Bộ Bộ Sinh Liên 11

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Bộ Bộ Sinh Liên

Tác giả: Nguyệt Quan

Ebook by: Kiếm Giới

 Chương 427: Hồ phượng

Chiết Tử Du, Mộc Ân vội đến, thấy Dương Hạo dẫn theo một cô gái và một đại hán khôi ngô đi tới bên cạnh, không khỏi nhìn nhau, ngạc nhiên vô cùng. Tất cả mọi người đều nhìn Thiết Ngưu:

“Không liên quan đến ta, đại ca vừa thấy cô gái đó thì đã gọi cô ấy lên trên trả lời, sau đó tên thô bỉ kia thì chạy ra bảo vệ, rồi theo đại ca đi bên cạnh, ta cũng không biết nói đại ca đang làm trò quỷ gì nữa”.

Đám người không hẹn mà cùng nhìn về phía Chiết Tử Du, tình cảm giữa cô và Dương Hạo có mà như không, tướng lĩnh trong quân được coi là tương đối nghiêm túc cũng đã có cảm giác gì đó rất lạ, lúc này đương nhiên là muốn xem xem phản ứng của cô ra sao, Chiết Tử Du bị họ nhìn một cách ngờ vực, không nhịn được song lại cố gắng hít một hơi dài, lấy lại bình tĩnh.

Dương Hạo dẫn một nam một nữ đi ra, rồi tự nhiên hỏi: “Cô là…Lục cô nương?”

Cô gái này là Lục Tương Vũ là người vợ bị Đinh Thừa Tông vứt bỏ, Đinh Thừa Tông bỏ vợ, Dương Hạo biết chứ, hắn nghĩ rằng, Lục Tương Vũ sớm đã về nhà mẹ đẻ, song không ngờ lại gặp cô ta ở nơi này, lạ thật, bèn lệnh cho cô ta lên trước trả lời, Lục Tương Vũ liếc thấy cố nhân, xấu hổ, chần chừ không chịu tiến lên, binh sĩ thuộc hạ của Dương Hạo thấy cô gái này dám không nghe lời Tiết soái, liền kéo cô ả lên, lúc ấy một đại hán khôi ngô bước ra bảo vệ, Dương Hạo lúc này mới phát hiện ra có gì đó khác thường, thế là hắn gọi họ qua một bên tiến hành vặn hỏi.

“Ta…ta…” Nghe hắn gọi Lục cô nương, Lục Tương Vũ giật nảy người, nước mắt lăn dài trên má, mũi cô phập phồng, cô khẽ ngẩng đầu dậy nói: “Nô gia…nô gia đã từng gặp Dương đại nguyên soái."

Từng là chủ tớ, nay cảnh ngộ khó lường, nghĩ lại mà cũng thấy thực sự kỳ diệu. Dương Hạo trầm mặc một lúc rồi cười gượng nói: “Quả nhiên là cô, sao cô lại ở đây?”

Lục Tương Vũ thấy hắn không có ý nhạo báng gì và cũng không có ý chê mình hèn mọn, lúc này mới khẽ thở phào trong bụng, và kể lại mọi chuyện cho hắn nghe.

Hóa ra ngày hôm đó Lục Tương Vũ bị Đinh Thừa Tông ném cho một tờ hưu thư và đuổi ra khỏi Đinh gia, rồi vì Đinh Lão Nhị nghĩ cách hãm hại lấy tài sản của Lục gia, hại tới mức Lục lão gia tức mà chết, lúc đó cô ả giật dây từ trong, cho nên Lục gia không nhận cô con gái này nữa, và đuổi ra khỏi nhà. Thời tiết vào đông lạnh buốt, Lục Tương Vũ lang thang trên đường, và nhảy xuống sông tự vẫn, song lại được Trịnh Thành Hòa Trịnh đại hộ cứu vớt.

Trịnh Thành Hòa Trịnh cứu mỹ nhân, thích thú cũng không vội đưa về nhà, trước tiên là mang cô đến khách **** ở Bá Châu, uống hai bát nước gừng cho ấm người, mời lang trung khám bệnh, và cuối cùng thì Lục Tương Vũ hấp hối đã được cứu sống trở lại. Lục Tương Vũ là một tiểu thư khuê các, dung mạo vốn xinh đẹp, tính tình không hề phàm tục, Trịnh Thành Hòa Trịnh càng nhìn càng thấy thích, hỏi rõ chân tướng vì sao cô tả lại nhảy xuống sông tự vẫn, và đổi danh tính của ả, tự đặt cho họ Phong tên Tử Diên, Trịnh Thành Hòa Trịnh chỉ nghe nói cô bị người ta ruồng bỏ, thì đã thấy thích, nào có bận tâm tới chuyện thật giả, bảo nha đầu qua chăm sóc nàng chu đáo, qua vài ngày đã chút quen thân, đã có ý muốn nàng làm thiếp.

Trịnh Thành Hòa Trịnh xét về tướng mạo thì xấu xí, thô bỉ với người khác, nhưng đối với Lục Tương Vũ thì lại hoàn toàn khác, nếu như tìm cái chết không thành, thì suy nghĩ tự sát cũng bị tan thành mây khói, nghĩ đi nghĩ lại, không còn cách nào, đành đồng ý.

Khi nàng ta biết được Trịnh Thành Hòa Trịnh chính là người trang viên mua đất nhà Đinh gia, không khỏi vừa xấu hổ vừa nhục nhã, nào dám xuất đầu lộ diện với hắn, ẩn mình trong nhà cao cửa rộng chưa bao giờ dám nhìn mặt người. Trịnh Thành Hòa Trịnh thấy mình thật kỳ diệu, giỏi giang, thấy nàng quy tắc lễ phép như vậy, nên đâm ra càng thấy thích.

Trịnh Thành Hòa Trịnh vốn là một thương nhân bộ lạc du mục miền bắc, buôn lậu da trâu dê ngựa mà giàu, không chỉ am hiểu kinh doanh buôn bán đất đai, hắn tuy muốn định cư, không muốn làm việc mạo hiểm kia, nhưng việc không như ý mình muốn, vừa không tiện lo liệu nông trang, vừa không có cửa tiêu thụ lương thực, thêm nữa lại có nỗi hận trong lòng, ngầm giở trò khi trồng hoa màu, nên sau khi thu hoạch thì phát hiện bị thiếu hụt, lương thực lúc ấy bỗng không bán đi được, nợ một khoản kha khá.

Trịnh Thành Hòa Trịnh luống cuống, vội vàng đưa ra một quyết định, đó là tìm người hạch toán sản nghiệp ra, sau đó lại một lần nữa về Tây Bắc theo nghiệp cũ, đi đi lại lại, nhiều thứ một lần nữa lại phải mua thêm, rất nhiều cách đều không ăn thua, tiền vung như nước, kinh tế trong tay thì như trứng chọi đá. Lúc hắn đến Ngân Châu cùng với tên Tiếu Đắc Lợi buôn lậu ngựa ở vùng đó làm ăn có lời, vốn mua da trâu dê ngựa không đủ, vì thấy tên họ Tiếu này thèm nhỏ rãi tiểu thiếp của mình, nên coi nàng ta là món hàng, kiếm lời.

Lục Tương Vũ không ngờ mình lại rơi vào bước đường bị người ta bán như một món hàng hóa, ả nản lòng, không muốn sống cùng tên họ Tiếu đó, tên họ Tiếu này là người Khiết Đan, thường xuyên làm ăn buôn bán ở Ngân Châu, xem ra chính là vì Tống quốc và Khiết Đan cùng cấm vận chuyển quân tư quan trọng, da ngựa là hàng cấm giao dịch, cho nên buôn lậu là con đường có lời nhất, thế là hắn định cư luôn ở Tây Bắc, làm nghề buôn ngựa, thông qua Tây Bắc tuồn hàng đến Trung Nguyên và kiếm lời từ giữa, còn Trịnh Thành Hòa Trịnh chỉ là tên buôn nhỏ giọt, còn hắn mới là một tên thương nhân buôn lậu đại tài.

Tiếu Đắc Lợi là người miền bắc, không giống như đàn ông Trung Nguyên có sự kỳ thị với người đàn bà đã có chồng, chính thiếp của hắn mất sớm, vì đem lòng yêu mên Lục Tương Vũ, nên đưa cô từ thiếp lên làm chính thiếp luôn, Lục Tương Vũ thấy hắn thành tâm thành ý đối xử rất tốt với mình, chốn phồn hoa phù dung nàng ở, đã không còn là thời thiếu nữ ngây thơ lãng mạn nữa, và nàng cũng cắn răng chịu đựng theo hắn, Lục Tương Vũ có hiểu biết chữ nghĩa, lại xuất thân từ gia đình sĩ thân thương nhân, nên rất thông thạo kinh doanh, vợ chồng đầm ấm, gia sản thì càng làm càng nhiều, vậy nên cũng được trượng phu nể trọng rất nhiều.

Không ngờ sau đó không lâu, Khánh Vương từ phía tây trốn đến đây, giết phòng ngự sử ở đây, chiếm luôn thành Ngân Châu, các hào thân phú thương, các hộ giàu có Ngân Châu đều bị càn quét, vì Tiếu Đắc Lợi là người Khiết Đan, việc buôn lậu ngựa lớn như vậy nên có liên can rất lớn tới quân đội, còn giữ được cái mạng là may lắm rồi.

Nhưng dù thế nào đi nữa, hắn cuối cùng cũng là một đại thương nhân có của mà vô quyền, có một ngày Lục Tương Vũ bị một viên đại tướng của Khánh Vương Da Luật Hắc Thạch nhìn thấy, thế là tên Da Luật Hắc Thạch này đâm ra si mê Lục Tương Vũ, Tiếu Đắc Lợi chỉ là một thương nhân đơn thuần, để lộ ra ý muốn nhượng Lục Tương Vũ sang cho hắn, Tiếu Đắc Lợi tuy cũng là thương nhân, song vẫn có nghĩa khí hơn nhiều so với tên Trịnh Thành Hòa Trịnh, sao có thể dâng vợ mình bằng hai tay cho tên kia được, Da Luật Hắc Thạch tuy chưa rút đao tương hướng, song hắn cũng không ngừng tạo áp lực, khi mà chưa đâu vào đâu thì Dương Hạo lại dẫn binh đến dưới thành Ngân Châu.

Da Luật Hắc Thạch ngày ngày chinh chiến thủ thành, tinh lực tràn đầy, và cũng không quyên tiểu nương tử Tiêu gia, thường xuyên phái thân binh đi đến trước cửa quấy nhiễu, vừa đấm vừa xoa, bức Tiếu Đắc Lợi đi vào khuôn khổ, Tiếu Đắc Lợi đi vào đường cùng, lại nghe nói nam viện đại vương thống Điệp Lạt lục viện bộ năm vạn tinh binh đến thành Ngân Châu, và Ngân Châu này chưa chắc đã giữ được, một khi thành bị phá, có loạn binh, người Khiết Đan yên phận trong tay che chở của Khánh Vương sợ là cũng bị họ coi là phe cánh của Khánh Vương, lúc đó thì còn kham khổ hơn, bắt đầu nảy sinh ý nghĩ chạy trốn.

Lúc này đúng lúc đội quân ngoài thành cho hắn một cơ hội, Chiết Tử Du đưa ra kế lỗ hổng vây thành, thả ra một mặt thành không vây mà cũng không tấn công, có ý để đường ra cho thủ quân trong thành chạy trốn, trong thành điều động binh mã, nhanh hơn ngoài thành cho nên Khánh Vương bèn đưa quân chủ lực lên tác chiến với ba mặt thành, quân thủ Tây Bắc đều là người già kẻ yếu ở Ngân Châu.

Vài người này không thể đánh nhau được thủ đoạn cẩu thả cơ bí mật lại thêm cái việc mà Tiếu Đắc Lợi làm là buôn lậu, mấy viên tướng trong số họ đều có quen biết cả, vậy nên dúi cho lượng vàng, liền gật đầu như gà mổ thóc cho mấy tên thân thuộc qua, để họ ra khỏi cái lưới, không ngờ lại bị đám người ngựa Dương Hạo mai phục ngoài thành tóm được.

Lục Tương Vũ xấu hổ, đem mọi chuyện kể lại một lần cho hắn nghe.

“Đại nguyên soái, nô gia đã cải tà quy chính, bắt đầu lại từ đầu làm người tốt, trước đây nô gia có chỗ nào không phải với nguyên soái vẫn mong đại nguyên soái khoan dung độ lượng, giơ cao đánh khẽ, tha thứ cho hai vợ chồng ta”.

Dương Hạo thấy một tên buôn ngựa có râu quai nón đứng bên cạnh, lại nhìn sang Lục Tương Vũ nước mắt như mưa, bỗng cười nhạt một tiếng nói:

“Hắn là người Khiết Đan, đưa bao nhiêu người nhà từ trong thành trốn ra ngoài, sao lại có thể được chứ? Đây chắc chắn là kế của Khánh Vương, không hiểu là định giở trò gì, bổn soái há có thể trúng độc kế của hắn chứ, ngươi là một người phụ nữ chân yếu tay mềm, bổn soái không giết ngươi, nhưng hắn…”

Dương Hạo giữ chặt chuôi kiếm, rồi từ từ rút kiếm ra, chỉ vào phía trước, dĩ nhiên là tên họ Tiêu đó không sợ, Lục Tương Vũ hoảng hốt mở to mắt chạy tới trước che chắn cho Tiếu Đắc Lợi, khẩn cầu:

“Đại nguyên soái, lời của nô gia là thực, đại nguyên soái khai ân”.

Tiếu Đắc Lợi đẩy Lục Tương Vũ qua một bên nói: “Nương tử, ta là người Khiết Đan, rơi vào trong tay họ, thì không còn đường sống đâu.

Nàng đã giữ giọt máu của ta, đó là cốt nhục của Tiêu gia ta, ta có chết cũng cam lòng, nhưng chỉ mong nàng có thể có một con đường sống, bảo vệ lấy hậu thế của Tiêu gia, ta chỉ cần vậy thôi”.

Hắn bước dài lên phía trước, nhướn mày dữ tợn nhìn Dương Hạo, lớn giọng nói: “Ngươi là đại quan trong quân đội Lô Châu, nói lời tất giữ lời, ngươi giết ta rồi, thì phải đảm bảo cho vợ con ra được bình an, nếu không Tiêu mỗ chết rồi cũng sẽ không tha cho ngươi, đâm đi!”

Hắn xé áo, lộ ra bộ ngực trần trụi, nghênh đường kiếm của Dương Hạo, Lục Tương Vũ khóc thét: “Không được”, rồi nàng ta kéo lấy Tiếu Đắc Lợi, hét về phía Dương Hạo nói: “Đại nguyên soái nếu như cơn giận chưa nguôi thì cứ giết nô gia đi, chỉ xin nguyên soái khai ân, bỏ qua trượng phu của nô gia”.

Tiếu Đắc Lợi không chần chừ nói: “Nương tử, nói năng hồ đồ gì vậy, hắn đã đồng ý bỏ qua nàng, dựa vào thân thế của hắn, tất sẽ không thất tín…”

Lục Tương Vũ thút thít nói: “Nô gia sai nửa cuộc đời, giờ cuối cùng cũng tỉnh ngộ, ân tình phu quân dành cho nô gia sâu nặng như vậy, nếu như phu quân chết đi rồi, nô gia sống một mình cả đời này sao? Nếu nguyên soái không khai ân, thì nô gia sẽ đi xuống suối vàng theo phu quân”.

Dương Hạo khẽ thở dài, từ từ thu kiếm lại nói: “Lục Tương Vũ…hôm đó nhảy xuống sông tự vẫn, giờ đã được cứu sống. Cô có ý này, Dương mỗ cũng sẽ không dồn các người vào đường cùng nữa, được, thả họ ra!”

Lục Tương Vũ ngây người, vui mừng khôn xiết quỳ xuống, đại hán đó cũng ngây người, bị Lục Tương Vũ kéo vạt áo cùng quỳ xuống tạ ơn.

Dương Hạo chăm chú nhìn về phía thành Ngân Châu, rồi ánh mắt lại quay sang hai người họ, nói: “Nhà ngươi là người Khiết Đan, lại có chút quan hệ với quân đội Khánh Vương, chắc chắn là sẽ biết ít nhiều tin tức thủ quân ở trong thành chứ?”

Tiếu Đắc Lợi dù sao cũng là thương nhân, giỏi quan sát, vừa nghe thấy Dương Hạo hỏi vậy, vội nói: “Đại nguyên soái chắc chắn bỏ qua cho vợ chồng ta, đại ơn này sẽ báo, không biết đại nguyên soái muốn biết tin gì, Tiêu mỗ nếu như biết, sẽ nói với ngài”.

Dương Hạo mặt giãn ra nói: “Trong thành giờ còn dư bao nhiêu binh mã? Giờ người nào làm chủ việc thủ thành? Còn nữa, vị trí đóng quân là hình gì, không biết những tin này ngươi có biết hay không?”

Tiếu Đắc Lợi nghĩ một lát, chần chừ nói: “Nghe nói trong thành binh mã khi mà xuất ra quân chủ lực vây thành theo lệnh của đại nguyên soái lần đầu, tổn thất về binh sẽ không nhỏ, và hao tổn ấy không dưới ba bốn ngàn quân, ta cũng chỉ nghe nói có vậy, còn không biết cụ thể ra sao”.

Dương Hạo trong bụng biết rõ, nghe hắn nói không phải là nói dối, nên gật đầu.

Tiếu Đắc Lợi lại nói tiếp: “Mấy ngày nay quân thủ trong thành bị thương vong, số người chết cũng không dưới vạn người, giờ quân chính trong thành chỉ còn dư dưới hai vạn quân mà thôi, song họ đang đi bắt dân đinh khắp thành, những người này vốn hiểu chút võ nghệ, và cũng hiểu thuật chiến trận, dùng để làm quân thủ thành cũng dư dả, giờ mỗi hộ tóm lấy một trai đinh, tập hợp lại thì cũng có đến ba vạn tân quân, phân ra khắp đầu thành, một chính quân kèm một phụ quân, nếu như có thương vong, còn có thể gọi nhập ngũ, binh lực, sợ là không thiếu, lương thảo trong thành thì vô số, lại có thể dùng nhân lực, Khánh Vương mạnh vô cùng nên không sợ, tự cho rằng tướng quân suy sụp nguyên nhân là như vậy”.

Dương Hạo giật mình: “Trong thành còn có bao nhiêu hộ dân nữa?”

Hắn cũng biết dân chúng lúc này phần lớn là tập trung một chỗ, một hộ thực ra không phải theo kiểu kết cấu gia đình một đôi vợ chồng một đứa con như bây giờ, mà giờ mỗi hộ trong thành rút ra một trai đinh, và con số ấy lên đến ba vạn binh mã, những nhân vật giàu có và có quyền thế thì có thể dâng vàng bạc, cho thấy trong thành ít nhất còn có ba vạn hộ. còn nhớ đội quân Mông cổ bào thạch vô số, có thể chinh quán chiến, nhưng họ tấn công một tòa thành cô độc mà dùng thời gian là sáu năm, cuối cùng vẫn là Lữ Văn Hoán chủ động đầu hàng, lúc này mới chiếm được thành, nhưng có thể thấy nếu trong thành binh lực dồi dào, lương thực không phải lo, thì thủ thành lại đắc kỳ pháp thì phải biết là lợi hại thế nào, hắn không có đội binh lực dồi dào như đại quân Mông Cổ, như thế có đánh, sợ là thành Ngân Châu chưa đổ thì hắn đã đổ trước rồi.

“Ha ha ha, phu nhân bình thân, mau mau bình thân, không cần đa lễ”.

Triệu Quang Nghĩa nói rồi vội chạy đến đỡ, Tiểu Chu Hậu vội thối lui một bước, khẽ đứng dậy.

Triệu Quang Nghĩa thăm dò Tiểu Chu Hậu một lát, hai mắt hắn sáng lên. Hắn đã không động lòng thì thôi, một khi mà động lòng rồi thì có nghĩa hắn đã ngắm được người phụ nữ trước mặt mình, ôi thật là…Nhìn nhất cử nhất động của nàng, ánh mắt uyển chuyển, thậm chí là bộ dáng vội vàng thối lui của nàng, một cái nhíu mày cũng khiến cho người ta lao đao.

Triệu Quang Nghĩa định đỡ song không thành, hắn nhìn bộ dáng yểu điệu của Tiểu Chu Hậu, mắt chợt sáng lên, mỉm cười hỏi: “Trịnh quốc phu nhân không phải sợ hãi, hôm nay kỳ thực chính là Trẫm yêu cầu gặp nàng”.

Tiểu Chu Hậu mặt không chút biểu cảm, vội nói: “Quan Gia, thần thiếp xin bái kiến”.

“Được lắm!”

Triệu Quang Nghĩa mỉm cười bước vào, nhìn thấy dung nhan xinh đẹp của nàng, làn da trắng trẻo láng mịn, hắn muốn tiến sát vuốt ve. Thực giống như hắn hồi còn trẻ lần đầu đưa mỹ nữ vào phòng, trái tim hắn lúc này cũng dao động và có cảm giác thèm khát hệt như lúc ấy. Triệu Quang Nghĩa thấy mình bị kích động, không kìm chế được bật cười: “Giờ đã bao nhiêu tuổi rồi, phu nhân xinh đẹp cũng không phải là chưa trải qua, hôm nay sao lại như vậy chứ? Đúng rồi, là danh vọng và thân phận cô ấy, mỹ nhân trong thiên hạ đều vậy, nhưng có vài mỹ nhân giống như cô ấy, sẽ càng kích thích đàn ông muốn chinh phục cho bằng được?”

Triệu Quang Nghĩa cố kìm chế dục vọng của mình, ôn nhu nói: “Phu nhân có thẻ biết Trẫm tại sao lại gọi nàng đến không?”

Tiểu Chu Hậu nghe giọng nói của hắn mập mờ, liền nâng cao cảnh giác, nhưng nghĩ hắn là Đế vương một nước, thân phận vô cùng cao quý, thanh danh xưa nay cũng rất tốt, chắc sẽ không có cử chỉ của tên hôn quân, lúc này mới chắp tay, nhỏ nhẹ nói: “Thần thiếp ngu muội, thần thiếp không biết”.

“Ồ, nếu như phu nhân ngu muội, thì thiên hạ này có người con gái nào thông minh được nữa chứ?”

Ánh mắt Triệu Quang Nghĩa dần dần không che dấu được dục vọng, mỉm cười nói: “Tiểu Chu Hậu Nam quốc, thông minh xinh đẹp, thiên hạ ai không biết chứ, Trẫm ngưỡng mộ phu nhân đã lâu, trước đây, Trẫm là Nam nha phủ doãn, không tiện qua lại với phu nhân, giờ thì…ha ha…”

“Bệ hạ…”

Tiểu Chu Hậu thông minh cỡ nào, nghe đến đây đã biết có gì không ổn, không khỏi hoảng sợ ngẩng đầu lên, ánh mắt hàm ý vẻ khẩn cầu. Ánh mắt trong vắt như làn thu thủy quyến rũ vô ngần, thêm nữa là khuôn mặt non nớt, nhìn mắt Triệu Quang Nghĩa chỉ thấy vẻ bị mê hoặc.

Hắn không chịu nổi tiến thêm một bước, ngón tay run run nâng cằm Tiểu Chu Hậu lên, cười dâm dê nói: “Phu nhân à, nếu Trẫm có thể cùng với phu nhân khi ăn nghe nhạc, khi đứng được sờ bả vai, khi ngồi được xoa mông nàng, đêm đêm lưu luyến bên nhau, ngày ngày ân ái, thì trên thế gian này có gì hoan lạc hơn”.

“Bệ hạ…”

Tiểu Chu Hậu sợ hãi mặt trắng bệch, vội vàng thối lui nói: “Bệ hạ cửu ngũ chí tôn, là tấm gương cho thiên hạ, thần thiếp…là phu nhân Lý Dục Lũng tây quận công mà”.

Triệu Quang Nghĩa mỉm cười tới sá hơn nói: “Phân thế có thể đổi, cảnh ngộ cũng có thể cảm biến mà.

Trẫm nghe nói Lũng tây quận công lãng phí vô độ, nàng còn muốn dựa vào đó sao, đến quần thần cũng đến tận cửa đòi nợ, hắn có thể lo cho nàng ăn ngon mặc đẹp không? Có cho nàng châu báu ngọc quý không? Có đem lại mỹ phẩm cho nàng không? Haiz! Người con gái xinh đẹp như nàng, nếu như ăn ngon mặc đẹp, thì thật là tội lỗi, nàng không muốn thay đổi vận mệnh của mình sao?”

Tiểu Chu Hậu đã chạm phải bức bình phong, không còn đường thối lui nữa, hai tay nàng đưa lên che trước ngực, sợ hãi nói: “Thần thiếp là vợ của hàng thần, Bệ hạ là quân phu, chuyện hoang đường đó, Bệ hạ sao có thể làm chứ?”

Triệu Quang Nghĩa cười ha hả nói: “Hoang đường? Chu công dâng tỉ cơ làm thiếp, Đường Thái Tông dâng Tiêu Hậu làm phi, Hoàng huynh dâng Hoa Nhị phu nhân làm tần, có gì mà không thể chứ? Nào có gì tổn hại đến thanh danh nào? Trẫm là cộng chúa thiên hạ, ai dám nói ra nói vào? Hoang đường ư? Khi việc đã thành, xem xem còn gì là hoang đường nữa không?”

Tiểu Chu Hậu bị hắn châm chọc rưng rưng nước mắt, vừa xấu hổ, nàng đã chịu nhục nhã như vậy, vội đẩy mạnh Triệu Quang Nghĩa, chạy nhanh ra ngoài, Triệu Quang Nghĩa giơ tay ra chặn lại “ba ba” một tiếng, triều phục bị hắn xé rách, vì nắng gắt cuối thu, quần áo triều phục không nhiều, Triệu Quang Nghĩa nhìn thấy áo lót của nàng, dục hỏa càng nổi lên, bước lên phía trước, hai tay giữ chặt lấy nàng, Tiểu Chu Hậu sợ hãi, quần áo trên người đã tuột mất nửa, chỉ còn thừa lại quần lót trắng quấn quanh.

“Cứu!”

Tiếng hét hoảng sợ của Tiểu Chu Hậu, cơ thể trần truồng, khó có thể gặp người, cuống quýt chạy trốn, vớ vội lấy bộ quần áo cung trang trên giá, quần lót trắng không thể ôm lấy cơ thể mềm mại, cơ thể trắng ngần lộ ra, da thịt tươi nhuận, đôi chân thon dài thẳng tắp, khiến người ta nhìn cả ngày không chán, chạy trốn như con thiêu thân, đôi mông trắng hồng Triệu Quang Nghĩa trở nên thú tính, chỉ cảm thấy mở cờ trong bụng, miệng lưỡi khô, hắn đuổi theo…

Tiểu Lục, ngày mai ngươi tiếp tục thả diều ở Thượng Phong đầu, cố gắng truyền đơn vào trong thành”.

“Vâng, nhưng…đại ca, cái này có dụng được không ạ?”

Đương nhiên là được rồi, bỏ bao nhiêu sức lựcra đấy, thành phần thủ quân trong thành rất phức tạp, giờ nguyên thủ quân Ngân Châu, theo tin tình báo mà Tiếu Đắc Lợi nói ta có thể thấy, họ vốn không được Khánh Vương coi trọng, hơn nữa bị binh Khiết Đan ức hiếp, sớm đã oán hận, họ phải đầu quân vào Khánh Vương vì họ còn có gia quyến trong thành, song sẽ không hàng Khánh Vương, bọn họ vốn không hề trung thành với Khánh Vương, chúng ta ngoài tấn công bằng lực , trong dùng kế tấn công bằng lòng người, họ tất sẽ dao động thôi.

Ngoài binh mã Khiết Đan, còn có quân chủ lực là thanh niên trai tráng trong thành chiêu mộ được, những người này càng không trung thành với Khánh Vương, chỉ là bị bức bách mà binh đao thôi, cũng có thể lôi kéo được, lát nữa ta đến chỗ Da Luật Tà Chẩn một chuyến, bảo hắn viết vài chữ Khiết Đan rồi truyền đến cho quân Khiết Đan trong thành, chỉ cần người không chết, họ cũng chưa chắc là bền chắc như thép được”.

“Vâng ạ, nhưng…trong số đó có vài thứ viết truyền đơn bừa bãi, ai không nhìn hiểu được.

Dương Hạo mỉm cười nói: “Ngươi chớ hỏi nhiều, mấy truyền đơn này ngươi chỉ cần phát đi, đại ca tự có diệu kế”.

“Tuân lệnh!”

“Mộc chỉ huy, Kha đoàn luyện, hai người vẫn làm theo cách của mấy ngày nay, chỉ đánh nghi binh, giảm thiểu thương vong, chỉ mượn cơ hội diễn binh, tập luyện thuật công thành, hiểu chưa?’

“Tuân lệnh!”

Lúc này có một tên tiểu hiệu chạy tới run rẩy nói: “Tiết soái, người Ngân Châu đến rồi”.

“Gọi vào!”

Được một lúc thì thấy một dáng người gầy, dáng mạo xấu xí, mắt tam giác, quai hàm nhô xương ra, mặt vàng nghệ đi vào trong lều, thấy Dương Hạo hắn khom người thi lễ, giọng khàn khàn nói: “Ti chức phụng lệnh ngày đêm đuổi tới đây, chờ đợi sự dặn dò của tiết soái”.

Dương Hạo chau mày, nói với hai bên: “Các người lui ra!”

Đám thuộc hạ lui ra ngoài, Dương Hạo đặt tấm bản đồ xuống, đứng dậy nói: “Ngươi theo ta đến đây”.

Lều của Dương HẠlều nối tiếp lều, phía trước là nơi bàn bạc quân cơ đại sự, sau khi vén rèm lên, thì vào nơi nghỉ ngơi của hắn, Dương Hạo dẫn gã này vào trong hậu phòng, nhìn hắn từ trên xuống dưới, nhíu mày hỏi: “Sao lại chỉ có mình ngươi đến?”

Gã đó lắp bắp nói: “Khởi bẩm đại soái, đại soái tấn công Ngân Châu, Phi Vũ cũng bôn ba khắp nơi, Hạ Châu, Ngân Châu và các nơi khác đều cần thăm dò, người thì có hạn, có võ nghệ cao cường, người phù hợp với yêu cầu đại nhân có hạn, thuộc hạ chỉ có một mình, song lại là người phù hợp với yêu cầu của đại soái”.

Dương Hạo thầm nghĩ: “Người không thể tướng mạo, người trên giang hồ dị sĩ thật nhiều, đại ca nếu chỉ phái mình hắn đến, chắc chắn là cũng rất tín nhiệm”.

Dương Hạo đổi sắc mặt, hòa khí vỗ vai hắn, nói: “Được, ngươi đã nói vậy, bổn soái đương nhiên là tin rồi, hai năm nay bổn soái không thể về Trung Nguyên, Phi Vũ tuy là bổn soái sáng lập, mới vào có rất nhiều anh hùng hào kiệt, bổn soái cũng không hiểu rõ. Đến đây nào, ngồi đi, ta bàn bạc”.

Dương Hạo vẫy hắn ngồi trên giường, gã ngày nhìn đông nhìn tây, như có gì không tự nhiên lắm, Dương Hạo chỉ nói hắn ngồi cùng với thượng quan, cho nên trong lòng thấp thỏm, hắn có ý bị lung lạc, đương nhiên càng thân thiết, bèn nói: “Bổn soái có một chuyện quan trọng, muốn ngươi ẩn vào thành Ngân Châu làm, nếu việc này làm tốt, bổn soái sẽ đoạt châu dễ như trở bàn tay.

Ngươi vừa đến, cũng thấy tình hình của thành, có thể nắm chắc phần mười lẻn vào được thành không?”

Người đó nói: “Tòa thành to như vậy, phòng thủ lại nghiêm mật, chắc có lỗ hổng, mười người trăm người khó vào thành, thuộc hạ chỉ có một mình nếu lẻn vào,không phải là chuyện quá khó, song không biết đại soái muốn thuộc hạ làm gì? Lẽ nào…lẽ nào là hành thích Khánh Vương?”

Dương Hạo cười ha ha nói: “Có ngươi mới nghĩ vậy, sợ ngươi không làm nổi thôi. Nếu thành Ngân Châu ta có thể vào được, phủ viện lạc Khánh Vương có hạn, ngươi muốn lẻn vào cũng khó, nào đâu có chuyện dễ dàng cho ngươi hành thích? Nếu như bảo ngươi lẻn vào trại ta hành thích bổn soái, ngươi có làm được không?”

Mắt hắn sáng lên, sợ hãi nói: “Thế thuộc hạ tối nay thử xem”.

Dương Hạo dở khóc dở cười, Đinh Thừa Tông phái đến người nào thế này hả trời? Thực thiếu trí tưởng tượng, hắn vội giữ chặt lại, nói: “Được rồi, được rồi, không cần thử, ta cần ngươi vào thành, không phải là muốn ngươi đi giết người, mà là đi thực hiện kế sách”.

“Thực hiện kế sách?”

“Đúng vậy, kế ly gián! Ngươi đưa tai lại đây, bổn soái nói cho ngươi rõ”.

Gã đó mặt vàng vọt chần chừ giây lát rồi ghé tai về phía Dương Hạo, Dương Hạo bèn thì thầm to nhỏ gì đó vào tai hắn, nói được vài câu, mắt Dương Hạo bỗng nhìn chằm chằm vào má hắn, thấy má hắn trắng nõn hoàn toàn khác với màu da, mắt không khỏi nghi hoặc, hắn vội khịt khịt cái mũi, hình như hắn ngửi được mùi hương, sự nghi ngờ càng rõ rệt, giọng nói ngày càng nhỏ, gã mặt vàng ấy không nghe thấy gì càng ghé sát tai vào và thúc giục: “Đại soái nói gì vậy? Thuộc hạ nghe không…ôi!”

Hắn chưa nói hết câu bỗng giật mình kêu lên một tiếng, bàn tay thô to của Dương Hạo đã giữ chặt lấy cổ hắn, lớn tiếng quát: “Ngươi rốt cuộc là ai?”

Gã mặt vàng ngây người ra, người giãy dụa, hắn khẽ quay đầu lại, mắt tam giác của hắn sáng lên và khẽ cười, lộ vẻ đắc ý vô cùng, rồi trở nên xảo quyệt nói: “Hì hì, ngươi giờ mới phát hiện ra sao? Nếu người ta lúc nãy muốn giết ngươi, ngươi nói xem ta có làm được không, tiết soái đại nhân…”

***

Tiểu Chu Hậu cầm lấy quần áo, chạy trốn Triệu Quang Nghĩa vào góc bình phong.

Triệu Quang Nghĩa vui mừng, chỉ thấy mỹ nữ như đang trêu đùa mình, và như vậy chỉ tổn làm trỗi dậy cái bản năng vốn có của người đàn ông trong lòng hắn, nó hừng hực tiến tới Tiểu Chu Hậu, dù sao đi nữa thì đây cũng là thâm cung của hắn, như vậy Tiểu Chu Hậu có chạy đằng trời, không có lệnh của hắn thì không một ai dám đến xía mũi vào làm gì, hắn cởi bỏ áo khoác ngoài, đuổi theo Tiểu Chu Hậu, thỉnh thoảng hắn còn phun ra vài câu dâm tục, Tiểu Chu Hậu trong lòng chỉ có một mình Lý Dục, mà Lý Dục viết thơ từ thì miễn chê, bình thường nói chuyện cũng thêm thơ ca hoa lá cành vào, ngay cả chuyện giường chiếu cũng rất lãng mạn như thi như họa, như vậy thì nàng sao có thể chấp nhận được một Triệu Quang Nghĩa hung hãn, cố kỵ thế này, những lời nói thô tục mà cũng nói được, nàng bịt tai lại, chạy loạn lên như con chuột, biết mình không còn chỗ nào chạy được, sợ dừng lại lại bị hắn xông đến lăng nhục, những ọt nước mắt lăn dài trên má.

Triệu Quang Nghĩa chơi trò rượt đuổi thấm mệt, hắn dừng lại thở hồng hộc, mồ hôi đầm đìa, Triệu Quang Nghĩa đứng thẳng dậy, cố gắng kiềm chế lại cơn dục vọng, nói: “Nữ Anh, nàng không cần trốn nữa, nàng nên biết, Trẫm muốn có nàng thì nhất định sẽ đoạt được nàng, trên dưới người trong nhà nàng đều nằm trong tay ta, Trẫm chỉ cần lệnh một câu thôi, sống là sống mà chết là chết, nàng có chốn cả đời được không?”

Tiểu Chu Hậu tức giận nói: “Thần thiếp thà chết cũng không chịu sự làm nhục của bệ hạ”.

Triệu Quang Nghĩa cười nham hiểm, nói: “Nhưng Trẫm không để nàng chết!” Rồi hắn đột nhiên bước nhanh đến, Tiểu Chu Hậu vừa dừng nói, vừa mặc quần áo lại, Triệu Quang Nghĩa bỗng đánh tới, Tiểu Chu Hậu trốn không kịp, cánh tay đã bị hắn ôm chặt lấy, Tiểu Chu Hậu sợ hãi kêu lên, năm ngón tay cào vào mặt Triệu Quang Nghĩa, Triệu Quang Nghĩa nhanh tay nhanh mắt, ôm lấy tay nàng, còn tay kia sờ luôn vào ngực nàng, lần mò xuống dưới.

Hắn dâm dục bùng cháy, cầm chặt lấy hai tay Tiểu Chu Hậu, đang lúc cúi người xuống liếm láp bộ ngực của nàng thì có một tiếng ngoài điện, hắn quát: “Cái gì vậy hả, ai dám ngăn cản?”

“Bệ hạ, bệ hạ, ngài không được như vậy, Quan Gia nghiêm dụ”.

“Cút ngay, ngươi thì hiểu gì, lẽ nào ta cũng không là được? Khi nào ta phải gặp cha ta, phải cho các ngươi bẩm này nọ?”

“Bệ hạ, hôm nay không như hôm qua, Quan Gia là đương kim thánh thượng, bệ hạ…ôi, ngăn Hoàng tử lại, mau ngăn lại…”

“Đức Sùng? Đứa trẻ này lại làm loạn cái gì vậy?” Triệu Quang Nghĩa vừa nghe thấy vậy, dục khoái mất tiêu, vội bỏ người Tiểu Chu Hậu ra, Tiểu Chu Hậu vội vàng chạy nhanh mặc cung trang vào.

Triệu Quang Nghĩa mau chóng ra Hồi Xuân điện, thấy tấn chức nội thị đô tri cố chặn ngang lấy Triệu Đức Sùng, hai tiểu hoàng môn bên cạnh giữ chặt lấy vai nó, khiến Triệu Đức Sùng cười toe toét, Triệu Quang Nghĩa không khỏi nổi giận, lớn tiếng quát: “Đức Sùng, thân là hoàng tử, không biết thể diện, ở chỗ này làm loạn chuyện gì vậy hả?”

******

Dương Hạo nhìn cái tấm không có gì nổi bật đó, đáng khinh, quyến rũ, mặt khẽ cười, rồi bỗng cười vui vẻ nói: “Hóa ra là cô?”

“Đương nhiên là tôi rồi”.

Gã mặt vàng cũng cười: “Phải dấu tung tích, chuyện đêm vào nhà người ta ngoài Trúc Vận ra thì còn có ai là thích hợp nữa đây? Ngươi cho rằng Phi Vũ một tên mật thám có thể đột nhập doanh trại địch vào lúc nửa đêm? Tên đó ta đang huấn luyện, chưa đầy thời gian hai năm, đến chút da lông cũng không học được, thì có thể làm được chuyện gì to tát?”

Cô vừa nói vừa giải thích cặn kẽ thêm, điệu bộ, cử chỉ khi nói như khóe mắt, chóp mũi, chiếc miệng. Tuy da thịt vẫn thô ráp, song nét tinh nghịch vẫn lộ ra, và không giống gì một nam nhi cả.

Dương Hạo lắc đầu nói: “Cô hóa trang thực quá sơ hở, cổ trắng trẻo chẳng có gì, đàn ông cũng có cổ nhỏ, nhưng màu sắc da mặt cô hoàn toàn khác với cái cổ, người lại còn có mùi thơm thoang thoảng, như vậy sao có thể giấu diếm được ta?”

Trúc Vận nhướn nhướn cái mũi nói: “Ta chỉ muốn tiện thể thử ngươi mà thôi, chứ không phải là muốn giấu diếm thân thế với ngươi, nếu không thì…”

 Chương 428: Tình oán

Cô có một sự tự tin khiến người ta cảm thấy nó là tuyệt đối, dương dương tự đắc ưỡn ngực nói: “Nếu ta trang điểm cho cẩn thận hơn chút, thì đứng trước mặt nói với ngươi ta là con gái, ngươi cũng sẽ tìm ra sơ hở nào đó trên người ta, ngươi có tin không”.

Dương Hạo nhìn cô ta từ trên xuống dưới, ánh mắt lộ hàm ý cười bỡn cợt: “Thế cũng chưa chắc, nếu thực sự muốn tìm sơ hở của cô, thì đã luôn luôn có sơ hở”.

Trúc Vận không phục nói: “Thế là thế nào? Dựa vào bổn…của ta…phi”.

Cô liếc nhìn Dương Hạo, biết không phải là lời gì hay ho, nhịn lại nói: “Ngươi yên tâm, xung quanh không có trong ba mươi bước, một khi có người tới gần, ta tuyệt đối biết”.

Dương Hạo nghiêm mặt nói: “Tự tin là một chuyện tốt, nhưng quá tự tin thì được gọi là cuồng vọng đấy. Con người ta một khi quá cuồng vọng, thì sẽ trở thành khuyết điểm chí mạng. Tai mắt của ta tinh thông, không để ý đến cô, có thể coi là hơi kém so với cô. Trong hai mươi bước có người đến gần, ta cũng sẽ cảm nhận được, nhưng nói như vậy ta cũng không dám nói, người ngoài có người, thiên ngoại hữu thiên, thế giới này nhất định có người có thể dễ dàng đi đến sau ta, rồi sát vào thân ta, ta cũng không thể phát hiện ra hơi thở của hắn, có cao nhân bản lĩnh như vậy, khó mà tìm được người thứ hai, mỗi chuyện mà ngươi làm đều rất nguy hiểm, mong cô nương từ nay về sau có thể nhớ kỹ lời ta, làm việc phải cẩn thận, sẽ không bao giờ có chuyện xấu đến với cô”.

Trúc Vận nghĩ ngợi hồi lâu, rồi nghiêm mặt nói với hắn: “Thái úy lời nào nói ra cũng đều có lý, Trúc Vận xin thụ giáo”.

Dương Hạo lúc này rất hài lòng nói: “Cô lại đây, ngồi xuống đây nào, ta sẽ nói cẩn thận cho cô nghe”.

Trúc Vận tuy hơi không quen gần với đàn ông, song vẫn nghe lời ngồi xuống, Dương Hạo sau một lúc lâu thì thầm to nhỏ, hai người một hỏi một trả lời, đối với kế hoạch của Dương Hạo, Trúc Vận dần dần đã hiểu, không kìm khỏi mặt mày hớn hở nói: “Một kế hoạch quá hay, kế hoạch lần này của thái úy nếu thành công, Khánh Vương nhất định sẽ như bị chặt đứt cánh tay, vì bị thái úy áp chế”.

Dương Hạo cười hì hì nói: “Ở thành Ngân Châu này, ta thực sự đã chịu nhiều khổ cực, song mong kế hoạch lần này thành công. Trúc Vận, thực sự là ta không nghĩ cô lại đến, song nói việc này thì cô làm là hợp lý nhất, nhưng dù sao thì cô cũng là thân nữ, ghi nhớ kỹ, việc có thất bại thì cũng không sao hết, nếu tùy thời không đúng, thì mau chóng ẩn đi, ngộ nhỡ có gì sơ xuất, an toàn là trên hết.

Trúc Vận mở to mắt nghi ngờ nhìn Dương Hạo, rồi khẽ cười nói: “Song ta là người của Thừa Tự đường, nhưng nói câu gì không dễ nghe, ở Thừa Tự đường, ta chỉ là một con chó đi men vòng ngoài cung người ta, năm 20 tuổi bắt đầu giết người đầu tiên, mỗi khi ta tiếp một sai sứ thì đều nguy hiểm tới tính mạng, những tên thuê ta, còn có các trưởng lão của Thừa Tự đường, chưa bao giờ nói với ta một câu như thế, giờ có câu này của thái úy, Trúc Vận sẽ xông pha khói lửa, bất chấp gian nguy hoàn thành nhiệm vụ của thái úy giao, như thế có chết cũng cam tâm tình nguyện”.

Lời này nói ra đủ chua xót, Dương Hạo không ngờ cô lại quá bị đau lòng, bèn trêu: “Nói vậy thực là điềm gở, thu lại đi. Còn nữa, một tên đàn ông xấu xí cười duyên như vậy, nói khiến người ta cảm động, tuy rất nóng, ta vẫn sẽ bị nổi da gà”.

Trúc Vận bật cười, đột nhiên bịt tay vào miệng Dương Hạo, ra bộ chớ có lên tiếng.

“Chỉ có một người, đã vào trước lều rồi”.

Trúc Vận hơi đắc ý, tiếp tục khoe khoang: “Đi lại nhẹ nhàng là luyện gia tử”.

“…”

“Ồ, là con gái, cô ấy còn có kiếm, ta nghe thấy vỏ kiếm đập”.

Dương Hạo bỗng chen lời vào nói: “Cô ấy đi đôi giày Man, mũi giày có thêu hoa văn, bên hông đeo đoản kiếm, người hơi thấp hơn cô nửa cái đầu, năm nay chưa đến mười tám tuổi”.

Trúc Vận ngạc nhiên nhìn hắn, mắt lộ vẻ ngưỡng mộ nói: “Ôi trời ơi, cái này mà ngươi cũng nghe ra? Ngươi còn chưa luyện thành thiên nhãn thông lợi hại như vậy?”

Dương Hạo thở dài nói: “Ta chỉ thấy tiếng bước chân trùng hợp mà thôi”.

“…”

Dương Hạo lại nói: “Cô ấy đang đến đây”.

Trúc Vận mở to mắt nói: “Ta cũng nghe thấy”.

Dương Hạo nhìn ngó xung quanh nói: “Cô trốn ở đâu mới được nhỉ?”

Trúc Vận trừng mắt nhìn hắn: “Tại sao tôi phải trốn?”

Dương Hạo mặt nghiêm nghị rồi bỗng bật cười nói: “Trúc Vận được lắm, ta nhớ rồi…cô đóng vai cây đại thụ phải không?”

“Thế là thế nào?”

Dương Hạo nhìn thấy và bổ cây đại thụ trong lều, rồi chỉ tay vào đó.

*****

“Dương thái úy, ta có thể vào không?” Ngoài lều truyền tới giọng Chiết Tử Du.

Dương Hạo đi ra, mỉm cười, cầm lấy tay cô nói: “Tử Du, nàng đến rồi đấy à?”

Chiết Tử Du thấy hắn ân cần, đâm ra nghi ngờ nhìn quanh lều, trong lều trống không, không khỏi kinh ngạc nói: “Tiểu Vũ nói từ Lô Châu có người đến thông báo tình hình với chàng, sao lại không thấy ai cả vậy?”

Dương Hạo bình thản nói: “Ồ, ta đã tống cổ hắn đi rồi, lại đây, lại đây nào, nàng ngồi đi”.

Chiết Tử Du vào trong lều, hít hít mũi nói: “Hình như có mùi thơm ở đâu đó?”

Dương Hạo bình thản nói: “Đúng thế, mùi gỗ tùng mà”.

Chiết Tử Du nhìn thấy một cái cây lớn mọc trong phòng, tao nhã vô cùng, liền khoanh chân ngồi xuống thảm, liếc mắt nhìn Dương Hạo, mắt hơi nhíu lại: “Thái úy, tại sao hai ngày nay lại tấn công như vậy? Xem ra thủ quân phòng thủ rất cẩn mật, nhân mã của ta còn lâu mới tấn công được Khiết Đan, nhưng dựa vào vũ khí công thành của chúng ta, nếu toàn thành này có thể nằm trong tay, thì dễ có đến tám chín phần hướng phá thành sẽ ở hướng của chúng ta. Giờ chợt ngừng tấn công, tuy nói là quân đội có thể nghỉ ngơi, nhưng thủ thành cũng có thể nhân cơ hội này mà cố gắng tu chỉnh lại tường thành, sau đó lại quay sang tấn công, sợ rằng độ khó sẽ gia tăng…”

Dương Hạo mỉm cười ngồi xuống phía đối diện cô, rồi tiện rót luôn một chén trà cho cô, để ở cái bàn phía trước, nói: “Điều này đương nhiên là ta biết, nhưng nhân mã Lô Châu, đã không chịu nổi hao tổn lớn hơn rồi. Cùng với dùng lực, không bằng dùng trí, mấy ngày này ta không ngừng phát tờ rơi vào trong thành, mong có thể có tác dụng, một khi dân tráng trong thành, binh tốt thủ thành và phản quân Khiết Đan tan rã, thì chúng ta có thể dùng một số tiền nhỏ nhất mà được một thành công lớn nhất. Thành lũy tan rã từ trong, mới là dễ công phá nhất”.

Chiết Tử Du trầm ngâm nói: “Thủ nội bộ…cố nhiên tổn thất nhỏ nhất. Nhưng, giờ ta và Phi Vũ của chàng đều mất đi liên lạc nội tuyến, nếu như không thể liên hệ được với quân và dân tráng ngân Châu, để mời chào, để thu mua, nói điều kiện này, cho hứa hẹn, và dựa vào mấy tờ truyền đơn có thể trông cậy vào họ vứt bỏ theo Khánh Vương và quay sang đầu hàng hiến thành, nói dễ hơn làm?”

Dương Hạo nói: “Điều này ta biết, cho nên…ta mới từ Lô Châu điều người Phi Vũ đến, chẳng sợ thiệt hại, cũng khiến vài người trong số họ hỗn loạn lên. Hai ngày trước ở trong Ngân Châu có đám người chạy ra, ta đã hiểu tình hình trong thành, chỉ cần người của ta có thể lén vào thành, liên hệ được với đám binh và đám dân tráng Ngân Châu thì có thể uống thuốc đúng bệnh, họ có thể yêu cầu gì nữa? Song đem danh lợi mua chuộc lòng người, bảo vệ bình yên, việc này ta đều có thể đồng ý làm được, một khi sự thành, tòa thành Ngân Châu khó mà thủ được”.

Chiết Tử Du nhíu mày lại một lúc, rồi ngẩng đầu nói: “Có cần…chúng tôi, tùy thời phái người tương trợ, bên ta cũng có vài kỳ nhân dị sĩ, hoặc có thể phái công dụng”.

Dương Hạo vội nói: “Không cần nữa, nàng làm cho ta như vậy đủ rồi, ta cũng không biết…nên làm thế nào để cảm ơn nàng”.

Chiết Tử Du khẽ nói: “Nói gì đến cảm ơn chứ, trên dưới Lô Châu, hàng vạn quân dân đều nhờ cả vào chàng, lần này có bại, liên quan đến trọng đại, giờ lâu công không thể, ta thực là rất lo lắng, nếu như thủ chiến thất lợi, sát vũ trở về, chàng nên thế nào là tốt”.

Dương Hạo cảm thấy người nóng ran, cầm lấy tay nàng, cảm kích nói: “Tử Du…”

Chiết Tử Du không dãy dụa, và cũng không phản kháng, để mặc cho hắn cầm lấy tay mình, nói nhỏ: “Chàng đừng hiểu lầm, Lô Châu và Phủ Châu ta giờ đã cùng là đồng minh có phúc cùng hưởng có họa cùng chịu, cho nên ta mới…còn về giữa ta và chàng…hic, qua thì cứ cho nó qua đi, ta không hề oán giận gì chàng, nhưng cũng…không thể lại nghĩ nhiều nữa?”

“Tại sao không thể? Nàng nói ta vô liêm sỉ cũng được, tham lam cũng được, ta giờ chỉ không muốn để nàng rời xa ta, Tử Du, ta…không dám tưởng tượng, có một ngày nàng lấy người ta…”

“Thế thì sao?”

Chiết Tử Du bập răng vào môi, từ từ nhướn mày, ánh mắt sáng ngời nói: “Ta đã ra đi, lẽ nào không thể trở về sao? Chàng nói cho ta hay, ta nên làm thế nào đây? Lấy chàng, làm ngũ nương của Dương gia sao?”

Dương Hạo ngẩn người, không nói câu gì. Trước mắt là người con gái lần đầu làm rung động trái tim hắn, hai người tình oán đến tận hôm nay, yêu hận tình thù đã phức tạp, hơn nữa cũng không thể giải thích rõ, hắn không nỡ rời xa Tử Du, tình không nỡ quên, hắn có thể nói gì được đây? Nếu như hắn là một cố nhân rõ đầu rõ đuôi, hắn có thể không chút do dự để cho nàng lấy hắn, đúng lý hợp tình, nhưng hắn không phải vậy, vừa nghĩ đến phu nhân tứ phòng của mình, hắn sao dám mở miệng?

Mắt hắn từ từ nhìn đi chỗ khác, mắt Chiết Tử Du từ sáng bỗng trở nên u ám, cô khẽ cười, rút tay mình về, nói: “Đối đầu với kẻ địch mạnh, không nên nghĩ nhiều nữa, chúng ta dựa vào lời mà thái úy nói, xem xem có thể liên lạc với tay chân trong thành được không, nếu như không được, chúng ta hẵng tấn công dồn dập, thái úy, Tử Du…xin cáo từ”.

Tiếng bước chân dần xa, Dương Hạo ngồi lặng người ở đó, lòng nao nao.

Hoa văn trong trụ sản sinh sự biến hóa, giống như người ta mắt hoa lên thấy đường cong vặn vẹo, nét vẽ có sự biến hóa ấy không ngừng động đậy, đột nhiên chợt tắt, Trúc Vận cô nương xuất hiện.

Trụ này chặt cũng quá là cân đối? Vừa thô nữa chứ, bổn cô nương ôm trụ này, đến nơi mượn lực cũng không có, mệt đến chết đi được, may mà các người nói chuyện không lâu, nếu không thì ta cũng không thể đỡ được”.

Dương Hạo vẫn trầm ngâm không nói gì, Trúc Vận khẽ hừ một tiếng, nói: “Thái úy đại nhân có khi thông minh tuyệt đỉnh, có khi lại ngốc như con lợn”.

Dương Hạo đờ người nói: “Ta ngốc thế nào?”

Trúc Vận múa may tay chân, từ từ đi gần lại hắn nói: “Nhìn bộ dáng Chiết Tử Du lúc nãy, rõ ràng là muốn hứa hẹn với ngươi, ta dám đánh cuộc, chỉ cần ngươi nói ý của ngươi nghĩ ra, là trong lòng có cô ấy, thì chắc chắn cô ấy sẽ lấy ngươi ngay lập tức, nhưng ngươi lại đánh trống lảng, lùi bước, đối với cái loại bỏ đi không có can đảm như ngươi, thì vừa đi vừa không mắng ngươi mới là lạ”.

Dương Hạo đờ người nói: “Hứa hẹn gì cơ? Cái gì gọi là hứa hẹn? Vì ta không đoán được suy nghĩ của cô ấy, nhỡ đâu nói sai câu nào, sẽ làm mọi chuyện rối tung lên, cô nương cũng là con gái, cô cũng biết cô ấy nghĩ gì sao?”

“Thế ta làm sao biết?”

Trúc Vận cô nương nói thẳng: “Bổn cô nương 20 tuổi bắt đầu giết người, ngươi nếu như hỏi thủ đoạn giết người của ta, thì ta có thể nói với ngươi ba ngày ba đêm không hết, còn về chuyện này, ngươi thỉnh giáo ta, thì ta đi thỉnh giáo ai đây?”

Dương Hạo buồn bã lắc đầu, Trúc Vận nhìn mặt hắn, vội an ủi: “Nghe khẩu khí vừa rồi của cô ấy, thái úy lần này dùng kế ly gián, cô ấy còn không biết?”

Dương Hạo nói: “Đúng”.

Trúc Vận hơi nheo mắt lại, hiếu kỳ nói: “Ta thấy cô ấy thực rất là quan tâm đến ngươi, tại sao lại dấu cô ấy chứ?”

Dương Hạo cầm lấy chén trà mà khi nãy rót cho Tử Du mà nàng chưa kịp uống, nhấp môi rồi nói: “Vì…viên đại tướng thủ thành là anh rể của cô ấy, ta không thể biết được giữa họ có mối liên hệ nào không, và cũng không chắc là một khi biết sẽ có phản ứng ra sao, ta không thể mạo hiểm”.

Trúc Vận im lặng, khẽ than: “Nhưng lần này đến, ngươi có thể xin lỗi cô ấy”.

Dương Hạo mặt méo xệch nói: “Ta biết”.

Trúc Vận an ủi nói: “Song…nếu ta nói với cô ấy, đó chính là đưa đến sự mạo hiểm cho vô số hảo hán theo ngươi ở Lô Châu, cô ấy cũng đành chấp nhận…”

Dương Hạo ngẩng mặt, buồn bã nói: “Có thể có một người hồng nhan tri kỷ như cô nương, Dương Hạo ta buồn khổ, hai bên làm khó, người này sinh…cũng không phải vô cùng cô đơn”.

“Ngươi chớ khách khí”. Trúc Vận vỗ vỗ vào bả vai hắn, rồi ngồi trước mặt hắn, tỏ ra hả hê nói: “Ta chỉ là rất muốn biết, Chiết cô nương khi biết ngươi lại lừa cô ấy thì sẽ có phản ứng thế nào thôi”.

******

Tiểu Chu Hậu trở về Lũng Tây quận công phủ, trong lòng vẫn đầy hỗn loạn, nghĩ tới tất cả mọi chuyện vừa nãy, cô vừa thẹn vừa thấy nhục nhã, may mà có hoàng tử Triệu Đức Sùng tới, nếu không thì cái con người yếu liễu đào tơ như cô sao có thể phản kháng lại được, giờ chỉ sợ đã rơi vào…

Lời nói của Triệu Quang Nghĩa vẫn văng vẳng bên tai cô: Một khi thoát được, thì có trốn nổi cả đời không. Hắn là Yến đế Đại Tống, mình là con chim trong lồng của hắn, lần này may mà chạy thoát được, lần sau phải làm thế nào đây?

Tiểu Chu Hậu lấy lại bình tĩnh hít một hơi dài, vừa mới đi vào trong hậu viện, ngẩng đầu lên nhìn thấy một người đi lại, Tiểu Chu Hậu giật mình, hét toáng lên, rồi lùi lại phía sau, người đó vội đến đỡ cô, hỏi: “Nữ Anh, nàng sao vậy?”

Tiểu Chu Hậu định thần lại nhìn, thấy là trượng phu của mình, lúc này mới thở dài, sợ hãi nói: “…không…không có gì ạ”.

Lý Dục dò xét cô, rồi nghi ngờ hỏi: “Nữ Anh, nàng…sáng sớm vào cung, mặc bộ mệnh phu triều, sao…sao giờ lại mặc đồ cung?”

Tiểu Chu Hậu mặt từ đỏ ửng chuyển sang chắng bệch, lắp bắp nói: “Ồ, bộ đó…không…cẩn thận…umm, Hoàng hậu nương nương lệnh thiếp làm thơ ứng đối, không cẩn thận làm rơi nghiên mực, làm bẩn quần áo, nên nương nương ban thưởng cho bộ cung phục. Phu quân, thần thiếp hơi mệt, muốn…vào phòng tắm rửa nghỉ ngơi một chút”.

Tiểu Chu Hậu nói, rồi vội vàng vào phòng ngủ của mình, Lý Dục đứng đó, nghi ngờ nhìn theo bóng dáng cô, sau một hồi suy nghĩ, sắc mặt chợt biến, bước nhanh đuổi theo.

Tiểu Chu Hậu dặn dò đám nô tỳ chuẩn bị nước nóng, đang toan cởi quần áo ra, Dương Hạo bỗng bước vào, Tiểu Chu Hậu giật thót tim, rồi mới ý thức được mặc quần áo lại, thấy trượng phu của mình, lúc này mới thầm nghĩ, nói: “Phu quân vào đây làm gì vậy?”

Lý Dục thở phì phò, bước vào nhìn từ trên xuống dưới người cô, bỗng như nhặt được hòn ngọc, cầm lấy cổ tay cô, chỉ vào cánh tay hét lớn: “Đây là cái gì? Đây là cái gì hả? Nàng…nàng là dâm phụ, không tuân thủ nữ tắc”.

Tiểu Chu Hậu bị hắn mắng, ngạc nhiên nói: “Chàng…chàng nói cái gì?”

Lý Dục chỉ vào cánh tay nàng cười nhạt nói: “Nàng còn giả vờ ngốc nghếch ư? Đây là cái gì? Đây là cái gì hả? Ta nói nàng hôm nay vào cung gặp nương nương thì sao lại về muộn đến thế, còn cái gì là nghiên mực đổ vào quần áo, dâm phụ, cánh tay vẫn còn vết hằn, nàng giải thích sao đây?”

Da Tiểu Chu Hậu trắng như ngọc, sáng hồng, bị Triệu Quang Nghĩa dùng lực tóm lấy, in hằn năm ngón tay trên da, vết hằn rõ mồn một không thể che dấu, Tiểu Chu Hậu lúng túng một lúc lâu sau, và kiên trì giải thích: “Thiếp…thiếp thực sự là bị Quan Gia lừa tới Hồi Xuân điện, hắn cưỡng hiếp thiếp không thành, thiếp…”

“Dâm phụ, cuối cùng thì ngươi cũng đã thừa nhận”.

Lý Dục tức như lửa, giơ tay tát bốp vào mặt cô, khiến cô lảo đảo, suýt nữa thì ngã quỵ xuống đất, Lý Dục tức giận, đau lòng mắng: “Tiện tỳ, uổng công Lý Dục ta một lòng tốt với ngươi, si mê ngươi, giờ nước mất nhà tan, cố thổ nan quy, ta chỉ mong vợ chồng sống gần nhau suốt quãng đời còn lại này, không thể ngờ là ngươi lại như vậy, lấy nhan sắc cơ thể làm mê hồn quân vương, mong có vinh hoa phú quý, ngươi thật vô liêm sỉ, là một con tiện nhân”.

“Thiếp không…không…”

Tiểu Chu Hậu không ngờ về đến phủ bị trượng phu ruồng rẫy như vậy, tức run người, hai hàng lệ thi nhau rơi: “Quan Gia thực sự là có ý làm nhục thần thiếp, nhưng thần thiếp sao cam chịu như vậy được, đã cố gắng dãy giụa, may mà có hoàng tử Đức Sùng làm ầm lên trong cung thì mới có cơ hội thoát thân, Chu Nữ Anh từ khi vào cung phục vụ phu quân đến nay, luôn một lòng một dạ, giữ phép tắc, có đời nào…”

Lý Dục giận tím mặt nói: “Từ khi vào cung tới nay? Đúng, giờ Lý Dục ta đến cái cung còn chẳng có, ngươi nhân cơ hội này mà vào cái cung nào đó và giở thủ đoạn phong tình của mình ra đi, ngâm ca hầu hạ cho Hoàng đế nào đó, ngươi còn muốn dấu ta ư? Đương kim Hoàng đế si mê nhan sắc của ngươi, còn có ai dám ngăn hắn chứ? Ngươi là con tiện tì chỉ biết dựa vào dung nhan, về đến nhà còn không biết xấu hổ, lại còn đi lừa gạt ta? Tiện tỳ, đồ vô liêm sỉ, tiện nhân. Lý Dục ta có mắt như mù, không được để ngươi cưỡi đầu cưỡi cổ được nữa…”

Lý Dục tức giận run người, miệng nói không lưu loát, Tiểu Chu Hậu thấy hắn vậy, nước mắt dần khô kiệt, ánh mắt chợt trở nên vô hồn.

Đây là người đàn ông mà cô luôn yêu thương kính trọng sao? Vị tài tử trong số Hoàng đế, thương hoa tiếc ngọc, một Lý Dục với một kho kinh thư sao? Hắn tức giận, rít gào như sấm, giống như một con sư tử, hắn…hắn là người đàn ông của mình sao?

Tiểu Chu Hậu nhếch miệng cười ảm đạm: Hắn không tin thê tử của mình, hắn không thể bảo vệ được đất nước của mình, thần dân của mình, thậm chí cả người đàn bà của mình, khi hắn cho rằng mình chịu sự nhục nhã, phản ứng duy nhất của hắn là gán cho thê tử của mình là tiện nhân, thực quá lắm.

Lý Dục thấy mặt cô ảm đạm cười, giễu cợt mình, mạnh dạn tiến đến trước một bước, tát luôn vào giữa mặt cô, quát: “Con tiện nhân vô liêm sỉ, ngươi còn dám cười à, ngươi cười nữa đi”.

Tiểu Chu Hậu hất mặt lên, lạnh lùng nói: “Tại sao ta không thể cười chứ? Ngươi có bản lĩnh thì đánh đi, đánh nữa đi, đúng, Quan Gia muốn cơ thể ta đấy, Quan Gia muốn ta hầu hạ đấy, Chu Nữ Anh xinh đẹp kiêu sa, đã rơi vào mắt xanh của Quan Gia, ngươi đoán đúng lắm, tất cả đều là sự thật, thế…thì sao chứ?”

Cô tức giận tiến lên một bước, quát: “Phu quân đại nhân đã tức giận tới cực điểm rồi sao? Thế ngươi giết ta đi. Ngươi là trượng phu của ta, ngươi là người đàn ông của ta, ngươi rút kiếm vào cung đi tìm tên gian phu lấy lại công đạo thì mới được coi là có bản lĩnh, ngươi có gan đó không?”

“Ta…ta…” Lý Dục bị dao động, thối lui từng bước.

Tiểu Chu Hậu vứt luôn bộ quần áo cầm trên tay, búi lại tóc, cơ thể lõa đồ trắng nõn, cơ thể nửa kín nửa hở, vẻ đẹp rung động lòng người, cơ thể mềm mại dường như bị phong tỏa băng và hỏa, giọng lạnh như băng, ánh mắt như lửa thiêu trụi, cô đi gần lại phía Lý Dục, lạnh lùng nói: “Ngươi kêu đi, kêu to nữa lên đi, kêu nam nữ hạ nhân, để cho mọi người xung quanh đều nghe thấy nữa đi, để biết được phu nhân của Lũng tây quận công ngươi trở thành đàn bà của Hoàng thượng, ngươi thỏa mãn chứ?”

“Ta…ta…” Lý Dục không ngừng thối lui, đến cửa thì vấp vào cửa, suýt nữa thì ngã nhào ra cửa, vẫn sợ hãi thối lui, Tiểu Chu Hậu thấy bộ dạng hắn thảm hại liền bật cười lớn, cười run rẩy toàn thân, nhưng ánh mắt lại ngập tràn nước mắt.

Bỗng nhiên cô không cười nữa, quay người lại, trở vào cởi hết quần áo, dáng ngọc khoan thai bước vào bồn tắm, khẽ ngồi xuống, quay lưng lại phía Lý Dục, nói: “Đóng cửa lại, ta còn phải tắm, tháng sau…người ta phải vào cung hầu hạ Quan Gia rồi, nếu ngươi mà đánh ta có vến thương nào đó, thì Quan Gia sẽ không vui, mà Quan Gia không vui, cái đồ bỏ đi như ngươi sẽ lo lắng mà chết đi”.

Lý Dục răng lập cập va vào nhau, từng chữ Tiểu Chu Hậu nói ra như đao sát muối, đâm vào trái tim rỉ máu của hắn, nhưng hắn đã không còn dũng khí mà mắng nhiếc nữa, càng không có dũng khí như người đàn ông, rút kiếm đén ngọ môn, nào dám liều mạng thịt nát xương tan, và càng không dám đưa chuyện gièm pha của Triệu Quang Nghĩa cho thiên hạ biết, hắn hét toáng lên, quay người bỏ đi.

Tiểu Chu Hậu cười lớn vài tiếng, hai hàng lệ tràn mi, lạc vào nước nóng quanh mình…

 Chương 429: Ám chiến

Phủ Lũng tây quận công không lớn, hai vợ chồng làm ầm lên, sát vách nhà họ là một thư sinh họ Tiêu tên Thư Hữu.

Cố nhân bát quái chi tâm, không thua người ta, Tiêu Thư Hữu nằm sấp bên tường nghe ngóng hồi lâu, rồi trở về rửa tay mài mực, phấn khởi viết vài câu nghe được: “Tiểu Chu Hậu làm phản từ cung, mắng nhiếc Lý Dục, Lý Dục xấu hổ, lén lút trốn đi”.

Đây là tài liệu đầu tiên có được khi đề cập đến Tiểu Chu Hậu, song sau nhiều năm người sùng bái thơ ca của Lý Dục đã coi nhẹ sự ghi chép này, và miêu tả nó trở nên tốt đẹp hơn: “Vì bảo vệ thê tử, trượng phu không hề phản kháng, Tiểu Chu Hậu cam tâm chịu nhục, vô oán vô hối, cắm sừng Lũng tây quận công, hắn còn tưởng ái thê của mình tình sâu đậm, mỗi lần nhìn thấy cô vào cung trở về, đều ôm đầu khóc rống, muốn được cô đến thăm hỏi.

Không biết Triệu Quang Nghĩa vì lẽ gì mà không thấy hắn bỏ qua Tiểu Chu Hậu, nếu hắn muốn giữ lấy Tiểu Chu Hậu, đem nàng nhét vào trong cung, lúc nàng quá ư sợ hãi thì sẽ giết Lý Dục, noi theo Hoàng huynh năm đó chiếm Hoa Nhị phu nhân, song lịch sử bút ký người Tống ghi chép là Tiểu Chu Hậu làm chuyện xấu, là một Tiểu Chu Hậu ngày ngày tự cung trung phản, suốt ngày mắng nhiếc Lý Dục, Lý Dục hổ thẹn, lẩn tránh đi chỗ khác.

Tiểu Chu Hậu ngồi trong bồn nước nóng tắm, cô kỳ cọ cơ thể mình cho sạch, hàng lệ cũng đã cạn khô, nước cũng đã trở nên lạnh đi, cô mới đưa ra một quyết định lớn, phải sống sao như một người mà không phải người, như người con gái phàm tục mà không giống phàm tục, cuối cùng đã tìm ra một con đường đi cho bản thân mình, đưa ra một quyết định đúng đắn, đây là sự trưởng thành lớn lao của cô, là lần thứ hai cô đưa ra quyết định.

Lần đầu, là mười năm về trước, khi ấy cô 15 tuổi, mùa hè năm đó, cô vào cung thăm tỷ tỷ bị bệnh, vào một đêm trăng sáng, cô được anh rể rót vào tai những lời tâm tình mật ngọt, đầu cô cài trâm, tay cô đeo vòng, giầy thêu kim tuyến, lặng lẽ đi tới nam họa đường…

Mà giờ đây, sau 20 năm, cô đưa ra một quyết định. Vì mình yếu đuối, chỉ biết sống cùng với tên bỏ đi, giận chó đánh mèo thì không đáng. Vì hắn mà tuẫn thiết thì càng không đáng. Nhưng cô không muốn nhận cái kết cục do triều đại phong kiến giáng cho, không vì bất cứ ai, chỉ vì cô không tình nguyện. Cô rời khỏi bồn tắm, mặc quần áo, trang điểm.

Một tờ giấy được cô rút ra đặt ở dưới hộp trang sức, đó là thứ mà Triệu Khuông Dận băng hà không lâu Dương Hạo đã từng mượn tuyệt bút Lý gia cô phóng hoành sơn tiết độ rời xa kinh sư lệnh cho một cô gái che mặt giữa đêm vào khuê phòng cô đưa cho cô thứ này, và cô đã cẩn thận cất nó, cô cầm và ra khỏi phòng, thần thái tự nhiên, rồi quay sang dặn dò với bọn nô tỳ: “Chuẩn bị kiệu, bổn phu nhân phải ra ngoài, đến Thiên kim nhất tiếu lầu…”

“Kéo tên nghịch tử này đi ra, lệnh cho người bịt cái mồm nó lại, an nhàn thoải mái thì không muốn, cứ thích làm ầm cả lên.

Vốn hôm đó hắn đã qua loa mắng nhiếc đứa con cho có lệ, nhưng hôm nay hắn nói rất chuẩn. Hắn định tự mình giết chết Hoàng huynh, may mà…may mà hắn hiểu được sự lợi hại, sau khi vào điện mới hỏi thẳng, nếu không thì tin truyền ra, thực sự là không thể tưởng tượng nổi.

Triệu Quang Nghĩa nghĩ đến hậu quả khôn lường, đầu ngón tay lạnh buốt: “Nó sao tự nhiên lại cuồng lên thế, rốt cuộc là nghe nói được gì? Vương Kế Ân đã hiểu được sự lợi hại của đám người bên cạnh, xem ra họ cũng sẽ không nói hàm hồ gì, hơn nữa, tin tưởng như thế, có gì sẽ ngay lập tức chạy tới hỏi phụ thân”.

Triệu Quang Nghĩa càng nghĩ càng sợ, sau một lát, nội thị đô tri chạy lại, nói: “Quan Gia, nô tỳ nghe dò hỏi rõ ràng rồi”.

Triệu Quang Nghĩa trợn mắt, lạnh lùng nói: “Ngươi nói đi”.

Cố Nhã Ly cúi người, đầu không dám ngẩng, nhỏ giọng: “Quan Gia, nô tỳ hỏi nội thị cung tỳ trong phủ Hoàng tử, chưa bao giờ có người vào cửa kính thăm Hoàng tử, song Hoàng tử đã từng xuất cung đi chơi một chuyến, không nghe khuyên bảo, sau khi về tính tình thay đổi, nổi giận không thôi”.

“Ngô Vương phủ?” Triệu Quang Nghĩa đứng bật dậy, nhìn chằm chằm Cố Nhã Ly.

Cố Nhã Ly run run nói: “Vâng”.

Triệu Quang Nghĩa thở dốc, sắc mặt trở nên bình tĩnh, xua tay nói: “Đứa trẻ này tính tình ngay thẳng, chắc chắn là có chuyện gì với Đức Chiêu ca ca rồi, mới thay đổi vậy, Trẫm biết rồi, ngươi lui ra đi, nói với Mộ Dung Cầu Túy mau mau dạy bảo Đức Sùng, nó giờ là Hoàng tử trưởng, ngôn hành cử chỉ đều phải chú ý”.

“Nô tỳ tuân chỉ”. Cố Nhã Ly đồng ý một tiếng, rồi thối lui.

“Ngô Vương…Triệu Đức Chiêu?”

Triệu Quang Nghĩa tức giận, hắn chắp tay sau lưng đi lại quanh điện, rồi bỗng dừng bước, khóe miệng mỉm cười: “Người đâu, truyền chỉ, gọi Trình Vũ, Tôn Kỳ, Cổ Khảm, vào điện kiến giá”.

Sau một lúc, vài nha môn mà hắn gọi đến đã lục tục vào điện, Triệu Quang Nghĩa ngồi trên, chính giữa điện, thần thái ung dung, mấy vị thân tín làm lễ nghi xong, đứng gọn sang hai bên, Triệu Quang Nghĩa mới nói: “Tống Quốc ta lập quốc được hơn mười năm, thống nhất Trung Nguyên, và dành được những thành tựu về văn hóa giáo dục, thực khiến người ta vô cùng ngưỡng mộ, giờ các nước Trung Nguyên, Ngô Việt sớm đã xưng thần, duy nhất Hán quốc nho nhỏ không chịu quy phụ, Trẫm có ý chịu di chỉ của tiên đế, sớm thu phục hán địa, các vị ái khanh, thấy sao?”

Phủ Khánh Vương, trên bàn có mấy tờ truyền đơn, Khánh Vương lật đi lật lại xem, rồi ngẩng đầu nói: “Thứ này có vấn đề gì?”

Da Luật Mặc Thạch nói: “Đại nhân, truyền đơn được rải vào trong thành phần lớn có mưu đồ kích động quân và dân tráng Ngân Châu tạo phản, nó còn đe dọa chúng ta phải hiến thành đầu hàng nữa, bên trên đều nói trắng phớ ra đấy, lẽ nào mấy chữ đó quân binh xem không hiểu, nhưng thuộc hạ phát hiện ra nội dung của tờ truyền đơn vô cùng kỳ lạ, cái thứ chữ viết lên khó mà phân biệt, như thơ mà không phải là thơ, như lời mà không phải là lời, người đọc sách tinh thông chữ Hán cũng không thể giải thích nổi, thuộc hạ nghĩ, chắc chắn là thứ dành riêng cho người nào đó đọc”.

Khánh Vương bèn nói: “Ý ngươi là trong thành Ngân Châu ta có người của bọn chúng?”

Long Hưng Dực chau mày nói: “Không phải không có khả năng, Mặc Thạch đại nhân đưa mấy tờ truyền đơn cho thuộc hạ xem, thuộc hạ tập trung mấy tướng quân đến, cái thứ viết trên truyền đơn thật kỳ quặc, sau một hồi chúng thần bàn bạc, cảm thấy có gì đó không ổn, cho nên mới đến bẩm báo đại nhân”.

Ánh mắt Khánh Vương bỗng sáng lên, lạnh lùng nói: “Xem xem tay chúng dài cỡ nào?”

Long Hưng Dực nói: “Đại nhân, dài ngắn hay không không quan trọng, điều cốt lõi ở đây là căn cứ vào những gì chúng ta thấy, chúng đang ngầm thông báo người trong thành, địa vị chắc chắn không thấp, chắc chắn sẽ có tác dụng tới chiến cục hoặc với những điểm quan trọng, nếu chỉ là tên tai mắt bình thường, chúng sẽ không có sự liên hệ một cách phung phí như vậy, cứ coi là có liên hệ rồi đi, thì những tên này giúp đỡ được gì với quân địch ngoài thành chứ? Theo lẽ thường mà thấy, người chúng muốn liên lạc tất sẽ có sự ảnh hưởng lớn, đây là chuyện không thể không quan tâm, phải biết…”.

Khánh Vương lạnh lùng nói: “Biết chiến cục hiện giờ tất là đại tướng thống soái trong thành, phải không?”

Long Hưng Dực chắp tay: “Đại nhân anh minh”.

Khánh Vương lắc đầu quả quyết nói: “Theo bổn vương, đây chẳng qua là kế nghi binh của Dương Hạo mà thôi, các tướng trong thành bao gồm cả đám người bọn ngươi đã theo bổn vương xông pha trận mạc, núi đao biển lửa cũng đã vượt qua, nếu bên trong đó có bất cứ người nào phản lại bổn vương, bổn vương tuyệt đối không tin”.

Dương Đan Mặc cảm kích nói: “Đa tạ đại nhân tín nhiệm, song…trong chúng ta có một người lại không phải là tướng lĩnh bên cạnh theo đại nhân”.

Khánh Vương mở to mắt, thăm dò: “Ai?”

“Lưu Kế Nghiệp”.

Khánh Vương giật mình, ngẩn người, ánh mắt chợt sáng lên cười nói: “Ngươi nói hắn ư? Ha ha, hắn có gì là đáng nghi chứ. Nếu như là hắn, thành này sợ đã rơi vào tay Da Luật Tà Chẩn rồi, nhân thủ của bổn vương, cũng bị hắn dùng tiền bạc mua chuộc rồi. Chính vì có sự giúp đỡ của Lưu tướng quân, thành Ngân Châu mới thành tòa thành tường đồng vách sắt, nếu nghi ngờ hắn há chẳng phải là nhạo báng đại nhân ta sao?”

Da Luật Mặc Thạch trầm ngâm nói: “Đại nhân, trên mấy tờ truyền đơn viết đều không giống nhau, song tiêu đề thì đều có hai chữ : Mục dị”

Khánh Vương hiếu kì hỏi: “Thế thì phải làm sao?”

Da Luật Mặc Thạch nói: “Mục dị, hợp lại thành chữ Dương, mà Lưu Kế Nghiệp vốn có họ Dương”.

Khánh Vương vuốt râu, không cho là đúng nói: “Cái này không có cơ sở lắm?”

Long Hưng Dực liếm môi nói: “Mấy ngày nay, nhân mã tấn công ngoài thành bỗng nhiên đánh có kết cấu, cách đánh khác xa hoàn toàn với lúc hỗn loạn lúc đầu, chứng minh cho thấy đã đổi thống soái. Nam viện đại vương Da Luật Tà Thuyên tấn công mạnh mẽ vào thành, binh tốt bọn họ tấn công kịch liệt vào thành Ngân Châu, bị binh tốt chúng ta liều chết ngăn cản, ta tóm được vài tên binh bị thương, thuộc hạ đã hỏi bọn chúng, được biết chủ soái Lô Châu giờ đã thay người, tên đó là một thiếu niên trẻ tuổi, nhưng mấy tên sĩ tốt này chỉ biết vậy thôi mà không biết danh tính. Thuộc hạ không phải dựa vào bụng tiểu nhân mà đo bụng quân tử, nhưng kết hợp những cơ sở trên, thuộc hạ không dấu nổi nghi ngờ”.

Khánh Vương không kiên nhẫn nói: “Nghi ngờ cái gì? Không được ấp úng, ngươi không thể nói trơn tru một lèo sao?”

Long Hưng Dực là một nhân vật quân sư bên cạnh Khánh Vương, hiểu được tính tình Khánh Vương xưa nay, Khánh Vương chỉ không khách khí với hai loại người, một là những tên hắn coi thường, không để tâm, một loại khác là những tên làm người của mình, cho nên tuy thấy hắn tức giận song không chút hoang mang, ung dung nói: “Đại nhân, Chiết gia ba trăm năm nay mở rộng địa bàn, khai chi tán điệp, nơi nơi nở hoa, khu Tây Bắc họ Chiết nhiều không đếm xuể, nhưng có thể để Dương Hạo lâm trận đổi cánh tay chỉ có một nhà, thông binh pháp, giỏi thao lược, lấy tên thanh niên nhỏ tuổi có thể chỉ huy điều động nhân mã nhiều như vậy, chắc chắn cho thấy, cũng chỉ có một nhà, đó là Phủ Châu Chiết gia”.

Khánh Vương trầm ngâm nói: “Ý ngươi là…Phủ Châu Chiết gia phái người giúp Dương Hạo tấn công?”

Long Hưng Dực nở nụ cười, từ từ nói: “Hán quốc Lưu Kế Nguyên có thể phái Lưu Kế Nghiệp giúp đại nhân thủ thành, Phủ Châu Chiết Ngự Huân phái đệ tử giúp Dương Hạo công thành, có gì là lạ chứ?”

Khánh Vương ngẫm nghĩ rồi nói: “Không tồi, vương hầu tướng tá, thủ có gì lạ? Binh cường mã tráng có gì hay? Tây Bắc thế cục bị loạn, có binh chính là vua cỏ, vua cỏ này muốn duy trì tình hình trước mắt là không mong Da Luật Thịnh ta ở Tây Bắc hô mưa gọi gió. Tuy nói để Chiết Ngự Huân cầm ra số của cải của nhà mình đi giúp Dương Hạo tấn công Ngân Châu, hắn nhất định cũng xót lắm, chẳng qua nếu chỉ đưa một viên tướng lĩnh đến vẽ mưu kế cho Dương Hạo, hắn vẫn làm nổi”.

Long Hưng Dực cười méo mó nói: “Địa nhân xưa nay anh minh, hôm nay làm sao ấy nhỉ? Thuộc hạ đã nói tường tận vậy, đại nhân vẫn không hiểu sao?”

“Cái gì?”

“Lưu Kế Nghiệp vốn tên là Dương Kế Nghiệp, phu nhân của Dương Kế Nghiệp là chị ruột của Chiết Ngự Huân, hai nhà Chiết Dương vốn là thông gia, tuy nói Dương Kế Nghiệp bảo vệ Hán quốc, nhưng người ta vẫn là người một nhà, tách rời sao được. Nếu Chiết gia phái binh đến giúp Dương Hạo, lại biết được đại nhân đã được trợ giúp là Dương Kế Nghiệp, đại nhân còn cho rằng…họ sẽ không liên lạc riêng với nhau bán đứng đại nhân sao?”

Khánh Vương ngạc nhiên, thất thanh nói: “Lưu vô địch và Phủ Châu Chiết gia vốn là thông gia sao?”

Hắn vừa hỏi câu này, Da Luật Mặc Thạch và Long Hưng Dực cũng giật nảy người, đồng thanh hỏi lại: “Đại nhân ngài không biết sao?”

Khánh Vương mấy năm nay ở Thượng Kinh, cả ngày chỉ tính toán sao để đoạt được quyền làm Hoàng đế, dưới sự bao che của một thị vệ đô ngu hầu Hán quốc bé tí tẹo, hắn thực sự là lười nghe ngóng tin tức, trước hắn chỉ ngẫu nhiên nghe người ta nói Lưu vô địch Hán quốc vốn có họ Dương, việc này chỉ hơi ấn tượng, còn tình hình cụ thể, lai lịch hắn ra sao, hắn chẳng quan tâm, giờ nghe Long Hưng Dực nói vậy, đương nhiên là ngạc nhiên, lòng nảy sinh sự nghi ngờ.

Đám người Dương Đan Mặc thấy vậy mừng thầm, họ vốn là văn võ tướng lĩnh thân cận của Khánh Vương, nhưng từ khi có Dương Kế Nghiệp tới, đã đoạt vị trí quân sư của Long Hưng Dực, thành thuộc hạ mưu thần đệ nhất của Khánh Vương, khi có công thành chiến tranh, Dương Kế Nghiệp chỉ huy rất ổn, lấy được nhuệ khí của tam quân, Khánh Vương bèn giao chức quân quyền cho hắn, hắn lãnh binh đâu vào đấy, đến Hoàng đế Hán quốc cũng sợ hãi Dương Kế Nghiệp, nên họ đương nhiên là không thoải mái.

Nhưng họ cũng không thể phủ nhận tài lãnh binh của hắn thủ được thành Ngân Châu, hơn nữa cả thành Ngân Châu đã bố trí thế trận y như lời của Dương Kế Nghiệp, người này đã không còn tác dụng gì nữa, họ sẽ không thiết kế mưu đồ hãm hại Dương Kế Nghiệp, nhưng một khi có điều gì đó gây bất lợi cho hắn, lập tức họ sẽ thêm mắm thêm muối o câu chuyện về hắn thêm sinh động.

“Lưu Kế Nghiệp…Dương Kế Nghiệp…Chiết Ngự Huân…Hắn thực là có ý mưu phản, ngấm ngầm câu kết với bọn địch ngoài thành ư?”

Khánh Vương lẩm bẩm, nghĩ đến công lao của Dương Kế Nghiệp hô mưa gọi gió ở thành Ngân Châu, dốc sức chỉ huy quân phòng ngự, lòng rất phân vân, và không dám tin mọi chuyện vừa nãy.

Da Luật Mặc Thạch nói: “Hai ngày nay, thế tấn công của nam thành Dương Hạo đại doanh đã giảm sút, ngày nào cũng thế chỉ có một đội binh phô trương thanh thế xong thì thu binh về doanh trại, rồi lại còn những nét chữ như gà bới trên tờ truyền đơn nữa, đại nhân, thuộc hạ thực không dám nghi ngờ cho Dương tướng quân, nhưng việc đã đến nước này, thử hỏi ai không nghĩ chứ”.

Khánh Vương nghiến chặt răng, giọng căm giận: “Thế bổn vương phải làm sao đây? Lẽ nào bắt hắn lại cho một đao? Chưa nói đến cần chứng cứ buộc tội hắn, nói hắn phải chết, hắn có thực sự phản lại bổn vương hay không cũng không có nhân chứng và đối chất Hán quốc, bổn vương giết đi một cái mạng Lưu Kế Nghiệp thì không sao, nhưng nếu như việc này khiến cho Hán quốc tức giận, thì bổn vương nào còn chỗ đứng nữa. Hơn nữa, Lưu Kế Nghiệp dần tạo được uy với quân thủ thành, khi bị giết, chí khí tam quân tất sẽ bị hạ thấp”.

Long Hưng Dực vội nói: “Đại nhân, lòng hại người cố bất khả hữu, lòng phòng người bất khả vô. Thuộc hạ luôn theo đại nhân, đương nhiên là luôn bảo vệ đại nhân, chúng tôi không có ý muốn đại nhân ngay lập tức tóm cổ Lưu Kế Nghiệp, đây dù sao cũng là phỏng đoán, phải có chứng cứ xác thực mới quy tội được.

Ý thuộc hạ là, giờ chúng ta sinh nghi, chi bằng phái người đi theo dõi nhất cử nhất động của Lưu Kế Nghiệp, nếu như hắn có gì đó khác thường, thực sự trung thành làm việc thì phỏng đoán của ta sai, còn nếu nằm trong phỏng đoán của chúng ta, và nếu quả nhiên có gì đó khác thường thì chúng ta sẽ đưa chứng cứ ra, và khi đó thì Lưu Kế Nguyên Hán quốc cũng chẳng nói chúng ta được nữa”.

Nghe xong những lời này, Khánh Vương Da Luật Thịnh gật gù: “Như vậy mới thỏa đáng, Long Hưng Dực, ngươi phái người nào thông minh được việc đi bám sát cha con Lưu Kế Nghiệp, và chớ có đánh rắn động cỏ, sau đó có gì thì bẩm báo với bổn vương”.

*****

Tiểu Chu Hậu vừa đến, Nữ nhi quốc lập tức có người thông báo vào bên trong, và chưa đầy một phút thì Trương Ngưu Nhi mặt hồ hởi bước ra đón chào, rồi chu đáo đưa cô lên lầu nói: “Trịnh quốc phu nhân, người hôm nay đến đây thực đúng lúc quá, Nữ nhi quốc vừa mới về vải mới, là sản phẩm của Giang Nam Thiên Thủy Bích, màu sắc vô cùng đẹp, nhã ý mời người đến xem chút, được không vậy?”

Vải vóc của Thiên Thủy Bích là một loại vải mà năm đó ở Kim Lăng thi thoảng cô tự mình nhuộm màu, một thời nó thịnh hành toàn Giang Nam, giờ lại nghe được câu mời xem từ Trương Ngưu Nhi, người ta có ý mà mình thì lại không thích, Tiểu Chu Hậu bất giác thấy chua xót.

Mắt cô đỏ hoe, cố kìm nén giọt lệ, vẫn cố giữ bình tĩnh nói: “Thôi không cần xem đâu, nghe nói chỗ các người có hai thứ, một là Phi dương thủ, một là Nguyệt nhất bàn, nó thuộc hàng đầu, tiếng tăm lan truyền, ta muốn đi xem xem”.

Trương Ngưu Nhi ngẩn người, bật cười nói: “Trịnh quốc phu nhân không ngờ người lại nghe được tin đó ở đâu, hai thứ đó là có thật và chúng rất nổi tiếng, song nó không phải trang sức gấm vóc cũng không phải là phấn son, mà là đồ ăn, người đến bách vị lầu mới có thể thưởng thức được”.

“Hả? Nhưng người nói với ta bảo chỉ cần đến Nữ nhi quốc, gặp Trương đại trưởng quản ngươi thì có thể nếm thử hai món đó rồi, ngươi xem, hắn còn đưa cho ta tờ giấy này, viết rõ ràng ra đây”.

Tiểu Chu Hậu sờ vào tay áo rút ra tời giấy đưa cho Trương Ngưu Nhi, Trương Ngưu Nhi mở giấy ra xem, viết sáu chữ trên giấy Phi dương thủ, Nguyệt nhất bàn, bên dưới là một chữ ký, Trương Ngưu Nhi nhận ra chữ ký này, khóe miệng nở nụ cười, nghiêm túc nói: “Trịnh quốc phu nhân, mời qua bên này, quý khách đó giới thiệu phu nhân đến đây, thì tiểu nhân sẽ phái người qua Bách vị lầu bưng đồ ăn đến cho người”.

Tiểu Chu Hậu mỉm cười, đi theo sau Trương Ngưu Nhi.

Diệu Diệu ở tầng ba trước đây vốn là cái thư phòng, Tiểu Chu Hậu ngồi xuống ghế nghĩ ngợi chuyện vừa xong, cửa bỗng “Kẹt” một tiếng, một người bước từ ngoài vào.

Người này dáng người không cao, khuôn mặt hơi gây, mặc một bộ bào xanh, xem ra văn thơ lắm, hắn vào đến bậc cửa nhìn thấy Tiểu Chu Hậu, rất bình tĩnh tiến về phía trước, cung kính thi lễ: “Thục Trung bạch lâm bái kiến Trịnh quốc phu nhân”.

Tiểu Chu Hậu không biết người trước mặt mình là đầu bếp thật hay giả, hai món Phi dương thủ và Nguyệt nhất bàn là hai món nghe tên mà không đoán ra là món gì, giờ thấy dáng người này, quả nhiên không hề giống đầu bếp, thầm mắng mình đã nhìn lầm, cô vội đứng dậy, nói: “Ngươi nhìn thấy tờ giấy đó chưa? Người đưa nó cho ta bảo chỉ cần ta…”

Bạch Lâm mỉm cười nói: “Phu nhân không phải vội vậy đâu, những điều người đó nói với cô đều là thật. Mời phu nhân ngồi, muốn Bạch mỗ giúp gì thì cứ nói nhé”. Hắn nói rồi kéo chiếc ghế và đặt mông ngồi xuống, thần thái ung dung.

Tiểu Chu Hậu từng là Hoàng hậu một nước, đồng thời cũng là đệ nhất mỹ nhân Giang Nam, dù cô giờ có là ai thì vẫn quyến rũ vạn phần, vẫn là một thân phận cao quý, nhưng phàm là người lần đầu gặp cô, có thể ung dung bình tĩnh thì chỉ đếm trên đầu ngón tay, mà đầu bếp Bách vị lầu cũng làm được. Nếu như là Trương Ngưu Nhi hay Lão Hắc trong hoàn cảnh này đảm bảo mồm lúc nào cũng sẽ há hốc, mắt lúc nào cũng sẽ trợn tròn cho xem, không ngờ một đầu bếp cả ngày cuốn tạp dề, tiếp xúc quanh chảo lửa mà giữ được thần thái ung dung như vậy.

Tiểu Chu Hậu nhìn hắn thần thái tự tại, lo lắng một lúc mới giữ được bình tĩnh, cô cũng ngồi xuống ghế, và nói: “Ta muốn rời khỏi Biện Kinh”.

Bạch Lâm nhướn mày hỏi: “Đi đâu vậy?”

Tiểu Chu Hậu viên viên mép áo như một tiểu cô nương chưa hiểu sự đời, cô lắc đầu nói: “Ta cũng không biết nữa, đi đâu cũng được, mai danh ẩn tích để người ta mãi mãi không tìm thấy nữa”.

Bạch Lâm nhíu mày cười nói: “Việc này…là quyết định của Lũng tây quận công sao?”

“Đương nhiên rồi…”

Tiểu Chu Hậu hít một hơi dài, nói rành rọt: “Cả nhà ta đều phải rời đi, nhưng chúng ta bị giám sát rất chặt chẽ, bề ngoài tưởng được ra vào tự do, kỳ thực là luôn bị người ta khống chế, mình chúng ta không thể chạy thoát được, mong nhận được sự giúp đỡ từ phía các người thôi”.

Bạch Lâm mỉm cười nói: “Quan Gia có tấm lòng bao dung, về ngoài không tiện hạn chế hành động của các người, song dù sao cũng vẫn có sơ hở, tưởng có chuẩn bị mà lại chưa chuẩn bị, muốn đưa các người an toàn ra khỏi Biện Kinh cũng không khó, nhưng sau lần này, muốn đưa thêm ai đó đi thì không phải chuyện dễ, nên, lần này đi là đi một loạt luôn”.

Tiểu Chu Hậu ngạc nhiên nói: “Đi cùng? Còn ai nữa?”

Bạch Lâm nói: “Nam Đường quốc chúa hiến thành đầu hàng trở thành Tống thần. Hạ thần từ xưa tới nay, cùng điện xưng thần, trong đó có rất nhiều chúa cũ, người vô lễ với quốc chúa, nhưng cũng không thiếu người vẫn trung thành và tận tâm, trong đó có mấy người đáng tin, phu nhân chắc biết chứ?”

Tiểu Chu Hậu chợt rùng mình, ảm đạm nói: “Cựu thần Đường quốc là người đáng dùng của Tống quốc, có vài người vì vinh hoa phú quý, vì tiền đồ bản thân, hận là có quan hệ với quốc chúa, không những không lui tới còn thường xuyên có lời gièm pha. Có vài thần lương thiện, luôn cung kính trọng quốc chúa, sợ Quan Gia ghét bỏ, cũng che không kịp, giờ khi thường xuyên đăng môn, cuối cùng vẫn đối đãi tốt với quốc chúa, chỉ có Từ Đãi, Tiêu Nghiễm hai người đó mà thôi. Haiz, hai người bọn họ lúc đầu khuyên quốc chúa thà chết chứ không hàng, cùng sống chết với thành Kim Lăng, nhưng quốc chúa xin hàng, không thể không theo đi cùng, nếu như bảo họ cùng ra đi với quốc chúa, hai người họ chắc chắn sẽ không có vấn đề gì, người khác thì…ta không dám chắc chắn…”

Từ Đãi là chi sĩ bác học đích thực, chỉ để ý tới chính vụ, Tiêu thanh lại trị (tác phong và uy tín của quan lại thời xưa), có nhiều công lao với Đường quốc. Tiêu Nghiễm thì cũng là một bề tôi trung thành, nắm giữ ti pháp ngục hình trong triều, cương trực chính phương, không ham quyền quý. Khi làm quan ở địa phương, tốn công xây dựng thủy lợi, phát triển nông nghiệp, thúc đẩy kinh tế, hai người họ đều là những viên quan chân chính, nhưng tiếc là Lý Dục không biết sử dụng họ làm việc, kỳ trường dụng kỳ đoản, Từ Đãi ở bộ thượng thư, cả ngày bị hắn phái đi đảm đương đại thần ngoại giao, còn Tiêu Nghiễm vì nhiều lần khuyên nhủ hắn, khuyên họ thờ thần kính phật xao nhãng triều chính, cũng bị cho nghỉ việc, cả ngày chỉ vùi đầu vào đống văn chương.

Nhất cử nhất động của những người này, kỳ thực Bạch Lâm đã nắm chắc trong tay, giờ được Tiểu Chu Hậu khẳng định lại một lần nữa, không còn gì nghi ngờ, Bạch Lâm vỗ tay nói: “Rất tốt, thế thì mang họ theo nữa”.

Tiểu Chu Hậu kinh ngạc nói: “Mang họ theo làm gì?”

Bạch Lâm cười nói: “Đại sự quan trọng, chớ hỏi nhiều, quốc chúa và nương nương không phải người bình thường, nếu rời khỏi hang cọp này, muốn rời khỏi được, thì phải có tôi sắp xếp, chuẩn bị cho cẩn thận, sau khi nương nương về, chi bằng cứ làm thế này…”

Tiểu Chu Hậu vốn thông minh, đã gặp là không thể quên, nhưng sự thông minh ngày xưa chỉ dùng vào thi ca đàn sáo, những nơi lãng mạn, việc này cô vốn có thể hiểu, cô đương nhiên đã nghe kỹ, sẽ không quên, nghe một lần, tự thuật lại, một chữ cũng không sai, Bạch Lâm vui vẻ nói: “Chính là như vậy, nương nương trở về cứ thế mà làm, đợi bên ta chuẩn bị xong, sẽ thu xếp cho nương nương và mọi người ra đi”.

Tiểu Chu Hậu đi tới bên cửa, bỗng đứng sững lại, hai tay nắm chặt với nhau, quay đầu nói: “Bạch tiên sinh, giờ này tháng sau có thể ra đi không?”

Bạch Lâm mỉm cười nói: “Cái này…bạch mỗ cần phải thu xếp ổn thỏa, đưa ra quyết sách rồi bảo đảm mọi người đi an toàn, còn về khi nào đi, lúc này chưa thể nói rõ ra được…”

Tiểu Chu Hậu quả quyết nói: “Nghĩa là trước ngày này năm sau, nếu đến lúc đó không thể ra đi…”

“Thì làm sao?”

Tiểu Chu Hậu buồn bã cười, nói: “Lúc đó…chỉ có Tử Chu Hậu, không còn Nữ Anh nữa, và cũng không làm phiền Bạch tiên sinh lo liệu gì nữa”.

******

Đêm đã khuya, Dương Hạo nằm ngẫm nghĩ trong trướng, khó có thể chợp mắt, khoác thêm áo đi ra ngoài trướng, nhìn xa xăm về phía thành Ngân Châu đen kịt. Những chấm nhỏ bập bùng của lửa trại, tiếng bước chân của binh sĩ đi tuần như ẩn như hiện.

“Trúc Vận hiện giờ đã hành động rồi chứ? Dựa vào tay nghề và sự thông minh của cô ấy, mong là sẽ không bị để lại sơ hở, mau chóng hoàn thành. Hai trăm năm của Thừa tự đường, bao trùm thiên hạ, có thể nói là một thế gia bậc nhất, thực là nhân tài nhiều vô kể”.

Dương Hạo bỗng nhiên nghĩ đến hôm đó đêm tối như này, hắn và Thôi Đại Lang nói chuyện dưới ánh trăng.

“Đại Lang, trên đường ta rời Kinh, được biết Ngụy Vương Triệu Đức Chiêu khó mà ra roi với tam quân, đã chuẩn bị phản Kinh, được biết sớm muộn sẽ là kẻ địch của Triệu Quan Gia cho nên đã bảo tiểu muội nhanh chóng lên đường đến Kinh Sư một chuyến, đi gặp Tiểu Chu Hậu, kể cho biết vài chuyện”.

“Cái gì? Ai? Việc gì? Có thể cho biết được không?’

“Đương nhiên là được rồi, ta còn mượn sự giúp đỡ của ngươi cho dễ hoàn thành chuyện”.

“Như vậy, thái úy mời nói”.

“Đại Tống hiện giờ, binh cường mã tráng, có phù trợ thâm hậu, nếu ta muốn đứng trụ được ở Tây Bắc thực là không hề dễ, nếu như Triệu Quang Nghĩa thấy hai thế lực liên hợp, lại được Đảng Hạng Thất Thị giúp đỡ, thì sẽ kiêu căng đi giúp Triệu Quang Duệ Hạ Châu, dựa vào thực lực của Đại Tống, lưỡng hổ giao tranh, hắn sẽ hưởng lợi ích. Chứ dẫu sao cũng cần phải thêm phiền phức cho hắn, thì mới có thể khiến hắn không cản Tây Bắc.

“Thái úy có cao kiến gì?”

“Ta nghĩ rằng....trộm nhà Lý Dục ra khỏi thành Biện Lương”.

“Gì cơ?”

“Đường quốc mới hàng, lòng dân còn chưa ổn định, nếu như chúa cũ không trong sự khống chế của Triệu Quang Nghĩa...”

“Lý Dục vốn nhát gan, lúc làm Hoàng đế còn không dám giao chiến quyết tử với Tống, huống hồ lại đồng ý làm chuyện này, ta lo...”

“Ha ha, Lý Dục nhát gan nhưng Giang Đông đâu phải không có hào kiệt, họ chỉ là không có danh phận mà thôi, chỉ cần Lý Dục biến mất khỏi thành Biện Lương, chỉ cần lời đồn ấy truyền ra, tất sẽ lợi dụng được lòng người, huống hồ Lý Dục lại nằm trong tay chúng ta, lẽ nào lại không thể giúp cho ta được gì sao?”

“Ồ...chiếm lấy lòng dân, đây quả là một kế hay, nhưng...việc đại sự, thái úy sao cử ai đi bàn bạc với Tiểu Chu Hậu đây? Cô ta dẫu sao cũng là đàn bà, có thể giúp gì được đại sự, việc quan trọng nên tìm Lý Dục bàn bạc mới phải”.

“Lý Dục...Lý Dục tuy có quốc gia nằm trong tay, trọng binh thì cũng vậy, song lại không xứng đáng với long bào, có thể bảo hắn võ trảm Lâm Nhân Triệu, văn sát Phan Hựu Lý Bình, tự chặt cánh tay, nguy cấp thì xin hàng, rồi lại đổi ý, rồi lại xin hàng, làm cho quần thần không biết xử lý ra sao, sĩ khí thì đại nhu, một tên nhát gan do dự, giờ quỳ gối xưng thần, ăn nhờ ở đậu, hắn mà cũng xứng đáng để ta đi bàn bạc sao? Ta không dám mạo hiểm”.

Thôi Đại Lang nhếch miệng cười.

Dương Hạo lại nói: “Việc này chỉ có người bên cạnh mới có thể làm được, tóm hắn, dắt hắn bảo hắn không thể không đi, người này....ngoài Tiểu Chu Hậu ra, thì tìm đâu ra người thứ hai nữa”.

“Tiểu Chu Hậu có thể thương lượng, bàn bạc?”

“Có gì là không thể chứ? Chỉ cần cho cô ấy cơ hội, được, coi là một khả nhăng, nếu như cô ấy muốn rời khỏi Kinh thành, người của ta sẽ đưa họ ra khỏi đó ma không biết quỷ không hay, thực ra...ta cũng có vài thuộc hạ ở Kinh thành, nhưng so với Đại Lang, thực không bằng, nên ta muốn mời Đại Lang giờ phái vài người đi tới Biện Lương chuẩn bị, một khi có cơ hội, họ sẽ thoát khỏi một cách dễ dàng hơn”.

“Ha ha...được, việc này để ta lo”.

“Rồi, trộm một tên cũng là trộm, trộm hai tên cũng là trộm, ta muốn nhân cơ hội này lấy đi những thuộc hạ của Đường quốc, những tên luôn không trung thành tận tâm với Triều Tống mang đi theo”.

“Đưa Lý gia ra khỏi Biện Lương là để cho Triệu Quang Nghĩa bị cản trở, song...ngươi không phải muốn đưa hắn lên võ đài cùng Triệu Quang Nghĩa sao?”

“Đương nhiên là không phải, hắn...không đưa lên được”.

“Ra là vậy, lấy thuộc hạ của hắn có ích gì?’

Dương Hạo thở dài nói: “Lý Dục tuy là bất tài song lẽ nào ta lại không thể dùng hắn làm việc có ích cho ta sao?”

“Mấy tên này đầu hàng Tống song vẫn trung thành với Đường, lẽ nào cũng có ích cho Thái úy?”

“Lòng người mà, mời chào họ, nếu như chúa phi hiền chúa, coi là người được ngươi mời đến năm lần bảy lượt, sớm muộn thì cũng đổi ý thôi”.

“Ha ha, nói hay lắm, việc này ta sẽ bảo người đi làm luôn”.

“Rồi, chỉ cần bảo họ yên tâm mà rời đi, gia quyến cũng đi theo luôn, người đông sợ không dễ bảo mật, việc này Thôi huynh không phải lo, vội vàng phái người đi, không biết có thể thành sự hay không?”

“Ha ha, chẳng có gì khó cả, có một chuyện ta luôn nghĩ mà vẫn chưa có thời điểm thích hợp nói cho Thái úy biết. Kỳ thực, Bạch Lâm mà ngươi cười chính là người của ta”.

“Thục trung ngự trù Bạch Lâm?”

“Không sai, đáng xấu hổ là, khi đó Đại Lang chỉ chú ý đến Thái úy, không biết Thái úy có phải là người có thể phó thác tương giao hay không, giờ ta ngươi đã hiểu nhau, việc này, ta lại không muốn giấu gì Thái úy thêm nữa...”

Nghĩ đến đây, Dương Hạo không cầm nổi chua xót, Thừa Tự đường có tài sản kếch xù, không biết có bao nhiêu kì nhân dị sĩ, cái gì cũng nhúng tay vào, nhân vật hạt nhân của Thừa Tự đường đương nhiên là thông minh giỏi giang, đầu óc sắc bén, cũng may, lúc đầu Đại Đường thất tông ngũ tính họ đứng trước đài, đến Hoàng quyền cũng có thể thao túng, song tai ương đến hiến hậu duệ của họ bị phòng bị, từ đó Thừa Tự đường và mưu lợi không đứng trước đài, nếu không thì không biết thiên hạ còn biết bao mưa gió ập đến.

Giờ họ không đặt mưu quyền làm mục đích nữa, cơ cấu tổ chức tương đối lỏng lẻo, những mối quan hệ khắp nơi nơi không có thế lực nào theo, có thể bay múa ống tay trong đám thế lực ấy, chi phối, thấy rõ tiên cơ, chu đáo đề phòng. Làm như vậy bảo đảm được lợi ích của Thừa Tự đường, và bảo đảm đúng hẹn sẽ không bị sự đả kích gì, khiến họ không cần treo cổ thân cây, và lại có một cái tôn làm chốn nương tựa.

Ngẫm kỹ ra, sự tồn tại của Thừa Tự đường giống như một loại ký sinh trùng, nó không cần phải kiếm ăn mà chỉ ăn bám, hút lấy những chất dinh dưỡng từ loại khác, một khi biết được ký chủ khó sống thì nó lập tức bỏ chạy, lúc đầu họ muốn lôi kéo Lân Châu Dương Thị là như vậy, giờ lôi kéo ta cũng vậy, chỉ cần giữa chúng ta có giá trị để chúng lợi dụng, thì chúng sẽ không buông tha cho ta, hơn nữa sẽ không coi ta là địch, nhưng như vậy, không thể chỉ dựa vào mấy người này, lợi dụng lẫn nhau, rốt cuộc không thể trở thành cánh tay của ta được.

Hắn lại đổ dồn ánh mắt vào phía thành Ngân Châu đen kịt, kế hoạch hôm nay không biết Khánh Vương có trúng kế không đây, có giết Dương Kế Nghiệp không đây….

 Chương 430: Dạ Mị Ảnh

Vài tên lính lưng đeo cung tên lom khom quay về nơi Lưu Kế Nghiệp trú chân. Trong thành đâu đâu cũng có binh sĩ, rất nhiều võ sĩ Khiết Đan đi tuần khắp nơi, khống chế trật tự trong thành, giống như đang ở trong một tiểu đội vậy. Lưu Kế Nghiệp không có chút bận tâm nào, cũng không chú ý đặc biệt gì đến chúng.

Tình hình trước mắt Lưu Kế Nghiệp và tình hình ngoài thành cũng như nhau, họ đều nắm quyền chỉ huy quân đội, nhưng là đội quân đã không còn sức kháng cự, do đó trước mắt rất nhiều chủ tướng đòi hỏi phải có sắp xếp trù bị, ví như chiêu mộ dân tráng, điều khiển ba quân, gom góp dược liệu, phá dỡ nhà xung quanh thành để làm bức tường phòng vệ, chuẩn bị hỏa dầu độc dược, thuốc chữa bệnh cho thương binh… bọn họ chỉ cần bàn bạc kỹ lưỡng tình hình thực của thống soái ba quân, sau đó chủ soái hạ lệnh chấp hành.

Như vậy, Lưu Kế Nghiệp đã có thể nhẹ nhõm nhiều, vào thời Hán Quốc, hắn đích thân chỉ huy giữ thành, ba quân không cởi giáp, hắn tuyệt đối không an giấc. Ba quân không ăn cơm, hắn cũng tuyệt đối không dính răng. Sau trận chiến, hắn thường đích thân đi tuần xem tình hình chiến sự ra sao, an ủi cổ vũ binh sĩ, rất muộn mới đi nghỉ, làm như vậy không khó để thu phục lòng người, do vậy sau khi kết thúc trận công kích thế lực ở Lô Châu, hắn thường đi tuần bốn phía quanh thành, quan sát một lượt động tĩnh, đối với những chỗ bị hư hại hắn cho người tiến hành sửa chữa, đến khi quay về chỗ nghỉ ngơi thì cũng là khuya lắc khuya lơ rồi.

Cờ trướng của Lưu Kế Nghiệp nằm ở phía nam thành, đây là nơi trú quân chủ chốt của đội binh mã Lô Châu, hai bên phía Bắc là căn cứ của đại vương Gia Luật Tà Chẩn người Khiết Đan. Quân của Gia Luật Tà Chẩn binh mạnh ngựa khỏe, sức lực dư thừa, nhưng trong chiến thuật tấn công thành lại thiếu chiến lược, cách dùng người cũng hết sức truyền thống, mà đội quân của Dương Hạo tuy sức lực không bằng nhưng lại rất giỏi trong việc tấn công thành, gần đây đấu pháp lại ngày càng điêu luyện, là một nỗi uy hiếp lớn đối với quân giữ thành nên Lưu Kế Nghiệp mới phải đích thân thủ Nam thành.

Tuy ngoài thành đã thay đổi cách đánh hai ngày nay, mỗi ngày thấy trận tiến công vào thành náo nhiệt phi phàm nhưng vẫn chỉ là đánh nghi binh, Lưu Kế Nghiệp không rõ quân Lô Châu đang đánh bài gì, càng phải cẩn thận hơn gấp bội, hắn tuần tra bốn phía thành, sau khi về đến thành Nam cũng vẫn lại tỉ mỉ quan sát động tĩnh một lượt, sau đó mới yên tâm đi nghỉ.

Để phòng quân Lô Châu đang đêm đánh bất ngờ, Lưu Kế Nghiệp đã dựng một hang kiên cố cách thành không xa để trú binh, bên ngoài có một đường tường viện. Bên cạnh hắn chỉ có hai người con trai và mười một tên lính thân thiết mà thôi. Phụng mệnh Long Hưng Dịch, mấy tên tai mắt vẫn cứ núp trong bóng tối quan sát Lưu Kế Nghiệp về trại, không nén nổi một tiếng thở phào nhẹ nhõm. Vài người bọn chúng không dám khinh thường, một mặt nằm sấp theo dõi, một mặt mở túi da trâu ra uống sữa, ăn thịt trâu sấy khô, vừa ăn vừa quan sát động tĩnh trong hang.

“Đại danh Lưu vô địch ta cũng đã sớm biết đến, nhà Hán chẳng qua là miếng đậu phụ nát, căn bản trói gà không chặt, chỉ dựa vào mình Lưu Kế Nghiệp mới có được ngày hôm nay. Bản lĩnh của Lưu vô địch ta cũng đã từng nghe qua, Lưu Kế Nghiệp vốn họ Dương, là người nhà họ Dương ở Lân Châu. Nếu như hắn về Lân Châu thì làm sao mà không mạnh hơn đội quân của nhà Hán kia chứ? Thế nhưng hắn kiên quyết phò tá nhà Hán, trung thành tới cùng, không dám phản bội, như vậy thì đường đường là người Hán lại có thể âm mưu với đại vương chúng ta hay sao?”

Một tên vệ sĩ khác tức khí nói: “Chuyện của Lưu Vô Địch ta cũng đã nghe qua Nghe nói hắn còn là anh trai của tiết độ sứ đương thời ở Lân Châu Dương Sùng Ký nữa cơ, với cái uy ấy, lại còn danh là đại ca, một khi quay về Lân Châu thì Dương Sùng Ký phải làm sao? Có nhường ngôi vị không? Cứ cho là Dương Sùng Ký chịu nhượng, thì đến nay những tướng lĩnh ở bên Sùng Ký bấy lâu đều là thân tín của hắn, trong chớp mắt ngôi vị bị thay đổi, bọn chúng sẽ thế nào? Theo ý ta ấy hả, Lưu vô địch không phải là không muốn quay về, mà là không thể về được”.

“Ôi dà, đừng có lấy lòng dạ tiểu nhân mà đo lòng quân tử nhé”.

“Sao lại nói thế được? Ta là tiểu nhân ư? Ta là tiểu nhân, đại vương lại không hề nghi ngờ ta chắc? Lưu vô địch có lòng trung can nghĩa hiệp, là hiệp nghĩa vô song chứ gì? Cái người bị người ta bán đứng trước nay sẽ đều không nghĩ cho cái người đã bán đứng hắn một con đường lui, cẩn thận chút đi, Lưu Kế Nghiệp nếu đúng là không có gì thì coi như ta nói vô ích, còn nếu như hắn đúng là có vấn đề thì là tư thông trại địch, hihi”.

Cách chỗ bọn chúng không xa, dưới một cành cây bỗng xuất hiện một đôi mắt, đôi mắt đó dường như chỉ nhìn dõi theo trong bóng tối, so với chỗ của Lưu Kế Nghiệp đang ở: kẻ uống rượu người nói chuyện thì căn bản không thể bị phát hiện.

Đôi mắt đó như mọc trên cây, chớp chớp, lộ ra một nét cười giảo hoạt, sau đó đột nhiên biến mất.

“Ôi, dường như có người”.

Một người đang ăn đột nhiên thấy có điều khác thường, dùng củi trỏ huých huých vào mấy tên lính bên cạnh. Tên đó ngóng về phía bức cờ trướng, không thấy có động tĩnh gì, đang định quay đầu hỏi hắn thì chợt trông thấy từ trong bóng tối xuất hiện một người đang lặng lẽ tiến đến, ngó nghiêng trái phải rồi vội vã bỏ đi.

Người này hết sức cảnh giác, cứ đi vài bước lại dừng, thăm dò tình hình xung quanh, sau đó mới nhanh chóng đi vài bước, thân người như quỷ thoắt ẩn thoắt hiện. Vài người canh chừng cho Lưu Kế Nghiệp dựng đứng cả dậy, cả người căng lên như dây đàn, cẩn thận đi theo.

Người đó dường như nắm rất rõ tình hình hiện tại, ở đâu có binh đi tuần qua, ở đâu có đóng quân, hắn tránh những chỗ hiểm yếu, dần dần tới chỗ giao giữa hai thành Nam và Bắc. Ở đây là góc chết, quân Lô Châu tới đây là đã tới bờ, do đó địa thế của góc thành này không dễ bày binh bố trận, rất ít bị tấn công, sức phòng thủ cũng có hạn.

Người đó lặng lẽ bò vào thành, cẩn thận xem xét bốn phía, rồi đột ngột tiến lên phía trước rất nhanh, di chuyển một hòn đá to trên mặt đất, sau đó vớ lấy một thứ gì đó, nhanh chóng chạy lại phía tường.

Một gã thị vệ liếc mắt nhìn thấy, liền kêu lên thất thanh: “Đó là dây trói, người đó muốn trèo ra khỏi thành”.

Tên thị vệ khác nhanh chóng lấy cung tên, giương cung, ngắm theo bóng người đó chuẩn bị bắn. Người bên cạnh thì thào nhắc nhở: “Cố gắng bắt sống hắn”.

Tên thị vệ đó hiển nhiên tin tưởng vào tài bắn cung của mình, giơ căng dây cung, khóe miệng nở một nụ cười lạnh tự tin nói: “Ngươi yên tâm, chỉ cần có một tia sáng ta sẽ không thể bắn lệch được”.

Miệt Nhi Can trong tiếng Khiết Đan có nghĩa là tay bắn cung giỏi, người này cũng là một trong những tay cung đệ nhất dưới trướng Long Hưng Dịch, từ trước đến nay luôn lấy điều đó làm niềm tự hào. Muốn chứng minh những điều đồn đại là thực, hắn chưa nói dứt lời, mũi tên trong tay đã rời khỏi cung lao đi vun vút.

Người nọ đang dùng dây leo qua thành, vừa mới bò qua thành thì mũi tên của Miệt Nhi Can đã lao tới, khiến hắn thét lên một tiếng rồi ngã gục xuống trong bóng tối. Miệt Nhi Can sợ hắn chạy mất, bèn lớn tiếng quát: “Mau, bắt hắn lại”.

Một vài tên rút đao giắt ở thắt lưng ra, vội vàng chạy ra phía thành, làm kinh động cả bốn phía quanh thành. Bọn chúng mắt nhắm mắt mở nhảy dựng lên, hoang mang nắm chặt vũ khí, hét lớn: “Là ai?”

“Chúng ta vốn là thị vệ dưới trướng Long Hưng Dịch đại nhân, có người muốn trốn ra khỏi thành, đem đuốc lại đây soi xem sao”.

Một vài người lớn tiếng thông báo, bọn lính gác thành vội đem đuốc chạy đến nơi người kia vừa ngã xuống xem, thì chỉ thấy hắn nằm gục trên mặt đất, mũi tên cắm ngay đằng sau tim, khi lật lại người hắn thì hắn đã chết, mắt trợn ngược.

Miệt Nhi Can không nén nổi oán hận nói: “Hắn làm sao có thể chết được? Tài bắn cung đầy mình của Miệt Nhi Can đây…”

Tên lính đứng bên cạnh vội vàng nói: “Trời tối mịt mờ, có thể bắn trúng được đã là không dễ rồi, Miệt Nhi Can chớ nên tự trách mình.”

Tên vừa bị bắn chết mặc một bộ y phục màu xanh, một tên lính đem đuốc đến soi vào mặt hắn chợt thất thanh kêu lên: “Quả nhiên là người của Lưu đại nhân, tôi đã trông thấy người này”.

Vài tên lính thị vệ xì xào bàn tán với nhau vài câu, tin tức nhanh chóng được lan truyền đi khắp thành, mọi người được dặn dò phải phong tỏa tin tức, không cho tin tức bị lan truyền ra ngoài, còn với việc của cái xác thì nhanh chóng báo tin về cho Long Hưng Dịch.

