. Nương nương, hiện trong dân gian có người nói nước Tống có dã tâm, không chịu để yên cho nước Đường đâu. Có rất nhiều nười nói, nước Tống đã mở rộng thành trì bên ngoài Khai Phong, đang luyện thủy quân, rõ ràng không chút che dấu, thử hỏi đại chiến hạm, luyện thủy quân như thế, nếu như không có ý với nước Đường thì là vì sao?”



Lý Dục nghe tiếng đoán người nói chính là Mạc cô nương, lần trước trái tim đa tình của hắn đã từng rung động trước Mạc cô nương, muốn nhờ cô nương viết thủ từ, ai ngờ cô ta lại không đồng ý, làm cho Lý Dục bị tổn thương. Bây giờ Mạc cô nương lại đang nói đến những chuyện của bản thân mình, Lý Dục cảm thấy hiếu kỳ, bèn muốn đứng nghe thêm xem cô ta nghĩ thế nào về mình, nên không nói lời nào, im lặng đứng phía sau bức bình phong nghe ngóng.



Chỉ nghe thấy tiếng Tiểu Chu nói tiếp: “Thực ra Quốc vương biết thừa dã tâm của nước Tống chứ, nhưng thực lực không đủ, không phải Quốc vương không thể dốc hết sức cứu vãn, nhưng nếu như huy động lực lượng lớn đi luyện binh thì e rằng sẽ là cái cớ để nước Tống lập tức xuất binh sang Đường. Đến nay Quốc vương vẫn im hơi lặng tiếng, muốn chủ động xưng thần với nước Tống là chẳng qua muốn lùi một bước, khiến bọn Tống không tìm ra cớ mà đánh nước Đường ta mà thôi.



Nước Đường ta có hơn 10 vạn binh lính tinh nhuệ, người Tống vừa không có lý do danh chính ngôn thuận, lại luyện binh trong hồ, nếu thật sự muốn đánh e rằng họ cũng không có cơ hội tốt, Triệu Khuông đâu có ngu mà không biết đánh giá điều đó? Còn về việc quân Tống cho đóng thuyền thì cũng chỉ là muốn dọa chúng ta thôi, chứ chưa chắc đã cố tình thảo phạt Đường Quốc. Hôm nay nước tống có được giang sơn nước Hán cũng cần có quân binh và chiến hạm canh giữ lãnh thổ chứ.”



Nguồn: http://4vn.eu/forum/showthread.php?71274-Lich-Su-Quan-Su-Bo-Bo-Sinh-Lien-Nguyet-Quan-Full-Text&page=75#ixzz1zqiLGx5o

Chương 358: Phong Mãn Lâu

Mạc Thu Nương thở dài nói: “Dã tâm hại người có thể có…nhưng phòng ngừa tâm địa con người thì không thể không có. Đúng là nhà Đường có 10 vạn binh tinh nhuệ, hơn nữa còn địa lợi, giỏi thủy chiến, không khó đánh một trận thực lực cho nhà Tống yếu thế. Hàng năm chúng ta xưng thần cống nạp, số tiền đã lên đến hơn 10 vạn lượng, bên kia có thêm được một phần thì chúng ta giảm đi một phần. Cứ như thế này thì thực lực hai bên ngày càng cách biệt, điều này chẳng phải là cổ vũ uy phong người Tống mà làm mất nhuệ khí quân ta đó sao?”



“Ôi! Không xưng thần cống nạp, Quốc vương làm sao có thể mù mịt được như thế. Muội cuối cùng cũng chỉ là nữ nhi, đừng có thiển cận…” Tiểu Châu thở dài một tiếng, rồi lại nói: “Có điều muội tuy là nữ nhi, không giỏi thi từ ca phú, son nữ hồng, mà lại thích bàn chuyện đại sự quốc gia, thật đúng là khác người”.



“À… Thu Nương sinh sống trong cửa nhà thế gia, thường xuyên thấy cậu và bố luyện binh, bàn chuyện quốc gia nên mới thấy hứng thú với những chuyện thế này”.



