bo bo sinh lien 359-372

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương 359: Mỹ nhân đã đến

Tiêu Hải Đào vội vã đi vào chỗ ở của Dương Hạo, kích động nói: “Đại nhân, triều đình có tin tức”.

Dương Hạo hỏi: “Triều đình nói sao?”

Tiêu Hải Đào nói: “Phong thư này là của vua đích thân viết cho Quốc vương Giang Nam, còn yêu cầu đại nhân đọc cho Quốc vương Giang Nam nghe, đại ý là muốn mời mua Giang Nam đến Biện Kinh cùng đón lễ Thượng Nguyên với Hoàng đế”.

Lễ Thượng Nguyên cũng là tết Nguyên Tiêu, vốn có từ Tam nguyên nhật của đạo giáo. Do người xưa thường dĩ dạ vi tiêu nên nhân gian gọi đó là tết Nguyên Tiêu, mà phương Bắc người Khiết Đan gọi là “phóng thâu nhật”. Dương Hạo nghe nói xong lắc đầu cười nói: “Lý Dục sẽ không đi đâu, hành động này của bệ hạ là muốn đem quân đánh, để tránh Lý Dục lúc này lúc khác lại viết mục thư đòi thả Lý Tòng Thiện”.

Tiêu Hải Đào cười nói: “Đại nhân nói phải. Còn một phong thư khác là thư mật bệ hạ giao cho đại nhân và hạ quan, trong phong thư này có nhắc đến chuyện đi sứ hết sức kỳ quái, hạ quan xem đi xem lại mà vẫn không hiểu, mời đại nhân xem thử xem”.

Dương Hạo đón lấy bức thư, xem kĩ càng từ đầu chí cuối một lượt, rồi sau đó giơ lên ngọn đèn đốt cháy lá thư đó thành những mảng tro đen bay phất phơ như những con bướm đen mà trầm mặc không nói câu gì.

Tiêu Hải Đào không kiềm chế được mà hỏi: “Đại nhân, bệ hạ nếu như muốn có ảnh chân dung của Tiểu Chu Hoàng hậu thì còn có thể hiểu được, chứ Lâm Nhân Triệu nào có phải là tuyệt thế giai nhân gì, bệ hạ muốn có chân dung ông ấy làm gì kia chứ? Đại nhân thử nghĩ xem điều đó có ý nghĩa gì?”

Dương Hạo ánh mắt như có lửa, nói: “Ý của bệ hạ bản quan có đoán cũng không nổi. Bệ hạ đã ra lệnh như thế thì chúng ta cứ thế mà làm. Chuyện bức họa chân dung Lâm Nhân Triệu giao cả cho khanh, xem xem có thể lấy được ở nhà họ Lâm hay không. Nếu như không thể thì thuê họa sĩ, kiếm cớ đi Trấn Hải để xem dung mạo Lâm Nhân Triệu thế nào, xem cho kĩ rồi về Khai Phong vẽ lại. Còn về việc tìm kiếm thủy đồ địa lý và lực lượng quân phòng thì cứ để ta nghĩ cách”.

“Thần rõ ạ”, Tiêu Hải Đào cung kính đáp và lui ra ngoài.

Những ý nghĩ trong đầu Dương Hạo cháy rực như ánh nến, bay phất phơ theo bóng Tiêu Hải Đào, rồi lại bay thẳng lên trên. Hắn hít vào một hơi thật sâu, tự nói với chính mình: “Triều đình muốn lấy mạng Lâm Nhân Triệu! Tất cả quả nhiên là không thay đổi, người phải chết sẽ bị chết, người cần đến sẽ đến, cuộc chiến với nước Đường sắp bắt đầu rồi, Tử Du có lẽ cũng sắp phải quay về Phủ Châu đi thôi. Diễm Diễm, Oa Oa, các nàng bao giờ mới đến?”

************

Sau khi Dương Hạo đọc chiếu thư cho Quốc vương Giang Nam nghe, hắn cười hì hì mà rằng: “Quốc vương, bệ hạ nước tôi thực lòng hy vọng sẽ được đón tết Nguyên Tiêu cùng ngài, không rõ Quốc vương bao lâu nữa khởi hành?”

Lý Dục nghe nói Triệu Khuông muốn mời mình đến Biện Lương đón Tết Nguyên Tiêu xem hội đèn thì mặt biến sắc. Tửu vô hảo yến, ly rượu này của Triệu Khuông uống sao nổi đây? Lý Tòng Thiện đến giờ vẫn còn bị giam lỏng không về được, ngày ngày lấy nước mắt rửa mặt, hại hắn bây giờ đến mặt vợ của huynh đệ cũng không dám nhìn mặt, làm sao hắn còn dám tự chui đầu vào lưới.

Lý Dục từ chối ngay: “Xin nhờ Dương trái sứ về nói với bệ hạ hoàng đế, Lý Dục gần đây bị mắc bệnh nhẹ, sức khỏe không được tốt lắm, lại thêm khí hậu phương Bắc lạnh lẽo, e rằng không chịu được quãng đường xa xôi. Ý tốt của bệ hạ Lý Dục xin khắc cốt ghi tâm, về sau nếu còn cơ hội thì hạ thần sẽ đích thân đến. Tết Nguyên Tiêu này mong bệ hạ cho phép Lý Tòng Thiện thay mặt Lý Dục thi lễ”.

Mặt Lý Dục lúc này đã nửa xanh nửa trắng, nhìn giống như người đang lâm trọng bệnh. Dương Hạo mỉm cười, cuộn chiếu thư lại giao cho nội thị, cũng không thúc giục mà còn lấy trong túi áo ra một phong thư khác đọc: “Quốc vương, trong này còn có một lá thư khác, là do Trung thư thị lang của nước Tống chúng tôi, Lư Đa Tốn đại nhân đích thân viết, xin dâng Quốc vương xem”.

Lư Đa Tốn và Tiết Cư Chính, Lữ Từ Khánh đều là tể tướng trong triều. Triệu Khuông nghe theo lời của Triệu Phổ, đem chức tể tướng chia làm ba, hình thành nên ba cỗ xe ngựa nha môn tể tướng, có điều trong ba người thì rõ ràng Lư Đa Tốn được sủng ái nhất. Nghe đến tên hắn, Lý Dục cũng không dám khinh thường, sai người đón lấy lá thư, chưa chờ mở ra đã hỏi thăm dò: “Không biết tướng công định nói chuyện gì? Trái sứ có biết đôi chút chứ?”

Dương Hạo ung dung cười nói: “Cái này, ngoại thần có biết một, hai, nay nước Đường đã quy thuận Tống Quốc, Trung nguyên đã thống nhất, triều đình muốn vẽ lại bản đồ nước Tống. Lư tướng công được giao nhiệm vụ vẽ bản đồ các đường kinh hồ, đất đai từ đây nối đến Biện Lương. Lư Tướng công hy vọng rằng Quốc vương có thể cung cấp rõ ràng số dân Giang Nam, thuế phú, thành trì… càng nhanh đưa về Biện Lương càng tốt, để tránh trì hoãn công việc của đại Tống.

Lý Dục thở phào nhẹ nhõm, không nghĩ gì mà rằng: “Chuyện này đơn giản thôi, quả nhân nhất định sẽ đưa thông tin tỉ mỉ chính xác về địa lý Giang Nam cho trái sứ”.

Hắn thấy Dương Hạo vừa nói chuyện vừa như vẫn đang nắm giữ vật gì đó trong tay, bèn không khỏi hãi hùng, chỉ sợ hắn lại lôi ra một chiếu thư khác yêu cầu gì đó, vội hỏi: “Trái sứ đang cầm gì trong tay thế, có phải là một chiếu thư khác không?”

Dương Hạo ngây người, nhấc tay áo lên cười to nói: “Quốc vương hiểu lầm rồi, thần đang học theo cách tín Phật của Quốc vương, cũng bắt đầu có hứng thú với đạo Phật rồi. Trong ta áo thần chẳng qua là một chuỗi hạt thôi”.

Lý Dục nhìn kỹ, thấy vật trong tay Dương Hạo quả nhiên là một chuỗi tràng hạt, vừa nói hắn vừa lần tràng hạt không ngớt, Lý Dục mới thở phào nhẹ nhõm. Hắn tín Phật, chỉ hận nỗi giá mà mọi người trong thiên hạ đều tín Phật thì tốt. Vừa nhìn thấy Dương Hạo theo Phật, trong lòng Lý Dục đã thấy thích thú, cơ hồ như đã xích lại gần hắn thêm một chút. Thấy Dương Hạo vừa lầm rầm niệm châu, hắn cười tươi nói: “Chuỗi tràng hạt đó không phải là vật quý báu gì, e có phần mộc mạc quá. Ở đây quả nhân có chuỗi tràng hạt của Phật gia Thất Bảo Kim, Ngân, Lưu Ly, Sa Bà Trí Già, Mỹ Ngọc, Xích Châu, Hổ phách… tạo thành. Là bảo vật của Phật giới tam bảo: Phật, Pháp, Tăng, có thể che chở cho con người. Ta tặng nó cho trái sứ”.

Nội thị dùng hai tay đỡ lấy, đưa đến trước mặt Dương Hạo. Dương Hạo từ chối hai ba lần rồi mới nhận, ngắm nghía chuỗi tràng hạt được kết thành từ bảy món đồ cực quý. Quả nhiên là một báu vật, hắn vừa cuống quýt cảm ơn, mặt cũng hòa hoãn được đôi chút. Quay sang nhìn Lý Dục, cười hì hì mà rằng: “Quốc vương bị nhiễm bệnh nhẹ, sức khỏe không tốt, lại thêm khí hậu có lẽ không hợp, quả không phải hư ngôn. Thần sẽ giải thích rõ ràng với Quốc vương. Chỉ có điều, Lư tướng quân vừa mới được trọng dụng, hy vọng có thể sang sứ một chuyến, đây cũng là việc thường tình mà Giang Nam nên làm, nếu không ngộ nhỡ việc vẽ bản đồ có gì sai sót thì sẽ để thiên hạ cười cho, Lư tướng quân ắt sẽ tức giận, thần… cũng không dám nói hộ bệ hạ”.

“Điều đó là tự nhiên, là tự nhiên, Dương trái sứ yên tâm, quả nhân sẽ thu xếp xử lý việc này”.

Dương Hạo mỉm cười, chắp tay thi lễ đáp: “Vậy thần xin cáo lui”.

Dương Hạo vừa đi khỏi, Lý Dục ngay lập tức đập bàn đứng dậy, những đường gân xanh trên trán hằn lên. Bản đồ giống như địa giới của một nước, đại diện cho sự tôn nghiêm của lãnh thổ quốc gia, dâng bản đồ cũng giống như dâng nước, năm đó Kinh Kha đâm Tần vương có đem theo hai lễ vật, trong đó có một tấm bản đồ nước Yên, hàm ý nước Yên đã hoàn toàn bị quy phục.

Nước Tống đang muốn có bản đồ, điều đó mang hàm ý lăng nhục. Lý Dục kiến thức uyên thâm, làm sao lại không hiểu điều đó. Thế nhưng, hắn làm sao từ chối được? Nếu như nhà Tống trực tiếp đưa ra yêu cầu vẽ bản đồ thì hắn còn có thể làm qua loa tắc trách một chút. Nhưng việc ra chiếu thư yêu cầu hắn đi Tống hắn đã từ chối rồi thì làm sao lại tiếp tục từ chối việc vẽ bản đồ Giang Nam cho được, làm vậy chẳng khác gì chọc giận Triệu Khuông.

Nghĩ đến lần hội ý cùng Từ Phong, Trần Kiều, hắn hít một hơi dài rồi thầm nghĩ: “Không nhịn nổi việc nhỏ thì sao mưu được việc lớn, đến nay quân Khiết Đan vẫn chưa có hứa hẹn che chở gì, do vậy không thế vội trở mặt với nhà Tống. Cho nên hôm nay đành phải nhịn mối nhục này, đem bản đồ Giang Nam giao cho chúng vậy”.

Ngẩng đầu lên, hắn cao giọng nói: “Người đâu!”

Một tên cung nhan vội vã đi vào, Lý Dục dặn dò hắn: “Ngay lập tức gọi nội sử thị lang đến vẽ bản đồ địa lý 19 châu của Giang Nam, sông ngòi ao hồ, hộ khẩu thuế phú… tất cả cho thật chuẩn xác, duy có chỗ đóng quân và tình hình binh lực là không có ghi chú, phải nhanh chóng hoàn thành trước tết Nguyên Tiêu để mang đến Biện Lương. Đi đi!”

Chỉ một lát sau, nội sứ thị lang Vương Hiền Văn tóc bạc phơ vội vã đi vào: “Quốc vương, thần nghe nói người định vẽ bản đồ địa lý 19 châu Giang Nam dâng tặng cho vua Tống?”

Lý Dục tức giận nói: “Quả nhân cũng không phải là đã sai người nói rõ cho ngươi rồi sao? Còn đến hỏi quả nhân làm gì? Mau đi hoàn thành đi, đừng trì hoãn thời gian nữa”.

Nội sử thị lang Vương Hiền Văn chau đôi mày trắng muốt, trầm giọng nói: “Bản đồ địa lý đại diện cho lãnh thổ và dân chúng của một nước, nước Đường ta tuy xưng thần với nước Tống, nhưng chỉ là lệ thuộc vào Tống thôi chứ đâu có dễ để mất lãnh thổ và cư dân như thế? Tấm bản đồ này mà dâng tặng thì coi như ta đã dâng nước Đường cho đại Tống, xin Quốc vương hãy suy nghĩ lại”.

Lý Dục tức giận nói: “Quả nhân sớm đã nghĩ đến rồi, ngươi cứ nghe lệnh là được, đâu đến lượt ngươi lắm chuyện”.

Vương Hiền Văn hiên ngang lớn tiếng: “Quốc vương nguyện đầu hàng, nhưng Hiền Văn lại không thể hàng như thế, mệnh lệnh này của Quốc vương thần không dám tuân theo”.

Lý Dục vỗ bàn đứng dậy, định ngay lập tức hạ lệnh lôi hắn ra ngoài trị tội, nhưng nhìn mái đầu bạc phơ vẫn đang hiên ngang sẵn sàng đón nhận cái chết, không kìm được mà thở dài, vung tay nói: “Quả nhân thương hại ngươi tuổi già yếu không trừng trị, đi đi, ta cách chức quan của ngươi, từ nay trở đi về nhà dưỡng già”.

Vương Văn Hiền già nua không nghĩ rằng mình lại bị Lý Dục cách chức, hắn thoáng giật mình, chắp tay hành lễ rồi không nói gì mà lặng lẽ bỏ đi. Lý Dục tức khí nói với một người nội các trong cung: “Đi đi. Dặn người trong thị lang bộ vẽ bản đồ, làm ngay đi, chớ có trì hoãn”.

Người nội các đó vội vàng đi đến nội sử quán truyền thánh chỉ, chỉ trong chốc lát lại có một người khoảng 30 tuổi chạy tới, thi lễ rồi nói với Lý Dục: “Nội sứ Vương Hạo xin bái kiến Quốc vương”.

Lý Dục vẫn chưa nguôi cơn giận, trừng mắt nói: “Ngươi còn không mau đi vẽ bản đồ, lại đến đây bẩm tấu chuyện gì?”

Vương Hạo cất cao giọng nói: “Bản đồ địa hình mười chín châu của Giang Nam, địa lý Giang Nam và dân số đều là bí mật của nhà nước, tại sao lại dễ dàng dâng lên nhà Tống?”

Lý Dục cười khổ não nói: “Những điều ái khanh nói Trẫm không biết hay sao? Nhưng thế lực nhà Tống như thế, ta nào dám không nghe? Ta làm việc đó cũng là có nỗi khổ tâm, khanh có biết hay không?”

Vương Hạo nói: “Quốc vương xin hãy xem xét kĩ, thần chỉ e rằng nếu chúng ta càng nhân nhượng thì dã tâm của quân Tống sẽ càng kinh khủng. Trịnh vương Tòng Thiện đã dâng cho triều Tống, nay chúng lại bắt chúng ta giao ra bản đồ địa lý Giang Nam, Quốc vương mà vâng mệnh chúng ắt sẽ bức bách chúng ta, chẳng lẽ triều đình chúng ta chịu nhân nhượng hay sao? Hôm nay có thể chúng chỉ đòi bản đồ, chúng ta đồng ý dâng cho chúng, nhưng ngày mai liệu chúng đòi cả xã tắc Giang Nam này thì cúng ta cũng phải tặng cho chúng hay sao?”

Lý Dục khẽ nhướng mày, bực mình đáp: “Khanh nói như vậy là quá lời rồi. Quả nhân chỉ muốn tỏ lòng kính trọng với nhà Tống, xưng thần cống nạp, chưa từng trì hoãn, nước Tống tuy mạnh nhưng làm sao có thể vô cớ xuất binh? Ta đã xưng thần với Tống, cống nạp cho chúng bản đồ địa lý nước ta, như vậy mới nắm được điểm yếu của nhà Tống. Ngươi chỉ là con mọt sách, biết làm sao được chuyện đại sự, ngươi mau mau đi vẽ bản đồ đi, đó cũng là trách nhiệm của người đó, đừng nhiều lời nữa”.

Vương Hạo nhẫn nại nói: “Dã tâm của nước Tống ai ai cũng biết, Quốc vương còn đang tự lừa dối mình hay sao? Gia phụ đã nguyện bị bãi quan giáng chức, chứ không thể dùng hai tay dâng giang sơn xã tắc Giang Nam cho chúng được, thần Vương Hạo đây cũng không thể phụng theo ý chỉ này”.

“Gia phụ đó là ai?”

“Gia phụ đó là nội sử thị lang vương công Hiền Văn”.

Lý Dục tức khí mà cười: “Tốt, tốt, cha con các ngươi đều là trung thần, chỉ có quả nhân là bậc hôn quân phải không? Được rồi, được rồi, các ngươi không muốn làm quan trong triều nữa thì hãy đi về đi, không có cha con các ngươi thì triều đình này không có ai vẽ nổi bản đồ chắc? Cút, cút hết cho ta!”

Lý Dục càng nói càng tức khí, cuối cùng không nén nổi, thuận tay ném một quyển đồ thư đi, mắt nhìn theo bóng Vương Hạo đang đi khuất, Lý Dục kinh ngạc hồi lâu rồi mới chán nản quay về ghế.

******************************************

Trên xe, hai sứ giả nước Tống đang ngồi cạnh nhau. Tiêu Hải Đào vừa vuốt râu vừa nói: “Đại nhân, ngài muốn Lư tướng công đến Giang Nam là có dụng ý gì? Đợi nước Tống chiếm được Giang Nam thì địa lý, sông ngòi, thuế má, dân cư của Giang Nam thì vật đó mới hữu dụng. Còn nay cái chúng ta muốn chính là tin tình báo về mặt sông nước, nơi trú binh…”

Dương Hạo cười nói: “Nói thì dễ, chứ những thứ đó chúng ta đã có trong tay đâu? Tình hình nước sông Trường Giang phải mất hai đến ba năm đo đạc thăm dò cẩn thận, e rằng chúng ta không thể nắm chính xác được sự thay đổi thủy lưu theo mùa nông cạn trong một năm được. Nước ta muốn đánh nước Đường thì trên Trường Giang chỉ có một đường tiến công, đó cũng là khi không còn cách nào khác. Chúng ta hiện chỉ có thể nắm giữ được chút ít tư liệu về việc đóng trú quân.

Ta muốn có bản đồ Giang Nam, Lý Dục lại dễ dàng đồng ý trao cho chúng ta như vậy. Cũng tốt, khi đọc bức chiếu thư này của nhà vua, bản quan đã sớm dự liệu hắn sẽ từ chối, sau đó tái trình lên Lư tướng công, Lý Dục chẳng thể nào từ chối nổi. Tất nhiên, Lý Dục không thể nào nói cho chúng ta chi tiết nơi trú quân, binh lực… nhưng các thành trì lớn nhỏ cư dân nhiều ít thế nào, số lượng lương thực ra sao, địa hình địa lý như thế nào thì đã ghi rõ ràng trong bản đồ, chúng ta có thể tìm ra nơi trú quân của bọn chúng và phái người đi thăm dò”.

Tiêu Hải Đào đang chuẩn bị nói thì Dương Hạo lại cắt lời hắn: “Ta biết, chúng ta rất khó để thăm dò, nhưng căn bản phái người đi là để thăm dò nơi đóng quân. Nhưng nếu một khi chúng đã có thể dễ dàng tiến công vào thì nhất định không phải là nơi trọng yếu, còn nếu nơi nào chúng canh phòng cẩn mật không cho ai lọt vào thì đó có thể là nơi đóng quân của nhà Đường”.

Tiêu Hải Đào vừa gật gật đầu rồi lại lắc đầu: “Thế nhưng, ngay cả khỉ biết nơi nào là nơi trú quân thì chúng ta cũng không thể xác định được binh lực của chúng như thế nào. Nếu nói như vậy thì một nơi trú quân nhỏ vài trăm người cũng có khả năng bị chúng ta hiểu nhầm thành một nơi đóng quân to hàng vạn người, không những không giúp ích gì được cho Quốc vương mà sợ rằng còn đem lại cho Quốc vương cảm giác chẳng biết thế nào mà lần”.

Dương Hạo nói: “Nếu không, lúc đó tấm bản đồ sẽ được phát huy tác dụng thứ ba của nó. Sau khi tìm ra những nơi có trú quân, chúng ta có thể dựa vào đặc điểm ao ngòi sông hồ vùng đó cũng như dân cư ít nhiều thế nào, lương thực số lượng ra sao để phán đoán. Dân số và lương thực có liên quan đến nhau, nước Đường và nước Tống ta không giống nhau, chúng ta đóng quân không giống chúng. Lương thảo cần thiết cho nơi đóng quân là do địa phương trực tiếp trích cấp. Chúng ta chỉ cần so sánh số dân và số lượng thuế thực tế ở thành Kim Lăng là sẽ có thể đoán ra binh lực của nơi trú quân là bao nhiêu.”

Nói đến đây, hắn mỉm cười quay sang hỏi Tiêu Hải Đào: “Ngươi rõ rồi chứ?”

Tiêu Hải Đào nghe đến đây hai mắt đăm đăm, hồi lâu mới dùng ánh mắt kỳ lạ nhìn vào Dương Hạo khen: “Thảo nào đại nhân vẫn còn trẻ mà có thể leo lên được vị trí cao như vậy, đại nhân quả là đã khiến hạ quan tâm phục khẩu phục rồi”.

Dương Hạo cười nói: “Lý Dục có thi từ ca phú phải nói là nhất tuyệt, nhưng những vấn đề thế này hắn lại không thông. Những con mọt sách của nội sử quán cũng không chú ý đến mức độ tôn nghiêm và danh dự mà tấm bản đồ này mang lại, có bảo vật trong tay mà chúng không biết. Có thế thì kế hoạch này của ta mới dùng được, chứ nếu đổi một cơ mưu khác thì e rằng chúng sẽ đoán ra ta định làm gì”.

Tiêu Hải Đào vừa nghe vừa lo lắng nói: “Vậy… việc này không bị bọn chúng thần của nước Đường biết được chứ? Trong đó ắt cũng phải có vài tên thông minh…”

Dương Hạo cười nhạt nói: “Lẽ nào Lý Dục thích công khai chuyện này sao?”

Dương Hạo vừa nói vừa lần tràng hạt trên tay nghe lách tách, Tiêu Hải Đào ngạc nhiên hỏi: “ Đại nhân giấu gì trong tay áo vậy? Có tiếng vang vang kỳ lạ”.

Dương Hạo cười nói: “Đây là chuỗi tràng hạt quý báu đấy, ngươi xem, đích thân vua Giang Nam tặng cho ta, đích thực là một món quà giá trị”. Hắn vừa hào hứng nói vừa đưa cho Tiêu Hải Đào xem: “Ta có chuỗi tràng hạt này rồi thì chuỗi hạt bằng gỗ kia không dùng đến nữa, tặng lại cho ngươi. Dù nói rằng chuỗi tràng hạt này không sánh được với chuỗi của ta, nhưng nó cũng là do đích thân đại sư Bảo Kính trong Kê Minh Tự khai quang, ắt cũng có công dụng xua đuổi tà ma “.

Tiêu Hải Đào cười khổ nhận lấy nói: “Đại nhân bắt đầu tín Phật từ bao giờ thế?”

Không thấy Dương Hạo trả lời, Tiêu Hải Đào cảm thấy hơi kỳ lạ, ngẩng đầu lên xem thì thấy Dương Hạo đang nhìn ra xa thẫn thờ, Tiêu Hải Đào thuận mắt trông theo thì thấy một cô nương đang đi trên đường, mặc một bộ quần áo màu huyền, eo nhỏ nhắn, da trắng như tuyết, đẹp mê hồn.

Dương Hạo vội vã cất chuỗi hạt trong tay đi, kích động nói: “Tiêu Hải Đào ngươi cứ quay về dịch quán trước đi, bản quan gặp người quen, lát nữa sẽ tự về sau”.

Tiêu Hải Đào vội vã khuyên: “Đại nhân, người Khiết Đan có mối thù sâu sắc với chúng ta, để đại nhân tự về e rằng…”

Dương Hạo không thèm để ý mà nói: “Bản quan là tống sứ nhà Tống, người Khiết Đan có thâm thù gì thì cũng không thể hành động giữa ban ngày ban mặt. Mấy ngày nay không phải bọn chúng rất yên ổn đó sao, không cần lo lắng, ta tự lo được”. Nói rồi hắn không chờ xe dừng, vội phi như bay xuống dưới đất.

Tiêu Hải Đào lẩm bẩm: “Người Giang Nam tín Phật cũng háo sắc như vậy sao?”

Cúi đầu nhìn xuống chuỗi vòng đang cầm trên tay, Tiêu Hải Đào vội vàng lẩm nhẩm tạ tội: “Tiêu mỗ nói bừa, biết tội, biết tội, nam mô a di đà phật…”

************************************************

Chiết Tử Du đang đi bộ, đột nhiên thấy ven đường có một người nhảy xuống liền vội vàng lui lại hai bước, thủ thế. Nhìn rõ ra là Dương Hạo, nàng ta mới tức giận trừng mắt lên, quay đầu đi về.

Dương Hạo không thèm để ý, cười ha ha và đuổi theo nàng, nói: “Mạc cô nương ăn mặc phong phanh quá. Mặc dù mùa đông ở Giang Nam không lạnh, thời tiết cũng ẩm ướt, nhưng Mạc cô nương vẫn phải chú ý bảo vệ ngọc thể nhé”.

“Hôm nay ngươi rảnh như thế sao?”

“Thật đúng câu ta đang muốn hỏi Mạc cô nương đó”.

Chiết Tử Du bĩu môi nói: “Những ngày này không thấy bọn Khiết Đan có động tĩnh gì, ngươi lại bắt đầu khinh thường rồi phải không?”

“Ha ha, hóa ra cô nương đang lo lắng cho sự an nguy của ta. Vậy là Dương mỗ có thể lọt vào mắt xanh của tiểu mỹ nhân được, thật sợ quá”.

Chiết Tử Du trợn mắt nói: “Xem ra hôm nay ngươi hứng chí ghê nhỉ, lại ăn nói luyên thuyên”.

“Chỉ cần vừa nhìn thấy cô nương trái tim đã sai nhịp rồi, nàng nói xem có kỳ lạ không?”

“Đừng nói luyên thuyên với ta nữa đi!” Chiết Tử Du không chịu được nữa, chóng mặt quát gay gắt: “Nếu như mới đầu lúc quen ngươi ngươi dám nói với ta những lời như thế thì ta đã đánh gãy chân ngươi rồi, cho ngươi bò về Phách Châu. Hôm nay sao ngươi lại ở Kim Lăng?”

“Ngày đó nếu như ta nói ngon nói ngọt mà cô nương muốn chặt đứt chân thì hôm nay những lời ngọt ngào này lại làm nàng xấu hổ… như vậy là vì sao?”

Chiết Tử Du hoắc mắt dừng lại, bẻ cong giày rồi đá vào mặt Dương Hạo. Dương Hạo sớm đã có chuẩn bị nên tóm gọn được đôi chân vừa định giơ lên, không nén được cười ha hả.

Chiết Tử Du buồn cười nói: “Ngươi thật là vô lại, dường như ngươi chẳng để tâm gì đến việc đi sứ lần này cả. Sứ giả Khiết Đan Gia Luật Văn cùng vua Giang Nam mới đây qua lại hết sức thân mật, dường như ngươi cũng chẳng buồn quan tâm?”

Dương Hạo vò vò đầu, có chút hoang mang nói: “Nói thật, ta mang trọng trách là hồng lư tự khanh, cũng là do ngoài ý muốn. Có thể đi sứ sang nước Đường, có rất nhiều điều không thể thành hiện thực đã thành sự thực. Ta vẫn cứ không rõ tại sao nhưng gần đây ta mới tỉnh ngộ”.

Chiết Tử Du tức giận mà hỏi: “Thế ngươi tỉnh ngộ cái gì?”

Dương Hạo làm mặt nghiêm trang nói: “Vốn ông trời an bài, đều là để ta ở đây gặp gỡ nàng. Nàng nói xem đó có phải là duyên phận không?”

Chiết Tử Du thở dài nói: “Xem ra ta cần đi đến miếu để bái rồi, nếu không sẽ cứ bị đen đủi mãi. Từ khi ngươi đến nước Đường, lại đổi thân phận, ta không cách nào tránh khỏi oan gia này. Ngươi đúng là âm hồn không tan”.

Dương Hạo tủm tỉm cười: “Oán chuyện gì? Oan gia?”

Chiết Tử Du xấu hổ, quay người bỏ đi, ném chiếc giày lên cao: “Đi đi đi… mặc kệ tên mặt dày”.

Dương Hạo cười ha hả, đuổi theo thấp giọng nói: “Tử Du, chớ quên là chúng ta đã từng có giao kèo. Nếu như những lời ta nói là thật thì nàng phải lập tức quay về Phủ Châu, không được nhiễu sự nữa. Chỉ cần nàng thuận theo mọi việc thì chưa chắc đã không thể bảo toàn được phú quý nhà họ Chiết”.

Trong đôi mắt mơ hồ của Chiết Tử Du chợt lóe lên, bỗng nhiên khựng lại nói: “Nước Tống… đã muốn đánh nước Đường rồi sao?”

Dương Hạo chợt thấy giật mình, tự mình đã dặn mình phải cẩn thận, thế mà hơi một tí đã nhắc đến chuyện này, còn khiến nàng cảnh giác. Dương Hạo không biết làm gì, bèn nói: “Vẫn còn chưa có kế hoạch, không… phải tùy theo thiên cơ, nhưng chỉ trong vòng hai ba năm nữa thôi. Nếu như tất cả đúng như những gì ta nói, hy vọng nàng có thể giữ lời hứa, hành sự tại thiên để tránh gây nên nhiều sát nghiệt”.

Chiết Tử Du nghe hắn nói như vậy, trong lòng không khỏi hoang mang, quay lưng bỏ đi, thấy trước mặt là một sạp hàng bày bán đủ mọi loại trang sức, liền tiện tay đứng xem.

Dương Hạo nhìn theo bóng Tử Du, trong mắt hiện lên nét khó hiểu. Gần đây khi nhìn thấy Tử Du, hắn thường ăn nói lung tung, vừa quấn quýt si mê nàng, muốn phá mưu đồ bí mật của nàng ở Giang Nam, nhưng mặt khác lại không nỡ xa rời nàng, không muốn nàng bỏ đi, sợ rằng đời này kiếp này không còn cơ hội tương ngộ nữa. Hắn không cách nào xác định, chỉ biết rằng ngày đó càng ngày càng gần.

Nếu như nàng biết được rằng ta chính là ‘sứ giả thần chết’ mang đền nhiều đau thương bấy lâu?”

Dương Hạo nhìn theo bóng nàng, trong lòng dấy lên một cảm giác thương cảm khó hiểu.

Chiết Tử Du đến bên sạp bán đồ trang sức, nhưng vẫn cảm giác có ánh mắt vẫn đang dõi theo đằng sau. Nàng cảm thấy không tự nhiên nên đứng dậy, quay mặt liếc nhìn một cái, đụng ngay cái nhìn của Dương Hạo, nên vội vàng quay đầu lại “Chàng… quả nhiên đang nhìn ta, tại sao cứ phiền như thế, có thể lẽ nào…? Cứ cho là ta không thèm để ý đến chuyện chàng đã có vợ, thì sao đây? Với thân phận hiện giờ của cả hai thì chúng ta không thể bên nhau được”.

Chiết Tử Du lặng lẽ nắm chặt đôi khuyên bằng đá trong tay, cảm giác buồn bã trong lòng.

Người chủ sạp hàng nhìn thấy chuẩn bị bán được hàng liền khấp khởi, luôn miệng quảng cáo: “Cô nương quả đúng là có mắt nhìn, đôi khuyên tai này là được làm từ kim cương đen, cô xem, trông nó giống như là đôi mắt vậy, gọi là ‘luật nhãn ban phúc’, có thể tránh được tà ma, làm tiêu bệnh, khí độc, điều không may… Cô nương xinh đẹp như thế, da lại trắng như tuyết, nếu như cô đeo đôi khuyên này thì nhất định sẽ càng thêm xinh đẹp”.

“Đôi bông tai này bao nhiêu tiền, ta mua nó!” Dương Hạo bước tới nói.

Người chủ hàng có chút đạo đức nghề nghiệp, đôi khuyên vẫn đang nằm trên tay Tử Du, hắn không dám ngay lập tức lấy lại bán cho Dương Hạo, liền quay sang ngó Tử Du. Dương Hạo mỉm cười nói: “Đôi khuyên này là ta mua tặng cho cô nương đây, bao nhiêu tiền?”

“Ai cần ngươi tặng?” Chiết Tử Du nhìn sang Dương Hạo, bỏ lại đôi khuyên bỏ đi. Dương Hạo cười cười, hỏi giá cả rồi mua đôi khuyên đó, đuổi theo Chiết Tử Du.

Chạy đến bên bờ sông thì Dương Hạo đuổi kịp Tử Du, cười nhẹ nhàng: “Chỉ là chút quà nhỏ thôi, cô nương sao không nhận lấy?”

Chiết Tử Du khẽ hừ một tiếng: “Không thích”.

“Nếu như không thích thì cũng không vấn đề gì, Tết Nguyên tiêu sắp đến rồi, rồi đến Phóng Thâu Nhật, mọi người đều trộm đồ của nhau, nàng cứ giữ nó đi rồi để người ta trộm mất cũng được”.

“Cảm ơn. Đến lúc đó tự ta sẽ chuẩn bị đồ cho người khác trộm, không cần món quà này của ngươi, xin nhận ý tốt.”

“Haha, sợ rằng sau này sẽ không có cơ hội nữa đâu, đây có lẽ là lần cuối cùng ta tặng quà cho nàng, nàng nhận đi, được không?”

Chiết Tử Du nghe nói đến ba chữ “lần cuối cùng” liền không kìm được thắc mắc. Lần trước khi chàng muốn hôn ta, chàng cũng nói “lần cuối cùng”, hôm nay tặng quà cũng nói như vậy. Được rồi, ta vốn cũng không nghĩ sẽ dây dưa gì với chàng nữa, thì giờ việc chi cứ phải suy nghĩ mông lung?

Dương Hạo đem đôi khuyên đặt vào tay Tử Du, tay nàng hơi run lên, rồi vứt nó ra xa. Nụ cười trên mặt Dương Hạo chợt cứng lại, hai người cứ thế nhìn nhau hồi lâu, sau đó, Chiết Tử Du không nói gì bèn quay người bỏ đi, mặt hướng ra phía bờ sông mà rằng: “Đại nhân bận rộn, không cần thiết phải tiễn ta nữa. Hôm nay ta cũng có chút chuyện bực mình, ra ngoài đi dạo một chút, không có chuyện gì đâu. Tên đại nghịch bất đạo trong mắt đại nhân đến rồi kìa!”

Dương Hạo cười khổ não, đang muốn nói gì thì bên cạnh nghe thấy tiếng niệm “A di đà phật! Này vị thí chủ…”

“A..a.. ”Bích Túc đang muốn làm bộ không quen biết Dương Hạo, đột nhiên nhìn thấy Chiết Tử Du, không nén nổi mà há mồm cứng lưỡi, cứ chỉ chỉ vào nàng mà không nói được lời nào.

Chiết Tử Du quay đầu nhìn hắn, mặt cũng nén nổi sự kinh ngạc, Dương Hạo liền níu lấy Bích Túc hỏi: “Ngươi đến đây làm gì?”

Bích Túc lấy lại bình tĩnh, vội vàng hạ giọng nói: “Đại nhân, hai vị phu nhân đã tới rồi, hiện đang ngồi ven hồ Huyền Vũ, hiện đang ở nhà trọ Thê Hà…” Nói rồi, hắn còn cảnh giác ngó Tử Du.

“Bọn họ đã đến rồi?” Dương Hạo vừa mừng vừa sợ: “Tốt lắm, chúng ta mất dấu nhau, e rằng Lễ Tân viện đang loạn cả lên rồi, ta sẽ ngay lập tức sắp xếp về dịch quán, sau đó đến bên hồ Huyền Vũ gặp họ”.

“Mạc cô nương, Dương mỗ cáo từ.”

Chiết Tử Du cũng không thèm quay đầu lại, thản nhiên nói: “Xin đại nhân cứ tự nhiên”.

Dương Hạo thở dài, quay người lại đi mất, nhưng đột nhiên như nhớ ra chuyện gì, bèn quay đầu lại ngó Bích Túc đang mặc áo cà sa, dở khóc dở cười nói: “Ngươi thật muốn đến Kê Minh Tự làm Phương trượng ư?”

Bích Túc xoa xoa cái đầu bóng lưỡng, cười hì hì nói: “Chỉ là vì tiểu sư thái Thủy Nguyệt thôi”.

Dương Hạo gật gật đầu, thở dài nói: “Hiếm khi ngươi rung động thật sự, hãy trân trọng đi, nếu như để lỡ mất thì sau này ngươi có hối cũng không kịp đâu”.

Chiết Tử Du nghe thấy, đột nhiên cắn chặt môi dưới.

Dương Hạo lại thở dài, thi lễ với nàng rồi quay lưng bước đi, Bích Túc nhìn Chiết Tử Du, ngượng ngùng nói: “Chiết… Chiết cô nương sao lại ở đây? Chẳng lẽ cô nương với đại nhân của ta…”

Chiết Tử Du quắc mắt xoay người lại, nói: “Bản cô nương đang không vui, ngươi cút ngay đi cho ta càng xa càng tốt, ta đếm tới ba, nếu như ngươi không cút…” Nàng ta nắm chặt cây kiếm bên hông, đếm lớn: “Một…”

Chẳng cần để nói đến hai lời liền bỏ chạy. Chiết Tử Du không khỏi phì cười, nhìn theo bóng Dương Hạo đi khuất dần. Nụ cười dần tắt, trên mặt chỉ còn phảng phất nỗi mơ hồ, dường như nhớ ra điều gì, nàng quay người đi vội vàng, chạy đến bên vạt cỏ gần đó tìm kiếm khắp nơi, nhưng có một người đã nhanh chân hơn nhặt chiếc hộp lên, mở ra rồi reo mừng: “Haha, hôm nay số hên quá, lại nhặt được báu vật”.

“Chậm đã!” Chiết Tử Du vội nói, đoạt lại chiếc hộp rồi nói: “Chiếc hộp này là của ta”.

Người thuyền phu đó mở to mắt ra nhìn Tử Du, nói: “Nhìn vị cô nương ăn vận xinh đẹp, thế mà lại đi cướp đồ của ta ư?”

“Ngươi!” Chiết Tử Du chau mày, nắm chặt lấy chuôi kiếm, vị thuyền phu kia lui lại hai bước, hét lớn: “Ái chà, còn muốn gây sự nữa đúng không? Anh em đâu mau lại đây, có người muốn cướp đồ của ta này”.

Trên bờ đê, bảy tám người cao to lực lượng lập tức xuất hiện, nói lớn: “Ai dám to gan, giữa ban ngày ban mặt mà dám giở trò?”

Chiết Tử Du hung hăng trừng mắt nhìn vị thuyền phu kia một hồi lâu, hít một hơi thật sâu nói: “Ngươi trả giá đi, ta sẽ mua nó. Nếu như vậy còn không được thì bản cô nương sẽ phải giở trò cường đạo rồi, đừng hòng làm khó dễ ta!”

***************************************

Dương Hạo vội vã quay trở về dịch quán tìm Tiêu Hải Đào, Tiêu Hải Đào vừa nhìn thấy hắn liền cười nói: “Đại nhân về nhanh thật đấy, cứ tưởng giữa đường gặp vị cô nương đó thì … hahaha”

Dương Hạo tươi cười nói: “Tiêu tự thừa, Dương mỗ quay về vốn là để dặn ngươi một tiếng, đêm nay ta ra ngoài, nếu như không quay trở về dịch quán thì ngươi không cần phải lo, sáng sớm mai ta sẽ quay về”.

“Hả?” Tiêu Hải Đào ngẩn người, lắp bắp nói: “Đại nhân… đại nhân có bản lãnh vậy sao? Chỉ mới có hai ba câu mà đã có thể…?”

Dương Hạo ngẩn ngơ một lúc rồi lập tức cười ha hả mà rằng: “Không sai, không sai, bản quan đêm nay cần phải đi hóng gió một chút, haha, do vậy không cần lo lắng cho bản quan. Ta phải đi rồi, cô nương nhà người ta còn đang đợi ta”.

“Khoan đã, khoan đã!” Tiêu thừa tự níu người hắn lại, nghi ngờ nói: “Đại nhân, vị cô nương đó làm sao mới chỉ có hai ba câu… đã có thể cam tâm trao thân gửi phận? E rằng có vấn đề”.

“Hừ, điểm này bản quan chẳng lẽ còn không nghĩ tới ư? Ta tất nhiên là phải làm rõ ngọn nguồn rồi mới có dũng khí chứ, được rồi, không để mỹ nhân đợi lâu nữa, bản quan đi đây.”

“Đại nhân, ngài…” Tiêu Hải Đào muốn cản cũng không cản kịp nữa, Dương Hạo dường như đã hóa thành bươm bướm bay đi mất.

Tiêu Hải Đào đứng dưới trời chiều, ngẩn ngơ hồi lâu rồi mới lẩm bẩm: “Dương tả sứ quả nhiên là không ai bằng, một cô nương diễm lệ như thế... làm sao đại nhân có thể may mắn thế nhỉ?”

Hắn quay đầu nhìn chuỗi tràng hạt đang đặt trên bàn, vội cầm lấy đeo vào cổ tay như sợ có ai cướp mất báu vật.

Nguồn: http://4vn.eu/forum/showthread.php?t=71274&page=76#ixzz201hyqQ60

Chương 359: Mỹ nhân đã đến

Tiêu Hải Đào vội vã đi vào chỗ ở của Dương Hạo, kích động nói: “Đại nhân, triều đình có tin tức”.

Dương Hạo hỏi: “Triều đình nói sao?”

Tiêu Hải Đào nói: “Phong thư này là của vua đích thân viết cho Quốc vương Giang Nam, còn yêu cầu đại nhân đọc cho Quốc vương Giang Nam nghe, đại ý là muốn mời mua Giang Nam đến Biện Kinh cùng đón lễ Thượng Nguyên với Hoàng đế”.

Lễ Thượng Nguyên cũng là tết Nguyên Tiêu, vốn có từ Tam nguyên nhật của đạo giáo. Do người xưa thường dĩ dạ vi tiêu nên nhân gian gọi đó là tết Nguyên Tiêu, mà phương Bắc người Khiết Đan gọi là “phóng thâu nhật”. Dương Hạo nghe nói xong lắc đầu cười nói: “Lý Dục sẽ không đi đâu, hành động này của bệ hạ là muốn đem quân đánh, để tránh Lý Dục lúc này lúc khác lại viết mục thư đòi thả Lý Tòng Thiện”.

Tiêu Hải Đào cười nói: “Đại nhân nói phải. Còn một phong thư khác là thư mật bệ hạ giao cho đại nhân và hạ quan, trong phong thư này có nhắc đến chuyện đi sứ hết sức kỳ quái, hạ quan xem đi xem lại mà vẫn không hiểu, mời đại nhân xem thử xem”.

Dương Hạo đón lấy bức thư, xem kĩ càng từ đầu chí cuối một lượt, rồi sau đó giơ lên ngọn đèn đốt cháy lá thư đó thành những mảng tro đen bay phất phơ như những con bướm đen mà trầm mặc không nói câu gì.

Tiêu Hải Đào không kiềm chế được mà hỏi: “Đại nhân, bệ hạ nếu như muốn có ảnh chân dung của Tiểu Chu Hoàng hậu thì còn có thể hiểu được, chứ Lâm Nhân Triệu nào có phải là tuyệt thế giai nhân gì, bệ hạ muốn có chân dung ông ấy làm gì kia chứ? Đại nhân thử nghĩ xem điều đó có ý nghĩa gì?”

Dương Hạo ánh mắt như có lửa, nói: “Ý của bệ hạ bản quan có đoán cũng không nổi. Bệ hạ đã ra lệnh như thế thì chúng ta cứ thế mà làm. Chuyện bức họa chân dung Lâm Nhân Triệu giao cả cho khanh, xem xem có thể lấy được ở nhà họ Lâm hay không. Nếu như không thể thì thuê họa sĩ, kiếm cớ đi Trấn Hải để xem dung mạo Lâm Nhân Triệu thế nào, xem cho kĩ rồi về Khai Phong vẽ lại. Còn về việc tìm kiếm thủy đồ địa lý và lực lượng quân phòng thì cứ để ta nghĩ cách”.

“Thần rõ ạ”, Tiêu Hải Đào cung kính đáp và lui ra ngoài.

Những ý nghĩ trong đầu Dương Hạo cháy rực như ánh nến, bay phất phơ theo bóng Tiêu Hải Đào, rồi lại bay thẳng lên trên. Hắn hít vào một hơi thật sâu, tự nói với chính mình: “Triều đình muốn lấy mạng Lâm Nhân Triệu! Tất cả quả nhiên là không thay đổi, người phải chết sẽ bị chết, người cần đến sẽ đến, cuộc chiến với nước Đường sắp bắt đầu rồi, Tử Du có lẽ cũng sắp phải quay về Phủ Châu đi thôi. Diễm Diễm, Oa Oa, các nàng bao giờ mới đến?”

************

Sau khi Dương Hạo đọc chiếu thư cho Quốc vương Giang Nam nghe, hắn cười hì hì mà rằng: “Quốc vương, bệ hạ nước tôi thực lòng hy vọng sẽ được đón tết Nguyên Tiêu cùng ngài, không rõ Quốc vương bao lâu nữa khởi hành?”

Lý Dục nghe nói Triệu Khuông muốn mời mình đến Biện Lương đón Tết Nguyên Tiêu xem hội đèn thì mặt biến sắc. Tửu vô hảo yến, ly rượu này của Triệu Khuông uống sao nổi đây? Lý Tòng Thiện đến giờ vẫn còn bị giam lỏng không về được, ngày ngày lấy nước mắt rửa mặt, hại hắn bây giờ đến mặt vợ của huynh đệ cũng không dám nhìn mặt, làm sao hắn còn dám tự chui đầu vào lưới.

Lý Dục từ chối ngay: “Xin nhờ Dương trái sứ về nói với bệ hạ hoàng đế, Lý Dục gần đây bị mắc bệnh nhẹ, sức khỏe không được tốt lắm, lại thêm khí hậu phương Bắc lạnh lẽo, e rằng không chịu được quãng đường xa xôi. Ý tốt của bệ hạ Lý Dục xin khắc cốt ghi tâm, về sau nếu còn cơ hội thì hạ thần sẽ đích thân đến. Tết Nguyên Tiêu này mong bệ hạ cho phép Lý Tòng Thiện thay mặt Lý Dục thi lễ”.

Mặt Lý Dục lúc này đã nửa xanh nửa trắng, nhìn giống như người đang lâm trọng bệnh. Dương Hạo mỉm cười, cuộn chiếu thư lại giao cho nội thị, cũng không thúc giục mà còn lấy trong túi áo ra một phong thư khác đọc: “Quốc vương, trong này còn có một lá thư khác, là do Trung thư thị lang của nước Tống chúng tôi, Lư Đa Tốn đại nhân đích thân viết, xin dâng Quốc vương xem”.

Lư Đa Tốn và Tiết Cư Chính, Lữ Từ Khánh đều là tể tướng trong triều. Triệu Khuông nghe theo lời của Triệu Phổ, đem chức tể tướng chia làm ba, hình thành nên ba cỗ xe ngựa nha môn tể tướng, có điều trong ba người thì rõ ràng Lư Đa Tốn được sủng ái nhất. Nghe đến tên hắn, Lý Dục cũng không dám khinh thường, sai người đón lấy lá thư, chưa chờ mở ra đã hỏi thăm dò: “Không biết tướng công định nói chuyện gì? Trái sứ có biết đôi chút chứ?”

Dương Hạo ung dung cười nói: “Cái này, ngoại thần có biết một, hai, nay nước Đường đã quy thuận Tống Quốc, Trung nguyên đã thống nhất, triều đình muốn vẽ lại bản đồ nước Tống. Lư tướng công được giao nhiệm vụ vẽ bản đồ các đường kinh hồ, đất đai từ đây nối đến Biện Lương. Lư Tướng công hy vọng rằng Quốc vương có thể cung cấp rõ ràng số dân Giang Nam, thuế phú, thành trì… càng nhanh đưa về Biện Lương càng tốt, để tránh trì hoãn công việc của đại Tống.

Lý Dục thở phào nhẹ nhõm, không nghĩ gì mà rằng: “Chuyện này đơn giản thôi, quả nhân nhất định sẽ đưa thông tin tỉ mỉ chính xác về địa lý Giang Nam cho trái sứ”.

Hắn thấy Dương Hạo vừa nói chuyện vừa như vẫn đang nắm giữ vật gì đó trong tay, bèn không khỏi hãi hùng, chỉ sợ hắn lại lôi ra một chiếu thư khác yêu cầu gì đó, vội hỏi: “Trái sứ đang cầm gì trong tay thế, có phải là một chiếu thư khác không?”

Dương Hạo ngây người, nhấc tay áo lên cười to nói: “Quốc vương hiểu lầm rồi, thần đang học theo cách tín Phật của Quốc vương, cũng bắt đầu có hứng thú với đạo Phật rồi. Trong ta áo thần chẳng qua là một chuỗi hạt thôi”.

Lý Dục nhìn kỹ, thấy vật trong tay Dương Hạo quả nhiên là một chuỗi tràng hạt, vừa nói hắn vừa lần tràng hạt không ngớt, Lý Dục mới thở phào nhẹ nhõm. Hắn tín Phật, chỉ hận nỗi giá mà mọi người trong thiên hạ đều tín Phật thì tốt. Vừa nhìn thấy Dương Hạo theo Phật, trong lòng Lý Dục đã thấy thích thú, cơ hồ như đã xích lại gần hắn thêm một chút. Thấy Dương Hạo vừa lầm rầm niệm châu, hắn cười tươi nói: “Chuỗi tràng hạt đó không phải là vật quý báu gì, e có phần mộc mạc quá. Ở đây quả nhân có chuỗi tràng hạt của Phật gia Thất Bảo Kim, Ngân, Lưu Ly, Sa Bà Trí Già, Mỹ Ngọc, Xích Châu, Hổ phách… tạo thành. Là bảo vật của Phật giới tam bảo: Phật, Pháp, Tăng, có thể che chở cho con người. Ta tặng nó cho trái sứ”.

Nội thị dùng hai tay đỡ lấy, đưa đến trước mặt Dương Hạo. Dương Hạo từ chối hai ba lần rồi mới nhận, ngắm nghía chuỗi tràng hạt được kết thành từ bảy món đồ cực quý. Quả nhiên là một báu vật, hắn vừa cuống quýt cảm ơn, mặt cũng hòa hoãn được đôi chút. Quay sang nhìn Lý Dục, cười hì hì mà rằng: “Quốc vương bị nhiễm bệnh nhẹ, sức khỏe không tốt, lại thêm khí hậu có lẽ không hợp, quả không phải hư ngôn. Thần sẽ giải thích rõ ràng với Quốc vương. Chỉ có điều, Lư tướng quân vừa mới được trọng dụng, hy vọng có thể sang sứ một chuyến, đây cũng là việc thường tình mà Giang Nam nên làm, nếu không ngộ nhỡ việc vẽ bản đồ có gì sai sót thì sẽ để thiên hạ cười cho, Lư tướng quân ắt sẽ tức giận, thần… cũng không dám nói hộ bệ hạ”.

“Điều đó là tự nhiên, là tự nhiên, Dương trái sứ yên tâm, quả nhân sẽ thu xếp xử lý việc này”.

Dương Hạo mỉm cười, chắp tay thi lễ đáp: “Vậy thần xin cáo lui”.

Dương Hạo vừa đi khỏi, Lý Dục ngay lập tức đập bàn đứng dậy, những đường gân xanh trên trán hằn lên. Bản đồ giống như địa giới của một nước, đại diện cho sự tôn nghiêm của lãnh thổ quốc gia, dâng bản đồ cũng giống như dâng nước, năm đó Kinh Kha đâm Tần vương có đem theo hai lễ vật, trong đó có một tấm bản đồ nước Yên, hàm ý nước Yên đã hoàn toàn bị quy phục.

Nước Tống đang muốn có bản đồ, điều đó mang hàm ý lăng nhục. Lý Dục kiến thức uyên thâm, làm sao lại không hiểu điều đó. Thế nhưng, hắn làm sao từ chối được? Nếu như nhà Tống trực tiếp đưa ra yêu cầu vẽ bản đồ thì hắn còn có thể làm qua loa tắc trách một chút. Nhưng việc ra chiếu thư yêu cầu hắn đi Tống hắn đã từ chối rồi thì làm sao lại tiếp tục từ chối việc vẽ bản đồ Giang Nam cho được, làm vậy chẳng khác gì chọc giận Triệu Khuông.

Nghĩ đến lần hội ý cùng Từ Phong, Trần Kiều, hắn hít một hơi dài rồi thầm nghĩ: “Không nhịn nổi việc nhỏ thì sao mưu được việc lớn, đến nay quân Khiết Đan vẫn chưa có hứa hẹn che chở gì, do vậy không thế vội trở mặt với nhà Tống. Cho nên hôm nay đành phải nhịn mối nhục này, đem bản đồ Giang Nam giao cho chúng vậy”.

Ngẩng đầu lên, hắn cao giọng nói: “Người đâu!”

Một tên cung nhan vội vã đi vào, Lý Dục dặn dò hắn: “Ngay lập tức gọi nội sử thị lang đến vẽ bản đồ địa lý 19 châu của Giang Nam, sông ngòi ao hồ, hộ khẩu thuế phú… tất cả cho thật chuẩn xác, duy có chỗ đóng quân và tình hình binh lực là không có ghi chú, phải nhanh chóng hoàn thành trước tết Nguyên Tiêu để mang đến Biện Lương. Đi đi!”

Chỉ một lát sau, nội sứ thị lang Vương Hiền Văn tóc bạc phơ vội vã đi vào: “Quốc vương, thần nghe nói người định vẽ bản đồ địa lý 19 châu Giang Nam dâng tặng cho vua Tống?”

Lý Dục tức giận nói: “Quả nhân cũng không phải là đã sai người nói rõ cho ngươi rồi sao? Còn đến hỏi quả nhân làm gì? Mau đi hoàn thành đi, đừng trì hoãn thời gian nữa”.

Nội sử thị lang Vương Hiền Văn chau đôi mày trắng muốt, trầm giọng nói: “Bản đồ địa lý đại diện cho lãnh thổ và dân chúng của một nước, nước Đường ta tuy xưng thần với nước Tống, nhưng chỉ là lệ thuộc vào Tống thôi chứ đâu có dễ để mất lãnh thổ và cư dân như thế? Tấm bản đồ này mà dâng tặng thì coi như ta đã dâng nước Đường cho đại Tống, xin Quốc vương hãy suy nghĩ lại”.

Lý Dục tức giận nói: “Quả nhân sớm đã nghĩ đến rồi, ngươi cứ nghe lệnh là được, đâu đến lượt ngươi lắm chuyện”.

Vương Hiền Văn hiên ngang lớn tiếng: “Quốc vương nguyện đầu hàng, nhưng Hiền Văn lại không thể hàng như thế, mệnh lệnh này của Quốc vương thần không dám tuân theo”.

Lý Dục vỗ bàn đứng dậy, định ngay lập tức hạ lệnh lôi hắn ra ngoài trị tội, nhưng nhìn mái đầu bạc phơ vẫn đang hiên ngang sẵn sàng đón nhận cái chết, không kìm được mà thở dài, vung tay nói: “Quả nhân thương hại ngươi tuổi già yếu không trừng trị, đi đi, ta cách chức quan của ngươi, từ nay trở đi về nhà dưỡng già”.

Vương Văn Hiền già nua không nghĩ rằng mình lại bị Lý Dục cách chức, hắn thoáng giật mình, chắp tay hành lễ rồi không nói gì mà lặng lẽ bỏ đi. Lý Dục tức khí nói với một người nội các trong cung: “Đi đi. Dặn người trong thị lang bộ vẽ bản đồ, làm ngay đi, chớ có trì hoãn”.

Người nội các đó vội vàng đi đến nội sử quán truyền thánh chỉ, chỉ trong chốc lát lại có một người khoảng 30 tuổi chạy tới, thi lễ rồi nói với Lý Dục: “Nội sứ Vương Hạo xin bái kiến Quốc vương”.

Lý Dục vẫn chưa nguôi cơn giận, trừng mắt nói: “Ngươi còn không mau đi vẽ bản đồ, lại đến đây bẩm tấu chuyện gì?”

Vương Hạo cất cao giọng nói: “Bản đồ địa hình mười chín châu của Giang Nam, địa lý Giang Nam và dân số đều là bí mật của nhà nước, tại sao lại dễ dàng dâng lên nhà Tống?”

Lý Dục cười khổ não nói: “Những điều ái khanh nói Trẫm không biết hay sao? Nhưng thế lực nhà Tống như thế, ta nào dám không nghe? Ta làm việc đó cũng là có nỗi khổ tâm, khanh có biết hay không?”

Vương Hạo nói: “Quốc vương xin hãy xem xét kĩ, thần chỉ e rằng nếu chúng ta càng nhân nhượng thì dã tâm của quân Tống sẽ càng kinh khủng. Trịnh vương Tòng Thiện đã dâng cho triều Tống, nay chúng lại bắt chúng ta giao ra bản đồ địa lý Giang Nam, Quốc vương mà vâng mệnh chúng ắt sẽ bức bách chúng ta, chẳng lẽ triều đình chúng ta chịu nhân nhượng hay sao? Hôm nay có thể chúng chỉ đòi bản đồ, chúng ta đồng ý dâng cho chúng, nhưng ngày mai liệu chúng đòi cả xã tắc Giang Nam này thì cúng ta cũng phải tặng cho chúng hay sao?”

Lý Dục khẽ nhướng mày, bực mình đáp: “Khanh nói như vậy là quá lời rồi. Quả nhân chỉ muốn tỏ lòng kính trọng với nhà Tống, xưng thần cống nạp, chưa từng trì hoãn, nước Tống tuy mạnh nhưng làm sao có thể vô cớ xuất binh? Ta đã xưng thần với Tống, cống nạp cho chúng bản đồ địa lý nước ta, như vậy mới nắm được điểm yếu của nhà Tống. Ngươi chỉ là con mọt sách, biết làm sao được chuyện đại sự, ngươi mau mau đi vẽ bản đồ đi, đó cũng là trách nhiệm của người đó, đừng nhiều lời nữa”.

Vương Hạo nhẫn nại nói: “Dã tâm của nước Tống ai ai cũng biết, Quốc vương còn đang tự lừa dối mình hay sao? Gia phụ đã nguyện bị bãi quan giáng chức, chứ không thể dùng hai tay dâng giang sơn xã tắc Giang Nam cho chúng được, thần Vương Hạo đây cũng không thể phụng theo ý chỉ này”.

“Gia phụ đó là ai?”

“Gia phụ đó là nội sử thị lang vương công Hiền Văn”.

Lý Dục tức khí mà cười: “Tốt, tốt, cha con các ngươi đều là trung thần, chỉ có quả nhân là bậc hôn quân phải không? Được rồi, được rồi, các ngươi không muốn làm quan trong triều nữa thì hãy đi về đi, không có cha con các ngươi thì triều đình này không có ai vẽ nổi bản đồ chắc? Cút, cút hết cho ta!”

Lý Dục càng nói càng tức khí, cuối cùng không nén nổi, thuận tay ném một quyển đồ thư đi, mắt nhìn theo bóng Vương Hạo đang đi khuất, Lý Dục kinh ngạc hồi lâu rồi mới chán nản quay về ghế.

******************************************

Trên xe, hai sứ giả nước Tống đang ngồi cạnh nhau. Tiêu Hải Đào vừa vuốt râu vừa nói: “Đại nhân, ngài muốn Lư tướng công đến Giang Nam là có dụng ý gì? Đợi nước Tống chiếm được Giang Nam thì địa lý, sông ngòi, thuế má, dân cư của Giang Nam thì vật đó mới hữu dụng. Còn nay cái chúng ta muốn chính là tin tình báo về mặt sông nước, nơi trú binh…”

Dương Hạo cười nói: “Nói thì dễ, chứ những thứ đó chúng ta đã có trong tay đâu? Tình hình nước sông Trường Giang phải mất hai đến ba năm đo đạc thăm dò cẩn thận, e rằng chúng ta không thể nắm chính xác được sự thay đổi thủy lưu theo mùa nông cạn trong một năm được. Nước ta muốn đánh nước Đường thì trên Trường Giang chỉ có một đường tiến công, đó cũng là khi không còn cách nào khác. Chúng ta hiện chỉ có thể nắm giữ được chút ít tư liệu về việc đóng trú quân.

Ta muốn có bản đồ Giang Nam, Lý Dục lại dễ dàng đồng ý trao cho chúng ta như vậy. Cũng tốt, khi đọc bức chiếu thư này của nhà vua, bản quan đã sớm dự liệu hắn sẽ từ chối, sau đó tái trình lên Lư tướng công, Lý Dục chẳng thể nào từ chối nổi. Tất nhiên, Lý Dục không thể nào nói cho chúng ta chi tiết nơi trú quân, binh lực… nhưng các thành trì lớn nhỏ cư dân nhiều ít thế nào, số lượng lương thực ra sao, địa hình địa lý như thế nào thì đã ghi rõ ràng trong bản đồ, chúng ta có thể tìm ra nơi trú quân của bọn chúng và phái người đi thăm dò”.

Tiêu Hải Đào đang chuẩn bị nói thì Dương Hạo lại cắt lời hắn: “Ta biết, chúng ta rất khó để thăm dò, nhưng căn bản phái người đi là để thăm dò nơi đóng quân. Nhưng nếu một khi chúng đã có thể dễ dàng tiến công vào thì nhất định không phải là nơi trọng yếu, còn nếu nơi nào chúng canh phòng cẩn mật không cho ai lọt vào thì đó có thể là nơi đóng quân của nhà Đường”.

Tiêu Hải Đào vừa gật gật đầu rồi lại lắc đầu: “Thế nhưng, ngay cả khỉ biết nơi nào là nơi trú quân thì chúng ta cũng không thể xác định được binh lực của chúng như thế nào. Nếu nói như vậy thì một nơi trú quân nhỏ vài trăm người cũng có khả năng bị chúng ta hiểu nhầm thành một nơi đóng quân to hàng vạn người, không những không giúp ích gì được cho Quốc vương mà sợ rằng còn đem lại cho Quốc vương cảm giác chẳng biết thế nào mà lần”.

Dương Hạo nói: “Nếu không, lúc đó tấm bản đồ sẽ được phát huy tác dụng thứ ba của nó. Sau khi tìm ra những nơi có trú quân, chúng ta có thể dựa vào đặc điểm ao ngòi sông hồ vùng đó cũng như dân cư ít nhiều thế nào, lương thực số lượng ra sao để phán đoán. Dân số và lương thực có liên quan đến nhau, nước Đường và nước Tống ta không giống nhau, chúng ta đóng quân không giống chúng. Lương thảo cần thiết cho nơi đóng quân là do địa phương trực tiếp trích cấp. Chúng ta chỉ cần so sánh số dân và số lượng thuế thực tế ở thành Kim Lăng là sẽ có thể đoán ra binh lực của nơi trú quân là bao nhiêu.”

Nói đến đây, hắn mỉm cười quay sang hỏi Tiêu Hải Đào: “Ngươi rõ rồi chứ?”

Tiêu Hải Đào nghe đến đây hai mắt đăm đăm, hồi lâu mới dùng ánh mắt kỳ lạ nhìn vào Dương Hạo khen: “Thảo nào đại nhân vẫn còn trẻ mà có thể leo lên được vị trí cao như vậy, đại nhân quả là đã khiến hạ quan tâm phục khẩu phục rồi”.

Dương Hạo cười nói: “Lý Dục có thi từ ca phú phải nói là nhất tuyệt, nhưng những vấn đề thế này hắn lại không thông. Những con mọt sách của nội sử quán cũng không chú ý đến mức độ tôn nghiêm và danh dự mà tấm bản đồ này mang lại, có bảo vật trong tay mà chúng không biết. Có thế thì kế hoạch này của ta mới dùng được, chứ nếu đổi một cơ mưu khác thì e rằng chúng sẽ đoán ra ta định làm gì”.

Tiêu Hải Đào vừa nghe vừa lo lắng nói: “Vậy… việc này không bị bọn chúng thần của nước Đường biết được chứ? Trong đó ắt cũng phải có vài tên thông minh…”

Dương Hạo cười nhạt nói: “Lẽ nào Lý Dục thích công khai chuyện này sao?”

Dương Hạo vừa nói vừa lần tràng hạt trên tay nghe lách tách, Tiêu Hải Đào ngạc nhiên hỏi: “ Đại nhân giấu gì trong tay áo vậy? Có tiếng vang vang kỳ lạ”.

Dương Hạo cười nói: “Đây là chuỗi tràng hạt quý báu đấy, ngươi xem, đích thân vua Giang Nam tặng cho ta, đích thực là một món quà giá trị”. Hắn vừa hào hứng nói vừa đưa cho Tiêu Hải Đào xem: “Ta có chuỗi tràng hạt này rồi thì chuỗi hạt bằng gỗ kia không dùng đến nữa, tặng lại cho ngươi. Dù nói rằng chuỗi tràng hạt này không sánh được với chuỗi của ta, nhưng nó cũng là do đích thân đại sư Bảo Kính trong Kê Minh Tự khai quang, ắt cũng có công dụng xua đuổi tà ma “.

Tiêu Hải Đào cười khổ nhận lấy nói: “Đại nhân bắt đầu tín Phật từ bao giờ thế?”

Không thấy Dương Hạo trả lời, Tiêu Hải Đào cảm thấy hơi kỳ lạ, ngẩng đầu lên xem thì thấy Dương Hạo đang nhìn ra xa thẫn thờ, Tiêu Hải Đào thuận mắt trông theo thì thấy một cô nương đang đi trên đường, mặc một bộ quần áo màu huyền, eo nhỏ nhắn, da trắng như tuyết, đẹp mê hồn.

Dương Hạo vội vã cất chuỗi hạt trong tay đi, kích động nói: “Tiêu Hải Đào ngươi cứ quay về dịch quán trước đi, bản quan gặp người quen, lát nữa sẽ tự về sau”.

Tiêu Hải Đào vội vã khuyên: “Đại nhân, người Khiết Đan có mối thù sâu sắc với chúng ta, để đại nhân tự về e rằng…”

Dương Hạo không thèm để ý mà nói: “Bản quan là tống sứ nhà Tống, người Khiết Đan có thâm thù gì thì cũng không thể hành động giữa ban ngày ban mặt. Mấy ngày nay không phải bọn chúng rất yên ổn đó sao, không cần lo lắng, ta tự lo được”. Nói rồi hắn không chờ xe dừng, vội phi như bay xuống dưới đất.

Tiêu Hải Đào lẩm bẩm: “Người Giang Nam tín Phật cũng háo sắc như vậy sao?”

Cúi đầu nhìn xuống chuỗi vòng đang cầm trên tay, Tiêu Hải Đào vội vàng lẩm nhẩm tạ tội: “Tiêu mỗ nói bừa, biết tội, biết tội, nam mô a di đà phật…”

************************************************

Chiết Tử Du đang đi bộ, đột nhiên thấy ven đường có một người nhảy xuống liền vội vàng lui lại hai bước, thủ thế. Nhìn rõ ra là Dương Hạo, nàng ta mới tức giận trừng mắt lên, quay đầu đi về.

Dương Hạo không thèm để ý, cười ha ha và đuổi theo nàng, nói: “Mạc cô nương ăn mặc phong phanh quá. Mặc dù mùa đông ở Giang Nam không lạnh, thời tiết cũng ẩm ướt, nhưng Mạc cô nương vẫn phải chú ý bảo vệ ngọc thể nhé”.

“Hôm nay ngươi rảnh như thế sao?”

“Thật đúng câu ta đang muốn hỏi Mạc cô nương đó”.

Chiết Tử Du bĩu môi nói: “Những ngày này không thấy bọn Khiết Đan có động tĩnh gì, ngươi lại bắt đầu khinh thường rồi phải không?”

“Ha ha, hóa ra cô nương đang lo lắng cho sự an nguy của ta. Vậy là Dương mỗ có thể lọt vào mắt xanh của tiểu mỹ nhân được, thật sợ quá”.

Chiết Tử Du trợn mắt nói: “Xem ra hôm nay ngươi hứng chí ghê nhỉ, lại ăn nói luyên thuyên”.

“Chỉ cần vừa nhìn thấy cô nương trái tim đã sai nhịp rồi, nàng nói xem có kỳ lạ không?”

“Đừng nói luyên thuyên với ta nữa đi!” Chiết Tử Du không chịu được nữa, chóng mặt quát gay gắt: “Nếu như mới đầu lúc quen ngươi ngươi dám nói với ta những lời như thế thì ta đã đánh gãy chân ngươi rồi, cho ngươi bò về Phách Châu. Hôm nay sao ngươi lại ở Kim Lăng?”

“Ngày đó nếu như ta nói ngon nói ngọt mà cô nương muốn chặt đứt chân thì hôm nay những lời ngọt ngào này lại làm nàng xấu hổ… như vậy là vì sao?”

Chiết Tử Du hoắc mắt dừng lại, bẻ cong giày rồi đá vào mặt Dương Hạo. Dương Hạo sớm đã có chuẩn bị nên tóm gọn được đôi chân vừa định giơ lên, không nén được cười ha hả.

Chiết Tử Du buồn cười nói: “Ngươi thật là vô lại, dường như ngươi chẳng để tâm gì đến việc đi sứ lần này cả. Sứ giả Khiết Đan Gia Luật Văn cùng vua Giang Nam mới đây qua lại hết sức thân mật, dường như ngươi cũng chẳng buồn quan tâm?”

Dương Hạo vò vò đầu, có chút hoang mang nói: “Nói thật, ta mang trọng trách là hồng lư tự khanh, cũng là do ngoài ý muốn. Có thể đi sứ sang nước Đường, có rất nhiều điều không thể thành hiện thực đã thành sự thực. Ta vẫn cứ không rõ tại sao nhưng gần đây ta mới tỉnh ngộ”.

Chiết Tử Du tức giận mà hỏi: “Thế ngươi tỉnh ngộ cái gì?”

Dương Hạo làm mặt nghiêm trang nói: “Vốn ông trời an bài, đều là để ta ở đây gặp gỡ nàng. Nàng nói xem đó có phải là duyên phận không?”

Chiết Tử Du thở dài nói: “Xem ra ta cần đi đến miếu để bái rồi, nếu không sẽ cứ bị đen đủi mãi. Từ khi ngươi đến nước Đường, lại đổi thân phận, ta không cách nào tránh khỏi oan gia này. Ngươi đúng là âm hồn không tan”.

Dương Hạo tủm tỉm cười: “Oán chuyện gì? Oan gia?”

Chiết Tử Du xấu hổ, quay người bỏ đi, ném chiếc giày lên cao: “Đi đi đi… mặc kệ tên mặt dày”.

Dương Hạo cười ha hả, đuổi theo thấp giọng nói: “Tử Du, chớ quên là chúng ta đã từng có giao kèo. Nếu như những lời ta nói là thật thì nàng phải lập tức quay về Phủ Châu, không được nhiễu sự nữa. Chỉ cần nàng thuận theo mọi việc thì chưa chắc đã không thể bảo toàn được phú quý nhà họ Chiết”.

Trong đôi mắt mơ hồ của Chiết Tử Du chợt lóe lên, bỗng nhiên khựng lại nói: “Nước Tống… đã muốn đánh nước Đường rồi sao?”

Dương Hạo chợt thấy giật mình, tự mình đã dặn mình phải cẩn thận, thế mà hơi một tí đã nhắc đến chuyện này, còn khiến nàng cảnh giác. Dương Hạo không biết làm gì, bèn nói: “Vẫn còn chưa có kế hoạch, không… phải tùy theo thiên cơ, nhưng chỉ trong vòng hai ba năm nữa thôi. Nếu như tất cả đúng như những gì ta nói, hy vọng nàng có thể giữ lời hứa, hành sự tại thiên để tránh gây nên nhiều sát nghiệt”.

Chiết Tử Du nghe hắn nói như vậy, trong lòng không khỏi hoang mang, quay lưng bỏ đi, thấy trước mặt là một sạp hàng bày bán đủ mọi loại trang sức, liền tiện tay đứng xem.

Dương Hạo nhìn theo bóng Tử Du, trong mắt hiện lên nét khó hiểu. Gần đây khi nhìn thấy Tử Du, hắn thường ăn nói lung tung, vừa quấn quýt si mê nàng, muốn phá mưu đồ bí mật của nàng ở Giang Nam, nhưng mặt khác lại không nỡ xa rời nàng, không muốn nàng bỏ đi, sợ rằng đời này kiếp này không còn cơ hội tương ngộ nữa. Hắn không cách nào xác định, chỉ biết rằng ngày đó càng ngày càng gần.

Nếu như nàng biết được rằng ta chính là ‘sứ giả thần chết’ mang đền nhiều đau thương bấy lâu?”

Dương Hạo nhìn theo bóng nàng, trong lòng dấy lên một cảm giác thương cảm khó hiểu.

Chiết Tử Du đến bên sạp bán đồ trang sức, nhưng vẫn cảm giác có ánh mắt vẫn đang dõi theo đằng sau. Nàng cảm thấy không tự nhiên nên đứng dậy, quay mặt liếc nhìn một cái, đụng ngay cái nhìn của Dương Hạo, nên vội vàng quay đầu lại “Chàng… quả nhiên đang nhìn ta, tại sao cứ phiền như thế, có thể lẽ nào…? Cứ cho là ta không thèm để ý đến chuyện chàng đã có vợ, thì sao đây? Với thân phận hiện giờ của cả hai thì chúng ta không thể bên nhau được”.

Chiết Tử Du lặng lẽ nắm chặt đôi khuyên bằng đá trong tay, cảm giác buồn bã trong lòng.

Người chủ sạp hàng nhìn thấy chuẩn bị bán được hàng liền khấp khởi, luôn miệng quảng cáo: “Cô nương quả đúng là có mắt nhìn, đôi khuyên tai này là được làm từ kim cương đen, cô xem, trông nó giống như là đôi mắt vậy, gọi là ‘luật nhãn ban phúc’, có thể tránh được tà ma, làm tiêu bệnh, khí độc, điều không may… Cô nương xinh đẹp như thế, da lại trắng như tuyết, nếu như cô đeo đôi khuyên này thì nhất định sẽ càng thêm xinh đẹp”.

“Đôi bông tai này bao nhiêu tiền, ta mua nó!” Dương Hạo bước tới nói.

Người chủ hàng có chút đạo đức nghề nghiệp, đôi khuyên vẫn đang nằm trên tay Tử Du, hắn không dám ngay lập tức lấy lại bán cho Dương Hạo, liền quay sang ngó Tử Du. Dương Hạo mỉm cười nói: “Đôi khuyên này là ta mua tặng cho cô nương đây, bao nhiêu tiền?”

“Ai cần ngươi tặng?” Chiết Tử Du nhìn sang Dương Hạo, bỏ lại đôi khuyên bỏ đi. Dương Hạo cười cười, hỏi giá cả rồi mua đôi khuyên đó, đuổi theo Chiết Tử Du.

Chạy đến bên bờ sông thì Dương Hạo đuổi kịp Tử Du, cười nhẹ nhàng: “Chỉ là chút quà nhỏ thôi, cô nương sao không nhận lấy?”

Chiết Tử Du khẽ hừ một tiếng: “Không thích”.

“Nếu như không thích thì cũng không vấn đề gì, Tết Nguyên tiêu sắp đến rồi, rồi đến Phóng Thâu Nhật, mọi người đều trộm đồ của nhau, nàng cứ giữ nó đi rồi để người ta trộm mất cũng được”.

“Cảm ơn. Đến lúc đó tự ta sẽ chuẩn bị đồ cho người khác trộm, không cần món quà này của ngươi, xin nhận ý tốt.”

“Haha, sợ rằng sau này sẽ không có cơ hội nữa đâu, đây có lẽ là lần cuối cùng ta tặng quà cho nàng, nàng nhận đi, được không?”