Trúc Vận đứng trong bóng tối cười thầm, lẩn khuất nhanh chóng vào màn đêm dày đặc. Đêm nay, nàng còn nhiều chuyện phải làm.

Kế Tự Đường năm nay đã từng muốn nâng đỡ Vương Dương Cổn thâu tóm nhà Chiết gia, đồng thời đôi bên phối hợp mật thiết, nắm rõ tình hình nhà Dương rõ như lòng bàn tay, sau đó Dương Cổn sẽ nắm Lân Châu, không là địch của Chiết gia, ngược lại còn thu thập người của Kế Tự Đường, như vậy cửa này đã không dùng được nữa.

Cái mà đã bỏ đi không dùng thì không còn phải giữ bí mật, dần dần được truyền cho mọi người.

Khiết Đan tuy là nước thượng võ, chinh chiến tốt nhất, nhưng không nhất thiết sẽ là dũng mãnh nhất. Bọn họ rất coi trọng tác dụng của việc tì mỉ dò xét, phái một lượng lớn người đến thăm dò Trung Nguyên, thậm chí còn mua chuộc vài viên quan trong triều Tống, đó là công lao của Khiết Đan. Đối với chư hầu Tây Bắc, dù không phải là điều quan tâm đặc biệt của người Khiết Đan, nhưng cũng để ý đến hoạt động của họ, chiêu này họ đã nằm lòng, rồi lấy đó làm tham khảo để đưa về cho Long Hưng Dịch của Bắc quốc là Gia Luật Thịnh, cũng đã từng tỉ mỉ nghiên cứu quy luật.

Nay thấy trong thư Lưu Kế Nghiệp có đề cập đến việc đó là bí kíp đã không còn dùng từ nhiều năm nay của nhà Dương gia, hắn vội lấy chiếc bút mình đã từng dùng năm xưa ra đẻ so sánh, thấy quả nhiên trên bức truyền đơn nói rõ thời gian, địa điểm, thân phận của người truyền tin và yêu cầu. Kết hợp với bức thư mà Lưu Kế Nghiệp ra xem, cả hai đều không phải lần đầu tiếp xúc.

Khi đó mật mã tương đối đơn giản, chỉ cần giản lược bề mặt thời gian, địa điểm và yêu cầu… nếu như muốn biểu đạt rõ ràng nội dung thì phải dùng ngôn ngữ thông thường để viết, do đó trên mặt truyền đơn thường không viết được nhiều, Long Hưng Dịch xem qua lá thư này liền dịch được ngay, cười lạnh lùng, nói: “Đi thôi, đi gặp Khánh Vương đại nhân”.

Thành Ngân Châu từ khi Khánh Vương Gia Luật Thắng tới, dù kho trong phủ còn đầy nhưng để cổ vũ tinh thần ba quân, chiêu mộ lòng dân, Khánh Vương đã cho quét sạch những hộ lớn, trừ những hộ làm ăn kinh doanh có quan hệ mật thiết với Khiết Đan, thì chỉ còn duy nhất một hộ, tuy không giao du gì với Khiết Đan, nhưng cũng bình yên vô sự, hơn nữa còn được nhận sự quan tâm đặc biệt của Khánh Vương, đó chính là Lý gia ở Ngân Châu.

Ngân Châu Lý gia, đúng là hậu nhân của họ Lý ở Lũng Tây, không giống với họ Lý ở Hạ Châu, là hậu duệ của vương gia, mà họ Lý ở Lũng Tây từ đời Tần Hán đến nay vẫn cứ là chính thống của nhà Hán. Năm đó thiên tử Đại Đường Lý Thế Dân muốn tìm cho bản thân một xuất thân nguồn cội oai hùng, cũng muốn với cao nên nói rằng hắn là hậu nhân của Lý Tung ở Tây Lương, Lý Tung chính là một nhân vật kiệt xuất của họ Lý ở Lũng Tây.

Có điều Lý Thế Dân muốn ngư mục hỗn châu, người đương thời không thể chấp nhận được. Khi đó tăng nhân Pháp Lâm đã gâ khó dễ cho hắn, bác bỏ lại hoàng đế, nói: “ Đường ngôn họ Lý, bệ hạ họ Lý, tuy là đẹp nhưng không phải dòng giống ở Lũng Tây”. Hắn đã nói thẳng không giấu giếm rằng Lý Thế Dân vốn là xuất thân thấp kém, không thể nào là hậu nhân của họ Lý đại quý tộc ở Lũng Tây, nếu như trong tay không có bằng chứng thì hắn có cuồng vọng cỡ nào cũng không thể phát ngôn bừa bãi trước mặt hoàng thượng, khiến Lý Thế Dân khi đó không còn chút hứng thú nào.

Lý Thế Dân vốn thực là người Hồ, có rất nhiều thứ có thể tìm ra được, ví dụ như trong ghi chép của Đại Đường thì vào thời Bắc Ngụy có tổ tiên ban đầu của nhà Lý. Tổ phụ của Lý Uyên Lý Hổ tên là Khởi Đầu, còn có một chiến đệ gọi là Khất Đậu, con trai đầu của Lý Khởi Đầu tên là Đạt Ma, đều là tên ti tộc. Nhà Lý cũng kế tục rất nhiều những phong tục tập quán của người Hồ, ví dụ như sự thay đổi của Huyền Vũ Môn, Lý Thế Dân dụng binh vào cung, tạ tôi với Lý Uyên, khi quỳ xuống phải mút chính hai vú của mình, đó chính là minh chứng rõ nhất cho tập tục của người Hồ.

Nhưng bất kể người khác nói như thế nào thì Lý Thế Dân cũng tự cho mình là hậu thế của họ Lý ở Lũng Tây, lợi dụng thế lực của mình để sửa đổi sử sách, che giấu sự thực với những người hậu thế. Nhưng không thể nào giấu nổi, việc hắn tự leo cao bản thân thành hậu nhân của họ Lý ở Lũng Tây bị nhiều người chú ý. Do vậy họ Lý ở Lũng Tây được phát triển rất mạnh, trở thành một địa gia có thế. Đến nay thì Đại Đường đã tan như khói mây, phân nhánh của họ Lý Lũng Tây cũng đã bị lưu lạc đến tận Trung Nguyên, có điều ở Lũng Tây vẫn còn một nhánh của họ Lý, chủ yếu sinh sống ở Ngân Châu, lấy hiệu là họ Lý Ngân Châu.

Tộc trường của họ Lý Ngân Châu tên là Lý Nhất Đức, tự Quân tử. Một phần tư dân số thành Ngân Châu là thân thích của họ, ngoài ra còn có quan hệ mật thiết với hơn một nửa số dân trong thành, do đó những người mang họ Lý trong thành chiếm hơn một nửa. Một nhân vật như vậy bất kể là ai chiếm được Ngân Châu thì trừ phi hắn chỉ muốn chiếm cái thành không, chứ nếu không cũng sẽ không dám đắc tội với già nửa họ Lý trong thành. Do đó, đến nay Ngân Châu tuy binh mã hoảng loạn, Lý Nhất Đức vẫn cứ bình tĩnh như không.

Đêm đã khuya, trăng thanh gió mát, vầng trăng nhô lên cao, dế mèn trong bụi cây kêu lên từng hồi ro ro. Một bóng người di chuyển rất nhanh về phía hành lang, đi qua mấy dãy phòng xá, dừng chân tại một tòa đình các.

Người đó chính là Trúc Vận, dù là lần đầu đến Lý gia nhưng đại đa phần kiến trúc trong các nhà giàu đều có quy luật, phòng chính, phòng khách, hành lang, đều đã có quy luật nhất định, chỉ cần thuộc kiểu kiến trúc thì có thể biết được ngay vị trí của các gian nhà. Nàng đứng ở đình quan sát một lượt, sau đó phi thân tiến vào một cánh cửa có hoa leo xung quanh, men theo những tảng đá nhấp nhô trên con đường mòn tiến về phía trước.

Lý lão gia đã say giấc, nằm trên một chiếc giường có khắc hoa lớn. Một thiếu phụ dáng người đẫy đà, dung mạo xinh đẹp, mặc một bộ quần áo mỏng màu cánh gián, khuôn mặt hồng hào như say rượu, trong giấc mơ dường như có điều gì vui sướng nên ở khóe môi còn nở ra một nụ cười ngọt ngào. Còn lão gia nằm bên cạnh nàng là một lão già mắt sâu mày rậm, chòm râu đã chuyển màu hoa tiêu, đang phát ra tiếng ngáy ầm ầm.

Trúc Vận cười cười, nghĩ đến cảnh tượng “nhất thụ lê hoa áp hải đường” mà buồn cười, rồi quay người đi, xem xét tình hình trong phòng.

Nàng tuy là đệ tử của thế gia nổi tiếng thiên hạ, nhưng thưở nhỏ đã làm việc trong Kế Tự Đường, đã nhìn quen những cư thất hào nhoáng. Chỗ này là chỗ ngủ của Lý Nhất Đức, rèm cửa tung bay, đẹp đẽ sang trọng, không có chút dung tục nào. Ở thế gia mà có được không khí này cũng không phải ngạc nhiên, nhưng ở Tây Bắc trong cái lạnh thế này mà có được một nơi như vậy thì quả là đáng khen.

Trúc Vận ngồi xuống bên bàn, thuận tay cầm ấm trà lên, trong bình trà đã nguội ngắt, uống một hớp, nàng khen: “ Trà ngon, đã pha lâu như thế rồi mà vị vẫn không bị đổi một chút nào, trà đã ngon, ấm pha trà cũng thật là tuyệt.” Nàng vừa nói xong thì Lý Nhất Đức đang nằm trên giường vội chợt thức giấc, hoắc mắt ngồi dậy, áo trễ xuống, để lộ ra một cơ thể rắn chắc màu đồng. Vời một gã đàn ông đã hơn năm mươi tuổi thì có thể nói là khá khỏe mạnh sung sức.

Trúc Vận cười ha hả, không để ý Lý Nhất Đức đang ở trần, nàng nheo nheo mắt, ngọt ngào nói: “Lý lão gia, ngài nhỏ thật đấy”.

“Ngươi là ai?” Lý Nhất Đức quát to khiến người phụ nữ nằm cạnh hắn phải giật mình tỉnh giấc, thấy trong phòng một cô nương đang ngồi lù lù bên bàn, bên người còn giắt theo một thanh bảo kiếm, không nén nổi sợ hãi mà hét lớn

“A!”

Trúc Vận cười nói: “Họ Lý Ngân Châu, truyền thừa cho đến nay quả là không dễ. Lý lão gia ưa làm việc thiện, cứu tế bần hàn, cao sang vọng trọng, được mệnh danh là Quân Tử Đức, nay được diện kiến tận mắt tiểu nữ thật không đành lòng, đêm hôm mạo muội đến đây làm phiền, cũng chỉ là do quá mê mẩn, lão gia không hoan nghênh sao?”

“Hả?” Mỹ nữ ngồi bên cạnh hắn lại kêu lên một tiếng kinh ngạc, Trúc Vận chau mày, sắng giọng: “Lão gia, có thể khiến ả kia câm miệng lại được không?”

“Hả?” Mỹ nữ đó lại kêu lên một tiếng kinh ngạc, liền bị Lý Nhất Đức chau mày quát: “Đi ra!”

Mỹ nữ bàng hoàng ngồi dậy, không cần để ý thời tiết bên ngoài thế nào liền chạy ra ngoài. Lúc này ở bên ngoài có người đang gõ cửa: “Lão gia, xảy ra chuyện gì vậy?”

Lý Nhất Đức nói: “Lão phu không sao, ngươi gào cái gì, mau cút xa khỏi đây”

Đợi người đó đi khỏi, Lý Nhất Đức mới quấn áo quanh người, chạy xuống đất, đi về phía Trúc Vận, ung dung ngồi xuống trước mặt nàng, nhìn thăm dò một lượt rồi mở miệng hỏi: “Cô nương từ đâu đến đây, phụng mệnh ai, muốn nói với lão phu điều gì?”

Trúc Vận thấy dáng bộ ung dung của hắn cũng không khỏi cảm phục: “Lão gia đã can đảm như thế quả thực cũng khiến tiểu nữ khâm phục”.

Lý Nhất Đức cười hà hà nói: “Cô nương đang đêm hôm dám xông vào nơi ở của lão phu, sự can đảm đó mới khiến lòng người cảm phục. Nếu như cô nương muốn lấy cái đầu này của lão phu thì hà tất còn chưa ra tay? Còn lớn tiếng đánh thức lão phu dậy, tất nhiên là không muốn hạ sát lão, lão phu còn có gì mà phải sợ? Hơn nữa, nhà Lý ta tuy rằng không phải đầm rồng hang hổ, nhưng cũng không phải dễ xông vào. Nhiều năm nay không một ai dám mò vào phủ nhà Lý lúc đêm hôm, vì khó lòng thoát khỏi lính canh gác. Ấy vậy mà cô nương một mình xông được vào tận đ ây, nếu như cô nương quả thực là nỗi lo sợ cho lão phu thì muốn thoát khỏi đây cũng không dễ dàng”.

Trúc Vận thản nhiên nói: “Cái này thì ta tin tưởng. Tiểu nữ tự đến chỗ nguy hiểm cũng có nghĩa là tiểu nữ có thành ý, lão gia có thể công khai mà nói chuyện với tiểu nữ không?”

Lý Nhất Đức đưa ánh mắt thích thú của lão nhìn Trúc Vận, nói: “Cô nương muốn nói chuyện gì với lão phu?”

Ánh mắt của Trúc Vận chợt nghiêm trở lại: “Họ Lý Ngân Châu, đại tộc nhà Hán, đến nay đã làm hổ làm tướng, trợ giúp quân Khiết Đan bảo vệ vững chắc thành trì, lão gia thân là gia chủhọ Lý, lẽ nào…”

Lý Nhất Đức cười ha hả, xua tay nói: “Nếu như cô nương muốn dùng Hán Hồ để khuyên lão phu thì cô có thể đi được rồi. Ta là họ Lý Ngân Châu Ngân thật đấy, nhưng khi Tây Bắc gặp khó khăn có yêu cầu gì thì cũng đều phải dựa trên sức của họ, chứ làm gì có liên quan gì đến người Hồ? Ích lợi viện tới, binh mã của người Hán với chúng ta như rồng như hổ, chỉ cần có chỗ thích hợp là được, người Hồ có quan hệ anh em thân thiết với chúng ta, lấy phần Hán Hồ để định đoạt độ thân thiết xa gần là điều ngu xuẩn cực kỳ!”

“Bốp, bốp, bốp!”

Trúc Vận nhẹ nhàng vỗ tay: “Lão gia đã là người không ngu xuẩn như vậy thì dễ làm rồi. Vậy chúng ta hãy vứt bỏ mấy cái đại nghĩa đi, chỉ nói đến lợi ích thôi”.

Lý Nhất Đức bật cười nói: “Lão phu còn không biết cô nương rốt cuộc là người thế nào, không biết cô nương có thể đem đến cho ta lợi ích gì?”

Trúc Vận nói: “Lão phu tử, ta là người của thái úy họ Dương ở Lô Châu, lần này phụng mệnh thái úy, nửa đêm tiến vào thành Ngân Châu, muốn được yết kiến lão phu tử, còn nói về lợi ích, thì Dương thái úy có thể đem đến lợi ích cho ngài đấy, đó chính là bảo đảm uy danh của Lý gia không bị đe dọa”.

 Chương 431: Trúng Kế

Lý Nhất Đức nheo nheo hai mắt lại, trầm giọng nói: “Lời ấy là có ý gì? Dương thái úy bảo đảm cho uy danh của họ Lý chúng ta không bị đe dọa ư? Hừ! Khiết Đan, Lô Châu liên tiếp kéo đến, tới trước thành khí thế hung hãn, thành Ngân Châu đang đứng trước cơn nguy, nhà Lý chúng ta trợ giúp Khánh Vương thủ thành. Dương thái úy đánh thành Ngân Châu của chúng ta, lại còn to mồm nói sẽ bảo vệ uy danh của Lý gia chúng ta là ra làm sao?”

Trúc Vận nói: “Những lời ấy của Lão phu tử sai rồi, nhất ẩm nhất trác, chẳng lẽ là tiền định. Nếu như Khánh Vương không cướp thành Ngân Châu thì làm sao quân Khiết Đan và Lô Châu dẫn binh kéo đến? Lão phu tử không chỉ trích Khánh Vương, ngược lại còn hết lòng vì hắn thì còn ra đạo lý gì? Khánh Vương là nghịch thần của Khiết Đan, hắn chiếm Ngân Châu, hoàng hậu Tiêu Xước có đồng ý được không? Khánh Vương vừa đến đã dẫn theo kỵ binh Khiết Đan đến, chư hầu Tây Bắc ắt gặp khó khăn. Phòng ngự sứ ở Ngân Châu Lý Quang Tề bị giết, đó chính là tấm gương. Để tránh khói lửa chiến tranh xảy ra ở vùng Tây Bắc của ta, Dương thái úy mới dẫn binh tới, cũng chính vì cố xử lý xong vụ này cho tránh tai họa về sau. Lão phu tử là anh hùng chinh chiến đã lâu ở Tây Bắc, trải qua bao phong ba bão táp, lẽ nào lại không nhìn thấu hay sao?”

Lý Nhất Đức cười ha hả nói: “Nếu như Dương thái úy tấn công thành, thì còn cần phái ngươi – một cô nương đang đêm hôm khuya khoắt lẻn vào gặp lão phu làm gì? Dùng lời ngon tiếng ngọt, chẳng qua là muốn lão phu giúp ngươi chứ gì. Ta là người họ Lý, muôn đời nay con cháu vẫn sinh sống trong thành Ngân Châu, nếu như trở thành thù địch với Khánh Vương thì e rằng sẽ rơi vào lưỡng bại câu thương, các ngươi ở ngoài thành, có thể làm gì ích cho lão phu?”

Trúc Vận phản bác nói: “Khánh Vương một khi còn sống thì người Khiết Đan cũng không chịu yên. Bất kể phải trả giá thế nào thì quân Khiết Đan cũng sẽ giết được Khánh Vương. Binh mã của lính Khiết Đan nhất định sẽ phá vỡ thế cân bằng của các chư hầu Tây Bắc. Để trừ hậu họa sau này, chư hầu Tây Bắc nhất định phải chống lại Khánh Vương, do đó, Khánh Vương còn ở Ngân Châu một ngày thì Ngân Châu còn một ngày không yên.

Giữ Ngân Châu? Có thể giữ được sao? Có thể giữ trong chốc lát chứ sao giữ được cả đời? Thiên hạ không có thành nào là tồn tại mãi mãi, chỉ là dài hay ngắn mà thôi. Khánh Vương chiếm Ngân Châu, nước Tống không đồng ý, Khiết Đan không bỏ cuộc, Phủ Châu, Lân Châu, Lô Châu không đồng ý, họ Lý Hạ Châu khi đã ra mặt thì cũng sẽ không đồng ý, hắn còn ở Ngân Châu thì khói lửa chiến tranh vẫn còn không dứt.

Ta biết lão phu tử có tiếng là nửa thành là con cháu họ Lý, nhưng dẫu cho có như vậy thì lão phu tử có bao nhiêu người có thể sẵn sàng chết? Thân là gia chủ họ Lý, lão phu tử nay lâm vào cảnh loạn th ế, có thể vứt bỏ hết vinh hoa phú quý, nhưng dựa vào th ế lực của nhà Lý ở Ngân Châu thì chiến tranh vẫn cứ xảy ra liên tiếp, đau thương và chết chóc vẫn liên miên không dứt, vậy lão phu tử có yên lòng được không? Ngoài thành binh mã đã tổn thương không ít, quân giữ thành ở phía trong thành cũng đã dần mệt mỏi, một khi thành bị phá thì thành Ngân Châu cũng sẽ rơi vào cục diện thê thảm, Giang Châu nước Đường chính là một vết xe đổ cho ngài nhìn vào. Đến lúc đó, Gia Luật Tà Thuyên mà hạ lệnh phá thành, thì lão phu tử có không sợ chết cũng phải nghĩ đến chuyện truyền cho người khác duy trì dòng họ Lý chứ?”

Lý Nhất Đức ánh mắt sắc lạnh, trầm giọng hỏi: “Cô nương có cao kiến gì?”

Trúc Vận nói: “Quân trong thành Ngân Châu không ít người là họ Lý, theo như tôi được biết, Khánh Vương chiếm thành Ngân Châu, binh mã trong thành cũng đã tản mát nhiều rồi. Chạy xa thì chạy đến được Hạ Châu, đi theo Lý Quang Duệ, nhưng người nhà gia tộc của lão phu thì đại đa phần đều quy thuận Khánh Vương. Nếu như Khánh Vương kiên quyết thủ thành thì người ngựa nhất định sẽ hưởng ứng. Lão phu tử có công dâng thành thái úy của chúng tôi nhất định bảo toàn Ngân Châu, không để Ngân Châu rơi vào tay Khiết Đan.”

Lý Nhất Đức chớp chớp mắt, hồi lâu mới nói: “Người Khiết Đan cướp bóc đã thành thói, dã man tàn bạo, một khi thành bị phá thì loạn quân vào thành, cứ cho đại vương của bọn chúng có muốn cũng không khống chế nổi hết bọn chúng, Dương thái úy làm sao dám chắc là sẽ bảo đảm Ngân Châu không bị nạn binh tai?”

Trúc Vận thản nhiên cười: “Lão phu tử, thái úy chúng tôi đã dám nói thì điều này ắt đã nắm chắc. Sự việc trọng đại, tôi cũng không dám tiết lộ nhiều, nếu như lão phu tử quyết định, quyết tâm hợp tác với chúng tôi thì xin hãy thành ý, khi đó, thái úy của chúng tôi sẽ đưa ra đáp án khiến lão phu tử hài lòng”.

Nàng kiều diễm đứng dậy, thản nhiên nói: “Ở thành Ngân Châu này, lão phu tử là người thông thiên, là hoàng đế dưới trần, nếu như lão phu tử có quyết định thì hãy tìm cách liên hệ với thái úy chúng tôi, tiểu nữ xin đi trước. Ngày mai, ắt sẽ có một số chuyện phát sinh, sẽ khiến cho lão phu tử hiểu được cách của thái úy chúng tôi. Để bảo vệ uy danh của họ Lý, xin Lý gia hãy sớm đưa ra quyết định, cáo từ!”

Trúc Vận thản nhiên đi ra hướng cửa, cẩn thận đề phòng rồi mở cửa, trong sân phát ra những tiếng kêu leng keng, đao gươm đồng loạt rút ra, lưỡi gươm chi chít như rừng, trong sân đã tụ tập rất nhiều đệ tử của nhà Lý, trên tường, nóc nhà, giả sơn, sau hành lang, đám đệ tử mỗi người đều cầm trong tay gươm.

Uy thế đó khiến Trúc Vận toát mồ hôi lạnh, nếu như Lý Nhất Đức hô “giết” một tiếng thì e rằng nàng sẽ bị chết ngay tức khắc, sau đó bị chém nát ra như bùn, ở nơi này thì có thiên la địa võng các chiến thuật cũng không thể nào mà có đất dụng võ.

Trúc Vận đứng im, một lát sau, trong phòng có lệnh truyền ra: “Tất cả lùi ra!”

Đệ tử của Lý gia lập tức rút lui, chỉ trong chốc lát, cả sân đã vắng bóng không còn một ai, tĩnh lặng như cũ. Dế lại kêu vang. Trúc Vận khẽ thở phào, một cơn gió thổi tới, nàng cảm thấy rõ áo sau lưng mình bị mồ hôi chảy ra ướt đầm, khẽ lấy lại hơi, nàng quay lưng chắp tay nói: “Lời nói hôm nay hy vọng lão phu tử sẽ dành thời gian suy nghĩ, tiểu nữ xin cáo từ”. Nói rồi thoáng một cái, bóng nàng biến mất trong bóng đêm.

******************************************

Khánh Vương Gia Luật Thịnh nắm chặt lá thư của Long Hưng Dịch trong tay, cùng với lá truyền đơn, khuôn mặt trở nên méo mó, dữ tợn như quỷ. Hắn đấm bàn kêu “rầm” một tiếng, hét lớn: “Đi, bắt người của Lưu Kế Nghiệp cho ta!”

“Tuân lệnh!” Bọn lính hô một tiếng rồi quay người bỏ ra ngoài.

“Chậm đã!” Gia Luật Thịnh gọi với lại, nhặt hai lá thư lên rồi nói với Long Hưng Địch: “Lưu vô địch là người giữ thành tốt nhất, cái này… có thể nào là mưu kế của Dương Hạo không?”

Long Hưng Dịch tiến lên nói: “Đại nhân, thuộc hạ cũng từng nghi ngờ như vậy, nhưng rất nhiều dấu hiệu đã chứng minh rằng Lưu Kế Nghiệp không hoàn toàn trong sạch. Đại nhân đã phải cầu viện nước Hán, Lưu Kế Nguyên không muốn xuất binh, chỉ có thể âm thầm trợ giúp, có thể hấy là căn bản không có thành ý liên minh với đại vương, một khi có điều gì thì cái liên minh này ắt sẽ bị lung lay, leo tường đón gió cũng là lẽ tất nhiên.

Còn nữa, Lưu Kế Nghiệp khi mới bắt đầu đi dò xét quanh thành, mỗi lần ngoài thành có địch mạnh tấn công hắn đều thủ ở lục viện, nhưng sau đó lại đột nhiên chuyển quân đến Nam thành – nơi quân Lô Châu đóng, như vậy chẳng lẽ không đáng nghi? Thuộc hạ nghe nói cái tên Lưu vô địch thương binh như con, mỗi lần lâm trận toàn tiên phong đi trước, sau trận chiến lui về nghỉ ngơi hắn cũng phải đi thăm hỏi an ủi các binh sĩ, thưởng cho binh sĩ tốt. Ba quân chưa cởi áo giáp đi nghỉ hắn cũng không ngủ yên, ba quân không ăn cơm hắn đến nước cũng không động răng, thế thì tại sao giờ hắn lại thế? Trận chiến vừa dừng hắn chỉ đi tuần có một lượt, đừng nói đến việc thăm hỏi ba quân, đến xem động tĩnh khắp nơi hắn còn chẳng buồn, như vậy ắt hẳn là có nhiều điều nghi ngờ rồi.

Thứ ba, Dương Hạo từ Khai Phong đến Lô Châu, nếu như không phải nhà Chiết và nhà Dương đã câu kết với nhau thì làm sao có thể hiểu được bí mật dùng quân của nhà Dương? Hơn nữa theo tin tức nghe được của bọn phu binh thì ở vị chủ tướng ở ngoài thành có họ Chiết, hừ, e rằng là người nhà họ Dương. Chỉ là bọn họ không biết mà thôi, điều mà không thể cãi lại được chính là…”

Hắn hít một hơi thật dài rồi hạ giọng nói: “Lá thư này là cướp được trên người thân binh của Lưu Kế Nghiệp, nhân chứng, vật chứng đều đầy đủ, không gì có thể chối cãi. Đại nhân có tài, nhưng xin hãy cẩn thận trước âm mưu quân địch.”

Gia Luật Thịnh vừa nghe hắn nói vừa đi đi lại lại, hồi lâu không nói. Long Hưng Dịch thúc giục nói: “Đại nhân, không dứt khoát thì loạn không ngừng”.

Gia Luật Thịnh bỗng dừng lại, trầm giọng nói: “Dương Đan Mặc, mời Lưu Kế Nghiệp đến, bản vương… thử hắn xem sao”.

Dương Đan Mặc ngẩn người, chắp tay đi.

 Chương 432: Công thành công tâm

Cỡ một tuần hương trôi qua, Lưu Kế Nghiệp đi theo Gia Luật Thịnh tới. Chỉ trông thấy Lưu Kế Nghiệp mặc áo giáp đầy đủ, không có vẻ gì như vừa mới thức dậy, Gia Luật Thịnh lòng nghi ngờ nổi lên, cười thăm dò: “ Tướng quân đến nhanh thế, còn chưa đi ngủ hay sao?”

Dương Đan Mặc cướp lời: “Mạt tướng trên đường đi gặp Lưu tướng quân đấy ạ”.

Lưu Kế Nghiệp vốn định đi nằm nhưng đột nhiên phát giác ra thị vệ quanh mình thiếu mất một người. Ngay từ đầu thủ hạ của hắn đợi người này đi vệ sinh, cũng không chú ý lắm, nhưng đợi mãi không thấy quay trở lại, mới bắt đầu nảy sinh lòng nghi ngờ, đi tìm khắp thành cũng không thấy bóng dáng đâu, đành báo cáo lên Lưu Kế Nghiệp. Lưu Kế Nghiệp nghe xong liền vội vàng mặc áo giáp đi tìm, nhưng cũng không rõ nguyên do bên trong.

Lúc này, Dương Đan Mặc đang trên đường đi tìm hắn đến gặp Khánh Vương, tên đó cũng không biết Lưu Kế Nghiệp là người thông minh tuyệt đỉnh, không bao giờ nghĩ rằng ở ngoài thành có cao thủ được phái vào đây xuống tay với gã thị vệ, hắn e rằng tên thị vệ đó tận mắt thấy cuộc chiến trong thành quá khốc liệt nên đã tìm cách đào ngũ, hoặc là đã vi phạm quân luật nên không dám quay về, nếu như đúng là như vậy thì thật mất mặt.

Trước khi chân tướng sự việc được làm rõ, hắn cũng không muốn để cho Dương Đan Mặc biết, nên đành nói bừa rằng đã đi ngủ rồi nhưng không yên về việc coi thành nên dậy đi tuần xem sao, hắn cũng nói y như vậy với Gia Luật Thịnh.

Gia Luật Thịnh thân là chủ, hắn nhìn Lưu Kế Nghiệp thấy không có gì khả nghi, huống hồ những lời của Kế Nghiệp không hẳn là cao minh nên hắn bất động, ngáp một cái mà nói: “Lưu tướng quân vất vả rồi, bản vương có được một tướng quân như thế này trợ giúp ắt thật là phúc lớn của bản vương.”

Lưu Kế Nghiệp đáp: “Khánh Vương khen quá lời rồi, không biết Đại Vương cho gọi mạt tướng đến đây là có gì dặn dò?”

Gia Luật Thịnh cười ha hả đáp: “Lưu tướng quân là khách khanh của bản vương, có gì mà phải dặn dò cơ chứ? Bản vương chỉ là có một chuyện muốn bàn bạc với tướng quân”.

“Xin mời đại vương nói”.

Gia Luật Thịnh nheo hai mắt lại, nói: “Mấy ngày nay, quân Lô Châu phía nam thành bị tổn hại rất nghiêm trọng, đã mất đi nhuệ khí, lực tấn công thành cũng giảm sút. Bản vương cho rằng, nếu như chúng ta cứ tiếp tục mạnh mẽ công kích thì quân Lô Châu ắt sẽ thảm bại. Lô Châu mà bại thì chỉ dựa vào sức của Gia Luật Tà Thuyên đang ở xa, một cây làm chẳng nên non, càng khó phát huy tác dụng, thành Ngân Châu có thể nhờ đó mà an toàn”.

Lưu Kế Nghiệp động lòng hỏi: “Không biết đại vương có diệu kế gì?”

Thần sắc Gia Luật Thịnh nặng hẳn xuống, hắn cười lạnh nói: “Quân ta đã nhiều ngày không ra khỏi thành đánh úp rồi, theo ý bản vương, đêm nay xuất cờ ngoài ý muốn, tung hết đại quân ra, đánh úp quân Lô Châu. Dương Đan Mặc cùng tướng quân, mỗi người dẫn một đường, ba quân tập hợp lại cùng đánh úp. Chỉ huy trong đêm là việc không dễ, hơn nữa quân địch còn không biết tường tận quân ta, chỉ có thể phòng ngự, không dám mạo hiểm công kích, mà Gia Luật Tà Xuyên thì không dám tùy tiện viện binh, để tránh bị quân ta tóm cổ, vì thế ta định cho quân đánh Lô Châu trong đêm nay, ý tướng quân thế nào?”

Lưu Kế Nghiệp mặt biến sắc nói: “Không được, quân Lô Châu mấy ngày nay đã gia tăng phòng bị, trong ngoài quân đội đều đặt chướng ngại trùng điệp, trong đêm tối đánh úp e rằng sẽ rơi vào trận địa của chúng bày ra, không biết sẽ phải tổn hại đến bao nhiêu binh mã. Một khi quân địch đã có đề phòng thì sẽ rất khó, huống hồ quân ta cũng không có sở trường đánh trong bóng tối, sẽ càng khó khăn hơn. Tình hình như vậy thì kể cả có đánh úp thành công, quân ta cũng sẽ tổn hại với con số không nhỏ, khi đó chỉ dựa vào quân số ít ỏi còn lại để giữ Ngân Châu thì làm sao địch lại nổi đội binh tinh nhuệ của lục viện?”

Gia Luật Thịnh cười nói: “Vậy theo Lưu tướng quân thì bản vương phải làm sao?”

Lưu Kế Nghiệp quả quyết nói: “Cứ kiên quyết thủ thành. Trong thành có tích trữ lương thực, có thể đủ dùng trong mười năm. Ngoài thành số lượng binh mã lên đến hàng vạn, Lô Châu mới xây dựng, có thể cầm cự được bao lâu? Đại quân Khiết Đan chỉ dựa vào bách tính tứ phương, càng khó trụ nổi, nếu như quân Khiết Đan từ xa vận chuyển lương thực tới thì trên đường ắt phải tiêu hao ít nhiều, đến được thành Ngân Châu thì cũng chỉ còn hai ba phần. Tình hình như thế bọn chúng cũng không kháng cự được lâu. Chúng ta ở trong thành còn cầm cự được một ngày thì chúng càng sớm tiêu một ngày. Gia Luật Tà Xuyên tội ác tứ phương, trời đất oán giận, vốn đã không thể nhờ vả gì được ở bách tính trong thiên hạ, để lâu quân của chúng ắt sẽ bị uy hiếp, phẫn nộ dẫn đến phản kháng, tình hình hỗn loạn. Đến lúc đó quân ta tấn công thì ắt sẽ thắng”.

Nghe đến đây, thấy những lời đó phù hợp với những gì trong thư, Gia Luật Thịnh cười ha hả mà rằng: “Dự tính của Lưu tướng quân hay lắm, ha ha ha… đúng là có đạo lý, có đạo lý quá”.

Lưu Kế Nghiệp vui vẻ nói: “Đại vương từ thiện như vậy, sớm có một ngày, không chỉ Ngân Châu mà cả Tây Bắc này đều sẽ biến hóa nghiêng lệch cả trời đất”.

Khánh Vương Gia Luật Thịnh ôm bụng cười nói: “Haha, cuối cùng thì Lưu tướng quân đã nói được một câu thật lòng”.

Lưu Kế Nghiệp cuối cùng cũng nhận ra cái cười mỉa mai của hắn, không khỏi ngạc nhiên nói: “Lời nói ấy của đại vương là có ý gì?”

Nụ cười trên môi Gia Luật Thịnh chợt tắt, hắn gầm lên: “Người đâu, bắt hắn lại cho ta!”

Từ hai bên trướng lập tức một đội quân xông ra, lao thẳng đến tóm giữ Lưu Kế Nghiệp, trói hắn lại. Lưu Kế Nghiệp kinh hãi nói: “Khánh Vương, ngài có ý gì?”

Gia Luật Thịnh cười lạnh một tiếng: “Bản vương cả đời nghĩ quỷ kế, làm sao có thể rơi vào bẫy của ngươi được? Bỏ áo giáp của hắn ra, lập tức bắt người của hắn, nếu như có ai dám phản kháng, lập tức giết không tha!”

Ngày thứ hai, Dương Hạo lại thử tiến hành vài trận đánh dò xét để tấn công vào thành, nhưng vẫn như diễn tập, đánh cho không đau không ngứa, từ trong thành, chỉ huy binh mã có phong cách đánh không giống với Lưu Kế Nghiệp, nửa đêm Trúc Vận vào thành cũng đã thăm dò thấy trong thành có thay đổi, được biết Khánh Vương quả đã trúng kế, cha con Lưu Kế Nghiệp đã bị bắt, Dương Hạo không nén nổi vui sướng.

Hai ngày nay không thấy Lý Nhất Đức có động tĩnh gì, có điều hắn cũng không dám giết Trúc Vận, cũng không tiết lộ chuyện đêm đó ra ngoài, hiển nhiên là đang quan sát thái độ, cũng không muốn tự cắt đứt con đường lui của mình. Đến nay Lưu Kế Nghiệp đã bị bắt, gia đình Lý gia trong thành có bao nhiêu người, Lý Nhất Đức không thể không biết, đối với Khánh Vương cũng càng ngày càng có thêm ý xa cách. Có điều muốn hắn đi vào khuôn khổ cũng không dễ dàng, nước yếu không ngoại giao, thì phải xem có bao nhiêu tiền mới có thể nói đến chuyện thành công. Hiện nay đánh hay không đánh là việc Lý Nhất Đức đau đầu mãi, sau mới nghĩ đến việc hợp tác.

Dương Hạo quyết định, hôm nay sẽ dốc toàn bộ sức lực, hung hăng đánh một trận xem sao!

Tấn công thành, xưa nay vốn được coi là chiếm căn cứ địa lợi, mỗi lần công thành là phải bỏ ra sức người và sức của tương đối lớn. Nhưng về mặt thủ thành mà nói thì tuy là chiếm được ưu thế trong toàn cục, nhưng đã hình thành nên cục diện vây thành, nếu nói công thành là chủ động trên chiến trường thì chiến đấu hay không chiến đấu là một trong những mặt của công thành. Do đó, trừ phi lương thực trong thành đã cạn, hoặc giả bên giữ thành có một đội quân lớn tiếp ứng, nếu không thành trì sớm muộn cũng có ngày bị phá.

Về điểm này, Lý Nhất Đức cũng hiểu rất rõ rằng sở dĩ hắn đứng về phe Khánh Vương, một mặt là do việc Khánh Vương chiếm thành đã thành sự thực, quân của hắn đã khống chế được thành Ngân Châu, thế lực của Lý Nhất Đức dù to nhưng cũng hông thể phản kháng lại được; mặt khác, đại đa số quân trong thành đều là nhân mã của người Khiết Đan, người Khiết Đan sau khi phá thành đã thiêu sát và đánh cướp toàn thành, thành không còn được thịnh vượng như xưa nữa. Khánh Vương đã lấy Ngân Châu làm nền móng, do đó hắn coi mối họa từ người dân ở thành Ngân Châu không là gì so với những mối họa mà người dân Khiết Đan gây ra, do đó Lý Nhất Đức đánh người Khiết Đan đã lâu lại tự nhiên rơi vào ảo tưởng, nửa muốn nửa không gia nhập vào đội ngũ của Khánh Vương.

Nhưng những lời nói của Trúc Vận đã khiến hắn phải suy nghĩ, Trúc Vận võ công xuất quỷ nhập thần hắn không để ý, từ cổ chí kim còn rất nhiều người công phu giỏi hơn cô ta gấp nhiều lần, nhưng tác dụng lại có hạn. Cứ cho là Trúc Vận giết được hắn thì cũng không thể diệt hết được cả họ nhà Lý. Song chỉ cần một nhánh quân võ công còn không bằng Trúc Vận muốn hủy diệt cả gia tộc họ Lý, san bằng cả Ngân Châu này thành bình địa thì lại không phải là chuyện khó khăn gì.

Những phân tích của Trúc Vận là đúng, dẫu cho hắn có thể dẫn binh sang tận Khiết Đan thì chỉ cần Khánh Vương còn ở đây một ngày, quân Khiết Đan quyết không an lòng, sớm muộn cũng sẽ dẫn binh sang đánh. Một khi quân Khiết Đan đã tiến vào thì chư hầu Tây Bắc trong đó có cả Ngân Châu sẽ bị đánh cho tan tác, với thế lực của Khiết Đan thì việc tiến vào Tây Bắc không có gì là khó. Dân chúng sẽ gặp nạn, bất kể là bị cướp Ngân Châu hay Phủ Châu, Lô Châu… thì cũng chỉ cần diệt trừ Khánh Vương là xong, tránh cho người Khiết Đan tiến sâu vào.

Lý Nhất Đức càng nghĩ càng bất an, lòng hắn cuối cùng đã bị dao động. Khi quân ngoài thành lại chuẩn bị tấn công, Lý Nhất Đức đã không còn ngồi yên được nữa. Hắn thay quần áo, cùng với vài nhân vật chủ chốt khác trong tộc lặng lẽ tiến về phía Nam thành.

Ở nam thành, người chỉ huy đã từng tu sửa thành cho Khánh Vương chính là đệ tử của họ Lý ở Ngân Châu, chính mắt hắn trông thấy đại quân ở ngoài thành đang tập kết, lập tức chỉ huy tất cả vận chuyển đá và cây, gỗ tới để đốt lửa, nấu một nồi dầu sôi, lấy từ trong kho của phủ Ngân Châu ra một đống mũi tên, cứ cách mười bước lại đặt một hộp, mở nắp đậy ra thấy mũi tên sáng loáng…

Trong lúc đang khẩn trương bận rộn như vậy, một tên dân thường vội vã chạy lại nói vài câu gì đó vào tai hắn. Lý chỉ huy kinh hoàng ngạc nhiên, hắn ngẩng đầu thấy chỉ huy Dương Đan Mặc đứng gần đó đang không chú ý gì tới hắn, bèn lập tức quay người men theo đường thành chạy đi.

“Lão gia, làm sao mà ngài lại tới thế?” Lý chỉ huy chạy tới trước mặt một người mang bồng địa, vội vàng hỏi.

Người đó cởi mũ ra, để lộ khuôn mặt sắc như đồng, chòm râu bạc, không ai khác, chính là Lý Nhất Đức của họ Lý Ngân Châu.

Lý Nhất Đức mỉm cười, nói: “Lão phu lên thành xem xem”.

Lý chỉ huy kinh ngạc nói: “Không được đâu, quân Lô Châu có vũ khí tấn công hết sức lợi hại, bọn chúng có một khối lượng lớn mũi tên và đá tảng, khi chiến đấu thì binh đao không có mắt, không thể bảo vệ cho ngài. Ngộ nhỡ bị thương…”

Lý Nhất Đức thản nhiên nói: “Đi sắp xếp xem sao”.

Lý Nhất Đức trước nay đều nói một là một hai là hai trước mặt họ Lý, Lý chỉ huy biết là không khuyên được nên đành chỉ biết quay người phi như bay lên thành, không đầy một lúc sau, hắn dẫn theo vài tên lính, đổi quần áo cho Lý Nhất Đức rồi lên thành.

Công thành, nếu như có trong ứng ngoài hợp, thì việc đánh lén hoặc đánh tập kích là điều rất dễ dàng. Đầu tiên thường là vứt đá to, dùng cung tên đánh làm hỏng thành, giết quân địch, đợi đến khi dùng thang phá thành thì cũng là lúc thảm khốc nhất rồi.

Hôm nay trước khi lâm trận, Gia Luật Tà Xuyên đang tấn công ở phía Đông thành. Gia Luật Tà Xuyên dán đầy yết thị trong thành, toàn bộ là chữ Khiết Đan, trong yết thị viết rõ thị uy những quân lính đào ngủ, những ai đào ngũ sẽ xử nặng không tha. Nếu không, ngày phá thành sẽ là ngày dân trong thành bị tàn sát một loạt, khắp thành không có dấu một người Khiết Đan.

Mà Dương Hạo đã dẹp được rất nhiều chướng ngại trước doanh trại, tập hợp các loại vũ khí tấn công loại lớn, dàn thành hàng chỉnh tề, mỗi hàng lại có một máy bắn đá cỡ lớn, tất cả đều có trật tự, bắt đầu tấn công theo cách hoàn toàn khác so với vài ngày trước. Hai bên vẫn chưa giao đấu mà một màn không khí giết chóc đã bao phủ cả chiến trường, quân giữ thành dường như cũng cảm thấy điều gì đó, đột nhiên đều đứng lên.

Lý Nhất Đức giả trang thành một tên lính đứng sau Lý chỉ huy, nhìn rõ mặt trận của Lô Châu, chỉ thấy ngọn cờ của Dương Hạo bay phấp phới, hàng lối chỉnh tề, gươm đao sáng loáng, trong lúc hành quân vừa đi vừa tự nói: “Huấn luyện hữu tố, đoàn quân chỉnh tề như vậy, ta chỉ nhìn thấy ba nghìn quân tinh nhuệ của Lý Quang Nghiễm. Ở dưới thành có mười sáu phương trận, sợ rằng không dùng năm nghìn quân ư?”

Lý Nhất Đức nhíu đôi lông mày, nhìn về phía xa, chỉ thấy phía sau doanh trại quân Lô Châu khói bụi đầy lên, một đoàn nhân mã đang xông vào, lờ mờ không nhìn rõ bao nhiêu người, Lý Nhất Đức không khỏi biến sắc: “Lô Châu còn có thêm binh ư?”

“Đi!”

Dương Hạo vừa thúc ngựa vừa tiến lên phía trước.

Dưới trướng hai trăm lính mặc áo giáp giống như một ngọn núi sắt đang di chuyển về phía trước, trong tay là những mũi thương dài nhọn hoắt, như núi, như rừng, đội quân này tuy không phải là quân chủ lực nhưng cũng khiến cho toàn thành dâng lên sát khí ngùn ngụt.

“Tiểu Lục, Thiết Ngưu”

“Có mạt tướng!”

“Dùng đá trước, hủy lớp phòng vệ của địch, sau đó dùng cung tên, bắn chết quân thủ thành”.

“Mạt tướng tuân lệnh!” Hai người đồng thanh đáp rồi rời đi.

“Mộc Ân, Mộc Khôi”.

“Có mạt tướng”.

“Ta đưa cho ngươi hai người và hai nghìn binh mã, thang sáu mươi cái, xe mười cỗ, xe đụng hai cỗ, cầu gấp, phiên gỗ… dùng luân phiên đánh thành, không để cho quân địch có cơ hội ngơi nghỉ, hôm nay nhất định quân Lô Châu của chúng ta phải chiếm được thế thượng phong, nếu không phá được thành cũng phải khiến chúng tan tác”.

“Mạt tướng xin tuân lệnh”.

“Kha Ác, Mục Vũ”

“Mạt tướng có mặt”.

“Bản soái cho ngươi hỏa tiễn một vạn cây, độc tiễn một vạn mũi, pháo năm nghìn cây, xe dương trần ba mươi cỗ, thuốc nổ hai thùng, dầu hỏa mười thùng, khi nào Mộc Ân Mộc Khôi tấn công thành ngươi hãy trợ giúp, đồng thời phá hủy tường thành”.

“Mạt tướng tuân lệnh!”

“Quay lại!”

Dương Hạo gọi hai người đó lại, cười cười nói: “Kha tướng quân, nếu như vào lúc sinh tử quan trọng, chủ tướng đứng trước sĩ xe thì sẽ không phải là khích lệ tinh thần ba quân nữa, mà là tận tâm làm hết trách nhiệm, rõ chưa?”

Kha Trấn Ác thẹn thùng nói: “Mạt tướng đã rõ.”

“Tốt lắm, các ngươi đi đi. Chú ý phải tiếp cận khu vực phía Tây thành, khu vực thành đó mặt trời ít chiếu tới, gạch ở đó bị ẩm ướt, ở bên dưới lại có chứa nhiều dầu thô, dùng lửa châm vào nhất định sẽ bùng cháy”.

“Tuân lệnh!” Mục Vũ cười đáp, đi mất.

Dương Hạo đã nhiều ngày quan sát và tìm ra chiến thuật đánh thành, hai ngày nay khi tiến công hắn đã tận mắt được thao luyện, đối với những chiến thuật này hắn đã thuộc lòng, hôm nay cuối cùng đã được tự mình thao luyện.

Chiết Tử Du và Chiết Duy đang song hành hai bên trái phải của hắn, Chiết T ử Du hai ngày nay cứ cảm thấy Dương Hạo có gì kỳ quái, biết rõ là hắn tất phải có dụng ý gì đó, nhưng nàng không biết rằng dụng ý của Dương Hạo là gì, nên điều này khiến nàng cứ nôn nóng không yên. Nhưng với tính cách rụt rè của mình, Dương Hạo không nói thì nàng cũng không dám mở miệng, nàng chỉ dám rụt rè hỏi: “Dương thái úy, giờ chúng ta làm gì đây?”

Dương Hạo mỉm cười nói: “Giờ chúng ta sẽ ở đây quan sát thế trận của địch”.

Hán chỉ tay ra phía trước, trận đại chiến đã bắt đầu rồi…

Lá cờ lớn lay động, khói lửa bay lên như mây, tiếng kim khí vang lên, sát khí nổi lên như sóng trào.

Lý Nhất Đức thấy mũi tên bay đến như mưa cũng vội lùi ra xa quan sát, những tảng đá lớn đã bắt đầu dội lên, đá vụn hất lên mặt đau nhói, dù cho họ có nhanh thế nào thì cũng vẫn bị khói hun lên làm cay xè mắt, khói độc lan ra, mắt ai nấy đều sưng lên, nước mắt chảy ra không ngừng, cổ họng vừa đau vừa nhức, Lý chỉ huy phải phái người đi cầm khăn mặt lại, khuyên Lý Nhất Đức nên lùi xuống nhưng hắn nhất định không chịu, do chiến sự đang bận rộn, Lý chỉ huy cũng không buồn khuyên giải nhiều, chỉ vội vàng chạy đến trước hai hàng quân.

Xe dương trần tiến đến làm bụi bay mù mịt, che lấp cả trời. Mũi tên độc, hỏa tiễn rơi xuống như mưa, bắn đến mức cả thành đến đâu cũng không thể hít thở được, đặc biệt là khói thuốc, đánh đến đâu cũng bị dính vào đến đấy, không khí nồng nặc khiến không thể thở được, việc xử lý hết sức khó khăn, chỉ có thể dùng cát để chôn.

Ngay sau đó, một cỗ xe khác lại tiến lên thành, người đông như kiến, mũi tên lao xuống như mưa, trên thành đâu đâu cũng nghe thấy tiếng gươm, đá tảng lăn, dầu sôi bốc lên, những tiếng kêu thảm thiết vang lên, từng mũi tên đi lạc nhanh chóng cướp đi sinh mạng của những tên lính trong thành.

Thỉnh thoảng lại có người xông lên thành, rồi lại thục mạng quay lại, những người sau lưng không ngại đạp trên những xác chết xông tới, máu tung bốn bề, những hòn đá to lăn nát trên hàng trăm xác binh sĩ, có người toàn thân bốc cháy như một ngọn đuốc, dơ cánh tay lên kêu cứu trong tuyệt vọng; có người bị xe đè xuyên áo giáp, ngọn thương trong tay còn chưa kịp đâm ai, tiếng kêu thảm thiết vọng khắp bốn bề.

Mỗi người lại sắm vai nhân vật bị thần chết giết, rồi lại sắm vai bị người khác hại chết. Nhưng họ không có một giây phút nào do dự, là một chiến sĩ, sinh mạng của họ vốn cũng là vì giây phút huy hoàng này.

Đại chiến cứ thế tiếp tục, đã quá trưa, Dương Hạo vẫn cứ đứng im bất động quan sát trận chiến, trên mặt vẫn nở một nụ cười không đổi từ đầu đến cuối. Thực ra nhìn thấy những chiến sĩ trước mặt bị đổ máu và nước mắt, trong lòng hắn cũng rất đau, nhưng đã đến được ngày hôm nay thì hắn cũng không còn có đường lui, chỉ có thể tiến về phía trước. Nếu như muốn hắn chọn thì hắn chỉ có thể ép bản thân mình phải là động vật máu lạnh.

Hắn chỉ mới là bắt đầu, từ nay về sau hắn còn phải trải qua nhiều đau khổ và tàn khốc, nếu như có thể dùng giây phút này để đổi lấy cái hòa bình lâu dài sau này thì cũng là xứng đáng. Để có được cái lâu dài, hắn cần phải tin tưởng, bất kể là một nước hay một gia đình thì khi vận đã tới thì phải phất cờ dậy, vận mà đã đi thì cũng hết. Vận khí này có liên quan tới quỷ thần thiên địa, nhưng nó không tự nhiên rơi xuống, thế gian cũng trải qua vài vòng luân hồi, vĩnh viễn không thể dừng lại…

“Ầm!”

Phía tây thành vang lên một tiếng nổ lớn, đó chính là tiếng nổ. Tiếng nổ làm kinh động hết thảy mọi người.

Do phía Tây thành mặt trời không chiếu đến, lại bị ngập trong nước nên thường ở trong trạng thái ẩm ướt, bị mồi lửa trong động thiêu cho một mồi là cả thành đều bị hủy, cả bức tường thành kiên cố đã nhanh chóng bị phá hủy. Lúc này đây thành bị thuốc nổ công phá, tạo ra hiệu quả kinh động, chỉ ht ấy một màn khói đen nổi lên như mây, vô số những tảng đá bay trong không trung, văng ra tứ phía.

Do mặt này của thành bị đốt nên quân trong thành không đủ, giảm đi thì không có người tấn công thành, số lượng thương binh tuy không nhiều nhưng cả thành cũng nhanh chóng bị hư hỏng nặng nề. Thành tuy cao năm trượng, rộng tám trượng, đỉnh rộng sáu trượng nhưng lối kiến trúc của thành vừa nặng vừa yếu, tuy một mồi lửa lớn chỉ đủ phát huy tác dụng khiến thành bị hư hỏng nặng nề chứ không thể hoàn toàn đánh sập, nhưng điều đó cũng đã làm tăng thêm lòng tin của quân lính là không gì không thể.

Mộc Ân vừa mới lùi khỏi trận chiến đi về sau để nghỉ ngơi. Vừa dùng máy ném đá để làm tăng hiệu quả, dùng xe bắn tên, vừa tổ chức đánh phá vào khu vực thành bị phá hủy.

Đá tảng, cung tên, hỏa tiễn bay đầy trong không gian, gây cho quân giữ thành không ít rắc rối, nhưng chỗ thành bị hư hại đều là gạch nên muốn nhanh chóng leo lên cũng gặp không ít khó khăn, quân giữ thành bên trái và bên phải dùng đá và cung tên đánh, dùng hỏa lực mạnh để ngăn chặn quân Lô Châu tiếp cận. Một mặt tổ chức lực lượng đi tu sửa chỗ hỏng, rất nhiều dân trong thành đã bị quân Khiết Đan hù dọa sợ hãi, đã sớm chuẩn bị ngừng chiến ra hàng. Tất cả những điều này đều đã được Lưu Kế Nghiệp dự tính, tuy nay hắn đã ngồi trong tù nhưng những chuẩn bị của hắn vẫn còn hữu dụng.

Ngoài thành, những binh lính cũng mặc kệ là dân thường hay dân phụ, cứ đứng trên chiến trường thì là địch, mũi tên cũng không do dự mà lao đi vun vút, rất nhiều người bị đánh gục, đến mang binh lính đi sửa chỗ thành bị phá cũng khó khăn, dần dần đoạn thành bị hư hỏng đó cũng bị san phẳng.

Để tu sửa chỗ tường thành đó, năm trăm người đã bỏ mạng, hơn nữa tính kiên cố của nó cũng có hạn, trên thành quân phòng ngự cũng nhanh chóng bị đánh, việc giữ thành không đạt được mấy hiệu quả, rất nhanh chóng trở thành mục tiêu tấn công chính của quân Lô Châu, quân Lô Châu còn đã chuẩn bị rất nhiều vũ khí lợi hại để tiện bề di chuyển.

Lúc này, mặt trời đã ngả về Tây, một sắc màu ảm đạm phủ lên trên thành.

“Tiết soái, mau thắp đèn lên đi thôi!” Mộc Khôi vừa lui ra sau nghỉ ngơi đã đứng ra chỉ huy, bên vai trái hắn bị thương đang quấn băng, vội vàng chạy tới chỗ Dương Hạo xin lệnh.

Dương Hạo yên lặng quan sát chiến trận, trong lòng không yên, hồi lâu sau hắn mới lắc đầu, nói: “Thu binh”.

Mộc Khôi kinh ngạc, lớn tiếng hỏi: “Thu binh?”

Dương Hạo lạnh lùng nhìn hắn, lãnh đạm nói: “Không nghe thấy lệnh của ta hay sao?”

Mộc Khôi ngẩn ra, rồi quay đầu hét lớn: “Thu binh, thu binh!”

Bọn lính rút nhanh như nước thủy triều, những tiếng chém giết cũng im bặt, chiến trận đột nhiên yên ắng lạ thường, rất nhiều binh sĩ lúc này mới chợt nhận ra rằng đến lúc này họ đã không còn chút sức lực nào nữa, họ nhanh chóng quay đầu về trại.

Trên thành, đâu đâu cũng chỉ thấy xác người và máu tươi, một vài xác chết còn bị treo ngược trên thành, hoặc nửa treo nửa bị đâm, tổn hại vô cùng, cầu, xe vẫn còn đang bốc cháy, nơi đây quả là vừa trải qua một trận đánh khốc liệt.

“Lão gia, chúng ta có cần trở về hay không?”

Một người họ Lý vẫn chưa lấy lại được bình tĩnh nhìn Lý Nhất Đức đầy thăm dò, bọn họ đứng đó lâu quá rồi, nếu như không sớm quay về thì e rằng sẽ bị nguy hiểm mất.

Lý Nhất Đức không nói một lời, quay người bỏ đi. Hắn đạp trên rất nhiều xác chết, vừa đi vừa ngó xung quanh, chỉ thấy đâu đâu cũng là xác những binh lính bị vứt xuống dưới thành, rất nhiều bách tính liều mạng giữ thành đang rên la đau đớn, cũng rất nhiều người thấy cảnh này đều phải thất kinh không chút biểu cảm, hồn xiêu phách tán, ai nấy đều mệt mỏi rã rời.

Hắn chậm rãi cúi đầu, trầm giọng nói: “Về thôi, gọi tất cả những người chủ chốt trong họ đến gặp ta có chuyện”.

Quân Lô Châu bắt đầu dựng trại lại từ đầu, trong trại đầy khói, đây chính là chỗ bọn họ ở…

Dương Hạo phái một vài người đi về phía trại của Gia Luật Tà Xuyên, hỏi bọn họ kết quả trận đánh hôm nay thế nào, sau đó mới quay về trại thăm hỏi các anh em chiến sĩ, Chiết Tử Du đi theo sát sau hắn, lặng lẽ ngắm nhìn dáng người trầm lặng của Dương Hạo. Đôi mắt nàng đượm nỗi hoang mang, đột nhiên, nàng tiến lên rất nhanh, đuổi theo hắn, nhẹ nhàng hỏi: “Chàng khó chịu lắm phải không? Trên chiến trường…”

“Ta hiểu”.

Dương Hạo ngắt lời nàng, lặng lẽ đi vài bước, rồi đột nhiên dừng lại, quay đầu cười với Chiết Tử Du, nói nhỏ: “Thực sự ta hiểu mà…”

Nắng chiều chiếu thẳng vào mắt hắn, khiến đôi mắt ấy như sáng lung linh, và phản chiếu một màu như màu huyết…

 Chương 433: Bẫy thành

“Trúc vận cô nương”

Vừa thấy bóng Trúc Vận, Lý Nhất Đức nở nụ cười, lớn giọng nói: “Cô nương luôn xuất hiện đúng lúc, lão phu đợi đã lâu rồi”.

Trúc Vận nhìn Lý Nhất Đức khoanh tay, tựa người vào nghế, đám võ sĩ bên cạnh trông rất hung mãnh, thản nhiên nói: “Lão gia tử nghĩ sao?”

Lý Nhất Đức nhìn Trúc Vận vẻ nghi hoặc, trầm giọng nói: “Lão phu muốn biết, nếu lão phu có thể giúp Dương thái úy một tay, Dương thái úy có thể bảo đảm được gì với lão phu chứ? Lão phu sao có thể đủ tin rằng, Dương thái úy có thể khống chế được nhân mã Khiết Đan, sau khi vào thành sẽ khống chế được loạn binh đánh chém đốt thành, hại bách tính Ngân Châu ta?”

Trúc Vận nghe hắn nói vậy, mừng thầm, mặt bình tĩnh, giơ ngón tay cái lên nói: “Lão gia tử có tấm lòng sáng như gương, luôn lo lắng cho sự an nguy của bách tính Ngân Châu. Còn về nghĩa thiện của Dương thái úy thì lão gia tử cứ yên tâm. Không chỉ Ngân Châu, Lô Châu cũng vậy, đều là cờ hiệu của Đại Tống, ở lãnh thổ này, ai dám làm chuyện ngu xuẩn đây?

Hơn nữa, Lý Quang Duệ bất lực tạo phúc cho Ngân Châu, để nó rơi vào tay phản tặc Khiết Đan, thái úy nhà ta một khi lấy được Ngân Châu, sẽ chắp tay dâng nó cho Lý Quang Duệ sao? Đương nhiên là không có chuyện đó rồi, về sau Ngân Châu này là của thái úy nhà ta, nếu Ngân Châu trở thành một tòa thành chết, thì lấy về có ích gì? Thái úy nhà ta có tâm tư riêng, thực tế ra, chỉ cần lão gia tử giúp thái úy nhà ta đoạt được Ngân Châu, thái úy nhà ta sẽ tận tâm bảo toàn Ngân Châu”.

Lý Nhất Đức không hề động đậy, tỉnh táo nói: “Đạo lý là đạo lý, nhưng thành trì một khi bị phá, binh lính Khiết Đan sẽ làm được gì nữa, ta rất hiểu, không cần nói Dương thái úy, dù là Khiết Đan Nam viện Đại Vương Da Luật Tà Đặc cầm kiếm đích thân đứng ở đầu thành thúc binh cũng không thể kìm được mãnh hổ”.

Trúc Vận giơ ngón tay ra, khẽ lắc lư, cười nói: “Lão gia tử chỉ biết một mà không biết hai, quá ư sốt ruột, Trúc Vận còn chưa nói xong đấy chứ. Thái úy nhà ta chắc hắn sẽ không để Ngân Châu rơi vào tay binh Khiết Đan, bảo toàn được sự an nguy của dân chúng, là vì…nếu như lão gia tử giúp đại nhân nhà ta một tay, tham gia cuộc chiến chiếm thành, đại nhân nhà ta sẽ không để cho người Khiết Đan nhúng tay vào”.

“Ý ngươi là…Lô Châu tự lực hoàn thành?”

“Đúng vậy, đánh úp ban đêm thành Ngân Châu, do quân Lô Châu ta tự thực hiện. Đợi đến khi người Khiết Đan phát hiện ra điểm khác thường, đầu thành Ngân Châu đã lay động chủ soái của thái úy nhà ta rồi, sứ mệnh của Da Luật Tà Thuyên là Khánh Vương Da Luật Thịnh tạo phản, không phải là đoạt thành Ngân Châu với thái úy nhà ta, nếu như chúng ta giao đầu của Da Luật Thịnh, hắn có dám chắc chắn đoạt được Ngân Châu, mà trở mặt với thái úy nhà ta? Nếu như chúng ta thiết kế nó tuyệt một chút, chỉ đuổi Khánh Vương mà không giết, ngươi nói xem Da Luật Tà Thâu/Du sẽ đến đoạt thành hay là đi đuổi theo Da Luật Thịnh đây?”

Lý Nhất Đức chau mày, nói: “Dựa vào nhân mã các người có thể đoạt được trước khi người Khiết Đan tỉnh ngộ rồi tăng tốc khống chế được toàn thành Ngân Châu, có thể hay không? Hôm nay đội quân Lô Châu công thành, lão phu từng nhìn về phía đầu thành, thấy bụi đất bay tung lên sau quân doanh ngươi, đại quân đi lại không biết mệt mỏi, lúc đầu cũng cứ nghĩ rằng các ngươi có viện binh đến, nghĩ lại cho cẩn thận, thì có rất nhiều điểm nghi vấn. Lô Châu không có nhiều binh mã như thế, nếu như là hai thế lực Chiết Dương cho thái úy vay binh, đại quân nhân mã đường dài đánh chớp nhoáng, thanh thế mở rộng cũng không thể dấu được tai mắt Khánh Vương. Các ngươi sẽ không nghĩ rằng Khánh Vương có gián điệp ở khu Hoành Sơn sao?”

Trúc Vận mỉm cười nói: “Sau doanh trại có binh tập luyện đó chính là kế nghi binh. Khánh Vương nhìn thấy như vậy , ở chỗ cao thấy rõ sơ hở. Ngay cả hắn không có mật thám thì cũng không dấu nổi hắn, lại còn làm khó lão gia tử, chỉ căn cứ vào điểm này mà phân tích, thì biết rõ mánh khóe này, thủ đoạn này tuy không qua mắt được Khánh Vương song cũng không dấu được lão gia tử, cần giấu cho sĩ binh và dân chúng mà thôi. Sĩ khí của họ sẽ dư thừa rất nhiều”.

Lý Nhất Đức trầm giọng nói: “Đã là như vậy, các ngươi đoạt thành binh mã sẽ như thế nào đến được? Dựa vào năm bảy nghìn binh ở trong doanh các người sao? Cần biết rằng một khi đêm tối vào thành, là một bãi hỗn chiến, trong cái bóng đêm đen thui ấy, đầu đường cuối hẻm, đánh cho nát vụn thây, sự chuẩn bị lương thực, quân kỷ nghiêm minh, chỉ đạo thống binh cũng chả có ích gì, căn bản là binh lực không nhiều, các ngươi làm như thế, vào thành tứ hạ nhất phân, chớ nói đến khống chế được cả thành, không bị Khánh Vương nuốt gọn mới là lạ”.

Trúc Vận hừ nhẹ lại nói tiếp: “Nếu như thái úy nhà ta còn đủ binh lực thì có thể bảo đảm tốc chiến lấy thế áp đảo khống chế được toàn thành không?”

Lý Nhất Đức phản bác: “Dựa vào vũ khí công thành và lương thực ở Lô Châu, nếu như có thể chế ngự được binh lực toàn thành, cuộc chiến sẽ oanh liệt sao? Tại sao đến giờ vẫn không dùng chứ?”

Trúc Vận nói: “Sỹ binh cũng phải dẫm được hai chân của mình lên vùng đất rắn chắc thì mới có thể áo dụng lực lượng của hắn; Ngựa khỏe là con mà một ngày chạy được cả nghìn dặm, nếu như vướng phải đất bùn, hồ ao thì đương nhiên không phát huy được tốc độ. Lão gia tử nên biết rằng, tướng sĩ chưa bao giờ thực hành công thành, người có nhiều thì cũng sẽ đi đến chỗ chết, Khiết Đan có năm vạn thiết kỵ dũng mãnh, đến từ lục viện bộ tinh nhuệ nhất, tung hoành thảo nguyên, nhưng ở dưới thành Ngân Châu, biểu hiện của họ sao có thể so sánh được với binh mã Lô Châu ta. Binh cần phải có phương pháp đi kèm, ngươi nói có đúng không?”

Lý Nhất Đức lộ ánh mắt nghi ngờ, hắn hơi đổ người về phía trước, chậm rãi nói: “Thế…đại quân rốt cuộc là từ đâu?”

Trúc Vận mỉm cười nói: “Tiểu nữ tử đã nói đủ rồi, lão gia tử bảo ta phải làm gì để tin thành ý của ngươi đây?”

Lý Nhất Đức ngồi thẳng dậy, nhìn chằm chằm Trúc Vận, trầm giọng nói: “Người đâu, mang Cửu Vĩ ra đây cho lão phu”. Lập tức có một người bước ra.

Lý Nhất Đức nói: “Lão phu giao cho ngươi đứa cháu đích tôn Trưởng Phòng làm con tin, thành ý này, đủ chưa?”

Lúc này tuy rằng Dương Hạo có mong được Lý Nhất Đức giúp đỡ, nhưng một khi phá thành, thì lại là Lý Nhất Đức nhờ vả Dương Hạo, Lý Nhất Đức đương nhiên không dám cho rằng mình quá mạnh.

Hơn nữa, Tây Bắc dân nghèo quá nhiều, dù có tiền có quyền, song binh thì lại không tập trung được đúng lúc, mà Lý gia không thể vựng dậy lũ con cháu.

Trúc Vận nghiêm nghị nói: “Lão gia tử có thành ý này, đương nhiên là đủ rồi”.

Lý Nhất Đức nói: “Tin rằng Trúc Vận cô nương sớm đã nghe ngóng được tin tức của Lý gia ta, cháu ruột của lão phu Trưởng Phòng hôm nay chỉ có một, nhìn kỹ sẽ là một hạt minh châu, nếu Dương thái úy có đại quân vậy, đủ để chế ngự được toàn thành thì lão phu sẽ hợp tác với họ”.

Đang nói, một người con gái chừng hai lăm hai sáu tuổi dắt một đứa nhỏ tầm tám tuổi vào trong phòng, đứa trẻ đó mắt vẫn còn lim dim buồn ngủ.

Trúc Vận đang nghe ngóng tin tức, ánh mắt lập tức dừng lại ở đứa bé. Đứa bé bày là Cửu Vĩ cháu trưởng của Lý Nhất Đức.

Vừa thấy Lý Nhất Đức, người phụ nữ đó bèn thấp người thi lễ: “Cha”. Đứa bé thì vung tay ra khỏi tay mẹ nó, chạy đến bên gọi “Ông nội”.

“Cháu ngoan”. Lý Nhất Đức mỉm cười ôm lấy đứa cháu, nói: “Cháu ngoan của ta, Lý gia ta gặp phải phiền phức lớn, ông cần phải liên kết với một bộ lạc lớn, và họ muốn ông lấy ra một bảo bối quý trọng nhất để làm con tin, và vật bảo bối quý trọng ấy chính là đứa cháu ngoan của ta, cháu có dám làm con tin cho Lý gia ta không?”

Đứa bé có tóc trái đào, bím tóc đế hai bên, khá giống với người Hồ tây vực, nhìn bề ngoài, dũng mãnh, mày rậm mắt to, có nét giống với Lý Nhất Đức, Lý Nhất Đức vừa hỏi, nó không hề chần chừ, lớn tiếng nói: “Cháu dám”.

“A”. Người phụ nữ xinh đẹp kêu lên một tiếng, rồi vội vàng bịt miệng lại, mắt lộ vẻ lo lắng, nhưng quy định của Lý gia rất nghiêm, trường hợp này không có người đàn bà chen miệng vào, dù người tham gia là con trai mình, phụ nữ nhìn bố chồng với ánh mắt cầu khẩn, song không dám nói thêm lời nào.

Lý Nhất Đức vuốt tóc đứa cháu, cười nói: “Cửu Vĩ à, nếu như ông nội không tin tưởng người ta, họ sẽ lấy cái đầu của cháu, cháu cũng không sợ ư?”

Cửu Vĩ ngây thơ nói: “Không sợ, ông từng nói, không sợ thì mới xứng là đấng nam nhi, sợ chết thì không còn là người của Lý gia ta rồi”.

Lý Nhất Đức cười lớn, khen: “Ngoan quá, cháu tôi ngoan quá, đây mới là hạt giống của Lý gia ta chứ, ha ha ha…”

Hắn chỉ về phía Trúc Vận vỗ vào mông đứa trẻ, nói: “Đi đi, nghe lời tỷ tỷ nhé, chẳng bao lâu, ông sẽ đến đón cháu về”.

Trúc Vận mặt giãn ra cười nói: “Tiểu đệ đệ, lại đây nào”.

Cửu Vĩ quay đầu lại nhìn ông, Lý Nhất Đức nói: “Đi đi”.

Đứa trẻ đó nhảy xuống khỏi đùi ông, chạy nhanh tới mặt Trúc Vận,lớn tiếng nói: “Ngươi muốn giết thì giết đi, nam nhi Lý gia ta chẳng có gì sợ chết hết”.

Trúc Vận bật cười nói: “Tiểu đệ đệ tức giận rất đáng yêu, tỷ tỷ rất quý ngươi, sao có thể giết đệ được chứ. Đệ tên là Cửu Vĩ đúng không? Tên rất hay, lại đây nào, qua chỗ tỷ tỷ đi nào”.

Trúc Vận cười hì hì vẻ khách khí, đặt tay lên vai Cửu Vĩ. Ngón tay thon dài, các ngón tay như hoa. Đôi bàn tay ấy khiến bao chàng trai phải si mê.

Tay Trúc Vận khẽ đặt lên vai Cửu Vĩ, rồi mới thản nhiên cười: “Bí mật này sau khi thành phá, và không phải bí mật gì, nhưng giờ người biết lại không nên quá nhiều, ngoài tiểu huynh đệ này ra, lão gia tử có thể để cho người khác rút khỏi sao?”

Lý Nhất Đức không hề chần chừ, vỗ tay, hai võ sĩ đứng bên cạnh lui ra ngoài, người phụ nữ xinh đẹp lo lắng nhìn đứa con, mở miệng muốn nói gì, song chỉ thở dài, lặng lẽ thi lễ rồi khẽ lui ra ngoài.

*******

Sáng sớm ngày thứ hai, Dương Hạo lại hướng tới chỗ tập kết dưới thành, hai mặt đông, bắc, Da Luật Tà Khinh cũng rất ăn ý chỉ huy quân tới tấn công, như trận đại chiến hôm qua cũng đã nổ ra rồi.

Sân Lý gia lúc này bận rộn không thua gì soái trướng trong quân của Khánh Vương, những nhân vật quan trọng đi ra ra vào vào, liên tục có người nhận lệnh đi, rồi lặng lẽ được điều động, quân sĩ, dân tráng khắp thành chạy đi chạy lại.

Phụ trách đánh úp đoạt thành, ám sát chỗ ở Khánh Vương, dấy lửa nổ ra khắp bốn phía tạo thành thế còn có một sứ mệnh đặc biệt, chế ngự được tính mạng cha con Lưu Kế Nghiệp đều là tuộc hạ của mình điều động, khua chiêng gõ mõ sắp xếp.

Còn Dương Hạo cũng lấy quyền chỉ huy công thành ngày hôm nay giao cho Chiết Duy Chính, bản thân hắn ở trong quân, chủ soái hắn, thân tín, trong quá trình công thành lặng lẽ nổi lên cơn sóng gió động trời.

Trời đã tối, Dương Hạo như hôm qua, vẫn tu binh, sĩ binh tinh nhuệ về doanh trại, quân tốt nhất, món ăn ngon nhất đem ra nghênh đón họ. Dương Hạo không màng đến thiệt hơn chí ít cũng có một phần ba quân được che chở, đánh nhau thì phải có người chết, phải có tổn thất, nhưng binh sĩ trải qua trận chiến khốc liệt, mỗi người đều là một thứ tài sản quý báu. Hắn có tiền có lương thực, chỉ cần có lãnh thổ của mình thì có thể mở rộng được quân đội, nhưng đội quân này là đám ô hợp, vẫn là có một dũng mãnh tác chiến, đội quân có hiệu lệnh truyền thống tốt đẹp, trọng trách lần này cần có vài lão binh.

Thủ quân trong thành cũng đã cố gắng hết sức một ngày đại chiến, Dương Đan Mặc toàn thân lấm lét nhễ nhại mồ hôi, đến áo giáp cũng không muốn cởi, nằm vật lên giường, cứ như hắn là người sắt vậy, một ngày bôn ba ngoài chiến trường cũng đã khiến hắn đủ mệt, cổ họng đau nhức, không cất nên lời, khác gì người câm, những món ăn ngon được bê vào, Dương Đan Mặc vẫn nằm trên giường, không muốn dậy ăn.

“Tướng quân, cơm canh đã chuẩn bị xong”. Tên đầu bếp cung kính nói.

“Để đó đi, lão tử nghỉ ngơi tí rồi hẵng ăn”. Dương Đan Mặc nhắm nghiền mắt lại, mệt mỏi không muốn nói.

“Tướng quân, cơm nóng, để lâu nguội mất ngon, hay là người dậy ăn luôn đi cho nóng”.

Tên đầu bếp ân cần nói, bưng cơm canh lên trước, Dương Đan Mặc tức giận, hoắc mắt, mắng: “Lão tử khi nào ăn chả được, không can hệ đến ngươi”.

Hắn quát lớn, toàn bộ cơm canh nghiêng rồi đổ xuống mặt, bát nước hắt vào mặt hắn, đau đến nỗi khiến hắn kêu um lên, hắn không tự chủ được nhắm mắt lại. Hắn thấy không ổn, một tay ôm lấy mặt, một tay rút đao bên hông, nhưng mắt hắn nào có thể mở được, một lưỡi đao hung hăng bổ lên cổ hắn, chiếc đầu rơi xuống, đao vẫn hung hăng bổ xuống, chém ngay vào cổ họng của tên nằm trên giường, tên đầu bếp lau máu tươi trên mặt, rồi chạy ra ngoài.

Binh lính thủ quân nghe thấy gì đó sợ hãi, vội vàng chạy vào trong lều xem, chỉ thấy một cái xác không đầu trên giường, đầu dữ dằn của Dương Đan Mặc để bên trái người hắn, sau lều có một lỗ hổng lớn, khi họ xông vào, một tên đã chạy mất tiêu qua cái lỗ hổng đó ra ngoài, hai tên sĩ binh sợ hãi, lập tức chạy đuổi theo, một tên toan chạy qua lỗ hổng đó thì một mũi tên bắn lén lao tới, cắm thẳng vào cổ hắn, tiễn sắc bén đâm xuyên qua cổ, mũi tên kề sát mắt phải của tên chạy sau, khiến hắn sợ hãi trán đổ mồ hôi, lại một mũi tên nữa bắn mạnh về phái đỉnh đầu của hắn.

Giống như viên tướng cao cấp Dương Đan Mặc bị sát hại không có nhiều, phần lớn tướng lĩnh dùng đồ không phải là đầu bếp Ngân Châu, thị vệ vào ra liên tục, không dễ đến kề bên. Dương Hạo vạch ra kế hoạch này lấy cái đầu của hắn không phải… mà là dựa vào kinh nghiệm chỉ huy chiến trận trên thực tế cấp quân quan làm chủ.

Chức vị của họ không cao, nhưng nếu không có hỗ trợ, lại cần dân tráng bình thường, mối qua lại giữa binh Ngân Châu là tốp người thuộc hạ dễ nhất, còn đám người này một khi chết đi, thì trước khi tướng tá nhận lệnh mới sẽ lập tức mất tác dụng của chỉ huy, toàn quân bị tê liệt, hiệu quả sẽ rõ rệt hơn giết một viên tướng, cũng càng dễ dàng thuận lợi.

Vào lúc này, Tiểu Dã Khả Nhi cầm đầu bốn vạn năm nghìn đội quân tinh nhuệ của Đảng Hạng Thất Thị cũng đã nhanh chóng từ nơi ẩn núp của họ đến doanh trại Dương Hạo. Bốn vạn năm nghìn tinh binh, là thực lực tiềm tàng của Dương Hạo, toàn bộ bốn vạn năm nghìn tinh binh này rất thiện chiến và dũng mãnh, nếu như để họ công thành, sợ rằng sẽ là bia đỡ đạn, nhưng kỵ binh này dùng để tác chiến sơn dã, hỗn chiến giữa đường hẻm thì lại không hề kém hơn bất cứ đội quân nào.

Dương Hạo cầm cự lại sự đau khổ, vẫn chưa dám đưa ra đội quân dự bị, một phần là vì thép tốt thì dùng làm lưỡi dao, họ dùng để công thành, tác dụng không rõ rệt, mặt khác là vì nếu như không lấy được thành Ngân Châu, không thể hình thành lên một chiến lược thọc sâu tự động tiến thối ở trên địa lý, không thể đi nhờ vả Đảng Hạng Thất Thị bí mật của hắn cho thiên hạ biết, giờ, cuối cùng dã đến lúc dùng họ rồi.

Dưới nam thành, Lý chỉ huy không quản mệt nhọc, chỉ huy toàn bộ quân sĩ tu bổ lại tường thành, đóng chặt cửa thành, cho thấy đám tinh binh Khiết Đan mệt mỏi, nhìn thấy hắn như có thêm sức mạnh, vui vẻ rút sang một bên nghỉ ngơi, họ cởi bỏ áo giáp, bỏ đao thương xuống, ngồi nhàn rỗi nhặn đá vụn ném chơi, bụng đói kêu réo lên, nuốt nước bọt ừng ực nhìn về chỗ cơm tập thể đã nấu chín, binh Ngân Châu bỗng giống như đám người điên, cầm lấy bội đao lao thẳng như mãnh hổ về phía bọn họ.

Lúc này, dân tráng đã rơi rụngít nhiều theo sự sắp xếp có sẵn, bắt đầu ra tay với đám quân quan nhìn thẳng bọn họ. Máu sung lên, thây ngã xuống, thủ tướng nam thành Dương Đan Mặc bị giết, rất nhiều tướng tá trong quân đồng thời cũng bị thiệt mạng, binh Ngân Châu và dân tráng bỗng nhiên tạo phản, binh Khiết Đan mất đi tướng chỉ huy nên tan rã, gỗ đá chặn cửa thành bị dỡ bỏ, đầu thành có cái cầu treo, từng cây đuốc như Lưu Tinh bị người từ đầu thành phao qua, chiếu sáng vào đường vào thành.

Quân đội của Tiểu Dã Khả Nhi người như hùm cọp, ngựa như rồng, lao nhanh vào, tiếng trống đánh vang rền như sấm, tiếng hò hét nổ tung trời.

Lúc này, khắp nơi trong thành đã dấy lửa chiến tranh, Lưu Kế Nghiệp ngồi trong tù phát hiện ra mấy tên lính Khiết Đan đã ăn no uống say nằm ở cái bàn ở giữa, gáy khò khò như sấm, song vẫn thấy có gì đó khác thường, thấy tên đó luôn bị người Khiết Đan đến kêu đi hét, luôn bị sai vặt bỗng lén lút đi đến, tay cầm một lưỡi dao nhỏ, tóm lấy bím tóc của tên binh Khiết Đan như cầm cái đầu lợn, rồi lập tức đi về phía người thứ hai…

*******

Da Luật Thịnh quất ngựa chạy như điên, gió thổi tới tấp vào mặt hắn, trong bóng đêm không biết có bao nhiêu binh mã cũng quất ngựa như vậy chạy đuổi theo hắn, lòng hoảng sợ, hắn chỉ có thể nhìn thấy phía xa xa lũ người cầm đuốc như nước sông chảy cuồn cuộn đuổi theo hắn.

Bại trận lần này, bại tới mức hắn sắp giết chết Da Luật Hiền, từng giờ từng phú ngồi ghế Hoàng đế không hiểu ra sao cả. Lần đó không chuẩn bị chu toàn, nhưng đã tính đi tính lại rồi, đến cửa doanh trại có mấy tên binh sĩ chiếm lấy kế hoạch tiến vào, song có điều không thể ngờ là xuất hiện ba tên nô lệ, làm hỏng đại sự của hắn. Lần này, hắn vốn nghĩ rằng không thể sức mạnh nào phá được thành Ngân Châu, có thể kháng lại được ba năm năm với Khiết Đan, Lô Châu, mãi đến khi chúng chết, hao tổn hết sạch thì chúng mới không còn sức lực đâu mà phản nữa, và điều càng không thể mảy may nghĩ đến đó chính là đã chiếm được một nửa binh và dân tráng Ngân Châu thì bỗng nhiên chúng lại tạo phản.

Đến khi hắn ngộ ra điều đó thì khắp thành đã dấy chiến trận, tướng soái thì tìm không thấy đâu, khắp nơi chiến tranh liên miên, nơi nơi là những cái xác chết ngổn ngang, binh Ngân Châu tạo phản, dân tráng Ngân Châu tạo phản, dân chúng toàn thành loạn lạc. 

Đêm tối, binh Đảng Hạng công thành như có thần tiên giúp đỡ, nhanh chóng chiếm được phủ Khánh Vương, Đông Thành, Bắc Thành, Nam Thành, binh lính xông vào thành, thời loạn đã đến.

Tình hình như thế có muốn chỉ huy thì cũng chẳng có tác dụng gì, Khánh Vương quyết định thật nhanh, lập tức chỉ huy binh, dẫn binh giết hướng tây vực, dù biết rõ Dương Hạo vây thành, cố ý để chừa lại tây vực để làm bẫy đường sống thoát chết, lcus này cũng chỉ có thể liều mình xông đến, nếu như không thể đi nữa, thì không đợi đến trời sáng, hắn có thể chết dưới lưỡi đao của một tên vô danh tiểu tốt nào đó.

Da Luật Thịnh nhổ lấy lá cờ, xông thẳng về phía tây vực, miệng hét lớn, không ít binh Khiết Đan đánh trận thấy đại kỳ Khánh Vương thì tụ tập lại, đuổi theo hắn hướng về phía tây vực, nửa đường gặp Da Luật Mặc Thạch lãnh binh phía trước tìm hắn, hai bên hợp binh lại, chạy tới phủ Khánh Vương chính là gần Ngân Châu phòng ngự sử phủ, không biết từ đâu lại giết một đội mặc giáp đen ở ngực, khăn cuốn đầu, khiến binh mã đoản đao tấm chắn, người tuy không đến năm trăm người song sát khí đằng đằng, khí thế hừng hực, xông thẳng tới đại kỳ của Da Luật Thịnh, Da Luật Mặc Thạch vội vàng phân thân binh, đích thân cực địch, giờ không biết sống chết thế nào, có bình yên mà tháo chạy hay không. Tiếng rầm rầm khua chiêng gõ mõ giống như đám lửa hủy diệt đến chỗ này.

“A” một tiếng kêu thảm, một sĩ binh phía trước bỗng ngã từ trên yên ngựa xuống, Da Luật Thịnh há hốc mồm, đoạn đường phía trước có kẻ mai phục, lúc này kỵ binh xông về phía trước liên tiếp ngã nhào từ trên ngựa xuống, chỉ nghe thấy tiếng ngựa hí vang, một người một ngựa lồm cồm bò dậy, Da Luật Thịnh hô lớn: “Phía trước có bẫy, mau chạy về phía bắc”.

Ánh lửa bập bùng trong đêm tối, Da Luật Thịnh cũng không biết được nó là con đường hay là đường đất hoang, đám người ngựa quẹo hướng bắc mà chạy, truy binh đuổi tới gần, binh mã đuổi theo như bay phi đến gần chúng, nhằm hướng Da Luật Thịnh để lấy bằng được đầu của hắn, một đám thì bắn tiễn về phía trước chúng, rõ ràng đây là kế hoạch được vạch ra chu toàn, hắn sao dễ dàng chạy cho được.

Da Luật Thịnh ghìm chiến mã nhìn về phía tây, bên đó một màn đen u tối, không biết sẽ có bao nhiêu cái bẫy chờ hắn, nhìn sang phía nam, là rừng rú, nhìn sang phía đông, khắp nơi là lửa đuốc, hắn như đứng giữa bốn mũi tên bao vây, Da Luật Thịnh tức giận, giật mạnh cương ngựa, cầm đao trong tay, hét lớn: “Thà chết trận, quyết không hàng, giết”.

“Giết, giết, giết”. Tiếng hô vàng, Da Luật Thịnh nghe rõ mồn một, trấn an lại, những binh sĩ theo hắn chạy ra thành còn khoảng nghìn người, đám nhân mã này chỉ có tham chiến và không biết chừng cái mạng sẽ không còn tồn tại nữa.

Hắn hét lớn, quất mạnh roi vào hông ngựa, quay lại nhìn đám truy binh theo hắn, binh sĩ cùng tộc và đám Hoàng đế Khiết Đan thề chết truy bắt cho hắn, mối thù không đội trời chung này người bộ tộc Bạch Cam không chút do dự đi theo hắn nguyện sống chết…

Cấp bách là toàn bộ nhân mã của Da Luật Tà Chẩn, binh phân thành bốn ngả đường, mỗi ngả có khoảng bốn vạn binh, vừa nhìn thấy Da Luật Thịnh quay người đánh tới, Da Luật Tà Chẩn cười nhạt một tiếng, trong màn đêm ánh sáng không đủ chiếu rõ ngọn cờ, và khi đuổi theo lệnh hô chiêng gõ trống, hắn lập tức dựa vào ngọn lửa mà xếp chúng lại thành một chữ cờ hiệu, hiệu lệnh cho ba bộ thành vòng tròn vây lấy quân địch, đề phòng có tên nào đó chạy thoát được, đám quân tản ra tạo trận hình, bức ép phủ Da Luật Thịnh.

 Chương 434: Ôm Ngân Châu.

Dương Hạo đêm hôm tập kích Ngân Châu, hơn bốn vạn quân tinh nhuệ giữ sức dưới sự chỉ đạo của đệ tử Lý gia trong ngoài phối hợp với nhau, tăng tốc chiếm lấy các cửa ải trọng yếu, tiếng chém giết đã truyền vào trong quân doanh của Khiết Đan, Da Luật Tà Chẩn nghe vậy cảnh giác, chỉ thấy trong thành nơi nơi xảy ra chiến loạn, không biết rốt cuộc xảy ra chuyện gì, hắn vừa phái người liên lạc với Dương Hạo, vừa nhanh chóng tập kết quân đội, những binh sĩ vừa mới nghỉ ngơi được lệnh tập trung, phòng ngừa xảy ra chuyện.

Lúc này Dương Hạo đã phái người nhanh chóng tới gặp hắn nói binh Ngân Châu bất ngờ tạo phản, mở thành nghênh quân Dương Hạo vào thành, bộ đội sở thuộc Lô Châu đang tạo phản chiến đấu với binh Ngân Châu và binh Khiết Đan, tấn công quân thủ đầu thành, Khánh Vương Da Luật Thịnh đã bỏ chạy về tây vực, có khả năng trốn chạy, xin Da Luật đại vương mau chóng viện trợ.

Da Luật Tà Chẩn có sứ mệnh là tiêu diệt tên phản nghịch Da Luật Thịnh, vừa nghe nói có khả năng hắn bỏ trốn, thì không nghĩ nhiều, lập tức huy quân đuổi theo. Hai thành bắc, đông nằm trong tay quân Khiết Đan, nhân nội loạn hắn cố nhiên có thể đắc thủ, nhưng trì hoãn này chỉ sợ Da Luật Thịnh sẽ chạy mỗi ngày, cho nên Da Luật Tà Chẩn huy quân men theo đường sông tới tây vực, đợi hắn đến tây vực một cái, Khánh Vương Da Luật Thịnh vừa ra khỏi thành, Da Luật Tà Chẩn lập tức đuổi theo sau, bám riết không tha và cuối cùng thì quyết chiến với Da Luật Thịnh: “Giết”.

Song phương còn có đất hai tiễn, đội quân Da Luật Tà Chẩn đột nhiên lại phân tán, trở thành một mũi tên trúng ba đích, đội hình xung phong thăm dò phía trước giống như con dao sắc bén, bám riết lấy hai bên đội hình của Da Luật Thịnh, bên cánh sườn, mưa tiễn bay đầy trời giết liên tiếp nhân mã của Da Luật Thịnh, liên tục có tên ngã ngựa, trận hình càng vót càng mỏng: “Giết, giết, giết”.

Hai bên còn chưa vật lộn đã đỏ cả mắt, cho nên đội quân kỵ sĩ giơ cao mã tấu, quất mạnh roi vào mông ngựa, hai chân đạp mạnh vào hông ngựa, tạo tư thế quyết chiến đến cùng.

Hai đội quân hừng hực khí thế chạm mặt nhau, đánh kiểu giáp lá cà, mũi tên sắc bén bay ra khỏi cung va vào nhau chan chát, tên bay đổi hướng. Tài năng của kỵ binh xung phong thể hiện được uy lực của nó, nhưng tên va chạm mất đi cái đầu thì có ích gì?

Tay Da Luật Thịnh cầm một viên đá, máu chảy, quân địch trước mặt ngã ngựa liên tục vì bị hắn ném cho, tay chân chia lìa. Da Luật Thịnh vốn dùng đại đao, chiến mã thì dũng mãnh vô địch, nhưng ban đầu hắn vào cung hành thích vua bị la Khắc Địch đâm thương thủng vai, dù đã được điều trị nhưng một bên bả vai vẫn không có lực lớn lắm, nên hắn đổi sang dùng mã tấu, như vậy so với võ công lúc trước của hắn đại đả chiết khấu, nhưng so với binh sĩ bình thường vẫn có sức mạnh áp đảo.

Máu tươi phun ra, dựa vào võ công của hắn, khí thế hừng hực và thể lực cường tráng, Da Luật Thịnh vẫn xông lên phía trước hô: “Giết”.

Quân địch ngã ngựa liên tiếp, sườn phải của Da Luật Thịnh đã bị tên nào đó đâm cho một thương, chiến mã hí vang, một binh sĩ ngã ngựa chặt chân ngựa, chiến mã hí vang lồng lộn phi về phía trước, Da Luật Thịnh ngồi trên lưng ngựa cố gắng ghìm cương, lúc chiến mã sắp ngã xuống hắn nhanh chóng bay người sang con ngựa khác.

Da Luật Thịnh có ý định quay lại tái chiến, bỗng nhiên nhìn thấy binh lính theo mình phía sau đã không cánh mà bay, mấy thân binh thân cận của hắn đã bị mất tích, trong ánh đuốc tù mù chỉ thấy thương kích như rừng, tiếng hô hoán giết.

Da Luật Thịnh mở to hai mắt, hét lên một tiếng lớn, vứt bỏ mã tấu, cướp lấy một trường thương, tiện đâm một cái vào tên kia, một cái đầu bay lên khỏi không trung, máu tươi ấm nóng phun lên, Da Luật Thịnh ghìm ngựa quay lại, bất chấp có người đuổi theo hay không, chỉ thấy phía trước như có lửa, hắn như con thiêu thân lao về phía đó, múa trường thương, máu bắn tung tóe, quân địch giáp mặt như cỏ bị dẫm nằm rạp xuống.

Binh hai bên nếu so sánh thì còn cách xa nhau, binh Khiết Đan đánh bọc sườn, trong đêm tối như vầng sáng cực đại, dần dần bọc lấy trung tâm, binh mã Khánh Vương ở giữa thì lại giống như đom đóm. Chu kỳ sống của đom đóm rất ngắn, chúng từng con từng con ngã xuống, cuối cùng vòng nhỏ thành vòng to, vô số trung ương vầng sáng chỉ tồn lại một chiến sĩ tuyệt vọng bổ tới, đó chính là Khánh Vương Da Luật Thịnh.

Mồ hôi thấm ướt chiến bào, toàn thân là máu tươi, thực thảm hại, mồ hôi và máu hòa quện trên tóc hắn, rồi chảy xuống trước trán, che tầm nhìn của hắn, nhưng hắn không còn thời gian đâu mà lau đi, cuối cùng thì quân địch cũng đã thối lui, vòng vây mà quân địch vây lấy hắn đã dần lui về phía sau, cuối cùng thì hắn cũng hình thành nên một vòng không một kẽ hở.

Da Luật Thịnh lúc này mới vén mái tóc sang một bên, lau đi máu và mồ hôi chảy xuống mặt, mở to mắt nhìn về phía trước chỉ thấy lửa ở phía trước càng rõ nét hơn, một viên tướng cưỡi chiến mã lớn lạnh lùng nhìn hắn: “Da Luật Tà Chẩn”.

Da Luật Tà Chẩn ghì cương ngựa, đần người không nói nên lời, Da Luật Thịnh chỉ cảm thấy cánh tay bủn rủn, không nhấc nổi đao nữa, hắn thở sâu, gắng sức giơ đao lên, mã tấu trở thành đao thép, lớn tiếng quát: “Da Luật Tà Chẩn, ngươi dám chiến với ta hả?” Da Luật Tà Chẩn không đáp, giương cung bắn tên.

Da Luật Thịnh tức giận, cười thảm thấy mình đã lâm vào ngõ cụt, hắn làm rơi đao trong tay, từ từ ngẩng đầu dậy, nhìn lên ánh sao trên trời, nhìn một hồi lâu, bỗng nhắm nghiền mắt lại, nghĩ về biển sao tươi đẹp.

Tiếng dây cung vang lên, vai phải Da Luật Thịnh rung lên một cái, hắn nghiến răng, cười lớn: “Da Luật Tà Chẩn, tài bắn cung của ngươi chỉ như vậy thôi sao? Gọi người của ngươi đến bắn cho ngươi sáng mắt ra đi, nếu không ta sẽ làm ngươi đau đấy”.

Da Luật Tà Chẩn im lặng không nói gì, Da Luật Thịnh bỗng phát hiện ra vai phải của mình không đau, ngược lại nó có cảm giác xót xót, hắn vội hiểu ra, từ từ mở mắt, nói: “Tên tiểu nhân, ngươi muốn bắt sống đưa bổn vương tới trước mặt hàng nghìn hàng vạn dân chúng sao?”

Lưỡi đao của hắn buông thõng xuống, rồi cho nó sang bên hông, nhưng trong màn đêm bảy tám con ngựa bị đâm chuẩn xác nằm vật xuống đường. Da Luật Thịnh cố gắng mở to mắt, muốn mắng chửi, muốn giãy dụa nhưng mắt hắn càng ngày càng trĩu lại, hắn bị kéo rê trên mặt đất, thì buồn ngủ vô cùng…

Dương Hạo ghìm ngựa đứng ở trên sườn núi cao, nhìn binh mã Khiết Đan chậm rãi đi về phía bắc, khẽ thở phào.

Suy nghĩ của Tiêu Xước hắn thực sự không thể đoán nổi, đây không phải là người đàn bà có cái đầu sẽ bị hôn mê bởi tình dục và tình yêu, nếu như cô ta muốn đánh rắn động rừng, tiêu diệt Khánh Vương, chiếm lấy Ngân Châu, hai việc này cùng làm, chỉ sợ hắn không kham nổi.

Cho dù hắn đã có địa lợi nhân hòa, một khi đau đầu với cường địch, lúc đó thì không thể không cứng đầu cứng cổ chào hỏi Triệu Quang Nghĩa, may mà Da Luật Tà Chẩn chí chỉ tại Da Luật Thịnh, sau khi bắt sống Da Luật Thịnh, hắn vui vẻ rút binh, xem ra sức chú ý của Bắc quốc một khi hồi lâu sẽ không để ở Tây Bắc.

Trở lại, lại nhìn về Ngân Châu, lòng Dương Hạo cảm thấy vui vẻ vạn phần, chiếm được tòa Ngân Châu là một việc không phải dễ dàng gì, nhưng có thể chiếm được tòa thành ấy thì có hy sinh mấy cũng thấy đáng, một thành phố mới xây dựng được hai năm, sức bắn xa tứ phía, dù thế nào cũng không thể sánh được với thành cổ, chỗ nước cạn chỉ có thể nuôi tôm, nuôi sao được thuồng luồng. Chiếm được Ngân Châu rồi, hắn mới có thể thông suốt được Hoành sơn, thêm Đảng Hạng Bát Thị, Tây lược Thổ Phiên cường ngựa, bắc thu Hồi Hột tinh binh, đông có Hoành Sơn người Khương dũng mãnh, chân chính có vốn địa vị ngang nhau với Hạ Châu Lý Quang Duệ, Phủ Châu Chiết Thị, Lân Châu Dương Thị mới sẽ chân chính theo hắn như thiên lôi sai đâu đánh đó.

Giờ sông ngòi mênh mông, kéo dài ngàn dặm, cỏ mọc um tùm, dãy núi trùng trùng điệp điệp. Cuộc chiến khói lửa này sẽ mau chóng ngưu dương khắp nơi, trâu bò lợn gà thành đàn, mảnh đất màu mỡ này sẽ là nền tảng căn cơ của hắn, có mảnh đất rộng này, hắn sẽ có một mảnh đất dụng võ. Nghĩ đến đây, Dương Hạo cảm thấy lòng mình lâng lâng, Chiết Tử Du thúc ngựa đi đến bên cạnh hắn, khẽ liếc mắt nhìn hắn, ánh mắt trìu mến.

Dương Hạo ngồi trên lưng ngựa, mắt nhìn về phía xa xăm, lòng tràn đầy hoan lạc, tóc bay theo gió, hồng bào bay phần phật, trông khí khái oai hùng. Hắn ngày càng trưởng thành, không còn là một tiểu gia đinh thích pha trò mà người trong đại viện Trình gia thường thấy nữa, hắn giờ là một thống soái, nắm đại quân năm vạn người có thể xuất binh bất cứ lúc nào, ở Tây Bắc, vũ lực như vậy đã được coi là anh hùng rồi.

Dương Hạo dường như để ý đến cái nhìn của nàng, bỗng quay đầu lại nhìn nàng một cái. Chiết Tử Du không hề trốn tránh, chỉ khẽ hỏi: “Chàng hợp lực với người Khiết Đan chiếm Ngân Châu, tin này sợ đã bị truyền đến Biện Lương rồi, đường đường Tống quốc Hoành Sơn tiết độ sứ, thẩm tra thái úy đối chiếu sự thực, cấu kết với ngoại địch, chàng đoán xem Triệu Quan Gia sẽ nghĩ sao đây?”

Dương Hạo nhìn cô cười, nói: “Ở đâu ra ngoại địch vậy? Khiết Đan và Đại Tống ta vừa mới thiết lập ngoại giao với nhau hai năm, tên phản nghịch Da Luật Thịnh bỏ chạy tới Tây Bắc, giết phòng ngự sử Ngân Châu Đại Tống ta, chiếm lấy Ngân Châu trị dân này, thân là Tống tướng, bổn quan há ngồi đó mà nhìn? Xuất binh đuổi thổ phỉ, đó là chuyện đương nhiên phải làm. Khiết Đan xuất binh tiêu diệt phản nghịch, đó cũng không có gì đáng trách, hai quân chúng ta như trăm sông đổ về một biển, đối phó với thù chung, có gì đáng trách chứ? Quan Gia dựa vào cái gì mà gán tội cho ta đây?”

Chiết Tử Du nhoẻn miệng cười nói: “Thế Đảng Hạng Thất Thị xuất binh giúp chàng thì giải thích sao đây? Đảng Hạng Thất Thị vẫn là bộ lạc dưới quyền Lý Quang Duệ, chàng điều động binh mã Đảng Hạng Thất Thị đã được Lý Quang Duệ đồng ý hay chưa? Vừa mới đến Lô Châu hai tháng, người Khương Đảng Hạng tự hào vì chàng, Triệu Quan Gia không giận gì hay sao? Lý Quang Duệ có chắc chắn rằng từ bỏ ý đồ không?”

Dương Hạo nháy mắt, giảo hoạt nói: “Sự giải thích này dễ thôi, Lý Quang Duệ lại làm sao ư? Lẽ nào không phải là thần của Tống quốc ta sao? Đảng Hạng Thất Thị là con dân của Tống quốc, họ xung phong nhận việc, cùng ta hợp sức đánh đuổi ngoại địch, triều đình nên ngợi khen phong thưởng mới đúng chứ, nếu ngang ngược chỉ trích, há không lạnh lòng của người Khương? Còn về Lý Quang Duệ…”

Dương Hạo cười một cái khinh miệt nói: “Lý Quang Duệ vốn có trọng trách bảo vệ đất đai, song lại để cho quốc thổ rơi vào tay ngoại địch, khiến không biết bao con dân Đại Tống li biệt. Hắn chẳng có năng lực đoạt lại đất đã mất, bổn quan xuất binh, hắn có gì mà dám lên tiếng, Lý Quang Duệ có thể làm được chuyện đó không mà nói?”

Chiết Tử Du rất hài lòng câu trả lời của hắn nói: “Được rồi, chàng ý, Dương thái úy ạ, đại nhân đại nghĩa, đáng được ngợi khen, nhưng… giờ Ngân Châu đã được đoạt về, chàng sẽ giao lại cho Lý Quang Duệ không vậy?”

Dương Hạo đại nghĩa nghiêm nghị nói: “Đó là đương nhiên rồi. Ngân Châu này không phải là mảnh đất vô chủ, giang sơn xã tắc của triều đình, há có thể tự chiếm dụng. Nhưng Tây Bắc không ổn, vì không để Ngân Châu lại một lần nữa rơi vào tay ngoại địch, để bách tính Ngân Châu không phải chịu lầm than một lần nữa, bổn thái úy sẽ cố gắng hết sức, tạm thời sẽ quản lý Ngân Châu, đợi đến khi Lý Quang Duệ đại nhân giải quyết xong việc của Thổ Phiên, Hồi Hột, có khả năng bảo toàn, giữ gìn được Ngân Châu thì bổn thái úy nhất định sẽ giao Ngân Châu lại cho hắn”.

Chiết Tử Du lấy tay che miệng cười, nàng mím môi lại để nén cười, Dương Hạo thấy vậy cũng cười theo nói: “Tử Du, thực là khi nàng cười ta rất thích nhìn nàng, miệng nhỏ nhỏ như anh đào, vốn đã đẹp rồi, khi cười nàng không cần che miệng đâu”.

Chiết Tử Du trợn mắt lên nhìn hắn, nũng nịu: “Bảo chàng dùng nhân mã của Đảng Hạng Thất Thị, Hạ Châu Lý Quang Duệ một khi mà biết được tin này, sẽ biết thân tín đại hoạn ở Ngân Châu, mà không ở Thổ Phiên và Hồi Hột. Chàng ở Thổ Phiên và Hồi Hột có cái uy nhất định, nhưng dựa vào lực lượng của chàng giờ không đủ để thao túng họ, nếu Lý Quang Duệ không tiếc chi phí và giảng hòa, lại chỉ huy quân tiếp ứng thu Ngân Châu trước, chàng có giao Ngân Châu cho hắn không?”

“Đương nhiên, chẳng có gì phải nghĩ cả”. Dương Hạo không chút do dự trả lời rồi lại nói tiếp: “Nhưng…nếu lúc đó quân dân Ngân Châu, người Khương Hoành Sơn, các bộ Đảng Hạng, Thổ Phiên của Ngân Châu, dân chúng Hồi Hột không tin tưởng sự lãnh đạo của Lý Quang Duệ có thể giữ được Ngân Châu, kiên quyết yêu cầu bổn thái úy gánh vác trách nhiệm ấy thì sao, haiz…lòng dân đã quyết thì không thể trái, ý dân đã quyết thì không thể đổi, …bổn thái úy chỉ có gánh vác trọng trách này mới đền trả được sự tín nhiệm của họ.

Chiết Tử Du âu yếm nhìn hắn, mãi sau mới cất tiếng nói: “Dương thái úy, trước đây thiếp thực sự chưa nhìn thấy mặt này của chàng”.

Dương Hạo nghiêm túc nói: “Nàng cứ từ từ mà tìm hiểu thì sẽ phát hiện ra, ưu điểm của con người ta không chỉ dừng ở đây đâu”.

Chiết Tử Du nhướn mũi, khẽ hừ nhẹ một tiếng không nói gì. Dương Hạo liếc mắt sang nhìn nàng, nói giọng khàn khàn, thủ thỉ vào tai Chiết Tử Du: “Tử Du, nàng có muốn xâm nhập và tìm hiểu con người ta không?”

 Chương 435: Hai đôi tình nhân

Chiết Tử Du nghe không hiểu những điều Dương Hạo nói, nàng ho khan một tiếng, rồi dùng roi ngựa chỉ ra hướng xa xa nói: “Mảnh đất Tây Bắc được gọi là vùng đất khó khăn, nhưng đó là vùng đất rộng. Tục ngữ nói ‘Hoàng Hà bách hại, độc phú nhất sáo’, vùng đất này phong thổ phì nhiêu, nguồn nước phong phú, chỉ cần có ít chiến tranh, có minh chủ kinh doanh thì chính là vùng lương xuyên, đi tiếp về phía Tây thì lại có thảo nguyên rộng lớn, cây cối phát triển tốt, có thể chăn thả cừu dê, chiến mã, còn có thể thông thương với Ba Tư, Thiên Trúc, nếu như kinh doanh được thì còn có thể trở thành một Giang Nam của thành Tây”.

Dương Hạo khẽ thở dài, vừa quất ngựa vừa đi tới.

Chiết Tử Du lại nói: “Nhìn từ địa hình mà nói, Hà Tây là đất anh hùng có thể dụng võ, một đường hẹp kéo dài hai nghìn dặm, Tây khống chế Tây Vực, Đông nhìn xuống Trung Nguyên, ở vị trí cao, có thể bao quát hà Lũng, Quan trung, có thể nói là có thể tiến mà lùi cũng có thể thủ. Nếu như hôm nay thái úy có được Ngân Châu, Ngân Châu Lô Châu hô ứng, Hoành Sơn nam bắc đã nối liền, lại được sự trợ giúp của hai Châu, Tây Bắc chư hầu, có thể so cao thấp với Lý Quang Mãnh được rồi. Trở thành vua của Tây Bắc sẽ chỉ có một người là thái úy. Không biết sau khi thái úy có được Ngân Châu thì đã chuẩn bị gì rồi?”

Dương Hạo suy nghĩ một chút rồi nói từng chữ một: “Ngừng binh phạt, hòa hảo láng giềng, tu sửa thủy lợi, nông canh, khai công thương, chăn thả gia súc, chiêu mộ dân tứ xứ bốn phương về định cư dưới trướng ta”.

Chiết Tử Du nghe xong liếc hắn một cái, khen: “Lời ấy đang mừng. Sau đại loạn, dân chúng yên tâm, ngài làm như thế ắt lấy được lòng dân. Trị đại loạn, ai mà ngĩ đến việc gây loạn thì người đó sẽ bị dân coi là địch, sẽ đứng kề vai sát cánh cạnh người, toàn dân hiệp sức. Làm như vậy thật tốt. Có điều, việc khó nhất là lấy được lòng dân, đặc biệt là vùng Tây thành, cư dân hỗn tạp, mỗi người một huyết thống, cứ cho là họ có chung một chủ, nhưng giữa họ thì khó mà chung sống với nhau dễ dàng như dân Trung Nguyên. Đợi đến khi ngài có nhiều dân rồi thì rất có thể nội loạn sẽ bắt đầu phân tranh, nếu không cẩn thận sẽ xảy ra nội phản, điều này cần hết sức đề phòng.”

Sức chú ý của Dương Hạo cuối cùng cũng bị nàng lôi kéo, hắn trịnh trọng gật đầu, nói: “Ta biết, đối với ta mà nói thì dẫu cho sau này có bao nhiêu kẻ địch thì kẻ địch mạnh nhất chính là việc đó. Giải quyết khó khăn đó không dễ dàng gì, dựa vào dân chúng Lô Châu, bắt nộp thuế, thiết lập pháp luật, hôn nhân, thịnh Phật giáo…”

Hắn hít vào một hơi, chậm rãi nói: “Vấn đề này ta đã nghĩ đến từ lâu, chư hầu Tây thành nhiều tạp cư, trước nay đều chỉ khống chế, mỗi một bộ tộc bộ lạc đều có thủ lĩnh, như vậy thì hiển nhiên đỡ hao lực, nhưng một khi những thủ lĩnh đó có tà ý thì bách tính trong bộ lạc đó sẽ hô ứng, tạo nên nội loạn. Thiết lập hộ tịch, trực tiếp quản lý từng hộ, là cách để khống chế trực tiếp các bộ tộc.

Nộp thuế, dẫu là định thuế thấp đến đâu thì cũng bắt buộc phải nộp, như vậy thì dân chúng mới dần dần hiểu rõ được quyền lợi của mỗi người trong bộ lạc. Đặc biệt là trẻ em, thiếu niên và những đứa trẻ được sinh ra sau này, từ nhỏ đã biết được những việc này thì có thể thiết lập nên một tiết độ sứ trong lòng chúng, nộp thuế, cần phải thu trực tiếp đến từng hộ trong bộ tộc”.

Chiết Tử Du khẽ thở dài: “Cách của chàng không quyết liệt, dẫu chăng là cách mà mọi người có thể chấp nhận được, nhưng mỗi bước của chàng đều có tầm nhìn rộng, khiến người khác không biết chàng lại nghĩ chàng là một thủ lĩnh thâm hiểm, đúng là không biết đâu là họa đâu là phúc”.

Dương Hạo mỉm cười nhìn nàng, ánh mắt sáng lên vẻ kỳ lạ: “Nàng không biết đây là anh minh ngút trời hay sao? Căn bản mà nói, những tranh chấp và mâu thuẫn giữa các bộ tộc không phải là trời phú cho việc tốt hay sao? Nói tầm nhìn của ta rộng, ôi, điều này quả không sai, sở trường duy nhất hơn người của ta không phải là văn và võ công, mà là ở một mức độ nhất định, những việc ta làm thường là xa hơn người khác, cái này… là cái nhất của ta, là cái thiên phú mà có học cũng không có được, sau này.. nàng sẽ hiểu rõ ta hơn”.

Chiết Tử Du cảm thấy lúng túng trước ánh mắt của hắn, thiên phú, những điều mà Dương Hạo nói.. nàng đột nhiên nghĩ thầm: “Chàng đối với ta.. không phải là lợi dụng cái gì chứ, thiên phú, bản năng, dự tính, mắt nhìn xa?”

Nghĩ đến mình, thậm chí nghĩ đến nhân sinh, đều có thể quy thuận, bất giác, nàng có thể học theo người ta, sắp xếp từng bước đi một, Chiết Tử Du không khỏi rùng mình một cái, đột nhiên cảm thấy Dương Hạo không giống như chàng vẫn hay tỏ ra là vô hại trước mặt nàng, cái kiêu ngạo của cô có chút sụt vỡ…

Dương Hạo không biết câu nói của mình có ý khác, có thể khiến Chiết Tử Du hiểu theo hướng khác, hắn tiếp tục giải thích: “Thiết lập luật pháp, chư bộ chư tộc, không kể là Hán Khương, tư pháp nhất định phải được nắm trong phủ tiết độ sứ, nay chư bộ làm loạn, đang cần ta đánh giá, ít nhiều cũng phải nhượng bộ một chút, về điểm này thì họ sẽ đồng ý”.

Nắm vững được quyền tư pháp, dân sự tranh cãi, vụ án hình sự, cần được tiết độ sứ của ta khống chế, đây chính là quyền uy then chốt của tiết độ sứ, điểm này mà giải quyết xong thì tạm thời tiết độ sứ không thể thay được vai trò khống chế của thủ lĩnh, ít nhất cũng có thể ngang tài ngang sức.

Còn có chinh binh. Dân chúng các bộ tộc ở Tây Bắc bình thường đều làm nông, săn bắn, du mục, vào thời chiến thì tập kết binh, nông nghiệp ở đó không phát triển, muốn xây dựng số lượng lớn đồ sộ đội quân thường bị giống như Trung Nguyên, ăn quân lương, điều đó căn bản là không thể, ít nhất là không chống đỡ nổi. Nhưng quân thường bị nhất định cũng phải thành lập một đội, không chỉ là để đề phòng quân ngoại bang, mà đó là điều tất yếu để bảo đảm hệ thống thống trị của nội bộ”.

Xem ra quả thực hắn đã phải trải qua rất nhiều suy nghĩ, lúc nói cũng không được lưu loát, nói đến đây, hắn trầm giọng xuống, nói: “Tu sửa thủy lợi, phát triển nông nghiệp, khai thác công thương, chăn nuôi, trong quá trình này có thể khiến các bộ tộc chư tộc cùng chung sống hòa hợp, hôn nhân và đạo Phật cũng là một cách hay để họ có những quan niệm khác nhau về văn hóa, tập tục cuộc sống. Cùng một cuộc sống, cùng một tín ngưỡng, rất dễ dàng để người ta nảy sinh ra đồng cảm. Có điều phải cần thời gian, cần một thời gian dài. Nhưng chúng ta có lòng tin, rất nhiều người lao động đã đi sai đường, đi đường vòng, chúng ta đều đã đi qua rồi, nếu như có thể cho chúng ta được hưởng một cuộc sống yên bình thì dù có phải mất bao thời gian, cục diện đó cũng không thể thay đổi”.

Chiết Tử Du hạ giọng nói: “Chỉ sợ rằng, không có người nhìn thấy chàng vĩ đại như thế”.

Dương Hạo cười nhạt: “Phàm là việc có lợi thì nhất định có chỗ xấu, nếu như có người muốn phát động chiến tranh với ta thì chỉ cần dung hòa nội bộ của ta thì còn sợ gì nữa?”

Chiết Tử Du lại nhìn Dương Hạo, con người trước mắt nàng nông như một dòng suối nhỏ, nhưng có lúc lại sâu như biển, nàng quả thực không thể đoán được, Dương Hạo có chí khí, chắc chỉ có mình chàng mới biết được trong lòng chàng có những chuyện gì.

Lúc này Dương Hạo mới thở dài lẩm bẩm nói: “Thế nhưng, bao nhiêu chuyện như thế, nói thì dễ, nhưng làm thì rất khó. Đây không phải là điều mà mình ta có thể làm được, ta cần người, cần một số lượng lớn nhân tài, cần một lượng lớn người có thể nghe lời ta, đem tài năng phụng sự ta, nếu không, có kinh nghiệm thế nào đi nữa cũng sẽ khiến ta đi lạc đường, nhân tài ơi…”

Nhân tài đương nhiên là có, không biết mọi người thường nói mảnh đất Tây thành khốn khổ, là nơi khó sống, những người sống ở đó đều là những người nghèo khổ, dã man, thực tế nơi này là cái nôi văn hóa của Tần và Đường, từ khi Tần Chiêu Vương thiết lập nên Lũng Tây, nơi đây trở thành trọng địa của Tây Bắc, vào thời Đường thì Lũng Tây trở thành đệ nhất quân sự của Trường An, văn hóa lẫy lừng, địa linh nhân kiệt.

Vào thời cận Đường, từ khi vào triều trở thành quan văn võ số lượng nhiều hằng hà sa số, sau đó nền văn hóa chỉ nằm trong tay một số ít người, những người này là đệ tử của nhà giàu thế gia, người như thế Dương Hạo không thể dùng, lại không thể ỷ lại vào bọn họ, nếu không dựng hắn làm hoàng đế, xuất hiện ngay trước mắt cũng chỉ là một cái đuôi mà thôi, hậu họa vô cùng.

Nhân tài ơi…

Ta không phải là hoàng đế, không thể lấy sĩ từ trong nhân gian, những người này từ nơi nào đến?

***************************

Lý Dục ngửa cổ, uống cạn một hơi hết chén rượu trong tay, nằm say trên trướng, đột nhiên lên tiếng khóc lớn.

Đã từng là một bậc đế vương, nước bị phá rồi, nhà cũng tan rồi, xã tắc đều không còn, con dân đều rơi vào tay người, bị chính tín dân ngày xưa của mình, bị người vợ yêu thương của mình lăng nhục, cả thế giới này còn có ai khốn khổ bằng hắn?

Con tiện nhân đó sau khi vào cung, sau khi trang điểm tắm rửa còn có tâm tình đi dạo, vừa cười vừa nói, nghĩ tới đây Lý Dục vừa thấy xấu hổ vừa thấy tức giận, rượu trên án bị hất một cái, rơi xuống đất vỡ tan tành.

Đêm đó, ả ta còn tự mình giải thích là do hoàng tử Đức Sùng đột nhiên xông vào phòng, may mà thoát thân, nếu không đã bị ô nhục, những lời nói dối trá đó ai mà tin được? Hoàng cung đại nội nội quy thâm nghiêm, phu tử cũng là quân thần, ai dám vô lễ? Khi hắn ở cung hoàng hậu trước mấy cung tần mỹ

nữ chơi trò ‘cẩm hồng động thiên’ thì thái tử nào dám đến?

Mấy ngày này ả ta thường đi Thiên Kim Nhất Tiếu Lầu, Lý Dục đã từng phái người lén đến đó, mỗi lần ả ta đến đó đều vô cớ mất tích một khoảng thời gian, không biết đi đâu, gặp ai. Hơn nữa hắn còn nghe ngóng được rằng hôm nay Thánh thượng Triệu Quan gia cho dù ở Nam phủ vẫn thường đến Thiên Kim Nhất Tiếu Lầu, hành tung cũng rất bí mật, không biết là hắn đi đâu?

Nghĩ như vậy, lẽ nào nữ nhi không biết vô sỉ, sớm đã có qua lại với Triệu Quang Nghĩa?

Lý Dục càng nghĩ càng tức giận, lại nghĩ đến Tiểu Chu hoàng hậu, thật lòng cũng muốn giết nàng, nhưng hắn không dám, giết nàng thì dễ, nhưng hắn làm sao chịu đựng nổi cơn giận dữ của thiên tử đây? Khi hắn phát hiện ra Tiểu Chu hoàng hậu thường hay lui tới Thiên Kim Nhất Tiếu Lầu, mà thánh thượng cũng thường xuyên tới đó, hắn liền phái người đi thăm dò, phát hiện chân tướng thì sẽ ra sao? Người đàn ông đó là không phải là người hắn có thể phản kháng, đến lúc đó chẳng phải tự mình gây khó dễ cho mình hay sao?

Hôm nay ả ta lại đến chỗ Thiên Kim Nhất Tiếu Lầu, nghĩ rằng ắt hẳn là đi cùng quan gia, hai người tình tự với nhau, thật là bức bối…

Lý Dục càng nghĩ càng tức giận, hắn gầm lên một tiếng, gạt phăng chiếc bàn trước mặt mình, bầu rượu trên bàn bị gạt vỡ tung tóe, đám người dưới lén lút sợ hãi nhìn, thấy hắn ngày ngày mượn rượu giải sầu, hôm nay lại say như phát điên, nôn mửa lung tung, tất cả đều tháo lui.