Tiểu Chu nghe xong cười hì hì mà nói: “Dù nói như vậy, nhưng muội cũng chỉ là nữ nhi. Bận tâm lắm làm gì, chúng ta làm sao có thể giúp gì cho việc đại sự? Muội quan tâm đến nhà Đường và Quốc vương như vậy, là do khai trí, hay là… muội có ý gì với Quốc vương?”



Lý Dục chợt giật nảy mình, không kìm được mà tiến lên hai bước, nghe Mạc cô nương nói: “Nương nương lại trêu ghẹo Thu Nương rồi, Thu Nương thân là người nước Đường tất nhiên phải lo cho nước Đường. Tôn trọng Quốc vương, đấy cũng là một bổn phận của người dân bình thường, Thu Nương sao dám có tơ tưởng gì với Quốc vương.”


Lý Dục thấy trong lòng trống rỗng… Tiểu Chu nghe xong cười mà rằng: “Muội không cần phải che giấu, mỗi lần ngồi cùng bản cung nói chuyện phiếm, người đều không nói gì khác ngoài chuyện Quốc vương. Chẳng lẽ ngươi tưởng ta không đoán ra tâm tình của ngươi sao? Ta không phải là người hay ghen tị, trong số các cung tần mỹ nữ, người xem ta có bao giờ bực mình với họ đâu, huống chi ta và ngươi như chị em tâm đầu ý hợp như thế”.



Chiết Tử Du không biết nên khóc hay nên cười, bất đắc dĩ nói: “Nương nương… đúng thật là hiểu lầm Thu Nương rồi. Quốc vương có trong tay cả giang sơn Giang Nam, biết bao người dân, nhất cử nhất động của Quốc vương đều đại diện cho nhất cử nhất động của nước Đường, nói về chuyện quốc sự của Giang Nam chẳng lẽ lại không nhắc đến Quốc vương? Thực không phải… thực không phải nhi nữ có tư tình…”



“Hihi, xem bộ dạng xấu hổ của Thu Nương thật đáng yêu quá. Đến bản cung còn động lòng huống hồ là Quốc vương, ngài còn viết cho ngươi một phú từ để bày tỏ…”



“Nương nương!”


“Được rồi được rồi, ta không lôi chuyện này ra trêu ngươi nữa. Thu Nương, ngươi có thích vua Đường hay không, chuyện này không đề cập tới, nhưng không biết trong mắt ngươi vua Đường là người thế nào?”



“Cái này…”



“Chúng ta là tỷ muội có gì chẳng nói với nhau, muội cứ nói đi, không cần phải ấp úng”



“Vâng… Trong mắt Thu Nương thì Quốc vương dáng vóc không tầm thường, tài hoa hơn người, văn võ song toàn, thông âm luật, bản tính tốt, trước sau chẳng có ai bằng…”



Tiểu Chu cười nói: “Muội khen Quốc vương như thế thật ngoài dự liệu của ta đấy”


Đằng sau tấm bình phong, Lý Dục nghe thấy à như mở cờ trong bụng. Nếu không sợ làm kinh động đến mỹ nhân thì hắn chẳng đã nhẩy cẫng lên rồi.



Tử Du nghe thấy vậy liền nói: “Là người chẳng có ai hoàn hảo. Vua Đường cái gì cũng tốt, có điều nói về chuyện đại sự thì thiếu khí phách, hiểu cầm kỳ thi họa cũng vẫn không đủ để đem đến bình an cho nước Đường, quân sự và chính trị mới là phương pháp để đánh thắng. Nếu như Quốc vương không là vua thì ắt sẽ là đệ nhất tài tử Giang Nam, nhưng Quốc vương là người đứng đầu một nước mà chú tâm vào thi ca đền đạo, lơ là việc quốc sự, đó không phải là hạnh phúc của Quốc vương, lại càng không phải là hạnh phúc của Giang Nam.”