Chiết Tử Du nghe nói đến ba chữ “lần cuối cùng” liền không kìm được thắc mắc. Lần trước khi chàng muốn hôn ta, chàng cũng nói “lần cuối cùng”, hôm nay tặng quà cũng nói như vậy. Được rồi, ta vốn cũng không nghĩ sẽ dây dưa gì với chàng nữa, thì giờ việc chi cứ phải suy nghĩ mông lung?

Dương Hạo đem đôi khuyên đặt vào tay Tử Du, tay nàng hơi run lên, rồi vứt nó ra xa. Nụ cười trên mặt Dương Hạo chợt cứng lại, hai người cứ thế nhìn nhau hồi lâu, sau đó, Chiết Tử Du không nói gì bèn quay người bỏ đi, mặt hướng ra phía bờ sông mà rằng: “Đại nhân bận rộn, không cần thiết phải tiễn ta nữa. Hôm nay ta cũng có chút chuyện bực mình, ra ngoài đi dạo một chút, không có chuyện gì đâu. Tên đại nghịch bất đạo trong mắt đại nhân đến rồi kìa!”

Dương Hạo cười khổ não, đang muốn nói gì thì bên cạnh nghe thấy tiếng niệm “A di đà phật! Này vị thí chủ…”

“A..a.. ”Bích Túc đang muốn làm bộ không quen biết Dương Hạo, đột nhiên nhìn thấy Chiết Tử Du, không nén nổi mà há mồm cứng lưỡi, cứ chỉ chỉ vào nàng mà không nói được lời nào.

Chiết Tử Du quay đầu nhìn hắn, mặt cũng nén nổi sự kinh ngạc, Dương Hạo liền níu lấy Bích Túc hỏi: “Ngươi đến đây làm gì?”

Bích Túc lấy lại bình tĩnh, vội vàng hạ giọng nói: “Đại nhân, hai vị phu nhân đã tới rồi, hiện đang ngồi ven hồ Huyền Vũ, hiện đang ở nhà trọ Thê Hà…” Nói rồi, hắn còn cảnh giác ngó Tử Du.

“Bọn họ đã đến rồi?” Dương Hạo vừa mừng vừa sợ: “Tốt lắm, chúng ta mất dấu nhau, e rằng Lễ Tân viện đang loạn cả lên rồi, ta sẽ ngay lập tức sắp xếp về dịch quán, sau đó đến bên hồ Huyền Vũ gặp họ”.

“Mạc cô nương, Dương mỗ cáo từ.”

Chiết Tử Du cũng không thèm quay đầu lại, thản nhiên nói: “Xin đại nhân cứ tự nhiên”.

Dương Hạo thở dài, quay người lại đi mất, nhưng đột nhiên như nhớ ra chuyện gì, bèn quay đầu lại ngó Bích Túc đang mặc áo cà sa, dở khóc dở cười nói: “Ngươi thật muốn đến Kê Minh Tự làm Phương trượng ư?”

Bích Túc xoa xoa cái đầu bóng lưỡng, cười hì hì nói: “Chỉ là vì tiểu sư thái Thủy Nguyệt thôi”.

Dương Hạo gật gật đầu, thở dài nói: “Hiếm khi ngươi rung động thật sự, hãy trân trọng đi, nếu như để lỡ mất thì sau này ngươi có hối cũng không kịp đâu”.

Chiết Tử Du nghe thấy, đột nhiên cắn chặt môi dưới.

Dương Hạo lại thở dài, thi lễ với nàng rồi quay lưng bước đi, Bích Túc nhìn Chiết Tử Du, ngượng ngùng nói: “Chiết… Chiết cô nương sao lại ở đây? Chẳng lẽ cô nương với đại nhân của ta…”

Chiết Tử Du quắc mắt xoay người lại, nói: “Bản cô nương đang không vui, ngươi cút ngay đi cho ta càng xa càng tốt, ta đếm tới ba, nếu như ngươi không cút…” Nàng ta nắm chặt cây kiếm bên hông, đếm lớn: “Một…”

Chẳng cần để nói đến hai lời liền bỏ chạy. Chiết Tử Du không khỏi phì cười, nhìn theo bóng Dương Hạo đi khuất dần. Nụ cười dần tắt, trên mặt chỉ còn phảng phất nỗi mơ hồ, dường như nhớ ra điều gì, nàng quay người đi vội vàng, chạy đến bên vạt cỏ gần đó tìm kiếm khắp nơi, nhưng có một người đã nhanh chân hơn nhặt chiếc hộp lên, mở ra rồi reo mừng: “Haha, hôm nay số hên quá, lại nhặt được báu vật”.

“Chậm đã!” Chiết Tử Du vội nói, đoạt lại chiếc hộp rồi nói: “Chiếc hộp này là của ta”.

Người thuyền phu đó mở to mắt ra nhìn Tử Du, nói: “Nhìn vị cô nương ăn vận xinh đẹp, thế mà lại đi cướp đồ của ta ư?”

“Ngươi!” Chiết Tử Du chau mày, nắm chặt lấy chuôi kiếm, vị thuyền phu kia lui lại hai bước, hét lớn: “Ái chà, còn muốn gây sự nữa đúng không? Anh em đâu mau lại đây, có người muốn cướp đồ của ta này”.

Trên bờ đê, bảy tám người cao to lực lượng lập tức xuất hiện, nói lớn: “Ai dám to gan, giữa ban ngày ban mặt mà dám giở trò?”

Chiết Tử Du hung hăng trừng mắt nhìn vị thuyền phu kia một hồi lâu, hít một hơi thật sâu nói: “Ngươi trả giá đi, ta sẽ mua nó. Nếu như vậy còn không được thì bản cô nương sẽ phải giở trò cường đạo rồi, đừng hòng làm khó dễ ta!”

***************************************

Dương Hạo vội vã quay trở về dịch quán tìm Tiêu Hải Đào, Tiêu Hải Đào vừa nhìn thấy hắn liền cười nói: “Đại nhân về nhanh thật đấy, cứ tưởng giữa đường gặp vị cô nương đó thì … hahaha”

Dương Hạo tươi cười nói: “Tiêu tự thừa, Dương mỗ quay về vốn là để dặn ngươi một tiếng, đêm nay ta ra ngoài, nếu như không quay trở về dịch quán thì ngươi không cần phải lo, sáng sớm mai ta sẽ quay về”.

“Hả?” Tiêu Hải Đào ngẩn người, lắp bắp nói: “Đại nhân… đại nhân có bản lãnh vậy sao? Chỉ mới có hai ba câu mà đã có thể…?”

Dương Hạo ngẩn ngơ một lúc rồi lập tức cười ha hả mà rằng: “Không sai, không sai, bản quan đêm nay cần phải đi hóng gió một chút, haha, do vậy không cần lo lắng cho bản quan. Ta phải đi rồi, cô nương nhà người ta còn đang đợi ta”.

“Khoan đã, khoan đã!” Tiêu thừa tự níu người hắn lại, nghi ngờ nói: “Đại nhân, vị cô nương đó làm sao mới chỉ có hai ba câu… đã có thể cam tâm trao thân gửi phận? E rằng có vấn đề”.

“Hừ, điểm này bản quan chẳng lẽ còn không nghĩ tới ư? Ta tất nhiên là phải làm rõ ngọn nguồn rồi mới có dũng khí chứ, được rồi, không để mỹ nhân đợi lâu nữa, bản quan đi đây.”

“Đại nhân, ngài…” Tiêu Hải Đào muốn cản cũng không cản kịp nữa, Dương Hạo dường như đã hóa thành bươm bướm bay đi mất.

Tiêu Hải Đào đứng dưới trời chiều, ngẩn ngơ hồi lâu rồi mới lẩm bẩm: “Dương tả sứ quả nhiên là không ai bằng, một cô nương diễm lệ như thế... làm sao đại nhân có thể may mắn thế nhỉ?”

Hắn quay đầu nhìn chuỗi tràng hạt đang đặt trên bàn, vội cầm lấy đeo vào cổ tay như sợ có ai cướp mất báu vật.

Nguồn: http://4vn.eu/forum/showthread.php?t=71274&page=76#ixzz201i4LfCy

Chương 360: Phóng Thâu Nhật

Bên bờ hồ Huyền Vũ, trên chiếc cầu cong cong như lưỡi liềm, tòa lầu Tiêu Tiêu đứng cô độc, cảnh mùa đông ở Giang Nam vẫn ngời ngời sức sống, chỉ đến đêm mới cảm thấy đôi chút cái hiu quạnh. Lúc này trăng nhô cao, khắp hồ nước nổi lên những đợt sóng nhấp nhô có màu như ngọc, tràn đầy ý thơ.

Trên lầu, ánh đèn sáng mờ ảo.

Trên một chiếc giường vừa rộng vừa to, vừa sạch sẽ lại mềm mại, màn che phấp phới, chỉ nhìn thấy ánh sáng từ cây nến sáng chập chờn tỏa ra mang ý vị thật phong tình. Ba người cùng nằm trên giường, Dương Hạo nằm giữa, Oa Oa và Diễm Diễm nằm hai bên, như hai chú chim nhỏ nép vào người hắn.

“Bọn thiếp chọn ở nơi gần núi Thiếu Hoa, nơi đó thanh sơn thủy tú, nhất định chàng sẽ thích. Bọn thiếp sẽ dựng một tòa nhà lớn ở đó, chỉ cần đợi chúng ta đến đó là sẽ xây nhà mới cho chúng ta”.

Oa Oa vừa nói vừa bám vào cánh tay Dương Hạo, ngọt ngào: “Quan nhân, chúng ta khi nào sẽ rời khỏi đây về nhà hưởng cuộc sống vui vẻ đây?”

“Ta cứ chờ các nàng đến cũng là để tạo cơ hội, việc này còn phải chờ vào ý trời mới có thể thành được.

Dương Hạo trầm ngâm nói : “ Bây giờ đã có kẻ thù muốn giết ta, hắn chính là sứ giả Khiết Đan Gia Luật Văn. Sau này, ta sẽ thường xuyên đi du ngoạn sơn thủy cùng với các nàng, cho đến khi tin tức “ bất kinh ý gian” bị lộ ra ngoài, khiến cho bọn chúng biết được rằng phu nhân của ta đã đến Kim Lăng rồi.

Sau đó, chúng ta tìm một thời cơ thích hợp, khi chúng không đề phòng, sẽ cho 8 gã giả mạo người Khiết Đan đến hành thích chúng ta, thi thể để cho bọn Mục Vũ làm, lấy mấy cái thi thể của bọn tử tù, hoặc làm mấy cái thi thể đã thối rữa cũng được, cuối cùng làm một mồi lửa là không hể sơ hở rồi.

Tám gã hộ vệ kia nên tìm bọn du mục trên thảo nguyên giống người Khiết Đan, bọn chúng vừa hiểu tiếng người Khương, vừa hiểu ngôn ngữ Nôn Phiên, cũng hiểu được tiếng người Khiết Đan, để bọn họ giả mạo làm người Khiết Đan “giết người phóng hỏa”, khiến cho bọn chúng mang tội, lại thêm mối thù sẵn có giữa Gia Luật Văn với chúng ta, thế là chết chắc. Thời gian đó cũng chính là Tết Nguyên tiêu, rồi vài ngày Phóng thâu nhật trên đường sẽ toàn người là người, rất nhộn nhịp, người đông hỗn tạp, đúng là thời cơ phóng hỏa giết người thích hợp.”

“Việc này để quan nhân quyết định là được rồi, cái gì mà xác chết, cái gì mà phóng hỏa giết người, ở chỗ nhà trọ hẻo lánh này quan nhân nói như thế khiến người ta nghe phát hoảng, chẳng dám đi ngủ một mình” Oa Oa vừa nói vừa dụi dụi đầu vào ngực Dương Hạo.

Đường Diễm Diễm cũng hưởng ứng: “Đúng rồi đó, quan nhân không cần nói rõ ràng như thế chứ, bọn thần thiếp vừa mới gặp ngài, nói những cái đó nghe mất hết cả tình”.

Đúng lúc đó, ngọn nến bị gió thổi vào khẽ lay động, đột nhiên động đậy một chút, khiến hai nàng sợ hãi kêu thất thanh, dụi đầu vào ngực Dương Hạo, Dương Hạo cười nói: “Có lý, vậy ta sẽ không nói chuyện chết chóc gì nữa, chỉ nói chuyện sinh thôi. Hai nương tử của ta, chúng ta vui vẻ với nhau cũng không phải một lần, tướng công của các nàng cũng mất đi không ít sinh lực, vậy mà bụng các nàng vẫn cứ phẳng lì như vậy nhỉ? Hay là chúng ta cùng cố gắng hơn nhé?”

Tay hắn xoa xoa hai cái bụng phẳng mà mềm mại của hai nương tử, hai mỹ nhân cùng đồng thanh “xì” một tiếng, rồi lắc mình né tránh, nhưng Dương Hạo động tác quá nhanh, đã giữ chặt được cái eo nhỏ nhắn của bọn họ, giữ chặt bọn họ dưới người mình rồi cúi người hôn lên môi Diễm Diễm.

Diễm Diễm mặt ửng đỏ, nói nhỏ: “Không được… không được ở đây, đi… đi vào phòng của thiếp…”

Đôi môi của Dương Hạo đã đặt lên cặp môi đỏ như quả anh đào chín của nàng, Diễm Diễm thả lỏng thân, đón nhận cái đi vào mềm mại nhẹ nhàng của hắn, cửa mình xinh đẹp mềm mại và ướt át như một cánh hoa mềm mại khép chặt, mặc hắn muốn làm gì thì làm.

“A…a…” Diễm Diễm nhẹ nhàng rên rỉ, đôi môi được Dương Hạo hôn tới tấp, đôi bàn tay hắn thì đang sờ nắn bộ ngực sữa mềm mại cho đến khi nó dựng đứng lên, vòng eo nhỏ nhắn của nàng không tự chủ được mà cứ nhấc lên cao mãi, để bộ ngực trần dâng cho người đàn ông của nàng. Bàn tay to của Dương Hạo nắm chặt lấy eo Oa Oa không biết đã rời ra khi nào để chuyển đến sau mông Diễm Diễm, dù Oa Oa xấu hổ vô cùng nhưng cũng chẳng có chỗ nào mà đào tẩu, chiếc giường này là giường của nàng, nàng thoát đi đâu cho được?

Nhìn Dương Hạo sau một hồi vuốt ve rồi “chà đạp” giờ trở nên xụi lơ như bùn, nằm thở phì phò, mặt đầy hứng khởi, bên cạnh Diễm Diễm sau một hồi hết mình, mắt Oa Oa bỗng ươn ướt tưởng như có thể khóc ngay được, nàng bỗng “Ưm” một tiếng rồi ôm lấy tấm lưng rộng mà rắn chắc của Dương Hạo từ phía sau, cọ cọ hai đầu vú đang dương cao vào người chàng.

Không biết ai buông tấm màn đỏ phất phơ, không biết ai cởi mà quần áo họ rất nhanh đã bị kéo tuột xuống, để lộ tấm thân đẹp đẽ của hai người. Không thể chịu nổi nữa, Dương Hạo nắm lấy đôi ngực trắng mà mẩy như bạch ngọc, hai chân nàng như hai cây mây cuốn lấy cây đại thụ vạm vỡ ở giữa, phát ra những tiếng thở hổn hển của hai người.

Trên án thư ánh nến đã tắt, Đường Diễm Diễm như hoa nở rồi tàn, tàn rồi lại nở, cũng không biết đã nếm trải qua bao cuộc vui, lúc này đây đến tay cũng không buồn cử động, cả người đầy mồ hôi nằm nghiêng trên giường, mắt khép hờ nhìn hai người kia mây mưa, ánh đèn đỏ chiếu đỏ cả tấm rèm, chiếu ngay chỗ Oa Oa đang vươn cao đôi vú tròn, nàng ta đang nằm trên người Dương Hạo, người như từng đợt sóng cứ phập phồng phập phồng, nhộn nhạo không bờ bến.

Chỉ nghe thấy tiếng hai người rên rỉ, cảm nhận được cái phất phơ của tấm rèm, Diễm Diễm cảm thấy mình như đang nằm trên một con thuyền, trôi dạt theo con sóng tình về nơi phương xa…

“Phóng Thâu nhật? Ngày đó đến rất nhanh thôi, qua ngày đó sẽ không cần phải lén lén lút lút nữa, đến ngày đó trong thiên hạ cũng đều đi ăn trộm, ta…ta và quan nhân cũng đi trộm một phen, trộm cái tiêu diêu tự tại, trộm cái thân tự do, từ nay về sau sẽ không còn ai tranh đấu với chúng ta trong thiên hạ nữa”.

***********************************************

Phóng thâu nhật, Khiết Đan, Thượng Kinh

Trên đường phố, muôn hình vạn trạng đèn đóm được treo hai bên đường, khiến cả con phố dài sáng bừng lên như ban ngày. Bên đường còn có tượng điêu khắc các loại động vật, các loài hoa với kích cỡ lớn, bên trong là đèn đủ màu sắc, nhưng vẫn chưa được thắp.

Trong cung không khí vui vẻ nhộn nhịp, rất nhiều quan nhân, nội thị đang bận rộn, La Đông Nhi vội vàng đi đến cung hoàng hậu, đột nhiên có một bóng người từ sau tự điện trụ gọi với theo: “La thượng quan”.

“A, hóa ra là Nhã công chúa!” Đông Nhi vội dừng bước, thi lễ rồi mỉm cười: “Đông Nhi bái kiến công chúa, công chúa có gì dặn dò chăng? Giờ Đông Nhi đang đi đến chỗ nương nương”.

“Không có, không có. La thượng quan là người tâm phúc bên cạnh nương nương, ta nào dám dặn dò gì”.

Gia Luật Nhã cười hi hi khoát tay, nàng xem xét qua rồi đột nhiên có chút xấu hổ mà bám ống tay áo: “Ta… ta chỉ là có chút chuyện nhỏ muốn nhờ La thượng quan giúp đỡ, không biết La thượng quan có đồng ý không?”

Đông Nhi thấy công chúa vốn hoạt bát nhanh nhẹn giờ lại có vẻ ra dáng tiểu nhi nữ, bèn không nhịn được cười nói: “Điện hạ có chuyện gì, chỉ cần Đông Nhi giúp được Đông Nhi sẽ cố gắng hết mình”.

Gia Luật Nhã cười nói: “Hay quá, hay quá, ta biết La tướng quân là tốt nhất mà, hihi, ta muốn đi Ngũ Phong lầu ngắm đèn, nhưng những người ở phủ ta toàn lũ ngu dốt, nhìn là đã thấy ghét, một mình trong cung chẳng có ai nói chuyện buồn chết. Tứ ca là người ăn nói có duyên, ta muốn chàng đưa ta đi ngắm đèn, La thượng quân có đồng ý không?”

“Cái này… Được rồi, Đông Nhi sẽ cho người đi gọi hắn…”

Gia Luật Nhã cười nói: “Vậy ta chờ chàng ở tượng Thạch Sư chỗ Ngũ Phong lâu”.

Đông Nhi mỉm cười đáp: “Được, ta sẽ cho bảo tứ ca đi đến tìm công chúa”.

Gia Luật Nhã mừng rỡ, cười nói: “Vậy trăm sự nhờ La thượng quân, ta đến Ngũ Phong lâu đây”, nói rồi nàng liền nhảy nhót bước đi.

Tết Nguyên tiêu, Phóng Thâu nhật.

Trộm tiền, trộm nhà, tại Khiết Đan và ở một vài bộ tộc thì quả còn có thể trộm người. Đương nhiên, người Khiết Đan có dễ dãi đến đâu cũng không thể để bị mọc sùng trong ngày tết Nguyên tiêu, nên cái trộm người này sớm đã mang ý nghĩa chỉ dành cho những đôi nam nữ chưa kết hôn. Còn những người vẫn thầm thích mà chưa có đối tượng cụ thể sẽ có thể kiếm được người yêu nhờ dịp này, tự đính ước với nhau hoặc trộm đồ vật nào đó của đối phương để làm tín vật.

Đông Nhi biết Nhã công chúa đã có tình cảm sâu đậm với tứ ca, nhưng tứ ca lại không hề có tình cảm. Vị công chúa điện hạ này chỉ có thể ở vào hàng cao quý, hai người bọn họ làm sao có thể có kết quả? Nhưng thấy nàng ta cầu khẩn tha thiết như vậy, làm sao nỡ lòng từ chối?

Đông Nhi khẽ thở dài, cất bước tiến vào tẩm cung…

Ngũ Phong lâu thắp đèn trên đỉnh, phía dưới là một con đường dài, trên đường người đi lại đông đúc, còn ở đây vắng vẻ lạnh lùng, do cấm dân chúng tiến vào, đoàn người chỉ có thể ngắm Ngũ Phong lâu từ một khoảng cách xa xa.

“Bản vương vừa mới hay tin, Hoàng thượng và nương nương đã chuẩn bị xuất phát đến Ngũ Phong lâu, tiếp đón các văn võ bá quan, sau khi làm lễ trong triều thì Hoàng thượng và nương nương sẽ xuống lầu, thắp đèn nơi điêu khắc băng đăng nhiều màu để cho dân chúng vui vẻ. Lúc này đây cũng là lúc đội quân phòng vệ canh phòng nghiêm ngặt nhất, không ai có thể tiếp cận…”

Lão vương gia Gia Luật đạp trên mặt tuyết dày mà đi trên đường, ngựa đạp trên mặt tuyết đọng phát ra những tiếng kẽo kẹt. Hắn mặc một bộ quần áo Khiết Đan truyền thống, đội mũ da cừu, hai bên sườn là những chuỗi hạt dài, bên hông đeo một thanh bảo đao, dù tuổi cũng đã đến năm mươi nhưng dáng người vẫn cao to, mặt to, lông mày rậm, râu đã ngả màu tiêu giống như nhiễm sương hoa.

“Theo sau đó, Hoàng hậu và nương nương sẽ quay trở lại lầu, hai bên tấu nhạc, tất cả những băng đăng đều được thắp đèn, sau đó các chư hầu hoàng tộc và quý tộc đều có thể vào phố, cầm đèn đi dạo, bắt đầu đêm trắng phóng thâu, cả thành vui chơi hết mình. Hoàng hậu và nương nương đều chơi trong thành đến nửa đêm, lúc này cũng là lúc lính canh lơ là cảnh giác, cũng là lúc tranh thủ được lúc hỗn loạn…”

Lão vương gia nói một cách hùng hồn, vài tên thị vệ tâm phúc đi bên cạnh cũng xích lại sát bên cạnh hắn.

“Đến lúc đó, bọn Hàn Đức Nhượng, Tiêu Thác Trí đều ở trên lầu cùng với Hoàng thượng và nương nương.

Bản vương sẽ dùng hết thủ đoạn, trà trộn vào đám người thắp đèn băng đăng, sau đó sắp xếp năm tên sát thủ lấy mạng hoàng thượng và đám người xung quanh hắn. Bọn chúng nắm trong tay cấm vệ quân, nếu như chúng không chết thì hoàng thượng chết, bọn chúng cũng khó mà khống chế được Thượng Kinh. Hừ, đều là lũ người của tên phế nhân Gia Luật Hiền, tự nhiên phong bà ta làm hoàng hậu, còn được gọi là nhị thánh, bà ta muốn làm Võ Tắc Thiên áp đảo gia tộc Gia Luật hay sao?”

Lão vương gia vừa đi vừa nói, tiếng bước chân vẫn vậy, giọng nói vẫn trầm như vậy, mỗi một bước hắn lại thở ra từng đám khói trắng như một con tuấn mã đang tức khí, hắn thở sâu mà nói: “Còn về hoàng thượng, bản vương sẽ để người của mình ra tay, trên lầu có thân tín của lão vương, chỉ cần chém một nhát là đi đời hắn, bản vương sẽ lập tức uy hiếp hoàng hậu.

Bất kể là sự việc thành hay bại, cũng đều có người có người đến lầu ứng cứu, chúng ta phải lập tức rời khỏi đây, điều binh vây thành, đợi chúng ta phát động chiến tranh ở Giang Nam sẽ khiến bọn Tống phải phát binh, đến lúc đó Tiêu Xước nếu như Tiêu Xước không muốn họ Tiêu và Gia Luật chúng ta bị tàn đời thì chỉ còn cách chấp nhận điều kiện của bản vương, phải cầu hòa với ta”.

Gia Luật Cách dẫn binh thị uy thần phục dân tộc Nữ Chân, đến lúc đó sẽ phải ngày đêm thần tốc để kịp về Thượng Kinh, có kịp chạy về được hay không thì cũng chưa ai biết, đấy là một biến số. Có điều, bản vương là thiện xạ, sẽ an bài cho hắn một cái ngã không phải lo lắng. Còn một biến số khác, đó chính là cung nỏ đã được gói giấy dầu chốn kín dưới đất từ nửa tháng trước, dù cung nỏ được chế tạo hoàn mỹ nhưng cũng khó mà không bị ẩm ướt. Nếu như cung nỏ không có tác dụng thì không thẻ nhất cử giết được bọn đầu não, nhất định sẽ gặp phản kháng, các ngươi phải tùy cơ ứng biến, hết sức đề phòng.”

Phía trước mặt đã là Ngũ Phong lâu, lão vương gia đứng dưới đất ngó lên trên thành, nói lạnh lùng: “Bản vương có thể vào Ngũ Phong lâu, nhưng tám người các ngươi lại không có tư cách lên lầu ngắm đèn, chỉ có thể đứng dưới lầu để bảo vệ. Nếu như bản quan không thể giết chết tên hoàng thượng ngay tại chỗ thì thị vệ ắt sẽ đưa hắn hồi cung. Trong cung không có người của ta, nếu như hắn được đưa vào cung thì tình thế sẽ rất xấu, do đó nhiệm vụ của các ngươi là canh chừng ở cửa cung, chỉ cần hoàng thượng muốn vào cung các ngươi lập tức cản lại, lấy mạng hắn cho ta”.

Hắn hít một hơi thật dài rồi nói: “Thị vệ trên dưới thành bản quan sớm đã dự tính rõ ràng rồi, mọi hy vọng thành công đều đặt trên vai các ngươi, nhưng mưu sự tại nhân, rất nhiều biến số không thể phòng tránh được. Sự việc mà thành thì các ngươi cứ ngồi chờ phong hầu; còn thất bại, thì sẽ như ánh đèn trên lầu, chỉ có thể sáng trong tối hôm nay mà thôi, các ngươi rõ chưa?”

“Tuân lệnh!” Tám tên thị vệ đồng thanh hô, lão vương gia lại thở dài một hơi, gương mặt hắn như mờ ảo và chìm vào làn khói trắng. Khi làn khói tan đi đôi mắt có thần mới lộ ra, để lộ cái u uất thâm độc phảng phất đâu đó, hắn từ từ đi vào trong cửa thành…”

**************************************

“Năm nay trộm được đèn của nhà họ Lưu, nhất định năm nay là năm sinh. Có con gái đặt tên là Đăng Ca, có con trai đặt tên là Đăng Thành. Trộm được đèn nhà họ Đới, không mang theo cũng trúng…”

Bài ca dao truyền miệng được hát vang khắp ngõ phố nhỏ, nhà nhà ai cũng treo cao đèn, ánh đèn sáng rực cả mặt sông như dòng ngân hà vậy.

Trước cửa mỗi nhà đều đặt một ít bột nặn được làm từ đậu, dùng nước củ cải nặn thành hình một cái đèn nhỏ, bên trên viết tên họ của nhà đó. Rất nhiều thiếu phụ, bất kể mình đã là phu nhân của một gia đình lớn nào đó, hay chỉ là con dâu trong một gia đình bình thường cũng đều lượn như đèn cù quanh các đường ngang ngõ dọc, thỉnh thoảng lại ăn trộm một cây đèn của nhà nào đó.

Những người thiếu phụ này đều là những người đã kết hôn ba năm mà chưa có con, tết Nguyên tiêu đi trộm đèn, nghe nói là sẽ sớm sinh quý tử.

Đèn mà các nàng thích trộm nhất là đèn của nhà họ Lưu hoặc họ Đới. Chữ “Lưu” là đồng âm của chữ “lưu lại hài tử”, còn chữ Đới là đồng âm của chữ “mang” (mang thai).

Những người thiếu phụ này đều là những người thành thân khi mới 15, 16 tuổi, ba năm chưa phát dục, đến bây giờ cũng chỉ mới 18,19, vẫn chưa nếm trải hết vị đau khổ của cuộc đời, vẫn còn là những viên ngọc phong tình, nên ngày Phóng thâu nhật cũng là ngày các nàng ta vui sướng nhất trần đời.

Chỉ có điều là trời rét quá. Những cô nương lớn có bé có đều đặc những chiếc áo dày, bọn họ chen chúc nhau trên đường nhưng cũng không lợi dụng được ai mấy. Gọi nhau rồi cười mắng ầm ĩ cũng có đôi chút thú vị, còn có người tự nhận mình là thần tiên, chứng minh tư sắc không hề tầm thường, rồi cười đùa đắc ý.

Triệu Khuông và hoàng hậu Tống rồi đến Tấn Vương, Ngụy Vương, nhị hoàng tử Đức Phương, tiểu công chúa Vĩnh Khánh đều rời hoàng cung, đổ ra đường chung vui cùng bách tính, còn đi chùa Đại Tướng Quốc nghe cao tăng Hoằng Pháp xướng kinh, rồi đốt pháo, sau cùng mới về cung, mở cửa cung, mời các tướng thần trong triều đình rồi thiết đãi các quan đại thần một bữa tiệc rượu linh đình.

Hoàng đế ba nước Kinh Hồ và Nam Nguyên cũng đã có mặt, quốc chủ nước Đường còn chưa đến, do Lý Tòng Thiện còn đang phải tiếp rượu hoàng đế. Võ Ninh tiết độ sứ bên trái có các tướng bảo vệ, bên phải có đại tướng Lưu Kế Hưng, ba vị này đã từng là quốc chủ, hoặc có suy nghĩ một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ, hoặc là trong lòng bọn họ Lý Tòng Thiện sớm muộn cũng sẽ theo gót họ, nên họ đối với Lý Tòng Thiện cũng như người nhà.

Lý Tòng Thiện vốn không biết uống rượu, nhưng đứng trước lời mời thiết tha của các vị quốc chủ, khó từ chối nên đành uống hết ly này đến ly khác, rất nhanh mà say đứ đừ, chân bước loạng choạng. Trước mắt cũng không phải là quý tộc nhà hoàng đế, cũng chẳng phải là trọng thần trong triều đình nên Lý Tòng Thiện e rằng mình uống say sẽ thất lễ, vội vã đi ra ngoài điện.

Hôm nay trong cung cấm, khắp nơi đều là gia quyến của quan viên, Lý Tòng Thiện vừa xuống lầu, Mộ Dung Cầu Túy – người hay đi ngao du sơn thủy cùng hắn những ngày này, cũng vội vã bỏ chén rượu, ra ngoài cùng hắn.

Mộ Dung Cầu Túy cũng không theo Triệu Phổ xuất thành mà chuyển tới Tấn vương Triệu Quang Môn Hạ, người này thực lòng hay là do Triệu Phổ có ý lưu lại trụ cột này mà thật khó đoán chừng. Những người như Trình Vũ, Trình Đức Vũ cũng vài lần khuyên giải Tấn vương không nên thu nạp hắn.

Nhưng trong triều vốn chia bè chia phái, Triệu Phổ dù ngã nhưng những thế lực mạnh mẽ của hắn thì không dễ bị gục ngã hoàn toàn. Tấn Vương đang muốn thể hiện ý chí uy gia, mời bọn họ đến Môn Hạ của mình, nếu như đến một thực khách mà môn hạ của Triệu Phổ cũng không dung nạp được thì làm sao mời nổi các quan nhân?

Lý Hoàn có thể thu nạp những kẻ đã từng âm mưu giết chết mình, Lý Thế Dân có thể dung nạp thực khách quý phủ Ngụy Chinh. Từ trước đến nay Triệu Quang Nghĩa luôn tự coi mình là người lòng dạ hẹp hòi, do cự tuyệt Mộ Dung Cầu Túy nên Mộ Dung đã thay đổi, trở thành người của Tấn Vương.

Từ khi đến với Tấn vương, Mộ Dung Cầu Túy từ đầu chí cuối đều là một thanh nhàn cửa khách, không từng được giao bất cứ sứ mệnh gì nặng nề, lệnh cho hắn bám theo nhất cử nhất động của Lý Tòng Thiện cũng khiến Triệu Quang Nghĩa hắn thấy đó là một sứ mạng xui xẻo. Mộ Dung Cầu Túy tự biết rằng nhất thời không nên tín nhiệm Triệu Quang Nghĩa, do vậy cũng không hề do dự mà nhân cơ hội này mượn đao giết người. Nếu như thành công thì hắn có thể tin vào Triệu Quang Nghĩa, bởi biết đâu sau này hắn sẽ trở thành Ngụy Chinh thứ hai?

Nghĩ tới đây, trong lòng Mộ Dung Cầu Túy chợt nóng ran, rất nhanh bước lên phía trước, đỡ Lý Tòng Thiện rồi nói: “Sở quốc công, chậm một chút, haha, tửu lượng của quốc công kém quá, mới có mấy ly mà đã say rồi?”

“Mộ Dung tiên sinh, Tòng Thiện thực không biết uống rượu, nhưng các chư vị đại nhân lại nhiệt tình quá nên…” Hắn lắc lắc đầu rồi nói: “Nếu cứ tiếp tục Tòng Thiện e rằng mình sẽ thất lễ nên đành phải ra ngoài đi lại, e đã làm mất hứng rượu của Mộ Dung tiên sinh rồi”.

Mộ Dung Cầu Túy cười dài nói: “Không sao, không sao, ta cũng nhân tiện đi dạo cùng quốc công luôn cho tỉnh rượu, sau đó chúng ta quay về cung. Nào, bên này có vẻ thanh tĩnh, chúng ta đi thôi”.

Mộ Dung Cầu Túy vừa đi vừa nói, chân nọ đá chân kia mà đi không có mục đích, đến gần Ngưng Huy điện, Mộ Dung Cầu Túy xoa xoa bụng rồi nói: “Ôi chao, lão phu không nhịn được nữa rồi. A, quốc công vào trong Ngưng Huy điện đợi ta một chốc, ta đi vệ sinh xong sẽ quay lại ngay”.

Mộ Dung Cầu Túy xin lỗi xong rồi ngó ra xung quanh một lượt, vội vàng chạy đi. Lý Tòng Thiện lạ nước lạ cái nên cẩn thận quan sát khắp nơi, không dám tùy tiện một mình vào điện. Hắn vốn là người phương Nam, không chịu được cái lạnh ở phương Bắc, hôm nay đi yết kiến vua nhưng cũng không mặc trọng cửu, do vậy, đứng một lúc thấy gió lùa vào rét thấu xương, hắn không chịu được đành thất lễ tiến về phía điện. Cửa điện mở toang, huống chi điện này vốn không phải là nơi quan trọng để họp bàn gì, nên hắn yên tâm bước vào.

Trong điện có hai người phụ trách dọn dẹp, nhìn thấy hắn cũng không biết hắn là ai, chỉ hành lễ rồi chào. Lý Tòng Thiện đứng trong điện, đợi một hồi lâu vẫn không thấy Mộ Dung Cầu Túy quay lại nên đi lòng vòng khắp nơi trong điện. Trên góc tường của điện có treo một bức tự họa, Lý Tòng Thiện không phải là một người am hiểu về thơ nên nhất thời cao hứng, đi đến bên bức tranh ngắm nhìn tỉ mỉ.

Lý Tòng Thiện lại gần thưởng thức, nhìn những nét thư pháp đẹp tuyệt diệu, bất giác đưa tay lên làm động tác bắt chước theo. Khi sắp đọc gần hết bức thư vẽ thì hắn đột nhiên phát hiện ở góc bức họa có chân dung một người. Với nét vẽ thế này thì không giống một danh họa nổi tiếng, có thể là một bức chân dung ai đó thôi.

Lý Tòng Thiện ngẩn người ra ngắm nhìn hồi lâu, càng nhìn càng thấy giống một người. Trong lòng không khỏi nghi ngờ, đột nhiên thấy một người nội thị cầm phất trần chạy qua, Lý Tòng Thiện vội hỏi: “Này vị trung quan, tha thứ cho bản quan tò mò, nhưng không rõ bức tranh treo trên tường này là của ai vẽ vậy?”

Tên nội thị đó liếc mắt lên bức tranh trên tường một cái rồi cười nói: “Bức tranh này không phải là bức tranh của danh họa gì, người trong tranh là bức chân dung tự họa của tiết độ sứ nhà Đường Lâm Nhân Triệu, Lâm tướng quân nhìn ra thiên mệnh sở quy, có ý muốn lấy lòng nhà Tống ta nên cẩn thận viết bức thư pháp này rồi tự mình vẽ chân dung ở phía dưới để làm tín vật tặng quan gia.”

Lý Tòng Thiện mặt bỗng biến sắc: “Người này… người này chính là Lâm Hổ Tử của Giang Nam?”

Tên nội thị đó đắc ý nói: “Đúng vậy, Lâm tướng quân nói, ông ấy đã dùng trăm phương ngàn kế để lấy lòng vua Giang Nam, để vua cho ông ấy khởi binh phạt Tống. Nhưng lập tức sửa cờ xí, dẫn hơn mười vạn đại quân đến hàng. Quan gia nói, Lâm tướng quân nếu như thành công thì nước Tống sẽ lấy được Đường không mất tí sức nào, đến khi đó Lâm tướng quân sẽ là đệ nhất đại công thần có công thống nhất Trung Nguyên, quan gia bảo treo bức chân dung này lên có… cái gì mà yên cái gì các…”

“Lăng Yên các?”

“Đúng vậy!” Tên nội thị vỗ tay cười nói: “ Đúng đúng đúng, đúng là Lăng Yên các. Đại nhân cũng nghe nói rồi sao? Lăng này ở đâu vậy, có nổi tiếng không?”

“Cái này… cái này… đúng vậy, đã từng… rất nổi tiếng…” Trời lạnh, nhưng Lý Tòng Thiện cảm thấy toàn thân mình như đang toát mồ hôi, rượu cũng tỉnh được bảy, tám phần, hắn không dám ở trong cung điện quá lâu mà vội chạy ra ngoài. Ở ngoài hành lang, Mộ Dung Cầu Túy vội chạy lại, vừa nhìn thấy hắn đã cười nói: “Ta rốt cuộc đã cao tuổi mất rồi, uống có tí mà đã bị đau bụng, để quốc công chờ lâu thật thất lễ quá, thất lễ quá!”

“Không sao, không sao! Tòng Thiện ở đây cũng có thể giải rượu được đôi chút. À, Mộ Dung tiên sinh, chúng ta sớm về cung thôi, ngộ nhỡ quan gia mời rượu Tòng Thiện lại không có mặt thì thật thất lễ quá, đi thôi, mời…”

Lý Tòng Thiện cố gắng trấn tĩnh lại, hai tay nắm chặt lại, móng tay cắm vào lòng bàn tay đau mà hắn cũng không thấy gì nữa, trong lòng nghĩ: “Lâm Hổ Tử lại là tên phản nghịch! Trời ơi! Ta nhất định sẽ tìm cách quay về thành Kim Lăng sớm, thông báo tin này cho Lục Ca!”

*******************************************

“Pháp luân bầu trời chuyển, phạm thanh thiên thượng lai; đăng thôn thiên quang chiếu, hoa diễm thất chi khai. Nguyệt ảnh nghi lưu thủy, xuân phong hàm dạ mai; Bà động hoàng kim địa, chung phát lưu ly bàn”. Bài thơ này của Tùy Diễm đế thể hiện được sự vui sướng hồ hởi của Giang Nam trong đêm Nguyên Tiêu, cảnh tượng long lanh chiếu sáng bừng cả trời đất. Ăn canh viên, ngằm hoa đăng, đố đèn, trộm cắp không ngừng, trời đất và con người như cùng chung cái vui mừng, tức cảnh sinh tình, đẹp không sao tả xiết.

Cánh buồm đỏ giương rộng, trên lầu các cảnh đẹp mê hồn. Lý Dục vốn là người ưa lãng mạn đã cho bố trí cung điện giống như thiên đường. Đêm nay, hắn ngồi trên thuyền rồng, cùng với hoàng hậu và tất cả các quan văn võ trong triều du ngoạn sông Tần. Hai bên bờ đèn sáng ngập bởi hoa đăng, cả đất trời cùng đón tết Nguyên Tiêu.

Trên đường, tiếng pháo nổ râm ran, tiếng chúc tụng đầy đường, sân nhà sứ giả Khiết Đan lại nhuốm màu đìu hiu.

Đinh Thừa Nghiệp đem khoảng hơn chục võ sĩ, mặc trang phục người Hán, găm dao vào người rồi đứng thẳng trong điện.

Gia Luật Văn mặc đầy quần áo, đứng ngạo nghễ nói: “Đêm nay, phụ vương ta sẽ phát binh ở Thượng Kinh, giết chết hoàng thượng. Vì tái lập tân chủ ở Khiết Đan, các ngươi nghe rõ đây, đêm nay đến sông Tần ngắm đèn, các ngươi sẽ nghe lệnh Đinh Thừa Nghiệp, trà trộn vào đám dân rồi nhân thời cơ giết chết tên sứ giả nước Tống Dương Hạo cho ta. Nhớ là phải giết chết ngay tại chỗ, không được lộ thân phận chúng ta.

Dương Hạo cầm lễ tiền của nước Tống, nếu như hắn chết, nhà Tống ắt sẽ động binh, đồng thời buộc Lý Dục phải chọn giữa theo Tống hoặc theo Khiết Đan. Mượn uy nhà Tống, chúng ta sẽ ép triều đình ký hòa ước, Gia Luật Văn ta nhất định sẽ ngồi lên ngai vàng, đến lúc đó, các ngươi cứ đợi mà lĩnh công, tiền đồ vô đối!”

“Thuộc hạ tuân mệnh!” Bọn võ sĩ ầm ầm tuyên thề, Đinh Thừa Nghiệp đã tiến lên trước một bước hô lớn: “Thần, Đinh Thừa Nghiệp, khấu kiến hoàng thượng!”

“Chúng thần khấu kiến hoàng thượng”.

Gia Luật Văn hơi sửng sốt, rồi chợt phá ra cười thật lớn.

Cánh cửa vừa mở rộng ra, sứ giả Khiết Đan Gia Luật Văn liền nhắm hướng sông Tần mà đi. Hắn không biết rằng đằng sau hắn có hai con mắt sáng ngời lẫn trong đám đông đang nhìn chằm chằm vào hắn. Khi người ngựa đi đến hết đường, cặp mắt đó lộ ra chút hoang mang, hai đôi lông mày khẽ nhướn lên.

“Sao lại có thể như thế? Đinh Thừa Nghiệp rõ ràng là theo hắn đến nước Đường, tại sao đến hôm nay vẫn không lộ diện?”

Người đó tự lẩm bẩm, rồi khi thấy cánh cửa ở mé góc tường vừa mở ra, một thanh niên ăn mặc kiểu người Hán bước ra, nhanh chóng lẩn vào dòng người đi trên phố.

Đinh Ngọc Lạc sáng ngời hai mắt, liếc nhìn gã Đinh Thừa Nghiệp mà tự nhủ: “Cuối cùng thì ngươi cũng chịu xuất hiện”. Đinh Ngọc Lạc cắn chặt răng, nắm chặt thanh toản đao, nhanh chóng đuổi theo.

Bên bờ Huyền Vũ, trên lầu Tiêu Tiêu, sáu gã hộ vệ đang cẩn thận kiểm tra lưỡi móc, đao, cung tên cùng hỏa vật, tất cả đều được thu gọn lại. Mục Vũ khuôn mặt còn búng ra sữa ngó chằm chằm nói: “Tất cả xác chết, đại nhân và phu nhân đã được thay quần áo, hai người anh em đã lên thuyền trước rồi. Người phụ trách hành thích sẽ là bảy người chúng ta, các ngươi nhớ rõ, hôm nay dù là giả hành thích nhưng còn khó hơn đi hành thích thật, các ngươi mà hành động không nhanh thì hỗn loạn sẽ càng kinh khủng. Đợi đến khi đại nhân và phu nhân ra ngoài rồi chúng ta sẽ lập tức phóng hỏa con thuyền, mỗi người đều phải nói tiếng Khiết Đan, tuyệt đối nhớ kĩ những điều ta đã dặn dò, tất cả chuẩn bị xong chưa?”

“Chuẩn bị xong hết rồi!”

Mục Vũ uy phong lẫm liệt nói: “Xuất phát!” tiếng bước chân vang lên, đoàn người nhanh chóng lẩn vào trong đám đông.

Trên sông Tần, từng con thuyền ngược xuôi, tiếng nhạc xé gió vang lên không dứt bên tai. Ngươi đi lại hai bên bờ đông như mắc cửi, trong tay ai cũng cầm đèn đủ màu sắc và kiểu dáng. Thuyền của Lý Dục ở phía trước, hai bên là thuyền của vệ binh và các quan trong triều. Dọc bờ sông Tần đèn sáng loáng phản chiếu trên mặt hồ, con thuyền như đang trôi giữa sông ngân hà, hoàng hậu Tiểu Chu vui mừng khôn xiết, kéo Lý Dục đứng trên mũi thuyền, ngắm cảnh tượng đẹp đẽ một năm mới có một lần này.

Phía sau vốn là thuyền của đoàn sứ giả Khiết Đan và nhà Tống, cùng thuyền của các quan văn võ trong triều. Thuyền nào cũng treo đầy đèn lồng, Gia Luật Văn đứng trước mũi thuyền, hai mắt nhìn chòng chọc như đang thưởng ngoạn cảnh đôi bờ, nhưng tay lại nắm chặt, cả người hồi hộp đến toát mồ hôi: “Thượng Kinh liệu có thành công không? Kế hoạch này chỉ có sáu phần chắc, nhưng dù là chỉ có một phần thành công thì cũng đủ để ta mạo hiểm rồi. Nhưng tại sao đến bây giờ rồi ta vẫn cứ hồi hộp căng thẳng như thế?”

Trên thuyền đoàn nhà Tống, Tiêu Hải Đào đứng trên mũi thuyền, nghiêng mắt nhìn về phía một chiếc thuyền khác, nhẹ lắc đầu rồi thở dài: “Dương trái sứ này quả là phong lưu quá, đêm nay đi ngắm đèn trái sứ còn không ở trên thuyền, lại đi với hai nương tử, quả đúng là buồn cười. Có điều… hai vị phu nhân của trái sứ quả đúng là nhan sắc hơn người, đến lão phu nhìn mà còn thấy động lòng, chỉ cần lão phu có được hai người vợ đẹp như thế thì lão phu sớm đã không đứng ở đây đón gió rồi…”

Chiết Tử Du đứng trên bờ, đang giải một câu đố đèn. Vị chủ quán kia cao giọng chúc mừng, đưa chiếc đèn cá chép đủ màu treo trên cao cho nàng. Chiết Tử Du thản nhiên nói cười, vừa cầm chiếc đèn lồng thì bị ai đó va vào. Chiết Tử Du hơi nhăn mặt, quay đầu lại nhìn thì trước mắt nàng là một người đàn ông có dáng nhỏ, chiếc mũ nỉ đội trên đầu che kín gần hết mặt, hắn đang nhìn về hướng bờ sông như không chú ý thấy mình đã va vào ai.

Chiết Tử Du nhìn cách hắn ăn vận thì không giống dáng một người đàng hoàng, bèn tức giận nhìn hắn từ đầu tới chân, khẽ “hừ” trong họng một tiếng. Chiếc thuyền rồng chói lọi đang dần đi tới, vua Giang Nam Lý Dục tới rồi.

Nguồn: http://4vn.eu/forum/showthread.php?t=71274&page=76#ixzz201i9nsON

Chương 361: Loạn chiến (1)

La tứ ca, chàng… chàng có thể bảo bọn họ đi ra chỗ khác được không, ở đây chỉ cần chàng là đủ rồi”. Gia Luật Nhã nhìn Thiết Đầu và Loan Đao Tiểu Lục đang đứng bên cạnh La Khắc Địch như người thân, tỏ vẻ không vui.

La Khắc Địch không để ý đến ánh mắt oán trách của nàng ta, mặt giả lơ nói: “Điện hạ, chúng thần là anh em tốt của nhau, tam huynh đệ này luôn dính nhau như hình với bóng, không thể tách rời”.

“Không phải chứ…” Gia Luật Nhã trừng mắt nhìn hai người đứng bên cạnh nói:

“Hai tên tiểu tử này cứ bám dính lấy chàng từng bước thật đáng ghét quá”.

Loan Đao Tiểu Lục và Thiết Đầu cũng tỏ vẻ bất đắc dĩ. Đêm nay trên đường đâu đâu cũng là ánh đèn sáng, chiếu rọi như ban ngày, nhưng ngọn đèn sáng nhất và to nhất đêm nay không cần phải nghi ngờ chính là hai người bọn hắn.

Bọn hắn cũng không muốn đâu, nhưng La Khắc Địch là anh em tốt của bọn hắn, khi anh em mở lời cầu khẩn thì đến núi đao biển lửa cũng phải lao vào chứ huống hồ là việc đi gặp mặt cô công chúa này?

Hai người dường như không nghe thấy gì, cứ ở bên cạnh không rời La Khắc Địch nửa bước. Công chúa Gia Luật Nhã đứng một hồi lâu nhưng vẫn không làm gì được, cái hăng hái ban đầu cũng bị giảm đi vài phần, nhanh chóng quay lại dưới Ngũ Phong Lâu.

Nàng ta không thể chịu nổi nữa, không thèm chấp hai tên Thiết Đầu và Tiểu Lục, nói với la Khắc Địch: “La tứ ca, hôm nay là Phóng Thâu nhật, chàng… chàng không trộm đồ gì của ta ư?”

“À…” La Khắc Địch nhìn Gia Luật Nhã từ đầu tới chân, công chúa Gia Luật Nhã hôm nay mặc một bộ y phục Hán, dù dân tộc Khiết Đan không thích Hán, nhưng trong ngày lễ như thế này thì cũng không cần quá câu nệ về trang phục truyền thống. Nhưng với công chúa Gia Luật Nhã thì không biết tại sao mà La Khắc Địch cứ mỗi khi nhìn thấy công chúa thì cứ y như rằng nàng ta đang mặc trang phục Hán, và đêm nay quả cũng không phải ngoại lệ.

La Khắc Địch nhìn từ chiếc trâm từ trên tóc Gia Luật Nhã đến chiếc túi giắt trên thắt lưng, ngượng ngùng nói: “Ta… ta trộm cái gì mới được đây?”

Gia Luật Nhã ngượng ngịu nói: “Chỉ cần là đồ trên người ta, thì trộm gì cũng được hết. Lấy vui là chính mà, nếu như không có ai trộm đồ của ta thì rõ ràng là người đó không thích ta, rất mất mặt. Đợi một lúc nữa hồi cung thì các tỷ muội sẽ cười chết ta mất”.

La Khắc Địch ngượng ngùng nói: “Làm sao lại có ai không thích điện hạ được? Vừa mới khi nãy còn có ít nhất bảy quý tộc đến trộm đồ của công chúa, nhưng công chúa…”

Ánh mắt hắn nhìn vào cây roi trong tay Gia Luật Nhã, Gia Luật Nhã mặt ửng đỏ, vội vàng giấu cây roi ra sau lưng rồi gắt giọng: “Những tên đó thật là đáng ghét mà. Chàng xem, cái tên Tiêu Triển Chí khi nãy đó, mặt râu quai nón, che hết cả mũi cả mồm, nhìn xa thì tưởng con tinh tinh, thật khiến người ta ghét”.

Tinh tinh vốn là ngôn ngữ của Hung Nô, người Hán trực tiếp dịch nghĩa, nên trở thành từ của người Hán. Dân tộc Khiết Đan cũng kế thừa từ này của người Hung Nô, gọi tắt là tinh tinh. Trong triều đình các quan chăm sóc loài động vật này và coi đó như một loài vật quý hiếm. Tiêu Triển Chí có hình dáng như vậy thật cũng không khác loài tinh tinh là mấy, La Khắc Địch nghe thấy vậy cũng không khỏi không thầy buồn cười. Hắn không nói gì cả, chỉ vênh mặt lên cho Gia Luật Nhã nhìn thấy bộ râu vẫn chưa từng được cắt tỉa của hắn.

Gia Luật Nhã cười thản nhiên nói: “Tuy râu La tứ ca cũng dài, nhưng trông rất uy phong lẫm liệt, có thể nói là một bộ râu đẹp, Tiêu Triển Chí còn phải thua xa”.

Loan Đao Tiểu Lục và Thiết Đầu khẽ ho một tiếng, không hẹn mà cùng nhau quay mặt ra chỗ khác, cằm cúi xuống, hai con mắt nhìn chằm chằm xuống đất, mặt đỏ gay lên như hai con tinh tinh.

“Đến đây, cứ tùy chọn cái gì cũng được, chỉ cần chàng thích thì ta sẽ không trách chàng đâu”.

Gia Luật Nhã cười ngọt ngào, đôi mắt đa tình như có lửa đốt khẽ liếc La Khắc Địch, đầy chờ đợi, tưởng chừng như nếu La Khắc Địch có khiêng nàng ta về phòng riêng làm vợ bé thì nàng ta cũng không có chút gì do dự.

La Khắc Địch nhìn xuống, thản nhiên nói: “Điện hạ, La mỗ chỉ là một nô bộc nhỏ bé, không dám mạo phạm đến công chúa”.

“Ngươi thật là chẳng thú vị chút nào, người ta đã nói sẽ không trách ngươi mà”. Gia Luật Nhã mở mồm nói, rồi suy nghĩ một chút, lấy chiếc trâm trên đầu mình ấn vào tay La Khắc Địch, đầy hàm ý mà nói: “Đây, cho chàng”.

“La mỗ chỉ là một nô bộc, không dám nhận đồ vật của điện hạ, xin điện hạ nhận lại”.

“Ta đã nói rồi, coi như là chàng trộm nó… Được rồi được rồi, coi như là ta tặng cho chàng được chưa?”

“Vậy La mỗ càng không dám nhận, xin công chúa nhận lại”.

Hai bên cứ đùn đẩy một hồi, chiếc trâm sau một hồi bị bẻ cong lên, mũi trâm đâm vào lòng bàn tay Gia Luật Nhã chảy máu.

“Ngươi… ngươi…” Gia Luật Nhã bị đâm đau, nhưng trong lòng còn đau hơn. Nước mắt nàng tuôn ra ướt đẫm khuôn mặt, nàng cắn chặt môi, đột nhiên vứt chiếc trâm thật mạnh xuống đất, quay người lại chạy về hướng Ngũ Phong lâu, vừa chạy vừa lấy ống tay áo lau nước mắt.

“Này tứ ca, huynh quả là lòng dạ sắt đá”. Thiết Đầu không nhìn theo nữa mà quay người lại nói.

“ Nói nhảm! Công chúa Khiết Đan làm sao có thể dễ bị chọc tức như thế?” La Khắc Địch vểnh râu, quá đáng nói.

“Còn nói nữa!” Loan Đao Tiểu Lục nhấc chân đá cho hắn một nhát, nhặt chiếc trâm rơi xuống đất lên rồi nhét vào tay hắn: “Huynh còn không mau đi dỗ cho cô ta vui lên, thêm một người giúp đỡ chúng ta thì chúng ta mới có cơ hội tẩu thoát. Nếu như huynh đắc tội với cô ả thì hoàng đế nhất định sẽ tức giận mà đầy chúng ta đi nô dịch, như vậy thì hỏng bét”.

“Vậy phải làm sao bây giờ?”

“Làm sao bây giờ? Đi dỗ cô ta đi”.

“Dỗ thế nào?”

“Làm sao đệ biết phải dỗ như thế nào? Việc này ắt hẳn Dương Hạo đại ca có cách, La đại tẩu tính tình khó chiều như vậy cũng được huynh ấy dỗ cho tới bến, nếu như có huynh ấy ở đây thì tốt quá. Ôi, huynh còn ngẩn ra đấy làm gì? Mau đuổi theo đi, không phải cứ nhận lấy cây trâm này là xong hay sao?”

“Ơ..” La Khắc Địch ngẩn người đón lấy cây trâm, quay người đuổi theo, Loan Đao Tiểu Lục và Thiết Đầu nhìn theo bóng hắn đi khuất khỏi tầm mắt mới thở phào nhẹ nhõm.

“Điện hạ, điện hạ, xin chờ chút”

La Khắc Địch đuổi kịp đến nơi, Gia Luật Nhã vội dừng bước, nức nở nói: “Chàng còn đuổi theo ta làm gì?”

La Khắc Địch thở dài, vẻ vô tội nói: “Không phải chỉ là một cây trâm thôi sao, sao điện hạ lại nổi nóng như thế? Thần nhận là được chứ gì?”

Bọn thị vệ đứng gác thành tò mò đứng nhìn về phía bọn họ, Gia Luật Nhã đỏ mặt, giận đến run người, đột nhiên xoay người, vung cây roi trong tay lên quất xuống đất, hung hãn nói: “Nghe cái giọng của ngươi và cái thái độ miễn cưỡng nhận cây trâm của ta, hừ, ngươi cút đi, cút, cái loại nô lệ ti tiện, một gã nô tài, ai dám…”

La Khắc Địch đứng đó không dám nhúc nhích, bị quất mười mấy roi, các tế bào đều như nứt hết ra, trong đó có một roi quất trật, một roi quất trúng mặt, trán thì chảy máu.

Gia Luật Nhã đột nhiên thấy mềm tay, nhưng xấu hổ nên nước mắt lưng tròng đứng nhìn La Khắc Địch, ngọn roi vút trong không trung nhưng không ra quất vào đâu cả, hồi lâu sau nàng mới vứt roi, ôm mặt khóc nức nở: “Ngươi không để ý đến ta tốt với ngươi thế nào, ngươi chỉ biết bắt nạt ta, ta sẽ nói với hoàng huynh trị tội ngươi…”

Trên thành lầu, Gia Luật Cách vừa mới dẫn binh từ Nữ Chân về vào yết kiến hoàng thượng, nương nương trong tiếng hoan hô của bách tính trăm họ, lập tức lặng lẽ đi đến bên nữ quan Đông Nhi.

“Đông Nhi” Gia Luật Cách mỉm cười đứng trước mặt nàng.

“A, Gia Luật đại ca” Đông Nhi mỉm cười thi lễ.

“Không cần đa lễ. Ta mới từ Nữ Chân trở về”.

Ánh mắt như bốc lửa của Gia Luật Cách nhìn vào khuôn mặt Đông Nhi, tay lấy ra một chiếc túi, bên trong túi là năm viên Bắc Châu, là những hạt ngọc trai cực đại quý báu, màu vàng, đẹp tuyệt vời, nhìn là đã thấy bắt mắt, dưới ánh đèn còn tỏa ra những ánh sáng rực rỡ nhiều màu, mê hoặc lòng người.

Gia Luật Cách cười nói: “Đây là người Nữ Chân tặng ta để tỏ lòng hiếu kính, ta tặng nàng”.

Đông Nhi cuống quít nói: “Đây là món quà quý giá, Đông Nhi không dám nhận đâu”.

Gia Luật Cách cười một tiếng: “Có gì đâu mà quan trọng, hạt ngọc này tuy đẹp, nhưng lại không bằng dung nhan của nàng, đem nó làm vật trang sức cho nàng thì sẽ khiến nàng càng thêm xinh đẹp, người Nữ Chân tặng ta món quà này mới không phí của. Haha, người Nữ Chân còn tặng ta hai con Hải Đông Thanh, vốn con chim ưng của ta bị mất tích nên ta lấy một con ra dùng, con còn lại tặng nàng, cầm lấy đi”.

Đông Nhi lùi lại mấy bước, nói: “Món quà này quý giá quá Đông Nhi không dám nhận”.

Gia Luật Cách bất đắc dĩ, đột nhiên phát hiện ra nàng dùng kim thoa cài tóc, hai mắt chợt sáng lên, cười hihi nói: “Được rồi, vậy…ta sẽ dùng năm viên ngọc này đổi lấy cây trâm trên đầu nàng, như vậy là công bằng nhé, có được không?”

Gia Luật Cách cười nhẹ nhàng rồi định giơ tay lấy tay trâm cài tóc trên đầu Đông Nhi, sắc mặt nàng khẽ thay đổi, lùi lại mấy bước mà rằng: “Tuyệt đối không thể được, Gia Luật đại ca, cây trâm này không được”.

Gia Luật Cách chợt ngẩn người ra bởi thấy nàng chưa từng lộ vẻ kiên quyết đến thế, bèn nghi ngờ hỏi: “Cây trâm này có gì mà quý giá đến thế?” hắn chợt thấy lòng đố kị như một nỗi hận trào lên trong lòng.

Đúng lúc đó, một cung nhân đột nhiên chạy tới bên Đông Nhi ghé tai nói nhỏ điều gì đó La Đông Nhi chợt nhíu mày, kinh ngạc hỏi: “Nhã công chúa? Công chúa nổi nóng với tứ ca?”

Đông Nhi vội áy náy cười với Gia Luật Cách, nói: “Gia Luật đại ca, Đông Nhi có chút chuyện phải đi một chút”.

“Đứng lại!” Gia Luật Cách tiến đến phía trước một bước, nắm chặt vai nàng, tức giận nói: “Cây trâm này là của ai tặng nàng?”

Năm ngón tay của hắn như những mũi tên muốn lấy đi linh hồn của người chết trong cõi u linh, Gia Luật Cách vừa bước tới vừa nắm chặt vai Đông Nhi, khiến nàng đau đớn kêu lên, tay buông thõng xuống.

Bất chợt nàng hô to lên một tiếng, hai tay bất giác đưa lên che miệng. Lúc

này đây âm thanh kinh ngạc nổi lên bốn phía, hai người đồng thời quay mặt lại thì chỉ thấy Tiêu hoàng hậu đang vội đỡ hoàng thượng, một mũi tên đã găm ngay trên ngực hoàng thượng, sống chết không biết thế nào.

Người ngồi bên cạnh là đại tướng Tiêu Thác Trí cũng bị trúng tên ở ngực, Hán Đức Nhượng thì như đang nói chuyện với ai thì bị một mũi tên đâm xuyên qua cổ họng, hắn tức giận trợn mắt lên như muốn nói gì mà không thể mở mồm, đầu nặng nề chúc xuống đất.

Trên lầu là một cảnh hỗn loạn, Tiêu hoàng hậu và các trọng thần bên cạnh đều vội vàng đưa hoàng thượng về phía sau, thị vệ bốn phía quanh thành vội vàng rút gươm đao ra yểm trợ, rất nhiều người vừa mới đứng đây chỉ trỏ đèn này đèn kia, nói nói cười cười, giờ cũng rút hết đao ra, hướng về phía thị vệ trong cung.

La Đông Nhi hoảng sợ lùi về phía sau, Gia Luật Cách nắm chặt chuôi đao, nhưng bất giác thấy cánh tay bủn rủn, chỗ trúng tên không đau, hắn bất giác rùng mình: “Trong mũi tên có độc”.

Dưới thành, chợt nghe ngoài thành có một tiếng động lớn ầm ầm, Gia Luật Nhã mắt đẫm lệ nhìn lên, chỉ thấy mọi người kinh hoàng chạy qua chạy lại, tiếng kêu khóc, rồi tiếng dẫm đạp lên nhau vọng lại không dừng, không khỏi ngạc nhiên thốt lên: “Chuyện gì đã xảy ra vậy?”

*******************************

Thuyền rồng đã cập bến Giang Nam thư viện, trên bờ cao đèn sáng trưng, rất nhiều sĩ tử văn nhân đang đứng trên bờ, thi lễ trước thuyền rồng trong tiếng gió rít lên không ngớt.

Tiểu Chu Hoàng hậu sau khi lên bờ quay lại nói: “Quốc vương, các sĩ tử phía trước đang nghênh đón Quốc vương kìa”

Lý Dục vuốt râu cười: “Các phu tử và học sĩ của thư viện Giang Nam đã tự mình viết tặng quả nhân bộ vạn phúc tự địa đồ, hôm nay muốn trình cho quả nhân xem đây mà. Nào, chúng ta cùng lên bờ, tiếp nhận vạn phúc”.

Thuyền rồng vừa cập bến, vệ sĩ đã nhanh chóng đứng thành hai hàng, Lý Dục và Tiểu Chu hoàng hậu cùng xuống thuyền, những sĩ tử trong Giang Nam thư viện đã đang tấn kiến, đằng sau là những văn võ bá quan cũng đang lục tục xuống thuyền. Đinh Thừa Nghiệp nhìn chằm chặp vào chữ “Tống” thêu trên cờ của đoàn sứ giả nhà Tống, hạ giọng dặn dò: “Tiếp cận gần vào, khi thuyền vừa cập bến thì lập tức giết ngay, nhớ tìm đúng Dương Hạo, hành động nhanh không để lại dấu vết”.

Đoàn người lẩn vào rừng như rắn, từ từ tiến đến chỗ thuyền của các quan, chung quanh đèn màu đẹp rực rỡ, tiếng cười nói râm ran không dứt, người qua kẻ lại, rộn ràng nhốn nháo, từ xa xa còn nghe vọng đến tiếng nhạc xé gió vang lên, vẫn là một cảnh thanh bình như trước.

Đinh Thừa Nghiệp nắm chặt con dao giấu bên hông, tiến đến gần con thuyền chở các quan, mắt nhìn chằm chặp vào đoàn người đang lên bờ, đột nhiên cảm giác được dường như trong đoàn người có ai đó đang nhìn mình chòng chọc. Đinh Thừa Nghiệp chợt cảnh giác, quay đầu lại nhìn thì thấy một ánh mắt đang dõi theo hắn giữa đoàn người nói cười nhộn nhịp, đôi mắt đó như có lửa giận nhìn xoáy sâu vào hắn, đôi mắt đó thật lạnh lùng, có chút lạ lẫm mà lại có chút quen thuộc.

Tiếng động ầm ĩ ở bốn phía trở nên xa xôi mơ hồ, tất cả những ý thức còn lại của Đinh Thừa Nghiệp đều tập trung vào đôi mắt như có lửa này. Đoàn người cứ thế qua lại, nhưng vẫn không sao che nổi đôi mắt đầy hận thù. Đêm nay Đinh Thừa Nghiệp hóa trang thành một con bọ ngựa, ai dè lại gặp ngay một con hoàng tước bên cạnh. Hắn lùi lại một bước, nhưng người đó đã lạnh lùng nói một tiếng: “Giết!”

Ở khoảng cách hơn một trượng, ở giữa hai người là đoàn người đi đi lại lại, lộ ra một khe hở, lưỡi kiếm sắc bén trong tay người kia như một đường sáng ngọt sắc giơ ra, Đinh Thừa Nghiệp cũng nhanh chóng lôi lưỡi đao của hắn ra ứng chiến.

Hoa lửa tung khắp nơi, sáng rực trời như pháo hoa, cũng là lúc nhát kiếm thứ hai của người đó lao tới.

Sau khi thử giao đấu, Đinh Thừa Nghiệp đã chợt nhận ra kiếm pháp của người đó, kiếm pháp cũng chẳng hơn mình được bao nhiêu phần, liền trầm giọng nói: “Lên thuyền, hạ tay” Hắn vừa nói vừa chỉ huy bọn kiếm khách, bách tính bốn phía thấy có tiếng động binh khí va vào nhau liền lập tức kêu cha gọi mẹ, té ngã, cả một bến tàu trở nên hỗn loạn.

Con thuyền của Dương Hạo đi sát vào thuyền của sứ giả nhà Tống. Một mặt hắn nể lời thỉnh cầu của Tiêu Hải Đào, sợ rằng vua Giang Nam cao hứng muốn mời sứ giả nhà Tống lên thuyền mà lại không thấy đâu thì vô cùng thất lễ.

Mặt khác, hắn muốn mình sẽ “chết” ngày trước mắt Tiêu Hải Đào, như vậy thì mới có sức thuyết phục.

Hai chiếc thuyền cùng đồng thời cập bến, Mục Vũ nhanh chân tiến đến sát thuyền Dương Hạo, những thích khách giả mạo sứ giả Khiết Đan cũng nhanh chân đi theo. Trong khi mọi người còn đang hoang mang nhốn nháo bốn bề, thì hai đội ngũ nghênh đón hết sức ngay ngắn trật tự đã lập tức khiến mọi người chú ý. Ánh mắt của các thích khách Khiết Đan nhìn vào đoàn người, chỉ thấy những nắm đấm được giấu kín trong tay áo, bên hông thì căng phồng, ánh mắt như có lửa, hắn cũng không biết mình đang hoang mang điều gì, chỉ nghe thấy một tiếng thét lớn: “Giết!”

Mục Vũ không hiểu mô tê gì: “Đại nhân còn sắp xếp cả người ngựa ư?” Đột nhiên thấy những ánh dao sáng choang giơ lên, sát khí ầm ầm hướng đến phía họ thì hắn đã không còn thời gian để suy nghĩ nhiều nữa, vội rút dao ra, miệng hét lớn: “Giết!” Hai đội ngũ lập tức như một cơn đại hồng thủy lao vào nhau.

Đứng trên đầu thuyền, Dương Hạo đang đứng nghển cổ ra nhìn chợt thấy hai bên bờ không rõ đã xảy ra chuyện gì mà đoàn người ngựa lại đột nhiên đánh nhau, không nén nổi kinh ngạc. Vừa mới nãy thôi hắn còn đang định vào khoang thuyền thay đổi y phục thành một nam thường dân, đi theo hai võ sĩ nhân cơ hội hỗn loạn lên bờ mà giờ… Oa Oa và Diễm Diễm cũng nhìn thấy cảnh hỗn loạn mà kinh hãi, nói nhỏ với hắn: “Quan nhân, tại sao lại như thế? Chúng ta không cần thay y phục nữa hay sao?”

Dương Hạo hít sâu vào một hơi, không quay đầu lại mà nói: “Không cần. Các nàng hãy nhân cơ hội hỗn loạn này mà chạy trốn đi. Mẹ kiếp, đã xảy ra chuyện gì? Muốn chết cũng khó thế đấy, không vấn đề, ta tự đi chuốc lấy tai họa vậy”.

Một trận đại loạn, trên bến tàu các văn sĩ tú tài vừa mới nhốn nháo ở đây thoắt cái đã không còn thấy nữa, Hoàng Phủ Kế Huân phụ trách hộ giá, bên trái là Lý Dục, bên phải là Tiểu Chu hoàng hậu, vừa hô hào gọi thị vệ đến hộ giá, vừa tìm cách trốn vào sân viện Giang Nam, nhanh chóng đóng cửa lại.

Trên thuyền nhà Tống, cấm vệ quân đang khẩn cấp ứng biến, Tiêu Hải Đào ở giữa, bọn vệ binh còn không biết đường mời đại nhân của chúng rời thuyền mà chỉ biết đứng như trời trồng. Tiêu Hải Đào bị bọn cấm vệ quên bao vây xung quanh nên chẳng trông thấy gì, vội vàng nhảy lên hét lớn: “Đại nhân, bảo vệ đại nhân, trái sứ ở trên thuyền kia, mau đi bảo vệ Dương trái sứ”.

Dương Hạo rút nhanh thanh kiếm, vọt người đứng trên mạn thuyền hét lớn: “Mau bảo vệ Tiêu tự thừa lui ra giữa sông, chớ có để thích khách lên thuyền, nhanh lên!” Nói rồi phóng qua mặt nước rộng mà lên bờ.

“Dương Hạo!”

Chiết Tử Du kinh ngạc đứng nhìn cảnh tượng hỗn loạn xảy ra trước mắt thì chợt thấy Dương Hạo nhảy lên bờ, không nén được kinh ngạc mà hét lớn, lập tức rút kiếm chạy tới. Tiếng kêu của nàng lập tức làm ngừng lại cơn loạn chiến, tên mặt vàng và Đinh Thừa Nghiệp cùng đồng thời trông lên hướng bờ, đám võ sĩ Khiết Đan dỏm và bọn Khiết Đan thật cũng ngừng chiến trông ra phía Dương Hạo.

Dương Hạo không biết tại sao cục diện lại thay đổi như vậy, sau khi cầm kiếm chạy lên bờ, nhìn đám thích khách đang ngơ ngác không hiểu mô tê gì, không biết nên làm gì thì chợt trông thấy Chiết Tử Du cũng có mặt ở đó, hắn không nén nổi choáng váng, chỉ vào nàng nói: “Tử…Tử…”

Hắn chợt nhớ ra lúc đó không thể gọi tên thật của Tử Du ra được, bèn chuyển cách xưng hô: “Tử…Tử… từ đâu đến?”

Tiêu Hải Đào mặt đầy mồ hôi nghe thấy thế liền không thèm khách khí gì nữa: “Ôi chao, đến ranh giới của Giang Nam thư viện rồi mà đại nhân còn ngần ngừ cái gì? Đây là lúc nào rồi? Đại nhân nói đại nhân là quan văn làm sao tỏ được mặt anh hùng, đi theo lão gia đi công sai không có ngày nào là không lo sợ…”

“Giết!” Đinh Thừa Nghiệp đột nhiên hô lớn, mũi đao hướng thẳng về phía người kia, bình tĩnh chỉ huy những tên võ sĩ ở đằng xa.

Chiết Tử Du vội chạy đến bên Dương Hạo, đằng sau là những võ sĩ Khiết Đan đang giơ mũi kiếm vào nàng, Dương Hạo thấy vậy bèn kinh hãi hét lớn: “Cẩn thận, to gan!”

Hắn chạy nhanh về phía trước vài bước, vọt lên ôm gọn một đứa trẻ đang ngồi khóc dưới đất vào lòng, hóa kiếm vi đao, chiêu “lực bổ hoa sơn” của hắn nhắm thẳng vào tên võ sĩ Khiết Đan đang đứng sau lưng Chiết Tử Du.

Nguồn: http://4vn.eu/forum/showthread.php?t=71274&page=76#ixzz201iEbATL

Chương 361: Loạn chiến (2)

“Phực!” chiếc đèn lồng to đang treo trên cao bị Dương Hạo dùng kiếm cắt phựt, chiếc đèn nổ vỡ, giấy đèn bay te tua trong gió, giống như một bông hoa đang rơi. Dương Hạo bay xuống đất, tên kia vừa mới chạy ra phía sau Chiết Tử Du giờ xuất hiện trước mặt hắn như chim bất đầu, một mũi kiếm sắc nhọn bổ vào mặt hắn, máu chảy đầm đìa, hắn ngả ngửa xuống đất chết.

“Ngươi là ai, tại sao lại ám sát ta?” Đinh Thừa Nghiệp liều mạng đâm tới, tức khí hét lên.

Đinh Ngọc Lạc cắn chặt răng nói: “Ngươi đi hỏi phụ thân đã qua đời đi!”

Nhạn Cửu cho đến chết cũng không hề nói ra thân phận của Đinh Thừa Nghiệp, Đinh Ngọc Lạc cứ cho rằng hắn chính là em trai mình nên không nói gì. Câu nói này của Đinh Ngọc Lạc khiến Đinh Thừa Nghiệp như nhận ra thân phận của mình, không khỏi vừa sợ vừa xấu hổ.

Hắn cũng không biết mình có phải là cốt nhục của nhà họ Đinh hay không, chuyện giết cha hại sư huynh là chuyện hắn cảm thấy sợ hãi và áy náy, đặc biệt là mình đường đường là nam tử hán, giờ lại trở thành thiếp hầu hạ Gia Luật Văn, vừa nhìn thấy người thân hắn không tránh khỏi cảm giác tự ti xấu hổ, đột nhiên thấy thối ý.

Hắn cắn chặt răng rồi bổ vài đao, sau đó đột nhiên rút đao bỏ chạy, mấy tên thuộc hạ kinh hãi trốn vào đám người, Đinh Ngọc Lạc quay lại nhìn Dương Hạo, nhưng hắn ta không chú ý tới nàng. Đinh Ngọc Lạc cắn chặt răng, đuổi theo Đinh Thừa Nghiệp.

Dương Hạo chém hết tên Khiết Đan này đến tên khác, những võ sĩ Khiết Đan khác cũng nhanh chóng xông đến, người mà bọn chúng muốn giết chính là Dương Hạo, nay hắn đã tự chui đầu vào lưới, làm sao có thể buông tha. Bọn võ sĩ Khiết Đan thì đông đảo, ngoài Mục Vũ và sáu, bảy tên Khiết Đan khác là theo phe hắn thì những kẻ còn lại đang vây quanh Dương Hạo và Chiết Tử Du, đao rút ra nhanh như gió, bao người phải bỏ mạng.

Dương Hạo một mặt rút gươm ra đánh trả, mặt khác quát: “Nàng đến đây làm gì?”

Chiết Tử Du cũng vừa bổ kiếm vào một tên, đáp trả: “Chàng tới được chẳng lẽ ta không tới được?”

Dương Hạo liếc mắt về phía bên kia bờ, thấy Oa Oa và Diễm Diễm đang đứng đó cùng hai gã thị vệ, đang ngóng nhìn về phía bên này, Dương Hạo lập tức cười ha hả và cao giọng nói: “Các ngươi ỷ thế đông sao, kiếm pháp của bản quan như thần, mười mấy người các ngươi đã làm gì nổi ta?”

“Ngông cuồng!” Chiết Tử Du không biết những lời đó là Dương Hạo dành để trấn an Diễm Diễm và Oa Oa để hai nàng tránh ra khỏi đây. Nàng vừa chặn đứng một đòn công kích của tên võ sĩ Khiết Đan vừa châm chích lời nói của hắn.

Dương Hạo vội ra hiệu cho Diễm Diễm, nàng ta trông thấy giữa vòng vây kẻ địch mà chàng vẫn có thể ra hiệu như đang đùa giỡn như thế thì mới yên tâm kéo Oa Oa cùng hai tên hộ vệ lẩn vào trong bóng đêm.

Dương Hạo trong lòng khoan khoái, cười ha hả nói: “Dương mỗ luôn hành thiện vì người khác, cũng không biết ở đâu ra lắm kẻ thù thế này, không có ta an ủi thì lấy đâu ra chí khí mà chiến đấu. Không nói bản thân được rồi, lẽ nào chúng ta buộc phải chết ở đây, làm một cặp uyên ương mới hợp ý nàng sao?”

Chiết Tử Du và hắn quay lưng lại với nhau, bất chợt cùng đánh, cùng che chở và phối hợp chuẩn vô cùng, nghe hắn nói thế Tử Du không khỏi tức giận mà mắng: “Câm miệng ngươi lại đi, muốn chết thì ngươi đi mà chết, bản cô nương sống vẫn chưa đủ đâu”.

Dương Hạo run rẩy đâm trúng tay một kẻ, khiến người đó rơi đao xuống đất, rú lên một tiếng quái dị rồi rút đi rất nhanh. Dương Hạo chợt nghĩ tới cái chết giả hôm nay, mãi mãi cách xa Chiết Tử Du. Như hôm nay hắn gặp nạn, nàng cũng đã lập tức cầm đao xông tới tương trợ, trong lòng ắt hẳn còn có tình cảm, nên trong lòng hắn không khỏi có chút kích động. Thừa dịp hai người đang đứng dựa lưng vào nhau, hắn hạ giọng hỏi: “Nàng rút đao ra vì ta, ta rất vui. Tử Du, ta đã từng không đúng, chỉ là… tình yêu ta dành cho nàng trước nay vẫn không hề thay đổi, thật đó”.

Chiết Tử Du thấy trong lòng chua xót, tưởng chừng như có thể rơi lệ ngay được. Nàng đột nhiên hét lớn một tiếng, tiến lên đánh lại tên võ sĩ Khiết Đan đang tiến tới, miệng quát lớn: “Đừng nói những điều nhảm nhí với bản cô nương nữa, lề mà lề mề, không mau đánh bọn chúng lui đi”.

Dương Hạo lập tức ra hiệu cho Mục Vũ, hắn hiểu ý, vội vàng lui khỏi chiến trận, chạy ra hướng thuyền.

Dương Hạo cười ha hả, buồn bã nói: “Đúng vậy, ta từng là kẻ lỡ lời, làm sao nàng có thể tin tưởng vào lời thề non hẹn biển này của ta?”

“Ta tin vào lời thề non hẹn biển, chỉ là ta không tin ngươi mà thôi”.

Hai người di chuyển dựa lưng vào nhau, chạy theo hình hoàn tẩu tìm kiếm khe hở của bọn võ sĩ. Chiết Tử Du cùng hắn đấu võ mồm không ngớt.

Thuyền phu trên con thuyền của Dương Hạo đang lo sợ, vừa nhận được hiệu lệnh của Dương Hạo liền lập tức cho thuyền chạy về phía giữa hồ, Mục Vũ trên thuyền hô to, chỉ huy thuyền đuổi theo, dọa cho bọn thuyền phu khác sợ hãi nhảy cả xuống nước. Thuyền tiếp tục chạy về phía giữa sông, Mục Vũ tiến vào khoang thuyền hô to như đang đánh nhau, rồi châm mồi lửa.

Dương Hạo vừa nhìn thấy mặt biến sắc, kinh hãi kêu lên: “Diễm Diễm và Oa Oa còn ở lại trên thuyền!” hắn vừa nói vừa liều mạng tiến về phía trước, dùng đao bổ mạnh xuống vài cái kêu “leng keng leng keng”. Dù Chiết Tử Du đã từng tặng hắn Thanh Sương kiếm vô cùng tốt, nhưng kiếm vốn là một thứ vũ khí nhẹ nên sau một vài nhát cắt nó kêu leng keng thêm vài tiếng rồi đứt làm đôi.

Nhưng đây là hồi công kích bão táp, hắn mở ra được lỗ hổng, Dương Hạo thả người chạy như điên, Chiết Tử Du cũng thay hắn chém về phía trước vài đao. Dương Hạo nhân cơ hội đó chạy tới bên bờ, nhảy lên trên thuyền.

Thuyền đã cách bờ hai trượng, Dương Hạo dùng hết sức nhảy lên đó, hai tay bám vào mạn thuyền, rồi dùng sức cố gắng trèo lên thuyền. Chiết Tử Du trông thấy thế không khỏi lo lắng, nhưng nàng đang mải đánh nhau với bọn võ sĩ Khiết Đan nên không thể thoát thân được.

Đầu thuyền khói lửa cuồn cuộn, Dương Hạo và đám người của Mục Vũ đã ở cùng với nhau, những võ sĩ Khiết Đan đó trông thấy tình hình như vậy vô cùng nháo nhác. Không biết đoàn người ngựa đó ở đâu ra. Vốn ban đầu định lấy Dương Hạo làm cột mốc, hai bên không phải đối đầu mà trái lại là đồng minh mới đúng, bọn thích khách đó vội hô lớn: “Lùi lại ra sau, lùi ra sau, chúng ta không phải là quân địch!”

Mấy tên võ sĩ Khiết Đan đứng đó cũng cao giọng la hét, nhân cơ hội cũng bứt ra. Bọn thích khách đó nói tiếng Hán, lại còn có thể nói tiếng Khiết Đan, như vậy mấy tên thích khách kia càng thêm tin tưởng đối phương là cùng một hội mà thực chất không rõ đối phương là từ đâu đến và lai lịch thế nào.

Dương Hạo mất đi vũ khí, hắn tức giận lấy dầu đổ lên mạn thuyền phía bên phải. Tình hình hết sức không ổn, bởi thuyền sứ giả nhà Tống đã sớm được lên kế hoạc sẽ cập sát thuyền của hắn, nhưng trận loạn lạc này đã khiến ai nấy chạy tứ tán, trên sông không có con thuyền nào qua lại, thuyền của nhà Tống lại to, muốn áp sát thuyền của hắn e cũng không dễ dàng, tình thế vô cùng gấp gáp.

“Tình hình có biến. Bọn sứ giả đó không biết từ đâu ra, nhưng chín mười phần là do Gia Luật Văn phái đến”. Dương Hạo cùng Mục Vũ đang vừa giả vờ động thủ, vừa hạ giọng nói: “Đại nhân giả vờ giết ta rồi lập tức tháo chạy, đợi ta ở địa điểm đã định trước, ta sẽ một mình đến đó sau”.

“Được rồi, đại nhân thận trọng nhé!” Mục Vũ nhìn thấy từ đằng xa đang có ánh đuốc sáng bừng lên, đang có đại đội quan binh đi tới. Thuyền của Tiêu Hải Đào cũng đang áp sát, không muốn làm lỡ thời gian nữa, hắn vung tay vờ chém Dương Hạo, rồi giả vờ đâm tới tấp xuống người Dương Hạo, Dương Hạo lập tức lấy tay kẹp lấy.

Chiêu này là chiêu thường hay dùng trong phim ảnh, mượn góc nhìn khác để từ xa nhìn vào sẽ không thấy sơ hở. Lúc này là đêm tối, bọn họ lợi dụng khói lửa đang bốc lên từng đợt đẻ những người đằng xa không nhìn thấy rõ, Tiêu Hải Đào từ đằng xa lập tức kêu lên thất thanh, nếu như không có đám lính hộ vệ ngăn lại thì có lẽ hắn đã nhảy xuống nước rồi.

Chiết Tử Du cũng nhìn thấy, kinh hãi kêu lên một tiếng, bị đâm trúng một đao. Trong mắt nàng khi ấy chỉ nhìn thấy Dương Hạo đang nhảy ra khỏi thuyền hết sức nhanh, tay với lên và nắm vào một cái cây to mọc ven hồ, rồi leo lên bờ bên kia. Ngực Chiết Tử Du như muốn nhảy ra, hai chân mềm nhũn.

Một đội binh sĩ nhà Đường đang nhanh chóng đến bến tàu, hai đội thích khách nhìn nhau rồi không hẹn mà cùng tháo chạy, lửa bốc ngày càng cao, Chiết Tử Du dường như đang nhìn thấy Dương Hạo nhìn nàng, đột nhiên trong lòng quặn đau. Nàng đem theo hai đoạn kiếm của Dương Hạo, lảo đỏa chạy ra hướng khoang thuyền.

“Không cần!” Chiết Tử Du hét lên một tiếng như xé vỡ lồng ngực, chạy đến bên bờ sông, đầu thuyền lửa cháy bừng bừng, lửa đã thiêu gần hết con thuyền. Chiết Tử Du như người mất hồn cứ đứng đó, mắt nhìn theo đám lửa bốc lên ngày càng lớn, dường như linh hồn nàng đang bay ra khỏi thể xác.

Gia Luật Cách tóm chặt mũi tên rồi kéo, máu tuôn ra xối xả, hắn cũng không thèm để ý. Gia Luật Cách vừa rút mũi tên ra vừa nói với Đông Nhi: “ Mau lui ra phía sau!” Nói rồi vội bước tới bên hoàng đế, cánh tay hắn chảy máu không ngừng, lúc đầu còn là màu xanh tím, sau mới dần chuyển sang màu đỏ. Hắn bắt đầu thấy đau đớn, tay dường như không còn chút sức lực.

Lão vương gia nhìn thấy hoàng thượng đã bị trúng tên, trong lòng vui sướng hoan hỉ. Hắn rút đao chém ngã hai tên đại thần đang run sợ không rõ quân ta hay địch ở bên cạnh, cầm lưỡi dao vấy máu tiến về phía Gia Luật Hiền.

Lúc này đây là cảnh hỗn loạn, Gia Luật Cách cũng không rõ người vừa bị giết là địch hay ta, bèn lớn tiếng nói: “Khánh vương chớ lo lắng, đã có ta bảo vệ bệ hạ”.

Lão vương gia lớn tiếng cười: “Để bản vương chặt đứt đầu lão ta đã thì mới yên tâm được”.

Gia Luật Cách nghe mà thất kinh, mắt nhìn lão vương gia rút đao ra, chạy lại chỗ hoàng thượng. Chỉ một đao của hắn là đủ để chém hoàng thượng đứt làm hai mảnh. Tiêu hoàng hậu vội chạy tới trước mặt hắn, hai mắt mở to, lớn tiếng quát: “Đông Nhi, bảo vệ hoàng thượng hồi cung”.

Khánh vương ngẩn ra, cắn chặt răng rồi giơ đao lên, nhưng Gia Luật Cách đã nhanh chóng bước tới, lấy đao đỡ lấy đao của hắn, trên vai Gia Luật Cách bị thương, không đủ lực để chặn lại Lão vương gia. Hai ngọn đao cứ chạm vào nhau tóe ra những tia như hoa lửa, chạm đến gáy Tiêu hoàng hậu thì ngừng lại. Tay Gia Luật Cách trở nên mềm nhũn, ngọn đao trên tay rời khỏi tay rơi xuống đất.

“Khánh Vương, ngươi dám hành tích vua!” Gia Luật Cách nhanh như gió đã chạy tới trước mặt Tiêu hoàng hậu, vội nói: “Nương nương, mời nương nương về cung, ở đây đã có thần”.

Tiêu Xước vừa bị một đòn thoát chết, không nói nhiều lời với hắn nữa mà vội vàng cùng Đông Nhi đỡ hoàng thượng Gia Luật Hiền, cùng với vài tên thị vệ dìu hoàng thượng về cung. Gia Luật Cách cầm đao đứng chặn phía trước, lớn tiếng quát: “Bọn chuột nhắt, không sợ bị tru di cửu tộc sao?”

Gia Luật Cách thân hình cao lớn khôi ngô, thân vốn là một dũng sĩ phương Bắc trên thảo nguyên, là một trong số những dũng sĩ Khiết Đan nổi tiếng, đồng thời cũng là người phụ trách đi giải quyết những tranh chấp, cãi cọ theo luật pháp. Đến cả hoàng tộc đối với hắn cũng còn có phần sợ hãi, giờ phút này tuy những tên kia đều đã làm phản nhưng trước tiếng quát thị uy của hắn cũng khiến nhiều gã phải mất tự chủ mà chùn bước.

“Các vị, các vị không phải là đang muốn chiếm phương Bắc đó chứ?”

Lão vương Gia Luật lại không hề sợ hắn, hai hàng lông mày dựng thẳng lên, cây đao trong tay vẽ thành một vòng tròn trong không trung. Những tên mưu phản đứng xung quanh hơi do dự một chút, rồi cũng lần lượt chạy tới, đứng cùng Gia Luật Cách. Đến lúc này mới phân rõ thành hai chiến tuyến, hai bên ở vào thế mặt đối mặt.

Bên ngoài thành vang lên tiếng kêu kinh ngạc, vài tên lính của lão vương gia ở ngoài thành đang uống rượu tán phét cũng phải lập tức đứng dậy, rút dao ra giết lũ lính gác cổng. Xảy ra biến cố, những tên lính gác cổng mới chỉ ít phút trước thôi còn gọi bọn chúng là huynh đệ, nay đã bị hạ sát không thương tiếc, chỉ một nhát đao đã chặt đứt người bọn lính, máu chảy đầy mặt đất.

Những tên mưu phản khác đều rút ra một chiếc khăn tay trắng buộc vào cánh tay, rút đao ra, những ai mà không có ám hiệu trên tay thì đều bị chúng rút đao chém, lính không tạo phản tuy đông nhưng cũng không phải là đối thủ của bọn chúng, một đám ô hợp nhốn nháo nào có ai là đối thủ, chỉ trong chớp mắt tất cả đã bị thảm bại.

Tám tên lính hộ vệ của lão Vương gia lại không hề xuống tay giết người mà cầm những thanh huyết đao tiến thẳng về phía hoàng cung. Lúc này đây Tiêu Xước và Đông Nhi tay đỡ hoàng thượng đang hấp hối, mặt tím tái dưới bậc thềm, Tiêu Xước vội hét lớn: “ Bảo vệ hoàng thượng!”

Trong tình cảnh đó, Tiêu Xước không khỏi ngẩn ra, lập tức có vài tên lính tay thắt khăn trắng tiến đến phía nàng. Tiêu Xước cắn chặt răng, bỏ Gia Luật Hiền ra đưa cho Đông Nhi đỡ, miệng hét lớn: “ Phải mở một con đường máu, Đông Nhi, mau dìu hoàng thượng hồi cung”.

Tiêu Xước đứng tiến lên phía trước nghênh đón, có vài tên mưu phản chém chết ngay vài gã nội thị đang xông tới, một cành đại tùng hướng thẳng ngực đâm tới, Tiêu Xước quay hông né tránh, nhảy sang một bên mà thoát thân. Nhưng rồi một mũi đao khác lại lao đến, đâm xẹt qua cổ nàng, một dòng máu tươi từ từ chảy ra.

Cả thân nàng mềm oặt như người không xương, dường như có thể vì bất cứ cái gì mà uốn éo vẹo vọ đi, ở bất cứ góc độ nào cũng có thể công kích, như một con cá bị kích động, năm sáu tên mưu phản cậy có sức lao đến bị nàng lao vào giết phải lùi bước, mấy tên võ sĩ hầu cận trong cung trông thấy thế cũng tiến lên trợ giúp.

Đông Nhi mặc dù đêm ngày ngóng trông ngày trở về trung thổ, nhưng Tiêu hoàng hậu đối xử với nàng quả không tệ, lại thêm hai người luôn sớm tối có nhau nên tình thân như tỷ muội. Đông Nhi thấy Tiêu hậu bị dồn như một con hổ bị rơi vào bẫy, nàng cũng thục mạng chạy lên cứu cánh, đưa hoàng thượng cho vài tên nội thị đứng đó, còn bản thân nàng cũng cầm đao tiến tới.

Nhã công chúa kinh hãi ngây người, vừa nhìn thấy biến cố, La Khắc Địch vội vàng kéo nàng đến bên góc tường, còn mình với Thiết Đầu và Loan Đao Tiểu Lục đứng hình tam giác, Nhã công chúa đứng giữa, bình tĩnh quan sát những biến động xung quanh. Những tên võ sĩ đó chỉ đi tìm những người có mang vũ khí để tàn sát, nhìn thấy họ đang đứng ngoan ngoãn ở góc tường, phục trang không giống những người có vũ khí nên cũng không ai để ý đến bọn họ.

La Khắc Địch cảnh giác nhìn ra bốn phía xung quanh, mặc kệ bọn chúng muốn giết ai thì chết, còn hắn thì đứng ở cửa rơi lệ, bất động. Nhưng đứng đó trông hoàng thượng hấp hối, Đông Nhi phận nữ cầm đao giết địch mà run lẩy bẩy, dáng vẻ liễu yếu đào tơ mảnh mai của nàng đứng một mình trong vòng vây của bè lũ mưu phản khiến người ta quả thực không yên lòng, La Khắc Địch quát to một tiếng, chạy về phía Đông Nhi.

Hắn vừa đi thì ba người trong vòng vây tam giác càng có cơ hội nhìn rõ tình hình bên ngoài. Gia Luật Nhã thấy hoàng huynh, hoàng tẩu và bọn phản tặc đang vây quanh huynh tẩu của nàng, Gia Luật Nhã hét lên một tiếng rồi chạy vội ra chỗ bọn họ. Loan Đao Tiểu Lục và Thiết Đầu thấy vậy chỉ biết nhìn nhau cười khổ não, lật đật chạy theo Nhã công chúa.

La Đông Nhi là người thiên tư thông dĩnh, có học thức, dưới sự chỉ giáo của Tiêu hậu, Gia Luật Cách và đại nội thị vệ, nàng đã bắn được những phát súng rất cao. Nhưng khổ nỗi bản lĩnh cũng không cao, đặc biệt là do nàng là nữ nhi, thể lực kém hơn nam giới, lại thêm xạ thủ Tiêu xước cứ như con chạch linh hoạt kỳ lạ, loan đao trong tay nàng cũng không quan trường nên sau khi vào trận chỉ chốc lát, nàng chỉ chống đỡ được mấy chiêu thì ngọn đao trong tay nàng đã bị đoạt mất.

Tên võ sĩ đó cười lớn một tiếng, sau đó đâm một nhát nhằm thẳng ngực Đông Nhi, không hề có ý thương hoa tiếc ngọc.

“Bọn chuột nhắt các ngươi dám?” La Khắc Địch hét lớn, chân đá một cước như một cây đại tùng mọc lên từ mặt đất, hùng dũng như một con rồng, miệng hét lên một tiếng, tên võ sĩ nọ bị một cú đá ngay ngực.

Tên nọ hung hăng trợn mắt, hầm hừ vài tiếng trong cổ họng, thanh sắt trong tay rơi xuống đất, mặt ngã úp xuống đất.

La Khắc Địch chạy tới trước mặt Đông Nhi, nắm chặt cành tùng đập chí mạng, tên kia nước mắt nước mũi và máu phun trào ra, bắn ướt cả người La Khắc Địch. La Khắc Địch run rẩy hét lớn: “Đông Nhi, mau lùi ra xa!”

Gia Luật Nhã và Loan Đao Tiểu Lục, Thiết Đầu vội vàng mỗi người nhặt một binh khí rồi chạy tới, Đông Nhi thì vẫn ngoan cố không chịu lùi ra sau, vội vàng nhặt một món binh khí rồi nói: “Tứ ca đến đúng lúc lắm, mau cứu hoàng hậu”.

Vốn dĩ nếu chỉ có mình Tiêu Xước thì cũng khó bảo đảm an toàn cho hoàng thượng, bên cạnh hoàng thượng lúc bấy giờ chỉ còn có một, hai tên nội thị đang dìu hoàng thượng chạy trốn, nếu để bị bắt gặp ắt sẽ bị giết ngay tại trận. La Khắc Địch võ công không tầm thường, một mình hắn cũng có thể đấu lại với bảy, tám gã khác. Bên cạnh đó còn có Thiết Đầu và Tiểu Lục là những người sở trường đánh nhau, nên mấy người hợp lực lại cũng đủ khiến cân bằng lực lượng đôi bên, bọn phản loạn của lão vương gia nhất thời không làm gì nổi họ.

Lúc này những người trong hoàng tộc do bị thương khá nhiều, tuy chưa chết nhưng thân mang trọng thương, không thể ngăn cản đoàn người ngựa như hổ báo đang lao đến, hai bên chiến đấu với nhau đã đổ máu không ít, Khánh vương giơ mũi đao đầy máu lên trời quát lớn: “Hoàng thượng đã chết, chúng ta phải tốc chiến tốc thắng!”

Bốn tên thuộc hạ lập tức hô lớn, Gia Luật Hiền lúc này mặt đã biến sắc nhưng vẫn chưa hoàn toàn bị gục ngã, hắn biết rằng Khánh vương cố ý nói vậy để làm loạn lòng quân nên cố hết sức đứng dậy trấn an binh sĩ. Nhưng cơ thể suy nhược, lại thêm vừa mới bị trúng tên nên dù mặc giáp nhưng đầu mũi tên vẫn cắm sâu vào trong lớp giáp, tuy không cắm sâu vào thịt nhưng đầu mũi tên có tẩm độc. Hắn chưa từng nhờ Gia Luật Cách tẩy độc nên đầu hơi choáng váng, đứng cũng không vững, làm thế nào mà mở miệng phản bác cho được.

Những người ở gần nhìn thấy hắn thì biết được hoàng đế vẫn còn sống, nhưng những kẻ ở xa lại không biết điều đó, trong lòng loạn trướng cả lên. Gia Luật Cách toàn thân đầy máu, đập lưỡi đao xuống bậc thềm lớn giọng quát: “Hoàng thượng vẫn sống, đừng có nghe lời bọn phản nghịch. Nghịch thần mưu phản, binh lính hãy cầm vũ khí đến đây, trừng trị bọn phản nghịch, hộ giá hoàng thượng”.

Hai bên đánh một trận lớn, thủ hạ cũng không dám lơ là, nhưng Khánh vương thì sốt ruột, hắn đã tính cả nghìn lần vạn lần rồi, đến cả số lượng vệ binh của Ngũ Phong lâu cũng tính toán hết sức chính xác, duy chỉ có La Khắc Địch, Thiết Đầu và Tiểu Lục là ba biến số mà hắn không tính đến, mà đó cũng chính là những biến số khiến thay đổi hết cục diện.

Nguồn: http://4vn.eu/forum/showthread.php?t=71274&page=76#ixzz201iJ1D00

Chương 361: Loạn chiến (3)

Nếu như hắn không thể nhanh chóng lấy được đầu của hoàng thượng thì không cách nào làm lung lay được bọn cấm vệ quân, như vậy thì chỉ có thể chấp hành phương án hai, nhanh chóng rời khỏi đây, chạy khỏi Thượng Kinh, chờ xem tên Gia Luật Hiền sống chết thế nào rồi quyết định sau.

Do vậy lòng hắn đang rối như lửa đốt, hắn xông pha vào những cuộc ẩu đả. Tiêu Xước nhờ có bọn La Khắc Địch tương trợ mà nhân cơ hội đưa được hoàng thượng hồi cung. La Khắc Địch vốn không định dính dáng gì tới trận chiến này, chỉ là hắn ra tay vì Đông Nhi mà thôi, nên khi thấy Đông Nhi ra về hắn cũng đi theo.

Có vài người bọn hắn bảo hộ, quân của lão vương gia tuy đã kiệt lực tử chiến mà vẫn không làm gì được, mở mắt mà nhìn bọn họ đi đến cửa cung. Trời đã về chiều, Tiêu Xước một tay đỡ Gia Luật Hiền, một tay đập cửa cung, hét lớn: “Mau mở cửa! Mau mở cửa!”

Khánh vương ức phát điên, hét lớn: “Tuyệt đối không được cho bọn chúng vào được bên trong!” Nói rồi liều mạng xông lên.

Nơi cửa cung, hai tên nội thị, Đông Nhi, Gia Luật Nhã đang đứng cách đó không xa, chỉ nghe thấy tiếng Tiêu hoàng hậu đang dặn dò những tên lính gác mau mau khép chặt cửa lại, Đông Nhi và Gia Luật Nhã vội hét lớn: “Tứ ca, mau vào đi !”

La Khắc Địch khi đó đang bị Khánh vương bám theo không rời, chỉ cần tay chân lơ là một chút là sẽ bị ngọn đao của hắn bổ đôi, đến nửa bước cũng không thể lui về sau, Đông Nhi sốt ruột, cắn răng lao ra ngoài cửa cung, nhưng đã bị Nhã công chúa ôm cứng lại, đồng thời Tiêu hoàng hậu cũng nói lớn: “Khép cửa!”

“Ầm ầm” một tiếng, cửa cung nặng nề khép lại. Trong phút cuối khi cánh cửa khép lại, Đông Nhi và Gia Luật Nhã còn kịp nhìn thấy La Khắc Địch tay cầm thanh tùng dài giết quân địch bao vây bốn bề.

Khi hai cánh cửa đã nặng nề khép chặt lại, Tiêu Xước mới vội vàng truyền lệnh: “Mau đỡ hoàng thượng!”

Nàng vội xé áo khoác ngoài của hoàng thượng, chỉ nhìn thấy bên trong lớp áo là đầu mũi tên bị găm vào người. Nàng sợ hãi đến mềm cả người, nàng không cần nghĩ đến lớp sương mù đọng lạnh giá trong thời tiết này, lập tức cởi bỏ hết cả lớp áo ngoài cùng áo giáp của hoàng thượng. Vết thương bên vai phải của Gia Luật Hiền đã sẫm màu lại, ở giữa chỗ bị thương là đầu mũi tên, nhưng không có máu chảy ra.

Tiêu Xước hít một hơi thật sâu, không rõ chất độc đã bắt đầu lan đi hay chưa, nàng lập tức rút con dao giắt ở hông ra rồi rạch một đường nơi miệng vết thương, dùng miệng hút chất độc ra…

Cửa cung đã khép lại, Khánh vương biết cơ hội của hắn cũng đã hết, vội nói: “Rút! Chờ cơ hội phản kháng!”

Bọn chúng nhanh chóng rút đi như nước rút, để lại trên mặt đất những vũng máu và băng đọng trơn trên mặt đất. Khánh vương không thèm để ý nên bị trượt chân, thanh đao trong tay hắn mất đà rơi xuống, La Khắc Địch thừa cơ cầm thanh tùng hướng thẳng vào ngực hắn.

Bọn thân tín của hắn sợ hãi, liều mạng chạy đến bên hắn, đồng thanh hét lớn: “Lão vương gia cẩn thận”.

“Vương gia?”

La Khắc Địch chợt giật mình, trong mắt hiện lên một thần sắc rất lạ lùng, tư thế chuẩn bị phóng tới của hắn cũng không còn. Hắn miễn cưỡng đứng vững, chỉ nghe thấy “hự” một tiếng, thanh tùng sắc bén cắm thẳng vào đầu vai của Khánh vương.

Khánh vương hét lớn một tiếng, lùi lại vài bước, vài tên tâm phúc vội chạy lại đỡ, gây nên một cảnh hỗn loạn bên ngoài Ngũ Phong lâu. Những quý tộc và thân tộc hoàng gia đi ngắm đèn chạy tán loạn, mỗi người một nơi, đám quân phòng thủ như rắn mất đầu. Trước cửa Ngũ Phong lâu đầy những người chạy qua kẻ chạy lại, phía trước lại có binh lính chặn đường, đâm đầu vào là bị dính ngay một đao.

Đám người của Khánh vương vội vã chạy tới, lục tục xoay người lên ngựa, bỏ lại sau lưng những binh sĩ đã quyết tử, chúng thúc ngựa, tiếng vó ngựa như sấm, vang động cả trời đất…

*********************************

“Kéo thuyền lại đây, mau lại đây!”

Tiêu Hải Đào đứng trên bờ hét lên, Hoàng Phủ Kế Huân, Gia Luật Văn cũng đứng một bên, mỗi người có một ánh mắt khác nhau. Quân của Lý Dục đang đứng bảo hộ trước cửa Giang Nam thư viện, hắn sốt ruột như ngồi trên đống lửa, đi đi lại lại chờ tin cấp báo, còn Chiết Tử Du thì hồn xiêu phách lạc đứng bên bờ sông, nhưng không ai chú ý đến nàng cả.

Con thuyền của Dương Hạo được kéo vào bờ, vài tên binh sĩ vội lên thuyền kiểm tra. Con thuyền giờ chỉ là những đầu gỗ bị cháy đen, vẫn còn khói và nóng. Trong tình hình này nếu như có người còn sống thì cũng hóa thành quỷ rồi.

Tiêu Hải Đào thì vẫn chưa từ bỏ ý định, dưới sự chỉ đạo thúc giục của hắn, những binh sĩ ra sức tìm kiếm cả ngày trời và phát hiện được 5 cái xác bị cháy đen thui trôi dạt vào gần bờ, những cái xác đó bị đốt đen như cột gỗ, già trẻ gái trai chẳng ai có thể trông rõ và phân biệt ai với ai.

Chiết Tử Du đứng cách đó không xa, nàng biết rõ trong 5 cái xác đó có xác của Dương Hạo, nhưng nàng không thèm tiến lại gần, vẫn cứ đứng đó. Thuở nhỏ sinh ra trong nhà thế gia, lại thêm mấy năm liên tục chứng kiến những cuộc chiến chinh phục liên tục ở Tây Bắc, cái chết với nàng đã trở nên quen thuộc. Trước mắt kể cả là thây phơi ngàn dặm thì đối với nàng cũng không là gì cả. Nhưng hắn thì khác, trên thế gian này chỉ có duy nhất một người là Dương Hạo, Chiết Tử Du không cách nào chấp nhận được một con người hoàn hảo như hắn, mới đây thôi còn nói nói cười cười, một người sống sờ sờ ngay trước mắt, trong chớp mắt đã biến thành một cái xác đen ngòm. Nước mắt nàng rơi xuống tựa những hạt châu, từng hạt từng hạt lăn dài, rơi vào trong dòng nước sông Tần.

“Đây là đại nhân, đây là miệng của đại nhân…”

Trong ánh đèn chiếu rọi, ánh mắt Tiêu Hải Đào lướt qua cái xác, kêu gào thảm thiết, tiếng kêu như lạc điệu, trong cái tĩnh mịch của bến tàu, tiếng kêu đó sao thê lương dị thường.

Hoàng Phủ Kế Huân chùng xuống, nói: “Đây có phải là Dương trái sứ hay không là một việc rất quan trọng, tiêu đại nhân phải xem cho kỹ lưỡng đó nhé!”

Tiêu Hải Đào kích động nói: “Không thể nhầm được, đây là Dương trái sứ, còn cái vòng Phật châu này của Dương đại nhân tận mắt ta đã xem qua, được kết thành từ bảy báu vật: kim, bạc, lưu ly, sa bà trí già, mỹ ngọc, xích châu, hổ phách, thượng tuyên phật giới tam bảo Phật. Ngài xem, trên mảnh bạc này còn chưa bị thiêu, vẫn còn có hình Phật…”

Hoàng Phủ Kế Huân chăm chú nhìn lại, thấy chiếc vòng vẫn chưa bị thiêu hết, sáng ngời, bên trên còn khắc hình tượng Phật rõ rệt.

Hoàng Phủ Kế Huân khẽ chau mày, từ từ đứng thẳng người lên, hít một hơi thật sâu rồi quay người đi về phía sân Giang Nam thư viện.

Khóe môi Gia Luật Văn khẽ nhếch lên, lộ ra một nụ cười đắc ý.

“Phong tỏa toàn thành, phong tỏa toàn thành… Không, không phải… Mọi ngõ ngách của 19 châu ở Giang Nam đều phải phong tỏa, nhất định phải bắt hung thủ về quy án, huy động hết toàn bộ binh lính trong cung, nhất định phải bắt được hung thủ!”

Lý Dục tức khí gào thét: “ Sứ giả nước Tống chết ngay trước mắt thì làm sao mà qua lại được với Triệu Khuông được nữa? Ngu xuẩn, còn đứng ở đó làm gì, còn không mau đi!”

“Vâng vâng vâng!” Hoàng Phủ Kế Huân vội vã vâng lời, vội lùi ra, cùng với đó là tiếng còi hiệu xé gió vang lên, một đội quân bắt đầu tản đi ra tứ phía.

Lý Dục trấn tĩnh lại, bất lực nói: “Người đâu, màu tìm vài cỗ quan tài tốt nhất đến cho Dương trái sứ và thân tín, bó xác lại, đem về cung, tốc chiếu cho Từ Huyễn, Trần Kiều mau vào cung”.

Xác chết được gói lại đem đi, trên bến tàu đèn hai bên bờ vẫn sáng rực như thế, nhưng đã không còn du khách nữa. Dần dần, những ánh nến cũng dần tàn, cảnh vật trở lại điêu tàn. Chiết Tử Du đứng bên thềm đá ven sông, mặt đối diện với bờ sông Tần, cả người nàng và màn đêm như hòa với nhau làm một.

Nàng nhẹ nhàng cầm lấy đôi khuyên đen trong tay, đôi khuyên vẫn không hề bị sứt sẹo tí gì, chỉ có viên đá là sáng lên một màu thần bí mê hoặc, nàng âm thầm khóc: “Chàng đúng là một oan gia, không một lần nào làm ta vui vẻ. Tự dưng xuất hiện trước mặt ta, rồi lại mơ hồ rời xa ta, chàng chỉ đem lại cho ta nỗi thương lòng, Chiết Tử Du ta không biết kiếp trước đã nợ nần gì chàng…”

“Nàng không phải tính toán làm gì, mọi việc đều do trời tính, đến cả bậc đế vương tướng quân cũng không nắm bắt được vận mệnh của mình, thì làm sao nàng có thể tính toán được vận mệnh bản thân? Nàng cho rằng tính sẽ ra thiên cơ, chứ không phải tất cả đều là do vận mệnh”.

Chiết Tử Du cười buồn nói: “Ta không tính toán, ta chỉ muốn làm, chàng không tính được, ta làm được, chàng để mọi sự tuân theo thiên mệnh, kết quả lại chôn vùi chính tính mạng của bản thân mình, ta chỉ làm mà không nói, vậy có thể sửa đổi được thiên mệnh hay không? Chàng trả lời cho ta, được hay không? Chàng nói nhiều như thế, tại sao giờ đây đến một câu cũng không nói?”

Nước mắt cùng những tiếc nức nở như nghẹn lại, nước mắt rơi xuống sông, hòa vào dòng nước chảy. Nàng bất giác nhảy lên, hướng về phía dòng sông mà khản giọng kêu lớn: “Ta phải đi giết người, ta muốn tìm ra hung thủ, thiêu đốt hết cả nhà hắn, bây giờ chàng sẽ không cản ta được đâu, làm sao chàng cản ta được nữa?”

Đêm, khung cảnh yên ắng. Không một ai trả lời nàng, chỉ có tiếng nước chảy xé tiếng gió, âm âm u u như tiếng khóc than…

Sáng sớm hôm sau, bầu trời âm u, mưa phùn rơi liên tục không dứt.

Những ngày này ở Giang Nam rất sợ mưa, do sau tết Nguyên tiêu mà mưa thì sẽ mang theo cảm giác âm u ướt át, từng giọt mưa như khiến lòng người thêm ảo não, cho đến đêm mưa mới dứt, dưới mặt đất là lớp băng trơn tuột.

Mới sáng sớm mọi người đều cắm cúi bước đi, cẩn thận vì sợ trượt, hơn nữa cái lạnh khiến người ta cũng phiền muộn bất an.

Nhưng cái lạnh này lại không hề ảnh hưởng đến tâm trạng của Gia Luật Văn.

Hắn rất vui vẻ, cảm thấy thời tiết dạo này quả không tồi, tên sứ thần Đại Tống Dương Hạo đã chết, Đinh thừa Nghiệp cũng an toàn chạy trốn về dịch quán, tuy chân bị thương nhưng cũng còn tốt, không bị thương ở phần mông, không ảnh hưởng đến quan cảm của Gia Luật Văn khi hắn sủng ái “mỹ nhân” của hắn.

Gia Luật Văn tự tay bó thuốc cho Đinh Thừa Nghiệp, ngon ngọt trấn an hắn, rồi còn tự tay dùng mỡ ngựa để chăm sóc mông hằng ngày, sắm sửa xiêm y đẹp và mỉm cười vào cung.

Trận loạn lạc đêm qua hắn cũng không rõ rút cuộc đã xảy ra chuyện gì, ngoài đoàn người ngựa của hắn còn có một đoàn khác là thuộc hạ của Dương Hạo, hơn nữa đoàn người đó còn là người Khiết Đan. Không, chính xác hơn mà nói thì không phải là có hai đoàn, phải là ba mới đúng. Sát thủ muốn giết Đinh Thừa Nghiệp chỉ có một người, khi hỏi rõ Đinh Thừa Nghiệp thì hắn cũng không rõ chính xác thân phận tên sát thủ là ai, có điều tiểu tiết này cũng chẳng cần để ý, Dương Hạo đã chết, như vậy là hắn mãn nguyện rồi, vậy là thành công rồi.

Bánh xe lăn lộc cộc, nghiến những hòn sỏi trên đường tạo nên một thứ âm thanh như có nhạc.

Mở rèm cửa ra nhìn, một màn mưa trắng hiện ra trước mắt, ngoài đường người đi lại rất ít, phong cảnh quả là như họa như thơ.

Gia Luật Văn tâm trạng rất tốt, cục diện hiện rất mỹ mãn.

Muộn nhất là đến ngày kia, hắn sẽ có tin tức từ Thượng Kinh.

Trong lòng Gia Luật Văn không khỏi không cảm thấy sốt ruột, nhưng sau khi sự việc phát sinh, rất cả những lo sợ căng thẳng đã biến mất rồi. Hiện tại có lo lắng cũng không có tác dụng, hắn chỉ cần thản nhiên đối mặt là được rồi.

Hơn nữa, kế hoạch của phụ vương cũng đã nắm rất chắc, kể cả không thể ngay lập tức lấy mạng hoàng đế và hoàng hậu được, chỉ cần chạy khỏi được Thượng Kinh thì cũng có thể xây dựng căn cứ và dấy binh, hắn ở đây đã thuận lợi giết chết được tên Tống sứ, chỉ cần quân Tống kích động Bắc phạt thì… Gia Luật Văn thở một hơi thật sâu, chậm rãi ưỡn ngực…

“Quốc vương, có sứ giả Khiết Đan cầu kiến!”

“Gia Luật Văn? Hắn đến làm gì? Cho hắn vào đi”. Lý Dục mắt đỏ ngầu ngước đầu lên, sau một đêm hội họp với các quan đại thần, đến tận sáng nay các quan mới rời cung, Lý Dục không có một phút nào được nghỉ ngơi. Chính vì đau đầu suy nghĩ xem làm thế nào để xử lý vụ việc của sứ giả nhà Tống. Không ngờ rằng tên sứ giả Khiết Đan lại đến làm phiền, hắn lại không thể đắc tội.

Gia Luật Văn ngẩng đầu ưỡn ngực đi vào điện, nhìn thấy bộ dạng của Lý Dục không nhịn nổi cười, chắp tay thi lễ: “Quốc vương vẫn còn đang đau đầu vì chuyện của Tống sứ ư?”

Lý Dục than thở: “Tống sứ cuối cùng có phải là bị người hành thích hay không? Hung thủ đã chạy đi đâu rồi? Làm sao quả nhân có thể tạ lỗi với nhà Tống, làm sao không lo cho được?”

Gia Luật Văn cười to: “Quốc vương hà tất phải ưu phiền, muốn tìm ra hung thủ có gì khó?”

Lý Dục vui vẻ, đứng bật dậy, nhoài người ra phía trước hỏi: “Sứ giả Gia Luật Văn biết tung tích của hung thủ? Bọn chúng đang ở đâu? Xin sứ giả Gia Luật hãy cho quả nhân biết, quả nhân lập tức phái người đi bắt chúng”.

Gia Luật Văn mỉm cười nói: “Hung thủ à, xa tận chân trời, gần ngay trước mắt”.

Lý Dục sững người, mặt biến sắc hỏi: “Sứ giả Gia Luật hà cớ gì cứ phải trêu quả nhân”.

“Ngoại thần không dám, thích khách giết chết Tống sứ chỉ có thể ở đây. Nếu như không phải là người ở đây thì ai có gan như thế?”

Lý Dục ngơ ngác đứng sững hồi lâu, kinh ngạc nói: “Ngươi… ngươi… ám chỉ ngươi chính là kẻ ám sát Tống sứ? Như vậy làm thế nào cho phải? Ta phải làm thế nào cho phải?”

Gia Luật Văn cười lạnh lùng: “Thần muốn mách cho quốc vương một cách, không biết quốc vương có hứng nghe hay không?”

Lý Dục chần chừ nói: “Xin Gia Luật sứ cứ nói thẳng”.

Gia Luật Văn nói: “Thần có một cách, nếu như Quốc vương muốn nghe thì thần cũng xin nói. Tội mưu sát Tống sứ thần xinh nhận, để giải mối nguy trước mắt của bệ hạ. Đồng thời, Giang Nam vẫn hay bị nhà Tống ức hiếp, sớm muộn gì nước Đường cũng sẽ đi vào vết xe đổ của Kinh Hồ, Tây Thục, Nam Hán… mà thần thì.. lại có thể giải trừ nỗi lo trong lòng bệ hạ, để cho nước Đường được khuếch trương không ngừng, không biết ý Quốc vương thế nào?”

Lý Dục trợn mắt há mồm, cơ hồ như không dám tin vào những điều tai mình vừa nghe nữa, lắp bắp nói: “Ngươi… ngươi nói cái gì? Làm sao có thể…”

Gia Luật Văn cười nói: “Như thế nào là không thể?”

Hắn đem tờ kế hoạch mưu phản Thượng Kinh và liên thủ đánh Tống ra nói: “Ngài xem, chúng ta có thể ký hiệp định liên minh ngầm mà không tuyên bố ra, nhất định thần sẽ tự nhận mình là hung thủ. Thần vẫn là sứ giả của nước khác, được nước Đường mời tới, giết một sứ thần của nước khác thì mặc dù nước Đường có phiên tiết cũng sẽ không tránh khỏi trách nhiệm với nước Tống. Theo lễ thì ngài không thể bắt giam ngoại thần, nước Tống có cách gì trị ngài? Đến khi Quốc vương viết thư kể rõ căn nguyên đầu đuôi câu chuyện cho nước Tống thì đó sẽ là chuyện giữa Khiết Đan và Tống rồi”.

Lý Dục ấp úng nói: “Nước Tống… nước Tống sẽ từ bỏ ý đồ như vậy sao?”

Gia Luật Văn cười lạnh nói: “Cứ cho là chúng không từ bỏ ý đồ thì lúc đó cũng là trận chiến với quân Khiết Đan ta rồi. Kẻ giết người là sứ giả Khiết Đan, lẽ nào vua nước Tống chịu cho qua mà cứ dẫn binh sang gây chiến với nước Đường? Chúng chỉ ỷ mạnh hiếp yếu, quân vương thiên hạ xưa nay chẳng có ai thế.

Quốc vương, với dã tâm của nước Tống thì chúng muốn làm bá chủ Trung Nguyên, nếu như có tranh chấp với quân Khiết Đan thì thiên hạ đều phải mở to mắt ra mà trông. Nếu như quân Tống lại không có hứng động binh thì ắt chẳng còn mặt mũi nào. Do vậy, chỉ cần chúng chỉ huy quân Bắc phạt thì người Khiết Đan sẽ dơ đao ứng tiếp, đợi thần thuận buồm xuôi gió lên ngôi hoàng đế thì thần sẽ tự mình đánh cho quân Tống phải lùi bước, đem đất đai của chúng quy y về một mối.

Đến lúc đó, liên minh của chúng ta mới có hiệu lực, Quốc vương có thể nhân đó mà phục hận nước Tống, chúng ta kẻ Nam người Bắc tấn công thẳng vào Tống, tiêu diệt đại Tống, khi đó sẽ lấy sông Trường Giang làm biên giới, phần phía Nam là của Quốc vương, thuộc về đất nhà Đường, phần phía Bắc sẽ là của thần, hai nước chúng ta cùng chia nhau cai trị, mãi mãi kết huynh đệ, như vậy là tuyệt sách. Ý quốc vương thế nào?”

Lý Dục ngồi quay trở lại ghế, mặt xám xịt, hồi lâu cũng không nói được lời nào.

Gia Luật Văn mỉm cười, chậm rãi tới gần rồi hạ giọng nói: “Giang Nam có thể cứ ngồi im mà quan sát thay đổi, cho đến khi đại cục đã phân chia rõ ràng mới thực hiện liên minh. Nếu như Bắc quốc không thể tiêu diệt nước Tống thì nước Đường cứ im lặng làm ngơ về vụ việc Tống sứ bị chết, nước Tống ắt sẽ không gây chiến với hai nước một lúc đâu.

Nếu như ta chinh phạt Bắc quốc thành công thì sẽ dập tắt nhuệ khí của quân Tống, Quốc vương mà thừa cơ phát binh thì Nam Bắc cùng đánh, thì nước Đường không cần phải hướng Tống cầu an, lại có thể mở rộng biên giới, ngồi một chỗ mà nắm cả giang sơn. Cách này có thể gọi là có công mà không thủ, cần gì phải băn khoăn?

Quốc vương, hai đời vua trước đều là những anh hùng làm rung chuyển đất trời, hôm nay quốc vương ngồi canh giữ Giang Nam, dưới trướng có hơn mười vạn người, lẽ nào không muốn giống như những bậc tiền bối, kiến bắc lập nghiệp, khai cương lãnh thổ, thành một anh hùng để đời sao?”

Lý Dục chậm rãi ngẩng đầu lên, mặt không còn ý phẫn nộ nữa mà là một bộ mặt không có lực để thoát khỏi sự nguy nan, lớn tiếng nói: “Ngươi… ngươi muốn quả nhân thế nào?”

Gia Luật Văn cười tựa như một tên ác ôn, lôi từ trong áo ra một hiệp ước đã được viết sẵn, từ từ đặt lên án, mở ra trước mặt Lý Dục, nhẹ nhàng nói:

“Quốc vương xem thử xem, nếu như không có ý kiến gì thì xin mời ấn dấu…”

***********************

Trên mặt bàn đặt một thanh đoản kiếm, trên lưỡi kiếm có vài lỗ thủng, những đoạn đứt được dính với nhau làm một nhưng vẫn lộ rõ vết nứt không lành lặn. Đặt trên bàn, nó vẫn là một thanh kiếm hoàn hảo, nhưng không thể nào cầm lại Thanh Sương kiếm đã gãy. Dương Hạo đã mất, lúc này đây Thanh Sương kiếm cũng giống như trái tim của chủ nhân nó, đã vỡ, dù làm thế nào cũng sẽ vẫn còn vết thương.

Chiết Tử Du ngồi bên bàn, mặc một bộ y phục màu đen, eo thắt đai trắng, lẳng lặng lắng nghe tiếng gió rít ngoài cửa sổ, hồi lâu không nói gì. Đột nhiên, cửa sổ có tiếng mở khe khẽ, Chiết Tử Du ngẩng đầu, chỉ trông thấy Chương

Thập Tam đang đứng ở bậc thềm, trong màn mưa.

“Tiểu thư, sứ giả Khiết Đan vừa vào cung tự nhận mình là hung thủ giết Dương trái sứ”.

Chiết Tử Du không động đậy, nét mặt cũng không có chút biểu hiện kinh hoàng, chỉ có mí mặt khẽ cụp xuống, dường như đang trôi vào trong một dòng suy nghĩ nào đó.

Chương Thập Tam nói: “ Sứ giả nhà Tống Tiêu tự thừa rất phẫn nộ, đang vào cung gặp hoàng thượng, bị Hoàng Phủ Kế Huân chặn lại, sợ sứ giả hai bên sẽ động thủ. Hoàng Phủ Kế Huân đã điều động binh lính bao vây dịch quán của sứ giả nhà Tống. Vua nước Đường Lý Dục đã lên tiếng đuổi sứ giả Khiết Đan về nước, lệnh cho Gia Luật Văn trong vài ngày phải rời khỏi đây, viết thư tạ tội với triều Tống”.

Khóe môi Chiết Tử Du lộ ra một nụ cười chế giễu: “Người Tống không giết nổi Gia Luật Văn, Lý Dục không dám giết Gia Luật Văn, chúng ta đi”.

Chương Thập Tam giật mình nhìn nàng: “Tiểu thư…, chúng ta chỉ có hai người…”

Chiết Tử Du thản nhiên nói: “Thiên thời, địa lợi, nhân hòa, chỉ cần lợi dụng đủ ba yếu tố thì một người có thể giết hàng vạn người”.

Chương Thập Tam bất an nói: “Thiên kim tiểu thư, đừng dễ dàng mạo hiểm, thuộc hạ không dám tuân lệnh. Sứ giả Khiết Đan sẽ rời khỏi đây trong vài ngày nữa, thuộc hạ sẽ tập trung bố trí bẫy ở khắp nơi, tuy người không đủ nhưng ít nhất còn ăn chắc hơn”.

Chiết Tử Du đứng thẳng lên, ánh mắt lướt qua Chương Thập Tam rồi nhìn vào màn mưa trước mặt, nhìn ra phía bầu trời âm u, hồi lâu mới nói: “Chàng đang ở trên trời dõi theo ta…”

Nguồn: http://4vn.eu/forum/showthread.php?71274-Lich-Su-Quan-Su-Bo-Bo-Sinh-Lien-Nguyet-Quan-Full-Text&page=77#ixzz201iOYY20

Chương 361: Loạn chiến (4)

Cảnh đêm tuyệt đẹp. Cơn mưa phiền lòng người mưa ròng suốt cả ngày trời và dường như vẫn chưa tạnh.

Gia Luật Văn uống rượu say sưa rồi mới rời khỏi hoàng cung, leo lên xe của mình với sự bảo vệ của ba mươi sáu quân hộ vệ.

Gần đây hắn quả là may mắn, sự việc của vua Giang Nam đã giải quyết thuận buồm xuôi gió, trong lòng đã có liên minh ngầm, Gia Luật Văn đắc ý cười lớn, bây giờ hắn chỉ còn đợi tin tức từ Thượng Kinh nữa thôi. Hai ngày này nên làm gì nhỉ, mỗi lần giết người, dục vọng của hắn đều rất lớn, nghĩ đến cảnh đám người của Dương Hạo đã từng cười nhạo hắn cũng bị một mồi lửa cho cháy đen thui như thế lòng hắn lại càng hưng phấn.

Nhưng vết thương ở chân Đinh Thừa Nghiệp không phải là nhẹ, làm thế nào có thể chữa khỏi trong vài ngày được… À, ta có thể tìm vài mỹ nhân Giang Nam, thưởng thức cái tư vị của con gái ở đây xem thế nào.

Gia Luật Văn cười ha hả vén rèm ra ngó, bên ngoài trời vẫn mưa, trời ẩm ướt đến ngán ngẩm. Đây là con đường quay về dịch quán, hai bên đường là những tảng đá lớn, bên thấp bên cao, mưa dọc theo tảng đá đổ nước xuống ầm ầm, ướt đến mức mặt đá như sáng cả lên.

Hai bên đường là những tường viện cao cao, mái ngói bằng gạch xanh, trong sân là những mái hiên cổ kính thanh tao uốn cong cong, hầu hết đều là nhà khá giả. Hoàng hôn đã thẫm màu, lại là một ngày trời mưa không ngớt, trên đường không có ai qua lại, ánh sáng từ những chiếc lồng đèn treo cửa của các nhà hai bên đường khiến không gian càng thêm tĩnh mịch, những chiếc lồng đèn khẽ đung đưa trong cơn mưa chiều.

Gia Luật Văn gọi một tên tâm phúc đến, dặn dò hắn đi đến vài lầu xanh nổi tiếng của Giang Nam tìm một vài mỹ nhân về dịch quán cho hắn say sưa một chầu, còn chưa dặn dò hết thì ngựa đột nhiên dừng lại, Gia Luật Văn khẽ chau mày, hỏi: “Có chuyện gì thế?”

Xa phu phía trước trầm giọng nói: “Đại nhân, phía trước có người chặn đường”.

“Hả?” Gia Luật Văn nheo mày, nắm chặt chuôi đao, đi ra khỏi xe, ngồi bên cạnh phu xe và mở dù.

Gia Luật Văn nhìn về phía trước, trước mặt đã là gần cuối đường, nơi đó có một người đang đứng, vóc dáng yểu điệu, bộ y phục màu đen trên người cô gái không làm sao che nổi dáng vóc và đường cong uyển chuyển.

Gia Luật Văn cười, hôm nay hắn quả là may, vừa mới nghĩ đến phụ nữ thì phụ nữ đến, mà lại là một cô gái trẻ trung xinh đẹp, vóc dáng động lòng người nữa chứ.

Hắn không biết người con gái này khi đến đây có ý đồ gì, nhưng giữa nơi mà hai bên đều là nhà cao, không có gì che chắn, đằng trước không có gì, hơn nữa đó chỉ là một cô gái mà thôi, một cô gái thì có thể làm được gì? Giết chết hắn trên giường ư?

Hắn không ngại bị phụ nữ giết chết trên giường, giết được hắn dục tiên dục tử.

Ba mươi sáu tên lính hộ vệ đã tới sát xe ngựa của hắn, bọn chúng ai cũng nắm chặt đao, chỉ chờ nghe lệnh Gia Luật Văn.

“Ta muốn cô ta sống, không được làm bị thương một sợi tóc của cô ta!” Gia Luật Văn hạ lệnh một tiếng rồi quay vào ngồi bên trong xe. Tất nhiên rèm cửa vẫn còn được buộc lên cao, hắn muộn nhìn xem bọn thuộc hạ xử lý cô gái như thế nào. Cô nàng mặc một bộ đồ bó sát, Gia Luật Văn chỉ hy vọng cô gái này không nên quá yếu đuối, như vậy thì trò chơi mới thú vị.

Còn về thân phận cũng như ý đồ khi đến đây của cô gái, có thể hỏi trên giường – sau một trận mây mưa đã đời, sau đó sẽ cho cô nàng vừa mây mưa vừa khai báo. Gia Luật Văn nghĩ thầm rồi cười một cách tà ác.

Đột nhiên hắn phát hiện cô gái đó đang cười, khi bốn tên thị vệ chĩa đao về phía cô gái, giống như bốn con sói đang vây lấy con cừu non, nàng cũng vẫn chỉ cười. Mỹ nhân khi cười như mây tan nguyệt tỏa, hai mắt Gia Luật Văn sáng lên, không kìm nén được mà cúi người về phía trước, muốn ngắm rõ hơn nét cười mê lòng người ấy.

Sau đó, hắn đánh hơi thấy không khí có chút gì lạ lạ, nhưng vẫn chưa thể ngửi ra được cái lạ đó là gì. Hắn nhìn thấy cô gái mặc bộ đồ ôm sát màu đen, thắt đai lưng màu trắng, vóc người xinh đẹp, ném ngọn đuốc đang cầm trên tay về phía trước, động tác rất nhẹ nhàng sau đó vang lên một tiếng “phừng”, trước mặt Gia Luật Văn đã biến thành một biển lửa.

“A! A! A!...” Tất cả đám thị vệ đều bị biển lửa bao vây, phía trước mặt là lửa, cả con đường cũng là lửa, ngọn lửa cao như một đóa hồng liên, hơi bốc lên ngùn ngụt, tất cả những người trong đám lửa cũng như biến thành người lửa.

“Tại sao có thể thế này, sao lại thế?” Gia Luật Văn kinh ngạc chưa hiểu gì, phu xe hoảng loạn run rẩy thúc ngựa, muốn dùng vó ngựa nhảy ra khỏi vòng lửa, nhưng một tiếng kêu xé gió đã vang đến. Phu xe cũng là một cao thủ bắn cung, hắn rất rõ tiếng động đó tuyệt đối không phải là tiếng cung tên bắn tới mà là nỏ, là liên nỏ, một thiết nỏ có mười mũi tên.

Phu xe cúi người xuống, hắn phát hiện người bắn thiết nỏ đó không phải là người, mà là ngựa. Ngựa hý một tiếng dài, rên rỉ, tên phu xe và một tên hộ vệ trên xe ngã xuống đất, lập tức bị nuốt vào vòng lửa.

Tiếng kêu thê lương như tiếng quỷ vọng lên bốn phía, Gia Luật Văn ngồi trong xe, tạm thời tránh khỏi bị lửa thiêu, nhưng bốn phía đều là biển lửa, màn cửa đã bị cháy rồi, hắn không thể tiếp tục ngồi trên xe được nữa. Gia Luật Văn gầm lên một tiếng, xé đôi tấm đệm ngồi dùng che mặt, rồi hắn thả người nhảy xuống đất.

Hắn đã không thể quay đầu nữa rồi, lửa đã bốc lên rất mạnh, cả mặt đất đều là biển lửa, hắn cũng không thể chạy đến hết đường được, như vậy chỉ có cách chôn thân trong biển lửa. Hắn biết rằng phía trước có cô gái mặc áo đen đang đứng, và ít nhất một nỏ thủ đang núp trong bóng tối, nhưng hắn không còn sự lựa chọn nào khác.

Gia Luật Văn bước nhanh về phía trước, đụng ngay phải một tên thị vệ người đầy lửa, chạy đến đâu cũng đụng phải thị vệ, Gia Luật Văn chạy nhanh về phía trước. Cả râu và tóc của hắn đều bị lửa đốt, hai chân đã bị lửa liếm vào mà hắn hoàn toàn không để ý. Hắn không thể chết ở đây, không thể chết dễ dàng trong tay một người con gái. Hắn phải lên làm vua, hắn phải trở thành một vị hoàng đế vĩ đại nhất của Khiết Đan. Hắn phải đánh cả Trung Nguyên, thống nhất thiên hạ, đó là sự sắp đặt của thiên mệnh rồi. Hắn làm sao có thể chết được? Làm sao có thể chết thế được?

Cơ thể hắn bắt đầu đau, hai mắt cũng không mở được ra nữa. Gia Luật Văn cuối cùng cũng chạy ra khỏi được vòng lửa, cảm giác thấy được sự mát mẻ trước mặt. Hắn biết rằng mình đã thoát khỏi biển lửa, hai mắt hắn mở to và trông thấy một cô gái tóc đen dài tung bay trong gió, trong tay cầm một sợi dây mảnh. Sợi dây đó chắc là được làm từ kim loại, vì bị lửa liếm qua mà nó cũng không hề bị đứt.

Nàng đang đứng nhìn Gia Luật Văn chạy khỏi vòng lửa như hỏa nhân mà cười. Nụ cười vẫn đẹp như thế nhưng Gia Luật Văn nhìn thấy tựa như thấy ma quỷ, chỉ thấy tay nàng nhấc lên, dùng lực kéo, sợi dây trong tay nàng giống như một tấm lưới mảnh. Gia Luật Văn ngó theo, chỉ thấy bên ngoài vòng lửa là những sợi dây mảnh được kéo từ bên nọ sang bên kia, lúc này đây hắn mới phát hiện trên đầu tường có vài cái hũ. Như vậy là bóng đêm đã che mắt khiến hắn không nhìn rõ, bây giờ nhờ có ánh lửa hắn mới trông được tường tận.

Sợi dây kéo một cái, chiếc hũ rơi xuống đất vỡ tan tành, dầu từ trong hũ tràn ra khiến ngọn lửa càng thêm cháy mạnh. Lửa bốc lên cao càng khiến Gia Luật Văn tức giận, hai cây nỏ dài tám tấc cắm trúng vào ngực hắn. Nỏ cực cứng, xuyên vào trong người hắn, đem theo Gia Luật Văn ngã ngược trở vào đống lửa đó.

Hắn không cam lòng mà trừng mắt nhìn cô gái mặc y phục đen, da đầu hắn bị cháy trụi, mặt đầy bọt máu, trông hắn giống như một con quỷ, cố nắm lấy cây đao chống giữ mà hít mạnh, kêu gào thảm thiết. “Phực, phực” lại thêm hai cây nỏ sắt cắm thẳng vào người hắn, Gia Luật Văn lộ ra một nụ cười còn khổ sở hơn khóc, khắp mặt đầy những bọt máu, dữ tợn vô cùng.

Gia Luật Văn từ từ ngã xuống, lửa tràn ra, đôi chân hắn đã bị lửa nuốt hết, thiêu dần cơ thể hắn từng tí từng tí một. Hắn đã không còn lực để di chuyển nữa, mắt hắn dần ảm đạm rồi trắng bệch. Bốn cây nỏ sắt xuyên thủng người hắn, giờ thì đến thánh cũng không thể cứu nổi mạng hắn nữa rồi. Mà cô gái kia, từ đầu chí cuối vẫn còn chưa động thủ với hắn.

Một người từ phía trước thôn chạy lên, đem đống nỏ sắt trên tay thả vào biển lửa, cô gái nọ quay người đi, thản nhiên dặn dò: “Đem hắn vứt lại vào lửa để thiêu thành tro luôn”.

Người đàn ông nọ chạy về phía trước. Gia Luật Văn đến chết vẫn nhìn trân trân vào nàng, nhưng nàng đã quay người bước đi. Gia Luật Văn từ đầu chí cuối vãn chưa được nhìn rõ dung mạo của nàng, thân hình uyển chuyển, đúng là “sơn cao nguyệt tiểu, thủy lạc thạch xuất”, so với nhiều mỹ nữ Trung Nguyên thì các đường nét của nàng đều rõ ràng, nhưng Gia Luật Văn chỉ có thể nhìn được dáng đằng sau của nàng mà thôi.

Đôi bông tai bằng ngọc đen khéo léo tinh xảo rủ xuống trên đôi tai nàng. Trên đôi bông tai có một đường vân kỳ dị như hai mắt rắn, đôi khuyên đó như sáng lên nhờ đống lửa đang cháy ngùn ngụt. Cổ nàng xinh đẹp như thiên nga, làn da trắng nõn nà như được làm bằng ngọc, đôi khuyên tai mắt rắn đen càng làm cho nàng thêm đẹp, vẻ đẹp khiến người ta phải kinh sợ…

Một đôi chân che lấp tầm nhìn của hắn, đôi chân đó không quan tâm đến địa vị quý tộc cao quý của hắn mà cho hắn ngay một cước vào mặt. Có tiếng mũi bị gãy, cả phần người còn lại của Gia Luật Văn bị đá vào trong biển lửa.

Bốn bề đều là lửa cháy rừng rực, sáng vô cùng, hắn đã vĩnh viễn chìm vào trong bóng tối rồi… không còn hơi thở nữa, ngọn lửa đã nuốt gọn cả người hắn, nuốt luôn cả bản liên minh hắn ôm trong lòng…

“Quốc vương, quốc vương…”

Dạ Vũ thở hổn hển chạy vào Thanh Lương điện, Lý Dục tâm trạng không thoải mái một chút nào. Hắn tuy đã ký hiệp ước với Gia Luật Văn, cố lấy dũng khí mà sống, vì bá nghiệp chiến tranh với Tống, nhưng trong lòng vẫn thắc thỏm không yên, đến thơ ca là thứ hắn vốn yêu thích mà giờ cũng cảm thấy không còn hứng nữa.

Lý Dục đang suy nghĩ mông lung, muốn viết thư mời tiểu sư phụ trong Kê Minh Tự vào cung bốc quẻ xem cát hung tiền đồ thế nào thì thấy Dạ Vũ hớt hải chạy tới. Lý Dục thấy chắc hẳn đã xảy ra chuyện gì nên vội hỏi: “Đã xảy ra chuyện gì?”

Dạ Vũ thở hổn hển, chỉ ra phía bên ngoài nói: “Gia… Gia…Gia Luật sứ trên đường hồi cung đã bị giết, Trường Hạng hóa thành biển lửa, ba mươi sáu người hộ vệ, một người phu xe, hai con ngựa, toàn bộ đều bị chôn vùi trong biển lửa. Ai cũng bị cháy thành tro, thật là thảm quá, không chừa lại một cái gì…”

“Bịch!” Lý Dục như cái bao bị cắt đứt dây, rên lên một tiếng rồi ngồi phịch xuống ghế, sau đó mới nhảy lên như một quả bóng da, nói: “Hoàng Phủ Kế Huân tên khốn ấy đang làm gì? Quả nhân đã gọi hắn đi trông coi nhà Tống sứ mà hắn lại để xảy ra việc báo thù này, làm sao… làm sao có chuyện này được chứ. Quả nhân phải trị tội hắn, quả nhân muốn diệt cả nhà hắn!”

Lý Dục tức khí nói, Dạ Vũ mặt mày đầy mồ hôi, run rẩy nói: “Quốc vương, nay làm thế nào bây giờ? Sứ giả nước Tống và sứ giả Khiết Đan đều bị chết trên đất nhà Đường, chúng ta… chúng ta phải làm sao cho phải?”

“Có liên quan gì đến quả nhân?”

Lý Dục vung tay, nói năng loạn xạ: “Sứ giả Khiết Đan giết sứ giả nhà Tống… sứ giả nhà Tống báo thù sứ giả Khiết Đan, quả nhân đối đãi với bọn họ như thượng khách, bọn họ làm sao lại giết tới giết lui… chẳng có liên quan gì tới quả nhân”

Hắn đi đi lại lại trong điện hai vòng, cũng biết rằng những lời nói đó không thể nào ứng phó được với Khiết Đan và quân Tống, hắn tức giận đạp một cái xuống đất rồi quát: “Mau triệu Từ Toàn và Trần Kiều đến!”

“Rõ!” Dạ Vũ lật đật định chạy đi thì đã bị Lý Dục quát gọi lại: “Truyền chỉ, dặn Hoàng Phủ Kế Huân đối với đoàn nhà Tống ôn hòa một chút… chớ có quá đáng làm bọn chúng tức giận”.

Hôm nay hắn vốn đã ký hiệp ước với Gia Luật Văn, trong lòng vốn đã định theo Khiết Đan, nhưng nay Gia Luật Văn đã chết, Lý Dục thấy nhà Tống báo thù kinh hãi như vậy trong lòng lại dần ngả về phía Tống. Dũng khí vừa mới được nhem nhóm lên lại bị dập tắt, hắn lại trở nên sợ làm người Tống tức giận.

*****************************

Dương Hạo bị hành thích rồi chết cháy trên thuyền, ngay sau đó thái độ của nhà Đường có thay đổi, Tiêu Hải Đào vừa tức vừa bực, đi tìm Hoàng Phủ Kế Huân kháng nghị. Nhưng Hoàng Phủ Kế Huân chỉ cười cười, mắng cũng không sợ, đánh cũng không giận, còn ra lệnh đoàn nhà Tống không được rời khỏi dịch quán, binh sĩ nhà Đường bao vây hết đoàn nhà Tống lại chẳng khác nào giam lỏng họ.

Tiêu Hải Đào không làm gì được, chỉ có thể quay về dịch quán, tỉ mỉ xem xét thái độ của nhà Đường, cảm thấy ắt phải có nguyên nhân gì đó. Hắn bèn tìm Chương Đồng Châu thảo luận đối sách, hai người nói với nhau hồi lâu mà vẫn không đưa ra được ý gì.

Chương Đồng Châu thân là quan võ nhưng lại để đại sứ nhà mình mất mạng, tự cảm thấy tội mình rất nặng, không biết làm gì hơn ngoài than ngắn thở dài: “Dương trái sứ chết thảm quá, ta lại không làm gì được, mất hết thể diện nhà Tống. Lần này quay về nhất định sẽ chịu tội với triều đình, làm thế nào đây?”

Tiêu Hải Đào cũng lộ vẻ lo lắng: “Ta đợi trừng trị thì cũng phải rồi, hôm nay thấy nhà Đường trở mặt quá, ta e rằng Lý Dục đã sợ hãi bọn Khiết Đan kiêu ngạo rồi”.

Người Khiết Đan hào khí hừng hực như thế, e rằng không có lợi cho ta. Chỉ sợ rằng… việc đi sứ lần này của chúng ta chẳng thành được việc nào, lần này về cung ắt tội cũng không nhẹ đâu…”

Chương Đồng Châu than thở nói: “Mất chức quan thì mất vậy, hiện giờ người Đường sợ chúng ta sẽ đi báo thù người Khiết Đan nên canh chúng ta như phạm nhân. Bản quan cũng thôi, đại nhân ngài có biết không, bản quan ở dưới trướng những lão gia đó, ở Khai Phong vốn là tiền thị vệ, coi trời bằng vung, kiêu ngạo nhận chiếu đến nước Đường, có trái sứ là chỗ dựa. Vốn thường diễu võ dương oai không ai bì được, nay lại bị coi như tù nhân thế này, bảy người không phục tám người không cam lòng, đến cái tên coi chúng ta mắt không ra mắt mũi không ra mũi. Ôi, bản quan là một nam tử hán mà để ta phải chịu nhục như thế thật mất mặt quá!”

Tiêu Hải Đào càng nghe càng thấy phiền muộn, hắn đứng dậy đi vài bước, nhận thấy tình cảnh trước mắt đang vô cùng khó khăn. Đột nhiên cảm giác được bên ngoài có động, hắn nhòm ra ngoài cửa sổ, chỉ thấy bọn lính gác đã rời khỏi sân, không nén được kinh ngạc mà thốt lên: “Đã xảy ra chuyện gì vậy?”

Chương Đồng Châu nhảy ra sân xem, nói: “Để ta đi dò xét xem sao”.

Chương Đồng Châu đi chưa đầy một tuần nhang đã vui vẻ trở về, kích động nói: “Tiêu thừa đại nhân, Gia Luật Văn chết rồi, ha ha ha, Gia Luật Văn chết rồi”.

Tiêu tự thừa không dám tin vào tai mình, kinh ngạc hỏi: “Gia Luật Văn chết rồi? Làm sao lại thế được?”

Chương Đồng Châu cười nói: “Ai dám đem chuyện này ra đùa chứ, là do chính miệng Hoàng Phủ Kế Huân nói đó. Ha ha, người như hắn đúng là loài rắn độc, vừa nhìn thấy bản quan đã vội xun xoe nịnh nọt. Hắn tuy không dám nói hẳn ra là chúng ta đã phái người đi giết Gia Luật Văn nhưng ta nhận thấy bọn chúng nghĩ rằng Gia Luật Văn bị chết bởi tay chúng ta. Xem thái độ cung kính sợ sệt của hắn thật bản quan chỉ muốn cười to lên thôi”.

Tiêu Hải Đào vội la lớn: “Chương đại nhân, Gia Luật Văn cuối cùng bị chết như thế nào? Ngài mau nói cho ta nghe rõ”.

Chương Đồng Châu kể lại câu chuyện mà hắn nghe được từ Hoàng Phủ Kế Huân thuật lại cho Tiêu Hải Đào, Tiêu Hải Đào nghe xong mới tin, cũng kinh ngạc không kém mà rằng: “Là ai đã giết Gia Luật Văn? Cuối cùng mục đích của bọn chúng là gì?”

Chương Đồng Châu cười nói: “Chẳng cần biết là ai đã giết, nhưng hắn đã chết, đó là chuyện đáng mừng”.

Lúc này trong sân đoàn sứ giả nhà Tống ai nấy đều đã biết tin, tiếng hoan hô dội lên như sấm, Tiêu Hải Đào đứng ở cửa sổ, sung sướng nhìn bọn lính reo hò. Còn bên sân dịch quán của sứ giả Khiết Đan chỉ thấy rất nhiều binh sĩ nhà Đường tiến đến như muốn đàn áp hỗn loạn.

Tiêu Hải Đào quan sát một lúc lâu, ánh mắt lấp lánh, càng ngày càng trầm xuống. Hắn quay người lại, nói với Chương Đồng Châu đang vui mừng hớn hở: “Gia Luật Văn chết như thế tất nhiên là chuyện đáng vui mừng, nhưng… có giúp ích được gì cho tướng quân và ta?”

Chương Đồng Châu kinh ngạc hỏi: “Đại nhân nói vậy là có ý gì?”

Tiêu Hải Đào trầm giọng nói: “Dương trái sứ đã mất.. chúng ta vẫn không thoát khỏi bị triều đình trừng trị. Cái chết của Gia Luật Văn tuy không phải chúng ta làm nhưng ắt cũng khó mà chối cãi, chúng ta làm sao có thể giấu được mọi người, sao giấu được hàng trăm binh lính?”

Chương Đồng Châu ánh mắt sáng lên, rồi nói: “ Đại nhân nhất định là có kế rồi, hạ quan đang lắng nghe đây”.

Tiêu Hải Đào cười trầm, từ từ nói: “Đại nhân có biết câu chuyện của Ban Siêu không?”

Chương Đồng Châu đảo mắt hỏi: “Ban Siêu là ai?”

Tiêu tự thừa nói: “Ban Siêu là một vị sứ giả triều Hán, có một lần hắn dẫn ba mươi sáu binh lính đi sang sứ Trịnh Thiện, Trịnh Vương mới đầu đối xử với hắn rất hòa nhã, lễ phép, sau đột nhiên đổi thái độ, trở nên lạnh nhạt. Ban Siêu phát hiện ra sự khác thường, biết được sứ giả Hung Nô cũng đã tới, Hung Nô là quân địch của nhà Hán, nhưng Thiện vương lại hướng theo Hung Nô, trở nên lạnh nhạt với nhà Hán, thậm chí còn có dã tâm giết chết. Ban Siêu sai người phóng hỏa, vài người tấn công kẻ địch, đem quân mai phục hai bên sườn quân địch, lợi dụng đêm tối để tấn công, giết sạch bọn sứ giả Hung Nô, Trịnh Thiện thất kinh không dám lung lay ý định nữa, chỉ có thể một lòng một dạ quy thuận nhà Hán.”

Chương Đồng Châu chợt hiểu, không nén được mà kêu lên: “Tiêu đại nhân nói đến chuyện Ban Siêu là muốn ám chỉ muốn tập kích sứ giả Khiết Đan?”

Tiêu Hải Đào cười cười không đáp, Chương Đồng Châu nghĩ một lát rồi do dự nói: “Tiêu đại nhân, tình thế khó khăn của chúng ta hôm nay so với câu chuyện ngày trước của Ban Siêu không giống nhau, bắt chước giống như thế e rằng sẽ làm mọi chuyện nhốn nháo lên không cách nào cứu vãn”.

Tiêu Hải Đào ung dung cười: “Đến hôm nay đã không thể cứu vãn lại rồi, Gia Luật Văn đã chết, mặc cho ngài cho giải thích thế nào thì người Khiết Đan và triều Đường cũng nhất định quy trách nhiệm lên đầu ngài. Hôm nay ngài cũng đã nhìn rõ rồi đấy, Gia Luật Văn vừa mới chết, Lý Dục đã thay đổi hắn thái độ với chúng ta, sứ giả Khiết Đan đã chết rồi thì giết thêm vài tên lính tôm tép có là gì? Còn về phía quan gia thì cũng chỉ có một cái đầu, thò ra cho quan gia chặt một nhát là xong, chúng ta cũng chỉ có con đường đó mà thôi”.

Chương Đồng Châu trầm ngâm một lúc, cắn răng một cái rồi cương quyết:

“Cứ làm thế đi!”

Nguồn: http://4vn.eu/forum/showthread.php?71274-Lich-Su-Quan-Su-Bo-Bo-Sinh-Lien-Nguyet-Quan-Full-Text&page=77#ixzz201iSwtP6

Chương 361: Loạn chiến (5)

Gia Luật Văn đã chết!

Nghe được tin này, Đinh Thừa Nghiệp dường như không thể tin nổi vào tai mình được nữa. Gia Luật Văn chết rồi, làm sao có thể như thế được? Cứ cho tin đó là do bên kia truyền đến thì nếu lão vương gia thành công trong việc soán ngôi vị thì tính sao đây? Bọn đó sẽ sống sờ sờ ra vui vẻ, chỉ còn Gia Luật Văn là yểu mệnh nơi đất Đường, nếu như quay về Khiết Đan, bọn hắn ắt sẽ chẳng thể được hưởng vinh hoa phú quý mà đón tiếp bọn hắn sẽ chỉ là lưỡi dao sắc bén.

Đinh Thừa Nghiệp khập khiễng đứng lên, thu dọn ít ngọc ngà châu báu mà vua Đường đã tặng cho Gia Luật Văn, giắt vào người rồi tính đường chạy khỏi đây. Hắn không dám quay lại Khiết Đan, Nhạn Cửu trước khi chết đã giao cho đi tìm người họ Lư kia mà hắn vẫn chưa gặp, trong lòng từ lâu cũng đã thôi nuôi hy vọng. Những hồi ức về một thưở anh hùng đầy tráng khí đã không còn, hắn không cầu được là một nhị gia họ Đinh oai hùng như xưa nữa mà chỉ hy vọng có cơm ăn áo mặc sống qua ngày bình dị là được.

Bọn lính trong dịch quán nghe tin Gia Luật Văn đã chết thảm, ai nấy cũng đều tức giận muốn đi tính sổ với bọn nhà Tống, nhưng đã bị Hoàng Phủ Kế Huân chặn lại. Bọn lính này như rắn mất đầu, sau khi trở về thì cũng chỉ biết uống rượu mà thôi. Rượu chất đầy sân, chúng uống say rồi lại quay ra đánh mắng nhau, biến cả cái sân mỹ lệ thanh tú trở thành một nơi không ra gì.

Đinh Thừa Nghiệp lạnh lùng quan sát, mặc dù không ra mặt ngăn cản nhưng cũng không có cơ hội để đào tẩu. Hắn giờ không thể thoát được… vết thương ở chân vẫn chưa khỏi, tỷ tỷ còn đang rình mò đuổi theo hắn, hắn mà chạy thì tỷ tỷ ắt sẽ tìm ra hắn, lúc này xuất thành còn có thể đi đâu được nữa?

Trằn trọc cả đêm, Đinh Thừa Nghiệp nhớ lại từ đầu, dường như tất cả đều bắt đầu từ việc Nhạn Cửu tranh đoạt địa vị của nhà họ Đinh. Hắn không thể nào nhấc nổi cái chân bị thương lên, cắn răn chịu đau. Nếu như hiện tại Nhạn Cửu còn sống trước mặt hắn thì Đinh Thừa Nghiệp nhất định sẽ không do dự mà bóp chết hắn để làm tan mối hận trong lòng.

Nửa đêm, khi Đinh Thừa Nghiệp đang dần chìm vào giấc ngủ thì đột nhiên nghe thấy tiếng động xôn xao. Hắn giật mình cảnh giác, lập tức đứng thẳng dậy, bò ra ngoài cửa sổ để nhìn ra ngoài thì chỉ thấy tại dịch quán của bọn Tống, lửa đốt cháy sáng một góc, quân trị an nhà Đường đều đã có mặt.

Đinh Thừa Nghiệp chẳng hiểu gì cả, lẽ nào trong dịch quán của người Khiết Đan lại có người lợi dụng bóng tối đi sang đánh lén người Tống? Đinh Thừa Nghiệp mới nghĩ đến đây thì nhận ra trong đội quân điều động của nhà Đường để ra một chỗ trống cho hắn nhìn rõ trong sân nhà Tống đang tiêu diệt một trạm gác ngựa. Mỗi người tay cầm đuốc, tay cầm đao, vọt nhanh như bay về hướng sân bên này.

Đinh Thừa Nghiệp há mồm cứng lưỡi, phải một lúc sau hắn mới tỉnh, lập tức mặc quần áo rồi đến nửa đêm mới ngủ, quần áo chỉnh tề. Hắn mặc áo khoác, chân đi giày, khập khiễng chạy đến cửa phòng, bốn bề sân là tiếng hô đòi giết của cấm vệ quân nhà Tống. Dưới sự chỉ huy của Tiêu tự thừa và Chương tướng quân, bọn chúng tiến vào sân Khiết Đan, gặp ai là giết.

Người Khiết Đan uống rượu tốt, bình thường có Gia Luật Văn ở cạnh không ai dám uống quá nhiều. Nhưng đêm nay chúng đang mượn rượu giải sầu, lại không có ai ngăn cản nên rất nhiều người uống say quên trời đất. Bọn chúng chỉ muốn xông vào sân nhà Tống để giết người chứ ai dè đâu quân nhà Tống lại tàn nhẫn như thế. Gia Luật tướng quân và ba mươi sáu lính hộ vệ đã bị thiêu chết hết bọn chúng không thôi thì chớ lại nhân cơ hội đêm tối mà cử một phái đoàn hung ác tới tiêu diệt hết bọn người ở đây.

Trở tay không kịp, rất nhiều lính Khiết Đan đang say giấc bị chặt đầu. Có người còn kịp nhổm dậy, quần áo xộc xệch, vũ khí không có cũng bị thảm bại dưới tay nhà Tống. Mấy hôm trước, chỉ huy dưới của nhà Tống còn bị người Khiết Đan làm nhục, nếu như không có Dương Hạo ra tay giúp bọn chúng thì thật là mất mặt quá. Đêm nay tuy là báo thù cho Dương Hạo nhưng cũng là trút giận cho bản thân nên bọn lính ra sức chặt chém như đang giết dê giết cừu không bằng.

Hoàng Phủ Kế Huân không ngờ lại xảy ra chuyện ngoài ý muốn như thế, vừa nhìn thấy trong dịch quán của nhà Tống có lửa hắn đã sợ muốn thót tim, vội sai quân đến dập lửa. Khi chạy đến sân nhà Tống thì đã thấy trong sân chất hàng đống củi khô, lửa cháy rừng rực, nhưng tiếng kêu lại xuất phát từ phía sân của nhà Khiết Đan. Hoàng Phủ Kế Huân biết đã bị mắc lừa bèn dẫn quân về ngay lập tức.

Hắn vừa mới đứng trước dịch quán của người Khiết Đan đã thấy Tiêu Hải Đào cả thân mặc quan bào, đầu đội mũ quan, thắt đai lưng màu bạc, tay cầm cây chổi lông gà, tay kia đang kéo rìu sáng loáng, hình thù kỳ dị như một cao tăng Đại Đường, mới biết cái hắn đang cầm chính là khâm sai lễ tiền.

Hoàng Phủ Kế Huân còn chưa nói gì thì Tiêu Hải Đào đã nói lớn: “Người Khiết Đan giết khâm sai của chúng ta, bản quan hôm nay đến làm rõ sự việc. Trong tay ta là lễ tiền của nước Tống, nếu như nước Đường vẫn là nước chư hầu của nhà Tống thì hãy ngoan ngoãn lui ra một phía. Còn nếu như Hoàng Phủ tướng quân muốn giúp cho người Khiết Đan ra khỏi đây thì hãy bước qua xác ta đã”.

Hoàng Phủ Kế Huân vừa nghe thấy thế lập tức vội tỏ thái độ trung lập.

Đinh Thừa Nghiệp thấy vậy liền chạy ra khỏi phòng ngủ tìm chỗ trốn, hắn nép mình vào trong phòng, chỉ hé ra một chút nhìn lính nhà Tống đang dùng đao lùng sục khắp nơi tìm kiếm, không bỏ sót một chỗ nào. Trong tình hình cấp bách đó, hắn chợt thấy một bộ váy hoa treo đằng sau cánh cửa liền vội vàng lấy mặc vào người, đánh rối tóc lên, bôi một chút bụi tro lên mặt và chạy lại góc tường.

Đến khi lính nhà Tống chạy đến lùng sục, Đinh Thừa Nghiệp mới bắt đầu lên giọng run rẩy cầu xin: “Xin các quan lớn tha mạng, tiểu nhân chỉ là người lo việc nấu nướng củi lửa ở đây không biết gì hết, tiểu nhân là người Hán, không phải là bọn cẩu Khiết Đan đâu ạ”.

“Hả?” Bọn lính tròn mắt soi đuốc lại gần để nhìn rõ mặt Đinh Thừa Nghiệp.

Đinh Thừa Nghiệp từ khi đến cung nhà Đường vốn ít khi xuất đầu lộ diện nên bọn lính không có ấn tượng gì với hắn, lại thêm diện mạo của bọn chúng lại không giống người Khiết Đan, nói tiếng Hán rõ ràng nên bèn nói: “Bọn cẩu Khiết Đan đều phải giết sạch, thôi tha cho cái mạng mi, mau cút đi”.

Đinh Thừa Nghiệp thở dài nói: “Bên ngoài đang chém giết động trời, tiểu nhân sợ nhũn cả chân ra, quả thực không dám nhúc nhích”.

Bọn lính thấy vậy cười ha hả, đá cho hắn một cái mà rằng: “Đúng là chẳng được cái tích sự gì, vậy thì ngươi ngồi ở góc tường ấy, đợi đại nhân đây giết sạch bọn Khiết Đan rồi thì ngươi đi cũng không muộn, haha…”

*******************************

Lý Dục cho gọi Trần Kiều và Tử Đích đến nói chuyện đến khuya, tất cả bọn chúng đều bị nhà Tống dọa cho sợ chết khiếp, ý chí bắt đầu dao động. Trần Kiều khuyên giải hắn: “Quốc vương chớ quá lo nghĩ, theo ý của thần thì Gia Luật Văn đã chết, việc này đối với chúng ta càng có lợi. Bản hiệp ước trong tay Gia Luật Văn đã bị tiêu hủy, còn bản trong tay chúng ta vẫn còn nguyên vẹn. Chúng ta sẽ viết một bản hiệp ước khác có lợi cho đôi bên mà không bị hủy do người đã chết. Người bị chết là Gia Luật Văn, triều đình Khiết Đan ắt sẽ phải chọn người khác lên làm vua. Chúng ta có thể ngồi im quan sát động tĩnh mà tùy cơ ứng phó. Nếu như chúng ta không thành công, quân Tống đem quân Bắc phạt thì chúng ta cũng không ngại mà hợp tác với bọn Khiết Đan. Người Khiết Đan tuy cũng có âm mưu làm bá chủ Trung Nguyên nhưng theo thần thấy thì quân Tống rất tinh nhuệ, dễ gì đối phó? Người Khiết Đan cũng muốn làm chủ Trung Nguyên, hai bên tranh chấp với nhau sẽ là cơ hội cho nước Đường dấy binh quật khởi, không thể bỏ qua. Nếu như bọn chúng không thể thắng được nước Tống thì cũng làm gì có ai biết được chúng ta đã từng ký hiệp ước với Khiết Đan cơ chứ?”

Lý Dục nghe mà gật đầu lia lịa, cảm thấy đắc ý. Hắn cảm thấy mưu kế này rất lợi hại. Chợt một tên nội thị chạy vội vàng vào, vừa thở hổn hển vừa bẩm báo: “Quốc vương, quốc vương, sứ giả nhà Tống Tiêu Hải Đào xin cầu kiến”.

“Ta không gặp!” Lý Dục vênh mặt nói: “Đêm hôm khuya khoắt, quả nhân còn tiếp hắn làm gì? Đây là nơi nào? Hoàng Phủ Kế Huân đúng là hỗn tướng, hắn đã phái binh đến mà vẫn để cho lính Khiết Đan và lính nhà Tống làm loạn, chẳng làm được việc gì nên hồn. Đây là lúc nên cho hắn giải thể, nếu như tên sứ thần nhà Tống này lại bị bọn Khiết Đan giết chết, hết tên này đến tên khác thì ta còn mặt mũi nào nữa mà sống?”

Tên nội thị liền chạy đến nói nhỏ vào tai Lý Dục điều gì đó, Lý Dục nghe mà đờ đẫn cả người, mặt đỏ gay lên, hét lên một tiếng tức giận, đập mạnh tay xuống bàn khiến mặt bàn bàn bằng ngọc vỡ tung tóe. Lý Dục giận đến run người, quát lớn: “Cường đạo, một lũ cường đạo. Hắn dám gây chiến ở ngay trên đất Đường, đánh đánh giết giết, trong mắt chúng còn có vua Đường hay không? Còn có vị vua của Giang Nam này nữa hay không?”

Tử Đích, Trần Kiều nhìn nhau, tên nội thị thấy Lý Dục đang nổi cơn lôi đình bèn sợ hãi nói: “Đúng đúng đúng ạ, nô tài sẽ đi mời hắn quay về, ngày mai hẵng quay lại”.

“Chậm đã!” Lý Dục ngực phập phồng, cố nén cơn giận, hồi lâu sau mới khoát tay nói: “Mời.. Tống sứ lên điện gặp trẫm”.

“Tiểu sư phụ, quả nhân có việc lớn khó giải quyết. Nay người Bắc kéo đến, ai là bạn ai là thù, hai bên đều có dã tâm như hổ như báo, quả nhân không thể quyết định được. Tiểu sư phụ phật pháp uyên thâm, nghe được ý trời, có thể giúp quả nhân thoát khỏi bên mê không?”

Mới sáng sớm đã xong buổi triều. Lý Dục vội vàng đến Kê Minh tự, tìm cơ hội gặp Bảo Kính đại sư, một vài cao tăng và Bích Túc đến hỏi chuyện.

Bích Túc vừa nghe vừa nghĩ, điều này sao giống hắn thế, nói chuyện hai lời, mơ hồ không rõ ràng. Hắn làm hoàng đế không sướng lại cứ thích giả trang làm hòa thượng.

Bích Túc vội quay trở lại những điều đang suy nghĩ trong đầu, đột nhiên cười rồi ra vẻ cao thâm nói: “Quốc vương chớ có lấy nước xa mà cứu lửa gần, bà con xa không bằng láng giềng gần”.

“Nước xa khó cứu được lửa gần. Bà con xa không bằng láng giềng gần?”

Lý Dục lẩm nhẩm lại hai lần, rồi chần chừ nói: “Cái này… quả nhân hiểu ý của cao tăng rồi, chỉ là vị láng giềng gần này cũng không phải là tốt, theo ý quả nhân thì cái bà con xa cũng rất khó chơi, quả nhân có ý với tới bà con xa, không biết có được không?”

Bích Túc thầm chửi trong bụng: “Mẹ kiếp, đã có ý định thế rồi còn hỏi ta làm gì, định trêu tức ông nội ngươi à?”

Nhưng ngoài mặt hắn vẫn vờ không lộ cảm xúc, từ tốn nói: “Con hổ ở núi xa dù dữ nhưng còn dễ chơi hơn con sói ở gần, nó có thể nuốt tươi quốc vương bất cứ lúc nào. Chớ có để họa xảy ra ngay bên cạnh rồi mới lo. Tiểu tăng là người xuất gia không biết ăn nói, Quốc vương có thể suy nghĩ xem, trong vòng mười ngày là phải dứt khoát”.

Lý Dục nghe hắn nói như vậy thì không khỏi dao động: “Trong vòng mười ngày là phải dứt khoát ư?”

Bích Túc mắt nhòm mũi, mũi nhòm tâm, không nói thêm một lời nào nữa”.

Lý Dục đành phải chắp tay nói: “Đa tạ chỉ giáo của tiểu sư phụ, quả nhân trong vòng mười ngày tới xem động tĩnh thế nào rồi sẽ nói tiếp”.

Bích Túc cười thầm trong bụng: “Cứ đi mà xem tình hình đi. Hiện giờ tình thế đang nguy cấp, đại nhân cũng đang biệt tích ẩn thân, qua vài ngày nữa ta sẽ dỗ tiểu sư thái đi theo ta lên Thiếu Hoa Sơn hưởng phúc, đại sư cho phép hay không cũng kệ, ta chẳng có liên quan gì nữa”.

Cung tiễn Lý Dục xong, Bích Túc quay người tiến vào điện Công Đức, vừa vào đến điện đã thấy hương bay nghi ngút, một tên hòa thượng đang níu níu kéo kéo một nhi nữ. Bích Túc vừa thấy đã nổi giận, bước nhanh lại nói:

“Thành Không to gan, ngươi dám ở đây níu níu kéo kéo vị cô nương này, còn ra thể thống gì”.

Tên hòa thượng nọ thấy Bích Túc liền vội vàng chắp tay nói: “Thành Không không dám phạm giới. Vị cô nương này đang ở trong điện Công Đức lập bài vị thắp hương, nhưng theo quy định của Kê Minh tự thì muốn lập bài vị thắp hương phải nộp một nghìn quan tiền. Cô nương này không đủ tiền, tiểu tăng không đồng ý nên mới có tranh chấp đấy ạ”.

Bích Túc quay ra nhìn cô gái, đó là một người dáng cao, lông mày lá liễu, mũi thon, có dáng dấp mềm mại mà cương quyết. Nàng mặc một bộ quần áo trắng như tuyết, tuy không phải là áo tang nhưng trông giống một người đang có tang.

Trước nay một người con gái dẫu chỉ có năm phần tư sắc thì cũng đã hết sức xinh đẹp rồi, huống hồ cô gái này thân hình đẹp đẽ, đường nét xinh đẹp, Bích Túc vừa gặp đã ngay lập tức phải hòa nhã, chắp tay thi lễ rồi nói với cô gái: “Không biết vì sao nữ thí chủ muốn lập bài vị ở điện Công Đức này?”

Trông thấy vị hòa thượng trẻ tuổi mà đã là phương trượng này, cô nương nọ cũng hơi kinh ngạc, đợi đến khi Bích Túc hỏi xong thì nàng thấy cũng không cần thiết phải nói lại nỗi đau của nhà mình ra. Mắt đỏ hoe, nàng nhẹ nhàng đáp: “Phương trượng đại sư, tín nữ muốn thay gia huynh lập bài vị ở đây. Gia huynh tôi gặp tai nạn chết thảm. Khi sinh thời huynh ấy luôn hướng thiện, nhưng không rõ sao lại gặp phải tai họa như vậy. Tín nữ tôi rất đau lòng, nghe nói Kê Minh tự là ngôi chùa lớn nhất Giang Nam, hương khói nghi ngút, tín nữ muốn lập bài vị gia huynh tại đây để nhà chùa cầu phúc siêu độ cho huynh ấy sớm về miền cực lạc. Chỉ là trong túi tôi chỉ còn có tám trăm quan, mong Phương trượng đại sư từ bi đại đức cho phép gia huynh tôi được lập bài vị ở đây, tín nữ nhất định sẽ dâng hương dầu cho nhà chùa”.

Bích Túc nghe xong liền nhìn xuống tay cô gái, thấy trong tay nàng đang cầm một chuỗi vòng ngọc cùng vài vật linh tinh khác, hiển nhiên là đã rút sạch những gì đáng giá trong người ra, trong lòng không khỏi mắng thầm: “Đúng là đen đủi, chỉ là một tấm bài vị nhỏ bé trong điện thôi mà, thế mà muốn lấy của người ta những một nghìn lượng bạc, các người đúng là còn cướp được cái gì nữa?”

Bích Túc lấy từ trong tay cô gái một viên ngọc lẫn trong đám đồ mà cô cầm, rồi nói: “A di đà phật, sinh tử vô thường, nữ thí chủ có đau thương rồi cũng qua đi. Bần tăng nhận của thí chủ một tấm lòng thành, chỉ lấy viên ngọc này của cô thôi, cho phép thí chủ lập bài vị gia huynh ở đây”.

Thành Không hòa thượng đứng bên cạnh vội kêu lên: “Phương trượng…”

“Câm miệng! Còn không mau đi viết bài vị cho cô gái, còn muốn thế nào nữa?”

Thành Không hòa thượng hậm hực trong cổ họng rồi dẫn cô gái áo trắng đi.

Bài vị đã viết xong, được đặt trên điện Công Đức và cắm ba nén nhang. Cô gái áo trắng quỳ trước bài vị, vái ba vái rồi không nén được mà nước mắt tuôn rơi: “Nhị ca, gia môn rách nát, muội vốn trông đợi đến một ngày huynh muội ta sẽ xây dựng lại được gia viên, không ngờ…”

Nàng nghẹn ngào nói: “Nhị ca, hắn lại thoát rồi, nhị ca ở trên trời có thiêng xin hãy phù hộ cho muội tìm được tên hung thủ giết huynh, thanh lý môn hộ. Đợi khi mọi việc xong xuôi, muội sẽ đón nhị ca về nhà, nhị ca…”

Nàng khóc nấc lên thành tiếng, rồi lại bái tế ở đó một lúc lâu rồi mới rưng rưng đi khuất.

Bích Túc ở ngoài đi lại một vòng, khi không trông thấy bóng dáng cô gái nữa mới gọi Thành Không lại mắng: “Ngươi thật là to gan, ta đã nhận hạt châu của cô gái rồi, còn đồng ý giúp cô ấy lập bài vị, sao ngươi dám đuổi cô ấy đi?”

Thành Không nghe nói liền kêu oan: “Oan quá phương trượng sư thúc, vị cô nương đó ngồi khấn vái một hồi lâu rồi khóc lóc bỏ đi, phương trượng đã đồng ý thì làm sao tôi dám đuổi cô ấy đi? Phương trượng nhìn xem, vị cô nương đó đặt bài vị ở đây này, vết mực còn chưa khô”.

Bích Túc nói: “Vị cô nương đó thật đáng thương”. Ánh mắt hắn lướt qua tấm bài vị, toàn thân như bị điện giật, hắn chăm chú nhìn lại một lần nữa, tiến lên phía trước cầm tấm bài vị lên xem.

“Linh vị vong huynh Dương Hạo, muội, Tử Thị Ngọc Lạc lập”.

Đinh Ngọc Lạc và Bích Túc năm đó đã từng gặp nhau, nhưng hai người chưa từng nói chuyện với nhau. Giờ cả hai đều đã lớn, gặp mặt không nhận ra nhau. Bích Túc nhìn tấm bài vị, thở dài, nắm chặt tấm bài vị chạy ra ngoài, Thành Không hòa thượng ngơ ngác hỏi với theo: “Phương trượng sư thúc, ngài cầm tấm bài vị đi đâu thế?”

Bích Túc thầm nghĩ: “Đại nhân đang sống tốt, lập tấm bài vị ở đây chẳng khiến người sống khóc chết”.

Hắn không quay đầu lại, nghe thấy tiếng nói với theo sau lưng: “Sư thúc nghĩ kĩ xem, tiền hương dầu quyên ít, điện của chúng ta bao nhiêu người cần ăn cơm, sư thúc chạy theo cô ấy đòi thêm một ít…”

Bích Túc không dừng chân, đã chạy ra ngoài điện Công Đức, Thành Không bĩu môi, khinh thường nói: “Phong cái kẻ nông cạn rỗi hơi như ngươi làm đại sư… trụ trì đại sư từ bi nhân đức quá đi… ta nhổ vào!”

Bích Túc chạy ra khỏi điện, chạy ra khỏi Kê Minh tự, ngó nghiêng bốn phía, người đến dâng hương qua lại không ngớt… nhưng không thể tìm được bóng dáng thiếu nữ áo trắng nữa…

***********************************

Trong điện nhà Đường lại trở về yên ổn, Hoàng Phủ Kế Huân bị kẹp giữa hai gọng kìm cũng như trút được gánh nặng mà dẫn người đi. Sứ giả Khiết Đan bị giết đến thất kinh bát lạc, nay đã gần như không còn khả năng đứng dậy nữa, thử hỏi còn trú quân ở đây làm gì nữa?

Lý Dục là kẻ cố tình khơi mào chiến tranh giữa hai nước, nhưng hắn không hy vọng nhân vật quan trọng của bất kỳ bên nào bị mất mạng. Sự việc xảy ra nằm ngoài tầm kiểm soát của hắn, khi hắn đang ngồi ở thế tọa sơn quan hổ đấu thì cuối cùng cũng bị quấn vào vòng chiến. Hiện phải theo phe nào, quân Tống hay Khiết Đan? Điều này khiến hắn phải đau đầu suy nghĩ.

Lúc này, đoàn sứ giả nhà Tống đã yên tĩnh, Tiêu Hải Đào đã khiêu khích bọn sứ giả Khiết Đan dám giết chết Dương Hạo, bản thân mình cùng Chương Đồng Châu khi bị khiêu chiến cũng đã học tập Ban Siêu, sau đó báo cáo tin tức về Biện Lương, ngồi đợi tin tức của vua Tống như chờ ngày bị phán lên đoạn đầu đài.

Di thể của Dương Hạo được đặt vào quan tài tại một góc ở dịch quán, có hai người ngày đêm túc trực ở đó.

Đêm đã khuya, Ôn Hám và Chương Đắc Thắng cầm đèn đi tuần một vòng xung quanh rồi ngáp dài đi về chỗ ở.

Ôn Hám than thở nói: “Ôi, bất kể khi sống tiếng tăm hiển hách thế nào, quyền uy có cao cỡ nào thì khi chết cũng chui vào quan tài mà thôi, có gì ghê gớm chứ. Cứ nhìn mấy người bọn họ, chết thật là thảm quá, hà tất phải khổ như thế? Cứ như chúng ta đây, hưởng thái bình, mặc kệ đời mà sống qua ngày chẳng tốt hơn ư?”

“Hừ, con người phải có chí chứ. Người chết tất nhiên là chui vào quan tài rồi, nhưng khi sống có giống nhau không? Ta nghe nói Dương trái sứ có hai nương tử xinh đẹp vô cùng, nếu Dương trái sứ đi sứ sang Giang Nam thì hai người ấy sẽ ra sao? Đi cũng không xong, kết quả… ôi!”

Hai người rì rầm với nhau một phen, Chương Đắc Thắng giơ cao đèn, đi trước: “Lão Ôn à, cứ giống như chúng ta đây làm gì có cơ hội thăng quan. Còn nhớ mấy năm trước triều Chu xuất sứ sang Giang Nam, Hán tướng công đã phái Tần cô nương đến đó sao? Đấy gọi là một người xinh đẹp thì không tránh khỏi lọt vào mắt của người khác, chúng ta đều đã cao tuổi rồi, thấy vị cô nương xinh đẹp còn động lòng, huống hồ các vị ấy như thế thì chẳng dễ bị mắc lừa? Lão Ôn à, ông đi đâu đấy?”

Chương Đắc Thắng quay đầu lại phát hiện ra đã không thấy bóng dáng lão Ôn đâu, không khỏi kinh ngạc đứng lại, ngó xung quanh vẫn không thấy bóng dáng hắn đâu bèn gọi lớn. Đột nhiên có người vỗ vào vai hắn một cái, Chương Đắc Thắng hết hồn, cười mắng: “Đã già nửa đời người rồi còn đùa trò này? Làm lão Chương ta sợ muốn chết!”

Hắn quay đầu lại, kinh ngạc khi trước mắt hắn không phải là lão Ôn mà là một khuôn mặt xa lạ, không khỏi ngẩn người ra. Người xa lạ đó đứng trước mặt hắn, ẩn mình trong bóng đêm, Đắc Thắng cũng chưa nhìn rõ hết toàn bộ khuôn mặt hắn, hắn vừa quay đầu lại đã bị đôi mắt của người xa lạ gây chú ý. Người đó có đôi mắt thật đen và sáng, thâm u như hai con suối đang chảy, khiến hắn không thể không chú ý.

“Ngươi tên là gì?”

Giọng nói đó hết sức nhẹ nhàng, nhưng lại khiến kẻ khác lạnh sống lưng không thể không trả lời. Chương Đắc Thắng đáp trong tiềm thức: “Lão là Chương Đắc Thắng, là lão lại trong dịch quán”.

“Tốt lắm! Đưa ta đến chỗ đặt quan tài Dương Hạo”.

Chương Đắc Thắng giống như người bị trúng tà, hai mắt cứ nhìn đăm đăm, ngơ ngác đáp: “Được!” Hắn quay người, ngoan ngoãn dẫn người lạ mắt đó đi.

Đằng sau cánh cửa đóng chặt, vài cây đuốc đang cháy trong phòng, ngoài vài kẻ đang đứng ngây ra như phỗng cầm đuốc trong tay như Chương Đắc Thắng, Ôn Hàm thì còn có bốn người khác, bốn người này đều che mặt, một người cao mà gầy, đôi mắt sáng lạ thường; một người dáng béo mà thô lỗ, đứng vững chãi ở một góc, hiển nhiên là người đứng đầu trong số bốn người.

Ngoài ra còn có hai người dáng vừa vừa, không gầy cũng chẳng béo, nhưng lại không có điều gì đặc biệt. Bốn người này là những kỵ sĩ che mặt mới xuất hiện khi nãy.

Chương Đắc Thắng chỉ cỗ quan tài của Dương Hạo, người béo kia khoát tay một cái, hai người vừa vừa kia nhanh chóng bước tới, dùng sức khiêng chiếc quan tài lên. Trong quan tài phát ra tiếng vang, ở đây đầy quan tài, ánh sáng chập chờn của những ngọn đuốc mang lại vẻ dị thường đáng sợ, nhưng ngoài hai tên lão lại đang sợ vãi linh hồn thì bốn kẻ kia không hề tỏ ra sợ hãi.

Quan tài vừa được mở ra, hai người nọ không chút hoang mang, khom lưng kiểm tra thi thể rồi báo cáo tình hình kiểm tra thực tế, sau đó nói: “Người này tuy bị thiêu cháy hết cả tứ chi, huyết nhục bị thương tổn nhưng theo tính toán thực tế về độ cao thấp, béo gầy thì có sai khác so với công tử”.

Một tên trong số đó thò tay vào trong áo lấy ra một đoạn dây, đo đạc cái xác, sau đó dùng sợi dây kéo cái xác đứng lên.

Một tên khác nhanh nhẹn lấy ra một cây kim bạc thử châm vào não và cổ họng rồi nói: “Người chết bị trúng độc”.

Bọn chúng kiểm tra thi thể cẩn thận, từ ngũ quan đến lưỡi, bụng… một cách hết sức lão luyện. Cả cơ thể dường như bị thiêu cháy thành than nhưng bọn chúng vẫn soi đuốc vào nhìn kỹ lưỡng cứ như thể trên cái xác có khắc chữ vậy.

“Miệng và mũi của cái xác đã bị thiêu cháy, khủy tay trái cũng bị thiêu, hai chân bị thiêu, bên vai phải vẫn còn nguyên, đã bị chết trước khi bị thiêu”.

Một tên sau khi xem xét tỉ mỉ lạnh lùng đưa ra những lời phân tích đó, giọng nói lạnh lùng vang lên trong không gian như mơ hồ mang theo âm khí.

Một tên khác sau khi xem xét vùng bụng của cái xác đã vừa tháo găng tay ra vừa nói: “Vùng bụng có vết chém nhưng miệng vết thương có hai chỗ sai khác. Một là từ miệng vết thương có thể thấy lực chém và rút kiếm ra không đều, công tử đã từng nói ngày đó người này bị trúng kiếm ở mũi thuyền, đối thủ làm sao có thể rút kiếm ra nhẹ nhàng như thế? Lực chém nhẹ nhàng như thế này giống như bị chém trên mặt đất bằng phẳng. Hai là vết sẹo ở đây cho thấy đều là do bị lửa thiêu. Miệng vết thương trên thực tế trơn nhẵn, không có vết nhăn, người sống thì mạch máu vẫn đang chuyển động, cơ thể sau khi bị thương thì vết thương sẽ sùi ra ngoài, còn vết thương này cho thấy khi người này bị chém thì người đó đã chết”.

Tên béo kia thở một hơi thật dài rồi vén tấm khăn che mặt nạn nhân lên. Hắn giơ tay lên, như nghĩ ra cái gì rồi chợt vén ống tay áo lên, lộ ra một cánh tay có hình xăm. Hình xăm đó là hình sơn thủy đồ, bên cạnh còn có năm chữ nhỏ, liệt nhạc ngũ điểm thanh…”

Hằn thì thào: “Đúng là thú vị, ta chỉ rời đi có một lúc mà hắn đã kịp bỏ một món tiền lớn ra để làm kinh doanh, nhưng bạn làm ăn của hắn lại ở Biện Lương. Tất cả đều không nằm ngoài ý của Chương La, đến nay hắn lại chết một cách cổ quái thế na ỳ, cuối cùng là muốn làm gì?”

Trầm tư trong chốc lát, hắn cười một cách kỳ quái rồi nói: “Đem quan tài ra đậy lại như ban đầu”.

“Rõ!”

Mấy tên đó đậy nắp quan tài lại như ban đầu. Tên dáng người cao ánh mắt lướt qua Chương Đắc Thắng và Ôn Hám, tay nắm lại thành nắm đấm rồi nói như đang mê sảng: “Các ngươi đã đi tuần sân viện rồi, không có chuyện gì xảy ra hết, quay về chỗ ở và yên tâm ngủ đi…”

Tên béo xoay người, hất tay chỉ ra phía bên ngoài, thản nhiên dặn dò: “Huy động hết lực lượng của chúng ta ở nước Đường, kể cả có phải lật từng tấc đất lên thì cũng phải đào cho ra tên Dương Hạo”.

Nguồn: http://4vn.eu/forum/showthread.php?71274-Lich-Su-Quan-Su-Bo-Bo-Sinh-Lien-Nguyet-Quan-Full-Text&page=77#ixzz201iXWDad

Chương 362: Giết Hổ. (1) 

Trong cung Lý Dục gần đây thường có khách khứa tới thăm nửa đêm. Thực giống với câu nói: “Cú mèo vào nhà, vô sự bất lai”, những tin mang đến chẳng tốt lành gì, gây sức ép khiếm tâm lực Lý Dục tiều tụy, buổi tối có chút gió thổi cỏ lay cũng bị giật mình, một khi đã bị giật mình thì rất khó chìm được vào giấc ngủ, khiến cho người trong cung lo lắng vạn phần. Đợi Lý Dục chìm vào giấc ngủ, đến con muỗi kêu vo ve thấy động tĩnh vậy cũng không dám thò đầu ra ngoài.

Mùi hương an thần mang theo tiếng ngáy say giấc vọng từ phòng ngủ ra, nội thị đô tri thở phào một hơi dài, mấy nội thị của cung nhẹ nhàng vươn vai, rồi rón rén cùng nhau đi ra ngoài điện, tời khỏi điện ngủ thật xa, nội thị đô tri mới nhỏ giọng thì thào bàn tán với nhau: “Ối, những ngày này, thực là làm khổ người ta, thật khó được cái cảm giác yên ổn ngủ say. Cấm không được có động tĩnh gì, nếu ai quấy nhiễu đại gia, ta sẽ đánh hắn chết thì thôi.”

Từ ngũ đại tới nạy, vua của một nước đều được người thân cận gọi là quan gia, nhưng Giang Nam thì không như vậy. Trung chúa Lý Cảnh cũng chính là cha của Lý Dục, năm đó từng xưng thần với Hậu Chủ Sài Vinh, tự hạ nhất cách, đổi hoàng đế là quốc chủ, trong cung Đường quốc không gọi quan gia với quốc chủ mà gọi là đại gia, sau đó lại phục hồi cách gọi hoàng đế, cách xưng hô này mãi mãi không thay đổi, giờ Lý Dục lại thành quốc chủ, đó cũng chỉ là đổi cách xưng hô mà thôi.

Các nội thị trong cung bên cạnh liên tục nhận lời, nội thị đô tri ngáp một cái nói: “Ôi chao, mấy ngày nay áp lức chết đi, cánh tay này, chân già này cũng không thể trụ nổi nữa. Ta phải quay về nghỉ đây, các người chăm nom đại gia cẩn thận nhé, sơ sểnh một chút là không được, cho dù chỉ là con chim sẻ cũng không được gần hoàng thượng, nghe thấy chưa?”

Mọi người vội gật đầu tuân lệnh, lão đô tri run rẩy cất bước đi về chỗ nghỉ ngơi của mình, vừa mới bước được vài bước, phía trước có một bóng đen lướt nhanh như chớp chạy tới, không kịp dừng lại, đâm luôn vào vai lão đô tri. Lão đô tri té ngã kêu một tiếng, tức giận mắng: “Tiểu…”

Hắn vội vàng tỉnh ngộ, sợ đánh thức Lý Dục, vội nhẹ giọng nói: “Thằng nhóc kia, không có mắt à? Cũng dám chạy trong cung cơ đấy, Tạp gia không cho người một trận, thì ngươi không biết quy củ gì hết.”

Mấy nội thị ba chân bốn cẳng chạy tới đỡ hắn dậy, tên tiểu hoàng môn lảo đảo đứng dậy nhìn thấy rõ là lão đô tri, vội vàng sợ hãi nói: “Đô tri thứ tội, tiểu nhân vì có việc gấp phải bẩm báo quốc chủ, chạy hơi vội, xin đô tri thứ tội.”

Lão đô tri nghe nói là bẩm báo sự tình với quốc chủ, càng giận dữ, quát lớn: “Hỗn xược, đại gia vất vả lắm mới chợp mắt được, ngươi còn muốn đánh thức đại gia? Nói cho ngươi biết, hôm nay dù trời có sập, cũng phải đợi cho tới sáng sớm ngày mai muốn bẩm gì thì bẩm.” 

Tiểu hoàng môn đó lắp ba lắp bắp nói: “Nhưng… nhưng người này là mật thám của Sở Quốc Công Tòng Thiện đại nhân từ Khai Phong trở về, nói là có đại sự vô cùng nguy cấp cần phải bẩm báo với quốc chủ ạ.”

“Đặng vương… à không, Sở Quốc Công đại nhân phái về sao? Sở Quốc Công có tin gì?”

Lão đô tri vừa mừng vừa lo, hắn biết Lý Dục và mấy huynh đệ tình thâm nghĩa trọng, từ khi Lý Tòng Thiện bị quản thúc tại Khai Phong, quốc chủ thường buồn bực không vui. Chuyện bên lề đều có thể đợi, nhưng chuyện này dù thế nào cũng không thể trì hoãn được.

Lão đô tri biết tình thế khó xử, do dự một lát, rồi dậm chân nói: “Thôi, nếu người của Sở Quốc Công khiển đến, thì không thể trì hoãn được. Ngươi đi theo ta.”

Nói xong, lão đô tri chân chấm chân xóa đi vào tẩm cung của Lý Dục…

Chẳng được bao lâu, ngọn đèn dầu trong tẩm cung được thắp sáng, lập tức có hai ngọn đèn cung đình dẫn Lý Dục thân áo bào tím mặt tươi cười đi tới Thanh Lương điện.

Trăng sáng treo lơ lửng trên không, trong Thanh Lương điện lặng ngắt như tờ, Lý Dục ngồi sau bàn, mặt tái nhợt, trông thực đáng sợ. Tin được Lý Tòng Thiện đưa đến cũng không phải là tin tốt lành, không, nên là tin tốt, vạn hạnh.

Lý Dục thầm nhủ may mắn, nghiến răng nghiến lợi nguyền rủa: “Lâm Hổ Tử, Lâm Hổ Tử, cô… cô đối đãi với ngươi không tệ, ngươi lại lòng muông dạ thú thế này đây.” (cô là tiếng tự xưng của vương hầu thời phong kiến)

Từ Đường mạt, các đại tướng đối mưu làm phản không mệt nhọc đều là cùng một bí kíp. Bước một, tìm một cớ xuất binh thảo phạt kẻ thù bên ngoài; bước hai, chiếm đủ lương thảo quân lương, dẫn đội quân tinh nhuệ dời đi; bước ba, nửa đường dừng lại, rõ ràng trong quân đội và hắn không phải là tướng lĩnh một lòng, sau đó sửa cờ, hoặc là trở giáo một kích.

Giờ tin Lâm Nhân Triệu hàng Tống là Lý Tòng Thiện phái người đưa tới, Lý Dục sao có thể không tin đây? Đến Lâm Nhân Triệu đã từng hiến kế: “Quốc chủ có thể giả là không biết thần xuất binh tấn công Tống. Sự thành, quốc chủ hãy phái đại quân đi tiếp ứng, sự bại, quốc chủ có thể nói thần giả mạo chỉ dụ vua xuất binh, giết cả nhà thần, tạ tội với Tống quốc.” Những kế đó đều bị Lý Dục coi là kế hiểm ác.

Lý Dục vừa lo vừa sợ, mắng cho một hồi, đột nhiên nhớ tới lời nói của tiểu sư Kê Minh tự: “Trong vòng mười ngày, phải có kết quả.” 

Lý Dục đột nhiên giật mình, thở dài: “Tiểu sư phó thực thần nhân vậy, quả nhiên là một lời thành thực. Nếu cô tùy tiện liên minh với người Khiết Đan, đến lúc đó ngự giá thân chinh, Lâm Nhân Triệu đi phạt Tống, thực là hồ đồ làm theo quỷ kế của hắn.”

Lý Dục càng nghĩ càng sợ hãi, liền cắn răng, cúi đầu quát: “Người đâu, tốc chiếu Hoàng Phủ Kế Huân vào cung.”

Hoàng Phủ Kế Huân mấy ngày nay bị Tống quốc và Khiết Đan huyên náo tới mức ngủ cũng không yên, giờ về phủ, vừa tắm gội thay quần áo, thư thái bò lên giường, hai mĩ thiếp dịu dàng ôn nhu vuốt ve, những cặp đùi trắng muốt mềm mịn, tướng quân Hoàng Phủ vừa lim dim, ôm mĩ nhân trên giường thì nghe có cấp chiếu của Lý Dục gọi vào cung.

Vừa nghe Lâm Nhân Triệu dục phát, quốc chủ bảo hắn dẫn binh đi trấn hải đòi lại, Hoàng Phủ Kế Huân giật nảy người, sợ hãi. Đừng thấy hắn bình thường đấu lợi hại với Lâm Nhân Triệu, có thể khi đó là cùng điện xưng thần thôi, có Lý Dục làm chỗ dựa cho hắn, hắn còn sợ Lâm Hổ Tử ăn hắn sao?

Nhưng vị tướng quân Hoàng Phủ là nội đấu nội hàng, ngoại đấu ngoại hàng, giờ phải bỏ qua thể diện so sánh công phu, Hoàng Phủ Kế Huân tự biết mình. Lâm Nhân Triệu là người nào? Đó là một mãnh tướng đệ nhất Đường quốc, dũng khí nổi tiếng thiên hạ, đánh đâu thắng đó, không thứ gì có thể cản nổi, thiết kỵ Khiết Đan đều bị hắn đánh cho tan tác. Là một mãnh tướng, Lâm Hổ Tử dám chỉ dẫn bốn người ngược gió đi hướng vạn tiễn trận, hỏa thiêu cầu gỗ, chặn đại quân Sài Vinh nam hạ, đó là uy phong gì? Thực phải lật mặt, để hắn dẫn quân đi thảo phạt Lâm Nhân Triệu, đây không phải là bánh bao đánh chó sao?

Lý Dục thấy Hoàng Phủ Kế Huân hơi chần chừ, mặt không khỏi biến sắc, tức giận nói: “Lệnh tôn nãi Đường quốc hổ tướng ta, trung thành tận tâm, vì nước hy sinh quên mình, Hoàng Phủ tướng quân hổ phụ hổ tử, cô có ý giúp đỡ, giờ lại sợ hãi như vậy sao?”

Hoàng Phủ Kế Huân mắt hơi chuyển, vội nói: “Quốc chủ nghĩ sai về thần rồi, thần đang nghĩ, nếu chúng ta huy binh đi trước, tất nhiên sẽ đánh rắn động cỏ, một khi đại chiến nổ ra, ngay cả giết Lâm Nhân Triệu, Đường quốc ta cũng bị tổn thất nặng nề. Sở quốc công bí mật phái người đưa tin về, Lâm Nhân Triệu lúc này còn không biết quỷ kế của hắn đã bại lộ hay chưa, chúng ta sao không giết quách hắn đi, như vậy, mười vạn thủy quân trấn hải sẽ không bị tổn hao gì mà thu về.”

Lý Dục vừa nãy còn nổi nóng, thầm nghĩ tiêu diệt phản thần, lúc này lại nghe Hoàng Phủ Kế Huân nói vậy, không khỏi giật mình tỉnh ngộ. Hắn cúi đầu trầm ngâm giây lát, mặt lộ nụ cười ảm đạm: “Người đâu, nhận chỉ, gọi trấn hải tiết độ sứ Lâm Nhân Triệu lập tức vào kinh, cấm chậm trễ!”

******

“Cho dù Tống quốc không đi tìm Khiết Đan gây chuyện, giờ sứ giả Khiết Đan bị giết, toàn bộ dịch quán Khiết Đan đều bị phá hủy, dựa vào sự kiêu ngạo của người Khiết Đan, tất nhiên sẽ không chịu từ bỏ ý đồ. Nhưng nội quốc Khiết Đan có nội ưu, dự đoán được ý đồ của bọn họ, song phương cũng sẽ không vội vàng bỏ trọng binh, cuộc chiến như vậy chẳng có cách đả thương. Tác dụng của Giang Nam quốc chủ lúc này hết sức quan trọng, hắn giờ cấp chiếu Lâm Hổ Tử tướng quân về, chẳng phải chính là đã ra quuyết định rồi sao?”

Chiết Tử Du vừa đi vừa suy tư: “Lâm Hổ Tử là hổ tướng có chủ trương quyết chiến với Tống quốc, Lý Dục gọi hắn về, có thể là liên hợp với Khiết Đan tác chiến với Tống. Nếu có Đường quốc tương trợ, hoàng đế Khiết Đan vị tất sẽ không buông tay đánh một trận. Như vậy tam quốc tất có tổn thất, nếu chiến trận xảy ra, ít nhất trong mười năm triều đình với tây bắc ta cũng không thể dùng binh, chỉ có thể áp dụng kế sách trấn an, sẽ là vậy sao?”

Nàng đột nhiên nhớ tới câu nói Dương Hạo đã từng nói với nàng, lòng bỗng chua xót: “Ta còn nói chàng theo danh sư học thuật gì là bói toán, trên đời ngay cả thiên cơ có thực, lại dễ dàng bị phá, nói gì Tống quốc trong hai ba năm dụng binh với Đường quốc, Đường quốc tất sẽ bị diệt, bảo ta không cần nghịch thiên tòng sự. Giờ có hy vọng, nếu chàng có trước mặt ta, ta chẳng lẽ lại không nói vậy sao?”

Nguồn: http://4vn.eu/forum/showthread.php?71274-Lich-Su-Quan-Su-Bo-Bo-Sinh-Lien-Nguyet-Quan-Full-Text&page=77#ixzz201iaiQcf

Chương 363: Giết Hổ. (2) 

Nàng vừa nghĩ đến đây, đột nhiên có một đội quan binh chạy nhanh tới, độ quan binh có đến hai nghìn người, chậm rãi bảo dân chúng trên đường trốn, gà bay chó sủa. Chiết Tử Du vội trốn vào thềm đá khách **** bên đường nhìn, thấy một viên chỉ huy quân ngồi trên ngựa, tay cầm trường thương, quát lớn: 

“Mau mau, nếu chạy mất một người Lâm gia, Hoàng Phủ tướng quân tất bị trách phạt, ta cũng không ngoại lệ”.

“Hoàng Phủ Kế Huân lại đem tai họa gì đến nhà người ta rồi? Ôi! Lý Dục không có chí sách, rơi vào mỹ sắc, triều chính thối nát vô cùng, lại mù quáng tin Hoàng Phủ Kế Huân này, trọng trách đều ủy thác cho hắn, cũng may có bậc sĩ phụ tá trung thành như Lâm Hổ Tử, nếu không giờ hắn không chống đỡ nổi, người này đành làm cái ngân gió ngợi trăng, phong lưu tài tử, làm vua một nước, đúng là hại người hại mình”.

Chiết Tử Du đang thầm oán trách Lý Dục, một cảm giác đột nhiên lóe lên trong đầu: “Không đúng, Hoàng Phủ Kế Huân là thần vệ quân chỉ huy sứ, phụ trách sự an nguy Kim Lăng, có gì to lớn chứ, dùng được nhân mã của hắn sao? Muốn bắt nhân vật nào đó, mới được dùng quân đội. Lâm gia, Lâm gia nào? Là…”

Chiết Tử Du càng nghĩ càng lo sợ, cầm lấy váy chạy trên đường, váy hồng chạy quẹo vào ngõ nhỏ phía trước, vừa vào cửa ngõ, Chiết Tử Du liền dừng lại, chỉ thấy trước cửa Lâm phủ có binh lính đứng trang nghiêm, Lâm phủ đã bị bao vây, đại môn rộng mở, rất nhiều binh sĩ mang đao đi vào.

Chiết Tử Du lập tức trốn vào một tửu quán bên đường, chăm chú nhìn đám người đó. Tửu khách bên cạnh đều đang bàn tán, cũng giống như cô không hiểu gì cả. Lâm gia phủ đệ thế lực không nhỏ, sĩ binh xông vào nhà như thế, không lâu sau trong phủ đệ có tiếng kêu thảm.

Vào lúc này, chỉ thấy một người tôi tớ mặc áo đuôi ngắn chạy như điên lại, Chiết Tử Du nhận ra đó là người hầu bên cạnh của Lâm Hổ Tử, mình vào ra trấn hải mấy lần, đều gặp hắn hầu hạ bên cạnh Lâm Hổ Tử, lập tức bước ra khỏi tửu quán.

Người nọ đang vội vã chạy về Lâm phủ, bên cạnh bỗng nhiên xuất hiện một người, vừa nắm lấy cổ tay hắn, người họ liền đưa quyền đánh, thấy Chiết Tử Du không khỏi ngẩn người. Chiết Tử Du nắm lấy cổ tay hắn, cũng không quay đầu lại, cúi đầu quát: “Đi theo ta!”

Người đó quay đầu lại nhìn cửa Lâm phủ, biết đại thế đã đến, không giằng co nữa, ngoan ngoãn theo Chiết Tử Du vào ngõ nhỏ bên cạnh, Chiết Tử Du vội hỏi: “Lâm tướng quân xảy ra chuyện gì vậy? Tại sao lại làm ầm ĩ ở nhà hắn?”

Chiết Tử Du vừa hỏi, mắt tên hầu kia rưng rưng khóc nói: “Cô nương, tướng quân nhà ta…tướng quân nhà ta đã đi rồi…”

Chiết Tử Du thất thanh nói: “Sao lại thế? Lâm tướng quân giờ vừa bị gọi về Kim Lăng, sao lại chết được?”

Tên hầu nước mắt ngắn dài nói: “Tiểu nhân theo xe ngựa ở ngoài cung đợi tướng quân, tướng quân vào cung kiến giá, khi tướng quân ra, tiểu nhân lên trước đón, tướng quân mặt mày vui mừng, còn rất vui vẻ nói với tiểu nhân Quốc Chúa giờ cuối cùng đã tỉnh lại, dục tu binh giáp, để ý tới quốc chính, vi bảo Giang Đông mười chín châu lãnh thổ, trăm vạn con dân, đánh với Tống đến cùng, Quốc Chúa còn mời rượu ông ấy, tướng quân cần luyện tinh binh, giờ cuối cùng cũng có thể trổ tài công dụng của mình. Tiểu nhân nghe xong cũng rất vui mừng, vội để ghế nhỏ xuống, định đưa tướng quân lên xe, tướng quân bỗng đứng lại, nói rằng bị đau bụng. Tiểu nhân lo sợ cuống cuồng, dìu tướng quân lên xe, rồi đi tìm y sĩ tới chữa bệnh, miệng tướng quân phun máu tươi đen ra”.

Chiết Tử Du lo lắng: “Lâm tướng quân trúng độc sao?”

Tên hầu kia lắp bắp không ra tiếng: “Đúng vậy, trong cung môn có Hoàng Phủ Kế Huân và các quần thần võ sĩ, họ đều sợ sự dũng mãnh phi thường của tướng quân, không dám lộ diện, cho đến khi tướng quân nhà phun máu, hắn mới dẫn theo người chạy ra như ong vỡ tổ, truyền khẩu dụ của Quốc Chúa, nói tướng quân nhà ta có ý đồ tạo phản, theo tội là phải chết”.

Chiết Tử Du run run hỏi: “Sao lại như vậy? Lâm tướng quân làm sao nữa?”

Tên hầu nói: “Tướng quân bi phẫn không hiểu, vung tay tiểu nhân ra, hai mắt trợn lên, đi về phía Hoàng Phủ Kế Huân. Hoàng Phủ Kế Huân đứng sau hàng thị vệ, tướng quân đi từng bước, vừa đi vừa phun máu, khi đi tới cửa cung, bên trong có vô số binh giáp chặn cửa cung, tướng quân vái ba vái cung khuyết, đứng dậy ngửa mặt hô to: ‘Lâm Hổ Tử xưa nay bị bọn đạo chích rèm pha, hận không thể sa trường, vì nước hy sinh quên mình’”.

Tướng quân hô to ba tiếng, dừng hơi thở, nhưng vẫn đứng vững không đổ. Hoàng Phủ Kế Huân phái người bao vây ông ấy, nhưng không ai dám gần, tiểu nhân bỗng tỉnh ngộ, vội trở về báo tin, nhân lúc họ không để ý tới tiểu nhân, tiểu nhân chạy băng trên đường, lẫn vào đám người trên đường để về, nhưng…nhưng quý phủ…”

Chiết Tử Du im lặng một lúc lâu, nước mắt rưng rưng nói: “Ngươi không cần phải về nữa, giờ…đã không kịp nữa rồi”.

Tên hầu vừa nghe, khóc càng to hơn nói: “Hoàng Phủ Kế Huân là gian tặc, tiểu nhân cược cái mạng này đi báo thù cho tướng quân”.

Chiết Tử Du ngăn hắn lại, nhìn xung quanh, rút ra mười mấy tấm vàng lá nhét vào tay hắn nói: “Hoàng Phủ Kế Huân có tật giật mình, há có thể để ngươi lại gần? Đừng khóc nữa, Lâm tướng quân cầu nhân đắc nhân, trung nghĩa chi danh sẽ không màng tới hôn quân gièm pha. Đây là chút tiền, ngươi cầm lấy, Hoàng Phủ Kế Huân tuy hung tàn, cũng không dám sát hại phụ nữ và trẻ nhỏ, đợi sau khi mọi việc yên tĩnh trở lại, ngươi đi đón phụ nữ và trẻ nhỏ ở phủ Lâm, chăm sóc cho họ”.

Người đó nghe vậy nín không khóc nữa, Chiết Tử Du khuyên can một hồi, người đó mới nhận lấy số vàng, bái ba bái về phía Chiết Tử Du, theo lời nàng dặn dò, tạm thời ẩn thân, chờ triều đình xử lý xong, đón phụ nữ và trẻ nhỏ phủ Lâm về chăm sóc.

Lúc này xung quanh phủ Lâm có rất nhiều binh lính, chỉ trong chốc lát bắt đầu lục lọi xung quanh, trong đó có người còn giữ bức họa của Chiết Tử Du, giờ không giống ngày xưa, Lâm Nhân Triệu đã chết, Hoàng Phủ Kế Huân có ý thích “Ngoại sinh nữ”, Chiết Tử Du không dám ở lâu, lập tức rời đi.

Chiết Tử Du đứng lặng yên bên hồ dưới tán cây, nhìn mặt nước hồ mà lo sợ: Lâm Hổ Tử đã chết rồi, đệ nhất mãnh tướng của Đường Quốc thiện chiến dũng mãnh chưa từng chết trước hai quân trận, mà bỏ mạng trong rượu độc của Lý Dục. Thực nực cười, Lý Dục luôn mồm nói hắn dục mưu tạo phản, nhưng gọi về Kim Lăng, cũng không dám giao hắn cho quan lại, xử theo luật ở mức cao nhất, mà ngay cả một ly rượu độc, cũng phải lén lút bảo hắn uống, tên này, còn xứng đáng làm vua một nước không?

Chiết Tử Du buồn bã, lòng mờ mịt vô cùng. Vốn cho rằng có hy vọng, nhưng lại không ngờ Hoàng Phủ Kế Huân tuy là đạo chích lại là chuột nhắt, chỉ có Lý Dục mới coi hắn là vai hài. Hắn tuy ghen ghét Lâm Nhân Triệu, cũng không dùng tôi danh phản loạn mà giết hắn, Lâm Nhân Triệu là đệ nhất hổ tướng của Đường Quốc, vội vàng để hắn chết, chỉ có Tống Quốc. Nếu Tống Quốc giết Lâm Nhân Triệu, chẳng phải là…dụng binh với Đường Quốc rồi, cho nên mới gạt bỏ trở ngại lớn nhất này đi sao?

Lý Dục lấy độc giết Lâm Nhân Triệu, thế hắn có giao chiến với Tống nữa không đây? Lâm Nhân Triệu chết đi, Đường Quốc còn có ai có thể gánh vác trọng trách này?

Một cơn gió thổi, mặt nước khẽ động, tiêu điều. Chiết Tử Du đứng ở bên hồ, tay để lên tim buồn bã: “Ta khó khăn, đau khổ lo lắng, kết quả lại bị rơi vào kết cục như vậy, Hạo ca ca, lẽ nào như lời chàng nói, thiên mệnh khó sửa?

Nàng nắm chặt hai đấm, nghiến răng, lòng thầm nghĩ: “Không, ta phải chờ, chờ Tống quân phạt Đường có phải là Phan Mỹ, Tào Bân hay không. Chưa đến thời khắc cuối cùng, ta quyết không bỏ cuộc, không bỏ cuộc”.

******

Nước chảy bên hồ là sông Tần Hoài. Trong sông Tần Hoài là rất nhiều tảng đá, hầu như đâu cũng có, hai bờ sông Tần Hoài có rất nhiều thuyền dân, dịch phu, nhà cửa thấp bé, đường đi lối lại quanh co, tam giáo cửu lưu, ném chuột thì sợ vỡ đồ, thậm chí gái giang hồ, bọn lưu manh, dân nghèo khổ đều có ở đây.

Trong thành Kim Lăng có một ngõ Ô Y, đó là nơi quan to quý nhân ở, còn có một ngõ gọi là ngõ Ô Nê, tuy chỉ có một chữ khác biệt, môi trường lại khác biệt rất lớn, rác rưởi phế thải, khắp nơi đều có, một khi mưa to thì trôi nổi trên mặt nước, dạt đi xung quanh, nơi như vậy, đám người có tiền cũng không vào cái chỗ này, mà đám người Dương Hạo, giờ này lại đang ở trong xóm nghèo đói đó.

Kế hoạch của hắn là, một khi chết, Đường Quốc tất sẽ toàn lực tập trung hung thủ, cho nên cần phải ẩn thân một thời gian, đợi khi gió êm bể lặng mới lặng lẽ đi về phía tây, nhưng sự tình lại ngoài dự đoán của hắn, hắn “Chết” rồi, hung thủ lập tức không chần chừ mà tự phơi thân phận, sau đó thì hung thủ cũng sẽ chết, và chuyện phong tỏa quanh thành và truy nã hung thủ cũng còn chưa nói đến.

Dương Hạo ẩn mình mấy ngày, thấy quả nhiên gió êm bể lặng, liền cải trang lên phố xem tình hình ra sao, chuẩn bị cho sớm ngày kế tiếp tây hành, không ngờ vừa đi trên đường thì nhìn thấy một đội quan binh đấu đá lung tung, Dương Hạo vội né tránh, nghe ngóng sự tình từ người qua đường, mới hiểu được là trấn hải tiết độ sứ Lâm Nhân Triệu có ý đồ mưu phản, đã bị Lý Dục gọi đến và giết bỏ, Hoàng Phủ Kế Huân phụng chỉ làm ầm Lâm phủ, giờ đang phong tỏa toàn thành, truy nã cá lọt lưới.

Dương Hạo giật mình, hắn không ngờ Lâm Nhân Triệu lại có ý đồ đó, Tống Quốc bên đó ra tay nhanh chóng như vậy, mà Lý Dục cũng nhanh chóng phối hợp với Tống Quốc trừ đi nhân tài rường cột của chính mình. Nam Đường tiên chúa, trung chúa, cũng được coi là một thế hệ kiêu hùng, nhưng dù giỏi đến mấy, không gặp phải người đỡ dậy, vận số đó cũng chấm dứt. Nhưng Lý Dục tự mình hủy đi trụ cột, đó là gieo gió ắt gặp bão, Chiết Tử Du đang ở Lâm gia làm sao bây giờ?

Nguồn: http://4vn.eu/forum/showthread.php?71274-Lich-Su-Quan-Su-Bo-Bo-Sinh-Lien-Nguyet-Quan-Full-Text&page=77#ixzz201iebhkK

Chương 364: Đánh hôn mê. 

Dương Hạo không thể yên tâm được, mạo hiểm đi tới gần Lâm phủ nghe ngóng tin tức của nàng. Ở Lâm phủ lớn nhỏ phần lớn bị bắt, chỉ chạy thoát được một đứa trẻ, một tiểu thiếp và Chiết Tử Du. Tiểu thiếp đó mang theo đứa con đi vào miếu dâng hương, trên đường về nghe thấy tiếng ầm ĩ của Lâm phủ, lập tức chạy trốn. Chạy thoát một tiểu thiếp, một đứa trẻ, Hoàng Phủ Kế Huân không để bụng, nhưng không bắt được Mạc Dĩ Minh làm hắn không cam lòng, giờ Lâm gia đã thành tù nhân, ngày xưa cao to là thế, có qua lại thân mật với Hoàng hậu nương nương, đến hắn cũng không dám đắc tội với cô nương họ Mạc, lúc này lại có thể khiến hắn ta thích thì cứ làm, nhưng cô tay chạy rồi.

Hoàng Phủ Kế Huân tức giận, phong tỏa toàn thành, nhất định phải tìm cho được cô ấy, Dương Hạo tới gần Lâm phủ, gặp mấy Đường binh, mấy người đó còn ngăn hắn lại, còn chỉ trỏ vào bức vẽ Chiết Tử Du hỏi hắn xem có gặp người này không. Dương Hạo lúc này mới biết được Chiết Tử Du đã chạy thoát, thở phào nhẹ nhõm. Theo sự cảnh giác và võ công của Chiết Tử Du, chỉ cần không bị sa lưới, thì Hoàng Phủ Kế Huân có đào ba tấc đất lên cũng không thể tìm được cô gái xảo quyệt hồ ly này. Giờ thực là tình cảnh có thể dự đoán được, tuy nói bọn họ ẩn nấp bí mật, nhưng dù sao thì người cũng quá đông, để đề phòng những người vô tội gặp tai họa, Dương Hạo sau khi lắc đầu lấy lệ với mấy tên Đường binh đó, thì lập tức trở về ngõ Ô Nê bên bờ sông Tần Hoài.

Dương Hạo cúi người, bước thong thả vào ngõ Ô Nê, nhìn xung quanh, cảnh giác chú ý quan sát người đi lại xung quanh, bỗng ánh mắt bất chợt nhìn thấy hai cái bóng đang đứng ở cửa ngõ, chỉ thấy dáng người phía sau của hai người, Dương Hạo bỗng giật mình.

Một tên lưu manh trong đó, quần áo có lẽ là người trong ngõ, còn một tên khác, tuy chỉ nhìn thấy dáng phía sau, nhưng dáng đó quen vô cùng, người đó tuy mặc quần áo giả trai, nhưng phía sau nhìn lại thấy giống hệt Đinh Ngọc Lạc trong trí nhớ của hắn. Trong khi hắn đi tới Quảng Nguyên vận chuyển lương thực, Đinh Ngọc Lạc từng giả làm nam nhi, bóng sau của người này rất giống với muội ấy.

Tên lưu manh đó chỉ vào trong ngõ nói mấy câu gì đó, và cái người giống Đinh Ngọc Lạc thì gật đầu, theo hắn vào trong ngõ. Dương Hạo lắc đầu cười: “Nhất định là nhìn nhầm, cô ấy sao có thể đến Nam Đường, lại còn đến cái nơi này làm gì nữa không biết?”

Hai ngày hôm nay Dương Hạo chưa liên lạc với Bích Túc, nhưng không biết Đinh Ngọc Lạc thực sự đã đến thành Kim Lăng hay chưa, hắn khẽ khom lưng, lại bước về phía trước, song vẫn do dự: “Ta trong cung Lý Dục đoán tuyệt không thấy Tử Du xuất hiện ở đó, lẽ nào không thể gặp Ngọc Lạc ở đây sao? Tên lưu manh ở đây hại mệnh phụ nữ, lừa bán phụ nữ chỗ nào chả có, nếu như hắn…thực sự là cô ấy, nếu như họ có …”

Dương Hạo càng nghĩ càng lo, không biết thân thế người nọ là ai, hắn không thể nào yên tâm được, thế là quay thân, đi về phía đầu ngõ nơi họ đang đi.

“Chính là ở đây?” Đinh Ngọc Lạc giật mình nhìn khung cảnh trước mắt.

Một căn phòng cỏ gianh lụp sụp. Tường dùng những viên đá vỡ xây thành. Ngoài tường là một cái rãnh thối. Trong rãnh là những thứ rác rưởi, những con mèo con chó chết, càng cỏ lá cỏ thối, cùng những vật màu vàng màu trắng nổi lềnh phềnh trên mặt nước, từ xa nhìn lại thấy nó khẽ dao động. Dù ở đây là nơi những dân nghèo ở, nhưng cái sông bên cạnh quả thực là rất thối, cho nên những căn phòng bên cạnh đã sớm lụp sụp, rách nát, chẳng có ma nào ở.

“Đúng vậy”. Tên lưu manh đó cười nói: “Mới đây đến thuê ở, trên đùi có thương tích, tuổi tác và tướng mạo cũng kha khá, hắn ở ngõ Ô Nê này. Tôi chỉ biết thế, cái khác thì không dám nói, tìm người loại này, 100 sai dịch cũng không thể so sánh với ta, dù chỉ là cái hẻm chuột, tôi cũng có thể đào nó lên, còn về có phải là người mà công tử cần tìm hay không, thì tại hạ không dám bảo đảm”.

Đinh Ngọc Lạc rút từ trong tay áo ra một chuỗi nặng trịch để vào lòng bàn tay tên lưu manh đó, gã nọ đếm đếm, mặt tươi như hoa nói: “Nếu tại hạ đoán không lầm, phải chăng là công tử muốn đi báo thù hắn? Tôi thấy người đó giống như luyện gia tử, cần giúp đỡ, tại hạ sẽ ngáng chân đánh hôn mê sau lưng, tạ hạ lành nghề chuyện này lắm, công tử chỉ cần thêm chút tiền nữa, tại hạ…”

Đinh Ngọc Lạc lạnh lùng xua tay, người đó liền im bặt miệng, cười nhe nhởn với nàng rồi chắp tay chạy mất dạng.

Đinh Ngọc Lạc đứng lặng người nhìn một lát, rồi cất bước vào trong viện, vừa mới vào viện, cửa phòng đã có một tiếng mở ra, một người thọt mặc quần áo rách nát dính dầu mỡ đi ra, hai người chạm mặt nhau.

Bỗng nhiên, người đó vội xoay người, lết chân vào phòng. Đinh Ngọc Lạc lạnh lùng nói: “Ngươi còn định trốn đi đâu nữa?”

Tên thọt đó đứng lại, người run lên, từ từ xoay người lại, Đinh Ngọc Lạc bước lại gần, cầm chặt chuôi kiếm cười nhạt nói: “Quả nhiên là ngươi, vừa nãy ta còn không dám tin, ngươi lại ẩn thân ở một nơi thế này, giờ, ngươi còn chạy đi đâu nữa đây?”

Đinh Thừa Nghiệp run rẩy, cười buồn bã, đứng thẳng người nói: “Tỷ, cũng thật là làm khó cho tỷ, từ Phách Châu đuổi theo đến Khiết Đan, rồi lại từ Khiết Đan đuổi đến Đường Quốc, rong ruổi mấy ngàn dặm, giờ ta trốn ở một nơi thế này, mà cũng tìm ra được. Được lắm, ta không trốn nữa, không muốn trốn tiếp nữa, muốn giết thì giết đi, sống như giờ thực không bằng chết, chết rồi…cũng tốt…”

Đinh Ngọc Lạc hơi rút dao ra khỏi vỏ, lạnh lùng nói: “Ngươi giết cha hại huynh, mưu đoạt gia chủ, làm cho Đinh gia đang êm đẹp bị hủy hoại, cũng chính là hủy hoại ngươi. Đây chính là gieo gió gặp bão, làm chuyện bậy bạ sao có thể sống. Đinh Thừa Nghiệp, Đinh gia sao lại có một tên nghiệt tử giết cha hại huynh táng tận lương tâm như vậy chứ?”

Mũi kiếm chĩa trước ngực Đinh Thừa Nghiệp. Cười thảm nói: “Ta đáng chết lắm, ta không nghĩ tới sẽ có ngày rơi vào bước đường này, thực là…thực ta không có dã tâm chiếm đoạt gia sản. Việc sai lầm duy nhất ta đã phạm phải là có tư tình với đại tẩu, tất cả những cái khác, còn không phải bị người ép sao?”

Đinh Ngọc Lạc tức giận quát: “Sự đến nước này ngươi còn dối trá, giết cha hại huynh, ai ép bức ngươi cơ chứ?” Nàng cầm thanh kiếm trong tay càng chặt hơn, cắm vào ba phần, máu tươi từ từ chảy ra.

Đinh Thừa Nghiệp khàn giọng nói: “Ta vốn cam tâm làm một nhị thiếu gia vô ưu vô lo, chưa bao giờ nghĩ đến việc cướp quyền của Đinh gia, nhưng…sau này đại ca xảy ra chuyện, Đinh gia ngoài ta còn thừa lại ai chứ? Ta không muốn làm cũng phải làm, nhưng…

Hắn cười nhạt: “Đại ca xem thường ta, cha cũng coi thường ta, họ thà phí tâm tư, dìu một tên gia nô lên, ai không cười ta sau lưng chứ? Những người bạn của ta, thậm chí đến người nhà trong phủ, thậm chí đại tẩu, ai không coi ta hèn mọn?”

Hắn bỗng lạc hẳn giọng đi nói: “Ta không muốn làm cái công việc gia chủ hao tâm tổn sức kia, nhưng nó tự nhiên lại rơi xuống đầu ta, dựa vào cái gì ta phải nhường cho ai đó? Tại sao ta lại phải giao cái thuộc về ta cho một tên không đâu. Đại ca giúp một tên trời ơi đất hỡi áp đến trên đầu huynh đệ thân thuộc, hắn bất nhân, thì ta bất nghĩa”.

“Súc sinh! Giao Đinh gia cho ngươi? Không cần nói làm cho nó vinh danh, để giữ vững sự nghiệp, ngươi làm được sao? Vì điều này, ngươi có lý do để hại đại ca? Đại ca chưa từng nghĩ đến việc giao gia nghiệp cho nhị ca trước, lẽ nào ngươi xứng đáng với hắn sao? Cho tới nước này, ngươi còn nói sằng nói bậy, cái gì cũng là lỗi sai của người khác, ngươi mãi mãi cũng là vô tội, ngươi hại chết phụ thân cũng là bất đắc dĩ sao?”

Đinh Thừa Nghiệp mặt ỉu xìu, buồn bã nói: “Người, tại sao lại phải lớn? Lớn rồi, thì lại có quá nhiều dục vọng, mỹ sắc, tiền bạc, quyền lực, tham ô, ghen tị, hận thù. Lớn rồi, những thứ mà hồi nhỏ cho rằng nó quan trọng nhất sẽ coi nó không đáng một xu, nhân vật đã từng hèn mọn, mình cũng sẽ biến thành hắn, sẽ đi hại người, nếu như mãi mãi không lớn…có lẽ sẽ tốt hơn…”

Đinh Ngọc Lạc lạnh lùng nói: “Ngươi nói hết chưa? Nói hết rồi thì ngươi có thể chết, giờ dù ngươi có nói gì đi chăng nữa, cũng đừng có mơ ta tha cho ngươi, hôm nay, ngươi phải chết”.

Đinh Thừa Nghiệp mơ hồ nhìn lưỡi kiếm, rồi nhìn lên khuôn mặt của Đinh Ngọc Lạc, kinh ngạc nói: “Ta hỏi ngươi sao lại tìm được ta, ngươi được ai giúp đỡ?”

“Hứ?” Đinh Ngọc Lạc nghiêng đầu sang một bên, nghĩ ngợi. Đinh Thừa Nghiệp bỗng nghiêng người, đánh một quyền về phía bả vai Đinh Ngọc Lạc. Quyền đánh của hắn tương đối mạnh, Đinh Ngọc Lạc khó mà tránh khỏi, Đinh Ngọc Lạc bị hắn đánh đúng xương vai, kêu lên một tiếng, đoản kiếm rơi xuống đất.

Đinh Thừa Nghiệp đoạt lấy thanh kiếm, mặt hiểm ác nói: “Muốn giết thì cứ giết đi, còn muốn ta liệt kê tội ác ra không?”

Đinh Ngọc Lạc giật bắn người ra, mắt sáng quắc, tìm kiếm thứ gì đó trong viện, lạnh lùng nói: “Ngươi đoạt lấy kiếm, có thể thoát mạng sao?”

Đinh Thừa Nghiệp nhe răng cười nói: “Tuy ta bị thương ở chân, ngươi lại tay không bắt giặc. Ta ngươi võ công về cơ bản cũng không kém mấy, ngươi giờ có thể giết ta được sao? Đệ ngươi âm hiểm giả dối, vô liêm sỉ, tội ác chồng chất, ngươi nhìn lạ lắm nhỉ? Không chịu được thì ở suối vàng với lão già kia đi”.

Đinh Thừa Nghiệp cố nén đau đớn ở đùi, buông người về phía trước đâm về phía Đinh Ngọc Lạc, kiếm trong tay chợt động, thì nghe thấy một tiếng rít “Ô” một tiếng. Đinh Thừa Nghiệp kêu thảm một tiếng, kiếm trong tay leng keng rơi xuống đất.

Hai người cùng nhìn về phía cửa viện, thì thấy một ông già lưng còng bước chậm rãi đến, trầm giọng nói: “Mặc dù nói người sẽ phải chết, về thiện mà nói, hắn cũng được coi là một người sao? Muốn giết thì giết, ngươi còn mong là hắn sắp chết thì có thể tỉnh ngộ sao, há chẳng phải đàn gảy tai trâu?”

Đinh Ngọc Lạc giật mình nhìn hắn, lúng túng nói: “Đa tạ tiền bối đã chỉ bảo, không biết đại danh của tiền bối là…?”

Đinh Thừa Nghiệp vội cầm lấy gậy chống, cầm lấy đoản kiếm, gắng sức đứng thẳng dậy, cười nhạt nói: “Các người quét rác ở cửa, không nên quan tâm đến chuyện người khác, lão già này, ngươi đã gần đất xa trời, chẳng lẽ còn oán mạng sống quá dài của mình sao?”

Dương Hạo cười nhạt, đi tiến thêm vài bước về phía hắn, đi qua người Đinh Ngọc Lạc, đột nhiên sờ vào bên hông nàng.

Đinh Ngọc Lạc dù chưa coi hắn là kẻ địch, nhưng bản năng luyện võ cảnh giác khiến nàng thuận thế vung tay và lui về phía sau, một chưởng vung ra bắn vào cổ tay lão già. Không ngờ lão già này thân thủ cực kỳ nhanh, Đinh Ngọc Lạc chỉ cảm thấy đai lưng mình nhẹ như không, nhìn chăm chú, thấy bao kiếm cắm ở đai lưng bỗng rơi vào tay người già đó.

Lão già nắm lấy chuôi kiếm múa vài cái, đột nhiên đâm về phía cổ họng Đinh Thừa Nghiệp, cú xuất chiêu dù không có nghệ thuật gì, nhưng vẫn nhanh như điện. Đinh Thừa Nghiệp lắp bắp kinh hãi, vội vàng giơ tay đón đường kiếm, hai người đấu với nhau bảy tám hiệp, chỉ nghe thấy tiếng “Keng”, kiếm của Đinh Thừa Nghiệp chui tọt vào vỏ kiếm của lão già.

Đinh Thừa Nghiệp ngẩn người, chưa kịp rút kiếm ra, lão già đã giữ chặt nó trong vỏ, một đòn mạnh truyền tới, Đinh Thừa Nghiệp không cầm được chuôi kiếm, đoản kiếm lại bị đoạt mất, lão già còn cho nó vào vỏ nữa, ngón tay cầm chuôi kiếm mềm nhũn, chuyển động hai vòng, đoản kiếm liền rời khỏi tay bay đi, xoẹt một tiếng, bay trở về bên hông Đinh Ngọc Lạc.

Chiêu thức kiếm thuật ấy chính xác vô cùng, Đinh Thừa Nghiệp biết kiếm thuật của mình còn kém xa, mặt biến sắc, vội giơ tay trái về phía đó, lão già làm bộ đợi hắn tới gần, rồi lấy quải trượng đoạt lại, “Bịch bịch bịch”. Hai vai, hai sường, hai chân, bị đánh mạnh, đánh đến mức Đinh Thừa Nghiệp chỉ kêu thảm thiết liên hồi, rồi ngã phịch xuống đất, ôm đầu mình kêu: “Ta…ta không thù không oán gì với ngươi, sao…sao ngươi lại hại ta?”

“Chúng ta không thù không oán sao?” Dương Hạo cười lạnh, bỏ đi chòm râu, nói lại giọng.

Đinh Thừa Nghiệp thấy rõ bộ dáng của hắn, cả kinh trợn mắt há mồm, run run nói: “Ngươi…ngươi…ngươi là người hay là ma…?”

Đinh Ngọc Lạc thấy bộ dáng Dương Hạo, vừa mừng vừa sợ nói: “Nhị ca, ca…ca vẫn còn sống sao?” Nói rồi nước mắt ngắn dài lăn xuống. Dương Hạo nhìn chằm chằm Đinh Thừa Nghiệp, không quay đầu lại nhìn nàng, Đinh Ngọc Lạc rưng rưng nước mắt buồn bã.

“Ngươi…ngươi chưa chết?” Đinh Thừa Nghiệp lúc này cũng đã hiểu ra, mắt thấy hắn đằng đằng sát khí, không khỏi hoảng hốt, lăn vài vòng trên đất, reo lên: “Ngươi, ngươi muốn thế nào? Ngươi giờ thanh vân trực thượng, làm quan lớn Tống Quốc rồi, ngay cả Giang Nam Quốc Chúa cũng nể ngươi, còn ta thì rơi vào bước đường này, còn chưa đủ thảm sao? Tại sao ngươi không bỏ qua cho ta?”

Dương Hạo cười nhạt nói: “Ngươi hãm hại ta, ta có thể bỏ qua cho ngươi, nhưng mối thù của nương ta, không thể không trả. Thù của Đông Nhi, ta đường đường là đấng nam nhi, không thể không báo”.

Đinh Thừa Nghiệp kêu rít lên: “Ta chỉ muốn hãm hại ngươi mà thôi, nào có ý nghĩ làm hại người khác? Mẫu thân ngươi mắc bệnh hiểm nghèo, giận dữ nên bệnh thêm nặng, thế nên mới mất, bà ấy không phải do ta giết, bà ấy không phải do ta giết”.

Dương Hạo trầm giọng nói: “Đúng vậy, Đinh nhị thiếu gia ngươi giết người, còn muốn dùng nước mà rửa tay đã nhuốm máu tươi sao? Dựa theo đạo lý của ngươi, Đông Nhi đương nhiên không phải do ngươi giết rồi”.

Đinh Thừa Nghiệp tức giận kêu lên: “Đông Nhi, ta càng không muốn giết, rõ ràng là Liễu Thập Nhất và Đổng Lý Thị sợ lộ chuyện gièm pha, nên mới giết người diệt…”

Nói đến đây, mắt hắn đột nhiên lóe lên nói: “Đông Nhi…Đông Nhi?” Nét cười quỷ dị xuất hiện trên mặt hắn, hắn chậm rãi ngồi thẳng người, bình tĩnh nói: “Đinh Hạo, ngươi không thể giết ta”.

“Cái gì?” Gậy từ từ đưa lên, Dương Hạo ung dung cười nhạt: “Hôm nay không có ai đi cứu ngươi hết…”

“Ai bảo không ai có thể cứu ta?” Đinh Thừa Nghiệp cười lớn nói: “Có một người có thể cứu ta, cô ấy nhất định có thể cứu ta, cô ấy chính là La Đông Nhi”.

Dương Hạo lắc đầu nói: “Phí lời, Đông Nhi lương thiện, nếu như nàng chưa chết…”

Lời Dương Hạo còn chưa dứt, gậy thảo mộc trong tay đã vun vút tiếng gió giáng xuống trán Đinh Thừa Nghiệp, Đinh Thừa Nghiệp giương mắt kêu lớn: “La Đông Nhi vẫn chưa chết”.

“Hic”. Chiếc gậy còn cách trán hắn ba tấc bỗng có một lực ngăn nó lại, mồ hôi lăn trên mặt Đinh Thừa Nghiệp, Dương Hạo điềm nhiên nói: “Ngươi nói gì?”

Đinh Thừa Nghiệp nuốt nước bọt, vội vàng nói: “Ta nói là…La Đông Nhi…chưa…chết”.

Dương Hạo trừng mắt một lúc lâu, người đờ ra, căng thẳng nói: “Ta không phải nhị tỷ của ngươi, ngươi có nói thế nào cũng không có tác dụng. Ngươi nghĩ rằng ta sẽ tin ngươi sao?”

Đinh Thừa Nghiệp vội nói: “Còn có Loan Đao Tiểu Lục và Thiết Đầu, bọn họ đều ở cùng nhau”.

“Cái gì?” Dương Hạo mặt biến sắc, Loan Đao Tiểu Lục và Thiết Đầu có mối tương giao với mình, Đinh Thừa Nghiệp ở quê sao biết, đến La Đông Nhi cũng chưa gặp ba huynh đệ kết bái, Đinh Thừa Nghiệp nếu như cuống lên muốn lừa mình thì cũng không thể trong thời gian ngắn nhắc đến Loan Đao Tiểu Lục và Đông Nhi, như vậy thì sức tưởng tượng quá phong phú mới có thể nghĩ đến ba người họ?”

Tim Dương Hạo đập thình thịch, chăm chú nhìn Đinh Thừa Nghiệp một lúc lâu mới từ từ nói: “Ngươi muốn lừa ta?”

Đinh Thừa Nghiệp thấy sắc mặt hắn như vậy, thấy tính mạng mình tạm thời có thể được giữ lại, mặt hắn dương dương tự đắc ung dung nói: “Ta nói đến tăm tích của cô ấy, ngươi bỏ qua cho ta, thế nào?”

Dương Hạo nhìn hắn không nói gì, Đinh Thừa Nghiệp nhếch miệng cười nói: “Chẳng qua Đinh Thừa Nghiệp ta là một tiểu nhân vô liêm sỉ, La Đông Nhi là nương tử của ngươi, Loan Đao Tiểu Lục bọn họ là huynh đệ kết nghĩa của ngươi, nếu như ngươi không muốn biết sự sống chết của họ thì cứ giết ta đi”.

Mắt hắn giảo hoạt, nói: “Thực ra…trong lòng ngươi biết ta không nói sai đúng không?” Đinh Ngọc Lạc đứng một bên chỉ nhìn mà không nói gì. Dương Hạo trầm mặc một lúc sau chậm rãi nói: “Được, ngươi nói tung tích của nàng đi, ta sẽ không giết ngươi”.

Đinh Thừa Nghiệp nhìn Đinh Ngọc Lạc nói: “Cô thì sao?”

“Cô ấy nếu giết ngươi, ta sẽ cản”.

Đinh Thừa Nghiệp cười khanh khách nói: “Được, ta là tiểu nhân, nhưng ta biết ngươi là quân tử. Tiểu nhân…cũng thích làm bạn với quân tử lắm chứ, ta tin lời hứa của ngươi”.

Đinh Ngọc Lạc muốn giết hắn báo thù cho cha, nhưng lại nghĩ tới lời của Dương Hạo, nghĩ tới những lúc Dương Hạo phải chịu khổ. Đinh gia có lỗi với Dương Hạo quá nhiều rồi, người chết không sống lại được, giờ người sống thì sao đây? Cô chỉ có thể tạm thời gác lại chuyện báo thù cho cha, mong có thể có được tin gì đó của La Đông Nhi.

Dương Hạo trầm giọng nói: “Bớt những lời thừa thãi đi, ngươi nói Đông Nhi còn sống, vậy nàng ở đâu?”

Đinh Thừa Nghiệp không chút giấu diếm, ngồi dậy từ từ nói: “Vốn dĩ ta cũng cho rằng cô ấy đã chết, nhưng khi ta ở Khiết Đan thì đã tận mắt nhìn thấy cô ấy”.

Dương Hạo giật mình: “Khiết Đan, sao nàng lại ở Khiết Đan?”

Đinh Thừa Nghiệp nói: “Ta là người bên cạnh Da Luật Văn đại nhân, từng theo gặp Da Luật đại nhân đăng Thượng Kinh ngũ phượng lầu, lúc đó cô ấy đứng ở bên cạnh Hoàng hậu nương nương, ta còn cho rằng mình nhìn nhầm người, thế là nghe ngóng tin tức thông qua mọi người ở đó. Hóa ra, ngày hôm đó là người Lý gia trang dìm Đông Nhi xuống nước, mấy huynh đệ kết nghĩa với ngươi đến thôn trang tìm ngươi, trên đường qua Lý gia trang, biết được cô ấy là nương tử của ngươi, liền xuống nước, cái lồng lợn được họ mang đi, cứu cô ấy ra. Họ tìm ngươi mấy ngày liền, nhưng không thấy tung tích ngươi, đoán là ngươi đã bỏ chạy tới Quảng Nguyên, nhưng lúc đó khắp nơi đều là quan binh đi tuần, lại có người của Liễu gia và Lý gia lùng sục tìm tung tích ngươi, họ đành theo cổ hà cựu đạo tìm ngươi”.

Dương Hạo trầm ngâm, lời hắn nói tin được khoảng tám phần, giờ nhớ đến đám người Loan Đao Tiểu Lục gặp được Đông Nhi, là có khả năng, đặc biệt là ba người Loan Đao Tiểu Lục đã rời khỏi quê hương, sau 3 ngày mình đến Quảng Nguyên, thời gian này khớp với nhau. Đinh Thừa Nghiệp nếu như muốn nói năng bậy bạ thì không thể bịa ra câu chuyện trùng khớp như vậy được.

Hắn vội vàng bước về phía trước hai bước, run rẩy nói: “Về sau…về sau thì sao, họ sao lại đi Khiết Đan?”

Đinh Thừa Nghiệp nói: “Họ đi cổ hà cựu đạo, đó là một con đường rất khó đi, thường có tù trốn trại và bọn buôn lậu, không có quan phủ kiểm tra tuần tra, vốn dĩ cũng rất ổn thỏa, ai biết, họ khi đi ở cổ hà đạo, con đường ít người qua lại này lại có đại đội nhân mã Khiết Đan, cuối cùng họ bị bắt đi Khiết Đan”.

Dương Hạo nghe vậy người đờ ra, hóa ra khi mình đi trước, Đông Nhi đuổi theo sau, không thể tưởng tượng được thần xui quỷ khiến thế nào, mình vội vàng thoát khỏi truy binh của Khiết Đan thì nàng lại bị người bắt đi.

Đinh Thừa Nghiệp lại nói tiếp: “Ta ở Ngũ Phượng lầu khi gặp nàng, người mặc bộ quần áo Khiết Đan, đứng bên cạnh Hoàng đế, như là phi tử của Hoàng đế Khiết Đan, ta sợ cô ấy thấy ta nhận ra ta, vội trốn vào chỗ đông người, vì vậy cô ấy không phát hiện ra ta”.

Mặt Dương Hạo trắng bệch, thất thanh nói: “Ngươi nói gì, nàng…nàng bị làm Hoàng phi của Hoàng đế Khiết Đan?”

Đinh Thừa Nghiệp thấy bộ dáng của hắn thành như vậy, sợ hắn đổi ý đập chiếc gậy vào đầu mình, vốn là còn muốn có vài lời ác độc dày vò hắn, lúc này không dám thừa nước đục thả câu nữa, vội nói: “Lúc đó ta cũng nghĩ như vậy, sau đó nghe ngóng được mới biết, sau khi cô ấy bị đưa đến Khiết Đan, được Tiêu Hậu khen ngợi nên trở thành một người tin cậy nhất của Tiêu Hậu, ở trong cung nữ vui vẻ, quan cư thượng quan, không phải là phi tử của Hoàng thượng. Đám người Loan Đao Tiểu Lục và cô ấy ở cùng nhau, ta…ta cũng chỉ nghe ngóng lai lịch của cô ấy mới biết”.

“Đông Nhi…Đông Nhi…” Dương Hạo đờ đẫn, không kìm nổi xúc động, hắn hàng nghìn hàng vạn lần không thể ngờ rằng Đông Nhi vẫn còn sống, câu chuyện ly kì như vậy không thể bịa ra được, hắn thấy lời của Đinh Thừa Nghiệp nói vậy là thực, sau khi ngẫm nghĩ lai lịch của Tiêu Hậu, tình nhân tìm được là một người Hán, con rể cũng thích tìm người Hán, tuy nói trong số đó không thiếu nói thành phần, chính là vị Tiêu Xước nương nương hơi người Hán tình tiết có vẻ không thể sai được, Đông Nhi tri thư đạt lễ, nhu thuận thông minh, được bà trọng dụng cũng là hợp tình hợp lý.

Đông Nhi còn sống, nghĩ tới điểm này, Dương Hạo vui mừng khôn xiết, Đông Nhi chắc là sẽ không phụ hắn, hắn không chút nghi ngờ tình cảm của Đông Nhi đối với hắn. Đáng tiếc mình sớm cho rằng cô ấy chết rồi, mà nàng vẫn ở Khiết Đan, không biết có đang nhớ nhung mình không. Ở đó tách biệt, Đông Nhi muốn thoát thân cũng rất khó.

Hai tay Dương Hạo khẽ run lên, rưng rưng: “Ta…ta nhất định phải cứu nàng trở về! Cứu nàng và đám người Loan Đao Tiểu Lục về”.

Đinh Thừa Nghiệp thấy hắn như vậy, cẩn thận hỏi: “Ta…ta có thể đi được chưa?’

Dương Hạo xua tay, Đinh Thừa Nghiệp mừng rỡ đứng dậy, khập khiễng đi vài bước, rụt rè nhìn Đinh Ngọc Lạc, Dương Hạo thản nhiên nói: “Ta đang nhìn cô ấy đấy”.

Đinh Thừa Nghiệp cuối cùng cũng yên tâm, kéo cái chân bị thương khập khiễng bỏ đi. Đinh Ngọc Lạc nghe giọng nói lạnh lùng của hắn, nước mắt không khỏi tuôn rơi, nấc nghẹn ngào kêu: “Nhị ca, ca…ca cuối cùng cũng không chịu tha thứ cho muội muội sao?”

Dương Hạo không trả lời, từ từ bước về phía trước, duỗi tay ra, Đinh Ngọc Lạc ngây ngô nhận lấy tảo mộc quải trượng, nhưng không biết làm gì. Dương Hạo nhìn chằm chằm theo bóng dáng Đinh Thừa Nghiệp, lẩm bẩm: “Ta đồng ý không giết ngươi, cũng đồng ý ngăn muội ngốc này giết ngươi, nhưng nếu như cô ấy đánh ta hôn mê ngất xỉu, thì ta sẽ không vi phạm lời hứa”.

Đinh Ngọc Lạc nghe hắn nói mình là muội muội ngốc, vui mừng khôn xiết, lại nghe hắn nói “Đánh hôn mê”, không khỏi ngẩn người, Dương Hạo thở dài nói: “Tên súc sinh đó xem ra bỏ chạy không thành rồi”.

“Vâng, được”. Đinh Ngọc Lạc đồng ý một tiếng, rồi cầm chiếc gậy bổ một nhát về đầu Dương Hạo…

Nguồn: http://4vn.eu/forum/showthread.php?71274-Lich-Su-Quan-Su-Bo-Bo-Sinh-Lien-Nguyet-Quan-Full-Text&page=78#ixzz201ikS3Z9

Chương 365: Bắc thượng nam chinh(1)

Đinh Ngọc Lạc ngẩn người đứng bên cạnh cái cống thối đầy rác rưởi, nhìn tử thi vục mặt vào mặt nước đục ngầu đầy rác rưởi, uế thải mang theo mùi tanh tưởi, mang theo bọt vàng nhạt nổi lềnh phềnh, nếu không nhìn kỹ thì khó mà phát hiện ra đó là một thi thể. Đinh Thừa Nghiệp chạy đến bên mương, giãy dụa và bị trúng một kiếm, ngã ngay xuống cái cống hôi thối nhơ nháp không tưởng được, lẫn vào màu rác rưởi.

Sau một lúc, Đinh Ngọc Lạc mới lau đi nước mắt, quay người lại đến tiểu viện lạc, vừa vào trong viện thì thấy trong viện trống trơn, Dương Hạo không biết đã mất tích đi đâu rồi. Đinh Ngọc Lạc giật mình hoảng hốt, tìm trong tìm ngoài, không những không nhìn thấy Dương Hạo đâu, mà cái gậy quải trượng cũng không thấy đâu nữa. Đinh Ngọc Lạc nước mắt như mưa nói: “Ca… ca bảo ta đánh ca một cái, hóa ra chỉ là để thoát khỏi ta…”

Đầu gối nàng khuỵu xuống đất, thút thít: “Nhị ca, ca bảo ta phải làm thế nào thì mới tha thứ cho ta đây? Cha mất rồi, đại ca cũng thân tàn, tiểu đệ thì táng tận lương tâm, nhị ca, ca nhẫn tâm như vậy mà bỏ đi, để ta và đại ca cả đời này phải bứt rứt sao? Nhị ca, Đinh Ngọc Lạc này hai năm nay đi hết bắc rồi xuống nam, bôn ba ngàn dặm, màn trời chiếu đất, chịu bao nhiêu đắng cay cũng không buồn lòng, nhưng ca đi như vậy thực sự làm tổn thương trái tim của muội. Cái chết của Dương đại nương, trên dưới Đinh gia người nào cũng có tội, muội cũng muốn chuộc tội cho Đinh gia. Ngọc Lạc có bản lĩnh thiên đại, dù có gì xảy ra thì cũng không nề hà. Nhị ca, có phải là muốn muội chết thì ca mới tha thứ cho muội đúng không?”

Đinh Ngọc Lạc thút thít đem tất cả những chuyện trong hai năm ra kể lể, nói hết những bứt rứt trong lòng ra, rồi nàng khóc rống lên, phía sau đột nhiên truyền lại một tiếng thở dài: “Haiz, trên đời này có một dạng vũ khí, có lẽ mãi mãi ta không ngăn cản được, đó chính là nước mắt đàn bà…”

Đinh Ngọc Lạc vừa mừng vừa sợ, thấy Dương Hạo dính lại hàng râu và lông mi, người hơi cúi đứng ở cửa viện. Đinh Ngọc Lạc gọi một tiếng: “Nhị ca…” rồi chạy lại ôm chầm lấy hắn, ôm chặt như thể sợ hắn biến mất.

Dương Hạo nhẹ nhàng vuốt mái tóc của nàng, cười khổ nói: “Mới vừa rồi cho ta một gậy, làm thực là có hiệu quả.”

Đinh Ngọc Lạc xấu hổ, ngẩng đầu lên nói: “Nhị ca, ca… ca còn đau không?”

Dương Hạo thấy bộ dáng khóc sướt mướt của nàng, nhẹ nhàng lắc đầu nói: “Cũng thật là làm khó cho muội, từ Phách Châu mà tìm tới Khiết Đan, rồi lại từ Khiết Đan đến Đường quốc. Nhị ca bận bịu, tuy có tâm báo thù cho mẫu thân, nhưng so với muội thì lại vô cùng xấu hổ. Hôm nay tên súc sinh kia đền tội trước mặt ta, đều là công lao của muội, thì sao ta lại có tâm sinh oán với muội chứ, chỉ là… haiz… hiện giờ, muội có dự đình gì, khi nào về Phách Châu vậy?”

Đinh Ngọc Lạc hơi do dự nói: “Tên súc sinh giết cha đó đã chết, ta… ta sẽ mau chóng về thôi. Nhị ca à, muội nghe nói ca bị người Khiết Đan ám sát, chết cháy ở trên thuyền, sao… sao ca lại…?

Dương Hạo méo xệch cười nói: “Ta xuất thân bất chính, ở triều đình Tống quốc cũng chỉ là ngoại tộc, quan gia đã trọng dụng ta song lại phòng ta, dù có ý thiêu sát ta, vẫn có ý ràng buộc theo dõi, giờ ở tình cảnh xẩu hổ, hà tất nhớ nhung không đi? Lần này, ta chẳng qua chỉ là tương kế tựu kế, nhân cơ hội mà thoát thân thôi. Ẩn cư không bị ràng buộc gì, há chẳng sướng hơn là làm con chuột trong cái bễ, bị khinh bỉ sao?”

Đinh Ngọc Lạc rời khỏi ngực hắn, lau nước mắt, hít một hơi nói: “Thế… nhị ca định đi đâu để ẩn cư, sao không quay về Lô Châu?”

“Về Lô Châu?” Dương Hạo ngạc nhiên hỏi: “Muội sao lại nghĩ đến Lô Châu?”

Đinh Ngọc Lạc chần chừ, không muốn giấu diếm gì hắn bèn nói: “Cơ nghiệp Đinh gia ở Phách Châu, sớm đã bị lụi bại rồi, đại ca nản lòng thoái chí, không muốn ở Phách Châu nữa. Sau hôm nhị ca bỏ đi, ca ấy đã rời toàn bộ gia sản tới Lô Châu, ý đại ca là… sớm muộn gia nghiệp này vẫn giao cho nhị ca.”

Dương Hạo im lặng một lát, lắc đầu nói: “Đi thôi, đến chỗ ở của ta trước, hai ngày sau thì vè Lô Châu. Ca ấy… hai chân bị gãy, một mình lo gia nghiệp ấy e không tiện. Muội tuy là con gái, nhưng tài nghệ và khí phách cũng không kém gì nam nhi. Có muội giúp ca ấy, gánh vác gia nghiệp là chuyện không khó khăn gì. Còn về phần ta…”

Hắn thờ dài một hơi nói: “Ta vốn từ Lô Châu tới đây, ở đó người biết ta vô cùng nhiều, nếu ta về đó, tung tích khó mà tránh khỏi bị lộ, một khi triều đình biết được thì lại không hay. Muội nhận nhị ca này, ta cũng nhận muội ngươi, nhưng chưa chắc có thể sống cùng nhau. Muội cứ để nhị ca theo con đường mà ta muốn đi đi.”

Đinh Ngọc Lạc nghe hắn nói vậy, biết hắn buồn vô cùng, giờ dù nhận mình lại vẫn khúc mắc với Đinh gia, tạm thời không tiện khuyên nữa, chỉ yên lặng gật đầu, đi bên cạnh hắn.

Chỗ ở của Dương Hạo nằm trong một xóm nghèo, nơi này thường xuyên có bọn lưu manh phạm án trốn hoặc ẩn nấp, căn phòng mà họ thuê buôn bán đồ ăn, che chở lưu phạm, mật báo, đúng là khời nguồn nơi sinh kế vô bần của dân nghèo hạng nhất sinh sống, cho nên đám người Dương Hạo ở khu vực hỗn loạn này vô cùng dễ dàng.

Mấy thuộc hạ ở phòng bên cạnh, bao quanh lấy phòng của Dương Hạo và hai vị phu nhân, cho nên ngõ Ô Nê này tuy là nơi vô cùng hỗn loạn, nhưng gần chỗ ở của hắn cực kỳ yên tĩnh, đám lưu manh vô lại, lũ tạp vụ càng không thể tới gần chỗ hắn.

Chỗ ở của Dương Hạo chỉ là một nơi giống với mấy căn nhà bậc trung, sân viện tương đối chật, tường viện thì thấp bé, phòng lụp xụp, nhưng chỗ ở lại tương đối sạch sẽ, song vô cùng đơn sơ. Nơi như vậy, gia phó của Dương Hạo có thể ung dung, còn hai người Đường Diễm Diễm và Ngô Oa Nhi thân phận là thiên kim, hai mĩ nữ cũng chịu khổ được, như vậy mới đáng quý.

Thấy Dương Hạo mang theo một người Hán về, Đường Diễm Diễm và Ngô Oa Nhi vô cùng ngạc nhiên, nghe Dương Hạo giới thiệu về cô ấy, biết được cô này là muội muội cùng cha khác mẹ của Dương Hạo, hai người phụ nữ lúc này mới hiểu ra vấn đề. Đợi cô đi rửa mặt thay quần áo, hồi phục lại vẻ đẹp, là một cô gái hiền lành, thông minh lanh lợi vô cùng, hai cô gái có cảm tình vô cùng. Chuyện cũ của Dương Hạo hai cô đều biết tường tận, cũng biết vị tiểu muội này ban đầu rất tốt với Dương Hạo, rồi các cô quen biết nhau, Đường Diễm Diễm tính tình vô cùng thẳng thắn, Ngô Oa Nhi thì nhu thuận vô cùng, ba cô gái rất nhanh đã quen thân nhau.

Đêm hôm đó, trăng sáng ít sao, Đường Diễm Diễm và Ngô Oa Nhi sau một hồi tâm sự với Đinh Ngọc Lạc, thì cáo từ đi ra, vừa vào trong viện thì gặp Dương Hạo đang đứng ngẩng đầu nhìn mặt trăng, hai người liền đi tới.

Khi mũi ngửi thấy mùi thơm, hai thân kiều diễm đã nhẹ nhàng ôm lấy hắn, ánh đèn trong phòng Đinh Ngọc Lạc đã tắt.

“Quan nhân…” Oa Nhi khẽ nói.

“Các nàng… đều nghe Đinh Ngọc Lạc nói rồi sao?”

“Vâng.”

Dương Hạo bùi ngùi thở dài, cầm lấy tay hai nàng, nhẹ nhàng nói: “Hai nàng lại đây.”

Trong viện có một cái ghế băng, Dương Hạo kéo hai nàng tới ghế băng ngồi, kể lại chuyện của La Đông Nhi và mình lại một lượt, sau đó nói: “Lúc đó ta cho rằng cô ấy đã bị người ta hại chết rồi, nhưng mãi đến bây giờ ta mới biết, cô ấy… vẫn còn sống.”

Hai người con gái nắm chặt tay hắn. Dương Hạo lại nói: “Nếu như không phải Ngọc Lạc từ Phách Châu đến Thượng Kinh, từ Thượng Kinh đến Kim Lăng, bám riết truy đuổi không tha tên súc sinh kia, để ta hôm nay có thể có được tung tích của cô ấy, thì ta vẫn sẽ chẳng hay biết gì. Nếu ta không có tin tức gì, thì có một ngày Đông Nhi chạy về Trung Nguyên, cô ấy… cô ấy cũng nhất định sẽ cho rằng ta thực sự đã chết rồi, từ nay về sau không còn cơ hội gặp nhau nữa. Vừa nghĩ tới tình hình thê thảm ấy, thì ta cũng không rét mà run lên.

Ta và ân oán Đinh gia dây dưa không rõ ràng, giờ người ta hận đã chết rồi, Định đại thiếu gia và Ngọc Lạc dù cho có cái gì không phải, dựa vào cái này, ta cũng không có gì ân oán với họ nữ. Nhưng… Đinh Thừa Tông là con trưởng Đinh gia, từ nhỏ quen mắt, lòng chỉ có một sứ mệnh: chính là làm vinh dự Đinh gia, mà ta thì lại không phải người có thể kế nghiệp gia sản, hơn nữa cũng không có hứng thú lớn vậy. Ung dung tự tại một đời, làm những chuyện vui vẻ với người mình yêu thương, lẽ nào không hơn bôn ba cả đời, chỉ vì cái gia sản truyền lại sao? Huống hồ, ta không muốn sửa thành họ Đinh, cũng không muốn kế thừa gia sản họ Đinh…”

Đường Diễm Diễm khẽ thờ dài nói: “Làm chuyện vui vẻ với người yêu thương. Hạo ca ca, Đông Nhi tỷ tỷ là người tình nhân mà cả đời chàng mãi mãi không buông ra được, giờ tỷ ấy còn sống, chàng nhất định sẽ đi Khiết Đan đón cô ấy về, đúng không?”

Dương Hạo nhìn nàng, bỗng bật cười: “Từ đây đi Khiết Đan, nhất định vô cùng gian khổ, vô cùng nguy hiểm, đại nhân không phải rơi vào nhà bình thường, cô ấy giờ là người trong hoàng cung đại nội. Ở trong đó ai cũng có thể gặp tùy tiện được sao? Huống hồ… nơi đó ta chưa bao giờ đi, đời người chỉ có một lần, nếu muốn đưa nàng trở về, khó khăn như lấy trộm tiên nữ từ trên trời xuống hạ giới.”

Dương Hạo khẽ cầm lấy tay nàng, nhỏ nhẹ nói: “Nàng… không muốn ta đi?”

Đường Diễm Diễm cúi đầu, thầm thì: “Thiếp không muốn để quan nhân của chúng ta đi tới nơi cửu tử nhất sinh, vì canh cánh trong lòng, mất ăn mất ngủ, thiếp không muốn có một người phụ nữ quan trọng vô cùng với chàng trở về tranh giành tình cảm với ta. Nhưng… thiếp biết nhất định chàng sẽ đi. Đông Nhi tỷ tỷ tình thâm nghĩ nặng với chàng, hy sinh vì chàng quá nhiều, nếu chàng bỏ qua, thì chàng không xứng là người đàn ông của thiếp.”

Nàng ngẩng mặt lên, trăng sáng, mắt nàng long lanh, bầu trời thật đẹp

Nguồn: http://4vn.eu/forum/showthread.php?71274-Lich-Su-Quan-Su-Bo-Bo-Sinh-Lien-Nguyet-Quan-Full-Text&page=78#ixzz201inmpID

Chương 365: Bắc thượng nam chinh(2) 

“Diễm Diễm…” Dương Hạo cảm động cầm lấy tay nàng, nhất thời không biết nói gì.

Oa Nhi khẽ nhắc nhở: “Quan nhân, người này chàng nhất định phải cứu, nhưng quan nhân đi là đi cứu người, mà không phải đi vào chỗ chết, vì điều này nên chuyến đi này vô cùng nguy hiểm, cho nên quan nhân không nên quá nôn nóng, càng nóng lòng cứu cô ấy trở về, thì càng phải có kế hoạch hoàn hảo.

“Ta biết”.

Dương Hạo ôm lấy người hai nàng, cảm động nói: “Dương Hạo có thể có những người bạn tri kỷ như các nàng thực không biết phúc mấy đời của ta. Ta biết, lần này đi gian nan khổ cực vô cùng, giờ ta không thể quang minh chính đại mà đi, không có Tống Quốc cho ta chỗ dựa, không có mấy trăm dũng sĩ hộ vệ cho ta, không ai nghênh đón ta. Ở một nơi hoàn toàn xa lạ này, một khi đến Thượng Kinh, ta muốn gặp cô ấy trong Hoàng cung thông báo một tin cô ấy biết ta đến là việc gian nan vô cùng, chứ đừng nói đưa cô ấy về, cho nên ta hận một nỗi không thể mọc thêm cánh mà bay đến Thượng Kinh, nhưng ta tuyệt đối không làm việc lỗ mãng”.

Hắn dừng một lát, lại nói: “Mấy ngày nay ta sẽ nghĩ cho kỹ, tính toán một chút, nghĩ một kế sách vẹn toàn, đợi đến khi Kim Lăng gió êm bể lặng, chúng ta sẽ khởi hành đi, ta và các nàng đi Thiếu Hoa sơn trước”.

Đường Diễm Diễm hừ nhẹ một tiếng nói: “Chúng ta có thể tự tìm đến, chẳng lẽ có thể tự về, còn cần đưa chúng ta về Thiếu Hoa sơn? Chàng ý à…trái tim của chàng giờ đã mọc đầy cỏ rồi, còn có ý vậy sao?”

Dương Hạo dịu dàng nói: “Mỹ nhân ân trọng, há dám không đáp? Hai nàng vứt bỏ phú quý theo ta, Dương Hạo lòng cảm kích vô cùng, hơn nữa, cứu Đông Nhi về như nào, ta giờ vẫn chưa có chút chủ ý nào, vẫn là nên lên đường, từ từ nghĩ cách vậy. Đợi có kế hoạch, ta sẽ mang mấy hộ vệ biết nói tiếng Khiết Đan đi đồng quan bắc thượng hà đông lộ, tự đại châu xuất nhạn môn quan, từ đó đi đến Khiết Đan, con đường này cũng tương đối tiện.

Oa Nhi hỏi: “Thế…Ngọc Lạc thế nào đây?”

Dương Hạo trầm lặng nghĩ ngợi, nói: “Cô ấy một mình, tuy nói vào nam ra bắc, sóng gió đều đã từng trải qua, nhưng nghĩ đến chuyện một mình cô ấy ở một mình thực là không thể yên tâm, để ta phái hai người hộ tống cô ấy đi Lô Châu vậy”.

Dương Hạo vừa dứt lời, bên cạnh có một giọng nói vọng lại, quay đầu lại nhìn, Dương Hạo ngạc nhiên vô cùng: “Diễm Diễm, nàng khóc gì vậy?”

Đường Diễm Diễm bỗng sà vào ngực hắn, thút thít nói: “Chàng làm gì, thiếp cũng ủng hộ, nhưng chàng phải đồng ý với thiếp, dù thế nào đi nữa, chàng cũng phải sống trở về, nhất định phải sống trở về”.

“Ngốc nghếch, ta còn chưa đi mà, sao lại nói lời không may đó chứ?”

Dương Hạo tức cười, nhưng thấy Đường Diễm Diễm ôm chặt lấy eo hắn, khóc lớn nhào vào ngực hắn, nụ cười trên mặt hắn dần tắt, liền đưa tay nâng nàng đậy, vuốt ve mái tóc của Diễm Diễm, hắn không nói gì, cảm động vô cùng…

Ba người đi sát nhau trở về phòng, tường thấp có một bóng người đứng lặng nhìn theo, nhìn ánh đèn sáng ở phòng bọn họ, nhìn thật lâu…

Trời đã sáng, tuy tài liệu có hạn nhưng Oa Oa vẫn xem, vẫn là lo liệu mấy món ăn khai vị ngon miệng, nấu một nồi cháo thơm, Dương Hạo vốn muốn đợi Ngọc Lạc dậy rồi cùng dùng bữa, nhưng đợi hồi lâu vẫn không thấy cô ấy dậy, Oa Oa bèn đến phòng cô gọi một tiếng, sau một lúc gọi, Oa Oa giật mình trở về nói: “Quan nhân, Ngọc Lạc đi rồi”.

“Gì cơ?” Dương Hạo kinh ngạc, vội chạy đến phòng Ngọc Lạc, Oa Oa chạy theo nói: “Quan nhân, Ngọc Lạc đi rồi, đây là thư cô ấy để lại”.

Vì đuổi theo giết tên súc sinh kia, muội muội đã ở Thượng Kinh nhiều ngày, rất thuộc đường nơi đó, con đường quay về cũng biết, hơn nữa muội là thân nữ nhi, lần này lên kinh, một khi nghe ngóng được tin của nhị tẩu, cũng tiện đi tiếp cận tẩu ấy. Một đi Thượng Kinh trước, rồi hỏi dò đường, đợi đến thành công được vài phần, nếu như Ngọc Lạc có thể gặp nhị tẩu trước thì sẽ chuẩn bị trước.

Nhị ca hộ tống gia quyến rời Kim Lăng, đi them về phía Thượng Kinh rồi gặp muội ở đó. Muội lên Thượng Kinh trước, ở Thượng Kinh muội ở Phúc tự nhà trọ nghỉ chân, đợi khi Nhị ca đến chúng ta sẽ gặp nhau. Ngọc Lạc, khấu đầu tái kiến.

*******

Biện Lương, Hoàng cung, điện Tập Anh.

Các quan văn quan võ tập trung trong điện, bàn tán xôn xao.

Hôm nay quan văn quan võ trọng thần tập trung lại với nhau, nội dung tranh luận là đại sự quan trọng: Đánh ai.

Tiếng đao va chạm soàn soạt làm tăng tinh thần, mở rộng ranh giới, chính là hướng nam và hướng bắc, và nó thành vấn đề mà các quan trong triều tranh giành không ngớt.

Lúc này Dương Hạo mặc bộ sứ giả Khiết Đan, tin sứ giả Khiết Đan đột tử cũng đã truyền tới, theo đó mà còn có nội sứ quán Đường Quốc hao tâm biên soạn ra bản đồ địa lý Giang Nam, theo lời tường thuật của Dương Hạo về bản đồ, căn cứ vào điều này có thể phân tích phán đoán vị trí đóng quân nhiều ít binh lực.

Cùng lúc đó, mật thám bên Khiết Đan cũng truyền tin, Khánh Vương mưu phản, binh vây Thượng Kinh, tiêu thác trí, hàn đức bảo hơn mười tướng lĩnh và văn thần quên thân bỏ mình ở binh biến, Da Luật Hưu Ca mang theobinh mã tuần thành, Hoàng đế Khiết Đan sáng sớm hôm sau đăng thành ổn định lòng dân, về sau không thấy hắn lộ diện, phố phường trong ngoài loan tin Hoàng đế đã băng hà, nhưng hắn ốm yếu, triều chính xưa nay đều là Hoàng hậu lo liệu, cho nên triều chính không thấy bị xao lãng.

Tiêu hoàng hậu đã mật chiếu hơn mười đạo, cử người phá vây đi viện quân, các nơi, các tộc các bộ lạc giờ liên kết với nhau, cần vương binh mã nườm nượp, còn vị thủ lĩnh cầm đầu hơn mười đại bộ lạc đang có bài hịch Khánh Vương thề sống chết, khởi binh chạy tới Thượng Kinh, quân chúng ào ào, tình hình đại chiến vô cùng căng thẳng.

Được tin này, Triệu Khuông Dận mừng rỡ như điên, đám võ tướng trong triều, Da Luật Hiền, đám người Hô Diên Tán cho rằng đây là thời cơ trời cho, dựa vào nội loạn của Khiết Đan, nên khởi binh bắc phạt, lấy tội danh tự tiện giết Tống sứ thảo phạt Khiết Đan, đoạt về 16 châu U Vân, điều này có chiến lược dễ thủ mà khó công. Còn về Đường Quốc, thực sự không phải sợ, tùy thời cơ có thể phát binh tiêu diệt.

Dựa vào đám người Lô Đa Tốn, Tiết Cư Chính, Lữ Dư Khánh cầm đầu văn thần nhất trí cho rằng, tiên nam hậu bắc bình định thiên hạ là quốc sách định hạ của Đại Tống, nhiều năm qua, triều đình có nhiều sự sắp xếp, binh mã bộ thư, binh sĩ diễn luyện, cung cấp lương thảo…tất cả đều đã được chuẩn bị kỹ càng, không thể vội vàng sửa đổi quy chế.

Hai phái tranh chấp, Da Luật Hiền ưỡn bụng, rít gào nói: “Các ngươi là lũ nhà nho nghèo kiết xác, hiểu được chuyện đánh giặc sao, Đường Quốc nếu như lấy được, tùy lúc có thể ra tay, bắc phạt Khiết Đan cũng không phải chuyện dễ dàng, dựa vào quốc binh, chiến lực của nước ta, có cơ hội tốt thế này sao không dùng, nhân lúc hắn bệnh thì lấy mạng hắn mới là đạo lý”.

Lô Đa Tốn nói: “Da Luật Hiền nói lời này sai rồi, không nói đến Khiết Đan nam viện đại vương Da Luật Tà Chẩn giờ có mắt không tròng với tình hình loạn lạc của Thượng Kinh, bày thế trận chờ đón quân Tống ta, hơn nữa giờ chính là tiết trời giá rét, quần áo mùa đông, lương thảo, xe ngựa vận chuyển phải giải quyết như thế nào? Đảng tướng quân vội vàng nghĩ tới Bắc phạt, người Khiết Đan là dễ dàng tấn công đánh bại họ như vậy sao? Một khi chiến sự giằng co, binh mã của ta khốn đốn ở đất bắc, khi đó muốn quay đầu lại cũng khó, còn nếu Đường Quốc nhân cơ hội tác loạn, thì sẽ như thế nào đây?”

Da Luật Hiền trừng mắt, giơ hai tay ra nói: “Trước sợ sói, sau sợ hổ, thì chẳng cần làm gì nữa cả”.

Hô Diên Tán vội nói: “Các vị đại nhân, Khánh Vương có thể lợi dụng thế nào? Nếu chúng ta phái người tới bàn bạc với hắn, dựa vào điều kiện trên đây, hắn sẽ hợp tác với Tống Quốc ta. Giờ Tiêu hoàng hậu tọa trấn Thượng Kinh, Thượng Kinh bất loạn, cần vương chi sư ùn ùn, ta thấy Khánh Vương rất khó đắc thủ. Nếu chúng ta có thể thuyết phục hắn điều động binh mã chuyển công 16 châu U Vân, và trợ giúp hắn một tay, hợp lực cướp lấy U Vân đối kháng lại Thượng Kinh, Da Luật Tà Chẩn cũng không nghĩ tới.. Nếu Khánh Vương theo U Vân mà kháng Thượng Kinh, hắc hắc…”

Tiết Cư Chính phản bác nói: “Khánh Vương dễ dàng làm vậy sao? Hơn nữa nói đi cũng phải nói lại, đợi cho nghị binh đã định, thế cần đến khi nào rồi, sợ thời cơ đã sớm bỏ qua mất. Đảng Tiến ta một trận chiến mà san bằng Đường Quốc, sớm đã chuẩn bị, Nam chinh các cửa ải hiểm yếu có dự trữ lương thảo, giờ lại có bản đồ địa lý giang nam sơn hà, các nơi trú binh rõ như lòng bàn tay, chính khả lần này nam chinh, thống nhất Trung Nguyên, trừ bỏ mọi ưu phiền, khi đó mới chuẩn bị kỹ càng bắc phạt, mới là kế ổn thỏa, nếu không một khi Đường Quốc tham chiến, hai mặt khai chiến, Tống Quốc ta tất sẽ bị đại thương nguyên khí”.

Triệu Khuông Dận nghe hai phái nhân mã tranh chấp, thấy Tấn Vương đứng ở bên cạnh không nói nửa lời, bèn nói: “Tấn Vương nghĩ thế nào?”

Triệu Quang Nghĩa đi lững thững vài bước rồi đứng lại, chắp tay nói: “Bệ hạ, thần cho rằng, nếu lần này quyết phạt, thật là đầu cơ, chưa chuẩn bị đủ, lúc này là mùa gió lạnh rồi, miền bắc trời đông tuyết phủ, quân nhu khó mà có thể tiếp nhận được, một khi quân ta bị chặt đứt đường lui, hậu quả tất khó lường. Da Luật Tà Chẩn nhất đại danh tướng, hắn tọa trấn Nam viện, chiếm cứ thiên thời địa lợi nhân hòa, nếu như không có sự chuẩn bị đầy đủ, cuộc chiến này quá nguy hiểm, huống hồ đất Thục giờ có người tác loạn, Mân Nam tân phụ, Đường Quốc khó mà không có phản loạn, đây là những điều thần nghĩ, nghi nam…bất nghi bắc”.

Triệu Khuông Dận mỉm cười: “Khánh Vương nếu điều quân trở về phạt U vân, sẽ không suy nghĩ tới Tiêu hoàng hậu sau lưng hắn sao? Nam có Da Luật Tà Chẩn, bắc có Tiêu hoàng hậu, Khánh Vương kẹp ở giữa có thể làm được chuyện gì? Sự lựa chọn duy nhất của hắn chỉ có thể nhanh chóng tấn công Thượng Kinh, nắm được Tiêu Hậu trong tay, định lại thế cục, còn có một điểm nữa, các khanh chưa nghĩ tới, Trẫm nếu như bắc phạt, có khả năng phản mà thúc đẩy người bắc hòa giải nhất trí đối ngoại không?”

Hắn nhìn quần thần một lượt, thấy quần thần im lặng, có người vẻ mặt đã chợt hiểu, lại nói: “Khiết Đan Hoàng đế lâu không lộ diện, sống chết không hay. Nếu hắn đã chết, Tiêu hậu bí mật không phát tang thì sao? Tiêu Xước vô song, nếu Hoàng đế đã chết, Trẫm lại phát binh bắc phạt, loạn trong giặc ngoài, bà ta sẽ giảng hòa với Khánh Vương không đây? Còn về liên lạc với Khánh Vương, Trẫm…”

Triệu Khuông Dận mỉm cười, khinh khỉnh nói: “Trẫm há có thể bừa bãi qua lại với tên loạn thần”.

Triệu Quang Nghĩa bước lên một bước nói: “Bệ hạ anh minh”.

Đám người Lô Đa Tốn lần lượt khen ngợi Triệu Khuông Dận, Triệu Khuông Dận cười nhìn Da Luật Hiền, Tào Bân, nói: “Các khanh dốc hết chủ trương bắc phạt, không phải vì U Vân, hoàn toàn là vì người bắc và không dễ, các người kiêng kị cho nên vừa thấy cơ hội mới không muốn bỏ qua. Nguyên nhân chính là như vậy, Trẫm càng không thể vội vã làm bừa”.

Hắn cười lạnh lùng, ngạo nghễ nói: “Bắc quốc sao, đợi thống nhất Trung Nguyên, Trẫm sẽ ngự giá thân chinh, người bắc tuy rằng rất cao, Trẫm là Trẫm ngồi không cũng khó chịu”.

Hắn hơi ngả người về phía trước, trầm giọng nói: “Ý Trẫm, trước tiên nên lấy Đường Quốc, thống nhất Trung Nguyên. Các khanh, ai có thể thống binh nam chinh?”

Triệu Khuông Dận sẽ chọn ai gánh vác trọng trách này? Ai tự ứng cử mình đây? Mời các bạn cùng dự đoán và đón đọc chương tiếp theo.^^

Nguồn: http://4vn.eu/forum/showthread.php?71274-Lich-Su-Quan-Su-Bo-Bo-Sinh-Lien-Nguyet-Quan-Full-Text&page=78#ixzz201irbdY5

Chương 366: Chủ động xin đi đánh giặc. (1) 

Nguồn: http://4vn.eu/forum/showthread.php?71274-Lich-Su-Quan-Su-Bo-Bo-Sinh-Lien-Nguyet-Quan-Full-Text&page=78#ixzz201isYIBb

Triệu Khuông Dận vui vẻ vì Khiết Đan nội loạn, 16 châu U Vân rất hấp dẫn hắn, quyết định quốc sách trước nam sau bắc, đồng thời nắm bắt được cô hội này phát binh. Tống chinh phạt Đường quốc, trận chiến cuối cùng thống nhất Trung Nguyên, thời gian trong lịch sử đã bắt đầu trước một năm.

Nhưng ai phải gánh vác trọng trách này đây?

Tào Bân ắt không thể thiếu được, hắn giờ không những là khu mật thừa chỉ, mà còn là một đại tướng của Tống quốc, lão luyện, hữu dũng hữu mưu, có tài thống soái. Một người khác cũng thích hợp chính là Phan Mỹ. Phan Mỹ là chiếc đao nhọn sắc bén nhất trong những chiến tướng Tống quốc. Tào Bân giỏi thủ, Phan Mỹ giỏi công, hai người cùng phối hợp ăn ý với nhau, bọn họ liên thủ với nhau tất đánh đâu thắng đó, không gì cản nổi.

Nhưng Phan Mỹ giờ vẫn ở Mân Nam chưa về, nguyên Thục quốc cảnh nội đang có một đạo nhân mã tạo phản, giờ phản tặc đã vượt quá vạn người, hơn nữa thanh thế càng ngày càng lớn mạnh. Thời điểm này Mân Nam vừa mới quy phục không được tái loạn, nếu không hai nơi khói lửa cùng dấy lên, xa cùng hô ứng, còn nói gì tới chuyện thảo phạt Đường quốc. Phan Mỹ giờ chỉ có thể tọa trấn Mân Nam.

Trận chiến cuối cùng thống nhất Trung Nguyên, đây là cơ hội khó có được, càng là một cơ hội quan trọng lưu danh sử sách, ai không biết cơ chứ? Da Luật Hiền, Hô Diên Tán hai viên hổ tướng này đều tranh giành đứng ra, Triệu Khuông Dận không khỏi lắc đầu, bọn họ là cấm quân tướng lĩnh, phụ trách an toàn kinh đô và hoàng thành, trừ khi ngự giá thân chinh, nếu không thì sao có thể dễ dàng mà phái họ điều binh được. Huống hồ hai vị tướng này dũng mãnh, nhưng bọn họ quen lục chiến, mã chiến bộ chiến là anh hùng nhất phương, nhưng thủy chiến thì… hai vị thống lĩnh mã quân bộ quân này không giỏi.

Lúc này, lại một vị quan không kiềm chế được đi ra, khiến người ta ngạc nhiên, hắn chính là một văn thần, quần áo hoa văn thiếp vàng long bào, đội mũ cánh chuồn, dáng người cao to, bước đi thong dong, chính là đương kim Tấn vương kiêm phủ doãn phủ Khai Phong Triệu Quang Nghĩa.

“Bệ hạ, thần đệ thỉnh lĩnh đại quân, xin phụng chỉ, xin thề san bằng Đường quốc.”

Triệu Khuông Dận kinh ngạc, ngẩn người ra, dở khóc dở cười nói: “Hoàng đệ, đệ… đệ sao có thể xông vào chiến trận hỗn loạn đó được, đệ với thân phận Khai Phong phủ doãn, dẫn binh nam hạ, chẳng phải là để cho thiên hạ cười triều ta không có người sao?”

Triệu Quang Nghĩa khom người nói: “Bệ hạ, là thần tự nguyên, sau trận chiến này, Trung Nguyên không còn chiến sự nữa, và thần đệ nguyện sẽ từ bỏ chức Khai Phong phủ doãn, thống binh nam hạ, tái lập công cho bệ hạ.”

Triệu Khuông Dận nhíu mày nói: “Hoàng đệ, Trung Nguyên các nước bên tỏng, dựa vào thực lực Đường quốc mạnh nhất. Lý Dục tuy ngu ngốc, nhưng Đường quốc không phải không có võ tướng dũng mãnh. Lần này nam chinh mười mấy vạn đại quân xuôi nam, lương thực hao tổn vô số, sự nếu bất thành, hậu quả mang đến vô cùng nghiêm trọng. Hoàng đệ thân là Khai Phong phủ doãn, lo liệu chính vụ đương nhiên là thuận buồm xuôi gió, nhưng…”

Triệu Quang Nghĩa chắp tay vái dài nói: “Bệ hạ, thần ngày xưa cũng đã từng đi theo bệ hạ. Thần đệ thuở nhò theo bệ hạ, bước theo binh nghiệp, thấy bệ hạ rong ruổi nơi sa trường, bắc chiến nam chinh, thần đệ có một ước mơ, muốn được như bệ hạ, thần đệ giải giáp cứ ngồi ở Khai Phong, giờ đã hơn mười năm rồi. Khi Cừ Châu Lý Tiên kéo cờ tạo phản, thần đệ muốn từ chức Khai Phong phủ doãn, thay bệ hạ tiêu diệt chúng, tích bị hàn lâm học sĩ, Bổng Châu tri phủ Chu Ngang đại nhân nhanh chân đến trước. Giờ Chu đại nhân thống ngự Quảng An quân liên tiếp chiến thắng, thần đệ há lại cam lòng. Thần đệ xuất thân võ tướng, nhiều năm nay lại chưa từng lập chiến công gì cho bệ hạ, nghĩ vậy, nay chinh phạt Giang Nam, thần đệ khẩn cầu bệ hạ, mong bệ hạ ân chuẩn.”

Lời cầu khẩn của Triệu Quang Nghĩa, Triệu Khuông Dận không khỏi nghẹn lời. Chu Ngang là văn nhân rõ ràng, dựa vào hàn lâm học sĩ, thân phận Bổng Châu tri phủ có thể kiêm ngự Quảng An quân phó tứ xuyên bình định, mà nhị đệ vốn là một võ tướng, sao có thể so với hắn là tri phủ?

Đang lúc băn khoăn, khu mật thừa chỉ Tư Mã Thiên Khuê liền tán thành: “Thần nghĩ rằng nguyên nhân Đường quốc không thể so với Thục Hán, càng cần một người uy vọng đức long, thống ngự chư quân, như thế mới có thể bảo đảm chỉ huy được các lộ đại quân. Lần trước Ngụy vương điện hạ tuần thú Giang Hoài, mượn long uy của bệ hạ, giải nguy cạn lương thực cho Khai Phong. Giở Tấn vương là thân cận của bệ hạ, thay bệ hạ chinh phạt Đường quốc, cũng tất sẽ tạo khí thế cho tam quân. Huống hồ Tấn vương đã theo bệ hạ nhiều năm, sỡ trường quân trung, tinh thông võ lược, lần này nếu là chủ soái thảo phạt Đường quốc, chắc chắn sẽ được tam quân kính phục.”

Triệu Khuông Dận chớp chớp mắt, trầm ngâm không nói gì, Da Luật Hiền bước lên phía trước giải vây cho hoàng đế nói: “Bệ hạ, thần tuy không giỏi thủy chiến, nhưng lần nam hạ này, cũng không phải chỉ có thủy quân có thể tham chiến, bệ hạ phái thần đi đi.” 

“Đảng Tiến tuy là một con vịt cạn, Trường Giang, Tần Hoài, trong mắt lão Đảng chỉ là một cái vũng bùn mà thôi, bước qua nó thực không thành vấn đề.”

Triệu Quang Nghĩa liếc mắt sang nhìn Đảng Tiến, mỉm cười nói: “Đảng tướng quân dũng mãnh thiện chiến, trong triều ai mà không biết, nhưng cuộc chiến phạt Đường, nên nhanh chóng không nên hoãn. Không biết Đảng tướng quân nếu cầm binh phạt Đường, bao lâu có thể tóm gọn Kim Lăng, đưa Lý Dục tới trước mặt bệ hạ thỉnh tội?”

Đảng Tiến không khỏi ngẩn người. Việc này ai dám cam đoan, lúc đó nếu như gặp phải một tòa kiên thành, rồi lại gặp tướng lĩnh giỏi thủ thành, chỉ cần trong thành lương thực dồi dào, đánh một năm hai năm cũng là chuyện bình thường. Lần này nam chinh, một đại tướng đem hết khả năng của mình ra là điều đương nhiên, nhưng hắn cần vỗ ngực cam đoan trong bao lâu có thể nắm gọn Đường quốc, thì hắn không thể nói rõ.

Đảng Tiến suy nghĩ một lát, do dự nói : “Mạt tướng… mạt tướng sẽ dốc hết sức mình, anh dũng giết giặc. Còn nắm được thành Kim Lăng trong bao lâu… cái này… chuyện binh gia thay đổi khó lường, giờ không thể nói chuẩn xác được. Nếu mạt tướng dẫn quân phạt Đường quốc, ta nghĩ… ta nghĩ, nếu như chiến sự thuận lợi, năm sau có thể chiếm được Kim Lăng.”

Triệu Quang Nghĩa mỉm cười, quay đầu lại phía Triệu Khuông Dận, thản nhiên cao giọng nói: “Bệ hạ, nếu vi thần thống binh nam hạ, thần bảo đảm nội ba tháng sẽ san bằng Đường quốc, để bản đồ của nó thuộc về Đại Tống.”

“Ba tháng… Tấn vương nói lời giữ lời đó chứ?”

“Thần đệ xin bảo đảm!”

“Tấn vương thực không hổ thẹn là bào đệ của bệ hạ, long huynh hổ đệ, khí khái bất phàm. Tấn vương điện hạ giỏi văn giỏi võ, dũng mãnh thiện chiến, là cũng được ảnh hưởng từ bệ hạ, đây là cái phúc của triều đình ta, là cái phúc của Đại Tống ta. Tấn vương có ý này, bệ hạ ngại gì mà chần chừ nữa. Thần tán thành Tấn vương thống binh.”

Tả gián nghị đại phu Đỗ Tuy vui mừng đứng dậy, chắp tay nói tỏ ý tán thành. Quần thần ai nấy cũng lần lượt tán thành, sau một lúc, văn võ đại thần trung thư xá nhân Trần Bình Chương, hữu phó Xạ Dương Tuần, phán bộ binh sự Tử Nguyên Mậu, thị ngự sử tri tạp sự Lý Huyền Triết, thiết kỵ tả hữu sương đô sứ Lý Hoài Trung lần lượt hưởng ứng.

Sắc mặt Triệu Khuông Dận hơi đổi, mắt hắn nhìn đám văn võ đại thần, mỗi người hắn đều nhìn qua, ánh mắt thâm thúy, nhưng hắn ngồi ở chỗ cao, không ai dám nhìn thẳng mặt hoàng đế, không ai có thể nhìn được ánh mắt của hắn.

Triệu Khuông Dận hít nhẹ một hơi, quay đầu nhìn về phía văn ban chi thủ, ở đó còn có ba vị tể tướng Lô Đa Tốn, Tiết Cư Chính, Hô Diên Tán. Triệu Khuông Dận mỉm cười nói: “Tấn vương chủ động xin đi giết giặc, chuyện phạt Đường quốc, không biết ý ba vị tể tướng ra sao?”

Ba người nhìn nhau, do dự bước lên phía trước nói: “Chúng thần… không có ý kiến gì.” 

Sắc mặt Triệu Khuông Dận vẫn không đổi, lại quay sang phía La Công Minh vừa mới hồi kinh, quan thăng một cấp, trở thành Đại Tống triều tài thần gia, hỏi: “La khanh nghĩ sao?”

La Công Minh chớp chớp mắt, chắp tay nói: “Thần nghĩ rằng, dù vị đại tướng nào thống binh nam chinh, được bệ hạ bày mưu lập kế, thì lo ngại gì không chiến thắng đây?”

Triệu Khuông Dận trầm mặc một lúc, cười to nói: “Được, Tấn vương đã được mọi người ủng hộ, chức quan Giang Nam hành dinh mã bộ quân chiến trẫm sẽ giao cho ngươi, cho ngươi thống ngự tam quân thảo phạt Đường quốc. Còn về từ chức Khai Phong phủ doãn, tạm thời chưa tìm được người thích hợp, Tấn vương xử lý thuận buồm xuôi gió, trẫm không thể không nghĩ cho kỹ. Thế này đi, trong thời gian Tấn vương rời kinh, Triệu Quang Mỹ có quyền tri Khai Phong phủ doãn, phủ nha phó quan phụ tá, đợi khi Tấn vương công thành trở về, thì lại tính tiếp. Nhưng… Tấn vương chớ quên mình phải lập được nhiều công trạng nhé!”

“Thần đệ tuân chỉ.” Triệu Quang Nghĩa vui mừng cầm một góc áo bào quỳ xuống, thi lễ.

Sau khi bãi triều, Triệu Quang Nghĩa trở về phủ Khai Phong, vừa mới ngồi xuống chỗ của mình ở Thanh Tâm lầu, đám người Tống Kỳ, Trình Vũ, Trình Đức Huyền vội vàng chạy đến, vừa gặp Triệu Quang Nghĩa đã vội nói: “Thiên tuế, ngài từ chức Khai Phong phủ doãn rồi sao?”

Triệu Quang Nghĩa uống một hớp trà, cười ảm đạm nói: “Lo lắng chuyện gì, bổn vương ở phủ Khai Phong hơn mười năm rồi, có thể đổi ai đến có thể ngay lập tức khống chế nơi đây?”

Tống Kỳ vội vàng nói: “Nhưng… một khi không thể không thay một đời không thể, thiên tuế tuy có cơ hội, có ý đồ lập chiến công, bệ hạ chưa chắc sẽ không này sinh cảnh giác. Bệ hạ xuân thu chính thịnh, nếu có ý đổi phủ doãn, tân nhiệm Khai Phong doãn sẽ làm hơn mười năm cũng không phải là không thể. Bệ hạ lệnh thiên tuế quyền thống lãnh đại quân, chức Giang Nam hành dinh đô bộ có thể là tạm thời, chiến sự xong đương nhiên sẽ xóa bỏ, các bộ binh mã vẫn về các nơi, đến lúc đó chẳng phải là mất cả hai sao?

Nguồn: http://4vn.eu/forum/showthread.php?71274-Lich-Su-Quan-Su-Bo-Bo-Sinh-Lien-Nguyet-Quan-Full-Text&page=78#ixzz201iuyWOG

Chương 366: Chủ động xin đi đánh giặc. (2)

Nguồn: http://4vn.eu/forum/showthread.php?71274-Lich-Su-Quan-Su-Bo-Bo-Sinh-Lien-Nguyet-Quan-Full-Text&page=78#ixzz201iw0QSJ

Triệu Quang Nghĩa mỉm cười, thản nhiên nói: “Ta biết bệ hạ nghĩ sâu sa, bệ hạ cho binh hướng nam, một khi có được Giang Nam thì sẽ có ý đồ tranh giành quyền lợi U Vân, thiên hạ một khi chưa định, bệ hạ sẽ không bỏ qua bổn vương”.

Mộ Dung Cầu Túy đứng phía sau Triệu Quang Nghĩa cũng cười nói: “Các vị lo lắng sợ hãi gì chứ, Khai Phong doãn này tuy là chức cao thật đấy, nhưng cũng không phải không có hạn chế, Thiên tuế khổ tâm gây dựng mười năm, tầm nhìn không phải chỉ có trong phủ Khai Phong sao? Phủ Khai Phong không quan trọng, cái quan trọng là căn cơ từ thân phận này có thể mở ra, kết giao với khắp các đại thần.

Mười năm gây dựng, những người có thể kết giao thì cũng đã kết giao rồi, mà kết giao không được nữa thì ngồi cũng chỉ uổng công. Giờ Quan Gia bắt đầu trọng dụng Lô Đa Tốn, dùng không được bao lâu lại là Triệu Phổ, không chắc quy phụ Thiên tuế, hay là muốn quy tụ môn hạ của hắn cùng võ đài với Thiên tuế, một khi như vậy, sao không thừa dịp trong triều hiện giờ vẫn là Thiên tuế nhà ta lớn nhất, nhanh chóng nắm giữ một chức vụ mới, để con chim có một thân hình đầy đặn? Nếu không có chiến công gì, thì so với tướng có bách chiến bách thắng, ai có thể thần phục đây?”

Trình Vũ tức giận nói: “Nói như vậy, là Mộ Dung tiên sinh hiến kế cho Thiên tuế rồi? Nếu đã như vậy, ngươi sao có thể mê hoặc Thiên tuế lập hạ quân lệnh trạng, gánh vác trọng trách nặng nề, binh gia chuyện thường, ai có thể bảo đảm Thiên tuế lần này đi có thể cắm được cờ thắng trận, nội ba tháng, bình định giang Nam đây?”

Triệu Quang Nghĩa tiếp lời nói: “Thực ra cũng không thể trách Mộ Dung tiên sinh, lập quân lệnh trạng chỉ là câu mà bổn vương tức thời nghĩ ra, không liên quan gì đến Mộ Dung tiên sinh”.

Trình Vũ tức giận: “Thiên tuế…”

Triệu Quang Nghĩa vội ngăn hắn lại, khẽ mỉm cười nói: “Cho dù lập được quân lệnh trạng, đại ca hắn…lại có thể coi ta là gì đây?”

Triệu Quang Nghĩa hiểu Triệu Khuông Dận hơn cả Triệu Khuông Dận hiểu hắn, vị đại ca này hùng tài đại lược, chỉ điểm thiên hạ, cử trọng nhược khinh, nhưng bỏ long bào ra, cũng không bằng một huynh trưởng nhân hậu từ ái thậm chí hơi thích nịnh mà thôi. Những gì mình biểu hiện ra, chẳng qua chỉ là lập chiến công mà thôi, hắn ngay cả có cảnh giác, thì huynh đệ trong nhà cũng không đến mức có chuyện quá đáng.

Hắn thở dài, chậm rãi đứng dậy, nắm chặt hai đấm, mắt hưng phấn, trầm giọng nói: “Nhưng…dù không lập được quân lệnh trạng, bổn vương cũng nhất định phải lập được đại công, lập được công đầu. Việc này, chỉ có thể là thắng, không thể bại, không tiếc bất cứ thứ gì”.

Triệu Khuông Dận rời khỏi điện, Vương Kế Ân bước tới vào trong đại nội, lúc đi tới cửa, bỗng nhìn thấy Vương Kế Ân , Vương Kế Ân bị hắn nhìn chằm chằm, sợ hãi nói: “Quan Gia…có gì dặn dò ạ?”

Triệu Khuông Dận suy nghĩ một chút rồi nói: “Nghĩa phụ của ngươi từng nhậm giám quân nhiều năm, có nhiều chiến công, ngươi vẫn…đi bên cạnh hắn chứ?’

“Vâng”.

“Ồ…ngươi đi theo nghĩa phụ nhiều năm, thông võ lược, mấy năm này, ngươi hầu hạ Trẫm tận tâm tận lực, Trẫm phong cho ngươi võ đức sứ, theo Tấn Vương đi nam hạ, lập chiến công trở về, để công danh sáng lạn Vương thị, ngươi thấy sao?”

Vương Kế Ân ngẩn người, rồi lập tức nói: “Nô tỳ tuy có kiến thức trong quân điều binh khiển tướng, nhưng nào dám so với tướng quân lãnh binh đánh giặc, song vẫn nghe lệnh hành sự, xông pha chiến đấu, làm nhất mã tiền tốt, nô tì theo Tấn Vương, nô tỳ sẽ cố gắng hết sức, sẽ không để Quan Gia phải xấu hổ”.

“Ồ…” Triệu Khuông Dận gật đầu hài lòng nói: “Được, đợi chiếu lệnh, ngươi theo Tấn Vương đi Giang Nam. Đúng rồi, ngươi đi truyền lệnh, lệnh Triệu Quang Mỹ lập tức vào cung, vào đại nội gặp Trẫm, còn nữa, dặn dò lễ bộ, dự tính ca ngợi Dương Hạo, Tiêu Hải Đào, Trương Đồng Châu”.

“Tuân chỉ!” Vương Kế Ân vội thi lễ đi ra.

Triệu Khuông Dận đi vào đại nội, vào trong hoa viện, bỗng thấy Vĩnh Khánh hai tay chống nạnh, đứng ở trong viện hét: “Thực là đồ bỏ đi, một cái cây mà cũng không trèo được à? Nhanh đi mang cái thang đến đây, à không, không, cầm cái cưa đến…”

Giọng the thé ở trên cao nói đi nói lại: “Thực là đồ bỏ đi, là đồ bỏ đi, đến cái cây cũng không leo lên được…”

Triệu Khuông Dận vừa nghe thấy hiểu được mọi chuyện, là con vẹt nói, dở khóc dở cười, bước lại hỏi: “Vĩnh Khánh con lại ở đây nghịch gì vậy hả?”

“Phụ thân!” Vĩnh Khánh quay đầu lại thấy hắn, vội chạy đến bên cạnh, hậm hực nói: “Không phải là Vĩnh Khánh làm loạn gì cả, cái thoa châu ngọc bị con chim tha đi, để nó trên cây không chịu trả lại cho con, cầm hạt dưa đến cho nó ăn nó cũng không xuống…”

Con vẹt đậu trên cao lại kêu: “Không phải Vĩnh Khánh làm loạn, không phải Vĩnh Khánh làm loạn…”

Triệu Khuông Dận ngẩng đầu nhìn, chỉ thấy cây bạch quả cao cao, thân cây xù xì, tán cây cao mấy trượng, thân cây thẳng tắp, bảo tiểu hoàng môn trèo lên cũng thực là làm khó bọn họ.

Triệu Khuông Dận bật cười nói: “Con vẹt này chỉ biết nói vẹt theo, không hiểu tiếng người, con tức giận mắng, chẳng hóa đàn gảy tai trâu?”

Con vẹt trên cây lại kêu, Triệu Khuông Dận không mắng nó, hai hàng lông mày hắn nhướn lên, quát: “Các người tối thui”.

Triệu Khuông Dận đứng dưới gốc cây bạch quả, bỗng hét lớn một tiếng, con vẹt bay đi, tuyết đọng trên cây rơi lả tả xuống, chỉ thấy tán cây lắc lư, rồi tiếng “Rắc” kêu lên, Triệu Khuông Dận đánh gãy thân cây to bằng miệng bát.

“Ô, cha thật giỏi”. Công chúa Vĩnh Khánh nhảy nhót đến bên thân cây đổ trên mặt đất, cầm lấy chiếc thoa của nàng, vui sướng chạy lại, Triệu Khuông Dận nhướn mũi, nói: “Được rồi, mau về điện đi, giờ thời tiết lạnh rồi, con cẩn thận không cảm lạnh đấy”.

Rồi hắn nhìn về phía cây khô bị gãy, không khỏi nao lòng nói: “Cây hạnh này đã chết rồi, thân cây khô khốc sao lại đứng trong ngự viện chứ?”

Một tiểu hoàng môn bên cạnh nói: “Quan Gia, đây là cây mùa xuân mới cấy trồng, đương nhiên không hiểu được nó có sống được hay không, cho nên chưa vội bỏ nó đi. Đợi đến khi khai xuân, sẽ đào cái cây này đi ạ”.

“Ồ…” Triệu Khuông Dận cất bước đi, chưa đi được máy bước bỗng dừng lại, quay đầu nhìn cái cây bị gãy đó, mấy tiểu thái giám kéo cây đổ ra ngoài, Triệu Khuông Dận đăm chiêu suy nghĩ, một lúc sau thì tự lẩm bẩm: “Cây đã chết, cây đã chết, người thì sao?”

Công chúa Vĩnh Khánh hít hít cái mũi, tiếp lời: “Người sống, câu này cũ rồi, phụ thân chưa nghe bao giờ sao?”

Triệu Khuông Dận cười kỳ dị, thấy cái cây đổ chỉ còn lại cái gốc, khẽ nói: “Thật sao, người ơi, nhất định sống sao?”

******

Mới qua vài ngày, Diệu Diệu như một người khác, dung nhan tiều tụy.

Từ khi Dương Hạo rời khỏi Biện Lương, cô luôn mong chờ một ngày hắn trở về, mỗi ngày chờ đợi, mỗi ngày đều hi vọng, Thiên Kim Nhất Tiếu lầu không biết bao nhiêu tỷ muội hâm mộ cô may mắn, kỹ nữ lầu xanh gặp biết bao quan lại cũng không phải không có, nhưng quan phần lớn là những ông trung lão niên, người trẻ giống như Dương Hạo, quan cư ngũ phẩm, tiền đồ rộng lớn có mấy người? Huống chi quan đó cũng có quan giàu quan nghèo, con đường kinh doanh của Dương Hạo, trong tay có Thiên Kim Nhất Tiếu lầu buôn bán sinh lời, lại còn là một nam nhi tốt, nếu như làm phu nhân của hắn là mơ ước của bao người.

Nhưng trong một đêm tất cả đều biến mất, tin dữ truyền đến như tiếng sét giữa trời quang, nó vùi dập hy vọng, hạnh phúc của Diệu Diệu, trong Thiên Kim Nhất Tiếu lầu khắp nơi đều là ánh mắt mỉa mai, còn có tin đồn nàng dùng gia sản bạc triệu, rồi đủ mọi ý nghĩ về nàng, khiến nàng mất hết dũng khí.

Nàng đến phủ đệ của Dương Hạo, tâm trí hoang mang rối loạn khiến cô bị người hầu của Dương phủ đuổi ra, Dương Hạo ngồi trong phòng ngơ ngác mấy ngày, ai cũng khó vào gặp đến Liễu Đóa Nhi phái người đi hỏi thăm cũng bị cô từ chối.

Ngày hôm nay, một người già chạy tới cửa nói: “Phu nhân, Biện Hà bang tiết lương đại gia thỉnh kiến phu nhân”.

Diệu diệu nhìn linh vị dâng hương ngẩn đầu lên, một lúc sau mới kịp phản ứng, nàng đứng dậy, đưa tay nói: “Mời Tiết đại gia vào”.

Người thân cô có thể không gặp, Tiết nương lại là một huynh đệ kết nghĩa của quan nhân, cô sao có thể không gặp?

Tao Trư Nhi cùng đi với Tụ Nhi lén lút đi đến, giờ Biện Lương chỉ có hắn biết kế hoạch giả chết của Dương Hạo, lòng mang kế hoạch nham hiểm, thấy vị này tiều tụy như người sắp chết, hắn khó mà không chột dạ, nhưng Dương Hạo đã dặn hắn không thể không làm, Tao Trư Nhi bước vào phòng.

“Diệu Diệu bái kiến đại bá”. Diệu Diệu vừa gặp Tao Trư Nhi, không khỏi nhớ tới Dương Hạo, nước mắt ngắn dài lăn trên má.

“Ôi Diệu Diệu cô nương, hiền muội…hiên đệ muội, không…không được khóc nhé”. Tao Trư Nhi luống cuống, đưa tay không tiện, lập tức rút ra một chiếc khăn tay, rồi đánh mắt sang Tụ Nhi cầu cứu.

Tụ Nhi vội đỡ Diệu Diệu, dịu dàng nói: “Người chết không thể sống lại, phu nhân chớ đau lòng quá”.

Tụ Nhi an ủi, Diệu Diệu lúc này mới không khóc nữa, mời bọn họ ngồi. Tao Trư Nhi giả bộ thắp cho người huynh đệ kết nghĩa nén hương, hắn hắt xì vài cái rồi xoa mũi ngồi xuống nghiêm chỉnh, không biết bắt đầu nói những lời Dương Hạo dặn dò từ đâu.

Tụ Nhi an ủi Diệu Diệu, Diệu Diệu lúc này cũng đã đỡ buồn, giờ cũng là cơ hội thổ lộ, nói rồi ôm lấy vai cô mà khóc. Tao Trư Nhi đảo mắt, chỉ nghĩ tới chuyện làm sao có thể nói với cô ấy chuyện tái giá.

Thực ra Dương Hạo dặn hắn cũng chỉ là dựa vào thân phận đại bá mà lo lắng với Diệu Diệu, sau một lúc trấn tĩnh lại, thấy thích hợp có thể khuyên nhủ cô nên tìm một đức lang quân và lấy, để tránh sau khi qua tuổi thanh xuân này, nhưng Tao Trư Nhi là người thông thuộc, hắn nào hiểu được khi nào mới là gió êm bể lặng? Nước sông Biện Lương chẳng có ngày nào lặng cả, dù sao thì Dương Hạo cũng “Chết” rồi, mình giờ có khuyên bảo, chắc là cũng hợp lý.

Nguồn: http://4vn.eu/forum/showthread.php?71274-Lich-Su-Quan-Su-Bo-Bo-Sinh-Lien-Nguyet-Quan-Full-Text&page=78#ixzz201iz8lAv

Chương 367: Ván bài lật ngửa. (1)

Tao Trư Nhi tính toán hồi lâu, ho nhẹ một tiếng, nói ra lời mà hắn cho là thỏa đáng nhất nói: “Diệu Diệu này, người thì cũng đã chết rồi, đau thương cũng không có tác dụng gì, cô cần phải sống tốt lên, điều này...người sống không thể khiến…cô thấy cô còn trẻ vậy, dung mạo xinh đẹp, nếu như cả ngày chỉ buồn thương, Hạo Tử ở dưới suối vàng cũng không an lòng”.

“Hứ?” Diệu Diệu ngẩng đầu, không hiểu vị lão bá này nói hồ đồ cái gì.

Tụ Nhi trừng mắt nhìn hắn, sợ tên ngu ngốc này nói ra những điều không nên nói.

Tao Trư Nhi căng thẳng toát cả mồ hôi hột, viên viên góc áo nói: “Điều may mắn là Hạo Tử để lại cho cô một gia nghiệp lớn, cơm áo không phải lo nữa, đó là tâm huyết của hắn có được, cô cũng nên lấy lại tinh thần mà lo liệu, coi như là…ồ…coi như là niệm tưởng. Ồ…đây là…cô xem cô còn trẻ như vậy, ai mà ức hiếp cô, thì cô cứ nói với ta, ta và Hạo Tử không phải huynh đệ thân, còn hơn cả huynh đệ thân thiết”.

Diệu Diệu hơi cúi đầu nói: “Đa tạ đại bá an ủi, Diệu Diệu biết rồi”.

Tao Trư Nhi vội xua tay nói: “Không phải cảm ơn, người một nhà nói gì câu khách khí ấy, hic, cô đang lúc thanh xuân, hơn nữa tuy có danh phận với Hạo Tử, dù sao thì cũng chưa chính thức bước qua cửa, cũng không cần thủ lễ gì cả, sau này ấy, nếu như cô thấy người đàn ông nào thật thà, nếu như có ý với hắn thì không có gì phải kiêng kị cả…”

Diệu Diệu mặt từ tái nhợt chuyển sang đỏ ửng, cô nhướn mày, thở dài, lấy lại tinh thần, từ từ cúi đầu, khẽ nói: “Đại bá, ngươi…ngươi thực là huynh đệ tốt nhất của quan nhân nhà ta…”

Tao Trư Nhi nghe vậy vui mừng, mặt mày hớn hở nói: “Ồ, ta từ nhỏ đã thân với Hạo Tử, mặc chung chiếc quần đến khi lớn, chưa bao giờ tranh giành nhau, ta và hắn tuy hai mà một, chuyện của hắn cũng chính là chuyện của ta, hắn không còn nữa, ta nhất định sẽ quan tâm đến cô, nếu không thì ta cũng không xứng là huynh đệ tốt nữa, ha ha ha…”

Diệu Diệu đứng dậy, nói: “Ngươi…ngươi giờ đã không phụ lòng quan nhân nhà ta rồi”.

Tao Trư Nhi vội nhấc mông: “Hẳn vậy, hẳn vậy, nếu cô có chuyện gì thì cứ nhanh chóng nói với ta, ta không giúp cô thì ai giúp cô, về sau ta có thời gian sẽ đến, nếu cô…”

“Không cần đâu”. Diệu Diệu lạnh lùng phất tay áo: “Diệu Diệu cảm thấy rất mệ, có gì xin thứ lỗi”.

“Hả?” Tao Trư Nhi thầm nghĩ: “Ta còn chưa nói hết, chưa gì đã tiễn khách sao?”

Tụ Nhi xấu hổ, đứng dậy nói với Diệu Diệu: “Phu nhân xin bảo trọng, xin vào nghỉ ngơi, chúng ta đi đây”. Nói rồi kéo Tao Trư Nhi bước đi.

Tao Trư Nhi không hiểu gì cả, vừa ra khỏi đại môn Dương gia, Tụ Nhi liền véo tai hắn, nghiến răng nghiến lợi nói: “Tên ngốc này, ngươi là bề trên sao lắm lời thế? Ngươi muốn bảo người ta mang theo gia sản kếch xù đó gả cho ngươi phải không?”

Tao Trư Nhi vội bào chữa: “Ta nào có nói thế? Ta là loại người gì nàng còn không biết sao? Có ý với vợ của huynh đệ mình? Trư Nhi ta là loại người vậy sao?”

Tụ Nhi tức giận nói: “Chàng không phải người như vậy, nhưng những lời nói ra thật vô vị, may mà người ta còn để lại chút thể diện cho chàng, chàng không nghe người ta nói chàng là huynh đệ tốt nhất của quan nhân người ta, có nghĩa là đã nhắc nhở cho chàng rồi sao, chàng còn nói năng hàm hồ như vậy?”

Tao Trư Nhi ngẩn người nói: “Ta nói hàm hồ cái gì nhỉ? Ta có nói hàm hồ cái gì đâu?”

Tụ Nhi điên lên hét lớn: “Người ta còn nghĩ chàng ham muốn vẻ đẹp và tiền của nhà người ta, muốn người ta dâng cho chàng đấy. Chàng không hiểu hay giả vờ không hiểu đấy hả?” Nói rồi phất tay áo bỏ đi.

Tao Trư Nhi ngẩn tò te, dậm chân kêu oan: “Những lời ấy ta nào có nói, ta có thể là loại vô liêm sỉ như vậy sao? Đây…đây…ngầm ý gì hả? Người ta có lòng tốt thì lại coi là loại không ra gì, đánh chết ta ta cũng không đến nữa. Cái tên Hạo Tử đáng chết mà không chết, lại còn hãm hại người nữa.

Trư Nhi nói rồi đuổi theo Tụ Nhi.

Trong phòng Dương Hạo, Diệu Diệu ngồi trên giường khóc rống lên, chị em trong Nhất Tiếu lầu ác độc khỏi phải nói, cô có thể chịu được sao, không thể tưởng tượng được huynh đệ kết giao duy nhất với quan nhân cũng đục nước thả câu, thi thể quan nhân còn chưa lạnh, hắn đã vô liêm sỉ đến thúc giục mình tái giá. Người này còn có thể tin cậy sao? Nhất Tiếu lầu có toàn rắn độc, đến đây lại có người như hắn mưu chiếm tài sản, thế giới này còn có nơi nào cho mình sống đây?

Tấm ván gỗ, đinh, búa được đưa đến giữa phòng, đám sai vặt bị nàng đuổi đi hết, Diệu Diệu đóng chặt đinh vào tấm ván, đám sai vặt nghe thấy có tiếng động chạy lại, giật mình hoảng hốt: “Phu nhân, phu nhân làm gì vậy?”

Diệu Diệu trong phòng lạnh lùng nói: “Tự kỷ ôm oán hận trong lòng, bất kỳ người nào cũng không được vào…”

Lão người hầu ngạc nhiên nói: “Phu nhân, bà nói gì vậy?”

Trong phòng vắng vẻ, một lúc sau vọng ra tiếng Diệu Diệu: “Các người thu dọn đồ đạc trong phủ, đi hết đi. Diệu Diệu phu quân đã chết, sinh không luyến tiếc, tự kỷ trong phòng dâng hương cho phu quân, từ nay về sau tuyệt thực…lấy cái chết trọn tiết”.

Binh quý thần tốc. Triệu Khuông Dận quyết định xuất binh, lập tức ra tay quyết không chậm trễ. Ngày này, Hồng lư tự tín sứ/người mang tin tức vội vàng chạy tới Giang Nam, ngày thứ ba Tào Bân mang kỵ binh lên đường, cùng với thị vệ mã quân đô ngu hầu Lý Hán Quỳnh, phân bốn phương quán sự điền khâm tộ tới kinh nam.

Theo sự sắp xếp của Triệu Khuông Dận, lần này diệt Đường cần xuất bốn lộ đại quân, tổng cộng ước tính hơn mười vạn người, Tào Bân dẫn quân Kinh Nam trước, điều Kinh Hồ thủy quân đánh Trì Châu, lấy bờ nam đông Trường Giang cửa ải hiểm yếu của quân Đường, Triệu Quang Nghĩa thì dẫn bộ kỵ binh ngày đêm đuổi tới Hòa châu, ở Thái Thạch Cơ gặp Tào Bân, đội quân hùng hậu xông tới Kim Lăng. Kinh sư thủy quân từ biện thủy mà phá băng vào Dương Châu, từ Dương Châu tấn công sang Nhuận Châu.

Sau khi mất rất nhiều sức lực phá băng, mặt sông một đêm lại kết băng như cũ, nhưng may mà đội thuyền dài mười mấy dặm, sau khi một con thuyền đi qua, nước sông kết băng cũng không sao cả, hơn nữa càng đi về phía nam, mặt băng càng mỏng, chiến thuyền lại nhẹ, cho nên càng đi tốc độ càng nhanh.

Chi đội thứ tư là quân Ngô Việt. Triệu Khuông Dận truyền lệnh, mệnh thiên hạ binh mã đại nguyên soái, Ngô Việt Vương dẫn mấy vạn quân Ngô Việt từ Hàng Châu bắc thượng tấn công thường Châu, phối hợp với thủy quân Tống Quốc chiếm lấy Nhuận Châu, sẽ tấn công Kim Lăng, và phái Tống Quốc đại tướng Đinh Đức Dụ là tiên phong cho Ngô Việt quân, kỳ thực là giám quân, đồng thời lại lệnh hoàng châu thích sứ Vương Minh dẫn quân tấn công Vũ Xương, khống chế quân Đường tuyến tây, phòng ngừa bên đông viện trợ.

Tiêu Hải Đào được thánh chỉ lập tức vào cung gặp Lý Dục, Lý Dục nổi giận đùng đùng khiển trách là người không mắt, phụng chiếu mà không hướng, sứ giả thượng quốc bị ám sát, Đường Quốc bảo hộ bất lợi; Bản đồ địa lý sơn hà không đủ tường tận, qua loa cho xong thì phải chịu tội, và tuyên bố Đường Quốc vô lực che chở sứ giả thượng quốc, Tống Quốc lập tức triệu về sứ đoàn. Xong xuôi, Tiêu Hải Đào phủi tay áo đi, lập tức dẫn đầu sứ về nước, đi nhanh như bay, không dừng lại nghỉ.

Lý Dục thấy hành văn của Triệu Khuông Dận tuy nghiêm khắc, nhưng không nghiêm phạt có tính thực chất, không khỏi thầm nghĩ may mắn, vội viết lại một bức thư thỉnh tội, hết sức lo sợ thỉnh tội với Triệu Khuông Dận, lệnh người chuẩn bị đại lượng ngân bạc tiền tài, ca kỹ vũ nữ, chuẩn bị một phần hậu lễ xoa dịu cơn giận của Tống Quốc.

Qua vài ngày, mã bộ quân Biện Lương, thủy quân đồng thời lên đường, đại quân dũng mãnh vô cùng, thống binh chủ soái chính là Khai Phong phủ doãn, quyền tri Giang Nam hành doanh mã bộ quân chiến trạo đô bộ thự Tấn Vương Triệu Quang Nghĩa. Mã quân, bộ quân, thủy quân được tin xuất động, gây náo động toàn phủ Khai Phong, trên đường người tấp nập đều đến xem đại quân đang trên phố tuyên thệ xuất quân rồi nam hạ.

Tao Trư Nhi và Tụ Nhi chen chúc trong đám người bên sông Biện Hà xem thủy quân triều đình uy vũ hùng tráng, ai nấy đều khen ngợi. Thủy vận tứ bang lần này cũng xuất quân, rất nhiều người cũng ra tay giúp đỡ, nhưng chiến hạm lại đều sử dụng chiến hạm kiểu mới mà triều đình bí mật tạo ra, do người bắc không tiện dùng thuyền, cho nên hệ thống động lực chiến hạm của triều đình áp dụng mái chèo gỗ, có to có nhỏ, có bốn mái, tám mái, mười hai mái, thậm chí có chiến hạm ba mươi hai mái chèo, binh sĩ chỉ cần hai chân choãi ra đạp về phía trước, sẽ đạt được tốc độ cực nhanh, như treo buồm lớn.

“Ôi, quả nhiên là uy vũ hùng tráng, đại quân xuất binh, đứng ở đây xem mà cũng thấy khí thế, thấy nhiệt huyết sục sôi, nếu mình mà ở trong đó, thì không biết cảm giác thế nào nhỉ. Chẳng trách Hạo Tử nói với ta, người bình thường trông thì nhã nhặn nhưng cũng rất uy hùng, đến khi đao thật thương thật hai quân chạm nhau cũng sẽ thay đổi thành thù hận hết, sau vài chiêu, người chết chỉ trong chớp mắt. Nếu ta cũng làm binh, nàng nói xem có thể được chức tướng quân trở về í nhỉ?”

Tụ Nhi cười nhạt: “Tỉnh dậy đi chàng ơi, nói còn chẳng nên lời, việc còn không làm được, có mỗi lòng tốt đến an ủi người ta, kết quả bị người ta coi là đồ dã tâm, chàng còn muốn làm quan? Chàng mà ở chiến trận, không làm thịt lợn cho người ta xơi mới là lạ”.

Trư Nhi xấu hổ, ngượng ngùng nói: “Ta…ta chưa bao giờ khuyên con gái, làm sao mà biết nói cái gì mới không làm đau lòng cô ấy? Thôi, không nhắc đến cô ấy nữa, người con gái này có điểm tốt xấu gì mặc kệ, Trư Nhi ta quang minh đường đường thế này, bị cô ta coi thành loại nào thì loại, chẳng có gì đáng bàn nữa”.

Tụ Nhi không nhịn được bật cười: “Thế có trách được người ta không? Lời chàng nói, đến ta còn hiểu lầm”.

Hai người đang đi trở về, thì nghe thấy phía trước có người nói: “Mấy ngày nay có rất nhiều tin nóng hổi, mấy ngày trước có người con gái muốn chết vì người mình yêu, đã đóng đinh chặt cửa, tự tuyệt thực mà chết trong phòng, hôm nay triều đình phát đại binh chinh phạt Đường Quốc, ồ ha ha, không biết hai ba hôm nữa sẽ có tin gì đây”.

“Tuyệt thực? Chết theo chồng? Ghê gớm nhỉ, triều đình biết chắc chắn sẽ treo biển tán thưởng”.

“Người đã chết rồi, hư danh còn tác dụng gì nữa? Nghe nói cô ấy là một mỹ nhân xinh đẹp như hoa như ngọc vậy, năm ngoái có cuộc thi hoa khôi, là trạng nguyên Diệp bảng đấy. Trong tay còn có Nữ Nhi Quốc của Thiên Kim Nhất Tiếu lầu nữa, tiền tài thiếu gì, xem xem sao cô ấy lại nghĩ quẩn vậy chứ? Cô ấy nếu như mời ta ở rể có phải tốt không, không hiểu ma xui quỷ khiến gì khiến cô ấy như vậy…”

“Cái gì?” Tao Trư Nhi nghe vậy giật mình, nhảy cẫng lên, kéo lấy tay áo người nọ quát: “Huynh đài xin dừng bước”.

Người đó giật nảy mình, xòe hai tay ra, mặt tím tái: “Làm sao, muốn đánh nhau à?”

Tao Trư Nhi vội buông tay ra: “Huynh đài hiểu lầm rồi, ta muốn hỏi, người con gái mà vừa nãy huynh nói đến là ai vậy?”

Người đó trừng mắt nói: “Nghe nói là người chủ của Nữ nhi quốc, là trạng nguyên Diệp bảng cuộc thi hoa khôi năm ngoái.

Tao Trư Nhi đừ người ra, vội hỏi: “Đã chết rồi sao?”

Người đó trừng mắt nói: “Ta không biết. Bốn năm ngày hôm nay rồi, không chết thì cũng sắp chết rồi, huynh đài muốn đi xem sao?”

Tao Trư Nhi không nói không rằng quay đầu bỏ chạy, Tụ Nhi nghe rõ ràng như vậy cũng không khỏi ngạc nhiên, vội đuổi theo sau hắn.

Tao Trư Nhi chạy đến Dương phủ thở hồng hộc, giờ Dương phủ trống trơn, hắn đi đến hậu viện, chỉ thấy Lão Hắc và Trương Ngưu Nhi ngồi ở cửa, phía trước là chiếc bàn, bên trên bày thịt dê la liệt, mỗi người một chiếc bát đang uống rượu ăn thịt, miệng nhồm nhoàm.

Nhìn thấy hắn đến, hai người nhận ra hắn, vội nhảy dựng lên: “Tiết đại gia, ngươi đến vừa đúng lúc, Diệu Diệu cô nương cố tình tìm đến cái chết, ngươi xem làm gì mới được đây?”

Tao Trư Nhi tức giận nói: “Hai ngươi là đàn ông, mà không ngăn nổi cô ấy sao?’

Hai người bất đắc dĩ nói: “Ngăn lại kiểu gì, Diệu Diệu cô nương đã đóng đinh vào cửa, huynh đệ ta biết làm sao khi cô ấy nói chúng ta mà lại gần, cô ấy sẽ dùng kéo tự vẫn, ngươi nói chúng ta phải làm sao đây?”

Tao Trư Nhi nổi trận lôi đình quát: “Thế mà các ngươi vẫn tiệc rượu ở đây được? Chờ nhặt xác người sao?”

Nguồn: http://4vn.eu/forum/showthread.php?71274-Lich-Su-Quan-Su-Bo-Bo-Sinh-Lien-Nguyet-Quan-Full-Text&page=79#ixzz201j3m700

Chương 367: Ván bài lật ngửa. (2) 

Trương Ngưu Nhi ngượng ngùng nói: “Tiết đại gia nói vậy, huynh đệ chúng ta tuy là lưu manh nhưng cũng hiểu được chuyện giang hồ, chữ nghĩa phải đặt lên hàng đầu. Dương đại nhân đi rồi, chúng ta cũng phải làm chút cơm cho Dương đại nhân chứ, chúng ta uống rượu ăn thịt là muốn làm Diệu Diệu cô nương đói ngửi thấy mùi đồ ăn không chịu được mà ra đấy…”

Tụ Nhi hỏi: “Thế Diệu Diệu cô nương đã ra chưa?”

Lão Hắc cười nói: “Chưa, hai hôm trước còn nói, hai hôm nay không nói gì nữa cả.”

Tao Trư Nhi tức không nói gì, chỉ tay vào bàn, rồi lại chỉ sang bên cạnh, trừng mắt nhìn hai người. Hai người ngẩn người, lúc này mới hiểu ra, vội bê chiếc bàn sang một bên. Tao Trư Nhi vận đủ đan điền khí, đạp vào cửa một cái, rồi đạp vào ván gỗ, cú đá này cửa vẫn chưa văng ra. Tao Trư Nhi quay đầu bỏ chạy, thấy Lão Hắc và Trương Ngưu Nhi không hiểu gì, thấy Tao Trư Nhi chạy đến cửa viện rồi xoay người, hét lớn một tiếng, chạy lấy đà, bay toàn bộ thân mình lên, bả vai huých mạnh vào đại môn. Chỉ nghe thấy “bùm” một tiếng, cánh cửa chưa mở, trục cửa bị đứt, cánh cửa bay luôn vào phòng, Tao Trư Nhi cầm chặt lấy cánh cửa lao vào.

Trương Ngưu Nhi và Lão Hắc cũng không nói nửa lời, đi cùng vào trong, không nhìn thấy người trong phòng, chỉ thấy màn buông xuống che giường. Tao Trư Nhi tiến đến kéo tấm màn lên, chỉ thấy Diệu Diệu mặc bộ đồ trắng nằm thẳng trên giường, mặt xám xịt không động đậy, phòng không có chậu than đốt, lạnh như hầm băng, hơn nữa mấy ngày không có nước uống, thấy cô chỉ còn lại hơi thở yếu ớt, không có không khí vào, Tao Trư Nhi mặt trắng bệch. 

“Mau mau mau, cầm đồ ăn đến đây.” Tao Trư Nhi vội nghĩ, Hạo Tử dặn hắn làm chuyện này, nếu như cô nương người ta sống mà chết đói, thì hắn cả đời này cũng không còn mặt mũi nào mà gặp huynh đệ nữa.

Lão Hắc và Trương Ngưu Nhi vội chạy ra ngoài, rồi nhanh chóng chạy vào, tay cầm bầu rượu và cái đùi béo. Tao Trư Nhi tức giận mắng: “Hai người còn ngu xuẩn hơn cả cái đầu lợn, cô ấy giờ còn có thể nhai được, còn có thể cứu được sao?”

Tụ Nhi đẩy hắn ra nói: “Chàng thì cũng đâu có giúp được gì, đi ra chỗ khác đi.” Cô cúi xuống nghe ngóng hơi thở của Diệu Diệu, rồi đắp chăn bông lên người, quay đầu dặn dò: “Các người mau đi lấy chậu than đến, ta đi xuống bếp đặt nồi cháo.”

Cháo nấu xong, Tụ Nhi ngồi bên giường, đưa từng thìa cháo lên thổi nhẹ rồi đưa vào miệng cho Diệu Diệu, mấy thìa cháo được đút xong, Tụ Nhi vui mừng nói: “Cô ấy tỉnh rồi, cứu được rồi.” 

Không ngờ Diệu Diệu ý thức được mình tỉnh liền ngậm chặt miệng lại, không chịu để cho Tụ Nhi đút cháo. Tụ Nhi khó khăn một hồi lâu, Diệu Diệu mới thều thào nói: “Tụ Nhi… cô nương, nếu có… ý tốt, xin cô… cô cho Diệu Diệu toại nguyện, để cho Diệu Diệu đi cùng với phu quân… cho… toàn tiết đi.”

Tụ Nhi nghe vậy, sống mũi chợt cay sè, nước mắt ngắn dài nhìn về phía Tao Trư Nhi. Tao Trư Nhi như kiến bò trên chảo nóng, đi đi lại lại trong phòng, lúc thì lẩm bẩm, lúc thì nghiến răng nghiến lợi, không biết xả giận cho ai, Tụ Nhi không nhịn được nói: “Sư ca, mau mau nghĩ cách đi, như này… thực khiến cô ấy sống sờ sờ mà chết vì đói mất thôi. Đàn ông các người dã tâm thật…”

Tao Trư Nhi bỗng nhảy cẫng lên: “Kệ đi, kệ đi, việc này hết cách rồi.”

Tụ Nhi tức giận hét: “Chàng dám mặc kệ.”

Tao Trư Nhi cầm lấy tay Tụ Nhi nói: “Các người ra ngoài, ra ngoài hết đi, ta có cách khuyên Diệu Diệu hồi tâm chuyển ý rồi.”

Lão Hắc và Trương Ngưu Nhi thấy hắn như vậy, ngượng ngùng nói: “Tiết đại gia muốn cứng rắn sao? Có cần trợ giúp gì không vậy?”

Tao Trư Nhi trừng mắt quát: “Giúp gì mà giúp, ra ngoài, trốn ở một nơi xa xa. Tụ Nhi, nàng cũng ra ngoài, ta có lời muốn nói với Diệu Diệu.”

Tụ Nhi cũng nghe lời, nhưng hắn còn đuổi mình đi, nói lời gì với cái cô nương kia, liền nhướn mắt lên: “Ta không nghe được sao?”

Tao Trư Nhi nói: “Cái này… nàng… nàng cứ ra ngoài đi.”

Tụ Nhi bực bội nói: “Chàng nói xem, có chuyện gì mà ta không hiểu chàng chứ, chàng nói gì, làm gì, chẳng lẽ dấu được ta? Được lắm, Tiết Lương họ Trư chàng, chàng không muốn ta nghe, bổn cô nương cũng không thèm nghe. Hôm nay đi ra khỏi cửa này, từ nay về sau, ngươi có gì thì cũng không cần nói với ta nữa, bổn cô nương đi đây.”

Tụ Nhi nói rồi bước đi, Tao Trư Nhi vội kéo lấy nàng, mặt méo xệch nói: “Thế… nàng ở lại cũng được, nhưng… nhưng nàng phải đồng ý với ta, không được nói với ai cả.”

Tụ Nhi nở nụ cười mừng rỡ, Tao Trư Nhi có chuyện gì nàng đã muốn biết thì có giấu cũng chẳng được, giờ hắn chịu nhượng bộ như vậy, có nghĩa là với hắn nàng đã chiếm được một vị trí vô cùng quan trọng. Tụ Nhi vui vè đáp: “Được.”

“Không được nói với cha nàng.”

“Không nói.”

“Không được nói với mẹ nàng.”

“Không nói.”

Tao Trư Nhi quay đầu nhìn Trương Ngưu Nhi và Lão Hắc, hai người cùng nói: “Chúng tôi cũng không nói.” 

Tao Trư Nhi không để cho họ chút thể diện, không khách khí nói: “Không nói cũng phải ra ngoài.”

Đuổi Lão Hắc và Trương Ngưu Nhi, Tao Trư Nhi đóng chặt cửa phòng, rồi trở lại giường, ngồi xuống, nhìn Diệu Diệu mặt trắng bợt, lúng túng nói: “Diệu Diệu, Hạo Tử trước khi đi đã phó thác cho ta, nếu cô có chuyện không hay xảy ra, ta làm sao mà xứng đáng với huynh đệ của mình được chứ. Cô ăn một miếng đi.”

Diệu Diệu nhắm chặt mắt không nói gì, Tao Trư Nhi nghiến chặt răng, nhìn ra phía ngoài cửa, nhỏ giọng nói: “Diệu Diệu, Hạo Tử hắn… hắn thực ra là chưa chết, cô đừng có nghĩ không thông như vậy nữa.”

Diệu Diệu bỗng mở to hai mắt, nhìn chằm chằm vào mắt hắn, môi mấp máy, nhưng nói không ra lời.

Tao Trư Nhi vỗ đùi, nói ra kế hoạch giả chết thoát thân của hắn rõ ràng cho cô nghe, Tụ Nhi đứng một bên cũng ngẩn người ra. Diệu Diệu ở trên giường ban đầu thì còn tỏ vè ngạc nhiên, người hơi động đậy, như muốn ngồi dậy, nhưng ánh mắt thì lại tỏ ra buồn bã, sắc mặt vô cùng khó coi.

Tao Trư Nhi đã nói ra chuyện này, rồi bê bát cháo đến bên vui vẻ nói: “Nào, ta giờ đã nói hết cho cô nghe rồi, cô có thể yên tâm được rồi chứ?”

Thìa cháo đưa đến miệng Diệu Diệu, cô quay đầu, tránh nó, nói nhỏ: “Tiết đại ca, ngươi nói là… đại nhân… chỉ là lợi dụng Diệu Diệu, đại nhân… đại nhân vốn không thích Diệu Diệu, đúng không?”

Tao Trư Nhi ngẩn người, cứng lưỡi không nói được gì. Diệu Diệu nhắm tịt mắt lại, nước mắt dàn dụa chảy xuống.

Tao Trư Nhi khó xử nói: “Diệu Diệu cô nương.”

Diệu Diệu mặt mày ảm đạm nói: “Tiết đại ca, ngươi không cần nói nữa, Diệu Diệu ngu xuẩn, có sống… thì cũng là trò cười cho thiên hạ…”

Tao Trư Nhi đảo mắt nhìn quanh, Tụ Nhi đứng bên cạnh nói: “Đúng vậy, Dương Hạo kia chính là con lợn đã lợi dụng cô, cho nên coi cô chẳng ra gì, giờ gia sản kếch sù đã rơi vào tay cô, thành Biện Lương không biết có bao nhiêu người con gái muốn hắn lợi dụng như vậy, hắn nhất định là coi cô ngốc nhất, cho nên mới chọn cô. Hắn nhất định là coi thường cô, cho nên tuy cô xuất giá, nhưng lại chưa động phòng cùng cô, để cho cô một thân trinh tiết để cô tái giá. Hắn nếu như không phải vô tình vô nghĩa với cô, sao lại bảo sư ca ta – một tên ngốc nghếch tới chăm sóc cô…”

Diệu Diệu nghe xong, mắt lại sáng lên.

Tao Trư Nhi vừa nghe thấy không ra sao cả, dần dần mới hiểu ra, mặt không khỏi vui vẻ, phục Tụ Nhi, rồi quay sang nói với Diệu Diệu: “Diệu Diệu cô nương, Trư Nhi thật không ngờ tới là Hạo Tử lại tình thâm ý nặng như vậy. Người tốt như cô, nếu hắn cũng nhẫn tâm phụ lòng cô, thì đến Tiết Lương ta cũng không bỏ qua cho hắn.

Hạo Tử thực sự là rất thích cô, nếu không hắn chết thì chết đi, hà tất nhất định phải sắp xếp cho cô một con đường đi? Con người hắn là thuộc loại con lừa, dắt cũng không đi, đánh cũng không lui, làm việc luôn như vậy, ta cũng quen rồi. Khụ khụ… nhưng cô cứ yên tâm, lòng người cũng đều là thịt, giờ tình hình này, ta cho dù thế nào cũng phải giúp cô. Ta là huynh đệ hắn, lời ta nói hắn không thể không nghe. Cô gọi một tiếng đại bá, ta tuyệt đối sẽ không để cho cô gọi một cách vô ích…”

Diệu Diệu hơi mở mắt, khẽ lắc đầu nói: “Không, đại nhân… có cái khổ của đại nhân, đại ca ngài đừng làm khó chàng. Diệu Diệu… Diệu Diệu biết đại nhân không sao… cũng an tâm rồi. Diệu Diệu… là thân nô tỳ, vốn không xứng với đại nhân, từ nay… sẽ không ấu trĩ hoang tưởng nữa. Nữ Nhi quốc là của đại nhân, Diệu Diệu sẽ lo liệu cho tốt, lo cho nó cả đời.. cả đời… sớm muộn cũng cho nó hoàn hảo hoàn bích quy Dương…”

Tao Trư Nhi động lòng nói: “Diệu Diệu cô nương, cô… cô…”

Diệu Diệu quay người sang Tụ Nhi, mỉm cười nói: “Tụ Nhi tỷ tỷ, ta… ta đói quá, muốn ăn gì đó.”

Trương Ngưu Nhi đưa vài cô nương từ Nữ Nhi quốc đến lo liệu cho Diệu Diệu, Tao Trư Nhi thấy tất cả đã sắp xếp ổn thỏa, lúc này mới cùng Tụ Nhi cáo biệt đi về, trên đường còn lẩm bẩm tán dương không ngớt: “Cô nương này giỏi thật, tuổi còn nhỏ, băng thanh ngọc khiết. Hạo Tử không biết mấy đời cao số mới có được cô nương này. Cô nương người ta hiểu chuyện, nàng xem xem, không oán hận hắn chút nào, không quấn quýt lấy hắn, cũng không chiếm tài sản của hắn. Ôi thực phúc hậu, Hạo Tử thực là nghiệp chướng… híc.”

Tụ Nhi lấy tay che miệng cười, Tao Trư Nhi trừng mắt nhìn cô: “Nàng cười cái gì, ta nói có gì không đúng sao?”

Tụ Nhi cười khanh khách nói: “Chàng nói đúng, cái gì gọi là tình thâm, là băng thanh ngọc khiết vậy? … Nhưng mà, nói cô ấy thật thà, ta thấy chưa chắc.”

Tao Trư Nhi không phục nói: “Diệu Diệu cô nương làm sao mà không nhu thuận chứ?”

Tụ Nhi bĩu môi nói: “Diệu Diệu cô nương nói sẽ không tính toán nhân duyên này, chàng nghĩ sao?”

Tao Trư Nhi trừng mắt: “Thế thì sao được? Một cô gái tốt như vậy, thắp đèn lồng đi tìm còn khó. Hạo Tử làm việc không đến nơi đến chốn, ta nếu không nhúng tay vào, trời sẽ giáng sấm sét xuống. Mấy ngày nữa ta sẽ đi tìm hắn, việc này ta không kệ được. Hắn nếu còn nhận ta làm huynh đệ, thì hắn phải đưa Diệu Diệu cô nương bước qua cửa cưới về. Nếu không thì, ta tuyệt đối sẽ không để yên cho hắn.”

Tụ Nhi vẫn cười khanh khách nói: “Oa, có vị đại bá ở trên trời rơi xuống giúp cô ấy hành sự, Diệu Diệu cô nương đương nhiên có thể ngoan ngoãn hiền lành rồi. Nếu không thì chàng muốn cô ấy làm sao đây? Một người con gái nhà người ta, lẽ nào cô ấy đi cầu khẩn Dương Hạo cưới cô ấy về sao? Dương Hạo vốn có ý với cô ấy, nếu không thì cũng không cần nhọc lòng sắp xếp đường đi cho cô ấy, giờ cô ấy bỏ tình nghĩa ra nhiều như vậy cho Dương Hạo, lại được chỗ dựa là chàng nữa, Dương Hạo cũng biết còn có sự lựa chọn thứ hai sao?

Ôi nhìn xem cái miệng ngọt ngào làm sao, dễ nghe làm sao ‘Nữ Nhi quốc là của đại nhân, Diệu Diệu sẽ lo liệu cho tốt, lo cho nó cả đời.. cả đời… sớm muộn cũng cho nó hoàn hảo hoàn bích quy Dương…’ Chậc chậc chậc, người ta nói như vậy, họ Dương hắn biết xấu hổ không lộ diện? Nữ Nhi quốc là cái thứ đã chết, mình thì cả đời ở đó mà sống được chắc, huynh đệ nhà chàng còn mặt mũi thì đi mà giả câm giả điếc. Hoàn bích quy Dương… hi hi, cũng không biết hoàn bích quy Dương ấy là nói Nữ Nhi quốc, hay là nói cô ấy…”

Tao Trư Nhi trừng mắt, một lúc sau mới giật mình thở dài: “Ta đói bụng đến muốn chết, còn có chỗ để tâm địa gian xảo sao? Nội tâm này… huynh đệ ta thực thảm hại, trong nhà đến ngọn đèn thắp cũng không có. Tụ Nhi, nàng… nàng về sau đừng có học theo con gái nhà người ta nhé. Ta tâm nhãn thực, nếu nàng chơi đùa bỡn cợt với ta, ta sẽ làm lợn để nàng bán đi, ngốc nghếch giúp nàng kiếm tiền…”

Tụ Nhi khinh khỉnh nói: “Ừm, bản thân ta cũng muốn bán quách chàng đi cho rồi, nhưng ai muốn nhỉ? Như chàng ấy, có cáp thêm tiền cũng…”

Tụ Nhi bỗng mắt sáng lên, kéo lấy tay áo hắn nói: “Vừa này chàng nói gì? Chàng nói… chàng nói muốn ta đừng có học theo con gái nhà huynh đệ chàng phải không? Có phải không?”

Tao Trư Nhi biết mình nói lỡ lời, xấu hổ vô cùng, hắn liền bỏ chạy mất dạng. Tụ Nhi vừa cười vừa nói: “Chàng chính miệng mình đồng ý nhé, tuyệt đối không được đổi ý. Nếu không… nếu không thì ta cũng tuyệt thực cho chàng xem, này, chàng không phải trốn.”

Tụ Nhi vui vẻ ra mặt đuổi theo Tao Trư Nhi: “Bổn cô nương là con gái, làm sao cũng chỉ rụt rè thôi, giờ chính là chàng mở miệng nói, hừ hừ, cả đời này, còn muốn chạy khỏi tay ngũ nương này sao…”

Nguồn: http://4vn.eu/forum/showthread.php?71274-Lich-Su-Quan-Su-Bo-Bo-Sinh-Lien-Nguyet-Quan-Full-Text&page=79#ixzz201jBK8U9

Chương 368:Tình cờ. (1) 

Sau khi Dương Hạo rời thuyền đi, chưa tới một canh giờ, thành Kim Lăng đã bắt đầu hạn chế ra vào.

Dương Hạo theo sự phân tích lộ tuyến tấn công của quân Tống do Bích Túc thuật lại, quân Tống giờ từ ba hướng bắc, đông tây theo đường thủy cùng tấn công, cuối cùng vây mục tiêu chính là thành Kim Lăng. Hắn muốn đưa toàn gia đình an toàn ra khỏi Giang Nam, nhất thiết phải ở trước khi ba lộ đại quân tụ hợp vượt qua đại giang, cho nên mau chóng lên đường, vừa ra khỏi thành thì vào đường bộ, lấy xe ngựa đi thẳng đến Thái Thạch cơ. Nơi này hắn từng du lãm cùng Hoàng Phủ Kế Huân, bến sông địa phương vẫn đóng quân, còn đi lại thông thương thân thiết với Kính Hồ, chỉ cần hắn đi trước khi Đường quốc phong tỏa đường thủy thì coi như an toàn rời đi.

Thiên hạ đã bắt đầu có sự thay đổi. Tống quốc vẫn phát động chiến tranh với Đường quốc, đây là lẽ tất nhiên, nhưng chủ soái lại đổi người. Thời thế có thể tạo ra anh hùng, anh hùng cũng có thể tạo ra thời thế, hai cái này vốn có tác dụng tương hỗ nhau, Triệu Quang Nghĩa thống quân rốt cuộc có ý gì, thời thế của tương lại sẽ bị thay đổi ra sao đây?

Dương Hạo không thể hiểu nổi. Càng gần Thái Thạch cơ, đại quân binh mã đi đến càng đông, nạn dân cũng không ít, đoàn người Dương Hạo cứ thế đi, đi hướng ngược lại với nạn dân chạy về phía Kim Lăng nên có chút trờ ngại, cho nên hắn chỉ có thể chọn một vài con đường nhỏ đại quân sẽ không chọn mà đi, như vậy vòng qua vòng lại có thể trì hoãn được thời gian. Đợi hắn đến Thái Thạch cơ, cờ chiến, binh giáp Thái Thạch cơ nhiều vô kể, đã không còn đường đi nữa.

Sự tấn công của Tào Bân thực sự nhanh chóng, hắn đột phá Hồ Khẩu, phá hết các trại, đại quân thủy quân hùng mạnh vô cùng. Đồng Lăng thủ tướng Đường quốc Hồ Chính được tin không sợ sệt, sức chiến đấu của Tào Bân dẫn Kính Hồ thủy quân không thể so sánh với quân tinh nhuệ Đường quốc. Nếu không phải Hồ Khẩu thủ tướng hồ đồ, đại quân của hắn đừng mơ tưởng mà đi qua được an toàn. Trong tay Hồ Chính tuy chỉ có ba vạn nhân mã, nhưng tự tin về địa lợi, thừa sức ngăn cản được mười vạn thủy binh hướng đông của Tào Bân.

Hắn tập trung ba vạn nhân mã lên trên hơn một trăm chiến hạm, phong tỏa toàn sông, thuyền dày đặc, trước sau tầng tầng lớp lớp, như một bức tường đồng vách sắt. Đại quân Tào Bân đến, thấy Hồ Chính sớm đã có sự chuẩn bị, thấy không thể địch lại được, vì thế lệnh đại tướng Tào Hàn lên bờ trước, nhân lúc Hồ Chính triển khai quân ra sông, đánh chiếm thành Đồng Lăng, phóng lửa trong thành.

Quân thủ Đồng Lăng phần nhiều là dân bản địa, vừa thấy thành bị đốt, liền mang bố mẹ vợ con lần lượt hướng Hồ Chính thỉnh cầu lên bờ cứu thành. Lúc này thế trận đã triển khai, đại quân Tào Bân khí thế hừng hực xông đến, Hồ Chính sao có thể để như vậy được? Quân Đường thấy chủ soái không đồng ý, thẳng thắn chống lại quân lệnh, trực tiếp đưa thuyền vào bờ. Tục ngữ nói quân lệnh như núi, giờ quân lệnh này lại không địch lại cốt nhục thân tình, Hồ Chính lệnh thân binh chém giết nhiều danh sĩ dẫn đầu cũng không ngăn lại được.

Lúc đó thủy quân Tống chưa tiếp chiến, thủy quân Đường trận thế đại loạn, thuyền cái ngang cái dọc, cài vào nhau, tạo ra sự bế tắc về giao thông trên mặt nước. Tào Hàn nhận nghiêm lệnh của Tào Bân không được tự ý giết dân, lửa được phóng ra chẳng qua chỉ là củi ở phố xá trong thành bị cháy mà thôi. Hắn liền ra khỏi thành mai phục, đợi quân Đường lên bở mới phát hiện mình đã quá thận trọng. Quân Đường lên bờ khóc lóc thảm thiết chạy thẳng đến thành trì, chẳng một đội hình, không đâu vào đâu, đúng là một bọn tạp nham.

Tào Hàn lập tức thổi tù và nổi trống tấn công, chỉ huy quân đánh lén. Quân Đường kháng lệnh lên bờ bị bắt giết, quân Đường trên mặt sông thì càng khỏi phải nói, đội quân Tào Bân ngông nghênh tới gần, trực tiếp lên thuyền tác chiến. Song phương hỗn chiến, Tào Hàn giết sạch đám binh Đường kháng lệnh lên bờ, cướp thuyền rồi cũng hướng thủy quân Đường bức tới.

Hồ Chính thấy đại thế như vậy, bị bại một cách bất lực, khóc rống lên, được mấy thân binh yểm trợ chạy trốn tới chiến hạm ở hậu phương tẩu thoát chạy đi báo tin.

Tin truyền tới, ven sông, quân Đường kinh hồn bạt vía, chỉ có thể xây tường cản, bắn hỏa tiễn ngăn thủy quân Tống tấn công. Tào Bân không lui, chạy tới bụi cỏ, chuẩn bị kế tiếp chuyển hướng tấn công. Lúc này, trận chiến Thái Thạch cơ đã thành công.

Triệu Quang Nghĩa vốn là một viên võ tướng, thường theo đại ca chinh nam phạt bắc, tuy chưa độc lập dẫn quân, lại cũng không am hiểu quân sự, bàn đến binh pháp càng không phải nói, còn về có phải là lý luận suông không, hôm nay sẽ chứng minh.

Hắn chỉ huy quân nam hạ, một đường ngựa không dừng vó, ngày đêm chạy, khi đến Thái Thạch cơ và nơi Tào Bân đóng quân, thủy quân Tào Bân vẫn còn chưa tới. Theo sự dặn dò của Triệu Khuông Dận, mã bộ binh của hắn cần cùng qua sông hỗ trợ tác chiến với Tào Bân, nhưng Triệu Quang Nghĩa không chờ được. Nghe nói Tào Bân chưa đến, Triệu Quang Nghĩa vui mừng khôn xiết, lập tức hạ lệnh thu thập thuyền đánh cá ven sông qua sông.

Mục đích của hắn chỉ là: tranh công.

Chiến công của Tào Bân hiển hách, được liệt vào đệ nhất võ tướng Tống quốc lúc bấy giờ. Nếu Triệu Quang Nghĩa có thể tranh công của Tào Bân trước, cơ bản không cần thủy quân hắn giúp thì công phá Đường quốc cần nút Thái Thạch cơ, đó có thể bỗng nhiên nổi tiếng, trở thành đệ nhất đại tướng thiện chiến nhất Tống quốc. Tuy nói Mân Nam còn có Phan Mỹ cũng giỏi, nhưng luận về chức quan, về danh vọng, Phan Mỹ còn kém cả Tào Bân, cũng chẳng thể so sánh với hắn. Hắn lo liệu Khai Phong mười năm, những công lao có được ai ai cũng biết đến, đến khi võ công hắn cũng giỏi nữa, tất sẽ nổi danh thiên hạ.

Nhưng nơi hiểm yếu không thể dễ tấn công, dựa vào mấy cái thuyền đánh cá lớn nhỏ mà hắn thu thập được muốn công phá cứ điểm quan trọng đâu phải dễ. Thái Thạch cơ quân Đường thủ quân tướng là mã bộ quân phụ đô bộ thự Dương Thu, binh mã đô giám Tôn Chấn, trong tay bọn họ có hai vạn binh tinh nhuệ, trận chiến Thái Thạch cơ, quân Tống bị đánh tơi bời, máu nhuộm đại giang, trận đầu đã bại. 

Triệu Quang Nghĩa tự biết dựa vào thực lực của Đường quốc sớm muộn cũng vẫn có thể đánh được, đại quân của hắn chỉ cần đánh nghi binh dẫn Thái Thạch cơ thủ quân, khiến họ không được phân binh, chỉ cần yểm trợ thủy quân Tào Bân đến rồi sẽ đánh một trận. Nhưng hắn lại định ra là trong ba tháng bình định được Giang Nam, quân lệnh trạng ấy là kết quả để bỗng nhiên nổi tiếng, nếu đánh trên nửa năm hay một năm, thì có khác gì với Da Luật Hiền đâu?

Vì cái lời thề chắc như đinh đóng cột ấy, nên Triệu Quang Nghĩa dùng cảm tử quân ngày đêm không ngừng tăng cường tấn công cứ điểm quan trọng, và mệnh lệnh hạ sát hàng loạt quân trong thành để khích lệ tam quân, nhận lời chỉ cần đánh hạ Thái Thạch cơ, cho phép binh lính cướp phá tô thành, dùng tiền tài nữ tử. Chiêu này quả nhiên dùng được, triều Thanh, Sát Cáp Nhĩ phản loạn, đại quân mắt thấy giết đến dưới thành Bắc Kinh, trong thành không có binh, hoàng đế bó tay không có kế sách. Trong thời khắc quan trọng Hiếu Trang thái hậu dùng các người hầu hạ vương tộc hoàng thân ở kinh thành lập một đội quân mấy nghìn người giao cho Chu Bồi Công đi đánh giặc. Chu Bồi Công là một thư sinh dẫn theo một đám người hầu, như vậy là một đội quân ô hợp, Chu Bồi Công dùng hai thủ đoạn biến họ thành đội quân hổ lang, giết cho Sát Cáp Nhĩ sợ hãi. Mánh khóe chỉ có hai: một là sau khi đoạt được thành trì, cho phép cướp bóc tiền tài nữ tử, hai là người tự tiện lui một bước thì giết không tha.

Triệu Quang Nghĩa dùng cũng là chiêu này, điều này so với nhân tính, có thể có tốc độ nhanh chóng kích thích người ta có dũng khí lớn nhất. Bị mê hoặc bằng mỹ sắc và tiền bạc, mã bộ binh quân Tống giống như đánh máu gà, quyết tử lập công, dùng vô số thi thể để lấp sông, tấn công lên bờ đông Trường Giang.

Nhưng kế tiếp sau đó bộ đội vận chuyển mệt mỏi, quân Tống đổ bộ không ai giúp, bị Dương Thu, Tôn Chấn đích thân dẫn binh phản công giết ở bờ đông Trường Giang. Triệu Quang Nghĩa điên tiết, cởi bỏ chiến giáp, điều khiển thuyền nhỏ nam hạ tấn công, nhưng khi hắn đến quá nửa sông, quân Tống trên bờ đã bị người Đường tiêu diệt, vạn tiễn được bắn ra, Triệu Quang Nghĩa chỉ có thể quay về Giang Tây, thu gom gỗ lớn chế tạo thành bè, tập hợp những con thuyền hai bên bờ, chuẩn bị tái chiến.

Dương Hạo lúc này chạy đến Thái Thạch cơ. Mục Vũ mang người đi thăm dò phía trước, vội vàng chạy lại thông báo tình hình phòng sông. Dương Hạo không khỏi ngạc nhiên, hắn không ngờ quân Tống đến nhanh như vậy, giờ lại phải đi về hướng nào, sợ rằng đã không còn đường ra nữa rồi. Dương Hạo đưa gia quyến tạm thời dàn xếp qua, chỉ mang theo một mình Bích Túc vẫn mặc tăng y, cùng lên Thái Thạch cơ quan sát tình hình, xem xem có hay không khả năng dùng thuyền nhỏ giữa đêm vượt sông.

Đại quân tập trung trên bờ sông, trên Thái Thạch cơ du khách thưa thớt, nhưng vẫn có ba năm khách hành hương lên núi lễ phật, phập phồng lo sợ khấn phật phù hộ.

Trước Thái Bạch lầu yên tĩnh, câu đối: “Tiến phần dương tái tạo Đường gia, bính vô thước đất thù công, chỉ lạc vào Thái Thạch cơ, cung ngày đó thần tiên mỉm cười; Hi phi tử có thể gièm pha sĩ tử, không phải thất ngôn cảm oán, chợt cởi bỏ danh lợi trói buộc, để tiên sinh nên thơ rượu ung dung.” Một công tử huyền sam ngọc diện, mày ngài hơi nhíu, khoanh tay đứng nhìn.

Nguồn: http://4vn.eu/forum/showthread.php?71274-Lich-Su-Quan-Su-Bo-Bo-Sinh-Lien-Nguyet-Quan-Full-Text&page=79#ixzz201jFev6b

Chương 368:Tình cờ. (2) 

Người này chính là Chiết Tử Du, qua mấy ngày, cô dường như đã gầy đi rất nhiều, vốn xinh đẹp hồng nhan, hai má giờ hơi hóp lại, hia mắt dường như to hơn, bộ dáng thiếu nữ khó mà che lấp, nhưng cùng với chiến loạn, rất nhiều thiếu nữ đều cải trang thành nam nhi, và cách ăn mặc ấy cũng không khiến người ta nghi ngờ.

Trước mặt cô là Trương Thập Nhất và một quân quan thấp, chỉ nghe Chiết Tử Du nói: “Kim Lăng bên đó thế nào rồi?”

Quan quân nói: “Tiểu tướng nghe Tôn đô giam nói các văn võ bá quan trong triều bàn bạc, quân Tống phái chiến binh viễn chinh, vô cùng nhuệ khí, chiến tranh tất sẽ kéo dài, làm vườn không nhà trống, dựa vào thế Trường Giang hiểm yếu và và khi quân Tống bị hao tổn nhiều, mỏi mệt sẽ tự nhiên thối lui”.

Chiết Tử Du nhướn mày, nói: “Thực là ngu xuẩn, trong triều không có một người nào biết nhìn xa trông rộng sao? Nơi hiểm yếu mặc dù nguy hiểm đấy, còn cần do người đến thủ. Nhuệ khí quân Tống hừng hực, sĩ khí quân Đường để lâu sẽ bị chùn đi, đến lúc đó nơi hiểm yếu cũng chẳng có gì hiểm yếu nữa cả. Hồ Khẩu có hùng binh mười vạn, tuyến Thái Thạch có quân thủ tuyến đó cũng bị chặt đứt, nếu như quân thủ Hồ Khẩu phối hợp với quân thủ Thái Thạch nam bắc cùng tấn công, nhân lúc quân Tống chưa ổn định mà chủ động tấn công, đánh tan quân Tống thì mới có khả năng tự bảo vệ mình, há lại ngồi đó mà chờ quân Tống tự rút lui?”

Quan quân đó cười mếu máo nói: “Nhưng…đây là mệnh lệnh của triều đình, Tôn tướng quân không có tiếng nói thì có thể làm gì đây? Nghe nói Hoàng thượng gọi ở Kê Minh tự một bị bị Hoàng thượng gọi là cao thăng tiểu sư phụ vào cung tụng kinh cầu phúc, nhưng rồi bóng dáng vị tiểu sư phụ đó đã mất tăm, mà Hoàng Thượng vẫn không chịu tỉnh lại, lại mời rất nhiều người xuất gia đắc đạo ở trong cung lập đàn tụng kinh cầu phúc cho Đường Quốc, tiểu tướng còn nghe nói Hoàng thượng giờ đang nghiên cứu “Dị Kinh”, muốn từ trong đó tìm ra cách có thể chiến thắng được quân địch”.

Chiết Tử Du buồn bã thở dài, lẩm bẩm: “Vị Hoàng đến này…thực không còn thuốc chữa nữa…”

Quan quân đó cũng im lặng và thở dài, lúc sau chắp tay nói: “Mạc cô nương, quốc quân đại sự, tiểu tướng không tiện nói. Tiểu tướng là nhất giới võ nhân, ngoại địch xâm chiếm, tiểu tướng có chết cũng không hàng, vì nước mà hi sinh thân mình, không hổ thẹn với ơn đề bạt và tri ngộ của Lâm tướng quân, cũng coi là hết bổn phận của mình. Lâm gia trung liệt, Lâm tướng quân chịu lời gièm pha mà chết, oan ức vô cùng, giờ việc triều chính lại bị gian thần thao túng, chúng ta bất lực xoay chuyển. Cô nương, Thái Thạch cơ này cũng không biết có thể giữ được đến bao giờ nữa, cô nương là phận nữ nhi, không cần dính vào chuyện binh đao, tốt hơn hết là sớm rời khỏi đây đi, đại sự quân quốc không cần phải để ý tới nữa”.

Chiết Tử Du im lặng một lúc lâu, chắp tay hướng về phía hắn, viên tiểu tướng đó cũng chắp tay thi lễ lại, rồi đi xuống chân núi.

Trương Thập Tam đứng cạnh đó tiến lại, nói nhỏ: “Tiểu thư, chuyện Giang Nam đã không thể cứu vãn, chúng ta…nên về tây bắc thôi”.

Chiết Tử Du phất tay áo, Trương Thập Tam câm miệng, nhìn Chiết Tử Du, hắn lẩm bẩm câu gì đó trong miệng rồi lui ra chỗ khác.

“Hạo ca ca, chàng nói trong hai ba năm, quân Tống tất diệt Đường, thống binh đại tướng là Tào Bân, Phan Mỹ, giờ quân Tống quả nhiên đến rồi, tướng thống binh lại không phải là người mà chàng đã nói, đúng cũng là do chàng, mà sai cũng là do chàng, ta có nên tin chàng hay không đây? Có nên tin lời chàng không, trở về tây bắc, khuyên huynh trưởng quy Tống sao?”

Nghĩ đến đây, cô chợt rùng mình, nghĩ đến lời mà Dương Hạo đã từng nói với cô.

“Tử Du, chỉ hôn cái thôi, lần này, đời này, lần cuối…”

“Ha ha, về sau sợ không có bao nhiêu cơ hội nữa, cái này coi là…lần cuối tặng quà nhé, hãy nhận đi”.

“Lúc ấy chỉ cảm thấy lời của hắn nói, người nghe cảm thấy không thoải mái chút nào, nhưng lẽ nào…lẽ nào càng sớm biết ta gặp đại nạn có chết vô sinh, cho nên mới…? Nếu chàng có sự dự liệu như vậy, thế chàng tuyệt đối sẽ không lừa mình, Phan Mỹ không đến hoặc là một sai số, nếu sinh tử của mình cũng có thể đoán trước, ít nhất đại thế là không thể sai được, Hạo ca ca, chàng muốn ta chủ động quy Tống, bảo vệ gia đình phú quý sao? Giờ đã thế này, ta thực sự quá mệt mỏi rồi, ta có nên nghe theo lời chàng không đây?”

Nghĩ đến lời Dương Hạo từng nói, nước mắt Chiết Tử Du lăn dài trên má, bao nhiêu oán, bao nhiêu hận, lúc này đều bị cô dứt bỏ hết, nếu có thể quay lại thời gian, cô nhất định sẽ đồng ý Hạo ca ca. Cho dù hắn đã có nương tử cũng không quan tâm nữa, cô tình nguyện kết duyên phu thê với hắn, để lại cốt nhục cho hắn…”

“Hạo ca ca…” nước mắt nhạt nhòa, Chiết Tử Du khóc và gọi tên hắn, mắt đẫm lệ, hình ảnh mờ mờ của Dương Hạo bỗng đứng trước mặt cô.

“Sao lại…? Rõ như ban ngày, ma quỷ có thể hiện thân sao?” Chiết Tử Du thầm nghĩ nhưng không hề sợ, cô thấy vui vô cùng, vội lau nước mắt, lấy lại bình tĩnh nhìn kỹ lại, Dương Hạo quả nhiên đứng trước mặt cô, mặc một bộ quần áo sĩ nhân bình thường, bên cạnh còn có một hòa thượng.

Quần áo…khuôn mặt…chàng…

Dương Hạo ngây ra, hắn không ngờ vừa đến Thái Bạch lầu thì đã gặp Chiết Tử Du. Hai người mặt đối mặt, Dương Hạo khẽ nói: “Tử Du…”

“Chàng chưa chết?” Chiết Tử Du bỗng hiểu ra mọi chuyện.

Dương Hạo thấy biểu hiện của cô như vậy, không khỏi rùng mình, mặt cô tái xanh, hàng mày thẳng ra, mắt to, tay cô… đang cầm chắc vào chuôi kiếm, mũi kiếm ma sát vào vỏ kiếm, phát ra những tiếng sàn sạt.

“Tử Du, nàng…nàng nghe ta giải thích đã, ta…ta…” Dương Hạo chột dạ bước lui về phía sau.

“Chàng…chưa…chết?”

“Ừ, ta chưa chết, chỉ là…”

“Không liên quan, chàng sắp phải chết rồi”.

“Hả?”

Bích Túc sờ vào cái đầu trọc, nhìn trái nhìn phải, nhìn vào đôi oan gia đang vui mừng này, lúc đó bỗng thấy kiếm quang lóe lên, làm Bích Túc giật nảy người: “Ôi! Chiết cô nương ra kiếm nhanh quá”.

Sau đó thấy Dương Hạo như con thỏ, nhảy, nhảy, nhảy, chui tọt bụi cỏ: “Tử Du, nghe ta giải thích đã”.

“Oa, Dương đại nhân thân pháp nhanh quá”.

Chỉ thấy kiếm quang Chiết Tử Du đổi chiều, hét lên một tiếng tiến về phía hắn: “Cấu kết với nhau làm việc xấu, đáng chết”.

“Oa! Cái gì vậy?” Bích Túc kêu lên một tiếng quái dị, chạy thục mạng chui tọt vào bụi cỏ như Dương Hạo. Chiết Tử Du thực đang rất tức giận liền đuổi theo.

Dương Hạo vừa trốn vừa giải thích: “Tử Du, ta cũng chỉ là bất đắc dĩ mà thôi, ta không phải muốn như vậy…”

“Hừ! một tiếng, Bích Túc vung tay áo qua Dương Hạo: “Thoát thân trước đại nhân, sư tử mẹ đuổi đến nơi rồi”.

Dương Hạo quay đầu lại, chỉ thấy một kiếm quang lao tới, Chiết Tử Du hét lớn: “Chàng đi chết đi, chết luôn đi!”

“A!” Dương Hạo bị kiếm bổ trúng mông, hêu lên thê thảm, chạy thục mạng vượt qua cả Bích Túc, Bích Túc thấy vậy hét: “Đại nhân ngươi thực không nghĩa khí”.

Dương Hạo không quay đầu lại nữa, chỉ hét: “Nhanh lên”.

“Bên đó, rừng cây”. Bích Túc chợt thấy một mảnh rừng, lập tức hét lớn, Dương Hạo nghe thấy vội phóng qua. Cành lá lòa xòa rất khó đi, Chiết Tử Du dù sao cũng là nữ nhi, chạy nhanh cũng không được lâu, bước chân đã chậm đi rất nhiều, cô đuổi theo tới gần vách đá, trên vách đá có một con đường nhỏ uốn lượn cao thấp, cũng không biết Dương Hạo chạy lên hay chạy xuống.

Chiết Tử Du dậm chân mắng chửi: “Dương Hạo, chàng là loại đáng chết hàng nghìn hàng vạn lần, chàng lừa ta đau lòng như thế, chàng lừa ta, để chàng đi giết Da Luật Văn. Chàng…chàng…chàng chẳng có lời thật nào với ta cả, chưa bao giờ có lời nào thật cả, cái gì là Tống quân diệt Đường, thiên mệnh sở quy, hóa ra đều là giả dối cả, chàng là quan Tống Quốc, đương nhiên biết quân Tống phạt Đường, chỉ là chàng không ngờ tới là Phan Mỹ không quay về kịp, triều định lại phái võ tướng khác, đúng không? Họ Dương kia, ngươi là con rùa vương bát đản, từ nay về sau, bản cô nương thấy ngươi một lần, giết một lần, để cho ngươi mãi mãi trốn tránh không dám lộ mặt ra nữa”.

Chiết Tử Du tức giận rơi cả nước mắt, mắng một lúc mới khóc.

Trong bụi cỏ, Dương Hạo ngồi chồm hỗm nói ngốc nghếch: “Nàng…nàng đau lòng vì ta? Là nàng giết Da Luật Văn?”

Bích Túc bên cạnh ngắt một cây cỏ cho vào miệng nhấm, nhìn Dương Hạo, nói: “Đại nhân, lần này ngươi đắc tội Chiết cô nương rồi”.

Dương Hạo tự an ủi mình nói: “Không phải đâu, Tử Du nếu như không quan tâm tới ai thì mới không tức giận như vậy, chẳng qua…làm thế nào để cho cô ấy nguôi giận mới quan trọng, có lẽ là không khó”.

Bích Túc liếc nhìn hắn nói: “Đại nhân dù sao cũng phải ẩn cư, còn có cơ hội gặp lại cô ấy sao?”

Dương Hạo thở dài, lẩm bẩm: “Ta không biết, nói thực, trước đây là ta nắm chắc mọi chuyện/có tài, giờ ta giống cô ấy, ngày mai xảy ra chuyện gì, ta không hề biết được”.

“Haiz!” phía sau có một tiếng ho khan, Dương Hạo và Bích Túc như con thỏ bị kinh động, cùng nhảy lên.

Dương Hạo cho rằng Chiết Tử Du đến phía sau mình, quay ngoắt lại, nhìn rõ người đó, Dương Hạo không khỏi ngạc nhiên, trước mắt là một tăng nhân, khoảng ba lăm ba sáu tuổi, mặt gầy đen, mắt sáng ngời, Dương Hạo cảm thấy vô cùng quen, lập tức nhớ lại, nhớ ra tăng nhân Nhã Băng này ẩn cư ở trên núi.

Hòa thượng Nhã Băng lúc này cũng ngạc nhiên không kém, cũng nhận ra thân thế hắn, Dương Hạo không khỏi thầm kêu khổ: “Sao mà xui xẻo thế, không chừng…ta phải giết người diệt khẩu sao?”

“Ha ha, bần tăng nghe nói Dương tả sứ vì/để kẻ gian sở hại, đã từ thế, trong lòng vô cùng buồn thương, còn cho rằng niệm hướng sinh nguyền rủa siêu độ cho đại nhân, giờ xem ra, cũng chỉ là tin đồn à”.

Nhã Băng hòa thượng mỉm cười nói, Dương Hạo nghe xong thầm than một tiếng, Bích Túc đã trôi giạt tới gần, mắt lộ sát khí đằng đằng. 

Nguồn: http://4vn.eu/forum/showthread.php?71274-Lich-Su-Quan-Su-Bo-Bo-Sinh-Lien-Nguyet-Quan-Full-Text&page=79#ixzz201jJ1zMI

Người này chính là Chiết Tử Du, qua mấy ngày, cô dường như đã gầy đi rất nhiều, vốn xinh đẹp hồng nhan, hai má giờ hơi hóp lại, hia mắt dường như to hơn, bộ dáng thiếu nữ khó mà che lấp, nhưng cùng với chiến loạn, rất nhiều thiếu nữ đều cải trang thành nam nhi, và cách ăn mặc ấy cũng không khiến người ta nghi ngờ.

Trước mặt cô là Trương Thập Nhất và một quân quan thấp, chỉ nghe Chiết Tử Du nói: “Kim Lăng bên đó thế nào rồi?”

Quan quân nói: “Tiểu tướng nghe Tôn đô giam nói các văn võ bá quan trong triều bàn bạc, quân Tống phái chiến binh viễn chinh, vô cùng nhuệ khí, chiến tranh tất sẽ kéo dài, làm vườn không nhà trống, dựa vào thế Trường Giang hiểm yếu và và khi quân Tống bị hao tổn nhiều, mỏi mệt sẽ tự nhiên thối lui”.

Chiết Tử Du nhướn mày, nói: “Thực là ngu xuẩn, trong triều không có một người nào biết nhìn xa trông rộng sao? Nơi hiểm yếu mặc dù nguy hiểm đấy, còn cần do người đến thủ. Nhuệ khí quân Tống hừng hực, sĩ khí quân Đường để lâu sẽ bị chùn đi, đến lúc đó nơi hiểm yếu cũng chẳng có gì hiểm yếu nữa cả. Hồ Khẩu có hùng binh mười vạn, tuyến Thái Thạch có quân thủ tuyến đó cũng bị chặt đứt, nếu như quân thủ Hồ Khẩu phối hợp với quân thủ Thái Thạch nam bắc cùng tấn công, nhân lúc quân Tống chưa ổn định mà chủ động tấn công, đánh tan quân Tống thì mới có khả năng tự bảo vệ mình, há lại ngồi đó mà chờ quân Tống tự rút lui?”

Quan quân đó cười mếu máo nói: “Nhưng…đây là mệnh lệnh của triều đình, Tôn tướng quân không có tiếng nói thì có thể làm gì đây? Nghe nói Hoàng thượng gọi ở Kê Minh tự một bị bị Hoàng thượng gọi là cao thăng tiểu sư phụ vào cung tụng kinh cầu phúc, nhưng rồi bóng dáng vị tiểu sư phụ đó đã mất tăm, mà Hoàng Thượng vẫn không chịu tỉnh lại, lại mời rất nhiều người xuất gia đắc đạo ở trong cung lập đàn tụng kinh cầu phúc cho Đường Quốc, tiểu tướng còn nghe nói Hoàng thượng giờ đang nghiên cứu “Dị Kinh”, muốn từ trong đó tìm ra cách có thể chiến thắng được quân địch”.

Chiết Tử Du buồn bã thở dài, lẩm bẩm: “Vị Hoàng đến này…thực không còn thuốc chữa nữa…”

Quan quân đó cũng im lặng và thở dài, lúc sau chắp tay nói: “Mạc cô nương, quốc quân đại sự, tiểu tướng không tiện nói. Tiểu tướng là nhất giới võ nhân, ngoại địch xâm chiếm, tiểu tướng có chết cũng không hàng, vì nước mà hi sinh thân mình, không hổ thẹn với ơn đề bạt và tri ngộ của Lâm tướng quân, cũng coi là hết bổn phận của mình. Lâm gia trung liệt, Lâm tướng quân chịu lời gièm pha mà chết, oan ức vô cùng, giờ việc triều chính lại bị gian thần thao túng, chúng ta bất lực xoay chuyển. Cô nương, Thái Thạch cơ này cũng không biết có thể giữ được đến bao giờ nữa, cô nương là phận nữ nhi, không cần dính vào chuyện binh đao, tốt hơn hết là sớm rời khỏi đây đi, đại sự quân quốc không cần phải để ý tới nữa”.

Chiết Tử Du im lặng một lúc lâu, chắp tay hướng về phía hắn, viên tiểu tướng đó cũng chắp tay thi lễ lại, rồi đi xuống chân núi.

Trương Thập Tam đứng cạnh đó tiến lại, nói nhỏ: “Tiểu thư, chuyện Giang Nam đã không thể cứu vãn, chúng ta…nên về tây bắc thôi”.

Chiết Tử Du phất tay áo, Trương Thập Tam câm miệng, nhìn Chiết Tử Du, hắn lẩm bẩm câu gì đó trong miệng rồi lui ra chỗ khác.

“Hạo ca ca, chàng nói trong hai ba năm, quân Tống tất diệt Đường, thống binh đại tướng là Tào Bân, Phan Mỹ, giờ quân Tống quả nhiên đến rồi, tướng thống binh lại không phải là người mà chàng đã nói, đúng cũng là do chàng, mà sai cũng là do chàng, ta có nên tin chàng hay không đây? Có nên tin lời chàng không, trở về tây bắc, khuyên huynh trưởng quy Tống sao?”

Nghĩ đến đây, cô chợt rùng mình, nghĩ đến lời mà Dương Hạo đã từng nói với cô.

“Tử Du, chỉ hôn cái thôi, lần này, đời này, lần cuối…”

“Ha ha, về sau sợ không có bao nhiêu cơ hội nữa, cái này coi là…lần cuối tặng quà nhé, hãy nhận đi”.

“Lúc ấy chỉ cảm thấy lời của hắn nói, người nghe cảm thấy không thoải mái chút nào, nhưng lẽ nào…lẽ nào càng sớm biết ta gặp đại nạn có chết vô sinh, cho nên mới…? Nếu chàng có sự dự liệu như vậy, thế chàng tuyệt đối sẽ không lừa mình, Phan Mỹ không đến hoặc là một sai số, nếu sinh tử của mình cũng có thể đoán trước, ít nhất đại thế là không thể sai được, Hạo ca ca, chàng muốn ta chủ động quy Tống, bảo vệ gia đình phú quý sao? Giờ đã thế này, ta thực sự quá mệt mỏi rồi, ta có nên nghe theo lời chàng không đây?”

Nghĩ đến lời Dương Hạo từng nói, nước mắt Chiết Tử Du lăn dài trên má, bao nhiêu oán, bao nhiêu hận, lúc này đều bị cô dứt bỏ hết, nếu có thể quay lại thời gian, cô nhất định sẽ đồng ý Hạo ca ca. Cho dù hắn đã có nương tử cũng không quan tâm nữa, cô tình nguyện kết duyên phu thê với hắn, để lại cốt nhục cho hắn…”

“Hạo ca ca…” nước mắt nhạt nhòa, Chiết Tử Du khóc và gọi tên hắn, mắt đẫm lệ, hình ảnh mờ mờ của Dương Hạo bỗng đứng trước mặt cô.

“Sao lại…? Rõ như ban ngày, ma quỷ có thể hiện thân sao?” Chiết Tử Du thầm nghĩ nhưng không hề sợ, cô thấy vui vô cùng, vội lau nước mắt, lấy lại bình tĩnh nhìn kỹ lại, Dương Hạo quả nhiên đứng trước mặt cô, mặc một bộ quần áo sĩ nhân bình thường, bên cạnh còn có một hòa thượng.

Quần áo…khuôn mặt…chàng…

Dương Hạo ngây ra, hắn không ngờ vừa đến Thái Bạch lầu thì đã gặp Chiết Tử Du. Hai người mặt đối mặt, Dương Hạo khẽ nói: “Tử Du…”

“Chàng chưa chết?” Chiết Tử Du bỗng hiểu ra mọi chuyện.

Dương Hạo thấy biểu hiện của cô như vậy, không khỏi rùng mình, mặt cô tái xanh, hàng mày thẳng ra, mắt to, tay cô… đang cầm chắc vào chuôi kiếm, mũi kiếm ma sát vào vỏ kiếm, phát ra những tiếng sàn sạt.

“Tử Du, nàng…nàng nghe ta giải thích đã, ta…ta…” Dương Hạo chột dạ bước lui về phía sau.

“Chàng…chưa…chết?”

“Ừ, ta chưa chết, chỉ là…”

“Không liên quan, chàng sắp phải chết rồi”.

“Hả?”

Bích Túc sờ vào cái đầu trọc, nhìn trái nhìn phải, nhìn vào đôi oan gia đang vui mừng này, lúc đó bỗng thấy kiếm quang lóe lên, làm Bích Túc giật nảy người: “Ôi! Chiết cô nương ra kiếm nhanh quá”.

Sau đó thấy Dương Hạo như con thỏ, nhảy, nhảy, nhảy, chui tọt bụi cỏ: “Tử Du, nghe ta giải thích đã”.

“Oa, Dương đại nhân thân pháp nhanh quá”.

Chỉ thấy kiếm quang Chiết Tử Du đổi chiều, hét lên một tiếng tiến về phía hắn: “Cấu kết với nhau làm việc xấu, đáng chết”.

“Oa! Cái gì vậy?” Bích Túc kêu lên một tiếng quái dị, chạy thục mạng chui tọt vào bụi cỏ như Dương Hạo. Chiết Tử Du thực đang rất tức giận liền đuổi theo.

Dương Hạo vừa trốn vừa giải thích: “Tử Du, ta cũng chỉ là bất đắc dĩ mà thôi, ta không phải muốn như vậy…”

“Hừ! một tiếng, Bích Túc vung tay áo qua Dương Hạo: “Thoát thân trước đại nhân, sư tử mẹ đuổi đến nơi rồi”.

Dương Hạo quay đầu lại, chỉ thấy một kiếm quang lao tới, Chiết Tử Du hét lớn: “Chàng đi chết đi, chết luôn đi!”

“A!” Dương Hạo bị kiếm bổ trúng mông, hêu lên thê thảm, chạy thục mạng vượt qua cả Bích Túc, Bích Túc thấy vậy hét: “Đại nhân ngươi thực không nghĩa khí”.

Dương Hạo không quay đầu lại nữa, chỉ hét: “Nhanh lên”.

“Bên đó, rừng cây”. Bích Túc chợt thấy một mảnh rừng, lập tức hét lớn, Dương Hạo nghe thấy vội phóng qua. Cành lá lòa xòa rất khó đi, Chiết Tử Du dù sao cũng là nữ nhi, chạy nhanh cũng không được lâu, bước chân đã chậm đi rất nhiều, cô đuổi theo tới gần vách đá, trên vách đá có một con đường nhỏ uốn lượn cao thấp, cũng không biết Dương Hạo chạy lên hay chạy xuống.

Chiết Tử Du dậm chân mắng chửi: “Dương Hạo, chàng là loại đáng chết hàng nghìn hàng vạn lần, chàng lừa ta đau lòng như thế, chàng lừa ta, để chàng đi giết Da Luật Văn. Chàng…chàng…chàng chẳng có lời thật nào với ta cả, chưa bao giờ có lời nào thật cả, cái gì là Tống quân diệt Đường, thiên mệnh sở quy, hóa ra đều là giả dối cả, chàng là quan Tống Quốc, đương nhiên biết quân Tống phạt Đường, chỉ là chàng không ngờ tới là Phan Mỹ không quay về kịp, triều định lại phái võ tướng khác, đúng không? Họ Dương kia, ngươi là con rùa vương bát đản, từ nay về sau, bản cô nương thấy ngươi một lần, giết một lần, để cho ngươi mãi mãi trốn tránh không dám lộ mặt ra nữa”.

Chiết Tử Du tức giận rơi cả nước mắt, mắng một lúc mới khóc.

Trong bụi cỏ, Dương Hạo ngồi chồm hỗm nói ngốc nghếch: “Nàng…nàng đau lòng vì ta? Là nàng giết Da Luật Văn?”

Bích Túc bên cạnh ngắt một cây cỏ cho vào miệng nhấm, nhìn Dương Hạo, nói: “Đại nhân, lần này ngươi đắc tội Chiết cô nương rồi”.

Dương Hạo tự an ủi mình nói: “Không phải đâu, Tử Du nếu như không quan tâm tới ai thì mới không tức giận như vậy, chẳng qua…làm thế nào để cho cô ấy nguôi giận mới quan trọng, có lẽ là không khó”.

Bích Túc liếc nhìn hắn nói: “Đại nhân dù sao cũng phải ẩn cư, còn có cơ hội gặp lại cô ấy sao?”

Dương Hạo thở dài, lẩm bẩm: “Ta không biết, nói thực, trước đây là ta nắm chắc mọi chuyện/có tài, giờ ta giống cô ấy, ngày mai xảy ra chuyện gì, ta không hề biết được”.

“Haiz!” phía sau có một tiếng ho khan, Dương Hạo và Bích Túc như con thỏ bị kinh động, cùng nhảy lên.

Dương Hạo cho rằng Chiết Tử Du đến phía sau mình, quay ngoắt lại, nhìn rõ người đó, Dương Hạo không khỏi ngạc nhiên, trước mắt là một tăng nhân, khoảng ba lăm ba sáu tuổi, mặt gầy đen, mắt sáng ngời, Dương Hạo cảm thấy vô cùng quen, lập tức nhớ lại, nhớ ra tăng nhân Nhã Băng này ẩn cư ở trên núi.

Hòa thượng Nhã Băng lúc này cũng ngạc nhiên không kém, cũng nhận ra thân thế hắn, Dương Hạo không khỏi thầm kêu khổ: “Sao mà xui xẻo thế, không chừng…ta phải giết người diệt khẩu sao?”

“Ha ha, bần tăng nghe nói Dương tả sứ vì/để kẻ gian sở hại, đã từ thế, trong lòng vô cùng buồn thương, còn cho rằng niệm hướng sinh nguyền rủa siêu độ cho đại nhân, giờ xem ra, cũng chỉ là tin đồn à”.

Nhã Băng hòa thượng mỉm cười nói, Dương Hạo nghe xong thầm than một tiếng, Bích Túc đã trôi giạt tới gần, mắt lộ sát khí đằng đằng. 

Nguồn: http://4vn.eu/forum/showthread.php?71274-Lich-Su-Quan-Su-Bo-Bo-Sinh-Lien-Nguyet-Quan-Full-Text&page=79#ixzz201jJ1zMI

Chương 369:Thiên hạ ai hiểu quân. (1+2) 

“Từ đã!” Hòa thượng Nhã Băng mắt sáng lên, ung dung cười nói: “Dương tả sứ giả chết thoát thân, chạy tới thận đây, làm có mưu đồ, bần tăng ở đây kính đón, chính là duyên phận của ta và ngươi, bần tăng tuy thấy rõ thân phận đại nhân, lại không có hại gì cho đại nhân, ngược lại, còn có một công lớn muốn nói với đại nhân”.

Dương Hạo không chớp mắt, trầm giọng hỏi: “Công lớn?”

Hòa thượng Nhã Băng mỉm cười nói: “Không sai, bần tăng nghe nói Dương tả sứ bị người Khiết Đan giết, làm sao ngờ đại nhân không những chưa chết, mà còn xuất hiện ở đây. Hai nước Đường Tống triển khai quân sát khí hừng hực, im bặt ra không Thái Thạch cơ, không biết đại nhân muốn sao?”

Sắc mặt Dương Hạo chợt biến, còn chưa trả lời, hòa thượng Nhã Băng bật cười nói: “Không hỏi cũng biết, đại nhân lần này đến, chính là chuyện đại quân Tống qua sông ra sao, có phải không?”

Dương Hạo trở lại bình thường, mỉm cười nói: “Thế thì tính sao?”

Hòa thượng Nhã Băng nghiêm nghị thi lễ nói: “Mời đại nhân theo bần tăng lại đây, bần tăng có cái này muốn tặng cho đại nhân, đại nhân tự khắc biết”.

Dương Hạo cảm thấy có điều gì đó và ngăn Bích Túc lại, theo sau Hòa thượng Nhã Băng vào trong rừng, đến trước một cái nhà gianh, hòa thượng Nhã Băng nhìn quanh tứ phía, nhanh chóng chui vào trong phòng, Dương Hạo và Bích Túc sợ hắn tẩu thoát, lập tức vào cùng, chỉ thấy mọi thứ trong nhà hòa thượng Nhã Băng vô cùng đơn sơ, chỉ có một cái giường, một cái bàn, một bếp, trên bàn là ngọn đèn, đầu giường có một hộp sách. Nhã Băng mở hộp sách ra, vén tấm vải, ở dưới giường lôi ra một bức lụa, vô cùng thành kính đưa cho Dương Hạo.

Dương Hạo không hiểu gì nhận lấy và xem, chỉ thấy bên trên có rất nhiều nét vẽ, bên trên còn có vài con số đánh dấu, lại có chữ xuân hạ thu đông, xem một hồi không hiểu là nghĩa gì, không khỏi ngạc nhiên nói: “Nhã Băng đại sư, đây là vật gì?”

Hòa thượng Nhã Băng trịnh trọng nói: “Dương đại nhân, thực ra không dám giấu gì đại nhân, tại hạ là một hòa thượng tự do, thực ra là giả làm hòa thượng. Tại hạ vốn họ Phàn, là một tú tài Đường Quốc, vì nhiều lần thi không đỗ, không thể vào học và trở thành quan, nên có ý đồ cạo đầu giả làm tăng, dựng nhà cư trú trên Thái Thạch cơ, quên đi tất cả, hai bờ vách đá này khắc Phật kim thân, mượn cớ thường dùng thuyền nhỏ đi trên sông, ngầm đo lường tình hình nước sông Trường Giang, xuân hạ thu đông, một năm bốn mùa, dòng nước chảy, đều có trên bản đồ.

Theo bản đồ nước của ta, dòng trường Giang có thể dựng một cái cầu nổi/cầu phao, để đại quân tới lui như dẫm trên đất bằng. Tại hạ nghe nói Tấn Vương đích thân dẫn binh tấn công Thái Thạch cơ, thương vong cực kì thảm trọng, giờ đã bại quay về, chuẩn bị tái tấn công, không biết còn cần bao nhiêu binh sĩ thương vong, nhưng nếu có bản đồ trong tay, đại quân tiến lùi tự biết, nơi hiểm yếu Trường Giang không công mà phá, có thể giảm vô số người chết”.

Dương Hạo nghe rồi vô cùng ngạc nhiên, hắn tự nhiên hiểu rằng điểm quý giá của bản đồ thủy này, nó sẽ có tác dụng không thể ngờ được đối với mấy vạn đại quân, nhưng với thân phận của mình hiện giờ, có thể đưa tấm bản đồ này đến tay Triệu Quang Nghĩa không? Nhưng không thể để thân phận mình bị bại lộ.

Giết người diệt khẩu thì sao? Vừa nãy để bảo vệ gia quyến còn không nỡ ra tay, giờ thì nghìn lần không thể.

Nếu biết có tấm bản đồ này có thể thay đổi cục diện chiến tranh, Triệu Quang Nghĩa dựa vào chút ít bè gỗ, thuyền đánh cá thì có thể tấn công Thái Thạch cơ ư? Song vì những tính mạng binh lính về sau, cộng thêm bị người Đường đoạt lại được trận địa, nhưng nghĩa khí người Đường vô cùng thấp, cái nơi gọi là hiểm yếu khó bảo vệ đã phần nào có thể tự hiểu nó, đợi thủy quân Tào Bân đến, thì có chiến hạm thực sự, lúc đó phối hợp với binh Triệu Quang Nghĩa, Thái Thạch cơ chẳng lẽ lại không bị phá? Nhưng như vậy đánh mạnh công mạnh, thương sát chắc chắn sẽ gấp chục lần so với hiện tại. Nếu mình giết chết Phàn Nhã Băng đi, giấu kín tấm bản đồ này, vậy thì cái chết không chỉ của một mình Phàn Nhã Băng hắn, tấn công mạnh đại giang sẽ làm cho vô số người bị thương vong, vô số tính mạng của quân sẽ oán cái đầu của hắn.

Dương Hạo loạn hết cả đầu, đang do dự chưa quyết định được, Phàn Nhã Băng lại nói: “Đại nhân chớ nghĩ nhiều, tấm bản đồ này thực sự này không giả. Đại nhân có thể mang tại hạ đi bờ tây gặp Tấn Vương, tại hạ gặp trực tiếp và nói về tấm bản đồ, nếu có tội vạ gì, đại nhân có thể lấy cái đầu của ta”.

Bích Túc tuy là người Tống, nhưng thấy hắn chỉ vì ở Đường Quốc, hơn nữa lại không thể làm quan, tính toán mọi cách, không tiếc chạy đến bên Trường Giang làm hòa thượng giả, tỉ mỉ kiên trì làm bản đồ đo mực nước sông để hiến kế cho Tống Quốc, chỉ vì mong muốn có một chức quan để làm, trong lòng không khỏi xem nhẹ, lạnh lùng nói: “Phàn tú tài nghĩ trăm phương nghìn cách, có tấm bản đồ này trong tay, chuyến này có thể có kỳ công rồi, nhất định làm quan rồi”.

Phàn Nhã Băng xấu hổ mặt đỏ ửng lên, quen thói a di đà Phật liền chắp tay, nói: “A di đà Phật, chim khôn chọn cây mà đậu, trung thần chọn chủ mà thờ, Đường chúa hôn quy, mải vui chơi, không lo việc nước, triều chính phủi bại, dân chúng khốn khó, triệu Tống được thiên hạ, quy thiên hạ về một mối. Phàn mỗ chẳng lẽ lại không biết theo bên đó sao?

Mấy ngày trước truyền đến tin rằng, Lâm hổ tử Lâm đại ướng quân là một trung thần có tiếng trong triều đã bị lời nói gièm pha mà chết, hơn nữa nguyên nhân cái chết vô cùng ngu xuẩn. Đế vương chỉ dám lén lút lấy rượu độc hại đại thần, quốc chúa tự chặt mất cánh tay của mình, tự hủy hoại tương lai, trên dưới Đường Quốc ai có trái tim băng giá? Đây là ý trời phải diệt Đường mà, mỗ là người bình thường, chẳng lẽ lại không thuận lòng trời?”

Dương Hạo hít một hơi dài, nói: “Tấm bản đồ này thực sự quý giá vạn lần, nhưng…làm sao đưa qua sông đây?”

Phàn Nhã Băng hai mắt sáng lên, nói: “Tại hại có con thuyền nhỏ, xưa nay không đưa lên bờ, nó ẩn trong bụi cỏ um tùm, chỉ cần giờ trên sông tuần phòng nối liền, mỗ là một thư sinh, muốn dùng cái thuyền nhỏ trốn qua sông không có khả năng, không biết đại nhân có thể có cách gì…?”

Dương Hạo lắc đầu nói: “Ta sống khốn khổ bên bờ sông, cũng chẳng có kế gì khả thi, tấm bản đồ này quý lắm, hơn nữa không thể thiếu ngươi là người giải thích, ngươi và tấm bản đồ này không thể mất, cho nên không được liều lĩnh, thế này nhé, ngươi…ngươi theo ta xuống núi, chúng ta bàn bạc kỹ lưỡng hơn”.

Chiết Tử Du thấy hắn vẫn còn sống, cũng không đường hoàng đi ra, Dương Hạo có niềm tin, nhưng Phàn Nhã Băng có khát vọng làm quan này rất khó nói, lòng Dương Hạo lo lắng không thôi, thực không nghĩ ra cách nào để giải quyết thích đáng người này, đành đi một bước nghĩ một bước, đưa hắn theo bên cạnh, mong là an toàn.

Tống Quốc dã tâm với Đường, Phàn Nhã Băng này sớm đã biết rõ, cho nên mới ẩn cư ở nơi bên bờ sông này, tuy kham khổ, nhưng mười năm gian khổ học tập đều đã nhẫn nhịn được, hắn chịu khổ để đến hôm nay tiếp tục theo đuổi con đường làm quan, cũng là kham khổ. Nhưng chưa đợi hắn hiến bản đồ cho Tống Quốc, Tống Quốc đã xuất binh, giờ triển khai quân bờ bên kia, hắn muốn đưa tấm bản đồ cho họ là không thể nữa rồi, nó khiến Phàn Nhã Băng lòng như lửa đốt.

Nếu đợi đến khi quân Tống tấn công mạnh qua sông, và có chỗ đứng vững, thì bản đồ này của hắn chẳng còn tác dụng gì nữa, giờ như lâu hạn gặp mưa rào, thế nhưng gặp được một người vốn là sứ giả đã chết của Tống Quốc, Phàn Nhã Băng vui mừng khôn xiết, chỉ cho rằng mình cuối cùng cũng đã có thể làm quan. Tất nhiên là vui vẻ đồng ý, lập tức ra đi cùng với Dương Hạo, trong căn nhà cỏ gianh chẳng có đồ gì đáng giá cả, có thể bỏ qua không cần đến nó.

Trước hắn nghĩ đến Thái Thạch cơ này sẽ không có người quen hắn, cho nên lên đường không chút che dấu, nào có ngờ gặp hai kẻ địch, lần này không dám lơ là nữa, hắn sửa sang lại chút dung mạo, lấy râu giả dính lên, lúc này mới theo hai người họ xuống núi.

Từ con đường này xuống núi, đến dưới núi, chỉ thấy trên đất bị đào lên mười mấy cái hố lớn, trên trong là những thi thể ngang dọc, dưới thi thể đó chặt cây cối cỏ, bên trên là bảy tám tầng thi thể, nào thì trúng tên, đao đâm, thương đâm…máu me be bét, không còn ra hình người, thực là sợ phát hoảng, nhìn trang phục, chắc chắn là quân Tống.

Nhìn thấy hai hòa thượng cùng đi với một người phàm tục xuống núi, một vài binh lính Đường Quốc đang khuân vác thi thể cũng không để ý tới, từ trên chiếc xe nhỏ lại bê mấy chục thi thể vứt vào cái hố, sau đó cho dầu hỏa vào, rồi châm lửa, lửa hừng hực cháy, nuốt hết tất cả vô số những thi thể đó.

Phàn Nhã Băng chắp tay mô Phật, hỏi: “A di đà Phật, thiện tai, thiện tai. Nhiều thi thể quá, có chuyện gì xảy ra vậy?”

Đại nhân Đường quốc phần lớn đều tín Phật, Phàn Nhã Băng ở nơi này, bình thường tự mình trôi nổi trên mặt sông, nói là yêu thích vàng, vùng ven sông phần lớn đều khắc tượng Phật, trong quân ngũ có rất nhiều người đều quen vị tăng khổ hạnh này, và cũng vô cùng kính trọng hắn, liền có một tiểu giáo đáp: “Đại sư, đây là thi thể quân Tống tiến công vào Thái Thạch cơ ta, tướng quân lệnh ta đợi ở đây thiêu, tránh sinh dịch bệnh”.

“A di đà Phật”. Phàn Nhã Băng không khỏi thốt lên tiếng Phật hiệu.

Lửa cháy hừng hực đốt cháy thi thể này cháy xèo xèo, thi thể bị hỏa thiêu co rút các gân, có thi thê bỗng dưng ngồi bật dậy rồi lại rơi bịch xuống, da thịt bị thiêu hết, từng mảng thịt cháy lộ ra xương xẩu, Dương Hạo tuy cũng nhập ngũ, từng tham chiến, nhưng lại làm thân binh của Trình Thế Hùng, vả lại chưa từng gặp quá nhiều thi thể thế này, thấy vậy mà hồn bay phách tán, không đành lòng nhìn nữa.

Phàn Nhã Băng bước đến, chỉ thấy khắp nơi là cái hố lửa, thi thể nhiều không kể xiết, không chịu nổi miệng tụng: “Nam mô ai di đà Phật, bản sư thích ca mâu ni, thế tôn có nói: Đất giấu, ta giờ niềm nở, dựa thiên nhân chúng, dặn dò vu nhữ. Thế tương lai, nếu có thiên nhân, thiện nam tử thiện nam nhi, trong Phật pháp, loại thiếu thiện căn, nhất mao nhất trần, anh có đạo lực, ủng hộ là người, chớ để mất đi.

Giấu nhiều lần đất, trong tương lai, có trời có người, tùy nghiệp báo ứng, dừng ở ác hứng, trước khi rụng rơi, hoặc tới môn đạo, là chư chúng sinh, nếu có thể niệm đắc Phật danh, có Bồ Tát bảo vệ. Là chư chúng sinh, anh có thần lực, tiện cứu hết đi, thế là người ở, thân ở lại, vỡ rơi vào địa ngục, bỏ lệnh sinh thiên, hưởng khúc ca lạc…”

Bích Túc thấy tình hình thê thảm như vậy, không khỏi chủ động chắp tay, miệng lẩm bẩm: “Nam mô Bồ tát đại từ bi, Bạch Phật nói: “Thế Tôn, mong muốn thế tôn không cho nghĩ. Tương lai, nếu có thiện nam tử, thiện nữ tử, trong Phật pháp, nhất niệm cung kính, ta cũng hàng trăm thuận lợi, độ cởi là người, sinh tử giải thoát. Huống hồ chỉ nghe thấy việc thiện, niệm tu hành, tự nhiên đạo mãi mãi không thể chuyển…”

Hai giả hòa thượng cầu cho trốn hồng trần, thấy vô số xác tử thi, lòng có thiện tâm, kinh văn này tụng vô cùng thành kính, khiến cho khung cảnh vô cùng nghiêm túc, rất nhiều binh sĩ nghe hai vị tăng nhân này đọc kinh, cũng dừng lại, chắp tay, tuy là kẻ địch, nhưng vẫn xót xa cho sinh mệnh.

“Ta nên làm thế nào đây? Bản đồ này hoặc có thể giảm đi vô số những thương vong không cần thiết, ta bỏ qua hàng nghìn mạng sinh tử này, thì lương tâm sẽ bất an, nhưng giờ tình hình này, ta nên làm thế nào đây?”

Dương Hạo theo hai vị tăng, không biết làm sao, tự giằng co trong lòng.

*******

Trong Đương đồ thành đã lộn xộn hết cả, rất nhiều người dìu già dắt trẻ chạy nạn, không người thân thích có thể nương tựa, hoặc là không muốn rời gia viên, ôm một ước vọng, mong Tống quân không qua được Trường Giang, hoặc là qua sông theo con đường nhỏ, dân đóng chặt cửa, trong thành tiêu điều vô cùng.

Ba người về đến nơi ở của Dương Hạo, Dương Hạo lúc này mới nhớ ra hai vị phu nhân của mình nhất thiết không được lọt vào mắt của Phàn Nhã Băng, Phàn Nhã Băng cho rằng mình là mình người hành thích, gia quyến đều chết thảm, cho nên ôm hận giấu danh, ẩn nấp ở đây tìm hiểu tình hình quân sự, nhưng nếu để hắn nhìn thấy hai vị phu nhân đoan chính ở đây, không tránh được sinh nghi, hắn vội nháy mắt với Bích Túc, Bích Túc hiểu ý vội vào trong viện kéo Phàn Nhã Băng lại nói: “Phàn tú tài, xin mời qua bên này ngồi, đợi lát nữa đại nhân có vài lời muốn nói”.

Dương Hạo một mình đi vào hậu viện, trong viện không có một ai, thấy hoa đình cũng không có ai, không chỉ không nhìn thấy Diễm Diễm và Oa Oa, ngay cả tiểu ni cô câm cũng không thấy đâu, đến đám người Trình Vũ và tám gã thị vệ bảo vệ các nàng ấy cũng không thấy đâu, Dương Hạo sửng sốt không hiểu gì, cao giọng gọi: “Diễm Diễm? Oa Oa?” Vừa gọi vừa đi về hướng phòng ngủ.

Đến phòng ngủ cũng vẫn không có người, Dương Hạo lo lắng, lập tức rút kiếm trở về phòng khách, vừa vào phòng, thì trong phòng khách lúc nãy không có một ai thì đang có một người ngồi, đang vắt chân thưởng thức trà. Dương Hạo nhìn rõ bộ dáng người đó, không khỏi đứng sờ sờ ở đó, chòm râu hơi bay, nhìn vẻ mặt phát phì cười.

“Ha ha ha, Dương đại nhân, Biện Lương từ biệt, không nghĩ ta và ngươi lại có ngày gặp mặt, đó chẳng phải duyên phận sao…?”

Một gã béo ngồi trong phòng nhìn Dương Hạo như người thân của mình, cười hề hề, cứ như thiên quan chúc phúc. Dương Hạo thở dài, lẩm bẩm nói: “Thiên hạ này…không có nơi nào là chốn bồng lai của Dương Hạo sao?”

Gã béo đặt chén trà xuống, mặt mày hớn hở đứng dậy nói: “Ôi, thế là sao vậy, bạn cũ đến, xem ngươi kìa, thái độ gì vậy? Dương đại nhân muốn bỏ trốn, nói dễ hơn làm, giờ ở thiên hạ này, không nhận ra Dương đại nhân ngươi còn có mấy người nữa?”

“Ngàn dặm mây bay nắng ban ngày, gió bắc thổi nhạn tuyết. Chớ lo con đường phía trước không biết, thiên hạ có ai không biết quân chủ?”

Gã béo họ Thôi vỗ tay đạp ca (một hình thức nghệ thuật vừa múa vừa hát) hay, Thôi Đại Lang vốn cao to, nhưng tán thưởng đạp ca, từ từ đứng dậy, đi lại nhẹ nhàng, tay múa, chân nhảy, tư thế tuyệt đẹp, bộ dạng khiến người ta thích thú, đến hắn cũng xem nhẹ cơ thể vốn béo tốt của mình. Thiên lý hoàng vân bạch nhật huân, bắc phong xuy…

Dương Hạo cũng lĩnh hội chút phong tình của đạp ca cổ, nhưng hắn giờ chẳng có tâm trạng nào, mặt méo xệch nói: “Đây cũng là thơ của Bạch Lạc Thiên sao?”

Thôi Đại Lang nhướn mày nói: “Thơ của người bên cạnh, Dương mỗ cũng nhớ vài bài. Ha ha, Dương huynh cứ bình tĩnh, không muốn hỏi hai vị hiền phu nhân và đám thuộc hạ giờ đang ở đâu vậy?”

Dương Hạo thở dài nói: “Tin Thôi huynh ở chỗ này chờ ta, người trong nhà và thuộc hạ nhất định sắp xếp thỏa đángGiờ đến xem, Thôi huynh có Tề Châu Thôi Thị, không biết đến tìm tại hạ rốt cuộc có ý gì?”

Thôi Đại Lang mỉm cười nói: “Dương huynh đoán sai rồi, Thôi mỗ đang là Sơn Đông Thôi Thị, thế cư Tề Châu”.

“Nhưng ngươi tuyệt đối không phải là một thương nhân”.

Thôi Đại Lang cười tít mắt: “Dương huynh đoán sai rồi, Thôi mỗ là một thương nhân, một thương nhân chính cống, chẳng qua…quy mô to hơn bình thường mà thôi…”

“To thế nào?”

“To…có thể ví với một nước nào đó”.

*******

Trong phòng có hai người ngồi, ở giữa đặt một ấm trà.

Một người, nắm tài phú ẩn hình khổng lồ nhất thiên hạ.

Một người, nắm võ trang tiềm lực phát triển lớn nhất.

Quân Tống và quân Đường triển khai quân hai bờ Trường Giang, tiến hành triển khai thế trận quyết chiến đến cùng, hai người cách chủ chiến trường không quá mấy bước bàn bạc Đương Đồ nguy thành, và chẳng có liên quan gì tới trận chiến cả.

“Nói ra, Dương huynh có kế giả chết thoát thân tuy khéo léo đấy, nhưng không phải là không có sơ hở. Ta có thể sinh lòng nghi ngờ, người khác cũng vậy, chỉ cần nghi ngờ và có vấn đề rồi, hiện nay bận chuyện khác, lúc nào đó ngươi thử nghĩ xem, khó tránh khỏi có chỗ sơ hở. Nước cờ ngươi đi thế này, là chặt đứt tất cả đường lui của mình, một khi bị phát hiện, ngược lại lợn lành thành lợn què, đến lúc đó, Quan Gia chỉ cần biết thời biết thế, cho ngươi từ chết giả thành chết thật luôn…”

Dương Hạo phản bác lại nói: “Thế, nếu như gặp Thôi huynh, ta tìm thời cơ trở về Lô Châu, nguy hiểm vô sinh mệnh sao?”

“Ở đâu không có nguy hiểm chứ?”

Thôi Đại Lang bùi ngùi thở dài: “Lần này đi Thanh Châu, Thôi mỗ tham gia lễ tang của một trưởng bối. Chỗ Thừa Tự thất tông ngũ tính, có một tiềm lực khổng lồ trong thiên hạ, Thôi mỗ khoe khoang một câu, nói là địa hạ đế vương cũng không thể sánh. Vị Lão thái gia này là nhân vật quan trọng Thừa Tự đường, phú giáp thiên hạ, môn hạ buôn bán nhiều vô kể, buôn bán hải thương, và buôn bán ở Xuân Trường bắc quốc, cấu thành tam đại trụ. Đừng thấy hắn trong đám lộn xộn vô danh, người biết hắn không nhiều, nhưng ở Đông Doanh, Cao Ly, Lữ Tống, hắn nói một câu, quốc vương nơi đó phải nghe theo một câu, nhân vật lớn như vậy, nói chết thì phải chết, chắc ngươi biết hắn sao mà chết chứ?”

“Chết thế nào?”

Thôi Đại Lang thản nhiên nói: “Sáng sớm thức dậy, uống một cốc sữa dê. Trong sữa dê có sợi lông dê nhỏ tí, mắc ở cổ họng, thế là…hắn chết”.

Dương Hạo không nói gì.

Thôi Đại Lang lại nói: “Nam nhi ở cuộc đời này, tự có trách nhiệm. Trách nhiệm này, gánh vác này không chỉ là con cái, còn là huynh đệ, còn là gia tộc, là bộ hạ, vô cùng khó khăn, xuất hiện sự thoái chí, há còn là nam nhi?”

Nếu đổi mấy ngày trước, Dương Hạo có thể có thể dùng đại thế đã định, thiên mệnh sở quy đến phản bác Thôi Đại Lang, nhưng lịch sử giờ đã không dựa theo hướng đi của hắn nữa, cho nên nghe những lời này hắn chỉ có thể im lặng.

Thôi Đại Lang thở dài một tiếng: “Trên đời này thực sự có chỗ cực lạc sao? không nói đến sinh lão bệnh tử, bi hoan li hợp, nhân sinh mà, chính là gần ít xa nhiều, khổ nhiều hơn vui. Lý Dục là quân vương của một nước, có nguy hiểm quốc gia không? Da Luật Hiền là đế vương bắc quốc, cũng có khi gặp chuyện. Thế tiểu dân vô danh thái bình vô ưu hay không đây? Nỗi khổ của họ chỉ có càng nhiều, ngươi nghiêng tai nghe xem…”

Gào khóc trên đường chạy trốn, tiếng kêu thảm thiết của một người con gái vọng vào tai, Thôi Đại Lang trầm giọng nói: “Người ở Lô Châu tin theo ngươi, ngươi thực sự có thể thản nhiên mà bỏ qua sao? Ngươi ở ẩn, thực sự có thể từ nay về sau ung dung tự tại? Không sai, nếu ngươi về đến tây bắc, triều đình đầu tiên sẽ nghĩ cách đối phó với ngươi, nhưng, ngươi có thể vắt óc nghĩ ra cách giả chết trốn nguy hiểm, không thể nghĩ một triều đình thừa nhận cách của ngươi để mưu cầu an toàn càng lớn hơn sao?”

Dương Hạo nhìn chằm chằm Thôi Đại Lang, lạnh lùng nói: “Ta trở về Lô Châu, chính là kháng mệnh. Triều đình sẽ không muốn tây bắc lại thêm một thế lực nữa, ta lập tức sẽ trở thành mục tiêu mà quân đội triều đình hướng tới, đó chẳng phải kéo chiến hỏa tới tây bắc sao? Vẫn còn mong được thái bình?’

Thôi Đại Lang vui mừng cười: “Dương huynh, thực ra ngươi có thể nghĩ ra cách, song ngươi luôn không chịu đi nghĩ”. 

Nguồn: http://4vn.eu/forum/showthread.php?71274-Lich-Su-Quan-Su-Bo-Bo-Sinh-Lien-Nguyet-Quan-Full-Text&page=79#ixzz201jyHDJJ

Chương 369:Thiên hạ ai hiểu quân. (3) 

Hắn hơi cúi người về phía trước trầm giọng nói: “Khi Tống Quốc chiếm Đại Biện, hắn là một trong những nước của Trung Nguyên. Tống Quốc khi chiếm Kinh Hồ, hắn đã trở thành nước mạnh đệ nhất Trung Nguyên. Ngay sau đó, bình Thục, diệt Hán, giờ lại đến tấn công Đường Quốc, lãnh thổ quốc gia không ngừng mở rộng, nhưng đế quốc càng lớn, lãnh thổ quốc gia tuy mở rộng nhưng vẫn chỉ có một người cầm đầu.

Sau khi diệt Đường Quốc, thống nhất Trung Nguyên thì sao? Lại về phía nam diệt Đại Lý sao? Đại lý nếu bị mất đi, sẽ diệt Giao Chỉ, chiếm thành, Thực Lạp, Phiêu Quốc sao? Đi về hướng đông, sẽ qua biển diệt Cao Ly, Nhật Bản, Lữ Tống, vươn xa tận trùng dương, đi thìm những quốc gia hải ngoại nhiều hơn nữa sao? Đi về hướng bắc diệt Khiết Đan sao? Diệt xong Khiết Đan, sẽ diệt Thất Vi, Nữ Trực, tộc Mô Hơ, Oát Lãng Cải sao? Ba thế lực nếu diệt, có phải là cần diệt Hồ Hức, Thổ Phiên, Nê Bà La, đại tiểu Bột Luật, theo sát đánh Hắc Hãn, Cát Tư, Hoa Lạt Tử Mô, Ba Tư, Thiên Trúc, Đại Thực…”

Thôi Đại Lang nói một hồi ra rất nhiều quốc gia có khi còn chưa nghe thấy bao giờ, thở dài nói: “Trời đất vô cùng vô tận, bất kỳ một quốc gia nào đều không thể mở rộng quá lớn vô hạn được, Tống đã chiếm cứ được vùng giàu có nhất, lại tiếp tục mở rộng, đã không phải là cần con dân và quốc gia, do là muốn chiếc vương miệng thêm sáng rọi vài phần.

Hán Vũ Đường Tống không có thực lực thực sự thống trị những nơi đó, đồng nghĩa Tống Quốc cũng không có lực lượng khống chế, và cũng không cần thiết xâm chiếm nơi đó, dốc hết binh lực để đi gây chiến thì cuộc sống của dân lầm than, lòng người tự khắc sẽ quy về Tống Quốc, nếu Tống Quốc theo thiên hạ mà nhiều lần gây chiến tranh, không phải cầu phúc cho dân, thế thì dân chúng Trung Nguyên sẽ nổi dậy phản lại. Đánh giặc không phải để đánh giặc mà là đánh dân.

Thừa Tự đường ta vốn đại đường thất tông ngũ tính tộc nhân, vì dự đoán Đại Đường sẽ diệt, Tạp Hồ loạn Trung Nguyên ta, lúc này trước tiên phải phòng bị từng bước, bảo toàn hậu thế và vinh hoa phú quý thất tông ngũ tính của ta, cho nên từ nay về sau trong Thừa Tự đường chuyên có một tốp trưởng lão phụ trách việc thu thập tình báo thiên hạ, phân tích đại thế thiên hạ.

Theo nghiêm phán của chúng ta, Tống được Đường Quốc, sau khi thống nhất Trung Nguyên, chiếm được chẳng qua chỉ là Hà Tây và U Vân, và mục đích không phải mở rộng đất đai, mà là để chiếm lĩnh được hai miếng đất quan trọng trong chiến lược, để giang sơn gấm vóc của bọn họ được che chở. Nhưng mà, họ rất khó làm được, cho dù là chiếm đoạt tây bắc trước, hay là tấn công Khiết Đan trước, kết quả chỉ có thể là uổng công vô ích”.

Dương Hạo ngẩn người, những điều Thôi Đại Lang nói rất giống với lịch sử, từng có người không mất công sức gì nhiều mà giành được ranh giới rộng lớn, quy tội Tống có chính sách sai lầm với tây bắc, cũng có người cho rằng là võ công Triệu Nhân không đề cập tới Triệu Đại Thần Dũng, Dương Hạo vẫn là lần đầu gặp và được thương nhân phân tích từ góc độc của hắn, và nó lại có thể chính xác như vậy, cách nhìn của Thừa Tự đường thực như Gia Cát Lượng phải mời ba lần mới ra nhà gianh và cách nói ba phần thiên hạ của ông, xu thế tình hình tương lai nắm được quá là chuẩn xác.

Thôi Đại Lang thấy sắc mặt của hắn, biết hắn đã bị kích thích, liền cười ha ha nói: “Không có người nào có cái nhìn thông suốt như thương nhân chúng ta, chiếc mũi rất nhạy bén, cũng không có ai có thể hiểu về các nước như chúng ta, họ giàu nghèo, quân đội mạnh yếu…chúng ta đều rõ hết.

Lý Tồn Húc của Đường Quốc, Thạch Kính Đường của Tấn Quốc đều vì Khiết Đan mà vong, nhưng lúc đó Khiết Đan vừa mới lập quốc, chẳng có cách nào thống trị Trung Nguyên, họ nhúng tay vào chuyện Trung Nguyên, chẳng qua chỉ là muốn nuôi dưỡng một Nhi Hoàng đế nghe lời, thay họ quản lý Trung Nguyên. Mà giờ lại không giống, Khiết Đan giờ tuy chính ồn nội loạn, nhưng lập quốc gần 60 năm, thời gian nghỉ ngơi lấy lại sức 60 năm, quốc lợi ngày càng mạnh, họ đã là là một thực lực của nam hạ.

Mà Trung Nguyên cũng lúc này thống nhất, Triệu Quan Gia hùng tài đại lược, cũng là một đại anh chủ, tuy đi sau mà tới trước, lại là lực lượng mới, lực lượng quốc gia phát triển không ngừng, đủ để chống lại Khiết Đan, chỉ đợi Đường Quốc sau khi bị diệt bỏ thì sẽ lên kế hoạch bắc thượng. Nhưng thực lực và lãnh thổ hai nước, dân số đông, nếu có danh tướng, có tốt xấu gì hoặc có bất đồng, lại không thể xóa bỏ các nước Trung Nguyên dễ dàng được.

Tống Quốc bắc thượng, bản đồ là 16 châu U Vân, muốn đoạt vào tay mình để làm bức thành che chở, bảo đảm Trung Nguyên vững như núi Thái Sơn, nhưng chỉ tính theo ý mình muốn thì không đánh như vậy, nơi màu mỡ nhất họ cũng chiếm rồi còn muốn chiếm nơi nguy hiểm, dị tộc lại há có thể kháng cự, mảnh đất bần hàn tự sinh tự diệt, ai mà không muốn đến nơi tốt nhất? Khiết Đan nội loạn, tất cũng huy binh nam hạ mưu đồ Trung Nguyên.

Giờ hai nước dân số tương đương nhau, nói đến binh lính, quân Tống huấn luyện hoàn hảo, người Hồ thiên tính dũng mãnh, người Tống có mấy chục vạn binh lính tinh nhuệ phòng thủ tốt, còn Khiết Đan lại có mấy chục vạn tinh nhuệ giỏi tấn công, tự Thạch Kính đường chắp tay dâng 16 châu U Vân, người Khiết Đan dốc lòng tạo dựng mấy chục năm, nơi nguy hiểm này đã vững như thành đồng, người Tống sao có thể chiếm dễ dàng vậy được sao?

Người Tống đánh sao lại được với người Khiết Đan, chỉ có thể kéo dài, hai nước đều hao người tốn của, khó mà tiếp tục tấn công. Nếu Tống Quốc trước khi giành lấy tây bắc cho rằng cần dưỡng mã thì sao? Không xuất toàn lực, khó mà toàn công, còn nếu như xuất công toàn lực, người Khiết Đan há không thừa cơ mà xông vào? Hai nước đấu nhau, tây bắc đặc biệt quan trọng, người Khiết Đan không ngu xuẩn, tuyệt đối sẽ không ngồi nhìn tây bắc thành đất Tống đâu. Nếu như vậy, nếu có người có thể thống nhất tây bắc, thì cho dù là Tống hay Khiết Đan, người Tống chiếm nơi phồn hoa nhất, tài lực thì hùng hậu, người Khiết Đan chiếm ưu thế về địa lý và ưu thế về binh mã, chủ của tây bắc này lại chiếm ưu thế về tình hình chính trị, tiến khả công, thối khả thủ”.

Dương Hạo hơi nheo mắt lại, trầm giọng nói: “Đại Lang quả nhiên không hổ thẹn là thương nhân xuất chúng, một lời nói ra vô cùng sắc bén, nhưng ta có năng lực gì mà có thể chiếm tây bắc chứ?”

Thôi Đại Lang mỉm cười nói: “Ngươi được trời ưu ái, giờ đã được Đảng Hạng Lục Thị ủng hộ, được họ tôn làm chúa của Hạ Châu, lại có Chiết Thị và Dương Thị ủng hộ nữa, nếu thêm Thừa Tự đường ủng hộ về tài lực, thì ngươi dựa vào thân thế là nghĩa tử của Lý Quang Sầm mà giành lấy Lý Thị, trở thành bá chủ tây bắc thì có gì là không khả năng chứ? Nếu ngươi trở thành tây bắc vương, triều đình chỉ có mời chào ngươi mà thôi, chẳng lẽ còn dám giết ngươi? Như vậy, chẳng phải là an toàn nhất sao?”

Dương Hạo trầm ngâm một lúc lâu sau nói: “Trung Nguyên thống nhất, thiên hạ thái bình, buôn bán mới tốt được, các hạ chỉ có tâm làm thương nhân, vì sao không trở thành tây bắc nhất phương thế lực?”

“Nguyên nhất rất là đơn giản”.

Thôi Đại Lang chậm rãi nói: “Bất kỳ hàng hóa đều có một nơi sản xuất riêng, thông hữu vô, đó chính là nguồn thu lợi của thương nhân. Tống và Khiết Đan thành lập, đương thế song hùng, để suy yếu đối phương, tất phải chịu trao đổi đồi mồi, ngà voi, sừng tê giác, đồng thiếc, hương trầm, da lông, bò dê, ngựa, lương thực, vải vóc, dược liệu...

Đường mạt loạn thế tới nay, chuyện buôn bán Thừa Tự đường dần dần rời về tứ phương và những nơi xa hơn, nếu như muốn chuyển về, thay đổi ngành nghề khác, cũng không phải là dễ, nếu không đả thương vào xương thịt, thì nguyên khí đại thất. Đành chịu bán lệch một chút, không biết bao nhiêu người ăn cháo đá bát. Hơn nữa, triều đình trọng sĩ, cũng rất chèn ép thương nhân chúng ta”.

Thôi Đại Lang băn khoăn rằng chính sách nguyên tự triều Đường tới nay, thời kì triều Đường địa vị chính trị của thương nhân vô cùng thấp hèn, luật pháp triều đình có quy định vô cùng nghiêm ngặt, các công thương chi sĩ không thể làm quan, các thương nhân không thể kết hôn với sĩ tộc, Đường Thái Tông từng nói: “Công thương tạp sắc chi lưu. Tất không thể vượt quá thời gian làm quan mười năm’.

Thương nhân có thân phận thấp hơn cả thứ dân, thứ dân phục vụ Hoàng thượng, công thương tạp hộ không được phục vụ Hoàng thượng, cấm thương nhân sử dụng ngựa. Tài sản tư hữu của thương nhân cũng không được sự bảo hộ của luật pháp, triều đình có thể mặc ý thu hồi. Nếu Khai Nguyên hai mươi hai năm không thu của cải thương nhân Kinh Triệu. Ba năm Kiến Trung, vơ vét tiền tài của thương nhân, lấy nó cung cấp cho quân đội, tất cả hàng hóa của thương nhân trong Trường An, người dân lầm than, khó qua nổi cửa ải chết”.

Triều đình bức hại thương nhân quá mức, như vậy, các thương nhân tất phải duy trì các phiên trấn, thế lực để đối kháng lại với triều đình Đại Đường, để giành lại vị trí xã hội nhất định, từ đó nó trở thành nền tảng của các thế lực. Kết quả hơn hai trăm năm nay, luôn là sĩ nhân khinh thương, võ nhân trọng thương, mà sau khi Tống thống nhất xong Trung Nguyên, hiện tượng thực tế dìm thương nhân không còn nghiêm trọng như trước nữa, nhưng giờ thì ai biết được đây? Triều đình trọng sĩ, đã thành tập tục, thiên hạ sau khi thái bình, trời biết được họ có theo Đường luật hay không? Tác phong Thừa Tự đường chính là trong thời bình nghĩ đến thời loạn, họ sẽ không ngồi đợi chính sách triều đình đưa ra rồi mới phản ảnh lên.

Huống hồ triều đình không dìm thương nhân, buôn bán của họ có quá nhiều thứ đề cập tới nam bắc, một khi hai nước xảy ra chuyện gì, ảnh hưởng đối với họ sẽ càng lớn hơn, họ đã phán đoán nam bắc cùng tồn tại định kết cục, cần phải tìm ra một cây cầu để nối liền nam bắc, trong suy nghĩ của họ, cây cầu này chính là việc tây bắc có thể hòa hoãn xung đột. Phân tích này, cùng với địa vị đặc thù của các lần phân tích của Dương Hạo, thì có lựa chọn mang tính hiệu quả như nhau. 

Nguồn: http://4vn.eu/forum/showthread.php?71274-Lich-Su-Quan-Su-Bo-Bo-Sinh-Lien-Nguyet-Quan-Full-Text&page=80#ixzz201k4QeM6

Chương 369:Thiên hạ ai hiểu quân. (4+5) 

Còn về nói thiên hạ thái bình, buôn bán của thương nhân mới hưng thịnh, nó cũng chưa chắc. Thời Xuân Thu các nước san sát nhau, có trở ngại rất nặng, theo lý mà nói điều này đối với các thương nhân là không hợp, mà trên thực tế thương nhân đương thời không những thu nhập cao, mà địa vị xã hội cũng rất cao. Các phương chư hầu từ Đường mạt năm đời lại đây cũng như vậy. 

Dương Hạo chậm rãi nói: “Trưởng lão các người cho rằng, đất tây bắc tự lập, hòa hoãn Trung Nguyên và Khiết Đan, cũng là thương nhân các người muốn có bao chiếc cầu, cho nên các người muốn bồi dưỡng thế lực ở đó, có thể bảo vệ các người, mang đến cho các người khoản lợi nhất?”

Thôi Đại Lang sờ cằm nói: “Đúng, kỳ thực Thừa Tự đường ta hai mươi năm trước đã làm thử rồi. Lần đó, chúng ta chọn Lân Châu Dương gia, Chiết gia sống yên lâu dài, vị tất mang đến sự tiện lợi cho chúng ta. Huống hồ, tuy nói Thừa Tự đường ta sớm không còn tôn chỉ, giờ kéo dài mình là có mục đích, nhưng các trưởng lão vẫn mong mỏi có thể giúp đỡ đồng tộc. Dương gia là người Hán, Chiết gia lại không phải, cho nên các trưởng lão càng muốn cho Dương gia đến khống chế sự ra vào cửa ngõ Tây Vực. Tiếc thay…”

Hắn thở dài, méo mó nói: “Tiếc là Dương gia cuối cùng lại không có quyết đoán, không có can đảm để đối kháng lại Chiết gia. Cân nhắc một chút, Hỏa sơn vương Dương Cổn vẫn là quyết định bám lấy Lân Châu, cùng Phủ Châu giảng hòa đối kháng Hạ Châu, ngược lại trở mặt đối phó với chúng ta, khiến mưu kế của ta thất bại trong gang tấc. Vốn dĩ các trưởng lão đã mất lòng tin, không ngờ trên trời lại phái ngươi xuống.”

Thôi Đại Lang mỉm cười: “Người cơ bản dễ hiểu nhất, có thể giúp đỡ chúng tôi, mà người thì lại có liên quan với Hạ Châu Lý thị, Phủ Châu Chiết thị, Lân Châu Dương thị, là người có tiềm lực phát triển nhất trong số họ. Điều đặc biệt quan trọng là, ngươi lập Lô Châu là khẳng định chỗ đứng của mình, phát triển công thương, trọng công trọng thương nhất phương chư hầu, thực là xưa chưa từng có, cho nên các trưởng lão rất ưu ái với ngươi.”

Dương Hạo gượng cười.

Thôi Đại Lang lại nói: “Mấy trăm năm nay, Thổ Phiên và Hồi Hột cắt cứ tây bắc và Lương Châu, cảnh giác lẫn nhau, không qua lại, vị trí yếu đạo Trung Nguyên đi hướng Tây Vực vì thế ngưng hẳn, một con đường tài sản quan trọng đối với tThừa Tự đường và toàn bộ Trung Nguyên cũng phải đóng cửa. Người thống trị bế quan tự thủ chính là thiên địch lớn nhất của thương nhân chúng ta, ngươi hiển nhiên không phải loại người này.

Thổ Phiên tấn công Hồi Hột, Hà Tây, Lũng Hữu, đều nắm trong tay, sau khi trở thành bá chủ Tây Vực, tây bắc vẫn thái bình. Nhưng người Thổ Phiên giỏi tác chiến lại không giỏi về kinh doanh, họ thống ngự Tây Vực, nếu làm ầm đến tây bắc bách nghiệp tiêu điều, mọi người khó khăn, dân chúng lầm than. Một người thống trị ngu muội lạc hậu, đồng nghĩa là thiên địch của thương nhân chúng ta, ngươi vẫn không phải loại này.

Thổ Phiên bại lộ, người Khương sau khi nổi dậy, ba môn hộ Hạ Châu, Phủ Châu, Chiết Châu, và ở giữa tạp khi Hồi Hột, Thổ Phiên. Chiến tranh giữa các thế lực này không ngừng nghỉ, chiến loạn thường xuyên không hợp với sự sinh tồn của chúng ta. Cục diện lý tưởng nhất là tây bắc thống nhất, tạo thành thế chân vạc với Khiết Đan và Tống quốc, chúng ta mới có thể nắm chắc được.”

Dương Hạo nói: “Ngươi dường như là tình nguyện, dựa vào Đảng Hạng Lục thị bị Hạ Châu Lý thị áp bức, nhận ta làm cộng chủa cỉa họ? Ta không tiền không đất cũng không lương thảo, chỉ có mấy nghìn binh trong tay, dựa vào cái gì mà ngươi cho rằng ta có bản lĩnh thay thế được Hạ Châu Lý thị lớn mạnh, giỏi hơn Phủ Châu Chiết thị có bề dày kinh doanh hơn hai trăm năm, để trở thành cộng chủa tây bắc?”

Thôi Đại Lang than thở: “Ta đã nghĩ nhiều lắm rồi, trừ ngươi, ai cũng có thể có nhiều cơ hội như vậy sao? Ngươi có cơ hội, cho nên ngươi chính là thiên cơ, chính là thiên mệnh sở quy. Chỉ cần ngươi chắc chắn, tây bắc vương không phải ngươi thì là ai nữa đây? Ngươi muốn làm hoàng đế, cũng không phải là không có khả năng.”

Dương Hạo cười đau khổ, hắn luôn dùng thiên mệnh sở quy khuyên Chiết Tử Du bỏ đi sự phản kháng, đầu hàng Đại Tống, giờ lại bị người dùng thiên mệnh sở quy để khuyên nhủ, thực là báo ứng. 

Thôi Đại Lang đương nhiên không phải dùng lời nói này để sai Dương Hạo, hắn cổ vũ tiếp: “Khi Thổ Phiên hùng bá Tây Vực, Đại Đường cũng không có cách chinh phạt, chỉ có thể làm mưa làm gió. Nhưng trong lúc đó, Thổ Phiên khi bị Trương Nghĩa Triều nhất giới bố y vung tay một cái thì sụp đổ tan tành, sao vậy? Thời thế tạo anh hùng mà thôi.

Thế cục tây bắc hiện giờ, nam bắc Thổ Phiên liên hợp Hồi Hột, đang ức hiếp Hạ Châu Lý thị khổ chiến không ngớt, hai châu Lân Phủ chặn Hạ Châu qua lại với Trung Nguyên, Đảng Hạng lục thị nội bộ lục đục, nội ngoại Lý thị khó khăn dồn dập, bộ tộc tha hồ oán giận, các loại tranh chấp nổ ra, tương tự như Thổ Phiên đương quốc? 

Lại thấy Dương Hạo hôm nay có những điều kiện để so sánh với Trương Nghĩa Triều. Năm xưa Trương Nghĩa Triều khởi binh, nguồn cung cấp binh lực, tài lực đến từ ba phương. Một, danh môn vọng tộc của Đôn Hoàng, ví dụ Sách thị, Trương thị, Lý thị… các tộc tiền nhiều, có thể cung cấp quân tư. Hai, tăng chúng phật môn; phật giáo Tây Vực vô cùng phát triển, tín đồ vô số, các phật sống rất thân với Trương Nghĩa Triều, hắn có thể sử dụng các tín đồ. Ba, mới là dân chúng đã chịu đủ áp bức. Mà Dương huynh thì sao, giờ đã có một châu Lô Lĩnh, nam bắc hào thương tập trung đủ cả, lại còn có Thừa Tự đường ta toàn lực giúp đỡ, tiền tài không thành vấn đề…”

Dương Hạo cười nói: “Ta cũng biết vậy, dân chúng Tây Vực sùng bái phật sống vô cùng, tiếc là ta đồng thời xuất hiện với các cao tăng Tây Vực.”

Thôi Đại Lang mỉm cười nói: “Chưa chắc, giờ đã có rồi.”

Dương Hạo kinh ngạc nói: “Nói vậy có ý gì?”

“Ngươi trên đỉnh Lô Lĩnh từng đúc một pho tượng sắt Khai Bảo phủ?”

“Không sai.”

“Lệnh huynh Đinh Thừa Tông đã dựng thêm một pho tượng, mời phật sống Tây Vực đến chủ thiền viện, Tịch do đạt thổ Phật sống qua lại với các cao tăng Tây Vực, giờ quan hệ vô cùng thân thiết, hơn nữa…”

Thôi Đại Lang cười nói: “Ngươi, trong khai bảo thiền viện nhiều lần xuất hiện điềm lành, giờ không chỉ Hạ Châu Lý thị, đến Thổ Phiên, Hồi Hột và rất nhiều người tin yêu cũng lén truyền nhau, nói Dương huynh ngươi là cương kim cống bảo chuyển thế, lệnh huynh vì ngươi… mà tạo thanh thế mà.”

“Từ từ đã, cương kim cống bảo… nghĩa là gì?”

Thôi Đại Lang nói: “Đây là tiếng Thổ, dịch sang tiếng Hán là Quan Thế Âm Bồ Tát.”

Dương Hạo ngẩn người, Quan Thế Âm Bồ Tát? Dương Hạo hơi lúng túng, nghĩ một lúc, mới nghĩ ra Quan Thế Âm Bồ Tát hình tượng vốn có trong phật giáo là nam, về sau trung thổ phật giáo tuy đã tạo hẳn thành nữ, nhưng trong phật giáo Tây Vực vẫn là hình tượng nam.

Thôi Đại Lang nói: “Trong truyền thuyết Tây Vực, Công Tán Can Bố, Gia Ngõa Nhân Ba Thiết một đời anh hùng, đều là hiện thân của Quan Thế Âm Bồ Tát. Giờ dân chúng Tây Vực coi ngươi là hóa thân của Quan Thế Âm Bồ Tát, đều này đối với dân chúng Thổ Phiên, Hồi Hột mà nói có ý nghĩa gì, đối với người Khương chờ đợi hòa bình có nghĩa gì, ta nghĩ là ngươi hiểu.”

Dương Hạo lẩm bẩm: “Ta hiều, ta đương nhiên hiểu…, có nghĩa là các ngươi đã chuẩn bị tất cả sẵn sàng, kiệu hoa đã chuẩn bị xong, chỉ chờ đưa ta vào động phòng, ta đây một tân nương đồng ý cũng phải đồng ý, không đồng ý cũng phải đồng ý. Nếu không… tin đồn ta là cương kim cống bảo chuyển thế truyền đến triều đình, thì ta không chết cũng không được.”

Thôi Đại Lang không nhịn được cười phá lên: “Ngươi không cần lo lắng, giờ tạo thế còn ở giai đoạn làm nền, chỉ có tín đồ thành kính mới biết, họ sẽ không nói lung tung, càng bí mật họ càng tin tưởng. Không dấu ngươi, lệnh huynh còn tạo ra một cái thanh thế, nói Tống dựa vào ngũ vận chuyển rời mà lấy được mạng đế quyền, được thiền vu chu quốc. Nãi mộc đức, mộc sinh hỏa, cho nên Tống là hỏa đức, Tống lấy hỏa đức thừa chính thống. Mà ngươi ở Trục Lãng Xuyên đáng chết không chết, mới là thần thủy đức phù hộ, rồi rời quan Khai Phong, xây Hỏa Tình viện chuyên diệt hỏa, đây là thiên mệnh sở quy. Ta cũng cảm thấy hoang đường nực cười, nhưng đích thân đi tây bắc một chuyến, ta mới hiểu…”

Hắn trầm lặng một lát, khẽ thờ dài nói: “Ta mới hiểu hắn tại sao lại làm vậy. Đây là cường quyền võ lực, tiền bạc của cải đều không có cách nào đổi lấy tín phục và sùng bái. Mức sùng bái của người Tây Vực đối với thần linh chúng ta không thể tưởng tượng nổi, nếu ngươi thấy họ thành kính với thần linh, ngươi sẽ biết tại sao họ thà một năm bốn mùa ôm bọc rách, ăn uống kham khổ, nhưng mỗi quan tiền kiếm được đều đi nặn kim thân, trang sức cho thần phật.”

Hắn ngẩng đầu nhìn Dương Hạo, nói: “Hồi Hột, Thổ Phiên tranh đấu triền miên với Hạ Châu Lý thị, áp bức môn hộ của Lân Châu đối với ngươi lạc kiến kỳ thành, nội ngoại Lý thị khốn đốn, các bộ tộc đều rất oán giận, trên dưới Lô Châu duy chỉ có ngươi đáng tin, Đảng Hạng lục thị ngầm quy về ngươi, Thừa Tự đường ta nguyện giúp đỡ chính là thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Như vậy, Dương huynh nếu như quay về tây bắc, vung tay lên, sợ gì tây bắc không thuộc về Dương thị? Thời thế tạo anh hùng mà Dương huynh!”

Biết rõ hắn miệng lưỡi có sự khích lệ, Dương Hạo nghe vậy vẫn nhiệt huyết sôi trào. Đúng vậy, thiên hạ đã có phương hướng không giống với cái vốn dĩ của nó, mình chuẩn bị những điều kiện được trời ưu ái ở tây bắc, chỉ cần làm, sao lo làm không nổi. Dù Trung Nguyên có Triệu Khuông Dận là vị anh chủ, ta khó mà nhòm ngó ngôi báu, nhưng là lấy tây hạ, trở thành chủ của tây bắc thì có gì không thể chứ? Nếu ta đến làm tây bắc vương, lẽ nào không mạnh hơn tây hạ mà Lý thị xây sao? 

Dương Hạo trầm ngâm không nói gì, Thôi Đại Lang biết hắn lúc này đang phân vân khó xử, đưa ra một sự lựa chọn quan trọng nhất trong đời. Những lời hắn muốn nói đã nói hết, lúc này chỉ ngồi nhìn biểu hiện của Dương Hạo, không thúc dục.

Một lúc lâu sau, Dương Hạo liền dừng bước, ngẩng đầu nhìn trời, thở dài: “Người ở giang hồ, thân bất do kỷ, ta mộng tưởng hão huyền, mãn ý có thể giả chết để bình yên, từ nay sẽ tránh xa thế giới này. Điều ta nghĩ thật quá đơn giản.”

Thôi Đại Lang vừa nghe thấy thì vô cùng vui mừng nói: “Dương huynh có thể quyết định một lần nữa trở lại Lô Châu sao? Nếu như kế sách đã định, Thôi mỗ yên tâm vô cùng, lần này về tây bắc, tìm một cái thân phận khác, dứt khoát gọi là Thác Bạt Hạo, khi triều đình biết được, lúc đó Dương huynh căn cơ đã định, có đôi cánh khỏe mạnh, triều đình cũng chỉ đành quay mặt làm ngơ.”

Dương Hạo nói: “Không, ta đã thề với nương của ta, đời này chỉ mang họ Dương, sống cũng họ Dương, chết cũng họ Dương, mãi mãi không đổi. Đúng vậy, ta đồng ý về, Thôi huynh có sắp xếp cho ta từ Thái Thạch cơ qua sông không?”

Thôi Đại Lang nói: “Dương huynh nếu đã chắc chắn về tây bắc, ta bố trí đi men đường nhỏ, Thái Thạch cơ có đại quân tập trung dày đặc, nếu muốn thần không biết quỷ không hay mà đi qua thực là làm khó ta.”

“Không, ta phải đi gặp Tấn vương Triệu Quang Nghĩa.”

Thôi Đại Lang sửng sốt, Dương Hạo nhìn hắn cười, bình tĩnh nói: “Lòng ta vốn có một chuyện rất khó giải quyết, có sự ràng buộc giả chết, mọi chuyện đều bị giới hạn, cuối cùng cũng vẫn không nghĩ ra cách gì hay ho. Giờ nếu không phải chết nữa, ta có ý này, Đại Lang giúp ta đưa gia quyến về, còn ta về Tống quốc, tranh thủ lực lượng Tống quốc đang lộn xộn giải quyết cái đại sự đang khúc mắc trong lòng, đồng thời, nghĩ ra cách có thể quang minh chính đại về tây bắc. Với Tống quốc, chớ có làm ầm lên là tốt nhất.”

Thôi Đại Lang nói: “Dương huynh đi gặp Tấn vương, sẽ giải thích mình vẫn sống với hắn như thế nào?”

“Ta tự có cách của mình. Giờ họ chưa cảnh giác lắm,ta chủ động xuất hiện, ai sẽ còn nghi ngờ ta đã từng giả chết?”

“Nhưng… có chuyện gì cần lực lượng triều đình giúp vậy? Hơn nữa, làm sao có thể đường đường chính chính về tây bắc?”

Dương Hạo chau mày nói: “Đại Lang, đây có lẽ không phải là cách khởi đầu tốt.”

“Cái gì?”

Dương Hạo trầm giọng nói: “Ta và Đại Lang chỉ là một sự giao dịch, ta được đầu tư, phải hồi báo. Nếu ta thực sự có thể bảo đảm nắm trong tay tây bắc, tuyệt đối không nuốt lời và sẽ ủng hộ, đưa lại sự tiện lợi nhất cho các ngươi, nhưng các ngươi không nhất định không được can thiệp vào, hơn nữa càng không được nhúng tay vào, không được có ý đồ cản trở ta, ảnh hưởng đến ta. Hơn nữa, một khi bị ta phát hiện ra manh mối gì, giao dịch của chúng ta sẽ bị hủy bỏ, thứ các ngươi đã trả ra, ta sẽ không bồi thường.”

Thôi Đại Lang ngẩn người, không hiểu ra sao, ngược lại còn cười lớn, vỗ tay nói: “Dương huynh là ngọc thạch, giờ đã được dùi mài, quả nhiên có giá trị cao ghê gớm, đã là một sản phẩm tốt rồi. Được được được, Thôi mỗ đây sẽ không hỏi thêm gì nữa, ta sẽ đưa gia quyến của Dương huynh bình an đi tây bắc. Dương huynh, hãy đợi tin tốt lành của ta!”

***

“Diễm Diễm, nàng yên tâm, lần này về Tống doanh, ta tự có lý thoái thác, sẽ không có chuyện gì đâu.”

“Thiếp sao có thể yên tâm được? Thiếp đi theo chàng, nếu chết thì cũng chết cùng nhau.”

“Lại nói linh tinh gì vậy, nếu không định kế, ta bằng lòng đi vào chỗ chết sao? Nàng trở về tây bắc, còn có chuyện đại sự phải làm. Nàng cần đi gặp nghĩa phụ, bảo ngài lệnh cho Phi Vũ liên lạc với ta, từ nay về sau, ta đến thao túng, tin tức có động, ta đều cần nắm được kịp thời. Trước đây ta ở ẩn, làm chuyện đường hoàng, giờ ta tuy xuất hiện trước mặt người khác, việc làm lại phía sau màn, không có Phi Vũ liên lạc kịp thời, ta không làm gì được.”

Đường Diễm Diễm vui vẻ nói: “Hạo ca ca giờ như vậy, có vài phần giống khi ở Trung Nguyên, không chỉ nhượng bộ, nhượng bộ nữa, hi hi, như vậy khiếng người ta thích chết đi được.”

Dương Hạo cười nói: “Hoặc là không làm, hoặc là làm cho cẩn thận, không thể tùy ý sắp xếp. Nếu ta đồng ý xuất hiện, thì phải nghĩ cách khống chế hết thảy bọn họ. Ta có thể chủ động nhượng bộ, nhưng tuyệt đối không được để họ xỏ dây dắt đi.”

Đường Diễm Diễm gật đầu cười nói : “Vâng, vừa nãy bị người của Thôi Đại Lang khống chế, thực khiến người ta tức chết đi. Hắn cầu xin chàng, còn dám kiêu ngạo như vậy, phải cho hắn vài bài học mới được. Chàng tạm thời vể Tống triều cũng tốt. Nếu một mình đi Khiết Đan, thực sự là quá nguy hiểm, nếu có thể có chiêu bài của Tống quốc cũng an toàn hơn chút. Chỉ cần qua được cửa ải giả chết hồi sinh, thì mọi chuyện coi như yên tâm nhiều rồi.”

“Đương nhiên vậy rồi, các nàng thu dọn đi, mau chóng cùng với Thôi Đại Lang lên đường. Ta đi gặp Phàn tú tài cái đã, bàn bạc chuyện qua sông.”

Dương Hạo gặp Phàn Nhã Băng bàn bạc lúc lâu, nói xong chuyện đêm nay qua sông đi Tống doanh, Phàn Nhã Băng vui vẻ đồng ý. Dương Hạo lại gọi Bích Túc lại dặn dò, nói quyết định của mình cho hắn nghi: “Ngươi đi nói với Thủy Nguyệt cô nương một tiếng, bảo cô ấy cùng đi với Diễm Diễm bọn họ, tối nay chúng ta qua sông đi Tống doanh rồi.”

Bích Túc nghe vậy trầm ngâm một lúc, bỗng nói: “Đại nhân, tôi… tôi không muốn đi nữa…”

“Hả?” Dương Hạo nhướn mày: “Không đi, thế ngươi muốn đi đâu?”

“Đại nhân, Bích Túc vốn là một tên trộm lưu lạc giang hồ, chẳng có gì đáng giá, sau khi đi theo được, có lòng hướng thiện, muốn đi theo đại nhân xây dựng tiền đồ. Đại nhân quyết tâm quy về ở ẩn, Bích Túc cũng không oán hận một câu. Giờ đại nhân lại trở lại giang hồ, vốn hợp với ý của Bích Túc, nhưng… nhưng Bích Túc giờ đã có Thủy Nguyệt rồi. Thủy Nguyệt hiền từ dịu dàng, Bích Túc muốn… muốn sống cùng cô ấy, chẳng sợ một gian nhà tranh, hai mẫu đất cằn, nhưng lại có thể vui vẻ mà sống. Sự nghiệp… so sánh với cô ấy, thì không là gì nữa rồi.” 

Dương Hạo ngẩn người, bỗng bật cười. Hắn vỗ vào vai Bích Túc, nhẹ nhàng khuyên nhủ: “Không ngờ lãng tử như ngươi mà cũng có lúc động lòng, thực là giờ ta không thể ở ẩn được nữa, thì ngươi lại muốn ở ẩn. Thôi vậy, đi theo ta lâu như vậy, chịu kham chịu khổ, làm tùy tùng của ta cũng chẳng có lợi lộc gì, Dương mỗ cũng cảm thấy thẹn với ngươi. Ngươi quyết về ở ẩn, thế… Thiếu Hoa sơn bên đó có nhà cửa và vài mẫu đất, vậy nói sẽ là món quà ta tặng cho phu thê ngươi nhé. Ngươi và Thủy Nguyệt đến đó, sắp xếp cho Hạnh Nhi và Nguyệt Nhi bọn họ về Lô Châu, còn phu thê ngươi… hãy sống ở đó. Ở đó non xanh nước biếc, vô ưu vô lo, là một phú gia cũng tốt.”

Bích Túc từ chối không nhận, hắn vốn sợ Dương Hạo tức giận, không ngờ Dương Hạo lại còn tặng quà cho hắn nữa, không cầm nổi sự cảm kích và xấu hổ. Dương Hạo lại nói: “ Ta và ngươi hoạn nạn có nhau, tuy là chủ tớ, kỳ thực là huynh đệ thân thiến, có gì phải cảm ơn chứ. Ngươi có thể đi theo Đại Lang bọn họ chứ?”

Bích Túc nói: “Chưa chắc, con đường họ đi là hướng bắc trước, nếu như đi Thiếu Hoa sơn, không khỏi phải đi đường vòng. Ta và Thủy Nguyệt tạm thời tìm một chỗ ở tạm đã, đợi quân Tống qua sông, chúng ta sẽ tự qua sông mà đi về phía tây, tránh đi đoạn đường dài.”

Dương Hạo nghĩ ngợi giây lát, nói: “Cũng được, thế nhé, lên đường bảo trọng.”

“Đại nhân bảo trọng.”

Đêm hôm đó, bên bờ Trường Giang, Dương Hạo và Phàn Nhã Băng lại mang theo những bộ hạ biết bơi, tay cầm tiểu thuẫn, kéo chiếc thuyền nhỏ từ bụi cỏ ra, lặng lẽ cập vào bờ đợi người của Thôi Đại Lang cố ý gây động tĩnh gây sự chú ý của thủy quân đi tuần.

Đối diện bên kia, lửa trại mười dặm liên doanh. Nước sông cuồn cuộn, Dương Hạo vô cùng bình tĩnh, nghĩ đến lời của Thôi Đại Lang nói, Dương Hạo mất đi cảm giác căng thẳng, bật cười: “Trục Lãng Xuyên bị phá bởi nước, nghĩ đến đại sự Lô Châu, giờ ta tiếp tục đi qua sông, sẽ có vị thần nào đó che chở ta không đây?

Nguồn: http://4vn.eu/forum/showthread.php?71274-Lich-Su-Quan-Su-Bo-Bo-Sinh-Lien-Nguyet-Quan-Full-Text&page=80#ixzz201k8SSRT

Chương 370:Xây cầu. 

“Hôm nay không có ta, ngày mai có còn vua? Một khi thiên tử nhà Tống dễ báo đền công lao, quốc vương cũng như dân ảo vải”.

Lá thư rất ngắn, không dài quá hai dòng, cũng không có những từ ngữ hoa lệ như văn phong thường thấy của Lý Dục, nhưng nội dung thì không hề đơn giản. Đây là lá thư Lý Dục viết cho Đông Nam Thăng Châu, là nguyên soái đại binh mã trong thien hạ, mật tín Ngô Việt Vương Tiền Thục đã trình Biện Lương, đồng thời cũng lưu giữ lại một bản, chuyển cho chủ soái Triệu Quang Nghĩa. Và lúc này đây Triệu Quang Nghĩa đang ngồi đọc bức mật thư đó.

Lý Dục viết bức thư này cho Tiền Thục không hề có ý phản loạn gì, Ngô Việt Vương Thẩm hổ tử nhìn một lúc lâu, cho rằng Ngô Việt không liên kết với Đường để chống Tống, cũng không xuất binh đi diệt Đường. Nếu nước Đường mà bị diệt thì Ngô Việt cũng không thể tồn tại, đại vương Tiền Thục không thành công thì cái tên tể tướng như hắn cũng phải về vườn. Tiền Thục ngay lập tức về quê nên bức mật thư này bị lưu lạc vào tay anh em Triệu Thị.

Triệu Quang Nghĩa ung dung cười, hắn đã sớm biết Tiền Thục không dám phản Tống. Hoặc giả, hắn có một phần nghìn hy vọng thì cũng sẽ bày tỏ lòng trung thành của mình với Tống, trợ giúp cho những kế hoạch của nhà Tống, có thể làm cảm động Triệu Thị, có thể giữ lại Ngô Việt Vương – cái tên chẳng hại nổi ai, nhưng nếu như nhà Tống thực sự muốn thôn tính Ngô Việt thì hắn cũng chỉ có thể tuân theo mà thôi.

Tiền Thục là một quân vương tuy không sánh được với Triệu Khuông về tài thao lược, không văn hay chữ tốt được như Lý Dục, nhưng hắn nhìn người rất chuẩn, cũng rất rõ sức lực của mình thế nào. Hắn đã nhìn ra bất kể Tiền Thục có tham chiến hay không thì kết cục của nhà Đường cũng sẽ thế, chỉ là sớm hay muộn mà thôi. Nhưng kết cục của Ngô Việt Vương lại nằm hoàn toàn nằm ở vua Triệu, phản kháng hay không, đối với Ngô Việt Vương mà nói thì không có gì khác biệt, nhưng đối với gia tộc Tiền Thị thì lại rất khác, do đó hắn cần phải đưa ra lựa chọn thông minh nhất.

Triệu Quang Nghĩa không hề để ý đến lòng trung thành của Tiền Thục mà chỉ liếc mắt qua một cái, sự chú ý của hắn tập trung ở bản báo cáo tình hình quân sự. Tiền Thục bỏ qua tể tướng Thẩm hổ tử, tiếp tục tấn công mạnh mẽ, tấn công Nghi Hưng, Giang Âm, bao vây Thường Châu, Tín Trung Thuyết. Quân Đường ở Thường Châu khổ chiến, Ngô Việt quyết định bao vây Thường Châu, để tránh có viện binh hắn chỉ chờ đánh bại quân viện binh rồi lại tiếp tục tiến công vào Thường Châu, sau đó mới coi đây là cứ điểm, phối hợp với quân Tống để bao vây Đường, từng bước khép chặt vòng vây, ép quay về Kim Lăng.

Triệu Quang Nghĩa thấy trong lòng cấp bách, Tào Bân phá Kim Lăng, hôm nay chính là đêm tấn công Vu Hồ, Tiền Thục liên tục phá Nghi Hưng, Giang Âm, vây Thường Châu, thế còn mình thì sao? Bản thân mình là chủ lực của quân Tống, là cấm quân tinh nhuệ của kinh sư, nay cứ ngồi thủ mà không tấn công, nếu như đợi Tào Bân và Tiền Thục đến rồi mới tiếp thì còn mặt mũi nào nữa?

Triệu Quang Nghĩa bỏ bức mật thư của Tiền Thục xuống, cúi người nhìn tấm bản đồ phòng thủ tấn công Thải Thạch Phàn, đôi lông mày khẽ nhíu lại.

Hắn mặc giáp sáng loáng, toàn thân sáng ngời và tỏa ra nét lạnh lùng, ngồi ở đó. Mặc lâu ắt không thấy thoải mái, nhưng Triệu Quang Nghĩa lại thích cảm giác này, đã bao nhiêu năm không trải qua chiến đấu thế này, bây giờ mặc lại hắn dường như thấy mình lại là một đại nguyên soái thống lĩnh ba quân, hắn thích cảm giác trong khung cảnh cờ bay máu chảy, hàng nghìn người cúi đầu hô lớn, mặc áo giáp thế này hắn dường như lại được quay trở về thời thiếu niên huyết khí bừng bừng.

Nhưng khi hắn đang khí thế bừng bừng cầm kiếm hướng về Giang Nam thì khó khăn ầm ầm kéo đến, lại chắn đường đi Thải Thạch Phàn của hắn. Việc này khiến hắn cảm thấy thật trắc trở, lửa giận trào lên ngực, cúi người nhìn chằm chằm vào tấm bản đồ, hắn tức giận đấm mạnh lên bàn, quắc mắt đứng dậy, đi lại phía bức trướng.

“Thiên tuế, đêm đã khuya rồi, hay là ngài hãy đi nghỉ trước đi”

Vương Kế Ân chậm rãi nói, mang đến một ấm trà nóng từ trong lò rồi rót ra một chén.

Triệu Quang Nghĩa đứng dậy, tay nhẹ nhàng vuốt bảo kiếm bên hông, trầm ngâm trong chốc lát rồi lùi lại đằng sau tấm trướng, dặn dò hai đại tướng tiên phong đang đứng trong trướng: “ Đêm qua bản tướng đã qua sông thành công, nhưng đáng tiếc là không còn chút sức lực nào, quân sĩ lên bờ rất khó đánh lại quân Đường, sự việc sắp thành lại bại. Sáng sớm ngày mai, ba quân sau khi dùng bữa hãy tạm nghỉ một lúc rồi lại tiếp tục tiến công”.

Hai viên đại tướng thi lễ nói: “Tuân lênh!” hai người vừa cử động, bộ áo giáp đã vang lên những tiếng kêu loảng xoảng, làm gia tăng thêm sát khí. Triệu Quang Nghĩa đưa mắt nhìn, nói với viên tướng đứng bên trái: “Ngũ Cáo Phi, sáng mai hãy tập trung lục soát từng thuyền đánh cá một, tự mình tấn công quân Thải Thạch Phàn”.

“Tuân lệnh!”

“Dương Hải Thanh, ngươi hãy phái quân theo sau viện trợ, một khi Ngũ Cáo Phi ra tay ngươi hãy lập tức lên bờ, dẫu cho tất cả đều chết hết thì cũng phải thủ ở bãi đầu, cho thuyền lập tức quay về đón quân ta qua sông”.

“Tuân lệnh!”

“Thư ký Thường, ngươi hãy viết một chiến thư, sáng sớm mai cho người mang sang bờ bên kia”.

Thư ký Thường Huy nắm chặt cây bút lông, mở giấy ra, chỉ nghe thấy Triệu Quang Nghĩa đằng đằng sát khí nói: “Nói với Dương Thu, Tôn Chấn, chiến thắng của bọn chúng chỉ là nhỏ, cũng chỉ là nhất thời được mất. Khó khăn lớn nhất chính là thiên binh hùng hậu của ta, nếu chúng tỉnh ngộ, nhanh chóng xin thua thì bản vương bảo đảm sẽ cho chúng hưởng vinh hoa phú quý. Còn nếu không biết điều mà cố chống đối đến cùng thì bản vương qua sông nhất định sẽ dốc sức thủ quân, bọn chúng gặp phải đại quân của ta thì bọn chúng sẽ biến thành biển máu, sức hai bọn chúng có gánh nổi không? Hãy suy nghĩ cho kỹ rồi tự định lượng”.

Triệu Quang Nghĩa nói dứt lời bộ áo giáp của hắn cũng rung lên từng hồi, quát: “Đi đi”.

Triệu Quang Nghĩa bước những bước lớn ra khỏi trướng, đi về phía phòng mình. Vương Kế Ân cũng nhìn hai vị tướng quân, bưng tách trà trên bàn lên uống một hớp hết sạch, rồi đuổi theo Triệu Quang Nghĩa.

Vào trong trướng của Triệu Quang Nghĩa, Vương Kế Ân mỉm cười khuyên nhủ: “Thiên tuế, thiên tuế, ngài chớ vội, Tào Bân thủy sư vừa đến sẽ hợp nhất thủy lục, Thải Thạch Phàn ắt sẽ là của Vương gia thôi”.

Triệu Quang Nghĩa nói: “Tào Bân phái người đưa tin đến, quân Hồ Khẩu phái thuyền quấy rối, tàn quân Đường liên tục phóng hỏa tiễn, cản trở trên sông, thủ quân ở Vu Hồ quyết tử chiến đấu đến cùng, hắn còn muốn mất mấy ngày nữa mới đến Thải Thạch Phàn? Bản vương cần gì phải đợi lâu như thế”.

Triệu Quang Nghĩa vừa nói vừa cởi áo giáp, khoát tay cho Vương Kế Ân ngồi: “Biết rồi, ngồi đi”.

Vương Kế Ân mỉm cười ngồi xuống, nói: “Dục tốc bất đạt, Thiên tuế nóng lòng lập công làm gì, chỉ sợ Dương Thu, Tôn Chấn nhận chiến thư của Thiên tuế lại càng kiên quyết thà chết thì mới nên chuyện”.

Triệu Quang Nghĩa cười lạnh nói: “Người Nam trước nay luôn khiếp nhược, chẳng phải sao?”

Vương Kế Ân chần chừ nói: “ Nhưng… nếu như Dương Thu và Tôn Chấn quả thực không hàng thì Thiên tuế thực muốn tàn sát cả thành ư?”

Triệu Quang Nghĩa cười lạnh nói: “Tàn sát cả thành là thế nào?”

Vương Kế Ân chần chừ, hơi cúi người về phía trước nói: “Thiên tuế đừng quên chuyện của Vương Toàn Bân”

Triệu Quang Nghĩa ngẩn ra, rồi lập tức cười lớn: “Vương Toàn Bân là Vương Toàn Bân, bản quan là bản quan, làm sao có thể đem ra để bàn luận với nhau?”

Vương Toàn Bân là danh tướng nhà Tống, chiến công hiển hách, không hề kém cỏi so với Tào Bân, Phan Mỹ. Khi Tống đem quân diệt nước Thục, hắn là chủ soái ba quân. Khi đó Tào Bân còn ở dưới trướng hắn, nhưng hắn có sát tâm quá nặng, sau khi chiếm thành hắn dung túng cho thuộc hạ giết người cướp bóc, hãm hiếp con gái nhà lành, ngược đãi chiến phu, cuối cùng bị dân nổi dậy, quân Ngụy đem toàn bộ quân tạo phản, Đặng, Thục, Mi, Nhã, Đông Châu… mười ba nước lần lượt hưởng ứng, phản quân nhanh chóng tập trung, số lượng lên đến mười mấy vạn người.

Kết quả là Vương Toàn Bân lo lắng quân binh sẽ đi hàng bọn phản quân nên đã ra một chiếu giết toàn bộ chiến phu, đến người già và ốm yếu bệnh tật cũng không tha, kích động người Thục phản loạn. Cuộc chiến kéo dài hơn hai năm, trả giá rất đắt mới có thể yên ổn. Vua Triệu hết sức phẫn nộ, ra lệnh cho thu giữ toàn bộ tang vật, sau khi giữ lại để quan sát tiết độ sứ, hắn cũng cho đến các tỉnh.

Vương Kế Ân nhắc đến Vương Toàn Bân cũng là có ý muốn nhắc nhở Triệu Quang Nghĩa, e rằng hắn sẽ khiến cho vua không vui.

Triệu Quang Nghĩa không cho là đúng, cười ha hả nói: “Tội của Vương Toàn Bân không nằm ở việc hắn cho lính cướp bóc hãm hiếp dân lành, cũng không nằm ở chỗ hắn giết chết mấy vạn chiến phu, mà nguyên nhân là do hắn đã kích động dân Thục làm phản, vua mới phẫn nộ. Người Đường nhu nhược, thấy thủ đoạn độc ác của ta ắt sẽ kinh hãi, làm sao dám phản? Nội trong Giang Nam không có nguy hiểm gì, lại không có lợi về địa hình, ai dám làm phản? Huống hồ bản vương đã nói với quốc vương muốn xây dựng một khu công nghiệp lớn để khai thác, nếu như không lấy của cải và gái đẹp cổ vũ tinh thần hướng sĩ thì làm sao mà được?”

Hắn cười dài nói: “Ta đã biết thành ý của ngươi rồi, bản vương rất hiểu, thôi ngươi nên về nghỉ ngơi sớm đi, sáng sớm ngày mai sẽ dấy binh đánh Thải Thạch Phàn, nếu như thành công thì ngươi cũng sẽ có một phần công trong đó đấy, haha, nên hãy an tâm mà đi ngủ đi”.

Triệu Quang Nghĩa đích thân tiễn Vương Kế Ân đi về trướng nghỉ ngơi, chắp tay từ biệt, nhìn theo bóng Vương Kế Ân xa dần, hắn mới lộ ra một nụ cười nơi khóe môi: “Làm thế nào có thể bình định Giang Nam nội trong ba tháng được? Không sát tâm quá nặng thì sẽ mất lòng dân, làm sao hóa giải được cảnh giác của vua?”

Mười năm làm quan ở Khai Phong, đến nay lật lại Triệu Phổ, cương vị của hắn trong triều Tống dưới một người mà trên vạn người, kể cả lư đa tốn hàng quan tam vị tể tướng cũng không dám làm trái hắn, nhưng uy lực của hắn chỉ có thể khuếch trương trong triều văn. Có thực tế thế thì hắn mới dám mạo hiểm ra tay, mạnh mẽ xuất binh. Đây chính là động lực cổ vũ hắn có dũng khí, nhưng thực ra trong lòng vẫn thấp thỏm không yên.

Hắn cũng đang suy nghĩ đến việc đại ca e rằng sẽ vì vấn đề này mà lo lắng, nhưng có được ắt có mất, đây cũng là chuyện không thể làm khác được.

Nhưng hắn hy vọng rằng quyền lực của hắn sẽ không bị tổn hại gì, nếu như hắn phát binh đến Giang Nam, ba tháng sau diệt được Đường, rồi quân nghiêm minh, không đả thương người vô tội, hết lòng quan tâm đến dân chúng Giang Nam, vậy thì thời huy hoàng của hắn cũng đến hồi kết thúc.

Nhưng nỗi khổ tâm này của hắn lại không thể nói rõ với bất kỳ ai, kể cả với Vương Kế Ân, người có mối tư giao lâu nay với hắn.

Hắn quay lại trướng cởi áo, nằm trên phản quay lưng ra ngoài, trong đầu đang thầm tính toán kế hoạch ngày mai đi đánh Thải Thạch Phàn, rất lâu sau mới tắt đèn, ngáp một cái rồi đi ngủ. Chỉ nghe thấy phía ngoài trướng tiếng bước chân chạy gấp lại, một người nói lớn: “Thiên tuế, thiên tuế, mạt tướng Trúc Vũ Minh có việc quan trọng xin cấp báo”.

Triệu Quang Nghĩa ảo não ngồi dậy hỏi: “Có chuyện gì?”

Trúc Vũ Minh nói: “Thiên tuế, quân phòng ngự tại bờ sông đã bắt được bốn tên từ bờ bên kia lặn sang…”

Triệu Quang Nghĩa vội hỏi: “Nhưng có phải là người nhà Đường không?”

Trúc Vũ Minh nói: “Trong số bốn tên đó có một tên tự xưng mình là hồng lư tự của nhà Tống – Dương Hạo, mạt tướng không biết phân biệt thật giả, chỉ nghe nói Thiên tuế có biết hắn nên mới đến bẩm báo thiên tuế”.

“Hồng lư tự Dương Hạo…” Triệu Quang Nghĩa vẫn còn chưa nhớ rõ ra là ai, bỗng chợt giật mình hỏi lại: “Dương Hạo? Ngươi nói hắn là Dương Hạo?”

“Đúng ạ, hắn tự xưng là Dương Hạo”.

Triệu Quang Nghĩa vội vứt chăn sang một bên, mặc quần áo lót vào rồi nhảy xuống đất, vừa chạy vừa hỏi: “Người đâu”

“Hắn vẫn còn trong lều chủ soái”.

Triệu Quang Nghĩa chạy nhanh, Trúc Vũ Minh ngẩn người, mãi sau mới nói: “Thiên tuế, ngài vẫn còn chưa mặc quần áo…”

Lúc này Triệu Quang Nghĩa đã chạy đến trước cửa lều…

**************************************

“Ngày xưa Bái công gặp Lệ Sinh, lấy chân trần chạy lại đón, nay Tấn Vương gặp Dương Hạo không cho cổ nhân, hạ quan thực quả rất cảm động”.

Vừa nhìn thấy Triệu Quang Nghĩa tóc tai bù xù, mặc bộ quần áo lót, Dương Hạo lập tức tiến lại gần, nhưng bị hai gã thị vệ giữ lại, hắn đành đứng tại chỗ nói.

Triệu Quang Nghĩa nhìn theo, người này quả nhiên là người đã khuất, sau đó được triều đình gia phong làm quốc bá, khắp nơi ai ai cũng thương tiếc. Dương Hạo đeo bên hông một chuỗi hồ lô, mặc một bộ quần áo dạ hành.

Triệu Quang Nghĩa kinh ngạc nói: “Dương Hạo không phải đã chết rồi sao?”

Dương Hạo than thở nói: “Việc này… thật là khó nói một lời mà hết”.

Triệu Quang Nghĩa thấy hắn đang đứng bên một tăng lữ, hai người đều mặc quần áo đen, vội hỏi: “Đến đây, đến đây, ngồi xuống, chúng ta từ từ nói”.

Bọn thị vệ dâng trà. Dương Hạo ngồi xuống, tựa hồ như chính mình vừa từ cõi chết trở về kể lại. Hắn kể rằng hôm đó sau khi bị hành thích, khi thê thiếp của hắn đều bị cướp giết chết, hắn chợt nhớ ra trên bờ có hai đoàn người ngựa, sợ rằng là sứ giả Khiết Đan và nhà Đường hợp sức muốn giết hắn nên hắn sợ hãi nên hắn nhảy xuống nước tháo thân, tìm đến chỗ thuộc hạ đang chờ sẵn rồi trốn mất.

Triệu Quang Nghĩa nghe xong liền nghi ngờ hỏi: “Dương đại nhân lo lắng nước Đường và sứ giả Khiết Đan một chủ một khách liên kết với nhau gây bất lợi cho ngài ư? Giả chết để ẩn náu, điều này có thể lý giải được, có điều… tại sao bao lâu như vậy rồi ngài không cho triều đình hay biết?”

“Cái này…” Dương Hạo mặt có vẻ bi phẫn nói: “Thiên tuế che chở được cho Dương Hạo, cũng là có lòng nên Dương Hạo không giấu Thiên tuế. Thuộc hạ một vợ một thiếp, dẫu cho có chết thảm trên thuyền, thù này không trả thì cũng uổng một đời trai. Do đó Dương Hạo ta phải làm vậy để tìm cách báo thù, như Gia Luật Văn bị chết trong lửa cũng là thê thiếp của ta ôm mối hận mà trả thù cho Dương Hạo. Dương Hạo báo được mối tư thù này e rằng sẽ kích động quan gia, giáng tội vào hạ quan, nên vừa quy về ở ẩn, vừa nghĩ cách thông báo cho tiêu tự thừa.

Nghe nói cũng thông, Triệu Quang Nghĩa nói: “Nếu ngài đã quyết định lui về ở ẩn rồi thì tại sao còn đến đây gặp bản vương?”

Dương Hạo nói: “Hạ quan dưỡng thương xong vốn định tĩnh tâm, muốn quy

về ở ẩn, không ngờ thiên binh lần này tới lại là quân của Thiên tuế. Thiên tuế đối với hạ quan ân trọng như núi, Dương Hạo có lòng báo đáp Thiên tuế nên mới mạo hiểm tìm hiểu tình hình quân sự của Thải Thạch Phàn, hy vọng có thể giúp sức được cho Thiên tuế. Cũng nhờ hồng phúc của Thiên tuế mà hạ quan đến được đây và gặp được vị tú tài này”.

Dương Hạo vừa nói vừa chỉ vào Phàn Nhược Băng, Nhược Băng vội vàng thi lễ, Triệu Quang Nghĩa kinh ngạc nói: “Vị hòa thượng này là một tú tài?”

Dương Hạo tiếp lời: “Đúng thế, vị tú tài này sớm đã có ý phò tá nhà Tống ta, hắn giả mạo làm tăng lữ để đến Thải Thạch Phàn, vất vả bao lâu mới vẽ ra được bản đồ sông Trường Giang. Thiên tuế mà có được tấm bản đồ này thì sẽ nắm rõ từng đoạn nông sâu rõ như lòng bàn tay. Dùng cầu nổi có thể đưa đại nhân qua sông. Hạ quan nắm được tin tức quan trọng này liền quyết định đi gặp Thiên tuế ngay”.

Triệu Quang Nghĩa mừng rỡ nói: “Dương đại nhân đúng là cái phúc của bản vương. Ngươi tới thật tốt, thật tốt quá. Việc này nếu như thành công thì cũng có phần của ngươi đó”.

Dương Hạo chần chừ nói: “Nhưng mà… hạ quan nhất thời tức giận giết chết sứ giả Khiết Đan, e rằng sẽ dẫn đến chiến tranh hai nước. Nếu như hạ quan chết rồi thì đã đành, nay lại sống sờ sờ quay về, triều đình sẽ phải ứng phó ra sao với bọn Khiết Đan?”

Triệu Quang Nghĩa cười lớn: “Chỉ là một tên Gia Luật Văn thôi mà, chết thì cũng chết rồi, người Khiết Đan làm sao? Giá mà Dương đại nhân biết được, tên Gia Luật Văn đó cùng cha hắn mưu phản ở Thượng Kinh, ấm mưu giết hết giới quý tộc Khiết Đan, nay binh lính phản loạn, âm mưu giết vua không thành, ngươi giết được con trai của tên phản loạn người Khiết Đan không trách tội ngươi đâu, mà còn phải cảm kích ngươi phen này ấy chứ, ha ha ha…”

“Có việc này sao?” Dương Hạo không hề biết tin từ Thượng Kinh nên vừa nghe được tin này đã không nén nổi niềm kinh ngạc.

Trời đã sáng. Triệu Quang Nghĩa nghi binh dẫn quân áp Thải Thạch Phàn, cho lính ra phá thuyền, nhân cơ hội gõ trống tiến vào, đánh tập kích doanh trại nhà Đường. Bên cạnh đó quân lính cũng đi gom được hàng đống thuyền nhỏ, bè gỗ, xếp chi chít trên mặt sông tạo thành một chiếc cầu nổi trên mặt sông Trường Giang.

Nhược Băng tự mình lấy tấm bản đồ ra chỉ điểm, chỗ nào nông, chỗ nào sâu, tất cả những cọc trụ dài ngắn, mặt nước rộng thế nào… tất cả những số liệu đó đều được hắn đo đạc lại. Đợi chiếc cầu nổi được kết xong, buộc chắc chắn vào hai cọc thì có thể đi lại vững vàng trên mặt nước được rồi.

Mục Vũ đứng sau lưng Dương Hạo trên con đường, nhìn thấy mặt sông xuất hiện một công trình như vậy mới hạ giọng hỏi: “Đại nhân chạy tới đây đúng lúc cấp bách thế này, hiến thủy đồ, hiến kế xây cầu nổi, đã được lòng tin của Tấn Vương rồi, bước tiếp theo ngài tính làm gì?”

Dương Hạo nói: “Ta vẫn cứ nghĩ ta đối với người Khiết Đan như thế thì sao có thể vào Thượng Kinh? Ngọc Lạc tuy là đã đi trước nhưng nàng không biết rõ thân thuộc nơi này, lại không thể tiếp cận với người trong hoàng cung.

Nếu muốn cứu Đông Nhi quay về thì tuy biết nàng đang ở đâu nhưng cung tường bao vây thế muốn khó thể với tới. Nhưng ta không muốn giả chết, như vậy sẽ dễ dàng hơn nhiều. Nếu như lấy thân phận Tống sứ đi sang Khiết Đan vào Thượng Kinh thì với tình thế hoàng hậu là người lên nắm quyền như hiện nay liệu ta muốn gặp nàng có còn dễ dàng? Đợi ta gặp được Đông Nhi, ta sẽ lập tức vạch kế hoạch cùng nàng tháo chạy, nàng chạy rồi ta sẽ về nước.

Ta là Tống sứ, ai dám khám xét xe của ta? Hoàng hậu Khiết Đan bị mất người cũng không dám nghi ngờ ta giấu trong xe. Nếu như có thể cứ thể cho qua chuyện thì ta sẽ có thể bình an đem nàng đi”.

Mục Vũ nghi ngờ nói: “Vậy… chúng ta làm sao có thể về được Lô Châu?”

Dương Hạo nhìn mặt nước sông trước mắt mà lo lắng bộn bề, trầm mặc một lúc lâu rồi mới nói: “Mọi việc tại nhân, ta cũng dò dẫm từng bước mà qua sông thôi, cứ tiến từng bước một”.

Coi thường người Tống thế công kém, bờ bên kia Dương Thu không hề nghi ngờ một chút gì. Đợi đến sáng, khi quân đi tuần ven sông phát hiện ra người Tống đaang làm cầu nổi trên sông mới vội vã bắn tên. Nhưng do mặt cầu dao động lại thêm có gió nên mũi tên bị gió thổi tạt bay hết xuống sông, không cách nào ngăn cản người Tống. Đến lúc này Dương Thu mới vội vàng chạy về Kim Lăng cấp báo.

Lý Dục đang cùng ngồi trong cung cầu phúc cùng các đạo sĩ, biết được tin không khỏi kinh ngạc, lập tức ra chiếu tập trung hết các quan trong triều nghị sự. Mọi người biết tin đều không khỏi bật cười: “Người Tống không biết đặc tính của nước, không biết nước sông tuy hiền hòa mà rất đỗi lợi hại, nếu như bắc cầu nổi trên những con sông nhỏ thì còn dễ, đằng này nước sông chảy cuồn cuộn, xem ra thì vô hại nhưng cả trăm trượng mặt sông như thế, sức công phá cũng không phải nhỏ, mà cầu phao lại dễ bị hủy, dễ gì làm nổi”.

Những đại thần tín cẩn của hắn cũng nói: “Từ trước đến nay chưa từng nghe thấy chuyện tương tự, người Tống quá ư mơ mộng viễn tưởng rồi”.

Lý Dục nghe thấy vậy cũng yên tâm, vui vẻ cười nói: “Đúng vậy, trẫm cũng cảm thấy Triệu Quang Nghĩa quá giỏi giở trò, người Tống ắt hẳn hết kế nên mới dùng hạ sách này. Xem ra trẫm kiên quyết chống chọi với quân Tống

cũng là có kết quả!” 

Nguồn: http://4vn.eu/forum/showthread.php?71274-Lich-Su-Quan-Su-Bo-Bo-Sinh-Lien-Nguyet-Quan-Full-Text&page=80#ixzz201kCYapc

Chương 371:Không một vết tích.

“Trò trẻ con” của Triệu Quang Nghĩa đã thành công. Khi người Tống tập trung hơn tám trăm binh lính lên bãi đầu, Dương Thu, Tôn Chấn đang chuẩn bị bổn cũ soạn lại thì cầu nổi của nhà Tống đã thành công cập vào bên kia bờ. Trên cầu, binh sĩ lập tức đem vô số những cây cọc ngắn dài cắm xuống nước, ngắn dài kết hợp vừa vặn, dùng thêm dây nối, thiết liên… làm thành già đỡ chắc chắn cho chiếc cầu nổi trên mặt sông Trường Giang cuồn cuộn.

Vô số binh lính nhà Tống đã lăm lăm qua sông.

Quân canh phòng thấy quân Tống đã làm nên kỳ tích, từ một điều ngỡ như không thể lại thành có thể nên tinh thần như chùng xuống, trái ngược với khí thế đang bừng bừng của nhà Tống. Dương Thu, Tôn Chấn tuy gắng gượng chống đỡ nhưng cũng chẳng chống được mấy, sau một thời gian cũng người chết kẻ hàng, kẻ chạy người trốn. Thải Thạch Phàn sa lưới.

Triệu Quang Nghĩa thân mặc áo giáp, ngạo nghễ sải bước qua sông Trường Giang, ngó ra bốn bề xung quanh.

Thuộc hạ của hắn chạy tới hỏi: “Thiên tuế, chúng ta có phải chiếm luôn doanh trại nhà Đường không hay đợi Tào tướng quân đến?”

Triệu Quang Nghĩa cười ngạo nghễ nói: “Binh quý thần tốc, đã qua sông rồi thì cứ đánh thôi. Chiếm lấy Kim Lăng. Thiêu cháy hết doanh trại của bọn lính Đường, hiệu lệnh cho ba quân lập tức lên đường”.

Tên lính nghe lệnh làm theo, để lại một đội binh mã dọc hai bên bờ Trường Giang bảo vệ cầu, còn lại những người khác lập tức tập hợp, không ngừng tiến về phía trước.

Cây cầu nổi này không được đứt, nếu như không có nó thì quân Tống khó lòng qua sông. Trận chiến này chỉ có thắng chứ không được phép bại. Nếu như nhất thời địch mạnh ta yếu, muốn tránh được thương vong là điều không thể. Hơn nữa nhà Đường lại kiên quyết phòng thủ, lương thảo cạn dần cũng nhất quyết thủ trong thành, nếu như cầu mà đứt thì quân Tống cũng chỉ còn nước ôm bụng đói mà đánh nhau. Do đó Triệu Quang Nghĩa tuy vội vàng đánh nhanh thắng nhanh nhưng cũng không dám không coi trọng sợi dây sinh mạng này.

Hắn cho Dương Hải Thanh và Trục Vũ Minh ở lại cùng bọn lính canh giữ cây cầu, còn mình thì đích thân dẫn quân chạy không ngừng về phía trước.

Ngoài thành Vu Hồ, Tào Bân được tin Triệu Quang Nghĩa đã qua được sông và đang thẳng tiến về phía Kim Lăng. Đại tướng Hắc Ân Thành thì không khỏi lo lắng: “Tấn Vương Thiên tuế khinh địch mạo hiểm vào thành, ngộ nhỡ có gì xảy ra thì tướng lĩnh ba quân đi đời mất. Chúng ta không nên ở lại đây nữa, mau nhập hội với Tấn Vương đi thôi”.

Tào Bân trầm ngâm trong chốc lát rồi lắc đầu nói: “Hồ Khẩu mười vạn quân Đường còn đang không chút thương vong, bọn chúng nhất định sẽ đuổi theo. Nếu như ven đường không có quân của chúng ta chặn đánh thì chúng có thể đi tiếp lương thảo, chúng ta sẽ không có đường lui. Tốt nhất là chúng ta cứ tận lực ở đây, còn về phía Tần Vương…”

Tào Bân mỉm cười nói: “Từ sau khi Lâm Hổ tử mất, nước Đường đã mất đi kiện tướng, mà Tần Vương lại là cấm quân tinh nhuệ, dưới trướng ông ấy thì mỗi người đều là bách chiến, gặp phải cường địch nào cũng không cần phải lo lắng”.

Hoắc Ân Thành nhíu mày nói: “Nhưng… chúng ta cứ ở đây không rút binh thì bao giờ mới có thể hợp binh cùng Tần Vương? Như vậy có đi ngược lại kế trước khi quan gia dấy binh chúng ta phải tập hợp vào không?”

Tào Bân cười nói: “Trên chiến trường phải lập tức vạn biến. Ngươi hãy nghe theo hiệu lệnh của ta, lập tức tấn công thành”.

Hoắc Ân Thành không khuyên nữa, chỉ biết nghe theo mệnh lệnh, nhanh chóng chỉ huy quân tiến vào thành.

Tào Bân đứng ở chỗ cao, nhìn xuống thành Kim Lăng, như nghĩ ngợi gì đó rồi lẩm bẩm: “Tần Vương vội gì chứ, đợi không nổi ta sao? Nếu như không muốn đợi ta thì ta cứ thức thời một chút, đợi Tần Vương chiếm được thành Kim Lăng rồi ta sẽ gặp vậy…”

*************************************

Tin Dương Hạo vẫn còn sống đã được Triệu Quang Nghĩa phái người tốc mã cấp báo về kinh thành.

Dương Hạo gặp cơn nguy hiểm mà không chết. Sau khi cuộc tự thuật của hắn được các quan chỉnh lý lại đã tập hợp và báo cáo cả công lao của Nhược Băng, lập tức công lao to lớn này không thể không thiếu hắn được.

Nhược Băng tuy chịu khổ hơn hai năm trời bên bờ sông Trường Giang nhưng giờ thì một bước lên trời, công sức cực khổ hai năm trời cũng không phải vô ích. Cả ngày cứ tỉ mẩn như ong đi hút mật, giờ thì đã có thể suốt ngày ở bên hầu hạ Tấn vương.

Dương Hạo không biết được việc Triệu Quang Nghĩa tự mình báo thẳng tin về kinh, hơn nữa chiến cuộc ở Giang Nam vẫn chưa kết thúc, e rằng quan gia cũng không có lòng dạ nào mà nghĩ về chuyện Bắc quốc, nên hắn tạm thời ở bên cạnh Triệu Quang Nghĩa.

Giang Nam nát vụn, đội quân rã rời, Lý Dục thấp thỏm trong lòng, cố kham đánh một trận nhưng kế kéo dài thời gian chống đỡ cũng đã bị phá sản. Nước Đường bị nước Tống đè bẹp đã là một kết cục tất nhiên. Dương Hạo hiện chỉ hy vọng kết cục này sớm kết thúc. Chỉ cần ở đây một ngày còn là chiến trường thì sẽ càng có nhiều người dân vô tội bị liên lụy, người chết là bách tính trăm họ. Sớm một ngày tiêu diệt nước Đường là sớm một ngày người dân được yên ổn, hắn cũng có thể sớm một ngày quay trở về Biện Lương.

Ở bên Triệu Quang Nghĩa, hắn không hề lãng phí cơ hội tốt này, điều động quân thế nào, tác chiến thế nào, bố trí hành quân thế nào, vận chuyển lương thực ra sao, trấn an lòng quân như thế nào, thậm chí cả các chiến thuật tiến công, phòng ngự hắn đều ra sức tìm hiểu và học hỏi.

Đúc kết kinh nghiệm từ thực tế trực tiếp tốt hơn nhiều so với việc học trong sách vở. Ở bên cạnh Triệu Quang Nghĩa, xem hắn nghị sự, phát hiệu lệnh, chỉ huy tác chiến qua sông, xem hắn tiếp thu tình hình quân sự, điều khiển chỉ huy chiến đấu, đứng ở chỗ cao mà quan sát toàn cục, càng dễ nắm bắt được rất nhiều chiến thuật.

Trong hoàn cảnh bị buộc phải lựa chọn để đánh Giang Nam, nhưng hắn đã chuẩn bị rất nhiều những điều kiện có lợi ở Tây Bắc, đối với những tiền đồ trước mắt hắn cũng không dám đắc ý. Những cái ở tương lai là những cái chưa biết, dẫu cho có thực lực nhưng những đánh giá khách quan về chuyện được mất trong chiến tranh rồi cũng ghi nhớ mãi trong lòng. Cũng rất hữu dụng nhưng hắn rất hiểu, đó không phải là cách sáng suốt để giành chiến thắng.

Cái mà học giả đời sau hiểu được, thì ở thời đại này người ta có thể thực sự lý giải hay không? Không, họ còn hiểu hơn bất cứ một người nào khác, không một ai có thể hiểu rõ hơn chính kẻ địch của mình, càng hiểu rõ những sở trường và điểm yếu của kẻ địch. Nhưng lý giải và hiểu khoogn có nghĩa là nhất định phải giải quyết, nằm ở muôn vàn điều kiện, họ chỉ có thể khống chế, lựa chọn những cách thích hợp mà không phải là lựa chọn khách quan thích hợp nhất của lịch sử.

Từ sau khi trở thành một phần của lịch sử, trong cái mê cung này hắn chỉ có thể tuân theo hết thảy những nguyên tắc, lợi dụng những điều kiện khách quan ở đây chứ không thể chỉ đạo hành vi của bản thân dựa trên những căn cứ sau này. Huống hồ…người hậu thế đứng ở góc độ tất cả đã xong xuôi để suy nghĩ, những kết luận được đưa ra có phải là khách quan hay không, ai là người đúng nhất? Tất cả đều rất khó nói.

Khi hắn đặt mình trong đó, khi ứng biến với tất cả dựa trên những kinh nghiệm của bản thân, những phản ứng và lựa chọn của đối thủ có thể khiến động tác của hắn thay đổi, thế là dựa vào những đánh giá và lựa chọn của lịch sử khi hắn đưa ra bước đầu tiên thì những kinh nghiệm đó cũng không có tác dụng gì.

Ví dụ như trong lịch sử hắn đã được mất gì đó trong một trận chiến với kẻ địch, sau đó vượt thời gian, tiến vào trận chiến này thì hắn có thể thành thần của cuộc chiến không? Đó chỉ là những hoang tưởng vô tri của thuở nhỏ. Khi hắn bước chân vào cuộc chiến này nếu như không thể chỉ đạo cuộc chiến thì chỉ có thể làm một tấm bia đỡ đạn, dẫu cho hắn có nắm chắc kết cục thì cũng không thể thay đổi được kết quả.

Nhưng nếu như hắn trở thành một chủ soái, hắn sẽ có thể thay đổi được những sai lầm này không? Đối với đối phương còn có cơ hội để đi theo những nguyên tắc này hay không? Đối phương cũng nhờ đó mà thay đổi, thì những thứ mà hắn nắm chắc trong lòng bàn tay cũng vô dụng. Đây giống như một quan sát viên, ngồi dưới võ đài rồi nhìn ngó quan sát hai quyền sư khác. Trên võ đài ai là người thảm bại hắn nhìn rất rõ, cũng có thể phân tích rõ mồn một trong đầu, nhưng để cho thời gian đảo ngược lại, trên võ đài lấy kẻ bại trận thì hắn đã quá lợi dụng rồi.

Từ việc thay đổi đấu pháp, khi chiếm lợi thế từ cú đấm thứ nhất, phản ứng của đối phương cũng theo đó mà thay đổi, tiếp sau đó không thể nào diễn tiến tình hình theo những lý giải trước đó được nữa, trừ phi cú đấm thứ nhất đó khiến đối phương gục ngay tại chỗ, nếu không hắn chỉ có thể dựa vào thực lực mà tiếp tục chiến đấu. Những dự tính ban đầu đã không còn tác dụng, những kế hoạch của hắn dường như đều mất hiệu quả, nếu như hắn vẫn cứ ngoan cố hành động theo những phân tích ban đầu thì hắn sẽ chết một cách còn thảm hơn lúc trước.

Do vậy, hắn phải dốc toàn lực để học hỏi, những dự tính tương lai đã thay đổi, hắn không cách nào có thể đi ngoài quỹ đạo, chỉ có thể dựa vào tài trí của bản thân.

“Đại nhân” Mục Vũ thúc ngựa chạy tới bên cạnh hắn, Dương Hạo khen: “Cấm quân huấn luyện có chất. Ngàn người như một, tiến lên như một tòa thành trì bằng thép đang đi động, quả nhiên rất giỏi”.

“Đúng vậy!” Ánh mắt của Mục Vũ lướt qua đoàn quân trước mặt, hỏi nhỏ: “Đại nhân, nếu như chúng ta có được đất Bắc thì triều đình sẽ có ngày… phát động chiến tranh không?”

“Hy vọng là không, nếu như có, cũng sẽ không đánh đến cùng…” Dương Hạo nhẹ thở dài: “ Nếu như không phải sự đã rồi thì ta cũng không muốn gây chiến với họ. Quân vương muốn thần chết, thần chỉ còn nước chết, ta giả chết để thoát thân cũng là vì mục đích này, tiếc là đã bại. Nếu như sau này… quân bắt thần chết…”

“Vậy đại nhân làm thế nào?”

Dương Hạo trầm mặc trong chốc lát rồi mở miệng cười: “Vậy thì thần cũng không còn cách nào khác, đành bắt vua… chết trước thần!”

Mục Vũ nghe thấy liền nắm chặt đuôi đao, mặt đỏ gay lên nói: “Tiểu nhân xin thề sẽ đi theo đại nhân!”

Phía trước có một người cưỡi ngựa đi tới, Dương Hạo vội nói: “Chớ có lên tiếng”.

Người đó đeo một lá cờ đỏ hình tam giác trên lưng, thúc ngựa đi, lá cờ bay phấp phới trong gió. Vừa nhìn thấy lá cờ đó bọn binh lính vội dạt sang hai bên nhường đường, người kị mã như ngọn gió lốc lướt qua bọn vệ binh, xông thẳng vào chỗ của Triệu Quang Nghĩa rồi mới thắng ngựa. Bước lại gần, hắn quỳ xuống bẩm báo: “Bẩm, phía trước có một đoàn quân Đường đang tiến đến”.

Triệu Quang Nghĩa ghìm cương hạ giọng nói: “Người tới ở phương nào? Có bao nhiêu binh mã?”

Tên kia vội báo: “Trên cờ có thêu chữ Đỗ, xem lai lịch thì chắc là thuộc hạ của quân thiên đức Đỗ Chân, khoảng hơn vạn người”.

Triệu Quang Nghĩa ngửa mặt lên trời cười to: “Chỉ có khoảng hơn vạn binh mã thôi ư, dám đến xin chết à? Ha ha ha, truyền cho ba quân nhanh tiến lên phía trước, san bằng bọn hắn cho bản quan”.

“Thiên tuế xin chậm đã”.

Đoàn cấm vệ quân của đô chỉ huy sứ nghe hiệu lệnh vội chậm bước, đến bên Triệu Quang Nghĩa nói: “Vương gia, đoàn quân của chúng ta mới qua sông, quân sĩ tuy mạnh nhưng thể lực không đủ, tuy là quân ta nhiều hơn chúng nhưng nếu như cương chiến thì cũng bị tổn thất không ít. Nếu như quân của chúng chỉ hơn vạn người mà dám nghênh chiến chúng ta thì hiển nhiên là chúng chỉ biết rằng bị mất Thải Thạch Phàn mà không biết chúng ta có bao nhiêu người đã qua sông, càng không dự liệu được chúng ta không hề nghỉ ngơi gì mà đã lên đường. Nếu đã như thế thì hà tất phải đương đầu, chúng ta chi bằng cứ lùi một bước, mai phục chúng, giết chúng sau cũng không muộn, vừa giảm được số lượng thương vong của chúng ta vừa tránh được cảnh chúng chạy toán loạn bốn phía khó bề truy kích”.

“Ừm.. lời của ngươi nói cũng có lý”.

Sau khi qua sông Triệu Quang Nghĩa đã thấy không còn vội vã nữa, hơn nữa tướng lĩnh cấp cao Lục Diệp Lan cũng là người mà Triệu Quang Nghĩa tin tưởng, lời của hắn lẽ nào lại không được xem trọng. Hơn nữa phân tích của Lục Diệp Lan cũng thấu tình đạt lý, nếu như giảm bớt được thương vong thì chẳng tốt hơn sao?

Triệu Quang Nghĩa lập tức hạ lệnh cho ba quân dừng bước, chạy trở về. Ba mươi dặm phía Bắc từ Thải Thạch Phàn có một cái hồ lớn gọi là Từ Hồ, cách Từ Hồ về phía tây không xa lắm là Trường Giang. Triệu Quang Nghĩa phái quân chặn đầu đoàn quân của Đỗ Chân, còn mình là Lục Diệp Lan dẫn hai vạn binh đến chỗ giữa Từ Hồ và Trường Giang, đợi đội quân giả vờ bại trận quay về, dẫn theo hai vạn người ngựa đến chỗ phục kích này.

Trong bụi cỏ, Dương Hạo nằm sấp ở đó náu mình, đột nhiên nghe thấy một loạt tiếng động ầm ầm, Phàn tú tài bò lại. Dương Hạo lười nhác gọi hắn lại, Phàn Nhược Thủy biết được hắn là tâm phúc của Triệu Quang Nghĩa, lại là bá nhạc của mình nên vừa thấy hắn liền lộ vẻ thân thiết: “Dương tả sứ, mấy ngày nay chỉ thấy Tống quân luyện tập, có thể chinh chiến, nay mới biết danh tiếng không phải là hư. Binh mã nước Tống tướng có mưu, sĩ có dũng, quân nước Đường làm sao mà có thể trở thành đối thủ được? Đỗ Chân chỉ có hơn vạn người, đội quân hơn năm vạn của thiên tuế còn cần phải đánh ư? Chỉ cần lấy số đông áp đảo bọn chúng thì Thiên tuế lại quá cẩn thận như vậy, đội quân như vậy mà không đánh thắng thì còn đánh thắng nổi ai nữa?”

Dương Hạo thấy tên này có chút vô xỉ, bèn cười lạnh mà nói: “Trên chiến trường thì phải có thiên thời địa lợi nhân hòa, cơ mưu, đó là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến thắng thua của trận đánh, không phải cứ đông là có thể giành thắng lợi, từ cổ chí kim lấy ít địch nhiều, thậm chí lấy tám trăm người mà đánh bại đội quân hơn mười vạn người cũng không phải là không có, thiên tuế cẩn thận như vậy là đúng chứ sao”.

Phàn tú tài cười khô nói: “Tả sứ nói đúng, Phàn mỗ không biết dụng binh đã thành trò cười rồi”.

Dương Hạo cười cười, hắn đang nằm chỗ đó đến vô vị, có người nói chuyện cũng hay, bèn nói: “Đỗ Chân là người thế nào? Ngươi có biết không? Binh mã của hắn tuy ít nhưng nghe nói Thải Thạch Phàn bị tấn công liền không nề hà sinh tử mà dẫn binh đến, cũng là một tướng tài hiếm có đấy chứ”.

Phàn Nhược Băng nói: “Tại hạ ở Thải Thạch Phàn đã ba năm rồi, cũng có hiểu đôi chút về tướng lĩnh và nơi trú quân. Mạt Lăng quan có hai tướng cố thủ, một người là Trịnh Ngạn Hoa, là chủ soái của Mạt Lăng quan, túc trí đa mưu, là một nho tướng, dưới trướng hắn có hơn một vạn quân. Còn người kia là Đỗ Chân, là một đại tướng dưới trướng của Trịnh Ngạn Hoa, dũng mãnh thiện chiến, Trịnh Ngạn Hoa phái hắn tới đây hiển nhiên là đã biết rõ Thải Thạch Phàn đã thất thủ, hắn cũng không giữ vững Mạc Lăng quan nữa rồi. Nhưng hắn xuất binh đến giải cứu thế nào đây?”

Dương Hạo cảm khái mà thở dài nói: “Đúng vậy, trên đời này tuy có nhiều việc đã thay đổi nhưng có những việc mà chỉ có một người mới có thể ảnh hưởng tới, cái gì đến sẽ phải đến, vận mệnh của nước Đường đã được định đoạt rồi”.

Phàn Nhược Băng không biết suy nghĩ kỳ quái này của hắn có ở đâu ra, nghe nói thế không hiểu ra sao chỉ biết cười bồi theo một tiếng.

Dương Hạo thay đổi tư thế, thuận miệng hỏi: “Phàn tiên sinh trong nhà có ai?”

Phàn Nhược Thủy than thở: “Song thân phụ mẫu, thê tử con cái đều có, than ôi, ba năm nay Phàn mỗ xa nhà, rời xa vợ con và song thân phụ mẫu, ở lại Thải Thạch Phàn, đúng là hổ thẹn với họ quá. May thay được tả sứ dẫn tiến, Tấn vương ưu ái, Phàn mỗ cuối cùng cũng có ngày xuất đầu lộ diện, những ngày sắp tới có thể báo hiếu cho cha mẹ, đối xử tử tế với thê tử”.

Dương Hạo trêu chọc nói: “Như thế là tốt, Phàn tiên sinh phải ghi nhớ những gì mà phụ mẫu và thê tử bỏ ra vì ngươi mới đúng. Những ngày tới được làm quan to, có ngựa cưỡi, tuy là những điều đang mừng nhưng cũng đừng có mới nới cũ, đừng có là một kẻ như Trần Thế Mỹ bị người đời sau khinh ghét hahaha…”

“Đại nhân chỉ dạy phải ạ”. Phàn tú tài tươi cười hớn hở: “Chỉ là không biết cái tên bị người đời khinh ghét Trần Thế Mỹ đó là vị nào ạ?”

“Haha, người ấy hả, hắn ta là đồng hương của ta… Không phải, không phải…”

Đang muốn lấy lòng Dương Hạo, Phàn Nhược Băng đột nhiên căng thẳng nói: “Đại nhân bảo cái gì không phải?”

“Không phải là không phải, mà là người thủ giữ ở Mạc Lăng quan – Đỗ Chấn có gì đó không phải…”

Dương Hạo nhíu đôi lông mày, suy nghĩ một hồi lâu rồi đột nhiên đứng phắt dậy nói: “Thiên tuế ở đâu, Thiên tuế ở đâu?”

Đang đứng ở chỗ mai phục đột nhiên thấy có người đứng lên, đang muốn quát lớn chợt nhận ra thân tín Tấn vương thiên tuế đang đứng bên cạnh hắn, có vài người nữa không có thân phận gì nhưng cũng đã từng thấy cưỡi ngựa đi bên cạnh Tấn vương, Tấn vương nói chuyện với bọn hắn cũng hết sức hòa nhã, vừa nói vừa cười, lập tức không dám răn dạy mà vội vàng chạy khỏi chỗ ẩn nấp, chạy lại chỗ Thiên tuế đang đứng.

Triệu Quang Nghĩa đang cúi thấp người sau một lùm cây để trông tình hình của địch, Dương Hạo liền vụt xuất hiện sau lưng, đứng bên cạnh Triệu Quang Nghĩa, dồn dập hỏi: “Thiên tuế, hạ quan đột nhiên nảy sinh nghi ngờ, do vậy nên phải cấp tốc chạy đến bẩm báo. Xin thiên tuế tham khảo”.

Triệu Quang Nghĩa giờ rất khách khí với Dương Hạo, vốn xuất thân đã là quan của triều đình, khi đó lại còn là người được coi trọng. Dù chỉ là đồng hương hoặc là môn đồ của cùng một thầy giáo đã có thể cảm thấy gần gũi mà giúp đỡ lẫn nhau rồi, huống hồ đây là một viên quan trong triều. Hơn nữa Dương Hạo còn đem tấm thủy đồ tới, khiến hắn nhờ đó mà qua sông được nên hắn mới có được chiến thắng đáng mừng này. Khi nghe Dương Hạo nói thế hắn làm mặt ôn hòa mà nói: “Dương tả sứ có gì nghi vấn không tiện nói ra?”

Dương Hạo bèn kể lại câu chuyện hắn mới nghe được từ Phàn Nhược Băng thuật lại, rồi nói: “Thiên tuế, nếu như những tin tức Nhược Băng nghe được là đúng thì Mạc Lăng quan chỉ có hai vạn binh mã, Trịnh Ngạn Hoa liều lĩnh phái một nửa số quân đến thật khiến người ta nghi ngờ. Thiên tuế nghĩ xem, Trịnh Ngạn Hoa túc trí đa mưu như thế làm sao có thể dễ dàng để cho người ta biết rõ hắn có bao nhiêu binh mã? Mà thông tin về hai vạn quân đóng tại Thải Thạch Phàn bị tiết lộ thì ắt hẳn hắn cũng đã biết. Chúng ta là bên tấn công, binh lực ắt hẳn là nhiều, Trịnh Ngạn Hoa làm sao có thể yên tâm mà phái một nửa số quân của hắn đi như thế? Chắc chắn là có thể thu phục Thải Thạch Phàn hay sao?”

Ánh mắt Triệu Quang Nghĩa chợt lóe lên, mặt dần dần sầm lại.

Dương Hạo nói: “Mạc Lăng quan không phải là nơi khó tấn công, đến Phàn Nhược Băng một kẻ không biết gì về binh mã còn hiểu được việc Thải Thạch Phàn bị mất, Mạc Lăng quan căn bản không có nguy hiểm và có thể thủ, chắc chắn bị mất. Trịnh Ngạn Hoa không biết ư? Hắn tập trung toàn bộ lực lượng tử thủ, hoặc là muốn vứt bỏ cả thành mà chạy trốn, hoặc là khuynh sào xuất động, cứu lấy Thải Thạch Phàn, vốn binh lực yếu kém mà còn phân ra như thế, đó là cách làm của một tướng giỏi túc trí đa mưu đó ư?”

Ánh mắt Triệu Quang Nghĩa lóe lên không ngừng, rồi hắn trầm giọng hỏi: “Vậy Dương tả sứ cho rằng hắn có ý đồ gì?”

Dương Hạo trầm giọng nói: “Mạc Lăng quan có đến một nửa là thủy binh, một nửa là bộ binh, đều là nhưng lực lượng mà Đỗ Chân dẫn đến nghênh chiến với chúng ta, vậy một nửa số thủy binh đến nay vẫn còn ở Mạc Lăng phải không?”

Triệu Quang Nghĩa biến sắc, nói từng chữ từng chữ: “Dương đông kích tây, muốn phá hủy cầu phao của ta ư?”

************************************

Triệu Quang Nghĩa dụng binh tuy không được như các lão tướng Tào Bân, Phan Mỹ, nhưng sát phạt quyết đoán, cũng có phong thái của một tướng lĩnh. Những nghi ngờ của Dương Hạo tuy chỉ là có khả năng, nhưng Triệu Quang Nghĩa không dám coi thường, lập tức chia một vạn binh ra lệnh cho Dương Hạo và Nghiêu Lưu dẫn cấm vệ quân lập tức quay về Thải Thạch Phàn.

Nghiêu Lưu vẫn còn rất trẻ, cơ thể cường tráng, ánh mắt cương nghị, trông có vài phần có cái thần vận giống như La Khắc Địch

Nơi này cách Thải Thạch Phàn không xa, hai người vội vã dẫn binh quay lại, khiến Dương Hải Thanh và Trúc Vũ Minh không khỏi giật mình, còn tưởng rằng Tấn vương chưa chi đã bại trận nhanh như vậy. Vừa nghe thấy Dương Hạo nói, hai người vội cẩn thận cảnh giác, vội chèo những chiếc thuyền của nhà Đường ra xa, bố trí quân cảnh giác đi men theo Trường Giang.

Thuyền chiến của quân Đường đều rất sắc bén, nếu như chúng chủ động xuất kích thì chiến cục cũng chẳng có ngày hôm nay, tiếc rằng chúng đã sớm khiếp sợ uy phong của nhà Tống, lại có kế vườn không nhà trống của Lý Dục, kiên quyết cố thủ, tuyệt đối không chủ động xuất binh nên hôm nay mới thất bại.

Từ xa xa nơi bóng chiều quả nhiên có một đoàn quân đang giương buồm đến. Quân Tống hai bên bờ sớm đã chuẩn bị nên lập tức vào thế sẵn sàng chiến đấu, giương cung, đội thuyền chiến mười mấy chiếc tiến lên phía trước, bên trên chất đầy củi và cỏ, chi cần đợi thuyền của địch đến thì sẽ đốt lửa cho thuyền chạy về hướng địch. Tuy những con thuyền không thiện chiến nhưng hai bên bờ đã có cung thủ hỗ trợ, sẽ tập trung hết thuyền chiến lại với nhau, chuẩn bị một trận sống chết để bảo vệ cây cầu.

Người tới quả nhiên là Trịnh Ngạn Hoa. Hắn sai cấp dưới là Đỗ Chân dẫn binh đi giương đông kích tây, còn mình thì đích thân xuất binh, mục đích là muốn phá hỏng cây cầu phao này. Cây cầu này rất quan trọng, chỉ cần phá được cầu thì quân Tống sẽ hết đường lui. Có cây cầu, bọn chúng có thể đem vô số quân đến đây, vận chuyển lương thực đến cho quân Tống, bọn chúng lại hùng dũng tiến bước mà không phải lo nghĩ, thế nên nhất định phải đánh sập cây cầu, bất kể có phải trả giá gì đi chăng nữa.

Khi hắn vội vàng tới, hai bên bờ cung tên bắn ra như mưa, trên mặt nước có mười mấy chiến thuyền cháy rừng rực lao đến, quân Tống đã sớm dự liệu nên trận đánh lén đã biến thành một trận địa chiến. Lúc này, quân của Đỗ Chân hơn một vạn quân đang thảm bại mà chạy tán loạn, cho quân Tống thuận lợi xiết chặt vòng vây.

Lúc này đây, ngọn cờ giương cao, pháo hiệu nổ liên hồi, phía Tây có Trường Giang, phía Đông có Từ Hồ, phía Nam là Lục Diệp Lan, Triệu Quang Nghĩa đang cắt đứt hết đường tháo lui của hắn, đánh cho hắn không còn lối thoát. 

Nguồn: http://4vn.eu/forum/showthread.php?71274-Lich-Su-Quan-Su-Bo-Bo-Sinh-Lien-Nguyet-Quan-Full-Text&page=80#ixzz201kH6luz

Chương 372:Vây thành. 

Nói thực, Đỗ Chân thực là một viên mãnh tướng, nhưng nếu như bàn về dũng mãnh, quân Đường tuyệt đối sẽ không thể so sánh được với quân Tống, thêm nữa sự gia tăng binh lực còn kém xa, tiến vào vòng vây, nhân mã của hắn lập tức bước vào trận chiến gian khổ, bị bên quân Tống giết hại.

Đỗ Chân không phá vây ngay lập tức, cho dù sự dũng mãnh của quân Tống, hắn lập tức phá vây chưa chắc đã thành công, nhưng hắn đến thử cũng không dám làm, vì hắn cần tranh thủ thời gian cho tuyến binh mã Trịnh Ngạn Hoa, dù toàn quân bị diệt đi chăng nữa, chỉ cần chủ soái Trịnh Ngạn Hoa có thể hủy được cầu nổi của người Tống thì cũng xứng đáng. Hủy bỏ cầu nổi, người Tống lại muốn vơ vét vật tư để làm cầu mới, lại còn cần thời gian mấy ngày, thời gian vàng bạc mấy ngày ấy, chỉ cần quân Đường nắm bắt được thời cơ cuộc chiến, tập trung các lộ binh mã tấn cong và tiêu diệt thì có thể xóa bỏ quân xâm lược.

Mà cái sự tính toán này, bọn họ thậm chí còn không kịp báo cho Kim Lăng, hôm nay quả nhiên đã ứng chiến, là sự bàn bạc của Trịnh Ngạn Hoa và cá nhân hắn, sứ mệnh của họ chỉ như con thiêu thân mà thôi, liều chết lao vào đám lửa hoàn thành sứ mệnh, còn về triều đình có nắm bắt được thời cơ cuộc chiến hay không, thì các quan văn võ trong triều phải tự phán đoán, hoặc là họ sẽ vứt bỏ cái cơ hội khó có được này, vẫn cứ chờ đợi một cách bị động co rút thành trì, nhưng đó đã không phải là chuyện mà hắn có thể hao tâm nữa, hắn là người Đường, là một viên Đường tướng, hắn tự biết thân phận của mình, chết không uổng.

Đỗ Chân quyết tâm chết để làm một mồi nhử khi nước gặp nạn, thấy bị chủ lực quân Tống bao vây không sợ hãi, mà hắn còn lấy làm mừng, hắn chỉ huy một bên kháng lại, một bên thì chuyển dời số lượng nhỏ của Triệu Quang Nghĩa, làm ra cái tư thái phá vây, cố gắng lôi kéo quân chủ lực quân Tống, vì chủ soái Trịnh Ngạn Hoa mà chiếm lấy thời gian vàng ngọc.

Chiến hạm của Trịnh Ngạn Hoa còn chưa đến bên cầu phao, liền gặp một trận mưa gió rền dữ, mỗi chiến hạm đều bị cắm đầy tên, chưa giao chiến mà đã thiệt nhân mã, lập tức có mấy chục hỏa thuyền phong tỏa mặt sông đại giang, đánh tới chiến hạm không hề nể nang.

“Tướng quân sớm đã có sự chuẩn bị!”

Trịnh Ngạn Hoa giật mình, lập tức nhìn về phía cột buồm xa xa rồi lại quay về phía binh sĩ hô: “Đã phát hiện ra quân Tống, tướng quân Đỗ Chân đã bị bao vây”.

Mặt Trịnh Ngạn Hoa biến sắc, tập kích bất ngờ, tập kích bất ngờ, công kích chưa có chuẩn bị mới gọi là tập kích bất ngờ, không thể ngờ kế giương đông kích tây này lại dễ dàng bị quân Tống phá được, xem ra, quân Tống sớm đã đoán được sự đến của hắn, hắn còn có thể đắc thủ sao?

Trong lòng tràn ngập hi vọng mình có thể dựa vào kỳ quân mà có được kết quả kỳ diệu, thật không ngờ Triệu tiết độ lại bị rơi vào nơi đáng hối hận, nhìn thấy hỏa thuyền lái tới bị thu, rồi hàng loạt tiếng hò reo ầm ĩ của người Tống càng ngày càng gần hắn, Triệu đại tướng quân quả nhiên đưa ra quyết định: “Đi!”

Một mũi tên chưa được bắn ra, vài huynh đệ đồng đội lấy tính mạng làm mồi nhử và Triệu tướng quân tung hoành đại giang giỏi thủy chiến đã tiền đội biến thành hậu đội, hậu đội biến thành tiền đội, dựa vào tốc độ vô địch, triển khai thủy quân đã được huấn luyện nghiêm chỉnh của hắn rat rước mặt quân Tống, sự cao siêu của việc điều khiển thuyền, trước khi hai quân giao đấu, họ bỏ trốn mất dạng.

Dương Hạo và Nghiêu Lưu bất chấp khó khăn chỉ huy cấm quân chiến sĩ đã từng được huấn luyện vội vàng và sơ lược biết cách điều khiển thuyền, một nửa lưu động nhờ vào lực nước Trường Giang, đi từ từ tiến về phía quân địch, do tốc độ thuyền chậm, các binh sĩ dùng lực ở hai bả vai dùng để gõ trống trận, tiếng trống gõ vang, sau đó họ thấy quân địch đến trước mặt và kỹ thuật điều khiển thuyền thành thạo liền xoay thuyền lại, sau đó lướt trên mặt nước như bay, nhanh đến mức chúng muốn đuổi cũng chẳng thể đuổi được.

Đội quân như vậy, làm sao có thể thất bại!

Dương Hạo thầm than thở, hắn giờ đã hiểu, sự nhanh và mạnh của con bướm nhỏ đập cánh, thế giới này đã có sự thay đổi rất mạnh mẽ, sự thay đổi này đã đủ để ảnh hưởng tới rất nhiều đại sự của lịch sử, nhưng có vài thứ không phải hắn có thể thay đổi được, thực lực quân sự, cục diện chính trị, nhân tính,……

Quân Đường nhiều năm gom góp, một quốc chúa đùa gió trêu trăng, trước mặt quân Tống, căn bản chẳng có sức mà kháng lại, vị tướng như Lâm Hổ Tử vẫn còn sống thì đã không ra nông nỗi này, song giờ hắn chẳng qua kéo dài vài ngày, để Đường Quốc kéo dài hơi tàn vài ngày, chẳng có ai giúp được Lý Dục, đến thần Phật cũng đành bất lực.

Đỗ Chân toàn thân nhuốm máu đứng ở trên cao nhìn xuống phía Thái Thạch cơ, nhìn về phía cột buồm di động, đã hiểu được kế hoạch tập kích đánh úp bị thất bại, nhân mã của Triệu soái bị hủy nhanh như vậy, sợ…sợ rằng chúng căn bản chưa từng giao đấu với quân Tống, hắn trở thành một binh tốt vô dụng bỏ đi, tất cả những cái đã có hy sinh hết sạch.

Đỗ Chân buồn bã, tình hình giờ hắn báo quốc, chỉ có thể một đường sinh nào đó cấp dưới thề sống chết, Đỗ Chân dẫn thân binh vệ đội đến ngăn chặn đường lui của Triệu Quang Nghĩa, vì các huynh đệ đồng chí mà giành lấy con đường sống, hắn dùng máu thét ra lệnh lập tức phá vây, còn mình thì dẫn thân binh vệ đội thắt cổ phải trái, đảm bảo lỗ thủng sẽ không bị quân Tống lấp kín.

Triệu Quang Nghĩa phân một nửa quân để Dương Hạo dẫn binh, kết quả cuộc ẩu đả liều chết của Đỗ Chân bị hắn phá ra một lỗ thủng, không khỏi vừa giận vừa sợ, Triệu Quang Nghĩa cũng không kiềm chế được, lập tức mặc giáp lao vào đoàn chiến, cầm lấy một cây côn thép, lao về phía Đỗ Chân, thân binh bên cạnh sợ hắn gặp nguy hiểm vội bảo vệ bên cạnh hắn, Triệu Quang Nghĩa cầm thanh côn khí thế hừng hực, đằng đằng sát khí lao đến.

Máu nhuốm đỏ chiến bào của Đỗ Chân, tay cầm cây thương, máu tươi chảy theo cây thương, đang cố gắng ngăn cản sự tấn công mãnh liệt của quân Tống, Triệu Quang Nghĩa đến, hét lớn một tiếng, tay cầm côn thép vung mạnh về phía Đỗ Chân.

Đỗ Chân còn chưa kịp nhìn xem đó là ai thì nghe thấy một tiếng sét đánh ngang tai, tiếng côn đập trúng vào đầu, Đỗ Chân lập tức giơ vai lên chặn ngang hét: “Khai”.

Tiếng “Keng” phát ra, thương côn tương giao, trường thương hơi cong, sau đó lại thẳng lại, hai vai Đỗ Chân run rẩy, bàn tay cũng run lên, không khỏi thầm giật mình: “Tên này là tên nào, côn mạnh quá”.

Chiếc côn kia văng ra, đại hán mặc giáp cầm côn xoay người, đứng ở phía không xa mượn thế lại tiếp tục đánh xuống, không để cho hắn có thời gian thở, trước sau phải trái Đỗ Chân toàn là người, muốn xê dịch cũng khó, đại thương không kịp đánh trả lại quân địch, dưới tình thế cấp bách chỉ có thể đưa ngang cây thương ra đỡ.

“Haiizzzz”. Côn thứ nhất vừa đỡ được thì côn thứ ba lại bổ tới, chỉ nghe thấy tiếng “Răng rắc”, đại thương trong tay Đỗ Chân không ngăn được lực cực mạnh từ cây côn thép bổ tới, thương gãy, tiếng côn giáng mạnh bổ vào đầu Đỗ Chân, máu tươi tóe ra, cây côn của Triệu Quang Nghĩa dường như bổ một mạch xuống dưới bụng.

Triệu Quang Nghĩa thu côn lại, nhìn đám quân Đường bỏ chạy, gằn giọng hét lớn: “Năm vạn giết một vạn, còn để chúng bao vây, bổn vương còn mặt mũi gì nữa? Đuổi theo!”

****

Dương Hạo thu thập tình hình của Thái Thạch cơ, dặn dò các thủ tướng men theo sông lập trạm canh gác ngoài ba mươi dặm, lúc này mới huy quân đến giúp Triệu Quang Nghĩa, đợi hắn đến, Triệu Quang Nghĩa đã đích thân dẫn đại quân đuổi theo giết quân Đường, bộ đội đến sau thu dọn chiến trường, Dương Hạo hỏi rõ chuyện gì đã xảy ra, lập tức đuổi theo hướng Triệu Quang Nghĩa.

Quân Đường tháo chạy về phía thành Đương Đồ gần đó, Đương Đồ là một tòa thành nhỏ, không có đại quân bảo vệ xung quanh, đợi họ chạy đến Đương Đồ, thấy truy binh vẫn bám riết không tha. Tòa thành nhỏ không chống lại được, nên lại phải liều mạng bỏ chạy, quân Tống lao vào thành, bắt đầu cuộc đánh giết mới.

Khi Dương Hạo đuổi đến nơi, chỉ thấy lửa chiến hừng hực trong thành, gian dâm, bắt người cướp của, người dân bị giết trong tay không có mảnh vũ khí đâu đâu cũng thấy, binh sĩ bị giết thậm chí đến cái chùa chiền cũng không bỏ qua. Tuy nói người Tống tín Phật khá đông, nhưng người không tín Phật cũng có. Trước đây Sài Thế Tông diệt Phật, lệnh phá hủy các pho tượng Phật, các sư tăng hoàn tục giờ rất nhiều đã làm quân quan hạ cấp trong quân, họ bất kính thần minh, lâm nguy mang theo đồ châu báu trốn vào trong chùa miếu, dân chúng coi chùa miếu ấy thành nơi bảo vệ cũng bị cướp bóc trắng trơn, cô gái nào có chút nhan sắc cũng bị cưỡng trước Phật đường.

Dương Hạo vừa kinh ngạc vừa tức giận, thấy binh sĩ như bọn thổ phỉ, làm các nơi tan tác, muốn ngăn lại cũng không đủ sức, đành tức giận lao đi tìm Triệu Quang Nghĩa.

Khi Dương Hạo gặp Triệu Quang Nghĩa, phẫn nộ bẩm: “Thiên Tuế, vương sư quân Tống ta tới Giang Nam, tên cần thảo phạt là Đường chúa, còn dân chúng kia, vài ngày nữa cũng sẽ trở thành con dân Đại Tống cả, sao lại để binh như đám thổ phỉ, tùy tiện bắt người cướp của thế kia”.

Triệu Quang Nghĩa không cho là đúng, mỉm cười nói: “Bổn vương đã sớm hẹn với tam quân, nếu tam quân dũng mãnh tấn công, được một thành thì có thể bắt người cướp của, giờ quân ta phá được Thái Thạch cơ, diệt được Đỗ Chân sở bộ, ai nấy đều thiện chiến không sợ chết, ta nên khao thưởng chứ, bổn vương há có thể thất tín với tam quân?”

“Thiên Tuế, thảo phạt Đường Quốc, dân chúng nào có tội tình gì, nhìn thấy bọn họ phải chịu oan ức, Thiên Tuế cũng chịu được sao?”

Triệu Quang Nghĩa cười ha ha nói: “Hiền thì không nắm binh, mà chẳng lẽ không quan tâm đến tài của. Dương tả sứ há có thể có lòng dạ đàn bà như vậy? Thê thiếp ngươi chết thảm ở Đường Quốc, lẽ nào không hận bọn Đường, sao lại xin tha mạng thay chúng vậy?”

Dương Hạo chắp tay nói: “Dương Hạo có hận, song không muốn tội tình đến với dân chúng vô tội, nếu binh sĩ mà như thổ phỉ, mất đi niềm tin của con dân Giang Nam, quân dân Giang Nam khó bảo đảm không dẫm vào vết xe đổ của người Thục. Mất đi thành an dân, quân kỷ nghiêm minh, thì sao có thể lấy được lòng dân?”

Triệu Quang Nghĩa dung túng cho bộ đội sở thuộc, còn khích lệ tam quân thề sống chết cống hiến, cũng là có ý tự làm ô nhục, đồng thời quân quyền trong tay, chiến công của bản thân nhuốm tì vết, đây là quyết định sớm định ra ở bờ tây Trường Giang, lời khuyên của Dương Hạo đương nhiên là không có tác dụng gì.

Nhưng hắn giờ vô cùng nể trọng Dương Hạo, kế giương đông kích tây của người Đường bị phá công là ở Dương Hạo, hắn cũng không muốn chỉ biết mình, mục đích hiện giờ đã đạt được, hắn cười tỏ vẻ biết thời biết thế nói: “Nếu trong thành không gặp chống cự, bổn vương còn cần phải hạ lệnh giết hại dân trong thành ư, Dương tả sứ có tấm lòng nhân hậu, song không thích hợp là người dẫn binh, thôi, bổn vương nể tình ngươi, thu binh là được chứ”.

Quân Tống tuy khi đánh cướp như thổ phỉ, nhưng cuối cùng quân đội cũng có quân kỷ nghiêm minh, gọi một tiếng lập tức về đội, Dương Hạo dẫn người dập tắt ngọn nửa ở các nơi trong thành, sau đó mang theo thân binh đi vòng xem nơi này một lượt, thấy Bích Túc và Thủy Nguyệt tiểu sư thái đã không còn ở đó, lúc này mới yên tâm.

Dắt ngựa quay trở về, nhìn thấy khắp nơi bị phá, chiến hỏa la liệt, Dương Hạo không khỏi tức giận, nhưng cũng không biết làm thế nào. Cùng với chiến loạn, tai ương đều là dân chúng chịu, cái gọi là nhân nghĩa chỉ tồn tại ở trong thần thoại sách sử.

Cái gọi là sự khác biệt giữa vương giả và quân đội khác cũng có ít thôi, lúc đó kiêu căng, dân chúng thường chịu sự chỉ huy của mình. Dương Hạo bùi ngùi thở dài: “Một ngày kia ta là soái thống binh cũng sẽ thạo thành sự lưu lạc của vô số người sao?”

“Nhưng ý chỉ của thống soái, phá bỏ chiến thời, xây lại sau chiến tranh có ảnh hưởng rất lớn. Cái gọi là không phá mà xây, máy móc chiến tranh nắm trong tay ta, còn hơn rất nhiều những cái có trong tay Lý Thị. Nếu không thể từ chối sứ mệnh lịch sử này, ta sẽ thử đi đón nhận nó.

Trận chiến Giang Nam này, là binh lính khó ta thống binh trước, cũng sau chẳng mấy thời gian, ta sẽ đích thân ra trận, cầm cung, cưỡi ngựa, dấy lên chiến trận ở tây bắc, hoặc là, ta sẽ trở thành một kẻ bại trận, hoặc là sẽ trở thành vương tể tây bắc. Chiến công, hậu nhân bình luận, lịch sử sẽ viết tên ta vào sử sách hay không đây?”

*********

“Sau trận chiến này, ta sẽ ghi danh sử sách!”

Triệu Quang Nghĩa ghìm cương ngựa, đắc ý nhìn bờ sông đối diện.

Cục diện đang phát triển có lợi cho bên quân Tống, Võ Ninh Khiêm đô giam nhân mã Hoàng Châu lục tục qua sông, tấn công chiếm Phàn sơn trại; hành doanh tả sương chiến trạo đô giam điền Khâm Tộ dẫn quân phá Lật Thủy( thuộc Giang Tô – TốNG QUốC), tấn công quân Nam Đường, giết đô thống Lý Hùng, mà Triệu Quang Nghĩa thì đích thân dẫn chủ lực lao tới Kim Lăng, sau đó Tào Bân kịp thời đuổi tới phối hợp với Triệu Quang Nghĩa.

Lý Dục vội vàng triệu tập thủy quân hơn mười vạn người trên sông Tần Hoài, dựa vào thành Giang Ninh để lập thế trận phòng thủ, đúng, phòng thủ vẫn là phòng thủ.

Triệu Quang Nghĩa hăng hái đối diện với đối thủ xác định mình trong một cái vòng không thể vượt qua, trận này đánh thoải mái vô cùng.

Triệu Quang Nghĩa ghìm ngựa đứng ở bờ sông, bên cạnh là giáp sĩ san sát, phía sau là quân đội đông nghìn nghịt. Bờ đối diện, quân Đường sẵn sàng chờ đón quân địch, đội hình san sát nhau đang ở tiền quân tiến hành điều động, như mạch nước ngầm lưu động. Song phương có mấy chục vạn quân, song lại lặng ngắt như tờ, chỉ có tiếng bước chân vang lên, tiếng trống khiến lòng họ chợt động, không khí bị áp lực ở quân mã, bộ quân và thủy quân Tống, đại quân hai bờ sông lưu động.

Dương Hạo cưỡi trên yên ngựa, lặng lẽ nhìn cục diện đôi bờ. Hắn qua một lượt thấy cục diện mấy chục vạn đại binh ở bờ đối diện, lần đó, song phương đều đã sẵn sàng, thống soái tam quân là nhất đế nhất hậu, giờ bên cạnh hắn hoặc sẽ nhận Hoàng đế của Tống Quốc, mà Hoàng đế bờ đối diện vẫn tránh ở trong đại viện thâm cung thành Kim Lăng không lộ diện, nhưng mà khí thế lần này căng thẳng vì đây là cuộc chiến then chốt của vệ quốc và diệt quốc.

Lần đó, hắn là một vị khách; Lần này, hắn là người xem, lần sau thì sao đây?

Tào Bân và Lý Hán Quỳnh đang một tả một hữu, điều động thủy binh, như một mỏ cặp, kìm chặt quân Đường, sau khi họ lay động trận thế quân Đường, Triệu Quang Nghĩa sẽ có thẻ phát động tổng tấn công, vừa mới phá hủy mười vạn đại quân, nhưng Triệu Quang Nghĩa không thích cách đánh này, giờ, người người theo dõi, hắn là thống soái tam quân, lẽ ra nhất mã đương tiến, há có thể bị người ta đoạt mất danh dự?

Hắn từ từ giơ roi ngựa lên, tam quân nín thở nhìn theo động tác của chủ soái, Triệu Quang Nghĩa vung roi giục ngựa, hét lớn: “Toàn quân, tấn công!” Câu vừa nói, chiến mã tiến về nước sông phía trước.

Dũng sĩ trái phải ngẩn người, lần lượt giục ngựa xông về phía trước, hò la phi về phía nước, mùa đông rét buốt lao vào nước để tấn công, thủy sư điều binh thấy chủ soái phát động, bất chấp trận hình tấn công có lợi nhất, lập tức tập trung vào chiến đấu. Triệu Quang Nghĩa lớn tiếng dọa người, làm tam quân Đường Quốc khiếp sợ, chúng vọi vàng phản lại.

Kim Lăng bảo vệ chiến, phát hỏa rồi.

Trận chiến này rốt cuộc thắng thế nào, người trong cục diện không thể nhìn rõ, Dương Hạo chỉ là bị động theo bên cạnh Triệu Quang Nghĩa, thúc ngựa, qua sông, trận địa địch, Triệu Quang Nghĩa dùng kiếm của hắn chém quân địch nghênh diện, tay cầm côn thép, sát khí đằng đằng đích thân lao về phía quân địch, tiếng chém giết, toát mồ hôi ra toàn chiến giáp, khi nghe thấy tiếng hét: “Người bắc rất mạnh, không thể địch lại được, mau lui, trở lại vị trí thủ thành!”

Tiếng hét inh tai nhức óc, quân Đường lập tức binh bại như núi đổ, quân Tống được họ cuốn theo, vừa đuổi vừa giết, sau khi vô số tử thi quân Đường nằm xuống, tàn binh thì rút vào trong thành, thế là…quân Tống thắng.

Hoàng Phủ Kế Huân cũng không biết quân Đường bại như thế nào, hắn quăng mũ cởi giáp trốn vào trong thành, kinh hồn bạt vía ngồi ở ghế, một lúc sau mới hoàn hồn. Hắn quan thần vệ thống quân đô chỉ huy sứ là đại tướng của Đường Quốc, nhưng hắn chưa bao giờ khuếch trương thanh thế, trong vạn mã thiên quân, mỗi một sự mãnh liệt đều mất đi vô số tính mạng, giống như nhành hoa bị chặt đứt.

Hắn được thân binh liều mạng che chở, trong mắt hắn tràn ngập bóng hình của quân Tống, tai dường như còn nghe được tiếng la hét của quân Tống, cuối cùng, hắn cảm thấy không thể đánh tiếp được nữa, nếu có đánh tiếp thì quân bảo vệ Kim Lăng sẽ bị tiêu diệt toàn bộ, hắn nhất định phải làm được gì đó cho triều đình, thế là hắn hét lớn: “Người bắc mạnh lắm, không địch lại được…”

Sự thực đã chứng minh hắn đúng, quân Đường quả nhiên đã bị đánh bại.

*****

Đêm đến gió bắc mang theo luồng không khí lạnh tràn vào toàn thành Kim Lăng.

Trong cung của Lý Dục, nội thị, quan nhân bước đi lại vội vàng, vẻ mặt vô cùng lo lắng, tin tức về mười vạn đại quân đã bị bại họ đã biết, Lý Dục ngồi đần ra ở trên ghế, tay buông thõng, lạnh ngắt.

Hơn mười vạn đại quân tham chiến bị rơi vào kết cục ấy, hắn đâu phải có trái tim băng giá. Quân cảm tử chết ở chiến trường, Lý Dục đến giờ vẫn chưa hiểu mười mấy vạn đại quân sao lại bại được, lẽ nào trời trừng phạt mình? Nếu không, mười mấy vạn đại quân sao có thể bại một cách dễ dàng như vậy? Tiểu sư phụ thần thông quảng đại tại sao lại không cáo mà từ biệt?

Lý Dục đăm chiêu, vẻ mặt vô cùng khó coi.

“Bệ hạ, Trần Kiều, Từ Huyễn cầu kiến”.

“Mau, mau mời vào”. Lý Dục giật mình, giờ nếu như có ai đó hiến kế, hắn chắc chắn sẽ nghe theo.

Trần Kiều vừa gặp Lý Dục, phẫn nộ nói: “Bệ hạ, hôm nay quân ta thảm bại, thần vệ quân đô chỉ huy Hoàng Phủ Kế Huân lâm trận bỏ chạy, khiến nhuệ khí tam quân bị mất sạch, bệ hạ không trảm tên này để lấy lại nghiêm pháp, thì ý chí tam quân sẽ mất, không thể chiến đấu được nữa”.

“Lý Dục giật mình nói: “Cái gì? Hoàng Phủ Kế Huân? Hoàng Phủ Kế Huân thẳng thắn vậy, sao…sao lại…?”

Trần Kiều tức giận giậm chân nói: “Bệ hạ, Hoàng Phủ Kế Huân chỉ có trung dũng một nửa thôi, hơn mười vạn đại quân bối thành, tấn công cái là quân Tống phải tan rã”.

Trần kiều thuật lại chuyện Hoàng Phủ Kế Huân lâm trận cởi giáp và câu nói ‘người bắc mạnh lắm, không thể địch lại’ cho Lý Dục nghe, rồi lại nói tiếp: “Hắn còn xứng đáng là thần vệ quân chỉ huy sứ Trịnh Bất Phàm nói với thần rằng, khi đó hắn đứng gần bên trái Hoàng Phủ Kế Huân, Hoàng Phủ Kế Huân nói vậy xong liền quay đầu bỏ chạy, tam quân mất đi nhuệ khí, thất bại thảm hại.

Trịnh tướng quân còn nói, Hoàng Phủ Kế Huân sợ hãi quân Tống, nói là người Tống không thể địch lại nổi, khi nghe tin quân ta bị bại, còn nói là ‘người bắc mạnh lắm, ngoài người Đường ta có thẻ địch lại, giờ thì sao? Hắn là thần vệ quân đô chỉ huy sứ, chủ tướng oai phong vô cùng, chưa chiến đã nghĩ đến bại, quân ta sao lại bại chứ?

Chiến bại ngày hôm nay, Trịnh tướng quân đi gặp Hoàng Phủ Kế Huân, nói quân Tống có chiến thắng mới, binh lính kiêu ngạo vô cùng, tất sẽ sơ hở phòng bị, binh sĩ cảm tử có thể đêm hôm tập kích doanh trại địch, không ngờ Hoàng Phủ Kế Huân nghe vậy sợ hãi, phản đối và quát Triệu tướng quân, Triệu tướng quân hơi cãi lại, hắn bèn thẹn quá thành giận, trách Triệu Bất Phàm làm nhiễu loạn lòng dân, lệnh thân binh trói hắn lại, quất cho vài roi, Trịnh tướng quân vô cùng phẫn nộ, lúc này mới đi báo với thần, nếu không…thần cũng giống như Bệ hạ, chẳng hay biết gì”.

Lý Dục nghe vậy tức giận run người, không kiềm chế được quát: “Người đâu, người đâu, nhanh chóng đưa Hoàng Phủ Kế Huân lại đây chịu tội! Lập tức cho hắn vào ngục!”

Nội thị vội chạy đi truyền chỉ, Lý Dục nói xong ngồi sụp xuống ghế, lẩm bẩm: “Giờ…quân Tống đã hưu binh Kim Lăng, Trẫm…Trẫm phải làm gì đây?”

Từ Huyễn liền an ủi nói: “Bệ hạ, các châu phủ được triều đình ta cai quản, mười vạn thủy quân Hồ Khẩu không bị đả thương, tuy sự việc xảy ra thế này, chưa chắc đã không có cách giải quyết, bệ hạ chớ nên nổi giận”.

Lý Dục trừng mắt nói: Tình hình hiện nay, Trẫm có thể làm được gì chứ?”

Trần Kiều nói: “Thần và Từ đại nhân đã bàn bạc với nhau, thần cho rằng, bệ hạ đã diệt trừ gian nịnh, quân dũng mãnh thiện chiến, quân thủ thành trì, binh sĩ không đủ sao, có thể đưa thanh niên trai tráng tập trung lại thủ thành; Đồng thời phái người phá vây ra, viện trợ cho mười vạn đại quân Hồ Khẩu, thêm nữa hạ thánh chỉ, kêu gọi các châu phủ giúp đỡ, nội ngoại hợp tác, cái nguy của người Tống chưa chắc đã không giải được”.

Lý Dục tuyệt vọng nói: “Triệu Quang Nghĩa giương giương mắt hổ dưới thành, hắn há có thể để Trẫm phòng bị?”

Từ Huyễn bước đi thong thả, thản nhiên nói: “Thần nguyện vì bệ hạ mà làm sứ giả, kéo dài thời gian bên quân Tống”.

“Từ Huyễn? Không gặp, nếu cần bổn vương hưu binh, ngoài Lý Dục phơi thịt ra xưng hàng với bổn vương ra, Từ Huyễn đến làm cái gì? Bảo hắn về đi”.

“Từ đã!”

Tào Bân tiến lên phía trước nói: “Thiên Tuế, Lý Dục không hàng, lại còn đưa sứ giả tới, danh nghĩa là cầu hòa, thực chất là kéo dài thời gian ra. Đại quân triều đình gặp tình thế hết sức nguy ngập, đương nhiên không thể đồng ý điều kiện gì của hắn, nhưng thành Kim Lăng tường dày, dễ thủ mà khó công, nếu như để hắn nghỉ ngơi vài bữa, khí thế quân thủ trong thành mất đi, là có lợi với chúng ta. Hơn nữa, nhất lộ tấn công của quân ta chiếm Kim Lăng, các thành trì Giang Nam vẫn nằm trong tay Lý Dục, Hồ Khẩu càng có mấy vạn đại binh chờ lệnh, nếu đi đánh, khó tránh khỏi điều động binh lực, giờ nếu như vây lấy Kim Lăng có thể dẹp các đường giúp đỡ quân Đường. Mà lương thảo quân nhu của quân ta giờ tiếp tế không kịp, Đường Quốc kiên trì vườn không nhà trống, chẳng có cách nào bổ sung, cần phải đợi đồ trong nước vận chuyển đến, thời gian chờ đợi kéo dài. Thứ tư, đường binh tốt tập kích bất ngờ đã mỏi mệt không chịu nổi, cũng cần có thời gian nghỉ ngơi, Thiên Tuế, không gặp Từ Huyễn sao”.

Dương Hạo cũng tiến lên trước nói: “Tào tướng quân nói phải lắm, nếu có thể ép Lý Dục cùng đường chủ động đầu hàng, không chiến mà khuất phục, thực tế tấn công sẽ khiến cho sinh linh kêu thán. Kim Lăng phồn hoa, không kém Khai Phong, nếu như ép hắn, Lý Dục học Lưu Kế Hưng của Hán Quốc, cho toàn bộ thành một bó đuốc, há không tiếc sao? Huống hồ, giờ kiên thành tuyệt đối không chỉ dựa vào nhân lực thì có thể leo lên mà tấn công, cần chế tạo ra các loại vũ khí công thành cũng cần có thời gian, giờ bọn họ cần thời gian để điều binh khiển tướng, ta thì cũng cần thời gian để chuẩn bị cho tốt, có thể tính được kế nào thì tính, còn về giảng hòa…trận chiến này đánh hay không đánh, cần xem xem Lý Dục hàng hay không hàng; Trận chiến này là thắng hay bại, cần xem xem thực lực mạnh yếu của song phương, Từ Huyễn chỉ khéo nói, có thể xoay đổi thời cuộc sao, hắn là ai chứ?”

Triệu Quang Nghĩa nhướn mày, mặt giãn ra vui vẻ nói: “Hai vị đại nhân nói đều có lý. Được, người đâu, đánh trống lên, kêu Từ Huyễn tới gặp ta”.

Chiến tướng trong lều lớn nhiều vô kể, ai ai cũng mặc bộ giáp, đứng trang nghiêm sừng sững như núi, nhìn vô cùng nghiêm túc, khí thế giết, khiến người ta phải khiếp sợ. Từ Huyễn đội cao quan, ngang nhiên vào lều, thấy tình hình không nề hà, ung dung tự nhiên đi đến. Đến trước mặt Triệu Quang Nghĩa, Từ Huyễn thi lễ nói: “Đường Quốc Từ Huyễn, bái kiến Tấn Vương”.

Triệu Quang Nghĩa cười hỏi: “Bổn vương phụng lệnh Hoàng thượng thảo phạt nhị thần, giờ binh đang vây thành Kim Lăng, Lý Dục không ra mà thỉnh tội, lại còn phái Từ đại học sĩ ra, xin hỏi có ý gì vậy?”

Từ Huyễn nghiêm túc đáp: “Tấn Vương nói vậy sai rồi, Đường Quốc ta đã hồi phục quốc hiệu, xưng Hoàng đế. Giờ chúa ta vẫn là Hoàng đế Đường Quốc, là độc nhất vô nhị với quý quốc quân thượng, đều là chí tôn, hà tất lại nói là nhị thần - bề tôi thờ hai triều đại (quan triều đại trước đầu hàng và ra làm quan cho triều đại sau)? Từ Huyễn phụng quốc thư, lần này đi sứ, gặp Hoàng đế bệ hạ quý quốc giáp mặt Trần Từ, Tấn Vương có thân thế cao quý, không phải là nhân vật bình thường, há lại coi đại sự quốc gia này như vậy là có ý gì?”

Triệu Quang Nghĩa bật cười nói: “Hóa ra Từ đại học sĩ lần này xuất thành xuất sứ đến Tống Quốc ta, lãnh thổ quý quốc giờ chẳng phải là trong thành Kim Lăng sao? Ha ha, thất kính, thất kính, thực sự thất kính, không biết Hoàng đế Kim Lăng quý quốc có lời gì không?”

Các tướng đứng trong trại đều cười ồ lên, Từ Huyễn vẫn rất bình tĩnh, cũng cười theo một lúc rồi điềm tĩnh nói: “Từ Huyễn phụng chỉ Hoàng đế ta, mong gặp được Hoàng đế bệ hạ Tống Quốc, hưu binh giải hòa. Nếu Tấn Vương làm chủ, thế thì Từ Huyễn sẽ đưa quốc thư cho Tấn Vương, bàn bạc với Tấn Vương”.

Nói rồi, Từ Huyễn mỉm cười, tay hơi cong, rút ra từ trong một cái quyển vải, tháo sợi lụa vàng ra, tiến lên một bước dâng.

Triệu Quang Nghĩa thấy quốc thư trong tay Từ Huyễn, hai hàng mày rậm rạp nhướn lên, mặt đen xì xì, tức giận vô cùng, nhưng không biết làm thế nào. Trong lều lặng ngắt như tờ, các tướng lĩnh không ai nói gì, lặng yên nín thở quan sát, Triệu Quang Nghĩa im lặng một lúc lâu, rồi bỗng bật cười, mặt mày vui vẻ nói: “Từ đại học sĩ nói gì lạ vậy, đại sự quân quốc Tống Quốc được quyết định bởi thánh chỉ, Triệu Quang Nghĩa nào dám làm chủ. Từ đại học sĩ lần này lấy thân phận quốc sứ tới gặp Hoàng đế của chúng tôi, bổn vương há dám ngăn cản, giờ đâu đâu cũng là loạn binh, con đường hướng bắc không hề an toàn, hôm nay trời cũng đã tối rồi, mời Từ đại học sĩ vào trong doanh trại bổn vương nghỉ ngơi tạm, sáng sớm ngày mai, bổn vương sẽ đích thân phái người đưa các người tới kinh”.

Từ Huyễn mỉm cười, nhận lại quốc thư, cung kính đáp: “Đa tạ Tấn Vương Thiên Tuế”.

Sau khi Từ Huyễn ra ngoài, văn võ tướng quân ra khỏi lều, Triệu Quang Nghĩa ngồi trước bàn, trán nhăn lại, tức giận, quát: “Ân Duy, vào đây”.

Một viên quan đứng trước lều bước lên phía trước, cung kính thi lễ. Người này là thân tín của Triệu Quang Nghĩa, nguyên là một công tào ở Khai Phong, người này vô cùng thông minh, lo liệu mọi việc rất được, Triệu Quang Nghĩa khong thể không mang theo một thân tín như này theo bên mình, hắn cùng ở trong quân trại, chỉ đứng trước lều nghe ngóng sự tình.

Triệu Quang Nghĩa dặn dò nói: “Ân Duy, ngươi mau chóng đem trăm tên đại hán biết sử dụng thông thuộc thuyền bè, chọn ra một cái thuyền nhanh, đồng thời chuẩn bị khoái mã xe kiệu, gặp nước dùng thuyền. Gặp đường dùng ngựa, hộ tống bọn họ, ngày đêm đưa tới Biện Lương, nếu như Từ Huyễn có ý kéo dài, ngươi phải coi chúng như mạng chó chết, kéo dài cũng phải kéo tới Biện Lương, không được để họ trì hoãn một ngày nào giữa đường “.

Ân Duy ngầm hiểu, lập tức nhận lệnh.

Triệu Quang Nghĩa hừ nhạt một tiếng, nói: “Từ Huyễn hao tâm tổn khí, muốn kéo dài thời gian cho Lý Dục, thì có thể thay đổi được gì chứ? Bổn vương giờ vừa tĩnh dưỡng binh mã, vừa chuẩn bị khí giới, đợi ngươi quay lại, lập tức sẽ san bằng Kim Lăng, dựa vào tài khéo ăn khéo nói của ngươi thì có tác dụng gì chứ! Ha ha!”

******

“Dương tả sứ, ôi, tại hạ khi ở trong thành nghe nói Dương tả sứ có phúc lớn mạng lớn, rơi xuống nước mà không chết, hôm nay được gặp, mới biết lời đồn có thật”.

Dương Hạo đi ra lều chủ tướng thì gặp một sứ tiết đoàn của Đường Quốc vô cùng to lớn, có mấy chục người với thân phận là tòng sứ, tướng từ trong lều đi ra nhìn thấy một sứ tiết đoàn, cảm thấy vô cùng lạ, đứng ở đó chỉ chỉ trỏ trỏ, bàn tán với nhau. Dương Hạo cũng dừng chân, vừa đúng lúc có một quan văn bước ra từ sứ đoàn thi lễ với hắn.

Dương Hạo nhìn, chẳng có chút ấn tượng gì về người này, liền ngạc nhiên nói: “Vị huynh đài là…Dương mỗ quen ngươi sao?”

Vị quan văn đó vuốt vuốt chòm râu cười nói: “Hạ quan là Lý Thính Phong là Đường quan Hồng Lư tự của Đường Quốc, đã từng cùng Dạ phu nhân tiếp đãi Dương tả sứ, Dương tả sứ quý nhân hay quên, hạ quan nghĩ tất là bất nhận ra”.

Dương Hạo cười nói: “Trí nhớ tại hạ kém quá…”

Hắn đang nói, Lý Thính Phong cười theo, tay trái vỗ vào hắn, nhét một tờ giấy lấy từ trong ống tay ra đưa cho hắn, Dương Hạo ngạc nhiên, cầm lấy giấy, cười nói: “Tại hạ vụng quá, không giỏi nhớ người, nói thế này, ta nhớ ra rồi. Thế…lần này Dạ Vũ Dạ đại nhân không cùng đi xuất sứ với Từ đại nhân sao?” 

Nguồn: http://4vn.eu/forum/showthread.php?71274-Lich-Su-Quan-Su-Bo-Bo-Sinh-Lien-Nguyet-Quan-Full-Text&page=80#ixzz201kMVjID

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#ngoc#tan