Lý Dục ngẩng khuôn mặt đầy nước mắt, nhìn tấm bình phong đặt đối diện, hắn lại lờ mờ nghĩ tới hoa viên của nước Đường khi xưa, với cuộc sống đầy ý thơ, gió xuân ấm áp, chim nhạn bay lượn. Khi đó là lễ hội thưởng nguyệt, thông kinh lễ phật, đọc thơ ngâm phú, vẽ tranh, ban thưởng tiệc rượu, ca hát vui vẻ, thật vui làm sao, so với hiện tại thì cuộc sống của hắn giờ như trong tù, chỉ thiếu mỗi sợi xích buộc vào hai chân, khiến người ta cảm thấy thật thương cảm, phẫn nộ đau thương, không nén nổi lên tiếng ngâm: “ Khi nào lại xuân hoa thu nguyệt, việc đã qua nào biết được bao nhiêu, căn lầu nhỏ đêm qua lại có gió Đông, quay đầu nhìn cố quốc trong ánh trăng đêm…

Điêu lan ngọc tồn tại chỉ là hồng nhan thay đổi. Hỏi quân có bao nhiêu sầu, giống như nước sông Giang Xuân…”

Lý Dục chậm rãi ngâm, lệ ngân đầy trên mắt, đột nhiên như có tiếng bước chân nhẹ nhàng vẳng đến bên tai, hắn hét lớn: “Ai cho ngươi vào đây, mau cút ra!”

Lúc đó, mũi hắn ngửi thấy một mùi thơm nhẹ nhàng, đó chính là mùi nước hoa của Tiêu hậu. Lý Dục nhanh như chớp ngồi thẳng lưng, giống như một con mèo gặp thiên địch, uốn cong người, thở dốc, mắt không dám mở ra.

Hắn không dám nhìn thấy vẻ kiều diễm tươi cười của nàng, không dám nhìn dáng điệu thon thả của nàng, đó vốn là của hắn, nhưng hiện đã thuộc về một người còn cao hơn hắn một bậc, đó là người hắn không thể đi tranh chấp, hắn vô kế khả thi, không dám nhìn nàng, giống như chính mình là một nỗi ô nhục vậy, hắn chỉ muốn tháo chạy…

Lý Dục lồng ngực phập phồng, hít thở hồi lâu, mãi sau hắn mới đứng thẳng lên, lảo đảo đi về phía Tiêu hậu.

“Đứng lại!”

Tiểu Chu hoàng hậu nghe thấy vậy cảm thấy trong lòng tràn đầy bi thương.

Đây là người đàn ông của nàng, từ khi nàng mười lăm tuổi, nàng đã bầu bạn hầu hạ người ấy, trong tim nàng, con người hắn đầy đủ tài hoa, ưu tú kinh ngạc, là người đàn ông ưu tú nhất trong thiên hạ. Nhưng khi quân địch kéo đến, hắn càng ngày càng khiến cho nàng thất vọng. Trên thế gian không có anh hùng nào là bất bại, gặp những kẻ địch càng mạnh thì hắn lại càng không thể chạy trốn, không phải người đàn ông mạnh mẽ nhất mới được coi là đàn ông, cũng nên sống sao cho có khí phách, sống sao cho giống một người chân chính. Trong lòng hắn đầy mâu thuẫn, những thứ trước đây nàng cho rằng không thể nhìn ra, thì bây giờ nó lại lù lù trước mặt.

Lý Dục từ từ đứng lại, đầu cũng không quay lại.

Tiểu Chu hậu sau khi nhìn một cái, bèn quay sang nắm chặt vai của hắn, nói: “Đi theo ta!”

Lý Dục giận dữ, trong lòng vị tài tử mẫn cảm sớm đã có dự liệu, không thể bị kích thích được nữa, nàng bao giờ mới lại dùng những ngôn ngữ như vậy để nói hắn? Trừ phi là bám vào người đó, làm hắn không nhận ra dưới tình yêu hiện nay thì như vậy có là uy phong?

Lý Dục bắt tay rồi nói lớn: “Đây cũng là nhà của ta, ta nghĩ đi đâu thì đi chứ, tại sao ta lại phải đi theo nàng?”

Tiểu Chu hoàng hậu sững sờ, lệ nhanh chóng chảy xuống, nàng nức nở nói: “Chàng cả ngày ngồi trong phòng uống rượu, ngoài việc tự oán thán bản thân thì có thể làm được cái gì? Không phải là ngày từ đầu chỉ biết mỗi vui vẻ hay sao, không biết cầu trị, đến việc tồn vong của quốc gia người cũng không quan tâm, bị người ta cho vào tù là xong? Chàng chỉ biết hắn là người xã hội đen thôi, nhưng có thể lấy việc của tiểu thư làm ví dụ cho mình học hỏi được không?”

Tiểu Chu hoàng hậu phẫn nộ, những giờ phút kiêu ngạo nhất của hắn đã tiêu tan, hắn lại quay người bỏ đi, Tiểu Chu hoàng hậu phải ngạc nhiên đi theo.

***********************************

“Nàng…nàng nói gì?”

Lý Dục nghe mà trợn mắt ngạc nhiên, sau lưng toát mồ hôi lạnh, hồi lâu sau mới tỉnh lại nói: “Lạc Tuyển xuất kinh? Vậy… nàng thường đi đến Thiên Kim Nhất Tiếu Lầu không phải là đi với quan gia, mà là đi bàn chuyện này sao?”

Tiểu Chu hoàng hậu trợn tròn mắt, không dám tin nói: “Chàng nói gì?

Chàng…chàng cho rằng ta đi đến Thiên Kim Nhất Tiếu Lầu là đi lăng nhăng thông dâm với người khác ư?”

Lý Dục cũng biết mình nói lỡ, không nói gì nữa. Tiểu Châu hoàng hậu sau khi trừng trừng quan sát hắn một hồi lâu mới cười lạnh nói: “Chàng được lắm, được lắm, hóa ra trong mắt chàng ta là một người như vậy. Ta nói thế nào người cũng cứ u sầu không vui, mỗi ngày đều ở trong phòng uống rượu say khướt, hóa ra là do chàng nghĩ… Haizzz, chàng đã cho rằng ta như vậy thì sao không mượn oai phong của người chồng ra mà trừng trị kẻ thông dâm? Bản lĩnh của chàng chỉ dừng lại ở việc mượn rượu giải sầu, ngồi trong phòng buồn rầu cả ngày hay sao?”

Lý Dục bị nói cho cảm thấy hổ thẹn, cầu khẩn nói: “Nàng… nàng không cần nói nữa, nàng không biết mấy ngày nay ta đã phải chịu biết bao dày vò..”

Tiểu Chu hoàng hậu nhìn thấy dáng vẻ như vậy của hắn, mái tóc bạc phơ lộ ra, trong lòng không khỏi thấy thương xót, đành im lặng không nói gì. Lý Dục lại vui mừng nắm lấy tay nàng, cảm động nói: “Nàng cân nhắc chuẩn bị kĩ, muốn thoát ra khỏi Biện Lương, xem ra nàng và quan gia thực sự không… thực là ta đã trách nhầm nàng…”

Tiểu Chu hoàng hậu buồn rầu nói: “Chàng quả nhiên là đã trách nhầm ta, ta biết. Nhưng trong mắt chàng, ta chỉ như một bức cổ họa, là một vật rất quý, nhưng có gì khác biệt nào? Chàng có bao giờ nghĩ ta là một người sống sờ sờ, cũng có những suy nghĩ của ta, chàng có bao giờ nghĩ cho những suy nghĩ của ta không?” Nàng vừa nói, nước mắt chảy xuống lưng tròng…

Lý Dục mặt đỏ tới mang tai, nói: “Ta sai rồi, đều là ta sai rồi. Nàng từ ngày vào cung nương nương, có đúng là không bị quan gia làm nhục đến sự trong sạch của nàng?”

Tiểu Chu hoàng hậu tức giận, vung tay ra khỏi tay hắn, nói: “Điều chàng quan tâm chỉ có cái đó thôi sao? Sự an nguy của ta chàng không từng bận tâm đến đúng không? Chàng biết rồi còn cố tình hỏi thế? Nếu như ta thực sự đã bị Triệu Quang Nghĩa làm nhục, chàng có thể đi đòi lại lẽ phải cho vợ chàng được không, hay chàng chỉ coi ta như mảnh giấy vứt đi?”

Lý Dục lúng túng nói: “Ta… đương nhiên là ta sẽ để nàng trong lòng. Nếu như không quan tâm đến nàng thì ta… ta làm sao lại cứ truy hỏi chuyện đó?”

Tiểu Chu hoàng hậu nhìn hắn – một kẻ hèn, rồi lại đành bất lực thở dài nói: “Ta đã nói rồi, ngày hôm đó không biết tại sao hoàng tử lại điên cuồng đi tìm hắn, trong nội cung đều chặn không nổi, Triệu Quang Nghĩa không làm gì được đành bỏ ta, tiếp đó ta phải đi mới thoát khỏi đại nạn”.

Lý Dục cười mừng rỡ, nói: “Vậy thì tốt, vậy thì tốt. Đúng là ta đã trách nhầm nàng”.

Tiểu Chu hoàng hậu buồn bã nói: “Có thể chạy trong chốc lát, không thể thoát được cả đời, ta tránh được tháng này nhưng tháng sau thì làm thế nào? Nước đã tan, nếu như Triệu Quang Nghĩa muốn cưỡng ta thì phận nữ nhi yếu ớt có thể kháng cự được không? Vì vậy mới phải tìm cách tháo chạy”.

Vừa nói đến việc tháo chạy, Lý Dục đã thấy căng thẳng: Trong thiên hạ này ở đâu chả là ở trong lòng bàn tay của Tống, chúng ta có thể chạy đi đâu? Đại Lý? Khiết Đan? Hay là chạy ra nước ngoài? Nhật Bản? Chúng ta chạy là có thể thoát sao? Quan gia một khi đã phát hiện thì ắt sẽ phái đại binh đuổi theo, chúng ta có mọc cánh cũng sẽ lại rơi vào lưới của hắn, tuyệt đối không có đường thoát”.

Tiểu Chu không chịu nổi cả giận: “Vậy chàng có kế gì? Đợi đến khi cái thân này bị hắn làm nhục rồi thì chàng càng nhẫn nhịn nén tức, tiếp tục làm quận công ở Lũng Tây ư?”

Lý Dục nghe nói vậy mặt đỏ bừng, nghe nói đến Lũng Tây, hắn nhớ lại một chuyện, nghi ngờ nói: “Không đúng, Dương Hạo cũng là thần tử của nhà Tống, hắn hà cớ gì phải chịu mạo hiểm đi cứu chúng ta rời khỏi đây? Hắn mạo hiểm giúp chúng ta, sắp xếp giúp chúng ta, mạo hiểm như vậy chẳng lẽ… chẳng lẽ…”

Tiểu Chu hoàng hậu nghe thấy những lời này của hắn mắt không khỏi dướn lên, vội vàng hỏi hắn: “Chẳng lẽ thế nào?”

Lý Dục nghi ngờ nói: “Chẳng lẽ Dương Hạo cũng mê đắm sắc đẹp của nàng, muốn gây chú ý với nàng?”

Tiểu Chu hoàng hậu trợn to hai mắt, mặt dần lộ ra vẻ tức giận không thể nói được gì, rồi đột nhiên nàng đứng thẳng dậy, tát vào mặt Lý Dục một cái!

 Chương 436: Rối ren 

Cái bạt tai đó không đánh trúng mặt Lý Dục, Tiểu Chu hoàng hậu đứng đó nắm chặt tay, trong lòng đầy đau khổ nói: “Chàng… trong lòng chàng chỉ nghĩ được những thứ này thôi sao?”

Lý Dục lúng túng nói: “Ta… làm sao nàng trách ta được chứ, nếu như không phải vì lý do này thì Dương Hạo việc gì phải mạo hiểm để cứu chúng ta?

Không nghĩ đến thể diện của Triệu Quang Nghĩa, Dương Hạo… rốt cuộc là nghĩ thế nào?”

Tiểu Chu hoàng hậu chậm rãi lắc đầu nói, kiên quyết nói: “Ta không biết, từ khi mười lăm tuổi vào cung, ta chỉ là người ca múa trong những bữa tiệc của triều đình, thơ ca nhạc họa, rất nhiều việc lớn trong triều đình ta đều không hiểu được. Dương Hạo tại sao lại cứu chúng ta, hoặc giả xuất phát từ lòng căm phẫn thì cũng không giống như những gì chàng nghĩ”. Lý Dục ngoan cố nói: “Làm sao nàng biết?”

Tiểu Chu nói: “Do trong thiên hạ này số mỹ nữ nhiều không kể xiết, bên cạnh Dương Hạo có biết bao là mỹ nữ, hắn không phải là người tham sắc, cũng không phải là người vì sắc mà làm chuyện dại dột, không để ý đến hậu quả. Do những ngày ta đi đến Thiên Kim Nhất Tiếu Lầu có gặp hắn, nếu như hắn có tà ý với ta thì lẽ nào còn để ta đi? Tại sao không tranh thủ thời cơ?

Thành Biện Lương rộng có mất đi một vài người như ta thì cũng chẳng phải là chuyện lớn, nhưng mất đi quận công Lũng Tây thì lại là chuyện chấn động triều đình, hắn vì sao vẫn cương quyết giúp chàng bỏ chạy? Đem cả nhà chúng ta đi thì đã đành, nhưng lại còn đem theo cả Từ Huyễn, Tiêu Nghiễm là những trung thần nhà Đường nữa? Cách làm này là cách một tên tham sắc làm hay sao?”

Lý Dục nghe có chút tức khí, hắn tuy rằng không để ý đến chính sự, cả ngày toàn văn thơ, nhưng rốt cuộc cũng đã từng làm vua, bao việc đại sự cũng đã qua tay, hơn nữa Lâm hổ tử còn là trung thần của hắn, một kế sách đơn giản như vậy mà hắn cũng bị trúng kế, người này có thể nói là cực kỳ đa nghi.

Giờ trong đầu hắn chỉ toàn là lửa giận, chỉ nghĩ đến việc mình bị cho cắm sừng, bị Tiểu Chu tố giác, rồi nghĩ đến bao điểm nghi vấn chưa nghĩ đến, hắn trầm ngâm một lúc lâu, rồi mới từ từ nói: “Dương Hạo có tâm tạo phản!” “Chàng nói sao?” “Nhất định là như vậy!”

Lý Dục càng nghĩ càng thấy đúng, rất bình tĩnh nói: “Dương Hạo là tiết độ sứ, ngồi ở đất Tây Bắc, tung hoành ngang dọc, Lý Quang Duệ, Dương Sùng Huấn, Chiết Ngự Huân được coi là ba Tống thần, trên thực tế vốn là chư hầu, Dương Hạo há chẳng biết hay sao? Hắn không có ý cướp Trung Nguyên, nhất định phải có ý muốn cắt Tây vực, hắn muốn giúp chúng ta rời khỏi đây hay là muốn ta đem đến cho hắn vài thần dân nhà Đường, chẳng lẽ… chẳng lẽ muốn vực ta dậy, trùng tu lại nhà Đường?”

Lý Dục càng nghĩ càng thấy hưng phấn, “Nếu như hôm nay nước Thục có khoảng hơn mười vạn binh tạo phản, triều đình dốc sức diệt trừ, lúc đó nếu như ta có thể hiệu triệu binh cũ, tái khởi Đông sơn, đến khi đó triều Thục loạn rồi, Giang Nam cũng loạn, Dương Hạo ở Tây Bắc sẽ nhẹ nhõm, đại triển quyền cước, hắn muốn lợi dụng ta, hắn do đó mới cứu chúng ta ra khỏi đây”. Tiểu Chu hoàng hậu lắp bắp nói: “Dương Hạo có dã tâm thế sao?”

Lý Dục vui vẻ nói: “Nhất định là thế, nhất định là thế. Hắn ta muốn lợi dụng ta, ta làm sao không thể lợi dụng hắn được. Haizz, một khi rời khỏi cái lồng này nói không chừng sẽ có cơ hội khôi phục lại nước Đường, tái lập đế vương”.

Nói đến đây, hắn lại đứng lên suy tính, cẩn thận ngó Tiểu Chu hoàng hậu, nói: “Nàng bảo… hắn… có phải là hắn thật sự muốn đem chúng ta ra khỏi Biện Lương này không? Hắn giờ ở tận vùng Tây Bắc, có binh có đất, một khi sự việc thất bại thì coi như là đã công khai trở mặt với vua, nhưng đối với chúng ta mà nói thì cũng là những người chết không có chỗ chôn rồi”.

Tiểu Chu hoàng hậu oán hận nói: “Vậy chúng ta đành ở lại Biện Lương hay sao? Chàng cam tâm để ta bị Triệu Quang Nghĩa nhục mạ sao?”

“Tất nhiên là không cam tâm!” Vừa mới nghĩ đến việc mình có cơ hội làm lại hoàng đế, Lý Dục đã kích động, cái tôn nghiêm của hoàng đế khôi phục lại được đôi chút, lập tức không hề do dự, nhưng rồi lại lo lắng đứng lên: “Vậy… nàng nói ta còn cơ cơ hội không? Những đại thần đồng ý theo ta giờ không còn mấy, Giang Nam đã bị nhà Tống chiếm mất rồi”.

Nói đến đây, hắn đột nhiên khóc nức nở, nói: “Hận thì hận, mới đầu đã ngộ sát các trọng thần Lâm Nhân Triệu, Phan Hữu, Lý Bình, nếu khi quân Tống kéo đến thành trẫm nghe lời Trần Kiều, liều chết giữ thành Kim Lăng thì với sáu vạn quân tinh nhuệ, có thể dùng lương thực trong hai mươi năm, yên lặng đợi động tĩnh, trọng thần và bách tính cùng hưởng ứng, há rơi vào tình trạng như thế này. Nếu như lại hiệu triệu binh cũ, e rằng con đường phía trước gian nguy trùng trùng, cuối cùng để Lý Dục phải nước mắt như thế này, càng nghĩ càng đau lòng. Tiểu Chu hoàng hậu kinh ngạc mở to mắt, Lý Dục không có nỗi đau giống của những người đàn ông thường tình khác. Trong lòng nàng có chút mỹ hóa, chỉ cảm giác hắn là một vị hoàng đế khác so với những vị hoàng đế khác tự cổ chí kim, là một người có biểu hiện tình cảm, nay nhìn lại, lại thấy phẫn nộ không xiết. Hắn có điểm nào là có khí chất anh hùng? Cơ hội lớn đến ngay trước mắt hắn lại nghĩ… đúng là khác hẳn người thường.

Trán của Tiểu Chu hoàng hậu nổi gân lên, tim đập thình thịch, nàng nghiến răng trèo trẹo: “Ta hỏi chàng, chàng có đi hay không?”

Lý Dục chần chừ một hồi lâu mới hung hăng nói: “Nếu như sống không bằng chết thế này thì còn vui vẻ nỗi gì? Chúng ta đi thôi!”

Tiểu Chu hoàng hậu vui mừng nói: “Được, vậy chàng nghe kế hoạch của

thiếp, chúng ta cứ như thế, trên danh nghĩa là mời Từ Huyễn, Tiêu Nghiễm cùng người trong phủ đi dự yến tiệc, cùng với các cựu thần sẽ dốc hết sức mời họ, nhưng… nếu như có chút gì đó không đáng tin cậy thì không thể gọi họ, để tránh xảy ra họa lớn!”

Tống hoàng hậu đã rời khỏi cung hoàng hậu, ở trong một cung điện có ít người qua lại, duy tu cũng không kịp, bên trong đã hư hỏng nhiều. Trước khi nàng chuyển đến, nơi đây bài trí hết sức đơn giản, trong cung còn có mùi dầu, trộn lẫn trong không khí ẩm mốc, hết sức khó ngửi. Tống hoàng hậu nằm trên giường, mặt mày ảm đạm, hai mắt vô thần.

Triệu Đức Chiêu, Triệu Đức Phương, công chúa Vĩnh Khánh, ba người ngồi quanh bà, đến nay người ở bên cạnh bà đã ít đi nhiều, những người trong cung tuy vẫn nghe lời sai bảo của bà, nhưng vẫn thường âm thầm tỏ ý không đồng ý, do vậy khi được lệnh cho lui đi nghỉ, bốn mẹ con mới có thể ngồi với nhau chuyện trò.

Triệu Đức Chiêu đỏ mặt nói: “Nhị thúc đã nảy sinh lòng nghi ngờ, nay chúng ta ngoài mặt tự do nhưng trên thực tế là bị giam lỏng, bất kể đi đâu thì cũng đều có người của nhị thúc đi theo. Nương nương, Đức Phương và Vĩnh Khánh muội có ít cơ hội gặp nhau, trừ phi là do nương nương sinh trọng bệnh, còn không thì khó có cơ hội gặp mặt mọi người”.

Triệu Đức Phương oán hận nói: “Đâu chỉ đại ca, đến đệ là trẻ con cũng bị bọn trong cung kiểm soát gắt gao, không thể ra ngoài cung, cả ngày đều bị giam giữ trong viện, ngẩng đầu chỉ thấy được một khoảng trời nhỏ, chẳng khác nào bị ngồi tù”.

Tống hoàng hậu cười khổ não: “ Nay ta đã ngã bệnh rồi, chỉ có điều là ta bị bệnh quan gia mới không ngăn cản mẹ con ta gặp mặt”.

Nàng kéo tay Triệu Đức Phương, mắt đỏ hoe: “Cung cấm đối với mẹ không có vấn đề gì, với lại đây là nhà của ta, còn cần phải đi đâu nữa? Đức Phương, mẹ thấy chúng ta đều vẫn còn tốt, trong lòng cũng thấy kiên định hơn nhiều rồi. Nơi này không thể ở lâu, quan gia đã có ý nghi ngờ các con rồi, nếu như bọn họ có tà ý với chúng ta, thì bản cung có chết cũng không đủ, nhưng các con thì phải sống.. Ta, ta ở dưới cửu tuyền thì làm sao gặp mặt phụ thân của các con được”.

Nói đến đây, nàng nước mắt lưng tròng, Vĩnh Khánh phẫn nộ nói: “Nói thế có ích gì, ông ấy đến con còn không nhìn được, đến nay có gì là con không nhìn thấy, cái gì là không nghe thấy, như vậy so với cái chết thì có khác gì nhau?”

Nàng liếc Triệu Đức Chiêu một cái rồi nói: “Muội chỉ hy vọng đại ca có thể phản kinh, ai mà biết được những dự liệu của Dương Hạo, đại ca căn bản là không đủ sức chỉ huy những tướng sĩ đó, hôm nay chúng ta chỉ còn có một tia hy vọng duy nhất là Dương Hạo, hắn đã đi Tây thành rồi, trong tay hắn có binh quyền, cái chức tiết độ sứ của hắn là do chúng ta tặng cho hắn, chung quy nên có đi có lại mới đúng”.

Tống hoàng hậu nói: “Nhưng… nếu như hắn ở Tây bắc thì tình hình ra sao rồi? Chúng ta căn bản không biết, cả ngày bị bọn chúng giám sát, chúng ta không nghe được chút tin tức gì, càng không th ể liên lạc được với hắn, bị nhốt ở đây thì có thể làm được gì?” 

Triệu Đức Chiêu và Triệu Đức Phương nhìn nhau: Nay thiên hạ đã ở trong tay Triệu Quang Nghĩa, ngôi hoàng đế của hắn đã ngồi vững, bọn chúng ở đây còn có thể thay đổi cục diện thế nào được? Sau một hồi lâu, Vĩnh Khánh công chúa đột nhiên nhảy dựng lên, ánh mắt sáng rực: “Muội có cách rồi.”

Tống hoàng hậu cùng đám Triệu Đức Chiêu đều đồng thanh nói: “Cách gì?” “Xuất gia!” “Cái gì?” mấy người cùng đồng thanh đáp.

Vĩnh Khánh công chúa nói: “Tiên triều đã từng có biết bao người xuất gia, trong đó có không ít trường hợp là những người trốn tránh nội chiến trong cung, bọn họ có thể, muội nghĩ cũng có thể. Nếu hôm nay chúng ta bị bức đến mức này thì chẳng khác nào bị cầm tù, đi một bước cũng khó, nhưng nếu như chúng ta xuất gia làm ni cô, theo tiền lệ cũ, thì phải xa rời cung điện, tiến vào đền chùa”.

Hắn có tài nhưng cũng không có cách nào suốt ngày cử tai mắt theo chúng ta được, chúng ta cũng biết trong cung có nhiều người phụ trách giám sát ta, nhưng đó là những ngày khổ hạnh, bọn họ đều không muốn. Do đó nếu như có thể lén thì lén, nếu như muội xuất gia thì những ngày đó sẽ càng khổ hạnh, mặc dù khó tránh khỏi tai mắt giám sát nhưng trong miếu thì bọn chúng cũng bị hạn hẹp hơn, chúng ta sẽ thoải mái hơn bây giờ rất nhiều, hoặc giả… rất nhiều tín đồ tới dâng hương, chỉ cần cẩn thận thì sợ gì không có cách liên lạc với bên ngoài?”

Tống hoàng hậu kinh ngạc nói: “Tuyệt đối không thể, quan gia đang muốn con kết hôn, muốn gả con cho đứa con thứ ba của Ngụy tướng công, con chưa chắc đã không thể có được tự do. Đây chỉ là việc trước mắt, chúng ta lẽ nào không đợi được? Nhưng nếu như xuất gia thì đó sẽ là việc cả đời của con, cả đời phải tụng kinh niệm phật?”

Vĩnh Khánh cười lạnh nói: “Bà nội tìm cho con một đức lang quân! Con nghe nói con trai quý của Ngụy tướng quân là đồ keo kiệt bủn xỉn, đầy thủ đoạn, tiếng dữ đồn xa. Sáu năm trước Ngụy tướng công qua đời, hắn ỷ lại vào khối tài sản ông ấy để lại ôm ẵm hết, không chia cho anh em một chút nào”.

Chiếm gia sản mà không nhả ra, không chia cho anh em, bây giờ người nhà hắn còn đang theo hắn lên tòa án, ai cũng khinh bỉ hắn, người như vậy con không cam tâm lấy làm chồng. Chỉ có điều là do đích thân bà nội chỉ định, phụ thân phải hiếu thuận, không dám trái lời, không dám hủy hôn.

Khi đó con cũng không có cách nào khác, cũng không muốn xuất gia, nhưng nay đã khác rồi, tiền đồ của Vĩnh Khánh làm sao lại thế được? Con xuất gia đúng là nhất cử lưỡng tiện.

Nếu không, nghe nói rằng quy tắc của nhà Ngụy tướng công đó rất nghiêm, con mà bị gả vào đó, lại gặp phải một người chồng vô sỉ thì làm sao còn có cơ hội lấy thông tin đây?”

Tống hoàng hậu và Triệu Đức Chiêu bốn mắt nhìn nhau, không nói câu gì, Triệu Đức Phương tuổi tác còn nhỏ, không muốn xuất gia, còn không rõ rốt cuộc có ý gì, v ừa nghe thấy chị mình có ý như vậy để nghe ngóng tin tức bên ngoài, lập tức vỗ tay nói: “Con tán thành, tỷ tỷ thật thông minh, chúng ta cứ làm thế đi”.

Triều Bắc Tống có rất nhiều người xuất gia, Triệu Quang Nghĩa có tất cả sáu người con gái, trong đó có hai người đã xuất gia thành ni cô, một người ở ẩn, nhưng lịch sử nay đã thay đổi, Vĩnh Khánh công chúa còn chưa xuất thế đã trở thành công chúa ni cô đầu tiên của nước Tống.

Công chúa Vĩnh Khánh đã quyết, lập tức lấy kéo ra cắt phăng mái tóc, Tống hoàng hậu thất sắc nói: “Vĩnh Khánh, con làm sao lại lỗ mãng như vậy, chúng ta phải từ từ bàn bạc đã”. “Còn có thể thương lượng gì nữa? Cứ dùng dằng mãi không thể làm chuyện đại sự”.

Vĩnh Khánh công chúa trầm giọng nói: “Con sẽ nói với hắn, Vĩnh Khánh quá đau lòng nên không muốn vướng bụi trần nữa, nương nương bệnh nặng không gượng nổi, Vĩnh Khánh càng thêm đau lòng, nguyện sẽ cắt tóc đi tu, sẽ ngày đêm cầu phúc cho phụ thân, cầu cho thiên hạ được thái bình. Bất kể hắn có đồng ý hay không thì Vĩnh Khánh từ nay trở đi sẽ là người xuất gia!” Nói rồi nàng lại lấy kéo cắt phăng mái tóc xuống đất…

**************

“Tìm thống soái của Khương, Thổ Phiên, Hồi Hột, Khiết Đan, còn cả bộ tộc người Hán nữa, tìm hiểu dân số, tập quán sinh hoạt, hoặc mục canh, nhanh chóng hoạch định khu vực, đồng thời tiến hành cải tổ. Việc này tự ngươi đi giải quyết” Dương Hạo nói.

Đinh Thừa Tông mỉm cười nói: “Như vậy tốt lắm, càng bận rộn bao nhiêu ta mới càng cảm thấy mình không phải là kẻ vô dụng, huống hồ đây là chuyện của huynh đệ”.

Sắc mặt của hắn quả nhiên rất tốt, thần khí cũng dần khôi phục lại được như xưa. Dương Hạo thấy vui vẻ, gật gật đầu, mắt nhìn vào Đinh Thừa Tông, rồi quay người nói với Lâm Bằng Vũ: “Lâm lão, việc binh sĩ do ông phụ trách. Ngoài đoàn binh thường bị này thì mỗi bộ lạc, những đứa trẻ tuổi từ bảy đến mười bốn cũng đều phải tiến hành luyện quân định kỳ, đây là việc rất quan trọng, hộ tịch vẫn chưa xây dựng xong, hai việc này đồng thời phải tiến hành song song.”

Lâm Bằng Vũ đang xử lý một đống tài liệu lớn nghe thấy vậy liền ngẩng đầu lên đồng ý: “Tiểu Vũ, Đông Nhi bao giờ tới?” Mục Vũ hỏi. “Tỷ tỷ của ta đang tới, chắc khoảng ngày kia sẽ tới Ngân Châu”. “Vậy thì tốt!”

Dương Hạo nói: “Phạm tiên sinh, vũ khí trong kho của phủ và số lượng lương thực cần làm rõ ràng. Còn nữa, số binh sĩ thương vong cần phải được chăm sóc tốt, định cư ngay trong thành Ngân Châu, sau cuộc đại chiến, trong thành rất nhiều quả phụ, có thể tìm người tác hợp cho họ, khiến nam nữ đều có chỗ dựa, đã không thể dùng việc kinh doanh mưu sinh thì phải đảm bảo cho họ, việc này có liên quan đến tinh thần của quân Lô Châu chúng ta, chớ có sơ xuất”.

Doanh Điền phụ trách việc ở Tần Giang, Lô Vũ Hiên, thấy mấy vị quan đang vây quanh án nghe dặn dò, cũng nhanh chóng vâng một tiếng: “Thái úy xin cứ yên tâm, việc này thần đã sắp xếp rồi, sau này sẽ đích thân quan tâm”.

Lúc đó, Diệp đại thiếu hớt hải xông vào nói: “Thái úy, mật tín Đông Kinh”.

Mọi người trong sảnh đang bận rộn đều phải ngẩng đầu lên ngó Dương Hạo, Dương Hạo vội vàng mở ống trúc, lấy thư ra, phát hiện bức thư này dùng mật mã của quân khác viết, Dương Hạo vội bảo Mục Vũ lôi ra, tự mình nằm sấp trên án dịch, xem hồi lâu mới từ từ đứng lên, trên mặt lộ vẻ nửa cười nửa không.

Trong sảnh im ắng, tất cả mọi người đều đang dõi theo hắn, Dương Hạo cười ha hả nói: “Nhìn cái gì, có rất nhiều việc đang đợi đi làm kìa, phải dốc sức làm cho thật tốt”. Nói rồi đem lá thư ra đốt sạch sẽ.

Lúc này đây bảy tám cỗ xe đang hướng về phía thành Ngân Châu, nhìn thành Ngân Châu dựng đứng từ đằng xa, Thúc Đại Lang đang ngồi trên xe.

Trên tay hắn là một tấm lụa tơ tằm mỏng manh, nhìn hồi lau, Thúc Đại Lang mới đốt trụi tấm lụa đó, lẩm bẩm nói: “Cái tên Dương Hạo này, quả là có bản lĩnh làm như vậy sao? Bọn chúng… quả nhiên là đã thoát khỏi Biện Kinh…”

Thúc Đại Lang kinh ngạc trước tài dự đoán của Dương Hạo về những chuyện thế này, có điều sự chú ý chủ yếu nằm ở việc hắn có thể tận dụng được bao nhiêu điểm tốt ở mỗi người. Thúc Đại Lang khẽ thở dài, trầm ngâm hồi lâu, hắn mới lắc đầu nói: “Có điều… Dương Hạo cẩn thận đến mấy cũng có sai sót, hoặc là… hắn còn chưa đủ tàn nhẫn. Muốn hiệu triệu cố quân của nước Đường, người đó chắc gì đã còn sống; muốn dùng cố binh của nước Đường thì người đó càng không thể sống, còn có con trai hắn. Tên ác nhân này, hãy để ta xử lý”.

Mắt hắn lộ ra đầy sát khí, hắn nhấc bút lên, lấy một tấm lụa, viết lên đó một bức thư mà ai cũng không đọc hiểu, sau đó nhét vào ống trúc, buộc vào con chim ưng. Chim ưng tung cánh bay đi, hướng về phía thành Ngân Châu… rồi đến phủ của Khánh Vương, nay đã thuộc phủ của Dương Hạo.

Dương Hạo rời khỏi phủ, đích thân dẫn binh đi tuần quanh Ngân Châu một lượt rồi tiến hành gia cố thành, tốc độ khẩn trương, không khỏi gật đầu ưng ý. Hắn nhìn ra bốn phía rồi nói với Lý Nhất Đức: “Lý đại nhân, hai ngày nay đã bận rộn quá rồi, không kịp đi gặp người kia, không biết tình hình hiện tại thế nào rồi?”

Lý Nhất Đức hiểu cái người mà Dương Hạo nhắc đến là ai, hắn cười nói: “Bẩm thái úy, hạ quan lập tức đưa cha con hắn chuyển vào ở sâu trong thâm trạch của Lý gia, ngoài việc sắp xếp người trông coi, hạn chế hành động của bọn chúng, cơm ăn vẫn không hề bạc đãi bọn chúng thái úy cứ yên tâm”.

Dương Hạo vui vẻ nói: “Rất tốt, Chiết cô nương đã mơ hồ nghe nói người trợ giúp cho Khánh Vương là một người Hán, cũng đã từng hỏi ta. Dù Lưu Kế Nghiệp là người Hán, không qua lại với Lân Châu, nhưng họ rốt cuộc cũng là người một nhà, phu nhân hắn lại là chị em song sinh của người ở Phủ Châu, nếu như Chiết cô nương biết có một vài việc ta không tiện đi làm”. Lý Nhất Đức cười nói: “Thái úy muốn thu phục người này sao?” “Không sai”.

Lý Nhất Đức bùi ngùi thở dài nói: “Hắn vốn là người họ Dương ở Lân Châu, nhưng bảo hộ cho tên họ Lưu người Hán, không qua lại với nhà thần. Người thế này xin người cứ yên tâm, hơn nữa, dù nói hắn không vãng lai với nhà Dương ở Lân Châu thì hai nhà Chiết – Dương cũng đã đủ mật thiết, nếu như hắn không thuận theo thái úy thì xử lý thế nào cũng là việc khá đau đầu đấy”.

Dương Hạo đã có tính toán trong lòng, đối với Dương Kế Nghiệp, hắn muốn thu nạp. Nhưng hắn cũng biết muốn người này quy tâm thì không phải cứ lấy của cải ra là giải quyết được, Dương Kế Nghiệp là giống tên Quan Vân Trường kia, Tào A Man đối với hắn không thể nói là không tốt, cuối cùng giết đại ca bên cạnh.

Dương Kế Nghiệp không phải là kẻ tâm địa đen tối, còn nhớ việc ghi chép về hắn, người này do nhìn thấy xu thế của nhà Tống ngày càng lớn, mới khuyên vua nên bỏ chạy đầu hàng, để bảo toàn tính mạng, nhưng vua Lưu Kế Nguyên không đồng ý, hắn đành chết để bảo vệ thành. Mãi đến khi thành bị phá, Lưu Kế Nguyên mới bị quân Tống bắt, hắn mới chịu buông vũ khí, khóc ầm ĩ, từ đó mới hàng nhà Tống.

Đương nhiên, việc đó chỉ là do sử sách ghi chép lại, Dương Hạo cách thời đó đã khá xa, dã biết rất nhiều thứ trong dân gian, cũng biết tự hào về những gì triều đại này có, những triều khác không, có rất nhiều lời nói thực ra không đúng, nhưng sử sách ghi chép lại hoàn toàn không chuẩn, hắn cũng quen rồi Chính vì như thế mà hắn cũng chỉ biết ôm hy vọng.

Nếu như Dương Kế Nghiệp thực sự là trung nghĩa vô song, đến chết vẫn không hàng thì hắn cũng không thể giết người này. Một khi giết hắn, có nghĩa là tự mình đặt một quả bom cho mối quan hệ hai nhà Dương – Chiết, thiệt lớn hơn hại, huống hồ đã biết đường đi rồi thì sau này không cần phải thu nạp người này, cứ cho người này cuối cùng vẫn là quy Tống, quyết định vận mệnh Tây Bắc có dựa vào thực lực của Dương Hạo hay không, hắn có lợi dụng mâu thuẫn giữa Khiết Đan và Tống hay không, nước Tống cũng có rất nhiều tướng giỏi như Dương Kế Nghiệp, cũng không sợ một đối thủ như hắn. Lý Kế Thiên ở Trung Nguyên đã thành công trong việc xây dựng thế lực cho mình ở Tây Hạ, bản thân mình còn không bằng một tên mọi?

Nghe xong lời Lý Nhất Đức, hắn chỉ mỉm cười, nói: “Chỉ cần thử mới biết được, đi thôi, chúng ta đi gặp hắn”.

Hai người xuống thành, phi lên ngựa, chạy về hướng nhà cũ của Lý gia, đột nhiên có một người thúc ngựa phi nhanh tới, đến gần họ liền xuống ngựa, thi lễ nói: “Thái úy, Thúc Đại Lang đã đến phủ, đem theo một người mũi cao mắt sâu, mặc một bộ quần áo màu trắng, đang muốn yết kiến thái úy”.

Dương Hạo đến nay đi đâu cũng cần dùng đến tiền, muốn mượn một ít của Kế Tự đường, vừa nghe thấy tin Thúc Đại Lang đến, không nén nổi mừng rỡ, còn người khách đi cùng là ai thì hắn tuyệt nhiên không quan tâm. Dương Hạo cười, nói với Lý Nhất Đức: “Haha, khách tới rồi, việc trước mắt không vội, chúng ta đi gặp vị khách đó trước đã”.

 Chương 437: Khách từ phương xa

Dương Hạo cùng Lý Nhất Đức trở lại soái phủ. Vừa xoay người xuống ngựa thì thấy trong đình viện đã có mấy chiếc xe đứng đó. Căn đình viện vốn khá rộng rãi, nhưng lúc này vì chứa mấy chiếc xe kia mà bắt đầu trở nên hơi chật chội. Đám hộ vệ đi theo đều đứng ở ngoài phủ, nhưng vẫn có rất nhiều hắc nô cao lớn to béo đứng xung quanh mấy chiếc xe ngựa. Nhìn bộ dáng hẳn đều là yêm nô ( người hầu bị hoạn), dưới cằm nhẵn thín không râu, mặc trang phục dị tộc, thái độ rất dè dặt, lúc nào cũng cúi đầu khom người.

"Những hắc nô này có lẽ là tôi tớ của đám khách dị tộc mắt xanh mũi lõ da trắng rồi. Thôi Đại Lang là hậu duệ Trung Nguyên thế gia, trong phủ có vài tên hắc nô, Côn Lôn nô cũng chẳng phải lạ, nhưng mà tuyệt đối không thế dùng tất cả người dị tộc làm tôi tớ được". Dương Hạo cầm roi ngựa cùng Lý Nhất Đức bước nhanh vào trong đình viện, vừa đi vừa quan sát mấy chiếc xe ngựa bên cạnh. Đúng lúc đó, màn che một chiếc xe đột nhiên vén lên, thấp thoáng có mấy nữ tử đang ngồi bên trong, xiêm y trắng như tuyết, bộ ngực căng đầy, eo thon hương kiêu đập thẳng vào mắt, trên mặt lại dùng khăn lụa che, chỉ để lộ ra một đôi mắt to tròn quyến rũ, cũng đang lơ đãng nhìn ra phía ngoài. Dương Hạo ngẩn người, vội vàng quay đầu đi, nữ quyến nhà người ta thì không nên nhìn nhiều ( Haiz, hắn cũng biết tam đại cấm kị "con thầy, vợ bạn, gái cơ quan" cơ đấy)

Cất bước đi vào đại sảnh, Thôi Đại Lang đang ôm tay quan sát bốn phía xung quanh, vừa thấy hắn liền vội bước tới, ôm quyền thi lễ nói: "Đại Lang tham kiến Dương thái úy. Hôm nay Đại Lang mạo muội làm phiền, mong thái úy đứng trách”.

Thôi Đại Lang lén lút hợp tác với Dương Hạo, luận thế lực nắm giữ thực tế không hề dưới Dương Hạo, bất quá ở mặt ngoài hắn vẫn phải cung kính, không thể lộ ra bất cứ vẻ vô lễ nào.

Dương Hạo mới chiếm được Ngân châu, đang thực hiện chính sách khai hoang nạp dân, chiêu binh mãi mã, cần kíp một lượng lớn tiền bạc và công cụ sản xuất. Đang định kiếm vị Thôi Đại Lang thần thông quảng đại này mượn tiền thì đã thấy hắn tới. Dương Hạo vội vàng bước tới, nâng Thôi Đại Lang dậy, cười nói: "Đại Lang không cần khách khí như vậy. Ta và ngươi quen biết thân tín, từ trước đến giờ vãn là hảo hữu tri giao, còn phải quy củ rối rắm như vậy làm gì. Vị này là?"

Hắn vừa nói, ánh mắt đã liếc về phía vị thương nhân đang mỉm cười đứng bên cạnh. Người nọ đầu quấn khăn trắng, ở giữa khảm một viên ngọc xanh biếc, mặc một bộ đồ trắng, hai tay đút vào tay áo, râu quai nón mọc đầy mặt, đang mỉm cười nhìn Dương Hạo.

Dương Hạo vừa hỏi, Thôi Đại Lang vội nói: "À, vị này là hảo hữu Đại Thực quốc của ta, đến phương Đông kiếm chút lợi nhuận. Nghe đại danh thái úy liền muốn tới gặp mặt một lần. Thái úy hiện giờ có ảnh hưởng rất lớn ở Tây Vực. Mong rằng sau này sẽ quan tâm tới hắn nhiều hơn một chút”.

Người Đại Thực quốc mắt xanh mũi lõ kia đan tay trước ngực, cười ồm ồm nói: " ...(tên quá dài, để lại ba chữ cuối xưng hô thôi )...Tháp Lợi Bặc bái kiến thái úy đại nhân. Ta ở Tây Vực đã từng được nghe tới đại danh của thái úy đại nhân. Lại biết Thôi Đại Lang huynh đệ và đại nhân là chỗ quen biết, cho nên mới bảo hắn dẫn ta tới bái kiến đại nhân”.

Dương Hạo nghe hắn xổ ra cái tên dài như tám ngàn chín trăm chữ mà hoa mày chóng mặt, chỉ nhớ được ba chữ đầu là Cáp Hi Mỗ, còn lại quên mất sạch. Vị thương nhân Đại Thực kia dường như đã biết, đối với người phương Đông mà nói, nhớ được tên của mình là chuyện quá khó, cho nên hắn liền nói tiếp: "Thái úy đại nhân gọi ta là Tháp Lợi Bặc là được”.

Dương Hạo thở phào một hơi, vội nói: "Tháp Lợi Bặc tiên sinh là bằng hữu từ xa tới, lại là người quen biết của Đại Lang, nếu đã đặt chơi tới Ngân châu thì chính là khách quý của ta rồi. Mời ngồi, mời ngồi.

Dương Hạo ngồi ở ghế chủ vị, Thôi Đại Lang cùng Tháp Lợi Bặc ngồi bên tay trái còn Lý Nhất Đức ngồi ở ghế đầu bên phải. Quan sát đối phương từ trên xuống dưới một lượt, Dương Hạo phát hiện tuy Tháp Lợi Bặc này lặn lội đường xa mà tới, nhưng người lại cực kỳ sạch sẽ. Trên người không có một hạt bụi, hắn ngồi trên ghế mỉm cười, thái độ ung dung, vẻ mặt phóng khoáng, tuyệt đối không có một tí gì gọi là mùi tiền bạc. Nhân vật như vậy, nếu như đi buôn bán thì cũng phải là buôn to bán lớn, tiểu thương nhân tuyệt không thể có loại khí độ này.

Thị tỳ quý phủ dâng trà lên, Dương Hạo mời trà, vừa nhấc trà lên, nhẹ nhàng gạt lá trà vừa khẽ mỉm cười nói: "Theo ta được biết, triều đình sau khi diệt Nam Hán quốc đã hạ lệnh cấm, không cho phép thương nhân Đại Thực quốc đi đường bộ từ Tây Vực tới, mà bắt các ngươi thông thương bằng đường biển. Hơn nữa những năm gần đây, Tây Vực cũng không yên tĩnh, kinh thương đi lại quả thực cũng nguy hiểm. Tháp Lợi Bặc tiên sinh vì sao lại không ngại cực khổ, lặn lội đường xa từ Tây Vực tới đây chứ?"

Tháp Lợi Bặc khom người xuống, nói: "Thái úy đại nhân minh giám, triều đình Tống quốc yêu cầu chúng ta tới bằng đường biển cũng là vì lo lắng cho thương nhân Đại Thực chúng ta. Đây là có lòng tốt, chúng ta vốn nên vâng theo, chỉ là trên biển đường xá xa xôi, hao tổn dọc đường lớn hơn đường bộ rất nhiều. Hơn nữa còn có sóng gió, mưa bão, hải tặc, đều là kẻ thù của chúng ta. Nếu đem ra so sánh, đi bằng đường bộ tuy có chút phiêu lưu nhưng lại hao tổn ít hơn đường biển. Cho nên chúng ta vẫn mong muốn thông thương với Trung Nguyên bằng đường bộ. Nghe Đại Lang nói, thái úy đại nhân coi trọng công thương, Tháp Lợi Bặc rất hy vọng sau này thương đội của chúng ta có thể được thái úy đại nhân chiếu cố nhiều hơn”.

Tháp Lợi Bặc cứ nói, Dương Hạo cứ nghe. Kỳ thật hai người cũng biết lý do chân chính đương nhiên không phải đơn giản như vậy. Tống quốc cấm người Đại Thực đến thông thương theo đường bộ là vì bọn họ tới từ Tây Vực. Tống quốc thông thương với Tây Vực cũng có nghĩa là thông thương với Khiết Đan. Mà Tống quốc lại đang tiến hành bao vây kinh tế Khiết Đan, muối và sắt đều là hai thứ hàng hóa quan trọng cần cấm vận. Nếu như cứ thông thương bằng đường bộ với Tây Vực thì ý đồ làm suy yếu kinh tế Khiết Đan của Tống quốc sẽ hoàn toàn thất bại.

Còn đối với Tây Vực mà nói, thủ lĩnh, tộc trưởng của bọn họ cũng không thể không biết tầm quan trọng của thương nghiệp, căn bản vẫn giữ thái độ hoan nghênh các thương nhân từ Đại Thực tới, nhưng do giữa các bộ tộc thường xuyên xảy ra chiến loạn, quân đội các bộ tộc vừa nổi lên lại chẳng khác nào thổ phủ, đốt giết đánh cướp không gì không làm. Loạn binh chỉ cầu lợi nhỏ trước mắt, làm sao lại có thể bỏ qua cho mấy tay thương nhân Đại Thực giàu có này được. Vì thế Triệu Khuông Dận vừa diệt xong Nam Hán quốc, có được cửa ra biển liền lập tức lấy cớ bảo vệ an toàn cho thương nhân dị quốc, hạ chỉ sau này thương nhân Đại Thực chỉ có thể thông thương với Trung Nguyên qua đường biển.

Dương Hạo cũng không sổ toẹt ra, cười ha ha nói: "Xấu hổ rồi, các bộ tộc tở Tây Bắc chúng ta quá đông, tuy nói là lệ thuộc nhưng bản thái uý cũng không ước thúc được họ”.

Tháp Lợi Bặc mỉm cười nói: "Tháp Lợi Bặc chỉ là một thương nhân, chỉ là hàng năm có lui tới mấy nước như Ba Tư, Thiên Tiệm, Đại Tần, Cao Xương, Khâu Từ, Vu Quýnh. Quân chủ, thống soái, quan chấp chính lớn nhỏ cũng được gặp rất nhiều, cặ mắt nhìn người này của ta vẫn chuẩn lắm. Thái úy hiện giờ đã chiếm được dân tâm của các bộ tộc, theo các nói của người Trung Nguyên chính là đã chiếm được thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Hiện tại có lẽ thái úy còn chưa thể kiềm chế được chư bộ (các bộ tộc) Tây Bắc, nhưng nếu tương lai có người có thể trở thành người thống trị toàn bộ Tây Vực, thì ngoài thái úy ra còn có ai chứ”.

Sắc mặt Dương Hạo hơi biến đổi, khẽ cười nói: "Tháp Lợi Bặc tiên sinh chắc chắn không hiểu tình hình Trung Thổ chúng ra rồi. Bản quan là Tiết độ sứ do triều đình khâm phái tới Tây Bắc, theo ý chỉ triều đình mà làm việc. Nếu tương lại thật có thể nhất thống Tây Vực, đó cũng là hoàng đế bệ hạ triều ta trở thành người thống trị Tây Vực. Còn Dương mỗ sao? Ta chỉ là thần tử trông coi một phương cho thiên tử thôi. Ha ha, người không biết không có tội, người không biết không có tội. Không biết Tháp Lợi Bặc tiên sinh lặn lội từ Tây Vực tới đây là muốn buôn bán thứ gì? Bao lâu thì tới một lần? Một lần có thể mang theo bao nhiêu hàng hóa? Muốn bản quan giúp những thứ gì?

Tháp Lợi Bặc hơi khựng lại, ánh mắt theo bản năng liếc về phía Lý Nhất Đức. Lý Nhất Đức lập tức hiểu ý, mỉm cười đứng dậy, nói: "Thái úy, hạ quan chợt nhớ ra có một số việc phải làm, xin phép được lui ra trước”.

Dương Hạo khẽ gật gật đầu, chờ đến khi Lý Nhất Đức ra khỏi đại sảnh rồi, Thôi Đại Lang mới nói: "Thái úy, lương mã Đại Thực và khôi giáp đều là nhờ Tháp Lợi Bặc tiên sinh đây mua giúp ta, sau đó ta mới đem tới cho thái úy. Tháp Lợi Bặc chỉ là một vị thương nhân, bôn ba khắp nơi cũng chỉ vì kiếm chút tiền bạc thôi. Mong thái úy có thể mở chiếu cố cho hắn”.

Dương Hạo kinh ngạc nói: "Thì ra trọng kỵ binh (kỵ binh hạng nặng) của bản quan đều là do Tháp Lợi Bặc tiên sinh lo liệu giúp đỡ. Đa tạ, đa tạ, Tháp Lợi Bặc tiên sinh lấy kinh doanh quân giới làm chủ sao?"

Tháp Lợi Bặc vội xua tay nói: "Không không không. Chỗ chiến mã và khôi giáp kia là ta dùng một số tiền lớn, đút lót một vị quan chấp chính của Đại Tần đế quốc mà mua được. Ta chủ yếu là kinh doanh ngọc, châu, sừng tê giác, hổ phách, mã não.... rồi lại mua tơ lụa, gốm sứ, lá trà của Trung Nguyên..v..v... đem về Đại Thực. Thương đội của ta vốn là một năm tới một lần, chỉ là con đường này cũng không được yên bình, vì an toàn, hiện giờ ta chỉ có thể tập hợp nhiều thương đội hết sức có thể, thuê một lượng lớn lính đánh thuê, cứ ba năm lại tới một lần. Hơn nữa bất kể là buôn bán với Tống quốc hay là buôn bán với Khiết Đan đều phải thật cẩn thận, che che giấu giấu. Nếu thái úy đại nhân có thể nới lỏng một chút, như vậy cũng đã là giúp Tháp Lợi Bặc rất nhiều rồi”.

Đại Tần đế quốc mà hắn nói tới chính là đế quốc La Mã. Thời đó Trung Thổ gọi họ là Đại Tần. Dương Hạo thấy hắn là người giúp mình xoay sở quân giới, thì cho dù Thôi Đại Lang không nói cho hắn biết toàn bộ thì hắn cũng phải hiểu biết kha khá về lai lịch của mình, có một số việc không cần giấu giấu giếm giếm trước mặt hắn, cho nên Dương Hạo cũng chẳng cần biểu lộ trung thành với triều đình làm gì, mà bắt đầu cẩn thận cân nhắc.

Thủ công nghiệp Đại Thực đế quốc phát triển, mậu dịch quốc tế thịnh vượng, mà Tây Bắc lại trái ngược Trung Nguyên, tình cảnh đã bần cùng từ lâu. Cộng thêm nhiều năm chiến tranh, dân chúng đã nghèo lại càng nghèo. Nếu như có thể buôn bán với thương nhân Đại Thực, đối với Tây Bắc mà nói rõ ràng có ý nghĩa cực kỳ trọng đại, cho nên Dương Hạo chỉ hơi suy nghĩ một chút liền gật đầu, nói: "Nếu Tháp Lợi Bặc tiên sinh muốn ta phụ trách an toàn cho quý thương đoàn trên toàn bộ Tây Bắc thì thực không dám giấu giếm, bản quan hiện giờ thực sự là có lòng mà không có lực. Bất quá nới lỏng việc buôn bán với thương nhân Tống quốc, Khiết Đan thì có thể. Tháp Lợi Bặc tiên sinh có thể mở cửa hàng trong thành Ngân Châu ta, coi đây là bàn đạp, buôn bán với thương nhân Tống quốc và Khiết Đan. Có thể chiếu cố chỗ nào, bản quan nhất định không cự tuyệt”.

Tháp Lợi Bặc mừng rỡ, vội vàng đứng dậy, đặt tay lên ngực thi lễ nói: "Ngài là một người thống trị anh minh. Không chỉ Tháp Lợi Bặc mà tất cả thương nhân Tây Vực đều cảm kích sự khảng khái của ngài.

Hôm nay Tháp Lợi Bặc còn mang đến chút lễ vật cho thái úy đại nhân, xin ngài đừng từ chối”.

Hắn vỗ tay ba cái, từ bên ngoài phòng bỗng nhiên có bốn mỹ nữ tóc vàng xinh đẹp như hoa , đẹp như mộng bước vào. Người nào người nấy đều sở hữu đôi chân nuột nà, dài tới nách, trên người chỉ mặc một bộ đồ bằng voan mỏng, chiếc eo nhỏ như ẩn như hiện, mang theo một loại hấp dẫn khó mà kể ra được, khiến cho tâm tinh ai cũng lay phải động. Dương Hạo nhìn mà không khỏi có chút ngạc nhiên. Lúc này phía sau lại tiếp tục có bảy tám yêm nô cao lớn, khỏe mạnh xách bốn chiếc rương đi vào. Đặt vào giữa đại sảnh rồi mở nắp rương ra, lập tức châu quang bảo khí, hào quang chói mắt tỏa ra khiến cho cả căn phòng trở nên sáng bừng.

Dương Hạo kinh ngạc hói: "Tháp Lợi Bặc tiên sinh, đây là....”.

Tháp Lợi Bặc cười nói: "Bốn vị vũ nương Ba Tư cà bốn rương châu báu này là lễ vệ của Tháp Lợi Bặc, xin thái úy đại nhân nhận cho. Bốn vị vũ nương này hiểu được tiếng Hán, hầu hạ đại nhân hẳn không phải là vấn đề”.

Thôi Đại Lang cũng hùa theo: "Đúng đấy. Đây là một chút thành ý của Tháp Lợi Bặc huynh đệ, thái úy đại nhân không nên từ chối”. Nói xong còn nháy nháy mắt với Dương Hạo.

Dương Hạo biết, đây chính là thù lao vì việc mình nới lỏng cho Tháp Lợi Bặc. Thù lao đương nhiên không thể chỉ có một chút như vậy, bất quá nếu coi như lễ gặp mặt thì cũng rất nặng rồi. Hắn hiện giờ xài tiền như nước, nếu đem bán sạch bốn rương châu báu này đi, nhất là đem tới Biện Lương, thông qua Thiên Kim Nhất Tiếu lâu phù phép, bán ra một cái giá lớn cũng không phải là không thể.

Về phần bốn tiểu mỹ nhân tóc vàng này, da trắng như tuyết, tóc vàng óng, đôi mắt màu xanh dương quyến rũ, thân cao thước bảy thước tám, dáng người lồi lõm động lòng người. Dương Hạo thật đúng là chưa từng nếm thử mấy tiểu mỹ nhân Tây Dương mắt xanh tóc vàng như thế này bao giờ, bất kể là kiếp trước hay là kiếp này, nếu như được..... thì....

"Khụ khụ, nơi ôn nhu chính là mộ anh hùng, hiện giờ đang có không biết bao nhiêu người nhìn chằm chằm nhất cử nhất động của ta, ta không thể để người khác nghĩ ta là kẻ háo sắc được.”.

Mặc dù trong đầu nghĩ là như vậy, nhưng hắn cũng biết, chỗ lễ vật này bất thể thế nào cũng phải nhận. Về phần xử lý thế nào thì đó là chuyện sau này, trước mắt cứ nhận lấy chỗ hậu lễ này thì vị thương gia Đại Thực giàu có kia mới có thể yên tâm được. Nghĩ đến đây, hắn lập tức làm ra vẻ rất là hài lòng,chậm rãi nói: "Ồ, Tháp Lợi Bặc tiên sinh thật quá khách khí rồi. Lần trước người giúp bản quan trang bị trọng kỵ binh, bản quan còn chưa kịp cảm tạ. Hiện giờ lại để người tốn kém như vậy. Ha ha, thật ngại quá”.

Tháp Lợi Bặc cười híp mắt nói: "Chỉ cần đại nhân thích là được rồi!" Hắn khẽ hất hàm một cái, tám tên yêm nô kia lập tức đóng nắp hòm lại, khiêng đến góc phòng, sau đó lần lượt lui ra ngoài. Tháp Lợi Bặc lại nói: "Nỗ Mỹ Lợi, A Lệ Á, A Lệ Á, Tô Tạp Á, vị này chính là Dương đại nhân, chủ nhân của các ngươi từ giờ trở đi, các ngươi phải hầu hạ đại nhân cho tốt, nghe rõ chưa?"

Thôi Đại Lang đứng bên cạnh cười nói: "Tên nam nhân bọn họ thường dùng chỉ có hai mươi mấy cái, tên nữ nhân lại càng ít, cho nên thỉnh thoảngtrùng lẫn, rối tinh rối mù. Bất quá thế cũng không sao, nữ nhân thôi mà. Ở với bọn họ cứ gọi một tiếng bảo bối là tốt nhất, quản làm gì tên của các nàng. Ha ha, đại nhân sau này cứ gọi ....”.

"Khụ!"

Thôi Đại Lang còn chưa kịp nói xong thì một tiếng ho khan đột nhiên từ ngoài cửa truyền đến. Chiết Tử Du mặc trang phục nam nhân, tay cầm roi ngựa đi vào đại sảnh, bên cạnh còn có Chiết Duy Chính và hai huynh đệ Mộc Ân, Mộc Khôi đi cùng. Hai người Mộc Ân, Mộc Khôi đảo mắt quanh đại sảnh một lượt liền phát giác tình hình có vẻ không ổn, vội vàng nháy nháy ra hiệu với Dương Hạo.

Hôm nay Dương Hạo vốn muốn đi gặp Dương Kế Nghiệp, nhưng Chiết Tử Du vẫn ở trong thành chưa đi, hơn nữa còn ở lại phủ của Lý Nhất Đức. Hiện giờ chỗ dừng chân có điều kiện tốt nhất trong thành cũng chỉ có Lý gia thôi. Dương Hạo sợ nàng chú ý tới hành tung của mình, nên cho Mộc Ân, Mộc Khôi lấy cớ dẫn nàng đi thăm thú kiến trúc trong Ủng thành.

Tuy Mộc Ân và Mộc Khôi đã cố gắng kéo dài thời gian nhưng mà cuối cùng cũng phải kết thúc. Chiết Tử Du muốn đến soái phủ, bọn họ không ngăn cản được, hơn nữa bọn họ cũng nghĩ, nếu thái úy vẫn còn ở phủ Lý Nhất Đức thì Chiết cô nương sẽ không gặp được hắn, nếu như hắn đã trở về soái phủ thì có nghĩa là hắn đã gặp Dương Kế Nghiệp, chẳng đi đâu mà sợ. Ai mà biết, vừa tới nơi thì lại thấy một tên mắt xanh mũi lõ đang hiến mỹ nhân cho thái úy.

Tình ý của Chiết Tử Du đối với Dương Hạo, cho dù là bọn họ là hai tên đầu đất cũng phải cảm giác được. Mắt thấy hũ dấm chua đang nghiêng ngà sắp đổ, hai người thầm kêu khổ trong lòng không ngớt.

Dương Hạo thấy Chiết Tử Du nhưng mặt vẫn không đổi sắc mà mặt mày hớn hở cười nói với Tháp Bặc Lợi: "Đa tạ ý tốt của Tháp Lợi Bặc tiên sinh, chỗ hậu lễ này, Dương mỗ xin nhận”.

Tháp Lợi Bặc vô cùng vui vẻ, liên tục gật đầu. Dương Hạo lại ung dung quay lại nói với hai người Mộc Ân, Mộc Khôi: "Mộc Ân, Mộc Khôi, các ngươi lại đây”.

Hai người đưa mắt nhìn nhau, bỏ lại Chiết Tử Du đi tới trước mặt Dương Hạo, ôm quyền nói: "Thái úy”.

Dương Hạo quay sang Tháp Lợi Bặc cười nói: "Tháp Lợi Bặc tiên sinh, hai vị này là Mộc Ân tướng quân, Mộc Khôi tướng quân, bọn họ dũng mãnh thiện chiến, chính là phụ tá đắc lực của bản quan. Mộc Ân Mộc Khôi, vị này chính là hảo hữu của Thôi Đại Lang, thương nhân Đại Thực quốc- Tháp Lợi Bặc tiên sinh. Sau này, vì chuyện buôn bán nên Tháp Lợi Bặc tiên sinh sẽ phải thường xuyên tới Ngân Châu thành. Các ngươi trước cứ làm quen trước, đến lúc cần trợ giúp, các ngươi phải chiếu cố nhiều hơn cho Tháp Lợi Bặc tiên sinh”.

Mộc Ân Mộc Khôi nghe xong liền quay về phía Tháp Lợi Bặc ôm quyền nói: "Tháp Lợi Bặc tiên sinh”.

Tháp Lợi Bặc vội vàng ôm quyền hoàn lễ: "Không dám nhận, không dám nhận”.

Dương Hạo lại nói: "Tháp Lợi Bặc tiên sinh tặng bản quan bốn vị vũ nương. Bản quan công vụ bề bộn, quý phủ làm sao nuôi được nhiều người nhàn rỗi. Hai người đi theo bản quan đã lâu, rừng thương gió tên cũng trải qua không biết bao nhiêu lần. Bên người hiện giờ vẫn chưa có người chăm sóc. Như vậy đi, Nỗ Mỹ Lợi, Tô Lạp Á, hai người các ngươi sau này sẽ theo hầu hạ Mộc Khôi tướng quân. Còn hai vị cô nương A Lệ Á theo vị Mộc Ân tướng quân này đi thôi”.

"Hả?" Mộc Ân, Mộc Khôi nhất thời choáng váng.

Tháp Lợi Bặc nhìn DƯơng Hạo an bài như vậy không khỏi thầm bội phục: " Bốn vị vũ nương này tuy không phải tư sắc tuyệt hảo, nhưng cũng không thua mỹ nữ nhất đẳng là mấy. Đủ để khiến cho đàn ông phải mê muội, nghiêng ngả rồi. Vậy mà hắn lại lập tức ban thưởng hết cho thuộc hạ tướng lãnh, không thèm chớp mắt đến một cái. Thôi Đại Lang quả không nói sai, lòng dạ khí độ người này đúng là không tầm thường. Còn về phần hắn có đủ tài năng và thực lực trở thành kẻ thống nhất Tây Vực hay không thì ta phải ở lại Ngân Châu thành, quan sát một thời gian ngắn, xác định người này có thực lực trở thành mình hữu của chúng ta thì tiến thêm một bước nữa cũng

không muộn”.

Thôi Đại Lang cùng Tháp Lợi Bặc thương nghị xong xuôi liền trở về tìm chỗ nghỉ ngơi, Chiết Tử Du cũng hài lòng rời đi. Về phần hai người Mộc Ân Mộc Khôi ù ù cạc cạc lại được hai nàng Hồ cơ làm thị thiếp, cũng ngơ ngơ ngác ngác rời khỏi soái phủ. Dương Hạo lúc này mói như trút được gánh nặng, vuốt vuốt ngực, thầm hô may mắn: "May mà ta còn kiềm chế được. Nếu lúc đó mà mê gái lú lẫn đầu óc, vui vẻ vội vàng thu bốn nàng Hồ cơ kia vào phủ thì chỉ sợ Tử Du đã nổi giận bỏ đi, không bao giờ quay trở lại nữa".

Đang nghĩ ngợi thì Lý Nhất Đức đã đi dạo xong, quay trở lại đại sảnh. Dương Hạo vội vàng kéo hắn ngồi xuống, kể lại một lượt chuyện vừa rồi với hắn. Dương Hạo phải lấy Ngân Châu làm căn cơ, rất cần được Lý Nhất Đức ra sức trợ giúp, chuyện này cũng không tính là quá mức bí mật, bây giờ cứ nói cho hắn biết, tỏ vẻ mình đã coi hắn là người tâm phúc.

Lý Nhất Đức thấy Dương Hạo đối xử chân thành với mình vậy, quả nhiên lập tức tỏ ra vui vẻ. Nghe Dương Hạo cẩn thẩn kể lại mọi chuyện một lần, hắn trầm ngâm nói: "Thái úy, theo suy nghĩ của hạ quan, Tháp Lợi Bặc này chỉ sợ không chỉ đơn giản là một thương nhân như vậy".

Ánh mắt Dương Hạo trở nên ngưng trọng: "Lý đại nhân nói như vậy là sao?"

Lý Nhất Đức nói: "Thái úy, hạ quan sống ở Tây Vực, cũng biết chút ít về Đại Thực đế quốc. Đại Thực đế quốc năm đó đánh bại Ba Tư, phá Phất Sâm, phía nam đánh chiếm Ba Là Môn, đô hộ các nước, hùng binh bốn mươi vạn, với vũ lực của Đại Thực đế quốc lúc đó nên mới độc bá con đường thông thương tới Tây Vực. Chỉ là hiện giờ nó đã suy yếu rồi. Gần đây, Đại Thực chinh chiến với Đại Tần đế quốc, nhiều lầm bại trại, thực lực đã không còn mạnh mẽ như lúc trước. Thương nhân bình thường tuyệt không có lực lượng tổ chức thương đoàn khổng lồ, thuê đại đội lính đánh thuê buôn hàng về hướng Đông, trừ phi hắn cực kỳ có thân phận ở Đại Thực đế quốc.

Ở Đại Thực đế quốc, có thể trở thành Đại Cáp Lý Phát ( Đại Ha-Li-Pha= vua đạo Hồi, lãnh tụ hợp nhất chính giáo của các ngước theo Đạo Hồi) đồng thời là hoàng đế Đại Thực quốc, luôn luôn là hậu duệ của gia tộc Ngũ Mạch Diệp và gia tộc Cáp Hi Mỗ. Giống như hoàng đế Khiết Đan chỉ có thể sinh ra từ bộ tộc Da Luật, hoàng hậu chỉ có thể sinh ra từ bộ tộc Tiêu thị. Trong tên tay thương nhân này có ba chữ Cáp Hi Mỗ ( ba chữ đầu tiên trong tên của hắn ý) thì mười phần là người của gia tộc Cáp Hi Mỗ”.

Hắn nhìn nhìn bốn chiếc rương lớn, nói: "Người vì kết giao với đại nhân mà một lần ném ra một vạn kim, thân phân tuyệt đối không nhỏ”.

Dương Hạo nghĩ nghĩ rồi bật cười: "Ta thật nghĩ không ra hắn muốn gì ở chúng ta. Mà mặc kệ hắn, mặc hắn có là gió Đông gió Tây gì, ta đều bất động, lấy bất biến ứng vạn biến đi”.

Hắn vừa nói đến đây thì bất chợt thấy Mục Vũ kích động chạy vào, vừa thấy Dương Hạo liền hưng phấn kêu lên: "Đại Nhân, Hứa Lương Thành đến ban chỉ, đại nhân lại thăng quan rồi”.

Trong hậu viên Lý gia, Chiết Tử Du đã đổi sang trang phục nữ tính, quần áo trắng như tuyết, mắt sáng răng trắng, lệ sắc động nhân.

Ngồi cùng bàn trong hiên còn có ba người. Một lão thái thái đầu tóc bạc phơ, mặt mày hồng hào, tinh thần mạnh khỏe, chính là lão nương họ Trịnh của Lý Nhất Đức. Một người là trung niên phụ nhân thanh tú văn nhược, chính là thê thất chính phòng họ Phàn của Lý Nhất Đức. Người cuối cùng chính là con dâu đích tôn họ Lý của Lý Nhất Đức. Lúc này bốn người đang đánh Diệp Tử hí ( kiểu như đánh bài).

Phụ nhân Lý gia này cũng không biết thân phân thật sự của nàng, chỉ nghe Lý Nhất Đức nói hàm hồ, đây là nữ tử mà thái úy đại nhân cực kỳ coi trọng, tạm thời ở nhờ Lý gia, tiện thể chiếu cố cho người ta. Hiện giờ Dương Hạo phải dựa vào gia tộc họ Lý trợ giúp, mà gia tộc họ Lý cũng phải dựa vào Dương Hạo mới có chỗ nương thân. Đây đã là nữ tử Dương thái úy coi trọng, Lý gia đương nhiên không thể không coi trọng. Lão thái thái nghĩ cho con, cũng có chút ý định nịnh bợ trong lòng, cho nên mới thường xuyên mời nàng đánh bài.

Ở soái phủ, Chiết Tử Du thấy Dương Hạo an bài như vậy, thần sắc rất vui vẻ. Nhưng mà sau khi trở về Lý phủ rồi, nàng càng nghĩ càng thấy không đúng. Cái loại ánh mắt thích thú của Dương Hạo lúc nhìn về phía bốn ả vũ nương man dại kia tất nhiên không thể thoát khỏi ánh mắt của nàng. Chỉ là lúc đó thấy Dương Hạo đem bốn ả vũ nương kia ban thưởng luôn cho thuộc hạ, trong lòng thầm vui mừng, cho nên cũng không để ý lắm. Bây giờ ngẫm lại, hắn sảng khoái như thế vị tất đã là không động tâm, mà chỉ là nhìn thấy mình nên mới nhìn đau bỏ qua thôi.

Nhưng mà cho dù có thật là như vậy thì cũng chứng tỏ địa vị của mình trong lòng hắn vẫn rất quan trọng. Nghĩ thì nghĩ như vậy nhưng trong lòng nàng vẫn có chút không vui, hắn làm sao lại không thể quân tử đường đường chính chính như Liễu Hạ Huệ nhỉ?

Lão thái thái sống trong đại gia tộc lâu như vậy, lại làm vợ nhiều năm, nhãn lực cao khỏi phải nói. Nàng thấy tiểu cô nương trước mặt hình như không vui vẻ lắm, liền gợi một câu đã dễ dàng khiến Chiết Tử Du tự mình kể lại một lượt chuyện nàng nhìn thấy ở soái phủ. Đương nhiên nàng không thể nói là mình đang ghen, nên chỉ có thể đổ hết lên người dân chúng Ngân Châu, nói: "Ngân Châu mới trải qua chiến loạn, hiện giờ bá tánh đều đang hy vọng thái bình, ăn no mặc ấm. Dương Hạo thân là thành chủ Ngân Châu, đáng ra phải nên chăm lo việc công, chăm chỉ làm chính sự mới đúng. Thế mà bây giờ lại sa vào tửu sắc, ta thấy.... hừ hừ”.

Trước mặt mấy nử nhân cả ngày ở trong viện lớn trạch sâu, chẳng lo các nàng lại nói huyên nói thuyên chuyện này ra bên ngoài, lại càng không sợ các nàng nói cho Dương Hạo, cho nên mặc dù Chiết Tử Du đã cố ý không nói đến mình, nhưng trong giọng nói vẫn lộ ra chút mùi chua cay. Lão thái thái biết Dương thái úy đã có thê thiếp đầy nhà, hơn nữa gia quyến lại sắp tới Ngân Châu rồi. Dương thái úy gửi một nữ tử xinh đẹp mà hắn cực kỳ coi trọng đến ở tạm Lý gia, trong lòng đã chắc mẩm rồi. Lúc này lại nghe khẩu khí Chiết Tử Du như vậy, trong lòng lại càng thêm chắc chắn.

Ở chung mấy ngày, lão thái thái cũng rất thích Chiết Tử Du, cho nên mới có lòng chỉ điểm cho nàng. Lão thái thái chẹp miệng một cái, đánh ra một quân bài, cười ha ha nói: "Trên thế gian làm gì có con mèo nào không an tanh. Nữ tử thông minh không nên so đo với hắn mấy cái đó. Phải giữ được thân phận của mình mới là đúng đắn. Nhất Đức nhà ta cũng từng rước mấy ả Hồ cơ về, cả đám ai nấy đều mông cao ngực nở vô cùng, chỉ là thị thiếp vẫn mãi chỉ là thị thiếp. không sinh con trai, trên dưới trong phủ ai chịu hầu hạ các nàng?

Ngươi xem Phàn thị này, người gầy guộc có khác nào khúc gỗ. Song cái bụng nàng lại rất tốt, vén váy một ra một thằng cu, vén váy một cái lại ra một thằng cu nữa. Lúc đầu nàng có phải là chính thất phu nhân, ở trong phủ đã cùng ăn cùng ngồi với chính thất nguyên phối của Nhất Đức rồi. Sau này chính thất kia của Nhất Đức sinh bệnh, thiên phòng ( vợ nhỏ) nào mà không muốn phù chính ( lên vợ chính)? Chỉ là các nàng nghĩ đến nát óc, sử hết thủ đoạn cũng không bằng lão thân nói một câu, Nhất Đức đã nâng Phàn thị lên làm chính thất. Vì sao? Mẹ quý nhờ con. Nha đầu ngươi đó, vừa nhìn đã biết chiều chồng khỏe, đẻ con tốt. Nếu thực có thể sinh một thằng cu, thì tương lai trong Dương gia, ngươi chẳng phải sợ ai hết”.

Lão thái thái vẫn cho rằng tiểu nữ tử xinh đẹp đáng yêu này là ngoại thất Dương Hạo lén lút nuôi bên ngoài, hiện giờ chắc là còn chưa tiến phủ. Nghe ngữ khí dấm chua của nàng, hiển nhiên là đang nổi cơn ghen, cho nên mới có lòng tốt chỉ điểm cho nàng, chỉ cho nàng một chiêu đã ra là bất bại. Nhưng vừa nói xong thì mặt mày Chiết Tử Du đã đỏ bừng, còn phu nhân Lý Nhất Đức bên cạnh mặc dù đã luống tuổi nhưng cũng phải ửng hồng hai má.

Chiết Tử Du từ cổ tới tai đều đỏ bừng như tôm chín, gắng gượng biện bạch: "Lão phu nhân, ngươi chớ nói linh tinh. Ta chỉ muốn nói hắn sa vào chơi bời, hại dân chúng Ngân Châu thôi. Hắn, hắn và ta chẳng có tí quan hệ nào cả”.

Nàng càng nói như vậy, lão thái thái càng chắc mẩm nàng nhất định là người của Dương Hạo. Lão thái thái tủm tỉm cười, đang định nói tiếp thì thấy Chiết Duy Chính chân thấp chân cao chạy tới: "Tiểu cô, tiểu cô, người Biện Kinh tới, mang theo thánh chỉ, gia phong Dương thái úy rồi”.

Chiết Tử Du ngẩn ngơ, ngạc nhiên nói: "Gia phong? Gia phong cái gì?

Chiết Duy Chính nói: "Nói là Dương thái úy không phụ thánh vọng, gia phong làm Hà Tây Lũng Hữu Binh Mã đại nguyên soái rồi”.

"Quan Gia có lòng tốt như vậy?"

Chiết Tử Du cười lạnh, nàng chẳng tin Triệu Quang Nghĩa lại có lòng tốt như vậy. Nghĩ lại, Chiết Tử Du lập tức minh bạch mấu chốt trong đó, biến sắc nói: "Quan gia đây là muốn đặt hắn lên lò lửa. Không được. Ta phải đi khuyên nhủ hắn, cái chức quan hữu danh vô thực này nhất định phải tốn tạ bất thụ ( cảm tạ mà không nhận)”.

Chiết Tử Du vội vàng xin lỗi ba phụ nhân một tiếng rồi chân thấp chân cao chạy ra ngoài. Lão thái thái chẹp chẹp miệng, cười ha ha nói: "Hai người các ngươi nhìn kìa, vừa mới còn nói chẳng có tí quan hệ nào với Dương thái úy. Nha đầu kia cái gì cũng tốt, chỉ mà da mặt mỏng quá”.

Cả dâu lẫn cháu dâu đều cười rộ lên.

 Chương 438: Bát diện phong.

Chiết Tử Du và Chiết Duy Chính thúc khoái mã mau chóng phi về soái phủ, trên đường Chiết Tử Du luôn lo lắng đến chuyện Triệu Quan Gia có thăng quan tiến chức cho Dương Hạo hay không; Dương Hạo chiếm được Ngân Châu, đã làm cho tòa thành thuộc về Hạ Châu Lý Thị chiếm cho mình dùng, có một chỗ đứng ổn định, hấp dẫn được các thế lực tây vực quan tâm đến nó, nhưng điều có thể dự đoán được trước đó là chỉ cần Lý Quang Duệ ra tay, thế lực song phương ắt sẽ xảy ra đại chiến.

Nếu như Dương Hạo có sự ủng hộ của hai châu Lân Châu, Đảng Hạng Thất Thị giúp đỡ, miễn cưỡng giao chiến với Lý Quang Duệ, nếu như thủ thế, thì chưa biết chừng còn có cơ hội để cho Lý Quang Duệ được chịu thiệt. Nhưng Triệu Quan Gia với phong hiệu là Hà tây lũng hữu binh mã đại nguyên soái, thì Dương Hạo lập tức sẽ thành cái đích của trăm mũi tên, bách tính mong muốn được thái bình, các anh hùng tây vực chỉ muốn duy trì hiện trạng như bây giờ mà thôi, chẳng có ai mong trên đầu mình bỗng nhiên có một tên thống trị ngồi trên, lúc này Dương Hạo bị đưa đến nơi đầu sóng ngọn gió, danh vọng của hắn giờ không tương xứng với thế lực nặng, đó không phải là chuyện tốt.

Huynh trưởng của hắn và Dương Sùng Huấn Lân Châu cố nhiên hi vọng trong cuộc chiến đối kháng Lý Quang Duệ sẽ do Dương Hạo lãnh quân, cũng có ý bảo hắn làm minh chủ đồng minh, nhưng nếu Dương Hạo được cương vị cầm đầu, thì không phải có ý nhường cho hai châu Lân phủ, mà làcái danh tiết đại nghĩa ấy có chỗ đứng, theo lý đương nhiên là người đệ nhất tây bắc, điều này có khiến cho huynh trưởng và Dương Sùng Huấn đố kỵ không đây?

Triệu Quan Gia long trọng tổ chức buổi tiệc khen ngợi Dương Hạo, sẽ cho người Khiết Đan tín hiệu này hay không: Dương Hạo là thân tín trọng thần của Triệu Quan Gia, thăng tiết độ của cổ nhân và lực lượng mới thành lập ở tây vực đều là vì có Triệu Quan Gia ngầm ủng hộ, giờ cho hắn thân phận này Triệu Quan Gia ngầm biết, là một điểm báo trước để tây vực chú ý?

Nếu như Khiết Đan vì lẽ này mà tạo áp lực tây vực, cùng lúc đó huynh trưởng nhà mình và Dương Sùng Huấn lại vì lo lắng cho Dương Hạo trở thành một bá chủ nguy hiểm hơn cả Hạ Châu Lý Quang Duệ nên lòng thấp thỏm, giờ Đảng Hạng Thất Thị cho đến Thổ Phiên, người tương đối thân cận với Dương Hạo, các bộ lạc Hồi Hột sẽ không vì sự xa xôi của hai châu Lân phủ, vì sự tạo áp lực của Khiết Đan mà bỏ hắn đi? Dương Hạo vựng tây vực dậy là một kỳ tích, nhưng hắn cơ bản chưa ổn định, thực lực có hạn, một vấn đề xử trí không kịp dẫn một loạt việc xảy ra, giờ cần sụp đổ trong chốc lát.

Chiết Tử Du càng nghĩ càng cảm thấy bất an, phóng ngựa bay nhanh đến soái phủ, đi nhanh vào soái phủ, thị vệ ở cửa vội ra chặn, nói: “Là ai vậy? dám to gan tự tiện xông vào soái phủ? À, là ngươi, ngươi…”

Bình thường Chiết Tử Du cải trang thành nam nhi, mấy binh lính thị vệ vừa nhìn thấy nàng chỉ thấy quen quen, giống với một tiểu tướng đi bên Dương Hạo, lúc này Chiết Duy Chính đi lên phía trước, trầm giọng nói: “Chúng ta có chuyện muốn gặp Dương thái úy, ngươi mau đi bẩm báo đi”.

Tên sĩ tốt đó nhận ra Chiết Duy Chính, vội nhoẻn miệng cười: “Chiết tướng quân, thực xin lỗi, không phải là ti chức không dám bẩm báo, mà là thái úy đại nhân đang thiết khoản đãi khâm sai, không thể làm phiền được. Hơn nữa thái úy đại nhân sớm đã dặn vậy rồi, nếu…

Chiết Tử Du chau mày nghĩ ngợi, bình tĩnh nói: “Hắn mở tiệc chiêu đãi dù sao cũng chỉ là viên quan mà thôi, dù sao cũng không phải hoàng đế gì, có cần phải long trọng vậy không? Chúng ta đang có việc gấp, ngươi đi báo Dương thái úy một tiếng, chúng ta nhất quyết đợi ở đây gặp mới thôi”.

Chiết Tử Du thay trang phục thành một thiếu nữ xinh đẹp, nhưng khi nói chuyện, không chút giận dỗi mà vẫn uy nghiêm, thậm chí còn uy hơn cả Chiết Duy Chính, thái độ của tên bảo vệ cửa càng cung kính hơn, cười bồi nói: “Chiết tướng quân, vị cô nương này…thái úy đại nhân sớm đã giao nhiệm vụ cho tiểu nhân, nếu như Chiết tướng quân đến, hoặc là bất kỳ người nào họ Chiết đến đều bảo tiểu nhân nói một tiếng, sáng sớm ngày mai, thái úy đại nhân sẽ đợi các người ở phủ, còn hôm nay thực sự là không giúp gì được, xin Chiết tướng quân xin cứ về đi, ngày mai lại đến”.

Chiết Duy Chính hỏi: “Thái úy sớm biết chúng ta đến rồi sao? Song một viên quan mà cũng phải mở tiệc nịnh bợ sao?”

Tên gác cửa xoa tay nói: “Cái này…tiểu nhân cũng không biết nữa”. Chiết Duy Chính đang định hỏi, Chiết Tử Du đã kéo tay hắn: “Ta đi thôi”.

Hai người cưỡi ngựa phi ra khỏi ngõ, Chiết Duy Chính mới kiềm chế lại nói: “Tiểu cô nương, chẳng lẽ cô nương biết Dương thái úy có dụng ý gì đó?”

Chiết Tử Du lắc đầu, khẽ nói: “Không biết nữa, mà chỉ biết rằng, ta tại sao đến, có đến hay không, Dương Hạo đã đoán được rồi, hắn đã có sự chuẩn bị, muốn có được chủ ý của hắn, hắn dù biết ý của chúng ta, hiểu được sự lợi hại của việc này thì tốt, còn về ý của hắn….mai sẽ biết ngay thôi, có gì mà vội chứ? Ta lười nghĩ lắm…”

Chiết Duy Chính lén nhìn tiểu cô nương, tiểu cô nương ấy vân đạm phong kinh, nhưng nhìn khí sắc mặt mày của cô, lại tinh tế, Chiết Duy Chính vội ý thức được ngậm mồm lại, để tránh không cẩn thận làm lộ đuôi. Ngày thứ hai Chiết Tử Du đến.

Lần này không có Chiết Duy Chính đi cùng, một mình Chiết Tử Du đi. Tên canh cửa sớm được Dương Hạo dặn dò, vừa sáng sớm đã đứng ở trước cửa thò cổ ra nhìn ngược nhìn xuôi, vừa nhìn thấy Chiết Tử Du đến, vội chạy lại đón, dắt ngựa hộ cô, khẽ nói: “Chiết cô nương, tiểu nhân đã đợi người khá là lâu rồi, mau xuống ngựa thôi”.

Thấy tên Tiểu Hiệu cẩn thận như vậy, Chiết Tử Du lại không chần chừ gì dậm chân của mình vào chân Tiểu hiệu, coi nó là bàn đạp xuống ngựa, khẽ nhảy xuống đất, rồi chạy vào trong phủ, tiểu hiệu dắt ngựa đi bên cạnh, gọi cho người trong cổng một tiếng, hai thị vệ chạy ra dẫn Chiết Tử Du vào trong. Qua tiền viện, rồi đi qua cửa vào đại sảnh là soái đường. Thị vệ đưa Chiết Tử Du vào trong soái đường, rót trà nóng mời nàng uống, nàng vừa cầm chén trà nhấp môi thì Dương Hạo đến.

Chiết Tử Du đeo đao bên hông ngồi ở đó, thấy Dương Hạo đến cũng không đứng dậy, mấy ngày gần đây giả trang nam nhi khiến nàng quên hôm nay lại mặc nữ nhi, ngồi chân bắt chéo nhau, không khách khí nói: “Hôm qua được tin ta vội vàng đến, ai ngờ Hoàng đế không vội thái giám đã vội, làm người ta vội phi đến, tưởng liệu sự như thần thế nào, thôi, giờ ta cũng đã đến rồi, không biết Dương thái úy có gì úp mở muốn nói với tiểu nữ đây?”

Dương Hạo nhìn cử động của nàng, không kìm nổi cười phá lên, ngoài người thân trong nhà của nàng ấy, người có thể trêu chọc được Chiết Tử Du không nhiều, Dương Hạo rát thích nhìn bộ dạng tức giận của nàng, khi nàng ấy tức giận cứ như là khi nàng ấy cười vậy, có thể làm cho nàng tức giận, Dương thái úy cảm thấy rất hả hê.

Hắn cười ha ha nói: “Ta chẳng có gì phải úp úp mở mở cả, mà cũng cứ coi là ta úp mở không rõ ràng đi thì chẳng phải là nàng cũng đã xuất hiện trước mặt ta rồi sao?” Chiết Tử Du bĩu môi, khẽ hừ một tiếng, nhưng cơn tức giận đã bay mất tiêu. Thực ra là có người đàn ông mình thích nịnh nọt tí thì con gái ai chả thích, một Chiết Tử Du cao ngạo cũng không thể tránh khỏi.

Dương Hạo ngồi đối diện nàng, cười tủm tỉm nói: “Thực ra là không có gì, lúc thái giám truyền chỉ đến thì trong quan lại không có gì, nhưng hắn lại mang đến một thám tử không thể thiếu trong Hoàng thành, lúc đó cả phủ toàn người với người, loạn lắm, ta còn chưa lo liệu ổn thỏa cho họ, chỉ sợ có ai đó rình mò nghe trộm, nghe dược chuyện gì đó không hay, cho nên ta mới dặn dò đám thị vệ ngăn nàng vào gặp. Giờ họ đã được an bài ở Quán Dịch Trung rồi, thì ta mới gặp nàng”.

Chiết Tử Du nghe Dương Hạo nói đến “chuyện không hay” với nàng, khóe miệng nở một nụ cười, Dương Hạo lại nói: “Ta biết nàng vì lẽ gì mà đến, nói ra Triệu Quan Gia rốt cuộc đối xử với ta thế nào, người bên cạnh không biết, chính bản thân ta còn không biết nữa là. Hắn tốt đẹp gì với ta chứ, vì ta chiếm được Ngân Châu mà niêm phong ta là Hà tây lũng hữu binh mã đại nguyên soái? Hắc, đây chính là cho ta lên chảo lửa, Lý Quang Duệ là thế lực đệ nhất tây bắc có châm trước cho ta ngồi lên đầu hắn không đây? Coi như hắn vốn chỉ muốn bảo ta về Lô Châu, và đoạt lại thành Ngân Châu, dựa vào cờ hiệu hà Tây lũng hữu binh mã đại nguyên soái, hắn cũng nhất định phải giết ta.

Tống quốc từ hồi lập quốc đến nay, suy yếu mấy phương tiết độ, thu quyền về triều đình, giờ Quan Gia khẳng khái, Khiết Đan bên đó sau khi nghe nói sẽ cho rằng ta là một quân cờ quan trọng của triều đình đồ mưu tây vực, xem ra thì cũng ra tay trước khi chiếm được lợi thế. Còn về Chiết huynh và Dương huynh, ha ha, suy nghĩ của Triệu Quan Gia là có thể ly gián mối quan hệ của hai châu Lân phủ và ta là tốt nhất. Nếu như không thể, Lý Quang Duệ Hạ Châu cũng sẽ ra tay ngay, cứ tưởng thụ ta nhất cường địch, thêm nữa Khiết Đan có chuyện xấu, tây bắc sẽ có chiến loạn càng lớn.

Kế này, ỷ **** tản tây bắc các phương thế lực kéo vào hoàn cảnh càng thối nát, mãnh hổ tương tranh, ắt có tổn thất, đến lúc đó Triệu Quan Gia có thể ra quân, bình định tây vực, thò tay hắn vào, khống chế chặt chẽ toàn bộ tây vực, thực là một ván bài hay ho”. Chiết Tử Du nghe, khẽ thở dài một tiếng, liếc nhìn hắn nói: “Chàng đã hiểu được chữ ‘Không có’ trong đó”.

Chiết Tử Du giật mình ngẩn người, Dương Hạo nói: “Quan Gia dùng kế mượn đao giết người có tác dụng với thế cục tây bắc, vốn nó rất là tốt, tốt, có hai việc mà hắn không biết, cho nên chuyện này thành một hôn chiêu”.

“Hai chuyện gì?”

“Đúng, chuyện thứ nhất là…”. Dương Hạo chần chừ giây lát, lúc này mới nói rành rọt từng chữ: “Ta và Khiết Đan Tiêu Hậu sớm đã có mật ước, bà ta sẽ không vì điều này mà xuất binh với tây vực”. Chiết Tử Du lập tức cảnh giác hỏi: “Chàng đã là nước chư hầu với Khiết Đan?”

Dương Hạo bậm môi nói: “Sao thế được? Chẳng qua, Khiết Đan Tiêu Hậu cấu kết với tây vực, độc lập 1 góc vui vẻ cũng chẳng nói làm gì”.

Chiết Tử Du nghĩ tới tình hình trước mắt của Khiết Đan, rồi lại liên hệ với lời Dương Hạo nói, và đã tìm được lỗ hổng trong đó, mỉm cười khẽ gật đầu nói: “Vị Tiêu nương nương này thực khôn khéo, chuyện khác là chuyện gì?”

“Chuyện đó chính là, Đảng Hạng Thất Thị tuyệt đối sẽ không vì hai châu Lân Châu mà dao động mà bỏ ta đi, coi như Khiết Đan cắm một chân vào, họ cũng sẽ không trở mặt với ta, huống hồ Khiết Đan tuyệt đối sẽ không xuất binh”.

Chiết Tử Du chau mày nói: “Chàng tin tưởng người ta như thế sao? Đảng Hạng Thất Thị bằng mặt không bằng lòng với Hạ Châu, lúc chiến lúc hàng, có lúc thì quấy nhiễu Lân Phủ hai châu, lúc thì lại kết minh, hai điều đó, có gì là nghĩa tín, liệu có dễ dàng tin tưởng được không?”

Dương Hạo mỉm cười nói: “Các thế lực mạnh tranh giành nhau sự sinh tồn, nếu như không có thủ đoạn thì sớm sẽ bị người ta dìm cho chết, lúc thì ra tay, lúc thì cầu hòa, họ cũng bức bách theo thời gian, ta và họ không chỉ đơn giản là liên minh với nhau, họ nguyện trung thành với Bạch thạch đại thần tuyên quá thệ bổn quan, há lại dễ dàng quay lưng với họ, như thế chẳng há mất đi lòng tin?”

Chiết Tử Du mỉm cười nói: “Nguyện trung thành với người Đảng Hạng chí cao thần bạch thạch minh ước chàng? Chàng…Chàng là ai chứ?”

Dương Hạo chậm rãi nói: “Hơn ba mươi năm trước, định nan quân tiết độ sứ Lý di tốt cướp ngôi Lý Di Ân, Đường mạt đế Lý Tòng Kha thừa nhận thân phận của hắn, kỳ huynh Lý Di chi tử, thiếu chủ chân chính Lý Quang Sầm Hạ Châu lâm vào cảnh khó khắn thảo nguyên Thổ Phiên, ta…chính là con của Lý Quang Sầm”.

Chiết Tử Du há hốc mồm, một lúc sau mới định thần lại nhìn hắn, kinh ngạc nói: “Lý Quang Sầm còn sống sao? Chàng…là con của Lý Quang Sầm? Chàng cũng chính là hậu duệ của Tiên Bi Thác Bạt Thị?”

Chiết Tử Du là hậu duệ của Tiên Bi Chiết Lan Vương, Dương Hạo là hậu duệ của Tiên Bi Thác Bạt Thị, Chiết Tử Du không thể ngờ rằng hắn lại có một thân thế to lớn như vậy, Dương Hạo cười nói: “Cũng không hẳn, ta là người Hán, Lý Quang Sầm là nghĩa phụ của ta, cũng chính là Mộc Sầm Mộc phó sứ của quân trung Lô Châu hiện giờ. Chiết Tử Du thở dài, không chớp mắt nói: “Chàng có thể nói cụ thể hơn chút được không?”

Dương Hạo kể lại mọi chuyện tường tận một lượt cho Chiết Tử Du nghe, lúc này Chiết Tử Du mới hiểu ra được, không khỏi vừa mừng vừa ngạc nhiên, Dương Hạo lại nói: “Sáng tỏ cái thân phận này, các bộ tộc tây vực nhất định sẽ tin tưởng và nương tựa càng nhiều, hơn nữa, dù thế lực của ta càng mạnh bao nhiêu, lại được Chiết huynh và Dương huynh giúp đỡ thì kẻ thù Lý Thị đệ nhất thế lực tây bắc, thắng bại cái nào cũng được, nhưng mà ta có cái thân phận này, lợi dụng được sự bất mãn của nội bộ Lý Thị với Lý Quang Duệ, làm tan rã thế lực của hắn, chỉ cần thuyết phục được họ, trong ngoài kết hợp với nhau, thì người của bộ tộc Thác Bạt Thị sẽ rời bỏ Lý Quang Duệ mà đến với Dương Hạo ta”.

Chiết Tử Du một hồi lâu mới tiêu hóa được thông tin mà hắn vừa đưa ra, lúc này nàng mới bình tĩnh lại, phản bác nói: “Chàng dù có thân phận này càng không cần cái gọi là “hà tây lũng hữu binh mã đại nguyên soái, dệt hoa trên gấm làm gì. Giờ chàng đang gặp thời, tích góp lương thực, dựa vào uy vọng cùng địa vị của chàng hiện giờ, thì có thể chiêu nạp được rất nhiều chiến công, đối đầu với bụi cỏ um tùm tây vực, có gì mà phải vội vã ngồi lên đầu họ?”

Dương Hạo thản nhiên nói: “Bởi vì…ta với thân phận là con của nghĩa phụ ta, cũng không biết có thể trụ được bao lâu. Giờ thân phận không rõ ràng, được sự tín nhiệm của mọi người ở Thác Bạt Thị, về sau…sợ sẽ không có cơ hội nữa”.

Hai người nói chuyện một hồi lâu trong soái đường, thì bỗng ngoài cửa có một thị vệ cao giọng nói với: “Tiểu nhân bái kiến Mộc Ân đại nhân, Mộc Khôi đại nhân”.

Dương Hạo vỗ vào trán mình một cái nói: “Ta tự nhiên lại quên béng mất bọn họ chứ, tân binh mới vừa rồi chiêu mộ đang được họ lôi đi luyện tập, ta ra ngoài thăm họ một lát”.

Chiết Tử Du hơi nhướn mày, Dương Hạo đứng dậy đi ra ngoài. Chiết Tử Du ngồi lặng yên trong soái đường, nghĩ về thân phận bí mật của Dương Hạo, sự phục tùng mà đh tt đối với hắn thực sự là khó mà giải thích được. Từ giờ trở đi, chỉ cần Dương Hạo kinh doanh thích đáng thì kế hoạch lấy được từ Lý Quang Duệ sẽ thành công, Triệu Quan Gia có ý muốn hắn trở thành đối tượng bị đả kích, chỉ sợ ngược lại, ta phải nhanh chóng trở về, đem tin này nói cho đại ca biết, hắn hiểu được sự lợi hại bên trong, Dương Hạo lấy được Lý Quang Duệ, sợ là kết cục đã định, hắn làm thế lực đệ nhất tây bắc đã là nghĩa phải có, chẳng có gì kém cỏi, đại ca chắc chắn sẽ không đổi lớn lấy nhỏ, mất đi một cường minh này. Hơn nữa, Đông Nhi, Diễm Diễm bọn họ trong nay mai sẽ đến, ta cứ ở đây thực là xấu mặt”.

Chiết Tử Du đang nghĩ, không ngồi nữa, đứng dậy đi lại rồi đi ra ngoài soái đường, chỉ thấy Dương Hạo và Mộc Ân Mộc Khôi cười nói trước hòn giả sơn, không giống như bàn công sự, Chiết Tử Du vội rảo bước ra khỏi soái đường, men teo hành lang, ẩn mình vào đám cây cảnh đi đến phía sau hòn giả sơn, thì nghe thấy Dương Hạo cười nói: “Hai người các ngươi thực có triển vọng, biết rõ là hôm nay sẽ dẫn binh đi tập luyện lại hỗn láo như vậy, tặng cho các người mấy vũ nương Đại Thực quốc thực là lợi hại, ta thấy hai người các ngươi hai chân đã mềm nhũn đi rồi…”

Mộc Ân cười ha ha nói: “Lợi hại, lợi hại, ai cô nương ấy thực là lợi hại, chẳng lẽ ta với thân thể cường tráng thế này mà không đỡ nổi sao, suýt nữa thì bị hai người bọn họ hành hạ đến mức lết không nổi đấy”.

Chiết Tử Du nghe vậy xấu hổ mặt đỏ bừng, thầm mắng: “Thực là đồ không đứng đắn gì cả, nữ nhi người ta chung tình mà các người còn háo sắc hoang dâm”.

Mộc Khôi nói: “Đó có là gì chứ, hai người chúng tôi suýt còn không bò lên nổi giường mà nằm í, bọn họ…hic hic, song họ thực ra là không bò dậy được rồi, đến giờ vẫn còn nằm ở đó đấy”.

Dương Hạo ho khan một tiếng nói: “Các ngươi chinh chiến cả đời người, bên cạnh có biết bao nữ nhân hầu hạ chăm sóc, đến cái tuổi này cũng nên để lại hậu duệ đi là vừa, bổn quan ban cho các ngươi bọn họ chính là có ý này, song…chuyện này…dù sao đi nữa cũng nên hạn chế, chớ làm thương tổn cơ thể vì nữ sắc.

Mộc Ân vội nói: “Thiếu chủ yên tâm đi, chúng tôi sẽ nhớ lời thiếu chủ nói, đây dù sao cũng là nữ nhân mà, giống như một con ngựa hoang vậy, cứ thuần phục nó thì nó mới ngoan ngoãn nghe lời, về sau tha hồ an nhàn”.

Chiết Tử Du nghe vậy khẽ gật đầu, khen: “Lời nói của Dương Hạo làm người ta thức tỉnh, nam nhi làm đại sự thì sao có thể có nữ sắc bên cạnh được?”

Nàng vừa nghĩ đến đây thì Dương Hạo nháy mắt ra hiệu, hưng phấn hỏi han: “Thế nào rồi, mỹ nữ Đại Thực quốc có vị ra sao?”

Mộc Ân nói: “Dạ, làn da của mỹ nhân Đại Thực không nhẵn nhụi trơn tru như nữ tử trung thổ, mềm mại giống như sa tanh, song họ rất biết cách hầu hạ đàn ông, hành động cử chỉ khiến những kiều thiếp của ta đây không sánh nổi, họ vừa bốc lửa vừa ôn hòa”

Dương Hạo cười nói: “Có thật không, ha ha, các người cho họ thấy sự lợi hại của các người đi, như vậy cũng chính là làm sáng sủa cho nam nhân phương đông”.

Mộc Khôi cười đùa: “Thế thì, hic hic, nếu như luận bàn tới võ công mưu lược, thuộc hạ không bì kịp với thiếu chủ, song chuyện giường chiếu thì mạo muội so bì với thái úy vậy ^^”. Nhưng phàm là người đàn ông thì ai chẳng giống ai chứ, Dương Hạo lập tức phân bua, thổi phồng: “Nhân bất khả tướng mạo, ngươi thực quá là coi thường ta rồi, hừ hừ, ta được dị nhân truyền cho phòng trung mật thuật, đêm ngự thập nữ cũng không thành vấn đề”.

Chiết Tử Du nghe vậy mặt đỏ tía tai, thầm mắng: “Ba cái tên này cùng một giuộc, vô liêm sỉ như nhau, bên ngoài làm ra vẻ đạo mạo, đằng sau thì lại thích bàn đến mấy cái chuyện này…”

Mấy người cười nói vài câu, Dương Hạo lại quay lại chủ đề chính, nghiêm túc nói: “Chinh binh tây bắc ta có điều kiện vô cùng có lợi. Binh sĩ Trung Nguyên đặt cái cuốc làm binh, khổ tâm huấn luyện hồi lâu mà bách tính tây bắc phong nhanh nhẹn dũng mãnh, giỏi võ nghệ, dân chúng thì giỏi cưỡi ngựa bắn cung, người người võ nghệ đều không kém cỏi gì, có nền tảng tương đối tốt như vậy, xưa nay họ giỏi đi săn bắt, sớm hiểu được kỹ thuật phối hợp tác chiến, song lúc này nhiều nhất cũng chẳng qua là hành động của thiên nhân, mà giờ các ngươi huấn luyện họ, dù là một nghìn người, mười vạn người hay là mười vạn người đều cần phải có kỷ luật nghiêm minh, trước trận võ nghệ không bàn đến chính là sự phối hợp ăn khớp quân kỷ nghiêm minh thì mới có thể huy quân được”. Mộc Ân Mộc Khôi vội đáp: “Thiếu chủ yên tâm, chúng tôi nhớ rồi”.

Dương Hạo gật đầu nói: “Được rồi, lần này chiếm được thành Ngân Châu, ta đã nhìn kỹ các phương xung quanh rồi, đợi nghĩa phụ đến Ngân Châu thì ta sẽ công khai thân phận của mình, đến lúc đó…bốn phương tám hướng nổi gió không biết sẽ thế nào đây, tân quân của các ngươi cần mau chóng thành hình, dù là Lý Quang Sầm hay là Triệu Quang Nghĩa cũng là một hạng với nhau…”

Trong Văn Đức điện, Triệu Quang Nghĩa đang luận bàn nghị sự với văn võ bá quan, đợi Tào Bân nói ra ý kiến của hắn thì Triệu Quang Nghĩa nói: “Tào ngự gia nói đều có lý cả, giờ dụng binh, đương nhiên sẽ có rất nhiều khó khăn, song cũng có rất nhiều cơ hội, mà cơ hội thì không thể bỏ lỡ, mà lỡ rồi thì không có lại nữa, Trẫm phê duyệt tháng hai năm sau dụng binh nắm chắc trong tay Hán quốc”. Văn võ bá quan đều khom người nói: “Chúng thần tuân chỉ”.

Triệu Quang Nghĩa vui vẻ giơ tay huơ tay, mỉm cười nói: “Trận chiến này Trẫm đích thân dẫn binh. Trẫm sẽ là chủ soái, để ngô vương kiêm Vĩnh hưng tiết độ sứ Đức Chiêu là tiên phong, tiên đế từng phái Hoàng tử Đức Chiêu lãnh binh phạt Hán, thì ta có gì mà không thể, lần này dụng binh chinh phạt để Ngô Vương là quân tiên phong cũng chính là làm trọn ý nguyện của tiên đế, chúng tướng sẽ được bảo vệ giúp đỡ cho sự thành công của Ngô Vương”.

/

Văn võ bá quan lại cung kính thi lễ, Triệu Quang Nghĩa mặt mũi bỗng nhiên méo mó, lại nói: “Hoàng nữ Quắc quốc công chúa, từ nhỏ đã sùng bái Phật giáo, sau khi tiên đế băng hà, Hoàng tẩu vì nhớ mong tiên đế mà lâm bệnh, Quắc quốc công chúa thấy như vậy, cảm sắc nhân sinh vô tường, hiểu rõ được ảo huyền của cuộc đời, lễ Phật tụng lạc, cầu phúc cho Hoàng tẩu. Trẫm khổ công không được đành trọn lễ với bà ấy, đổi thành Tây thất bảo am thành “Sùng hiếu am” và cho phép Quắc quốc công chúa tu hành. Ban cho Quắc quốc công chúa là “Báo từ phổ độ đại sư”, pháp hiệu là “Định Như”, để tỏ rõ lòng hiếu tâm của Quắc quốc công chúa. Vào ngày lễ, các khanh theo Trẫm đích thân đưa Quắc quốc công chúa nhập tự, ban thưởng…”

Hắn còn chưa nói xong thì thấy Cố Nhã Ly chạy khấp khởi vào trong điện, Triệu Quang Nghĩa chau mày, Cố Nhã Ly cũng bất chấp sắc mặt khó coi của hắn, vội vàng chạy ngay đến trước mặt nói vài câu to nhỏ, Triệu Quang Nghĩa nghe xong biến ngay sắc mặt, thất thanh nói: “Sao lại như vậy? Hắn không sao chứ?”

 Chương 439: Tứ phường loạn.

Triệu Quang Nghĩa đứng há hốc mồm nhìn phủ Lũng tây quận công.

Tuy rằng hắn đứng trước phủ Lũng tây quận công, song giờ phủ ấy đã trở thành đống hoang tàn.

Lý Dục sau khi hàng Tống, triều đình đã ban thưởng nhà cửa cho hắn, ngôi nhà này cũng đã có ba năm mươi tuổi, vườn tược có ba lối vào, toàn bộ đều được làm bằng gỗ. Dân cư xung quanh đều là những ngôi nhà cũ kỹ, song những ngôi nhà ấy lại không ngừng vươn cao, mở rộng hết sức không gian hiện có, cho nên nhà cửa cao thấp không đều nhau, mái hiên nhà này đan vào mái hiên nhà khác, một khi bị cháy thì rất dễ lây lan, thêm nữa nhà cửa đều là gỗ lâu năm, khô nên càng dễ bén lửa, hơn nữa đường đi lối lại nhỏ hẹp, vận chuyển nước vào cứu hỏa khó khăn, kết quả là…

Giờ trước mắt hắn là đống hoang tàn, không biết là nhà nào bị cháy trước, vì tất cả nhà cửa đều bị đốt trụi rồi, nhưng có điểm không thể giải thích nổi đó là giữa ban ngày ban mặt, nếu lửa có cháy thì sẽ gây chết người, nhưng lại không có một nhà nào ở trong nhà cả, nhà người khác cháy sẽ đến giúp đỡ, song mọi người lại chạy hết đi, kêu khóc om sòm, nhưng nhà Lý Lũng tây quận công lại không có một ai.

Mộ Dung Cầu Túy dẫn theo một tên đi lại, tay tên này cứ sờ vào sau quần, dáng đi vô cùng khó coi.

“Đại nhân, tên này là hàng xóm của Lũng tây quận công, nhà hắn gần nhà Lũng tây quận công nhất”.

Triệu Quang Nghĩa lần này đích thân tới xem xét tình hình hỏa hoạn, không cần đến nghi thức hoàng đế, và cũng không mặc long bào, để tránh động tĩnh quá lớn, Mộ Dung Cầu Túy không dám gọi hắn là Quan Gia, để tránh làm lộ thân phận của hắn.

Triệu Quang Nghĩa nghe Mộ Dung Cầu Túy nói xong, quay người hỏi tên thư sinh đó: “Danh tính của ngươi là gì?”

Tên thư sinh đó vừa nghe trước mặt mình là một viên quan cầm đầu đám người này vội cúi đầu thi lễ: “Thảo dân Tiêu Thư Hữu bái kiến đại nhân”.

Triệu Quang Nghĩa gật đầu hỏi: “Ngươi là hàng xóm của Lũng tây quận công, khi hỏa hoạn ngươi nghe thấy gì, nhìn thấy gì, Lý gia có ai chạy ra ngoài không?”

Tiêu Thư Hữu nghe xong nhếch miệng, hóa ra tên thư sinh này muốn đề tên bảng vàng, nên cả ngày hắn ngồi trong nhà đọc sách, vì ngồi nhiều đâm ra bị trĩ, giờ mời lang trung đến chữa trị, ai biết trong quần hắn có cái gì, tên lang trung ấy phải cắm vào một cái ngân châm thì nó mới vào, hỏa hoạn bùng phát, lửa bốc cuồn cuộn, tên lang trung đó sợ hãi bỏ người bệnh lại thoát mạng, Tiêu Thư Hữu chẳng còn cách nào, đành vội vàng xách quần chạy ra ngoài, bên ngoài mới cảm giác được mình yếu vô cùng, nhưng đi khắp nơi đều là người, hắn đường đường là một thư sinh đọc sách xấu hổ không dám đưa tay vào nhổ ra, giờ mấy cái ngân châm vẫn dính ở hậu môn của hắn.

Tiêu Thư Hữu vẫn đứng ở đó, nhìn ngôi nhà chỉ còn trơ lại bức tường, chau mày cười méo mó nói: “Khởi bẩm đại nhân, lúc tiểu dân chạy ra ngoài thì khi ấy lửa đã cháy tứ phía, khói lửa mù mịt, làm sao còn thời giờ mà nhìn xem người khác thế nào nữa. song khi thảo dân giờ mời lang trung đến chữa trị bệnh cho mình thì lại nghe thấy bên Lũng tây quận công phủ có vài động tĩnh”.

Triệu Quang Nghĩa vội hỏi: “Có động tĩnh gì?”

Tiêu Thư Hữu nói: “Khi thảo dân mời lang trung về, nghe thấy bên nhà Lũng tây có tiếng hát ca, khá ồn ào, dường như là đang…tổ chức tiệc”.

Lý Dục thích ca hát tiệc tùng, khiến cả nước nhà của hắn bị rơi vào tay kẻ khác. Triệu Quang Nghĩa thường dặn dò người của Hoàng Thành ti qua lại nghe động tĩnh của Lý gia, đến mức mỗi lần hắn tổ chức tiệc tùng mời những ai, gặp những ai đều cần phải nghe ngóng rõ ràng, điều này thì không có gì lạ. Chuyện mà Tiêu Thư Hữu nói có thể đối chứng với người của Hoàng thành ti.

Hắn gật đầu hỏi: “Bên cạnh nhà ngươi…không còn gì nữa sao?”

“Hết rồi ạ, thảo dân chỉ biết có vậy”.

Triệu Quang Nghĩa xua tay, Tiêu Thư Hữu xách quần thối lui.

Triệu Quang Nghĩa quay đầu lại nhìn, đám tro tàn ấy vẫn nóng hừng hực, trầm giọng nói: “Sống phải thấy người, chết phải thấy thây, mau đi đào, đào lên cho ta, lật tung đám tro tàn này lên, tìm cho bằng được thi thể. Lý gia tổng cộng chủ tớ có bao nhiêu người, thì phải điều tra cho rõ ràng, một cái thây cũng không được thiếu”.

Mộ Dung Cầu Túy khom người: “Thần tuân chỉ, giờ đám tro ấy còn nóng, hãy toan…”

Triệu Quang Nghĩa đứng ở xa mà còn cảm thấy hơi nóng phả vào mặt, cũng biết rằng giờ phái thân binh đi đào xới đống tro tàn lửa ấy lên là không có khả năng, nếu như mà làm ngay lúc này không biết chừng sẽ bị thiêu thành tro mất, hắn gật đầu, nói: “Khai phong phủ”.

Triệu Quang Mỹ vội bước lên phía trước, chắp tay nói: “Có thần…”

Triệu Quang Nghĩa nói: “Dập tắt hắn ngọn lửa, cứu trị nạn dân, phát trợ cấp, dọn đống phế tích này đi, xây nhà cửa mới, còn nữa, mấy cái ngõ xung quanh kiểm tra cho kỹ, điều tra ra nguyên nhân cháy, đồng thời phải chú ý, xem xem có tên nào chạy ra khỏi nhà Lũng tây quận công không, ngoài ra…tìm vài tên ngang ngược được việc theo Mộ Dung Cầu Túy…”

“Thần tuân chỉ”.

Triệu Quang Nghĩa lại quay sang nói với Mộ Dung Cầu Túy: “Cử cấm quân bao vây quanh phủ Lũng tây quận công, trước khi được tin điều tra không cho phép bất cứ ai ra vào, tìm tất cả tin tức có thể”.

“Tuân chỉ”.

Triệu Quang Nghĩa nhìn đống hoang tàn một hồi lâu rồi mới quay người lên kiệu. Nội thị đô tri Cố Nhã Ly vén rèm kiệu lên cho hắn, Triệu Quang Nghĩa cúi người vào kiệu còn lẩm bẩm: “Tiểu Chu Hậu…Nữ Anh ơi…”

Vừa nghĩ đến người con gái đẹp ấy, Triệu Quang Nghĩa chua xót trong lòng, quốc sắc thiên hương làm hắn mê mẩn sớm đã bị vùi trong đống tro tàn rồi sao? Hắn lắc đầu, bỗng lẩm bẩm: “Việc này tất có điều gì mờ ám, Lý Dục phu nhân…thực đã chết rồi sao?”

Triệu Quang Nghĩa quay đầu nhìn lại đám tro tàn kia một lần nữa, rồi lại quay sang nhìn Cố Nhã Ly, Cố Nhã Ly lập tức khom người, bước lui ra xa, Triệu Quang Nghĩa lẩm bẩm thêm vài câu nữa, rồi mới vào trong kiệu…

******

Thành tây thất bảo am, Kim thân được đắp lại, cửa điện được quét sơn lại, đến từng viên ngói trong điện cũng được thay mới, tường được trang hoàng lại, bảo khố vô cùng trang nghiêm, Quan Gia ban thưởng Báo từ am, Cảng quốc công chúa xuất gia được Quan Gia phong là Báo từ phổ độ đại sư.

Trên đại điện, hương thơm lan tỏa, Cảng quốc công chúa đang cạo đầu, Triệu Quang Nghĩa dẫn theo văn võ bá quan đứng ở bên cạnh xem lễ. Triệu Quang Nghĩa có vẻ lo lắng, khiến Tống Kỳ, Mộ Dung Cầu Túy là bề tôi thân tín cũng phải đứng né xa xa, sợ Quan Gia nổi giận lôi đình bất cứ lúc nào.

Tâm trạng Triệu Quang Nghĩa không tốt, thời gian này làm việc gì cũng khó khăn, cái cảm giác vừa mới lên làm Hoàng đế đã tan biến hết, đau đầu về chuyện nỗi lòng hắn vui được mới là lạ.

Tây bắc lại truyền về một tin xác thực, Lô Châu tiết độ sứ báo sau khi Dương Hạo chiếm được Ngân Châu thì công khai thân phận của mình, hóa ra hắn chính là con của Lý Quang Sầm năm đó khốn khó định nan quân tiết độ sứ Lý di, Dương Hạo đã bái Lý Quang Sầm làm nghĩa phụ, trông nom Đảng Hạng Thất Thị, quy thuận chủ cũ. Đến lúc này, Triệu Quang Nghĩa có đời nào không biết thân phận của Dương Hạo là nghĩa tử của Lý Quang Sầm.

Trong lúc thương lượng với Dương Hạo, hắn chiếm được thiên thời, địa lợi, nhân hòa, song hết lần này đến lần khác bị lừa, Triệu Quang Nghĩa không có não chăng? Bản thân giờ còn vội vàng tiễn hắn đi phong hiệu Hà tây lũng hữu binh mã đại nguyên soái, đây không phải là tạo thế danh vì hắn sao? Tự an ủi, chí ít như này, Hạ Châu Lý Quang Duệ càng sẽ không bỏ qua Dương Hạo, lưỡng hổ giao tranh càng có khả năng xảy ra.

Dương Hạo còn giả vờ bảo Lý Quang Sầm đi nhờ vả Lô Châu, viết tấu chương mời triều đình xuất binh ra viện trợ cho hắn giữ Hạ Châu, thời điểm phụ thân của Lý Quang Duệ - Lý Di Đoản soái vị còn chưa có Đại Tống, lúc đó vẫn là Đường quốc Lý Tòng Hà cầm quyền, Lý Tòng Hà nhận thân phận Lý Di Đoạn, từ đó về sau trải qua Tấn quốc thạch kính đường, Thạch trọng quý, Hán quốc Lưu Tri Viễn, Chu quốc Quách Uy, Sài vinh và Tống quốc của đại ca hắn, năm quốc gia bảy vị Hoàng đế trên thực tế, dù Lý Quang Duệ đắc vị bất chính thành chủ nhân của Hạ Châu, Triệu Quang Nghĩa chắc chắn vì tây vực có lão nhân lưu lạc không quyền không thế và Lý Quang Duệ trên thực tế bá chủ phản bội mới là lạ.

Song vì để bên Khiết Đan làm thân tín của hắn, là người bày mưu đặt kế cho hắn, vì sai lầm phán đoán Tống ở tây vực có thể mở rộng thực lực, hắn không thể làm khó Dương Hạo nhất cử nhất động được, thậm chí không thể công khai làm ra thái độ ủng hộ Lý Quang Duệ Hạ Châu, Triệu Quang Nghĩa chỉ có duy nhất một khả năng làm đó là giữ lại tấu chương không phát và thông qua thủ đoạn xảo quyệt đưa phản ứng của mình tiết lộ cho người của Hạ Châu Lý Quang Duệ ở Biện Kinh biết. Sợ rằng Lý Quang Duệ biết tin này còn sớm hơn hắn, nhưng hắn nhất định phải tỏ thái độ bình tĩnh, để Lý Quang Duệ biết lập trường của hắn, từ đó mà kiêng dè dấy lửa chiến tranh, để khói báo động tràn ngập tây bắc.

Tình hình tây bắc thối nát đến bây giờ, đã có tí rời khỏi tay hắn, vốn đủ để hắn đau đầu nhức óc rồi, trong thành Biện Lương cũng không thể yên tâm được. Đứa con mà hắn yêu thương nhất cuối cùng lại nảy sinh suy nghĩ ngờ vực phụ thân của nó, đến giờ vẫn khăng khăng một mực hủ độc trung hiếu nhân nghĩa. Nghiệp chướng này, lão tử ngồi Giang sơn, sớm muộn không phải là ngươi nữa? Lão tử của mình không đến giúp đỡ, cả ngày chỉ đố nhăng đố cuội quấy rầy đại bá hắn, ta sao có thể sinh ra một tên nghiệp chướng vậy chứ.

Triệu Quang Nghĩa càng nghĩ mặt càng tối sầm lại, đúng lúc này “keng keng keng…” một hồi chuông vang lên ở đâu đó truyền vào tai hắn, Triệu Quang Nghĩa đang phiền não khẽ ngẩng đầu nghe ngóng, chỉ thấy cháu gái chắp tay thi lễ, mái tóc đen đã mất đâu, đỉnh đầu có sáu chấm trắng. Nàng khẽ đứng dậy, mặc bộ áo xám, đích thị tăng nhi, nhận vòng tràng hạt, cúi mặt, tiếng chuông vang lên trong làn khói, dường như là một thế giới khác, Triệu Quang Nghĩa càng cảm thấy ảm đạm.