Lý Dục nghe thấy liền tự nhủ: “Chẳng trách ngày ấy ta bảo viết tặng nàng một bài thơ nàng không thèm, hóa ra là vì nàng sinh ra trong cửa thế gia, nên nàng thích mẫu đàn ông dọc ngang trên lưng ngựa, đi chinh phục thiên hạ. Nếu nói như vậy thì Triệu Khuông ắt hẳn sẽ là người anh hùng trong mắt nàng, sợ rằng nếu bây giờ ta mới bắt đầu học võ công thì xương cốt đã cứng mất rồi. Xoa xoa cái bụng mình, Lý Dục khẽ thở dài.



Tiểu Chu khẽ nói: “Muội muội, muội đừng trách Quốc vương, cần phải biết Quốc vương vốn là vị vua vô vi chi tâm, năm vị huynh trưởng đều sớm qua đời, ngôi vị hoàng đế này mới không thể không rơi vào đầu Quốc vương. Quốc vương cũng là do bất đắc dĩ, muội nghĩ rằng làm vua đất Giang Nam này là sung sướng lắm sao?”



Chiết Tử Du nói: “Là do thần nghe người ta nói, Quốc vương thưở nhỏ đã thích thơ từ ca phú, chán ghét chuyện kinh đạo, mới đầu cũng được phong làm thái tử. Lễ bộ thị lang Trung Mô Trác đã nói, Tòng Gia Đức chí yếu, lại khốc tín thị dân, không thể làm chủ. Còn Tòng Thiện quả dám ngưng trọng thì là có ích cho con cháu. Thế nhưng Quốc vương không cho câu nói này là đúng, ngược lại còn đày Trung Mô Trác đi ải, nương nương, có chuyện này sao?”



“Đúng vậy, nhưng chuyện này là bí mật”. Tiểu Chu nghe xong liền thở dài đáp: “Tòng Thiện, Tòng Thiện… Ôi, Quốc vương lệnh cho Tòng Thiện đi sứ nước Tống vốn là bày tỏ cho nước Tống thấy lòng kính trọng của ta, ai ngờ Triệu Khuông lại vô lễ, đem Tòng Thiện giam lỏng không thả ra, Quốc vương nghĩ đến tình huynh đệ mà luôn thấy phiền muộn. Vợ Tòng Thiện cơ thể ốm yếu suy nhược, phu quân thì lại bị tống vào tù nhà Tống khiến nàng ta ưu tư phiền muộn, thường tìm đến chỗ Quốc vương khóc lóc, khiến Quốc vương cũng khó xử. Nghe nói nàng ta hôm qua lại tiến cung, tức giận buông ra những lời bất tuân, nhục mạ Quốc vương”.



“Lại có việc này sao? Phu nhân của Quốc công lại dám to gan như vậy?”


“Làm sao lại không thể? Nội thị trong cung đều tận mắt nhìn thấy, lẽ nào còn là giả? Quốc vương nhân hậu, dù bị bà ta mắng chửi tức khí đến ộc máu cũng không hề trách bà ta, còn triệu thái y vào cung bốc thuốc chữa trị cho bà ta, đợi bà ta ổn định rồi mới đưa bà ta về phủ. Không giấu gì ngươi, Quốc vương đã sáu lần viết thư sang nước Tống để đòi lại Tống Thiện, nhưng triều đình nhà Tống nhất quyết không thả người thì biết làm sao?”



Chiết Tử Du trầm xuống, khẽ thở dài: “Người Tống giam giữ Trịnh Vương là có ý đồ gì? Lẽ nào Quốc vương không nhìn ra ý đồ của người Tống hay sao? Theo thần nghĩ, Quốc vương là một tài tử thì không ai bằng, nhưng làm một đức vua thì e rằng sẽ có ngày sai lầm. Không kể Quốc vương có muốn làm vua Giang Nam hay không, nhưng đã là vua rồi thì nên quan tâm đến việc chính trị đi chứ”.



Lý Dục nghe đến đây tức giận đùng đùng, lao vào phòng nói: “Ta xưng thần với nước Tống thực ra là vì thực lực của ta không bằng Tống, là do ta suy nghĩ cho bách tính. Ta không ngại cúi đầu liếm cánh, cốt sao để tránh thương vong. Mạc cô nương, ngươi sợ điều gì?”