Dù hắn mong được trở thành Hoàng đế, ra độc thủ với Hoàng huynh nhưng tình yêu thương của hắn đối với Vĩnh Khánh là thật đáy lòng, trong số những đứa con của Hoàng huynh, thì đứa nhỏ Vĩnh Khánh này là đứa mà nhị thúc yêu thương nhất. Bỏ qua sự đề phòng hậu nhân của Hoàng huynh, đồng thời cũng là vì quý đứa nhỏ này nhất, Triệu Quang Nghĩa có ý không muốn thân thiết với Tiểu Vĩnh Khánh nhưng từ ngày nàng còn dùng tã đến những tháng ngày nàng biết nói học chữ, và đến giờ trở thành một đại cô nương yêu kiều đáng yêu, hắn là thúc phụ, song luôn coi nàng là đứa con mình, tình cảm ấy sao có thể dễ dàng bỏ qua?

Giờ vì cái chết của phụ hoàng, mạng của nương nương, nàng nản lòng thoái chí, rời bỏ chốn hồng trần, Triệu Quang Nghĩa chưa bao giờ cảm thấy tất cả những điều này là do mình tạo nên, nhưng nhìn đứa cháu mà mình thương yêu nhất đi đến bước đường ngày hôm nay, hắn không khỏi xót xa.

Vĩnh Khánh công chúa giờ đã thành thiền sư, khẽ nhận ba que hương, tiến đến ngọn nến và châm, sau đó đem que hương cắm vào bát hương rồi lui về sau, hai đầu gối quỳ trên đệm cói, khẽ gõ mõ.

Triệu Quang Nghĩa nhìn thấy Vĩnh Khánh kính lễ Phật rồi lại nhìn lên ba que hương cắm ở trên bát, làn khói hương tỏa ra như ẩn như hiện, rồi bỗng nhiên hắn nhìn thấy đám phế tích ở Lũng tây quận công phủ.

Lý Dục chết rồi, chết trong hỏa hoạn rồi.

Hắn đã hạ chiếu ban cho Lý Dục chức thái sư, truy phong tước hiệu Việt vương, rồi lấy nghi lễ Vương tước mai táng về tới Lạc Dương, những người trên đường hộ táng cũng được ban thưởng, lễ tang Lý Dục để ba ngày. Một quân thần, đặc biệt là vong nước hàng quân, làm như vậy là trước nay chưa từng có, khắp thiên hạ đều biết tin: Lý Dục chết.

Nhưng trong lòng Triệu Quang Nghĩa biết sờ sờ rằng Lý Dục chưa chết, hài cốt Lũng tây quận công phủ, người trong nhà đều không thấy đâu. Không những là cả nhà Lý Dục không thấy, đến Từ Đãi, Tiêu Nghiễm và mấy thân tín của Lý Dục ở Nam đường cũ cũng không thấy đâu, gia quyến của họ cũng không tìm được một ai. Theo căn cứ báo tin thì hôm đó Lý Dục mở tiệc chiêu đãi cá vị quân thần và gia quyến, sau đó họ mất tích luôn theo làn khói hỏa hoạn.

Triệu Quang Nghĩa nào dám để cho thiên hạ biết rằng vua của vong quốc mang theo một đoàn bao nhiêu người biến mất ngay trước mặt hắn, hắn vừa báo tang với thiên hạ, làm tang sự, tung tin Lý Dục chết, vừa phái người phong tỏa khắp các đường giao thông yếu đạo, ngầm hỏi điều tra, nắm được tung tích những người này, nhưng nửa tháng đã trôi qua, vẫn chẳng có tin gì.

Nếu như chỉ có một người chạy thoát thì cũng có thể coi như là mò kim đáy bể, nhưng hẳn một đoàn không biết bao nhiêu người bỏ trốn thì có thể trốn ở đâu, bỗng dưng mất tăm mất tích được thực vô lý, Lý Dục là quân vương của vong quốc làm sao có bản lĩnh đó được? Thành Khai Phong hắn bỏ bao công sức xây dựng mười năm, giờ đã có thể điều khiển được tất cả những nhân vật tiếng tăm, nhiều người như vậy ung dung chạy đi, trong ngoài thành, khắp các thành trì, những nơi hoang vu hẻo lánh cũng đã tìm đều không thấy tung tích của họ đâu, một hàng thần không thông thuộc Biện Lương mà trốn khỏi được, điều này thực vô lý.

Hoàng thành ti thống lĩnh bị mất chức điều tra và bị quăng vào đại lao, những tên có tội danh khó nói không biết bắt bao nhiêu nữa, nhà lao Biện Lương đều chật kín người vẫn không tìm ra manh mối gì, Triệu Quang Nghĩa lúc này mới điên lên, chửi: “Là tên chó nào thần thông quảng đại giúp chúng, Lý Dục…rốt cuộc ngươi ở đâu?”

*******

Trong ngự hoa viên Hoàng gia, Đới Luân đốc công cười hì hì nói: “Lưu công công, ngài đi nhé”.

Tên thái giám mặt dài như cái bơm ừ một tiếng, nhấc chân lên càng xe, tiểu thái giám bên cạnh vẫy tay ra hiệu, xe chuyển bánh lộc cộc trên đường đất trồng rau, phía sau có sau chiếc xe đi theo, đi về phía Hoàng cung đại nội.

Đới Luân nhìn theo xe tên thái giám rời đi xa, lúc này mới quay người đi về phía nhà ở của mình, được một lúc thì nhấc cái bọc đồ lớn ra, nhìn ngang nhìn dọc, không thấy ai ra vào, lúc này mới đi nhanh.

Ở đây là đất trồng rau của Hoàng gia, con đường phía trước chính là nơi mà Triệu Phổ xâm chiếm lấy viên lâm Hoàng gia rồi kiến tu, sau khi nhận được trọng trách của Quan Gia thì dừng khởi công, giờ vẫn chưa xây xong, vẫn để bỏ dở ở đó, trong tường viện rất yên tĩnh, người ngoài không dám vào, những tên trồng rau cũng đã chuẩn bị chuồn khỏi đây, cho nên rất lạnh lẽo. Làm một tên đốc công rau, Đới Luân nắm rất rõ tình hình ở đây, dù thế nào hắn vẫn cố tránh đi đường lớn, đi vào chỗ bờ ruộng trồng rau.

Sau đất sau là nơi sâu nhất, chính là đất sườn núi nghiêng nghiêng, Đốc Luân đi đến đó, quay đầu nhìn ngó, thấy không có ai đi theo, hắn vội đi nhanh hơn, vòng qua mấy cây đại thụ, đám cỏ um tùm có một cái cửa gỗ, nhấc cánh cửa lên, đất lộ ra. Đới Luân vác túi bao đi vào. Đây là cái hầm rau, mùa đông thường cất trữ rau, giờ mới có đầu tháng tám, thời tiết nóng nực cái hầm để đó không dùng.

Đới Luân thắp nến đi vào trong hầm, rồi quay sang bên cầm chiếc đèn lồng thắp sáng cho nó rồi đi vào bên trong, bên trong là một cái giá, góc tường có mấy cây tạp nham và mấy cây thang, có mùi mốc meo. Có thông với hầm trên, nên cũng có tí ánh mặt trời, song trong hầm thì đâu tránh khỏi u ám. Đi càng sâu vào bên trong, Đới Luân lại quay đầu lại nhìn, khẽ gõ nhẹ ba tiếng vào tường, hai dài một ngắn.

Nghe thấy động tĩnh, tiếng gõ của Đới Luân lên tường gỗ, cửa kêu kẹt một cái, bên trong có giọng của một tên hán tử: “Lão Đới”.

Đới Luân đưa cái bọc đó qua, khẽ nói: “Tất cả thái bình, bên trong còn cần gì…”

Hắn vừa nói đến đây, một người mặc áo xanh chui ra, tức giận nói: “Những ngày tháng thế này, người không ra người, ngợm không ra ngợm, ta không thể chịu nổi nữa, các ngươi khi nào thì đưa chúng ta đi đây?”

Một tên dáng người hơi béo, tóc rối bù, vận quần áo bình thường song khí phách lại bất phàm, chính là Lý Dục tên mà Triệu Quang Nghĩa săn tìm bấy lâu.

Đới Luân cười bồi nói: “Xin lỗi, bây giờ thì không, vì sự an toàn của ngài, ngài còn cần ở lại đây một tháng nữa, tin đồn đã dịu đi nhiều rồi, nhưng người của các người đông vậy, từng nhóm ra đi cũng không thể chốc lát được, qua tháng sau thì sẽ an toàn hết thảy”.

“Một tháng? Còn cần một tháng nữa?” Lý Dục tức giận mắng: “Cả ngày chỉ ăn gạo tẻ, dưa muối, chăn màn gối đệm thì bẩn tưởi, lại còn không có rượu mà uống, ngày qua ngày chẳng biết đến sáng tối thế nào, người sống ở đây cũng phát điên, ta không phải là phạm nhân của các người, sao có thể đối xử với ta vậy chứ?”

Đới Luân tính tình ôn hòa, cười hắc hắc nói: “Ngài cũng phải thông cảm, chúng ta chẳng có cách nào khác cả, nơi này là nơi an toàn nhất dành cho ngài rồi, vì để tránh lộ tin tức, tiểu nhân đành đi ra ngoài mua chút gạo tẻ dưa muối, muốn ăn những mỹ vị cao sang, giờ cũng không thể làm nổi”.

Lý Dục mắng: “Nơi này không phải chỗ cho người ở, ta không thể chịu nổi thêm giờ nào nữa, ta phải đi…”

Lúc này Từ Đãi và Tiêu Nghiễm cũng chui ra, Từ Đãi ho khan một tiếng, rồi cùng với Tiêu Nghiễm khuyên giải Lý Dục đang nổi giận đi vào buồng, đợi yên trở lại, Đới Luân mới khẽ lạnh lùng nói: “Nhìn hắn cho cẩn thận, đừng có để hắn muốn làm gì thì làm, tên này…hừ hừ”.

Đại hán họ Đường cười ha ha nói: “Yên tâm đi, không sao hết, hắn ngày nào chả bực tức, chắc muốn ra ngoài cho người ta tóm gọn, đến cái mạng của hắn còn không đáng giá, lợi hại thế nào hắn cũng hiểu được, song cơm ngon áo gấm nó quen rồi, người ta là nhân vật cao quý cơ mà phải chịu những ngày tháng thế này, xổ ra vài câu bực tức, ngươi cũng chớ để bụng làm gì”.

Đới Luân kéo tên họ Đường đó, hai người đi xa một chút rồi lại thì thầm to nhỏ, Đới Luân mới nhấc đèn lồng đi qua cửa gỗ rồi ra ngoài, tên họ Đường đứng ở trong chỗ sáng trong hầm ngẩng đầu nhìn bầu trời, rồi bỗng xoay người, như một con báo trở về phòng, tất cả lại trở nên yên lặng…

Lại nửa tháng nữa trôi qua, nỗi phiền não của Triệu Quang Nghĩa đều chưa được giải quyết xong, điều khiến hắn đau đầu nhất chính là chưa tìm thấy dấu vết của Lý Dục, kết quả mà Hoàng thành ti nghe ngóng được, Đường quốc truyền tin đồn quốc chúa chưa chết, ngấm ngầm phản Giang Nam, đông sơn tái khởi, Triệu Quang Nghĩa không thể yên tâm được, phái Phan Mỹ đi thành Kim Lăng tọa trấn khiến Ngô Việt vương Tiền Thích và bình hải quân tiết độ sứ Trần Hồng Tiến vừa mới hiến đất quy hàng điều một đạo nhân mã vào Giang Nam, nghe theo sự điều khiển của Phan Mỹ, đồng thời để trấn an Trần Hồng Tiến, lại gia phong hắn là võ ninh quân tiết độ sứ, cùng đàm chương sự.

Cùng lúc đó phái rất nhiều mật thám vào Giang Nam, truy tìm tung tích Lý Dục.

Hôm nay, hắn vừa mới kết thúc triều chính về đến điện Văn Đức, ăn chút điểm tâm, uống chén trà, cầm tấu chương đem ra phê duyệt, một tên Hoàng thành ti tiến đến nói: “Quan Gia, Hạ Châu có một tin gấp báo”.

Triệu Quang Nghĩa nghe thấy tiếng động, vội bỏ tấu chương xuống nói: “Mang đây xem xem”.

Vị quan kia vội mang mật thư dâng lên, Triệu Quang Nghĩa mở ra xem cẩn thận, cười ha ha, mấy ngày nay mặt mày hắn lúc nào cũng nhíu lại, giờ đã được giãn ra, trong mật thư nói, Hạ Châu Lý Quang Duệ được tin Dương Hạo chiếm thành Ngân Châu, muốn mau chóng dẫn binh đi phạt, chỉ là lúc này Thổ Phiên, Hồi Hột luôn chiếm món béo, cục diện tác chiến hai mặt, không có kẽ hở mở tác chiến ba mặt, nhưng Đường huynh của hắn Lý Quang Sầm vẫn còn sống, hơn nữa làm Hoành Sơn tiết độ phó sứ, nhận Dương Hạo làm nghĩa tử, tin Đảng Hạng Thất Thị phản bội Lô Châu truyền đến tai hắn, Lý Quang Duệ thì không giữ được bình tĩnh.

Uy hiếp của Thổ Phiên và Hồi Hột của Lý Quang Duệ lại không bì kịp Lô Châu Dương Hạo, Thổ Phiên và Hồi Hột đánh như vậy, rất khó dao động thống trị của hắn, mà Dương Hạo lại nhanh chóng từ bậc tám lên bậc bảy, đây là điều hắn không thể tha thứ được, Lý Quang Duệ đã quyết định không tiếc chi phí, dù cắt đất cầu hòa, cũng cần chiến đấu với Thổ Phiên và Hồi Hột, tập kết binh mã chiến với Lô Châu.

Có được tin này, Triệu Quang Nghĩa vui mừng vô cùng, vẻ mặt tươi cười nhìn mật thư, nhìn đi nhìn lại tính toán một hồi lâu, rồi gọi đương quan tới dặn dò: “Nghĩ cách lộ ra tin tức cho Lý Quang Duệ ở Biện Lương, nhớ lấy làm cho tốt tí, chớ để bọn họ biết được Trẫm có ý tiết lộ cho họ biết”.

“Quan Gia xin yên tâm”. Viên quan này được sùng ái, khi Quan Gia tinh thần không tốt, càng hận Hoàng thành ti ra đường rẽ, đến đại thống soái của họ đều khóa bỏ ngục, giờ thấy Hoàng đế tinh thần hòa hữu, mắt hắn như muốn rơi lệ xuống.

Triệu Quang Nghĩa nói: “Trẫm biết tháng hai cần phát binh, thảo phạt Bắc Hán, nghĩ cách tiết lộ cho người của hắn biết, nhớ lấy, nhất định cần để cho chúng biết, Trẫm đến lúc đó sẽ điều động binh mã Lân Châu, Phủ Châu, Lô Châu cùng phạt Hán quốc”.

“Thần tuân chỉ”. Viên quan đó vội đáp lời, thấy Triệu Quang Nghĩa mỉm cười vuốt râu, không có lời nào dặn dò nữa, vội thi lễ rút lui.

Viên quan ấy vừa mới đến cửa điện, thì gặp Tống Kỳ và Hồng Lư Tự ở đông các môn cùng với Tiêu Hải Đào đi cùng vào điện, vội tránh sang một bên, nhường cho họ vào điện, rồi mới luồn đi ra. Tống Kỳ vừa vào tới cửa điện đã hô to: “Quan Gia, Hồng Lư Tự nhận được báo tang Khiết Đan, Hoàng đế Khiết Đan Da Luật Hiền băng hà rồi”.

“Cái gì?” Triệu Quang Nghĩa ngẩn người không ngờ vừa nghe được tin tốt giờ lại nghe tin tốt nữa, chẳng lẽ là vận đã đến? Hắn vui mừng lộ rõ trên nét mặt hắn nói: “Da Luật Hiền chết rồi ư? Giờ ai làm tân Hoàng đế?”

Tống Kỳ nói: “Cái này tạm thời chưa định, Hoàng Hậu Tiêu Xước nắm triều chính, tạm thời vẫn quản lý được, trừ phi bà ấy sinh hạ nữ nhi, nếu không thì, Hoàng tộc Khiết Đan nguyên khí đại thương, trước mắt không ai dám chiếm ngôi vị Hoàng đế cả”.

“Á”.

Triệu Quang Nghĩa thốt lên và hiểu ra nói: “Đúng vậy, Tiêu Xước đã có thai, nếu bà ta sinh nữ nhi, hắc hắc, cơ hội 50/50, ha ha…”

Nghĩ đến đây, Triệu Quang Nghĩa nhướn mày cười nói: “So sánh hai chuyện hỉ này, Lý Dục sống hay chết thì có là gì với hắn nữa, Lý Dục chả là gì, huống hồ bây giờ, Lý Dục hắn làm được Câu Tiễn Mộ Dung xông ngầm kiêu hùng?

Triệu Quang Nghĩa đi nhanh qua điện, chuyển hai vòng, rồi dừng bước nói: “Lệnh Lữ Từ Khánh, lệnh sứ đoàn phó phúng viến Bắc quốc”.

Tiêu Hải Đào nói: “Thần tuân chỉ”.

Triệu Quang Nghĩa lại nhìn sang chỗ Tống Kỳ, lạnh lùng nói: “Điều động người lanh lợi từ Hoàng thành ti, hành sự tùy hoàn cảnh”.

Tống Kỳ tay đúc vào tay áo, khom người nói: “Thần tuân chỉ”.

Đợi hai người ra khỏi điện, Triệu Quang Nghĩa mặt mày hớn hở, u buồn mấy ngày nay đều bị thổi bay, Da Luật Hiền khi vẫn còn giữ ngôi, người Khiết Đan vì tranh giành ngôi vị Hoàng đế mà chém giết nhau, giờ Da Luật Hiền chết rồi, Khiết Đan tất nhiên tái khởi nội loạn, loạn bên phía tây, loạn bên bắc, thiên hạ đại loạn, kế hoạch thống trị của hắn có khả thi rồi!

 Quyển 11: Cung Giương Như Trăng Tròn

Chương 440: Xuân sắc vô bờ.

Ở quê.

Đường to lối nhỏ ở Ngân Châu Dương Hạo đều thông thuộc, và điều khiến hắn đang khổ tâm nhất chính là khôi phục lại cái phồn vinh của thành ngày xưa.

Đêm đã khuya, tuyết rơi dày, Dương Hạo dẫn theo một đám than binh, tự mình đi tuần xung quanh thành một lượt rồi mới quay về phủ.

Trong nhà, những ngọn đèn lớn nhỏ đã tắt hết, chỉ còn leo lét ánh sáng từ căn phòng của phu nhân. Dương Hạo mỉm cười, cởi áo khoác đưa cho Mục Vũ, giũ giũ đống tuyết bám vào giày rồi tiến về phía có ánh đèn sáng.

Mấy phu nhân đã ngầm hiểu với nhau, trừ khi có ý chỉ đặc biệt của Dương Hạo, còn nếu không thì các nàng cứ thay nhau luân phiên mỗi người để đèn sáng một hôm chờ hắn về. Tuy họ chưa từng nói rõ với Dương Hạo điều này, nhưng Dương Hạo cũng phát hiện ra bí mật này nhanh chóng, chẳng qua là cái đèn lồng đỏ treo cao thôi mà, cái bí mật bé xíu này làm sao giấu nổi chàng.

Đội tuyết đi xuống tận phía cuối hành lang, nơi có căn phòng đang tỏa ra một hơi ấm khó tả. Trong phòng ấm như giữa mùa xuân, Diễm Diễm đang ngồi dưới đèn, một tay cầm bút, một tay cầm bàn tính, tính toán sổ sách, dê bò, lương thực, thuế má. Tiếng lách tách của bàn tính vang ra nghe rõ mồn một, cùng với tiếng tuyết đang rơi bên ngoài của đêm tĩnh mịch tạo thành một thứ cảm giác thú vị.

Vừa nhìn thấy Dương Hạo về, Diễm Diễm vội ghi lại mấy con số rồi hạ bút xuống chào đón hắn. Mùi thơm ấm quấn lấy người hắn, đôi tay ôm chặt vào cổ, Dương Hạo còn chưa kịp nói gì thì đôi môi mềm mại ấm áp của Diễm Diễm đã đặt trên môi hắn.

“Úi chà, cả người đầy tuyết rồi, tuyết rơi nhiều thế sao, cẩn thận kéo bị cảm lạnh, mau thay quần áo ra đi”.

Bên ngoài dù tuyết rơi dày, lạnh cắt da cắt thịt nhưng trong phòng lại hết sức ấm áp, lửa còn tỏa ra mùi thơm nhẹ ngây ngất lòng người. Đường Diễm Diễm mặc một bộ đồ màu đỏ hết sức nhã nhặn, bó sát nơi cánh tay, kéo dài sát đất, đúng là một bà chủ nhà. Chiếcáo mỏng không che nổi đường cong quyến rũ nơi người nàng, chiếc đai lưng quấn chặt vòng eo thon như ngọc như ngà.

Tấm thân nóng bỏng như vậy ôm ghì lấy người Dương Hạo đang lạnh như băng, nàng vội vã cuống quýt buông hắn ra xuýt xoa. Dương Hạo cười hà hà nói: “Ta vừa mới cởi áo khoác ra, hôm nay quả thật tuyết rơi dày quá”.

Diễm Diễm giúp hắn giũ tuyết ra khỏi đầu và vai, quay ngươi vào buồng lấy dép đi trong nhà cho hắn, thân thể nàng mềm mại trong suốt, cúi khom người như trăng tròn trước mặt Dương Hạo. Dương Hạo nhìn ngắm mái tóc đen óng của nàng, ngắm cái cổ tròn trịa đầy đặn sau làn áo, dường như bên trong nàng không mặc áo lót. Cơ thể hắn như nóng rực lên, giơ tay ôm chặt lấy tấm eo thon mềm của nàng.

Diễm Diễm mềm nhũn trong tay hắn, hai tay đánh rơi đôi dép trong nhà xuống đất, nhẹ nhàng nói: “Dương ca ca, thay quần áo trước đã…”

Đôi tay to của Dương Hạo đã thò vào bên trong mân mê đôi nhũ hoa mềm mại, nắm chặt một bên vú. Diễm Diễm quay đầu lại nhìn như trách móc, rên rỉ nói: “Được rồi mà…”

Tuy giọng nói lạnh lùng, nhưng một tay của nàng lại đặt trên tay của Dương Hạo, khiến hắn càng nắm chặt hơn.

Dương Hạo ôm chặt eo nàng, đôi bàn tay to dịch xuống dần rồi nhẹ nhàng đặt nàng lên giường, tự mình cởi bỏ áo ngoài và nhẹ nhàng nằm lên trên người Diễm Diễm. Hắn hôn lên đôi môi đỏ như quả anh đào chin của nàng, Diễm Diễm mỉm cười hôn hắn, mặc cho hắn hôn lên mắt, lên cổ, hòa nhịp cùng những động tác của hắn.

Áo lót được cởi ra, lộ ra đôi gò bồng đảo mềm mại, trong suốt. Đôi vú đẫy đà dần cứng lại và dựng lên, hai đầu vú rất nhỏ giống như hai hạt đậu trong bánh màn thầu, đẹp động lòng người.

Đường Diễm Diễm một tay nhẹ nhàng vờn quanh cổ hắn, rồi trườn nhẹ xuống dưới bụng hắn, cầm nắm vuốt ve, hơi thở bắt đầu dồn dập hổn hển.

Căn phòng sau một hồi tràn ngập tiếng ê a và hơi thở dồn dập đã trở lại yên lặng. Dương Hạo vẫn đang nằm trên Diễm Diễm, tay đặt ở mông nàng, vuốt vuốt cái gối nằm mềm mại như lụa. Đường Diễm Diễm thì đôi mắt khép hờ, mặt vẫn còn hồng đỏ, mồ hôi rịn trên trán và trên cánh mũi. Nàng khẽ nhấc eo lên đẩy Dương Hạo nằm sang bên cạnh, thở nhẹ nhàng và ôm chặt lấy người đàn ông của nàng.

Nàng khẽ liếc hắn, chiếc gối hắn nằm đã ướt rịn hơn nửa, Đường Diễm Diễm càng đỏ mặt hơn, dúi mặt vào lòng Dương Hạo, ngón tay đặt nhẹ nhàng trên mắt hắn, xoa xoa nói: “Chàng ấy à, đúng là thân con lừa. Vừa mới quay về đã thế thì lấy sức đâu ra, “giày vò” người ta khiến người ta… vừa yêu vừa sợ…”

Dương Hạo cười ha hả nói: “Bản lĩnh của nàng vốn không thấp, lại có cao nhân truyền thụ cho, haha, không chịu được nổi hả?”

Hắn vừa nói vừa nhẹ nhàng kéo Diễm Diễm vào lòng, kéo chăn đắp kín người cả hai. Diễm Diễm rất tự nhiên mà quay người, cúi xuống phía ngực hắn cắn nhẹ nhẹ. Rồi nàng rời khỏi ngực hắn, cặp mắt long lanh nói:” “Không thể chịu được đâu, đêm nay chàng chỉ thuộc về thiếp thôi, không cho đi đâu hết”.

Tuyên bố chủ quyền xong, Diễm Diễm lại dịu dàng cười quyến rũ: “Chàng có thói quen cái gì mà song tu công pháp, đến Oa Oa cũng chẳng thể chịu nổi, thiếp nào có phải là đối thủ của chàng? Có điều… song tu song tu, kể cả là song tu đi nữa thì sao chàng không dạy cho bọn thiếp? Chỉ lo vui sướng cho bản thân thôi”.

Dương Hạo tát yêu nàng ta một cái rồi cười đáp: “Nàng không sướng sao? Vừa nãy còn nói to nói nhỏ cái gì mà đòi chết với không chết?”

“Thôi đi nào”. Diễm Diễm xấu hổ vỗ ngực hắn một cái. Dương Hạo ôm chặt nàng, nhẹ nhàng vuốt tóc nàng, nói: “Sư phụ đến rồi đi vội vàng, chỉ dạy được có một chút, dẫu sao cũng không phải là cái để cho các nàng luyện mà. Đợi có cơ hội ta sẽ đi thỉnh giáo sư phụ, nếu không sợ rằng sẽ làm hại đến cơ thể nàng thì không thể vui hết mình, đúng là…”

“Hừ! Nói đi nói lại cũng vẫn là vì bản thân chàng”. Diễm Diễm hờn dỗi cắn hắn một cái. Rồi nằm dịch lên trên cạnh hắn, hai chân quấn chặt lấy hắn, mặt áp lấy mặt hắn, nhẹ nhàng hưởng thụ giây phút của riêng hai người, ánh mắt như có nước chảy, cả hai nhẹ nhàng thở như muốn hòa vào nhau làm một.

Rất lâu sau, hắn mới nhẹ nhàng hỏi: “Mỗi ngày đều phải tính toán như thế có mệt không?”

Diễm Diễm ngái ngủ trong lòng hắn, mơ hồ đáp: “Oa Oa quản lý của hàng, gia súc, ruộng nương, hiệp thương, thiếp chỉ là trợ giúp thôi, chỉ là tính toán sổ sách, chẳng bận lắm”.

Nàng suy nghĩ một lát rồi ngẩng đầ lên, chần chừ nói: “Có điều…, chúng ta như thế này… có được không? Thực ra Phạm Tư Kỳ, Lâm Bằng Vũ, Từ Huyễn, Tiêu Nghiễm bọn họ đều hết sức trách nhiệm với việc kinh doanh, thẩm tra từ trước đến nay vẫn không phát hiện ra sai sót nào. Tục ngữ nói nghi ngờ thì không dụng nhân, dụng nhân thì không nghi ngờ. Chàng cho bọn thiếp đích thân nhúng tay vào những chuyện này có phải là không tin tưởng bọn họ quá không? Phạm Tư Kỳ, Lâm Bằng Vũ bọn họ không có gì, nhưng thiếp thấy… Từ Huyễn, Tiêu Nghiễm bọn họ có vẻ không bình thường lắm”.

Dương Hạo cười nói: “Quen rồi sẽ thành tự nhiên. Họ hiện giờ không thuận mắt, đợi bọn họ quen rồi sẽ tốt thôi. Không phải là ta không tin tưởng bọn họ, mà là muốn cho các nàng quản lý, thay đổi những thói quen mà bọn họ mang từ Giang Nam đến đây”.

Dương Hạo ngửa mặt nhìn bức trướng rồi nói: “Phụ nữ Tây Bắc, kinh thương, làm công, chăn thả, thậm chí là cưỡi ngựa bắn tên trên chiến trường… tất cả mọi thứ đều làm được. So với phụ nữ Trung Nguyên thì vốn là giỏi hơn. Đất Tây Bắc vốn đã quen ba đời di cư đến bộ tộc người Hán, cũng thành thói quen rồi, nhìn không thuận mắt, nhưng cũng không nhiều. Cái này thành quy luật rồi, ta không thể nhân nhượng bọn họ, cho bọn họ cái thói quen cũ của vùng Tây Bắc. Diễm Diễm, Tây Bắc không bằng được với Trung Nguyên, ở đây dân số thưa thớt, nếu như điều này không để cho phụ nữ làm thì cũng không để cho phụ nữ làm. Trời sụp mất một nửa rồi, người nào mà chẳng phải động tay đến?”

Khi đó địa vị của phụ nữ Trung Nguyên không bằng Nam Tống đến tận Minh Thanh, kể cả ở Trung Nguyên thì địa vị của phụ nữ Trung Nguyên trong gia đình cũng rất thấp. Ở khu vực phía Tây và Bắc, lời nói của phụ nữ tuy không có trọng lượng bằng đàn ông, nhưng so với phụ nữ Trung Nguyên thì con cao hơn gấp bội. Diễm Diễm nghĩ vậy bèn gật đầu nói: “Uhm, những lời này quả thật có thể giải quyết một phần rộng lớn, vấn đề dân số không đủ, chàng nói xem phải làm sao, dẫu sao thì người ta cũng không phản đối đâu”.

Dương Hạo cười ha hả nói: “Đông Nhi bụng đã to rồi, ta không dám bắt nàng ta lao động. Có điều ta cũng đã xây dựng một đội nữ binh rồi, đợi Đông Nhi sinh xong, đội nữ binh cũng sẽ được thành lập, trừ những lúc khẩn cấp sinh tử nếu không ta cũng sẽ không để các nàng ấy ra chiến trường. Bọn họ chẳng qua chỉ là trông giữ thành trì, bảo vệ trật tự… Việc ấy nữ binh làm được, hơn nữa bọn họ cũng không ngang ngược như nam nhi, tâm tư cũng kín đáo hơn nhiều…”

Hắn còn chưa nói hết nhưng cái tên Đông Nhi được nhắc đến đã khiến Diễm Diễm phải suy nghĩ. Diễm Diễm bò lên người hắn, nũng nịu nói: “Chàng còn nói nữa, tỷ tỷ sắp sinh rồi, bụng người ta vẫn còn chưa có gì, chàng thiên vị”.

Dương Hạo không biết nên khóc hay nên cười: “Không phải thế sao? Cái đó cũng trách ta hay sao? Nàng không sinh thì ta có cách gì?”

“Thiếp không biết, chàng là người đàn ông của thiếp, thiếp không sinh được không tìm chàng thì tim ai? Thiếp cũng muốn sinh cho mình một cục cưng”.

Đường Diễm Diễm càng nói càng hưng phấn, hai mắt sáng lên ánh sáng của tình mẫu tử: “Thiếp muốn chàng cho thiếp”.

Dương Hạo giật mình nói: “Không phải chứ? Nàng…nàng không được…”

“Có gì là không được, chàng dám khinh thường bản cô nương”. Đường Diễm Diễm dùng sức đứng lên, lấy tay kéo Dương Hạo: “Đừng có giả ngơ nữa, mau lên đi”.

Dương Hạo lười nhác vòng tay ra gối đầu, nói: “Bản vương gia mới không bị mắc lừa, một lát nữa nàng lại đòi tha cho nàng, lão gia ta đây lại phải quấn chăn đi quấy nhiễu Oa Oa, Diệu Diệu, trời lạnh thế này ta không muốn ra ngoài đâu”

Diễm Diễm lấy lòng nói: “Vậy…người ta dùng cái mà chàng thích nhất…”

“Gì?”

Diễm Diễm ấp a ấp úng nói: “Là…là cái cách gì mà giống cẩu như chàng nói ấy…”

Dương Hạo nhẹ lắc đầu, Diễm Diễm lại cắn chặt môi nói: “Vậy… lần sau thiếp đồng ý với chàng…” Tiếng nàng trở nên nhẹ bẫng, nói như rót mật vào tai Dương Hạo khiến mắt Dương Hạo sáng lên: “Thật chứ?”

Diễm Diễm tức giận đánh hắn một cái: “Đúng là đồ tà đạo, vừa nói thế mắt chàng đã sáng cả lên rồi”.

Dương Hạo cười hà hà nói: “Vậy lần này…” Ánh mắt của hắn nhìn chăm chú vào đôi môi đỏ mọng của Diễm Diễm, Diễm Diễm đã hiểu, nàng đỏ mặt ngồi tại chỗ, hồi lâu sau mới khịt mũi một tiếng. Dương Hạo vui thú hoan hô lên một tiếng, mở tung chăn ra, trần như nhộng nhảy xuống, đi về phía góc tường.

Diễm Diễm mái tóc dài như thác nước, khẽ liếm môi, liếc nhìn thân hình đẹp đẽ cường tráng của hắn, ánh mắt long lanh, bước đến…

Trời đã sáng, Dương Hạo mở to mắt, tiếng tuyết rơi bên ngoài đã dừng. Cúi đầu nhìn xuống, Diễm Diễm vẫn đang say giấc, mặt ửng hồng, xinh đẹp như đóa hải đường, khóe môi còn nở một nụ cười ngọt ngào. Hắn nhẹ nhàng rời khỏi giường, đang muốn mặc quần áo đi vào trong sân luyện kiếm thì nghe thấy tiếng gõ cửa nhẹ bên ngoài, Mục Vũ hạ giọng nói: “Đại nhân, đại nhân…”

Dương Hạo vội vàng đứng lên, Diễm Diễm như có bản năng thò tay ôm chầm lấy cổ hắn, đột nhiên tỉnh dậy, thấy Dương Hạo đang mặc quần áo, không nén được liền hỏi: “Trời mới tờ mờ sáng, vẫn còn sớm mà”. Nàng thức dậy giúp Dương Hạo mặc quần áo, rồi chợt thấy người không còn chút sức lực nào, nàng vội năm trở lại, tức giận nói với Dương Hạo: “Đều là do chàng giày vò thiếp, đồ xấu xa”.

Dương Hạo vừa mặc quần áo vừa lắc đầu nói: “Tiểu nhân và nữ tử khó dạy, không phải ta ức hiếp”.

Diễm Diễm trừng mắt sẵng giọng: “Chàng nói cái gì? Được, ta sẽ đi nói với Đông Nhi tỷ tỷ, còn có cả Oa Oa, Diệu Diệu nữa”.

Dương Hạo đã mặc xong quần áo, đến bên giường cười khanh khách rồi hôn lên má Diễm Diễm: “Đi đi, nói cho bọn họ biết, tiểu nha đầu xấu hổ tự mình không biết lễ tiết, sáng sớm dậy không nổi giường, lại còn oán trách quan nhân, xem bọn họ có cười nàng không”.

Diễm Diễm tức giận, cắn chặt răng nói: “Ta muốn bỏ nhà ra đi, ta muốn đi Nhạn Môn quan tìm Lữ tổ, học được bản lãnh trở về trị tội chàng”.

“Nói là phải làm nhé, đừng có đãi tai” Dương Hạo đặt tay lên ngực nàng ở ngoài chăn, cười nói: “Ta phải ra ngoài có việc. Nếu như quả thực muốn đi thì nhớ chào nhé, ta sẽ cho người chuẩn bị xe”.

Dương Hạo ra khỏi cửa, chỉ thấy Mục Vũ đã ăn mặc chỉnh tề, đứng bên cạnh là Mẫu Y Khả, tay mang theo áo khoác cừu của hắn. Dương Hạo đón lấy mặc lên người, chỉ trông thấy tuyết ngoài sân đã dày đến cả tấc, đâu đâu cũng chỉ một màu trắng, không nén nổi hỏi: “Có chuyện gì khẩn cấp?”

Mục Vũ nói: “Đại nhân, tối qua xảy ra bão tuyết, đè chết rất nhiều cư dân, còn có nhiều người lưu lạc bên ngoài bị lạnh cóng ngoài đường. Mới sáng sớm Phạm đại nhân, Lâm đại nhân, Từ đại nhân, Tiêu đại nhân đã thay nhau đi tuần quanh thành, bảo tiểu nhân đến báo cáo với đại nhân, có nên nấu cháo cứu tế nạn dân không ạ?”

Dương Hạo thầm thấy xấu hổ, hắn chưa từng làm qua việc này bao giờ, những người này quả thực rất chu đáo. Dương Hạo vội nói: “Tất nhiên là cần. Lập tức mở kho nấu cháo cứu tế. Bản quan lập tức đi thăm dò một phen, xem xem tình hình như thế nào”.

Dương Hạo vội vàng dẫn theo thị vệ chạy ra khỏi phủ. Trên đường tuyết phủ dày, ngựa không đi nổi, hắn đành dắt thị vệ từng bước từng bước đi, trong lòng nghĩ: “Tuyết lớn thế này đối với dân du mục Trung Nguyên thì không có gì là đáng lo, nhưng đối với dân ở đây thì quả là đem lại nhiều hậu quả. Nạn dân trong thành cũng có hạn, nhưng những bộ lạc ở xung quanh bên ngoài thì e rằng khó mà sinh sống được, ta có nên…”

Hắn vừa đi vừa nghĩ, dùng giác quan thứ sáu của mình hắn có thể cảm giác được những ánh mắt của người dân bên đường trong bóng tối dõi theo hắn, hai người mặc áo da đang đứng từ xa nhìn hắn, đi về hướng đầu đường…

***************

Đêm nay tuyết rơi quả thực rất dày, cũng may thời này không còn phát đạt như thời trước nữa nên đa phần mọi người đều tích trữ lương thực, lương khô, không cần phải ra ngoài vận chuyển. Do vậy giá cả cũng không bị leo thang, cũng không tồn tại những vấn đề như tổ chức vận chuyển…, chỉ cần dọn sạch tuyết là có thể thông hành bình thường, chẩn tế cứu dân nghèo để tránh tái lập lại vụ việc nhiều người chết cóng ngoài đường.

Từ Đích cùng Tiêu Nghiễm đều là những người quản lý chính vụ của nhà nước, lại thêm Phạm Tư Kỳ, Lâm Bằng Vũ làm cộng sự, những việc này họ giải quyết trôi chảy. Chỉ có điều việc mở kho của phủ để cứu tế lương thực cần đích thân Dương Hạo hạ lệnh mới xong. 

Dương Hạo đi tuần quanh thành một vòng, thấy công việc dọn tuyết, nấu cháo cứu tế đều đang được cấp tốc triển khai mới yên tâm quay về. Khi hắn quay về đến Đông Thành thì chỉ nhìn thấy Từ Lũ đang chỉ huy dân chúng gia cố nhà cửa, có vài nhà kiến trúc bằng gỗ đang tiến hành tu sửa lại.

Vừa thấy Dương Hạo đến Từ Lũ vội đến nghênh đón, chắp tay nói: “Thái úy”.

Dương Hạo gật gật đầu, hỏi: “Xem ra mấy gian phòng này sắp sập đến nơi hả? Trước nay chưa từng trùng tu bao giờ, bách tính không biết ở đâu? Có cơm ăn không? Đã chuẩn bị chăn và áo bông chưa?”

Từ Lũ nói: “Thái úy yên tâm, bách tính ở đây đã được chuyển tới Trường Khánh tự rồi, lương thực và chăn ấm cũng đã chuẩn bị đủ, không thể để dân chúng bị chết vì đói lạnh đâu ạ”.

Dương Hạo vui vẻ gật đầu, đi song hành bên cạnh hắn, mỉm cười nói: “Đại học sĩ có tài kinh thiên vĩ địa, điều ông đến cái Tây thành nhỏ bé này, làm những việc nhỏ nhặt này quả thực là bạc đãi đại nhân rồi”.

Từ Lũ nói: “Chuyện của bách tính không phải là chuyện nhỏ, có thể làm việc gì cho dân là chuyện đáng vui mừng. Nhưng thái úy bận rộn việc quân lại còn phải đi tuần toàn thành vẫn hỏi han tình hình dân chúng, Ngân Châu có được người như thái úy thương dân như con thật là có phúc”.

Nói đến đây, hắn đột nhiên nhớ đến năm ngoái có trận đại thủy ở Giang Hoài, nhưng quốc vương lại chỉ chăm lo cầm kỳ thi họa, đánh cờ lễ phật, phải chờ đến lúc Triệu Khuông ra lệnh giúp nạn dân gặp thiên tai, hắn mới bắt đầu mở kho cứu dân, hơn nữa không nói bản thân thương con còn chưa đủ, còn mở kho của mình ra dâng cho Triệu Khuông. Trận đại nạn đó xảy ra khiến nước này bị trừng phạt nặng nề, kết quả là những người đó đều có tiền, mua chuộc thái giám, tăng nhân trong cung, rồi giở trò gian lận, khiến quốc vương hiểu nhầm là ý trời, đến khi phóng thích rồi, hai bên so với nhau không khỏi nhẹ thở dài một tiếng.

Từ Lũ và Tiêu Nghiễm từ trước đến nay tuy không đổi họ, nhưng đã đổi tên để tránh tai mắt của triều đình. Dương Hạo dành được Ngân Châu, đang lấy Ngân Châu và Lư Châu dùng núi nối liền liên tục, khi đó tiếng tăm của hắn đã vang lừng, bốn phương hào kiệt, những người lưu lạc ở khắp nơi đều lũ lượt kéo đến, các nhân thủ tụ tập về dưới trướng, nhưng những trưởng giả đều được đề bạt, sắp xếp phái sứ, do đó không có ai không có ai liên hệ bọn họ với Từ Khóa, Tiêu Nghiễm – những quận công đã chết ở Khai Phong.

Dương Hạo tự mình đến xem những nạn dân ở Trường Khánh Tự, thấy bọn họ quả nhiên đã được thu xếp ổn thỏa, cơm áo đầy đủ mới yên tâm ra ngoài, tiếp cuộc khảo sát của mình. Từ Lũ đứng bên ngoài Trường Khánh Tự, trong cơn gió nhè nhẹ thổi, dõi theo bóng Dương Hạo đang đi khuất dần, mãi cho đến khi bóng hắn khuất dần khuất dần…

Lý Dục muốn hắn theo bên mình củng rời khỏi Biện Kinh, Từ Lũ không chút do dự, hắn không có cái tính cách mãnh liệt như Trần Kiều, khi binh lính đến thành hắn thà lấy thân tuẫn quốc cũng không tố hàng thần, nhưng lòng trung thành của hắn với nước Đường đã bị nghi ngờ. Hắn không chủ động xin chết, nhưng n ếu như quốc vương muốn hắn thế nào hắn cũng không tiếc thân mình, nguyện lao vào bể lửa, do vậy, hắn không do dự mà chạy theo Lý

Dục.

Ở trong cung hoàng gia nửa tháng, hắn bắt buộc phải bỏ đi. Nơi đó không phải là nơi hắn có thể ở lâu dài, trong thời gian nửa tháng, sự đề phòng của Biện Lương đã lỏng lẻo rất nhiều, cũng có cơ hội rời khỏi. Cũng sắp đến mùa thu hoạch, vườn hoàng gia có rất nhiều rau cần người tích trữ, nếu tiếp tục trữ nữa e rằng sẽ bị phát hiện.

Bọn họ thuận lợi trốn ra khỏi thành Biện Lương, không ngờ khi vừa mới vào Tây Bắc lại mất cảnh giác để lộ ra chân tướng, bị người ta nghi ngờ là bọn lái thương buôn lậu và bị khám xét. Với thân phận của họ thì nào dám cho người khác kiểm tra kỹ càng, lúc đó chỉ còn mỗi cách đào tẩu. Dọc đường bị người ta truy đuổi theo sát, họ liền tìm chỗ trốn, quốc vương bị một mũi tên cắm vào sau lưng mà chết.

Lòng nhiệt tình của Từ Lũ tan như bong bóng xà phòng, nếu như quốc vương còn sống thì hắn cũng chưa chắc đã khôi phục lại được giang sơn, huống chi Lý Dục giờ đã chết, với kinh nghiệm của Từ Lũ thì hắn biết chắc chắn một điều rằng Giang Nam đã không thể khôi phục lại vị thế rồi. Mặc dù Lý Trọng Ngụ có thể phát huy được tác dụng hiệu triệu những bộ cũ của Giang Nam, nhưng hắn làm gì có uy lực và thân phận như Lý Dục, một thái tử trước nay chưa từng nắm trong tay quyền vị của hoàng đế, cho dù có được sự giúp đỡ của Dương Hạo để phá vỡ sự thống trị của nhà Triệu thì hắn cũng chỉ nhận được một kết quả mà thôi.

Từ Lũ trong triều Đường là đại thần của Lý La lúc sắp lâm chung, cũng là trọng thần trong triều của Lý Dục, nếu như Lý Dục còn sống thì bất kể bất kể là vì danh tiếng sau lưng hay là giữ lễ tiết của một người như hắn thì hắn đều trung thành với Lý Dục, nhưng Lý Dục đã chết rồi, hắn căn bản không có chút gì gọi là trung thành với Lý Trọng Ngụ, hắn cũng cần phải suy nghĩ đến bản thân hắn và gia đình.

Không hề nghi ngờ, bất kể là đồng ý hay không đồng ý, từ nay về sau hắn đều phải trọng vọng Dương Hạo, nếu như muốn chọn giữa Dương Hạo và Lý Trọng Ngụ thì hắn sẽ nghiêng về phía người có binh có quyền, có khí phách như Dương Hạo làm chủ công. Những suy nghĩ này hắn đã từng nói với người bạn thân của hắn là Tiêu Nghiễm, nhưng trước sau hắn vẫn chưa hề nói quyết định của mình. Dương Hạo so với Lý Trọng Ngụ, thậm chí là so với quốc vương đều giống như những bậc minh quân, nhưng… hắn giờ chẳng qua là một người Tây Bắc, hắn có thật sự có cơ xây dựng một quốc gia hay không?

Đứng một lúc lâu, một trận gió lớn nổi lên làm áo hắn bay phấp phới, Từ Lũ run lên một chặp rồi buông tiếng thở dài, đi về phía đường hầm.

 Chương 441: Tân Sinh.

Dương Hạo đi một mình trên đường, phí trước mặt hắn chợt hiện ra một căn nhà to, phía trên có treo biển “Lý Phủ”, còn có vài tên lính canh đứng gác,

Dương Hạo bất giác chậm bước đứng lại xem.

Đây đích thị là nơi ở của Tiểu Chu hoàng hậu và Lý Trọng Trụ rồi, có điều thân phận của bọn họ là điều cơ mật, chỉ có vài trọng thần như Dương Hạo mới được biết, đến ngay cả bọn lính gác cửa cũng không biết thân phận thực sự của họ.

Tại Ngân Châu gia tộc họ Lý rất nhiều, Lý Nhất Đức chính là một gia đình lớn ở Ngân Châu, trên cửa còn treo một tấm bảng lớn, có vài lính canh cửa, điều này không hề khiến người khác chú ý.

Hiện Từ Lũ và Tiêu Nghiễm đã phát huy hết năng lực của bản thân, trở thành hai trợ thủ đắc lực của chủ quản, đối với cương lĩnh của Tây Bắc hai người cũng có cách giải thích rất độc đáo, với chủ trương của hắn cũng tiến hành hoàn thiện, Dương Hạo chỉ là người đưa ra khung, để cho bọn họ chế định lại, sau đó đưa vào thực thi, hiệu quả rõ rệt. Còn về phía Giang Nam, hắn đã phái người lợi dụng tình hình hiện tại mà đi phao tin, hiện tạm thời Lý Trọng Ngụ cũng không thể dấy binh được.

Hắn không ngờ Lý Dục sẽ có thể chết trên đường, hắn biết Lý Dục có thể sẽ chết trong khoảng thời gian là hai năm, nghe đồn là hắn bị trúng tên độc, đau đớn kêu rên, toàn thân co quắp rồi chết. Dáng bộ lúc chết của hắn hết sức thảm hại, nhưng không ngờ mình đã cố hết sức cung chỉ có thể thay đổi được cách hắn phải chết chứ không thể cứu giúp cho cái mạng hắn.

Nhớ tới ngày đó Tiểu Chu hoàng hậu mặc áo tang trắng như tuyết, khóc lóc, Dương Hạo thầm nén một tiếng thở dài. Từ đó đến nay đã ba tháng trôi qua, nghĩ đến dáng điệu bi thảm của nàng, Dương Hạo lại có chút nổi giận, vốn muốn vào phủ để thăm nom cuối cùng lại đành dừng bước. Hắn nắm chặt tay áo, cúi đầu nói nhỏ với Mục Vũ: “Bọn họ đến từ Giang Nam, không quen khí hậu lạnh của phương Bắc, quay về bảo người mang đến ít than củi đặt trước cửa, à, cả thủy sản nữa…”

Mục Vũ “dạ” một tiếng, Dương Hạo liền quay người đi. Vừa đi được vài bước, một chiếc xe chở than củi đột nhiên xuất hiện, phu xe trên xe hô to gọi nhỏ, hốt hoảng thất thố. Con đường này đã có binh sĩ và dân chúng hai bên đường, bọn tiểu nhị đang quét dọn tuyết, trên mặt đất chỉ còn một lớp tuyết mỏng, nhưng rất trơn, xem dáng ngựa đang kinh hãi, giờ muốn giết cũng không giết được rồi.

“Đại nhân mau tránh ra!” Mục Vũ nhảy ra đứng trước mặt Dương Hạo, tức giận nói: “Ngựa nhà ai dám làm hại đại nhân nhà chúng ta, các ngươi…”

Dương Hạo vội né sang một bên để tránh con ngựa đang phi đến. Bọn lính bảo vệ trước sau nhốn nháo cả lên, để lộ ra một khoảng trống, những người đang dọn tuyết bên đường cũng ngẩng đầu lên, mắt lộ ra vẻ dữ tợn, hướng về phía Dương Hạo. Lúc này đây tấm rèm trong xe đột nhiên vén ra, từ bên trong hai thanh đồng được vung ra, có người đang giơ thành sắt lên cao, còn người khác thì rút kiếm, tất cả bọn ọ đều đang liều mạng với mục tiêu trước mắt: Dương Hạo!

Sự việc xảy ra hết sức bất ngờ, thân thủ của thích khách rất cao siêu, cứ cho là đã kịp thời cảnh giác thì bọn thị vệ cũng không kịp nhảy lên phía trước phòng vệ, lại thêm mặt đường trơn ướt, bọn chúng lại đi giày da, tốc độ chậm, trong chốc lát những chiếc chổi đã vung lên trước mặt Dương Hạo, những thanh sắt sáng loáng cũng nhằm hướng cổ hắn mà lao tới, đồng thời một lưỡi kiếm đang tiến thẳng về phía bụng hắn.

Dương Hạo vội vàng né người, nhanh chóng rút kiếm ra khỏi vỏ, lưỡi kiếm sáng lóe lên, thanh sắt bị chém đứt ra làm đôi, thế kiếm không thể dừng được, thuận đà tuột xuống giao với lưỡi kiếm một tiếng, hoa lửa bắn ra. Thanh kiếm trong tay Dương Hạo không hề gì, nhưng thanh kiếm trên tay thích khách đã bị xuyên cho một lỗ hổng to bằng hạt đậu.

Đồng thời, Dương Hạo vội ngửa người, một chiếc chổi quét qua mặt hắn, Dương Hạo phi một cước, đạp thẳng vào giữa bụng của tên thích khách, khiến hắn bay cả người ra, chặn đường tiến của những tên thích khách còn lại.

Thanh Sương kiếm của Dương Hạo sau khi bị vỡ đôi ở bên bờ sông Hoài giờ vẫn cứ sắc bén như thế, nhưng giờ phút này lưỡi kiếm lại chém sắc như chém bùn, nếu như không như thế thì hắn cũng không dám một nhát mà chém đứt thanh sắt, làm mẻ lưỡi gươm sắc của đối thủ, đồng thời hóa giải thế nguy nan.

Thanh kiếm này gọi là Tử Điện, Tử Điện Thanh Sương, thư hùng song kiếm. Hai thanh kiếm này phân định số phận của hai cô gái con nhà họ Chiết, Chiết Tử Du và Chiết Tử Duyệt. Tên hai người có nghĩa phân biệt rõ là sinh, tử rộng rãi, cùng tử tương nguyệt, cùng tử tiểu lão. Còn về cái tên Chiết Trại Hoa đấy là hậu nhân Đỗ Soạn, trên thực tế đó là tên trước khi xuất gia, sau khi xuất gia căn bản không giống như mọi người, trong phủ chỉ còn lưu giữ họ Chiết, không ghi nhớ tên của bọn họ nữa.

Ngay từ đầu khi Chiết Tử Duyệt thành thân, thanh Tử Điện này theo nàng đến nhà chồng, Chiết Tử Du mang Thanh Sương kiếm đến tặng cho Dương Hạo, lòng thành của nàng không nói ai cũng biết, không ngờ thanh kiếm đó lưu lạc đến tận Giang Nam, từ nay về sau trên đời chỉ có Tử Điện mà không có Thanh Sương rồi. Chị cả nhà họ Chiết sau khi lấy Dương Kế Nghiệp, ở nhà giúp chồng dạy con, không còn thường xuyên ra ngoài như hồi con gái nữa, lại đem thanh kiếm Tử Điện sắc bén vô cùng đưa cho chồng, coi như bảo kiếm hộ thân cho hắn.

Dương Hạo cố tình khuyên Dương Kế Nghiệp đầu hàng, nhưng hắn hao tổn tâm cơ, quả nhiên không cách nào khuyên hắn đầu hàng. Dương Hạo bất đắc dĩ đành cố thả cho cha con hắn đi. Dương Kế Nghiệp tuy không chịu khí chủ cầu vinh, nhưng cũng cảm thấy Dương Hạo đối với mình có chút lễ ngộ và tôn trọng, thấy hắn khuyến hàng không được lại khảng khái thả cho mình đi, hắn đối với Dương Hạo cũng cảm thấy có chút khâm phục.

Hai người vốn là anh hùng, trọng anh hùng, tính tình tương thích, trong tình hình đó, Dương Kế Nghiệp liền đem bảo kiếm lúc nào cũng đem theo bên người tặng cho Dương Hạo, coi như bày tỏ lòng cảm ơn của mình với cử chỉ nghĩa hiệp của hắn vì đã thả hai cha con đi. Dương Hạo thực ra cũng không cam tâm, tự nhiên không muốn vì vậy mà cắt đứt liên hệ với hắn, lại được biết lai lịch của thanh bảo kiếm nên nghĩ có một ngày có thể dùng Tử Điện kiếm này để cho Tử Du kiêu hãnh ngoan ngoãn nghe lời, nên không từ chối mà nhận lấy, không nghĩ đến hôm nay lại có thể được việc như thế.

Mấy tên thích khách không ngờ rằng trong tay Dương Hạo lại có được món vũ khí lợi hại đó, vốn nhất loạt tập kích vào chỗ yếu, lập tức liên thủ tấn công, vòng ngoài là một tên võ sĩ cầm thanh sắt và mấy tên thích khách hai tay cầm vũ khí liều mạng ngăn cản vệ sĩ của Dương Hạo, ngoài ra còn có ba tên khác cầm binh đao, không để cho Dương Hạo có một giây phút nào lơ là.

Mục Vũ chém một nhát vào cổ của một tên thích khách đang cầm đao xông tới rồi chạy lại chỗ Dương Hạo vì lo Dương Hạo xảy ra việc gì. Cổ tay Dương Hạo run lên, thanh gươm trong tay lao vun vút về phía mấy tên thích khách, thanh gươm bay nhanh như chớp, đoạt lấy vũ khí trong tay bọn chúng. Hai tay hai gươm tấn công mạnh như vũ bão, trong phút chốc đánh cho bọn chúng tơi bời.

Người đi đường không đông, những người trên đường đều kinh ngạc đứng từ xa nhìn, trong đó có một lão già gù lưng râu bạc trắng đang muốn tiến đến phía trước, nhìn thấy Dương Hạo một tay giơ kiếm, tay kiếm còn lại thì đặt sau lưng, ánh mắt sáng, liền vội vã đứng tại chỗ, dáng người dúi về phía trước, lảo đảo cố đứng vững. Người bên cạnh trông thấy vậy cho rằng lão già bị đám đông xô đẩy nên mới bị trượt ngã chứ không có chút nghi ngờ gì.

Mục Vũ và bọn vệ sĩ như phát điên lên áp sát Dương Hạo, tay gươm như điên như cuồng lao vào tới tấp khiến vài tên thích khách bị chém, hai tên khác bị đứt tay phải, một tên khác thì bị chém đứt cổ. Tên thích khách bị chặt đứt tay ngã xuống đất, thân chưa chạm đất đã bị một tên thị vệ dùng đao đâm xuyên qua tim.

Tất cả chỉ diễn ra trong một thời gian ngắn, đám thích khách có sáu tên thì chết bốn, bọn thị vệ tuy người nhiều nhưng cũng bị gục bảy tám người, tuy tính mạng không nguy hiểm nhưng ai cũng bị thương. Lúc này đây bao quanh Dương Hạo còn có hai tên thích khách, chúng thấy tình hình không ổn nên hai tên vội nhảy lên, người hướng đông kẻ hướng tây, vội vàng tẩu thoát.

Dương Hạo nhấc một chân lên đá, thanh sắt nằm dưới đất bay lên, rít gió bay đến phía tên thích khách vừa nhảy về phía bên trái. Tên thích khách đó nghe sau lưng có tiếng động, không nghĩ ngợi gì vội vung kiếm ra cản, không ngờ vật bay đến đó không phải là một mũi tên sắc nhọn, cũng không phải là mũi lao mà là một mũi sắt, mũi nhọn xoay tròn rít gió lao tới, chỉ nghe thấy một tiếng “phực…”, kiếm đứt đôi và một tiếng “á” vang lên, đầu của tên thích khách bay khỏi đầu, cái xác không đầu bay trong không trung rồi rơi xuống đất ở cách đó hai trượng. Trên mặt đất, tuyết tung lên cao đến bảy tám mét.

Mục Vũ đem người đi truy đuổi tên thích khách còn lại, Dương Hạo thu lại kiếm, lạnh lùng bảo: “Công phu của thích khách rất tốt, không cần đuổi nữa, phong tỏa toàn thành, truy bắt hung thủ…”

Nói dứt lời, hắn quay đầu nhìn ra phía đám đông đằng xa, ông già râu bạc đã không còn đứng đấy nữa, Dương Hạo bất giác khẽ cười…

********************************************

“Hạo ca ca, huynh không bị thương chứ?”

Dương Hạo vừa quay về phủ đã thấy Đông Nhi, Diễm Diễm, Oa Oa và Diệu Diệu vội vàng chạy tới đón. Dương Hạo vừa thấy Đông Nhi bụng mang dạ chửa còn chạy đến còn thấy lo cho nàng hơn, bèn vội vàng tiến lên đỡ, lo lắng nói: “Ta làm sao có thể làm sao, chỉ là mấy tên tôm tép to gan thôi, làm sao nàng lại ra đây, sắp tối rồi đường lại trơn, cẩn thận kẻo ảnh hưởng đến thai nhi”.

Đông Nhi nhìn hắn từ trên xuống dưới một lượt, thấy quả nhiên hắn không bị thương gì mới yên tâm, ngọt ngào nói với hắn: “ Thiếp nào có yếu ớt như vậy, hơn nữa đã có Oa Oa và Diệu Diệu hết sức cẩn thận, đã quét dọn sạch sẽ mặt đất rồi”.

Dương Hạo nói : “ Cẩn thận vẫn hơn, tóm lại, an toàn là trên hết, kể cả có không yếu ớt cũng không cho phép đi lại lung tung. Oa Oa, Diệu Diệu, các nàng trông chừng nàng ấy”.

Dương Hạo vừa nói vừa đỡ Đông Nhi quay lại hoa đình, mọi người cùng ngồi xuống, dẫu sao cũng không có người ngoài, Dương Hạo không khách khí mà vuốt ve bụng Đông Nhi.

“Xem này, xem này, ta đã nói mà, nàng không sợ nhưng con thì sợ đây này.

Trời lạnh thế này đừng có làm cóng nó, ôi da, nó đang biểu tình trong này đây này.”

Đông Nhi lộ ra cái bụng cao cao, Dương Hạo cẩn thận xoa bụng cho nàng, đứa trẻ trong bụng quả nhiên không an phận, đang đá đấm loạn xạ. Dương Hạo xoa bụng với một vẻ vui sướng, không nén nổi cười: “Tên nhóc này xem ra là một đứa nghịch lắm đây, không giống mẹ nó chút nào”.

Diễm Diễm và Oa Oa, Diệu Diệu thấy như vậy đều rất nóng mắt, chỉ mong được thay thế vị trí ngồi của Đông Nhi bây giờ, nhưng vẫn chỉ dám cúi đầu nhìn cái bụng phẳng lì của mình, không nén nổi tiếng thở dài. Ba mỹ nhân nhìn nhau, không nói mà cùng hiểu ngầm: tranh thủ lúc Đông Nhi đang mang bầu, mùa đông công việc cũng không bận rộn, mấy ngày này nhất định phải dốc sức để Dương Hạo đến phòng mình, cung cúc tận tụy với hắn để cho hắn gieo mầm trong mình mới an tâm.

“Sắp sang năm mới rồi, dặn dò bọn người làm, năm nay trong phủ không đốt pháo”

Dương Hạo vừa nói vừa cúi người xuống, dỏng tai áp sát vào bụng Đông Nhi, nghe thấy tiếng đập rộn ràng trong bụng nàng, không khỏi động lòng: “Đông Nhi và Tiêu hoàng hậu cùng có bầu một lúc, Đông Nhi còn phải hơn nửa tháng nữa mới sinh, vậy Tiêu Xước… giờ cũng phải sinh rồi chứ nhỉ?”

 Chương 442: Sinh ra là Thiên Tử.

Liêu Quốc Thượng Kinh, đại nội, cung Nguyệt Hoa.

Một nhóm thị vệ ra ra vào vào trong cung, dáng vẻ hết sức vội vàng. Những nữ binh trong tay cầm đao, mặc áo màu đỏ, cảnh giới hết sức nghiêm ngặt.

Trong sân tể tướng ở phía Bắc, lão già cao tuổi nhất trong gia tộc họ Tiêu – Tiêu Đỉnh đem theo mấy người thân tín của Tiêu Xước và vài lão vương gia đức cao vọng trọng của gia tộc Gia Luật đang đi đi lại lại như kiến bò trên chảo trước điện Nguyệt Hoa, ai nấy đều mang nặng tâm trạng.

Trong cung Nguyệt Hoa, một nữ nhi mười chín tuổi đang sắp sinh em bé, ở bên cạnh là người nhà. Dù đây là một chuyện thường tình vẫn hay xảy ra ở những gia đình bình thường, nhưng đối với hoàng gia thì đây lại là một chuyện lớn đáng quan tâm.

Tiên đế đã qua đời, Khiết Đan đã hơn nửa năm nay không có vua, nước không thể một ngày thiếu vua, theo lý mà nói thì phải chờ hoàng hậu hạ sinh ra hoàng tử, việc này biến thành chuyện lớn, để ổn định quyền lực gia tộc thì phải sớm lập vua mới. Nhưng với quyền lực thép trong tay mình, cộng thêm với sự ủng hộ của những trọng thần trong triều đình, sự ủng hộ của gia tộc nhà họ Tiêu mà cố trụ lại được đến hôm nay.

Hôm nay, đứa trẻ sắp khóc oe oe chào đời nếu như là nam thì sẽ là hoàng đế mới của Khiết Đan, hoàng hậu nương nương sẽ lên chức thái hậu, sẽ thay mặt quốc vương quản lý việc triều chính cho đến khi hoàng thượng trưởng thành. Nội bộ triều đình sẽ không có gì thay đổi, còn nếu như là gái thì sẽ lập tức mở hội nghị lập tân quân, phải tiến hành phân bố quyền lực lại một lần nữa.

Sự việc thế nào ai quan tâm? Các quan văn võ trong triều đình biết được tin tức này đã lập tức cử cấm vệ quân bao vây hoàng thành, đao ra khỏi vỏ, cung được giương, sẵn sàng đón nhận quân địch, mà chư vị hoàng tộc, đại tộc địa tộc trướng quân, ngũ kinh hương quân đều được bí mật điều động, để tránh xảy ra sơ xuất, cả Khiết Đan đều bắt đầu khởi động, chỉ có thường dân vẫn như bình thường, vẫn vui vẻ ra đường, mua sắm hàng hóa, chuẩn bị đón chào năm mới và tết Nguyên tiêu.

“Oa…Oa…Oa…”

Tiếng trẻ con khóc vang lên từng đợt khắp cung điện, lão gia tử Tiêu Định và vài lão già khác râu tóc bạc phơ trong gia tộc Gia Luật đang đứng tụ tập trước cửa cung điện, mắt chăm chú theo dõi, ai nấy đều không nén nổi mà hét lớn: “Mau, mau lên, là nam hay nữ?”

Trong cung điện nóng như thiêu như đốt, Tiêu Xước cả mặt và người đẫm mồ hôi nằm trên giường, xung quanh là những nữ y vội vội vàng vàng xung quanh, bà mo vẫn đang nhảy như điên như dại trước tấm trướng, cả người đầy mồ hôi. Nước nóng, khăn mặt sạch, dao kéo bạc, cùng với canh gà bồi bổ sức khỏe… các nữ quan trong cung thì bận rộn bưng đến hết đồ này đến đồ khác đến.

Tiêu Xước đã dốc toàn bộ sức lực ra, thần thái vẫn còn chút hoảng loạn, tiếng khóc của trẻ lúc xa lúc gần, nàng được dựng ngồi dậy, có người bưng một bát canh gà đến, Tiêu Xước dùng sức đẩy ra, miệng lắp bắp: “Con… Con ta… là trai, hay gái…?”

Một người mặt mày hớn hở chạy đến nói: “Nương nương đại hỉ, nương nương đã sinh hạ một vị tiểu long, là một vị tiểu long, quả không sai, rất mập mạp trắng trẻo…”

“Ôm… ôm đến đây cho ta xem”.

Trên người đứa trẻ vẫn chưa hoàn toàn sạch sẽ, bọc trong một chiếc khăn bông sạch và được đưa đến trước mặt Tiêu Xước. Tiêu Xước tận mắt trông thấy đứa bé là con trai mới thở phào nhẹ nhõm, trên khuôn mặt vui mừng rạng rỡ, nàng phẩy tay cho mọi người lui, các cung nữ trong cung tuân lệnh lặng lẽ đi ra ngoài.

Sau khi ăn một bát súp, hồi lâu sau đứa trẻ lại được đưa đến trước mặt nàng. Tiêu Xước cúi đầu, nhìn đứa trẻ đang ngủ say giấc, khuôn mặt nhỏ nhắn xinh đẹp, cái cằm mập mạp, đôi mắt nhắm chặt đang ngủ rất say, hai bàn tay nhỏ tí xíu thỉnh thoảng lại nắm chặt lại rồi mở ra, như đang muốn tóm chặt một cái gì đó. Nàng nhẹ nhàng đặt nó lại bên mình, hai tay ôm đầu, ngủ một cách đáng yêu.

Trên khóe môi Tiêu hoàng hậu nở ra một nụ cười hết sức ngọt ngào, nhìn đứa trẻ xinh xắn trong suốt như pha lê đang say ngủ, nàng không dám động vào nó, sợ thức giấc. Hồi lâu sau nàng mới thử chạm nhẹ vào người nó, nhẹ nhàng chạm vào đôi tay nhỏ như búp bê của nó, ngay lập tức đứa trẻ nắm chặt tay lấy tay nàng không chịu buông.

“Tiểu oan gia, hôm nay nhà ngươi quấy mẹ quá nhé…”

Tiêu Xước thì thào nói, nhẹ nhàng sờ vào làn da còn mỏng hơn trứng gà bóc, mềm mại non tơ như một miếng đậu phụ, ngọt ngào, ấm áp, thật khiến người ta nhìn mà thích thú. Duy chỉ có một điều là cha của đứa bé không có ở đây. Nàng ôm chặt con trong lòng, trong lòng mơ hồ hy vọng giá như người đàn ông của đời mình cũng có mặt ở đây ôm lấy nàng, để cho nàng có thể nhẹ nhàng nức nở…

**************************************

Nha môn Đường Bạch Hổ Ngân Châu.

Một lão già tóc trắng chắp tay nói: “Thái úy, lão Hán trên đường theo đuổi tung tích đã điều tra ra rõ ràng, tên thích khách đó đến từ bộ lạc Minh Đường, đến ám sát theo lệnh của Lý Kế Bổng”.

“Minh Đường Xuyên Lý Kế Bổng?”

Dương Hạo lập tức đi tới chỗ sa bàn trước mặt, tấm sa bàn này là bản đồ địa lý của cả khu vực Lũng Hữu bên bờ sông phía Tây. Trong đó vẽ tỉ mỉ lưu vực sông, thảo nguyên, sa mạc, thành trì… ở mỗi vùng địa hình khác nhau được đánh dấu bằng những lá cờ nhỏ màu sắc khác nhau, trên lá cờ có đánh dấu người ngựa, tộc trướng của họ, là tấm địa đồ khu vực phía Tây đầy đủ và chính xác nhất, phải dùng đủ gián điệp trên cả ba phương diện “phi vũ”, “theo gió” và “kế tự đường” mới có thể hoàn thành, có tấm bản đồ này thì rất nhiều tướng lĩnh không biết tí gì về địa hình ở đây cũng có thể giành được thắng lợi.

Đinh Thừa Tông cũng nhanh chân đi lại về phía sa bàn, nhìn lá cờ màu vàng cắm trên mảnh đất Ngân Châu, hắn từ từ nói: “Lý Kế Bổng là cháu ruột của Lý Quang Nghiêm, năm nay hai mươi tám. Sau khi Lý Kế Bổng chết, Ngân Châu chư hùng tranh vị, Hạ châu Lý Quang Duệ lập Lý Quang Vụ phòng ngự Ngân Châu, Lý Kế Bổng bị thất sủng, không có chút oán hận gì với Hạ Châu nữa.

Chúng ta vốn cho rằng, Lý Kế Bổng sẽ vì thế mà sẽ không trung thành với Lý Quang Duệ, hơn nữa dựa vào thế lực của hắn ở Minh Đường Xuyên cũng không thể trở thành nỗi uy hiếp của Ngân Châu chúng ta. Thêm nữa trước mắt thái úy đang muốn đánh Khánh Vương, còn cần nước Tống canh giữ cửa, Lý Kế Bổng trên danh nghĩa là Tống thần, do đó không cần phải chú ý đến hắn. Không được thì hắn đã muốn hành thích thái úy rồi”.

Nói đến tình thế xung quanh, Đinh Thừa Tông như tính đến cả Gia Trân, Dương Hạo thì cần phải nắm toàn bộ cục diện, đối với rất nhiều tình tiết đều giao cho thuộc hạ đi làm, khi mới bắt đầu cũng không có dự tính làm việc gì cũng tự mình làm chủ soái, đối với những việc tình báo thì Đinh Thừa Tông cũng hiểu rõ, bèn hỏi: “ Minh Đường Xuyên có ít người ngựa không? Nếu như chúng ta tấn công, lại đi sai nước cờ thì làm sao có thể công phá được?”

Đinh Thừa Tông nói: “Nơi này lệch về hướng Bắc, nông canh ít người, súc mục nhiều, tộc trướng có hơn một vạn bốn nghìn hộ, hơn bảy vạn nhân khẩu, có điều đa số đều sinh sống bằng nghề chăn thả, họ không có đủ lương thảo để sống, do vậy thường tập trung ở khu song long thành, đội binh tinh nhuệ thường trú không đủ năm nghìn, tòa thành đó được xây dựng ở đỉnh núi song long, nhưng lại dễ tàn phá, không đáng giá phòng thủ.

Nếu như chúng ta có thể xuất binh đánh thì Lý Kế Bổng ắt bại.

Có điều có hai điều phiền phức, thứ nhất gia sản của Lý Kế Bổng có hạn, kẻ địch chẳng qua là kẻ địch, đánh không lại thì địch sẽ bỏ thành mà chạy, hắn vốn coi du mục là việc chính, một khi bỏ chạy thì tám phương bốn hướng đều có thể chạy được, kể cả có bị truy đuổi thì bọn họ đã chạy sẽ không cần quay lại. Nếu như không thể giết được thì nhiều lắm cũng là bị thương ở bên ngoài, ủy lao viễn chinh cái được không bù nổi cái mất, mặt khác, Lý Thị cũng không từng chủ động dụng binh với chúng ta. Chúng ta cũng không có căn cứ Lý Kế Bổng đã giết thái úy, nếu như tùy tiện khơi mào sự tình thì e rằng sẽ rơi vào mặt bất lợi.”

Dương Hạo cười lạnh, gật gật đầu trên sa bàn, thản nhiên nói: “Có một vài người thuộc Lư tử, vội không đi, đánh lại thoái lui, ngươi nghĩ muốn làm việc thiện cũng không được, đây là nơi kẻ mạnh xưng vương, có ân cũng phải có uy, như vậy mới là thủ đoạn khiến lòng người tâm phục phục. Bảo đảm nếu như có cơ hội thì người có dã tâm sẽ phản lại rất nhanh. Ở Tây Bắc, phải làm lang Vương, mà đã là lang Vương thì chẳng lẽ không để lộ nanh vuốt của ngươi?”

Đinh Thừa Tông mỉm cười, nhìn người huynh đệ của mình rồi nói: “Tốt, nếu như thái úy đã có ý định đánh thì ta sẽ lập tức đi triệu tập Mạc Liêu, nghiên cứu xem sẽ do ai xuất trận, điều động bao nhiêu binh mã, ra trận thế nào, sẽ có kế hoạch cụ thể rồi sẽ cho thái úy phê chuẩn sau”.

Thuộc hạ của Lý Kế Bổng có một đại tướng, tên là Trương Phố, người này là người Hán, có dũng có mưu, người Ngân Châu, rất được Lý Quang Nghiễm coi trọng. Sau khi Lý Quang Nghiễm chết, Lý Quang vụ kế vị, trắng trợn lợi dụng tình riêng. Trương Phố ở dưới trướng hắn không được trọng, liền chạy theo Lý Kế Bổng. Lý Kế Bổng là người thô lỗ, không cần suy nghĩ nhiều, nhưng kẻ này có mưu đồ, muốn đi nước cờ tiêu diệt Minh Đường Xuyên, cần phải cẩn thận trù tính một phen”.

Dương Hạo gật gật đầu, nói: “Còn nữa, bộ lạc nào gặp thiên tai, không còn lương thực thì phải sớm phái người vận chuyển lương thực đến, không phục thì đánh cho một trận, buộc phải quy thuận. Chúng ta cũng phải đối xử như nhau để còn chiếu cố”.

Đinh Thừa Tông gật đầu: “Thần biết rồi ạ, thần xin cáo lui”.

Những việc này, Dương Hạo vẫn cảm thấy không giấu nổi lão già đó. Lão già đó là cha của Trúc Vận, họ Cổ tên Đại Cát, cũng được coi là một dị nhân giang hồ. Hắn tuy là người của Kế Tự Đường nhưng hiện giờ Dương Hạo và Kế Tự Đường vẫn đang trong thời kỳ trăng mật, có một chút cơ mật hạn chế, cũng không cần thiết phải giấu diếm người của Kế Tự Đường.

Sau khi Đinh Thừa Tông rời đi, Dương Hạo mới quay người qua phía Cổ Đại Cát, mỉm cười nói: “ Làm phiền Lão rồi, lần này bôn ba quả thực là rất gian khổ, xin lão trượng nghỉ ngơi ở Ngân Châu ít hôm, đợi kế nghị đã định thì nói không chừng cũng phải nhờ đến lão trượng ra tay”.

Cổ Đại Cát thấy hắn đường đường là Tể tướng mà lại khom người hành lễ với lão như vậy cũng không nén được cảm giác sợ hãi, vội vàng nói: “Thái úy khách khí quá, khách khí quá, lão hán không nhận nổi cái vái này của thái úy đâu, có việc gì thái úy cứ dặn dò”.

Dương Hạo cười hà hà nói: “Được rồi, lão trượng cứ đi nghỉ trước đi”.

Cổ Đại Cát dạ vâng rồi quay người đi, do dự một lát hắn ngượng ngùng cười nói: “ Có thể vất vả vì thái úy, lão hán cũng không có gì oán thán. Lão không nề hà mất công sức, lão hiện giờ đã yếu kém hơn nhiều so với thời trai trẻ, lão chẳng sợ gì cả, chỉ sợ ngộ nhỡ có gì sơ xuất sẽ làm hỏng việc lớn của thái úy. Tiểu nữ Trúc Vận là chân truyền của lão, cũng là người ngoan ngoãn lanh lợi, nếu như thái úy không chê thì có thể đem theo bên mình để dùng, nhất định sẽ trợ giúp được nhiều cho thái úy”.

Dương Hạo ngẩn người, rồi chậm chạp nở nụ cười nói: “Ừm… Trúc Vận cô nương lanh lợi thông minh, võ công phi phàm, bản quan vẫn luôn coi trọng.

Hiện cô nương đó vẫn còn đang phải tu luyện ở Lô Châu, chờ cho có thời gian rảnh rỗi bản quan sẽ cho mời cô ta về”.

Cổ Đại Cát nghe thấy vậy mặt mũi vui mừng phấn khởi, các nếp nhăn trên mặt đều giãn ra, liên tục nói: “Vậy thì tốt, vậy thì tốt,… vậy lão xin cáo từ, xin cáo từ”.

Cổ Đại Cát bước nhanh ra cửa, vui mừng phấn khởi, Dương Hạo nhìn theo bóng hắn cười cười.

Cổ Đại Cát là một cao thủ võ thuật, nói hắn là dị nhân giang hồ cũng không có gì là quá đáng, có điều về mặt võ nghệ mà nói, hắn quả nhiên là một tay cao thủ trong giới giang hồ, nhưng thực chất, hắn chỉ là một tên coi ngựa cho Kế Tự Đường mà thôi. Một người thực sự thoát khỏi trần thế thì là người có chí khí, nếu như ở điểm này đi ra ngoài biên giới thì dẫu cho hắn có trói gà không chặt thì cũng có thể mỉm cười tự hào. Ngược lại, một người trần tục, có gia đình, có con cái, phải lo nghĩ về những cái phức tạp hồng trần của cõi tục thì dù võ công của hắn có cao siêu thế nào thì vẫn cứ là một người phàm trần, vẫn phải cúi đầu trước quyền lực và của cải.

Thân làm cha, ai mà hy vọng con gái mình cả ngày mang theo gươm giáo, làm mấy cái việc đổ máu thương vong? Trong lòng Cổ Đại Cát, nếu như con gái có thể trở thành thê thiếp của một anh hùng như mình hồi trai trẻ đã gọi là cao rồi, còn cần đòi hỏi xuất thân làm chi?

Dương Hạo không hề có ý khinh Cổ Đại Cát hèn mọn mà ngược lại trong lòng còn có nhiều cảm khái. Đưa Trúc Vận quay trở lại Lô Châu cố nhiên là hy vọng nàng có thể luyện tập trợ giúp cho mình, hy vọng có ngày hóa thân biến thành phượng hoàng. Trên thực tế hắn cũng có những điều khổ tâm trong lòng. Trúc Vận có tình cảm với Bích Túc, điều đó hắn biết, hắn cũng hy vọng một cô nương tốt như Trúc Vận có thể cảm hóa được trái tim của Bích Túc, không để hắn cứ mãi mãi đóng chặt cánh cửa tâm hồn mà ôm nỗi thù hận.

Thế nhưng giữa hai người không hề có tiến triển gì, cái chết của Tĩnh Thủy Nguyệt là một đón quá nặng nề đối với Bích Túc, tình cảm của hắn với Thủy Nguyệt sâu nặng như vậy, có lẽ… chỉ đến khi Triệu Quang Nghĩa chết đi thì mới giải thoát được cõi lòng hắn chăng?

**********************************************

Băng tuyết thổi trắng trên mặt đất, đại đội người ngựa đi tới đi lui, người hô ngựa hí, tiếng động ầm ầm, nghe theo hiệu lệnh chỉ huy của ngọn cờ, trông thì loạn mà thực chất vẫn theo trật tự.

Hiện dân nước Châu đã không thể so sánh với Hung Nô của thời Hán, vào thời đó mũi tên mà quân Hung Nô sử dụng đại đa số là được làm từ xương thú, còn hiện thì ở một số dân tộc thiểu số đã nắm được kỹ thuật luyện sắt cao siêu, đặc biệt là kỹ thuật được truyền từ dân tộc Ả Rập thì càng tiên tiến và hiện đại hơn nữa, thậm chí còn vượt qua cả dân tộc Hán của Trung Nguyên. Như vậy muốn tận lực giảm bớt số lượng thương vong thì nhất định phải khổ công trên chiến trường.

Dương Hạo đã có sẵn mỏ quặng, mỏ sắt của mình, hai mỏ kết hợp, lại có tài lực của Kế Tự Đường trợ giúp, thêm kỹ thuật lyện sắt của thương gia Ả RẬp, không chỉ tạo ra những binh khí tuyệt vời cho đội quân tinh nhuệ mà còn làm ra những bộ áo giáp tuyệt vời, khắp nơi xa gần không ai là không biết đến.

Về phần động lực, Dương Hạo không tính toán so đo nhiều với những đối thủ cao siêu, lương thực vận chuyển đến đây cũng có hạn, chỉ có thể cung cấp một lượng nhất định cho đoàn người ngựa, hơn nữa tốc độ công kích của họ cũng cao hơn nhiều so với ngựa ở Mông Cổ, nhưng khi viễn chinh đường dài thì yếu kém hơn một chút, cũng không cần chuẩn bị quá nhiều, có điều dưới sự khống chế chỉ huy của Dương Hạo thì có được đủ ngựa cũng không phải là điều khó khăn.

Từ khi phát minh ra bàn đạp, kỵ binh có thể giành ưu thế trong chiến đấu, động cơ của họ là số lượng bộ binh lớn gấp 10 lần, mặc dù chính diện chiến đấu nếu như bộ binh có thể chỉ huy thích hợp thì sẽ không bị thiệt, thậm chí thương vong của kỵ binh còn hơn bộ binh, nhưng tốc độ của kỵ binh lại hơn bộ binh 10 lần, kỵ binh thất bại có thể tháo chạy để tránh bị tổn thất, còn bộ binh nếubị bại trận nhất định sẽ bị thương vong, hai bên căn bản không ở cùng vạch xuất phát.

Vốn bộ binh Trung Nguyên so với kỵ binh có vũ khí đắc lực nhất là cung tên, đây cũng là nguyên nhân tại sao nhà Tống trang bị thứ vũ khí nhiều nhất chính là cung tên. Nhưng cung tên mà Dương Hạo chuẩn bị là loại cung đặc biệt, loại cung cũ là loại tầm bắn ngắn, không dễ nhắm, bắn mười mấy lần ắt cảm thấy mệt mỏi vô cùng, loại cung tên mới này vượt xa những loại cung cũ.

Dương Hạo đã từng kinh ngạc khi xem bộ phim “Anh hùng”, có cảnh hàng vạn mũi tên cùng nhất loạt phóng ra, nhưng khi chính hắn là người nhận ra được uy lực của những mũi tên này thì hắn mới bắt đầu ý thức được cảnh tượng đó không phải là không thể thành hiện thực, hắn cũng có thể làm được.

Thuộc hạ của hắn vốn có sở trường là cưỡi ngựa bắn cung, thậm chí không cần chuyên tâm luyện tập, những kỵ sĩ này cũng tự nhiên mà ý thức được sự lợi hại của những cánh cung, khi họ lần đầu cầm cung tên luyện tập, họ đã ý thức được bản thân mình là một chiến binh ngoan cường, tinh nhuệ, không gì có thể so sánh được.

Trận diễn tập tác chiến này là trận công kích theo kiểu truyền thống của Tây Tạng, phá trận, phá chiến thuật của địch… Dương Hạo còn đề xuất thêm một chiến thuật mới: chiến thuật Napoleon. Dương Hạo đương nhiên không tự mình đặt ra tên của chiến thuật đó, nhưng hắn dùng chiến thuật của Napoleon, trong tình huống phải quyết chiến thì đội kỵ binh tinh nhuệ sẽ tiến hành đè ép đối phương, khiến chúng phải thu hẹp vòng vây, sau đó nhất loạt giương cung, từng đoàn ngựa được buộc pháo sẽ thần tốc tấn công, tạo thành một cảnh hỗn loạn để binh lính tiến vào càn quét, bộ binh sẽ chủ động quét sạch trận địa.

Đám người như Mộc Ân, Mộc Khôi tuy không hiểu gì lắm, nhưng khi được Dương Hạo giảng giải và đích thân diễn tập cụ thể chiến thuật đã không khỏi thán phục, đối với chiến thuật này cũng ra sức phát huy uy lực. Bọn họ phục tùng Dương Hạo chỉ là do thân là thiếu chủ của Dương Hạo mà vẫn đối xử nhân nghĩa với họ. Từ lúc đó trở đi, họ đã thực sự cảm thấy kính sợ trong lòng.

Dương Hạo đứng trước trận địa, tận mắt trông thấy tướng sĩ phối hợp diễn tập, chiến thuật được thực hiện vô cùng ăn ý chuẩn xác, trong lòng không khỏi khấp khởi vui mừng. Có điều hắn lại không biết rằng hắn học lóm chiến thuật này của Napoleon, trên thực tế chính Napoleon lại là người học của Vĩnh Lạc đại đế. Vĩnh Lạc đại đế chính là người lập nên thế trận dùng ba nghìn kỵ binh tinh nhuệ đèép kỵ binh Mông Cổ, sau đó dùng chiến thuật đánh trực diện ba giai đoạn, dùng lửa để tấn công mà thắng.

Kỵ binh đã rút lui khỏi võ trường, hiện đang phối hợp tác chiến với bộ binh, bọn họ còn nghĩ ra trò mới là đánh mõ chân, có thể tăng tốc lên rất nhiều.

Trong khi hành quân đường dài cơ chân sẽ không dễ bị kéo thương. Dương Hạo ngồi trên ngựa, đội bộ binh cũng lui khỏi trận diễn tập, quay người cười với Mộc Ân: “Tốt lắm, ta vốn cho rằng vài người các ngươi có tác chiến dù dũng mãnh nhưng cũng không rõ mục đích, trên chiến trường khó tránh khỏi thương vong. Không ngờ hôm nay nhìn thấy các ngươi luyện tập, không chỉ dũng mãnh mà còn thuần thục, haha, đội quân của các ngươi luyện tập hết sức xuất sắc. Tiểu Lục và Thiết Đầu đang luyện binh ở Lô Châu, khi về sẽ phái vài quân tinh nhuệ đem chiến thuật này về dạy cho bọn họ”.

Mộc Ân và Mộc Khôi nghe khen mặt đỏ lên, hai người luôn mồm dạ vâng. Dương Hạo đang thúc ngựa về thành, từ đằng xa đã nghe thấy có kỵ tiễn đến. Người đó mặc một bộ quần áo trắng, cưỡi trên lưng một con hồng mã, đăng sau lưng là một chiếc áo choàng màu đỏ, giục ngựa phi như bay giống như một đám mây hồng bay tới, Dương Hạo không nén được bèn ghìm cương ngựa, kêu lên một tiếng đầy kinh ngạc.

Chỉ một lát, con ngựa đó đã phi tới trước mặt Dương Hạo, tên kỵ sĩ vội ghìm dây cương, chiến mã lập tức dừng lại, hý vang một tiếng thật dài. Hơi thở trắng như sương trắng của nó phà vào cả mặt của Dương Hạo.

“Ngọc Lạc, làm sao muội lại ở đây?” Dương Hạo trông rõ người kỵ sĩ, không nén nổi cười hỏi.

Người ngồi trên ngựa mặc bộ y phục màu trắng, chiếc eo nhỏ nhắn được quấn chặt, sau lưng đeo một thanh bảo kiếm, chiếc áo choàng màu đỏ bay phơ phất, tư thế oai hùng, xinh đẹp hơn người, đúng là Đinh Ngọc Lạc.

Đinh Ngọc Lạc vẫn không rời yên ngựa gọi đại ca, nàng ngồi trên ngựa, mặt hướng về phía Dương Hạo hành lễ, rồi tức khí nói: “Đại nguyên soái hôm nay dẫn ba quân đi diễn tập, tại sao không cho nữ binh đi diễn tập một phen? Mạt tướng không phục”.

Dương Hạo cùng Mộc Ân, Mộc Khôi nhìn nhau ngạc nhiên rồi cùng cười ha hả nói: “Không sai, không sai, ta quên mất là ta còn có một nữ binh, ừm… là lỗi của ta, hôm nay lại đi mời nữ binh đến e rằng không kịp nữa rồi, thế này đi, lần sau…”

Đinh Ngọc Lạc cười đắc ý, nhướn mày nói: “Biết ngay đại nguyên soái sẽ nói thế mà, đại nguyên soái vô ý không kiểm binh nữ là tốt rồi, chúng ta dẫu sao cũng đã tới rồi, đại nguyên soái có thể kiểm binh chứ?”

Dương Hạo ngẩn người một chút rồi ngẩn người nói: “Thôi được, đã đến rồi thì bản soái xem thế nào, người ngựa của muội ở đâu?”

Đinh Ngọc Lạc mừng rỡ, trở tay lấy cung, bắn ra một mũi, trúng mục tiêu là một chỗ cao trên sườn núi. Tiếng mũi tên xé gió lao vun vút, từ chỗ mục tiêu bắn đột nhiên xuất hiện một sợi dây màu đỏ, sợi dây đỏ nhanh chóng biến thành một làn sóng lớn màu đỏ, tiếng kèn vang lên, người như hổ, ngựa như rồng, từng đoàn từng đoàn nữ binh mãnh liệt lao ra.

Dương Hạo vốn không để cho đội nữ binh ra trận chém giết, chỉ hy vọng họ có thể ổn định canh giữ thành trì, do vậy không trang bị cho họ áo giáp và khiên. Trang phục họ mặc đều là áo giáp da bò, bên ngoài mặc áo choàng màu đỏ, đám tua dài trên dải mũ bay phấp phới như một làn sóng màu đỏ đổ xuống, nổi bật và hào hùng trên nền tuyết trắng xóa.

Đông Nhi đã sắp đến kỳ sinh nở vẫn còn đích thân dẫn quân đến, cùng với Mục Thanh Tuyền, Đinh Ngọc Lạc, Điềm Tửu là ba phó thống lĩnh đến, xem tình hình thì có lẽ đội quân của bọn họ đã luyện tập không xoàng. Do đoàn người ngựa của bọn họ đông như vậy lại được giấu trên núi cao, đột nhiên xuất hiện không một tiếng động nào khiến Dương Hạo phải chú ý.

“Ôi, nữ binh!”

“ Ôi xem cô kia, cô kia xinh kìa”

“Đâu, ai cơ?”

“ Ai da ai da, cô nương kia mới gọi là đẹp…”

Tiếng kinh ngạc nổi lên không dứt. Dương Hạo ngồi ngay ngắn bất động, mặt không biến sắc, chỉ khẽ nheo mắt nhìn đoàn người ngựa đang tạo thế trận.

Mới vừa rồi còn là một tướng quân nghiêm sắc mặt, lạnh như đá, nay đúng là … trông thật đẹp mắt. Cả một đám nữ binh đông như vậy cùng nhất loạt giảm sát, thanh âm nghe cũng thật vui tai, đôi mắt Dương Hạo cũng nhẹ cong lên.

Đinh Ngọc Lạc thúc ngựa quay về đội, ba nhánh quân kỵ binh tổng cộng ba nghìn người nhanh chóng tạo thành hình, do ba vị phó tướng chỉ huy.

Con gái phương Bắc và phía Tây tuy giỏi cưỡi ngựa bắn cung, nhưng rất ít người ra chiến trường, được trông thấy họ mặc áo giáp ngay ngắn cùng đội nữ binh thì càng khó hơn, do vậy đội nữ binh vừa xuất hiện thì ngay lập tức những tiếng hô hào cũng nổi lên như trông thấy một kỳ quan.

Tiếng kèn hiệu lệnh nổi lên, đội nữ binh mặc áo choàng đỏ đứng ngay ngắn, phải có đến khoảng hai ba trăm người cùng nhau diễn tập công kích, phá trận,… ai nấy đều dáng người kiêu hùng, tư thế oai phong lẫm liệt. Tiếp đó là một đội khác khoảng ba trăm người xuất hiện, diễn tập tấn công rồi nhanh chóng bứt ra tiến về phía trước, giương cung thử cưỡi ngựa bắn cung.

Công bằng mà nói, công sức luyện tập của các nàng quả cũng khôn phải là ít. Có điều so với cánh đàn ông thì nhất định là có phần yếu kém hơn. Có điều, thân thể họ tuy yếu đuối, nếu như tác chiến trên lưng ngựa thì sự chênh lệch cũng không phải lớn lắm, nếu như binh lực quả thực đến lúc thiếu kém thì họ vẫn có thể phát huy được năng lực. Thế nhưng điều này Dương Hạo vẫn chưa thực sự để họ được luyện tập, trang bị vũ khí cũng còn kém, thế mà họ vẫn đạt đến kết quả này quả thật là điều đáng quý.

Dương Hạo thì thào lẩm bẩm: “Đúng thật là không nhận ra, những nữ binh này quả thật không tệ chút nào”.

Kha Trấn cười ác ý nói: “Bọn họ mười sáu tuổi trở lên, bốn mươi tuổi trở xuống tập hợp với nhau tự nguyện thành lập đội binh, mỗi tháng chỉ luyện tập mười ngày, lương thực cho quân được phát với số lượng có hạn, rất nhiều nữ binh đều hăng hái báo danh, con gái phía Tây vốn giỏi cưỡi ngựa bắn cung, gia tăng luyện tập nữa gì mà không thành”.

“Mỗi tháng chỉ luyện tập mười ngày thôi?”

Dương Hạo nghe xong lẳng lặng gật đầu, trang bị không bằng người khác, lại không được chỉ đạo chiến thuật đặc biệt, mỗi tháng luyện tập thời gian ít ỏi, các vị nữ binh của chúng ta quả thật không tầm thường, chẳng trách năm đó Công chúa Đại Đường Lý Ngọc Ninh dẫn một đội nữ quân đi mà có thể rong ruổi Quan Trung, danh tiếng lẫy lừng.

Kha Trấn lại ác ý nói: “Hiện tin tức truyền đi rằng, đã có rất nhiều nữ binh muốn nhập ngũ, chỉ có điều hiện giờ thời tiết lạnh lẽo, e rằng đến mùa xuân họ mới đến được. Những vị nữ binh này là do tự luyện tập từ nhỏ, chỉ cần cho bọn họ tiến hành luyện tập theo quân pháp họ sẽ rõ ý nghĩa của cờ hiệu và pháo hiệu, có thể lệnh cấm, tiến công có trình tự, chiến lực mới khả quan được”.

Dương Hạo gật đầu nói: “Đúng, có điều nữ binh bắt buộc phải do họ tự nguyện, không được miễn cưỡng. Cha mẹ bọn họ cũng nhất định phải đồng ý mới được, rất nhiều người muốn đi nhưng cha mẹ không đồng ý, cũng cho họ về, tránh xảy ra rắc rối sau này”.

Kha Trấn cười nói: “Thái úy yên tâm, tiểu thư Thanh Tuyền và Điềm Tửu gia nhập đội nữ binh vừa được phát lương thực, thuế trong nhà cũng được giảm nhiều, những gia đình nghèo khổ phần lớn đều đồng ý ạ…”

Bên này nói chuyện xong thì bên kia ba đội nữ binh cũng đã dẫn hết quân ra chiến đấu, tinh kỳ bay vù vù, ngựa hý vang trời. Trên nền tuyết trắng, chiếc áo choàng đỏ của họ trông giống như những ngọn đuốc cháy sáng, kết hợp với nhau hết sức ăn ý. Đợi cho đến khi có tiếng gà gáy, ba quân đồng loạt rút về như thủy triều rút xuống, trật tự có trình tự, luân phiên, hoàn toàn dựa theo tiêu chuẩn chiến đấu, chiến pháp cũng khá, Dương Hạo không thể không gật đầu.

Ba nhánh quân tụ họp thành hàng lối phòng vệ ngay ngắn, ngựa hý lên từng hồi, những nữ binh vẫn ngồi trên lưng ngựa, nổi bật vẻ xinh đẹp trên nền tuyết trắng. Chỉ trong chốc lát, Mục Thanh Tuyền, Đinh Ngọc Lạc và Điềm Tửu cùng quất ngựa đi tới, đến trước mặt Dương Hạo thì xuống ngựa thi lễ, đồng thanh nói: “Ba quân thao diễn đã xong, mời đại soái cho biết ý kiến”.

Dương Hạo cười nói: “Làm khó cho các nàng rồi, thời gian luyện tập ngắn ngủi, quân đội trang bị cũng còn yếu kém, nhưng lại có thể có được kết quả thế này. Nói với binh lính của các nàng rằng, bản soái ta rất… hài lòng”.

Điềm Tửu mừng rỡ nhảy cẫng lên, phi thân lên ngựa quất roi đi, đi qua đi lại trước mặt ba nghìn nữ binh, lớn tiếng truyền lại câu nói vừa rồi của Dương Hạo. Giọng nói của nàng to sang sảng, lại thêm lời của Dương Hạo nghe rất lọt tai nên ai nấy đều nghe rõ ràng. Nàng lúc thì nói tiếng Hán, khi nói tiếng Khương, lúc lại nói tiếng Khiết Đan… suy cho cùng cũng chỉ là nói lại nội dung câu nói đó mà thôi. Nghĩ ra những nữ binh đó xuất thân không cùng một bộ tộc, nên nếu nói bằng một thứ tiếng sợ rằng có người nghe không hiểu.

Mỗi lần Điềm Tửu nói, trong đội nữ binh lại vang dội tiếng hoan hô, Dương Hạo mỉm cười nói: “Ngôn ngữ bất đồng, nhưng họ vẫn có thể giao lưu với nhau. Thông dịch quán ở Lô Châu phải nhanh chóng xây dựng, ra lệnh triệu tập đủ mọi bác học của các dân tộc, các văn hóa ở khắp dân tộc, cùng phiên dịch điển tích, thơ ca và Phật giáo. Lấy tiếng Hán và Tây Tạng làm chủ, có thể trở thành tiếng phổ thông, đồng thời trong quá trình truyền dạy Phật giáo kinh điển thì cho họ làm quen với tiếng Hán, dùng tiếng Hán làm công cụ giao lưu”.

 Chương 443: Lại đến ngày trộm.

Hôm nay lại là ngày ăn cắp.

Ngày này năm ngoái, Giang Nam Tống sứ gặp chuyện, Tái Bắc Khánh chủ mưu phản, một năm đã qua đi, Tái Bắc Giang Nam đã đổi nhân gian, mà ngày ăn trộm này, Ngân Châu cũng đổi vị chủ nhân mới: Dương Hạo.

Hôm nay dân chúng thành Ngân Châu hò reo ầm ĩ khắp đầu làng ngõ xóm, câu đối, ảo thuật, khắp nơi vui tươi hoan lạc, dân chúng tươi cười chúc nhau, hiếm khi thấy họ vui vẻ như vậy.

Còn Dương Hạo thì không mang gia quyến và dân đồng lạc, vì hắn quyết định xuất binh tấn công đánh Minh Đường Xuyên Lý Kế Bổng. Ngày thịnh đại là phòng vệ vui vẻ nhất, cho nên cũng là ngày binh gia thích chọn làm ngày đánh lén, Lý Kế Bổng tuy không biết hắn lộ sơ hở nhưng trong lòng như có ma vậy, thành Song Long cũng cần tăng đề phòng cho nên Dương Hạo dùng cách trái ngược, hắn không chọn một ngày đánh lén mà là chọn ra một ngày xuất binh. Ngày hội Nguyên Tiêu vui vẻ trong ba ngày, trong ba ngày này là khi Minh Đường Xuyên Song Long thành đề phòng nghiêm mật nhất. Sau ba ngày, Lý Kế Bổng sẽ thở phào nhẹ nhõm hơn, còn đại quân Dương Hạo hoàn toàn đuổi tới được.

Trong bạch hổ tiết đường, Dương Hạo mặc đồ nhung, Tiêu Nghiễm đứng dưới bức tranh bạch hổ hạ sơn, tay vịn vào bàn, lớn giọng nói: “Mộc Ân, Mộc Khôi”.

“Có mạt tướng”.

Dương Hạo nắm vào cung tiễn, lớn giọng nói: “Bổn soái có thân tín là hai người, kỵ binh ba nghìn, tối lên đường, bay nhanh Minh Đường Xuyên, ta không cần các người công thành đoạt trại, chỉ cần các người bảo vệ được các đạo hướng tây, hướng bắc, hướng đông thành Song Long, tránh Lý Kế Bổng hướng đại hoành thủy, địa cân trạch, hoàng dương bình, đó chính là điều kiện đại công, bọn người chỉ cần y lệnh hành sự, nhiều cạm bẫy, nhiều bố bụi gai, chỉ thủ không công, chớ tham tấn công, dư địch thừa cơ hội, cứ theo quân pháp mà làm, nghe rõ chưa?”

“Mạt tướng tuân lệnh”.

Hai người chắp tay thi lễ rồi lui về sau ba bước.

Dương Hạo quay sang nhìn Tiêu Nghiễm, rồi nghiêm nghị nói: “Ngải Nghĩa Hải”.

“Có mạt tướng”.

Một viên tướng khác bước ra, dáng người này khá khôi ngô không kém gì Mộc Ân, Mộc Khôi, một hán tử râu quai nón xoăn xoăn, đỉnh đầu trơn tru, mày rậm, mũi thẳng, một vết đao kéo dài đến trấu cám, xem ra uy phong lẫm liệt.

Khu tây bắc không có chính quyền thống nhất nên đồ đệ bỏ mạng nguyện ý chạy đến đây hoặc khu biên giới Khiết Đan và Tống quốc kết bè kết đảng, làm loạn nhất phương. Tây bắc dễ qua lại hơn khu biên giới Tống quốc và Khiết Đan, coi là chốn yên vui của khổ dịch tử tù tội phạm thổ phỉ. Năm nay Lư Nhất Sinh làm đạo tặc ở khu biên giới Tống quốc và Khiết Đan, không phải hắn không muốn đến chỗ tây bắc mà là vì một núi không thể có hai hổ, tây bắc đã có Ngải Nghĩa Hải, Ngải Nghĩa Hải chính là đại thủ lĩnh của mã tặc tây bắc.

Tên này dũng mãnh thiện chiến, thế lực mạnh hơn Lô Nhất Sinh nhiều lần, Lô Nhất Sinh không phải là đối thủ của hắn, mới dẫn thuộc hạ tránh sang phía bắc, Ngải Nghĩa Hải tung hoành tây bắc, giết người cướp của, chẳng thể đề phòng cho dù là Chiết phiên, Dương phiên, Lý phiên, hay là thế lực Thổ phiên, Hồi Hột giả dối như hồ li, hung ác như sói.

Dương Hạo sau khi đoạt được Ngân Châu, tuyệt đối không cho phép trong phạm vi kế hoạch của mình có đám mã tặc làm xằng làm bậy, thế là tỉ mỉ bố trí, quyết tâm tiêu diệt đám mã phỉ. Dương Hạo giờ danh vọng sáng chói ở tây bắc, người Khương Hoành Sơn, Đảng Hạng Thất Thị nghe theo mệnh lệnh hắn, rất nhiều tiểu bộ lạc Thổ Phiên và Hồi Hột nương tựa vào hắn.

Còn về bộ lạc tương đối lớn tuy còn giữ khoảng cách nhất định, nhưng dựa vào tên tuổi của hắn, thì dân chúng của bộ lạc này cũng chính là thần linh đối với người của hắn, muốn nghe ngóng tin gì, cần phối hợp với họ dễ như trở bàn tay, cầm rất nhiều điểm tốt của mã tặc, thành dân chăn nuôi ám mã tặc, đều không dám bất kính với thần minh, ngầm có tin tức gì đều không giấu diếm nói cho người của Dương Hạo.

Đến lúc này Ngải Nghĩa Hải trở thành người mù cưỡi ngựa mù trong phạm vi thế lực Ngân Châu, hắn vốn cho rằng Dương Hạo mới được Ngân Châu, khó khống chế, nhưng không ngờ mình bị rất nhiều tên tình báo nói dối, cuối cùng lại rơi vào cái bẫy của Dương Hạo, bị vây ở một nơi không thể chạy được, bị kỵ binh nhẹ của Dương Hạo vây, nặng kỵ tấn công, đao binh càn quét, thế binh vừa triển khai, đại đội lớn mạnh ăn tươi luôn được Ngải Nghĩa Hải, Ngải Nghĩa Hải biết năm nghìn huynh đệ hắn hôm nay không có cơ hội sống mà trốn chạy, thế là lập tức xuống ngựa vứt đao, hung hăng lấn đến, hai tay giơ lên trước trận xin hàng.

Mộc Ân áp tải đoàn người Ngải Nghĩa Hải Ngân Châu nói với Dương Hạo, Dương Hạo lại có khâm phục tên hán tử này có dũng khí và nghĩa khí, thế là chiêu hàng hắn, tên này tuy là cường đạo kiêu ngạo, nhưng tác chiến dũng cảm, vô cùng nghĩa khí, thực là một hán tử quang minh lỗi lạc.

“Ngải Nghĩa Hải, dẫn theo nhân mã của bộ lạc ngươi, lần này sẽ đi tập kết đánh úp thành Song Long, giết Lý Kế Bổng, đây chính là nhiệm vụ mà ngươi cần phụ trách”.

Dương Hạo cúi người về phía trước, hai mắt hơi nhíu lại, trầm giọng nói: “Thành Song Long chỉ có năm nghìn binh, phân ra trấn giữ bốn thành, trong tay ngươi cũng có năm nghìn binh, hơn nữa thành trì Song Long lĩnh rách mướp, mang tiếng là thành trì song cùng lắm cũng chỉ có tường xây bao quanh, thậm chí còn không có cửa ải để bảo vệ, dù bộ binh của ngươi có đi đánh lén mai phục, đánh úp tường thành quanh, thì thế tấn công này, bổn soái dùng sở trường của ngươi, hy vọng ngươi không phụ lòng của bổn sư.

Nếu ngươi có thể giét chết Lý Kế Bổng thì tốt nhất, nếu như không thể thì tự có Mộc Ân Mộc Khôi sẵn sàng chào đón quân địch. Nếu như vẫn không được, ngươi cần phải phòng thủ kiên cố, ngăn chặn hắn trốn con đường Hạ Châu, đoạt trọng trách Mộc Ân Mộc Khôi, tiếp nhận”.

Ngải Nghĩa Hải vừa nghe giận tím mặt, cười ngạo nghễ nói: “Tiết soái xin cứ yên tâm, ngoài Lý Kế Bổng là đám chuột nhắt, thấy mỗ gia lập tức rời đi, nếu không thì, toàn Song Long lĩnh, mạt tướng phút chốc có thể hạ chiếm, quyết không để cho hắn chạy thoát, Mộc Ân Mộc Khôi, hai vị tướng quân này, hắc hắc, phen này sợ một công toi, để hai vị tướng quân cùng mạt tướng hợp trận cho quân địch một trận”.

Mộc Ân và Mộc Khôi không nghĩ đến, hai người nhìn nhau, thầm: “Thỉnh tướng quả nhiên không như kích tướng”.

Ngải Nghĩa Hải lần này cuồng ngôn đương nhiên là căm phẫn Dương Hạo không tín nhiệm với bộ đội sở thuộc chiến lực, nhưng hắn kiêu ngạo, hắn năm nghìn huynh đệ, căn bản là quần mạng đồ, trong hoàn cảnh tây bắc ác liệt chiếm sinh tồn, năm nghìn nhân mã này đều là những chiến sĩ dũng mãnh thiện chiến. Song chiến mã của hắn tốt xấu lẫn lộn, vũ khí trang bị thì không đâu vào đâu, mục đích chỉ là cướp giật, cho nên gây xung đột chính diện quân đội chính quy.

Giờ hắn nhờ vả Dương Hạo, không thể so sánh được với ngày xưa. Hơn nữa sau khi nhờ vả Dương Hạo, thuộc hạ của hắn đã qua sự tập luyện quân kỷ quân pháp, bộ lặc tiến thối cũng biết Mộc Ân áp tải đoàn người Ngải Nghĩa Hải về Ngân Châu nói với Dương Hạo, Dương Hạo là một hán tử có nghĩa khí khiến nhiều người bội phục, thế là bèn đầu hàng hắn, tên này tuy hơi kiêu ngạo theo tính bọn thổ phỉ, nhưng tác chiến thì dũng cảm, nghĩa khí hán tử sáng chói.

“Ngải Nghĩa Hải, lênh cho nhân mã bổn bộ, lần này đi đánh úp Song Long lĩnh, giết Lý Kế Bổng do ngươi phụ trách”.

Ngải Nghĩa Hải vừa nghe trọng trách này giao cho hắn, vui mừng đắc ý vô cùng, chắp tay thi lễ Dương Hạo, lớn giọng đáp “Mạt tướng quân lệnh”.

Nhóm người này một khi thành quân nhân quân kỷ nghiêm minh, lúc đó là sư hổ lang chân chính, niềm tin của Ngải Nghĩa Hải không ai địch nổi.

Hơn nữa từ khi hắn đầu nhập vào quân Dương Hạo đến nay, luôn chẳng đấm đá gì, bộ đội sở thuộc xuất thân từ mã tặc, nhận được nhiều sự kỳ thị với các binh sĩ khác, Ngải Nghĩa Hải sợ rằng lập được công lớn trở về hãnh diện, đương nhiên sẽ không bỏ qua cơ hội này.

Dương Hạo gật đầu, vui vẻ nói: “Tốt rồi, lần này công thành, ngươi có thể đi với Mộc Ân Mộc Khôi, bộ thự tùy theo hoàn cảnh. Ngươi chỉ cần nhớ một điểm này, lần này công thành không phải mã tặc công thành phá trại, mà là quan binh tiêu diệt phản nghịch, quân dân có người phản kháng thì giết, nhớ để chúng đầu hàng, chớ làm tổn thương.

Ngải Nghĩa Hải hô dõng dạc: “Tuân lệnh”.

Dương Hạo lại nói: “Minh Đường Xuyên phái người ám sát bổn soái, ý đồ bất chính, nhất định phải bị loại bỏ. Ngươi nhớ kỹ, thành này một khi đoạt được, chính là công lớn của ngươi, khắp thành tài vật nhận ngươi dụng, dân chúng đều phát bán làm nô”.

Ngải Nghĩa Hải nghe vậy mừng rỡ, lập tức ôm quyền nói: “Mạt tướng tuân lệnh”.

Trước đây chúng là thổ phỉ, cướp bóc chung quanh, dễ dàng chính là không dám đi theo với số tài sản cồng kềnh không tiện chiếm đoạt được đám dân cư, thực không giống nhau, dân chúng đều đi làm nô dịch, đó chính là vốn lớn, dựa vào điểm này, không cần Dương Hạo thêm nhiều điều đốc thúc, không cần nói tìm dân chúng, coi là binh sĩ quân địch chỉ cần bắt được, người của hắn cũng không thể tùy tiện giết được.

Ngải Nghĩa Hải nắm lệnh tiễn thối ba bước, sóng vai đứng với Mộc Ân Mộc Khôi, Dương Hạo nói với ba người hắn: “Các ngươi lập tức xuất bộ đội ra khỏi thành, chỉ mang theo lương thực đủ dùng trong ba ngày mà lên đường, ban ngày thì phục ban đêm thì hành, tập kết Song Long thành Minh Đường Xuyên. Đến khi lương thực không đủ dùng có thể lấy số lương thực ở chỗ dân chúng Minh Đường Xuyên, giờ có tin tức đặc biệt, cổ lão trượng sẽ liên lạc với mọi người kịp thời.

Một lão cổ đại cát râu tóc bạc phơ chắp tay thi lễ với ba vị tướng quân, ba người đáp lễ nhau, Dương Hạo vung tay nói: “Lập tức xuất binh”.

“ Mạt tướng xin cáo lui”. Ba viên đại tướng thối lui, đến trước cửa xoay người đi ra, trong chốc lát nghe thấy tiếng vó ngựa đã đi xa, bước chân như mưa, ba người suất lĩnh đích thân dẫn quân nghênh ngang đi.

Dương Hạo đứng ở phía sau, mãi đến khi tiếng ngựa đã đi xa, vỗ tay nói lớn: “Bãi đường”.

Đám văn võ thối lui, Dương Hạo đưa mắt nhìn theo bóng họ đã đi xa. Viên tướng đi ra sau chính là Phạm Tư Kỳ, Phạm thư sinh vốn chậm, làm gì đều chậm hơn người bên cạnh, hắn lo lắng đi về phía sau, nghĩ đến ngày trộm hôm nay, làm xong công sự, nếu không cùng với nương tử đổi y phục đi về phía đầu đường, nhìn hoa đăng, nếu không đi Lâm Bằng Vũ trộm ít đồ đạc.

Kế hoạch này, một cước ra cửa, vô ý nhìn lại, thấy lúc nãy một đại mã kim đao còn đứng đó, một Dương đại soái khí khái bất phàm cầm chiến bào, một tay nhấc áo giáp, oai hùng nhằm phía sau bức họa bạch hổ đi tới.

Phạm tú tài giật mình, vội dụi dụi mắt, nhìn chăm chú, ở đại sảnh trống không, kỳ tì và thị vệ bên cạnh còn tứ bình bát ổn đứng ở đằng kia, giống như chưa hề xảy ra chuyện gì, Phạm tú tài không khỏi lẩm bẩm: “Ồ, thức đêm bố trí lương thực, cứu tế tai họa cho các bộ tộc lân cận, thực mệt chết đi, mắt đã hoa lên, thôi xong, đêm nay dù thế nào đi nữa, cũng phải được nghỉ ngơi.

Bạch hổ tiết đường cạnh soái phủ tây, Dương Hạo trực tiếp chạy về trạch viện mình từ bên tiết đường.

Vừa nãy hắn ở tiết đường triệu tập văn võ bộ thự xuất binh hành sự, không muốn một thân binh lên soái đường, chỉ lặng lẽ nói với hắn một câu: “Đại phu nhân sắp sinh rồi”.

Dương Hạo vừa nghe thấy vậy lòng như lửa đốt, hắn sao có thể ngờ con của mình sớm không sinh, muộn không sinh, lại chọn đúng thời điểm then chốt này, đổ thêm dầu vào lửa cho cha nó, nhưng lúc này hắn lại không thể có biểu hiện gì, mãi đến khi thu xếp xong xuôi cho Ngải Nghĩa Hải và Mộc Ân, Mộc Khôi, thống binh xuất chinh, bãi văn võ, lúc này mới chạy như điên về hậu trạch.

Đám nha hoàn thị tỳ của phủ đi ra đi vào, mặt mày vui vẻ, thấy lão gia vẫn mặc áo giáp, chạy đến trạch thở hồng hộc, từ xa đã cười khanh khách nói: “Chúc mừng lão gia”.

Câu nói vừa dứt, đám thân tín của Dương Hạo đã chạy đến: “Chúc mừng, chúc mừng”.

Dương Hạo đến cửa phòng Đông Nhi, bỗng nhiên dừng chân, hắn đứng ngoài cửa hít một hơi dài, một thiếu nữ yểu điệu đi đến, khẽ nói với hắn vài câu, Dương Hạo cũng không biết là ai, ở hậu trạch của nàh mình, hắn cũng không thể nhớ nổi đó có phải là người của nhà mình hay không, lên trước tóm lấy tay bạch y nữ tử hỏi: “Đông Nhi sinh hạ là trai hay gái vậy? Mẹ tròn con vuông chứ? À…không phải, giờ đã sinh hạ chưa?”

“Á?” Nữ tử đó trợn tròn mắt, há hốc mồm nhìn hắn. Dương Hạo bình tĩnh lại, mới nhận ra bạch y nữ tử có má lúm đồng tiền, hai hàng mi đậm, ánh mắt long lanh, tuy hơi ngạc nhiên, nhưng trong lúc ngạc nhiên vẫn tỏ vẻ ung dung, dưới ánh đèn là da trắng nõn hơi ửng hồng, rõ ràng là thanh lệ tuyệt tục, là sức hấp dẫn từ bên trong toát ra, dĩ nhiên là Tiểu Chu Hậu đã lâu không gặp.

Dương Hạo bất thình lình nhận ra buông vội tay nói: “Hóa ra là …Chu…”

Ôi, tại hạ vô cùng thất lễ, phu nhân chớ trách”.

Tiểu Chu Hậu xinh đẹp má hơi ửng hồng xấu hổ, cúi người nói: “Thần thiếp bái kiến thái úy”.

Dương Hạo vội khoanh tay lại nói: “Tại hạ….phu nhân của ta…nàng…sao rồi?”

Người phụ nữ đứng đối diện Tiểu Chu Hậu chính là Mậu Nương khiến hắn thất thố, Mậu Nương không khỏi cười thầm, lúc này mới bước ra hòa giải nói: “Đông Nhi tỷ tỷ đã sinh một nữ oa nhi, mẹ tròn con vuông, thái úy đại nhân xin cứ yên tâm ạ”.

Dương Hạo thở phào nhẹ nhõm, gật đầu, toan xoay người bước vào phòng, Tiểu Chu Hậu và Mậu Nương nhìn nhau, cả hai cùng đi theo vào.

Từ khi Tiểu Chu Hậu đến Ngân Châu, Mậu Nương thường đi lại với chúa cũ, làm bạn chuyện trò cùng nàng, giao tình giữa hai người ngày càng thêm thân mật. Hôm nay là ngày trộm, là ngày vui của thành, Mậu Nương vốn muốn giải sầu cho Tiểu Chu Hậu, đồng thời cũng hẹn với Diễm Diễm, Oa Oa, Diệu Diệu, muốn đi ngắm đèn du ngoạn với mọi người, không ngờ vừa hẹn Tiểu Chu Hậu ra, Đông Nhi lại có biểu hiện sinh nở, họ nào còn dám ra cửa chơi, tất cả mọi người đều đến phòng Đông Nhi chăm sóc.

Đông Nhi sinh ra một bé gái vô cùng thuận lợi, đứa bé vô cùng đáng yêu, mấy người phụ nữ thấy vậy đều vây quanh giường, ôm nựng bé, Đông Nhi cũng muốn ôm lấy bé, nến bà đỡ đẻ phải nói một câu: “Đại phu nhân vừa mới hạ sinh cần yên tĩnh để nghỉ ngơi”.

Lúc này Tiểu Chu Hậu và Mậu Nương, Hạnh Nhi đều lưu luyến đi ra, còn về Diễm Diễm, Oa Oa và Diệu Diệu thì vẫn vây lấy quanh đứa bé, mở to mắt nhìn nó, bà đỡ không đám đuổi họ đi.

Tiểu Chu Hậu không có con, trẻ thì không nói làm gì, nhưng giờ đã 26 tuổi, bình thường chưa được nhìn thấy trẻ con thì thôi, giờ nhìn tháy đứa bé mới ính, làm sao mà không động lòng, nàng không nỡ rời mắt khỏi nó, thấy Dương Hạo vào trong phòng, nàng liền nhân cơ hội đi cùng với hắn và Mậu Nương vào, cố níu kéo nhìn đứa bé thêm chút nữa.

Trong phòng chỉ có mẹ con Đông Nhi và một người hầu, Dương Hạo vào phòng, đứng cạnh giường, Đông Nhi nhìn thấy trượng phu khẽ ho một tiếng: “Hạo ca ca!”

Tiếng vừa nói, nước mắt không nén được vội tuôn rơi, nàng cũng không biết tại sao mình lại khóc, chỉ biết nhìn thấy Dương Hạo nước mắt không nén được trào ra.

“Mẹ con khỏe là tốt rồi, còn khóc gì nữa, phải vui mới đúng chứ”. Dương Hạo cũng biết cơ thể của đàn bà mới sinh vô cùng yếu, vội nói vài câu an ủi, đứa bé nhắm mắt chìm vào giấc ngủ.

Đông Nhi nghe thấy câu “Mẹ tròn con vuông”, trong lòng càng thêm sợ, nước mắt lăn dài, Dương Hạo không biết mình có lời nào sai, Đường Diễm Diễm đứng cạnh ôm đứa bé, khen: “Hạo ca ca, mau lại đây xem, đứa bé của chàng có đáng yêu không nào”.