“Mạc nhi khấu kiến Quốc vương”. Vừa nhìn thấy Lý Dục bước vào, Chiết Tử Du vội vã đứng dậy, đứng theo sau Tiểu Châu thi lễ, “Không biết Quốc vương giá đáo, thần không kịp tiếp đón từ xa,xin người thứ tội. Thần… thần không có ý bất kính với Quốc vương”.



Trong triều văn võ bá quan khuyên gián, Lý Dục có thể không cần để tâm, nhưng để một cô nương liễu yếu đào tơ xem thường mình, lại là người mà hắn thích thì làm sao mà chịu được, bèn làm mặt lạnh nói: “Nay ta nhẫn nại, do lực ta không bằng Tống, chứ không phải khiếp sợ bọn chúng. Quả nhân dù là văn nhân nhưng cũng có một trái tim của một viên võ tướng, sẽ có ngày nếu nước Tống có dũng khí xâm lược Đường quốc ta, quả nhân nhất định sẽ thân chinh ra trận, mặc áo giáp, tử chiến đến cùng để giữ gìn giang sơn xã tắc. Nếu như không bảo toàn được non sông ta cũng sẽ tự thiêu, quyết không làm ma xứ người.”



Những lời nói này thể hiện rõ niềm phẫn nộ, Tiểu Chu đứng sau lộ ra vẻ vui mừng rõ rệt, nói: “Quốc vương đúng là người dũng cảm, bản cung vốn biết Quốc vương có tư thế anh hùng”.



Chiết Tử Du nhìn thật sâu vào mắt Lý Dục, cúi đầu tạ tội nói: “Mạc nhi không biết được chiến lược của Quốc vương, nói năng hồ đồ, mạo phạm đến Quốc vương, xin được thứ tội”.



Lý Dục nhìn thấy ánh mắt Mạc Thu Nương có nét vừa như ngưỡng mộ vừa như hâm mộ, dường như nàng còn vui sướng hơn rất nhiều khi được Lý Dục tặng thơ lần đầu, ánh mắt đó khiến Lý Dục như trẻ ra đến mười tuổi, không nén được tiếng cười vang: “Đứng lên đi, Lâm tướng quân trung thành tận tâm bảo vệ Tổ quốc và thần dân, ngươi là cháu gái của tướng quân quả cũng không thiếu hào khí, quả nhân rất vui khi nghe được những lời nói từ đáy lòng như vậy. Nghe đương nhiên là không vui, nhưng Thái tông Hoàng đế cũng chính là tấm gương, ta tất nhiên không bằng Thái tông, nhưng lẽ nào không nghe được những lời của ngươi không phải là phản nghịch mà là tận trung hay sao?”



Chiết Tử Du thản nhiên cười, nàng và Tiểu Chu đều là những người phụ nữ khiến Lý Dục rung động, hắn muốn đỡ nàng, nhưng Chiết Tử Du đã đứng dậy, lại hành lễ nói: “Đa tạ lòng khoan dung của Quốc vương, Quốc vương hồi cung đúng lúc thần và nương nương đang nói chuyện, Mạc nhi xin cáo lui. Quốc vương, nương nương, thần…”



“À, không cần..” Lý Dục vội nói, vừa nãy hắn còn tỏ ra là mình để ý đến chuyện quốc sự trước mặt nàng, nay chẳng lẽ lại chuồn vào hậu cung nói chuyện phiếm, đứng giữa hai mỹ nhân, hắn đành nói: “Ta có việc phải đi, ta đã ra lệnh cho Trần Kiều vào cung, cùng bàn chuyện quốc gia đại sự, bây giờ phải quay về điện ngay, ngươi cứ ở lại trò chuyện cùng nương nương…”



Nói rồi hắn quay sang liếc Tiểu Chu một cái, quay người đi mất, bỏ lại Tiểu Chu và Chiết Tử Du thi lễ đằng sau: “Cung tiễn Quốc vương”.