Oa Oa vội sang ẵm đứa bé nói: “Trẻ không thể bồng bế như vậy, cổ bé rất mềm, cẩn thận chút chứ, đưa cho ta bế nào, mau mau”.

Đông Nhi lo lắng nhìn họ lóng ngóng, lo họ không cẩn thận làm thương tổn đứa bé song lại ngại không dám nói. Dương Hạo vui ra mặt, bộ dạng khiển trách: “Tranh giành nhau gì vậy, đứa bé mà, không cần phải ôm khư khư, được ôm nhiều quen đi, sau này nàng không ôm nó, nó sao tự ngủ được, mau lại đây, đưa ta bế cho”.

Hắn vừa nói, Diệu Diệu lo lắng nói: “Lão…lão gia, đại nam nhân chân tay thô kệch, chàng sẽ làm đau bé”.

Thời đó người cha rất ít bế trẻ nhỏ, ai biết được là phải bế thế nào, nhưng không ngờ Dương Hạo lại rất biết cách ẵm trẻ nhro, tay đỡ đầu đứa bé, đồng thời tay làm điểm tựa lưng cho bé, tay kia khẽ ôm.

Đứa bé dường như rất thích cách bế đó, được hắn ôm vào lòng, mắt nhắm lim dim mở miệng ngáp.

Mấy nữ nhân trẻ trung còn không biết cách bế trẻ, nhìn Dương Hạo bế rất thành thục, đều đổ dồn ánh mắt vào hắn. Dương Hạo bất giác thấy mọi người nhìn cách mình bế trẻ, liền cúi xuống nhìn đứa bé nhắm mắt chìm vào giấc ngủ.

Đứa bé là cốt nhục của hắn, được bế chính đứa con mình, tình cảm trào dâng, Dương Hạo khẽ nựng nó, càng nhìn càng yêu, tình cảm phụ tử trào dâng trong lòng.

Đông Nhi lo lắng quan nhân ghét bỏ bé gái, nhưng không ngờ, nhìn cách cư xử của hắn, nàng cảm thấy yên tâm vạn phần.

Đám người đứng bên trừng mắt nhìn bé, Dương Hạo sợ sẽ làm nó sợ, không dám nói, quay người bế bé, đứa bé mở mắt nhìn người đang bế nó, nhưng không nhìn được lâu, nó lại bị hấp dẫn bởi ngọn đèn bên cạnh, quay sang nhìn nó.

Dương Hạo thì cứ nghĩ là bé vẫn đang nhìn mình, bật cười nói: “Nữ nhi của ta, nhận ra cha không?”

Đám người bên cạnh cảm kích, Dương Hạo vừa mới nói xong câu ấy, đứa bé bỗng ngoác miệng khóc, Đông Nhi vội nói: “Quan nhân, đưa con cho thiếp”.

Dương Hạo vội đưa bé đến bên cạnh Đông Nhi, đứa bé áp mặt vào ngực mẹ, nghe thấy tiếng tim đập quen thuộc, nín không khóc nữa.

“Con gái yêu của ta, sau này lớn nhất định sẽ là một công chúa nhỏ xinh đẹp, đáng yêu”. Dương Hạo quỳ bên giường đắc ý nói.

Câu này vô cùng bình thường với hắn, đứa bé được cha cưng chiều được ví với tiểu công chúa, nhưng mấy người đứng bên băn khoăn:

“Công chúa nhỏ? Ý là…là…làm Hoàng đế ư?”

Đông Nhi, Diễm Diễm, Oa Oa, Diệu Diệu sợ hãi vội bịt miệng mình lại, tuy biết Dương Hạo không hề có dã tâm làm Hoàng đế, nhưng Dương Hạo đã chiếm được Ngân Châu, chiêu binh mãi mã, tọa trấn tây bắc, khoảng cách tạo phản làm Hoàng đế còn là một bước ngắn, khác biệt chỉ là dã tâm tuy chỉ kém một bước, thực lực cách biệt một trời một vực mà thôi.

Nhưng Tiểu Chu Hậu và Mậu Nương mặt trắng bệch ra, quản nương không biết dã tâm của Dương Hạo, thậm chí không biết hắn chiếm cứ tây bắc, Tiểu Chu Hậu tuy hiểu chút dã tâm của hắn, nhưng việc này không thể nói hết ra được, dù hành vi của hắn đã tâm lộ nhân của Ti Mã Chiêu, đích tai ngươi nghe thấy, thế thì tai họa của thiên đại. Giờ hai người họ nghe thấy thời cơ của Dương Hạo hí hửng Thổ Phiên, sẽ có kết cục sao đây?

Hắn có dã tâm giết người diệt khẩu được không đây?

Nghĩ đến điều này, ngón tay quản nương lạnh run lên, ngẩng đầu nhìn Tiểu Chu Hậu, Tiểu Chu Hậu mặt mũi trắng bệch, hai người cùng nghĩ: “Nếu như vừa rồi ta không vào cùng có phải tốt không?”

Tiếc rằng trên đời không có thuốc chữa bệnh hối hận…

 Chương 444: Bốn mươi đạo tặc.

Minh Đường xuyên, Song Long lĩnh, Song Long thành.

Cái tên Song Long thành này nghe thì rất uy phong, nhưng đó chẳng qua là Lý Kế Pháp tự dát vàng lên mặt mình mà thôi, tòa thành Song Long này chỉ là một sơn trại dùng hàng rào vây lại, cùng lắm có thể gọi là mô hình thu nhỏ thành trì. Trong sơn trại, hai con đường rộng rãi một ngang một dọc cắt cả thành trì này ra thành bốn bộ phận, một bộ phận là phủ đệ của Lý Kế Pháp, một bộ phận là nơi ở của gia quyến tướng sĩ trong quân, một bộ phận nữa là nơi tụ cư của bách tính trong thành, bộ phần cuối cùng và cõi yên vui của bọn lưu manh vô lại và những người bán dạo.

Địa phương Minh Đường Xuyên này là một địa vực hẹp dài nổi bật nhất của thế lực Ngân châu hướng về phía bắc, bởi vậy phía đông hay phía bắc đều là phạm vi thế lực của Khiết Đan, phía tây thì là địa phương của bộ lạc du mục Thổ Phiên và Hồi Hột, Lý Kế Pháp bị đuổi tới địa phương này, chủ ý của Lý Quang Duệ là để mặc hắn tự sinh tự diệt, nhưng Lý Kế Pháp không ngờ lại đứng vững ở nơi này, đây tất nhiên là công của Trương Phổ, đệ nhất đại tướng dưới tay hắn và đồng thời cũng là túi khôn của hắn.

Trương Phổ không hề nổi danh, dù là ở Tây Bắc cũng không nhiều người biết đến hắn, nhưng điều này không có nghĩa là người này không có chân tài thực học, mà không phải người cứ có chân tài thực học là nhất định có thể có thành tựu nổi bật. Rất nhiều nhân sĩ tài trí trác tuyệt, bởi vì không có võ đài cho hắn thi triển sở trường, kết quả sau cùng là tiêu thanh nặc tích, chôn vùi trong dòng sông lịch sử, nếu như cho họ một cơ hội, bọn họ chắc chắc có thể tung cánh bay lên trời, sáng lập một sự nghiệp còn huy hoàng hơn cả danh thần trong lịch sử.

Trương Phổ năm nay hơn ba mươi tuổi, vẫn chưa tới tuổi biết thiên mệnh, tất nhiên cũng không chịu nhận mệnh, cho nên hắn vẫn hùng tâm bừng bừng muốn lợi dụng lúc sinh thời, làm ra một phen sự nghiệp oanh oanh liệt liệt. Nhưng người duy nhất hắn có thể đỡ lên chỉ có Lý Kế Pháp. Tuy Lý Kế Pháp vô luận là địa bàn, binh lực, tài phú, thậm chí là trí tuệ, lòng dạ của y đều không được tính là nhân tài có thể bồi dưỡng, nhưng Lý Kế Pháp có thể tin hắn, dùng hắn, luôn nghe theo lời của hắn, khiến hắn có thể thi triển sở trường, vậy là đủ rồi. Bọn người Lý Quang Nghiễm, Lý Quang Tế này tuy đã mang Lý Kế Pháp ra làm điều kiện để đối lấy thành công, nhưng bọn họ quá trọng thị gia thế xuất thân, một bạch đinh như Trương Phổ, nếu ở dưới trướng của bọn họ thì không bao giờ có ngày mở mày mở mặt.

Ám sát Dương Hạo chính là một nước cờ hiểm mà Trương Phổ đã đi, thế lực của các bộ tộc cường phiên ở Tây Vực đều đã thành hình, cơ cấu quyền lực gia tộc đã vô cùng ổn định, một hai nhân vật hạch tâm chết đi sẽ không khiến cả tập đoàn thế lực bị tan rã, giống như Ngân châu Lý Quang Nghiễm, tuy bị người ta phục kích mà chết thảm, nhưng con cháu trong gia tộc chờ kế thừa quyền vị của hắn lại nhiều không đếm xuể. Song Dương Hạo thì khác, Dương Hạo là lực lượng mới xuất hiện, tuy trong chư hùng Tây Bắc quật khởi cực nhanh, nhưng căn cơ của hắn vẫn quá mỏng manh, cả thế lực Lô châu cơ hồ là hoàn toàn vận tác xoay quanh một mình hắn, nếu Dương Hạo chết đi, tập đoàn thế lực của hắn sẽ lập tức sụp đổ tan vỡ, như vậy Lý Kế Pháp cũng có thể thủ thắng trong hỗn loạn.

Tình hình trước mắt là Lý Quang Tế sau khi trở thành Ngân châu phòng ngự, trắng trợn bổ nhiệm người thân, hoặc đoạt thực quyền của những tướng lĩnh trọng yếu thời kỳ Lý Quang Nghiễm còn thượng nhiệm, hoặc phái họ tới những nơi không có ai giúp và Thổ Phiên, Hồi Hột để khổ chiến, hòng tiêu hao thực lực của bọn họ giống như đã làm với Lý Kế Pháp, thành viên nòng cốt có quyền lực ở Ngân châu đã bị quét sạch.

Lý Quang Nghiễm thống trị Ngân châu hơn chục năm, thế lực của hắn sau khi bị diệt trừ, Lý Quang Tế ít nhất phải cần mấy năm mới có thể xây dựng lại một bộ máy chính quyền ổn định, song lúc trước Khánh vương Da Luật Thịnh lừa gạt đoạt thành Ngân châu, cơ hồ là đồ sát hoàn toàn tộc nhân của nhất mạch Hạ châu Lý thị, nhưng hắn vẫn chưa đứng vững đã lập tức bị Dương Hạo giết chết, nếu Dương Hạo lần này lại bị ám sát, Lý Kế Pháp có thể giành quyền sau hỗn loạn.

Lý do của hắn có những điểm sau:

Thứ nhất, những bộ lạc, thành trì lớn nhỏ ở lân cận Ngân châu đã bị Ngân châu Lý thị thống trị hơn trăm năm, nếu như có một người của Ngân châu Lý thị đứng ra thu thập tàn cục, rất dễ nhận được sự chấp nhận và ủng hộ của thủ lĩnh các bộ tộc.

Thứ hai, tộc nhân của Ngân châu Lý thị cơ hộ bị Khánh vương của Khiết Đan đồ sát sạch sẽ rồi, hiện giờ trong những tộc nhân của Ngân châu Lý thị đã không còn tìm ra được người có tư cách hơn Lý Kế Pháp để kế thừa chức vị phòng ngự sử này. Lý Quang Duệ chỉ có thể dùng hắn, chức vị này ngoài hắn ra thì không còn ai xứng hơn cả, sự ủng hộ của Hạ châu chính là sự đảm bảo lớn nhất cho hắn thượng vị.

Xét thấy vậy, Trương Phổ mới quyết định kế hoạch nhắm vào Dương Hạo, Lý Kế Pháp tuy không phải là một kiêu hùng có tâm cơ và khí phách, nhưng dã tâm thượng vị lại có thừa. Sau khi Trương Phổ đem tất cả một phen được mất này phân tích rõ cho hắn, Lý Kế Pháp vui vẻ đồng ý, lập tức thừ trong đám tử sĩ tâm phúc của mình chọn ra mấy người có võ nghệ cao thâm nhất đi chấp hành nhiệm vụ này.

Sau khi hành thích thất bại, Lý Kế Pháp quả thức là sợ hãi một trận, sợ sự cơ bại lộ, dẫn tới việc Dương Hạo sẽ báo thù, lúc nào cũng chuẩn bị chạy trốn. Qua một đoạn thời gian thấy phía Ngân châu tựa hồ như hoàn toàn không hề hoài nghi tới hắn thì mới thở phào nhẹ nhõm. Trương Phổ lại không dễ dàng buông bỏ lòng cảnh giác như vậy, qua mấy ngày nữa là đến Tết Nguyên Tiêu, bách tính thành Song Long cũng rất thích chơi hội. Trương Phổ lại thuyết phục Lý Kế Pháp, ước thúc binh đinh không được tụ tập với người nhà khác, tất cả nhân mã ăn không cởi yên, ngủ không cởi giáp, nghiêm trận ứng biến, đồng thời phái ra một lượng lớn thám mã trinh sát, cảnh giới những tin tức tới từ phía Ngân châu.

Hiện giờ ba ngày Tết Nguyên Tiêu đã qua đi, thành Song Long không phải nghênh đón địch nhân, sự bất mãn phải nén nhịn đã lâu của các tướng sĩ cuối cùng cũng bạo phát rồi, trước phủ của Lý Kế Pháp, mấy doanh chỉ huy đang ở đó càu nhàu.

"Tướng quân, Song Long lĩnh chúng ta là địa phương chim chẳng buồn ỉa, ai lại dở hơi tới công đánh chứ? Tên Trương Phổ đó cứ tưởng mình là hay, luôn cho rằng mình thần cơ diệu toán, hắn nói một câu thối như như rắm, hại chúng ta mấy ngày mấy đêm không được an bình, địch nhân ở đâu? Làm gì có địch nhân nào? Ba ngày Tết Nguyên Tiêu để ăn chơi phè phỡn, những binh sĩ chịu khổ cực mãi cũng chỉ có được mấy ngày này để mặc sức vui vẻ, thế mà con mẹ nó phải ôm thương lớn lãng phí thời giờ trong binh doanh."

"Tướng quân, thuộc hạ của ta oán thán rầm trời lên rồi, nếu cứ tiếp tục như thế này, không cần người nào có chủ ý đánh chúng ta đâu, tự các binh sĩ sẽ tạo phản đấy, thuộc hạ bất lực rồi, đại nhân ngài cứ xem thế nào mà làm."

"Tướng quân, thuộc hạ của ta có mấy binh sĩ đêm qua lén lút lẻn ra khỏi binh doanh đi gặp nữ nhân của mình, cái tên khốn Trương Phổ chó cậy gần nhà đó bắt bọn họ lại rồi xử phạt, phạt đánh bằng roi một trận thì không nói, lại còn cởi hết quần áo của họ rồi trói chôn xuống tuyết, nếu như hắn nói có lý, đó là thuộc hạ quản lý người dưới không nghiêm, ta cũng nhẫn nhịn. Nhưng địch nhân ở đâu chứ? Ta là một người thô lỗ, không bằng hắn đầy một bụng văn chương thối hoắm, hắn có học vấn, cái này ta thừa nhận, nhưng có học vấn không có nghĩa là hắn có thể đánh trận, tướng quân nếu cứ thiên vị dung túng Trương Phổ, thuộc hạ không đàn áp được rối loạn do binh sĩ bên dưới tạo ra đâu."

Các binh sĩ tiếng oán thân dậy đất trời, tướng lĩnh các bộ đều chạy tới chỗ Lý Kế Pháp kêu khổ. Lý Kế Pháp có chút không chịu được, chỉ đành nói: "Ài, Trương tướng quân cũng chỉ là có ý tốt thôi mà, bên trong nhất định có chút nguyên do, là các ngươi không hiểu đó thôi, chuyện này thực sự là không oán Trương Phổ được. Thế này đi, lệnh cho quan binh các doanh giải trừ giới bị, mọi người đều khổ cực rồi, nghỉ ngơi một chút đi."

Chúng tướng tuân lệnh, lúc này mới hùng hùng hổ hổ bỏ đi. Lý Kế Pháp đứng trước phủ đệ vắng vẻ đến phát ngốc, một lúc sau mới đi lên sườn núi.

Trên sườn núi có mấy cây mai, bóng hoa yểu điệu, bước tới gần mới thấy dưới cây mai có một người đang đứng, người này thân hình cao gầy, một thân trường bào, tay cầm bình rượu, khi thì lại ngẩng đầu lên nhìn sao trên trời đến xuất thần, khi thì uống một ngụm rượu, nhìn những đốm lửa ở dưới sườn núi rồi thở dài. Lý Kế Pháp lẹp bẹp giẫm lên mặt tuyết bước tới bên cạnh hắn, thở dài một tiếng, nói: "Trương Phổ."

Trương Phổ cười nhạt một tiếng, chậm rãi nói: "Đám quan binh thô lỗ đã giải tán rồi ư?"

Lý Kế Pháp lặng yên một lát rồi ngượng ngùng nói: "Chúng ta giới bị ba ngày rồi, lại chưng thừng nghe thấy phong thanh gì, tướng lĩnh các bộ đều đầy một bụng oán thán, Tết Nguyên Tiêu mà không được đoàn tụ với người nhà, các binh sĩ lớn tiếng kêu than, cho nên..."

Trương Phổ cười khổ một tiếng, ngẩng đầu lên uống một ngụm rồi thở dài, nói: "Con nhà giàu thì khó sai, con yêu thì khó bảo, con loạn khó trị, con cưng thì không thể dùng. Cũng như là người hiền lành thì không nên nắm binh, phải có hình phạt mạnh thì mới có thể dẹp yên ba quân, huống chi Song Long lĩnh chúng ta là nơi bốn phía có hổ lang rình rập, tướng quân cũng quá dung túng cho bọn họ rồi."

Lý Kế Pháp thở dài một hơi, đứng sánh vai với Trương Phổ, cũng ngẩng đầu lên trời nhìn sao sáng trên trời, lẩm bẩm: "Ta đây cũng là vì không có biện phápmà thôi, vốn tới Ngân châu còn có thể nhận được một chút tiền lương, nhưng từ lúc Ngân châu bị chiếm đóng, lương hướng (lương là lương thực, hướng là tiền lương) đều bị cắt. Hiện giờ chỉ huy sứ ta đây muốn lương mà không có lương, muốn hướng mà chẳng có hương, sự cung phục của các bộ tộc ở Minh Đường Xuyên cũng có hạn, nhưng đối với bọn họ lại không thể bức quá găng, nếu không bọn họ sẽ bỏ đi, chỉ mất một ngày thôi là có thể di chuyển tới cảnh nội Khiết Đan, Tổ Phiên rồi. Ài! Hoàng đế còn không động đến binh đói, ta sao lại ra roi quá mạnh được?"

Những lời của lời nói này của Lý Kế Pháp cũng có tình có lý, Trương Phổ không khỏi nhíu mày. Lý Kế Pháp quay đầu lại hỏi: "Đang nghĩ gì vậy? Hiện giờ xem ra là chúng ta quá khẩn trương rồi, ngươi còn lo lắng phía Ngân châu uy hiếp ư?"

Trương Phổ lắc đầu, nói khẽ: "Thuộc hạ đang nghĩ tới...lối thoát sau này của chúng ta."

Lý Kế Pháp hỏi: "Lối thoát? Lối thoát gì?"

Trương Phổ quay người lại, chắp tay nói: "Tướng quân, mời vào trong phòng ngồi."

Hai người quay người đi tới chỗ ở của Trương Phổ, Trương Phổ hiện giờ vẫn chỉ một mình, vẫn chưa cưới vợ, trong phòng vô cùng đơn giản, chỉ có một bếp đang rực lửa, bên bếp đặt một âm nước, đang chầm chậm bốc hơi nóng. Trương Phổ lại cho thêm mấy khúc củi, hai người liền ngồi xuống quanh bếp.

Trương Phổ trầm ngâm một lát rồi nói: "Tướng quân, thích sát Dương Hạo không thành cũng không quan trọng, chỉ cần thích khách mà chúng ta phái ra không để lộ thân phận, nhất thời bán hội Ngân châu sẽ không tìm tới chúng ta gây phiền phức đâu, hiện tại nan giải nhất là lối thoát của Song Long lĩnh chúng ta, tướng quân có từng nghĩ tới không?"

Lý Kế Pháp nhíu mày nói: "Ngươi rốt cuộc là muốn nói tới đường thoát nào?"

Trương Phổ lắc đầu: "Tướng quân điều binh khiển tướng một cách thiếu tự tin như vậy là do đâu? Bởi vì lương hướng không đủ mà thôi. Binh có quyền lợi được ăn lương cầm hướng, nếu lương hướng bị đoạn tuyệt quá lâu, những binh mã này của chúng ta không cầm bị ai tấn công mà ắt sẽ tự tan vỡ. Hiện giờ Ngân châu đã bị Dương Hạo chiếm cứ rồi, Hạ châu nước xa không cứu được lửa gần, mùa đông năm nay trời đổ tuyết lớn, bộ lạc các phương còn chẳng lo nổi cho mình, chính là cái gọi là thiên tai nhân họa, một chút lương tồn của chúng ta căn bản là không trụ nổi tới mùa xuân, tới lúc đó... tướng quân sẽ làm gì?"

Lý Kế Pháp vừa nghe thấy vậy liền trở nên khẩn trương, vẻ mặt ngưng trọng nói: "Điểm này mỗ chưa từng suy nghẫm một cách nghiêm túc, ngươi có nghĩ ra được biện pháp gì không?"

Trương Phổ chăm chú nhìn hắn một hồi lâu mới nói một cách thành thật: "Vốn là, nếu có thể giết chết Dương Hạo, tất cả nan đề này để tự động được giải quyết dễ dàng, đáng tiếc là Dương Hạo mạng lớn, chúng ta thất bại trong gang tấc. Minh Đường Xuyên vốn chính là nơi mà Lý Quang Tế lưu đày đại nhân, là một nơi để ngài tự sinh tự diệt, hoàn cảnh nơi này rất ác liệt, không phải là nơi nên ở lâu, càng khó mà lấy nơi này làm căn cơ cho được. Hiện giờ đã không giết được Dương Hạo, nhánh cô quân này của chúng ta thế ắt phải tìm một lối thoát khác."

Lý Kế Pháp rướn lên trước, giục: "Không sai, ta cũng cảm thấy địa phương này không phải là nơi nên ở lâu, ngươi có tính toán gì, mau mau nói ra đi."

Trương Phổ nói: "Năm ngàn binh này của chúng ta đơn độc ở nơi xung quanh có chiến tranh, tình cảnh rất gay go. Hiện giờ, Dương Hạo tạm thời vẫn không bận tâm được tới nơi này, nhưng đợi tới khi băng tuyết tan hết rồi, hắn sẽ không dung thứ cho một nhánh cô quân của chúng ta tiếp tục thủ ở đây. Cho dù chúng ta không gặp vấn đề lương hướng thì địa phương này cũng không thể ở lâu được."

"Ừ, ừ... nói rất có lý, vậy bản tướng quân nên làm thế nào?"

Lúc này ấm nước đã sôi, hơi nóng húc cho nắp ấm rơi xuống, Trương Phổ đặt ấm xuống đất, rồi mới nói tiếp: "Tướng quân, chút binh mã này của chúng ta cho dù đối đầu với một bộ tộc hơi lớn một chút cũng chẳng thắng nổi, lại thêm lương hướng thiếu hụt, Song Long lĩnh này không thể thủ được, hiện giờ... chúng ta phải nương tựa vào hào cường một phương."

Lý Kế Pháp ngây người, sắc mặt dần dần có chút khó coi, hắn nhớ mãi không quên mình nên làm chủ Ngân châu, cái này gọi là thà ngọc vỡ chứ không muốn làm ngói lành, nương nhờ vào người khác, làm sao mà bằng xưng bá một phương, tiêu diêu tự tại. Hiện giờ thì hay rồi, hi vọng tan vỡ hết, phải nương nhờ người khác, loại tâm lý đang từ trên cao tụt xuống thấp này nhất thời khiến hắn không thể tiếp nhận được.

Trương Phổ nhìn sắc mặt của hắn, không khỏi mỉm cười: "Năm đó Lưu Bị binh không quá một ngàn, tướng không qua ba người, bị người ta đuổi cho chạy như chó nhà có tang, phải đầu nhập Lưu Yên, rồi Công Tôn Toản, rồi Đào Khiêm, Lữ Bố, Tào Tháo, Viên Thiệu, Lưu Biểu, Tôn Quyền, Lưu Chương... chẳng phải là còn thảm hại hơn cả tướng quân ư? Nhưng vậy thì sao chứ? Chỉ cần một khi có cơ hội thì sẽ giương cánh bay cao như bình thường. Chúng ta hiện giờ lâm vào cảnh quẫn bách như vậy, cớ sao không nương nhờ vào hào cường một phương để bảo tồn thực lực? Còn về sau, chúng ta có thể nhận định tình hình, nếu như không thể như vậy thì triệt để quy thuận hắn, còn nếu như còn có cơ hội để nắm lấy, vậy thì sẽ lật ngược trở lại. Nương tựa cũng chỉ là tạm thời thôi, ngày sau sẽ ngóc đầu trở lại, đông sơn tái khởi mà."

Sắc mặt của Lý Kế Pháp lúc này mới hòa hoãn hơn một chút, nói: "Ừ, nếu tính toán như vậy thì cũng là một lối thoát, vậy ngươi nói xem chúng ta nên nương tựa người nào?"

Trương Phổ nói: "Mạt tướng đã tính toán tử tế rồi, lối thoát tối nhất đương nhiên là nương tựa vào Hạ châu. Chúng ta vốn là nhân mã của Hạ châu mà, một khi như vậy, chúng ta có thể bảo toàn bản thân, đợi ngày sau Hạ châu bình định loạn Thổ Phiên, Hồi Hột, khi giành lại được Ngân châu, tướng quân cũng là người có hi vọng trở thành Ngân châu phòng ngự sử nhất, có điều trong đây có một chỗ khó rất lớn. Đó chính là con đường tây hành của chúng ta đã bị chặn, dọc đường đều phải đi qua khu vực nằm trong tay Đảng Hạng thất thị, mà bọn họ hiện giờ đã quy thuận Dương Hạo, bằng vào chút binh mã của chúng ta, có thể yên bình xuyên qua nơi chiếm đóng của chúng mà an lành tới được Hạ Xuyên hay không thì cũng là vấn đề rất lớn."

Lý Kế Pháp lắc đầu lia lịa, nói: "Không phải là vấn đề lớn, mà là tuyệt đối không có khả năng, nếu chúng ta gắng gượng xông qua, nhân mã đều sẽ chết hết, chỉ một một mình bản tướng quân, cho dù chạy tới Hạ châu thì còn tác dụng rắm chó gì nữa, trong tay không có binh thì chính là một phế vật, từ giờ về sau ta làm sao còn ngày cất đầu lên được."

Trương Phổ nói: "Còn con đường thứ hai chính là nương tựa Khiết Đan, nước Khiết Đan do mấy chục dân tộc tổ thành, tất cả đều thu nhận hết, không kiêng kỵ ngươi là người Đảng Hạng hay là người Nữ Chân, người Cao Lệ hay là người Bộ Hải, như vậy có thể bảo toàn một nhánh binh mã của tướng quân. Khiết Đan có thể nâng đỡ Hán quốc để khiên chế Tống quốc, tất nhiên cũng có thể nâng đỡ tướng quân để khiên chế Tây Vực, nhưng con đường này có hung hiểm nhất định, nếu Khiết Đan vô ý tây tiến, chúng ta sẽ bị ràng buộc vào họ, vậy thì không còn là người tự do nữa rồi. Thống thuộc (thống lĩnh và thuộc hạ) của quân đội Khiết Đan vô cùng hỗn loạn, trừ Hán binh của U Vân thập lục châu ra, tất cả đều không có quân lương, thời bình thì làm dân, lúc chiến thì làm quân, toàn là dựa vào bổ cấp của bộ tộc mình, nếu tới lúc đó chúng ta không tìm được một khoảng đất để chăn nuôi, vậy thì..."

Lý Kế Pháp run lẩy bẩy, liên tục nói: "Không thể được, không thể được, nếu nương tựa Khiết Đan thì chẳng tha liều chết quay về Hạ châu còn hơn, không đi đâu, không đi đâu. Trừ hai con đường này ra thì còn con đường nào khác nữa không?"

Trương Phổ mắt lóe sáng, lại nói: "Vậy con đường cuối cùng chính là nương tựa Dương Hạo."

"Cái gì?" Lý Kế Pháp thất thanh nói: "Nương tựa vào Dương Hạo ư?"

Trương Phổ vội vàng trấn an: "Tướng quân chớ kinh sợ, cứ bình tĩnh nghe thuộc hạ nói rõ ràng đã."

Lý Kế Pháp nghe thấy ngôn luận hoang đường như vậy, cơ hồ là nhảy cẫng lên, nghe thấy hắn còn chưa nói hết mới cố gắng ngồi xuống, thở hổn hển nói: "Vậy ngươi nói đi, tới nương tựa Dương Hạo là đạo lý gì?"

Trương Phổ nói: "Nghe nói... con trai của Lý Di đại nhân, nguyên thiếu chủ của Hạ châu ta Lý Quang Sầm đại nhân vẫn còn sống, hiện giờ đang ở Lô châu, Đảng Hạng thất thị bởi vì Dương Hạo là nghĩa tử của Lý Quang Sầm đại nhân cho nên mới đầu phục Dương Hạo."

Lý Kế Pháp kinh nghi bất định nói: "Vậy thì sao? Nếu đầu hàng Khiết Đan, đối với Lý Quang Duệ đại nhân vẫn có thể nói là vì bảo toàn thực lực, từ từ tính toán hậu kế, nếu là đầu hàng Dương Hạo, vậy... chúng ta sẽ không có đường lui nữa, ngươi cho rằng... Dương Hạo sẽ là đối thủ của Lý Quang Duệ đại nhân ư?"

Trương Phổ mắt chớp động, chậm rãi nói: "Rất khó nói, có điều Dương Hạo chưa chắc đã không có lực tranh đấu. Hắn đã kết minh với Phủ châu, Lân châu rồi..."

Lý Kế Pháp cướp lời: "Cho dù có kết minh với hai châu Lân, Phủ, bọn chúng cũng không phải là đối thủ của Hạ châu."

Trương Phổ hỏi ngược lại: "Vậy nếu thêm Đảng Hạng thất thị nưa thì sao?"

Lý Kế Pháp hơi ngây ra, Trương Phổ lại nói: "Còn có Thổ Phiên, Hồi Hột. Hiện tại trong dân gian có lời đồn, Dương Hạo là Cương kim cống bảo chuyển thế linh thân, tướng quân chớ có coi thường lực lượng của tôn giáo, tín ngưỡng đủ để khiến bọn họ xóa mờ đi sự bất đồng của tộc quần và xuất thân giữa hai bên, cho dù bọn họ sẽ không nương nhờ Dương Hạo, ít nhất thì cũng sẽ thân cận với Dương Hạo hơn một chút, trước đây không có ai có thể làm lung lay địa vị của Lý Quang Duệ đại nhân, hiện tại thì rất khó nói.

Đại nhân là người của gia tộc Lý thị, Dương Hạo đã là nghĩa tử của Lý Quang Sầm đại nhân, vậy đại nhân cũng không tính là nương tựa người ngoài, nếu Dương Hạo thật sự có thể lấy được Hạ châu, chiếm Hà Tây mà nhìn về Lũng Thục, trở thành cường phiên số một Tây Bắc, tới lúc đó thảo nguyên bát ngát, sa mạc mênh mông, bình nguyên rộng lớn, bóng người thưa thớt, hắn mặc dù lấy một châu làm phủ đệ, tai mắt cũng khó mà trải khắp được bốn phương, tất phải sai phái người tâm phúc đáng tin thay hắn đi chủ trì công việc thì mới có thể khống chể được cả Tây Vực. Tới lúc đó tướng quân đã có công phù bảo, lại là tông thân của Lý thị, chẳng lẽ hắn lại không dùng? Muốn thành kiêu hùng một phương, đó là chuyện tất nhiên."

Lý Kế Pháp do dự một lúc rồi cười lạnh, nói: "Hắn? Một thằng nhóc con mà có thể trở thành đối thủ của Lý Quang Duệ đại nhân ư? Nước đi này, ngàn vận lần không đi được đâu."

Hắn đứng dậy, đi đi lại lại ở trong phòng một lúc rồi quay đầu lại nói: "Chúng ta nếu đi qua núi đất, sông ngòi, vượt qua sa mạc Mao Ô Tố để tới Hoài châu, rồi lại từ Hoài châu tới Hạ chậu, đi vòng qua chỗ cư trú của bộ lạc Đảng Hạng thất thị, người thấy thế nào?"

Trương Phổ giật nảy mình nói: "Đại nhân, hiện giờ trời lạnh tuyết lớn, nếu như đi con đường này thì các binh sĩ còn đỡ, nhưng gia quyến của bọn họ thì sao? Cứ đi con đường này, cho dù không gặp phải địch nhân, đợi tới được Hạ châu, người chết cóng chết đói cũng nhiều không đếm xuể, bảo bọn họ cực khổ phòng thủ ba ngày mà còn oán thán như vậy, đi đường đó, bọn họ có chịu không?"

Lý Kế Pháp nghe thấy vậy liền giống như một quả bóng xì hơi, đặt mông ngồi xuống ghế, chán nản lắc đầu: "Bất kể là như thế nào thì cũng không thể tới nương tựa Dương Hạo được. Một khi hắn biết chuyện chúng ta từng phái người ám sát hắn, hậu quả khó có thể dự liệu, nếu đề nghị tây phản Hạ châu không thành, vậy... chúng ta để sau hẵng nói đi."

Trương Phổ lặng im không nói gì, cùng Lý Kế Pháp quay về phủ đệ của hắn.

Nói là phủ đệ, nhưng chính xác hơn là một viện lạc có ba căn nhà một tầng, Trương Phổ không hề thất vọng đối với hành động của Lý Kế Pháp, trong tình hình này, chủ soái một phương phải có tính toán tốt nhất, nhưng Lý Kế Pháp đối với khốn cảnh sắp tới thiếu hụt nhận thức cơ bản nhất, loại tâm thái sống được ngày nào hay ngày ấy này làm sao mà thành được đại sự được, nhưng Lý Kế Pháp không đưa ra quyết định, hắn cũng đành chịu thôi, trên đường đi không ngừng trình bày rõ lợi hại, hi vọng Lý Kế Pháp có thể sớm đưa ra quyết định.

Nếu Lý Kế Pháp đưa ra quyết định thì cũng chưa chắc có thể thống nhất được những ý kiến bất đồng của thuộc hạ, có điều lúc đó thì dễ hơn, vào thời khắc sinh tử tồn vong, còn ai mà bận tâm đến nhiều việc như vậy nữa, chỉ cần Lý Kế Pháp ủng hộ, hắn sẽ không ngại gì mà trước tiên thanh tẩy nội bộ một lần, diệt trừ những tên tướng lĩnh cứng đầu, rồi sẽ tới nương tựa thế lực một phương, cho nên trên đường đi, hắn không ngừng tiến hành khuyên nhủ, Lý Kế Pháp thì chỉ ậm à ậm ừ cho qua chuyện.

Tới Lý phủ, đẩy cửa viện ra, Lý Kế Pháp quay người lại nói: "Trương tướng quân cứ quay về nghỉ ngơi đi đã, chuyện ta ta sẽ suy nghĩ thật kỹ..."

"Hả?" Trương Phổ đột nhiên mặt mày cảnh giác, nhanh chóng nhìn sang hai bên, Lý Kế Pháp cũng như phát giác ra gì đó, lập tức đặt tay lên chuôi đao.

Trương Phổ mặc một thân trường bào, không mặc quân trang, cũng không đeo bội kiếm, hắn nắm chặt song quyền, nhảy vọt tới trước mặt Lý Kế Pháp, cảnh giác nhìn bốn góc tường trong viện, nói khẽ: "Tương quân có cảm giác được có gì đó lạ thường không?"

Lý Kế Pháp chậm rãi rút đao ra, hạ thấp giọng, nói: "Quả thật là có gì đó không đúng, thị vệ canh gác cửa sao không thấy một người nào?"

Hai người lòng sinh cảnh giác, nhất thời vẫn đắc đo bất ổn, không biết có phải thật sự đã xảy ra chuyện hay không, dẫu sao thì loại khả năng này là rất nhỏ, nếu như là bởi vì thị vệ tản đi, hoặc chạy về đi nghỉ ngơi mà hai người hô to gọi nhỏ một hồi, kinh động thuộc hạ chạy tới, ngày mai sẽ trở thành trò cười cho ba quân mất, thế là nhất thời cũng không dám làm ầm lên, hai người chỉ đành lưng tựa lưng, chậm rãi di động vào trong viện. Lý Kế Pháp trầm giọng gọi: "Nhị Bảo, Mã Tam Thành, hai thằng chó các ngươi đi dâu rồi?"

Hai người này là thân binh thị vệ của hắn, thủ ở góc phòng hai bên, nếu nghe thấy bọn họ trả lời thì sẽ biết đây chỉ là một hồi sợ bóng sợ gió mà thôi, Có điều Lý Kế Pháp gọi xong, trong viện vẫn không hề có một chút tiếng động nào. Trương Phổ nói: "Tình hình có điều khác thường, mau mau rời khỏi trạch viện."

Hai người vừa nhấc chân chạy thì nghe thấy mất tiếng "vụt vụt vụt", ở chỗ cách dưới chân hai người không xa đột nhiên cắm một loạt tên, đuôi tên không ngừng phát ra tiếng ong ong.

"Quả nhiên là xảy ra chuyện rồi!" Trương Phổ trong lòng kinh hãi, nhưng vẫn không rõ là quân sĩ bất ngờ làm phản hay là địch nhân lẻn vào, đối phương đã bắn tên cảnh cáo chứ không đả thương người, vậy thì vẫn còn có dư địa, thế là đề khí đan điền, muốn quát hỏi thân phận của đối phương đã rồi quyết định, nhưng Lý Kế Pháp là một người thô lỗ, tâm tư làm sao mà cẩn mật bằng hắn, vừa thấy mưa tên bắn ra, Lý Kế Pháp trong lòng thất kinh, theo bản năng liền muốn tránh vào chỗ tối để thoát khỏi nguy hiểm.

Vị trí của hắn lúc này cách gầm hành lang chỉ có hơn một trượng, với thân thủ của hai người chỉ cầm sải bước là có thể chui vào được, chỉ cần là tránh được tới gầm hành lang, mượn vào sự yểm hộ của cột trụ, sự uy hiếp của cung tên sẽ giảm đi nhiều, ở viện lạc này mỗi một cành cây ngọn cỏ hắn đều quen thuộc, chỉ cần tránh được thì sẽ có sinh cơ.

Lúc khẩn yếu quan đầu, hắn thậm chí còn không thông tri cho Trương Phổ lấy một tiếng, đột nhiên đầu vai nhoáng lên, bước dài tới chỗ cửa viện, giả vờ muốn chay ra khỏi đây, rồi lập tức tung chân về phía dưới mái hiến, một bước, hai bước, nửa người đã tránh vào dưới bóng của hiên nhà, chỉ nghe thấy "phập phập phập" mấy tiếng cung vang lên.

"A!" Lý Kế Pháp trên lưng trúng liền bốn tên, cả người ngã sấp xuống đất, đầu rầm một cái đụng mạnh vào bậc thang, thân thể co giật mấy cái rồi nằm yên không động đậy nữa.

Trương Phổ cả người cứng đờ, không dám động đậy, lòng bàn tay toàn là mồ hôi lạnh, Lý Kế Pháp từ lúc một mình chạy trối chết cho đến lúc trúng tên ngã xuống đất, chỉ trong một cái nháy mắt, hắn ngay cả hô lên một tiếng ngăn cản cũng không kịp.

"Là ai vậy? Sĩ tốt làm phản ư?" Trương Phổ lòng bàn tay thấm đẫm mồ ôi, ngay cả động tác quay cổ cũng không dám làm nhanh, chỉ sợ địch nhân tiềm phục trong bóng tối hiểu lầm rằng hắn muốn chạy trốn, hắn dù có nhanh đến mức nào đi chăng nữa cũng không bằng được tốc độ của cung tên, huống chi cung nỗ thủ nấp ở chỗ nào hắn còn không phân biệt được.

Lúc này cửa phủ mở ra, sau đó "phụp" một tiếng, hai bó đuốc bùng lên, ba bóng người xuất hiện ở cửa.

Trương Phổ trợn trừng mắt, nhìn chằm chằm vào ba người ở cửa, hai đại hán đi ở hai bên một tay cầm đao một tay cầm đuốc, hán tử ở giữa thì chậm rãi bước tới, chỉ thấy người đó thân hình cao to, đầu trọc, mặt đầy râu quái nón, lông mày rộng miệng lớn, trông cực kỳ uy phong.

Hắn nghênh ngang đi tới trước mặt Trương Phổ, đắc ý dương dương cười nói: "Lý chỉ huy, hạnh hội, hạnh hội."

Trương Phổ cổ họng như tắc nghẹn, hắn nuốt nước bọt, rồi lắp bắp hỏi lại: "Lý... Lý chỉ huy?"

Đại hán trọc đầu sờ sờ đầu, cười hi hi nói: "Lý chỉ huy, trước mặt Phật thật không đốt hương giả. Hắc hắc, ở trước mặt Ngả Nghĩa Hải ta, lão huynh ngươi đừng có mặc áo lông giả vờ làm cừu nữa được không?"

Trương Phổ nói: "Ngả Nghĩa Hải? Ngươi là Tây Bắc Lang Ngả Nghĩa Hải?"

"Không sai."

Ngả Nghĩa Hải dương dương đắc ý cười to: "Lý chỉ huy không ngờ lại có một ngày thổ phỉ lại làm quan đúng không, ngươi cũng có một ngày rơi vào tay ta. Ha ha ha, ha ha ha..."

Trương Phổ chỉ vào thi thể đang nằm bất động trước hiên nhà, trầm giọng nói: "Vị đó mới là chỉ huy sứ Lý Kế Pháp."

"Cái gì?"

Ngả Nghĩa Hải giật nảy mình, bước nhanh tới đi lòng vòng hai vòng quay cổ thi thể đó rồi đá một cái lên người hắn, thấy người đó không có chút phản ứng gì, không khỏi há miệng chửi to: "Còn bà nó, ngươi là đại đương gia của Minh Đường Xuyên, sao lại cầm bội kiếm ăn mặc giống như một thị vệ vậy, lần này giết nhầm người rồi, phải làm sao đây?"

Hắn quay đầu lại nhìn Trương Phổ, gãi gãi đầu rồi bước tới, quan sát gã từ trên xuống dưới một hồi rồi lộ ra nụ cười xấu hổ, nói: "Ha ha ha, nhìn cử chỉ của ngươi, so với tên quỷ chết đó còn ra dáng người hơn, ngươi là ai?"

Trương Phổ vẫn không biết Ngả Nghĩa Hải đã đầu hàng Dương Hạo, ở trước mặt một tên mã phỉ, hắn cho dù chết cũng không muốn tỏ ra vẻ yếu kém, liền ưỡn thẳng ngực lên, cao giọng nói: "Bản quan là Song Long lĩnh phó đô chỉ huy sứ Trương Phổ, đám mã phỉ gan to tày trời các ngươi muốn gì hả?"

"Phố đô chỉ huy sứ à?"

Ngả Nghĩa Hải nghê vậy liền mừng rơn, kéo Trương Phổ cứ như là gặp được huynh đệ nhà mình vậy, ríu rít nói: "Vậy đô chỉ huy sứ chết rồi thì ngươi là đương gia phải không? Ha ha ha, tốt quá, tốt quả, bản quan và ngươi làm một cuộc giao dịch, thế nào?"

...

Buồng lò sưởi, than cháy rừng rực.

Trong phòng ấm áp dễ hịu, Dương Hạo nằm trên giường, cười khúc khích chơi đùa nữ nhi. Con nhóc này vừa tỉnh ngủ, người vốn bị buộc chặt được Dương Hạo cởi ra, chơi rất hăng. Nó trừng mắt lên ra sức nhấc hai cái chân nhỏ xíu đá đá vào cằm Dương Hạo, miệng môi lẹp bẹp ra một đống nước bọt. Dương Hạo mỉm cười đưa tay ra lau nước bọt cho nữ nhi thì nghe thấy phòng bên cạnh truyền tới một trận cười, không khỏi nhíu mày.

Nghe động tĩnh, người đang nói là tiểu Chu hậu, nội dung câu chuyện không gì ngoài phối hợp quần áo, sử dụng phấn son. À, thỉnh thoảng còn đối đáp mấy câu thi từ với Oa Oa, Diễm Diễm nữa.

Từ sau ngày sinh con gái, tiểu Chu hậu trở thành khách quen của Dương phủ, tiểu Chu hậu tựa hồ cực kỳ hợp ý với tiểu nha đầu này, ngày đó không ngờ còn chủ động đề xuất muốn nhận con gái mình là con gái nuôi, đứa con gái này của hắn vừa sinh ra đã có một thân nương (mẹ ruột), ba di nương (dì), lại còn có thêm môt can nương (mẹ nuôi). Dương Hạo vốn có lòng đáp ứng, huống chi lúc tiểu Chu hậu đề xuất yêu cầu này, vẻ mặt rất lo lắng, giống như sợ hắn không chịu đáp ứng vậy, ngày trước đường đường là Đế hậu một nước, giờ rơi vào quẫn cảnh phải nhìn sắc mặt của người khác, thực sự là đáng thương quá, Dương Hạo liền đáp ứng ngay.

Đợi tới khi tất cả chuyện của Đông Nhi và nữ nhi được xử lý xong thì trời đã tối, mọi ngời đều ai về phòng nấy nghĩ ngơi, Dương Hạo thấy sắc trời đã muộn, liền mời tiểu Chu hậu nghỉ lai ở trong phủ, ngày mai sẽ đưa nàng ta về phủ đệ. Đây vốn là lời nói khách khí thôi, tiếp sau đó sẽ là những lời từ chối, nhưng không biết tiểu Chu hậu nghĩ gì, bộ dạng lại hết sức lo sợ. Dương Hạo thấy mà chẳng hiểu gì, đang muốn phân phó Mục Vũ đưa nàng ta về, vừa mới mở miệng thì nàng ta lại đáp ứng.

Dương Hạo không biết tối hôm đó tiểu Chu hậu và Mậu nương đã chịu bao đau khổ. Hai nữ tử mệnh khổ ngủ cùng một giường, cả đêm đều không chợp mắt, hai người áo không cởi thắt lưng, một mực mong chờ hắn, đợi hắn khăn đen che mặt, tay cầm đồ đao, dữ tợn xông vào giết người diệt khẩu. Tối hôm đó Dương Hạo lại ngủ bên cạnh mẹ con Đông Nhi, ngủ rất là ngon.

Đợi tới sáng ngày hôm sau, Dương Hạo liền phái người đưa tiểu Chu hậu về phủ, nhưng ai ngờ từ sau hôm đó, tiểu Chu hậu ngày nào cũng tới, so với văn võ quan viên dưới tay hắn tới soái đường điểm danh thì còn đúng giờ hơn. Dương Hạo không biết tiểu Chu hậu đây chỉ là vì để hắn được yên lòng, mỗi ngày đều tới báo cáo, để hắn hiểu rằng mình rất an phận. Người ta như vậy, Dương Hạo cũng rất khách khí, âm thầm phân phó mấy phu nhân đối đãi với nàng ta nhiệt tình một chút.

Kỳ thực hắn không nói thì đám người Đông Nhi, Diễm Diễm cũng cực kỳ hoan nghênh tiểu Chu hậu, đồ chơi mà nữ nhi gia thích, tiểu Chu hậu đều là chuyên gia. Bọn Diễm Diễm, Oa Oa tuy vì chuyện Dương Hạo chịu trách nhiệm châu phủ, nhưng dẫu sao vẫn là nữ tử trẻ tuổi, phàm là với đề tài quần áo, đồ trang sức, đồ trang điểm đều luôn cảm thấy rất hứng thú, thường xuyên qua lại nên càng ngày càng thân thiết với tiểu Chu hậu.

Thân phận của tiểu Chu hậu cực kỳ thần bí, qua lại với soái phủ cũng không sợ bị người ta đồn đại không hay, nhưng người biết nội tình khó tránh khỏi có rất nhiều phỏng đoán. Đám người già quái dị như Lâm Bằng Vũ, Lô Vũ HIên đoán già đoán non thì cũng thôi đi, hôm qua ngay cả Đinh Thừa Tông cũng ấp a ấp úng, nói bóng nói gió nhắc nhở hắn phải lấy đại cục làm trọng, chớ có vì cái nhỏ mà mất cái lớn, để bị truyền ra ngoài là hoang dâm háo sắc.

"Thật đúng là con mẹ nó mà, không ăn cá cũng sợ cả người tanh lòm, Dương Hạo ta là hạng háo sắc vô đức như vậy ư? Người ta hảo tâm tới thăm con gái ta, ta chẳng lẽ lại kiên quyết không ch người tao vào à."

Dương Hạo nghĩ tới những chuyện này lại bất lực thở dài một hơi, lúc này Mục Vũ từ sau bùng phong lấm la lấm lét thò đầu vào, nhỏ giọng gọi: "Đại nhân,tin tức tới rồi, Minh Đường Xuyên đại thắng."

"Hả?" Dương Hạo nghe thấy vậy liền mừng rỡ ra mặt, hắn nói với nha đầu tiểu Quyên đang ngồi ở cạnh bàn xếp tã cho nữ nhi, nói: "Tiểu Nguyên, ngươi trông nó nhé, ta đi ra ngoài."

Dương Hạo rón rén bước ra ngoài, vội vàng hỏi: "Tình hình thế nào, có bắt được Lý Kế Pháp không? Thương vong ra sao?"

Mục Vũ cười nói: "Tiền phương truyền tin tức về, chúng ta không mất một người nào, Song Long lĩnh toàn quân bị người của chúng ta bắt hết, hiện giờ đang áp giải về, vì có rất nhiều người già, phụ nữ và trẻ em, lại thêm nhều truy trọng, cho nên hành trình hơi chậm."

Dương Hạo ngạc nhiên hỏi: "Không mất một người nào ư? Tên Ngả Nghĩa Hải này đánh kiểu gì vậy, hắn chiêu hàng Lý Kế Pháp à?"

Hai người vừa nói vừa đi ra ngoài, tới phòng khách ở tiền viện thì thấy một tín sự đang đợi ở trong sảnh. Hắn thấy Dương Hạo liền vội vàng thi lễ, Dương Hạo nói: "Không cần phải đa lễ, ngươi là bộ hạ của Ngả tướng quân à? Mau nói đi, tình hình trận chiến này thế nào?"

Người đó cũng là một tên hãn phỉ, bên mình xuất quân lần này giành được toàn thắng, hắn cũng cảm thấy rất hãnh diện, liền chắp tay nói: "Hồi bẩm thái úy, lộ quân này của chúng ta vốn là mã phỉ, cướp bóc tài vật luôn phải đổi thành tiền bạc, cho nên trong thành trì ở tứ phương đều có có một số thương nhân hám lợi, âm thầm tiếp nhận tài vật của chúng ta để đi tiêu thụ. Lần này phụng lệnh thái úy đi công đánh Song Long lĩnh, chúng ta cũng không dám làm qua loa, đặc biệt phái một số huynh đệ cơ cảnh giả trang làm thương nhân đi trước dò xét tình hình. Hắc hắc, rất trùng hợp, gặp được mấy người bán dạo có quan hệ với chúng ta đang ở thành Song Long.

Lão đại của chúng ta bụng đầy đại kế, liền nói dối bọn họ là mấy ngày trước có cướp được hai nhà giàu, kiếm được rất nhiều vải vóc, lá trà, vàng bạc, đồ gồm sứ, bằng lòng bán cho họ với giá rẻ. Mấy thương nhân đó thèm thuồng không thôi, liền thương lượng trao đổi hàng hàng với lão đại của chúng ta. Lão đại dẫn theo bốn mươi người, góm gém kỹ binh khí rồi bảo là tiền tài, được mấy thương nhân đó làm nội ứng, trà trộn vào trong chỗ ở của bọn họ, kẻ ra cũng khéo, buổi đêm hôm đóvừa hay quân thủ thành giải tán, ai nấy về nhà của mình, lão đại dẫn theo bốn mươi người, các huynh đệ lặng lẽ tiến vào chỗ ở của Lý Kế Pháp..."

Dương Hạo vui mừng nói: "Các ngươi có bắt sống được Lý Kế Pháp không?"

Người đó có chút xấu hổ, nói: "Không có, chúng ta tiêu diệt thị vệ trong phủ, về sau Lý Kế Pháp trở về, ai ngờ thoáng cái có hai người bước vào, một người mặc quân phục làm chúng ta tưởng là thị vệ, lúc hắn muốn đào tẩu thì bị chúng ta dùng loạn tiễn bắn chết. Có điều người còn lại là phó chỉ huy sứ Trương Phổ thì bị chúng ta bắt sống. Lão đại đáp ứng tha cho hắn một mạng, Trương Phổ liền phối hợp với lão đại của chúng ta lừa các doanh chỉ huy đến, tiến vào trói tất cả lại. Hắc hắc, cả thành Song Long, chẳng tốn chút sức lực đã lọt vào trong tay chúng ta rồi."

Dương Hạo vui mừng, khen ngợi: "NGả tương quân trong thô hào có tin tế, cũng là một phúc tướng. Ha ha, chiến quả như vậy, ngay cả ta cũng chưa từng dự liệu đến."

Hắn vừa nói tới đây thì Đinh Thừa Tông tay cầm một phong thư, sắc mặt ngưng trọng cùng một tiểu giáo đi vào, vừa vào phòng khách, Đinh Thừa Tông liền nói: "Thái úy, xu mật viện đưa quân lệnh khẩn yếu tới!"

Trong tiểu thư phòng, Dương Hạo liền đọc quân lệnh ghi trong bức thư do Tống quốc xu mật việc gửi đến mấy lần rồi trầm ngâm nói: "Đại ca, chuyện này huynh thấy sao?"

Đinh Thừa Tông nói: "Triệu Khuông Dận hai lần phạt Bắc Hán, đều từng điều động binh mã của hai châu Lân, Phủ. Ngoài mặt thì Triệu Quang Nghĩa lần này điều binh cũng không khác gì Triệu Khuông Dận, Ngân châu ở gần Hán quốc nhất, điều động Ngân châu hiệp trợ tấn công Hán quốc chính là hành động đương nhiên, có điều lần này phạt Hán, Hán quốc đã không còn Khiết Đan giúp đỡ, vốn không cần từ chư phiên tây bắc điều động quá nhiều binh mã. Triệu Quang Nghĩa là kẻ hám danh hám lợi, đại công diệt nước mở đất như thế này hà tất phải mượn tay người khác? Ta thấy hắn điều binh mã Ngân châu trợ trận chỉ là giả, mượn đao giết người mới là thật."

Dương Hạo cười nhạt, nói: "Mượn đao của Hán quốc làm tiêu hao thực lực của Ngân châu ta?"

Đinh Thừa Tông gật đầu nói: "Theo lý là vậy đó."

Dương Hạo gật đầu, bảo: "Đệ cũng cảm thấy đây mới là mục định Triệu quan gia muốn ta xuất binh. Có điều, đao mà hắn mượn chỉ sợ không chỉ có một thanh của Hán quốc thôi đâu, nếu không thì một phen tâm tư lúc trước của Triệu quan gia chẳng phải là uổng phí hết ư?"

Đinh Thừa Tông chợt nói: "Đệ là nói... chuyện hắn phong đệ làm Hà Tây lũng hữu binh mã đại nguyên soái ư?"

Dương Hạo gật đầu, nói: "Không sai, hắn đã cho đệ phần vinh diệu này, đẩy ta lên vị trí để mọi người nhắm vào, nước cờ này sao có thể không dùng được?"

Đinh Thừa Tông nhíu mày, nói: "Nhưng... nước cờ này hiện tại có thể phát huy tác dụng ư? Hai phiên Lân, Phủ không phải là kẻ ngốc, cho dù đệ được phong là Hà Tây lũng hữu binh mã đại nguyên soái, vị trí đã ở trên hai phiên Lân, Phủ, khiến bọn họ bất mãn, nhưng bọn họ cũng sẽ không để Triệu Quang Nghĩa lợi dụng, đánh nhau với chúng ta để Triệu Quang Nghĩa làm ngư ông đắc lợi đâu. Uy hiếp duy nhất chỉ có thể tới từ Hạ châu, mà Hạ châu hiện giờ còn chưa có dư lực để khai chiến với chúng ta."

Dương Hạo hơi trầm ngâm, sau đó hỏi: "Lý Quang Duệ có thể nghị hòa với Thổ Phiên, Hồi Hột không?"

Đinh Thừa Tông lắc đầu, nói: "Lý Quang Duệ cũng luôn có ý nghị hòa với Thổ Phiên, Hồi Hột, có điều bị người của chúng ta ở trong phá rối. Từ lúc biết được đường huynh Lý Quang Sầm của hắn vốn ở Lô châu, hơn nữa đã thành nghĩa phụ của đệ, Đảng Hạng Tthất thị lại tuyên thệ trung thành với đệ, Lý Quang Duệ đã coi đệ như cái đinh trong mắt, càng nóng lòng muốn kết thúc chiến tranh với Thổ Phiên, Hồi Hột, nhưng trước đây năm lần bảy lượt đình chiến rồi lại tái chiến, đã khiến cho Thổ Phiên và Hồi Hột rất không tin rằng hắn có thành ý, lại thêm Đảng Hạng thất thị nổi dậy, Thác Bạt thị nội bộ bất hòa, do đó Lý Quang Duệ ở trên chiến trường không chiếm được tiện nghi gì, dưới loại tình hình này, hắn muốn nghị hòa, e rằng quá trình này sẽ lôi thôi kéo dài, rất khó mà thành công."

Post hộ bạn Yến mấy chương :00 (32):

 Chương 445: Huynh đệ ruột

Dương Hạo đứng dậy, đi đi lại lại trong thư phòng, rà soát lại tất cả tư liệu hữu hạn trong đầu mình, suy nghĩ một lúc lâu mới dừng bước, nói: "Triệu Quang Nghĩa không phải là hạng vô năng, cho dù ta tuân lệnh dốc hết binh mã Lô châu tham gia cuộc chiến thảo phạt Hán quốc, với tình hình hiện tại của Hán quốc, chắc chắn không dám ồ ạt xuất binh đối chiến, chỉ cần ta cẩn thận một cht, hắn cũng rất khó mà làm tiêu hao hết được thực lực của ta. Triệu Quang Nghĩa nếu chỉ có vậy thì mới khiến người ta cảm thấy kỳ quái đó. Đại ca, theo đệ thấy, ngày tháng mà người của chúng ta tiềm phục ở Hạ châu rất ngắn ngủi, chuyện cơ mật hạch tâm nhất, e rằng bọn họ vẫn không thể nắm được."

Đinh Thừa Tông cười nói: "Nhị đệ phải chăng là quá đa nghi rồi? Cuộc chiến đấu giữa Hạ châu và Thổ Phiên, Hồi Hột đã kéo theo việc Hạ châu binh thiếu dân khốn, chư bộ Thác Bạc thị đều phản đối tiếp tục đánh, trận này không được lòng người, cho nên nếu hắn nghị hòa có tiến triển gì thì chắc đã sớm nói cho thuộc hạ rồi, việc gì mà coi đó là cơ mật hạch tâm rồi giấu đi?"

Dương Hạo lắc đầu, nói: "Không phải vậy đâu, mất lần liền tiếp nỗ lực nghị hòa, nhưng đều bởi vì dạng nguyên nhân đó mà thất bại. Lý Quang Duệ khó tránh khỏi có hoài nghi, hắn tất sẽ nghi ngờ là người của chúng ta ở bên trong làm trò quỷ, ít nhất thì cũng nên hiểu ra được rằng nội bộ Hạ châu tất nhiên có người phản đối nghị hòa, cho nên mới chế tạo ra sự cố. Cho nên hắn nếu nóng lòng cầu hòa, vậy thì rất có khác năng sẽ coi lần nghị hòa này là cơ mật hạch tâm.

Nếu như... hắn còn có tính toán gì khác, vậy thì càng có lý do để bảo mật chuyện này hơn."

Đinh Thừa Tông là hạng cơ cảnh thế nào chứ, tất nhiên đã nghe ra ý tứ trong lời nói của Dương Hạo, hắn kinh ngạc bảo: "Việc này cũng không có khả năng quá lớn, Lý Quang Duệ và triều đình Tống quốc âm thầm tranh chấp đã không phải là chuyện ngày một ngày hai, tuy Tây Bắc tam phiên trên danh nghĩa đều là Tống thần, nhưng địch ý của Tống đình đối với Hạ châu Lý thị trong tam phiên là nặng nhất, sự kiêng kỵ của Triệu Quang Nghĩa đối với Hạ châu, so với Ngân châu mới quật khởi của chúng ta thì còn nặng hơn vài phần. Theo tin tình báo mà chúng ta hiện tại nắm được, Tống đình không những an bài trọng binh uy hiếp Hạ châu, đồng thời còn âm thầm tư trợ người Thổ Phiên, lợi dụng người Thổ Phiên để kiềm chế Hạ châu, làm yếu đi thế lực của Hạ châu. Lý Quang Duệ biết rõ chuyện này, thế nên hai đối thủ này làm sao mà liên thủ với nhau nhanh như vậy được?"

Đinh Thừa Tông tuy là một thương nhân xuất sắc, nhưng thời gian hắn tiếp xúc với chính trị vẫn còn ngắn, mà chịnh trị so với kinh thường thì còn dơ bẩn, đấu đá với nhau gay gắt hơn nhiều, là một môn học vấn ta lừa ngươi gạt. Hai thương nhân, cho dù là có lợi ích chung, nếu như bọn họ có thù với nhau cũng rất ít khả năng sẽ bắt tay hợp tác, nhưng hai chính trị gia, cho dù là một người có thù giết cha, một người có thù cướp vợ, vì lợi ích, bọn họ cũng có thể nhanh chóng trở mặt, từ cừu nhân không đội trời chung biến thành đồng bạn chính trị thân mật nhất. Dương Hạo vừa hay đối với loại học vấn này thì hiểu thấu triệt hơn nhiều, lại thêm từ lời bình của lịch sử nên đối với thủ đoạn chính trị của hai vị kiêu hùng Triệu Quang Nghĩa, Lý Quang Duệ cùng có tên đệm là "Quang" thì hiểu sâu hơn nhiều, cho nên về chuyện này thì có cái nhìn chuẩn xác hơn so với vị đại ca trước giờ luôn ổn trọng nhạy bén này.

Hắn mỉm cười, nói: "Đại ca, hai người này không cần phải cấu kết với nhau, khi bọn họ có cùng một địch nhân, chỉ cần rất ăn ý sáng tạo cho đối phương một số điều kiện, lại cố ý để lộ ra một ít tin tức, đối phương tự sẽ hiểu ý mà tiến hành lợi dụng. Đối với Triệu Quang Nghĩa mà nói, Hạ châu tất nhiên là địch nhân, nhưng Hạ châu luôn luôn yên ổn ở tình trạng này, tạm thời không tính là địch nhân mà hắn phải gấp rút trừ diệt. Còn Ngân châu ta thì chính là một thế lực mới nổi mà hắn không hi vọng sẽ lớn mạnh quật khởi. Còn Lý Quang Duệ, đại ca đừng quên, gia tộc Lý thị kinh doanh ở Tây Vực đã hơn một trăm năm rồi, chúng ta có thể nắm được nhiều tin tức của chúng như vậy, hắn há lại có thể không có tai mắt giám thị nhất cử nhất động của chúng ta ư? Triệu quan gia coi chúng ta như cái đinh trong mắt không còn là bí mật tuyệt đối, chỉ cần là người hữu tâm, kiểu gì cũng ta ra được thôi."

Đinh Thừa Tông thầm cảnh giác, gật đầu nói: "Những phân tích này của nhị đệ cũng rất có lý, cẩn tắc vô áy náy, đã như vậy, không bằng chúng ta cự tuyệt xuất binh đi."

Dương Hạo ánh mắt ngưng trọng, nói: "Đại ca nói là... kháng chỉ ư?"

Đinh Thừa Tông mỉm cười, nói: "Cũng không phải vậy, hiện tại vẫn chưa đến lúc trở mặt hoàn toàn với Triệu Quang Nghĩa. Tướng ở bên ngoài, quân lệnh có thể không tuân. Chúng ta chỉ cần chế tạo một chút sự cố ở Ngân châu, vậy thì có đủ lý do để cự tuyệt xuất binh rồi. Nếu không, đệ có thể bắt chước Chiết Ngự Huân, giả vờ mắc bệnh không rời khỏi giường được. Hoàng đế cũng không thể để một vị đại tướng quân mang bệnh ra trận được, đúng không nào? Ha ha, tới lúc đó tùy tiện phái một viên tướng dẫn mấy lộ tàn binh ra trận là được rồi."

Dương Hạo lắc đầu: "Không, trận chiến phạt Hán, ta nhất định phải đi."

Trong mắt hắn lộ ra ánh sáng sắc bén như chim ưng, nói: "Hiện giờ nếu đôi oan gia Triệu quan gia và Lý Quang Duệ âm thầm lợi dụng lẫn nhau, Dương Hạo ta cũng có thể tương kế tựu kế, đắc lợi từ bên trong. Triu quan gia không danh không phận, hắn sẽ không dám động tới ta. Còn mượn đao của người khác, chung quy cũng không được thuận tay như dùng đao của mình. Huống chi thanh đao đi mượn này cùng với hắn cũng chỉ là lợi dụng lẫn nhau, song phương chung quy vẫn không thể đồng tâm hiệp lực. Bên trong chắc gì đã không có cơ hội cho chúng ta lợi dụng."

Đinh Thừa Tông cười ha ha, nói: "Ta vẫn cho rằng nhị đệ ngươi hiện giờ có nữ nhi dễ thương rồi thì mỗi ngày đều chỉ lưu luyến ở hậu trạch, tận hưởng niềm vui gia đình, dã tâm của tráng sĩ đã bị mai một rồi. Không ngờ lòng vẫn đầy mưu kế, đối với đại thế của thiên hạ cũng thủy chung không buông bỏ cảnh giác như vậy. Ngươi nói đi, định làm thế nào?"

Có con thì lúc nào cũng lưu luyến hậu trạch, hao mòn hết tráng khí ư? Dương Hạo biết hắn lại đang thầm nhắc nhở mình chớ nên dây vào nữ nhân không nên dây, đừng vì mê muội nữ sắc mà làm trở ngại tới sự nghiệp của mình, chỉ đành giả vờ không hiểu, tiếp tục nói: "Tin tức có độ cơ mất cao, thám tử của chúng ta sợ là không nghe ngóng được, nhưng chưa chắc đã không thể nắm được một số dấu vết. Phải lập tức liên lạc khẩn cấp cho Thác Bạt Hạo Phong, lệnh cho hắn dò la hành động của Lý Quang Duệ, xem xem Lý Quang Duệ có đang bí mật hòa đàm ở Thổ Phiên, Hồi Hột hay không."

"Được, sự tồn tại của Thác Bạt Hạo Phong đối với chúng ta mà nói thật sự là quá quan trọng, nếu như không cần thiết phải dùng thì ta cũng không dám dùng hắn. Đã như vậy ta lập tức phải người đi liên lạc với hắn."

Dương Hạo lại nói: "Ngoài ra, lập tức liên lạc với ngũ đệ Xích Bang Tùng của ta, gọi hắn khởi trình tây hành, tới cửa nam Hạ châu, nếu Hạ châu đang hòa đàm với Thổ Phiên, Hồi Hột, Lý Quang Duệ tuy có lý do để bảo mật, như phía Thổ Phiên thì sẽ không cố kỵ nhiều như vậy đâu. Người Hạ châu Thổ Phiên thuộc hệ của Á Trách Vương, Xích Bang Tùng tuy không thuộc hệ Á Trạch Vương, nhưng thân là một vương tử của Thổ Phiên, trong bất kỳ một bộ lạc nào của Thổ Phiên cũng đều có địa vị cao, bảo hắn liên hệ với chư bộ Thổ Phiên, cố gắng nghe ngóng một số tin tức, cho dù là tin tức không thể xác thực, đem tin tức mà hắn nhận được và tình báo mà Thác Bạt Phong nắm giữa đối chiếu với nhau, chúng ta cũng có thể xác định Lý Quang Duệ hiện tại có đang đàm phán với Thổ Phiên, Hồi Hột hay không, và hòa đàm đã tới mức độ nào rồi, đợi có được tin tức chuẩn xác rồi, chúng ta sẽ có thể quyết định bước tiếp theo."

Đinh Thừa Tông chỉ chỉ vào bức quân lệnh ở trên bàn, hỏi: "Nhưng bức quân lệnh này thì phải làm sao đây? Người của Xu mật viện vẫn đang đợi ở ngoàiXu mật viện sứ Tào Bân đại nhân phê xuống là phải lập tức trả lời ngay."

Dương Hạo mỉm cười đứng dậy, nhẹ nhàng đẩy xe của Đinh Thừa Tông ra ngoài, nhàn nhã nói: "Nhớ lúc còn ở Phách Châu, đại ca dạy ta rất nhiều bản sự, tuy về sau huynh đệ vượt huynh ở quan tường, nên cơ hội để dùng cách buôn bán này vào việc kinh thương không nhiều, song một pháp thông thì trăm pháp thông, lối buôn bán này dùng ở chính đàn quan trường, kỳ thực cũng có tác dụng rất lớn. À... đại ca dạy ta chín chữ để nói chuyện làm ăn, ta hiện tại vẫn còn nhớ rất rõ, là " phân, nhẫn, ký, lễ, dẫn, sỏa, thâu, tình, địa..."

Đinh Thừa Tông lộ ra nụ cười hiểu ý, tiếp lời: "Chữ phân, đó là lợi nhuận mà ngươi muốn, phải tránh đòi tổng giá trị, sinh ý lời một vạn quan tiền, ngươi mở miệng đòi một vạn, đổi lại là ai cũng đều sẽ cự tuyệt theo bản năng, ít nhất cũng phải bớt của ngươi hai thành, nhưng nếu ngươi án chiếu theo hàng hóa chủng loại khác nhau, số lượng mỗi lần mua vào, chia loại chia đợt ra mà bàn bạc, một cuộc làm ăn chỉ kiếm của hắn một trăm quan, hắn sẽ rất thống khoái đáp ứng ngay. Như vậy mà tính, sinh ý lời một vạn quan ngươi đem chia ra làm một trăm cuộc, mỗi cuộc chỉ kiếm của hắn một trăm quan, tuy tổng lợi nhuận mà ngươi có được vẫn là một vạn quan, nhưng cơ hội thành công dễ dàng hơn nhiều so với một lần đòi ngay một vạn quan.

Chữ nhẫn là lúc nói chuyện làm ăn, cho dù bị người ta bức tới tuyệt cảnh, người cũng phải thủy chung bất động thanh sắc, cười nói tự nhiên, để bất kì ai nhìn vào đều thấy ngươi có bộ dạng như vận còn giấu đòn sát thủ chưa giở ra, chỉ cần đối phương vẫn phải có chỗ cầu tới ngươi, quả thực có thành ý đàm phán với ngươi, như vậy rất nhiều lúc, bọn họ sẽ chủ động nhượng bộ, phải tránh nổi giận đùng đùng, vỗ bàn đứng dậy là được..."

"Còn chữ thâu, rao giá trên trời, trả tiền dưới đất, thường thắng không bại thì không thành buôn bán. Có lợi nhường ba phần, nhìn thì là thua, nhưng thực chất lại là thắng..." Bỗng nhiên, Đinh Thừa Tông tựa hồ như quay về đại diện của Đinh gia, vào buổi chiều ngày hè, ngồi dưới hành lang gỗ ở hậu trạch, sưởi ánh nắng ấm, trên đỉnh đầu là tiếng chuông gió vui tai, bên dưới là nước chảy róc rách, hai người phẩm trà, một người dạy, một người học, đối thoại về chuyện buôn bán... bất chi bất giác, mắt hắn ngân ngấn nước.

Xe dừng lại dưới ánh mặt trời, một cây hoa mai ở trong viện nở rất tươi.

Ở đằng xa, Đinh Ngọc Lạc khoan thai bước tới, nhìn thấy cảnh hai huynh đệ dựa lưng vào cây mai, bất giác dừng bước lại, vui vẻ nhìn về phía bọn họ.

Dương Hạo nhẹ nhàng đặt hai tay lên vai Đinh Thừa Tông, nói khẽ: "Đại ca, huynh đệ chúng ta lần này sợ gì mà không dùng lối buôn bán này, cùng Triệu quan gia bàn bạc một cuộc làm ăn thật lớn đi?"

Đinh Thừa Tông không ngờ lại như chợt hiểu ra gì đó, hắn vỗ vỗ bàn tay Dương Hạo đang đặt lên vai mình, hai huynh đệ cùng bật cười.

Mùa đông giá rét tuyết bay bay, trời đất là một mảng trắng xóa. Hôm nay không có tuyết lớn, chỉ có chỉ có bông tuyết hình lục giác bay lác đác, nhẹ nhàng lượn lờ khắp không trung.

Vết chân người trên đầu đường Hạ châu rất lưa thưa, ngẫu nhiên có một bóng người xuất hiện, cũng đút tay vào ống tay áo, cổ rụt vào cổ áo, giống như một u hồn hối hả đi qua đường. Tuy nói rằng chiến tranh với Thổ Phiên, Hồi Hột không đánh tới dưới thành Hạ châu, nhưng chiến tranh trường kỳ khiến Hạ châu dần dần trở nên tiêu điều. Trên phố ngay cả dân chạy nạn cũng chẳng thấy được mấy người, từ đó có thể tưởng tượng được sự tiêu điều của nơi đây. Cả tòa thành Hạ châu, trong sự tĩnh lặng yên ắng và lạnh lẽo đến thấu xương đều lộ ra cảm giác uất ức âm trầm.

"Rầm rập rầm rập rầm rập..."

Võ ngựa gõ lên mặt băng cứng rắn, phát ra tiếng vang khô khan, hơn chục kỵ sĩ xuất hiện ở đầu đường. Bọn họ mặc áo da dê đã cũ kỹ, đội mũ da chó, mũi miệng đều được giấu sau khăn che mặt, mũi thở ra từng làn sương trắng xóa, rõ ràng là đi đường mới về, mặc dù bọn họ ăn mặc không hề bắt mắt, nhưng trong mùa đông lạnh lẽo như thế này còn có người cưỡi ngựa đeo bội đao xuất hiện, người đi đường vốn đã lác đác càng nghe tiếng mà né tránh, rất nhanh liền không thấy bóng dáng đâu cả.

Quẹo vào một con ngõ nhỏ, một trận gió ùa tới, quấn tung một mảng tuyết, đại hán dẫn đầu vừa hay cởi khăn che mặt xuống, bông tuyến đập vào, hắn phẫn nộ lui ra sau rồi lầm bầm chửi. Người này mắt tròn như mắt báo, tràn ngập dã tính, râu dưới cằm mọc uốn cong, trên hai cái rái tai móc hai cái khuyên tai tròn lấp lánh, không ngờ chính là Định Nan quân nha nội đô chỉ huy sứ, kiểm giáo công bộ thượng thư Lý Kế Quân.

Phóng ngựa tới phủ của Định nan quân tiết độ sứ, Lý Kế Huân nhảy xuống ngựa, sải bước vào trong phủ, tự có thị vệ đón lấy chiến mã của hắn. Đoàn người từ cửa hông mà vào, rầm một tiếng cửa phủ được đóng lại, trên cả con đường bóng người lại lưa thưa, chỉ có gió mang theo tuyết, từ đầu đường thổi tới cuối hẻm.

Trong thư phòng bên trong phủ của Định nan quân tiết độ sự, so với đầu đường băng tuyết lạnh lẽo thì nơi đây là một khung cảnh hoàn toàn khác, trong chậu đồng màu trắng than đang cháy rực, cả căn phòng ấm áp như mùa xuân. Lý Kế Quân chùi tuyết dính trên giày ở ngoài cửa, cởi mũ da chó xuống rồi bước vào.

Một người thân hình mập mạp, eo hông to đùng đang ngồi phía trước chậu đồng, nếu Dương Hạo nhìn thấy tên béo này sẽ cảm thấy mặt mũi của hắn và diễn viên tên là Trịnh Tắc Sĩ có chút hao hao giống nhau. Tên béo này chính là Định Nan quân tiết độ sứ Lý Quang Duệ. Hiện nay hắn vừa mới đổi tên, gọi là Lý Khắc Duệ. Cha của hắn chính là Lý Di Ân năm đó đã dùng thân phận thúc phụ đoạt giang sơn của cháu mình. Đôi phụ tử này không những thân hình, tướng mạo giống nhau, ngay cả đổi tên cũng giống nhau.

Lý Di Ân để tránh tục danh của cha Triệu Khuông Dận là Tống Tuyên Tổ Triệu Hoàng Ân, đổi thân của mình thành chữ Hưng, mặc dù bình thường vẫn xưng là Lý Di Ân, nhưng trên văn chương việc quan thì để đổi thành Lý Di Hưng. Hiện giờ Triệu Quang Nghĩa làm hoàng đế rồi, tuy Triệu Quang Nghĩa đã đổi tên thành Triệu Hạo, nhưng Lý Quang Duệ vẫn thượng tấu lên triều đình, bẩm báo mình để tránh tên húy của hoàng để nên đổi sang thành Lý Khắc Duệ. Trò mèo không tốn tiền, lại đổi lấy được mấy phần vui vẻ của Triệu Quang Nghĩa, cớ gì mà không làm?

"Cha."

Lý Kế Quân vừa vào cửa liền gọi to một tiếng, Lý Quang Duệ ngước mắt lên nhìn hắn, vẫn chậm rãi dùng cái kẹp đồng gắp than bỏ vào chậu đồng, từ từ hỏi: "Chuyện làm đến đâu rồi?"

Lý Kế Quân hổn hển ngồi xuống, hậm hực nói: "Con mẹ nói, nhớ lúc trước, chư bộ Thổ Phiên, Hồi Hột có ai dám chủ động gây hấn với Lý thị ta đâu, hiện tại thì hay rồi, cha có ý hòa đàm, bọn chúng mũi hếch lên trời, đưa ra các loại yêu cầu, thật sự là muốn chém chết chúng mà."

Thịt mỡ tên mặt Lý Quang Duệ hơi rung rinh, nói khẽ: "Kế Quân, cha không phải đã nói với con rằng làm chuyện gì cũng phản nhẫn ư? Người làm đại sự, một chút ủy khuất này thì tính là gì, hiện giờ tình thế bức người, lúc nên cúi đầu thì phải cúi đầu."

Lý Kế Quân lại thở hổi hển một hồi, rồi vẫn nói vẫn giọng đầy căm giận: "Con biết mà, cũng chỉ ở trước mặt cha con mới nói như vậy mà thôi. Hừ, món nợ này, rồi sẽ có một ngày con sẽ đòi lại chúng cả vốn lẫn lời.”

Trên mặt Lý Quang Duệ lộ ra một nụ cười an ủi: "Thế mới đúng chứ. Nói đi, bọn chúng cụ thề là đề xuất những yêu cầu gì, lúc nào mới chịu thu binh ngừng chiến."

"Vâng!" Lý Kế Quân dạ một tiếng, hai cha con liền đàm đạo ở cạnh lò sưởi.

Đảng Hạng Khương nhân vốn là một đân tộc cực kỳ lạc hậu, từng lấy đuôi và lông bò Yark làm nhà, mặc áo lông, không có pháp lệnh, ai làm việc nấy, có chiến trận thì mới tụ lại, không có thuế phú, không lai vãng với nhau, nuôi bò, dê, lợn làm thức ăn, không biết trồng trọt. Cho tới tận khi Bắc Ngụy mất nước, hoàng tộc Thác Bạt bị bức với rời khỏi Trung Nguyên, quay trở lại thảo nguyên, gia nhập bộ lạc Đảng Hạng Khương tộc, mang văn hóa và tri thức tiên tiến của Trung Nguyên tới, bọn họ mới có một sự phát triện mạnh mẽ như hiện nay.

Mà Đảng Hạng Khương nhân thành bá chủ Tây Bắc, là hoàn thành trong thời kỳ giữa và sau triều Đường cho tới thời Ngũ Đại, triều Đường đem vùng Lũng hữu ban cho Đảng Hạng Khương nhân, lại trải qua nhiều năm kinh doanh, Thác Bạt thị triệt để thống trị Hạ châu, Tuy châu, Ngân châu, Dục châu, Tĩnh Châu, thực lực bành trướng. Địa bàn của bọn họ đương nhiên không chỉ là năm châu này, nhưng năm châu này là nơi căn cơ của bọn họ, lấy năm châu này làm trung tâm, phóng ra xung quanh đều là nằm dưới sự cai trị của Thác Bạt thị.

Trung Nguyên đại loạn nhiều năm như vậy, ngươi khởi xướng xong ta thu hoạch, đế vương thay đổi từng tốp từng tốp, Hạ châu Lý thị ở Tây Vực thì "dựa tường xem kịch hay", việc các ngươi chẳng liên quan gì tới ta. Công bằng mà nói, Hạ châu Lý thị hiện tại đã không còn dã tâm tranh đoạt thiên hạ Trung Nguyên nữa rồi, cũng không muốn tự lập làm đế, xây dựng lên bá nghiệp một đời nữa. Bọn họ chỉ muốn nắm vững Tây Bắc, làm một Tây Bắc vương có thực lực mà không có danh tiếng.

Bên cạnh giường mình há lại có thể để cho người khác nằm cùng, Triệu Khuông Dận không thể nào đáp ứng điều kiện này của hắn, Triệu Quang Nghĩa so với Triệu Khuông Dận còn có dã tâm lớn hơn thì cũng không thể dung thứ cho bọn họ đứng sừng sừng lâu dài ở Tây Bác, nhưng phía bắc có đại địch, không rảnh để để ý tới Tây Bắc.

U Vân thập lục châu ở trong tay người Khiết Đan, Khiết Đan ở phương bắc lập nước so với Tống triều còn sớm năm mươi năm, quốc lực ngày càng hưng thịnh, sự uy hiếp của nó so với các loại bộ lạc lớn theo chế độ Khả Hãn lỏng lẻo như Hung Nô, Đột Quyết năm xưa thì lớn hơn nhiều. Chỉ cần nỗi uy hiếp mang tên Khiết Đan này còn tồn tại một ngày, Tống quốc không thích hợp toàn lực mưu đồ Tây vực, điểm này Tống quốc nhìn thấy rất rõ, Lý Quang Duệ nhìn thấy cũng rất rõ, cho nên hắn không hề lo lắng tới sự uy hiếp cường đại từ Tống quốc, chỉ cần hắn không xưng đế, không lập nước, Tống quốc sẽ không hạ quyết tâm thảo phạt Tây Vực, Lý gia bọn họ có thể yên ổn thống trị tiếp nơi này.

Chính bởi vì vậy, Triêu Khuông Dận phái Triệu Tán thủ Duyên châu, Diêu Nội Bân thủ Khánh châu, Đổng Diêu Hối thủ Hoàn châu, Vương Ngạn Thăng thủ Nguyên châu, Phùng Kế Nghiệp thủ Linh Vũ, nhìn chằm chằm vào Tây Bắc. Lý Quang Duệ cũng chẳng buồn để ý, bởi vì hắn biết rằng, mục đích của Triệu Khuông Dận chỉ là dùng vũ lực để dọa dẫm, khiến hắn yên phận bảo trì hiện trạng, không phải là muốn tấn công, mà ý định của ông ta là duy trì hiện trạng.

Nhưng ai ngờ được Lân châu, Phủ châu thủy chung không thể làm dao động được địa vị Tây Bắc vương vô thượng của Lý gia hắn, từ trên trời rơi xuống một Dương Hạo, một con cá thối, làm loạn khiến cho Tây Bắc không được yên bình. Hắn vốn chiếm Lô lĩnh rồi, Lý Quang Duệ nhịn; Cùng hai phiên Lân, Phủ đầu mày cuối mắt, Lý Quang Duệ nhịn; cùng Đảng Hạng Thất thị cấu kết làm bậy, Lý Quang Duệ vẫn nhịn. Hiện giờ Dương Hạo không ngờ còn định chiếm Ngân châu, vậy có nhịn nhục nữa hay không đây?

Năm châu Định Nan, đó là tròng mắt của Hạ châu Lý gia, khi Khánh vương chiếm Ngân châu. Lý Quang Duệ đã quyết tâm dồn binh đoạt lại Ngân châu, sở dĩ chưa lập tức hành động là bởi vì hắn biết Khiết Đan nhất định sẽ dụng binh, hắn hi vọng mượn tay của Khiết Đan, trước tiên làm yếu đi thực lực của Khánh vương Da Luật Thịnh, ai ngờ người tính không bằng trời tính, không ngờ lại để Dương Hạo chiếm được tiện nghi lớn. Dương Hạo dám động thổ trên đầu thái tuế, bất luận là như thế nào, hắn lần này cũng phải động thủ, huống chi, Lý Quang Sầm không ngờ với còn sống, Đảng Hạng Thất thị không ngờ lại nương tựa Dương Hạo, Dương Hạo lúc này đã thành cường địch số một uy hiếp tới hắn, hắn ngày đêm suy nghĩ làm thể nào để trừ được Dương Hạo, vậy thì lấy đâu ra tâm tư để tiếp tục đánh với Thổ Phiên, Hồi Hột nữa.

Lý Kế Quân kể lại kỹ càng quá trình và nội dung hắn đàm phán với Thổ Phiên và Hồi Hột lại cho Lý Quang Duệ nghe. Lý Quang Duệ đột nhiên nói: "Đáp ứng với bọn chúng, đáp ứng hết đi. Bọn chúng không làm lung lay được sự thống trị của Lý gia chúng ta ở Tây Vực đâu, nhưng Dương Hạo thì khác. Dương Hạo hiện giờ ngoài sáng thì phất cờ hiệu của Tống quốc, trong bóng tối thì phất cờ hiệu của Lý Quang Sầm, là cờ hiệu của Lý gia chúng ta, trời không có hai mặt trời, nước không thể có hai vua, Lý gia sao có thể xuất hiện hai bè phái được? Việc quan trọng nhất hiện giờ của cha con ta chính là diệt trừ Dương Hạo."

Lý Kế Quân nhớ tới tình hình khi mình ở Phủ châu bị Dương Hạo làm nhục, không khỏi hận đến xóc óc, nghiến răng nói: "Con rõ rồi, cho nên con không hề trì hoãn, đã lập tức đáp ứng bọn chúng rồi. Chỉ là liên tục mấy lần nghị hòa, luôn vì các loạn biến cố mà thất bại, lần này chúng ta phải cẩn thận, chỉ đợi sau khi song phương nghị định, minh ước xong thì mới tuyên cáo thiên hạ, đồng thời lui binh. Hiện tại vẫn cần phải đợi tin tức tiếp theo của bọn chúng."

Lý Quang Duệ gật đầu, nói: "Phải nhanh, ta đã âm thầm điều động binh mã, trù bị lương thực rồi, làm tốt công tác chuẩn bị công đánh Ngân châu, Lô châu. Tin tức nghị hòa tuyệt đối phải bảo mật, trước khi có minh ước nghị định cuối cùng, vẫn phải đánh thật hung hăng, chỉ đợi Dương Hạo xuất binh đánh Hán quốc, chúng ta..."

Hắn hung hăng chặt tay về phái trước, trên mặt lộ ra nụ cười khiến người ta phải sợ hãi.

"Con biết rồi!" Lý Kế Quân xoa xoa tay: "Đoạt lại Ngân châu, diệt Lô châu, khống chế Đảng Hạng Thất thị, địa vị của Hạ châu Lý gia chúng ta mới có thể vững như núi Thái Sơn. Lúc đó, con sự tự mình lĩnh binh, đi diệt Phủ châu, Lân châu có cấu kết với Dương Hạo, không cho phép ai nhúng tay vào Tây Vực nữa."

Lý Quang Duệ sắc mặt trầm xuống, mắng: "Nói linh tinh, ai nói chúng ta phải diệt Phủ châu, Lân châu hả? Câu này ngươi cũng chỉ có thể nói ở đây thôi, một khi truyền ra ngoài, sẽ gây thù chuốc oán đó!"

Lý Kế Quân lí nhí nói: "Cha, con đương nhiên là sẽ không để lộ chuyện này ra ngoài rồi, có điều đợi khi chúng ta giành được Lô châu, Ngân châu rồi..."

Lý Quang Duệ tựa cười mà như không phải cười, nói: "Đợi chúng ta chiếm được Lô châu, Ngân châu rồi, chúng ta sẽ... dâng Lô châu cho Phủ châu Chiết Ngự Huân."

Lý Kế Quân giật nảy mình, thất thanh nói: "Cha, cha có ý gì vậy, chúng ta sao lại dâng Lô châu cho Chiết gia?"

Lý Quang Duệ trừng mắt nhìn hắn, nói: "Cha không phải là vì muốn tốt cho Lý gia chúng ta ư?"

Hắn đứng dậy, thong thả đi đi lại lại, trầm giọng nói: "Có hai châu Phủ châu, Lân châu để hòa hoãn xung đột, chúng ta có thể tránh được xung đột trực tiếp với quan gia. Tây Vực giữ lại hai châu, Lân, Phủ, thủy chung không thể kết thành một thể. Triệu quan gia sẽ không quá nghi kỵ, mà tập trung về phía bắc quốc và U Vân thập lục châu. Cái mà cha cần là tiếp tục cơ nghiệp của nhà ta, đời đời thống trị Tây Vực, chẳng lẽ con còn muốn làm hoàng đế chắc?"

"Vậy cũng không cần đem Lô châu cho Chiết Ngự Huân mà? Nghe nói Lô châu hiến giờ bách nghiệp hưng thịnh, vô cùng giàu có, lại còn mới xây dựng Khai Bảo tự, người sùng Phật ở tứ phương coi đó là thánh địa, nếu như chúng ta..."

"Đó là sính lễ!"

Lý Kế Quân ngạc nhiên nói: "Sính lễ ư? Cha lại muốn cưới ai?"

Lý Quang Duệ tức giận lườm hắn một cái: "Cha là muốn cưới vợ cho ngươi đó."

"Hả? Là cô nương nhà nào?"

Lý Quang Duệ nói: "Tất nhiên là cô nương của Chiết gia rồi. Những năm này Lý gia chúng ta và Chiết gia tuy rằng chiến sự không ngừng, nhưng chúng ta đều muốn gìn giữ cơ nghiệp của mình. Chiết gia thế dựa vào Vân Trung, Lý gia chúng ta thì thế dựa vào đâu, để chống đỡ sự thôn tính của Trung Nguyên, chúng ta hợp tác cũng chỉ một lần hai lần. Lần này bị Thổ Phiên, Hồi Hột đánh cho sứt đầu mẻ tán, cha mới cảm thấy rằng, chúng ta cần phải tiến thêm một bước hợp tác với Chiết gia.

Thác Bạt gia chúng ta vốn là hậu duệ của tộc Tiên Ti, mà Phủ châu Chiết gia vốn là hậu duệ của Tiên Ti Chiết Lan vương, vốn là một mạch đồng tộc, trước mắt ở vào cục diện hợp lại thì đôi bên cùng có lợi, chia ra thì ắt sẽ bất lợi, vì sao không thể kết thành thông gia, bắt tay với nhau? Phải biết rằng, Chiết gia ở giữa Tống quốc và ta, hắn so với chúng ta thì càng cấp thiết cần một minh hữu cường đại hơn."

"Chiết gia cô nương? Lý Kế Quân vuốt cằm trầm ngâm: "Không biết Chiết gia cô nương trông như thế nào nhỉ, tuổi tác thế nào, có thích hợp hay không"? Nghĩ tới đây, hắn đột nhiên nhớ tới ở vị nữ tử mặc nam trang mà hắn gặp ở tiểu Phàn lâu, da thịt trắng nõn giống như là tuyết mới rơi, mặt mũi như tranh. Nếu tiểu thư của Chiết gia có một nửa nhan sắc của nàng ta thì hắn cũng chẳng ngại gì mà không cưới.

Lý Quang Duệ tức giận nói: "Cho dù nàng ta có xấu như Chung Vô Diệm thì cuộc hôn nhân này chúng ta cũng phải làm.”

Hắn vuốt vuốt râu, nói: "Phía Phủ châu, cha đã phái Tuy châu thứ sứ Lý Phi Lộc và nhị đệ của con đi cầu thân rồi. Con lần này chớ có chậm trễ, chuyện hòa nghị phải tiến hành cho mau, trước thượng tuần tháng hai phải ký điều ước nghị hòa đó."

 Chương 446: Kiêu ngạo nam và Kiêu ngạo nữ

Người ngựa của Minh Đường Xuyên sau khi bị áp giải đến Ngân Châu, lập tức làm kinh động cả lên. Quân đội chư hầu Tây Bắc không được nghiêm chỉnh bằng quân Tống, ngoài việc cấp tốc mở rộng đội binh trước khi dẫn binh đi, hơn nữa có đại thần Kế Tự Đường ủng hộ quân Lô Châu, ngoài ra quân đội của chư hầu Tây Bắc về tương đối mà nói thì đều khá khổ sở, nhưng so với quân của Lý Kế Pháp thì dường như mạnh hơn nhiều.

Từ sau khi Ngân Châu bị thất thủ khỏi tay Khánh Vương, Lý Kế Pháp đã hoàn toàn cắt đứt đường cung lương, đơn độc một đội quân giữa hai thế lực, trên danh nghĩa thì là cai trị vài bộ lạc du mục ở dưới trướng, nhưng vẫn thuộc nhà họ Lý, không thể cướp được, hơn nữa cái gọi là thế lực giao giới chỉ là nói với bọn hắn mà thôi, chứ những cư dân du mục này không thèm để ý tới bãi đất hay cành cỏ, trên mảnh đất hoang này có cờ của ai thì bọn chúng tha hồ chăn nuôi cừu dê, chỉ chớp mắt cái là có thể biến người Ngân Châu thành người Khiết Đan hoặc Thổ Phiên.

Do đó những ngày trú binh gian khổ, áo giáp không đầy đủ, binh lính quần áo tả tơi, trẻ em người già đều mặt xanh nanh vàng, chỉ có một vài thương nhân là còn khá khẩm đôi chút. Do vậy Song Long Lĩnh làm một cuộc chuyển nhà lớn, cái gì có thể đem đi thì đều đem đi cả, kể cả phải đem theo súc vật.

Quân thủ thành có rất nhiều binh sĩ Ngân Châu, thuộc hạ Lý Kế Pháp vốn là được kéo ra khỏi Ngân Châu, quen biết rất nhiều người của bọn họ, nay nhìn thấy những chiến hữu ngày xưa mặc áo giáp tươi sáng, mà họ đã trở thành những kẻ tù nhân. Hai bên nhìn nhau, trong lòng thực không có cảm nhận gì.

Những người kia là những kẻ không ngại ngần cầu khẩn, binh sĩ không để ý, một thời gian gọi nhau là bạn bè, kết nối giao tình, náo nhiệt tưng bừng.

Dương Hạo ở tiết đường Bạch Hổ, bọn tù binh bị áp giải vẫn chưa được xếp, mình bị trói gô lại đang bị đẩy vào tiết đường, ở ngoài tiết đường là giáp sĩ Lâm Lập, trên tiết đường là võ sĩ Nghiêm Nhiên, nhất phái Tiêu Sát. Đó là cảnh thường gặp, nhưng phải ngẩng đầu mà vào, mặt không đổi sắc. Trên tiết đường, Trương Phổ nhơn nhơn đứng ngó ra xung quanh, dáng vẻ ngông cuồng, không quỳ xuống thi lễ trước mặt các vị đại nhân, thấy vậy bèn lớn tiếng hỏi: “Trên thiết đường ta là đại nguyên soái của Hà Tây Lũng Thạch, vì sao ngươi không qùy?”

Trương Phổ ung dung cười, nói: “Bản quan đường đường là chỉ huy sứ Trương Phổ, trừ phi là thấy đương kim thánh thượng thì mới phải quỳ, xin hỏi các vị đây là đại nguyên soái, lẽ nào chức vị của ngài còn to hơn hoàng đế?”

Quan Kỳ Bài nghe thấy vậy không khỏi tức giận, hắn vung tay lên, hai mũi giáo nhỏ theo đao xông tới. Trương Phổ ăn nói ngang ngạnh nhưng vỏ đao chặt mạnh vào đầu gối hắn, cứ cho là hắn mình cứng như thép thì vẫn không chịu nổi, cũng không sợ hắn không quỳ, đây vốn là bản lĩnh của các dũng sĩ.

Còn về những lời nói của Trương Phổ tuy phát ngôn bừa bãi nhưng còn dám ở đây lôi cái chỉ huy sứ này nọ ra thì cũng thuận tay cho hắn ăn chút đòn, đó cũng là cái lẽ thường tình.

Dương Hạo vội ngăn cản, nói: “Gượm đã, ngươi cứ lui ra. Haha, Trương chỉ huy sứ, bản soái tất nhiên là không thể so sánh với quan gia được rồi, ta không nhận nổi một vái của ngươi, lại đi nhận một lễ của ngươi, chẳng phải là quá đáng hay sao?”

Trương Phổ lạnh lùng liếc hắn, hơi cứng người lại rồi cười nói: “Trương Mỗ hai tay đều bị trói, không thể hành lễ trước Dương soái được”.

Dương Hạo cười, ánh mắt liếc về phía Ngải Nghĩa Hải.

Ngải Nghĩa Hải đúng là một con người hết sức lẫy lừng, ba đường đại quân tấn công Song Long Lĩnh, chỉ huy không dưới một vạn người, hắn chỉ cần dùng bốn mươi người là có thể giết được Lý Kế Pháp, đem năm nghìn quân binh đinh, gần hai vạn dân đều trở về Ngân Châu, vị tướng tài giỏi ấy chính là Ngải Nghĩa Hải.

Dương Hạo là một đại soái nổi tiếng lẫy lừng, dụng binh như thần, là một vị quan hiền tài. Thuộc hạ của Dương Hạo có rất nhiều tướng lĩnh đều có kinh nghiệm thâm hậu, nhờ có tài năng mà xuất chúng hơn người, cũng có những người có tài năng, Ngải Nghĩa Hải tất nhiên cũng là người được Dương Hạo trân trọng. Thái độ của hắn thay đổi, Ngải Nghĩa Hải tất nhiên cũng đã cảm thấy.

Ngải Nghĩa Hải cảm thấy hãnh diện, vinh quang, trời lạnh, hắn đã khoác thêm áo choàng, lộ ra một cánh tay rắn rỏi, nhưng hắn đã quen thanh cửu hoàn Đại Khảm Đao, cầm một thanh đao lớn như vậy đứng ở góc phòng, trông không khác gì một gã đao phủ. Ngải Nghĩa Hải do vẫn chưa phát giác, vẫn cứ dương dương tự đắc.

Thấy ánh mắt của Dương Hạo, Ngải Nghĩa Hải vung đại đao lên, cửu hoàn đại đao lóe sáng lên trông khiếp hồn, không ai ở đó có chút phản ứng nào, chỉ thấy lưỡi đao sáng lên một chút, sợi dây trói trên lưng Trương Phổ đứt lìa, không để lại cho hắn bất kì thương tích nào. Quả thực là một công phu tuyệt đỉnh, mọi người có mặt ở đó không khỏi trầm trồ khen ngợi một tiếng “Đao pháp hay quá!”

Ngải Nghĩa Hải dương dương tự đắc lui về sau, còn không quên làm cử chỉ khiêm tốn. Dương Hạo không khỏi nghĩ thầm trong lòng: cái tiếng xấu của tên này cũng đủ để dọa trẻ con những đêm khóc dạ đề, bây giờ lại dám ra mặt như vậy, thật là không vừa.

Khi trời rét lạnh, Trương Phổ bị trói hai tay giải về, khí huyết không thông, nay được chút tự do hắn mới thấy tay mình như được hoạt động trở lại. Lúc này hắn mới quay sang nhìn Dương Hạo, Dương Hạo cười nói: “Trương chỉ huy sứ nay đã có thể chào bản quan được chưa?”

Trương Phổ nói: “Tại hạ muốn thỉnh giáo một chút, xin hỏi vị đại soái đây là quan nước nào?”

Dương Hạo khẽ nhíu mày, nói: “Tất nhiên là quan của nước Tống”.

Trương Phổ lập tức chất vấn : “Đã là quan của nước Tống thì ngài và ta đều là thần, không biết vì sao lại sử dụng bạo lực với ta? Đại soái giết chủ tướng của ta, lấy thuộc hạ của ta, nhưng là phụng mệnh của triều đình hay sao? Song Long Lĩnh của ta đã đắc tội gì thì xin cho biết, Trương Phổ nếu như có đắc tội thì sẽ theo luật pháp, nếu như không có tội thì làm sao ta lại phải cúi đầu trước loạn thần?”

Dương Hạo cười ha hả nói: “Đã nghe danh từ lâu Trương Phổ là tướng đệ nhất thông thái trước Lý Kế Pháp, lại là đệ nhất dũng tướng, nay được gặp, quả nhiên là danh bất hư truyền. Trên tiết đường Bạch hổ này, bản soái ra lệnh cho người bay đầu, ngươi còn dám đứng đó chất vấn bản soái, không chút nào khiếp sợ, quả là can đảm vô cùng”.

Trương Phổ ngang nhiên nói: “Đã cùng là hàng quân, thì nên có giác ngộ thỏa đáng, ân triều đình nặng như núi, Trương Phổ đã hy sinh cái mạng này cho triều đình thì cũng có gì là hối tiếc, huống chi chỉ là một cái đầu nhỏ nhoi”.

Dương Hạo cười nói: “Nói hay lắm, đến lúc này ngươi lấy danh nghĩa là quan trong triều để nói với ta về vương pháp. Ngươi còn muốn nói vương pháp nữa không? Được, bản soái cho ngươi tâm phục khẩu phục. Người đâu, đem nhân chứng, vật chứng ra đây”.

Dương Hạo vừa ra lệnh một tiếng, Lý Nhất Đức và Lý lão phu tử đang đứng dưới tiết đường, toàn thân mặc áo quan lục phẩm tiến lên lễ đường, thi lễ với Dương Hạo rồi từ tốn nói: “Hạ quan thông phán Lý ở Ngân Châu xin được yết kiến tiết soái”.

Đằng sau lưng hắn liền một tràng rì rầm vang lên như sấm, vài tên tù nhân tóc rối bời bẩn thỉu, mặc áo tù bị áp giải lên sau, mấy tên tử tù này đứng bên ngoài không biết đã bao lâu rồi, ai nấu đều lạnh tê người, run rẩy, miệng trắng bệch, tiến lên phía tiết đường.

Bọn chúng tạo nên một cảnh hỗn loạn hết sức, người thì nói rằng đã từng được gặp đại lão gia, người thì nói đã gặp Dương đại soái.

Vài tên lính cầm đao, cầm một bức thư tới, vứt đao xuống đất rồi cẩn thận dùng hai tay đỡ lấy thư dâng lên, cao giọng nói: “Minh Đường Xuyên Lý Kế Pháp mưu đồ làm loạn, ám sát đại soái, năm tên thích khách đã bị giết, bắt được bảy tên, đoạt được kiếm, cung tên, đồng thời lục soát bắt được Lý Kế Pháp, Trương Phổ và bức mật thư trong người thích khách. Trong thư đã nói rõ chi tiết ý đồ mưu hại đại soái, mưu kế tạo phản, xin đại soái minh giám”.

Dương Hạo liếc mắt về phía Trương Phổ, cố ý hỏi: “Lý thông phán ta thấy vẻ mặt đầy chính khí của Trương chỉ huy, không giống bọn chuột nhắt có ý đồ làm phản, có phải các ông đã bắt nhầm người rồi không?”

Lý Nhất Đức nghiêm trang nói: “Tiết soái, ty chức làm quan luôn luôn muốn là người công chính liêm minh. Thông phán phủ tuyệt đối không làm oan uổng người tốt, cũng tuyệt đối không tha cho kẻ xấu. Đối với chuyện mưu phản của Song Long Lĩnh Lý Kế Pháp, ty chức đã tỉ mỉ thăm dò và tra hỏi phạm nhân có liên quan, đã nắm được đầy đủ chứng cớ, xin mời đại nhân xem, đây là những ngọn đao và mật thư dùng làm vật chứng, còn có cả thích khách làm nhân chứng”.

Dương Hạo cười đáp: “Binh khí có thể là giả, phạm nhân có thể là do vu cáo, cũng có thể là làm giả, e rằng những căn cứ này... có đủ để tố cáo người ta phạm tội hay không?”

Lý Nhất Đức lập tức nói: “Tiết Soái, trong bức mật thư có dấu của Lý Kế Pháp và Trương Phổ làm chứng, vậy làm sao có thể làm giả được”.

Dương Hạo kinh ngạc nói: “Có việc này sao? Mau đưa tới đây ta xem”.

Trương Phổ thấy hai người cứ giả bộ diễn trò, chỉ biết cười lạnh, nhưng đã thấy Lý Nhất Đức lôi bức mật thư tiến đến bên án, mở ra xem, mặt giãn ra cười nói: “Ồ, bức thư này là do Lý Kế Pháp viết”.

Vừa nói vừa lấy ra một ấn tín từ trong áo, chấm mạnh lên giấy, sau đó lại đóng thêm một dấu ở bức mật thư, Trương Phổ hai mắt mở càng lúc càng to, hắn đã nghi ngờ rằng Dương Hạo sẽ làm giả bằng chứng để tạo ra lý do, nhưng không ngờ hắn lại ngang nhiên không chú ý tới mọi người đang có mặt ở đó mà làm giả, điều này, điều này… hắn ta quả thực là quá kiêu ngạo!”

Lý Nhất Đức lại mở bức thư ra, nhìn vào lạc khoản, cười nói: “Bức này là do Trương Phổ viết”.

Lập tức hắn lại lấy ra một ấn tín, Trương Phổ nhìn rõ ràng ấn tín này là ấn tín của mình, bình thường hay lấy ra sử dụng lúc xin lương, làm công văn.

Ngải Nghĩa Hải cầm con dấu lên, nện một nhát vào bức mật thư, như vậy thì mỗi bức thư đều được đóng dấu một lượt, lúc này hắn mới thu dấu về, mỉm cười nói: “Xin mời tiết sứ xem, bức thư này quả thực là không có sai sót, bên trên còn có đối chiếu ấn tín, tuyệt đối không phải là làm giả, cũng không có nửa điều giả dối, bỉ chức nói rồi, bỉ chức luôn luôn chính trực liêm minh, trước nay không để việc tư ảnh hưởng”.

Trương Phổ nghe những lời này cảm thấy bị châm chọc, sống mũi như lệch hẳn đi, thấy Dương Hạo đang cầm bức mật thư, giả đò như đang nghe rồi gật đầu nói: “Quả nhiên là không có chút giả dối nào”.

Hắn thổi thổi cái dấu mực còn chưa kịp khô, rồi lại hướng mặt về phía những tên tử tù đang quỳ phía dưới: “Là ai đã sai khiến các ngươi giết bản soái?

Mau chỉ rõ hung thủ cho ta, nếu như tri vô bất ngôn, ngôn vô bất tẫn, bản soái sẽ miễn cho các ngươi tội chết”.

Mấy tên tù nhân mừng rỡ, vội vàng nhìn một lượt những người đang đứng ở tiết đường, rồi không hẹn mà cùng chỉ tay vào khuôn mặt đang dữ tợn của Ngải Nghĩa Hải, nói như đinh đóng cột: “Chính là hắn, chính là hắn, đại soái, bọn thần đều bị hắn chỉ huy, không thể không phục tùng, xin đại soái khai ân, tha cho cái mạng này”.

Ngải Nghĩa Hải tức giận sôi lên, vung tay tát cho bọn tử tù một cái không kịp mở mặt, lớn tiếng mắng: “Trợn to cái mắt chó của các ngươi lên mà trông cho rõ, bản tướng quân là võ tướng dưới trướng của đại soái, cái tên bạch diện thư sinh đó phải là Trương Phổ”.

Đám tù nhân lại nhao nhao nhìn về phía tay Ngải Nghĩa Hải chỉ tới, miệng đồng thanh đáp: “Đúng là hắn, hắn là người đã chỉ huy chúng tôi làm, tiểu nhân chỉ nghe lời thôi, người này mới là kẻ chủ mưu”.

Dương Hạo cười ha hả nói: “Trương chỉ huy có nói gì với các ngươi không?”

Trương Phổ lạnh lùng quan sát vở kịch, lúc này trong lòng đã hoàn toàn rõ. Dương Hạo đã chế ra chứng cớ, vốn hắn đã dự liệu từ trước, nhưng Dương Hạo làm giả chứng cớ ngay trước mặt mọi người, lại thị uy hắn. Dương Hạo là đang muốn nói với hắn rằng, Ngân Châu đã nằm trong tay Dương Hạo, hắn ở đây muốn làm gì thì làm, không có cách nào thay thế được. Mỗi một người trên tiết đường này đều có thể bị hắn khống chế, hắn hiện giờ có thể chỉ vào đầu lạc đà mà nói là đầu voi, văn võ bá quan ở đây ắt hẳn cũng sẽ phải hùa theo mà nói thế.

Dương Hạo đồng thời cũng muốn nói với hắn rằng, chiêu bài này của Đại Tống, chư hầu Tây Bắc ai muốn thì đều có thể dao động, nhưng ai cũng không thể coi đó là bài vị tổ tông. Hắn – Dương Hạo lại dám công khai dụng binh cho Minh Đường Xuyên, căn bản không hề để ý đến vị vua Triệu ở Biện Lương, vua Triệu đều có thể không lo nghĩ, Hạ Châu tự nhiên cũng không cần để ý. Hắn – Trương Phổ đã không còn chỗ dựa, không cần phải mở mồm ra là xưng Tống thần, điểm này Dương Hạo cố kị.

Dương Hạo nhìn khuôn mặt của Trương Phổ, cười nói: “Thế nào, Trương chỉ huy có gì cần nói không?”

Trương Phổ hung hăng nói: “Xem như ngươi lợi hại! Trương mỗ nhận tội”.

Dương Hạo cười ha hả, hắn khoát tay một cái, hai bên văn võ trong triều liền lui đi như nước thủy triều rút, binh sĩ cũng lôi mấy tên tử tù ra khỏi đó, trong nháy mắt tiết đường đã vắng không còn ai, chỉ còn lại hai người là Dương Hạo và Trương Phổ.

Đợi đến khi bọn lính đi khuất hẳn, Dương Hạo mới trầm mặt nói: “Trương Phổ, Lý Kế Pháp là một tên mãng phu, đã bất tri lại bất dũng, càng không có chí lớn, nếu như không phải là ngươi nghĩ ra kế hoạch cho hắn thì liệu Lý Kế Pháp có đủ gan để mưu sát bản soái? Nếu như hôm nay có đầy đủ nhân chứng vật chứng đầy đủ thì ngươi còn gì để nói?”

Trương Phổ nói: “Dương đại soái, đứng trước Phật không đốt hương giả, những văn bản kia không làm là được. Lại nói, có điều cũng chỉ là ai cũng có chủ, hôm nay có thể chết thì Trương mỗ cũng đã tận tâm hết sức. Đại soái muốn giết thì cứ giết đi, cần chi phải nhiều lời”.

Dương Hạo cười nói: “Trương chỉ huy quả thực là thấy chết không sợ sao? Nếu đã như thế thì hôm nay khi Song Long Lĩnh lên, Trương chỉ huy cần gì phải khống chế Ngải Nghĩa Hải, gọi cho chỉ huy doanh trại, khiến hắn nhất định phải đánh hạ, lại không phá lưới cho con cá mắc kẹt ngay tại trận để bảo toàn danh nghĩa đi?”

Trương Phổ cười nói: “Kẻ biết không nhận, ngày hôm nay trong trận đó, tiết soái đã có sự chuẩn bị rồi mới đến, chỉ huy sứ ta đã chết, như con rồng mất đầu, mỗi người một trận chiến, như vậy một nhánh binh yếu sẽ còn giải quyết được gì đây? Song Long Lĩnh đã suy nhược đi rồi, những ngày qua đã khổ rồi, những người dân nhỏ bé chỉ có một ước vọng duy nhất là tiếp tục sống. Trương mỗ dù có chết nhưng cũng không muốn chết vì chuyện ân tư nhỏ nhặt đấy, làm hỏng cả ý nghĩa của cái chết”.

Dương Hạo cười nói: “Hay lắm, hay lắm! Dương mỗ dã nghe tiếng tướng quân đã lâu, này gặp mặt, quả nhiên không ngoài sự tưởng tượng. Trương tướng quân còn có ý định gì với cái sinh mệnh phía trước của ngài hay sao?”

Trương Phổ nghi ngờ hỏi: “Tiết soái nói những lời này là có ý gì?”

Dương Hạo rời khỏi án, từ từ nói: “Trương tướng quân nếu không ngại có thể về dưới trướng ta không?”

Trương Phổ nghi ngờ, hồi lâu sau mới nói: “Người nghĩ ra mưu kế sát hại đại soái là ta, đại soái còn dám dùng ta ư?”

Dương Hạo thản nhiên nói: “Có gì là không dám? Tình thế xuất binh, bản soái đã có lời trước,kẻ bắt cóc con gái Tài Bạch đã do người tấn công thành trì sắp xếp xử lý. Tất cả những gì Tài Bạch có là đứa con gái đem bán. Trương tướng quân nếu như đồng ý, bản soái sẽ coi như hoàn thành tư nguyện, mua lại bọn họ về, tấm lòng này của Dương mỗ rất chân thành, toàn nước coi trọng tướng quân”.

Hắn lại nói tiếp: “Tướng quân nếu như không chịu hàng thì Dương Mỗ có thể chấp nhận, nhưng cổ nhân có câu: Lương cầm trạch mộc mà dừng, lương thần trạch chủ mà hầu, tướng quân là người song toàn, vốn phải là công thành danh toại, trở thành một người anh danh trên thế giới, nhưng tiếc rằng minh chủ của tướng quân là kẻ vứt đi, Tây Vực loạn lạc, quần hùng tranh bá, Dương mỗ muốn tìm người hiền tài, chính là cách dùng người của ta. Bản lĩnh và khí chất của tướng quân đều là những điều mà Dương mỗ hết sức ngưỡng mộ. Nay tấm lòng của ta cũng hết sức chân thành, tướng quân có thể đồng ý cho ta dùng tài năng của tướng quân không?”

Trước mặt Trương Phổ là con dao và lưỡi kiếm dùng làm chứng cứ giả, thậm chí còn hai cung tên, Dương Hạo lúc này đã đi xuống án, đang đứng cách hắn khoảng năm thước. Mà trên tiết đường chỉ có hai người, không còn bất kỳ ai khác.

Nếu như… nếu như…, Trương Phổ căng thẳng nắm chặt bàn tay đẫm mồ hôi, ý nghĩ lướt qua trong đầu hắn càng làm cho lòng bàn tay ướt đầm đìa mồ hôi hơn nữa.

Trong lòng bàn tay của Dương Hạo, mồ hôi cũng ướt đầm…

***************

Hai anh em Chiết Ngự Huân, Chiết Ngự Khanh cùng với tiểu muội Chiết Tử Du đang ngồi đối diện nhau, cách nhau một chiếc án, trên mặt án là bình trà đã nhạt màu.

Chiết Ngự Khanh trầm ngâm nói: “ Kết thân cũng Chiết gia chung ta, vĩnh viễn tốt. Những ngày tới nếu như tiêu diệt Dương Hạo thì với sự trợ giúp của quân Lô Châu, lấy ô Châu làm vi tuyến, hàng trăm dặm phía Tây sẽ là của ta, haha, phần lễ này cũng không được coi là hậu lắm đâu. Lý Quang Duệ đã chủ động hòa hảo với Chiết gia chúng ta, ta thấy… cũng có thành ý đấy.

Hàng trăm năm nay Chiết gia chúng ta hoặc nhà Lý có chiến tranh thì đều bị Trung Nguyên uy hiếp, do chỉ có một nên giữa chúng ta tuy là cùng tranh giành vùng Tây Vực, nhưng đất đai và cư dân thường xảy ra tranh chấp, nhưng hai bên không hề có dã tâm và năng lực thôn tính lẫn nhau, mà một khi Trung Nguyên có thế lực mạnh hơn bây giờ thì lại có thể tiêu diệt một trong số hai nhà. Nếu như Trung Nguyên thống nhất, thế lực của nhà Tống càng mạnh lên thì Tây Vực tuy là vẫn là nơi quần hùng tranh bá nhưng e rằng sớm muộn cũng bị nhà Tống nuốt gọn. Điều này, ta nghĩ Lý Quang Duệ cũng đã nghĩ đến rồi”.

Chiết Tử Du lạnh lùng liếc hắn một cái, cười cười nói: “Lý Kế Quân? Hừ! Hắn có xách giày cho ta cũng không xứng, muốn cưới ư, phải cân nhắc đã”.

Chiết Ngự Khanh cười nói: “Ta chỉ là đang nói để bàn luận mà, phải làm bệnh của Lý Quang Duệ đã thì mới kê đơn được chứ, việc kết thân có được hay không thì phải xem ý kiến của muội, có điều Lý gia nếu như thực sự có thành ý thì cũng đừng nên làm khó hắn quá”.

Chiết Ngự Huân lắc đầu nói: “Nhìn từ việc Lý Quang Duệ muốn kết thân với chúng ta, rồi từ cuộc chiến của Thổ Phiên, Hồi Hột, đúng là đã khiến cho Hạ Xuyên đại thương nguyên khí rồi, nếu không với thực lực của Lý Quang Duệ và vũ khí có sẵn thì không thể có chuyện muốn hòa hảo với chúng ta. Lý Quang Duệ chủ động hòa hảo kết thân, ăn nói khép nép, nguyên nhân lớn nhất là sợ rằng Dương Hạo đang ở Ngân Châu”.

Hắn vừa nhắc đến Dương Hạo, Chiết Tử Du ngay lập tức quay mặt lại, giả bộ không để ý lắm, nhưng tai thì đang dỏng lên.

Chiết Ngự Huân nói: “Cuộc chiến của Thổ Phiên và Hồi Hột đã làm suy yếu đi thực lực của Lý Quang Duệ, nhưng không thể làm rung chuyển gốc rễ của hắn, mà Dương Hạo lại là uy lực trực tiếp khiêu chiến. Nắm Ngũ Châu là gốc của Lý Quang Duệ, Ngân Châu không thể lấy được, hắn căn bản không cần dao động. Huống hồ nữa, Dương Hạo đến nay là nghĩa tử của Lý Quang Sầm, có Lý Quang Sầm ở đó thì không chỉ bị áp lực lâu dài từ Hạ Xuyên, mà trong nội bộ Hạ Xuyên cũng không phải là một khối. Đó mới là lý do chủ yếu mà Lý Quang Duệ muốn kết thân ở bên ngoài”.

Chiết Ngự Khanh buông tay nói: “Nói như vậy thì ít nhất đối với nhà Chiết gia chúng ta, Lý Quang Duệ cũng có ý muốn hòa hảo? Kẻ cầu thân đang đứng trước điện, đại ca nhìn xem, chúng ta nên trả lời ra sao? À… không chừng… chúng ta cử một nử tử đi kết thân với hắn thì sao? Dẫu sao Lý Kế Quân cũng không chỉ dừng lại một vợ, hắn chỉ muốn hòa hảo với Chiết gia chúng ta thôi.

Dù sao, Lý gia hiện tuy chưa khôi phục lại phong độ thời xưa, nhưng cũng không phải là không xứng với Chiết gia chúng ta, huống hồ chỉ là một cô gái, cũng không có gì đáng ngại”.

Chiết Tử Du liền quay đầu lại, còn chưa kịp mở miệng phản đối thì Chiết Ngự Huân đã lắc đầu nói: “Không được, nếu làm thế thì Dương Hạo sẽ nghĩ thế nào?”

Chiết Tử Du thấy hắn đã phản đối nên cũng im miệng không nói gì, Chiết Ngự Huân nói tiếp: “Dương Hạo đến nay vẫn chưa có thế lực lấy được Hạ Xuyên, nhưng hắn đã quật khởi nhanh như vậy thì cũng là có khả năng hơn người, sinh ra gặp vận, theo ta thấy, Tây Bắc có một kẻ như Dương Hạo thì cục diện ắt sẽ phải thay đổi, nếu như Dương Hạo thành công thì có một ngày Lý Quang Duệ sẽ không còn đất tiếp tục sống nữa đâu.

Chúng tay hãy cùng liên minh với Dương Hạo, nếu như hòa hảo với Lý Quang Duệ, vậy thì ắt sẽ không có lối đi, muốn leo lên thì phải có kẻ mạnh, cuối cùng sợ rằng cũng phải có một bên trụ không vững.”

Chiết Tử Du mở to mắt ra nhìn nhị ca, nói: “Đúng là đại ca có tầm nhìn”.