Lý Dục vô cùng hả hê vì đã khiến được hai người đẹp phải động lòng, chỉ cần nói vài câu quốc gia đại sự đã khiến ánh mắt nàng ngưỡng mộ đến nhường ấy, thật điều đó đã khiến Lý Dục tự cao đến cực độ, hắn nhanh chân rời khỏi hậu cung, sai người gọi Trần Kiều đến Thanh Lương điện.



Chịu ảnh hưởng của Chiết Tử Du, gần đây Tiểu Chu Hoàng hậu cũng bắt đầu hứng thú với chuyện nước, lời người khác Lý Dục nghe không lọt tai, nhưng lời của Tiểu Chu Hoàng hậu thì hắn luôn để trong lòng. Sau vài lần nghe, hắn cũng ý thức được nguy cơ của nước Đường, lúc nào cũng phải suy nghĩ đến tình cảnh của nước Đường và lối đi trong tương lai.



Nếu như muốn chủ động tấn công Tống, hắn tuyệt nhiên không dám, nhưng nếu như gia tăng lực lượng phòng bị thì hắn lại không có ý kiến. Trước nay nếu như có bất kỳ hành động nào hắn cũng đều sợ sẽ làm nước Tống bất mãn, nay sứ giả Khiết Đan lại đang muốn liên minh với nhà Đường, xa hô tương ứng, một Nam một Bắc hiệp lực khống chế quân Tống, như thế thì quân Đường sẽ chẳng còn sợ gì nữa. Thật tâm mà nói, hắn cũng không muốn chịu lép vế trước nhà Tống, nếu như có được cách khác thì hắn sẽ quyết định nhanh, như là…thương lượng nhanh về vấn đề này, đường đường là người đứng đầu một nước, há để cho nữ nhi khinh bỉ?


************************************************** *********


Biện Kinh, Hoàng Nghi điện.


Tuyết vừa rơi một trận lớn, màu trắng bạc phủ khắp nơi, cả thành phủ một màu trắng, tiết trời như vào xuân. Triệu Khuông đang ngồi cùng đám đại thần bên bếp lò, vừa ăn lẩu vừa nói chuyện quốc sự.



Người đang nói chậm rãi kia chính là Lư Đa Tốn, từ sau khi Triệu Phổ rời kinh, Lư Đa Tốn đã được lên chức Trung thư thị lang học vị hàn lâm, đứng hàng Tể tướng, hắn là người hiểu rõ tâm tính của Triệu Khuông nhất, mỗi lời hắn nói đều đánh vào đúng chỗ ngứa của Triệu Khuông. Nay đã chính thức thay thế vị trí của Triệu Phổ, trở thành người phát ngôn tận tâm nhất của Triệu Khuông.



Hắn nói quên trời đất, trán đẫm mồ hôi, phải cởi bỏ áo khoác ngoài. Vương Kế Ân lập tức tiến đến trước, Lư Đa Tốn mỉm cười, quay lại tiếp tục nói: “Nay ở đất Thục có người dấy binh làm loạn, ở nơi đó địa hình hiểm rở, rừng rậm um tùm, vừa là chỗ tạp cư hỗn tạp, nếu muốn đến đó bình định thì phải mất nửa ngày mới xong. Mân Nam vừa mới quy về, muốn được lòng của dân cư nơi đó thì phải bình định được đất, khiến cho lòng dân quy thuận về Tống, cũng có lẽ cần một khoảng thời gian.


Trong tình hình này, nếu như chúng ta cần phải tu chỉnh lý để lấy lòng dân chúng, gia tăng sức mạnh quân đội, hòa hảo với dân tộc Khương ở phía Tây, phía Bắc chống quân Khiết Đan, đợi khi tất cả đã sẵn sàng, chúng ta sẽ đánh nước Đường, quy hết về một mối, nếu như đợi được đến ngày này thì nhanh cũng phải mất khoảng 3, 4 năm. Sau đó…”



“Sau đó chúng ta không đợi nữa, Trẫm, không cách nào đợi được đến lúc đó”.



Triệu Khuông tiếp lời, lá thư cầm trong tay run lên, trầm giọng nói: “Trẫm vừa nhận được tin, người Khiết Đan đã đem thủ lĩnh bộ tộc Gia Luật Văn đi sứ sang nước Đường, mà Tiêu hoàng hậu lại đang xóa sổ vây cánh của hắn ở trong cung, gài thân tín của bà ta vào, Trẫm cũng đang khá lo lắng”.



Hắn nhấp một ngụm rượu, vuốt râu, đảo mắt một lượt khắp các trọng thần đang ngồi xung quanh, chỉ tay nói: “Thứ nhất, Gia Luật Văn đi sứ sang nước Đường, quả nhiên là Tiêu Xước đang dùng kế điệu hổ ly sơn, cũng không biết có khả năng người Khiết Đan coi trọng nước Đường hay không, lẽ nào chúng muốn liên minh với Đường?



Thứ hai, nước Tống ta Nam phạt, là nỗi uy hiếp lớn nhất của phương Bắc, khi chúng ta đánh nước Hán, dù Trẫm đã đạt được mục đích nhưng cho đến nay nước Hán đã danh tồn thực vong, sắp tàn lụy rồi, nhưng do sự can thiệp của người Khiết Đan mà rốt cuộc cũng không sụp đổ. Vài năm gần đây trong nội bộ phương Bắc rối loạn không ngừng, gây cho Trẫm rất nhiều bất lợi. Đến nay Tiêu Xước đã bắt đầu động thủ, rõ ràng là bà ta đã nắm chắc thực lực trong tay, ít nhất thì cũng đã có thể thống trị bộ tộc của hoàng đế.



Nếu như bà ta thành công thì chúng ta không thể coi thường dân Khiết Đan được đau, lúc đó Trẫm lại tiến hành Nam phạt thì đại bộ phận quân đội ta đến từ phương Bắc sẽ bị uy hiếp. Phải biết rằng quân đội nhà Đường có 10 vạn, lại thiện chiến đường thủy, nếu như dùng binh mã ít thì nước Tống ta rất khó giành thắng lợi. Đặc biệt là trong chiến tranh, một khi chiến sự trì hoãn lâu thì e rằng sẽ có nhiều biến đổi, dân nước ta sẽ rơi vào bể lầm than, nếu như lặp đi lặp lại thì sẽ không tránh khỏi dẫm phải vết xe đổ của Tùy Diễm khi phạt Cao Ly”.



Nói rồi hắn thắt chặt lại thắt lưng, trầm giọng nói: “Là do trẫm đang cân nhắc nên tấn công sớm hay muộn, hay là cứ sớm chinh phạt được nước Đường cho thỏa đáng? Trẫm đã quyết rồi, tháng 3 sang năm, chúng ta sẽ nổi binh đánh Đường, các khanh có ý kiến gì không?”



Đã trở về từ Mân Nam, kế tiếp lại Lý Sùng Củ, Tào Bân – người tiếp quản nhiều sứ mệnh nói: “Quan gia, nước Tống ta khi chinh phạt nước Hán, quân Khiết Đan đã từng xuất binh cản trở. Khi tấn công Nam Hán cũng do quân Khiết Đan không vãng lai cùng Nam Hán mà nội bộ phân tranh nên không xuấ binh, nhưng nước Đường và Khiết Đan có quan hệ mật thiết với nhau, thông thương trên biển, hơn nữa nước Đường cũng là trở ngại cuối cùng của mục đích chinh phục Trung Nguyên. Nếu như nội bộ Khiết Đan không phân tranh thì Tiêu Hoàng hậu có thể kịp thời nắm binh quyền trong tay, xuất binh tiến đánh chúng ta, hoặc làm hỏng kế hoạch đánh chiếm nước Đường của ta. Do đó, thần nghĩ rằng, với người Khiết Đan tuyệt đối không thể không phòng, tránh lơ là, phái quân thiện chiến đến đóng giữ đất Bắc, sẵn sàng đương đầu với quân địch, đồng thời với trận chiến với Đường cũng cần phải tốc chiến tốc thắng, như vậy mới có thể cắt đứt những ảo tưởng của nước Đường”.



Triệu Khuông cười nói: “Khanh nói được câu ấy hợp ý Trẫm lắm. Dù phương Bắc có nội loạn nhưng cũng không thể không ngại”.



Tiết Cư Chính nói: “Bệ hạ, Hồng lư thiếu khanh đi sang sứ nước Đường cũng đã lâu mà vẫn khong thấy báo cáo gì về thủy đồ, binh lực… của Giang Nam, nếu như muốn đánh Đường thì không thế thiếu những tin tình báo quan trọng đó, nếu không e rằng sẽ phải cố hơn gấp 10 lần. Liệu có cần bảo hắn tập trung thu thập thông tin hay không?”



Triệu Khuông đáp: “Trẫm đã đọc được tin báo của Tiêu Hải Đào, Dương Hạo ở nước Đường cố ý kiêu ngạo khiêu khích, Lý Dục một mặt cố nhẫn nhịn, vẫn một lòng xưng thần, còn về mặt cách gian quân thần và phương diện nhuệ khí thì Dương Hạo cũng thu được thành công. Dương Hạo và các thần vệ quân đô chỉ huy sứ nước Đường Hoàng Phủ Kế Huân có mối giao hảo rất tốt, hy vọng hắn sẽ moi được tình hình quân sự của nhà Đường. Do nhà Đường bảo mật thông tin rất kĩ về binh lực cũng như địa thế hiểm trở của Trường Giang mà nhiều gián điệp được cử đi đều không thu về được mấy kết quả.



Trẫm đã hạ lệnh cho hắn nghĩ cách, bằng mọi giá phải thu thập được thông tin, nhưng dù có thành hay không thì sang năm chúng ta vẫn giữ nguyên kế hoạch đánh Đường, Trẫm đã quyết và sẽ không thay đổi đâu”.



Lữ Từ Khánh trầm ngâm nói: “Bệ hạ, muốn đánh nước Đường còn cần một lý do danh chính ngôn thuận nữa, nếu như nhà Đường vẫn cứ một mực xưng thần với nước ta, đồng thời cống nạp lễ vật đều đặn thì làm sao chúng ta xuất binh được? E rằng thần dân nước ta không phục, càng kích động lòng báo thù của dân Đường”.



Triệu Khuông ngửa mặt lên trời cười to: “Haha, Lý Dục chỉ tính đến cái lợi cho hắn thôi. Hắn xưng thần và cống nạp cho Trẫm cũng chỉ là muốn Trẫm không tìm ra lý do nào để đánh Đường, Trẫm nào có thể cho hắn toại nguyện. Ngươi bảo tại sao ta lại cứ phải giam lỏng Lý Tòng Thiện? Ban thưởng cho hắn, phong hắn làm quan, cho hắn ăn ngon mặc đẹp và đối xử tốt với hắn để làm gì? Chính là để cho Lý Dục nhìn thấy”.



Trong ánh mắt Triệu Khuông ánh lên vẻ giảo hoạt: “Dù hắn có xưng thần với Trẫm, trẫm cũng triệu hắn đến kinh để nói chuyện. Nếu hắn dám từ chối là hắn kháng chỉ, Trẫm có cơ hội để đánh hắn không đây?”



Lữ Từ Khánh như chợt tỉnh ngộ, hứng khởi nói: “Kế này quả là diệu kế, như vậy thì trên danh nghĩa chúng ta có thể ra tay được rồi”.



Triệu Khuông mỉm cười, vuốt vuốt chòm râu của hắn mà nói: “Trẫm đã ra lệnh cho Lý Dục đến Biện Kinh, cùng Trẫm ngắm đèn. Nếu như hắn không tới thì ta sẽ xuống chiếu năm lần bảy lượt, phải làm tốt cả nhân và nghĩa, vậy mới là tốt”. Nói rồi hắn lại ngửa mặt lên trời cười lớn.