Chiết Ngự Khanh gãi gãi mũi, rất vô tội nói: “Ta cũng chỉ là suy nghĩ thôi, sợ rằng loạn lạc ở Tây Bắc rấ khó kết thúc nhanh chóng, sẽ cho Triệu Quang Nghĩa có lý do. Nếu như lấy danh nghĩa là bình loạn thì chư hầu Tây Bắc sẽ phát binh, vậy chúng ta có thể công cốc. Tặng một người con gái không làm cản trở gì đến quyết định của Chiết gia chúng ta, nếu như Dương Hạo có thôn tính được Lý Quang Duệ thì cũng tốt, nếu như không nuốt được thì cũng coi như là có đường lui. Đến lúc đó, nội trong ba châu Lân Châu, Phủ Châu, Lô Châu liên minh lại là có thể phản kháng lại Hạ Châu họ Lý, sau đó liên kết lại có thể đánh được Trung Nguyên, không phải là ổn thỏa hơn sao?”

Chiết Ngự Huân trầm ngâm trong chốc lát, rồi ngẩng đầu hỏi: “Tử Du, theo gió có thể nghe ngóng được những tin tức gì liên quan đến Hạ Châu?”

Chiết Tử Du lắc đầu nói: “Chiến sự của Hạ Châu và Thổ Phiên, Hồi Hột đã diễn ra lâu rồi, nhưng không có chút biến đổi nào”.

Chiết Ngự Huân lẩm bẩm nói: “Với sự giao hảo bao nhiêu năm nay giữa ta và Lý Quang Duệ, ta hiểu được những âm mưu thâm độc, trong cương ngoài nhu, hắn ngồi ở Tây Bắc cao ngạo đã thành quen, nếu như đến lúc núi mòn thủy tận thì quyết không làm những việc nhu nhược đâu. Cục diện chiến tranh ở Thổ Phiên và Hồi Hột không có chút thay đổi gì, nếu như Lý Quang Sầm đột nhiên xuất hiện thì sẽ khiến cho nội bộ của Hạ Châu nảy sinh ra phân tách. Nếu không Lý Quang Duệ hà tất phải nhanh chóng đi kết giao bên ngoài như vậy?”

Hắn chần chừ một lúc lâu mới nói tiếp: “Triệu Quang Nghĩa đã xuất binh Hán phạt rồi, nước Hán mất đi sự trợ giúp của Khiết Đan, ta thấy xem ra cũng không trụ được vững. Triều đình đã muốn Chiết gia chúng ta xuất binh, ít nhất cũng là hợp với tình hình, Lý Quang Duệ ở đó, ta thấy đã không thích ứng, nếu như không có Dương Hạo ở đó là nguyên nhân, thì cũng không có chuyện cử người đi ra bên ngoài xin kết giao đâu. Nay chúng ta đã liên minh với Dương Hạo thì sẽ không bị họ Lý lôi lôi kéo kéo nữa. Ngự Khanh, ngươi xem phải đối phó với họ thế nào, còn về việc làm thân thì cứ từ chối đi”.

Chiết Tử Du hoắc mắt một chút rồi đứng lên, lớn tiếng nói: “Cần gì phải đích thân nhị ca đi, muội từ chối không được hay sao? Bản cô nương đi một chuyến là được”.

Chiết Ngự Khanh ngẩn người rồi bật cười nói: “Tiểu muội, người mà người ta cầu thân là muội đấy, muội tự đi lộ mặt ra như vậy sao? Có giống ai không?”

Chiết Tử Du trừng mắt nói: “Đương nhiên là không giống ai rồi, giống ai thì đã không phải là muội.” Nói rồi liền bỏ đi.

Chiết Ngự Khanh mở hai tay ra nói: “Đại ca, huynh nhìn xem, nhìn xem, ta đã nói mà, tiểu muội ở nhà đã quen như thế rồi, con gái nhà ai lại tự mình đi cự tuyệt như thế? Đại ca cần phải nghĩ cách…”

Phía bên ngoài Chiết Tử Du đã quay đầu lại, nói lớn: “Nhị ca, huynh nói gì? Muội nghe không được rõ”.

Chiết Ngự Khanh vội vàng ho vài tiếng rồi nói: “Ta nói là… ta nói việc hôn nhân đại sự, chi bằng mời một bậc trưởng lão đến nói”.

Chiết Tử Du khẽ “hừ” một tiếng rồi quay đầu bỏ đi, bước chân đi càng lúc càng xa, xem ra đúng thật là đi khỏi đó rồi, hai anh em họ Chiết mới không khỏi quay sang nhìn nhau cười khổ nã

Chiết Ngự Huân thở dài,tự an ủi bản thân: “Tiểu muội làm việc gì đều biết nặng biết nhẹ, muội ấy muốn tự mình giải quyết thì cứ để muội ấy đi. Nhị ca, dự định của huynh không thể nghĩ nữa. Dương Hạo và Lý Quang Duệ có mâu thuẫn, Chiết gia chúng ta và Lý gia có xung đột khác nhau, chúng ta không thể đứng cùng một phía. Bọn họ một bên thì quyết không gục ngã, một bên thì quyết không từ bỏ ý đồ, giữa hai bên nhất định phải chọn một, không thể ba phải được”.

Nói đến đây hắn lại thở dài, lẩm bẩm nói: “Nhưng mà, tiểu muội rõ ràng là yêu Dương Hạo, người mù cũng có thể nhìn ra, nhưng muội ấy lại cứ một mực không chịu biểu lộ ra, còn cho rằng có thể giấu được hết cả thiên hạ. Mà Dương Hạo thì cũng là cái tên đầu lợn, cũng không cho người đến đây cầu hôn đi, thật là làm khó chúng ta quá”.

***********************

Xe lăn bánh lộc cộc, tư sử Lý Phi Lộc của Tuy Châu ngồi trên xe, nhìn ra ngoài màn tuyết trắng xóa mênh mông.

Lý Phi Lộc vẫn chưa đến bốn mươi, đúng là một người đầy tài giỏi, cũng là một đại tướng được Lý Quang Duệ hết sức coi trọng. Hắn và Lý Kế Quân, Lý Kế Bổng là huynh đệ, có điều do chi hệ họ hàng khá xa nên không được xếp hàng thứ.

Mới đầu Lý Di Ân sau khi đoạt ngôi vị, bốn anh em của hắn đã tạo phản ở Tuy Châu, Lý Di Ân sau khi dẹp được loạn đó đã phái tâm phúc của mình là Lý Nhân Dụ tiếp tục làm tư sử ở Tuy Châu. Nhưng không được bao lâu lại có bộ tộc họ Thị tạo phản, tên quan mới bị giết, thế nên Lý Di Ân lại phải phái Lý Quang Tú đến đảm nhiệm.

Vài năm trước, Lý Quang Tú đã bệnh chết, do vậy Lý Phi Lộc được tiếp tục lên nắm chức đó, hắn rất mẫn cảm với cái từ “huynh đệ” với Lý Kế Quân, đồng thời cũng là một người rất cương quyết, đạt được nhiều thành công trong công việc cai trị Tuy Châu. Do vậy lần này Lý Quang Duệ muốn kết thân với nhà họ Chiết, hắn tự biết hai đứa con của mình là hai kẻ lỗ mãng, nhu nhược, không có tài cán gì, mới phải phái Lý Phi Lộc ra mặt.

Lý Phi Lộc vốn đã việc sự việc này không thể thuận buồm xuôi gió, đặc biệt là hôm nay ngay cả việc gặp mặt Chiết gia cũng gặp phải không ít trắc trở, thanh thế lại đang vào thời suy yếu, do đó hắn đã chuẩn bị trước rất nhiều ‘bài’ để nói, muốn đo độ lợi hại của Chiết Ngự Huân, chỉ cần nói được người này thì mọi việc coi như thành công một nửa. Nhưng cái tên Chiết Ngự Huân lại không hề xuất đầu lộ diện, chỉ cho nhị ca của hắn ra tiếp, hai bên mới chỉ tiếp xúc đôi chút đã bị ‘bà cô’ nhà họ Chiết ra mặt từ chối, lại còn khách khí đuổi bọn họ lập tức lên đường, Lý Phi Lộc tuy đã chuẩn bị rất nhiều thứ để nói trước mặt Chiết Tử Du, chỉ thiếu điều nói thẳng ra là “ngươi chỉ là một công cụ, để cho bọn vương gia nghĩ cách lấy Trung Nguyên, thích hay không thì cũng uốn éo đi”.

Hắn cũng không phải là bà mối chính thức, việc cầu thân lại cũng không phải là nghĩ cho cái cả đời của Chiết Tử Du, mà là không có đất dụng võ, liền bị đuổi ra khỏi phủ.Nhị ca của Lý Kế Quân - Lý Kế Bổng đang xem xét lễ vật mà Chiết Tử Du trả lại, hồi lâu sau mới nghi hoặc nói: “Phi Lộc huynh, huynh nói xem cô nương họ Chiết đó tặng lại một chiếc gương là có ý gì?”

Lý Phi Lộc liếc mắt nhìn cái gương rồi thản nhiên nói: “Chả có ý gì đặc biệt đâu, chắc chỉ là một món quà cảm ơn trả lễ thôi mà”.

Lý Kế Bổng lắc lắc đầu, hắn không để tâm lắm đến chính trị, quyền lực, trên thực tế đã có đại ca nên hắn cũng chả đến lượt. Do vậy bình thường hắn chỉ chuyên tâm nghiên cứu Hán học, dù học vấn đầy một bồ nhưng ít nhiều thì cũng vẫn có thứ khó hiểu, hắn nhìn kĩ lại chiếc gương rồi lẩm bẩm: “Tại sao nhỉ, sao không tặng cái khác mà lại tặng một chiếc gương? Ta thấy… chắc hẳn là có học vấn. Gương vỡ lại lành? Không có lý, đại ca của ta không hề nói gì về gương với cô ta, lành cái khỉ gì. Trăng trong nước, hoa trong gương, chỉ có thể để ngắm chứ không dễ có được? Hy vọng là ta tiếp tục nỗ lực?

Rốt cục là có ý gì đây?”

Lý Phi Lộc buông màn xuống, nhìn thấy Lý Kế Bổng vẫn đang chăm chú ngắm cái gương bèn cười khổ nói: “Ra mặt từ hôn tuy là đại tiểu thư nhà họ Chiết, nhưng rõ ràng là ý của Chiết gia. Xem ra nhà họ Chiết muốn đứng về phe Dương Hạo rồi. Lần này đi cầu thân không thành, có điều ít nhất cũng hiểu được hai chuyện: thứ nhất là hiểu được rõ ràng thái độ của nhà họ Chiết, đúng với phán đoán của đại nhân. Thứ hai là gì ư? Chủ động yếu thế, đợi Dương Hạo dẫn binh vây nước Hán thì Ngân Châu cũng không vuột khỏi tay hắn. Chỉ là Kế Quân luôn tự cho mình là cao, lần này lại bị đích thân đại tiểu thư từ chối, hắn tốt nhất là đừng có nhất thời tức giận nói những lời gây họa với đại nhân”.

 Chương 447: Mẫu nghi thiên hạ, mệnh mang đào hoa

Dương Hạo từ sau khi tiếp quản Ngân Châu luôn bận rộn tăng cường quân lính bình định dân chúng, khu hoạch vùng dân cư, hộ tịch đóng thuế và các chính sách… tăng cường quân kỷ, bầu nhiệm quan lại. Ngoài mặt thì chỉ thấy hắn đi đi lại lại xem xét, tùy ý nói năng, nhưng trên thực tế thì lại sắp xếp xử trí đâu ra đấy, hết sức bận rộn Do đó không có thời gian chú ý đến đảng Thất Thị, nước Khương Hoành Sơn, các bộ tộc Thổ Phiên Hồi Hột và người Hán.

Việc gặp mặt những người đứng đầu bộ lạc, sơn trại là diều rất cần thiết, từ góc độ lễ nghĩa thì mỗi bộ lạc đều không thể không gặp người thủ lĩnh đứng đầu của ình, Dương Hạo cũng cần đích thân gặp một lượt các thủ lĩnh, tìm hiểu những nhu cầu của họ, thiết lập tình cảm đôi bên, có rất nhiều việc cần bọn họ giúp đỡ, phối hợp, phục tùng, nên khi tiếp xúc với các thủ lĩnh, cũng là lúc Dương Hạo tuyên bố chủ quyền thống trị của mình.

Do đó rất cần hắn phải trực tiếp bắt tay vào xử lý những việc đại sự, việc này đòi hỏi phải đề cập đến trong bảy ngày. Những việc này còn đòi hỏi nhiều công sức hơn nhiều so với việc hành quân, phải có danh sách, liệt kê thứ tự trước sau, chương trình thế nào, tỉ mỉ rõ ràng, nếu không cẩn thận sẽ xuất hiện sơ xuất, có thể sẽ làm rạn nứt quan hệ giữa các bộ tộc, chư hầu ở Ngân Châu và những rắc rối không đáng có.

Việc tỉ mỉ này do thuộc hạ của Dương Hạo làm nhưng cũng không phải ai cũng có thể đảm nhiệm, nguyên sứ bộ nước Đường Từ Huyễn rõ ràng là một người giỏi xử lý chính trị,dùng người phải dùng tài của người, nhưng về lâu dài thì Lý Dục sẽ trở thành đại sứ ngoại giao, sự việc này không dễ, do đó việc này giao cho hắn làm. Dương Hạo và Từ Huyễn phải mất cả một buổi chiều mới có thể làm xong những việc đó, sau đó mới đứng dậy quay về Dương phủ.

Phủ này cũng không phải là phủ rộng rãi và thâm sâu so với những phủ mà Dương Hạo đã từng thấy, có điều phủ được xây dựng theo kiểu dựa vào núi, cao trùng điệp, thuận theo ý tự nhiên, mà vốn là muốn để phòng ngự nên mọi hướng đều quay vào sân, hết sức quy củ.

Đi đến sân sau, đột nhiên nghe thấy tiếng tiêu vọng ra, du dương êm ái, Dương Hạo không khỏi cảm thấy trong lòng khoan khoái lạ thường. Do gần đây nhiều việc cần giải quyết nên hắn rất đau đầu. Hắn ngẩng đầu nhìn thoáng qua, thấy tiếng tiêu được vọng ra từ phía sân của Oa Nhi, bèn cười.

Vị chủ nhân nhỏ này là tài nữ đệ nhất trong số bốn bà vợ của hắn, thường thì Tiểu Chu hoàng hậu hay lui tới, nhưng khi nói đến thơ từ, cầm kỳ, phục sức, trang điểm, ẩm thực, Phật giáo hay đạo giáo… thì đếu có thể trả lời lưu loát, cũng chỉ có mình Oa Nhi mà thôi. Những học vấn này dù không có ích lắm đối với quốc gia đại sự, nhưng cái gì cũng tài giỏi như vậy thì những người trong thiên hạ không có mấy người có thể đạt đến trình độ tài giỏi uyên bác như thế.

Dương Hạo vốn định đùa kiều nữ đáng yêu của mình một chút, nghe thấy tiếng tiêu liền truyền lệnh đi về phía chỗ ở của Oa Nhi.

Trong sân của Oa Nhi có một cái hồ, trên hồ xây một cái đình và một cây cầu gỗ, trong hồ có nhiều cây cối. Lúc này đang là mùa đông, nước hồ đã đóng băng cả, bên trên phủ một lớp tuyết dày, những thực vật trong hồ cũng đã khô héo, trên vài nhánh cây còn phủ một lớp tuyết trắng xóa, duy chỉ có hai cây mai bên hồ là vẫn nở hoa vàng.

Tiểu Chu mặc một bộ quần áo màu trắng, đứng dưới gốc mai, nhìn lên ngọn núi giả như đang ẩn hiện dưới làn tuyết trắng, khẽ khang đưa tiêu lên, một âm thanh nhẹ nhàng thanh thoát cất lên từ chiếc tiêu dài màu tím, trầm bổng, cùng với tuyết, với người tạo thành một bức tranh phong cảnh như thơ như họa hoàn mỹ, kỳ ảo tùng bay, nhưng giữa hai hàng lông mày của nàng vẫn lộ ra nét ưu sầu cô quạnh.

Khi đó, nàng mỗi ngày đều đến soái phủ, dần dần cũng phát hiện ra Dương Hạo không hề có ý đồ thù địch với nàng, hoặc ngày đó hắn vô tình thổ lộ tiếng lòng nên cũng không đủ khiến cảnh giác, hoặc hắn đã coi bản thân như một con chim trong lồng, căn bản không lo lắng bản thân có thể tạo ra uy hiếp gì?

Đúng vậy, cứ coi như bản thân biết chí hướng của hắn thì đã sao? Có thể nói cho ai nghe? Triệu quan gia ư? Nàng e rằng tránh còn không kịp, còn về thế lực khác thì nàng càng không có ý định tiết lộ thông tin cơ mật của hắn cho những người khác biết.

Nghĩ thông suốt rồi, Tiểu Chu hoàng hậu mới thở phào nhẹ nhõm. Điều đáng sợ nhất là nếu như tình thế bắt buộc, nàng cũng không tiếc thân, nhưng cũng không có nghĩa là nàng cam chịu chết. Nếu như có thể sống thì đương nhiên được sống vẫn tốt hơn.

Dẫu cho biết rằng bản thân mình đã lo lắng quá nhiều thứ, nhưng nàng vẫn hay đến Dương gia, một mặt là lo cho Đông Nhi, bọn Diễm Diễm cũng hiếu khách, thường xuyên lui tới. Bản thân Tiểu Chu đã trở thành một người bạn thân thiết không gì không nói của bọn họ. Tiểu Chu cô đơn, khi còn là một hoàng hậu cao sang, trước sau đều có kẻ hầu người hạ, quân lính phục tùng, những người ở bên cạnh nàng chỉ là bọn nữ tì hầu gái, nhưng cung tần mỹ nữ trong cung, còn có cả phu nhân của những vị quan đại thần. Nàng không thể gặp gỡ bất kỳ người phụ nữ bình thường nào khác, nên khi gặp những cô gái thế này nàng rất lấy làm thích, nhanh chóng kết bạn.

Từ sau khi đến Ngân Châu, nàng càng cô đơn, mỗi ngày nàng chỉ ngồi trong căn phòng nhỏ, làm bạn với tĩnh mịch, không có việc gì làm, không có gì để nói, dù yên tĩnh nhưng lại cô đơn đến đáng sợ. Những ngày tháng thế này chỉ có thể hưởng thụ trong một hai ngày, chứ để lâu dài lại chẳng khác nào một sự dày vò, đặc biệt là với tính cách hoạt bát lãng mạn của Tiểu Chu.

Chỗ ở đó của nàng căn bản chỉ có vài kẻ hầu không thể nói chuyện được, chỉ có một cô gái ít hơn nàng vài tuổi tên là Lý Trọng Ngụ, hai người thường không có nhiều chuyện để nói. Khi Dương Hạo xây dựng dịch quán ở Lô Châu, Lý Trọng Ngụ ở nhà chán không có gì làm nên đã tự tiến cử bản thân, cả phủ chỉ có mình nàng, lạnh lùng, không có gì tức giận.

Trong vô thức, nàng đã thích cảm giác đến thăm phủ của Dương Hạo, cùng ngồi với Đông Nhi, Diễm Diễm, Oa Oa, Diệu Diệu, nàng cảm thấy rất vui vẻ đầy đủ, rất vui vẻ, cảm giác này trước nay nàng chưa từng có. Thế nhưng, khi nàng đến chỗ Đông Nhi, cùng chuyện trò với Oa Oa, thì Diễm Diễm đột nhiên cầm quyển sách chạy tới, hai người chạy vào thư phòng nói chuyện gì đó khiến Tiểu Chu đột nhiên hoảng sợ. Bầu không khí náo nhiệt này, ấm áp này hoàn toàn không liên quan gì tới nàng, nàng chỉ là một vị khách mà thôi, thế là cảm giác thương cảm trong cả tháng nay trỗi dậy, nàng lặng lẽ che đậy nỗi đau thương trong lòng.

Nàng vốn cho rằng nước đã tan rồi, nhà đã mất rồi, phu quân thì chết rồi, một người vừa mới hai mươi sáu tuổi như nàng giống như một đóa hồng điêu linh, từ từ héo rũ, khô héo… nay nàng mới biết, trong tim nàng vẫn còn sống…

Chỉ cần còn sống, ai có thể thoát ra được sự cám dỗ? Điều khác biệt chỉ là bạn có cúi đầu trước sự cám dỗ đó hay không. Nàng khát vọng được sống, sống một cách đặc sắc, sống một cuộc sống có ý nghĩa. Nhưng khi tuyết tan, đất trời vào xuân, sức sống lại đâm chồi nảy lộc, nhưng còn nàng thì sao?

Cảm xúc dâng lên, tiếng tiêu mang theo nhiều nỗi ưu thương, lúc này đây, bên tai nàng nghe thấy vài tiếng vỗ tay rất dứt khoát. Tiểu Chu vội quay đầu lại, chỉ thấy trong sân hết sức tĩnh mịch, không có bóng dáng của ai. Một lúc sau, Tiểu Chu vẫn cứ nghĩ rằng mình đã nghe nhầm, lại quay người, kề cây tiêu lên miệng, thì nghe thấy bên cạnh có tiếng nói: “Haha, lão già phong lưu không tuân thủ quy tắc quả nhiên đã tìm được người truyền nhân, bản lĩnh thu nhận mỹ nhân thật đúng là nhất mạch tương nhận”.

“Ai đó?”

Tiểu Chu sau khi định trách một tiếng, nhưng khi quay đầu lại thì lại không thấy ai. Tiểu Chu kinh ngạc lùi lại vài bước, gần như cảm thấy như mình đã gặp quỷ, liền nghe thấy một tiếng nói vọng đến: “Hihi, ngươi không phải sợ, ta không phải là quỷ đâu, cũng không phải yêu ma”.

Tiểu Chu quay mạnh người lại, vẫn không thấy ai, sau lưng nàng là cái ao, trên mặt ao tuyết phủ dày, nhưng không hề có dấu vết gì, Tiểu Chu càng lo sợ, lắp bắp nói: “Người…người là thần tiên?”

“Haha, không sai, không sai, ngươi gọi ta là chị của thần tiên cũng không sai”.

Tiếng nói đó lại vọng đến, thậm chí nàng còn cảm giác thấy một làn hơi mỏng mảnh lướt qua trước mặt. Tiểu Chu vội lui lại vài bước, lại nhìn lại, một người đang đứng sờ sờ trước mặt. Người này mặc một chiếc áo bào màu vàng, lưng đeo một thanh bảo kiếm màu xanh, trên đầu búi một búi tóc bằng cây trâm ngọc xanh biếc, khiến khuôn mặt của người đó càng lộ ra nét thanh tú, xinh đẹp động lòng người.

Tuy sự xuất hiện của người này có phần cổ quái, nhưng nghe giọng nói có phần khách khí, khuôn mặt xinh đẹp tuyệt sắc, Tiểu Chu sau phút giây kinh hãi đã không nén được mà hỏi: “Vị tiên cô này… là… là ai?”

Lúc này đây nàng như đang nghi ngờ không biết người con gái xinh đẹp này có phải thực sự là tiên nữ giáng trần hay không, có phải biết nàng đang đau khổ nên muốn đưa nàng tới miền cực lạc hay không? Theo Lý Dục tụng kinh niệm phật đã lâu, cũng khó trách nàng có suy nghĩ đó.

Cô nương đó nghiêng đầu nhìn nàng một lượt, đôi mát sáng như có thần, giống như một tấm màn thủy tinh trong suốt mềm mại và dịu dàng trong không trung. Sắc đẹp này đúng là có thể làm điên đảo lòng người, nếu như nàng ta có ý định quyến rũ một gã đàn ông nào đó thì e rằng trên đời này không một ai có thể chống lại được ma lực này. Thần thái này không giống như một thần tiên trên trời, có điều Tiểu Chu mới lần đầu gặp một cách xuất hiện thần bí thế này nên không hề nhận ra điều đó.

Người đó nhìn một lượt rồi tấm tắc thở dài nói: “Quốc sắc thiên hương, ta lấy làm xót thương. Cô là Đường Diễm Diễm hay Ngô Oa Nhi?”

Tiểu Chu nghe thấy hỏi như vậy liền tỉnh lại, nàng đang ở trong cung Đường, Lý Dục đã mời rất nhiều cao nhân của Đạo giáo và Phật giáo tới truyền thụ kinh nghĩa, trong đó có không ít cao nhân đã lui về ở ẩn, nay xem ra cô nương xinh đẹp này cũng là một dị nhân. Mấy ngày trước Dương Hạo gặp thích khách, Tiểu Chu cũng biết. Dương Hạo dù đã khống chế Ngân Châu nhưng những thế lực ghen ghét vẫn còn rất nhiều, nay thấy vị cô nương như trên trời rơi xuống thế này, lại hỏi đến hai phu nhân của Dương Hạo, Tiểu Chu càng nảy sinh nghi ngờ.

Nàng được Dương Hạo giúp đỡ rất nhiều, thoát khỏi bàn tay của tên Triệu Quang Nghĩa gian ác, Đường phu nhân và Ngô phu nhân đối xử với nàng hết sức nhiệt tình, bọn họ được coi là bạn thân của nhau, niềm vui duy nhất của nàng hiện giờ là được ở cùng mọi người, nên nàng cũng có ý thức bảo vệ họ.

Cô gái trước mặt không rõ có ác ý gì, Diễm Diễm và Oa Oa hiện vẫn đang ở trong thư phòng, nếu như cô gái này không có ý tốt, võ công lại cao cường thì…

Nghĩ đến đây, Tiểu Chu không ngại ngần mà mạo nhận mình là Ngô Oa Nhi, nói: “Ta là Ngô Oa Nhi, không biết tiên cô là ai?”

Vị tiên cô đó nghe thấy vậy liền cười, ánh mắt lộ ra vẻ nồng nhiệt: “Haha, Ngô Oa Nhi, thanh ngâm Tiểu Trúc chủ nhân, dùng sắc nghệ để lấy lòng đệ nhất Đại Lương hay sao? Dương Hạo trong thư đã nói về lai lịch của cô, nay được nhìn, quả nhiên danh bất hư truyền. Nhan sắc này so với ta khi đó ở Lạc Dương… hừm, không sai, không sai, đúng là mẫu người con gái khiến người ta thích thú.”

Tiểu Chu tự nghĩ: “Đại Lương? Từ khi Chu Ôn diệt nước Đường xưng vương đổi tên thành Đông Bộ Đại Lương, thành Biện Lương không còn được gọi với cái tên Đại Lương nữa. Làm sao lại gọi cái tên cổ như vậy? Con? Xem ra cô gái này chỉ lớn hơn ta khoảng hai, ba tuổi, làm sao nói chuyện lại già như thế chứ?”

Trong lòng nghĩ như vậy, nhưng trong lòng Tiểu Chu lại không hề biểu lộ cảm xúc gì. Nói ra thì Tiểu Chu cũng là một người phụ nữ thông minh, cầm kỳ thi họa thi từ ca phú, nên cũng nhanh chóng ứng biến không để lộ chút sơ hở:

“Không sai, ta chính là Ngô Oa Nhi, tiên cô còn chưa cho biết pháp danh, không biết hôm nay tiên cô giá đáo đến đây có ý gì?”

Vị tiên cô đó khẽ cười, khuôn mặt lộ ra hai lúm đồng tiền đẹp mê người: “Pháp hiệu của bản cô nương ư? Haha, ngươi gọi ta một tiếng là Tịnh Âm Sư Phụ là được. Lần này ta đến đây là nhờ ủy thác của Dương Hạo, muốn nhờ ta truyền thụ cho các ngươi, ta vốn ở trên núi Tử Vi, nhận được thư Dương Hạo, biết được các ngươi muốn đến Thiếu Hoa Sơn để cư ngụ, ta muốn trực tiếp đén, may sao giữa đường hỏi một vài câu mới biết được các ngươi đã đến Ngân Châu…”

Tiểu Chu nghe thấy cô ta không có ác ý gì bèn không muốn mạo nhận là Ngô Oa Nhi nữa, đang định nói rõ thân phận với người đó thì bỗng nghe thấy tin Dương Hạo đang muốn truyền thụ võ công cho các cô gái thấy trong lòng không khỏi tim đập. Nàng thường hay nói chuyện với Diễm Diễm, Dương Hạo đã từng nói đến chuyện có tiên nhân truyền thuyết ở trong Lư Động Binh, cô gái trước mặt có đích thực là truyền nhân của Lư Tổ không?

Nghĩ tới đây, những lời định nói lại chợt im bặt, nàng tò mò hỏi: “Tiên cô… tiên cô có phải là muốn truyền thụ võ công cho chúng tôi hay không?”

Tịnh Âm khẽ nhếch mép cười, trong nụ cười có chút tà ý, không hiểu nụ cười

đó có ý gì: “Thôi, cũng tương đối rồi, hihi, dẫu sao… bản lĩnh của bản cô nương đây đều là muốn truyền cho các ngươi. Dù cho tuổi của cô hơi lớn nhưng so với ta năm đó… năm đó khi mới bắt đầu luyện tập cũng đã hơi lớn tuổi, gân cốt vẫn còn biết nghe lời, chỉ cần không quá ngu dốt thì cũng có thể học được”.

Vừa nói đến đây, tai của Tịnh Âm đã khẽ động, cười nói: “Có người đến rồi, bản cô nương đến đây không muốn Dương Hạo biết, ta ở Tê Vân Quan, trong thành Ngân Châu, rất dễ tìm, người và Đường Diễm Diễm cứ đến tìm ta. Còn với bọn quan gia, ngươi muốn nói tung tích của ta cho bọn chúng cũng không vấn đề, có điều… không được gọi bọn chúng đến gặp ta, hắn là tông đồ của quỷ, gặp hắn ắt thấy xấu hổ”.

Tịnh Âm nói rồi thoáng một cái, cả thân thể đứng thẳng trong không trung rồi đứng thản nhiên tại một điểm trên ngọn núi giả sơn, thoát cái không thấy đâu nữa.

“Theo cô ta học võ nghệ?”

Tiểu Chu đầu nóng ran lên, một ý nghĩ chợt thoáng qua làm cho đầu óc nàng run lên.

Đã trải qua cảnh nước mất nhà tan, cuộc sống lưu vong, Tiểu Chu phát hiện rằng bản thân không biết tí võ công nào thật là ấu trĩ, ngày trước thì tưởng là nho nhã, trong thời chiến này mới nhận ra hóa ra phải có chút tài mọn mới đủ phòng thân.

Một người phụ nữ, đặc biệt là có sắc đẹp mà lại không có một thế lực nào bảo vệ thì sắc đẹp đó có thể đem đến cho cô ta biết bo nguy hiểm và bi kịch. Nếu như bản thân có thể giống như Tịnh Âm, có bản lĩnh đầy người như vậy thì tuy rằng không thể đủ sức cứu cả nước, nhưng khi đối diện với những dạng người tâm địa xấu xa như Triệu Quang Nghĩa thì ít nhất cũng có thể phòng thân.

Từ khi sinh ra, đây là lần đầu ý nghĩ này xuất hiện trong đầu, khiến tim nàng không khỏi đập loạn nhịp. Khi còn ở cung Đường nàng đã giao du với không ít cao tăng, cũng biết những vị cao tăng đó coi trọng y bát, không phải là với ai họ cũng đồng ý truyền thụ võ nghệ, để học được bản lĩnh đó thì cần phải mạo nhận.

“Vị tiên cô đó nhận lầm ta thành Oa Oa, không biết thì ta cứ mạo nhận đi, cô ta vốn muốn truyền võ công cho Oa Oa và Diễm Diễm, đợi ta… đợi ta học xong võ công sẽ dạy lại cho họ, còn nếu như không thành…”

Nghĩ đến đây, đột nhiên nghe thấy có tiếng bước chân vọng đến, Tiểu Chu vội vàng đưa tiêu lên môi, giả bộ như đang thổi một vài âm tiết, nhưng do đang suy nghĩ linh tinh nên khó thành ca khúc. Lúc này là Dương Hạo, hắn cười nói: “Nương tử biết được ta đến hay sao mà đột nhiên thổi không thành điệu thế?”

Tiểu Chu vội vàng quay người lại, thẹn thùng nói: “A, hóa ra là thái úy”.

Tiểu Chu là mẫu mỹ nữ điển hình của Giang Nam, mềm mại lả lướt, vóc dáng tinh tế, mặc bộ đồ da cừu, Dương Hạo nhận ra đây là sân của Oa Oa, ngoài Oa Oa ra thì không có người ngoài, không ngờ lại nhận nhầm người, hắn đang mặt mày hớn hở muốn nhảy ra ôm, chợt thấy người đó là Tiểu Chu nên không khỏi xấu hổ, thu hai tay lại: “Phu nhân xá tội, tại hạ.. nhất thời nhận nhầm người, thực là đã mạo phạm…”

Tiểu Chu sau khi có suy nghĩ mạo nhận trong lòng đang bối rối, tim cũng đang nhảy loạn lên, cố ý giả bộ từ tốn, cười nói: “Thái úy khách sáo rồi, còn nói chi đến mạo phạm…”

Lúc này cửa thư phòng đột nhiên mở ra, Đường Diễm Diễm và Ngô Oa Nhi cùng thướt tha đi ra đình, bốn mắt đều cùng liếc đến, khiến Dương Hạo chợt giật mình, nghiêm trang nói: “Phu nhân, mời!”

Bốn người cùng vào ngồi trong hoa đình, Đường Diễm Diễm nhân tiện hỏi: “Hạo ca ca, thiếp và Oa Nhi vừa mới đọc một hồi trướng nhật, tiền chàng muốn mua sắm lương khô, nông cụ… đều miễn cưỡng góp lại, có điều cũng phải khẩn trương, nếu không phải mượn thương gia dùng một ít?”

Dương Hạo lắc đầu nói: “Đã gom lại được thì không cần phải mượn đâu.

Không chỉ là vấn đề lãi, chúng ta nhất định phải thử gánh vác áp lực, bồi dưỡng năng lực giải quyết vấn đề, nếu như từ đầu chí cuối đều là người khác làm vậy thì làm sao các nàng đứng vững được?”

Đường Diễm Diễm trừng mắt nhìn hắn, sẵng giọng: “Được rồi, chàng nói một câu thì cái gì không thể cũng thành có thể, cứ lôi cả một mớ đạo lý như bòng bong ra nói, ai mà nhẫn nại nghe cho được”.

Dương Hạo cười nói: “Thói quen rồi, quen rồi, thường ngày có chuyện gì cũng đều dặn dò như vậy, để cho người nghe được rõ, khiến cho họ hiểu được tường tận ý đồ và cách nghĩ của ta. Haha, đợi chúng ta dùng quen người rồi thì không cần việc gì cũng làm minh bạch nữa, các nàng muốn ta nói nhiều ta cũng lười không nói đâu”.

Đường Diễm Diễm bĩu môi nói: “Chờ đó”.

Oa Oa đi tới đằng sau Dương Hạo, nhẹ nhàng mát xa vai cho hắn, cười nói: “Tỷ tỷ chẳng qua là làm nũng với chàng thôi, quan nhân hà cớ mà không hiểu sự tình như vậy? Đúng rồi, tiệc rượu mời thủ lĩnh các bộ tộc chuẩn bị thế nào rồi?”

Dương Hạo nói: “Cụ thể thế nào ta đều giao cho hội Từ đại nhân lo liệu rồi. Nàng biết đấy, những việc như thế này là việc nhỏ nhặt. Có điều rất nhiều thứ Từ đại nhân ra tay còn khéo hơn phụ nữ gấp bội. Ví dụ như thành Ngân Châu của chúng ta, sau vài trận chiến, đầu bếp tài giỏi đều thưa thớt ít ỏi, đã là yến tiệc thì lại phải làm cho thịnh soạn, nhưng ta nghĩ bọn họ không quen ăn những món sơn hào hải vị, không thích hợp để ăn. Oa Oa, nàng nấu ăn thì không chê vào đâu được, nhưng những món nàng làm đều có nhiều chất quá, không thích hợp với vùng Tây Bắc. Nàng có biết nấu theo kiểu Trung Nguyên sao cho vẫn mang theo phong vị của thảo nguyên không?”

Oa Oa chần chừ một chút rồi làm khó nói: “Quan nhân cũng biết Biện Lương có bao nhiêu thực khách, đều là những người ăn được, chỉ cần hai ba gắp là hết đĩa, đích thực là không thích hợp với bọn họ. Có điều…”

Tiểu Chu thấy vợ cồng nhà họ ngồi trước mặt mình liếc mắt đưa tình nhưng cũng không hề đố kị, nàng vẫn cứ làm một người trong suốt, trong lòng thật không lấy làm thoải mái. Vốn định nói cáo từ, nhưng nghe thấy những lời nó liền không nén nổi, nói: “Thái úy muốn nấu món ăn có phong cách của Trung Nguyên lại vừa có hương vị của thảo nguyên hay sao? Hay là… hay là ta có thể giới thiệu vài món”.

Dương Hạo ngẩn ngơ, ngạc nhiên nói: “Phu nhân biết làm những món ăn như vậy ư?”

Mặt Tiểu Chu hơi đỏ lên, hơi chút xấu hổ nói: “Ngày trước ở trong cung Đường, những khi buồn chán cũng thử nấu nướng chút đỉnh, chứ không hề tỉ mỉ nghiên cứu bao giờ. Ngoài những món ăn phục vụ tiệc rượu thì có bốn món đặc sản, món đặc chế, điểm tâm, món canh… tổng cộng chín mươi hai món, có lẽ… có lẽ hợp để thái úy sử dụng”.

Tiểu Chu không chỉ cầm kỳ thi họa, thơ từ ca phú đều giỏi, nàng còn tự mình làm ra những loại quần áo mới đủ mọi kiểu dáng và màu sắc, làm bánh, nghiên cứu các món ăn.. Nếu nói trong thời đại ngày nay, thì Tiểu Chu ắt hẳn vừa phải là nhà vũ đạo, nhà âm nhạc, nhà thơ, nhà thiết kế trang phục, chuyên gia thẩm mỹ với chuyên gia thông hiểu các món ăn… Một chuỗi những tài năng khiến nàng gần như trở thành một tài nữ nhất thế giới đầy tài năng.

Có điều vào thời đại đó, những thứ đó cũng chỉ dùng chơi mà thôi, nếu như một thiếu nữ tầm thường mà được như thế thì không nói làm gì, nhưng hoàng hậu một nước mà lại có thể nghiên cứu được hết những thứ đó thì đúng là điều bị chỉ trích. Tiểu Chu hoàng hậu không hỏi về chính trị, không nói về quốc sự, không bàn về quyền thuật, cũng không giống hoàng hậu Thiện Đức, cả ngày khuyên nhủ phu quân vẽ bản đồ, dốc toàn tâm lo việc quốc gia đại sự.

Còn nàng, nàng chỉ muốn toàn tâm toàn ý trở thành một người phụ nữ hạnh phúc, thích đem nghệ thuật của cuộc sống trở thành tiểu tư nữ thanh niên, nàng muốn là phu nhân của một vương hầu, làm thế là cực kỳ rồi, nói không chừng hoàng đế còn muốn phong chức cho nàng, khen thưởng nàng. Nếu như nàng là phu nhân của công khanh danh sĩ thì cũng đủ để người khác trông vào, nhưng nàng là hoàng hậu, vị trí không giống so với những người khác. Văn nhân Giang Nam đau đầu vì chuyện nước tan, đã có biết bao người truy căn nguyên nhân, không ít người đổ lỗi cho Tiểu Chu hoàng hậu, điều này cũng khiến nàng khó mà mở mồm nói được gì.

Dương Hạo không tỏ vẻ gì khinh miệt mà ngược lại còn vỗ tay cười lớn: “Đúng là ta thật bất lực. Đa tạ phu nhân, những món này được phu nhân tận tay chế biến, ắt hẳn mọi người sẽ đều phải nhớ, việc này xin mời đích thân phu nhân ra tay vậy?”

Oa Nhi nắm chặt nắm tay lại, nhẹ nhàng đấm vào vai hắn một cái, khẽ sẵng giọng: “Quan nhân dương dương tự đắc cái gì chứ? Thân phận là phu nhân, làm sao có thể xuất đầu lộ diện được? Những việc này sao lại có thể để phu nhân đích thân làm chứ? Mời phu nhân viết ra vài món, rồi để cho đầu bếp làm là được mà”.

Dương Hạo vỗ vỗ trán, cười nói: “Đúng đúng đúng, như vậy mới là thỏa đáng”.

Tiểu Chu cuối cùng cũng phát hiện ra chút tài của mình có chỗ dùng, trong lòng hết sức vui sướng, hơn nữa lúc này cũng đang nghĩ đến vị tiên cô kia nên nhân tiện đứng dậy nói: “Đã như vậy thì ta sẽ lập tức về phủ, viết ra một danh sách các món ăn”.

“Được, được, được. Việc này cũng có chút gấp gáp rồi, chẳng những cần phải đưa cho đầu bếp thử thực hành một lần, còn phải điều chỉnh lượng phụ gia, e rằng nhiều thứ còn khó mua, vậy phiền phu nhân rồi”.

Oa Oa thản nhiên cười nói: “Vậy để ta tiễn phu nhân”.

Tiểu Chu cười với Diễm Diễm và Oa Oa, chắp tay thi lễ rồi cùng với Oa Oa ra ngoài. Do trong lòng vui mừng nên bước đi của nàng có phần nhẹ nhàng hơn, khuôn mặt khôi phục lại được vài phần vui vẻ, dáng vẻ hết sức xinh đẹp. Đén Dương Hạo cũng không nén được đưa mắt trầm trồ, chỉ tiếc là ánh mắt ấy vụt đi chưa được xa thì tai đã bị Diễm Diễm kéo lại.

“Này, hai mắt chàng sắp rơi cả xuống đất rồi đấy”.

Dương Hạo cười ha hả nói: “Nha đầu này, học ở đâu kiểu ăn nói chua như dấm ấy. Quan nhân của nàng cũng chỉ là nhìn thôi mà. Đúng là háo sắc á, thì mới đầu ta đã ôm vào lòng, chủ động luôn rồi, như con hổ đói vồ con dê í, nàng nói có đúng không?”

Diễm Diễm vốn được coi là người phụ nữ mạnh mẽ, nhưng vẫn là phụ nữ, lại hay thẹn thùng, nghe hắn nói như vậy nàng không nhịn được bèn bật cười, dậm chân nói: “Được rồi, lại lôi chuyện đó ra để chọc cười thiếp”.

Dương Hạo lấy tay ôm lấy vòng eo nhỏ nhắn của Diễm Diễm, nàng ngồi yên trong lòng hắn, Dương Hạo nhẹ nhàng vuốt đôi bàn tay nàng, nhẹ nhàng nói:

“Nương tử, mấy ngày nay chỉ ở trong nhà chắc mệt lắm hả? Trước đây khi còn là một đại tiểu thư, nàng có thể vui chơi thoải mái mà không lo nghĩ gì”.

Diễm Diễm trừng mắt nói: “Hừ, bây giờ lại định dùng lời ngon tiếng ngọt đấy hả? Mệt thì không mệt, việc nhà còn đầy ra đấy, thiếp không giúp chàng chăm lo thì cũng không yên tâm. Chỉ có một chuyện thiếp không cam tâm”.

Dương Hạo ngạc nhiên nói: “Có chuyện gì?

Diễm Diễm nói: “Người ta được gả trước cho chàng.. những tháng ngày trước kia không tính nữa, nhưng Đông Nhi tỷ tỷ đã có em bé rồi, người ta đến bây giờ vẫn không có động tĩnh gì. Chàng nói xem có phải chàng thiên vị không?”

Dương Hạo tỏ vẻ oan khuất nói: “Chuyện này sao trách ta được, lão gia ta cung cúc tận tụy, cần cù chịu khó, bao nhiêu công phu đổ trên người nàng, tự nàng không sinh lại còn đi trách ai?”

Diễm Diễm giận dữ, cắn chặt môi, trừng mắt nhìn hắn: “Hứ, chàng là chồng, bản cô nương không sinh không phải do chàng thì tính với ai? Bản thân không có bản lĩnh còn trách người ta, chẳng ra dáng đại trượng phu gì cả”.

Dương Hạo nhấc bổng nàng lên, ôm chặt trong lòng rồi nói: “Dám nói ta không có bản lĩnh? Hừ, điều này phạm đến điều tối kỵ của đàn ông rồi đấy.

Tiểu nương tử, hôm nay ta sẽ cho nàng đại chiến ba hiệp, xem nàng không được, hay phu quân của nàng không được”.

“Này này này, trời vẫn còn sáng mà”.

“Trời sáng thì sao chứ, trời sáng thì càng đỡ phải thắp đèn, nàng không biết hiện giờ giá dầu rất đắt hay sao?”

*******************

Lúc Tiêu Nghiễm đi vào đại đường, Từ Huyễn đang ôm trong lòng một đống văn bản, hắn sau khi quay về phủ giải quyết hết đống văn bản quan trọng liền bày ra trước mặt, tỉ mỉ cân nhắc đắn đo.

Tiêu Nghiễm thấy hắn đang chăm chú, liền tự mình rót một tách trà, ngồi trên ghế nhìn hắn, mãi lúc lâu sau, khi thấy hắn vẫn chưa phát hiện mình đang ở đó, Tiêu Nghiễm mới ho một tiếng, Từ Huyễn ngẩng đầu lên, không nén được cười nói: “Lão Tiêu, đến bao giờ thế?”

Tiêu Nghiễm cười nói: “Đến một lúc rồi, thấy ông đang chuyên tâm quá nên mới phải đánh tiếng”.

Từ Huyễn cười cười, rời khỏi bàn, ngồi xuống bên cạnh Tiêu Nghiễm nói: “Mọi sự bên chỗ ông ổn thỏa rồi chứ?”

Tiêu Nghiễm nói: “Trước mắt thì cũng chỉ nhiều thế thôi, nguyên chỗ sách trong kho của phủ cũng đều là sách các hộ lớn quyên tặng, còn có những bộ đơn, trân bản, cùng với sách của các văn nhân nổi tiếng, toàn bộ đều đưa tặng cho Lô Châu rồi”.

Từ Huyễn cảm khái nói: “Ta vốn cho rằng Dương thái úy chỉ biết đến võ lực, chỉ biết đi tranh chấp đất đai, nhân khẩu, xây dựng quân đội, không ngờ những việc này thái úy cũng hết sức coi trọng. Các thông dịch quán, bảo tàng, ấn thư xã cũng nhanh chóng mọc lên khắp nơi, thái úy còn phát minh ra cách in ấn, thật là đáng khâm phục, thực là tài giỏi. Cũng có lúc ta nghĩ không ra là thái úy có thể suy nghĩ được nhiều chuyện như vậy.

Tiêu Nghiễm gật gật đầu, nói: “Đúng vậy, hưng công thương, lập nông mục, mở mạnh kinh tế. Lấy lợi chung đặt lên trên, lấy văn và dung hòa vạn năng để trị dân an. Thiên văn lịch tính, địa lý ghi chép, thơ văn ca phú, binh thư chiến sách, vẫn cứ cần dịch điển tích của bách gia, đây là điều không thể thiếu của một quốc gia, lại không phải là việc cần của các chư hầu. Thái úy có mộng lớn như v ậy, tầm nhìn cũng thật là xa”.

Dương Hạo có ý định đưa Lô Châu trở thành trung tâm văn hóa, tôn giáo, xây Ngân Châu thành trung tâm chính trị, kinh tế. Đồng thời thu nạp nền văn hóa và học thuyết của những nơi khác, còn mở rộng học phủ. Những kiến thức thu thập được cần phải được phát huy tác dụng thực t ế, cần rất nhiều người học tập. Mà Dương Hạo nay đã bắt đầu bắt tay vào làm những chuyện thế này, tự nhiên đến những người như Từ Huyễn và Tiêu Nghiễm cũng phải

khen ngợi hắn: “ Ý chí thiên hạ, chí hướng xa xăm”.

Tiêu Nghiễm nói đến đây đột nhiên nghĩ tới một chuyện, nói: “ Đúng rồi, khi quay về đây có gặp phu nhân, phu nhân vừa mới từ chỗ Dương thái úy về, dường như đang đến chỗ Tê Vân Quan thắp hương. Đúng là kỳ quái, hai nhà Phật đạo, phu nhân trước nay vẫn sùng Phật, sao giờ lại chuyển sang tín Đạo giáo?”

Từ khi nước Đường tiêu vong, hắn đã chuyển sang gọi Tiểu Chu là phu nhân. Hắn nói đến phu nhân, Từ Huyễn tự nhiên cũng biết rằng hắn đang nói đến ai. Nghe nói đến Tiểu Chu, sắc mặt của Từ Huyễn bỗng có chút do dự, hắn trầm mặc một hồi lâu, rồi mới trầm giọng nói: “Lão Tiêu, phu nhân… những ngày này thường xuyên qua lại phủ của Dương thái úy”.

Tiêu Nghiễm à ừm một tiếng, chẳng nói gì.

Từ Huyễn kinh ngạc nhìn hắn, rồi lại nói: “Dân gian tuy không biết thân phận của phu nhân, nhưng có rất nhiều lời ong tiếng ve, rất khó nghe. Cái này… ông đã từng nghe thấy chưa?”

Tiêu Nghiễm nhướn mày lên, hỏi: “Đỉnh thần tưởng rằng thái úy là người để ý đến những điều trên thế gian hay sao?”

Từ Huyễn thốt lên nói: “Đương nhiên, Mậu Huy huynh hà tất nói những lời đó?”

Tiêu Nghiễm không nói gì, chỉ đáp: “ Đỉnh thần cho rằng Huyền Linh, Đỗ Như Hối, Ngụy Chinh cao thượng một đời có thể sao?”

Từ Huyễn hiểu ý hắn, trầm mặc không nói gì rồi đứng lên.

Tiêu Nghiễm nói: “ Tùy Dương Đế là biểu thúc của Lý Thế Dân, lại là cha dượng của Lý Thế Dân, Lý Thế Dân lại cưới Tiêu Hậu của Tùy Dương Đế làm phi. Từ Vũ thay đổi lại nạp thêm phi, sự trong sạch của cung đình so với Dương Hạo thế nào? Làm sao có thể để những chuyện thế này trong lòng? Chuyện gì không che đậy, tự cổ chí kim, có anh hùng nào là không phong lưu? Ngươi muốn để cho Dương Hạo trở thành thánh nhân hay sao? Thánh nhân có thể trở thành hoàng đế tốt không?”

Tiêu Nghiễm còn nhỏ hơn Từ Huyễn chín tuổi, làm quan, đạo đức, học vấn đều không có gì nói. Trong triều các thần đều khen ngợi không ngớt, lúc ấy Tiêu Nghiễm chỉ nói: “Đáng tiếc dưới lầu còn thiếu một cái giếng”.

Hoàng đế hỏi thế là có ý gì, hắn nói: “Do đó không thể so với cảnh Dương Lâu”.

Thời Nam Bắc triều, hậu chủ Trần Thục Bảo không để ý đến chuyện chính sư, sa vào dâm lạc, sủng ái mỹ nhân, xây cảnh Dương Lâu, dưới lầu có giếng. Trinh Minh ba năm, Tùy tướng, Hàn Du Hổ đánh vào nước, giếng trong cảnh “ngọc thụ hậu đình hoa” cạn kiệt, Trần Hậu bó tay đứng nhìn, từ đó mọi người gọi cái giếng đó là ‘giếng nhục’, do câu nói này có ý phẫn nộ, trong tiếng địa phương nó còn mang hàm ý chỉ trích.

Đợi đến sau khi Lý Dục lên kế vị, hắn lại quay về triều làm tự khanh ở Đại Lý, Dương Hạo và Gia Luật Văn ở nước Đường mâu thuẫn, lần đầu tiên xung đột cũng chính hắn là người vào cung bẩm báo, do thấy Lý Dục mê đắm chơi cờ, không chú ý gì mà phẫn nộ hất phăng bàn cờ của Lý Dục. Đại thần nước Đường, Tiêu Nghiễm vẫn là đệ nhất thần, Từ Huyễn vốn vẫn được coi trọng, nghe những lời này của Tiêu Nghiễm, Từ Huyễn mặt cũng không biến sắc, nhưng vẫn còn đôi chút do dự: “Nhưng… nhưng phu nhân vẫn cứ là phi của vua trước đây, cũng cần phải giữ thể diện…”

Tiêu Nghiễm than thở nói: “Phu nhân là người có sắc đẹp nghiêng nước nghiêng thành, nhất định sẽ trở thành mục tiêu theo đuổi của bao người đàn ông. Bất kể là ai, nếu như có thể nắm giữ vận mệnh của phu nhân thì cũng có thể coi đó là một chiến lợi phẩm. Người chết thì đã chết rồi, sao không để cho người còn sống một lối thoát? Mẫu nghi thiên hạ, mệnh mang đào hoa, điều này… có lẽ cũng đã là số mệnh rồi…

Nghĩ đến đây, Tiểu Chu không ngại ngần mà mạo nhận mình là Ngô Oa Nhi, nói: “Ta là Ngô Oa Nhi, không biết tiên cô là ai?”

Vị tiên cô đó nghe thấy vậy liền cười, ánh mắt lộ ra vẻ nồng nhiệt: “Haha, Ngô Oa Nhi, thanh ngâm Tiểu Trúc chủ nhân, dùng sắc nghệ để lấy lòng đệ nhất Đại Lương hay sao? Dương Hạo trong thư đã nói về lai lịch của cô, nay được nhìn, quả nhiên danh bất hư truyền. Nhan sắc này so với ta khi đó ở Lạc Dương… hừm, không sai, không sai, đúng là mẫu người con gái khiến người ta thích thú.”

Tiểu Chu tự nghĩ: “Đại Lương? Từ khi Chu Ôn diệt nước Đường xưng vương đổi tên thành Đông Bộ Đại Lương, thành Biện Lương không còn được gọi với cái tên Đại Lương nữa. Làm sao lại gọi cái tên cổ như vậy? Con? Xem ra cô gái này chỉ lớn hơn ta khoảng hai, ba tuổi, làm sao nói chuyện lại già như thế chứ?”

Trong lòng nghĩ như vậy, nhưng trong lòng Tiểu Chu lại không hề biểu lộ cảm xúc gì. Nói ra thì Tiểu Chu cũng là một người phụ nữ thông minh, cầm kỳ thi họa thi từ ca phú, nên cũng nhanh chóng ứng biến không để lộ chút sơ hở:

“Không sai, ta chính là Ngô Oa Nhi, tiên cô còn chưa cho biết pháp danh, không biết hôm nay tiên cô giá đáo đến đây có ý gì?”

Vị tiên cô đó khẽ cười, khuôn mặt lộ ra hai lúm đồng tiền đẹp mê người: “Pháp hiệu của bản cô nương ư? Haha, ngươi gọi ta một tiếng là Tịnh Âm Sư Phụ là được. Lần này ta đến đây là nhờ ủy thác của Dương Hạo, muốn nhờ ta truyền thụ cho các ngươi, ta vốn ở trên núi Tử Vi, nhận được thư Dương Hạo, biết được các ngươi muốn đến Thiếu Hoa Sơn để cư ngụ, ta muốn trực tiếp đén, may sao giữa đường hỏi một vài câu mới biết được các ngươi đã đến Ngân Châu…”

Tiểu Chu nghe thấy cô ta không có ác ý gì bèn không muốn mạo nhận là Ngô Oa Nhi nữa, đang định nói rõ thân phận với người đó thì bỗng nghe thấy tin Dương Hạo đang muốn truyền thụ võ công cho các cô gái thấy trong lòng không khỏi tim đập. Nàng thường hay nói chuyện với Diễm Diễm, Dương Hạo đã từng nói đến chuyện có tiên nhân truyền thuyết ở trong Lư Động Binh, cô gái trước mặt có đích thực là truyền nhân của Lư Tổ không?

Nghĩ tới đây, những lời định nói lại chợt im bặt, nàng tò mò hỏi: “Tiên cô… tiên cô có phải là muốn truyền thụ võ công cho chúng tôi hay không?”

Tịnh Âm khẽ nhếch mép cười, trong nụ cười có chút tà ý, không hiểu nụ cười

đó có ý gì: “Thôi, cũng tương đối rồi, hihi, dẫu sao… bản lĩnh của bản cô nương đây đều là muốn truyền cho các ngươi. Dù cho tuổi của cô hơi lớn nhưng so với ta năm đó… năm đó khi mới bắt đầu luyện tập cũng đã hơi lớn tuổi, gân cốt vẫn còn biết nghe lời, chỉ cần không quá ngu dốt thì cũng có thể học được”.

Vừa nói đến đây, tai của Tịnh Âm đã khẽ động, cười nói: “Có người đến rồi, bản cô nương đến đây không muốn Dương Hạo biết, ta ở Tê Vân Quan, trong thành Ngân Châu, rất dễ tìm, người và Đường Diễm Diễm cứ đến tìm ta. Còn với bọn quan gia, ngươi muốn nói tung tích của ta cho bọn chúng cũng không vấn đề, có điều… không được gọi bọn chúng đến gặp ta, hắn là tông đồ của quỷ, gặp hắn ắt thấy xấu hổ”.

Tịnh Âm nói rồi thoáng một cái, cả thân thể đứng thẳng trong không trung rồi đứng thản nhiên tại một điểm trên ngọn núi giả sơn, thoát cái không thấy đâu nữa.

“Theo cô ta học võ nghệ?”

Tiểu Chu đầu nóng ran lên, một ý nghĩ chợt thoáng qua làm cho đầu óc nàng run lên.

Đã trải qua cảnh nước mất nhà tan, cuộc sống lưu vong, Tiểu Chu phát hiện rằng bản thân không biết tí võ công nào thật là ấu trĩ, ngày trước thì tưởng là nho nhã, trong thời chiến này mới nhận ra hóa ra phải có chút tài mọn mới đủ phòng thân.

Một người phụ nữ, đặc biệt là có sắc đẹp mà lại không có một thế lực nào bảo vệ thì sắc đẹp đó có thể đem đến cho cô ta biết bo nguy hiểm và bi kịch. Nếu như bản thân có thể giống như Tịnh Âm, có bản lĩnh đầy người như vậy thì tuy rằng không thể đủ sức cứu cả nước, nhưng khi đối diện với những dạng người tâm địa xấu xa như Triệu Quang Nghĩa thì ít nhất cũng có thể phòng thân.

Từ khi sinh ra, đây là lần đầu ý nghĩ này xuất hiện trong đầu, khiến tim nàng không khỏi đập loạn nhịp. Khi còn ở cung Đường nàng đã giao du với không ít cao tăng, cũng biết những vị cao tăng đó coi trọng y bát, không phải là với ai họ cũng đồng ý truyền thụ võ nghệ, để học được bản lĩnh đó thì cần phải mạo nhận.

“Vị tiên cô đó nhận lầm ta thành Oa Oa, không biết thì ta cứ mạo nhận đi, cô ta vốn muốn truyền võ công cho Oa Oa và Diễm Diễm, đợi ta… đợi ta học xong võ công sẽ dạy lại cho họ, còn nếu như không thành…”

Nghĩ đến đây, đột nhiên nghe thấy có tiếng bước chân vọng đến, Tiểu Chu vội vàng đưa tiêu lên môi, giả bộ như đang thổi một vài âm tiết, nhưng do đang suy nghĩ linh tinh nên khó thành ca khúc. Lúc này là Dương Hạo, hắn cười nói: “Nương tử biết được ta đến hay sao mà đột nhiên thổi không thành điệu thế?”

Tiểu Chu vội vàng quay người lại, thẹn thùng nói: “A, hóa ra là thái úy”.

Tiểu Chu là mẫu mỹ nữ điển hình của Giang Nam, mềm mại lả lướt, vóc dáng tinh tế, mặc bộ đồ da cừu, Dương Hạo nhận ra đây là sân của Oa Oa, ngoài Oa Oa ra thì không có người ngoài, không ngờ lại nhận nhầm người, hắn đang mặt mày hớn hở muốn nhảy ra ôm, chợt thấy người đó là Tiểu Chu nên không khỏi xấu hổ, thu hai tay lại: “Phu nhân xá tội, tại hạ.. nhất thời nhận nhầm người, thực là đã mạo phạm…”

Tiểu Chu sau khi có suy nghĩ mạo nhận trong lòng đang bối rối, tim cũng đang nhảy loạn lên, cố ý giả bộ từ tốn, cười nói: “Thái úy khách sáo rồi, còn nói chi đến mạo phạm…”

Lúc này cửa thư phòng đột nhiên mở ra, Đường Diễm Diễm và Ngô Oa Nhi cùng thướt tha đi ra đình, bốn mắt đều cùng liếc đến, khiến Dương Hạo chợt giật mình, nghiêm trang nói: “Phu nhân, mời!”

Bốn người cùng vào ngồi trong hoa đình, Đường Diễm Diễm nhân tiện hỏi: “Hạo ca ca, thiếp và Oa Nhi vừa mới đọc một hồi trướng nhật, tiền chàng muốn mua sắm lương khô, nông cụ… đều miễn cưỡng góp lại, có điều cũng phải khẩn trương, nếu không phải mượn thương gia dùng một ít?”

Dương Hạo lắc đầu nói: “Đã gom lại được thì không cần phải mượn đâu.

Không chỉ là vấn đề lãi, chúng ta nhất định phải thử gánh vác áp lực, bồi dưỡng năng lực giải quyết vấn đề, nếu như từ đầu chí cuối đều là người khác làm vậy thì làm sao các nàng đứng vững được?”

Đường Diễm Diễm trừng mắt nhìn hắn, sẵng giọng: “Được rồi, chàng nói một câu thì cái gì không thể cũng thành có thể, cứ lôi cả một mớ đạo lý như bòng bong ra nói, ai mà nhẫn nại nghe cho được”.

Dương Hạo cười nói: “Thói quen rồi, quen rồi, thường ngày có chuyện gì cũng đều dặn dò như vậy, để cho người nghe được rõ, khiến cho họ hiểu được tường tận ý đồ và cách nghĩ của ta. Haha, đợi chúng ta dùng quen người rồi thì không cần việc gì cũng làm minh bạch nữa, các nàng muốn ta nói nhiều ta cũng lười không nói đâu”.

Đường Diễm Diễm bĩu môi nói: “Chờ đó”.

Oa Oa đi tới đằng sau Dương Hạo, nhẹ nhàng mát xa vai cho hắn, cười nói: “Tỷ tỷ chẳng qua là làm nũng với chàng thôi, quan nhân hà cớ mà không hiểu sự tình như vậy? Đúng rồi, tiệc rượu mời thủ lĩnh các bộ tộc chuẩn bị thế nào rồi?”

Dương Hạo nói: “Cụ thể thế nào ta đều giao cho hội Từ đại nhân lo liệu rồi. Nàng biết đấy, những việc như thế này là việc nhỏ nhặt. Có điều rất nhiều thứ Từ đại nhân ra tay còn khé hơn phụ nữ gấp bội. Ví dụ như thành Ngân Châu của chúng ta, sau vài trận chiến, đầu bếp tài giỏi đều thưa thớt ít ỏi, đã là yến tiệc thì lại phải làm cho thịnh soạn, nhưng ta nghĩ bọn họ không quen ăn những món sơn hào hải vị, không thích hợp để ăn. Oa Oa, nàng nấu ăn thì không chê vào đâu được, nhưng những món nàng làm đều có nhiều chất quá, không thích hợp với vùng Tây Bắc. Nàng có biết nấu theo kiểu Trung Nguyên sao cho vẫn mang theo phong vị của thảo nguyên không?”

Oa Oa chần chừ một chút rồi làm khó nói: “Quan nhân cũng biết Biện Lương có bao nhiêu thực khách, đều là những người ăn được, chỉ cần hai ba gắp là hết đĩa, đích thực là không thích hợp với bọn họ. Có điều…”

Tiểu Chu thấy vợ cồng nhà họ ngồi trước mặt mình liếc mắt đưa tình nhưng cũng không hề đố kị, nàng vẫn cứ làm một người trong suốt, trong lòng thật không lấy làm thoải mái. Vốn định nói cáo từ, nhưng nghe thấy những lời nó liền không nén nổi, nói: “Thái úy muốn nấu món ăn có phong cách của Trung Nguyên lại vừa có hương vị của thảo nguyên hay sao? Hay là… hay là ta có thể giới thiệu vài món”.

Dương Hạo ngẩn ngơ, ngạc nhiên nói: “Phu nhân biết làm những món ăn như vậy ư?”

Mặt Tiểu Chu hơi đỏ lên, hơi chút xấu hổ nói: “Ngày trước ở trong cung Đường, những khi buồn chán cũng thử nấu nướng chút đỉnh, chứ không hề tỉ mỉ nghiên cứu bao giờ. Ngoài những món ăn phục vụ tiệc rượu thì có bốn món đặc sản, món đặc chế, điểm tâm, món canh… tổng cộng chín mươi hai món, có lẽ… có lẽ hợp để thái úy sử dụng”.

Tiểu Chu không chỉ cầm kỳ thi họa, thơ từ ca phú đều giỏi, nàng còn tự mình làm ra những loại quần áo mới đủ mọi kiểu dáng và màu sắc, làm bánh, nghiên cứu các món ăn.. Nếu nói trong thời đại ngày nay, thì Tiểu Chu ắt hẳn vừa phải là nhà vũ đạo, nhà âm nhạc, nhà thơ, nhà thiết kế trang phục, chuyên gia thẩm mỹ với chuyên gia thông hiểu các món ăn… Một chuỗi những tài năng khiến nàng gần như trở thành một tài nữ nhất thế giới đầy tài năng.

Có điều vào thời đại đó, những thứ đó cũng chỉ dùng chơi mà thôi, nếu như một thiếu nữ tầm thường mà được như thế thì không nói làm gì, nhưng hoàng hậu một nước mà lại có thể nghiên cứu được hết những thứ đó thì đúng là điều bị chỉ trích. Tiểu Chu hoàng hậu không hỏi về chính trị, không nói về quốc sự, không bàn về quyền thuật, cũng không giống hoàng hậu Thiện Đức, cả ngày khuyên nhủ phu quân vẽ bản đồ, dốc toàn tâm lo việc quốc gia đại sự.

Còn nàng, nàng chỉ muốn toàn tâm toàn ý trở thành một người phụ nữ hạnh phúc, thích đem nghệ thuật của cuộc sống trở thành tiểu tư nữ thanh niên, nàng muốn là phu nhân của một vương hầu, làm thế là cực kỳ rồi, nói không chừng hoàng đế còn muốn phong chức cho nàng, khen thưởng nàng. Nếu như nàng là phu nhân của công khanh danh sĩ thì cũng đủ để người khác trông vào, nhưng nàng là hoàng hậu, vị trí không giống so với những người khác. Văn nhân Giang Nam đau đầu vì chuyện nước tan, đã có biết bao người truy căn nguyên nhân, không ít người đổ lỗi cho Tiểu Chu hoàng hậu, điều này cũng khiến nàng khó mà mở mồm nói được gì.

Dương Hạo không tỏ vẻ gì khinh miệt mà ngược lại còn vỗ tay cười lớn: “Đúng là ta thật bất lực. Đa tạ phu nhân, những món này được phu nhân tận tay chế biến, ắt hẳn mọi người sẽ đều phải nhớ, việc này xin mời đích thân phu nhân ra tay vậy?”

Oa Nhi nắm chặt nắm tay lại, nhẹ nhàng đấm vào vai hắn một cái, khẽ sẵng giọng: “Quan nhân dương dương tự đắc cái gì chứ? Thân phận là phu nhân, làm sao có thể xuất đầu lộ diện được? Những việc này sao lại có thể để phu nhân đích thân làm chứ? Mời phu nhân viết ra vài món, rồi để cho đầu bếp làm là được mà”.

Dương Hạo vỗ vỗ trán, cười nói: “Đúng đúng đúng, như vậy mới là thỏa đáng”.

Tiểu Chu cuối cùng cũng phát hiện ra chút tài của mình có chỗ dùng, trong lòng hết sức vui sướng, hơn nữa lúc này cũng đang nghĩ đến vị tiên cô kia nên nhân tiện đứng dậy nói: “Đã như vậy thì ta sẽ lập tức về phủ, viết ra một danh sách các món ăn”.

“Được, được, được. Việc này cũng có chút gấp gáp rồi, chẳng những cần phải đưa cho đầu bếp thử thực hành một lần, còn phải điều chỉnh lượng phụ gia, e rằng nhiều thứ còn khó mua, vậy phiền phu nhân rồi”.

Oa Oa thản nhiên cười nói: “Vậy để ta tiễn phu nhân”.

Tiểu Chu cười với Diễm Diễm và Oa Oa, chắp tay thi lễ rồi cùng với Oa Oa ra ngoài. Do trong lòng vui mừng nên bước đi của nàng có phần nhẹ nhàng hơn, khuôn mặt khôi phục lại được vài phần vui vẻ, dáng vẻ hết sức xinh đẹp. Đén Dương Hạo cũng không nén được đưa mắt trầm trồ, chỉ tiếc là ánh mắt ấy vụt đi chưa được xa thì tai đã bị Diễm Diễm kéo lại.

“Này, hai mắt chàng sắp rơi cả xuống đất rồi đấy”.

Dương Hạo cười ha hả nói: “Nha đầu này, học ở đâu kiểu ăn nói chua như dấm ấy. Quan nhân của nàng cũng chỉ là nhìn thôi mà. Đúng là háo sắc á, thì mới đầu ta đã ôm vào lòng, chủ động luôn rồi, như con hổ đói vồ con dê í, nàng nói có đúng không?”

Diễm Diễm vốn được coi là người phụ nữ mạnh mẽ, nhưng vẫn là phụ nữ, lại hay thẹn thùng, nghe hắn nói như vậy nàng không nhịn được bèn bật cười, dậm chân nói: “Được rồi, lại lôi chuyện đó ra để chọc cười thiếp”.

Dương Hạo lấy tay ôm lấy vòng eo nhỏ nhắn của Diễm Diễm, nàng ngồi yên trong lòng hắn, Dương Hạo nhẹ nhàng vuốt đôi bàn tay nàng, nhẹ nhàng nói:

“Nương tử, mấy ngày nay chỉ ở trong nhà chắc mệt lắm hả? Trước đây khi còn là một đại tiểu thư, nàng có thể vui chơi thoải mái mà không lo nghĩ gì”.

Diễm Diễm trừng mắt nói: “Hừ, bây giờ lại định dùng lời ngon tiếng ngọt đấy hả? Mệt thì không mệt, việc nhà còn đầy ra đấy, thiếp không giúp chàng chăm lo thì cũng không yên tâm. Chỉ có một chuyện thiếp không cam tâm”.

Dương Hạo ngạc nhiên nói: “Có chuyện gì?

Diễm Diễm nói: “Người ta được gả trước cho chàng.. những tháng ngày trước kia không tính nữa, nhưng Đông Nhi tỷ tỷ đã có em bé rồi, người ta đến bây giờ vẫn không có động tĩnh gì. Chàng nói xem có phải chàng thiên vị không?”

Dương Hạo tỏ vẻ oan khuất nói: “Chuyện này sao trách ta được, lão gia ta cung cúc tận tụy, cần cù chịu khó, bao nhiêu công phu đổ trên người nàng, tự nàng không sinh lại còn đi trách ai?”

Diễm Diễm giận dữ, cắn chặt môi, trừng mắt nhìn hắn: “Hứ, chàng là chồng, bản cô nương không sinh không phải do chàng thì tính với ai? Bản thân không có bản lĩnh còn trách người ta, chẳng ra dáng đại trượng phu gì cả”.

Dương Hạo nhấc bổng nàng lên, ôm chặt trong lòng rồi nói: “Dám nói ta không có bản lĩnh? Hừ, điều này phạm đến điều tối kỵ của đàn ông rồi đấy.

Tiểu nương tử, hôm nay ta sẽ cho nàng đại chiến ba hiệp, xem nàng không được, hay phu quân của nàng không được”.

“Này này này, trời vẫn còn sáng mà”.

“Trời sáng thì sao chứ, trời sáng thì càng đỡ phải thắp đèn, nàng không biết hiện giờ giá dầu rất đắt hay sao?”

*******************

Lúc Tiêu Nghiễm đi vào đại đường, Từ Huyễn đang ôm trong lòng một đống văn bản, hắn sau khi quay về phủ giải quyết hết đống văn bản quan trọng liền bày ra trước mặt, tỉ mỉ cân nhắc đắn đo.

Tiêu Nghiễm thấy hắn đang chăm chú, liền tự mình rót một tách trà, ngồi trên ghế nhìn hắn, mãi lúc lâu sau, khi thấy hắn vẫn chưa phát hiện mình đang ở đó, Tiêu Nghiễm mới ho một tiếng, Từ Huyễn ngẩng đầu lên, không nén được cười nói: “Lão Tiêu, đến bao giờ thế?”

Tiêu Nghiễm cười nói: “Đến một lúc rồi, thấy ông đang chuyên tâm quá nên mới phải đánh tiếng”.

Từ Huyễn cười cười, rời khỏi bàn, ngồi xuống bên cạnh Tiêu Nghiễm nói: “Mọi sự bên chỗ ông ổn thỏa rồi chứ?”

Tiêu Nghiễm nói: “Trước mắt thì cũng chỉ nhiều thế thôi, nguyên chỗ sách trong kho của phủ cũng đều là sách các hộ lớn quyên tặng, còn có những bộ đơn, trân bản, cùng với sách của các văn nhân nổi tiếng, toàn bộ đều đưa tặng cho Lô Châu rồi”.

Từ Huyễn cảm khái nói: “Ta vốn cho rằng Dương thái úy chỉ biết đến võ lực, chỉ biết đi tranh chấp đất đai, nhân khẩu, xây dựng quân đội, không ngờ những việc này thái úy cũng hết sức coi trọng. Các thông dịch quán, bảo tàng, ấn thư xã cũng nhanh chóng mọc lên khắp nơi, thái úy còn phát minh ra cách in ấn, thật là đáng khâm phục, thực là tài giỏi. Cũng có lúc ta nghĩ không ra là thái úy có thể suy nghĩ được nhiều chuyện như vậy.

Tiêu Nghiễm gật gật đầu, nói: “Đúng vậy, hưng công thương, lập nông mục, mở mạnh kinh tế. Lấy lợi chung đặt lên trên, lấy văn và dung hòa vạn năng để trị dân an. Thiên văn lịch tính, địa lý ghi chép, thơ văn ca phú, binh thư chiến sách, vẫn cứ cần dịch điển tích của bách gia, đây là điều không thể thiếu của một quốc gia, lại không phải là việc cần của các chư hầu. Thái úy có mộng lớn như v ậy, tầm nhìn cũng thật là xa”.

Dương Hạo có ý định đưa Lô Châu trở thành trung tâm văn hóa, tôn giáo, xây Ngân Châu thành trung tâm chính trị, kinh tế. Đồng thời thu nạp nền văn hóa và học thuyết của những nơi khác, còn mở rộng học phủ. Những kiến thức thu thập được cần phải được phát huy tác dụng thực t ế, cần rất nhiều người học tập. Mà Dương Hạo nay đã bắt đầu bắt tay vào làm những chuyện thế này, tự nhiên đến những người như Từ Huyễn và Tiêu Nghiễm cũng phải

khen ngợi hắn: “ Ý chí thiên hạ, chí hướng xa xăm”.

Tiêu Nghiễm nói đến đây đột nhiên nghĩ tới một chuyện, nói: “ Đúng rồi, khi quay về đây có gặp phu nhân, phu nhân vừa mới từ chỗ Dương thái úy về, dường như đang đến chỗ Tê Vân Quan thắp hương. Đúng là kỳ quái, hai nhà Phật đạo, phu nhân trước nay vẫn sùng Phật, sao giờ lại chuyển sang tín Đạo giáo?”

Từ khi nước Đường tiêu vong, hắn đã chuyển sang gọi Tiểu Chu là phu nhân. Hắn nói đến phu nhân, Từ Huyễn tự nhiên cũng biết rằng hắn đang nói đến ai. Nghe nói đến Tiểu Chu, sắc mặt của Từ Huyễn bỗng có chút do dự, hắn trầm mặc một hồi lâu, rồi mới trầm giọng nói: “Lão Tiêu, phu nhân… những ngày này thường xuyên qua lại phủ của Dương thái úy”.

Tiêu Nghiễm à ừm một tiếng, chẳng nói gì.

Từ Huyễn kinh ngạc nhìn hắn, rồi lại nói: “Dân gian tuy không biết thân phận của phu nhân, nhưng có rất nhiều lời ong tiếng ve, rất khó nghe. Cái này… ông đã từng nghe thấy chưa?”

Tiêu Nghiễm nhướn mày lên, hỏi: “Đỉnh thần tưởng rằng thái úy là người để ý đến những điều trên thế gian hay sao?”

Từ Huyễn thốt lên nói: “Đương nhiên, Mậu Huy huynh hà tất nói những lời đó?”

Tiêu Nghiễm không nói gì, chỉ đáp: “ Đỉnh thần cho rằng Huyền Linh, Đỗ Như Hối, Ngụy Chinh cao thượng một đời có thể sao?”

Từ Huyễn hiểu ý hắn, trầm mặc không nói gì rồi đứng lên.

Tiêu Nghiễm nói: “ Tùy Dương Đế là biểu thúc của Lý Thế Dân, lại là cha dượng của Lý Thế Dân, Lý Thế Dân lại cưới Tiêu Hậu của Tùy Dương Đế làm phi. Từ Vũ thay đổi lại nạp thêm phi, sự trong sạch của cung đình so với Dương Hạo thế nào? Làm sao có thể để những chuyện thế này trong lòng? Chuyện gì không che đậy, tự cổ chí kim, có anh hùng nào là không phong lưu? Ngươi muốn để cho Dương Hạo trở thành thánh nhân hay sao? Thánh nhân có thể trở thành hoàng đế tốt không?”

Tiêu Nghiễm còn nhỏ hơn Từ Huyễn chín tuổi, làm quan, đạo đức, học vấn đều không có gì nói. Trong triều các thần đều khen ngợi không ngớt, lúc ấy Tiêu Nghiễm chỉ nói: “Đáng tiếc dưới lầu còn thiếu một cái giếng”.

Hoàng đế hỏi thế là có ý gì, hắn nói: “Do đó không thể so với cảnh Dương Lâu”.

Thời Nam Bắc triều, hậu chủ Trần Thục Bảo không để ý đến chuyện chính sư, sa vào dâm lạc, sủng ái mỹ nhân, xây cảnh Dương Lâu, dưới lầu có giếng. Trinh Minh ba năm, Tùy tướng, Hàn Du Hổ đánh vào nước, giếng trong cảnh “ngọc thụ hậu đình hoa” cạn kiệt, Trần Hậu bó tay đứng nhìn, từ đó mọi người gọi cái giếng đó là ‘giếng nhục’, do câu nói này có ý phẫn nộ, trong tiếng địa phương nó còn mang hàm ý chỉ trích.

Đợi đến sau khi Lý Dục lên kế vị, hắn lại quay về triều làm tự khanh ở Đại Lý, Dương Hạo và Gia Luật Văn ở nước Đường mâu thuẫn, lần đầu tiên xung đột cũng chính hắn là người vào cung bẩm báo, do thấy Lý Dục mê đắm chơi cờ, không chú ý gì mà phẫn nộ hất phăng bàn cờ của Lý Dục. Đại thần nước Đường, Tiêu Nghiễm vẫn là đệ nhất thần, Từ Huyễn vốn vẫn được coi trọng, nghe những lời này của Tiêu Nghiễm, Từ Huyễn mặt cũng không biến sắc, nhưng vẫn còn đôi chút do dự: “Nhưng… nhưng phu nhân vẫn cứ là phi của vua trước đây, cũng cần phải giữ thể diện…”

Tiêu Nghiễm than thở nói: “Phu nhân là người có sắc đẹp nghiêng nước nghiêng thành, nhất định sẽ trở thành mục tiêu theo đuổi của bao người đàn ông. Bất kể là ai, nếu như có thể nắm giữ vận mệnh của phu nhân thì cũng có thể coi đó là một chiến lợi phẩm. Người chết thì đã chết rồi, sao không để cho người còn sống một lối thoát? Mẫu nghi thiên hạ, mệnh mang đào hoa, điều này… có lẽ cũng đã là số mệnh rồi…

 Chương 448: Liễu lục

Chùa Thê Vân được xây ở thành tây Ngân Châu, Phật giáo khu tây vực vô cùng hưng thịnh, còn Đạo giáo thì chẳng có mấy người biết đến, cho nên quy mô của Thê vân quan rất nhỏ, chiếm diện tích không lớn, trước sau có ba lạc viện, rách nát, bình thường thì cũng chẳng có mấy ai thắp hương. Trong chùa chỉ có đạo nhân ăn mặc lôi thôi lo chuyện hương khói, và có một đồ đệ nhỏ tuổi sống qua ngày. Song thành Ngân Châu nhiều lần chiến loạn, rất nhiều Phật tự đều bị phá bỏ trong lúc chiến loạn, Thê vân đạo quan chẳng có mấy tín đồ hương khói vì quá nghèo, cho nên không bị tổn hại gì cả, đó cũng được coi là một sự may mắn.

Tiểu Chu Hậu đi cùng đám tùy tùng, nghiêm trang tiến vào đạo quan, chỉ thấy trong đạo quan lạnh lẽo, hoang vu, tuyết đọng trong lạc viện cũng chẳng có ai dọn dẹp, mấy cây cỏ dại đâm lên qua lớp tuyết đọng, trơ trọi đứng đó. Vào đại điện bị phá bỏ thì chẳng có một cái gì, những tượng thần bị phá bỏ đều bị mạng nhện chăng, hoang tàn như vậy có tín đồ thắp nhang mới là lạ.

Tiểu Chu Hậu nhìn quanh, không thấy một bóng người, nàng khẽ nhíu mày, bước ra khỏi chính điện thì thấy căn phòng bên trái khép hờ, rèm cửa thò ra một cái đầu, có người sống ở đó, cách ăn mặc không giống đạo nhân chút nào.

Hắn vén tấm rèm, liếc mắt nhìn cô nương mắt ngọc mày ngài, cách ăn mặc trông sang trọng vô cùng, mắt hắn phát sáng lên, mau chóng chạy ra, chắp tay thi lễ, ra vẻ đạo mạo nói: “Vô lượng thiên tôn, bần đạo là Đan Dương Tử, vị thí chủ này tới đây thắp hương sao?”

Tiểu Chu Hậu nói: “Ồ, hóa ra là Đan Dương Tử đạo trưởng, tiểu nữ được lời mời của một vị Tịnh âm tiên cô tới đây gặp nhau, không biết vị tiên cô có ở trong chùa không vậy?”

Đan Dương Tử đạo trưởng vừa nghe, thất vọng, ánh mắt trũng xuống, quay đầu nói: “Tiểu Chân, Tiểu Chân, mau dẫn vị thí chủ này đi ra sau điện gặp Tịnh âm đạo trưởng”.

Một tiểu đạo đồng đi ra từ phía sau cửa, mặt không chút biểu hiện, cũng không biết hắn đang ăn gì, miệng bóng nhẫy, hắn liếc nhìn Tiểu Chu Hậu một cái, liếm mép nói: “Mời nữ thí chủ qua bên này”.

Lão đạo sĩ cười bồi gật đầu, chui tọt về phòng của mình, rèm cửa được kéo vào, Tiểu Chu Hậu ngửi thấy mùi thịt dê, thầm ngạc nhiên: “Hai thầy trò nhà này, chẳng lẽ không tuân thủ quy củ, ăn thịt trong đạo chùa sao?”

Nàng vội nhìn thoáng qua, nhìn quanh thấy lò lửa, trên lò có một cái bồn, bên trong không ít rau.

Tên tiểu đạo đồng dẫn nàng đến hậu viện, chỉ về phía cửa điện nói: “Tịnh âm tiên cô ở đây rồi, mời nữ thí chủ vào trong”. Nói rồi xoay người chạy biến, cứ như sợ về muộn, đĩa rau ấy sẽ bị sư phụ hắn ăn sạch.

Tiểu Chu Hậu thấy cửa điện, cầm vạt áo trước thi lễ nói: “Tiểu nữ…Ngô Oa Nhi cầu kiến Tịnh am sơn trưởng.

“Đến rồi à?”

“Cửa điện được mở ra, Tịnh am đạo cô cười đi ra, nói: “Chùa Thê vân đôi đồ đệ chẳng qua là cầu chỗ ký thân, không phải là đệ tử đạo môn, đương nhiên cũng không cần mong họ tuân thủ phép tắc gì cả, ta cũng chỉ làmượn hắn chỗ ở tạm mà thôi”.

Tịnh âm đạo cô tuy là người xuất gia, song nụ cười vô cùng quyến rũ, nếu như là một nữ tử thì phong tình lắm. Tịnh âm đạo ánh mắt sáng lên lại nói: “Sao lại chỉ có một mình ngươi đến, thế Đường Diễm Diễm đâu?”

Tiểu Chu Hậu chần chừ giây lát, rắn rỏi đáp: “Quan Nhân mới được Ngân Châu, có rất nhiều đại sự quân chính phải làm, phu nhân phò tá quan nhân, bận rộn mọi việc, thực là không rời được, ta theo tiên cô tập nghệ, trở về sẽ lại nói với nàng ấy…”

Tiểu Chu Hậu mãi mới vẽ ra được lời nói dối, khuôn mặt không tự chủ được đỏ ửng lên, Tịnh âm đạo cô thấy nàng có vẻ xấu hổ, nghĩ lệch đi, mặt lạnh tanh, không do dự nói: “Nghe nói vị Đường cô nương là nữ tử của đại hộ người ta? Xem ra coi thường công phu của bàng môn tả đạo ta đây, hừ, thôi vậy, học hay không là do người ta, ngươi vào đi”.

Tiểu Chu Hậu khẽ đáp lời, cất bước vào trong điện, nơi này được lau dọn, bố trí khá là sạch sẽ, Tịnh am đạo cô đưa cho nàng một cái đệm cói để ngồi, nói: “Ta đây công tham tạo hóa vô cùng cao, không chỉ có hiệu quả làm cơ thể khỏe mạnh mà còn kéo dài tuổi thọ, thanh xuân dài lâu, ở cái tuổi của ta còn hơn cả tuổi cửa tổ mẫu nhà ngươi, ngươi xem dung mạo của ta giờ thế nào?”

Tiểu Chu Hậu gật gù: “Tiên cô…đã là người có tuổi rồi ư? Sao có thể kỳ diệu đến vậy?”

Tịnh am đạo cô cười nói: “Đó là chuyện đương nhiên…nói ra thì…ta xuất thân cũng giống như ngươi mà thôi, cho nên cảm nhận gần nhất đối với ngươi, ngươi có tâm học bản lĩnh của ta, ta đương nhiên sẽ truyền thụ cho ngươi thôi”.

Tiểu Chu Hậu vui mừng, vội nói: “Đa tạ sư phụ”.

Tịnh am đạo cô nói: “Cửa này của ta vốn là âm dương càn khôn chi biệt, người mới học thì đương nhiên là phải bắt đầu từ Trúc cơ. Nam tử mà, công phu của Trúc cơ là thuật càn đạo chú kiếm, còn nữ tử thì là thôn đạo chú đỉnh thuật”.

“Trúc Cơ…nhưng lệnh nguyên khí quy nguyên, hình thân câu diệu có thể sử dụng sự cân bằng của âm dương, chu thiên tự thông, trăm mạch lưu xướng, thân cường thể tráng, hít thở nhỏ nhẹ, tâm sáng như trăng, thiên nhân cộng trấn, ngoài vị sinh chi chúng bệnh, không có gì khó khăn, đương nhiên sẽ hồi dương. Tập luyện đến độ thành, thì từ âm dương song tu đạt đến tính mệnh song tu cảnh giới, long hổ tương giao, tu luyện đắc đạo. Nguyên khí hợp lại, kinh mạch lưu thông co thể nói là huyền diệu, cơ thể thành đắc thọ dài lâu…”

Tịnh am tiên cô nói những điều ấy, có rất nhiều thuật ngữ của Đạo gia, nếu như là người Đạo gia thật, nghe được đến đây sẽ hiều những lời tiên cô nói là loại công phu gì, Tiểu Chu Hậu thì đương nhiên là không hiểu, nghe thấy nói huyền ảo, ngược lại vui vô cùng.

Tịnh âm đạo cô cười nói: “Ta đã ngầm dòm ngó phu quân ngươi, đã nhập đạo, song lưỡng phòng thể tử này ngươi đều chưa học qua môn công phu này, chẳng có cách nào phối hợp, cho nên hắn chỉ luyện đến cảnh giới hái thuốc hoàn lô. Hái thuốc hoàn lô ban đầu còn vô sự, nhưng qua thời gian lâu, lò thuốc đầy đủ, không thể âm dương thông, hòa hợp đại lạc, tất sẽ thành cô dương sát, cô dương sát cần vô độ, lại không thể âm dương quán thông, vậy nên như chim sen khát, tất sẽ gây nên họa lớn. Hơn nữa tính tình cũng sẽ trở nên táo bạo mãnh liệt hơn, hắn là người cầm binh, khó màtrở nên tàn nhẫn thị sát.

Lão quỷ đó không biết nặng nhẹ, đồ nhi chưa vô đỉnh lò, đã thụ chú kiếm của hắn, suýt nữa gây đại họa, may mà giờ còn kịp, nếu không ta ở đây truyền thụ ba năm năm cho ngươi thì không thể được. Ngươi là tài nữ Biện Lương, học thức đầy mình, sức lĩnh ngộ vô cùng lớn, ta sẽ ái mộ mà truyền thụ, ngươi nhớ chăm chỉ ghi chú, thử tập luyện một lần, ta sẽ dốc lòng chỉ điểm, công trăn đại thành, tất sẽ tu luyện tốt. Song ta tuy là kiếm đi nghiêng song lại dễ thực hiện, có chỗ nào hơi sai lệch, cũng không sao hết. Dựa vào công lực của phu quân ngươi hiện giờ, có thể hướng dẫn cho ngươi, tuyệt đối sẽ không bị tẩu hỏa nhập ma đâu”.

Tiểu Chu Hậu nghe câu được câu chăng, mập mờ không hiểu. Song sự ngây thơ của nàng vốn là tin tưởng vào thứ thần đạo, nghe vậy càng không hiểu, muốn học thật nhanh để hiểu.

Tịnh âm đạo cô ngước nhìn sắc trời, lại cười nói: “Trời không còn sớm nữa, trước khi dạy cho ngươi Khôn đạo chú đỉnh thuật, sẽ lại dạy cho ngươi thổ nạp vận nhất phiên, nắm vững được bí quyết trong đó, mỗi ngày ngươi có thể tự luyện tập. Còn về ảo ảnh kiếm phát, hí đạo bát động, hợp đạo thập tu, âm dương thái luyện, ngọc dịch hoàn đan, tiên đạo cầu sách chư ban tài nghệ, cũng không phải là nóng lòng nhất thời mà học được”.

Tiểu Chu Hậu nghe thấy nói đến ảo ảnh kiếm pháp, còn cứ tưởng rằng là một kiếm pháp gì đó cao minh, vui mừng khôn xiết, gật đầu lia lịa nói: “Đa tạ sư phụ”. Nói rồi đứng phắt dậy, hai đầu gối quỳ trên đệm, cung kính khấu đầu bái sư phụ, tịnh âm đạo cô cười nhận lễ bái của nàng, nói: “Được rồi, được rồi, ha ha, lễ này của ngươi, bần đạo xin nhận. Đứng dậy đi, vi sư giờ sẽ truyền thụ Khôn đạo chú đỉnh thuật cho ngươi”.

*******

Tại Dương phủ, trong hậu trạch, có gì đó động sau tấm bình phong, tiếng thở hổn hển ở cạnh giường, Dương Hạo tiếp tục, nhìn quanh bốn phía, Đường Diễm Diễm đã mềm yếu như bún, không chịu được cơn cuồng phong, chỉ còn chút ít sức lực dư thừa, đùi thon dài mềm mại kẹo chặt hông của hắn, miên man. Cuối cùng những tiếng kêu rên của Đường Diễm Diễm, uyên ương giao cảnh, tiếng bỡn cợt của Dương Hạo vang lên: “Giờ còn nói phu quân nhà nàng không có bản lĩnh không?”

Trên chiếc giường căng màn đôi chân mềm yếu trắng nõn bất lực, tiếng kêu của Đường Diễm Diễm vang lên thay câu trả lời. Lúc này, màn đã được vén lên, mặt Oa Nhi như được nhuộm đỏ, nhăn mũi gắt giọng: “Ban ngày ban mặt, hai người chiếm giường của người ta làm chuyện hoang đường, thực không biết xấu hổ”.

Dương Hạo cũng không biết bây giờ tại sao mình lại có hứng thú với chuyện trai gái, thực là ban ngày ban mặt, nhưng lúc nào người cũng nóng hừng hực như lửa, hắn thò tay kéo Oa Nhi lên giường cười nói: “Oa Nhi ghen rồi sao, lại đây, lại đây nào, chúng ta cùng giết hạnh đào Yên vũ giang nam…”

Oa Nhi hừ nhẹ một tiếng, mặt đỏ ửng lên vì xấu hổ liếc nhìn sang Đường Diễm Diễm, nhắm nghiền hai mắt lại, người đàn ông của mình kéo ngực phập phồng của nàng, lộ ra đôi nhũ hoa sắc hồng…

****

Một cái đầu chim diều hâu bay vào trong Dương phủ, trong nháy mắt, Đinh Thừa Tông xuất hiện ở hậu trạch Dương gia: “Tiểu Nguyên, thái úy đại nhân đâu?”

Tiểu Nguyên vừa nhìn thấy Đinh Thừa Tông, vẫn theo lệ chào hỏi hắn ở Đinh gia, Đinh Thừa Tông gật đầu nói: “Ta có chuyện gấp, mau mời thái úy đại nhân đến đi”.

Tiểu Nguyên đáp một tiếng rồi chạy biến về phía lạc viện Ngô Oa Nhi, được một lát, Dương Hạo hồ hởi đi tới phòng khách: “Đại ca, ca gọi đệ?”

Đinh Thừa Tông rút từ trong tay áo ra một cái ống trúc, trầm giọng nói: “Không ngoài dự tính của đệ, Hạ Châu quả nhiên giải hòa bí mật”.

Dương Hạo mặt giãn ra, vội cầm lấy ống trúc trong tay hắn, xem xét kỹ những tin mật trong đó, bước đi thong thả trong phòng, Đinh Thừa Tông nói: “Hạ Châu có mấy lần giảng hòa đều bị người ta phá đám, lần này bí ẩn một chút cũng không có gì là ngạc nhiên, vị tất chính là có ý phạt Ngân Châu của ta, nhưng nếu như thái úy ứng chiếu đi phạt Hán quốc, Hạ Châu được tin nhất định sẽ đến, chi bằng tìm chút lý do kéo dài thời gian ra đi”.

Dương Hạo dừng bước, suy nghĩ đắn đo chút nói: “Đi, đi tới tiết đường, chiêu tập văn võ cùng nhau bàn đại sự”.

Văn võ tập trung đông đảo tại tiết đường, Dương Hạo lấy những tình báo mà Thác Bạt Hiếu/Hạo Phong và Xích Bang Tùng tìm hiểu được nói lại một lần nữa với văn võ quan, hắn nhìn khắp một lượt, hỏi: “Chư vị, có ý kiến gì không?”

Tiêu Nghiễm nói: “Thái úy, cho dù Triệu Quang Nghĩa và Lý Quang Duệ không ngầm câu kết với nhau, nếu như biết được thái úy dẫn đại quân phạt Hán quốc, Lý Quang Duệ tuyệt đối sẽ không bỏ qua cơ hội này, theo ý ti chức, chúng ta chưa sống yên ổn ở Ngân Châu, thái úy không nên rời đi, nhất là phải dẫn đại quân rời đi, Ngân Châu hư không, Hạ Châu nếu như huy động toàn bộ lực lượng ra quân, chỉ với Đảng Hạng Thất Thị thì không thể ngăn được đâu”.

Mộc Khôi xua tay nói: “Thiếu chủ, chúng ta dứt khoát nhân Triệu Quan Gia phạt Hán, không ra tay để lo liệu chuyện tây bắc, trực tiếp bỏ Hạ Châu thôi, làm trước lấy thế mạnh, làm sau sẽ bị tai ương đấy”.

Dương Hạo lắc đầu: “Trước mặt là địch, ta giờ chưa phải là đối thủ của Lý Quang Duệ, nếu như ta dẫn binh đi Ngân Châu, Hạ Châu tất sẽ không thủ, điều Tuy Châu, Hực Châu, Tịnh Châu điều binh mã phạt Ngân Châu, Lô Châu ta, lúc đó thì ta thối lui cũng không kịp”.

Tiêu Nghiễm nói: “Điều này là thứ nhất. Triệu Quang Nghĩa chỉ dựa đơn thuần vào thực lực Tống quân, giờ nếu như diệt Hán quốc cũng dễ như trở bàn tay, thái úy nếu như chủ động xuất binh đi phạt Hạ Châu, ra quân vô danh, Triệu Quang Nghĩa được Hán quốc rồi, ngay lập tức có thể dựa vào danh chính ngôn thuận mà đi phạt Ngân Châu ta, lúc đó bao năm thái úy dốc tâm dốc lực sẽ bị lũ cuốn trôi”.

“Không sai…Tiêu đại nhân nói phải lắm”.

Dương Hạo nói: “Giờ không thể lật mặt với Triệu Quan Gia được, hắn cần điều binh của ta, ta không những phải đi mà còn phải đích thân đi. Duy chỉ như vậy mới có thể có mấy chục vạn hùng sư vào tay, song cầm ta không có cách nào khác. Ta đi Hán quốc còn có một điểm hay, nếu như Hạ Châu chủ động phát binh tấn công Ngân Châu, Lô Châu ta, thì chúng ta theo đạo nghĩa mà đứng trụ, tái phản kích Hạ Châu, Triệu Quan Gia còn lời gì để nói đây?”

Kha Trấn Ác chần chừ nói: “Nhưng mà…nếu đại soái dẫn đại quân phạt Hán quốc, Hạ Châu chấm dứt chiến sự Thổ Phiên, Hồi Hột, công kích đánh Ngân Châu, Lô Châu ta, chúng ta nhất định có thủ được không đây? Ngân Châu bị Lý gia thống trị khoảng thời gian dài trăm năm, thế lực ở đây căn cơ thâm hậu, tuy bề ngoài chúng ta giờ đã hoàn toàn có được Ngân Châu, nhưng lòng dân không phải là dễ lợi dụng. Lý Quang Duệ không đến thì thôi, nếu như mà hắn đến…trung quân Ngân Châu ta có biết bao người họ Lý Thị cũ, cũng không cần quá nhiều người bất ngờ tạo phản, chỉ cần một tốp một nhóm người muốn tạo phản, mở cửa thành rước Lý Quang Duệ vào thành, dù thành có kiên cố đến đâu thì cũng khó mà thủ được, cầu cứu một vị quân sư nổi tiếng, nguy hiểm của chúng ta càng tăng lên”.

Mọi người bàn bạc sôi nổi, có tiếng tán đồng Dương Hạo chiếm Hán quốc, có người lại đồng ý chủ trương giả bộ bệnh không đi, phái ba năm nghìn tên già nua yếu ớt đi ứng tiền chiến, cuối cùng thì vẫn không có ý kiến thống nhất, Dương Hạo đập bộp vào bàn một cái nói: “Nên chiêu xuất binh cũng không được, kháng chỉ không đi cũng không được, chủ động phạt Hạ Châu cũng không được, thì phải làm thế nào mới được đây?”

Đám văn võ im lặng nghiêm nghị, Dương Hạo bất giác nhận ra mình có chút táo bạo vội cười trừ, nói: “Là bổn soái vội đấy, chư vị chớ trách, chúng ta cùng bàn bạc chút. Chuyện ngày hôm nay, Hạ Châu chúng ta tuyệt không thể giành trước tấn công, nếu không mất đi danh đạo nghĩa; Thứ hai là cho dù Hạ Châu và Triệu Quan Gia có câu kết với nhau, chỉ cần bổn soái vừa xuất binh, hắn tất sẽ nhân hậu phương ta trống rỗng phạt căn cơ ta, điểm này còn nghi ngờ gì nữa, còn Triệu Quan Gia hiện nay vẫn ràng buộc với Hạ Châu, tất nhiên dung túng; Thứ ba, giờ chúng ta có Hạ Châu một cường địch, chốc lát không thể quyết liệt đấu với Triệu Quan Gia, chiêu bài này còn phải đánh tiếp, cho nên quân lệnh cần phải tuân thủ, chúng ta cần nghĩ ra hai biệt pháp chu toàn mới được”.

Đám văn võ im lặng một hồi lâu, bỗng có người bước ra, ngang nhiên nói: “Đại soái hà tất phải đau đầu vậy làm gì, Hạ Châu giảng hòa với Thổ Phiên, Hồi Hột, Triệu Quan Gia phạt Tống lệnh đại soái xuất binh, đây là cơ hội trời ban cho đại soái, đại soái nên thiện gia lợi dụng tài”.

Mọi người nghe vậy đều đổ dồn ánh mắt về phía người này, thấy Trương Phố này trầm lặng một lúc, hai mắt Dương Hạo sáng ngời, vội hỏi: “Kế của Trương tướng quân ổn chứ?”

Trương Phố vẫn giữ được danh chủ danh hùng trọng anh hùng, có công lớn, nhưng tiếc xuất thân hàn vi, cuối cùng không được trọng dụng, không dễ dàng được Lý Kế Pháp trọng dụng hắn làm tướng, lại bị thuộc hạ của Lý Kế Pháp lật bỏ kiêu binh hãn tướng. Thời gian Dương Hạo quật khởi tây bắc ngắn ngủi, cần gấp tướng soái tài giỏi, thành tâm chiêu nạp, Trương Phố liền đầu quân vào Dương Hạo.

Dương Hạo dùng Trương Phố với thái độ dùng người không hề nghi ngờ, quân cơ đại sự đều yêu cầu hắn cùng tham mưu. Song thuộc hạ của hắn với thành phần binh mã phức tạp, sự phòng bị là tất phải có, nên năm nghìn Minh đường xuyên tiến hành sắp xếp tổ chức lại, vừa xen kẽ đám binh mã và binh mã của mình vào với nhau, thêm nữa tiến hành hoán đổi tướng tá quan quân cấp thấp với dám tướng ta quan quân binh mã chính thống của mình, đảm bảo sự khống chế của chi quân đội này.

Trương Phố đầu nhập vào quân Dương Hạo có vị trí tương đối thấp, bình thường lên đường thảo luận chính sự đều giữ im lặng, chứ đây là lần đầu hắn phát ngôn, không ngờ giờ lại nổi tiếng, ánh mắt mọi người đều đổ dồn vào hắn.

Trương Phố chắp tay nói: “Tương kế tựu kế, ám độ trần giữ, xuất kỳ binh, đoạt Hạ Châu. Nếu như đoạt được Hạ Châu, thì coi như đại soái đều đánh mất Lô Châu, Ngân Châu, công thủ cũng dịch thế từ đây, tây bắc sẽ được đại soái sở thuộc”.

Lần này hắn phát ngôn, mọi người đều ồ lên, Hạ Châu là cái gì? Tương đương với Thượng Kinh của Khiết Đan, Biện Lương của Tống quốc, Kim Lăng của Nam Đường, Hạ Châu gần trăm năm luôn là đại bổn doanh của Thác Bạt Thị, nếu như chiếm được nơi này, thì sẽ nghiêm trọng đả kích Hạ Châu Lý Thị, cho chính quyền Lý Thị đánh cho một kích cực mạnh. Hơn nữa Hạ Châu là căn cơ của Thác Bạt Thị, tài lực vật lực như thế. Khống chế được Hạ Châu, lợi dụng điều kiện địa lý sơn xuyên, có thể khống chế được phía đông Ngân Châu, Long Châu của nam ách hoàng sơn nam tuyến, Hồng Châu, Diêm Châu, Vi Châu, còn về Định Châu, Hoài Châu, Hưng Châu, Linh Châu đều ở phía tây của Hạ Châu, có thể khống chế được.

Cách nói của Trương Phố rõ ràng là một sự hoán đổi lớn với Hạ Châu Lý Thị, nhưng Dương Hạo đổi quân đến Hạ Châu như thế lực lượng càng thêm lớn mạnh, còn Lý Quang Duệ nếu như bị điệu hổ ly sơn, chỗ thân tín là Dương Hạo, phía sau lưng là hai thế lực Chiết Dương, hắn rất khó có được sự tự tại hiện giờ.

Dương Hạo nghe cuồng ngôn này, cũng ngẩn người ra, lúc này mới nói: “Sao lại thế được? Làm thế nào để đoạt được Hạ Châu?”

Trương Phố đi đến phía chiếc sa bàn nói: “Đại soái, Lý Quang Duệ đại nhân ở Lô Châu, Đảng Hạng Thất Thị quy phủ, Ngân Châu rơi vào tay đại soái, điều này đều lay động chuyện căn cơ của Lý Quang Duệ, cho nên hắn cần diệt trừ thế lực đại soái, loại Lý Quang Sầm đại nhân, lại lần nữa khống chế Đảng Hạng Thất Thị, tiêu đi mối lo tâm phúc cho nên đại soái không thể không có lý do theo Triệu Quan Gia còn Lý Quang Duệ cũng không thể không có lý do đông tiến”.

Đám tướng và Dương Hạo đều đứng trước sa bàn, Dương Hạo vuốt cằm nói: “Đúng đấy, bổn soái không thể không xuất binh phạt Hán, Lý Quang Duệ cũng không thể không lấy toàn bộ lực lượng, lợi dụng cơ hội này, đoạt được Ngân Châu, chiếm lĩnh lấy Lô Châu, ngoài nghĩa phụ ta, khống chế Đảng Hạng Thất Thị”.

Trương Phố nói: “Lý Quang Duệ đông tiến, Hạ Châu sẽ rỗng tuếch, lần này chúng tôi như một đường kỳ quân cắm thẳng vào Hạ Châu, nhân cơ hội đoạt thành này, thế cục tây bắc tất nhiên thay đổi…”

Đinh Thừa Tông trầm mặc không nói tiếng gì từ nãy, giờ mới nói: “Lý Quang Duệ khởi binh tới Ngân Châu, từ Ngân Châu ta khởi binh đến Hạ Châu, binh thực thì thiếu khó chẳng là vấn đề, binh lực nhiều, sự điều động đại đội nhân mã làm sao có thể dấu được tai mắt của Hạ Châu? Lào sao có thể có hiệu quả thu kỳ binh”.

“Phó sứ mời ngài xem, Minh đường xuyên ở trong khống chế đại soái, ta thấy quy mô xuất binh phạt Hán, nửa đường bắc thượng, qua minh đường xuyên vào đất Cân trạch, sa mạc Tây xuyên mao ô tố, thảo nguyên Nam chí hoàng dương bình nhập, kinh an khánh trạch, bẩy dặm bình, vương đình trấn, lấy thế sét đánh không kịp ôm tai lấy Ngân Châu, ngài thấy sao?”

Đi một nửa vòng tròn, giữa còn cần xuyên qua đầm lầy, sa mạc, nguy hiểm, Đinh Thừa Tông không khỏi ám hút một ngụm khí lạnh, còn các chư tướng còn lại không hiểu được hiểm ác chỗ này cho nên lúc lâu không nói gì.

Dương Hạo cẩn thận nhìn hồi lâu, hỏi: “Chư vị thấy sao?”

Kha Trấn Ác lắc đầu nói: “Lao sư viễn chinh, không có sức mà chiến lâu, ngay cả xuất kỳ bất ý, nếu có tiếp ứng, cũng chỉ có cơ hội một công một khắc, một khi thất bại, hậu quả thiết tưởng không chịu nổi, quá mạo hiểm”.

Trương Phố không để ý tới hắn, chỉ cần nhìn Dương Hạo, nói: “Tình hình này, nói thẳng với ti chức, Hạ Châu Lý Thị, hùng bá tây vực hơn trăm năm, tuy bị thương nặng, thực lực cũng ở, đại soái tuy chính nghĩa được ủng hộ, muốn tiêu diệt Hạ Châu, sợ bao nhiêu năm gây dựng, phát triển, cũng không có khả năng”.

Câu này tuy khó nghe, song là câu nói thực, chớ nói Hạ Châu Lý Thị, coi như là thực lực của Lân Châu, Phủ Châu cũng kém xa Hạ Châu, bảo Dương Hạo đi đánh xem xem cũng không thể dễ dàng mà diệt được, Dương Hạo không khỏi gật gù cái đầu nói: “Thế lực của đại soái đương nhiên là càng ngày càng lớn mạnh, nhưng thực lực Tống quốc khi đó sợ rằng cũng không thể so sánh với ngày hôm nay, đến lúc đó Trung Nguyên đã dẹp yên, cho dù bắc có cường địch, Tống quốc cũng không thể tùy tiện xuất binh nhúng tay vào chuyện tây bắc, nhưng muốn có một thế lực tương đương tây bắc ở một trình độ nhất định, lại là khả năng xa vời với thực tại. Đến lúc đó, nhuệ khí đại soái đã mất, tây bắc bốn thế lực thế chân vạc, có sự kiêng kị, song chính là cục diện như vậy”.

Ngải Nghĩa Đào tức giận nói: “Ngươi lảm nhảm cả nửa ngày, rốt cuộc là ngươi muốn nói cái gì?”

Trương Phố nói: “Muốn thành chúa của tây bắc thì người bình thường không thể được, phú quý hiểm trung cầu”.

Ngải Nghĩa Đào nói: “Nhưng, điều này có quá là mạo hiểm không, nói thực ra là một mẻ cờ bạc, một khi Lý Quang Duệ có đề phòng thì ta mất trắng”.

Trương Phố lộ ý cười nói: “Các người đều thấy rằng kế này vạn phần không được, Lý Quang Duệ làm sao mà ngờ đến được chứ? Hơn nữa, theo ý ta, chuyện binh gia này như đánh cờ vây vậy, không cần phải so đo được mất, chỉ cần cuối cùng chúng ta vẫn là người chiến thắng là được. Cho nên…đại soái thầm điều động, tập trung người của Lô Châu đến Ngân Châu, liều mạng mất đi một thành, chỉ cần thủ được Ngân Châu, là rất tốt, coi như là bại rồi thì cũng là đại thương nguyên khí, chúng ta còn có thể trụ chút hương hỏa”.

Đinh Thừa Tông nói: “Thực không cần, chỉ cần mời lão gia tử Lý Quang Sầm đến Ngân Châu, Lô Châu lại có đạt thố hoạt phật tọa trấn, Lý Quang Duệ cũng lười đi đến tổ ong đó, hắn tất nhiên là đến thẳng Ngân Châu rồi. Song…như vậy thực quá nguy hiểm, chúng ta đưa mình đến chỗ chết, nếu như Lý Quang Duệ chưa từng tinh nhuệ, lại làm sao bây giờ?”

Trương Phố nói: “Bảo Đảng Hạng Thất Thị ngăn cản, còn không thể buộc hắn tinh nhuệ ra sao?”

Kha Trấn Ác nói: “Đây là trận quyết chiến ăn được cả ngã về không, một khi thất bại, tất cả nỗ lực đều mặc sức, chúng ta phải làm sao? Ngay lập tức phải xuất binh phạt Hán, điều khiển độc quân xuyên qua đầm lầy, sa mạc, đều chuẩn bị kịp sao? Nếu đợi đến khi xác định hắn tinh nhuệ, rồi huy quân bắc thượng, còn có kịp không?”

Trương Phố thở dài ngao ngán nói: “Đương nhiên thời gian hơi vội, việc này hơi nguy hiểm. Ta chỉ cảm thấy, nguy hiểm này rất là lớn, nhưng một khi mà thành công, hồi báo là trăm lần, nghìn lần, cuối cùng quyết định như nào, thì có mời đại soái định đoạt”. 

Ánh mắt của mọi người đều đổ dồn vào Dương Hạo, mắt Dương Hạo thì nhìn chằm chằm vào sa bàn, một lúc lâu sau mới nói được bốn chữ: “Dung hậu tái nghị”.

****

Mảnh đất rậm rạp, tuyết trải ngàn dặm, gió lạnh cuốn theo những bông tuyết bay lên, tiếng gió rít thét gào như tiếng cô hồn khóc nức nở. Trận đại tuyết này là những tháng ngày miêu đông đối với dân chúng Lân Châu, ngồi ở gần lò sưởi, uống một chén rượu nóng, cạnh vợ và con, thì đầm ấm biết bao. Nhưng đối với đám dân du mục chăn nuôi lại là những tháng ngày khốn khó, trú tạm trong chỗ nhà tranh, chăm nuôi đám da súc vô cùng rét mướt.

Dương Hạo và Mộc Ân, Mộc Khôi thúc ngựa phi nhanh trên cánh đồng tuyết, phía trước là doanh trại quân đội, tiếng kèn tù và kêu vang, vũ khí leng keng, cờ bay lên, một đội binh lính đang tập luyện, đây là quân thường trực mà Dương Hạo kiến tạo, tiếng chuông vang lên báo giờ ăn đã sắp đến, thời tiết khốc liệt, luyện tập không ngừng mỗi ngày, sự luyện tập dày công như vậy chứng tỏ một khí thế nghiêm kỷ.

Ba người xuống ngựa, bước đi thong thả trên sườn núi, thị vệ cuốn đệm trên mặt đất, ba người ngồi trên, nhìn đám sĩ bĩnh phía xa đang tập luyện, rong ruổi chiến mã, phi ngựa bắn cung.

Đệm giường bằng da sói, lông bện kỹ, da sói dày. Có tác dụng giữ ấm, trải trên mặt tuyết có tác dụng chặn sự xâm nhập hàn khí vào người, Dương Hạo vuốt ve lông mao mượt mà nói: “Kế của Trương Phố thực là điên cuồng và quá mức điên cuồng, Lý Quang Duệ cũng rất khó nghĩ được cách nguy hiểm này. Nhưng vấn đề nan giải không phải là không có, không suy nghĩ, cứ nghĩ đến bại, chúng ta vẫn chưa đến bước đường cùng, dùng cái thủ đoạn điên cuồng này, thực là…”

Hắn trầm ngâm một lát, bỗng hỏi: “Nếu chúng ta phái một đoàn kỳ quân, dựa vào lời của Trương Phố nói, bắc thượng Minh đường xuyên, vào đất cân trạch, xuyên qua sa mạc Mao ô tố, có khả năng hay không? Có tổn thất nhiều hơn hay không?”

Mộc Ân nói: “Mấy năm nay, lưu lạc đi theo chúa công, những tháng ngày khổ cực đều đã qua, nếu như mạo hiểm xông pha qua đầm lầy sa mạc, tuy rằng rất gian nan, song nếu như do thuộc hạ lãnh binh, tổn thất sẽ không lớn. Nếu như có thời gian mà chuẩn bị, bảo sĩ binh làm đệm da sói, hoặc dê vàng, lông mao lạc đà bện thành chặn cơn lạnh mùa đông thì sẽ không lo chết giữa trời đông này.

Còn về thực vật cũng dễ làm, ta biết cách làm thịt bò, là do học được từ người Khiết Đan, có thể hong thịt cho khô sau đó ướp gia vị, nhồi vào trong dạ dày bò, khi ăn thì lấy ra một chút cho vào bát tô, nước thì cũng dễ kiếm, ở sa mạc cũng không phải nơi nào cũng không có nước, chỉ cần có nước, thì ta có thể tìm được, dự trữ nhiều chút…

Dương Hạo nghe vậy gật gù lia lịa, như có điều gì suy nghĩ nói: “Song nếu muốn kỵ binh nhẹ hành quân, sợ sau khi ra sa mạc, lương thực đều ăn hết thì sao?”

Mộ Khôi cười hắc hắc nói: “Nếu như ra khỏi sa mạc, còn sợ không tìm được gì ăn sao? Các bộ tộc Miêu Đông luôn có thói quen tích gom lương thực, một khi ra sa mạc thì chẳng thành vấn đề.

Dương Hạo lại gật đầu, ý của Mộc Khôi hắn đã hiểu, đến khi đó là gặp được bộ lạc nào, bộ lạc nào bị cướp đoạt không còn. Ngươi có thể nói nó là vũ lực cướp bóc, cũng có thể nói nó là cướp bóc, cũng có thể nói nó là dĩ chiến dưỡng chiến, kỳ thực đều là nhất ký hiệu sự. Ban đầu rong ruổi thảo nguyên, đại chiến hung nô, kỵ binh qua lại, đuổi giết ngàn dặm, làm như vậy không thể nói đến hai từ nhân nghĩa trên chiến trường.

Mộc Ân hỏi: “Thiếu chủ, ngài thực có dự tính làm theo lời Trương Phố nói?”

Dương Hạo cười mếu máo nói: “Chỉ là…ta muốn hiểu được tính khả năng thực hiện lớn đến đâu. Sợ chiến tranh kéo dài liên miên với Hạ Châu mới có thể quyết ra thắng bại, nếu có cơ hội thì làm một kích chí mạng, ta đương nhiên là mong như vậy. Nhưng…haiz, xuất binh phạt Hán, tập kích Hạ Châu, đều cần nhân mã, Lô Châu, Ngân Châu, tất không thể phân binh tác chiến, nếu như muốn thực hiện kế này, hai thành chỉ có thể bảo trì một, tập trung binh mã vào một chỗ, đồng thời, những thứ như đệm da sói, làm thịt bò, chuẩn bị cho tốt, mà muốn vậy thì cần phải có thời gian, song…không kịp nữa rồi, thời gian…ôi thời gian”

Hắn thở dài ngao ngán, đứng dậy nói: “Đi đi, về thôi”.

Về đến Dương phủ, bước vào hậu trạch, hoa đình ấm nóng vô cùng náo nhiệt.

Hai tỷ muội Đinh Ngọc Lạc và Đinh Ngọc Đình đang bế đứa bé cưng của Dương Hạo, Dương Hạo đã đặt cho bé một cái tên là Tuyết Nhi, Đinh Ngọc Đình ẵm bé vuốt nhẹ má đỏ hồng, đứa bé nghịch ngợm giơ tay lên như muốn với gì đó. Đông Nhi thì đang huơ tay sưởi ấm, Diễm Diễm, Oa Oa thì đang nói gì đó với nhau.

Hắn nhìn đứa bé, lòng trào dâng niềm hạnh phúc vô hạn…

 Chương 449: Nhìn bằng nửa con mắt

Thủ lĩnh thứ bảy, Hoành Sơn chư mộ thủ lĩnh, thế lực trải dài từ Lô Châu đến Ngân Châu; thủ lĩnh các bộ lạc người Hán, Hồi, Diệp Phan, các tộc trưởng, chủ trại… đều lục tục kéo về Ngân Châu. Trận đại hội này do sắp sửa dẫn binh phạt Hán và chuẩn bị cho cuộc chiến Hạ Châu mà có vẻ gấp gáp, có điều công phu đều vẫn còn đang được giấu kín, ngoài mặt thì phồn vinh náo nhiệt và nhàn nhã.

Đối với việc ăn uống và nghỉ ngơi của các thủ lĩnh thì Dương Hạo đã chuẩn bị xong đâu vào đấy, tiến vào Ngân Châu, bạn sẽ không thể nào nhận ra nơi này đã từng xảy ra những cuộc chiến liên tiếp đẫm máu, trong thành phồn vinh thịnh vượng, cả thành trì bố trí có trật tự, đương nhiên, quân kỷ tươi sáng, áo giáp kêu leng keng là những uy lực vô hình không thể thiếu.

Đây không phải là liên minh, mà là hiệu lệnh quần hùng, đích thức là quy tụ về để xưng bá một phương, không che giấu thế lực để chờ đợi phần thưởng là những con dê cừu béo múp chờ làm thịt. Những người đứng đầu phái đoàn tất nhiên phải thể hiện rõ uy phong của mình, cũng may mà trước khi các hào kiệt đến đây Dương Hạo đa chuẩn bị sẵn tinh thần, đến khi tận mắt chứng kiến uy quân và tài lực oai hậu của Ngân Châu, ai nấy đều tâm phục khẩu phục, không ai dám gây chiến.

Hiện chỉ cần khiến cho các bộ tộc, các tại và mọi người tâm phục khẩu phục đã là đủ, ngày ngắn ngủi, cái gọi là thu phục cũng chỉ là một quá trình dần dần mà thôi, muốn bọn họ phục tùng mệnh lệnh của Dương Hạo thì cần phải chọn thời điểm tấn công, chước thuế dễ dàng, muốn bọn họ sống chết theo hắn thì phải sống chết cùng hưởng, hiện cũng không cần trông cậy nhiều, những người thực sự có thể tin cậy, Dương Hạo đã dùng rồi, cứ lẳng lặng mà làm. Do vậy Dương Hạo trong khoảng thời gian này hết sức bận rộn, hắn phải mở cuộc hội kiến công khai với các thủ lĩnh bộ tộc, dẫn dắt bọn họ đi quan sát việc luyện binh, Dương Hạo còn muốn thấy cả mấy cái ‘kim trong bọc’, tự mình mở cuộc họp với bảy họ và họ Khương ở Hoành Sơn, tất cả đều theo Dương Hạo, cùng ra sức chuẩn bị cho trận đại chiến sắp tới, sau cái phồn hoa thịnh vượng, khói lửa chiến tranh đã bắt đầu lặng lẽ bốc lên ngùn ngụt.

Ngoại trừ việc sắp xếp dày đặc việc tổ chức vũ lực đối ngoại, Ngân Châu và Lô Châu còn đồng bộ tiến hành chuẩn bị chiến tranh. Ngoài việc gia tăng quân trú đóng ở Hạ Châu, Tĩnh Châu, Tiêu Châu, Tuy Châu… hệ thống hành chính cũng gấp rút được sắp xếp, để đề phòng những mạch tin liên lạc bị cắt đứt do chiến tranh và trở nên tê liệt mất tác dụng.

Ngoài ra, quan hệ của thống soái và các ủy nhiệm, các lực lượng vũ trang và lương thực đều do Lâm Bằng, Phạm Ân Kỳ sắp xếp chặt chẽ. Dương Hạo có thể đánh một trận hiểm, nhưng không thể đánh mà không có chuẩn bị, hắn có thời gian thì sẽ ra sức chuẩn bị thật tốt cho cuộc chiến, chiếm trước được một bước là có cơ thắng được nhiều hơn, khi chiến đấu cũng sẽ phát huy được những tác dụng to lớn.

Từ Lũ, Tiêu Nghiễm cũng đang hết sức bận rộn, các thế lực của Dương Hạo hết sức phức tạp, có thể trực tiếp quản lý người của Dương Hạo, cũng có khi phải lấy cương làm chủ, có khi phải tiến hành làm cho lung lạc… Bất kể là đối với thế lực nào thì đều là người theo Dương Hạo, muốn có được sự bảo hộ của hắn thì đương nhiên phải trả một cái giá nào đó. Cái giá trả ra càng nhiều thì lợi ích càng cao, như vậy mới là làm ăn. Hai bên cả người đầy tài năng, nhưng khi ở nước Đường thì chỉ có thể học được những quyền cước không có chỗ sử dụng. Khi Dương Hạo tiến hành tiếp kiến thì hai người và các thủ lĩnh bộ lạc môi thương lưỡi tiễn, vừa đấm vừa xoa, đem toàn bộ những chính sách và biện pháp ra quyết định.

Tiêu Nghiễm và Từ Lũ được phân công rõ ràng. Tiêu Nghiễm là người không thích cười đùa, hay nghiêm túc, thêm vào cái tính tài tử là điều đáng kiêu ngạo. Lời ăn tiếng nói không những sắc bén mà còn khắt khe, do vậy vai kẻ mặt đen nhất định là sẽ do hắn đảm nhận. Do lợi ích nên trên bàn đàm phán hoàn toàn không còn có thể diện tôn ti gì nữa, các thủ lĩnh bộ tộc Tây Vực đều là những quặng dầu mỏ hào phóng, vốn cũng không hiểu lắm về chuyện quy tắc, muốn nói chuyện với bọn họ thì chẳng khác nào cãi nhau.

Tiêu Nghiễm ngoài nhu trong cương, cả người đều tràn đầy hỏa khí, chỉ tiếc là khi còn ở nước Đường hắn không có đất dụng võ, nhiều khi chứng kiến những sự việc không thuận mắt hắn cũng chỉ biết nói bóng gió, nhưng nay thì không thế, Dương Hạo đã đặt toàn quyền vào hắn, hơn nữa hắn còn đứng ở phe mạnh, đúng là rất chi hãnh diện.

Để chuẩn bị cho mỗi hạng mục đàm phán, Tiêu Nghiễm đã dốc toàn lực ứng phó, khiến cho những tướng người Hán không còn đất, hai bên trừng mắt phùng râu, đập vỡ bình trà trên bàn, đó là cảnh thường xuyên gặp. Đợi đến khi đối phương có thể hoàn toàn chấp nhận thì kẻ mặt đỏ Từ Lũ mới xuất hiện. Từ Lũ đã làm việc ngoại giao này bao lâu nay, đúng là kẻ tám mặt lả lướt, qua một hồi mặc cả, những thủ lĩnh bộ tộc đó cuối cùng phát hiện ra bọn chúng vừa có mặt lại có trong đó, đối với phía Dương Hạo cũng đạt được những điều tốt ở giới hạn lớn nhất mong muốn có được.

Mặc dù những sự việc này khiến hai lão đại nhân phải hao tâm tổn sức nhưng những thành công mà hai ông mang lại thật là trước nay chưa từng có, đặc biệt là khi kẻ mạnh đàm phán với kẻ yếu, quả là có cảm giác hãnh diện, trước nay chưa từng có. Trong lòng hai người vẫn chưa có quyết tâm hết lòng thuần phục Dương Hạo, nhưng đã được cảm hóa nhiều, bất tri bất giác mà trở thành bạn bè cùng phe với hắn.

Một trang khế ước có tác dụng lớn thế nào? Một trang khế ước có thể bảo đảm nó có thể có nhiều điều kiện được thực hiện, dẫu cho không có nhiều biện pháp cường lực thì một mặt các thủ lĩnh cũng có thể dễ dàng phá hủy bản khế ước, do hai chữ ‘tín dụng’. Tín dụng là vô hình, cũng là hữu hình, nếu như thế lực đầu não của một bên lật lọng, nói một đằng làm một nẻo thì ngôn ngữ không đáng tin, về cơ bản sẽ rất khó để có được sự ủng hộ và tin cậy của thế lực còn lại. Do đó, trừ phi bất đắc dĩ, chứ nếu không sẽ tuyệt đối không vô tình mà dễ dàng phá bỏ lời hứa.

Mặc dầu như vậy, Dương Hạo còn có thể dùng thủ đoạn gia tăng lực lượng, gia tăng như vậy sẽ khiến bọn họ coi trọng việc giữ lời hứa, dẫu cho sau này Ngân Châu bị vây, thì tạm thời bọn họ cũng mất lực khống chế, thì khi bọn họ muốn đưa ra bất kỳ quyết định gì cũng phải đắn đo suy nghĩ, không dám dễ dàng đưa ra quyết định. Thủ đoạn gia tăng lực lượng của Dương Hạo là: uy hiếp tuyệt đối về vũ lực. Tình cảnh thảo nguyên Lô Châu, Hoành Sơn chủ động khiêu chiến, tập kích vào các bộ lạc.

*************

Hoang mạc mịt mờ, nguyên trì lạp tượng.

Sau Sơn Lộc là một sườn núi chạy thong thả, đây là phía Nam của Sơn Lộc, ánh mặt trời chiếu rọi vào, hơn nữa hai bên trái phải là thung lũng, cản trở gió lạnh xâm nhập, hơn nữa cũng có chăn lạc đà, lông bò, thế là đủ cho bọn du mục tránh được cái giá lạnh của mùa đông này.

Một ngọn suối đổ xuống từ trên núi, bên phải bờ suối là một mảnh rừng thưa thớt, có thể vào đó chặt củi đốt lửa, lấy nước. Lều bạt ước chừng có khoảng hai trăm chiếc, như vậy cũng coi là đủ để dựng một bộ lạc quy mô.

Phía trước một chiếc trướng là vị thủ lĩnh Nhật Đạt Mộc Cơ, hắn mặc một chiếc áo bào và đang làm thịt một con dê. Hôm nay con trai hắn đầy trăm ngày, hắn muốn mời bạn bè đến uống rượu chúc mừng. Bên ngoài nước đọng thành băng, nếu như tay chậm một chút thì chiếc đầu dê này cũng nhanh chóng mà bị đóng băng. Nhưng thủ pháp của người này quả thực là siêu phàm, trong tay hắn chỉ có một con dao nhỏ, phi nhanh thoăn thoắt, da dê đã được lột sạch, lúc này đây thịt dê vẫn còn đang bốc hơi nóng hôi hổi.

Bên cạnh hắn đặt một cái nồi to, vợ hắn đang ngồi xuống bên cạnh, cẩn thận nhóm lửa, nước trong nồi đã bắt đầu sôi, lúc này, ở phía xa đột nhiên vang lên một tiếng kèn kéo dài từng đợt thê lương.

Đó chính là tiếng kèn cảnh báo. Nhật Đạt Mộc Cơ thất kinh, vội vàng chạy lên hai bước, vứt cả cái đầu con dê vào nồi nước sôi, rồi chạy lại phía con tuấn mã. Con ngựa vẫn chưa được lắp yên, nhưng nghe tiếng kèn hiệu báo động khẩn cấp cũng không quan tâm nhiều như thế nữa, Nhật Đạt Mộc Cơ nhặt vội một chiếc cung tên vứt gần chỗ yên ngựa, rồi lại lấy một ống tên đeo vào người, vội vã thúc ngựa đi mất.

Vợ hắn vội vàng gọi với theo: “Nhật Đạt Mộc Cơ”.

Nhật Đạt Mộc Cơ quay đầu lại hét lớn: “Mau bế con chạy đi, tiếng kèn hiệu gấp như vậy e rằng có quân địch tập kích”.

Cùng lúc đó, những gã đàn ông trong những chiếc lều khác cũng vội vàng xông ra, bất kể là già hay trẻ, thậm chí có cả những đứa trẻ mới hai ba tuổi cũng đều mặc một chiếc áo da, hết sức nhanh nhẹn leo lên lưng ngựa, chạy thật nhanh về phía trước.

Tiếng kèn hiệu ở hai bên núi lại thổi lên một hồi lớn, hơn nữa càng lúc càng khẩn cấp, trên cánh đồng tuyết phủ trắng xóa chỉ nhìn thấy ba bốn con tuấn mã đang phi, những binh khí trong tay lóe sáng, lớn tiếng kêu thét tiếng gì đó.

“Là Mỹ Ân Tử”, Nhật Đạt Mộc Cơ nhìn bọn chúng rồi đột nhiên kêu lên.

Mỹ Ân có nghĩa là mặt trời, Mỹ Ân Tử có nghĩa là con trai của mặt trời. Người đó chính là con trai của thủ lĩnh bộ lạc. Hắn nhìn thấy nguy hiểm trước mắt nên các chiến sĩ đều hăng hái giương cung tên, phía sau giắt một thanh đao dài, mọi người nhanh chóng tập hợp thành hàng ngũ, tiến về phía trước.

“Chạy mau, chạy mau, đại quân Ngân Châu tới rồi”. Nhật Đạt Mộc Cơ xông lên phía trước, đã nghe thấy tiếng của Mỹ Ân Tử hét lớn, hắn vừa ngẩn ra đã nghe thấy tiếng vó ngựa như tuyết, vô vàn chiến mã đột nhiên xuất hiện ở cửa núi, lưỡi mác dài sáng loáng, mặt ai cũng đằng đằng sát khí.

Ngay sau đó, bầu trời như tối sụp lại, vô số mũi tên bắn ra, nhằm thẳng hướng bọn họ bay tới.

“Mỹ Ân Tử, mau trốn đi!”

Đối phương còn đứng ở một quãng khá xa nên lúc này mũi tên gần như không tới được chỗ bọn họ. Nhật Đạt Mộc Cơ đến mũi tên cũng chẳng buồn rút ra, hai tay bắc vào miệng, hét lớn với Mỹ Ân Tử. Những mũi tên dày đặc như cơn mưa ầm ầm lao về phía bọn họ, thậm chí còn có thể nghe thấy rõ tiếng gió lao đi vun vút trong không trung.

Nhiều người khác cũng giống như hắn ngạc nhiên nhìn lên trên, hằng hà sa số mũi tên đang lao vun vút về phía họ, càng lúc càng gần, mắt họ tối sầm lại, chỉ thấy những mũi tên như mưa bao trùm lên tất cả.

“Giết!”

Đại quân của Dương Hạo không bày binh bố trận, đối phương chưa từng tham chiến bao giờ đã bị dồn cho hoàn toàn không còn lực đối kháng, bọn họ đã hoàn toàn không cần phải phá vỡ thế trận, chỉ cần tiến hành giết bóc là được. Bọn họ có trong tay hơn nghìn con ngựa, nhưng đội hình thì đều nhịp tăm tắp, cả đội hình hình thành một đường cong. Nhật Đạt Mộc Cơ vẫn chưa chết, bên vai trái của hắn đã trúng tên, vai phải cũng bị trúng tên, một mặt hắn dùng hai chân khống chế cơ thể, vội vàng xuống ngựa, mặt khác cố sức dùng đao, ngửa mặt lên trời hét lớn: “Giết bọn chúng”. Sinh mạng của hắn đã bị tiếng hét đó kết thúc, trước mặt quân địch chỉ cách có khoảng một trăm bước chân, bọn họ đang tiến đến gần. Lực lượng của đối phương quả thực là khiến người ta kinh ngạc, bọn chúng dùng mã lực rồi ném tiêu thương bay nhanh như điện xẹt, gào thét lao tới.

Ở khoảng cách gần như vậy, tiêu và thương ném ra gần như không có gì ngăn cản được, huống hồ quân địch trước mặt lại gần như bị thương hết. Nhật Đạt Mộc Cơ lớn tiếng gào thét, một mũi tiêu lao tới xuyên thẳng vào ngực hắn, cả người hắn đổ về phía sau, ngã bay xuống lưng ngựa. Con ngựa đó trên người bị trúng tên, đang đau đớn, trong một lúc bị mất kiểm soát, nó co hai chân sau lên, đá cái xác Nhật Đạt Mộc Cơ ra xa cả trượng.

“Phực phực phực”, tiếng mũi tên và thương lao ra, một khi bị trúng thì căn bản sẽ không cách nào trốn được, dẫu cho có khỏe đến đâu thì khi bị trúng cũng chẳng khác nào một tờ giấy bị xuyên thủng.

“Giết!”

Tướng lĩnh thống binh cánh quân này của Dương Hạo rút ra một thanh trường đao, những kỵ sĩ bên cạnh cũng đồng loạt rút đao hô ứng, chuẩn bị xông lên. Bọn họ đều mặc áo giáp nhẹ, bên trái đeo cung, bên phải là mũi tên, mâu sắt treo trên yên ngựa, nay hoàn toàn không cần dùng đến nó, chỉ cần những binh khí trong tay là cũng có thể hoàn thành trận chiến này được rồi.

Quân địch bên trong không đủ hai trăm người, gào thét nhìn đám quân đến từ Ngân Châu, mặt không còn chút máu, bọn họ quay đầu ngựa định chạy trốn nhưng không thể nào nhanh được bằng quân Ngân Châu, lần lượt từng người bị chết, thây phơi trên cánh đồng tuyết, sau lưng mỗi người đều là vết thương do bị đao chém.

Đám kỵ sĩ nhanh chóng phân làm hai nhánh, lần lượt bao vây toàn bộ hai trăm người. Đỗ Lãn Nhi thúc ngựa đứng giữa, chỉ huy hơn ba mươi quân, toàn bộ những người trong bộ lạc đều đã được tập trung lại.

Những người phụ nữ nắm chặt tay bọn trẻ, yên lặng nghe mệnh lệnh. Từ nhỏ đến lớn họ đã quen với việc kẻ mạnh thắng kẻ yếu trên thảo nguyên, họ đã quen với việc cướp bóc và đâm chém, trong số bọn họ cũng có không ít người bị đoạt từ các bộ lạc khác mà đến, trở thành thành viên của bộ lạc này.

Một lão già râu tóc bạc phơ đứng thẳng người ở hàng đầu, mở to mắt, bước đi từng bước rồi quỳ sụp xuống trên tuyết, khóc không thành tiếng: “Lộ Phật Tử mạo phạm đến Dương Hạo đại nhân, cam tâm xin chịu chết, chỉ xin đại nhân khai ân, tha cho những người trong tộc”.

Đỗ Lãn Nhi thu đao về, lớn tiếng hỏi: “Đừng có nói bản chỉ huy là kẻ bất hiếu. Thái úy sớm đã có lệnh, phàm là dân cư được quản lý ở Ngân Châu, thì sẽ được thả về Ngân Châu. Ngày 28 tháng giêng, thủ lĩnh bộ lạc đi đến Ngân Châu yết kiến, có việc gì xin hãy cứ thoải mái mà thương lượng. Không muốn chịu sự cai quản của Ngân Châu chúng ta thì sớm ra khỏi biên giới Ngân Châu, nếu khong có mưu đồ làm phản sẽ bị xét vào tội xâm nhập bất hợp pháp. Đã không đi lại còn vào thành nhận lương là muốn thế nào đây? Đây là nhà ngươi tự muốn chuốc lấy tai họa, đừng có trách đại nhân chúng ta thủ đoạn.

Lộ Phật Tử cúi đầu sát đất, lắc lắc đầu, lúc này đây máu đang trào trong từng huyết mạch của hắn, hắn biết rằng Hạ Châu Lý Quang Duệ tuyệt đối không thể để mất Ngân Châu. Bộ lạc của hắn nằm trong vòng cai quản của họ Lý đã mấy trăm năm, hắn nghĩ Dương Hạo chẳng qua chỉ là nhất thời chiếm được mà thôi, đại quân Hạ Châu mà đến thì Dương Hạo sẽ bị đánh cho tan tác. Do đó mà hắn không muốn đầu hàng Dương Hạo. Đến hôm có tai nạn, Ngân Châu phát chẩn, hắn cũng không khách khí mà dẫn người đến nhận lương. Hắn nghĩ rằng, Dương Hạo ở Ngân Châu thế lực cũng không được lâu, đợi đến khi đại quân của Lý Quang Duệ đến thì bộ tộc của hắn sẽ phất cờ đứng theo hàng ngũ của Lý Quang Duệ, nhất định sẽ được trọng dụng, chứ hắn không hề nghĩ đến ngày hôm nay, dẫn đến họa lớn cho cả bộ tộc, nhưng hối hận thì cũng đã muộn rồi.

Đỗ Lãn Nhi khoát tay, không nhân nhượng mà rằng: “Chém cái đầu chó của hắn!”

Lập tức có một kỵ sĩ xuống ngựa, vung ngọn đao nhuốm đầy máu tươi ra, kỵ sĩ bốn phía dương mắt nhìn chằm chằm, nam nữ trong bộ tộc của Lộ Pháp đều không ai dám có động tĩnh, mắt nhìn về phía những kỵ sĩ. Vị kị sĩ kia hạ đao trong tay xuống, chém thẳng vào đầu Lộ Pháp Tử, dùng tay cầm chỗ tóc của hắn rồi kéo đầu lên.

Đỗ Lãn Nhi nói: “Tất cả vũ khí, bò dê ngựa, cư dân của cải đều lần lượt đem hết về Ngân Châu, nghe lệnh đại soái xử lý”.

Bộ lạc của Lộ Pháp nhanh chóng thất bại sau trận chiến, tất cả đồ đạc đều bị lấy đi sạch trơn, trên thảo nguyên giờ chỉ còn sót lại những vũng máu tươi và những cái xác nằm đó, trông ra phía xa trông giống như một tấm lụa lớn nhuộm hoa đào.

Lần lượt các bộ lạc khác đều dược diễn lại vở kịch đó, Mộc Ân, Mộc Khôi, Ngải Nghĩa Hải mỗi người đều lần lượt phân thành những đội nhỏ, dần dần càn quét hế những bộ lạc không chịu quy thuận ở Ngân Châu. Đồng thời đem tất cả vũ khí, dê cừu và tài sản đem hết về Ngân Châu. Đây cũng được coi là lấy chiến tranh để nuôi chiến tranh. Dương Hạo hiện đang rất cần tiền. Tuy nói rằng Dương Hạo sau khi lập ra Lô Châu rất chú trọng phát triển công thương, tích lũy của cải, lại gom được một lượng lớn của cải ở trong kho phủ của Ngân Châu, đồng thời cũng nhận được sự giúp đỡ của Kế Tự Đường, nhưng tốc độ mở rộng nhanh chóng, lập nên nhiều hệ thống hành chính, chiêu binh luyện binh, mua binh khí và áo giáp, tu sửa thành trì, mua lương thực dự trữ… Mỗi một thứ đều cần đến tiền, tiền tiêu nhanh như nước chảy.

Đặc biệt là việc xây dựng kinh viện ở Lô Châu, trạch thư quán, ấn thư quán, thư viện, con số đầu tư vào không phải là nhỏ, kể cả có một núi vàng thì cũng phải tiêu hết. Mà để thu về thì phải đến một năm, chậm nhất cũng phải mười năm, hai mươi năm mới trở thành hiện thực, muốn nuôi một đội binh lớn như vậy thì phải có thế lực hùng hậu, cách nhanh nhất là đi cướp bóc. Cách cướp bóc này có thể có tác dụng khuất phục được những nhóm người không chịu phục tùng, vậy thì sao lại không làm?

********************

Nguyệt Hoa Cung, Tiêu Hậu đang ngắm đứa con trai trắng mũm mĩm của mình. Nếu như có người nhìn thấy ắt sẽ không thể tin được. Trong con mắt của bọn họ, một hoàng hậu uy nghi vô hạn như vậy thì không thể nào có thể lè lưỡi giả quỷ để trêu chọc đứa trẻ nhỏ, rồi lớn tiếng cười khanh khách với nó như thế.

Đột nhiên đứa bé giướn mắt lên, nắm chặt lấy miệng, cái mũi nhỏ cứ phập phồng, Tiêu Hậu vì vụ việc nước Đường bị tiêu vong vẫn phải để cho nhũ mẫu chăm con, nên cũng không hiểu lắm ngôn ngữ của đứa trẻ. Nàng hiếu kỳ nghiêng ngó khuôn mặt nó, rồi đoán: “Cục cưng, có phải là muốn đi tè không?”

Mặt đứa bé đột nhiên giãn ra, đôi mắt sáng trở lại “Ai da, ai da”, Tiêu Hậu phi vội vàng tránh ra nhưng vẫn bị cu cậu tè vào tay. Tiêu Hậu vừa tức vừa buồn cười, sẵng giọng: “Tiểu tử thối này, muốn rắp tâm oán mẫu hậu có phải không?”

Tiêu Xước trước nay uôn ưa sạch sẽ, nào ngờ lại bị chính con mình tè vào, nàng vội lấy khăn lau sạch rồi đích thân thay tã cho nó. Đột nhiên bọn cung nữ vội chạy vào, đứng cạnh nàng hạ giọng nói: “Thái Hậu nương nương, Tây Vực có mật thư”.

“Hả” Mắt Tiêu Xước sáng lên, vội vàng đón lấy bức thư được đưa tới, dặn dò bọn cung nữ: “Hoàng thượng đi tiểu, gọi người vào thay quần áo cho người”.

“Dạ”

Tiêu thái hậu vội vàng quay lại thư phòng của mình, dùng dao mở lá thư, lấy từ trong ống tre ra một lá thư được gập lại, trên mặt lộ vẻ nửa cười nửa không: “Hừ, ngươi quả là biết chừng mực, trước nay không bao giờ đưa ra yêu cầu quá mức với ta”.

Nàng ngẩng đầu nhìn nhũ mẫu đang bận rộn ở phòng bên, lập tức đứng lên dặn dò: “Triệu Gia Luật Thể vào cung, gặp ta ở chính điện”.

Tại chính điện, Gia Luật Thể đã đến, hắn đoán chừng có việc gì gấp nên thái hậu mới gọi hắn vào gấp như vậy. Nay vua mới còn nhỏ tuổi, nội chiến ở Khiết Đan nổi lên không ngừng, chính sách của triều đình là nghỉ ngơi dưỡng sức. Duy hệ căn bản, không bưng bít, ngoại không chiến tranh, nội an ủi trăm bộ lạc, vị trí đại tướng thống lĩnh quân đội của hắn đúng là không có đất dụng võ.

Ngoài cung điện đã có tiếng truyền, Tiêu thái hậu đã đến. Tiêu Xước ngồi trên ngai, trong cung chỉ có duy nhất một người được gọi vào hội kiến, ắt cũng không phải là chuyện đùa. Gia Luật Thể chỉ nghe một tiếng lập tức đi tới trước ba bước, quỳ xuống hô lớn: “Thần Gia Luật Thể xin được yết kiến Thái hậu nương nương”.

Mắt hắn chỉ nhìn thấy áo bào của thái hậu như lóe sáng, còn mũi hắn thì ngửi thấy một mùi hương nhè nhẹ, tiếng nói của Tiêu hậu văng vẳng bên tai hắn: “Luật Thể đại nhân miễn lễ, bình thân”.

Sau khi Tiêu Xước đến bên án ngồi xuống, Gia Luật Thể cũng bước tới, cung cẩn nói: “Thần phụng chỉ đến, không biết thái hậu có điều gì dặn dò”.

Tiếng của Tiêu Xước như xé gió nói: “Luật Thể đại nhân, người điều binh của bộ tộc, cùng với một phần binh mã của Ngũ Kinh đến Vũ Thanh, Vĩnh Thanh, Hưng Thành vận động, thanh thế phải ngày càng lớn. Ngẫu nhiên qua sông Bạch Câu, Cự Mã, vào đến địa phận nước Tống cũng không có vấn đề gì”.

Gia Luật Thể giật mình kinh ngạc, thái hậu thì lại mỉm cười nói: “Không cần phải lo tìm danh nghĩa làm gì, cứ nói là phần tử xấu của Đức Vương chạy trốn sang nên triều đình phái quân truy bắt. Có điều lý do này không cần phải lộ ra, đợi đến khi sứ giả nước Tống đến nói chuyện mới lộ mặt”.

Gia Luật Thể cho rằng nước Tống sẽ dụng binh với Khiết Đan, hoặc là Khiết Đan sẽ dụng binh với nước Tống, nghe Tiêu Xước nói như vậy, hắn không thể hiểu nổi, không nén được mà rằng: “Thái hậu, thái hậu có ý gì vậy? Thần vẫn chưa rõ ý của người. Trong lòng có thắc mắc thần phải được giải đáp mới thấy thoải mái, để tránh xảy ra sai sót, làm hỏng chuyện của thái hậu”.

Tiêu Xước nói: “Nước Tống muốn dụng binh với nước Hán rồi, trẫm muốn khanh làm chỉ là để nước Tống kiềm chế lại, kéo dài thời gian, đợi đến khi ta nắm tốt rồi thì không thể không dụng binh với Tống”.

Gia Luật Thể ngạc nhiên nói: “Không phải thái hậu đã có quốc thư, hứa rằng sẽ không can thiệp vào chuyện của Tống phạt Hán hay sao? Hay là người đã thay đổi chủ ý, muốn bảo vệ nước Hán?”

Tiêu Xước lắc đầu: “Nước Hán vốn là một miếng bánh hỏng, không gì có thể đỡ nổi. Cứ cho là không hề có quốc hư thì tr ẫm cũng không có ý định can thiệp vào việc Tống dụng binh với Hán, hành động này chỉ là tranh thủ ít thời gian cho Dương Hạo ở Ngân Châu, Tây Bắc e rằng sắp có đại chiến rồi”.

Nhắc tới tình địch, Gia Luật Thểkhỏi không thoải mái: “Thái hậu, những ngày trước phạt thành Ngân Châu, thần đã bị tổn thất lục viện mà Dương Hạo chỉ việc ngồi hưởng thành quả, dành được Ngân Châu. Nay chúng ta còn giúp hắn như thế là vì lẽ gì?”

Tiêu Xước liếc đôi mắt đẹp của mình, nghiêm túc nói: “Phạt Ngân Châu, nếu như không có kế hoạch phá thành của Dương Hạo thì chúng ta còn thiệt hại nặng hơn là lục viện, cũng không chắc sẽ có được thành Ngân Châu đâu. Cái chúng ta cần không phải là lĩnh công. Nước Hán ngày một điêu linh, đa không thể đem lại lợi ích cho nước Tống nữa rồi. Ở Tây Bắc, chúng ta bắt buộc phải thiết lập một thế lực nâng đỡ. Triệu Quang Nghĩa đã cấu kết với Lý Quang Duệ, ngoài Dương Hạo ra thì chúng ta có thể dùng ai được đây? Gia Luật Thể đại nhân, trẫm hết sức coi trọng ngươi nên mới giao cho ngươi việc này, ngươi phải công tư phân minh đó”.

Tâm tư Gia Luật Thể đã bị thái hậu nhìn thấu, hắn không giấu được thẹn thùng, liền chắp tay vâng dạ nói: “Thái hậu dạy phải, thần đã biết sai rồi”.

*************************

Dương Hạo bận rộn cả một ngày, tinh thần mệt mỏi quay về phủ, ngồi nghỉ ở Hoa đình. Diệu Diệu và Oa Oa lập tức chạy lại, người thì dâng trà, người thì lại ngồi bên hắn, đặt chân hắn lên đùi mình rồi nhẹ nhàng đấm bóp.

Dương Hạo hớp hai ngụm trà từ tay Diệu Diệu rồi nằm ra ghế, hỏi: “Đông Nhi và Diễm Diễm đâu?”

Diệu Diệu xoa xoa bóp bóp đầu cho hắn, đáp: “Đại nương và nhị nương và đại tiểu thư đang đi tuần quanh thành rồi, ai nấy đều có mang theo binh khí, chung quy cũng đi được gần một canh giờ rồi, chắc cũng sắp quay trở lại”.

Dương Hạo “hừm” một tiếng, nhắm nghiền mắt để hưởng thụ cái nhẹ nhàng mềm mại của hai đôi bàn tay đang xoa bóp cho hắn, rồi lại hỏi: “Oa Nhi, thư trả lời quan gia đã được đưa đi rồi chứ?”

Oa Nhi đáp: “Theo ý của lão gia, nô gia được nhuận sắc một phen, lại cho lão gia sau khi xem xong ấn dấu vào đó, đã ngay lập tức chuyển đến kinh thành rồi”.

Dương Hạo gật gật đầu, không nói thêm gì nữa.

Lửa trong phòng đang cháy rất đượm, ấm áp như mùa xuân. Oa Oa và Diệu Diệu đều mặc một bộ quần áo ôm sát mỏng manh hình chữ Phúc, nom mỏng như cánh ve, Diệu Diệu thì có dáng điệu non nớt thuần khiết, còn Oa Oa lại xinh xắn dễ thương và có khuôn mặt như búp bê. Hai người uyển chuyển lạ thường, bộ ngựa căng phồng như muốn nứt ra, những đường cong mềm mại lả lướt, khiến cho mắt Dương Hạo như nóng rực lên.

Mấy ngày nay bận rộn, Dương Hạo đúng là rất mệt, nay lại được hai mỹ nữ ở bên, hắn đến chớp mắt cũng không dám. Oa Oa không nén nổi khẽ hóm hỉnh nói: “Lão gia mấy ngày nay vất vả rồi, các bộ tộc,các tù trưởng đã lục tục đi rồi, lão gia còn có chuyện gì thì giao cho Phạm đại nhân, Từ đại nhân cũng được, chàng nghỉ ngơi dưỡng sức chút đi”.

Dương Hạo thở dài nói: “Không nghỉ ngơi được, ngày mai ta sẽ bí mật rời khỏi Ngân Châu, Lân Châu, Lô Châu, Phủ Châu, đều phải đi một chuyến. Đại chiến sắp tới rồi, còn cần phải làm nhiều việc quá, mà trời chỉ sinh cho có một cái mạng phàm này…”

 Chương 450: Hợp tung

Thành Lân châu, từ lúc Hỏa Sơn Vương Cổn tự phong là thứ sự Lân châu, chiếm cứ thành này, thành này lại được gọi là Dương gia thành. Men theo khu vực sông hình lòng chảo ngược dòng lên thượng du bốn mươi dặm, trên một toàn núi cao cao, chính là đại bản doanh Dương gia thành của Lân châu Dương gia.

Gió lạnh gào rít, tuyết lớn tung bay, bốn bề là một mảng mênh mông vắng vẻ, trong khúc sông vắng bóng người ngay cả chim tước cũng khó gặp, lúc này lại có một đám đại hán đeo cung vác tên, hông dắt bội đao đội gió đạp tuyến, men theo lũng sông đã khô cạn mà đi như bay, vó ngựa lộp cộp, nhanh chóng bị gió tuyết cuốn đi, từ xa xa chỉ có thể thấy một hàng bóng đen.

Vào thời tiết lạnh lẽo như thế này, các bách tính đại đa số đều trốn ở trong nhà, người đi lại trên đường rất ít, ngay cả chim tước cũng bay hết, nhưng cũng không có bất kỳ ai chú ý tới hành tung của bọn họ. Đoàn kỵ sĩ này lúc tiến vào trong vòng năm mươi dặm ngang dọc Dương gia thành liền lọt vào thị tuyến của tai mắt của Dương gia. Tin tức nhanh chóng được đưa về Dương gia thành, nhưng lại không có ai bước ra ngăn cản bọn họ, chỉ có hơn năm mươi người, cho dù là cung mạnh ngựa lớn, ai ai cũng thiện chiến thì cũng không thể sản sinh ra uy hiếp gì cho thành Lân châu, cho nên bọn họ rất thuận lợi đi tới dưới thành Lân châu.

Lân châu là một nơi người Hán thống trị người Hồ, người Hồ thống trị người Hán, chư tộc tạp cư, có điều nơi này lấy nông canh làm chủ, kiến trúc thành trì cũng theo phong cách của dân tộc nông canh. Khi tới gần thành Lân châu, bình nguyên phía khúc sôngvây quanh hai bên núi kéo dài ra, bờ ruộng ngang dọc, khi tất cả bị bao bọc trong tuyết lớn, đứng ở dưới chân núi nhìn lên, chỉ thấy một tòa thành hùng vĩ trên đỉnh núi, tường thành được xây từ thời Tần Hán Tùy Đường cùng vớn phong hỏa đài chung quanh đầu tường liền thành một thể chạy dài, dò xét bốn phương tám hướng, nhìn rất là hoành tráng.

Sớm đã có người đợi ở sau cửa thành, đoàn người hơn chục người đó xuống ngựa, dắt ngựa vào thành, đi tới gần nói chuyện một lúc với người được cử ra tiếp đón, đầu thành liền hạ cầu treo xuống, đoàn người nối đuôi nhau tiến vào, chậm rãi đi vào thành bảo, cầu treo lại được kéo lên, vùng sơn dã lại quay về cảnh vắng lặng, chỉ có gió tuyết gào thét.

Trong phòng khách của Dương gia, ống thông bếp xây ngầm dưới đất, cả gian phòng ấm áp dễ chịu, hơi nóng lan tỏa. Dương Sùng mặt mày đầy vẻ kinh ngạc nhìn vị quý khách đặc biệt, mặt đầy phong sương này, nói: "Triều đình đã hạ quân lệnh, ít ngày nữa sẽ xuất binh phạt Hán. Vi huynh đang trù bị việc này, đoán rằng tam đệ cũng bận rộn công vụ, thực sự không ngờ tam đệ lại tới chơi vào lúc này, quả thật là có chút bất ngờ.”

Dương Hạo mỉm cười, nói: "Tiểu đệ tới thăm tất nhiên là bất ngờ, mà đại sự muốn bàn bạc với huynh có thể còn bất ngờ hơn nữa kìa."

Dương Sùng hơi biến sắc, vội vàng nói: "Hiện đệ đi đường cực khổ rồi, nào, chúng ta vào thư phòng ngồi đi, có chuyện gì thì để từ từ rồi nói."

Hai người tiến vào thư phòng, ngồi đối diện nhau, Dương Hạo cầm chén trà nóng, mắt nhìn Dương Sùng, trậm giọng nói: "Nhị ca, đệ đã nhận được lệnh điều động của xu mật viện, ít ngày nữa phải thống binh xuất chinh, lần này cấp bách tới đây bí mật hội kiến huynh trưởng, thực sự là có một chuyện rất quan trọng liên quan tới sự đổi thay của chính cục Tây Bắc muốn thương nghị với huynh."

Dương Sùng thấy vẻ mặt của hắn rất nghiêm tục, cũng không khách sáo nữa, rướn người lên trước, chăm chú bảo: "Hiền đệ nói đi."

Dương gia đối với sự ghé thăm của những quý khách này, bảo trì cơ mật cao độ, trong thành Dương gia không có mấy người biết được quý khách tới thành là ai, ba mươi năm mươi kỵ sĩ vào thành, trong mắt bách tính bình thường, đại khái chẳng qua là võ sĩ bình thường được phái ra ngoài thành di tuần tra trở về mà thôi, cho nên cũng chẳng có ai quan tâm.

Cửa thư phòng của Dương Sùng được đóng rất chặt, qua một tiếng đồng hồ mới được lặng lẽ mở ra.

Dương Hạo cáo biệt rời đi, Dương Sùng tự mình tiễn ra khỏi thành, một đoàn người lại ngựa không dừng vó, vội vàng phóng về phía nam.

"Đại nhân, Dương đại nhân có đáp ứng yêu cầu của đại nhân không?"

Tuyết vẫn đang rơi, gió tuyết gào rít ùa vào mặt, Mục Vũ mở cái khăn che tai mồng miệng ra, đuổi theo Dương Hạo, lớn tiếng hỏi.

Dương Hạo cười lạnh, trầm giọng bảo: "Dương Sùng chung quy bá lực có hạn, ta nhờ hắn tập kết trọng binh, vào lúc binh mã của Lý Quang Duệ vây khốn thành ở Ngân châu, công thủ đều thiếu thì xuất binh công kích, nhưng hắn chung quy vẫn không hạ được quyết tâm chính diện chiến đấu với Lý Quang Duệ. Hắc! Có lẽ Dương Sùng hắn vốn cũng tính là hào kiệt một phương, có điều núp bóng Chiết thị lâu ngày cho nên hào khí đều mai một hết rồi."

Mục Vũ giật mình thốt lên: "Vậy không phải là chỉ có dựa vào thành mà tử chiến ư? Vạn nhất..."

Dương Hạo nói: "Dương Sùng chỉ là dưới dâm uy của Lý Quang Duệ, không dám rời khỏi căn cơ độc lập quyết định thắng bại với Tây Bắc vương, cũng không đến nỗi sợ đầu sợ đuôi một lòng khư khư giữ mình. Hắn đã đồng ý bố trí trọng bình ở khu vực Trường thành, một khi Ngân châu không thể thủ, binh trong thành ta có thể đột vây về phía đông, lúc đó hắn sẽ xuất binh tiếp ứng, tiếp nhận quân dân Ngân châu của chúng ta vào Lân châu."

Mục Vũ thở phào một hơi, nói: "Vậy thì còn đỡ, nếu ngay cả một con đường lui cũng không có, thuộc hạ thực sự là rất lo lắng."

Dương Hạo lại lắc đầu, lớn tiếng nói: "Ta thì rất thất vọng, Đảng Hạng thất thị tuy đã hiệu trung đối với ta, nhưng trong bộ tộc của Đảng Hạng thất thị chắc gì đã không có nội gián của Lý Quang Duệ, tin tức cơ mật thì bọn chúng không thám thính được, nhưng đại đội nhân mã hành quân điều động, hành động bố trí mai phục thì nhất định không giấu được hắn, tác dụng của Đảng Hạng thất thị chỉ có thể bức Lý Quang Duệ phải sử dụng hết tinh nhuệ chứ không thể mang tới sát thương hữu hiệu. Duy có xuất ra nhánh kỳ binh khác, mà nhánh kỳ binh này, ta vốn là hi vọng ở Lân châu Dương Sùng, nếu ta có thể thuận lợi chiếm được Hạ châu, đại quân của Lý Quang Duệ ở bên ngoài, nhánh sinh lực quân này vẫn chưa chịu tổn thất bao lớn, nếu Lân châu vào lúc khẩn yếu quan đầu xuất kỳ binh tương trợ, ít nhất thì cũng có thể ngăn cản được Lý Quang Duệ, lúc này binh mã tam phiên phạt Hán của ta vội vàng quay về tiếp viện, trong ứng ngoài hợp với quân phòng thủ ở trong thành, nói không chừng bằng vào một trận chiến có thể đanh bật được tên Tây Bắc vương Lý Quang Duệ này, Dương Sùng không đủ can đảm, không nỡ bỏ vốn, thả hồ về rừng rồi lại phải thu thập hắn, e rằng là sẽ rất phi sức."

Chiến mã phi nhanh, rời khỏi lòng sông.

Dương Hạo quay đầu ngựa lại, nhìn tòa thành bảo nguy nga meo theo Trường thành, đột nhiên bật cười, lạnh lùng nói: "Chẳng trách Dương gia của hắn một mức ở dưới Chiết gia, lòng dạ lớn bao nhiêu thì trời đất lớn bấy nhiêu, Dương Sùng kiến lập không đủ mà thủ thành cũng hiềm không đủ. Tòa Dương gia thành này từ xưa đã gọi là thành Lân châu, lân giả, kỳ lân, đáng tiếc..."

Hắn vô thức liếc về phía Hán quốc, trong phạm vi tầm mắt có thể lướt tới, toàn là một mảng trắng xóa, trời đất hòa thành một màu, sắc trời càng âm trầm hơn. Dương Hạo quay đầu ngựa lại, vung roi quát lớn: "Tiếp tục lên đường, tới Lô châu."

Quan viên lưu thủ Lô châu từ lúc Dương Hạo chuyển trọng tâm thống trị sang Ngân châu thì rất là thanh nhàn, nhưng trong khoảng thời gian này thì đặc biệt bận rộn, các loại công tác chuẩn bị rút quân dưới tình huống mà bách tính bình thường không biết gì đang được khua chuông gióng trống chuẩn bị.

Xưởng chế tạo vũ khí ở hậu sơn đã hoàn toàn đóng cửa, tất cả thợ thủ công, học đồ, máy móc, dưới sự dẫn dắt của Lý Hưng, toàn bộ do một nhánh quân đội hộ tống đi, hiện giờ đã di chuyển tới sâu trong Trà sơn. Lần di dời này, Dương Hạo đã không định lại chuyển bọn họ về nữa. Quặng sat mà bọn họ sử dụng vốn là từ Trà Sơn đưa tới, phí vận chuẩn rất lớn, hiện giờ một giải từ Lô châu tới Ngân châu đều nằm trong sự khống chế của hắn, xưởng chế tạo quân giới có thể trực tiếp xây ở Trà sơn, không cần phải lưu lại đây nữa. Đồng thời, quân đội tiếp nhận huấn luyện ở Lô châu cũng bí mật tiến hành tập kết, tùy thời chuẩn bị nhổ trại khởi hành tới Ngân châu để tăng cường phòng ngự cho Ngân châu. Ở giữa Lô châu và Ngân châu, nếu nhất định phải lựa chọn lấy hay bỏ, Dương Hạo không nghi ngờ gì nữa sẽ lựa chọn Ngân châu. Tuy nói Lô châu là nơi phát tài của hắn, nhưng nơi này vốn không thích hợp để làm một tòa thành trì nhằm tiến hành mở rộng và phát triển không ngừng, chỉ giao thông thôi cũng là một vấn đề lớn làm hạn chế tới sự phát triển rồi.

Nếu như đóng ở đây, cũng chính là bị nhốt ở đây, nông nghiệp chăn nuôi không thể thành chủ lưu, mà công thương nghiệp cũng chỉ chiếm được hoàn cảnh đặc thù, lợi thế vị trí đặc thù, hiện giờ Dương Hạo và hai nhà Chiết, Dương đã chính thức kết minh, Đảng Hạng thất thị cũng cờ xí liên minh ngả về phía Dương Hạo, Lô châu đã kết thúc sứ mạng lịch sử của nó rồi, ưu thế vốn có đã không còn nữa.

Còn bách tính Ngân châu, Dương Hạo tạm thời vẫn không định kinh động, để tránh dẫn tới sự chú ý của người khác. Án chiếu theo lẽ thường, Ngân châu là nơi mà Lý Quang Duệ tất phải đòi lại, Lý Quang Sầm vốn là nhân vật là Lý Quang Duệ ắt phải diệt trừ, thành này người này hiện giờ đều ở Ngân châu, khả năng hắn chia binh đánh Lô châu hoặc là trước tiên tới công đánh Lô châu cơ hồ là không có, ai mà không hiểu dùng binh quý ở thần tốc? Cho dù Lý Quang Duệ muốn đánh Lô châu, đó tất nhiên cũng là chuyện sau khi hắn công hãm được Ngâu châu đã.

Nhưng không sợ nhất vạn, chỉ sợ vạn nhất, phòng bị tất yếu thì vẫn phải có, nếu Hạ châu thật sự phát binh đánh Lô châu, không thể hấp tấp ứng chiến được, như vậy sẽ làm hại tới bách tính. Cho nên các quan viên dân chính đã bắt đầu thực hiện các bước chuẩn bị rút lui, sản phẩm công thương và dê bò vật tư còn tồn đọng và thậm chí là bãi chăn nuôi của Lô châu cũng đã toàn bộ được dời tới Ngân châu. Dương Hạo vốn định xây dựng Ngân châu trở thành trọng tâm kinh tế của hắn, làm như vậy cũng không đến nỗi quá khiến người khác chú ý. Đồng thời bọn họ cũng làm ra một lượng lớn xe ngựa xe bò, người không biết tình hình còn cho rằng đây là có nhiều vật tư phải bắt đầu vận chuyển, trên thực tế là để chuẩn bị cho cuộc rút lui với quy mô lớn, một khi binh mã Hạ châu công đánh Lô châu, các bách tính có thể rút lui gọn nhẹ, nhanh chóng rút tới cảnh bội Phủ châu.

Chùa Khai Bảo, trong sân của Đạt Thố Lạt Ma.

Một gian thiện phòng, hương định thần tỏa khói lượn lờ, một tăng nhân trọc đầu mặc cà sa màu đỏ đang khoanh chân nhập định, hơi thở kéo dài.

Cửa được mở ra, một đôi giày da hươu nhẹ nhàng giẫm lên tuyết hoa tung bay ngập trời bước vào, một bóng mặc áo lông thú mày trắng cộc tay hiện ra.

Nàng ta đứng ở ngoài cửa, nhìn tăng nhân đó một cái, tăng nhân khoanh chân ngồi trên bồ đoàn, hai tay đặt lên đầu gối. Nếu như không phải là theo sự hô hấp của hắn mà ngực không ngừng phập phồng, thì thật sự có thể bị người ta coi là một pho tượng Phật được đúc bằng đồng rồi.

Trúc Vận cắn môi nói: "Người của Phi Vũ đều đi rồi, một giáo viên như ta hiện giờ cũng không còn gì làm, ngày mai... phải tới Ngân châu rồi."

Hòa thượng đó vẫn bất động, Trúc Vận nhướn mày, rồi lại chậm rãi bình thản hỏi: "Ngươi có bằng lòng cùng tới Ngâu châu với ta không?"

Hòa thượng vẫn bất động, ánh mắt của Trúc Vận từ từ chuyển về phía bức tường, trên tường treo một bức Đường tạp. Đó là một bức Đường tạp làm bằng tơ lụa, lấy ngọc trắng làm trục ngang, ba cạnh còn lại thì bên mép điểm trân châu, lộ ra vẻ quý giá dị thường, trên Đường tạp được che một lớp lụa mỏng khiến người ta không thể nhìn rõ nội dung của bức tranh.

Nhưng Trúc Vận biết bên trên đó vẽ cái gì, đó là họa tượng của một ni cô, một ni cô trẻ tuổi, mặt mày như tranh, thanh thuần như nước. Họa tượng vẽ rất sinh động, vẻ mặt thẹn thùng lại mang theo sợ hãi đó đã làm nổi bật ra hết vẻ ôn nhu và thiện lương của nàng ta. Khi Trúc Vận lặng lẽ tiến lại gần thì nhìn thấy hòa thượng đó đã đứng trước Đường tạp, vén tấm lụa mỏng che bên trên ra, nhìn chằm chằm vào họa tượng, rơi nước mắt gọi tên ni cô đó: "Thủy Nguyệt, Tĩnh Thủy Nguyệt...."

Trúc Vận rất cảm phục sự si tình của hắn, chính bởi vì phần si tình này của hắn, Trúc Vận từ một người không biết ái tình là gì đã lần đầu tiên động lòng với một nam nhân. Nhưng nàng ta lại cũng rất thống hận sự si tình của hắn, từ năm mười hai tuổi lần đầu tiên giết người, nàng ta đã thấy qua quá nhiều sinh tử, tưởng nhớ người thân đã mất thì không có gì sai cả, nhưng không cần phải vì một người đã chết mà khiến một người đang sống cũng biến thành sống dở chết dở.

Trúc Vận nghĩ thông nhưng lại không thể khuyên bảo được Bích Túc, càng không biết nên thổ lổ một phần tình cảm mới phát sinh của mình đối với hắn như thế nào. Hắn ta há lại không biết tình ý của mình đối với hắn? Nhưng mình sao lại đi tranh đoạt trái tim hắn với một nữ nhân đã mất rồi?

Trong thiện đường vô cùng yên tĩnh, hương định thần bốc khói xanh nghi ngút, tỏa hương vị khiến tâm trí được tĩnh lặng ra khắp cả thiện phòng. Hai mắt của Trúc Vận chầm chậm dấy lên một lớp sương mù, nàng ta cắn chặt môi, nàng ta đã rất lâu rồi không khóc, hiện tại cũng không muốn mất mặt, đặc biệt là trước mặt một nam nhân hỗn trướng, nàng ta đột nhiên quay người bỏ đi.

"Trúc Vận cô nương!" Hòa thượng đó đột nhiên lên tiếng, hai mắt mở ra, ánh mắt trong veo, thân nhàn khí định, bảo tướng trang nghiêm. Bích Túc ngày trước là kẻ trộm tài trộm sắc, ở thiện viện của chùa Khai Bảo này tung hành một ngày một đêm, tiềm tâm Phật đạo, thần tình khí chất không ngờ đã có biến hóa thoát thai thoát cốt, bất kỳ ai nhìn thấy hắn đều sẽ không còn chú ý tới dung mạo thanh tú, khuôn mặt giống như nữ tử khóc cười của hắn nữa mà sẽ bị khí chất thần thánh trang nghiêm của hắn làm cho chấn động. Tay chắp thành hình chữ thập, chậm rãi nói: "Niệm Nguyệt hiện giờ đã dứt bụi trần, mỹ ý của cô nương, bần tăng xin tâm lĩnh."

Trúc Vận dừng chân một lúc lâu rồi đột nhiên cười lạnh một tiếng, giống như một cơn gió biến mất ở ngoài cửa, chỉ có gió thổi tuyết phất phơ bay xuống, nhẹ nhàng che đi dấu chân mờ mờ của nàng ta.

"Hoạt Phật, lần này ta dẫn binh phạt Hán, Hạ châu tám chín phần mười sẽ tới đánh ta, hiện giờ ta đã đưa nghĩa phụ tới Ngân châu rồi, chắc rằng Lô châu cũng chẳng có vật mà hắn muốn nữa, chưa chắc sẽ động binh với nơi này. có điều không sợ nhất vạn, chỉ sợ vạn nhất, sự an nguy của Hoạt Phật là quan trọng, bản soái đã an bài khoái mã và xa giá rồi, lại lệnh cho mật thám tỏa ra khắp nơi, giám thị nhất cử nhất động của Hạ châu, nếu Lý Quang Duệ có ý đồ dụng binh đối với Lô châu, có thể dùng tốc độ nhanh nhất thỉnh Hoạt Phật khởi giá, tạm lánh tới Phủ châu.

Đạt Thốt Hoạt Phật cười sang sảng, nói: "Pháp vương vung tay giành Ngân châu, từ lúc đó, ta đã biết rằng Lý Quang Duệ sớm muộn gì cũng sẽ tới. Pháp vương có biết bao đại sự quân chính phải lo, không cần lo cho ta làm gì. Ta sẽ sống ở trong chùa Khai Bảo này, không đi đâu cả, trong chùa trên dưới có một ngàn năm trăm tăng chúng, cũng đều không thể tan rã được."

Ông ta cười ngạo nghễ, hờ hững nói: "Lý Quang Duệ có cuồng vọng đến mức nào đi chăng nữa thì chung quy cũng là hào cường một phương, lợi hại được mất, hắn chắc biết cân nhắc. Loại chuyện ngu ngốc được không bằng mất, hắn sẽ không làm đâu. Ta dù ở lại đây, chắc rằng hắn cũng sẽ không đụng đến một sợ lông của ta đâu, càng không dám xua binh vào trong chùa Khai Bảo của ta nửa bước, pháp vương cứ yên tâm."

"Cái này..."

Dương Hạo hơi do dự một chút, Đại Thố Hoạt Phật lại nhoẻn miệng cười: "Dịch kinh quán hiện giờ đã xây xong rồi, đã có được hai mươi mốt quyển Phạn kinh, lại có kỹ thuật in ấn mà pháp vương nghiên cứu sáng tạo ra, rất nhất sẽ có thể in ra nhiều bản, ta đã gửi lời mời tới Hoạt Phật ở bốn phương, vào ngày rằm tháng tư, trong thời gian Phật Đản ta sẽ mở lễ khánh chúc ở chùa Khai Bảo, tới lúc đó ta sẽ tặng Phạn kinh mới in cho chư vị Hoạt Phật. Đại sự công đức vô lượng như vậy, vào lúc khẩn yếu quan đầu này, ta tuyệt không rời khỏi đây đâu, pháp vương đừng khuyên nữa.

Còn nữa, trạch thư quán, ấn thư quán, tàng thư quán của ngài cũng không cần phải di dời, chúng đều được xây ở trong chùa Khai Bảo của ta, lão nạp sẽ bảo đảm cho sự an toàn của chúng. Ha ha, Lý Quang Duệ là một kẻ vũ phu, những thứ này ở trong mắt ta và ngài thì là trân bảo, nhưng Lý Quang Duệ thì chẳng buồn chú ý đâu. Pháp vương có nhiều đại sự phải làm, cứ việc đi làm đi.

Còn chuyện quân chính, người xuất gia như ta không giúp được gì cả, có điều tín đồ Phật của ta rất đông, lão nạp sẽ lệnh cho đệ tử tới Hạ châu, nếu pháp vương thuận lợi giành được Hạ châu,việc an ủi dân chúng, khắc phục hậu quả, bình định địa phương đã có những đệ tử này của ta lên tiếng kêu gọi các tín đồ ở Hạ châu, đối với pháp vương ít nhiều cũng có chút giúp đỡ. Ha ha, có một số chuyện phải dùng đao kiếm mới có thể giải quyết, nhưng có một số chuyện thì đao kiếm chưa chắc đã giải quyết được đâu."

Dương Hạo đứng dậy, cung kính chắp tay thành hình chữ thập, nói: "Vậy thì cám ơn Hoạt Phật rồi."

"Pháp vương không cần phải khách khí."

Tư Âm Hoạt Phật cũng mỉm cười đứng dậy: "Lão nạp còn đợi pháp vương nhất thống tây vực, Mật tông trung thổ của ta sẽ theo còn đường này mà truyền bá ra phương tây, khai hoa kết quả, trải khắp thiên hạ, reo xuống đại công đức bất thế. Ma Hà Già La, Mã Cáp Dát Lạp."

Trên sườn núi, trong hầm trú, Trúc Vận một chân giẫm lên ghế, uống cạn một bát rượu lớn, dùng mu bàn tay lau miệng đọng trên khóe miệng, trừng đôi mặt hạnh lên quát ra ngoài: "Là ai lén la lén lút trốn ở bên ngoài thế hả, lăn vào đây cho ta, nếu không đừng trách bản cô nương không khách khí."

Vừa nói cổ tay của nàng ta vừa rồi lên, trong lòng bàn tay đã xuất hiện một thanh phi đao sắc bén.

Dương Hạo theo tiếng hiện thân, hành lễ mỉm cười, nói: "Trúc Vận cô nương, ta vừa mới tới chùa Khai Bảo, Niệm Nguyệt thiện sư ta cũng đã gặp rồi, ài, lúc trước ta vốn muốn mượn Phật pháp để hóa giải sát khí trong người hắn, thực không ngờ..."

Đao trong tay Trúc Vận đã không thấy đâu, nàng ta đưa tay ra, ngăn không cho Dương Hạo nói tiếp, hừ lạnh bảo: "Niệm Nguyệt niệm kinh cái rắm ý, đừng có nói với ta, làm bẩn tai bản cô nương."

Dương Hạo không khỏi nghẹn lời, Trúc Vận cầm bình rượu lên, rót một bát đầy, vỗ ngực nói: "Đừng có nói những lời vô thưởng vô phạt với ta nữa, ngươi nếu uống rượu thì bản cô nương hoan nghênh, nếu cho rằng bản cô nương đang ở đây khóc lóc, tìm chết tìm sống thì biến đi cho, Cổ Trúc Vận đời này không bao giờ sống kiểu như vậy đâu!"

Dương Hạo xoa xoa mũi, Trúc Vận lại hỏi hắn: "Sao? Có uống hay không đây?"

Dương Hạo cười rất thoải mái, bước tới ngồi đối diện với Trúc Vận, lớn tiếng nói: "Được, uống thì uống, bát đâu?"

Trúc Vận không vui trợn mắt lườm hắn: "Để làm gì, dùng bát mà ta đã uống thì không được à? Cùng với một con ma men thì giảng đạo ý làm gì?" Dương Hạo thấy nàng ta đã ngà ngà say, chỉ đành nghe lời cầm bát lên, vừa đưa tới miệng thì đột nhiên nói với vẻ lo lắng: "Trúc Vận cô nương, tửu phẩm của cô có tốt không đó?"

"Để làm gì?"

"Cô nếu uống sau rồi thích đánh nhau, vậy bản thái úy có thể phụng bồi, nhưng nếu uống say rồi lại khóc khóc cười cười, thở ngắn than dài rồi lại cứ bắt ta ngồi nghe cố sự thì ta thực sự là không có thời gian đâu."

Trúc Vận bật cười, bỏ cái chân đang đặt trên ghế xuống rồi ngồi xuống, vỗ ngực nói: "Ngươi yên tâm đi, tửu phẩm của bản cô nương so với ngươi thì tốt hơn nhiều, ta sau khi uống say không khóc cũng không làm loạn, so với lúc tỉnh thì còn nhã nhặn hơn cả trăm lần, người vẫn không tin lời cha ta nói ư?"

Dương Hạo thấy yên tâm rồi, hắn bảo: "Vậy thì tốt, vậy thì tốt, nào, ta trước tiên kính cô một chén." Nói xong liền cầm chén lên uống cạn.

Trúc Vận vui vẻ khen: "Thế mới là đàn ông chứ, bình thường ngươi ngồi ở cửa nha môn ra vẻ đạo mạo lắm, bản cô nương nhìn chẳng vừa mắt chút nào. Nào, ta tiếp ngươi một chén."

Nàng ta cầm binh rượu lên rót đầy một bát, tự mình uống cạn sau đó lại đổ đầy, đẩy tới trước mặt Dương Hạo, rất hào sảng, nói: "Tới lượt ngươi!"

Dương Hạo cầm bát lên, đưa bát lên tới miệng thì lại bỏ xuống. Trúc Vận trừng mắt lên, nói: "Sao?"

Dương Hạo nói: "Kỳ thực, ta tới chùa Khai Bảo là.... là có một việc muốn nhờ cô giúp đỡ, về sau lại sợ cô tâm tình không tốt cho nên định để sau. Nhưng ta hành trình vội vàng, sáng sớm ngày mai phải về Ngân châu rồi, nhất thời bán hội không tìm được nhân thuyển tốt, bởi vì nữ tử bình thường rất coi trọng thanh danh, sợ là sẽ không tình nguyện. "

Trúc Vận thấy phiền phức, bảo: "Là một đại nam nhân sao lại ấp a ấp úng như đàn bà vậy, rốt cuộc là có chuyện gì, ngươi nói ra mau đi, làm ta sốt ruột muốn chết rồi đây này."

Dương Hạo vẻ mặt ngưng trọng, nói: "Là thế này, người mà không tính xa thì ắt gặp lo gần. Bốn phủ Ngân, Lân, Lô, Phủ hợp tung, cục diện chỉ hạn chế ở cái xó Tây Bắc, chung quy cũng khó thành đại khí, chiến tuyến này vẫn phải tiếp tục mở rộng về phía nam mới được. Ta có một chuyện tốt nhất để huynnh đệ tiểu Lục và Thiết Ngưu của ta đi làm, nhưng bọn họ nếu rời đi, ngoài mặt sẽ không thể tiếp tục bảo trì mối quan hệ hiện tại với ta, để tránh vạn nhất bị người ta vạch trần thân phận, ta đã tìm ra một cái cớ hợp lý để "đuổi" họ đi."

"Dừng dừng dừng!" Trục Vận đau đầu không thôi, vỗ trán cầu xin: "Dương đại nhân, đừng có nói dài dòng như vậy với bản cô nương nữa, ta nghe mà đau đầu lắm, ngươi cứ nói với ta, muốn ta làm gì là được rồi."

Dương Hạo cười nói: "Ta là muốn nhờ cô phối hợp chế tạo ra một hiện tượng giả là tiểu Lục và Thiết Ngưu nổi lòng dâm tà, có ý đồ bất chính với cô, sau đó ta sẽ thực hiện quân kỷ một cách nghiêm khắc, cùng với bọn "cắt áo bào đoạn tuyệt tình nghĩa", rồi đuổi bọ họ đi."

"Ồ!" Trúc Vận đột nhiên hiểu ra, vỗ đùi nói: "Ta còn tưởng là đại sự gì chứ? Chỉ có thế thôi à? Không phải chỉ là đóng giả một nữ tử yếu đuối để người ta khi phụ thôi ư? Lúc đi giết người, loại kịch này ta cũng đóng không ít lần, chuyện nhỏ thôi mà, có gì đâu. Chúng ta trước tiên cứ uống rượu thống khoái đã rồi nói sau."

Dương Hạo mừng rơn, vội vàng gọi Mục Vũ vào, dặn dò hắn mấy câu, sau đó cầm bát lên, mặt mày tươi cười nói: "Cạn!"

...

"Đây, đây là nơi nào vậy?"

Dương Hạo hoa mày chóng mắt, chỉ cảm thấy trước mặt tất cả đều đang quay cuồng, hắn cũng biết là ai đang đỡ mình, chỉ cố gắng thì thào hỏi.

Tửu lượng của hắn tuy không tính là tốt, nhưng cũng không đến nỗi tồi, nhưng việc rong ruổi đường dài khiến thể lực bị tiêu hao là điều không thể tránh khỏi, người thân thể cực kỳ mệt mỏi cũng rất dễ say rượu. Dương Hạo hiện giờ mí trên vật lộn với mí dưới, đã sắp ngủ đến nơi rồi, kể ra thì tửu phẩm của hắn cũng rất tốt.

Trúc Vận cô nương tửu phẩm so với hắn còn tốt hơn, uống rượu say rồi còn nhã nhặn hơn cả lúc chưa uống hai mắt sáng lên, nàng ta túm Dương Hạo chân nọ đá chân kia đi về phía trước, vừa đi vừa nói: "Kêu cái gì mà kêu, chúng ta tới bờ sông câu cá nào."

Dương Hạo tuy rằng chân tay đã không nghe theo sự sai bảo, nhưng ý thức vẫn còn chút tỉnh táo, hắn líu cả lưỡi, lắp bắp nói: "Trời trời hình như rất tối rồi thì phải?"

"Tối rồi tối rồi, chúng ta chưa ngủ, chắc cá cũng chưa ngủ đâu?"

Trúc Vận kéo Dương Hạo, đã quẹo vào trong cái ao cỏ lau ở bên ngoài thành Lô châu, phía sau là ba tên gia hỏa lén lút đi theo, một người là thiếp thân thị vệ Mục Vũ của Dương Hạo, hai người kia đương nhiên chính là Loan Đao tiểu Lục và Thiết Ngưu phụng mệnh tới dở trò bất chính.

Bọn họ đã ý đồ bất chính một lần rồi, kết quả là bị đánh cho mặt mũi bầm dập, Thiết Ngư trán thì u lên một cục to như cái bánh báo, giống nhưà lão Thọ Tinh vậy, trên cái mặt rỗ Loan Đao tiểu Lục thì có một dấu tay đỏ hồng, miệng thì tím xanh một khối. Bọn họ còn chưa kịp nói một câu bẩn thỉu nào thì đã lãnh đủ sự bạo lực của Trúc Vận rồi, kết cục làm phiền nàng ta uống rượu không ngờ lại thê thảm như vậy. Tiểu nữ này uống sau rồi tuy rằng không động tới binh khí, nhưng một đôi phấn quyền thì lại đánh cho hai người đến cả mẹ mình cũng nhận không ra.

Sau đó, Trúc Vận cô nương tửu phẩm càng lúc càng tốt uống sạch cả vò rượu, rồi lôi Dương Hạo từ dưới gầm bàn lên, hưng phấn bừng bừng đòi đi câu cá. Kể ra, so với những hành động đánh đánh giết giết thường ngày mà nàng ta hay làm, câu cá quả thực là một chuyện rất văn nhã, chỉ có điều, lúc này thực sự là hơi tối một chút.

Thiết Ngưu ôm mặt, thảm thương nói: "Trời lạnh như thế này, Trúc Vận cô nương không nên kéo đại nhân đi câu cá, chúng... chúng ta cứ một mực đi theo thế này à?"

"Không đi theo thì biết làm gì." Loan Đao tiểu Lục tức giận hừ một tiếng.

Thiết Ngưu mặt mày khổ não nói: "Vậy... vậy thì theo thôi."

Dương Hạo bị Trúc Vận kéo tới mặt băng, ngồi dựa lưng vào nhau, Dương Hạo cố mở mắt ra nhìn xung quanh, líu lưỡi nói: "Tới rồi à? Cần câu đâu? Móc câu đâu? Đưa cho ta một ít mồi đây!"

Trúc Vận cô nương vỗ trán, cười rất ngô nghê: "Ngươi sao không nói sớm, ta hình như quên mất rồi."

Dương Hạo trượt trên mặt băng, hàm hồ nói: "Vậy... vây cô câu đi, ta đi ngủ trước đây."

"Ngủ cái gì mà ngủ, không cho ngù." Trúc Vận giữ hắn lại: "Hay là chúng ta ngâm thơ đi? Ta rất thích ngâm thơ đó. Khụ! Tuyết lớn đổ ào ào, trắng phau như hoa lau. Ê, ngươi tiếp hai câu đi."

"Khò khò!"

Trúc Vận bĩu môi trông rất thục nữ: "Chẳng ra làm sao cả, ngươi đã bỏ mặc ta thì ta ngồi đếm sao. Tối nay ta nhất định có thể đếm ra hết số sao trên trời, một ngôi, hai ngôi, ba ngôi, bốn ngôi."

Ba người nằm trong ổ tuyết, quay sang nhìn nhau, dở khóc dở cười, Mục Vũ che miệng, lo lắng nói: "Mặt băng có chắc không đấy? Nếu đại nhân rơi xuống hố băng thì làm thế nào đây?"

Thiết Ngưu nói: "Tiểu Lục nhi, chúng ta.... có... có phải phi lễ nữa không?"

Tiểu Lục nhi tức giận nói: "Nàng ta càng say càng nhanh nhẹn, ngươi có bản sự phi lễ người ta không? Ta đang lo là nàng ta liệu có phi lễ với đại ca của chúng ta không kìa?"

 Chương 451: Bố cục

Dương Hạo cùng tiểu Lục nhi và Thiết Ngưu chậm rãi đi tới đám lau sậy, hắn tự mình bôi thuốc kim sang lên vết thương bị roi quất ở trên lưng hai người. Thân hình của hai người vốn rất săn chắc, lại trải qua nhiều phen rèn luyện ở Khiết Đan và Lô châu, càng lộ ra vẻ cường kiện hơn, hai tên thiếu niên vốn mười bảy mười tám tuổi giờ đã thành hán tử cường tráng, chút thương tích này bọn họ vẫn chịu được.

"Tiểu Lục, Thiết Ngưu, hai đệ là huynh đệ kết nghĩa của ta, là người thân tín nhất của ta, từ lúc tới Lô châu, ta tuy là lúc cần người, nhưng lại không đặt trọng trách lên người các đệ, nguyên nhân chỉ có một, hai đệ vẫn còn trẻ tuổi, chưa thể một mình cáng đáng một mặt. Ta hi vọng các đệ theo người khác học được nhiều việc, nhiều thứ, nhưng thời gian không đợi ta, đánh cờ thì luôn phải bày bồ sớm, ta nghĩ đi nghĩ lại, không thấy có người nào hợp lý hơn hai đệ cả."

Trúc Vận tuy rất say, nhưng tỉnh cũng nhanh, tới nửa đêm thì hơi men liền bớt được bảy tám phần, Dương Hạo cũng như vậy, thế là màn kịch "mưu đồ bất chính" nàng ta cũng phối hợp với tiểu Lục và Thiết Ngưu hoàn thành thuận lợi, Dương thái uy "nghe tin liền nổi giận", để nghiêm minh quân kỷ, ở trước mặt mọi người đánh cho hai tên này ba mươi roi, đuổi họ ra khỏi Lô châu.

Tiểu Lục và Thiết Ngưu đã sớm an bài hơn chục thị vệ tâm phúc, dẫn theo ngựa, mang binh khí và kim ngân rời thành Lô châu từ trước về đợi ở trong hố cỏ lau, Dương Hạo công khai trục xuất bọn họ, lại âm thầm đuổi theo, dặn dò những lời cuối cùng.

Tiểu Lục toét miệng cười nói: "Đại ca không cần nói thì bọn đệ cũng hiểu mà, tuy rằng ở Khiết Đan đã từng làm quan, nhưng kỳ thực bọn đệ đều là nhờ vào La Khắc Địch mà được thơm lây, luận về bạn sự, hai chúng ta còn kéo xa lắm. Từ lúc theo đại ca trỏ về, theo việc hành quân bố trận, điều binh khiển tướng, công đánh thành trì, huấn luyện sĩ tốt, hai chúng ta đã học được rất nhiều thứ, lòng yêu quý của đại ca, chúng ta đều hiểu mà.”

"Ừ!" Dương Hạo gật đầu, vung voi ngựa trong không trung, trầm giọng nói: "Đại ca đang bày một bàn cờ, một bàn cờ rất lớn, bàn cờ này phải đặt tại khối đất Tây Vực, minh tranh ám đấu, đọ sức với hào cường các phương. Các ngươi rời xa nơi này, nhưng không phải là một nước cờ loạn, bàn cờ Tây Vực này nếu như đánh tốt. Áp lực mà đại ca phải đối mặt sẽ càng nặng hơn, tới lúc đó càng phải dựa vào sự phối hợp với ngoại tuyến, nếu bàn cờ này đi nhầm, các đệ sẽ là tiền vốn quan trọng để ta đông sơn tái khởi chứ không phải là không có tác dụng gì cả."

Tiểu Lục gật đầu, nói: "Đại ca, bọn đệ đã hiểu rồi."

Dương Hạo nói: "Các đệ lần này đi, tạm thời chiếm lấy một nơi, phất cờ chiêu binh mãi mà, tìm một cơ hội thích hợp, trước tiên gia nhập vào đội ngũ của bọn họ, cố gắng trở thành một thành viên trong hàng ngũ thống soái của họ, sau đó lớn mạnh dần, cuối cùng thì chiếm nhánh đại quân này làm của riêng, ít nhất thì cũng phải thiết lập được bè phái trong nghĩa quân, chiêm lãm một nửa binh mã.

Bạch Lâm đã từ Biện Lương quay về Thục trung, hắn sẽ liên hệ với các đệ, về vấn đề tài lực, tình báo đều sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các đệ. Có hắn âm thầm phối hợp với hai đệ, các đệ phải có biểu hiện thật đặc biệt, và cuối cùng là lật đổ những têm thảo đầu vương đó (trùm cướp chiếm cứ một vùng), trở thành thống soái của bọn họ, cơ hội sẽ có rất nhiều. Có điều, tuy nói thì là vậy, song hoàn cảnh mà hai đệ phải đối mặt cũng hung hiểm và gian khổ như thế nào thì không cần nghĩ cũng biết, các đệ phải có chuẩn bị tâm lý."

Thiết Ngưu hưng phấn nói: "Đại ca yên tâm, từ lúc tới Lô châu, mắt thấy đại ca mỗi ngày đều bận bịu nhiều việc như vậy, hai người bọn đệ đều phát hoảng, có điều cũng biết phân lượng của mình, không dám tùy tiện vơ chuyện vào người, chỉ sợ sẽ làm hỏng đại sự của đại ca. Đại ca giao chuyện này cho bọn đệ, huynh cứ yên tâm đi, việc quan hệ với hảo hán của tam sơn ngũ nhạc, hai đứa đệ nhất định sẽ làm được.

Dương Hạo cười cười, dừng bước, nói: "Được, ta sắp phải về Ngân châu rồi, không tiễn hai đệ thêm được nữa. Huynh đệ, các ngươi đi đường cẩn thận."

Vẻ mặt của tiểu Lục và thiết Ngưu cũng trở nên trang trọng, ôm quyền với hắn, nghiêm nghị nói: "Đại ca, sau này gặp lại!"

Dương Hạo đứng ở trên cánh đồng tuyết, nhìn hai người dẫn hơn chục nhân mã thân tín phi về phía tây nam. Phía trước là Quan Trung, xương sống của thiên hạ, đầu rồng của Trung Nguyên, tám trăm rdm Tần Xuyên tài nguyên giàu có, đế đô đứng đầu trong năm ngàn năm lịch sử, mưu tính Trung nguyên ắt phải bắt đầu từ Trường An, thủ Trường An thì tất phải bắt đầu từ Lũng hữu. Nếu Dương Hạo đi kế hiểm này, nhổ bật căn cơ của Lý Quang Duệ ở Hạ châu, Hà Tây Lũng hữu sẽ nằm trong tay hắn, có thể chân chính trở thành Hà Tây Lũng hữu binh mã đại nguyên soái rồi.

Đại chiến sắp tới, khi phong vân mật bố, Dương Hạo lại bí mật phái hai huynh đệ kết nghĩa của mình tới nơi khác, vượt qua Quan Trung, tới thẳng Tây Vực. Đất Thục hiện giờ đang có một tốp nghĩa quân hiệu xưng có cả chục vạn người, đang đối kháng với quan binh triều đình.

Cho tới khi đám người của tiểu Lục biến mất trên bình nguyên, Dương Hạo mới tung người lên ngựa, phi về hướng ngược lại, tới bên cạnh một dãy núi cách bên trái thành Lô châu hơn mười dặm. Thân quân của hắn đang đợi ở đó, Dương Hạo vội vàng nhìn lướt một cái, ngạc nhiên nói: "Trúc Vận cô nương đâu? Cô ta không phải cũng muốn về Ngân châu ư, người đâu mất rồi?"

Mục Vũ nhịn cười, đáp: "Trúc Vận cô nương nghe nói chúng ta còn muốn tới Phủ châu, sau đó mới quay về Ngân châu, đã tự mình lên đường rồi, không muốn đi cùng với chúng ta. Thuộc hạ cũng không hiểu là ra làm sao cả, vốn còn khuyên cô ta đợi đại nhân về nói một tiếng rồi hẵng đi, nhưng Trúc Vận cô nương đã một mình một ngựa lao đi rồi."

Dương Hạo nhớ tới tửu phẩm tốt của Trúc Vận, không khỏi bật cười ha hả, cao giọng hô: "Chúng ta cũng đi thôi, tới Phủ châu!"

...

Phủ châu, Bách Hoa ổ.

Gặp mặt Dương Hạo, thái độ của Chiết Ngự Huân cũng giống như Dương Sùng, cảm thấy vô cùng kinh ngạc. Lần này phạt Hán, Tống quốc thế ắt sẽ thắng, là chuyện dệt hoa thếm gấm mà thôi, Chiết Ngự Huân cũng định tự mình dẫn binh đi một chuyến, cho nên đang bàn giao sự nghị của Phủ châu cho huynh đệ Chiết Ngự Khanh, không ngờ Dương Hạo lại đột nhiên bái phỏng. Hai huynh đệ đưa Dương Hạo vào phủ, đợi khi nghe Dương Hạo nói rõ ý đến, thỉnh câu phía Phủ châu một khi Hạ châu đánh tới thì hiệp trợ Lô châu sơ tán bách tính, đồng thời bảo hộ họ, Chiết Ngự Huân lập tức đáp ứng ngay.

Tin tức Chiết Ngự Huân cự tuyệt lời cầu hôn phía Hạ châu đã thông qua con đường không chính thức thông tri cho Dương Hạo một cách xảo diệu, cho nên đối với lâp trường của Chiết gia Dương Hạo sớm đã hiểu rõ trong lòng, phản ứng sảng khoái như vậy của Chiết gia cũng nằm trong ý liệu của hắn. Đợi khi chuyện này được an bài xong, Dương Hạo liền cùng hai huynh đệ Chiết Ngự Huân chui vào trong thư phòng, có một số tin tức trọng yếu, trừ hai nhân vật cầm đầu của Chiết gia ra, người khác không tiện nghe.

Dương Hạo vừa vừa rồi nhờ Chiết gia tiếp ứng bách tính Lô châu, chỉ là một loại phòng bị tất yếu, cho dù Lý Quang Duệ vẫn cùng Thổ Phiên, Hồi Hột khai chiến, lợi dụng cơ hội này để đánh hạ Lô châu cũng không phải là không có khả năng, cũng không liên quan tới hạch tâm cơ mật của Dương Hạo. Tới thư phòng, Dương Hạo mới đưa ra hết toàn bộ kế hoạch của mình.

Tuy huynh đệ Chiết gia tung hoành ở Tây Bắc ba mươi năm, nhưng khi nghe thấy kế hoạch lớn gan này của Dương Hạo, cũng líu cả lưỡi. Gan của tên Dương Hạo này thực sự là quá lớn rồi, kế hoạch này tất nhiên có thể đánh cho Hạ châu Lý thị một kích trí mạng, nhưng đồng thời cũng tự dồn bản thân hắn vào tuyệt cảnh, đây là kế đập nồi dìm thuyền, nếu không đánh hạ được Hạ châu, Ngân châu lại mất, vậy thì cơ nghiệp mà Dương Hạo khổ tâm kinh doanh sẽ mất sạch.

Nếu thật sự lâm vào cảnh sơn cùng thủy tận, ra sức đánh một trận thì cũng không hẳn là không thể, nhưng tình hình phát triển thế lực của Dương Hạo cực kỳ tốt, cho dù không diệt được Hạ châu, hắn cũng có vốn cùng Hạ châu chia đều Tây vực, vạch đất mà cai trị. Nếu như vậy, đối với lưỡng phiên Chiết, Dương mà nói thì cũng đạt tới mục đích dự định của bọn họ, cho nên đối với nước đi hiểm này của Dương Hạo, hai huynh đệ từ sâu tận đánh lòng là có ý phản đối, tất nhiên phải không tiếc dư lực mà khuyên bảo hắn, hi vọng hắn vứt bỏ ý nghĩ mạo hiểm này đi, rồi lưu binh khí dùng để đánh úp bất ngờ Hạ châu ở lại Ngân châu, đảm bảo cho Ngâu châu được an toàn, sau đó từ từ mưu tính hậu kế.

Dương Hạo cười sảng khoái, nói: "Hai vị nhân huynh, lúc này muốn khuyên ta thì cũng muộn mất rồi, hiện tại đã là tên lên dây, không thể không bắn. Ta chỉ hi vọng hai vị phối hợp ăn ý trên hai chiến tuyến Hán quốc và Tây vực, hi vọng hành động này có kinh mà không hiểm, sau cùng giành được thành công, tới lúc đó, con quái vật khổng lồ Hạ châu Lý thị cũng chẳng còn cấu thành được uy hiếp trí mạng nào nữa."

Hai huynh đệ mắt thấy Dương Hạo tâm ý đã quyết, chỉ lắc đầu không nói gì, đối với hành động nguy hiểm này của hắn, trong lòng vẫn không đồng ý.

Cơ nghiệp truyền thừa của Chiết gia so với Hạ châu Lý thị thì còn sớm hơn. Cơ nghiệp hai ba trăm năm, nếu muốn bọn họ thành thì nhất thống Tây Vực, bại thì căn cơ mất hết, bọn họ cũng không chịu mạo hiểm như vậy, đặt mình trong hoàn cảnh của người khác, tất nhiên cảm thấy Dương Hạo không có sự ổn trọng. Có điều Dương Hạo không phải là thuộc quyền của Phủ châu, mà là minh hữu, Dương Hạo khi xuất binh là dùng binh mã của hắn, chỉ cần Chiết gia giúp đỡ rất hữu hạn, bọn họ cũng không tiện xen vào. Hiện giờ chỉ hi vọng Dương Hạo không đến nỗi rơi vào cảnh thất bại nặng nề, phá tan hết cục diện đang tốt đẹp của hắn.

Kỳ thực trong mắt Dương Hạo, trải qua sự chuẩn bị đầy đủ, lại thêm tình thế nội ngoại, tình cảnh của hắn không đến nỗi một khi thất bại thì sẽ không còn sức trở mình. Nếu như không đánh hạ được Hạ châu, Ngân châu cũng chưa chăc đã mất, hắn từng công đánh Ngân châu mấy tháng trời, biết rõ rằng sau khi Dương Kế Nghiệp nhiều lần tiến hành cải tạo Ngân châu, sức phòng ngự của tòa thành trì này đã kinh người tới mức nào.

Nói tới công thành, quân đội của Hạ châu Lý thị đồng dạng cũng không am hiểu lắm, hơn nữa bọn họ đường xa tập kích, cũng không thể mang theo được khí giới công thành cỡ lớn. Dương Hạo lại không dẫn cả mười phần quân đội tới Hán quốc. Những người lưu thủ trong thành đều là tinh nhuệ đích hệ mà hắn từ Lô châu mang đến, chỉ cần không có nội ứng, Ngân châu trong thời gian ngắn tuyệt đối sẽ không bị công hãm, lúc đó hắn đã dẫn binh từ Hán quốc trở về rồi.

Huống chi, hắn phụng chiếu xuất binh công đánh Hán quốc, lãnh địa của mình thì bị Hạ châu công kích, Triệu Quang Nghĩa như vậy khó tránh bị coi là thiên vị Hạ châu, cũng phải tìm cách lấy lại mặt mũi. Ít nhất thì lúc đó hắn cũng tuyết đối sẽ không trói tay trói chân Dương Hạo nữa, Dương Hạo bản thân trong tay cũng có binh, trong ứng ngoài hợp với thủ quân ở trong thành, lại liên lạc với lưỡng phiên Chiết, Dương và Đảng Hạng thất thị bị Lý Quang Duệ tách rời, lo gì không thể giải vây cho Ngân châu.

Nghĩ lui một vạn bước, cho dù mất Ngân châu thì hắn lại đứng vững trên đạo nghĩa, hơn nữa một nửa binh lực được bảo lưu trong tay so với ngày đó trước khi công đánh Ngân châu cũng cường đại hơn nhiều, cái mà hắn thiếu chứ là một căn cứ địa mà thôi, lúc đó Triệu Quang Nghĩa bất kể là như thế nào cũng phải bù đắp cho hắn, nếu như thật sự trở mặt với nhau, vậy hắn chỉ đành dẫn binh vào Khiết Đan, tạm thời đặt chân dọc theo khu vực Minh Đường Xuyên, về công về tư, Tiêu Xước đều sẽ nể mặt hắn, cho dù gần đây từ lúc nhiễu loạn chiến cục Tây Bắc, trên lý do bồi dưỡng một Đại Lý, Tiêu Xước cũng sẽ tận hết khả năng mà giúp đỡ.

Lý Quang Duệ hiện giờ tri kỷ không tri bỉ, nội bộ lại đang ở vào lúc nhân tâm bất ổn, ở trong mắt người hay mạo hiểm giỏi nắm cơ hội mà nói thì quả thật là đáng để mạo hiểm. Thành thì có thể tránh khỏi chinh chiến mấy chục năm, thậm chí là mấy trăm năm, một lần hành động bình định tây bắc, bại thì chẳng qua là trở lại nguyên hình, khôi phục cục diện tự bảo trước khi công đánh Ngâu châu, Dương Hạo cho dù không phải là kẻ thích đánh bạc, nhưng trạn đánh cuộc này, cũng đáng để hắn xuống tay.

Đương nhiên, đây chỉ là kết luận mà Dương Hạo đưa ra sau một phen cân nhắc lợi ích được mất mà thôi, hắn không cho rằng bản thân đang mạo hiểm, mà trên thực tế thì hành động này của hắn quả thật có thành phần mạo hiểm khá lớn. Dương Hạo vốn không phải là có loại tính cách như vậy, cá tính của hắn là gặp sao hay vậy, lúc bất đắc dĩ thì cũng phải tận hết khả năng trước tiên cầu ổn thỏa đã rồi sau đó mới cầu tiến triển.

Chỉ là ngay cả bản thân hắn cũng không biết, Cô dương sát không chỉ âm thầm ảnh hưởng tới tính tình của hắn, khiến hắn dần dần biết thành rất dễ xung động nóng nảy, tính tình như lửa cháy, cũng khiến hắn dần dần có tính xung động, quyết đoán, lòng mang lề lối quyết định, mệnh vận quyết định tính cách, còn loại tính cách này là họa hay là phúc thì hiện giờ rất khó mà nói được.

Ba người thương nghị xong, Chiếu Ngự Khanh bước ra an bài chỗ ở cho Dương Hạo, bởi vì tin tức Dương Hạo tới Phủ châu phải bảo mật tuyệt đối, ngay cả gia sự bình thường Chiết Ngự Khanh cũng không muốn để người khác đi làm. Đợi Chiết Ngự Khanh đi rồi, Dương Hạo mới giả vờ hỏi bâng quơ: "Từ lúc tới Ngâu châu vẫn chưa gặp lại Tử Du cô nương, nàng ấy... hiện giờ còn ở Bách Hoa ổ không?"

Chiết Ngự Huân ngồi thẳng lưng lên, mắt không nhìn nghiêng, bộ dạng thản nhiên như không, nói: "Ặc, Tử Du phục trách sự nghị của Tùy Phong đường của Chiết gia, sắp phải xuất binh rồi nên không thể không tra rõ động tĩnh xung quanh, đặc biệt là phía tây. Hắc, con hổ to đó cho dù đang cắn nhau với đám sói, nhưng phía ta cũng không dám lơ là, Tử Du tới phía đó rồi nếu có thể nghe thấy tin tức cơ mật gì, ta sẽ phái người thông báo cho Phi Vũ của ngươi."

Hiện giờ Dương Hạo và Chiết Ngự Huân đang trong thời kỳ hợp tác với nhau, tin tức cơ cấu tình báo của hai nhà đều dùng chung, vô cùng mật thiết. Chiết Ngự Huân đã nói vậy, Dương Hạo nghe mà không khỏi cảm thấy mất mát, Chiết Ngự Huân ngồi thẳng lưng, tay vuốt râu dao, hàng lông mi như con tằm ở bên mắt phải hơi nhướn lên, dùng khóe mắt quan sát nhất cử nhất động của Dương Hạo, trong lòng thầm sốt ruột: "Đồ ngu, cầu hôn, cầu hôn đo, ngươi mà mở miệng ta đáp ứng ngay, gạo đã chín một nửa rồi đó!"

Dương Hạo cảm thấy mất mát một lúc lâu mới bất mãn nhướn mắt lên, miễn cưỡng cười nói: "Vậy cũng... thật là không may rồi. Sáng sớm ngày mai ta đã phải quay về, đi đường xa nên có chút mệt mỏi rồi, ta... tới khách phòng tắm rửa một phen, nghỉ mơi một lát, buổi tối sẽ cùng đại ca uống một trận."

Chiết Ngự Huân so với hắn còn thất vọng hơn, lười biếng đứng dậy, nói: "Cũng được, hiền đệ mệt rồi, đi nghỉ ngơi trước đi, buổi tối vi huynh để mở tiệc tẩy trần."

...

Trên đỉnh núi Hoa sơn, Trần Đoàn vẫn mặc đạo bào lôi thôi lếch thếch, mí không giương mắt không động, luôn là bộ dạng như ngủ chưa tỉnh, ngồi đối diện với Lữ Động Tân mày kiếm mắt sáng, mặt như quang ngọc nói chuyện vui vẻ dưới một gốc cổ tùng. Hiện giờ đang là ngày đông giá rét, thỉnh thoảng lại có hoa tuyết từ trên không trung rơi xuống, đỉnh núi gió lạnh thấu xương, không thấy một chút ánh nắng nào, nhưng hai người lại vẫn rất tự nhiên.

"Sư phụ, Lư lão tiền bối, mời uống trà." Cẩu nhi bưng khay trà nhẹ nhàng bước tới, Cẩu nhi mặc một bộ đạo bào vừa khít màu hạnh hoàng, môi hồng răng trắng, mặt mày như vẽ, nàng ta đặt khay trà lên bàn đá, ngoan ngoãn gọi.

"Ặc, Cẩu nhi lớn thế này rồi cơ à, ha ha, đã có chút bộ dạng của đại cô nương rồi đó." Lữ Động Tây quay đầu nhìn về phía nàng ta, mỉm cười nói.

Cẩu nhi trên mặt vẫn mang theo nụ cười ngoan ngoãn, trong lòng thì lại không vui. Từ lúc nàng ta tới Hoa Sơn, bối phận cao quý, chẳng có mấy ai dám gọi thẳng tiểu danh của nàng ta, tiểu cô nương dần dần lớn rồi, cũng hiểu rằng nhũ danh của mình không dễ nghe lắm, gọi nàng ta một tiếng Cẩu nhi cũng chỉ có Dương Hạo đại thúc của nàng ta gọi thì nàng ta mới thấy dễ nghe. Người khác, hừ, cho dù là lão bằng hữu của sư phụ thì nàng ta cũng không vui.

Nghe Thấy Lữ Động Tân gọi như vậy, Cẩu nhi trong lòng không vui, đang muốn quay người bỏ đi thì Lữ Động Tân quay đầu lại nói với Trần Đoàn một câu khiến nàng ta phải dừng bước. Lữ Động Tân đang nhắc tới đại thúc Dương Hạo, ở trên núi này nàng ta ngay cả một chút tin tức về đại thúc cũng không nghe thấy, hiện giờ khó lắm mới nghe được tin tức của hắn, nàng ta làm sao nỡ bỏ đi, thế là đứng nguyên tại chỗ một lát rồi quay trở lại, giả vờ vô tình ngồi ở bên cạnh, hai tay giỏng lên lắng nghe.

Lữ Động Tân vừa rồi nói tới để đạo lữ Tĩnh Âm của ông ta tới dạy phu nhân Dương Hạo công pháp nội đan âm dương song tu, Tĩnh Âm với là đệ nhất danh kỹ Lạc Dương, tên là Bạch Mẫu Đơn, vì nàng ta sắc nghệ song tuyệt, cho nên mắt một mực đặt trên đỉnh đầu, bao nhiêu công tử danh môn theo đuổi dưới váy của nàng ta, nhưng vẫn khó mà lọt được vào mắt của nàng ta, về sau Lữ Động Tân vân du tới đây, Bạch Mẫu Đơn đã đem lòng yêu người tu đạo phong lưu lỗi lạc này. Hai người từ đó kết thành đạo lữ, nàng ta cũng rời khỏi thanh lâu, vứt bỏ nghệ danh Bạch Mẫu Đơn, lấy đạo hiệu là Tĩnh Âm, theo bên cạnh Lữ Động Tân, quy ẩn quan ngoại.

Hiện giờ Cẩu nhi đứng ở bên cạnh, Lữ Động Tân tuy hành vi phóng túng, không để ý tới lẽ thường, nhưng dẫu sao cũng là một lão tiền bối, ở trước mặt hai sư đồ nhà người ta, đồ nhi lại là một tiểu nha đầu, không tiện nhắc tới chuyện về phương diện song tu này nữa, thế là liền đổi đề tài: "Người già rồi, đặc biệt hay nhớ tới bạn cũ, trước đây mười năm, hai mươi năm không gặp cũng chẳng sao, hiện tại thì khác rồi, năm trước vừa gặp, giờ đã đặc biệt nhớ nhung rồi. Ta nghĩ, tuy tuổi của ông so với ta thì nhỏ hơn một chút, nhưng đồ tử đồ tôn lại nhiều, ra ngoài một chuyến sẽ khiến người ta nhớ nhung nên ta tự mình tới vậy."

Trần Đoàn mỉm cười nói: "Phong cảnh của Hoa sơn so với Tử Vi sơn ở quan ngoại thì đẹp hơn cả trăm lần, lão hữu cớ sao không chuyển tới Hoa sơn, lão bằng hữu chúng ta không phải là có thể thường xuyên gặp mặt nhau ư?"

Lữ Động Tân mỉm cười lắc đầu: "Hoa Sơn là nơi của Trần Đoàn ông, bần đạo ngẫu nhiên tới chơi một phen thì không sao, nếu ta chuyển tới đây luôn, ông không sợ làm vấy bẩn danh dự của ông sao?"

Trần Đoàn bật cười, nói: "Phàm phu tục tử, để ý tới hắn làm gì."

Cẩu nhi nghe thấy ông ta không nhắc tới Dương Hạo nữa, trong lòng sốt ruột, với tuổi này của nàng ta thì vẫn chưa thạo đối nhân xử thế, rất khó che giấu được bản nguyện của mình, không nhịn được liền hỏi: "Lữ lão tiền bối, vừa rồi ngài nói... Dương Hạo đại thúc làm sao cơ?"

Nhắc tới đồ nhi của mình, Lữ Động Tân không khỏi đắc ý, dương dương tự đắc khen công tích hắn: "Nhắc tới tên đồ nhi đó của ta, cũng thật sự là rất khá. Nhớ lúc mới gặp hắn vẫn chẳng qua là tri phủ Lô châu, hiện giờ... hắc hắc..."

Lữ Động Tận cầm chén trà lên, khiến cho Cẩu nhi hận tới ngứa răng nhưng lại chẳng dám giục giã. Lữ Động Tân khoan thai uống một ngụm trà, rồi vuốt râu nói khoác: "Hiện giờ hắn đã làm quan tới Hoành sơn tiết độ sứ, gia phong Hà Tây Lũng hữu binh mã đại nguyên soái. Tây Bắc chư phiên đều thuộc tiết chế của hắn, tuổi trẻ như vậy mà đã có bản sự đó, phóng mắt nhìn khắp thiên hạ, từ cổ chí kim, cũng chỉ có đồ đệ Thuần Dương Tử của ta mới có được bản sự như vậy."

Lữ Động Tân đã lâu rồi không quan tâm tới chuyện phàm trần, rất nhiều tư duy vẫn còn ở lại thời kỳ Đường triều, luôn cảm thấy làm tiết độ sứ một phương, nghiễm nhiên là chư hầu một phương, đó là chuyện rất đáng nở mày nở mặt. Trần Đoàn sống ở Hoa Sơn, môn hạ đệ tử rất nhiều, đối với chuyện của Trung Nguyên cũng hiểu biết kha khá, nghe thấy liền không đồng ý, không khỏi nhíu mày nói: "Tống từ lúc lập quốc tới nay đã tiếp thu thu giáo huấn thời Đường, đối với tiết độ một phương luôn đề phòng rất kỹ, chỉ sợ lặp lại vết xe đổ thời Đường, há lại có đạo lý lại trồng cho sinh sôi nảy nở, tự tước quyền binh của mình?"

Lữ Động Tân ngẩn ra, kinh ngạc nói: "Là như vậy sao, lúc ta đi trên đường, nghe người trọng tửu quán nói chuyện, mới hiểu được cảnh ngộ hiện tại của đồ nhi của ta, chỉ biết nó giành được Ngâu châu, chiêu binh mãi mạ, thế lực bành trướng, kết đồng minh với lưỡng phiên Chiết, Dương, Hạ châu Lý gia sợ hãi đứng ngồi không yên, cũng không biết được hoàng gia Triệu tống có điều cố kỵ như vậy, đã như thế, hoàng đế của Triệu gia vì sao còn gia phong cho đồ đệ của ta?"

Trần Đoàn ánh mắt chớp đông, vuốt râu không nói gì. Đối với đệ tử khai sơn của mình, lại là dạng đồ nhi ngoan kiếm thể diện cho sư phụ, Lữ Động Tân luôn rất quan tâm, thấy bộ dạng đăm chiêu của Trần Đoàn, Lữ Động Tân không khỏi nóng lòng nói: "Trong quan trường, toàn là những chuyện dơ bẩn đê hèn, nếu không phải như vậy, ta năm đó cũng không cần trúng tiến sĩ mà lại không chịu làm quan. Đồ nhi của ta tính tình rất ngu dốt thẳng thắn, đừng trúng bẫy của người ta là tốt rồi.

Lão gia nhi ông tinh thông thuật bói toán, mau tính giúp ta xem, nếu ta không bảo vệ chu toàn được cho tên đệ tử khai sơn này, Lữ Động Tân tư còn mặt ũi nào mà tiêu dao trên thế gian này nữa?"

Cẩu nhi nghe vậy cũng không khỏi thấy hoảng hốt, giống như Dương Hạo hắn sắp gặp đại họa lâm đầu vậy, vội vàng kéo tay áo Trần Đoàn mà van cầu: "Sư phụ, Dương Hạo đại thúc đối với đồ nhi ơn nặng như núi, đồ nhi lại một mực chưa báo đáp được, xin sư phụ tính cho một quẻ."

Trần Đoàn nhíu mày nói: "Thiên cơ bất khả lộ, tiểu Diệc à..."

"Sư phụ..."

"Được được được, ... cái gọi là thiên cơ, hư vô mờ mịt, ứng vận mà sinh, ứng vận mà biến. Thế nhân ngu muội, ngông cuồng tự ý suy đoán, hoặc nhận sai tính nhầm, hoặc ngộ cầu ngoại vật, kết quả nhầm người nhầm mình. Đồ nhi chớ có dựa vào nó, nếu không e rằng sẽ hại người hại mình đó. "

Cẩu nhi nghe sư phụ lảm nhảm mãi, chỉ cúi đầu vâng dạ, Trần Đoàn lúc này mới nhắm mắt tính toán, Cẩu nhi nín thở nhìn. Một lúc sau, Trần Đoàn đột nhiên thốt lên một tiếng kinh ngạc, Lữ Động Tân không khỏi biến sắc, nói: "Sao hả?"

Trần Đoàn lẩm bẩm nói: "Quẻ đại hung."

"Cái gì?" Khuôn mặt nhỏ nhắn của Cẩu nhi lập tức biến thành trắng bệch, Lữ Động Tân thì vẫn còn nhịn được, chỉ nhìn chằm chằm vào Trần Đoàn, đợi ông ta giải thích.

Trần Đoàn nhắm mắt, vẫn lẩm bẩm: "Hạ khảm thượng ly, ly là hỏa, khảm là thủy, lửa bốc lên trên, nước đổ xuống dưới, hai thứ không tương giao. Ba âm ba dương, lưỡng lưỡng tương ứng. Thủy hỏa không tương dung, sinh tử buộc vào một đường, thiên cơ chính là thiên cơ, khiến người ta khó đoán."

Cẩu nhi run giọng bảo: "Sư phụ, quả này rốt cuộc là có ý tứ gì?"

Lữ Động Tân nhíu mày nói: "Rốt cuộc là quả gì? Thật sự là khó đoán lắm ư, vượt nước qua sông, nước sông không ngược, cái này gọi là vật không thể tận cùng, sinh sôi không ngừng, đặt mình vào chỗ chết mà sống dậy, là hung hay là cát thì đều được."

Cẩu nhi hoang mang hỏi: "Lữu lão tiền bối, một quẻ này của sư phụ ta là có ý tứ gì?"

Lữ Động Tân nói: "Quái tượng này là nói Dương Hạo trước mặt từng bước đều có nguy cơ, hiểm tượng liên tiếp, chính là điềm đại hung. Có điều trong sáu mươi tư quẻ, đây là một quẻ chưa tận sau cùng. Một quẻ này là không có định luận, trong sinh có tử, trong tử có sinh, liên tiếp không ngừng, vòng đi vòng lại, một quẻ này là huyền diệu khó đoán nhất, khiến người ta không thể nắm bắt được."

Cẩu nhi lo lắng nói: "Sư phụ, Dương đại thúc là người tốt, chúng ta nên nhắc nhở thúc ấy, để thúc ấy cẩn thận đề phòng mới đúng. Băng không... bằng không để thúc ấy lên Hoa Sơn của chúng ta, tránh tới khi mọi việc êm xuôi đã rồi hẵng tính?"

Lữ Động Tân cười khổ, nói: "Cẩu nhi, con chưa nghe sư phụ của con nói ư? Quẻ này là biết rõ không thể làm mà vẫn làm, tự bước vào chỗ chết để cầu sinh, mỗi một bước, đều là hắn tự mình bước đi, không thể né tránh, chẳng lẽ chúng ta có thể bắt hắn bỏ đi cơ nghiệp, làm một người nhàn hạ ư? Đây là quẻ sau cùng của sáu mươi tư quẻ, là điểm kết thúc và cũng là điểm khởi đầu, liên tục không ngừng. Là sinh hay là tử, đều ở ngoài ý liệu, chúng ta không thể giúp được hắn, nếu không cho dù con chịu thì người làm sư phụ như ta cũng không chịu ngồi đây nhìn hắn ứng với kiếp nạn đâu."

Trần Đoàn cũng nói: "Đúng vậy, tiểu Diệc à, sư phụ đã nói rồi, cái gọi là thiên cơ, hư vô mờ mịt, ứng vận mà sinh, ứng vận mà biến, biến hóa khó đoán. Thế nhân ngu muội, tự úy suy đoàn xằng bậy, hoặc là nhận sai đoán nhầm, hoặc ngộ cầu ngoại vật, cuối cùng là hại mình hại người, nếu như chúng ta can thiệp lung tung, chỉ sợ sẽ biến khéo thành vụng."

"Sư phụ..."

Trần Đoàn sầm mặt, nói: "Quay về luyện tập công pháp đi, đừng có phân tâm nữa."

Đuổi Cẩu nhi lui xuống xong, Trần Đoàn lắc đầu cười khổ với Lữ Động Tân: "Phàm nhân như ta, vọng tưởng suy đoán thiên cơ, thiên cơ này há lại dễ dàng suy đoán như vậy? Chưa nhìn ra được kết quả, ngược lại hại mình cứ ngờ vực vô căn cứ mà thôi, đây không phải là biến khéo thành vụng ư?"

Lữ Động Tân nghĩ một lát rồi thản nhiên cười rộ lên: "Đồ nhi đó của ta cũng là ứng với thiên cơ mà sinh. Ta không tin rằng, trời cao sinh một thiên cơ xuống, mà lại để hắn tới một cách mạc danh kỳ diệu, để rồi lại đi một cách mạc danh kỳ diệu, một ếp này đối với hắn không có gì đáng ngại cả.”

Hai người là người xuất gia, trời sinh tính hào hiệp, đối với việc hư vô mờ mịt, chư từng suy nghĩ kỹ càng bao giờ, liền ôm thái độ tĩnh quan kỳ biến, nhưng đối với Cẩu nhi mà nói thì lại khác, mấy câu này của hai người, Cẩu nhi không hề nghe thấy, người lớn luôn cảm thấy trẻ con không hiểu chuyện, không cần phải chuyện gì cũng nói rõ cho nó hay, chỉ cần nói cho nó nên làm thế nào là được rồi. Nhưng trẻ con có tư tưởng của trẻ con, Trần Đoàn nói ra quẻ này có hiện tượng đại hung, lại nói cái gì mà liên tiếp không ngừng, thiên cơ khó đoán, khiến cho nàng ta cảm thấy vô cùng lo lắng. Ở trong lòng nàng ta, Dương Hạo đại thúc sánh ngang với mẫu thân, là người mà nàng ta trân trọng nhất, thế thì làm sao mà yên tâm cho được?

Cẩu nhi quay về động phủ, tâm phiền ý loạn, căn bản không thể nhập định, dứt khoát chạy tới phía sường núi. Nàng ta và Đặng Tú Nhi tuy rằng chênh nhau mấy tuổi, nhưng lại là bằng hữu thân thiết nhất, trong lòng có phiền não, tất nhiên muốn tâm sự với bằng hữu duy nhất của mình. Ai ngờ khi nàng ta vừa tới Tam Thanh quan, hỏi thăm Xuất Vân quán chủ thì biết rằng Đặng Tú Nhi không ngờ nghệ thành xuống núi rồi, vừa mới rời đạo quán không lâu.

Bằng hữu duy nhất cứ vậy mà đi, không ngờ lại không nói với nàng ta một tiếng, Cẩu nhi tâm tình càng xuống thấp, buồn bã đi về tới trước cửa nhà mình thì phía trước bỗng truyền tới tiếng gọi vui mừng: "Tiểu thái sư thúc."

Cẩu nhi đột nhiên quay đầu lại, thấy Đặng Tú Nhi lưng đeo kiếm, khoác bao quần áo, anh tư oai hùng đứng ở dưới gốc cây ở trước nhà nàng ta, Cẩu nhi lập tức vui mừng chạy lại, nói: "Ta còn cho rằng là ngươi đã đi rồi."

Hôm nay thần khí của Đặng Tú Nhi đặc biệt tốt, nàng ta mỉm cười bước tới chào: "Còn chưa gặp tiểu thái sư thúc, ta làm sao không từ mà biệt được, Tú Nhi nhờ được tiểu thái sư thúc chỉ điểm, hiện giờ võ nghệ cũng tính là có chút sở thành, lần này muốn xuống núi đi tìm cừu gia, đặc biệt tới đây chào từ biệt tiểu thái sư thúc."

Thấy nàng ta muốn đi, Cẩu nhi lưu luyến không thôi, tâm sự của mình nhất thời không tiện nói với nàng ta nữa. Hai người nắm tay nói chuyện một lúc, Đặng Tú nhi ngẩng đầu lên nhìn sắc trời, nói: "Thời gian không còn sớm nữa, Tú nhi đi đây, tiểu thái sư thúc bảo trọng."

Nàng ta lui hai bước, long trọng vái một cái, nghiêm nghị nói: "Được tiểu thái sư thúc chỉ điểm kiếmỹ, Đặng Tú Nhi cảm kích bất tận, đợi Tú Nhi báo được cừu rồi sẽ lại lên núi, khấu tạ tiểu thái sư thúc. Nhìn bóng lưng đã khuất xa của Đặng Tú Nhi, Cẩu nhi không khỏi cảm thấy xúc động, lẩm bẩm: "Đại thúc có nạn, sư phụ ta chỉ để ý tới tu đạo, bắt chước lão ô quy đó ngủ gà ngủ gật, sư phụ của đại thúc thì chỉ biết nói năng nói cuội không để ý tới chính sự, ta không đi giúp thúc ấy thì ai giúp đây?" Nhớ tới Dương Hạo từng đập tay minh ước với nàng ta, tiểu nha đầu này trong lòng nóng lên, liền có ý định không từ mà biệt.

Cô ta vừa quay người muốn đi nói một tiếng với mẫu thân rồi thu thập hành trang thì bên cạnh có người cười nói: "Tiểu nha đầu ngươi, trông thì rất ngoan ngoãn, thế mà lại ở sau lưng nói xấu trưởng bối nhà ngươi, nếu có thể nhúng tay vào, bần đạo há lại có đạo lý tụ thủ bàng quan với đồ nhi của mình, để rồi bị ngươi quở trách."

Cẩu nhi giật mình, quay đầu lại nhìn thì thấy Lữ Động Tân tay áo tung bay đứng ở bên cạnh, không khỏi kinh hãi nói: "Ông... Lữ lão tiền bối sao lại tới đây?"

Lữ Động Tân vuốt râu, dương dương đắc ý cười nói: "Lão ô quy nhà ngươi đột nhiên phát hiện có chút không đúng, chạy tới động phủ xem thử, tiểu đồ nhi ngoan của ông ta đột nhiên không còn ngoan nữa, tất nhiên là phải đi tứ xứ mà tìm. Luận về thuận bói toán, bần đạo không bằng ông ta, nhưng luận về võ công thì lão ô quy nhà ngươi không bằng bần đạo. Ha ha, may mà bần đạo tới nhanh, không ngờ lại gặp tiểu nha đầu ngươi đang định không từ mà biệt."

Cẩu nhi nhướn mày, không vui gắt lên: "Lão tiền bốn không bắt lỗi ngôn ngữ của người ta, làm nhục sư phó ta."

Lữ Động Tân cười nói: "Ha ha, ta và Phù Diêu tử, làm lão bằng hữu một giáp rồi, nói hắn mấy câu thì có sao đâu? Ha ha, nha đầu ngươi rất quan tâm đến đồ nhi của ta, có điều loại chuyện trong số mệnh này, ngươi có thể làm được gì? Nghe lời bần đạo quay về núi đi."

Cẩu nhi đảo mắt lia lịa, lui từng bước ra sau, nói: "Ta không cần, ông không giúp Dương đại thúc thì ta đi giúp thúc ấy, ông không được cản ta." Nói xong, nàng ta đột nhiên quay ngươi nhảy lên, lướt đi như phi điểu, chạy nhanh xuống chân núi, đang chạy thì đụng phải ngực một người, ngẩng đầu lên nhìn thì thấy Lữ Động Tân ba chòm râu tung bay, đang mỉm cười đứng ở trước mặt, giơ tay ra nắm lấy cổ tay nàng ta: "Ha ha, bần đạo muốn bắt ngươi, ngươi chạy làm sao được? Ái?"

Lữ Động Tiên rú lên một tiếng, nhìn trên tay mình có hai hàm răng chỉnh tề, lại nhìn Cẩu nhi đang phi thân chạy trốn, dở khóc dở cười nói: "Xú nha đầu này, thật đúng là chó con mà, vì Dương đại thúc của nó, không ngờ ngay cả Lữ Động Tân ta cũng dám cắn."

Ông ta rướn người, đang định đuổi theo thì phía sau đột nhiên hiện ra bóng hình của Trần Đoàn, nhìn theo bóng dáng vẫn chưa khuất vào núi rừng của đồ nhi, cười lạnh nói: "Lão hữu chớ đuổi, để mặc nó đi gặp..."

 Chương 452: Minh thương ám chiến

Ngoài thành Ngân châu, hai vạn đại quân mỗi một ngàn người xếp thành một phương trận (trận vuông), trùng trùng điệp điệp, trông rất tráng lệ.

Trên con đường lớn ở giữa, một tướng lĩnh tuổi gần bốn mươi, mặc áo choàng màu lục dẫn mấy hỗ binh chậm rãi dừng bước, nhìn sang hai bên, viên tướng lĩnh này thân hình vừa phải, mặt mũi vuôn vắn, hai hàng lông mày rậm, ba chòm râu nhỏ, giữ gìn thân thể rất tốt, trong mỗi cái giơ tay nhấc chân cũng có vẻ uy phong của võ tướng, đây là giám quân sứ Tào Ngọc Quảng Tào đại nhân do xu mật viện sứ Tào Bân pahsi tới trong quân Dương Hạo.

Chư phiên Tây Bắc so với các cánh quân khác thì luôn có quyền tự chủ khá lớn, phàm là việc điều động binh, triều đình cũng không thể sai phái giám quân, còn Dương Hạo thì khác với hai nhà Chiết, Dương, hắn từng làm quan ở trong triều, về sau được thả ra ngoài, tự thành một phái, ngoài mặt thì sự ước thúc của triều đình đối với hắn vẫn rất lớn, lần này Triệu quan gia đặc biệt phái tới một vị giám quân sứ, cũng không ngoài có ý nhắc nhở: Dương Hạo ngươi đừng bắt chước hai nhà Chiết, Dưỡng, ngươi nên hoàn toàn nằm dưới sự quản thúc của triều đình.

Có điều ý nghĩa tượng chưng của loại hành động này rõ ràng là lớn hơn tác dụng thực tế, từ lúc vị giám quân sứ này tới Ngân châu, Dương Hạo chỉ gặp gã có một lần, sau đó thì đột nhiên nằm trên giường không dậy nữa, Tạo Ngọc Quảng một mực khắc chế bản thân, gã cũng muốn xem xem, Dương Hạo đột nhiên mắc trọng bệnh có gan từ chối đùn đẩy, kháng chỉ bất tuân hay không.

Hiện giờ xem ra, Dương Hạo cho dù là không tình không nguyện nhưng vẫn không dám trở mặt với quan gia, binh mã chuẩn bị xuất trinh đã bày trận ở phía trước, đang đợi vị Hà Tây Lũng hữu binh mã đại nguyên soái hắn, cho dù điệu bộ của hắn hơi kiêu căng một chút, hắn hơi kéo dài một chút, nhưng Tào đại nhân cũng có thể nén được giận: chỉ cần hắn có thể xuất binh, mình cũng là hoàn thành sứ mạng rồi.

Giống như khi các lộ quân phiệt đầu thế kỷ hai mươi đại chiến, vừa thấy binh sĩ đội mũ bông vải che tai, miệng đầy râu ria, người ta liền hiểu đây là nhân mã phụ hệ, quân đội của Dương Hạo so sánh với mấy tướng tá cấm quân ở bên cạnh Tào đại nhân thì cũng rất đặc sắc. Bọn họ đại đa số mặc áo da dài rộng, dưới áo choàng là rất nhiều áo đơn, thân hình lộ ra vẻ mập mạp bất kham, áo da đều là tự mình chuẩn bị, có da dê, có da trâu, còn có cả da của các loại thú khâu lại với nhau, kiểu dáng cũng khác biệt, trông có chút hỗn loạn.

Hôm nay thời tiết rất tốt, gió không lớn, nhưng trong thời tiết lạnh như vậy mà đứng lâu thì cũng không chịu nổi, các binh sĩ kéo cái che tai xuống, có người còn dùng khăn lông dê che mồm miệng. Dắt ngựa, đeo cung, thỉnh thoảng lại giậm giậm chân để xua đuổi khí lạnh trong người, ở trên lưng ngựa, buộc một bọc quần áo lớn, bên trong chứa giáp da, chăn, muối ăn, thịt khô và nước uống.

Quân đội của Dương Hạo thành phần vô cùng hỗn tạp, bên trong có người Hán, có người Hồi Hột, có người Thổ Phiên, người Khiết Đan, đại đa số là tự xếp thành quân đoàn, cờ hiệu hàng ngũ vẫn tính là chỉnh tề. Ngoài ra còn có mấy quân trận là quân đoàn hỗn hợp do võ sĩ của các quốc gia khác lưu lạc tới đây cùng với binh sĩ do các tộc quần tương đối nhỏ yếu tổ thành, binh sĩ của bọn họ tổ thành càng thêm phức tạp, có người Tiên Ti, có người Thổ Cốc Hồn, người Đột Quyết, người Úy Ngột Nhi, người Niêm Bát Cát, người Đại Thực, người Ba Tư, người Thiên Trúc, không những cao thấp gầy béo không đồng đều, mà quần áo phục sức cũng khác nhau, ngay cả tướng mạo cũng đủ loại.

Dương Hạo tới rồi, mấy chục người giống như sao quanh trăng vấy lấy lá cờ lớn thêu chữ Dương, dưới cờ có một con ngựa tắng, trên ngựa là một người, nhưng bọc trong chiếc áo khoác màu đỏ rực, giục ngựa ra khỏi thành. Tào Ngọc Quảng khóe miệng cong lên, ung dung người: "Lúc ở kinh sư đã nghe nói Dương đại bổng chùy rất thích làm dáng, hiện giờ thấy quả nhiên là vậy thật. Ăn mặc như vậy, chỉ sợ trên chiến trường mình không được trở thành cái bia ngắm ư?"

Trong lòng nghĩ vậy, nhưng trên mặt Tào đại nhân thì lại vẫn rất cung kính, vội vàng giục ngựa lên trước, ôm quyền chào: "Mạt tướng Tào Ngọc Quảng, bái kiến đại soái."

Dương Hạo mỉm cười giơ roi ngựa lên, nói: "Ha ha, Tào tướng quân miễn lễ, bản soái mấy ngày trước tiến đón tân khách bốn phương, mệt mỏi quá độ nên nhiêm phong hàn, may mà không chậm rễ thời hạn xuất binh, chỉ là không tự mình tiếp đãi được tướng quân, mong Tào tướng quân chớ trách."

Tào Ngọc Quảng thấy hắn hình dung có chút tiều tụy, tuy rằng vẫn cười nói tự nhiên, nhưng so với lần đầu mình gặp hắn thì quả thực là gầy hơn một chút, không khỏi thầm kinh ngạc, nghĩ: Ta chỉ nghĩ hắn mấy ngày nay trốn đi để bố trí phòng bị cho Ngân châu, tiện thể thì ra oai phủ đầu ta, nhưng nhìn tình hình này? Chẳng lẽ hắn thực sự bị bệnh ư?"

Tào Ngọc Quảng không nghĩ tới Dương Hạo trong mấy ngày nay cưỡi ngựa phi tới phi lui, đã đi đến ba nơi, bái phỏng ba nhân vật quan trọng rồi, gã vội vàng khách khí cười nói: "Dương soái nói đùa rồi, ba quân đã đợi lâu rồi, Dương soái đã tới thì chúng ta khởi hành thôi nhỉ?"

Lúc này hắn mới chút ý tới, hỗ binh của Dương Hạo đều ở bên ngoài, những người ở gần hắn nhất không phải là thị vệ, những người này ước chừng có mười hai mười ba người, toàn bộ đều mặc áo da dày cộp, sau vai còn cắm một lá cờ nhỏ mày xanh, người lớn tuổi thì râu tóc đã hoa râm, người còn trẻ thì khoảng mười sáu mười bảy, thể phách cũng có người kiện tráng, có người yếu ớt, nhưng không biết những người này mang lại tác dụng gì.

Tào Ngọc Quảng tới đây, Tào Bân từng dặn hắn phải tùy cơ hành động: Dương Hạo tuy không phải là giống như Chiết gia, Dương gia, Lý gia là chư hầu một phương sớm đã cùng với Tồng quốc xây phủ mở đường ở Tây Bắc, nhưng lờ mờ đã có hiện tượng thoát ly khỏi sự khống chế của triều đình, gã làm giám quân chỉ là bù nhìn mà thôi, đừng mong kiềm chế được Dương Hạo, gã lần này tới là nhìn nhiều mà nói ít, làm gì cũng nghe theo sự an bài của Dương Hạo, sứ mệnh duy nhất của gã chính là thằm dò thực lực của Dương Hạo, thế nên những hiện tượng không tầm thường này lập tức làm dấy lên sự cảnh giác của gã.

Dương Hạo thúc cương ngựa, cao giọng quát: "Nào, truyền tướng lệnh, lấy bộ đội sở thuộc của Vương Như Phong làm tiên phong, thống binh tiến lên trước hai mươi dặm, tham lộ trinh sát thì đi trước dẫn đường, bộ đội sở thuộc của Mộc Ti làm bản doanh của bản soái, bộ đội sở thuộc của Biên Nhất Lang làm tả doanh, bộ đội sở thuộc của Hàn Kiên làm hữu doanh, bộ đội sở thuộc của Cái Bang Nhi Đắc áp hậu, bộ đội sở thuộc của Lý Tòng Long điều động theo trung quân của bản soái, ba quân nhổ trại!"

Dương Hạo nói xong, trung quân lập tức hưởng ứng, đội ngũ bắt đầu từ từ khởi động, những người sau lưng cắm cờ màu xanh ở bên cạnh hắn nhanh chóng tản đi, cưỡi ngựa tới các phương trận, dùng ngôn ngữ dân tộc bất đồng gào thét một hồi với tướng lĩnh bản bộ, những tướng lĩnh ở trước trận đó nghe xong liền quay người cao giọng truyền lệnh lại cho bộ hạ của mình. Tào Ngọc Quảng ngoài mặt thì giả vờ lơ đãng, nhưng thấy cảnh này không khỏi bật cười, thì ra tác dụng của những người này là như vậy, là quan thông dịch trong quân.

Vừa rồi những phương trận đó khá chỉnh tề, tuy lộ ra vẻ chỉ được luyện tập trong thời gian ngắn ngủi, nhưng cũng có mấy phần khí thế, Dương Hạo vừa hạ lệnh, hai mươi phương trận lại lập tức hỗn loạn, phương trận này chuyển sang bên trái, phương trận kia thì sang bên phải, nhân mã của phương trận phía trước thì vẫn nhìn trái nhìn phải, nghe ngóng tin tức. Binh sĩ của phương trận này đã tung người lên ngựa đi xa rồi, phương trận ở phía sau vẫn đứng thẳng tắp tại chỗ, chăm chú nghe thông dịch truyền lại chỉ thị của đại soái.

Tào giám quân không nhịn được mà bật cười thành tiếng, vội vàng che miệng lại, dùng khóe mắt nhìn lén Dương Hạo, nhưng thấy trên mặt Dương Hạo lúc trắng lúc đó, rõ ràng là bộ dạng đang rất tức giận, vội vàng lại giả vờ như không để ý.

Các phương trận đã trải qua thời gian hai nén hương, chung quy cũng có thể được gọi là tụ tập tới dưới cờ tướng lĩnh của mình, nhổ trại lên đường, theo tin tức báo mà Tào giám quân mấy ngày nay nghe ngóng được từ khắp các hang cùng ngõ hẻm của Ngân châu, Dương Hạo vốn có một vạn nhân mã, đây chính là toàn bộ tiền vốn của hắn, nhưng trong trận chiến công đánh Ngân châu, hao binh thiệt tướng, thương vong quá nửa, nếu không phải là Khiết Đan nhiều lần giúp đỡ đối kháng với chủ lực của Khánh vương, lúc hãm thành lại là đại quân liên hợp của Đảng Hạng thất thị tới giúp, nhân mã của hắn sớm đã hầu như hết sạch rồi.