Hắn cười đắc ý, ánh mắt chợt lóe lên, liếc nhìn thấy Tấn Vương Triệu Quang Nghĩa đang khẽ nhíu hàng lông mày, cúi đầu không nói, hắn không nén được cười hỏi: “Tấn Vương đang suy nghĩ chuyện gì thế?”



Triệu Quang Nghĩa ánh mắt lóe lên như nhập thần, không nghe thấy Triệu Khuông đang gọi hắn. Tào Bân đứng bên cạnh phải nhẹ nhàng kéo hắn một cái, hắn mới như sực tỉnh, vội vàng ngẩng đầu lên.



Triệu Khuông lại cười nói: “Tấn Vương đang suy nghĩ chuyện gì mà nhập tâm thế?”


“Hả?”


Triệu Quang Nghĩa làm quan trong phủ Khai Phong đã bao năm, thành tích lẫy lừng, chỉ duy nhất là người hay lo nghĩ, không có quân lực. Cấm quân trước sau tự thành một hệ thống, không cách nào cho hắn vào. Nay nghe nói muốn dụng binh đánh Đường, có lẽ sẽ là trận đánh cuối cùng để thống nhất Trung Nguyên. Triệu Quang Nghĩa lúc này đây càng phải suy nghĩ nhiều bộn phần, nhưng những gì hắn nghĩ làm sao có thể nói rõ ràng với Triệu Khuông được đây? Sau một hồi do dự, hắn mới tìm bừa một lý do nào đó, từ từ nói: “Bệ hạ, thần chỉ đang nghĩ trong giới quan võ Nam Đường thì chỉ có mình Lâm Hổ Tử là khó trị. Hắn rất thiện chiến, có tài binh lược, không cái gì không biết, nếu đánh với hắn thì mình hắn mạnh bằng bốn người, có dũng khí nghênh tiếp hàng vạn địch, chặn bước đường của đại quân Thế Tống Đại, thực lực rất lớn. Hôm nay hắn tiết độ trấn hải, trong tay lại nắm 10 vạn binh thì nước Tống chúng ta muốn thâu tóm Giang Nam cũng phải qua được hắn. Nếu chúng ta trị được hắn thì chẳng khác nào xoay chuyển được thế lực của mười vạn quân địch”.



Triệu Khuông nhíu mày nói: “Trước hết phải loại trừ Lâm Hổ Tử? Hừ, cách nghĩ này thật viển vông quá. Trong tay nắm nhiều trọng binh, hà tất phải nói giết là giết? Hắn giỏi võ, lại là cư binh trong doanh trại, dù có đi đâu ắt cũng có người đi theo hắn, làm sao chúng ta ra tay được?”



Triệu Quang Nghĩa cố tìm được từ để nói, lúc này đây không thể không nói tiếp, bèn chỉ biết cứng đầu nói: “Muốn nghĩ ra cách để diệt trừ hắn ắt không dễ, nhưng cũng không khó bằng việc đấu với 10 vạn tướng thủy binh của hắn chứ? Thần thiết nghĩ, chính là muốn giết hắn như thế nào thì thần cũng có cách, nhưng không biết có được hay không”.



Triệu Khuông nhìn thật sâu vào mắt hắn, cười nói: “Tốt lắm. Vậy Tấn Vương có thể nghĩ ra được nhiều thứ ở nhiều phương diện, nếu chúng ta hành động giết chết đại tướng số một của triều Đường thì coi như đã thành công một nửa rồi. Tấn Vương, mau lập tức đến bình định Giang Nam”.



“Thần xin lĩnh chỉ”. Triệu Quang Nghĩa cung kính đáp trả, trong lòng không khỏi kêu khổ thầm.



Nguồn: http://4vn.eu/forum/showthread.php?71274-Lich-Su-Quan-Su-Bo-Bo-Sinh-Lien-Nguyet-Quan-Full-Text&page=75#ixzz1zqiTzcXf

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#ngoc#tan