Tuy là vậy, sau khi đánh hạ được thành Ngân châu, binh sĩ còn có thể chiến đấu ở dưới trướng Dương Hạo không tới ba ngàn, hiện giờ không tới nửa năm, quân đội của Dương Hạo đã khoách trương lên thành ba vạn, từ ba ngàn tới ba vạn, trong mười người chỉ có một lão binh, đổi lại là bất kỳ một nhánh quân đội nào, trong khoảng thời gian ngắn mà lại hình thành quy mô lớn như vậy, có thể chỉ huy hữu hiệu hay không đều là một vấn đề lớn, huống chi những binh sĩ này cơ hồ là được chiêu mộ từ tất cả dân tộc của Tây Vực, thói quen sinh hoạt, ngôn ngữ giao tiếp đều thành vấn đề lớn.

Tào giám quan trong lòng không khỏi thầm khinh bỉ.

"Phu nhân, quân đội của đại soái đã đi xa rồi!"

Đứng ở đầu thành nhìn về phương xa, quân đội của Dương Hạo đã biến mất ở phía cuối Đại Sơn, Phạm Tư Kỳ lập tức quay người lại, lớn tiếng thông báo về phía thành lâu.

Trong thành lâu lập tức có hai người bước ra, hai văn quan là Tiêu Quảng và Từ Huyễn, bốn người còn lại đều một thân giáp trụ, dưới hông đeo bội kiếm, nhìn bộ dạng giống như là mấy tiểu tướng trẻ tuổi ánh tuấn, môi hồng răng trắng anh tư bừng bừng, nam sắc họa thủy khiến các cô nương tiểu tức phụ nhìn thấy e rằng đều phải động lòng xuân, chính là La Đông Nhi, Đường Diễm Diễm, Mục Thanh Tuyền, Đinh Ngọc Lạc, và Điềm Tửu cô nương tuy không xinh đẹp nhưng lại không thiếu vẻ uy vũ.

Dương Hạo viễn chinh, tất phải lưu lại một nhánh tinh nhuệ để thủ thành, điều này vốn nằm trong dự liệu của Tào giám quân, gã đã mấy lần thăm dò rõ ràng, tổng binh lực lưu thủ Ngân châu không tới một vạn, đây là lấy quân đội gồm ba ngàn tinh nhuệ đích hệ làm chủ. Do Mộc Ân Mộc Khôi dẫn một nửa binh ở bên ngoài Ngân châu diệt trừ tất cả những nhân tố không ổn định, cho nên trong việc phòng ngự của thành trì ngay cả nữ binh cũng phải gánh sứ mệnh tương đối quan trọng.

Thống soái của thủ quân Ngân châu là phó tiết độ sứ Lý Quang Cầm và đoàn luyện sứ Kha Trấn Ác, cùng với hai vị chỉ huy sứ Mộc Ân, Mộc Khôi. Trên thực tế tướng lĩnh thủ thành chân chính chỉ còn lại một nam nhân Kha Trấn Ác, mấy người khắc thì đều là anh thư cả. Bản lĩnh thủ thành của Mộc Thanh Tuyền còn hơn cả trượng phu của mình, Điềm Tửu thì giỏi trận kích và mai phục, Đường Diễm Diễm, Đinh Ngọc Lạc thì giỏi điều độ hậu cần, mà La Đông Nhi thì dưới sư tài bồi dạy dỗ của Da Luật Hưu Ca và Tiêu Xước, hoàn toàn có năng lực chỉ huy điều hành binh mã một thành, nắm giữ toàn cục.

Lợi dụng những biện pháp thủ bố phòng mà Dương Kế Nghiệp chế tạo, chuẩn bị thủ vững Ngân châu. Toàn bộ những nhân vật dùng để kiềm chế Lý Quang Duệ lúc này đều xuất hiện trên đầu thành Ngân châu: Võ tướng là Kha Trấn Ác, Mục Thanh Tuyền, Đường Diễm Diễm, Đinh Ngọc Lạc, Điềm Tửu, văn quan thì là Tiêu Nghiễm, Từ Huyễn, Phạm Tư Kỳ, Lâm Bằng Vũ. La Đông nhi là nắm toàn cục. Trận này Dương gia nữ tướng chiếm một nửa.

La Đông Nhi nhìn về phương xa một cái, vẻ mặt bình tĩnh, nói: "Từ đại nhân, Tiêu đại nhân, tiếp tục di dời toàn bộ sơn trại, thành bảo, bộ lạc cư dân trong phòng một trăm dậ vào thành Ngân châu. Ai không chịu di dời thì cưỡng bách phải di dời, gom tất cả nhân khẩu vận tư bên ngoài thôn trấn, cần phải làm tới mức độ vườn không nhà trống."

Từ Huyễn và Tiêu Nghiễm chắp tay nói: "Tuân lệnh."

"Kha đoàn luyện, phu nhân. Nhờ hai vị tiếp tục huấn luyện dân tráng, lần này không án theo dân hộ mà bắt đinh nữa, nhưng phàm là nam tử thân thể cường tráng, tuổi trên mười lăm, dưới năm mươi thì tất cả đều phải tiếp nhận huấn luyện thành phòng."

"Vâng!"

"Phạm đại nhân, Lâm đại nhân, dược liệu, lương thực, hỏa dược cầu, đạn khí độc, cung tên đều phải dữ trự đầy đủ, gỗ lăn đá mài càng nhiều thì càng tốt. Mỗi ngày phân phối binh đinh và dân tráng, chưng tập tất cả xe cộ trong thành ra khỏi thành vận chuyển đá khối, chặt cây cối. Trong vòng ba mươi dặm xung quanh thành Ngân châu, không để lại một một gốc cây to bằng một vòng tay nào, không để lại một khối đá to bằng một vòng tay nào."

"Tuân lệnh."

"Diễm Diễm, Ngọc Lạc, Điềm Tửu, các muội những ngày này mỗi ngày đều phải tuần thị các thành, thao luyện sĩ tốt, làm quen với tất cả phương tiện thành phòng, điều phối các loại vật thư thành phòng tới các thành."

Đường Diễm Diễm và Đinh Ngọc lạc cũng nghiêm nghị đáp: "Vâng!"

Lúc này một nữ binh chạy tới trước mặt La Đông Nhi, ôm quyền nói: "Phu nhân, tam nương nhận được một bức thư mật, mời phu nhân về soái phủ nghị sự."

La Đông Nhi gật đầu nói: "Ta biết rồi."

Nàng ta quay lại bảo văn võ ở bên cạnh: "Được rồi, các vị đều đi làm việc đi, có chuyện thì thì cứ tới nói với ta." Nói xong liền theo nữ binh đó vội vã bước xuống thành. Từ đầu đến cuối chưa từng dõi mắt nhìn theo Dương Hạo thêm một lần nào.

Nàng ta vẫn nhớ Tiêu hậu là áo không cởi giáp, ngày đêm tuần thị thành trì và ba quân như thế nào, dùng trọng thưởng trọng phạt để ổn định quân tâm ra sao. Nàng ta nhớ hoàng đế Khiết Đan bị trúng tên độc, mấy lần suýt mất mạng, khi ngự y trong cung ngày luân phiên cứu trị, Tiêu hậu vẫn lâm nguy mà không loạn như thế nào, lên triều nắm quyền một cách trấn định tự nhiên ra sao, tạo ra dũng khí và lòng tin vô cùng cho quân dân toàn thành. Nàng ta nhớ tên khi tên lưu manh say rượu nói năng linh tinh trên đầu phố, phao tin hoàng đế băng hà, Tiêu hậu đã lãnh huyết vô tình chém đầu cả nhà hắn như thế nào.

Tiêu nương nương vì thương sinh xã tắc của Khiết Đan mà trấn thủ thành Thượng kinh. La Đông Nhi ta cũng có thể thủ thành Ngâu châu vì Dương lang, mặc kệ kẻ tới là sài lang hổ báo gì, ta đểu phải giữ vững nhà của mình.

...

Minh Đường Xuyên, phía trước Song Long lĩnh mười dặm, trên một tòa sơn lĩnh không cao, tòa sơn lĩnh này gọi là Lạt Cô lĩnh.

Xa xa có một kỵ binh phi tới, lập tức dẫn tới sự chú ý của mấy tên lính gác đang phục trên đỉnh núi, bọn họ vừa mới kéo dây nỏ, nhắm vào bóng người đang phi ngựa tới, đợi khi hắn tới dưới dãy núi, nhìn rõ tướng mạo của hắn, mấy tên lính gác lại cẩn thận quan sát phía sau hắn một hồi, thấy không có ai đi theo thì mới đứng dậy, vẫy tay với người đó, chu môi hét lên: "Lão Phun, ở đây này."

Người ở dưới vội vàng dắt ngựa lên, thở hổn hà hổn hển, nói: "Đại soái đã xuất binh."

Mấy tên lĩnh gác ở trên núi nhao nhao đứng lên, tên vừa rồi mới cao giọng gọi vui mừng hớn hở, nói: "Đại soái xuất binh rồi ư? Tốt, ngươi mau đi bẩm báo cho tướng quân đi, mấy ngày nay chui rúc ở đây, xương đầu nhàn đến nỗi ngứa râm ran rồi, đại soái đã xuất binh, chúng ta cũng sắp hết khổ rồi."

Lão Phun từ thắt lưng rút ra một cái túi da dê, mở nút ra rồi uống òng ọc, rồi lại dắt ngựa xuống núi, tung mình lên ngựa, tiếp tục phi về phía trước.

Song Long lĩnh hiện giờ vốn là một tòa thành không, Ngả Nghĩa Hải sau khi bất ngờ tập kích Song Long lĩnh thành công, đưa tất cả người ở đây về thành Ngân châu, tiện thể cũng coi tất cả tiểu bộ lạc ở gần thành Song Long làm chiến lợi phẩm luôn, vừa đấm vừa xoa di dời tất cả vào trong thành Ngân châu. Địa phương này không phải là đầu mối giao thông then chốt, vốn là nơi thưa thớt bóng người, lại thêm khi thành Song Long vẫn còn, người tới cũng không nhiều, từ sau khi người nơi này bị bắt gọn một mẻ, thành này đã thành một tòa thành chết, nhưng hiện tại trong thành lại chật cứng người.

Mộc Ân, Mộc Khôi, Ngả Nghĩa Hải dẫn bộ đội sở thuộc của mình tiêu diệt các bộ loại không thuần phục Dương Hạo ở ngoài thành Ngân châu, đã thể hiện rõ vũ lực, chấn nhiếp chư di, đồng thời cũng là quá trình luyện binh và dưỡng chiến, ngoài trừ những điều này ra còn có một tác dụng, mỗi lần nhân mã ra ngoài rồi quay về đều thần không biết quỷ không hay bớt đi một doanh. Nhân mã của một doanh này mang theo dê bò, lương thực cướp được tới tập kết ở thành Song Long.

Đợi lần sau xuất thành thanh trừ, binh mã mà bọn họ mang theo lại đủ quân số, dùng phương pháp này, bọn họ đã vận đủ binh mã và truy trọng tới thành Song Long, mà trong thành Ngân châu đã có mật thám của triều đình và Hạ châu, bọn họ lại ở ngay dưới mí mắt của những tên mật thám này tập kết, xuất binh, mang tài vật và nô đãi quay về, những tên mật hám này cũng đừng hòng phát hiện ra chút gì dị thường.

Trong thành Song Long lúc này đang khí thế ngất trời, nhiệm vụ mỗi ngày của binh sĩ là ăn no uống đủ, nghỉ ngơi chuẩn bị chiến đấu, đồng thời tự làm thịt khô, pho mát, váng sữa, rượu sữa, chế tạo các loại phương tiện giao thông như xe trượt có thể vận chuyển các loại vật tư vượt qua sa mạc và đầm lầy. Tướng lĩnh thống binh của bọn họ là ba người: Mộc Tư, Mộc Khôi, Ngả Nghĩa Hải.

Ba người này đều là những chuyên gia giỏi lăn lộ đường xa, tiền phục, di chuyển, tập kích trong hoàn cảnh khó khăn, Dương Hạo giao mạch đao trận và trọng kỵ binh trận mà hắn tốn nhiều tiền để tạo thành cho bọn họ. Ba hãn tướng Mộc Ân, Mộc Khôi, Ngả Nghĩa Hải cùng với mạch đao trận, kỵ binh trận dùng không đúng thì là đồ vứt đi, dùng đúng cách thì là vô địch này, đó chính là ba mũi đao sắc chuyên dùng để hàng yêu phục ma.

Thành trì Tây Vực đại đa số không tính là hùng vĩ, nhưng thành Hạ châu lại là ngoại lệ, tòa thành trì này là đô thành của Đại Hạ quốc do đại vương Hung Nô Hách Liên Bột Bột xây dựng từ thời Ngũ Hồ loạn Hoa Hạ. Người Hung Nô này cho rằng mình có thể "nhất thống thiên hạ, quân lâm vạn bang", do đó mới đặt tên cho thành này là thành Thống Vạn. Thành Hạ châu được xây kiên cố vô cùng, tường thành là dùng đất nung dựng thành, đất ở dưới chân thành cũng cứng rắn cực kỳ, năm đó hoàng đế Hậu Đường Lý Tự Nguyên công đánh Hạ châu, phái binh đào địa đạo, cũng chính bởi vì đất cứng mà không thể đào được địa đạo.

Bôn ba đường dài để tới công đánh một tòa thành vững như thế này, vốn là trên phân phối binh lực thì không cần dùng tới vũ trang, nhưng phía Hạ châu vốn lấy kỵ binh làm chủ, phong cách tác chiến của Tây Bắc vương Lý Quang Duệ lại tương tự với người Khiết Đan, đó chính là tiến công, tiến công, không ngừng tiến công, dùng sự tiến công sắc bén để bù đắp cho chỗ thiếu sót của phòng ngự, đồng thời với địa vị siêu nhiên của Lý Quang Duệ ở Tây Bắc, vũ trang có thể tạo thành uy hiếp cho Hạ châu, từ sau Lý Tự Nguyên gần hai trăm năm rồi chưa từng có thêm một ai. Cho nên Dương Hạo cho rằng y tất sẽ để tinh binh lại thủ thành, nhưng những tinh binh này chưa chắc đã toàn bộ đóng ở trong thành Hạ châu. Nếu như thật sự phát hiện ra địch nhân, với phong cách tác chiến trước giờ của quân Hạ châu, ý nghĩ đầu tiên của chúng chính là tấn công, đánh tan địch nhân, mà địch nhân bại rồi, Hạ châu tất được giải vậy. Vậy phải nhanh chóng đánh tan, xuyên thủng đám nhân mã bảo vệ xung quanh thành Hạ châu này, nhanh chóng lao tới dưới thành Hạ châu, mạch đao trận và trọng kỵ binh trận của hắn chính là có đất dụng võ.

Mộc Ân đang chắp tay nhìn trong các doanh trại ở phía trước đang đào ra từng cái hố bếp, thịt ở bên cạnh hố bếp chất cao như núi, còn các loại váng sữa, rượu sữa, pho mát thì được có người phân loại rồi cho vào trong túi da lớn và thắt lưng.

Nghe thấy thám mã hồi báo, Mộc Ân bật cười ha hả, quay đầu lại nhìn về phía thành Ngân châu. Khói bếp từ trong hố bếp tỏa ra, khiến hắn như đứng trong mây mù, gió bắc tổi qua, sương mù liền nhanh chóng tiêu tan trước mắt hắn. Mộc Ân chỉ về phía trước, lớn tiếng hô: "Luôn luôn chú ý tới tin tức từ phía Ngân châu, tin tức của phu nhân được đưa đến thì chúng ta lập tức xuất binh!"

 Chương 453: Ai cũng xảo quyệt

"Báo!"

Một kỵ binh phi tới, sau lưng cắm cờ đỏ hình tam giác, đón gió phần phật, sĩ tốt đang vội vàng hành tiến thấy kỵ sĩ đó trên vai mang cờ đỏ, đều nhao nhao nhường đường cho hắn.

Kỵ sĩ tới trước ngự liễn của Triệu Quang Nghĩa thì liền tung bình xuống ngựa, quỳ một chân, ôm quyền báo: "Khởi bẩm bệ hạ, Phủ châu Chiết Ngự Huân, Ngân châu Dương Hạo, Lân châu Dương Sùng đã hội sư ở Hà Tân, hiện đang cùng nhau hành tiến tới Lam châu."

"Biết rồi." Trong ngự liễn vang lên tiếng ừ, vẫn tiếp tục tiến về phía trước.

Ngự liễn rộng rãi như một gian phòng, trước là phòng khách sau là phòng ngủ, ở giữa dùng một tấm bình phong để chắn. Trong phòng khách một cái bàn dài, ở góc tường đặt hơn chục quyển tấu chương. Nghe thấy tín sứ đó truyền báo, Triệu Quang Nghĩa liền bước tới bàn, Mộ Dung Cầu Túy đã bước lên trước, cầm lên những cái que màu sắc khác nhau như nâu, vàng, lam, tượng chưng cho ba con đường từ Phủ châu, Lân châu, Ngân chân hợp nhau ở Hà Tân rồi sau đó tới thẳng Lam châu.

Triệu Quang Nghĩa chăm chú quan sát lộ tuyến hành quân, mỉm cười nói: "Tới nhanh thật, trẫm còn cho rằng, hắn trên đường sẽ bày không ít trò, cố gắng kéo dài thời gian cơ."

Mộ Dung Cầu Túy nói: "Hắn sao dám làm vậy chứ? Triều đình đã định trước thời gian phạt Hán là đầu tháng hai, bởi vì chuyện bên phía Khiết Đan đã làm chậm trễ một chút, hiện giờ đã quá hơn nửa tháng rồi, hắn dù có lý do cần chuẩn bị nhiều hơn thì cũng trù bị được xong rồi, còn có gì để mà kéo dài thêm nữa."

Triệu Quang Nghĩa gật đầu nói: "Nói cũng đúng, nhắc tới Khiết Đan, đám quan lại Sơn Đông đạo này đúng là hỗn trướng, suýt nữa thì làm lầm lỡ đại sự rồi!"

Mộ Dung Cầu Túy vội vàng nói: "Quan viên Sơn Đông đạo cũng không dám gánh vác trách nhiệm trọng đại như vậy, cho nên mới chưa tra rõ chân tướng đã bấm báo lên triều đình, chuyện đã qua rồi, may mà chưa tạo thành hậu quả không thể khống chế, xin quan gia bớt giận."

Thì ra, Triệu Quang Nghĩa đang thoả thê mãn nguyện ở điện Trường Xuân mở tiệc chiêu đãi chư tướng, ban thưởng thắt lưng vàng, áo lông cừu, yên và ngựa, khi đang muốn thệ sư bắc phạt thì quan viên Sơn Đông đạo đột nhiên dùng quân tình hỏa cấp mười vạn dặm tấu lên triều đình, nói rằng người Khiết Đan đột nhiên tập kết quân đội tại khu vực Vũ Thanh, Vĩnh Thanh, Hưng thành, còn có một cỗ kỵ binh nhỏ xuất hiện ở gần sông Cự mã, sông Bạch Câu nằm ở biên giới hai nước.

Triệu Quang Nghĩa nghe tin liền giật mình kinh hãi, lập tức ra lệnh cho quân đội vừa mới tập kết thẳng tiến về hướng Sơn Đông đạo, đồng thời phái rất nhiều mật thám tiềm nhập vào Bắc quốc để nghe ngóng tin tức, lại lệnh cho Hồng lư tự khanh công khai chất vất sứ tiết Khiết Đan, phí hết một phen trắc trở mới nhận được câu trở lời của sứ tiết Khiết Đan là "bỉ quốc điều binh vây diệt dư nghiệt của Khánh vương, đó là việc nội bộ của Khiết Đan, nơi dụng binh lại là trên lãnh thổ nước ta, chẳng việc gì phải thông báo lý do cho quý quốc cả”.

Tiếp theo thám mã trinh sát cũng nhao nhao hồi báo, nói là Khiết Đan điều tập binh mã Trung kinh, đang vây diệt thế lực tàn dư của Khánh vương ở khu vực Vũ Thanh, Vính Thanh, khi bọn họ tới nơi thì dư nghiệt của Khánh vương cũng bị tiêu diệt rồi, binh mã Khiết Đan đã về Trung kinh rồi.

Một phen dây dưa này, không những tốn nhiều thời gian, hơn nữa đại quân Tống quốc tập hợp ở biên giới, suýt chút nữa cùng với biên quân của Khiết Đan đánh nhau, Triệu Quang Nghĩa tức giận vô cùng, quá trình đi đi về về này cũng chậm trễ gần một tháng thời gian, đợi tới khi hắn phát binh chinh phạt hán quốc thì đã tới lúc băng tuyết tan hết, là đầu xuân tháng ba cỏ mọc tươi xanh rồi.

Triệu Quang Nghĩa nhớ tới chuyện này, vẫn chưa hết giận hỏi: "Chúng ta hiện giờ tới đâu rồi?"

Mộ Dung Cầu Túy chỉ vào bản đồ, nói: "Mời quan gia xem, chúng ta hiện tại vừa qua Phù sơn, đi tiếp về phía trước là Bình Định rồi."

Triệu Quang Nghĩa gật gật đầu, trầm ngâm nói: "Bình Định, Bình Định, là một cái tên mang điềm tốt đó."

Mộ Dung Cầu Túy cười bồi, nói: "Tất nhiên là điềm tốt rồi, Đại Tống ta bình định các nước trong thiên hạ, không có nơi nào là không công đánh được, duy có Hán quốc này là khiến Đại Tống ta ba lần chinh chiến mà không diệt được, thực sự là rất khó chơi, có điều làn này gặp quan gia ngự giá thân chinh, quần thần Hán quốc tất nhiên sẽ bị mất đầu, Trung Nguyên rồi sẽ được nhất thống trong tay bệ hạ!"

Mộ Dung Cầu Túy có ý lảng tránh nguyên nhân mấy lần trước công đánh Hán quốc đều có Khiết Đan nhúng tay vào, lời nói lại rất dễ nghe, Triệu Quang Nghĩa không khỏi lộ ra nụ cười hài lòng, hắn là không cam tâm vĩnh viễn đứng dưới ánh hào quang của Triệu Khuông Dận, hoàng huynh của hắn một tay tạo ra đế quốc Đại Tống, hơn nữa còn khiến Tống quốc trở thành cường quốc đệ nhất trong Trung Nguyên loạn thế, bình định năm quốc gia Kinh, Hồ, Thục, Hán, Đường, trong đó có một Đường quốc là có một phân công lao của Triệu Quang Nghĩa hắn. Hiện giờ thiên hạ đã gần được nhất thống, muốn trên số lượng các nước được bình định vượt qua hoàng huynh là không thể, chỉ có vượt y trên độ khó mà thôi.

Hán quốc dẫu sao cũng là một quốc gia duy nhất mà Triệu Khuông Dận tiến đánh ba lần vẫn chưa thành công, tuy nói rằng Triệu Khuông Dận đã đạt thành đồng minh với Khiết Đan, khiến Khiết Đan thôi không viện trợ Hán quốc, hiện giờ phạt Hán đã mất đi độ khó, nhưng người hái được đào dẫu sao cũng là hắn, bách tính bình dân có mấy người biết được Hán quốc hiện giờ đã khác với Hán quốc trước kia đâu.

Triệu Quang Nghĩa chỉ vào địa đồ, dè dặt hỏi: "Đánh hạ Hán quốc chưa tính là gì, rồi có một ngày trẫm còn muốn đoạt lại U Yến, lấy lại toàn bộ lĩnh thổ và con dân của dị tộc đã tiêu vong từ thời Đường mạt tới nay, đánh ra một thiên hạ rộng lớn, giang sơn bao la!"

Mộ Dung Cầu Túy vội vàng nói: "Quan gia hùng tài đại lược, văn võ đều hơn các vị hiền vương cổ kim, tất có thể công vượt Hán, Đường, lưu tiếng thơm muôn đời!"

Triệu Quang Nghĩa cười ha ha, lại nói: "Tam phiên Tây Bắc đã ứng chiếu mà xuất binh rồi, phía Hạ châu, ngươi hãy kịp thời tiết lộ tin tức ra đi, Lý Quang Duệ chỉ cần không quá ngu xuấn thì hắn nhất định sẽ nắm lấy cơ hội này."

Mộ Dung Cầu Túy ứng tiếng, nói: "Vậy, tin tức sẽ lập tức được đưa đi."

Triệu Quang Nghĩa lại trầm ngâm nói: "Nam trước bắc sau, nhất thống thiên hạ, đây là quốc sách đã được định từ lúc Đại Tống ta mới lập nước, quốc lực ngày một hưng thịnh, là lúc nên binh phong hướng về phía bắc, quất ngựa thượng kinh rồi. Bắc quốc hiện giờ cô nhi quả mẫu, triều chính bất ổn, chính là cơ hội tốt nhất để trẫm đoạt lại U Vân lục thập châu, thời cơ chỉ chợt lóe lên rồi vụt tắt, không thể nào bỏ lỡ được. Lúc này, trẫm tuyệt sẽ không để Tây Bắc níu kéo chân sau của trẫm."

Mộ Dung Cầu Túy nói: "Cho nên, biện pháp tốt nhất chính là để Tây Vực tiếp tục bảo trì cục diện phân liệt và chế ngự lẫn nhau. Trong Tây Bắc chư phiên, Chiết Ngự Huân, Dương Sùng là hạng khó thành đại khí, mà Dương Hạo thì khác, hắn có thiên thời, địa lợi, nhân hòa, lại thêm chiêu bài vàng của Lý Quang Sầm, chưa chắc đã không thể thay thế được Lý Quang Duệ. Chiết Ngự Huân và Dương Sùng có quan hệ rất mật thiết với hắn, một khi để hắn trở thành đệ nhất cường phiên của Tây Bắc, chư phiên này sẽ hợp lại với nhau, rất khó chế ước."

Triệu Quang Nghĩa nói: "Lý Quang Duệ đối với trẫm vẫn tính là cung kính nghe lời, hơn nữa không có dã tâm tự lập, trăm năm nay Lý gia với lưỡng phiên Chiết, Dương tranh quyền đoạt lợi, sớm đã thành thế như nước với lửa, trái lại Dương Hạo thì khác, hắn không những có lợi thế là nghĩa tử của Lý Quang Sầm, chiêm lãm được Đảng Hạng thất thi để sử dụng, mà còn kết đồng minh cùng tiến cùng lui với Phủ châu, Lân châu. Hơn nữa... người này rất có khả năng còn hoạt động ngầm với Khiết Đan, đây mới là nguyên nhân lớn nhất mà trẫm không thể dung thứ hắn."

Mộ Dung Cầu Túy gật đầu, nói: "Quan gia nói rất đúng, Dương Hạo và người Khiết Đan đồng thời tấn công Ngân châu, điều này khó tránh khỏi quá trùng hợp, tuy nói rằng bọn chúng ai có mục đích nấy, nhưng nếu nói bọn chúng không có cấu kết thì thực sự là khiến người ta khó mà tin được.

Đặc biệt là bọn chúng phối hợp công đánh Ngân châu quá hợp lý, sau khi thành Ngân châu thất thủ, người Khiết Đan trước giờ tham lam thành tính không ngờ lại buông bỏ Ngâu châu mà nhanh chóng lui binh, chắp tay nhường Ngân châu lại cho Dương Hạo, giữa hai kẻ này há lại có thể không có âm mưu không thể nói cho người khác? Khiết Đan đối với việc bị bức phải buông bỏ Hán quốc một mực không cam tâm tình nguyện, theo ý kiến của thần, Dương Hạo rất có khả năng chính là một con rối mà Khiết Đan chuẩn bị dùng để kiếm chế Đại Tống ta thay cho Hán quốc, cho nên mới không tiếc sức lực phối hợp và nâng đỡ hắn."

Triệu Quang Nghĩa cười lạnh, nói: "Để phòng hoạn còn chưa kịp xảy ra, trẫm phải mượn sức của Lý Quang Duệ, đánh cho Dương Hạo hắn trở lại nguyên hình."

Mộ Dung Cầu Túy cung kính khen: "Một mũi tên bắn chết hai con chim, quả là diệu kế."

"Ha ha, một mũi tên bắn chết hai con chim ư?"

Triệu Quang Nghĩa cười tự đắc hai mắt nhìn về tình cảnh ở phía trước, ánh mắt dần dần biến thành lạnh lùng.

Quân nghi trượng của hắn vừa ra khỏi Phù sơn, lúc này vẫn đang ở nơi cao, từ trên cao nhìn xuống, chỉ thấy ba lộ đại quân uốn lượn như rắn, đang hành tiến vào giữa vùng sơn dã, dưới chân núi ở phía trước, một nhánh đại quân đã bước ra khỏi sơn dã, đang tiến về phía trước, trong quân dựng một cột cờ, trên cờ thêu một chữ "Triệu".

Sắc mặt của Triệu Quang Nghĩa lại trầm xuống, Mộ Dung Cầu Túy giỏi đoán sắc mặt, liền vội vàng nói: "Bệ hạ, hiện giờ đã tiếp cận biên cảnh của Hán quốc rồi, mã quân đô ngu hậu Mã Phong, bộ quân đu ngu hậu Dương Kế Nghiệp của Hán quốc là hạng quỷ kế đa đoan, rất giỏi đánh mai phục, để đề phòng Hán quân tập kích quân ta bất ngờ, nên lệnh cho tiên phong đi trước một bước.”

"Ừ, lời của ái khanh rất có lý." Triệu Quang Nghĩa gật gật đầu, Mộ Dung Cầu Túy liền cúi người vái một cái, bước ra khỏi ngự liễn, đứng ở mép xe lớn tiếng nói với thống lĩnh cấm quân Bạch Văn Liệt: "Bệ hạ có chỉ, lệnh cho tiên phong tăng tốc tiến lên, gặp núi mở đường, gặp nước dựng cầu, thám thính tin tức của quân địch."

"Bệ hạ có chỉ, lệnh cho quan tiên phong dẫn bộ đội sở thuốc tiến về trước môt trăm dặm, gặp núi mở đường, gặp nước dựng cầu, tham tính tin tức của quân địch."

Triệu Đức Chiêu nghe thấy chỉ ý, hờ hững nói: "Biết rồi, truyền lênh, tăng nhanh tốc độ hành tiến."

Ba quân của tiên phong doanh lập tức gia tăng tốc độ, dứt bỏ đại đội, lúc chạng vạng, phía trước xuất hiện một tòa thành trì, Triệu Đức Chiêu ghìm ngựa hỏi: "Phía trước là nơi nào vậy?"

Thám mã hồi báo: "Tướng quân, chúng ta đã tới thành Bình Định rồi."

"Ặc? Sắc trời đã tối, dừng tiến tới, chúng ta tối nay đóng quân trong thành Bình Định, vào thành."

Phó tướng Cao Dận kinh ngạc thưa: "Tướng quân, thành Bình Định này phía bắc là sông Miên Mạn, thành nam là Quá Thủy, phía trước là cánh đồng cỏ lau mênh mông bát ngát, địa thế này rất dễ gặp công kích. Đại quân của quan gia đi sau sắp tới rồi, chúng ta nên tiếp tục tiến lên trước, xem xét thủy đạo ở xung quanh, dò tìm cánh đồng cỏ lau ở phía trước, đốn ra một khu cách lửa mới đúng."

Triệu Đức Chiêu mặt mày tươi cười nói: "Cao tướng quân nói rất có lý, có điều bản tướng quân lần đầu lĩnh binh, quan gia cũng nhiều lần căn dặn ta phải thật thận trọng, lấy cẩn thận là trên hết. Hiện giờ đại quân chưa tới, phía trước đã tiếp cận biên cảnh của Hán quốc, ba ngàn sĩ tốt của chúng ta nếu không cẩn thận đi vào cánh đồng cỏ lau để rồi trúng phải mai phục, thua trận thì không quan trọng, bản tướng quân có ba dài hai ngắn gì cũng không quan trọng, nhưng làm nhụt nhuệ khí của quân ta thì biết ăn nói hế nào với quan gia? Chúng ta cứ tiến lên trước đi, nếu đại quân của quan gia tối nay tới được thành Bình Định, trong thành không đóng được nhiều quân đội như vậy, tiên phong doanh của ta chuyển ra ngoài thành, đóng trại dựa lưng vào thành, bảo vệ quan gia. Hán quốc binh ít tướng thưa, dù có mai phục thì lúc đó cũng biết khó mà lui. Ha ha ha, nào, vào thành."

Cao Dận ăn phải cái đinh mềm, mắt thấy Triêu Đức Chiêu chuyên quyền độc đoán, đã hạ lệnh vào thành rồi, chỉ đà lui ngựa sang một bên.

Triệu Đức Chiêu ghìm ngựa đứng nghiêm, nhìn quân sĩ vào thành, trong lòng không ngờ lại nhớ tới lời dặn dò của ân sư: "Quan gia lòng mang ý xấu, lệnh cho ngươi làm tiên phong, tuyệt không phải là có ý tốt, đây là mượn đao giết người đó. Nhưng lý do mà hắn đưa ra rất đường hoàng, không thể nào cự tuyệt được. Có điều, đây cũng là một chuyện tốt, ít nhất thì chứng tỏ quan gia không dám công khai động tay động chân với ngươi, hắn có điều cố kỵ, ngươi mới có một tia hi vọng.

Ngươi lần này đi không cầu có công, nhưng cầu không tội, phải thật cẩn thận. Ngươi tuy là tiên phong, nhưng ngàn vạn lần không được xung phong lên trước, trong loạn quân, địch nhân không thể giết ngươi, nhưng phải phòng bị bắn lén ở phía sau. Vô luận là như thế nào, qua được một cửa này, quan gia sẽ càng khó tìm được cơ hội để hạ thủ đối với ngươi, ngươi mới có cơ hội báo thù cho tiên đế, tru sát tên tặc nhân giết vua đoạt quyền này."

Nghĩa tới đây, khóe miệng Triệu Đức Chiêu phác ra một nụ cười lạnh, đúng lúc này thì có người tới bẩm báo: "Tướng quân, tiền doanh đã vào thành rồi."

Triệu Đức Chiêu thúc ngựa nói: "Cao tướng quân ở phía sau, trung quân theo ta vào thành!"

Khi bộ đội tiên phong của Triệu Quang Nghĩa tới thành Bình Đinh thì nhân mã của Dương Hạo, Chiết Ngự Huân, Dương Sùng đã tới Lam châu. Đóng đại doanh xong, Dương Hạo phân phó phó tướng Lý Nhất Đức an bài việc hạ trại, còn mình thì tới trung quân của Chiết Ngự Huân.

Hắn mang Lý Nhất Đức theo bên cạnh, tất nhiên là bởi vì đại tướng tâm phúc đều dùng vào việc khác rồi, hắn mang nhánh tạp quân này tới Hán quốc thực chất cũng một phần là không tìm đâu ra được mấy nhân vật có thể cáng đáng được việc, một phương diện khác cũng không gì ngoài bởi vì Lý Nhất Đức tính tình chất phác, bách tính Ngân châu có một khu vực đều có quan hệ phức tạp chồng chéo với Hạ châu Lý gia, nếu đại quân của Lý Quang Duệ giết tới, rất khó bảo chứng khi đại quân của Lý gia áp cảnh, sẽ không vì tiền trình của gia tộc Lý thị mà bội phản một lần nữa. Vì sự an toàn, chỉ đành mang vị gia chủ của Lý thị này theo bên cạnh, Lý gia muốn đưa ra quyết định gì cũng phải nghĩ thật kỹ.

Dương Hạo tới đại doanh trung quân của Chiết gia, thấy chỉ huy sứ Xích Trung đang chỉ hủy bộ đội sở thuộc đào chiến hào, đóng cọc gỗ, bố trị bụi gai, rào chắn ngựa. Tuy nói rằng thám mã không dò la được tung tích của địch, quân đội của Hán quốc cũng không thể mạo kiểm đi xa mà công kích quân đội của họ như vậy, nhưng trên đường đi, Xích Trung an doanh đóng trại thủy chung không hề cẩu thả, tuyệt không qua loa một chút nào.

Dương Hạo và hắn quen biết nhau, lúc trước dẫn bách tính Bắc Hán dời tới Tây Bắc, người đầu tiên tới nghênh đón, và một đường hộ tống hắn về Phủ châu chính là vị Xích tướng quân này. Dương Hạo mỉm cười gật đầu chào: "Xích tướng quân, Chiết soái có ở trung quân không?"

Xích Trung quay đầu lại thấy là Dương Hạo, trên khuôn mặt luôn luôn nghiệm nghị lộ ra một nụ cười hiếm có: "Dương soái tới rồi đấy à, Chiết soái nhà ta đang ở đại trướng, có nói là lát nữa sẽ tới trung quân của Dương soái để bái phỏng, mời vào mời vào.

Dương Hạo thấy hắn muốn dẫn đường cho mình, vội vàng khách khí nói: "Sao dám phiền đến Xích tướng quân, tướng quân cứ làm việc của mình đi, Chiết soái là nghĩa huynh của ta, vốn không cần phải khách khí như vậy đâu, ta tự đi là được rồi."

Dương Hạo cất bước đi về phía trướng bồng lớn nhất, phó tướng Tiêu Thần của Xích Trung nhìn theo bóng lưng của Dương Hạo, than: "Ài, nhân sinh tế ngộ đúng là khó đoán. Hai năm trước, Dương Hạo vẫn là quan nhi cửu phẩm, nếu không phải là mang danh phận khâm sai, đừng nói là Chiết soái của ta, cho dù là tướng quân ngài, cũng không cần phải hạ mình đi gặp hắn. Hắn tới Biện Lương lòng vòng một hồi, làm quan càng lúc càng lớn, hiện giờ Tiết soái đã xưng huynh gọi đệ với hắn rồi, ngày xưa tướng quân cao cao tại thượng, hiện giờ gặp hắn lại phải vái chào, thuộc hạ trong lòng thật sự là con mẹ nó thấy chua xót sao ý."

"Nói cái rắm gì vậy, đi làm chuyện của ngươi đi!"

Xích Trung trợn mắt lên mắng hắn rồi quay người bỏ đi, đi tới chỗ xa xa, đưng ở mép sông Phần Thủy, đối diện với nước sông phẳng lặng, nhìn những cách hoa vàng lác đác trên mặt nước, Xích Tùng đột nhiên thở dài một tiếng.

Dương Hạo tới trung quân đại trướng của Chiết Ngự Huân, bên trong đã nhận được tin tức, Chiết Ngự Huân và Dương Sùng cùng nhau đứng dậy nghênh đón, Dương Hạo cười nói: "Nhị ca cũng tới rồi à?"

Dương Sùng cười nói: "Bọn ta đang nói tới đệ thì đệ đã tới rồi, vào trong ngồi đi nào."

Ba người vào trướng ngồi xuống, Chiết Ngự Huân lập tức hỏi: "Có tin tức gì chưa?"

Dương Hạo biết là hắn đang hỏi tới phía Hạ chân, liền lắc đầu, mỉm cười nói: "Làm gì mà nhanh như vậy được, muốn có được tin tức từ phía Hạ châu, e rằng phải mất mấy ngày."

Dương Sùng thở dài, nói: "Lão tam đúng là nhân tài làm đại sự, nếu đổi lại là ta, tuyệt không dám vứt bỏ căn cơ, mạo hiểm cử một lộ kỳ binh tới công đánh bản trận của Lý Quang Duệ đâu. Nếu thật sự làm vậy, e rằng ta sẽ ăn ngủ không yên, lão tam thì lại thản nhiên như không có chuyện gì, đảm phách này ta thật không thể sánh bằng."

Dương Hạo lắc đầu nói: "Trong lòng ta sao mà không thấp thỏm cho được? Có điều kế nghị đã định, nghĩ nhiều cũng vô ích, ta đã xuất chiêu rồi, hiện tại chỉ có thể chờ xem Lý Quang Duệ ứng chiêu như thế nào. Nếu như kế này của ta thành công, hai vị huynh trưởng, mấy chục năm mưa máu gió tanh của Tây Vực sau này có thể sau cơn mưa trời lại sáng trong mấy năm ngắn ngủi, điều này đối với ta hay đối với hai huynh đều là chuyện tốt. Lần này đáng để mạo hiểm mà.

Hiện giờ phải lập tức tiến vào Hán quốc, hội hợp với đại quân của quan gia, Hán quốc giờ đã không còn như xưa, lào sao mà kham nổi một trận? Nhưng quan gia lại bày ra trận trượng lớn như vậy, chẳng lẽ chỉ là để khoe khoang binh uy với một Hán quốc đang bấp bênh bên bờ sụp đổ hay sao? Quan gia điều chúng ta xuất binh, e rằng không chỉ đơn giản là điệu hổ ly sơn, tạo cơ hội cho Lý Quang Duệ thôi đâu."

Dương Sùng không nhịn được liền buột miệng hỏi: "Đệ nói sao cơ? Chẳng lẽ quan gia còn dám nhất loạt thu thấp chúng ta ư?"

Dương Hạo cười nhạt nói: "Loại chuyện đó thì hắn tất nhiên là không làm được, có điều mượn vào binh của hán quốc, diệt thế lực của ta và huynh, lại chỉ phải đùng cái miệng một chút là được, nếu đổi lại huynh là Triệu Quang Nghĩa, huynh có làm không?"

Chiết Ngự Huân cười lãnh nói: "Cái này ta cũng từng nghĩ tới rồi, quan gia chưa chắc đã không có tâm tư này, chúng ta cũng không phải là con rối để mặc cho người ta điều khiển, nếu hắn muốn để chúng ta đi đánh trận đầu, chúng ta không thể thừa cơ phóng nước ư?"

Dương Hạo mỉm cười, nói: "Ta chính là có ý này, chúng ta lần này đi phải đồng tâm hiệp lực, cùng tiến cùng lui, chỉ cần ba huynh đệ chúng ta một lòng, quan gia rất khó mà giở được trò gì."

Nói tới đây, hắn lại quay sang Dương Sùng, nói: "Nhị ca, bộ quân đô ngu hậu Lưu Kế Nghiệp của Hán quốc là bào huynh của huynh, lần này, Hán quốc e rằng khó mà tránh khỏi kiếp nạn, lệnh huynh nếu như không kịp thời tránh đi... nhị ca có tính toán gì không?"

Nụ cười trên mặt Dương Sùng lập tức biến mất, da mặt của ít co giật mấy cái, trầm giọng nói: "Đại ca... cùng ta đã hơn hai mươi năm không qua lại rồi. Cái mà ta phải bảo vệ là Dương gia của ta, cái mà đại ca bảo vệ là Hán quốc Lưu thị. Từ sau khi hắn trở thành cháu nuôi của Hán đế Lưu Sùng, ta đã nhiều lần viết thư cho hắn, khuyên hắn bỏ Hán quay về, nhưng đại ca cảm niệm ân tình Hán đề, kiên quyết không nghe. Sau khi Hán đế Lưu quân bái hoàng đế Khiết Đan làm cha, trên tộc phổ ở từ đường của Dương gia đã gạch tên của đại ca rồi, để tránh tổ tông vì hắn mà hổ thẹn. Hiện giờ hắn nếu ở trước trận trở giáo, nhận tổ quy tông, Dương Sùng vẫn nhận hắn là đại ca, nếu không, duy chỉ có đao kiếm gặp nhau, tình huynh đệ khó mà giữ được!

Dương Hạo nói như chém đinh chặt sắt, Dương Hạo nghe mà vừa kinh ngạc lại vừa vui mừng, hắn biết Dương Kế Nghiệp tuyệt đối sẽ không làm ra loại hành vi ở trước trận mà bỏ chủ, hiện giờ bất kể Dương Sùng khí phách lẫm liệt, hay là không muốn để có người làm lung lay địa vị gia chủ Lân châu Dương thị của hắn, nhưng đã rõ tâm ý của hắn, vậy thì mình vẫn có một tia hi vọng thu phục Dương Kế Nghiệp.

Con cháu của ngũ đại thế gia danh tướng thời Tống sơ là Dương, Tào, Chủng, Chiết, Lý cũng có rất nhiều người làm danh tướng, chiến công hiển khách. Hiện giờ Tào gia Tào Bân, Lý gia Lý Kế Long đã theo Tống, Chiết gia Chiết Ngự Huân là đại ca kết nghĩa mình, Chủng gia, thế gia duy nhất từ văn thần đại nho thế gia trở thành võ tướng thế gia hiện giờ vẫn chưa biết người ở nơi nào. Dương gia bài danh đệ nhất có thể lọt vào tay mình hay không, thì phải xem xem hắn lần này có thể từ trong miệng của Triệu Quang Nghĩa đoạt được vị Dương lão bệnh công này không.

 Chương 454: Chiến tranh còn sớm

Tất cả mọi người đều đang tiến về phía Hán quốc, nhưng sự chú ý của tất cả mọi người lại đều không đặt ở đó. Chiến trường chủ thật sự của Dương Hạo là ở Tây Vực, còn toan tính của Triệu Quang Nghĩa cũng không phải ở Hán. Hán quốc vốn nên là sự tồn tại tập trung ánh mắt của tất cả mọi người hoàn toàn trở thành một lớp ngụy trang, ai ai cũng đều nhận định rằng Hán quốc bị tiêu diệt là chuyện hiển nhiên, nhưng Hán quốc tất nhiên là cũng không cam lòng chịu chết.

Đô thành của Hán quốc, hoàng cung Tấn Dương, quần thần đứng trang nghiêm, hơi khom mình về phía hoàng tọa, bầu không khí vô cùng nặng nề. Trên bảo tạo, Lưu Kế Nguyên mặc một chiếc áo da cừu, mệt mỏi nói: "Chư vị ái khanh, Tống quốc hoàng đế ngự giá thân chinh, tám lộ đại quân sắp bao vây đô thành, các khanh... đã nghĩ ra đối sách gì chưa?"

Giọng nói của hắn rất mệt mỏi, mặc dù vẫn lộ ra một chút âm nhu, nhưng hoàn toàn không còn vẻ tàn nhẫn như năm xưa. Hắn vốn không phải họ Lưu, mẫu thân của hắn vốn là nữ nhi của Hán khai quốc hoàng đế Lưu Sùng, trước gả cho họ Tiết, sinh con trai là đặt tên là Kế Ân, sau gả cho họ Hà, lại sinh con trai đặt tên là Kế Nguyên, hai người đều là dưỡng tử (con nuôi) của cữu phụ Lưu Thừa Quân. Sau khi Lưu Thừa Quân chết, do dưỡng tử Lưu Kế Ân lên ngôi, tháng chín cùng năm Lưu Kế Ân lại bị đại thần Hầu Phách Vinh giết chết, thế là Lưu Kế Nguyên liền làm hoàng đế Hán quốc.

Lúc mới kế vị, để củng cố hoàng quyền, con cháu Lưu thị bị hắn đồ sát gần hết, đối với đại thần trong triều cũng tiến hành thanh trừng một phen, trước tiên thì tin tưởng đại tướng Mã Phong, giết chết đại tướng Trịnh Tiến, lại sủng tín hoạn quan Vệ Đức Quý, giải trừ quân chức của thổ hồn quân thống soái Vệ Trù, về sau lại giết chết ông ta, đại tướng Lý Ẩn vì bất bình cho Vệ Trù, lại bị hắn giết chết. Kể ra, quân đội của Bắc Hán quốc có hai cột trụ lớn thì một là quân đội của bộ quân đô ngu hậu do Lư Kế Nghiệp thống soái, một là thổ cốc hồn quân do Vệ Trù thống soái. Vệ Trù vừa chết, thổ cốc hồn quân kiêu dũng thiện chiến sĩ khí xuống thấp, người cởi giáo đào ngũ nhiều không đếm xuể, chính quyền Bắc Hán vốn đã lộ ra nguy cơ càng như tàn chúc trong gió, Lưu Kế Nguyên tự hủy trường thành của mình, cuối cùng cũng gặp quả báo, hiện tại người một lòng làm việc vì triều đình càng lúc càng ít.

Lưu Kế Nguyên vừa hỏi, đầu của quần thần đã cúi thấp lại càng thấp hơn, Lưu Kế Nguyên giống như không chịu nổi sự lãnh lẽo trên kim điện, thân hình co thành một khối, u buồn nói: "Chẳng lẽ... thiên hạ của Hán thất ta hiện giờ lại mất trong tay của trẫm ư?" Tiếng nói sụt sùi, như khóc như than, giọng nói của hắn tuy hữu khí vô lực, nhưng vừa nhỏ lại vừa dài, trên kim điện tuy rằng bá quan đứng chật ních, nhưng lại vắng lặng như tờ, giọng nói của Lưu Kế Nguyên lượn lờ vang vọng, quần thần nghe thấy đều run rẩy trong lòng, chỉ sợ vị hoàng đế khát máu này trong cơn tuyệt vọng sẽ giết người bừa bãi.

Trung điện giám Lý Uẩn ho khan một tiếng, thu hết can đảm bước ra khỏi hàng, nói: "Bệ hạ, hiện giờ quốc nạn lâm đầu, Hán quốc ta lại mất đi sợ che chở của Khiết Đan, bằng vào mấy tòa thành, mấy vạn nhân mã của chúng ta, thế khó mà đối kháng được với đại quân của Tống quốc, tình hình hiện giờ, nếu tiếp tục chống đối, chẳng qua là lấy trứng chọi đá, Tống quốc nhất thống trung nguyên đã là xu thế không thể nghịch chuyển, thần to gan, liền chết can gián, bệ hạ, không bằng mở cửa đầu hàng, để bảo vệ tông tự."

Những lời này của Lưu Uẩn rất được bá quan văn võ ủng hộ, hiện giờ đã có người nói trước, bá quan văn võ liền nhao nhao phụ họa. Tiễn Thuận, La Huân bước lên trước quỳ xuống, mồm năm miệng mười nói: "Bệ hạ, Lý đại nhân nói rất đúng, tình hình hiện giờ, với cô quân của ta thế khó mà cản được thế công của quân Tống, không bằng... đầu hàng đi."

Lưu Kế Nguyên co ro ngồi đó, một hồi lâu vẫn chưa nói gì, bá quan văn võ phát giác có điều khác thường, giọng nói đều nhỏ dần. Một lúc sau, giọng nói âm nhu của Lưu Kế Nguyên mới lại vang lên: "Đúng vậy, với cô thành của ta, làm sao mà chống cự nổi mấy chục vạn hùng sư của quân Tống chứ?"

Bọn Lý Uẩn mừng rơn, chỉ cho rằng Lưu Kế Nghuyên đã đồng ý đầu hàng, đám văn võ tướng lĩnh Cao Tư Dương, Lý Thuận Dương, Trương Tử Hoặc đang quan sát tình hình thì thầm nghĩ: "Sơn cùng thủy tận, bệ hạ quả nhiên muốn hàng rồi, hôm nay lập trường của mình như thế nào, ngày sau truyền vào tai Tống đình, có thể liên quan tới tiền trình của một nhà ta." Thế là lập tức bước lên trước một bước rồi quỳ xuống, liên tục phụ họa nói: "Bệ hạ anh minh, chúng thần cho rằng, hôm nay đánh không thể đánh, duy có đầu hàng thì mới tránh được ngọc đá đều vỡ."

Không ngờ Lưu Kế Nguyên lại nói tiếp một câu: "Nhưng nếu... hàng Tống quốc rồi, thật sự có thể đảm bảo cho ta tipees tục được phú quý truyền thừa hay không? A a a a..."

Hắn bật cười mấy tiếng âm dương quái khí, mỉm mai nói: "Con trai của Sài Vinh chết rồi... Thục quốc Mạnh Hòa... chết rồi, Đường quốc Lý Dục... chết rồi. Chỉ còn lại ba tên vua mất nước Kinh, Hồ, Nam Hán cả ngày nơm nớp lo sợ, không biết hôm nào thì một mạng về tây. Trẫm nếu hàng Tống quốc, các ngươi vẫn được làm quan của các ngươi, hiệu trung với hoàng đế mới của các ngươi, nhưng trẫm thì không những không làm được thiên tử nữa, mà ngay cả một tù đồ cũng không bằng...

Đám quan viên khuyên hàng như Lý Uẩn cả người toát mồ hôi lạnh, vội vàng quỳ xuống biện giải: "Chúng thần chỉ một lòng tính toán cho bệ hạ mà thôi, bệ hạ nếu hàng, chúng thần hàng theo bệ hạ, bệ hạ nếu không hàng, thần nguyện thề chết tử thủ thành trì, cùng tồn vong với Hán quốc ta."

Lưu Kế Nguyên khép tay áo, hai mắt híp lại không nói gì, lúc này những quan viên đang quan sát tình hình cho là mưu đã thành, quan viên do hữu tướng quân Lý Huân cầm đầu vội vàng nhao nhao bước lên, ưỡn ngựa giậm chân đại biểu cho lòng trung thành sẽ thề chết bảo vệ Hán quốc, quyết một trận tử chiến với Tống quốc.

Lưu Kế Nguyên cười lạnh một tiếng, lạnh lùng nói: "Các ngươi sẽ bảo vệ giang sơn xã tắc như thế nào, quyết một trận tử chiến với Tống quốc ra sao? Chỉ bằng vào cái miệng của các ngươi thôi à."

Chúng thần lập tức câm như hến, không dám nói một tiếng nào nữa, văn võ vừa rồi xin hàng đang quỳ trên mặt đất thì càng sợ hãi không dám thở mạnh. Lưu Kế Nguyên chậm rãi ngổi thằng người dậy, nhìn về phía Lưu Kế Nghiệp từ nãy đến giờ vẫn một mực chắp tay trước ngực không nói gì, nhẹ nhàng hỏi: "Kế Nghiệp, khanh có chủ trương gì không?"

Lưu Kế Nghiệp bước lên trước một bước, đầu cũng không ngẩng lên, trầm giọng thưa: "Bệ hạ, với sức của Hán quốc ta, một cây khó mà chống giữ được đại cục. Hiện giờ hàng thì sợ rằng sống chẳng bằng chết, mà chiến thì chắc chắn sẽ bại, trong mười thành, chưa chắc đã có một thành chiến thắng, thần thấy rằng, hai bên thực lực cách xa nhau, cũng không thể nào nắm chắc được gì. Thần chỉ có thể nghe theo tất cả mệnh lệnh của bệ hạ, bệ hạ muốn hàng thì thần tự sẽ tòng mệnh, bệ hạ muốn chiến, thần sẽ lấy thân mình báo đáp quốc gia."

Những lời nói này của Lưu Kế Nghiệp có chút vô lễ, hoàng đế hỏi hắn, hắn lại đá quả bóng trở về, nhưng những gì mà hắn nói quả thật là tình hình thực tế, không cần hiền quân năng thần gì cả, tình hình của Hán quốc hiện giờ, ai ai cũng biết rõ ở trong lòng. Những lời này nói xong rồi, Lưu Kế Nguyên không ngờ lại không hề tức giận, mắt hắn lấp lánh không biết là đang nghĩ những gì, một lúc sau mới chậm rãi nói: "Kế Nghiệp, trẫm nếu muốn chiến vây thì có một tuyến sinh cơ hay không?"

Lưu Kế Nghiệp nghiêm mặt nói: "Bệ hạ, nếu quyết tâm đánh một trận, trước tiên phải mang lòng ắt phải chết, thần dân cả nước đều sống chết với thành thì may ra có thể ngăn cản được Tống quốc, còn nếu mang lòng cầu may, do dự không quyết đoán, vậy thì chẳng thà hàng còn hơn."

Nhưng lời này của hắn càng vô lý hơn, trên mặt Lưu Kế Nguyên thì lại lộ ra mấy phần tiếu ý. Hắn đa nghi hiếu sát, sủng tín gian nịnh, văn võ trong triều đều bị hắn sai người giám thị, một khi nghe thấy phong thanh gì, lập tức ra tay giết người không chút do dự. Nhưng đối với lòng trung thành của tên nghĩa đệ Lưu Kế Nghiệp này, hắn trước giờ lại chưa từng nghi ngờ, tên hôn quân này tin Lưu Kế Nghiệp như vậy, cũng tính là một kỳ số.

Hắn đưa tay ra, vỗ lên tay vịn của ngự tọa, nói: "Được, vậy trẫm quyết tử một trận, trẫm nên thủ thành như thế nào, ngươi trong lòng có tính toán gì không?"

Lưu Kế Nghiệp chắp tay nói: "Xin để thần cầm bản đồ tới rồi bẩm báo kỹ càng với bệ hạ." Lưu Kế Nguyên gật đầu đáp ứng, lập tức có hai kim qua võ sĩ cầm một bức bản đồ dài ngoằng tới, từ từ mở ra ở trên kim điện, Lưu Kế Nghiệp bước lên trước, chỉ thấy trên bản đồ vẽ đầy đủ núi sông đất đai, văn võ đại thần đều tập trung ở hai bên, chen chúc nhìn tấm bản đồ đó. Lưu Kế Nghiệp bước lên trước, chỉ tay nói: "Bệ hạ nhìn xem, Triệu Quang Nghĩa dùng Phan Mỹ làm Bắc lộ đô chiêu thảo sứ, tự mình dẫn đại quân, đã tới Bình Định. Mễ Tín, Điền Trọng Tiến cùng làm hành doanh chỉ huy sứ, đã tới Bình thành, Thái Cốc. Thôi Ngạn Tiến, Lý Hán Quỳnh, Lưu Ngộ mỗi người dẫn một lộ binh mã đã tới Kỳ huyện, Đại Thông quan, Hồ Đột sơn. Vân châu quan sát sứ Quách Tiến đã tới Vu huyện, ba mặt bắc đông nam đều đã thành thế một giọt nước cũng không lọt, còn mặt tây, Chiết Ngự Huân, Dương Sùng, Dương Hạo đã dẫn binh tới Lam châu, không lâu nữa sẽ tới Lâu Phiền..."

Tuy nói rằng văn võ bá quan sớm đã biết lần này Tống quốc đại quân tập hợp, Hán quốc đã là ba ba trong giỏ, lên trời không lối, xuống đất không cửa, nhưng nghe Lưu Kế Nghiệp nói vậy, tận mắt nhìn thấy tất cả các con đường ở bốn phương tám hướng đều bị quân Tống vây chặt, đang từng bước dồn tới, khép chặt vòng vây về phía thành Tấn dương, ai này mặt đều vàng như nghệ, khuôn mặt vốn đã không còn chút huyết sắc của Lưu Kế Nguyên càng biến thành trắng bệch hơn.

Lưu Kế Nghiệp thì vẻ mặt ung dung, giống như chuyện đang nói chẳng có quan hệ gì tới hắn vậy. Hắn lại nói: "Trái lại Hán quốc của ta thì hiện giờ binh nguyên cạn kiệt, bộ kỵ trong đô thành tổng cộng không quá một vạn bảy ngàn người, binh sĩ của Khống huyện năm ngàn người, sĩ tốt ở ngoài thành cộng lại cũng không tới một vạn người, đây chính là toàn bộ gia sản của Hán quốc ta."

Hô hấp của bá quan văn võ càng gấp rút hơn, Lưu Kế Nghiệp nói: "Hiện giờ Tống quốc binh mạnh ngựa khỏe, với uy thế này, một đường bức tới, không chút cố kỵ, chúng ta lại cũng không thể chia binh tập kích, quấy nhiễu, ngăn cản bước tiến của chúng. Tấn Dương bốn thành chỉ có một chỗ công phá, nhưng lại cũng không kháng cự được, hiện giờ không có Khiết Đan giúp sức, nếu muốn ngăn cản đại quân của Tống quốc, cơ hồ là không có khả năng."

Lưu Kế Nghiệp lập tức nắm được một tia tin tức, thân hình rướn lên trước, truy hỏi: "Cơ hồ là không có khả năng ư? Vậy thì có nghĩa là vẫn còn một tia hi vọng?"

Lưu Kế Nghiệp trầm mặc một lát, cúi người nói: "Thần đã nói rồi, trừ phi bệ hạ ôm lòng quyết tử, toàn dân hi sinh cùng thành, nếu không... mạo hiểm đánh một trận thì chẳng thà hiện tại đầu hàng luôn cho xong."

Lưu Kế Nguyên chăm chú nhìn Lưu Kế Nghiệp một lúc lâu, chậm rãi ngồi thẳng dậy, vẻ mặt đang xúc động dần dần khôi phục lại bộ dạng lạnh lùng tàn nhẫn, âm nhu nói: "Quốc nạn lâm đầu, trẫm quyết tâm hi sinh với thành, quyết không hàng Tống. Đám người Lý Uẩn,Tiễn Thuận, La Huân, Cao Tư Dương, Lý Thuận Dương, Trương Tử Hoặc ăn bổng lộng của quốc gia nhưng lại bất trung với chuyện của quốc gia, quốc nạn lâm đầu, thân là trọng thần triều đình nhưng chỉ tính toán cho bản thân, tội không thể tha! Lập tức đuổi ra khỏi điện, chém đầu tại ngọ môn! Cả nhà giả trẻ lớn bé đều ban chết theo!"

Văn võ đại thần đang quỳ trên điện nghe thấy mệnh lệnh này, nhất thời giống như sấm đánh trên đỉnh đầu, nhao nhao ào lên trước khóc lóc xinh tha mạng. Lưu Kế Nguyên lạnh lùng nhìn bọn họ, nói: "Còn không mau chấp hình?"

Một đám kim qua võ sĩ xông vào điện, không phân bua gì lập tức kéo đám văn võ đó ra khỏi điện, đám quan viên văn võ chưa khuyên hàng đứng ở bên cạnh không khỏi sợ hết hồn, lúc này Lưu Kế Nguyên lại đổi sang vẻ mặt tươi cười, cúi người xuống nhìn Lưu Kế Nghiệp, thân thiết nói: "Ý trẫm đã quyết, ngươi thấy rồi đó. Ái khanh có kế gì hay? Hiện tại... có thể nói ra rồi đấy."

...

Đầu tháng ba, một mặt sườn núi hướng về phía mặt trời đã tan băng tuyết, cỏ dại xanh rì nhô ra khỏi mặt đất, lặng lẽ tỏa ra màu của sắc xuân. Mà mặt khuất thì vẫn ngập trong tuyết trắng, chỉ là tuyết đã hóa thành mỏng rồi, bbên trên, đất đông cứng cũng đã tan, rất dễ biến thành bùn lầy dưới móng ngựa, bùn đất và tuyết trộn lại với nhau, biến thành màu xám dơ bẩn.

Nước sông đã tan băng, nhưng mép sông vẫn còn đóng một tầng băng mỏng, nước sông trong suốt chảy róc rách dưới mặt băng, khiến tầng băng càng lúc càng mỏng, hơi có chút chấn động là có thể sẽ có một mảng băng đổ xuống, nhanh chóng bị nước sông hòa tan. Có điều nước sông lúc này vẫn lạnh đến thấu xương, rất khó lội qua, cho dù là chiến mã cũng phải băng nhanh qua khe suối nông, nếu không khó mà chịu được thời gian dài trong nước sông lạnh căm.

Từ nơi này một đường tiến về đông, có rất nhiều dòng chảy của Phàn Thủy, phía trước mắt thấy xuất hiện một dòng sông khá rộng, một con sông lớn ước chừng rộng hơi năm mươi trượng, tuy nói rằng mùa đông nên nước sông không cao, chỗ sâu nhất cũng chỉ có bộ phận ở chính giữa là sâu khoảng trượng bốn trượng năm, còn bộ phận ở hai bên thì ngập tới thắt lưng, muốn đi bộ qua đây là một chuyện rất khiến người ta đau đầu, nhưng đừng nói là nhân mã có chịu nổi hay không, cho dù cường hành vượt sông, e rằng nhất nhiều người sẽ bị phát bệnh vì lạnh. May mà trên con sông này có một cây cầu gỗ, nhưng bất hạnh là cây cầu này hiện tại đang bị mấy chục binh sĩ Hán quốc cầm búa lớn liều mạng mà chặt, tiến hành phá hủy.

Quân tiên phong của Dương Hạo vòng qua góc núi, vừa hay nhìn thấy Hán binh đang liều mạng phá cầu gỗ, lập tức hò hét xông lên, một tên tiểu giáo Hán binh ở đầu cầu đang vung búa chặt cột cầu, thấy tình cảnh này vội vàng vứt búa chạy về phía chiến mã, tuổi của hắn không lớn, thân hình cũng khỏe mạnh, tung người nhảy lên lưng chiến mã, rút một cây thương ra, quay đầu lại hô lớn: "Ta đi cản địch, các ngươi cố gắng phá cầu, kéo dài thời gian của bọn chúng, chúng ta sẽ có cơ hội lớn hơn..." Nói xong liền dẫn mấy tên lính hung hãn không sợ sệt lao về phía quân của Dương Hạo.

"Thiếu tướng quân, thiếu..." Một tên lính râu quai nói đang cúi đầu chặt cầu ngẩng đầu lên gọi, thiếu niên đó đã dẫn hơn chục thân binh lao về phía hổ lang kỵ của Dương Hạo, tên râu quai nói đó hậm hực giậm giậm chân, trút toàn bộ khí lực nên cột cầu.

"Ha ha ha... mấy người này không ngờ cũng dám động thủ với chúng ta, nam nhi Hán quốc cũng có được vài hán tử đó." Ở phía trước là một đám Ngân châu binh, thấy đối phương là một thiếu niên, dẫn theo hơn chục binh đinh, không ngờ dám xông về phía bọn họ, những Ngân châu binh này không khỏi mừng rơn, tên tiểu tướng đó cũng sử dụng một cây thương lớn, đại thương trong tay vung lên, "bộp bộp bộp" như kim kê gật đầu, đánh o hai tên Ngân châu binh không kịp chống đỡ rơi xuống ngựa.

Nhưng khi chiến mã của song phương đụng vào nhau, những tên Ngân châu binh này liền vặn đầu ngựa đi lướt qua họ, tên giáo úy này đánh bị thương hai tên Ngân châu binh thì đại quân của Ngân châu binh không ngừng xông lên, đã bao chùm bọn họ trong dòng lũ, Ngân châu binh ở phía trước không ngừng giết về phía mép cầu, người còn chưa tới đầu cầu, lợi tiễn trong tay đã gào rít bắn ra, những binh sĩ đang cầm búa không kịp né tránh, lập tức có người trúng tên.

Tên giáo úy đó cố gắng ngăn cái quân địch đang lướt tới, nhưng vòng qua góc núi này là một khoảng đất trống trải, không phải là nơi hiểm yếu để dùng ít chặn nhiều, hắn chỉ có hơn chục người, làm sao mà ngăn được nhiều binh mã như vậy, mắt thấy binh sĩ ở đầu cầu đã bị nhấn chìm trong làn mưa tên, hắn có lòng muốn quay đầu ngựa lại để bảo vệ, nhưng bốn phương tám hướng đều là Ngân châu thiết kỵ, bon họ bị vây ở giữa, đã tiến thoái lưỡng nan rồi.

"Báo, đại soái, đầu cầu ở phía trước có Hán binh chặt cầu."

Dương Hạo kinh ngạc nói: "Có bảo vệ được cầu không?"

Tham mã đó nói: "May mà quân ta tới kịp thời, Hán binh đang hủy cầu bị bắn chết hết rồi, cầu chỉ bị chặt mất một đoạn, muốn tu sửa lại cũng không khó."

Dương Hạo lúc này mới an tâm, gật đầu nói: "Lý tướng quân, chúng ta đi xem thế nào."

Khi bọn họ tới phía trước thì cuộc đụng độ ngắn ngủi này đã kết thúc, tuy nói là đường hẹp gặp nhau ai dũng cảm thì thắng, nhưng thực lực của không bên cũng phải là không cách biệt nhau quá lớn, tên giáo úy trẻ tuổi đó chỉ dẫn theo có hơn chục kỵ binh, làm sao có thể là đối thủ của Ngân châu binh được, một cây thương lớn trong tay hắn tuy xảo quyệt độc ác, ngay cả Lý chỉ huy cũng suýt nữa trúng thương của hắn, nhưng dẫu sao cũng là binh ít tướng thiếu, lúc này hơn chục người đã bị đánh ngã cả rồi.

Mặc dù là như vậy, khi Dương Hạo tới nơi vẫn cảm thấy giật mình, Ngân châu binh tuy trước sau bại trong tay Khánh vương và hắn, kỳ thực cũng chẳng liên quan gì tới sức chiến đấu của Ngân châu binh cả, chiến tranh tuyệt không chỉ là đọ võ lực của chiến sĩ, công bằng mà nói, công phu kỵ xạ của Ngân châu binh không hề thua kém thiết kỵ của Khiết Đan, nhưng trận chiến bất ngờ này, Ngân châu binh lấy nhiều đánh ít với hơn chục người này, không ngờ lại chịu thương vong hơn ba mươi người.

Lý chỉ huy bị tên tiểu giáo uy đó một thương đâm rách chiến bào, nếu không phải là binh sĩ đã ngã ngựa kịp thời vung đao chém đứt chân ngựa của tên giáo úy Hán quân đó, khiến cho thương lớn của hắn mất đi độ chuẩn xác, vậy thì một thương ấy đã đâm lủng bụng hắn rồi, do đó mà nổi trận lôi đình, tên giáo úy đó đã bị trúng thương ngã xuống ngựa, hắn vung roi ngựa liều mạng mà quật, roi ngựa gào rít, quất cho tên tiểu giáo úy cả người đầy thương tích, tên tiểu giáo úy cũng rất rắn rỏi, không ngờ lại nghiến răng chịu đựng, không hề phát ra một tiếng hét đau đớn nào.

"Được rồi, dừng tay!" Dương Hạo và Lý Nhất Đức đi tới, thấy tên tiểu giáo úy đó mới chỉ mười sáu mười bảy tuổi, mặt mày vẫn còn rất non nớt, trong lòng có chút bẫn nhẫn, liền cao giọng quát dừng. Lý chỉ huy thấy đại soái và gia chủ tới rồi, lại độc ác quất thêm một rơi nữa mới hậm hực chạy lên đón: "Đại sái, thuộc hạ thấy địch ít, nhất thời sơ xuất, chịu tổn hại..."

Dương Hạo xua tay, nói: "Bảo vệ được cây cầu này đã là một đại công rồi, tướng quân không cần phải tự trách nữa." Hắn cùng Lý Nhất Đực giúp ngựa phi lên trước, trước tiên nhìn cây cầu gỗ đó, cây cầu này dựng rất chắc chắn, chỉ bị những Hán binh này chặt đứt một khối ở giữa, lỗ thủng chẳng qua chỉ khoảng năm thước, cũng không cần phải xuống nước đóng cọc, chỉ cần lát phẳng đoạn bị thủng này là đủ để đảm bảo cho đại quân đi qua rồi, hai người lúc này mới yên tâm.

Trên cầu găm vô số mũi tên, những binh sĩ đang cầm búa phá cầu đại đa số là bị lợi tiễn bắn chết, dưới loạn tiễn không phân biệt chỗ nào là yếu hại, người bị trúng tên vào ngực, bụng, cánh tay đều có, thậm chí có người há miệng la hét còn bị tên bắn trúng miệng, người bị bắn xuyên qua mắt cũng có, tử trạng vô cùng chê thảm, hai người không muốn nhìn thêm nữa, quay đầu ngựa phóng trở lại. Tới trước mặt những tên Hán binh ngăn địch đó, chỉ thấy trên mặt đất ngổn ngang hơn chục cỗ thi thể, có người bị đập cho cả người nát bấy, trên mặt đất chỉ có tên giáo úy trẻ tuổi đó và một binh sĩ trên dưới ba mươi là còn sống. Tên thiếu niên phần bụng trúng một thương, lúc này đang ôm bụng, máu trào ra qua kẽ tay, hắn nghiến chặt răng không rên lên một tiếng nào, trên chân bị chém một đao, càng đau đến nỗi sắc mặt trắng bệch.

Dương Hạo giục ngựa tiến tới, đi vòng quanh hai người này một vòng, mỉm cười khen ngợi: "Chỉ hơn chục binh lính, không ngờ dám xông lên cản đường của đại quân ta, hảo đảm phách.”

Tên giáo úy đó tức giậm lườm hắn, lớn tiếng nói: "Ngươi muốn giết thì giết đi, đừng có nói mát làm gì."

Dương Hạo dùng mũi roi cạ cạ vào mép mũ sắt, cười nói: "Bản soái là bội phục từ tận đáy lòng, sao lại bảo là nói mát được. Các ngươi là thuộc hạ của ai, đã ở nơi này phá cầu, phía trước có thôn trấn nào của các ngươi không? Đóng bao nhiêu binh mã?"

Tên giáo úy trẻ tuổi cắn chặt răng không nói gì, Lý chỉ huy quát: "Đại quân của quan gia áp cảnh, Hán quốc đã là trứng chọi đá, không kham nổi một kích. Các ngươi còn bán mạng cho tên hôn quân Lưu Kế Nguyên đó làm cái gì? Vị này là Hà Tây Lũng hữu binh mã đại nguyên soái Dương đại tướng quân, các ngươi nếu không ngoan ngoãn trả lời, ta sẽ chém cái đầu chó của các ngươi đó."

Tên giáo úy trẻ tuổi trừng mắt lườm hắn, cười lạnh nói: "Nếu chiến mã của của ta không bị chặt chân, một thương vừa rồi của tiểu gia đã lấy cái đầu chó của ngươi rồi, ra vẻ ta đây cái gì chứ?"

Lý chỉ huy thẹn quá hóa giận, lại muốn vung roi quất hắn, Lý Nhất Đức lập tức quát: "Đại soái ở trước mặt, nào đến lượt ngươi càn rỡ, lui xuống!"

Tên lão binh đó nghe nói người ở trước mắt là Hà Tây Lũng hữu binh mã đại nguyên soái Dương Hạo, mặt cũng lộ ra vẻ kinh ngạc, hắn quan sát Dương Hạo từ trên xuống dưới một lượt, đột nhiên nhịn đau đáp: "Ta họ Lý, tên là Lý Mặc, hắn là cháu ruột của ta, tên là Duyên Chung. Đại soái muốn ta trả lời câu hỏi của ngài cũng không sao, nhưng nhà ta chỉ có một dòng độc đinh là hắn, chúng ta sẽ ngoan ngoãn trả lời đại soái, đại soái có thể tha cho tính mạng của chúng ta không?"

Tên thiếu niên đó nghe thấy y mở miệng thì không khỏi giật nảy mình, trợn mắt tức giận lườm y, tên lão binh đó lại cướp lời: "Cháu à, nhà ta chỉ còn một dòng độc đinh là cháu thôi, lúc trước tòng quân nhập ngũ, cha cháu đã dặn đi dặn lại, bảo ta phải chiếu cố chu toàn cho cháu, cháu nếu có ba dài hai ngắn gì, ta há chẳng phải là có lỗi với liệt tổ liệt tông nhà ta ư.

Những tin tức này chúng ta cho dù không nói thì bọn họ tiến về phía trước cũng có thể nghe ngóng được rõ ràng thôi, chúng ta làm binh của Hán quốc, ăn lương của Hán quốc, đã vì Hán quốc mà ra sức rồi, cũng tính là không có gì phải xấu hổ cả, hiện giờ chẳng lẽ không nên tính toán cho mình ư?"

Tên thiếu niên đá nghe vậy liền trầm giọng hừ một tiếng rồi không nói gì nữa.

Dương Hạo nhìn bọn họ, cười nói: "Giết hai người thì ta có lợi gì chứ? Các ngươi ngoan ngoãn trả lời đi, ta thả các ngươi cũng không sao cả."

Tên lão binh đó nghe vậy liền lắc lư đứng dậy, hành lễ với Dương Hạo, nói: "Đa tạ đại soái khai ân, chúng ta là binh lính dưới trướng Lâu Phiền thành thủ tướng Quân Thiên Thương Quân tướng quân, triều đình đã buông bỏ thành bảo các nơi, hạ lệnh tập kết tất cả binh mã bảo vệ Tấn Dương. Trước khi Quân tướng quân dẫn binh mã quay về Tấn Dương đã phái rất nhiều tiểu đội đi các nơi phá hỏng đường xá cầu cống để cản trở hành trì của các người, tận dụng thêm thời gian để phòng thủ Tấn Dương, phía trước... đã không còn binh mã gì cả."

"Ồ?" Dương Hạo và Lý Nhất Đức trao đổi ánh mắt, hiện giờ Hán quốc binh lực kém, loại phương pháp này cũng là biện pháp khi không có biện pháp, tập kết tất cả binh lực, thủ vững một tòa thành lớn Tấn dương, dường như là sách lược có thể thủ duy nhất của Hán quốc vào lúc này, nghe ra những gì mà hắn nói hình như không không phải là dối trá, nói như vậy, trên con đường này cũng không còn trận nào để đánh nữa, khổ chiến chân chính chỉ là ở dưới thành Tấn Dương mà thôi.

Lão binh đó lại nói: "Những binh đinh khốn khổ chúng ta chỉ là tiểu tốt để người ta sai bảo, cũng chỉ biết được có bấy nhiêu đây, đại soái hỏi gì, chúng ta đều đáp rồi, đại soái có chịu tha cho chú cháu chúng ta một mạng không?"

Dương Hạo thấy hai người một người thì bụng trúng thương, một người thì vai cắm lang nha tiễn, độc trên mũi tên đã thâm nhập vào xương cốt, trên đùi lại máu chảy như suối, không khỏi thở dài một hơi, xua tay nói: "Với tình hình hiện tại của hai người các ngươi, có thể sống sót được hay không là rất khó nói, các ngươi có muốn gia nhập với chúng ta hay không, bản soái sai người chữa trị cho hai chú cháu các ngươi."

Lão binh đó nói với vẻ nản lòng thoái chí: "Đa tạ sự coi trọng của đại soái, đối với Hán quốc, chú cháu chúng ta đã tận hết bổn phận của mình rồi, đã xứng đáng với tấm thân nam nhi này, giờ ta cũng chỉ muốn dẫn đứa cháu này quay về gia hương, không muốn động đao động thương nữa. Tống quốc nếu thật sự giành được thiên hạ, bốn phương thái bình, chú cháu ta an tâm làm nông cũng là một con đường sống."

Dương Hạo thở dài một hơi, cười khổ nói: "Vậy thì cứ theo ý nguyện của ngươi."

Lão binh đó bò dậy, khập khà khập khiễng đỡ thiếu niên đó lên, thiếu niên đó tự xé một miếng vải trên áo của mình, trước tiên buộc lại vết thương trên đùi lão binh đó, rồi lại bẻ cán tên trên vai y rồi mới xé một miếng vải buộc chặt bụng mình lại, hai người đỡ nhau đứng dậy, khập khiễng bước tên bên đường. Dương Hạo nhìn hai người này, cũng có chút bội phục sự huyết dũng và kiên cường của bọn họ, hắn đột nhiên mở miệng nói: "Mấy con ngựa vô chủ này, hai người các ngươi mỗi lấy một con mà cưỡi."

Lão binh đó nghe vậy lại lên tiếng cám ơn, nếu nói y vừa rồi nói cám ơn là vì tình thế bức bách, lúc này thì đã thật sự mang theo mấy phần cảm kích, thiếu niên đó tính tình khó bề lay chuyển, vẫn không chịu hành lễ với Dương Hạo, có điều hắn liếc Dương Hạo một cái, địch ý trong mắt cũng giảm đi nhiều.

Hai người vật lột trèo lên ngựa rồi bỏ đi, đi được rất xa, tới một giao lộ, quay đầu lại đã không nhìn thấy bóng dáng của đại quân của Dương Hạo mới dừng ngựa lại. Vào lúc này, máu đã thấm đẫm mảnh vải buộc vết thương của họ. Hai con người này vốn chính là tọa kỵ của đám người bọn họ, tất nhiên biết trong túi buộc trên lưng tọa kỵ có những gì, hai người xuống ngựa, từ trong túi lấy ra thuốc kim sang, giúp nhau bôi thuốc lên vết thương, nhìn thấy vết thương do thương đâm trên bụng thiếu niên, lão binh thầm kêu may mắn: "May mà tên Dương Hạo đó giữ lời, nếu chậm trễ thêm một lát nữa, vết thương này của thiếu tướng quân khó mà cứu được."

Bọc mảnh vải ra sau lưng, thiếu niên đau đến nỗi rên hừ hừ, không vui nói: "Dương Hồng, ngươi cầu hắn làm cái gì, Dương gia chúng ta chỉ có quỷ chiến tử chứ không có người đầu hàng!"

Lão binh thở ngắn than dài, nói: "Tam công tử, tuy là nói vậy nhưng không chết thì vẫn tốt hơn, lúc đó ta không tán thành cậu đi đánh trận, tuy nói tam công tử từ nhỏ đã học được một thân võ nghệ, nhưng dẫu sao vẫn chưa thành niên mà. Khi cậu ra ngoài, phu nhân đã dặn đi dặn lại, bảo Dương Hồng phải chăm sóc cho công tử, công tử nếu thực sự có ba dài hai ngắn gì, Dương Hồng cho dù bị chém thành muôn mảnh cũng không đủ chuộc tội với phu nhân."

Thiếu niên tuy vẫn không vui, nhưng nghe thấy lời này thì cũng không nói gì nữa. Hai người bọn họ băng bó vết thương xong, lại ngồi lên chiến mã, Dương Hồng nhìn về nơi xa, lo lắng trùng trùng nói: "Hiện giờ bọn chúng đã tới đằng trước chúng ta rồi, cậu và ta trên người có vết thương, không thể đi nhanh được, phải làm thế nào đây? Tam công tử, chúng ta về Tấn Dương nhé?"

Thiếu niên nói: "Với tình hình hiện giờ của chúng ta, đợi khi chúng ta tới được Tấn Dương, e rằng thành Tấn Dương sớm đã bị vây kín rồi." Hắn trầm tư một lát rồi dứt khoát nói: "Không về Tấn Dương nữa, chúng ta đi tắt qua đường nhỏ, đi tìm cha ta!"

Hai người đang nói thì trên con đường ở phía trước đột nhiên có một con ngựa phi tới, khi tới gần thì đột nhiên giảm tốc, hiện giờ ở địa phương này địch ta khó phân, hai người lại đang bị thương, lập tức đề cao cảnh giác, vội vàng nắm đao nghiêm trận chờ đợi, kỵ sĩ đó dáng vẻ nhanh nhẹn, mặt che khăn đen, nhưng mặc dù là vậy, thân hình lả lướt tinh tế, đôi mắt sáng như nước mùa thu và đôi mày ngài như núi xa đó, không có gì là không chứng tỏ nàng ta là một nữ nhân, hơn nữa là một nữ tử trẻ tuổi thân thể yểu điệu, tư sắc không hề tầm thường.

Song phương sắp chạm mặt nhau, khăn che mặt của nữ tử đó hơi động đậy, tựa hồ như muốn hỏi gì đó, nhưng chắc là cũng lo lắng rằng ở nơi này địch ta khó phân, cho nên chỉ hơi do dự, ánh mắt lướt một vòng trên thân thể đầy vết thương của hai người, rồi lại phi ngựa như bay, đích đến chính là phía của hai ngươi vừa từ đó đi tới. Hai người thầm thở phào một hơi, không dám dừng ở giao lộ này lâu thêm nữa, lập tức lách vào giữa sơn dã, trốn vào đồng hoang mà đi.

 Chương 455: Tòa thành của kỳ tích

Xích Trung đứng trước trận, từ xa nhìn tòa thành đó, lờ mờ có thể nhìn thấy thành lâu trong sương mù mùa xuân và tháp cao trong thành.

Tấn Dương đã xuống dốc rồi, trong sự bao vây của đại quân, giống như là một hòn đá ngầm trong biển lớn, trìm xuống rồi lẳng lặng nằm đó. Nhưng tòa thành trì này có mấy người không nhận ra nó chứ? Anh hùng hào kiệt của thời Ngũ Đại thập quốc phần lớn là bắt đầu phát tài ở đây, người ta thường nói cố đô Kim Lăng lục triều, có vương gia chi khí, nhưng thật thà mà nói, từ tới đường Mạt tới nay, vương giả chi khí tựa hồ như đã chuyển dời đi đâu mất rồi.

Tòa thành này, từ lúc Hán quốc xuống dốc tới nay, trải qua vô số lần công kích, nó từng bị hồng thủy nhất chìm, bị lửa lớn thiêu đốt, bị pháo đá oanh kích, bị đại quân dày xéo, nhưng dựa vào một tên hôn quân, một đám quan lại người lỡ ta gạt, một nhánh quân đội số lượng không nhiều và bách tính cùng khổ bất kham, mỗi lần nó đều chống đỡ được, ngay cả Triệu Khuông Dận càn quét Trung Nguyên thế như phá trúc ngự giá thân chinh mà cũng một lần giết tới rồi lại công cốc quay về, đây là một tòa thành của kỳ tích.

Hiện giờ, nó còn có thể tiếp tục tạo ra kỳ tích nữa hay không? Có lẽ là không thể, lần này nó nhất định có thể bị đánh hạ. Điểm này không có gì phải nghi ngờ nữa cả, điều duy nhất khiến người ta đoán không ra, đại khái chỉ là thời gian công phá được tòa thành của kỳ tích này, mười ngày? Một tháng? Ba tháng?

Ở phía sau người Xích Trung không xa, các quân tướng đang kéo gỗ lớn đến bắt đầu dựng một tòa vũ khí công thành, thang mây khổng lồ cũng đang bắt đầu được chế tạo. Ở phía trước những tượng nhân được đào chiến hào, xếp rào chắn ngựa, đại quân đang nghiêm trận chờ đợi, mà hắn thì đứng ở trung quân, thỉnh thoảng lại nhìn về phía hành doanh của hoàng đế, tuy nói là đứng nhìn thứ đây, trong mây mù cũng chẳng nhìn được gì.

Lần này, Triệu quan gia không ngờ lại lệnh cho quân đội của bọn họ trực tiếp tiến tới dưới thành Tấn Dương, điều này quả thật có chút nằm ngoài dự liệu của Xích Trung. Trước đây, quân đội của bọn họ chỉ phụ trách hành động ở bên ngoài, chưa từng cần phải nhúng tay vào chuyện trực tiếp công thành. Cho nên, bọn họ hoàn toàn không có chuẩn bị, không mang theo bất kỳ khí giới công thành hạng nặng nào, cũng vì vậy, hắn rất hoài nghi quân đội của mình sẽ phải hi sinh nhiều cỡ nào, có thể tạo ra được bao nhiêu tác dụng.

Khí giới công thành đâu phải là dễ dàng chế tạo như vậy. Cầu hào, thang mây gấp, xe chòi gác, máy ném đá... Cho dù là có rất nhiều công tượng thạo nghề, trong vòng một tháng cũng đừng hòng tạo ra được khí giới công thành cỡ lớn, những khí giới này chỉ có thể được chế tạo từ trước, chia ra vận tới rồi lắp ráp lại ở dưới thành. Chế tác một lượng khí giới công thành, nói sao cũng cần mấy tháng thời gian, còn cần rất nhiều đồ gỗ, đồ sắt, công cụ đặc chế và tượng nhân chuyên nghiệp.

Trại lái ở phía trận doanh của quân Tống thì nhất định đã có chuẩn bị đầy đủ, trong mây mù nhàn nhạt, Xích Trung nhìn thấy một đại vật khổng lồ vừa được lắp ráp xong đang được đẩy về phía thành Tấn Dương, đó là một chiến xa công thành cỡ lớn, cả chiến xa giống như một thành lâu di động, mô hình chế tạo cũng giống như thành lâu, ở bên trên cùng không ngờ còn có tường chắn mái, chu vi năm trượng, cao hơn mười trước, phía dưới đáy có vô số bánh xe nhỏ, đang được đẩy đi trên mặt đất đã được san bằng, nhanh chóng vô cùng.

Đương nhiên, nhân số huy động cũng nhiều vô kể, không ngờ lại cần đến hơn hai ngàn người đẩy, một chiến xa công thành mà phải dùng nhiều người như vậy, cũng chỉ có Tống quốc mới có dạng thực lực này. Nhìn kỹ lại thì thấy trên chiến xa công thành còn có ván giậm , một khi công tới gần thành trì, binh sĩ trốn ở trong chiến xe công thành có thể đi trên ván giậm mà trực tiếp tiến vào thành, nếu như phía sau dạng chiến xa này lại có thêm vài chiếc xe trục ngang nữa để ngăn cản gỗ lăn đá vụn, hỏa tiễn phi thạch, xe này nối xe kia, quân đội có thể ùn ùn không dứt tiến tới, hoàn toàn không cần phải để ý gì tới sự uy hiếp ở trên đỉnh đầu, nếu dạng chiến xa này còn có mấy chiếc thì...

Quay lại nhìn lên đầu thành, Xích Trung không khỏi hít một hơi lạnh, thành Tấn Dương một mực trầm tịch trong mây mù cũng có động tĩnh rồi, so với đại vật khổng lồ ở dưới thành, thứ được đẩy ra ở trên đầu thành thì nhỏ hơn nhiều, nhưng trong mắt Xích Trung, đã nhận ra đó là từng chiếc máy bắn đá, chiến xa có kiên cố hơn nữa, chỉ cần tiến vào trong xạ trình của máy bắn đá, bị nó bắn trúng thì khó tránh khỏi phải gãy khung.

Thời đại này, Hồi Hồi pháo của người Ả Rập vẫn chưa truyền vào trung nguyên, và máy bắn đá có dây thép lại làm lò xo cùng với bánh xe có tác dụng để dừng và chuyển động, so với Hồi Hồi pháo còn tiên tiến hơn mà người La Mã sử dụng cũng chưa được truyền vào Trung Nguyên, hai loại cơ giới học là bánh răng và ốc vít là bộ phận cấu thành cơ bản nhất không thể thiếu thủy chung vẫn chưa từng xuất hiện ở Trung Quốc, cho nên người Trung Quốc tuy là dân tộc sử dụng vũ khí bắn đá sớm nhất, nhưng máy bắn đá mà bọn họ sử dụng cần rất nhiều người kéo tới. Hơn nữa không thể nào nhắm chuẩn, cũng không thể đảm bảo mỗi lần bắn đều có xạ trình tương đồng.

Do đó, đá mà bọn họ bắn to nhỏ hữu hạn, hơn nữa xạ trình gần năm mươi bước, lại cần khoảng một trăm người đồng thời thao tác, đối với phía công thành mà nói, tác dụng của nó gặp phải rất nhiều hạn chế, còn đối với phía thủ thành thì từ trên cao nhìn xuống, sử dụng lại khá thuận buồm xuôi gió. lại thêm quan trọng là sẽ không bị công kích. Ngay cả phụ nữ khỏe mạnh và thiếu niên cũng đủ để tiến hành phát xạ một cách đâu vào đấy.

Trong đầu Xích Trung lóe lên linh quang, đột nhiên nhớ tới: Nghe nói lúc Dương Hạo tấn công Dương châu, huy động rất nhiều xảo tượng tay nghề giỏi, chế tạo rất nhiều khí giới công tác tinh lương, từng sử dụng rất nhiều máy bắn đá.

Thành Ngân châu tuy đều là dùng đá lớn và đất trộn gạo nên mà đắp thành, kiên cố vô cùng, nhưng bị hắn phá ra cả trăm cái lỗ lớn, sau khi chiếm lĩnh Ngân châu từng phát động bách tính toàn thành xây dựng lại thành, với nhân lực của hắn, nếu như sử dụng loại máy bắn đá thô sơ này, không thể đạt được chiến quả như vậy, chẳng lẽ...

Hắn vừa nghĩ tới đây, liền nghe thấy một người cười nói: "Aha, thì ra là Xích tướng quân, ngài thấy chiến xa công thành của Tống doanh chúng ta có đồ sồ không?"

Xích Trung quay đầu lại nhìn, chỉ thấy một người ăn mặc như văn quan đang mỉm cười bước về phía hắn, thần tình dáng đi tràn đầy thần khí vũ phu, không ngờ lại là giám quân quan Tào Ngọc Quảng trong doanh của Dương Hạo. Dương Hạo, Chiết Ngự Huân, Dương Sùng hiện giờ đều tới hành doanh nghe quan gia điều động, đại doanh của ba người vẫn chưa nhận được chỉ thị của quan gia phải án bài phân bố như thế nào, cho nên vẫn ở cùng một chỗ, trên đường hành quân không tới mấy ngày tướng quân của các doanh đã làm quen với nhau, lúc này không ngờ lại dạo tới doanh của hắn.

Xích Trung ầm thầm nhắc mình phải đề phòng, nhưng trên mặt thì vẫn thản nhiên như không, mỉm cười chắp tay nói: "Thì ra là Tào đại nhân, dạng chiến xa công thành này thật sự là rất sắc bén. Có điều ta thấy một loạt máy bắn đá ở trên đầu thành chính là khsedc tinh của loại khí giới công thành này, xem ra sẽ có một trận khổ chiến đây."

"Tất nhiên là vậy rồi." Tào Ngọc Quảng bước tới cạnh hắn, đứng sánh vai với hắn rồi nhìn về phía thành Tấn Dương đang bị bao phủ trong mây mù nhàn nhạt: "Một tướng công thành vạn bộ xương khô, bá nghiệp của đế vương trước giờ đều vậy cả."

Hắn nhìn Xích Trung một cái, mỉm cười nói: "Nhưng Hán quốc tuy có địa lợi, song thiên thời, nhân hòa lại ở trong tay quan gia, so sánh thực lực chân chính, Hán quốc kém trúng ta đâu chỉ một bậc, nửa bậc, mặc dù trận chiến này nhất định sẽ đánh rất khổ cực, nhưng Hán quốc nhất định sẽ bị tiêu diệt, đây là kết quả mà không ai có thể phủ nhận."

Xích Trung gật đầu nói: "Đại nhân nói không sai, lần này Hán quốc khó mà thoát khỏi kiếp nạn rồi."

Tào Ngọc Quảng mỉm cười nói: "Tới lúc đó, Tống quốc ta sẽ nhất thống Trung Nguyên, đất đai rộng lớn, nhân khẩu đông đúc, quốc lực sung túc, binh lính dũng mãnh. Các nước phương đông khó có kẻ nào địch được với Tống quốc ta. Ha ha, kể ra Mân Nam Trần Hồng Tiến, Ngô Việt Tiền Thục mới là hạng người thông minh, sớm đã nhìn thấy vô địch chi thế của Tống quốc ta, Trần Hồng Tiến quyết dâng đất nộp binh, quan gia ban cho hắn vinh hoa phú quý, có thể cùng hưởng vinh quang với đại Tống ta. Ngô Việt Tiền Thục cũng nhiều lần biểu lộ ý ở lại Biện Lương, xem ra ngày bỏ quốc hiệu Ngô việt cũng không còn xa nữa rồi.

So sánh hai bên thì bọn Lý Dục, Lưu Kế Nguyên đúng là hạng ngu xuẩn, thiên binh đã tới dưới thành, không ngờ còn dám gào thét đòi đánh một trận. Lý Dục lời thề son sắt, sau cùng vẫn không phải là chịu thua xin hàng ư, theo ta thấy, Lưu Kế Nguyên nay cũng chẳng cường ngạnh được lâu nữa đâu, rất nhanh cũng theo gương Lý Dục thôi. Hắc hắc, chủ động nương nhờ và bị động đầu hàng, đó là hai điều khác hẳn nhau, Xích Trung tướng quân, ngài thấy sao?"

Xích Trung hơi chấn động, có chút không tự nhiên cười nói: "Tào đại nhân nói rất đúng."

Tào Ngọc Quảng đột nhiên quay người lại, nhìn thẳng vào hắn, mỉm cười nói: "Công thành đến nơi rồi, quan gia biết Xích Trung tướng quân thần dũng, lần này công đánh Hán quốc, mở mang lãnh thổ, là cơ hội kiến công lập nghiệp hiếm có của võ tướng, Xích tướng quân nên thi triển sở trường, đừng để quan gia phải thất vọng."

Xích Trung được yêu quá mà kinh sợ, lắp bắp nói: "Quan gia... quan gia biết tên của mạt tướng ư?"

Tào Ngọc Quảng cười nói: "Không chỉ vậy thôi đâu, chư tướng Tây bắc, quan gia đều nắm rõ như lòng bàn tay. Quan gia thường nói, chư tướng Tây Bắc, bộ hạ của Dương Sùng tướng quân, không có ai không phải là kẻ kiêu dũng. Dưới trướng Dương nguyên soái đều là thảo mãnh Tây Vực, tương lai trải qua sự tôi luyện của chiến hỏa, nếu có thể đản sinh ra một hai viên mãnh tướng, hiện giờ... thì vẫn còn kém một đoạn. Người được gọi là danh tướng, phóng mắt khắp Tây Bắc, kiêu dũng thiện chiến, túc trí đa mưu, bụng đầy thao lược, giỏi cả ăn cả võ, duy chỉ có một mình Xích Trung mà thôi.”

Xích Trung nghe vậy vừa vui mừng lại vừa kinh ngạc, hỏi lại với vẻ không dám tin: "Quan gia... quan gia thật sự nói vậy ư?"

Tào Ngọc Quảng nghiêm mặt nói: "Đó là tất nhiên rồi, Tào mỗ há lại dám giả mạo thánh ý? Quan gia còn nói, nếu luận về bản lĩnh của Xích tướng quân, không hề dưới hai vị tướng quân Tào Bân, Phan Mỹ, chỉ là Xích tướng quân khuất thất ở một góc Tây Bắc, khó có cơ hội thi triển, nếu không thì đã có công cao cái thế, vị cực nhân thế, là danh tướng được lưu truyền trong sử sách của Đại Tống rồi.”

Xích Trung nghe thấy đây, mắt đột nhiên sáng rỡ nhưng vẻ mặt thì lại lãnh đạm: "Quan gia quá khen rồi, Xích Trung hà đức hà năng, không dám nhận lời khen như vậy của bệ hạ."

Tào Ngọc Nguyên thấy vẻ mặt của hắn thay đổi, liền cũng không nhắc tới đề tài này nữa, hắn cười ha ha, ánh mắt chuyển tới đầu vai của Xích Trung, nhìn về xa xa, nói: "Ngự tiền quân nghị đã kế thúc rồi."

"Hả?" Xích Trung đôt nhiên quay lại, nhìn về nơi xa, chỉ thấy cửa hành doanh của hoàng để trên sườn núi đã rộng mở, từng chiếc cờ lớn được người ta khênh ra, mỗi một cán cờ đi ra, bên cạnh đều có mấy chục kỵ sĩ, gào thét phóng về các phương hướng khác nhau, hiển nhiên là các lộ tướng lĩnh tham gia ngự tiền hội nghị dẫn thân binh của mình về lại các doanh.

Tào Ngọc Quảng cười nói: "Dương soái sắp về doanh rồi, ba quân Tây Bắc được điều động như thế nào, lập tức sẽ biết ngay thôi. Bản quan về doanh trước, Xích tướng quân, cáo từ."

"Tào đại nhân đi thong thả."

Xích Trung chắp tay hành lễ, nhìn Tào Ngọc Quảng sải bước trở về quân doanh của Dương Hạo, trầm ngâm một lúc rồi mới quay đầu nhìn về phía hành doanh. Các lộ tướng lĩnh đã phóng xuống sườn núi, trong quân ngũ nhất thời không nhìn rõ hướng đi của bọn họ. Xích Trung chậm rãi quay đầu lại, nhìn về phía thành Tấn Tương, nó vẫn đứng yên ở đó, có điều có thể thấy được rằng... rất nhanh thôi nó sẽ phải kết thúc vận mệnh của tòa thành kỳ tích rồi.

Song Xích Trung không biết được là, vây nhiễu tòa thành trì này đã có biết bao người, sắp sửa phát sinh rất nhiều truyền kỳ, nhiều năm sau, khi những truyền kỳ này trở thành cố sự lưu truyền thế gian, người và chuyện của những truyền kỳ này vẫn quấn lấy tòa thành Tấn Dương này không rời.

Nằm ngoài sở liệu của Tào Ngọc Quảng, quân tiền hội nghị lần này, Triệu Quang Nghĩa lại không chia Tây Bắc tam phiên ra, ngược lại giao nhiệm vụ công đánh thành tây cho bọn họ. Nghĩ kỹ lại, Tào Ngọc Quảng liền hiểu rõ dụng ý của quan gia, tuy nói rằng Tây Bắc tam phiên thường có hành động bằng mặt không bằng lòng, nhưng trên danh nghĩa bọn họ dẫu sao cũng là thần tử của Tống quốc, lần này theo chiếu mà tới cũng không có bất kỳ chỗ nào có thể chỉ trích được cả, đường đường là vua một nước tuyệt đối không thể làm ra những chuyện khiến nội bộ lủng củng trước trận chiến được.

Nếu như cưỡng bức chia rẻ tổ hợp của tam phiên, trộn lẫn họ vào trong những bộ đội công thành khác, bọn họ sẽ muốn xuất công và không xuất lực, kiểu gì cũng giở ra các loại thủ đoạn, nhưng bọn họ kéo dài được còn quan gia thì lại không thể để chậm trễ được. Lần này khí thế hùng hổ mà tới, quan gia là muốn dùng tốc độ nhanh nhất để công hạ đô thành Tấn Dương của Hán quốc, đánh một trận thật là đẹp mắt. Lần này tới đây, vẫn dựa vào chủ lực cấm quân, họ không những không kéo chân sau của quan gia lại có thể xuất lực chủ công ba thành.

Còn thành tây, cho dù bọn họ không ra sức công thành, có bọn họ thủ ở đó, ít nhất cũng không cho Lưu Kế Nguyên chạy thoát. Tam phiên đã phụng chiếu thì tuyệt không dám càn rỡ tới mức đó.

Mặc dù là vậy, Triệu Quang Nghĩa ở thành tây vẫn phái thêm một đội nhân mã, đại tướng thống binh lại là Phan Mỹ. Địa vị của tam phiên tuy cao đặc biệt, Dương Hạo thân còn là Hà Tây Lũng hưu binh mã địa nguyên soái kiêm Hoành sơn tiết độ sứ, cũng chỉ có vị xu mật phó sứ Phan Mỹ này, đồng thời cũng là mãnh tướng giỏi công nhất đại Tống, chiến công hiển hách mới có thể trấn nhiếp được hắn. Phái y tới một mặt là có ý tư gia tăng lực lượng phòng ngự ở thành tây, và cũng là dùng viên dũng tướng này để chấn nhiếp tam phiên.

Đối với Dương Hạo mà nói, đã tới dưới thành Tấn Dương, trong quân lại có giám quân của triều đình, cho dù hắn muốn giở trò thì công trình ngoài mặt vẫn phải làm. Hắn vừa về tới doanh liền lập tức đánh trống phân công nhiệm vụ công thành, đồng thời lập tức ra lệnh đào chiến hào, dựng rào chắn ngựa ở bên ngoài doanh trại của mình, đồng thời gấp rút chế tạo thang mây. Đừng nói là bộ đội trực thuộc của Dương Hạo, cho dù là những quân đội khác đóng ở ngoài thành cũng là vừa mới tới dưới thành Tấn Dương, rất nhiều khí giới công thành cỡ lớn vẫn chưa kịp lắp ráp xong, nhưng mệnh lệnh của quan gia là tối này bắt đầu công thành, hắn đã lộ ra hết tâm tình nóng lòng muốn đạt được Tấn Dương rồi.

Buổi tối, thành Tấn Dương vào đầu xuân lại bốc lên sương mù nhàn nhạt, bao phủ cả toàn thành trì lúc ẩn lúc hiện, trên trời không nhìn thấy sao, trong bóng đêm lờ mờ chỉ có thể nghe thấy tiếng hí của chiến mã và tiếng hét một hai ba chính tề của nhánh quân nào đó khi đẩy các loại khí giới như chòi gác, chiến xa tới trước trận, bầu không khí nặng nề dị thường.

Bộ đội sở thuộc của Dương Hạo chủ yếu là đề phòng binh mã Tấn Dương coi bọn họ là mắt xích yếu nhất để đột phá, tiến hành phản trùng kích. Khí giới công thành của bọn họ quá ít, làm vậy cũng là bất đắc dĩ mà thôi, lý do thì cũng nói ra rồi, có điều triều đình vì phạt Hán, trước chuyện đã chuẩn bị đầy đủ, công tượng của đại quân triều đình đang ngày đêm vội vàng chế tạo khí giới công thành, co lẽ không mất tới mấy ngày là có khí giới công thành đầy đủ bổ sung tới quân trung của bọn họ. Nhưng nhìn tình hình này, thành Tấn Dương đã bị cô lập liệu có thể chống đỡ được bao lâu đây.

Tuy biết rõ bộ đội sở thuộc của mình tối nay không phải phụ trách nhiệm vụ chủ công, Lý Nhất Đức lần đầu gánh vác trọng nhiệm vẫn vô cùng khẩn trương, trời tối om om, hắn và Tào Ngọc Quảng đứng ở trung quân, nhìn thành Tấn Dương đang đứng yên ở trước mặt, nghe tiếng khẩn trương chuẩn bị sự nghị công thành của chư quân trong bầu không khí tĩnh lặng, tim không khỏi bất giác đập nhanh hơn.

Trong trung quân trướng, Dương Hạo chỉnh trang lại lông trên người con thương ưng, sau đó giao cho Mục Vũ, Mục Vũ lập tức đỡ con thương ưng này tới sau trướng, tay vung một cái, con ưng liền biến vào trong sắc trời tăm tối, không có ai chú ý tới sự tồn tại của nó.

Mục Vũ vội vàng quay về trong trướng, chỉ thấy Dương Hạo trầm ngâm ngồi sau án, trên mặt ra vẻ đăm chiêu, Mục vũ không nhịn được liền hỏi: "Đại nhân, ngài sao vậy?"

"Ặc..." Dương Hạo tỉnh lại, bật cười một tiếng rồi cố nén tâm tình thẩm thỏm, bảo: "Lý Quang Duệ quả nhiên xuất binh rồi."

"Cái gì cơ?" Mục Vũ vui mừng nói: "Đại nhân quả nhiên là thần cơ diệu toán, hắn lần này rời khỏi sào huyệt chính là trúng kế của đại nhân rồi."

Dương Hạo nhìn hắn, bật cười kỳ quái: "Ngươi hưng phấn cái gì, chẳng lẽ không nghĩ được rằng nếu ta không đánh hạ được thành Hạ châu lại mà mất Ngân châu thì sẽ thê thảm như thế nào ư? Đó chính là... thoáng cái đã bị người ta đánh cho trở lại nguyên hình đó..."

Mục Vũ ngớ người, cười nói: "Sao mà thế được? Lý Quang Duệ tuy thế lực khổng lồ, nhưng hắn có cẩn thận hơn nữa thì cũng không bằng đại nhân sớm đã có phòng bị. Bọn chúng tự cho rằng mình đắc kế, nhất định sẽ dùng tốc độ nhanh nhất công đánh Ngân châu, như vậy tất không thể mang theo vũ khí công thành cỡ lớn, thành Ngân châu hiện giờ đã không còn bộ dạng như trước kia nữa rồi, binh mã của hắn chẳng lẽ lại là tinh binh lợi hại hơn cả Khiết Đan Điệt thứ lục viện bộ ư?

Hắn muốn ở dưới thành chế tạo vũ khí, dù thế nào cũng phải mất một tháng thời gian. Lại nói tới Hạ châu, nhân mã của chúng ta xuất kỳ bất ý, đột nhiên xuất hiện tại phúc tâm của bọn chúng, trong thành lại có nội ứng của chúng ta, đợi khi đại quân của chúng ta vào thành, e rằng Hạ châu binh thủ thành vẫn không hiểu được người tới là địch hay là bạn nữa kìa. Đại nhân không cần phải lo lắng đến vậy đâu.

Ta và tỷ tỷ, tỷ phu lúc trước khi cùng nhau bắt một con báo, con báo đó rất lợi hại, hơn nữa vô cùng giảo hoạt, không ngờ lại tự thông suốt nhân tính, hơn chục thợ săn cơ hồ là không thể tới gần được nó, nhưng chúng ta bố trí tốt cạm bẫy, trong cạm bẫy lại đặt thịt mà con báo đó thích ăn nhất, nó còn không ngoan ngoãn chui vào bẫy ư? Hiện giờ Ngân châu của chúng ta chính là cái bẫy đã được đặt mồi, hắn rơi vào rồi mà muốn bò ra thì không dễ vậy đâu."

Dương Hạo nhìn hắn một lúc lâu, đột nhiên vỗ đầu hắn, cười ha ha nói: "Hảo tiểu tử, đúng là nghé con không sợ hổ, chuyện tới trước mắt, ta cũng không nhìn thoáng được bằng ngươi. Dẫu sao thì cũng đã làm rồi, còn nghĩ nhiều làm cái gì. Ha ha, kệ con mẹ nó, không nghĩ nữa, đi, chúng ta ra khỏi trưởng xem trận tối nay đánh như thế nào."

Dương Hạo dựng kiếm lên, ý chí chiến đấu mạnh mẽ trở lại, những lời nói vô tâm của Mục Vũ không ngờ lại dánh tan ý niệm lo được lo mất trong đầu Dương Hạo, hắn thấy tinh thần của Dương Hạo sáng láng, khác hẳn với bộ dạng thất thần ủ ê vừa rồi, lập tức cũng cao hứng theo, vội vàng cầm bội đao và mũ giáp, theo sau Dương Hạo bước ra ngoài.

Hai người vừa bước ra khỏi đại trướng trung quân thì nghe thấy tiếng kèn lệnh "tu tu" kéo dài, tiếp sau đó là tiếng trống như mưa rào. Dương Hạo chấn động tinh thần, buột miệng thốt lên: "Bắt đầu rồi!"

 Chương 456: Chiến ngoại chi chiến

Trấn Tào Trương là một cái trấn không lớn, chủ yếu là do người của hai tộc lớn họ Trương và họ Tào tổ thành, bình thường khách nhân lai vãng không nhiều, cho nên khách sạn duy nhất trong trấn cũng không bận rộn gì cả, may mà cũng là khách sạn của nhà mình, cho dù để không thì cũng chẳng tốn tiền, cho nên cái khách sạn nhỏ này của Tào chưởng quỠvẫn tồn tại mãi, ban ngày thì bán ít đồ ăn sáng, trà và đồ tạp hóa gia dụng.

Buổi tối có một đôi khách nhân vào ở, nhìn bộ dạng thì giống như là một đôi phu thê, trương phu ăn mặc như nho sĩ, nhưng thân hình lạ cực kỳ cao to, khí vũ hiên ngang. Nhìn tướng mạo của hắn, chính là một người rất ngay thẳng.

Phu nhân của hắn so với trượng phu thì nhỏ hơn một chút, khoảng ngoài ba mươi, áo vải quần cộc, ăn mặc tuy bình thường nhưng cũng tư văn thanh tú, rất có khí chất của đại gia khuê tú.

Một đôi phu thê như thế này, lại đi bộ tới, nghe nói phía bắc lại đánh trận, thương cổ khách nhân ít đi nhiều, việc làm ăn của hãng xe chạy đường dài của Diệp gia cũng chịu ảnh hưởng, lần này xe từ nam tới bắc cũng tạm thời dừng đi, đôi phu thê này không bắt được xe nên cứ vậy mà đi bộ tới, cũng thật sự là rất đáng thương. Tào chưởng quỹ là một người lương thiện tốt bụng, mới sáng sớm đã đánh thức vợ dậy, làm ít cháo, chuẩn bị thức ăn và bánh bao, muốn để đôi phu thê này ăn no rồi mới tiếp tục lên đường, xa nhà ở bên ngoài cũng không phải là dễ dàng gì mà?

Đúng là hảo tâm thì được báo đáp tốt, sáng sớm cửa hàng vừa mở, thoáng chốc đã lại có bảy tám người vào, giống như là cũng đi đường xa mà tới vậy, thấy tiểu điểm này mở, không khỏi vui mừng quá đỗi, thi nhau tiến vào, gọi sáu khay bánh bao, mỗi người một cái bát lớn, lại gọi thêm mấy đĩa dưa muối, thoáng chốc đã chén sạch bữa sáng mà lão Tào chuẩn bị cho khách và người nhà của mình. Lão Tào bận rộn chiêu đãi khách nhân, lại bảo vợ mình mau đi nấu cháo, làm ít bánh nữa rồi mang ra, đang bận rộn thì đôi phu thê ở trọ vai đeo túi bước ra, ngồi xuống một chiếc bàn khác, vị trượng phu gọi: "Chủ quán, cho hai bát cháo, bốn cái bánh bao và một đĩa dưa muối."

Lão Tào vội vàng cười bồi bước đến, cười nói: "Thực sự là xin lỗi khách quan, tiểu điểm của ta bình thường buôn bán không đông khách, cho nên thức ăn chuẩn bị không nhiều..." Lão ta liếc liếc về phía đám khách nhân ở bàn khác, nói: "Sáng nay bỗng dưng có khách nhân tới chiếm hai bàn, thức ăn sáng chuẩn bị không đủ, cháo gạo thì vẫn còn nhưng bánh bao màn thầu thì xin ngài đợi cho một lát."

Nương tử đó nghe vậy liền nói: "Chủng lang, vậy chúng ta trước tiên ăn hai bát cháo, đợi một lát rồi ăn bánh bao vậy."

Thư sinh đó cũng là người dễ tĩnh, nhìn khách nhân ở hai bàn bên cạnh một cái rồi nói: "Được rồi, được rồi, vậy thì phiền chủ quán vậy, phu thê chúng ta đợi thêm một lát nữa cũng không sao cả." Nói xong liền đỡ nương tử ngồi xuống bàn rồi thuận tay đặt túi lên mặt bàn.

Cái túi rất là nặng, vừa đặt lên bàn liền phát ra tiếng keng, lập tức dẫn tới sự chú ý của người hữu tâm. Một hán tử mỏ nhọn trong đám khách nhân ở hai bàn đó vừa cho một cái bánh bao lên cắn một miệng rồi nhai nhồm nhòm, thấy cái túi đó nặng như vậy, ánh mắt lập tức ngưng tụ lại, dùng cánh tay khều khều tên đại hán mày rậm ở bên cạnh, nói khẽ: "Đại ca."

Tên đại ca đó cũng chú ý thấy rồi, thì thầm: "Không ngờ đôi phu thê này ăn mặc thì rách rưới mà cũng là một đôi dê béo, hắc hắc, chú ý tới bọn họ, trong trấn không tiện động thủ, đợi ra ngoại ô rồi ..."

Tên hán tử mỏ nhọn hiểu ý, khẽ gật đầu một cái rồi lại cắm đầu ăn uống.

Một lát sau, chỉ thấy một nữ tử mặc đạo bào, thân hình nhỏ nhắn xinh xắn bước vào điếm, trên đầu còn đội nón trúc phủ khăn đen, chắp tay hành lễ với lão Tào rồi nói: "Chủ quán, ta... muốn một bát cháo, không biết hết mấy quan tiền nhỉ?"

Lão Tào ngẩng đầu lên nhìn, thấy là một nữ đạo sĩ, nghe giọng nói rất non nớt, tựa hồ như tuổi cũng không lớn, vội vàng đứng dậy. Lão là người tin đạo, thấy đệ tử của đạo gia tất nhiên là phải cung kính một chút, cũng không bởi vì đối phương là một thiếu nữ trẻ tuổi mà không kính trọng. Lão đứng dậy, nhìn thấy đạo bào màu hạnh hoàng của nữ đạo đồng đã nhăn nhúm, đầu vai thì ướt sũng một mảng, không khỏi kinh ngạc nói: "Ái chà, tiểu sư phụ... là một mình xuất ngoại à? Sao trên người lại ướt thế kia."

Nữ đạo đồng đó nói với vẻ lưỡng lự: "Tiểu đạo... muốn đi đường xa, nhưng tiền mang theo người lại rất có hạn, trên đường dùng tiền rất tiết kiệm mà vẫn không biết có tới được địa phương cần đến hay không, cho nên... buổi tối chỉ đành qua đêm ở dã ngoại, không vào điếm."

Lão Tào nghe thấy vậy liền nổi lòng thương xót, vội vàng nói: "Tạo nghiệt, tạo nghiệt, tuy nói tiểu sư phụ là người xuất gia, nhưng dẫu sao vẫn còn là một cô bé, vào lúc binh hoang mã loạn như thế này, sao lại dám một mình ra ngoài. Giờ mới là tháng ba thôi, trời còn lạnh lắm, ngay cả chỗ tá túc cũng không có. Tiểu sư phụ mau mau vào đi, Túy nhi ơi, mau mang cháo tới đây, đợi tí bánh bao hấp xong thì cũng mang một khay lên đây."

Tiểu đạo đồng đó có chút thẹn thùng nói: "Chủ quán... thế... phải tốn bao nhiêu tiền, tiền trên người tiểu đạo e rằng... e rằng..."

Lão Tào vội vàng xua xua tay, nói: "Lão Tào ta cũng là người tin lão Quân mà, thấy tiểu sư phó thì nào lại có đạo lý đòi tiền cơm, một bữa ăn tốn có mấy quan thôi mà. Tiểu sư phụ mau mau vào ngồi đi. Nào nào nào..."

Tiểu đạo đồng do dự một chút, lại cám ơn lão Tào một lần nữa rồi mới vào điếm. Trong điếm tổng cộng có bốn cái bàn, hiện giờ chỉ còn dư lại một bàn ở góc tường, nàng ta liền bước tới ngồi xuống. Tiểu đạo đồng này chính là Cẩu nhi, Đặng Tú Nhi tuy nói là nhà phá người mất, nhưng lúc trước lên núi vẫn còn mang theo không ít vàng bạc châu báu, nàng ta tới chỗ cô cô của mình làm quán chủ để sống nhờ, tất nhiên cũng không cần phải tốn tiền, xuống núi mua một con ngựa, nghe ngóng chỗ ở hiện tại của Dương Hạo rồi một đường giết tới Tấn Dương.

Nhưng Cẩu nhi thì không có nhiều tiền, lại một mình xuống núi, chỗ tiền ở trong túi dùng để chỉ tiêu hiện tại chính là bán thanh kiếm của mình đi mà đổi được.

Lão đạo Trần Đoàn khi chu du thiên hạ cũng là tay không trống trơn tới các nơi hóa duyên, nhưng cũng không dạy đồ nhi của mình những chuyện này. Hiện tại đạo giáo thế yếu, lại thêm nữ oa nhi mặt mày non nớt, không thể tùy tiện mở miệng hóa duyên được. Trên đường Cẩu nhi thật sự là phải chịu cảnh màn trời chiếu đất, đừng nói là chỗ ở, ngay cả đồ ăn cũng phải hết sức tiết kiệm, bữa đói bữa no bằng vào hai chân đi cho tới ngày hôm nay.

Lão Tào là một người rất tốt bụng, thấy đứa bé này đáng thương như vậy, lại là đệ tử của đạo gia, vội vàng mời một chén cháo, đợi bánh bao được hấp xong thì trước tiên đưa cho tiểu sư phụ này một khay, sau đó mới đưa tới cho phu phụ thư sinh.

Cẩu nhi luyện võ cho nên sức ăn vốn rất khỏe, lại là lúc thân thể đang phát triển, nàng ta vẫn chưa luyện được tới loại cảnh giới có thể không cần ăn gạo như sư phụ, một đường bôn ba đã đói quặn cả bụng rồi. Tới ngày hôm nay mới được ăn một bữa no, bánh bao tuy không thấy một chút thịt nào, nhưng ngửi cũng thấy thơm nức mũi, vội vàng vén một góc sa che mặt lên, nhồm nhoàm ăn bánh bao.

Lúc nàng ta tiến vào phạn điếm, thấy nàng ta một thân đạo bào, tuổi tác lại nhỏ, mấy đại hán đó vốn không chú ý đến, ánh mắt thường thưởng chỉ chú ý tới cái túi của đôi phu thê kia, nhưng khi Cẩu nhi vén sa chen mặt lên ăn uống, tuy nói là vẫn không nhìn thấy hoàn toàn được dung mạo ngũ quan của nàng ta, nhưng cái mũi nhỏ thẳng tắp nhỏ nhắn, đôi môi đỏ hồng như hạnh, còn có cái cằm nhòn nhọt liền lọt hết vào mắt chúng. Tiểu cô nương này tuy rằng vẫn còn mang theo mấy phần non nớt, nhưng trong vẻ ngây ngô đã lộ ra mấy phần vị đạo mê người rồi.

Tên hán tử mỏ nhọn thấy vậy hai mắt không khỏi sáng lên, vội vàng huých vào cánh tay của tên đại hán ngồi bên cạnh. Tên đại hán mày rậm ngẩng đầu lên nhìn Cẩu nhi, Cẩu nhi lâu ngày không hứng ánh nắng mặt trời, da thịt vốn trắng bệch, từ lúc theo Phù Diêu Tử tập luyện nội công thượng thừa nhất tới nay, khí huyết thông thuận sung túc, cũng đã bù đấp cho việc thiếu thốn ánh mắt trời, da thịt vốn trắng xanh hiện tại đã trơn nhẵn như ngà voi, lờ mờ còn lộ ra vẻ hồng hào như đánh phấn, nhìn da thịt này và cái cằm đoan chính nhỏ nhắn, đôi môi anh đào đẫy đà đó liền biết được đây là một mỹ nhân rồi. Tên đại hán mày rậm vuốt râu mỉm cười, nhẹ nhàng gật đầu, tên hán tử mỏ nhọn ở bên cạnh lập tức nhe răng cười, lại nhìn về phía Cẩu nhi đang tiêu diệt khay bánh bao một cách ngon lành, ánh mắt hắn liền mang theo mấy phần dâm tà.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro