Bộ Bộ Sinh Liên 14

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Bộ Bộ Sinh Liên

Tác giả: Nguyệt Quan

Ebook by: Kiếm Giới

Quyển 14

Chương 33: Cửu Nguyệt Nhạn Phi

Thời điểm săn cáo tốt nhất thường là vào tháng chín, lúc đó trời mùa thu thoáng mát, trên thảo nguyên bao la, đám thợ săn thả chim săn đầy trời, khi chim săn đang cánh bay lên thì cho dù là những con cáo giảo hoạt nhất cũng tưởng rằng trên đất có mỠvị liền ùn ùn kéo khỏi chỗ ẩn nấp, chạy tứ tung đi tìm con mồi trong giả tưởng, nhưng lại không biết mình đã trở thành lễ vật của người đi săn. Chỉ cần có một con cáo xuất hiện thì sẽ có vô số con chim ưng bay đến, chỉ cần có một con chim ưng bay đến thì con cáo đó nhất định chết chắc.

Đây có lẽ chính là nguồn gốc của câu “tháng chín ưng bay”.

Tháng chín là tháng mà thịt thỏ rừng béo và thơm ngon nhất, cũng là mùa cáo đi tìm mồi, tháng chín là mùa hùng ưng tung cánh, càng là mùa của cánh thợ săn. Tất cả sinh linh đều dốc hết sức, dũng mãnh trong mùa thu thoáng đãng chỉ để chuẩn bị một chút thức ăn trước khi mùa đông đến. Như vậy trong cuộc chiến sinh, từ này rốt cuộc ai mới là cáo, ai mới thật sự là chim ưng?

Ưng bay lên bầu trời bao la, chiến mã rầm vang chiến trường, đại quân Dương Hạo tập kết, tiến hành đông hạ.

“Tống quân ngàn dặm, cuối cùng cũng phải từ biệt, chư vị không cần tiễn xa nữa. Đợi khi bình định Cam Châu, Dương mỗ sẽ tìm cơ hội tuần Đôn Hoàng, đến lúc đó cũng sẽ mời chư vị đồng hành”.

Dương Hạo ngồi trên lưng ngựa, tươi cười chắp quyền. Lúc này hắn tuy mang cung mang kiếm, lại mặc một thân thanh y, trên đầu đội chiếc mũ lông chuột, nhìn dáng vẻ thì không giống một đại tướng quân thống lĩnh đại quân đang muốn đạp bằng Cam Châu, lại giống như một thiếu niên cưỡi ngựa ra ngoài đi săn cáo.

“Ta cũng chúc đại nguyên soái lần này đến Cam Châu, kỳ khai đắc thắng, mã đáo thành công!”.

Bát đại gia tộc, quan lại địa phương, sĩ thân danh lưu Sa Châu và các vị quan, tộc trưởng của các tộc trại người Hán, Hồi Hột, Thổ Phồn đã quy phục Dương Hạo lần lượt chắp quyền, chúc phúc cho hắn.

Phía sau Dương Hạo là đội quân đang ngày càng lớn mạnh của hắn. Trong đó có binh Hạ Châu, binh Lương Châu, binh Túc Châu, Quy Nghĩa quân và quân đoàn La Mã mới chiêu nạp cùng với quân Thổ Cốc, ngoài ra còn có lượng lớn sĩ lâm Sa Quả, cũng những nhân vật quan trọng đích hệ tộc trưởng các đại gia, bọn họ những người muốn cùng đi theo Dương Hạo đến Hạ Châu làm quan. Những người này còn có một thân phận khác chính là con tin, là do các đại gia tộc phái ra những người quan trọng làm con tin của Dương Hạo, là một hình thức thể hiện thái độ trung thành với hắn.

Những thủ lĩnh gia tộc, tù trưởng địa phương tuy địa sở ở Tây Vực, tính tình tục tằn, nhưng có thể là trưởng của cả một bộ thì tất nhiên tâm cơ trí tuệ phải hơn người, Dương Hạo cả chặng đường từ Lương Châu tây tiến thật sự đã làm được việc “thuận ta thì sống, chống ta thì chết”.

Thế lực các địa phương ai chịu quy phục, ai chịu vì hắn mà chiến thì có thể đạt được lợi ích vượt xa người khác, Trương thị Sa Châu bây giờ quân trong quân chính lưỡng giới thật sự đã trở thành đại gia đệ nhất Sa Châu, chỉ thấp hơn Dương Hạo. Ngay cả Mộc Ân, người nắm giữ ba vạn tinh binh, đóng quân ở Dương Quan, Ngọc Môn quan, một tướng lĩnh thân tín nhất của Dương Hạo cũng chỉ có thể ngồi ngang hàng với Trương gia.

Lần này, với sự quyết đoán cực lớn, loại trừ tất cả những ý kiến khác xoay quanh chuyện viễn chinh. Nếu đã thể hiện rõ thực lực và tự tin về quân sự cường đại của hắn trước mặt bách tính chư châu Tây Bắc và chư quốc Tây Vực thì cũng phải làm loạn nguồn lương thực củi lửa Hà Tây. Nhưng cách hắn dùng lại là cách đường đường chính chính, một mũi tên trúng hai con chim, lấy thủ đoạn làm mạnh sĩ khí quân mình để bài trừ những nỗi lo tiềm ẩn khi tán binh đông phản.

Thủ đoạn làm mạnh kinh thế, cương nhu cùng dùng như thế này đủ cho thấy thủ đoạn trị vì khống chế của đại soái. Trước đây trong cái cách mà hắn vận đụng cụ thể với bát đại gia tộc, càng thể hiện rõ tâm thuật khéo léo, khích lệ, vừa khống chế vừa phụ trợ cho nhau của hắn. Đối với những đại hào Tây Vực này mà nói, một mãng phu thống trị trăm vạn hùng binh không đủ đáng sợ, mà một thủ lĩnh thâm hiểu chính trị, tâm cơ thâm sâu, trong lòng chứa trăm vạn binh giáp mới càng làm cho người ta phải kính sợ.

Những anh hùng một phương này đều đã lọt vào trong mắt, cảm ngộ trong lòng, sự kính sợ và sùng tín đối với Dương Hạo cũng ngày càng gia tăng. Lần này đi Cam Châu, bọn họ tin tưởng Cam Châu chắc chắn sẽ bại. Dạ Lạc Hột ở hành lang Tây Bắc đã từng là một thế lực lớn mạnh nhất, sự giàu có tích lũy nhiều năm chỉ cần nghĩ cũng biết, sau khi chinh chiến, Dương Hạo sẽ càng giành được thế lực hùng hậu và chiến lợi phẩm: Vô số vàng bạc, châu báu, nô lệ, trâu dê, ngựa... Là bộ hạ của Dương Hạo, bọn họ cũng có thể có một chút phần trong đó, vậy còn có lý gì mà không ủng hộ?

Dương Hạo đang muốn quất ngựa rời đi thì phía Sa Châu đột nhiên có mấy khoái mã phi như bay tới. Dương Hạo và sĩ thân Sa Châu đang đưa tiễn đều quay lại nhìn, mấy con khoái mã đó càng lúc càng gần. Người đi đầu xem ra là một quan viên, quan bào có lẽ là thuộc lại quan châu từ thất phẩm trở lên. Còn mấy người đ sau hắn đều ăn mặc giống như người của nha dịch. Quan viên phẩm cấp như thế này không có tư cách đi tiễn Dương Hạo, mọi người đều không khỏi ngầm bàn tán.

Một lát sau, mấy người đó đã tới trước quân, Dương Hạo giơ tay ra, ngăn đám thị vệ cản họ lại, mấy người đó cưỡi ngựa đi thẳng tới trước mặt Dương Hạo, xoay người xuống ngựa.

Vị quan viên đi đầu đó khoảng ba mươi tuổi, để râu hai phết, có chút buồn cười, nhìn lại có chút lão luyện trầm ổn, chỉ là cứ như thế này mà xông qua nghi trượng của thái úy, thì thật không nhìn ra hắn trầm ổn ở chỗ nào. Gia chủ Diêm gia đưa mắt nhìn qua, ai biết được đó lại là đứa cháu nhà mình, tên Diêm Túc, bây giờ đang đảm nhận chức Lục Lý Tham Quân ở châu phủ, bất giác sắc mặt ông ta trầm xuống, quát: “Diêm Túc, trước mặt thái úy mà dám đi thẳng qua, ngươi thật là to gan”.

Diêm Túc ngẩng đầu lên thì thấy gia chủ nhà mình, không khỏi có chút kinh ngạc, có lòng giải thích, nhưng Dương Hạo đang ở trước mặt, nào có lý gạt hắn ra để đi trả lời gia chủ mình. Trong lúc không biết làm thế nào thì Dương Hạo lại cười nói: “Ồ, hóa ra là Diêm tham quân. Ha ha ha, Diêm lão tiên sinh không cần trách tội, Diêm tham quân đến đây tất có công vụ khẩn”.

Diêm Túc thở phào một cái, vội buông cương ngựa, bước lên trước hành đại lễ: “Tham quân ti lý Sa Châu tham kiến thái úy”.

Dương Hạo ngồi trên ngựa, gật gật đầu: “Có chuyện gì, ngài nói đi”.

Diêm Túc vội vàng bẩm báo: “Thái úy, vụ án sứ thần nước Vu Khuyết bị thích sát đã có manh mối, sự việc liên quan đến sứ thần nước hộ, han hệ trọng đại, thuộc hạ không đám chậm trễ bẩm báo”.

Mắt Dương Hạo hơi dừng lại, hỏi: “Nói rõ xem nào”.

“Vâng, từ sau khi quốc sứ Vu Khuyết gặp thích khách, phủ nha đã phong tỏa mọi hướng, nhanh chóng rà soát điều tra tìm tung tích hung thủ, không dám có chút trễ nải. Hôm nay trong Hồ Dương quán, có mấy người Hồ Thương uống rượu nói chuyện, đề cập đến tiền bạc của sứ giả Vu Khuyết, vì phân chia không đều nên đã ra tay đánh nhau, trưởng quầy khách điếm Hồ Dương đứng bên cạnh nghe thấy liền vội vã đến phủ nha báo. Hạ quan đã nhanh chóng bắt mấy tên đó về quy án, và lấy lại được những vật tùy thân của sứ giả Vu Khuyết từ chỗ ở của chúng.

Mấy tên người Hồ Thương đó đã chịu khai nhận là bọn chúng nghe được tin sứ giả Vu Khuyết đến cầu viện Sa Châu ta, lại ở phòng bên cạnh bọn chúng, nghĩ rằng quốc sứ đi cầu viện tất sẽ mang theo trọng bảo, vì thể đã nảy ra ý đồ đen tối, nửa đêm lén vào phòng ở của sứ giả Vu Khuyết, giết người cướp của. Bây giờ có nhân chứng là trưởng quầy quán Hồ Dương và tiểu nhi cùng những vật chứng là báu vật tìm được trong phòng của mấy tên hung thủ”.

Dương Hạo nghe rồi liền quay sang nhìn thứ sử Sa Châu Trương Vũ, nói: “Trương đại nhân, bản soái xuất chinh không thể chậm trễ, mong Trương đại nhân để ý tới cái án này, vì án này liên quan đến sứ tiết Vu Khuyết, phải tra cho rõ ràng mới có thể ăn nói với Vu Khuyết, không thể bất cẩn”.

Dương Hạo sau khi làm chủ Sa Châu đã thay đổi hệ thống đường luật ty pháp. Trên cơ sở Tống luật lại cộng thêm mấy phần cải tiến theo cách nghĩ của mình. Ti lý tham quân thẩm lý án, ty pháp tham quân phán án định hình, cộng thêm hai ti thượng cúc ti và trật nguyệt cùng thẩm tra lại nội bộ, hết sức lợi dụng nguồn quan lại vốn có. Trên một trình độ nhất định, thực hiến phân chia thẩm quyền, phán quyền và kiểm sát quyền theo hình thức cổ điển, ba bộ phận này kết hợp với quyền truy nã của tuần kiểm ti cấu thành hệ thống ty pháp châu nha.

Trương Vũ nghe vậy vội vàng đáp: “Hạ quan tuân mệnh, án này nhất định sẽ cẩn thận điều tra”.

Dương Hạo cười nhạt, nhẹ lướt mắt về phía Sa Châu, trong lòng thầm nghĩ: “Tháp Lợi Bốc, ông cuối cùng cũng chịu nhượng bộ rồi?”.

*

* *

Đêm đen gió thổi trên cao, thảo nguyên mênh mông thỉnh thoảng truyền đến tiếng của lang sói, tất cả hiện rõ sự tĩnh mịch. Còn trên hai yếu đạo đông tây thông tới Cam Châu, lưỡng lộ đại quân đang hành quân vội vã trong màn đêm.

Để làm cho Hồi Hột Cam Châu sau khi nhận được tin cảnh báo sẽ tháo chạy, hai đội quân một đông một tây đã đồng thời từ Túc Châu và Lương Châu đánh úp Cam Châu, ban ngày nghỉ, hành quân ban đêm, hành quân lặng lẽ, trang bị gọn nhẹ, còn có một vài nhóm khinh kỵ đã hành quân đi trước mấy bước, chặn ở con đường hiểm yếu giữa đại mạc phía bắc và núi non trùng điệp ở phía nam. Hình thành một thế hợp vi giữa chúng. Khi cách thành chỉ còn năm mươi dặm, quân lệnh nghiêm mật đã được hạ xuống, tam quân yên lặng dừng bước, bắt đầu yên doanh kết trại. Bọn họ muốn lấy trạng thái tốt nhất, mạnh nhất, ý trí đồi dào nhất để xuất hiện trước mặt kẻ địch. Khi bình minh lên, Hồi Hột Cam Châu sẽ đột nhiên phát hiện, bốn phương của chúng đều là phong hỏa, tám hướng đều là địch.

Quân đội của Dương Hạo tản ra bốn phía, rà soát hết tất cả những nơi xung quanh như bãi cát, sơn cốc, sông hồ, thảo nguyên, rồi bắt đầu đóng quân dựng trại, du kỵ ngầm bí mật bài bố thám mã dò xét dưới chân thành Cam Châu.

Đại trướng trung quân nhanh chóng được đựng lên, bên ngoài doanh trại, các chiến hào cũng đồng thời được đào, rồi sừng hươu, bẫy lún, cự mã thương đều được bố trí dày đặc, trong khoảnh khắc, bên ngoài ngoại vi thành Cam Châu đã hình thành một tòa thành thành ngoại. Cho dù đêm đã khuya, nhưng đại trướng trung quân của Dương Hạo lại rất bận rộn, hắn xem xét tiến độ sắp xếp các doanh, cùng liên hệ tình báo với đội quân phía đông mà Đường Diễm Diễm đem tới từ phía đông, ra chỉ thị cho các tướng lĩnh, thiết lập qua lại mật thiết... Tất cả đều cho Dương Hạo hắn định đoạt.

Khi tất cả mọi thứ dừng lại, bóng dáng vội vã qua lại của binh mã trong doanh dần ít đi thì Dương Hạo mới nằm xuống giường của mình. Đêm đã khuya rồi, đám thị vệ đứng gác cũng đã lui xuống, xung quanh đại trướng trung quân của hắn vô cùng yên tĩnh. Nhưng hắn nằm trên giường lại không có một chút mệt mỏi nào. Bận rộn cả một ngày, người vừa nằm xuống, nhưng trong đầu lại giống như chiếc đèn kéo quân, rất nhiều suy nghĩ ùn ùn kéo về.

Lần tây chinh này, đến tận bây giờ cả tiến trình nhất thống Hà Tây vô cùng thuận lợi. Tất cả những khó khăn và cản trở mà hắn gặp phải nhỏ hơn nhiều so với tiền nhiệm Lý Quang Duệ của hắn. Đặc biệt là khả năng giỏi dùng cách thuyết phục của hắn làm cho những người đó nhanh chóng trở thành người của hắn. Trong quá trình này, thế lực mà hắn vừa mới thông qua thủ đoạn chiến tranh buộc họ phải quy thuận đã nhanh chóng trở thành vũ lực phục tùng mình, cũng đã bảo đảm rằng thế lực của hắn sẽ không vì chiến tranh liên miên mà suy yếu. Ngược lại, còn giống như một quả cầu tuyết, càng lăn càng lớn.

Đơn thuần chỉ dựa vào lực lượng nòng cốt bổn tộc, đối với Dương Hạo mà nói là không sát thực tế, đối với một quốc gia cơ bản nhất thống như Tống Quốc cũng không sát thực tế. Tống Quốc bây giờ cũng cần một thời gian dài để loại trừ, dung hợp thế lực bất đồng trong bản tộc, triệt để dung hợp chúng, đế quốc này nhanh nhất cũng cần khoảng thời gian mấy mươi năm cho tới mấy trăm năm.

Nhưng, không ai có thể bảo đảm được rằng đế quốc của mình luôn là minh quân xuất thế, cũng không có cách nào đảm bảo được đế quốc của mình từ đầu đến cuối đều ở trong thời kỳ thẳng tiến, thế lực thịnh vượng, vì thế thật sự trải qua trăm mấy chục năm, sau khi đạt được hai điều kiện là nội bộ đế quốc đã dồi dào nhân lực và nội bộ thống nhất thì ngược lại rất ít công tích lớn xuất hiện. Vũ lực cường đại, chính trị thanh minh, tràn đầy đã tâm... Thông thường đều tập trung ở thời đầu khai quốc. Khi để quốc đã ổn định lại, một bộ máy thống trị đã hoàn thiện, văn thần võ sĩ, bách tính đều ổn thỏa thì các phe trong triều đình sẽ hình thành một loại hợp lực, áp chế sự dao động tất yếu mà bên ngoài tạo thành, hưng binh sẽ bị coi là hiếu chiến, bất luận là hoàng đế, quan lại, sĩ thân, bách tính, đều sẽ mất đi động lực mở rộng đối ngoại.

Cho nên, thời kỳ ban đầu quật khởi chính là thời cơ khuếch trương tốt nhất, còn nếu muốn nhanh chóng khuếch trương thì chinh phục một địa phương, rồi lại dùng quân dân của địa phương này để tiếp tục xuất chinh. Phương thức khuếch trương nối đuôi này đã trở thành kiểu mẫu tốt nhất, nó có thể tránh được khuyết điểm nhân lực, vật lực bản tộc không thể cung ứng liên tục, có thể dùng tốc độ nhanh nhất để mở rộng. Hán, Đường, Arabo, đế quốc Mông Cổ đều đã linh hoạt dùng phương pháp này, và cũng giành được thành công cực đại từ nó.

Đương nhiên, phương pháp này nguy hiểm như chơi với lửa, phải khống chế độ lửa. Có hai vấn đề nhất định phải chú ý, một là lực lượng nòng cốt phải đảm bảo đủ sức khống chế những lực lượng mới. Nếu không có thể sẽ gặp phái nguy hiểm bị lực lượng mới cân trả lại. Thứ hai chính là không thể khuếch trương vô hạn, cho dù là một công ti. Nếu nó nhanh chóng được khuếch trương thì những tệ nạn trong nó còn lớn hơn cả lợi nhuận, huống hồ là một chính quyền.

Sự thống trị và loại trừ của toàn bộ hệ thống quản lý đối với khu bị chinh phục cùng cương vực nhanh chóng mở rộng sẽ dẫn đến con đường thông báo tin tức gặp trở ngại, trong những vấn đề này. Bất kỳ một vấn đề nào gặp trở ngại đều có thể thúc đẩy làm cho tập đoàn thống trị vừa mới xây dựng được sẽ rơi vào sụp đổ. Những nguyên nhân này chính là nguyên nhân vì sao trước mắt Dương Hạo đã khống chế thế lực của mình trong phạm vi Ngọc Môn Quan. Đồng thời hết sức suy trì bộ đội trực thuộc mình sẽ không bị mỏng và yếu đi.

Những điều này Dương Hạo làm rất tốt, cho nên hắn tạm thời không cần phải lo lắng những mặt này sẽ gặp vấn đề. Điều hắn lo lắng bây giờ chính là đông tuyến. Lấy Hoành Sơn làm phòng tuyến chủ đạo, có thể tập trung được binh lực hữu hạn, dựa vào địa thể hiểm yếu, xây đựng một phòng tuyến hoàn mỹ, lại có một chiến thuật gia thiện thủ như Dương Kế Nghiệp, một chiến lược gia như Chủng Phóng, cho dù hắn có ở Hoành Sơn cũng chưa chắc có thể làm tốt hơn hai người này.

Nhưng... Đối thủ là một đại nhân vật Tống Quốc, đây là cường địch trước nay chưa từng có mà hắn gặp, tướng lĩnh dẫn binh lại là danh tướng Tống Quốc, thiện tiến công - Phan Thế Mỹ. Đông tuyến rốt cuộc có xảy ra vấn đề không? Dương Hạo thật không yên với nơi này.

Điều càng làm cho hắn khó quyết đoán chính là hắn lấy thân phận gì để đổi mặt với Tống Quốc? Hắn rất khâm phục sự quả quyết và dũng khí của Chiết Tử Du, nếu như Chiết Tử Du không quyết định thật nhanh, quyết đoán vứt bỏ Phủ Châu, theo Dương Kế Nghiêp tản về Hoành Sơn thì quân Chiết gia sẽ toàn bộ phải đưa tang ở Phủ Châu. Nếu như Chiết Tử Du không đứng vững trước lợi ích nội bộ và áp lực tập đoàn cực đại thì đối với một cô nương mà nói, không có cách nào chấp nhận được sự chửi rủa và sỉ nhục nặng nề đó. Trên chiến trường, một tiên cơ cũng có thể quyết định được thắng bại toàn quân, khi rơi vào cảnh khó khăn, nếu còn do đự không quyết thì cuối cùng sẽ có kết quả gì, chỉ cần nghĩ cũng biết.

Đổi lại mà nói, nếu như mình là Chiết Tử Du, Dương Hạo không đám khẳng định hắn sẽ có dũng khí và gan lớn như vậy, đưa ra quyết định giống Chiết Tử Du. Tính cách của hắn thực ra luôn có chút do dự thiếu quyết đoán, mặc dù bây giờ đã nắm trong tay hơn mười vạn binh, trở thành bá chủ một phương, nhưng kỳ thực cái nhược điểm này vẫn không hề thay đổi. Nếu như Chiết Tử Du không phải sinh ra đã là nữ nhi thì Dương Hạo tin tưởng rằng, nàng ấy sẽ còn giành được thành công hơn mình.

Dương Hạo có thể tưởng tượng được, một cô gái vốn không nên gánh nhiều trách nhiệm như vậy, một tiểu công chúa tâm cao khí ngạo, một cô nương luôn coi trọng sự thanh bạch danh tiếng mà lại chịu áp lực và trách nhiệm nhiều như vậy, chịu lời phỉ nhổ, tủi nhục nặng nề như vậy thì áp lực trong lòng sẽ lớn đến mức nào. Nàng đã bỏ Phủ Châu, giao ra binh Chiết gia, đối với nàng mà nói đó không phải là hạ bớt gánh nặng mà là đeo thêm vào trách nhiệm, còn có cả sự tủi nhục.

Nàng cho dù có kiên cường thì cũng có thể chống đỡ được bao lâu nữa?

Tử Du - Dương Hạo hận không thể chắp thêm đôi cánh để ngay lập tức bay đến bên nàng, dùng đôi vai kiên cường của hắn để làm cây đại thụ che mưa gió cho nàng, nhưng nếu như lúc này lại thể hiện nhiều sự nồng nhiệt với nàng thì quân Hạ Châu sẽ nghĩ sao? Chiết gia quân sẽ nghĩ sao? Triều đình sẽ nói sao? Hắn có thể không để ý đến những thanh âm đó sao? Tử Du có thể không để ý đến sao? Cho dù tất cả đều không phải là vấn đề thì hắn cũng không có cách nào lập tức bay đi, hắn chỉ có thể nhẫn nhịn, giải quyết trước chuyện của Cam Châu.

Đồng thời còn một vấn đề lớn nhất, lớn nhất, một vấn đề mà hắn vẫn chưa chuẩn bị tâm lý. Tử Du đã phản rồi, hắn phải làm sao? Phản hay không phản, không phản thì phải tự xử lý thế nào? Nếu phản rồi thì lấy đanh nghĩa gì? Thân phận gì? Bây giờ các thế lực mà hắn khống chế liệu có còn trung thành với hắn nữa không nếu như hắn mất đi cái thân phận hợp pháp đại nguyên soái Hà Tây Lũng Hữu này, và trở thành kẻ địch với đế quốc cường đại nhất Trung Nguyên?

Ngọn lửa này còn phức tạp hơn gấp trăm lần so với việc hắn nuốt các thế lực Hà Tây hay tiến hành nhanh chóng khuếch trương thế lực cùng những nhân tố phải suy nghĩ đến. Nếu làm, lực độ không đủ thì trên danh phận đại nghĩa hắn đành phải hạ phong, trên chiến trường cũng không thể đánh một cách hùng hồn. Nếu như độ lửa quá lớn, hắn thay thế được Liêu Quốc, trở thành đại địch đệ nhất mà Tống Quốc muốn đối phó, thì hắn có thể ứng phó được với quân đội Đại Tống cuồn cuộn không đứt không? Với thế lực của hắn, hắn chống đỡ nổi không?

Cho dù bây giờ hắn đã bắt đầu ra tay chuẩn bị đủ mọi mặt, nhưng đó đều là những cách bất đắc dĩ, khi chưa tới lúc cùng đường thì hắn sẽ không dùng tới. Hắn có thể coi thường Triệu Quang Nghĩa, nhưng hắn không thể coi thường thực lực cường đại Tống Quốc và chiến tướng tài giỏi nhiều như mây của Tống Quốc.

Dương Hạo càng nghĩ càng đau đầu, hắn cuối cùng đã từ Sa Châu trở về, nhưng một chút cũng không nhẹ nhàng hơn, bây giờ hắn phải đối mặt với rất nhiều vấn đề nan giải hơn.

Liêu Quốc sẽ can dự chứ? Giống như hắn sẽ không ngồi nhìn Vu Khuyết bị diệt, một chính trị gia có con mắt chiến lược sẽ không cho phép Hà Tây dễ dàng rơi vào tay người Tống, Tiêu Xước cũng không phải là một mỹ nhân chỉ biết đến ngọc ngà châu báu. Có điều... Nàng ấy sẽ tiến hành như thế nào? Bên Thục địa, nếu như Tiểu Lục và Thiết Đầu thành công giành được quyền lãnh đạo, thì bây giờ chắc cũng nên có hành động rồi chứ? Bọn họ có thể thành công giành được quyền lãnh đạo từ trong thay Triệu Đắc Trụ không?

Đông nhi... Lần trước tình báo tới nói nàng ấy đã xuất hiện mấy cơn đau, bây giờ chắc đã sinh rồi chứ? Mẹ con bình an cả chứ, là trai hay gái?

Quốc sự, gia sự, thiên hạ sự, đủ thứ việc, Dương Hạo giống như một chiếc bánh trong nồi, lật qua lật lại, khó mà ngủ được.

Nhưng điều duy nhất mà hắn không nghĩ tới chính là Cam Châu ngay dưới mắt hắn.

Đối với vật ngay trong túi còn có gì mà phải nghĩ nữa?

*

* *

Đêm nay, đối với khả hãn Cam Châu Dạ Lạc Hột mà nói cũng là một đêm không ngủ.

Thám mã chạy như sao băng, đem liên tục các tin tức kinh động tới vương cung của hắn. Trên cung điện, ngọn đèn dầu sáng rực, tất cả các nhân vật trọng yếu đều tập trung ở đó, người người đều đầy vẻ kinh sợ.

“Sao có thể... Sao có thể... Tin tức hai châu Lân Phủ bị công kích tuyệt đối không phải là giả, Dương Hạo sao có thể bình thản mà đánh Cam Châu ta?”. Vương phi A Cổ Lệ có chút hoảng loạn, lẩm bẩm nói, dung mạo ảm đạm.

Đây là cơ hội tốt nhất để hạ thấp giá trị của nàng ta trước mặt đại hãn, nhưng vương tử A Lý đã không còn bận tâm đến việc trêu chọc nàng ta nữa, hắn lo lắng nói: “Phụ hãn, Dương Hạo hồi sư, nhất lộ quân mã Lương Châu cũng đã đuổi giết về, Dương Hạo quyết đánh như thế tất muốn lấy được Cam Châu ta mới cam tâm. Theo con thấy hắn thà vứt bỏ Lân Phủ, nhất thống Hà Tây, việc này không thể chậm trễ, nhân lúc binh mã hắn mới đến, còn chưa ổn định, chúng ta lập tức phá vây, bằng tất cả mọi giá để có một con đường sống”.

“Đi ư? Đi đâu?”.

Dạ Lạc Hột hai mắt vô thần, mờ mịt ngẩng đầu lên: “Dương Hạo không tiếc điều động hai lộ đại quân đến lấy Cam Châu ta, rõ ràng nhất định phải lấy được. Hắn cách thành năm mươi dặm đã bắt đầu hạ doanh cắm trại, rõ ràng lo lắng đại quân nếu xông thẳng tới chân thành thì sẽ bị du tốt, thám mã của ta phát hiện, bản khả hãn sẽ lập tức đột phá vòng vây, làm cho hắn không kịp hạ doanh cắm trại, thiết lập phòng ngự. Bây giờ chúng ta nhân đêm tối xông ra, liệu còn kịp không? Hướng nào thế lực quân địch mỏng nhất, màn đêm dày đặc thế này, chúng ta có thể tra rõ được không?”.

Vương tử A Lý vội nói: “Phụ hãn, lẽ nào chúng ta phải ngồi chờ chết sao?”.

Hắn lo lắng nói: “Phụ hãn đã sai lầm tin tưởng vào lời của thất vương phi, không nhân cơ hội Dương Hạo lui binh chạy trốn xa vào đại mạc, ngược lại còn đem toàn bộ nguồn lực các bộ lạc ta tập trung đến Cam Châu, Dương Hạo nếu như đã bày ra cái thế này thì lần này sẽ tuyệt đối không tản binh, cho dù Dương Hạo động binh với thành thì lương thực còn tồn trong thành sớm sẽ hết, rồi sẽ tới lúc tự diệt, huống hồ đại quân của hắn lại như mây, sao có thể không đánh?

Nếu như kéo dài tiếp, chúng ta sẽ chỉ có thể ngồi trong thành chờ chết, bộ lạc trên đại mạc, thảo nguyên của chúng ta vừa mất đi vũ lực tinh nhuệ, vừa mất đi lương thực trâu dê, cũng tất bị cường tộc thâu tóm, toàn bộ tộc Hồi Hột Cam Châu của ta sẽ bị tiêu diệt cả. Phụ hãn, xông ra mở một con đường máu thì còn có một cơ hội sống, bây giờ liều cũng phải liều, không liều cũng phải liều! Phụ thân là ưng của đại mạc, là hổ của thảo nguyên, là anh hùng của chư bộ Tây Bắc, lẽ nào cánh chim đã già, vuốt hổ đã cùn, ngay cả dũng khí liều một lần cũng không còn sao?”.

Cơ thể Dạ Lạc Hột hơi rung lên, nhưng lại không nói gì.

Vương phi A Cổ Lệ nghe thấy vương tử A Lý nhắc đến khả hãn đã tin sai lời mình, sắc mặt đột nhiên trở nên trắng bệch, nàng liền bước lên trước mấy bước, quỳ gối xuống trước mặt Dạ Lạc Hột, ấn vào thanh bảo đao dắt ở eo, trầm giọng nói: “Đại hãn, A Lý vương tử nói đúng, chúng ta không còn cách nào nữa, phải liều”. Vương tử A Lý lần đầu tiên thấy vương phi A Cổ Lệ lại cùng ý kiến với mình, không khỏi ngẩn ra.

Vương phi A Cổ Lệ nói: “Đại hãn, A Cổ Lệ nguyện thống soái người trong bộ tộc ta và võ sĩ làm tiên phong, cho dù toàn quân không còn cũng phải mở một con đường máu, yểm hộ cho đại hãn phá vòng vây. Đại hãn, thỉnh cho vương tử A Lý cùng lên trận, xông tới nam thành, đại hãn...”.

Vương tử A Lý nghe tới đây, vội cắt đứt lời nàng ta, nói: “Xông nam thành? Xông nam thành sao có thể được? Chúng ta sẽ đi đâu? Đại hãn, chúng ta nên xông ra bắc thành, đột phá vòng vây địch, xông tới đại mạc Ba Đan Cát Lâm, ở nơi đó là khu vực rộng lớn, lại có rất nhiều bộ lạc của chúng ta, Dương Hạo tuyệt đối khó có thể lợi dụng ưu thế binh lực để công kích chúng ta”.

“Vương tử A Lý, lần này quả thật là ta sai, là ta sai, ta nguyên một mình gành chịu”.

Sắc mặt vương phi A Cổ Lệ ảm đảm, trắng bệch như giấy, thần sắc lại vô cùng quả quyết, còn ngữ khí cũng rất bình tĩnh: “Nhưng, sa mạc Ba Đan Cát Lâm phía bắc trước đây có lẽ cũng được, nhưng bây giờ thì không được nữa. Vì... Lương thảo của tộc chúng ta đã đều tập trung hết ở Cam Châu, khinh kỵ đột vòng vây tuyệt đối không thể mang theo nhiều lương thảo, nhiều nhân mã như vậy, cần ăn, cần uống, một khi đến đại mạc, thì bộ lạc chúng ta không thể chống đỡ được, mùa đông này cả tộc ta sẽ vừa đói vừa lạnh mà chết trên sa mạc...”.

Bộ tộc trên đại mạc đa phần là bộ thuộc của vương tử A Lý, nghe vương phi A Cổ Lệ nói, sắc mặt vương tử A Lý dần dần nhăn nhó, dữ tợn nói: “Như vậy, đột phá về hướng nam thì có thể đi đâu chứ?”.

A Cổ Lệ trầm tĩnh nói: “Dương Hạo từ phía tây tới, quân Lương Châu từ đông mà đến, bọn họ vừa mới dựng trại, binh lực có lẽ vẫn chưa kịp bày bố, quân chủ lực của bọn họ tất đang ở lưỡng tuyến đông tây, phía bắc là đường chết, không thể đi, vậy chỉ còn có thể đi về phía nam, đi về phía nam là dãy núi Kỳ Liên, vượt qua dãy núi Kỳ Liên chính là...”.

Vương tử A Lý kêu lên: “Ngươi điên rồi? Vượt qua Kỳ Liên Sơn? Chúng ta nhiều người như vậy, nếu như vượt qua Kỳ Liên Sơn thì sẽ có bao nhiêu người phải chết đây? Còn có thể giữ lại được gì? Ngay cả ngựa e là cũng không còn lại được mấy con, hán từ trên thảo nguyên, một khi mất chiến mã thì chúng ta cũng như mất toàn bộ gia tộc, vượt qua Kỳ Liên Sơn thì có thể làm gì nữa?”.

A Cổ Lệ đợi hắn gào thét xong mới tiếp tục nói: “Đại hãn là cửu đại vương Hồi Hột, thân phận tôn quý, vượt qua Kỳ Liên Sơn chính là vùng Lũng Hữu, Lũng Hữu bây giờ nằm trong tay người Thổ Phồn, có điều Thanh Hải Hồ phía tây tản cư lượng lớn tộc nhân Hồi Hột chúng ta, bọn họ nếu như có thể hợp lực thì sẽ không yếu hơn người Thổ Phồn, đáng tiếc... Vương giả tôn quý của bọn họ... Trăm trướng, nghìn trướng là một bộ, giống như cát tản mát khắp nơi, chịu sự ức hiếp của người Thổ Phồn, nếu như đại hãn đến được Lũng Hữu, dựa vào dòng máu vương giả tôn quý của mình thì có thể nhất thống chư bộ Hồi Hột. Đến lúc đó, có Kỳ Liên Sơn cản lại thiết kỵ quân Hạ Châu, đông có người Thổ Phồn áp chế uy lực của người Tống, đại hãn đã có thể tích tụ thực lực ở Thanh Hải, rồi chờ đông khởi”.

“Điên rồ, thật là điên rồ. Phụ hãn, cho dù đến đại mạc gian khổ, nhưng chúng ta còn có cơ hội phục hồi, vứt bỏ tất cả để vượt Kỳ Liên Sơn thì chúng ta sẽ hoàn toàn xuống dốc, vứt bỏ tộc nhân ở đây, vậy tộc nhân ở Lũng Hữu sẽ tín nhiệm vào phụ hãn sao? Phụ hãn, người đàn bà này tự cho là thông minh, người tuyệt đối không thể...”.

A Cổ Lệ lớn tiếng nói: “Đại hãn, đây là cơ hội duy nhất rồi, A Cổ Lệ sẽ mang theo tộc ta, không tiếc tất cả, hộ vệ đại hãn xuất thành, lúc này không thể do dự nữa. Đại hãn...”.

Da Lạc Hột phẫn nộ nói: “Lần trước ta đã tin lầm nàng, lần này nàng còn muốn ta tin nàng sao?”. Lời này chính là lời lần trước hắn đã nói với vương tử A Lý, nhưng lần này từng chữ một không sai, tặng lại cho A Cổ Lệ, trong lòng vương tử A Lý đột nhiên cảm thấy khoái ý, còn vương phi A Cổ Lệ sắc mặt trắng bệch ra, ánh mắt lộ ra vẻ thê lương, nàng từ từ rút thanh loan đao sáng quắc ra, tuyệt vọng nói: “Tất cả đều là do A Cổ Lệ đã sai, Cam Châu rơi vào cục diện hôm nay A Cổ Lệ trăm lần chết cũng không chuộc được tội. Đại hãn, xin người giết thiếp đi, để ăn nói với tộc nhân”.

Tộc người của A Cổ Lệ ở trong bản bộ Cam Châu chiếm một lượng tương đối lớn, hơn nữa Cô Cố Hỗn bộ, Động La Cát bộ và bộ lạc của A Cổ Lệ trước nay cũng luôn cùng tiến cùng lùi, lúc này quả thật không nên động đến nàng ta. Da Lạc Hột thấy sắc mặt thê lương của nàng, vội chuyển ngữ khí, đau khổ nói: “A Cổ Lệ, ta không phải là đang trách nàng, ta thực ra... Là đang tự trách ta. Haizz, bất kể là mọi người kiến nghị như thế nào thì quyết định cuối cùng vẫn là do khả hãn ta. Nàng là một nữ nhân nếu đã làm vương phi của ta, thì vốn phải ăn sung mặc sướng, tận hưởng vinh hoa, nhận ân sủng và sự bảo vệ của ta. Nhưng... Nàng lại vì ta mà dốc hết sức lực, suy nghĩ ngày đêm, còn xông trận vì ta, còn ta... Ta đã không làm hết trách nhiệm của một đại hãn, càng không làm hết trách nhiệm của một người đàn ông”.

A Cổ Lạc nước mắt tuôn rơi, phủ phục khóc nói: “Đại hãn”.

Da Lạc Hột đứng dậy, bước xuống khỏi vương tọa, hai tay đưa ra, nhẹ đỡ nàng lên, thân tình nói: “Những năm qua, sống ở thành Cam Châu này, ăn sung mặc sướng, say đắm mỹ tửu cùng mỹ nhân, sương gió không phải chịu, nên đôi bàn tay cứng cáp năm xưa được đao kiếm mài dũa nay đã không còn, đôi chân vững chắc kẹp chặt chiến mã cũng đã đầy thịt thừa, hùng tâm tráng trí của ta cũng đã bị mài mòn rồi”.

Hắn đỡ lấy cánh tay A Cổ Lệ, từ từ nhìn các vị thủ lĩnh các bộ lạc đang đứng trong điện, trên trán hiện ra một ánh hào hùng: “Hôm nay, Da Lạc Hột ta sẽ bắt đầu làm lại một đại hãn Hồi Hột mà mọi người đã tin tưởng và ủng hộ. Ta muốn bảo vệ tộc của ta, trùng hưng uy danh Hồi Hột Cam Châu, tiểu tử Dương Hạo, con hổ không uy thì ngươi cho rằng ta là một con mèo bệnh sao”.

Hắn lấy chiếc loan đao từ trong tay A Cổ Lệ ra, giơ cao lên, giọng phấn chấn nói: “Các bộ lập tức trở về chuẩn bị, không phân nam nữ già trẻ, có thể cưỡi ngựa bắn tên thì đều đứng lên, nghe sự điều khiển của ta. Khi ánh nắng đầu tiên của bình minh ngày mai đến, ta sẽ thống lĩnh mọi người, xông tới mở ra một chân trời mới!”.

 Chương 34: Bước Đường Cùng Của Vương Phi

Bình minh sẽ đột phá vòng vây, đây là thời gian mà Dạ Lạc Hột đã quyết định.

Nếu như đột kích trong đêm, bên Dương Hạo tuy vừa mới cắm doanh trại, nhưng trong thành Cam Châu điều binh khiển tướng, vứt bỏ những thứ nặng nề, thu thập nhanh chóng... Cũng không phải chỉ trong một khoảng thời gian ngắn là có thể hoàn thành, còn quân doanh của Dương Hạo vừa mới cắm trại nên cảnh giác rất cao độ, cự ly năm mươi dặm không phải xa cũng không phải gần, rõ ràng là rất lơ lửng, nếu như khoái mã xung phong thì chặng đường quá dài, nếu khinh kỵ từ từ tiến thì kẻ địch lại có thể chuẩn bị sẵn sàng trước, nếu đã như vậy thì chi bằng để trời sáng rồi chiến một trận.

Đợi đến khi bình minh đến, ánh mặt trời chiếu những tia nắng đầu tiên, chỉ cần binh mã canh ban đêm của quân Dương Hạo nghỉ ngơi thì đây chính là lúc tinh thần mệt mỏi nhất, là lúc hành động chậm chạp nhất. Là phía công kích, trống lệnh, cờ hiệu, tướng lệnh truyền đạt vốn đã kém hơn quân đội của Dương Hạo, nhưng cũng dễ điều khiển quân hơn lúc ban đêm mịt mù.

Sắc trời đã hơi tỏ, phía chân trời mới vừa lộ ra màu trắng bạc, cổng thành phía nam Cam Châu đã mở rộng, vương phi A Cổ Lệ thống soái thân tộc làm tiên phong, hai cánh quân Cô Cố Hỗn bộ, Động La Cách bộ giống như thanh đao một cán ba lưỡi, nhanh chóng xông về phía quân doanh Hạ Châu đang đóng ở phía tây nam.

Vương phi A Cổ Lệ cho rằng Cam Châu rơi vào cảnh khốn cùng này có liên quan rất lớn đến mình, cho nên một mình gánh vác trách nhiệm đột kích này. Thống lĩnh dũng sĩ bộ tộc của nàng để mở ra một con đường sống. Cô Cố Hỗn bộ và Động La Cách bộ cũng biết đây là thời khắc sinh tử của Hồi Hột Cam Châu, nên toàn bộ thanh tráng dũng sĩ tinh nhuệ của các bộ đều được điều động ra, tộc trưởng Cô Cố Hỗn bộ là Tô Nhĩ Man có hai người con trai, trước đây khi đột phá vòng vây đã chết thảm dưới Mạch Đao trận của quân đội Hạ Châu, bây giờ gặp lại kẻ thù, mắt đỏ máu sôi, sát khí đằng đằng.

Khi binh mà dã mang trong lòng dự tính về cái chết thì sức chiến đấu có thể phóng ra sẽ không chỉ lớn gấp hai lần bình thường, huống hồ phía nam là dãy núi Kỳ Liên Sơn trùng trùng điệp điệp, cho nên chủ lực của quân Dương Hạo sẽ không đóng ở đó. Khi quân đội Cam Châu cuồn cuộn không dứt thích sát tới đại doanh phía nam, mượn lúc bình minh sáng tỏ, bọn họ rất nhanh sẽ giơ cờ, dựng mâu dương thuẫn, tuấn mã gầm vang, hình thành một bức tường sắt trước mặt bọn họ.

Thủ quân nam thành quả thật không phải là chủ lực của Dương Hạo, nhưng lại là đội tinh nhuệ của Dương Hạo, chiến cờ phi hùng bay phấp phới trên cao. Đoàn binh mã này chính là thuộc trận doanh của thuộc hạ Dương Hạo Lý Hoa Đình. Hồi Hột Cam Châu đã bị ép vào thời khắc sống còn, mắt thấy trận doanh Hạ Châu dường như không hề có chút rung chuyển, vương phi A Cổ Lệ vẫn xông ngựa lên trước, không chút do dự xông tới.

Cho dù hôm nay ở đây sẽ vương máu của nàng, cho dù chiến mã hạ có dẫm nát nàng thành bùn thì nàng nhất định phải mở một con đường máu. Cho dù nàng là một nữ nhân, nhưng trong mạch máu của nàng lại chứa đầy khí phách cuồn cuộn giống nam nhân.

Tiếng hò hét chém giết tràn lên rung chuyển mặt đất. Dương Hạo mặc dù muốn binh vây sát dưới thành, dùng cách lấy cường thế công thành, có điều cũng đã suy nghĩ đến khả năng kẻ địch bức quá làm liều, nên bốn phương tám hướng đều đã bố trí quân doanh, hết sức đào các loại chiến hào, thiết cự mã, nghiêm trận chờ đợi, và lúc này cuối cùng cũng đã dùng đến rồi.

Chiến hào đã bị tử thi và chiến mã san bằng, trường thương của cự mã bị sự va đập dã man làm gãy nát, người Hồi Hột rơi vào tuyệt cảnh đã phát huy ra dũng khí làm cho bất kỳ kẻ địch nào cũng phải lạnh người, dùng máu thịt của họ để mở ra một con đường. Đạo tuyến thứ nhất đã bị thất thủ.

“Tiếp tục xông lên! Dùng tốc độ nhanh nhất để xé tan trận doanh của kẻ địch, yểm hộ cho tộc người chúng ta thoát ra!”.

A Cổ Lệ toàn thân giống như một bông hoa hồng bị nhuốm máu tươi, mắt thấy quân doanh của Hạ Châu đã bị phá mở lối, tinh thần nàng đại chấn, giơ thanh loan đao lên hét lớn.

Cơn mưa mịt mù, tiếng kêu vang không dứt, dưới sự cổ vũ của nàng, dũng sĩ Hồi Hột với trái tim đã chết liền liên tiếp liều mạng xông lên phía trước. Cảnh tượng này giống như lúc trước Dương Kế Nghiệp thống soái tám nghìn tử sĩ nhân lúc mưa to gió lớn xông kích xé toạc Tống doanh. Đúng vậy, lúc này bọn họ là tử sĩ, những tử sĩ trên vai gánh vác sự sinh tồn của toàn tộc.

Loan đao của A Cổ Lệ chém xuống phát nào thì lúc đó có đầu rơi máu chảy, người nghiêng ngựa ngã. Thị vệ đi sát theo nàng bất chấp tất cả vượt lên trước mặt nàng, dốc hết sức mà chiến, dốc hết sức mà xông lên xé quân doanh Hạ Châu, hung mãnh mà đột phá.

Quân Hạ Châu cũng chém giết đỏ cả mắt, trường mâu nhanh như tia chớp đã đâm tới hướng ngực, hông và chiến mã của nàng. Vương phi A Cổ Lệ cầm dây cương, thúc ngựa phi tới trước, thanh đao trong tay “tang tang” lên liên hồi, đỡ những thanh trường mâu đang phi tới.

Thị vệ của nàng kịp thời chạy đến, một đao đỡ được một trường mâu, còn một đao khác lại không kịp chống đỡ, lại một tiếng kêu thét vang lên, cả người và ngựa cùng nhào, thanh đao trong tay một tên thị vệ đâm xuyên qua cơ thể một binh Hạ Châu, thanh đao vừa rút ra, máu liền bắn tung tóe, binh sĩ Hạ Châu từ từ ngã gục xuống đất.

Vương phi A Cổ Lệ nghiêng người tránh những chiếc mâu đang lao về phía mình, nhưng binh Hạ Châu dùng mâu cũng phản ứng cực nhanh, mâu vừa đâm trượt liền nhanh chóng rút lại, đâm tiếp về phía vương phi, trường mâu trong tay như lưỡi của một con rắn độc thè ra đâm vào đùi vương phi A Cổ Lệ.

Máu tươi văng tung tóe khắp nơi, vương phi A Cổ Lệ đau đớn rống lên một tiếng, chiếc loan đao vừa chém binh Hạ Châu thành hai đoạn lại giơ lên, binh sĩ kia còn chưa kịp rút trường mâu ra thì đầu và cơ thể đã mỗi thứ một nơi.

“Tang... Tang... Tang” tiếng kim loại va vào nhau vang lên, trận hình của quân Hạ Châu đã nhanh chóng bị phá vỡ, tránh sang hai bên. Tiền phương loạn binh đã trống không, nghênh trước mặt bọn họ lại là một trận địa thương kích dày đặc như rừng, nghiêm ngặt đang chờ đợi.

Vương phi A Cổ Lệ rút thanh trường mâu ra khỏi đùi, một tay cầm đao, một tay cầm trường mâu, máu ở đùi vẫn không ngừng chảy ra, thời khắc này không thể dừng xông về phía trước, nàng nhất định phải nắm chắc lấy thời gian, khi Dương Hạo lý giải được ý đồ tác chiến của bọn họ, phái đại quân đến, cho dù bọn có thể xông ra, thành công tháo chạy lên Kỳ Liên Sơn thì những tổn thất mà bọn họ phải bỏ ra cũng tăng thêm gấp nhiều lần.

Phòng tuyến thứ hai, sau khi bỏ ra vô số nỗ lực và thương vong lại bị phá vỡ, sĩ khí binh Hồi Hột đại chấn, bọn họ ngay cả thở cũng không kịp thở, lập tức xông tới phòng tuyến thứ ba.

Gần rồi, gần hơn rồi, tia nắng đầu tiên đã chiếu tới, trận trường mâu như rừng phía trước phát ra hơi lạnh kinh người, hai mắt của A Cổ Lệ đỏ rực như máu, đôi chân hơi dùng lực, mông rời khỏi lưng ngựa, cơ thể cong lên. Trong nhất thời nàng đã nhìn rõ trận hình trước mặt, tầng thương trận dày đặc thứ hai trước mặt nàng không thể xông qua được, nhưng nếu lấy tốc độ nhanh nhất để xông tới, thì ngựa của nàng ít nhất cũng có thể chặt đứt được sáu thanh trường mâu. Khi ngựa của nàng và cơ thể nàng bị trường mâu cùng đâm xuyên qua thì thanh đao và mâu trong tay nàng cũng có thể giết chết được ba người nữa, nàng có thể dùng cơ thể và máu thịt của mình để mở một con đường trong trận địch, chỉ cần lại có hai thị vệ nữa nhanh chóng xông lên làm lớn chiến quả thì phòng tuyến này tất có thể phá vỡ, lại triển khai tiếp trận đấu thịt có ta không có ngươi.

Sau lưng nàng đang có mấy thị vệ đuổi sát theo, không rời không bỏ, vương phi A Cổ Lệ hít một hơi thật sâu, tiếng hét vừa ra khỏi miệng thì đột nhiên có một chiến mã xuất hiện ở bên cạnh, kỵ sĩ trên ngựa vừa khom lưng đã chắn ngựa trước móng ngựa của nàng, làm nó nghiêng về phía sau.

Vương phi A Cổ Lệ quát lên một tiếng, người đứng thẳng lại, nếu như không phải chiến thuật cưỡi ngựa của nàng cao siêu, hai chân kẹp chặt lấy ngựa thì lần này chắc chắn sẽ bị ngã xuống ngựa.

Vương phi A Cổ Lệ nhìn sang một bên thì thấy người vừa nãy chắn ngựa của nàng râu tóc bạc trắng, đó chính là thủ lĩnh bộ lạc Cô Cố Hỗn Tô Nhĩ Mạn, Vương phi A Cổ Lệ trừng mắt lên quát: “Tô Nhĩ Mạn, ngươi sợ hãi rồi sao?”. Sắc mặt Tô Nhĩ Mạn xám lại, trầm giọng nói: “Vương phi, người xem!”.

Vương phi A Cổ Lệ quay đầu lại nhìn, từ phía đông xa xa, bụi bay mù mịt, tiếng vó ngựa rầm vang, tinh kỳ như mây phi đến rất nhanh.

Vương phi A Cổ Lệ bất giác biến sắc nói: “Viện binh của chúng tới rồi, không thể chậm trễ nữa, trước khi quân địch hợp lại phải được xông ra!”. Tô Nhĩ Mạn bi ai nói: “Vương phi, lão Tô Nhĩ Mạn là muốn người hãy nhìn phía sau”.

Vương phi A Cổ Lệ quay người nhìn lại, sắc mặt thoắt cái cũng tái đi, trông còn khó coi hơn cả Tô Nhĩ Mạn: “Nhân mã của đại hãn không ở phía sau, quân Hạ Châu bị đẩy ra đã hợp lại ở phía sau, phi hùng kỳ của quân Hạ Châu đã dương lên, những dũng sĩ xung kích của ba bộ lạc bọn họ đã giống như một cái thuyền nhỏ giữa đại dương mênh mông...”.

“Phụ hãn, Tống doanh xuất binh viện trợ nam tuyến rồi”.

Vương tử A Lý cực kỳ hứng thú quay về bẩm báo.

Dạ Lạc Hột vội vã hỏi: “Phía nào xuất động viện quân?”.

“Hợp diện, là phía đông”.

Dạ Lạc Hột mắt loét lên, trầm giọng nói: “Vậy chúng ta đi về phía đông!”.

“Tu... Tu... Tu...”. Tiếng tù và kêu lên thê lương, cổng thành đông Cam Châu mở ra, quân Hồi Hột giống như thủy triều trào ra khỏi, xông thẳng về phía đông.

Dạ Lạc Hột từ một khả hãn trên thảo nguyên đại mạc đến lúc trở thành một nhân vật giống như hoàng đế, hai mươi năm nay ăn ngon mặc đẹp, hưởng thụ mỹ tửu và mỹ nhân đã làm mài mòn đi tráng trí của hắn. Nhưng hắn dù sao vẫn là một nhân vật được tạo ra từ sương gió, máu tanh và chiến trận, khi hắn rơi vào bước đường cùng thì ngạo khí cùng sự hung ác ngấm tận xương lại được trào ra, trở thành một kẻ kiêu hùng.

Hắn không thể chấp nhận kiến nghị đi theo hướng nam rồi vượt Kỳ Liên Sơn, nếu như vượt qua Kỳ Liên Sơn thì khi hắn đến được Lũng Hữu, hắn sẽ không còn gì cả, sẽ thống lĩnh một tộc người giống như ăn mày, hắn phải khom lưng nịnh bợ, lấy lòng người Thổ Phồn, hắn phải bỏ cái thân phận vương tộc để cầu thực đám tiểu bộ lạc Hồi Hột vốn không coi hắn ra gì.

Có lẽ, nhẫn nhục, nằm gai nếm mật đích thực có một ngày đông sơn tái khởi, nhưng hắn không phải là Câu Tiễn, hắn không muốn làm Câu Tiễn, hắn là hùng ưng trên thảo nguyên, là mãnh hổ trên đại mạc. Hùng ưng cho dù đến lúc sắp chết cũng sẽ dang đôi cánh, cố gắng bay đến lúc kiệt sức rồi chết, mãnh hổ cho dù đến lúc chết cũng sẽ cố gắng duy trì được sự tôn nghiêm của vương giả, sẽ không bao giờ cúi mặt trước bách thú.

Cho nên, hắn đã vứt bỏ A Cổ Lệ, người luôn trung thành tận tâm với hắn và cả những bộ lạc cùng tiến cùng lùi với nàng như Cô Cố Hỗn, Động La Cách, dùng trận quyết tử của bọn họ để thu hút đại quân vây thành, phá vỡ sự bố trí của chúng.

Cam Châu vốn không phải là thành trì chính nam chính bắc, góc độ của nó có chút hơi nghiêng, cho nên đội chủ lực của Dương Hạo từ phía tây đến là bằng với tự thủ ở góc Tây Bắc, ngăn cản con đường bắc tiến đại mạc, còn đội quân đến từ Lương Châu lại thủ ở góc đông bắc. Nếu như quân cứu viện nam thành là đại quân phía Tây Bắc thì hắn sẽ xông ra hướng Tây Bắc, nhân lúc chúng di binh xuất doanh, chưa kịp có cơ hội lấp chỗ thiếu, sẽ xông ra ngoài, khi đến được sa mạc Gobi sẽ lại cùng vật lộn với Dương Hạo. Nếu như binh mã đến từ phía Tây Bắc thì hắn sẽ tiến công phía đông, đột phá phòng tuyến quân Hạ Châu, rồi đi tới phá đông xa hơn.

Sau khi nhận được tin tức A Cổ Lệ mang về, hắn đã phái người điều tra sự thật giả của tin tức. Hắn biết những tin tức A Cổ Lệ lấy được là thật, Tống Quốc thật sự tấn công Lân Phủ rồi, quân đội Hạ Châu đã men theo tuyến Hoành Sơn bố trí phòng ngự, hắn còn thăm dò được tàn bộ của Lý Quang Duệ ở Tuy Châu cũng nhân cơ hội mà động, trước khi phòng tuyến Hoành Sơn bố trí xong thì sẽ vượt qua Hoành Sơn để tập kích Hạ Châu.

Chính vì hiểu được những tình hình như vậy mà hắn mới tin tưởng vào lời của A Cổ Lệ, tin rằng Dương Hạo nhất định sẽ hồi kinh, bảo vệ căn cơ của hắn.

Nhưng Dương Hạo đột nhiên lại cho binh vây thành Cam Châu, phá vỡ ảo tưởng của hắn. Theo hắn thấy, cử động lần này của Dương Hạo chỉ có một nguyên nhân: “Dương Hạo không có tự tin chiến với Tống Quốc, trước đây hắn đã chủ động vứt bỏ Lân Phủ cũng là vì nguyên nhân này, bây giờ phòng tuyến thứ hai bố trí ở Hoành Sơn cũng chỉ là đang tàn sức giãy dụa, cố hết sức để duy trì tình trạng như bây giờ.

Nếu như Hoành Sơn lại thất thủ, vậy Dương Hạo rất có thể ngay cả Hạ Châu cũng vứt bỏ, toàn quân rút về hành lang Hà Tây, lấy sa mạc Gobi rộng tám trăm dặm ở giữa Hạ Châu và Linh Châu làm bức bình phong, cản bước chân tây tiến của Tống quân. Dương Hạo không vội hồi kinh đông thành, thậm trí còn tập kết binh lực đánh Cam Châu, đây là ý định xấu xa nhất, muốn một khi Hạ Châu thất thủ, toàn lực sẽ chuyển về Hà Tây, làm một Hà Tây vương.

Cho nên, nếu như trận doanh Tống quân tuyến Tây Bắc không có sơ hở có thể tìm ra, không có cơ hội để cho hắn tháo chạy đến đại mạc, hắn sẽ đánh bất ngờ vào quân Hạ Châu ở thành đông, mở con đường máu, thích sát đến đại hậu phương của Dương Hạo. Ở đó có Tống quân, còn có quân Tuy Châu, những người đó đều là đồng minh của hắn, ở đó hắn có thể từ trong loạn mà giành lấy được thắng lợi. Cho dù không có cơ hội đục nước béo cò, thì hắn cũng có thể lấy được Tuy Châu rồi nhập vào Lũng Hữu.

Vượt qua Kỳ Liên Sơn đến Lũng Hữu, hắn có thể dốc hết sức bảo toàn tính mạng của tộc nhân, nhưng lại phải vứt bỏ hết chiến mã, hán tử trên thảo nguyên đã rời khỏi chiến mã thì khi đến được Lũng Hữu bọn họ khác gì ăn mày chứ? Con đường mà bây giờ hắn bất đắc dĩ phải chọn tuy có dài hơn, nguy hiểm hơn nhưng lại tồn tại một con đường giữa nguy hiểm và cơ hội. Một khi con đường này không thông thì hắn có thể vòng qua Lũng Hữu, tổn thất tộc người sẽ lớn hơn, nhưng những người mà hắn mang là đội tinh nhuệ trong tinh nhuệ. Có ngựa mới có binh, có binh mới có thảo khấu vương, quyền lực, hắn một khắc cũng không muốn bỏ cuộc. Như vậy hắn chỉ có thể bỏ rơi A Cổ Lệ, mà không thể để cho nàng ta biết được những tính toán thật sự của mình.

Làm đội quân tiên phong phá vòng vây tuy tử thương thảm hại, nhưng không phải là không có con đường sống, trong lúc giữa cái sống và cái chết, tộc nhân của nàng ta bao gồm cả Cô Cố Hỗn bộ, Đông La Cát bộ bất kể ai cũng không thể lùi bước, chỉ có thể quyết tử một trận. Nhưng nếu như nói rõ cho họ biết, bọn họ đi làm mồi nhử, chắc chắn sẽ chết, thì cho dù A Cổ Lệ chịu, tộc người của nàng có chịu không? Cô Cố Hỗn bộ, Đông La Cát bộ chịu không? Đáng bỏ thì bỏ, đó mới là kiêu hùng.

Hôm nay, A Cổ Lệ thống lĩnh dũng sĩ tam bộ, dùng sự hy sinh thảm thiết để phá vỡ trận thế Hạ Châu, quân Hạ Châu tuyến đông bắc cuối cùng cũng không chống nổi mà phải xuất viện binh, cơ hội của hắn đến rồi!

*

* *

“Tu... Tu... Tu...”.

Tiếng tù và ngân vang, vô số những điểm nhỏ trên thảo nguyên cuồn cuộn hội tụ lại, dần đần hình thành một cơn cuồng triều mênh mông mãnh liệt, hướng tới đại doanh trung quân của Đường Diễm Diễm.

Đường Diễm Diễm toàn thân đã mặc giáp, đứng trên vọng lâu, nhìn thấy binh Hồi Hột như sóng triều trào tới, bất giác thay đổi sắc mặt: “Mắc lừa rồi! Nam thành nhiều binh Hồi Hột như thế, thế tấn công thảm liệt như thế, lại... Chỉ là đánh nghi binh?”.

Mắt thấy nhân mã như sóng biển, tiếng vó ngựa rầm vang, thiết kỵ Hồi Hột với thanh thế kinh người ùn lên, Đường Diễm Diễm không còn thời gian để nghĩ nhiều nữa, lập tức hạ lệnh nghênh chiến, tiễn nỏ như mưa che khắp bầu trời mà bay đi, hướng tới khoảng hai nghìn kỵ binh Hồi Hột ở gần nhất đang cầm thuẫn tròn che chắn, một khắc không dừng lại mà lao lên. Ở phía sau bọn họ, đội nhân mã là một rừng gươm đao sắc bén vô cùng, vẽ ra một đường vòng cung cực lớn để nghênh chiến với đội trọng giáp của đối phương.

Đội thiết giáp đáng sợ này đã từng để lại ấn tượng không thể phai mờ cho người Hồi Hột, bọn họ biết rõ sức chiến đấu của đội kỵ binh trọng giáp đáng sợ đến mức nào, đồng thời cũng hiểu rõ nhược điểm của nó, bọn họ cần phải phối hợp mật thiết các loại binh khác với nhau, yêu cầu của bọn họ đối với chiến cơ và địa lý đặc biệt cao, khi những điều kiện này mất đi thì đội kỵ binh trọng giáp chỉ như một đống phế vật.

Cho nên, khi vương tử A Lý đích thân thống lĩnh đại quân làm tiên phong, đột nhiên phát hiện ra đội ngũ này, lập tức đã chủ động nghênh chiến.

Đội trọng giáp còn chưa kịp động, trước khi bộ áo giáp nặng nề phát huy được tác dụng, nó đã làm cho bọn họ rất khó cử động, còn người Hồi Hột đã dùng đội quân hai nghìn người để làm bức tường tránh mưa tiễn, để giành được thời gian quý báu, xông lên tới trước mặt trọng giáp binh, một trận chém giết thảm thiết, đầy máu tanh bắt đầu...

“Dạ Lạc Hột, ta có làm ma cũng sẽ không tha cho ngươi”.

Trên chiến trường nghìn quân vạn mã, lại xuất hiện một sự yên tĩnh lạ thường, chỉ có tiếng nức nở như xé nát tâm can của vương phi A Cổ Lệ. Vương phi A Cổ Lệ khóc mãi, rồi ngẩng đầu lên, đưa thanh loan đao lên yết hầu của mình.

“Leng keng!”. Tiếng kim loại vang lên, vương phi A Cổ Lệ vì chiến đấu mệt mỏi nên đã không còn cầm vững đao, chiếc đao rơi ra khỏi tay, nàng quay lại nhìn Tô Nhĩ Mạn, lại thấy râu hắn bay bay, lớn tiếng nói: “Đại hãn đã bỏ mặc chúng ta, bây giờ vương phi cũng muốn bỏ mặc chúng ta sao?”.

A Cổ Lệ cười thảm nói: “Tô Nhĩ Mạn, ông nói cho ta biết, tình hình bây giờ chúng ta còn có thể làm gì?”.

Tô Nhĩ Mạn lớn tiếng nói: “Không vì chúng ta thì cũng phải vì những người 'già trẻ phụ nữ yếu đuối bị vứt bỏ trong thành mà nghĩ, không vì chúng ta thì cũng phải vì những dũng sĩ đã đi theo chúng ta. Vương phi, bây giờ chẳng lẽ chúng ta không nên nghĩ vì họ sao?”. Vương phi A Cổ Lệ ngẩn ra nói: “Sự việc đã đến mức này rồi, chúng ta còn cách gì để nghĩ sao?”.

Tô Nhĩ Mạn cắn răng, trầm giọng nói: “Đầu hàng! Thứ Dương Hạo muốn không phải là tòa thành trống, thứ hắn muốn là chúng ta, chúng ta đầu hàng có thể bảo toàn tính mạng cả tộc”.

A Cổ Lệ ngẩn ra nhìn hắn, Tô Nhĩ Mạn nước mắt lưng tròng: “Hai đứa con của ta đều vì đại hãn mà chết, bọn họ đều chết trong tay quân Hạ Châu, người tưởng rằng lão Tô Nhĩ Mạn ta muốn đầu hàng sao? Nhưng chúng ta còn có con đường thứ hai sao? Vương phi, đây là sự lựa chọn duy nhất của chúng ta”.

Một cơn gió thổi đến làm bay bay những sợi tóc đang buông trôi khuôn mặt trắng bệch của A Cổ Lệ, nàng cười buồn bã nói: “Đầu hàng? Đầu hàng sao? Bọn họ... Còn có thể tin ta sao?”.

Tô Nhĩ Mạn lớn tiếng nói: “Tại sao không tin? Chúng ta giao tất cả binh mã ra, chấp nhận sự thống trị khai phủ lập nha của bọn họ, bọn họ còn có gì không thể tin? Chúng ta chém giết là vì cái gì? Không phải là sự sinh tồn của tộc nhân sao? Còn bây giờ, đại hãn đã vứt bỏ chúng ta, chúng ta không nên nghĩ cách tìm một con đường sống cho mình sao? A Cổ Lệ!”.

A Cổ Lệ hít một hơi thật sâu, khó khăn quay đầu lại, nhìn những chiến sĩ đã nhuộm đầy máu vì mình, rất lâu, không nói gì...

o O o

File ảnh

http://ne5.upanh.com/b4.s12.d4/cd63c37588c3ae0c9639f19222b8b740_36554715.34buocdu ongcungcuavuongphi01.gif

http://ne6.upanh.com/b4.s3.d4/bd237ef6c82933cea1c610313fddd644_36554716.34buocdu ongcungcuavuongpi02.gif

http://ne8.upanh.com/b1.s15.d2/ff6b72827a24833736673b66504cf157_36554718.34buocdu ongcungcuvuongphi03.gif

http://ne1.upanh.com/b3.s11.d3/98276b96662dc6b38c03e3caeafb0622_36554721.34buocdu ongcungcuavuongphi4.gif

 Chương 35 Nạn Huynh Nạn Đệ

Cam Châu phá vòng vây vốn đã nằm trong dự tính của Dương Hạo, trong dự tính của hắn, hắn hy vọng Hồi Hột Cam Châu sẽ vứt thành phá vòng vây. Bởi vì vây thành công phá Cam Châu hoặc là tiêu hao thời gian rất nhiều, hoặc là phải bỏ ra một cái giá lớn. Còn nếu quân địch bỏ thành thì cho dù quân địch có nhiều hơn cơ hội sống, nhưng đối với Dương Hạo mà nói áp lực cũng được giảm nhiều hơn.

Hồi Hột Cam Châu đột phá thành phía nam lại khá nằm ngoài dự liệu của hắn, khi hắn thảo luận chiến sự cùng chúng tướng, vốn đã tính tới khả năng cao nhất người Hồi Hột sẽ đột thành bắc tháo chạy về phía đại mạc, vì thế hắn đích thân cắm trại ở phía Tây Bắc, ngăn cản con đường tất yếu từ bắc hướng tới đại mạc, nhưng lại tuyệt đối không ngờ rằng người Hồi Hột lại chọn đột nam thành, đi theo hướng nam tất nhiên là muốn vượt qua dãy núi Kỳ Liên Sơn.

Dương Hạo không khỏi khâm phục tâm kế nhẫn nhịn của Dạ Lạc Hột, hùng thiết đại mạc có lúc khởi có lúc lạc, khi thảm nhất bên cạnh cũng chỉ còn lại vài người, cuối cùng còn không phải là đông sơn tái khởi sao? Trên thảo nguyên, thanh vọng và huyết thống chính là chiêu bài tốt nhất để chiêu nạp quần chúng. Bị bại mà chạy về Lũng Hữu tuy thảm liệt hơn chạy về đại mạc, có điều lý trí mà nói quả thực là một sự chọn lựa sáng suốt. Chỉ có chạy về Lũng Hữu mới có thể tạm thời tránh được sự truy kích của Dương Hạo và lợi dụng ưu thế số đông của bộ tộc Hồi Hột gần hồ Thanh Hải cùng với thân phận vương giả tôn quý của hắn để chiêu binh mãi mã, đông sơn tái khởi.

Dương Hạo thống binh tới bắc, vừa bắt đầu đã muốn quan sát tình hình địch rồi mới hành động, không muốn người Hồi Hột đột phá vòng vây quá mãnh liệt theo kiểu được ăn cả ngã về không. Liên tiếp hai tuyến phòng ngự phía nam bị thất thủ, với công thế mãnh liệt và sự xung phong dày đặc như vậy, làm cho tia do dự cuối cùng trong lòng Dương Hạo biến mất, hắn đang muốn phái người đi viện trợ, tăng cường phòng ngự nam tuyến, thì Đường Diễm Diễm ở gần phòng tuyến phía nam đã tới trước cứu viện.

Ngay sau đó, Da Lạc Hột đã thống lĩnh dũng sĩ của bộ tộc tâm phúc đột xuất kỵ binh, đánh cho quân đông tuyến không kịp trở tay, Dương Hạo vô cùng kinh ngạc, vội vã thống binh tiếp ứng quân đông lộ, khi nhân mã của hắn tới thì Dạ Lạc Hột đã đột phá vòng vây, chạy về phía đông. Nhân mã theo hắn tháo chạy có khoảng một vạn năm trăm người, số còn lại hoặc chết trên sa trường hoặc bị đại quân của Dương Hạo vây chặt.

Lúc này A Cổ Lệ và Tô Nhĩ Mạn, Nghiên Lão Ôn đi tới, A Cổ Lệ là thiếu tộc trưởng của Bạt Dã Cốt bộ, phụ thân của nàng không có con trai, sau khi nàng trở thành vương phi của khả hãn, đồng nghĩa với việc Bạt Dã Cốt bộ nhập vào bổn bộ thị tộc của Dạ Lạc Hột, có điều bộ tộc này vẫn có quyền tự chủ tương đối lớn, Dạ Lạc Hột cũng thông qua A Cổ Lệ mới có thể chỉ huy điều động bộ lạc vốn địa vị không yếu hơn hắn này, đồng thời cũng là bộ tộc thuộc vương tộc.

Tốc độ Hán hóa của bộ tộc này khá cao, cơ bản đã vứt bỏ du mục, lấy Cam Châu làm trung tâm, thực hiện nông canh và công thương. Ở trong thành Cam Châu, tộc người của nàng là đông nhất, còn Tô Nhĩ Mạn là tộc trưởng bộ Động La Cát, Nghiên Lão Ôn là tộc trưởng bộ Cô Cố Hỗn, có khả năng hiệu triệu cực cao trong bộ lạc Hồi Hột. Đồng thời ba bộ đã vứt bỏ tính mạng để đột phá nam thành, vì đồng tộc Hồi Hột mà giành lấy con đường sống, nhưng đại hãn lại vứt bỏ bọn họ. Những tướng sĩ đồng hành này trong lòng đều có tính toán, vì thế bọn họ khó tránh trong lòng có quỷ, cho nên khi ba nhân vật quan trọng có sức hiệu lệnh cực cao này đồng thời xuất hiện, những tướng sĩ đang rơi vào tuyệt cảnh, ngoan cố chống lại liền vứt bỏ sự chống đối.

Lúc này Dương Hạo cũng vừa tới chỗ đội quân, thấy cờ soái tự của Dương Hạo gần gần phía trước, hai vị tộc trưởng và A Cổ Lệ liền xuống ngựa, đợi Dương Hạo xuất hiện. A Cổ Lệ không để tâm tới vết thương trên đùi đang chảy máu đầm đìa, liền tiến lên phía trước, quỳ xuống dập đầu xuống đất rồi hai tay giờ thanh loan đao lên, lớn tiếng nói: “A Cổ Lệ của bộc lạc Bạt Dã Cốt thống lĩnh bộ Động La Cát, Cô Cố Hỗn đến thỉnh hàng với thái úy, những cầu thái úy từ bi, thứ cho các bộ Cam Châu tội chết, A Cổ Lệ xin hàng ở đây, không dám cầu xá, mong thái úy chỉ trảm một mình ta”.

Tô Nhĩ Mạn và Nghiên Lão Ôn nghe thấy thế đồng thời vượt lên trước, cùng quỳ phục xuống đất, hai tay dâng binh đao lên, lớn tiếng nói: “Dương thái úy, trên chiến trường mỗi bên đều vì chủ nhân của mình mà dùng đủ mọi kế sách, nhưng giờ chúng ta đã bỏ vũ khí đầu hàng, hiệu trung với thái úy, thỉnh tha cho vương phi A Cổ Lệ tội chết!”.

Binh Cam Châu bị binh Hạ Châu vây chặt, tay vẫn cầm đao, nhìn chằm chằm vào Dương Hạo, thì thấy Dương Hạo thúc ngựa đi lên phía trước, tới trước mặt ba người bọn họ, vẫn chưa kịp mở lời thì Đường Diễm Diễm, Hà Tất Ninh, hai người phụ trách phòng ngự đông tuyến cũng mặt mày xanh ngắt chạy tới, hai người đều mặc thiết giáp, toàn thân đầy máu, đến trước mặt Dương Hạo không nói câu nào, liền quỳ xuống. Ngay sau đó, Mộc Khôi, người trúng kế đi cứu viện nam tuyến cũng vội vàng chạy tới.

Dương Hạo lại nhìn ba người đang quỳ trước mặt, không chịu được mà hỏi: “Mọi người đang làm cái gì vậy?”.

Đường Diễm Diễm buồn bực nói: “Chúng thần trúng kế, để cho Dạ Lạc Hột tháo chạy khỏi vòng vây, giờ đến thỉnh tội với thái úy”.

Dương Hạo nói: “Nếu như cứ xuất binh là giành thắng lợi thì từ cổ đến nay sao phải sợ dụng binh nữa? Thắng thua là chuyện thường của binh gia, sao có thể thua là trách phạt, như thế sao làm cho binh thần phục mình? Dương mỗ dùng tướng chỉ xem tướng dũng mãnh hay khiếp sợ, binh cường hay yếu, bố trí thế nào, sao lại có thể vì thành bại mà luận anh hùng, đứng lên cả đi!”.

Ba người quay sang nhìn nhau, chắp tay hành quân lễ với Dương Hạo, sau đó đứng cả lên.

Dương Hạo lại nói: “Dạ Lạc Hột tháo chạy về phía đông, vốn cũng không nằm trong dự liệu của bản soái, hắn muốn nhân cơ hội đục nước béo cò ư. Hừ hừ... Được! Mộc Khôi, Hà Tất Ninh!”.

Hai người hơi ngẩn ra, rồi cùng bước lên trước, như tiềm thức cùng đồng thanh nói: “Mạt tướng có mặt”.

Dương Hạo nghiêm giọng nói: “Hai người lập tức tập hợp tất cả các bộ, toàn lực truy kích tàn bộ Dạ Lạc Hột, không thể để cho chúng có cơ hội thở”.

Hai người bọn họ thấy Dương Hạo muốn để cho mình lấy công chuộc tội, đích thân đi truy kích Dạ Lạc Hột không khỏi tinh thần đại chấn, lập tức lớn tiếng đáp: “Tuân mệnh!”.

Rồi họ nghiêng người nhảy lên ngựa, hô vang triệu tộc tướng sĩ bản bộ, nhanh chóng truy kích tản bộ Dạ Lạc Hột.

Đường Diễm Diễm nhìn chung quanh, lúng túng nói: “Thái úy, còn... Mạt tướng?”.

Dương Hạo thấy đầu tóc nàng rối bù, máu loang trên chiến bào, mặt mày bụi bặm, giọng nói liền hiền hòa đi: “Những ngày này cũng làm khó cho nàng rồi, bây giờ quan nhân đã trở về, cái trách nhiệm này đương nhiên là để ta gánh vác!”.

Hai mắt Đường Diễm Diễm bắt đầu ươn ướt, tất cả những ấm ức, lo lắng cùng căng thẳng, suy nghĩ của những ngày qua đều biến mất sạch trong câu nói địu dàng của Dương Hạo. Nếu không phải lúc này đang trong quân, mọi ánh mắt đều nhìn về thì nàng thật sự muốn chạy tới, sà vào lòng Dương Hạo rồi khóc thoải mái một trận.

Mắt thấy Dương Hạo và Đường Diễm Diễm tình ý tha thiết, A Cổ Lệ liền tức cảnh sinh tình, đau xót cho số phận mình, mũi bỗng dưng cay cay, nước mắt lập tức làm nhòe đôi mắt, nàng liền cúi thấp xuống hơn, không muốn để người khác nhìn thấy sự yếu đuối của mình.

Dương Hạo thúc ngựa đi xem ba thủ lĩnh Hồi Hột ở phía trước, trầm ngâm một lát, đột nhiên lấy kiếm của mình ra, leng keng một tiếng, rơi xuống trước mặt vương phi A Cổ Lệ.

A Cổ Lệ đầu tiên ngẩn ra, rồi lập tức đại ngộ, nàng buông kiếm trong tay xuống, nhặt thanh kiếm kia lên, lớn tiếng nói: “Thỉnh đại úy giữ lời hứa, tha cho bách tính Cam Châu!”. Nói rồi, A Cổ Lệ xoẹt một tiếng, rút kiếm ra khỏi bao, đứt khoát đưa lên yết hầu của mình.

“Vương phi!”.

Tô Nhĩ Mạn và Nghiên Lão Ôn hoảng sợ thất sắc, chạy vọt lên trước muốn đoạt lấy kiếm trong tay nàng, những binh sĩ Hồi Hột bị vây chặt đang tĩnh lặng quan sát cũng trở nên dao động, lại cầm chặt lấy kiếm trong tay họ. Dương Hạo thờ ơ đứng xem, lướt mắt qua quan sát những phản ứng của mọi người. Khi A Cổ Lệ giơ kiếm lên yết hầu thì động tác của Dương Hạo lại rất nhanh, hắn giơ tay ra, chiếc roi ngựa trong tay vung về phía trước, quấn chặt lấy thanh kiếm.

A Cổ Lệ đã ngẩng đầu lên, hai mắt nhắm chặt, nhưng vì động tác này mà đột nhiên mở trừng mắt ra, ngạc nhiên nhìn hắn.

Dương Hạo từ từ thu roi ngựa lại, cao giọng nói: “Bản soái nhất thống Hà Tây, các châu phủ huyện dưới hạt, các tướng lĩnh hiệu tốt trong quân rồi đến bách tính các tộc địa phương đều được đối xử như nhau, không thiên vị ai. Cam Châu nếu đã thành tâm quy thuận bản soái, bản soái sao có thể không đối xử nhân từ? Điểm này các ngươi có thể yên tâm, từ ngày hôm nay, bản soái cho ngươi nhậm mệnh thứ sử Cam Châu, tạm thời phụ trách tất cả sự vụ quân chính Cam Châu”.

Thập tam nương A Cổ Lệ có chút không dám tin vào tai mình, ngơ ngác nói: “Thái úy là... Nói ta?”.

“Không sai, tình hình bên Hạ Châu chắc ngươi cũng rõ, ấn tín quan bây giờ chưa kịp ban phát, phục kiếm bên người bản soái chính là ấn tín quan của ngươi, ngươi cầm thanh kiếm này khai phủ lập nha, dùng kiếm của bản soái để thụ lý mọi việc ở Cam Châu. Cam Châu chinh chiến liên miên đã rối loạn rất nhiều, nếu không nhanh chóng xử lý, sắp xếp lại thì khó có thể vững qua mùa đông năm nay. Bây giờ thu cao thoáng mát, nếu không sớm đưa dũng sĩ về bộ lạc, săn bắn tích trữ lương thực thì khó có thể chống đỡ được, ngươi phải nhanh chóng xử lý những việc này, nếu như đông này lạnh giá không thể chống đỡ được thì có thể cầm thanh kiếm này đến cầu viện một phần lương thực ở hai châu Lương, Tiêu, duy trì tính mạng cho bách tính Cam Châu”.

A Cổ Lệ mặt đầy kinh ngạc, rồi đáp từng lời dặn dò của Dương Hạo, cảm động và tín phục vô cùng. Nàng đút đao vào vỏ, tay trái cắm kiếm xuống đất, tay phải đặt lên ngực mình, trầm giọng nói: “A Cổ Lệ tuân mệnh đại soái!”.

A Cổ Lệ, Tô Nhĩ Mạn và Nghiên Lão Ôn chủ đầu đầu hàng, ra mặt chiêu nạp binh Cam Châu đã giúp cho Dương Hạo tiết kiệm được thời gian quý báu. Nếu như đợi khi hắn giải quyết đám binh Hồi Hột quyết tử một trận trong vòng vây, rồi lại phái binh đi truy đuổi thì ít nhất cũng làm lỡ mất một nửa ngày, còn bây giờ thì hắn có thể không ngừng nghỉ mà đuổi theo Dạ Lạc Hột.

Mộc Khôi, Hà Tất Ninh ở phía trước, Lý Hoa Đình ở giữa, Dương Hạo ở phía sau, ba lộ đại quân vội vã đồng hành, Đường Diễm Diễm đem tất cả tình hình chiến sự mới nhất đã nắm được của Hoành Sơn nói cho Dương Hạo nghe, sau đó lo lắng hỏi: “Quan nhân, A Cổ Lệ đó lần trước giả hàng, suýt làm tổn hại đến tính mạng thiếp, chàng nói xem, lần này nàng ta có thật tâm đầu hàng không?”.

Dương Hạo nói: “Kẻ địch mà chúng ta sắp đối mặt chính là đại nhân vật Tống Quốc, cho nên nhất định phải hết sức tập trung lực lượng để ứng biến với nó, đồng thời cũng cần làm ổn định nội bộ, cho dù là ổn định tạm thời. Cam Châu là một thế lực cường đại nhất trên tuyến Hà Tây, cho dù liên tục gặp trắc trở, nhưng lực lượng còn lại cũng không thể xem thường, nếu như để cho chúng kéo nhau về phía đông thì đó sẽ là một nhân tố vô cùng bất ổn, nếu như giữ được bọn họ ở lại thì lập tức sẽ do chúng ta thống trị như thế lại phải để lại một lực lượng mạnh hơn họ để áp chế họ, như vậy cũng không được, vào lúc đặc biệt phải làm chuyện đặc biệt, ta chỉ có thể dùng chính sách ghìm cương ngựa này thôi”.

Dương Hạo dừng lại một chút, lại nói: “Với tính cách của A Cổ Lệ, khả năng giả hàng lần này không lớn. Nếu như nàng ta thật sự vẫn giả hàng thì gánh nặng của nàng ta bây giờ còn lớn hơn chúng ta, lựa chọn duy nhất cũng chỉ có thể là mang theo người già, trẻ nhỏ, phụ nữ yếu đuối mà tháo chạy khỏi Cam Châu mà thôi, cũng chỉ gây thêm một chút phiền phức cho chúng ta. Huống hồ, mùa đông năm nay bọn họ không dễ gì qua được, ta nghĩ cho dù chỉ vì nghĩ cho tộc nhân mà trước mắt nàng ta không thể không hàng, nhưng nếu như ta có thể thành công ngăn cản Tống quân ở phía đông Hoành Sơn thì A Cổ Lệ càng không dám có lòng khác”.

“Ờ...”. Đường Diễm Diễm liếc nhìn Dương Hạo, bĩu môi nói: “Thiếp muốn nói là cùng lâm vào cảnh lâm trận chịu hàng, nhưng Long vương Túc Châu lại bị giam lỏng một cách đáng thương ở Hạ Châu, còn A Cổ Lệ là giả hàng trước, rồi sau khi huyết chiến lại nhận được ân huệ, Tô Nhĩ Mạn và Nghiên Lão Ôn bị đưa đến chỗ tập trung quân, nói là muốn mượn thân phận họ để hết sức chiêu hàng các bộ tộc còn lại của Hồi Hột, thực ra là muốn họ làm con tin, còn A Cổ Lệ lại được ở lại Cam Châu, còn là thứ sử Cam Châu, sự đãi ngộ này... Thật có chút không giống”.

Dương Hạo cũng nhìn nàng, bật cười nói: “Chẳng lẽ nàng cho rằng quan nhân nhà nàng thấy A Cổ Lệ xinh tươi mỹ miều, nên có lòng thương hoa tiếc ngọc sao?”.

Đường Diễm Diễm bĩu môi nói: “Người ta không có hẹp hỏi như thế chàng là đại soái tam quân, lúc này còn đùa được à! Đại quân Tống Quốc đã cho binh tới dưới thành, chàng có biết không, đến lúc này rồi mà chàng có tâm tư trêu hoa ghẹo nguyệt, ha ha ha, thì ta thực sự phục chàng rồi...”.

“Ha ha ha, đại địch trước mắt, sao lại không thể đùa chứ? Đàm tiếu dụng binh thì được gọi là phong độ”.

Dương Hạo mỉm cười nói: “Đánh Túc Châu khác đánh Cam Châu, trước khác nay khác. Lúc đó là lúc giết một làm một trăm, hơn nữa Túc Châu cơ hồ như đã hoàn toàn Hán hóa, chúng ta rất dễ trực tiếp vào thống trị, đổi những kẻ phản nghịch không thể không trừng trị nặng tay. Còn bây giờ Cam Châu tuy đã vào tay, nhưng lại là một củ khoai lang nóng bỏng tay, nếu như người ta đã chịu hàng rồi thì không thể lập tức chém giết, nếu không tiếng xấu sẽ lan truyền khắp nơi. Nếu như không giết thì lực lượng to lớn do tộc người Hồi Hột cấu thành lại không thể thẳng tay mà tiến hành thống trị, chỉ có thể dùng cả hai cách ân huệ và ra uy, khống chế thủ lĩnh”.

Hắn nhìn Đường Diễm Diễm, nói: “Đường gia nhà nàng tiền tài khắp thiên hạ, lại có vô số tiệm hàng, xưởng, giơ tay nhấc chân lên là đã có thể gây ra gió tanh mưa máu, nếu như bây giờ người của Đường gia nàng chỉ trong một đêm mà biến mất không thấy tung tích, còn những tiệm hàng, xưởng, tiền tài, người vẫn còn đó, nhưng bọn họ còn có thể có được tác dụng gì lớn nữa? Sớm chẳng phải thành cát tản mát rồi sao.

Nếu như có kẻ muốn thay thể Đường gia nàng, có cần phải làm tất cả cửa tiệm, xưởng của Đường gia ép cho đến phá sản mới thành công không? Cũng không cần thiết. Nếu như hắn có thể thay thế địa vị thống trị của Đường gia nhà nàng, thì có thể làm lung lạc trưởng quầy, quản sự của những nơi đó, có thể đổi một tự hiệu mới, chỉ huy đế quốc thương nghiệp của Đường gia nàng, nhưng thực sự chiếm đa số, thực sự làm được việc lại là những người của Đường gia nàng, bất kể là ai làm chủ cái nhà này thì đều không cần phải lấy được sự đồng ý của từng người bọn họ, mới có thể chỉ huy hiệu lệnh, có đúng không?”.

Đường Diễm Diễm nghiêng đầu suy nghĩ, gật gật cho là đúng.

Dương Hạo nói: “Con người sinh hoạt trong quần thể, mà dạng thể nhất định phải có một tổ chức nòng cốt mới có thể điều chỉnh tập trung lực lượng, làm cho nó phát huy tác dụng mới chính là nòng cốt. Một trưởng quầy là nòng cốt của một tiệm, gia chủ Đường thị nàng chính là nòng cốt của tất cả trưởng quầy và quản sự, còn nếu như dân chúng bình thường thì cho dù là mười, hai mươi vạn người cũng chỉ là một đám ô hợp, sức mạnh không những không tăng lên, ngược lại còn dần bị tản mát đi.

Lấy Tống quốc ra mà nói, bọn họ bây giờ đang công kích Lân Phủ, tiến tới ép Hoành Sơn. Ở sau lưng chúng là lãnh địa rộng lớn giàu có Trung Nguyên và hàng nghìn vạn người dân, nghe ra có đáng sợ không? Nhưng lãnh thổ rộng lớn như vậy, hàng nghìn người như vậy chỉ có thể cho thấy họ có tài lực đầy đủ dồi dào để ủng hộ cho trận chiến, bọn họ có thể chỉnh binh không ngừng để bổ sung vào tổn thất khi tác chiến, như thế mới có thể đánh lâu dài, bọn họ so với chúng ta thì giàu có hơn, chỉ có vậy mà thôi.

Nhưng cụ thể mà nói về tuyến Hoành Sơn, mười vạn binh của ta có gì khác với mười vạn binh của Triệu quan gia? Cho nên Hoành Sơn nếu như đã ở trong tay ta, Dương Kế Nghiệp nếu đã vẽ một đường tròn ở Hoành Sơn thì tạm thời ta không cần phải quá lo lắng. Điều ta thật sự cần suy nghĩ chính là làm thế nào để giải quyết sự tiến công không ngừng nghỉ của Tống quốc đối với ta. Vì... Hắn có thể tiêu hao, còn ta thì không”.

Nói đến đây, mắt Dương Hạo liền trở nên thâm thúy: “Cam Châu đánh rồi, nhưng cái cục diện rối rắm này ta lại không kịp thu dọn lại. Ta phải lập tức trở về Hạ Châu, suy nghĩ giải quyết vấn đề nan giải Tống quốc này, bất kể là thi triển mưu kế hay sách lược gì thì tóm lại, ta vẫn phải dốc hết sức để tránh điều ta lo lắng nhất... Một trận chiến dài.

Cam Châu đánh đến nghèo nàn đi, ta tạm thời không kịp quản, lại không thể ngồi nhìn Cam Châu đông này bách tính đói chết vô số, vì thế nên phải dùng một người có thể chỉ huy được những người Hồi Hột này, để cho người đó nhanh chóng giải quyết vấn đề tích trữ lương thực cho mùa đông. Nếu ta không dùng A Cổ Lệ thì người Hồi Hột Cam Châu sẽ mất đi người duy nhất có thể tập hợp, thống nhất mọi người, bọn họ sẽ tháo chạy khắp nơi, trở thành lưu dân trên cổ đạo Hà Tây, thậm chí chạy đến kiệt sức mà chết.

Ta giao cho A Cổ Lệ ba bộ lạc này, rồi ép hai tộc trưởng Tô Nhĩ Mạn và Nghiên Lão Ôn làm con tin thì ta có thể tổ chức điều chỉnh mười vạn bách tính Cam Châu tự lực cánh sinh, không làm vướng chân ta, không cần dùng binh đao mà có thể thu hút được các bộ lạc Hồi Hột tản mát ngoài sa mạc và thảo nguyên trở về. Còn sang năm... Bọn họ có thể bắt đầu cung cấp lương thực và chiến sĩ cho ta, trở thành một bộ phận cơ bản của ta”.

Đường Diễm Diễm nghe có chút nhập thần, rất lâu mới lẩm bẩm tự nói: “Ở đây hóa ra lại có nhiều tính toán như vậy. Thiếp vốn cho rằng làm một thương nhân là đã đủ hao tâm tổn sức, không ngờ làm một đại tướng quân như chàng nhìn thì uy phong nhưng lại còn khổ cực hơn”.

Dương Hạo thở dài nói: “Thực ra... Ta thật sự vẫn muốn làm một thương nhân hơn, thế nhưng trời lại không thuận lòng người...”.

Đường Diễm Diễm cũng thở dài, nếu như đã gả cho một người làm ăn lớn, lấy thiên hạ để buôn bán thì nàng cũng chỉ đành gả cho chó phải theo chó. Vì địa bàn, binh mã, dân chúng của nhà mình mà phải lao tâm lao lực, sinh tử trên chiến trận. Nghĩ đến Dạ Lạc Hột tháo chạy về phía đông, nàng lại thầm lo lắng: “Hắn chạy về phía đông rồi, liệu có làm cho Dương tướng quân gặp địch hai phía không?”.

Nhưng nàng lại tự an ủi nói: “Sẽ không đâu, sẽ không đâu, ba đại quân của Mộc Khôi, Lý Hoa Đình, Hà Tất Ninh truy sát không ngừng, Hạ Châu lại có Chủng đại nhân, hắn sao có thể bình an mà tới được Hoành Sơn? Tuyệt đối không thể!”.

*

* *

Dạ Lạc Hột tiến thẳng tới hướng Lương Châu, nhưng hắn không vào Lương Châu mà đánh qua Sa Đà trước, đoạt lấy lương thảo để bổ sung chỗ thiếu, rồi đi vòng qua tất cả các thành trì vững chắc, cho dù thủ quân ở đó có hạn hắn cũng tuyệt đối không muốn gây chú ý ở đó, chỉ cướp bóc ở các tiểu trại, tiểu thôn, cướp xong lương thảo lại tiếp tục lên đường, ăn cho no một trận rồi phi thẳng tới Hạ Châu.

Mộc Khôi, Lý Hoa Đình và Hà Tất Ninh ở phía sau như âm hồn không tiêu tan, theo đuổi không dừng, đây cũng là nguyên nhân khiến hắn thảm hại chạy liên tục, đến khi quân của hắn đi tới Liễu Bạc Lĩnh, phát hiện địa thế ở đây hiểm yếu, chỉ có một con đường có thể đi, dễ thù khó công, cho nên mới phái thứ tử Khúc Lý dẫn ba nghìn binh thủ tại đây, rồi hạ tử lệnh, bắt buộc phải thủ đủ một ngày một đêm ở đây, rồi lựa thời cơ lui quân.

Việc Khúc Ly tử thủ sẽ tạo cho Dạ Lạc Hột có cơ hội thoát được truy binh, Dạ Lạc Hột sẽ dẫn binh chủ lực chạy trước, cướp bóc một số lượng thực của các tiểu trại quanh vùng, sau đó sẽ vượt qua Tả Thôn Trạch và đến được Tam Xá Khẩu. Hắn biết từ Tam Xá Khẩu tiến thêm về phía trước chính là cửa ải trọng yếu bảo vệ phía tây Hạ Châu thời Lý Quang Duệ. Nhưng bây giờ thế lực của Dương Hạo nhanh chóng đã mở ra phía tây, rồi nạp Linh Châu, Diệm Châu vào tay, nơi trọng yếu này cũng mất đi tác dụng của nó, đồng thời Lý Bất Thọ (Lý Kế Quân) đang từ Tuy Châu đột kích Hạ Châu, vì thế Hạ Châu không có lý do gì mà trong tình hình này lại bố trí một đội trọng binh ở nơi không cần thiết này.

Cho dù phỏng đoán như vậy nhưng Dạ Lạc Hột vẫn không dám khinh thường, hắn đã cho thám mã đi thăm dò phía trước mới dám dẫn đại binh đi ngay theo sau. Hắn không biết cục diện đông tuyến bây giờ đã vào trạng thái gì, nếu như binh Tuy Châu đang chiến đấu với Hạ Châu, thì hắn sẽ hợp binh với Tuy Châu tại một chỗ rồi cùng công kích Hạ Châu, nnhư đã mất đi cơ hội đánh Hạ Châu, thì hắn sẽ tiếp tục đi về hướng đông, liên lạc với Tống quân, mưu cầu viện trợ.

Dù sao đã hơn hai mươi năm không trải qua hành quân khổ cực như thế này rồi, thêm nữa tuổi hắn bây giờ đã cao, cơ thể đại đao ngư của Dạ Lạc Hột đã vô cùng mệt mỏi, nhưng chỉ cần nghĩ đến Hạ Châu đang ở trước mắt, còn hắn đã thành công thoát được truy binh nên tinh thần càng phấn chấn lên.

Mùa thu đến làm hiện ra một sắc vàng khô, thảo nguyên rõ ràng đã được mục dân thu hoạch tích trữ lương thực cho mùa đông, nhìn giống như một cái đầu trọc, nhưng vẫn có mùi vị của ỏ dại.

Phía đông là một con đường rộng lớn, phía bắc là một hoang nguyên vô hạn, hai ba dặm bên ngoài phía nam là một vùng rừng núi thâm thấp. Mặt trời sắp xuống núi rồi, gió thu lạnh lại thổi qua mang theo mấy phần giá rét.

Đột nhiên, gió thu lại thổi mạnh hơn, tiếng gió gào rít chà sát vào thảo nguyên, đột nhiên làm tiếng gió tăng thêm mười lần.

Dạ Lạc Hột như cảm nhận được gì đó, ngẩng đầu lên nhìn thì thấy bốn phương tám hướng tên nhọn bay vọt tới, người ngựa ngã rầm rầm xuống, những tiếng kêu thét thảm thiết vang lên.

“Mai phục, có mai phục!”.

Có người lớn tiếng kêu thảm lên, rồi tiếng kêu lập tức im bặt.

“Vù vù vù!”.

“Phập phập phập!”.

Cung huyền rung lên, mũi tên bắn lên không, rồi găm vào thịt làm phát ra những tiếng kêu xé gió, tiếp theo là tiếng kêu thảm trước khi mất mạng, làm cho cả đội ngũ lập tức đại loạn. Trận mưa tên như đang bắn vào lá sen, trong khoảnh khắc người ngã như ngả rạ.

Người bắn tên đứng ở hai bên, trên đất đã đào những cái hố có thể dễ dàng ẩn thân, bên trên có che cỏ khô, nhìn từ xa thì không có sơ hở gì, thám mã của Dạ Lạc Hột không phải chỉ đi men theo lối mòn nhưng họ cũng chưa tìm tới chỗ bắn tên. Lúc này những đội quân mai phục như yêu linh nhảy trào ra, không hề kiêng kỵ mà giương cung bắn tên, dùng những mũi tên mạnh nhất để lấy mạng người khác.

“Á!”. Có người muốn nhảy xuống ngựa nhưng trong nháy mắt lại bị lợi tiễn đâm xuyên qua, kêu thảm thiết rồi ngã sấp xuống.

“Tản ra, chống trả lại!”.

Không đợi Dạ Lạc Hột hạ lệnh, tướng lĩnh có kinh nghiệm đã lớn tiếng hét lên, lúc này bọn họ mới kịp lấy thuẫn tròn bên yên ngựa, phi ngựa tấn công quân mai phục, đao thiết sáng lóe giơ lên, chỉ cần cho họ ba nhịp thở thì có thể xông tới trước mặt tiễn thủ.

Nhưng đội hình vừa tản ra thì từ phía rừng rậm hai bên. Cách đó ba dặm đột nhiên xông ra năm đội nhân mã, đàn thành năm hình trận. Xem ra bọn họ muốn lợi dụng trân mưa tên để làm loạn trận hình quân Cam Châu, lại dùng sức xung phong mạnh để cắt chúng thành nhiều đoạn.

“Rút... Rút lui!”.

Vương tử A Lý cầm đao trong tay yểm hộ Dạ Lạc Hột lui về phía sau. Trên thảo nguyên không có vật cản này đột nhiên gặp phải địch, thì chỉ cần trong khoảnh khắc đã có thể bắn chết được mấy trăm nhân mã, nhưng những người được Dạ Lạc Hột mang theo, nào có ai không phải là hán tử thân kinh qua bách trận chứ? Dựa vào kỹ nghệ cưỡi ngựa của bọn họ cùng thân thủ linh hoạt, sự chống đỡ của áo giáp và thuẫn nên họ vẫn có thể coi là vượt qua được sự công kích, và rất nhanh phục hồi lại trật tự.

“Tu...”.

“Tùng tùng tùng...”.

Tiếng kèn và tiếng trống cùng vang lên, trong tức khắc lại có một đội kỵ binh xông ra từ trên sườn núi mặt phía nam, phi tới trước mặt họ, đúng là giống như mãnh hổ hạ sơn. Những kỵ sĩ Hạ Châu đó phi ngựa như bay, vừa phi vừa bắn tên, một khi đã vào được trong cự ly sáu mươi bước thì bọn họ lập tức thu cung lại, rút đao ra, đạp ngựa, hét lên rồi phi tới.

Một đội binh Cam Châu vội vã thúc ngựa nghênh địch, liền bị tướng lĩnh Hạ Châu đi đầu một đao chém đứt đôi cả người lẫn thuẫn. Tiếp theo đó họ đạp ngựa, đề cương, chiến mã lại xông lên, đao lóe sáng, lại từng chiếc đầu người bay lên, máu tươi bắn ra tung tóe, vô cùng tản độc. Đây chính là thủ tướng Hạ Châu Thác Bạt Hạo Phong.

Lợi tiễn bắn lên không trung, binh khí phát ra ánh sáng chói lóa, trận phục kích ngắn ngủi này chỉ diễn ra trong khoảng thời gian một nén hương lại có được một chiến quả hiển hách, những thi thể để lại trên đất ít nhất cũng hơn một nghìn. Binh Hồi Hột nếu như không phải cả chặng được đều là quân địch đuổi ở phía sau. Trận hình luôn tháo chạy về phía trước, hình thành một tư duy quán tính thì cũng sẽ không rơi vào thảm cảnh như thế này.

Nhưng bọn họ sao có thể tưởng tượng được bọn họ hành quân với tốc độ như hỏa tinh mà phía trước lại có người sớm đã chuẩn bị tốt mai phục?

“Dừng lại. Không cần đuổi theo nữa!”.

Trương Sùng Nguy lật lật các thi thể, xem cẩn thận một lượt, rồi từ từ đứng đậy nói. Tiếng kèn vang lên, binh Hạ Châu được huấn luyện kỹ càng liền lập tức dừng truy kích lại.

“Trương tướng quân, sao không đuổi nữa?”. Thác Bạt Hạo Phong lập tức phi ngựa tới bên Trương Sùng Nguy, nhảy xuống ngựa, lớn tiếng hỏi.

Trương Sùng Nguy trầm giọng nói: “Những người chúng ta mai phục không phải là quân Tuy Châu, họ là người Hồi Hột. Ha ha, không ngờ Dạ Lạc Hột lại tháo chạy nhanh tới đây vậy. Nếu hắn đã rơi vào hỗn thủy rồi thì việc này chúng ta vẫn nên bẩm báo trước với Chủng đại nhân để ngài ấy định đoạt, không thể lỗ mãng”.

*

* *

Dạ Lạc Hột gấp gáp trúng mai phục, không dám ham chiến, mắt thấy đường thoái đã bị cắt đứt, đành phải chọn một con đường, con đường cuối cùng chính là hướng theo phía bắc, liền vội vã hành quân, lại thấy phía trước có một lộ binh mã vội vã đuổi đến.

Dạ Lạc Hột vừa thấy thế liền mặt vàng như đất, tuyệt vọng nói: “Nơi đây cũng có một đội phục binh sao? Đây...? Từ từ đã, bọn họ... Hình sắc bọn họ sao lại thảm hại như vậy?”.

Đoàn quân đối diện chính là binh Tuy Châu của Lý Kế Quân. Lý Kế Quân tráng trí đầy lòng, vốn muốn mô phỏng Dương Hạo đột kích Hạ Châu nhưng không ngờ tên mọt sách không biết binh pháp như Chủng Phóng lại không hề ở Hạ Châu đợi hắn. Đợi hắn đi mượn chuyện thảo nghịch Tống Quốc để xui khiến quý tộc Thác Bạt thị ở Hạ Châu tạo phản, mà Chủng Phóng lại chủ động xuất binh, đánh một trận dã chiến với hắn.

Lý Kế Quân thất bại thảm hại, chạy tới chạy lui lại trở thành hắn chạy ở phía trước, Chủng Phóng truy đuổi ở phía sau. Lý Kế Quân bị Chủng Phóng truy đuổi đến mức không còn đường nào chưa đi, không còn cửa nào không vào. Bây giờ chạy đến đây, vừa mới thu được một ít tàn binh bại tướng, không ngờ vừa ra khỏi cốc lại đụng phải nhân mã của Dạ Lạc Hột. Nhất thời, Lý Kế Quân cũng bị dọa hết hồn: “Bọn họ sao có thể... Ơ? Từ từ đã, sao thần sắc bọn họ... Còn thê thảm hơn chúng ta?”.

Lý Kế Quân thật sự bị Chủng Phóng đánh đến phát sợ rồi, lòng run run mà nhìn kỹ lại, mãi mới phát hiện ra vị tướng trong quân đối diện có chút quen quen, bình tĩnh nhìn lại mới nhận ra đó là đại hãn Dạ Lạc Hột của Hồi Hột Cam Châu.

Hai năm trước Định nan quân Hạ Châu và người Thổ Phồn, Hồi Hột chiến sự liên miên, sau đó bị ép dưới sự quật khởi quá nhanh của Dương Hạo, tạo thành sự uy hiếp cực đại với Hạ Châu, trong lúc nguy nan trùng trùng, bất đắc dĩ phải hòa giải với kẻ thù, nhẫn nại nhượng bộ. Khi đó hắn nhận mệnh của phụ thân tiến hành đàm phán với thủ lĩnh Lạc Nhung Đăng Ba của Thổ Phồn Lương Châu, thủ lĩnh Dạ Lạc Hột của Hồi Hột Cam Châu, nên hắn đương nhiên nhận ra hình dáng của Dạ Lạc Hột.

Bây giờ hai người lại gặp nhau ở đây, Lý Kế Quân không khỏi vừa kinh ngạc vừa nghi ngờ, thám mã phi lên trước rồi nói tiếng nhận nhau, Dạ Lạc Hột mới biết được đội nhân mã phía trước chính là nhân mã của người được gọi là Lý Bất Thọ Tuy Châu, Dạ Lạc Hột vô cùng ngạc nhiên và vui mừng, vội vã tiến lên gặp mặt.

o O o

File ảnh

http://ne3.upanh.com/b6.s2.d2/70f3cfc3c9f28a855b1be141502f9746_36554923.chuong35 nanhuynhnande01.gif

http://ne4.upanh.com/b5.s6.d4/227a05adbe85b34f4b7097acf7f34436_36554924.chuong35 nanhuynhnnde02.gif

http://ne6.upanh.com/b5.s18.d2/94aa366cd533755e0e3aea4285efc73b_36554926.chuong35 nanhuynhnande3.gif

http://ne7.upanh.com/b4.s7.d4/482d0e9860f3ba61b2b9861aab79eb40_36554927.chuong35 nanhuynhnande04.gif

http://ne9.upanh.com/b4.s19.d2/3008def5a4f562a5b5d99075338e4359_36554929.chuong35 nanhuynnande05.gif

http://ne0.upanh.com/b6.s16.d2/d8c8f692d9bc1f194bd576e57b274671_36554930.chuong35 nanhuyhnande06.gif

 Chương 36: Lập Kế Hoạch

Hai người xuống ngựa, rồi kể cho nhau lý do đến đây đều là bị Dương Hạo hại, đoạt mất căn cơ nhà bọn họ. Một người thì mất cha, một người thì bỏ vợ, ép bọn họ phải tháo chạy như chó mất nhà. Nói đến cảnh thê lương, đến anh hùng cũng phải trào nước mắt.

Hai người ngày trước tuy là thù địch, nhưng bây giờ lại là đồng minh gắn bó, nói đến Dương Hạo mắt lại càng đỏ lên.

Lúc này Dạ Lạc Hột mới biết Lý Kế Quân đột kích Hạ Châu, thực ra hoàn toàn không cấu thành uy hiếp gì mang tính thực chất với Hạ Châu, hắn mang theo ý chí quyết đánh đến cùng rời khỏi Tuy Châu, vốn mọi thứ đã tính toán rất ổn thỏa, nghĩ rằng Lý gia thống ngự ở Hạ Châu đã cả trăm năm nay, thế lực ở đó chắc chắn là thâm căn cố đế, ảnh hưởng của Lý gia tuyệt đối không dễ dàng bị diệt trừ đi như vậy. Hơn nữa bây giờ Dương Hạo không ở Hạ Châu, còn Định nan quân lại gặp phải cường địch mạnh nhất của bọn họ: Tống Quốc. Hạ Châu lúc này tất sẽ hoảng loạn, thủ lĩnh các bộ tộc sẽ bị dao động ý chí. Lúc này chỉ cần Lý Kế Quân hắn dẫn quân tới thành thì có thể làm cho những quý tộc Thác Bạt Thị đang bị lay động kia càng thêm lo sợ, rồi nhất cử mà đoạt lấy mảnh đất hưng thịnh Đảng Hạng Khương này.

Ai biết được tên Chủng Phóng đó lại xuất binh ra khỏi thành Hạ Châu, bày bố thế trận ở giữa dã bình nguyên, đường đường chính chính đánh với hắn một trận, tình hình sau đó không cần hắn nói Dạ Lạc Hột cũng nhìn thấy rồi. Lý Kế Quân từ Tuy Châu thống lĩnh ba vạn năm nghìn quân tới, bây giờ chỉ còn lại một vạn quân tả tơi. Còn hắn đã bỏ ra sự hi sinh lớn như vậy, lại ngay cả bên cạnh thành Hạ Châu cũng không chiếm được, những ngày này luôn chơi trò địch tiến ta lui ở phạm vi bên ngoài thành Hạ Châu.

Dạ Lạc Hột thì càng không cần phải nói nữa, hắn có thực lực lớn gấp mười lần Lý Kế Quân, nhưng bây giờ rơi vào tình cảnh này còn không bằng nổi hắn. Hai người cắn răng mím môi, nghĩ đến nỗi đau oán hận của mình, rồi lại vắt óc suy nghĩ thương lượng xem nên đối phó với hình thế trước mắt như thế nào.

Trải qua một hồi bàn bạc, hai người đã nghĩ ra được kế hoạch ba hành động: Một là tập hợp toàn bộ binh lực của hai bên, mai phục trên con đường Dương Hạo tất phải đi qua, lợi dụng tâm lý vội vã đông tiến của Dương Hạo để đánh cho hắn không kịp trở tay, hai là hợp lực công thành Hạ Châu, nếu như có thể giành được sự ủng hộ của quý tộc Thác Bạt thị trong thành thì có thể nhân cơ hội quân Chủng Phóng ở bên ngoài để dễ dàng phá thành, chỉ cần chiếm được thành Hạ Châu thì dựa vào binh lực của bọn họ dù sao cũng có thể kiên trì thủ thành được một đến hai tháng. Như thế có thể làm cho lòng người của cả địa khu đông tuyến phải dao động, tạo cơ hội cho Tống quân công phá Hoành Sơn, thứ ba chính là lập tức di chuyển tới Hoành Sơn, trong ngoài cùng đánh, đầu tiên là trợ giúp Tống quân phá phòng tuyến Hoành Sơn, lại phản công Hạ Châu dưới cái uy của Tống quân.

Đánh phục kích của Dương Hạo, hai người suy nghĩ đi suy nghĩ lại cuối cùng vẫn là phủ định.

Dương Hạo huy binh đông phản, trong tay có ít nhất tám vạn người, còn tàn binh của cả hai bọn họ hợp lại cũng chưa tới hai vạn người, đánh phục kích quả thật thật phần lớn thời gian sẽ ở trong cục diện lấy ít đánh nhiều, nhưng tiền đề là bọn họ vẫn còn có quân đội ở phía sau. Có thể lợi dụng bọn họ để đánh phục kích, tạo ra chiến quả lớn hơn, thay đổi hình thể chiến trường.

Bây giờ bọn họ tổng cộng chỉ có một ít binh mã như vậy, giết được một trăm địch lại tự tổn thất tám trăm, trận buôn bán này mà tiếp tục thì cho dù phục kích thành công thì nhân mã của bọn họ cũng tổn thất gần hết, lúc đó không phải là hoàn toàn để cho Tống quân dễ dàng đoạt lợi sao? Điểm này bất kể là Dạ Lạc Hột hay Lý Kế Quân đều không thể chấp nhận được, huống hồ bên cạnh bọn họ còn có một Chủng Phóng xuất quỷ nhập thần, không thể tính rõ được khi nào hắn sẽ lại xuất hiện, kế hoạch này quá nguy hiểm.

Hai bên họp binh một chỗ, công đánh Hạ Châu là một sự hấp dẫn động lòng người, nhưng tính đi tính lại, hai người bọn họ cũng phải từ bỏ. Dạ Lạc Hột vừa mới trúng mai phục của Chủng Phóng, hiện trường tất nhiên sẽ có binh sĩ bị thương và bị bắt, nhân mã của Chủng Phóng khi truy hỏi sẽ biết được nhân mã của Dạ Lạc Hột cũng đã đến đây, tất sẽ thêm cảnh giác. Lý Kế Quân cũng không dám chắc khi mình tới được thành, vừa vung cờ lên là đã làm sụp đổ tự tin của thủ quân trong thành, còn binh mã của Chủng Phóng và bảy tám vạn đại quân của Dương Hạo đều có thể xuất hiện bất kỳ lúc nào, đến lúc đó đánh không được Hạ Châu cũng không sao, nhưng lại làm cho người ta rơi vào sự tận diệt oan uổng.

Hai người tính đi tính lại, cuối cùng không hẹn mà cùng chọn đi về Hoành Sơn. Hai người hạ lệnh tập trung quân một chỗ, đem gần hai vạn binh mã để phá vỡ thế lực trực thuộc các bộ lạc Đảng Hạng thất thị là có thể làm được, hơn nữa với binh lực này cùng đi để tạo thành sự quấy nhiễu tương đối lớn cho Dương Kế Nghiệp đang trấn thủ tại Hoành Sơn. Chỉ cần bọn họ có thể đánh Hoành Sơn, làm mở ra một con đường thì có thể làm cho Tống quân ùn ùn kéo vào.

Một đôi nạn huynh nạn đệ đã ăn nhịp với nhau, kế nghị cũng đã định, lập tức hiệu triệu binh mã, binh tiến qua đại mạc, vượt qua bảy dặm bình địa, vượt tới Hoành Sơn, muốn trước khi quân cứu viện Dương Hạo có thể phá vỡ được phòng tuyến Hoành Sơn.

Chủng Phóng vốn đóng quân ở Tam Xá Khẩu, lệnh cho Trương Sùng Nguy, Thác Bạt Hạo Phong mai phục ở tiền lộ, vốn là muốn đánh quân Lý Kế Quân, không ngờ Dạ Lạc Hột lại tự dẫm lên bẫy. Phát hiện quân địch có điều khác lạ, rồi sau khi thẩm tra tù binh bắt được, nắm được tin tức chính xác, lão tướng Trương Sùng Nguy lập tức khuyên ngăn Thác Bạt Hạo Phong quay trở về trại binh Tam Xá Khâu, bẩm báo tin tức với tiết độ phó sứ Chủng Phóng, chờ hắn định đoạt.

Chủng Phóng nghe thấy Dạ Lạc Hột đã tháo chạy đến lân cận Hạ Châu, lông mày lập tức nhíu lên. Hắn chắp tay sau lưng, đi lại trong phòng, miệng lẩm bẩm, đôi mắt chốc chốc lại nhìn lên trời, cũng không biết đang nói cái gì.

Chúng tướng dưới trướng sớm đã quen với thói quen khi suy nghĩ này của hắn, chỉ đứng im lặng chờ đợi. Qua một lúc, vẫn chưa thấy hắn có quyết định gì, Thác Bạt Hạo Phong không nhịn được mà lớn tiếng nói: “Đại nhân, đại soái sắp trở về rồi, an nguy của Hạ Châu có thể tạm bảo vệ được, bây giờ sao chúng ta không thừa thắng truy kích chứ. Nếu như có thể một tay diệt được bộ tộc của Dạ Lạc Hột và Lý Bất Thọ trước khi đại soái trở về, chẳng phải là một kỳ công hay sao?”.

Chủng Phóng hơi lắc đầu, lại trầm ngâm một lúc, mới ra lệnh: “Lập tức đem tất cả tình hình của chúng ta ở đây bẩm báo đến chỗ thái úy. Thỉnh thái úy cẩn thận, chớ trúng mai phục”.

Lý Kế Đảm đáp một tiếng, rồi lại hỏi: “Vậy chúng ta thì sao, bây giờ nên làm thế nào?”.

Chủng Phóng hơi nhăn mày lại, trầm giọng nói: “Trương Sùng Nguy, ngài hãy thống lĩnh một bộ binh chạy tới trấn Đức Tĩnh, nếu như Lý Kế Quân hoặc bộ lạc của Dạ Lạc Hột qua đó thì chỉ thủ không được tấn công, chỉ cần ngăn cản đội hình của chúng là đã hoàn thành được sứ mệnh của ngài. Lý Kế Đảm, ngài thống lĩnh bộ binh đi theo con đường duy nhất ngoài núi. Nhớ kỹ, ngài cũng chỉ được thủ không được công, chỉ cần giam được chân chúng ở trên đất của Hạ Châu ta thì chính là đại công rồi”.

Trải qua một khoảng thời gian điều binh khiển tướng, chúng tướng cảm thấy rất tin phục vào các thủ đoạn của Chủng Phóng. Lý Kế Đảm và Trương Sùng Nguy không nói hai lời, cùng chắp tay nói: “Mạt tướng tuân mệnh!”.

Thác Bạt Hạo Phong vội vã hỏi: “Đại nhân, còn ta?”.

Chủng Phóng mỉm cười, nói: “Còn ngài, theo bản quan về Hạ Châu, tăng cường phòng bị Hạ Châu”.

“Cái gì?”.

Thác Bạt Hạo Phong dường như không thể tin vào tai mình, kêu lên: “Đại nhân, nhớ khi trước Lý Bất Thọ khí thế hừng hực, mọi người đều khuyên đại nhân chiếm thành tự thủ, không được mạo hiểm liều lĩnh xông ra nhưng đại nhân lại một mình một ý, cố ý xuất binh tìm địch quyết chiến. Còn bây giờ, chúng ta đang nắm nhiều phần thắng, binh mã đại soái trong phút chốc sẽ trở về, vậy mà gan của đại nhân sao lại trở nên nhỏ đi vậy?”.

Lý Kế Đảm và Trương Sùng Nguy đồng thanh quát lên: “Hạo Phong, sao lại dùng khẩu khí đó nói với Chủng đại nhân, còn không mau tạ tội”.

Chủng Phóng mỉm cười: “Không sao, Thác Bạt tướng quân, cần phải đề phòng chó cùng dứt dậu.

Hình thế chiến trường một khắc vạn biến, bây giờ đại soái sắp về rồi, đại cục đã định, kẻ cần mạo hiểm không phải là chúng ta, hà tất chúng ta phải mạo hiểm? Phải nhớ rằng binh xuất hiểm chiêu, nếu không phải gặp lúc bất đắc dĩ thì không được mạo hiểm, nếu không sớm sẽ bị thiệt thòi lớn”.

Thác Bạt Hạo Phong mắt thấy đại công trong tay mà Chủng Phóng lại có thái độ khác thường, lựa chọn tư thế cẩn thận, nên trong lòng rất không phục. Nhưng Lý Kế Đàm và Trương Sùng Nguy đứng bên cạnh kéo kéo áo hắn, không ngừng ám thị bảo hắn nói bớt vài câu. Hơn nữa, những ngày gần đây hắn cũng rất phục tài dụng binh của Chủng Phóng, vì thế tuy vẫn chưa thể lý giải được nhưng vẫn buồn bực đáp tuân mệnh một tiếng.

Chủng Phóng cũng không giải thích nhiều, liền lệnh cho Phi Vũ lập tức truyền thư cho Dương Hạo, cảnh báo hiểm nguy, đồng thời lệnh cho Trương Sùng Nguy và Lý Kế Đảm lập tức dẫn quân lên đường, còn mình thì nhanh chóng trở về Hạ Châu.

Lúc đầu, khi vừa nhận được tin Lý Bất Thọ huy động được bốn vạn quân, đi vòng qua Ngân Châu để đột kích vào Hạ Châu, thì văn võ bá quan Hạ Châu vốn đều chủ trương lựa chọn cách thủ thế dưới hình thức nghiêm mật, dựa vào uy thế tường cao hào sâu để chống đỡ lại sự tiến công của quân Tuy Châu, nhưng Chủng Phóng khi đó lại kiên trì cách chủ động xuất kích, ngăn địch bên ngoài, là vì thực chất với một định nan quân tể tướng như Chủng Phóng, đứng ở địa vị của hắn thì càng có suy nghĩ tầng sâu hơn.

Đầu tiên, Dương Hạo tây chinh đã dùng mất một phần lớn đồ tích trữ của Hạ Châu trong hai năm qua, có thể dự liệu được rằng tương lai hắn sẽ muốn làm ổn định chư châu Hà Tây, tiến hành sự thống trị của mình thì vẫn cần phải dùng đến một bộ phận trù bị. Nhưng bây giờ đã là mùa thu, phần lớn đồn điền bát ngát gần Hạ Châu đã bước vào thời kỳ chín muồi, bên ngoài thành Hạ Châu còn có những công trường chăn nuôi, nông trại rộng lớn cùng tài nguyên cuồn cuộn. Nếu như binh lực thu về nội thành Hạ Châu thì những căn cơ đó đều sẽ bị loạn binh hủy hoại, đối với Hạ Châu đang bị Tống quân công kích mà nói đó là tuyết chồng lên tuyết.

Tiếp theo, Lý Kế Quân đầy kỳ vọng chính là sự kiêng kỵ đối với Chủng Phóng, hào môn quý tộc Thác Bạt thị ở Hạ Châu quá nhiều, trong đó không phải ai cũng được hưởng lợi khi Dương Hạo thượng vị, độ trung thành có hạn, nếu như Lý Phi Thọ đưa binh tới trước thành, treo cờ Lý thị Hạ Châu, cộng thêm nhân tố đại quân Tống đang chèn ép thì khó có thể đảm bảo sẽ không có người làm phản. Một phòng tuyến cho dù có nghiêm mật đến đâu, phòng ngự, thành trì có chắc chắn đến đâu thì một khi xuất hiện nội quỷ cũng khó có thể áp chế được kẻ địch, nếu đã như vậy chi bằng chủ động ép địch ra ngoài, như thế càng an toàn hơn.

Thứ ba chính là hành động này có thể phóng một tín hiệu cho con dân các bộ bên cạnh, thất thị Đảng Hạng, định nan ngũ châu: Hạ Châu, không phải vì đại soái đông chinh, Tống quốc đến công kích mà mất đi sự khống chế đối với những địa hạt này, Hạ Châu vẫn còn đủ sức để đánh bay những kẻ địch muốn xâm phạm, cảnh cáo lũ ngo ngoe muốn động nên an phận một chút.

Nếu không, với thân phận trước mắt vẫn là đại sứ biên cương Tống Quốc của Dương Hạo, Định nan quân sẽ tiêu diệt hết những kẻ phản nghịch. Đánh đi, cứ xông lên mà đánh, không đánh à, thế chỉ còn con đường khoanh tay chịu chết thôi. Tuy nói quân đội của Dương Hạo là cốt cán của Định nan ngũ châu, chiêu binh mãi mã tự kiến lập, sẽ không nghe theo hiệu lệnh của triều đình, nhưng có một số thứ vô hình đang gây ảnh hưởng tương đối lớn tới quân đội. Với bách tính, một khi có một bộ lạc hay một doanh quân binh nào đó giúp đỡ cho địch, thì chúng sẽ liên tiếp móc nối vào nhau.

Có những căn cứ này mà Chủng Phóng mới kiên quyết chủ trương áp chế địch ở bên ngoài, chủ động xuất binh. Hắn đem tổng hợp tất cả những suy nghĩ của mình ở mọi mặt lại, cuối cùng còn nhận được sự ủng hộ hết mình của La Đông Nhi, vì thế mới hết sức bài trừ tranh luận khác nhau của chúng tướng, rồi điều động binh ra khỏi thành. Còn bây giờ, Dương Hạo đã sắp trở về, đại cục đã định, hắn đương nhiên không muốn lại xảy ra sự cố gì nữa, điều ưu tiên suy nghĩ chính là đảm bảo Hạ Châu đứng vững như Thái Sơn.

Dương Hạo đã trở về rồi, khi đại kỵ của hắn xuất hiện ở ngoài thành, văn võ bá quan, sĩ thân bách tính đang đứng chờ ở ngoài cổng thành đều thờ phào nhẹ nhõm, còn có người hoan hỉ hô lên. Hạ Châu trong thời gian Dương Hạo viễn chinh có thể chống đỡ đến ngày hôm nay đã phải trải qua rất nhiều vất vả. Bây giờ hắn đã thống lĩnh đại quân trở về, hơn nữa còn nhất cử đạp bằng cổ đạo Hà Tây. Với những chiến thắng mới mà tràn đầy nhuệ khí trở về, có lẽ cửa ải khó khăn trước mắt Hạ Châu có thể vượt qua được rồi.

Vừa thấy Dương Hạo, đám người Chủng Phóng, Tiêu Nghiễm, Từ Huyễn, Đinh Thừa Tông mặt mày lộ ra sự vui sướng. Tiết độ lưu hậu Đinh Thừa Tông bước lên trước, chắp tay nói: “Chúng tướng cung nghênh thái úy trở về, chúc mừng thái úy nhất thống Hà Tây”.

Dương Hạo xoay người xuống ngựa, mặt mày vui vẻ chắp quyền nói: “Trong thời gian Dương Hạo viễn chinh đã làm phiền chư vị vất vả duy trì quân chính Hạ Châu, Dương mỗ có thể bình định Hà Tây, không phải không có công lao của chư vị. Tại đây, Dương Hạo xin đa tạ các vị”.

Dương Hạo bước lên trước, chắp tay cúi tạ bá quan văn võ Hạ Châu, mọi người cũng lần lượt giơ tay hoàn lễ, sau một lúc chào hỏi, Đinh Thừa Tông lập tức nói: “Thái úy, bên Hoành Sơn...”.

Dương Hạo thản nhiên nói: “Không phải vội, chúng ta về phủ rồi nói”.

Chủng Phóng đứng bên cạnh nhìn thấy, bất giác mỉm cười trong lòng. Dáng vẻ trầm tĩnh, đã có định liệu trước trong lòng làm cho đám văn võ bá quan Hạ Châu đang lo lắng cũng phải yên tâm lại.

Hành động này của Dương Hạo quả thực là vì trấn an lòng quân, thực ra bây giờ trong lòng hắn còn gấp gáp hơn bất kỳ người nào khác, hắn hận không thể lập tức hiểu hết một lượt tình hình xảy ra trong ngoài Hoành Sơn. Nhưng từ sắc mặt của văn võ bá quan Hạ Châu, hắn có thể nhìn ra sự lo lắng của họ. Tuy lòng bất định, nhưng bây giờ vẫn chưa phải là lúc tình thế nguy ngập nhất, làm một thống soái cao nhất của quân chính Hạ Châu, lúc này nhất cử nhất động của hắn đều được người ta chú ý, lúc này hắn có thể bình tĩnh như không, sẽ càng làm phát huy tác dụng an ủi lòng quân hơn.

Đối với Hạ Châu lúc này, trong lòng Dương Hạo thực ra cảm thấy rất may mắn. May mắn chính là hắn có danh tướng Dương Kế Nghiệp, Chủng Phóng, có thể phân giải nỗi lo cho hắn, may là hai năm nay hắn không tiếc sức lực mà xây dựng nội chính, tích trữ lương thực để đến mùa đông nhận được hồi báo. Sự thống trị của hắn bước đầu đã thành quy mô, cơ cấu thống trị dần thành thục hoàn thiện để khi không có vị thống soái như hắn ở đó thì Hạ Châu không biến thành rắn mất đầu, trở thành cát tản mát. Khi hắn đến phía tây tiết phủ, trong tiềm thức đã đưa mắt nhìn vào phủ môn, hắn rất muốn ngay bây giờ có thể vào sâu trong phủ để gặp ái thê ái thiếp, gặp con gái bảo bối. Cả Đông Nhi nữa, bây giờ chắc đã sinh rồi, tại sao trong quân thư lại không nhắc đến dù một chữ? Đại địch đang ở trước mắt, hắn cũng không tiện để hỏi chuyện này. Còn bây giờ văn võ thần liêu đều ở bên cạnh, đợi để hắn ra chỉ thị với cục diện Hạ Châu trước mắt, nên tuy nhà gần ngay trước mắt, mà hắn lại phải học Đại Vũ, qua cửa nhà ba lần mà không vào...

Thở nhẹ một cái, Dương Hạo lại vững tâm lên, đi thẳng tới tiết đường, phủ môn đột nhiên bước ra một đám người, Dương Hạo lập tức đứng lại, đám văn võ bá quan đi sau hắn cũng dừng bước, thì thấy Oa Oa, Diệu Diệu đi hai bên Đông Nhi, đứng thướt tha trước phủ. Ba người nước mắt thấm ướt mi, nếu như không phải phía sau hắn có rất nhiều quan lại sĩ thân thì ba người sớm đã chạy ùa tới rồi.

Dương Hạo nhìn ba người, hơi ngẩn ra. Nữ Anh có thai, tính theo thời gian thì đã phải rõ bụng, không lộ diện mới đúng, có điều... Ba người xuất hiện này... Trong tay Oa Oa dắt Tuyết Nhi, Diệu Diệu nắm tay San Nhi đang tập nói, còn Đông Nhi... Đứa trẻ sơ sinh mà Đông Nhi đang ôm trong lòng...

Dương Hạo vội tiến lên mấy bước, tới trước mặt Đông Nhi, Đông Nhi nước mắt rưng rưng, Dương Hạo chần chừ hỏi: “Đông Nhi. Đây... Đây là...”.

Tuyết Nhi đứng bên cạnh liền gọi vọng lên: “Cha, cha, Tuyết nhi rất nhớ cha, đây là đệ đệ, hi hi, mẹ đã sinh cho Tuyết Nhi một đệ đệ”.

Dương Hạo vừa ngạc nhiên vừa mừng: “Đệ đệ sao?”. Đông Nhi mỉm cười: “Quan nhân, đây là con trai chàng, vừa mới đầy tháng, thiếp biết quan nhân trọng trách đầy mình, sợ quan nhân quyến luyến vì thế đã không cho truyền tin hỉ đến cho chàng. Đứa trẻ đáng thương, đến tận hôm nay mới được gặp cha”.

Dương Hạo mừng rỡ: “Đây là con trai ta? Ha ha, ta có con trai rồi, đây, đến đây cho ta xem”.

Chủng Phóng ở phía sau Dương Hạo liền tiến lên hai bước, cười nói: “Thái úy thống nhất Hà Tây, là hỉ thứ nhất, lại có được giai nhi, lại là hỉ sự nữa, đúng là song hỉ lâm môn, thật đáng chúc mừng”.

Mọi người đều chắp tay cười nói: “Chúc mừng thái úy, chúc mừng thái úy”.

Dương Hạo đỡ lấy đứa con trai, nhìn đứa con trai mặc kệ mọi việc, ngủ khò khò, không khỏi vui ra mặt. Đông Nhi ngân ngấn nước mắt, lại cười nói: “Con trai vẫn chưa có tên, đang chờ quan nhân về đặt tên cho con”.

Dương Hạo quệt nhẹ cái miệng chúm chím của nó, cười toét miệng, nói: “Không cần phải nghĩ nữa, gọi là... ừm... Gọi là Dương Giai đi. Ha ha...”.

Ở phá sau, Chủng Phóng và Đinh Thừa Tông nhìn nhau cười.

Dù sao công vụ cũng bận rộn, Đông Nhi và mấy người thiếp đều là những nữ tử biết nghĩ cho đại thế, tuy có nhiều điều muốn nói với lang quân, nhưng chỉ vội vàng nhìn một chút, cũng đã là an ủi lắm rồi, liền vội vã trở về phủ. Dương Hạo và thê nhi chưa nói được mấy câu, liền đi tới bạch hổ tiết đường, tạm hoãn niềm vui lại, thu lại tâm tình, ngưng thần nghe chúng tướng nói rõ tình hình trước mắt.

Đinh Thừa Tông chậm rãi nói: “Quân thư chiến báo từ Hoành Sơn đã gửi về, đang do hạ quan chỉnh lý quy nạp, tình hình trong đó Thừa Tông có thể giải thích tỉ mỉ cho thái soái. Vương Kế Ân đã dụ dỗ Xích Trung tạo phản, một tay bắt cả nhà Chiết gia, tiếp theo đó giơ cờ hiệu cứu viện bình phản, thống lĩnh năm lộ binh mã công kích những vùng hiểm yếu của Phủ Châu, cắt đứt liên lạc giữa hai châu Lân Phủ, những tình hình này thái úy đều đã biết rồi”.

Dương Hạo gật gật đầu, Đinh Thừa Tông lại nói: “Chúng ta đã chủ động tản quân trước khi Phan Mỹ tới, trở về phòng bị Hoành Sơn, làm loạn bố trí của Tống quân, cướp được tiên cơ. Sau khi Phan Mỹ đến, hai bên đã lấy phòng tuyến Hoành Sơn làm vùng tranh chấp. Ý đồ của Tống là muốn chiếm ngũ châu của ta, ép ta tiến về Hà Tây, tất cả sách lược dùng tới đều là dùng vũ lực tiến công và trói buộc. Bọn họ một mặt vừa lôi kéo tàn binh của Lý Quang Duệ ở Tuy Châu để hãm chân Ngân Châu, Hạ Châu ta, một mặt hứa phong quan với người”.

o O o

File ảnh

http://ne2.upanh.com/b6.s5.d4/a6ef77b2bbd065e062186d9d4e608455_36602812.chuong36 lapkehoch01.gif

http://ne3.upanh.com/b4.s5.d1/9035578519cf1706bde26bab8b60de7f_36602813.chuong36 lapkehoah02.gif

http://ne4.upanh.com/b2.s6.d3/7366b851d402ef593049eb0d3cbc7e6d_36602814.chuong36 lapkhoach03.gif

http://ne5.upanh.com/b5.s13.d2/f324d30cf01444218d37ec168e5f04a7_36602815.chuong36 lapkehach04.gif

 Chương 37: Môi Thương Lưỡi Tiễn

Dương Hạo phất tà áo của mình, cười khổ nói: “Bây giờ, Dương Hạo vẫn mặc quan y triều đình, vẫn là tiết độ sứ Hoành Sơn, kiêm hiệu thái úy. Binh mã đại nguyên soái Lũng Hữu Hà Tây. Nhưng... Ta lại đang khai chiến với đại quân đồng triều, triều đình chỉ trích ta cấu kết Phủ Châu, nuốt các châu phủ, chúng ta đến tận bây giờ vẫn chưa chính điện ứng đối với tội đanh này. Trước đây ta chưa trở về, người của ta có thể nóng đầu mà đánh, không đi để ý tới chuyện này, nhưng bây giờ ta đã trở về Hạ Châu, phải làm thế nào để đối diện với vấn đề này đây?”.

Chúng tướng thoắt cái đã hiểu ra. Không sai, vấn đề này mới là vấn đề chúng ta cần giải quyết bây giờ, cũng là vấn đề lớn quan hệ đến mỗi một người dưới trướng của Dương Hạo. Thân phận bất chính, trận chiến này đến cuối cùng đánh cũng không minh bạch, lập trường chưa quyết chỉ có thể phòng mà không được đánh thẳng. Nếu như chủ động xuất kích, tiến vào lãnh thổ của Tống Quốc, rồi binh lực thu lại vào một góc, không thể thi triển được sức mạnh, như vậy tiên thiên của bọn họ sẽ mất đi nhân hòa, không thể ra tay được.

Lập trường! Thái úy trở về rồi, việc đầu tiên cần quyết định chính là hắn lấy thân phận gì, lập trường gì để đối mặt với hoàng đế đông kinh Biện Lương. Bọn họ không hẹn mà cùng nghĩ tới điểm lợi hại nhất: Lập trường, phải với lập trường nào?

Lòng Đinh Thừa Tông đột nhiên nóng lên, hắn thở có chút gấp gáp, căng thẳng nuốt nước bọt, vừa muốn mở miệng phá vỡ bầu yên tĩnh này, nhưng lại không dám mở mồm.

Lâm Bằng Vũ đột nhiên chưa tuyên triệu đã vội vã xông lên bát tiết đường, nói: “Đại nhân, Chiết cô nương đến rồi!”.

Trước khi Dương Hạo trở về Hạ Châu, hắn luôn suy nghĩ đến lập trường và đường ra cho tương lai, điểm này không chỉ đề cập đến phương hướng phát triển tương lai của hắn, mà còn có ý nghĩa dẫn đường hết sức to lớn đối với những trận chiến mà hắn đang tiến hành. Cho nên sau khi hắn để lại tất cả những thành viên nòng cốt của bộ máy quyền lực, liền lập tức đưa ra vấn đề này, không ngờ hắn vừa mở đầu thì Tử Du lại đến. Dương Hạo ngẩn ra một chút rồi mới phản ứng lại, vội nói: “Mau, mau mau mời vào”.

Chủng Phóng hắng nhẹ một tiếng, nhắc nhở nói: “Thái úy, nên đích thân ra ngoài nghênh đón”.

“Sao cơ? À!”. Dương Hạo đột nhiên đại ngộ, vội vàng đứng dậy.

Chủng Phóng nói không sai, bây giờ Chiết Tử Du không còn là thân phận tiểu muội của đồng minh huynh, mà là đại biểu cho thế lực Chiết gia, nhất cử nhất động đều thể hiện thái độ của Hạ Châu đối với Chiết gia, sao có thể không thận trọng.

Dương Hạo vội vã rời khỏi soái án, mang theo văn võ đích thân ra tiết đường, Chiết Tử Du đang đứng dưới bậc thang, mặc áo giáp, nàng tuy ngọc nhan có chút giảm bớt, có chút gầy, nhưng một thân võ giáp mà từ trong sự mỹ lệ lại tỏa ra mấy phần anh khí.

Dương Hạo nhìn nàng, nhất thời trăm mối cảm xúc ngổn ngang. Ngày ấy nàng giận dữ bỏ đi, Dương Hạo thật tưởng rằng cả đời này sẽ không có duyên gặp lại. Ai ngờ... Kẻ chắp duyên lại cho hắn lại là Triệu Quang Nghĩa. Nếu như không phải Triệu Quang Nghĩa tập kích lấy đi Phủ Châu, Tử Du hôm nay sao có thể ngoan ngoãn xuất hiện trước mặt hắn? Bốn mắt nhìn nhau, trong lòng có nghìn lời muốn nói mà khó thốt ra khỏi miệng.

Nghĩ đi nghĩ lại, thật không biết nên khóc hay nên cười. Ánh mắt phức tạp của Dương Hạo nhìn Chiết Tử Du nói: “Tử Du, không nghênh đón từ xa, mong tha thứ cho ta”.

Chiết Tử Du trong tay cầm một chiếc hộp cẩm, bước lên trước một bước, khom người nói: “Bảo Đức quân Chiết Tử Du diện kiến Dương đại nguyên soái”.

“Tử Du... Mau mau đứng lên”. Dương Hạo vội vã bước lên trước đỡ nàng dậy, ngón tay chạm vào cánh tay nàng, cơ thể mềm mại của Chiết Tử Du không khỏi rung lên, mắt liếc nhanh nhìn hắn, lại lập tức cúi xuống. Bước tới gần mới có thể nhìn ra sự tiều tụy mệt mỏi không thể che giấu trên khuôn mặt nàng, trong mắt Dương Hạo lộ ra sự đau xót, lại chỉ nhẹ nói một câu: “Tử Du, mau mời vào, chúng ta lên tiết đường nói chuyện”.

Cả đoàn người cùng quay trở lại bạch hổ lễ đường, Dương Hạo sai người mang ghế đến cho Chiết Tử Du ngồi, dâng trà lên. Chiết Tử Du lại không ngồi vào chỗ, chỉ đặt chiếc hộp cẩm xuống ghế, đứng trước soái án của Dương Hạo nói: “Dương thái úy, Tử Du đến đây có ba việc muốn bẩm cùng thái úy”.

Dương Hạo vừa ngồi xuống, thấy nàng không ngồi, lại đứng lên nói: “Tử Du, ngồi xuống đã rồi nói chuyện”.

Chiết Tử Du vẫn không động, nghiêm nghị nói: “Chiết gia Phủ Châu trước nay đều vinh nhục cùng thái úy, cùng tiến cùng lùi. Nay Tống đình dùng mưu, dụ dỗ phòng ngự sử Hà Lam Xích Trung phản bội huynh trưởng ta, bắt cả nhà ta, chiếm lấy Phủ Châu, quân Chiết gia đột nhiên mất căn cơ, không biết đi đâu. Tử Du và chúng tướng Chiết gia đã thương nghị, được chư tướng đồng ý, nguyện đem toàn quân Chiết gia từ đây quy phục thái úy, nghe theo sự điều khiển của thái úy, thỉnh xin thái úy ân chuẩn”.

Dương Hạo không ngờ nàng ta vừa vào đã lập tức đề cập đến vấn đề này, có chút chần chừ nói: “Thời cục biến hóa, khó có thể dự liệu, có lẽ... Chúng ta sẽ có cơ hội đoạt lại Phủ Châu, đến lúc đó...”.

Chiết Tử Du buồn bã cười, nói: “Chiết gia già trẻ đều ở trong tay Tống đình, cho dù có đoạt được Phủ Châu thì quân Chiết gia sẽ phải tiếp tục tồn tại như thế nào đây? Chiết Tử Du làm thế nào để thành kẻ địch của Tống đình? Không giấu gì thái úy, bây giờ chiến sự Hoành Sơn đang rất nguy cấp, Chiết Tử Du nay dẫn Chiến gia quân đến Hạ Châu chính là vì thân phận Chiết gia quân bây giờ bất minh, lập trường khó định, Tống triều đánh tới đã dựng cờ hiệu thu phản nghịch là huynh trưởng ta, lại ép cháu ta làm con rối, dẫn đến tam quân bị trói buộc, chiến cũng không phải và hòa cũng không được, sĩ khí giảm sút, lòng người hỗn loạn, kết quả không thể không trở thành cánh tay trợ giúp của Dương tướng quân, ngược lại còn liên lụy đến ngài ấy. Trận chiến ở Mã Hồ Dụ chính là do Chiết gia quân chần chừ xuất trận, làm lỡ chiến cơ, mất mất nơi hiểm yếu, ép Dương tướng quân phải xuất binh để thay đổi bại cục”.

Chiết Tử Du nghiêm nghị nói: “Chiết gia quân nếu không thể xóa vết tích của Chiết gia, thì không thể thi triển được gì, Thái úy xin đừng khước từ nữa. Hành động này của Tử Du chỉ là không muốn hàng vạn hảo nam tử của Phủ Châu mơ hồ mà đưa tang trên chiến trường. Thái úy là nghĩa đệ của huynh trưởng, bây giờ... Đem toàn quân Chiết gia đến nhờ cậy thái úy, Tử Du mới có thể yên tâm, bọn họ cũng coi như có một con đường sống”. Dương Hạo cười khổ nói: “Vấn đề nan giải của nàng cũng đang là vấn đề nan giải của ta... Haiz, nàng ngồi xuống trước đi, việc này...”.

Chiết Tử Du không đáp lời hắn, lại nói tiếp chuyện mình: “Thái úy, Tử Du còn có một chuyện nữa, bây giờ chiến sự Hoành Sơn khẩn cấp, Chiết gia quân lại đang bị tiêu diệt dần ở chiến trường, thỉnh thái úy sớm cho viện binh”.

Dương Hạo vội nói: “Việc này không cần lo lắng, bổn soái đã phái bốn vạn binh tới Hoành Sơn, nằm dưới sự điều khiển của Dương Kế Quân, thống nhất bổ trụ ứng đối với cường địch, bản soái còn muốn đích thân thống binh tới Hoành Sơn”.

Chiết Tử Du nói: “Như vậy thì tốt, Tử Du muốn bẩm với thái úy chuyện thứ hai, chính là khi ta dẫn quân từ Hoành Sơn lui về đúng lúc gặp một lộ loạn quân đi tới Hoành Sơn, thấy cờ hiệu và áo giáp của bọn họ không giống binh mã thái úy, Tử Du đã thống binh ngăn cản, truy hỏi rõ ràng thân phận lộ quân đó, bọn họ lập tức động thủ. Hai bên ác chiến một trận, lộ quân đó không địch nổi nên đã tháo chạy về hướng đông nam.

Ngay lúc đó thì hai vị tướng quân Trương Sùng Nguy, Lý Kế Đàm cũng dẫn quân đuổi tới, Tử Du mới biết lộ bại quân đó chính là liên quân của Lý Phi Thọ Tuy Châu và Dạ Lạc Hột Cam Châu. Tử Du lập tức phái Trình Thế Hùng cùng hai vị tướng Trương, Lý truy sát chúng. Hai tướng quân Trương, Lý biết ta đã về Hạ Châu, cho nên nhờ ta mang quân tình bẩm báo với thái úy và Chủng đại nhân”.

Dương Hạo nghe thế liền vui mừng ra mặt, mấy người Chủng Phóng, Đinh Thừa Tông nghe thấy cũng thở phào nhẹ nhõm. Cho dù bọn họ đã sắp xếp tốt nhất rồi, nhưng bọn họ vẫn lo Dạ Lạc Hột và Lý Phi Thọ vạn nhất thoát được truy binh, chạy tới tấn công Hoành Sơn trước, tạo nên tổn thất không cần thiết cho chiến cục Hoành Sơn. Cũng may, đôi nạn huynh nạn đệ đó làm thế nào cũng không ngờ rằng lại có một lộ quân từ Hoành Sơn chiến sự khẩn cấp mà chạy lại. Bây giờ có Trình Thế Hùng và Trương Sùng Nguy, Lý Kế Đàm mang ba lộ đại quân truy đuổi, đôi kiêu hùng cùng đường này không thể làm ra trò gì nữa.

Mọi người đang vui vẻ bàn luận, Chiết Tử Du đã dâng chiếc hộp cẩm lên, đôi mắt hơi lộ ra sự quan tâm, nhẹ giọng hỏi: “Thái úy, không biết thuộc hạ của Phi Vũ, có một vị Giả công tử Giả Đại Dong, cậu ta... Đã bình yên trở về bên cạnh thái úy chưa?”.

Dương Hạo biết người nàng nói một ai, không ngờ với sự tinh minh của nàng mà đến bây giờ vẫn chưa nhìn ra Trúc Vận là con gái, trong lòng không khỏi có chút buồn cười, nhưng khi nhìn thấy chiếc hộp trong tay nàng, thần sắc có chút ngưng trọng lại, vội hỏi: “Giả Đại Dong đã bình yên trở về, hôm đó hắn đã dẫn dụ một lộ người Thổ Phồn về hướng tây, đến gần hồ Thanh Hải mới thoát được quân địch, rồi vượt Đại Tuyết sơn đến Hà Tây, khi đó bản soái đang dẫn binh tây chinh Qua Châu thì gặp hắn ở đó”.

Chiết Tử Du vui vẻ nói: “Giả công tử bình yên vô sự là tốt rồi, còn về nguyên nhân và kết quả của nó chắc thái úy cũng đã biết, vật này là Giả công tử nhờ ta bảo quản mang về, không ngờ Phủ Châu lại kinh biến, đến tận hôm nay... Tử Du mới có thể hoàn thành lời hứa”.

Chiết Tử Du nói xong liền cầm chiếc hộp đưa tới trước mặt Dương Hạo, Dương Hạo vội đưa hai tay tới nhận, nhẹ nhàng đặt lên án, nhìn chiếc hộp, mắt lóe lên tia dị sắc.

Hòa Thị Bích, ngọc tỷ truyền quốc, bất kể là tên gì thì đều là truyền kỳ, thứ này từ Xuân Thu chiến quốc tới nay có biết bao nhiêu triều hưng triều tàn, biết bao nhiêu đế vương tướng quân, bất kể là hiền hay hôn, bất kể là thiên cổ nhất đế hay là vong quốc chi quân thì đều xoay xung quanh cái ngọc tỷ be bé này đã xảy ra biết bao nhiêu chuyện...

Nhưng rất kỳ quái, khi nó được đặt trước mặt thì Dương Hạo chỉ còn một chút hiếu kỳ với thứ bảo vật này, lại không có sự hoảng sợ hay vui mừng quá mức như khi bảo vật được lọt vào tay.

Đinh Thừa Tông thấy Dương Hạo vẫn bình thản, không nhịn được mà nhẹ nhàng nhắc nhở: “Thái úy...”.

“Ờ...”. Dương Hạo tỉnh ra, đặt chiếc hộp xuống, nói: “Bản soái đang thảo luận đại sự, Ngũ công tử tới thật đúng lúc. Mời ngồi, chúng ta cùng bàn bạc”.

“Thuộc hạ tuân mệnh!”. Dương Hạo nói khách khí, Chiết Tử Du lại cố chấp dùng lễ thuộc hạ, Dương Hạo chỉ có thể bất đắc dĩ nhìn nàng, trong mắt đầy sự u oán, Chiết Tử Du cũng không tiếp nhận ý tốt, mắt không thèm liếc hắn mà ngồi xuống ghế.

Dương Hạo thở dài, chậm rãi ngồi xuống ghế tiết soái, mắt đưa lướt nhìn một lượt chúng quan văn võ, cao giọng nói: “Việc vừa nãy ta nói là việc trọng đại, thỉnh chư vị chý kiến, bản soái xin lắng nghe”.

Lâm Bằng Vũ mặt mày đỏ lên, khảng khái nói: “Lão hủ cho rằng thái úy nên phản lại Tống triều. Bây giờ trên danh nghĩa thái úy là Tống thần, nhưng thái úy sớm đã không phải là tri phủ Lô Châu mà triều đình đã ban cho, dân này là do một tạy thái úy mang về, binh này là được kế thừa từ Lý Quang sầm đại nhân, trên đầu thái úy tuy không có vương miện, nhưng thực thế là một ông vua không ngai, nếu đã như vậy sao không cầu một cái tên đanh chính ngôn thuận?”.

Lão Lâm là thúc nho Hán quốc, từ khi theo Dương Hạo mới tráng trí đắc thân, càng làm chức quan càng lớn, bây giờ thấy Dương Hạo có cơ hội xưng đế lập quốc, đó là công rất lớn. Những năm cuối đời ông ta có thể phụ tá một vị hoàng đế, xây dựng công nghiệp nhất thế! Nhất thời Lâm Bằng Vũ giống như uống phải một bình rượu nặng, tinh thần phiêu phiêu, huyết sôi trào, lập tức mở miệng bày tỏ thái độ ủng hộ.

“Với thân phận của thái úy bây giờ thì đó là lấy thần kháng quân, là đạo thần thì danh không chính ngôn không thuận, đi đâu cũng bị trói buộc, chư bộ Tây Vực và những người xung quanh quan sát, muốn cầu cứu ngoại viện, với thân phận thần tử Tống quốc thì còn có thể kết đồng minh với người nào? Chi bằng xưng đế kiến chế, đến lúc đó liên Liêu kháng Tống, tự lập Tây Vực. Huống hồ, bây giờ đao người Tống đã kề vào cổ chúng ta, tình nghĩa quân thần sớm đã cắt đứt, lúc này còn đợi gì nữa?”.

Phạm Tư Kỳ phản bác nói: “Lâm lão, ta cho rằng nguy cơ trước mắt của Hạ Châu chưa chắc đã cần xưng đế mới có thể giải quyết. Tội đanh mà triều đình gán cho thái úy là câu kết phản tướng Xích Trung mưu đồ Phủ Châu, vì thế mới hưng binh thao phạt. Nếu như chúng ta bây giờ lại phản thì chẳng phải là trúng kế của Tống triều hay sao? Thái úy đến Lô Châu, sau đó nhận được di chiếu thành nguyên soái, trong mắt mọi người trong thiên hạ này đây đều là sự trợ giúp của triều đình, bây giờ chúng ta như chim mọc cánh nên phản lại. Cho dù triều đình có chỗ nào không phải với chúng ta thì sao chứ? Cái mà người ta gọi là lôi đình vũ lộ chính là quân ân. Ân điển triều đình lớn như thế, chúng ta lại không có lý do đầy đủ, sao có thể đứng thẳng mà phản được?

Hơn nữa, Triệu Quang Nghĩa tuy không bằng với huynh của hắn, nhưng về mặt bình chính trị quốc cũng không phải là hôn quân vô đạo. Hiện nay Tống Quốc cũng được coi là quốc thái dân an, bây giờ bỏ Tống xưng đế, không hợp lòng dân, nghìn người sẽ chỉ trích. Việc liên Liêu kháng Tống mà ngài vừa nói cũng có chút bất ổn, bây giờ thái độ của Liêu Quốc là càng vội vã xưng đế. Vạn nhất cô nhi quả mẫu Liêu Quốc đó không tự lo cho mình, thì đến lúc đó ai sẽ giúp chúng ta?”.

Đinh Thừa Tông nghe rồi có chút thiếu kiên nhẫn, liền nói: “Những lời Phạm đại nhân vừa nói chẳng qua là lo xưng đế lập quốc sẽ không được lòng người Tống mà thôi. Ha ha, cho dù chúng ta bây giờ một mực nhường nhịn, hiếu trung với Tống, thì có thể được lòng dân Tống sao? Sẽ không, vĩnh viễn sẽ không, có những lúc lòng dân phải tranh mà lấy, có những lúc phải đánh mà lấy.

Chúng ta bây giờ xưng thần cúi đầu, thì có thể tránh được đao binh của người Tống sao? Những gì chúng ta đang làm bây giờ có gì khác với tự mình giữ lấy một phương, tự lập một quốc chứ? Hiện nay, chư châu Hà Tây đã vào tay chúng ta, địa vực rộng lớn, con dân trăm vạn, đã có căn cơ để lập quốc, không lập quốc xưng đế thì đối với tình hình bây giờ của chúng ta mà nói hoàn toàn không có trợ lực gì. Nhưng nếu như xưng đế thì đương nhiên không giống nữa, quân đội sẽ hiểu được họ vì ai mà chiến, vì cái gì mà chiến, lòng dân cũng thuận, lúc này xưng đế đúng là thời điểm tốt”.

Lô Vũ Hiên và Lâm Bằng Vũ vốn là tri giao hảo hữu, lúc này lại đứng về phía của Phạm Tư Kỳ. Thực ra hắn sớm đã nhìn ra, với sự phát triển như thế này của Dương Hạo thì sớm muộn cũng sẽ đi lên con đường tự lập xưng đế. Nhưng hắn suy đi tính lại, lại không cho rằng đây là thời điểm tốt để kiến quốc xưng đế, cho nên liền thận trọng nói: “Các vị đại nhân, thái úy bây giờ là chủ của Hà Tây, có hay không có đế hiệu đều không thay đổi được sự thật này. Với tình hình trước mắt, chúng ta không lập quốc xưng đế chưa chắc đã không thể thương lượng bãi chiến với Tống, nhưng nếu vì một cái hư danh mà lại làm cho Tống Quốc đưa đại quân đến áp cảnh, hà tất phải làm như thế?”.

“Hư danh? Ha ha, đây chỉ là một cái hư danh thôi sao?”. Chiết Tử Du cười nhạt, từ từ đứng lên. Nàng ta thật không ngờ, vừa đi tới Hạ Châu lại được tham đự luôn một hội nghị quan trọng như thế này. Khi nàng lấy thân phận là người nắm quyền Chiết gia, hiến binh quy phục Dương Hạo, trong lòng rất oán trách. Cho dù trên danh nghĩa nàng hiến binh quy phục để cho Chiết gia một con đường sống, nhưng nếu đã đưa tất cả binh tướng Chiết gia cho hắn thì đương nhiên có ý nhờ cậy, hy vọng hắn có thể lộ diện thay mình, báo thù cho Chiết gia. Đây không chỉ là thỉnh cầu chính đáng của Chiết gia quân, mà cũng là vì nàng, một nữ nhi. Khi bị người ta ức hiếp, tự trong tiềm thức sẽ hy vọng người đàn ông của mình sẽ vì mình mà ra mặt.

Nhưng cái tên đàn ông thối trùy đâm cũng không chảy máu này lại cứ chần chừ, Chiết Tử Du rất hy vọng hắn có thể đứng lên vỗ ngực, hào khí phiêu vân mà đồng ý gánh vác tránhnày của nàng. Cho dù trong lòng nàng luôn ghét nhất những tên thất phu luôn nói lời hứa hẹn tùy tiện, hành động lỗ mãng, luôn tán thưởng những nam tử suy tính trước hành động sau, Thái Sơn có sập cũng không biến sắc. Nhưng bây giờ gánh nặng trên vai nàng đã làm nàng quá mệt mỏi rồi, chỉ mong người trong lòng mình chỉ là Sở Bá Vương máu huyết hừng hực, ít nhất có thể từ trong lời nói hào sảng nghĩa khí của hắn mà nhận được phần nào sự an ủi.

Nhưng Dương Hạo lại không nói gì cả, với tình hình trước mắt của Chiết gia quân, người thì ở địa bàn người ta, ăn lương thực của người ta, nào có lý do gì mà yêu cầu người ta phải làm gì đó rồi mới quy phục? Chiết Tử Du đang nản lòng, lại không ngờ Dương Hạo không nói nửa câu nhìn văn võ dưới trướng bàn nghị đến việc lập quốc xưng đế, thật sự không lên tiếng thì thôi, chứ lên tiếng một cái là đều làm mọi người phải kinh ngạc, lòng của Chiết Tử Du cũng nóng lên rồi.

Chiết Tử Du bước tới chính giữa tiết đường, đối mặt với Lô Vũ Hiên, trầm giọng hỏi: “Vị đại nhân này, ngài nói không sai. Thái úy kể thừa y bát của Lý Quang sầm đại nhân, bây giờ nắm giữ Hà Tây, tự chinh bộ khúc, tự nạp thuế, tự phong quan lại, nghiễm nhiên là một nước, là một đế. Mặc dù lúc này lập quốc xưng đế, ngoài việc thay đổi niên hiệu, đem tiết phù đổi thành hoàng cung, bỏ áo quan thay kim bào ngũ trảo ra thì không có gì thay đổi, cương vực sẽ không vì thế mà rộng ra, con dân không vì thế mà gia tăng. Nhưng... Xưng đế thật sự chỉ là hư danh thôi sao?”.

Lô Vũ Hiên biết được thân phận nàng, nhưng lại không dám vì nàng là một thiếu nữ mà lộ ra vẻ khinh khi, liền nói: “Không có chút trợ giúp nào, lẽ nào còn không phải là hư danh sao?”.

Chiết Tử Du ung dung nói: “Nó là cái danh, không sai, nhưng không phải là hư danh. Nếu như nó chỉ là cái hư danh, vậy Tống quốc phải quản xem chúng ta có xưng đế hay không sao. Chúng ta hà tất phải quan tâm vì thế mà dẫn đến công kích không ngừng của Tống Quốc nữa?”.

“Việc này...”.

“Không có cái danh này, khi thái úy đối mặt với những bước tiến áp sát của Tống quốc, lại không có lập trường và thân phận rõ ràng, thì phải chế định ra phương châm đại lược đối địch như thế nào đây? Không có cái danh này, thái úy chinh phạt Hà Tây, đóng binh ở Ngọc Môn Quan, học theo Xương quốc, kiến nha lập phủ, thống trị trăm vạn người, hợp các tộc Tây Vực, từ đầu đến cuối mang cờ hiệu Tống Quốc mới có thể xuất sư hữu danh, còn Tống bây giờ cáo buộc thái úy mang tội phản nghịch, thái úy phải tự xử như thế nào? Từ giờsau phải lấy nghĩa hiệu như thế nào để thì lệnh?”.

“Việc này...”.

Chiết Tử Du hùng hổ hăm dọa nói: “Tất cả những điều này chính là vì không có cái danh, cho dù có đủ thực lực, nhưng danh không chính, ngôn không thuận, thì cho dù cái danh này không quan trọng, thì tam hầu Hàn, Triệu, Ngụy phân Tấn, địa vị binh quyền của họ không hề kém quân vương, hà tất còn phải hao tổn tâm trí tìm cách lấy được cái danh hiệu chư hầu chính thức từ Chu thiên tử chứ? Nếu như cái danh này không quan trọng thì Vũ Đăng với sự tôn quý là thiên hậu Đại Đường, sớm đã cùng làm đế vương, hà tất phải tự lập làm đế?”.

Chiết Tử Du lướt mắt qua mọi người, không khách khí nói với Lô Vũ Hiên: “Xưng đế, tuyệt đối không chỉ là vấn đề danh hiệu. Lão đại nhân, cái thứ sau lưng danh hiệu xưng đế này, một chút ngài cũng không nhìn ra”.

“Hay!”.

Đinh Thừa Tông vô tình không để ý thấy Lâm lão đầu mặt đỏ tía tai, lại chọc thêm một cú, kêu hay: “Những lời Chiết cô nương nói rất có lý, Định Nan ngũ châu là Đại Đường ban cho Thác Bạt gia, là được Thác Bạt Lý Quang Sầm đại nhân truyền cho nghĩa tử, thái úy của chúng ta có quan hệ gì với Triệu gia chứ? Khi Đường lập, Hà Tây xưng thần với Đường, khi Lương lập, Hà Tây xưng thần với Lương, khi Tấn lập, Hà Tây xưng thần với Tấn, khi Hán Lập, Hà Tây xưng thần với Hán... Tất cả đều tụ cư ở đất mình, tự chinh bộ khúc, tự nạp thuế, tự phong quan lại, duy chỉ xưng thần cống nạp, lấy Trung Nguyên làm tôn.

Tống Quốc bây giờ Triệu Đại trước đại điện mặc áo bào, lại tưởng rằng do Sài thị truyền lại cho sao? Ha ha, hắn ức hiếp cô nhi quả mẫu Sài thị, dùng vũ lực soán ngôi nước đó, tiếp theo đó lại diệt Vũ Bình, diệt Thục, diệt Nam Hán, diệt Đường, diệt Bắc Hán, nuốt Ngô Việt, mắt lại luôn chằm chằm nhìn nhăm nhe về Khiết Đan, dã tâm chưa bao giờ dừng. Còn bây giờ, Triệu Quỳnh lại tự hủy đi lời hứa với lệnh tôn Chiết cô nương, âm mưu hưng binh, nhằm đoạt Phủ Châu, lại mưu đồ Hạ Châu ta, muốn đoạt lấy hết đất Hà Tây này, đây chính là người tự nhận mình thiên tử thiên triều chính tông! Hừ!”.

Đinh Thừa Tông hưng phấn, lớn tiếng nói: “Còn bây giờ, thái úy nắm giữ Định Nan, còn tôn quý hơn mấy trăm lần cái chức mà trước đây triều đình đã ban. Hành lang Hà Tây đã được nhất thống, người được lợi lẽ nào chỉ là bách tính Hà Tây ta sao? Khi Tống phạt Bắc Hán, thái úy ta chưa nghe thấy họ muốn tương trợ sao? Thứ mà cung thuận đổi lại chính là kết cục này, nhẫn nhịn chính là đổi lấy đã tâm càng lớn của bọn họ, chúng ta còn phải nhường đến bao giờ nữa? Lùi đi đâu nữa?”.

Giọng nói rất có sức vang cả đại đường, Dương Hạo lại chỉ hơi nhíu mày, hắn muốn nghe ý kiến của chúng văn võ, chủ yếu là có hai nguyên nhân. Thứ nhất, hắn đã nghĩ tới cách giải quyết tốt nhất hoàn cảnh khó xử này của mình, chính là tự lập kiến quốc, nhưng muốn tự lập, Tống Quốc tuyệt đối không chấp nhận, tất sẽ hạ quyết tâm nhất chiến với Hà Tây, cái lợi cái hại trong đó quả thật khó đoán được. Thứ hai, nếu như muốn làm đại sự này, hắn tất phải biết thủ hạ có ủng hộ hay không.

Võ tướng của hắn bây giờ đa phần đều cắm chốt ngoài, có điều đối với bọn họ, Dương Hạo lại không quá lo lắng, đám võ tướng mở rộng tác chiến đa phần đều có thái độ cuồng nhiệt, cũng sẽ không suy nghĩ nhiều đến lợi hại. Còn trong đám võ tướng trọng yếu thì Trương Phổ vốn có hùng tâm, mong hắn có thể lập quốc xưng đế. Còn Dương Kế Nghiệp lại như thuộc mệnh lạc đà, chịu được vất vả lao lực, cộng thêm chủ cũ của hắn chết trong tay Tống quốc, cho nên thái độ của hắn cũng không cần phải lo.

Điều Dương Hạo chủ yếu lo lắng chính là hệ thống văn quan của hắn có thái độ như thế nào. Bọn họ chưa chắc đã sợ Tống Quốc, nhưng bọn họ lại suy nghĩ kỹ càng đến sự toàn diện của vấn đề, suy nghĩ nhiều hơn đến các phương diện khác như kinh tế, dân chính, quan hệ bên ngoài, lợi ích chính trị cho nên càng có giá trị tham khảo. Nếu như bọn họ suy nghĩ trùng trùng, tự tin lập quốc xưng đế chưa đủ thì rất rõ ràng, thời cơ bây giờ chưa chín muồi.

Bây giờ xem ra, ý kiến của đám văn thần không đồng nhất với nhau. Nghĩ đến đây, ánh mắt Dương Hạo bất giác quay sang nhìn Chủng Phóng, ông ta một lời cũng chưa nói.

Chủng Phóng thấy hắn nhìn mình, liền bước lên một bước, hạ thấp người nói: “Hạ quan cho rằng bây giờ không nên xưng đế”.

“Sao cơ?”. Dương Hạo giật giật lông mày, không động thanh sắc nói: “Có thể nói rõ không”.

Chủng Phóng nói: “Từ cổ đến nay, có thể trừ hại cho dân, đó là phúc của dân. Thái úy độc lĩnh Hà Tây, công đức không sao nói hết, ứng thiên thuận dân, nghiễm nhiên là chủ của Hà Tây. Nếu như xưng đế, hạ quan cho rằng nội bộ Hà Tây sẽ không gặp phải sự cản trở gì, cho nên hạ quan không phản đối xưng đế, nhưng là nói bây giờ không nên xưng đế.

Nguyên nhân là gì? Thứ nhất, lúc này xưng đế sẽ ngồi vào vũng nước bẩn mà triều đình đã đổ ra, làm thế nào cũng không thể biện bạch được, rồi để cho thiên cổ chửi rủa.

Thứ hai, thời vận vẫn chưa đủ, chư tộc Hà Tây vừa mới bình định, chư tộc hỗn tạp như lửa với nước, lại có rất nhiều cường tông đại tính, khó dung hòa được với nhau, căn cơ của thái úy vẫn chưa ổn định, nếu như Tống quốc liên lạc từ Lũng Hữu với bọn họ, lấy uy ép buộc, lấy lợi mê hoặc, còn đại quân của thái úy lại bị kèm chặt ở đông thành, Hà Tây có được lại mất đi, không phải không có khả năng.

Thứ ba, Tây Bắc địa tuy rộng lớn nhưng kinh doanh buôn bán, tiền tài lại eo hẹp, cộng thêm chiến sự nhiều năm, phủ khố trống rỗng, từ khi thái úy nắm giữ Định Nan tới nay chỉ cố gắng tích trữ hai năm, lần này tây chinh cũng đã tiêu hao hơn nửa, nếu như xưng đế, Tống tất sẽ không tiếc sức mà chiến, đến lúc đó chúng ta có thể chống đỡ được bao lâu?

Thứ tư, thái uy bây giờ tuy binh mã nhiều, nhưng đa phần là mới quy thuận, binh chưa quy tâm, tướng chưa hiếu trung, chỉ thần phục tùng mệnh trước uy quyền của thái úy mà thôi. Nếu như chiến với Tống Quốc, thắng thì không sao, một khi thất bại thì những binh mã đó tất sẽ dẫn quân tháo chạy, lúc đó phải làm sao?”.

Chủng Phóng nói đến đây, cả tiết phòng đều đã im lặng, Chủng Phóng nhìn Đinh Thừa Tông và Chiết Tử Du, lời nói sâu xa: “Tranh giành thiên hạ, thực lực phải là gốc, cái gì được gọi là thực lực? Thứ nhất, dân cư đông đúc, dân sinh trù phú, điền nghiệp chăn nuôi hưng vượng. Thứ hai, ngũ cốc dồi dào, phủ khố tràn đầy, tiền tài lương thực có thể gánh được sự tiêu hao do thiên tai chiến họa. Thứ ba, mọi người đồng lòng, trên dưới nhất trí. Thứ tư, lại chính thanh minh, kỷ cương nghiêm mật. Thứ năm, binh cường mã tráng, mưu thần đông đúc, lương tướng như mây. Chúng ta bây giờ cụ thể có những điều kiện nào? Chư vị, dục tốc bất đạt”.

Đinh Thừa Tông tuy lòng đầy nhiệt thành nhưng chỉ là hy vọng huynh đệ mình thành đại nghiệp, bây giờ Chủng Phóng lại dội một gáo nước lạnh, làm hắn dần bình tĩnh lại, những võ tướng bên cạnh cũng mở to mắt ra, không nói câu nào, bọn họ chỉ muốn chờ kết quả mà thôi.

Chiết Tử Du ngẩng đầu lên nói: “Đại nhân, những điều ngài nói Tử Du hiểu, nhưng nếu như không xưng đế chính danh, thế phải ứng phó như thế nào với vấn đề nan giải trước mắt đây?”.

Đôi lông mày của Chủng Phóng hơi nhíu lên, thở dài nói: “Thái úy lệnh cho ti chức nghị luận được mất của việc quốc xưng đế, hạ quan chỉ nói ý kiến của mình, còn vấn đề nan giải trước mắt... Haizzz! Nếu không xưng đế, hạ quan cũng không nghĩ ra nên giải quyết như thế nào”.

Chiết Tử Du tinh thần rung lên, tiếp lời: “Nếu như vậy, xưng đế sẽ gặp rất nhiều khó khăn, nhưng không xưng đế thì Tống Quốc vẫn sẽ đánh, lẽ nào chúng ta còn có thể tránh được những khó khăn này sao? Trên thế gian này, có vị hoàng đế khai quốc nào mà không phải vượt qua trăm nghìn gian khổ chứ? Vừa muốn ngựa chạy, lại muốn ngựa không ăn cỏ, trên đời này làm gì có chuyện tốt như thế? Có tính toán mà không đảm đương, cái ghế cửu ngũ chí tôn này vốn là của mình thì cũng sẽ không chạy thoát được, cho nên tại hạ cho rằng với mớ loạn trước mắt này phải dùng một đao chém nhanh một phát, đó chính là lập quốc xưng đế!”.

Chiết Tử Du nói xong, vô thức mà nhìn Dương Hạo. Chủng Phóng, Đinh Thừa Tông và tất cả văn võ bá quan trọng phòng đều không hẹn mà cùng nhìn về phía hắn. Bất kể ý kiến của mọi người như thế nào, nói ra bao nhiêu đạo lý thì tiếng chuông cuối cùng vẫn là do Dương thái úy đang ngồi trên bạch hổ đồ đánh.

Dương thái úy vỗ nhẹ chiếc hộp, mặt mày trầm xuống, đôi mắt quét qua chiếc án, ánh mắt lóe lên không thôi, hình như hoàn toàn không chú ý rằng tranh luận của mọi người đã đến hồi kết thúc.

“Cái tên chết tiệt này, vẫn cái bộ đạng chết tiệt đó!”.

Chiết Tử Du thấy thế không khỏi bực mình, nàng nghiến răng lại, mắt liếc lên, lại muốn gọi hắn, lại thấy Dương Hạo vỗ tay ba cái xuống chiếc hộp, nhưng lại yên lặng lại một lúc, rồi đột nhiên đứng lên, mở miệng nói: “Chư vị...”.

Dương Hạo đứng dậy, tất cả mọi người đều nhìn về phía hắn, hơi thở lập tức nặng nề, một lời của đế vương có thể làm cả thiên hạ hưng vong, quyết định hàng vạn sinh tử.

Bây giờ, tương lai của Hà Tây, tương lai của những người đang ở trước mặt nào chẳng phải đều được quyết định bởi con người đang đứng oai nghiêm trước bức “Mãnh hổ hạ sơn” này sao? Ngay cả Chiết Tử Du cũng nhìn chăm chú không rời mắt, trái tim thì như con nai đang chạy loạn. Hắn... Sẽ lựa chọn như thế nào?

o O o

File ảnh

http://ne9.upanh.com/b2.s15.d2/b749635d3b9814b2bd6162504f358759_36605589.chuong37 moithuongluoitie01.gif

http://ne4.upanh.com/b2.s12.d4/68c5945a6ebbddf17254d7129c39391d_36605594.chuong37 moithuongluoitie02.gif

http://ne7.upanh.com/b2.s12.d1/1174cbaf48182844ef5a730d50babf97_36605597.chuong37 moithuongluoitien3.gif

http://ne0.upanh.com/b1.s9.d1/d28b5266b37448b664d48dbc5d096d92_36605600.chuong37 moithuongluoiien04.gif

http://ne4.upanh.com/b2.s18.d1/ac1e57a1c0b0564ea050022eb04719cb_36605604.chuong37 moithuongluoitien05.gif

http://ne2.upanh.com/b6.s8.d2/7ab4cb128f1bf3b8f0f4afe0276657fe_36605612.chuong37 moithuongluoitien06.gif

 Chương 38: Chỉ Điểm Giang Sơn

Dương Hạo đứng nghiêm nghị, trầm giọng nói: “Những ý kiến vừa rồi của chư vị, những lợi hại được mất trong đó bản soái cũng hiểu, trong lòng bản soái đã có tính toán, duy chỉ vì chuyện này quá trọng đại, lại có rất nhiều tình tiết trong đó còn cần phải xác định rõ. Tiết độ lưu hậu Đinh đại nhân, tiết độ phó sứ Chủng đại nhân, Tử Du cô nương, mọi người ở lại, trong lòng bản soái còn có chút nghi vấn, muốn bàn bạc với mọi người. Những người còn lại hãy về bổn ti của mình để xử lý quân chính, ba ngày sau bản soái sẽ nói cho mọi người quyết định cuối cùng”.

“Còn phải đợi ba ngày nữa...?”. Mọi người nghe xong mặt liền hiện lên khổ sắc, nhưng Dương Hạo đã hạ lệnh, mọi người sao có thể không tuân? Nếu như hắn thật sự xưng đế thì đây chính là kim khẩu ngọc ngôn, chống đối lại quân ngôn há chẳng phải để lại ẩn tượng xấu cho hoàng đế sao? Chúng tướng đành phải lần lượt lui ra ngoài.

Đợi khi tiết đường chỉ còn lại Chủng Phóng, Đinh Thừa Tông và Chiết Tử Du. Đinh Thừa Tông không kìm chế được mà hỏi: “Không biết rốt cuộc thái úy quyết định như thế nào, bây giờ có thể nói không?”.

Dương Hạo buông vai xuống, mỉm cười nói: “Hôm nay ta trở về, trong phủ tất có chuẩn bị rượu tiệc. Oa Nhi và Diệu Diệu là những đầu bếp tài giỏi, bụng ta cảm thấy đói rồi, chúng ta chi bằng cùng đi dự tiệc, thường thức món ngon, trong tiệc chúng ta nói rõ cũng không muộn”.

Nhìn cái điệu cười như thiên quan ban phúc của Dương Hạo, nghe hắn trả lời úp mở, mười đầu ngón chân của Chiết Tử Du lập tức ngo ngoe muốn động, đột nhiên lại tiếp xúc thân mật một cái vào mông Dương Hạo: “Đây đúng là hoàng đế không vội thái giám vội, mọi người hợp sức hợp lực, suy đi tính lại chẳng phải vì hắn sao, hắn thì tốt rồi, lại có thể trầm tĩnh như thế!”.

Nhưng bây giờ Dương Hạo có thân phận gì chứ? Mông lão hổ không thể sờ, mông của Dương Hạo phải sờ thế nào đây. Cho dù Dương lão hổ không ngại Chiết đại tiểu thư vô lễ dùng chân hôn vào mông, nhưng hai vị liêu thục đều đang đứng ở bên cạnh, hai người đều là những nhân vật coi trọng tôn ti trên dưới, trật tự đâu vào đấy, bọn họ tuyệt đối sẽ không thuận mắt.

Chiết Tử Du đành phải nuốt cơn giận, chất vấn nói: “Thái úy, nghị luận hôm nay rất trọng đại, thành hay không thành đều nên sớm đưa ra quyết định, thái úy sao lại có thể thản nhiên như thế?”.

Đinh Thừa Tông dù sao cũng là huynh đệ nhiều năm của Dương Hạo, đối với tính tình của hắn càng hiểu hơn. Vừa thấy dáng vẻ bình tĩnh của hắn, liền nhận thức được rằng trong lòng Dương Hạo e là không chỉ nghĩ tới vấn đề xưng đế. Chúng tướng nghị luận tất nhiên sẽ động tới linh cơ của hắn, làm cho hắn có suy nghĩ khác. Nhìn nụ cười bình thản mang chút ác ý, hắn bất giác nhớ tới chuyện Dương Hạo đã dùng mực của con mực để tính kế làm đại trưởng quầy hiệu cầm đồ, lần này không biết hắn lại nghĩ ra chủ ý gì nữa? 

Đinh Thừa Tông cũng hận không thể lập tức biết được trong lòng Dương Hạo đang nghĩ gì. Có điều nếu như ngoài cách xưng đế mà Dương Hạo có dự tính khác thì hai ba câu e rằng không thể nói rõ. Dù sao hắn cũng để lại ba người, như vậy ba người này chính là người có đủ tư cách tham dự vào quyết sách cuối cùng của hắn, vì thế cũng không nóng lòng nhất thời nữa, liền nói: “Được, vậy ta và Chủng đại nhân về trước thay bào phục rồi lại đến tiết phủ diện kiến thái úy”.

Hai người họ vẫn đang mặc quan bào, đội mũ quan, với dáng vẻ này thì đương nhiên không thể đi dự tiệc, hai người liền xin cáo từ. Dương Hạo thấy hai người đã đi khỏi tiết đường, mới từ từ bước tới bên cạnh Chiết Tử Du, nhẹ giọng trách: “Nàng vốn không phải có tính cách như thế, sao vừa mới bị người ta kích một cái là đã bỏ nhà ra đi vậy? Hại mọi người hoảng loạn, làm ta lo lắng rất nhiều”.

Chiết Tử Du hơi cụp mắt xuống, nói: “Thái úy, những chuyện riêng tư này, ta không muốn nhắc đến nữa”.

Dương Hạo thở dài, bất đắc dĩ nói: “Thôi vậy, nếu như lúc đầu nàng không đi thì bây giờ e là đã bị triều đình bắt đi rồi, đây cũng coi như là trong họa có phúc. Nếu thật sự nàng bị bắt đi thì ta bây giờ tất sẽ đại loạn, không phản cũng phải phản”.

Chiết Tử Du hơi đưa mắt lên, đôi mắt trong suốt như nước suối nhìn hắn, hỏi lại: “Ngài bây giờ đã không còn là một khâm sai phó sứ, không có gì phải lo lắng, còn ta bây giờ chỉ là một tiểu nữ xấu tính, không biết tốt xấu, cũng không cần người ta thích, ngài sẽ làm thế sao?”. Dương Hạo nói: “Thề non hẹn biển, ta há mồm là có thể nói ra, nàng tin không?”.

Chiết Tử Du tức giận nói: “Ta chỉ hỏi ngài tình thế Hà Tây, giải quyết như thế nào, nguy cơ của Chiết gia phải xử lý như thế nào, còn chuyện riêng tư ta không muốn nhắc đến”.

“Sao cơ?”. Dương Hạo xoa xoa mũi, mặt tỏ ra vô tội nói: “Hóa ra Dương Hạo có vì một tiểu nữ tử xấu tính, không biết tốt xấu, cũng không cần người ta thích mà phản Tống hay không lại có quan hệ đến tình thế Hà Tây và an nguy của đồng minh sao, thật là huyền diệu, ta vẫn chưa nhìn ra được, thỉnh Chiết cô nương chỉ giáo”.

Chiết Tử Du vô cùng tức giận, lập tức cất bước đi, Dương Hạo liền kéo lại nói: “Nàng vốn càng gặp đại sự càng bình tĩnh thông minh, bây giờ sao lại không thể trầm tĩnh được vậy. Buổi nghị luận hôm nay nếu như bất cẩn thì sẽ có kết cục thảm thương, ta sao có thể không suy nghĩ cho kỹ được? Tử Du, nàng hãy theo ta về phủ đã, không thể mặc một bộ áo giáp đi dự tiệc được. Ta biết nàng thích mặc đồ thanh nhã, ở chỗ Đông Nhi có mấy bộ cũng hợp với người nàng...”.

Chiết Tử Du bắt đầu nôn nóng, dừng bước nói: “Người xuất gia là Bích Túc, không phải là ngài, sao bây giờ ngài lại còn biết niệm kinh hơn cả hắn, nhiều lời. Uống rượu, uống rượu gì chứ, ta bây giờ đâu có tâm trí nào mà uống rượu, ta bây giờ chỉ muốn biết cái ngôi hoàng đế này, ngài rốt cuộc có xưng không, trận chiến này ngài rốt cuộc có đánh không?”.

Dương Hạo cười khổ nói: “Cho dù bây giờ ta có nói cho nàng biết thì lẽ nào có thể lập tức hành động sao? Trận cần đánh, cơm cần ăn, ngày cũng cần qua”.

Trong lòng Chiết Tử Du trào lên một trận đắng chát: “Ngài thì có thể qua ngày của ngài, nhưng ta còn có ngày để qua sao. Phủ Châu không còn nữa, Chiết gia không còn nữa, tất cả đều bị cầm tù ta... Ta...”.

Chiết Tử Du vốn ý trí kiên cường lại rất giữ thể diện, trước mặt người khác không bao giờ để lộ nửa phần yếu đuối, nhưng không biết tại sao, cứ đến bên Dương Hạo lại biến thành một nữ tử bình thường khát vọng được bảo vệ và dựa dẫm, cứ nhắc đến chuyện của Dương Hạo, thì thái độ vờ như lạnh nhạt lại tan biến mất, nói đến chỗ bi khổ, đôi mắt nàng lại trào lệ ra.

Dương Hạo thấy dáng vẻ mềm yếu của nàng, trong lòng bất chợt thấy xót xa, thốt lên: “Sao lại không có ngày qua? Trời vẫn chưa sụp xuống mà, cho dù trời có sụp xuống thì ta sẽ đỡ cho nàng. Còn nếu nàng thật sự không có ngày để qua thì ta sẽ cho nàng những ngày của ta. Chúng ta cùng qua”.

Chiết Tử Du tức khí, quay người muốn đi, thế nhưng bàn tay như hổ của Dương Hạo lại nắm chặt lấy cánh tay của nàng, làm sao mà đi đây.

“Đi, về phủ ta đã”.

Dương Hạo một tay cầm chiếc hộp, một tay kéo Chiết Tử Du, bước nhanh về. Chiết Tử Du bị hắn kéo đi, tức khí nói: “Ta không đi! Nếu đi thì để ta tự đi! Ngài buông tay ta ra, Mạnh tử nói: Nam nữ thụ thụ bất thân lễ giả. Ngài đường đường là nguyên soái Hà Lũng, Định Nan tiết độ sứ, lôi lôi kéo kéo muốn làm gì chứ! Ngài...”.

“Thái úy!”. Vừa bước ra khỏi tiết đường, đám thị vệ đứng bên ngoài canh gác lập tức khom người thi lễ với Dương Hạo, thái độ đương nhiên là không nửa điểm bất kính, nhưng đôi mắt lại vô thức mà liếc nhìn tay Dương Hạo đang nắm cánh tay Chiết Tử Du, rồi lộ ra mấy phần cổ quái.

Cơ thể Chiết Tử Du đang mềm mại liền cứng đờ, vội thay vào vẻ mặt tươi cười, cười khan nói: “À... Thái úy, mời mời...”.

Tiết đường nằm phía tây viện soái phủ, không cần phải ra cửa lớn, hai người cầm tay rất lễ nhượng mà đi, khi rẽ vào soái phủ, Chiết Tử Du lại kháng nghị: “Buông ta ra, ta bây giờ có phải là tùy ý để cho ngài sắp đặt không?”.

Dương Hạo dõng dạc nói: “Nàng đã đầu quân vào ta, thì là thuộc hạ của tata tùy ý sắp đặt có gì là bất thường chứ?”.

Chiết Tử Du nổi trận lôi đình: “Ta đem quân Chiết gia đầu quân vào chỗ ngài, nhưng Chiết Tử Du ta chưa hề đầu quân cho ngài, ta vốn muốn đợi xong chuyện này ta sẽ...”.

“Sẽ quy y cửa phật, mai danh ẩn tích à?”.

“Không cần ngài phải quan tâm, tóm lại ta không phải là thuộc hạ của ngài!”.

“Thế nàng có còn muốn nghe ý định của ta không?”.

“Ta... Ta... Ta có quyền biết sao?”.

Dương Hạo mỉm cười: “Tử Du, nàng biết không, nàng bây giờ mới giống một nữ nhân, tuy càn quấy một chút nhưng lại có thêm mấy phần mùi vị nữ nhân hơn ngày trước”.

“Ta giống nữ nhân hay không thì liên quan gì đến ngài, bây giờ có thể buông tay ta ra được chưa?”.

“Lệnh tôn sớm ra đi. Chiết gia lệnh huynh làm chủ. Đúng không?”.

“Đương nhiên”.

“Trưởng huynh như cha đúng không?”.

“Đúng thế!”.

“Lệnh huynh bây giờ không được tự do. Ta là nghĩa đệ của lệnh huynh, luận về thứ bậc thì đương nhiên là huynh trưởng của nàng, huynh trưởng như cha mà. Có được quản nàng không?”.

“Ngài! Ngài mà đòi làm huynh trưởng như cha!”. Chiết Tử Du vô cùng tức giận: “Ta nói cho ngài biết, người họ Dương kia, cha ta khi còn sống còn không quản nổi ta, đại ca ta cũng không dám quản ta”.

Dương Hạo nhìn nàng: “Cho nên bây giờ ta mới quản nàng, nàng mà còn nhiều lời ta sẽ thay lệnh tôn quản giáo nàng, phát cho nàng mười bảy, mười tám cái vào mông, xem nàng còn mặt mũi nào để nhìn người ta không”.

“Ngài dám”.

Con đường hai người đi có rất nhiều hạ nhân, nha hoàn thị tỳ, từ xa đã nhìn thấy Dương Hạo, liền tránh sang một bên, khom người thi lễ, miệng đồng thanh hô lão gia. Tử Du thấy dáng vẻ của bọn họ như vậy, hình như mỗi người đều đang cười nàng, nhất thời thật sợ Dương Hạo hâm lên, thật sự bắt nàng nằm xuống, cho một trận vào mông, vậy thì Chiết đại tiểu thư thật sự phải chui vào trong động để khỏi bị người ta chê cười. Nàng vẫn dùng ngữ khí ương ngạnh đó nhưng tay không dám dùng lực nữa.

Bị hắn lôi đi một đoạn đường, khi đi xuống hậu trái đình viện, nghĩ rằng cả chặng đường cãi nhau khắc khẩu, nếu truyền ra ngoài thật mất mặt, Chiết Tử Du không khỏi tuôn lệ lã chã: “Ngài... Lại ức hiếp ta như thế!”.

“Vậy nàng không biết ức hiếp lại sao?”.

Chiết Tử Du cười hì một tiếng, nói: “Dương thái úy ngài bây giờ có thân phận gì chứ, ta ức hiếp được sao?”.

Dương Hạo đột nhiên dừng bước, thấp giọng bên tai nàng: “Muốn bắt nạt người khác cũng không cần phải có thân phận cao quý hơn, ta từng nghe thấy một câu chân ngôn rất có lý, nàng muốn biết không?”.

Dương Hạo ghé sát tai vào, hơi thở phảng phất bên tai nàng, Chiết Tử Du chỉ cảm thấy như có vô số con mắt đang nhìn trộm mình, khiến nàng hết sức ngượng ngùng, nhưng nghe câu nói này lại thấy rất hiếu kỳ, liền không tránh ra mà hỏi: “Chân ngôn gì?”. “Nam nhân thống trị thế giới, nữ nhân thống trị nam nhân, đạo lý trong đó rất huyền diệu, với sự thông minh tuyệt đỉnh như nàng, nhất định có thể hiểu được”. “Hiểu được cái đầu ngài ấy!”. Chiết đại tiểu thư không thể nhịn được nữa, cuối cùng cục cằn nói: “Ngài buông ta ra, ta... Ta đi theo ngài là được chứ gì, buông tay ra, buông...”.

Hai người cả đường ầm ĩ, vừa bước vào hậu viện thì thấy Đông Nhi, Oa Oa, Diệu Diệu và Đường Diễm Diễm đã về nhà thay đổi nữ trang đang đứng ở hiên hành lang, bên cạnh còn có mấy thị nữ Tiêu Nguyên, Hạnh Nhi, đôi mắt đều nhìn về phía họ.

Cả người Chiết Tử Du cứng đờ, chỉ cảm thấy toàn thân nóng rát, cánh tay bị Dương Hạo nắm chặt giống như thép bị nung vậy. Nàng hơi co người lại như tiềm thức, nhưng lại đi sát theo, sau một lúc do dự, nàng lại nhanh chóng bước lên, đi sát một chút với Dương Hạo, như thế này thì sẽ không giống Dương Hạo đang kéo nàng đi. Nhìn trông giống như hai người đang đi rất hòa đồng, vẻ oán trách trên khuôn mặt nàng cũng dần trở nên ôn thuận, hơi yếu đuối, ừm... Còn có chút xấu hổ. Trong lòng Dương Hạo bất giác than: “Ôi đàn bà... Đàn bà...”.

Tam phòng kiều thê quả thật đã chuẩn bị yến tiệc thịnh soạn. Vì đây là tiệc rượu trong nhà nên không cần phải quá chú trọng đến màu sắc và bố trí, cho nên tất cả đồ ăn đều là những khẩu vị mà Dương Hạo thích.

Yến tiệc được bày biện trong một căn phòng rộng, lại có tám bức bình phong để ngăn cách với bên ngoài, nhưng đám thị tỳ chỉ có thể đứng bên ngoài cửa, không được truyền gọi thì không được phệp vào.

Chủng Phóng và Đinh Thừa Tông đều ăn mặc như một văn sĩ, Chiết Tử Du lại thay bộ xiêm y màu bạc của Đông Nhi, tay áo ngắn, tà áo dài, bên ngoài còn khoác thêm một lớp áo mỏng có đính những bông hoa mai nhỏ, hoàn toàn giống một tiểu phu nhân. Tuy vẫn là thiếu nữ chưa gả đi, nhưng dù sao nàng cũng đã đến tuổi song thập rồi, cho nên không có chải tóc hai bên nữa, mà dùng thoa cuộn các sợi tóc lại, cài thêm một cây châm phỉ thúy, thanh lệ thoát tục, mỹ miều vô cùng.

Trước mặt Chủng Phóng và Đinh Thừa Tông, lại là nói tiếp kế nghị đại sự nên Dương Hạo và Chiết Tử Du không có tư thái đấu ngầm với nhau nữa. Bốn người ngồi thưởng tiệc, sau khi uống hết ba tuần rượu, thử một số thức ăn thì Dương Hạo bắt đầu nói vào chủ đề chính, nói đến đại sự mà mọi người đều quan tâm nhất.

“Hôm nay trên tiết đường, mọi người đều tranh luận rất sôi nổi, lợi hại trong đó đều đã rõ cả. Đơn giản mà nói chính là với thân phận của ta bây giờ không có cách nào chỉnh hợp nội bộ, lấy danh phận đường đường chính chính đối mặt với sự tiến công của Tống quân, thân phận bất định rất khó đưa ra chế định chiến lược để tụ dân thống quân, cho nên, chiếm đất tự trị, thoát ly khỏi sự khống chế của triều đình là điều tất nhiên”.

Những lời nói chắc nịch này của Dương Hạo làm cho Chiết Tử Du và Đinh Thừa Tông tinh thần phấn chấn lên, Chiết Tử Du vốn có chút tức giận, lúc này cũng đã tan biến lên chín tầng mây, chốc chốc lại nhìn Dương Hạo. Chủng Phóng lại không nói lời nào, cũng đặt đũa xuống, lặng yên nghe lời tiếp theo của hắn.

Sắc mặt Dương Hạo nghiêm túc lại, trầm giọng nói: “Nhưng chiếm đất tự trị, thoát khỏi sự khống chế của triều đình tuy có thể chính thức hóa thân phận của ta, chỉnh hợp nội bộ, làm cho quân ta không chịu sự khống chế của danh nghĩa nữa, làm được xuất sư hữu danh, nhưng đây chỉ là đứng vững lập trường thôi, lại không thể thay đổi sự thực đại quân Tống Quốc đã áp cảnh, ngược lại, một khi ta xưng đế, quân Tống không cần phải chần chừ, sẽ toàn lực công phạt.

Kết cục của nó chỉ có hai. Một là chiến sự bất lợi, thực lực không đủ, khó có thể chống trọi lâu, cuối cùng bị Tống tiêu diệt. Một là lợi dụng sức mạnh của chính mình để ngăn địch chính diện, đồng thời liên kết với các nước khác khống chế Tống Quốc dụng binh với ta, cuối cùng có thể đứng vững ở Hà Tây, có điều điều có thể dự liệu là chúng ta từ đây sẽ chỉ có thể luẩn quẩn ở Hà Tây, chiến sự liên miên, không có ngày nghỉ”.

Những lời Dương Hạo không phải là giả, dù sao đối với Tống mà nói, Liêu Quốc lập quốc còn sớm hơn so với Tống hơn năm mươi năm. Tống là nam triều, Liêu là Bắc triều, cùng là đại quốc trong thiên hạ, đánh được đương nhiên là tốt, không đánh được cũng không tạo ra áp lực gì đáng kể đối với giai cấp thống trị. Nhưng địa bàn của mình chẳng có mấy để xưng đế, đây là điều mà Tống Quốc không thể chấp nhận được, là một sự đả kích lớn nhất đối với quyền uy triều đình. Chiến lược quân sự Tống Quốc sau này tất nhiên phải lấy Tây Bắc làm trọng, trong lịch sử, Lý Nguyên Hạo sau khi xưng đế, Tống Quốc quả thật đã làm như vậy.

Ta biết, nếu như muốn xưng đế thì phải đảm đương tất cả mọi việc, không thể chỉ hy vọng Tống Quốc chủ động bỏ cuộc, không hưng binh với ta. Nhưng chiến họa liên miên không phải là cái phúc của nước, cái phúc của dân. Cho nên bây giờ ta cần phải sớm chuẩn bị, suy nghĩ chu toàn, tổng cộng có hai bước: Bước thứ nhất, phải làm thế nào để bảo đảm được rằng sau khi xưng đế thì thực lực của chúng ta có thể áp chế được cơn giận lôi đình của Tống Quốc, làm cho chúng ta có thể đứng vững ở Hà Tây.

Bước thứ hai, sau khi đứng vững rồi, phải làm sao có thể hết sức tránh được chiến tranh liên miên do Tống Quốc phát động ở Hà Tây? Đây là vấn đề căn bản khi đề cập đến hưng vong, không thể vội vàng mà phải bước từng bước, phải lo trước tính sau, sớm có chuẩn bị, cho nên khi nghe mọi người bàn luận về lợi hại trong đó, ta luôn suy nghĩ đến cách giải quyết các vấn đề nội bộ, ngoại bộ, trước mặt, và sau này, rồi ta đã nghĩ ra một cách, mọi người cùng nghiên cứu một chút”.

Những lời Dương Hạo quả thật không chỉ là suy nghĩ đến các khó khăn bên trong, mà ngay cả những vấn đề lâu dài sau khi ứng phó xong các nguy cơ trước mắt cũng phải suy nghĩ đến, hơn nữa còn là cách giải quyết mình tự nghĩ ra. Ba người bọn họ không khỏi động dung, cùng đồng thanh nói: “Nguyện lắng nghe thái úy nói”.

“Cha cha, muội muội cướp mất con khỉ của con...”.

Dương Hạo vừa nói đến đây thì có một giọng nói truyền từ bên ngoài vào, sau đó Tuyết Nhi chạy tới, đôi má nhỏ đỏ lên, đi phía sau là con bạch lang chạy sát theo, nó vẫn nhận ra chủ nhân, vừa thấy Dương Hạo, cái đuôi của nó liền học theo con chó mà vẫy vẫy mấy cái, đáng tiếc cái đuôi quá cứng nên trông giống như đang quét đất vậy.

Trên lưng cao lớn của con bạch lang, có một con khỉ đang ngồi xổm, nhìn trái nhìn phải, cái dáng trông rất buồn cười. Tiếp theo đó, có một đứa trẻ chạy theo vào, đó là nữ nhi thứ hai của Dương Hạo, Dương San. Vừa nhìn thấy lưng của Chiết Tử Du lại tưởng là mẫu thân Đông Nhi của mình, lập tức bập bẹ nói: “Mẫu thân, mẫu thân, tỷ tỷ không cho con chơi với con chó lớn, cũng không cho con chơi với con khi”. Dương Tuyết cây ngay không sợ chết đứng nói: “Con chó lớn là của tỷ, con khỉ nhỏ cũng là của tỷ”.

Dương San chạy tới kéo tay áo Chiết Tử Du, thấy nàng quay đầu lại, mới biết đó không phải là La Đông Nhi, liền hơi sợ hãi lũi lại đằng sau nói: “Ý, không phải mẫu thân...”.

Dương Hạo dở khóc dở cười, liền đứng lên nói: “Tuyết Nhi, làm tỷ tỷ phải chăm sóc tốt đệ đệ và muội muội, sao lại không... Mà con nuôi con khỉ này từ lúc nào thế? Còn con đại cẩu này... Khụ, đây là con lang, không phải con chó. Haizz, rõ ràng là một con lang vương kiêu hùng trên thảo nguyên...

Hắn bước tới, mỗi tay đưa tới bế một đứa lên. San Nhi và Dương Hạo ít có cơ hội ở cùng nhau, không quen thuộc như với Tuyết Nhi, vừa được cha ôm vào lòng liền ngoan ngoãn rất nhiều. Tuyết Nhi thì lại cáo trạng tiếp: “Là mẫu thân không cho phép muội muội chạm vào chúng, sợ chúng làm thương muội muội”.

San Nhi nghe thấy liền chu cái mỏ nhỏ lên, làm ra bộ sắp khóc. Bên ngoài cửa có mấy nha hoàn, tiểu nha đầu đang đứng lấp ló mà không dám vào. Dương Hạo đương nhiên hiểu trẻ con phải hết sức không cho tiếp xúc với động vật là tốt nhất, huống hồ hai con sủng vật mà hai đứa nhóc này nuôi lại quá to, hắn liền nói: “Được rồi được rồi không cãi nhau nữa, con không mang con chó lớn... Con lang và con khỉ này đi qua đi lại trước mắt muội muội thì sao muội muội lại muốn chơi với chúng chứ. Mau đưa muội muội đi tìm mẫu thân, đợi khi nào cha rỗi, cha sẽ làm mấy thứ đồ chơi cho các con”. Dương Tuyết mừng rỡ: “Cha nói phải làm đấy nhé”.

Dương Hạo cười nói: “Đương nhiên rồi, có điều con phải nghe lời mới được. Đi đi, cha đang có việc bận, con đưa muội muội đến chỗ mẫu thân trước đi”.

Dương Hạo thơm nhẹ vào má của hai đứa nhóc một cái, sau đó giao chúng cho đám nha hoàn, hai nha đầu đã nhận được lời hứa của cha, vui mừng mà đi khỏi, lúc này Dương Hạo mới quay lại ghế tiệc.

Đinh Thừa Tông cười nói: “Hai tiểu nha đầu luôn nghịch ngượm, Tuyết Nhi lại thích nuôi mấy con chó con mèo, thường làm cho hậu trái náo loạn. Có điều, cũng may mà có hai tiểu nha đầu này. Ha ha ha, trong nhà cũng náo nhiệt hẳn lên”.

Chiết Tử Du thấy cảnh phụ - nữ thiên luân này, trong lòng đột nhiên có chút phiền muộn. Con cháu Chiết gia hưng vượng, cũng có rất nhiều trẻ con, nhưng trước đây nàng lại không có cảm giác đặc biệt gì với chúng. Những đưa trẻ của Chiết gia cũng giống như mấy đứa cháu của nàng, đều có chút sợ tiểu cô cô, tiểu bà cô. Nhưng một hai năm nay, khả năng miễn dịch của Chiết Tử Du đối với sự nghịch ngợm của những đứa trẻ đáng yêu đó đã giảm xuống, vừa rồi Dương San nhận nhầm người, gọi nàng một tiếng mẫu thân, lại làm cho tim nàng rung động, mùi thơm trẻ con trên người Dương San làm cho nàng rất muốn ôm nó vào lòng, nhưng khi nó sợ hãi lùi lại, lòng Chiết Tử Du lại có cảm giác hụt hẫng không tên.

Chỉ là tâm trạng này của nàng lại không hề bị người khác phát hiện ra, tâm tư bây giờ Chủng Phóng và Đinh Thừa Tông đều đặt cả vào chuyện Dương Hạo đang nói, cánh cửa đóng lại, Chủng Phóng liền mở lời nói: “Không biết những lời thái úy vừa nói, muốn cách nhất cử giải quyết nội ngoại, nay sau rốt cuộc là như thế nào?”.

Dương Hạo bây giờ đã phong bế toàn bộ sự sùng kính đối với Triệu Khuông Dận và Tống đình lại, toàn tâm toàn ý đứng trên lập trường của chính mình mà suy nghĩ, hắn biết bây giờ lại giao động bất định tất sẽ gặp đại họa. Dương Hạo ngồi lại ghế, nghiêm chỉnh lại dung nhan, trầm giọng nói: “Dự tính của ta chia ra làm ba bước, mỗi bước đều lấy âm dương phụ trợ”.

Chủng Phóng, Đinh Thừa Tông, Chiết Tử Du bất giác hơi nghiêng người, dựng tai lên, Dương Hạo nói: “Những năm nay, ta đã bố trí rất nhiều quân cờ cả ngầm cả công khai, muốn để có một ngày, chính là bây giờ dùng đến. Ba bước này của ta chính là tiền xưng đế: đánh một trận; tái xưng vương, hàng một nước; tích sức mở rộng đất: cuối cùng là xưng đế!”.

Ba người đang ngồi đều là những người thông minh, nhưng người cơ cảnh lĩnh ngộ ra trước tiên lại là Chiết Tử Du, nàng phấn chấn nhíu nhíu đôi lông mày lá liễu lên, vội nói: “Cách này tuy là tuyệt diệu, nhưng khó là ở chỗ phải thi hành như thế nào, sau có thể thành công đạt được ý nguyện? Sự tuyệt diệu trong đó có lẽ không chỉ ở sự âm dương phối hợp như ngài nói?”.

 Chương 39: Hoa Dung Đại Nghĩa

Dương Hạo nói: “Đúng thế, đây là giai đoạn thứ nhất: Xưng đế. Kết quả của nó có thể dự liệu được, chúng ta tất phải nghênh sự đả kích cực mạnh của Tống đình, ở giai đoạn này, chúng ta cũng phải tập trung toàn bộ vũ lực để chiến đấu. Trận chiến này tuy chưa chắc có thể giành được toàn thắng, nhưng nhất định phải đánh đủ mạnh, đánh đủ hung, đánh chúng càng đau thì trên dưới Tống Quốc càng sẽ hiểu chúng muốn nuốt ta thì phải bỏ ra cái giá cực lớn, đây sẽ là nền tảng cho bước thứ hai trong kế hoạch.

Đương nhiên, đây chỉ là từ mặt bên ngoài mà nói, còn mặt bên trong thì chúng ta cần phải làm loạn Thục địa ở phía nam, phía bắc thì liên kết với Khiết Đan Liêu Quốc, tiến hành làm rối loạn nội bộ Tống đình, làm cho chúng hữu tâm vô lực, đến khi mệt vì chiến, ghét vì chiến, lúc đó chúng ta sẽ chủ động đầu hàng, vứt bỏ đế hiệu, lại lập vương, để cho bọn họ nấc thang hòa hoãn tình thế. Đây gọi là trời muốn trả giá, đất trả tiền, có lợi nhường ba phần, như thế thì nhìn như chúng ta thua, nhưng thực ra là thắng...”.

Định Nan quân tiết độ sứ vốn có tước vị Tây Bình vương, từ sau khi Chu Ôn diệt Đường lập Đại Lương, thì các chính quyền Trung Nguyên Lương, Đường, Tấn, Hán, Chu, mỗi triều đều vì lung lạc Tây Bắc, mà đã dùng chính sách dụ dỗ với Thác Bạt thị Hà Tây, tăng thêm ân thưởng, cho nên đã phong thêm tước vị cho tất cả những Định Nan tiết độ sứ làm Tây Bình vương.

Sau khi Tống triều thay Chu, lại lập tức dùng thủ đoạn ân sủng này gia phong Định Nan tiết độ sứ Lý Di Hưng làm thái úy, nhưng không hề hủy bỏ chức Tây Bình Vương, chỉ có điều Tống Quốc tiêu diệt chư quốc Trung Nguyên, nhất thống thiên hạ, làm cho thế lực Tống Quốc càng ngày càng lớn mạnh, Lý thị Hạ biết được mà phòng trước, liền không coi trọng những vương tước vô dụng này nữa, Tống Quốc cũng coi như không có chuyện này, hai bên rất mật thiết ăn ý với nhau.

Nếu như các triều Lương, Đường, Tấn, Hán, Chu đều thừa nhận thân phận vương tước của Định Nan tiết độ sứ, thì Tống Quốc lại truy phong thừa nhận một chút, nhưng thực ra cũng không coi là rào cản gì lớn”.

Đinh Thừa Tông tán thành nói: “Những lời thái úy nói rất có lý, nếu như sau khi thái úy xưng đế, chúng ta có thể chống lại được công thế cường đại của Tống triều, như vậy là cho hắn được lợi trước, rồi chúng ta chiếm đất xưng vương thì vẫn có thể làm được”.

Dương Hạo đương nhiên biết có thể làm được điểm này, trên thực tế con đường này vốn là con đường Lý Nguyên Hạo đã xưng đế năm xưa, đến tận bây giờ cách hắn mượn dùng cũng là cách của Lý Nguyên Hạo. Đương nhiên có thể đưa ra một phán đoán tương đối chuẩn xác với phản ứng có thể xảy ra của Tống đình.

Dương Hạo lại nói: “Sau khi chiếm đất xưng vương, chúng ta sẽ dung hòa các bộ tộc, nội bộ thì tu binh dưỡng mã, trù bị giáp binh, chấn hưng kinh tế, làm cho dân sinh, nông vượng, ngũ cốc đầy đủ, phủ khố dồi dào. Về đối ngoại thì đồng thời kết giao Liêu và Tống, hai bên mượn lực, mở rộng cương thổ đến Lũng Hữu. Lũng Hữu bây giờ đa phần là ở trong tay người Thổ Phồn, Hồi Hột, còn có một bộ phận nhỏ là địa bàn của người Đảng Hạng Khương. Người Hồi Hột Lũng Hữu chỉ như một đống cát, bộ tộc của người Đảng Hạng Khương còn ít hơn, không đáng để nhắc đến. Trên thực tế chính là nằm trong tay người Thổ Phồn. Tống đình bây giờ vẫn chưa chiếm hết Lũng Hữu, chưa xưng chủ quyền với nó. Đây chính là cơ hội khó có được của chúng ta. Lũng Hữu, tất phải đánh hạ, đây là điều kiện tất yếu cuối cùng để sau khi lập quốc tránh được những cuộc chiến trăm năm với Tống!”.

Trong lịch sử, thời kỳ thịnh vượng nhất của cương vực nước Tây Hạ có thể nói là “Đông tận Hoàng hà, Tây giới Ngọc Môn, Nam tiếp Tiêu Quan, Bắc khống đại mạc”. Dựa vào cương vực này đã giúp cho nó trở thành tam quốc đỉnh lập với Liêu, Tống, nhưng nó lại là phe yếu nhất trong tam quốc, nguyên nhân của nó chính là tiên thiên không đủ.

Nước Tây Hạ trung hưng chính là từ khi Định Nan ngũ châu khởi, khi đó Lý Đức Minh của Tây Hạ cùng lúc xưng thần với Liêu Tống. Liêu Tống vì muốn lôi kéo phe thế lực thứ ba cường đại này, làm cho nó hết sức duy trì thái độ trung lập, cho nên đều tiếp nạp nó. Liêu đế phong Lý Đức Minh làm Tây Bình vương, Tống cũng phong Lý Đức Minh làm Định Nan tiết độ sứ, Tây Bình vương. Tây Hạ bắt đầu mở giao thương buôn bán với hai người Liêu Tống, sau khi ổn định đông phương và bắc phương mới bắt đầu ra hành động lớn, là tây chinh, công đánh chư châu Lương, Cam, Túc, Qua, Sa, cuối cùng thế lực đến thẳng Ngọc Môn.

Đợi khi thế lực của hắn đến được Ngọc Môn quan, lại muốn mở rộng ra phía nam thì đã không thể được nữa, đến lúc đó địa nghiệp của Lũng Hữu đã nằm hết trong tay Tống Quốc, cho nên cương vực Tây Hạ từ đầu đến cuối có thể bó hẹp ở vùng Hà Tây, nước Tây Hạ chỉ dựa vào vùng đất này mà đã thống trị được hoa ba trăm năm, xưng đế kiến quốc gần hai trăm năm.

Bây giờ nếu như Dương Hạo đã bước lên con đường không thể quay trở lại này thì phải toàn tâm toàn ý vì không gian sinh tồn của mình mà suy nghĩ, hắn nhất thống Hà Tây sớm hơn Lý Nguyên Hạo hơn năm mươi năm, thế lực đã đến được Ngọc Môn quan ngoại, lại muốn mở rộng đất đai thì vùng đất tốt nhất chính là Lũng Hữu, nơi quần hùng tề tựu mà chưa có chủ. Một khi Lũng Hữu đã vào tay thì cương vực của hắn còn lớn gấp nhiều lần so với Tây Hạ quốc trong lịch sử, dân số đương nhiên cũng tăng lên, quốc lực đương nhiên cũng sẽ không giống như xưa nữa. Một tân đế quốc lớn gấp mấy lần Tây Hạ quốc thì khi Tống Quốc phát động chiến tranh tất cũng phải kiêng kỵ thêm một phần.

Nghe đến đây, Chủng Phóng và Chiết Tử Du trong lòng đều nghĩ đến một số vấn đề cụ thể, có điều Dương Hạo vẫn chưa nói đến điểm thứ ba. Mà con người này thường thường hậu phát chế nhân, phía trước có rất nhiều hành động nhìn thì như rất lỗ mãng, có rất nhiều sơ hở, nhưng ai mà biết được đằng sau nó hắn còn có thủ đoạn tuyệt diệu nào khác, cho nên hai người đều không vội chen lời vào, chỉ nghe Dương Hạo tiếp tục nói: “Bước thứ ba, lại thừa cơ xưng đế, nếu như bây giờ chúng ta chiếm Hà Tây rồi xưng đế đến cùng thì Tống Quốc rất có thể sẽ động binh với ta, từ Lũng Hữu xuất Tiêu Quan, từ Hà Đông phạt Hoành Sơn, ép chúng ta chịu địch hai bên, còn nếu như Lũng Hữu vào tay ta, chúng ta sẽ chiếm cứ một vùng đất phì nhiêu, bất luận là việc cung cấp lương thực, hay binh viện thì đều không cần phải lo ngại. Xét từ địa lý mà nói, chúng ta bất kể là xuất binh hay phòng ngự thì cũng có thể tiến thoái thuận tiện, nếu như vậy Tống Quốc cũng sẽ không dám khinh xuất phát binh công thế với ta”.

Dương Hạo nói đến đây thì dừng lại, hỏi ba người đang nhập thần lắng nghe: “Chư vị đối với việc này có ý kiến gì không?”.

Đinh Thừa Tông nghĩ ngợi rồi nói: “Thái úy, vừa rồi ở tiết đường đã từng nói, trong đó có rất nhiều tình tiết cần phải cân nhắc đắn đo, không biết đó là những điểm nào?”.

Dương Hạo mỉm cười, nói: “Theo như ý kiến của ba người thì trong kế hoạch của ta còn có sơ hở gì? Mọi người có thể nói ra để ta suy nghĩ thêm một chút”.

“Ta cho rằng...”.

Chủng Phóng và Chiết Tử Du cùng đồng thanh, không hẹn mà nói ra ba chữ, rồi quay sang nhìn nhau cười, lại đưa tay ra mời đối phương, Dương Hạo không khỏi cười lên, rồi nói: “Chủng huynh, huynh nói đi”.

Chủng Phóng đặt chén rượu xuống, vuốt râu nói: “Thái úy, ta có mấy điều lo lắng, vẫn mong thái úy giải thích cho. Thứ nhất: Sau khi hạ cách xưng vương, mở rộng cương thổ Lũng Hữu, thì làm thế nào để đảm bảo được rằng Tống đình sẽ không xuất binh can dự? Cũng giống như Liêu Quốc sẽ không chịu ngồi yên mà nhìn đất Hà Tây lọt vào tay Tống đình, Tống đình sao có thể khoanh tay đứng nhìn ta đoạt lấy đất Lũng Hữu chứ? Một khi Tống quốc xen vào thì bất kể là cân nhắc từ thực lực hai bên hay là khả năng xuất binh tới Lũng Hữu, thì Tống đình đều chiếm ưu thế tuyệt đối, kế hoạch của chúng ta có tám chín phần là bị thất bại.

Thứ hai, người Thổ Phồn ở Lũng Hữu từ sau khi ngầm nhận được sự ủng hộ của Tống Quốc, bất kể là binh giáp hay lương thực đều dồi dào vô cùng, tốc độ hợp nhất các bộ lạc nhanh chưa từng có. Tuy nói trước mắt có tộc trưởng La Đan kim hãm chúng, nhưng chúng ta một khi xưng vương xưng đế thì trong thời gian dưỡng sức cũng không thể chủ động dụng binh với bên ngoài.

Với thực lực hùng hậu của Tống Quốc, lại có thể trong một thời gian ngắn, tiếp tục ủng hộ cho Thượng Ba Thiên lớn mạnh, nhìn tình thế trước mắt thì trong một thời gian rất ngắn nữa, Thượng Ba Thiên đã có thể thống nhất Hà Tây, thậm chí là nạp tất cả các bộ Hồi Hột, Đảng Hạng bộ lạc mang tinh la kỳ xuống dưới trướng của mình. Đến lúc đó, cho dù không có sự trợ giúp của Tống Quốc thì thế lực của hắn cũng sẽ không kém hơn chúng ta là bao. Một khi chúng ta mưu đồ Lũng Hữu, chẳng qua kết cục sẽ là cả hai bên cùng bị thương, nói không chừng ngược lại còn để Tống Quốc hay Liêu Quốc hưởng lợi, làm thế nào có thể lớn mạnh được?”.

Dương Hạo nhìn Chiết Tử Du, hỏi: “Còn gì nữa không?”.

Chiết Tử Du dù sao cũng là nữ nhân, suy nghĩ rất tỉ mỉ, ngoài hai điểm đó ra, nàng còn nghĩ đến một số chuyện nhỏ nhặt khác, ví dụ như khi thực hiện bước đầu tiên, hai bên đến giai đoạn đề xuất xưng thần, nếu như Tống quốc vẫn giữ thái độ cứng rắn, từ chối chấp nhận yêu cầu của Dương Hạo thì phải làm thế nào, có điều nghĩ đi nghĩ lại đây cũng chỉ là chuyện nhỏ, nếu như cứ suy nghĩ nhiều thì khó sẽ tránh được phát hiện ra những vấn đề tương tự như vậy. Nếu nghĩ rằng phải thập toàn thập mỹ mới có thể làm thì dứt khoát không làm gì nữa. Vì thế những suy nghĩ này không cần thiết phải nhắc đến nữa, liền lắc đầu nói: “Không còn, chỉ có hai điểm này, không biết thái úy có cách giải quyết không?”.

Dương Hạo nói: “Vấn đề thứ nhất không cần phải quan tâm, ta rất hiểu con người Triệu Quang Nghĩa, cũng rất hiểu Tống Quốc, bọn họ đại khái có thể đưa ra phản ứng gì, ta vẫn có thể đoán định ra được. Làm thế nào để Tống Quốc khoanh tay đứng nhìn, trong lòng ta đã có cách, chỉ có điều bây giờ vẫn chưa phải là lúc nói công khai ra cho tất cả mọi người biết. Làm thế nào để ngăn cản Thượng Ba Thiên tiếp tục điên cuồng mở rộng đất, rồi nhất thống Lũng Hữu, trở thành đại họa của ta, thì ta đã suy nghĩ rất lâu, cũng chưa tìm ra được cách giải quyết thỏa đáng”.

Chủng Phóng, Chiết Tử Du và Đinh Thừa Tông nghe vậy trong lòng thầm lấy làm lạ. Theo như họ thấy, làm thế nào để Tống Quốc khoanh tay đứng nhìn Dương Hạo nuốt mất Lũng Hữu thật là đại sự khó hơn lên trời, dù sao đứng ở góc độ của Tống quốc thì bất luận như thế nào cũng sẽ không ngồi nhìn một phiên vương bất thuận như Dương Hạo tiếp tục mở rộng cương vực, đồng thời Tống Quốc lại có thực lực để ngăn cản nó. Cho nên bất kể là dùng cách nào, bất kể là người nào đều không thể thay đổi ý định của Triệu Quang Nghĩa.

Còn việc ngăn thế lực của Thượng Ba Thiên tiếp tục mở rộng thì thế lực hai bên tương đương nhau, dù sao cũng dễ hơn một chút. Tuy nói tộc trưởng La Đan của lục cốc phiên bộ chỉ có thể kìm hãm Thượng Ba Thiên trong một thời gian ngắn, không đủ ngăn cản Thượng Ba Thiên tiếp tục mở rộng đất dưới sự trợ giúp của Tống Quốc, nhưng làm chậm lại tốc độ mở rộng thực lực của hắn thì vẫn còn có hy vọng, ngoài ra còn có thể dùng một số thủ đoạn khác, nhưng trong lòng Dương Hạo đó lại là vấn đề khó khăn nhất hắn lại nghĩ ra đầu tiên, còn vấn đề dễ hơn lại không thể nghĩ ra.

Ba người thấy ngữ khí chắc chắn của Dương Hạo lại không chịu nói rõ chi tiết, đành phải áp lại sự tò mò, bắt đầu suy nghĩ đến vấn đề thứ hai.

Bây giờ trong tay Dương Hạo có hai bảo vật mà vào thời cơ thích hợp có thể phát huy tác dụng cực đại, một là ngọc tỷ truyền quốc, một là huyết chiếu của hoàng hậu Tống.

Huyết chiếu đối với Triệu Quang Nghĩa, người luôn tuyên dương thân phận người kế thừa chính thống mà nói có sức sát thương cực đại, còn tác dụng của ngọc tỷ càng lớn hơn, nhưng hai thứ này giống như đội kỵ binh trọng giáp của hắn, lúc thích hợp dùng thì rất có lợi, nhưng lúc không thích hợp mà đem ra dùng lại chỉ có bị phản tác dụng.

Ngày xưa, Đại Hán xa kỳ tướng quân Thừa lấy được y đới chiếu của Tào Tháo, kết quả lại nhận lấy họa sát thân. Còn những người như Lưu Bang, Tào Phi... Phàm những người lấy được nó đều dùng nó để phục vụ cho việc chứng minh quyền thống trị hợp pháp của mình, nhưng mỗi triều quật khởi thì cùng đồng nghĩa với việc tiền triều vì nó mà bị điệt vong. Vật này phải lựa chọn thời cơ thích hợp mới được dùng, khi thực lực tương xứng sẽ rất có tác dụng, lúc này chỉ có thể coi nó như là một bí mật thôi.

Vì suy nghĩ này mà Dương Hạo đã bỏ ý định đem hai vật này nói cho ba người biết. Bốn người đều có suy nghĩ riêng, trong phòng chợt tĩnh lặng lại, mọi người cùng âm thầm suy nghĩ, thỉnh thoảng lại gắp một miếng thức ăn, nhấm chút rượu, lại trầm mặc trong thời gian khoảng một nén hương, Đinh Thừa Tông từ từ ngẩng đầu dậy, chần chừ một lát, liền nói: “Thái úy muốn đánh lấy Lũng Hữu, còn Thượng Ba Thiên dưới sự ủng hộ của Tống đình mà tốc độ quật khởi không kém gì lúc thái úy mới đến Lô Châu. Tộc trưởng La Đan của lục cốc phiên bộ tuy ngầm có được sự trợ giúp của thái úy, nhưng Thượng Ba Thiên bây giờ giống như thái úy khi lấy được Ngân Châu, còn tộc trưởng La Đan lại còn xa mới bằng được Lý Quang Duệ, về lâu về dài, chỉ dựa vào một La Đan thì tuyệt đối không thể ngăn cản được sự quật khởi của Thượng Ba Thiên”.

Mọi người đều nhìn chăm chú vào Đinh Thừa Tông, Đinh Thừa Tông nói tiếp: “Tình hình như thế này cũng giống như sự tranh chấp không ngừng. Nếu như ở trên thương trường thì với cục diện như thế này vẫn có một cách”.

Dương Hạo vội vã nói: “Ngài nói đi”.

Đinh Thừa Tông nói: “Dẫn một thế lực mới vào trong vòng nước xoáy, địa bàn tổng cộng chỉ có như thế, nếu như dẫn một thế lực mới vào, để cho bọn chúng tự tranh chấp với nhau, kết quả thì đừng ai mong được ngồi chỗ lớn. Đợi khi chúng ta ra tay thì dựa vào thế lực hùng hậu vượt xa bọn họ, lúc đó sẽ thu mua, hoặc đánh áp hoặc phân hóa bọn chúng, cuối cùng nuốt luôn bọn chúng, như vậy còn tránh được cái tiếng phát động chiến tranh trước ở địa phương”.

Ánh mắt ba người Dương Hạo sáng lên, Đinh Thừa Tông vốn chỉ muốn thử đưa ra kiến giải của mình, vừa thấy thần sắc của ba người như vậy, không khỏi thấy được cổ vũ lớn, tiếp tục nói: “Nếu như cách này có thể dùng để mưu quốc, thì... Sau khi hoàn thành bước thứ nhất của kế hoạch, để cho nghĩa quân Thục quốc tiến vào Lũng Hữu thì thế nào? Như vậy có thể tránh được tổn thất vì bị Tống đình bao vây tiêu diệt, lại có thể thực hiện được mục đích kìm hãm Thượng Ba Thiên”.

Nói đến đây, Đinh Thừa Tông liền cười một cách bí hiểm nói: “Tống đình sẽ không ngờ rằng khi chúng ta bị ép từ bỏ đế hiệu, an phận thủ tại Hà Tây, lại còn mưu đồ với Lũng Hữu. Nghĩa quân Thục địa đi rồi, Tống đình không những được thở phào mà đối với cục diện thăng bằng của Lũng Hữu cũng thấy lạc quan hơn. Rốt cuộc Tống đình cũng không hy vọng ở Lũng Hữu lại xuất hiện một Dương thái úy, nhưng Thượng Ba Thiên là người một tay chúng nâng đỡ lên, đến lúc đó lợi dụng hắn để kiềm chế chúng ta, nhưng lại không có cách nào tự mình ra mặt để làm yếu đi thế lực của Thượng Ba Thiên. Thủ đoạn mượn đao giết người này ngay cả Triệu Quang Nghĩa cũng không nghĩ ra, đám văn thần võ tướng của hắn sao có thể can gián được”.

Trong đầu Dương Hạo lập tức xoay chuyển. Nghĩ kỹ, lại phủ định kế hoạch này: “Kế thì hay, chỉ là dùng không thỏa đáng”.

“Sao cơ? Không thỏa đáng chỗ nào?”.

“Nghĩa quân Thục tuy hiệu xưng có mười vạn, nhưng trong đó lại có rất nhiều già trẻ phụ nữ yếu đuối, cố thổ khó rời. Cho dù chúng ta đã khống chế quyền lãnh đạo của bọn họ, cũng rất khó bảo họ quay lưng ra đi, đây là điểm thứ nhất. Điểm thứ hai, Thục Trung đa phần là sơn địa, sĩ tốt nghĩa quân đó đều thiện leo đồi vượt núi, nhưng lại không biết nhiều về cưỡi ngựa, bọn họ không thiện mã chiến, kỵ xạ, cũng không thể làm chiến mã, nuôi chiến mã, một khi đến Lũng Hữu thì ưu thế tác chiến sơn địa sẽ không còn tồn tại nữa, trước mặt thiết kỵ của Thượng Ba Thiên chẳng qua chỉ là một đàn dê cừu đợi thịt mà thôi, không có tác dụng gì”.

Những lời Dương Hạo nói đúng là điểm yếu của nghĩa quân Thục Trung, Đinh Thừa Tông nghe rồi không khỏi thất vọng, Chủng Phóng liền lên tiếng: “Nghĩa quân Thục Trung không thể dùng, vậy A Cổ Lệ ở Cam Châu thì sao?”.

Dương Hạo ngẩn ra: “A Cổ Lệ?”.

Chủng Phóng hưng phấn nói: “Đúng thế, A Cổ Lệ! Nếu như lệnh cho A Cổ Lệ giả vờ tạo phản thái úy, thống lĩnh binh tháo chạy đến Lũng Hữu, không phải đã có hiệu quả phân chia thế lực của Thượng Ba Thiên hay sao?”.

Dương Hạo kinh ngạc nói: “Việc này... Bộ lạc Hồi Hột tuy cũng là bộ lạc du mục định cư trên thảo nguyên, nhưng Hồi Hột Cam Châu ít nhiều cũng có thói quen nông canh, để cho bọn họ mang tộc di dân đến Lũng Hữu, muốn thuyết phục những thủ lĩnh của bọn họ e làkhó. Hơn nữa, vương phi A Cổ Lệ trước mắt có thật sự trung thành với ta hay không còn chưa xác định được, nếu như đi xa rồi, chúng ta có thể khống chế được nàng ta hay không còn khó dự liệu”.

Đinh Thừa Tông nói: “Vậy chúng ta sẽ khống chế chắc chắn A Cổ Lệ trước?”.

Dương Hạo hỏi lại: “Lòng người cách bởi cái bụng, làm thế nào để xác định được nàng ta hiếu trung hay không?”.

Đinh Thừa Tông thân là người phụ trách Phi Vũ ở Hạ Châu, đối với tình hình bên Cam Châu thì nắm rõ như lòng bàn tay, liền nói: “Ân uy cùng thi hành, vương phi A Cổ Lệ khi chiến một trận với thái úy, với thân phận nữ nhi của mình, lại xông lên làm tiên phong, không sợ sống chết, đó gọi là dũng, là trung. Còn Dạ Lạc Hột lại vứt bỏ nàng, vương phi A Cổ Lệ vẫn canh cánh điều này trong lòng. Nữ nhi gia ở thảo nguyên, yêu hận rõ ràng, tính tình phóng khoáng, vương phi A Cổ Lệ trẻ tuổi xinh đẹp, lại là hậu nhân bộ lạc vương họ trong cửu họ, thân phận rất tôn quý. Nếu như thái úy nạp nàng ta làm thiếp, rồi ban tình ban nghĩa, giữ lại hết gia quyến làm con tin, còn sợ...”.

Hòa thân kết thế ở thời đại đó là chuyện bình thường, nữ tử tái giá, chưa cần nói ở Tây Bắc mà ngay cả ở Trung Nguyên cũng không phải chuyện to tát gì, cho nên ngay như Chủng Phóng, một đại hiền nho gia nghe rồi cũng không cho là sai trái. Còn Dương Hạo, nếu như thật sự xưng đế, vậy vương phi A Cổ Lệ không còn là thiếp nữa, mà là hoàng phi tôn quý, tin tưởng rằng với nhân phẩm tài mạo và thân phận tôn sùng của Dương Hạo, A Cổ Lệ cũng khó tránh động lòng, khi đã rơi vào lưới tình thì kế này có thể thực hiện được.

Hai mắt Chủng Phóng sáng lên, vừa mới muốn mở mồm tán đồng, đốc thúc Dương Hạo làm bá vương nghiệp sủng đồ, kết mối nhân duyên với vương phi A Cổ Lệ, Chiết Tử Du đột nhiên thốt lên: “Không được!”.

Chủng Phóng và Đinh Thừa Tông bây giờ đầu đều đang nằm ở vị trí thần tòng long, với vấn đề mưu nghiệp bá vương nên hoàn toàn quên mất bên cạnh còn có một nữ Gia Cát bị Dương Hạo dày vò biến thành oán phụ trong khuê phòng, lúc nàng vừa mở mồm phản đối, hai người mới chợt nhận ra.

Đinh Thừa Tông thầm nghĩ: “Chiết cô nương à, huynh đệ ta nếu như làm hoàng đế rồi thì hậu cung còn thiếu chỗ của cô sao? Hậu phi của đế vương sao có thể đơn giản là hương phu hiếu tử được, chỉ có thông minh tuyệt đỉnh cũng không có tác dụng. Muốn làm một hiền phi thì cô nương phải bớt chút tính kiêu ngạo đi”. Có điều Đinh Thừa Tông biết trọng lượng của Chiết Tử Du trong lòng Dương Hạo, nên tuy trong lòng có thầm oán trách nhưng không trực tiếp nói ra.

Nhưng Chủng Phóng lại không có những cấm kỵ đó, theo hắn thấy tuy luận chuyện thiên hạ đại sự, nhưng lại để cho một nữ nhân tham dự mưu lược, đó đã là sự xem trọng đặc biệt của Dương Hạo rồi. Tất cả những đại sự dính vào căn bản của giang sơn xã tắc thì tiêu chuẩn cân bằng của nó chỉ có hai chữ “lợi ích”, chưa cần nói Chiết Tử Du và Dương Hạo bây giờ vẫn chưa có quan hệ gì, cho dù nàng ấy là lục cung thống soái, hoàng hậu mẫu nghi thiên hạ thì hắn cũng dám phạm thượng mà can gián. Hắn lập tức trầm mặt xuống, phản bác nói: “Sao lại không được?”.

“Ta...”. Chiết Tử Du ngắc ngứ một hồi. Dương Hạo nhìn nàng, trong mắt dần lộ ra vẻ thú vị: Một mỹ nhân như một cây gỗ, không biết ghen, không biết vì nhỏ nhen một chút thì nào còn vẻ hương sắc đầy sức sống nữa chứ. Đây mới giống một cô nương hoạt bát, khụ khụ, nàng... Chắc là ghen vì ta chứ?

Dương Hạo mừng thầm, ước gì nàng lại lỡ miệng nói ra gì đó nên cũng không vội giải vây. Chiết Tử Du thấy dáng vẻ như đang nghe chuyện cười của hắn, tức khí chỉ muốn đánh cho hắn một trận, nhưng đột nhiên ý chí xoay chuyển, nghĩ ra tâm kế ung dung nói: “Ta là một nữ nhi, đương nhiên hiểu được tâm tư nữ nhi, Dạ Lạc Hột và vương phi A Cổ Lệ vốn là phu thê, nhưng khi gặp đại nạn lại đem nàng ra làm con quỷ chết thế. Bây giờ thái úy lại muốn bí mật nạp nàng làm thiếp, lại thúc giục nàng đi làm việc vì mình, như vậy có gì khác với Dạ Lạc Hột chứ? Vương phi A Cổ Lệ đã bị Dạ Lạc Hột làm đau đớn trái tim, còn có thể tin vào thành ý của thái úy sao? Hồi Hột Cam Châu và người Thổ Phồn Lũng Hữu có giao tình, một khi nàng ấy đến được Lũng Hữu thì sao biết được nàng ấy có cấu kết với bọn họ không?”.

Chủng Phóng nói: “Vậy... Chiết cô nương còn có biện pháp nào tốt hơn không?”.

Chiết Tử Du cười nhạt, liếc mắt nhìn Dương Hạo, khiêu khích nói: “Tiểu nữ đã nhận được sự gợi ý từ hai vị đại nhân, cũng đã nghĩ ra một cách, chỉ là không biết... Thái úy có dám dùng không thôi?”.

*

* *

Lạc Hột và Lý Kế Quân, cùng ba lộ truy binh của Trình Thế Hùng, Lý Kế Đàm, Trương Sùng Nguy đuổi bắt nhau như trò chơi trốn tìm. Lúc này thì chạy tới chân Hoành Sơn, lúc kia lại vượt qua Vô Định Hà, đông trốn tây chạy, ta truy ngươi tháo, khó khăn lắm mới bỏ được một đoạn, khoái mã quất roi ngựa phi nhanh tới Ngân Châu, đến bên bờ Mễ Chi, lại tổn thất thêm hơn một nửa. Nhớ tới cách đây không lâu về trước, mình còn ngồi ở Cam Châu hùng thành, tay nắm cả sáu vạn đại quân, dưới trướng còn cả ba mươi vạn con dân, còn bây giờ căn cơ đã mất, ngay cả vương phi A Cổ Lệ và thứ tử Khúc Ly cũng lần lượt trở thành thứ bỏ đi, bất giác cảm thấy bi thương trong lòng, lớn tiếng khóc vang.

Lý Kế Quân lại rất bình tĩnh, dù sao hắn cũng đã bị uất ức hơn hai năm nay rồi, sự kiêu ngạo ngày xưa sớm đã bị mài mòn đi nhiều, nên rất trầm tĩnh, vừa thấy Dạ Lạc Hột đứng bên bờ sông khóc bi thảm, liền khuyên nhủ: “Khả hãn không cần phải đau lòng nữa, thắng bại là chuyện thường binh gia, khả hãn nhất thời bị thất bại như thế này, nhưng với tốc độ này thì Dương Hạo sẽ càng bại nhanh hơn, bại càng thảm hơn chúng ta. Tống Quốc sẽ không dễ dàng đối phó như vậy đâu, chúng ta tuy bại rồi, nhưng Tống Quốc chưa bại, danh tướng Đại Tống Phan Mỹ, hậu sơn còn vững chắc hơn mấy trăm lần so với chúng ta, Dương Hạo đắc ý nhất thời, chưa chắc đã có kết cục tốt”.

Dạ Lạc Hột đau lòng nhức óc nói: “Cho dù Tống Quốc đánh bại Dương Hạo, làm cho hắn tán dương tán cốt chẳng qua cũng chỉ là làm cho chúng ta bớt tức mà thôi. Nhớ lúc trước Lý gia ngồi vững ở Định Nan ngũ châu, Dạ Lạc Hột ta chiếm cứ bắc tây vọng Cam Châu, là hùng một phương, bây giờ lại rơi vào tình cảnh này, không bao giờ còn có ngày xuất đầu, sao có thể không đau lòng chứ?”.

Trong mắt Lý Kế Quân liền hiện lên một vẻ tản nhẫn, cắn răng nói: “Chúng ta bại thì bại, nhưng nếu nói là không có ngày xuất đầu cũng chưa chắc, cho dù chỉ chừa lại một binh một tốt, chỉ cần tìm được cơ hội, chúng ta cũng có thể có ngày đông sơn tái khởi”.

Dạ Lạc Hột chỉ lắc đầu nói: “Khó, khó như lên trời, không có địa bàn, không có con dân, không có binh mã, xuất lộ duy nhất của chúng ta chỉ có dựa vào Tống đình, chịu sự kìm chế của người ta, làm một con mã tiền tốt, nói đến đông sơn tái khởi há chẳng phải là kẻ khờ nằm mơ sao?”. Lý Kế Quân cười hiểm ác nói: “Chưa nghĩ tới thắng đã nghĩ tới bại, từ khi Lý gia ta mất Hạ Châu, rơi vào cái cảnh này, ta đã hiểu được cái đạo lý này. Thoái lộ, ta sớm đã nghĩ ra”. Hai mắt Dạ Lạc Hột liền sáng lên, vội hỏi: “Còn có thoái lộ sao? Thoái đi đâu?”.

Lý Kế Quân chỉ tay về phía trước, nói: “Xuất Ngân Châu, qua Tuy Châu, vào Lũng Hữu. Lũng Hữu là vùng đất vô chủ, tứ phương hào hùng niên bá, bây giờ Thượng Ba Thiên và La Đan đánh nhau không thể tách ra, chúng ta đến trước tương trợ, Thượng Ba Thiên sao có thể không vui vẻ tiếp đón chứ. Đến lúc đó, đại hãn có thể dùng tôn danh vương giả để chiêu nạp các bộ lạc cũ, tụ hợp người Hồi Hột Lũng Hữu để dùng, còn ta có thể chiêu nạp người Khương ở Lũng Hữu, chúng ta có thể giơ lại kỳ hiệu, chưa chắc đã không phải có cơ hội!”. Dạ Lạc Hột tinh thần phấn chấn, thốt lên: “Không sai! Không sai! Chúng ta vẫn chưa tới đường cùng, có điều...”.

Có được con đường ra này, Dạ Lạc Hột lại suy tính hơn thiệt: “Bây giờ binh mã ta có hạn, lại toàn là thương tốt bại binh, sĩ khí suy giảm, còn có thể đến được Ngân Châu sao? Nếu như Ngân Châu xuất binh ngăn cản thì...”.

Lý Kế Quân thầm chửi trong lòng: “Cái lão già này, thật hổ lúc trước là nhất bá tây vực, chiến bại liên tục đã mất hết sĩ khí rồi”.

Chửi thì cứ chửi, bây giờ hai người hợp binh còn có một con đường sống, nếu như tách ra mà chiến thì đó thật sự sẽ là tử lộ, nên hắn vẫn phải cố kìm nén lại mà an ủi: “Khả hãn yên tâm, trước khi ta đột kích Hạ Châu, ta đã điều tra rất cẩn thận với con đường này. Địa thế Ngân Châu vốn là vùng tất tranh của binh gia, cho nên sớm đã bị Dương Hạo tạo thành một tòa thành kiên cố không thể phá vỡ, nhưng Dương Hạo binh tướng mỏng, bây giờ thủ hạ chỉ có mấy viên lương tướng, hoặc là ở Hoành Sơn, hoặc là ở Cam Lương Sa Quả, hoặc trấn tại Hạ Châu, cho nên Ngân Châu không còn lương tướng nữa.

Bây giờ thủ tướng Ngân Châu là Kha Trấn Ác và Lý Nhất Đức, tên Kha Trấn Ác này rất giỏi thủ thành, nhưng tiến công không giỏi, không phải là tướng thiện chiến. Còn Lý Nhất Đức vốn là trưởng của đại tộc Lý thị Ngân Châu, cho nên được Dương Hạo dùng tới, bây giờ nhậm chức tri phủ Ngân Châu, con người này không biết binh pháp. Trọng yếu Ngân Châu, Dương Hạo sớm đã dặn dò bọn họ cẩn thận, bọn họ sao có thể không biết, sao dám mạo hiểm mà rời thành tấn công địch? Khi ta đến, tứ môn Ngân Châu đóng chặt, như là gặp đại địch, chỉ sợ ta đi đánh chúng. Ha ha, chỉ dựa vào hai tên vô dụng ấy thì chúng ta có ngang nhiên bành trướng đi qua thành Ngân Châu, bọn chúng cũng không dám ra nghênh địch đâu”.

Dạ Lạc Hột nghe vậy mới yên tâm lại nói: “Như vậy thì tốt quá, chúng ta đóng quân ở đây, nghỉ ngơi một lát, sau đó lập tức lên đường, nếu như để truy binh đuổi đến, vậy thì muốn đi cũng không đi được nữa”.

*

* *

Thành Ngân Châu. Kha Trấn Ác mặc một thân áo giáp, tuần hành tứ thành, không chút chậm trễ.

Tuy bây giờ không có chiến sự, phía phòng ngự thành trì cũng mưa gió không lọt, nhưng hắn vẫn rất cẩn thận, một ngày một đêm tuần thành bốn lần, mưa gió cũng không bỏ, còn phái thám mã đi xa trăm dặm, thám thính mọi động tĩnh ở các vùng lân cận Ngân Châu. 

Từ lần Ngân Châu mất đi từ trong tay hắn, tuy Dương Hạo không có trách hắn, nhưng mối nhục này hắn vẫn luôn ghi nhớ trong lòng, không dám lơ là một chút nào. Hắn vốn là một trong những tướng lĩnh đầu tiên đi theo Dương Hạo, luận về tư cách và sự từng trải thì không ai có thể vượt qua hắn, nhưng bây giờ hắn chẳng qua vẫn chỉ là thủ thành Ngân Châu, các chiến sự sau này, Dương Hạo rất ít khi để hắn xuất đầu, quyền lực của Dương Hạo càng ngày càng lớn, còn địa vị của hắn trong đám võ tướng của Dương Hạo càng ngày càng nhỏ, Kha Trấn Ác trong lòng nhạy cảm, tự thấy xấu hổ.

Nhưng hắn không chút oán trách nào với Dương Hạo, hắn biết mình tuy là hậu nhân của võ tướng đại Đường, nhưng về bản lĩnh hành quân tác chiến lại chẳng kế thừa được mấy phần. Luận về xung phong lên trận địa hắn không bằng đám tướng Mộc Ân, Mộc Khôi, Ngải Nghĩa Hải. Luận về điều binh khiển tướng, hắn còn xa mới bằng được Chủng Phóng, Trương Phổ, Dương Kế Nghiệp, cho dù là một số hàng tướng như Trương Sùng Nguy, Lý Hoa Đình, bản lĩnh cũng mạnh hơn hắn nhiều.

Cho nên Kha Trấn Ác một mặt làm tốt bổn phận của mình, một mặt nghiên cứu những trang binh thư do tổ tông để lại, hắn luôn mang theo một quyển bên người, khi nào rảnh rỗi lại đem ra xem. Một mặt hắn khổ luyện binh thư, đem những kinh nghiệp thực chiến so sánh đối chiếu với những gì đã đọc được trong binh thư, một mặt thường xuyên tham khảo, học hỏi những vị tướng lĩnh khác, cho dù quan vị của đối phương thấp hơn hắn, hắn cũng không ngại mà hỏi. Cứ lao tâm lao lực như vậy, cho dù cơ thể hắn có khỏe như trâu thì một khi hết ngày, cũng mệt mỏi rã rời.

Bỏ trọng giáp xuống, Kha Trấn Ác mệt mỏi ngồi xuống ghế, Mục phu nhân nghe thấy tướng công đã về, liền đi từ trong nội trái ra, thấy dáng vẻ của tướng công, cảm thấy vô cùng xót xa. Tính tình nàng tuy điêu ngoa, Kha Trấn Ác lại có chút sợ vợ, nhưng tình cảm hai người vô cùng sâu đậm. Mục phu nhân vội bước lên trước, nhẹ đấm bóp vai cho tướng công, dịu dàng nói: “Mệt rồi sao, thiếp đã hầm gà mái với kỳ tử cho chàng, ăn trước đã rồi đi ngủ, đêm nay còn phải đi tuần, đừng để mệt mỏi quá”.

“Nương tử không cần phải bận tâm, cơ thể ta rắn chắc, không có gì đáng ngại cả”. Kha Trấn Ác vồ vỗ vào tay vợ, cười nói. Hắn lại theo thói quen, mang cuốn binh thư đã đọc một nửa từ trong người ra, vừa thường thức sự dịu dàng chăm dóc của thê tử, vừa nhân tiện đọc thêm. Đúng lúc này, một tên tiểu hiệu lưng cắm hồng kỳ chạy vọt vào, chắp quyền bẩm báo: “Báo! Kha tướng quân, bại quân của Dạ Lạc Hột Cam Châu và Lý Phi Thọ Tuy Châu đã chạy hướng về Ngân Châu ta, bây giờ cách thành bảy mươi dặm”. Kha Trấn Ác kinh ngạc, vội vã đứng lên, trầm giọng nói: “Số lượng quân địch là bao nhiêu, trận hình quân như thế nào? Có mang theo vũ khí công thành gì không?”.

Tiểu hiệu đó bẩm báo: “Số lượng quân địch vào khoảng trên dưới một vạn, tuy là bại quân nhưng hình sắc vẫn rất ung dung, không mang theo chiến xa giáp trượng gì, xem ra là muốn đi vòng qua Ngân Châu ta để tháo chạy về Tuy Châu”.

“Tiếp tục thăm đò!”.

“Tuân mệnh!”. Tiểu hiệu đó lại chạy đi như bay, Kha Trấn Ác vội vã cầm áo giáp, vừa đi vừa khoác vào người, Mục Thanh Tuyền nói: “Phu quân muốn đăng thành chuẩn bị thủ thành sao?”.

Kha Trấn Ác nói: “Đúng thế, tuy xem dáng vẻ của chúng không giống như muốn công thành Ngân Châu ta, có điều cẩn thận vạn năm, không thể sơ xuất một khắc, ta lập tức đăng thành thủ thành”.

Mục Thanh Tuyền suy nghĩ một chút rồi vội nói: “Phu quân sao không chủ động xuất thành, ngăn cản đường thoái lui của chúng”.

“Sao cơ?”. Kha Trấn Ác dừng tay lại, kinh ngạc nhìn ái thê, chần chừ nói: “Chủ động dẫn binh ngăn cản đường thoái lui của chúng sao?”.

Mục Thanh Tuyền bước tới gần, dịu đàng nói: “Phu quân, khi binh Tuy Châu đến, binh mã gần bốn vạn người, bọn chúng giống như một bó đuốc đem từ Tuy Châu đến, phu quân lại chỉ có binh lực một vạn năm nghìn thủ tốt, không thể xuất chiến, một mặt lại đi bẩm báo với Hạ Châu, một mặt thủ thành trì, đây là cách làm thỏa đáng. Còn bây giờ, quân địch đại bại quay về, quân tình truyền báo lại nói bây giờ ba vị đại nhân Lý Kế Đàm, Trương Sùng Nguy, Trình Thế Hùng đang truy đuổi phía sau. Địch sớm đã sắp tan thuyền rồi, không thể chiến một trận lớn, nếu như chúng ta vẫn kiên thủ thành trì, ngồi nhìn chúng chạy thoát, há chẳng phải là mất đi chiến cơ sao?”.

“Ừm...”. Kha Trấn Ác dắt đao vào hông, trầm giọng nói: “Thái úy lệnh cho ta bảo vệ Ngân Châu, còn bây giờ... Vạn nhất có gì không hay, Kha Trấn Ác này có chết trăm lần cũng không thể chuộc tội”.

Mục Thanh Tuyền lại nói: “Phu quân vẫn đang tự trách mình vì lần trước để thất thủ thành Ngân Châu sao? Phu quân, thắng bại là chuyện thường của binh gia, cho dù là quân thần binh thánh cũng không thể không có lúc bại trận, mất chiến cơ, nếu như chỉ vì một lần thất bại mà sợ lớn sợ bé, không dám chủ động nắm bắt chiến cơ, vậy người đó không phải là bại một lần, mà là vì một lần bại mà thành một kẻ thất bại cả đời.

Bây giờ quân địch tổng cộng chỉ có hơn một vạn, hơn nữa đều là tàn binh bại tướng, chiến lực của chúng chỉ cần nghĩ cũng biết. Bọn chúng nếu đã đến đây thì ba vị tướng quân Lý, Trương, Trình chậm lắm thì nửa ngày cũng tới, lúc này chủ động ép địch ở ngoài, nguy hiểm cực nhỏ. Nếu như có thể bắt được cả hai tên đó thì đối với thái úy mà nói lại là đại hỉ làm chấn hưng lòng quân, phu quân cũng vì thế mà được nở mày nở mặt. Còn nếu như phu quân vui vẻ, mở to mắt để cho chúng tháo chạy qua trước mắt mình, thì sau này trước mặt các vị đồng liêu còn thể diện gì nữa, trước mặt đám thuộc hạ còn có thể ngẩng đầu không?”.

Kha Trấn Ác nghe vậy lòng rất rung động, nhưng thất bại lần trước suýt nữa đã đưa tang cả gia quyến nhà thái úy. Chuyện lần đó quả thực như một ngọn lửa yêu ma vô hình cứ dày vò hắn, cho nên hắn vẫn chần chừ nói: “Nhưng... Nhưng Ngân Châu là một môn hộ trọng yếu của thái úy, nếu như nơi này mất đi thì Kha Trấn Ác ta có chết tạ tội cũng không thể đền hết, thật sự nếu như có chút chuyện, chỉ e...”.

Mục Thanh Tuyền đã có chút tức giận, trầm giọng nói: “Phu quân, tình hình quân địch bây giờ đang gặp nhiều bất lợi, cũng không thể dễ dàng lấy đi Ngân Châu ta, huống hồ viện quân rất nhanh sẽ đến, còn ý đồ của quân địch là tháo chạy. Làm tướng thì trí, tín, nhân, dũng, nghiêm, đều không thể thiếu được, nếu như ngay cả việc này chàng cũng không làm được thì chúng ta đừng làm chức quan này nữa, thiếp sẽ thu dọn hành lý, thỉnh phu quân xin từ quan với thái úy, chúng ta trở về Mục Kha trại tiếp tục làm người săn bắn trong rùng”.

Kha Trấn Ác bị thê tử kích cho mấy câu, không khỏi mặt đỏ lên, cắn răng nói: “Được! Ta sẽ dẫn năm nghìn binh xuất thành chiếm cứ yếu địa, cản đường lui của địch, thành Ngân Châu này...”.

Mục Thanh Tuyền nói: “Thiếp sẽ lập tức mặc giáp, thay phu quân phòng ngự thành, bên Lý đại nhân thiếp cũng sẽ thay phu quân báo một tiếng, binh quý thần tốc, không thể chần chừ. Phu quân, nếu đã quyết định rồi thì không thể có một chút do dự nào nữa”.

“Ta biết rồi, ta đi đây”. Kha Trấn Ác vỗ vỗ vỏ đao, mặt mày đầy hào khí, hắn xoay người bước đi, đi đến cửa đột nhiên quay người lại, hô lên: “Nương tử!”.

Mục Thanh Tuyền đang định quay vào hậu trái mặc giáp, nghe tiếng gọi liền tức giận nói: “Lại sao nữa?”.

Kha Trấn Ác đứng yên tại chỗ nói: “Kha Trấn Ác có được hiền thê như nàng, đời này không còn gì phải hối hận”. Nói rồi liền quay người chạy nhanh như bay.

Mục Thanh Tuyền ngẩn ra, nhìn theo lưng hắn, đột nhiên lau lau khóe mắt, mắng nhẹ: “Đồ ngốc này...”. Nhưng khóe miệng nàng lại nở ra một nụ cười ngọt ngào.

Mục Thanh Tuyền vừa vội vã bẩm báo cho Lý Nhất Đức, vừa đích thân mặc giáp đăng đài thủ thành. Kha Trấn Ác điểm đủ năm nghìn binh, lên khoái mã xuất thành tới núi Đàn Hợp Yên, phía tây thành Ngân Châu. Nơi này là con đường binh mã của Dạ Lạc Hột và Lý Phi Thọ phải đi qua, nơi này có ưu thế về địa lý, nếu như muốn đánh ngăn chặn thì đây là lựa chọn thích hợp nhất.

Kha Trấn Ác đem binh đi trước tới Đản Hợp Yên, lập tức bố trí trận hình, đào chiến hào, hố mai phục, nơi bắn cung, dưới sự bố trí của Kha Trấn Ác, mọi thứ đều đâu ra đấy. Phòng ngự chính là bản lĩnh lớn nhất của Kha Trấn Ác, hơn nữa hắn giỏi nhất lợi dụng địa hình xung quanh, cho dù là một cành cây một cọng cỏ, một tảng đá hay một cái hố đều có thể được hắn dùng tới.

Thời gian này tuy ngắn, nhưng dưới sự chỉ huy của hắn, quả đồi thấp này cũng trong một thời gian ngắn được hắn biến thành một tòa binh ải giống như khuôn đúc, Kha Trấn Ác đã dùng đến trận nhãn của Điêu Thuyền động trong truyền thuyết. Hắn đưa mắt nhìn về xa xa thấy đã có bóng đáng của quân địch, lại thấy trận địa phòng ngự mình vừa mới hoàn thành, đột nhiên động linh cơ, liền gọi người cắm nhiều cờ trên đỉnh núi, chặt nhiều cây giả làm một số lô cốt. Nhất thời nhìn binh mã trên núi, như thăng gấp nhiều lần.

*

* *

Binh mã của Dạ Lạc Hột và Lý Kế Quân vội vã tháo chay qua chân Đàn Hợp Yên, từ xa đã nhìn thấy có rất nhiều cờ trên núi, binh mã bố trí dày đặc, Dạ Lạc Hột vội vã ghìm cương ngựa lại, sợ hãi thất sắc, tang thương nói: “Xong rồi, xong rồi, lần này thì xong rồi, ngài không phải đã nói là binh mã Ngân Châu tuyệt đối không dám xuất thành nghênh chiến sao, ngài nhìn xem kia là cái gì?”.

Lý Kế Quân thấy khí thế binh ải tiền phương nghiêm mật, trong lòng đột nhiên nặng nề: “Tính sai rồi, ta lại tính sai rồi, lẽ nào... Lẽ nào ông trời thật sự đã định Lý Kế Quân ta phải mất mạng tại đây?”.

Bọn họ không phải là sợ chiến, chỉ là truy binh đuổi quá sát, lần này tuy có thể bỏ xa một chút, nhưng chưa cần tới nửa ngày truy binh cũng sẽ đuổi tới. Lại nhìn trận hình phía trước, e là thủ quân Ngân Châu đã xuất hết quân tinh nhuệ ra, thề không để cho một binh một tốt của bọn họ tìm thấy đường sống, nếu thật như đánh một trận thì quả núi này bọn họ chưa chắc đã có thể công đánh, cho dù có đánh được cũng không phải là chuyện một sớm một chiều có thể làm được, mà khi đó truy binh tất cũng đuổi đến, bọn họ nào có cơ hội thoát được.

 Chương 40: Tấp Nập Đồng Hành

Tất cả hy vọng đều trở thành bọt nước, Lý Kế Quân ghìm ngựa nhìn lên đình núi, ngẩn ra một hồi lâu, lại không nghĩ ra nên tiến hay nên lùi. Vương tử A Lý vừa nhìn thấy binh sĩ xung quanh đấy do dự và hoảng hốt, biết rằng nếu như lại chần chừ tiếp, không khí sợ hãi sẽ bao trùm tất cả, chưa cần nói đến đánh, ngay bây giờ đội tàn quân này sắp sửa tan rã đến nơi rồi, nếu như lại không chiến thì cha con họ và các bộ lạc còn lại của Cam Châu sẽ hoàn toàn bị tiêu diệt, vì thế hắn liền rút loan đao ra, cao giọng hô lớn: “Chúng tướng sĩ nghe lệnh, bây giờ lùi tất chết, phía trước còn có một con đường sống, chúng ta liều chết xông qua!”.

Dạ Lạc Hột và Lý Kế Quân bị lời nói của hắn làm thức tỉnh, lập tức rút đao của mình ra ra lệnh cho tam quân, những người trong lòng vừa muốn tan rã liền phấn chấn lại.

Kha Trấn Ác đứng trên núi, thấy tình hình địch quân như vậy, không khỏi thầm cười lạnh, tự tin cũng tăng lên nhiều lần. Vừa thấy sau khi quân địch hoảng loạn, lại từ từ bày bố trận hình tiến công dưới sự ép buộc của đám tướng lĩnh, lập tức cũng ra lệnh chuẩn bị. Chính vào lúc này, một kỵ mã hậu phương vội vã phi lên núi, rồi xuống ngựa, chạy tới trước chỗ chỉ huy của hắn, lớn tiếng nói: “Tướng quân, tướng quân. Phi Vũ truyền mệnh lệnh khẩn cấp của thái úy tới”.

“Cái gì?”. Kha Trấn Ác vội bước lên. Cầm lấy quân thư, Kha Trấn Ác đọc một lượt, sắc mặt lập tức lộ ra điệu cười còn khó coi hơn khóc: “Để... Để cho chúng thoát?”.

*

* *

Tin tức Dương Hạo tây chinh ung dung trở về Hạ Châu đã truyền đến, sĩ khí tiền tuyến Hoành Sơn lập tức đại chấn, đi theo đó là sự gia nhập của bốn vạn binh tinh nhuệ, làm cho trận hình phòng ngự Hoành Sơn được Dương Kế Nghiệp bố trí cho mưa gió cũng không lọt càng trở nên kiên cố. Lại năm ngày nữa, Dương Hạo đã đích thân giá lâm Hoành Sơn, tuần thị chiến tinh, với sự cổ vũ chàng, thủ quân Hoành Sơn vô cùng phấn chấn, chủ động xuất kích, làm cho Tống quân nhận sự đả kích lớn.

Biết được Dương Hạo đã trở về Hạ Châu và tăng cường binh lực ở Hoành Sơn, Phan Mỹ và Vương Kế Ân cũng tạm thời dừng tiêu hao nội bộ, thống nhất kế sách đối ngoại. Đầu tiên là dừng phát động một loạt các cuộc tiến công vào Hoành Sơn, sau đó lợi dụng những cương vực và hiểm ải đã chiếm cứ được xây dựng các chiến sự, bắt đầu cắm đồn cắm chốt đánh ổn định, chuẩn bị tốt để chiến lâu dài. Phía Dương Hạo cũng dựa vào hiểm yếu, gia cố công sự phòng ngự, chiến sự quyết liệt hai bên tạm thời dừng lại một giai đoạn, cùng nhau bước vào thời kỳ nghỉ ngơi, hồi phục chuẩn bị cho chiến tranh.

Dương Hạo tới Hoành Sơn, lập tức triệu gặp Dương Kế Nghiệp và đám đại tướng tâm phúc, bí mật bàn bạc ba ngày, sau đó Dương Kế Nghiệp đã truyền xuống một loạt mệnh lệnh: Binh sĩ chiến đấu lâu ngày mệt mỏi chuyển xuống phòng tuyến thứ hai nghỉ ngơi dưỡng sức, quân đội mới điều phát đến tới phòng tuyến thứ nhất, thương binh tàn tướng bị thương chuyển về Hạ Châu dưỡng thương, lương thực không ngừng được chuyển đến Hoành Sơn, lần lượt cắm chốt binh ải ở những điểm trọng yếu. Đồng thời lệnh cho quân Hạ Châu xây thành đắp lũy, đào hào, binh doanh công sự vốn được dựng ở bên ngoài thì đều xây thêm một lớp nữa, ở giữa nhồi bùn đất và cỏ cây, làm cho nó dày lên hết cỡ. Với cách này thì không chỉ làm cho công sự kiên cố hơn mà còn kiêm chức năng tránh cái lạnh của mùa đông, một số người có con mắt tài giỏi có thể nhìn ra, trận chiến này e rằng không dễ đánh.

Cùng lúc đó, quân thư công hàm cũng ngày càng nhiều, trong một ngày bồ câu đưa thư và chim ưng đưa thư đậu xuống vô số, hồng ký tín soái qua lại như con thoi. Tuy nói thái úy bây giờ đang ở Hoành Sơn, quân tình công văn các loại đương nhiên là phải đưa đến đây, nhưng truyền báo dày đặc như vậy, tin tức nhiều như vậy vẫn làm cho người ta cảm thấy đại soái tất đang chuẩn bị một hành động lớn.

Có điều ở cả Hà Tây này người thật sự biết được Dương Hạo muốn xưng đế tổng cộng cũng chỉ không quá ba mươi người, biết được hắn chuẩn bị cho sự thất bại của lần xưng đế đầu tiên này ngoài bản thân Dương Hạo ra thì chỉ có sáu người biết: Chủng Phóng, Đinh Thừa Tông, Chiết Tử Du, Dương Kế Nghiệp, Trương Phổ và La Đông Nhi.

Khi đại mạc vào thu, cây cỏ héo úa, gió thu lành lạnh, hồ mã đang béo. Trên thảo nguyên, bộ lạc mục nhân đang nhanh chóng tranh thủ tích trữ lương thực cho mùa đông lạnh lẽo, lấy Linh Châu làm trung tâm, vùng lương điền rộng lớn dựa vào Hạ Lan Sơn và Hoàng Hà cũng đang bước vào mùa thu hoạch. Một bãi cỏ một mẫu có thể nuôi được nhiều nhất một con ngựa, nhưng một mẫu đất để trồng lương thực thì sản lượng phải thu được từ một đến hai thạch, đủ để dùng cho một hộ gia đình năm người trong một mùa đông. Khi những người nông dân thấy được lợi ích của nó thì vừa vui mừng phấn khởi thu hoạch lúa gạo, vừa bắt đầu tính toán nhân mùa đông nhàn rỗi mà khai phá thêm mấy khoảnh đất hoang để năm sau mở rộng trồng trọt.

Dương Hạo không những cung cấp những hạt giống tốt cho những người nông dân chịu trồng trọt, mời những chuyên gia có kinh nghiệm phong phú từ Trung Nguyên đến, mà còn để cổ vũ cho việc trồng trọt đã giảm thuế má lương thực cho họ, có những chính sách ưu đãi tương đối rõ ràng dành cho khai hoang trồng trọt.

Tiền tuyến Hoành Sơn cho dù một khi bước vào không khí căng thẳng thì dường như hoàn toàn không ảnh hưởng đến cuộc sống của dân chúng hậu phương. Đánh trận đối với bách tính nơi này mà nói, họ đã nhìn thấy quá nhiều rồi, cho dù là dân chúng bình thường, tinh thần cũng được rèn luyện vô cùng vững chắc. Trong hoàn cảnh hiểm ác như thế này, bọn họ cũng kiên cường hơn nhiều so với dân chúng nơi khác, cũng càng lạc quan hơn, chỉ cần một tia hy vọng nhỏ nhoi cũng có thể mang đến cho họ hoan lạc và hài lòng.

Cơ cấu thống trị với quy mô sơ khai của Dương Hạo đã bắt đầu mở đủ mã lực. Ở các mặt như quân sự, chính trị văn hóa, tuyên truyền đều bắt đầu vận hành một cách khua chiêng gõ trống, chuẩn bị đầy đủ các loại chiến lược vì Dương Hạo xưng đế, vì chư châu Hà Tây bình an vượt qua thiên địch và nhân địch của mùa đông năm nay.

Ý thu thật sự càng ngày càng nồng, dưới chân núi, cỏ cây đã biến thành một màu vàng khô, những cây đại thụ lá xanh che trời giờ cũng không nhìn thấy nữa. Gió thu thổi tới, lại những chiếc lá vàng bay bay, những cành cây rung lên. Trên thảo nguyên mênh mông bát ngát, tuy ánh mặt trời vẫn chói lòa, nhưng lại thiếu đi mấy phần ấm áp, sự tiêu điều giữa khoảng không trời và đất dường như cũng cảm nhận được sát khí vô cùng của hai đại quân ở Hoành Sơn.

“Cù lục, cù lục, cù lục...”. Trong son cốc vang lên những tiếng vó ngựa dứt khoát, mấy con chim đang tìm kiếm chút thức ăn trong lớp lá khô dưới đất sợ hãi dang đôi cánh bay lên cành cây, chúng quan sát phía dưới, kiên nhẫn đợi hành nhân đi qua, có điều hai người hai ngựa cứ đứng mãi dưới gốc cây.

Ở cách đó khoảng một đường mũi tên bay, Mục Vũ thống lĩnh những thân tín thị vệ của Dương Kế Nghiệp đứng đợi một chỗ, nhanh nhẹn đưa mắt quan sát chung quanh. Còn phía dưới gốc cây, Dương Hạo ghìm cương ngựa, ngồi trên ngựa sóng vai với Chiết Tử Du.

“Tử Du, Triệu Cảnh tất nhiên sẽ giám sát thật nghiêm mật đối với Chiết gia, một mình nàng tới Biện Lương, an nguy cá nhân chưa cần nói đến, mà muốn cứu bọn họ ra càng không phải là chuyện dễ dàng, nàng thật sự muốn đi sao?”.

Chiết Tử Du gật nhẹ đầu: “Bọn họ là người thân của ta, từ sau khi xảy ra chuyện, ta vẫn chưa đi thăm bọn họ, ngài bảo ta sao có thể yên tâm được? Không đi để đích thân nhìn thấy họ, ta thật khó an tâm. Vốn mang trách nhiệm của Chiết gia quân, có trách nhiệm với Phủ Châu, ta cho dù ngày đêm có mong nhớ họ, mơ thấy họ cũng không thể đi được. Nhưng bây giờ... Dù sao một mình nhẹ nhõm, ta có thể đi thăm họ rồi. Ngài xưng đế ở đây, ta đi trước mấy ngày, đường đi cũng dễ dàng hơn một chút”.

Nàng lại nhìn Dương Hạo, hàn ý trong mắt đần dần chuyển thành sự dịu dàng: “Bất kể như thế nào cũng cảm ơn ngài, trách nhiệm này ta có thể yên tâm giao cho ngài, cũng chỉ có ngài mới chịu gánh giúp ta. Dương... Hạo ca ca. Coi như ta nợ huynh đi...”.

Dương Hạo đột nhiên đưa tay ra nắm lấy dây cương trên con ngựa, nhíu mày nói: “Sao lại nói khách khí thế, làm ta càng nghe càng thấy bất an, lẽ nào... Nàng một đi không trở lại sao”.

“Ta không biết...”. Ánh mắt Chiết Tử Du có chút mờ mịt: “Thật sự ta không biết, ta không nỡ bỏ người thân của ta, lại không biết phải cứu bọn họ như thế nào. Ta không biết nên làm sao, cũng không biết tương lai sẽ sống ra sao. Đi một bước... Nhìn một bước vậy...”.

“Tử Du, ta biết nàng ở Biện Lương còn có một số thế lực mai phục, trong Tùy Phong còn có một số người đáng tin trung thành nghe mệnh lệnh của nàng, nhưng cho dù nàng có bản lĩnh hơn nữa cũng không thể cứu được tất cả người nhà ra, nếu như cứu một hai người, e rằng sẽ làm hại đến những người khác, nhất thiết đừng để tình cảm ảnh hưởng đến hành động”.

Chiết Tử Du cư miễn cưỡng: “Ta hiểu, ta tuyệt đối sẽ không hại người nhà ta đâu, phàm chuyện gì ta cũng sẽ cẩn thận”.

“Nàng không hiểu!”. Dương Hạo tăng nặng ngữ khí: “Nàng cho rằng ta thu nhận binh mã của nàng, đồng ý thay Chiết gia nàng xả cơn uất khí, sau đó yên tâm thoải mái không cần quan tâm đến Chiết gia nàng nữa sao? Đối với Dương Hạo ta, tâm ý của nàng đã nguội lạnh rồi, đúng không? Ta nói cho nàng biết, ta từ trước đến nay ta chưa từng có ý định này, chỉ là có một số việc trước khi chưa chuẩn bị xong thì ta không muốn tùy tiện nói ra, không muốn tùy tiện hứa với nàng. Ta đã đang nghĩ cách cứu toàn bộ gia đình nàng ra”.

Chiết Tử Du cười khổ nói: “Không thể được, trừ phi huynh có thể đánh đến Biện Lương, đoạt lấy giang sơn Triệu thì huynh có thể không? Huynh không thể đánh được, mà cho dù có thể huynh cũng sẽ không có ý thay Tống tự vị, chưa bao giờ có. Dã tâm lớn nhất bây giờ của huynh cũng chỉ là muốn chiếm cứ vùng đất vô chủ Lũng Hữu, tái tạo một thiên hạ, đúng không?”.

Dương Hạo kinh ngạc nói: “Sao nàng biết?”.

Chiết Tử Du thở dài nói: “Ta sao biết ư? Bản tính làm người của huynh và tính khí của huynh ta lại còn không hiểu sao? Đi tới bước ngày hôm nay là do huynh bị ép vào bước đường cùng, huynh sẽ tuyệt đối không chịu đại cử giao binh quyền với Tống, để cho cả Trung Nguyên lại rơi vào chiến loạn, bắc quốc Khiết Đan nhìn chằm chằm như con hổ đói, Triệu Quang Nghĩa e ngại nó. Còn huynh... Huynh và Khiết Đan có mối quan hệ ngầm, giao tình thâm hậu, nhưng huynh cũng đang phòng bị chúng, sự hiềm nghi của huynh đối với chúng còn vượt xa đối với Tống Quốc, huynh tưởng ta không nhìn ra sao?

Khi huynh bàn luận đại sự thiên hạ với chúng ta, chỉ nói muốn lấy Lũng Hữu đang nằm trong tay người Thổ Phồn vào tay mình, nhưng đã từng nói đến mưu đồ Quan Trung, Tây Thục không? Không có! Có được Lũng mà lại vọng Thục, lấy được Lũng Hữu rồi là chiếc chìa khóa mở Quan Trung đã vào tay, huống hồ ở Thục địa này còn hai hai viên phục tử là Tiêu Lục và Thiết Ngưu, một khi Lũng Hữu đã vào tay, Quan Trung và Thục địa sẽ dễ dàng lấy được, từ đây mà đông vọng, chuyện này có gì mà không thể?

Nhưng ngài lại lợi dụng danh tiếng của phụ tử Lý Dục để gây ra một số rắc rối ở Giang Nam, dẫn tới đả kích để có thể nép cờ nằm im. Nếu như ngài có lòng với Trung Nguyên, ngài hoàn toàn có thể làm tốt hơn. Còn nghĩa quân Thục địa nữa, tác dụng của bọn họ đối với ngài mà nói chẳng qua chỉ là để kéo lại bước thoái của Tống Quốc, giảm nhẹ áp lực của Hà Tây ngài, ngài chưa từng nghĩ sẽ biến họ thành một đội binh có thể dùng. Ngài, tuy đắc thiên độc hậu, nhưng lại rất dễ hài lòng, cũng chưa từng có dã tâm gì”.

Dương Hạo nhìn nàng, gió thu lại thổi tới, đôi mắt hắn đầy sự ấm áp: “Người hiểu ta chỉ có Tử Du, có một số chuyện ta nói ra nàng cũng sẽ không tin, vì thế ta mới vậy. Không phải vì ta lòng không có đại trí, mà là...”.

“Sao cơ?”.

Dương Hạo hứng thú cười, ngẩng đầu nhìn trời, từ từ thở ra một hơi nặng nề, quyết định bỏ qua chủ đề này không nói nữa, chuyển sang chuyện khác: “Tử Du, ta thật sự đã nghĩ làm thế nào để cứu người nhà nàng, ta định... Nếu như thật sự không còn cách nào khác thì khi tự bỏ đế hiệu, xưng vương hưu binh, ta sẽ lấy ngọc tỷ truyền quốc để đổi lấy người nhà nàng. Cho nên lần này nàng đến Biện Lương dò thám tình hình người thân, tâm trạng này ta có thể hiểu, nhưng nhất thiết chớ làm ra chuyện đánh rắn động cỏ, nếu không ngược lại sẽ hại bọn họ”.

Chiết Tử Du kinh ngạc mở to mắt ra, thốt lên: “Ngài nói cái gì? Đó... Đó là ngọc tỷ truyền quốc!”.

Dương Hạo nói: “Trong mắt ta, nó chẳng qua chỉ là một cục đá mà thôi, nàng cũng từng nói ta không có ý gì với Trung Nguyên, thì ta cần nó để làm gì? Trong mắt ta, nó sao có thể bằng được với chuyện an toàn của cả nhà nghĩa huynh chứ”.

“Ngài thật sự điên rồi, giao ra ngọc tỷ, đổi lấy người nhà ta, Triệu Quang Nghĩa không lo lắng huynh trưởng ta sẽ vạch mặt chân tướng chuyện hắn xuất binh tới Phủ Châu sao? Nếu ngài đã đầu hàng, rõ ràng là ngài không thể chống chọi lâu được nữa, hắn sẽ không vì thế mà phái thêm quân, nhất cử tiêu diệt ngài sao?”.

Dương Hạo mỉm cười: “Ta thấy nàng mới là quan tâm thành loạn ý, sự thông minh trí tuệ ngày xưa đều không thấy nữa rồi. Khi ta chưa làm cho hắn mệt mỏi hết sức thì sao có thể bắc thang cho hắn đi được? Hắn còn có dư sức để tiếp tục phát binh sao? Hắn không sợ ta đem ngọc tỷ truyền quốc tặng cho hoàng đế Đại Liêu để kết đồng minh sao? Ha hạ nàng yên tâm đi, chưa đến lúc bất đắc dĩ, ta sẽ không dùng nó để trao đổi đâu, nếu như dùng nó để trao đổi thì tất cũng phải suy nghĩ toàn diện, suy nghĩ tới tất cả hậu quả của nó”.

Chiết Tử Du lặng yên nhìn hắn, trong mắt dần dần trào lên sự cảm động, nói nhẹ: “Hạo ca ca, nếu như... Huynh thật sự có thể cứu được cả nhà ta ra, thì cả đời Chiết Tử Du này đều sẽ không bướng bỉnh với huynh nữa, làm nô tì làm nha hoàn cũng được, đều sẽ nghe theo lời sai bảo của huynh. Vị Đường phu nhân đó... Nếu có chọc muội tức giận, muội cũng sẽ không để bụng nữa...”.

Dương Hạo lẩm bẩm nói: “Ta còn thiếu nô tì sao? Đó là ngọc tỳ truyền quốc, dùng để đổi lấy một nô tì quả thực là lỗ một chút”.

Chiết Tử Du nhất thời xúc động, tình ý trong lòng đều bộc lộ ra hết, nào có cô nương nào lại không biết xấu hổ, tự nói rõ chuyện chung thân cả đời chứ, cái gì mà làm nô tì, làm nha hoàn, ý bên trong lời nói đều nói rõ cả ra rồi, hắn lại còn oán trách gì nữa, cũng không biết hắn ngốc thật hay giả ngốc đây.

Chiết Tử Du đã rất mệt mỏi, vốn tâm lực tiều tụy, chẳng còn muốn suy nghĩ gì nữa, trước mặt Dương Hạo đầu nàng càng trở nên mù mờ như một hũ tương, lúc này nghe hắn oán trách, cũng không nghĩ gì cả, liền tức giận sẵng giọng nói: “Chẳng lẽ huynh thiếu vợ sao?”.

Trong mắt Dương Hạo lộ ra một ý cười, nhẹ nói: “Trời đất này chỉ có một ngọc tỷ truyền quốc, lại cũng chỉ có một Chiết Tử Du, cho nên nàng và ngọc tỷ truyền quốc giống nhau, trên thế gian này đều là độc nhất vô nhị. Dương Hạo ta lòng không có đại trí, nhưng đối với ta nàng còn đáng giá gấp trăm lần cục đá lạnh lẽo đó. Tử Du, từ trước đến nay ta chưa từng muốn làm một cô gia quả nhân, từ trước đến nay ta chưa từng nghĩ rằng mỗi một người thân trong gia đình là không bằng một chức vị, giống như nàng đối với người thân nàng vậy. Cho nên... Ta không ngăn cản nàng, cho nên... Ta nguyện vì nàng mà làm tất cả...”.

Chiết Tử Du rất muốn nói gì đó, nhưng lại cảm thấy sống mũi cay cay, rất muốn khóc. Nàng sịt sịt mũi, cố khống chế không để nước mắt rơi: “Muội đi đây!”.

Dương Hạo buông dây cương ngựa nàng ra, nói: “Được, ta để nàng đi! Nhớ kỹ, bảo trọng chính mình, bảo trọng gia nhân, sớm quay trở về, vì nàng là của ta! Người nhà của nàng, để ta bảo vệ!”.

Chiết Tử Du nhìn thật sâu vào mắt hắn, rồi đột nhiên thúc ngựa phi như bay. Nàng không dám nói thêm gì nữa, đúng vậy, Dương Hạo có lúc do dự thiếu quyết đoán, có lúc sợ sệt, nhưng khi hắn đã thật sự quyết định chuyện gì đó thì lại thường vào những lúc người khác không thể làm. Trong thiên hạ này liệu còn có người đàn ông thứ hai nào chịu vì nàng mà trở thành đối thủ với đế vương Trung Nguyên không? Trong việc này còn có người thứ hai xem trọng nàng hơn cả ngọc tỷ truyền quốc, thứ đại biểu cho hoàng quyền thần thụ, chính thống hợp pháp không?

Một cục đá sao? Cục đá này là trọng khí đất nước, có được nó như nhận được ý trời, Dương Hạo sao có thể không hiểu ý nghĩa quan trọng của nó chứ? Hắn sớm muộn gì cũng muốn đăng hoàng đế vị, sao lại không hiểu tác dụng trọng đại của nó?

“Chiết Tử Du ta là độc nhất vô nhị sao?”. Nàng biết nàng không phải, mỹ nhân trong thiên hạ muốn có là có, Dương Hạo nếu như muốn thì có hàng tá người đến với hắn, mà ngay cả Diễm Diễm, Oa Oa trong phủ Dương Hạo bây giờ tài mỹ cũng không hề kém hơn nàng, thậm chí vị vốn là hoàng hậu Đường quốc đó bây giờ gọi là tu chân nữ quan, mỹ miều còn hơn nàng ba phần. Nhưng trong lòng Dương Hạo nàng là độc nhất vô nhị.

Đúng vậy, hắn nói ít, nhưng hắn chỉ cần mở miệng là đã hơn rất nhiều so với những lời thề non hẹn biển. Đúng vậy, hắn nói ít, nhưng chỉ cần hắn làm là làm đến kinh thiên động địa.

Bao nhiêu ấm ức và oán trách đều đã bay lên chín tầng mây, nàng không dám không đi, nếu không đi có lẽ sẽ yếu lòng mà ngả vào lòng hắn, lại không nỡ rời đi nữa.

Nàng đi rồi, lúc trước trái tim luôn trói chặt ở Biện Lương, nhưng bây giờ đi rồi, trái tim lại trói chặt vào người Dương Hạo.

“Cái tên đáng ghét này!”.

Chiết Tử Du quất mạnh roi ngựa, trong lòng vừa ngọt vừa chua chát, lại nhẹ hô một tiếng vừa buồn vừa vui.

Dương Hạo ngồi thẳng trên ngựa, đến khi bóng dáng Chiết Tử Du đã ẩn qua sơn lộ, liền giơ roi ngựa lên, phía sau lập tức có hai kỵ mã phi tới. Người trên ngựa nhìn giống như hai cha con, khoảng ba lăm, ba sáu tuổi, một người mặt vàng nhìn như tiểu hàng gia, người gầy gò, tay lại rất nhanh nhẹn. Người kia là một thiếu niên mười ba, mười bốn tuổi, mặt mày thanh tú.

“Việc ta giao cho hai người, bây giờ đành phải thêm vào một việc”. Dương Hạo thở dài, quay người nói: “Tuy Tử Du thông minh cơ cảnh, ở Biện Lương cũng có thuộc hạ trung thành, làm việc cũng biết nặng nhẹ, có điều trong đầm rồng hang hổ dù sao cũng trùng trùng hiểm nguy. Mật thám hoàng thành ty tuy không có gì gọi là quá tài giỏi, nhưng dù sao cũng là địa đầu xà, khi các ngươi làm tốt việc của mình thì đồng thời cũng hết sức có thể, chăm sóc nàng ấy một chút”.

“Đại thúc yên tâm đi. Ta sẽ chăm sóc cho Tử Du tỷ tỷ”. Thiếu niên đó khi phát tiếng ra lại là giọng nữ nhi.

Hán tử trung niên bên cạnh nhăn mày lại, trách mắng: “Không phải ta đã nói là một khi cải trang thì bất kể là trước hay sau người ta, bất kỳ lúc nào cũng không được sử dụng giọng thật hay sao, phải dưỡng thành thói quen đi”.

Thiếu niên đó nghịch ngợm lè lưỡi ra, tuy không có ý gì sợ hãi, nhưng vẫn ngoan ngoãn thay đổi giọng nói, dùng giọng thiếu niên trả lời: “Cẩu Nhi biết sai rồi, lần sau sẽ không thế nữa”.

Dương Hạo mỉm cười, nói với hán tử trung niên kia: “Trúc Vận, từ lần ngươi như hấp hối trở về trước, ta không muốn ngươi lại phải nhảy vào nước sôi lửa bỏng nữa, nhưng đại sự này ta quả thật tìm không ra người khác có thể đảm đương được, vẫn phải để ngươi ấm ức đi một chuyến.

Hán tử mặt vàng đó dùng giọng nam nhân nói: “Thái úy quá khách khí rồi, Trúc Vận chẳng có tài cán gì, chỉ có bản lĩnh nhảy tới nhảy lui, giấu đi tung tích thôi. May mắn được thái úy trọng dụng, lần này đi Trúc Vận nhất định sẽ hoàn thành trọng trách thái úy đã giao”.

“Tốt!”. Dương Hạo gật gật đầu: “Hai người mau đi đi, men theo đường đi đừng để mất dấu nàng ta. Đợi khi đến được Biện Lương thì ngươi hãy mai phục lại, ta cho ngươi thời gian một năm, rất nhiều chuyện đều có thể sớm sắp đặt nền tảng để hoàn thành nhất cử kinh thiên này. Đợi khi chuyện này làm xong rồi thì ngươi sẽ ở lại Hạ Châu, với công lao tích lũy của ngươi đủ để ngươi làm chưởng lý của mật báo viện, sau này không cần phải đích thân đi làm những nhiệm vụ nguy hiểm như thế này nữa”.

“Thái úy, bây giờ và sau này cách biệt một trời, Trúc Vận bây giờ đã mãn nguyện rồi. Vì thái úy làm nhiều việc hơn nữa, thuộc hạ cũng...”.

Dương Hạo nói: “Trúc Vận, trong lòng ta, ngươi không phải chỉ là một thuộc hạ”.

“Sao cơ?”. Giọng hán tử đó có chút run run, lắp bắp nói: “Thuộc hạ...”.

Dương Hạo lại không chú ý đến điều đó, hắn nhìn về phía Biện Lương xa xa, bùi ngùi thở dài nói: “Ngọc Lạc bây giờ đang ở Biện Lương, haizz, đại muội này của ta sớm đã qua tuổi hôn giá rồi, nhưng vì ta mà bây giờ ngày ngày gặp mặt tình nhân lại khó thành người một nhà. Ta đã để lỡ mất một muội muội, không muốn để mất muội muội thứ hai, huống hồ... Cổ lão bá cũng đã gấp lắm rồi. Đợi xong nhiệm vụ lần này, ngươi ổn thỏa rồi, cũng nên suy nghĩ một chút đến chung thân đại sự của mình đi”.

“Trúc Vận... Trúc Vận biết rồi, đã phiền đại nhân để tâm...”. Vốn tâm hồn thiếu nữ Trúc Vận như con nai đang chạy loạn, thì lúc này lại vô cùng thất vọng, lại là một cảm giác hụt hẫng, đáp đại một tiếng, bất giác hồi phục lại giọng nữ nhi, ngữ khí không phải không có sự u oán.

Cẩu Nhi đứng bên cạnh lại đột nhiên cười lên một tiếng, vỗ tay nói: “Trúc Vận tỷ tỷ nói sai rồi nhé. Ha ha ha, tỷ cũng dùng giọng nói vốn có của mình”.

Trúc Vận trừng mắt nhìn nó, tay giơ roi ngựa, quất vào mông con ngựa của Cẩu Nhi, Cẩu Nhi kêu lên mấy tiếng rồi ngồi thẳng lại, ngựa đã chạy cách đó cả đường cung tên, phi như bay tiếp về phía trước. Trúc Vận chắp quyền với Dương Hạo, đầy vẻ dũng cảm nói: “Thái úy, thuộc hạ cáo từ!”. Nói rồi giơ tay quất roi, hô lớn một tiếng: “Đi!”. Rồi đuổi theo Cẩu Nhi.

*

* *

Trong hậu điện Khai Bảo tự Lô Châu, một tăng nhân đang ngồi luyện võ trong điện, một loạt chưởng pháp được hắn thi triển ra thật sự là ân lôi trận trận, cương phong bài không. Hắn hô lên, tiếng hô như sấm như sét, đôi thiết chưởng vung lên quả thật là uy mãnh vô địch.

Dưới đất trong điện có rất nhiều những chiếc hố hình tròn, bên trong cắm những chiếc cọc gỗ cao hơn nửa người, những cọc gỗ đó đều có kích cỡ nhỏ như chân người, thứ gỗ được dùng là gỗ cây lê rắn chắc, cho dù dùng rìu chặt, cũng không phải là hai ba rìu đã có thể chặt đứt được nótăng y áo vàng trẻ tuổi đó lại mới chỉ vung một cánh tay lên, thân cột gỗ lập tức đã bị chặt đôi, vụn gỗ bay tung tóe, chưởng pháp này không có một chút chậm chạp.

Hai hồng y lạt ma đứng bên ngoài điện bên cạnh chiếc cột lớn của điện, yên lặng nhìn hoàng y lạt ma tăng đang điên cuồng đánh chặt, hủy hoại trong điện, lại thấy hoàng y tăng nhân đó quay người lại, điên cuồng như đang muốn chạy tới góc đại điện, thổ khí khai thanh, hai tay đẩy ra, rầm một tiếng công kích vào tấm bia đá dày nửa thước.

Một tấm bia đá dày và nặng như vậy nhưng chỉ dựa vào một đôi bàn tay là đã có thể đánh vào nó, chưởng lực quả thật kinh người, nhưng hoàng y tăng nhân đó sau khi giơ tay đập vào tảng đá, tảng đá lại không hề xuy chuyển, khi tăng nhân đó từ từ quay đi, đứng vững người, hạ áp đan điền thì một màn kinh người xuất hiện, bia đá lúc này còn như không có chút hề hấn nào đột nhiên rầm rầm đổ xuống, hóa thành một đống đã vụn, rơi ngay xuống dưới vị trí của nó.

Một lão tăng lông mày bạc phơ bên ngoài điện thở một hơi, hàn khí xem ra cũng mạnh như chưởng vừa rồi, lại công kích lên tảng đá cứng như tảng đá lúc nãy, tất cả chưởng lực lại bị hút hoàn toàn vào bia đá này, không một chút rung chuyển, đây không phải là chuyện tốc độ có thể làm được, tăng nhân trẻ tuổi trong điện rõ ràng đã luyện chưởng pháp này đến độ dương cực âm nhu, cương cực hóa nghiệt, cảnh giới chí cao rồi.

“Kẻ nghiện võ đúng là kẻ nghiện võ, tuổi tác như thế này mà luyện mật kỹ trong mấy năm ngắn ngùi lại có thể luyện đến cảnh giới này”. Tăng nhân mày trắng đó tán dương một tiếng, lại cau mày nói: “Thủ ấn, chỉ là tâm pháp ngoài thân tu luyện phật tính, chỉ dẫn cho trí tuệ, hiểu được giáo lý, nhưng với sát khí như thế kia thì sao có thể luyện được Phật tính Phật tâm chứ?”.

Phật sống Đạt La mỉm cười, quay người bước đi nói: “Tông Ba đại sư, hiểu được giáo lý, cũng phải từ ngoài vào trong, theo ta thấy hắn rất có Phật tính đấy”.

Bích Túc vẫn đứng ở chỗ cũ nhìn đống đá nát vụn, lại nhìn đôi tay đỏ rần lên của mình. Mấy năm nay hắn luôn sống trong thù hận, chỉ có luyện công điên cuồng mới có thể áp chế tâm niệm sát ý của hắn. Bây giờ đại thủ ấn khó luyện nhất của hắn cũng đã luyện thành rồi, hắn không biết tiếp theo còn có chuyện gì có thể áp chế được tâm trạng đang ngày càng nặng nề theo năm tháng của hắn không.

“Dựa vào công phu quyền cước của ta bây giờ và bản lĩnh ẩn giấu tung tích ta còn không thể vào hoàng cung, giết kẻ thù lớn nhất của ta sao? Nhất định phải trên chiến trường mới có cơ hội sao? Chỉ dựa vào một thân võ công, ta có thể làm đại tướng quân sao?”. Đôi mắt hắn hơi híp lại: “Thái úy, ta không đợi được nữa rồi, ta bây giờ... Sẽ đi tới Biện Lương!”.

*

* *

Hạ Châu phủ Tiết Độ sứ những ngày này có rất nhiều tín sứ qua lại, hết sức đông đúc. Sau khi đợi Dương Hạo từ tiền tuyến Hoành Sơn trở về, thư tín lại càng nhiều, một khắc cũng không ngừng, hạc phù trên dưới ai cũng nhìn ra được, thái úy tất nhiên đang chuẩn bị cho một đại sự. Cho nên, toàn bộ thị tỳ hạ nhân trong phủ đều rất cẩn thận, làm việc gì cũng chặt chẽ dè dặt, chỉ lo xảy ra sai sót, tuy nhiên người rảnh rỗi cũng không phải không có, như Mậu nương, Long Linh Nhi không phải là thị tì trong phủ nên thời gian này lại cực kỳ nhàn rỗi.

Bát Long nữ khi chạy đến Hạ Châu đã rời khỏi quân ngũ, trở về nhà ở phủ đệ Hạ Châu, trong những ngày này đã xuất mưu họa sách cho nhị phu nhân, tin tức họ lập được chiến công được bẩm báo lên Long Hàn Hải, nghe tin báo xong Long Hàn Hải lấy làm vô cùng an lòng.

Kỳ thực sau khi hắn đến Hạ Châu cũng không phải là không có chức quan, chỉ là chức quan đó do Dương Hạo dựa theo thể chế quan liêu của Tống Quốc, phong cho là một chức quan nhàn hạ, có quan mà không có chức, chỉ lĩnh bổng lộc không có quyền hành sự, thấy Dương Hạo không quản chế chặt chẽ Long gia hơn nữa, trong lòng hắn cảm thấy ổn định hơn, lại nghe được con gái tiết lộ tin nhị phu nhân có ý ủy thác chức quan ấy, ngẫm kỹ lại, cũng định từ bỏ kế sách cho con gái tiến thân, tử tôn Long gia không thiếu tuấn tài, mà Thái úy lại trọng người tài như vậy, thì cứ đợi thế cục ổn định xuống, rồi Long gia cũng có ngày ngóc đầu lên.

Không ngờ những nhân vật trọng yếu của Hạ Châu thời gian này hoạt động thường xuyên, ngày ngày triệu họp hội nghị bí mật ở phủ tiết soái, trong vài ngày quy mô hội nghị bắt đầu mở rộng, chức quan nhàn như Long Hàn Hải cũng được triệu đi. Long Hàn Hải vừa mừng vừa sợ, chỉ biết biểu hiện của nữ nhi đã khiến cho Thái úy chú ý tới Long gia, ai ngờ sau khi hắn đến tiết đường tham dự hội nghị một lần, trở về với bộ dạng kín như bưng, hội nghị bàn những gì hắn cũng không hề nói với ai, đến huynh đệ và con trai mình hắn cũng không chịu nói, lại phái bát Long nữ mà lúc đầu tuyển từ gia tộc đến phủ tiết soái, chỉ nói với họ rằng hãy tận lực giúp mấy vị phu nhân chút chuyện.

Bát nữ như Long Linh Nhi, Long Thanh Nhi đều hiểu rằng Dương Hạo muốn xưng đế, Long Hàn Hải suy đi tính lại, trong đầu lại nổi lên ý niệm làm hoàng thân quốc thích, mong chờ rằng trong số các nàng có thể có một hai người được Dương Hạo để ý đến, tương lai có thể làm một quý phi, mà Hạ Châu lại có tiền lệ nhà có nữ nhi làm quan, Đường Diễm Diễm lại chính miệng hứa rằng sẽ tiến cử cho họ một chức quan, họ liền nghe theo lời của Long Hàn Hải, đến phù soái.

o O o

File ảnh

http://upanh.tv/images/55304223579179085139.gif

http://upanh.tv/images/15440229681426691674.gif

http://upanh.tv/images/01017547249875156376.gif

http://upanh.tv/images/54977598311006573565.gif

http://upanh.tv/images/61755020618251398122.gif

http://upanh.tv/images/18327949211189076668.gif

 Chương 41: Hạ Chiếu

Phủ tiết soái những ngày này đang toàn lực làm việc, cả một cơ cấu thống trị cũng ầm ầm bắt đầu khởi động, nhất thời không có việc gì để giao cho các nàng làm, nhàn lai vô thì, bát nữ của Long gia đâm ra kết thành bằng hữu với Mậu nương, nhàn lai vô sự. Nói chuyện trên trời dưới đất, luận bàn vũ đạo, thậm chí chơi đá mã cầu cũng có.

Lúc này mấy người đang ngồi dưới giàn nho tàn trong Hữu Khóa viên, đánh bài lá cây, nhìn từ cánh cửa hình nguyệt, chỉ thấy dọc chính đạo trong phủ toàn là những tín sứ vội vàng, lưng cắm cờ đỏ đi đi lại lại, Long Linh nhi không nhịn được nói: “Từ sau khi trở về Hạ Châu, Thái úy so với lúc Tây chinh còn bận rộn hơn nhiều, nhất là lúc từ Hoành Sơn về, dường như không hề thấy ngài nghỉ ngơi chút nào, không phải nói là chiến sự Hoành Sơn giờ đã cầm cự được, sao lại còn căng thẳng như thế chứ?”.

Mậu nương nói: “Đúng vậy, ta ở phủ tiết soái mấy năm rồi, cũng chưa bao giờ thấy Thái úy bận rộn như vậy, bất kể đối mặt với đối thủ nào, tình thế cấp bách đến mấy, cũng không đến mức như này. Từ lúc ngài trở về, ngay cả chỗ Ngọc Chân Tử đạo trưởng cũng chỉ đến có một lần...”.

Ngọc Chân Tử đạo trưởng là thân phận bây giờ của Chu Nữ Anh ở phủ tiết soái. Mậu nương vừa đánh bài vừa nói, miệng nói ra những lời này, lời vừa nói khỏi miệng, biết rằng không ổn, Long Linh nhi và Long Thanh nhi chư nữ quả nhiên sinh nghi, từng đôi mắt đẹp liếc về phía nàng, Long Lâm nhi hoài nghi hỏi: “Ngọc Chân Tử đạo trưởng? Thái úy bận như vậy, chỉ gặp Ngọc Chân Tử đạo trưởng một lần thì có gì là lạ? Tôi nghe nói mấy ngày nay Thái úy trong thư phòng đèn thắp sáng suốt không tắt, đến hậu trạch cũng chưa từng đi qua vài lần, thê thiếp còn như thế huống chi một đạo nhân?”.

“À...”. Mậu nương bối rối đánh rơi một quân bài xuống, vội che giấu qua loa nói: “Cái này mà... Khụ... Các muội không biết đấy thôi, thái úy tuy là pháp vương phật gia hộ giáo, nhưng cũng là đồ đệ của đạo gia đại thánh Thuần Dương Tử chân nhân, cái này... Cái này... Đối với Tam Thanh tổ sư cũng là nhất nhật tam tinh lễ, hết sức sùng kính, bằng không cần gì phải dựng một tòa đạo quán trong phủ chứ? Cái này... Ngọc Chân Tử đạo trưởng này, lại là... Sư muội của Thái úy!”.

“Ra là thế...”.

Chư nữ đã không chút hoài nghi, Mậu nương lại đỏ mặt thầm cảm thấy xấu hổ, ngày trước là một vũ nương đứng đầu trong cung nhà Đường, rồi cùng với Chu Nữ Anh lưu lạc nơi Tây Vực, nàng và Nữ Anh sớm đã trở thành đôi khuê nữ thân thiết luôn tâm sự mọi điều, lúc bình thường cũng luôn bầu bạn với Nữ Anh, sự tình giữa Nữ Anh và Dương Hạo nàng hiển nhiên biết rõ, chỉ là việc ấy không tiện công khai cho người khác biết.

Long Bích Nhi thấy mặt nàng đỏ lên, giống như đang ngượng ngùng, không nhịn khỏi cười nói: “Mậu nương tỷ tỷ, ta nghe nói tỷ đã ở phủ tiết soái từ rất sớm, nhưng địa vị lại quá xa vời. Vừa không phải thê thiếp vừa không phải thị tỳ, nên không tránh khỏi những điều tiếng kỳ lạ. Tỷ vốn đẹp như thế cả ngày lại ở bên cạnh không rời, ta mới không tin là Thái úy ngài ấy... Hì hì. Tỷ nói thật đi, tỷ đã từng được Thái úy đại nhân sủng ái chưa?”.

Long Bích Nhi vừa hỏi như vậy, những chư nữ còn lại đều dỏng tai lên nghe. Long Thị gia chủ lại cố nhiên hớt tóc lên, lúc đầu, bị gia tộc lựa chọn để ép gả, các nàng đều không tình nguyện bằng lòng, nhưng khi chính mắt nhìn thấy Dương Hạo là một anh hùng tuổi trẻ, một người chăm sóc thê thiếp hết sức chu đáo, tôn trọng cũng không có những thói quen quyền quý tầm thường, bỗng chốc mấy vị tiểu cô nương này cũng đem lòng yêu thương hắn. Cái gọi là thà vi kê thủ, bất vi ngưu hậu, tức là nếu bị gả cho kẻ tầm thường không vai vế chi bằng hầu hạ đệ nhất anh hùng khiếu ngạo Tây Bắc này, nếu như Dương Hạo có chủ ý với Mậu nương thì họ hiển nhiên cũng sẽ có cơ hội lớn.

Long Bích Nhi hỏi như vậy, sắc mặt Mậu nương đỏ gay lên, nghĩ đến việc cùng ngủ chung giường với Nữ Anh, cùng ở chung một phòng, ban đêm lúc tâm sự chuyên riêng của mình, Nữ Anh từng nói Thái úy vô cùng mạnh mẽ, làm cho người ta khó có thể chịu đựng nổi, hoàn cảnh của hai người nàng hôm nay, cũng là đồng bệnh tương liên, cố tình kéo nàng làm “tỷ muội” nhưng do phận nữ nhi ngượng ngùng, không dám đáp ứng. Thế nên câu hỏi vô tâm của Long Bích Nhi lúc này, đã động chạm đến nỗi lòng nàng, Mậu nương nhất thời nhảy bật lên, giống như là bị người khác biết được bí mật này, cười mắng một cách e thẹn: “Muội là một tiểu đề tử mà lại không biết xấu hổ, những lời này mà cũng hỏi người khác được, muốn hủy hoại sự thanh bạch của người ta, đáng bị ta đánh cho một cái”.

Tiểu đề tử vốn là phương ngôn vùng phương Bắc, hợp với cách ví nam nhi là tiểu độc tử, nếu nói với người không quen biết tức là mắng chửi, còn dùng nói với người thân quen lại nhỏ tuổi hơn thì đó là một câu thân mật. Long Bích Nhi thấy nàng thẹn quá thành giận như vậy liền cười to vỗ tay chốn chạy, Mậu nương cũng vội đuổi theo, mấy vị cô nương bỏ hết bài lá cây xuống, bắt đầu chơi trò lão ưng tróc tiểu kê trong Hữu Khóa viên.

Những vị cô nương này đều là những mỹ nhân mắt ngọc mày ngài, khuôn mặt yêu kiều như tranh vẽ, chỗ này chạy chỗ kia đuổi, lúc ẩn lúc hiện giống như những con bướm đầy màu sắc tung tăng bay lượn, vừa giống như từng cành hoa rực rỡ đung đưa theo cơn gió, làm cho khung cảnh trở nên uyển chuyển phong tình, thu hút ánh nhìn của bao con mắt nam nhi đang vội vàng qua lại.

Lúc này, Dương Hạo ở trong thư phòng đang bề bộn việc như hôn thiên hắc địa, từ khi trở về Hạ Châu, hắn giống như là đã lên dây cót, tứ phòng kiều thê ái thiếp đều không màng, ngay cả đến bảo bối nhi tử vừa đầy tháng gần ngay bên cạnh cũng chưa gặp đến hai lần.

“Cái gì? Vẫn đang hội bàn sao? Không cần hội bàn gì hết, từ khi Bàn cổ khai thiên lập địa, tam hoàng ngũ đế đến nay, đế quốc đầu tiên là nhà Hạ, nơi mà bản soái chấn hưng lại là Hạ Châu, vậy quốc hiệu đã quyết được rồi, hãy dùng chữ Hạ là được, báo cho bọn họ khỏi phải tốn thời gian vào việc này”.

Dương Hạo không nhịn được liền dặn dò, không hiểu vì cớ gì mà các văn nhân luôn làm quan trọng một cái quốc hiệu, bàn đi bàn lại không dứt. Dù sao thì lần này cũng chỉ là quốc hiệu tạm thời, trong tương lai đến lúc phục lập cũng phải thay đổi một quốc hiệu mới. Lần này cứ qua loa dùng chữ Hạ là được, cứ coi là một triều đại vốn nên xuất hiện trong lịch sử, để nó tồn tại trong một khoảng thời gian ngắn vậy.

Sau khi phái Tần Giang đi, Dương Hạo lại gặp Lâm Bằng Vũ. Hai người thương lượng hồi lâu, rồi Dương Hạo tổng kết nói: “Đúng, chủ yếu là những việc này, Lâm lão, ngươi hãy kiểm tra chỉnh lý lượng lương thực dự trữ nhanh chóng liên lạc với Thôi Đại Lang, tạm thời đừng mua hàng hóa, đổi lại là mua lương thực. Đúng rồi! Chính vào thời vụ thu, bảo hắn nhất thiết thu mua lương thực, nghĩ kế chuyển về đây. Nếu cần thiết ta sẽ phái người đến trợ giúp, tiền vàng tùy hắn ra giá, nhưng... Phải thiếu nợ trước. Ha ha, yên tâm đi, hắn bứt ra không được thì sẽ đành phải tiếp tục ủng hộ thôi”.

Lâm Bằng Vũ đi rồi, Dương Hạo chuyển hướng về phía Lô Vũ Hiên: “Lô lão, chư châu Hà Tây, yếu vụ hàng đầu là phải duy trì sự ổn định, chỉ có thể phái một phần binh sĩ đến cứu viện, về phần lương thảo sẽ điều phối theo tình hình cụ thể, cố gắng không điều phối lương thảo ở đó để tránh ảnh hưởng đến cuộc sống của bách tính chư châu Hà Tây. Ngài hãy truyền cho Phổ tướng quân, ta giao phó Hà Tây cho ngài ấy, nhất định phải làm cho tốt. Chiếm được chư châu Hà Tây cũng chưa có nghĩa là nơi đó đã thuộc về chúng ta, phải lấy được lòng tin của bách tính, tranh thủ sự ủng hộ của các thế gia đại tộc, hành sự tránh câu nệ bất hóa, phải biết quyền biến chi đạo”. “Tuân lệnh! Hạ quan lập tức khởi hành”. Lô Vũ Hiên đứng dậy, phủi phủi quan bào rồi cất bước lui đi.

“Đại soái, ngài tìm ta?”.

“Đại thiếu, ha ha, Diệp đại thiếu”.

Dương Hạo vừa nhìn thấy Diệp Chi Tuyền đi vào có chút phong trần mệt mỏi, liền bỏ bức mật hàm đang cầm trên tay xuống, vui mừng vội bước lên nắm lấy tay hắn. Diệp Chi Tuyền vừa mừng vừa lo nói: “Đại soái”.

“Vào đây, mau ngồi xuống, người đâu, tiếp khách”. Dương Hạo thân thiết nói: “Đại thiếu, lần này là lúc để cậu thể hiện bản lĩnh của mình, cậu xem, nguyên tuyến báo tin từ Liễu Châu Thượng Kinh đến Hạ Châu của ta đã được thông suốt, hiện giờ từ Đôn Hoàng đến Hạ Châu, Ngột Lạt Hải đến Linh Châu, hai tuyến này cậu cũng vừa trải thông xong, ta biết cậu rất khổ cực, nhưng bây giờ vẫn còn nhiệm vụ gian khổ hơn giao phó cho ngươi, hơn nữa cần phải lập tức đi làm”.

Diệp Chi Tuyền ngập ngừng nói: “Đại soái, cha ta... Cha ta đã nhắc đến chuyện thân sự, vốn là sau khi từ Sa Châu trở về sẽ lo liệu, ngài xem...”.

“Sao cơ? Ừ, ta biết ta biết, đến lúc cậu thành thân ta nhất định sẽ tham dự, còn chuẩn bị một phần hậu lễ”.

Diệp Chi Tuyền xoa tay cười nói: “Cái này... Thái úy công vụ bộn bề, thận phận cao quý, thuộc hạ không dám vọng tưởng Thái úy có thể giá lâm hàn xá, tham dự lễ thành thân của thuộc hạ, ý thuộc hạ là...”.

“Ta hiểu, ta hiểu, nhưng việc này rất cấp bách, cậu xem, sau khi Lân Phủ lưỡng châu rơi vào tay quân Tống, tuyến báo tin vốn có với Biện Lương không thông thuận, phần bị phá vỡ lại cần phải thiết lập lại, lại còn nơi này, nơi này...”.

Dương Hạo chỉ trỏ trên sa bàn: “Từ nơi này đến Lũng Hữu, từ Lũng Hữu đến Ba Thục, chính cái gọi là biết người biết ta, trăm trận trăm thắng, không nên nhìn ngươi trước giờ chưa từng một ngày động vào đao thương, nghênh trận giết qua một tên địch, nhưng trong cái chiến trường không nhìn thấy đao kiếm mà cậu lại lập được đại công lẫy lừng, chiến công của ngươi hiển hách vô cùng. Còn tân nương tử, cứ để nàng ấy đợi, dù sao cũng không chạy được, nếu cần bản soái sẽ sai người đến canh giữ?”.

“Không không, không cần đâu ạ, tôi...”.

“Vậy là tốt, tốt rồi, người lập tức lên đường đi, mấy tuyến đường tin tức này phải mau chóng xây dựng xong, cần tài vật, cần gì ta cũng cấp. Ha ha, công lao này mà lập được, ta sẽ thăng chức cho cậu. ừm... Nghe nói nương tử tương lai của cậu là khuê nữ của Lý gia Ngân Châu? Hay lắm, hay lắm, khuê nữ một nhà thế gia vọng tộc, được, tuy nhiên ta nghe nói khuê nữ Lý gia này tính tình hơi ngang bướng, ta e cậu sẽ không dễ sắp đặt nàng ta”.

“Sao cơ? Không phải chứ, ta nghe người làm mối nói, cháu gái yêu của Lý Nhất Đức đại nhân hiền dịu thục nữ, xinh đẹp như hoa, là mỹ nữ đức phụ nhất thành Ngân Châu này”.

“Ôi. Bà mối? Đến mặt rỗ bà ta cũng có thể nói được thành một đóa hoa đẹp, có thể tin được lời bà mối sao? Một người phong lưu đa tình giống như cậu đến lúc ấy cũng sẽ giống như Trình Thế Hùng tướng quân, không những sợ nương tử, mà muốn nạp thiếp súc tỳ cũng khó như lên trời vậy. Nhưng cậu không cần phải sợ, cậu là chỗ dựa đắc lực cho bản soái, bản soái sẽ giúp đỡ cho cậu, sau này tân nương nếu ỷ quyền thể ức hiếp cậu thì cứ tới tìm ta”. Diệp Chi Tuyền vui mừng vội vàng nói: “Đa tạ đại soái”.

“Không phải đa tạ, việc này ta sẽ lo liệu. Tiểu Vũ, đưa Diệp đại thiếu đi gặp Phạm chủ quản, cần gì thì nhanh chóng chuẩn bị tươm tất, bởi sau khi đại thiếu thiết lập xong những tuyến đường tin tức này, trở về còn phải thành thân”.

“Tuân lệnh!”. Mục Vũ đáp rồi dẫn Diệp Chi Tuyền đi.

“Ai, ta thực ra...”. Diệp Chi Tuyền đang nhìn chén trà nóng chưa hề uống trên bàn, thì mơ hồ bị Mục Vũ dẫn đi một nước, đến lúc đi tới quan thư của Phạm Tư Kỳ mới bắt đầu phản ứng lại, không khỏi thầm kêu một tiếng không may.

Bên ngoài thư phòng Trương Sùng Nguy lại tới, mang thêm bốn người đến cửa lớn tiếng nói: “Báo, đại soái, người đại soái cần tìm đã mang đến rồi”.

“Ồ, mau vào đi, thế nào, đều đạt yêu cầu chứ?”.

Đợi Trương Sùng Nguy vào thư phòng, đến bên cạnh mình, Dương Hạo liền hỏi. Trương Sùng Nguy cười nhẹ nói: “Đại soái yên tâm, những người này chiến đấu rất dũng cảm, nhạy bén lanh lợi. Họ đã từng ở Lũng Hữu, cực kỳ thông thuộc địa hình nơi đó, phù hợp với yêu cầu của đại soái. Mà họ đều là những người đã thành gia lập nghiệp, có thê có tử, sẽ không lo sinh dị tâm”.

Dương Hạo gật đầu: “Cho gọi họ vào!”.

Bốn người từ ngoài cửa cùng bước vào, họ khoảng hơn ba mươi tuổi thân hình cao to, cử chỉ chín chắn. Bốn người chắp tay quyền hướng về phía Dương Hạo bẩm báo nói: “Định Nan quân doanh chỉ huy Vương Như Phong, đô đầu Địch Hải Cảnh, đô đầu Ba Tát, đội trưởng Trương Tuấn tham kiến đại soái”.

“Mau đứng lên, Trương tướng quân đã nói rõ ý của bản soái với các ngươi rồi phải không?”.

“Chúng ty chức đã hiểu rồi”.

“Được, các ngươi có nguyện đến Lũng Hữu một phen không?”.

“Xin nguyện nghe theo lời dặn dò của đại soái”.

“Vậy thì tốt, Dạ Lạc Hột, Lý Phi Thọ một khi tiến vào Lũng Hữu, tất nhiên sẽ chiêu binh mãi mã tập trung thế lực, bốn người các ngươi tinh luyện cung mã, cũng đã từng thống lĩnh quân lính, gia nhập dưới trướng của chúng, rất dễ dàng có thể trổ hết tài năng, hai người này khi mới đến Lũng Hữu, phải dựa vào Thượng Ba Thiên, nhưng là đợi khi đại sự của chúng đã thành, ha ha, nhất sơn nan dung nhị hổ. Chúng đều là những trí dũng kiệt xuất bất kham, lẽ nào lại cam tâm chịu dưới trướng Thượng Ba Thiên? Dạ Lạc Hột có thể triệu nạp lượng lớn người Hồi Hột, Lý Phi Thọ cũng thu hút được người Khương, thêm vào đó tộc trưởng La Đan, đến lúc đó Lũng Hữu chia năm xẽ bảy, các ngươi sẽ có cơ hội”.

Dương Hạo trở nên nghiêm nghị, trịnh trọng nói: “Lần này đi, sẽ vô cùng nguy hiểm, nhưng chưa chắc đã hung hiểm bằng việc chiến trận chém giết ở Hạ Châu, lần này, võ lực chỉ là thứ yếu, các ngươi phải dùng nhiều trí lực, cố gắng mưu chiếm lòng tin của chúng, thâu tóm lực lượng của chúng. Sau này, khi bản soái thu phục được Lũng Hữu, các ngươi ở dưới trướng của chúng bất kể là làm đến bậc tướng nào bản soái đều phong cho các ngươi chức vị cao hơn đó ba cấp!”. Bốn người lớn tiếng đáp: “Tạ ơn đại soái”.

Dương Hạo nói: “Tốt, các ngươi đi đi, Trương tướng quân sẽ phân bổ nhiệm vụ cụ thể và phương thức liên lạc cho các ngươi, về phần nơi này, không cần phải lo lắng, phụ mẫu thê tử của các ngươi bản soái sẽ phụng dưỡng”.

Bốn người đồng thời chắp tay quyền làm lễ, hăng hái lui theo Trương Sùng Nguy ra ngoài. Dương Hạo chuyển vị ngồi lại bên án thư, mở bản công hàm chưa xem ra, vừa lướt đọc hai hàng chữ thì bên ngoài một tên thị vệ vội vàng tiến vào: “Đại soái, Lô Khiến Đạt Thố đại sư báo tin đến”.

“Vậy à?”. Dương Hạo liền ngẩng đầu lên nói: “Đưa ta xem”.

Hắn vội vàng mở thư ra đọc, Dương Hạo đập tay xuống án thư nói: “Cái tên Bích Túc này”. Dương Hạo lắc đầu thở dài, nhíu mày suy nghĩ một lúc, ngẩng đầu nói: “Ám Dạ...”.

*

* *

Biện Lương, Biện Hà, Thiên Kim Nhất Tiếu lâu.

Khố lâu chu các, hoa thụ thành bó. Những cây hoa, cây quả mùa thu kia là những loài quý thụ luôn mang sắc xanh biếc, điểm thêm ý xuân cho trung tâm Như Tuyết phường của Thiên Kim Nhất Tiếu lâu. Hơi thở của mùa thu tựa như không in dấu nơi đây.

Trong gió thu, vang lại một tiếng đàn du dương, là từ Như Tuyết phường truyền tới, một bài thơ, một chén rượu, nâng đàn thổi tiêu, giai nhân tương phùng, đây đúng là nơi mỹ cảnh tuyệt trần làm các tài tử quý nhân say đắm bồi hồi, chỉ là... Giờ có rất ít người có thể nhìn thấy chủ nhân của Như Tuyết phường, Liễu Đóa Nhi mỹ nữ đẹp đứng đầu Biện Lương.

Không phải bởi vì Thiên Kim Nhất Tiếu lâu nhật tiến đấu kim, Liễu hành thủ không cần phải ra mặt tiếp đãi khách quý nữa, cho dù nàng giàu có nhất thiên hạ, có thể không để ý tới tài tử danh sĩ, nhưng nếu quyền quý công hầu đến cầu kiến một lời, nàng sao có thể cự tuyệt? Tuy nhiên, không biết từ lúc nào, trong phường truyền rằng, vị hoa khôi Biện Lương, chủ nhân của Như Tuyết phường này là hoa đã có chủ, chính là đương kim hoàng đế Đại Tống. Thử nghĩ xem, trong tình hình này, ai còn dám cầu kiến Liễu đại hành thủ? Không nói đến tâm viên ý mã, muốn cùng giai nhân hưởng lạc đêm thâu, cho dù là muốn nàng tấu một khúc đàn, rót mời một chén rượu, có ai dám nhận chứ? Liễu Đóa Nhi có lẽ không chuyện gì, vấn đề là ai dám xuất hiện trước mặt nàng giống như đương kim thiên tử chứ.

Vì vậy, tri âm của cầm khúc tuyện vời này có rất ít, huyền đoạn có ai nghe được hoặc may mắn nghe thấy cũng chỉ có hoa cỏ trong Như Tuyết phường mà thôi.

Trong Thiên Kim Nhất Tiếu lâu, đang có tiếng hát du dương truyền tới, không dùng cầm sắt, chỉ có nhịp gõ nhẹ của những bàn gõ ngà với nhau, thiển ngâm thấp xướng, uyển chuyển lạ thường, nếu có người đã từng nghe qua giọng hát của Tuyết nhược thủy đàn khẩu thanh xướng trong Tuyết Ngọc song kiều thì sẽ biết được đây chính là Tuyết cô nương đang ngân nga hát, có thể được nghe nàng hát như vậy ắt hẳn là đại quan quý nhân địa vị cực cao.

Chỉ là tiếng hát đó tuy vọng từ lầu cao đến, nhưng lại không áp được tiếng đàn có lại như không, du dương không ngừng, nhỏ nhẹ mà âm lại rõ ràng. Tiếng đàn lúc đê hồi uyển chuyển lúc như châu qua ngọc bàn, Liễu Đóa Nhi thắp nhang ngồi thiền, lạnh nhạt nâng đàn, nhưng ngón tay ngọc ngà nhẹ nhàng khẽ vuốt, tiếng đàn êm ả giống như dòng chảy của nước, kỳ ảo phiêu du, biến ảo tự nhiên.

Liễu Đóa Nhi gảy đàn một cách thuần thục, tâm tình của nàng cũng cùng tiếng đàn bay lên tới mây trời. Cô đơn, sự cô đơn vô tận, khi chờ đợi ngày qua tháng lại, vì địa vị và sự tồn tại của Như Tuyết phường mà lao tâm tổn trí. Nàng thực muốn dừng lại nghỉ ngơi, nhưng trước nay nàng không hề nghĩ rằng, dừng lại sẽ phải cô đơn nhàm chán như thế này.

Nàng giờ là người của đương kim hoàng đế, nhưng vì thân phận mình mà không được nhập cung, nàng chỉ là một hoa khôi, nhưng trong mắt người thường lại được tôn quý, coi trọng như hoàng hậu mẫu nghi thiên hạ. Vì vậy nàng mới mắc kẹt ở đây, trong cảnh khó xử tiến không được thoái không xong, cái cảm giác vừa sợ vừa mừng lúc đầu khi trở thành người của hoàng đế của nàng đã biến mất, giờ chỉ còn nỗi mệt mỏi và chán ghét vô cùng.

Thiên Kim Nhất Tiếu lâu đã làm nên địa vị cao nhất của nó ở Biện Lương, nàng giờ đã là chủ nhân của Thiên Kim Nhất Tiếu lâu, cũng không còn gì để tranh đoạt nữa, nên nàng cũng giống như một lão tăng vô dục vô cầu. Tuy dung mạo tuyệt mỹ, dáng người thướt tha nhưng lại thiếu chút linh hoạt và sức sống. Nàng vẫn xuân sắc nhưng lại chỉ có thể sống trong ký ức mà thôi.

Giờ nghĩ lại, những năm tháng đẹp đẽ khó quên nhất lại là thời Thiên Kim Nhất Tiếu lâu vừa được xây dựng, là khi mà Dương Hạo còn ở nơi đây. Học làm trò, biên khúc nhạc, cùng nghĩ cách đánh bại kẻ khác, thậm chí là khi ghen tuông với Ngô Oa Nhi ở hậu viên Hỏa Tình viện trưởng gia, hay bỏ hết tâm trí để làm những món ngon mỹ vị để thể hiện mình...

Mà nay, có phải là nơi càng cao thì sẽ càng lạnh? Nhưng cái vị thế cao quý mà nàng đang đứng lại vô cùng hư huyễn, nếu có thể ngược dòng thời gian... Nghe nói Ngô Oa Nhi đang nghiễm nhiên là ngoại sự viên ở Tây Bắc, giống với thân phận Hồng Lư Khanh, dựa vào tài văn chương, lời nói dí dòm của nàng ấy, quả có muốn gì được nấy, được vừa ý. Chỉ là... Địa vị của Dương Hạo cao quý như vậy, cũng đáng để nàng ấy vứt bỏ thân phận.

Còn có Diệu Diệu, nghe những người từ Tây Bắc về nói, các thương nhân Hồ Hán, muốn thêm nhiều phú quy đều nương nhờ vào nàng ấy, ả nha đầu này lại là một tay hành gia tinh thông lý tài, được gả cho Dương Hạo bao lâu rồi nhỉ? Sao nghĩ lại thì cứ như chuyện trước đây lâu lắm... Bây giờ có lẽ đã sinh cốt nhục của tự mình rồi nhỉ? Mà ta...

Khóe môi Liễu Đóa Nhi lộ chút cay đắng, mỗi lần được vị đế vương kia sủng ái, nàng đều không thể cùng say giấc nồng, bay bổng lên mây với người đàn ông của mình, các nội thị cứ làm như có mối nguy hại lớn, nhất thiết phải gọi nàng dậy rồi tiến hành đủ phương sách khắc phục, hoàng tộc... Là không thể để lại huyết thống trong nhân gian, nhất là với thân phận của mình... Làm sao mà có thể mang long bào được chứ? Nỗi hổ thẹn đó... Giờ nàng cũng đã quen với nó mất rồi.

Tiếng đàn xa xăm, như khói chi ngân, du dương vấn vương, lúc ẩn lúc hiện một cách kỳ ảo. Cả thân xác nàng giờ như bộ xương chuyển động, linh hồn nàng lại đang bay bổng trong dòng chảy của hồi ức xưa, giống như hoa rơi mặt nước, sóng gợn không ngừng...

“Ha ha ha, hay, tiếng đàn của Đóa Nhi ngày càng huyền diệu”. Bỗng một tiếng vỗ tay truyền đến, cất cao giọng khen ngợi.

Liễu Đóa Nhi ngẩng đầu lên, nàng biết là hắn đến, giờ ngoài hắn ra còn ai dám cao giọng trước mặt nàng chứ? Nàng vội vàng đứng dậy, hành lễ nói: “Quan gia”.

Triệu Quang Nghĩa mỉm cười bước đến, ngồi xuống cẩm chiên nói: “Đến đây, ngồi bên này”.

“Vâng”. Liễu Đóa Nhi đáp một lời rồi chầm chậm bước đến cạnh hắn.

Mới ngày nào còn là một mỹ nhân xinh đẹp thuần khiết như ánh trăng, giờ đã trở thành tiểu phu nhân dung mạo đoan trang, vẫn vẻ thanh tú đó nhưng lại thêm chút dịu dàng đẫy đà, vẻ đẹp đó lại càng say đắm lòng người, giống như bông hoa nở rộ, trong trắng mà phong nhã.

“Sao hôm nay Quan Gia lại vui đến vậy?”. Trước mặt hắn, Liễu Đóa Nhi không dám lộ vẻ buồn bã cô đơn, nàng thể hiện một bộ dạng vui cười, tay đưa nhẹ nhàng vừa rót trà vừa hỏi.

Lúc nàng cúi mình, thân thể nàng mảnh mai như chiết, cánh tay mềm mại, hở ra ngoài tấm lụa làn da trắng mịn màng như tuyết, Triệu Quang Nghĩa liền sáng mắt lên, đưa tay ôm chặt lấy vòng eo nàng, cười ha ha nói: “Cứ được gặp tiểu mỹ nhân của trẫm là tự nhiên sẽ vui rồi”.

Hắn thực rất vui vẻ, một vùng Tây Bắc khó chiếm lại bị hắn dùng mưu tính kế, danh chính ngôn thuận lấy được Lân phủ. Về phần Hoành Sơn đang trong thể giằng co, hắn lại không hề lo lắng, lẽ nào muốn kéo dài chiến trận? Hừ hừ, một Tây Bắc nhỏ bé, đất đai cằn cỗi có thể hạ được ta sao? Hoàng huynh thập niên sinh tụ, tích lại cho hắn đầy của cải trong phong khố...

Lại còn cái tên chướng mắt lão tam Triệu Quang Mỹ, Hoài Nam Tây Lộ tiết độ sứ kiêm Thị Trung, trung thư lệnh, cai quản phủ Khai Phong, phong làm Tề vương, có quyền thế trong tay, làm người ta phải nể sợ. Giờ thì tốt rồi, ý đồ muốn làm đế vương bị người khác đoán ra được, như kinh sử Sài Vũ Tích cáo hắn tội kiêu căng xấc láo, làm càn không phép tắc. Đầu tiên là hạ chức trung thư lệnh và đuổi khỏi phủ Khai Phong, giao lại cho người đáng tin cậy hơn nắm giữ, tiếp đó Trương Ký cũng đích thân dâng sớ, tố cáo hắn đã không biết hối lỗi lại còn oán hận Thánh thượng. Đến hai vị đại thần đương triều phải ra mặt tố cáo nên bị giáng chức đầy đến Tây Kinh (Trường An).

Hôm nay, lại có một tin tốt truyền đến, Triệu Đắc Trụ tên phản tặc đứng đầu Thục địa bị quan binh bao vây diệt trừ, chết bất đắc kỳ tử. Việc này tất yếu sẽ làm nhụt chí của bọn phản tặc, cho nên bất kể là vây bắt hay bắt đám lâu la còn lại ra hàng sẽ dễ dàng hơn. Mối lo ngại giờ đã được giải quyết, chỉ còn đang diệt trừ tận gốc, hắn sao có thể không vui mừng chứ?

Liễu Đóa Nhi dịu dàng liếc nhìn hắn, một vẻ làm say đắm lòng người: “Quan gia tâm chứa quốc sự, trong lòng đâu có chỗ cho thiếp, nghĩ tới mới thấy, mới đến có một chút đã nói toàn lời đường mật xu nịnh. Nếu ngài có vui mừng thì cũng là do việc quốc gia đại sự, Đóa Nhi... Tự mình cũng biết”.

Triệu Quang Nghĩa cười ha ha: “Nàng thật là lanh lợi. Ha ha, nếu nói là vì quốc sự thì cũng không sai, ngày nay quốc thái dân an, dụng binh thuận lợi, trẫm sao lại không vui kia chứ?”.

Liễu Đóa Nhi kinh ngạc, thất thanh nói: “Tây Bắc... Đã bị đánh bại rồi ư?”.

“Nếu Tây Bắc đã bị triều đình chiếm giữ thì Dương Hạo hắn... Hắn chẳng lẽ sẽ chết như vậy?”. Lòng Liễu Đóa Nhi bỗng trở nên nặng trĩu, dù nàng có oán hận Dương Hạo bao nhiêu đi nữa thì nàng cũng không hề mong muốn Dương Hạo chết, ân oán giữa hai người họ khó có thể nói ai sai ai đúng, người nào cũng có cách nghĩ riêng. Nhưng dù thế nào cũng có một thời gian đẹp bên nhau, Liễu Đóa Nhi vẫn hy vọng rằng hắn có thể bình an, có thể sống sót để nàng còn có thể oán giận, chứ không phải là chết đi để nàng nghĩ đến, nhưng... Hắn đã?”.

Triệu Quang Nghĩa lặng lẽ cười nói: “Nào có nhanh vậy, còn phải dụng binh đả trượng, tuy nhiên... Cũng sắp đến ngày đó rồi, nào đến đây, hãy để trẫm chiều chuộng nàng nào”.

Triệu Quang Nghĩa giơ tay ra, ôm lấy thân hình mảnh mai của Liễu Đóa Nhi, để nàng ngồi lên đầu gối mình, một mùi hương thơm mát, dịu nhẹ thoảng qua, tấm áo lụa mịn làm lộ ra đường nét mềm mại của cơ thể nàng, vừa ôm nàng vào Triệu Quang Nghĩa cảm nhận được một luồng khí ấm áp thơm phức, hắn không thể cầm lòng được, lập tức luồn tay ve vuốt đôi gò bồng đảo mềm mại của nàng.

Liễu Đóa Nhi trong lòng cảm thấy chán ghét, Triệu Quang Nghĩa trước giờ không hề biết thương hoa tiếc ngọc, là một kẻ háo sắc hứng tình, không hề biết đến cùng hưởng hoan lộ với đối phương, hoặc là với thân phận của hắn, chưa bao giờ phải bền bỉ hao phí công phu để làm động tình nữ nhân, hắn giống như kẻ lai vãng lâm trận chém giết, làm cho người ta cảm thấy đau đớn hơn là khoái lạc. Lúc thì vội vàng cho qua, rồi lúc cấp bách đòi hỏi, ban đầu hắn còn biết giả vờ hưởng đàn ngâm thơ, giờ làm hoàng đế, không cần kiêng dè gì hết, nên càng lộ ra vẻ mặt thật đáng ghét.

Cũng thôi vậy, nhất là sau mỗi lần hoan ái, lại bị những kẻ nội thị không nam không nữ hầu cận của hắn bài bố, làm đủ các phương thức tránh mang long thai. Dù hắn có hiểu được mật ái nơi phòng loan, thì cũng cay đắng làm sao. Đối với một người kiêu kỳ như Liễu Đóa Nhi mà nói, dường như mỗi lần được hắn sủng ái là mỗi lần nàng phải chịu nhục nhã, khiến cho nàng thấy ác cảm với chuyện ân ái, thậm chí chán ghét và vô cùng sợ hãi. Nhưng... Hắn là vua, có quyền muốn gì có nấy, nàng chỉ là phận nữ nhi, sao có thể cự tuyệt được?

Bị bàn tay thô ráp của Triệu Quang Nghĩa xé tung đai lưng, nàng không khỏi nhắm hai mắt lại, lông mày nhăn lên, trong lòng tự nhủ: “Sớm thỏa mãn hắn thì hắn sẽ sớm rời khỏi đây, cứ coi như là bị quỷ bức vậy...”.

Triệu Quang Nghĩa đâu nghĩ đường đường một quân chủ anh tài, đến nơi giường gối lại bị tiểu nữ chán ghét khinh thường, không chút hấp dẫn. Thấy nàng nhắm nghiền mắt, để tùy ý quân chủ, hắn dục hỏa lại không ngừng, bế nàng ngã lên cẩm chiên, vội vàng cởi bỏ xiêm y.

Hoan lộ hòa hợp, trút bỏ hết xiêm y của nàng, tấm thân ngọc ngà lộ tỏa mùi hương ngọt ngào, Triệu Quang Nghĩa đang áp mình xuống dưới thì có tiếng nội thị ngoài cửa. Dù biết Cố Nhược nhưng vẫn nhẹ kêu: “Quan gia, Quan gia”.

Triệu Quang Nghĩa giận dữ, ngẩng đầu quát mắng: “Hồn láo, ta chưa cho phép, ai cho ngươi làm phiền?”.

Cố Nhược đáp: “Quan gia, nô tì không dám to gan. Thật sự... Thật sự là trong triều có đại sự, kính xin quan gia lập tức hồi cung”.

“Đại sự, đại sự gì chứ, sao làm phiền ta đúng lúc này?”. Triệu Quang Nghĩa nghĩ một lúc, đnh phải đứng dậy, trầm giọng quát: “Thái tử lại làm chuyện gì rồi?”.

Cố Nhược: “Không phải thái tử gây chuyện, trong cấm cung không có đại sự, là Lô đại nhân của trung thư cùng với Trương đại nhân và Tào đại nhân khu mật sứ đồng tấu mời quan gia lập tức hồi cung”.

Triệu Quang Nghĩa nghe được không phải là thái tử gây chuyện, cảm thấy nhẹ người, hắn thực là bị vị thái tử bảo bối đó làm khổ đến phát sợ, ngờ đâu lại nghe thấy là đại quan văn võ hợp tấu nghị sự, cảm thấy chút bất an. Việc này trước giờ chưa từng có, hay đã xảy ra việc kinh thiên động địa gì, làm cho mấy người họ vội kiến gặp?

Triệu Quang Nghĩa bất giác lo lắng, vội khoác long bào, cất bước vừa đi vừa vội vàng dặn dò: “Nhanh, chuẩn bị kiệu, không, mang ngựa đến đây, lập tức hồi cung”.

“Hắn đến một câu cáo từ cũng không nói với ta, hắn coi ta là gì chứ? Một kỹ nữ rẻ mạt đáng khinh sao?”. Liễu Đóa Nhi từ từ ngồi dậy, chỉnh lại xiêm y, tự giễu mà cười mình, hai dòng lệ cứ thế lăn trên má.

Triệu Quang Nghĩa không rõ có chuyện gì nên vô cùng lo lắng. Mà hắn biết nội thị không được phép tham gia chính sự, dù có hỏi thì Cố Nhược cũng không biết là xảy ra chuyện gì. Vừa ra khỏi Như Tuyết phường, hắn không ngồi kiệu, lập tức lên ngựa, vội cùng đội thị vệ hộ tống hồi cung.

Ra khỏi Thiên Kim Nhất Tiếu lâu đi về phía Tây một lúc rồi rẽ phải sẽ là Biện Kiều. Cây cầu này rộng rãi, trên dưới đều có bách tính buôn bán, nhưng trong khoảnh khắc này đều bị toán thị vệ nha dịch như lang sói dẹp sạch, không một bóng người giống như cẩu gặm cốt đầu.

Bách tính vốn đang buôn bán quanh đây bị đuổi xa ra khỏi cây cầu, các lều gách vẫn còn nguyên, hàng quán y chỗ nhưng chủ quầy đã bị đuổi đi. Cách vài bước chân lại có một nha dịch đứng canh còn họ không cần biết trong đám dân liệu có hay không mật giám hoàng thành tư, cứ hoàng đế xuất tuần, thì cảnh giới nghiêm ngặt.

Triệu Quang Nghĩa trên người khoác công phục mà quan sĩ Tống Quốc đều thích mặc, chân đi hài quấn, vội vàng quát ngựa hướng về phía Tây, những người dân đứng từ xa nhìn đoàn hành quân này cũng không hề biết rằng đó là hoàng thượng của Tống Quốc, nhưng họ đã từng được nhìn thấy hoàng đế Triệu Quang Nghĩa đâu? Dù Triệu Quang Nghĩa là phù doãn phủ Khai Phong, khi họ chạy đến phủ Khai Phong kiện đại cáo cũng chưa chắco chính hắn thẩm lý.

Triệu Quang Nghĩa cưỡi ngựa lên cầu, mã tốc chậm dần, lúc này bỗng nghe một tiếng reo hò vang trời, hắn thiểm mắt nhìn, từ đầu cầu nhìn lại, xa xa thấy trên bờ dựng một lán lớn, tập trung rất nhiều người ở đó, reo hò ầm ĩ. Hắn giữ dây cương lại, giơ roi ngựa lên chỉ: “Những người đó làm gì vậy?”.

Nơi đó hơi xa chỗ hắn, nha dịch phủ Khai Phong và thị vệ đi dẹp bóng người lúc này trở nên khó xử, còn đâu thời giờ để rà soát toàn bộ xung quanh, nhưng nha dịch phủ Khai Phong đều biết nhất cử nhất động xung quanh đây, một thám báo trèo lên cột cầu nhìn rồi lập tức bẩm báo: “Quan gia, đó là bang chủ bang Biện Hà đang làm lễ truyền vị cho đại đệ tử của hắn”.

Triệu Quang Nghĩa thấy thuyền bên bờ đó không đến ngàn quân, trong bụng nở nụ cười nham hiểm: “Một đám ô hợp tử phu chạy thuyền, còn làm nghi thức truyền vị ra vẻ. Hừ! Sớm muộn gì ta cũng quét sách bọn ngươi!”.

Triệu Quang Nghĩa lúc này không rảnh để ý tới đám tử phu đó, chỉ nhanh tay thúc ngựa một mạch tới hoàng cung. Vào đến Gia Túc môn, đăng nhập anh điện thì gặp ba quan Lô Đa Tổn, Trương Ký và Tào Lâm cung kính cúi đầu làm lễ, Triệu Quang Nghĩa lập tức quát hỏi: “Việc đại sự cấp bách gì mà cần kiến giá?”.

Ba người ngần đầu lên nhìn Triệu Quang Nghĩa, Trương Ký vội đưa ra tấu chương: “Quan gia, việc vô cùng cấp tốc, quan gia mau xem bản chiếu thư này”. Triệu Quang Nghĩa cảm thấy kỳ lạ: “Ngươi sợ gì chứ? Có trẫm ở đây, còn ai có thể ra chiếu chỉ nữa?”. Lô Đa Tốn đi tới vội nói: “Quan gia, đây là chiếu thư lập quốc của hoàng đế Đại Hạ!”.

o O o

File ảnh

http://upanh.tv/images/05594440000553321081.gif

http://upanh.tv/images/08579056964729680197.gif

http://upanh.tv/images/20199108770191833885.gif

http://upanh.tv/images/56203671531195079801.gif

http://upanh.tv/images/98168282814466905350.gif

http://upanh.tv/images/85171019765665200098.gif

http://upanh.tv/images/16745047350606050924.gif

http://upanh.tv/images/40793994739448048401.gif

http://upanh.tv/images/88497800544469862440.gif

 Chương 42: Nhị Vương Nhất Hậu

Sau khi Triệu Quang Nghĩa yên vị trên thư án, hắn bắt đầu xem thứ gọi là chiếu thư lập quốc do sứ thần nước Hạ đem đến. Lô Đa Tốn, Trương Ký, Tào Lâm đều đã đọc qua, hiểu rõ nội dung của nó, giờ họ chỉ chú ý quan sát biển hiện của Triệu Quang Nghĩa. Tôi tớ làm hữu bang, thái úy trở thành hoàng đế, chuyện đại nghịch bất đạo như vậy, thánh thượng đồng ý mới là lạ.

Có câu: “Thiên tử nhất nộ, phục thi bách vạn, lưu huyết thiên lý”. Chỉ sợ vị thiên tử Đại Tống này ngay lập tức hỏa khí ngụt trời, sắp nổi trận lôi đình.

“Thần chỉ là thường dân áo vải, xuất thân thấp kém, khi tiên đế thân chinh nước Hán, thần vâng lệnh chỉ huy hai quân tiền trận, lúc nguy cấp, chia quân làm năm vạn, vất vả ngàn dặm đành đóng binh ở Hà Tây. Tiên đế biết thần vốn thận trọng, trước lúc lâm trung đã giao phó cho thần đại sự, phong làm nguyên soái Lũng Hữu Hà Tây, thần vâng lệnh cho đến nay, sớm tối lo âu, chỉ sợ không làm tròn trách nhiệm, phụ công tiên đế, cho nên thần từ Lô Châu, đem binh chinh phạt Ngân Châu, xua đuổi loạn binh nước Liêu, giao hảo với Lân phủ, ổn định lại Tây vực, bắt đầu từng bước kiến thụ.

Nhiều lần, Kim Thượng tái phạt nước Hán, thần trong lúc nguy cấp cầu vương chi viện binh. Không ngờ, Lý Quang Duệ tiết độ sứ Định Nan quân coi thường triều đình, gây khó dễ thần, công kích ngay sau lưng, thần lo sợ vô cùng, trong lòng như bị tên bắn, chỉ lo nước Hán lâm nguy bèn điều quân trở về. Lý Quang Duệ vốn chỉ là cận thần mà dám tự nhận là vương, đúng là kẻ gian tà. Thần nắm giữ binh phù, nguyện trừ gian diệt ác, một phen quyết chiến, tận lực bình định lại Nam Ngũ châu, đánh bại quân Lý Quang Duệ chiếm lấy Hạ Châu, thần sẽ kế thừa y bát nghĩa phụ, làm chủ Định Nan, bắt đầu quy tụ Đảng Hạng bát thị.

Giờ Định Nan đã ổn định, binh giáp đầy đủ, lòng trung của thần nguyện không thay đổi, nguyện lập tức Tây chinh, đi sâu vào những vùng căn cỗi, những nơi ngu độn, diệt trừ quân gian ác, nhất cử san bằng các châu Hà Tây, bắt hàng chư bộ, tiên phong tiến thẳng Ngọc Môn quan, Tây Bắc đã suy vong đến hai trăm năm, ngày nay phải khôi phục Hán thổ, như thế thần mới có thể báo ơn tiên đế tỏ lòng trung với bệ hạ.

Không ngờ bệ hạ lại nghe lời hoạn quan rèm pha ác ý, làm nhơ nhuốc thanh danh thần, gây loạn dấy binh đến nhiễu Lân phủ, hãm hại trung thần. Vào lúc đó Vu Điền Tây Vực đã viện trợ thần, Vu Điền thực coi Trung Nguyên là tông túc. Thần lại lấy làm kinh ngạc khi nghe quyết chỉ của bệ hạ, chẳng lẽ không phải là việc động trời? Đại ân đại đức nên thần không dám trái lời! Thần luôn lấy thiên hạ làm trọng, chưa từng dám phụ long ân của tiên đế, giữ gìn di chí của tiên đế tức bình trị thiên hạ làm trọng trách, viện binh từ Vu Điền ân tể phụ viễn, những hành động ấy há lại có ý đối địch bệ hạ sao!

Duy chỉ có bệ hạ tiến binh về Tây, phong hỏa tín được truyền đi, nhất ý cô hành, không chỉ tội mà trách phạt cũng không cho thần cơ hội để giải hàm oan. Quân lệnh thần tử thì thần bất đắc bất tử. Là người của Dương Hạo sao lại vì tận trung với bệ hạ mà đến chịu phạt chứ? Thế nhưng, Hà Tây chư châu mới phục, vẫn còn chưa ổn định, khắp Tây Vực vẫn còn nhiều binh tộc bất kham như Đảng Hạng, Thổ Phồn, Hồi Hột, Thổ Cốc, nếu Dương Hạo bị điệt vong, lang khói nổi tứ phương, chúng tức sẽ phân tán, Hà Tây lại rơi vào tay giặc.

Các châu bộ Hà Tây chỉ biết thần sợ thần, nể trọng và theo thần, thần tự không lấy làm mừng mà luôn thị tòng đế vương, trung và nghĩa làm thần tiến thoái lưỡng nan, thần chỉ còn biết nhớ đến tiên đế, trằn trọc ngày đêm. Tiên đế hùng tài đại lược, vốn định thân chinh quang phục Hà Tây, nhưng ngài nhân từ coi tính mệnh bách tính người Hán thần làm trọng, thần tiếp nhận di chiếu của tiên đế nào dám không tận đại trung đại nghĩa. Nhưng chẳng lẽ vì giữ thanh danh mà chịu bị xử tử vì cái tội “chưa hề phạm”, đại cục trong phút chốc bị hủy hoại, bách tính Hà Tây gánh chịu loạn lạc binh biến, khiến vong linh tiên đế trên trời không được yên bình, làm bệ hạ phải mang tội danh thiên cổ sao?

Nay thần nắm giữ khôn phù, trao trả Tây Vực để đại nghiệp hợp nhất, Sơn Xuyên thịnh thời, cờ khởi nghĩa dựng lên, bình định Ngũ châu, Đảng Hạng bát thị đều quy tụ về, dưới cờ hiệu lệnh, Hà Tây mười lăm châu, các tộc người như Thổ Phồn, Hồi Hột, Thổ Cốc bất tòng phục nhưng đã có ý tư phục, phương hữu sở định. Thần nguyện lấy nhất mảnh đất này vì đại nghiệp, gánh chịu cảnh mệnh biến nó thành một quốc, bỏ lại chữ đức mà uy chấn tuyệt vực, làm cho tạp hồ Tây Vực kế tục y quan của dân Hán chúng ta tòng quân tiến cử văn giáo, kiến dựng một bang gia trung thành. Định ngày mười lăm tháng mười làm lễ giao đàn cho hoàng đế Đại Hạ lập pháp quốc văn, niên hạo Thiên Thụ.

Kính mong hoàng đế bệ hạ Đại Tống, hãy kề cận trung thần tránh xa những kẻ tiểu nhân, luôn anh minh sáng suốt, khoan dung độ lượng, hứa với Tây phận, xứng là vua phía Nam, biết dụng trung nhân, thưởng phạt phân minh.

Nhân gian người người tới lui, sẽ truyền nhau về sự phồn vinh của nước láng giềng, trường tồn cùng với trời đất, có thể vĩnh viễn tránh được họa biên phòng, nếu thực đồng ý, thần vô cùng ngưỡng phục”.

Bức chiếu thư lập quốc này được viết rất khách khí, ngữ từ kính cẩn, chỉ đến đoạn cuối câu chữ đều dùng cách xưng hồ thần tử, nhưng nó lại có hàm ý sâu sắc, trong bông giấu kim. Theo ý của Dương Hạo thì thảo phạt hai châu Lân Phủ, binh tiến Hà Tây là do hoàng đế nghe lời mê hoặc của bọn hoạn quan, còn hắn bị bức xưng đế là vì trước giờ đều ghi nhớ di nguyện của tiên đế.

Trong chiếu thư, Dương Hạo dùng từ uyển chuyển, tự mình chí hướng, mỗi câu chữ đều khăng khăng là vì di nguyện của tiên đế, nhất là lúc thuật lại việc khi biết đại quân triều đình tới thành, khẳng định mình vẫn phái quân viện trợ Vu Điền một cách oai phong lẫm liệt, đại công vô tư, nhẹ nhàng tôn mình lên.

Từ loạn An Sử nhà Đường về sau, Trung Nguyên đã mất đi chủ quyền ở Tây Vực, triều Đường không thể tiếp tục cai trị Hà Tây, Lương Tấn Hán Chu cũng không làm được, bây giờ Dương Hạo đã làm vì Đại Tống nhưng quan tuyền đã làm những gì? Chính là giống với Lý Quang Duệ, dám viện một lý do thảo phạt trung thần. Hắn đang làm gì, nước Tống đang làm gì? Công đạo đều ở tại lòng người! Ai cũng biết!

Nói đi nói lại, tất cả những gì hắn làm đều là vì nước Tống, vì di nguyện của tiên đế, hắn phản Tống thực là để trung với Tống, chỉ có điều hắn trung với Triệu Khuông Dận nước Tống, phản lại Triệu Quang Nghĩa. Hắn hành động như thế đều là do bất đắc dĩ, bị bắt buộc.

Xem qua bản chiếu thư văn chương lưu loát hơn ngàn chữ, Triệu Quang Nghĩa liền vứt xuống long thư án, đầu ngẩng lên. Ba người Lô Đa Tốn biết ý vội cúi rạp mình xuống, thẳng vai chờ đợi Triệu Quang Nghĩa giận dữ gầm thét, không ngờ Triệu Quang Nghĩa lại im tiếng không chút động tĩnh.

Ba người lấy làm lạ, lặng lẽ ngẩng đầu lên nhìn thấy hai tay Triệu Quang Nghĩa đứng vịn vào án thư, một hồi lâu sau đột nhiên cười to lên: “Từ khi trẫm đăng cơ đến nay, sớm tối mụ mị, vất vả chuyện quốc nay văn tu võ trị, thiên hạ thái bình, chiến tích không thua gì tiên đế. Chỉ có duy nhất một việc cảm thấy đáng tiếc là Trẫm diệt Đường, Hán, thu nạp Ngô Việt thống nhất ba nước, cuối cùng cũng không bằng võ công tiên đế chinh phục bốn nước Kinh Thục Hồ Hán, tên Dương Hạo này quả nhiên một lòng trung thành, hắn cho ta một cơ hội để có thể xứng với tiên đế, trẫm lẽ nào lại không tiếp nhận tấm lòng trung hiếu của hắn chứ?”. Triệu Quang Nghĩa đột nhiên đứng dậy, mắt ánh lên uy nghiêm nói: “Triệu hai phủ, một viẹn, tam ti, lục bộ, cửu khanh tề tụ đến tử thần điện nghị sự!”.

*

* *

Thượng kinh nước Liêu, cung Nguyệt Hoa, đêm đã khuya, rạng lên ánh đèn.

Hoàng đế tuổi nhỏ, hiện nay hoàng hậu nắm quyền nhiếp chính, cung Nguyệt Hoa của thái hậu cũng trở thành nơi nghị sự việc quân cơ đại sự. Vì thế, văn võ nước Liêu đều tề tựu tại đây, đang nghị luận việc lớn vừa xảy ra tại Tây Bắc.

Nước Liêu tuy lập nước sớm, sau khi chiếm được mười sáu châu ở U Vân tốc độ Hán hóa dần nhanh chóng, quản chế triều đình xây dựng theo Trung Nguyên, nhưng các quan văn võ ngoài những ngày lên triều ra, trước mặt hoàng đế đều rất tùy tiện, vì họ có uy lực trước thái hậu nên cười nói nghị sự không hề kiêng kỵ, thua xa sự tôn nghiêm uy vũ của triều đình nước Tống.

Trong cung, vệ quân Đô chỉ huy sứ Gia Luật Cáp tự vuốt râu, cười trên nỗi bất hạnh của người khác mà nói: “Hay lắm, mấy năm trước, Đại Liêu ta trước sau xuất hiện mấy tên phản tặc, nội loạn không ngừng, bị nước Tống chê cười, thừa cơ Đại Liêu bận rộn chính sự nhất cử tiêu diệt nước Hán. Hà hà, giờ chịu báo ứng, Dương Hạo phán Tống, mười chín châu Hà Tây và tới hai trăm ba trăm vạn dân nước Tống phen này không lo nổi thân mình”.

Tiêu Xước ngồi ghế thượng thủ, mắt liếc nhìn nói: “Chư vị ái khanh, hãy nói về việc chính sự đi, một khi Dương Hạo thống nhất Hà Tây, lập nước xưng đế, vua Tống uất giận, ắt sẽ lại điều đại binh thảo phạt Tây Bắc, Dương Hạo lấy thân phận hoàng đế đại Hạ gửi sứ thần đến, muốn thiết lập quan hệ bang giao với nước ta, muốn ta giúp đỡ, không biết chư vị ái khanh có ý kiến gì?”.

Gia Luật Hưu Ca đứng dậy nói: “Thái hậu, Hà Tây được tự lập rất có lợi cho Đại Liêu ta, nhưng Dương Hạo tự lập đã gây thù với Nam triều, Nam triều sẽ có cớ để dụng đại binh đến Hà Tây. Quyết không để Hà Tây rơi vào tay triều Tống, nếu không đối phương sẽ rất có lợi, cực bất lợi cho Đại Liêu, thần cho rằng, phải tận lực giúp đỡ Dương Hạo”.

Tiêu Xước nghe xong cảm thấy vui sướng, Gia Luật Hưu Ca là ái tướng của nàng, thậm chí là chỗ dựa, nàng đương nhiên mong muốn Gia Luật Hưu Ca nhất tâm vi công, mà nay Gia Luật Hưu Ca có thể vứt bỏ hiềm khích, toàn tâm toàn ý lo nghĩ cho triều đình, không vì chuyện của La Đông Nhi mà phán xét con người Dương Hạo tốt xấu, nàng lại càng thích thú hơn.

Không ngờ Gia Luật Hưu Ca vừa nói xong, lại nói tiếp: “Tuy nhiên, dù việc giúp nước Hạ có lợi cho Đại Liêu thì chúng ta cũng không thể vô cớ tương trợ, tổn hao tướng sĩ Đại Liêu. Thần cho rằng, chỉ thiết lập bang giao là không đủ, nước Hạ phải bắt chước Hán, kết phụ tử với Đại Liêu, cam chịu phụ thuộc vào nước ta, nghe lệnh hoàng đế nước ta...”. Tiêu Xước ngẩn ra, thất thanh nói: “Phụ tử quốc?”.

Gia Luật Hưu Ca đáp: “Không sai! Dương Hạo đã có thể xưng đế, điều kiêng ky nhất, tức là đại quân của nước Tống. Chỗ dựa lớn nhất duy chỉ có hùm lang là nước Liêu ta, ấy, trên thế gian này làm gì có chuyện dễ dàng như vậy? Chỉ dùng một vương hiệu đổi lấy vương vị, hắn chắc sẽ không cự tuyệt đâu”.

Hắn hướng về bá quan văn võ, mắt lộ một vẻ giễu cợt, cười nói: “Chư vị đại nhân, kẻ thù của kẻ thù, chính là bằng hữu của chúng ta, việc phục quốc này, chúng ta nên giúp đỡ.

Chí ít thì lợi ích mà nước Hạ đem lại cho ta nhiều hơn Hán, tuy nhiên, hắn cũng phải trả giá chút chứ? Chỉ cần hắn, vị hoàng đế nước Hạ này, gọi tiểu hoàng đế ba tuổi nước ta một tiếng phụ hoàng, Đại Liêu mới thấy hãnh diện, các vị nói xem có đúng không?”.

Bá quan văn võ nghe xong đều cười ha hả, ồn ào nói: “Đúng vậy, hắn muốn mượn binh tướng Đại Liêu ta thì phải gọi hoàng thượng nước ta một tiếng phụ hoàng”.

Họ đồng ý nhưng Tiêu Xước không đồng ý, tuy quan hệ giữa đôi phụ tử này cuối cùng cũng không thể làm rõ được, nhưng họ dù sao cũng là phụ tử, muốn kẻ lớn hơn gọi người nhỏ hơn tiếng phụ hoàng sao? Dù nàng bỏ được Dương Hạo nhưng không thể bỏ con trai mình, phụ tử đảo nghịch là tội trời tru đất diệt.

Tiêu Xước thở dài nói: “Huu Ca đại nhân, một nước mới lập, một vương mới xưng, lại phải xưng làm hoàng nhi với con nít ba tuổi nước khác ư? Ngươi cho rằng người trong thiên hạ đều giống Thạch Kính Đường hám lợi mất khôn sao?”.

Tiêu Xước chưa nói xong, Gia Luật Hưu Ca đã cười đáp: “Thái hậu, hắn đã cầu ta giúp, thì bất kể giúp nhiều ít cũng phải trả giá chứ”.

Tiêu Xước lắc đầu nói: “Huu Ca đại nhân lời này sai rồi, nên biết rằng Dương Hạo vốn người Tống, trong chiếu thư hắn khăng khăng khẳng định tuân theo di chiếu tiên đế Nam triều, bất đắc dĩ bức bách tự lập, nếu xưng hoàng nhi với Đại Liêu ta, lẽ nào không phải là di nhân khẩu thực? Văn võ dưới trướng hắn đa số là cựu thần Hán quốc, lúc trước Lưu Kế Nguyên xưng hoàng nhi với Đại Liêu ta, những quan thần này đã uất hận mà không dám nói”.

Gia Luật Hưu Ca có ý muốn sỉ nhục Dương Hạo, nghe thấy vậy bèn đáp: “Hắn dẫu không chịu thì cũng mượn cớ đó phần nào làm nhụt nhuệ khí của hắn, tiện đó đưa ra các điều kiện khác, chứ không phải sử tiết của hắn vừa đến, Thái hậu liền đồng ý chứ?”. Tiêu Xước không đáp, quay sang tể tướng Bắc phủ, đồng chánh sự môn hạ Thất Phòng hỏi: “Ái khanh nghĩ thế nào?”.

Thất Phòng trầm tĩnh nói: “Thần cho rằng, nước cùng kết huynh đệ hay phụ tử chi bang thì cũng chỉ là hư danh, không quan trọng đến mức ấy”.

Quách Tập tuy quyền cao chức trọng, được thái hậu hết mực coi trọng, nhưng cũng không muốn vì thế mà đắc tội với Gia Luật Hưu Ca, lúc này mới ra lời khuyên bảo hắn: “Đương nhiên, như lời Hưu Ca đại nhân đã nói, cái đó càng nâng cao quốc uy Đại Liêu, thể hiện chí khí của ta, kỳ thực rất có lợi. Nhưng theo ý thái hậu, Dương Hạo tuyệt đối sẽ không đồng ý điều kiện này, giờ là lúc hắn chiếm lĩnh lòng dân, cớ để lập quốc không có nghĩa là chỉ phụ thuộc vào mồm miệng, đến xưng thần với Đại Liêu ta. Như nay hắn phái sứ thần tới cầu cận ta có nghĩa là thừa nhận Đại Liêu là đại quốc, thượng quốc. Nếu chúng ta đưa ra một điều kiện khiến hắn không thể đáp ứng được, sau đó lại ra chút nhượng bộ, há không phải là chúng ta đang chiều theo ý hắn sao?

Huống hồ nước Tống cường thịnh, binh lực hùng mạnh vẫn là đối thủ mạnh nhất của Đại Liêu ta, mấy năm gần đây, vì nội loạn, Đại Liêu tổn hao nguyên khí, mắt thấy Hà Tây bị Nam triều thôn tính mà bất lực không thể đánh giáp mặt một trận, chúng ta đã để mất cơ hội, ngày nay Dương Hạo vì Hà Tây mà gây thù với Nam triều, điều này đối với Đại Liêu mà nói chính là một cơ hội quy báu trời cho, chúng ta sẽ thể hiện sự hào phóng của đại quốc, không nên tranh chấp những việc nhỏ nhặt này với hắn, hai bên ký kết làm hữu bang, thựcó lợi lớn cho Đại Liêu để đánh lại Nam triều, có được những lợi ích xác thực như vậy lẽ nào không phải là hùm báo thêm cánh sao?”.

Hắn hướng về phía Tiêu Xước, khom người nói: “Thái hậu, nước Hạ kia có đưa ra yêu cầu tất cũng đưa ra những điều kiện đắc lợi cho chúng ta, đó là gì vậy?”.

Tiêu Xước nói: “Điều thứ nhất: Hai nước kết bang giao, không xâm phạm lẫn nhau, ven mép các thành trì không được xây thành hào, không được điều binh động mã. Thứ hai: Hai bên văn giáo truyền bá không được gây trở ngại, phàm là đạo tặc đào tẩu, hai bên không được che dấu mà bắt dẫn về chính quốc. Thứ ba, vùng biên thùy thiết lập các tràng (chợ), hỗ trợ giao thương. Thứ tư: Nước Hạ tình nguyện cống nạp Đại Liêu mỗi năm: muối sáu vạn thạch (một thạch: 120 cân), trà một nghìn thạch, lụa mười nghìn xếp, thiết khí hai vạn kiện cùng với gốm sứ các loại và giao thương với giá đồng đều Trung Nguyên, thuế tức nhỏ”.

Thất Phòng vừa nghe thấy liền nhíu mày lại, trong những điều trên, ngoài điều cuối ra thì tất cả đều là điều kiện hoàn toàn bình đẳng đôi bên cùng lợi, điều cuối cùng cứ cho là Dương Hạo chủ động mưu cầu Đại Liêu nhận lời và báo đáp sự giúp đỡ đó.

Lúc này Tống đang thực hiện phong tỏa kinh tế với nước Liêu, hai bên tuy không có nhiều tràng hàng hóa trao đổi được giới hạn, nước Liêu không trao vận ngựa, thiết khí cho Tống, dù chỉ là giao dịch các đồ dùng cần thiết như muối, trà, lương thực, gốm sứ... Cũng tô thuế tới mười phần, hạn chế các quy mô xuất khẩu khác.

Mà thiết khí như nồi sắt, đầu rìu, lưỡi liềm, lưỡi cày là những phẩm vật cần thiết trong sản xuất, nước Liêu lại rất bần thiếu, nhiều nhà có con gái sắp gả đi đều lấy nồi sắt làm của hồi môn, nồi càng thượng hảo thì nương gia càng có thể diện, nghĩ đến giá cả khi trao đổi là biết. Hoặc như đầu rìu, lưỡi liềm, lưỡi cày có nhiều nơi đa số là dùng các loại bằng gỗ, đá nên năng lực sản xuất hạn chế nhiều.

Những điều khốn khó đó Thất Phong tể tướng biết rất rõ, nếu có thể mua được các loại thương phẩm đó từ nước Hạ với giá trị rẻ là việc rất lợi. Nhưng Dương Hạo vừa mới lập quốc, muốn có một đồng minh lớn mạnh, hắn chỉ đề xuất trả một cái lợi. Nguyên tắc mà nói, thậm chí không phải là lợi mà chỉ là hai nước không đối địch nên chưa tận lực tiến hành hạn chế và tô thuế mậu dịch,c ó sự mưu cầu mà lại chỉ trả chút lợi này, tên hoàng đế nước Hạ này quả quá keo kiệt.

Thất Phòng không nhịn được phì cười, ung dung lắc đầu nói: “Vị hoàng đế nước Hạ này thật nghèo kiết xác, hay là không hề có ý muốn nước Liêu ta tương trợ, điều kiện kết giao này thực quá ít ỏi”.

Da Luật Hưu Ca cười khẩy nói: “Thất Phòng đại nhân, ngài cũng thấy không thỏa rồi phải không? Ấy! Đây chính là thành ý kết giao của vị hoàng đế nước Hạ đó với Đại Liêu. Theo ý ta, quyết không thể dễ dàng đáp ứng hắn như vậy. Không đáp, chúng ta tuy rất muốn quy tụ Hà Tây, nhưng Dương Hạo hắn lại phản Tống tự xưng, so với Hà Tây thì chúng ta càng phải chú trọng hơn trăm lần.

Thái hậu, theo ý của thần, chúng ta cứ tạm thời thoái thác, không đưa hồi đáp hoặc trước tiên thừa nhận sự tồn tại của nước Hạ, đồng ý kết giao nhưng thực chất không đưa ra một trợ giúp nào. Hắn đã dám xưng đế thì cũng phải liệu biết sẽ làm hoàng đế Nam triều nổi trận lôi đình. Trong thời gian ngắn, khi Hà Tây lâm nguy, đến lúc hắn không thể trụ được nữa thì chúng ta đưa ra yêu sách, hắn không muốn cũng phái đồng ý, Đại Liêu ta lại càng có thể khống chế được nước Hạ”.

Tiêu Xước do dự một chút, lại nhìn về phía xu mật sử Quách Tập, ba người này là những lĩnh tướng giỏi giang một văn hai võ ba là hoàng thân quốc thích, dù nàng là thái hậu hay hoàng đế thì cũng phái kiêng nể và coi trọng ý kiến cả ba đại thần này.

Quách Tập trầm ngâm chốc lát rồi nói: “Theo tình thế nước ta hiện nay, không dễ can qua động binh với Nam triều, Dương Hạo vốn là triều thần nhà Tống mà lại tự xưng đế, người quân tử khó có thể dung, hoàng đế Nam triều, nay có làm những phản ứng gì ta chưa thể đoán biết được, vạn nhất hắn không cần biết lợi hại không tiếc hết thảy... Là vì đề phòng nước ta lún vào quá sâu, thần cho rằng nên thận trọng kỳ sự, trước tiên đồng ý kết bang giao, phải xem xét động thái Nam triều và Dương Hạo hắn có đủ thực lực để phục quốc hay không, nếu chỉ là một trò khôi hài phục không nổi thì Đại Liêu ta sẽ bớt phải chịu tổn hại”.

Tiêu thái hậu ngừng chau mày, hơi sầu, âm thầm thở dài: “Trước sau không thương lượng cùng ta, việc xong lại bắt ta làm này làm kia, ta đã nợ ngươi gì sao? Liều lĩnh xưng đế làm gì chứ, xưng làm vương cũng tốt hơn xưng đế, người như vậy không phải là ép Triệu Quỳnh cùng đánh một trận quyết tử sao, đến một lối thoát cũng không cần. Ta còn có giang sơn bách tính của ta, nhất cử nhất động sao có thể khinh xuất. Ngươi giờ đây nhất định đang hối hận, bất an không thiết ăn ngủ phải không?”.

Lúc nghĩ đến Dương Hạo hắn chắc đang hối hận vô cùng, lo đến mất ăn mất ngủ, Tiêu Xước liền lắc lắc đầu.

*

* *

“Triệu quan gia Biện Lương giờ chắc là vô cùng lo lắng, thái hậu mãng xà Thượng Kinh e là cũng ở vào thế tiến thoái lưỡng nan, nói ra thì hiện giờ chỉ duy nhất ta kẻ tác dũng là vẫn bình yên, ung dung lãnh đạm, ha ha, ta bây giờ chỉ cần làm một việc duy nhất, là binh lai tiếp cản, thủy lai thổ tích ngưng”.

Nghĩ đến chỗ đắc ý, Dương Hạo mỉm cười, thản nhiên đứng trước một tiểu lâu nhiều hình trạm trổ, nhấc tay gõ cửa, từ bên trong Oa nhi cất giọng một cách tao nhã hỏi: “Ai thế?”.

Dương Hạo cười ranh mãnh đáp: “Ái phi, trẫm đến với nàng đây”.

 Chương 43: Thời Thế Đến, Vận Mệnh Sẽ Tự Đổi Thay

Một tiếng “A!” thở nhẹ thoát lên, Dương Hạo cực thính tai, lắng nghe trong phòng rục rịch, tiếng động có chút khác thường, như là đang vội vàng che giấu chuyện gì đó, nghe kỹ lại đúng là có tiếng hai người đang thở dồn dập, Dương Hạo lập tức ngờ vực, trong lòng thầm nghĩ: “Ta... Ta đi rồi, vương miện mà ta vẫn chưa hoàn thiện... Chẳng lẽ phải nhuộm thành màu xanh rồi sao?”.

“Oa Nhi...”.

Dương Hạo đưa tay đẩy cửa, cửa phòng đã chốt trong, dựa vào võ công của hắn để phá cửa xông vào là rất dễ dàng, chỉ có điều đang định mạnh tay thì lại hơi chút do dự, hắn dừng lại, chỉ nhẹ nhàng nói: “Mau mở cửa!”.

Một tiếng bước chân vội vã truyền lại, “két” một tiếng cửa phòng được mở ra. Ánh đỏ của ngọn đèn rọi sáng, chỉ nhìn thấy thân hình nhỏ xinh của Oa Nhi với một bộ áo lụa mềm trắng có thêu hình trúc mai, nàng thật giống như một tiểu nữ chưa trưởng thành, nhưng mái tóc nàng buông dài, chỉ quấn lỏng bằng một sợi lụa đỏ, điều đó đủ toát lên vẻ nữ tính làm mê mệt lòng người.

Phòng nàng vốn được trang trí một cách tùy ý, mà lúc này lại đúng thời khắc đi ngủ, nên Ngô Oa Nhi mái đầu không tô sức, thanh tơ nửa cuốn, hở ra hai cỗ tay trắng muốt, mắt nhìn chăm chú, mgười mặc bộ gấm lụa mềm mại. Trong ánh đèn ửng đỏ, trông nàng càng giống như một thiếu nữ non nớt, khuôn mặt thanh tú xinh xắn như hoa như ngọc, yêu kiều khả ái.

Ngô Oa Nhi nhẹ nhàng vén sợi tóc lên, khuôn mặt được điểm sáng, nàng đáp lời một cách không tự nhiên: “Lão gia... Quan gia... Việc công đã xong rồi ạ?”.

Dương Hạo vừa nhìn ánh mắt nàng càng thêm nghi hoặc, hắn chỉ ừm một tiếng rồi dạo bước vào phòng, một mùi hương ngào ngạt tỏa ra, mùi trầm bạch. Trong phòng phảng phất những áng khói, Dương Hạo càng nghi ngờ, hắn nhìn trên bàn, ngoài chén và mân trà ra thì không có gì khác. Tuy nhiên, có hai chén trà đã xốc lên, đã rót đầy nước trà.

Lúc đó, mắt Dương Hạo nhất thời nhìn chăm chăm, Ngô Oa Nhi ở phía sau hắn, thấy chén trà trên bàn không khỏi thốt lên: “Thiếp hư quá, quên mất không dọn chén trà ngăn nắp”. Oa Nhi vội nhìn Dương Hạo, thấy hắn vẫn trầm lặng như là chưa phát hiện ra điều gì khác thường, lúc này nàng mới bình tâm trở lại.

Dương Hạo vừa đi vừa lắng nghe, sau tấm bình phong có chăng mảnh cẩm trướng bằng lụa vân rực rỡ, bên trong kê sẵn một chiếc bồn gỗ, lúc này hắn nghe rõ có tiếng người đang thở. Thực lòng hắn không muốn tin rằng Oa Nhi đã làm chuyện có lỗi với mình, nhưng trong tình cảnh này thì có kẻ nam nhân nào lại không nghi ngờ cho được? Dương Hạo chỉ muốn xông đến lôi cổ kẻ đó ra nhưng lại lo rằng một khi Ngô Oa Nhi bị phát hiện là bất thủ phụ đạo thì phải xử phạt nàng ấy như thế nào đây, trong chốc lát tâm trạng rối bời, hắn chầm chậm đến ngồi xuống bên cạnh bàn.

Ngô Oa Nhi vội vàng tới trước mặt hắn, che khuất ánh nhìn của hắn, nhẹ nhàng nói: “Quan gia những ngày này bận bịu quốc sự, đã nhiều ngày không lưu về hậu trạch, hôm nay có phải là đã nhàn rỗi hơn rồi phải không ạ?”.

Dương Hạo chậm rãi ngẩng đầu lên nhìn nàng chằm chằm, Ngô Oa Nhi đúng là một giai nhân tuyệt đẹp khó thấy, tuy đã hai ba, hai tư tuổi nhưng dung mạo lại yêu kiều mỹ lệ như nữ nhi tuổi trăng tròn, khuôn mặt đào hoa, thuần khiết non nớt. Nếu như Dương Hạo dù sớm biết tiểu nữ xinh xắn đẹp đẽ nhường này lại đem lòng phụ bạc, say mê dục ái thì hắn cũng tình nguyện bị nàng hớp hồn đánh lừa.

“Nhưng mỹ nữ này... Thật thật sự khó có thể chịu đựng cô đơn lạnh lẽo nơi khuê phòng, dám... Dám làm...”.

Dương Hạo cảm thấy đau nhói trong lòng: “Ta trằn trọc thao thức, khổ cực vất vả, không phải là vì để người thân bên cạnh, vì những người như các nàng được sống những ngày thái bình phú quý sao? Oa Nhi à Oa Nhi, nếu thực nàng đã làm điều có lỗi với ta, nàng bảo ta phải xử phạt nàng như thế nào đây”.

Hắn miễn cưỡng nở nụ cười: “Sao vậy, nay ta đến thăm nàng, nàng không thích sao?”.

Ngô Oa Nhi đáp: “Thần thiếp nào có lý do gì mà lại không thích chứ, chỉ là có chút ngạc nhiên, chỉ lo quan gia trăm việc bộn bề, đến rồi lại đi ngay thôi”.

Nàng vừa nói vừa quay đầu nhìn lại, trán hơi nhăn lại nhưng cũng ngượng ngùng, Dương Hạo thấy vậy, trong lòng càng thêm nghi, hắn tiện nắm lấy chén trà, cười to nói: “Sao có thể chứ, ta đã tới rồi, thì sẽ ở lại đêm nay”.

Oa Nhi thấy hắn định uống trà liền vội thở nhẹ một tiếng, Dương Hạo nhấc mày hỏi: “Sao vậy?”. Oa Nhi ê a đáp: “Chén trà này... Thần thiếp đã uống dở rồi, hay... Thiếp rót cho quan gia chén khác”.

“Không cần đâu”.

Dương Hạo vừa bận xong việc công, nên vừa mệt vừa khát, hắn uống một hơi hết sạch chén trà nguội đó, thoải mái nói: “Ta vừa ban phát bức chiếu thư lập quốc đó, Triệu Quang Nghĩa lo như lửa cháy đến đuôi, lập tức gia phái binh mã, thúc giục Phan Mỹ tiến quân thảo phạt. Phan Mỹ lại là một tên tướng chỉ giỏi tấn công, vốn không thể bền bỉ giằng co với ta, nhờ thế tấn công hắn hiển nhiên không phải dùng hết sức.

Ha! Như thế vừa đúng ý ta, ta đang không muốn chiến đấu lâu dài với hắn, chỉ cần trong thời gian ngắn, dù cho bây giờ không phải là Dương Kế Nghiệp danh tướng thiện thủ kia giúp ta làm chủ thế trận, quân Tống cũng không thể đánh bại ta ngay trong chốc lát nên không cần phải quá bận rộn nữa, thời gian còn lại chỉ là xem chiếu thư rất nhàn hạ, sau này ta sẽ có thể thoải mái ở bên các nàng, nàng vui chứ?”.

“Quan gia. Thật chứ ạ?”. Ngô Oa Nhi mừng rỡ, quên cả lễ nghi, sà vào lòng Dương Hạo, hai tay ôm chặt lấy cổ hắn, nói một cách tình tứ: “Quan gia Tây chinh đại mạc, việc chinh chiến cấp bách, trở về lại lo chuyện trù lập đăng cơ, mỗi ngày đều bận tối mày tối mặt, người ta dù nhớ quan nhân, nhưng cũng hiểu được nặng nhẹ cấp bách, đâu dám... Đâu dám tỏ sự quyến luyến trước mặt quan nhân, quan nhân giờ không bận rộn gì nữa thì người... Phải ở bên cạnh thiệp suốt mới được”.

Dương Hạo là người từng trải, chân tình giả ý hắn đều biết hết, giờ phút này, nhìn thấy nàng lộ vẻ chân tình quấn quýt, mừng rỡ một cách tự nhiên không hề che đậy hay giả dối, trong lòng không khỏi cười khẩy: “Diễn tốt lắm, có thể lãnh thưởng kim mã được!”.

Hắn cười to, ôm chặt lấy thân người mềm mại thơm mát của Oa Nhi nói: “Mấy tháng nay bận công sự, nàng có biết ta nhớ nàng đến thế nào không? Nào, trời sắp sáng rồi, chúng ta mau lên giường, đi nghỉ thôi”.

Dương Hạo nói xong liền bế nàng đi vòng vào phía sau tấm bình phong, Ngô Oa Nhi lập tức trở nên căng thẳng, trách giận nói: “Quan gia sao lại vội vã như thế, cũng phái để thần thiếp tháo bỏ trang sức gột rửa đã rồi sẽ tới hầu hạ phu quân”.

Đang nói thì Dương Hạo đã đi tới cạnh giường, hắn cười nhạt nói: “Vợ chồng với nhan, cần gì phải câu nệ!”. Vừa nói hắn đã bước tới sau cẩm trướng, thuận tay xốc những mành xúc tua lên, quả nhiên có một kẻ đứng ngay sau cẩm trướng. Mành vừa được vén lên, kẻ đó lại phát ra tiếng thở nhẹ, Dương Hạo tức giận ngập người, trợn mắt nhìn, để xem rõ hình dáng kẻ kia. Nhưng hắn không khỏi kinh ngạc... Phía sau giường thực có người, nhưng đó lại là một nữ nhân, là Đường Diễm Diễm. Dương Hạo ngẩn người một lúc, tiện đà nghi hoặc hỏi: “Diễm Diễm nàng trong phòng này sao lại phái né tránh ta? Lẽ nào, lẽ nào nơi giường gối thiếu vắng, các nàng định diễn trò giả phượng hư long ở đây sao?”. Nhìn kỹ lại thấy trên tay Đường Diễm Diễm cầm một tượng Phật, hắn nghĩ sự nghi ngờ của mình có chút không đúng, Dương Hạo không khỏi giật mình nói: “Nàng trốn ở đây làm gì vậy?”.

Đường Diễm Diễm vội nhìn Ngô Oa Nhi, Ngô Oa Nhi lại nhìn Đường Diễm Diễm, Đường Diễm Diễm dậm chân nói: “Tỷ sớm đã nói không cần phải tránh mặt quan gia rồi mà, muội lại đắn đo lo ngại, giờ bị người phát hiện rồi này”. Vừa nói nàng vừa bước ra khỏi tấm mành, Dương Hạo bấy giờ mới nhìn rõ nàng đang cầm một bức tượng “Quan Âm Tống Tử”, hắn bừng tỉnh ngộ, không khỏi xấu hổ vì những nghi ngờ ban nãy.

Tuy nhiên may mà lúc nãy cơn giận của hắn vẫn chưa phát tác ra, là chủ nhân của nơi này nên cũng không thể nhu nhược yếu đuối, Dương Hạo biết rằng hai nàng đều là những người thông minh tuyệt đỉnh, hắn vội vàng xông vào như vậy cũng giống như tự khám xét, sợ hai người đã đoán ra mình đang nghĩ gì, hắn liền vội chữa lại, để Ngô Oa Nhi ngồi xuống, nghiêm khắc nói: “Cá nàng mờ mờ ám ám như vậy, rốt cuộc là đang làm gì?”.

Ngô Oa Nhi khép nép một lúc rồi nhìn sang Diễm Diễm, Diễm Diễm lại không hề sợ hắn, nàng liền ngồi xuống bên cạnh giường, ôm bức tượng vào lòng, cây ngay không sợ chết đứng mà nói: “Chúng thiếp chỉ lén mời một tượng tống tử quan âm, kính thờ lễ Phật, khẩn cầu Bồ Tát ban long tử, cách này được lưu truyền đã mấy trăm năm, nghe nói là vô cùng linh nghiệm, nhưng muội ấy lại không muốn người khác nhìn thấy lại chê cười nên mới phải lén lút vậy. Chúng thiếp cũng chỉ là vì nhà họ Dương tử tôn đầy đàn, đời đời hưng thịnh! Có gì mà phải hồ thẹn chứ”.

Dương Hạo vừa nghe đúng là duyên cớ này, không khỏi vừa bực vừa buồn cười nói: “Đây đúng cái gọi là có bệnh vái tứ phương, điều hư giả vô thực như thế các nàng cũng tin sao? Cầu khẩn Bồ Tát cũng không bằng đến cầu quan gia của nàng, không có ta, các nàng có thể sinh tử nữ gì chứ? Hơn nữa, ta lẽ nào không phải là cương kim cống bảo, phật sống chuyển thế sao?”.

Đường Diễm Diễm giận đữ nói: “Ai biết được quan gia làm gì, quan gia quả là bất công, đại tỷ có trai có gái, đến cả Nữ Anh cũng... Chỉ có mỗi chúng thiếp là không thấy gì, sao không lo lắng cho được?”.

Ngô Oa Nhi lại không dám nói với Dương Hạo giống như Diễm Diễm, chỉ vội vàng giải thích: “Tuy cách này nói ra có chút hoang đường, nhưng chưa chắc không có tác dụng, Dược vương tôn tử Tư Mạc có cách ‘hóa nữ vi nam’, nữ nhi sau khi mang thai, lấy một sợi dây cung cho vào nang đỏ khâu lại rồi mang vào cánh tay trái, đến mãn trăm ngày, lấy ra đập một phủ, sau đó đặt xuống dưới giường mình nằm, đầu hướng xuống dưới, không để cho ai biết thì con sinh ra sẽ là nam nhân, còn kỳ lạ hơi cả cách trước...”.

Nàng liếc nhìn Đường Diễm Diễm, ngập ngừng nói: “Chúng thiếp... Vốn định đợi sau khi mang thai sẽ thử làm theo cách của Dược vương”.

Dương Hạo nghe xong cười ầm lên, thì ra Dược vương tôn tử Tư Mạc kẻ được người đời sau truyền là cổ đại danh y thần kỳ cũng truyền bá phương thuốc hoang đường vô căn cứ như vậy sao? Đúng vậy, vào cái thời mà hắn sống này, cũng có rất nhiều người có nhiều kiểu mê tín khác nhau, các nàng hành động như vậy cũng không nên trách mắng.

Đường Diễm Diễm đặt tượng quan âm lên giường, đứng dậy nói: “Nói nhiều với quan gia làm gì kia chứ, việc khó nghĩ của phận nữ nhi chúng ta, quan gia hiểu mới là lạ, đi thôi, đi uống canh ‘ban tử’ đã...”.

Dương Hạo nhìn đáng bộ nàng kinh ngạc nói: “Không cầu khẩn Bồ Tát ban tử nữa sao, lại còn canh ‘ban tử’ gì nữa? Các nàng đừng có mà uống thứ linh tinh, uống vào cẩn thận không lại đau bụng, canh ‘ban tử’ này là dùng thuốc gì nấu thành vậy?”.

Ngô Oa Nhi ôm lấy tượng Phật, thẹn thùng nói: “Không phải dùng thuốc, tiên cô nói chỉ cần chúng thiếp quỳ trước tượng ‘Tống Tử Quan Âm’ trong ba tuần hương, yêu lặng khẩn cầu, sẽ... Có một ít đất rơi từ đây xuống, dùng đất đó hòa vào nước uống sẽ... Sẽ thành...”.

Dương Hạo nhìn vào ngón tay của Ngô Oa Nhi, hai mắt liền chăm chú. Nàng cầm là bức tượng quan âm bằng đất, Quan âm hiền hậu đang bế trong lòng tiểu tử mập mạp, chỉ mặc một chiếc yếm đỏ, cổ đeo vòng trường mệnh, ngón tay ngọc ngà của Ngô Oa Nhi chỉ vào lại đúng là chỗ ấy của tiểu tử mập đó...”.

Dương Hạo trừng mắt nhìn một hồi, không nhịn được cười ầm lên: “Ha ha ha, tiểu... uống thứ đất rớt từ ‘tiểu ấy’ xuống hả? Ha ha ha ha... Thế mà cũng nghĩ ra được, làm ta cười đau cả bụng, ‘cái ấy’ của tên tiểu tử này lại có thể hơn cả ta sao? Theo ta thì, nàng cứ nếm thử... Của phu quân nàng, biết đâu lại có chút tác dụng ha ha ha...”.

Dương Hạo cười ngặt ngẽo Ngô Oa Nhi mặt đỏ bừng lên không biết nói gì, lúc này Đường Diễm Diễm từ bình phong khoan thai bước vào, liếc Dương Hạo một cái nói: “Quan gia cười cái gì! Có gì đáng cười chứ!”. Rồi nhìn Oa Nhi hỏi: “Muội uống chén đó trước đi?”. 

Dương Hạo cười đến ngã ngừa ra, vẫy tay nói: “Đi đi, đi uống cái gì mà canh ‘ban tử’ của nàng đi, uống rồi, để ta xem Bồ Tát ban đến cho họ Dương nhà ta thứ gì, ha ha ha...”. Ngô Oa Nhi xấu hổ đáp: “Chén thuốc đó của thiếp... Vừa nãy bị quan gia uống sạch rồi...”.

“Hả!”. Dương Hạo im bặt không cười ra nổi.

*

* *

Quan trung, Lam Điền, bên bờ Bá Hà.

Mặc dù đêm đã khuya, Tề vương Triệu Quang Mỹ tiết độ sứ Nguyên Hoài Nam Tây lộ kiêm thị trung, trung thư lệnh, tri phủ phủ Khai Phong lại như không chút mệt mỏi. Hắn quanh quẩn một chỗ bên bờ Bá Hà, nhìn dòng nước cuồn cuộn chảy về đông mà lo lắng buồn phiền, gió đầu đông từng đợt rít lên trên mặt nước, cái lạnh tê buốt cả da thịt, nhưng trái tim của hắn còn băng giá hơn thảy.

Bây giờ, hắn chỉ còn lại vương tước và cái quản chức trấn giữ Trường An, bị đày đến một nơi thế này theo lý mà nói là rất an toàn, nhưng hắn không biết đây là kết thúc hay bắt đầu, không biết vị nhị ca kia của hắn có dừng tay hay không.

Vốn lẽ hắn bị giám quan ngự sử vạch tội, rồi bãi chức tri phủ về quê, cứ nghĩ thế là kết thúc, ai ngờ giám quan vẫn chưa chịu đừng tay lại, cấu kết với Trương Ký cáo buộc hắn tội không biết hối cải, đem lòng oán trách thánh thượng, kết quả là bị hoàng huynh đày đến cô thành Trường An. Lúc lên đường, lời nói của ngoại quản sự Hồ Hỉ Nhi làm cho hắn trong lòng bất an, dọc đường thao thức, khó khăn lắm mới chịu đựng được đến Lam Điền, tạm thời giữ được mạng sống, nhưng khắp thiên hạ này đều là lãnh thổ cua hoàng thượng, ai biết được vị hoàng huynh ấy có chịu ngừng tay hay không. Nếu nỗi ngờ vực của hắn đối với ta mãi không dứt thì dù có cao chạy xa bay đến đâu, hắn chỉ cần ban chiếu thư là đã đoạt được tính mệnh này rồi! Cứ nghĩ đến đây...

Triệu Quang Mỹ than thở một hồi, Hồ Hỉ Nhi vốn là quản gia hắn tuyển nhận năm trước, do đại quản sự Nữ Nhi quốc của Thiên Kim Nhất Tiếu lâu Trương Ngưu Nhi tiến cử. Hồ Hi này là người giỏi biết đoán ý của chủ nhân, lời ăn tiếng nói đều lễ độ đúng mực, nên rất được lòng hắn, trở thành tâm phúc của hắn.

Triệu Quang Mỹ thực không có chí lớn gì, lại sợ hãi những điều kiêng ky của hoàng huynh đối với hắn, nên khi nhận chức tri phủ không dám quá quan tâm việc chính sự, thường chỉ lưu luyến nơi Thiên Kim Nhất Tiếu lâu, hắn rất thân thiết với hai tên trường quầy Trương Ngựu Nhi Nữ Nhi quốc và Lão Hắc. Thế nên vừa tiến cử là hắn nhận luôn Hồ Hỉ Nhi, thay thế lão quản gia đương quản sắp gần trời cuối đất.

Hắn lưu luyến nơi phong lưu, thao hối nơi tửu sắc thiên hương, nhưng tiếc thay... Kẻ khác muốn trừng trị hắn, hắn làm gì thì kẻ đó sẽ tìm bằng được chỗ sơ hở của hắn, hắn không làm thì chẳng cần tìm nữa, không làm chính là cớ để trách phạt, kết quả hắn vẫn bị gán ghép cho một mớ tội danh, bị đày đến thành Trường An.

Rời kinh không bao lâu, Hồ Hỉ Nhi đã thông báo cho hắn, có phát hiện một toán người hành tung khả nghi âm thầm bám theo đội xe của hắn. Triệu Quang Mỹ lập tức nghĩ ngay đến liệu có phải hoàng huynh muốn giả làm phỉ đạo để diệt trừ hắn, cái gai trong mắt này, dọc đường hắn sợ đến mất ăn mất ngủ, sau đó nhờ có Hồ Hỉ Nhi bàn mưu hiến kế, tự diễn giả một vụ bị hành thích rồi cố ý loan tin thật lớn, truyền tới tận tai triều đình.

Kết quả, triều đình đành phải lập tức phái binh mã hộ tống, đồng thời viên quan các phủ dọc đường vì sợ vị vương gia này ngang qua địa hạt mình nên cảnh giới nghiêm ngặt, vừa đến là vội nghênh tiếp, lên đường là viễn tống, tiếp đãi hắn chu đáo đến không thấm chút mưa gió bão bùng. Như thế hắn mới thuận lợi đi tới Lam Điền, rồi không xa nữa là tới Trường An, nghĩ ra thì cũng đã an toàn nhưng mối nguy lớn nhất của hắn là đương kim hoàng đế. Làm sao mới có thể giải trừ được?

Triệu Quang Mỹ càng nghĩ lại càng lo, đang ngửa mặt lên trời than thở thì có tiếng người lén lút bước lại phía sau hắn. Thị vệ đang canh phòng cẩn mật bên dưới, nếu có kẻ đến gần hắn như thế chắc chắn là phủ hạ, người này đứng cách hắn khoảng một trượng, khom người nói: “Vương gia, đêm đã khuya, nên đi nghỉ thôi ạ”.

Triệu Quang Mỹ quay đầu lại: “Hỉ Nhi”.

“Có tiểu nhân”. Hồ quản gia vừa hạ người xuống, Triệu Quang Mỹ liền bước đến bên hắn, cảm kích nói: “Hồ quản gia, bản vương có thể tin tưởng ngươi được không?”.

Hồ Hỉ Nhi ngẩng đầu nhìn Triệu Quang Mỹ, hắn tuổi hơn ba mươi, dung mạo bình thường chỉ có đôi mắt có thần sắc, mang vẻ khôn khéo lanh lợi. Hắn ngẩng đầu nhìn rồi lại cúi rạp xuống, đáp: “Vương gia tin trọng tiểu nhân, tiểu nhân mang ân tri ngộ, vương gia là chủ của tiểu nhân, tiểu nhân nguyện vì vương gia mà nhảy vào nước sôi lửa bỏng, chết không từ”.

“Được lắm” Triệu Quang Mỹ nói: “Ngày mai tới Trường An, cũng giống như là vào ngục tù có muốn trốn cũng không thể nữa. Vi sách vạn nhất, bản vương giờ muốn phó thác người việc lớn, thị tỳ Vân Nghê đã mang cốt nhục của bản vương, việc này ít người biết, nàng ấy cũng chưa được cô gia phong làm trắc phi. Ôi, bản vương vốn định đợi sóng gió đi qua.

Bây giờ lại càng tốt, bản vương ban cho người chút ngân lượng châu báu, ngươi hãy đem nàng ấy dời khỏi đây ngay trong đêm nay, thay mặt ban vương lo liệu cho nàng ấy. Bản vương dù có thiếu một thị tỳ, một thuộc hạ cũng không đến mức làm kẻ khác chú ý. Vân Nghê sinh nam hay nữ nhi ta chưa thể biết, nhưng vạn nhất bản vương cũng truyền lại được cốt nhục”.

Hồ Hỉ Nhi kinh ngạc, thất thanh nói: “Vương gia sao lại nói thế, vương gia là dòng dõi hoàng thất, con cháu thiên tử, dù trên đường có gặp cường đạo ác nhân thì lúc đến thành Trường An kẻ nào dám hãm hại vương gia nữa?”.

Triệu Quang Mỹ cười thảm nói: “Ha! Kẻ đó... Nếu hắn thật muốn hại ta thì khắp thiên hạ này có ai có thể ngăn cản chứ?”.

Hắn nhìn Hồ Hỉ Nhi, chợt hạ quyết tâm, dậm một bước chân rồi nói: “Thôi vậy, bản vương... Sẽ kể hết cho người nghe”.

Triệu Quang Mỹ rất coi trọng tiên đế, mỗi tháng đều đến kiến phủ ba lần, dẫn đến việc nhiều triều thần hay ước đoán thượng ý mà làm thân với hắn, từ đó gây hiềm khích với nhị ca. Về sau, nhị ca kế vị, lập lên tiền lệ huynh đệ nối ngôi, nên đối với hắn càng thêm nghi kỵ, hắn kể cho Hồ Hỉ Nhi nghe hắn nghi ngờ rằng tất cả những việc như bị miễn chức, lưu đày, gặp đạo tặc đều là âm mưu của hoàng huynh, hắn rưng rưng nói: “Vị nhị ca này của ta, không hề nhân ái, phẩm cách khoan hậu như đại huynh, nếu hắn cảm thấy ta gây bất lợi với hắn thì dù có là ruột thịt nhất mẫu, hắn cũng không bỏ qua đâu”.

Hồ Hỉ Nhi nhìn Triệu Quang Mỹ, an ủi nói: “Vương gia nghĩ nhiều quá rồi, dù quan gia nghĩ vương gia bất lợi với mình cũng sẽ tuyệt đối không có ý niệm diệt trừ vương gia, lẽ nào đến mức cô gia phải nghĩ đến việc ủy thác tôn tử lại cho đại thần đâu? Hơn nữa, những kẻ khả nghi bám theo dọc đường đều có liên quan đến vương gia, giờ chúng ta đã an toàn đến Trường An, tạm thời quan gia cũng sẽ không hạ thủ nữa, nếu đường đường vương gia vừa đến thành đã xảy ra chuyện thì đến giang sơn đại thành cũng trị an bất ổn, quan gia phải ăn nói thế nào với bách tính thiên hạ đây? Vậy nên, vương gia không nhất định phải lo lắng đến vậy”.

Triệu Quang Mỹ là một người hay lo nghĩ, lúc này hắn rất bi quan, nghĩ mọi sự trở nên tồi tệ không thể chịu được nữa. Nhưng giờ có người khuyên giải, nghĩ kỹ lại cũng thấy có lý, hắn tự nhiên lóe lên tia hy vọng: “Có lý, có lý lắm, như thế đến Trường An, cô gia tới thành lập tức mượn cớ ốm bệnh tự bế phong, an phận thủ kỹ không sinh sự, không để ý tới việc quân chính của thành Trường An như thế có thể tránh được đại nạn”.

Hồ Hỉ Nhi ánh mắt sáng lên, nhẹ nhàng nói: “Vương gia vốn là người thông minh tuyệt đỉnh, như nay xa vào thế loạn lạc, có những việc chưa thể nghĩ được kỹ càng, tỉ mỉ”. Triệu Quang Mỹ ngẩn ra, kinh ngạc nói: “Những điều bản vương đã nghĩ, có chỗ nào không đúng chứ?”.

Hồ Hỉ Nhi đáp: “Nếu như quan gia thật có ý muốn giết vương gia, vương gia làm như vậy cũng giống như là tạo thêm cơ hội cho quan gia”. Triệu Quang Mỹ lấy làm kinh ngạc: “Sao ngươi lại nói như thế?”.

Hồ Hỉ Nhi đáp: “Nếu vương gia cáo bệnh ở trong phòng suốt, lâu dần bách tính Trường An sẽ chẳng còn nhớ có một vị quan trấn giữ thành, quan lại trong triều lãng quên mất một vị vương gia, như vậy có ai sẽ quan tâm tới sự sống chết của ngài nữa? Vương gia đến Trường An hãy công bố với thiên hạ rằng ngài đã lâm bệnh nặng, nên không thể đảm đương chính vụ, không thể tiếp kiến chính vụ. Như vậy một năm, hai năm hay năm năm sau, tin vương gia mắc trọng bệnh qua đời cũng không phải là tin động trời gì”.

Triệu Quang Mỹ bỗng nhiên tỉnh ngộ: “A! Hay lắm, đúng là ta quá hồ đồ, vậy... Theo ý kiến của ngươi, bản vương nên làm thế nào?”. Hồ Hỉ Nhi mỉm cười, đáp: “Lần này, vương gia đến Trường An, nên đảm nhận trọng trách trấn giữ thành Trường An, quan tâm đến bách tính trăm họ, thay quyền chính vụ và thường xuyên mời gặp các thân sĩ hội đàm chính sự, xem xét tình hình lưu thành, tận sức tận lực, làm cho ai nấy đều biết vương gia phụng lệnh quan gia đến trấn giữ thành Trường An, tạo phúc cho muôn dân, để cho mọi người biết rằng vương gia tuổi trẻ tài cao, uy danh mãnh hổ”. Triệu Quang Mỹ nghi ngờ hỏi: “Nếu như vậy, có thực tránh được tai họa không?”.

Hồ Hỉ Nhi đáp: “Hiển nhiên là không, nhưng... Có thể cho quan gia thấy vương gia vẫn còn có lợi cho quan gia, sẽ tạm dừng việc hạ thủ lại”. Hắn quay mặt nhìn về phía đông, vẻ trầm ngâm, màn đêm phủ kín một màu, khó có thể nhìn rõ ràng: “Thiên hạ thế sự, biến đổi khôn lường, có lẽ... Ngày tháng trôi qua, quan gia sẽ thay đổi tâm ý. Hoặc... Lâu dần, quan gia lại nhận thấy vương gia không còn là mối nguy hại lớn nữa thì sao?”.

Hồ Hỉ Nhi quay người lại, mỉm cười nói: “Thời gian càng lâu một ít, vương gia mới có thể tìm ra những cơ hội khác cho mình, hôm nay nhìn lại tuy sơn cùng thủy tận nhưng ngày mai tái nhìn, có lẽ đã có sinh cơ”.

“Vậy bản vương”.

“Chờ đợi, cố gắng sống, kiên nhẫn chờ đợi...”.

*

* *

Đường Diễm Diễm nằm thả lòng thân thể trên giường, hơi thở hồn hển dồn dập, tùy ý Dương Hạo sờ nắn đôi gò bồng đảo trắng muốt, bàn tay thô của hắn vân vê chà xát ngực nàng thành muôn hình muôn dạng, dư vị của cao trào lúc này khiến nàng cảm thấy khó có thể điều khiển được chính mình.

Mà sau lưng Dương Hạo, tấm thân mềm mại ngọc ngà của Oa Nhi đang kề sát vào hắn, đôi bắp đùi non nớt thon thả trắng bóc như tuyết của nàng quấn sát lấy bên hông của Dương Hạo. Khao khát được chiều chuộng cứ hiện rõ lên mà không cần điền giải bằng ngôn từ nào. Hắn vội quay thân mình, lật người nàng xuống giống như trò vật lộn của trẻ nhỏ thường chơi, đè lên thân thể nhỏ bé của nàng. Có lẽ trời sinh phận nữ nhi vốn vị thấp hơn, thân thể yêu kiều nhỏ nhắn đó của nàng lại không hề cảm thấy đau đớn chút nào. Chỉ chốc lát trong khoảnh khắc hắn cựa mình lên xuống, khiến nàng phát ra tiếng rên khẽ khàng dịu dàng đến mê đắm lòng người, tiếng than mỗi lúc một trầm bồng, cả hồn phách nàng đang thăng hoa, như phiêu du thoát trần.

Vừa rồi vì phải ngoại nhìn chờ đợi một phen xuân tình nên trong lòng nàng sớm đã xao xuyến rạo rực. Dương Hạo vừa đè lên thân thể mình, vòng eo thon thả của nàng vội vàng nhu động, đôi chân ngọc đẫy đà quyến rũ dần co lại như hình chi ếch. Nàng giống như một chú ếch non nớt đáng yêu, đang từng nhịp từng nhịp hòa hợp với thân thể vạm vờ của hắn, đôi tay mềm mại của nàng cũng nhịp nhàng chuyển động theo tiết tấu rung động của cả tấm lụa đệm giường, nó lẳng lơ vuốt ve men theo thân thể một cách điệu nghệ thành thục, làm cho Dương Hạo phía trên hân hoan đến mức không cần tốn chút sức nào cũng cảm thấy sảng khoái tột cùng, đạt tới khoái cảm cực lạc.

Đắm mình trong tiếng rên rỉ mềm mại ngọt ngào, Dương Hạo thả mình tha hồ mải miết trong cảm giác ướt át nơi “u cốc”, đạt đến đỉnh điểm rồi lại lên nữa, đến đỉnh rồi lại trùng điệp lên cao tít, làm cho hắn cảm thấy mình vững vàng nhưng lại bị khảm ở chính giữa, không thể phá được vòng vây. Có người nói, một khi tắt đèn, thì mọi phụ nữ đều giống nhau, lời này chỉ có thể lừa được kẻ tiểu tử thiếu thốn kinh nghiệm, chứ không đánh lừa được những nam nhân từng trải. Mỗi một nữ nhân đều có dung mạo khác biệt, phong tình khác nhau, hình thể riêng biệt, đến phản ứng cũng không giống cho nên cảm giác mà họ đem lại cho nam nhân cũng hoàn toàn khác xa.

Diễm Diễm đem lại cho hắn cái cảm giác nóng bỏng của một tòa hỏa sơn nồng nàn, mãnh liệt, phóng đãng nhưng không thể kéo dài được lâu. Còn Oa Nhi, thân thể mềm mại lả lướt như đồng tử, dáng vẻ yêu kiều thơm mềm như lụa, người con gái thực sự...

Tình cảm mãnh liệt và sức hấp dẫn từ tấm thân nhỏ nhắn của Oa Nhi có phần trội hơn Đường Diễm Diễm, chỉ trong một tuần hương, Diễm Diễm đã bị Dương Hạo chinh phạt đến rã rời, kêu rên hoan hỉ đến mơ hồ. Còn Oa Nhi tuy thân thể nhỏ xinh nhưng lại dẻo dai đến mười phần, muốn làm cho nàng cảm khoái tột bậc, cốt nhuyễn thân thể mềm nhũn đến không còn khả năng kháng cự thì cũng cần nhiều gấp đôi thời gian với Diễm Diễm.

Như hoa qua vũ bạo, Oa Nhi khoái cảm như đến mức mê man, lúc nàng dần hồi tỉnh lại chỉ “ừm” được một tiếng, mệt mỏi trở mình, cánh tay ngọc ngà cùng một chiếc chân thon nhỏ gác lên thân người Dương Hạo, ánh đèn sáng rực chiếu vào bàn tọa đẹp đẽ trên cơ thể nàng, đạo đồ đường cong đó giống như hình bán nguyệt đầu tháng: “Quan gia càng phát càng lợi hại, người ta đến tận hai mà cũng không ứng phó nổi một mình quan gia...”.

Đường Diễm Diễm mặt đỏ bừng áp sát lên ngực Dương Hạo, nhẹ nhàng vuốt ve bụng dưới đày dặn của hắn, ngốc nghếch nói: “Quan gia đã mấy tháng chưa... Lần này thiếp nhất định là có tiểu bảo bảo rồi...”.

Dương Hạo vừa trải hoan ái nhưng tinh thần vẫn dồi dào sung mãn, hắn hôn lên má hồng hào như anh đào của hai vị ái thê mỉm cười đáp: “Thời gian này, sự vụ bề bộn, thực quá lạnh nhạt với các nàng. Sau này, chúng ta cứ chuyên tâm tận sức lăn lộn để ta còn có thêm truyền nhân”.

Đường Diễm Diềm nghe xong, miễn cường giãy dụa tấm thân yếu mềm, lo lắng nói: “Hạo ca ca, thiếp không phải là xuẩn phụ không biết sự nặng nhẹ, cũng không phải là thứ hoang dâm vô độ tham luyến nơi chăn gối, quốc sự là trọng, điều đó chúng thiếp đều biết”. 

Oa Nhi cũng lên tiếng, nhẹ nắm tay hắn: “Ừm, tuy nói chúng thiếp luôn mong ngóng ngày ngày được thấy quan nhân, nhưng xứng danh nam nhi là người không nên đắm say trong ái sắc, còn bổn phận của thê thiếp là tương phu giáo tử, chúng thiếp hiểu được”.

Dương Hạo cười: “Ta đã nói vậy tức là có lý của ta, chỉ cần nghĩ rõ ràng, chuẩn bị đầy đủ, đại quân kia kéo đến khí thế ồ ạt thực không quá đáng sợ, sắp tới hàn đông, mưa tuyết rơi xuống, thiên thời, địa lợi, nhân hòa, tất cả đều do ta nắm chắc, như thế trong thời gian ngắn, thế công của quân Tống sẽ chẳng có gì đáng lo.

Còn về kế lâu dài... Ta chỉ có thể đợi, chờ đợi sự thay đổi, biến hóa của những thế lực phục binh từng nơi từng bước trên khắp miền đông tây nam bắc, giờ địch là địch, bạn là bạn, quân là quân, thần là thần. Tiếp theo đây ta chỉ có thể đợi, đợi đến khi địch không phải là địch, bạn không phải là bạn, quân cũng không phải là quân, thần cũng không phải là thần... Thời cơ đến, ắt sẽ tự vận chuyển”.

Diễm Diễm nháy mắt bèn gặng hỏi Oa Nhi: “Quan nhân đang nói gì thế, muội có hiểu không?”.

Oa Oa lắc đầu: “Muội không hiểu gì hết”.

Dương Hạo cười ha ha nói: “Không hiểu cũng không sao, các nàng chỉ cần hiểu được phục vụ quan nhân ta cho tốt là được. Nào, đêm thâu chóng sáng, chúng ta lại tiếp tục ân ái một phen”.

“Lại nữa?”. Oa Oa và Diễm Diễm đồng thanh kêu lên, hai nàng trốn chạy mỗi người một hướng, nhưng không may chưa bước được xa đã bị Dương Hạo vòng tay ôm chặt kéo lại. Trên giường lụa, hai nàng sóng vai kề thân, tứ chi trụ đất giống như hai tiểu khuyển cái đáng yêu ngoan ngoãn. Đèn đã cháy hết, chỉ còn chút đốm sáng len lỏi lóe lên, phán chiếu hình ảnh hai vầng viên nguyệt, một đợi xuân tình hứng khởi không ngừng lại... Ngoài cửa sổ, trận tuyết đầu tiên bắt đầu rơi mang theo tiếng gió vi vu...

 Chương 44: Tâm Tư Đế Vương

Trận tuyết thứ bảy của mùa đông cũng là trận tuyết lớn nhất, mảnh đất Hà Tây quả thật giống như sơn vũ ngân xà, cảnh tượng hết sức tươi đẹp. Có điều dân bản xứ đối với cảnh tượng này cũng sớm đã quen rồi, nếu như là người từ phía nam tới nhìn thấy hàng nghìn người tuyết ở đây sẽ lập tức tán dương một tiếng.

Thời tiết như thế này, trừ một số ít người thợ săn bôn ba đi tìm những con thú nhỏ trong lớp tuyết dày đặc, thì rất ít người xuất hiện bên ngoài. Tuyết lớn như vậy không những xe khó đi qua, mà ngay cả lừa, ngựa, lạc đà cũng đi rất khó khăn, nhưng lúc này lại có một đội quân dùng tốc độ cực nhanh chạy qua hoang đảo. Mười mấy chiếc bảy xe tuyết được những con cẩu kéo đi nhanh như bay, phía trước và sau còn có mấy trăm người mặc áo da màu trắng xám đang dẫm trên chiếc ván trượt tuyết, vội vã đi về phía trước.

Một con thú nhỏ đột nhiên nghe thấy những tiếng đó từ trong gió, lập tức nhanh chóng tránh ra, chui vào trong hang tuyết, hơi thò đầu ra nhìn trộm. Đội ngũ kỳ lạ đó chạy như bay trên tuyết về phía trước, bất kể là ngồi trên xe trượt tuyết hay dẫm lên ván trượt tuyết, trên người đều mặc áo da dày cộp, mũi được che bởi chiếc khăn len dày, mặt lại dùng mạng đen che lại, trông rất cổ quái, con thú nhỏ đó chưa từng nhìn thấy người nào giống như vậy, không khỏi sợ hãi, lập tức trốn đi nhanh.

Đội quân đó đang hộ tống đám người đứng đầu quân chính Hạ Châu là Dương Hạo, Chủng Phóng, Đinh Thừa Tông trở về Ngân Châu. Các công cụ vận chuyển kỳ quái này được dùng để quân đội hành quân, ở Tây Bắc đây cũng là lần đầu tiên. Thực ra xe trượt tuyết và ván trượt tuyết không biết đã được phát minh ra từ lúc nào, ghi chép mới nhất liên quan đến những chiếc ván trượt tuyết là nó được sáng tạo ra ở Tân Cương cách đây hơn một vạn năm.

Dương Hạo chưa từng trượt tuyết, cũng không biết thời đại này ở Đông Bắc và Tây Bắc không chỉ có xe trượt tuyết mà ngay cả ván trượt tuyết cũng có. Khi hắn vừa nhớ tới chuyện này thì lại làm như mình tự nghĩ ra, truyền một người thợ mộc đến, khoa chân múa tay nói cho người đó sáng kiến của mình, người thợ mộc nghe xong một hồi, liền vỗ vỗ vào đầu nói: “Thứ mà hoàng thượng nói có phải là loại sát nạp mà người Tây Bắc chúng ta vẫn dùng khi viễn hành vào mùa đông không?”.

Dương Hạo vô cùng sửng sốt, hỏi kỹ ra mới biết thứ mà người bản địa gọi là sát nạp chính là ván trượt tuyết. Loại ván trượt này có chút giống với loại ván trượt mà những người thích trượt tuyết ở thời hiện đại vẫn dùng, ván rộng khoảng 13cm, dài khoảng một mét. Từ phần đuôi đến phần dậm chân thì thẳng, còn từ phần dậm chân đến phần mũi thì dần dần mỏng vào trong, hơi vểnh ra.

Làm nó cũng khá đơn giản, bình thường thì dùng gỗ vân sam để đẽo khắc ra, sau đó cho một nửa thân của nó vào trong lửa, lại dụng lượng nước vốn có của nó để làm cho nó cong lên, hoặc cho vào nước sôi để đun, làm một đầu cong lên, sau đó định hình, ở giữa ván dùng da bò để làm vật cố định, kích cỡ rộng tương đương với một chiếc giầy, sau đó dùng dây đai da quấn xung quanh để cố định, phía dưới đế thì dùng da thú phủ lên, bọc lại, da lông hướng ra sau, như vậy ván trượt tuyết không chỉ có thể đi trên bình địa mà còn có thể trèo lên núi hoặc xuống núi, chỉ cần nguyên liệu đầy đủ thì rất nhanh có thể chế tạo ra được một chiếc.

Người thợ mộc đó bản thân cũng là người biết trượt tuyết, ông ta đã làm một bộ rất chắc chắn và đẹp rồi biểu diễn cho Dương Hạo xem. Gậy trượt tuyết mà loại sát nạp này dùng không phải là loại hai cán, mà là một cán đan dài khoảng hai mét, hai đầu được làm bằng thép nhọn, không chỉ có thể dùng để trượt tuyết, thăng bằng, nắm vững phương hướng mà còn có thể lm một loại vũ khí.

Qua một hồi biểu diễn của hắn, Dương Hạo phát hiện ra ván trượt tuyết loại cổ xưa này tốc độ tuy không thể so sánh với ván hiện đại, nhưng lại thực dụng hơn không chỉ chắc chắn, bền, có thể trượt trên địa hình nhiều tuyết, còn có thể trượt trên những tảng gỗ thô nham thạch, gỗ bị đổ, những điều này có thể những chiếc ván trượt tuyết lưu hành phương tây không có cách nào làm được.

Dương Hạo vô cùng vui mừng, lập tức triệu tập tất cả những binh sĩ biết sử dụng lại sát nạp này để làm quan, dạy toàn quân sử dụng ván trượt tuyết, bây giờ rất nhiều binh sĩ đã có thể thành thục sử dụng loại công cụ đi săn mùa đông cổ xưa của vùng Tây Bắc này, dần biến nó trở thành một phương tiện giao thông bắt buộc phải sử dụng thành thục của quân đội Hạ Châu.

Bây giờ, Liêu Quốc và Vu Khuyết quốc đã dẫn đầu thừa nhận thành vị của Đại Hạ Quốc, phái sứ tiết đến chúc mừng, Cao Xương quốc sau khi do dự cũng biểu lộ thái độ thừa nhận...

[Thiếu một đoạn, bạn nào có đoạn này thì đóng góp nhé]

... thì nàng ta còn giỏi hơn cả trăm lần so với một người không hiểu chút nào về chính trị như Kha Trấn Ác và một người nửa đường xuất gia như Lý Nhất Đức, quả thật đã chỉnh lý mọi việc của Ngân Châu đâu ra đó, ngày càng thịnh vượng. Đối với một thần thuộc đắc ý như thế này, Dương Hạo đương nhiên cần khách khí một chút.

Long Linh Nhi nói: “Lý tri phủ và Kha phòng ngự sử vì trách nhiệm trọng đại, chưa thể đích thân xuất thành nghênh đón, đã lệnh cho thần cung đón thánh giá”. Dương Hạo lại hỏi: “Hóa ra là như vậy, khanh mau đứng dậy đi, thế mấy vị chủ tướng tọa thủ Hoành Sơn đã đến chưa?”.

“Tạ quan gia”. Long Linh Nhi đứng dậy, vẫn cung kính cúi đầu nói: “Khi thần rời thành thì bọn họ đã gần đến Ngân Châu, lúc này chắc đã tới đợi ở trong thành rồi, phía sau núi đã chuẩn bị xe, Quan gia có cần đổi xe đi không?”.

Dương Hạo liền nói: “Nếu đã như vậy thì không cần đổi xe nữa, mấy vị Dương tướng gia không thể rời đi lâu, chúng ta mau chóng về thành thôi, chiếc xe trượt tuyết này đi rất nhanh, có thể tiết kiệm được một ít thời gian, khanh cũng lên đây ngồi đi, còn mấy thị vệ này thì để cho bọn họ cưỡi ngựa từ từ về cũng được”.

“Thẩn tuân chi”. Long Linh Nhi khom người trả lời, rồi lên xe trượt tuyết, ngồi phía sau Dương Hạo. Người lái chiếc xe trượt tuyết quất roi một cái, mười mấy con đại khuyển liền kéo chiếc xe chạy như bay lên sườn núi.

Trong thành Ngân Châu, Dương Hạo nhận được sự đón tiếp của đám văn võ tướng, lập tức đi tới phủ tướng quân của phòng ngự sử. Hắn đi thẳng vào trong phòng lớn, cũng không còn để ý đến việc phải khách sáo, liền lập tức bắt đầu lên kế hoạch cho Định Nan quân ứng đối với cục diện trước mắt. Dương Hạo sau khi nói rõ tình thế trong ngoài trước mắt, Đinh Thừa Tông liền nói: “Chư vị đại nhân, từ khi quan gia đăng cơ đến nay, cống thế của Tống Quốc ngày càng mạnh, bây giờ Liêu Quốc chỉ đồng ý kết giao với nước ta, chứ không chịu cho chúng ta bất kỳ hình thức viện trợ mang tính thực chất nào, có thể dự liệu được rằng, Tống Quốc một khi biết được tin này tất sẽ càng không kiêng kỵ, áp lực chúng ta phải chịu sẽ càng nhiều hơn trước đó”.

Chúng tướng nhất thời bàn luận xôn xao, Đinh Thừa Tông cao giọng nói: “Thừa Tông khi ở Hạ Châu đã từng kiến nghị với quan gia, nước ta mới lập, thế lực còn non yếu, không thể tách rời được sự giúp đỡ của Liêu Quốc. Chúng ta có thể bỏ ra nhiều sự nhượng bộ để đổi lấy viện trợ của Liêu Quốc, nhưng quan gia đã phủ định kiến nghị này của Thừa Tông, quan gia cho rằng sự trợ giúp bên ngoài cuối cùng cũng không phải là kế lâu dài.

Nước ta tự lập có lợi cho Liêu Quốc, cho nên có chỗ nào có thể giúp được chúng ta thì chúng ta không cần yêu cầu Liêu Quốc cũng sẽ làm, việc gì không thể ra tay giúp thì chúng ta cũng không biết được phải nhượng bộ bao nhiêu thì mới nhận được sự trợ giúp của Liêu Quốc, vậy từ đó chúng ta sẽ chịu sự khống chế của Liêu Quốc, đó gọi là được không bằng mất, cho nên vẫn nên để chính chúng ta giải quyết khó khăn này”.

Viện trợ vũ lực của Liêu Quốc vốn là một nhân tố bên ngoài rất được văn võ bá quan Hạ Quốc trông đợi, nhưng những lời này của Đinh Thừa Tông đã đi trước nói cho mọi người biết rằng: “Đừng chỉ trông chờ vào Liêu Quốc, không cho Liêu Quốc nhiều lợi ích hơn thì Liêu Quốc sẽ không phát binh, quan gia cũng căn bản không nghĩ rằng sẽ cho Liêu quốc thêm lợi ích. Cầu người không bằng cầu mình, chúng ta vẫn phải tự nghĩ ra cách giải quyết”.

Người được phái đến Hoành Sơn tham dự phòng ngự tác chiến Trương Sùng Nguy hơi nhíu mày nói: “Nếu như Liêu Quốc không trực tiếp xuất binh can dự, hoặc tạo ra một số việc để kìm chế binh lực của Tống Quốc ở biên cLiêu Tống, thì e rằng áp lực chúng ta phải chịu quá lớn, trong thời gian ngắn, phòng tuyến Hoành Sơn có lẽ sẽ không bị công phá, nhưng về mặt tiêu hao binh viên, chúng ta không thể tiêu hao được như Tống quốc”.

Dương Diên Phổ trầm giọng nói: “Không sai, nếu như không giành được sự viện trợ của Liêu Quốc, khó khăn của chúng ta sẽ tăng gấp mười lần. Nhưng, mạt tướng cho rằng quan gia không cầu viện Liêu Quốc chưa chắc đã là chuyện xấu. Dã tâm của con lang Liêu Quốc rất lớn, một khi chúng ta quá phụ thuộc vào chúng, chúng sẽ từng bước từng bước tiến tới, cuối cùng chúng sẽ dần biến chúng ta thành nước chư hầu của Liêu Quốc, còn Liêu Quốc đã đối xử như thế nào đối với các nước chư hầu thì từ tình hình của Hán quốc, chư vị đại nhân cũng có thể nhìn ra. Đến lúc đó, Hạ Quốc ta chẳng qua chỉ là một công cụ Liêu Quốc dùng để đối phó với Tống Quốc mà thôi, quân thần Hạ Quốc ta cũng sẽ trở thành mã tiền tốt của Liêu Quốc, đem hy vọng của chúng ta gửi gắm vào Liêu Quốc chẳng khác gì đưa hổ cửa trước, rước cọp cửa sau, đều có hại như nhau”.

Dương Hạo mỉm cười, gật đầu tán thưởng: “Những lời Diên Phổ nói rất đúng, dựa vào Liêu Quốc, không thể được, mà xung quanh chúng ta lại không có đồng minh cường đại khác, chúng ta chỉ có thể dựa vào chính mình, khó khăn càng thêm khó khăn, nhưng một khi qua được giai đoạn này rồi thì có thể bớt được rất nhiều hậu họa về sau. Chúng ta trong cuộc chiến tranh nhất thống Hà Tây, mỗi một kẻ địch đều mạnh hơn chúng ta, nhưng cuối cùng đều bị chúng ta lần lượt hạ xuống, trước đây có thể, bây giờ lại không thể sao?

Dùng đại nhân vật Liêu Quốc này để giúp chúng ta đối phó với Tống Quốc, hai cự nhân này lại giao thủ với nhau trong địa bàn của chúng ta, kẻ đầu tiên bị hủy diệt sẽ không phải là hai con mãnh hổ đó mà chỉ có thể là chính chúng ta, cho nên... Không thể quá kỳ vọng vào sự giúp đỡ bên ngoài, chúng ta cần tính toán một chút, phải làm thế nào để dựa vào sức mạnh của chính mình, chống đỡ qua cửa ải này”.

Tư tưởng chính đã được định ra, đám văn võ chỉ cần dựa theo tư tưởng này mà mưu tính ra kế sách, từng kế hoạch được đề ra, sau đó dưới sự thảo luận của đồng liêu từng cái lại bị bác bỏ đi, Dương Hạo thỉnh thoảng cũng xen lời, gia nhập vào cuộc biện luận của bên đồng ý và bên phản đối.

Hắn là người thống trị cao nhất của Đại Hạ Quốc, nhưng không có nghĩa hắn là một chính trị gia, quân sự gia xuất sắc nhất trong đám văn thần võ tướng Hạ Quốc, từ trước tới nay, hắn sớm đã rèn luyện cho mình một phong độ tốt giữa các thuộc hạ của mình, mọi người đều đưa ra ý kiến, biết thì nói, nói không cần phải kiêng kỵ, cho dù là lời do chính miệng hắn nói ra cũng có thể phản bác. Khi mới bắt đầu, mọi người đều có chút kiêng kỵ, nhưng bây giờ đã quen với phong cách của hắn.

Mọi người nghị luận rất lâu, Dương Hạo đột nhiên phát hiện ra Dương Kế Nghiệp hơi trầm một chút, hắn rất ít nói xen vào, chỉ khi người khác nêu ra một kiến giải mới thì hắn mới chú ý nghe một chút, một khi bị người khác đẩy ra, ánh mắt của hắn mới quay trở lại, nhìn về hướng sa bàn, khổ tư suy nghĩ. Trong lòng Dương Hạo bất giác hơi trầm xuống, Dương Kế Nghiệp là tổng chỉ huy tác chiến của tiền tuyến Hoành Sơn, cũng là tướng lĩnh hắn coi trọng nhất ở đông thành, nếu như hắn đối với trận chiến này có sự bi quan thì tất sẽ ảnh hưởng đến sĩ khí toàn quân, Dương Hạo mở lời hỏi: “Dương tướng quân cho rằng chúng ta nên ứng đối với cục diện trước mắt như thế nào?”.

Dương Kế Nghiệp nhìn chằm chằm vào chiếc sa bản trước mặt, hai mắt xuất thần, căn bản không nghe thấy lời Dương Hạo nói, Dương Diên Phổ liền lay lay cổ tay phụ thân mình, thấp giọng nhắc: “Cha, quan gia đang gọi cha đấy”.

“Sao cơ? À! Quan gia...”. Dương Kế Nghiệp định thần lại, mơ hồ nhìn Dương Hạo: “Quan gia nói gì cơ?”.

Dương Hạo thở dài nói: “Ta nói... Dương tướng quân đối với việc ứng phó với Tống Quốc có chủ ý gì không?”.

“Việc này...”. Dương Kế Nghiệp lại nhìn sa bàn, trầm ngâm một hồi nói: “Trong thời gian ngắn, Tống quân không thể công phá được phòng tuyến Hoành Sơn, nhưng tin tức Liêu Quốc chưa đồng ý tương trợ ta mà truyền ra ngoài, Tống Quốc sẽ không còn phải lo trước tính sau nữa, tất nhiên sẽ phái càng nhiều binh lực tới, xung kích chúng ta phải chịu càng lớn, cho dù chúng ta chống đỡ được thì tiêu hao tất cũng cực đại.

Đây cũng chưa phải là điều phiền phức lớn nhất, điều phải lo lắng hơn chính là thiếu đi sự kìm kẹp của đối thủ cường đại, công thế của Tống Quốc có thể liên miên không dừng, mà tránh chiến tranh lâu dài chính là kế hoạch ban đầu của quan gia. Như vậy chúng ta muốn tránh được chiến tranh lâu dài thì không chỉ đơn giản là thủ vững, chúng ta còn phải ép làm sao cho Tống Quốc vứt bỏ tiến công vũ lực, ít nhất... Cũng phải làm đại thương nguyên khí của chúng, làm cho chúng nhất thời không dám tăng binh ở Hà Tây chúng ta nữa”.

Chủng Phóng nghe xong mắt đột nhiên sáng lên, nếu nói về chiến lược thì hắn có thể nói là mạnh như thác đổ, nếu nói đến chiến sách chiến thuật cụ thể thì những ngày qua sau khi nhận được các tin tình báo về cách bài binh bố trận của hai bên địch và ta, hắn cũng thường suy nghĩ, diễn giải theo cách riêng của mình, so sánh những phản ứng, phán đoán và chiến quả thực tế với nhau, làm cho hắn biết được kinh nghiệm thực chiến của mình vẫn không bằng Dương Kế Nghiệp, lúc này nghe hắn nói, bất giác có chút kinh ngạc, vội hỏi: “Phải chăng tướng quân cho rằng chúng ta nên chủ động xuất kích?”.

Dương Kế Nghiệp hơi lắc đầu, muốn nói lại thôi, Dương Hạo không kìm được mà nói: “Chúng ta đang thảo luận quân sự ở đây, người nói không có tội, tướng quân nếu như có cách nghĩ gì thì có thể nói ra, mọi người cùng thảo luận”.

Dương Kế Nghiệp chần chừ một lát rồi lại nói: “Mạt tướng cho rằng... Chúng ta nên vứt bỏ Hoành Sơn, lùi về phía sau”.

Chúng tướng nghe xong nhất thời xôn xao lên, Đinh Thừa Tông biến sắc nói: “Địa thế Hoành Sơn cũng có thể bỏ đi không lo sao? Chúng ta còn chưa lộ bại thế mà đã chủ động thoái lui sao? Nếu như vứt bỏ Hoành Sơn, đại môn rộng mở, Tống quân thẳng đường tiến vào, là có thể tới dưới thành Hạ Châu”.

Đám người Chủng Phóng, Trương Sùng Nguy, Lý Kế Đàm cũng động dung, trưởng sử Ngân Châu Long Linh Nhi lại hơi đưa mắt nhìn về phía Dương Hạo, tâm tư nữ nhi không tranh đấu hiếu thắng như nam nhân, cho nên trực giác đầu tiên của nàng chính là Dương Kế Nghiệp vẫn còn có những lời sau đó, cho nên lập tức nhìn Dương Hạo, xem phản ứng của hắn như thế nào.

Chủng Phóng, Đinh Thừa Tông đều là những người tâm tư kín đáo, chỉ sau sự kinh ngạc chốc lát lại phản ứng lại, liền im miệng, nhìn Dương Kế Nghiệp.

Dương Hạo lúc đầu nghe thấy lời này của Dương Kế Nghiệp cũng vô cùng kinh ngạc, hiểm yếu Hoành Sơn trong lòng hắn luôn là một chỗ dựa để đối kháng với Tống quân, nếu như vứt bỏ Hoành Sơn thì đối với hắn mà nói, cảm giác của hắn cũng chẳng khác gì mấy với cảm giác của Lý Dục khi vừa nghe nói Tống quân đã bình yên vượt qua hiểm yếu Trường Giang.

Nhưng thấy thần sắc của Dương Kế Nghiệp, trong lòng hắn bất giác động: “Dương Kế Nghiệp chăng nhẽ đang nghĩ tới chiêu pháp Lâm Xung bổng đả Hồng giáo đầu chứ? Có thể sao? Thực lực Tống quân không hề yếu, chúng ta chủ động vứt bỏ Lân Phủ là để tranh quyền chủ động, tập kết ưu thế binh lực, bố trí hiểm ải, từ mặt chiến lược mà nói chính là lấy lùi để tiến, nhưng đối mặt với một đối thủ cường đại như thế này, đến Hoành Sơn cũng phải bỏ sao...”.

Hắn từ từ giơ tay lên, ngăn những tiếng xì xào của mọi người lại, căn phòng lập tức yên tĩnh, lúc này mới nói: “Dương khanh, nói lý do của khanh đi”.

Dương Kế Nghiệp nói: “Vâng, quan gia, thần cho rằng muốn thủ vững Hoành Sơn tuy gian nan nhưng chúng ta vẫn thủ được, nhưng muốn kìm hãm Tống quân, ép chúng phải dừng những bước tiến vũ lực là điều không thể. Mà theo đại kế của quan gia, lại phải nhanh chóng kết thúc những cuộc chiến tranh này, ép triều đình Tống Quốc phải nghị hòa với chúng ta, như vậy tất phải sử dụng đến biện pháp đặc biệt”.

Dương Hạo hỏi: “Phương pháp đặc biệt của khanh chính là vứt bỏ hiểm yếu Hoành Sơn, lại rút lui quân, đánh một trận đại chiến với Tống quân ở dưới thành Hạ Châu?”.

Dương Kế Nghiệp nói: “Theo chủ ý của thần, quyết chiến ở Hạ Châu cũng không phải là chủ ý hay, tốt nhất tiếp tực rút lui đến thẳng tám trăm dặm sa mạc Gobi, dẫn dụ Tống quân đến thành Linh Châu rồi quyết tử chiến một trận, như vậy là thỏa đáng nhất, chỉ có điều... Quan gia nếu đã lập đô ở Hạ Châu, căn cơ đất nước vẫn không thể xem nhẹ, nên tuyệt đối không thể lùi nữa, cho nên... Chỉ có thể lùi đến Hạ Châu rồi dừng. Có điều, tuy không có sự trợ giúp ưu thế của tám trăm dặm sa mạc Gobi, nhưng cái diệu là lúc này cũng đến chính đông rồi, dựa vào sự giúp đỡ của ông trời, miễn cưỡng cũng có thể bù lại tác dụng của sa mạc Gobi chỉ là... Khó tránh sẽ vất vả hơn”.

Trong chúng tướng đang ngồi, vẫn có rất nhiều người không hiểu được ý của Dương Kế Nghiệp, nhưng Dương Hạo, Chủng Phóng và Đinh Thừa Tông đã hiểu được mấy phần, ba người không hẹn mà cùng vươn người về phía trước, Dương Hạo vội nói: “Nói tiếp đi”.

“Vâng!”. Dương Kế Nghiệp đáp một tiếng, lúc này mới nói ra hết kế sách bạo gan mà hắn vừa mới suy nghĩ kỹ ra. Theo như kế hoạch của hắn, muốn thủ vững Hoành Sơn thì dễ, muốn ép Tống Quốc hòa lại khó. Hơn nữa, chiến sự một khi kéo dài không nghỉ, quốc lực sẽ suy yếu, căn cơ chưa vững như Hạ Quốc trải qua chiến tranh liên miên tất sẽ nảy sinh dù vấn đề, tan vỡ từ nội bộ. Muốn nhanh chóng kết thúc chiến tranh chỉ có thể hết sức gây trắc trở cho Tống quân, muốn gây trắc trở cho Tống quân thì với tình hình thực lực có hạn của mình chỉ có thể thả cho chúng vào, tạo cho mình điều kiện thắng lợi có lực hơn.

Điều kiện này chính là lợi dụng tâm lý vội vàng muốn nhanh chóng giành thắng lợi,ho tên hoàng đế Hạ Quốc to gan lớn mật dám tự xưng đế này một phen thất bại của Tống Quốc để vứt bỏ Hoành Sơn, tiến hành chiến lược rút lui. Cho dù danh tướng một đời như Phan Mỹ cũng không thể tưởng tượng được Hạ Quốc lại chủ động vứt bỏ một hiểm yếu quan trọng đối với Hạ Quốc như Hoành Sơn, huống hồ bọn họ lại còn tự rút lui, làm giống như một đám thất bại thảm hại.

Bất kể là phân tích xuất phát từ yêu cầu chính trị của triều đình Tống quốc hay là tình thế chiến trường cụ thể, hay từ cá tính của viên chủ soái Phan Mỹ thì với cục diện trước mắt, Tống quân không có khả năng sẽ cắm chặt đánh vững, từng bước cùng cố hiểm ải, thiết doanh lập trại, từng bước tiến để cho Dương Hạo có thời gian nghỉ ngơi, sự lựa chọn duy nhất của bọn chúng chính là nhanh chóng truy kích, nắm lấy cơ hội để đả kích thật mạnh, thậm chí nhất cử tiêu diệt Hạ Quốc.

Còn tác dụng phụ từ việc Tống quân nhanh chóng đẩy mạnh tốc độ tiến công đem lại chính là chiến tuyến kéo dài, binh lực sẽ phân tán, hậu cần bổ sung cho tiền tuyến trở nên càng khó khăn, đối với Dương Hạo mà nói thả cho địch tiến vào, nội bộ của hắn cũng không có mấy thành trì, bất ngờ thành trì bị mất vào tay địch, gây nguy hiểm cho căn cơ quốc gia, bộ lạc thất thị Đảng Hạng bất cứ lúc nào cũng có thể tiến vào gây họa.

Chỉ cần lấy cứ điểm Hạ Châu để dụ dỗ chủ lực quân Tống vây thành, rồi có thể kiên trì chống đỡ được dưới sự công kích mãnh liệt của địch, khi đó tiêu hao hậu cần cực đại sẽ trở thành vấn đề đau đầu nhất của Tống quốc, lúc này Hạ Quốc lại có thể phát huy được ưu thế lớn của nó, bên ngoài vòng vây của Tống quân nó còn có một lượng lớn bộ lạc du mục, đây đều là bộ lạc du mục trên thảo nguyên mà toàn dân đều là binh, hơn nữa lại có lòng trung thành cực cao với Dương Hạo, có thể phá hoại thông tấn, tiếp tế, tiếp viện của chúng, không ngừng thi triển chiến thuật quấy nhiễu đối với Tống quân.

Mà binh đoàn Hạ Quốc của Dương Hạo cũng có thể phát huy ưu thế tác chiến của kỵ binh, bên ngoài vòng vây của Tống quân có thể thực thi phản bao vây, thanh đông kích tây, vây điểm đánh viện, vận động tác chiến, phá hủy tuyến viện trợ, kẹp cứng Tống quân ở giữa. Mùa đông khắc nghiệt còn một khoảng thời gian rất dài mới qua, trong thời gian này đường viện trợ của Tống quốc bị cắt đứt, sĩ khí sa sút thì chính là lúc bọn họ bắt đầu phản kích toàn diện. Dưới sự kiêng dè của Tống quốc đối với Liêu Quốc, một trận toàn thắng của Hạ Quốc cũng đủ ép Tống Quốc tạm dừng áp sát vũ lực với Hạ Quốc.

Khi Dương Kế Nghiệp nói xong kế hoạch của mình, Đinh Thừa Tông là người đưa ra phản đối đầu tiên, hắn biết kế hoạch bạo gan của Dương Kế Nghiệp không phải không có khả năng thực hiện, nhưng lấy tiền thành làm mồi dụ, lấy hoàng đế Đại Hạ Dương Hạo làm mồi, nguy hiểm như vậy không thể chấp nhận được, một khi thất bại, hậu quả thật chỉ nghĩ cũng biết, chỉ cần có một tia hy vọng, hắn tuyệt sẽ không đồng ý dùng tới chủ ý mạo hiểm này.

Chủng Phóng cũng phản đối kế hoạch này, lý do đại thể cũng giống Đinh Thừa Tông, lấy hoàng đế ra để làm mồi sao? Quả thật là đại nghịch bất đạo, Dương Kế Nghiệp chỉ suy nghĩ đến chiến thắng mà hoàn toàn quên mất hoàng đế có tác dụng trọng đại như thế nào với một đế quốc, cho dù là mất đi Hoành Sơn, mất đi Hạ Châu, Hạ Quốc vẫn còn hơn mười châu đến thẳng Ngọc Môn quan, nó vẫn là một quốc, nhưng nếu để mất hoàng đế thì...

Đối mặt với sự chỉ trích của văn võ bá quan, Dương Kế Nghiệp cười khổ nói: “Chúng ta có thể đi trước chuẩn bị, bố trí lại một lượt thành Hạ Châu để nó kiên cố vững trãi hơn, thần nhiều năm thủ ngự thành trì rất có tâm đắc. Với khí giới công thành bây giờ và chiến thuật công thành của Tống quân, chỉ cần để thần bố trí ổn thỏa, thần có rất nhiều phần nắm chắc có thể chống đỡ lại sự tiến công của Tống Quốc, bảo đảm Hạ Châu sẽ không bị mất, thần có chủ ý bạo gan này cũng là vì đã suy nghĩ đến sự an nguy của quan gia”.

Lý Kế Đàm nói: “Không được, ta phản đối, tuy Dương tướng quân thiện thủ thành, nhưng cẩn thận mấy cũng có sơ sót, lấy quan gia và đô thành ra làm mồi nhử, vạn nhất thất thủ, chúng ta không thể chống đỡ nổi đâu”.

Dương Diên Phổ nói: “Ngài cũng biết Tống Quốc khó đối phó như thế nào? Phan Mỹ đánh giỏi như thế nào? Hạ Quốc ta mới lập, binh nhỏ tướng yếu, căn cơ yếu mỏng, nếu như không mạo hiểm thì sao có thể giành được kỳ thắng? Đây gọi là chết trước sống sau”.

Hai bên tranh luận không thôi, Dương Hạo ngồi bên trên nghe ý kiến của mọi người lại không nhúc nhích gì, trông sắc mặt rất bình tĩnh, nhưng trong lòng lại nổi sóng ầm ầm: “Có phải hắn muốn đánh một trận bảo vệ chiến Moscow sao? Dương Kế Nghiệp có thể trở thành một Zhukov thứ hai sao? Hạ Châu có thể trở thành Waterloo của ta sao?”.

Đang trầm ngâm suy nghĩ, đột nhiên Chủng Phóng ngăn sự tranh luận hai bên lại, quay sang nói với Dương Hạo: “Quan gia, kế hoạch này của Dương tướng quân tuy có khả năng thành công, nhưng quá mạo hiểm, theo thần thấy chúng ta chi bằng làm thử một phen, tranh thủ để cho Liêu Quốc gia tăng áp lực với Tống Quốc sự tồn tại của chúng ta đối với Liêu Quốc cũng có ý nghĩa trọng đại, bọn họ sẽ không ngồi yên bỏ mặc, chúng ta chỉ cần bỏ ra chút nhượng bộ thì có thể đổi lấy sự tương trợ của họ”.

Dương Hạo lắc đầu, trầm ngâm một lát nói: “Không, đối với Liêu Quốc chỉ có thể đưa ra những điều kiện hoàn toàn bình đẳng, không thể lấy hy sinh chủ quyền để đối lấy bất kỳ sự trợ giúp nào, cho dù là sự nhượng bộ nhỏ, điều này quan hệ trọng đại đến căn cơ quốc gia”.

Hắn dừng lại một lát, đột nhiên ngẩng đầu lên, trầm giọng nói: “Hãy làm theo kế sách mà Dương tướng quân đã nói, lập tức tăng cường hàng phòng ngự Hạ Châu, hội kiến thủ lĩnh các bộ lạc, đi trước chuẩn bị tất cả các biện pháp ứng biến, sau đó Dương tướng quân sẽ dẫn chư quân Hoành Sơn chấp hành thoái lui. Sau khi bố cục hoàn thành, lập tức triển khai tác chiến lưỡng tuyến nội ngoại, chờ đến lúc điều kiện phản công chín muồi!”.

Hắn đứng dậy, lại nói: “Hạ Châu là trung tâm của Định Nan ngũ châu, lại không phải là trung tâm của Hà Tây, trẫm bây giờ có được cả Hà Tây, Hạ Châu đã không thích hợp làm đô của Hạ mẫu, trầm sớm đã có ý lập Hưng Châu làm quốc đô. Tây Ngự Ngọc Môn Hưng Châu, nam khống Tiêu quan, bắc kháng Hạ Lan, đông kẹp Hoàng Hà, xung quanh địa thế thuận lợi cho việc bảo vệ Định Nan tứ châu, ở đó bắc có đại cốc Uyết Bảo Đại, tây có sa mạc Đằng Cách Lý, đông có sa mạc Mao Ô Tố, nam có Thanh Đồng Giáp, dễ thủ khó công, hơn nữa vì dựa vào núi Hạ Lan và Hoàng Hà nên môi trường, thời tiết rất thích hợp, gần hơn thì đó cũng là quê hương thóc gạo của Hà Tây, thích hợp nhất để định đô thành. Vì vậy, trẫm muốn định đô ở Hưng Châu, Đinh đại nhân lập tức bắt tay vào chuẩn bị, chuyển tất cả gia quyến của trẫm và những nhân vật quan trọng ở Hạ Châu cùng tiền bạc của Hạ Châu ta đến Hưng Châu trước”.

Dương Hạo muốn đưa tất cả thê tử đến Hưng Châu, đó chính là đã muốn chấp nhận kế hoạch của Dương Kế Nghiệp, một mình mình ở lại Hạ Châu đấu một trận. Thấy hắn đã định, Đinh Thừa Tông cũng không phản bác nữa, chỉ nặng nề đồng ý. Sau khi Dương Hạo thương lượng về mặt chiến thuật với chúng tướng, sắp xếp rõ ràng tất cả, liền nói: “Chư tướng Hoành Sơn lập tức quay trở về, đợi trẫm ở đây bố trí hoàn thành sẽ lập tức bắt đầu chấp hành thoái lui!”.

Chúng tướng đồng thanh hô vang rồi lập tức tản đi, Đinh Thừa Tông và Chủng Phóng cùng nhau đi ra khỏi đại đình, thấy chúng văn võ đã vội vã tản đi, Đinh Thừa Tông liền xua xua tay, bảo thị vệ của hắn dừng bước, nhẹ nhàng lui đi, Đinh Thừa Tông quay đầu nói: “Chủng đại nhân, ta luôn cảm thấy... Quan gia hình như có tính toán khác”. Chủng Phóng cười nói: “Tâm tư đế vương tốt nhất là chớ phỏng đoán lung tung”.

Đinh Thừa Tông cười nói: “Không phải ta đoán tâm tư quan gia mà chúng ta là những người phụ tá quân vương, luôn muốn làm đến mức tốt nhất, hoàn mỹ nhất. Ý của ta là nói thái độ của quan gia với Liêu Quốc có vấn đề”.

“Sao cơ?”. Chủng Phóng bước lại, đẩy chiếc xe đẩy của hắn, vừa đi vừa hỏi: “Đinh đại nhân có kiến giải gì?”.

Đinh Thừa Tông trầm ngâm nói: “Ngày trước khi quan gia mưu đồ Ngân Châu, đã từng cùng tác chiến với người Liêu. Tuy nói lúc đó mỗi bên đều có mục đích riêng, người Liêu muốn bắt Khánh vương, Quan gia muốn đoạt Ngân Châu, nhưng người Liêu khi bắt được Khánh vương liền rời khỏi đó luôn, không nhân cơ hội mà tiến thành lùng sục cướp của cải, tác phong làm việc của chúng không giống như chúng vẫn thường làm, có thể thấy, quan gia và người Liêu có một quan hệ tương đối mật thiết.

Bây giờ quan gia tự lập xưng đế, Hà Tây độc lập một phương, tuy đối với người Liêu mà nói là việc rất tốt với chúng, nhưng thực ra quan gia không cần phải bỏ ra cái giá cực đại, bất kể là xuất phát từ lợi ích cá nhân hay là vì mối giao tình năm xưa, chỉ cần nhượng bộ một chút thì muốn Liêu Quốc tương trợ không phải là khó. Điều làm người ta không hiểu được là quan gia đối với việc mượn sự trợ giúp từ Liêu Quốc lại hình như hoàn toàn không có chút thành ý nào.

Bất kể là thực lực trước mắt của Hạ Quốc hay là quẫn cảnh bây giờ, sự giúp đỡ của Liêu Quốc đều vô cùng quan trọng. Nhưng quan gia lại chỉ cho một chút ưu đãi trên một số loại hàng hóa trong tất cả các điều kiện mà quốc thư nhắc tới. Liêu Quốc lớn mạnh như vậy, những lợi ích nhỏ nhoi đó có thể được họ để ý tới không? Quan gia chính là không chịu nhượng bộ nửa bước, ngài có cảm thấy có chút kỳ lạ không?”.

Chủng Phóng cũng không hiểu nổi tại sao Dương Hạo lại có thái độ đó với một đại quốc duy nhất chịu giúp đỡ Hạ Quốc, cũng có thực lực tương trợ Hạ Quốc, suy đi tính lại, hắn chỉ có thể cười khổ nói: “Có lẽ quan gia dưới sự khống chế của Tống Quốc đã phải đi những bước rất gian nan, cho nên không muốn lại bị một cường quốc khống chế quá sâu nữa”.

Đinh Thừa Tông chậm rãi lắc đầu, hắn rất hiểu con người Dương Hạo trước kia, khi có thể mượn thế thì Dương Hạo tuyệt đối sẽ không do dự, đặc biệt là vào thời khắc khó khăn như thế này, hắn sao lại không chịu mượn thế, nhất định là đã có suy tính nhiều hơn, sẽ nhận được lợi ích lớn hơn, nhưng... Đây rõ ràng là chuyện hai bên không thể cùng thu được kết quả tốt, lợi ích này rốt cuộc là ở đâu?

Đinh Thừa Tông trăm suy ngàn nghĩ vẫn không thể lý giải nổi, hắn phát hiện mình thật sự càng ngày càng không hiểu được đệ đệ mình đang nghĩ cái gì nữa.

Đợi khi chúng văn võ lần lượt lĩnh chỉ lui đi, Dương Hạo đứng trong phòng nhăn mày suy nghĩ một hồi, liền lên tiếng gọi: “Ám Dạ!”.

Một người mặc áo xám lên tiếng rồi chạy vọt vào, khom người chờ lệnh, Dương Hạo liền sai bảo: “Lập tức thông báo cho bên Ba Thục, dừng cung ứng lương thực cho Nghĩa Quân, nói với Tiểu Lục đến ngày lễ Táo quân thì phải đánh thành đô cướp lương thực, thanh thế càng lớn càng tốt”.

Người áo xám đó đáp một tiếng rồi quay người chạy đi, Dương Hạo lẩm bẩm nói: “Ai nói hoàng đế không được để binh đói? Lúc cần đói thì cũng phải cho đói”.

Hắn chắp hai tay ra đằng sau, bước mấy bước lại nghĩ: “Kế này của Dương Kế Nghiệp tuy nguy hiểm nhưng lại càng có thể giảm bớt tiêu hao hơn cách lấy cứng chọi cứng của ta, đây chính là cầu phúc trong họa, khi cần mạo hiểm thì phải mạo hiểm, bên Ba Thục cũng cần Tiểu Lục phối hợp một chút, bên Biện Lương có cần...”.

Suy nghĩ kỹ lại, hắn liền lắc đầu: “Không được, bên Biện Lương là nước cờ ngầm, bây giờ không thể động, vẫn chưa tới lúc, vẫn chưa tới lúc...”.

*

* *

Biện Lương, trên đường lớn Đông Thập Tự có một quán rượu tên là Mỹ Nhân tửu phường, chủ tiệm tên là Đinh Mỹ Nhân, là một thiếu phụ mỹ miều khoảng hơn hai mươi tuổi, và có một người phụ tá. Căn tiệm này không lớn, nhưng ở nơi tấc đất tấc vàng như đường Đông Thập Tự mà một thiếu phu nhân có thể một mình mở một tiệm thì gia cảnh cũng coi như là khá giả.

Tiệm này không bán đồ ăn, chỉ bán mỗi rượu, ở một khu vực buôn bán tấp nập náo nhiệt như thế này mà lại chỉ buôn bán đơn điệu như vậy, làm ăn đa phần là không tốt. Nhưng phu nhân tiệm rượu này lại là một tuyệt sắc giai nhân, lông ngài mày phượng, khuôn mặt trái xoan như phù dung, da trắng mịn như ngọc, cơ thể uyển chuyển nhiều dáng điệu. Chất lượng rượu của tiệm này cũng tốt, tuyệt đối không thêm nước, cũng chưa bao giờ bán rượu bỏ nhiều men, nên có rất nhiều tửu khách tới chiếu cố.

Trong thành Đông Kinh vô lại rất nhiều, những kẻ háo sắc trong đám thực khách háo rượu đương nhiên cũng nhiều, Đinh Mỹ Nhân khi vừa mới mở tiệm, thì tên vô lại Đầu Tử Hùng trên đường Đông Thập Tự đã đến đầu tiên để xem, rồi loan truyền ra ngoài rằng mỹ nhân này là thứ độc chiếm của hắn. Nhưng hắn chỉ vừa mới trêu ghẹo được một lần, vẫn còn chưa kịp động chân động tay thì đã bị mấy hán tử cao lớn ở cấm quân treo lên đánh cho một trận.

Những hán tử cấm quân đó đánh mỏi tay mỏi chân rồi cất bước đi, đám huynh đệ vô lại của hắn lúc này mới có gan đi tới thả hắn xuống, khi đó Hùng lão đại lưỡi thè ra rất dài, mặt sưng lên dày ba thốn, cũng không biết mấy tên cấm quân đó đã dùng hình phạt gì với lưỡi mà lưỡi tuy chưa có bị rút ra nhưng từ đó lại biến thành tên lưỡi to, điều tồi tệ hơn là hai chân của hắn bị đánh gẫy hẳn.

Mới đầu thì đám huynh đệ ngày xưa còn kính hắn ba phần, nhưng lâu ngày chẳng còn ai để ý đến hắn nữa, lão đại mới của đường Đông Thập Tự là Chu Tráng Thự chê lão đại trước đây chướng mắt, cũng sợ hắn gây họa cho mình nên đã đá hắn đi xa. Từ đó Hùng lão đại chỉ có thể chống cây gậy mà đi xin ăn ở nơi khác. Sau này, có một vị tướng quân anh tuấn thường đến tửu lâu này thăm, lâu đần mọi người cũng biết tướng quân đó tất có tương hảo với nàng chủ quán, vì thế càng không có người nào đám đến gây sự nữa.

Lúc này, trong thành Đông Kinh tuyết rơi dày đặc, tuyết phù khắp trời, tuyết dày lên làm cho khách nhân của quán rượu cũng ít đi, Đinh Mỹ Nhân liền dặn dò xuống dưới: “Tiêu Minh, tuyết rơi nhiều như vậy không có khách đến cửa đâu, đóng cửa lại rồi ngươi về trước đi”.

Tiểu nhị ngày nghe thấy trưởng quầy bảo đóng cửa liền vui mừng đứng dậy dọn dẹp, vừa mới lắp được hai tấm gỗ vào cửa thì bên ngoài có một người mặc y phục cấm quân chạy như bay tới, bước vào cửa vừa phủi tuyết trên đầu vừa cười nói: “Sao thế, biết ta tới liền đóng cửa nghỉ bán à?”.

Tiểu nhị vừa nhìn thấy liền gật đầu khom người cười bồi nói: “Ôi chà, La thái úy, không phải là tuyết rơi quá nhiều sao, trưởng quầy bảo nghỉ sớm”.

Bà chủ thấy hắn đến liền ra nghênh tiếp, vừa dùng khăn lông giúp hắn phủi tuyết trên đầu, vừa sẵng giọng nói: “Tuyết rơi dày đặc như vậy ngài còn đến đây làm gì”.

Tiểu nhị đó rất lanh lợi, thấy hai người nói chuyện liền vội vã lắp hai cánh cửa khác vào rồi chạy biến đi. Không ngờ ở tửu lầu đối điện lại có hai lão giả bước trầm ổn đi ra, sắc mặt an tường, không giận mà trông cũng có uy, rất có khí thái quyền quý của đại nhân vật. Hai người ấy chính là La Công Minh và Sở Chiêu Phụ, hai người bước ra khỏi tửu lâu, chắp tay cáo biệt. Sở Chiêu Phụ xoay người ngồi lên chiếc kiệu nhỏ của mình, người hầu khiêng kiệu lên, đi nhẹ và nhanh rời khỏi đó.

La Công Minh lại vẫn chưa đi, lão nhân gia mắt không hoa, vừa rồi cảnh La Khắc Địch bước vào trong tiệm rượu đã bị hắn nhìn thấy, chỉ là ngại Sở Chiêu Phụ đang ở bên cạnh, không tiện lộ ra hình sắc, đợi khi Sở Chiêu Phụ đi rồi thì thấy tiểu nhị đó đóng cửa chỉ để lại một lối đi nhỏ rồi chạy biến mất. La Công Minh không khỏi nhíu mày, nghi hoặc hỏi: “Khắc Địch, đó là... Vị phu nhân tiệm bán rượu đó là ai?”.

Đúng lúc có một thư sinh mặc trường sam, đầu đội mũ nhung đang đi vào trong tửu lâu, nghe thấy rõ nửa câu sau của hắn, liền quay mặt lại nhìn, thấy lão nhân gia này tuổi tuy đã cao nhưng lưng không còng, tinh thần trông minh mẫn, rõ ràng rất có dáng vẻ của quý tộc, không khỏi cười nói: “Ha ha, lão nhân gia, ông cũng phải lòng tiểu nương tử tiệm bán rượu kia rồi à?

Ha ha, ông cũng có mắt nhìn người đó, có điều ông sống đến tuổi này rồi, gân cốt cũng đã yếu đi, không thể chịu nổi sự giày vò đâu, vãn sinh có lòng tốt nói cho ông nghe một câu, tiểu nương tử đó là người thương của La đại tướng quân chỉ huy sứ mã bộ quân đô cấm quân Đông Kinh chúng ta La Khắc Địch đó, ông không dây được với người ta đâu, chỉ rước thêm họa thôi”.

Thư sinh này không phải ai khác, chính là kẻ đã bị liên lụy vì Lý Dục mà cả nhà bị điêu tàn, bất đắc dĩ đã chuyển đến đây ở Tiêu tú tài Tiêu Thư Hữu. Tiêu tú tài khi đó nhìn thấy đại hán cấm quân xử lý Hùng lão đại, thấy đó là chuyện hay liền đi khắp nơi dò hỏi, biết La Khắc Địch là thường khách, lại biết được thân phận của La Khắc Địch nên thông qua một lượt tuyên truyền của hắn rằng mỹ nhân tửu phường ở đường Đông Thập Tự đã trở thành Mỹ thái công không thể gây sự, nên cũng không có hán nhân nào đến sinh thị phi ở quán nàng nữa.

La Công Minh vừa nghe lập tức đại nộ, tên tiểu tử của hắn cũng không còn nhỏ tuổi nữa, sớm đã qua tuổi hôn phối rồi, nhưng khi hắn nói đến chuyện thành thân với nó thì tên khốn đó lẠkiên quyết không chịu, thoái thác hết lần này đến lần khác, muốn nạp hai phòng tiểu thiếp cho nó nó cũng không chịu. Lão La còn tưởng rằng con trai mình đang nắm đại quyền, muốn thận trọng nghiêm khắc với mình, nhất lòng vì tiền đồ, không ngờ... Không ngờ nó lại mê mẩn vì một nương tử bán rượu, nghe người ta nói chẳng phải là đã muốn lấy người ta về nhà rồi sao? “Khắc Địch nó... La gia ta sao lại sinh ra một đứa nghịch tử như thế chứ?”.

Tiêu tú tài nói xong hai câu, thấy lão nhân gia mặt mày nhăn nhó, còn cho rằng ông ta bị lời nói của mình làm cho sợ hãi, sợ bị đám hán tử cấm quân đánh chết, Tiêu tú tại tự cảm thấy là hảo sự liền cười ha ha, lắc lắc người bỏ đi.

La Công Minh đứng đó vừa bực vừa vội, lúc này chỉ muốn sai hạ nhân đến tửu phường đó đập cửa vào, lôi cái tên nghịch tử khốn kiếp đó ra, nhưng thấy cửa đóng gần hết, không biết đứa con trời đánh với nương tử mỹ miều đó đang làm chuyện gì mờ ám trong đó, vạn nhất có cử động bất nhã gì, một khi xông vào sẽ để cho tất cả mọi người ở đường này nhìn thấy cha bắt con gian dâm, phụ tử hai người đều là quan viên quyền cao chức trọng, việc này mà truyền ra ngoài thì lão La gia còn mặt mũi nào nữa.

Lão La liền thổi râu tức khí, xoay người bước lên kiệu của mình. Lão La ngồi xuống kiệu, vén tấm mành cửa ra, tức giận nói: “Đợi Khắc Địch trở về, bảo nó lập tức đến gặp lão phu!”.

Cửa tiệm vừa đóng, nụ cười thoải mái trên mặt La Khắc Địch lập tức biến mất, hắn xoa tay vào nhau, ngồi xuống bên bếp lửa, đưa tay ra hơ hơ cho ấm.

“Có tâm sự gì à?”. Đinh Ngọc Lạc nhẹ nhàng hỏi.

La Khắc Địch lắc đầu nói: “Nàng cũng ngồi xuống đi”.

Đinh Ngọc Lạc mỉm cười, kéo một chiếc ghế lại, hai tay nhấc tà váy sang một bên và ngồi xuống, lặng yên nhìn hắn, mấy năm nay rõ ràng là La Khắc Địch đã trưởng thành hơn nhiều, đại quyền trong tay làm cho khí chất của hắn cũng có sự biến hóa rất lớn, ánh mắt nghiêm nghị hơn, rất có dáng vẻ không giận mà cũng uy nghiêm.

Trong điếm trở nên tĩnh mịch, ánh sáng vắng lặng chiếu xuyên qua khe cửa, chiếu vào khuôn mặt Đinh Ngọc Lạc. Đinh Ngọc Lạc vẫn xinh đẹp như xưa, chỉ có điều giờ thêm mấy phần mùi vị nữ nhân, vô cùng quyến rũ.

“Uống chén rượu cho ấm người”. Đinh Ngọc Lạc nói nhẹ, giơ cánh tay ngọc ngà ra, rót cho hắn một chén rượu rồi nhẹ nhàng đưa tới trước mặt hắn, ánh mắt La Khắc Địch bất giác nhìn vào cánh tay nàng, một đôi tay ngọc ngà mịn màng, ngón út lại hơi cong lên giống như một đóa u lan, chỉ nhìn vào tay đã làm cho người ta thấy mê mẩn vậy mà còn được ngồi bên cạnh mỹ nhân, mùi thơm từ người nàng tỏa ra như làm bừng tỉnh bầu trời nhân gian.

Bông tuyết tuôn rơi, những tiếng chửi mắng của người bán hàng truyền từ xa tới càng rõ ràng hơn trong màn tĩnh lặng. Tất cả sự u sầu trong lòng La Khắc Địch đều biến mất trong sự dịu dàng của nàng, hắn nhẹ ôm lấy eo nàng, nhẹ vuốt tóc nàng, nghe tiếng trống ngực của nhau. Xuất thần một hồi lâu, La Khắc Địch liền nói: “Liêu Quốc đã cùng Hạ Quốc ký giao bang, có điều chỉ là bang giao cơ bản nhất, cũng chưa đồng ý cho Hạ Quốc bất kỳ sự trợ giúp nào, quan gia nghe được tin này vô cùng vui mừng, đã hạ chiếu điều thêm ba vạn cấm quân của đạo Hà Bắc tăng viện cho Hà Tây. Đồng thời lệnh cho Phan tướng quân, bảo ngài ấy nắm bắt lấy thời cơ, nhanh chóng đột phá phòng ngự Hoành Sơn, đánh đến thẳng trung tâm Hạ Châu, ta nghĩ... nàng chắc cũng biết chứ?”.

Hắn đương nhiên biết, Đinh Ngọc Lạc mai danh ẩn tính, mở tiệm ở Biện Lương tuyệt đối không phải chỉ là để có thể thường xuyên gặp hắn. Khi Dương Hạo vẫn là đại nguyên soái Hà Tây Lũng Hữu, hắn rất vui vì Đinh Ngọc Lạc tới, còn về việc Đinh Ngọc Lạc đến Biện Lương có phải có nhiệm vụ đặc biệt gì hay không thì hắn không quá quan tâm, chưa cần nói đến một người nắm trong tay trọng binh xưng bá một phương như Dương Hạo mà ngay cả một số người ở các địa phương có chút thực quyền, ai mà lại không cắm một số tai mắt phụ trách do thám tin tức nhất cứ nhất động của triều đình chứ?

Nhưng đến khi triều đình phát binh tới Lân Phủ, tiến công Hoành Sơn, Dương Hạo lại ngang nhiên xưng đế, quan hệ xấu đi rất nhiều. Nếu như để triều đình biết hắn có tư tình với đại trưởng công chúa Hạ Quốc, hơn nữa biết rõ đối phương ở Biện Lương mà lại còn giấu giếm thì La Khắc Địch hắn lập tức phải biến từ thống soái cấm quân cao cao tại thượng thành tù nhân. Nhưng cho dù hắn biết hậu quả nghiêm trọng như vậy nhưng hắn cũng không muốn Đinh Ngọc Lạc có chút mảy may tổn thương nào. Ngoài việc hắn có một mối tình thâm sâu với Đinh Ngọc Lạc ra thì mặt khác cũng bởi vì hành động của Dương Hạo bây giờ vẫn chưa dính dáng đến nàng mật thám trong lòng của hắn, đồng thời hắn đối với vị hoàng đế Triệu Quang Nghĩa này cũng thiếu chút hiếu trung, người hắn trung thành là thiên hạ Triệu thị, chứ không phải đại biểu cho một người nào đó của thiên hạ này.

Đinh Ngọc Lạc nhẹ thở dài một tiếng, trên trán hiện lên sỆXo, lẩm bẩm nói: “Đúng vậy, thiếp biết rồi, có điều... Nhị ca nếu đã dám tự lập quốc tất nhiên cũng đã suy nghĩ đến phản ứng của quan gia, thiếp nghĩ nhị ca sẽ làm được, huống hồ bây giờ đã là hàn đông, Phan tướng quân muốn có được tiến triển lớn cũng không phải là điều dễ dàng. Thiếp chỉ lo lắng... Chàng sẽ không bị phái đi Hà Tây chứ?”.

La Khắc Địch lắc đầu: “Quan gia đối với lão tướng tiền triều không tín nhiệm cho lắm, nếu không cũng sẽ không phá cách đề bạt một thiếu tướng trẻ tuổi như ta mà không nể mặt các lão tướng tiền triều, khi ngài ấy chưa ổn định đế vị trong năm, sáu năm thì sẽ không dễ dàng điều ta đâu, trừ phi... Ngài ấy muốn ngự giá thân chinh, ta mới phải đi theo”.

Đinh Ngọc Lạc thở phào nhẹ nhõm: “Như thế thì tốt rồi, thiếp thật sự sợ chàng sẽ chém giết với nhị ca thiếp trên chiến trường, khi đó hai quân trận tiền gặp mặt. Ôi! Thiếp thật không biết phải làm thế nào”.

o O o

File ảnh

http://ne3.upanh.com/b1.s7.d3/59f458b4ac70544f5aa641df0fb95f3c_36782083.chuong44 tamtudevuong1.gif

http://ne3.upanh.com/b4.s20.d1/c45cc76eceee51a75554f199f5d6b04e_36782093.chuong44 tamtudevuong03.gif

http://ne7.upanh.com/b3.s13.d3/513133c566884813029311a203a8d468_36782097.chuong44 tamtudevuong04.gif

http://ne1.upanh.com/b2.s6.d4/e131de1a36e44e61473badcbd884dfe8_36782101.chuong44 tamtudevuong05.gif

http://ne5.upanh.com/b2.s2.d4/6be4ad1517fb9d2482179dd8934c661f_36782105.chuong44 tamtudvuong06.gif

http://ne6.upanh.com/b2.s12.d1/5eb8274a1bb2547f5bfcc443246aeda6_36782116.chuong44 tamtudevuong07.gif

http://ne3.upanh.com/b4.s7.d2/4c830da95fdd5aced285e07db9468914_36782123.chuong44 tamtudevuong08.gif

http://tuchangioi.com/imagetruyen/images/764d5f3e3dae3aea26bc38d0c.gif

http://tuchangioi.com/imagetruyen/images/537dc746df3d69529ecdb2510.gif

 Chương 45: Ngoại Vi

La Khắc Địch cười khổ nói: “Ta bây giờ cũng đã không biết phải làm thế nào rồi, ừm, lúc đầu ta khổ tâm phí sức để lấy được sự tín nhiệm của đương kim thánh thượng, có thể nắm trọng binh trong tay, cả chặng đường tiến tới địa vị hôm nay vốn đều là muốn làm một Chu Giáng Hầu bảo vệ dân chúng chấn hưng xã tắc. Nhưng hoàng trưởng tử Đức Chiêu đã chết, hoàng thứ tử Đức Phương lại trẻ người non dạ, La Khắc Địch ta độc lập triều cương, một mình khó làm gì được, còn cả nhị ca của nàng nữa, hắn đa mưu túc trí, ta tưởng hắn có thể làm một nhân vật cao như tể tướng, ai ngờ hắn lại chạy tới Hà Tây làm một đế vương hải ngoại. Năm đó chúng ta đồng sinh đồng tử, sóng vai tác chiến, bây giờ ta là tướng lĩnh Tống Quốc, còn hắn lại trở thành phản nghịch của Tống Quốc”.

Đinh Ngọc Lạc ngồi thẳng lên, phản bác nói: “Lẽ nào đao dí tới cổ mà nhị ca thiếp phải cúi đầu phục tùng sao? Bây giờ không phải là nhị ca thiếp công đánh Đại Tống mà là Đại Tống xuất binh thảo phạt Hà Tây, Quan gia lại còn dùng thù đê tiện để đoạt mất hai châu Lân Phủ. Với thân phận và địa vị của chàng bây giờ không thể một chút nội tình cũng không biết, lãnh thổ mà Nhị ca thiếp đang thống trị bây giờ chưa từng được vẽ trên bản đồ Đại Tống.

Còn lưỡng châu Lân Phủ, càng là do tiên đế khi còn sống đã công khai hứa rằng để cho bọn họ tự trị, kết quả thì sao? Không phải là vẫn bị quan gia cướp lấy sao? Cứ nói người Bắc triều hung hãn, nhưng bao nhiêu năm nay Bắc triều bị tiếng xấu mà đã từng xuất binh tiêu diệt nước nào chưa? Họ nhiều lắm thì cũng chỉ làm cường đạo cướp bóc, nào có bằng được với huynh đệ Triệu thị liên tiếp tiêu diệt bảy nước mà vẫn chưa biết đủ, dã tâm càng ngày càng lớn, họ hận không thể lấy toàn bộ tứ hải vào lòng bàn tay mình, kẻ gây chiến hòa chính là Tống Quốc”.

La Khắc Địch lắc đầu cười: “Cái gì gọi là nghĩa? Cái gì gọi là bất nghĩa? Nghĩa của ta chính là bất nghĩa của người khác, nghĩa của người khác lại chính là sự bất nghĩa của ta, đứng trên không cùng một chiến doanh, lập trường đương nhiên sẽ bất đồng. Nam Bình, Kinh Triều, Tây Thục, Hán Đường, thậm chí Ngô Việt đều có thể mắng Tống Quốc đầy dã tâm khơi dậy chiến tranh, nhưng ta là người Tống, là thần tử của Tống Quốc, ta không thể nói như vậy. Những việc như thế này vốn không có đạo nghĩa đúng hay không đúng, ai cũng đừng nghĩ rằng mình nhận mệnh của trời, các quốc gia mà con dân khác đều phải cúi đầu xưng thần.

Cho nên... Nhị ca nàng chiếm Hà Tây để tự lập, ta không nói gì. Hắn có lập trường của hắn, ta có lập trường của ta, đứng trên lập trường của hắn, hắn không sainếu như thật sự cần ta phải dẫn binh đánh với hắn một trận thì ta tuyệt đối không thể dung tình, nếu như thật có ngày ta và nhị ca nàng binh giáp tương kiến, ta và nàng... Phải làm sao đây?”.

Đinh Ngọc Lạc nghe rồi nhất thời cảm thấy tâm tư rối loạn, nghĩ đi nghĩ lại chỉ cảm thấy hai người lúc này tuy đang dựa vào nhau nhưng ở giữa hai người dường như có một khoảng trống rất sâu, không có cách nào vượt qua được, chỉ sợ lời nói năm đó thành sự thật, hai người thật sự cho dù đợi thêm rất lâu nữa, đợi đến sỏi đá khô mòn cũng không có cách nào thành đôi uyên ương, bất giác cảm thấy vô cùng đau lòng.

La Khắc Địch đạp chân lên tuyết trở về La phủ, lão gia nhân trong phủ vừa thấy hắn lập tức nói: “Tứ công tử, lão gia nói khi ngài trở về thì lập tức đến phòng gặp lão gia”. La Khắc Địch bây giờ mặc dù có địa vị rất cao trong triều, nhưng ở nhà vẫn chỉ đứng hàng thứ, bị người ta gọi là Tứ công tử.

“Ờ”. La Khắc Địch phủi phủi tuyết trên vai, bỏ giày ra, hỏi: “Có chuyện gì vậy, tâm trạng cha ta như thế nào?”.

Lão gia nhân nhìn xung quanh một lát, rồi ghé sát miệng vào tai hắn, nhỏ giọng nói: “Lão gia nổi giận lôi đình, hình như rất không vui. Khi lão nô mang trà tới, thấy lão gia đi tới đi lui, trước đây mỗi khi lão gia trở về đều rất vui vẻ ngồi trong phòng đọc sách”.

“Ta biết rồi”. La Khắc Địch đi về phía trước hai bước, bỗng nhiên dừng lại, suy nghĩ một chút, lại gọi lão gia nhân lại, dặn dò: “Bảo cho lão nương ta một tiếng”.

Lão gia nhân hiểu ý, lập tức đi nhanh như chớp.

La phu nhân nhận được tin từ lão gia nhân, lập tức đi tới thư phòng phía sau nhà, lão nhi tử đại tôn tử là vận mệnh của lão thái thái, huống hồ La Khắc Địch này không những là tiểu nhi tử của lão La gia, mà còn là cốt nhục thân sinh của bà, cậu con trai bảo bối này tuổi còn trẻ mà đã làm quan lớn như vậy, hơn nữa cũng không rượu chè cờ bạc, quả thực càng nhìn càng thấy hoàn mỹ, lão đầu tử lại còn chốc chốc muốn dạy bảo. Muốn trách mắng nó, bà sao có thể không quản.

Đợi khi La phu nhân đến được thư phòng, ghé tai vào cửa thì hai cha con trong thư phòng đã cãi nhau ầm cả lên rồi.

“Đổ khốn kiếp, lão phu sao lại có thể sinh ra một đứa súc sinh như ngươi, bao nhiêu khuê tú đại gia, thục nữ danh môn ngươi không muốn, lại đi thích một nữ tử bán rượu, ta nghe thấy hình như ả còn từng được gả cho người ta rồi phải không? Cũng phải thôi, tuổi tác như thế sao có thể chưa từng gả cho người ta chứ, ngươi sao lại cứ bị con hồ ly linh đó mê hoặc vậy?”.

“Cha, cái gì mà khuê tú đại gia, thục nữ danh môn chứ, họ có hơn được nàng ấy không? Mấy người suốt ngày uốn a uốn éo, làm ra vẻ thiên kim, quý nữ danh môn, con nhìn không thuận mắt, con chỉ thích cô ấy thôi”.

“Tuyệt đối không được, La gia ta có thân phận gì chứ, lấy một người đã từng qua cửa nhà người khác sao, ngươi muốn công khanh cả triều lấy lão phu ta ra làm trò cười sao?”. Giọng của lão La tăng cao ngữ khí hơn một chút.

“Lấy cha ra làm trò cười á? Cha cho dù có muốn cũng không làm được, người ta còn chưa đồng ý gả vào nhà chúng ta cơ”. La Khắc Địch không chút yếu thế hơn, giọng lập tức tăng thêm ngữ khí.

“Cái gì?”. Lão phu nhi gào lên: “Vậy ngươi còn hao tâm làm gì? Cả đời không thành thân sao? Rốt cuộc là thứ con gái thế nào mà lại có thủ đoạn mê hoặc người ta như thế, lão phu ngày mai sẽ cho người đi đập nát tiệm của ả!”.

“Phụ thân đại nhân dám phái người đi thì con sẽ cho binh đến thủ, con không tin gia đinh nhà ta có thể đấu lại được với binh sĩ cấm quân của đại cung”.

“Ngượi đủ lông đủ cánh rồi phải không, dám nói như vậy với lão tử? Ngươi là đồ nghịch tử bất hiểu, lão phu... Lão phu sẽ đích thân đi, ta xem ai dám động vào sợ lông của ta!”.

“Vậy thì được thôi, quán rượu đó cứ đập đi, con sẽ tìm cho cô ấy một chỗ mà cha tuyệt đối sẽ không tìm ra được, khắp thành Đông Kinh này mọi người đều sẽ nhìn thấy cha đập phá, có lời đồn đại nào mà truyền ra ngoài, con nghĩ chắc phụ thân đại nhân cũng nhất định chống đỡ được!”.

“Khốn kiếp! Khốn kiếp!”.

“Choang...”. Một tiếng động vang lên, một chiếc tách trà vỡ vụn, La phu nhân nghe thấy tiếng đổ vỡ liền muốn bước vào cửa. Vừa mới đưa tay ra cánh cửa liền mở, một mình La Khắc Địch lao nhanh như tên ra ngoài, tiếp theo đó là một quyển sách bay vù ra ngoài, rơi bộp xuống tuyết.

La phu nhân hai sáng lên: “Con trai, con đã thích vợ của ai rồi? Nhầm rồi, là phu nhân ở góa nào? Nhân phẩm ra sao, tướng mạo thế nào...”.

La Khắc Địch vừa muốn nói, thì nghe thấy tiếng bước chân trong phòng, hắn dám cãi lại cha nhưng không dám đánh lại, nên lập tức chuồn đi. La phu nhân gọi hai tiếng, đành phải tạm thời ghìm lại sự tò mò, cười híp mắt bước vào phòng, ngăn lão gia nhà mình lại.

La Khắc Địch tuổi này vẫn chưa thành thân ở Biện Lương quả thật là hiếm thấy, nếu như hắn thường phong lưu chốn cỏ hoa thì cũng không có gì, nhưng người ta lại chưa từng nghe thấy hắn đã làm chuyện phong lưu, làm cho lão nương của hắn rất lo lắng, ở Biện Lương bây giờ đang thịnh hành nam phong, bình thường bà ta hay ngồi rảnh rỗi nói chuyện với đám phu nhân các nhà khác, cũng hay nói đến các tin đồn thổi, cũng có kể về một đại tài chủ nhà gia tài vạn quan vứt bỏ nữ tử xinh đẹp không nạp, lại thích nam tử, thậm chí còn có chuyện lấy nam thiếp, những chuyện kỳ quái này ở thành Đông Kinh không phải là không có. Vì thế bà ta luôn lo lắng con trai mình không biết có mắc cái chứng bệnh lạ này không, bây giờ nghe nói nó đã thích một nữ tử, tâm sự của La phu nhân đã được rũ bỏ, sao lại phải lo lắng nữa chứ.

Nam nhân mà, chỉ cần vẫn là một nam nhân thích nữ tử thì nào có ai không phong lưu háo sắc, thích tam thê tứ thiếp, cho dù nó có chết mê chết mệt phu nhân đó, hơn nữa phụ nhân đó lại đã từng được gả cho người ta, biết điều biết tình, giỏi mềm dịu, con trai mình sao không động lòng, nhưng với quân vị quan chức của nó thì sau này tam thê tứ thiếp cũng không tránh khỏi, cho dù nạp trước một vị phu nhân thân phận không cao, nhưng cũng không có gì quan trọng.

Phải biết rằng rất nhiều con cái đại hộ nhân gia trưởng thành đều được gia đình dung túng đến những nơi hoa nguyệt để có thêm kiến thức, nếu không thì sẽ tìm trước hai ba xử nữ tuyệt sắc giai nhân về làm thiếp, một là muốn nhi tử mình thông suốt một số chuyện, không muốn nó không biết chút gì về chuyện nam nữ, hoặc là biết tình sự mà lại ít kinh nghiệm, tương lai sẽ bị hạn chế về mặt tình cảm. Phu nhân này cho dù đã từng được gả cho người ta nhưng vẫn còn tốt hơn nữ tử thanh lâu, La phu nhân coi đứa con này như bảo bối, đương nhiên sẽ tìm ra một đống lý do để bảo vệ cho nó.

La phu nhân bước vào cửa thì thấy lão La đang thổi râu trừng mắt, tức khí thở hồng hộc, liền lập tức làm mặt cười, đi tới nói: “Ôi chà, lão gia, chuyện vừa nãy có đáng gì mà làm cho ông tức giận thế. Ông xem kìa, ông có bốn đứa nhi tử, đứa có tiền đồ nhất chính là Khắc Địch của chúng ta, bình thường cùng uống trà nói chuyện với mấy người nhà của các vị đại nhân, ai mà không ngưỡng mộ nhà ta chứ. Bây giờ nó chẳng qua là thích một nữ tử đã từng lấy chồng, không phải là còn may hơn là không thích nữ nhân sao? Nhìn ông tức giận kìa, có đáng không”.

Lão La nhìn phu nhân, tức giận đã có chỗ trút, nhi tử của mình dù sao cũng lớn rồi, lại là đại quan triều đình, hắn tức thì tức chứ không thể đuổi theo và đánh cho nó một trận được, bây giờ phu nhân lại ra mặt, hắn cũng nhân cơ hội xuống đài, có điều cơn giận liền bộc phát về phía phu nhân, hắn tức giận nói: “Bà còn nói sao, xem đứa con tốt đẹp mà bà sinh ra kìa”.

“Đứa con tốt đẹp ta sinh ra thì sao chứ? Ông đừng có nói gì nhé, Khắc Địch đúng là một đứa con ngoan đấy”. La phu nhân trêu chọc nói.

“Nó tốt sao? Nó tốt, đường đường là quan viên ngũ phẩm triều đình, đại tướng cấm quân mà lại đi làm việc bất chính với một phu nhân bán rượu, chuyện này mà truyền ra ngoài thì La gia ta còn mặt mũi nào nữa? Cho dù để cho người của Ngự Sử đài biết được thì ít nhất cũng muốn hắn dừng ngay cái hành động ngu xuân đó lại”.

“Ôi chà, ta còn tưởng chuyện gì lớn chứ”. La phu nhân thở phào một hơi: “Mau bảo Khắc Địch rước phu nhân đó vào cửa là hết chuyện, ai còn dám nói linh tinh nữa chứ?”.

La đại nhân dậm chân nói: “Đó là một phu nhân đấy”.

La phu nhân trừng mắt lên: “Phu nhân thì sao chứ? Chẳng qua chỉ là đã từng gả cho người khác thôi, chỉ cần nhân phẩm xuất chúng, hiền thục nết na, Khắc Địch lại thật lòng thích cô nương đó thì có làm sao? Lẽ nào ta lại là nữ nhân đầu tiên của ông sao?”.

Lão La giận sôi lên nói: “Ta là nam nhân!”.

“Nam nhân thì giỏi lắm sao? Vẫn chẳng phải là do nữ nhân sinh ra sao”.

“Mồm toàn nói vớ vẩn, không có nam nhân này thì bà sinh ra được chắc”.

La phu nhân trợn trùng mắt lên, lại chống nạnh sẵng giọng nói: “Sao cơ, rời khỏi một nam nhân như ông thì ta không thể sinh sao?”.

Lão La tức đến chóng cả mặt, sắp không thể phân định được phương hướng nữa, La phu nhân ngoài mặt tỏ ra bực tức nhưng trong lòng lại cười thầm, chỉ cầncông chuyển chủ đề của lão đầu tử này là tốt rồi, trong chốc lát sẽ không nói đến chủ đề cũ nữa, chờ trấn an được lão đầu tử thì bà sẽ đi truy hỏi nhi tử của mình. Nếu như phu nhân đó quả thật có phẩm chất xuất chúng thì sẽ mang kiệu rước nàng về làm nhị phòng cho nhi tử.

Hai vợ chồng già cãi nhau không thôi trong phòng, La Khắc Địch khi trốn ra khỏi thư phòng, liền đứng ở hành lang suy nghĩ một hồi, lại chạy ra bên ngoài. Hắn phải báo cho Ngọc Lạc một tiếng, bảo nàng mau đóng cửa tìm một chỗ khác, nếu không sự sẽ chẳng lành...

La Khắc Địch đi ra khỏi cửa, vội vã lên ngựa đi thẳng tới Lương môn, nhà của hắn ở thành tây, mà tửu quán của Đinh Ngọc Lạc ở đường Đông Thập Tự vì thế phải đi qua một nửa thành Biện Lương mới đến được, ở phía trước không xa chính là nơi Kiến Long Quan trước đây, năm đó ở đây xảy ra đại hỏa. Triệu Khuông Dận vi hành tuần quân doanh quay về trên con đường này và Triệu Phổ đang ở đây cứu hỏa đã từng gặp Dương Hạo ở đây.

Trận hỏa hoạn đó đã hủy đi một dãy nhà, dãy nhà mới bây giờ đa phần được đổi thành các tiệm bán hàng. Tuyết càng lúc càng rơi nhiều, La Khắc Địch vội vã từ tiệm của Trương gia đi qua, không nhìn sang bên đường chút nào. Quán của Trương gia là quán ăn nổi tiếng lớn nhất ở thành tây, đủ các loại thức ăn được thu mua hàng năm từ các vùng bên ngoài đều được tích trữ lượng lớn ở đằng sau. Khi mùa đông đến buôn bán càng đắt hàng, các đại hộ nhân gia gần đó, tiểu hộ bách tính đa phần đều đến đây mua thức ăn. Mùa xuân trước nơi đây được gọi là tiệm Triệu gia, chủ tiệm tên là Triệu Tịch Tiều, là người nhà của hoàng đế Đại Tống, bình thường hắn thích nhất đánh bạc, kết quả trong một lần đánh bạc đã để thua mất căn tiệm này, cho nên tiệm đã được đổi chủ nhân. Chuyện này đã làm xôn xao trong tầng lớp dân chúng tây thành, kết quả không phải là làm cho kẻ nghiện cờ bạc cai nghiện, tình trạng cờ bạc Đông Kinh giảm đi mà hoàn toàn ngược lại, làm cho nạn cờ bạc ở Đông Kinh càng thêm mạnh mẽ, ai cũng muốn thắng, lại rất ít người nghĩ mình sẽ thua.

Đây đã là chuyện của hơn một năm về trước, từ sau lần cá bạc đó, tiệm Triệu gia đã đổi thành tiệm Trương gia. Chủ tiệm bây giờ họ Trương, tên Thập Tam, là một nam nhân dung mạo xấu xí, lớn tuổi mà vẫn chưa lấy vợ, bình thường hay lui tới thanh lâu ghẹo nguyệt, có điều lại không háo tửu, mê cờ bạc, ở tây thành này cũng coi như là một nhân vật danh tiếng không tồi.

Trương Thập Tam vốn là người ở Phủ Châu lộ Kinh Tây Nam, mấy ngày trước nghe nói trong nhà lão phụ thân qua đời, Trương chủ tiệm đã giao tiệm cho trưởng quầy đáng tin cậy coi sóc, trở về quê một chuyến, khi trở lại đã đem theo ba muội tử vẫn chưa xuất giá đến. Ha ha, đừng nhìn người ca ca tướng mạo xấu xí đó mà liên tưởng đến muội tử hắn. Ba muội tử này của hắn lại như hoa như ngọc, trăm mị ngàn kiều, tuy các nàng mặc y phục tầm thường nhưng sao có thể che nổi vẻ đẹp quốc sắc thiên hương, lập tức đã gây sự chú ý cho rất nhiều người, mấy ngày nay những bà mối đến cầu thân sắp dẫm nát cả cửa Trương gia rồi.

Đáng tiếc, Trương Thập Tam nói rằng lão phụ thân qua đời, tuy vì việc buôn bán cần phải xử lý, không thể thủ hiếu trước phần mộ của phụ thân, nhưng bốn huynh muội Trương gia vẫn muốn thủ hiếu lão phụ thân một năm, trong vòng một năm sẽ không nói đến chuyện hôn giá, như vậy môn đình mới yên tĩnh một chút. Bách tính thành Đông Kinh, nữ nhi gia ngồi làm chủ tiệm buôn bán đâu đâu cũng có, tiệm Trương gia tuy cũng coi như có thực lực, nhưng ba muội muội đều giỏi tính toán, ra tiệm kinh doanh cũng coi như tiết kiệm được một khoản tiền lớn. Cho nên ba muội tử này đều giúp đại ca họ xử lý việc trong tiệm, cứ như thế ngoài những người đến mua đồ ăn ra thì cũng có rất nhiều kẻ côn đồ vô lại ùn ùn kéo đến cửa.

Hoa tuyết bay bay, một thiếu nữ hắc y bước vào cửa, lấy từ trong eo ra một chiếc khăn tay, phủi phủi tuyết trên người. Tên vô lại Trần Chiêu Hoa đang ngồi bò trước quầy, bắt chuyện với đại tỷ Trương gia Trương Vận cô nương đang cúi đầu chăm chăm vào cái bảng tính tiền, vừa thấy thiếu nữ hắc y đó bước vào, trông nàng da trắng như tuyết, huyền y như mực, yêu kiều vô cùng, lập tức bỏ mặc Trương Vận đang cúi đầu không chịu ngẩng lên, đi tới cười nói: “Trương Du cô nương, tuyết lớn như vậy còn phải ra ngoài đưa thức ăn sao, thật là vất vả quá”. Vừa nói hắn vừa giơ tay ra, muốn giúp người ta phủi tuyết”.

Nhưng cơ thể của hắc y cô nương đó rất linh hoạt, xoay eo thon một cái tránh ra, mắt trừng lên nhìn hắn, sẵng giọng nói: “Đi xa một chút, đừng có động chân động tay vào bôn cô nương”.

Cô nương đó xoay người đi vào trong quầy, cái eo thon nhỏ cùng bước đi nhẹ nhàng của nàng làm cho lòng Triệu Chiêu hoa ngứa ngáy, có điều một nơi làm ăn với quy mô nhất định như thế này ít nhiều cũng có quan hệ với tuần kiểm, lý chính, đám vô lại bọn hắn chỉ có thể ức hiếp được những tiểu dân bên đường, còn những người đó bọn chúng thật không có gan chọc vào.

“Thức ăn của Chiết gia đã mang đi rồi”. Trương Vận ngẩng đầu, mỉm cười với Trương Du.

Trương Vận đương nhiên chính là Trúc Vận, Trương Du lại chính là Chiết Tử Du, bây giờ hai người tuy đã đi cùng một đường, nhưng Chiết Tử Du vẫn chưa biết nàng chính là Giả Đại Dung từng sóng vai tác chiến với mình.

“Ừ, mang đi rồi, đây là tiền thức ăn”. Chiết Tử Du lấy một túi tiền đặt lên bàn, trước mặt người ngoài, hai người đóng đâu ra đấy vai diễn người bán hàng, hoàn toàn không có chút sơ hở nào.

Chiết gia chính là Vân Trung Chiết gia, vì chủ động quy thuận triều đình nên được triều đình tấn phong làm Ngưu Thiên Vệ Thượng tướng quân, Chiết đại tướng quân Chiết Ngự Huân. Vì Chiết gia có rất nhiều người, mỗi ngày lượng tiêu hao lương thực cũng lớn, mà tiệm Trương gia ở thành tây có tiếng đã lâu, từ trước khi Chiết gia chuyển đến kinh thành thì căn tiệm này đã tồn tại, nên không có gì khả nghi, vì thế thức ăn này đều do tiệm Trương gia cung ứng.

Có điều, sự đề phòng với Chiết gia vẫn vô cùng nghiêm mật, theo người ta nói thì đây cũng là sự yêu mến của quan gia đối với Chiết gia, Quan gia lo lắng phản tặc Dương Hạo ở Hà Tây sẽ phái binh gây bất lợi cho Chiết gia, vì thế phải bảo vệ nghiêm ngặt. Tuy nói tiệm Trương gia là tiệm cổ có tiếng ở thành tây, nhưng những đồ ăn mang tới Chiết phủ vẫn phải được kiểm tra, người đưa thức ăn bị giám sát cả chặng đường. Chiết Tử Du đã đưa theo mấy người làm đi cùng đến đó mấy lượt, nhưng vẫn không thể tiếp xúc được với người gia Chiết gia, có điều nàng rất có sự nhẫn nại, cho dù có phòng bị nghiêm mật hơn nữa, cho dù hoàng cung đại nội cũng sẽ có lúc bị buông lỏng, huống hồ là Chiết gia, nàng vẫn sẽ kiên nhẫn chờ đợi cơ hội.

Chiết gia được bố trí sống ở tây thành, nơi mà mật thám Phi Vũ và Tùy Phong cũng ngầm mai phục ở đó, không phải là do bọn họ thần cơ diệu toán, sớm biết được sẽ xảy ra kiệp nạn này nên đã ngầm bố trí mai phục ở đây trước, mà là do một trong các đại chủ cố phụ trách tiệm Triệu gia trước đây chính là chủ của Sùng Hiếu am.

“Sùng Hiếu” ở thành tây, am chủ chính là đại sư phổ độ từ bi, là Vĩnh Khánh công chúa năm đó, đoạt tiệm Triệu gia là để dùng vào việc của mình, mục tiêu thực ra là am Sùng Hiếu. Chiết gia cũng bị đưa đến ở tây thành chỉ là chuyện may mắn ngoài ý muốn, đây cũng là nguyên nhân Chiết Tử Du đồng ý Trúc Vận cùng đóng vai diễn này để có thể ở đây.

Sự xuất hiện của ba tỷ muội như hoa này, ít nhiều cũng thu hút sự chú ý của người khác, nhưng các nàng cũng không thèm bận tâm.

“Đại tỷ, nhị tỷ”. Cẩu Nhi bây giờ hóa trang làm Trương Nga chạy nhảy ra, tiểu cô nương tuổi còn nhỏ, nhưng lại có một đôi mắt to biết nói, đôi môi anh đào chúm chím, khéo động lòng người, lộ thêm ra ba phần tinh nghịch, bảy phần khéo léo, cơ thể cân xứng vẫn còn chưa dậy thì hoàn toàn, nhưng sau lớp áo bông vải cũng đã mơ hồ hiện ra đường nét của bộ ngực, nó tuyệt đối là một mỹ nhân từ trong trứng, nếu thêm vài tuổi nữa khéo còn càng họa thủy hơn hai tỷ tỷ của mình.

“A, Tiểu Nga muội muội”. Trần Chiêu Hoa mắt sáng lên, rõ ràng so với đại tỷ và nhị tỷ Trương gia thì tiểu nha đầu hoạt bát không rành thế sự này dễ lợi dụng hơn. Trần Chiêu Hoa lập tức nhe răng cười và bước tới: “Đại ca muội keo kiệt quá, tiểu muội xinh đẹp như vậy mà cũng nỡ bắt ra giúp đỡ hắn làm việc, nếu như ta có một tiểu muội đáng yêu như thế này thì ta sẽ không nỡ để cho nó xuất đầu lộ diện đâu”.

Trần Chiêu Hoa vừa nói vừa đang tay ra vỗ vỗ vào vai của tiểu cô nương: “Đi ra chỗ khác, không biết xấu hổ, ai là muội tử của ngươi, đừng có gọi bừa”. Cẩu Nhi trừng mắt lườm hắn một cái, hất tay hắn ra rồi đi sang bên cạnh kéo lấy một chiếc ghế: “Tuyết rơi nhiều như vậy, không buôn bán nữa, nhà ta cần phải đóng cửa rồi, ra ngoài, ra ngoài, đừng có ở đây cản lối nữa”.

Tiểu cô nương khom lưng, cái mông liền vểnh lên, tuy là mùa đông mặc nhiều quần áo, nhưng cơ thể của nó dường như không thể che lấp hết, lồi lõm hiện ra rõ các đường cong. Trong mắt Trần Chiêu Hoa hiện lên thần khí dâm tà, cười vờ nói: “Trời vẫn chưa tối, sao lại có thể đuổi người ta ra ngoài chứ. He he, để Chiêu Hoa đại ca ngồi ở đây không biết sẽ giúp các tiểu muội bớt bao nhiêu phiền phức”.

Hắn vừa nói vừa đi nhanh tới trước, nếu may mắn thì có thể giả vờ đứng không vững, nghiêng người chạm vào mông của cô gái nhỏ, nếu như nó đứng dậy sớm hơn một chút thì có thể giả bộ hơi ngã cúi xuống, cũng có thể sờ vào cặp đùi của tiểu cô nương, tuy giờ đang mặc y phục bằng bông, sự mềm mại không phải đến từ da thịt nó, nhưng đối với một dâm dân tiêu chuẩn mà nói sự tưởng tượng và hoang tưởng là một công cụ không thể thiếu.

Thật đáng tiếc, tiểu cô nương không đứng dậy, cũng không để cho hắn lại gần trước khi đứng dậy, nó bê chiếc ghế lên, dáng vẻ hấp tấp, cong eo quay mạnh người một cái. Cạnh của chiếc ghế vô tư mà đập vào đầu gối Trần Chiêu Hoa.

“Ái!”. Hắn đau đớn kêu lên một tiếng, sắc mặt lập tức trắng bệch, đầu gối hơi cong xuống, mông gần chạm xuống chân, tức khí trợn mắt nhìn như thể đang bị chứng táo bón, tên vô lại này tức thở hồng hộc: “Ái chà, ngươi làm sao thế?”.

Cẩu Nhi chóp chớp mắt, mặt vờ ngây thơ không chút tà khí. “Muội... Muội...”. Tên vô lại ngay cả một câu cũng không nói hết.

“Này, ngươi đừng có nghĩ ác cho người ta, là ngươi tự đụng phải chứ, hơn nữa...”. Tiểu cô nương bĩu môi lên, khinh thường nói: “Một đại nam nhân ngươi, ta chỉ mới dùng một chút sức đụng vào chân một cái mà đã làm cho ngươi khổ sở đến mức đấy rồi à”.

Trần đại vô lại muốn khóc cũng không ra nước mắt, cũng không một từ giải thích, hắn tựa hồ như nhìn thấy trên đầu của tiểu cô nương đẹp như tranh vẽ trước mắt đang mọc lên một cặp sừng, hắn liền cắn răng, cố hết sức lết mấy bước lảo đảo ra khỏi cửa.

Trúc Vận vẫn đang vùi đầu vào bàn tính, thỉnh thoảng khóe miệng lại động một chút, Chiết Tử Du đang nhớ lại tất cả những gian nhà, con đường và những nơi có cảnh vệ mà khi vào Chiết phủ đã nhìn thấy, tất cả mọi thứ trước mắt đều được lọt hoàn toàn vào trong mắt nàng. Nàng mỉm cười, đột nhiên nhớ tới năm đó, ngày hôm đó, con người đó vì một kẻ vô lại tế thần tiên muốn chọc ghẹo nàng mà đã xuất một quyền.

Ân oán dai dẳng đeo đuổi bao nhiêu năm, nàng mệt rồi, đã rất mệt rồi, ngạo khí cao chót vót cũng đã bị mài mòn đi nhiều, cái người muốn quên cũng quên không được đó. Trước đây mỗi khi nghĩ đến hắn, nghĩ nhiều nhất cũng là những chuyện hắn đã có lỗi với mình, càng nghĩ càng tức, bây giờ mỗi lần nhớ đến hắn lại càng thích nhớ tới những ngày ngọt ngào khi ở cùng nhau, đấu mồm ở phủ Trình tướng quân, uống trà ở viện Bích Hà Phủ Cốc, nụ hôn đầu tiên ở trong rừng Lô Châu... Nàng nhận ra tính tình của mình đã có chút thay đổi, tiểu công chúa kiêu ngạo đã sắp biến thành một tiểu nữ nhân dịu hiền rồi.

Nhớ tới lời hứa của hắn với nàng trước khi tới Biện Lương lần này, nhớ tới hắn thân đã là đế vương lại đồng ý giao ngọc tỷ truyền quốc mà đối với một vị hoàng đế mà nói là thứ vô cùng quan trọng ra để đổi lấy cả nhà nàng, trong lòng nàng bất chợt nóng lên: “Còn muốn yêu cầu hắn cái gì nữa, đàn ông thối trong thiên hạ đều giống nhau, nhưng hắn... Cũng coi như không quá như bọn họ...”. Tử Du nghĩ nghĩ, hơi nhăn mũi lại.

Bên ngoài cửa tuyết đang tung bay trắng xóa trời đất, nhưng lòng nàng cũng như đang phiêu diêu trên không trung: “Đối với Liêu Quốc, sao huynh lại đưa ra điều kiện không có chút thành ý nào như vậy? Dựa vào sứcmình huynh, đối phó với Tống Quốc sẽ gặp rất nhiều khó khăn, lẽ nào huynh không biết sao? Đồ ngốc...”.

*

* *

Lúc này, nội cảnh Ba Thục, trên Cung Lai Quan cũng có một người đang nhìn xa xăm về phía Hà Tây, tâm tình phiêu diêu. Dãy Cung Lai kéo dài từ Dân Giang vượt qua Độ Hà, cùng với hiểm ải dựng men theo Độ Hà hình thành một bức chắn như bình phong, yểm hộ phía tây của thành đô. Có điều nơi này bây giờ đã bị công phá rồi, kẻ phá nó chính là nghĩa quân tung hoành Ba Thục, nếu như để bọn họ chiến đấu với Tống quân đã được huấn luyện đầy đủ thì bọn họ không khác gì một đám ô hợp bất kham nhất kích.

Nhưng ở một địa thế núi cao trùng trùng, nước chảy không ngừng này thì những binh sĩ một thân giáp trụ và những động tác thân hình đó còn linh hoạt hơn cả con khỉ, có thể trèo lên trèo xuống nhanh chóng như những sơn dân, quả thực giống như một đàn lợn. Bọn họ vừa trèo lên thì chính là đồi núi mênh mông, họ mặc những bộ y phục rách nát, cờ thì lung tung, xiên xẹo, tiếng kêu la ầm ĩ, hoàn toàn không có bố cục gì, mà cũng không cần có bố cục. Địa hình đặc thù nơi đây làm cho phòng ngự bình thường không thể thi triển phát huy được tác dụng gì, bọn họ không ngừng tiến công lên, còn có vô số người dựa vào tay chân mình để trèo lên hai bên vách núi vách đá để bắn tên xuống phía dưới, hoặc là xông thẳng vào thành để chém giết một trận.

Dù sao bây giờ cũng là mùa đông rồi, bọn họ lại đi chân trần, dựa vào đôi chân và đôi tay của mình để trèo lên những vách núi như đi trên bình địa, mẹ chúng nó, chúng có phải là người không? Trước sĩ khí không sợ chết này, thủ quân đã tan nát, những người còn lại vừa chém giết vừa hoang mang tháo chạy, Cung Lai Quan đã bị thất thủ, tiến thẳng thêm về phía trước thì có thể tiến tới cướp thành đô rồi.

Lúc này, Loan Đao Tiểu Lục, người đã thành thủ lĩnh của nghĩa quân đang đứng trên Cung Lai Quan, ngẩng đầu nhìn về trời bắc, rất lâu không nói gì.

Lương thực của Cung Lai Quan đã vào tay nghĩa quân, khắp nơi đã bắt đầu nhóm lửa, nghĩa quân đói khát vội vã đi nhóm lửa nấu cơm, muốn ăn một trận thật no nê.

Binh sĩ quần áo rách nát liền cởi bỏ quân phục của những thủ quân đã chết ra, vội vã mặc lên người mình, hoàn toàn không bận tâm đến những vết máu dính loang lổ trên đó, trên dưới hiểm ải lập tức xuất hiện vô số thi thể ở trần.

Một viên tướng đi tới đầu thành, chỗ Loan Đao Tiểu Lục đang đứng, chắp tay nói: “Đại tướng quân, Cung Lai Quan đã chiếm được rồi, bây giờ chúng ta... Thật sự đi đánh thành đô sao?”. Hắn nghiêng đầu, ngừng lời một chút.

Người này tên là Địch Phong, cũng là một kiêu tướng của nghĩa quân, vốn là tướng lĩnh thân tín của đại thủ lĩnh nghĩa quân trước kia Triệu Đắc Trụ. Có điều, sau khi Triệu Đắc Trụ chết trong mưa tên, quyền chỉ huy nghĩa quân rơi vào thủ lĩnh thứ hai Đồng Vũ, Địch Vũ đối với việc này cũng không có bất mãn gì, trên thực tế hắn cũng không có cách nào để bất mãn. Đối với chính sách tháo chạy của Triệu Đức Trụ, nhị thủ lĩnh, tam thủ lĩnh, tứ thủ lĩnh đều hoàn toàn nhất trí ý kiến phản đối, cho nên khi Triệu Đức Trụ còn sống, mấy vị thủ lĩnh này thường thân với nhau hơn. Hai là, bọn họ tránh đi tới nơi xa một thời gian rất dài, lương thực cung ứng cho nghĩa quân chủ yếu dựa vào xa binh của nhị thủ lĩnh, bất kể là về thanh vọng hay các mối quan hệ thì nhị thủ lĩnh đã không kém gì đại thủ lĩnh rồi. Bây giờ đại thủ lĩnh đã chết, hắn chính là lão đại thích hợp nhất, không có người nào có thể lay động được vị trí của hắn.

Địch Phong chắp quyền nói: “Đại thủ lĩnh, thành đô dù sao cũng là trung tâm của Ba Thục, truân binh rất nhiều, chúng ta chi bằng đi cướp mấy nơi như Kim Đường, Cửu Lũng, Tấn Nguyên, Thục Châu đi. Những nơi đấy cách thành đô khá gần, lương thảo tất cũng dồi dào, hà tất phải bỏ dễ mà làm khó chứ?”.

o O o

File ảnh

http://ne9.upanh.com/b6.s17.d1/40b405e60a70cf5c9e09805543e11d3c_36826439.chuong45 ngoaivi01.gif

http://ne0.upanh.com/b1.s7.d4/5e3849327f6d31ce73fc572b48b0d22a_36826440.chuong45 ngoaivi2.gif

http://ne1.upanh.com/b5.s7.d3/fdc068a304559d25c1f45fc248112dd0_36826441.chuong45 ngoaivi03.gif

http://ne3.upanh.com/b1.s11.d4/83553a35c15e906826da04075bbe9978_36826443.chuong45 ngoaivi4.gif

http://ne5.upanh.com/b1.s12.d3/6304b11fd63f7209c0a21bec7f38824f_36826445.chuong45 ngoaivi05.gif

http://ne6.upanh.com/b4.s2.d4/51d195c753fdb1a917156cbbe2884349_36826446.chuong45 ngoaivi6.gif

http://ne8.upanh.com/b3.s6.d3/b0917aae11619b81b479c865797cd67a_36826448.chuong45 ngoaii07.gif

http://ne9.upanh.com/b2.s10.d1/f5202f1788897bd2ef1baf39a62ef36d_36826449.chuong45 ngoaivi08.gif

http://ne0.upanh.com/b4.s1.d1/2e30034f80a5d3d03d6d795cd28598e5_36826450.chuong45 ngoaivi09.gif

 Chương 46: Đáng Thương Tấm Lòng Cha Mẹ Trong Thiên Hạ

Loan Đao Tiểu Lục hừ lạnh một tiếng: “Ngươi vẫn muốn làm theo sách lược của Triệu đại thủ lĩnh, là luôn muốn tránh nguy hiểm tìm chỗ dễ, trốn qua trốn lại, kết quả thì sao chứ? Thanh thế lúc đầu của chúng ta vốn rất lớn, kết quả của việc trốn qua trốn lại là làm cho nó ngày càng suy yếu đi, tháo binh ngày càng nhiều, chính vì thành đô là trung tâm của Ba Thục, nên bây giờ chúng ta mới nhất định phải đánh hạ nó. Như vậy, chúng ta không những có thể đoạt được lượng lớn lương thực chống đỡ cho cả năm, mà còn khi thành đô bị hạ, Ba Thục lung lạc, thanh thế của chúng ta sẽ lớn mạnh lên, như vậy mới có nhiều người đầu quân vào chỗ chúng ta”.

Hắn xoay người lại, áo choàng tung bay trong gió: “Ý nghĩ của việc đoạt lấy thành đô không phải chỉ ở một ngôi thành trì, mà chúng ta còn có thể thay đổi cả một xu thế suy tàn hiện nay. Cho nên, thành đô nhất định phải đánh”.

Hắn quay đầu nhìn về phía thành đô, cười lạnh lùng nói: “Thành đô không được coi là một hiểm yếu, hiểm yếu của nó là nằm ở các quan ải được bố trí xung quanh nó, bây giờ Cung Lai Quan đã vào tay ta, thành đô còn có gì đáng sợ nữa”.

“Đại thủ lĩnh nói phải!”. Tam thủ lĩnh Vương Tiểu Ba có cái mũi hơi giống mũi quạ, vẻ mặt có chút hung ác liền bước lên trước nói: “Binh uy và thực lực là do đánh mà ra, chứ không phải do tháo chạy mà có được, đánh thành đô tổn thất nhất định không nhỏ, nhưng khi mà chúng ta lấy được nó thì cái lợi sẽ lớn hơn nhiều, cuộc mua bán này đáng để làm”.

Nhị đương gia Thiết Ngưu nhân cơ hội đứng ra, giơ cánh tay hô to: “Lễ tế Táo quân sắp đến rồi, các vị lão gia muốn táo quân lên trời nói mấy lời tốt đẹp với ngọc hoàng, nhưng đám chúng ta ngay cả một bữa no cũng không có, giờ đi cùng đại đương gia đánh đến thành đô, cướp lấy đồ đạc thức ăn của đám lão gia quý nhân đó, thế miếu ngũ tạng của chúng ta. Cái tết Táo quân này, chúng ta sẽ thay Táo quân hưởng!”. Dứt mười vạn đại quân cùng đồng thanh hô vang, tiếng hô như sóng triều, âm vang cả rừng núi...

*

* *

Triệu Quang Nghĩa khi biết được thái độ của Liêu Quốc với Hạ Quốc đương nhiên vô cùng vui mừng, Hạ Quốc hoàn toàn không có phản ứng gì đã làm cho chúng thần trong triều Liêu Quốc rất phẫn nộ. Liêu Quốc cho dù chưa đồng ý viện trợ vũ lực cho Hạ Quốc, nhưng Liêu Quốc đã thừa nhận sự thành lập của Hạ Quốc, cũng coi như chừa ra một cơ hội trả giá mặc cả cho Hạ Quốc. Nếu như Hạ Quốc có thể bỏ ra chút nhượng bộ về hợp tác quân sự, giao thông kinh tế thì phía Liêu Quốc chưa chắc đã không chịu viện trợ quân sự cho Hạ Quốc, đến lúc đó, bất kể là trực tiếp xuất binh tương trợ hay đưa binh gây chút động thái ở biên cương thì đều đủ làm cho binh lực Tống Quốc nhiễu loạn, giảm bớt áp lực cho Dương Hạo.

Nhưng Dương Hạo lại lặng thinh, không bỏ ra chút nhượng bộ nào, tin tức này không khỏi làm cho văn võ Liêu Quốc tức giận lôi đình, cảm thấy hoàng đế Hạ Quốc này không biết thức thời, ngay cả Tiêu thái hậu cũng thấy bực đến phát cười: “Kẻ oan gia này thật còn tưởng rằng vì có một mối tình duyên không để cho người khác biết mà đã có thể bài bố bản cung sao, để cho ta làm tổn hại đến lợi ích của quốc gia, lợi ích bộ tộc, không tiếc tất cả để giúp hắn sao? Giang sơn Đại Liêu là của con trai ta, bất kỳ ai cũng không thể làm hại nó, thao túng nó cũng không được, cho dù là ngươi cũng không được!”.

Tiêu Xước rất tức giận, quyết tâm ngồi yên không bận tâm đến, để cho Dương Hạo phải đau đầu khổ sở, chịu khuất phục Liêu Quốc rồi hẵng nói. Nhưng ai biết được Tống Quốc lại lập tức tăng thêm ba vạn binh đuổi đến Hà Tây, viện quân còn chưa tới thì phòng tuyến Hoành Sơn đã bắt đầu buông lỏng, khi Vương Kế Ân hồi kinh bẩm báo quân tình thì lại dẫn ba vạn viện quân đuổi tới Hoành Sơn, hai đội quân hội họp, sĩ khí đại chấn, liên tiếp tấn công vào năm nơi hiểm yếu, phòng tuyến Hoành Sơn hoàn toàn bị phá vỡ.

Tiêu Xước nhận được tin này không khỏi kinh ngạc vô cùng, nàng vốn cho rằng Dương Hạo kiên quyết không chịu xưng thần nạp cống với Liêu Quốc tất đã có tính toán kỹ, không ngờ hắn lại bị bại nhanh đến như vậy. Nếu như Hà Tây thật sự rơi vào tay Tống quốc, để cho Tống Quốc có được mảnh đất dưỡng mã của mình, không những sẽ uy hiếp lớn đến Liêu Quốc về mặt thực lực quân sự, mà còn giảm bớt hẳn ưu thế địa lý của mười sáu châu thuộc Liêu Quốc. Nếu như Hà Tây hoàn toàn vào tay Tống Quốc thì Tống quốc có thể lấy Thánh Châu từ Hà Tây, trực tiếp thích sát đến trung kinh Liêu Quốc.

Thực tế chính là như vậy, Tiêu hậu đành phải giương cung lên, từ bỏ ý định muốn làm cho Dương Hạo chịu khổ, lập tức mệnh lệnh cho Da Luật Hưu Ca thống lĩnh sáu viện bộ tứ vạn tinh binh đuổi đến Hà Tây, lấy lý do là chiến tranh Tống Hạ ảnh hưởng đến sự an toàn quốc cảnh của Liêu Quốc, nên bổ sung thực lực vào Tây Kinh Đại Đồng.

Tiêu Xước để cho Da Luật Hưu Ca tùy cơ ứng biến, dặn hắn nếu như không phải gặp tình thế bất đắc dĩ thì tuyệt đối không thể trực tiệp can thiệp vào cuộc chiến của Tống, lần này đi không phải địch cũng không phải bạn, cứ dựa theo tình thế chiến trường mà động. Nếu như Tống quân thế cường thì sẽ gia tăng áp lực với Tống quân, nếu như Hạ quân chuyển bại thành thắng thì ít nhất có thể mỉa mai được Hạ Quốc, tóm lại cần hết sức tạo ra một sự thăng bằng có lợi cho Liêu Quốc.

Sau khi tin tức Liêu Quốc đột nhiên tăng binh ở Tây Kinh Đại Đồng Phủ được truyền đến Đông Kinh Biện Lương, Triệu Quang Nghĩa vô cùng lo lắng, Liêu Quốc nếu như thành lập liên minh quân sự, rất có thể sẽ trực tiếp huy quân nam hạ, không cần phải bỏ gần tìm xa đuổi tới tây kinh. Bây giờ Liêu Quốc đã tập kết quân đội ở tây kinh chưa chắc đã có cấu kết gì với Hạ Quốc, nhưng băng tuyết ngập trời, Liêu Quốc sẽ không vô duyên vô cớ điều binh chứ? Nếu như Liêu Quốc muốn rút củi trong lửa thì sao?

Triệu Quang Nghĩa ngồi không yên được nữa, nội trong ba ngày đã liên tiếp hạ xuống ba đạo thánh chỉ, mệnh lệnh cho Phan Mỹ, Vương Kế Ân tăng cường công thế, hết sức có thể mở rộng chiến quả trước khi truân binh Liêu Quốc đến Tây Kinh Đại Đồng, đồng thời lệnh cho Thôi Ngạn Tiến thống lĩnh hai vạn cấm quân nhanh chóng tới Nhạn Môn Quan, cùng với thủ tướng địa phương thủ ngự Nhạn Môn Quan, tạo ra sự uy hiếp với Tây Kinh Đại Đồng của Liêu Quốc.

Khi Tống Liêu hai nước điều binh khiển tướng, trấn áp lẫn nhau, Hạ Quốc cũng tiến hành dụ địch xâm nhập, đánh hậu cần của nó, chuẩn bị kết hợp trận địa chiến và vận động chiến. Tiếp theo đó các bộ lạc Đảng Hạng nhận được mệnh lần lượt bắt đầu di chuyển, vườn không nhà trống để đối phó với địch quân. Châu thành Tây Hạ lại tăng cường phòng ngự thành trì, tích trữ lương thảo, đồng thời tiến hành chiến dịch di chuyển lượng lớn người và của.

Hà Tây thành trì ít mà thảo nguyên nhiều, các bộ lạc di chuyển với tốc độ hết sức nhanh chóng, muốn làm cho vườn không nhà trống rất dễ dàng. Mùa đông đến rồi, tuyết rơi dày đặc khắp nơi, các bộ lạc cũng đúng đến lúc nghỉ ngơi không phải canh mục nữa, chuyển chiến địa cũng không lo mất mùa màng. Hơn mười vạn Tống quân ùn ùn như thác nước kéo tới, nếu như không thể nhanh chóng công đánh Hạ Quốc thì áp lực hậu cần của nó sẽ lập tức xuất hiện.

Phan Mỹ rất có kinh nghiệm chiến trận, đối với vấn đề hậu cần sao có thể không biết, nhưng bây giờ quân Hạ Quốc đã thảm bại, liên tục rút khỏi Hoành Sơn, chạy về vùng Hạ Châu. Đạo binh gia thường nói binh bại như núi đổ, lúc này chính là lúc phải thừa thắng xông lên giành phần thắng, nào còn thời gian mà để cho minh mã chưa động, lương thực lại động trước, để dẫn đến mất chiến cơ, để cho Dương Hạo có thời gian tập kết loạn binh, chỉnh đốn lại hàng ngũ, đứng vững chân mở ra thế tầng tầng phòng ngự được.

Huống hồ thái độ của Liêu Quốc rất mập mờ, chiến cơ hơi chậm trễ một chút thì quan gia lại thêm một lần hối thúc, càng không phải là áp lực hắn có thể chịu được, vì thế Phan Mỹ chỉ có thể chọn lựa con đường nhanh chóng tiến công, đuổi cùng giết tận. Hắn vốn muốn để lại lâm quân Vương Kế Ân phụ trách chăm lo hậu cần, nhưng bây giờ đại thắng đang kề trước mắt, đó chính là công lao vô thượng, Vương Kế Ân nào chịu ở lại hậu phương, nên khăng khăng muốn cùng hắn đi công đánh thành Hạ Châu, Phan Mỹ không còn cách nào khác, liền để lại hai viên tướng lĩnh tâm phúc phụ trách quân nhu rồi vội vã lên đường.

Hạ Quốc vì quân đội thoái lui mà đã cung cấp một lượng lớn ngựa, vì thế tốc độ thoái lui rất nhanh, Tống quân vội vã đuổi theo nhưng dù sao hai chân cũng không thể nhanh bằng bốn chân. Có điều, Hạ quân thoái lui hoàn toàn không có bố cục gì, rất khó hình thành được khả năng đối kháng có hiệu quả đối với thế tiến công của Phan Mỹ. Thêm nữa, cả chặng đường thoái lui, khi tiếp cận vào ngoại vi Hạ Châu, Hạ quân mới bắt đầu tổ chức một số đợt tập kích và ngăn cản, Phan Mỹ hiểu được mục đích của đối phương là gì, nên không đưa ra bất kỳ hành động nào. Chỉ đánh thoái lui địch binh chứ tuyệt đối không truy kích nữa, chỉ nhắm chuẩn về Hạ Châu.

Hạ Châu là đô thành của Hạ Quốc, ý nghĩa của nó tuyệt đối không chỉ đơn giản là một thành trì bất kể là hoàng đế Hạ Quốc bị bắt hay là đô thành Hạ Quốc bị mất thì đều không phải là thất bại mà một Hạ Quốc mới tự lập có thể chấp nhận được. Dương Hạo không thể rời khỏi Hạ Châu, Hạ Châu khó chắp thêm cánh để bay đi, mục tiêu của hắn đương nhiên chỉ có một Hạ Châu, cái đạo lý bắt trộm phải bắt kẻ cầm đầu này sao hắn lại có thể không hiểu.

Khi đại quân của Phan Mỹ đuổi tới Thiết Dã Vụ mới coi như gặp phải sự đối kháng thật sựnghĩa của quân Hạ Châu sau khi thất thủ ở Hoành Sơn chạy về. Đây là môn hộ thẳng tiến vào Hạ Châu, một pháp đài kiên cố, đánh hạ được Thiết Dã Vụ hắn có thể đến thẳng được thành Hạ Châu. Phan Mỹ lập tức cắm doanh trại cách Thiết Dã Vụ mười dặm, các quân luân phiên xuất chiến, bắt đầu từ sáng cho đến đêm, không một khắc nào nghỉ công đánh toàn hiểm yếu này.

Cùng lúc đó, Phan Mỹ lại lệnh cho hậu phương tăng cường vận chuyển lương thảo cho tiền tuyến, và tập trung thợ thủ công của lưỡng châu Lân Phủ và trong Tống quân, bắt đầu chế tạo khí giới công thành. Tống quân tập kích bất ngờ, lấy được lưỡng châu Lân Phủ, Phan Mỹ lại vội vã hành quân, những vũ khí nhẹ đều được mang từ Biện Lương đến, cho nên vẫn chưa chuẩn bị được những quân giới nặng, khi vừa có được Lân Phủ thì hắn liền tiến vào đoạt Hoành Sơn, đám thợ thủ công trong quân phần lớn có trách nhiệm kiến tạo binh doanh và những công sự xung quanh Hoành Sơn, lúc này mới có thể xuất thủ chế tạo khí giới công thành.

Cho dù có những người thợ thành thục nhất và đầy đủ nguyên vật liệu thì đợt quân giới đầu tiên được tạo ra cũng cần ít nhất nửa tháng, hơn nữa vận chuyển đến thành Hạ Châu cũng tiêu hao một thời gian dài. Có điều Hạ Châu không thể chạy đi được, đầu tiên cứ đánh đến thành Hạ Châu, bao vây chặt lấy nó, vị hoàng đế đoản mạng Dương Hạo này đương nhiên cũng sẽ bị hắn tiêu khiển từ từ.

*

* *

Lúc này, lượng tài vật và người cuối cùng chuyển từ Hạ Châu đến Hưng Châu đã nhanh chóng tập kết. Thực ra Dương Hạo sớm đã có ý thiết lập trung tâm chính trị của hắn ở Hưng Châu, Hưng Châu chính là đô thành Hưng Khánh Phủ của Tây Hạ Quốc trong lịch sử, khi Tây Hạ lập vẫn chưa đánh được chư châu Hà Tây, lúc đó tác dụng chính trị quan trọng của Hạ Châu còn lớn hơn Hạ Châu bây giờ, nhưng Lý Nguyên Hạo vẫn chống được trùng trùng áp lực, đem quốc đô chuyển từ Hạ Châu đến Hưng Châu, đây đương nhiên cũng là nguyên nhân quan trọng nhất.

Giống như những lời Dương Hạo đã nói với văn võ trọng thần ở Ngân Châu, vị trí địa lý của Hưng Châu đặc biệt tốt, thế dựa núi dựa sông, xung quanh không phải là rãnh trời cửa hải hiểm yếu thì là đại phụ đại thành, lại còn là nơi sản xuất ra nhiều lúa gạo nhất, hơn nữa trong tất cả các vị trí trung tâm của cả Hà Tây này thì đây là nơi thích hợp nhất để làm đô thành của một nước. Hạ Châu cách Tống Quốc quá gần, một khi Hoành Sơn thất thủ, Tống quân chỉ cần một thời gian ngắn đã có thể tới. Về mặt quân sự cũng rất không thỏa đáng, hơn nữa do các vùng lân cận Hạ Châu tốc độ sa mạc hóa ngày càng nghiêm trọng, từ điêu kiện tự nhiên mà nói cũng không thích hợp làm đô một nước.

Có điều muốn rời đô cũng không dễ, giống như Tống Quốc vậy, nền tảng thống trị của hắn chủ yếu là người ở lân cận Hạ Châu, rất nhiều quan viên đều thâm căn cố để ở đây, muốn di rời bọn họ đi sao có thể dễ dàng như vậy. Lần này, Dương Hạo lại mượn thế lực của Tống quân để giảm bớt áp lực rời đô xuống mức thấp nhất, thuận lợi hoàn thành sự chuẩn bị cho tiền kỳ rời đô.

Dương Hạo không những mượn thế của Tống quân, hoàn thành vấn đề đại nan giải rời đô này, mà còn mượn sự cấp tiến của Tống quân để làm đảo loạn kế hoạch của Liêu Quốc, thuận lợi dẫn dụ quân Liêu Quốc ra, khi hắn nhận được tin Liêu Quốc đã tập kết binh lực ở Đại Đồng Phủ Tây Kinh, thật sự đã có thể thở phào nhẹ nhõm.

Dương Hạo không chịu nhượng bộ với Liêu Quốc, bỏ qua cơ hội lợi dụng lợi ích chính trị hai bên, từ đó tạo ra một liên minh gắn kết với nhau, thực ra là hắn đã suy nghĩ rất kỹ. Suy nghĩ theo nhiều tầng, lợi ích trong đó phải đợi đến khi hắn bố trí thực hiện giai đoạn thứ hai và giai đoạn thứ ba mới có thể từ từ hiện ra, ý nghĩa của nước cờ ngầm này, ngoài hắn ra không một ai biết, cũng không một ai có thể nhìn ra.

Tuy nói Tống Quốc và Liêu Quốc, thậm chí cả thuộc hạ của hắn đều là những nhân tài kiệt xuất, không thiếu những chính trị gia, quân sự gia có con mắt nhìn xa trông rộng, nhưng tuyệt đối sẽ không có người nhìn ra ý nghĩa thâm sâu trong nước cờ này của hắn, thậm chí hoàn toàn không thể nhìn ra Dương Hạo đang có ý đồ riêng. Điều này không phải là do Dương Hạo là hùng tài đại lược, không ai sánh bằng mà là vì hắn là người của hậu thế, hắn nắm chắc một số sự kiện lớn trong lịch sử.

Cho dù vì hắn xuất hiện mà cả nền lịch sử đã bắt đầu thay đổi, nhưng đi đến bước ngày hôm nay đã ép hắn tới bước đường không thay đổi lịch sử không được, có một số xu thế đại sự trong lịch sử bây giờ hắn vẫn có thể nắm chắc được, chỉ dựa vào điểm này, hắn đã có thể biến hai đại đế quốc nam triều bắc triều thành con cờ của hắn. Bây giờ thì tốt rồi, tất cả đều đã diễn ra theo dự liệu của hắn, tiếp theo đó chỉ cần xem hắn làm thế nào để xướng tốt vở đại kịch ‘Hạ Châu bảo vệ chiến’ này thôi.

*

* *

Nữ Anh đảo mắt lần cuối nhìn tĩnh thất mà mình đã ở, nàng sắp phải đi Hưng Châu rồi. Đông Nhi, Diễm Diễm đã di chuyển đầu tiên đến đó để sắp xếp bố trí mọi việc, còn nàng sẽ đi theo nhóm cuối cùng với các vật tư rời khỏi đây. Thai nhi trong bụng đã được hơn sáu tháng rồi, nhưng vẫn chưa lộ ra bụng, mặc thêm đạo bào rộng thùng thinh càng dễ che mắt người khác, chỉ có khi nàng vuốt ve bụng mới cảm nhận được sinh mạng nhỏ trong bụng đang đạp mạnh mẽ như thế nào.

Đột nhiên, có một những tiếng bước chân vang lên, Nữ Anh vui mừng quay đầu lại. Bây giờ, trong những người còn ở thành Hạ Quốc chỉ có nhũ nương và Dương Hạo mới không cần báo trước mà vào. Nhũ nương thì đi nhẹ nhàng như con mèo, không phát ra nửa tiếng động, tiếng chân này không phải của Dương Hạo thì còn có thể là ai?

Nữ Anh biết Dương Hạo bây giờ bận rộn như thế nào, vốn không trông mong hắn bỏ ra thời gian đến thăm mình. Một lần trải qua nỗi đau vong quốc hủy gia, Nữ Anh cũng đã không còn là một Tiểu Chu Hậu lãng mạn hão huyền không biết nặng nhẹ nữa, nàng bây giờ đã hiểu được thế nào là quý trọng, biết thế nào là đủ. Việc Dương Hạo bất ngờ đến làm cho nàng vô cùng vui mừng.

“Quan nhân...”. Nàng quay đầu ra nhìn, quả nhiên là Dương Hạo, Nữ Anh chạy nhào tới lòng hắn, thân thương gọi một tiếng.

Dương Hạo nhẹ nhàng ôm lấy nàng rồi sóng vai ngồi xuống giường, dịu dàng nói: “Một lát nữa nàng phải lên đường rồi, ta tranh thủ đến thăm nàng một chút. Bên Thiết Dã Vụ sắp không trụ được nữa rồi, không đi sẽ không kịp nữa. Khi Oa Nhi sinh, người làm cha như ta không thể ở bên cạnh nàng ấy, hy vọng khi nàng sinh, ta có thể về bên cạnh nàng”.

“Ừm”. Nữ Anh hiền dịu gật đầu, dựa vào lòng hắn, rồi lại ngẩng đầu lên nhìn hắn hỏi: “Quan nhân, người ta... Người ta bây giờ vẫn mang thân phận xuất gia, sau khi sinh con ra nên để thân phận như thế nào mới được? Quan nhân từ khi trở về luôn bận rộn. Thần thiếp... Không dám vì chuyện này mà phiền quan nhân, nhưng... Nhưng qua mấy tháng nữa là nó ra đời rồi, thiếp thật không biết như thế nào mới tốt”.

“Chuyện này à...”. Dương Hạo trầm ngâm một lát, đột nhiên hắn nhớ tới một chuyện, bất giác vỗ đùi nói: “Đúng rồi, có thể cho nó kế tục đại ca ta...”.

“Sao cơ?”.

“Đứa trẻ này nếu như là con trai thì cho kế thừa đại ca ta, thế nào?”. Nữ Anh từ từ cúi đầu xuống, hơi buồn bã nói: “Ừm...”.

Dương Hạo nhận ra có chút không ổn, vỗ vỗ vai nàng, nói: “Giao cho đại ca ta thì cũng vẫn là con của chúng ta, sao nàng... Nếu như nàng không đồng ý thì thôi vậy”. Nữ Anh thấp giọng nói: “Quan nhân muốn sắp xếp như thế nào thì thần thiếp sẽ làm như thế”. Dương Hạo nhíu mày nói: “Ngẩng đầu lên nào”.

Nữ Anh tránh ra một chút, không chịu ngẩng đầu, Dương Hạo xoay vai nàng lại, đưa tay nâng má nàng lên, mới thấy trên khuôn mặt nàng đang có hai hàng lệ tuôn rơi. Vừa thấy Dương Hạo nhìn mình, Nữ Anh liền quay đầu đi, nhẹ lau nước mắt, thật là tội nghiệp. Nữ Anh bây giờ sắp biến thành người làm bằng nước rồi.

Một vị hoàng hậu từng ở cao cao tại thượng, một đệ nhất giai nhân thông minh hoạt bát, tay chân khéo léo mà từ khi theo hắn lại chưa từng một lần phản đối bất kỳ quyết định nào của hắn, không yêu cầu bất cứ thứ gì, cũng không tranh bất cứ điều gì, ngoan ngoãn đến đáng thương, ngay cả khi muốn phản đối cũng chỉ có thể dùng nước mắt để biểu đạt, thật là làm cho người ta vừa thương vừa yêu.

Dương Hạo vừa giận lại vừa buồn cười: “Nàng không nỡ thì nói một câu là xong, ta cũng chỉ là nhất thời nghĩ ra thôi, còn về... Thôi thôi, coi như ta chưa nói gì”.

Nữ Anh nhẹ nhàng nói: “Thiếp chỉ là... Không nỡ thôi, dù sao cũng là máu thịt của mình, chứ không phải là muốn làm trái lời quan nhân, nếu như quan nhân muốn giao cho đại ca thì...”.

“Được rồi được rồi, ta vốn nghĩ có cho làm con thừa tự hay không chẳng qua cũng chỉ là hình thức, con vẫn là của chúng ta, vẫn yêu thương nó. Haizz, người làm cha như ta dù sao cũng không giống người làm mẹ như các nàng. Thôi, là quan nhân đã sai, sau này không nhắc đến nữa, được không?”.

Nữ Anh mỉm cười, nhẹ nhàng gật đầu, dáng vẻ rất ôn thuần.

Dương Hạo nhẹ thở dài, nâng cằm nàng lên, cười nói: “Nhìn dáng vẻ như một người vợ nhỏ bị ức hiếp của nàng, làm cho vạn hào hùng của một trượng phu như ta cũng tan thành mây khói”.

Nữ Anh xấu hổ, lại thấy mình mới lộ một chút không muốn ra mà Dương Hạo lập tức đã phủ quyết ý định của hắn, trong lòng thấy vô cùng cảm kích. Dương Hạo nghiêng đầu tới, trao cho nàng một nụ hôn. Từ khi nàng mang thai, hắn chưa từng thân mật với nàng, lần này làm cho nàng cảm thấy vô cùng mãn nguyện, còn Dương Hạo thì lại lâng lâng, trút đi hết bao nhiêu phiền toái và mệt nhọc.

*

* *

Khi Dương Hạo đang say sưa với men tình thì cung thái tử ở Đông Hoa Môn thành Biện Lương lửa cháy ngùn ngụt.

Cấm quân cung vệ, đại tiểu thái giám, thậm chí cả chốt hỏa tình, các lộ nhân mã qua lại như bay, xe nước cũng cũng đến rồi, nhưng vẫn có rất nhiều tiểu thái giám bưng chậu nước rửa mặt, ôm bình nước đi cứu hỏa, cũng không biết những đồ này có thể giúp được gì không. Cung thái tử đã cháy rồi, không phải là tự nhiên cháy mà là bị phóng hỏa, người phóng hỏa lại chính là thái tử Triệu Nguyên Tá.

Triệu Nguyên Tá luôn nghi ngờ cái chết của tiên đế có liên quan đến phụ thân mình, một người từ nhỏ đã được dạy dỗ về sự trung nghĩa hiếu lễ như hắn không có cách nào để chấp nhận sự thật này. Không thể chấp nhận được phụ thân mình lại là một kẻ đại gian đại ác hận độc vô tình, thêm vào đó Triệu Đức Chiêu vô tình chết trong hai quân trận càng làm cho sự nghi ngờ của Triệu Nguyên Tá đối với phụ thân hắn càng lớn hơn, mối hận này đã được hắn trút hết vào đầu phụ thân hắn.

Mối quan hệ giữa hai phụ tử trở nên vô cùng căng thẳng, cho dù khi là quốc sự trọng đại cần hoàng đế và hoàng thái tử cùng ra mặt thì hắn cũng không hề giả vờ thuận hòa với phụ thân. Chuyện phụ tử quan gia bất hòa ở Biện Lương đã là một bí mật công khai. Có điều hắn đối với phụ thân tuy lãnh đạm, hai năm nay chỉ ở trong cung đọc sách tập văn, nhưng cũng rất ít tái sinh xung đột với phụ thân.

Ai mà ngờ được hai ngày vừa qua không biết có kẻ nào nhiều lời lại báo cho hắn tin Tề vương Triệu Quang Mỹ bị bãi chức ở phủ Khai Phong, điều đến thành Trường An, giữa đường còn gặp thích khách. Triệu Nguyên Tá vừa nghe xong liền bốc hỏa, hắn là một người đơn thuần, cố chấp, phụ thân hắn trong lòng hắn vốn chỉ kém hơn bá phụ hùng tài đại lược Triệu Khuông Dận, ấn tượng này không phải chỉ trong một hai năm. Nhưng khi hắn lớn lên, trưởng thành lại phát hiện ra phụ thân mình thực ra lại là một kẻ đại gian đại ác. Bây giờ có người muốn hại thúc phụ, trong thiên hạ này còn có ai muốn hại thúc phụ chứ? Có ai cần phải hại ông ấy? Bá phụ là do cha hại, đường huynh là do cha hại, vậy ông ta hạ thủ với thúc phụ có gì là kỳ lạ chứ? Cha đã làm một đế vương mà còn không ngừng muốn tàn sát người thân của mình, ông ta thật là muốn làm một cô gia quả nhân vô tình vô nghĩa sao? Nhớ lại trong lịch sử, những tên hôn quân khi vừa đăng cơ liền lập tức giết sạch huynh đệ cháu chắt không chừa một ai, Triệu Nguyên Tá vừa bi ai vừa phẫn nộ.

Hắn vốn là một thanh niên cực kỳ phóng đạt, mấy năm nay vì mang trong lòng tâm sự nặng nề nên luôn cảm thấy buồn bực vô cùng, đến lúc này bao nhiêu bực tức chất chứa nhiều năm cuối cùng cũng bộc phát triệt để. Khi Triệu Quang Nghĩa đang cùng đại thần tâm phúc phân tích tình thế Hà Tây, thì hoàng thái tử đột nhiên xông vào, hai cha con xung đột kịch liệt, Triệu Quang Nghĩa nổi giận lôi đình, sai thuộc hạ trói thái tử đưa về cung.

Sự ức chế nhiều năm của Triệu Vô Tá thực sự đã bộc phát, hắn như điên như dại, sau khi về cung thái tử thì gào khóc một trận sau đó lại lớn tiếng cười, lúc khóc lúc cười, thần trí rất bất ổn, cuối cùng thì châm lửa thiêu điện, lớn tiếng nói muốn thiêu mình và cung thái tử, muốn thiêu hủy sạch sẽ những thứ dơ bẩn ô uế.

Cuối cùng cũng cứu hỏa kịp thời, cung thái tử ngoài bị thiêu cháy mất chủ điện thì mấy tòa nhà khác vẫn ổn. Nhìn thấy đống điêu tàn, khói thổi nghi ngút, lại còn đứa nghịch tử bị người ta khống chế rồi mà vẫn vừa khóc vừa cười, Triệu Quang Nghĩa tức đến toàn thân nóng ran, mặt xanh như thiết quay người bỏ đi.

Trở về Văn Đức điện, Triệu Quang Nghĩa vẫn chưa nguôi cơn tức, cầm lấy tách trà đưa lên môi, nhấp một ngụm lại ném mạnh xuống đất một cái, chiếc tách vỡ vụn: “Nghịch tử! Nghịch tử!”.

“Quan gia bớt giận, thái tử là người tính tình trung nhân, chỉ là tuổi còn trẻ, không hiểu việc đời thôi, sau này ngài ấy sẽ hiểu được nỗi khổ tâm của quan gia”.

Đám người Trình Vũ, Tống Kỳ, Giả Diễm thận trọng khuyên, Triệu Quang Nghĩa đập bàn một cái, gào lên nói: “Niên thiếu vô tri sao? Nó còn niên thiếu vô tri sao? Đã qua cái tuổi cực quan rồi, lại còn không biết nặng nhẹ như thế. Nghịch tử bất hiếu làm trẫm tức chết, thật là tức chết đi được, thật hối hận lúc đầu trẫm không nên lập nó làm thái tử, đứa con này làm sao có thể kế thừa đại bảo, quân lâm thiên hạ chứ!”. Đám người Trình Vũ, Tống Kỳ lập tức biến sắc, không dám tiệp lời nữa.

Cho dù bọn họ là tâm phúc thân cận nhất của hoàng đế, nhưng cũng không phải chuyện gì cũng có thể tiếp lời được, thái tử là căn bản của một nước, sao có thể xem thường chuyện phế lập? Nếu như thật sự phế thái tử thì phải ăn nói như thế nào với văn võ bá quan trọng triều và vạn dân trong thiên hạ? Dùng lý do gì? Việc này, nếu như không thể đưa ra được một lý do làm cho cả thiên hạ tin phục thì tuyệt đối không thể phế.

Hơn nữa cho dù thái tử này phải phế thì đó cũng là con trai ruột của hoàng đế, nếu như một thần tử xuất ngôn tán thành, đợi khi hoàng đế hết tức, nhớ lại có một thần tử xen vào chuyện lập phế thái tử của hắn, thì sao hắn lại không đề phòng với người đó được? Sao cơ? Ngươi đồng ý phế thái tử, tại sao ngươi đồng ý? Phải chăng là ngươi có cấu kết riêng với một vị hoàng từ nào đó? Hơn nữa vạn nhất một ngày nào đó hoàng đế hồi tâm chuyển ý, lập lại thái tử đã phế thì đó chẳng phải là tự tìm chỗ khó cho mình sao.

Nếu nói ra mấy lời phản đối còn tốt hơn một chút, cần phải biết rằng thái tử nếu đã lập rồi thì chính là quân vương tương lai của một nước, là chính thống, ngươi biểu thị ủng hộ chính là nói ngươi trung thành với triều đình, cho dù một ngày thái tử thật sự bị đổi, tân thái tử lên chỉ cần làm việc tử tế, không bừa bãi thì hắn đối với ngươi cũng sẽ không có bao nhiêu sự nghi hoặc, vì thế biểu hiện của ngươi chính là hiểu mức độ, thủ quy tắc. Như thế nếu như bây giờ ta làm thái tử rồi thì ngươi đương nhiên cũng có thể toàn tâm toàn ý trung thành với ta.

Vì đều nghĩ những điều này nên khi Triệu Quang Nghĩa tức giận lộ ra ý muốn phế thái tử, chúng đại thần tâm phúc không có ai lên tiếng tán thành.

Triệu Quang Nghĩa thực ra không phải chỉ nói miệng như thế, mấy năm nay không ngừng giao ác với con trai, sự phẫn nộ trong lòng hắn càng ngày càng sâu, lúc này thật sự có ý muốn phế nó, hắn thở hồng hộc, ngồi sau ngự án, nhìn một lượt đám đại thần tâm phúc, trầm giọng nói: “Các khanh sao lại không nói gì vậy? Nguyên Tá điên cuồng vô thiên vô pháp, còn giống một thái tử không? Quân vương tương lai của một nước là căn bản xã tắc, sao có thể không thận trọng, trẫm muốn phế thái tử, chúng khanh thấy thế nào?”. 

Hoàng đế đã hỏi đến cùng rồi, không thể im lặng được. Trình Vũ bước lên một bước, đắn đo nói: “Quan gia, thái tử Nguyên Tá dù sao vẫn là trưởng tử đích hệ của quan gia, hoàng thất chính tông, nhân phẩm đoan chính, chưa từng có sai lầm gì lớn, không thể dễ dàng phế lập, như vậy sẽ làm loạn xã tắc, thần vẫn mong quan gia thu hồi thánh mệnh”.

Giả Diễm cũng nói: “Thái tử là căn cơ của một nước, là chuyện kế tục, liên quan đến thiên hạ, thỉnh quan gia suy nghĩ kỹ”.

Triệu Quang Nghĩa lạnh lùng lướt mắt nhìn Tống Kỳ, Tống Kỳ nói: “Quan gia, thái tử phế lập, quan hệ đến tông miếu xã tắc. Tuy quan hệ đến gia sự bệ hạ, nhưng thực sự là đại sự quốc gia, không thể dễ dàng thay đổi được. Từ cổ đến nay đều lập trưởng tử đích hệ làm hoàng đế, thái tử Nguyên Tá lại ở đông cung, thiên hạ đều biết, hơn nữa nhân phẩm được lòng người. Bây giờ thái tử và bệ hạ xung đột với nhau, lại đột nhiên phế thái tử, sợ rằng sẽ gây bất lợi cho trị vì lâu dài, Quan gia không thấy cái họa từ việc tiền triều Tùy Văn đế phế lập thái tử sao?”.

Trình Vũ đưa mắt nhìn hai vị đồng liêu đồng ý với ý kiến của mình, gan liền lớn hơn một chút, vội nói: “Theo như thần thấy, vị trí thái tử không thể khinh xuất thay đổi, nhưng có thể giam lỏng thái tử trong cung, để thái tử có thời gian đóng cửa tự suy nghĩ, sẽ thay đổi suy nghĩ cũng không chừng”.

Triệu Quang Nghĩa vẫn chưa hết tức, cười lạnh nói: “Đóng cửa suy nghĩ sao? Trẫm rất nhiều lần đã nhân nhượng, mấy năm nay luôn bắt nó đóng cửa suy nghĩ, nhưng nó đã từng có một chút hối hận nào chưa, ngược lại còn càng ngông cuồng hơn với trẫm, trẫm không thể nhẫn nhịn tiếp nữa”.

Giả Diễm nói: “Việc xung đột này quả thật không nên để người ngoài biết, nếu như phế thái tử thì phải dùng lý do gì để công khai cho thiên hạ? Hơn nữa, quan gia đăng cơ đại bảo, vốn là huynh chết đệ kế vị, bây giờ trong đám hoàng tử, ngoài thái tử ra thì Đức Phương là lớn nhất, quan gia nếu như phế thái tử thì lúc đó phải lập ai làm thái tử đây?”.

Triệu Quang Nghĩa hơi rùng mình, tức giận lập tức biến mất, liền nói: “Đức Phương sao... Đức Phương hắn...”. Hắn lẩm bẩm đi lẩm bẩm lại mấy chữ, mắt lóe lên, mang theo một tia lãnh ý...

Bên ngoài Đông Hoa Môn, một vị hòa thượng anh tuấn trẻ tuổi đang đứng trong đám dân chúng, nhìn về phía cung thái tử đang nghi ngút khói, lại nhìn về đại môn hoàng cung canh gác nghiêm ngặt, cười lạnh lùng rồi quay người đi về phía Đại Tướng Quốc tự...

o O o

File ảnh

http://ne4.upanh.com/b1.s19.d2/841186f0dee1a822522b241e29f49022_36826754.chuong46 dangthuongtamlongchametr.gif

http://ne6.upanh.com/b4.s9.d4/b12678dcb255b3b036a6518f3e2480e5_36826756.chuong46 dangthuongtamlongchametr.gif

http://ne7.upanh.com/b4.s2.d4/dceda07e02bfa53521b5093e4b27875f_36826757.chuong46 dangthuongtamlongchametr.gif

http://ne9.upanh.com/b2.s9.d3/bc4493cb1a06fb2f62a12fdf46dbce3e_36826759.chuong46 dangthuongtamlongchametr.gif

http://ne3.upanh.com/b5.s20.d1/561d6062698cba264afdf121bcd5b0f3_36826763.chuong46 dangthuongtamlongchmetro.gif

http://ne5.upanh.com/b1.s15.d2/9bb64761e59f11808c0dcd196aecd67e_36826765.chuong46 dangthuongtamlongchametr.gif

http://ne7.upanh.com/b3.s2.d4/7060bf2dae04e58124ae8825ed30f510_36826767.chuong46 dangthuongtamlogchametro.gif

http://ne0.upanh.com/b3.s9.d3/d3631e4f968c4387cfb22e2300fe371a_36826770.chuong46 dangthuongtamlogchametro.gif

http://ne1.upanh.com/b4.s16.d2/8561011982cb74fd5c1587154aa266c3_36826771.chuong46 dangthuongtamlongchametr.gif

 Chương 47: Hành Thích

Đây là một nơi lạnh lẽo, có hành lang bao bọc quanh thất phòng, nơi này thực hoang vu, chính là lăng tẩm của Tống hoàng hậu thời trước.

Triệu Đức Phương ngồi trước bàn với công chúa Vĩnh Khánh - vị tỷ tỷ đã xuất gia với tước hiệu Định Như đại sư. Họ đang nói chuyện cùng hoàng hậu Tống Quốc, sắc mặt bà ốm yếu xanh sao. Triệu Quang Nghĩa trong hai năm nay đã dần dần bớt cảnh giác với họ, không còn giám sát nghiêm ngặt, nên việc họ muốn diện kiến Tống hoàng hậu là điều khá dễ dàng. Hai năm nay, sức khỏe Tống hoàng hậu không được tốt, rơi vào tình cảnh hiểm ác như thế này càng làm bà đổ bệnh nặng hơn, thân thể thêm phần gầy gò yếu ớt. Trước đây Tống hoàng hậu là một một đóa mẫu đơn yêu kiều xuân sắc bao nhiêu thì giờ đã trở nên tàn héo, tiều tụy bấy nhiêu.

Thân người Triệu Đức Phương cao hơn hẳn so với tỷ tỷ mình, trên mặt hắn đã điểm thêm hàng ria lờ mờ, vẻ ngây thơ giờ lại pha một khí chất chững chạc trưởng thành trước tuổi, đợi đến năm sau, hắn đã đầy mười sáu tuổi, đã đủ tư cách để phong vương.

Dáng vẻ của Vĩnh Khánh công chúa vẫn nhỏ xinh như xưa, trải qua những năm thanh đăng cổ quyển tại chốn Phật môn, chuyên tâm tu tịnh đã làm cho nàng thay đổi rất nhiều, trở nên trầm lắng điềm đạm không còn là vị tiểu cô nương ham chơi ngang ngạnh, luôn vui vẻ giống một con chim hỉ thước như trước nữa.

Mấy năm trôi qua, Triệu Quang Nghĩa dần ổn định vương vị, hy vọng trả thù của họ cũng dần trở nên viễn hoặc xa vời, mỗi lần tương phùng, nhớ tới mối thù phu phụ lớn lao, cả ba người đối diện nhau mà u sầu tự than, nỗi đau thấm nhuần trong tâm khảm.

Vừa rồi, biết ở cung thái tử có chút động tĩnh, mẫu từ ba người gặp nhau dưới mái hiên lòng đầy xúc động, rộn lên như là cung thái tử bị phát hỏa, hỏi rõ nguyên cớ thì cung tỳ nội thị cũng không biết. Thực vậy, họ ở một nơi hẻo lánh cô quạnh muốn biết tường tận sự tình cũng là rất khó, hơn nữa họ cũng không muốn nghe ngóng những việc không liên quan đến mình, chỉ trở về cung cùng ngồi hàn huyên với nhau.

Vĩnh Khánh nói: “Mẫu hậu, Hoàng thúc giờ đã bị đày ải đến Trường An, nếu hắn thực sự đã dừng tay thì không nói làm gì, nhưng nếu không phải như vậy, chỉ e sau này sẽ gây bất lợi cho hoàng thúc. Hoàng thúc vốn an phận thủ thường, thúc cũng không dám tranh giành gì với hắn, quy phục hắn, năm sau Đức Phương sẽ được phong vương, người như hắn sao có thể bỏ qua cho hoàng đệ chứ? Nữ nhi con mỗi lần nghĩ đến chuyện này mà trong lòng lo lắng không yên”.

Tống hoàng hậu đưa tay che miệng ho thành tiếng, chau mặt mày nói: “Trong số văn võ triều thần, thế cô nhi quả phụ chúng ta có thể nhờ cậy được ai đây, các lão thần hoặc đều đã rời khỏi kinh thành, hoặc làm trung thần cho hắn, vận mệnh của chúng ta đều bị hắn thao túng, còn có thể nghĩ ra cách nào được chứ?”.

Vĩnh Khánh mi mắt ngậm đầy lệ đáp: “Kẻ thù giờ đã chiếm đoạt được vương vị, tiêu diêu tự tại, còn chúng ta... Đến tánh mạng của Đức Phương cũng không thể bảo vệ được, con thật không cam tâm, trong triều không có người nào có thể dựa nhờ được, còn Dương Hạo ở Tây Bắc...”. Sắc mặt Đức Phương trầm xuống tức giận: “Tỷ đừng nhắc tới hắn!”.

Vĩnh Khánh thở dài nói: “Đức Phương, tỷ biết đệ bất mãn với hắn, nhưng bây giờ là Triệu Quang Nghĩa phát binh tấn công Hà Tây, chứ không phải Dương Hạo hắn mưu đồ bá chiếm Đại Tống ta.

Nói cho dễ hiểu, nếu đệ là hắn, đệ có đồng ý ứng chiến không? Nghĩ ra Hà Tây vốn là nơi chư hồ tạp cư, với Trung Nguyên vương triều Lương, Tấn, Hán, Chu thậm chí ngay cả Đại Tống ta thì Hà Tây trước giờ không hề thuộc lãnh thổ của Trung Nguyên, Dương Hạo tuy chiếm giữ nơi đó nhưng vẫn là quân thần của Đại Tống, suy cho cùng vẫn thân cận triều đình hơn những thủ lĩnh người Hồ trước đây, nếu triều đình giảng hòa, ra ân khoan dung, thu phục lòng người thì sớm muộn Hà Tây cũng thuộc về Trung Nguyên, chưa kể đến binh đao...”.

Triệu Đức Phương ngắt lời nói: “Bất kể thế nào, hắn cư địa xưng đế thì chính là phản tặc, chúng ta còn có thể tin rằng hắn vẫn là trung thần sao? Lẽ nào chúng ta lại dẫn kẻ khác đến hủy hoại giang sơn xã tắc nhà Triệu? Hắn lập quốc xưng đế, là việc phản nghịch bất đạo, người như hắn không thể trông cậy gì được”.

Hai tròng mắt Vĩnh Khánh đỏ hoe, cắn răng nói: “Giang sơn này của nhà Triệu hay không, có liên can gì tới chúng ta đây? Nếu như theo cách của tỷ, vừa bảo toàn tính mạng của đệ lại vừa có thể báo thù cho phụ hoàng, nếu đã có ích như vậy thì chính là nơi đáng tin cậy!”.

Triệu Đức Phương vụt đứng dậy, nghiêm nghị nói: “Sao tỷ có thể nói ra được những lời như vậy? Giang sơn này tự tay phụ thân khổ công gây đựng, người đã qua đời không thể hồi sinh lại được, chẳng lẽ chúng ta đem cơ nghiệp của phụ thân dâng lên cho kẻ khác sao?”.

Tống hoàng hậu thấy hai huynh muội xung lời khắc khẩu, vội vàng ra xem ngoài điện môn, liên thanh nói: “Khẽ tiếng thôi, những lời này nếu truyền đến tai hắn sẽ là họa diệt thân lâm đầu đó”.

Triệu Đức Phương quay lại nhìn, hạ giọng cười nói: “Triệu Quang Nghĩa hắn có thể sát vua đoạt vị, nhưng có một thứ mà hắn không thể đoạt được, đó chính là... Tông miếu xã tắc, phụ hoàng là người khai quốc, là tổ tông của Đại Tống, công lao to lớn vinh quang như thế, hắn dù có ti tiện mức nào cũng vĩnh viễn không đoạt nổi! Đức Phương bất tài, kẻ thù giết cha gần ngay trước mặt nhưng lại không thể báo thù được, nhưng... Bất luận thế nào, ta cũng không mượn sức mạnh của người ngoài để hủy hoại giang sơn của phụ thân!”.

Vĩnh Khánh chậm rãi nhắm hai mặt lại, hai hàng lệ cứ lăn trên gò má: “Phật viết: Giả lệnh kinh trăm kiếp, sở tác nghiệp bất vọng, nhân duyên hội ngộ thì quả báo hoàn tự thụ. Mối huyết hải thâm thù của phụ thân, bao lâu mới có thể phân rõ nhân quả, ác giả ác báo...”.

*

* *

Trong điện Văn Đức, Triệu Quang Nghĩa đang soi đèn phê duyệt tấu chương, đột nhiên hắn cảm thấy trong người bốc lên khí nóng, không chịu nổi hắn liền vứt tấu sớ xuống, đi tới mở toang cửa sổ. Tuyết lại rơi, những trận tuyết trắng xóa không ngừng tuôn rơi, khung cảnh bên ngoài bao la mờ mịt, trong lòng hắn bây giờ cũng là một nơi mênh mang mù mịt.

Luận về tình mà nói, hắn vẫn rất yêu quy phẩm tính của trưởng tử, tuy đứa con trai này luôn làm người khác phải lo lắng, chỉ lo giúp đỡ cho kẻ ngoại gia, hôm nay lại còn tức giận đến mức đốt cung thái tử, hành động như điên như cuồng, bị giữ lại mà vẫn không chịu yên lặng, giờ sau khi uống thuốc của thái y mới dần trầm vào giấc ngủ. Đứa trẻ này có thực là lựa chọn tốt nhất của hắn hay không? Bỗng nhiên, hắn lại nhớ ra việc ban nãy bắt gặp Triệu Đức Phương, hôm nay Vĩnh Khánh và Đức Phương đến thăm hoàng tẩu. Đêm đã khuya, Vĩnh Khánh nán túc lại cung hậu, nhưng Đức Phương phải rời khỏi đó, lúc rời khỏi cung cũng là lúc gặp ngay phải hắn. Đứa cháu này tuổi nhỏ nhưng tính khí trầm ổn, chín chắn cương nghị, đứng trước mặt hắn cũng rất biết cư xử trước sau, hiểu cách tiến thoái, khác hẳn với cái thời còn là một tiểu tử kháu khỉnh ngồi cưỡi trên cổ hắn đòi hái quả.

Nhưng không biết tại sao, sự cung kính và ôn thuần của Đức Phương làm cho hắn cảm giác không thật chút nào, giống như Đức Phương đang đeo một chiếc mặt nạ khiêm nhường cung kính, làm hắn thực khó chịu. Một Đức Phương như vậy còn làm cho hắn thấy càng cảnh giác kiêng đè hơn Triệu Đức Chiêu, đứa con cháu ngang nghịch hỉ nộ ra mặt kia.

Sang năm, hắn đã mười sáu tuổi, để che miệng thiên hạ, bề ngoài hắn ra vẻ yêu thương con cháu tiên đế như ruột thịt, nên đến lúc đó cũng phải thể hiện một chút. Chức vị của một vương gia là không thế thiếu được, nhưng Tang tử của hắn đang điên loạn, những hoàng nhi thì chưa đủ tuổi, Quang Mỹ đã được phong vương, một khi Đức Phương cũng được phong vương... Vậy đến lúc muốn phế truất thì...

Triệu Quang Nghĩa lại chau mày, tuyết đang rơi lả tả xuống nền đất, làm hình dáng hắn trở nên mơ hồ trong khung cảnh ấy, che lấp cả khuôn trán đang nhăn sâu những vệt.

*

* *

Trận tuyết lớn này, lại tạo ra một cơ hội tốt cho Bích Túc.

Hắn vốn là một kẻ có danh phận, một thần trộm tung hoành ngang dọc Hà Bắc, chuyên lấy trộm của cải các quan viên lão chủ, đánh cắp cả tâm hồn những cô nương, tiểu tức phụ, giang hồ đặt cho hắn biệt danh: “Hỗn thân thủ”. Sau đó, hắn học được từ nữ thích khách nổi tiếng Trúc Vận trong Kế Tự đường chiêu ngũ hành độn thuật, đây là thuật tiềm hành cao minh tuyệt thức hơn cả của phái Ninja Nhật Bản. Bây giờ, hắn lại nắm giữ bí quyết và luyện thành ấn công phu: Đại thủ bá đạo tuyệt luân. Có thể nói hắn thực là một thích khách bản lĩnh cao cường lợi hại.

Dương Hạo từng hứa sẽ giúp hắn đối phó với Triệu Quang Nghĩa, nhưng hắn là hoàng đế nước Hạ, Triệu Quang Nghĩa là hoàng đế Đại Tống, vậy phải đợi đến khi nào mới thấy cảnh vương kiến vương? Bích Túc cảm thấy dần tuyệt vọng về lời hứa của Dương Hạo. Hắn không muốn đợi thêm nữa, hắn muốn dựa vào chính thực lực của mình đi báo thù cho Thủy Nguyệt.

Trận tuyết lớn tràn đầy cả không trung lẫn mặt đất, chỉ vẻn vẹn ở giữa một vầng minh nguyệt.

Bích Túc âm thầm lẻn vào nơi xung yếu trong cấm cung Đại Tống.

Mưa tuyết đã yểm hộ cho hắn hành động, hắn mặc y phục màu xám, trong đêm tối một bóng xám bò trên nền đất, cả người hắn hòa cùng với màu tuyết, như vô hình đến mức dù người có đi đến ngay gần cũng khó mà phát hiện ra.

Bích Túc đột nhập vào cung, ẩn nấp trong bóng tuyết khoảng một tuần hương mới có cơ hội để hạ sát hai tên quân cẩm vệ tuần tra, thâm nhập vào sau cung điện. Qua được phòng tuyến đầu tiên, hắn thấy thoải mái hơn, trong hoàng cung không phải chỗ nào cũng có cấm vệ, vượt qua vòng ngoài tức là vào bên trong cực dễ dàng.

Là một tên trộm siêu đẳng, Bích Túc cũng từng nghiên cứu qua về kiến đồ hào môn đại viện, nên hắn có thể biết đích xác thất phòng chủ nhân ở, nơi kho khố, hiểu rõ tuyến đường mà gia đinh hộ viện đi tuần. Nhưng khổ nỗi hoàng cung đại viện rộng lớn, khuê phòng khác hẳn bên ngoài của dân thường, tìm nơi ngự chân của hoàng đế quả không phải việc dễ dàng. Hắn đành ngồi trên mái điện, quan sát tứ phía rất lâu, rồi mới từ từ trượt xuống vụt lao về phía trước.

*

* *

Tại điện Văn Đức, Triệu Quang Nghĩa đã trở về cung, hai cấm quân thị vệ khoác tấm áo bào đứng lặng bên ngoài cung, thủ ấn cương đao, canh giữ cẩn chặt.

Tuyết rơi càng nặng hạt, hành lang điện Văn Đức được gác bởi hai thị vệ đeo kiếm, bóng xám ẩn trong tuyết lạnh nhanh chóng vô thanh vô tức vụt về phía họ, phải nhìn thực kỹ mới phát hiện ra có chút khác thường, hạt tuyết rơi dày mỏng khác nhau lại càng bao kín lấy bóng người.

Vì vậy, khi bóng người tuyết hiện ngay trước mặt thị vệ, một ánh chớp vụt lên, họ thực kinh ngạc không kịp rút đao hay kêu la, cổ họng đã bị một bàn tay chặn đứng. Hắn ra tay nhanh như chớp, chỉ thoát có hai tiếng “cộp”, cổ của hai tên thị vệ đã bị bóp gãy. Hắn liền vứt xác họ giấu vào chỗ tối, rồi lại nhẹ nhàng như không chạy biến vào trong tuyết.

Một cấm quân khoảng ba mươi đang tiến đến, hắn tựa hồ nghe thấy tiếng động gì đó, mắt nhìn tứ phía, không phát hiện kẻ khả nghi, cũng không thấy động tĩnh gì nên hắn không nghi ngờ, tay nắm chặt chuôi đao giờ đã buông lỏng ra, hắn chầm chậm xoay người bước đi, có lẽ hắn cũng không hề biết vốn có hai thị vệ đứng canh ở đây.

Tên thị vệ vừa quay đi, sau lưng hắn bỗng như có một luồng gió tuyết đuổi đến, chiếc bóng tuyết lại lần nữa vụt xuất hiện, hắn vòng cánh tay tóm chặt lấy tên thị vệ từ phía sau, hắn chỉ vừa xiết chặt cánh tay, cổ tên thị vệ đã bị bóp gãy, hắn không thể phát ra chút âm thanh nào. Sau đó Bích Túc bắt được một tên thị vệ khác, tra hỏi rõ ràng nơi ngụ của Triệu Quang Nghĩa tên độc ác đã hại chết Thủy Nguyệt của hắn, thì ra Triệu Quang Nghĩa đang ở trong chính điện này.

Tên thị vệ tiết lộ tin lúc trước vốn định quay người bỏ đi, nhưng lại bị Bích Túc trường thân dựng lên, hắn vừa mới động đã bị Bích Túc Phát hiện ra. Trước đó, hắn cũng lấy làm lạ vì thấy hai thị vệ bị mất tích, hắn cố gắng điềm tĩnh, giả vờ thả lòng canh gác, không ngờ thực lại có kẻ dám hiên ngang lẻn vào cung cấm. Phát hiện điểm khác thường, hắn đột nhiên xoay người, thủ chặt cương đao vội vung lên chém mạnh như đang lâm trận sinh tử.

Lúc này Bích Túc từ phía sau đang lao đến như chớp, may thay nhát đao chỉ mới sượt qua người hắn, lưỡi đao sắc bén chém qua chặt đứt cả những hàng tuyết rơi thành vệt, Bích Túc bay người vung một cước.

“Phốc” một tiếng, tên thị vệ bị Bích Túc đá văng ra, lùi sau tận năm bước, hắn suýt ngã nhoài người về phía sau, Bích Túc cũng thấy bất ngờ, không hề nghĩ rằng trong cung lại có cao thủ như vậy, chỉ là một kẻ mặc chế phục cấm quân.

Quan quân thực cũng có bản lĩnh và nhiều năm khổ luyện, Bích Túc khẽ quát lên một tiếng, phi chuyển song chưởng như pháp luân, lực đạo tung theo mạnh đến hùng hồn, công khứ lấy tên thị vệ. Thị vệ đỡ được một đòn của hắn nhưng chưa chắc chịu được một chưởng của hắn, hai người đã liên tiếp mấy hiệp giao đấu nhưng chỉ diễn ra trong nháy mắt, tên thị vệ bị hắn đả thương vào ngực một chưởng, cảm giác như đụng phải cây đại chùy, tấm ngực hắn bị chấn mạnh, yết hầu run lên, ho sặc sụa, miệng hắn trong chốc lát phun ra đầy máu, lúc này không chịu nổi hắn liền cuồng thoái đến tám thước, thất thanh hét lên: “Có thích khách!”.

Bích Túc vội vã ẩn hình, biến mất trong khung cảnh lờ mờ tối, nhưng tên thị vệ kia chưa từ bỏ, hắn vung đao lên chém một nhát, Bích Túc giơ đao gượng lại, đè chặt lên cánh tay hắn. Bích Túc vung đao tung liền tám chưởng, Bích Túc càng tiến thì tên thị vệ càng bị lấn thoái. Tám chưởng kích bãi, hắn không thể chống đỡ nổi, cả thân người ngã nhào xuống, xương sườn hắn dường như đều gãy vụn, lục phủ ngũ tạng đều bị cắt đứt đến mềm nhũn.

Nhưng lúc bây giờ có mấy tên cấm quân khắp nơi bủa về, Bích Túc đã bị thị vệ vây quanh, hắn vừa lao lực tiếp đánh tên thị vệ gan lỳ kia nên hao tổn một phần công lực. Bích Túc vung đao đánh trả đám thị vệ. Quyền chưởng giao kích, từng đợt tuyết rơi lại bị chém vung lên, hắn cũng cảm thấy đau buốt bởi vết dao bị chém sượt qua mặt.

Bích Túc giờ như một con giao long đang kinh hãi hung hăng, có lúc như vùng lên theo sóng lớn hùng dũng có lúc như nghênh cuồng chặn đầu sóng. Hai bên giao đấu, không ngừng sát thương nhân thể mà không phân thắng bại, những kẻ quan quân này không chỉ công phu cao cường mà còn lấy nhiều địch ít, mỗi lần công kích, chúng không dốc toàn lực, như vậy kể cả có kẻ nào trong số đó bị thương thì vẫn giữ được chiến lực, kẻ địch khó mà thoát chạy.

Lúc này, xung quanh càng nhiều thị vệ vây đến, Bích Túc giết chết kẻ này lại có kẻ khác thay thế tiếp chiến mà võ công của chúng cũng ngang ngửa hắn. Thế chiến bất lợi, những quan quân cao thủ giao chiến với hắn còn số còn lại bao vây tứ phía, phong tỏa đến mức mưa gió khó lọt, không lấy một lối tẩu thoát.

Bích Túc thầm giật mình, hắn còn chưa tiếp cận tới kẻ thù thì đã gặp phải những tên cao thủ này, cho dù võ công chúng thua xa hắn nhưng nếu chúng liên kết đánh lại thì hắn sẽ chẳng còn cơ hội nào nữa, hoàng cung sao lại có thể có nhiều cao thủ như vậy?

Dương Hạo thường bôn ba đông tây chinh thân xuất trận nên bên cạnh hắn cũng có một đám thiết vệ, nhưng họ chẳng là gì so với những cao thủ này. Chúng tinh thông võ nghệ, công lực thâm hậu, dày dạn kinh nghiệm chiến đấu. Bị bủa vây trong vòng kìm này thì thực khó để thoát ra, hắn càng không có cơ hội để đến gần điện Văn Đức nữa, mà bây giờ hắn vẫn chưa gặp được tên Triệu Quang Nghĩa, có thể hình dung ra đến lúc hắn xông đến gần Triệu Quang Nghĩa thì những cao thủ thị vệ quanh đó sẽ tiếp hắn còn cường mạnh hơn nhiều những tên thị vệ này.

Thiên tử chiếm cả bốn biển, đương nhiên trong tay có được càng nhiều kỳ tài giang hồ. Hoàng cung được xây dựng từ thời thiết lập Đại Tống, những kẻ yếu kém sao có thể được chọn làm cấm quân bảo vệ hoàng thành và hậu cung chứ? Thực ra dưới tay Dương Hạo không thiếu gì các cao thủ, chỉ là hắn đã để họ giữ trọng trách khác, giao phái những nhiệm vụ đặc biệt, đến Cẩu Nhi, kẻ luôn bám lấy Dương đại thúc cũng bị phái đi, hiển nhiên quanh hắn không có kẻ nhân tài kiệt xuất nào.

Dương Hạo rất thích phái những người thực lực mạnh, đáng tin cậy ra bên ngoài chủ chốt đại cục, gánh vác trọng trách, còn Triệu Quang Nghĩa lại thích để những lực lượng mạnh nhất, đáng tin cậy bên cạnh hắn, đây là điều khác biệt rất lớn trong cách vi nhân xử thế của hai người này.

Trận đánh ồn ào này đã là kinh động đến Triệu Quang Nghĩa, hắn đứng tại môn khẩu điện Văn Đức lạnh lùng nhìn bóng dáng tên thích khách to gan lớn mật kia, sau thân hắn có đến tám thường phục lão giả tuổi đều khoảng ngũ tuần, khí thế bất phàm. Triệu Quang Nghĩa thấp giọng dặn dò hai ba câu, hai trong các lão tướng phía sau vội y lệnh tiến lên trước.

“Cửu ngũ chí tôn, quả nhiên không hề dễ dàng tiếp cận, đêm nay thực không có cơ hội nữa, nếu ta không thoái lui ngay. E là phải uổng công bỏ mạng nơi này!”.

Bích Túc nghiến răng một hồi, đột nhiên khắp người nổi lên khí thế cuồng xé. Hắn hét một tiếng lớn, lưỡng thủ chợt chuyển sắc thành xích hồng, hoắc địa vụt biến đại liễu nhất niếp, lưỡng chích cựu linh chưởng hung bạo vung lên, kình khí gầm vang bao trùm khắp nơi, gân người hắn kêu răng rắc chấn động, tình cảnh này khiến cho mấy tên thị vệ vây quanh càng thêm lo sợ, bất giác nhụt chí thoái lui vài bước, Bích Túc thừa cơ vung đao phá tan vòng vây, vụt gào thét thoái thoát ra ngoài.

Hai tên thị vệ truy gần hắn chỉ kịp chém sượt lưng hắn thành một cái, liền bị hắn tung hai chưởng lực hung sát, áp khí vùng ra, hai tên thị vệ bị bắn tung về phía sau, đổ nhào về đám thị vệ phía sau. Đám thị vệ phía sau lại tiếp tục truy đuổi theo hắn, không ngờ Bích Túc lúc này mặt hắn toét ra búng máu, vừa đưa tay lên chặn hắn vừa vung đấu thủ nhất dương, từ trong tay áo phi ra một câu trảo, đầu trảo móc lên đến đỉnh mái của cung điện, hắn vội phi thân lao theo, tam hạ lưỡng hạ lên đến đỉnh điện.

Triệu Quang Nghĩa cười nói: “Bắt lấy hắn, bắt sống cho ta, trẫm muốn xem xem, kẻ nào dám to gan như vậy, dám có ý đồ hành sát thiên tử!”.

Không đợi hắn dặn dò, đám thị vệ đã nhanh chóng truy đuổi, trong khoảnh khắc hoàng cung cảnh tấn đại tác, quan quân cấm vệ bốn phía ráo riết hành động, lúc này Bích Túc đã phi diên tẩu bích, bay qua mái điện đi trên lớp ngói lưu ly nhẹ nhàng như bước trên mặt đất, với thân thủ nhanh nhẹn và thứ công phu phi trảo, hình dáng hắn trong chốc lát đã biến khỏi mắt những kẻ truy đuổi theo sau, lẩn vào bóng tối nơi cấm cung hệt như ma quỷ...

o O o

File ảnh

http://ne1.upanh.com/b1.s3.d3/1abe17284de7c49992f65c201c8cb261_36880851.chuong04 7hanhthich01.gif

http://ne6.upanh.com/b3.s1.d3/2fdb615f0dbce13d06c714289bf75105_36880856.chuong47 hanhthich02.gif

http://ne6.upanh.com/b4.s18.d1/56853d1700e465ba5f9f63573c4d0053_36880866.chuong04 7hanhthich3.gif

http://ne4.upanh.com/b2.s15.d2/eae42ef04fe39ed12ac71c55639776a3_36880874.chuong04 7hanhthich04.gif

 Chương 48: Chờ Đợi

“Nhân tại kinh trung, bất động bất thích. Tâm tại hồng trần trung, bất động bất thương. Tâm bất động, nhân bất vọng động, bất động tắc bất thương, nếu như tâm bất ổn tất nhân loạn động, thân trải khổ, kỳ cốt đau, vu như thể lĩnh hội chi thế gian mọi bản thống khổ. Hết thảy niềm ân ái hội ngộ tức vô thường khó được lâu, sinh thời đa khiếp sự, mệnh nguy ngay trước lộ, vì ái tức sinh ưu, vì lo tức sinh khủng, nếu biệt ly tức ái biểu, vậy vô ưu lại vô khủng...”.

Trong phòng thắp hai ánh đèn sáng, hương trụ đàn thơm thoang thoảng xung quanh, công chúa Vĩnh Khánh đang ngồi tọa tĩnh, lặng lẽ tụng kinh. Dù nàng sớm đã xuất gia nhưng đó không phải do thực thờ phụng phật giáo kinh nghĩa, mấy năm nay tuy thân tại cửa phật, hiểu biết nghĩa kinh của nàng không chỉ đơn giản giống như một ni cô thực sự, nỗi bất lực với trần tục khiến nàng càng thêm tin vào phật giới, ủy thác hết vào phật pháp.

Đột nhiên, trong cung truyền ra những tiếng ồn ào khó hiểu, đây thực là việc không được phép xảy ra, Vĩnh Khánh cảm thấy kinh ngạc, nàng đứng dậy đi ra ngoài cửa, nhìn thấy các cung nữ, thị tỳ đứng ngấp ngó trong cung, ồn ào qua lại, rỉ tai thì thầm chuyện gì đó.

Vĩnh Khánh liền hỏi: “Xảy ra chuyện gì vậy?”.

Vừa thấy công chúa cất tiếng hỏi, một nữ tỳ vội vàng bước lên nghênh lễ đáp: “Định Như đại sư, trong cung phát hiện có thích khách, làm kinh động đến thánh thượng, ngài tức giận nên hạ lệnh phong tỏa cấm cung truy bắt cho kỳ được hung thủ”. Nữ tỳ này chính là tâm phúc của Vĩnh Khánh, từ khi nàng xuất gia cho đến khi nay vẫn theo chừng hầu hạ.

Vĩnh Khánh nghe xong rất đỗi kinh ngạc: “Có người hành thích quan gia?”.

“Đúng vậy ạ”.

Một nội thị vội bước lên giọng dõng dạc đáp: “Đại sư không cần phải lo lắng, bên cạnh quan gia có rất nhiều cao thủ đại nội, tên thích khách đó giỏi đến mấy cũng khó lòng tiếp cận được, sao có thể làm tổn hại đến thánh thượng của chúng ta chứ. Bây giờ trong cung đang cảnh giới cẩn mật, hắn sẽ không thoát được đâu, Định Như đại sư cứ về nghỉ ngơi đi ạ, chớ quá lo lắng”.

Vĩnh Khánh trầm ngâm một lúc, nàng gật đầu rồi chuyển mình bước về phòng.

“Vậy mà lại có kẽ dám xông vào đại nội hành thích hoàng thượng? Thật là một kẻ dũng cảm phi phàm!”. Vĩnh Khánh trong lòng cảm xúc ngổn ngang rối loạn: “Đáng tiếc, tên ác bá đó mệnh lớn, nếu thực giết được hắn, vậy thì tốt biết bao”.

Vĩnh Khánh cất bước vào phòng, chợt nhìn thấy có bóng người vụt qua, nàng càng ngạc nhiên, kinh hãi thốt lên một tiếng, không ngờ nàng bị một bàn tay tóm lấy, xiết chặt cổ họng nàng. Nàng cảm giác bàn tay ấy hung mạnh đến nỗi chỉ nhất cử là có thể bóp nát cổ họng nhỏ bé của mình, hắn chưa dùng hết sức mà nàng đã cảm thấy khó thở được ra hơi.

Bích Túc đang ra tay giết người, chợt phát hiện ra trong tay mình là một ni cô, hắn thật không ngờ trong hoàng cung này lại gặp được một người xuất gia, hắn càng thấy ngơ ngẩn, tay dần buông lỏng. Vĩnh Khánh thở dồn dập, kinh hãi mà nhìn lên, trước mắt nàng là một kẻ nam nhi mặt trắng bệch tái nhợt nhưng ánh mắt hắn bén sắc như một con sói hoang dữ tợn, lạnh lùng chằm chằm nhìn nàng.

Bích Túc nhìn rõ đây là một ni cô tuổi còn trẻ, mặc một bộ truy y, mặt mày thanh tú. Đôi mắt nàng vì quá kinh sợ mà mở to tròn, cực giống với thần sắc của Thủy Nguyệt, trong suốt như nước, thuần khiết vô tư. Bích Túc biết mình đang trong cảnh nguy khốn, chỉ cần vị ni cô này hét lên nửa lời, lập tức sẽ dẫn toán cẩm y vệ đến, nhưng giờ toàn thân hắn đang run lên, hắn không thể chịu đựng được nữa.

Vĩnh Khánh yên lặng nhìn tên thích khách, thấy hắn đã thả lòng tay xiết họng, nàng vội dồn dập mà thở hổn hển, nàng đánh bạo hỏi: “Người chính là kẻ thích sát hoàng thượng?”.

“Không sai, chính là ta!”.

Mắt nàng sáng lên, đột nhiên nói: “Hãy thả ta ra, ta sẽ giúp ngươi chạy thoát!”.

Bích Túc kinh ngạc nói: “Ngươi?”.

Khi hắn tháo chạy, bị hai tên nội thị đả thương, đôi nhục chưởng của hắn là thiết chú nhưng thân người hắn lại chưa thể luyện đạt tới độ kim cương bất hoại, việc sử dụng đôi nhục chưởng đó đã làm cho nội phủ của hắn bị chấn thương nặng, sau đó trong lúc cấp bách vội tìm đường tháo thân nên hắn thi triển cao phục đệ nhất lộ tẩu thoát, vết thương vì thế càng thêm nghiêm trọng, giờ phút này hắn đã không còn sức để chạy chốn nữa, nhưng... Nàng muốn giúp ta chạy thoát? Nàng là ai? Cớ gì mạo hiểm tính mạng cứu ta? Ni cô này... Có đáng tin hay không?

Tiếng ồn ào bên ngoài điện ngày càng to, cấm quân thị vệ dò khám kỹ càng từng cung điện, bây giờ đã đi gần đến khám tới cung điện thứ tám này, Vĩnh Khánh cười mỉm một tiếng, nhẹ nhàng nói: “Ngươi hoặc là tin ta hoặc giết ta, tự xông ra mở một đường máu, ngươi hãy chọn đi!”.

Nụ cười của nàng nhỏ nhẹ, như đượm chút dịu dàng của Thủy Nguyệt, đôi mắt nàng càng nhìn càng giống Thủy Nguyệt, hiền hậu thuần khiết... Bích Túc cứ nhìn chăm chú vào đôi mắt đó không rời, tay hắn bất giác buông ra, không còn xiết vào cổ họng nàng...

*

* *

Một đêm đầy tuyết trôi qua, sáng sớm hoa mai vàng đã nở rực, những bông tuyết dày trắng xóa che phủ khắp cành khô, hoa mai từng bông cứ mạnh bạo trồi lên, điểm trứ thêm cho mỗi nhánh cây.

Chiết Ngự Huân vẫn giống trước, mặc một bộ bào miên bố, đi tới hậu viện với chút vẻ lo lắng, hắn ngẩng đầu lên nhìn, chợt phát hiện ra hoa mai đã nở rộ, hắn tiến lại đến gần, cẩn thận nhìn hồi lâu, rồi mới thốt lên một hơi, hắn lại lùi về phía sau vài bước, nhấc chân đá bay thanh trúc bên cạnh, tiếp đó vươn hai ngón tay bắt chặt lấy thanh trúc vừa tung lên.

Hắn hít sâu một hơn, thực ra hắn vừa triển khai một đường kiếm pháp, chiêu thức của hắn đại khai đại hạp, khí thế hùng hồn, thanh miệt trúc nhỏ bé trong tay hắn bỗng chốc mang uy lực to lớn như một thanh chùy, cảm giác nặng tựa ngàn cân, thanh kiếm trúc vung ra như còn chứa đựng nỗi phiền muộn, sầu lo khổ cực của hắn. Kiếm vũ xuất chiêu, tuyết cũng theo đó mà bị phá tan ra hòa thành gió.

Ở góc viện có mấy tên thị vệ đang cầm thương, chầm chậm đi tuần tra theo như lệ thường, thỉnh thoảng cũng nhìn ngó vào nơi này vài lần, ngẫu nhiên mà lại tùy ý, có lúc cũng trò chuyện ít điều.

“Hây, nghe nói tối qua thị vệ bắt phản tặc?”.

“Đó thực là kẻ trộm chứ? Đó là đạo tặc! Xem khắp thế gian này. Có mấy kẻ dám đi hành thích quan gia đây?”.

“Gan của kẻ vận nhân này cũng thật lớn, đến cả thánh thượng hắn cũng dám hành thích, nhưng quanh ngài có bao nhiêu là cao thủ đại nội, hắn sao có thể sống sót rời khỏi đó được chứ?”.

“Thật là nói thừa, hắn đã dám tới thì làm gì còn ý định sống sót quay về chứ? Tựa như Kinh Kha vậy, vốn đã không màng sống chết. Nhưng cũng may cho hắn, hành thích không được, cố nhiên lại thoát thân nhanh chóng, mất hút khỏi tầm truy đuổi của cấm quân, hắn cũng thực là kỳ tài”.

“Kỳ tài? Hắn dù có tài đến đâu cũng cũng thành vô dụng, hắn cũng phải sợ đến tè cả ra quần, trước đây từng có Hồng tuyến nữ với tài phi kiếm giết chết được kẻ thù cách đấy xa hàng vạn dặm cũng không thể đối kháng được với hoàng đế, thua đến cả một tay tiết độ sứ cỏn con. Đây chính là cái gọi là kiến nhiều cũng cắn được chết voi. Bây giờ khắp cung điện lại canh phòng cẩn mật, nơi nơi truy tìm hung thủ, hắn có bản lĩnh mấy cũng sợ không dám lộ diện”.

Một binh sĩ khác nói: “Ai ai cũng dán mặt vào việc này, chỉ vì việc này mà anh em binh sĩ khắp doanh đều bận rộn không ngơi. Nói thẳng ra, chúng ta vẫn là may mắn nhất, chỉ canh gác cổng đại viện, thanh nhàn vô lo, đồ ăn được phần của Chiết gia cũng tốt hơn trăm lần so với ở trong quân doanh”.

Mấy tên binh sĩ trò chuyện huyên náo cứ thế như thường, Chiết Ngự Huân mỗi ngày đều luyện công dưới bóng cây, hắn trút từng đợt phẫn khí ra ngoài, họ cũng quá quen với hình ảnh này. Chiết Ngự Huân múa luyện ba vòng kiếm pháp, luyện đến khi mồ hôi đầm đìa mới chịu ngừng lại.

Khi hắn trở lại phòng mình cũng là lúc Chiết phu nhân đã chuẩn bị đẩy đủ bữa sáng, hắn trước giờ không hề có thói quen như vậy, chỉ là cuộc sống giờ đây của hắn ngày nào cũng giống nhau, lặp đi lặp lại đến phát chán.

Chiết phu nhân tay bưng một khay đồ nhỏ, bên trên là vài món đơn giản, theo sau bà là một tiểu tử, đây chính là lão Tam Chiết gia, Chiết Duy Xương khoác một lớp áo nhung, đầu đội mũ lông thỏ, tay đang cầm bát cháo nóng đầy miệng, hắn cũng chậm chạp theo sau cách phu nhân.

Phủ Châu đã rơi vào tay triều đình nên bây giờ địa bàn của Dương Hạo không còn có liên quan gì với Chiết gia. Hơn nữa sau khi Dương Hạo xưng đế, triều đình đã ra chỉ thảo phạt một cách danh chính ngôn thuận, giờ giá trị lợi dụng của Chiết gia đã hết, chỉ là Triệu Quang Nghĩa nuôi âm mưu thâm độc đoạt được Phủ Châu, trước khi Hà Tây được ổn định, hắn sợ Chiết gia không biết lợi hại sẽ dâng Phủ Châu vào tay quân giặc nên đã giám sát chặt chẽ họ, cũng không cho phép họ thuê dùng thị tỳ, bữa ăn cơm cả ngày đều do tự tay Chiết gia lo liệu.

Chiết gia bị giam lỏng nơi này cũng đã hơn nửa năm, binh đinh giám sát đã sớm chỉ là hình thức, đã quen với từng hoạt động trong nhà này, nên chẳng mấy chú ý.

Kể cả khi họ tăng cường giám sát cũng không có thể kiểm soát hết đến hơn trăm người nhà Chiết gia. Chiết phu nhân bưng bát cháo đến cho tên lính ngoài hàng lang, hắn vừa nhìn bà vừa bê bát lên húp một hơi, phu nhân quay vào trong, vừa đến cửa liền dương giọng nói: “Quan nhân, ăn cơm thôi”.

“Mọi người ăn trước đi, ta không có thấy ngon miệng”. Chiết Ngự Huân buồn chán đáp, lúc này hắn đang đứng múc gầu nước rửa mặt cạnh giếng. Chiết lão tam và lão tứ đều đã ngồi yên vị trong phòng, Chiết gia vốn đã duy trì thói quen cả nhà quây quần dùng bữa từ lâu kể cả trưởng tử trước đây khi chưa thành thân cũng vậy, luôn tuân theo quy củ cũ.

“Năm mới sắp đến, hàng ấn Trương gia đưa đến cho ta một loạt niên hóa, chờ sau khi ăn xong, ta và các con sẽ cùng thanh lý nhất hạ, biếu cho các vị trưởng bối”. Chiết phu nhân vừa cài cửa vừa cao giọng nói.

Cửa phòng vừa đóng, tiểu tử toan đặt bát cháo xuống vội ngẩng đầu lên nhìn, lão tứ Chiết Duy Trung cũng nhìn chằm chằm cái người mặc bộ y phục nhị hào vừa xuất hiện kia, bất giác giật mình, đánh rơi cả đôi đũa xuống đất, chưa kịp thốt lên tiếng nào đã bị nhị ca Chiết Duy Tín nhanh tay nhanh mắt bịt chặt miệng.

“Đệ bao tuổi rồi, lại vẫn hấp tấp bộp chộp thế”.

Chiết Ngự Huân dùng khăn lau khắp mặt mũi, nghe thấy tiếng đũa rơi, định tức giận mà xuất lời giáo huấn, chiếc khăn vừa bỏ ra, hắn nhìn thấy người đó mà ngẩn người ra như tượng đá một lúc.

“Đại ca...”. Chiết Tử Du gọi một tiếng xé lòng.

*

* *

“Nàng vì cớ gì mà lại cứu ta chứ?”. Trong nơi cung điện, một khoảng u ám, Bích Túc đang ngồi khoanh mình trên tháp thượng, nghi ngờ nhìn vị ni cô hành động kỳ quái này.

Vĩnh Khánh dõi theo vết thương trên đầu hắn, trước mắt rõ ràng là một tăng nhân, nhưng vị tăng nhân lại đi làm thích khách, hắn rốt cuộc là ai chứ?

Vĩnh Khánh không đáp lại mà hỏi: “Ngươi tại sao lại muốn hành thích quan gia? Người nên biết rằng, dù ngươi thành công thì cũng không thể sống mà rời khỏi đây”.

Bích Túc giọng căm hận nói: “Từ thời khắc ở đồ thành Giang Châu, ta chỉ sống với một sứ mệnh duy nhất là giết chết tên ác bá Triệu Quang Nghĩa! Chỉ cần giết được hắn, sống hay chết chẳng là điều quan trọng nữa”.

“Giang Châu?”. Vĩnh Khánh thấy lòng không yên, thốt lên hỏi: “Có phải người thân của ngươi... Chết tại Giang Châu?”.

Hai hàm răng của Bích Túc nghiến rung lên, mắt hắn đần đỏ ngầu, hắn nói rành rọt từng câu từng chữ: “Đó không phải là tác chiến, mà là một cuộc thảm sát bách tính một cách tàn ác của bọn quần thủ vô lương!”.

Vĩnh Khánh trầm lặng nhìn hắn, nàng có thể nhận thấy nỗi căm hận sâu nặng từ biểu hiện và thần sắc hắn, phải chịu bao nỗi đau khổ, ánh mắt điên cuồng căm tức đó chỉ chăm chăm nhìn tới việc báo thù cho đến hơi thở cuối cùng. Người thân của hắn chắc hẳn đã chết nơi chiến loạn chỉ bởi một mệnh lệnh của Triệu Quang Nghĩa, còn với ta, người thân của ta lại nằm trực tiếp trong tay hắn, đem so với nhau, mối thù nào sâu đậm hơn, người nào càng chịu đau đớn hơn đây? Nhưng hắn có thể vì người thân mà làm, còn ta lại...”. Vĩnh Khánh trong lòng càng thêm xấu hổ.

Nàng thực không phải không muốn báo thù, chỉ là nàng bị ràng buộc quá nhiều... Nàng muốn báo thù cho phụ thân, rồi tiếp nối gìn giữ cơ nghiệp giang sơn này, nàng muốn giết chết kẻ thù sát phụ diệt quân bất nghĩa kia nhưng cũng phải bảo vệ cho kỳ được huynh đệ của mình, nỗi giận thất phu, mạng người tận hai, lưu huyết ngũ bộ, thiên hạ càng vì đó mà thương đau, thực là thống khoái, nàng nghĩ, nhưng... Nàng không thể làm được.

Bích Túc nghĩ tới Thủy Nguyệt đã chết thảm, hắn càng thêm tức giận, một hồi lâu mới khống chế được sát khí kích phẫn, hắn lạnh lùng nói: “Nàng đã biết tại sao ta muốn giết hắn rồi phải không? Vì... Ta và hắn là kẻ thù không đội trời chung! Lần này ta không thành công nhưng ta vẫn sống sót, lần sau ta vẫn sẽ tiếp tục! Còn nàng... Nàng là ai, biết rõ ta là thích khách nhưng lại mạo hiểm cứu ta? Đừng nói với ta rằng nàng làm vậy là vì đệ tử phật môn từ bi nhân ái. Ha ha, hỏi thế gian, đế vương thống trị vạn dân, phật pháp tận nơi Tây Thiên, khó mà phù trợ chúng sinh!”.

Vĩnh Khánh lặng lẽ nhìn hắn: “Ta cứu ngươi, chỉ là vì... Ta và người cùng muốn giết chết hắn, đồng hữu kẻ thù thiên chi”.

Bích Túc chau mày nói: “Nàng nhờ thân phận ni cô mà vào được cấm cung, có thể thấy... Nàng có ân oán sâu đậm với hoàng thất, nàng có mối huyết hải thâm thù với Triệu Quang Nghĩa? Nàng là ai?”.

Vĩnh Khánh đưa tay hợp thập nói: “Bần ni Định Như, khi chưa xuất gia là công chúa Vĩnh Khánh của Đại Tống”.

Sau khi đãng cơ, Triệu Quang Nghĩa đã từng giả bộ phong cho nàng là Quắc Quốc công chúa, nhưng trong lòng Vĩnh Khánh, nàng vẫn luôn là tiểu công chúa bên cạnh phụ thân, nàng đã tự truất bỏ phong tự Quắc Quốc đó.

Bích Túc biết được thân thế nàng liền hiểu rõ lý do mà nàng cứu mình: “Công chúa Vĩnh Khánh? Thì ra nàng chính là... Phụ hoàng nàng bị chính hắn...”.

Vĩnh Khánh nắm chặt lấy đôi tay, hai tròng mắt đỏ lên: “Cha ta bị hắn giết hại, hắn là tên gian thần sát quân đoạt vị bất nghĩa. Nhưng giờ hắn là hoàng đế, ta không thể giết được hắn. Tuy nhiên ta có cơ hội đến gần hắn, người có bản lĩnh sát nhân, nhưng lại không thể tiếp cận được hắn. Ta và người đồng hận chung thù, vậy hãy cùng hợp lại, ngươi thấy sao?”.

Bích Túc nhất thời mắt sáng lên: “Hợp tác như thế nào?”.

“Ta cho người cơ hội, ngươi hãy giết chết hắn, nhưng cơ hội đó ngươi phải đợi đã”.

Bích Túc gật đầu: “Ta có thể đợi, ta đã đợi chờ lâu lắm rồi, chỉ cần có cơ hội, ta sẽ kiên nhẫn chờ nó xuất hiện!”.

“Tốt lắm”. Vĩnh Khánh nói: “Hiện giờ cung cấm canh phòng nghiêm ngặt, cứ năm bước lại một lượt tuần tra, mười bước một trạm gác, người nào qua lại cũng bị bàn tra kỹ càng, ngươi hãy kiên nhẫn chờ đợi ở đây, mẫu hậu sẽ thay ta chăm sóc ngươi. Ta lập tức xuất cung, giả như ngươi đã tẩu thoát khỏi nơi cung cấm, như vậy vòng kìm tỏa trong cung sẽ tự nới lỏng. Đợi đến lần sau quay lại, ta sẽ nghĩ cách đưa ngươi ra”.

Bích Túc lạnh lùng cười nói: “Đợi lúc tình hình cung cấm giới nghiêm tiêu tan, tự ta có thể rời khỏi đây”.

“Vậy cũng tốt, bần ni hiện trú ở Sùng Hiếu am, thành Tây tu hành, nếu ngươi rời khỏi hoàng cung có thể đến đó tìm ta, chúng ta sẽ cùng đàm mưu kế”. Khuôn mặt thanh tú hiền dịu như Thủy Nguyệt này lại có thể nói những lời lạnh lùng sát khí.

*

* *

“Xích Trung đã chết? Ha, chết cũng tốt, thật là tốt, cái tên lòng lang dạ sói đó, ta coi hắn là tâm phúc, nào ngờ hắn lại đâm ngay sau lưng ta một đao. Đáng tiếc, hắn lại chọn nhầm chủ tử, thỏ khôn chưa tử, tẩu cẩu đã tái, thật là đắc khoái nhân khẩu, ha ha...”.

Nơi ngọa phòng, nghe tin Xích Trung đã chết, Dương Hạo xưng đế, bây giờ lại biến bại hoành chiến chưa phân thắng bại, Chiết Ngự Huân vốn trong lòng lo lắng, ức khí mấy ngày nay tích trữ trong người giờ phần nào giải tỏa hết, hắn thở dài một hơi, bỗng quay lại phía Chiết Tử Du, nói: “Hắn lập quốc, hắn giờ đã lập quốc xưng đế, vậy hắn sẽ an vị cho muội vị trí gì? Hắn đã có nguyên phối, chức vị hoàng hậu chúng ta không thể đoạt được, nhưng dù sao hắn cũng phải phong muội làm một thần phi chứ? À... Ả nha đầu họ Đường đã đoạt mất rồi, hay hắn phong cho muội làm thục phi?”.

Dân gian có cái gọi là tam cung lục viện, đó là cách nói thị nhi bất thực về quy định của hoàng gia, tam cung tức chỉ tam cung của hoàng đế, thái hậu, hoàng hậu hay còn gọi là tam cung của thái hoàng thái hậu, thái hậu, hoàng hậu. Lục viện lại chỉ nơi hoàng hậu ngự phòng, tẩm cung hoàng hậu có sáu điện, một chính điện và năm yếu tẩm, hợp xưng lục viện hay lục cung.

Vào trước thời Minh Thanh, cấm cung chỉ có duy nhất một hoàng hậu, dưới đó là phi phong theo thứ tự: Thần phi, thục phi, đức phi, hiền phị, huệ phi, quý phi. Đây là phong hiệu phân cho một vị phi tử, còn càng về sau phong hiệu dùng chung cho nhiều phi tần, phân thành: quý nghi, thuận dung, uyển nghi, sung kỹ, tu dung, tu nghi, tu giảo, chiêu dung, chiêu nghi, thấp hơn nữa là: tiệp dư, mỹ nhân, tài nhân, tiếp sau nữa là: phu nhân, cuối cùng là: hông hà bí và thị ngự.

Chiết Ngự Huân cứ suy xét tự gia muội tử tài mạo đều không thua kém, mà con người Dương Hạo cũng nhân nghĩa, Chiết gia lâm vào bế cảnh này nhưng hắn vẫn yêu thương tiểu muội, suy đi tính lại, bất kể từ phương diện nào cũng thấy chắc hắn sẽ không bạc đãi tiểu muội nhưng sao có chút hiềm nghi.

Chiết Tử Du vừa tức vừa xấu hổ nói: “Huynh, người ta hao tâm tốn công về tới nhà, chỉ vì ưu lo cho huynh và gia nhân, huynh lại nói những việc không liên quan như vậy”.

Chiết Ngự Huân ngang ngạnh nói: “Sao lại không liên quan, cả nhà ta già lẫn trẻ đều bị giam cầm nơi Biện Lương này, sống cũng sống không được, chết cũng không song. Từ nay về sau sẽ chẳng còn ngày ngóc đầu dậy nữa, ta chỉ có mỗi mình muội, không quan tâm cho muội thì còn quan tâm cho ai nữa? Dương Hạo có làm chuyện có lỗi với muội không?”.

Chiết Tử Du đứng lại, tức giận nói: “Muội không có gả cho hắn!”.

“Gì cơ?”. Sắc mặt Chiết Ngự Huân tím tái: “Hay lắm! Hay quá đi! Đây đúng là phá địch chúng nhân chùy mà! Vậy là Chiết gia ta đã chẳng còn gì nữa, hắn đối đãi với muội như thế này đây. Chiết Ngự Huân ta thực đã mù tới bảy con mắt lại đi coi tên lòng lang dạ sói này làm huynh đệ...”.

Vừa nghe đại ca mình lớn tiếng mắng chửi, Chiết Tử Du vội nói: “Huynh à, là muội không muốn lấy hắn, không phải lỗi do hắn”.

Chiết Ngự Huân trừng mắt nhìn: “Muội rõ ràng là yêu hắn tha thiết, sao vậy? Hay vẫn để bụng chuyện đổ vỡ trước đây? Muội à, không phải huynh nói lỗi tại muội, muội cũng quá là hẹp hỏi”.

“Huynh nói bậy bạ gì thể!”. Chiết Tử Du trừng mắt nhìn đại ca mình, đành nói: “Cả nhà già trẻ đều quy về Biện Lương chịu khổ, huynh sao có thể để Tử Du yên tâm mà xuất giá chứ?”.

Chiết Ngự Huân nói: “Nếu nói là khổ thì cũng không phải, chỉ giống như ăn để chờ chết, không có việc gì to tát cả, muội lẽ nào vì điều này mà cả đời không xuất giá sao? Muội à... Tiểu muội ngốc này, trước giờ chỉ luôn lo nghĩ cho ta...”.

Chiết Tử Du dở khóc dở cười nói: “Huynh à, muội không phải không chịu xuất giá, chỉ là không yên lòng nhân gia, thực ra... Muội... Muội đã nhận lời hắn rồi, đợi khi cứu được mọi người thì... Sẽ lấy hắn”.

Hai mắt Chiết Ngự Huân đăm đăm, liền ngồi vội xuống tháp thượng: “Vậy là hết! Đợi các người cứu ta ra ư? Muội cũng thấy đấy, trong phủ phòng ngự như vậy, nếu là một mình ta chạy trốn chưa chắc đã thành công, nhưng nến ta chạy chốn, cả nhà họ Chiết đều phải táng thân tại chính nơi này. Không phải ta không đi được mà là ta không thể đi, còn nếu có thể để cả nhà lớn bé chạy thoát được khỏi đây, đó thực là việc đến thần tiên cũng không làm nổi. Điều kiện này của muội thật... Vậy có khác gì cả đời không xuất giá?”.

Chiết Tử Du nhìn quanh, nói nhỏ tiếng: “Huynh à, cứu hết người nhà họ Chiết ta thoát khỏi đây, chưa chắc là không thể được, trong tay Dương Hạo có một bảo vật, thứ bảo vật mà Triệu Quang Nghĩa quý hơn Chiết gia ta bội phần, hắn nói... Đợi thời cơ thích hợp, sẽ lấy nó ra làm vật trao đổi, cứu cả nhà chúng ta”.

Chiết Ngự Huân lấy làm lạ: “Thứ gì mà lại trọng yếu như vậy?”.

Tử Du thấp giọng nói bốn chữ, Chiết Ngư Huân vừa nghe được ngọc tỷ truyền quốc, liền hoảng sợ thất kinh: “Thứ đó... Hóa lại trong tay Dương Hạo? Hắn... Thực sẽ vì cứu cả nhà ta mà đem trao nó cho Triệu Quang Nghĩa sao? Không thể nào, sao có thể được, đó là Ngọc tỷ truyền quốc, sở hữu nó tức chính thiên mệnh sở quy, hắn nay đã lập quốc xưng đế, nó là thứ cực kỳ trọng yếu, nào nỡ đem dâng kẻ khác”.

Chiết Tử Du nghe lời đại ca nói xong, nghĩ đến việc Dương Hạo vì cứu nhà mình mà bất chấp đổi cả báu vật vô giá kia, trong lòng thầm vô cùng cảm kích, ngọc tỷ truyền quốc là thứ bảo vật được coi là “hoàng quyền thần thụ, thiên mệnh sở quy”, là bảo vật vô giá!

Những năm qua, chỉ vì nguyên cớ rắc rối, nên chính mình trở nên lạnh lùng, làm khó cho Dương Hạo, người giờ đã ở thân phận gì rồi? Xung quanh người có biết bao nhiêu mỹ nữ, chỉ cần nghĩ đến việc hắn có nhiều người phụ nữ nhưng lại coi mình cực kỳ quan trọng, đến mức vứt bỏ cả ngọc tỷ truyền quốc! Một người phụ nữ, được nam nhân yêu thương đến vậy, còn cầu mong gì hơn nữa? Nhưng việc oán hờn giận dỗi xưa kia giờ chỉ cảm thấy đáng cười.

Chiết Tử Du thấy trong lòng chua xót lại vừa cảm nhận vị ngọt ngào lại thêm hối hận. Nghĩ lại việc trước đây, nàng lại thấy thật ngây dại, giờ nàng chỉ muốn được trở về ngay bên hắn, dùng tấm lòng chân thành của nàng báo đáp lại tấm chân tình của hắn.

Chiết Ngự Huân cũng từng thống lĩnh một phương, vì qua kinh ngạc mà thần trí hắn trở nên thanh tỉnh hơn, hắn vốn cho rằng Chiết gia sẽ vĩnh viễn chôn chân nơi Khai phong, sẽ chẳng còn tự do gì, dù kẻ nào có bản lĩnh tài giỏi cũng chưa chắc cứu thoát được, nhưng là ngọc tỷ truyền quốc... Nếu hỏi khắp thiên hạ thứ gì có thể thay đổi vận mệnh Chiết gia, thì đó chnh là vật này, như thế Chiết gia sẽ có hy vọng thoát khỏi nan nguy.

Vốn hắn đã vứt bỏ hy vọng, nhưng nghĩ đến muội mình sẽ có một nơi chốn tốt, điều này đã thực hiện nguyện vọng cuối cùng của hắn, nay lại bừng sáng một tia hy vọng mới, hắn lại thêm vui mừng hăng hái vạn phần: “Không thành được muội đâu, như vậy bất thành, làm vậy thực quá hồ đồ, Triệu Quang Nghĩa bản tính tham lam, nếu Dương Hạo chủ động đầu hàng vứt bỏ đế hiệu, Triệu Quang Nghĩa sẽ càng được thế lấn tới. Nếu lúc này hắn không chịu dùng chúng ta để trao đổi ngọc tỷ mà tiếp tục phát binh thảo phạt, bắt Dương Hạo giao ra ngọc tỷ, như vậy ý định của Dương Hạo không được như ý nữa”.

Chiết Tử Du nói: “Dương Hạo đã dám xưng đế thì cũng đã chuẩn bị rằng sẽ phải từ bỏ tước hiệu đó, lẽ nào lại không chút oán thán. Hắn không hề nói rõ với muội, nhưng muội đoán... Hắn đang muốn mượn lực nước Liêu”.

Chiết Tử Du vốn người thông minh, đến cả Chiết Ngự Huân mỗi khi có việc đại sự cũng thường vấn kế nàng, hắn thực rất tin tưởng vào những phán đoán đó. Hắn cũng không phải là kẻ tầm thường, về ý này của tiểu muội, hắn suy đi nghĩ lại, càng thấy như hiểu rõ hơn, vội vàng vui sướng đáp: “Không sai, mười thì có đến... Là như vậy, chỉ cần dâng hiến ngọc tỷ cho nước Liêu, Triệu Quang Nghĩa không điên loạn lên mới là lạ, nói như vậy Chiết gia ta thật sự có hy vọng rồi!”.

Hai huynh muội hắn đều là những người tài trí, nhưng mọi ý nghĩ cũng chỉ dừng tại đó. Chưa hề đoán ra ý đồ của Dương Hạo thâm sâu khó lường cỡ nào. Họ chỉ nghĩ được việc Chiết gia đã được cứu, Chiết Ngự Huân vui mừng phấn chấn, cảm thấy thoải mải vô cùng. Chiết Tử Du nói: “Đại ca, muội mạo hiểm trở về, một là muốn thăm hỏi gia tình, tận mắt nhìn thấy mọi người bình yên khỏe mạnh, hai là nói cho huynh biết bí mật này để khỏi lo nghĩ mà sinh bệnh tật, có khi lỡ việc làm Triệu Quang Nghĩa hắn tức giận, gây họa diệt thân. Nếu chiến sự Hà Tây thuận lợi, chỉ cần chờ đợi thời cơ là cứu mọi người khỏi chốn khổ cựu này. Hãy chịu đựng thêm một thời gian nữa, huynh và mọi người nhất định phải kiên nhẫn lên”.

Chiết Ngự Huân hưng phán đáp: “Muội yên tâm, đã có điều trông mong như thế, huynh nhất định sẽ kiên trì chờ đợi!”.

Nói xong, hắn lại thấy lo lắng: “Muội à, tuy giờ triều đình không quản thúc ta quá mức nghiêm ngặt, nhưng trong phủ vẫn có mấy tên quan binh canh trú, muội nhất thiết đừng trở lại đây nữa nhé, tránh việc đánh rắn động cỏ”.

Chiết Tử Du đáp: “Đại ca yên tâm, nếu không phải trước kia chưa rõ phòng xá trong phủ, trú binh nhiều ít, canh phòng nghiêm giới cỡ nào rồi cả đến nơi mọi người ở thì muội sớm đã lẻn vào trong đêm tối. Nay có thể xuất hiện trước mặt mọi người trong hình dạng này, tuy nghĩ là dễ dàng nhưng thực ra muội đã tổn hao biết bao công sức. Lần này biệt ly, cũng không phải sự vụ lớn lao gì, muội sẽ không tới nữa, chỉ cần huynh kiên nhẫn chờ đợi thời cục biến đổi là được!”.

Chiết Ngự Huân gật đầu, ngẫm kỹ lại lo lắng dặn dò tiểu muội: “Tiểu muội, lần này rời đi, muội hãy lập tức trở về Hà Tây, đại ca thực sự không muốn muội xảy ra chuyện gì bất trắc. Hơn nữa, muội cũng đã lớn rồi, nếu cứ kéo dài mãi thế này, ngộ nhỡ nhân lão châu hoàng... Ha ha, ý ta muốn nói, muội cứ lấy hắn trước đi, chưa làm được việc cứu đại ca của mình, hắn sao dám yên tâm được chứ? Hắn sẽ không nỡ mà rời xa muội như vậy, mà nói đến hài tử... Việc hỉ của muội chỉ sợ huynh không thể tham dự, nhưng huynh có thể sẽ được uống rượu mừng đầy tháng của hài nhi. Đúng, chính là chủ ý này, muội hãy sinh cho ta một đứa cháu ngoại, như vậy mới có được chức cao trong cung...”.

“Huynh biến đi!”. Chiết Tử Du tức giận, hung hăng dẫm lên chân đại ca, Chiết Ngự kêu lên một tiếng thất thanh, không dám nói thêm phần nào chen vào cuộc sống hậu cung của tiểu muội.

*

* *

Mưa tuyết mịt mù nặng hạt rơi xuống, phù trắng mặt đất khô héo, chỉ duy có quân Hạ và quân Tống đôi bên vẫn duy trì thế trận kịch liệt chém giết.

Xạ trình của sàng nỏ đạt tới sáu trăm bước, hướng nhắm thẳng vào đầu thành, những mũi tên vút bay như cực tiến phá không, tiếng rít vun vút đến inh tai. Quân Tống tuy sử dụng máy bắn đá là khung gỗ bắn đá truyền thống của Trung Nguyên cần có lực lớn để sử dụng. Quân Tống lại đông đủ nhân thủ, nên chúng bảo đảm duy trì lực bắn đá liên tiếp. Theo tiếng kẻ châm ngòi pháo, trăm kẻ kéo dây, từng hòn đá to nặng bắn cao lên không, mang theo sức nặng ghê gớm của nó rơi về phía đầu thành. Mỗi lần tảng đá rơi xuống, mặt đất bắn tung tóe, đè vỡ vụn thêm cả những mảnh nhục cốt với máu tươi của quân binh.

Các loại vũ khí cận chiến như khiên thương, giáo nhọn dần được binh lính dâng tiến về phía trước để yểm hộ tấn công, họ tập chung vác cả những hào cầu, thang gỗ vượt hào, công thành chùy ùm ùm kéo đến, kết hợp tiến công dữ dội từng đợt từng đợt nối tiếp nhau. Quân Tống bắt đầu sử dụng vũ khí hỏa dược, nhưng hỏa dược thời này phái dùng dây dẫn cháy và thêm chút độc dược, hỏa tật lê hoặc hỏa ô nha, độc yên đoàn nên khi dẫn hỏa, khói đen lan tỏa mù mịt cả thành. Nhưng đây lại là tiết trời đông, xung quanh thành Hạ Châu lại toàn bình nguyên, hàn vũ bao trùm mọi nơi cho nên sức công phá của loại vũ khí hóa học nguyên thủy mà quân Tống sử dụng không mấy tác dụng.

Đây đều là những vũ khí công thành mà quân Tống vừa vận tới dưới thành Hạ Châu, tổng lực tiến công. Nhưng trong thành, quân lính cũng đã tăng cường phòng ngự, những loại sàng nỏ và xe ném đá loại mới chưa được dùng bao giờ cũng được chuyển lên đầu thành, chiến lại lực công kích kịch liệt của đối phương.

Vương Kế Ân thân giáp tay kiếm, đích thân đứng tại tiền mép đốc chiến, mệnh lệnh các bộ luân tác chiến, không được để cho phía thành ngơi phút ngừng nghỉ. Họ dốc toàn lực chuyển lấy yếu doanh thiết dã vụ đến, trong lúc này quân binh thiếu thốn lượng vũ khí cần thiết, đành phải chăm chú vào việc thêm lần vây khắp thành, chuẩn bị cung tiễn diệt trừ vòng vây phía ngoài. Đến khi vũ khí được vận đến, hắn thực không thể kiên nhẫn thêm được nữa, hắn vô cùng mong muốn sớm công phá thành trì này, tận mắt chứng kiến đô thành nước Hạ sụp đổ trong nháy mắt. Nếu hắn có thể công phá thành Hạ Châu, bắt giữ tên hoàng đế Hạ, vậy nhờ vào quan hệ của hắn với quan gia cộng thêm chiến tích huy hoàng như vậy, tất rằng sẽ nắm chắc một chức công tước.

Trong cảnh đó, liên doanh cách đó hơn mười dặm, đang cắm cờ tung bay, đao thương duẫn! Sáng, đại doanh chủ soái, sứ giả trinh sát đến đi vội vàng, đằng đằng sát khí, Phan Mỹ ngồi vững trãi trên ghế chủ soái, vừa sưởi ấm vừa xem xét tình hình chiến báo, nhưng qua việc xem xét tổng thể tin tức, hắn lại thấy có cảm giác bất an.

Công dục thiện kỳ sự, tất tiên lợi kỳ khí. Dù là dã chiến hay công kiên thành thì nơi tiếp tế viện trợ là quan trọng nhất, mà việc điều lương phát vận lại cực kỳ chủ chốt, về mặt này, dù hắn sớm đã rất coi trọng và ưu tiên, nhưng đến nay giải quyết những khó khăn có thể gặp phải lại không được tính toán kỹ lưỡng.

Khác hẳn với những lần đánh trước, khi quân Tống tấn công Kinh Hồ của Thục, Hán, Đường chư quốc, vấn đề lương thảo không cần đến đại soái phải lo lắng, quân Tống lại càng thêm hùng mạnh vô địch, thủy binh tuy kém hơn bộ binh nhưng vẫn có thể dễ dàng đảm nhiệm trọng trách vận chuyển lương thảo. Hay đến lúc cấp bách, quân Tống có thể vận lương tại chiến địa, lấy chiến dưỡng chiến. Khi tấn công các nước chư hầu đó, đi tới đâu cũng có thành trì, giải quyết vấn đề khuyết lương thực dễ dàng.

Tuy nhiên lần này lại hoàn toàn khác, từ Hoành Sơn đến đây là một vùng hoang mạc, ngoài tuyết trắng ra vẫn chỉ có tuyết trắng phủ khắp. Đây là lần đầu tiên từ thời kiến quốc đến nay, nước Tống trường kỳ Bắc chinh, thâm nhập vào đồng tuyết hoang mạc, mà lại là thời chiến đông. Trong tình cảnh đặc biệt như vậy, quân Tống cực thiếu kinh nghiệm, tuyến quân bổ đắp lương thảo lần đầu tiên vận chuyển lâu dài như thế, đó cũng vì đường thế xa xôi, băng tuyết phủ kín khắp nơi càng gây cản trở quân binh. Nếu quân Hạ bao vây bên ngoài, triển khai đả kích mạnh mẽ, thì nguy cơ tuyến sinh cơ này rất dễ bị chặt đứt, hậu quả đem đến là khó lường.

Cùng lúc đó trang bị của Tống quân cũng không hợp dùng với hoàn cảnh tác chiến, nơi này về đêm thời tiết càng giá buốt, quân binh có được chỉ là thứ chăn phủ, áo bào bằng loại vải liệu mỏng manh, khác với áo da thú dày ấm của tộc người Tây Bắc, cho nên việc phòng lạnh là quá kém, đến mức rất nhiều binh sĩ mắc phải thương hàn, cảm lạnh, không thể tiếp tục chiến đấu.

Đó đều là những yếu tố cực bất lợi, mà lúc này giám quân Vương Kế Ân lại bị chiếm mất Hoành Sơn, háo thắng chiếm thành mà quên hết mọi thứ, hắn chỉ mong đánh đổ thành Hạ Châu, bắt sống Dương hạo, mặc kệ những sự cố phát sinh này. Nhưng... Bây giờ mới ý thức được độ nguy hiểm của nó, e là đã quá muộn.

Giờ giống như là mũi tên tại huyền thượng, không thể không phát, vì không thể có chuyện chưa bại đã lui, chỉ còn cách đi cầu trợ giúp.

“Hy vọng... Hạ Quốc mới lập, lòng người bất ổn, bây giờ đô thành của nó đã bị vây, quân bên ngoài thành trở nên tản mát, không có cách nào triển khai được phản kích có hiệu quả, nếu không... Hậu quả thật khó tưởng tượng...”. Phan Mỹ cứ thế lo lắng nghĩ ngợi.

*

* *

Đầu thành Hạ Châu, Dương Hạo đứng vững trước đầu hàn vũ, tĩnh lặng xem xét doanh trại liên quân phía xa mười dặm đang bị vùi trong lợp băng tuyết buốt giá. Hắn cười rồi quay sang dặn dò quan quân: “Có thể bắt đầu được rồi!”.

Bảy vị thị vệ như Mục Vũ đứng sát sau thân hắn, mỗi người đều toát lên vẻ hùng dũng uy vệ, Dương Hạo vừa hạ lệnh, bảy người liền nhất tề vung tay, phi thân cao bay, vụt biến mất trong lớp duyên vân dày đặc...

o O o

File ảnh

http://ne7.upanh.com/b2.s9.d4/512bf60b0f27f7a9283b1a059c81ef_36881117.chuong04 8chodoi01.gif

http://ne5.upanh.com/b1.s8.d1/a54ccfa3436d029ab52b7e547a158bc3_36881125.chuong04 8chodoi02.gif

http://ne1.upanh.com/b5.s13.d3/bdb17f03a8a227caa9af0af3b4d660bb_36881131.chuong04 8chodi03.gif

http://ne1.upanh.com/b1.s11.d4/f1e0c2590a92fb8d2d5234a60a878a67_36881141.chuong04 8chooi04.gif

http://ne1.upanh.com/b6.s11.d1/de60ec932b1a4512f8340fceef0ccfb9_36881151.chuong04 8chodoi5.gif

http://ne7.upanh.com/b6.s9.d2/da97c4dac0177ae3ea9f0ce0f41a0bb1_36881157.chuong04 8chodoi6.gif

http://ne0.upanh.com/b1.s3.d4/1f1370c0d5f8cb4baac519e7a66cce4f_36881160.chuong04 8chooi071.gif

http://ne3.upanh.com/b1.s17.d1/036049f469f831a60d8020a22fbb7e39_36881163.chuong04 8chodo08.gif

http://ne6.upanh.com/b2.s16.d2/6b87edac6615920c70c33add7aaadb35_36881166.chuong04 8chodoi09.gif

 Chương 49: Cướp Lương

Tuyết đọng trên thảo dược vì trên đường viễn tống lương thảo và các công cụ khí giới công thành cỡ lớn mà cùng hòa với bùn đất trở thành hỗn tương, sau khi kết đông ở lớp bên trên, miễn cưỡng vẫn có thể mang theo người, nhưng địa hình cao thấp không bằng phẳng, ngã lên ngã xuống, rất dễ bị đổ. Mà những chiếc xe chở đầy lương cùng quân giới là những thứ mà mặt đất bùn lầy không thể tiếp nhận được, xe vừa đi qua, mặt đất lại biến thành bùn, rất khó đi.

Nhưng Tống quân cũng không còn cách nào khác, địa hình Tây Bắc bọn họ cũng không quen thuộc, cả chặng đường lại không có kiến trúc mang tính đánh dấu nào. Nếu như bọn họ tự ý đổi đường đi thì chỉ có trời mới biết phải sẽ đi tới đâu. Hơn nữa, những con đường đầy tuyết mà bề mặt đã bắt đầu biến dạng kia chưa chắc đã dễ đi hơn con đường bùn đất này. Cho nên, bọn họ chỉ có thể kiên trì tiếp tục mà đi theo con đường này.

Con đường mà họ đi có để lại dấu vết rõ ràng, đối với du kỵ Đảng Hạng thất thị mà nói rất dễ dàng có thể bắt được đội ngũ của họ. Trước mắt, trên cả đường đi đến đây đội ngũ vận chuyển khinh trọng cực lớn này đã giao thủ mấy trận với Hạ quân. Hạ quân xem ra thật sự đã bị Tống quân đánh lui rồi. Trải qua một thời gian dài như vậy, số lượng nhân mã du kỵ trên thảo nguyên tiến hành đột kích vào đội ngũ vận lương của Tống quân rất có hạn, rất khó có thể tổ chức được những trận đấu tập kích và ngăn cản lớn.

Có điều, bọn họ nhân số tuy ít, nhưng lại phát huy được đầy đủ ưu thế cơ động của du kỵ binh, không thể biết được bao giờ họ đến, cho nên lúc nào cũng phải duy trì cảnh giác cao độ. Một khi bọn họ gặp cản trở mà bỏ đi thì cho dù chiến đấu lực của bạn có mạnh hơn nữa cũng không thể đuổi kịp tốc độ tháo chạy của bọn họ, cho nên đối với họ chỉ có thể kích thoái, không có cách nào tạo hiệu quả sát thương. Hạ quân đột nhiên đến rồi lại nhanh chóng thoái lui, cho dù vẫn dùng phương thức chiến đấu lướt qua, nhưng lại làm cho đội ngũ Tống quân vận lương vô cùng mệt mỏi.

Ở đây cách thành Hạ Châu chỉ có mấy dặm lộ trình, theo thói quen, du kỵ Hạ quân sẽ không tiến hành công kích ở nơi mà chủ lực của Tống quân đang dựng trại rất gần thành Hạ Châu, đội ngũ Tống quân vận lương không khỏi thở phào nhẹ nhõm.

Quân kỳ bay vù vù, bay lên trong những trận gió lạnh tê buốt, Hoàng Phủ Hương Quân tay cầm thương, ngồi rất ngay ngắn trên ngựa lập tức phấn chấn tinh thần. Vị tướng quân này đầu đội hộ nhĩ thiết giáp, mặc ngư lân giáp, ngực đeo gương bát quái hộ tâm, đầu và vai đều có giáp bọc, phía dưới mặc chiến giáp tám mảnh. Chặng đường này tuy không phải chỉ một lần chiến đấu với du kỵ Hạ Châu, chặng đường lại khó đi, nhưng hắn vẫn không nhiễm bụi trần, uy phong vô cùng.

Tống quân vận lương đều mặc giáp và mang cung nỏ, tay cầm hồng anh thương, đều là những cấm quân tinh nhuệ, chỉ có điều họ cho dù mặc bảy tám lớp áo vải cũng không thể ngăn được những cơn gió lạnh buốt thổi luồn qua cổ và vào trong, người nào người nấy miệng cứng lại, mặt xanh xao, đôi giày dưới chân đã dính một lớp bùn đất dày cộp, trở nên rất nặng nề. Cho dù là đi người không nhẹ nhàng mà phải đi một lộ trình dài như vậy cũng sớm đã kiệt sức, huống hồ với tình hình địa thế và vật dụng mang theo như thế này, nếu như không phải sắp tới thành Hạ Châu, được uống một ngụm nước ấm, nằm trong trướng ấm áp thì bọn họ thực sự không thể kiên trì nổi nữa.

Tống quân chống thương xuống đất, lấy lại tinh thần mà lên đường, cố gắng tối nay có thể đến được đại doanh, không còn phải phơi mặt trên thảo nguyên nữa, không còn phải cảnh giác cả đêm đề phòng đột kích nữa. Nhưng lúc này, con chim ưng đang bay vòng vòng trên không trung có thể nhìn thấy được ở hai bên trái phải bọn họ có hai lộ kỵ binh năm nghìn người giống như một cái bàn kẹp sắt, kẹp ở hai bên con trường long vận lương này.

Hai bên cánh mỗi bên đều có năm nghìn người, cứ một nghìn người lại thành một đại đội, xếp thành năm tầng, tầng tầng tiến lên. Cứ một trăm người lại thành một phân đội, cứ mười người thành một tiểu đội, khoanh vòng đánh bọc sườn. Ở bên ngoài mười dặm, Tống quân do thám lập tức bắn tên về trung quân thị cảnh, tin cảnh báo vừa về đến trung quân thì Hạ quân đã hò hét kéo tới, cự ly chỉ còn khoảng năm dặm, tiếng vó ngựa vang trời theo gió mà đến, đoàn vận lương Tống quân lập tức dao động.

Hạ quân hai bên cánh đều có một vị tướng quân hung hăng như lang sói. Tướng quân phía bên cánh trái mặc một thân bào da sói màu nâu, đầu đội mũ da cẩu, tai mặt đều được che bởi giáp, chỉ lộ ra đôi mắt hung hãn, cánh tay bọn họ cũng được bao bọc bởi vải lông, chỉ lộ ra mười đầu ngón tay để cầm chặt đao, người này chính là thiếu tôc trưởng Dã Lợi thị Tiểu Dã Kha Nhi.

Tiên phong bên cánh phải là Dương Diên Phổ, Dương Diên Phổ mặc một bộ áo giáp, trên đầu đội mũ có gắn lông đỏ như ngọn lửa, tay cầm trường thương, cứ theo tiếng hò mà lao tới, thương trong tay hắn giơ nghiêng chĩa đầu nhọn ra, làm tốt chuẩn bị xung phong. 

“Hạ quân còn dám đột kích nữa sao?”. Hoàng Phủ Hương Quân vừa kinh ngạc vừa phẫn nộ, đang muốn lệnh cho người công tiến nghênh địch, thì nhìn thấy hai bên cánh trái phải có vô số nhân mã cuồn cuộn tới, so với bảy tám lần địch tới cướp lương trước thì nhiều hơn mấy lần, liền biết được trận chiến này sẽ rất khó khăn, liền lập tức hạ lệnh: “Mau, dựa vào xe lương bố trí tam hoàn sáo nguyệt trận”.

Không kịp nữa rồi, tốc độ của Hạ quân quá nhanh, Tống quân dựa vào xe lương vừa hình thành được tam hoàn trận thì Hạ quân đã xông tới trước mặt. Tiểu Dã Khả Nhi ngồi trên chiến mã, thúc ngựa chạy nhanh như tiễn, cương đao trong tay giơ lên cao, máu tươi bắn ra trong tiếng gió lạnh rít gào. Phía bên kia, Dương Diên Phổ tay nắm chặt trường thương, trường thương chĩa ra, vó ngựa đạp đạp, giống như một trận gió cuộn tuyết tới, năm mươi trượng, bốn mươi trượng, ba mươi trượng...

“Phập phập phập...”. Tiếng cung huyền vang lên, loạt thương đầu tiên vừa bay tới thì Dương Diên Phổ liền rung trường thương lên, hộ giá trên và hộ giá dưới giơ đao đánh loạn tiễn, tốc độ một khắc không ngừng. Ở phía sau hắn, đám binh sĩ hoặc là dùng binh khí đỡ tên, hoặc lấy thuẫn ra chống chọi với trận mưa tiễn, cũng có một số binh sĩ trong đội xung phong xuống ngựa, nhưng hoàn toàn không có được tốc độ đồng đều như với cả đoàn quân, dưới trận mưa tiễn, họ như một cục đá ném xuống dòng nước chảy cuồn cuộn.

Ở bên cánh kia, nhân mã của Tiểu Dã Khả Nhi không giống nhân mã của Dương Diên Phổ đều có vũ khí đồng đều, thống nhất huấn luyện, mà lại rất đa dạng, mỗi người đều dùng vũ khí thế mạnh của mình, người giơ thuẫn, người giơ khiên, người thì dùng binh khí khua đánh, người thì lại gào thét không sợ chết xông lên, còn có người phản ứng cực nhanh, sớm đã lấy cũng ra phản kích.

Chủ tướng hai lộ đại quân xông lên phía trước, vô số võ sĩ anh dũng gào thét đi theo phía sau họ, trong cơn tuyết bay mù trời giống như có một luồng sát khí bay lên từ những thiên binh thiên tướng. Tiểu Dã Khả Nhi và Dương Diên Phổ phát huy hết năng lực cơ động của kỵ binh, nhanh chóng tập kết, đánh vòng, đột kích xuyên thẳng, chia nhau tác chiến. Đừng nói là Hoàng Phủ Hương Quân đau đầu vì chỉ huy trận này, mà cho dù Phan Mỹ có ở đây, thêm nữa là thể lực dồi dào thì với tình thế tấn công ác liệt như thế này cũng chỉ có thất bại, nhiều nhất cũng chỉ có thể làm cho đối phương phải bỏ ra chút hy sinh mà thôi.

Trên cả chặng đường này, Hạ quân giả cướp lương bảy tám lần, làm cho Tống quân người ngựa mệt mỏi mất hết tinh thần, bây giờ lại đột nhiên xuất hiện trong lúc Tống quân mệt mỏi nhất, làm cho Tống quân phải tan tác.

Từng tiểu đội mười người của Hạ quân giống như một trăm mũi tên sắc bén, bọn họ xông thẳng qua đội ngũ trường long của đoàn vận lương, hai bên cánh đồng thời xuất kích, giống như hai chiếc răng cưa sắc nhọn đang kẹp chặt lại vào nhau. Hàng phòng ngự của Tống quân hoàn toàn bị chặt đứt, cả đoàn lương bị chia thành những đoạn nhỏ.

Đợt xung phong thứ nhất như sóng thần dâng lên, thích sát làm cho Tống quân người ngựa ngã như ngả rạ. Tiếp theo đó, đợt sóng thứ hai lại trào lên, một nghìn quân Hạ Quốc xếp thành một hàng, hai bên có năm tung đội, sau năm lần hợp lại, Tống quân đã thành một đống thịt băm nhỏ.

Khi đợt kỵ binh xung phong cuối cùng trào lên thì đội xung phong đầu tiên đã trèo lại lên ngựa, bắt đầu cho lượt xung phong tiếp theo, trường thương đại kích, thiết xoa cương đao va đập vào nhau tóe cả chớp lửa ra, đội quân lộn xộn đã để lại vô số thi thể. Đối mặt với sự công kích căn bản không thể địch lại này, Tống quân đã vứt bỏ lương thực, bắt đầu tháo chạy tứ phía, cứ như thế này thì càng dễ dàng trở thành mục tiêu săn bắn của đối phương.

Hoàng Phủ HQuân tức giận và kinh hoàng xen lẫn nhau, hắn dũng mãnh khua trường thương lên, chém đông giết tây, nhưng trên trận địa này sức lực của một người quá nhỏ bé. Những đội xung phong mười người một của Hạ quân giống như những cơn sóng triều không bao giờ ngừng nghỉ, Hoàng Phủ Hương Quân chém giết ướt đẫm mô hôi, lại cảm thấy kẻ địch càng lúc càng đông.

Phong thái không dính một hạt bụi vốn có của hắn đã hoàn toàn biến mất, khi mồ hôi hắn chảy ướt nhòa đôi mắt, hai cánh tay đau nhức không nhấc nổi thương thì đột nhiên phát hiện cuộc chém giết đã dừng lại, xung quanh hắn là Hạ quân đang ngồi trên ngựa thành một vòng tròn, đôi mắt hung hãn nhìn chằm chằm vào hắn, một người trong số chúng đang dùng đôi mắt giễu cợt nhìn hắn, giơ nhẹ chiếc đao lên, bảy tám chiếc dây thừng cùng bay lên trời và chụp hướng xuống đầu hắn.

“Mẹ nó chứ, quyên góp nhiều lương thực thế. Ha ha ha, thật là nhiều mũi tên...”.

Tiểu Dã Khả Nhi kích động kiểm tra từng chiếc xe lớn một, thuận tay dùng đao chọc vào một bao lương, những hạt gạo trắng bóc chảy tuôn ra, hắn đưa tay hứng lấy một ít, dưới ánh mặt trời, những hạt gạo óng ánh như những hạt trân châu. Hắn lại đi tới một chiếc xe được trùm vải thật kỹ, mở ra thì thấy bên trong có rất nhiều lợi tiễn, lợi vũ trắng như tuyết, những bó tên nhọn hoắt sáng lóe, bên xe tiếp theo lại là đống y phục mùa đông...

“Có tiền này, mẹ nó chứ, còn có cả tiền này”. Tiễu Dã Khả Nhi nuốt nước miếng, lập tức ra lệnh: “Mau, mau, mỗi người đều cho những thứ này lên ngựa hết sức có thể. Có thể cầm được bao nhiêu thì lấy bấy nhiêu, chỗ còn lại đều đem đốt hết, mau lên một chút!”.

Tuyết lớn rơi ngập trời, cả không gian trở nên mờ mịt, tiếng gió tuyết gào thét thổi vào mặt đau như dao cắt, bộ tốt vận lương của Tống quân đối đầu với phong tuyết gian khổ mà bước đi, bọn họ biết lương thảo đã bị Hạ quân đánh cướp nhiều lần, bọn họ biết kẻ địch lớn nhất mà bây giờ những đồng đội vây thành Hạ Châu đang phải đối mặt không phải là quân đội trong thành Hạ Châu, cũng không phải quân các bộ lạc bên ngoài thành đang không ngừng tập kích quấy nhiễu mà là thời tiết lạnh giá khắc nghiệt và sự thiếu thốn về lương thực.

Từ khi rời Lân Phủ, vượt qua Hoành Sơn, cả đường bọn họ không ngừng bắt được những đội tiểu kỵ quân đến quấy nhiễu không phân ngày đêm, bọn họ biết được mình đã bị Hạ quân nhắm trúng. Họ biết khi bọn họ mệt mỏi mất hết tinh thần thì sẽ có một đội kỵ binh cường đại đột nhiên xuất hiện trước mặt họ, nhưng... Hạ Châu, bọn họ nhất định phải đi, bọn họ không còn sự lựa chọn nào khác.

Mặt đất khẽ rung, phía sau mơ hồ vang lên tiếng vó ngựa, tuy nơi này là đồng tuyết bằng phẳng, nhưng tuyết thổi mù mịt làm trở ngại tầm mắt, cách khoảng trăm mấy mươi mét là đã khó nhìn ra bóng hình người, bọn họ không có cách nào xác định được có bao nhiêu quân địch, chỉ có thể dựa vào độ rung của đất mà ước chừng đại khái.

Bọn họ đã rất cẩn thận rồi, cả đoạn đường cố gắng tận lực tiết kiệm thể lực, đoạn đường hành quân mỗi ngày cực kỳ hạn chế, trong lúc hành quân luôn duy trì trạng thái cảnh giới, bất kỳ lúc nào cũng chuẩn bị tiến vào trạng thái chiến đấu. Vừa nghe thấy âm thanh này, không cần đợi ra lệnh, bọn họ đã bắt đầu làm thành xe lũy, chuẩn bị dựa lũy chống cự. Binh chủng Tống quân luôn lấy bộ tốt làm chủ, trên thảo nguyên như thế này với một phe thế lực đồng đẳng, về mặt chiến thuật chiến pháp họ vốn đã chịu thiệt, hơn nữa nhiệm vụ mà bọn họ phải chấp hành là vận chuyển lương thảo, lương thảo chính là cánh cửa lồng lớn nhất của bọn họ. Kẻ địch có thể công có thể thủ, cũng có thể tiến, thoái, có thể đi bất cứ lúc nào, nhưng bọn họ không thể công cũng không thể đi, chỉ có thể thủ lương thảo mà đánh lại, chiến đấu với kiểu như thế này thì phần thắng của họ là rất ít.

Truy binh như dòng sắt nung đỏ chảy trào ra, đám kỵ binh lạnh lùng vô tình bao vây lấy những chiếc xe lương, tấn công, xung kích, bắn tên, rống như con hổ nhảy vào cắn xé đàn dê. Tấn Ninh lộ phó đô tổng quản Hoàng Đạo Lạc mắt thấy hậu trận có lượng lớn Hạ quân truy đuổi đến, liền trầm giọng nói: “Truyền lệnh, các bộ phòng ngự tại chỗ, không được dao động, tránh để cho địch nhân cơ hội phá vỡ hàng phòng ngự. Long Cản Tình, ngươi hãy dẫn bộ nhân mã của ngươi cứu viện hậu trận...”.

Hoàng Đạo Lạc chưa nói hết lời đã nghe thấy tiếng kèn thê lương vang lên một hồi. Từ trong màn tuyết trắng xóa phía trước đột nhiên lại có một đội nhân mã thích sát đến, đội nhân mã mờ ảo còn chưa xông đến trước mặt mà vô số lợi tiễn đã xé rách không trung bay tới, mang đi vô số sinh mạng. Tiếp theo đó, lại là từng đợt sóng Hạ binh ào ào lên. Chưa hết, hai bên cánh lại xuất hiện bóng hình địch, chúng xông lên rất nhanh, máu thịt lại tung bay.

Cánh đồng tuyết như thế này vốn là thiên hạ của kỵ binh, Tống binh lấy sở đoản của mình để nghênh sở trường của địch, lại còn có thêm lượng lớn lương thảo, kết cục của trận chiến này như thế nào còn suy nghĩ nhiều sao.

Tiếng ngựa hí người hô vang lên, lợi tiễn cùng đao tung hoành ngang dọc, không ngừng có người ngã xuống đất, nhưng cũng không có ai để ý tới điều đó, chỉ có xông, chém, chặt, va... Không còn theo một trận thế nào cả.

Binh Hạ Châu điên cuồng xông lên, nhanh chóng phá vỡ được những vòng xe lương tập kết dày đặc trước mặt. Ở chỗ cách người họ hơn mười bước liền vẽ một hình cung hướng về phía điểm yếu kết trận của địch. Trận thế kết thành nhanh chóng xuất kích, Tống quân mở trừng trừng mắt nhìn quân địch muốn lao vào điểm yếu nhất của mình như dùng dao nhọn chọc vào trận doanh, nhưng bọn họ căn bản không kịp qua tăng cường phòng ngự cho chỗ đó, mà cho dù có kịp thì bọn họ cũng không có cách nào qua, chỉ cần trận thế động một cái thì trận hình chặt chẽ cũng sẽ lập tức biến thành điểm tấn công.

Kỵ binh Hạ quân đến và đi nhanh như bay, mà chỉ cần dựa vào đôi chân, trong tình hình tiến thoái lưỡng nan như thế này, Tống quân chỉ có thể đứng nhìn quân địch dắt mũi mà đi.

Một chỗ bị phá thì tất cả mọi chỗ sẽ tan nát, Tống quân với trận hình rời rạc đã bị thiết kỵ Hạ quân nhanh chóng phân cắt, ép sát, xung sát, lại cắt đứt, ép sát... Biến tất cả thành đống hỗn độn người ngã ngựa chết. Hoành Đạo Lạc mắt thấy với sự tấn công cường đại như vũ bão của Hạ quân, các bộ tướng lĩnh bị chia cắt chỉ có thể độc lập tác chiến, tướng kỳ của mình cũng mất đi tác dụng, không khỏi mặt biến sắc vàng như đất, hắn biết bị tiêu diệt chỉ còn là vấn đề thời gian.

*

* *

“Đả pháp của chúng rất đơn giản nhưng lại rất hiệu quả!”. Dưới thành Hạ Châu, trong đại doanh trung quân, các tướng lĩnh chia nhau ngồi sang hai bên, ngồi trên cùng là Phan Mỹ và Vương Kế Ân với sắc mặt vô cùng lo lắng.

Phan Mỹ tiếp tục tổng kết nói: “Địa hình đồng tuyết bình nguyên vốn là điểm yếu của quân bộ tốt chúng ta, thêm nữa lại phải lo cho lương thảo và các khinh trọng cần thiết, chỉ có thể đánh bị động, còn Hạ quân lại quen thuộc địa hình, đi lại nhanh chóng, du kỵ của chúng không ngừng tiến hành chiến thuật tấn công trên thảo nguyên làm đội quân của chúng ta mệt mỏi. Đợi đến khi thời cơ chín muồi, sẽ nhanh chóng tập kết binh lực lớn, tốc độ tập kết của chúng vô cùng nhanh, trong cuộc tiến công gây rối không những làm cho quân ta mất hết sức lực và tinh thần, mà còn thăm dò được thực hư quân ta, khi tập kết luôn có thể duy trì được ưu thế binh lực. Cho nên, không đánh thì thôi, mà đánh thì tất thắng. Chúng ta không có cách nào ứng phó được với chiến thuật này của chúng”.

Vương Kế Ân cau mày, không vui nói: “Biết rõ âm mưu của chúng ở đâu mà lại không thể hóa giải được sao?”.

Phan Mỹ lạnh lùng nhìn hắn, nói: “Lâm quân đại nhân, cái gọi là biết mình biết ta trăm trận trăm thắng thực tế không thích hợp với cục diện bây giờ. Trên chiến trường, có đủ các loại tình thế có thể xảy ra, quả thật đều có pháp bảo khắc địch để thắng. Nhưng, có những lúc cho dù ngài biết rõ đối phương làm như thế nào, cũng chưa chắc có thể phá giải được sự sắp xếp của chúng, đặc biệt là với tình hình trước mắt”.

Vương Kế Ân trầm mặt xuống nói: “Khi binh xuất Hoành Sơn, truy kích Hạ quân, vấn đề này... Lẽ nào chư vị tướng quân không nghĩ tới sao?”.

Phan Mỹ đại nộ, hắn thở dài một hơi, cố ép cơn hỏa xuống, rồi nói: “Chúng ta chưa từng có kinh nghiệm tác chiến trên thảo nguyên vào mùa đông ở phương bắc, rất nhiều khó khăn không thể đưa ra hết được. Với môi trường này, tuy độ khó của việc vận lương có thể dự liệu được một chút, nhưng thực thế nó còn khó khăn hơn nhiều so với những gì chúng ta nghĩ. Đây không phải là vấn đề lớn nhất, vấn đề lớn nhất chính là bây giờ có thể xác định được: Hạ quân thực ra không có bại, là bọn họ chủ động vứt bỏ Hoành Sơn, dụ chúng ta đột kích tiến tới, từ đó làm cho việc bổ sung quân nhu trở thành khó khăn lớn nhất của chúng ta”.

Phan Mỹ trầm giọng nói: “Nếu như Hạ quân thật sự thảm bại ở Hoành Sơn, hoang mang tháo lui, vậy thì chúng ta khẩn trương truy kích, bao vây lấy Hạ Châu trước khi chúng ổn định chân, ngăn cách nội ngoại, hoàn toàn có thể bao vây đoàn loạn binh, cắt đứt đầu rắn, làm cho chúng không có cách nào tổ chức phản kích có hiệu quả, càng không thể để cho chúng hạ thủ với lương thảo của chúng ta như bây giờ. Chỉ cần quân nhu không thiếu thì chúng ta có thể bao vây vững Hạ Châu, cho dù mùa đông năm nay không thể công khắc thì cũng có thể thủ tiếp, dựa vào thực lực hùng hậu của Tống Quốc chúng ta, Hạ Châu sớm sẽ bị khống chế. Nhưng bây giờ, thực sự chúng ta đã bị vây ở đây, hơn nữa chúng ta cũng không có cách nào chống chọi qua mùa đông này”.

Hắn nhìn chúng tướng đang ngồi yên trầm mặc nói: “Kẻ địch lớn nhất của chúng ta không phải là Hạ quân mà là thiên uy và lương thực. Trời càng lúc càng lạnh, lại không có đủ áo ấm mang tới, những binh sĩ bị thương bị bệnh càng ngày càng nhiều, đại quân mười vạn của chúng ta chẳng có mấy người có thể dựa vào y phục bây giờ mà chống chọi qua được mùa đông giá rét này. Không có lương thực đưa tới, chúng ta đừng nói là đánh trận, cho dù chỉ cần thủ trong quân doanh cũng tuyệt đối không thể chống đỡ được qua ba ngày”.

Vương Kế Ân không phải là một chút quân sự cũng không hiểu, nghe Phan Mỹ nói rõ ràng như vậy, hắn cũng bắt đầu hoang mang, không nhịn được mà phải bỏ ngạo khí xuống, lo lắng hỏi: “Phan tướng quân, vậy... Vậy bây giờ chúng ta phải làm sao?”.

Ánh mắt Phan Mỹ nhìn lướt qua chúng tướng sĩ, trầm giọng nói: “Không còn cách nào nữa, để muốn thay đổi đại cục thì chúng ta chỉ còn cách thoái binh!”.

Vương Kế Ân đột nhiên đứng lên, không dám tin nói: “Thoái binh? Dương Hạo đang ở trong thành, hắn đã bị chúng ta vây chặt, bây giờ ngay cả một trận đánh tử tế chúng cũng chưa đánh với ta, vậy mà chúng ta lại chủ động thoái binh sao?”.

Mặt Phan Mỹ nhăn lại, lạnh lùng nói: “Lâm quân đại nhân vẫn chưa nhìn ra sao? Dương Hạo không phải là bị chúng ta vây, hắn chỉ là một con mồi nhử, nhử chúng ta tập kết ở thành Hạ Châu này mà thôi. Bây giờ thoái binh chúng ta còn có thể bảo toàn lực lượng, tiếp tục tính kế lâu dài, nếu như khi con mồi đưa móc săn sáng lóa lên thì chúng ta sẽ trở thành đống thịt dưới chân chúng, tùy ý cho người ta chém giết!”.

Vương Kế Ân nhìn chằm chằm vào Phan Mỹ rất lâu, mới nói: “Chưa có chiếu dụ, nếu như ta thoái binh, quan gia trách tội xuống thì ai sẽ gánh trách nhiệm đây?”. Phan Mỹ ưỡn ngực lên nói: “Bản soái là thống soái tam quân, việc này đương nhiên là do ta gánh trách nhiệm”.

Vương Kế Ân thầm thở phào, Phan Mỹ không bận tâm tới hắn, ánh mắt của hắn dần trở nên thâm sâu hơn, một hồi lâu mới lẩm bẩm tự nói: “Ta chỉ lo Dương Hạo không chịu để cho chúng ta lui thôi”.

o O o

File ảnh

http://ne8.upanh.com/b6.s3.d3/df5e788fa1b1e9ded5e057c732606c5c_36914148.chuong49 cuopluong01.gif

http://ne0.upanh.com/b1.s12.d1/ffcc06fdb7c7f62cbfed399f023060d7_36914150.chuong49 cuopluog02.gif

http://ne1.upanh.com/b4.s4.3/f2e25d674c067d12e57e6b474948deb8_36914151.chuong49 cuopluong3.gif

http://ne2.upanh.com/b1.s12.d3/4b81739c7fc5a4f85da6b7cb5e5cb7b6_36914152.chuong49 cuopluong04.gif

http://ne3.upanh.com/b5.s12.d4/85ccb6642930519d684c757a1de45787_36914153.chuong49 cuopluong05.gif

http://ne4.upanh.com/b2.s9.d4/5a917ad44d7cd76e927dae57bb8cb8e5_36914154.chuong49 cuoplung06.gif

 Chương 50: Khổ Não Của Thôi Đại Lang

Thành Lạc Dương trời đông giá rét, cho dù là chốn Tây Kinh phồn hoa của Đại Tống thì trong cái thời tiết lạnh giá này, đầu đường cuối phố vẫn hiện lên một cảnh tiêu điều.

Cho dù bên ngoài giọt nước đóng thành băng, nhưng trong hoa đình của Nhạc viên ngoại lại ấm áp như mùa xuân, hương thơm tỏa khắp nơi, tám chiếc chậu lửa bằng đồng trắng đốt lên loại than chất lượng tốt nhất, trong phòng hơi ấm trào lên. Nhạc viên ngoại tên là Nhạc Tận Hoa, hắn ta có một cửa hàng, một căn trạch viện cũng có thể được người ta cung kính gọi một tiếng viên ngoại, nhưng Nhạc viên ngoại lại là một viên ngoại chân chính, những hào thượng cực cổ ở thành Lạc Dương, ba con đường phồn hoa nhất ở thành Lạc Dương có hơn một nửa là của hắn.

Ở thành Lạc Dương chưa cần nói đến bách tính, thương cổ phú thân thấy hắn cũng phải cung kính, mà ngay cả chỗ tri phủ đại nhân, hắn cũng được coi như là một nhân vật đáng kể tới. Một nhân vật như hắn vốn nên là một đại nhân vật tung hoành ngang dọc, nhưng lúc này, ở trong nhà của mình, hắn lại đang cung kính đứng một góc hoa đình, cho dù trước mặt tri phủ đại nhân hắn cũng chẳng bao giờ ôn thuận hữu lễ, mà bây giờ lại đang cúi đầu nghe sự giáo huấn của cha hắn.

Nhưng người cha này của hắn xem ra còn nhỏ tuổi hơn hắn rất nhiều, cơ thể rắn chắc như hắc thiết, cường tráng chắc nịch, tuy mặc một bộ thường phục văn sĩ, nhưng lại không có chút khí khái nho nhã nào. Nếu như con ngươi hắn chớp động như điện một cái thì rất dễ làm cho người ta tưởng hắn là một tên mãng phu chỉ biết dùng đôi thiết quyền cự đại.

Tên mãng phu này đang nổi trận lôi đình, hắn ngồi ở hậu trái trong nhà Nhạc viên ngoại, đối tượng của trận đại lôi đình này cũng không phải là Nhạc viên ngoại, nhưng Nhạc viên ngoại lại như đang đứng trước đầu gió, thở cũng không dám thở mạnh.

Người nam nhân đang ngồi trên và bốc hỏa chính là Thôi Đại Lang, trước mặt hắn có ba nữ nhân đang đứng khom lưng, người trên cùng là một nữ nhân dáng thon nhỏ, mặc áo da cáo, bên ngoài khoác thêm một lớp áo bông mềm mại óng ánh, trên cổ còn quấn một chiếc khăn bằng đuôi hồ ly trắng muốt, dưới chân đi một đôi giày cao cổ, nhìn qua cũng đủ thấy đây là một người danh phận cao quý, xuất thân từ danh gia.

Nữ tử mặc áo bông này lông mày như viễn sơn, con ngươi như nước mùa thu, thanh tú vô cùng, lại mặc thêm y phục cao quý, thật như tiên nữ trên trời, chỉ có điều tiên nữ mặc áo bông này đứng trong hoa đình ấm áp như mùa xuân, thậm chí giống như đầu hạ đang ngầm toát mồ hôi, cho nên có chút cảm giác thảm hại. Nàng vừa bước vào hoa đình, còn chưa kịp cởi áo ngoài đã bị Thôi Đại Lang đang tức giận dọa cho đứng im lại, không dám động đậy, đứng lâu như thế đương nhiên là khó chống đỡ nổi với nhiệt độ trong hoa đình.

Đứng sau lưng nàng là hai thị nữ cài thoa, đều là những mỹ nhân mắt ngọc mày ngà, mặc những chiếc áo nhung khác nhau, làm cho các nàng càng thêm phần tươi đẹp, đúng là mỹ nhân động lòng người.

“Việc như thế này rồi sao lại còn giấu ta, sao lại có cái lý đó, lần này nếu như không phải ta đột nhiên dừng thu mua tơ lụa lá trà và đồ trang sức gốm sứ, thu thập lượng lớn lương thực, làm loạn bố trí của bọn họ mà vẫn không biết gì, việc này nàng khó mà gánh vác được trách nhiệm”.

Mỹ nhân đó vội vàng cúi đầu xuống nói: “Nô gia biết tội, động tĩnh bên Trịnh gia, nô gia luôn dò hỏi nhưng không thể biết được gì, mấy năm nay hai nhà đều cùng chung lợi ích, cho nên... Nô gia khó tránh sơ xuất, mong công tử xử phạt”.

Mỹ nhân đó nói rồi vén tà áo bông lên, quỳ xuống, hai tiểu tỳ xinh đẹp đằng sau thấy vậy cũng bối rối quỳ xuống.

Mỹ nhân đó tên là Thạch Ngữ Thực, vốn là nữ tử được gia tộc Thôi Thị đặc biệt chọn ra từ khi còn nhỏ. Hồi nhỏ cùng Thôi Đại Lang đọc sách, luyện võ, học kinh thương, sau khi lớn lên lại trở thành thị thiếp của hắn. Thôi Đại Lang có thể tiêu diêu tự tại, chu du thiên hạ, đối với một thế lực lớn như vậy mà chỉ đưa ra một số quyết định trọng đại, từ mặt phát triển của nó thì bên cạnh đương nhiên có những thành viên rất đắc lực, hiểu công việc, mấy người thị thiếp của hắn đều là những nhân vật rất quan trọng trong số những thành viên đắc lực này.

Thôi Đại Lang trầm mặt xuống xua tay nói: “Việc thu gom lương thực giao cho Lý gia đi làm, từ bây giờ trở đi nàng hãy nghiêm ngặt giám sát nhất cử nhất động của Trịnh gia cho ta, bất kể là việc điều động nhân sự hay là điều phát tiền bạc. Không phân lớn nhờ đều phải kịp thời bẩm báo với ta.

Thạch Ngữ Thực vội vàng đáp lời, Thôi Đại Lang trầm tư một hồi, lại nói: “Người mà Trịnh gia bây giờ phải đến chủ sự mọi việc ở Hà Tây là Hạ Hạ và Đường Nhiên đúng không?”.

Thôi Đại Lang mắt chớp động, từ từ lộ ra sát khí, cười lạnh nói: “Không theo quy củ không thể chu toàn được, xem ra, trước đây ta đã quá dung túng cho bọn chúng rồi...”.

Thạch Ngữ Thực liền nói: “Công tử muốn làm thế nào, xin cứ dặn dò, nô gia lập tức sẽ đi sắp xếp”.

Thôi Đại Lang liếc mắt nhìn nàng một cái, thở dài nói: “Thôi đi, việc này cứ để ta suy nghĩ cẩn thận đã. Nàng vừa mới về, đi đường mùa đông lạnh cũng không tiện, tạm thời lui xuống đi, thay áo tắm rửa rồi nghỉ ngơi một lát...”.

Thạch mỹ nhân nghe lời nói biết hắn đã bình tĩnh lại, có thể ở bên cạnh hắn, trong lòng không khỏi hoan hỉ, vội vàng đáp lời vui mừng liếc nhìn hắn, rồi khoan thai đứng dậy, cùng hai tiểu thị nữ lui xuống.

Khi quay người đi, khóe miệng Thạch Ngữ Thực hơi nhíu lên, cái vẻ vờ sợ hãi lúc nãy đã thay bằng nụ cười nhạt.

Nàng với lang quân lâu ngày mới trùng phùng, vừa gặp mặt lại bị hắn xả cho một trận, sao có thể không có chút tức giận? Nếu như công tử đã bảo nàng ở lại thì... Haha. Lúc này chịu ấm ức làm hạ nhân để giữ cho hắn thể diện nam nhi, đợi khi tối đến lên giường phải làm cho thấp giọng mà nhận tội, phản đòn một hồi mới cùng hắn ân ái.

Thạch Ngữ Thực từ nhỏ đã hầu hạ Thôi Đại Lang, cũng coi là thanh mai trúc mã, bây giờ lại là người chung gối với hắn, nếu như không phải thực sự chọc vào cục tức của hắn thì sẽ không thật sự sợ hắn. Nếu không những kẻ giả Khổng phu từ sao lại phải đau đầu nói rằng nữ nhân là động vật tình cảm “gần họ thì nhún nhường, xa họ mới dám giận” chứ? Vị đại học vấn gia hiển nhiên là có học vấn.

“Công tử...”.

Thạch mỹ nhân vừa đi, Nhạc viên ngoại liền bước lên, Thôi Đại Lang xua tay nói: “Ngươi cũng lui đi, ta muốn một mình yên tĩnh một lát”.

“Vâng!”. Ngạc viên ngoại như trút được gánh nặng, trước mặt một trưởng môn nhân thường không hay gặp, lòng hắn luôn có một áp lực nặng nề vô hình, đặc biệt là khi trưởng môn nhân đang tức giận, bất kể là Thôi đại công tử hay là vị Trịnh gia mà lúc nãy Thạch cô nương nhắc tới đều là những nhân vật đứng đầu trong “Kế Tự đường”, họ là những nhân vật chỉ cần động một ngón tay cũng đủ làm cho hắn tan thành mây khói, có thể trốn xa một chút là tốt nhất.

Thấy Nhạc viên ngoại như miếng băng mỏng mà lui ra ngoài, Thôi Đại Lang lại thở dài, có chút đau đầu mà ngồi xuống ghế. Dương Hạo đột nhiên xưng đế, lại còn bảo mật khá lâu, làm cho hắn đã bị động lại càng thêm bị động, có điều từ khi Dương Hạo nhất thống Hà Tây, hắn cũng đã có một sự linh cảm và sự chuẩn bị tâm lý, vì thế cũng không phải là quá gấp gáp bận rộn. Hà Tây nhất thống, đứng lên cao ngang bằng với Tống Liêu, vốn là cục diện mà lúc trước khi hắn cổ vũ Dương Hạo quay về Hà Tây đã rất khao khát. Hai năm nay, những gì mà hắn bỏ ra tuy vẫn chưa hoàn toàn thu lại, nhưng lợi ích mà Hà Tây thống nhất đem lại là cực đại. Đầu tư của hắn mang tính một lần, nhưng lợi ích nhận được lại cuồn cuộn không dứt, mối làm ăn này đương nhiên là giành được thành công lớn.

Thậm chí Dương Hạo còn có chút kiêng kỵ đối với thế lực tiềm ẩn khổng lồ của hắn. Có một số chuyện có thể giấu hắn thì phải giấu hắn, hắn không có để tâm. Hắn là người làm ăn, hoàn toàn không nghĩ đến việc nắm giữ quyền lực, cũng không có cái năng lực ấy. Có được tài lực không lồ chưa chắc đã có thể làm một người nhất thống thiên hạ, nếu không phải như vậy thì từ cổ chí kim cũng sẽ không có nhiều hào thân phú cổ có tầm nhìn xa trông rộng lại muốn nâng đỡ giúp cho những anh hùng hào kiệt có tiềm lực chưa chắc đã bằng họ tiến lên nắm quyền lực chính trị.

Đại Đường huy hoàng năm đó thịnh vương chưa tới ba đời, nói vong là vong.

Từ Chu Ôn diệt Đường, tự lập xưng đế, nào có một vị hào kiệt nào không phải là kiếm chỉ thiên hạ, hào môn thế gia sao có thể khống chế được? Nhưng những đế quốc to lớn đó, những tể tướng đế vương đó, người nào người nấy cũng giống như hoa quỳnh sớm nở tối tàn, huy hoàng rồi thảm hại, không hề có ngoại lệ. Giống như trong kịch kỹ, ngươi đăng đài ngươi hát, ngươi có bị thất sủng thì những người đánh trống kéo đàn ở hậu đài cũng sẽ không bị ảnh hưởng gì.

Thôi Đại Lang có lòng muốn làm một nhạc sư đánh trống ở hậu đài, tiện sóng đẩy anh hùng, hắn không muốn làm một con thuyền nhỏ tự gồng gánh để vượt qua sóng gió, chỉ muốn làm một con sóng đẩy thuyền đi mà thôi. Đây cũng là kinh nghiệm sinh tồn mà qua mấy trăm năm Kế Tự đường đã đúc kết ra.

Nhưng nếu như chiếc thuyền nhỏ này không nâng lên được, đến lúc thuyền đổ, một nhân vật quyền thế mới chưa chắc đã chịu chấp nhận cơn sóng như hắn, đến lúc đó thì phải làm sao? Đế vương tể tướng, bá nghiệp hoàng triều luôn luận phiên biến hóa, cũng giống như vậy, sẽ có một thế gia đại tộc mới tìm được cơ hội thích hợp nhất để từ thanh thế thế gia đại tộc tiền triều, trở thành thiên hạ đệ nhất hào cường thế gia, Kế Tự đường phải làm thế nào để duy trì bất bại?

Biện pháp mà Kế Tự đường nghĩ ra chính là phân chia cả thế lực to lớn này thành hai bộ phận: Tiềm tông và Hiển tông. Hiển tông phụ trách lựa thời cơ đi theo xu thế, cùng cường giả tranh giành thiên hạ, với công lao hiển hách để mưu cầu lợi ích. Tiềm tông lại là bộ phận hành quân lặng lẽ, khi Hiển tông duy trì hào kiệt một phương thì nó sẽ ở vào trạng thái hoàn toàn yên lặng, một khi Hiển tông đầu tư thất bại, cần phụ trợ cho một phe khác, hoặc sau khi thành công không thể thoái lui, chịu sự tẩy trừ, hoàng đế này muốn có một thế lực khác thay thế thế lực đã một tay đưa hắn lên vị trí cửu ngũ chí tôn như Kế Tự đường, thì Tiềm tông vẻ ngoài không có chút quan hệ nào với Kế Tự đường sẽ xuất hiện, Tiềm tông sẽ trở thành Hiển tông, Hiển tông lại trở thành Tiềm tông. Trong quá trình hoán đổi này, vẫn sẽ đảm bảo cho gia tộc tồn tại và thịnh vượng.

Thôi Đại Lang là trưởng môn nhân đời này của Kế Tự đường, là người đứng đầu Hiển tông. Khi hắn tiếp nhận quyền lực, Kế Tự đường đã trải qua bao nhiêu năm khổ tâm kinh doanh buôn bán ở Đường, Tống và những nơi biên cương để để lại thế lực này cho hắn. Loạn cục thiên hạ bước đầu đã định, các đại gia tộc Kế Tự đường đa phần đều đã nhắm được Tống Quốc, cho rằng nó có thể thống nhất thiên hạ, nhưng năm đời loạn thế, không biết có bao nhiêu vị hùng tài thế lược cuối cùng cũng chịu thất bại thảm hại. Chuyện đem tất cả trứng gà đặt vào trong một chiếc giỏ, Kế Tự đường sẽ tuyệt đối không làm.

Huống hồ Triệu gia lợi dụng binh quyền, đánh thẳng giành quyền lực từ hoàng đế tiền triều, Kế Tự đường lúc đó khi hậu Chu thế tông hùng tài đại lược Sài Vinh còn tại vị lại không hề coi một vị tướng quân trước điện luôn phải cúi đầu như Triệu Khuông Dận là một con tiềm long, cho nên chẳng giành được nhiều lợi ích từ đó. Đây cũng là lý do mà Đường gia sau đó đã chuyển cả gia tộc đến Biện Lương, vì ở đây có rất nhiều cơ hội kiếm tiền, Kế Tự đường sẽ không vội vã đem tất cả đầu tư vào một chỗ như vậy.

Lúc này, thương lộ tiềm lực mà Thôi Đại Lang đang giúp cho Dương Hạo ở Tây Vực chính là một thương lộ trọng yếu của Kế Tự đường. Nhưng Tây Bắc nhiều năm chiến loạn, cho dù từ thời tổ bối, Kế Tự đường đương gia nhân cũng không hề mưu đồ sẽ mở thông được thương lộ Tây Vực này, hơn nữa lại cùng với thương nhân Đại Thực Tháp Lợi Bốc bắc thượng tuyến, liên thủ tạo thành một thông đạo kinh thương bí mật, nhưng số tiền vốn này quả thật quá cao.

Thêm nữa cục diện ở Tây Vực hoàn toàn khác với Trung Nguyên, Kế Tự đường đã dùng một số tiền lớn để mua chuộc thế lực của một địa phương, vừa thấy được hiệu quả thế lực này lại bị kẻ khác thay thế, bọn họ lại phải làm lại từ đầu. Hơn nữa, những chính quyền dân tộc thiểu số này phá giỏi còn hơn là xây dựng, cho dù họ đã bỏ ra những khoản tiền không nhỏ để tạo quan hệ với bọn họ thì cũng rất khó giành được nhiều lợi ích từ trong chính quyền địa phương này.

Ban đầu, Thôi Đại Lang giúp đỡ Dương Hạo chỉ là hy vọng có thể thông qua hắn thay đổi một chút cục diện của Kế Tự đường ở Tây Bắc. Nhưng theo như những tin tình báo có liên quan đến tiềm lực của Dương Hạo ngày càng xuất hiện nhiều và những gì hắn hiểu về con người Dương Hạo, hắn dần đần đã phát hiện ra, Dương Hạo con người này, thế lực của hắn còn có tiềm lực lớn có thể đào, cho nên hắn đầu tư ngày càng nhiều, đi theo sự quật khởi của Dương Hạo. Bọn họ cuối cùng cũng phát hiện ra, con người này hoàn toàn có năng lực nhất thống Tây Vực, giải quyết triệt để vấn đề nan giải mấy trăm năm nay của Kế Tự đường là đả thông thương lộ Tây Vực.

Dương Hạo nhất thống Tây Vực đã có thể bảo chứng rằng con đường hoàng hóa đông tây thông suốt, con đường tơ lụa, gốm sứ, lá trà đông phương, bảo ngọc, hương liệu, lưu ly tây phương... Mỗi chuyến qua lại đều vàng.

Nếu như hành lang Hà Tây không thống nhất, căn bản không thể tưởng tượng được có thể yên bình vận chuyển được lượng lớn dễ vỡ, dễ cứu như thế qua lại.

Địa khu Hà Tây rất dồi dào những mỏ muối, mỏ sắc, mỏ lưu huỳnh, rồi bò dê ngựa, các loại được phẩm, thậm chí là mỏ vàng, mỏ đá quý trên A Ni Thái Sơn hay mỏ ngọc trên núi Côn Luân... Nếu như không có một chính quyền nhất thống thì thương nhân nếu có muốn khai thác, biến, vận chuyển, buôn bán cũng không thể làm được. Cho nên trải qua sự phân tích cẩn trọng, Kế Tự đường đã bắt đầu không tiếc sức lực phụ giúp cho Dương Hạo.

Nhưng không ngờ khi những đầu tư cực đại của Kế Tự đường bắt đầu sản sinh ra hiệu quả thì cũng đúng vào thời khắc mấu chốt của sự tranh đoạt chính quyền giữa Dương Hạo và Tống quốc. Một khi Dương Hạo thất bại, tất cả các thế lực Hà Tây dưới trướng của hắn rất có thể sẽ lập tức tan rã, sụp đổ, bắt đầu trở lại cục diện hỗn loạn ngày trước. Lúc này Kế Tự đường đã không thể quay đầu lại, tất phải toàn lực giúp đỡ. Bất kể Dương Hạo xưng đế xưng vương hay xưng đại nguyên soái Lũng Hữu Hà Tây gì đó thì tóm lại vẫn hết sức duy trì thời khắc mấu chốt của việc nhất thống chính quyền địa phương Hà Tây, nhưng lúc này nội bộ Kế Tự đường lại xảy ra chuyện.

Mấy mươi năm trước, Lô gia có ý đồ nhất cử giết chết các thế lực khác để giành lấy quyền lực cao nhất của Kế Tự đường, mấy năm trước Đường gia không chịu phục sự bố trí thống nhất của Kế Tự đường, ngang nhiên chuyển đến Biện Lương, mà bây giờ thủ lĩnh Tiềm tông Trịnh gia cũng không cam chịu yên lặng, muốn nhảy ra hô sóng gọi gió.

Trịnh gia âm thầm điều động các nguồn tài nguyên để bắt đầu tạo điều kiện cho Triệu Quang Mỹ kinh doanh ở Quan Trung, vì Trịnh gia cũng là một phái Tiềm tông, bình thường vốn chỉ quản việc buôn bán kinh doanh bình thường, Hiển tông không có lý do gì can thiệp và giám sát, lại hoàn toàn không phát giác ra, nếu như không phải Thôi Đại Lang vì việc đột ngột xưng đế của Dương Hạo mà bị ép phải thay đổi kế hoạch thu mua vốn có, thay vào phải động dụng đến đồ dự trữ của Tiềm tông, thì hắn vẫn sẽ không biết được hành vi của Trịnh gia.

“Mẹ nó chứ”. Nghĩ đến đây, Thôi Đại Lang không nhịn được mà chửi một câu, Trịnh gia thật là muốn mở một trời khác, lại dám nâng đỡ cho Triệu Quang Mỹ.

Triệu Quang Mỹ? Thôi Đại Lang nhìn trái nhìn phải, nhìn trên nhìn dưới, nhìn thế nào cũng không nhìn ra Triệu Quang Mỹ có cơ hội và điều kiện gì để thay thể được Triệu Quang Nghĩa, cái lão đần Trịnh gia đúng là bị lừa đạp lên đầu rồi.

Không sai, lúc trước khi ta nâng đỡ cho Dương Hạo, hắn vẫn chỉ là một viện trưởng hỏa tình viện ở Đông Kinh Biện Lương, Triệu Quang Mỹ bây giờ là một vương gia, điểm bắt đầu cao hơn Dương Hạo nhiều. Dân gian truyền qua lại với nhau rằng thiên hạ Triệu thị sẽ là huynh truyền đệ nối, Triệu đại truyền hoàng vị của mình cho Triệu nhị, Triệu nhị tương lai sẽ truyền cho Triệu tam, nhưng Triệu Quang Nghĩa giống một kẻ chịu buông tay sao? Hắn đã lập thái tử rồi.

Còn Dương Hạo lúc đầu tuy chỉ là một viện trưởng hỏa tình viện, nhưng dân chúng Lô Châu là do hắn mang từ Hán quốc tới, bọn họ công nhận Dương Hạo, không công nhận triều đình Đại Tống, Dương Hạo còn có sự thần phục bí mật của Đảng Hạng thất thị, có Triệu Quang Sầm người kế thừa pháp định Định Nan tiết độ sứ làm nghĩa phụ. Triệu Quang Mỹ thì có gì chứ?

Học đòi bắt chước!

Đây là kết luận Thôi Đại Lang đưa ra.

Vừa rồi quá tức giận, Thôi Đại Lang thật sự muốn dùng tới thủ đoạn nghiêm khắc nhất để trừng phạt Trịnh gia, nhưng lúc này bình tĩnh lại mới cảm thấy chuyện này không phải là đơn giản. Đầu tiên, cho dù hắn là đương gia nhân của Kế Tự đường, nhưng đối với một đại thế gia trong Kế Tự đường, một phương thế lực đủ để người khác coi nể, đồng thời cũng là thủ lĩnh Tiềm tông có thể phân đình kháng lễ với hắn thì hắn không thể khinh xuất động vào. Nếu như hắn thật sự có quyền lực lớn như vậy, lúc đầu cũng sẽ không bất đắc dĩ chấp nhận sự thật Đường gia chuyển đến Biện Lương.

Thứ hai, cử động của Trịnh gia cũng không coi là lớn lắm, đầu tư cho Triệu Quang Mỹ cũng có giới hạn, Tiềm tông vốn có quyền ủng hộ cho người mà bọn họ cho rằng có tiềm lực, cho dù hai thế lực đang đánh nhau như lửa với nước. Hiển tông đang dốc toàn lực ủng hộ cho một phe trong đó, Tiềm tông nếu cho rằng cần thiết thì cũng có thể tiếp xúc với bên còn lại. Tóm lại không thể đợi đến khi Hiển tông thất bại thoái lui thì Tiềm tông mới chạy ra vội vã ôm chân Phật, cho nên... Hành động của Trịnh gia ở Kế Tự đường cũng không bị coi là hành vi sai trái.

Quả cầu ở gần này phải đánh thế nào đây?

Ngồi yên bỏ mặc sao?

Không được, từ sau khi Đường gia lui từ Tây Bắc về, nguồn tài nguyên của Kế Tự đường ở Tây Bắc có hạn, nguồn tài nguyên có hạn này phải dùng toàn bộ cho Dương Hạo. Mười vạn nghĩa quân của Loan Đao Tiểu Lục và Thiết Ngưu ở Thục Địa cần phải tương trợ, chiến sự như nước như lửa ở Hà Tây càng đốt tiền hơn, Diệp Chi Tuyền lại đang thiết lập mở rộng đường dây liên lạc ở Ba Thục Lũng Hữu Hà Tây, rồi cho người đi chiêu binh mãi mã khắp nơi, nào có chỗ nào không cần dùng đến tiền chứ. Không thể tiếp tục để cho cái lão Trịnh của Tiềm tông này tiếp tục đem tài nguyên có hạn đi lãng phí cho cái tên vô dụng Triệu Quang Mỹ đó được.

Thôi Đại Lang cắn răng cười lạnh: Tây Bắc, kế dụ địch xâm nhập, cắt đường lương của địch đã bắt đầu thấy chuyển biến, Phan Mỹ tiến thoái lường nan. Xem ra Dương Hạo có thể thủ vững được rồi, Trịnh lão đầu này ta không động không được, vậy dùng cách rút củi dưới đáy nồi vậy. Tuyệt đối không thể để cho Trịnh gia phá hoại đại sự của ta!

o O o

File ảnh

http://ne3.upanh.com/b5.s8.d2/c7e23ce120f10355e4d307d77d695a86_36914213.chuong50 khonaocuathoidailang01.gif

http://ne7.upanh.com/b4.s7.d1/ed1cdedd2f523fdb969698d147e156e1_36914217.chuong50 khonaocuathoidailang02.gif

http://ne1.upanh.com/b4.s13.d1/76a1bd0eaadd575f6992176e8e43ceef_36914221.chuong50 khonaocathoidailang03.gif

http://ne1.upanh.com/b1.s8.d2/9085de0387f243dda59b8d6da77e1bcd_36914281.chuong50 khonaocuathoidailang04.gif

http://ne7.upanh.com/b3.s20.d1/61eaf28e5ee1ec73d281bf9a6d42ec28_36914227.chuong50 khonaocuathoidailag05.gif

http://ne0.upanh.com/b6.s9.d3/145b8d61af8936bc014a9def53b34f57_36914230.chuong50 khonocuathoidailang06.gif

 Chương 51: Phan Dương Hội

Buồng sưởi của Dương Hạo ấm áp vô cùng, Dương Hạo và mấy vị quan viên quan trọng ngồi quanh chậu than và đang trò chuyện vui vẻ. Mấy ngày nay Dương Hạo cảm thấy không thoải mái, ngày nào cũng lo lắng xử lý các chuyện quan trọng, người gầy đi rất nhiều, nhưng càng có thêm tinh thần khí chất.

Sắc mặt của mấy vị quan viên quan trọng cũng trở nên phấn chấn, dụ địch xâm nhập, rồi cắt con đường lương thực của chúng đã bước đầu thấy sự hiệu quả, sự phát triển diễn biến nằm trong tầm kiểm soát, mọi người cảm thấy nhẹ nhõm hơn rất nhiều.

Đám người Xung Phóng, Tiêu Nghiễm, Từ Huyễn đã đi Hưng Châu, Tiêu Nghiễm và Từ Huyễn giỏi về lãnh binh song không giỏi về khai thác, ở lại Hạ Châu không có tác dụng mấy, hơn nữa họ là quan văn, tuổi tác cũng đã cao, ngộ nhỡ khi cần vứt bỏ Hạ Châu, họ cũng không chịu nổi sức ép cho nên sớm đã được đưa đi Hưng Châu, ở đó họ có thể phát huy được sở trường của mình.

Còn về Xung Phóng, bên Hưng Châu tuy là địch hậu nhưng các bộ tộc khó giữ nổi dị tâm người, hơn nữa các hào thân di chuyển từ Hạ Châu đến Hưng Châu không thể thiếu người chủ trì đại cục là người văn võ song toàn. Cho nên hắn cũng đi Hưng Châu, có Trương Phổ tọa trấn Túc Châu, Xung Phóng tọa trấn Hưng Châu, hành lang Hà Tây có thể bảo vệ được, bên cạnh Dương Hạo chỉ có vài cận thần Đinh Thừa Tông, Thác Bạt Hạo, Hiếu Phong, Trương Sùng Nguy.

Đinh Thừa Tông mỉm cười nói: “Dương Diên Phổ, Dương Diên Lãng, Tiểu Dã Khả Nhi và các tướng lĩnh mỗi khi xuất binh tập kích đội quân lương Tống đều có thu hoạch, có thể yên tâm chống đỡ được chỗ lương thực ngày một giảm dưới thành Hạ Châu rồi, cái gì gọi là dĩ chiến dưỡng chiến chứ? Đây mới gọi là dĩ chiến dưỡng chiến này, dựa vào những cuộc chiến giữa bộ lạc thảo nguyên, đánh thắng trận, có thêm chút trâu bò, cung cấp thêm cho quân nhu, ha ha, Tiểu Dã Khả Nhi bọn họ nếm ngọt rồi, số lần xuất binh cướp sạch càng ngày càng nhiều, tuy cũng có khi thất thủ, nhưng quân Tống không dám đuổi theo, mà có muốn đuổi cũng không đuổi kịp được, như thế nên muốn đánh thì đánh, muốn đi thì đi, quân Tống tức nghẹn.

Từ Hoành Sơn tới đây, với khoảng cách được coi là khá dài, hơn nữa vào mùa đông có tuyết lạnh, binh tốt tiến vào càng thêm khó khăn, binh lực Phan Mỹ không đủ sức vận chuyển lương thảo, và không có cách nào nắm được toàn bộ cánh đồng tuyết trong tay, kỵ binh của chúng ta đi lại tự nhiên, nếu như đập tan vi mục, nếu Phan Mỹ không thể tăng binh, không thể giải quyết được chuyện lương thực nan giải”.

“Hắn chẳng có cách nào mà tăng được binh cả”.

Dương Hạo cười tủm tỉm: “Đối với Tống Quốc, cái thực sự phải kiêng kỵ không phải chúng ta mà là Liêu Quốc. Có quái vật lớn Bắc Triều giương giương mắt hổ ở đằng kia, Tống Quốc tuyệt đối sẽ không có biện pháp dự phòng, dùng toàn lực để thảo phạt Tây Bắc. Hơn nữa, hắn thêm binh càng nhiều, áp lực về đồ quân nhu tiếp viện càng lớn, Triệu Quang Nghĩa chắc chắn không muốn tiêu hao tất cả tiền tài tích lũy trong mười năm ở Tây Bắc. Giờ quân Liêu bỗng nhiên tăng binh Đại Đồng phủ, bên Nhạn Môn quan thực là cấp tốc, Tiểu Phan Phan hiện giờ có thể đã tiến thoái lưỡng nan rồi”.

Mọi người nghe những lời hắn nói biết đó là Phan Mỹ, không khỏi cười vang lên. Cái tên này một khi truyền ra Trung Nguyên, khiến cho ru Phan Mỹ dựng ngược lên, mặt thì đỏ tía.

Lúc này có người lại khẽ tiến vào đại sảnh, nói thủ thỉ với Đinh Thừa Tông gì đó, mặt Đinh Thừa Tông chợt biến sắc, Dương Hạo nhìn thấy hỏi: “Xảy ra chuyện gì ah?”. Đinh Thừa Tông đắn đo suy nghĩ nói: “Quân Tống bắt đầu rút binh rồi”.

Dương Hạo ngẩn người, thất thanh nói: “Nhanh vậy sao? Biện Lương một đường, một đi một phản, có lẽ là không thể nhanh vậy chứ”.

Đinh Thừa Tông nói: “Hiển nhiên vậy rồi, lui quân cũng không phải là ý chỉ của Triệu Quang Nghĩa, mà là... Chủ trương của chính Phan Mỹ”.

Ánh mắt Dương Hạo trở nên có chút kỳ quái, sau một lúc lâu, hắn mới khẽ thở dài, tỏ vẻ khen ngợi nói: “Phan Mỹ, không hổ thẹn là một danh tướng”.

Đinh Thừa Tông mau chóng nói: “Thánh thượng, Dương tướng quân vốn dĩ muốn đợi hắn lương thảo đã cạn kiệt, khi không thể không lui mới dùng toàn lực tấn công, chém giết cho quân hắn tan rã thì thôi. Giờ quân của Phan Mỹ lương thực còn dư, lòng quân chưa sợ, nếu như ung dung lui quân, sau đó đưa binh mã ra tiếp ứng thì chỉ sợ không dễ đắc thủ. Cuối cùng mượn cớ cắt đứt lương thảo dễ dàng, nếu như hắn lui toàn quân lại, muốn truy kích cũng tốt, ngăn kia mà thôi, đó chính là đối chiến thực đánh thực, bằng binh lực trong tay của Dương tướng quân, thêm nữa bản lĩnh dụng binh của Phan Mỹ, chúng ta vị tất chiếm được phần trội”.

“Nếu như thêm binh lực Hạ Châu ta thì sao đây?”. Ngẫm nghĩ một lúc lâu, Dương Hạo từ từ ngẩng đầu lên, ánh mắt sắc lửa mãnh liệt.

Đinh Thừa Tông giật mình cả kinh, phản đối nói: “Thủ quân Hạ Châu không thể động được, Hạ Châu là đô thành của nước ta, thánh thượng cũng ở đây, há có thể...”.

Dương Hạo không nói lời nào, đứng dậy đi về phía sa bàn, quần thần hiểu ý, lập tức đứng dậy chạy tới, Đinh Thừa Tông cũng đẩy bánh xe đi đến bên cạnh hắn, Dương Hạo đợi mọi người đi đến bên cạnh rồi, đưa tay chỉ vào thành Hạ Châu trên bản đồ, từ từ di chuyển ngón tay về phía đông, rồi dừng lại nói: “Gọi Dương Kế Nghiệp xuất kích toàn binh lực, Hạ Châu ta án binh bất động, đợi sau khi quân Tống lui quân được hai ngày lộ trình, dốc binh lực Hạ Châu ta hợp lực với Dương tướng quân, dựa vào ưu thế về binh lực, chặn quân địch lại. Nên nhớ rằng, điều ta nói là sau khi quân Tống lui quân được hai ngày”.

Đinh Thừa Tông lập tức phản ứng, hét lên: “A, ta hiểu rồi, a ha”.

Dương Hạo khẽ cười nói: “Có cái gì gọi là hiểm chứ, trẫm bỏ qua chính là ức hiếp người mà, Tiểu Phan Phan lần này càng phải buồn bực rồi”.

*

* *

“U uuuuuu”. Kèn kêu lên, tiếng kèn mỗi lúc một to, phía cuối cánh đồng trắng như tuyết, vô số những đốm nhỏ màu đen tập trung từ tứ phía đi đến, dần dần tụ tập lại một đường sau đó nó như một cỗ máy tức giận, hằm hằm hung hăng lao nhanh đến. Trên bầu trời, tiếng chim diều hâu kêu gào, liệng đôi cánh bay về phía quân Tống, khó khăn lắm mới bay được qua đại kỳ, đôi cánh sải rộng vung lên, rồi lại xông về hướng ban đêm. Phan Mỹ ghìm cương ngựa, trỏ tay hét lớn: “Tả hữu bày số trận, trận này nghênh địch”.

Cờ trống hiệu lệnh dồn dập, tam quân hành động ngay lập tức, huấn luyện nghiêm chỉnh của chủ lực quân đoàn, không có sự chăm sóc của đoàn xe lương thảo và đồ quân nhu, bày trận với tốc độ chóng mặt, thiết kỵ kia chưa xông tới cận tiền, trường thương đã chiếm đến, phía sau các tay cung đã chuẩn bị sẵn sàng, mũi tên chĩa lên không trung, chỉ đợi tướng hạ lệnh. Phan Mỹ giơ đao trong tay lên, lạnh lùng chĩa thẳng về phía quân Hạ, hai đầu lông mày nhướn lên đầy lửa giận.

Phan Mỹ vẫn kiên quyết lui binh, quân uy của hắn rất cao, các tướng lĩnh đều phải theo phán đoán của hắn, Vương Kế Ân tuy không bỏ được kiếm củi ba năm thiêu một giờ, nhưng cũng lo lắng về cách liệu định của Phan Mỹ, toàn quân phải ở đây, đến khi mình không chạy được nữa, thì Phan Mỹ phải một lực gánh chịu, hắn không thể kiên trì, song hắn từ đầu đến cuối chưa hề nói ra câu đồng ý nào.

Đích thân Phan Mỹ áp trận, tối hậu phương của đội ngũ hiển nhiên, từ xa nhân mã như sóng cả, tiếng bước chân rầm rập, hắn không hề sợ chút nào, ngược lại lửa hận tràn đầy. Hắn đích thân áp trận, tam quân yên ắng không một tiếng động, chỉ nhanh chóng bày bố thế trận theo như tướng lĩnh chỉ huy. Tiền phương, một đội kỵ binh mấy nghìn người gào thét mà đến, rõ ràng thấy có vô số cung nỏ, thương kích song vẫn không hề sợ hãi, thực ra thế trận xung phong này bọn họ cũng không đứng vững chân, ai muốn dừng, trước tiên sẽ bị chính quân mình đạp cho đổ máu về phía trước, tử trung cứu sinh.

Gần, càng gần hơn, độ ngũ tiên phong hơn ngàn người hình thành thế trận hình mũi tên, đầu nhọn thẳng tiến đến Phan Mỹ liều chết đánh tới.

Phan Mỹ cười nhạt, ba trăm bước, hai trăm bước, một trăm bước, mắt thấy quân địch lập tức thấy quân địch muốn đi vào trận mưa tên, Phan Mỹ hét lớn: “Bắn tên”.

Vút... Một tiếng, tiếng rít ghê người, vốn dĩ đó là tiếng xé gió, nhưng vì trăm ngàn mũi tên vút lên không trung nên hình thành loại âm thanh vù vù chấn động, dường như một đoàn mây đen mũi nhọn lao tới từ trên không, tên nhanh thêm nữa mã cũng nhanh, song phương vừa có thể tận dụng được thế mạnh của mũi tên bắn về phía trọng quân địch từ phía xa.

Không ngờ, dường như đồng thời hạ lệnh cùng Phan Mỹ, quân Hạ Châu chạy như điên bỗng dưng đồng loạt chuyển hướng, hậu trận sắp xếp của Phan Mỹ chính là Yển Nguyệt trận, hình bán nguyệt, chúng khó khăn lắm mới sắp xếp lõm một bên mặt trăng, rồi đánh tới. Bọn họ là kỵ binh, chẳng lẽ lại không phát huy sở trường của mình.

Nhưng Phan Mỹ sớm đã phòng được chiến thuật lợi dụng ngựa dương đông kích tây, hai cánh tả hữu của quân Tống là số trận, trận hình dày đặc có thể công và có thể thủ, dòng lũ thiết kỵ nhằm phía cánh tả, lao đến chính là mũi tên và thương kích dày đặc, nhanh như tên bắn, mỗi người đều cầm lấy tấm khiên che chắn, trận mưa tiễn thứ nhất làm ngã không biết bao nhiêu là nhân mã, nhưng vì họ đến từ phía sau hậu trận địch, không phải là chính diện xông đến cho nên gần quân Tống, ở trong trường hợp bình thường thì đánh giáp lá cà ít nhất cũng có thể tung ra ba phát tên, nhưng giờ đã giảm thiểu đi một phát, khiến cho con số thương vong của quân Tống giảm đi thấp nhất.

Mấy ngàn kỵ binh tiền phương vốn dĩ là ngụy trang dẫn địch đến, sau khi chúng xông qua, kỵ binh theo sát phía sau nhanh chóng thúc ngựa, đoàn binh giao tiếp với quân Tống, vẫn là xông về phía trước không ngừng, đao trong tay chỉ dựa vào một chữ quyết của khoái mã, thì có thể chặn được rất nhiều cổ họng của các tướng sĩ. Quân Tống không cam lòng yếu thế, trường thương đoản kích đâm ra liên tục, một khi có quân Hạ trúng đạn ngã ngựa, huynh đệ ngăn cản một trận, làm quỷ đao.

Đánh nhau mà không có người chết là điều không thể xảy ra, nhưng sát cánh loại này tránh được va chạm chính diện, song thương vong là thấp nhất, sau khi đội binh mã hơn vạn người xông đến, xông đến mạnh nhất, đội hình dày đặc của quân Tống đã bị loạn, đại ân như dòng nước lũ phía sau nhanh chóng xông thẳng vào doanh trại quân địch, cương đao chém giết.

Đại kỳ của quân Tống lại biến đổi, đại quân lập tức từ sổ trận chuyển sang sơ trận, đội quân dày đặc lập tức trống ở giữa, toàn bộ đại quân dày đặc sơ tán lại thành những tiểu trận khoảng mười người, tay thuẫn, tay đoản đao, tay trường đao cùng nhau phối hợp, giết chết kỵ sĩ Hạ quân.

Trong tình cảnh này đã thâm nhập vào, quân Hạ địch đội mất đi ưu thế tốc độ, ngược lại sẽ biến thành đối tượng bộ tốt tùy giết. Chỉ cần vận dụng thỏa đáng, binh chủng chưa toàn thắng bất bại, bất kỳ binh chủng nào đều có thể phát huy ưu thế của mình, trọng thương cường địch.

Hạ quân đương nhiên là cũng giỏi không kém, tiếng kèn ba dài ba ngắn vang lên, kỵ binh vừa nãy thâm nhập vào trận doanh quân Tống chưa sâu lắm bỗng nhiên thúc ngựa lui về phía sau, sát nhập vào dòng lũ dày đặc, Hạ quân kéo dài không ngừng bắt đầu dùng đại phủ trường đao như dóc thịt quân địch tới chết.

Tống quân ngay lập tức đổi trận thế, trường binh khí đâm nhân thân, đoản binh khí thì chém đùi ngựa, phần còn lại của song phương nhuốm máu đỏ be bét.

Đây là chủ lực của Dương Kế Nghiệp và chủ lực của Phan Mỹ lần thứ nhất chính thức giao chiến, không màng tới kỹ xảo, thái độ, ý thức, trang bị và tố chất thuộc hạ binh tướng của ai mạnh hơn ai, không một ai đánh bừa cả, trừ phi ngươi số lần vu địch, miễn sao bên ta không thương vong, bên dưới đại kỳ chữ Dương và bên dưới đại kỳ chữ Phan là hai danh tướng thủ công tuyệt đỉnh, lần này khó khăn lắm mới đánh bại được một người, giỏi thủ thì đang công, mà giỏi công thì đang thủ, dường như bản lĩnh của bọn họ công hay thủ đều không tồi, thực không hổ danh là danh tướng.

Danh tướng chính là như vậy, công thủ đều phải giỏi, có thể công và cũng có thể thủ, Dương Kế Nghiệp giỏi thủ đã nổi tiếng hậu thế, song là vì hắn trước đây quân vương quốc lực quá yếu, chẳng có cơ hội nào cho hắn công. Còn Phan Mỹ thì giỏi công lừng danh thiên hạ, không phải là hắn không giỏi thủ mà trước đây đối thủ mà hắn gặp khá yếu, thêm nữa thực lực trận doanh của hắn luôn mạnh, nên ít khi phải thủ.

Trận đại chiến này, chém giết nửa ngày, cho đến khi gió nổi lên và tuyết bay loạn thì mới dừng lại, song phương với những xác chết nằm ngổn ngang, vô số không sao kể xiết, Dương Kế Nghiệp ra lệnh một tiếng, đại quân mau chóng tản ra, Phan Mỹ nhanh chóng dốc toàn quân đông hướng.

Không đề cập tới tác dụng của chiến mã trong trận đấu, cho như nó chỉ có thể có tác dụng là thay thế đi bộ, ở dưới cánh đồng tuyết, một phương chỉ có thể dùng hai chân chạy trên đường, vừa có thể tích tụ thế lực, cho đến khi nghênh chiến bùng nổ, thực chênh lệnh rất nhiều. Lương thảo của quân Tống đã gần cạn, quân mặc không đủ ấm, nếu như không nhanh chóng lên đường trở về phía đông nơi Hoành Sơn, thì cơn gió tuyết của phương Bắc lạnh thấu xương có thể khiến chiến lực của chúng tiêu hao đi cạn kiệt, mười vạn đại quân, sẽ bị hủy trong giây lát, cho nên biết được quyết sinh tử với đối phương là sẽ bị tiêu hao thể lực, hắn cũng không thể không chạy đi.

Có khi, dù ngươi đã biết rõ rằng đối phương làm thế nào, mục đích gì, ngươi cũng không có cách nào mà hóa giải, xích sắt vượt đại giang, đây chính là uy lực dương mưu. Âm mưu tự có tác dụng của âm mưu, khi dùng tốt sẽ có tác dụng thắng được mười vạn đại quân, hai hàng mật nổi thiên hạ, một đêm âm mưu đạt chí tôn.

Nhưng âm mưu cao minh đều có cái tráo môn, tráo môn này chính là chữ Âm, âm mưu là cái không thể để cho người ta nhìn thấy được, nếu không ngươi mắc bẫy thực không đáng. Dương Hạo chuẩn bị dùng để đối đầu với hai đại chính trị lãnh tụ Triệu Quang Nghĩa và Tiêu Xước chính là âm mưu, cho nên hắn dễ dàng không dám kỳ nhân, để đảm bảo an toàn tuyệt đối, đến người thân cận với hắn nhất cũng không biết được dự định của hắn, vì nó một khi tiết lộ ra sẽ không đáng một xu.

Tây dương mưu thì hoàn toàn không giống, nó là mượn thế mà động, phát triển khuấy động tất cả mới đạt được mục đích của mình. Nó đem tất cả đều đặt trước mặt ngươi, không chút nào giấu kín, bản thân không có nhiều kế hoạch phức tạp, nhưng trận pháp của nó là không thể nghịch chuyển, ngươi biết rõ rằng là kế song vẫn phải buộc lòng đâm vào.

Chính như thời điểm Phan Dương đại trận giao chiến này, truy quân kế của Hạ Xuyên đã dốc toàn bộ lực lượng, Hạ Châu giờ đã thành một tòa thành trống, chỉ còn thừa lại một mình hoàng đế Dương Hạo đang ngồi thủ thành, chỉ cần phái năm nghìn binh ra thì có thể dễ dàng cướp lấy thành, bắt giữ Dương Hạo, song Phan Mỹ dẫn mười vạn đại quân hai ngày trước không tấn công nổi Hạ Châu, giờ năm nghìn binh thì có thể dễ dàng đoạt được Hạ Châu, nhưng hắn biết rằng vô kế khả thi, chỗ binh lực này của hắn vừa động, thám báo của Dương Hạo có thể nắm được, phái người trở về chính là đưa dê vào miệng cọp. Toàn quân trở về xin ý kiến của Dương Hạo, tiêu hao hết toàn bộ lương thảo trở về Lân Phủ, với lộ trình bộ niên hai ngày, trở về chơi với tính mạng, làm sao có thể nhanh hơn kỵ binh của Dương Hạo được?

Ngươi dù có biết thì cũng chẳng thể giải được, chẳng có sơ hở mà tìm ra, thực là kế không chê vào đâu được, và chỉ có Dương Hạo mới có thể nghĩ ra.

*

* *

Đại quân đi từ từ, trên đường Dương Kế Nghiệp âm hồn bất tán, chiến sự lớn nhỏ cũng không biết kinh nghiệm bao nhiêu, mãi đến hôm nay, tấn công mới đột nhiên dừng lại. Đi về phía trước là Hắc Xà lĩnh, Hắc Xà lĩnh quanh co khúc khuỷu như rắn, đi qua ngọn núi này, có mấy chục dặm đường có thể tiến vào Hoành Sơn, một khi đã vào Hoành Sơn rồi, Hạ quân giỏi mã chiến cũng khó mà phát huy được ưu thế của chúng, quân Tống hoàn toàn đã an toàn. Trong xe, Phan Mỹ nặng nề suy tư.

Hắn cho rằng đến đây có thể được coi là an toàn, Hạ quân sẽ không dễ dàng bỏ qua cơ hội tấn công họ, nếu như mười vạn đại quân này chịu được trọng thương, trong thời gian ngắn dựa vào gia sản hùng hậu Tống Quốc một khi cũng không có cách nào dụng binh với Hà Tây, Hạ quân tất nhiên không tiếc gì cả, trước khi họ chạy ra Hoành Sơn có thể tấn công bọn họ, suy yếu bọn họ, cho đến khi diệt trừ bọn chúng, có thể đoán được, Hắc Xà lĩnh có thể làm chốn ngăn chặn nhờ vào địa thế của mình, trận quyết chiến chuẩn bị xảy ra rồi.

Thiết tố hoành giang, thế không thể đỡ, Phan Mỹ không để ý, cả đời ngựa chiến của hắn, không chỉ nói quân đội bị hắn tiêu diệt, những vương quốc rơi vào tay hắn, hoàng đế bị bắt giữ không chỉ là một, cả đời này đã sáng rọi huy hoàng, có gì không phục?

Nhưng hắn tuy đã bại, tội không chiến, vụ quốc cũng không thể chiến thắng, hắn đang khổ tâm đối phó với thượng sách của Hạ Quốc.

Hạ quân dũng mãnh, dân chúng ủng hộ, nhưng võ dũng này, phi bất khả địch. Tình hình Hà Tây đất rộng người thưa, người Hạ giỏi mã chiến, quân ta nếu như phân binh thâm nhập, lương không đỡ, tiến kẻ trộm tránh đi mũi nhọn, sau đó lui, mệt mỏi phí lương thực, cuối cùng khó thắng đây. Nếu tiến quân thần tốc, hạ được thủ lĩnh, chiếm được thành của địch, vườn không nhà trống, trong mười ngày có thể khống chế, còn địch lại cắt đứt đường lương thảo của ta, đội ngũ quân ta mỏi mệt, không biết làm thế nào để bảo vệ. 

Phan Mỹ cân nhắc từng câu từng chữ, trầm ngâm thật lâu rồi mới viết ra một bức thư thỉnh tội tấu lên và mãi mới viết xong, tập trung suy nghĩ xem lại một lần nữa, rồi gọi tên thân cận vào dặn dò: “Sao chép thành mười bản, phân cho mệnh dịch binh đi khắp nẻo đường đưa tới Biện Lương tấu với Quan Gia”.

Lúc này, Vương Kế Ân cũng ở trong xe đang vắt óc suy nghĩ đến tấu biểu, Phan Mỹ lo sợ địch chiến, Phan Mỹ lâm trận lui binh, Phan Mỹ chuyên quyền độc đoán... Nghĩ một hồi lâu, nhìn xuống tờ giấy bên dưới mới chỉ có bảy điều tội danh, Vương Kế Ân khẽ lắc đầu, làm thế nào cho đủ mười tội trạng đây, đó mới có chút lực lượng. Hắn khẽ đấm đấm vào cái trán mình, nghiến chặt răng cắn nát bút rồi lại suy tư.

*

* *

“Báo! Đại tướng quân, Hạ quân trần binh Hắc Xà lĩnh đuổi đến”. Tiếng thám tử mâu tiền bẩm báo.

“Biết rồi!”. Phan Mỹ khẽ hắng giọng, hai thân binh lập tức tiến lên, đầu tiên là giúp hắn mặc chiến bào, rồi phủ thêm bên ngoài chiến giáp, tay trái của trung tiễn bị áp trụ nhất chiến, trở thành một áo giáp chống lạnh, đại tướng quân uy vũ.

Đi ra khỏi xe, xoay người lên ngựa, lúc này mùa đông như bức tranh màu đỏ sẫm, các áo giáp nhuốm màu máu, mặt trời lặn chiếu vào đại kỳ.

Phan Mỹ thúc ngựa đuổi lên phía đầu, phía sau có mấy chục tùy tướng đuổi theo, tam quân đứng nghiêm trang nhìn chăm chú chủ tướng của họ.

Vị tướng quân này đánh Kinh Hồ, bình định Thục Hán, dẫn bọn họ đánh đâu thắng đó, không gì cản nổi, lúc này đây hắn có thể lãnh đạo bọn họ bình yên trở về Tống Quốc hay không đây? Thất vạn kim chúng lặng lẽ đứng ở đó, ánh mắt nhìn theo đại tướng quân của họ.

Mắt liếc nhìn quân địch ở phía trước, Phan Mỹ cũng cảm thấy lạnh cả sống lưng, hắn sớm đã đoán được rằng đến Hạ quân ở trận chiến lần này cũng là không ngờ họ bày thế trận hùng tráng như vậy. Hạ quân dựa vào sơn cương đóng quân, từ chân núi đến đỉnh núi đều bị Hạ quân đứng dày đặc rồi, từ xa có thể thấy được đại kỳ chữ Dương tung bay trong gió.

Hai bên đông tây, vô số kỵ binh nhìn thấy vừa chạy đến, đại khái là sợ đánh rắn động cỏ, bọn họ vẫn ẩn ở nơi nào đó, dựa vào binh mã của họ, chỉ phái ra mấy thám báo có thể nhìn thấu được hướng đi của chủ lực Tống quân, muốn hoàn lại đương nhiên dễ như trở bàn tay. Hai cánh binh mã mặc quần áo sặc sỡ, xem ra chính là bộ tộc binh Đảng Hạng Bát Thị, không chỉ ăn vận lòe loẹt, tuổi tác của các kỵ sĩ già trẻ đều có hết.

Song ta đều có thể thấy rằng, cho dù là lão hán râu tóc đã bạc, hay thiếu niên áo khoác da chó, một khi đánh, thì đều là đối thủ dũng mãnh khó địch, nhân khẩu Hà Tây không quá Trung Nguyên nhưng nếu như nói về tài dụng binh, thì không kém gì Trung Nguyên, vì vậy họ ai nấy đều nhập ngũ, từ thủa nhỏ đã cưỡi ngựa bắn cung, và không cần đến huấn luyện chuyên môn.

Còn Trung Nguyên phần lớn là các nông phu, không có đến hai ba năm huấn luyện thì làm sao là chiến sĩ dũng mãnh thiện chiến được? Cho dù bộ tộc binh là một đám ô hợp, không được huấn luyện hàng ngũ, nhưng khi quyết chiến, cái nguyên nhân đó không là vấn đề.

Hôm nay, lại một trận khổ chiến!

Ánh nắng chiều tà, mặt trời uy lực là thế bỗng nép sang một bên, quân Tống và quân Hạ vẫn giằng co, không có bên nào chịu lui, và cũng không có bên nào xung phong liều chết. Phan Mỹ ngẩng đầu, nhìn ánh mặt trời đang trốn vào đỉnh núi: “Mặt trời lặn rồi, ngày mai ta còn có thể nhìn thấy nó nữa không đây?”.

Ầm ầm ầm...

Một trận tiếng ngựa phi gấp gáp, Trương Sùng Nguy và Thác Bạt Hạo phong dẫn đại quân thủ binh Hạ Châu cũng đã tới, vây kín tứ phía, chín vạn đấu bảy vạn.

Vương Kế Ân mặt mũi xanh lét, phất nhanh tay áo viết tấu chương.

“Đại Hạ hoàng đế có chỉ: ‘Tiểu Phan Phan nếu như chịu vứt bỏ vũ khí đầu hàng, sẽ ban thưởng thượng tướng quân, phong hộ quốc hầu’”.

Ở bên triền núi, phía sau lá cờ của Dương Kế Nghiệp gần trăm sĩ binh đột nhiên cùng kêu lên, tiếng hét vang vọng cả vùng quê, tiếng cười nói của Hạ quân xung quanh.

Phan Mỹ, Hà Bắc đại danh nhân, thái tổ Triệu Khuông Dận Trần Bình binh biến, khoác hoàng bào, thánh chỉ bừng sáng thiên hạ chính do hắn đọc. Thiểm Tây Viên Ngạn trong lòng dị chất, thái tổ mệnh Phan Mỹ giám quân, Phan Mỹ đơn kỵ nhân trường an, thần thương lưỡi tiễn, thuyết phục Viên Ngạn thuận theo lòng trời, cúi đầu vào triều. Từ nay về sau chinh Kinh Hồ, diệt Lý Trọng Tiến, Uông Đoan, phạt Nam Hán, lấy mười vạn đại quân đánh dẹp yên hai mươi vạn Hán quân, một mình đảm đương một phía, sở hướng vô địch, Phan đại tướng quân văn võ song toàn mấy lần chịu sự chế nhạo như vậy?

Da mặt Phan Mỹ đang từ trắng bệch bỗng chuyển sang màu tím tái, chuôi đao trong tay dường như bị hắn nắm gãy, lửa trong người hắn hừng hực cháy lên...

Tiếng hò hét cười đùa của Hạ quân vẫn còn đang kéo dài không ngớt, quân Tống bị chọc giận, chỉ cần lúc này Phan Mỹ chỉ mũi đao về phía trước, toàn quân sẽ chen nhau mà tiến lên, cho dù toàn quân đều giao đãi ở đây cũng phải xông lên núi, đập nát tên chủ soái đầu sỏ tiếng cười chế nhạo kia, nhưng Phan Mỹ nổi giận liếc nhìn quân.

Dương Kế Nghiệp đứng ở đỉnh núi, nhìn thấy Phan Mỹ không chịu kích, không khỏi thầm khen là vẫn còn đang tỉnh táo. Đoạn truy kích này, mấy lần giao chiến, hắn vô cùng khâm phục cách dụng binh của Phan Mỹ, lúc này có hơn mười vạn đại quân giễu cợt phía trước, thần chí Phan Mỹ vẫn tỉnh táo, không bị mắc mưu kích động, đối thủ như vậy, hắn không thể bất kính.

Dương Hạo tán thưởng Phan Mỹ ra mặt, Đinh Thừa Tông thấy ý đồ của hắn như vậy, đã từng hỏi hắn nếu có thể vây lấy Tống quân, thì cố gắng bắt giữ lấy Phan Mỹ, song lại bị Dương Hạo phản đối.

Cả nhà Phan Mỹ đều ở Biện Lương, cho dù bị bắt giữ thì cũng không chịu đầu hàngPhan Mỹ là chủ soái của Tống quân, là linh hồn của toàn quân, là trung tâm của tất cả tướng sĩ, vạn mã quân muốn bắt giữ chủ soái là nhiệm vụ không có khả năng, nếu như thực sự có đau đầu, hạ một cái mệnh lệnh như thế, để cho cấp dưới khoanh tay vấp phải, không được giãn ra, không thể làm một Tào Tháo thứ hai, sờ sờ để Triệu Tử Long chạy thoát.

Hơn nữa, cho dù có bắt giữ Phan Mỹ thì cũng chẳng có tác dụng gì, một mình Phan Mỹ không xoay chuyển được đại cục, hơn nữa, đối thủ hắn đấu trí đấu dũng là Triệu nhị thúc, xem xã tắc giang sơn mình tuyệt đối hơn cả nữ cường nhân Tiêu Viêm Viêm, đến khi xin hàng nghị hòa quân Tống, Phan Mỹ này cho dù thế nào cũng được giao trả về, như thế, không bằng chộp lấy cơ hội, tận khả năng, suy yếu lực lượng quân địch. Cho nên, Dương Hạo khuynh nhiễm bất động, mệnh lệnh Dương Hạo dành cho Dương Kế Nghiệp là: Tận dụng mọi khả năng trọng thương Tống quân.

Phan Mỹ thúc ngựa quay trở về trung quân, lập tức hạ lệnh thứ nhất: “Bày Phương viên trận”.

Chúng tướng hằm hè đợi tấn công Hắc Xà lĩnh, vừa nghe thấy mệnh lệnh này liền ngẩn tò te, phương viên trận ư? Phương viên trận dường như là trận pháp hoàn toàn bỏ qua thế tấn công, đại tướng ở trận này, binh lực bố trí từng tầng một, trường thương, cung tiễn bên ngoài, binh lực cơ động ở bên trong, đây là trận pháp sử dụng khi ưu thế quân địch giao chiến, đội hình dày đặc, sức phòng ngự rất cao, song đồng thời cũng là một trận pháp chịu đòn, đại soái không hạ lệnh xông lên đánh quân địch, ngược lại lại áp dụng thủ thế tuyệt đối, lẽ nào chúng ta còn có viện binh sao?

Cho dù trăm câu hỏi chẳng có lấy một câu trả lời, chúng tướng vẫn chấp hành làm theo mệnh lệnh của Phan Mỹ. Dương Kế Nghiệp đứng ở đỉnh núi quan sát mọi việc diễn ra, phương viên trận ư? Coi như Phan Mỹ bị dọa vỡ gan cũng không có lý do bày phương viên trận, ý hắn là...

Mắt hắn tối sầm lại, định thần, chăm chú nhìn vào lá cờ, ánh sáng mặt trời chiếu vào lá cờ đã không còn nữa. Mặt trời đã khuất núi hoàn toàn, Dương Kế Nghiệp đã hiểu ra: “Ta còn nói quân Tống khỏe mạnh dẻo dai, mới vừa rồi đi từ từ, giờ đến Hắc Xà lĩnh, lẽ nào... Phan Mỹ có ý đồ gì khác ư? Hắn biết rõ Hắc Xà lĩnh trước tất có một chiến, cố ý không sớm không muộn đến lúc này thì đến, chính là đợi trời tối, muốn phá vây, còn có cơ hội có lợi hơn buổi tối sao?”.

“Đại bại có dư, trong khi lui chiến, ngay cả điều này cũng tính toán trong lòng, tên này, thực là đệ nhất kình địch mà ta gặp khi còn sống”. Dương Kế Nghiệp hít sâu một hơi, giơ lệnh kỳ trong tay lên.

o O o

 Chương 52: Đục Nước Béo Cò

Một đêm ác chiến, tử thì chất đầy.

Phan Mỹ đắn đo, khó khăn lắm mới đến được Hắc Xà lĩnh lúc hoàng hôn, sớm một phút trước thời gian lâm vào trọng vây, phải trả giá biết bao tính mạng, muộn một phút thì sẽ chẳng có cách nào lợi dụng đầy đủ cờ hiệu lệnh tập kết, đã là thời cơ chuẩn xác, bất quá, nhưng Dương Kế Nghiệp tuy chỉ nổi danh ở Tây Bắc, còn kém xa chiến công hiển hách của hắn, lừng danh thiên hạ, nói đến bản lĩnh dụng binh khiển tướng thì không kém gì hắn.

Vào thời khắc mặt trời lặn, nếu như nhờ vào ưu thế binh lực và địa hình toàn lực tấn công, chờ màn đêm buông xuống, địch ta khó phân biệt, ưu thế binh lực hắn, ưu thế địa hình sẽ mất đi toàn bộ tác dụng, cần thừa dịp Phan Mỹ, cho nên lúc này tuy chiếm cứ thế thượng phong tuyệt đối, Dương Kế Nghiệp lại hạ lệnh vây kín tứ phương, cầm cung nỏ tấn công từ xa, trận thế bao quanh, không chịu mắc mưu hỗn chiến. Lúc này hắn chiếm ưu thế hoàn toàn, cho dù đợi đến ngày mai ánh mặt trời ló lên cũng không thành vấn đề, vội gì mà nóng lòng.

Nếu nói vũ khí sắc bén từ xa tuy rằng cung nỏ được Tống quân trang bị cực cao, nhưng còn kém xa so với nhất phẩm cung mà Dương Hạo đã trang bị. Nhất phẩm cung có lực sát thương rất mạnh, có tác dụng rất lớn khi hai bên trận doanh bắn tên. Thương vong của Tống quân tất sẽ nhiều hơn Hạ quân. Và cho đến khi sắc trời tối mịt một màu đen, Phan Mỹ cuối cùng cũng đã không chịu đựng được, hạ lệnh phá vây.

Tác dụng của bóng đêm vẫn phát huy được tác dụng của mình, song phương một khi đoản binh giao tiếp, cung nỏ cũng sẽ mất đi tác dụng, sĩ binh sợ ngộ thương chiến hữu, há dám bắn loạn cung tên lên, mà song phương một khi lâm vào thế hỗn loạn, trừ phi đang trong cuộc đọ sức sinh tử, những binh sĩ khác vọt tới cận tiền, cũng sẽ dừng lại chút nhìn rõ địch ta rồi mới vung đao chém một nhát, như vậy Tống quân đương nhiên khó mà chui được.

Đối diện với thế cục như vậy, Dương Kế Nghiệp cũng vô kế khả thi, Phan Mỹ mất đi địa lợi, song lại tận dụng được thiên thời, may mà Tống quân dù có đục nước béo cò, hướng tấn công là Hắc Xà lĩnh không thể nghi ngờ, Dương Kế Nghiệp sớm đã trang bị phòng tuyến trên Hắc Xà lĩnh, các sĩ binh trong phòng tuyến tuyệt đối không phát ra tiếng động nào, các sĩ binh chặn dưới núi làm quân tiên phong, cho nên khi các binh tốt xông lên núi chính là quân Tống, chỉ cần sờ soạng bắn tên, đao thương cùng phối hợp, rồi gần lại, lâm vào vật lộn. Hạ quân đoản binh giao tiếp cũng là hướng về phía trước mà không phải phía sau, có thể xông ra nghênh Tống quân là phòng tuyến sớm đã được bố trí.

Trong trận đấu pháp này, quân Tống mỗi khi tiến thêm một bước đều phải trả giá bằng sự hy sinh thê thảm, ngọn núi Hắc Xà lĩnh vừa cao vừa nguy hiểm dường như mỗi bước là một thi thể nằm xuống, máu tươi nhuộm đỏ cả ngọn núi.

Cho đến khi sắc trời tối đen, Tống quân cuối cùng cũng đã rải đều thây ở Hắc Xà lĩnh, giết hướng Hoành Sơn, Hạ quân để lại một bộ phận nhân mã để thu dọn chiến trường, cứu trợ thương tàn chiến hữu, phân binh đuổi theo, lúc này Tống quân bỏ chạy được cũng chỉ còn vẻn vẹn lại hai vạn người, nhân mã cho dù có chạy được trước, trong lúc hỗn loạn, tướng không thấy binh và binh cũng chẳng thấy tướng, cờ hiệu thì bị nhổ bỏ, thất bại thảm hại.

Đột kích, bày thế trận, cản đường, rồi lại đột kích. Đột kích rồi truy kích, cứ năm bước giết một người, một bước là một dòng máu, tất cả mọi người như phát điên lên, chỉ cần bản năng xông lên phía trước, Tống quân ở phía trước nhất cũng đã xông đến chân núi Hoành Sơn, Tống quân ở phía sau cùng thì đang cố gắng phá vây ở Hắc Xà lĩnh, từ Hắc Xà lĩnh cho đến chân núi Hoành Sơn mười mấy dặm tuyết, đã bị vô số thi thể nhuốm đỏ.

Tống quân xông về phía trước, cùng chung mối thù, mỗi người đều nhuốm đỏ trong màu mắt, dù có bị thương song vẫn cố gắng hết sức mình chiến đấu, có ý chặn lại ý đồ bọc đánh Hạ quân sát thương cực đại. Tam quân chủ soái Phan Mỹ cũng đích thân vào trận, trường đao múa nhanh và mạnh, người ngã ngựa đổ, tiếng kêu thảm thiết ghê người.

Tống quân vừa chiến vừa đi, ngoài thủ quân canh giữ thị vệ thân binh quanh Phan Mỹ, người nào người nấy đều biết chủ soái ở đây, thấy đội ngũ lưa thưa lỏng lẻo xông vào Hoành Sơn, Phan Mỹ chỉnh đốn đội ngũ một chút, để tránh quân địch nhân thời cơ, cờ soái trống chiêng trong một đêm liều chết đã mất, hắn dù có cố gắng mở rộng miệng hét to cũng không có mấy người nghe được hiệu lệnh của hắn.

Hạ quân phía sau theo sát không bỏ, khắp nơi là Tiểu Phan Phan sống, tiếng la hét phần thưởng là thiên kim, phong vạn hộ hầu khiến cho Phan Mỹ thức nghẹn giọng, giận sôi người. Có tâm giết kẻ trộm, vô lực xoay chuyển trời đất. Vương Kế Ân cũng được thân nh của hắn che chở, theo loạn quân mà xông lên trước để giết, Vương Kế Ân thông thạo võ nghệ, trong đám thái giám cũng được coi là hảo hán nổi tiếng.

Vào thời điểm sống chết trước mắt, chí khí mãnh liệt sục sôi, nhấc đao, xông lên phía trước theo đại quân, tuy rằng từ đầu chí cuối, được bảo vệ bởi các sĩ binh, hắn chưa giao đấu với Hạ quân, lưỡi đao chưa hề nhuốm máu, song người hắn cũng đẫm mồ hôi, chật vật không chịu nổi.

Trước tiên có mấy trăm binh Tống hò hét vượt qua chân núi Hoành Sơn xông lên núi, từ dưới mặt tuyết bỗng nhiên chui ra rất nhiều “quân Tống” quần áo hỗn độn, bọn họ lặng yên không một tiếng động, trên người toàn là màu máu, lặng lẽ đi tới, nhanh chóng trà trộn vào đám đội ngũ Tống quân, bọn chúng cũng tạo dáng vẻ mệt mỏi, lảo đảo bước đi, thở hổn hển y sì như quân Tống.

Doanh trại Tống quân Hoành Sơn tạo trận địa sẵn sàng đón địch, vừa có người lại gần, dây cung được kéo căng lên.

“Mau mở cửa trại, mau, Hạ quân đuổi đến rồi”.

“Mẹ nó chứ, ngươi cầm tiễn làm cái mẹ gì nữa? Lão tử chém giết một đêm, mọi người mau mau mở cửa, mở cửa đi!”.

“Ta là cấm quân thị vệ bộ quân đô ngu hầu Nhạc Vô Thanh, thủ tướng là tên nào phụ trách vậy hả, mau mở cửa cho lão tử đi”.

“Phan đại tướng quân và Vương giám quân đều ở phía sau rồi, còn không mau mở cửa, có làm sao, tên nào dám thay đại nhân đền mạng đây?”.

Thủ tướng đầu thành đề phòng quân địch cả một đêm, thật chật vật và gian nan, kết quả lại nghênh đón bọn chúng, chiến sĩ bách chiến tất thắng tức giận, tiếng chửi bậy không ngớt. Dương Diên Phổ, Dương Diên Lãng, Tiểu Dã Khả Nhi là Hạ quân lẫn vào đám đội ngũ của Tống quân, liên tục chửi rủa dưới thành.

Tình hình như vậy, thủ thành không chịu nổi, bên dưới thành vây không phải một hai ba trăm năm trăm đồng chí, đó là thương binh rải đầy khắp núi đồi, nếu như không mở thành, cái thân phận này có đền thay được cho mạng bọn họ không? Rồi khi Hạ quân đuổi đến, trơ mắt mà nhìn bọn họ bị băm vằm dưới thành ư? Mình cũng chẳng có mấy đầu mà cho Quan Gia chặt nữa ấy chứ.

Hơn nữa người ta đi rồi, đó là hy sinh thân mình vì đất nước, mình coi như cũng bị chặt đầu, đó cũng sẽ để tiếng xấu muôn đời. Huống chi hai vị đại nhân Phan Mỹ và Vương Kế Ân đang ở ngoài thành, đóng cửa không nổi ấy chứ? Chẳng ai gánh vác được trọng trách này. Thủ tướng không rảnh nghĩ nhiều, hoảng sợ bởi tiếng chửi bậy phái người mở cửa trại, loạn binh chạy nhanh vào, một tên Hạ quân cải trang Tống quân vừa vào trong vây thành, ra khẩu hiệu rồi lập tức ra tay triển khai loạn binh.

Lúc này, trại vây Tống quân khắp nơi lập tức lâm vào cảnh hỗn loạn, Hạ quân đục nước béo cò xông vào trong trại vây, chiến sĩ xông vào tuy không nhiều, mỗi đội không quá mấy trăm người, thứ nhất là vì số người nhiều, sợ bị Tống quân phát hiện ra, thứ hai họ đều cải trang thành Tống quân, lại không thể có dấu hiệu rõ ràng, mặt mũi còn chưa quen hết nhau, một khi xông vào thành rất có khả năng sẽ giết nhầm lẫn nhau, nên mỗi người đều là chiến sĩ hoặc dũng sĩ kỳ cựu.

Còn Tống quân thì không thể phát hiện ra, quân Tống chạy trở về, Tống quân thủ vệ trại vây, Hạ quân cải trang Tống quân, có ba phần không nhận ra nhau, Hạ quân phát lệnh bắt đầu ra tay giết người, hỗn chiến nổi lên, Tống quân giơ đao, thấy hai chiến sĩ từng đôi từng đôi chém giết, nào phân được ra quân địch? Cho dù hắn có phân rõ địch ta, cũng không kìm nổi giơ thương lên mà đâm, hết cách đành giơ đao lên tương nghênh, thế là Tống quân thật giả lẫn lộn, hỗn chiến.

Phan Mỹ và Vương Kế Ân cũng lần lượt chạy được tới bảo trại Hoành Sơn có Tống quân trấn thủ, lúc này khắp trại vây đều hỗn độn, địch ta khó phân, truy binh khẽ bước tới, tác dụng của bảo trại hoàn toàn biến mất, Hạ quân theo sát Tống quân chen vào bảo trại, Tống quân thấy không thể thủ được nữa, đành bại lui một lần nữa, Hạ quân còn chia ra một đường đuổi theo, đám người còn lại nhanh chóng quét sạch những tàn quân còn sót lại chưa kịp bỏ chạy, gia cố yếu trại, cắm đại kỳ Hạ quân lên, Tống quân mấy tháng tấn công giờ bị hủy hoại trong gang tấc.

o O o

 Chương 53:Triệu nhị thúc sứt đầu mẻ trán 

Dương Kế Nghiệp, Trương Sùng Nguy tướng lĩnh đi lên Hồ Lô trại, Hồ Lô trại thất thủ hơn hai tháng, giờ lại một lần nữa rơi vào tay Hạ quân, trong bảo trại khắp nơi là thi thể của Hoành Thất Thụ Bất và số thương binh rên rỉ dãy dụa, trong đám cây cối um tùm Hạ quân vẫn đuổi bắt Tống quân.

Trương Sùng Nguy nhìn v'nơi xa nói với Dương Kế Nghiệp: “Tướng quân, chúng ta thương xúc đuổi theo, các tướng sĩ đã thấm mệt rồi, đồ quân nhu lại không kịp viện tới. Hơn nữa, các tướng sĩ lẫn vào quân địch có hạn, bởi vậy tiến đến, hai châu Lân Phủ khói lửa bảo trại vô số kể, có thể buông tiền quân, cắt đi đội ngũ tiêu biểu đã khó mới có kỳ hiệu đục nước béo cò, giờ chúng ta cho dù đánh trống cổ vũ tinh thần hăng hái thêm cũng không lấy được Lân Phủ, hay cố thủ Hoành sơn rồi dự tính tiếp ạ?”

“Ha ha, Trương tướng quân nói có lý lắm”.

Dương Kế Nghiệp mỉm cười nói: “Song, có đuổi nữa cũng không sao, Tống quân hoa rơi nước chảy, dù sao cũng phải cho hắn một cái cơ hội trở về mới phải. Nếu không, Triệu Quan Gia còn mặt mũi đâu nữa?”

Trương Sùng Nguy không hiểu gì, hạ đã lập quốc, sớm hình thành thế thủy hỏa cùng Tống, còn cho Triệu lão nhị mặt mũi gì đó là sao?

Song Dương Kế Nhiệp vừa nói dứt lời, không muốn nói tiếp, Trương Sùng Nguy đành để điều này trong lòng, không ngoài dự đoán của Trương Sùng Nguy, thủ quân Lân Phủ sớm đã được tin, đang bày trận địa đón quân địch. Từ Hoành sơn xuống đều là khói lửa bảo trại được nhờ vào sự nguy hiểm mà xây, và những bảo trại này đều nhờ vào địa thế, sửa lại yếu đạo.

Có vài chỗ bảo trại cứu người sốt ruột, bị Hạ quân trà trộn vào thành, nhưng tướng lĩnh Tống quân cũng đều có kinh nghiệm chiến trận, và đều không phải hạng người bình thường, con đường đi qua bảo trại khói lửa nhanh chóng được truyền ra, đi về phía sau, khắp bảo trại đóng cửa thủ trại, không để Tống quân vào thành, họ bỏ qua, phía sau có đội ngũ trang phục Hạ quân, đấnh cờ hiệu Hạ quân, thì cung nỏ làm trận tiếp đón, như vậy, chặt đứt được nội ứng Hạ quân và ngoại viện, nội ứng dù có trong đám hỗn loạn cũng không gây sóng gió gì, tiến công cũng đành phải dừng ở đây.

Phan Mỹ ổn định trận tuyến rồi lập tức tập trung binh lực tiến đến, dựa vào sự hô ứng của khắp các bảo trại, giữa các bảo trại đã bị Hạ quân chiếm lĩnh đều bị chặn liên lạc, rất khó mà kiên thủ, Hạ quân bị ép thối lui, vứt bỏ mấy bảo trại vừa chiếm lĩnh rút về Hoành sơn. Song phương phân biệt bằng cách lấy Hoành sơn và Lân Phủ làm cứ điểm, lại trở vào trạng thái giằng co.

Lại nhớ về hai tháng trước.

Trạm dịch Phần châu, xa xa tam kỵ chạy như bay đến. Tới dịch quán thì phi thân xuống ngựa, thời tiết mùa đông giá rét, song con ngựa kia toàn thân đầy mồ hôi, bốn cái chân ngựa khỏe khoắn bỗng run lên. Kỵ sĩ trên ngựa thả người xuống ngựa, lảo đảo rồi được người ở trạm dịch đỡ lấy.

Người ở dịch quán huấn luyện nghiêm chỉnh, lập tức có người mang nước muối ấm đến, rồi lại có người giúp cởi bỏ áo trên vai, mang những món ngon vào trong phòng, rồi lại có người dắt chiến mã, người khác thì làm nhiệm vụ thay bộ yên mới cho ngựa. Lúc này dịch quán rộn rịp, ba người đi vào trong dịch quán, xong xuôi xoay người nhận lấy cương ngựa, giật mạnh thúc ngựa đi.

“Sao lại vội vàng vậy chứ, chẳng lẽ Hạ Châu đã đánh xong rồi?” Một dịch binh nhìn bóng dáng ba người mang tin tức vẻ nghi ngờ nói.

Cốc một tiếng, sau não hắn như bị trời giáng, dịch binh kêu ối một tiếng, sờ sờ sau gáy nói: “Chu đại thúc, thúc đánh ta làm gì vậy?”

“Ai bảo tiểu tử ngươi óc không lớn lên?” Lão dịch thừa mắng một câu, than thở nói: “Nếu như thực sự có chiếm được thành Hạ Châu, đại thắng như vậy, họ còn mệt mỏi, trên đường phải lớn tiếng báo tin thắng trận chứ, cần gì phải bộ dạng như vậy? Theo ta, sợ là đã nếm mùi chiến bại rồi…”

“Có thể như vậy sao?”

Tên dịch binh có vẻ không tin nói: “Mười vạn đại quân triều đình, dựa vào Hà Tây có cái gì Hạ quốc, có thể đánh bại Phan tướng quân của chúng ta sao?”

“Ngõa quán nan cách miệng giếng, đại tướng khó tránh thương vong”. Lão dịch thừa lẩm bẩm: “Chu đồng ta làm dịch binh cả đời này, hai mắt lão vẫn chưa mờ, xem tình hình này, chúng ta sợ rằng đã nếm mùi thất bại, hơn nữa…sợ là đại bại ấy”.

“Bụp”.

Một cái thượng phẩm hình tròn như mặt trăng rơi xuống, chén trà bị Triệu

Quang Nghĩa làm cho vỡ nát, giọng tức giận rít gào vang cả đại điện: “Mười vạn cấm quân, mười vạn cấm quân đấy, Trẫm chuẩn bị đầy đủ lương thảo, huấn luyện cả mười vạn đại quân, sao lại bị chôn vùi trong tay tên họ Phan ấy chứ. Tàn binh bại tướng về Phủ Châu không đến hai vạn, đại Tống ta chưa bao giờ nếm mùi đại bại thế này, tướng lĩnh đại Tống ta chưa từng thua trận kinh khủng thế này. Thảm bại, thực là thảm bại. Ai cho phép hắn tự tiện lui binh chứ? Ý đồ tự tiện, tổn binh hao tướng, tội đáng muôn chết”. 

Văn võ bá quan cúi đầu tự kiểm điểm, miệng câm như hến, không ai dám nói câu nào.

Triệu Quang Nghĩa tức giận đập bàn đập ghế, thò tay chỉ vào Tào Bân, quát: “Tào Quốc Hoa, ngươi là khu mật thừa chỉ, ngươi nói đi, Phan Mỹ đáng tội gì?”

Hoàng đế hỏi, Tào Bân không thể không nói, hắn hoảng hốt, trầm giọng nói: “Thánh Thượng, quân báo tấu biểu của Phan Mỹ đã đến, thần đã xem đi xem lại, Phan Mỹ tuy bại, tự tiện đưa ra chủ ý lui binh, thực sự vì quân ta mạo hiểm tiến, chiến tuyến kéo dài, từ Hoành sơn cho đến Hạ Châu là mấy trăm dặm cánh đồng hoang vu không một yếu trại nào của ta, cánh đồng tuyến trắng xóa, binh địch tung hoành đi tới đi lui, cắt đứt đường lương thực của ta, cướp đồ quân nhu, mười vạn đại quân tiền phương của ta không thể trụ nổi, Phan Mỹ đã đưa ra quyết định thật nhanh, quyết đoán lui binh, thực sự chỉ là bất đắc dĩ mà thôi”.

Hắn chỉ nói một nửa, mặt Triệu Quang Nghĩa đỏ ửng lên, mạo tiến ư? Tống quân vì sao làm bừa chứ? Hắn từng cả ba ngày, liên hạ ba thánh chỉ thúc giục Phan Mỹ cấp tiến, Tào Bân nói vậy, lẽ nào Phan Mỹ tổn hao binh tướng lại thành gánh nặng của hắn?

Triệu Quang Nghĩa thẹn quá thành giận nói: “Nói nhăng nói quậy, Trẫm hỏi ngươi, Phan Mỹ chưa phụng chiếu dụ, tự tiện lui binh, đến nỗi bị địch mai phục, tổn hao binh tướng, phải bị tội gì?”

Tào Bân mũi lấm tấm mồ hôi nói: “Chế quân nghiêm ngặt, thưởng phạt phân minh, Phan Mỹ đánh bại, về lý nên nghiêm trị”.

Thần sắc Triệu Quang Nghĩa vừa chậm rãi, Tào Bân nói gió vừa chuyển, rồi lại nói tiếp: “Nhưng thần cho rằng, thưởng phạt phân minh, cũng cần có chừng mực. Thưởng vô chừng mực sẽ sinh kiêu, theo đuổi bất thường; Phạt thì nếu như vô lý tất dẫn đến thô bạo, thất vu bất công, có thất thưởng phạt ban đầu, thành công thể thực hiện, thưởng phạt rõ ràng, hợp lý mới có thể khiến cho người ta nể phục”.

Mặt Triệu Quang Nghĩa lạnh tanh, điềm nhiên nói: “Tào Quốc Hoa, ngươi đang giáo huấn Trẫm sao?”

“Thần quả thực không dám”. Giọng Tào Bân càng thêm cung kính, nhưng vẫn có ngữ khí bướng bỉnh nói: “Thần đã xem kỹ càng quân báo, rồi tự vấn lòng mình, đổi nếu như thần là Phan Mỹ, vào tình hình như thế, sự lựa chọn duy nhất cũng chỉ có cách chọn lui binh, cho dù biết rõ là lui bĩnh vẫn có bẫy”.

Triệu Quang Nghĩa cười nhạt: “Lui binh như vậy sao? Đưa mười vạn đại quân vào miệng cọp, để chạy về có hai vạn người, đây cũng được gọi là giải vây cho tráng sĩ ư, nực cười, quá là nực cười. Đây là cách vứt cả người cho người ta, để lại mỗi tay”.

Tào Bân mau chóng chắp tay nói: “Thánh Thượng, thần cho rằng, đứt không phải toàn thân mà là một tay thôi”.

Đám người Lô Đa tốn, Trương Ký, Tiết Cư Chính, Lữ Dư Khánh, La Khắc Địch, Đảng Tiến cũng toát mồ hôi hột thay cho Tào Bân, Triệu Quang Nghĩa nghe vậy giận mà cười. Hắn chưa giận dữ ngay, ngược lại hắn chậm rãi ngồi vào long kỷ, lạnh giọng: “Tám vạn người chỉ như một cánh tay, hai vạn người thì được coi là toàn thân mà lui ư? Được, ngươi nói đi, cho Trẫm nghe hiểu đi”.

“Vâng!” Tào Bân từ từ thẳng lưng dậy, mãi đến khi lấy hơi nói: “Thánh Thượng, Phan tướng quân với mười vạn đại quân tập hợp dưới thành Hạ Châu, vây lấy Dương Hạo, mà quân doanh cách Hoành sơn mấy trăm dặm, đều là cánh đồng tuyết. Đó là chiến trường kỵ binh Hạ Châu. Nếu Phan tướng quân không quyết định thật nhanh, lập tức lui binh, thì yêu cầu phía sau không ngừng vạn chuyển lương thảo đồ quân nhu, cung ứng tiền quân cần thiết.

Kể từ đó, lương thảo quân giới, áo giáp quân phục chỉ có thể rơi luôn vào trong tay Hạ quân, Hạ quân mượn tài vật Tống quốc ta, lấy chiến dưỡng chiến, không ngừng lớn mạnh, so sánh ra, Tống quốc ta dù có trăm năm tích tụ, thì cũng sẽ tiêu hao không ngừng như vậy. Mười vạn đại quân khốn đốn dưới thành, đến lúc đó ngay cả hai vạn đại quân cũng không sống nổi.

Hoặc là, Phan tướng quân nếu như có thể đem tình hình chiến sự đến báo với Thánh Thượng, triều đình lệnh cho Lân Phủ coi giữ tiếp ứng, hoặc là lại điều khiển quân đội, bảo đảm thong dong lùi bước, nhưng đi tới Kinh sư mất thời gian, điều động cả đại quân viễn chinh, tháng có kịp không, đợi khi đại quân đuổi tới, thì cũng đã là tiết xuân ấm áp, trung quân có thể chống đỡ được lâu vậy không?

Nếu như vận dụng thủ quân hai châu Lân Phủ tiếp ứng, lấy số thủ quân hai châu Lân Phủ có hạn, và lấy số binh có hạn ấy mà thủ thành, kháng mười lần địch, địch không thể nhân thời cơ nào, nếu như bỏ thành xuất thành, như muối bỏ biển, cũng chẳng giúp ích Phan tướng quân. Thủ quân Lân Phủ vừa xuất, kỵ binh địch tung hoành, bắc ra Trọc Luân Xuyên, nam ra Di Đà động, một khi khoái mã tìm đến Lân Phủ, dễ đoạt được thành trì. Đến lúc đó, đường lui cũng bị chặn, trăm dặm tuyết kỵ binh tàn sát bừa bãi, không những mười vạn đại quân Phan Mỹ chết ở Hà Tây, hai châu Lân Phủ cũng sẽ rơi vào tay địch một lần nữa.

Điều này chỉ là những điều thần dựa vào tình hình Hà Tây mà nói, chưa suy xét tới hành động Liêu quốc. Liêu quốc bỗng nhiên rời bốn vạn thiết kỵ, cách Nhạn Môn ta, sáng đi tối đến, như hổ rình mồi, bụng dạ khó lường, nếu như trong triều ta lại xuất đại binh trói buộc với Hà Tây không thể kéo thân, hoặc hai châu Lân Phủ mất sạch, Nhạn Môn quan trước mặt Hạ quân, Liêu quốc sẽ có hành động ra sao, thù không thể liệu nhưng điều có thể đoán trước được chính là bọn chúng bất động đã, một khi xuất động, Tống quốc ta sẽ lâm vào vũng bùn. Thánh Thượng, đây là bàn tử cục mà Dương Hạo vẽ ra, giết chết không nghỉ”.

Triệu Quang Nghĩa tức giận tím mặt, điều đau lòng nhất chính là Phan Mỹ chưa trưng cầu ý kiến đã đưa ra quyết định, nếu hắn thực sự có bình yên mang mười vạn đại quân trở về thì cũng thôi, kết quả lại làm tổn thất binh tướng nghiêm trọng trở về, nếu như sự việc được bẩm báo cho hắn biết trước, bên này ung dung sắp xếp, điều binh khiển tướng, thế nào cũng sẽ không bị thảm bại như vậy, nghe Tào Bân phân tích, hắn không khỏi toát mồ hôi hột.

Song thấy rõ khuôn mặt Tào Bân, lòng hắn bất giác chợt động, bỗng nhiên ý thức ra được điều gì đó: “Tào Bân lần này mất sức vì chuyện Phan Mỹ, thực là công tâm? Hừ hừ, trong số bọn chúng dường như chẳng có ai hòa thuận vậy? Tiền triều lão thần cho dù quan hệ với nhau thế nào, giờ là ôm chia bè chi phái…”

Khó trách Triệu Quang Nghĩa nghĩ như vậy, khi tiên đế còn sống Phan Mỹ cũng là thân tín trọng thần, Tào Bân được tiếp nhận từ hậu chu trung quân khi Triệu Khuông Dận vẫn còn thống trị, chưa tham dự binh biến Trần Kiều, hơn nữa dì của Tào Bân là quý phi của hậu chu thái tổ, có hai tầng quan hệ này, tuy nói hắn văn võ song toàn, phẩm đức cao thượng, nhưng từ đầu chưa được Triệu Khuông Dận trọng dụng.

Cho đến sau này, Triệu Khuông Dận tạm ổn giang sơn, dần dần trọng dụng Tào Bân, Tào Bân chưa có công thần tập đoàn dung nhập Triệu Khuông Dận, hình thành phe phái trong quân hết sức phức tạp, cũng không phải vai đánh một trượng, mà là cùng một phe phái, bởi vậy dù Tào Bân có chức vị càng ngày càng cao, về sau thậm chí còn trên cả Phan Mỹ, nhưng Triệu Khuông Dận một triều có vài kiêu binh hãn chỉ là kính hắn mà không phục hắn.

Tào Bân cũng biết rõ điều này, vì vậy công thần tập đoàn với tiên đế triều chỉ là giao quần tử, hiện nay khá tốt, mãng phu Đảng Tiến không tỏ vẻ bất mãn, Tào Bân đã đem toàn lực khen ngợi Phan Mỹ rồi, vài lão tướng quân biết rõ là không kiêng dè gì người mới đối với mình, xa lánh tiền triều lão thần cảnh giác.

Nghĩ như vậy, Triệu Quang Nghĩa thấp thỏm lo lắng, tương đương với bại cục Hà Tây, điều hắn càng coi trọng hơn chính là hướng thế trong triều, Tống quốc gia đại nghiệp đại, tổn thất mười vạn đại quân coi như làm mất nguyên khí khôi phục lại trong một năm, nhưng nếu nắm bắt được các vị lão tướng nắm binh quyền trong triều sinh dị tâm, một khi xảy ra chuyện thì là nội loạn, nội loạn không chỉ là họa lúc ấy, sau khi xử lý mọi chuyện có thể kéo dài ra mấy năm liền, tiêu hao nguyên khí, hơn nữa năm đời hoàng đế đến nay phần lớn không phải chết trong tay người ngoài, có đến tám chín phần đều là chết trong tay thuộc hạ của chính mình, thay vào đó, việc này chẳng qua chỉ là chuyện xảy ra trong mấy năm đầu, Triệu Quang Nghĩa sao tránh nổi.

Lô Đa Tốn thấy Triệu Quang Nghĩa nghe những lời Tào Bân nói không tức giận, ngược lại hắn vô cùng trầm tư, nhìn sắc mặt không biết hắn đang nghĩ gì, hắn nghiền ngẫm, cẩn thận suy xét, tự giác nắm được suy nghĩ của Quan Gia, liền chắp tay tấu: “Thánh Thượng, Tào đại nhân nói cũng có ý đúng của nó. Phan tướng quân là danh tướng triều ta, trước đây mười vạn đại binh hoành hành ngang dọc quét sạch ba mươi vạn quân Hán, chiến công cũng hiển hách lắm chứ.

Lần này binh bại tại Hà Tây, Tào tướng quân dụng binh có chút sai lầm, song triều ta chưa bao giờ có tiền lệ tác chiến vào mùa đông ở đất bắc, vì vậy kinh nghiệm không đủ, chịu sự khắc nghiệt của thời tiết mới là nguyên nhân chính. Cuộc chiến Hà Tây có thể coi là cuộc tập diễn bắc phạt tây chinh của triều ta, tổng kết giáo huấn trong đó, về sau có phát binh, phạt bắc Liêu chinh Tây Hạ, tất nhiên sẽ có kinh nghiệm. Song Phan Mỹ bại trận, phạt vẫn phải phạt, thần cho rằng có thể giáng chức của Phan Mỹ xuống quan tam cấp đội…”

“Ha ha ha…” Triệu Quang Nghĩa cười lớn, lắc đầu nói: “Trẫm nghe lời quốc hoa nói, thì bừng tỉnh ngộ, Phan Mỹ có tội gì nào? Đều là do Trẫm sai lầm nghe Vương Kế Ân phỉ báng, suýt nữa thì quy tội cho công thần. Nghe xong mà vui cả ngời, thậm chí Trẫm còn nghĩ rằng, Phan Mỹ làm gì có tội mà phạt, nên thưởng”.

Lô Đa Tốn nịnh hót hoàng đế, rồi không biết tại sao mà quay về, một tên tiểu thái giám rón rén đi đến bên, mang theo một vật gì đó cho nội thị đô tri Cố Nhã Ly, rồi thì thầm to nhỏ gì đó với hắn, Cố Nhã Ly giật mình, thất thanh nói: “Ngươi nói gì cơ?”

Tiếng hắn hét khá lớn, Triệu Quang Nghĩa tuy đang cười nói, song trong lòng cũng đang lo lắng, quan sát xem các lão thần trước triều có kết bè kết phái ra sao, mừng hay tức đều không bộc lộ ra nét mặt, bỗng nghe thấy Cố Nhã Ly hét một tiếng, cơn giận kìm nén bỗng phát ra, Triệu Quang Nghĩa vỗ bộp một cái vào bàn, mẳng thẳng vào mặt nói: “Ngươi to gan lớn mật thật đấy, trên điện mà cũng hét toáng lên được”.

Cố Nhã Ly sợ hãi, vội vàng quỳ xuống, nơm nớp lo sợ nói: “Nô tỳ nghe thấy cấp báo Tây Xuyên, bất giác kêu lên, quấy nhiễu Thánh Thượng, làm ảnh hưởng tới điện phủ, có tội, có tội”.

“Hả? Cấp báo ở Tây Xuyên ư, chuyện gì?”

Cố Nhã Ly vội vàng chắp tay đưa phong thư báo, tiểu nội thị cầm cây phất trần đứng bên cạnh bàn vội đỡ lấy rồi chuyển đến vào tay Triệu Quang Nghĩa, Triệu Quang Nghĩa mở ra xem, không khỏi tức giận: “Bọn cường đạo phá cùng lai quan, tiến quân thần tốc, binh phát Thành Đô. Chúng thần khổ chiến nan địch, vì bảo vệ căn bản, bị bắt lui khỏi Thành Đô, bắc triện Hán châu”.

“Thành Đô đình trệ, Tây Xuyên trấn động, bọn cường đạo được Thành Đô phủ kho nuôi dưỡng, thanh thế đại chấn, rồi lại cóp hào thương phú hộ, tài sản quan sứ, tản mạn dân chúng, dựa vào sự sợ hãi của quan thân, chết không chỗ chôn. Theo bọn phản nghịch được nhiều người ủng hộ, giờ binh lực hiện có, sợ là hơn tám mươi vạn. Nghịch phỉ đều thích tự vu giáp, ngày ứng vận huy quân, chúng chí một lòng, hung hãn không sợ chết.

Cường đạo mạnh mẽ, tung hoành Tây Xuyên, giờ lấy được châu nào đó, ngày mai sẽ lấy được huyện nào đó, tung hoành mưa gió, không khác nào bão táp mưa sa. Trong tay thần chỉ có một quân, tự bảo vệ mình còn không được, tiêu diệt thì không có sức, xin bệ hạ phát thiên quân một lần nữa. Tây Xuyên trấn an sử vạn tùng lĩnh, Thành Đô tri châu Chu Duy Dung kính trăm bái”.

Đáng tiếc thay Tây Xuyên trấn an sứ vạn đại nhân, Thành Đô tri châu Chu đại nhân cũng bó tay, nói địch quá yếu rồi, bọn họ đã đánh mất Thành Đô tội đáng muôn chết, đành phải khuếch đại nghĩa quân vô hạn, thực sự bọn họ địch vô khả địch cũng chẳng có cách nào, triều đình đánh sưu cao thuế nặng với Tây Xuyên, mấy năm nay chẳng phải hạn thì cũng lao, thu hoạch lại thiếu, nghĩa quân tạo phản có đám quần chúng khổng lồ làm trụ cột, cho dù đánh ở đâu đi chăng nữa, cũng không sống nổi nội ứng.

Hơn nữa quân Tống ban đầu sau khi đánh hạ Thục quốc, đánh cướp khắp nơi, chém giết bắt được binh, thanh danh nổi như cồn nhưng rất xấu, điều này không nói làm gì, vì địa thế khu Ba Thục hiểm yếu, đề phòng tạo phản, Tống quốc sau khi đánh được Thục quốc, san tất cả các châu các quận thành bình địa, Tây Xuyên tổng cộng có hai mươi chín châu quận, chỉ còn để lại mỗi bốn thành trì Ích Châu(Thành Châu), Tử châu, Mi Châu, Toại Châu, còn nghĩ cách thất linh bát lạc, một tòa thành đến thành trì cũng không có, thử hỏi còn có thể chống lại địch thế nào đây?

Thành Đô ban đầu đình trệ, nơi một văn một võ hai nơi trường quan còn muốn đầy, vì đi nghĩa quân cho dù đánh đâu, cướp giật cái rồi chạy, rồi lại còn chạy vào trong núi, cho nên họ mong cướp nghĩa quân đi, đến lúc đó trở về Thành Đô một lần nữa rồi huy quân mình phản kích, Thành Đô thất mà phục được, báo đến tai Quan Gia cũng dễ nghe chút.

Ai biết được thủ lĩnh nghĩa quân Đồng nghe xong ý kiến của Vương Tiểu Ba, mở kho lấy lương thực cứu tế cho nạn dân, chiêu binh mãi mã, một thời gian sẽ uy danh đại chấn. trước kia bọn chúng cướp bóc, dân chúng chỉ cảm thấy chán ngấn, lần này mở kho lương thực cứu tế vô số người, tuy trước mắt chưa có tám mươi vạn dân chúng, kỳ thực ba bốn mươi vạn thì vẫn có, song đây là cử gia tìm nơi nương tựa, thực không thể biết hết được, có thể đánh cũng chẳng bao nhiêu.

Vạn Tùng Lĩnh và Chu Duy Dung mặc kệ nhiều như vậy, chẳng những coi mấy người này thàn sĩ binh, ngược lại còn tăng lên gấp đôi, sai người cấp tốc báo tới Thượng Kinh.

Triệu Quang Nghĩa nghe vậy tức giận, thò tay tóm lấy nghiên mực hằn học: “Vương Tùng Lĩnh, Chu Duy Dung, bỏ thành mà chạy đi, tránh né cường đạo, tội đáng muôn chết”.

-----oo0oo-----

: Tây Hạ Vương

 Chương 54: Ngủ đông 

Vào lúc Triệu nhị thúc làm vỡ nghiên thì Dương Hạo đã tới Hoành sơn, tuần duyệt tam quân.

Có Dương Kế Nghiệp và Trương Sùng Nguy cùng đi, Dương Hạo đi tuần một vòng quanh bảo trại, rồi đi gặp thủ lĩnh bộ tộc người Khương Hoành sơn, biểu dương khen ngợi lập trường của Tống quân, đem danh lợi mua chuộc lòng người, ban cho tiền tài là điều khó tránh khỏi.

Sau mấy ngày, Dương Hạo mới đến bắc đoan phong thai cốc phòng tuyến của Hoành sơn, ở đây là mùa hè, nơi giáp với Liêu hòa Phủ Châu, Phủ Châu hiện giờ đang thuộc về Tống quân, xa xa có thể thấy Tống quân đang tựa núi mà xây bảo trại. Hạ quân bên này cũng tựa núi xây trại, đề phòng cẩn mật.

Đứng ở trong sơn trại nhìn về phía bắc, một cánh đồng tuyết chính là lãnh thổ của Liêu quốc, một nhánh sông uốn lượn theo cánh đồng chảy vào hạ cảnh, con sông này tên Trọc Luân hà, chảy thẳng đến Trọc Lân Xuyên. Nước sông này đã kết băng, thành khối băng khổng lồ.

Dương Kế Nghiệp chỉ tay nói: “Thánh Thượng, bên đó vốn là yếu trại phong đài trại của Chiết gia, giờ đóng quân có ba doanh binh lực Tốngquân, binh lực sở thuộc của ta bên này cũng tương đương, thủ tướng là con chó Diên Huấn, đi về phía bắc là lãnh thổ của Liêu quốc, mảnh đất này tương đối màu mỡ, vào thời điểm giao mùa xuân và hạ, người Liêu sẽ có những bộ lạc đến đây chăn thả, song thời tiết lạnh cóng thế này, bên đó không một ai”.

Dương Hạo gật đầu nói: “Tống quốc bị hụt, tuyệt đối sẽ không hành quân lặng lẽ như vậy, dù có làm bộ làm tịch, tất cũng phải huy quân đến lần nữa, song trận này đánh đến giờ, nếu như tiếp tục múa thương lộng gậy, họ không đánh nổi, chúng ta cũng không thể đánh nổi, thực liều lĩnh, có thể tiện cho người Khiết Đan. Mọi người ngồi xuống cãi vã nhau sợ đã là lựa chọn duy nhất rồi, ngươi là võ tướng, chỉ lo tốt Hoành sơn cho Trẫm, còm chuyện múa mép này để Trẫm lo”.

Dương Kế Nghiệp nghe vậy bật cười, lúc này, sĩ binh đứng ở lầu cao bỗng nhiên thổi tiếng sừng trâu u u, binh sĩ huấn luyện nghiêm ngặt chạy từ trong doanh ra, mặc vội áo giáp, Dương Kế Nghiệp mặt mũi căng thẳng nói: “Bảo vệ Thánh Thượng lui về hậu trại”.

Trương Sùng Nguy khẩn trương đưa Dương Hạo đi, bị Dương Hạo ấn mạnh vào tay hắn, Dương Hạo nheo hai mắt nhìn về phía Tống doanh, bên Tống doanh dường như không có động tĩnh xuất binh, ngược lại kèn vừa vang lên, sĩ binh bên đó lục tục chạy về phía trước, chuẩn bị ngăn địch.

Lúc này binh sĩ trên lầu lại dùng cờ phất xuống, Dương Kế Nghiệp vừa thấy vội kinh hãi nói: “Quân địch đi từ phía bắc tới ư?”

Dương Hạo đứng lặng mà nhìn, trong một giát, chỉ thấy ở phía bắc có đại quân chen chúc nhau như thủy triều ồ ạt kéo đến, trong một lát đã thấy đen xì cả bãi đất, cờ trong sơn cốc bay phấp phới, người hô ngựa hí, giữa một cây đại kỳ, khiết đan văn và hán văn viết hai chữ lớn: “Bắc viện đại vương Da Luật Hưu Ca”.

Cằm Dương Hạo bỗng thấy đau đau, năm đó Da Luật Hưu Ca cho hắn một quả đấm thép tiếp đón hắn, dường như đến giờ cảm giác lại trở về.

Người Liêu đến bãi đất trống phía trước, quất ngựa tung hoành, ồn ào, thực là tạo hiệu quả dọa người, theo sát phía sau đại quân nhân mã đuổi tới là quân đội hai ngước Tốnghạ. Trương Sùng Nguy nhìn kỹ một lát, quay đầu nói với Dương Hạo: “Thánh Thượng, chỗ nhân mã này tuy là cờ hiệu của Liêu quốc bắc viện đại vương, song nhìn doanh trại, không phải là quy chết của bắc viện đại vương, dường như là bộ độ tiên quân vậy”.

Dương Hạo chau mày nói: “Người bắc đến đây làm gì nhỉ? Nếu như có mưu đồ Tốngquốc, đóng quân uy hiếp Nhạn Môn quan nghe ra còn có lý”.

Dương Hạo khẽ chớp mắt, nở nụ cười: “Nhìn chỗ nhân mã này, ít cũng phải vào khoảng năm nghìn người, Người Liêu dẫn nhiều nhân mã như vậy đi đóng quân, chắc chắn không phải đến đây ngắm phong cảnh rồi. Ha ha, kệ hắn đi, chúng ta chỉ cần án binh bất động, lấy bất biến ứng vạn biến”.

“Vâng!”

Dương Hạo xoay người đi, đi được vài bước, lại quay đầu nói: “Tống nhân cho dù có ý hay là vô ý, nếu như còn muốn đánh vài trận nữa với ta, tình hình thế nào, ngươi cũng phải cập nhập được”.

Dương Kế Nghiệp là Hoành sơn tiền địch tổng chỉ huy, là số ít người biết Dương Hạo lập quốc trước, rồi tốn vị xin hàng, tụ lực sinh lợi, cho đến khi hoàn thành quốc sách xưng đế, đương nhiên biết ý đồ của Dương Hạo qua lời nói, vội đồng ý.

Dương Hạo miễn cưỡng liếc mắt về phía cánh đồng tuyết có vô số lều trại chi chít, cười nói: “Đi, tên đến không phải Da Luật Hưu Ca, Trẫm cũng lười lên lầu nhìn, chúng ta về thôi”.

“Thánh Thượng”. Dương Diên Huấn vội vàng đuổi theo: “Thánh Thượng, hai nước Tống hạ đại doanh tạo thế góc cạnh, thần thấy chỗ người Liêu hạ trại đứng giữa, vị tất còn tồn tại thiện ý với chúng ta, nếu như người Liêu khiêu khích hoặc là làm khó dễ, thần nên ứng đối thế nào đây?”

Dương Diên Huấn cũng không biết ý đồ cao nhất bên trên, hắn là thủ tướng của phong đài cốc, thấy chỗ mà người Liêu hạ trại chiếm góc núi thứ ba chỗ ba núi đứng chéo, vị trí hào cự mã, không chỉ nhằm vào người Tống, còn coi Hạ quân cũng là quân địch giả, cảm giác người Liêu đến không thiện chí, mà trước đó khi Dương Hạo chưa xưng đế đã từng cùng với người Liêu tấn công qua Ngân Châu, lần này sau khi lập quốc người đến thiết lập quan hệ ngoại giao chính là Liêu quốc, cho nên phản ứng này, nên nắm bắt thế nào. Hắn cảm thấy muốn biết trước.

Dương Hạo nhìn hắn vẻ tán thưởng, có thể nghĩ đến vấn đề này, có thể đề cập đến vấn đề này, người này mới là một tướng lĩnh đích thực. Chiến tranh là tiếp diễn của chính trị, một người đánh chỉ có thể đánh, nhiều nhất là một cái sắc bén của đao, một nhát tiện tay, chỉ có động não, suy nghĩ đến chiến tranh phục vụ mục đích người mới có thể trở thành một soái tài giỏi đích thực.

Thực hiếm thấy, lúc hắn muốn cần vương phạt hán phá cầu, suýt nữa chết ở tiểu tướng thuộc hạ tiên phong của hắn, còn trẻ tuổi mà có tầm nhìn tinh tế, suy nghĩ đâu ra đó như vậy, rút bừa một người từ Dương gia nhị lang ra quả nhiên là nhân tài, thực không biết Lão Dương cả ngày chuẩn bị chiến trận luyện binh, ban đêm thì lo đào tạo người, làm gì có nhiều thời giờ mà dạy con cháu kiệt suất thế này, dự tính có đến tám chín phần là thái quân Chiết lão, đợi cho cháu con lớn chút, không bằng để cho Dương phu nhân này giúp đỡ giáo huấn một tay, không phải nói là con không dạy bảo. Nuôi ở thâm cung từ nhỏ, không đủ đứng dậy vì thiếu cứng rắn.

Dương Hạo vừa nghĩ vừa vỗ vào vai của Dương Diên Huấn nói: “Nhớ lấy nhé, ngọn núi này là doanh trại của ngươi. Dưới núi là dòng Trọc Lãng xuyên xuôi về phía tây, đều là lãnh thổ của Hạ quốc ta, tên nào xâm phạm cho dù là người Liêu hay người Tống thì vẫn phải đối xử bình đẳng. Nếu như bọn họ chọn cách gây hấn thì cũng không được nhường nhịn, ăn miếng trả miếng”.

Lời nói đầy đủ sức mạnh, Dương Diên Huân tuy rằng văn võ song toàn, nhưng dù sao tuổi cũng còn trẻ, vừa nghe những lời này vui mừng vô cùng, rồi ngay lập tức nghiêm mặt nói: “Thần, tuân chỉ”.

Dương Kế Nghiệp cảm thấy hơi bất an nói: “Thánh Thượng, thần khi ở Hán quốc biết rõ tập quán của người Liêu, người Liêu luôn ngang ngược kiêu ngạo, cho dù có phụng theo chiếu của Hán quốc thì cũng vênh mặt hếch hàm sai khiến, không ai bì nổi, nếu như bọn chúng có cử chỉ gây hấn gì đó, chưa chắc đã có dã tâm gây chuyện, Khuyển Tử trẻ tuổi khí thịnh, Thánh Thượng cho hắn một ý chỉ, ngộ nhỡ có ác cảm với người Liêu…”

Dương Hạo liếc mắt nhìn hắn hỏi: “Sao vậy?”

Dương Kế Nghiệp do dự giây lát, hạ giọng nói: “Giờ tuy người Tống chạy về đông Hoành sơn, nhưng dựa vào thực lực mạnh của Tống quốc thì cho dù có bị tổn thương nguyên khí, muốn cản trở lòng tham người Tống, Thánh Thượng còn cần mượn thế người Liêu, cái gọi là sâu đo, muốn lòng tin, thế của long xà tồn trong người. Lần này thực không nên sinh sự với người Liêu”.

Dương Hạo mỉm cười, lững thững đi đến nói: “Mượn thế ư, rõ ràng mượn thế mà ngầm mượn thế, thật giả lẫn lộn, có vài người như con lừa vậy, đánh không đi, kéo không lui, người phi thường phải dùng cách phi thường, đối với con lừa Da Luật Hưu thì không cần phải khách khí”.

Dương Kế Nghiệp đứng đó người méo mó, Dương Diên Huấn chau mày nghĩ ngợi gì đó, rồi sau đó nói với Dương Kế Nghiệp: “Cha, Thánh Thượng đang nói gì vậy?”

Dương Kế Nghiệp than: “Sâu xa khó hiểu, cha cũng không hiểu nữa”.

Dương Diên Huấn cười nói: “Thế cha cười gì vậy, nhi còn tưởng là cha đã hiểu rồi cơ”.

Dương Kế Nghiệp nhếch mày: “Cha cười là vì phát hiện ra Thánh Thượng gần đây có thêm vài cái tật”.

“Tật gì cơ ạ?”

“Đặt tên hiệu cho người ta…”

***

Thành Đô đã bị chiếm đống, Triệu Quang Nghĩa cũng không thể coi như không quan trọng, nhưng phái người nào đi Tây Xuyên bình định, chủ tướng này chọn thực là hao tâm tổn sức, đương nhiên ý hắn là La Khắc Địch, song hắn có cảm giác từ Phan Mỹ, Đảng Tiến, Tào Bân trước triều lão thần cấu kết đảng phái với nhau, làm gì dám phái La Khắc Địch ra.

Hà Kế Quân, Lý Kế Quân, Triệu Tán, Vương Toàn Bân… họ đều là những danh tướng, tiếc là, hai năm nay những vị lão tướng này như thi chạy đua. Ai nấy đều đi tây thiên cả. Đảng Tiến ư? Lão già này đánh thì cũng có thể đánh, nhưng… giờ Phan Mỹ dẫn binh ở ngoài, rồi lại cho Đảng Tiến một đại quân rồi cũng đánh hắn ra ư? Quân trung mau chóng chịu Ba Thục, lão tam Triệu Quang Mỹ giờ đang ở phủ Trường An đấy thôi, ngộ nhỡ mấy lão thần này…không được, tuyệt đối là không được.

------***------

Triệu Quang Nghĩa suy tư nghĩ ngợi, cảm thấy Thôi Ngạn Tiến cũng không tồi, nhưng chủ ý này vừa mới xuất hiện trong đầu hắn, chẳng đợi đến cầm được kim điện bàn bạc thì đã bị Tống kỳ, trình vũ cả gan đánh cho đòn phủ đầu, còn nhớ năm đó binh tiến Tây Xuyên thần thủ công chính là Vương Toàn Bân và Thôi Ngạn Tiến, hai người này không chỉ có thể đánh mà còn có thể được coi là những người biết rõ về địa hình núi non Thục Quốc.

Tuy nhiên dân chúng Ba Thục giờ kỳ thị người Tống như vậy, nhiều lần tạo phản, nguyên nhân trực tiếp ảnh hưởng đến không phải là vì sưu thuế của Ba Thục quá cao, và cần biết rằng thời điểm sưu cao thuế nặng sớm có ở Thục quốc nhiều như vậy, Tống quốc chiếm lĩnh được Ba Thục chỉ là cố ý tỏ vẻ hồ đồ, không đối đãi như những địa phương khác, người Thục vì vậy nhiều lần tạo phản.

Vương Tào Bân người Thục đốt giết đánh cướp rồi lại bắn được hơn vạn, từ đó về sao tạo thành thù sâu với người thục, điều này mới là phản ứng trực tiếp của người Thục nhiều lần tạo phản, giờ Vương Tào Bân chết rồi, Thôi Ngạn Tiến có thể làm phó tướng của năm đó, nếu như phái Thôi Ngạn Tiến đi Tây Xuyên thì không phải biến thành người bên cạnh người Thục tạo phản hay sao?

Triệu Quang Nghĩa nghĩ ra một đạo lý, cuối cùng đành phải chọn ra đại tướng Hách Sùng Tín làm chủ soái, Vương Chính Trung là tiên phong, rồi lệnh cho Trình Vũ là giám quân, lệnh năm vạn cấm quân tiếp tế tới các lộ Tây Xuyên, không ngừng giết về phía Tây Xuyên

Chiến sự Tây Xuyên tột nhiên cấp bách, không chỉ đơn giản là hai mặt dụng binh như vậy, Liêu quốc khi chiến sự Tống Hạ đang khốc liệt bỗng nhiên được tăng binh, tất có ý đồ cả. Triệu Quang Nghĩa một khi có điểm nào đó không rõ, cuộc chiến Hoành sơn e rằng sẽ khó mà gác lại được, nhưng Tống quốc vừa mới nếm mùi chiến bại từ quân Hạ, nếu như lần này hành quân lặng lẽ thì làm sao còn mặt mũi gì với thiên hạ? Càng khó tránh khỏi để cho láng giềng coi kinh cho, dù có thế nào cũng phải quyết tâm đánh một trận.

Thái độc của Tào Bân trên triều khiến Triệu Quang Nghĩa cảnh giác, đổi tướng trước trận là tối kỵ, huống hồ lần này Phan Mỹ dẫn binh ra ngoài, đại quyền đang nắm. Triệu Quang Nghĩa bỏ đi ý niệm vốn có, hạ chỉ nghiêm khắc tránh cứ vkan một trận, cách chức giám quân, vẫn phản hà bắc nhậm quan sát sứ, bỏ Tống Kỳ nhậm giám quân, hắn vốn muốn điều Quách Tiến phụ trách Lân phủ, tình hình Nhạn Môn quan vô cùng khẩn cấp, phái lão tướng định quốc tiết độ sứ Tống Ác nhanh chóng tới Lân phủ, nhưng thực ra là cần hắn tiết chết tây bắc sáu lộ biên quân, phân thế với Phan Mỹ.

Tình hình như thế này, chiến cục tây bắc tiến triển như thế nào thì khỏi nghĩ cũng đã biết, dù thế nào đi nữa, ít nhất hai chân Lân Phủ đã rơi vào túi Triệu Quang Nghĩa, rất có thu hoạch, nếu không phải là hắc xà lĩnh mất đi sáu vạn đại quân, bị dồn thảm hại cho đến tận bây giờ, thì trận chiến này còn có thể làm cho hắn mở mày mở mặt.

Người bắc hung hãn, so sánh còn xa với người nam Nan Địch, năm đó thái tổ hoàng đế chinh chiến bắc hán, mấy vạn binh mã bắc hán, mấy tòa thành bị phá hủy đều có thể khiến hắn không công mà lui, Triệu Quang Nghĩa tự hỏi lòng mình lần này dụng binh tây bắc hay là công đại qua được, giờ những điều mà hắn nghĩ chỉ là kết thúc được trận chiến này mà thôi, nếu như bàn đến thực lực quốc gia, hắn không tin Hạ quốc đất đai cằn cỗi mới thành lập lại có thể vượt được Đại Tống hắn.

***

Hương khói nghi ngút ở Sùng Hiếu am.

Sùng Hiếu Am chính là một tòa miếu có tiếng, hơn nữa nằm ở chỗ tây giao, không phải là nơi phồn hoa náo nhiệt như biện lương, cho nên điện vũ khổng lồ chiếm diện tích rộng, tuy nói đây là ni cô am, tăng chúng không kịp đại tướng quốc tự, người xuất gia là nham nhân thành tăng lữ vô số, nhưng Biện Lương có trăm vạn nhân khẩu, một con số khổng lồ, ở đây ni công trong am nổi tiếng này cũng có không ít đệ tử.

Đây vốn có một nữ ni tu hành và một đệ tử tục gia một trăm năm mươi năm, từ đó Vĩnh Khánh công chúa ở đây xuất gia tu hành, triều đình có chăm chút sửa chữa lại, trùng tu miếu thờ, rồi làm kim thân, hương khói ở đây ngày một nghi ngút, nữ ni tới đây cắt tóc đi tu cũng ngày một tăng lên, giờ con số đã có hai trăm tám mươi người.

Lúc này đang có đại thí chủ của Sùng Hiếu Am đến thắp nhang.

Tiếng trúc ngoài am, luồng không khí mới mẻ vô cùng nồng, trong am, am chủ Định Như đại sư cũng chính là hai vợ chồng già mà công chúa Vĩnh Khánh đích thân tiếp kiến rồi tiến đến dâng hương. Hai người này này là Cao viên ngoại Hòa Cao phu nhân, hai vợ chồng đều là tín đồ của Phật môn, dù đi đâu, hai vợ chồng già đều tay trong tay lần tràng hạt tử đàn, xưa nay sửa cầu làm đường cứu tế quê nhà, nổi tiếng là người lương thiện.

Hai người Cao Viên ngoại phu nhân là hộ pháp thí chủ của đại tướng quốc tự, từ khi công chúa tới Sùng Hiếu Am, đây chính là cành vàng lá ngọc, thân phận có thể so sánh với sức hiệu triệu của Phật tổ, từ đó hai vợ chồng già thường xuyên tới lui Sùng Hiếu Am làm nơi thánh địa Phật môn để lễ Phật thăm viếng. Mỗi lần trở về, hai vợ chồng đưa đồng tiền đắt giá, tín chúng hào phóng như vậy là những nhân vật mà đệ tử Phật môn luôn coi trọng, Vĩnh Khánh với thân phận là công chúa, giờ đã thành am chủ của Sùng Hiếu Am, vợ chồng Cao viên ngoại có cống hiến rất lớn với am này, đó là những tấm lòng đáng coi trọng.

Lúc này, Định như tiểu sư thái ở trong phòng chờ, tiếp vợ chồng già. Thân phận Vĩnh Khánh chỉ có khi trong cung thì có cung nữ hầu hạ nàng, lúc này sau khi đã xuống tóc. Khi Vĩnh Khánh vừa mới đến Sùng Hiếu Am, Triệu Quang Nghĩa còn bảo Hoành thành ti ngầm theo dõi động tĩnh của Sùng Hiếu Am, nhưng nguyên nhân chính mà Hoành thành ti vẫn không biết, họ chỉ lo đến sự an toàn của con cháu họ hàng Quan Gia.

Nhưng họ chỉ có thể phái vài người hoạt động mọi nơi ở Sùng Hiếu Am, trong am chú ý động tĩnh của những người khách lui tới, chẳng có cách nào tiến thêm một bước, nắm bắt nhất cử nhất động của Vĩnh Khánh. Hai ba năm trôi qua, Sùng Hiếu Am chưa bao giờ có chuyện gì xảy ra, Vĩnh Khánh vốn là nữ nhi, Triệu Quang Nghĩa kiêng nể nàng có hạn, thả lỏng quản chế, giờ Hoành thành ti cũng đã ít phái người đến Sùng Hiếu Am thăm dò.

Vĩnh Khánh mặc bộ quần áo tăng ni, tóc không còn trên mái đầu của nàng nữa, mang khí sắc Phật môn đắc đạo cao nhân, vợ chồng Cao viên ngoại là hai người hiền lành, khí độ ung dung, vẻ mặt ôn hòa, cũng là đôi vợ chồng cư sĩ ngồi không ở nhà nhiều năm, những người như vậy tới Phật môn, nói về lý chính là trải qua nghĩa giáo mới đúng, song nếu có người giờ nghe đối thoại của ba người họ, nhất định sẽ giật mình kinh ngạc…

“Cao viên ngoại, giờ ta tình nguyện nhận sự viện thủ của ngươi”.

Cao viên ngoại tóc trắng xóa vui vẻ lộ rõ trên nét mặt nói: “Công chúa đồng ý ư? Thế thì tốt rồi, tốt rồi, thảo dân ngay lập tức…”

“Từ đã, ta còn có chuyện muốn ngươi đồng ý thay ta làm”.

Thần sắc Cao viên ngoại bỗng chốc lặng đi, công chúa muốn hắn giúp làm chuyện gì vậy, liệu có dễ làm không đây? Cao viên ngoại chần chừ chưa dám gật đầu đồng ý, hỏi lại: “Không biết công chúa có điều gì muốn nhờ?”

Vĩnh Khánh từ từ nói: “Đệ của ta Đức Phương tuổi đã tròn mười sáu, ta muốn ngươi phát động lực lượng của ngươi, tạo ra thanh thế, bức Quan Gia phong vương”.

Cao viên ngoại kinh ngạc nói: “Phong vương ư? Công chúa đã đồng ý sự sắp xếp của thảo dân rồi, hà tất còn lo lắng đến vương tước? Điều này…”

“Ý đồ của bổn quan, ngươi không cần quan tâm, đây là điều kiện duy nhất của ta, chỉ cần các ngươi làm tốt, thì ta sẽ làm theo lời ngươi nói”.

Cao viên ngoại và phu nhân liếc nhìn nhau, vuốt chòm râu trầm ngâm: “Được, thảo dân đồng ý, song…có phong vương hay không, thì do bề trên, thảo dân không dám bảo đảm…”

Vĩnh Khánh khẽ nhíu mắt, cười nói: “Ngươi yên tâm, người đó cả đời có chí nguyện làm Lý Thế Dân thứ hai, không chỉ có mục tiêu làm Lý Thế Dân về văn võ chính trị, mà còn mong mình cũng có thể giống với hình dáng của Lý Thế Dân, để cho người đời sau chỉ nhớ đến điểm tốt của hắn, không nhớ đến quá trình. Nếu các ngươi có thực như những gì ngươi nói, có lực lượng hùng hậu như vậy thì chỉ cần ngươi phát binh sĩ thân công khanh, tạo thanh tạo thế, hắn sẽ không thể không đồng ý, thanh thế này hắn cũng sẽ phải chú ý đến”.

“Được!” Cao viên ngoại nhớn mày nói: “Chúng ta sẽ cố hết sức, chỉ mong kết quả sẽ như dự liệu của công chúa”.

Vợ chồng Cao viên ngoại đi ra, Vĩnh Khánh đứng ở dưới hành lang, chắp hai tay vái chào về hướng vợ chồng Cao viên ngoại rời đi, một lúc lâu sau, nhắm nghiền mắt, mở mắt nhìn một nữ nhân đang quét tuyết trong sân, nàng mặt một áo bào màu tro, lộ ra chút tóc ở mũ tăng, rõ ràng là thân phận nàng: Đây là tam bảo, đệ tử của Trì giới.

Vĩnh Khánh lặng lẽ nhìn theo bóng nàng, mở miệng gọi: “Đinh Ngọc, dọn trà của bần ni trong phòng”.

Nữ tử thanh tú đang vùi đầu quét tuyết nghe tiếng ngẩng đầu, khẽ mỉm cười, buông chổi, dẫm lên tuyết đi lại phía

-----oo0oo-----

: Tây Hạ Vương

 Chương 55: Người nào người nấy đều tính toán 

Đó chính là tục gia đệ tử Đinh Ngọc tiến vào am đường. Vĩnh Khánh cũng đi theo vào, tiện tay đóng cửa phòng lại.

Đinh Ngọc dường như biết nàng gọi mình vào không phải là để thu dọn chén trà cho nàng, vừa vào phòng, liền xoay người nhìn về phía nàng, trên mặt nở một nụ cười nhạt: “Điện hạ có thể đã đồng ý kế hoạch của tại hạ rồi sao?”

Vĩnh Khánh khẽ gật đầu: “Đúng vậy”.

Đinh Ngọc vui vẻ nói: “Được, thế thì ngay lập tức ta sẽ đi sắp xếp vì điện hạ”.

“Từ đã”.

Vĩnh Khánh gọi nàng lại nói: “Không chỉ ta và Hoàng đệ phải đi, hẫu hậu của ta cũng rời khỏi cùng”.

Đinh Ngọc ngạc nhiên nói: “Hoàng hậu nương nương ư? Sợ rằng…thâm cung đại nội, phải mang Hoàng hậu nương nương ra, sợ rằng không hề dễ dàng đâu”.

Vĩnh Khánh nói: “Nếu như mẫu hậu của ta đến Sùng Hiếu Am thì sao đây?”

Đinh Ngọc trầm ngâm nói: “Nếu như vậy, đương nhiên là dễ hơn chút so với trong cung, nhưng…cho dù Hoàng hậu nương nương giờ không phải là thống soái lục cung, mẫu nghi thiên hạ giờ là Hoàng hậu, một khi xuất cung, tất cũng sẽ được đón chào long trọng, còn chúng ta thì coi như có thể cướp được nương nương ra, thậm chí ra khỏi thành Biện Lương, lần này đi Hà Tây, núi cao đường xa, muốn thoát thân khỏi quan binh cũng không phải dễ dàng gì. Nếu như thực hiện được kế sách đưa công chúa và Đức Phương hoàng tử đi, chỉ cần bỏ ra một hai ngày, hy vọng thành công sẽ là nhiều nhất”.

Nói đến đây, Đinh Ngọc cẩn thận nói với Vĩnh Khánh: “Chủ của ta dù đã lập vương xưng đế, thực sự là bất đắc dĩ mà thôi, kỳ thực hắn luôn không quên đi được ân đức của tiên đế, không thể quên được sự quan tâm chăm sóc của nương nương và công chúa đem lại cho hắn, chủ ta sắp xếp chúng ta mai phục kinh sư chính là mượn cơ hội cứu lấy công chúa và Hoàng tử Đức Phương ra, làm tròn nghĩa vụ báo đền công ơn của tiên đế nương nương và điện hạ.

Lòng dạ của đương kim Thánh Thượng hẹp hòi, bán tính bán nghi, Hoàng tử Sài Thị trước triều, phế đế Thục quốc Mạnh Thị, phế đế Nam Đường Lý Dục, tiên đế và hoàng huynh Đức Chiêu của công chúa, người nào người nấy chết một cách kỳ quái, nói ra phía sau còn có nhiều câu hỏi, hành động đó nghi là do đương kim Thánh Thượng sai người làm, giờ Nhị hoàng tử đã trưởng thành rồi, sợ rằng sự đố kỵ của đương kim Thánh Thượng lại nổi lên, sớm muộn thì vẫn là thuộc hạ của hắn, muốn cứu Hoàng tử ra đó là chuyện khó như lên trời, nếu như lại cần nương nương đồng hành thì đó là điều không thể được. Vì tính an toàn của kế hoạch, vẫn là mời công chúa xóa đi chủ ý này, đương kim Thánh Thượng thích danh dự, chẳng dễ dàng để cho người ta nói này nói nọ đâu, và sẽ không làm chuyện gây bất lợi cho hắn…”

Vĩnh Khánh chặn ngang lời nàng nói, quả quyết: “Nếu như mẫu hậu không thể rời khỏi, Vĩnh Khánh và Hoàng đệ Đức Phương cũng sẽ không đi. Nếu như Đinh cô nương không làm được việc này thì giữa ta và ngươi không còn gì để nói nữa, ngươi có thể đi được rồi”.

“Công chúa”.

Vĩnh Khánh xoay người bước đi, Đinh Ngọc vội gọi với theo, cúi đầu trầm tư giây lát. Khẽ nhún chân nói: “Công chúa thực là người khó khăn, thôi vậy, ta đồng ý với ngươi là được chứ gì, chỉ là vì trên đường đi thế này không thể thiếu gió thiếu mưa thiếu đổ máu, kế hoạch đã định ra đều phải lật ngược được vấn đề, sự việc vô cùng quan trọng, công chúa còn muốn ta cân nhắc cẩn thận lại lần nữa, rồi mới chuẩn bị cho tốt”.

Vĩnh Khánh xoay người đi, mặt dịu đi nói: “Đó là điều tự nhiên mà thôi, ta muốn không dẫn đến tình hình ngờ vực vô căn cứ như sáng nay đưa nương nương và Hoàng đệ tới Sùng Hiếu Am cũng cần chuẩn bị rất nhiều, các người tự lo việc thương lượng, nghĩ kế sách vẹn toàn ra mới đáp ứng được”.

Đinh Ngọc cười méo mó nói: “Kế sách vẹn toàn ư? Hic, tại hạ cố gắng làm hết sức mình”. Nói rồi chắp tay về phía Vĩnh Khánh rồi vội vàng bước đi.

Đinh Ngọc vừa quy y tam bảo là thân cận nhất, đệ tử tục gia Trì giới, nghe nói nàng là một phụ nhân ở góa, vốn mở một tửu phường mưu sinh ở đường Đông Thập Tự, ai biết được lại bị một thái úy trong cấm quân nhìn thấy tư sắc của nàng đem lòng thích thú thường xuyên đến quấy rầy. Nhiều lần, tên thái úy đó tìm đến trước của gây náo loạn cả lên, nàng là một phụ nữ bình thường, làm sao có thể chống đối lại quan lại người ta, đành vội vàng từ bỏ buôn bán, lâm vào đường cùng, cắt tóc xuất gia.

Đây chỉ là cách nói công khai của nàng ra bên ngoài, còn về phần thân phận của nàng như thế nào thì không nói cho người ngoài biết, tối thiểu công chúa Vĩnh Khánh cũng biết nàng tuyệt đối không phải là một dân nữ bình thường, mà là người Hà Tây Dương Hạo phái đến kinh thành mai phục, thân phận này của nàng, Vĩnh Khánh chắc chắn sẽ không làm lộ thân phận của nàng ra với người khác.

Nhìn theo Đinh Ngọc đi ra, Vĩnh Khánh khẽ thở phào, rồi chậm rãi đi vào gian trong, trên bàn trong phòng, tượng Quan Âm, là linh vị của Đại Tống thái tổ Hoàng đế Triệu Khuông Dận, Vĩnh Khánh cầm lấy một nén hương, châm vào nến, rồi cắm hương vào lư hương, chắp tay hành lễ.

Phía sau, nữ ni Lâm Nhi bưng cơm nước bước vào đứng ở đằng sau nàng, Lâm Nhi thấy vậy cũng hành lễ trước tượng Quan Âm và linh vị của thái tổ, bái lễ xong nàng đứng dậy rồi mới khẽ nói với Vĩnh Khánh: “Công chúa, người… đồng ý họ rồi sao?”

Vĩnh Khánh từ từ xoay người lại. Ngữ điệu hơi trầm xuống nói: “Ta đã nhìn thấu rồi, sau khi phụ hoàng băng hà, người nhà chúng ta chỉ đắc mặt cho người ta định đoạt. Đương kim Quan Gia hậu đãi chúng ta chỉ là để cho thiên hạ thấy như vậy, kỳ thực, chẳng qua chỉ là lợi dụng chúng ta mà đạt được thiên hạ, lừa thiên hạ mà thôi. Cao viên ngoại cũng tốt, Đinh Ngọc cũng thôi, thế lực đằng sau họ cũng là vì tạo lợi ích chúng ta. Hừ, bọn họ có thể lợi dụng chúng ta, ta tại sao lại không lợi dụng họ?”

Lâm Nhi kinh ngạc nói: “Lợi dụng họ ư?”

Vĩnh Khánh cười lạnh lùng, bàn tay trắng ngần nắm chặt lại, hơi rung động nói: “Không sai, sáng nay đã bàn lâu rồi, tác dụng của người nhà chúng ta dần dần ít đi. Huynh đệ Đức Phương ta giờ cũng đã lớn, thành niên rồi, và cũng được coi là cái đinh trong mắt đương kim Thánh Thượng, ta lo là…hắn sớm muộn sẽ bị kẻ gian hãm hại. Ta là tỷ tỷ của hắn, phải giúp hắn tính toán mọi chuyện cho chu toàn, trong mắt vài người cho rằng có thể thao túng vận mệnh nhà ta, Vĩnh Khánh ta, dù thế nào đi nữa vẫn là tiểu công chúa, nhưng…ta cũng sẽ lớn lên… có phải không?”

Trong thiên điện cuối cùng của Sùng Hiếu Am có một nữ ni đang ở bên giếng gánh nước lên rửa mặt, mặt nước của giếng kết lại băng, nếu như không cẩn thận sẽ bị ngã vỡ đầu, nếu như may mắn không đến được thì sẽ bị rơi luôn vào trong giếng, nếu như không ai nhìn thấy thì mạng cũng chẳng còn, người xuất gia phẩm trật tương đối cao sẽ không làm loại công việc tốn sức này.

Nữ ni này vừa đến không lâu, hơn nữa còn là một người câm. Nàng đến am trú, đến ngôn ngữ cũng chẳng nói ra được, chỉ có thể hoa chân múa tay, vốn biết khách tăng đuổi nàng đi, vẫn kiên trì đợi Định Như sư thái thấy nàng đáng thương lại thiện tâm, liền giữ lại. Người ở thiên điện đều là những lão hành khất lưu lạc đầu đường xó chợ ẩn náu qua mùa đông rét mướt, chủ trì sư thái thu dụng họ, chỉ định họ ở thiên điện, không được tùy tiện đi lại lung tung, trong am phái mấy tiểu ni đến chăm sóc cho họ, nữ ni câm này cũng là một trong số đó.

Nhấc thùng nước lên rồi lại hạ xuống, rồi cẩn thận xách thùng nước bước xuống thềm đá, nữ ni câm bỗng nhiên dừng chân, phía sau nàng không biết tự bao giờ lẳng lặng có một ni cô đứng đó, đó chính là Am chủ Định Như đại sư ở đây, Vĩnh Khánh công chúa con gái ruột của Đại Tốngthái tổ Hoàng đế Triệu Khuông Dận.

Xung quanh không một bóng người, Vĩnh Khánh chăm chú nhìn nữ ni câm, rồi hỏi: “Vết thương của ngươi…đã khỏi rồi sao?”

Nữ ni câm khẽ gật đầu, mùa đông khắc nghiệt, hai tay thò ra ngoài run rẩy lạnh buốt, sau một lúc thì đỏ tím lại, đặc biệt là đôi tay khi nhúng phải nước, nhưng tay nàng lại ngoại lệ.

Đôi mắt Vĩnh Khánh nhìn xuống tay của nàng, tay nàng và dung nhan thanh tú thực không tương xứng, đôi tay to hơn tay của phụ nữ bình thường gấp đôi, da thì thô ráp, nhưng màu da của đôi tay thì không biến đổi gì cả, dù những chỗ chạm phải nước đang có nhiệt khí tràn đến dường như bị đốt trước cửa lò.

Vĩnh Khánh hài lòng gật đầu khẽ nói: “Thế, ngươi ở đây kiên trì chờ đợi, sự việc đã có vài manh mối rồi”.

Nữ ni câm mở to đôi mắt khiến người ta không dám nhìn gần: “Khi nào, nơi nào?”

Nữ ni câm không ngờ có thể mở miệng nói chuyện, song nàng cố gắng đè giọng nói xuống khàn khàn giống giọng người con trai.

Vĩnh Khánh nói: “Có lẽ là một tháng, có thể là nửa năm, giờ ta không thể nói chính xác thời gian, nơi nào, song chỉ ở Sùng Hiếu Am”.

Nữ ni câm khẽ chớp mắt, đồng tử thu nhỏ lại như châm chọc, nàng khẽ gật đầu, không nói gì thêm, hai tay cầm lấy thùng nước nhấc lên, có vẻ mất sức rất nhiều, cơ thể mong manh yếu ớt cố xách nó đi xuống dưới bậc thềm…

Khi Phan Mỹ đưa tấu biểu cho Quan Gia, dự đoán sẽ bị chịu nghiêm trị đã cuốn gói chuẩn bị rời đến Lĩnh Nam an dưỡng tuổi già, không ngờ tHánh chỉ Quan Gia vừa truyền xuống, thì đã giáo huấn chửi cho mất mặt tên Vương Kế Ân, cách chức giám quân của hắn, đuổi về hà bắc chuyên việc lương thảo với Quách tiến và Lân Phủ đồn trú.

Một viên thống soái làm tổn thất binh lực rồi trở về như lần này của hắn không chỉ bị trách phạt ngược lại còn được khen ngợi về tính chính xác trong việc lui binh, khen ngợi và khuyến khích rất nhiều, làm hắn ổn định đầu trận tuyến, còn tập hợp lại, đánh cho vài trận lớn, chiếm lấy ưu thế hơn Hạ quân. Phản ứng như vậy của Quan Gia, Phan Mỹ thấy thực ngoài suy nghĩ, mãi mới biết được do Tào Bân bênh vực hành động của hắn, Phan Mỹ cảm kích vô cùng, có ý tìm vài cô nương xinh đẹp ở Hắc Xà lĩnh dâng lên bày tỏ lòng biết ơn với Quan Gia và tào khu mật.

Giám quân mới đến Tống Kỳ cũng là một thân tín của Quan Gia, dù sao cũng có khinh miệt với Vương Kế Ân và Phan Mỹ, dù sao cũng là xuất thân từ nội hoạn, còn Tống Kỳ thì đường đường chính chính là tiến sĩ đỗ hai bảng, hơn nữa khi Quan Gia còn ở Tiềm Để thì cũng là một nhân vật được trọng dụng, Phan Mỹ cũng không dám thất lễ với hắn. May mà người này tuy không hiểu quân sự, song chưa bao giờ nói nhăng nói quậy về chuyện quân sự này, điều binh khiển tướng tất tật đều giao cho Phan Mỹ làm.

Định quốc tiết độ sứ Tống Ác mới đến cũng là một lão tướng trải qua rất nhiều trận chiến, dụng binh tuy không bằng Phan Mỹ, song cũng không dễ để qua mặt, tuy nói người này quân giới địa vị không kém hơn hắn, song chỉ huy không tốt, Tống Ác lần này đến, chủ yếu là khống chế sáu lộ Ninh Hoa quân, Tấn Ninh quân.

Tình hình như vậy, Phan Mỹ cũng được coi như là có chút chiến tích, bị đám người tướng Hạ Mộc Ti, Biên Nhất Lang, Hàn Kiên, Lý Tòng Long chiếm mấy bảo trại tuyến tây Hoành sơn rồi bị hắn đoạt trở về, song sau khi tiến vào Hoành sơn, chiến sự không thuận lợi như thế nữa. Hoành sơn lợi dụng địa thế hiểm trở, hai quân Tống Hạ ban đầu xây dựng thành lũy bảo trại với một lượng lớn, Hạ quân bại lui quân, Tống quân khi trấn thủ Hoành sơn đã nhiều lần tiến vào tu sửa, giờ Hạ quân lợi dụng kế đoạt về Hoành sơn, thành lũy bảo trại kiên cốày nhiều lần được tu sửa.

Hơn nữa, vào mùa đông băng giá chuyện hành động cũng bị bất tiện rất nhiều, muốn phát binh tấn công là chuyện không phải dễ dàng, Tống quân nhiều lần phát binh tấn công ào ạt, nhưng sau chuyện bị thất bại tám vạn đại quân, binh lực hai châu Lân Phủ hợp lại cũng vô cùng có hạn, cho dù Phan Mỹ có đích thân dẫn binh không ngừng phát động chiến dịch, thì hiệu quả cũng vô cùng nhỏ, chân vẫn bị dừng ở chân núi, tình hình như vậy, Phan Mỹ hợp với giám quân Tống Kỳ, phó soái Tống Ác bàn bạc kỹ lưỡng xong xuôi quyết định tạm thời dừng tấn công chờ cơ hội.

Trước mắt Triệu Quang Nghĩa vì các lão thần của triều trước vẫn đang chia bè rẽ phái, loạn dân Tây Xuyên phản loạn càng thêm nghiêm trọng kéo hắn phải lùi bước, chiến sự Hoành sơn Triệu Quang Nghĩa cảm thấy rất đau đầu, đánh cũng không được mà không đánh cũng không xong, mắc kẹt. Nhưng Dương Hạo vốn là một Tống thần tự lập quốc xưng vương, điều này là điểm mấu chốt nhất, Triệu Quang Nghĩa dù thế nào đi nữa cũng không thể dễ dàng tha thứ cho hành vi này được.

Cho dù hắn giờ vô lực tây tiến tiếp, hành vi châm biếm cũng là việc làm cần thiết, có thể đánh hay không là một chuyện, có thái độ như thế nào là chuyện khác. Tống Kỳ là thân tín của Triệu Quang Nghĩa, hiểu rất rõ suy nghĩ của hắn, nhưng vào mùa đông nước đóng băng thực sự không dễ phát binh tấn công cho nên hắn cũng tán đồng ý kiến tạm dừng tấn công.

Sau khi thương lượng phân tích cẩn thận với Phan Mỹ và Tống Ác rồi bẩm báo với triều đình, Tống Kỳ lại cầm bút bẩm báo công khai lên triều đình, trong đó có chuyện miêu tả khuếch trương Tống quân chuyển bại thành thắng như thế nào, đoạt được mấy toàn bảo trại tuyến đông Hoành sơn, chiến tích đuổi Hạ quân về Hoành sơn, nó được coi là chuyện che đậy khuyết điểm thất bại của Quan Gia lần này dụng binh tây bắc.

Triều đình đã chép lại bản tấu biểu của Tống Kỳ ra làm nhiều bản rồi công bố cho thiên hạ biết. Song vào lúc này Dương Kế Nghiệp nhiều lần phát binh tấn công, dựa vào địa lợi mà làm cho quân Tống đau đầu nhiều lần, rồi lại bị triều đình coi nhẹ, sự lựa chọn này của triều đình, Hắc Xà lĩnh đại bại tạo nên sức ảnh hưởng dần biến mất, đứng ở lòng dân mà nhìn, triều đình vẫn còn dư lực để đánh Hoành sơn, song vì thời tiết lạnh giá nên tạm thời cho binh nghỉ, nếu như không đứng ở con mắt của người dân thì rất nhiều quan lại các cấp thấp cũng có thái độ vui mừng như này.

Cũng vào lúc này, Liêu quốc xuất binh thẳng tới trước doanh hai nước Tống Hạ, cũng khiến cho triều đình Tống quốc vô cùng mẫn cảm, Triệu Quang Nghĩa đích thân gặp Liêu quốc sứ tiết hỏi về ý đồ xuất binh tây bắc của Liêu quốc khi Tống Hạ đang giao tranh, Liêu quốc tiết sứ sớm đã được sự dặn dò ở thượng kinh, lập tức đưa ngay ra câu trả lời: cuộc chiến của hai nước Tống Hạ là giữa láng giềng với nhau, Liêu quốc có quyền bảo đảm cho sự an toàn của quốc dân và quốc đất, phái binh trấn thủ biên giới, quan tâm đặc biệt tới tiến triển cuộc chiến giữa hai bên.

Câu trả lời không đến nơi đến chốn như vậy sao có thể để cho người ta hài lòng được, hai nước vì thế cũng vì đánh chiến qua lời nói, đó cũng chỉ là sự kiêng kỵ lẫn nhau, cho nên còn cần phải kiềm chế lại, chưa đến mức độ nghiêm trọng lắm. tình hình này, hai nước Tống Hạ tạm thời bảo trì thế giằng co về mặt quân sự, Tống Liêu thì tạm thời bảo trì thế giằng co ở thế ngoại sự, tình hình Hà Tây mong rằng sẽ bước vào thế cân bằng tế nhị.

Nhưng thế cân bằng tế nhị này rất nhanh chóng đã bị phá bỏ. Nếu như không pahri là cửa khẩu Phong Đài giữa ba nước xảy ra chuyện ngoài ý muốn thì Triệu Quang Nghĩa lần này sẽ không phải đau đầu, tạm thời không kể đến thế giằng co của chiến cục Hà Tây, bình tĩnh lại giải quyết vấn đề loạn dân ở Tây Xuyên ngày một hung ác, đồng thời tiếp tục đề bạt những tướng lĩnh trẻ tuổi và trung tuần kết hợp với thủ đoạn tương đối hòa bình từng bước làm yếu đi sự khống chế đội quân của các lão thần triều trước, mà chuyện xảy ra ngoài ý muốn lại khiến cho Triệu Quang Nghĩa như nhìn thấy ánh mặt trời, hướng mắt nhìn về phía tây bắc.

8888

Nguyên nhân của sự việc rất đơn giản, thế giằng co ba núi Phong đài sơn, ở giữa là sơn cốc, lại có một con sông chảy xuyên qua cốc phân sơn cốc ra làm hai, con sông lớn này, Hà Tây là Hạ quốc, hà đông là Liêu quốc và Tống quốc, Tống Liêu dựa theo ngọn núi mà Tống quốc chiếm cứ làm ranh giới giữa hai nước. Giữa ba quốc gia được phân rạch ròi bởi con sông, bắt chước Định nan tiết độ sứ quản lý địa phận năm đó, địa phận quản lý của phủ châu chiết thị và địa phận quản lý của Liêu quốc ám chỉ ranh giới, như vậy giữa hai nước phần lớn có vài núi non và dòng sông lộ rõ làm biểu tượng, còn tuyệt đối không có mốc giới.

Thổ binh Liêu quốc sau khi đóng quân thì không có việc gì làm, ngày nào cũng đi săn bắt ngoài trại, có một lần đuổi được một con dê, chạy qua cả dòng sông Trọc Lãng đã đóng băng, đi vào lãnh thổ Hạ quốc, chuyện như vậy vô cùng bình thường, xuất phát từ sự cân nhắc tỉ mỉ thì rất ít người mạo phạm, Liêu quân đó sau khi bắt được dê thì quay trở lại doanh trại, không ngờ binh lính tuần tra của Hạ quốc tước vũ khí của họ mà không thu lại dê, sau đó giải họ tới ranh giới hia nước, chạy về phía đông con sông.

Đến lúc này như chọc vào tổ ong bò vẽ, người Liêu quốc nào có chịu thiệt thòi như thế, theo đức tính hung hãn kiêu ngạo của họ, nếu như không phải đội ngũ này và Hoàng đế Hạ châu cùng đánh qua Ngân Châu, giữa họ coi là có tình cảm hương khói, họ sớm không có chuyện tìm chuyện, lấn đến cả trên đầu người Hạ, giờ có thể tốt hơn, Hạ quân có dám chủ động khiêu khích hay không đây?

Thủ tướng Hạ quân Lại Đa Phúc dẫn người cHạy đến doanh trại Hạ quân chửi bậy một trận, Dương Diên Huấn tuy đã trả lại vũ khí săn bắt dê cho hắn, song cáo người Liêu không được xâm phạm vào Hạ cảnh. Đa Phúc không phải là chủ chịu thiệt, lúc đó thảo về đông tây quay đầu bước đi, nhưng trưa hôm đó sĩ binh Hạ quân đến Trục Lãng hà lấy nước, hắn lại dẫn hơn trăm thân binh xông đến đánh đấm, nói Trục Lãng hà này vốn thuộc về địa phận Liêu quốc, phía Hà Tây mới là của Hạ quân, dòng sông này chảy về hướng đông liên kết với dòng sông đều là lãnh thổ của Liêu quốc. Sĩ binh của Hạ quân bị đánh bầm dập mặt mũi, sau đó còn bị họ trói về, trong cái rét cắt da cắt thịt của mùa đông lộ ra những miếng thịt bị quất roi làm rách.

Lúc đầu Dương Diên Huấn từng hỏi Dương Hạo rằng, nếu như người Liêu có khiêu khích nên xử trí thế nào, lúc đó Dương Hạo đã nói cho hắn bốn chữ: Ăn miếng trả miếng. Lúc đó Dương Hạo còn cho rằng Dương Diên Huấn tuổi còn nhỏ song suy nghĩ rất sâu sắc, ai ngờ không phải là suy nghĩ của Dương Diên Huấn sâu sắc, thực sự là hắn vốn là tướng lĩnh Hán quốc, mà Hán quốc mỗi lần giao chiến với Tống quốc đều xin viện quân từ bên Hoàng đế Liêu quốc, người Liêu mỗi lần phái binh đến đều ức hiếp hết từ nam đến nữ, không chuyện ác nào không làm, ngời việc chưa giết người, những tai họa mang đến còn kinh khủng hơn cả Tống quân.

Là một tướng lĩnh Hán quốc, Dương Diên Huấn rất hiểu bản chất sự việc, thấy người Liêu đến, hơn nữa giữa Tống Hạ, người Liêu xuất binh dường như vẫn là đứng ở phía bên ta, vậy mới hỏi Dương Hạo về thái độ khi đối diện với người Liêu. Sau khi được câu trả lời của Dương Hạo, hắn thầm lo lắng, giờ người của mình bị người ta quất roi đau điếng, hắn là một chủ tướng, nếu như cứ nén giận như vậy thì làm sao có thể dẫn binh được nữa? Lúc đó nghĩ vậy liền dẫn binh đi cướp người, người tuy cướp được về, nhưng hai bên lại ngảy sinh mâu thuẫn dùng binh khí đánh nhau, mỗi bên chết vài người, sự việc này đã được làm um lên.

Đa Phúc mau chóng báo tin Hạ quân vô cớ khiêu khích gây chuyện cho bắc viện đại vương Da Luật Hưu Ca, mời đại vương đưa ra quyết sách, Dương Diên Huấn cũng ngay lập tức viết tường tận mọi chuyện rồi lệnh người mau chóng mang tới bẩm Thánh Thượng Dương Hạo. Thủ tướng Phong Đài quân Tống Nhạc Dương vốn đang sợ Liêu Hạ hợp binh gây chuyện bất lợi cho mình, vừa thấy song phương gây hấn với nhau hắn lấy làm vui mừng lắm, hắn tuy không tiện phái binh đánh trống, song bảo người đứng ở trên đầu trại doanh hét lớn mấy tiếng, để châm thêm lửa cho sĩ binh Liêu Hạ, bị châm ngòi song phương xung đột càng ngày càng kịch liệt hơn, Nhạc Dương rất đắc ý, liền bẩm báo tin hay ho này cho Phan Mỹ và giám quân Tống Kỳ.

Tống Kỳ không biết dụng binh, nhưng hắn là người tinh thông chuyện đời, hắn muốn biết sáng tỏ mọi chuyện. Hắn lập tức phát hiện ngay ra vấn đề nằm bên trong: giữa Liêu Hạ nếu như có thẻ vì chuyện này mà phát sinh ra tranh cãi, không chỉ là vấn đề giữa sĩ binh bên dưới, từ việc này có thể thấy rằng, Liêu Hạ chắc chắn không có liên minh ngầm nào cả, Liêu quân chẳng có thiện ý gì với Tống quân, còn sợ rằng cũng chẳng có bao nhiêu thiện ý với Hạ quân, chính như vậy, Hạ quân dương như không hoan nghênh Liêu quốc đến, nếu không thì đã giết thêm vài tên nữa, nghĩ theo đại cục, tướng lĩnh song phương cũng sẽ duy trì khắc chế, sẽ không dung túng cho bộ Hạ nảy sinh ý niệm đánh nhau bằng vũ khí, Tống Kỳ quan sát phát hiện ra điểm này, lập tức bẩm báo với Triệu Quang Nghĩa.

Da Luật Hưu Ca của Đại Đồng luôn quan tâm hết mực tới tiến triển chiến cục hai nước Tống Hạ, hắn khi rời khỏi Thượng Kinh, Tiêu thái hậu từng vẻ ngoài tùy cơ ứng biến, muốn hắn hành sự theo hoàn cảnh, cố gắng bảo đảm được thế cục cân bằng của Hà Tây, nếu như hai nước Tống Hạ có thể lấy Hoành sơn làm ranh giới, Tống sẽ không ăn được Hạ, Hạ cũng sẽ không đuổi được Tống, đó chính là kết cục tốt nhất.

Da Luật Hưu Ca văn võ toàn tài, không chỉ là một tướng lĩnh thiện chiến, lời dặn dò của Tiêu thái hậu hắn vẫn nhớ như in. Tống quốc chiếm được Lân Phủ, tiến thêm một bước, theo đó mà uy hiếp Hạ quốc, Hạ quốc mới cúi đầu trước Liêu quốc, mượn viện trợ của Liêu quốc để khống chế quân Tống, như vậy Liêu quốc có thể dần có tầm ảnh hưởng với Hạ quốc, sau khi khống chế được Hạ quốc thì giống như chính quyền ban đầu của Hán quốc Lưu Thị, trở thành một quân cờ của Liêu quốc giam chân Tống quốc.

Mà đến đỡ Hạ quốc, khiến cho một tuyến Hoành sơn đứng vững được thì có thể thu hút được quân Tống tác chiến thời gian dài, tướng Tống quốc đang sắp xếp ở Hà Tây sao cho càng ngày càng nhiều quân đội, mỗi năm lương thực tiêu hao vô số kể, dựa vào Hạ quốc thì không sụp Tống quốc, cũng sẽ buông Tống quốc binh mệt quốc nghỉ, đến khi đó chớ nói Tống quốc vô lực bắc chinh U Yến, thời gian dài tất nhiên phải hành sự sắc mặt nghênh Liêu quốc. Thế gọi là đuổi lang đấu hổ, kế lưỡng bại cộng thương.

Ai ngờ Tống quân nóng lòng tốc chiến, đại quân tấn công một cách mạo hiểm, kết quả vì chiến tuyến kéo dài, lại chịu thời tiết khắc nghiệt rét cóng, bị Hạ quân vườn không nhà trống, chặn mất đường lương thực, đánh cho Tống quân trận đại bại mà chạy rút lui, đại quân tây chinh nguyên khí bị giảm, thời gian này Dương Kế Nghiệp nương tựa Hoành sơn, ngược lại không ngừng phát phản công về Tống quân hai châu Lân Phủ, binh sĩ Tống quân không đủ, lại không chiếm được địa lợi nhân hòa, bại nhiều hơn thắng, Da Luật Hưu Ca nắm rất rõ tình hình này.

Ai mạnh thì sẽ dẫm cho một cước, ai yếu thì kéo hắn một cái, khiến chúng từ đầu tới cuối với một lực lượng ngang nhau, Da Luật Hưu Ca đang nghĩ ra chuyện sẽ áp lực về phía Hạ quốc, tin của Đa Phúc được truyền tới, đó thực sự là liều thuốc tạo hưng phấn mạnh cho hắn, Da Luật Hưu Ca vui mừng khôn xiết, lập tức bảo thân binh đó mang dùm một câu nới tới Đa Phúc: “Người Hạ đánh thương người của ta thì thôi, nếu không, đoạt được doanh trại, đuổi theo thủ quân”.

Triệu Quang Nghĩa nhận được tình báo từ Tống Kỳ, không khỏi vui mừng, theo lý mà nói, tổn thất tám vạn đại quân thì đối với hắn mà nói có thể nhanh chóng chuộc lỗi với thiên hạ để thể hiện tài năng của hắn trước mặt thiên hạ, điểm khác thì không nói làm gì, nHạn môn quan giờ có cường binh đóng ở đó, song người Liêu tăng binh vô số, ý đồ không có gì tốt, hắn không dám tự tiện điều động, nếu như người Liêu vào người Hạ cùng nổi chiến, thì…nghĩ đến điều này, Triệu Quang Nghĩa vội viết mật chỉ cho Tống Kỳ, gọi thân tín hắn đến Phong Đài, nghĩ cách khuếch đại cuộc chiến giữa hai quân Liêu Hạ, để hắn chiếm cơ hội.

Thám mã tám trăm dặm của Triệu Quang Nghĩa bay nhanh ra khỏi kinh thành, lúc đó Dương Hạo đang ở Hạ châu gọi Mục Vũ tới dặn dò: “Tiểu Vũ, lần này đi Phong Đài, nhiệm vụ quan trọng phải vô cùng cẩn thận mà làm, cần khơi mào chiến tranh với người Liêu, còn phải khống chế được mức độ chiến hỏa, tất cả đều cần phải làm theo những gì ta vừa nói, không thể để tình cảm…”

Dương Hạo vừa nói đến đây, thác bạt Hạo phong tức giận hùng hổ xông vào nói: “Thánh Thượng, đại sự không xong rồi, Phong Đài sơn thủ tướng Liêu quân Lại Đa Phúc ngang ngược phát binh tấn công doanh trại ta, Phong Đài doanh thất thủ, Dương Diên Huấn đã lui thủ Nhị Đài sơn”.

Thác Bạt Hạo Phong chỉ nói được đến đây, Dương Hạo vừa sợ vừa giận, không ngờ nghe xong lời của hắn, mặt Dương Hạo và Mục Vũ đều rất kỳ lạ, hai người nhìn nhau, rồi pHán câu rất quái đản:

“Thánh Thượng, thần…còn cần đi không ạ?”

“…Đi, bảo Dương Kế Nghiệp tăng thêm một lộ binh, giúp Dương Diên Huấn đoạt lại Phong đài trại”.

“Vâng, thế thần đi ạ”.

Dương Hạo ừ một tiếng, khẽ lẩm bẩm: “Nhất Hưu ca, cứ đợi đấy…”

-----oo0oo-----

: Tây Hạ Vương

 Chương 56: Âm Mưu Của Dương Hạo 

Tống Kỳ nhận được thánh chỉ của Triệu Quang Nghĩa, còn chưa có chạy tới Phong Đài Sơn, liền cảm thấy tình hình đã hoàn toàn nổi lên theo hi vọng của quan gia rồi, hai nước Hạ Liêu đánh ra hỏa khí, doanh trại Hạ quân ở chung quanh Phong Đài Sơn, song phương triển khai một loại tranh đoạt giằng co, sáng sớm hôm nay đại kỳ Liêu Quốc cắm lên đỉnh núi, có thể đến xế chiều lại đổi thành Long kỳ của Hạ Quốc, sáng sớm ngày mai mở mắt ra vừa nhìn, lại đổi thành cờ của Liêu Quốc.

Không được hoàn mỹ chính là, chiến hỏa song phương trước sau chỉ tiến hành vây quanh khu Phong Đài Sơn, cũng không có mở rộng tiến thêm một bước. Bất quá đây cũng là chuyện không có cách nào, lãnh thổ giáp giới của Liêu Quốc cùng Hạ Quốc đương nhiên không chỉ có một khối này, nhưng là phần lớn bộ phận còn lại đều là sa mạc, không chỉ có trong lãnh thổ biên giới Bắc Bộ của Hạ Quốc là mảng lớn sa mạc, trong lãnh thổ biên giới khu Tây Bắc của Liêu Quốc cũng giống như vậy, dải đất đầy cát như vậy, quân đội căn bản không cách nào chống đở được tác chiến lâu dài, cửa khẩu đột phá duy nhất chỉ có một khu đồng bằng đồi trọc, mà Phong Đài Sơn chính là lối vào duy nhất khu này.

Đồng thời, Liêu Quốc cùng Hạ Quốc cũng là có toan tính khống chế tình hình xung đột, tránh khỏi mở rộng tiến thêm một bước, Hạ Quốc thì không cần phải nói rồi, trừ phi Dương Hạo bị điên, nếu không sẽ quyết không muốn cùng hai đại đế quốc Tống Liêu đồng thời khai chiến, mà Liêu Quốc từ ích lợi của bản quốc suy nghĩ, cũng không muốn tiến thêm một bước mở rộng cục diện chiến tranh.

Liêu Quốc hiện tại đang trong giai đoạn nghỉ ngơi lấy lại sức, Tống Quốc đang như mãnh hổ ở bên nên không dám đem hết toàn lực, Liêu Quốc cũng có điều kiêng kỵ, không muốn đem thực lực tiêu hao ở Hà Tây.

Liêu Quốc cùng Tống Quốc giống nhau, đồng dạng là tồn tại cục diện hoang vắng, đối với Liêu Quốc mà nói, đất Trung Nguyên giàu có và đông đúc mới là mục tiêu bọn hắn thèm thuồng, đất Hà Tây còn chưa giàu có và đông đúc bằng Liêu Quốc, người Tống coi trọng nhất thớt ngựa, bản thân Liêu Quốc cũng không thiếu, về phần Hà Tây là một con đường thông thương quan trọng, giai cấp quý tộc Liêu Quốc trước mắt còn xa chưa đem thông thương hàng hóa bay lên đến mức quan trọng phải phái đại quân đến tiến hành chinh phục.

Quan trọng nhất là, Tống Quốc mặc dù vui mừng khi nhìn thấy Liêu Quốc cùng Hạ Quốc trở mặt, nhưng là sẽ tuyệt đối không thờ ơ ngồi xem Liêu Quốc nhất cổ tác khí (đánh một tiếng trống tinh thần hăng hái) diệt Hạ Quốc, chiếm lĩnh Hà Tây, từ đó tạo thành thế đại bao vây từ Tây Bắc đối với Tống Quốc. Đừng nhìn Tống Quốc ở một bên vì bọn họ phất cờ hò reo ầm ĩ, một khi Liêu Quốc thật sự phá phòng tuyến Phong Đài Sơn hướng Hạ Quốc thọc sâu thẳng tiến, Tống Quốc nhất định sẽ chạy đi ra ngoài kéo chân sau của bọn họ, thậm chí khi bọn hắn hãm sâu vào Hà Tây quy mô Bắc Phạt, sẽ hướng tim gan bọn họ mà chọc vào một đao thật sâu.

Làm quần áo cưới cho người khác(mình làm cho thằng khác hưởng)? Liệu người Hán có ngu xuẩn như vậy hay không? Huống chi Tống Quốc ở trong mắt Liêu Quốc có lực uy hiếp hơn xa khi so sánh với Hạ Quốc, bọn họ không hy vọng Hạ Quốc lớn mạnh, nhưng càng không hi vọng Tống Quốc thừa dịp cơ hội. Có lẽ nhìn thấy cái này, Gia Luật Hưu Ca vẫn là lý trí khống chế quy mô chiến tranh.

Bất quá khi tin tức hai nước Tống Hạ động thủ ở khu Phong Đài Sơn truyền về thượng kinh, vẫn là đưa tới một cuộc sóng to gió lớn cho thượng tầng Liêu Quốc, đối với việc Liêu Quốc xuất binh, Hạ Quốc hẳn là cảm động đến rơi nước mắt mới đúng, chẳng lẽ người Hạ Quốc điên rồi sao? Làm sao hiện tại vồ được người nào thì cắn người đó chứ, đại quân của Tống Quốc đang tiếp cận, hắn lại còn dám cùng Liêu Quốc động thủ?

Phần lớn quan viên, quý tộc thượng tầng Liêu Quốc cho là, hoàng đế Hạ Quốc này không phải loại dễ dàng định đoạt giống như Hán Quốc Lưu Kế, chỉ sợ hắn chính là nhìn thấu Liêu Quốc sẽ không ngồi nhìn Hạ Quốc rơi vào tay Tống Quốc, mới dám tùy ý làm bậy như thế, rối rít đề nghị Thái Hậu đáp ứng tăng thêm áp lực lớn hơn nữa với Hạ Quốc, nhanh chóng khuất phục bọn chúng.

Tiêu Thái Hậu lại càng không tin Dương Hạo điên cuồng như thế, nàng thậm chí hoài nghi có phải là sau khi Gia Luật Hưu Ca đến Tây Kinh, đã lén bày tay chân cố ý hướng tình địch Dương Hạo này khiêu khích, chọc giận quân coi giữ Hạ Quốc mới tạo thành cục diện trước mắt như thế, bởi vì nàng hoàn toàn không tưởng tượng ra Dương Hạo có bất kỳ lý do gì làm ra chuyện điên cuồng như vậy, lại đồng thời đắc tội hai đại cường quốc Tống Liêu, nhiều rận thì không sợ cắn sao?

Có lẽ xét tới điểm này, Tiêu Thái Hậu cũng không vội vã tuyệt giao, một mặt hạ chỉ phái người đi sứ Hạ Quốc, trực tiếp hướng hoàng đế Hạ Quốc Dương Hạo nói lên chất vấn, một mặt thầm hạ lệnh cho Gia Luật Hưu Cách nghiêm khắc khống chế tình hình, chớ cho Tống Quốc thừa dịp cơ hội.

Tống Quốc không có bỏ qua cơ hội tốt như vậy, thừa dịp Liêu Quốc hướng Hạ Quốc gây khó khăn, liên tiếp công kích mấy lần đối với thủ quân Hoành Sơn Hạ Quốc, dù chưa lấy được tiến triển lớn, nhưng cũng dần hướng qua xu hướng suy tàn, Hạ Quốc chẳng những không thể lợi dụng Hoành Sơn nắm ưu thế kéo dài hướng hai châu Lân Phủ di động tập kích nữa, hơn nữa bị buộc đi vào thế phòng thủ toàn diện, tình cảnh cực kỳ khó khăn.

Duới tình huống như thế, sĩ khí Hạ Quốc mới vừa bởi vì đại thắng Hắc Xà Lĩnh hơi phấn chấn lên lại một lần nữa lâm vào mê hoặc, đông đảo quan viên trung cao tầng không ngừng hướng Dương Hạo khuyên can, thư tấu biểu can gián giống như tuyết rơi truyền tới trong cung, đều cho rằng Hạ Quốc hiện tại hướng Liêu Quốc tuyên chiến không phải là hành động lý trí, phải là nhanh chóng là bình ổn lửa giận của Liêu Quốc, song phương ngưng chiến nghỉ ngơi, vì thế cho dù làm ra một chút bồi thường cùng nhượng bộ cũng là nên làm.

Dương Hạo mấy ngày nay không làm gì khác, chỉ một mực hết sức chăm chú nhìn chiến sự ở Phong Đài Sơn, vừa muốn đánh ra ảnh hưởng, lại phải khống chế sức nóng, loại trận chiến này đối với Dương Kế Nghiệp mà nói là một khảo nghiệm nghiêm trọng, đối với Dương Hạo mà nói, cũng đồng dạng như thế, hắn biết mình đang đùa với lửa, chơi không tốt tất nhiên là dẫn lửa thiêu thân, nhưng là chơi tốt thì trái lại nhất định là chói lọi cả sảnh đường, hắn bàn về thực lực không bằng Tống Liêu, bàn về tiềm lực phát triển cũng đồng dạng không bằng Tống Liêu, không nghiêng nét bút thì cả một chút cơ hội cũng không có. Nếu như hắn không muốn tái diễn lịch sử Tây Hạ, kẹp ở giữa Tống Liêu mà uốn lượn cầu sinh, cho đến khi người Nữ Chân, người Mông Cổ trước sau quật khởi, cuối cùng nghênh đón tới một cái vận mệnh mấtước diệt tộc, vĩnh viễn mai một chìm vào trong dòng sông lịch sử, lửa này hắn nhất định phải chơi một hồi.

Đang lúc ấy thì hai người Chủng Phóng cùng Đinh Thừa Tông trung thành nhất, cũng là cận thần có chức vị cao nhất cũng thiếu kiên nhẫn rồi, hai người lén gặp mặt, liền cẩn thận phân tích tình thế trước mắt một phen, dì được tâm ý của lẫn nhau, liền lập tức dắt tay nhau tới gặp Dương Hạo, thẳng mặt khuyên can.

Hai người thấy Dương Hạo còn không nói chuyện, Dương Hạo liền cười nói: "Hai vị đại nhân, có lẽ là cảm thấy trẫm bây giờ là con lừa gầy kéo phân cứng rắn, một mực ở nơi này khổ sở chống đỡ đi?" Chủng Phóng ngẩn ngơ, nói: "Thánh thượng biết chúng thần vì cái gì mà đến?"

Dương Hạo chỉ chỉ vào tấu chương chồng chất như núi trước ngự án, cười nói: "Thư can gián như tuyết rơi bay tới, trẫm còn không biết tại sao hai vị dắt tay nhau vào cung được chứ?"

Đinh Thừa Tông không kìm được nói: "Thánh thượng, nước ta mới lập, thực lực của một nước mỏng, hạn chế, căn cơ không bền, không thể cùng Tống đánh lâu, hàng hoàng đế, từ đó kết thúc chiến tranh cùng Tống Quốc là thế tất nhiên, bất quá thần thực không ngờ đến phương pháp Thánh thượng chọn lựa xử lý lại là cùng Liêu là địch, thật ra thì chúng ta chỉ cần cố ý đánh lên mấy trận thua, liền có thế hướng Tống nghị hòa, như vậy đủ rồi.

Thánh thượng muốn hàng Đế mà cầu hoà, Tống triều cũng chưa chắc chịu đáp ứng, đến lúc đó, chúng ta không thể thiếu được phải nhờ Liêu Quốc hướng Tống Quốc gây áp lực, từ đó khiến cho Tống Quốc tiếp nhận loại lợi ích thực tế này từ chúng ta, Tống Quốc vì thể diện sẽ làm ra kết cục như vậy, nhưng hôm nay bởi vì lục đục nho nhỏ mà cùng Liêu Quốc bất hoà, dưới tình hình như vậy, sợ rằng khéo quá hóa vụng, giả mượn cùng Liêu sinh xung đột mà bị vội vã hướng Tống xin hòa, sợ rằng Tống Quốc trái lại không chịu đáp ứng."

Dương Hạo chuyển hướng Chủng Phóng, hỏi: "Chủng đại nhân cũng có cái nhìn như vậy sao?"

Chủng Phóng nói: "Vâng, thần lo lắng, đồng thời cùng hai nước Tống Liêu trở mặt, chúng ta muốn lấy hàng Đế xưng vương làm như điều kiện nhượng bộ, Tống Quốc ngược lại sẽ không đáp ứng, nói như vậy, chúng ta chính là đem tảng đá đập lên phá chân của mình, không thể cậy vào cái gì nữa."

Dương Hạo gật đầu nói: "Hai vị ái khanh trung thành đáng khen, lo lắng cũng rất có đạo lý. Chỉ có điều . . . " Đinh Thừa Tông nôn nóng nói: "Chỉ có điều như thế nào?" Dương Hạo nhìn bọn hắn một cái, hỏi: "Các ngươi còn nhớ được trẫm ban đầu đã nói, cần phải cướp lấy Lũng Hữu, bảo đảm nước ta có thực lực đầy đủ cường đại, để tránh thoát Tống Quốc không ngừng kéo dài chiến tranh, tiêu hao thực lực của chúng ta chứ?"

Chủng Phóng cùng Đinh Thừa Tông liếc nhau một cái, gật đầu nói: "Thần tự nhiên nhớ được, bất quá chuyện này cùng xung đột ở Phong Đài Sơn có gì liên quan?"

Dương Hạo nói: "Tại sao lại không có quan hệ? Giữa hai cái có quan hệ cực lớn. Lúc ấy quân thần ta và ngươi thương nghị, lập quốc xưng đế phân làm ba bước đi, bước đầu tiên xưng Đế trước, lập nhiều danh phận đại nghĩa, thực hiện cai trị Hà Tây; bước thứ hai tự bỏ Đế hiệu, nghị hòa lui binh, nghỉ ngơi lấy lại sức, giành lấy Lũng Hữu; bước thứ ba, đợi binh lính tinh nhuệ, lương thực đủ, thực lực của một nước dư thừa, lại xưng Đế một lần nữa. Trong đó có nhắc tới giành Lũng Hữu, các ngươi cũng nói qua Tống Quốc tất nhiên sẽ can thiệp, mà trẫm đã nói, đến lúc đó tất có biện pháp khiến cho Tống Quốc không rảnh chú ý đến nó, khiến cho ta ung dung giành Lũng Hữu, phải không?"

Tuy là Đinh Thừa Tông trí kế bách xuất, Chủng Phóng mưu lược lâu dài, nhưng Dương Hạo nói đến phần này, bọn họ vẫn là không nghĩ ra cái đó và chiến sự phát sinh ở Phong Đài Sơn trước mắt có liên hệ gì, bất quá lúc này hai người nghe Dương Hạo nhắc tới chuyện này, liền biết ở trong đó tất có một điểm liên hệ mấu chốt mà mình chưa nhìn thấu, lúc này đây chẳng qua là gật đầu, nín thở nghe Dương Hạo nói tiếp.

Dương Hạo nói: "Lũng Hữu hiện nay là đất vô chủ, Đảng Hạng, Thổ Phiên, Hồi Hột cùng người Hán ở phân tán trong đó, đối với Tống Quốc là không tạo thành uy hiếp gì, trước mắt Tống Quốc còn có thể khoan nhượng cho sự hiện hữu của nó, chúng ta lấy hành lang Hà Tây thì ngoài tầm tay với của Tống Quốc, quản cũng không quản được, nhưng là chúng ta muốn thâu tóm Lũng Hữu, Tống Quốc vạn lần sẽ không ngồi nhìn không để ý.

Có thể làm cho Tống Quốc không nhúng tay vào tranh giành Lũng Hữu, thiên hạ hôm nay, trừ Liêu Quốc, còn có ai có cái lực lượng này chứ?"

Chủng Phóng cùng Đinh Thừa Tông càng nghe càng mơ hồ, Chủng Phóng không nhịn được cười khổ nói: "Thánh thượng nói như vậy, thần là càng mơ hồ, nếu Thánh thượng cho là thiên hạ hôm nay kẻ có thể ngăn cản Tống Quốc nhúng tay vào Lũng Hữu chỉ có Liêu Quốc, vậy chúng ta hẳn là phải cùng Liêu Quốc thành lập quan hệ mật thiết mới đúng, làm sao trái lại muốn cùng Liêu Quốc động binh đây?"

Dương Hạo thở dài nói: "Hai vị, nếu như chúng ta cùng Liêu Quốc thành lập quan hệ mật thiết, liên thủ ách chế Tống Quốc quật khởi, như vậy thời điểm chúng ta xuất binh cướp lấy Lũng Hữu, Liêu Quốc sẽ dẫn binh thẳng đến Biện Lương, cùng Tống Quốc phát động chiến tranh toàn diện, do đó cho chúng ta tranh thủ cơ hội sao?" Đinh Thừa Tông cùng Chủng Phóng không hề nghĩ ngợi, lập tức lắc đầu nói: "Không biết."

Dương Hạo lại nói: "Như vậy, nếu như trẫm hướng Liêu Quốc xưng thần, lấy Liêu đế là hoàng đế cha, tự xưng là hoàng đế con, đem Hạ Quốc trở thành nước phụ thuộc Liêu Quốc, Liêu Quốc chịu vì chúng ta mà xuất binh, dốc thực lực của một nước, chính diện thừa nhận áp lực cường đại của mấy chục vạn tinh nhuệ Cấm Quân Đại Tống, giúp bọn ta cướp lấy Lũng Hữu sao?"

Chủng Phóng cùng Đinh Thừa Tông lại lắc đầu, Đinh Thừa Tông cười khổ nói: "Làm sao có thể? Nếu như thực lực Liêu Quốc đủ cường đại, có thể như khống chế Hán Quốc giống như khống chế Hạ Quốc ta, như vậy lựa chọn duy nhất của bọn họ, chính là ra lệnh chúng ta cùng nhau xuất binh chinh phạt Tống Quốc, ép chúng ta đi tiên phong cho chúng sử dụng, cuối cùng dốc tinh nhuệ mưu đoạt giang sơn Tống Quốc."

Dương Hạo cười nói: "Lúc này đi rồi, nếu ta càng nịnh bợ nó, đối với ta càng bất lợi, tại sao phải nịnh bợ nó?"

Chủng Phóng nhíu mày nói: "Thánh thượng, thứ cho thần ngu dốt, thần vẫn là không rõ, cho dù như thế.. Chẳng lẽ chúng ta cùng Liêu trở mặt, ngược lại sẽ giúp giúp bọn ta kiềm chế quân Tống, khiến cho ta ung dung giành lấy Lũng Hữu sao?" Vẻ mặt Dương Hạo thong dong, cười đến như có ngàn quan đến chúc phúc, gật đầu nói: "Đúng."

Chủng Phóng cùng Đinh Thừa Tông vừa nghe đồng thời tiến vào trạng thái mộng du, mặt mũi dại ra, ánh mắt ngay cả mục tiêu nhìn cũng không có.

Dương Hạo vừa nhìn phụ tá đắc lực của mình sắp muốn phát điên, thử nghĩ lại rất nhiều đại sự cũng phải nhờ vào bọn họ đi làm, một chút sách lược cơ mật nhất mặc dù phải giữ bí mật, không thể để cho tất cả quan viên đều biết, nhưng là nếu như ngay cả hai người bọn họ cũng vẫn chẳng hay biết gì mà nói, phản ứng của hai người bọn họ sẽ ảnh hưởng xuống thuộc hạ của bọn họ.

Nếu như đế quốc này của mình là một đế quốc đã phát triển trưởng thành thì cũng được, nhưng là bây giờ mới vừa thành lập, còn chưa nói tới cái căn cơ gì, nói như vậy khó bảo đảm sẽ không xuất hiện nguy cơ không dự đoán được, cho nên cẩn thận mà nghĩ, quyết định đem quyết định của chính mình, nói trước cho hai cánh tay đắc lực này tiết lộ một phen, để cho bọn họ hiểu rõ được trong lòng.

Nghĩ tới đây, Dương Hạo liền dẫn bọn họ rời khỏi triều đường, Dương Hạo vội vã xưng đế, thật ra thì bất quá là lập xong quốc hiệu, xưng hoàng đế, liệu cơm gắp mắm, không có thời gian cũng không đủ tài vụ để phô trương, phần lớn các đồ cụ thể không có gì thay đổi, nếu nói là Kim Ân thì cũng chính là lễ đường cũ, hoàng cung cũng chỉ là Soái Phủ đổi tên, thật ra thì bên trong hoàn toàn không có biến hóa.

Dương Hạo dẫn hai người rời triều đình, trở lại trong phủ của mình, đến trong thư phòng ngồi xuống, dặn người đưa nước trà lên, đóng cửa phòng, lúc này mới thành thật với nhau nói: "Mặc dù Liêu Quốc cường đại, nhưng bởi vì nhiều năm liên tục nội bộ làm phản mà nguyên khí bị tổn thương nặng nề, đang đứng ở giai đoạn nghỉ ngơi, cho dù cho bọn hắn chỗ tốt cực lớn, bọn họ cũng sẽ không xuôi nam tới Trung Nguyên, càng sẽ không bởi vì chúng ta mà xuôi nam.

Ngược lại, Tống Quốc lấy thời gian mười năm, diệt Kinh, Hồ, Thục, Nam Hán, Đường, Bắc Hán, nuốt Mãng Ngô Việt, khí thế như cầu vồng, kiếm phong chỉ tới, thế như chẻ tre, cho tới nay chưa từng thất bại, nếu nói về dã tâm, hiện tại Tống Quốc vượt xa Liêu Quốc. Hiện nay, Liêu Quốc không có ý xâm nhập phía Nam, mà Tống trái lại từ ngày lập nước đã hướng mắt nhìn chằm chằm vào, mong muốn ẩn sâu, nếu như nói hiện tại có quốc gia nào sẽ chủ động khơi mào chiến tranh, xâm lấn nước hắn, chắc chắn là Tống Quốc không thể nghi ngờ."

Dương Hạo nói lời này hết sức chắc chắn, trên thực tế cũng là như thế. Người Khiết Đan lúc ấy là người ngoại tộc, cho nên ở ở bên trong, tiểu thuyết, truyện ký người Hán Trung Nguyên truyền xuống, cũng đem Liêu Quốc do người Khiết Đan thành lập miêu tả là vô cùng thích xâm lược, dã man, hung hãn, nhưng vô tình hay cố ý vẫn bỏ qua một sự thật, đó chính là Tống Quốc được coi là truyền thống, mới là quốc gia giàu tính xâm lược nhất.

Các quốc gia Trung Nguyên cũng không có cái nào có thực lực cùng dã tâm khiêu khích Tống Quốc, mà bọn hắn đều là bị Tống Quốc xuất binh tiêu diệt, bất kể là Tống Quốc cũng được, Liêu Quốc cũng được, bất kể là đánh ra cờ hiệu đường hoàng như thế nào, thực chất đều chẳng qua là một đế quốc gây ra chiến tranh để xâm lược, chinh phục, mở rộng lãnh thổ quốc gia. Liêu Quốc tất nhiên là nhân dân nhanh nhẹn dũng mãnh, hơn nữa khi Tống Quốc lập quốc, Liêu Quốc đã là một đại đế quốc có lãnh thổ quốc gia khổng lồ, thực lực hùng hậu, nhưng Liêu Quốc vẫn chưa có chính thức khơi mào chiến tranh đối với Tống Quốc, lúc hai nước chính thức bắt đầu chiến tranh, là từ khi Triệu Quang Nghĩa bắt đầu Bắc Phạt.

Dương Hạo nói: "Quân thần Liêu Quốc dĩ nhiên cũng không phải là thiện nam tín nữ gì, nhưng là mấu chốt chúng ta muốn giành Lũng Hữu chính là Tống Liêu chiến tranh. Mà chúng ta trông cậy vào Liêu Quốc tới đánh Tống Quốc, hi vọng quá nhỏ, như vậy còn không bằng chờ Tống Quốc đi đánh Liêu Quốc sẽ có khả năng lớn hơn một chút."

Dương Hạo thở ra , chỉ chỉ cái mũi của mình nói: "Nhưng là Hà Tây đột nhiên toát ra Dương Hạo, hơn nữa quật khởi, lại lấy thân phận Tống thần tự lập xưng Đế, thử hỏi Tống Quốc lúc này còn có lòng thanh thản mà bắc xâm sao? Nó tất nhiên phải diệt trừ Hạ Quốc ta trước mới được, cho dù chúng ta xin đầu hàng, bỏ Đế hiệu, vẫn tự cho mình là Tống thần tự cho mình, nếu như chúng ta cùng Liêu Quốc tương giao quá mức, đi lại thân mật, Tống Quốc cũng sẽ không yên tâm Bắc Phạt. Hiện tại, các ngươi đã hiểu rồi chứ ?"

Chủng Phóng cùng Đinh Thừa Tông đều là người tâm tư nhanh nhẹn khéo léo, nói một cái đã hiểu, nghe đến đó không khỏi kinh ngạc trợn to con ngươi, ấp úng nói: "Chẳng lẻ. . . Chẳng lẻ Thánh thượng muốn. . ." Dương Hạo nói: "Không tệ, chúng ta chỉ là bị bỏ Đế hiệu, hướng Tống Quốc xưng thần là xa xa không đủ, chúng ta còn phải làm đủ điệu bộ, ví dụ như chế tạo mấy lần nội loạn, để Tống Quốc cho là chúng ta vô lực nhìn ra phía ngoài; ví dụ hướng Tống Quốc tiến cống chiến mã, hơn nữa tiến cống chiến mã gấp mười lần so với thời Lý Quang Duệ, để cho Tống Quốc tuyệt không nghi ngờ Hạ Quốc ta còn có dã tâm lớn hơn nữa; lại ví dụ như . . Cùng Liêu Quốc trở mặt, thậm chí đánh lên ầm ĩ, khiến bọn hắn tuyệt không nghi ngờ chúng ta bí mật cùng Liêu Quốc liên minh, như vậy Tống Quốc mới có thể bỏ qua cảnh giác, yên tâm Bắc Phạt, cơ hội của chúng ta mới có thể đến được!"

Chủng Phóng theo sát hỏi: "Liêu Quốc có thực lực hùng hậu, vượt xa các nước phương Nam có thể sánh bằng, Thánh thượng làm sao lại phỏng đoán Tống Quốc tất sẽ Bắc Phạt?"

Dương Hạo tự nhiên không thể nói hắn biết phương hướng phát triển của lịch sử vốn là vậy, cho hắn biết sự thật trong lịch sử là Tống Quốc khai chiến với Liêu Quốc trước, Triệu Quang Nghĩa tự mình dẫn mấy chục vạn đại quân xâm lấn Liêu Quốc, hắn có cơ hội đến gần Triệu Quang Nghĩa, hiểu rõ tính cách cùng chí nguyện của người này, hơn nữa có thêm ký ức về sự kiện trong lịch sử này, cho nên mới có thể có loại dự đoán tính toán như ma quỷ này, các nhà chính trị khác cho dù cao minh đến như thế nào đi nữa cũng không cách nào tiên đoán được chính xác giống như hắn, cũng là không thể phục chế được, nếu như hắn nói thật, nói là phán đoán của hắn, rất khó để cho Chủng Phóng cùng Đinh Thừa Tông tin phục, hắn lại không thể nói cho bọn hắn biết mình là một xuyên việt giả, cho nên thêu dệt ra lý do nói:

"Khi trẫm ở Biện Lương, từng nhậm chức Hồng Lư Tự Khanh, đối với kế hoạch, quốc sách căn bản, chính sách quan trọng của Tống Quốc biết rõ nội tình, khi ấy Tống lập quốc, đã lập chí nhất thống thiên hạ, chẳng qua là vẫn là cân nhắc Bắc phạt trước hay là Nam chinh trước, lúc ấy đám Triệu Phổ còn cầm quyền ở trong triều, dưới sự cân nhắc cẩn thận của bọn họ, quyết định noi theo quốc sách của hoàng đế Chu triều Quách Uy, trước Nam sau Bắc, từ dễ dàng đến khó.

Mà nay, các nước Nam Phương đã bình định rồi, toàn bộ nhét vào sự quản hạt của Tống Quốc, Tống Quốc đã bắt tay vào làm Bắc Phạt rồi, các ngươi cho là, Tống Quốc xây Phong Thung Khố với mục đích gì? Thật sự muốn dùng tiền chuộc lại mười sáu châu U Vân? Triệu Khuông Dận một đời chủ hùng tài đại lược, đã nói ra "Giường ở cạnh, há lại cho người khác ngủ say" lại thật sự ngây thơ như vậy, sẽ tin tưởng dùng tiền có thể mua về quốc thổ ư? Đó bất quá là ngụy trang, từ khi vừa mới bắt đầu, số tiền kia chính là quân phí cho toàn quân, là vì chuẩn bị dùng võ lực thu phục mười sáu châu U Vân. Đương kim hoàng đế Triệu Quang Nghĩa tiêu diệt chính quyền Hán Quốc Lưu Kế Nguyên, chính là hắn muốn thanh trừ chướng ngại cuối cùng để Tống Quốc Bắc Phạt."

Còn có một câu mà Dương Hạo không nói ra, thì ra là thời điểm Triệu Quang Nghĩa Bắc Phạt trong lịch sử, chính quyền Tây Hạ mặc dù cũng là chính quyền độc lập, nhưng là cũng không xưng Đế, mà nay mình trái lại vội vàng bất đắc dĩ dựng nước xưng Đế, cái biến số này mặc dù không thể đánh tan mơ ước Bắc Phạt Yến Vân, xây dựng nên kỳ công vô tiền khoáng hậu, vượt qua hoàng huynh của Triệu Quang Nghĩa. Nhưng là trong lịch sử Triệu Quang Nghĩa sau khi đánh hạ Bắc Hán liền lập tức xua quân Bắc Phạt, mà nay Dương Hạo hắn xuất hiện đã làm thay đổi vận đoạn lịch sử, cái biến số này rốt cục ảnh hưởng đến bao nhiêu, bây giờ cũng khó mà nói.

Điều hắn muốn bây giờ, chính là cố gắng giảm bớt ảnh hưởng của tiểu Hồ Diệp tạo thành mà mình đã biết trong lịch sử, thông qua việc tung ra một loạt màn sương khói như hàng cách xưng Vương, chế tạo nội loạn, kính dâng hiến cống ngựa, cùng Liêu Quốc trở mặt, thúc đẩy Triệu Quang Nghĩa đi tới trở lại quỹ đạo lịch sử vốn có. Lấy hiểu biết của hắn đối với Triệu Quang Nghĩa, người này tràn đầy dã tâm, mơ mộng vĩ đại, tâm nguyện của hắn từ lúc sanh ra chính là vượt qua huynh trưởng hùng tài đại lược kia, từ phía dưới ánh sáng của huynh trưởng đi ra, thành lập chiến công tuyệt thế của hắn.

Mà hắn muốn vượt Triệu Khuông Dẫn, thì công lao của hắn đều không đủ ưựa vào, thu phục Yến Vân là cơ hội duy nhất, hắn không phải là cái loại người chân đạp đến mặt đất rồi lại chịu ẩn nhẫn xuống tới, đem cơ hội để lại cho điều kiện chín muồi hơn để con cháu đi thực hiện đại nghiệp ngàn thu này, chỉ cần có một tia hi vọng, hắn liền sẽ đích thân đi hoàn thành. Hắn hiện tại đang lúc tráng niên, đã có lòng Bắc Phạt, cũng sẽ không đợi đến lúc tuổi già bạc phơ, gần đất xa trời mới ngự giá thân chinh, vì vậy, chỉ cần mình có thể thành công làm tiêu tan cảnh giác của hắn, hắn liền sẽ nhất định dựa theo quỹ tích của lịch sử mà đi Bắc Phạt Khiết Đan!

Chủng Phóng cùng Đinh Thừa Tông cũng chưa từng đảm nhiệm qua một chức quan nào ở trong triều đình Tống Quốc, Dương Hạo nói Bắc Phạt Khiết Đan là quốc sách đã định của Tống Quốc, hơn nữa triều đình xây Phong Thung Khố, tiêu diệt bắc Hán Quốc, là điều kiện về hai mặt tài vụ cùng địa lợi để Bắc Phạt, từ đó không khỏi không tin điều này. Đinh Thừa Tông ngưng thần suy nghĩ một chút, hớn hở nói: "Thì ra là như vậy, loài chim lớn đánh nhau, chim nhỏ thu cánh; mãnh hổ vồ, tất phục sẵn để nhào về trước; thần hiểu ."

Chủng Phóng trái lại nói: "Nếu theo như Thánh thượng nói, Tống triều đã bắt tay vào chuẩn bị làm Bắc Phạt, mạo hiểm như thế, tất cần phải có một cuộc vật lộn. Chẳng qua là. . . Hôm nay vừa cùng Liêu Quốc trở mặt, lại hướng Tống triều xin hòa mà nói..., bọn họ còn có thể đáp ứng sao? Khó có được cơ hội như thế, có cơ hội trực tiếp thâu tóm Hà Tây, bọn họ cần gì lại phải chấp nhận Hạ Quốc xưng thần trên danh nghĩa chứ? Phải nhớ rằng Tống Quốc buông tay, sợ rằng là hết sức khó khăn."

Dương Hạo mỉm cười nói: "Sẽ khó khăn đi, nhưng cũng không khó. Người Liêu cũng không phải là ngu ngốc, sao lại theo đuổi thậm chí hiệp trợ người Tống lấy Hà Tây ta chứ? Tống triều đối với cái này cũng là biết rõ trong lòng, nếu như chúng ta lộ ra ý tứ đầu nhập vào Liêu Quốc, Tống Quốc liền phải có điều suy tính. Bất quá trẫm không muốn dùng cái biện pháp này, trẫm có hai kiện bảo vật, trong đó có một cái, thời cơ chưa tới, bây giờ còn chưa phải là lúc lộ ra, một kiện khác thì chỉ cần lấy nó hiến cho Tống Quốc, cái vấn đề khó khăn này liền được giải quyết dễ dàng."

"Thứ nhất để cho Triệu quan gia nhận định trẫm thoả mãn với góc đất Hà Tây, không có dã tâm lớn hơn nữa; thứ hai có thể làm cho dã tâm Triệu quan gia bành trướng vô hạn, tăng nhanh bước chân Bắc Phạt của hắn, thứ ba, cũng là điểm quan trọng nhất . . .

Dương Hạo nhìn hai vị trọng thần tâm phúc này một chút, nói: "Trẫm ban đầu chỉ có một đường đất Lô Châu, Ngân Châu, binh lực không đủ bốn vạn, mà nay nhất thống mười tám châu Hà Tây, quản hạt hai trăm vạn con dân, từ Ngọc Môn tới Hoành Sơn, binh lực tổng cộng vượt quá hai mươi vạn, binh lực khổng lồ như vậy, phần lớn đều là thu nhận thế lực khắp nơi xin hàng, bọn họ hôm nay chẳng qua là quy phụ, còn chưa nói tới quy tâm.

Nhất là quân Chiết gia, Chiết Suất là nghĩa huynh của trẫm, khi trẫm còn hàn vi, đã được hắn chiếu cố nhiều mặt, khi trẫm nguy nan, được hắn sóng vai cùng chiến, mà nay hắn thân vùi lấp ở Biện Lương, giống như kẻ tù tội, trẫm không lấy về được Phủ Châu, lại không cứu được người nhà hắn, vì an nguy bản thân hướng Tống xin hòa cùng đầu hàng, xưng thần tiến cống, làm sao hướng mấy vạn tướng sĩ Chiết gia ăn nói đây? Hai mươi vạn tướng sĩ quân đội có được từ khắp nơi dưới trướng sẽ đối đãi như thế nào với trẫm? Trẫm làm sao yên tâm thoải mái, ngồi hưởng thái bình được? Trẫm muốn dùng đồ vật này, đổi lấy sự tư do trở về của cả nhà hắn !

Chủng Phóng cùng Đinh Thừa Tông nghe vậy nhất tề động dung: "Thánh thượng, đó là cái bảo vật gì, lại có diệu dụng như thế?"

Dương Hạo mỉm cười nói: "Món bảo vật này, thật ra thì các ngươi đã gặp rồi, chỉ bất quá lúc ấy các ngươi còn không biết đựng trong đó là vật gì thôi. Cái đồ vật này, chính là cái hộp gấm Tử Du cô nương lần trước tặng cho trẫm, trong đó có cất giấu.... chính là. . . Thụ Mệnh Vu Thiên, Ký Thọ Hữu Xương. . . Ngọc tỷ truyền quốc.

Chủng Phóng cùng Đinh Thừa Tông vốn là ngồi ở dưới hắn, vừa nghe lời này nhất tề đứng lên, thất thanh kêu lên: "Ngọc tỷ truyền quốc? !"

Đinh Thừa Tông vừa mừng vừa sợ nói: "Truyền quốc ngọc tỷ? Bảo vậy này, làm sao rơi vào trong tay Thánh thượng?" Chủng Phóng lại nói: "Ngọc tỷ truyền quốc! Bảo vật này, có thể nào chắp tay cho người?"

Dương Hạo ngồi thẳng người lên, thản nhiên nói: "Tần Chiêu Vương muốn lấy mười lăm thành Nhi Dịch cùng Thị Bích, Chủng khanh cho là, có nên đổi hay không?"

Ra khỏi thư phòng của Dương Hạo, Đinh Thừa Tông vẫn có cảm giác đau thịt nói: "Khó trách Thánh thượng kiên định, cho là Tống Quốc nhất định sẽ đáp ứng nghị hòa, thì ra là còn có một món đồ như vậy, nhưng, đó là ngọc tỷ truyền quốc, làm sao có thể hiến cho Tống Quốc "

Chủng Phóng lúc này lại đã nghĩ được thấu triệt, nói: "Ngọc tỷ ở lại trên tay Thánh thượng thật ra thì không dùng được. Lấy căn cơ thực lực của Hà Tây ta, ngọc tỷ này căn bản không thể lộ ra, Tống Quốc từ trước đến giờ vẫn lấy chính thống là Trung Nguyên. Liêu Quốc tuy là man nhân, song trải qua hơn sáu mươi năm phát triển, nhất là sau khi lấy được mười sáu châu U Vân, ở đó con dân người Hán chiếm gần một nửa, chính thể quan chế , tông giáo, văn hóa, càng ngày càng là Hán hóa. Dần dần cũng nổi lên cờ hiệu chính thống, bắt đầu gọi Tống Quốc là Nam Triều, tự xưng Bắc triều.

Cái đồ vật này, mặc dù bọn họ chưa chắc đã thèm thuồng như Tống đế, nhưng cũng sẽ không bỏ qua nếu như chúng ta lộ ra ngọc tỷ, là vật truyền quốc, đó chính là cái đích cho mọi người chỉ trích, cái đồ vật này vốn là đồ dệt hoa trên gấm, cũng không phải là một khi lấy ra, anh hùng thiên hạ sẽ trông vào đi theo, bằng không, năm đó Vương Mãng bức vua thoái vị, Thái hậu Hành Chí ôm ngọc tỷ trong ngực mà vô lực phản kháng, đến nỗi giận dữ ném ngọc tỷ văng ra thiếu một góc, phải dùng hoàng kim tới bù đắp chứ? Các đời đế vương trong tay đều có món bảo vật này, nếu như làm mất thì giang sơn cũng không phải là nước mất nhà tan đi?

Chúng ta không có được thực lực giữ nó, lãnh thổ quốc gia ta hôm nay hẹp nhất, nhân khẩu ít nhất, thực lực yếu nhất, căn cơ mỏng nhất, thay vì cất giấu cái loại vật như hoa không thật này, không bằng dùng nó đổi lại chút ít đồ vật thật sự. Năm đó Tôn Sách hiến ngọc tỷ, đổi lại ba nghìn binh, quét ngang Giang Đông, định ra nghiệp bá Giang Đông. Chủ ta hiến ngọc tỷ, ta tin tưởng có thể có được còn hơn Tôn Sách."

Nói tới đây, hắn hướng Đinh Thừa Tông cười nói: "Được rồi, không nên nhớ mãi không quên cái truyền quốc ngọc tỷ này. Hôm nay được Thánh thượng nói rõ ngọn nguồn, chúng ta đã có thể an tâm. Bây giờ nhìn lại, chiến sĩ Hoành Sơn, Dương tướng quân nhất định phải chịu thiệt, không đánh lên mấy trận thua, sao có thể nhân thể xin hòa? Chúng ta hiện tại nên chia sẻ nỗi lo cùng chúa thượng, ổn định nội bộ, trấn an quần thần. Đồng thời vì Thánh thượng mà hảo hảo hiến kế một phen, nhìn xem bắt tay vào bắt đầu nghị hòa như thế nào, cũng cố hết sức tranh thủ lấy chỗ tốt lớn nhất mới được."

Đinh Thừa Tông tỉnh ngộ, đột nhiên nói: "Chủng đại nhân nói có lý, không biết đại nhân đối với biện pháp cụ thể đã có cái giải thích gì?"

Chủng Phóng đang muốn nói, Lâm Bằng Vũ bước vội vã đi tới, vừa thấy hai người liền nói: "Hai vị đại nhân, Thánh thượng đang ở thư phòng?"

Đinh Thừa Tông dẫn đường: "Đang ở đó, Lâm đại nhân vội vàng như vậy, có chuyện gì xảy ra sao?"

Lâm Bằng Vũ nói: "Mới vừa nhận được tin tức, Tuy Châu Lý Bất Thọ, kì thực chính là Lý Kế Quân thua trận biến mất lúc trước, sau khi hắn đến Hà Tây, đã lộ ra thân phận thực sự, dùng cái thân phận này chiêu nạp người Khương, Đảng Hạng để sử dụng."

Đinh Thừa Tông cùng Chủng Phóng nghe vậy không khỏi thất kinh, vội vàng lại đi theo Lâm Bằng Vũ hướng Dương Hạo thư phòng đi tới. Dương Hạo nghe Lâm Bằng Vũ nói rõ việc đã qua, mặc dù lúc nghe nói Lý Bất Thọ chính là Lý Kế Quân thì hơi có chút động dung, nhưng là cũng không lộ ra kinh ngạc trong dự liệu. Hắn khẽ nhăn đầu lông mày suy nghĩ một chút, ngẩng đầu lên nhìn nhìn thần sắc ngưng trọng của ba người, không khỏi cười một tiếng: "Lý Bất Thọ chính là Lý Kế Quân sao? Ha hả, chính là hắn, nhớ ngày đó hắn vẫn là Định Nan Quân Nha Nội Đô Chỉ Huy Sứ, ta cũng không để tại trong mắt, hôm nay bất quá là một con chó ở Lũng Hữu, có cái gì ngạc nhiên chứ? "

Ba người vừa nghe, cũng thấy mình có chút chuyện bé xé ra to, không khỏi nhìn nhau bật cười.

-----oo0oo-----

: Tây Hạ Vương

 Chương 57: Phụ Tá Đắc Lực 

Dương Hạo xua tay nói: "Tốt lắm, các ngươi mau đi làm việc riêng của mình đi, nga, đúng rồi. Chủng đại nhân. "

Chủng Phóng khom người nói: "Có thần."

Dương Hạo nói: "Kiện đồ vật kia, đến từ Lũng Hữu, vốn là trong ba ngàn bảo vật của thủ lĩnh Lũng Hữu Thổ Phiên, bị bí điệp(gián điệp) Phi Vũ của ta ở bên người trộm lấy, ngươi phải nhớ lai vật này, ngày sau lúc sai người cùng Tống triều giao thiệp, cái lai lịch này, cần phải nói rõ."

Chủng Phóng đầu tiên là ngẩn người, nhưng ngay sau đó bừng tỉnh đại ngộ, nếu nói về âm mưu quỷ kế, Đinh Thừa Tông thực sự còn muốn thành thạo hơn so với hắn, Dương Hạo mới vừa nói xong, hắn liền đã đem đạo lý bên trong nghĩ đến thấu triệt, lúc này trong bốn người cũng chỉ còn lại có một mình Lâm Bằng Vũ, tựa như Chủng Phóng cùng Đinh Thừa Tông lúc mới vừa vừa bước vào thư phòng, vẻ mặt mờ mịt mơ hồ.

KHi phụ tá đắc lực của Dương Hạo đồng tâm hiệp lực vì quán triệt phương châm chính lược của Dương Hạo mà cố hết sức lực thì phụ tá đắc lực của Triệu Quang Nghĩa mới vừa giải tán tan triều, tự mình rời khỏi hoàng cung.

Thiên Kim Nhất Tiếu Lâu, một gian phòng các rộng rãi sắc màu rực rỡ, bên ngoài phòng là băng thiên tuyết địa, góc mái hiên ở dưới chuông đồng cũng đều nhỏ xuống cột băng trong suốt. Nhưng là vừa vào trong phòng, lại là hơi nóng bắt đầu khởi động, ấm áp như mùa xuân. Trong phòng cũng không có loại vật sưởi ấm công khai như chậu than, bởi vì toàn bộ đều chọn dùng gạch đá cấu thành, cho nên tự có vách ngăn, Địa Long (củi lửa đốt phía dưới)cùng giường sưởi, cung cấp sưởi ấm trong phòng. Chỉ bất quá trong phòng ấm áp như thế, chỉ là lượng củi đốt tiêu phí không rẻ. Bất quá có thể tới Thiên Kim Nhất Tiếu Lâu này uống rượu tìm niềm vui, người nào không phải là hào khách vung tiền như rác chứ. Loại tiêu phí xa xỉ này, bọn họ vẫn gánh được.

Trong Ái Các bất kể bàn ghế tủ bát, giường hẹp cái bục, bình phong giá đèn, đều dùng tài liệu gỗ như tử đàn, hoa lê vô cùng trân quý, phong cách tạo hình nhã trí, khí phú quý bức người.

Trên mặt sàn Ái Các xa hoa tinh mỹ; trải thảm Ả rập giá trị cao, trên bàn bày Kim Quải Mật Quả, đủ thứ mới mẻ. Ở vùng này trời mùa đông giá rét, cho dù là quan lại quyền quý xưa nay đãi khách nhiều lắm cũng chỉ là hoa quả khô, nhưng ở nơi này trái lại đều là hoa quả tươi mùa hè mùa thu, chỉ bằng điểm này, là đã thấy được Tiêu Kim Quật danh bất hư truyền, vung tiền như rác, đổi lấy một loại đãi ngộ xa hoa như vương hầu, mà mỹ nhân tuyệt sắc vạn người tuyển trúng một kia, lại càng là ngay cả phi tần trong hoàng cung đại nội cũng thiếu phong tình giống như vậy.

Hai hàng mỹ nhân, đang tung tăng nhảy múa, áo khia liền váy, váy dài dãn nhẹ, tất cả mọi người đều là cổ trắng gò má đẹp, làn da mịn màng, lại thêm nhạc đàn sáo lã lướt lọt vào tai,tựa như thiền đàng chốn nhân gian. Trong lúc nhất thời, váy áo tung bay, hương thơm xông vào mũi, phô trương như vậy, xa hoa như vậy, được hưởng tư vị ôn nhu như vậy lại chỉ có một người, một lão nhân chừng năm mươi, khuôn mặt sáng sủa tinh tường, mặt mày thanh địch, mang áo bào rộng, khí độ ung dung, rất có phong thái nho nhã . 

Người này chính là cựu thần tiền Đường văn chương tuyệt lệ, đọc rộng biết nhiều, càng tinh thông đạo sách cổ, đồng thông từ đạt, nổi danh đương thời. Song trong lòng nguội lạnh, có chút khinh thế nhân - Trương Bạc. Từ khi hàng Tống tới nay, Trương Bạc dần dần được Triệu Quang Nghĩa trọng dụng. Trước cho nhậm chức Thái Phó Thiếu Khanh, bởi vì xử sự hòa theo hợp ý thánh thượng, rất được Triệu Quang Nghĩa tán thưởng, lúc này đã trở thành học sĩ viện Hàn Lâm, tham gia chính sự.

Tham gia chánh sự đương thời, một chủ ba phó, lấy Lô Đa Tốn làm chủ, ba người Lữ Từ Khánh, Tiết Cư Chính, Trương Bạc làm phó, bởi vì quyết định chánh sự cho Lô Đa Tốn, ba người Lữ, Tiết, Trương chịu trách nhiệm riêng những chuyện về mặt của mình, Trương Bạc phải chịu trách nhiệm chuyên tu luật hành chính, biên soạn sách sử. Bất quá hắn tuy là lên chức trễ nhất trong bốn người, nhưng bởi vì được Triệu Quang Nghĩa tán thưởng, cho nên có thể tham dự cơ mật, ân sủng vô lượng, quyền thế thực tế còn ở trên hai người Tiết, Lữ, gần với tể tướng Lô Đa Tốn.

Làm bạn ở bên cạnh hắn, lộ nụ cười thản nhiên, thân thể xinh đẹp chính là một giai nhân tuyệt mỹ mặc một bộ khinh sam bằng sa mỏng, thân thể xinh đẹp lộ ra không bỏ sót, một cái lúm đồng tiền xinh đẹp thanh tú mà quyến rũ, làn da trơn mượt nõn nà mềm như tuyết, một cái ánh mắt, một nụ cười liền có thể như thấm vào cốt tủy, lực mê hoặc mềm mại đáng yêu linh động triển lộ ra tới điên đảo thần hồn.

Mỹ nhân này chính là người đứng hàng thứ ba trong Biện Lương Tứ Đại Hành, Tuyết Nhược San Tuyết cô nương, một bộ khinh sam thủy tụ sợi mỏng nước Yên La khoác lên người, thật sự so sánh với con cừu trắng nhỏ còn muốn mê người hơn, vóc người lồi lõm đầy đủ, kiên đĩnh ôm trọn hai vú, eo thon nhỏ mượt mà mảnh khảnh, bắp đùi thon dài rất tròn, đẹp đẽ vô hạn, xinh đẹp động lòng người.

"Ha hả, những cô nương này đều là trong vạn chọn một. Vô luận giọng hát hay vũ đạo, ai cũng giống như tiên tử mê người, nhưng là một khi cùng Tuyết cô nương so sánh, chính là khác biệt một trời một vực. Kể từ khi được chứng kiến tuyệt nghệ ca múa của Tuyết cô nương, những người khác cho dù hát khá hơn nữa, múa đến hay hơn đi nữa, lão phu cũng rất khó nhìn vào mắt đó."

Trương Bạc giơ mội cái ta lớn ở dưới bàn vuốt ve bắp đùi mặc sa mỏng ẩn hiện sắc thịt mê người kia của Tuyết Nhược San, lúc này mượn mấy cái bàn che dấu, dần dần hướng tới rãnh sâu kia đi vòng quanh, song nhìn thân trên của hắn, vẫn là ngồi nghiêm chỉnh, ra vẻ đạo mạo, phảng phất chỉ là một người tao nhã thưởng thức ca đồng mà thôi : "Ôi chao, Tuyết cô nương đây là dùng cái son phấn gì vậy, hương thơm xông vào mũi, da trơn như son, lão phu đã từng ở Nữ Nhi Quốc hao phí số tiền lớn mua mấy hộp phấn thượng đẳng cho ái thiếp, nhưng là kém xa Tuyết cô nương đây sử dụng."

"Hì hì, Trương tướng công thật biết nói đùa, son phấn Nhược San sử dụng, nào so sánh được với son phấn thượng đẳng đại nhân mua về." Tuyết Nhược San che tay áo xấu hổ cười, cánh tay ngọc nhẹ chống lên, thân thể mềm mại liền ngồi dậy, khe hở rất tròn ở bắp đùi liền hợp lại, liền đem bàn tay to của hắn ngăn lại bên ngoài, Trương Bạc không tiện dùng sức mạnh, không khỏi hơi lộ ra sắc giận. Bất quá hắn là danh sĩ Giang Nam, quyền quý triều đình, cũng không thể làm ra hình dáng hung ác, lấy thế bức người, làm trò trước mặt nhiều nhạc sư khiêu vũ trước mặt được, càng không thể để người chê cười, chỉ đành phải phẫn nộ rút tay trở về.

"Hừ, tiếng tăm cao tới đâu, cũng bất quá là một cô gái mua vui mà thôi, lão phu chịu tới chỗ của ngươi, chính là cho mặt mũi ngươi, nhưng ngươi phô trương cũng quá lớn rồi, cho tới nay không chịu đưa lão phu làm khách vào màn. Quá không biết điều rồi!"

Trương Bạc phẫn nộ mà nghĩ, vẻ không vui trên mặt lại càng đậm rồi, Tuyết Nhược San lại giống như cũng không phát hiện thần sắc của hắn biến hóa, đôi mắt đẹp nhẹ nhàng vừa chuyển vừa xinh đẹp cười nói: "Bất quá, son phấn tiểu nữ dùng tuy không phải vật danh quý, nhưng là có chút hiếm. Yên Chi Thủy Phấn mà Nữ Nhi Quốc bán là hàng cao cấp nhất đẳng đến từ Giang Nam Thượng Tri Đường, son phấn tiểu nữ dùng trái lại là một thương nhân đến từ đất cực Tây tặng cho, nếu như đại nhân thích, không ngại lấy chút ít đem về, có lẽ nữ quyến ở quý phủ cũng sẽ thích đấy."

Trương Bạc sắc mặt khó coi nói: "Không cần. Vật Tây Vực, so được với vật tinh tế thượng quốc Trung thổ ta điều chế sao? Lão phu có chút say rồi, muốn nghe Tuyết cô nương gảy một khúc "Phổ Am Chú", ru ngủ một chút, kêu các nàng kia đều lui ra đi."

Một đôi mắt sáng rỡ của Tuyết Nhược San có thâm ý liếc nhìn hắn, dịu dàng nói: "Vật Trung thổ có vẻ tuyệt đẹp của Trung thổ, vật Tây Vực cũng có chỗ thần kỳ của vật Tây Vực, vị khách nhân này trải qua ngàn núi vạn sông tới Trung Nguyên, một đường chứng kiến biết được hết sức uyên bác. Đại nhân phụ tá triều cương, uy ngoài trung ngoại, không muốn nghe vị khách nhân Tây Vực này nói kiến thức một đường hắn bôn ba tới Trung Nguyên sao?"

Đôi mắt Tuyết Nhược San sáng lóe lên; tựa như có thâm ý. Trương Bạc là nhân vật thâm trầm bậc nào chứ, vừa thấy ánh mắt nàng khác thường, liền đem một chút những thứ dung mạo hương sắc ném ra đến chín tầng mây, lập tức trở nên tỉnh ngủ.

Danh kỹ thanh lâu làm ăn kiếm lợi nhiều nhất là từ cái gì? Cũng không phải là buôn bán da thịt, lấy nhan sắc khiến người khoái lạc kiếm lấy lợi nhuận, từ cổ chí kim cũng chỉ là kỹ nữ hạ đẳng trong thanh lâu kỹ phường, danh kỹ chân chính có thể danh lợi cùng thu, thật ra thì cũng là nữ nhân quan hệ xã hội tốt, vì xe chỉ luồn kim cho người hợp tác, vì phối hợp cho người sinh ra mâu thuẫn, sáng tạo cơ hội cho thế lực chánh trị, thương giới cự đầu khắp nơi hợp tác cùng kết minh.

Thân phận của các nàng khiến cho các nàng trở thành người các phương có thể tín nhiệm dẫn kiến, bất kể là ngoài sáng cùng làm hay là âm thầm cấu kết, làm như môi giới câu thông khắp nơi, những cá nhân này chỉ để ý kiếm lấy ủy thác xin nàng trợ giúp dẫn kiến đối phương rồi trả thù lao, các nàng sẽ không đi tìm hiểu tin tức giao dịch giữa bọn họ, chỉ có đưa đến một tác dụng xe chỉ luồn kim, là người trung gian đáng tín nhiệm nhất.

Trương ta vừa nghe giọng nói Tuyết Nhược San khác thường, liền lập tức tỉnh ra, thì ra là vị Tuyết cô nương này muốn dẫn kiến một người cho mình?

Muốn gặp ta, có thể là ai? Có thể làm cho Tuyết Nhược San ở Biện Lương hành động vì hắn ra mặt dẫn kiến. Người này có bao nhiêu đại thủ bút? Thương nhân Tây Vực này muốn từ ta đây lấy được cái gì, có thể cho ta cái gì đây?

Lửa giận trong mắt Trương Bạc cuối cùng cũng biến mất, hai tròng mắt trở nên sâu sắc lên: "Ha hả. Nếu như Tuyết cô nương cũng sùng bái như vậy, vị thương nhân này nhất định là hạng ngườig nghe rộng biết nhiều. Câu ngạn ngữ nói: học vạn quyển sách, không bằng đi được ngàn dặm đường, lão phu cũng lớn tuổi, công vụ bề bộn. Không thể thoát thân ra, không thể tự mình đi được ngàn dặm đường, nghe người ta nói, được thêm kiến thức cũng tốt."

Tuyết Nhược San vung tay áo lên, khẽ mở môi anh đào nói: "Các ngươi đều lui ra đi."

Tiếng nhạc dừng lại. Hai hàng nhạc sư nhấtề dừng bước, hướng về Trương Bạc nhẹ nhàng vái một cái, khoan thai lui ra, nhạc công hai bên chái nhà cũng lặng lẽ lui ra ngoài, trong sảnh ấm áp như xuân nhất thời yên tĩnh lại. Trương Bạc nhẹ nhàng bưng lên một hủ rượu Lai Mạn Điều Tư Lý nhấp một miếng, vuốt chòm râu nói: "Thương nhân Tây Vực kia hiện ở nơi nào?"

Tuyết Nhược San quyến rũ cười một tiếng, mày ngài giương nhẹ. Hai ngọn ngọc chưởng bành bạch vỗ ba chưởng, đã nghe phía sau bức rèm che khẽ vang lên tiếng bước chân, một trung niên nhân ba túm râu dài mặc áo bào xanh, mặt như quan ngọc, từ phía sau đi ra, đến trước mặt, hướng Trương Bạc mỉm cười thi lễ.

Trương Bạc nhìn trên dưới mấy lần, thấy người nhất biểu nhân tài, khí độ bất phàm như vậy, liên bớt đi vẻ kiêu căng, nghiêm nghị hỏi: "Tiên sinh từ nơi nào tới, thấy qua nhân vật nào?"

Tuyết Nhược San quả nhiên biết điều, lúc này đã khom lưng đứng lên, khẽ cười nói: "Vị tiên sinh này họ Long, Long Mạc Văn, Long tiên sinh, còn vị này, chính là Trương đại nhân đương triều tham gia thương nghị chánh sự, các ngài nói chuyện. Tiểu nữ đi làm mấy món thức ăn cùng rượu trợ hứng cho Trương đại nhân, xin lỗi không tiếp chuyện được."

Tuyết Nhược San khom người, bồng bềnh lướt đi, Long tiên sinh kia lúc này mới hướng Trương Bạc cười nói: "Ngưỡng mộ thanh danh Trương đại nhân đã lâu. Hôm nay nhìn thấy, thật là tam sinh hữu hạnh. Tại hạ đến từ Hà Tây, phụng mệnh chủ ta bí mật đến Trung Nguyên gặp tướng công, có một đại sự muốn cùng tướng công thương nghị."

Trương Bạc vừa nghe bỗng nhiên biến sắc, nguyên tưởng rằng là thương nhân giàu có quẹo chân chuyển tay muốn gặp mình, muốn mình chiếu cố, không ngờ lại có thể là người của Dương Hạo, Trương Bạc lập tức phất tay áo đứng lên, tàn khốc nói: "Người của Hà Tây Dương Hạo ? Buồn cười, nếu như các ngươi có cái đại sự gì, có thể sai sứ giả hướng quan gia bẩm báo. Bổn quan thân là trọng thần triều đình, há có thể lén gặp gỡ, đi đi!"

Long tiên sinh mỉm cười nói: "Trương tướng công nói lời ấy sai rồi. Thứ đồ để tại ngoài sáng trước mặt, đó cũng là dùng để che miệng chúng nhân trong thiên hạ, việc quốc gia đại sự, cực kỳ thận trọng, nếu không có điều câu thông trước đó, sao có thể khinh suất nêu ra cùng người khác? Đại nhân vốn là Chế Cáo Đường Quốc, há có thể không biết tình hình Đường Tống giao thiệp bên trong?"

Trương Bạc căng da mặt, trầm giọng nói: "Hà Tây Dương Hạo vốn là thần tử triều ta, cũng có thể cùng Đường Quốc so sánh? Không nên nói những thứ này với lão phu, ngươi không đi, ta đi!"

Trương Bạc nhấc chân liền đi, Long Mạc Văn vẫn là vẻ mặt thong dong nở nụ cười, cất giọng nói:

"Trong lòng đang muốn đại nhân cùng Hạ Quốc ta cùng thương nghị riêng, ý tứ cả hai cùng có lợi, quốc sự lần này rất quan trọng, nên lén cùng triều đình quý quốc câu thông một phen trước rồi mới để vào chỗ sáng. Nếu như làm đại sự này cho thỏa đáng, vị trí của tướng công tại trong suy nghĩ của triều đình cùng quan gia, tất nhiên sẽ càng cao hơn một tầng. Nghĩ tới hạng người Lô Đa Tốn kia mua danh chuộc tiếng, một thân còn xa không kịp Trương tướng công, chẳng lẽ Trương tướng công nguyện ý sống dưới người?

Dưới chân Trương Bạc hơi chậm lại, ánh mắt hướng hắn chuyển tới, trầm giọng nói: "Ngươi muốn nói gì?"

Hắn lập tức thanh minh nói: "Bản quan đối với Lô tướng công cũng không có ý bất kính, đối với triều đình, đối với quan gia, lại càng là trung thành cảnh cảnh, nếu như lời ngươi nói, không phải là cùng triều đình có lợi, chỉ là muốn dùng số tiền lớn hối lộ bản quan, vì Hà Tây của ngươi mà mưu lợi, vậy ngươi liền khỏi mở miệng đi, bản quan cả nghe cũng không muốn nghe."

Long Mạc Văn nở nụ cười chân thành, một bộ dáng hòa khí sinh tài: "Đó là tự nhiên, đó là tự nhiên, cho dù dốc hết tất cả Hà Tây ta, sao có thể so sánh được với Trương tướng công ở Tống triều, dưới hai người , trên vạn người chứ, ha hả, Trương tướng công bình tĩnh chớ nóng, mời ngồi, tại hạ cùng với tướng công từ từ nói , xin mời."

Trương Bạc đầy bụng hồ nghi trở lại ngồi xuống, Long Mạc Văn kia đi tới đối diện với hắn, tay áo giương lên, phong độ nhanh nhẹn ngồi xuống.

***

Trung Sách Thị Lang, Bình Chương Sự, lại kiêm Binh Bộ Thượng Thư Lô Đa Tốn hôm nay tuy là tể tướng đương triều, dưới một người, trên vạn người, ngày bận ngàn chuyện, quốc vụ bộn bề. Nhưng là có một chuyện, hắn không bao giờ bỏ qua. Đó chính là chức vụ Tu Soạn sử quán này. Cái chức vụ này lấy địa vị tôn sư Tể tướng hắn vốn không cần kiêm nhiệm. Nhưng là Lô Đa Tốn chẳng bao giờ bỏ qua, tuy nói công việc hàng ngày của sử quán đã sớm giao cho trợ thủ, hắn chỉ đeo cái danh nhàn, nhưng bất kể công vụ bận rộn như thế nào, mỗi ngày hắn đều hướng sử quán đi một chuyến, mượn đọc mấy quyển sách sử.

Bá quan đều nói Lô tướng công làu thông kinh sử, thông minh hiếu học, lại không biết Lô Đa Tốn sở dĩ mỗi ngày lưu luyến sử quán, cũng chỉ vì một chuyện, hắn muốn biết quan gia xem cái sách sử gì từ sử quán.

Triệu Quang Nghĩa ham đọc sách, mỗi ngày đều tới sử quán lấy sách đọc, nhất là lúc chưa quyết định được chính sách quan trọng phương lược của triều đình, hắn thường từ trong sử sách nghiên cứu các chuyện cũ tương tự các đời, từ đó tham khảo.

Mỗi lần Triệu Quang Nghĩa mượn đọc cái sách gì, Lô Đa Tốn đều làm theo mượn đọc mấy thứ kia, đọc thuộc nhớ vào lòng, cẩn thận tính toán, cứ như vậy, bất kể Triệu Quang Nghĩa tại trên triều đề cập tới chuyện lớn của triều đại nào. Người bên cạnh không đáp được, nhưng Lô Đa Tốn nhất định có hỏi tất đáp, mà khi Triệu Quang Nghĩa muốn làm ra quyết định gì, hắn cũng luôn có thể nói lên đề nghị nhất trí cùng quan gia, chính là dựa vào phần nhanh nhẹn linh hoạt này, hắn mới được như hôm nay. Có mỹ danh thông kim bác cổ, đồng thời càng ngày càng được quan gia coi trọng.

"Ty chức ra mắt Lô tướng công." Tiểu lại sử quan Tào tập ti hôm nay đang làm nhiệm vụ, vừa thấy Lô Đa Tốn quyền nghiêng đương triều đi đến, vội vàng đón tiếp, khấu đầu cúi lạy.

"Không cần đa lễ, hôm nay quan gia mượn đọc những sách sử nào?" Lô Đa Tốn căng thẳng hỏi.

Tiểu lại sử quan mỗi ngày đang làm nhiệm vụ cũng biết phân phó của Lô đại nhân, sớm đã đem những sách mà quan gia mượn ghi lại. Tào tập ti lập tức tay lấy ra tờ giấy từ trong tay áo, cung kính đi tới trình lên, nhưng trong lòng thấp thỏm: "Mấy thứ sách này hôm nay quan gia cũng không lấy xem qua, vạn nhất Lô đại nhân nhận lầm ý thánh thượng, có thể trách tội ta hay không? Ừm, sẽ không có chuyện gì, Lô tướng công còn dám đi hỏi quan gia có thật sự xem mấy bản sách sao, ngẫu nhiên hiểu nhầm ý thánh thượng, cùng ta có gì liên quan chứ? Rồi lại nói quan gia có lẽ chẳng qua là tùy ý lấy đọc, cũng không có cái thâm ý gì. Căn bản không dùng được."

An ủi mình như vậy, lòng thấp thỏm của Tào tập ti an tĩnh lại, thử nghĩ tới thù lao được trả, đáy lòng lập tức nóng hừng hực: "Một vạn quan, đó là chừng một vạn quan đó, chỉ giúp đở nói lên mấy câu đó, đưa lên một tờ giấy con như vậy, thù lao chính là một vạn quan, có số tiền kia, ta có thể mua một khu nhà cấp cao, mấy trăm mẫu ruộng màu mỡ, không bao giờ bị kia thiếu phụ luống tuổi có chồng kia chọc tức nữa, hắc hắc, còn có thể đem mỹ nhân xinh đẹp đương gia hoa khôi Thuần Vu Yên của Hạnh Vũ Lâu kia về nhà làm thiếp, do một mình ta hưởng thụ, mẹ ôi, đáng giá!"

Tào tập ti nuốt ực một ngụm nước miếng, ổn định lại tâm tình một chút, gièm pha cười nói: "Hôm nay quan gia lấy xem chính là sử ký, mấy bộ sách sử Hán thư."

"A, là những phần nào?"

"Đều là tư liệu về Hán Vũ Đế bắc phạt Hung Nô, nga, đúng rồi, một quyển này, quan gia đọc rất cẩn thận, còn ghi thêm ký hiệu." Lô Đa Tốn như nhặt được chí bảo, vội vàng với tay cầm một sách cẩn thận lật xem, chỉ thấy sách kia nói tới chính là chuyện bắc phạt Hung Nô, Hán Vũ Đế lấy mưu mà bình đại địch, song Tây Vực không yên, triều đình được cái này mất cái khác, cuối cùng được mưu thần trong triều hiến kế, kết minh đại quốc Ô Tôn ở Tây Vực, cắt đứt cánh tay phải của Hung Nô, cuối cùng lòng không còn cố kỵ, xua quân Bắc Phạt, làm nên thành tựu nghiệp bá cả đời.

"Quan gia đánh dấu đoạn này, là có ý muốn như thế nào đây? Ừm, ta phải hiểu rõ đoạn này hơn, chuẩn bị cho bất cứ tình huống nào."

Lô Đa Tốn vội vàng phân phó nói: "Có đoạn sử nào liên quan tới Hán Vũ Đế liên kết Ô Tôn, bắc phạt đánh Hung Nô, những bộ sách nào nói qua, đều mang tới toàn bộ, bản quan muốn lập tức tìm đọc."

"Vâng, tướng công xin vào phòng sách ngồi uống chén trà, ty chức lập tức đi ngay." Tiểu lại Tào tập ti đưa hắn vào phòng sách, vội vàng đi nhanh như chớp.

Chỉ chốc lát sau, Tào tập ti bê tới một đống cổ thư, vốn là sách trong phòng không được thấy rõ lửa, nhưng là hắn còn lấy tới một cái chậu than đặt ở dưới chân Lô Đa Tốn để sưởi ấm, Lô Đa Tốn khen ngợi cười một tiếng, lập tức giống như sói đói ôm sách đọc.

"Ở trong mắt Hán Vũ Đế, cường địch chỉ có phương Bắc Hung Nô, mà các nước Tây Vực mặc dù cũng cường đại, nhưng làm hại vẫn không bằng Hung Nô, Ô Tôn Quốc là đại quốc Tây Vực, cùng Hán triều cũng thường nổi lên chiến sự, tuy nhiên lãnh thổ quốc gia có hạn, cho nên tự vệ có thừa, tiến công lại không đủ, làm hại cuối cùng không so được với Hung Nô mạnh mẽ. Hán Vũ Đế hạ thân xuống, cùng Ô Tôn kết minh, tiêu trừ lo buồn phía sau, toàn lực Bắc Phạt Hung Nô, lập nên một đời bá nghiệp. Hung Nô vừa bại, đốicác nước tây Vực muốn đánh thì đánh, tự nhiên thần phục dưới cờ Đại Hán.

Lô Đa Tốn nhắm mắt vê râu, thưởng thức nhiều lần, trầm ngâm một hồi lâu, đột nhiên mở to hai mắt: "Hà Tây chỉ là thằng hề, thực lực quốc gia so sánh với Liêu Quốc kém xa nghìn vạn dặm. Nếu nói là thực sự uy hiếp Đại Tống ta, chỉ có Liêu Quốc, quan gia đánh giá đoạn lịch sử này, chẳng lẽ là muốn noi theo Hán Vũ Đế sao? Không đúng, Dương Hạo vốn là Tống thần, tự lập xưng Đế, là hành vi đại nghịch bất đạo, làm sao có thể kết minh, huống chi song phương đang chiến đấu không ngừng, quan gia không phải là ý tứ này, liên kết Liêu đánh Hạ? Càng không có khả năng, người Bắc như mãnh hổ. Một khi lấy chia đều Hà Tây, người Liêu như hổ thêm cánh, Tống Quốc ta đoạt được kém xa cái Liêu Quốc đoạt được, quan gia không phải là ý tứ này. "

Lô Đa Tốn nghĩ ngợi một lúc lâu, thầm nghĩ: "Chuyện này ta cứ nhớ tại trong lòng, nói bóng nói gió, quan sát nét mặt. Đợi khi hiểu rõ tâm ý quan gia, lại giành trước vào tấu tán thành hùa theo là được, ừ, chính là cái chủ ý này." Lô Đa Tốn đẩy sách đứng lên, định liệu trước đi ra ngoài.

-----oo0oo-----

: Tây Hạ Vương

 Chương 58: Tô Tần Trương Nghi 

Năm nay ba nước Tống Hạ Liêu có rất nhiều người trải qua chuyện không an bình, Triệu Quang Nghĩa càng là như thế. Đã phái trọng binh đi Tây Xuyên, nhưng là lần trừ phiến loạn này khó khăn vượt xa so với trước kia, mặc dù phân phối lượng lớn binh lực cùng vật tư, nhưng là cho đến tận hôm nay, hiệu quả vẫn không lớn.

Trong đó lý do trừ loạn không phải là hoạt động tứ xứ đã đem hệ thống quan lại Tây Xuyên đánh loạn, khiến cho không thể vận hành bình thường, mà là loạn phỉ đã khác quá khứ. Trước kia, lúc Triệu Đắc Trụ là thủ lĩnh của loạn phỉ, hoàn toàn là một bộ dáng cường đạo, mặc dù bọn họ đánh hạ một tòa thành trì, cũng không trú đóng, mà sau khi đánh cướp một phen, không đợi quan quân chạy tới đã rời đi.

Khi đó trừ phiến loạn bình thường đều là quá trình đại quân triều đình vào núi càn quét. Sau khi Triệu Đắc Trụ chết, triều đình vốn tưởng rằng đây là một cái đả kích nặng nề đối với loạn phỉ, lại không nghĩ tới sau khi Đồng Vũ so với Triệu Đắc Trụ càng thêm khó chơi hơn.Kể từ khi Đồng Vũ ngồi lên ghế đầu của nghĩa quân, thay đổi phương pháp đánh xong rồi chạy, tán ra chung quanh, mỗi khi hắn đánh hạ được một tòa thành trì, trừ việc cướp đoạt phủ kho thân hào để sung quân, còn mở kho phát chẩn lương thực cho dân chúng Quảng Trạch, thực hiện chức trách của quan phủ.

Khi hắn tiến công lựa chọn chọn thành thị cũng không còn là ở gần thuận tiện không mục đích gi như trước nữa, mà là ưu tiên lựa chọn thành thị có ảnh hưởng trọng đại, cùng thành thị hắn đã chiếm cứ có thể tương trợ lẫn nhau. Cùng lúc đó, hắn còn đang vượt khó đến nơi bắt đầu thành lập căn cứ địa ở Ba Thục, để cho người già yếu cùng phụ nữ và trẻ em cũng ở lại giữ ở nơi này, xây dựng sơn trại ở thâm sơn cùng chỗ sâu trong đầm lầy, thủ hạ chỉ để lại binh sĩ dũng cảm dám chiến, đồng thời tiến hành điều chỉnh đối với những người này, thành lập bốn chi quân đội Kiêu Hùng, Kiêu Dũng, Kiêu Chiến, Kiêu Thắng, mỗi chi quân đội chỉ có hai vạn người, nhân số mặc dù ít, nhưng trang bị vũ khí đã tương đối hoàn mỹ rồi, lực chiến đấu tăng gấp mười lần trước đây.

Đồng thời, Đồng Vũ còn mạnh mẽ quán triệt phương diện kỷ luật quân đội, trong quá khứ, sau khi phá thành đắc thắng, nói là chỉ đoạt của thân hào quyền quý, thật ra thì gia đình thường thường bậc trung, nếu của cải giàu có, cũng khó tránh khỏi làm cá trong chậu. Nhà nào có nữ tử có nhan sắc xuất chúng, loạn quân vào thành, cũng khó tránh khỏi có người nảy lòng tham gieo họa. Tuy nói những người tạo phản này vốn cũng là dân chúng tầm thường nhà chỉ có bốn bức tường, nhưng khi trong tay cầm đao, vẻ hung ác tham lam kia thực không thua gì trộm cướp.

Mà sau khi Đồng Vũ thực hiện nghiêm túc quân kỷ, mỗi khi phá một thành đô đều không mảy may tơ hào, tiếp liệu cần thiết lấy dùng ở kho quan phủ, nếu chưa đủ liền kêu gọi dân chúng tố giác gian thương hào bá làm giàu bất lương ở địa phương, tịch thu gia sản của bọn họ lấy bổ sung cái chưa đầy, nếu có còn thừa lại liền cứu tế dân chúng, mà những người có danh vọng tốt đẹp, chỉ sợ nhà có trăm vạn hắn cũng quyết không lấy một xu.

Đến lúc này quân đội Đồng Vũ cực kỳ được lòng dân, quá khứ tấn công một tòa thành trì, thân hào cự cổ địa phương đều tận hết sức lực ở cả nhân lực vật lực mọi mặt ủng hộ quan phủ, hôm nay lại là số không thật lớn, có khi đánh chiếm một tòa thành trì quả thật giống như Tri Phủ thành đô đi tuần, nhìn thấy mà hàng, ngay cả một chút chống cự cũng không có.

Mà ngồi vị trí cao thứ ba trong nghĩa quân là Vương Tiểu Ba trở thành phụ tá Đồng Vũ nể trọng nhất, vì hắn đưa ra khẩu hiệu Tam Ngô : "Chúng ta giàu nghèo không đều, nay vì ngươi chia đều. Chúng ta chịu thuế nặng, nay vì ngươi giảm đi,chúng ta không có đất cày, nay vì người phân chia". Bọn họ cũng đúng là làm như vậy, mỗi khi đến một chỗ nào đều cứu tế nghèo khó, giảm thuế má, phân ruộng đất, bởi vậy cực kỳ được lòng dân.

Một loạt cách làm của Đồng Vũ, khiến cho đám loạn phỉ vốn chạy trốn tứ tán này bắt đầu ra dáng một chi quân đội chính quy, mà một loạt cách làm của Vương Tiểu Ba lại khiến cho chi quân đội này có đầy đủ đặc trưng của chính quyền, cảnh này khiến triều đình cũng không dám nữa không coi trọng đối với những người quê mùa Tây Xuyên kia nữa.

Tình hình Hà Tây bên kia cũng bắt đầu trở nên phức tạp, thừa dịp Liêu Quốc cùng Hạ Quốc phát sinh xung đột ở khu Phong Đài Sơn, Phan Mỹ tổ chức mấy lần phản kích, tuy nói hắn hiện tại binh lực có hạn, hơn nữa không chiếm được địa lợi, nhưng vẫn là lấy được chiến quả nhất định, Hạ quân bị buộc bỏ qua một chút bảo trại xây quanh tiền tiêu Đông tuyến Hoành Sơn, không ngờ bên Tống Quốc mới vừa chiếm thượng phong, Liêu Quốc bên kia lập tức ngừng tiến công. Tiêu Thái Hậu phái ra sứ giả lúc này cũng chạy tới Hạ Quốc, song phương bắt đầu triển khai đàm phán. Hạ Quốc một mặt cùng Liêu Quốc đàm phán, một mặt tập trung binh lực, phát động mấy lần phản kích đối với Tống Quốc bên này, đoạt lại một ít bảo trại, song phương thắng bại tí xíu, nói tóm lại, trước mắt vẫn là một cục diện giằng co.

Một Tây Nam, một Tây Bắc, làm cho Triệu Quang Nghĩa đau hết cả đầu, mới vừa nghỉ xong dịp xuân mới, sáng sớm mở triều hội xong, hắn lập tức gọi lại mấy nhân vật đầu não các giới quân chính, ở điện Đồng Đức thương nghị lên hai chuyện đại sự cho làm hắn nhức đầu không thôi này.

Đợi mấy vị đại thần thi lễ xong, Triệu Quang Nghĩa đi thẳng vào vấn đề nói: "Chư vị ái khanh, hôm nay Tây Xuyên thối nát, Hà Tây giằng co, triều đình phân tâm chú ý làm hai, có chút mệt mỏi. Tây Xuyên là đát tim gan của triều đình, nghịch phỉ làm loạn Tây Xuyên, thì Kinh Hồ Vân Quý cho tới Quan Trung cũng không được an bình, loạn tim gan lần này tất phải trừ. Hà Tây Dương Hạo mưu phản, không nhìn triều đình, đây là cử chỉ đại nghịch bất đạo, cũng phải có đem chém để cảnh cáo thiên hạ, tuy nhiên với thế cục trước mặt, tác chiến hai đất Tây Nam Tây Bắc, cái nào chính cái nào phụ, cái nào nặng cái nào nhẹ? Chư vị ái khanh có giải thích gì?"

Đối với quân sự, Xu Mật Thừa Chỉ Tào Bân là đầu não cao nhất của quân đội tự nhiên hẳn là biểu đạt ý kiến của mình trước, lúc này ra ban tấu nói: "Thánh thượng, dân chúng Tây Xuyên tụ họp mưu phản, nguyên nhân sâu xa là do triều ta lúc trước lấy Tây Xuyên đâm giết quá nặng, VToàn từ binh thành phỉ, cướp bóc chung quanh, đến nỗi lòng dân oán thán, nguyên nhân trực tiếp lại là sau khi triều ta thống nhất Tây Xuyên, không hủy bỏ sư cao thuế nặng của Tây Thục lúc trước, cuộc sống dân chúng khó khăn, không có kế sinh nhai, chính sách trà muối gây ra vấn đề lớn, đủ loại lý do như thế, dẫn đến dân oan sôi trào, lúc này lại phát sinh nhiều lần thiên tai, mới nổi lên khởi nghĩa vũ trang.

Nói tiếp, loạn phỉ Tây Xuyên bất quá là một ít thảo dân cùng đường vì đòi miệng ăn mà lướt dọc tứ phương thôi, nguy hại kia so sánh với Hà Tây khác biệt trời vực, cho nên thần cho là, đối với loạn phỉ Tây Xuyên, nên tieux phỉ cùng sử dụng, một mặt đối với đám phỉ gian ngoan không thuận theo lấy trọng binh tiễu trừ, một mặt hủy bỏ sưu cao thuế nặng, điều chỉnh chính sách trà muối ở Tây Xuyên, ban phát lương thực giúp nạn thiên tai, chặt đứt nguyên nhân căn bản của loạn, thì mối họa tự nhiên được tiêu trừ.

Mà Hà Tây Dương Hạo vốn là Tống thần, nhưng lại mưu phản, lần này không giết, làm sao cảnh cáo thiên hạ? Hôm nay Dương Hạo mới vừa xưng Đế dựng nước, căn cơ nông cạn, lại cùng người Liêu trở mặt, chính là trời ban cho chúng ta cơ hội tốt, triều đình phải ổn định Bắc triều, lấy trọng binh chinh phạt Hà Tây, tất một lần thành công. "

" Lời ấy của Tào đại nhân sai rồi."

Trương Ký lập tức đứng ra phản bác: "Đúng. . . , ân uy cùng thực hiện, diệt phỉ cùng sử dụng, điểm này, bản quan cũng đồng ý, nhưng là đối sách với Hà Tây, bản quan cảm thấy, ý nghĩ của Tào đại nhân có chút cam chịu một bên.

Tào Bân không cho là gây gổ, chắp tay nói: "Trương đại nhân có cao kiến gì, Tào mỗ xin lắng tai nghe."

Trương Ký nói: "Từ trước đến nay nội ưu nặng hơn họa ngoại xâm. Loạn ở Tây Xuyên, là loạn con dân sinh ra ở trên ranh giới Tống Quốc ta, mà binh mã, ranh giới, dân chúng do Dương Hạo quản hạt, chính là lấy Hà Tây Thác Bạt thị làm căn cơ, Tây khuếch trương Ngọc Môn mà thành, hai cái thì cái nào xa cái nào gần, gây hại cái nào nhẹ cái nào nặng đây? Tây Xuyên là đất tim gan của triều đình, nếu là để lâu không bình ổn, tất làm đả thương nguyên khí.

Về phần nói loạn phỉ Tây Xuyên bất quá là một ít thảo dân cùng đường lướt dọc tứ phương, không ôm chí lớn, khi Tào đại nhân nói bọn họ là ít gây hại không khỏi cũng quá xem nhẹ rồi. Mạnh Tần thống nhất sáu nước, uy gia vũ nội, cường thịnh vô lượng một thời, nhưng là nguyên nhân gây ra lật đổ đế quốc Đại Tần, chính là do một đám người quê mùa ở đầm lầy cầm gậy tạo phản . Từ xưa tới nay, cũ đi đón người mới đến, chính quyền thay đổi, có bao nhiêu lần không phải mới đầu cũng chỉ là một ít thảo dân làm phỉ, tung họa một phương chứ?

Những thảo dân kia có lẽ thật sự không ôm chí lớn, song khi bọn họ đã có thành tựu, dã tâm cùng chí hướng tự nhiên không thể so với lúc xưa, còn nữai, cho dù bọn họ thủy chung không có dã tâm mưu đồ xã tắc, cũng tự có người dã tâm bừng bừng đối với bọn họ để lợi dụng. Loạn phỉ Tây Xuyên ở thời Triệu Đắc Trụ, suất lĩnh trộm cướp cướp bóc chung quanh, kêu gọi nhau tập họp núi rừng, xác thực là một đám lưu phỉ không ôm chí lớn, mà nay. . . Hành động của bọn họ rõ ràng đã có ý thành lập chính quyền. Một khi thực sự để cho bọn họ có thành tựu, hại kia chưa chắc đã không kém Hà Tây a."

Lời nói này cũng là công bằng hợp lý, Lữ Dư Khánh, Tiết Cư Chính nghe đều liên tiếp gật đầu, Trương Ký lại nói: "Xem xét lại Hà Tây, muốn tấn công toàn bộ nói lên dễ vậy sao? Tống Quốc bên này ta mới vừa chiếm thượng phong, người Liêu luôn luôn hung hãn ngang ngược kiêu ngạo liền lập tức cùng Hạ Quốc nghỉ ngơi ngưng chiến, giải thích thế nào đây? Không muốn cho Tống Quốc ta thừa dịp cơ hội thôi. Cho dù không có Liêu Quốc ở giữa cản trở, hôm nay trong triều đình có loạn Tây Xuyên, muốn đánh dẹp Hà Tây cũng không phải là một sớm một chiều."

Lô Đa Tốn cầm râu hỏi: "Như vậy theo Trương đại nhân nói, triều đình lúc này lấy Tây Xuyên làm trọng, trước tiên lấy Tây Xuyên, rồi thu Hà Tây sao ?"

Trương Ký khẽ mỉm cười, không đáp mà hỏi ngược lại: "Lô đại nhân cho là, đại địch căn bản của triều ta, ở Hà Tây hay là phía Bắc đây?"

Lô Đa Tốn ngẩn ra, thấy mọi người đều hướng hắn trông lại, chỉ đành phải đáp: "Tự nhiên là phía Bắc rồi, Dương Hạo cho dù xưng đế, cũng bất quá là tiểu phiên Hà Tây thôi, Hà Tây đất cằn người khéo, khó thành châu báu, từ xưa tới nay, đại họa trong bụng Trung Nguyên ta cho tới bây giờ đều đi ra từ phía Bắc, Hung Nô, Đột Quyết, cho tới hôm nay Khiết Đan, đều cũng như thế."

Trương Ký cười nói: "Đây chính là thế, phía Bắc, vốn là đại địch của Trung Nguyên ta, kể từ khi mười sáu châu U Vân rơi vào trong tay Bắc Quốc, người Bắc có uy hiếp đối với Trung Nguyên ta ngày càng lớn. Nguyên nhân chính là như thế, tiền triều Thế Tông hoàng đế mới thân chinh Bắc Quốc, đoạt lại đất ba châu Phổ, Mạc, Dịch. Thái Tổ hoàng đế triều ta, khi mới khai quốc, liền định ra quốc sách Nam sau Bắc, dễ trước khó sau, cũng là muốn thu phục Yến Vân.

Sau khi Tiên đế nhất thống Trung Nguyên không chịu tiếp nhận quần thần xin thêm tôn hiệu "Nhất Thống Thái Bình", là bởi vì tiên đế nhớ mãi không quên chưa thu được U Yến. Nay thánh thượng ngự giá thân chinh, đạp bằng Hán Quốc, chính là vì loại bỏ lực cản thu phục U Yến, di chí của tiên đế, tất được hoàn thành trong tay của Thánh thượng, tôn hiệu "Nhất Thống Thái Bình" này, tất tùy bọn ta, kính thêm cho Thánh thượng."

Triệu Quang Nghĩa nghe vậy, trên mặt nhất thời chợt lóe hồng quang. "Ngự giá thân chinh, đạp bằng Hán Quốc" đúng là hành động vĩ đại rực rỡ nhất trong cuộc đời hắn, nghe Trương Ký nhắc tới, tự nhiên rất là hưng phấn. Mà tôn hiệu "Nhất Thống Thái Bình" kia, tiền triều Thế Tông không có được, Thái Tổ hoàng huynh cũng không có được, nếu như có thể thêm vào Đế hiệu của hắn, hắn có thể áp đảo trên Sài Vinh cùng Triệu Khuông Dẫn. Hắn bây giờ là hoàng đế, giàu có tứ hải, địa vị lại càng không người nào sánh được, còn có thể có cái gì để theo đuổi? Theo đuổi duy nhất cũng chỉ có địa vị trong sử sách, vượt qua Sài Vinh cùng Triệu Khuông Dận, làm thiên tử có thành tựu về văn hoá giáo dục huy hoàng nhất sau Tần Hoàng Hán Vũ Đường Thái Tông, cái ý nghĩ này làm cho máu nóng của hắn sôi trào lên.

Trương Ký thấy đã thành công nâng lên hùng tâm của quan gia, trong lòng càng thêm bình tĩnh, chậm rãi mà đàm đạo: "Mà nay, Hà Tây tự thành thế lực một phương, nếu chúng cùng Bắc Quốc liên thủ, Tây, Bắc liên thủ kiềm chế Đại Tống ta, triều ta hai mặt thụ địch, hành động mưu đồ U Yến tất tan thành bọt nước, trước mắt Liêu Hạ trở mặt, đây là cơ hội tốt trời ban, phải nên lợi dụng tốt mới được, nếu như một mực tiếp tục chèn ép Dương Hạo, chỉ sợ hắn cùng đường, hoàn toàn quăng về hướng Liêu Quốc, đây chẳng phải là khéo quá hóa vụng sao."

Triệu Quang Nghĩa nghe hắn nhắc tới hành động vĩ đại mình ngự giá thân chinh tiêu diệt Hán Quốc, thần sắc đang lúc rất có vẻ tự đắc, nhưng là nghe đến đó, sắc mặt không khỏi trầm xuống, không vui nói: "Dương Hạo lấy thân phận thần tử tự lập xưng Vua, mặt Nam lưng Bắc, đây là đại nghịch bất đạo, nếu không chinh phạt, làm sao cảnh cáo thiên hạ, chẳng lẽ bởi vì kiêng kỵ hắn cùng Bắc triều liên thủ, liền thừa nhận đế vị của hắn sao ?"

Trương Ký liền vội vàng khom người nói: "Thần không dám, thần có ý tứ là, dân, đất Dương Hạo quản hạt, đều là các châu Hà Tây, năm châu Định Nan. Về số quân dẫn theo, một phần đến từ đám bộ hạ cũ Định Nan Quân, một phần đến từ cho các châu Hà Tây Cam Lãnh Túc Cát, một phần là thu nạp tạp Hồ ở Tây Vực, Đại Tống ta mới lập, còn không rảnh chú ý đến phía Tây, đám dân đất kia, đều không phải là dân Tống Quốc ta vốn trị, nay có thể nắm trong tay Dương Hạo, chung quy là dễ chịu hơn nắm giữ ởtrong tay chư phiên Đảng Hạng, Thổ Phiên, Hồi Hột, dĩ nhiên, điều kiện tiên quyết là Dương Hạo vẫn có thể tự cho mình là Tống thần.

Dương Hạo xưng đế, vốn không có dã tâm này, thực tế là đại quân triều đình Tây tiến, thân phận kia lúng túng, tiến thối không được, rất là bất đắc dĩ. Cho nên, nếu triều đình có thể thừa dịp cơ hội Hạ Quốc cùng Liêu trở mặt, ngừng binh qua mà phái dứ thần tới thuyết phục hắn bỏ đi Đế hiệu, rơi xuống quy chế nhất đẳng, vẫn lấy cờ hiệu là Tống thần, là có thể bày ra ràng buộc với danh phận đại nghĩa kia. Như thế, triều ta là có thể đưa tay tới, đi bình định Tây Xuyên trước, giải trừ lo lắng phía sau. Đồng thời, còn có thể hoàn toàn chặt đứt liên lạc giữa Hạ Liêu, xác định rõ chủ quyền của triều ta đối với Hà Tây .

Có thể nói nhất cử lưỡng tiện. Sau đó, đợi bình định Tây Xuyên xong, thời cơ chín muồi, Thánh thượng Bắc Phạt cũng được, Tây chinh cũng tốt, nếu như muốn Bắc Phạt, Hà Tây thế kém lực cô, vừa được triều đình thu phục, chỉ tồn tại một phần may mắn, tất sẽ không gây chuyện, cam lòng vì Liêu Quốc làm tiên phong.

Triều đình chỉ cần thi ân, là trấn an được, khiến cho Tây Bắc bàng quang ngồi nhìn, không kéo chân sau triều đình. Nếu như muốn Tây chinh, khi đó phía sau đã an ổn, so sánh với Bắc phạt còn muốn dễ dàng hơn."

La Khắc Địch nghe đến đó khẽ lắc đầu nói: "Ngày xưa Đường Quốc Lý Dục cũng từng tự hạ niên hiệu, nhưng không thể ngăn cản đại quân ta xuôi nam, có vết xe đổ đó, Dương Hạo đã xưng đế, yên tâm tin tưởng triều đình chiêu an, tự hạ quy cách, bỏ đi Đế hiệu? Nếu hắn dựa theo Liêu Quốc, được lợi cực ít nhưng giữ được Đế vị không mất, ở giữa Tống Liêu, hắn sẽ không chọn Tống Quốc."

La lão gia tử luôn luôn tín phụng, làm nhiều chuyện ít nói chuyện, đứng ở một bên, hai mắt nửa mở nửa hạp, liền giống như kiểu ngủ thiếp đi, cho đến khi con trai nói chuyện, một đôi mắt già của hắn mới khẽ mở ra một chút, đợi nghe con trai nói xong, không có chỗ nào sơ sót, mí mắt trên cùng mí mắt dưới lại đầy lên, bộ dáng kia so sánh với cột đá long đình bên cạnh bất quá là nhiều hơn một hơi thở mà thôi.

Trương Ký đã sớm được Dương Hạo nhờ giúp đỡ, tất nhiên đã định liệu trước, nghe vậy xúc động nói: "năm đó Hán Quốc cam chịu vì Liêu Quốc, kết quả như thế nào, đồng dạng là vết xe đổ, đi con đường nào, tất nhiên là do Dương Hạo lựa chọn, bất quá nếu chúng ta có thể chủ động chiêu dụ, thuyết phục hắn, hắn biết được sẽ chọn triều ta đi? Huống chi, hôm nay Liêu Hạ nổi lên phân tranh, đây cũng là cơ hội tốt, nắm lấy cơ hội, là có thể làm một nửa mà được công gấp bội, lo gì không thể thuyết phục Dương Hạo?"

Trương Ký nói tới đây, hướng Triệu Quang Nghĩa chắp tay, nói: "Nếu như Thánh thượng đồng ý, Trương Ký nguyện vì triều đình chủ trì kỳ sự, thuyết phục Dương Hạo hướng quan gia cúi đầu xưng thần !"

Triệu Quang Nghĩa thử nghĩ tới Tây Xuyên càng ngày càng là tình thế thối nát, còn phải luôn luôn nghĩ tới Liêu Quốc kiêu hùng hung hãn cuồng ngạo, thấy biểu hiện trước và sau khi quân Tống xuất chiến, bất giác có chút động tâm. Thổ Phiên Hồi Hột ở hai phiên Lân Phủ, năm châu Định Nan, cùng đi về Tây xa hơn, trước kia cũng vẫn không nắm tại trong tay triều đình, hôm nay triều đình đã được hai châu Lân Phủ rồi, song Hắc Xà Lĩnh thảm bại khiến cho thế công dừng ở Hoành Sơn, nếu như có thể khiến cho Dương Hạo một lần nữa xưng thần mà nói..., Lân Phủ đã tới tay, triều đình có mặt mũi tạm thời từ Hà Tây lui binh, ngày sau lại từ từ mưu đồ, có cái gì không được chứ? Nam Đường, Bắc Hán cũng không phải là một lần đánh được a, Hạ Quốc hôm nay, so sánh với Đường Hán tựa hồ cũng không thua gì, triều đình không thể nào đem toàn bộ thực lực hao phí ở Hà Tây, Trương Ký nói rất đúng, uy hiếp lớn nhất đối với Đại Tống chính là Liêu Quốc, hơn nữa Liêu Quốc sẽ không ngồi nhìn Tống Quốc chiếm lĩnh Hà Tây, nên thu xếp cho tốt. . .

Triệu Quang Nghĩa càng nghĩ càng cảm thấy kế hoãn binh này dùng dược, Lô Đa Tốn một mực ở bên cạnh quan sát sác mặt, mắt thấy vẻ mặt của Triệu Quang Nghĩa, không khỏi thầm nghĩ không ổn, hắn nhớ tới những thứ sách sử Triệu Quang Nghĩa đã đọc qua trước đó vài ngày, không khỏi bừng tỉnh đại ngộ: "Cái này căn bản là tâm ý của Thánh thượng a, Thánh thượng muốn noi theo Hán Vũ, ràng buộc Hà Tây mà chế Mạc Bắc, nếu định Mạc Bắc, Hà Tây tự nhiên thần phục, chẳng qua là Dương Hạo chung quy là nghịch thần, Thánh thượng có trướng ngại thể diện nên không tiện chủ động thỏa hiệp, Trương Ký. . . Sợ là đã được Thánh thượng chỉ điểm, mới nói lên cái chủ ý này."

Vừa nghĩ tới đây, Lô Đa Tốn bỗng nhiên cảm thấy nguy cơ, hắn cảm thấy bắt đúng mạch đập của Triệu Quang Nghĩa, sợ Triệu Quang Nghĩa lập tức gật đầu đáp ứng, dù sao cũng phải phô trương một phen, biểu hiện mình cùng Thánh thượng tâm hữu linh tê giống nhau mới tốt, cho nên vội vàng xuất ban tấu nói: "Thánh thượng, thần cho là ý kiến của Trương Ký đại nhân rất có lý. Năm xưa Hán Vũ Đế lấy Mạc Bắc Hung Nô là đại địch, vì Tây Vực kéo chân sau, liền chủ động cùng Ô Tôn Vương ký kết liên minh, Hung Nô vừa bại, Tây Vực không đánh mà hàng, nếu không phải như thế, Hán Vũ muốn tiến quân thần tốc, đánh bại Hung Nô, chỉ sợ cũng không phải là dễ dàng như vậy.

Hà Tây Dương Hạo, nhân dịp đúng thời cơ nổi lên, đất kia cằn cỗi, dân chúng nhanh nhẹn dũng mãnh, trước mắt đại quân triều đình tiếp cận, chư bộ tạp Hồ do Hạ Quốc quản hảt còn có thể đồng tâm hiệp lực, ngoại địch vừa đi, Dương Hạo muốn chỉnh hợp chư bộ Thổ Phiên, Hồi Hột vì mình sử dụng là khó như lên trời, khi đó nội loạn tự sinh, không rảnh chú ý bên ngoài. Triều đình bây giờ nếu ràng buộc Dương Hạo là giải quyết được bị hai mặt dùng binh gây rối, có thể tập trung toàn lực bình ổn loạn Tây Xuyên, tương lai nếu muốn Bắc Phạt Khiết Đan, cũng có thể lệnh cho Dương Hạo ngồi bàng quang. Một khi U Yến tới tay, Dương Hạo bất quá chỉ là Trần Hồng thứ hai mà thôi, ngoại trừ hiến đất dâng cát, còn có cái lựa chọn thứ hai sao?"

Chỗ coi trọng nhất trong lòng Triệu Quang Nghĩa chính là U Yến, sở dĩ phải đánh Hà Tây, là bởi vì Dương Hạo xưng Đế, thần tử ngày xưa lại dám ngồi ngang hàng cùng hắn, đây là chuyện vô luận như thế nào hắn cũng không cách nào tiếp nhận được, hắn không cho là một mình Hà Tây có thể tạo thành cái uy hiếp gì đối với Trung Nguyên, nhưng là một khi Hà Tây cùng Liêu Quốc liên thủ lại khác. Mà trước mắt rõ ràng là đánh cho Hạ Quốc càng độc thì khả năng hắn kết minh với Liêu càng lớn, nếu kế hoạch tập kích bất ngờ chỉ tới Lân Phủ là phải dừng, không cách nào thu hoạch càng nhiều chỗ tốt hơn nữa, như vậy có thể kết thúc chiến sự Hà Tây trong thể diện, trước tiên tập trung toàn lực giải quyết loạn Tây Xuyên, quả thực là một lựa chọn rất tốt. Về phần Hạ Quốc, tương lai sau khi bình định Tây Xuyên, là sẽ noi theo hoàng huynh, cho đòi thần tử Dương Hạo tới gặp, nếu hắn tới, là đợi giam lỏng ở kinh thành, nếu hắn không tới, còn sợ không có cớ thu Hà Tây sao. Triệu Quang Nghĩa càng nghĩ càng cảm thấy xử lý như vậy thỏa đáng nhất, hôm nay hai vị Tể tướng mình nể trọng nhất đã nhất trí ý kiến, quyết tâm của Triệu Quang Nghĩa đã định rồi, hắn gật đầu vừa muốn mở miệng nói chuyện, Lô Đa Tốn đã đoạt trước một bước nói: "Dương Hạo từng nhâm chức Hồng Lư Tự Khanh, cùng thần coi như quen biết. Thần nguyện vì bệ hạ phân ưu, thương lượng cùng Dương Hạo, thuyết phục hắn tới hàng."

Triệu Quang Nghĩa cực kỳ vui mừng, hớn hở nói: "Tốt, nếu như thế, chuyện này liền giao cho hai vị ái khanh đi, hai vị ái khanh có tài Tô Tần Trương Nghi, trẫm có hai vị ái khanh phụ tá, nghiệp bá cũng đều có thể ! Ha ha ha. . . .

-----oo0oo-----

: Tây Hạ Vương

 Chương 59: Đấu Trí 

Hạ Quốc! Đang lúc bởi vì xung đột mười trạm canh gác nổi lên khiến cho chiến tranh rơi vào rành hẹp ngoại giao, cục diện song phương động đao động thương tạm thời ngưng lại, mà chiến tranh giữa Tống Hạ vẫn nổi lên, song phương không ngừng tiến hành tiến công mang tính thử dò xét. Ở tuyến đầu song phương, có một trạm gác nhỏ, song phương đều có một tiểu đội chừng trăm người đóng quân ở đó, bởi vì địa hình hiểm trở, nơi này không thích hợp cho lượng lớn quân đội ra vào, vị trí quân sự cũng không phải là rất quan trọng, cho nên song phương trừ việc bắn tên lẫn nhau, chẳng bao giờ xảy ra tiếp xúc trực tiếp.

Ở thời điểm thay quân, trạm canh gác nhỏ có tỷ lệ thương vong số lẻ này đầu tiên là lặng lẽ thay đổi thủ vệ đội trưởng, ngay sau đó binh sĩ nơi này cũng tiến hành thay đổi từng nhóm một. Trạm canh gác vốn là chỉ có trên dưới một trăm người, ở hơn mười ngày sau đã hoàn toàn thay máu, tất cả mọi người đều bị đổi lại. Ngay sau đó, trên sườn núi bị tuyết trắng che phủ ở giữa hai trạm gác kia xuất hiện một chuỗi dấu chân từ Tống doanh đi về phía Hạ doanh, dấu chân rất nhanh đã bị bông tuyết rơi chầm chậm, cùng gió núi xoắn tới bao trùm lên mảnh tuyết, nhưng là rất nhanh, nơi đó lại xuất hiện hai hàng dấu chân ngược trở lại.

Dấu chân càng ngày càng nhiều, càng ngày càng dày đặc, trên triền núi tuyết đọng, dần dần lộ ra một con đường nhỏ kiên cố, gió tuyết cũng đã không thể che dấu. Bí mật tiếp xúc giữa Tống Liêu, ở dưới sự che chở của tất cả chiến sự lớn nhỏ song phương, liền từ nơi này bắt đầu.

Đi qua cái trạm gác này, đưa đến trên tay Dương Hạo ở Hạ Châu một phong thư, là thư do Trương Bạc chấp bút, Lô Đa Tốn trau chuốt tự tay viết. Phủ Châu Chiết thị, tâm hướng triều đình, triều ta vừa lập, liền gọi vào triều gặp mặt, Thái Tổ hớn hở, chọn làm tâm phúc, đã ủy thác trách nhiệm nặng nề, báo cho Chiết thị thay thế Vân Trung, phòng ngự quân đội, lấy làm hàng rào của quốc gia. Năm thứ 7 Thái Bình Hưng Quốc, túc hạ cấu kết phản tướng Xích Trung, hưng binh cướp lấy Phủ Châu, Chiết tiết độ sứ bỏ nhà chạy trốn, xin kinh sư cho chi viện.

Thiên tử hưng binh chinh phạt Hà Tây, thật sự là che chở Chiết thị, trừng phạt vô lễ, nào có ý đâm giết.

Đột nhiên túc hạ gian ngoan không phục, không biết nay trên có thiên địa tạo sẵn, ngang nhiên tự lập, lấy thần phạt Vua, cử chỉ này là đại nghịch bất đạo. Hà Tây làm phản, chấn động trong ngoài, người nghe thấy ai cũng oán giận, rối rít xin Thánh thượng chỉ binh, xin giết túc hạ đánh dẹp phản nghịch. Tuy nhiên thiên tử là đức văn võ nhu xa, thường mang lòng từ bi, cố nói với hai bên: triều đình không phải là không có khả năng lấy lực áp một phương bốn biển, chỉ niệm bản ý yêu mến túc hạ của tiên đế, lại niệm công lao túc hạ khai thác phát triển Hà Tây, chiêu an chư Hồ, không muốn vì một triều mà diệt tuyệt, lại càng không vì một người túc hạ, khiến cho hàng vạn hàng nghìn sanh linh Hà Tây đồ thán. Cho nên mặc dù lệnh cho Phan Mỹ hưng binh, vẫn khẩn thiết căn dặn viết: "Có chinh vô chiến, không giết người vô tội, vương giả binh lính cũng vậy. "

Thánh thượng lấy nhân trị thế, hậu đức ngàn năm, có phong thái cổ thánh tiên hiền, giả dụ có chư phiên chống lại túc hạ, túc hạ há có thể có lượng khoan dung như Thánh thượng như thế ư? Chung quy nói tới cùng, thiên tử chưa từng phụ túc hạ, túc hạ làm sao báo đền bệ hạ? Mà nay Hà Tây giằng co, người Liêu nhân cơ hội làm loạn, hưng binh tới Phong Đài, lòng dạ khó lường, người mưu tính toán, tay chân nhúng vào trong lửa.

Lô Đa Tốn, Trương Trị, cùng túc hạ là đồng nghiệp trong triều đình, coi thiên tử như cha mẹ vậy. Coi túc hạ như huynh đệ vậy. Há có hiếu với cha mẹ mà không yêu quý huynh đệ sao? Cho nên vì túc hạ nhất nhất phân trần. Từ xưa có câu nói, danh không chánh tất ngôn không thuận, ngôn bất thuận thì không làm được chuyện . Túc hạ phụng chỉ đóng tại Tây Thổ, cho dù quản hạt vạn dặm, thống ngự trăm vạn quân, cũng nên chắp tay giữ lễ thần tử. An ổn thuận theo thiên tử có phải hơn không? Như thế có phải là danh tất chính ngôn tất thuận hay không? Nếu khăng khăng một mực, không biết hối cải, chỉ có khiến cho dân chúng đau khổ, đả thương người trong thiên địa, vừa làm cho Hồ thừa dịp bắt làm nô lệ, người thân đau đớn mà kẻ thù sung sướng vậy.

Nhưng nếu túc hạ có ý yêu dân, lòng trung với vua, thì hãy bỏ mũ Đế, gạt đi Đế hiệu, cúi tai, dâng biểu xin tội, túc hạ ban đầu tự lập là bởi vì chúng nhân thỉnh cầu, nhất thời hồ đồ mà nhầm đường lạc lối. Thiên tử nhân đức, tất không thêm tội, túc hạ vẫn có thể phục chức Định Nan Tiết Độ Sứ, Hà Tây Lũng Hữu Nguyên Soái, như thế, mất đi một Đế hiệu mà bảo vệ được một phương an tĩnh, bỏ đi một mũ Đế mà bảo vệ được dân chúng, cớ sao lại không làmi, thiên hạ ai không khen ngợi túc hạ hiền đức chứi! Sau thì tiến cống thượng quốc, không cho thiên hạ trách cứ, không làm dân thiên hạ khốn đốn, bên người lại thấy đại khang vậy.

Hy vọng túc hạ nghe theo, thì trên dưới cùng mỹ lợi, lo lắng của dân vùng biên giới được bình ổn vậy. Còn nếu không nghe, ngày khác tuy có xin mời về triều đình, tất có hối hận ngàn trùng cắn. Lô, Trương hôm nay nói như vậy, không riêng lợi cho Đại Vương, mà phụng ý Vua cứu sống dân khỏi hoạn nạn, hợp thiên địa nhân mà thôi, chỉ tùy túc hạ chọn lựa."

Dương Hạo nhìn phong thư đặt chuyện này của Lô Đa Tốn, Trương Bạc, không khỏi thoải mái mà cười to, truyền ra hai bên, nói: "Ánh rạng đông đã hiện, triều đình không muốn hãm sâu ở vũng bùn Hà Tây, đã có lòng nghị hòa. Các ngươi xem một chút, đây là thư của Tể tướng Tống Quốc Lô Đa Tốn cùng Trương Bạc gởi tới, trên thư nói, chỉ cần ta bỏ đi Đế hiệu, cúi đầu xưng thần, triều đình vẫn thừa nhận thân phận Định Nan Tiết Độ Sứ của ta, ta thống lĩnh đất Hà Tây, cai trị dân Hà Tây, suát lĩnh binh sĩ Hà Tây, ha ha, Hà Tây vốn là ở trong tay ta, Triệu quan gia này thật đúng là của người phúc ta đây."

Đinh Thừa Tông cười nói: "Một phen tâm tư của chúng ta cuối cùng cũng không uổng phí, nếu Tống Quốc đã làm ra thái độ như vậy, kế tiếp liền dễ làm. Bất quá có thể bỏ Đế hiệu, nhưng không thể tiếp nhận phục chức xưng Định Nan Tiết Độ Sứ, Thánh thượng cần phải giữ lại một Vương hiệu. Như thế lại vừa giữ vững chính thể Hà Tây hoàn toàn độc lập, về điểm này, sở rằng Tống triều sẽ không dễ dàng đáp ứng, xem ra phải cò kè mặc cả một phen.

Chủng Phóng nói: "Tống triều đã thâu tón hai châu Lân Phủ, nếu như muốn nghị hòa, hai châu Lân Phủ nên lấy về, cũng nên cùng bọn họ nói chuyện cho tốt, Lân Châu đã sớm thuộc về sở hữu của Thánh thượng, hôm nay chúng ta muốn hướng Tống xưng thần, vẫn tín phụng cờ hiệu Tống Quốc, như vậy Lân Châu này, có phải nên trả lại cho chúng ta hay không đây? Còn có bức màn mơ hồ Phủ Châu kia, Xích Trung đã chết, triều đình chỉ để ý đem tiếng thối chụp lên trên đầu của hắn, dù sao cũng là không giải thích rõ, nhưng chúng ta là không thể thừa nhận tội danh này. Cái trận khẩu chiến này, nhất định cũng phải đánh rõ ràng mới được

Dương Hạo cười cười, như có điều suy nghĩ nói: "Bỏ đi Đế hiệu mà xưng vương, trả lại Lân Châu, giải trừ tranh chấp. Những thứ này, sợ rằng mỗi một cái đều cũng không phải là dễ dàng khiến cho hắn làm ra nhượng bộ như vậy. Nhất là lấy về hai châu Lân Phủ, Tống Quốc ở Hắc Xà Lĩnh đã hao binh tổn tướng, đã mất thể diện, nhưng có thể tự an ủi, chính là chiếm cứ được hai châu Lân Phủ, hiện tại bảo bọn họ giao ra đây? Khó khăn! Khó khăn a, thịt béo đến trong miệng Triệu Quang Nghĩa, ngươi muốn làm cho hắn phun ra, đây chính là khó như lên trời. Bất quá, cái điều kiện này cũng không ngại nói ra, rao giá trên trời, trả tiền ngay tại chỗ cũng được chứ sao."

Hắn liếc nhìn Chủng Phóng cùng Đinh Thừa Tông, phân phó nói: "Triệu Quang Nghĩa để cho Lô Đa Tốn, Trương Bạc chủ trì chuyện nghị hòa, chúng ta bên này, liền tùy hai người các ngươi dẫn dắt đi. Ở trước khi chuyện chưa được làm sáng tỏ, phải tuyệt đối giữ bí mật, không được để cho Liêu người nắm giữ một chút tin tức."

Chủng Phóng cùng Đinh Thừa Tông nhất tề đáp: "Thần tuân chỉ."

Từ sau đó, Dương Hạo liền đem chuyện nghị hòa toàn quyền giao phó cho Chủng Phóng cùng Đinh Thừa Tông, hai người cùng Lô Đa Tốn, Trương Bạc qua chim bay truyền thư, bắt đầu bí mật đàm phán, vì che dấu tai mắt người khác, Dương Hạo vẫn thường xuyên ra mặt mở tiệc chiêu đãi sứ giả Liêu Quốc, khi thử tiến hành hòa bình giải quyết xung đột quân sự ở giữa Tống Hạ, hai nước Hạ Liêu ở Hoành Sơn cũng vẫn duy trì trạng thái giằng co.

Mà chủ tướng tiền phong Phan Mỹ cùng Dương Kế Nghiệp của hai nước Tống Hạ mặc dù biết triều đình hai bên đang nghị hòa, nhưng là vì phóng ra màn khói, tiến hành che dấu, xung đột giữa song phương cũng vẫn là không gián đoạn, khi người mang tin tức đi qua lại trên con đường nhỏ bí mật, ở những địa phương khác vẫn là đầu tường thay đổi vương kỳ, ngươi kêu to ta trèo lên, đánh cho thật hăng hái.

Thư trả lời của Hạ Quốc rất nhanh đã đưa về Biện Lương, bây giờ không phải là lúc cùng Tống triều xé rách da mặt, vì ngày này, từ lúc Dương Hạo tự lập quốc ban đầu, cũng chưa có đem tội danh trực tiếp công kích hai châu Lân Phủ tính đến trên đầu Tống Quốc, mà là mượn cớ Vương Kế Ân cùng Xích Trung cấu kết, vì khơi mào chiến tranh, mưu lập chiến công, tạo thành loạn Lân Phủ .

Mặc dù Tống đình vừa ăn cướp vừa la làng, vẫn kiên trì nói là Dương Hạo cấu kết với Xích Trung, mưu đồ Phủ Châu, trước mắt song phương có ý cùng nói, Dương Hạo phản bác, tự nhiên không thể đem tội danh này tính lên trên đầu Tống Quốc, vì vậy liền đẩy hết cho tên tử quỷ Xích Trung kia, vẫn kiên trì nói hắn là bị Vương Kế Ân mê hoặc, có ý định chế tạo rắc rối để che mắt triều đình, bản thân Dương Hạo lúc ấy đang suất lĩnh đại quân Tây Chinh Ngọc Môn, đối với toàn bộ chuyện này đều không biết, cũng là một người bị hại..v.v... Dĩ nhiên, song phương ai đúng ai sai, cái này đã không phải là trọng điểm rồi, song phương chẳng qua là cần hạ xuống một cái bậc thang, không ngoài dự liệu mà nói, chỉ cần song phương có thể đạt thành nghị hòa, vén lên được tội trách cho loạn Lân Phủ, như thế mưu thần trí sĩ song phương cùng chung nhất trí đem toàn bộ tội danh chụp lên người kỵ sĩ không đầu Xích Trung tướng quân, vấn đề quan trọng trước mắt song phương hòa đàm chính là điều kiện nghị hòa.

Triệu Quang Nghĩa nghe nói Dương Hạo yêu cầu triều đình trả lại hai châu Lân Phủ, đồng thời sau khi bỏ đi Đế hiệu muốn xưng Vương, quả nhiên một ngụm từ chối. Mặc dù hắn hiện tại đã xác định chính sách bình Tây Xuyên trước, mưu Tây Bắc sau, nhưng là mặc dù không thể nghị hòa, tạm thời dừng lại tiến công đối với Hà Tây, duy trì hiện trạng vẫn là có thể làm được. Triều đình hao tổn rất nhiều. Tiểu Hạ Quốc chưa chắc đã tốt hơn. Triệu Quang Nghĩa lo lắng mười phần, tự nhiên không chịu dễ dàng làm ra nhượng bộ. 

Mục đích chủ yếu triều đình nghị hòa không chỉ là vì có thể ra tay tới bình Tây Xuyên trước, mà nguyên nhân quan trọng hơn là là vì phòng ngừa Hạ Quốc cùng đường đầu nhập vào Liêu Quốc, phân hoá quan hệ Hạ Tống, vì sáng tạo điều kiện Bắc Phạt trong tương lai, kế hoạch triều đình bất ngờ tập kích Lân Phủ, lấy thế tiến công chớp nhoáng cướp lấy Hà Tây đã hoàn toàn phá sản, ở dưới sự nhìn trừng trừng của Liêu Quốc, mưu đồ lấy Hà Tây đã thành bọt nước, vì ràng buộc Hà Tây, trong cuộc chiến Bắc Phạt tương lai để cho Hà Tây phòng bị ít nhất có thể lập tức đàm phán không thành.

Có lẽ nhìn thấy cái này, Lô Đa Tốn cùng Trương Bạc vắt hết óc, muốn tìm ra một điểm thăng bằng song phương đều có thể tiếp nhận, cuối cùng tùy Lô Đa Tốn chấp bút, thư trở lại nói hành động Dương Hạo mưu đồ Lân Phủ, nhìn lại sự việc xảy ra, quả thật đáng hoài nghi nặng nề, triều đình đối với điều này sẽ tiến hành kiểm tra đối chiếu sự thật. Về phần lấy về hai châu Lân Phủ, tình hình liền hết sức phức tạp. Trước tiên nói đến Phủ Châu, Phủ Châu là Vân Trung Chiết thị quản hạt, mà Chiết thị đã chuyển nhà dời khỏi Phủ Châu, hiện tại làm Ngưu Thiên Vệ Thượng tướng quân, làm quan ở kinh, dưới tình hình như thế, Phủ Châu tự nhiên phải tùy triều đình phái quan tới đóng, vạn lần không ó đạo lý giao phó cho Dương Hạo.

Về phần Lân Châu, tình hình ở đó càng thêm phức tạp. Lân Châu vốn là Phủ Châu Chiết thị quản hạt, lúc Hỏa Sơn Vương Dương Tương tự lập Thứ Sử, bởi vì cùng Chiết thị kết thân, cho nên được Chiết thị ủy thác, thủ ngự Lân Châu, Chiết thị chưa bao giờ thừa nhận Lân Châu thuộc sở hữu của Dương thị, cho nên Chiết thị vào triều làm quan, đem Phủ Châu giao cho triều đình thống trị, thì lấy về Lân Châu không nói cũng hiểu, tự nhiên cũng phải do triều đình trực tiếp quản hạt.

Đồng thời, đối với yêu cầu Dương Hạo bỏ Đế hiệu mà xưng Vương, hai người Lô Trương cũng uyển chuyển tiến hành cự tuyệt, nói hôm nay triều đình chỉ có một ương khác họ, đó chính là Ngô Việt Vương Tiền Thục, mà Tiền Thục được phong Quận Vương, là bởi vì hắn đem Ngô Việt Quốc hiến cho triều đình, công cao cái thế. Nếu như Dương Hạo xin phong tước Vương, như vậy thì phải noi theo Tiền Thục, trước tiên đem toàn bộ đất mười tám châu Hà Tây giao cho triều đình, đi Biện Lương định cư, sẽ phong hắn là Vương.

Dương Hạo dĩ nhiên không chịu đi, danh tiếng của Triệu Quang Nghĩa quá thúi, hắn cũng không muốn giống như những tên vua mất nước chết bất đắc kỳ tử sau ngày sinh nhật kia.Sinh nhật hàng năm, đang cầm ngự tửu Triệu Quang Nghĩa ban cho mà nơm nớp lo sợ đánh đổ nó một phen. Còn nữa, mấy nương tử của mình đều là thiên kiều bá mị, nhân gian tuyệt sắc, ai biết Triệu lão nhị kia có thể nổi lên tà tâm hay không, tương lai truyền ra mấy tiếng, vậy nón xanh kia của mình không phải là phải mang thiên thu đời đời, vĩnh viễn lưu truyền sao? Cho nên cũng là không chút do dự, một ngụm cự tuyệt.

Bởi vì hai đất đường xá xa xôi, thư qua lạii quá hao tổn thời gian, khi Dương Hạo hồi âm đề nghị song phương phái đặc sứ toàn quyền đóng lại, ở tiền tuyến Hoành Sơn trực tiếp tiến hành đàm phán, thương nghị đại sự trọng đại thì mới xin chỉ thị của kinh đô. Cho nên Trương Bạc cáo ốm xin nghỉ, lặng lẽ đi Hoành Sơn, cùng Đinh Thừa Tông trực tiếp tiến vào trạm gác biên phòng hai bên, bắt đầu đàm phán càng thêm tập trung

Khả năng muốn triều đình trả lại Lân Phủ cơ hồ là số lẻ, khúc xương cứng Đinh Thừa Tông quyết định thả độc vào rồi lại gặm sau, đề tài thảo luận đầu tiên của song phương nghị hòa, trọng điểm đặt ở trên vị trí của Dương Hạo sau khi bỏ đi Đế hiệu, Hạ Quốc bên này kiên trì xưng Vương, đồng thời dẫn chứng phong phú. Từ trên tính chất Dương Hạo chiếm cứ lãnh thổ, thống trị con dân, điều khiển quân đội mà tiến hành cãi lại.

Đối mặt với thái độ cứng rắn của Hạ Quốc, quyết không chịu làm ra một cái nhượng bộ này, Trương Bạc nói có sách, mách có chứng. Lại tìm ra một phương pháp xử lý để cho Triệu Quang Nghĩa có thể tiếp nhận, nói cho Đinh Thừa Tông, Hà Tây là đất chư Hồ tạp cư, Đinh Thừa Tông nói là thật. Cai trị đất, cai trị dân, cai trị quân cùng triều đình liên hệ quả thật không lớn. Vì vậy triều đình có thể lập lại chuyện xưa Hán Đường, phong Dương Hạo làm Hà Tây Thiền Vu hoặc Hà Tây Khả Hãn, coi đây là điểm dừng, sau này dùng thân phận thần tử tiến cống thượng quốc, tồn tại thể chế trung ngoại. Bỏ Đế hiệu mà làm Thiền Vu, Khả Hãn, cũng đích xác là giữ vững tính độc lập của chính quyền, Đinh Thừa Tông cảm thấy cái biện pháp này đã được ích lợi thực tế, không cần so đo quá nhiều trên hư danh, cho nên lập tức đem cái tiến triển này hướng Dương Hạo hồi báo, ai ngờ Chủng Phóng cũng là liếc cái đã thấy bẫy rập trong đó, hướng Dương Hạo chỉ ra, nếu như thế thì Dương Hạo đã đem mình cũng thương vào các tộc Di Thu, cũng không thể giống sinh ra lực hiệu triệu đối với mấy trăm vạn người Hán Hà Tây giống như trước như vậy nữa, hơn nữa từ đó cùng Trung Nguyên phân biệt rõ ràng, ngày sau nếu như Tống triều xé rách mặt chinh phạt Hà Tây, quả thực ngay cả lấy cớ cũng không cần tìm, lực cản nội bộ trơ thành cực kỳ bé nhỏ.

Lúc Dương Hạo nghe được Đinh Thừa Tông trả lời, cũng không nghĩ tới triều đình lại có dụng tâm hiểm ác như thế, không khỏi toát ra một thân mồ hôi lạnh. Vội vàng mật lệnh Đinh Thừa Tông cự tuyệt, đồng thời một lần nữa ném ra một điều hấp dẫn cực lớn: tiến cống chiến mã. Lúc Lý Quang Duệ nhậm chức Định Nan Tiết Độ Sứ , tiến cống chiến mã cực kỳ có hạn, năm đó phụ thân của hắn đi Biện Kinh triều kiến, ngựa tiến cống mang theo cũng bất quá năm trăm thớt, này đã làm cho triều đình cực kỳ vui mừng, thăng quan tiến tước, ban thưởng ngọc đái. Nếu như triều đình có thể cùng Hạ Quốc đạt thành hợp nghị, Hạ Quốc nguyện ý tiến cống một ngàn con ngựa, hơn nữa còn là một ngàn con ngựa hàng năm.

Khi cái điều kiện này truyền tới Biện Lương, quả nhiên làm cho Triệu Quang Nghĩa trông thấy mà thèm không thôi, bất quá văn võ bá quan dưới trướng Triệu Quang Nghĩa cũng không đơn giản, Tào Bân cùng Tiết Cư Chính lập tức hướng hoàng đế chỉ ra. Bởi vì triều đình thiếu ngựa, cho nên quân Tống xây dựng chế độ vẫn lấy bộ binh làm chủ, ngựa cần thiết trong quân bình thường thông qua dân gian có thể mua được một chút. Triều đình cùng Liêu Quốc trở mặt, liền mua từ Hà Tây, cùng Hà Tây trở mặt, liền mua từ Liêu Quốc, Liêu Quốc cùng Hà Tây đều cùng triều đình vây trong trạng thái đối địch, còn có thể từ Đại Lý cùng với người Thổ Phiên Tây Lũng Hữu nhận được bổ sung, cứ như vậy, đầu tiên duy trì được chiến mã cần thiết cung cấp, hơn nữa nơi phát ra kia sẽ không phải chịu người bên ngoài dùng thế lực bắt ép.

Hiện tại, trừ phi quân Tống muốn xây dựng đội ngũ kỵ binh quy mô lớn, nếu không cũng không cần mua lượng lớn ngựa. Song muốn xây dựng lượng lớn kỵ binh, cái cần thiết không chỉ là chiến mã, còn có vấn đề đồng bộ cùng các trang bị khác nữa, nuôi một kỵ binh ít nhất có thể nuôi ba bộ binh, sau khi đầu tư khổng lồ như vậy, một khi thật sự xây dựng thành quân đoàn kỵ binh, chiến mã bị hao tổn, già yếu, như vậy phải bổ sung to lớn. Cũng không phải là dùng thủ đoạn truyền thống trước kia có thể giải quyết, tất phải hoàn toàn lệ thuộc vào Hạ Quốc, cứ như vậy, quân đội Tống Quốc chẳng khác nào phủ ở trong tay Hạ Quốc, một khi Hạ Quốc ngừng đưa vào, quân đoàn kỵ binh phải hao tổn của cải khổng lồ xây dựng thành sẽ là phế vật, đây là đem quân đội của mình đặt vào tay của người khác đi?

Bất kỳ một cái quốc gia nào cũng sẽ không tiến hành chiến lược mạo hiểm như vậy, thay vì như thế, còn không bằng nhập gia tuỳ tục, tập trung trọng điểm phát triển bộ binh. Huống chi, Tống Quốc không có đất nuôi ngựa, nhập vào lượng lớn chiến mã, xây dựng quân đoàn kỵ binh, chăn nuôi cũng thành vấn đề lớn. Không có đất nuôi ngựa mà bồi dưỡng quân đoàn kỵ binh, cùng một quốc gia hoàn toàn nằm bên trong đất liền lại dốc hết sức lực bồi dưỡng hải quân có cái gì khác nhau chứ?

Triệu Quang Nghĩa bừng tỉnh đại ngộ, lập tức phát chỉ cho Trương Bạc, hiểu lấy lợi hại, Trương Bạc mới giật mình suýt nữa trúng bẫy rập Dương Hạo, cho nên khách khí đưa thư trả lời một ngụm cự tuyệt, trong thư nói: "Trung Nguyên cẩm tú, giàu có khắp bốn biển.

Đối với chư phiên bốn phía, triều đình mỗi năm tất có ban thưởng gấm vóc lụa là. Hà Tây nghèo khó cằn cỗi, chớ nên xuất chiến mã ra bên ngoài, nếu túc hạ thần phục với triều đình, mỗi năm tiến cống thớt ngựa, sẽ chỉ đủ dùng hoặc là thiếu, thiên tử rộng rãi, há lại nhận lễ? Cử chỉ trả lễ qua lại lần này, có phải uy hiếp triều đình?"

Dương Hạo vốn tưởng rằng một khi nói ra điều kiện cung cấp chiến mã này, Triệu Quang Nghĩa tất nhiên mắc câu, không nghĩ tới đồ có sức hấp dẫn như chiến mã, cũng bị triều đình cự tuyệt, không khỏi rất là ngoài ý muốn, tới khi nghe được chư tướng Trương Sùng nói rõ nguyên nhân trong đó, Dương Hạo mới hiểu được tới, cảm thấy suy nghĩ trước kia của mình rất đơn giản, cho tới nay chỉ cho là Tống Quốc thiếu hụt chiến mã, nhưng quên mất tại sao Tống Quốc thiếu hụt chiến mã, trừ phi Tống Quốc tự mình có đất nuôi ngựa, nếu không ngươi thật sự là cung ứng chiến mã không hạn chế thì hắn cũng không nuôi nổi.

Kể từ đó, cũng chỉ có thể vận dụng vũ khí bí mật ngọc tỷ truyền quốc này, Triệu Quang Nghĩa có thể cự tuyệt hấp dẫn của chiến mã, nhưng là Dương Hạo không tin hắn có thể cự tuyệt được mị lực cường đại của ngọc tỷ truyền quốc. Địa vị Triệu Quang Nghĩa là thiên tử, cao cao tại thượng, tất cả những thứ thường nhân cả cầu còn không được thì hắn muốn có lại dễ như trở bàn tay. Làm một người đế vương, thứ duy nhất theo đuổi hắn cũng chỉ có công danh, mà người có được ngọc tỷ truyền quốc. Đây chính là một công danh vô cùng huy hoàng.

Cho nên, Dương Hạo gọi Đinh Thừa Tông trở về, sau một phen tính mưu nghĩ kế tường tận, Đinh Thừa Tông mang theo tin tức đại sát khí ngọc tỷ truyền quốc ngọc này, tự mình đi tới Biện Lương.

-----oo0oo-----

: Tây Hạ Vương

 Chương 60: Mưu Quốc 

Đinh Thừa Tông đến Biện Lương, trước tiên được an trí ở Lễ Tân Viện, Trương Bạc lập tức vào cung đi gặp Triệu Quang Nghĩa, Triệu Quang Nghĩa đã nhận được báo cáo của Trương Bạc trước, biết Hạ Quốc phái người đến kinh thành, có chuyện quan trọng muốn chính diên tấu cùng thiên tử, nhưng còn không hiểu rõ lắm tình hình của sứ giả này, khi hỏi rõ hai chân Đinh Thừa Tông đều tàn phế, không khỏi bật cười: "Nơi Hạ Quốc quả nhiên là đất hoang người thưa, thậm chí ngay cả một người tàn phế cũng có thể được ủy thác trách nhiệm nặng nề. Hạ Quốc thật sự không còn người nào sao?"

Tống Quốc chọn quân sĩ. Đừng nói là là tàn phế, cho dù ngũ quan lớn lên không đủ đoan chính cũng không thể làm quan. Phải nói tới quan uy toàn diện, mà Hạ Quốc lại để cho một người tàn phế thân ở chức vị quan trọng như vậy, này không phải thiếu nhân tài sao?

Trương Bạc vội vàng giải thích: "Quan gia. Nghe nói tuy người này tàn phế, nhưng vô cùng mưu trí, hơn nữa người này là anh cả khác mẹ của Dương Hạo, là người mà hắn tin cậy nể trọng nhất, khi Dương Hạo nhậm chức Định Nan Tiết Độ Sứ, người này chính là Tiết Độ Lưu Hậu, chức quan gần với Dương Hạo nhất. Lần này hòa đàm, Đinh Thừa Tông này chính là người chịu trách nhiệm toàn quyền của Hạ Quốc, cũng không thể bởi vì tướng mạo mà xem thường hắn."

"Anh cả khác mẹ, Đinh Thừa Tông, a a, ta nhớ ra rồi, hình như. . .Trước kia là một thương nhân buôn bán lương thực Phách Châu?"

"Dạ."

"Ha hả, một người xuất thân thương nhân, có thể mưu cao đến cỡ nào?" Triệu Quang Nghĩa cười nhạt nói: "Để cho hắn đợi ở Lễ Tân Viện đi, không để ý tới hắn một chút thời gian rồi hãy nói. Phải đánh chìm... "

"Quan gia, Đinh Thừa Tông tới lần này... " Trương Bạc nói được một nửa, liền tiến lên một bước, cúi đầu rỉ tai với Triệu Quang Nghĩa mấy câu, Lô Đa Tốn đứng ở dưới, dựng lên lỗ tai lắng nghe nhưng vẫn là không nghe được, không khỏi thầm hận trong lòng. Lần này Trương Bạc mang theo sứ giả Hạ Quốc trở về kinh, là vòng qua hắn trực tiếp bẩm cùng quan gia, hai người bọn họ là chính phó khâm sứ được hoàng đế ủy nhiệm hòa đàm, trừ phi chuyện đã có tiến triển to lớn, từ mục đích tranh công xin phần thưởng mới vòng qua hắn, nếu không với tính cách giỏi về khen tặng quan trên, vỗ ngựa phụng nghênh của Trương Bạc, không có lý do đem hắn gạt ra. Lô Đa Tốn không khỏi thầm nghĩ: chẳng lẽ Hạ Quốc đã đáp ứng toàn bộ điều kiện của triều đình?

Triệu Quang Nghĩa mới vừa ung dung thong thả kêu Trương Bạc bình tĩnh, không ngờ vừa nghe lời của hắn, toàn thân liền chấn động mạnh một cái, bỗng nhiên "phốc" một cái đứng lên. Khuôn mặt đen mập căng ra đến đỏ bừng, hai mắt lấp lánh chăm chú nhìn Trương Bạc, hơi thở nặng nề nói: "Ngươi nói cái gì? Có thật thế không?"

Trương Bạc vừa thấy hình dạng Triệu Quang Nghĩa động dung, trong lòng không khỏi vui mừng, vội vàng cúi đầu nói: "Điều hạ thần nói, một chữ cũng không giả."

Triệu Quang Nghĩa mừng rỡ như điên, vội vàng nói: "Tuyên chỉ, lập tức tuyên hắn bái kiến!"

"Thần tuân chỉ."

Trương Bạc Hoan vui mừng đáp ứng một tiếng, xoay người rời đi, làm cho Lô Đa Tốn đứng ở một bên hận đến hàm răng cắn chặt, hết lần này tới lần khác vẫn là không biết nội tình.

"Chậm đã, trở lại."

Trương Bạc kích động dạt dào mới vừa đi tới cửa đại điện, hắn thật không có nghĩ đến Triệu Quang Nghĩa bỗng nhiên gọi hắn lại. Trong tay Dương Hạo có ngọc tỷ truyền quốc. Món bảo vật này đối với người khác không có chỗ lợi gì, nhưng tác dụng đối với Triều Quang Nghĩa hắn là không cần nói cũng biết, nhất là chí hướng cho tới nay của hắn chính là vượt qua hoàng huynh, kiêng kỵ cho tới nay chính là đế vị không yên, món bảo vật này cả một đời anh chủ Sài Vinh tiền triều cũng không có được qua, cả đại ca hùng tài đại lược kia cũng không có được qua, nhưng hôm nay lại có cơ hội rơi vào trong tay của hắn, làm sao không nở gan nở ruột chứ?

Nhưng là hắn lập tức liền nghĩ đến chỗ yếu hại trong đó, tại sao Dương Hạo cam tâm giao ra món bảo vật này? Tự nhiên là vì dùng cái này đổi lấy việc triều đình thối lui, nhưng là có thể đáp ứng điều kiện của Dương Hạo sao? Ngọc tỷ, ta muốn. Hai châu Lân Phủ, ta cũng muốn vậy. Hai cái không thể kiêm được, bỏ cái nào lấy cái nào đây?

Trong lòng Triệu Quang Nghĩa không thể quyết định, trong mắt dần dần lộ ra hung quang, lạnh lùng nói: "Dương Hạo mang bảo vật này mà không biết kính hiến, còn luôn miệng tự kêu oan uổng, ai có thể tin hắn, nếu chi bằng ta ngự giá thân chinh, suất lĩnh trọng binh đánh thẳng Hạ Châu."

Trương Bạc thất kinh, vội vàng cúi xuống đất quỳ lạy, cao giọng nói: "Quan gia, không được."

Triệu Quang Nghĩa cắn chặt răng hỏi: "Tại sao không được?"

Trương Bạc dưới tình thế cấp bách đem tay lắc lắc, nói nhiều lần: "Không được, không được ."

Triệu Quang Nghĩa khẽ hừ nặng nề, hỏi: "Làm sao không được, ngươi nói đi."

Trương Bạc nuốt nước miếng, gấp gáp nói: "Quan gia, Dương Hạo đã đem tất cả nhà mình cùng quyền quý trong triều đều dời hướng Hưng Châu, xây công sự xây phủ ở nơi đó, lánh đi lập thành đô mới, quan gia người nghĩ xem, Dương Hạo xin hòa, dời đô, hiến ấn, đó là nên tại sao?"

Trương Bạc dưới tình thế cấp bách, nói ra tới chữ Ấn làm cho Lô Đa Tốn ở một bên nghe được, trong lòng vừa động: Ấn? Ấn gì? Ấn của Dương Hạo khi xưng đế sử dụng? Vậy thì có cái chỗ nào quý trọng chứ?

Ngọc tỷ truyền quốc từ lâu đã không còn xuất hiện ở nhân gian, sau này, bất kể hoàng đế nào lên ngôi, cũng nhọc lòng âm thầm thẩm tra theo dõi, nhưng cũng không tìm thấy tung tích.Cho dù sức tưởng tượng của tiểu Lô Đa Tốn có phong phú như thế nào đi nữa, cũng không cách nào căn cứ vào một chữ Ấn lền nghĩ đến món đồ vật truyền kỳ kia.

Triệu Quang Nghĩa thần sắc vừa động, hỏi: "Vậy là tại sao?"

Trương Bạc nói: " Từ những thứ đó, có thể thấy được, dã tâm của Dương Hạo, vẻn vẹn dừng ở góc Hà Tây . Hắn buông tha Hạ Châu, dời đô thành về phía Tây, tới Hưng Châu hơn tám trăm dặm Hàn Hải mà trú đóng, nói lên hắn đối với Trung Nguyên hoàn toàn không có dã tâm chiến thắng. Dĩ nhiên, người Trung Nguyên ta dân cứ đông đúc, binh tinh nước giàu, căn bản không phải hắn có thể khiêu chiến, Dương Hạo làm như vậy, coi như là tự biết mình.

Bất quá bởi vậy cũng có thể nhìn ra, Dương Hạo chỉ cần có Hà Tây đã đủ hài lòng, Hà Tây là đất chư Hồ tạp cư, không tuân theo giáo hóa, lại có Liêu Quốc dã man ở một bên kiềm chế. Tám trăm dặm Hàn Hải so sánh với rãnh trời Giang Nam Trường Giang càng thêm hung hiểm hươn, đủ loại khó khăn, cũng là nguyên nhân chúng ta không thể đánh một trận mà thắng. Hôm nay Hạ Quốc tuy có toan tính xưng thần đầu hàng, nhưng là sứ giả Liêu Quốc bây giờ còn đang ở Hạ Châu, song phương tiếp xúc thường xuyên, nếu như triều đình cưỡng bách quá đáng, một khi Hạ Quốc lấy ngọc tỷ làm mối, sẵn sàng góp sức Liêu Quốc. Vậy chúng ta không phải là khéo quá hóa vụng sao?

Lại nói tiếp, chí hướng quan gia ở mười sáu châu U Vân, nếu như Hạ Liêu kết minh, tất khiến cho ta Đại Tống hai mặt thụ địch, một thân hai bệnh, thế khó chống. Nếu như đem hắn lôi kéo qua, thì Đại Tống ta tăng thêm một cánh tay giúp đỡ, mà Liêu Quốc thiếu đi một tay chân, so bì một lúc không bằng lâu dài. Quan gia giàu có tứ hải, cần gì so đo nơi chật hẹp nhỏ bé như Lân Phủ chứ?"

Trương Bạc đối với việc triều đình nhất cử bình định Hà Tây căn bản không ôm hi vọng, cho nên hắn một lòng thúc đẩy hòa đàm, nếu như có thể thành công thuyết phục Dương Hạo xưng hàng. Công lao này là ai cũng không đoạt đi được của hắn. Tương lai bình định Tây Xuyên, truy ngược lại nguyên nhân, công lao này vẫn là không thể thiếu hắn. Tương lai Bắc Phạt U Yến, chỉ cần thành công. Công lao này vẫn như cũ là không chạy được khỏi tay hắn, cho nên hắn đối với việc hòa đàm này tự nhiên khẩn thiết hơn so với bất cứ ai khác.

Huống chi theo lời hắn đúng là sự thật, Hạ Quốc bất kể là từ trên binh lực, hay là từ trên lãnh thổ quốc gia , cũng không phải là Bắc Hán có thể so sánh, triều đình chưa chắc có thể đem nó lấy xuống, với thực lực của Hạ Quốc, đáng giá cho Liêu Quốc xuất thủ tương trợ. Ở Tây Vực nuôi trồng một thế lực cường đại có thể kiềm chế Trung Nguyên, nếu như Liêu Quốc lại quyết tâm tiến hành tham dự, vậy thì nhêệm vụ kia lại càng tuyệt đối không thể hoàn thành.

Triệu Quang Nghĩa biết hắn nói rất đúng sự thật. Hung quang trên mặt mới vừa rồi bởi vì tham lam mà phát lên dần tản đi, hơi lộ ra sắc ỉu xìu, nếu là có thể nhận được ngọc tỷ truyền quốc thì cho hắn một cái tước Vương cũng không có chuyện gì, bất quá đem hai châu Lân Phủ đã tới tay trả lại cho hắn? Vậy cũng không được, tuyệt đối không được! Hắn cũng không hào phóng giống như hoàng đế Đường triều, đem một công chúa kết thân, gả theo đất mấy châu như vậy. Toàn bộ văn hóa, khoa học kỹ thuật, lãnh thổ người Hán đều tặng đi ra ngoài, kết quả nuôi ra một đống sói trừng mắt. Triệu Nhị thúc hắn là tuổi chuột, chỉ để ý hướng vào trong hang ổ, bảo hắn đưa ra bên ngoài, đây không phải là cắt thịt của hắn sao?

Triệu Quang Nghĩa gõ nhẹ ngự án(bàn dài), trên mặt âm tình bất định trầm ngâm một lúc lâu, lúc này mới chậm rãi nói: "Thôi, ái khanh đi một chuyến đường xa mệt nhọc. Thực sự cũng mệt mỏi, về phủ nghỉ ngơi trước đi. Ngày mai, không, vẫn phải là gạt hắn, không thể lộ ra vẻ cấp bách, liền định ở ba ngày sau đi. Ba ngày sau, liền triệu kiến hắn."

Trương Bạc thấy vẻ mặt Triệu Quang Nghĩa hoàn toàn tỉnh táo lại, nhất thời cũng không đoán ra tâm ý của hắn rồi, vị đế vương này hỉ nộ vô thường. Thực sự là không dễ hầu hạ, dáng vẻ này không giống như Đường Hoàng Lý Dục, hỉ nộ đều hiện ra mặt, hoàn toàn không có lộ ra, Trương Bạc âm thầm oán thán, nhưng cũng không dám nhiều lời, chỉ đành phải trả lời rồi lui ra.

***

"Nhị tỷ, muội đã về rồi."

Mã Thán sôi nổi chạy đến bên trong phòng, quay đầu nhìn một chút trong nhà trọ không có ai, lập tức tiến tới bên cạnh Chiết Tử Du, thấp giọng nói: "Ngũ công tử, có người bên kia tới."

"Ừ, làm tốt chuyện của chính mình, cái khác là không nên hỏi tới." Chiết Tử Du bát phong bất động, trong tay cầm một con bàn tính đánh tới kêu tích táp, thanh thúy êm tai.

Mã Thán nhỏ giọng nói: "Người tới là Đinh đại nhân, Đinh đại nhân tự mình vào kinh thành hòa đàm, sợ là sẽ lập tức hướng triều đình nói lên điều kiện thả người nhà Ngũ công tử."

Ngón tay nhỏ nhắn của Chiết Tử Du run lên, hạt châu trên bàn tính nhất thời rối loạn. Ngẩng đầu lên, chỉ thấy Mã Thán mang trên mặt nụ cười ranh mãnh, hướng nàng giả ra mặt quỷ: "Đinh đại nhân ở tại Lễ Tân Viện, nơi đó canh phòng sâm nghiêm, bất quá, lấy bản lãnh của muội, nếu muốn đêm vào Lễ Tân Viện mà người không biết quỷ không hay thì cũng chưa chắc đã không làm được, nếu là có người chịu cầu xin muội đi, tối nay muội liền giúp nàng đi hỏi thăm tình hình một chút."

Chiết Tử Du khó khăn đè xuống tâm tình kích động, Đinh Thừa Tông tự mình vào kinh thành, vậy hòa đàm hẳn là đã đến lúc quan trọng nhất.Người nhà mình là bị nhốt tại kinh thành. Chờ mấy chục năm sau, hoàng tử kế vị, hoặc là hoàng tôn kế vị mới khai ân đặc xá, thả ra một đám con cháu Chiết gia bởi vì ngăn cách thế nhân, đã hoàn toàn mất đi năng lực sinh tồn, từ đó lưu lạc làm nô làm ăn mày, vẫn phải là lấy lại tự do ngay tại bây giờ.

Đinh Thừa Tông vào kinh thành hòa đàm, hắn nhất định là phải có vật ỷ vào, trong lòng Chiết Tử Du đột nhiên run lên: Dương Hạo ca ca, thế nhưng thật sự giao ra ngọc tỷ? Hắn, cũng là một hoàng đế a, ở trong lòng hắn. Ta, ta cuối cùng là quan trọng hơn quyền lực đế vương huy hoàng cùng tôn quý. . .

Chiết Tử Du trong lòng mang kích động, trong con ngươi quyến rũ lóe ra tinh quang rực rỡ.

Mã Thán hướng nàng giả ra mặt quỷ, cười nói: "Ngũ công tử là một đại mỹ nhân mà, nếu là khóc thì mặt có thể nhìn không đẹp đó.Công tử đừng có gấp, tối nay muội lẻn vào Lễ Tân Viện, giúp công tử đi hỏi tình hình như thế nào."

"Không nên!" Chiết Tử Du một ngụm từ chối, cái mũi nhỏ của nàng hít một cái, nháy mắt loại bỏ đi lệ quang trong mắt, giương mắt nhìn về phía Mã Thán, nói: "Người mạnh còn có người mạnh hơn, chớ có cho là triều đình Tống Quốc không có người, một khi khinh thường để bại lộ thân phận, liền cả bàn đều thua mà thôi. Đàm phán, là chuyện của Đinh đại nhân, bất kể kết quả như thế nào, chúng ta cũng không chen tay vào được, chỉ để ý yên tĩnh đợi kết quả mới tốt." Mã Thán víu cánh tay của nàng, dịu dàng nói: "Ngũ công tử, muội biết trong lòng công tử lo lắng, thường xuyên lộ ra một bộ dáng mất hồn mất bất thủ xá bộ dạng, yên tâm đi. Muội sẽ cẩn thận."

"Không được." Chiết Tử Du nghiêm mặt nói:"Tiểu Thán. Tại sao đại thúc ngươi lại sớm đem hai đại cao thủ ngươi cùng Trúc Vận phái đến Biện Lương như vậy ? Vì chính là cho các ngươi có thể ẩn núp xuống, không để lộ ra một tia bộ dạng, đợi đến khi Đông Kinh đại loạn, Cấm Quân tan tác chín thành, trong lúc nhất thời bên trong sẽ không có người hoài nghi chúng ta những dân chúng đã sớm định cư ở Biện Lương này. Chuyện này chúng ta tính toán quá mức trọng đại. Nói nó là trộm trời cũng không quá đáng, đến lúc đó chỉ sợ tranh thủ thêm được một canh giờ, cũng sẽ có quan hệ lớn lao tới chuyện thành bại, cho nên, chúng ta hiện tại cần phải làm tốt ẩn núp thân phận, không thể phá hư đại sự của dại thúc ngươi, biết chưa?"

Mã Thán lè lè cái lưỡi nhọn phấn hồng, đáp: "Biết rồi, người ta không đi kéo chân sau đại thúc là được."

Tử Du mặt giãn ra nói: "Đấy mới là ngoan."

Nàng véo lên khuôn mặt nhỏ bé trắng nõn nà của Mã Thán, mỉm cười nói: "Trúc Vận đã bắt tay vào làm diễn tập an bài rời kinh rồi, lần này, trong lúc diễn thử ban đêm, ngươi cùng theo hành động, làm quen đường đi rút lui, hoàn cảnh dọc đường một chút, tiếp ứng sau khi rời khỏi thành trì, ứng phó với những chuyện ngoài ý muốn. Hiện tại chúng ta có thể lỡ tay nhưng đến khi chính thức hành động thì trăm triệu lần không thể sẩy tay, nếu không có thể bị thân vùi lấp tại chỗ, vạn kiếp bất phục, cho nên, . . . Ngươi nhất định phải nâng tinh thần lên, đem làm thành một lần chạy trốn thực sự, làm tốt định liệu trước."

"Ừm!" Mã Thán gật đầu thật mạnh: "Ngũ công tử yên tâm, Tiểu Thán cho dù tan xương nát thịt, cũng sẽ không phụ kỳ vọng của đại thúc."

Ánh mắt Chiết Tử Du nhu hòa, khẽ vuốt vuốt đỉnh đầu của nàng, dịu dàng nói: "Sau này, gọi ta là Tử Du tỷ tỷ."

"Ừm. . ." Mã Thán đứng lên, vừa hướng phòng sau đi tới, vừa vuốt đầu của mình, nghi hoặc mà nghĩ: "Ngũ công tử bảo ta gọi nàng là tỷ tỷ, không đúng a, ta gọi Dương Hạo đại thúc là đại thúc, nếu là gọi nàng một tiếng tỷ tỷ, nàng không phải là cũng phải gọi đại thúc ta là đại thúc? Đại thúc thích Ngũ công tử, là muốn cưới nàng a. Nếu là giống ta gọi đại thúc, cũng có thể gả được sao ?"

Tựa như một hơi từ dưới chân Hoa Sơn chạy tới đỉnh núi, hô hấp Mã Thán lập tức dồn dập lên, trong một cái kẽ của một đôi ngọn núi phập phồng trước ngực, ở trong đó có một cái trống nhỏ gõ lên "đông đông đông".

" Cái ngọc tỷ này là từ nơi nào có được?"

Đinh Thừa Tông nói: "Chủ ta Dương Hạo muốn chinh phạt chư châu Hà Tây, bởi vì quan hệ người Thổ Phiên Túc Châu cùng Thổ Phiên Lũng Hữu mật thiết, lo lắng người Lũng Hữu Thổ Phiên sẽ ở lúc đại quân Tây chinh ra Tiêu Quan chặn đường lui của ta, cho nên sai bí thám vào Lũng Hữu, giám thị cử động của thủ lĩnh Thượng Ba Thiên của Lũng Hữu Thổ Phiên, rồi một lần sau khi Thượng Ba Thiên lấy ra ngọc tử hướng con trai khoe ra..."

Nguyên nhân thực sự của Trúc Vận đi Lũng Hữu, thật ra là Dương Hạo chú ý tới Lũng Hữu Thổ Phiên quật khởi là do Tống Quốc nâng đỡ, chuyện này làm cho hắn cảnh giác, hoài nghi Tống triều nâng đỡ Lũng Hữu Thổ Phiên, là muốn dùng kế đuổi hổ nuốt sói, vì vậy phòng ngừa chu đáo, phái người đi trước tìm hiểu chân tướng, lý do này dĩ nhiên không có tiện nói cho Triệu Quang Nghĩa nghe, vì vậy bị hắn tự động đổi thành một lý do tương tự có thể tin được.

Triệu Quang Nghĩa lạnh lùng đe dọa nhìn Đinh Thừa Tông, từ trong ánh mắt cùng cử chỉ của hắn cũng không có nhìn cái sơ hở gì.

Khi Đinh Thừa Tông bị mang vào cung, mới vào điện Đồng Đức, đã là một bộ dáng mặt nghiêm khắc từ trong gốc, một thổ tài chủ ở nông thôn trồng trọt, thấy qua mấy cảnh đời chứ? Đến nơi chân thiên tử này, hai đại nội, pháp luật sâm nghiêm! Hắn sao không khỏi sinh ra sợ hãi . . .

Đợi đến khi Triệu Quang Nghĩa làm ra một bộ dáng chẳng thèm ngó tới đối với ngọc tỷ truyền quốc, một tia trộng cậy vào cuối cùng của thổ tài chủ xuất thân thương nhân bán lương thực này cũng đã biến mất, vẻ trấn tĩnh ngụy trang đã hoàn toàn biến mất, ở dưới sự nhìn sát cùng chất vấn của hắn bắt đầu lo lắng. Triệu Quang Nghĩa chú ý tới. Khi hắn trả lời mình có mấy lần xuất hiện nói sai, theo Trương Bạc nói, người này có thể nói là thiện ăn nói, có tài hùng biện rất cao, lúc này cà lăm, hiển nhiên là do hoảng hốt gây ra.

Đinh Thừa Tông nói xong, lặng lẽ giương mắt liếc nhìn Triệu Quang Nghĩa, ánh mắt cùng một đôi mắt của hắn đối thượng, không khỏi giật mình, tựa như bị giám sát, vội vàng cúi đầu xuống. Triệu Quang Nghĩa gõ nhẹ ngự án, lâm vào trong suy tư thật sâu.

Lấy xuất thân của Dương Hạo, ngọc tỷ này cũng không thể nào là bảo vật vốn có của hắn, tất có một xuất xứ, xuất xứ mà Đinh Thừa Tông đưa ra này, không giống như là lời nói dối, hơn nữa, nếu như là lời nói dối, cũng rất dễ tra ra. Theo hắn nói, lúc ấy từ trong tay Thượng Ba Thiên trộm được cái ngọc tỷ truyền quốc này, Thượng Ba Thiên từng phái ra thiên quân vạn mã, trước ngăn sau đuổi, thanh thế khá lớn, trận chiến lớn như vậy, dân chúng địa phương tất nhiên vẫn còn nhớ, chỉ cần phái người đi tra liền biết thật giả. Nếu như chuyện này là thật, như vậy Thượng Ba Thiên...

Lòng Triệu Quang Nghĩa chìm xuống, Thượng Ba Thiên thân mang ngọc tỷ truyền quốc ngắm, giữ kín không nói ra, có ý muốn như thế nào? Hà Tây Lũng Hữu. Sao mà tương tự? Hôm nay Thượng Ba Thiên, cùng Dương Hạo ngày đó, lại sao mà tương tự thế? Triều đình muốn tại Hà Tây nâng đỡ Dương Hạo, làm suy yếu lực lương của ba phiên, kết quả Dương Hạo được nâng đỡ, nhưng vì vậy thoát khỏi triều đình, trở thành một cỗ thế lực địa phương so sánh với ba phiên còn cường đại hơn, hôm nay quay đầu lại đại họa tâm phúc của triều đình, Lũng Hữu Thượng Ba Thiên, chẳng lẻ muốn tái diễn chuyện xưa sao? Không! Sai lầm tương tự, phạm một lần là đủ rồi. Lũng Hữu, quyết không thể tái xuất hiện Dương Hạo thứ hai.

Triệu Quang Nghĩa chợt nhớ tới Lý Kế Quân cùng Dạ Lạc Hột, Lý Kế Quân không nghe hắn định đoạt, cự tuyệt xuất binh tới Ngân Châu, ngược lại muốn đục nước béo cò lao thẳng tới Hạ Châu. Kết quả sắp thành lại bại, mang theo tàn binh bại tướng thối lui đến Lũng Hữu, Triệu Quang Nghĩa đối với cái này có chút bất mãn, sau khi Lý Kế Quân tới Lũng Hữu đã mấy lần đưa thư tới triều đình, hướng hắn xin chi viện, cũng bị hắn ném vào một góc, không để ý tới. Hôm nay Lý Kế Quân binh ít, mặc dù sau khi công khai thân phận mình chiêu nạp được rất nhiều người Đảng Hạng, người Khương, nhưng là vừa thiếu áo giáp vừa thiếu lương thảo, chỉ có thể chịu quản hạt của Thượng Ba Thiên, vì hắn phất cờ hò reo, làm một lính hầu.

Còn có Cam Châu Dạ Lạc Hột, trước kia cùng triều đình cũng không có tiếp xúc gì, kể từ khi triều đình nâng đỡ Thượng Ba Thiên, vốn cũng không toan tính bồi dưỡng một thủ lĩnh địa phương nữa, mà Thượng Ba Thiên đối với Dạ Lạc Hột cũng rất đề phòng, vẫn ngăn cản hắn hướng hồ Thanh Hải di chuyển, người Lũng Hữu Hồi Hột đều ở gần Thanh Hải . Dạ Lạc Hột bị ngăn cản ở đất người Thổ Phiên, tựa như con cá cách nước, hôm nay đồng dạng khó có thể phát triển.

Ừm, hôm nay xem ra, Thượng Ba Thiên có lẽ không quá đáng tin, nhưng cổ lực lượng Lũng Hữu Thổ Phiên này lại không thể không cần, vừa muốn dùng nó còn phải có thể khống chế nó, tránh cho nó biến thành một con ngựa hoang không cương , tựa hồ. . . Lý Kế Quân cùng Dạ Lạc Hột vẫn có chút hữu dụng, nếu như triều đình giảm bớt trợ giúp đối với Thượng Ba Thiên, nâng đỡ Lý Kế Quân, lại gâp áp lực đối với Thượng Ba Thiên, để cho Dạ Lạc Hột chạy tới hồ Thanh Hải từ từ lớn mạnh, như vậy ba người Thượng Ba Thiên, Dạ Lạc Hột, Lý Kế Quân đều phải lệ thuộc vào triều đình, đều không thể một nhà độc đại, Lũng Hữu có thể được vững vàng khống chế tại trong tay triều đình.

Thiên tử không có ngàn tay ngàn mắt, không thể nào tự mình nắm toàn bộ thiên hạ trong tay, phải mượn lực lượng của thần tử, mà lực lượng của thần tử quá mức khổng lồ, thì có thể cắn trả Vua, vì vậy, đế vương rắp tâm, tinh túy đó chính là ngăn cản cùng nâng đỡ mấy cổ thế lực, tránh cho một nhà độc đại. Năm đó, nếu như hoàng huynh không phải là đẩy ngã Triệu Phổ, ta làm sao dám dễ dàng động thủ đây? Nghĩ tới đây, trong mắt Triệu Quang Nghĩa không khỏi hiện lên tia sáng lạnh lùng nghiêm nghị mà đắc ý.

Tia sáng này, tựa hồ bị Đinh Thừa Tông thấy được, hắn lặng lẽ giơ tay áo, nhẹ nhàng lau một giọt mồ hôi bên tóc mai đi, khó khăn nuốt một ngụm nước miếng, Triệu Quang Nghĩa nhìn thấy ở trong mắt, khóe miệng khẽ nứt ra một tia khinh miệt cười lạnh: "Thương nhân mà thôi, bất quá là như thế. "

Hắn bỗng nhiên vỗ bàn, lớn tiếng quát lên: " Đinh Thừa Tông to gan, Dương Hạo rốt cuộc ẩn chứa cái dã tâm gì, mau thành thực khai ra !"

Đinh Thừa Tông bị làm cho sợ đến mất trí. Nhìn bộ dáng kia, nếu không phải có hai chân, quả thực sẽ bị làm cho sợ đến thoáng cái nhảy dựng lên: "Ngoại thần ngoại thần không biết, chủ ta ẩn chứa cái dã tâm gì?" Đinh Thừa Tông lộ ra vẻ mặt mờ mịt thất thố.

Triệu Quang Nghĩa cười lạnh một tiếng nói: "Không có rắp tâm hại người? Vậy ta hỏi ngươi, ngươi vừa nói Dương Hạo vẫn đem lòng hướng triều đình, cũng không tính làm phản, vì sao không chịu tiếp nhận chức Định Nan Tiết Độ Sứ ? Hắn xua quân tạo phản, là tội lớn tru di cửu tộc, bây giờ ta không truy cứu. Trái lại để cho hắn phục nguyên chức, đây đã là ân điển lớn lao, vì sao hắn không chịu tiếp nhận?"

Đinh Thừa Tông ấp a ấp úng nói: "Hồi bẩm bệ hạ, thật ra thì xưng vương cũng được, vẫn làm Định Nan Tiết Độ Đại tướng quân cũng được, chẳng qua là,... chẳng qua là danh hiệu lớn nhỏ khác nhau. Quyền lực địa vị, vốn cũng không có chuyện gì khác nhau. Chẳng qua là... chỉ là quân đội dưới trướng chủ ta phe phái đông đảo, lai lịch phức tạp, có người Khương Hoành Sơn, có Định Nan Quân, có chút người Lương Châu Thổ Phiên, có mấy người Cam Châu Hồi Hột, có người Túc Châu, còn có người Hán hai châu Qua Sa hai châu không dễ quản giáo.

Chủ cũ của bọn họ, có người đã từng là Khả Hãn, có đã từng là quốc vương, hôm nay chủ ta đem bọn họ nhất nhất thu nạp dưới trướng, nếu chủ ta vẫn phục chức Tiết Độ Sứ, không khỏi... không khỏi bị bọn họ xem nhẹ rồi, lại nói tiếp, có rất nhiều tướng lãnh đầu nhập vào dưới trướng chủ ta, quan giai vốn chính là chức quan Tiết Độ Sứ đỉnh của võ tướng, nếu như chủ ta phục chức Định Nan Tiết Độ Sứ, những tướng quân này đầu nhập vào chủ ta, chẳng những không thể lên chức, ngược lại còn phải rơi xuống mấy cấp rồi, cái này . . . Cái này, những người này, phần lớn rất thích tranh đấu tàn nhẫn, hám lợi, đến lúc đó tất nhiên gây thành đại họa, cho nên... cho nên..."

Triệu Quang Nghĩa nhớ tới khi Dương Hạo suất binh tham gia cuộc chiến chinh phạt Bắc Hán, quân đội dưới tay toàn những thứ tạp thất tạp bát kia, Dương Hạo mỗi khi hạ một đạo tướng lệnh, đều phải dựa vào hơn mười người quan phiên dịch tiến hành phiên dịch, thấy lời Đinh Thừa Tông nói là thật, trong lòng không khỏi buồn cười. Hắn không khỏi ác ý mà nghĩ: "Nếu như kiên quyết không chịu nhượng bộ, nhất định buộc hắn nhận chức Định Nan Tiết Độ Sứ , Hà Tây chẳng phải là không đánh tự loạn rồi sao?" Nhưng chợt nhớ tới Dương Hạo còn có lựa chọn thứ hai là Liêu Quốc nên cái ý nghĩ này chỉ đành phải thôi.

Hắn thở ra , cố bày ra vẻ hào phóng nói: "Điều này cũng thôi, năm xưa Lý thị thế tập quân chức Định Nan Quân Tiết Độ Sứ, vốn là có một tước vị Tây Vương, nếu như Dương Hạo thành tâm quy phụ triều đình. Liền ban thưởng cho hắn một cái tước Vương đi. Bất quá..."

Triệu Quang Nghĩa khẽ cúi người, điềm nhiên nói: "Dương Hạo vừa chịu quy hàng, trọng phụng cờ Tống, làm liên thần tử, như vậy . . . Hắn ngồi ôm mười tám châu Hà Tây vẫn còn không biết đủ, cố ý hướng ta đòi hỏi hai châu Lân Phủ, là có ý muốn như thế nào, hửm? !"

-----oo0oo-----

: Tây Hạ Vương

 Chương 61: Chuyển cơ 

Triệu Quang Nghĩa nhất định phải có được ngọc tỷ truyền quốc, nhưng là hắn tuyệt không chịu lộ ra một tia nôn nóng, ở trong cuộc đàm phán khó khăn giữa Tống Hạ, Đinh Thừa Tông đem một chút nỗi khổ tâm của Dương Hạo nói cho Triệu Quang Nghĩa, kiêu binh hãn tướng Thổ Phiên, Hồi Hột không dễ thuần phục, hơn nữa những binh lính kia thời chiến là binh, thời bình là dân du mục, không thể tùy thời nghe theo điều khiển, Dương Hạo tất phải lưu một chi quân thường trực bên cạnh, bởi vì Dương Hạo một hơi nuốt các châu Hà Tây, quân Định Nam đã sớm phân trú khắp nơi, lực lượng phòng thủ Đô thành của Đinh Thừa Tông không đủ, cần chọn thêm nhiều quân, mà Lân Châu vốn là căn cơ Chiết gia, những binh lính kia khó xa cố thổ, không thu về Lân Phủ, rất khó bảo đảm nhóm bộ hạ cũ quân Chiết gia này cúi đầu áp tai, trung thành thần phục.

Nhưng là hai châu Lân Phủ là cửa ngõ Hà Tây Đông tiến Trung Nguyên, chuyện nhập ngũ trên ý nghĩa mà nói là hết sức quan trọng, hơn nữa công lao lớn nhất của một đế vương chính là mở rộng biên cương mở thêm đất đai, Lân Phủ đã ở trong tay, lại bảo Triệu Quang Nghĩa hắn phun ra, hắn là tuyệt đối không đồng ý. Đàm phán liền tiến vào cục diện bế tắc, vài ngày sau, Đinh Thừa Tông đưa ra phương án thứ hai, yêu cầu triều đình thả cả nhà Chiết gia đang bị giam lỏng ra.

Chiết gia hôm nay bị vây ở Biện Lương, cho dù có bản lãnh thông thiên, cũng không ai có thể đem bọn họ cứu về, bộ hạ cũ của Chiết gia cũng hiểu được cái này, nhưng là Dương Hạo cùng Chiết Ngự Huân là anh em kết nghĩa, Chiết Ngự Huân đối với Dương Hạo có ân nặng như núi, hôm nay vừa không cứu được cả nhà Chiết gia, lại không có biện pháp cứu người Chiết gia về, bất luận nói như thế nào cũng là không được, hi vọng triều đình có thể thả Chiết gia, như vậy Dương Hạo coi như cũng có một điều ăn nói với các phương.

Tuy nói Phủ Châu tới tay, Chiết gia đã mất đi giá trị lợi dụng, hơn nữa cho dù thả bọn họ ra, trừ phi Dương Hạo muốn chủ động vén lên một lần chiến tranh nữa với Tống Quốc, nếu không Chiết gia chỉ có thể ngậm bồ hòn làm ngọt, quyết sẽ không dám chỉ trích triều đình cái gì nữa, nhưng là triều đình lấy cái danh nghĩa gì đem Chiết gia giao cho Dương Hạo? Đây vẫn là một vấn đề khó có thể giải quyết, Triệu Quang Nghĩa đối với cái điều kiện này vẫn không chịu đáp ứng, hắn nghĩ rằng, chịu ban tước Vương cho Dương Hạo, đã là ân tứ lớn lao, cuối cùng Dương Hạo vẫn là phải làm ra nhượng bộ.

Không ngờ lúc này lại có một tin tức vừa truyền tới, làm thay đổi tâm ý của Triệu Quang Nghĩa, đó chính là cuộc chiến của Vu Khuých Quốc với Khách Lạp Hãn Quốc đã thắng lợi rồi! Ngải Nghĩa Hải dẫn quân đi Vu Khuých Quốc, quân đội Vu Khuých Quốc cùng Khách Lạp Hãn Quốc đang triển khai kịch chiến tại gần sông Diệp Nhĩ Khương, song phương tổn thất thảm trọng. Lúc ấy Vu Khuých Quốc Vương đang ở tiền tuyến, Vương Đô Tể tướng Trương Kim Sơn tự mình tiếp kiến Ngải Nghĩa Hải, sau khi Ngải Nghĩa Hải nghe nói tình huống, lập tức xin Trương Kim Sơn phái một đại thần cùng đi, cùng một người dẫn đường, dẫn theo đại quân của hắn xông về phía sông Diệp Nhĩ Khương.

Chờ hắn chạy tới thời điểm, song phương mới vừa kết thúc một cuộc đại chiến, đang lúc nghỉ ngơi và hồi phục, người Vu Khuých Quốc nhìn thấy một chi kỵ binh người Hán trang bị chỉnh tề, nhưng giống như mã tặc bình thường nhìn thấy trên thảo nguyên, hô to gọi nhỏ mãnh liệt nhào đầu về phía trước, làm cho quân đội Vu Khuých đang mệt mỏi cả kinh trợn mắt hốc mồm, bọn họ vội vã nắm binh khí lên, nhưng còn chưa có dựng xong trận hình phòng ngự, đã nhìn thấy chi đội ngũ như kẻ điên kia gào thét xông qua sông Diệp Nhĩ Khương, khoảnh khắc càng không ngừng đánh về phía nơi người Khách Lạp Hãn đóng quân.

Người Khách Lạp Hãn đang làm lễ bái, bọn họ biết binh lực Vu Khuých Quốc có hạn, đã không thể nào điều thêm ra một chi đại quân nữa để cùng tác chiến, quân Vu Khuých ở phía Tây bờ sông bên kia càng mệt mỏi hơn so với ọn hắn, căn bản không thể nào phát động tấn công nữa, cho nên toàn thể các tướng sĩ có tín ngưỡng kiên thành, đều đang ngó lên trên trời lúc sáng sớm sương mỏng, trong lòng thành kính.

Giáo sĩ Hồi giáo đang dẫn dắt mọi người thành kính đọc kinh : "Tô bặc cáp nại khảm lạp hồng mạch, ngọa bỉ hãn mục địch khai, ngọa thai ba lai khai tư khai, ngọa thai nhi lưỡng chiêm đỗ khai, ngọa lưỡng nhất lưỡng hợi ngả nhất lỗ khai nhất nhất nhất nhất nhất nhất."

Ngải Nghĩa Hải tựa như quái thú cưỡi trên chiến mã, suất lĩnh đội ngũ như gió xoáy, trực tiếp nhào vào đại doanh của bọn hắn, chiến sĩ Khách Lạp Hãn dũng mãnh thiện chiến bất ngờ không đề phòng, đại quân trước doanh bị diệt toàn quân. Vu Khuých Quốc Vương Úy Trì Đạt Ma nghe được đại thần đi cùng Ngải Nghĩa Hải đến đó bẩm báo lại, lập tức vô cùng vui mừng đổi một thân quần áo mới, chờ Ngải Nghĩa Hải đến triều kiến.

Nhưng là hắn chờ trái cũng không tới, chờ phải cũng không tới, bất đắc dĩ, chỉ đành phải cẩn thận đi tới bên kia bờ sông ở dưới sự bảo vệ của quân đội, đến đó mới phát hiện khắp nơi là máu tanh, những kỵ sĩ như ma quỷ kia đã đem doanh người Khách Lạp Hãn vơ vét sạch không còn gì, ước chừng được hai núi vàng bạc châu báu, mọi người ngồi ở trên đống thi thể ngổn ngang, đang ăn thức ăn người Khách Lạp Hãn còn chưa kịp hưởng dụng, Ngải Nghĩa Hải ăn đến miệng chảy đầy mỡ, khi vị đại thần theo hắn đến đây kia hướng hắn giới thiệu thân phận Đạt Ma, hắn lập tức ném chân con dê nướng, dùng hai bàn tay dính đầy dầu mỡ thân thiết cầm lấy hai tay Úy Trì Đạt Ma.

Nếu như ở thời bình, một vị tướng lĩnh nước ngoài làm như vậy cho dù không bị chỉ trích là thất lễ thì ít nhất cũng sẽ bị khiển trách là thô lỗ, mà lúc này đây, Úy Trì Đạt Ma trái lại cảm thấy tướng lĩnh thô lỗ cường hãn như vậy, mới có thể trở thành người Vu Khuých Quốc trông cậy vào, Úy Trì Đạt Ma cùng người tâm phúc cùng Ngải Nghĩa Hải vạch ra kế hoạch phản công ở trong doanh tiền tiêu của người Khách Lạp Hãn, xế chiều hôm đó, hai quân hợp binh một đường, liền chính thức triển khai phản công.

Song phương đầu tiên là triển khai chiến trường ở ngoại ô phía Nam của Diệp Thành tri, sau khi chiến đấu ác liệt bảy ngày bảy đêm, người Khách Lạp Hãn vẫn không rõ tình huống, lại không biết chi quân đội của Ngải Nghĩa Hải tác chiến so với bọn hắn còn muốn điên cuồng hơn là từ đâu mà đến, cũng không biết rốt cuộc bọn họ có bao nhiêu người, lúc này song phương vốn là đánh tới không thắng không chịu dừng, nhưng là người Khách Lạp Hãn là chiến đấu nơi xa, tác chiến ở nước khác, vì mục đích thận trọng, thống soái Khách Lạp Hãn quyết định rút quân. Quân lực Khách Lạp Hãn Quốc lúc này so sánh với Vu Khuých Quốc còn mạnh hơn, dựa theo ý nghĩ của Úy Trì Đạt Ma, lúc này hẳn là thu quân lại là tốt rồi.

Nhưng Ngải Nghĩa Hải lại không có cái ý nghĩ này, khi người Khách Lạp Hãn xâm chiếm, đã thiêu hủy chùa miểu, cướp bóc dân chúng, chiếm đoạt lượng lớn tài vật, tiền riêng của mỗi một binh lính cũng vô cùng dồi dào, đánh qua mấy trận chiến này, Ngải Nghĩa Hải kiếm được đầy bình đầy chậu, thói xấu tham lam khi xưa làm mã tặc lại nổi lên, hơn nữa Úy Trì Đạt Ma cho là giặc cùng chớ đuổi, nhưng hắn từ chỗ Dương Hạo học được là phải đuổi theo giặc cùng đường, quyết không cho kẻ địch dư khí thở dốc, cho nên không ngừng theo giết, kiên quyết không buông tha.

Úy Trì Đạt Ma không thể làm gì, cũng không thể để cho viện quân một mình chiến đấu, không thể làm gì khác hơn là kiên trì cùng hắn cùng nhau đi tới. Thật ra thì lấy quân lực của người Khách Lạp Hãn, khi đã tiến vào địa bàn của bọn họ, chiếm cứ cả thiên thời địa lợi nhân hoà, Ngải Nghĩa Hải chưa chắc có thể chiếm được bao nhiêu tiện nghi, chẳng qua bởi vì truy binh không chút do dự, khiến cho bọn hắn đoán nhầm thực lực của truy binh, một khi rút lui biến thành bại lui, liền không phải là bất luận kẻ nào cũng có thể tiến hành ước thúc được.

Quân Khách Lạp Hãn bỏ chạy vẫn trốn hướng về đô thành Sơ Lặc của bọn họ, truy binh liền theo sát không nghỉ đánh về phía Sợ Lặc, dám dân chúng địa phương ở trong quá trình hành động đem tin tức tản ra truyền lời, vốn bản tính bát quái đã đem truy binh anh dũng khuyếch đại lên hàng chục thập lần, kết quả vô hình trung đã vì truy binh làm ra chiến đấu tuyên truyền, tâm lý chiến có tác dụng cực nặng, vương quốc Khách Lạp Hãn trong lịch sử vốn là quốc gia Phật giáo, mới thay đổi thờ phụng hơn ba mươi năm, ở trong quốc gia vẫn có lượng lớn Phật tử, bởi vì là người bản quốc, mặc dù bọn họ bị chèn ép, nhưng là cũng không bị dùng võ lực thanh tẩy, lúc này nghe nói quân đội Vu Khuých Quốc vô cùng cường đại, không khỏi cực kỳ ủng hộ, lại có thể tạo phản ở Khách Thập Dát Nhĩ.

Cái biến hóa này không người nào dự liệu được này đã giúp Ngải Nghĩa Hải cùng Úy Trì Đạt Ma đại ân, dưới sự giúp đỡ của các Phật tử ở trong thành Khách Thập Dát Nhĩ, quân đội Vu Khuých lại dễ dàng tấn công vào đô thành Sơ Lặc của người Khách Lạp Hãn. Kết quả của trận chiến này, cho đến khi Úy Trì Đạt Ma bước vào vương cung của Khách Lạp Hãn Quốc, hắn cũng cho là mình đang nằm mơ. Mặc dù bởi vì người Khách Lạp Hãn nhanh chóng tổ chức đem lượng lớn quân đội từ những thành thị khác điều tới, bọn họ không cách nào bảo vệ được Khách Thập Dát Nhĩ, vì vậy sau khi cướp bóc một phen liền chủ động lui binh, bất quá thắng lợi trọng đại nhất này vẫn khiến cho trên dưới Vu Khuých Quốc vui mừng khôn xiết.

Trận chiến này, Vu Khuých Quốc chẳng những chiếm được lượng lớn tài vật, còn bắt được không ít quý tộc, tương lai có thể đổi lấy lượng vàng bạc đáng kể. Trải qua đánh một trận này, sĩ khí Vu Khuých đại tăng, người Khách Lạp Hãn tổn thương nguyên khí nặng nề, ít nhất trong vòng năm bảy năm nữa cũng không thể có được lực đi ngoại xâm nữa. Ngải Nghĩa Hải suất lĩnh quân đội anh dũng, cùng loại phương thức tác chiến điên cuồng, đã để lại ấn tượng không thể xóa nhòa cho Úy Trì Đạt Ma vẫn luôn nhìn ở trong mắt.

Cho nên ở lúc hướng Dương Hạo báo tin thắng trận, sau khi Vu KHuých Quốc đồng ý dặt quan hệ với Hạ Quốc của Dương Hạo, lại càng tiến một bước, tôn Hạ Quốc của Dương Hạo làm mẫu quốc, trong thư hắn viết cho Dương Hạo báo tin mừng thì một mực cung kính nói: "Hoàng đế bệ hạ Đại Hạ Triều, là hộ giáo Pháp Vương, ngài phái tới quân đội anh dũng tựa như sư tử lại đáng tin cậy, làm cho địch nhân nghe tin đã sợ mất mật, dưới sự giúp đở của Ngải Nghĩa Hải Đại tướng quân, chúng ta tiến quân thần tốc, trực tiếp đánh tới thành Sơ Lặc, bắt sống thê tử gia quyến của địch nhân, còn chiếm được vô số tài vật như voi, lương thực, ngựa tốt, hoàng kim, bảo thạch, duy nhất không được hoàn mỹ chính là. . . chỗ này dân cư dày đặc, cho nên lương thực có hạn, lúc chúng ta trở lại cũng đói bụng, kể cả là thần cùng Ngải tướng quân cũng không ngoại lệ. . ."

Tin tức kia thông qua miệng sứ giả Hạ Quốc đang hòa đàm, khéo léo tiết lộ cho quan viên Tống Quốc, tình báo của Tống Quốc tự mình thu thấp được cũng xác nhận điểm này, đến lúc này thái độ của sứ giả Hạ Quốc rõ ràng cường ngạnh, Triệu Quang Nghĩa cũng không khỏi không bắt đầu xem lại thái độ đối đãi với Hạ Quốc.

Hạ Quốc đánh thắng trận này có ý nghĩa như thế nào? Ý nghĩa là bọn họ nhanh chóng làm ra ảnh hưởng lướn ở Tây Vực, các nước Tây Vực đều là thờ phụng cường quyền cùng thực lực, bất kể làm cho kính sợ cũng tốt, muốn leo lên cường quyền cũng tốt, rất nhanh đã có đông đảo các quốc gia Tây Vực hướng Hạ Quốc qua lại lấy lòng, mà những quốc gia này đối với Tống Quốc mà nói là ngoài tầm tay với, không thể nào ảnh hưởng được.

Trận thắng này còn có ý nghĩa lòng quân sĩ khí Hạ Quốc tăng vọt, ý nghĩa Hạ Quốc ít nhất tạm thời có có một hậu phương ổn định, ý nghĩa Dương Hạo nhiều lắm là một tháng nữa trong tay sẽ tăng thêm một chi quân đội đầy đủ sức lực mới vừa đánh thắng trận trở về, bổ sung đến tiền tuyến Hoành Sơn, Tống Quốc muốn áp chế Hạ Quốc lại càng khó khăn hơn một bước. Mà một nước lớn ở Tây Vực như Vu Khuých Quốc đã hướng Hạ Quốc thừa nhận địa vị mẫu quốc, nếu như nói có thể thành công, triều đình trở thành mẫu quốc của Hạ Quốc, như vậy có ý nghĩa như thế nào? Ý nghĩa triều đình không phí người nào, cũng có thể đem ảnh hưởng cùng vinh quang của hoàng đế Tống Quốc mở rộng đi đến Tây Vực xa xôi.

Triệu Quang Nghĩa động tâm rồi, hắn gọi Lô Đa Tốn cùng Trương Ký tới, chỉ hướng bọn họ dặn dò một câu nói: "Trẫm nghĩ đáp ứng điều kiện của Dương Hạo, thả cả nhà Chiết gia trở lại, các ngươi hãy vì trẫm nghĩ ra biện pháp ổn thỏa đi."

***

Ngũ Đài Sơn, tuyết rơi lóng lánh trên ngọn cây. Thần sắc Vương Kế Ân lo lắng đi ra khỏi nhà chùa, chậm rãi đi trên thềm đá của đường núi.

Hắn là thái giám, nhưng là hắn là một thái giám có lý tưởng có chí hướng, hắn là thái giám, điều này là sự thật ai cũng không lau đi được, nhưng là thái giám chưa chắc không thể làm một nam nhân chân chính, có phải là nam nhân hay không, không phải là dựa vào vận động trên giường để phán đoán. Hắn vẫn mơ ước đi ra khỏi đại nội hoàng cung, hoặc từ văn, hoặc từ võ, làm ra một phen sự nghiệp oanh oanh liệt liệt, làm một nam tử đỉnh thiên lập địa(đầu đội trời chân đạp đất).

Từ ý nào đó mà nói, hắn đã làm được, một đế vương vĩ đại đã cũng ngã xuống dưới âm mưu của hắn, nếu như không có sự giúp đở của hắn, Triệu Quang Nghĩa không cách nào đem cấm quân nắm giữ trong tay sẽ tuyệt đối không có cách nào giết chết được Triệu Khuông Dận, đi lên bảo tọa cửu chí tôn. Nhưng công lao này, cũng là vĩnh viễn không thể đưa ra ánh mặt trời, hắn không có cách nào hướng tới bất cứ người nào làm rõ được. Hơn nữa, thái giám giết hoàng đế, hắn cũng không phải là người thứ nhất, chuyện này mặc dù kinh thiên động địa, nhưng bây giờ cũng chưa nói được tới rực rỡ.

Bất quá bởi vì công lao này, hắn cuối cùng đã được rời khỏi hoàng cung đại nội như ý nguyện, thành quan to một phương, nhưng là quan viên địa phương từ xưa đến nay có rất nhiều, những quan viên khác có thể an ổn làm quan, cho vợ con hưởng đặc quyền, hưởng một đời vinh hoa phú quý, sau đó tựa như một đóa bọt sóng mất đi trong dòng nước lịch sử chảy xiết, không còn lưu lại một tia dấu vết gì nữa trong lịch sử, nhưng đây không phải là điều hắn muốn, hắn không cách nào cho vợ con hưởng đặc quyền, hắn chỉ muốn lưu danh sử xanh, hắn, là một thái giám có mơ ước, một thái giám có chí hướng. (thằng này được, giống Tư Mã Thiên a^^)

Nếu như thành công đánh hạ được thành Hạ Châu, nếu như thành công bắt được vị hoàng đế Dương Hạo kia, như vậy tên của Vương Kế Ân hắn, nhất định có thể vĩnh viễn lưu tại sử sách, mặc dù hắn thiếu cái kia, nhưng hắn vẫn có thể vĩnh viễn lưu danh sử sách, ghi lại tới thiên thu muôn đời. Nhưng là, Phan Mỹ lui binh rồi, chẳng những lui binh, còn làm loạn hao binh tổn tướng, cuối cùng còn muốn hắn cùng lui, trở về chỗ cũ.

Tuy nói quan gia không trách phạt nghiêm nghị, sau khi khiển trách một phen chẳng qua là miễn đi chức Giám Quân của hắn, trở lại Hà Bắc nói làm quan Sát Sử, nhưng là trong tim của hắn vẫn không khỏi mất mác sâu sắc. Bởi vì cơ thể không trọn vẹn, hắn so với người bình thường lại càng thêm khát vọng công danh hơn, có thể lưu danh sử sách, công danh rực rỡ thiên thu, là điều hắn theo đuổi, mà là một quan trong thái bình không cách nào cho hắn được. Nhưng là trải qua lần thất bại này, hắn còn có cơ hội lần sau sao?

Vương Kế Ân đứng lại ở trước một khối điêu khắc bên sườn dốc, ở phía sau hắn, là một bức tranh điêu khắc đá khổng lồ, trên đá có khắc ba hàng chữ lớn như rồng bay phượng múa : "Thiên chi tam bảo Nhật Nguyệt Tinh, Địa chi tam bảo Thủy Hỏa Phong, Nhân chi tam bảo Tinh Khí Thần. "

" Nhất định có thể!"

Vương Kế Ân nhớ tới cái chuyện đại sự hắn cùng với quan gia đồng mưu kia, tinh khí thần không khỏi rung lên, dựa vào điểm tình hương khói này, quan gia nhất định sẽ có thêm chút ân sủng đối với hắn, lần này thất bại, sau này vẫn còn có cơ hội, mới vừa dâng hương, không phải là cũng bốc được quẻ đại cát tốt nhất đó sao? Kiên nhẫn, làm đại sự, nhất định cần phải có kiên nhẫn. Trên mặt Vương Kế Ân lộ ra nụ cười thoải mái, một lần nữa phấn khởi lên : "Tới, đi trở về phủ."

Vừa dứt lời, hai bên trên dưới sườn dốc, bỗng nhiên hiện ra mấy người, nhìn trang phục bọn họ thì là lữ khách tầm thường cũng đi vào dâng hương, có trẻ có già, có giàu có nghèo, nhưng là vẻ mặt của bọn họ đầy sát khí, nhanh chóng hướng tới hắn tiến lại gần đây, vừa nhìn thấy chính là không có ý tốt. Mấy tên thị vệ bên người hắn đã rút cương đao ra một nửa nghênh đón, trong miệng trầm giọng quát: "Các ngươi có chuyện gì ?"

Chỉ thấy mấy người có khuôn mặt sát khí giơ tay lên, cũng không biết xuất ra món đồ gì, mấy thị vệ của hắn cũng không nhìn thấy thứ gì, thế nhưng thân hình hơi chậm lại, cương đao trong tay cũng chưa rút ra. Bọn họ chưa kịp rút đao ra thì mấy người kia đã động thủ, bọn họ vòng qua mấy thị vệ đang ngây ngốc đứng ở đó, hướng Vương Kế Ân tiến sát lại hai bước, đột nhiên động thủ, có người từ trong ngực lấy ra lưỡi dao sắc bén, có lão giả rút ra đoản kiếm từ trong âậy trúc, có người từ đáy giày bắn ra cương đao.

Mấy thị vệ trên mặt đầy kinh ngạc mới vừa xoay người lại, không đề phòng mấy người này đột nhiên xuất thủ, trong lúc bất ngờ không đề phòng, ngay cả đao cũng không kịp rút ra , liền đã vội vàng huyết chiến tại chỗ, tiếng kêu thảm thiết mới vừa vang lên, bọn họ đã máu nhuộm thềm đá, nằm vật xuống trên đất, có một chút máu tươi bắn tóe lên tuyết trắng bên đường, diễm lệ như hoa mai.

Vương Kế Ân không nghĩ tới giữa ban ngày ban mặt, trước chùa chiền Phật Môn, lại có người dám gây bất lợi đối với quan viên triều đình như hắn, không khỏi cực kỳ sợ hãi nói: "Các ngươi là ai, ban ngày ban mặt, ban ngày ban mặt mà dám hành hung giết người, bản quan phải.."

Vương Kế Ân biết chút ít võ nghệ, nhưng là mắt thấy những người này thân thủ gọn gàng, đầy sát khí, giết người không chớp mắt, sợ đến khí lực hoàn toàn không có, căn bản không dám phản kháng, bởi vì hắn mặc một thân công phục thân sĩ thường mặc hằng ngày, hắn chỉ nghĩ những người này là cướp đường ngang ngược, hành động vừa mới hào phóng bố thí cho chùa miếu của mình đã rơi vào trong con mắt của bọn họ, khiến cho bọn họ động ác ý, cho nên vội vã hướng bọn họ biểu lộ thân phận. Cho dù là cường đạo, trừ phi có thâm thù đại hận, cũng không dám tùy tiện đánh bị thương quan viện của triều đình.

Không ngờ những người này không nói lời nào, nhảy một bước xa đến trước người của hắn, hai cổ tay liền bị người ghìm chặt, nhanh chóng vặn về phía sau một cái, hai tiếng "Răng rắc" vang lên, làm cho Vương Kế Ân ngửa mặt lên trời hét thảm một tiếng, chấn động đến tuyết đọng trên cây tuôn rơi xuống. Những người này lại có thể không nói một lời mà đã vặn gãy cổ tay của hắn.

Vương Kế Ân chỉ kịp phát ra một tiếng hét thảm, trong miệng liền có một cây thiết câu lạnh như băng dò vào, cái móc kia gắn ở trong tay áo một người, cái móc vừa vào miệng, mũi nhọn sắc bén lập tức móc ở trên đầu lưỡi của hắn, rồi cái móc hướng ra phía ngoài lôi kéo, Vương Kế Ân ngay cả tiếng kêu thảm thiết cũng không phát ra được rồi, đầu lưỡi máu chảy đầm đìa bị kéo ra khỏi miệng, sau đó trước mắt hắn chợt lóe hàn quang, trên người của hắn trừ phía dưới, thì không còn một nơi trọn vẹn.

"Bọn họ là ai? Rốt cuộc muốn làm gì? Làm sao sử dụng một chút binh khí cổ quái như vậy?"

Này không giống như là cường đạo bắt cóc tống tiền, cũng không giống như là kẻ thù gì, Vương Kế Ân chợt nhớ tới trên đời tựa hồ quả thật có người đặc biệt sử dụng những vật cổ quái làm binh khí, chẳng qua là do đau nhức cùng không khí quỷ dị trước mắt, làm cho hắn nhất thời không nhớ nổi lai lịch cùng thân phận của những người này.

Những người đó sau khi bẻ gãy hai tay của hắn, cắt đi đầu lưỡi của hắn, lập tức đem hắn trói lại.Phía trước xuất hiện một hán tử tuổi trên năm mươi, nhưng là thân hình thoăn thoắt dùng một loại giọng nói gượng gạo nói: "Tiểu Lâm, lập tức dẫn hắn trở về kinh. Lương Phu, ngươi dẫn người đi, đem phủ đệ của hắn thanh tra tịch thu hoàn toàn một lần."

Vương Kế Ân rốt cuộc biết những người này là người nào, Nhật Bản Trực! Bọn họ là người bên cạnh, qua gia, thị vệ Điện Tiền Ty Nhật Bản Trực, thị vệ Khế Đan Trực, Thổ Hồn Trực cảu Tiền Ty Mã Quân bên cạnh quan gia đều là dũng sĩ lấy một chọi mười, chịu trách nhiệm đặc biệt lo cho an toàn của hoàng đế khi ra ngoài, mà sứ mạng duy nhất của Nhật Bản Trực, chính là thi hành một chút nhiệm vụ điều tra, ám sát mà quan gia giao cho, quan gia... Tại sao phái bọn họ đối phó ta?

-----oo0oo-----

: Tây Hạ Vương

 Chương 62: Tam Sơn

Dưới chân núi Mân Sơn, tiễn trúc mọc thành từng bụi.

Một con gấu mèo chậm chạp đi qua nhai lấy lá trúc, bỗng nhiên, nó tựa hồ nghe được động tĩnh gì đó, vội vàng ép người xuống, dùng kỹ thuật nhanh chóng nhất mà thân thể mập mạp của nó có thể xuất ra hướng chỗ sâu của khu rừng mà bỏ chạy, một đường đụng rung rung rừng trúc, một con khỉ lông vàng nắm chặt nhánh cây, từ dưới cành lá lộ ra thân mình dò xét, lấm la lấm lét xem xét, sau đó cũng bỏ chạy cực kỳ nhanh.

Trong bụi cỏ, có hai người chậm rãi đi tới, đứng lại ở bên rừng trúc, trong đó một người thoạt nhìn tuổi còn rất trẻ, nhưng là mặc áo giáp chồng chất vết sẹo, ánh mắt kiên nghị tỉnh táo, trái lại khiến cho hắn thoạt nhìn giống như một tướng quân thân kinh báchn. Một người khác khoảng chừng ba mươi, dung mạo không xuất sắc gì, chỉ có một đôi mắt vô cùng có thần, lộ ra mấy phần giảo hoạt cùng khôn khéo, trên vai khiêng một cái ruột tượng, thoạt nhìn tựa như một kẻ hành thương (bán hàng rong) láu cá.

Hai người đối diện mà đứng, vị tướng quân trẻ tuổi kia nói: “Đương kim Tề Vương ở lại giữ Trường An, mời ta chỉ huy Bắc thượng, đi tới Quan Trung? Ha hả, đây không phải là triều đình bố trí một cái bẫy rập đi, mời Úng nhập quân đi?”. Hành thương kia lộ ra vẻ hơi mỉm cười nói: “Là gậy ông đập lưng ông, Đồng tướng quân”.

Tướng quân trẻ tuổi vuốt vuốt lỗ mũi nói: “Ta đọc sách ít, liền là ý tứ như vậy đi, ngươi hiểu là tốt rồi”.

Hành thương kia ha hả cười một tiếng: “Đồng tướng quân thật là một người sảng khoái, Hồ Hỉ Nhi cũng thích giao tiếp cùng người sảng khoái giống như tướng quân như vậy. Trước mặt người sáng mắt không nói tiếng lóng, lý do ta nói mới vừa rồi, Đồng tướng quân chỉ cần hơi chú ý tới tình hình trong kinh liền sẽ biết, điều ta nói là sự thật”.

“A?”. Đồng Vũ trầm ngâm một chút, cười cười nói: “Cho dù ta tin tưởng lời ngươi nói, nhưng lính của ta cũng là dân chúng đất Thục, để cho bọn họ xa xứ mà nói, sợ rằng chưa chắc họ chịu đi”.

Hồ Hỉ Nhi quỷ quyệt cười một tiếng, nói: “Nếu như là lúc Triệu Đắc Trụ làm chức Thuận Thiên đại tướng quân này, đúng là chưa chắc có thể kêu gọi những người này cam tâm rời đi, nhưng là... Theo ta được biết, sau khi tướng quân ngồi lên ghế đầu nghĩa quân này, quân dân tách ra, quân kỷ nghiêm túc, hôm nay nghĩa quân đã là một chi quân đội chân chính, nếu nói là quân lệnh như núi, cũng chưa chắc đã không làm được”.

Hắn nghiêm sắc mặt, lại nói: “Tướng quân, thật không dám giấu diếm, theo tin tức chúng ta nhận được, triều đình đã bắt đầu cùng Hạ Quốc nghị hòa rồi, một khi nghị hòa xong, binh lực tiễu trừ Ba Thục tất nhiên tăng nhiều, đến lúc đó, tướng quân tất nhiên là cất bước khó khăn, nếu như hiện tại đoạt trước một bước, giành lấy tiên cơ, tại trước khi triều đình đem trọng binh tiễu trừ mà nhảy ra Ba Thục, tung hoành Quan Trung, lấy thực lực đại quân trước mắt của tướng quân, hơn nữa có chúng ta âm thầm cung cấp tiền tài, tình báo, liệu trước tiên cơ, chẳng lẽ tướng quân còn không phải như cá gặp nước, trăm trận trăm thắng sao?

Còn nữa, tướng quân giương cờ nổi lên, đó là vì sao? Đại trượng phu tính toán, bất quá là công danh tiền đồ nên người thôi, nếu như tướng quân phù bảo Tề Vương, một ngày kia Tề Vương ngồi trên thiên hạ, ngài có công phò tá, là khai quốc công thần, chức cao tước hiển, để phúc ấm cho con cháu, cơ hội như vậy, ngài nguyện ý bỏ qua sao?”.

Hai mắt Đồng Vũ nhíu lại, hỏi: “Nếu quả thật quan binh tiễu trừ, không còn cách nào, ngươi không sợ ta sẽ đem bí mật của các ngươi nói cho triều đình dùng cái này mưu một chức quan hay sao?”.

Hồ Hỉ Nhi giảo hoạt cười nói: “Ngài sẽ không, lẫn vào trong bí mật cung đình, gièm pha hoàng thất, sẽ không có kết quả tốt. Còn nữa, cho dù ngài nói, chúng ta cũng sẽ không thừa nhận, ngài có bất cứ cái chứng cớ gì sao? Về phần quan gia nghi kỵ, vậy thì không sao cả rồi, tình cảnh trước mắt của Tề Vương đã đủ hung hiểm rồi, tệ thì còn có thể tệ đi đến đâu nữa? Nếu không phải tình thế hiểm ác, chúng ta cũng sẽ không tìm tới Đồng tướng quân ngài. Tướng quân nói xem, có phải không?”.

“Như vậy, làm sao để ta tin tưởng thành ý của ngươi đây?”.

Hồ Hỉ Nhi nói: “Rất đơn giản, hiện tại ta có thể cung cấp cho tướng quân các thứ lương thực, quân giới, quần áo mùa đông, dược liệu... Cần thiết, khi tướng quân Bắc thượng, tình báo về các mặt quân lực, tướng lãnh phòng thủ, quân giới võ bị, điều động binh mã các thành trì dọc đường, ta cũng sẽ kịp thời cung cấp cho ngài, tướng quân sẽ không có ý nghĩ kỳ lạ, cho là triều đình dùng loại kế kẻ địch cô thế này tới trừ phiền loạn chứ?”.

Đồng Vũ cúi đầu, từ từ bước đi thong thả dẫm lên bãi cỏ, sắp xếp lại quân đội, vào núi sâu xây căn cứ, đây đều là điều Dương Hạo đặc biệt dặn dò hắn làm. Kế hoạch của Dương Hạo là Hà Tây hòa đàm, ở trong quá trình này Ba Thục sẽ đem đến tác dung quan trọng, một khi hòa đàm thành công, Ba Thục sẽ phải thừa nhận áp lực gia tăng gấp bội, có lẽ xét thấy lần này, Dương Hạo mới nói trước dặn dò hắn làm tốt các chuẩn bị cần thiết, đồng thời đã cảnh cáo hắn, đến lúc đó có thể nghênh đón đả kích hết sức trầm trọng, tình cảnh vô cùng khó khăn, có lẽ đem toàn bộ nghĩa quân lui vào trong núi sâu tiến hành du kích chiến. Nếu như... Có một con đường tốt hơn, có nên kiên trì kế hoạch lúc đầu hay không?

Hồ Hỉ Nhi cũng không nóng nảy, dù bận vẫn ung dung đứng ở đằng kia nhìn, Đồng Vũ suy nghĩ rất lâu, sau đó chậm rãi ngẩng đầu nói: “Hồ tiên sinh, chuyện này ta còn cần cùng mấy người tâm phúc thương lượng cho tốt một chút, mới có thể quyết định có được hay không?”.

Hồ Hỉ Nhi rất sung sướng nói: “Được chứ, bất quá... Cho dù là tâm phúc của tướng quân, tại hạ cho là, có một số việc cần nhanh chóng cũng không cần ý kiến của bọn họ”.

Đồng Vũ hiểu ý cười một tiếng: “Ngươi yên tâm đi, an nguy của Tề Vương đối với ngươi mà nói là hết sức quan trọng, đối với ta mà nói cũng đồng dang cực kỳ quan trọng, ta sẽ không đem thân phận của Tề Vương tiết lộ cho bọn họ biết đến.

Hồ Hỉ Nhi cười nói: “Như thế rất tốt, ta đây liền chờ tướng quân trả lời”.

Hắn ngừng lại một chút, lại nói: “Triều đình cùng Hạ Quốc đã sắp nghị hòa thành công, nhưng ngay sau đó, binh mã phái vào Tây Xuyên gia tăng lượng lớn. Đến lúc đó tình cảnh của các ngài sẽ càng thêm khó khăn, đại quân ngài có thể bình yên tới Quan Trung, muốn mang theo chút ít già trẻ, phụ nữ và trẻ em như vậy có thể thành công. Hiện tại binh lực triều đình tiễu trừ các ngài còn có hạn, lại phân tán các nơi, khó có thể tạo thành thế vây kín, vì vậy, ở dưới sự tiếp ứng của chúng ta, các ngài có thể an toàn tới Quan Trung, đồng thời ở trong Tần Lĩnh mênh mông thành lập một ít sơn trại hiểm yếu dễ thủ khó công là rất dễ dàng làm được. Tướng quân ngàn vạn lần nắm chắc, chớ để mất thời cơ”.

Đồng Vũ nhẹ nhàng vuốt cằm nói: “Hồ tiên sinh cứ yên tâm, ta sẽ bằng thời gian nhanh nhất hạ quyết định, sau đó đem kết quả nói cho các hạ!”.

*

* *

Dưới Phong Thai Sơn, kiếm bạt giương cung.

Đại doanh Phong Thai Sơn trước mắt đã một lần nữa trở lại trong tay Hạ Quốc, trên sườn núi có vài chỗ tuyết đọng, do binh lính song phương nhiều lần xung phong liều chết dẫm đạp đã biến thành tầng băng kết chặt mạnh mẽ, Dương Duyên Huấn được cái này dẫn dắt, dứt khoát đun tuyết ra nước hướng lên trên sườn núi giội xuống, làm cho cả sườn núi phía Bắc sáng long lanh trong suốt tựa như một ngọn Thủy Tinh Cung, dù là ai cũng không cách nào đặt chân lên.

Bất quá đại doanh quân Liêu dưới chân núi coi như là an phận, những ngày qua trừ la mắng khiêu khích một hồi ra, cũng không hướng bọn họ khởi xướng tiến công nữa. Đây cũng không phải Liêu binh sợ đánh, sợ Dương tam lang hắn, nguyên nhân chủ yếu vẫn là bởi vì sứ giả Liêu Quốc đến Hạ Châu đang cùng hoàng đế Hạ Quốc tiến hành giao thiệp.

Sáng sớm hôm nay, chiến sĩ trong vọng lâu ở đỉnh núi bỗng nhiên phát hiện có ít nhất hai nghìn kỵ sĩ chạy tới đối diện đại doanh quân Liêu, hắn lập tức đem tin tức kia bẩm báo cho Dương Duyên Huấn. Dương Duyên Huấn nghe xong có chút khẩn trương, lúc này Liêu Quốc đột nhiên tăng binh, chung quy có một chút nguyên nhân, hắn lập tức ra lệnh toàn quân làm ra trận địa sẵn sàng đón quân địch, làm tốt chuẩn bị chiến đấu. Nhưng là đối diện vẫn không có động tĩnh gì, ngoại trừ hai nghìn kỵ binh chạy tới trong quân doanh Liêu Quốc khiến cho rối loạn trong chốc lát ra, hiện tại hết thảy vẫn yên tĩnh như thường.

Dương Duyên Huấn không dám khinh thường, đích thân đi tới đội quân tiền tiêu, đang cẩn thận quan sát những động tĩnh đối diện thì có người chạy tới rỉ tai mấy câu với hắn, Dương Duyên Huấn vội vàng chạy trở về. Đợi về đến soái trướng của mình, đã thấy Thánh thượng Dương Hạo ngồi ở trên, cha của mình ngồi tại tay trái, bên phải có một người, chính là sứ giả Liêu Quốc Mặc Thủy Ngân ban đầu thông qua đội quân tiền tiêu của hắn mang đến Hạ Châu.

Dương Duyên Huấn vội vàng cúi thân tới trước bái kiến, âm thầm kinh ngạc: “Thánh thượng làm sao lại tới? Không có lý do gì đưa tiễn một sứ giả nước ngoài xa như vậy đi...”.

o O o

http://ne4.upanh.com/b4.s18.d1/693895f8ce35812b88269e45178f9e22_37210904.chuong62 01.gif

-----oo0oo-----

: Tây Hạ Vương

 Chương 63: Xin Vua Chỉ Giáo

Ở dưới sự phân phó của Dương Hạo, Dương Duyên Huấn phái người hộ tống vị Hồng Tự Thừa Liêu Quốc A Mặc Thủy Ngân kia trở về Liêu doanh. Chờ đều lúc xế chiều, Mặc đại nhân vừa trở lại, lần này Dương Hạo lại cũng muốn theo hắn cùng đi, Dương Duyên Huấn khẩn trương lên, Dương Kế Nghiệp mặc dù không nói chuyện, nhưng là bởi vì đã sớm khuyên qua, chẳng qua là không thấy hiệu quả nhưng khi con trai ra mặt khuyên can. Hắn cũng không ngăn lại, cho thấy đối với cái này cũng là hơi không đồng ý.

Dương Hạo cười nói: “Không có cách nào, nếu như có lợi đối với Liêu Quốc, cho dù trẫm còn là một sứ thần Tống Quốc, cũng sẽ bị bọn họ lưu lại. Nếu như không có lợi với Liêu Quốc, cho dù ta là thiên tử, trẫm cũng đồng dạng qua tự nhiên. Các ngươi không cần phải lo lắng, lần đi tới Liêu doanh này, ta là đi gặp lại Bắc Viện Đại Vương Liêu Quốc Gia Luật Hưu Ca”.

Dương Duyên Huấn kinh ngạc nói: “Hóa ra là hắn tới? Khó trách... Bất quá cho dù là hắn tới, Thánh thượng là con trời, Gia Luật Hưu Ca chẳng qua là Liêu Quốc Bắc Viện Đại Vương, cũng nên để hắn tới hội kiến Thánh thượng mới đúng”.

Dương Hạo mỉm cười nói: “Có đôi khi, chiếm tiện nghi chính là lỗ, lỗ chính là chiếm tiện nghi”.

Dương Hạo đổi một thân y phục tướng lĩnh tầm thường, chỉ có mấy người Ám Ảnh Vệ đi theo, cùng Mặc Thủy Ngân cùng đi vào đại doanh Liêu Quốc, bên phía doanh trại Tống Quốc kia vẫn chú ý đến động tĩnh bên này, nhưng là mặc dù bọn họ đã nghe qua đại danh của Dương Hạo, biết nhưng lại không nhiều, hơn nữa cách xa nhau quá xa, Dương Hạo lại không mặc trang phục rõ ràng, mặc dù phát hiện hai bên Hạ, Liêu luôn luôn dùng đao thương nói chuyện hôm nay qua lại có chút quỷ dị, nhưng không cách nào phán đoán được thân phận người trong cuộc.

Trong quân doanh Liêu Quốc, trên cái nệm nỉ lớn nhất kia, Mặc Thủy Ngân đoạt trước một bước vén lên màn che thật dầy, đập vào mặt chính là một cái thảm màu đỏ tươi, thẳng đến cuối. Ở trên phần cuối mấy cái bàn khác, để cơm rang, mỡ trâu, đậu hũ, còn có một chậu lớn thịt dê nóng hôi hổi, một đại hán đang theo bàn mà ăn liên tục, vẻ mặt người này nhanh nhẹn dũng mãnh đầy khí oai hùng, mặc dù ngồi ở đằng kia, nhưng hắn giống như một đầu báo tràn đầy sức mạnh.

Dương Hạo đi vào, hắn chỉ ngẳng đầu liếc một cái, liền rũ mắt xuống, đem lực chú ý để vào cây sườn dê trong tay, nhưng chỉ một cái nhìn này, hình dáng tướng mạo Dương Hạo đã toàn toàn bị hắn xem ở trong mắt. So với lúc rời đi Thượng Kinh khi đó. Dương Hạo trưởng thành hơn rất nhiều, vẻ mặt khí chất cũng càng thêm cô đọng chững chạc, hơn nữa khí chất thượng cấp đã dần dần bày ra. Nếu như nói khi ở Thượng Kinh, sự tự tin cùng ung dung của hắn là tới từ đế quốc cường đại, tới từ hoàng đế cường thế ở sau lưng hắn kia, như vậy bây giờ sự tự tin cùng ung dung khi giơ tay nhấc chân hoàn toàn là bởi vì hắn vốn có lực lượng của mình.

Gia Luật Hưu Ca chỉ nhìn hắn một cái liền cúi đầu xuống, cũng không phải là hắn muốn cố ý làm ra một bộ đáng khinh thường đối với hắn, mà là không muốn bị hắn nhìn thấy tình cảm xúc động trong ánh mắt của mình. Tuy nói đã qua mấy năm thời gian, tuy nói lần này tới Tây Hạ, cha hắn giao cho sứ mạng hết sức quan trọng, nhưng hắn chưa từng có quên người đàn bà hắn từng yêu thích sâu sắc kia.

Những năm này, làm Bắc Viện Đại Vương, hắn công thành danh toại, nữ nhân bên cạnh cũng càng ngày càng nhiều, trong đó rất nhiều người cũng xuất thân từ nhà giàu có, dung sắc tuấn lệ, nhưng là ở trong lòng hắn, không có một người nào so được với vị nữ quan cung đình La Đông Nhi kia. Có người nói không chiếm được luôn là tốt nhất, có lẽ chính là vì cái nguyên nhân này, mỗi khi hắn nhận được một mỹ nhân, cũng sẽ không kìm lòng được mà đem nàng ta đi so sánh cùng Đông Nhi, mà Đông Nhi cho tới bây giờ cũng đem hắn làm thành đại ca, chẳng bao giờ lấy thân phận nữ nhân hầu hạ hắn. Cho nên hắn chỉ có thể dùng ảo tưởng của mình tới so sánh, nên so sánh như vậy, cho dù là một vị Thiên Tiên, cũng phải bại trận trước Đông Nhi đã đạt đến hoàn mỹ trong đầu hắn, vì thế ý hối hận của hắn liền cũng từ từ càng sâu sắc.

Nếu như thời gian có thể quay lại, hắn quyết sẽ không cố bày ra vẻ hào phóng, nhượng bộ trước ý chí của Thái hậu nữa, đem nữ nhân mình thích chắp tay nhường cho người nam nhân trước mắt này. Hắn nghe nói Đông Nhi đã vì Dương Hạo sinh ra mấy hài tử, trong lòng đau như bị kim châm, nữ hài nhi một thân tuyết trắng, thanh lệ tinh ranh tựa như cáo tuyết mùa đông xinh đẹp nhất trên thảo nguyên kia, vốn nên trở thành vương phi của hắn, vốn nên vì hắn sinh con nuôi cái mới đúng.

Mắt thấy Đại vương xấc láo ngồi yên, không coi ai ra gì, Mặc Thúy Ngân hết sức bất an, vừa muốn tăng thêm giọng nói, báo hoàng đế Hạ Quốc đã đến, lại bị Dương Hạo đưa tay ngăn lại. Dương Hạo ung dung hướng về phía trước, trực tiếp đi tới trước mặt Gia Luật Hưu Ca, khoanh chân ngồi xuống, từ trên bàn trước mặt hắn cầm lấy một cây đùi dê đầy mỡ, mùi vị ngon lành, há ngụm lớn gặm.

“Xoạch” một tiếng, Gia Luật Hưu Ca cầm một cây xương sạch trong tay ném lên trên bàn, thuận tay cầm lên một cái khăn tay, nhẹ nhàng lau miệng, sau đó từ từ lau ngón tay, lạnh lùng thốt lên: “Bệ hạ, ngài phải biết, Huệ Sĩ của Đại Lạt Lục Viện ta ở bôn ba ngàn dặm tới nơi trời đông giá rét này, đến Phong Đài sơn là vì cái chuyện gì. Nhưng là, lính của ngươi, tựa hồ không quá hữu hảo, hôm nay nếu bệ hạ tới, không biết ngài tính toán giao đãi hướng ta như thế nào đối với chuyện này?”.

“Chuyện này thật ra thì... Cũng không có chuyện gì ghê gớm đi? Binh sĩ quý quốc truy đuổi con mồi, xông vào quốc thổ của ta, binh lính của ta đem bọn họ áp giải ra khỏi lãnh thổ, tựa hồ không có gì không ổn, khi hai nước mới thiết lập quan hệ ngoại giao, không xâm phạm lẫn nhau, chính là điều thứ nhất”.

Gia Luật Hưu Ca trợn mắt tròn xoe, quát lên: “Ngươi...”.

Lời nói của Dương Hạo vừa chuyển, lại nói: “Dĩ nhiên, đại quân Tống quốc tiếp cận, đại vương suất quân chạy tới, vội vã giúp ta rất nhiều, người của ta đối đãi quân đội bạn như vậy, có chút không quá lễ phép, thật ra thì bọn họ hoàn toàn có thể làm uyển chuyển hơn chút ít, bất quá ngay sau đó quý bộ liền đổi sắc mặt, ra sức đánh lính trinh sát nước ta, lại đem bọn họ lột sạch, trói ở trước doanh thị chúng, người của ta đoạt lại bọn họ, chẳng lẽ cũng không đúng sao, nếu đổi Hưu Ca Đại Vương là người dẫn binh, ngài có làm sao hay không?”.

“Đương nhiên rồi, bất kể nói thế nào, Đại Vương là khách ở xa tới, lần này xuất binh đối với Hạ Quốc không phải không có ý che chở, người của ta làm như vậy, là có chút không hợp tình hợp lý, tuy nói binh lính thô lỗ dã man, thỉnh thoảng nổi lên xung đột là không thể tránh được, nhưng là ít nhất người của ta nên ra mặt xứ trí trong lúc nhất thời, tránh khỏi tình thế càng tiến một bước mở rộng mới đúng, nếu là làm như vậy, cũng không dồn quân đội hai phe Hạ, Liêu đem đại doanh Hạ Quốc ở Phong Đài sơn này làm chiến trường, giết qua giết lại. Nhưng là, ta thật sự là bận rộn, nghĩ đến Gia Luật Đại Vương cũng là bởi vì nguyên nhân tương tự, cho nên mới trì hoãn đến ngày này, mới từ Đại Đồng khoan thai mà đến đi?”.

Gia Luật Hưu Ca cười lạnh nói: “Bệ hạ nói lời này trong cương có nhu, là không có thiện ý rồi?”.

Dương Hạo nghiêm mặt nói: “Ngài nói sai rồi, ta chỉ là ở kể lại một sự thật. Lần này ta tới, thật ra là rất có thành ý giải hòa, bất kể nguyên nhân xung đột ở Phong Đài sơn lần này là gây ra như thế nào, ai đúng ai sai, một chuyện nhỏ như vậy, cùng so với hữu nghị lâu dài giữa hai nước Liêu Hạ, là bé nhỏ không đáng kể. Cho nên, vì hữu nghị vĩ đại giữa hai nước Hạ, Liêu, vì nghĩa cử ngàn dặm gấp rút tiếp viện của Hưu Ca Đại vương...”.

Dương Hạo một tay quơ sườn dê, nói dõng dạc, nói tới đây, thuận tay đem sườn dê hướng trên mặt thảm ném đi, lấy quyền xoa ngực, trịnh trọng nói: “Ta lấy thân phận hoàng đế Hạ Quốc, hướng Hưu Ca Đại Vương tạ lỗi, hướng tới tướng sĩ Liêu Quốc đã chết trong xung đột ở chỗ này gửi tới tưởng nhớ sâu sắc, hướng tới tướng sĩ Liêu Quốc đã chết trong xung đột ở chỗ này gửi tới lời an ủi chân thành thắm thiết”.

Gia Luật Hưu Ca ngây dại, phản ứng của Dương Hạo toàn toàn ngoài dự liệu của hắn, đến nỗi làm cho toàn bộ lý do hắn nghĩ kỹ rất nhiều để chèn ép Dương Hạo đều bị mất tác dụng. Người ta tạ lỗi rồi, dù gì người ta là hoàng đế một nước, lại hướng hắn nói xin lỗi như vậy, hắn còn có thể nói cái gì cho tốt đây? Vậy khó có thể kêu người ta đem hung thủ giết người giao ra đây rồi? Đây là đánh giặc, không phải là ẩu đả, cho dù là hoàng đế vô năng cũng sẽ không làm ra cái loại chuyện phá hủy lòng người, tự hủy trường thành này, làm như vậy là buộc hắn quyết liệt, mà Liêu Quốc cũng không muốn chạm đến điểm mấu chốt.

Khi Gia Luật Hưu Ca kinh ngạc không thôi, vẻ mặt Dương Hạo đột nhiên ngưng lại, khom người nói: “Hưu Ca Đại vương trí tuệ giống như thảo nguyên bát ngát, lòng rộng rãi giống như trời cao mênh mông, ta tin tưởng lấy tình hữu nghị giữa hai nước ta, lấy lòng bao dung của Hưu Ca Đại Vương, cũng sẽ không nhắc lại chuyện không vui nho nhỏ này. Chuyện nhỏ này không đề cập tới cũng được, lần này ta tới hội kiến Hưu Ca Đại vương, chính thật ra là có một chuyện đại sự quan trọng hơn, muốn thông báo cho Đại Vương. Chuyện này, rất nhiều văn võ bá quan dưới trướng của ta còn không biết, nhưng là ta cảm thấy, tất phải nói trước cho Hưu Ca Đại vương, ta nói rồi, ta là hết sức quý trọng tình hữu nghị giữa hai nước ta”.

“Chuyện gì?”. Gia Luật Hưu Ca văn võ song toàn, chính là một danh tướng của Liêu Quốc, nhưng nếu bàn về loại tâm tư giải hoạt này, vẫn là kém xa Dương Hạo rồi, hắn hiện tại không chỉ là nhớ nhà, cho dù là vui giận cũng hoàn toàn bị Dương Hạo nắm đi.

Dương Hạo gằn từng chữ nói: “Hưu Ca Đại Vương, Hạ Quốc ta, đã quyết định lột bỏ Đế hiệu, hướng Tống Quốc xưng thần xin hàng”.

Hai mắt Gia Luật Hưu Ca mở to ra, trong mắt nhất thời bạo xuất ra một ánh sáng sắc nhọn, hai tay giơ lên, như hổ vồ mồi, lạnh lùng nói: “Ngươi nói cái gì?”.

Dương Hạo một tay cầm chén, một tay cầm bình rượu, giơ bình rượu lên cao, rót rượu vào chén, mỉm cười nói: “Một quyền hết sức, muốn đánh một quyền nữa, nên làm cái gì bây giờ? Tự nhiên là trước tiên phải đem quyền thu hồi lại mới được. Có đôi khi lui về phía sau, là vì để đi tới tốt hơn, Hưu Ca Đại Vương nghĩ có đúng không?”. Gia Luật Hưu Ca nhất thời thu lại tức giận bạo nộ uy mãnh, chậm rãi ngồi xuống ở phía sau mấy cái bàn.

Dương Hạo đổ đầy một chén rượu, đặt bình rượu xuống, hai tay nâng chén, ôn văn tao nhã nói: “Thời gian thấm thoát, từ biệt đã mấy năm. Từ khi chia tay ở Thượng Kinh, nay mới được gặp lại, Hưu Ca Đại Vương, chúng ta uống cạn chén này...”.

*

* *

“Ta là một con cáo tu hành ngàn năm, ngàn năm tu hành ngàn năm cô độc, đêm khuya người yên tĩnh có thể có người nghe thấy ta đang khóc, qua ngọn đèn dầu rã rời có thể có người nhìn thấy ta khiêu vũ. Ta là một con cáo ngàn năm, ngàn năm đợi chờ ngàn năm cô độc, dòng hồng trần cuồn cuộn người nào lại gieo xuống độc tình, trong biển người mênh mông người nào uống phải độc yêu, ta yêu ngươi lúc ngươi đang nghèo rớt mồng tơi gian khổ học tập, rời khỏi ngươi lúc ngươi đang kim bảng đề danh động phòng hoa chúc...”.

La Công Minh mặc một bộ áo ngoài cộc tay, bên trong là lông cáo, đang cầm một chén trà, ngồi ở trên ghế gập, nhắm hai mắt, hết sức say mê hừ hừ ca khúc học được từ Thiên Kim Nhất Tiếu lâu, một bộ râu dê dưới hàm vểnh lên vểnh xuống, tự nhiên tự đắc. La lão chính là fan của Tuyết Nhược San Tuyết Hành Thủ của Thiên Kim Nhất Tiếu lâu, những khúc mục mà Tuyết cô nương biểu diễn, hắn đọc làu làu, bởi vì thường xuyên đi Thiên Kim Nhất Tiếu lâu cổ vũ, cũng làm cho La phu nhân hớp không ít dấm chua. “Có thể vì ngươi nhảy một điệu may mắn hay không, ta là bạch hồ ngàn năm ngươi phóng sinh trăm năm trước... Ai ai ai, để nhất nhất buông tay nhất nhất...”.

La lão đầu hát một câu ca khúc, thế nhưng lại còn có một chút hứng thú kêu to như vậy, khi đang hát đến mặt mày hớn hở, lỗ tai bỗng nhiên bị một bàn tay châu tròn ngọc sáng véo một cái, cái mông của hắn lập tức theo cái tay kia rời khỏi cái ghế, mắt còn chưa có mở ra, mặt đã bị nhéo thành bánh bao méo: “Ôi ơ, phu nhân từ từ nói chuyện, đây là vì cái gì vậy chứ?”.

La phu nhân oán hận bỏ tay xuống, hai tay chống eo, tạo thành hình dáng bình trà, mắt hạnh trợn tròn, quát lên: “Ngươi lão già này, có chuyện mà không cùng ta thương lượng, chuyện khác đều tùy ngươi, nhưng chuyện lớn như vậy, ngươi cũng chẳng cho ta biết gì, ngươi nói ta là nên làm như thế nào?”.

“Ai, rốt cuộc là chuyện gì vậy? Phu nhân nhìn tai ta một cái đi, nói cũng không nói rõ, còn bảo lão phu thương lượng cùng phu nhân, thương lượng chuyện gì?”.

La phu nhân nổi giận dùng dùng nói: “Ta hỏi ngươi, có phải ngươi dâng biểu thỉnh cầu cáo lão về quê rồi phải không?”. La Công Minh vuốt chòm râu nói: “Đúng vậy, làm sao vậy?”.

“Tại sao muốn cáo lão về quê?”.

La Công Minh chậm rãi ung dung nói: “Cáo lão về quê, đương nhiên là bởi vì già rồi. Hiện tại đã lớn tuổi, đi đứng không tiện, đầu óc không đủ dùng, đi một bước phải lấy hơi, có trận gió thổi trúng cũng ngã, không thể ra sức vì triều đình nữa, còn không lui xuống, chẳng lẽ chờ người ta đuổi sao?”.

La phu nhân cười lạnh: “Nghe lời ngươi nói, là sắp xuống mồ đúng không? Hóa ra còn dư lại một hơi mà kéo dài hơi tàn rồi? Buổi tối hôm qua cũng không biết là lão già nào có thể lăn qua lăn lại nhiều như vậy, được, ngươi già rồi đi không được sao? Bích Thiềm, Thải Phượng, căn dặn xuống, đem toàn bộ mấy ái thiếp kia của lão gia đuổi tới Tây Khóa Viện đi, không có lời của ta, ai cũng không thể hầu hạ lão gia. Còn nữa, phân phó quản gia, sau này khi lão gia ra cửa, trước tiên phải được bản phu nhân gật đầu mới được, lão gia yếu đuối như vậy, Thiên Kim Nhất Tiếu lâu khẳng định là không đi được rồi, cũng nên bỏ chỗ ngồi đặc biệt Tuyết cô nương cho lão gia chúng ta đi thôi...”.

Hai tiểu nha hoàn nín cười đứng ở cười đáp ứng, xoay người muốn chạy ra bên ngoài, La Công Minh vừa nghe vậy liền giống bị bò cạp cắn như vậy, vội vàng nhảy dựng lên nói: “Cạch ai ai, đừng đi. Các ngươi cũng đi ra ngoài đi, nhìn cái gì, cười cái gì, cẩn thận lão gia cắt đứt chân của các ngươi”.

“Người bên cạnh ta, muốn giáo huấn cũng phải qua ta, ai dám giáo huấn các nàng?”.

“Đi đi đi đi, hai tiểu nha đầu không có quy củ, lão phu cùng phu nhân nói chuyện, còn không lui xuống đi?”. Đuổi Bích Thiềm cùng Thải Phượng đi, La Công Minh vội vàng lôi kéo tay phu nhân, nước miếng tung bay nói: “Được rồi được rồi, phu nhân chớ tức giận, cái này đúng là vi phu có lỗi. Nàng muốn biết, vi phu nói cho nàng biết đi”.

La phu nhân dùng cái mông đẩy một cái, đem hắn đẩy bắn ra, hầm hừ ngồi lên trên ghế của hắn, nghiêm mặt nói: “Bây giờ nói đi, nếu có một câu không thật, hừ!”.

La Công Minh cười đầy mặt tiến tới sau lưng phu nhân, vừa đấm bóp bả vai cho nàng, vừa nói: “Phu nhân từ từ nói chuyện, ta đây còn không phải là vì Khắc Địch sao”.

“Vì con ta? Chức Tam Ty Sử này, mỗi tháng được lượng lớn bổng lộc, ngươi không làm thần tài cho tốt, còn nói cái gì già còn cái gì hồi hương, còn nói là vì con ta? Điều này liên quan gì tới con ta?”.

La Công Minh ngẩng đầu nhìn lên, cửa đã không còn người, lúc này mới hạ giọng nói: “Phu nhân, chuyện trong triều, nàng đâu biết được nhiều như vậy. Quan gia lên ngôi đã hơn hai năm, thường nghe nói vua nào triều thần nấy, nhưng là từ khi quan gia lên ngôi tới nay, tuân theo quy chế tiên đế, cơ hồ không có làm ra thay đổi gì, ta thấy rằng, hiện tại hắn đã động tâm tư rồi”.

La phu nhân bĩu môi nói: “Hắn động mặc hắn, ngươi để ý chuyện gì? La Công Minh ngươi được gọi là ‘Quan Trường Bất Đảo Ông’, cây thông không già của chính đàn, rồi lại nói bình thường có chuyện gì ngươi chưa bao giờ nhúng vào, quan gia muốn động tới người nào, cũng sẽ không động tới ngươi”.

“Phu nhân đây là chỉ biết một mà không biết hai”.

La Công Minh đổi quả đấm thành nhón, rất thành thạo niết bả vai cho phu nhân, thấp giọng nói: “Hà Bắc Đạo Quan Sát Sử Vương Kế Ân bị bắt trở về kinh, nói loạn Lân Phủ là mánh lới do hắn mưu lập chiến công, cấu kết Xích Trung làm ra, vừa mới trở về kinh, đã bị xử trảm ở Ngọ Môn. Ngay sau đó triều đình liền cùng Hạ Quốc nghị hòa, Hạ Quốc bỏ đi Đế hiệu, tiếp nhận chức Tây Hạ Vương nước Tây Hạ mà triều đình phong cho. Ngưu Thiên Vệ Thượng tướng quân Chiết Ngự Huân dâng biểu từ chối quan gia một lần nữa phong hắn làm Tri Phủ Phủ Châu, giữ lại chức Đức Quân Tiết Độ Sứ, bởi vì hắn quen thuộc tình hình Hà Tây, cho nên được triều đình bổ nhiệm làm Hà Tây Tuyên Phủ Sử, sẽ phải lập tức đi nhậm chức, tới Hạ Châu đảm nhiệm Tây Hạ Tuyên Phủ”. La phu nhân không hiểu nói: “Chuyện này liên quan gì đến ngươi xin cáo lão về quê?”.

Trong mắt La Công Minh chợt lóe lên ánh khôn khéo nói: “Bố cục trong triều đình, sẽ phải lập tức biến đổi lớn. Khắc Địch bây giờ là Điện Tiền Ty Đô Chỉ Huy Sứ, rất nhanh sẽ bị miễn chức, đảm nhiệm Thiêm Thư Xu Mật Viện Sự. Đồng thời, đề bạt Vi Bá làm Điện Tiền Đô Chỉ Huy Phó Sứ, chọn ra Tiết Thịnh làm Thị Vệ Thân Quân Mã Quân Đô Chỉ Huy Phó Sứ, đề bạt Hoàng Đạo Nhạc làm Thị Vệ Thân Tự Bộ Quân Đô Chỉ Huy Phó Sứ, ba người này đều là tướng lãnh tự tay quan gia bồi dưỡng sau khi lên ngôi.

Trung Thư, Xu Mật, hai viện văn võ, đây chính là nơi nắm chỗ yếu hại của hai ban văn võ, con ta tuổi còn trẻ, đã thành chức Xu Mật Viện Sự, gần với Xu Mật Sứ Tào Bân, Xu Mật Phó Sứ Phan Mỹ, nàng nói đây có ý như thế nào? Nếu lão phu lại tiếp tục vẫn nán lại làm trong triều, nắm trong tay chức Tam Ty Sử, đó chính là cản tiền đồ của con trai ta, huống chi, cho dù ta không muốn bỏ vị trí, đó cũng là không được, nếu chính mình không biết điều, quan gia liền đuổi người”.

La phu nhân có chút hiểu ra: “Ngươi là nói... Quan gia muốn trọng dụng con ta, khống chế Xu Mật Viện, cho nên ngươi tất phải lui ra, không thể hai cha con một người nắm binh, một người nắm tiền?”.

La Công Minh không đáp, lại nói: “Nếu như chỉ là như vậy thì cũng thôi, tại sao ba ty Điện Tiền Ty, Thị Vệ Mã Quân Ty, Thị Vệ Bộ Quân Ty đồng thời đề bạt phó thủ chứ? Tống, Hạ nghị hòa, chiến sự Hoành Sơn dừng lại, Phan Mỹ thì phải trở về kinh, quan gia vào lúc này lại làm ra điều chỉnh đối với quan chức quân đội, dụng tâm của quan gia... Cao thâm khó lường a...

Mạch nước ngầm võ tướng bên kia mãnh liệt, văn thần bên này cũng là phi thường cổ quái. Kể từ khi con trai lớn Đức Chiêu bị ám sát bỏ mình, Thái Phó Tông Giới Châu lấy thân phận học sĩ vốn vinh quang nghỉ ở nhà, ít hỏi quốc sự, nhưng là ngày trước đột nhiên liên lạc với mấy vị danh sĩ thanh lưu của Ngự Sử Đài, Hàn Lâm Viện, hướng quan gia nói lên hoàng tử Đức Phương nhân hiếu vô song, tài đức vẹn toàn, nay đã trưởng thành, xin phong tước Vương.

Mà Nội Đình Đô Tổng Quản Cố Nhược Ly, thì ở trong cung thanh toán toàn bộ tâm phúc cũ của Vương Kế Ân, quan gia thì lén bọn quan viên phẩm trật tương đối cao ta âm thầm hỏi ý bãi bỏ thái tử, tỏ thái độ muốn lập thái tử khác, đủ chuyện như thế, sợ rằng rất nhanh trong triều sẽ rung chuyển bất an rồi, chỉ hơi chút vô ý là khó tránh khỏi gặp phải tai bay vạ gió. Lão phu đứng ở triều đình, cũng là vì một nhà La thị ta, hôm nay Khắc Địch đã thành đại khí (người có năng lực), bất kể nghĩ từ cái phương diện nào, lão phu cũng nên giã từ sự nghiệp khi đang trên đỉnh vinh quang mới tốt. Phu nhân từ từ nói chuyện, thiên hạ tương lai, đã không còn thuộc về lão già ta này nữa...”.

“Vậy ngươi sau này... Làm những chuyện gì?”.

La Công Minh khẽ mỉm cười: “Ngậm kẹo đùa cháu, mang theo phu nhân đạp thanh (chơi trong tiết Thanh Minh) chơi trò chơi, đi Thiên Kim Nhất Tiếu lâu hàn huyên tri kỷ, yên tĩnh hưởng tuổi già thôi”.

La phu nhân giật mình trong chốc lát rồi nói: “Nếu nói như thế, mặc dù thối lui, con của chúng ta cũng là tiền đồ tựa như gấm rồi?”.

Nàng vỗ hai tay vào nhau, như ở trong mộng mới tỉnh nói: “Con ta sẽ phải lập tức đến Xu Mật Viện nhậm chức rồi? Từ tướng lĩnh cầm binh một phương tới Xu Mật Viện, vượt qua chỗ mấu chốt này, thật đúng là tiền đồ thật xa rồi, ai nha, nhưng thế này sao tốt? Con ta đã là triều thần quan trọng như vậy, nhưng còn chưa có lấy vợ thành gia đó, truyền đi còn thể thống gì? Cũng may phụ nhân bán rượu kia đã đoạn tuyệt qua lại cùng con ta, ta phải nhanh chóng thu xếp cho Khắc Địch một mối hôn sự. Trong nhà mấy vị tướng gia Lô Đa Tốn, Trương Ký, Lữ Dư Khánh đều có cô nương khuê các đang lúc tuổi thanh xuân, ta phải đi tìm hiểu ý tứ của phu nhân bọn họ mới được...”.

La phu nhân hấp tấp muốn đi ra ngoài, La Công Minh giơ tay ngăn cản nói: “Làm càn, lời ta mới vừa nói, chẳng lẽ ngươi không nghe vào trong lòng phải không? Lúc này, chớ có động tác gì”.

Hắn lại như có điều suy nghĩ rồi cười cười, thâm trầm nói: “Đợi đến sau khi triều đình an ổn trở lại, người nào còn có thể phong quang thượng diện (nở mày nở mặt), hiện tại cũng chưa nói được đâu...”.

*

* *

“Giữa một nước cùng một nước, không tồn tại cái tình hữu nghị chân chính nào, cái vĩnh viễn chẳng qua là lợi ích thực tế. Ích lợi gần nhau, dĩ nhiên là là bằng hữu, ích lợi không cùng nhau, dĩ nhiên là địch nhân. Cái gì ở rất gần nhau, bạn bè hữu hảo, ngươi tin được cái loại lời nói nhảm sao? Nói như thế, chỉ có thầy đồ đọc sách u mê mới tin lời như thế, chỉ có những ngu phu xuẩn phụ không biết gì kia mới tin được. Dương Hạo ta không tin, chẳng lẽ Đại Vương lại tin sao?”.

Gia Luật Hưu Ca hừ lạnh một tiếng, không nói gì.

Dương Hạo cười dài nói: “Lúc này liền đi, cho nên, quý quốc căn bản không cần phải lo lắng tới lập trường của Hạ Quốc ta. Ta bây giờ có thể nói rõ ràng là, nếu như Tống Quốc không tiếc hết thảy tấn công Hạ Quốc ta, trợ giúp thực tế Liêu Quốc có thể cấp cho ta thực sự là vô cùng có hạn, các ngươi bây giờ không phải là không có lực cùng Tống đánh một trận, mà là một khi đánh lên trận chiến này, Tống Quốc tất nhiên không chiếm được cái tiện nghi gì, các ngươi cũng đồng dạng sẽ không đạt được cái ích lợi gì, cho nên Liêu Quốc quyết sẽ không thật sự đánh trận đánh này, ngươi nói phải không?”.

Gia Luật Hưu Ca lãnh đạm nói: “Không sai, chúng ta vì ngươi mà xuất binh, làm ra tư thế kìm chế binh lực Tống Quốc, này đã đủ rồi. Ngươi không ra giá đủ lớn để cho Liêu Quốc ta thật sự vì ngươi mà đánh một trận với Tống Quốc. Bất quá... Mặc dù chúng ta sẽ không thật sự tham chiến, nhưng là Tống Quốc cũng sẽ không thật sự được ăn cả ngã về không, đem tất cả binh lính, ngựa, lương thảo, đồ quân nhu để dành nhiều năm đều ném vào cái động không đáy Hà Tây này, nếu Tống Quốc không thể một đòn công phá thủ đô các ngươi, bọn họ cũng không còn cơ hội thứ hai rồi, chỉ cần Liêu Quốc chúng ta đứng ở chỗ này, đóng quân ở Đại Đồng, Tống Quốc muốn làm cái gì thì cũng phải nghĩ lại mà làm sau, bọn họ tuyệt sẽ không bại lộ hai sườn, tiếp tục dồn sức đánh điên cuồng tấn công đối với Hạ Quốc ngươi, tình cảnh trước mắt của Hạ Quốc, căn bản không có hung hiểm như ngươi nói như vậy, chẳng lẽ không đúng sao?”.

Dương Hạo thản nhiên nói: “Quả thật là thế, nhưng là ta lấy thân phận thần tử Tống Quốc mà tự lập xưng Đế, đây là điều Tống Quốc khó có thể thừa nhận. Chính như khi đó Khánh Vương điện hạ của quý quốc mưu phản, Thái hậu nương nương không tiếc bất cứ giá nào, làm cho đại quân vẫn đuổi theo đến dưới thành Ngân Châu, không chém được thủ cấp của hắn không ngừng giống nhau, Tống Quốc hôm nay cũng là cưỡi hổ khó xuống, không cần để ý xem bọn hắn làm trò khỉ gió gì hay có muốn đánh hay không, chỉ cần một ngày ta không xưng thần tiếp nhận đầu hàng, thì ngày đó chiến trận giữa hai bên sẽ không dừng lại.

Khi quý quốc đứng bên nhìn thèm thuồng, Tống Quốc sẽ không phát động chiến dịch lớn, nhưng gõ gõ luôn đánh là khó tránh khỏi, Hạ Quốc ta mới vừa thành lập, binh mã gồm nhiều bộ tộc phụ thuộc, chưa tới kịp để chỉnh hợp, lãnh thổ quốc gia mặc dù rộng mà nhân khẩu thưa thớt, cho dù là gõ gõ đánh cũng không chịu được hành hạ, Hà Tây liên tục đại chiến nhiều năm, hành hạ chư nghiệp nông lâm mục công thương đến mức đều không thể thịnh vượng.

Ở dưới tình hình như thế, nếu như Tống Quốc gây áp lực kéo dài đối với Hạ Quốc ta, Tống Quốc chịu được hao tổn nhưng Hạ Quốc ta không chịu nổi. Loại giằng co này hợp với lợi ích của Liêu Quốc, nhưng là tuyệt đối không phù hợp lợi ích của Hạ Quốc ta. Hạ Quốc ta hôm nay bị buộc cầu hòa, nên xuất ra cái suy nghĩ này. Cầu hòa là vì cầu sinh, Hạ Quốc vẫn là Hạ Quốc, Hạ Quốc quy thuận Tống Quốc, không giống với khi Hán Quốc quy thuận Liêu Quốc, cho nên, Liêu Quốc hoàn toàn không cần có cái lo lắng gì, hy vọng Đại Vương có thể đem tâm ý của ta nói rõ cho Thái hậu biết”.

Gia Luật Hưu Ca là Khiết Đan Bắc Viện Đại Vương, là anh hùng hán tử trên thảo nguyên, không phải là một kẻ vô lại ỷ thế hiếp người, Dương Hạo xé bỏ những thứ ngôn ngữ ngoại giao nhân nghĩa đạo đức luôn là giả mù sa mưa khi các quốc gia gặp gỡ kia, trực tiếp nói lên sự thật lợi ích, cũng chính là phù hợp với tác phong cầu sinh khắp nơi thiết thực của thế lực trên thảo nguyên, rất hợp khẩu vị của hắn.

Dương Hạo nói rất rõ ràng: ta muốn xưng Đế, Tống Quốc không giữ quy tắc đánh ta, mà Liêu Quốc ngươi ở trên quân sự không thể nào trực tiếp tham chiến, trên vật chất lại không có cách nào đền bù trợ giúp cho ta, không thể thỏa mãn nhu cầu của dân chúng cả quốc gia ta, cho nên, ta muốn hướng Tống Quốc cầu hòa. Hướng Tống cầu hòa là vì sinh tồn, không phải là trêu cảm tình của Liêu Quốc, lại không có lòng cùng Liêu Quốc đối nghịch, ngươi cũng không thể không để cho ta sống đi?

Lời ẩn giấu còn lại là: nếu như các ngươi có thể hiểu được nổi khổ tâm riêng của ta, chúng ta không tiện rõ ràng lui tới nhưng vẫn có thể âm thầm giữ vững quan hệ, về phần tương lai Tống Liêu giằng co, chúng ta có thể đứng ở phía ngươi, cũng có thể có thể khoanh tay đứng nhìn, hành động của các ngươi, thủy chung là từ trên lợi ích của Liêu Quốc, Hạ Quốc ta cũng như thế, ta không nợ tình ngươi, không cách nói phải xin lỗi gì. Nếu ngươi lại tiếp tục ép ta, đó chính là ép ta thật sự quăng về hướng Tống Quốc, đi con đường nào, ngươi xem rồi làm đi.

Dương Hạo không che không giấu, đem quan hệ chẳng qua là lợi dụng lẫn nhau của Liêu Hạ trắng trợn biểu đạt đi ra ngoài, Gia Luật Hưu Ca ngược lại không cách nào từ trên mặt đạo nghĩa lẫm nhiên mà tiến hành chỉ trích. Hắn nhắm mắt ngưng tâm dưỡng khí, rồi chậm rãi phun ra một ngụm trọc khí: “Chuyện này, Liêu Quốc ta nên phản ứng như thế nào, Hưu Ca không làm chủ được, ý của ngươi, ta sẽ bẩm tấu lên Thái hậu, tùy Thái hậu định đoạt”.

“Như thế rất tốt, Dương Hạo an tâm đợi tin lành”. Dương Hạo chắp tay, đứng dậy muốn đi, Gia Luật Hưu Ca chợt lóe tinh quang, bất ngờ nói: “Chậm đã”.

Dương Hạo dừng chân quay đầu lại, trong mắt Gia Luật Hưu Ca lóe ra quang mang kỳ quái, chợt cười một tiếng, duỗi tay nói: “Ngày trước khi ở Thượng Kinh, ta từng cùng bệ hạ tỷ thí quyền cước, đến nay ký ức hãy còn mới mẻ. Từ biệt mấy năm, các hạ đã thành bệ hạ, thế tập Hạ Châu, thu Ngọc Môn, võ công hiển hách, thiên hạ đều nghe thấy. Hôm nay mỗ cùng bệ hạ gặp lại, có chút ngứa nghề, không biết bệ hạ có thể có hứng thú cùng ta đấu một phen nữa hay không?”.

o O o

http://ne8.upanh.com/b1.s13.d2/4888305f3fa3e6a83ca395f0faae0d1b_37253488.chuong63 101.gif

Khi Gia Luật Hưu Ca kinh ngạc không thôi, vẻ mặt Dương Hạo đột nhiên ngưng lại, khom người nói: "Hưu Ca Đại vương trí tuệ giống như thảo nguyên bát ngát, lòng rọng rãi giống như trời cao mênh mông, ta tin tưởng lấy tình hữu nghị giữa hai nước ta, lấy lòng bao dung của Hưu Ca Đại Vương, cũng sẽ không nhắc lại chuyện không vui nho nhỏ này. Chuyện nhỏ này không đề cập tới cũng được, lần này ta tới hội kiến Hưu Ca Đại vương, chính thật ra là có một chuyện đại sự quan trọng hơn, muốn thông báo cho Đại Vương. Chuyện này, rất nhiều văn võ bá quan dưới trướng của ta còn không biết, nhưng là ta cảm thấy, tất phải nói trước cho Hưu Ca Đại vương, ta nói rồi, ta là hết sức quý trọng tình hữu nghị giữa hai nước ta."

"Chuyện gì?" Gia Luật Hưu Ca văn võ song toàn, chính là một danh tướng của Liêu Quốc, nhưng nếu bàn về loại tâm tư giải hoạt này, vẫn là kém xa Dương Hạo rồi, hắn hiện tại không chỉ là nhớ nhà, cho dù là vui giận cũng hoàn toàn bị Dương Hạo nắm đi.

Dương Hạo gằn từng chữ nói: "Hưu Ca Đại Vương, Hạ Quốc ta, đã quyết định lột bỏ Đế hiệu, hướng Tống Quốc xưng thần xin hàng."

Hai mắt Gia Luật Hưu Ca mở to ra, trong mắt nhất thời bạo xuất ra một ánh sáng sắc nhọn, hai tay giơ lên, như hổ vồ mồi, lạnh lùng nói: "Ngươi nói cái gì?"

Dương Hạo một tay cầm chén, một tay cầm bình rượu, giơ bình rượu lên cao, rót rượu vào chén, mỉm cười nói: "Một quyền hết sức, muốn đánh một quyền nữa, nên làm cái gì bây giờ? Tự nhiên là trước tiên phải đem quyền thu hồi lại mới được. Có đôi khi lui về phía sau, là vì để đi tới tốt hơn, Hưu Ca Đại Vương nghĩ có đúng không?" Gia Luật Hưu Ca nhất thời thu lại tức giận bạo nộ uy mãnh, chậm rãi ngồi xuống ở phía sau mấy cái bàn.

Dương Hạo đổ đầy một chén rượu, đặt bình rượu xuống, hai tay nâng chén, ôn văn tao nhã nói: "Thời gian thấm thoát, từ biệt đã mấy năm. Từ khi chia tay ở Thượng Kinh, nay mới được gặp lại, Hưu Ca Đại Vương, chúng ta uống cạn chén này. . ."

***

"Ta là một con cáo tu hành ngàn năm, ngàn năm tu hành ngàn năm cô độc, đêm khuya người yên tĩnh có thể có người nghe thấy ta đang khóc, qua ngọn đèn dầu rã rời có thể có người nhìn thấy ta khiêu vũ. Ta là một con cáo ngàn năm, ngàn năm đợi chờ ngàn năm cô độc, dòng hồng trần cuồn cuộn người nào lại gieo xuống độc tình, trong biển người mênh mông người nào uống phải độc yêu, ta yêu ngươi lúc ngươi đang nghèo rớt mồng tơi gian khổ học tập, rời khỏi ngươi lúc ngươi đang kim bảng đề danh động phòng hoa chúc... "

La Công Minh mặc một bộ áo ngoài cộc tay, bên trong là lông cáo, đang cầm một chén trà, ngồi ở trên ghế gập, nhắm hai mắt, hết sức say mê hừ hừ ca khúc học được từ "Thiên Kim Nhất Tiếu Lâu", một bộ râu dê dưới hàm vểnh lên vểnh xuống, tự nhiên tự đắc. La lão chính là fan của Tuyết Nhược San Tuyết Hành Thủ của Thiên Kim Nhất Tiếu Lâu, những khúc mục mà Tuyết cô nương biểu diễn, hắn đọc làu làu, bởi vì thường xuyên đi Thiên Kim Nhất Tiếu Lâu cổ vũ, cũng làm cho La phu nhân hớp không ít dấm chua. "Có thể vì ngươi nhảy một điệu may mắn hay không, ta là bạch hồ ngàn năm ngươi phóng sinh trăm năm trước. . . Ai ai ai, để nhất nhất buông tay nhất nhất... "

La lão đầu hát một câu ca khúc, thế nhưng lại còn có một chút hứng thú kêu to như vậy, khi đang hát đến mặt mày hớn hở, lỗ tai bỗng nhiên bị một bàn tay châu tròn ngọc sáng véo một cái, cái mông của hắn lập tức theo cái tay kia rời khỏi cái ghế, mắt còn chưa có mở ra, mặt đã bị nhéo thành bánh bao méo: "Ôi ơ, phu nhân từ từ nói chuyện, đây là vì cái gì vậy chứ?"

La phu nhân oán hận bỏ tay xuống, hai tay chống eo, tạo thành hình dáng bình trà, mắt hạnh trợn tròn, quát lên: "Ngươi lão già này, có chuyện mà không cùng ta thương lượng, chuyện khác đều tùy ngươi, nhưng chuyện lớn như vậy, ngươi cũng chẳng cho ta biết gì, ngươi nói ta là nên làm như thế nào? " .

" Ai, rốt cuộc là chuyện gì vậy? Phu nhân nhìn tai ta một cái đi, nói cũng không nói rõ, còn bảo lão phu thương lượng cùng phu nhân, thương lượng chuyện gì?"

La phu nhân nổi giận đùng đùng nói: "Ta hỏi ngươi, có phải ngươi dâng biểu thỉnh cầu cáo lão về quê rồi phải không?" La Công Minh vuốt chòm râu nói: "Đúng vậy, làm sao vậy? ".

"Tại sao muốn cáo lão về quê?"

La Công Minh chậm rãi ung dung nói: "Cáo lão về quê, đương nhiên là bởi vì già rồi. Hiện tại đã lớn tuổi, đi đứng không tiện, đầu óc không đủ dùng, đi một bước phải lấy hơi, có trận gió thổi trúng cũng ngã, không thể ra sức vì triều đình nữa, còn không lui xuống, chẳng lẽ chờ người ta đuổi sao?"

La phu nhân cười lạnh: "Nghe lời ngươi nói, là sắp xuống mồ đúng không? Hóa ra còn dư lại một hơi mà kéo dài hơi tàn rồi? Buổi tối hôm qua cũng không biết là lão già nào có thể lăn qua lăn lại nhiều như vậy, được, ngươi già rồi đi không được sao? Bích Thiềm, Thải Phượng, căn dặn xuống, đem toàn bộ mấy ái thiếp kia của lão gia đuổi tới Tây Khóa Viện đi, không có lời của ta, ai cũng không thể hầu hạ lão gia. Còn nữa, phân phó quản gia, sau này khi lão gia ra cửa, trước tiên phải được bản phu nhân gật đầu mới được, lão gia yếu đuối như vậy, Thiên Kim Nhất Tiếu Lâu khẳng định là không đi được rồi, cũng nên bỏ chỗ ngồi đặc biệt Tuyết cô nương cho lão gia chúng ta đi thôi. . ."

Hai tiểu nha hoàn nín cười đứng ở cười đáp ứng, xoay người muốn chạy ra bên ngoài, La Công Minh vừa nghe vậy liền giống bị bò cạp cắn như vậy, vội vàng nhảy dựng lên nói: "Cạch ai ai, đừng đi. Các ngươi cũng đi ra ngoài đi, nhìn cái gì, cười cái gì, cẩn thận lão gia cắt đứt chân của các ngươi. "

" Người bên cạnh ta, muốn giáo huấn cũng phải qua ta, ai dám giáo huấn các nàng?"

"Đi đi đi đi, hai tiểu nha đầu không có quy củ, lão phu cùng phu nhân nói chuyện, còn không lui xuống đi?" Đuổi Bích Thiềm cùng Thải Phượng đi, La Công Minh vội vàng lôi kéo tay phu nhân, nước miếng tung bay nói: "Được rồi được rồi, phu nhân chớ tức giận, cái này đúng là vi phu có lỗi. Nàng muốn biết, vi phu nói cho nàng biết đi."

La phu nhân dùng cái mông đẩy một cái, đem hắn đẩy bắn ra, hầm hừ ngồi lên trên ghế của hắn, nghiêm mặt nói: "Bây giờ nói đi, nếu có một câu không thật, hừ!"

La Công Minh cười đầy mặt tiến tới sau lưng phu nhân, vừa đấm bóp bả vai cho nàng, vừa nói: "Phu nhân từ từ nói chuyện, ta đây còn không phải là vì Khắc Địch sao."

"Vì con ta? Chức Tam Ty Sử này, mỗi tháng được lượng lớn bổng lộc, ngươi không làm thần tài cho tốt, còn nói cái gì già còn cái gì hồi hương, còn nói là vì con ta? Điều này liên quan gì tới con ta?

La Công Minh ngẩng đầu nhìn lên, cửa đã không còn người, lúc này mới hạ giọng nói: "Phu nhân, chuyện trong triều, nàng đâu biết được nhiều như vậy. Quan gia lên ngôi đã hơn hai năm, thường nghe nói vua nào triều thần nấy, nhưng là từ khi quan gia lên ngôi tới nay, tuân theo quy chế tiên đế, cơ hồ không có làm ra thay đổi gì, ta thấy rằng, hiện tại hắn đã động tâm tư rồi."

La phu nhân bỉu môi nói: "Hắn động mặc hắn, ngươi để ý chuyện gì? La Công Minh ngươi được gọi là "Quan Trường Bất Đảo Ông", cây thông không già của chính đàn, rồi lại nói bình thường có chuyện gì ngươi chưa bao giờ nhúng vào, quan gia muốn động tới người nào, cũng sẽ không động tới ngươi."

"Phu nhân đây là chỉ biết một mà không biết hai."

La Công Minh đổi quả đấm thành nhón, rất thành thạo niết bả vai cho phu nhân, thấp giọng nói: "Hà Bắc Đạo Quan Sát Sử Vương Kế Ân bị bắt trở về kinh, nói loạn Lân Phủ là mánh lới do hắn mưu lập chiến công, cấu kết Xích Trung làm ra, vừa mới trở về kinh, đã ở xử trảm ở Ngọ Môn. Ngay sau đó triều đình liền cùng Hạ Quốc nghị hòa, Hạ Quốc bỏ đi Đế hiệu, tiếp nhận chức Tây Hạ Vương nước Tây Hạ mà triều đình phong cho. Ngưu Thiên Vệ Thượng tướng quân Chiết Ngự Huân dâng biểu từ chối quan gia một lần nữa phong hắn làm Tri Phủ Phủ Châu, giữ lại chức Đức Quân Tiết Độ Sứ, bởi vì hắn quen thuộc tình hình Hà Tây, cho nên được triều đình bổ nhiệm làm Hà Tây Tuyên Phủ Sử, sẽ phải lập tức đi nhậm chức, tới Hạ Châu đảm nhiệm Tây Hạ Tuyên Phủ ." La phu nhân không hiểu nói: "Chuyện này liên quan gì đến ngươi xin cáo lão về quê ?"

Trong mắt La Công Minh chợt lóe lên ánh khôn khéo, nói: "Bố cục trong triều đình, sẽ phải lập tức biến đổi lớn. Khắc Địch bây giờ là Điện Tiền Ty Đô Chỉ Huy Sứ, rất nhanh sẽ bị miễn chức, đảm nhiệm Thiêm Thư Xu Mật Viện Sự. Đồng thời, đề bạt Vi Bá làm Điện Tiền Đô Chỉ Huy Phó Sứ , chọn ra Tiết Thịnh làm Thị Vệ Thân Quân Mã Quân Đô Chỉ Huy Phó Sứ, đề bạt Hoàng Đạo Nhạc làm Thị Vệ Thân Tự Bộ Quân Đô Chỉ Huy Phó Sứ , ba người này đều là tướng lãnh tự tay quan gia bồi dưỡng sau khi lên ngôi.

Trung Thư, Xu Mật, hai viện văn võ, đây chính là nơi nắm chỗ yếu hại của hai ban văn võ, con ta tuổi còn trẻ, đã thành chức Xu Mật Viện Sự, gần với Xu Mật Sứ Tào Bân, Xu Mật Phó Sứ Phan Mỹ, nàng nói đây có ý như thế nào? Nếu lão phu lại tiếp tục vẫn nán lại làm trong triều, nắm trong tay chức Tam Ty Sử, đó chính là cản tiền đồ của con

trai ta, huống chi, cho dù ta không muốn bỏ vị trí, đó cũng là không được, nếu chính mình không biết điều, quan gia liền đuổi người."

La phu nhân có chút hiểu ra: "Ngươi là nói. . . Quan gia muốn trọng dụng con ta, khống chế Xu Mật Viện, cho nên ngươi tất phải lui ra, không thể hai cha con một người nắm binh, một người nắm tiền?"

La Công Minh không đáp, lại nói: "Nếu như chỉ là như vậy thì cũng thôi, tại sao ba ty Điện Tiền Ty, Thị Vệ Mã Quân Ty, Thị Vệ Bộ Quân Ty đồng thời đề bạt phó thủ chứ? Tống Hạ nghị hòa, chiến sự Hoành Sơn dừng lại, Phan Mỹ thì phải trở về kinh, quan gia vào lúc này lại làm ra điều chỉnh đối với quan chức quân đội, dụng tâm của quan gia. . . Cao thâm khó lường a...

Mạch nước ngầm võ tướng bên kia mãnh liệt, văn thần bên này cũng là phi thường cổ quái. Kể từ khi con trai lớn Đức Chiêu bị ám sát bỏ mình, Thái Phó Tông Giới Châu lấy thân phận học sĩ vốn vinh quang nghỉ ở nhà, ít hỏi quốc sự, nhưng là ngày trước đột nhiên liên lạc với mấy vị danh sĩ thanh lưu của Ngự Sử Đài, Hàn Lâm Viện, hướng quan gia nói lên hoàng tử Đức Phương nhân hiếu vô song, tài đức vẹn toàn, nay đã trưởng thành, xin phong tước Vương.

Mà Nội Đình Đô Tổng Quản Cố Nhược Li, thì ở trong cung thanh toán toàn bộ tâm phúc cũ của Vương Kế Ân, quan gia thì lén bọn quan viên phẩm trật tương đối cao ta âm thầm hỏi ý bãi bỏ thái tử, tỏ thái độ muốn lập thái tử khác, đủ chuyện như thế, sợ rằng rất nhanh trong triều sẽ rung chuyển bất an rồi, chỉ hơi chút vô ý là khó tránh khỏi gặp phải tai bay vạ gió. Lão phu đứng ở triều đình, cũng là vì một nhà La thị ta, hôm nay Khắc Địch đã thành đại khí(người có năng lực), bất kể nghĩ từ cái phương diện nào, lão phu cũng nên giã từ sự nghiệp khi đang trên đỉnh vinh quang mới tốt. Phu nhân từ từ nói chuyện, thiên hạ tương lai, đã không còn thuộc về lão già ta này nữa. . . "

"Vậy ngươi sau này. . . Làm những chuyện gì?"

La Công Minh khẽ mỉm cười: "Ngậm kẹo đùa cháu, mang theo phu nhân đạp thanh (chơi trong tiết Thanh Minh)chơi trò chơi, đi Thiên Kim Nhất Tiếu Lâu hàn huyên tri kỷ, yên tĩnh hưởng tuổi già thôi."

La phu nhân giật mình trong chốc lát rồi nói: "Nếu nói như thế, mặc dù thối lui, con của chúng ta cũng là tiền đồ tựa như gấm rồi?"

Nàng vỗ hai tay vào nhau, như ở trong mộng mới tỉnh nói: "Con ta sẽ phải lập tức đến Xu Mật Viện nhậm chức rồi? Từ tướng lĩnh cầm binh một phương tới Xu Mật Viện, vượt qua chỗ mấu chốt này, thật đúng là tiền đồ thật xa rồi, ai nha, nhưng thế này sao tốt? Con ta đã là triều thần quan trọng như vậy, nhưng còn chưa có lấy vợ thành gia đó, truyền đi còn thể thống gì? Cũng may phụ nhân bán rượu kia đã đoạn tuyệt qua lại cùng con ta, ta phải nhanh chóng thu xếp cho Khắc Địch một mối hôn sự. Trong nhà mấy vị tướng gia Lô Đa Tốn, Trương Ký, Lữ Dư Khánh đều có cô nương khuê các đang lúc tuổi thanh xuân, ta phải đi tìm hiểu ý tứ của phu nhân bọn họ mới được . . ."

La phu nhân hấp tấp muốn đi ra ngoài, La Công Minh giơ tay ngăn cản , nói: "Làm càn, lời ta mới vừa nói, chẳng lẽ ngươi không nghe vào trong lòng phải không? Lúc này, chớ có động tác gì."

Hắn lại như có điều suy nghĩ rồi cười cười, thâm trầm nói: "Đợi đến sau khi triều đình an ổn trở lại, người nào còn có thể phong quang thượng diện (nở mày nở mặt), hiện tại cũng chưa nói được đâu. . ."

***

"Giữa một nước cùng một nước, không tồn tại cái tình hữu nghị chân chính nào, cái vĩnh viễn chẳng qua là lợi ích thực tế. Ích lợi gần nhau, dĩ nhiên là là bằng hữu, ích lợi không cùng nhau, dĩ nhiên là địch nhân. Cái gì ở rất gần nhau, bạn bè hữu hảo, ngươi tin được cái loại lời nói nhảm sao? Nói như thế, chỉ có thầy đồ đọc sách u mê mới tin lời như thế, chỉ có những ngu phu xuẩn phụ không biết gì kia mới tin được. Dương Hạo ta không tin, chẳng lẽ Đại Vương lại tin sao?"

Gia Luật Hưu Ca hừ lạnh một tiếng, không nói gì.

Dương Khiết cười dài nói: "Lúc này liền đi, cho nên, quý quốc căn bản không cần phải lo lắng tới lập trường của Hạ Quốc ta. Ta bây giờ có thể nói rõ ràng là, nếu như Tống Quốc không tiếc hết thảy tấn công Hạ Quốc ta, trợ giúp thực tế Liêu Quốc có thể cấp cho ta thực sự là vô cùng có hạn, các ngươi bây giờ không phải là không có lực cùng Tống đánh một trận, mà là một khi đánh lên trận chiến này, Tống Quốc tất nhiên không chiếm được cái tiện nghi gì, các ngươi cũng đồng dạng sẽ không đạt được cái ích lợi gì, cho nên Liêu Quốc quyết sẽ không thậtsự đánh trận đánh này, ngươi nói phải không?"

Gia Luật Hưu Ca lãnh đạm nói: "Không sai, chúng ta vì ngươi mà xuất binh, làm ra tư thế kiềm chế binh lực Tống Quốc, này đã đủ rồi. Ngươi không ra giá đủ lớn để cho Liêu Quốc ta thật sự vì ngươi mà đánh một trận với Tống . Bất quá. . . , mặc dù chúng ta sẽ không thật sự tham chiến, nhưng là Tống Quốc cũng sẽ không thật sự được ăn cả ngã về không, đem tất cả binh lính, ngựa, lương thảo, đồ quân nhu để dành nhiều năm đều ném vào cái động không đáy Hà Tây này, nếu Tống Quốc không thể một đòn công phá thủ đô các ngươi, bọn họ cũng không còn cơ hội thứ hai rồi, chỉ cần Liêu Quốc chúng ta đứng ở chỗ này, đóng quân ở Đại Đồng, Tống Quốc muốn làm cái gì thì cũng phải nghĩ lại mà làm sau, bọn họ tuyệt sẽ không bại lộ hai sườn, tiếp tục dồn sức đánh điên cuồng tấn công đối với Hạ Quốc ngươi, tình cảnh trước mắt của Hạ Quốc, căn bản không có hung hiểm như ngươi nói như vậy, chẳng lẽ không đúng sao?"

Dương Hạo thản nhiên nói: "Quả thật là thế, nhưng là ta lấy thân phận thần tử Tống Quốc mà tự lập xưng Đế, đây là điều Tống Quốc khó có thể thừa nhận. Chính như khi đó Khánh Vương điện hạ của quý quốc mưu phản, Thái hậu nương nương không tiếc bất cứ giá nào, làm cho đại quân vẫn đuổi theo đến dưới thành Ngân Châu, không chém được thủ cấp của hắn không ngừng giống nhau, Tống Quốc hôm nay cũng là cỡi hổ khó xuống, không cần để ý xem bọn hắn làm trò khỉ gió gì hay có muốn đánh hay không, chỉ cần một ngày ta không xưng thần tiếp nhận đầu hàng, thì ngày đó chiến trận giữa hai bên sẽ không dừng lại.

Khi quý quốc dứng bên nhìn thèm thuồng, Tống Quốc sẽ không phát động chiến dịch lớn, nhưng gõ gõ luôn đánh là khó tránh khỏi, Hạ Quốc ta mới vừa thành lập, binh mã gồm nhiều bộ tộc phụ thuộc, chưa tới kịp để chỉnh hợp; lãnh thổ quốc gia mặc dù rộng mà nhân khẩu thưa thớt, cho dù là gõ gõ đánh cũng không chịu được hành hạ; Hà Tây liên tục đại chiến nhiều năm, hành hạ chư nghiệp nông lâm mục công thương đến mức đều không thể thịnh vượng.

Ở dưới tình hình như thế, nếu như Tống Quốc gây áp lực kéo dài đối với Hạ Quốc ta, Tống Quốc chịu được hao tổn nhưng Hạ Quốc ta không chịu nổi. Loại giằng co này hợp với lợi ích của Liêu Quốc, nhưng là tuyệt đối không phù hợp lợi ích của Hạ Quốc ta. Hạ Quốc ta hôm nay bị buộc cầu hoà, nên xuất ra cái suy nghĩ này. Cầu hoà là vì cầu sinh, Hạ Quốc vẫn là Hạ Quốc, Hạ Quốc quy thuận Tống Quốc, không giống với khi Hán Quốc quy thuận Liêu Quốc, cho nên, Liêu Quốc hoàn toàn không cần có cái lo lắng gì, hi vọng Đại Vương có thể đem tâm ý của ta nói rõ cho Thái hậu biết."

Gia Luật Hưu Ca là Khiết Đan Bắc Viện Đại Vương, là anh hùng hán tử trên thảo nguyên, không phải là một kẻ vô lại ỷ thế hiếp người, Dương Hạo xé bỏ những thứ ngôn ngữ ngoại giao nhân nghĩa đạo đức luôn là giả mù sa mưa khi các quốc gia gặp gỡ kia, trực tiếp nói lên sự thật lợi ích, cũng chính là phù hợp với tác phong cầu sinh khắp nơi thiết thực của thế lực trên thảo nguyên, rất hợp khẩu vị của hắn.

Dương Hạo nói rất rõ ràng: ta muốn xưng Đế, Tống Quốc không giữ quy tắc đánh ta, mà Liêu Quốc ngươi ở trên quân sự không thể nào trực tiếp tham chiến; trên vật chất lại không có cách nào đền bù trợ giúp cho ta, không thể thỏa mãn nhu cầu của dân chúng cả quốc gia ta, cho nên, ta muốn hướng Tống Quốc cầu hoà. Hướng Tống cầu hoà là vì sinh tồn, không phải là trêu cảm tình của Liêu Quốc, lại không có lòng cùng Liêu Quốc đối nghịch, ngươi cũng không thể không để cho ta sống đi?

Lời ẩn dấu còn lại là: nếu như các ngươi có thể hiểu được nổi khổ tâm riêng của ta, chúng ta không tiện rõ ràng lui tới nhưng vẫn có thể âm thầm giữ vững quan hệ, về phần tương lai Tống Liêu giằng co, chúng ta có thể đứng ở phía ngươi, cũng có thể có thể khoanh tay đứng nhìn, hành động của các ngươi, thủy chung là từ trên lợi ích của Liêu Quốc, Hạ Quốc ta cũng như thế, ta không nợ tình ngươi, không cách nói phải xin lỗi gì. Nếu ngươi lại tiếp tục ép ta, đó chính là ép ta thật sự quăng về hướng Tống Quốc, đi con đường nào, ngươi xem rồi làm đi.

Dương Hạo không che không giấu, đem quan hệ chẳng qua là lợi dụng lẫn nhau của Liêu Hạ trắng trợn biểu đạt đi ra ngoài, Gia Luật Hưu Ca ngược lại không cách nào từ trên mặt đạo nghĩa lẫm nhiên mà tiến hành chỉ trích liễu. Hắn nhắm mắt ngưng tâm dưỡng khí, rồi chậm rãi phun ra một ngụm trọc khí: "Chuyện này, Liêu Quốc ta nên phản ứng như thế nào, Hưu Ca không làm chủ được, ý của ngươi, ta sẽ bẩm tấu lên Thái hậu, tùy Thái hậu định đoạt. "

"Như thế rất tốt, Dương Hạo an tâm đợi tin lành." Dương Hạo chắp tay, đứng dậy muốn đi, Gia Luật Hưu Ca chợt lóe tinh quang , bất ngờ nói: "Chậm đã."

Dương Hạo dừng chân quay đầu lại, trong mắt Gia Luật Hưu Ca lóe ra quang mang kỳ quái, chợt cười một tiếng, duỗi tay nói: "Ngày trước khi ở Thượng Kinh, ta từng cùng bệ hạ tỷ thí quyền cước, đến nay ký ức hãy còn mới mẻ. Từ biệt mấy năm, các hạ đã thành bệ hạ, thế tập Hạ Châu, thu Ngọc Môn, võ công hiển hách, thiên hạ đều nghe thấy. Hôm nay mỗ cùng bệ hạ gặp lại, có chút ngứa nghề, không biết bệ hạ có thể có hứng thú cùng ta đấu một phen nữa hay không?"

-----oo0oo-----

: Tây Hạ Vương

 Chương 64: Mới Bắt Đầu 

Mặc Thuỷ Ngân đứng ở ngoài đại trướng, một bộ dáng sầu khổ.

Hắn bị đuổi ra ngoài, trong trướng chỉ còn lại có Dương Hạo cùng Gia Luật Hưu Ca, hai người kia một người là hoàng đế khai quốc Hạ Quốc, một người là Liêu Quốc Bắc Viện Đại Vương, đều là đại nhân vật dậm chân một cái, núi sông chấn động, bọn họ muốn Mặc Thủy Ngân đi ra ngoài, Mặc Thuỷ Ngân sao có thể nào không tuân theo?

Nhưng là, hắn thật sự rất lo lắng. Hắn do Thái Hậu phái tới để giải quyết tranh cãi giữa hai nước, chức quan của hắn không cao, sở dĩ phái hắn, chỉ là bởi vì Thái Hậu cảm thấy cần cho Dương Hạo một chút dị sắc, không muốn phái một đại thần quyền cao chức trọng cho hắn kiêu ngạo, nhưng cái này cũng không đại biểu lúc hắn đi sứ không gặp Thái Hậu, nghe ý kiến của Thái Hậu.

Thái Hậu không muốn cùng Hạ Quốc thật sự lật mặt, tuyệt đối không muốn. Hai quốc gia cùng hai hàng xóm là khác nhau, nếu như hai hàng xóm mắng tới lật trời, vậy nhất định hai nhà sẽ kết thù, nhưng là hai quốc gia cho dù mắng đến không thể dàn xếp nhưng chưa hẳn không thể thân như huynh đệ. Giữa binh lính trạm canh gác của hai quốc gia đánh qua lại, nổi lên chút ít xung đột, cũng không phải là cái đại sự quá lớn, chỉ cần nhân vạt quyền quý hai nước đạt thành hòa giải, cái dạng xung đột gì cũng sẽ tan thành mây khói. Song, cái này cũng không bao gồm nhân vật cấp bậc như Dương Hạo cùng Gia Luật Hưu Ca ra tay đánh mạnh.

Nếu như, Gia Luật Đại Vương thua ở trong tay Dương Hạo thì nên làm cái gì bây giờ? Gia Luật Đại Vương cầm binh quyền trong tay, lại là Đại Dịch Ẩn của Liêu Quốc, bất kể là ở trong quân giới hay là trong hoàng thất đều có uy vọng lớn, nếu như hắn ăn phải thiệt thòi, giận dữ xuất binh, Thái Hậu cũng là ngoài tầm tay với.

Nếu như Dương Hạo bị Gia Luật Đại Vương đánh bại thì như thế nào? Đây chính là hoàng đế Hạ Quốc, đánh hoàng đế Hạ Quốc, cả Hạ Quốc cũng phải hơi bị hổ thẹn. Hạ Quốc mới lập nước, thực lực của một nước không bằng Tống Liêu, cái này không giả, nhưng là nước bần nghèo cùng với có cốt khí hay không là hai việc khác nhau, thực lực của một nước Tống Quốc hôm nay thịnh vượng, ngay cả Liêu Quốc cũng không dám coi thường mũi nhọn kia, nhưng là Dương Hạo hắn lại dám ngang nhiên tự lập, hơn nữa ở Hắc Xà Lĩnh ăn hết tám vạn tinh binh quân Tống, đánh cho quân Tống chạy về phía Đông Hoành Sơn.

Liêu Quốc cường đại không dưới Tống Quốc, lần này xuất binh có chỗ tốt đối với Hạ Quốc lại càng không thể nói rõ, nhưng là Dương Hạo dám ở dưới tình huống quân Tống đã lui lại cùng quân Liêu tái khởi xung đột, một hoàng đế cường thế như vậy, một khi ăn phải thiệt thòi, hắn sẽ có thiện ý sao? Đến lúc đó, bản thân hắn một sứ thần không có chút hành động nào, Thái Hậu há có thể dễ dàng tha cho hắn? Nếu như khi đó muốn tình hình trở lại bình thường, bắt một người đi ra chịu tội thay đó là chuyện hết sức bình thường. . .

Ánh mắt Mặc Thuỷ Ngân chuyển hướng lò lừa ở một bên đại trướng, thế lửa ở trong lò lửa đang vượng, trên lò là một nồi to, một khối thịt dê lớn ở nổi lồng bồng lăn lộn trong nước canh, mùi thơm xông vào mũi. Một canh giờ trước, thịt trong nồi vẫn là một con cừu nhỏ bé đáng yêu đó, nhìn con cừu đang tan dần ra kia, ánh mắt Mặc đại nhân đã từ từ ươn ướt. . .

Mấy viên tướng lãnh Liêu Quốc cũng đứng ở ngoài trướng, bọn họ hoàn toàn không biết chuyện phát sinh trong trướng, ngay cả người mà Mặc đại nhân mang trong quân doanh Hạ Quốc mang đến là ai, bọn họ cũng không biết, bọn họ rất kỳ quái là không ngờ Gia Luật Đại Vương lại coi trọng đối với người này như vậy, hơn nữa còn an tâm như thế, lại một mình cùng hắn ở lại trong trướng, tuy nói bọn họ tuyệt đối tin tưởng đối với võ công của Gia Luật Đại Vương, nhưng là thích khách cũng không nhất định sẽ cùng người giao thủ chính diện.

Người Dương Hạo mang đến chẳng qua là đứng thẳng tắp ở đàng kia, bọn họ là Ám Ảnh Vệ, bọn họ là người thân cận nhất bên cạnh Dương Hạo, bọn họ giống như cái bóng giống nhau, bóng là sẽ không nói chuyện, bóng cũng không cần có tư tưởng, bọn họ chỉ chú ý nghe lệnh làm việc. Dương Hạo kêu bọn hắn chờ ở chỗ này, bọn họ sẽ chờ ở đây , tại trước khi có một mệnh lệnh mới được phân phó đi làm, bọn họ chỉ để ý toàn lực ứng phó làm tốt chuyện trước mắt. Mà trước mắt, tựa hồ cũng không có chuyện gì là cần bọn họ toàn lực ứng phó. Cho nên, nhìn ở trong mắt Mặc Thuỷ Ngân cùng đông đảo Liêu quân, những thị vệ Hạ Quốc này cũng có chút cao thâm khó lường .

"Hắc! " " Hmm! " " Rầm! " " Phanh!"

Trong trướng truyền ra một trận tiếng hô quát cùng thanh âm đánh nát, thanh âm vật thể trầm trọng rơi xuống đất, mấy tên thị vệ Liêu Quốc lập tức hướng Mặc Thuỷ Ngân nhìn lại, khóe mắt Mặc Thuỷ Ngân vừa nhảy, nhưng cố gắng an định nói: "Đại Vương cùng sứ giả Hạ Quốc gặp nhau rất vui, đang chơi đoán số uống rượu, hành lệnh mua vui, không được ra lệnh, chớ xông vào."

"A. . ." Chúng Liêu quân mờ mịt gật đầu, nghe thấy thanh âm hô quát chấn động trong chấn càng lúc càng lớn, một giọt mồ hôi theo khóe mắt Mặc Thủy Ngân lặng lẽ nhỏ xuống, hắn mở trừng hai mắt, khẩn trương đến thậm chí không có lau đi mồ hôi.

"Oanh" một tiếng, cả đại trướng đung đưa một cái, ngay sau đó lại "Ba ba" một tiếng, phía bên phải lều vải lại bị đụng vỡ ra một đường khe hở nhỏ, Gia Luật Hưu Ca cũng bay ra ngoài, liên tiếp lui ba bước mới đứng vững được gót chân."Đại Vương !" Mấy tướng lãnh Liêu Quốc vội vàng nghênh đón.

"Không sao, không sao, đều lùi lại, không được ta phân phó, không cho phép đi vào." Gia Luật Hưu Ca dứt lời hai tay vạch lều vải ra, một đầu vừa chui vào, nhưng ngay sau đó, trong trướng lại nổi lên thanh âm "Hắc Hmm Phanh Oanh", Mặc Thuỷ Ngân nghe thấy cả mặt cũng xanh rồi, cũng không biết có phải là bị lạnh hay không.

"Hô" một tiếng, chỗ lều mới vừa bị đụng rách lại bắn ra một người, người nọ ngửa mặt bay ra, khéo léo gập lại eo giữa không trung, vươn thân thành hình tròn, sau khi hạ xuống hướng phía trước lăn một vòng, như viên cầu lăn ba vòng đột nhiên vươn người đứng dậy, ngay sau đó như một con cá nảy bắn lên trở về trong trướng, từ khi bắn ra cùng trở về, cả động tác đều làm liền một mạch, bất quá vẫn bị đám tướng lãnh Liêu Quốc kia thấy rõ ..

"Mặc đại nhân, Đại Vương tựa hồ. . . Không phải là đang thi hành lệnh đi?" Mấy tướng lĩnh Liêu quân hồ nghi nhìn về phía Mặc Thuỷ Ngân, Mặc Thuỷ Ngân nuốt nước bọt, cười khan nói: "Cái này. . . Quân nhân uống rượu hành lệnh, dĩ nhiên phải khác văn nhân, Đại Vương hiện tại đang làm, đại khái là tửu lệnh Hạ Quốc. . ."

Tiếng hô quát trong trướng càng ngày càng gấp, lại qua hồi lâu, chỉ nghe hai tiếng "bang bang" do vật thể nặng rơi xuống đất, nhưng ngay sau đó liền không còn có nửa điểm thanh âm. Mặc Thủy Ngân khẩn trương lên, vội vàng kêu: "Đại Vương?"

Trong trướng không ai lên tiếng, Mặc Thuỷ Ngân càng thêm khẩn trương, lại gọi mấy tiếng, vẫn không thấy trả lời, Mặc Thủy Ngân không khỏi nóng lòng, hắn đi tới trước hai bước, đang muốn xông vào trướng thì mành trướng đột nhiên bị vén lên, Dương Hạo thản nhiên từ bên trong đi ra, gương mặt tròn rất anh tuấn, đỏ bừng, chẳng qua là con mắt trái một mảnh xanh đen, từ mặt bên nhìn lại có chút giống gấu mèo.

Mực Thủy Ngân cả kinh nói: "Bệ... Đại nhân, Đại Vương nhà chúng ta đâu?

Dương Hạo mỉm cười nói: "A, Mặc đại nhân, ta cùng Hưu Ca Đại Vương nói chuyện vô cùng tốt, vô cùng vui vẻ, được khoản đãi vô cùng cảm kích. Có điều công vụ bề bộn, ta. . . cần trở về." Mặc Thuỷ Ngân đâu chịu để cho hắn như vậy đi, vội vàng đoạt trước một bước, vòng quau hắn "xoạt" một tiếng vén mành trướng lên, chỉ thấy Gia Luật Hưu Ca ngồi ở trên mặt thàm màu đỏ tươi, trước mặt là bàn nhỏ chổng vó, rượu thịt rơi vãi đầy mặt đất, Gia Luật Hưu Ca một tay chống nạnh, đang cầm một cái khăn tựa hồ nhuộm hoa mai nhẹ nhàng lau khóe miệng, thấy lều vải được vén lên, Gia Luật Hưu Ca hữu khí vô lực giơ giơ tay lên, Mặc Thuỷ Ngân hiểu ý, vội vàng hướng về sau đánh ra thủ thế, các tướng lĩnh đang dựng ngăn hai bên lối đi của Dương Hạo lập tức thu lại, tùy ý cho Dương Hạo dẫn mấy thị vệ nghênh ngang rời đi.

"Đại Vương ngài sao rồi? "

"Khụ, bản vương không có chuyện gì, bản vương phải lập tức về Đại Đồng, Mặc đại nhân cùng bản vương đồng hành sao."

"A? Dạ dạ dạ. . ."

Gia Luật Hưu Ca liếc hắn một cái, đột nhiên hình như nhớ ra cái gì đó, dùng một loại thanh âm rất thấp, rất từ tính, rất căng thẳng lại vô cùng kỳ quái nói: "Măc đại nhân là một quan văn, giục ngựa qua cánh đồng tuyết, sợ là không dễ dàng, chuẩn bị hai tướng đánh xe sao, bản vương cùng Mực đại nhân ngồi xe trở về."(bị nó oánh cho đau hết cả người không cưỡi nổi ngựa rồi đành giả bộ tử tế^^)

***

Tin tức Tống Hạ nghị hòa, Hạ Quốc hướng Tống xưng thần, Dương Hạo được phong Tây Hạ Vương truyền ra, Gia Luật Hưu Ca liền từ Đại Đồng triệt binh, lần Tống Hạ tranh giành này, Liêu Quốc từ đầu đến cuối chưa từng cóthan dự vào sâu, mà diễn biến tình hình dĩ nhiên cũng không để cho Liêu Quốc nhận được một chút chỗ tốt. Bất quá từ Gia Luật Hưu Ca trở xuống, các tướng lĩnh Liêu Quốc cũng không có quá nhiều phản ứng, này cũng do Dương Hạo từ khi lập nước cũng chưa có cùng Liêu Quốc đi lại quá gần, cũng không hướng Liêu Quốc mưu cầu sự ủng hộ lớn lao.

Nếu như ban đầu Dương Hạo hướng Liêu Quốc hứa điều kiện đủ để hấp dẫn bọn họ xuất binh, thỉnh Liêu Quốc trực tiếp xuất binh can thiệp, như vậy hắn hiện tại liền tuyệt đối không thể hợp tình hợp lý dứt bỏ Liêu Quốc hướng Tống Quốc xưng thần nghị hòa, sau khi chuyện thành công, tất nhiên cũng phải hứng lấy lửa giận vô tậ của Liêu Quốc. Dĩ nhiên, Dương Hạo không chịu cùng Liêu Quốc đi lại gần hơn, lý do cũng tuyệt không chỉ là để tiện cho hắn cùng Tống nghị hòa vào lúc thích hợp, chỉ bất quá những kế hoạch kia quá sâu xa, hiện tại ngoại trừ chính hắn, còn chưa có một người có thể thấy hiểu được.

Sau khi Gia Luật Hưu Ca cùng Mặc Thủy Ngân trở về Thượng Kinh, lập tức được Tiêu thái hậu tiếp kiến, sau khi nghe nói Dương Hạo bỏ đi Đế hiệu, cùng Tống nghị hòa, Tiêu thái hậu cũng không có tỏ vẻ gì. Là một người thông minh cơ trí, là người thống trị ngày càng già dặn, khi nghe lý do của Dương Hạo thông qua miệng Gia Luật Hưu Ca hướng nàng thuật lại cặn kẽ, nàng hoàn toàn có thể hiểu được nỗi khổ tâm của Dương Hạo.

Nàng cũng không cho là Dương Hạo làm như vậy sau này sẽ cùng Liêu Quốc là địch, Liêu Quốc cần Hạ Quốc, Hạ Quốc càng cần Liêu Quốc, đây là cái tất nhiên để duy trì thăng bằng tam giác Tống Liêu Hạ. Bất quá, nàng bắt đầu mơ hồ cảm thấy, Dương Hạo cùng nàng đã càng ngày càng xa, sự việc không trao đôi lần này chính là một bắt đầu. Mặc dù Dương Hạo cho tới bây giờ cũng không có cùng nàng đi tới quan hệ qua, nhưng là bất kể khi Dương Hạo làm Định Nan Tiết Độ Sứ, hay là lúc tự lập xưng đế, nàng cũng chưa từng có loại cảm giác xa lạ này, nhưng bây giờ lại khác.

Nàng có thứ nàng cần phải kiên trì cùng bảo vệ gìn giữ, ở trong lòng nàng, con trai của nàng, cùng đế quốc của con trai nàng phải nặng hơn hết thảy, Dương Hạo cũng như thế, cảm giác như vậy làm nàng mất mác, nhưng là nàng càng không thể làm cái gì. Nàng chỉ có thể nhìn Dương Hạo lặn đi xuống, lặn thật sâu đi xuống, chờ một ngày nào đó quật khởi một lần nữa.

Dương Hạo phập phồng phập phồng, từng cái lên xuống, cũng sẽ bị sóng lớn vận mệnh đẩy tới một vị trí cao hơn, hiện tại nàng vẫn có thể đưa mắt nhìn xuống hắn, nàng không biết khi hắn một lần nữa lướt sóng ra, mình cùng hắn là nhìn thẳng hay là nhìn lên, có thể có một ngày đi lên con đường đối lập hay không. Hiện tại, nàng chỉ như khoang thuyền trầm mặc.

Đối với sự trầm mặc của Liêu Quốc, Tống Quốc có hành động tương đối nhiều hơn, triều đình cử hành nghi thức long trọng, tiếp nhận Hạ Quốc triều kiến cùng cống hiến, đón nhận ngọc tỷ truyền quốc Hạ Quốc kính hiến, tế thiên kiện tổ, bốn phía ăn mừng Tống Quốc thắng lợi cùng nhận được ngọc tỷ truyền quốc, nhưng ngay sau đó Triệu Quang Nghĩa liền tay cầm ngọc tỷ truyền quốc, lòng tin mười phần liên tiếp ban bố từng điều chánh lệnh.

Ở Tây Bắc, do Định Quốc Tiết Độ Sứ dời quân từ hai châu Lân Phủ, tiếp quản phòng ngự Đông thành Hoành Sơn, Phan Mỹ dẫn quân đội sở thuộc trở về Biện Lương; tại trên mặt cơ cấu triều đình, quan viên Tam Ty cũng điều động lượng lớn, có điều ngang, có lên rõ, có xuống thầm, đề cử người mới, quy mô bổ nhiệm quan viên lớn chưa từng có, hết thảy đều cũng là lấy tiếng coi là càn quét dư đảng Vương Kế Ân để ngụy trang, hơn nữa cùng với khích lệ vạch trần, có khuynh hướng càng ngày càng mở rộng, còn không biết phải dính líu bao nhiêu người, dính líu bao nhiêu chuyện nữa.

Cùng lúc đó, triều đình lại hạ xuống ý chỉ, nguyên Tiết Độ Sứ Bảo Đức Quân Tri Phủ Phủ Châu Chiết Ngự Huân đảm nhiệm Tuyên Phủ Sứ của Tống Quốc đóng tại Tây Hạ, đến ngày nhận chức, đệ đệ Chiết Ngự Khanh được phong Thượng Khinh Xa Đô Úy, lưu lại kinh nhậm chức. Triều đình để lại một con tin, đem người còn lại thả lại Tây Bắc, đây là nhượng bộ cuối cùng triều đình làm ra.

Vừa ký nghị hòa, trọng tâm quân sự Tống triều liền tạm thời đặt tới phía Tây, La Khắc Địch lấy thân phận Thiêm Thư Xu Mật Viện, được bổ nhiệm làm Tây Xuyên An Phủ Sứ kiêm Binh Mã Đô Tổng Bồ, đi Ba Thục bình phản loạn. Đại Tướng Đô Sùng Tín, Vương Chính Trung đều bị quản thúc, đã bị bãi chức, nguyên Tây Xuyên An Phủ Sứ Vạn Tùng Lĩnh, Thành Đô Tri Châu Chu Duy Dung cũng đến trước tiền tuyến lập công chuộc tội.

Triệu Quang Nghĩa trước tiên phong thưởng cho Phan Mỹ, dùng điều này trấn an cựu thần, vừa mượn cớ thanh tẩy dư đảng Vương Kế Ân đề bạt mấy viên tướng lãnh trẻ tuổi, đến nằm vùng ở mấy chỗ yếu hại của Điện Tiền Ty cùng Thị Vệ Mã Quân Ty, Thị Vệ Bộ Quân Ty, lúc này mới điều La Khắc Địch đi Ba Thục trừ phiến loạn. Chiến sự ở Hà Tây vừa ngừng, triều đình lại liên tiếp phân phối quân đội vào Thục, loạn ở đất Thục muốn không bình cũng khó, lần này sai hắn đi về phía Tây, rõ ràng là để cho hắn thành lập công trận, tích góp tư lịch từng tí một.

Mà động tác lớn nhất, cũng là Hạ Quốc. Sau khi Dương Hạo thụ phong Tây Hạ Vương, chuyện làm đầu tiên chính là chính thức dời đô, từ Hạ Châu vượt qua tám trăm dặm Hàn Hải, dời đô tới Hưng Châu. Ở Tống Quốc xem ra, đây là Dương Hạo bị Tống Quốc dọa sợ, hắn vứt bỏ đất tủng hưng của tám họ Đảng Hạng, lướt qua Hàn Hải đầy cát, chạy đến Hưng Châu tái khởi thủ đô, là vì để tránh cho có một lần cục diện quân Tống nhanh chóng tiếp xúc, binh vây thành đô nữa, đối với Tống Quốc mà nói, tự nhiên là hãnh diện.

Đối với đám thần dân Hạ Quốc, cách nói của Dương Hạo là thành đô của một nước, làm đầu mối của thiên hạ, là giao thông tiện lợi, làm có thể công có thể thủ. Hôm nay Hạ Quốc không chỉ có có năm châu Định Chuẩn, còn có chư châu Hà Tây, Hưng Châu chính là ở trung tâm chư châu, dễ thủ khó công, đạt được nông mục(nông nghiệp và chăn nuôi), có khả năng làm quốc đô. Mà nguyên nhân chân chính, quốc phòng tất nhiên là một phần, nguyên nhân chủ yếu cũng là muốn mượn lần này trừ bỏ đi sư lệ thuộc quá nặng nề của hắn đối với người Khương Đảng Hạng. Ban đầu Triệu Khuông Dẫn muốn dời đô tới Lạc Dương, tất nhiên là cho là Biện Lương không hiểm khó thủ, không thích hợp làm thủ đô, một nguyên nhân khác chính là muốn mượn cái này đem căn cơ khổng lồ của Triệu Quang Nghĩa tổ chức ở phủ Khai Phong một lần diệt trừ, đáng tiếc hắn thất bại. Dương Hạo so với hắn may mắn hơn, khi đó Phan Mỹ suất quân tới nguy cấp, hắn đã nửa bắt buộc, nửa đe dọa mà đem đám thủ lĩnh các tộc nguyện ý hay không nguyện ý bắt mang cả tộc dời đến Hưng Châu, tạo thành chuyện dời đô thực sự. Lực cản lớn nhất đã biến mất, một bước khó khăn nhất khi dời đô đã hoàn thành, còn dư lại chẳng qua là xây dựng mà thôi.

Một lần "Dùng rượu tước binh quyền" của Triệu Khuông Dẫn khi mới lập quốc bị rất nhiều người hiểu sai, đối với lịch sử không rõ lắm cho là tọng văn khinh võ mà lên án, thật ra thì điều Triệu Khuông Dận làm lúc ấy không liên quan đến văn võ nặng nhẹ, hắn chẳng qua là đem những thành viên tướng soái, đại quân phiệt, đại chư hầu trước khi hắn lập quốc liền đã có tư lịch, uy vọng không ở dưới hắn đoạt đi quân quyền mà thôi, Tống Quốc có thể kết thúc cục diện thay đổi hoàng đế Trung Nguyên như đèn kéo quân từ thời thời Ngũ Đại tới nay, chuyện này có công cực kỳ to lớn, khi đó Vương Mãng khiêm nhường không soán ngôi, nếu không, Tống Quốc chớ nói nhất thống thiên hạ, bây giờ còn còn là họ Triệu hay không cũng khó nói.

Mà Dương Hạo ở dưới sự "giúp đỡ" của Tống Quốc dời đô tước binh quyền, nhờ Triệu Quang Nghĩa ban tặng, bằng một đòn lần này, hắn liền rất dễ dàng hoàn thành điều chỉnh cơ cấu quyền lực nội bộ, thế lưc Đảng Hạng ở năm châu Định Nan bị nhổ ra căn cơ, tám họ Đảng Hạng không thể nào vứt bỏ đất chăn thả của bộ tộc, cho nên đầu lĩnh của tám họ Đảng Hạng dần thối lui ra khỏi những quyết sách quan trọng nhất, đất Hạ Châu có dấu vết Đảng Hạng làm ký hiệu đã biến mất theo, cũng là hoàn thành bước đầu hành động phản lại quá trình đi đến Khương hóa.

Một khởi đầu tốt đẹp, là một Hạ Quốc hoàn toàn mới, cơ cấu quyền lực hoàn toàn mới, có độ tập trung hoàng quyền cao,cơ sở kiên cố vững chắc. Đám quyền quý Đảng Hạng tất nhiên khó chịu đối với việc dời đô, bất quá ván đã đóng thuyền, bọn họ cũng không có biện pháp, rất nhanh, theo sự thành lập của thủ đô mới, thanh âm phản đối của bọn họ cũng sẽ không còn lực ảnh hướng gì nữa.

Khó chịu nhất trái lại là đầu lĩnh Thượng Ba Thiên người Thổ Phiên Lũng Hữu, Lũng Hữu vốn là một nhà hắn độc đại, nhất là sau khi nhận được sự nâng đỡ âm thầm của Tống Quốc, thế lực của hắn lại càng khuếch trương, không ngờ lúc này đầu lĩnh sáu phiên người La Đan làm mất Hà Tây chạy tới cùng hắn tranh giành địa bàn, hai bên đánh túi bụi, lại xuất ra Xích Bang Tùng, sau khi tra thư tịch, thân phận con cháu vương thất hai bên thành ba phải, cũng không biết hắn đánh cái gì, ngay sau đó Hồi Hột Khả Hãn Dạ Lạc Hột cùng Đảng Hạng Lý Kế Quân cũng đến Lũng Hữu, lúc đầu hắn còn rất cao hứng, cho là lần này hai người này tìm nơi nương tựa, thanh thế sẽ cường tráng hơn, ai ngờ hai người này đều là sói mắt trắng không cam lòng ở dưới người, Thượng Ba Thiên hắn khách khí đón tiếp hai người, hai người này một người một lòng một dạ muốn đi Thanh Hải Hồ, muốn chiêu dụ bộ lạc Hồi Hột đông đúc ở Lũng Hữu để sử dụng, một người thì lộ ra thân phận Đảng Hạng chiêu binh mãi mã, vũng nước Lũng Hữu lần này càng đục.

Lại không biết bọn họ cho hoàng đế Tống Triều chỗ tốt gì, gần đây sứ giả Tống Quốc lấy việc đoạn tuyệt trợ giúp hướng hắn gây áp lực, không muốn hắn cưỡng bức không cho Dạ Lạc Hột đi Thanh Hải Hồ, Thượng Ba Thiên lúc đầu lệ thuộc vào Tống Quốc còn chưa quá nặng, nhưng hôm nay thế lực càng lúc càng lớn, ngược lại không thiếu được sự trợ giúp của Tống triều, bất đắc dĩ, hắn không thể làm gì khác hơn là nén giận để cho Dạ Lạc Hột đi Thanh Hải Hồ, đồng thời phái mấy người tâm phúc suất quân cùng tới ngáng chân cản trở, cùng hắn tranh đoạt sự ủng hộ của người Hồi Hột Lũng Hữu.

Về phần Lý Kế Quân để hắn dưới mí mắt kia, đem rất nhiều người Đảng Hạng vốn là ra sức cho hắn đem chiêu nạp vào, hắn còn chưa nghĩ ra cách xử trí như thế nào, thì tin Tống Hạ nghị hòa truyền ra, Dương Hạo hướng triều đình kính hiến ngọc tỷ truyền quốc, Thượng Ba Thiên bị làm cho sợ không thôi, qua chút ít thời gian, thấy triều đình vẫn trợ giúp như cũ, cũng không ban cho cái gì khó ăn, đánh giá nghĩ Dương Hạo cũng có băn khoăn, không dám hướng triều đình nói rõ lai lịch của ngọc tỷ này, lúc này trong lòng mới buông xuống.

Không ngờ mới vừa để xuống cái này, Dương Hạo đột nhiên tuyên bố chính thức dời đô tới Hưng Châu, lòng của Thượng Ba Thiên trong phút chốc lại bị xách dậy. Hưng Châu ở chỗ nào? Dựa lưng vào sa mạc Ô Lạp Đặc, sa mạc Tả Y Mao Ô Tố, bên phải dựa vào sa mạc Đằng Cách Lý, ba mặt là nơi hiểm yếu, sau gối không lo, ở giữa từ Bắc tới Nam là một ngọn Hạ Lan Sơn cùng với một Hoàng Hà, một núi một sông này giống như hai con rồng dài, chính là Tiêu Quan có nhị long hí châu(hai rồng ôm châu).

-----oo0oo-----

: Tây Hạ Vương

 Chương 65: Mơ ước vĩ đại 

Tiêu Quan, là lối đi duy nhất tới dãy núi Kỳ Liên Sơn vắt ngang Hà Tây Lũng Hữu, Thượng Ba Thiên có thể theo Tiêu Quan mà nhìn về Bắc, Dương Hạo nếu có tâm, tự nhiên cũng có thể theo Tiêu Quan mà Nam tuần. Thượng Ba Thiên lo lắng, suy nghĩ một hồi lâu, đột nhiên nhìn thấy Lý Kế Quân, linh cơ vừa động, liền kêu hắn đi phòng thủ Tiêu Quan. Tuy nói Lý Kế Quân lòng dạ khó lường, bất quá hắn cùng Dương Hạo không đội trời chung, để cho hắn thủ Tiêu Quan, tuyệt đối so với thủ hạ trung thành nhất còn đáng tin hơn. Huống chi, Lý Kế Quân lần đi là phó, chủ tướng Tiêu Quan vẫn là người tâm phúc Hô Duyên Ngạo Bác của mình.

Sau khi Dương Hạo tiến hành an bài một lần nữa đối với thủ quân Hoành Sơn, liền muốn trở về Hưng Châu, sau một thời gian ngắn, chính là giai đoạn thứ hai ẩn giấu mịt mờ, nghỉ ngơi lấy lại sức dựng nước. Cam Châu Thứ Sử Vương Phi A Cổ Lệ cũng mang theo Tử Điện Kiếm của Dương Hạo chạy tới thành đô, mùa đông này, mặc dù Dương Hạo chính mình cũng có hoàn cảnh gian khổ, nhưng là hắn vẫn y theo lời hứa, thực hiện trợ giúp đối với người Hồi Hột, Vương Phi A Cổ Lệ đã thành tâm thần phục, nàng muốn tự thân đi thành đô triều kiến Đại Vương, biểu thị rõ ràng trung thành của mình.

Dương Hạo từ Đông, A Cổ Lệ từ Tây, Lý Kế Quân từ Nam, ba đạo nhân mã hướng chỗ trung tâm đi tới. Lúc này, Dạ Lạc Hột thì kích động chạy về phía cao nguyên Thanh Hải.

Sau khi Dương Hạo chạy tới Hưng Châu, liền lập tức rèn sắt khi còn nóng, bắt đầu xây dựng triều đình mới, điểm này là quan trọng nhất, thừa dịp đại chiến mới vừa kết thúc, tất cả vật liệu, nhân viên, tiền tài đều tập trung ở trong tay, điều động phân phối tạm thời chưa khôi phục phương thức vận hành lúc bình thường, có thể làm một chuyện mà được gấp bội.

Đầu tiên là lập lại quốc hiệu, quốc hiệu này Tống triều đã phong, liền kêu là Tây Hạ .Tống Quốc Triệu Quang Nghĩa có được ngọc tỷ truyền quốc rồi thì mừng rỡ như điên, ra chiếu tuyên bố thiên hạ, đổi quốc hiệu là Thiên Thụ (trời trao cho), Dương Hạo liền đem quốc hiệu Tây Hạ Quốc là Thiên Tá, Thiên Tá này tá rốt cuộc là trời gíup hay là giúp trời, là xem ngươi hiểu như thế nào, nhưng cũng là khéo léo.

Ngay sau đó liền muốn án theo lấy phẩm cấp vương quốc thiết trí chế độ chính phủ, khi Đường Quốc Lý Dục hướng Tống xưng thần, tự xưng là Giang Nam quốc chủ, các ty nha môn trong triều, ví dụ như Xu Mật Viện, Tam Ty Sử đều sửa lại tên, tuy nói đổi thang mà không đổi thuốc, chức năng chức quyền vẫn là những thứ kia, nhưng là đổi tên gọi, tựa hồ tựu so sánh với Tống Quốc thấp hơn một cấp, Tiêu Nghiễm cùng Từ Tiêu ở Hưng Châu đã sớm chuẩn bị đối với những phương diện này, vốn cũng tính toán theo phương hốt thuốc, tiến hành thay đổi đối với quan Tây Hạ Quốc, không ngờ lại bị Dương Hạo trực tiếp bác bỏ.

Dương Hạo không thương lượng cùng bất luận kẻ nào, trực tiếp lấy ra một bộ phương án, trực tiếp liền theo cái đó an bài quan viên văn võ. Thật ra thì hắn đối với quan chế Tống Triều vẫn có chút xem thường, sau khi Triệu Khuông Dẫn nam chinh bắc chiến thống nhất Trung Nguyên, rất nhiều chức quan còn sót lại của chính quyền đầu hàng cát cứ nhất thời không có cách nào quét sạch, tạo thành nhiều hạn chết cho chức quan Tống triều, nhân viên thừa nhiều tới mức trước đó chưa từng có.

Ngoài ra, vì hạn chế quyền lực, Triệu Khuông Dận vừa muốn nổi bật, làm ra xuất quan, chức phận rơi xa nhau, cái gì Thượng Thư, Thị Lang, Tả Hữu Phó Xạ, đã thành lộc quan, chẳng qua là dùng để hạch định bổng lộc tiêu chuẩn quan giai, còn cụ thể chuyện gì có chức vụ gì, lại làm ra một đống chức quan, cái gì Phán, Tri, Quyền, Trực, Thí, Quản Câu, Đề Điểm, Thiêm Thư gì gì..., một người ngoài nghề muốn hiểu những quan này là đang làm cái gì, cũng phải hao phí khí lực thật lớn, hiệu suất thống trị của loại quan chế này là có thể nghĩ được.

Hôm nay mượn việc bỏ Đế hiệu, dựng Vương quốc, các ty nha môn đều có cơ hội phân biệt cùng Tống Triều, Dương Hạo trực tiếp rập khuôn quan chế của Minh triều. Quan chế Minh triều tăng cường trên cơ sở hoàng quyền, huy động năng lực quan lại các cấp ở mức lớn nhất, Minh triều trong lịch sử, phần lớn hoàng đế không tự thân để ý triều chánh, nhưng là so sánh với các vương triều từ Tần tới Thanh một chút. Ngươi sẽ phát hiện thời gian kéo dài của đất nước đều hơn hai trăm năm, mà không có một lần chia cắt. Đồng thời về tất cả các lĩnh vực văn hóa, kinh tế, quân sự, Minh triều đều cầm cờ đi trước.

Sử gia Triệu Dực đã từng than thở: "Không biết chủ đức như thế, tại sao còn có thể kéo dài lần thêm một trăm sáu bảy mươi năm mà không mất thiên hạ, thành không thể chia cắt vậy." Cái nguyên nhân làm hắn không hiểu được này, chính là do quan chế của Minh triều. Thanh triều kế thừa Minh chế, có thể nói rõ hướng quan chế này kéo dài tại Trung Quốc gần năm trăm năm, chống đở, duy trì cho hai vương triều phong kiến có tuổi thọ lâu nhất Trung Quốc này có hiệu suất cao như thế nào.

Dương Hạo không có năng lực ở trên cơ sở đế chế, có thể vô căn cứ thêu dệt ra một bộ thể hệ quan chế hoàn toàn mới. Quan chế là một cái quan trọng trong tổ chức cơ cấu chính quyền, nó quan hệ đến thịnh suy của cái chính quyền này, quan hệ đến an định hay rung chuyển của xã hội khi ấy, quan hệ đến cuộc sống của nhân dân khi đó, không phải là tiểu hài tử có thể tùy ý thiết trí, cho nên là phải xây dựng cẩn thận. Sau khi hắn cân nhắc đủ các quan chế chính thể của các triều đại tự cổ chí kim, liền lấy ra bộ chính thể quan chế này.

Bất quá chính thể của hắn cùng chính thể Minh triều lại có một chút chỗ khác nhau, bởi vì điều kiện lập quốc của Hà Tây cùng Minh triều khác nhau, không cách nào hoàn toàn rập khuôn theo thể chế Minh triều, bất quá ý nghĩ chủ thể vẫn là giống nhau, tại trong ba thể hệ triều đình, địa phương, quân đội chia ra tiến hành thiết trí.

Vè mặt triều đình, bố trí nội các cùng sáu bộ Lại, Hộ, Lễ, Binh, Công, Hình, quan địa phương cũng đúng là kế tục tiến hành thống nhất đám quan giai hỗn loạn không chịu nổi Tiết Độ Sứ, Thứ Sử, Tri Phủ của chế độ cũ. Bố trí Bố Chính Sứ Ty, Án Sát Sử Ty, nhỏ xuống chút nữa là Tri Châu, Tri Phủ, Tri Huyện..., bởi vì hắn hiểu rõ là không cần phải đầy đủ như vậy, đồng thời cái vương quốc này vô luận là địa vực, thành phần kinh tế hay độ trưởng thành của chính thể còn kém xa Trung Nguyên, cũng không cần thoáng cái bày ra quá nhiều chức quan, cho nên căn bản tới mức này là ngừng.

Tiến hành điều chỉnh nghành tình báo, Phi Vũ cùng Tùy Phong hoàn toàn dung hợp, mở phủ xây nha, làm việc bình thường, rất nhiều công tác tình báo cũng là làm rõ ràng ở bên ngoài ví dụ như đo vẽ bản đồ, thiết lập trạm phong nghi, thành lập hồ sơ quân sự cùng quản lý ..., một mặt kín là mặt mà bất kỳ tổ chức tình báo cũng phải có, nhưng là làm như thế nào để phòng ngừa nó biến thành Tống Triều Cẩm Y Vệ hay Đông Xưởng Tây Hán, chính là lại làm kẻ khác hao tổn đầu óc.

Dương Hạo là hoàng đế khai quốc, hơn nữa Mã Thán, Trúc Vận, Diễm Diễm tuyệt đối trung thành đối với hắn, hắn không cần phải lo lắng cái tổ chức này không thể khống chế được, nhưng là tương lai sẽ như thế nào thì có người nào biết được? Nếu nói chế độ mạnh hơn người trị, liền thể hiện ở cái chỗ này rồi, làm sao có thể phát huy đầy đủ tác dụng của tổ chức tình báo, vừa không làm nó đến mức không thể khống chế, trước mắt cũng không có biện pháp tốt, cũng không phải là việc cấp bách, chỉ có thể từ từ tiến hành điều chỉnh cùng hoàn thiện .

Biến hóa lớn nhất là quân đội, phỏng theo chức năng của Tống Triều Xu Mật Viện cùng Binh Bộ, Dương Hạo cũng tiến hành chia cắt đối với quyền điều binh cùng quyền trị binh, cho Binh Bộ ở ngoài xây dựng lại phủ đô đốc, phủ đô đốc nắm quyền chỉ huy toàn bộ quân sự trọng đại cùng quy định trong chiến dịch, Binh Bộ chịu trách nhiệm động viên chiến tranh cùng quản lý hành chánh, các việc trợ cấp, tử tuất cho quân đội, lại xuất ra binh quyền quyết định cho hoàng đế thông qua bố trí nội các.

Trên mặt xây dựng quân đội, bởi vì tính đặc thù của kinh tế Hà Tây. Không thể rập khuôn bộ dáng Tống Quốc, cho nên chọn lựa chế độ động viên lính kết hợp cùng chế độ tuyển mộ lính, hai loại hình thức Thường Bị Binh cùng quân bộ tộc cùng tồn tại, thể chế quân sự Binh Nông hợp nhất. Quân đội trực thuộc của triều đình theo như chức năng chia làm Cung Vệ Quân, Cấm Vệ Quân, Cảnh Vệ Quân..., theo như làm binh chủng lại chia làm kỵ binh, bộ binh, thỏa giáp binh..., đây là bảo đảm cho vương quyền cùng vương quốc, cũng là quân đội chủ thể của quốc gia.

Ngoài ra thì lấy quân bộ tộc làm phụ, tám họ Đảng Hạng, Lương Châu Thổ Phiên, Cam Châu Hồi Hột, do phải phụ thuộc chăn thả nên không tiện tiến hành quản lý cố định, tộc nhân có đặc điểm thời chiến làm vũ khí, thời bình làm dân, hơn nữa quốc gia nuôi không nổi nhiều phòng binh như vậy, thời chiến lại cần nhiều binh, cho nên liền bộ tộc kia làm trụ cột, thành lập quân bộ tộc, như thế, chính là hình thức ban đầu đơn giản của chính thể quan chế.

Bố trí quân chế khổng lồ mà phức tạp như thế, bởi vì Dương Hạo là rập khuôn một chính thể trưởng thành, đồng thời các thế lực bây giờ có thể ngăn cản hắn ít tồn tại, cho nên ở trong một thời gian rất ngắn liền đã hoàn thành. Sau khi Dương Hạo đến Hưng Châu liền làm việc như điên cuồng, lập tức bắt tay vào làm tiến hành thay đổi chính thể chế độ xã hội, phát huy đầy đủ tinh thần quên mình của Đại Vũ trị thủy đi qua cửa nhà mình ba lần mà không vào, cho đến khi hết bận tất cả mọi việc, hắn mới trở về hậu cung, đáng hoàng đi xem chỗ ở của mình một chút.

Bởi vì Vương Cung vẫn còn đang xây dựng, chỗ ở hôm nay của Dương Hạo chẳng qua chỉ là một ngôi nhà to của Hưng Châu, trình độ xa hoa kia không bằng cả phủ Tiết Độ Sứ Hạ Châu. Có kích thước to lớn xấp xỉ phủ Ngự Sử Ngân Châu, bố trí trong phủ cũng không phải là có giới hạn rõ ràng như vậy. Tất cả đều đã an bài xong xuôi, đi lại ở trong hậu trạch, Dương Hạo chỉ cảm thấy một thân thoải mái.

Đến khách sảnh hoạt động hằng ngày bên trong hậu trạch(nhá sau), lập tức đã nghe được một trận tiếng cười trong sảnh, đã lâu không cùng người nhà ở cùng một chỗ, cho dù đến Hưng Châu mỗi ngày muốn ở nhà cũng không được, bao nhiêu đêm, hắn cùng đám người Chủng Phóng, Đinh Thừa Tông, Tiêu Nghiễm, Từ Tiêu thương nghị gấp rút, cho đến nửa đêm mới vội vã nghỉ ngơi một khắc trong thư phòng, lúc này nghe được tiếng cười của người nhà, trong lòng Dương Hạo không khỏi nổi lên một trận kích động.

Tiểu Nguyên cười khanh khách từ bên trong đại sảnh đi ra ngoài, bởi vì trong sảnh ấm áp, nàng không có mặc quần áo dày nặng mùa đông, chỉ mặc một cái áo cộc tay, hai má đỏ bừng, nhìn một cái đã nhìn thấy Dương Hạo, Tiểu Nguyên vừa mừng vừa sợ. Lập tức đã muốn cúi người tham kiến, miệng chuẩn bị hướng trong sảnh chào hỏi, Dương Hạo vội vàng dựng thẳng ngón tay trỏ để trên môi, làm ra động tác ra hiệu chớ có lên tiếng, sau đó nhẹ nhàng lắc lắc đầu.

Tiểu Nguyên hiểu ý, hướng hắn thi lễ, liền lắc mình rời đi. Dương Hạo rón ra rón rén đi tới, trước tiên nhẹ nhàng vén mành lên, đi đến bên trong, nhìn thoáng qua.

Người một nhà đều đang ở trong sảnh, Đông Nhi mặc một thân y sam tố nhã, làn da rực rỡ, búi tóc đuôi ngựa, hôm nay nàng đã là thiếu phụ trưởng thành, châu tròn ngọc sáng, lại không thiếu thanh lệ tuyệt tục, một đôi con ngươi trong sáng như nước nhìn xung quanh. Khác với nàng, Oa Nhi ngồi đối diện nàng lại bất đồng, vóc người cùng kiều dung của Oa Nhi cũng là vô cùng mềm mại đáng yêu, nàng vốn là giỏi bảo dưỡng, sau thời gian tu luyện công phu song tu, da thịt đã là tươi mềm trắng mịn gần như trong suốt, người như ngọc, ở trong khách sảnh nên chỉ mặc một áo bông nhỏ, nhũ phong kia cao vút, đường cong của eo thon nhỏ kia không kham được một nắm tay, xinh đẹp tận xương, nếu là nàng lúc này lại đi Biện Lương một chuyến để tranh Đệ Nhất Hành, sợ rằng so sánh với năm đó còn hơn một bậc.

Mà Diệu Diệu thì đang lục thịt nướng, sau đó đem từng mảnh thịt đưa tới trong cái miệng nhỏ nhắn của con gái thứ hai Dương San, Dương San ngoan ngoãn đứng ở trước mặt nàng. Đôi mắt trông mong ngó chừng ngón tay ngọc của nàng, trong tay chính là đang nắm thật chặt một cái sợi dây thừng, trên sợi dây buộc một con khỉ con, mắt ngó dáo dác đứng ở bên cạnh nàng, đầu cao bằng chừng bả vai của nàng.

Diệu Diệu cũng trưởng thành hơn chút ít, không còn là tiểu nha đầu ngây thơ rực rỡ kia nữa, nàng lúc này lông mày như núi xa, con ngươi như sao thần, thanh lệ quyến rũ, khí chất đã có chút ít tương tự cùng Diễm Diễm, ung dung xinh đẹp. Diễm Diễm. . . Đúng rồi, Diễm Diễm đi đâu rồi?

Đảo mắt chú ý tới bên cạnh, Dương Hạo không khỏi thấy buồn cười. Trên mặt đất trải thảm nhung dày, đại nha đầu Tuyết Nhi kia nghịch ngợm cưỡi ở trên người con sói Tiểu Bạch, đang làm hình dáng giơ roi thúc ngựa, sói Tiểu Bạch đáng thương bị nàng quất luyện thành gần như một con chiến mã thực sự, còn thiếu mỗi dây cương, rồi ngửa mặt lên trời hí dài một tiếng, chứng minh nó là một ngựa thật thôi. Mà Diễm Diễm. . . Dương Hạo lại thấy được khuôn mặt thứ hai của nàng.

Tuy nói mặc váy dài, nhưng là bởi vì chất liệu mềm mại sát thân, cho nên làm sao có thể che dấu được một vòng kiều đồn đầy đặn như dùng com-pa quay vẽ ra mới tròn như vậy, nàng đang đưa lưng về phía Dương Hạo, nằm ở trên mặt thảm, mỗi khi có động tác, làn váy nhộn nhạo, ngọn núi đồi ẩn hiện, cảnh xuân mê ngươi này , làm cho trong lòng Dương Hạo cũng nóng lên.

Hắn đi đến bên trong bước một bước, nghiêng người đứng lại, này mới nhìn rõ Diễm Diễm đang làm gì . Diễm Diễm cầm trong tay một cái tượng gỗ nhỏ, đang đùa với tiểu tử Dương Giai đã biết bò, một đôi mắt to đen lúng liếng của nó nhìn chằm chằm vào tượng gỗ không ngừng đung đưa trong tay di nương, ngậm miệng, dùng hết sức khí lực toàn thân bò bò, mất thật lâu mới thật vất vả bò đến bên cạnh nàng. Diễm Diễm lui về phía sau xoay ngươi một cái, lại rời đi hơn một thước xa, một thước xa này đối với tiểu tử vừa học bò xong này mà nói giống như thiên sơn vạn thủy, cho nên nó trừng con ngươi lên, hăng hái dũng cảm, tiếp tục hướng về mục tiêu của mình bò đi tới.

Dương Hạo vừa vào khách sảnh, nhìn qua chính là một màn ấm áp như vậy, con gái khả ái, con trai trẻ thơ, còn có kiều thê mỹ thiếp hoặc thanh lệ, hoặc xinh đẹp, hoặc quyến rũ, hoặc kiều diễm (ước gì mình được như anh ấy , thế này chết cũng đáng^^ ). Thấy được các nàng, tất cả mệt mỏi mệt nhọc của Dương Hạo đều được quét sạch rồi, bỏ ra tất cả, còn không cũng là vì các nàng sao? Thê tử của hắn, hài tử của hắn. Chỉ cần các nàng vĩnh viễn trải qua hạnh phúc, vĩnh viễn vui vẻ giống như bây giờ, người một nhà sung sướng trọn vẹn. . .

"Không, chưa tính là trọn vẹn. Còn có Nữ Anh, Nữ Anh vô oán vô hối theo ta, con gái ruột thịt của mình cũng phải giao cho người khác để che mắt người khác. Hiện tại con thứ hai của nàng sắp ra đời. Còn muốn tìm danh nghĩa giao cho người khác nuôi dưỡng nữa đi? Không, nên cho nàng một danh phận." Dương Hạo chợt lóe thân, Đông Nhi cùng Oa Nhi thấy được hắn đầu tiên, hai người vui mừng đứng lên, Đông Nhi không kìm được vui mừng nói: "Quan nhân, hết bận công sự rồi?"

"Cha !" Dương Tuyết cùng Dương San phấn khởi vui mừng chạy tới, một trái một phải ôm lấy bắp đùi của hắn.

Diễm Diễm quay đầu nhìn thấy Dương Hạo, liền ngồi dậy, hừ nói: "Có cái gì cao hứng, hắn a, vĩnh viễn có chuyện bận rộn không xong."

"Ha hả, thời kỳ gây dựng sự nghiệp luôn là phải bận rộn chứ sao. Ta hiện tại không vội vàng thì sau này cũng là vĩnh viễn không cần bận rộn. Chẳng lẽ giống như Chiết đại ca như vậy, người cả nhà bị nhốt tại kinh thành, cả ngày chỉ có ăn ngủ. Ngủ rồi ăn, người cả nhà ngủ ở chung một chỗ, cuộc sống như vậy ngươi mới thích ý sao?" Vừa nói liền trừng mắt nàng nhìn một cái nói: "Nói hết lời châm chọc đi, xem ta tối nay xử lý ngươi làm sao."

Làm trò trước mấy người tỷ muội, mặt Diễm Diễm không khỏi đỏ lên, không cam lòng yếu thế nói: "Ai sợ ngươi chứ?" Một đôi tròng mắt chính là lặng lẽ dạng nổi lên sóng nước mềm mại đáng yêu. Khi đang nói chuyện, Dương Giai bò tới bên cạnh nàng, một phát bắt được tượng gỗ nhỏ trong tay nàng. Đánh lén thành công, Dương Giai nhếch môi đắc ý cười lên, cười xong cũng rất nghiêm túc đem tượng gỗ nhét vào trong miệng.

"Ôi tiểu tổ tông của ta, làm sao ngươi bắt được cái gì gặm cái đó chứ." Diễm Diễm vội vàng bế Dương Giai lên, Dương Giai gặm vài cái cảm thấy mùi vị không tốt, liền hướng bộ ngực của Diễm Diễm cọ cọ, Diễm Diễm ngứa đến không ngừng được cười, luôn miệng nói: "Tỷ tỷ, mau đem con trai bảo bối ăn gì cũng không đủ này trở về đi."

Đông Nhi cười đi tới nhận lấy Dương Giai, cở ra một bên vạt áo, lộ ra nửa ngọn đồi mỹ lệ sung mãn tràn đầy, Dương Giai như nhặt được chí bả, một ngụm há miệng nhào qua viên Hồng Mã Não kia, nghênh ngang, từ đầu đến cuối cũng không để ý tới cha Tây Hạ Đại Vương kia.

Dương Hạo rất thích thú ngắm nghía nhìn tiểu tử thúi đoạt địa bàn này của một chút, kéo vai Đông Nhi, khoác ở eo nhỏ nhắn của Diễm Diễm, nói với Oa Nhi cùng Diệu Diệu: "Yên tâm đi, bận rộn cũng bận rộn không nhiều lắm. Sau này, ta liền chuyên tâm ở lại chỗ này, phụng bồi các nàng."

" Thậtt hay giả? Ngươi có thể rãnh rỗi được mới là lạ." Diễm Diễm không tin liếc nhìn hắn, lại rất tự nhiên đánh rớt cái tay to của hắn rất không thành thật trơn trượt hướng cái mông của mình.

"Đương nhiên là thật." Dương Hạo nửa thật nửa giả, cười dài nói: "Biết mơ ước vĩ đạ của quan nhân nhà ngươi năm đó là cái gì không? Chính là muốn làm một phú ông con nhà giàu, mang theo mấy tên cẩu nô tài. Ở trong ánh nắng tươi sáng đàng hoàng đùa giỡn phụ nữ . . . . Hiện tại ta cuối cùng là rãnh rỗi đi thực hiện, ha ha ha ha.. "

Diễm Diễm quải cho hắn một cái, oán hận nói: "Ngươi thật vất vả mới trở lại một chuyến, nói chuyện

đứng đắn một chút có được hay không?"

Dương Hạo có thâm ý nói : "Ta nói chuyện đến bây giờ đều rất đứng đắn, quan nhân nhà ngươi thật sự muốn làm một hôn quân rồi, bắt đầu từ bây giờ, cho đến khi người kia váng đầu. "

Trong bốn người, chỉ có Oa Nhi thoáng cái hiểu được. Nàng vừa muốn hỏi nữa thì Tiểu Nguyên vội vã chạy đi vào, bẩm báo: " Đại Vương. Vương phi A Cổ Lệ đến."

Dương Hạo kinh ngạc nói: "Y theo lộ trình, không phải là ngày mai nàng mới đến sao?"

Tiểu Nguyên nói: "Vương phi A Cổ Lệ bỏ lại đại đội, chạy tới Hưng Châu trước."

"Thì ra là như vậy." Dương Hạo suy nghĩ một chút, hướng mấy người phụ nhân cười cười xin lỗi, nói: "Ta đi gặp nàng, an bài cho nàng xong sẽ trở lại."

Nhìn bóng lưng Dương Hạo vội vã rời đi, Đường Diễm Diễm thở dài nói: "Mơ ước vĩ đại của quan nhân, sợ là không cách nào thực hiện."

Đông Nhi xoay chuyển con ngươi nói: "Làm sao lại nhu thế?"

Diễm Diễm nói: "Còn không có đùa giỡn nữa rồi, người ta tự mình đưa tới cửa, đây chính là hoàn khố đệ tử cùng hoàn khố yến đế a. . ."

-----oo0oo-----

: Tây Hạ Vương

 Chương 66: Khó Lâm Triều 

Sáng sớm, trời vừa sáng rõ, Dương Hạo đã tỉnh.

Mấy năm nay, dù có bận rộn tới mức nào, mệt mỏi tới mức nào, mỗi ngày hắn đều phải tập luyện, vì hắn biết rằng, chỉ cần có một lần tìm lý do cho bản thân mình mà lơi lỏng việc thì sẽ có lần thứ hai, lần thứ ba, sự việc đến không chỉ là việc trì hoãn luyện võ công, càng ngày hắn sẽ càng có nhiều chuyện này nọ khác, sa vào cuộc sống sung sướng nhàn nhã.

Mỗi người đều muốn hưởng thụ cuộc sống thoải mái, nhưng hắn không thể lãng phí thời gian của cuộc đời này một cách vô độ được, nhiều người nghĩ đến tất cả những điều này để bỏ tâm huyết của mình ra, hắn cũng không phải ngoại lệ. Có thể thấy, Đông Nhi đang nằm ở bên cạnh hắn, chìm vào giấc ngủ ngon, khóe miệng khẽ cười. Đêm qua, hắn không sử dụng song tu công phu, chỉ là thả lỏng cơ thể, ân ái triền miên với Đông Nhi.

Giờ phút này, Đông Nhi vẫn đang ngủ, mái tóc rối tung, khuôn mặt càng thêm đáng yêu, khi Dương Hạo đứng dậy, nhấc chiếc áo lên, Đông Nhi lộ nửa cơ thể ra, đôi gò bồng đảo trắng như tuyết được che đậy dưới mái tóc mượt mà ấy, hút hồn vô cùng.

Dương Hạo kéo chăn đắp lại cẩn thận cho nàng, rón rén bước xuống đất, mặc áo đứng dậy, khẽ chân bước vào trong viện. Hít một hơi thật sâu, võ công quyền kiếm, luyện hoàn, trán lấm tấm mồ hôi. Đông Nhi chưa dậy, lúc này nếu như về phòng, nàng sẽ tỉnh giấc. Dương Hạo đành ở bên ngoài phòng, Hạnh Nhi và Tiểu Nguyên xách nước đến, đợi hắn tắm rửa thay quần áo, rồi Dương Hạo đi vào viện phía trước.

Hắn vốn đã nghĩ về cuộc sống hủ bại của quân vương mấy ngày không còn sớm triều, song mỗi ngày A Cổ Lệ vương phi đến, Dương Hạo đã hẹn hôm nay sẽ ăn bữa sáng với nàng, có chuyện cần bàn bạc, cho nên sẽ không ở lại phủ ăn cơm, chuyện này tối qua đã nói với Đông Nhi rồi, không cần phải thông báo lại nữa.

“Tỷ tỷ…”

Dương Hạo vừa đi, Diễm Diễm liền hấp tấp chạy vào trong phòng Đông Nhi. Đông Nhi vội vàng khoác áo che thân cười nói: “Nhìn ngươi kìa, sáng sớm vậy, có chuyện gì gấp thế?”

Diễm Diễm không còn là cô nương chưa có kinh nghiệm, trên má Đông Nhi hơi ửng đỏ vì xấu hổ, đôi lông mày hơi rướn lên, ánh mắt dịu hiền. Dù về bề ngoài không nhìn ra, song đôi má trắng trẻo bỗng ửng hồng thì vẫn nhìn ra.

Diễm Diễm bĩu môi, chanh chua nói: “Còn che cái gì nữa chứ, người ta cũng không phải là không nhìn ra đâu”.

Đông Nhi xấu hổ, vội nhanh chóng đánh cho nàng một cái rồi rút tay lại che thân mình càng chặt thêm, chỉ lộ mỗi khuôn mặt ra khỏi chăn hỏi: “Sáng sớm này ra, muội sang tìm trò cười đấy ah?”

“Ta nào có rảnh hơi?” Diễm Diễm trừng mắt nhìn nàng, quay ngoắt đầu nhìn ra ngoài, lúc này nồi ở bên giường, thần bí nói: “Tỷ tỷ à, tỷ biết quan nhân sáng sớm hôm nay làm cái gì không vậy?”

“Làm gì cơ?”

“Muội nghe nha hoàn nói đi cùng với A Cổ Lệ vương phi đi ăn sáng đấy”.

Đông Nhi phì cười nói: “Muội phí lời quá đi, quan nhân chưa sáng sớm đi ăn sáng, lẽ nào phải đợi đến tối mới đi ăn điểm tâm sao? Ha ha…”

Diễm Diễm càng trợn mắt lên nói: “Tỷ tỷ chưa nghe rõ ah? Chàng…đi cùng với A Cổ Lệ vương phi đi ăn điểm tâm đấy”.

Nàng cố gắng nhấn mạnh ba chữ A Cổ Lệ vương phi, Đông Nhi nháy mắt nói: “Thì đó vẫn là ăn sáng mà thôi, có gì khác nhau đâu?”

Diễm Diễm giận rỗi nói: “Tỷ tỷ không nghe hiểu lời muội nói à?”

Đông Nhi nén cười nói: “Hiểu, hiểu cả rồi, nhưng mà…quan nhân trước đây cũng không thiếu cùng Hòa đại nhân, Lâm đại nhân bọn họ đi ăn điểm tâm mà. A Cổ Lệ vương phi giờ là tri phủ Cam Châu, Hồi Hất bộ tộc quân đô chỉ huy sứ, quan lớn văn võ của triều đình, bà ấy vừa đến hưng châu thì đã là đại sứ biên cương trấn thủ một phương, quan nhân đương nhiên là phải coi trọng rồi”.

“Nhưng cô ta là đàn bà, hơn nữa còn là một người đàn bà rất xinh đẹp nữa kia?”

Đông Nhi nháy mắt hỏi: “Thế muội muốn sao đây?”

Đường Diễm Diễm ngẩn người một lúc, Đông Nhi lại nói: “Nghĩ cách đuổi A Cổ Lệ đi đúng không nào?”

Đường Diễm Diễm hét lên: “Làm sao thế được? Không nói đến hai mươi vạn quân dân cam châu của cô nương ấy thì dựa vào chức quan triều đình hiện tại của cô ấy, chúng ta làm sao có thể làm cái chuyện biết là không thể làm được ấy được?”

“Thế thì…quan nhân nếu như có thích cô ấy thực sự, chúng ta kiên quyết không đồng ý sao?”

Đường Diễm Diễm vội chen lời nói: “Tuy nói quan nhân nhà ta yêu thương chúng ta hết mực, nhưng nếu như chàng có thích vương phi thật, thì ai dám cấm chàng chứ? Lần trước giận chàng, ta còn không tự chủ được? Nào có người không biết tự ái”.

Đông Nhi bật cười nói: “Thế mới là lạ, thế muội sáng sớm chạy đến đây nói với ta làm cái gì?”

“Muội…”Đường Diễm Diễm ngẫm lại cẩn thận, còn không thể hiểu nổi cái chân này chạy tới đây làm gì. Nàng chỉ nghe một người hầu nói như vậy xong thì đã chạy tới đây, còn về nghĩ sẽ làm gì, dường như…nàng không hề nghĩ đến”.

“Muội ấy à”. Đông Nhi vỗ nhẹ vào đôi tay nhỏ nàng để trên giường: “Đám nha hoàn trung thành với chủ, chuyện gì cũng đều muốn bảo vệ muội, vừa mới nghe tới chuyện sẽ làm ảnh hưởng tới muội thì đương nghiên sẽ muốn nói với muội, điều đó là không sai, song muội khá thiên về ý nghĩ của mình, chớ có nóng nảy, vội vàng, nghe gió là mưa”.

Đông Nhi đưa tay ra với xiêm y bên giường, Diễm Diễm vội đưa cho nàng, Đông Nhi xoay người ngồi dậy, đồng thời xiêm y đã ở trên người, nàng vừa mặc áo choàng, buộc dây lại cho cẩn thận, vừa cười nói: “Có một số chuyện không thể để ý vụn vặt được, nếu không chính là tự đi tìm phiền phức cho mình, muội hiểu không?”

Diễm Diễm có tính cách không chịu phục, duy chỉ có Đông Nhi nói gì là nàng nghe nấy, đôi khi nàng cũng cảm thấy kỳ lạ, Đông Nhi chẳng nói gì cả, chẳng làm gì cả, tại sao nàng lại dễ nghe lời thế không biết. Dường như Đông Nhi là một đại tỷ đáng tin cậy đáng kính nhất. Nàng có tính cách nóng nảy, chẳng giấu được chuyện gì bao giờ, nhưng Đông Nhi như nước vậy, hơn nữa còn là cơn gió mát, rất nhanh có thể tiêu tan được tính nóng nảy của nàng, làm cho nàng vui vẻ trở lại.

Chậu than trong phòng lại được thêm than vào buổi sáng, cháy hồng lên làm căn phòng ấm áp. Đông Nhi mặc quần áo vào, rồi đứng nhanh dậy, ngồi bên bàn trang điểm, khẽ vuốt mái tóc, cử chỉ ung dung tao nhã vô cùng, dưỡng di khí, năm đó tiểu nữ tử hiền lành như thỏ, giờ đã là một tiểu phụ nhân trưởng thành rồi, giống như một đóa hoa hồng tao nhã vậy.

Chiếc lược ngọc khẽ chải lên mái tóc óng mượt, chải từ ngọn đến chân tóc, vẫn cái búi tóc quen thuộc, nhìn trong gương là bóng dáng Diễm Diễm, Đông Nhi nhoẻn miệng cười: “Quan nhân không cho phép chúng ta nhậm trức trong triều nữa, có vài chuyện cũng không nói với chúng ta nữa, đây là chuyện rất bình thường, không quy luật không thành vuông tròn, nếu như không phải là đại sự quốc gia gì đó thì chàng trở về nhất định sẽ nói với chúng ta, phải không nào?

Thực ra quan nhân cũng sợ chúng ta buồn bực lắm đó chứ, bề ngoài chính sự vẫn là giao cho chúng ta rất nhiều việc để làm, không cần để tư tình đặt vào chuyện không đâu nữa. Vị A Cổ Lệ vương phi ấy, quan nhân thực sự rất để ý tới nàng ấy, song ta và muội không giống nhau ở điểm, ta cảm thấy quan nhân để ý nàng ấy như vậy, chỉ để trong đầu thôi, còn chuyện này, A Cổ Lệ vương phi có đến tám chín phần cũng là một trong số người tham gia”.

Nàng nhặt một tờ giấy, khẽ hé đôi môi anh đào nhấp nhẹ vào nó nói: “Nếu như quan nhân thực sự là thích nàng ấy, ngược lại sẽ không có cử chỉ như vậy đâu, chàng ấy à, khi nào chả sẵn sàng theo đuổi phụ nữ chứ?”

Diễm Diễm hất mặt lên nói: “Tất là vậy rồi”.

La Đông Nhi quay đầu lại cười nói: “Thôi được rồi, thế thì chúng ta thử chờ xem sao?”

***

“…Đại vương, cả nhà Chiết tướng quân đã qua Hạ Châu rồi, hựu châu đô chỉ huy sứ Trình Thế Hùng Trình đại tướng quân đặc ý soái bộ chạy đến tây hành yếu đạo nghênh đón, bày tiệc rượu vui vẻ với Chiết tướng quân một đêm, dự tính ba ngày sau sẽ đến Diêm Châu…”

Khởi cư xá nhân Mục Dư Kiều cung kính nói. Hắn chú ý tới đôi tai của Dương Hạo đang nghe lời hắn nói, đôi mắt lại vẫn nhìn sang một phụ nữ xinh đẹp, phụ nữ xinh đẹp ấy đứng ở trên sông băng, đầu đội một chiếc mũ lông chồn màu trắng tuyết, mặc chiếc váy khá vừa vặn, áo viền báo, xinh đẹp mỹ miều, khuôn mặt giống với người con gái Trung Nguyên, sống mũi dọc dừa, đôi mắt đen tuyền, lông mi cong vút, một vẻ đẹp không làm động lòng người mới là lạ, đó chính là Cam Châu tri phủ, Hồi Hất quân đô chỉ huy sứ Thất vương phiHồi Hất khả hãn Dạ Lạc Hất ngày xưa.

Người phụ nữ xinh đẹp làm trỗi dậy dục vọng của đấng mày râu. Nữ nhân cao quý chinh phục được cả dục vọng của biết bao nam nhân. Vị nữ nhân này, hoàn toàn có thể tin rằng nàng có thể chinh phục được bất cứ một nam nhân nào.

Mãi đến khi hắn nói đến Trình Thế Hùng tướng quân trấn thủ Hựu Châu tự tiện rời khỏi doanh trại, dẫn bộ hạ cũ tây hành, mở tiệc rượu đón tiếp Chiết Ngự Huân, ánh mắt Dương Hạo lúc này dường như mới nhắm lại, sức chú ý mới thu về, song trong ánh mắt hắn hiện lên một thứ cảnh giác mà không dễ bị người ta phát hiện ra, Mục xá nhân vừa chú ý đến ánh mắt của hắn, hắn đã trở lại bình thường.

“Được, tiếp tục chú ý tới hành trình của Chiết tướng quân, rồi bẩm báo lại với cô (tiếng tự xưng của vương hầu thời phong kiến), đợi hắn đến Hưng Châu, cô sẽ đích thân ra khỏi thành đón tiếp”.

“Vâng”. Mục Dư Kiều cung kính đáp một tiếng, thấy Dương Hạo bị kích động đi thẳng về phía trước, tuyết đọng khẽ rung lên phía chân hắn, mục tiêu chính là vị Dương Tuyết Nhi dùng sức rút con quay ra, đồng thời có tiếng cười hoan hỷ của A Cổ Lệ vương phi.

Mục Dư Kiều từ từ nâng người dậy, khóe miệng nở một nụ cười như đang suy nghĩ điều gì đó: “Trình Thế Hùng không tránh khỏi quá nhiệt tình với chủ cũ rồi, Dương Hạo há có thể bất giác nam kham. Ban đầu hắn cần tiếp Chiết Ngự Huân trở về, vốn muốn dựa vào quân tâm bộ hạ của Chiết gia mời chào, không ngờ tới tình hình như vậy? Ha ha, có họa cùng hưởng có phúc cùng chịu mà, với một lời thề sắt son đi Tịnh Châu xa xôi đón nghĩa huynh, đổi lời nói thì thành xuất thành đón rồi…”

Mục Dư Kiều khóe miệng đang mỉm cười bỗng dừng lại quay sang thái độ kính cẩn nghiêm túc, cất bước đi lên phía trước.

Dương Hạo xưng vương thay đổi chế độ, xây dựng một hệ thống quan lại hoàn toàn mới, yêu cầu đề bạt rất nhiều nhân tài vào triều đình mới, ban đầu hắn chiếm lĩnh Hạ Châu, khi trở thành định nan tiết độ sứ thì có rất nhiều người đọc sác ở Trung Nguyên không thành công đến cậy nhờ, mong được nổi bật tài năng ở đây và có sự nghiệp. Mục Dư Kiều chính là người mà thời điểm đó đến cậy nhờ Dương Hạo.

Hắn là một tú tài, trải qua kỳ thi, người này văn tài vô cùng tuyệt, ở dưới trướng Dương Hạo, hắn rất cẩn thận, làm việc chu đáo, trả lời đối đáp khôn khéo, dần dần đã nhận được sự ưu ái của Xung Phóng. Mãi đến khi Dương Hạo thành Tây Hạ vương, thành lập nội các và lục bộ, Xung Phóng là người góp sức ở triều trước tiến hành chọn lọc, từng người giả vờ trọng trách. Hắn là người được Xung Phóng coi trọng, được chức vị khởi cư xá nhân.

Chức quan này tuy rằng không cao, nhưng nó vô cùng quan trọng, ghi chép hành động thường ngày của Dương Hạo và đại sự quốc gia, đứng hầu ở Ngự điện, phàm là triều đình truyền lệnh đặc xá, lễ nhạc pháp độ, tăng giảm nhân cách, thưởng phạt trách cứ, văn võ quần thần tới nhận thưởng, thời tiết bốn mùa, tình hình hộ khẩu, bố trí châu huyện đều phải được ghi chép gọn gàng lại.

Ngoài ra hắn còn phụ trách chức quy gián quân chủ, từ khi hắn làm khởi cư xá nhân thì được Dương Hạo tín nhiệm, giờ Dương Hạo lại tăng thêm vài thông báo cho hắn, quyền lợi truyền tin cấp khiến hắn và Phi Vũ Tùy Phong tổ chức điệp báo duy trì mối liên hệ thích hợp, có thể nói, con người đầu ba này đã trở thành một tâm phúc bên cạnh Dương Hạo.

“Cha, cái thứ này chơi hay lắm, cha thử đi…”

Dương Tuyết Nhi chạy tới phía trước, chăm chú nhìn con quay, A Cổ Lệ vương phi vội cầm lấy roi, sợ giật phải nàng, A Cổ Lệ vương phi dưới chân là một đôi dây ngựa dài, động tác trọng tâm không ổn, lập tức bị trượt, như sắp té ngã”.

“Vương Phi cẩn thận”.

Dương Hạo vội xông lên phía trước, đỡ lấy eo nhỏ nhắn của nàng, thân thiết nói: “Vương phi phải cẩn thận chứ, mặt băng rất trơn”.

“Đa tạ đại vương giúp đỡ, gọi ta là A Cổ Lệ là được rồi”. A Cổ Lệ đứng dậy, không muốn để lại dấu vết bàn tay to của hắn.

Mới vừa rồi nàng bị trượt ngã, váy bị thổi lên giờ đã rủ xuống, không làm lộ gì cả, quần lụa trắng bị lộ ra một góc, chiếc quần được nhét vào trong ủng, đôi chân được bó càng thêm thanh tú, đôi chân thon dài thẳng tắp, cho dù bên trong được cuốn vải thêm dày, chỉ nhìn thôi cũng đủ khiến người ta tưởng tượng ra đôi chân thon dài của nàng như thế nào.

Song Mục Dư Kiều vừa nãy chạy đến chỉ nhìn thoáng một cái rồi đã nhìn đi chỗ khác ngay, tuy hắn cũng chú ý tới ánh mắt thèm muốn của Dương Hạo, nhưng Dương Hạo đã biết, hắn không thể nhìn tiếp được, có thể làm việc bên đại vương chẳng lẽ lại là cái thứ không có mắt.

Dương Hạo đến bên Hoàng hà, du ngoạn sơn thủy, mục đích chính là đi tuần, quan sát xem những nơi gần với đô thành. Dương Hạo đã hoàn thành xây dựng quan thể, các chức quan cũng đã nhâm mệnh xong xuôi, nhưng khá nhiều thuộc hạ của hắn với những văn võ bá quan quan trọng lại ở bên ngoài, một khi tiếng kẻng reo lên lại không nhanh chóng đến được, vì vậy hắn xưng vương đại điện tạm thời không thể hoàn thành được.

Lúc này thời tiết lạnh nhất của mùa đông đã trôi qua, nhưng mùa xuân vẫn còn chưa tới, mùa đông ở khu tây bắc là lúc chán nhất, dân gian nói mèo ngủ đông, nhiều người dân vừa vào mùa đông này chẳng có chuyện gì làm, quá nhàn rỗi nên như con mèo ở trong nhà. Giờ chỉ có mỗi vương phủ của thành Hưng Châu là nơi duy nhất náo nhiệt trong mùa đông, vì nó là nơi đang xây dựng.

Dương Hạo không có việc gì, liền bước đi xem Thuận Châu, Hoài Châu, Định châu, Tịnh Châu xung quanh Hưng Châu, rồi qua hai chỗ trại binh thăm nom. Là nơi quan trọng gần đô thành, hắn đương nhiên nên quan tâm mới phải, còn về mang theo đứa con phi tần, đương nhiên cũng có ý ngắm cảnh giải sầu.

Chỗ đang đứng hiện giờ là than lương thành, đây là trạm gần chỗ hắn ở nhất, và cũng là trạm cuối cùng, xây dựng nơi này thành một địa bàn tuần tra, là vì nơi đây là nơi cao nhất về sản lượng lương thực của Hà Tây, nơi này là khu giàu có nhất về nông nghiệp ở Hà Tây, hiện nay sản lượng lương thực chiếm bảy mươi phần trăm toàn Hà Tây, Dương Hạo đương nhiên không thể không coi trọng.

Sau khi tiếp cận quan lại địa phương được một ngày, trong hôm nay mấy quan của Các hòa hộ bộ cũng đi tuần tra cùng với quan địa phương, tiếp cận quan sát dân tình, mấy vị vương phi thì ở thành Tham Lương hội kiến với quan địa phương và những vị phu nhân của các sĩ thân địa phương, A Cổ Lệ vương phi tới đây là người nữ duy nhất, chẳng nói mấy lời với họ, ở đây người ta phát triển nông nghiệp, còn điều kiện của Cam Châu lân cận chỉ thích hợp chăn nuôi và làm công thương nghiệp, không thích hợp để phát triển cây nông nghiệp nên nàng chẳng có mấy hứng thú với chuyện này. Đúng lúc Dương Hạo mang công chúa nhỏ đến bên Hoàng Hà du ngoạn, Xung Phóng đại nhân cười nói theo vài câu, nàng bèn đi theo tới thành.

Dựa vào sự thông minh của Mục Dư Kiều, hắn có cảm giác đây là cơ hội mà Dương Hạo và những trọng thần thân tín cố ý tạo ra, lẽ nào Dương Hạo muốn tôn A Cổ Lệ làm phi sao?

Cũng khó trách Mục Dư Kiều nghĩ như vậy, qua cách thể hiện của Dương Hạo cho thấy, hắn dường như có ý này thật, A Cổ Lệ xinh đẹp mỹ miều, văn võ đều giỏi, hơn nữa còn là thủ lĩnh của hai mươi vạn người Hồi Hất Cam Châu, lập nàng làm phi thì không phải lo nghĩ gì tới việc khống chế hai mươi vạn người Hồi Hất này, đổi lấy bất cứ người nào thống lĩnh, như vậy có thể thấy rõ. Đây cũng khó trách mấy vị đại nhân Xung Phóng, Lâm Bằng Vũ gặp nhau vui mừng, có ý tạo cơ hội cho họ.

Song với tình hình như hiện nay, sợ rằng hoa rơi cố ý, nước chảy vô tình. Từ Dạ Lạc Hất lợi dụng nàng và toàn bộ bộ tộc làm kẻ chết thay, về sau tạo cơ hội cứu sống chính bản thân mình, vị vương phi này vô cùng căm hận đàn ông, chẳng hề có chút vừa lòng vì với bất kỳ ai, ngoài Dương Hạo là một đại vương thì còn kề cận, người bên cạnh cách ba trượng có thể cảm nhận được hàn khí phát ra từ nàng còn mạnh hơn cả thời tiết mùa đông.

Mục Dư Kiều chưa từng đến Cam Châu, đây là lần đầu gặp A Cổ Lệ vương phi nhưng hắn biết rất nhiều chuyện, là người bên cạnh Dương Hạo, còn có một mối quan hệ nhất định với nhóm Phi vũ tùy phong, dù hắn không tận mắt nhìn, đích tai nghe nhưng hắn vẫn có thể nghe ngóng được rất nhiều chuyện, dù cho người khác muốn moi tin cũng chẳng thể moi được tin.

“Nhóc này, đừng có chạy lung tung như vậy, cẩn thận kẻo ngã đấy”.

Sự lãnh đạm của A Cổ Lệ vương phi dường như Dương Hạo cũng cảm nhận được, hắn tiện tay ôm lấy nữ nhân, che giấu sự xấu hổ của mình: “San San đâu, ngươi dạy cho Tuyết Nhi chơi con quay sao?”

Dương Tuyết đắc ý nói: “Muội muội ngốc quá, ngốc quá, sao dạy cũng không dạy nên hồn, ta chơi chứ quay trơn đi, cho nàng ấy mượn tiểu bạch lang rồi”.

Dương tuyết nói xong quay đầu lại thấy, lập tức reo lên: “Oa, San San ngốc nghếch, đang làm gì vậy hả?”

Hóa ra vì để đại vương ăn cá Hoàng Hà còn tươi ngon nhất, quai lại địa phương đã mang hai nông dân tới bờ sông Hoàng hà phá băng câu cá, Dương San tận mắt nhìn thấy họ phá băng, và câu được những con cá khá to từ dưới lên, không khỏi ngạc nhiên thế là cũng thấy làm thích thú, không để ý tới sự ngăn cản của nha hoàn mình, hai tỷ muội nảy sinh ý nghĩ muốn đích thân câu cá.

Song cái nàng dùng không phải là mồi câu và lưỡi câu, công chúa nhỏ phát huy sức tưởng tượng của chính mình, gọi tiểu bạch lang được sùng ái mà tỷ tỷ thích nhất lại, ra lệnh cho nó nhúng đuôi vào chỗ khe nứt của băng. Dương Tuyết vừa quay đầu lại thì nhìn thấy đó chính là tiểu bạch lang đang ngồi chồm hỗm trên khe nứt của băng, chiếc đuôi dài nhúng xuống nước, không dám tốt cáo lời nào về vị chủ nhân nhỏ.

Dương Tuyết nhìn thấy rất tức giận, vội vàng nhảy ra khỏi lòng của Dương Hạo chạy về phía Dương San, Dương San vừa thấy tỷ tỷ mặt đỏ gay vội thấy được mình dường như sẽ gặp rắc rối thế là lập tức bổ nhào vào trong ngực tiểu nguyên bảo nàng ôm chặt lấy mình, dương tuyết chạy lại ôm lấy cổ tiểu bạch lang rồi rút nó ra khỏi kẽ băng, chiếc đuôi của nó dính băng, gấp đến mức Dương Tuyết hét toáng lên.

A Cổ Lệ vương phi thấy phát phì cười, cười ha ha, vừa cười vừa chạy lại giúp. Dương Hạo vừa chạy lại theo thì một tín sứ cũng vội vàng chạy lại giao thư tín vào tay Mục Dư Kiều.

“Chuyện gì vậy?” Dương Hạo dừng chân, quay đầu lại hỏi.

-----oo0oo-----

: Tây Hạ Vương

 Chương 67: Lại Chọn Hoa Khôi 

Dương Hạo giật lấy thư của Đinh Thừa Tông gửi đến, cẩn thận đọc một lượt, mặt nhoẻn nụ cười đắc ý: “Vu điền quốc, cô biết chứ, đó nhất định sẽ phái sứ giả tới, cô giúp hắn nhiều như vậy, chẳng lẽ lại không được báo đáp? Cao xương quốc mà, có vài điều vượt ngoài dự đoán của cô rồi, Niêm bát ca bộ và Khâu Từ quốc(tên nước cổ, ở Tây Vực, nay là huyện Khố Xa, Tân Cương, Trung Quốc) càng khỏi phải nói nữa, Khâu Từ vốn là hơi thở của ngưỡng ca lạp hãn nhân, niêm bất ca bộ lạc luôn thần phục Liêu quốc, sẽ không dễ dàng có thái độ từ chủ quyết định với một quốc gia, họ cũng đến triều kiến bổn vương, ha ha…”

Mục Dư Kiều mỉm cười nói: “Chúc mừng đại vương, chúc mừng đại vương, bởi vậy có thể thấy, các nước Tây vực đã coi đại vương là bá chủ đệ nhất tây vực rồi, nếu không thì bọn họ tới nịnh đại vương làm chi…”

“Ha ha….”

Dương Hạo vui vẻ, đắc chí nói: “Cô có thể từ một kẻ ăn mày mà xưng vương, hiện giờ có mảnh đất mười tám châu Hà Tây, cũng được tôn sùng quy nghĩa quân trương nghĩa triều của tôn sùng, chẳng mấy nữa vương quốc sẽ được mở rộng, hắc! mười tám châu, gần ba trăm vạn con dân, mở mắt nhìn thiên hạ, ngoài hai nước Tống Liêu ra còn có ai có thể bì với cô vương ta đây? Ha ha…”

Mục Dư Kiều thấy vậy vội thêm chúc mừng: “Đúng vậy ạ, đây mới chỉ là mấy năm thôi, đại vương đã trở thành bá vương tây vực, vào một ngày nào đó, đợi đến khi binh hùng tướng mạnh nhập vào Trung Nguyên, đại vương sẽ trở thành bá chủ thiên hạ”.

Dương Hạo lắc đầu nói: “Haiz, đông tiến Trung Nguyên, đó có thể là vọng tưởng. Tống quốc to lớn, dựa vào chỗ hoang tàn tây bắc ta, làm vua thiên hạ đâu đến lượt. Đại Tống có số lượng chiến tướng như mây, quân đội tinh nhuệ, đặt biệt là thừa sức người, với Liêu quốc vũ lực nổi tiếng thiên hạ vậy mà cũng chẳng với đến, nó không đến đánh cô là may mắn lắm rồi, cô nào dám vuốt râu hùm nào?”

Mục xá nhân cẩn thận nói: “Đại vương, Đại Tống mạnh thật đấy, cuộc chiến Hoành sơn, đại vương…”

“Hừ! Ngươi đừng nhìn vào mỗi trận chiến Hoành sơn, thế thì đã đáng là bao nhiêu, đó là vì cô lui không thể lui, con thỏ tức giận còn cắn người mà, cô không có đường lui thì phải dốc toàn lực, thành thì cũng được, mà bại thì cũng xong, không còn cách nào khác. Nhưng mà Tống quốc…trong Tống quốc loạn Ba Thục, ngoài thì Khiết Đan thèm muốn cho nên không dồn toàn lực ra tay với ta, cô có thể định cư ở Hà Tây này mà lập quốc, thiên thu muôn đời, truyền thừa không ngớt, đã là cái may mắn rồi, Hà Tây biên thùy xa xôi có thể làm chủ được Trung Nguyên ư?”

“Nhưng…thần cho rằng…Tống quốc dã tâm rõ ràng, một khi ra tay, chỉ sợ sẽ gây bất lợi với Hạ quốc ta”.

“Ha ha haaa…ý kiến của một thư sinh”.

Dương Hạo lắc đầu nói: “Đại sự quốc gia, há nói đánh là đánh được hay sao? Nguyên nhân tại sao? Tống quốc đã chiếm nơi màu mỡ nhất trong thiên hạ, họ chỉ muốn tranh giành một nơi duy nhất chỉ có U Vân, vì đó là bức bình phong che chở phía bắc của Tống quốc, tây bắc thì sao, đất đai khô cằn, Trung Nguyên gặm chả được, vương triều Trung Nguyên đều đưa ra kế sách xa xôi với tây vực, giờ nghị hòa với Tống, ta có thể bình chân như vại, tự mình làm vương, ha ha ha…”

Nói đến đây, Dương Hạo bỗng nhiên tỉnh lại, liền nói: “Những lời này, không được ghi chép lại, cô…chỉ nói ngoài với ngươi thôi”.

“Vâng ạ!” Mục Dư Kiều biết hắn còn chưa quen với địa vị mới nên vẫn còn dùng chữ cô để xưng hô, hãn hữu mới xưng trẫm hay ta gì đó, có lúc thì không chú ý nói tùy hứng nói vài câu gì đó, rồi lại quay sang dặn dò là không được ghi lại, đây cũng không phải lần đầu hắn làm thế, vì vậy cũng chẳng có gì là lạ, vội vàng đồng ý.

Cách đó không xa, Dương Tuyết mặt đỏ gay cố gắng lôi đuôi bạch lang, A Cổ Lệ vương phi tay cầm đoản kiếm, đứng ở bên cạnh chém cũng không phải, không chém cũng không phải, nàng chỉ cảm giác rất thích thú với đứa trẻ này, nhấc kiếm chỉ ngược lên, Dương Hạo thấy, liền bước tới phía bọn họ.

Mục Dư Kiều cũng muốn đi cùng, Dương Hạo xua tay nói: “Cô mang hai vị tiểu công chúa này đến sông băng ngắm phong cảnh bắc quốc mà thôi, ngươi không cần mất thời giờ đi cùng nữa”

Mục Dư Kiều chắp tay kính cẩn: “Đại vương, trách nhiệm của thần không chỉ có việc ghi chép việc quốc gia đại sự, còn là người phát ngôn của đại vương nữa ạ”.

Dương Hạo không kiên nhẫn nói: “Nhàm quá, cô giờ đi làm bạn nữ nhân mà thôi, ngươi muốn ghi chép gì nữa đây, lẽ nào cô về cung rồi, khi ở cùng với phi tần, ngươi cũng đứng bên ghi chép hay sao?”

Mục Dư Kiều sợ hãi nói: “Thần không dám ạ, thần nào dám bất kính như vậy chứ. Nhưng mà đại vương chỉ cần lên triều, xuất cung, thần phải đi theo bên cạnh ghi chép hết thảy, đây là trách nhiệm của thần mà…”

“Thôi được rồi, được rồi, quy tắc chẳng phải do cô đề ra hay sao? Ngươi nhớ lấy, về sau khi trẫm ở bên cạnh nữ nhân, không cần ngươi đi theo, đây được tính là ranh giới, ngươi đợi ở đây, dám bước qua nửa bước, cô sẽ chặt cái đầu ngươi”. Dương Hạo nói rồi xoay người bước đi, Mục Dư Kiều chỉ đứng nguyên tại chỗ cười.

Dương Hạo đi một lúc lâu, cầm đuôi to của tiểu bạch và chẳng có cách nào, cuối cùng phải gọi hai nông phu bào băng lấy cá đến, bảo họ bào tảng băng to để lôi cái đuôi lang ra, tiểu lang ngâm dưới băng, chỉ biết kêu rên, Dương Tuyết hét toáng lên, nước mắt dàn dụa, Dương Hạo thấy vội vàng chạy tới nựng.

Vào lúc này, mục xá nhân lại nhận được một công hàm, hắn mở ra xem, không khỏi sợ hĩa, việc này hắn không dám trì hoãn, song Dương Hạo lại kẻ đường vạch không cho hắn bước qua, hắn nào dám bước, có thể được chọn làm việc bên cạnh Dương Hạo, đúng mực là ưu điểm của hắn. Hắn đứng nguyên tại chỗ, quơ công hàm mà gọi: “Đại vương, đại vương, có tin tức quan trọng từ Hưng Châu”.

Tin mà mục xá nhân vừa nhận được là tin mà Tiêu Quan bên đó mang đến. quân Tây Hạ và ba ngàn bộ đội sở thuộc trấn thủ Tiêu Quan đã xảy ra trận chiến. Tiêu Quan là con đường cần phải đi qua của Hà Tây lũng hữu, đương nhiên, nếu như trừ có người vượt núi đi qua, thế thì Hà Tây lũng hữu sẽ không có gì che chắn, có thể nói đâu đâu cũng là đường, nhưng sơn lộ như vậy nhân mã đại đội không thể qua được, đại đội nhân mã để tiện cho việc qua lại, thì lương thực mang theo không được quá nặng, nếu không cần nói đến ngựa cũng cần phải chở cả vũ khí chiến tranh nữa, vì vậy bị vây trong núi Tiêu Quan, mà đó lại là con đường duy nhất để cho đại quân nhân mã đi qua, điều đó chứng tỏ tầm quan trọng của nó.

Cho nên, cho dù là ban đầu phòng bị Lý Quang Duệ cũng tốt, giờ phòng bị Dương Hạo cũng tốt, Tiêu Quan là yếu địa quân sự mà thủ lĩnh Thổ Phiên coi trọng nhất, ở đây đóng quan có đến bảy vạn tộc quân, mỗi người làm một nơi hiểm yếu, đóng bảy vạn tộc quân hơn nữa già trẻ trai gái có đủ cả, chỗ này thực sự là bức tường sắt.

Song bên này Dương Hạo cũng không phải hoàn toàn bị mất địa lợi, chỗ Tiêu Quan còn có Đâu lĩnh. Thượng Ba Thiên không phải là toàn bộ sơn thế chiếm cứ, quan sát vùng đất bằng phẳng Hà Tây, vào thời điểm Lý Quang Duệ, định nan quân chiếm lĩnh Đâu lĩnh, hơn nữa ở đây cũng đã xây dựng doanh trại, Dương Hạo sau khi tiếp nhận định nan quân, thủ quân này đương nhiên đầu vào Dương Hạo, song xét về địa thế, đoạn yếu đạo khó tấn công nhất nằm ở lũng hữu Thượng Ba Thiên, mấy ngọn núi bên Hà Tây chiếm lĩnh toàn toàn không thể so sánh được.

Thượng Ba Thiên vô ý khai chiến với Dương Hạo, La Đan cũng là thủ lĩnh của bộ tộc Thổ Phiên, hơn nữa hiện giờ lũng hữu luôn đối nghịch với hắn, tuy nói thế lực La Đan còn kém xa hắn, song không phải muốn diệt là diệt được, hơn nữa hai bạch lang của Lý Kế Quân và Dạ Lạc Hất vừa đến, sự nóng hổi nhiệt tình còn chưa vội đập móng, cướp người, giật tiền bạc, cố tình ngầm đồng ý và ủng hộ của Tống quốc, hắn lại không thể trở mặt, cho nên lúc này tuyệt đối không muốn trêu chọc Dương Hạo.

Vấn đề nằm ở chỗ, hắn không muốn, có người muốn, người này chính là Lý Kế Quân.

Lý Kế Quân đả khởi cờ hiệu người Đảng Hạng ở trên địa bàn của hắn, với thân phận là Đảng Hạng thiếu chủ trắng trợn lôi kéo tộc người Đảng Hạng lũng hữu, Thượng Ba Thiên nhìn vô cùng chướng mắt, song thủ đoạn mà Lý Kế Quân dùng vô cùng bình thản, Thượng Ba Thiên lại không thể lật mặt, đành linh hoạt mà ra tay. Cho hắn một mảnh đất ở ần với Tiêu Quan để hắn giupws việc phòng thủ Tiêu Quan cho xong.

Thượng Ba Thiên biết Lý Kế Quân tuy không đồng lòng với mình nhưng với thái độ của Dương Hạo tuyệt đối nhìn với ánh mắt hình viên đạn hơn hắn, thề không đội trời chung, điều hắn đi, nói trắng ra là sự sắp xếp không hợp lý bất quá. Song, hắn nhất định không thể ngờ rằng, Lý Kế Quân còn tích cực, còn chủ động hơn cả hắn tưởng tượng.

Dương Hạo đã xưng vương, ý nghĩa quan trọng hơn cả ban đầu mới xưng Hoàng đế. Bất kể ai cũng biết, ban đầu khi hắn xưng vương đang tác chiến với Tống quốc, vị Hoàng đế này về căn bản không được thế lực các phương thừa nhận, coi như nội bộ Dương Hạo, đặc biệt rất nhiều người không coi là thật. Nếu ngươi nói một tiếng ta cần làm Hoàng đế thì nếu như có được coi là Hoàng đế thật, từ cổ chí kim có biết bao lớp người quê mùa tạo phản, Sơn đại vương chiếm núi đã từng khởi quốc hiệu, xưng Hoàng đế, há chẳng phải đều đã ghi vào sổ đế vương rồi sao?

Nhưng giờ thì khác hẳn, Dương Hạo giờ xưng vương, tuy xưng thấp hơn Hoàng đế trước đây, rõ ràng được Tống quốc thừa nhận. Tống quốc là quốc gia có tính pháp lý về sự tồn tại chính quyền Dương Hạo duy nhất, Tống quốc đồng ý, thế thì chính quyền Dương Hạo của Hà Tây hiện giờ không còn là thảo đầu vương nữa mà là một vương quốc chân chính. Chính quyền của hắn, quan phủ của hắn, văn võ bá quan của hắn, từ nay trở đi tồn tại một cách chính thức, mặc dù có hướng Tống quốc xuất sứ thì cũng sẽ được coi là thân phận sứ thần.

Lý Kế Quân làm sao có thể chờ đợi được? Giang sơn ở đó, quận đội ở đó, tất cả đều ở đó, vốn dĩ đều là của hắn, giờ Dương Hạo đường đường chính chính xưng Tây Hạ vương rồi mà hắn lại rơi vào bước trầm luân này sao? Vào thời điểm Dương Hạo chuẩn bị khai quốc, hắn không làm ra chút chuyện thì không phải là Lý Kế Quân rồi.

Thế là Lý Kế Quân vội chạy tới Tiêu Quan, sau khi xây dựng doanh trại của mình xong, việc đầu tiên hắn làm chính là đi gặp đại tướng Thổ Phiên trấn thủ Tiêu Quan Hô Diên Ngạo Bác, việc đầu tiên gặp được Hô Diên Ngạo Bác chính là hiến mỹ nữ yêu kiều, cửu phu nhân xưa nay tuy châu thứ lại Lý Phi Lộc cưng chiều nhất, đầu giường của Lý Kế Quân nhân hoa phi điệp bị hắn coi là nước cờ đầu cho Hô Diên Ngạo Bác.

Đối với khối thơm ngào ngạt này, mềm và thơm, miếng bánh ái giường cấp phẩm, Hô Diên Ngạo Bác cảm thấy rất sảng khoái và vui vẻ nhận lấy, sau khi vui vẻ thì mỉm cười từ chối đề nghị Lý Kế Quân đầu độc hắn xuất quân tấn công Tây Hạ, dâm đãng chạy về phòng ngủ của mình thử nghiệm hiệu quả ái giường của nước cờ đầu.

Hô Diên Ngạo Bác không sợ đánh giặc, hơn nữa còn rất biết đánh giặc, là đại tướng đệ nhất thuộc hạ Thượng Ba Thiên, đồng thời hắn còn là huynh đệ kết giao của Thượng Ba Thiên, rất trung thành và tận tâm với Thượng Ba Thiên. Chưa có lệnh của tbt, hắn sẽ không xuất một binh một tốt nào cả, lễ vật thì hắn có thể vui lòng nhận, đề nghị xuất binh hắn chần chừ và cười trừ.

“Vương bát đản này không nói”.

Lý Kế Quân mắng một thôi một hồi nhưng hắn là mới thực lực làm sao dám so sánh với Hô Diên Ngạo Bác, và còn không dám đắc tội hắn, chỉ có thể tự nghĩ ra cách, cách mà Lý Kế Quân nghĩ ra chính là phái một đám bộ đội đánh úp binh tâ hạ đóng quân ở trên Đâu lĩnh, sau đó dụ họ tới phạm vi phòng ngự của Hô Diên Ngạo Bác. Kế sách dụ địch của hắn quả có tác dụng, sau năm lần bảy lượt bị quấy rầy, kết quả bên Tây Hạ đã mất một doanh trại.

Doanh trại đã mất, Đâu lĩnh hạ quân chủ tướng còn dám coi thường ư, vừa cầu viện quân đội đóng quân Vi Châu, vừa phát phản kích, hai việc này đánh như vậy, Dương Hạo nhận được tin chính là hậu quả tiền căn sự kiện.

Dương Hạo thấy bức báo quân tình, phản ứng đầu tiên là: Trúc Vận và Cẩu Nhi còn ở Biện Lương, Diễm Diễm cũng đang dần dần ra khỏi sự khống chế của Phi Vũ, mà tổ chức điệp báo vẫn đang tăng tốc cung cấp những thông tin tình báo sát ván nhất, xem ra cơ cấu tổ chức ban đầu rất thành công, có thể làm phế lập bất nhân nhân, cho dù nhân vật đầu não thay đổi thế nào, trước sau bảo đảm hoạt động có hiệu quả. Đây mới là cơ cấu hoàn thiện.

Phản ứng thứ hai chính là: Tử Du quả nhiên là nữ trung Gia Cát. Ban đầu có thể ý kiến của Tử Du mới bỏ qua Dạ Lạc Hất và Lý Kế Quân, đặt họ đến lũng hữu, hai người này quả nhiên không phụ công sức, mọi hành vi của họ ở lũng hữu thực sự còn hơn giết họ, còn có giúp đỡ cho ta. Tử Du, nha đầu này sẽ theo Chiết đại ca trở về rồi ư? Chẳng có chút tin tức nào của nàng cả…

Mục xá nhân cẩn thận theo dõi sắc mặt của hắn, thấy hắn xem xong tấu báo sắc mặt thay đổi nhanh chóng, và cuối cùng thì lại lấy lại được tinh thần, quay ra hỏi: “Đại vương, không có ý chỉ của ngài, Vi Châu không thể xuất binh, dựa vào thủ quân Đâu lĩnh thì không phải đối thủ của Hô Diên Ngạo Bác, người xem chuyện này…”

Dương Hạo trầm ngâm một lúc sau nói: “Bên Đâu lĩnh cô không rõ lắm, với thực lực của Thượng Ba Thiên thì càng không rõ, về trước cái đã, đợi mấy vị đại thần trở về thương lượng bàn bạc cho cẩn thận. Dù thế nào đi nữa, cô lập quốc sắp tới, sứ giả các nước sẽ chạy tới, Thượng Ba Thiên gây hấn như vậy, cô không thể không lấy nhan sắc, nếu không chẳng phải để người ta xem nhẹ cô gia sao?”

“Bảo bọn họ tiếp tục du ngoạn, chúng ta đi”. Dương Hạo bước nhanh về phía trước, Mục Dư Kiều quay đầu rồi chạy nhanh theo.

***

Diêm Châu sản xuất muối ăn, muối ở đây không những có thể cung cấp được cho các châu Hà Tây mà còn có thể vận chuyển được cho Liêu quốc và Tống quốc. Bản thân Liêu quốc cũng là nơi sản xuất ra muối, nhưng muối ở bên đó xa nên không thu được muối tinh khiết như ở đây, cho nên để không đánh sâu vào kinh tế sản xuất muối của nước này, hai nước đều có chính sách bảo hộ với muối phá giá Hà Tây, đặc biệt là Tống quốc, căn bản không phê chuẩn cho bán muối, nhưng chất lượng muối Hà Tây ngon, giá cả thấp, vì cái lợi mà lén buôn lậu phần lớn là nhiều, vì vậy cũng đã tạo thành phồn hoa của Diêm châu.

Hiện nay trong các châu Hà Tây đất đai màu mỡ nhân lực dồi dào quy mô thương nghiệp mà nói, bất kể là Hạ Châu hay là đô thành Hưng Châu mới thành lập của Dương Hạo đều không bằng Diêm Châu. Vào giờ này, nhà Chiết Ngự Huân với đội ngũ kỵ binh tám trăm người vừa mới đến Diêm Châu. Vì thương nghiệp ở đây phát đạt, rất nhiều đại muối thương bán sỉ bán lẻ muối, cho nên có rát nhiều nhà có sân tráng lệ, hạ trang… cho nên quan lại địa phương rất dễ tìm được một thương nhân muối lớn, một ngôi nhà lớn cho người nhà Chiết Thị.

Ngôi nhà này mọi vật hết thảy đều có, ngay cả nô bộc người hầu cũng không rời đi, người nhà Chiết Thị từ xa tới đây được chăm sóc vô cùng chu đáo. Đi một quãng đường khá xa xôi, mỗi tòa thành đều cần phải đi qua, đặc biệt là từ chỗ này lại đi về hướng tây đến Linh châu, ở giữa không có tòa thành nào to lớn, mà sa mạc tám trăm dặm, Chiết Tử Duu ưa sạch sẽ đương nhiên phải tận dụng cơ hội hiếm có này đi tắm rửa một phen.

Nước thơm sớm đã được chuẩn bị, được cho thêm cả bạch chỉ, vỏ đào, lá bách, linh lăng, hương thanh mộc…nước ấm vừa đủ tỏa khói nghi ngút, nhẹ nhàng bước vào trong thùng nước, làn nước ấm áp chạy trên toàn cơ thể, tất cả mệt mỏi tan theo hư không, Tử Du không khỏi sung sướng hít một hơi dài.

Nhẹ nhàng lùa nước, đôi tay ngọc té nước lên cơ thể, nước chảy nhẹ nhàng qua xương quai xanh rồi bốc hơi lên, làm cho khuôn mặt nàng lúc ẩn lúc hiện giống như một thủy ngọc quan âm.

Đi xa Hưng Châu thêm một bước là gần với Dương Hạo thêm một bước, nàng không khỏi rung động, từng trải qua những lúc oán giận âu lo, tình cảm lúc đậm lúc nông, sau khi Dương Hạo cam lòng lấy ngọc tỷ đổi toàn gia đình nàng, giờ quay đầu lại nhìn giống như một người trưởng thành nhìn lại những chuyện khi còn thơ bé, với những tiếng cười, chỉ có lúc đồng niên ấu thơ mới thơ ngây đến vậy.

Nàng cảm nhận được linh hồn mình đã hoàn toàn rời rã, cho tới nay, cơ thể nàng trói buộc quá nhiều thứ gì đó, còn hiện nay, cả nhà đắc tha sinh thiên, nỗi vướng bận lớn nhất đời nàng đã được giải, đến ý nghĩ mang theo rất nhiều chuyện không cam lòng, khi no đói chua xót, nàng nhìn lại đã không còn đáng giá nhắc tới nữa, gánh nặng đặt trên vai nàng nặng như núi đã được gỡ bỏ, khiến cho con người như phiêu như bay.

“Hạo ca ca…”

Đôi tay khẽ nghịch nước ấm, mơn trớn theo cơ thể mình, con ngươi nàng đen láy sáng lên, khuôn mặt hé nụ cười rồi ngượng ngùng như hoa đào. Hắn chỉ nhớ hắn trong lòng, giờ lại chỉ nhớ đến hắn là được rồi, khi nhớ tới hắn, hắn sẽ trở nên tốt đẹp hơn, hơn nữa sự ấm áp, sung sướng này cũng giống như làn nước ấm thơm ngát đang làm ấm lòng nàng này.

Hóa ra…hóa ra…khi lòng muốn tốt sẽ là điều tốt thôi. Khó trách Hạo ca ca nói: Nếu như trong lòng có thiên đường, mà cơ thể đang ở địa ngục thì cũng là thiên đường. Nếu như trong lòng là địa ngục mà con người ở thiên đường thì cũng là địa ngục. Đúng rồi, câu nói này là Hạo ca ca đã nói với Đường Diễm Diễm, chàng nói vì chàng nói câu này rồi sẽ làm Diễm Diễm hiểu lầm, nghĩ lầm hắn sinh chuyện với Diễm Diễm…

Khẽ thở dài một tiếng: Đúng vậy, lúc này là hiểu lầm, nhưng về sau sẽ là giả thành thật. Nghĩ đến dĩ vãng, nghĩ đến Đường Diễm Diễm, mắt nàng hơi mờ mỠnàng cười một cách thản nhiên, trong nụ cười, khá nhẹ nhàng…

***

“Đại ca?”

Chiết Tử Du tắm táp khá lâu, cứ như ngày mai phải làm tân nương vậy, tắm rửa trong nước thơm, tắm rửa thật sạch sẽ, không chút cặn bẩn, rồi mới mặc quần áo vào, đi ra khỏi phòng tắm. Đây là chỗ thương nữ tắm rửa chính là ở trong phòng ngủ, đi ra chính là bàn trang điểm, giường nhỏ, bức bình phong tám cánh ngăn cách gian ngoài là bàn tròn gấm.

Vì bình phong đó nửa trong suốt, còn chiếc bàn lại đang thắp đèn cho nên vừa ra cửa phòng tắm, bức bình phong nhìn xuyên được thấy một người đang ngồi ở bên chiếc bàn uống trà, chỉ nhìn dáng người nàng cũng nhận ra đó là đại ca của mình, huống hồ tấm bình phong lại nửa nhìn thấu không thể che được khuôn mặt của đại ca.

Chiết Tử Du đã mặc xong quần áo ngủ, lúc này đang thắt lại dây, bước nhanh qua tấm bình phong, Chiết Ngự Huân đang cầm chén trà nhấp miệng, chợt nhìn thấy nàng ra, mỉm cười hiền hậu nói: “Ngồi đi muội”.

Chiết Tử Du ngồi bên cạnh, cười nói: “Đại ca, sáng sớm ngày mai phải lên đường rồi, sao ca không đi nghỉ đi, có gì muốn nói với muội sao?”

“Ừm, thực ra là có vài điều muốn nói với muội, hơn nữa còn là điều rất quan trọng nữa kia”.

Chiết Tử Du nhoẻn miệng cười, ngồi xích lại cạnh hắn, đại ca tối muộn thế này còn tới tìm nàng, chắc chắn là có chuyện quan trọng rồi, song nàng không thể nghĩ ra nổi liệu có chuyện gì quan trọng mà cần bàn bạc với nàng như vậy, lẽ nào…lẽ nào là hôn sự của nàng sao?

Tim Tử Du giật thót, mặt có chút mất tự nhiên, vội cầm lấy bình trà, rót ngay cho mình một chén, che dấu ánh mắt nói: “Đại ca, có chuyện gì vậy?”

Chiết Ngự Huân liếc mắt nhìn nàng, nhìn trái, nhìn phải, nhìn cả người nàng không được tự nhiên, liền hắng giọng nói: “Nhìn gì mà nhìn chứ, người muội có cái gì hở ra sao?”

Chiết Ngự Huân cười hắc hắc, lắc đầu nói: “Tiểu tử đó, giờ mới để ý muội. Việc này cho dù là có liên quan trong đó cũng đại khái không biết chút nào, còn muội…lại không liên quan, hắn lại dặn dò ta giao đãi với muội, thực hiếm thấy”.

Chiết Tử Du lập tức hiểu tên tiểu tử mà đại ca nói là ai, vì vậy càng thêm tò mò, vội hỏi: “Chuyện gì vậy ca, nói cho muội biết được không?”

Chiết Ngự Huân uống ngụm trà nói: “Ta nghe nói, khi hắn làm quan ở Biện Lương đã từng tổ chức cuộc thi tuyển hoa khôi, có rất nhiều hình thức, còn bố trí cả vở kịch, ca hát, cả thành Đông Kinh chẳng ai không biết”.

Chiết Tử Du bĩu môi, khinh thường nói: “Hắn mà lị, làm khổ người ta. Lấy việc công làm việc tư, chọn đi chọn lại, một hoa khôi Hoa bảng, một hoa khôi Diệp bảng, đều chọn vào trong nhà riêng của mình, ca hỏi chuyện này làm gì vậy?”

Chiết Ngự Huân nhìn chăm chú nàng, nhoẻn miệng cười, uống một hớp trà nói: “Ừ, tứ đại hành thủ tranh giành nhau, khiến cho người của toàn thành Đông Kinh đều rộn rịp cả lên, kỳ thực thì sao? Chuyện này đều là do hắn làm ra chứ sao, tứ đại hành thủ trước cuộc thi tuyển chọn hoa khôi đã biết trước kết quả về thứ bậc nhưng ưu điểm của ai nhiều nhất thì mãi đến khi công bố kết quả mới biết. Người của toàn thành Đông Kinh không hề biết hoa khôi hành thủ là nhà ai, chẳng hay biết gì, họ là người tham gia, lại cũng là người khách xem, hơn nữa đám quần chúng từ đầu đến cuối chẳng hay biết gì, hơn nữa từ lúc bắt đầu cho đến khi kết thúc quần chúng luôn cổ vũ, hắc! Tên tiểu tử này, ta cứ thấy như trò hề vậy?”

Chiết Tử Du như sắp phát điên, cầm lấy tay hắn hỏi: “Đại ca, rốt cuộc là có chuyện gì vậy?”

Nàng càng vội thì Chiết Ngự Huân càng điềm tĩnh, rất hiếm khi thấy muội muội của mình như thế này, hắn không mong muội muội của mình nặng nề, Chiết Ngự Huân lại chậm rãi uống hớp trà, ung dung phủi quần áo, thấy ánh mắt hình viên đạn của muội muội nhìn mình mới lên tiếng: “Tiểu muội, mấy hôm trước Trình Thế Hùng rời khỏi khu vực phòng thủ tới đón tiếp ta, cho rằng dù trước đây thế nào, giờ hắn là tướng lĩnh dưới trướng Dương Hạo, biết đúng mực, nếu như dám tự tiện rời khỏi nhiệm vụ công tác, còn không kiêng dè nói toạc ra, đã mất bổn phận, phải không?”

“Làm sao, điều muội nói không đúng? Hay là nói…ca ca muốn…”

Chiết Ngự Huân cười méo mó nói: “Nghĩ gì mà nghĩ? Coi như Phủ Châu vẫn ở đó, những điều ta nghĩ cũng chỉ là giữ lấy cơ nghiệp tổ tông, còn có dã tâm lớn hơn? Giờ chẳng còn gì nữa, Muội là đại ca váng đầu? Không biết tự lượng sức mình? Hơn nữa nói hắn dùng ngọc tỷ đổi đại ca về, đại ca chẳng lẽ lại vô tình vô nghĩa thế ư?”

“Thế thì…”

Lão Trình là một người ngay thẳng trung thành, hắn vốn là đầy tớ của Đỗ Trọng Uy sau khi Đỗ Trọng Uy chết đi, cây đổ bầy khỉ tan, hơn nữa hắn danh tiếng không được tốt, những người trước kia cũng không dám quan hệ với hắn, còn lão Trình…song chẳng qua là một đầy tớ của Đỗ gia, lại có thể hao hết tâm tư đón lấy gia quyến chủ cũ, phụng dưỡng như thường, sự trung thành này chẳng ai có thể so sánh. Hắn đến đón ta, là do tính tình cho phép. Song, lão Trình tuy nhìn như thô lỗ hào phóng kỳ thực lòng rất nhỏ nhen, hắn sẽ làm rầm rộ lên, dẫn đại đội nhân mã chặn đường dựng trại, mở tiệc rượu đón ta đơn giản vậy sao?”

Chiết Tử Du khẽ nhíu mày, nghi ngờ nói: “Ý ca là nói?”

“Hắc, đương nhiên là tiểu tử kia chỉ huy”.

Chiết Tử Du cảm thấy như rụng rời tay chân, bậm môi, dào dạt nói: “Hắn…Hắn ngược lại là có lương tâm…”Là trước mặt đại ca của mình, không nên khen hắn quá mức, nhưng nàng vẫn không nhịn được nói thêm một câu”.

Chiết Ngự Huân trợn trừng mắt: “Lương tâm cái rắm, giờ muội đương nhiên thấy hắn làm vậy đều là tốt cả, tiểu tử này cố ý sai lão Trình làm vậy, nhưng không phải là để đón lão ca của muội, chỉ muốn hại người mà thôi”.

“A…hại người ư?” Chiết Tử Du lại cuống cả lên.

Chiết Ngự Huân lúc này mới cúi người về phía trước, nói rõ đầu đuôi cho nàng nghe, Chiết Ngự Huân nói khá lâu, Chiết Tử Du nghe cũng khá lâu, đợi đến khi đã nói xong, Chiết Ngự Huân mới nói: “Giờ tiểu tử này mở trò diễn còn lớn hơn, lần này không những người xem chẳng hay biết gì, coi như người trong đó, rất nhiều cũng chẳng hề hay biết, hiểu thực sự ý đồ con người hắn có mà thành thần”.

Chiết Ngự Huân thò tay, xòe rộng năm ngón tay, rồi đặt xuống bàn lại nói: “Vốn dĩ, diễn xuất này không liên quan gì tới muội, song hắn lại dặn dò ta rằng, cần phải để cho muội biết tất cả, muội nói hắn có hải là rất coi trọng muội không nào?”

Chiết Tử Du trừng trừng mắt, bỗng nhiên khẽ cười kiểu khinh khỉnh, học theo câu nói của đại ca: “Coi trọng cái rắm, hắn…hắn rõ ràng sợ muội hẹp hòi, lo muội giận mà”.

Chiết Ngự Huân lại cười nói: “Thế muội nếu như không nghe được những lời ca nói hôm nay thì muội có hẹp hòi không?”

“Đương nhiên muội…” giọng nói đang to bỗng lẩm nhẩm nói, cổ hòng nàng nói không lên tiếng, đến nàng cũng không thể nghe được”.

Chiết Tử Du mặt đỏ như gấc vì xấu hổ, lớn tiếng: “Sẽ không có gì là hẹp hòi cả”.

Chiết Ngự Huân bĩu môi, không cho là đúng nói: “Có thật không?”

“Thật, thật mà”. Chiết Tử Du vội đổi chủ đề, mắt đảo một vòng nói: “Ngược lại được, thượng binh phạt mưu, lần sau phạt giao, lần kế nữa phạt binh, rồi lại công thành, hắn được coi như phạt mưu rồi. Song…muội thấy hắn làm vậy, ngược lại muốn nhất cử lưỡng tiện đấy”.

Lúc này Chiết Tử Du kiên nhẫn nói: “Không thể không dám nói, người hắn trọng dụng, phần lớn là những người bé nhỏ hoặc cùng đường, lúc này mới phụ thuộc vào hắn, sự trung thành với hắn không còn gì nghi ngờ, nhưng người thì chẳng ai hoàn mỹ cả, mỗi người đều có khuyết điểm của hắn, dựa vào mấy ngày ở Hạ Châu, đã có phát hiện ra rằng, nếu như nói, tướng lĩnh khởi vu lô phần lớn tự giác ưu việt, cho dù đối diện với quan lại cao hơn mình cũng ít vài phần cung kính, còn hàng tướng ta phần lớn là cẩn thận, cho nên có ý thức tiếp cận tương trợ lẫn nhau, hình thành một đoàn thể khác.

Lại thêm một ví dụ nữa, tính cách Đinh Thừa Tông có chút quái gở, tất cả tâm tư đều dành cho Dương Hạo, không mấy chú ý tới chuyện kết giao văn võ; Xung Phóng thì được Dương Hạo coi trọng, đặc biệt trải qua Lô Châu diễn võ đường, những học sinh mà hắn dạy bảo nên được trải rộng toàn quân, trở thành tướng tá nòng cốt, cho nên ngoài đối diện với Dương Hạo, đám người ít ỏi Đinh Thừa Tông, Xung Phóng có khí phái của nhân sư, thích cung phụng người khác. Còn Trương Phố cũng là văn võ toàn tài, có lập được nhiều chiến công lớn, không thua gì địa vị của Xung Phóng, bởi vậy gặp Xung Phóng cao hơn đỉnh, có chút không vừa mắt.

Chiết Ngự Huân cười nói: “Đây là chuyện quá bình thường rồi, coi như một nhà người cũng có người hợp người không huống hồ là thế lực mạnh như này, khi ta ở Phủ Châu, dưới trướng những tướng lãnh không phải cũng vậy sao? Mở tầm mắt mà nhìn a, lớn là cả quốc gia, nhỏ là một châu một phủ, giữa người với người, cũng sẽ có muôn vẻ vấn đề như vậy”.

Chiết Tử Du nói: “Vâng, nhưng, tình hình của Dương Hạo có chút đặc biệt, hắn quật khởi quá nhanh, đứng ở góc nhìn của nhân mã thuộc hạ, nhìn như cực thịnh, song cơ bản thì không ổn định, vì vậy, hao tổn người bên cạnh quan lại bất hòa, ảnh hưởng tới đại cục, còn ở chỗ hắn, một khi phát triển đến mức độ tương đối khó có thể điều hòa thì sẽ lại xảy ra những chuyện lớn tương đương. Huống hồ điều ta đưa ra không bao gồm phái Mô Ngư chân trong chân ngoài”.

Chiết Ngự Huân tiếp lời: “Ý của muội là?”

Chiết Tử Du cười đắc ý nói: “Muội nói hắn muốn nhất cử lưỡng tiện, ngoài muốn che đậy cái thứ cho là đúng, mục đích khác chính là thông qua việc giả diễn mà thật, đưa những văn võ bá quan dưới trướng ngầm bất hòa với nhau có cơ hội làm lại, và đều diễn lên sân khấu khiến họ ngẫm nghĩ, mối họa sẽ khiến họ từ bỏ.

Hơn nữa chỉ là khúc mắc trong lòng, quan văn võ họ biết thừa ra là diễn, đương nhiên sẽ không thực sự bất hòa nhưng trong số họ lại có những tính cách khác nhau, xuất thân cũng khác nhau và đó là nguyên nhân xung đột, do chuyện này, họ sẽ hiểu được chỗ xấu của cuộc tranh giành và sẽ nghĩ lại sẽ biết nơi nào là vầng ánh dương mà hướng đến, một khi giữa họ có thực sự xảy ra các kiểu xích mích, có hại vô ích cho người thì sẽ tự cảm thấy mà tránh, đó chẳng phải là nhất cử lưỡng tiện sao?”

“Ồ…”Chiết Ngự Huân vuốt râu, mắt hếch lên nói: “Điều này ta chưa nghĩ đến, nếu như là thực như vậy, thì đám người này đúng là giả dối vô cùng”.

“Đại ca, đây là thông minh có phải không ạ? Chưa từng thấy ca nghĩ ra cách thế này”.

Chiết Ngự Huân cười đứng dậy: “Tóm lại, muội hiểu được ý đồ hắn làm vậy là được rồi, đỡ phải giận dữ rồi lại bỏ trốn mất dạng”.

Chiết Tử Du dậm chân hờn dỗi: “Ca…”

“Ha ha, không nói, không nói nữa. Giờ ta đã nói với muội hết thảy rồi, ngủ sớm đi nhé, ngày mai còn phải lên đường nữa đấy, hắn thông minh cơ biến cũng tốt, âm hiểm giả dối cũng giỏi, tóm lại…dùng ở trên thân kẻ địch không phải dùng ở trên thân muội, như vậy mới tốt”.

Chiết Ngự Huân vỗ vai muội muội an ủi, quay người bước ra ngoài.

-----oo0oo-----

: Tây Hạ Vương

 Chương 68: Bố Cục 

Tiễn Chiết Ngự Huân đi, quay lại đóng cửa, dịch chuyển ngọn nến tới bàn trang điểm và ngồi xuống, nàng nhìn dung nhan xinh đẹp của mình trong gương, nàng nhẹ nhàng buông tóc xuống, mái tóc nàng rủ xuống, nàng khẽ vuốt nó, nghĩ ngợi.

“Pi! Không tiền đồ, ngươi rất nhớ người đàn ông đó sao?”

Ngón tay ngọc luồn qua kẽ tóc, nàng làm cái mặt quỷ trong gương, từ từ đứng dậy, khẽ cởi áo ngoài, đồ lót, da dẻ mịn màng trắng trẻo, đến nàng nhìn cũng thấy si mê, nhưng…

Ngón tay mân mê da thịt mình, từ lông mày xuống mũi, trượt trên đôi môi mọng, sau đó chuyển qua gáy, và trên bộ ngực căng.

Bộ ngực sữa, eo thon nhỏ, đôi chân dài thẳng tắp không có lấy một khe hở, giờ nàng đã là một người phụ nữ trưởng thành, tựa như quả chín, tươi ngon, đang chờ chủ nhân của nó hái xuống và nhấm nháp.

Mặt Chiết Tử Du ngày một nóng lên: Đúng vậy, ta muốn đàn ông, muốn tên xấu xí gài bẫy người kia…ức hiếp ta…

Ý niệm như vậy bỗng xuất hiện trong đầu khiến nàng hoảng sợ, cảm thấy quá xấu hổ liền trốn vào chăn, rồi từ từ kéo chăn xuống rồi giật chăn lên, Chiết Tử Du mở từ từ đôi mắt nhìn lên bức tranh cẩm tú có đàn cá vờn lá sen, thầm nghĩ: “Thế A Cổ Lệ thì sao? Có diễn giả làm thật không?”

Nguy hiểm của Tiêu Quan, chẳng cường địch có thể đoạt. Đó là một kẻ làm quan vạn kẻ ở nhờ, đóng quân ở Thượng Ba Thiên đó, không phải vì chỗ đó không chú trọng binh thì khó thủ, nguyên nhân thực sự là, bãi cỏ dưới núi, cây rừng trên núi vốn có thể nuôi được bộ tộc khổng lồ, có thể định cư lại, họ đương nhiên sẽ không cần chăn thả xung quanh để kiếm đồ ăn cho bộ lạc.

Lý Kế Đàm là tướng lĩnh Hạ Châu, Thượng Ba Thiên binh xuất Tiêu Quan, khi phối hợp với dân tộc Thổ Phiên Lương Châu và định nan quân tác chiến , hắn từng đánh với quân đội của Thượng Ba Thiên, hơn nữa đuổi một chặng đến Tiêu Quan, vô cùng hiểu địa bàn ở đây cho nên có quyền lên tiếng nhất.

“Ngoài ra chỗ Thượng Ba Thiên là nơi đóng trọng binh, điều mà lo lắng nhất là sẽ bị người ta tấn công từ nội bộ, dựa vào sơn thế nhất phương lũng hữu có thể không nguy hiểm, mà các phương lũng hữu gần kề nhất mới xác lập địa vị bá chủ của Thượng Ba Thiên, trước đây bộ Thượng Ba Thiên, bộ Đại thạch, bộ Tiểu thạch, bộ An gia, bộ Diên gia cùng nhau tranh đấu cũng rất ghê gớm, thế lực thủ lĩnh Thổ Phiên Thốc Bô, Vương Nê Trư không yếu hơn Thượng Ba Thiên, lúc đó căn cơ của Thượng Ba Thiên chủ yếu nằm gần Tiêu Quan, cũng chính là hai năm nay, được sự giúp đỡ của Tống quốc, hắn mới nhất cử trở thành thủ lĩnh chư bộ”.

Đinh Thừa Tông nói: “chúng ta không thể chỉ trông cậy vào đánh Tiêu Quan. Đánh được Tiêu Quan có tác dụng gì chứ? Thượng Ba Thiên là người mà Tống quốc giúp đỡ, nếu như chúng ta có thực sự đánh được Tiêu Quan, Tống quốc tất nhiên sẽ tới can thiệp, đến lúc đó chúng ta đông có quân Tống, nam có Thổ Phiên, nếu như hai mặt chịu địch như vậy, thực khó chống đỡ. Mục đích của chúng ta là củng cố lại địa bàn mười tám châu Hà Tây, mở rộng tầm ảnh hưởng của Hạ Châu ở các nước tây vực trở thành bá chủ tây vực, nhưng giờ Thượng Ba Thiên chủ động khiêu khích, cũng không thể ngoảnh mặt làm ngơ, điều chúng ta cần làm là chỉ dạy cho hắn một bài học”.

Xung Phóng đứng kế bên cũng nói: “Thời điểm lập quốc sắp tới, sứ giả các nước tây vực sẽ mau chóng đuổi tới, nếu như đối mặt với con chó Thượng Ba Thiên, chúng ta không có cách, đương nhiên sẽ bị chúng coi khinh, mấy tiểu quốc tây vực này, xưa nay bắt nạt kẻ yếu, thấy tình hình này tất sẽ nổi dậy sự bất kính với vương ta, cho nên dạy cho chúng một bài học là điều cần thiết”.

Lý Kế Đàm nói: “Nhưng, cho dù có binh mã gấp mười lần, muốn đoạt được Tiêu Quan cũng không phải là dễ, nếu như có mười lần binh mã địch, ở trong núi sâu không bày bố được thế trận thì phải giáo huấn hắn thế nào đây?”

Dương Hạo mỉm cười, thản nhiên nói: “Lý đại nhân, không cần địch nhân chí khí, diệt uy phong của ta, cô vương đánh trận, nếu như bị bắt bí, lực ta không bằng địch, chúng ta chẳng lẽ lại không dùng trí được hay sao?”

Dương Hạo đã hiểu được tất cả nói: “Không sai, dùng trí. Người Khương Hoành sơn đi qua núi như dẫm trên đất bằng vậy, nếu như leo lên ngọn núi nguy hiểm nhiều đá, nếu như điều một binh Khương ra trèo, tập kích quân địch bất ngờ, nội ứng ngoại hợp, chẳng lẽ không đánh hạ được mấy sơn trại ư? Cô không cần nhiều, hắn đoạt hơn một binh trại, ta đoạt của hắn ba sơn trại, còn chưa đủ ư?”

Mục xá nhân vội vàng ghi chép lại, nghe đến đây bỗng ngẩng đầu lên nhìn Dương Hạo, rồi lại vùi đầu ghi chép…

****

Đại lễ tây hạ lập vương long trọng hơn so với lần trước xưng đế. Ngoài các văn võ bá quan quan trọng ra đều đến Hưng Châu, các sứ giả các nước cũng đến, làm tăng thêm vài phần sắc thái quan trọng, song hai nước lớn Tống Liêu lần này cũng không có sứ giả đến.

Lại hộ lễ binh hình công lục bộ đều đã xây dựng thượng thư. Tiêu Nghiễm là sứ bộ thượng thư, Từ Huyễn là lễ bộ thượng thư, song hai người này vẫn chỉ là giả danh, Dương Hạo một khi không thể lập địa vị chân chính cùng ngồi cùng ăn với Triệu Quang Nghĩa, thân phận thực sự của họ không thích hợp, song do họ sớm đã làm việc thân cận với Dương Hạo trước khi Dương Hạo kế thừa định nan quân tiết độ sứ, cái dùng chính là giả danh mà giờ dùng cho nên vẫn chưa khiến người khác hoài nghi.

Khi vào thời điểm không quan trọng là cái tên này, giờ thân phận cao quý, thân phận vốn hư cấu đương nhiên cũng sẽ bị người ta coi là thật. Hai người nổi tiếng ở Giang Nam nhưng người mà nhận ra diện mạo của họ sẽ không xuất hiện ở đây cho nên thân phận hai người không bị lộ.

Dương Hạo lập quốc ban bố chức vụ. Tuy nói đã từng cân nhắc nhiều lần, yêu cầu xử lý công việc công bằng, nhưng đều bất bình, mỗi người có một cách nghĩ khác nhau, có người thích có người không. Ví như Phan Ân Kỳ làm hộ bộ thượng thư, Dương Kế Nghiệp hồi kinh nhậm binh bộ thượng thư, Lâm Bằng Vũ là hình bộ thượng thư, mấy người này không có ý kiến gì về chức vụ của mình.

Mà xảo thủ danh tượng Lý Hưng được nhậm công bộ thượng thư, đó là cái vui ngoài ý muốn của hắn. Đám người Mộc Ân Mộc Khôi nhậm tiền quân đô đốc, hậu quân đô đốc cũng rất hài lòng. Sa Châu Trương Thừa được là một thái sư tộc trưởng thế gia đức cao vọng trọng, địa vị cao như vậy, chức quan không thực quyền cũng không dị nghị, điều mà cảm giác mất mát là ngoài Thác Bạt Thị vốn cho rằng vài quý tộc được trọng dụng.

Kỳ thực trong tộc người Thác Bạt Thị, Dương Hạo cũng đã đề bạt một vài người, chủ yếu là theo Tiểu Dã Khả Nhi, Thác Bạt Hạo Phong hắn nam chinh bắc chiến, nỗi buồn bực là nhậm chức định nan quân trước đây, nhưng do nhiều thế hệ làm quan đã trở thành thế gia quan lại, thế lực quá mạnh, Dương Hạo sớm biết những người này có chút bất mãn, song nếu như không loại bỏ đám người ngồi không ăn bám nhàn rỗi, triều đình của hắn rất khó tỏa sáng lên được, vì vậy vẫn chưa cân nhắc cho bọn họ nhậm chức quan quan trọng. 

Những người này vốn đã rời ngoài hạch tâm thế lực của Dương Hạo, hơn nữa sau khi dời đô, rời bỏ mảnh đất căn cơ của họ. Tầm ảnh hưởng của họ đối với Dương Hạo vô cùng có hạn cho nên dù trong lòng bất mãn cũng chẳng thể tránh được. Song đại lễ kết thúc, bách quan bãi triều xảy ra chuyện bất hòa giữa ngũ quân đại đô đốc Trương Phố và nội các đại học sĩ Xung Phóng, lại cho họ một tia hi vọng.

Đại lễ kết thúc, bách quan bãi triều, ngũ quân đô đốc đại đô đốc Trương Phố rời khỏi triều đình, rất nhiều quan lại tướng tá đặc biệt là hệ nguyên Ngân Châu, hệ định nan quân lật lượt tiến lên chúc mừng: “Chúc mừng Trương đại nhân, giờ quan bái ngũ quân đại đô đốc, có thể nói là người đệ nhất võ tướng trong triều ta”.

Trương Phố chẳng hề vui vẻ, ngoài thì cười trong thì không nói: “Thôi thôi được rồi, có cái gì đâu chứ, đại đô đốc của ta có chuyện gì chẳng phải là cần thương lượng với hòa binh bộ Dương thượng thư sao. Còn về quyền điều binh xuất binh càng phải được nội các cho phép, chẳng có gì là giỏi cả, vẫn là Xung đại nhân, Thác nội các thủ phụ đại học sĩ chúng ta, đó mới là người dưới một người trên cả vạn người, ha ha…”

Lời Trương Phố nói có ý nghĩa vô cùng sâu sa, nụ cười trên mặt các quan cứng đờ lại, Xung Phóng đứng ở nơi không xa, bị một đám quan viên vây quanh chúc mừng, tuy nói hắn chưa nghe được đến lời Trương Phố nói, nhưng khó bảo toàn sau không cho ai nói với hắn, ai dám lúc này cười vui sướng chứ? Song, vốn dĩ những quan lại bất mãn với chức vị của mình lại cảm nhận được chút không bình thường, ánh mắt lập tức sáng lên.

Lời nói của Trương Phố khiến những người chúc mừng hắn cụt hứng, mọi người đang chuẩn bị tan, tiếng Xung Phóng nói khá to: “Trương đại nhân dừng bước”. Rồi bước nhanh tới gần Trương Phố.

“Trương đại nhân, lũng hữu Thượng Ba Thiên sở bộ Hô Diên Ngạo Bác nhiều lần xâm phạm ranh giới biên cương ta, Đâu lĩnh thủ quân hao binh tổn tướng, chưa thấy tấn công. Vài ngày trước, triều đình chọn binh Khương Hoành sơn giỏi vượt núi đánh úp cũng chưa thấy có hiệu quả gì cả. Thượng Ba Thiên nhỏ tí, lẽ nào còn có thể dung nạp hắn bừa bãi ư? Đại nhân, có thể đến phủ ta, chúng ta cùng thương lượng về tình hình chiến sự bên Đâu lĩnh Tiêu Quan hay không, loại bỏ nỗi phiền đại vương”.

Mặt mày Xung Phóng trầm xuống: “Trương đại nhân là ngũ quân đại đô đốc, lẽ nào chuyện này không phải là chuyện trong tầm tay đại nhân sao? Giờ khiêm tốn vậy, có vẻ bất thường?”

Trương Phố cười dài nói: “Nếu như đại học sĩ cảm thấy công huân của Trương mỗ không xứng đáng với chức ngũ quân đại đô đốc này thì có thể cáo với Đại Vương miễn chức của ta đây. Còn về qua phủ ta thì dạy, thực không dám, nếu như đại vương muốn Trương mỗ xử trí chuyện Tiêu Quan, đợi thấy ý chỉ của đại vương, trương mỗ đương nhiên sẽ tuân theo. Cáo từ”.

Trương Phố cung kính chắp tay, ngang nhiên đi. Xung Phóng nhăn mày, nén giận chờ phân phó, một bên lại đi ra Dương Kế Nghiệp, hai ba câu nói lôi kéo hắn đến. Người vây xung quanh chúc mừng bỗng nhiên cảm thấy ngại, đương nhiên là phải giải tán.

Muốn đạt được mục đích của mình đương nhiên không nhất thiết mình phải xuất hiện, nếu như có nhân vật mạnh hơn mình phá vỡ quy tắc hiện hành thì họ có thể theo được chỗ tốt của mình. Nhìn theo tình hình hiện nay, Trương đại đô đốc rõ ràng không lấy làm hài lòng với Xung đại học sĩ. Nếu như mê hoặc Trương Phố làm ầm lên mà đại vương chắc chắn thỏa hiệp, thế thì…

Đám đông trước mặt đương nhiên không tiện nói nhiều, song những người này đã hiểu tâm tư, trong lòng đều đã cân nhắc, chuẩn bị về sau qua lại nhiều với Trương đại đô đốc. Người đồng bệnh tương liên luôn dễ nói đến một điềm, coi như không thể tranh thủ càng nhiều điểm tốt, chí ít cũng đã bám được vào một nhân vật tầm cỡ.

***

“Quan nhân”

Vừa thấy Dương Hạo trở về, Đông Nhi, Diễm Diễm cùng tới đón. Đại lễ ngày hôm nay thực bận rộn, cuối cùng thì cũng cần hoàn thiết đãi sứ giả các nước, đợi đến khi mọi việc xong xuôi thì cũng đã là nửa đêm, lúc này mới có thể trở về nội cung. Một nước vừa mới thành lập, quy tắc cũng vừa lập, song Dương Hạo đã nói trước với người nhà xong xuôi rồi, khi mọi người quây quần bên nhau vẫn dùng cách xưng hô của thường dân, hắn không thích giữa vợ chồng, cha con được phân rạch ròi tôn ti, như vậy sẽ làm cho tình cảm mờ nhạt.

Cử động lần này vốn có Triệu Khuông Dận tiền lệ, Đông Nhi, Diễm Diễm mấy người đó cũng không phải là câu nệ không đổi, đương nhiên tự biết nghe lời. Song Dương Hạo còn triệt để hơn những gì Triệu Khuông Dận làm, rất nhiều quy tắc trong hoàng cung, không một quy tắc nào được sử dụng, sửa đổi vô cùng triệt để.

Dương Hạo nói: “Ngày đầu tiên, tân nương lên kiệu hoa, việc sẽ nhiều lên một chút, đã muộn rồi, mọi người còn chưa đi ngủ ư?”

Đông Nhi hé miệng cười nói: “Đây chẳng phải là ngày đại hỷ ư, Quan Nhân uống nhiều như vậy, chàng không sao là tốt rồi, ngồi lâu thì cũng mệt, ta đi ngủ trước, Tuyết Nhi, San Nhi và Tiểu Giai tối nay ngủ trong phòng ta”.

Đông Nhi dứt lời cười rồi đi, Diễm Diễm và Oa Nhi, Diệu Diệu cùng nhìn nhau, xấu hổ mặt hồng cả lên. Diệu Diệu nhanh liếc nhìn Diễm Diễm và Oa Nhi nói: “Thiếp…thiếp cũng đi ngủ đây”.

“Đợi ta một chút”. Oa Nhi cũng hơi ngượng ngùng vội đuổi theo.

Dương Hạo liền chặn lại, ôm lấy eo nhỏ các nàng cười nói: “Các nàng đều không cần đi đâu hết, chiếc giường trong phòng Diễm Diễm lẽ nào không đủ cho chúng ta sao?”

Oa Oa và Diệu Diệu mặt đỏ như gấc: “Quan Nhân…”, Diễm Diễm trừng mắt liếc nhìn một cái rồi chạy đi.

Khi mây gom thì mưa đến, ánh nến trong phòng đã lụi, cơ thể ngang dọc trên giường, kiều diễm”.

“Ò ó o o…”

Từ xa tiếng gà gáy vọng lại.

Con mèo Oa Oa cuộn tròng trong lòng Dương Hạo bỗng nhiên nở nụ cười.

Dương Hạo vuốt da thịt nàng, lười biếng nói: “Nàng cười gì vậy?”

Oa Oa khé hé mắt, liếc nhìn hắn nói: “Lang quân cả đêm hoang đường, trời đã sáng rồi, đây thực là đêm xuân ngày dài đêm ngắn, quân vương không cần lên triều buổi sớm ư?”

Dương Hạo cười méo mó nói: “Đây không phải là đại khánh ba ngày sao, nếu không…”

Hắn bỗng nhớ tới điều gì đó, quay người, đổi đầu giường, Oa Oa giật mình vẫn đang theo dõi xem hắn định làm gì, Diệu Diệu nằm bên cạnh cũng dựa sát vào hắn, hai người mỗi người một đùi trắng nõn gác lên người hắn. Duy chỉ có Diễm Diễm là cô gái chịu đựng nhất, nằm dẹp vào một góc giường, kéo toàn bộ chăn đắp lên người mình, nằm nghiêng và ngủ rất say.

Dương Hạo nói: “Nàng vừa nói thì ta nghĩ đến điều này, Xung Phóng hỏi ta, nước ta có mấy ngày phải lên triều sớm, triều định ra là mấy tiếng, ta còn chưa định được đây, ừm, phải đi định ra mới được…”

Dương Hạo suy tư một lát cười nói: “Định như này đi, năm ngày lên triều một lần, triều sớm vào giờ thìn tốt lắm”.

Nói tới việc lên triều vào buổi sáng, Dương Hạo không khỏi may mắn, may là vì đến triều Tống, đây nếu là Minh Thanh thì quá khủng bố rồi. Từ Hán đến mãi triều Tống, triều sớm thường là ba ngày một triều hoặc năm ngày một lần lên triều, triều sớm tuy có sớm có muộn, chênh lệnh không lớn lắm. Cho đến triều Minh, công việc do Chu lão gia tử tọa thiên hạ mới ngày ngày lên triều.

Các đại thần ở gần ở xa khác nhau, Lão Chu 6h đã lâm triều, các đại thần phải đi từ canh ba, 5h vào cung, ngày ngày như vậy chẳng khác gì tra tấn, lúc ấy cũng bởi vì có người không chịu nổi ngày ngày đi từ nửa đêm gà gáy mà phải rút lui từ chức. Có đại thần tên Tiền Tể còn viết cả thơ về vấn đề này.

“Nước ta mới thành lập, năm ngày lên một triều có ít một chút, hay là ba ngày lên một triều nhỉ?”

Diệu Diệu tuy mong ước được ở bên Dương Hạo nhiều ngày một chút, song biết trọng bên nọ khinh bên kia, không nhịn được nói.

Dương Hạo nói: “Tấu chương công văn mỗi ngày đều phải trình lên, nếu như có việc quan trọng, nội các vụ tất phải bẩm báo. Triều sớm hà tất phải thường xuyên như vậy làm gì, gây sức ép cho người ta, ăn không ngon ngủ không yên”.

Diệu Diệu nói: “Nhưng…”

Dương Hạo bỗng nhiên nhớ ra gì đó, vỗ lên người nàng một cái, giả vờ giận dỗi: “Quên ta và các nàng có ước pháp tam chương ư, quốc gia đại sự không được can thiệp nhé”.

Hắn vỗ vỗ không đau, song da thịt Diệu Diệu nõn nà, vỗ không đau nhưng cũng hằn lên chút hồng trên da thịt. Dương Hạo nói: “Thiếp biết tội của thiếp rồi, thiếp chỉ nghĩ…”

Dương Hạo nói: “Ta biết nàng có ý tốt, những lời nàng nói chẳng có gì là quá cả, nhưng, đây là kinh nghiệm mà bao nhiêu vương triều hưng suy đúc kết, cần cẩn thận lưu ý mới đúng. Một quốc gia cần có chế độ và trật tự nhất định, còn người nhà của đế vương thì chỉ là người bên cạnh quân vương không phải là người quản lý quốc gia, cho nên một khi làm quấy nhiễu tới trật tự vận hành, quốc gia tất sẽ tự bị hỗn loạn.

Ngươi tin mình sẽ không làm chuyện không tốt cho người khác, ta cũng tin nàng sẽ không làm chuyện không tốt cho người khác, nhưng các nàng một khi quan tâm tới quá nhiều, người bên cạnh nàng sẽ từ từ mà can thiệp vào, sự việc dần dà sẽ bị chệch phương hướng. Hơn nữa con của chúng ta sau này trưởng thành cần là người thông minh hoạt bát biết phải biết trái, chúng ta phải cho con một điểm đích mới đúng?”

Diệu Diệu mỉm cười, cắn môi gật đầu, bộ dạng ôn hòa, Dương Hạo thấy vậy đặt lên môi nàng một nụ hôn ngọt ngào, rồi cười nói: “Hôm nay dù sao cũng đã muộn, chúng ta làm tiếp chuyện đó một hồi nữa”. Nói rồi xoay người ngồi trên. Diệu Diệu vừa thấy vậy vội vàng xin tha: “Nô gia yếu lắm, xin lang quân thương…”

Dương Hạo quay đầu nhìn về phía Oa Oa, Oa Oa giật mình, vội xua tay: “Đừng tìm thiếp, đừng tìm thiếp”.

Diễm Diễm cũng bị tỉnh giấc, mở mắt, khoanh chân ngồi dậy, tay che lên miệng ngáp rồi quay sang hỏi:

“Con nào, con nào cơ ạ?”

Diễm Diễm vừa tỉnh ngủ sau một đêm say giấc nồng, bộ dạng mệt mỏi, hai mắt nửa mở nửa nhắm.

Mắt lim dim dần mở ra thấy Dương Hạo cười bỡn cợt trước mặt mình: “Vi phu nói cần tận dụng tam thiên đại giả, cúc cung tận tụy, vất vả cần cù, muốn tặng nàng một đứa nhỏ đáng yêu mà”.

Nói rồi, đôi tay hắn lật tung tấm chăn trên người, trong chốc lát hai người hợp làm một…

***

“Nhìn chàng kìa, lớn vậy rồi còn không biết tiết chế, bảo Diễm Diễm hầu hạ chàng là được rồi, tại sao lại bừa bãi vậy, hỏng thân mình thì làm thế nào đây”.

Đông Nhi bưng bát cháo ấm mùi thơm lan tỏa đến bên cạnh Dương Hạo, vừa bưng vừa nói, Dương Hạo cười hắc hắc nói: “Cung là hai ngày này ta cũng nghỉ ngơi, thoải mái một chút, đúng rồi, việc muốn nàng làm, đã bắt đầu chưa vậy?”

“Vâng”. Đông Nhi ngồi bên cạnh hắn, dịu dàng nhìn trượng phu ăn từng miếng cháo mà nàng bón cho, rồi nói: “Khởi tạo hoàng cung và nha môn, thuê lực lượng lớn dân chúng vì chiến tranh mà mất đi nhà cửa, những người này chẳng kế mưu sinh, làm thuê kiến trúc để lấy tiền công, trời đông gió rét này sẽ lạnh đói mà chết mất. Xung Phóng đã thông báo cho Lý Hưng, kế tiếp, sẽ để họ nhậm việc xây dựng phủ đệ cho quan viên, đợi đến khi hoàn thành mọi việc thì cũng đã mùa đông năm sau rồi”.

Dương Hạo hít hà mùi thơm của cháo nói: “Ừm, những việc này, chủ yếu là giao cho đám người Lý Ngọc Xương, không thể hoàn toàn ỷ lại Thừa Tự đường được, còn có rát nhiều thợ thủ công tay nghề tốt. những người này đã trải qua việc xây dựng một hai năm rồi, phần lớn đều có thể từ thiết kế đơn giảm mà bắt đầu nắm được tài nghệ, theo đó thì có thể để họ đi xây khách điếm, tửu lầu, hiệu cầm đồ…hà tây càng ngày một phát triển, thành thị cũng sẽ ngày một nhiều, kiến trúc xây lên không ngừng, có thẻ có vài người chuyên môn đi làm việc này”.

“Những ngành nghề khác cũng vậy, Diêm Châu có sản lượng muối lớn mạnh, Hạ Châu thì mạnh về tinh luyện kim loại, khu Than Lương thành thì có thế mạnh về nông nghiệp, còn Cam Châu là các loại thủ công nghiệp, da lông gia công nghiệp…à, thôi, việc của Cam Châu bên đó, ta có thể trực tiếp bàn với A Cổ Lệ”.

Đông Nhi gật đầu nói: “Thực ra, chàng vốn không cần thiết phải lo nhiều việc vặt như vậy, vị khởi xá nhân không thể dựa, cho hắn một chức quan khác không thể khởi đến tác dụng tương kế tựu kế sao? Thế là tốt nhất, bên cạnh chàng còn có một cơ sở ngầm giúp đỡ, những việc này còn để cho ta đi truyền lại lời của chàng. Đúng rồi…Chiết gia khi nào đi ạ?”

Dương Hạo ngừng một chút nói: “Ngày mai”.

“Thế…Tử Du thì sao ạ?”

Dương Hạo cười méo mó nói: “Cũng ngày mai”.

Đông Nhi khẽ nhếch khóe miệng nói: “Nếu như làm một hôn quân, sao không làm triệt để một chút đi, chàng đưa nàng ấy vào cung thì có ai dám cản chàng chứ?”

Dương Hạo cười nói: “Như vậy nào có được, ta hiện giờ chỉ cần làm được hai điểm là đủ rồi, một là bắt đầu bài xích dị kỷ, áp được những người uy hiếp ta, tận lực tập trung quyền lực. Hai là chí đắc mãn, công tư tiến thủ, ngồi chắc chắn ghế hà tây. Điều thứ nhất là việc cần làm mỗi một quốc gia hoàng đế mới lập quốc, ta đã làm rồi, hợp tình hợp lý với Triệu quan gia chưa làm tốt là cái vui bên ngoài. Điều thứ hai, ta vốn đã hiểu được, Triệu quan gia xem ra cũng coi là tầm thường thôi, nếu ta có nhiều thê thiếp quá thì cũng không hay”.

“Chàng ấy à, thực xấu tính, thế…đã ăn cơm rồi còn xem xem nàng ấy”.

Dương Hạo gật đầu: “Ừ, lát nữa ta qua đó”.

-----oo0oo-----

: Tây Hạ Vương

 Chương 69: Nguyện làm gió mạnh cuốn lấy chiến kỳ 

Dương Hạo đến chỗ ở của Chiết gia, lại không bị người nào gặp, tuy nói Dương Hạo giờ là quốc vương tây hạ, trên dưới Chiết gia phải theo lễ nghĩa song sự lạnh lùng thấu xương lại dễ khiến người ta cảm nhận được, không riêng sắc mặt Dương Hạo không hài lòng, đến mấy vương phủ thị vệ cùng tiến đến và Mục xá nhân cũng cảm thấy khó chịu thay đại vương.

Chiết gia có phản ứng như vậy, nguyên nhân là Dương Hạo đã cho Không Đầu đến Ngọc Môn Quan kết bái đại ca. Chiết tướng quân giờ là tuyên phủ sứ của triều đình Tống quốc, hắn ở Hà Tây chính là hạt trị của Tống quốc với Hạ quốc, coi như bất luận tư nghị, Dương Hạo cũng nên cung kính lưu lại đô thành thiết đãi mới đúng, nhưng Dương Hạo lại để cho họ đánh đến Ngọc Môn Quan.

Lý do của Dương Hạo cũng đầy đủ, Ngọc Môn Quan là tây đại môn của Hạ quốc, nơi kinh sợ quan trọng của các nước tây vực, Chiết đại tướng quân dù là tuyên phủ Hà Tây, điểm quan trọng này đương nhiên sẽ bất khả bất sát. Vấn đề nằm ở chỗ người nhà Chiết Ngự Huân đều được giữ lại Hưng châu, còn mình hắn thì bị phái đến Sa châu. Chiết Ngự Huân lần này đi là đi một mình còn Ngọc Môn Quan bên đó giờ người nắm binh là ai?”

Đó chính là chi trưởng trong chính thống Dương Hạo – Mộc Ân. Mộc Ân giờ là Đôn Hoàng phó đô chỉ huy sứ kiêm Ngọc Môn Quan tổng binh, binh bên đó đều là do hắn cai quản, lần này Chiết Ngự Huân đi vốn chính là bị nhìn ra, còn toàn môn Chiết gia thì giữ lại Hưng châu.

Song đứng ở lập trường của Dương Hạo dường như là không có gì sai cả, Chiết gia vừa về Hà Tây, Chiết gia cựu bộ Trình Thế Hùng, Nhâm Khanh Thư, Mã Tông Cường đám người họ thậm chí có rất nhiều các thế gia danh tiếng của nguyên phủ châu vui mừng khôn xiết, liên tục tiếp đón khách khứa, tiệc rượu là chuyện thường, bọn họ rất luyến tiếc chủ cũ, đổi ai cũng có thể không đổi cảnh giác?

Song chẳng qua lúc này mối huynh đệ Chiết Dương coi như đã kết thúc. Dương Hạo dùng ngọc tỉ đổi cả nhà Chiết gia về, vốn dĩ là hành động theo đạo lý, lúc này trước mắt rất nhiều người, chẳng qua là mua danh chuộc tiếng Dương Hạo, điều quan trọng vẫn là dùng ngọc tỉ đổi lấy ngôi vương của mình và sự bình an của Hà Tây, còn về đổi về từ già đến trẻ nhà Chiết gia chẳng qua chỉ là thuận theo đạo lý, đổi lấy cái thanh danh thôi, Chiết gia đương nhiên không lĩnh tình.

Nhưng mà Dương Hạo lại không có hứng thú, đi vào hậu trạch sẽ gặp Chiết cô nương, Mục xá nhân nghe tình oán giữa đại vương và ngũ công tử nhà Chiết gia, việc này không thể giấu được người ta, đã rất ồn ào ở thiên hạ rồi, hiện giờ, xem ra đại vương thực cuồng dại không thay đổi, chẳng có cách nào, họ cũng đành vào tiền đình ngồi xếp bàng uống trà, chịu ánh mắt lạnh lùng của Chiết gia.

“Nghe nói vị ngũ công tử đó có tầm nhìn hơn người, kiêu ngạo lắm, có thù cũ với Thục Phi nương nương. Trước đây vì không hợp mà vung tay, giận dữ rời đi, từ đó ở đâu không rõ. Mãi đến khi Phủ Châu thất thủ, nàng mới bất đắc dĩ quay về, nhưng sau khi giao phó bộ cũ Chiết gia cho Dương Hạo xong lại không cáo biệt mà đi, hiển nhiên là không coi đại vương ra gì. Lúc đó có việc cầu người còn như thế, giờ đại vương đối đãi với đại ca nàng ấy thế này, nàng ấy lại còn…”

Nghĩ đến đây, Mục xá nhân không cảm nhận được mình giờ đã cảm nhận được sự lạnh nhạt ghê gớm, khẽ uống một hớp trà, Mục xá nhân và Chiết Duy Chính của bên đãi khách thản nhiên ngồi nói chuyện trời đất..

Khuê phòng của Tử Du, bình sứ được cắm mấy bông hoa mai, trong tấm kính, Dương Hạo và Tử Du gặp nhau, tóc mai va chạm vào nhau, cảm nhận được sự ôn tồn.

Mái tóc của Tử Du buông xuống bờ vai, nàng dùng tay búi nó lại, rồi lấy cây trâm cài qua, mái tóc được vén lên để lộ khuôn mặt trái xoan. Cổ cao trắng nõn nà chiếu vào trong kính giống như một con thiên nga, vô cùng tao nhã.

“Ta sớm đã sắp xếp, vốn dĩ không có dự định để nàng tham gia, Trúc Vận và Cẩu Nhi có thể hoàn thành được đại sự này, nàng không cần rời đi nữa, được không?”

Dương Hạo giống như một con chó nhỏ ngửi ngửi mái tóc thơm ngát của nàng, rồi lại giống như con quỷ hút máu người đang chực cắn lấy cổ nàng, khiến tử Du hoảng sợ trốn tránh: “Hạo ca ca, ta cũng muốn cùng ở với chàng, song,…giờ chàng và đại ca ta đang như vậy, tính tình của ta nếu như gần kề chàng, khó tránh được để lòng người hoài nghi, nếu như không phải để gặp mặt thì ta ở đây có ý nghĩa gì?”

Tử Du tóm lấy bàn tay đang có ý đồ bất chính của Dương Hạo, liếc mắt nhìn hắn, gò má khẽ ửng đỏ nói: “Lại còn nói, Tiểu Diệc võ nghệ cao cường, Trúc Vận lại là người có lai lịch giang hồ phong phú, nhưng việc lần này làm lại không phải là chuyện giang hồ, mà là đề cập tới triều đình, có rất nhiều chuyện họ không thể hiểu. Một chút lỗi nhỏ tưởng chừng bình thường có thể dẫn đến toàn bộ kế hoạch hoàn mỹ thất bại.

Ta biết chuyện này quan trọng như thế nào với chàng. Triệu Đức Phương và Vĩnh Khánh công chúa ở Biện Lương là hai người hoàn toàn vô hại, nhưng một khi họ lén chui ra từ Biện Lương thì sẽ là vũ khí mạnh nhất, có thể tiêu hủy được hình thượng giả nhân giả nghĩa mà Triệu Quang Nghĩa bao năm gây dựng, giao động Tống triều lập quốc, tranh đoạt lòng dân thiên hạ, cho chàng làm chủ Trung Nguyên, thống nhất thiên hạ với sáng tạo tốt nhất.

Hạo ca ca, người ta nếu như đã giao cả tâm cho chàng, việc của chàng đương nhiên sẽ chính là việc của ta, ta ở đây không làm được gì cả còn ở Biện Lowng ta lại có thể phát huy tác dụng rất lớn. Chàng là ta, là Chiết gia, bỏ bao nhiêu công sức vậy rồi, nghĩ tới chuyện tranh đoạt trước đây, lòng người ta thực rất hối hận..”

Vài sợi tóc rơi xuống, nàng sâu kín nói: “Về sau…về sau gả cho chàng, người ta sẽ giúp chồng dạy con, khó mà ra khỏi cửa, với sản nghiệp của chàng cũng chẳng giúp được gì cả, lần này chàng hãy để ta đi đi, làm xong chuyện này, ta…ta mới có thể ưỡn ngực đối mặt với Diễm Diễm”.

“Nàng…nàng còn đang tính toán…”

Chiết Tử Du khẽ lắc đầu, nhìn mình trong gương, mỉm cười nói: “Không, giờ ta chỉ biết, ta yêu chàng lắm, chàng quan tâm tới ta thế là đủ rồi. Ta không phải là tranh cao thấp với cô ấy, chỉ là vì, việc này rất quan trọng với chàng. Cho nên, ta phải giúp chàng. Nếu như cô ấy có cơ hội như này, ta tin cô ấy cũng sẽ không chần chừ mà giúp chàng, cô ấy làm được tại sao ta lại không làm được chứ?”

Nàng khẽ cắn nhẹ lên tay Dương Hạo nói: “Chàng không hy vọng mỗi người đều cảm thấy ta chỉ biết giận rỗi chàng, mà vẫn được chàng sùng ái?”

Dương Hạo cười méo mó nói: “Nàng…thế này còn không phải là nàng đang phân cao thấp ư?”

“Ta không”.

Dương Hạo bất đắc dĩ lắc đầu: “Tính cách của nàng mãi mãi không thể sửa được”.

Chiết Tử Du nhìn hắn trong gương cười nghịch ngợm, rồi bỗng dùng giọng nói dịu dàng nói: “Thế chàng muốn để người ta sửa sao đây?”

Sự yêu kiều động lòng người bỗng tạo thành ma lực đáng yêu đến cực điểm, nàng chưa bao giờ học sự yêu kiều của Oa Nhi nhưng thái độ vừa nãy nàng dùng khiến ngay cả Dương Hạo luyện song tu công pháp, định lực thâm hậu cũng phải sáng mắt lên.

Dương Hạo ngẩn người đẫn đờ bất giác cười, rồi tự cảm thấy xấu hổ, lắc lắc cái đầu nói: “Đàn ông các chàng thích người phụ nữ như thế này phải không?”

Dương Hạo cười nói: “Bộ dạng thế nào ta đều thích”.

Tử Du khẽ hừ một tiếng, Dương Hạo đặt cằm trên vai nàng, trầm tư rồi nói: “Được rồi, nàng đương triều nhất chiêu đoạn lương thực, suýt nữa thì làm tan cái giá của đại Tống, có nàng tiểu ma nữ này tọa trấn Khai Phong phủ, nắm chắc đích lớn hơn một chút, nhưng…”

“Nhưng gì ạ?”

Mặt Tử Du lại đỏ hồng lên, tuy nàng đã cố gắng, đã chắc như đinh đóng cột là làm nữ nhân của hắn, nhưng dù sao cũng chưa phải phu thê, có vài hành động lúng túng nàng vẫn chưa quen.

Dương Hạo nói: “Nhưng…nàng đã đoán sai chút”.

“Gì ạ?”

“Ta muốn đưa Triệu Đức Phương ra, nhưng không phải là lợi dụng hắn đến để đối phó với Triệu Quang Nghĩa”.

Dương Hạo trở nên nghiêm túc nói: “Dù nàng có tin hay không, kế hoạch của ta dừng ở lũng hữu. Hà Tây lũng hữu đều phải nắm chắc thủ quân, thực lực của ta không dễ để cho tống quốc phát binh thảo phạt đâu. Hơn nữa sẽ không thể có một trận chiến, không ngừng dừng lại dụng binh với ta. Triệu Quang Nghĩa không là một huynh đệ tốt cũng không phải một thúc phụ tốt.

Nhưng làm hoàng đế, trong vô vàn cái phải lo lắng, hắn được coi như là chức xứng đáng nhất, tống quốc dưới quyền thống trị của hắn, con dân bách tính sẽ không hỏng hơn. Điều quan trọng là, tống quốc binh cường mã tráng, ta không nắm được phần chắc là đánh bại được nó coi như vũ lực mạnh như Liêu quốc cũng không thể. Cho nên, không vì Trung Nguyên mà con dân bách tính lại một lần nữa rơi vào ngọn lửa chiến tranh, ta cũng không muốn tranh đoạt thiên hạ với hắn. Nguy hiểm và lợi ích, cũng chẳng đáng”.

Chiết Tử Du hoang mang đứng lên: “Vậy chàng…”

Dương Hạo ngồi thẳng người dậy nói: “Ta có thể có hôm nay, không rời nổi có Triệu Khuông Dận, cho dù ý hắn không phải vì để bồi dưỡng ta, ta nhiều lần thoát chết không thể rời khỏi Vĩnh Khánh công chúa và Tống hoàng hậu, Triệu Đức Phương được mấy vị cô nhi quả mẫu giúp đỡ, dù là ý đồ của họ cũng không phải vì ta…”

Trong đầu Dương Hạo hồi tưởng lại việc Triệu Khuông Dận đưa hắn vào điện đứng bia, chậm rãi nói: “Triệu Đức Chiêu đã chết rồi, ta dám chắc chắn, Triệu Đức Phương một khi trưởng thành tất sẽ chết bất đắc kỳ tử. Ta muốn cứu hắn, song xuất phát từ chính nghĩa, nếu như có thể, ta không muốn hai con trai của Triệu Khuông Dận đều chết oan uổng. Nhưng, ta không vĩ đại như vậy, nếu như dùng các nàng để cứu hắn, ta không làm được, cho nên, lần này nàng đi, nếu như sự bất thành, tất phải tự bảo vệ lấy mình là quan trọng”.

Ánh mắt của Dương Hạo nhìn âu yếm, Chiết Tử Du tin, nàng tin lời Dương Hạo nói là thật, nhưng..một khi thực có một ngày như thế, Hà Tây lũng hữu trong tay, sự phát triển của tình hình, còn có thể đều nằm trong tay hắn sao? Cho dù địa vị có cao đến đâu, quyền lực có mạnh đến đâu, có một số việc ngươi vẫn không thể làm nổi.

Chiết Tử Du không hề nói những điều này ra, hơn nữa còn dịu dàng gật đầu nói: “Vâng ạ, ta theo chàng, nếu như sự bất thành nhất định sẽ tự cứu mình đầu tiên, đưa Trúc Vận và Tiểu Diệc an toàn trở về. Ngày mai, đại ca ta sẽ phải đi Sa Châu, ta biết chàng khó hiểu, cảnh giác diệt trừ Triệu Quang Nghĩa, đại ca ta cũng biết nhưng những người khác ở phủ thượng đều không biết tình hình thực tế, nếu như có gì đó không dễ nghe, chàng đừng để trong lòng nhé”.

Dương Hạo mỉm cười nói: “Đương nhiên sẽ không vậy rồi”.

Chiết Tử Du nghiêng đầu nhìn hắn trong kính, nhìn một hồi lâu, mắt khẽ chớp, Dương Hạo buồn bực nói: “Nàng nhìn gì?”

Chiết Tử Du mỉm cười nói: “Chàng nói thực đi, đưa đại ca của ta sung quân đến Ngọc Môn quan chỉ là vì tác chiến cho Triệu Quang Nghĩa xem, hay là thực sự có ý phòng ngừa rắc rối?”

Dương Hạo bất giác nói: “Nàng tại sao lại nhìn…?”

Chiết Tử Du suy nghĩ cẩn thận, nói: “Những năm này gian khổ với Phủ Châu, Phủ Châu đối với ca ấy mà nói là vinh quang, nhưng cũng là phần gánh nặng, trải qua một kiếp, những gì nên khám phá đại ca ta cũng đã khám phá rồi. Ca ấy không có cách gì khác, song ca ấy không có không có nghĩa là mọi người không có, bộ hạ cũ của Chiết gia ta không còn nữa. Thật cũng tốt mà giả cũng tốt, ta cảm thấy như này mới là cách hay không là tổn thương tới hòa khí. Nếu như đổi ta là chàng, ta cũng không nghĩ ra cách nào hay hơn cả…”

Nàng say đắm nhìn Dương Hạo, bỗng bật cười nói: “Ta phát hiện ra rằng, dù việc bất lợi với chàng hay là chuyện bất đắc dĩ phải nhượng bộ, chàng đều sẽ có khả năng lợi dụng nó, điểm mạnh lớn nhất bộc lộ từ bên trong, chàng ấy à, thực có tiềm chất làm gian thương”.

Dương Hạo bật cười nói: “Nếu như không có chuyện này, làm sao có thể lọt vào mắt xanh của tiểu thư được”.

Chiết Tử Du khoanh tay hừ nói: “Ngày mai, ta cũng cần phải đi, chàng thì sao, ngoài theo đuổi A Cổ Lệ vương phi còn có dự định gì nữa?”

Dương Hạo cười ha ha nói: “Biết rõ là giả còn ghen sao nàng?”

Hắn nhẹ nhàng vuốt ve đùi của Chiết Tử Du, ôm chặt lấy tiểu mỹ nhân, Dương Hạo bừa bãi một phen rồi mới ôn tồn nói: “Tử Du à, nàng nói vậy ta oan uổng quá, thực ra việc ta phải làm còn nhiều lắm đấy. Những thứ phải ăn quá là nhiều, hóa ra cũng khá là tốt, giờ ngoại địch vừa đi, mầm nguy hiểm nội bộ lại lục đục, có cái ta phải bóp chết nó ngay từ bên trong, có cái ta phải nóng vội, đốt cháy giai đoạn, thúc nó nhanh chóng bộc phát ra, còn có sự điều chỉnh quân đội, điều chỉnh nhóm quan lại, dựa vào đặc điểm từng nơi mà phát triển ngành nghề.

Ví dụ như, dân chúng Cam Châu thường kinh doanh buôn bán và nghề thủ công nghiệp là thế mạnh, bọn họ rải rác trên thảo nguyên , trên sa mạc làm việc chăn nuôi súc vật, song mảnh đất này không gọi là màu mỡ, khu biên giới của bộ lạc này rất khó khăn. Đặc biệt là sau khi trải qua những ngày đại chiến, Dạ Lạc Hất lại mang thanh niên cường tráng tinh nhuệ trong bộ lạc đi, biên giới của họ lại càng thêm khó khăn, mùa đông năm nay, ta có bổ sung cho họ lượng lớn lương thực, nhưng mấy chục vạn người, lo sao xuể.

Ta chuẩn bị bảo A Cổ Lệ cho phép mở rộng thương nghiệp và nghề thủ công nghiệp ở Cam Châu. Hạ Lan sơn dựa vào mảnh đất phì nhiêu màu mỡ được sông Hoàng hà bồi đắp nên, đợi vào mùa xuân, ta chuẩn bị giao bộ lạc nghèo bên Cam Châu cho họ làm canh tác, như vậy có thể giải quyết được nhân khẩu, nhanh chóng khai phá được sự màu mỡ của đất đai, thứ hai nữa là có thể mau chóng nâng cao điều kiện sống của bách tính bên Cam Châu”.

Chiết Tử Du thản nhiên cười nói: “Cam Châu mạnh về phát triển thủ công và buôn bán, ngoài ra có thể mau chóng cải thiện cuộc sống của họ, còn có thể thông qua buôn bán trao đổi mà hòa hợp với các bộ lạc khác, đồng thời, Cam Châu giảm thiểu sản nghiệp cơ bản của mình mà trọng về công thương nghiệp, lấy kết quả của công thương để đổi lấy lương thực…Như vậy sự ỷ lại của nó với khu vực khác càng bị đè nặng hơn, hai mươi vạn người Hồi Hất, được coi như sóng gió nổi dậy, đại vowng người thực thi tiểu kế, giải quyết được vấn đề trung thành của lực lượng không an phận nhất có được không?”

Dương Hạo vuốt nhẹ sống mũi nàng cười nói: “Ta chỉ biết, chẳng có gì là giấu được nàng cả”.

Chiết Tử Du nhăn mũi nói: “Hạ Lan sơn trăm ngàn năm qua được Hoàng Hà bồi đắp, thực sự thích hợp với nông canh, song chỉ là việc trồng trọt thôi, đưa những bộ lạc nghèo ở sa mạc chăn nuôi gia súc chưa chắc có thể khiến cho khu vực nông nghiệp phát triển mạnh. Đợi đến khi số nhân khẩu được tập trung lượng lớn lại, chàng sẽ phát hiện ra rằng khai hoang nông canh cũng không chỉ đơn giản như chàng nghĩ, trồng trọt, công cụ canh tác, đất đai là những điều kiện khiến cho lương thực vào mùa bội thu, chỉ một số lượng nhỏ người thôi là đã vét sạch cái kho lương thực của chàng rồi, chỉ dựa vào triều đình thôi sợ là không phát triển được theo ý muốn”.

Dương Hạo sáng bừng mắt lên, vui vẻ nói: “Không sai, Xung đại học sĩ, hộ bộ Phạm thượng thư đều đã nhắc tới vấn đề này với ta, Nữ gia cát có cao kiến gì không vậy?”

Chiết Tử Du nói: “Hai vị đại nhân có cách nghĩ thế nào?”

“Hai ý kiến trái chiều nhau”.

Dương Hạo chau mày nói: “Phạm Tư Kỳ nắm hộ bộ, ta muốn phát triển nông canh nhưng bên đó hắn thiếu tiền thiếu người thiếu mọi thứ, cái gì cũng thiếu, không bột đố gột nên hồ. Khi tây chinh Ngọc Môn, trên đường đi chiếm Lương Can Túc Qua Sa Châu, rất nhiều chư hầu địa phương và hào môn thế gia đối nghịch với ta bị ta rời đến Hạ Châu, giờ lại rời đến Hưng Châu, những hào thân thế gia này không thể rời khỏi mảnh đất cũ, đồn điền nhà cửa và khách điếm đều bán sạch rồi, giờ trong tay có tiền cũng chẳng có chỗ nào mà góp vốn, thực sự có thể mượn tài sản của họ, xác định rõ ràng địa bàn cho bọn họ, từ bọn họ mà chiêu nạp tá điền, rồi được cung cấp công cụ, trâu cày, giống và vật chất sinh hoạt, thì có thể hoàn toàn khai phá đất được.

Song, Xung đại học sĩ thì lại nghĩ khác, hắn nói, thế mạnh nắm lấy lượng lớn đồn điền có diện tích khá rộng, dựa theo luật pháp nghiêm minh thế này, chế độ nghiêm minh thế này, họ có thể lợi dụng quyền thế, cách nghĩ để trốn tránh thuế má và các loại sai dịch, nếu không thì toàn bộ gieo vạ cho tá điền, không ngừng nâng cao địa tô, còn tá điền thì không có năng lực trốn tránh thuế má của quan phủ, lại không thể có nhiều tiền nổi mà nộp thuế má, cuối cùng chính là đã giàu càng giàu thêm, mà đã nghèo càng nghèo đi.

Một khi thuế má quá nặng, hoặc là tai họa không đến thì sẽ vạch trần nhiều thứ, đó chính là căn nguyên của loạn dân nổi lên. Vì vậy cho rằng hay là nên bằng đất vườn, không nói tới đất vườn tuyệt đối, cũng nên tránh hào thân thế gia nắm đất vườn đa số. Nếu không, giống như …vấn đề trước mắt cần giải quyết, chôn vùi mầm móng gây tai nạn và rắc rối có lẽ cần năm mười năm, có thể cần trăm năm”.

Dương Hạo thở dài nói: “Vấn đề này nó là như vậy, không cho hào thân thế gia chiếm lượng lớn đất đai nữa, họ sẽ không có hứng thú bỏ tiền ra cho dân khai hoang canh tác, không hưng trí mua công cụ, trâu cày, hạt giống, càng không nói đến sản lượng thu được cung cấp cho dân chúng. Ta cũng không phải là sơn đại vương, lẽ nào có thể để tiền trong túi áo cho người ta giật lấy? Nhưng nếu như dựa vào chủ ý của Phạm Tư Kỳ thì…”

Dương Hạo lắc đầu, sắc mặt trầm xuống, làm một đại vương đương nhiên mở mày mở mặt, nhưng ngoài mang một câu nói rõ ràng ra để so sánh: “Dù khi ta chết đi, đâu thèm biết lũ lụt ngập trời”. Nếu như không thi hành biện pháp chính trị thì không phải là tính toán cho đời sau được?”

Chiết Tử Du quay đầu sang chỗ khác, kinh ngạc liếc mắt nhìn hắn nói: “Lúc trước, chàng với thân phận là Tống quốc tuyên phủ sứ tuyên phủ Đường quốc, đã từng đi rất nhiều nơi ở Giang Nam mà không hiểu về thuế má Giang Nam sao?”

Dương Hạo nói: “Lúc đó ta không nghĩ tới việc mình làm hoàng đế, đi tìm hiểu nó để làm gì chứ? Thời gian đó, việc chủ yếu mà ta làm là hiểu về địa lý sơn xuyên Đường quốc, bố trí binh mã, kinh tế của người dân, đương nhiên hiểu không nhiều, sao vậy? Thuế má giang nam có gì đặc biệt ư?”

Chiết Tử Du mỉm cười nói: “Hóa ra là như vậy, ý ta nói, Giang Nam có rất nhiều thứ đều đi trước phương bắc, rồi nhanh chóng được lan ra, ta vì gia huynh lúc đó là chủ của Phủ Châu, tự quản một nơi, có được nguyên do của dân lại rất chú ý tới những thứ này. Theo như ta được biết khu phương bắc Phách Châu nơi chàng ở có thể thuê mướn tá điền, địa chủ cung cấp đất, công cụ, hạt giống, trâu bò, sản lượng mỗi năm thu hoạch được, có thể được 50%, 60%, thậm chí có thể là 80%”.

Cái này Dương Hạo biết, gật đầu nói: “Không sai, Đinh gia lúc đó với số đất đai màu mỡ, phân chia tá điền thu được đến 60%, nếu như khu vực nào màu mỡ có thể được 80%”.

Chiết Tử Du nói: “Chính là như vậy, tá điền trồng trọt, dù như thế nào, thu hoạch càng nhiều, cái mà điền chủ có càng nhiều, cho họ càng có hạn, cho nên các tá điền còn ngày nào, thì chẳng quan tâm gì tới đất đai. Mà số thu hoạch hàng năm của điền chủ thì cũng phải lên xuống, như vậy, gặp điền chủ tốt bụng, không đổ thuế má lên người tá điền, cũng sẽ gặt ít thành công, từ đó mà trốn thuế má”.

Phạm Tư Kỳ đứng ở vị trí hộ bộ, điều nghĩ là chính sách phát triển nông canh như thế nào cho hiệu quả nhất, kinh tế phát triển, còn Xung Phóng là nội các đại học sĩ, nắm toàn bộ toàn cục, điều suy nghĩ phải toàn diện chút, liên quan đến an toàn chính trị, kết quả hai người đều có ý kiến trái chiều trước mặt Dương Hạo, thực làm khó cho hắn quá. Lúc này nghe Chiết Tử Du nói, dường như nàng có cách tương đối hay, lập tức tập trung nghe nàng nói.

Chiết Tử Du nói: “Ở Giang Nam phần lớn đều thực hiện theo hạn ngạch, cũng chính là nói, dù được mùa hay mất mùa, hàng năm tá điền đều phải đưa ra mức thuê ban đầu, rồi sau đó dù có dư ra bao nhiêu đều quy về mình, thực hiện hạn ngạch, điền chủ rời khỏi việc quản lý sản lượng nông canh, chỉ để ý tới thu thuê, đất vườn thu hoạch tốt xấu cũng không cần quan tâm.

Điền chủ khống chế tá điền yếu đi, trồng cây gì, thì cũng có thể tự quyết định được, chỉ cần đến kỳ có thể giao nộp địa tô đúng hạn hoặc những vật ngang giá. Đồng thời, ở hạn ngạch thuê, nếu như thu hoạch nhiều, chính tá điền phải được nhiều, vì thế mà càng yên tâm nông sản, càng nhiệt tình cải tiến công cụ sản xuất, học kỹ thuật canh tác, tiên hành cày sâu quốc bẫm, chú ý bảo vệ độ màu mỡ cho đất, trong nhà sẽ có dư lương thực hơn, trong nhà có vài người còn có thể làm ra lương thực, dệt vải, nuôi gà hoặc là làm thợ mộc trong lúc chờ việc”.

Dương Hạo giật mình: “Mẹ nó chứ, đây chẳng phải chính là nhận thầu đất đai, tự chịu trách nhiệm lời lỗ, sao ta lại không nghĩ ra được chứ?”

Tử Du nói: “Còn có vài điền chủ không xuất thuê đất, mà tự xây thủy lợi, thuê công nhân trồng trọt thu hoạch, rồi dựa vào lượng lao động mà trả tiền công, công nhân dựa vào tiền công để đi mua những thứ cần thiết cho cuộc sống. Ta nghĩ, chúng ta ở đây cũng có thể sử dụng cách này, như vậy, có thể bảo trì khát vọng của thân hào, lại có thể bảo đảm họ không có cách nào gieo vạ thuế má cho tá điền, triều đình cần thu thuế, chỉ cần bảo đảm tính xác thực về đất đai đo đạc, họ muốn chạy trốn lậu thuế, độ khó cũng dần tăng lên. Muốn nghĩ ra kế vẹn toàn, sợ hơi khó, song cách này có thể trung hòa ý kiến của Xung đại nhân và Phạm đại nhân, chàng thấy sao?”

Dương Hạo thở dài nói: “Ta chỉ thấy…hơi tiếc”.

“Ta cảm thấy hơi tiếc vì đã không lấy nàng về, ta thấy, đợi nàng về phải cho vào các làm đại học sĩ mới đúng”.

Nghĩ tới lần chia tay sắp tới, Chiết Tử Du bỗng cảm thấy cay cay khóe mắt, nàng xoay người lại khẽ tựa vào cổ hắn, má cọ cọ dịu dàng nói: “Luyến tiếc chàng á…đợi thiếp về chàng nhé, chàng cần người ta bên cạnh hầu hạ giường chiếu, người ta sẽ là một người phụ nữ ngoan ngoãn phục vụ chàng, chàng muốn người ta vào các giúp chàng, người ta cũng sẽ vào, chàng muốn người ta tham tán việc quân cơ đi theo xuất chiến thì người ta cũng sẽ làm ngọn gió cuốn quanh chiến kỳ, thế nào cũng được, theo chàng nếu chàng thích…”

Dương Hạo cảm động vô cùng, không muốn nàng bị tổn thương, thế là trêu chọc: “Miệng nhỏ nhắn mà nói lời đường mật thế, chẳng có lẽ là thường ăn mật ong, cho ta nếm tí nào…”

Hắn nâng cằm Tử Du, hôn lên đôi môi đỏ mọng ướt át, môi chạm môi, mắt Tử Du lim dim như đang mơ màng.

***

Tháng hai đầu xuân, triền núi Hà Tây vẫn là một màu trắng tuyết, ánh mặt trời chiếu rọi lên một bên lũng hữu, còn nước băng đã tan. Nếu như không lại gần thì rất khó nhìn thấy bụi cỏ xanh biếc đang nhú, màu xanh tuy không rõ, mặt trời trên sườn núi là một mảng màu đỏ tươi đẹp. Đó chính là mùa hoa quyên nở rộ.

Có đến hai ba mươi khoái mã đang lao đến từ sơn đạo, một con gà cảnh trên lưng ngựa, thỏ xám, chó với cái cổ họng phập phồng, Hô Diên đại đầu thủ lĩnh lần này đi săn trong núi đã thắng lợi trở về.

Vó ngựa phi như bão táp làm vụn đá sơn đạo, âm thanh vang vọng ra từ trong cốc. Con đường nhỏ này là con đường quan trọng vào trại, bỗng nhiên bụi hoa quyên trên sườn núi như ngọn lửa dấy lên, mấy bông hoa quyên bay lên, bên dưới là mấy võ sĩ phục ở dưới. Võ sĩ chỉ có ba, ăn mặc kiểu săn bắn, ba người này rất cao, nhảy một cái, giương cung lắp tên, rồi phập một cái nhanh như chớp lao tới người Hô Diên Ngạo Bác, ba mũi tên vừa nhanh vừa chuẩn, thị vệ trước thấy có gì bất thường, vừa hét lớn có thích khách, vừa rút đao ra khỏi vỏ, nhìn về phía chỗ ba người mai phục.

Ba tên thích khách bỗng nhiên xuất hiện, mũi tên bắn vừa nhanh vừa chuẩn, bọn thị vệ mau chóng bảo vệ quanh Hô Diên Ngạo Bác, tuy đã khẩn trương né mũi tên nhưng một mũi tên trong đó vẫn vượt qua, cắm đúng vào ngực trái, Hô Diên Ngạo Bác hét lớn rồi té xuống ngựa.

“Bảo vệ đại nhân, bắt thích khách”.

Đám thị vệ được huấn luyện nghiêm chỉnh, một số người nhanh chóng chạy tới bảo vệ trung tâm Hô Diên Ngạo Bác, một số khác thì đứng vòng ngoài, cầm cung tiễn, ngừa có sát thủ khác mai phục, ba sát thủ trên sườn núi bắn xong tên vội vàng chạy lên trên núi, tuy trên núi tốc độ chạy không nhanh nhưng đám thị vệ Hô Diên Ngạo Bác lại giỏi cưỡi ngựa bắn cung, lập tức mở cung tên nhắm bắn liên hồi, ba tên tuy lẩn tránh mau lẹ, né tránh mũi tên, nhưng có đến mười mấy thị vệ cùng nhau bắn tên, nên vận mệnh của ba tên đó cũng đã được định đoạt…

Khai dương trại, Hô Diên Ngạo Bác nhìn chằm chằm vào mũi tên được bắn chuẩn xác trên ngực cười nhạt một tiếng.

Bên cạnh, phó thống lĩnh Phục Khiên trầm giọng nói: “Đây là lần thứ ba thích khách rồi, trên tên có kịch độc, cho dù không bắn trúng ngực, một khi trúng tên, cơ hội sinh tồn rất nhỏ. Đại nhân nên nghỉ ngơi”.

Hô Diên Ngạo Bác cười thản nhiên: “Lần trước chúng phái người sơn dã Hoành sơn đến ý đồ tập kích sơn trại ta, đánh hỏng cửa trại, kết quả là quăng mũ cởi giáp, sợ hãi mà chuồn về. Lần này cả gan phải thích khách thực là nực cười, coi như là giết được ta đi, có bảy vạn bộ đội trấn thủ ở đây, chúng có thể bước nổi vào Tiêu Quan nửa bước không. Hừ, nói Hà Tây Dương Hạo là anh hùng giỏi giang lắm, phá thành phá trại, không gì không thể, nhưng hắn đối phó với Hô Diên Ngạo Bác này chỉ có thể dùng thích khách lén bắn tên mà thôi, ta thấy tên này chẳng có gì là giỏi cả, thực là nực cười, thực kỳ quái, Lý Quang Duệ, Lạc Nhung Đăng Ba, Dạ Lạc Hất, Long Hàn Hải đám người đó là những nhân vật lừng lẫy ở Hà Tây sao lại thất bại trong tay tên này?”

Thủ lĩnh Khai Dương trại Xích Tôn cười nói: “Có thể thấy, đám người Lý Quang Duệ, Lạc Nhung Đăng Ba, Dạ Lạc Hất, Long Hàn Hải cũng chẳng tài giỏi gì, chỉ là khi Dương Hạo tung hoành Hà Tây thì Hô Diên đại nhân đang phụ tá Thượng Ba Thiên đại nhân chinh phục lũng hữu chư bộ, nếu không thì, với tài của Hô Diên đại nhân chỉ cần cho ba vạn quân thảo phạt Hà Tây cũng sẽ tạo được thế như chẻ tre, bách chiến bách thắng, làm sao đến lượt Dương Hạo kia ra vẻ ta đây”.

Hô Diên Ngạo Bác ngửa mặt lên trời nói: “Đến mà không có lễ, hắn đã phái thích khách tớiPhục Khiên, ngươi mang người đi, đường đường chính chính đánh cửu dương trại của hắn, trả thù cho ta. Hừ hừ, Tiêu Quan hiểm không thể leo tới, Hô Diên Ngạo Bác trấn thủ ở đây, dù Dương Hạo hắn có phái mười vạn đại quân, cũng sẽ cống hiến cho ta lấp đầy đáy cốc của ta thôi. Ta muốn xem xem, Dương Hạo hắn có bản lĩnh gì mà đoạt Tiêu Quan của ta”.

***

Tiếng sấm rung trời, nước mưa trút tầm tã, một mảnh trời mênh mộng, nước mưa đổ mạnh xuống mặt đất, mùi đất xông lên mũi, chỉ một lúc sau, dòng suối nhỏ hình thành trên đất, gió cuốn theo hơi ẩm đập vào mặt.

Trong tiếng mưa như trút, có mấy người khoác áo tơi đang đi trên con đường nhỏ.

“Ôi ôi, Xung tướng công, Phạm đại nhân, hai người đi chậm chút, kẻo trượt chân đó”.

“Không sao đâu mà”. Xung Phóng cười to nói, hắn và Phạm Tư Kỳ tuổi tác cũng không chênh nhau quá nhiều, hơn ba mươi tuổi, vào thời điểm còn trẻ trung khỏe mạnh, trước đây cũng không phải là công tử nhà giàu sống nhàn nhã sung sướng, con đường như vậy không phải là chưa đi qua, hai người này cũng chính là người dẫn đường, mặc áo đuôi ngắn quần dài cho tiện đi lại, dưới chân là đôi giày rơm, đi đường lầy lội cũng không hấn gì.

“Chính là đây ư?”

Xung Phóng dừng bước, chỉ tay về phía trước, đây là một mảnh đất phì nhiêu mà Hoàng hà bội đắp nên, song do khu Hưng châu dân cư có hạn, tuy nói nơi đây màu mỡ nông canh phát triển, song cũng chỉ là so sánh với địa phương khác mà thôi, giờ cần phải khai khẩn thành mảnh ruộng tốt màu mỡ hơn.

Trước mặt Xung Phóng hiện giờ chính là mảnh đất đang khai khẩn, trời mưa các nông phu còn đang cày bừa miệt mài, những nông phu với cơ thể cường tráng kéo bừa để lộ bắp thịt đen nhánh, kéo bừa với khí thế hừng hực. Mảnh đất được cày xới thành mảnh đất phì nhiêu, vốn không cần phải mất mấy năm mứoi có thể trở thành đất quen, họ đang tranh thủ thời gian gieo hạt khai hoang.

Ông chủ cung cấp nông cụ, trâu cày, giống tốt, mỗi năm lương thực phải nộp là cố định, có thể trồng nhiều bao nhiêu là do mình, những nông phu này đương nhiên là làm rất chăm chỉ, pak ngồi xổm xuống cầm lấy đất bùn đang được cầy xới, bùn đất đen nhánh, nắm chặt nó không hề có một hòn đá nào, Phạm Tư Kỳ không khỏi cười phá lên: “Tốt, tốt lắm, đây chính là đất tốt đây. Ha ha, đợi đến khi thu hoạch xem, sản lượng sẽ cho bao nhiêu”.

-----oo0oo-----

: Tây Hạ Vương

 Chương 70: Kinh triết 

Hai vị đại nhân thường xuyên xuống nông thôn, địa phương này mới khai khẩn đất đai, nơi đây một thời kỳ dài là người Khương Đảng Hạng làm mưa làm gió, cách ăn mặc, trang điểm khác một trời một vực với người nông dân Hán.

Hắn cũng cười toe toét nói: “Hai vị đại nhân nhìn bên kia kìa, nước từ Hoàng Hà tới đây cần bố trí miệng cống, vào mùa mưa lũ thì cần phải đóng miệng cống vào, vào thời điểm khí trời khô hạn thì mở ra cho nước tràn vào, bảo đảm được năng suất cây trồng. Nơi này đã là đường xưa, trăm năm chưa từng úng lụt, song vì để phòng ngừa, còn men theo sông làm đê”.

Xung Phóng gật đầu nói: “Ừ, lại là tu đê, lại là sửa đường. Tốn không ít tiền đây. Giờ cần sức người, chẳng ai lên lời oán thán đâu”.

Khởi khởi cười to nói: “Đại nhân ơi, mảnh đất này là Long gia từ Túc Châu mua đấy, việc tu sửa thủy đạo, tu sửa đê điều là Long gia bỏ tiền ra chứ. Nhà người ta thừa tiền ấy chứ, ngài xem kìa, mảnh đất bên kia là của Trương gia Sa Châu, Trương gia cũng đang mua đất bên này còn dẫn nước qua làm cái hồ nuôi cá đấy. Ý ta nói là Hoàng Hà mang nhiều phù sa, ở sông còn có cá nữa, lùa cá vào trong ao”.

Xung Phóng nghe vậy, nhìn Phạm Tư Kỳ rồi cùng cười phá lên, hào môn thế gia là nguy cơ lớn nhất, muốn nói chú trọng lâu dài, thì không có ai là chú trọng lâu dài hơn họ rồi, không có buôn bán cửa hàng, đặc biệt là không có đất vườn bãi chăn nuôi, trong tay hào thân thế gia nắm biết bao nhiêu vàng bạc châu báu, như vậy cũng thấp thỏm lo âu ngày ngày lắm chứ, chỉ có để cho họ trở thành thổ địa thực sự, họ mới an lòng được.

Mảnh đất hoang bán cho họ. Quan phủ phải có được thu nhập trong khoản bán đất đai, có mảnh rộng tốt vô tận thế này, căn bản không cần quan phủ thúc giục, họ sẽ ngay lập tức bắt tay vào thuê tá điền đến tiến hành khai hong, bao gồm có chút phương tiện thủy lợi, họ sẽ chủ động tu sửa, yêu cầu lâu dài. Lợi dụng sự đầy đủ của đất đai mà phát huy sự nhiệt tình sản xuất, tận dụng mức định thuê mà khai thác nhiệt tình, bãi hoang xưa nay không một ai đụng đến giờ trở thành đất vườn, trồng được ra hoa màu, tạo thành cái thôn to thôn nhỏ.

“ Nông canh đều rất phát triển ở các nơi, song chủ yếu là tập trung ở Hà Lan sơn, từ Ngột Lạt Hải, Thuận Hóa Độ, cho đến Định Châu, Hoài Châu, Tịnh Châu, Thuận Châu và Linh Châu, đây là khu nông sản. Diên Châu và Lâu Bác Bối là hai vùng có sản lượng muối nhiều nhất, vào trước kia nông canh phát triển mạnh hai nơi này chính là nguồn tài nguyên chủ yếu cho thuế má triều đình, ngoài tiêu nội bộ Hạ quốc ta, bắc còn lên Liêu quốc, tây thì ở Niêm Bát Ca, Cao Xương, Quy Tư…còn về bên Tống quốc cũng đã lập ra con đường buôn lậu ổn định, có thể nói là tài nguyên dồi dào”.

Mưa một trận tầm tã, nước mưa bắt đầu ngớt dần, Xung Phóng và Phạm Tư Kỳ đi trên bờ ruộng thẳng tắp, trao đổi: “Theo quy hoạch của đại vương, mảnh đất thảo nguyên Hoành sơn dựa tây cổ trường thành dựa đông, phân chia ra làm chín mảnh, trong đó tám mảnh được giao cho Đảng Hạng bát thị chăn thả súc vật, một mảnh còn lại thì giao cho Hoành sơn đóng quân khai hoang. Còn về người Khương Hoành sơn, tựa núi ăn núi, ngoài hái thuốc, săn bắt, nuôi trâu bò lợn gà giao dịch với Tống quốc, lại còn có thể thu hoạch quặng, lượng lớn thu hút thanh niên khai thác quặng, cũng là cách hay ràng buộc bọn họ”.

Phạm Tư Kỳ nói: “Đúng vậy, Hạ Châu và Cam Châu giờ chủ yếu là phát triển công thương nghiệp, lân cận Hạ Châu luyện kim, phát triển rèn, tinh luyện kim loại là chủ yếu, Cam Châu là yếu đạo giao thương đồ đạc, ngoài kinh doanh còn phát triển cả ngành thủ công nghiệp, Qua Sa là hai châu với con đường quan trọng qua lại giữa các nước tây vực đồng thời đất màu phong phú, ta dự tính nơi đó sẽ đồng bộ phát triển chăn nuôi, nông nghiệp, công thương nghiệp”.

Xung Phóng nói: “Đúng vậy, phải chú ý nặng nhẹ, dầy mỏng của triều đình rồi rút ra điểm hạn hẹp, tận dụng triệt để lực lượng của hào thân thế gia với các điều kiện của họ, nếu như sức không kham thì phải thả ra, cứ từ từ mà làm, chớ nóng vội sẽ sinh ra nhiều vấn đề. Tuy nói tình hình hiện nay là theo ý của đại vương, song ý nghĩ của đại vương chỉ là hấp dẫn người không yên tâm ra làm, tận dụng họ mê hoặc vị Triệu quan gia Biện Lươnkia, đợi đến khi giá trị lợi dụng đã hết thì cũng sẽ không để họ tự do đâu…” 

Hai người vừa nói đến cái khác, Kỳ Trường Khởi Khởi đại hòa một vài lý chính, chủ hộ liền tự giác tạo khoảng cách với họ cho nên hai người có thể yên tâm mà nói chuyện không sợ người khác thấy và nghe thấy gì.

Phạm Tư Kỳ nói: “Nói đến vài người này, ta thực sự còn chưa hiểu đây, cần phải nói, Lương Châu Cam Châu Túc Châu và khu vực Qua Sa là nơi mà đại vương vừa dùng vũ lực chiếm được không lâu, hào thân nơi đó nếu như nghi ngờ, ý đồ bất chính thì cũng có cái nguyên nhân của nó. Nhưng điều cảm thấy kỳ lạ là, giờ thân phận của họ là các lão gia quý tộc của Thác Bạt Thị, chưa làm qua cái gì cả, đại vương sau khi vào làm chủ Hạ Châu đã mang đến cho họ rất nhiều quyền lợi và lợi lộc nhưng họ không biết đủ, giờ đau đầu nhất vẫn là bọn họ, thực không thể hiểu nổi”.

Xung Phóng mỉm cười: “Cái này cũng chẳng có gì là kỳ lạ cả. Cam Lương Qua Sa châu là những vùng đại vương chiếm được, theo thói quen của kẻ chiến bại đối đãi sát phạt các bộ lạc trên thảo nguyên, phản ứng này kháng lại đại vương, đại vương nên cướp người, lấy hết gia sản, giết sạch tráng đinh, coi đàn bà trẻ nhỏ thành người hầu hết, cắt cử thân tín của bộ tộc mình đi thống trị họ mới đúng.

Cho dù lúc đó mở thành tiếp nhận đầu hàng cũng sẽ không cho họ nhiều quyền lợi như vậy, nhưng giờ đại vương lại cho họ thêm ân huệ, chẳng qua là tước đoạt quân quyền của họ đã là hy vọng vượt xa họ rồi, lại lấy thêm ví dụ về Tào gia Sa Châu bị gạt bỏ triệt để uy hiếp họ, họ cảm động đến rơi nước mắt với đại vương còn không kịp đâu, lại còn định sinh sự gì nữa? Đợi vài năm nữa, triều đình có thể khống chế chặt chẽ được lãnh thổ, họ có nảy sinh dã tâm gì, dưới chiều hướng phát triển cũng sẽ bị bọn họ tự bấu rễ mầm xao động”.

Hắn ngẩng đầu nhìn mưa bụi, hít hà nói: “Nhưng những thủ lĩnh Thác Bạt Thị lại bất đồng, đại vương giờ là vương của tây hạ, dưới trướng có người Đảng Hạng, người Hán, người Thổ Phiên, người Hồi Hất, người Thổ Dục Hồn, thậm chí còn có người Đại Thái tóc vàng mắt xanh. Là chủ của mười tám châu, thiên hạ này là hắn một đao một thương đánh chiếm được.

Nhưng mà một vài thủ lĩnh của Thác Bạt Thị lại không làm như thế, dưới con mắt của họ, đại vương có thể có tất cả ngày hôm nay là bởi vì họ ban đầu đại vương vào làm chủ Hạ Châu, giúp đỡ hắn diệt trừ thế lực của Lý Quang Duệ. Trong mắt họ, đại vương tuy không họ Thác Bạt nhưng thiếu chủ của Thác Bạt Thị người kế thừa là người kế thừa của Lý Quang Duệ đại nhân, cho nên giang sơn của hắn chính là giang sơn của Thác Bạt Thị, quyền lực của hắn là quyền lực của Thác Bạt Thị.

Lúc đầu, cho dù Thác Bạt Thị nhất mạch làm người của định nan quân, Tuy Châu, Ngân Châu, Hựu Châu, Tịnh Châu đều giao cho người đứng đầu của Thác Bạt Thị thống trị, giờ đại vương từ định nan quân tiết độ sứ trở thành Tây Hạ vương, rồi giao đại quyền văn võ, các châu hà tây cho người ngoài trong mắt họ, nô tài, mà chính họ ngoài giàu sang không được quyền lợi họ muốn có, đương nhiên cảm thấy bất bình”.

Nói đến đây, nét mặt Xung Phóng nghiêm túc: “Những người này phần lớn đều có đất đai và bộ tộc của mình, do họ là tộc người Thác Bạt Thị, ngoài phạm phải tội lớn là phản nghịch, nếu không thì dù đại vương dễ dàng cũng không thể cầm họ như thế nào, còn phần lớn người trong số họ tuy bị đại vương rời từ Hạ Châu đến Hưng Châu, rời khỏi căn cơ mà hàng trăm năm kinh doanh của họ, nhưng vẫn có thực lực lớn mạnh, nếu họ ở phía sau giật chân đại vương, hà tây sẽ mất đi cơ hội tốt nhất để phát triển, lực lượng đều lãng phí hao tổn ở bên trong.

Chính là vì đau dài không bằng đau ngắn, đại vương mới muốn dẫn rắn vào động khiến một vài lực lượng trong lòng bất mãn, muốn lợi dụng họ phế lập hoặc người bên cạnh chúa thượng đều bí mật nhảy ra, để tránh rơi vào thanh danh không giáo, song đây là nước cờ nguy hiểm, lợi dụng không tốt thì sẽ làm giả thành thật, vì vậy, chúng ta phải bỏ sức ra nhiều hơn, cần phải bảo đảm được công thương chăn nuôi, trăm nghề phát triển, hỗn loạn mà đại vương cố ý doanh tạo ra sẽ trở thành cái cây không rễ, nước không nguồn, khi đại vương muốn ra tay thì có thể nhanh chóng bình ổn, không làm tổn thương nguyên khí”.

Phạm Tư Kỳ cười nói: “Hạ quan hiểu chứ, đại vương giờ muốn làm trang vương trong mơ, hạ quan tự sẽ theo đại nhân, thay đại nhân chỉnh đốn cương triều, khởi công xây dựng thủy lợi, trọng nông vụ thương, thực lực tích góp, đại vương không lên tiếng thì thôi, bỗng nhiên nổi tiếng, bất phi tắc dã, một phi lên trời, chỉ là không biết, đại vương cần triết phục bao lâu? Có đến ba năm không?”

Xung Phóng nói: “Thế này, sợ là phải xem động tĩnh bên vị Triệu quan gia kia thế nào đã, nếu như chúng ta vào thời điểm chín muồi rồi, ta không ngại nghĩ cách để cho hắn ra tay”.

Phạm Tư Kỳ nói: “Đây là ý của đại vương phải không?”

Xung Phóng liếc mắt nhìn hắn nói: “Vì hiệu lực của quốc gia, vì phân ưu của chúa, là bổn phận một quần thần, chưa chắc cần phải đại vương dặn dò, ngươi nói xem đúng không?”

Phạm Tư Kỳ hơi do dự, vuốt cằm nói: “Xung tướng nói rất đúng, hạ quanhiểu rồi ạ”.

Địa vị chức quan làm được họ bước này, hiểu được rất nhiều chuyện không cần nói, Phạm Tư Kỳ câu này xem ra bình thường, đã bộc lộ được rõ ràng, Xung Phóng không khỏi bật cười…

“Ầm…”

Một tiếng nổ vang lên, sấm chớp, vạn vật lắc lư, cây cối như muốn đâm chồi lên…

Hôm nay kinh triết, tiết trời ấm lại, vạn vật hồi phục sức sống, cây cỏ bắt đầu sinh trưởng, sự thay đổi của một ngày, những sinh vật ngủ đông dần hồi tỉnh và bắt đầu hoạt động.

Thủ lĩnh Thác Bạt Thị Ngôi Võ bộ hai huynh đệ Thác Bạt Hàn Thiền và Thác Bạt Hòa Thiếu như con sâu ẩn sâu trong lòng đất, ngủ mấy tháng đông, kinh triết đến, tiếng sấm sét, họ chui ra khỏi lòng đất.

Khí tượng, triều đình, địa phương, quan lại, chính thể, quân sự mới triều mới, mỗi phương diện đều đang thúc đẩy, vương triều một khi được lập, tất sẽ có rất nhiều thứ khác với trước kia. Còn các thủ lĩnh của Thác Bạt Thị bộ lạc vào lúc này đang hoàn toàn thất vọng, họ vốn cho rằng mình đương nhiên là lực lượng tin cậy và được nể trọng duy nhất của Dương Hạo, Dương Hạo tọa thiên hạ, cũng chính là họ ngồi thiên hạ, Dương Hạo lãnh đạo được mười tám châu hà tây cần thống trị nơi lớn như vậy chỉ cần tin tưởng họ, cho họ mỗi người đi nhậm chức trở thành người chủ của thành trì, nhưng sự phát triển của tình hình hoàn toàn vượt ngoài dự liệu của họ.

Lúc Dương Hạo được Thác Bạt hạo phong làm nội ứng, chiếm lĩnh Hạ Châu, họ chỉ là đứng ra tỏ vẻ ủng hộ, khi Dương Hạo tây chinh Ngọc Môn, họ không hề xuất động dũng sĩ của bộ tộc mình, chỉ là dùng hậu phương ổn định biểu đạt sự trung thành với Dương Hạo. Khi đại quân Tống vào biên giới, họ thông minh giữ sự im lặng.

Theo họ, vương triều Trung Nguyên là thế lực thực thi tiến hành tống trị với tây vực, phương thức mà đế quốc trung nguyên có thể áp dụng chính là bồi dưỡng thế lực địa phương, cho nên họ nhất trí giữ sự im lặng, Dương Hạo nếu như chiến thắng, họ đương nhiên là người chiến thắng, Dương Hạo một khi mà chiến bại thì họ có thể vứt bỏ Lý Quang Duệ như vứt bỏ Dương Hạo, rồi lại đề cử ra một người, rồi lại biểu thị sự trung thành của họ với người này.

Cho nên, dù ai thắng ai bại,cuối cùng cũng bất bại, bảo đảm được quyền thế địa vị của mình.

Vì vậy khi Dương Hạo làm hoàng đế, mọi người đều biết việc này đương nhiên sẽ làm Tống quốc giận dữ, tình hình tương lai rất không trong sáng, họ không một ai đứng ra tranh quyền đoạt thế mà vẫn duy trì quan hệ với Dương Hạo như xưa. Giờ đại cục đã định, Dương Hạo lại không nhớ tới bọn họ, trọng dụng bọn họ, họ bắt đầu ngạc nhiên và phẫn nộ rồi.

Nhưng khi Dương Hạo cần họ, họ lại trốn sự thực quá xa rồi, giờ muốn chạy về, thì cũng đã muộn một bước, lúc họ phản ứng là phải quay lại, tất cả đã hóa hư không, họ cho dù bất mãn, nhưng lúc này là thời điểm quan trọng mũi nhọn của Dương Hạo, họ cũng không thể ngờ làm sao phản đối thế cục này.

Lúc này Trương Phố và Xung Phóng tranh giành, khiến họ thấy một đường rạng đông. Trương Phố là bộ cũ của Lý Kế Thiên, coi như là lão nhân của định nan quân còn Xung Phóng đến từ Trung Nguyên, hoàn toàn dựa vào địa vị của Dương Hạo, giữa hai phe họ, Trương Phố rõ ràng là thân cận hơn. Đồng thời cũng có huân chương lớn lao hơn, còn người tự giác phân phối bất công, có thể nói là có tương đồng với họ.

Nếu như ủng hộ Trương Phố, lật đổ Xung Phóng, người thuộc hệ Xung Phóng sẽ bị lật đổ hoàn toàn, trống lượng lớn quan chức; Nếu như thế lực tương đương nhau, thì cả hai bên đều thiệt hại nhiều, triều đình bất ổn, không chừng Dương Hạo sẽ nghĩ đến điểm tốt của họ, trọng dụng họ làm thủ lĩnh bộ tộc. Nếu…vào một ngày nào đó có khả năng, có nhiều biến đổi, dù thay đổi thế nào, thì cũng chỉ có tốt cho họ, chẳng mang lại điều gì xấu cả, thế là họ chủ động tạo mối quan hệ với Trương Phố.

Xét về bản chất mà nói, họ là đám người đầu cơ, song sự đầu cơ này không phải là thảo đầu thành của thân mình không lực lượng, họ có bộ tộc của mình, có vũ lực của mình, họ không chỉ gió chiều nào theo chiều ấy, khi cần thiết, họ có thể chủ động tạo sóng gió.

Hổ cốt, xạ hương, sơn sâm trăm năm, chồn tía, mỹ ngọc, đá A Nhĩ Kim, rực rỡ muôn màu, bày đầy đại sảnh. Ngoài những bảo vật có giá trị thiên kim còn có sáu thiếu nữ xinh đẹp, nghe nói Trương Phố vẫn chưa lấy vợ, hai huynh đệ hàn thiền tiện thể nhân cơ hội liền chọn ra sáu thiếu nữ chân dài, anh hùng khó qua ải mỹ nhân, những cô nương xinh đẹp đáng yêu thế, không sợ hắn không nhận, chỉ cần hắn nhận rồi, mối quan hệ có thể nâng lên một tầm mới.

“Ha ha, Hàn Thiền huynh, Hòa Thiếu huynh, hai vị quá khách khí rồi, những lễ vật hậu trọng này, Trương mỗ sao dám nhận được”.

Mặt Trương Phố quả nhiên rất hớn hở, Thác Bạt Hàn Thiền cũng cười nói: “Đại đô đốc khách khí rồi, chỉ là chút lễ mọn thôi mà, biểu thị lòng thành thôi, đại đô đốc chớ từ chối”.

Trương Phố bước ra chỗ sảnh, Thác Bạt Hàn Thiền và Thác Bạt Hòa Thiếu cũng đi theo. Mưa đã ngớt, những giọt nước còn đọng lại trên mái hiên, nước mưa như những hạt trân châu, tí tách rơi xuống.

Trương Phố đứng yên ở đó, không quay đầu lại, ngang nhiên nói: “Vừa mới khai xuân, vạn vật đua nở, trăm nghề chấn hưng, hiền thân là trưởng một tộc, lại rời bộ lạc như thế, bôn ba ngàn dặm, vượt qua Hàn Hải đến Hưng Châu có việc gì quan trọng không?”

Trương Phố là quan võ, nhanh mồm nhanh miệng, hai người không quản ngàn dặm đến, nếu như nói là đến tặng hậu lễ cho hắn thì khá là kỳ quái, Trương Phố cũng không vòng vo, liền đi thẳng vào vấn đề, hỏi luôn ý đồ họ đến.

“Nhớ ngày đó, ngươi cũng không chỉ là một tì tướng nhỏ dưới trướng Lý Kế Thiên mà thôi, giờ như vậy, lão tử phục ngươi ba phần, ngươi còn phô trương vậy”.

Thác Bạt Hàn Thiền oán thầm, nhưng mặt vẫn tươi cười: “Lần này đến, việc đầu tiên là tới thăm đại đô đốc. Đại đô đốc là chi trưởng của định nan quân chúng ta, giờ nội các lục bộ trong triều đều là các quan tân tấn, đại vương lấy định nan quân ta làm căn cơ, đông chinh tây phạt, tạo sự thống trị, nhưng định nan quân ta bộ hạ cũ suy yếu, chỉ có tướng quân là chức vụ quan trọng, các lão thần định nan ta cùng hưởng vinh đương nhiên là muốn xích lại gần với tướng quân rồi”.

Mặt Trương Phố trầm xuống, Thác Bạt Hàn Thiền gợi nỗi lo lắng trong hắn, không nhịn được nói kỳ quái: “Chức vị quan trọng ư? Ha ha, Hàn Thiền huynh quá khen rồi, đại đô đốc phủ ta còn phải chịu sự quản lý của nội các, cân bằng bộ binh thì sao, có gì là chức quan trọng chứ, Hàn Thiền huynh chớ như vậy”.

Thác Bạt Hàn Thiền lập tức tỏ ra bênh vực kẻ yếu: “Nói ra, Thác Bạt chư bộ chúng ta cũng đã thay đại đô đốc người giữ bình yên đấy, chức quan của đại đô đốc là ánh hào quang công danh, đại vương đoạt được Hạ Châu, từ đó khống chế định nan ngũ châu, nhưng không thể vượt qua kế trần thương, đại vương tây chinh ngọc môn, trảm tướng, lập nhiều chiến công hiển hách vẫn là đại đô đốc người. Xung Phóng chẳng qua chỉ là quan văn mọt sách, Dương Kế Nghiệp thì sao, chưa từng lập được cái chiến tích gì cả, ngược lại còn làm mất Lân Châu, khó khăn chống đỡ với mỗi tuyến Hoành sơn, còn đại vương hồi kinh, thế này mới đứng vững được đầu trận tuyến, hai người này vừa có đức vừa có năng lực, bằng vai bằng vế với đại đô đốc ư?”

Thác Bạt Hàn Thiền nói: “Bằng vai bằng vế ở điểm nào? Ngươi chưa nghe đại đô đốc nói sao, nội các là trên phủ đại đô đốc đó”.

Mặt Trương Phố càng trở nên lo lắng: “Thôi, thôi đi, chuyện không thoải mái này không cần phải nhắc đến nữa, hiền đệ coi trọng đến Hưng Châu, chẳng phải là đến đưa phi cho đại vương sao?”

Câu này của hắn, huynh đệ Thác Bạt Hàn Thiền ngây người, vội hỏi lại: “Đại vương lấy thêm phi ư? Sao ta lại không biết nhỉ?”

Trương Phố nói: “Đúng vậy, trong phủ đại vương trước có một tư quan, trong đó có ngọc chân quan chủ, có rất nhiều mỹ nữ, quốc sắc thiên hương, giờ đã hoàn tục, được đại vương nhận làm phi tử, điện lễ cũng vào hôm nay…”

“A”. Hắn vỗ vào trán một cái cười nói: “Đúng rồi, đây là nạp phi, sau khi phi mời, đương nhiên không cần bố cáo thiên hạ, Hưng Châu tuy mọi người ai nấy đều biết, địa phương khác lại không. Huống hồ các người khi xuất phát, việc này còn chưa được định, các người đương nhiên là không biết rồi, hai vị đến hưng châu rốt cuộc là có chuyện gì vậy?”

Thác Bạt Hàn Thiền mặt méo xệch nói: “Đại đô đốc đã hỏi thì tiểu đệ cũng thấy hơi khó nói, mong đại đô đốc có thể thương tình cho ta ngươi thuộc chỗ chính của định nan, giúp đỡ”.

Trương Phố ngạc nhiên nói: “Không phải đó chứ, Hàn Thiền huynh là họ Thác Bạt, lại là tộc trưởng của Ngôi Võ, ai dám làm khó ngươi?”

Thác Bạt Hàn Thiền phẫn nộ nói: “Còn không phải là Xung Phóng tên thất phu khi sao, mượn đại vương làm khó ta”.

Trương Phố không hề chớp mắt hỏi: “Nói gì vậy?”

Thác Bạt Hàn Thiền nói: “Đại đô đốc, thực không giấu gì đại đô đốc, đại vương là gia chủ của Thác Bạt Thị ta, đại vương đăng cơ tọa điện là vinh quang cho Thác Bạt Thị ta, một người làm quan cả họ được nhờ, huống hồ chúng ta đều là tộc người của Thác Bạt Thị đấy, vậy mà không được quan tâm gì cả, và không chịu ức hiếp mới đúng chứ? Nhưng thất phu Xung Phóng đó thi hành chính lệnh ở Hạ Châu, nhiều lần phân chia thảo nguyên chăn nuôi, rồi đem toàn bộ thảo nguyên chia thành chín phần, phần lớn nhất mà Thác Bạt Thị ta có là mảnh bèo cỏ tốt tươi, toàn bộ chỗ mảnh tốt tươi ruộng vườn thì dành cho Dã Ly Đảng Thất, còn một phần thì cho thủ quân Hoành sơn”.

Trương Phố nhíu mày, nói: “Đảng Hạng Bát Thị vốn là một nhà, nhưng giữa Bát Thị luôn luôn nội đấu, hòa bình thì ít, nguyên nhân trong đó là vì phân bố không đều, Thác Bạt Thị chiếm thảo nguyên lớn nhất, màu mỡ nhất, Thất Thị thì sống gian nan vất vả, đây mới là tạo phản, triều đình nhiều lần phân chia thảo nguyên cũng là vì giang sơn mà thôi, nỗi khổ của triều đình, hai vị cũng nên hiểu và ủng hộ mới phải”.

Thác Bạt Hàn Thiền nói: “Vâng, vâng, cần nói chính là việc phân lại thảo nguyên, giờ chúng ta với chỗ thảo nguyên hiện có cũng là nuôi sống tộc người. Nhưng chúng ta lấy đại cục làm trọng, không so đo, Xung Phóng, Phạm Tư Kỳ đám người đó lòng tham không đáy, Hạ Châu có các loại xưởng tinh luyện kim loại, đúc, in ấn, vì có lợi, giờ chen tiến rất nhiều thương nhân đất khách tranh lợi với ta, Thác Bạt Thị chúng ta tựa vào Thác Bạt Thị, không có công lao chỉ có khổ lao mà thôi, nhưng họ với thủ đoạn đê tiện bỉ ổi tranh đoạt khách với chúng ta, cũng không biết Xung Phóng Phạm Tư Kỳ bọn họ nhận biết bao điểm tốt của người ta, song phương nổi lên tranh chấp, lại thay bọn họ chỗ dựa…”

Trương Phố vẫn đang nghe, Hạ Châu có quy mô lớn, bình thường đều nắm người Thác Bạt Thị, nếu như có người ngoài tới tranh lợi, sớm sẽ bị họ lợi dụng đặc quyền trong tay đàn áp. Giờ khua chiêng gõ trống phát triển công thương, thương gia đầu tư kinh doanh cũng sẽ được bảo hộ, chất lượng những thứ mà thương gia sản xuất tốt hơn họ, giá cả hợp lý hơn họ, nếu như mất đi chỗ tựa đặc quyền, họ đương nhiên sẽ không tranh giành chút nào, song đây không phải là điều có thể nói toạc ra được.

Thác Bạt Hàn Thiền cũng thổ lộ: “Còn nữa, hồ thương đó gọi là Tháp Lợi Bặc, xây cái xưởng thủy tinh, làm ra thủy tinh trong suốt, sáng bóng, vô cùng tinh xảo, bán một bộ đến trung nguyên, đắt đỏ hơn cả thủy tinh mỹ ngọc, ta bỏ ra số lượng vàng lớn để đào mấy thợ thủ công, rồi đốt nóng ra thủy tinh, nhưng chưa đợi đến bán thì bị Hạ Châu tri phủ ăn cắp, nói gì, nói gì là bảo vệ quyền lợi nào? Thực chẳng còn đạo lý nữa, những người thợ đó lại không phải là nô bộc của hồ thương, ta xuất lượng vàng lớn, họ chắc chắn làm cho ta, ngươi đồng ý ta đồng ý, ai dám xía vào chứ? Từ xưa tới nay, ai nghe nói tới cách nói chuyên lợi gì chưa, đây chẳng phải là ức hiếp giữa ban ngày hay sao?”

Trương Phố ho khan một tiếng nói: “Việc này, ta là võ tướng, dường như không thể lo liệu được hết. Hai vị cảm thấy có gì không hợp lý thì cứ nói thẳng với Xung Phóng đại nhân, hoặc là bẩm báo trước mặt đại vương mới đúng”.

Thác Bạt Hàn Thiền nói: “Hạ Châu tri phủ là thân tín của Xung Phóng, rõ ràng là Xung Phóng bày mưu đặt kế cố ý làm khó bọn ta, chúng ta làm sao mà nói với Xung Phóng được chứ, nếu như nói thẳng với đại vương, khó tránh có phần không dám suy nghĩ toàn diện, kỳ thực chúng ta cũng không phải là muốn đoạt về cái gì đó, đại đô đốc nếu có tiện thì hãy hé mở cho đại vương biết nỗi khổ của chúng tôi, chúng tôi sẽ đền đáp xứng đáng”.

Trương Phố thở hắt ra, vẻ mặt tươi cười nói: “Điều này đơn giản quá, các người cứ yên tâm, đại vương bên đó ta còn có thể thường xuyên tới gặp mặt, nói hộ các người không có gì là khó cả”.

Lần này hai huynh đệ Thác Bạt Hàn Thiền đến kỳ thực là không phải vì chút chuyện cáo trạng này, cũng không phải mong vào những điều đó mà làm gì Xung Phóng, họ chỉ muốn tận dụng cơ hội nà, tìm được cái cớ để kết giao với Trương Phố. Lần này đến, họ vốn dĩ chính là được sự ủy thác của thủ lĩnh quý tộc Thác Bạt Thị, đi trước thăm dò, nối sợi dây quan hệ với Trương Phố.

Lần đầu gặp mặt, đương nhiên là không thể nói nhiều gì được, phải đặt vấn đề sau đó mới làm quen, xóa bỏ sự cảnh giác của hắn mới có thể được coi là cấu kết được, lợi dụng hắn đến đạt được mục đích của mình, giờ không thể nói quá nhiều để tránh hắn nghi ngờ, cho nên Thác Bạt Hàn Thiền lập tức ra bộ cảm động đến rơi nước mắt nói: “Đại đô đốc chắc chắn sẽ giúp huynh đệ chúng ta nói rõ mọi chuyện, huynh đệ ta thực sự cảm kích vô cùng. Không giấu gì đại nhân, Xung Phóng đó có mọc thêm cánh, một tay che trời làm nhiều người tức giận, giờ không chỉ có huynh đệ ta bất mãn, Hạ Châu cũng vậy, Hưng Châu cũng vậy, rất nhiều quý tộc Thác Bạt Thị và các thủ lĩnh Thác Bạt Thị rải rác khắp nơi đều ai oán hắn. Về sau đại đô đốc nếu như có chỗ nào cần chúng tôi giúp, ta sẽ sẵn sàng không từ chối”.

Thác Bạt Hàn Thiền ngừng lại, làm bộ cáo từ, hai người mang đến rất nhiều lễ vật hậu hĩnh, Trương Phố đương nhiên phải đích thân tiễn ra cửa, bước ra ngoài thấy Kỳ Bài vội vàng chạy đến, vừa thấy Trương Phố đứng bên đường, chắp tay nói: “Đại đô đốc, bộ binh Dương thượng thư có mời đại đô đốc vào giờ Thân đến bộ binh cộng thương Tiêu Quan bàn chiến sự”.

Trương Phố thản nhiên nói: “Biết rồi”.

Ba người vẫn đi ra ngoài hành lang, Thác Bạt Hàn Thiền nói: “Địa đô đốc, nghe nói chiến sự Tiêu Quan kéo dài quá?”

Trương Phố ung dung nói: “Chuyện này do Xung đại học sĩ lo liệu, hắc, đầu tiên là đánh lén, sau đó là ám sát, làm kế ly gián, thượng ba thiên lại không phải là kẻ ngu ngốc, sinh tử của mình và huynh đệ không tin lại tin lời ngươi nói nhăng nói quậy ư? Giằng co một hồi lâu, không những không thể lấy lại nhan sắc, ngược lại còn tổn binh hao tướng, dù sao cũng là văn nhân mà, nói chuyện binh trên giấy đạo lý rõ ràng, thực khiến hắn đi điều binh khiển tướng há chẳng phải trò cười? Chi bằng cho ta đi thu dọn cục diện rối rắm này”.

Trương Phố kinh thường ra mặt, huynh đệ Thác Bạt nhìn nhau mừng thầm trong lòng.

Tiễn hai huynh đệ Thác Bạt, Trương Phố lắc đầu, xoay người đi vào: Hay là đại vương bên đó thoải mái, chỉ cần hạ chỉ điều đi vài tên chướng tai gai mắt, đẫn cung tần mỹ nữ ở lại hậu cung mấy ngày đương nhiên có người mắng hắn hôn quân, nào có giống ta, hóa trang một gian thần thực là khó khăn, vừa phải nói vừa phải diễn, vẫn cùng với bang tử tiểu nhân lục đục với nhau hồi lâu mới có thể dẫn chúng vào tròng. Hừ, làm hôn quân và gian thần sao mà khác nhau đến vậy chứ?”

Một chân vừa tới cửa, thấy châu báu xếp đầy, sáu cô nương xinh đẹp đứng ở đó gần chỗ châu báu, thi nhau nói: “Nô tì xin được hầu hạ lão gia…”

Trương Phố nhoẻn miệng cười: Ha ha, hóa ra điểm khác biệt cũng chẳng có gì to tát cả, khó rách tre già măng mọc khi nhau làm hôn quân gian thần, làm gian thần thực là hay ho…

Sau cơn mưa trời lại sáng, mặt trời nhô lên cao, phá tan bầu không khí u tối.

Lúc Trương Phố nhoẻn miệng cười thì Dương Hạo đang cầm một nhánh cỏ mềm rảo bước vào trong cánh cửa của hậu cung.

Ngày kinh triết, nạp phi Tiểu Chu, Nữ Anh cuối cùng thỏa tâm nguyện…

-----oo0oo-----

: Tây Hạ Vương

 Chương 71: Xao động

Bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại. Mà dù có hậu nhân, nhưng do yếu tố tỷ lệ chết sớm của ấu nhi lớn và gia tộc thời này vẫn là thành phần cơ bản tạo nên xã hội, thế giới quan của cả xã hội đều thống nhất tức con đàn cháu đống là duy mỹ.

Vậy nên, thời đại phụ quyền nông nghiệp mà bất kể gia tộc hay xã hội đều cần có một lượng lớn nhân lực này thì những nam tử quyền chức đa thê đa thiếp là lẽ thuận lý hợp tình.

Ở xã hội đó, một người có địa vị mà chỉ lấy có một vợ, không nạp thê thiếp là không phù hợp cách nhìn của xã hội, hắn sẽ gặp trắc trở trong nhiều mặt của cuộc sống, bị đối xử không công bằng. Còn với một vị quân chủ, việc có hay không tôn tử đầy đàn lại càng được coi trọng và có liên hệ mật thiết tới vận mệnh tiền đồ của đất nước. Đương nhiên, bất cập ở chỗ, vị quân chủ có quá ít phi tử sẽ bị quần thần công kích, còn nạp quá nhiều thê thiếp cũng vẫn bị quần thần lấy làm cớ để quở trách, rốt cuộc trách nhiệm của một vị vua không chỉ vẻn vẹn ở chỗ nối đõi tông đường.

Thê thiếp Dương Hạo lại không nhiều, chỉ có bốn vị, ít hơn rất nhiều so với những đại nhân gia thế quyền quý ở Hà Tây, họ thường có đến hơn mười thê thiếp. Do vậy, việc hắn nạp thiếp là họp ý các quần thần, được ủng hộ nhiệt tình. Nhưng nạp thiếp chỉ là 'nạp thiếp, còn hoàng hậu lại là mẫu nghi thiên hạ, phải được khắp thiên hạ đồng khánh chúc mừng, còn nạp thiếp không cần phải nhiều quy tắc như vậy, cũng không cần văn võ ba quan chúc tụng, chỉ đơn giản tổ chức một đại lễ.

Điều này cũng thực hợp ý Dương Hạo. Nữ Anh vừa hạ sinh chưa đầy tháng, cơ thể vẫn chưa hồi phục, chỉ e không thể tham gia một buổi lễ kéo dài quá lâu, cho nên chỉ tổ chức một nghi thức rất đơn giản. Dương Hạo tự tay nâng lấy tấm lụa hồng che mặt tân nương, dắt tay nàng vào cư sở. Hắn dùng một thanh gỗ nhẹ nhàng gỡ tấm lụa che mặt lên, trước mặt hiện ra một dung mạo yêu kiều quyến rũ, khuôn mặt xinh đẹp tô thêm nét phấn giống như một đóa hoa tươi rực rỡ, trên mặt nàng lúc ấy lăn xuống hai hàng lệ châu.

Dương Hạo gỡ vương miện ra cho nàng rồi ngồi xuống bên cạnh, dịu dàng đưa tay lau nước mắt cho nàng hỏi: “Nàng sao vậy?”.

Nữ Anh ngậm ngùi nói: “Không sao, chỉ là... Chỉ là cuối cùng cũng thành người của chàng, người ta... Trong lòng thiếp thấy rất vui...”.

Dương Hạo không nhịn nổi cười nói: “Ngốc, nói như vậy là sao chứ, không phải nàng sớm đã là người của ta sao?”.

Nữ Anh ngả vào lòng hắn, lắc đầu nói: “Không giống nhau đâu, chỉ đến lúc gỡ khăn che mặt ra, được quang minh chính đại bước vào bậc cửa này, thiếp mới cảm thấy thực sự trở thành người của ngài, trong lòng thấy rất thoải mái. Thiếp từ trước đến giờ chưa từng có cảm giác này, cảm giác được mãn nguyện bình yên”.

Dương Hạo như hiểu được phần nào, hắn nhẹ nhàng ôm lấy thân hình yêu kiều, hôn lên khuôn mặt tỏa hương thơm dịu nhẹ, dường như hắn đã nghe thấu từng tiếng lòng của nàng. Trải qua bao nhiêu trắc trở, có lẽ người con gái trước mắt hắn bây giờ trong lòng đang thiếu mất cảm giác an toàn. Đối với Dương Hạo mà nói, từ giây phút nàng cùng với hắn thì nàng đã là người của hắn rồi, nhưng với nàng mà nói, đây mới thực là một nghi lễ quan trọng, để thông cáo cho các thần dân được biết, có ý nghĩa trọng đại vô thường trong lòng nàng.

Nàng là một người phụ nữ phong hoa tuyệt đại, cũng là một người con gái ngây thơ trong trắng. Không giống ở chỗ, trước đây nàng giống như tiên nữ bất thực khổ hạnh thế gian, sống trong mộng ảo vô thực, còn giờ đây nàng mới thực là một người phụ nữ sống thực hoạt sắc, một người trần thế thật sự.

Dương Hạo chợt nhớ đến lần đầu tiên cùng nàng, nàng nằm trên giường với một bộ áo ngủ mỏng manh, nổi lên từng đường nét quyến rũ, mái tóc đen dài mượt mà trải trên lụa, đang chìm trong giấc ngủ như một vị tiên nữ xinh đẹp. Bây giờ, nhìn nàng hắn lại càng thấy rất thực, rất đáng yêu.

Cảm giác đụng chạm tới cơ thể cũng là chân thật, hắn còn nhớ sự mềm mại mà mình cảm nhận được khi đôi tay luồn khắp làn da nàng, khiến hắn không kìm chế nổi...

Nữ Anh nhắm nghiền đôi mắt, dâng lên cho Dương Hạo đôi môi nóng bỏng. Dương Hạo không hề tiến thêm một bước, chỉ nhẹ nhàng ôm lấy nàng, cùng ngả lưng xuống giường để cảm nhận chính cảm xúc của nàng.

Nữ Anh trong lòng thấy rất mỹ mãn, thực ra điều mà Dương Hạo nghĩ lại quá đơn giản so với nàng. Khi gánh vác trách nhiệm quá nặng nề như vậy, dù Dương Hạo có chuyên tâm cũng khó có thể lĩnh hội được cảm giác mãn nguyện yên ổn này của nàng.

*

* *

Những kẻ nô lệ mà Tháp Lợi Bặc đem từ phương Tây đến lại càng dễ để làm chúng thỏa lòng, trải qua đoạn đường dài khổ nhọc cuối cùng cũng đến được Hưng Châu, như vậy chúng không cần phải tiếp tục những ngày lê lết bị đòn roi đánh đập mà một khi bị quỵ ngã sẽ bị vứt lại bên đường mặc kệ sống chết, không cần phải ngậm một miếng lương khô cứng đến mức đau rách cả miệng, không phải ngủ chung với lũ muỗi bọ bủa vây tứ phía. Họ chỉ cần được uống một ngụm nước nóng, ngủ trong một nơi có thể coi là nhà, như thế họ thấy hạnh phúc lắm rồi.

Nhất là khi ở Sa Châu, khi họ nghe được tin từ quan địa phương rằng vị đại nhân chấp chính nơi đây từng công bố ‘Nông Nô lệnh’, thoáng nghe lệnh đó sẽ bảo đảm nhiều quyền sinh tồn cho thân phận nô lệ mình, có thể thoát ly số phận nô lệ bằng việc phát minh sáng tạo và lập chiến công, trở thành một công dân thực sự, họ vui mừng như mình sắp rời khỏi địa ngục tới nơi thiên đường. Nguyện vọng càng nhỏ bé lại càng dễ làm toại nguyện.

Đối với Tháp Lợi Bặc, ngoài niềm hạnh phúc được nghe thấy tiếng kêu của tiền ra chính là việc chứng kiến phúc âm được truyền bá tới mọi chân trời góc bể, để tất cả mọi người dù là kẻ tàn ác hung bạo hay người ôn hòa nhu nhược cũng trở thành tín đồ trung thành thực sự. Nhưng ở nơi của Dương Hạo, hắn lại gặp phải một cái gai bất đại bất tiêu trong mắt, không thể thu lợi như ý muốn.

Thương đạo Tây Vực thông suốt đem đến nguồn lợi to lớn, Dương Hạo đương nhiên thu được biết bao lợi lớn từ đó. Nhưng cái lợi mà hắn thu được không hề thua kém Dương Hạo, hắn cũng không dám gây sự với một nhân vật lớn khống chế cả hành lang Hà Tây này. Kết quả là chỉ có thể nhượng bộ nép mình trước cường thế của Dương Hạo, nếu không những nỗ lực từ trước đến nay của hắn sẽ trở thành bọt nước.

Nỗi ác mộng này bắt đầu từ lúc Dương Hạo tiến hành thu mua nô lệ, trong chiến tranh giữa La Mã và Đại Thực (Ả Rập) đã bắt rất nhiều tù binh, tù binh quý tộc được thu mua với giá cao, còn những binh sĩ bình thường lại khó được sắp xếp trao đổi đến, đế quốc của họ không cần nhiều dân đến vậy.

Dương Hạo lại muốn mua từ hắn, hắn vốn vui mừng cho rằng đây thực là con đường tài lộc mới. Nó thực là con đường tài lộc lớn nhưng ai ngờ ở nơi phương Đông xa xôi như vậy lại có một kẻ có thể coi là hậu nhân của đức hoàng Khắc La Tô của đế quốc La Mã. Đồng thời những nô lệ mà hắn buôn đến đây lại có quan hệ mật thiết với La Mã. Vậy nên, trước mặt Dương Hạo hắn không còn là kẻ duy nhất thay mặt cho phương Tây nữa. Tuy sự việc đã qua nhiều năm nhưng những tên quý tộc La Mã vẫn coi trọng chuyện tìm thấy từng kẻ thủ hạ thất lạc của mình, họ coi đó là công lao lớn vĩ đại, vì những người đồng bào thất lạc viễn phương đó, họ sẵn sàng nhiệt tình hợp tác với Dương Hạo vị quân chủ Đông phương tốt bụng này.

Tháp Lợi Bặc cho dù vứt bỏ được món lợi kiếm được từ Đông phương cũng không thể để Dương Hạo gây chiến với La Mã, làm hắn rơi vào thế hạ phong trên chiến trường Tây phương. Nguồn quốc khố của nước hắn chủ yếu là lấy từ thương nghiệp, một khi chiến tranh tiếp tục thất lợi, các thương lộ Tây phương đều sẽ bị người La Mã chặt đứt, thương lộ Đông phương lại trở nên quan trọng hơn hết. Từ triều Đường, đế quốc Đại Thực vốn đã là một nước mậu dịch chủ yếu nhất của Đông phương, qua con đường tơ lụa, người Đại Thực đã có mặt khắp nơi ở thành Trường An.

Nếu như bây giờ muốn tìm kiếm một tuyến hải vận lớn, để có thể đáp ứng nhu cầu thương mại của cả một đế quốc, muốn gây dựng một đội thuyền viễn vận lớn với đầy đủ đội hộ tống vận hành thì thực là khó khăn, đến cả trăm năm nữa cũng khó mà hoàn thành được. Nguyên cớ bất thành có rất nhiều, cho nên dù không bá chiếm được thương đạo Tây Vực, hắn vẫn nuôi dưỡng ý chí theo thương đạo truyền thống này, đồng thời hắn cũng muốn tăng cường sự ảnh hưởng chính trị của mình đối với Dương Hạo, kẻ làm vua cả vùng Tây Bắc, hoặc do vương triều mới lập này sẽ đem đến nhiều lợi cho hắn, không chỉ là tiền bạc mà còn là sự hợp tác trong quân sự và chiến trường, nên hắn vẫn cứ đến, càng muốn hợp tác mật thiết hơn nữa với Dương Hạo.

Hắn tin tưởng rằng, chí ít thì mình vẫn đi trên đầu của những tên người La Mã.

Vừa đặt chân đến Hưng Châu Tây Vực, Tháp Lợi Bặc đã nhìn thấy cây thánh giá từ xa, thánh giá được dựng trên mái một căn nhà kiểu Tây Bắc rất bình thường, xung quanh đều là đất trống, họ đang vội vàng xây cất lại thành một kiến trúc mới. Chỉ nhìn sơ qua cũng biết, tương lai đó sẽ là một nơi khang trang đồ sộ.

“Đây là gì vậy?”. Tháp Lợi Bặc chau mày lại, trước khi tới thành, Tháp Lợi Bặc đã gọi trưởng quầy hàng đích thân ra thành đón hắn, lúc này cũng đa đứng ngay cạnh, trưởng quầy nhìn một lúc rồi nói: “À, đó là giáo đường của linh mục Lộ Tây Ô Tư, Lộ Tây Ô Tư đem mấy tu sĩ từ Đại Tần đến đây bố thí truyền đạo, nơi đang xây dựng đó là đại giáo đường của họ”.

Nỗi lo lắng hiện lên trong đầu hắn, Tháp Lợi Bặc nhìn khu kiến trúc đó một hồi, rồi nhìn sang mảnh đất phía đối diện hỏi: “Mảnh đất này của ai? Ngươi lập tức đi mua nó cho ta, cả mảnh đất này, mua tất cho ta”.

“Thưa vâng, tiểu nhân xin được đưa ngài về nghỉ ngơi, sau đó sẽ...”.

“Không, ngươi lập tức làm việc đó ngay, bất kể phải tiêu bao nhiêu tiền của cũng phải mua bằng được mảnh đất”.

Tháp Lợi Bặc nói xong, quay đầu lại, hét lên bằng tiếng Đại Thực: “Tạp Y Mỗ, Tạp Y Mỗ”.

“Lão gia, thiếp gia, tiểu nhân đây ạ, ngài có điều gì cần đặn đò”. Một người béo ục ịch, mặt phiết hai chòm ria mép, đầu đội mũ khăn quấn nhanh như chớp chạy đến, cúi đầu đáp.

Tháp Lợi Bặc nhấc chân đạp kẻ hầu một cái, quát lớn: “Mau đi, chuẩn bị cho ta thông tê, long não, nhũ hương, long tiên hương, sắc vị thủy, thiên niên tảo, việt nặc bố, hoa nhị bố, đâu la cẩm, thảm, cẩm tự, phiềm hoa diệm, san hô, mỗi loại một lễ phẩm lớn, ta muốn lập tức diện kiến quốc vương Tây Hạ. Chuẩn bị cho cẩn thận, ngươi cái tên ngu xuẩn này”.

“Vâng, tuân lệnh thưa lão gia”. Tạp Y nhỏm người đứng dậy, nhanh chóng lui về hướng xe thồ phía sau.

“Ta muốn xây đối diện bọn chúng, xây một ngôi chùa bái rộng lớn, có tường bao dát vàng lộng lẫy!”. Tháp Lợi Bặc nhìn chằm chằm khu kiến trúc đối diện, hiển hiện cây thập tự giá giản đơn, hắn nghiến răng nói: “Ta không thể thua những kẻ La Mã ngu ngốc các ngươi được!”.

*

* *

Vùng Thác Ôn Ba, người Hán thường gọi là hồ Thanh Hải, trước đây còn được gọi là Tây Hải hoặc Tiên Hải, có đến hơn hai mươi con sông hòa chảy về đây, nhưng hồ lại không có chỗ thoát nước, xa xa bốn mặt hồ được bao trùm bởi các dãy núi cao xanh mơn mởn, nước hồ xanh màu ngọc bích trong veo không chút gợn sóng, xung quanh ven hồ có những đàn cừu lông trắng đang nhởn nhơ ăn cỏ giống như những đám mây trên nền trời. Thoáng nhìn ra phía hồ, mặt nước xa tít chân trời, bích thủy hòa màu với bầu trời, tuyết sơn đổ ngược bóng xuống, mặt nước phản ánh bỗng lay động bởi từng đàn cá bơi lội, chim trời lượn bay rộn ràng.

Lúc này cũng là dịp cả vùng thảo nguyên xanh tươi tràn đầy sức sống, cỏ non phủ đầy mặt đất như tấm thảm xanh trải dài, hoa cúc vàng cứ thế theo gió thoảng hương thơm mát, đâu đó có vài lều vải của những mục dân, từng đàn cừu dê nối tiếp chuyển động như đám mây, tất cả đều chứa đựng trong lòng dãy núi cao, phía Bắc Đại Thông Sơn hùng vĩ, phía Đông Nhật Nguyệt Sơn sừng sững, phía Nam cũng là Thanh Hải Nam Sơn và phía Tây trùng điệp Tượng Bì Sơn, giống như những tẩm bình phong tự nhiên bao bọc cả vùng hồ.

Từ phía núi cao cho xuống mặt hồ là khung cảnh thảo nguyên thiên lý rộng lớn xanh non đầy sức sống. Cảnh núi cao, nước xanh, thảo nguyên mênh mông hòa vào một giống như một bức tranh phong cảnh xinh đẹp bất thực.

Nơi thảo nguyên màu mỡ là nơi thích hợp để chăn thả.

Xa xa truyền tới tiếng hát nhịp nhàng của người du mục, họ cưỡi trên ngựa tay cầm mã can chăn đuổi từng đàn cừu, con người nơi đây chăm chỉ cần cù.

Những lương phẩm họ làm được không chỉ là cừu dê, bởi hồ Thanh Hải có nhiều cá trên mức tưởng tượng, ngư nghiệp nơi đây cực phát thịnh. Đông tới, thảo nguyên đầy tuyết, mặt hồ đóng băng trắng xóa, họ chỉ cần đục một lỗ băng nhỏ, thắp đèn sáng là dẫn được cá đến. Cảnh bắt cá càng nhộn nhịp hơn đến tháng tư đầu năm.

Nơi đây màu mỡ, nguồn cá dồi dào là lương phẩm chính nuôi dưỡng hàng chục bộ lạc thảo nguyên. Tuy những bộ lạc này cũng xảy ra giao tranh nhưng không đáng kể, chỉ là tranh đoạt các thảo địa tươi tốt nhất hoặc do mối ân oán giữa các dũng sĩ của bộ lạc.

Bây giờ, sau khi quốc triều người Hồi Hột diệt vong, những người Hồi Hột lưu vong tản di đến đây tự thành lập các bộ lạc nhỏ cũng có chủ ý của chính mình. Dạ Lạc Hột đại nhân mang dòng máu Cửu vương Hồi Hột đã đến đây, Dạ Lạc Hột là huyết thống Khả Hãn, dù số dũng sĩ hắn đem đến không nhiều, lực lượng yếu hơn so với các bộ lạc địa phương, nhưng các bộ lạc lưu vong lâu ngày tại đây vừa nhìn thấy Dạ Lạc Hột liền hoan hỉ, giống như tìm thấy căn gốc của mình. Có hắn, họ không còn là những kẻ lưu lạc mất gốc tích, không phải là cát hoang bay trên đồng.

Rất nhanh sau đó, hắn đã lợi dụng huyết thống cao quý của mình, liên kết các bộ lạc lại thành một, cuộc sống nơi đây tập trung, trẻ nô nghịch, người chăn nuôi, cả một bộ tộc dựng lều trên thảo nguyên ven hồ.

Từng túp lều dựng lên sát nhau, ở giữa là một lều trướng lớn nhất, trước cổng trướng dựng một cột gỗ cao, trên đỉnh tung bay dây cờ cửu lũ lang vĩ, đây chính là ngự sở Hãn trướng.

Người Hồi Hột ở hồ Thanh Hải trước giờ mỗi bộ lạc đều có một thủ lĩnh riêng, không có kẻ nào có tư cách để thống soái cả bộ tộc. Dạ Lạc Hột người xuất thân cao quý này vừa đến, hắn vừa hô hào lập tức được đáp lại, các bộ lạc khắp nơi kéo đến gia nhập, họ nghĩ rằng đây chính là cội nguồn, là chỗ nương tựa tốt nhất, họ tin tưởng chỉ cần có sự thống lĩnh của Đại Hãn, cuộc sống sẽ tốt đẹp hơn.

Dạ Lạc Hột ngồi khoanh chân chính giữa, trước mặt bàn bày đủ mọi thứ thơm ngon nhất của vùng thảo nguyên như trà sữa, tô du, sao diện và thanh khỏa mỹ tửu. Hắn đang chăm chú nghe thuộc hạ bẩm tấu: “Việc giao tranh đoạt quyền của Lý Kế Quân với ta nay đã phát động đến Tiêu Quan, kết quả là xảy ra chinh chiến không ngừng giữa Ba Thiên và quân Tây Hạ tại Ất Húc Môn”.

Dạ Lạc Hột cười ầm lên: “Hay lắm, Dương Hạo rốt cuộc cũng giúp chúng ta một việc lớn, bọn chúng càng tranh đấu quyết liệt thì Thượng Ba Thiên càng không thể đề phòng được chúng ta, ta thừa cơ mài binh luyện võ, ung dung mà triển khai đại sự”.

Hắn suy tính một hồi rồi nói: “Thượng Ba Thiên muốn mượn binh vay lương của chúng ta? Ha ha, hắn đã tự coi mình là bá vương Lũng Hữu ư? Thật nực cười! Ta đã tới đây rồi, các bộ tộc Hồi Hột không còn thuộc tay hắn thống lĩnh nữa. Hãy cự tuyệt hắn, một binh một tốt cả một đầu dê ta cũng không cho!”.

“Thưa vâng, nhưng... Nói như thế liệu có gây đối địch với hắn không, binh lực hắn giờ vẫn cường mạnh hơn ta, chúng ta cũng chưa hoàn toàn chinh phục hết các bộ tộc Hồi Hột. Một khi Thượng Ba Thiên gây khó dễ với Khả Hãn...”.

Dạ Lạc Hột chắc chắn nói: “Không cần lo nghĩ, La Đan và hắn đánh nhau đến mức không dứt ra được, hắn lại đang giao binh với Tây Hạ, như vậy có thể chống đỡ thêm một cường địch nữa được không? Đây chính là cơ hội tốt nhất cho ta”.

Hắn cười một cách bí hiểm: “Hơn nữa triều đình Đại Tống đã đồng ý phụ trợ binh giáp khí giáo cho ta, chúng hà cớ gì giúp đỡ Khả Hãn ta? Chúng lo sợ rằng Thượng Ba Thiên sẽ biến thành tên Dương Hạo thứ hai, như vậy Khả Hãn ta chẳng phải lo ky điều gì nữa. Ngươi cứ việc hồi đáp hắn, nói rằng tộc ta thiếu thốn binh tráng không đủ để cho hắn mượn. Còn lương thảo, cứ nói cuộc sống ta khó khăn, nan dĩ vi tục, nếu Thượng Bá Thiên đại nhân thực quá cần thiết có thể dùng gạo, trà, muối, vải và binh khí đổi lấy cừu dê của chúng ta”.

Tên thuộc hạ vội cúi mình: “Tuân lệnh, vậy tiểu nhân sẽ hồi đáp lại chúng theo lời dặn dò của Đại Hãn!”.

“Ừm!”. Dạ Lạc Hột gật đầu, khi thủ hạ đã lui ra, hắn chống tay xuống bàn đứng dậy đi ra phía ngoài trướng.

Mọi người dân đi qua trông thấy hắn đều dừng lại cúi rạp mình trịnh trọng bái lễ, Dạ Lạc Hột chống hai tay lên nhìn ra phía xa, bỗng cảm thấy những lời A Cổ Lệ nói đều đúng, nếu lúc đầu quyết đoán chiếm lấy Cam Châu, đem binh chiếm lĩnh Kỳ Liên Sơn, hắn đã có thể lợi dụng uy vọng của mình thống lĩnh toàn tộc Hồi Hột của Lũng Hữu.

Như vậy, hắn sẽ không mất đi nhiều binh lính, không phải chạy quanh liên tiếp như một khuyển cẩu mất nhà. Lại có thể có được sự giúp đỡ của triều Tống, không cần phải lo mình thành con cờ trong tay Thượng Ba Thiên. Đó mới là điều đáng để hắn đến hồ Thanh Hải. Nghĩ đến đây, lòng hắn có chút hối hận, nhưng hắn không thể tự nhận mình sai, là một Đại Hãn, hắn luôn đúng, bất kể làm việc sai hay đúng.

Dạ Lạc Hột hội tộc ở đây để tập hợp lực lượng, hắn sẽ dùng sự chiến thắng cuối cùng để chứng minh điều mình làm là đúng. A Cổ Lệ từ lúc bị hắn bỏ rơi, đã không còn liên quan gì với hắn. Cả tên của nàng và những việc liên quan đến người con gái này đều là điều cấm ky, tuyệt đối không một binh lính hoặc người trong bộ tộc được nhắc đến. Hắn cũng sẽ cố gắng để quên người con gái đó, trong lòng hắn giờ đây chỉ suy nghĩ đến một việc duy nhất: làm chủ Lũng Hữu. Đợi đến khi thống nhất được cả tộc người Hồi Hột, toàn tộc quỳ xuống tung hô bệ hạ, hắn sẽ huy động binh lực hướng về Đông tới Lũng Hữu,tranh đoạt ngôi vị bá chủ. Làm được bá chủ, hắn sẽ quay về đánh phá Hà Tây, lấy đầu Dương Hạo để rửa sạch nỗi ô nhục của hắn.

Chỉ cần hắn có thể thành công, là kẻ chiến thắng, nỗi nhục nhã và bất an trong lòng hắn mới có thể được giải trừ, không kẻ nào có đủ tư cách để chỉ trích người chiến thắng. Hắn chỉ có thể dùng một thắng lợi tuyệt đối để bảo vệ danh dự của một Đại Khả hãn, lại còn cả... Nỗi đau phải nếm trải khi hai con trai của hắn chết thảm nơi chiến trận...

Bấy giờ trên đầu hắn lướt qua một cánh chim, con thanh điểu đang sải cánh bay vút về phía hồ Thanh Hải rộng lớn...

*

* *

“Tiểu Ba, Ba Thục này giao lại cho đệ, binh lực ta để lại có hạn, ngươi hãy giữ trọng trách xây dựng và bảo vệ mười hai đại doanh trại sâu trong núi, tránh tiếp chiến trực diện với quan binh. Lập doanh tại sơn, là nơi được bao quanh bởi núi non hiểm trở trùng điệp, số tùy binh tuy ít nhưng lại có thể thì triển”.

Vương Tiểu Ba được Đồng Vũ giao phó trọng trách, đơn độc thống lĩnh bảo hộ người ngựa cả Ba Thục, trong lòng không khỏi vừa căng thăng vừa vui mừng, hắn gật đầu đáp: “Đại ca yên tâm, tiểu đệ nhất định sẽ không phụ lòng đại ca, quyết giữ vững đến lúc đại ca trở về!”.

Đồng Vũ gật đầu, vỗ vai Vương Tiểu Ba khích lệ, hắn quay người nhảy lên ngựa, cùng Thiết Đầu bên cạnh hùng dũng tiến xuống núi, binh đoàn của hắn chỉnh tề hàng ngũ, chỉ chờ có lệnh xuất phát.

“Tiểu Lục, chúng ta sẽ có thể trở về thật chứ?”.

Ngay lúc đó, Thiết Đầu quay sang hỏi Đao Tiểu Lục, Tiểu Lục đáp: “Việc này, phải xem xét thể vây hãm của binh mã triều đình ở Ba Thục, chúng ta đông người ngựa thế này, cũng dễ bị chúng giết hết. Chỉ cần ra ngoài chiến đấu, có Tề Vương Triệu Quang Mỹ nội ứng thì dù ở bình nguyên Quan Trung, quan quân triều đình cũng không thể làm gì được ta, huống hồ triều đình lại điều binh khiển tướng vây hãm quanh Quan Trung bộ, việc đó không phải năm ba tháng là làm xong”.

Hắn dừng lại, giật dây cương, quay đầu nhìn Vương Tiểu Ba vẫn đứng tiễn trên đỉnh núi, lại nói với Thiết Đầu: “Lần này, triều đình cũng phái La Khắc Địch tới. Hắn đến thì chúng ta sẽ tháo chạy, coi như tặng hắn lễ vật là quà. Huynh đệ trên một chiến trường, dành cho hắn một chiến công thì có sao? Đại ca để chúng ta đến Quan Trung, ngoài việc tránh địch phòng mạng còn có một nguyên nhân khác, nếu Triệu Quang Mỹ cả gan có ý làm phản, tuyệt đối sẽ không chỉ dựa vào binh mã vùng thảo nguyên của ta, chúng đâu nắm chắc đến vậy. Nhất định, có thể khống chế chúng ta? Chúng chắc chắn là còn ẩn dấu thực lực. Vậy nên chúng ta đi lần này, tránh địch phòng mạng còn tái cầu phát triển, cũng là tìm cách để chiếm lòng tin của bọn chúng, lật tẩy thực lực thật của chúng, lúc cần chúng ta có thể đến Lũng Hữu”.

Tiểu Lục mỉm cười, trầm tĩnh đáp: “Quân binh của chúng ta giỏi tác chiến vùng sơn địa hiểm trở, đến Quan Trung rồi ta sẽ lợi dụng sự giúp đỡ của Tề vương, tranh thủ thao luyện tại bình nguyên để quân ta càng thêm tinh nhuệ. Nếu hữu triều có lúc cần dùng tới chúng ta tiến quân, như vậy mới có thể phát huy toàn lực kỳ binh. Đi thôi, không cần phải nghĩ nhiều thế, việc đau đầu nhức óc này cứ để đành cho đại ca, chúng ta chỉ cần đánh thắng là được”.

Bốn đoàn quân Kiêu Hùng, Kiêu Dũng, Kiêu Chiến và Kiêu Thắng vừa thấy đại soái chạy tới vội dương cao cờ hiệu, dựng thẳng giáo mác hùng dũng chuyển hướng sang phía Bắc tiến về Kiếm Các.

Tần có Hoàng Quan, Thục có Kiếm Các, đây đều là cửa khẩu biên hộ của hai nước, tuy Quan Trung có Tề Vương nội ứng, nhưng để vượt qua Quan Trung phải giao tranh là điều không thể tránh khỏi.

o O o

-----oo0oo-----

: Tây Hạ Vương

 Chương 72: Âm Mưu 

“Tương lai chiến đấu với Lũng Hữu, chỉ có thể dùng chiến thuật đánh chớp nhoáng để khống chế. Nếu không, khi chiến đấu giữ nguyên trạng thái, triều Tống phản ứng lại thì chúng ta sẽ lâm vào thế lưỡng nan. Lệnh cho Lý Kế Quân, Dạ Lạc Hột đem quân tới Lũng Hữu, phái những tướng như Vương Như Phong trà trộn vào nội bộ quân địch, tộc trưởng La Đan và Xích Bang Tùng cùng lúc âm thầm giữ chân Thượng Ba Thiên, điều động cả nghĩa quân tinh nhuệ Ba Thục tới Quan Trung, thuận tiện cho việc tùy cơ tiến vào Lũng Hữu, Nam Bắc hô ứng giáp kích Thượng Ba Thiên.

Tất cả những điều này, việc bố trí toàn bộ thuộc hạ đều là để chuẩn bị cho cuộc tác chiến với Lũng Hữu sắp tới. Đến lúc đó có thể nhất cử hạ định.

Mà muốn đoạt lấy Lũng Hữu, tất phải đánh hạ Tiêu Quan, hiểm quan này là căn cơ Thượng Ba Thiên khổ tâm gây dựng hơn mười năm, hắn bày binh bố trận dày khắp, nơi đây địa thế lại hiểm trở, dễ thủ khó công, không thể triển khai binh lực, nếu dốc toàn lực tấn công, phải cần tới gấp mười lần binh lực bây giờ, tiêu hao như thế chỉ e quân ta không chịu đựng nổi. Làm thế nào mới có thể chiếm được hiểm quan này với cái giá phải bỏ là nhỏ nhất, mong rằng ba ngài hãy nghĩ ra một biện pháp thỏa đáng nhất”.

Đây là những lời Dương Hạo nói trong cuộc triệu đàm bí mật với Trương Phổ, Chủng Phóng và Dương Kế Nghiệp trước khi tiến hành xưng vương lập quốc.

Ngay sau đó, Chủng Phóng trở thành Nội Các đại học sĩ, một loạt những hành động trong ngoài Ngọ Môn của Trương Phổ và Chủng Phóng, dần dần làm nổi lên những lời đồn đại ở thành Hưng Châu: Trương đô đốc có công công thành dã chiến nhưng lại phải đứng dưới trướng của Chủng Phóng một kẻ gian xảo giỏi miệng lưỡi, thực là bất hợp. Nhiều kẻ vốn bất mãn với việc phong quyền phân tước của Dương Hạo thấy đó chính là cơ hội, liền dựa dẫm vào Trương Phổ.

Lúc này, Chủng Phóng liên tiếp tiến hành các mưu kế như tập kích, hành sát, ly gián nội bộ với Tiêu Quan nhưng tất cả đều thất bại. Cứ thế hao binh tổn tướng, chiến sự Tiêu Quan không hề tiến triển, Dương Hạo rất bất mãn bèn phái Trương Phổ tiếp thủ. Trương Phổ vốn thích kiếm tẩu thiên phong, dụng kỳ binh trí thắng, lần này lại sử dụng một biện pháp lão thành, hắn dâng sớ xin di chuyển các bộ tộc quân xung quanh Hạ Châu về Đâu Lĩnh. Tiêu Quan tuy hiểm trở, khó bài bố đại binh, cũng rất khó tập kích đánh phá yếu doanh được xây dựng đã hơn mười năm nay của người Thổ Phồn, đâu đâu cũng là thành trì kiên cố. Nhưng nếu điều một bộ tộc vừa dân vừa quân đến đây, trường kỳ giằng co, có thể thực lực quân Hạ Quốc sẽ mạnh hơn so với cường thế của Thượng Ba Thiên, dụng tàm thực phương thức mà thâm nhập vào sâu bên trong.

Dương Hạo vốn “vô ý Nam xâm” là do quá phẫn nộ việc một tên tiểu từ Thượng Ba Thiên cũng dám hướng kỳ tranh chấp, hắn cũng muốn làm cách thể hiện thể diện của mình, tránh làm Hạ Quốc bị vướng mắc quá lâu ở Tiêu Quan, hắn vội toại hợp với để nghị của Trương Phổ, ra lệnh cho đại học sĩ Chủng Phóng lập tức tiến hành. Chủng Phóng nhận được lệnh, lập tức điều Nguy Vũ bộ đến Đâu Lĩnh.

Nguy Vũ bộ là bộ lạc của hai huynh đệ Thác Bạt Hàn Thiền và Thác Bạt Hòa Thiếu. Bộ tộc dưới tay Đảng Hạng tộc Thác Bạt Thị thực lực rất lớn mạnh, hơn nữa họ vốn là những mục dân quanh vùng Hạ Châu gần với Đâu Lĩnh, phái bộ tộc này tiến binh cũng thực thuận hợp. Ngay kề Đâu Lĩnh là đỉnh Ky Liên Sơn, nơi đây thủy thảo phong mỹ, thích hợp chăn thả nhưng lại là nơi đóng quân gần nhất của Hạ Quốc và trú địa Hô Duyên Ngạo Bác của Lũng Hữu. Hai bên chưa từng tỏ rõ địch ý cũng đã thường khởi xuất tranh đoạt lẫn nhau, huống hồ giờ lại ở vào thế đối địch.

Chủng Phóng điều Nguy Vũ bộ đi rõ ràng là có ý đồ mượn đao giết người. Hai huynh đệ Nguy Vũ bộ vốn đã có mâu thuẫn với hắn, giờ lại thân cận hơn với Trương Phổ, hắn phái họ tiến binh, thứ nhất có thể dùng họ để chỉnh lý Hạ Châu, lại tiện cho việc củng cố quyền khống chế của mình ở Hạ Châu, hai là mượn tay Hô Duyên Ngạo Bác làm tiêu hao binh lực của bộ lạc Nguy Vũ, có thể nói là nhất cử lưỡng tiện.

Triều đình hữu quyền điều động binh tộc, huynh đệ Thác Bạt không thể kháng mệnh, họ đành vừa xuất binh tộc hướng về Đâu Lĩnh vừa phái người tới cáo oan với Trương Phổ, nhưng cớ lẽ của Chủng Phóng đường hoàng chính đáng nên Trương Phổ cũng không có cách nào phản đối được. Trương Phổ đành dụng mưu thức giống hệt Chủng Phóng, lấy gậy ông đập lưng ông, hắn tâu với Dương Hạo rằng: “Chỉ dựa vào thực lực của Nguy Vũ bộ e là khó đánh bại thù địch Tiêu Quan, thỉnh xin cấp thêm một vạn hai nghìn trướng bộ lạc Tô Bì, cho Nguy Vũ bộ thiết chế.

Tô Bì bộ là bộ tộc của Thát Bạt Thương Mộc, cũng là bộ lạc do Thát Bạt Hạo Phong làm trưởng tộc được Dương Hạo trọng dụng. Khi Chủng Phóng chấn thủ Hạ Châu, phụ tử Thát Đầu Thương Mục cũng rất thân cận với hắn, nhưng nay lệnh mới coi như là đại học sĩ được truyền đến, Trương Phổ ra lệnh phái bộ lạc này đến Đâu Lĩnh, chịu dưới quyền tiết chế của Nguy Vũ bộ. Đương nhiên Nguy Vũ bộ sẽ sắp xếp cho bộ lạc đứng trước làm mũi tiên phong, tránh việc bộ lạc mình trực tiệp đối diện quân Hô Duyên Ngạo Bác của người Thổ Phồn.

Tuy rằng cả thành Hưng Châu ai ai cũng biết việc đấu trí mưu tranh giữa đại học sĩ và đại đô đốc, ai ai cũng hiểu nhưng cũng không ai dám bẩm tấu sự việc này cho Dương Hạo biết, Dương Hạo lại thực như không hay biết gì, cho nên lập tức đồng ý lời thỉnh cầu. Vì vậy, Chủng Phóng thành ra tự lấy đá đập chân, chịu thiệt trong chính loạt mưu đấu này.

Đương nhiên, cũng không phải tất cả mọi người đều cho rằng Dương Hạo không hề hiểu biết về các quần thần của mình, ví như Mục Xà Kiệu, kẻ thường kề bên Dương Hạo như hình với bóng, nhưng chế hành chi đạo là do bậc đế vương quyền thuật, Chủng Phóng và Trương Phổ đều có quyền lực cực đại, sự bất hòa giữa hai phía hiển nhiên làm hai bên càng có lợi cho sự thống trị ổn định của Dương Hạo. Vậy nên những kẻ hiểu ra dụng ý thực sự của Dương Hạo cũng không dám nói ra.

Tô Bì bộ đương nhiên không cam lòng làm tiên phong cho Nguy Vũ bộ, việc tiêu cực tham chiếm là khó tránh. Còn Nguy Vũ bộ lại có mâu thuẫn với Tô Bì bộ, nên hiện khó nắm chắc quyền thống chế. Do đó bộ tộc này không ngừng khai chiến với Hô Duyên Ngạo Bác, nhằm mượn tay chúng làm yếu đi thực lực của Tô Bì bộ. Tô Bì và Nguy Vũ đều là những bộ lạc du mục quanh Hạ Châu, Tô Bì bộ thất bại đương nhiên sẽ rất có lợi cho Nguy Vũ bộ.

Hai tộc bất hòa vốn là sự tối ky của binh gia, phía sau hai bộ lạc đối đầu nhau lại là hai nhân vật lớn thầm đối nghịch, mưu hại ngáng đường lẫn nhau, nội bộ mâu thuẫn, tiền phương chiến quả không nghĩ cũng biết. Tô Bì bộ không cam tâm bị Nguy Vũ bộ triệt hạ, cũng không thể thoát khỏi sự khống chế của Nguy Vũ bộ, đành bị ép ra tiếp chiến với quân Hô Duyên Ngạo Bác. Kết quả là không hoàn thành kế tiến công lần lượt của Trương Phổ, lại còn bị quân địch đánh thua tơi bời.

Mới đầu, quân tộc Hô Duyên Ngạo Bác thường xuyên Bắc xâm, Tô Bì bộ khó có thể tạo thành thế để kháng như vậy, họ bị bắt cướp đến cả một tộc người lẫn cừu dê. Thác Bạt Hàn Thiền và Thác Bạt Hòa Thiếu một mực bức Tô Bì bộ dốc lực tấn công Hô Duyên Ngạo Bác, nhưng khi gặp phải quân Hô Duyên lại khoan thai trì trệ, giả ý tiếp ứng hoặc hư trương thanh thể rồi thối lui, để Tô Bì bộ chính diện hứng chịu đòn tấn công của địch.

Tô Bì bộ vì thế mà tinh thần hoảng loạn, mất hết tâm trí chiến đấu, một lần gặp phải địch đều hô hét cả lên: “Kim Thương bất khả địch, rút chạy thôi!”, thế nên thua trận tơi bời.

Hô Duyên Ngạo Bác đã cho đúc một cây thương bằng hoàng kim nguyên chất, nên lấy tên hiệu là Kim Thương Ngạo Bác. Hai bên giao chiến nhiều lần, đến quân Tô Bì cũng biết tới tên hiện của hắn, Thác Bạt Hàn Thiền mượn tay người Thổ Phồn triệt lực Tô Bì bộ, trong lòng đắc ý vô cùng, một mặt làm cho chiến công nhỏ thành trận thắng lớn, mặt khác lại biến đại bại thành tiểu bại. Như thế thỉnh công với Hưng Châu không ngừng gây áp lực, khiến Tô Bì bộ đành phải chủ động quyết chiến với Hô Duyên Ngạo Bác.

Chủng Phóng nắm binh quyền lớn hơn Trương Phổ nhưng về mặt quân sự lại là huyền quan không bằng hiện quan, sự nâng đỡ cho Tô Bì bộ là có hạn, quân Tô Bì tiến thoái bất đắc, nội bộ dần sinh mâu thuẫn, có một số tộc viên đã ra đầu hàng quân địch. Hô Duyên Ngạo Bác tuy là kẻ tự phụ, ngạo mạn điên cuồng nhưng cũng là một mãng phu biết dựa vào vũ lực, vừa thấy quân địch đầu hàng liền thiếp đãi tử tế, hầu rượu tiệc long trọng, việc này lan truyền đến cả các tộc khác trong Tô Bì bộ.

“Dụng binh chi đạo, công tâm vi thượng”. Chiêu thức này còn sắc bén hơn cả dùng đao kiếm, càng ngày càng có nhiều tộc ở Tô Bì bộ đến xin đầu hàng quân Hô Duyên Ngạo Bác, lại cực kỳ tuân lệnh của hắn, chiêu “dĩ di chế di” này thực đã thành công. Thượng Ba Thiên vừa nghe tin báo đã hoa hỉ vô vùng, truyền lệnh hậu thường cho tướng quân Tây Hạ, đồng thời mật lệnh cho Hô Duyên Ngạo Bác tiếp tục ân uy tịnh dụng, tăng cường khống chế, không để cho những Đảng Hạng cũ bộ này bị Lý Kế Quân chiêu lãm.

Quân Tô Bì bộ vừa đầu hàng đi tới, Lý Kế Quân liền văn phong động thủ, lấy thân phận cựu chủ thân và chiêu mộ họ, hắn cũng đã chiêu lãm được một số bộ lạc. Hô Duyên Ngạo Bác vừa nhận lệnh lập tức hành động, thu nạp những người Đảng Hạng độc tiết doanh quản chế vào bảo trại của người Thổ Phồn, triệt để đổi hết thành kỳ hiệu tộc Thổ Phồn. Do đó tay của Lý Kế Quản có dài đến mấy, cũng không thể thâm nhập sâu vào địa doanh của hắn.

Chuyện sinh ra ở Lũng Hữu Hà Tây, Triệu Quang Nghĩa ở tận Biện Lương sớm đã nắm rõ cơ sự.

Dương Hạo mấy lần âm mưu đắc sính, nếu Triệu Quang Nghĩa cảnh giác sớm hơn thì hoàn toàn có thể diệt trừ từ lúc mới nảy sinh. Sự thất bại của Triệu Quang Nghĩa không chỉ là do Dương Hạo thông minh thần vũ mà còn tại việc triều đình quá coi thường Hà Tây, như việc nắm bắt tin tức sai lệch gây ra. Kinh nghiệm xương máu rút ra, Triệu Quang Nghĩa đã triệu lệnh hoàng thành các ti, ra sức tập trung vào trinh thám, tăng cường tình báo với Hà Tây.

Về phía Lũng Hữu, từ khi biết truyền quốc ngọc tỷ trong tay Thượng Ba Thiên, Triệu Quang Nghĩa cũng tăng cường khống chế với Lũng Hữu. Nay nhất cử nhất động ở Tây Hạ hắn đều nắm rõ, việc Dương Hạo sau khi lập quốc các bộ tộc mâu thuẫn, đấu đá lẫn nhau là hắn thấy vừa lòng, Lý Kế Quân ở Lũng Hữu, Dạ Lạc Hột ra sức chiêu binh mãi mã, phân tranh thế lực với Thượng Bá Thiên, lại thêm sự kìm chế của Linh La Đan tộc Thổ Phồn với Thượng Ba Thiên... Dường như tất cả các phương diện đều có lợi cho Tống quốc, càng làm cho Triệu Quang Nghĩa thêm hài lòng.

Tựa hồ, mọi việc đều tiến triền theo hướng thuận lợi, chỉ có điều hắn lại không chú ý đến chính dưới mắt của hắn, Lô Đa Tốn và Trương Ký hai vị tể tướng đang đấu đá lẫn nhau, dần tới mức xuất đạo hòa khí. Thực có nhiều kẻ biết rõ việc xa tận chân trời nhưng lại mờ mịt vô tri với sự thể đang xảy ra trước mắt, đây là cái gọi là “Đăng hạ đắc” (Đen ngay dưới đèn).

Trương Ký dốc sức xúc thành việc Tây Hạ xin hàng, điều đó làm cho Triệu Quang Nghĩa thêm phần nể trọng. Sau đó, quân La Khắc tràn vào Thục, loạn phỉ Ba Thục lao đao bất ổn, Lão Ấu bị đuổi đến thâm sơn, quân chủ lực lại tháo chạy khỏi Ba Thục, tiếp tục cường công Đồng Quan, tiến vào Quan Trung. Sau khi chịu tổn hao cực lớn mới thoát khỏi Tần Lĩnh, chúng rời khỏi căn cơ, lúc này không có sự yểm trợ của sơn lĩnh Ba Thục nữa nên việc diệt trừ chúng là quá dễ dàng, truy tố căn nguyên cuối cùng thì Trương Ký cũng không thể phủ nhận có công lao của Dương Hạọ. Ngày nay quyền thế của Trương Ký đã lớn tới mức đứng dưới hai người trên vạn người, ngoài Lô Đa Tốn ra không còn kẻ nào có thể tranh chấp được với hắn, hai vị tể tướng Tiết Cư Chính và Lữ Dư Khanh cũng phải khiêm nhường dưới hắn.

Trương Ký nhanh chóng thăng quan tiến chức, khiến cho Lô Đa Tốn càng thêm cảnh giác hắn, Lô Đa Tốn vội vàng nắm chặt nhiều chính vụ trong tay, có lúc bận đến cả ngày chỉ được ngủ hai tiếng cũng quyết không phân đảm cho Trương Ký. Trương Ký hiểu ra ý đối địch của hắn, càng hiểu rằng Lô Đa Tốn coi mình là chướng ngại, là hòn đá ngáng chân hắn. Nhưng thực sự, dù Trương Ký được quan gia trọng dụng, thì việc lật đổ Lô Đa Tốn quả là xa xôi bất thành.

Lô Đa Tốn hành sự khôn khéo, giỏi việc đoán biết thượng ý, hơn nữa mấy năm nay, trong triều chia bè kết cánh, nếu không thể làm cho Triệu Quang Nghĩa dễ dàng tha thứ, ân chuẩn thì hắn đã chỉ là kẻ mà một vị phó tể tướng đương nhận chức như Trương Ký dễ dàng đánh đổ được. Nếu vội vàng ra tay, tức sẽ đánh rắn động cỏ, ngược lại càng bất lợi cho mình. Vậy nên Trương Ký càng thêm cẩn thận, mỗi lần gặp Lô Đa Tốn tất phải cung kính khiêm nhường, tuân đúng quy củ, dường như mất hết dã tâm, tiêu biến lạ thường.

“Ôi! Ta đã là phó tướng thì càng phải thận trọng hơn trước đây, thực là... Nhưng Lô Đa Tốn kết bè kéo cánh đông đảo, việc nhổ gốc một cây đại thụ như thế quả không thể khinh xuất. Nhất là việc La Công Minh trí sĩ từ quan, thay vào đó là người của hắn, không biết phải nhẫn nại tới khi nào, Lô Đa Tốn lại tương tuế đồng tuổi với ta, nếu hắn vẫn nhất trực bất xuất đại sự, lẽ nào ta thành ra tuyệt vô cơ hội?”. Bên tai đang nghe tiếng hát êm ái của Tuyết Nhược Nhiêm, từng điệu múa uyển chuyển, trước mặt bày khắp tinh châu mỹ vị nhưng Trương Ký lại bất tri vị, trong lòng hốt hoảng bất an.

Từ lúc Tuyết Nhược Nhiêm vì hắn mà dụ gặp mật sử Tây Hạ, làm cho hắn càng tiếp cận gần với Dương Hạo, nhất lực chủ trương hoàn thành trọng trách chiêu hàng. Hắn lại càng năng đến Thiên Kim Nhất Tiếu lâu, ai ai cũng biết Liễu Đóa Nhi nơi đây là cấm loan tình thiếp của quan gia, Tuyết Nhược Nhiêm tiêu thư cũng là chỗ thân tình với Trương tể tướng, cả quân cả tướng đều lưu luyến nơi Tiểu Lâu, nơi đây lại như thuyền được nước càng dâng cao, kẻ có quyền thế khắp nơi đổ về, họ đến Tiếu Lâu tiêu tiền đã không chỉ là hưởng lạc mà còn là điều tượng trưng cho thân phận cao quý.

“Trương tể tướng, nô gia múa đến khó thở ra hơi mà ngài vẫn như tâm tại ngoại bất tại yên, thật khiến người ta tức chết”. Tuyết Nhược Nhiêm dừng múa, đi đến bên hắn gắt giọng nói.

“Sao cơ? À, ha ha...”. Trương Ký như hoàn hồn trở lại, cười ha ha nói: “Lão phu đã đắc tội rồi. Trong triều chính sự bề bộn, khó lắm mới giành ra chút thời gian tới đây, trong lòng vẫn thực không buông ra được, ha ha, đến đây nào, lão phu dâng chén rượu này để đền cho mỹ nhân nàng”.

Tuyết Nhược Nhiêm đưa tay tiếp chén, thản nhiên cười, đôi môi đỏ thẳm khẽ mở hé, nhấp nửa miệng rượu rồi lại hướng đến môi hắn. Trương Ký cười ầm lên rồi ôm chặt lấy eo thân nhỏ nhắn của Tuyết Nhược Nhiêm, cầm lấy chén rồi tiếp nuốt mỹ tửu từ miệng của mỹ nhân, Tuyết Nhược Nhiêm sà vào lòng hắn, ve vuốt chòm râu dịu dàng nói: “Hà Tây đã xin hàng, loạn quân Ba Thục trốn đến Quan Trung sắp bị diệt vong tới nơi, thiên hạ thái bình, còn có điều gì khiến Trương tể tướng phải hao tâm? A! Đúng rồi, thiếp nghe nói mấy ngày trước Trương tể tướng trình thượng nói cần phải phòng bị Bắc triều Khiết Đan đang lăm le luyện binh tụ cốc, phân đóng quân đội quanh biên cương chứ chưa vội truy đánh, việc này lại được quan gia tán thưởng nữa”.

Trương Ký cười đáp: “Ha ha. Tin tức của nàng thật nhanh nhạy...”. Hắn giơ chén lên nói: “Thân là tể tướng, việc ta quan tâm há không phải là việc quân? Hơn nữa, dù chỉ là việc quân thì thiên hạ bây giờ vẫn chưa thể coi là thái bình được. Loạn đảng Ba Thục chạy đến Quan Trung, tuy ra khỏi căn địa của chúng sẽ dễ dàng tiêu diệt, nhưng Quan Trung là nơi cằn cỗi, trước giờ chưa từng được triều đình chú trọng. Nếu năm nay vùng này gặp hạn hán thiên tai, bách tính sinh cơ vô tựa, không chừng đại họa càng lớn... Nhiều việc phải nghĩ đến, không thể lâm loạn mới nghĩ kế”.

Tuyết Nhược Nhiêm đảo mắt, ngạc nhiên nói: “Quan gia phái Tề Vương trấn tọa Trường An, có Tề Vương quản chế còn lo gì lũ loạn phỉ? Chúng thực lợi hại đến vậy sao?”.

Trương Ký cười ha hả, lấy tay véo nhẹ chóp mũi nàng đáp: “Đừng có coi thường những đám ô hợp đó, một đám ô hợp cũng có thể biến thành trăm chiến tinh binh, quốc chế phế lập đa số đều bắt đầu từ những đám ô hợp này đấy”.

Tuyết Nhược Nhiêm nhăn mặt đáp: “Quốc gia đại sự, là nỗi lo của đại nhân các ngài. Um... Thiếp muốn nói là, Tề Vương điện hạ cũng thận trọng việc đó, còn cho người đến bái vấn Triệu tể tướng, nghĩ ra chắc là hỏi kế chỗ Triệu tể tướng”.

“Ha ha, đó là điều đương nhiên, nếu nàng cũng hiểu việc quốc gia đại sự thì cần gì mười năm gian khổ đèn sách của chúng ta làm gì? Triệu tể tướng, Triệu tể tướng nào cơ?”.

Tuyết Nhược Nhiêm vừa ăn vừa cười, che miệng nói: “Trương tể tướng sao lại hồ đồ đến vậy? Còn vị tể tướng nào nữa chứ, đương nhiên là Triệu Phổ Triệu thừa tướng rồi”.

Mắt Trương Ký chợt lóe sáng, hắn quay người lại, tay cầm chặt lấy dao dũa xắt lát con vịt quay sẵn trên bàn, cố che đi thần sắc khác thường của mình, mỉm cười nói: “Ha ha, Tề Vương triệu người đến bái vấn Triệu thừa tướng, không thể đường hoàng chính đáng, việc này nàng cũng biết sao?”.

Tuyết Nhược Nhiêm phá môi thêm sắc, đắc ý phô trương mà nói: “Cũng chính là trước mặt Trương tể tướng ngài, người ta mới thận trọng nghênh phụng. Người bên cạnh dù có là biếu tặng kim châu ngọc ngà, hắn có được gặp nô gia hay không còn phải xem nô gia có hứng không đã. Văn nhân sĩ tử muốn gặp thiếp, đều sẽ đau đầu nhức óc mua chức lộng tài, kiếm tấn thân quan công, để khoe khoang thân phận của hắn”.

“Ôi, Triệu thừa tướng dù đã đứng tuổi nhưng vẫn là lão thành mưu quốc, nói đến việc xử trí quân chính, nắm giữ chính yếu, nói chung chúng ta không thể so bì nổi. Nhưng... Tề Vương cho người đến bái vấn tể tướng, cầu hỏi việc bình loạn, việc này... Cũng là khách nhân của nàng tiết lộ sao?”.

Tuyết Nhược Nhiêm cười đáp: “Việc này lại không phải vậy, như thế nào thì hắn cũng không nói hết cả. Nhưng... Tề Vương điện hạ là người cao quý, quan lộc lại trên cả tể tướng, nếu không vì việc này lẽ nào lại còn vì việc khác mà làm cho một vương gia phải đi nịnh nọt cầu khẩn một lão tể tướng đã hết thời? Đến giờ may mà quân loạn phỉ Ba Thục trốn đến Quan Trung, nghĩ lại thì chắc là vì cớ đó cả”.

“Ha ha, Tuyết cô nương nàng quả nhiên thông minh hơn người...”. Trương Ký bỗng nhiên cười ầm lên, trong lòng hắn vui đến khó tả: “Tề Vương trấn thủ Trường An, vốn bị coi như là đi đày, nhưng hắn kết giao với Triệu Phổ là có mưu đồ gì? Không được, ta phải tra cho rõ chuyện này, nếu thực đúng vậy, ta sẽ lập tức bẩm báo với quan gia”.

Tiểu kiệu vác đến chầm chậm, Trương Ký lên kiệu rời Nhất Tiếu Lâu, trong lòng đương chút suy ngẫm.

“Ẩm! Ẩm ầm!”. Đột nhiên phía trước có tiếng ầm vọng đến, chiếc kiệu đột nhiên dừng lại bên đường, Trương Ký chau mày, mở rèm kiệu nhìn ra ngoài, chỉ thấy Minh Đạo La, Khai Đạo Kỳ, theo sau là một loạt nghi trượng, đúng là Lô Đa Tốn tể tướng đang đi ngang qua.

Ánh mắt Trương Ký trong chốc lát quắc sắc lên, đợi lúc nghi trượng vừa qua, tiểu kiệu của hắn mới quay lại trục đường chính, hắn hạ rèm kiệu, niệm nghĩ một hồi lâu, khi đến cửa phủ, trong lòng chợt lóe sáng, đột nhiên hắn nghĩ ra một diệu kế một mũi tên bắt chết hai con chim...

o O o

-----oo0oo-----

: Tây Hạ Vương

 Chương 73: Trương Ký Thực Kẻ Thông Minh

Một trận giông tố trong triều đình đang dần dần nổi lên, nếu như không phải là một người thông minh như Trương Ký, nếu như hắn không gặp đội nghi trượng của Lô Đa Tốn đúng lúc trên đường từ Thiên Kim Nhất Tiếu lâu trở về thì chuyện này sẽ không xảy ra. Đó cũng là điều tất nhiên, ví như Trương Ký muốn được thượng vị đương nhiên hắn sẽ phải đá văng Lô Đa Tốn hòn đá ngáng chân này, Lô Đa Tốn tất nhiên cũng sẽ tìm mọi cách áp chế kẻ đang gây uy hiếp lớn đến chức vị của hắn. Nhưng cũng có nhiều sự là ngẫu nhiên, là những hiềm khích ngoài ý muốn không thể khống chế được.

Tuyết Nhược Nhiêm đã để lộ việc Tề Vương Triệu Quang Mỹ kết giao với phế tướng Triệu Phổ cho Trương Ký, nàng ta thật cũng có mưu ý riêng, kẻ chủ mưu đứng sau lưng nàng giật dây chính là Thôi Đại Lang. Tiềm tông không chịu nổi nỗi tĩnh mịch, muốn khiêu chiến với uy quyền của Thôi Đại Lang, đây thực là việc hắn không thể nhẫn nại được. Nhưng hắn lại không muốn vì việc này mà làm loạn tới mức Tiềm tông và Hiển Tông quay sang đánh giết lẫn nhau, như thế hắn chỉ còn một lựa chọn duy nhất: Nhổ cỏ tận gốc, tiêu diệt Triệu Quang Mỹ.

Nhưng dù sao Triệu Quang Mỹ cũng là một thân vương, nếu hắn bị thích sát, hậu quả đem lại khôn lường như thế nào không thể đoán được. Ví như Triệu Quang Nghĩa dù có hận kẻ huynh đệ này chỉ mong hắn chết sớm đến mấy, khi đó cũng nhất định sẽ lệnh cho toàn bộ triều đình tra xuất chân tướng sự việc, đả kích hung thủ. Thân vương bị hành sát nơi trú mục, so với lưỡng quân tiền trận bị địch sát là hoàn toàn khác nhau, chỉ còn cách mượn tay một kẻ trung gian thì mới có thể làm được việc này. Người đó, ngoài hoàng đế Đại Tống cửu ngũ chí tôn ra thì còn ai có thể làm được cơ chứ?

Vậy nên, Thôi Đại Lang giờ muốn tìm một kẻ trọng thần trong triều nhen nhóm mưu đồ, lúc cần thiết, hắn sẽ là kiến chứng hữu lực nhất, là dẫn dược có thể khiến cho Triệu Quang Nghĩa hạ quyết tâm, vừa hay phát hiện ra Thiên Kim Nhất Tiếu lâu là nơi dễ dàng để thu thập tin tức. Sau khi tiếp xúc với nơi trọng thần triều đình thường xuyên qua lại, hắn liền lôi kéo Tuyết Nhược Nhiêm, mà Trương Ký lại là ân khách của Tuyết Nhược Nhiêm, hắn quyết định chọn vị trọng thần này.

Chỉ có điều, Trương Ký cũng có tham vọng và điều hắn mong muốn, hắn phát hiện ra rằng, tin tức vô ý nghe được này nếu xử lý tốt hoàn toàn có thể đạt được ý đồ mà hắn giấu kín, thế nên hắn chủ động lợi dụng chuyện này. Mục đích song phương khác nhau nhưng điều muốn có được lại giống nhau, thành ra hai kẻ vốn bất tình lại kết hợp rất ăn ý, sự việc điễn ra theo đúng hướng mà họ dự tường.

Trương Ký tra ra Triệu Quang Mỹ và Triệu Phổ đích xác có thư từ qua lại, hai bên vốn thâm tình nên vẫn duy trì liên hệ. Triệu Quang Mỹ sau khi bị đuổi đến Trường An lại bị thế lực của Tiềm tông Kế Tự đường lợi dụng, tuy không dám tiết lộ ý đồ của mình cho Triệu Phổ nhưng càng có ý lôi kéo vị hữu tướng có thế lực lớn trong triều này về phía mình.

Một vị vương gia rơi vào cảnh nguy nan, một tể thần thất thế, hai bên lại qua lại thân thiết, nếu để hoàng thượng biết được, ngài sẽ nghĩ thế nào đây?

Việc bây giờ Trương Ký cần làm chính là kéo Lô Đa Tốn vào cuộc, sau đó hắn mới tấu trình việc này lên hoàng thượng. Sự tình sau đó khỏi cần hắn phải bận tâm nữa, bất kể là vị hoàng đế anh minh hay là ngu ngốc trong lúc này đều biết phải làm như thế nào. Hoàng đế việc gì cũng có thể dễ dàng tha thứ, duy gặp những hành vi uy hiếp đến hoàng quyền là sẽ phản ứng kịch liệt, đó vốn là bản năng của những kẻ cầm quyền để có thể nắm chắc đại cục. Vì vậy, Trương Ký đã bắt đầu hành động.

Khi Triệu Phổ tại vị, vai vế của Lô Đa Tốn chỉ như vị quyền của Trương Ký bây giờ, thậm chí còn không bằng hắn. Lúc ấy, Lô Đa Tốn một lòng một dạ muốn được thăng chức tiến vị, nhưng chưa thể uy hiệp được đến địa vị của Triệu Phổ.

Bấy giờ kẻ đối địch lớn nhất với Trương Phổ là đương kim thánh thượng hiện giờ, khi tể tướng Triệu Phổ bị phủ doãn phủ Khai Phong Triệu Quang Nghĩa đuổi khỏi quyền lực bộ hình, Lô Đa Tốn và hắn vẫn chưa từng xảy ra xung đột gì, nên quan hệ hai người tương đối bình ổn, cũng thường phùng niên quá tiết. Ngày nay tại vị tể tướng Lô Đa Tốn vẫn cần phải kính lễ biếu tặng vị hưu tướng này lễ vật, viết một phong thư, duy trì quan hệ mang tính lễ biếu này.

Thế cũng là quá đủ, Trương Ký không phải là kẻ ngốc, nếu hai người thực có qua lại, thì hắn có đến vạn cách để làm cho mối quan hệ đó càng thêm mật thiết, một khi xảy sự thì khó mà thoát khỏi liên đới.

Trương Ký mới nắm giữ quyền lực không lâu, muốn lật đổ Lô Đa Tốn chỉ có thể dùng biện pháp tứ lạng gánh thiên cân. Đầu tiên, hắn lợi dụng những mạch người có hạn mà hắn nắm giữ, gây ra một số phiền toái cho các triều thần và quan lại địa phương. Triệu Phổ tuy thất vị nhưng vẫn còn ảnh hưởng lớn trong triều, những quan thần gặp phải phiền toái này đều từng được Triệu Phổ nâng đỡ, giờ vẫn là người của Triệu Phổ.

Mỗi vị quan không ít thì nhiều cũng có bí sự sợ bị người khác biết, có thể là việc tham ô lạm quyền, hoặc như việc sở hạ gây ra án kiện lớn. Nhưng để được cân nhắc mà biến to thành nhỏ, giấu diếm mọi sự, hoặc việc huynh đệ bất hòa, tranh chấp với láng giềng hay gia nhân thân quyền ỷ thế lộng hành. Cơ sự tuy không nghiêm trọng, chỉ là một khi bị ngự sử tra ra liệt vào đương án, thì mọi thành tích công lao sẽ không cao hơn được, ảnh hưởng tới cả tiền đồ hoạn lộ sau này.

Ngự sử đài giám sát bộ trước giờ không được phép liên can đến tể tướng, tuy nhiên vị tể tướng đương triều nào cũng hao tâm tổn lực để khống chế ngự sử đài. Khi Triệu Phổ đương vị, cả bộ ngự sử này đều nằm trong tay hắn, chỉ có một số ít ngự sử là bị Triệu Quang Nghĩa lôi kéo. Sau đó Triệu Quang Nghĩa lợi dụng lúc Triệu Phổ đắc ý sơ hở, công kích vào điểm yếu của hắn chiếm lấy hoàng vị, khởi dựng đại trạch rồi đuổi hắn ra khỏi Biện Lương.

Mưu cách của Trương Ký dùng bây giờ giống hệt với Triệu Quang Nghĩa, ngự sử đài giám sát quan đa số đều nằm trong tay Lô Đa Tốn, nếu bản thân muốn nâng đỡ một số người, rốt cuộc cũng cần phải nắm giữ lợi ích của kẻ khác, những người này liền tựa hướng về phía Trương Ký, tuy chỉ là một bộ phận nhỏ nhưng cũng là quá đủ. Trương Ký chỉ làm ám thị, người của hắn lập tức đi tuần sát bản địa, tiến hành tra xét. Phát hiện ra những tàn tích vết xấu của Triệu Phổ lão tướng và các thân quan vội liệt vào đương án, khi đó ngự sử có quyền giám sát nhưng quyền khảo công lớn nhất lại thuộc về tể tướng, quyền khảo công cũng là quyền nhân sự, cho nên cớ đó đủ để trì hoãn sự việc, án sự lớn hay nhỏ, định đoạt thế nào còn phải dựa theo Lô Đa Tốn, đây vốn là quyền của tể tướng. Những quan nhân này vốn là người của Triệu Phổ, họ trực tiến đến tìm Lô Đa Tốn, chưa chắc Lô Đa Tốn đã cho gặp, hoặc nếu có đồng ý thì thành ra chính họ coi lão chủ nhân như người ngoài, lại thêm đắc tội với Triệu Phổ, cuối cùng họ đành đợi các ngự sử quan rời đi rồi mới vội vàng viết thư thông báo cho Triệu Phổ.

Vì Triệu Phổ vốn chưa xung đột gì với Lô Đa Tốn nên quan hệ hai phía vẫn ổn thỏa, thế lực còn sót lại của lão tể tướng thực không đủ sức để thao túng triều đình, hắn chỉ bảo lưu vài quan thần, lấy thuận tiện cũng như chỗ đựa cho con cháu sau này. Tuy Triệu Phổ đương triều làm mưa làm gió, đến đường đường một Phổ vương cũng không là gì trong mắt. Đến bây giờ lại rơi vào thế anh hùng khí đoản, bất đắc dĩ viết thư cho Lô Đa Tốn cầu giúp chỉ vì vài hạ quan tàn tích.

Triệu Phổ chút tần lực lại khó ảnh hưởng tới toàn cục, hoàn toàn không uy hiếp được Lô Đa Tốn, hắn đương nhiên cũng giữ chút thể diện cho lão tể tướng, trước sau gì cũng có ngày mình vinh hưu. Quy lễ trong chốn quan trường là điều đáng phải lưu tâm. Vậy nên nan sự này hắn không thể không giúp.

Lô Đa Tốn đã ra tay giúp đỡ, Triệu Phổ hiển nhiên có đáp lễ, lão tể tướng viết phong thư, phái một tâm phúc đem biếu chút quà mọn, tuy không quý hiếm gì nhưng lại đáng để thưởng thức, hoặc chính tay viết bài từ phú, họa tranh, càng là phân nội chi sự.

Có qua thì phải có lại, Lô Đa Tốn cũng không thể chỉ nhận mà không đáp lễ lão tể tướng. Vì vậy, Trương Ký chỉ khai sự, còn sau đó mọi sự đều thuận thành quen dựa theo Trương Ký dự diễn mà phát triển.

Khi tần suất qua lại giữa đôi bên vượt quá quan hệ bình thường giữa một tể tướng đương nhiệm và một lão tể tướng, đủ để đến hoàng đế cũng phái đặt một dấu chấm hỏi trong lòng, Trương Ký sẽ tấu lên Triệu Quang Nghĩa việc tư thông mật thiết giữa Triệu Quang Mỹ và Triệu Phổ.

Ý định của Trương Ký rất đơn giản, sự tình có liên can tới thân vương và cả tể tướng thì hoàng đế lập tức coi trọng đến, nhất định sẽ ra lệnh tra xét, kết quả là Lô Đa Tốn sẽ bị liệt vào tầm mắt của hoàng đế. Như vậy hắn đã đạt được mục đích, lại không ảnh hưởng tới bản thân. Triệu Quang Mỹ là thân vương, Triệu Phổ là lão tể tướng ngoại triều, cả hai đều không vướng mắc gì với hắn, hắn làm như vậy chỉ là làm tròn chức trách. Còn việc Lô Đa Tốn cũng bị lôi vào đâu phải do hắn khống chế, ai biết được Lô Đa Tốn lại thiếu thận trọng như thế?

Đây giống như lúc đầu Triệu Quan Gia thuyết điều bất mãn với Triệu Phổ, Lô Đa Tốn dù chỉ đối diện với một mình Triệu Quan Gia hắn cũng không chính diện phê binh một tể tướng, mà sẽ giảng giải vị tể tướng đó lại trọng yếu như thế nào, bám gốc thâm căn cố đế mức nào trong triều, giống như đang can gián hoàng đế thận trọng hành sự, tránh làm lung lay nền tảng lập quốc, như vậy để cho đức hoàng tự suy xét độ nguy hại của sự việc. Thế nên, cứ thẳng lời vạch trần đồng liêu, hoàng đế có trị tội rồi nhưng sau đó sẽ thành ra ác cảm với hắn, chí ít thì cũng làm cho thánh thượng sinh cảnh giác với hắn. Trực lai trực vãng cũng không được, đây chính là vi quan chi đạo.

Hoàng đế cực coi trọng và mẫn cảm trong việc cảnh giác và bảo vệ hoàng quyền, sự vụ hắn bẩm tấu tuy không tra ra tội gì to tát, nhưng cũng liên lụy chút ít tới Lô Đa Tốn, hoàng đế sẽ không ngoảnh mắt làm ngơ. Lô Đa Tốn nhất định bị rời khỏi trung khu, Triệu Phổ đương nhiên bị trông coi càng nghiêm, còn Triệu Quang Mỹ có lẽ chỉ còn lại cái tước vị thân vương, mọi điều đặc phái đều bị tước bỏ. Đến lúc ấy, không còn kẻ nào có thể chặn bước hắn, hắn sẽ thành một tể tướng uy phong của Đại Tống đứng dưới một người mà trên vạn người.

Vấn đề ở chỗ, đây chỉ là cách nghĩ của Trương Ký, hắn lại không hề nghĩ tới việc thực có kẻ muốn nâng đỡ Triệu Quang Mỹ, có cả kẻ muốn Triệu Quang Mỹ chết, những kẻ muốn diệt Triệu Quang Mỹ lại không muốn tiết lộ kẻ nâng đỡ hắn. Vậy nên, hắn cứ khổ tâm nghĩ loạt kế để kiến tạo cục diện một thân vương thất thế cấu kết với hưu tướng mưu đồ đoạt vị chiếm quyền.

Sau khi Trương Ký trình báo sự việc đó lên trên, hắn hoàn toàn không nhận ra được mình đã tự chọc vào một tổ ong vò vẽ, cả triều đình lập tức sẽ lâm vào cục diện chia bè kết cánh, hắn càng không ngờ rằng, việc này còn ảnh hưởng tới cả Quan Trung, Lũng Hữu, Hà Tây sau đó là đến Bắc triều, cục diện sau này đều theo đó mà lặng lẽ đổi thay.

o O o

-----oo0oo-----

: Tây Hạ Vương

 Chương 74: Kẻ Tài Sắp Đến 

Triệu Quang Nghĩa bây giờ đã có cảm giác của thiên triều thượng quốc, sự trắc trở hắn gặp phải ở Hắc Xà lĩnh Hoành Sơn sớm đã bị hắn vứt lên chín tầng mây. Việc tổn thất mấy vạn sĩ tốt đối với hắn mà nói chỉ ít ỏi như lông tơ, nhưng hắn vội vã bãi chiến là vì chiến thuật đánh nhanh thất bại, Liêu Quốc đã có phản ứng, có Liêu Quốc ở đó, không thể để hắn dễ dàng đoạt được lợi, ung dung tiến vào chiếm Hà Tây.

Đồng thời, Ba Thục là hậu phượng lớn của hắn, hậu phương không ổn định, hơn nữa Ba Thục lại là các vùng lãnh thổ của mấy quốc gia vừa mới bị diệt quốc không lâu, Triệu Quang Nghĩa lo lắng hậu phương xảy ra vấn đề, cũng không dám chuyên tâm tiến công Hà Tây. Bây giờ thì khác rồi, triều đình vừa ra tay thì loạn đảng ở bên Ba Thục đã lập tức bị hất cẳng ra ngoài, Triệu Quang Nghĩa thậm chí còn nghĩ rằng phải chăng có thể không tiêu diệt bọn họ, mà đuổi bọn họ đến Lũng Hữu. Lũng Hữu càng loạn thì sự phụ thuộc của các thế lực bên đó vào triều đình càng cao, rõ ràng là rất có lợi cho đế quốc.

Vì loạn phỉ Ba Thục đã vào Quan Trung, Trường An lưu thủ, Tề Vương Triệu Quang Mỹ tạm thời tấn phong lên làm quan chỉ huy chiến khu, trong tay có quyền chỉ huy người, tài vật nhất định, có điều Triệu Quang Nghĩa đối với việc này không lấy làm lo lắng, cấm quân đang liên tục vào Quan Trung, mà cấm quân lại là nhân mã Triệu Quang Mỹ không thể chỉ huy được.

Triệu Quang Nghĩa từ trước đến nay không hề lo lắng người huynh đệ này sẽ tạo phản, người tam đệ này không có được sự văn trị võ lược như đại ca, so với hắn cũng kém mười vạn tám nghìn dặm. Triệu Quang Nghĩa kiêng kỵ hắn chẳng qua là lo lắng với quyền kế thừa thuận vị của hắn mà thôi.

Dương Hạo ở Hạ Quốc bây giờ đã ôn thuận nhiều rồi, đây cũng là điều hắn đã dự liệu, cho dù là một tên vô lại, một khi đã trở thành hoàng đế thì cũng không thể lại tiếp tục cái thói vô lại ngày trước. Hà Tây đã trở thành bá nghiệp của Dương Hạo, nhưng cũng sẽ biến thành sợi dây trói buộc hắn, trên người mang theo một cái vò lớn như vậy, đi cũng không thể đi được, hắn cho dù có ngu ngốc đến mức nào cũng sẽ không dùng cái thái độ trước kia để đối mặt với Tống Quốc.

Sự thật đúng là như vậy, Triệu Quang Nghĩa bây giờ đã chú ý thấy việc nắm bắt tình báo của triều đình đối với ngoại bộ thiếu sót nghiêm trọng, hắn đã tăng thêm trinh sát lực độ đối với những nơi như Liêu, Hạ và Lũng Hữu, trong đó thậm chí còn có người đã nhập được vào hẳn trung khu Hạ Quốc. Từ những tin tình báo mà hắn nắm được, có thể thấy giữa Tống, Liêu, Hạ Quốc rõ ràng đã chọn Tống Quốc làm chỗ dựa, còn Liêu Quốc đang ở giai đoạn tích sức, trước mắt hoàn toàn đã mất đi dũng khí mở rộng thế lực ra bên ngoài.

Nhóm chiến mã đầu tiên của Hạ Quốc đã được đưa đến rồi, năm trăm con là cống phẩm, bốn nghìn năm trăm con là giao dịch. Nhưng cho dù là năm nghìn con cống mã thì giá trị ban thưởng lại của triều đình cũng cao hơn nhiều so với nó. Tống Quốc thực lực hùng hậu, một chút tài vật này không đáng là gì. Điều mà thiên triều thượng quốc cần, chỉ là sự thần phục của tứ di, không cần phải giành được nhiều lợi ích từ bọn chúng, mà từ chỗ bọn chúng thì có thể có được lợi ích gì chứ?

Tống Quốc rất ít khi một lần mà nhập nhiều chiến mã đến như vậy, thêm hai, ba lần giao dịch tạm thời cũng đủ dùng rồi. Tào Bân nói rất đúng, Tống Quốc không phải là mảnh đất dưỡng mã, đưa quá nhiều chiến mã vào sẽ trở thành gánh nặng, nếu như thật sự muốn cải tạo quân đội thành kỵ binh làm chủ thì chính là giao quốc khí vào tay kẻ khác. Đợi khi Tống Quốc tạm thời không dùng nhiều ngựa đến như vậy thì Tây Hạ còn có thể lấy cái gì ra giao dịch với Tống quốc? Nghĩ tới Dương Hạo tương lai đành phải thấp giọng thỉnh cầu gia tăng mậu dịch với Tống Quốc, Triệu Quang Nghĩa không khỏi mỉm cười...

Bên ngoài trước mắt đã không còn uy hiếp gì, tiếp theo hắn cần phải giải quyết hai việc, một là Triệu Quang Mỹ, phải tìm cách để phế bỏ triệt để hắn, để hắn mất đi quyền kế thừa hoàng vị, việc này cũng cần phải mất ba năm, cũng có thể là năm năm, dù sao cũng phải tìm một cơ hội. Một việc khác chính là xóa bỏ sạch lão thần tiền triều. Hắn biết rõ đế quốc mà mình kế thừa có thực lực to lớn đến đâu, nhưng hắn lại chưa có cảm giác muốn gì được nấy. Khi mới kế vị, hắn cần phải làm ra vẻ để cho thiên hạ xem, chỉ có thể làm theo quy củ, đi từng bước dựa theo chính sách tiền triều.

Bây giờ hoàng vị đã ổn định, nhưng đám lão thần tiền triều lại không thể dùng tùy ý, một mặt là vì những lão thần này trước mặt tân quân sẽ tự nhiên lập thành hội bảo vệ nhau, mặt khắc là vì những lão thần tiền triều này lúc đầu đứng ngồi ngang hàng với hắn, trong đó có rất nhiều người hắn đã từng bí mật tặng quà riêng, hết sức nịnh bợ họ, bây giờ lại đối mặt với họ, luôn có cảm giác không được ngẩng cao đầu lắm. Hắn tin rằng, nếu như cái đế quốc này hoàn toàn làm theo ý chí của hắn, để hắn hoàn toàn khống chế thì hắn nhất định có thể giành được thành tựu lớn hơn nhiều so với vị hoàng huynh của hắn. Nhưng trong triều có rất nhiều lão thần vẫn ở tuổi sung sức, cho dù hắn có là hoàng đế thì cũng không thể vô cớ bãi miễn chức của họ. Thay đổi lượng lớn quan viên trong triều, việc này có rất nhiều điều phiền phức, có lẽ phải dùng tới khoảng mười năm mới có thể hoàn thành một lần đại hoán huyết.

Lúc này, Trương Ký đã trình báo tin tức Triệu Quang Mỹ và Triệu Phổ liên hệ quá mật thiết. Triệu Quang Nghĩa đã từng làm phủ doãn phủ Khai Phong, hiểu rất rõ việc qua lại giao tiếp trong quan trường. Tuy vì thân phận đặc biệt của Triệu Phổ và Triệu Quang Mỹ làm cho hắn có chút cảnh giác với việc này, nhưng cũng không cho rằng hai nhân vật đã mất đại quyền này có thể tạo thành uy hiếp gì đối với mình, hắn ngược lại còn rất vui mừng, muốn lợi dùng chuyện này để làm lớn lên, đánh đổ hắn tên Triệu Quang Mỹ đó, để cho hắn vĩnh viễn không thể tạo thành uy hiếp gì với mình.

Nhưng kết quả điều tra của hoàng thành ti trình lên lại làm cho Triệu Quang Nghĩa vô cùng kinh ngạc. Những hành động của Triệu Quang Mỹ ở Trường An hắn sớm đã biết, nhưng dưới sự điều tra toàn lực của hoàng thành ti mới phát hiện ra cử động của Triệu Quang Mỹ không chỉ có như vậy, hắn đã ngầm tích trữ lượng lớn lương thảo, giả Ba Thục loạn phỉ đánh vào Quan Trung để huấn luyện được một đội vệ binh ba nghìn người, đội vệ binh này là kỳ hiệu của sương quân, nhưng những trang bị mà chúng dùng còn tinh xảo và tốt hơn nhiều so với cấm quân. Hắn còn thường hội kiến quan viên, tướng lĩnh là Quan Trung, rồi ban thưởng cho họ...

Những chuyện này đương nhiên đều là tuyệt đối cơ mật, muốn giấu diếm người khác cũng rất dễ, nhưng muốn giấu người đã có tai mắt bên trong thì vô cùng khó, thêm nữa người của Thôi Đại Lang cố tình tiết lộ, cho nên những tin tình báo kèm chứng cứ thực đều đã được trình lên án thư của Triệu Quang Nghĩa.

Tin tức Lô Đa Tốn và Triệu Phổ qua lại mật thiết cũng nằm trong điều tra đối với Triệu Quang Mỹ. Lô Đa Tốn đã là tể tướng dưới một người, trên vạn người, Triệu Quang Nghĩa hoàn toàn không nghĩ ra được lý do gì để hắn làm phản mình. Mưu phản ư? Việc này vô cùng nguy hiểm, một khi thất bại, những gì giành được và mất đi hoàn toàn không tỷ lệ với nhau, ai sẽ lại tạo phản cơ chứ? Nhưng, Vương Kế Ân thì sao chứ, những thứ mà hắn giành được thật sự không nhiều bằng một nội thị đô tri, nhưng hắn vẫn tham dự vào mật mưu của mình, có lẽ Lô Đa Tốn đã bị Triệu Quang Mỹ nắm lấy điểm yếu gì đó? Có lẽ hắn muốn cầu một tước vị nào đó? Có lẽ...

Triệu Quang Nghĩa không muốn nghĩ sâu xa thêm nữa, những tin tình báo hắn nhận được đã thể hiện rất rõ ràng: Tam đệ Quang Mỹ đã có ý tạo phản! Dựa vào những chứng cứ trong tay, có thể bãi vương tức của hắn, cầm tù hắn ở kinh thành. Còn Lô Đa Tốn có lẽ không phải là thật sự đầu quân cho Triệu Quang Mỹ, giống như Triệu Phổ làm tể tướng, mình làm phủ doãn phủ Khai Phong, hai người bọn họ qua lại với Tiền Tiêu ở Ngô Việt Quốc cũng rất mật thiết, nhận vô số tiền bạc của cải từ Việt quốc, nhưng bọn họ tuyệt đối không có ý nghĩ làm phản Đại Tống mà đầu quân cho Ngô Việt.

Có lẽ, Triệu Quang Mỹ kết giao với Lô Đa Tốn, Lô Đa Tốn kết giao với Triệu Quang Mỹ cũng như mình năm đó. Nhưng, chân tướng như thế nào đã không cần đi điều tra nữa, nếu như tra rõ ra Lô Đa Tốn không có đại tội, ngược lại còn làm cho chuyện trở nên không hay. Triệu Quang Nghĩa quyết định lợi dụng chuyện này để giải quyết triệt để mầm họa ẩn nấp trong triều. Vì thế hy sinh một Lô Đa Tốn thì có đáng là gì chứ?

Triệu Quang Nghĩa nghĩ lại thấy phấn chấn, hắn dứt khoát rời khỏi chỗ ngồi, mở cửa ra cho gió thổi vào, những tấu sớ trên thư án mở ra lại đóng vào. Giờ đã là đầu hạ, gió không còn lạnh nữa, nhưng lại mang theo chút mùi vị ẩm ướt, một trận mưa sắp đến rồi.

Triệu Quang Nghĩa đứng nghênh gió, nhiệt huyết sôi sùng sục, hắn lâu lắm rồi không có cảm giác vui vẻ như vậy. Đặc biệt là binh mã chưa động mà thắng lợi đã vào tay, cảm giác này, hắn rất thích.

*

* *

Đầu tháng, ở Linh Châu có một đoàn thương đội rất kỳ quặc mới đến, bọn họ mang rất nhiều xe, chờ đầy đồ đạc, nhưng sau khi đến Linh Châu thì lại không bán đồ, cũng chẳng vào khách điếm ở, mà vào một đại trạch viện ở thành đông. Đầu năm nay, trạch viện này đã mọc lên, có điều người ở thành này đều không biết ai đã mua mảnh đất đó, là ai đã cho xây một trạch viện lớn như vậy.

Sau khi những người này chuyển vào đó, lại thêm một nửa tháng nữa mới treo một tấm biển có tên “phường dệt Tế Vân”, sau đó bắt đầu thu nhận nhân công.

Nữ nhân địa khu Tây Bắc cũng gánh trách nhiệm gia đình quan trọng, vốn bọn họ đã là lượng lao động lớn trong xã hội. Sau khi Dương Hạo vào Tây Bắc đã cổ vũ phụ nữ làm việc, làm cho tập khí Tây Bắc trở nên lạc quan hơn. Phường dệt trả tiền công theo ngày, tiền công lại cũng khá nhiều, hơn nữa công việc dệt may không phải là công việc nặng nhọc, tuổi nhỏ một chút hay lớn một chút đều có thể làm được, Đông gia lại nói rằng chỉ cần ký kết khế ước là có thể miễn phí dạy nghề, vì thế liên tục có rất nhiều nữ nhân chạy tới báo danh.

Nghe nói, phường dệt may Đông gia này là chuyển từ Giang Nam tới, liên tục sẽ còn có rất nhiều người đến. Bọn họ mang đến máy dệt máy xe sợi, máy kéo tơ, vòng quay tơ, máy dệt nổi, máy in hoa văn, còn mang đến rất nhiều thầy thợ thủ công. Ở Tây Bắc nghề trồng dâu nuôi tằm không được phát đạt cho lắm, nhưng cây dâu và tằm không phải không thể sinh trưởng ở đây. Nếu như muốn phát triển nghề dệt may thì có thể lợi dụng những dãy núi liên miên không dứt ở Hạ Lan Sơn để trồng dâu nuôi tằm, mà trừ khi nghề trống dâu nuôi tằm chưa hình thành được quy mô thì phường dệt cũng không phải là không có đất dụng võ.

Tây Bắc bây giờ nghề trồng dâu nuôi tằm không còn, nhưng nghề trồng bông lại đang dần dần trở thành xu thế. Dương Hạo từ sau khi chiếm lấy Hạ Châu, ngành này cũng đã phát triển hơn, hình thành được quy mô cực đại, tơ lụa tạm thời không dệt ra được, nhưng có thể dệt vải, hơn nữa vùng Tây Bắc bò, dê, lạc đà và cừu cũng rất nhiều, có thể mở rộng dệt may lông súc vật, giá trị sinh sản của những thứ đó không hề thấp hơn tơ lụa.

Sau khi đã hình thành được quy mô, vùng Tây Bắc sẽ không cần phải dựa vào việc bán ra lông da và chế phẩm thịt để đổi lại những nhu yếu phẩm hàng ngày nữa. Bọn họ hoàn toàn có thể tự mình gia công những chất liệu vải y phục có giá trị cao, kiếm về lượng lớn kim ngân.

Không ai biết được chủ nhân của phường dệt này chính là thái tử tiền Nam Đường Lý Trọng Ngụ. Việc Nữ Anh gả cho Dương Hạo hắn biết rất rõ, nhưng hắn cũng không còn cách nào khác, người của vong quốc còn có thể đưa ra điều kiện gì chứ, huống hồ Dương Hạo đối với hắn quả thật không tồi, ít nhất cũng không cần phải giống như khi ở Biện Lương, lúc nào cũng lo lắng mình bị “bạo bệnh mà chết”. Tiêu Chu hậu lớn hơn hắn mấy tuổi, là dì nhỏ của hắn, nàng gả cho Dương Hạo, Lý Trọng Ngụ cũng thêm mấy phần bảo đảm.

Hắn không muốn làm quan, mà đã chọn một con đường khác, triệt để vứt bỏ thân phận cũ, thông qua hành động của Dương Hạo mà trở thành đứa cháu bà con xa của Lý Nhất Đức ở Ngân Châu, sau đó mở ra một phường dệt. Có Dương Hạo và Lý Nhất Đức nâng đỡ, thêm vào sự báo đáp thâm hậu của sản nghiệp này. Sau mấy mươi năm, có lẽ hắn sẽ trở thành một đại phú hào ở Hà Tây. Còn tung tích của thái tử Nam Đường Lý Trọng Ngụ trước đây có lẽ sẽ trở thành câu đố mãi mãi không có lời giải đáp trong lịch sử.

Những chuyện tương tự như thế ở cả Hà Tây này đều đang diễn ra. Lưu ly, nung gốm sứ, tinh luyện kim loại, đúc, làm muối, đào mỏ than, chế tạo giấy, chế tạo các đồ bằng da, may áo lông cừu, khắc ấn thư tịch, sự phát triển và nhu cầu của những sản nghiệp này lại kéo theo sự phát triển của ngành trồng trọt, chăn nuôi, khai thác... Khi chúng đã hình thành được quy mô nhất định, mở ra cả một thương đạo thì sẽ nhanh chóng đem những sản phẩm này đi bán, đổi lấy lượng lớn vàng bạc.

Tuy bách nghiệp đều đã mở ra xu thế đều hưng vượng, nhưng sự đầu tư tiền kỳ cũng lớn, cả triều đình bây giờ đều sống những ngày rất chật vật, mà lúc này tri phủ Cam Châu A Cổ Lệ lại thỉnh lương của triều đình.

Cam Châu là nơi bị tổn thất nhiều nhất trong cả cuộc tây chinh của Dương Hạo, vì lượng lớn tinh binh đã tử vong, thêm nữa bị Dạ Lạc Hột mang đi rất nhiều, tạo nên đả kích rất trầm trọng với Hồi Hột Cam Châu. Mùa đông năm trước chính là nhờ sự trợ giúp của Dương Hạo mới có thể miễn cưỡng qua được, bây giờ vừa vào thời tiết đầu hạ, thu hoạch vẫn chưa có, cuộc sống bên Cam Châu thật sự rất khó khăn.

Dân chúng thành Cam Châu chủ yếu làm nghề thủ công, ví dụ như xử lý, gia công phân loại da, lông, thịt, sừng, gân, xương... Của động vật và chế tạo cung nỏ, chế tạo y phục bằng lông, thịt khô. Còn về tộc người du mục may mắn còn tồn tại nhưng chất lượng sống cũng rất kém. Đây cũng là nguyên nhân vì sao Dạ Lạc Hột không ngừng mở rộng sang hai bên cánh đông tây, vì chỉ một tòa thành Cam Châu chẳng thể nuôi nổi tộc người có gần ba vạn trâu bò.

Bây giờ tuy vì nguyên nhân chiến tranh mà lượng người đã giảm đi, nhưng đa phần số người bị giảm đi là thanh niên trai tráng, như vậy đối với ngành chăn nuôi của họ ngược lại lại trở thành một đả kích nghiêm trọng, vì thế A Cổ Lệ chỉ có thể tiếp tục cầu lương của Dương Hạo.

Nghe Phạm Tư Kỳ hồi báo, sắc mặt Dương Hạo lập tức trầm xuống: “Lương thực mà triều đình cung cấp cho bọn họ đã không phải là nhỏ. Lương thực của triều đình cũng có hạn, bây giờ đã cầu lương triều đình thì mùa đông năm nay phải làm sao? Năm sau phải làm sao? Thuế chẳng nộp được bao nhiêu, nhưng bọn họ lại như một cái động không đáy, không có cách nào lấp đầy được”.

Phạm Tư Kỳ liên tục đáp phái, lại lo lắng nói: “Đại vương, chỗ khó của triều đình thần đương nhiên biết, nhưng hai mươi vạn bách tính Cam Châu thì sao. Trước đây không có đủ lương thực, Dạ Lạc Hột liền đưa bọn họ đi cướp, cướp ở Tiêu Châu, Lương Châu, dùng nhân mạng để đổi lấy lương thực, còn bây giờ trái phải Cam Châu đều là đất của triều đình, hướng về phía nam là núi cao, phía bắc là đại mạc, nếu như bọn họ không thể tiếp tục chống đỡ được, phải chăng sẽ...”.

Dương Hạo cười lạnh: “Bọn họ dám? Khi Dạ Lạc Hột binh vượng nhất cũng không phải là đối thủ của ta, bây giờ chỉ còn lại một mình A Cổ Lệ, nàng ta lấy cái gì ra để phản đây?”.

“Vâng vâng vâng, có điều... Nếu như bước vào đường cùng...”.

Dương Hạo nhíu mày, trầm ngâm một hồi, mỉm cười nói: “Bây giờ ở ven bờ Hoàng Hà đang khai hoang mở đất, thiếu lượng lớn người, một mẫu đất đấy có thể chống đỡ được bằng một trăm mẫu đồng cỏ của bọn họ. Nói với A Cổ Lệ, nếu nàng ta không nuôi được con dân bộ lạc mình thì ta sẽ nuôi hộ nàng ta. Có thể đưa bộ lạc không thể sống tiếp chuyển đến đó, ta sẽ sắp xếp cho họ”. Phạm Tư Kỳ do dự nói: “Sợ là... A Cổ Lệ đại nhân sẽ không đồng ý...”.

Dương Hạo cười giảo hoạt: “Nha môn tri phủ Cam Châu đâu phải đều là người của nàng ta, bảo bên đó gây ít trắc trở, nếu như A Cổ Lệ không thả người thì người chết đói chính là việc của một mình A Cổ Lệ, không liên quan gì đến ta. Nàng ta không gánh vác nổi trách nhiệm này, nhất định sẽ thả người”.

Mục Xá Nhân ngồi ở trong góc như đang nghĩ tới điều gì đó, hắn vẫn còn nhớ, lần trước khi vương phi A Cổ Lệ bái kiến đại vương, đại vương đã lễ ngộ như thế nào với nàng, như là một sự che chở, cầu gì được nấy, trong mắt một kẻ có đủ sự tham lam như hắn thì hắn nhìn thấy rất rõ. Có điều, có một lần nghe nói vương hậu mời vương phi A Cổ Lệ vào hậu cung, không lâu sau thì nàng ta mặt mày đỏ rực, tức giận xông ra ngoài. Từ hôm đó, thái độ của đại vương đối với nàng hoàn toàn thay đổi. Có lẽ...

Mục Xá Nhân đang trầm tư thì Dương Hạo quay mặt lại nhìn hắn, hỏi: “Mục Xá Nhân, đang nghĩ gì vậy?”.

“À!”. Mục Xá Nhân giật mình nói: “Thần... Đang nghĩ, người Hồi Hột luôn không phục giáo hóa, trong mắt không có vương pháp. Đại vương bây giờ cho bọn họ đất đai, để cho bọn họ an cư lạc nghiệp, đây cũng một biện pháp tốt. Có điều, nếu như bọn họ thực sự chuyển cả bộ lạc tới đây, vì bọn họ đã thành một thể nên quan phủ địa phương sẽ rất khó can thiệp vào, có lẽ... Phải phân tách ra mới dễ quản lý được”.

Dương Hạo cười nói: “Đây là điều đương nhiên, đợi khi bộ lạc Cam Châu đến, ta sẽ chuyển rời toàn bộ bộ lạc của họ ra, phân cách tới ngũ châu Định, Hoài, Tĩnh, Thuận, Hưng, ngũ châu sẽ tiếp tục phân tách bọn họ, lần lượt bố trí vào các phủ trong châu, phủ huyện lại phân tách tiếp, dựa theo hộ mà phân vào các thôn, như vậy có thể loại bỏ được sự khống chế vốn có của thủ lĩnh đối với các tộc nhân, để cho bọn họ hoàn toàn nằm trong tay triều đình.

Ha ha ha, điểm này ta sớm đã nghĩ đến rồi, khi ta vẫn còn làm quan ở Tống, dẫn năm vạn bách tính Hán Quốc đồng hành về Tống, nhận được ý chỉ cũng là như vậy, đây quả thật là một cách bố trí di dân ngoại lai rất tốt”.

Nói đến đây, hắn liền cảm khái nói: “Đáng tiếc, người Khiết Đan quá hấp tấp, chặn trước mặt ta, vì bất đắc dĩ ta phải đổi hướng Tây Bắc, cũng vì như vậy mà ta mới có ngày hôm nay”.

Mục Xá Nhân cười bồi nói: “Vậy sao có thể nói là đáng tiếc chứ, nên là may mắn mới đúng, may người Khiết Đan nhúng tay vào nên Hà Tây ta mới có được một vị anh chủ, thống trị vùng đất mười tám châu”.

Dương Hạo ngẩng mặt lên trời cười lớn nói: “Ha ha ha, đúng vậy, đối với ta mà nói đích thực là may mắn, lúc đó ta bất luận như thế nào cũng không nghĩ rằng có ngày hôm nay. Bây giờ ta đã có mười tám châu, đồng ruộng đất đai màu mỡ, khoáng sản dồi dào, rừng vàng biển bạc... Những gì cần có đều đã có, lúc đầu quả là có nằm mơ cũng không nghĩ tới”.

o O o

-----oo0oo-----

: Tây Hạ Vương

 Chương 75: Mài Dao Sáng Lóa 

Lúc này một viên thị vệ đột nhiên bước vào, khom người trình mật hàm tới trước mặt Dương Hạo. Dương Hạo nhận lấy, mở ra xem, hai mắt sáng lên, lập tức trở nên thâm thúy, không biết đã đọc được tin gì.

Mục Xá Nhân biết đó là thị vệ Ám Ảnh, giống như quan làm việc ở hoàng thành ti trong triều đình Đại Tống, là nhân viên tình báo trực thuộc kẻ thống lĩnh, cho nên tin mà thị vệ này đưa cho Dương Hạo nhất định là tin tức cơ mật nhất, chỉ đáng tiếc hắn hoàn toàn không biết trong thư tình báo đó nói cái gì, cho dù hắn là người sinh hoạt ở đây, nhưng cũng không phải bất kỳ chuyện cơ mật nào cũng có thể biết được.

Có điều, đại vương đã xem tin tinh báo, cũng sẽ đưa ra phản ứng tương ứng, thông qua nhất ngôn nhất hành, nhất cử nhất động của đại vương, chỉ cần quan sát tỉ mỉ có thể đoán ra một chút. Nhưng Mục Xá Nhân hoàn toàn không ngờ được, vị Dương đại vương trước mắt này đã bắt đầu diễn kịch khi ở Biện Lương, diễn vai Dương đại bổng đâu ra đấy, sau này lại lợi dụng Thiên Kim Nhất Tiếu lâu để bắt đầu diễn kịch tiếp, hắn sớm đã thành một diễn viên có kinh nghiệm thâm sâu rồi. Cái tên diễn viên lõi đời này bây giờ lại bắt đầu diễn kịch rồi, chỉ có điều lúc trước hắn diễn kịch là để cho văn võ cả triều Đông Kinh xem, còn bây giờ thì hoàn toàn ngược lại, lần này là văn võ cả triều Hưng Châu diễn cho một mình hắn xem”.

Dương Hạo không cần phải đưa ra bất kỳ phản ứng nào, cũng không cần phải thương lượng với bất kỳ ai, vì những việc hắn cần làm hắn đều đã sắp đặt hết rồi. Tình báo mà hắn vừa đọc chỉ là một thông báo, thông báo Chiết Tử Du đã trở về, trong thông báo chỉ có một câu, không phải là mật văn của mật văn: Kẻ tài sắp đến!

*

* *

Quan Trung hiệu xưng tám trăm dặm Tần Xuyên, bên trái là Hào Hàm, bên phải là Lũng Thục, đất đai nghìn dặm màu mỡ. Đế quốc Thục định đô ở Trường An, danh là Đại Hưng, đế quốc Đường sau này thay thế nó vẫn định đô ở Trường An, đô của đế vương ở Chung Nam Sơn cũng bắt đầu bước vào cảnh giới thịnh vượng phôn vinh.

Nhưng, sau khi triều Đường suy yếu, ngoại địch xâm nhập, chiến hỏa liên miên, nên nơi này dần trở nên suy yếu, nhưng đây cũng chỉ là sự suy yếu tương đối, không phải là một màn điêu linh. Điều kiện nơi đây tuy không thể phồn hoa bằng Biện Lương, nhưng vẫn là một thành lớn nhất nhì trong thiên hạ, Triệu Khuôn Dận trí lớn đầy mình, hắn đã từng nghĩ tới chuyện rời đô đến Lạc Dương, rồi lại dời đến Trường An. Chỉ có điều, đế quốc của hắn là kế thừa lại từ Hậu Chu, quốc thổ của nó vốn chỉ nằm ở lân cận Biện Lương. Văn võ bá quan cả triều, quý tộc công khanh đều là người ở xung quanh đó, bọn họ phản đối việc dời đô, đương nhiên biến Trường An thành một nơi tồi tệ không thể đóng đô.

Lúc này đang có một đoàn nhân mã đi từ phía nam tới, tiến vào Vũ Quan. Vũ Quan là một quan ải trọng yếu của Quan Trung, thủ quân so với sương quân ở bất kỳ nơi nào khác, bất kể là sự chuẩn bị hay sức chiến đấu đều cao hơn không chỉ một bậc. Trong sương quân cũng coi như là tinh nhuệ, có điều đội nhân mã vừa mới tới này xem ra còn hơn cả họ, giáp bị sáng rõ, ngũ hành nghiêm mật.

Kiểm tra qua văn thư, lệnh bài và khám phòng ngự, thủ tướng Du Dương liền mở cổng thành, đích thân ra nghênh đón. Vị đại tướng quân mới đến này chính là tướng lĩnh cấm quân, nguyên điện tiền ti đô chỉ huy sứ, bây giờ là nhân vật đứng thứ ba của khu mật viện La Khắc Địch. La đại tướng quân, bất kể là cấp quan, hay địa vị thì có điểm nào vị lão tướng quân này có thể bì kịp, sao có thể không nghiêng mình đón tiếp chứ.

Vị La tướng quân này từ thành đô đến, sau khi thống quân đến Tứ Xuyên, đầu tiên sẽ khôi phục lại trật tự của địa khu Ba Thục, vì nghĩa quân tác chiến lưu động mà trật tự các châu Ba Thục hoàn toàn bị tê liệt có thể khôi phục lại, sau đó bắt đầu tu sửa lại thành phòng các nơi, lại tập trung đội quân tinh nhuệ chủ lực có tính cơ động cao vào núi tiến hành vây bắt tiêu diệt, bên ngoài thì cho bố trí các đội dân tráng cố thủ để thăm dò hoạt động của nghĩa quân.

Không gian sinh tồn bị thu nhỏ, chiến lược thao túng sâu trở nên eo hẹp, quan binh rất dễ có thể ngăn cản, làm nhiễu loạn và đả kích hành động của nghĩa quân. Trong thời gian nghĩa quân nghỉ ngơi lấy sức và tập kết lại thì sẽ dần mất đi khu vực trọng yếu, dưới vòng vây truy đuổi của quan binh sẽ dần dần rơi vào thế hạ phong, bị thu nhỏ vào một khu vực. Một khi mục đích chiến lược của quan binh hoàn thành thì sẽ hình thành một hợp vậy, có thể tiêu diệt triệt để nghĩa quân.

Không ngờ đám chân đất này lại nỡ vứt bỏ căn cơ, chỉ để lại một tiểu đội tiến vào tác chiến du kích ở sơn địa, còn đại bộ phận quân tinh nhuệ thì đã vào trong Quan Trung trước khi quan binh hợp vây. Tuy Quan Trung không thể so với Ba Thục, có thể làm cho bọn họ như cá gặp nước, nhưng địa hình bình nguyên của Quan Trung lại không dễ hình thành hợp vây với nó, không gian hoạt động của bọn họ sẽ lớn hơn, năng lực sinh tồn cũng cao hơn.

Nghĩa quân vừa vào Quan Trung thì các nơi Quan Trung lập tức tăng cường phòng ngự, thành trì của Quan Trung đa phân vẫn là kiến trúc đô sộ được xây từ thời Đại Đường hơn trăm năm về trước, thành cao hào sâu, không dễ công đánh. Tống Quốc khi nhất thống thiên hạ, chưa từng gặp sự đối kháng nào ở địa khu Quan Trung như vậy, cho nên những thành trì mấy trăm năm mới kiến tạo hoàn thiện này không dễ dàng hạ gục giống như địa khu Ba Thục, lúc này nó rất có hiệu quả phòng ngự.

Binh lực sương quân đóng ở Quan Trung có hạn, nếu như chủ động ứng chiến, khả năng lớn nhất chính là bị nghĩa quân dắt mũi đi. Cho nên khi nghĩa quân vừa vào Quan Trung, Trường An lưu thủ Triệu Quang Mỹ đã mệnh lệnh cho các thủ quân khắp nơi trong Quan Trung phải hết sức lợi dụng thành trì, tiến hành phòng ngự tác chiến, nghĩa quân mấy vạn binh mã không phải tùy ý tìm một thôn trang nhỏ nào là có thể cung cấp nhu yếu phẩm mà chúng cần. Chỉ cần quan binh thủ vững các thành trì thì chẳng bao lâu những Thục nhân này sẽ trở thành binh đói binh khát.

Nhưng những Thục nhân mới đến này dường như sớm đã có tai mắt trong Quan Trung, bọn họ vẫn có thể nắm vững chính xác ở nơi nào có hương thân địa chủ, nơi nào truân binh đông đảo. Cũng không phải bất kỳ hương thân nào cũng chịu vứt bỏ gia nghiệp để rời vào thành, hơn nữa hương thân địa chủ lại là những người thích tích trữ lương thực nhất, vốn Quan Trung đã lớn, chưa cần nói đến quân Ba Thục đến, mà cho dù là dân chúng địa phương Quan Trung bạo loạn, cũng không thể nắm chắc được tin tức của cả Quan Trung. Rất nhiều gia đình cả đời cũng chưa từng rời khỏi cửa nhà xa tới mười dặm, nhưng nghĩa quân Ba Thục lại như có thần trợ giúp, luôn có thể nắm được các tin tình báo, lần nào chiến cũng giành được thành quả.

Thành trì có trọng binh, bọn họ tuyệt đối không vào, một khi có quân đội chủ động tấn công, nếu là một bộ phận nhỏ thì bọn họ sẽ dựa vào ưu thế binh lực mà nuốt gọn, còn nếu như quan binh điều động mấy lộ binh mã tiến hành giăng lưới bao vây thì bọn họ lại có thể xuất quỷ nhập thần, xuất hiện ngay phía sau quan binh, công kích thành trì đã bỏ trống.

Mấy tháng vây bắt, nghĩa quân không những không bị suy yếu đi mà ngược lại, càng lúc càng lớn mạnh, thậm chí còn có hơn vạn con ngựa, tổ hợp thành một đội kỵ binh đi lại như gió, đủ để đánh chính diện một trận với quan binh. Lúc này, đội ngũ cấm quân hùng hậu mới tập hợp ở địa khu Ba Thục, lại tiến về Quan Trung, vốn việc điều động một lượng lớn quan binh như vậy là rất phiền phức, nhưng sẽ không chậm trễ đến tận hôm nay. Nhưng vì nghĩa quân phòng bị lại một lần nữa trở về Ba Thục, cho nên trên cả đường hành quân, La Khắc Địch đã tiến hành sắp xếp phòng ngự ở cả lộ Ba Thục, mấy ngày nay mới đột ngột tăng tốc.

*

* *

Khi Tề Vương bị đưa tới Trường An, cả đường lo lắng kinh sợ, sợ hoàng huynh sẽ hạ độc thủ với mình. Bây giờ với lời mê hoặc của quản gia Hồ Hỉ Nhi, cuối cùng quyết định sẽ làm hết sức bảo vệ tính mạng, nhưng hắn lại càng thêm lo sợ. Nghe nói cấm quân đã vào Quan Trung, Triệu Quang Mỹ thấp thòm không yên, lập tức tìm Hồ Hỉ Nhi đến thương lượng.

Hồ Hỉ Nhi nghe xong liền ung dung cười nói: “Hóa ra là vì chuyện này, thiên tuế hoảng loạn làm gì chứ, cấm quân đến dẹp loạn phỉ vốn đã nằm trong dự liệu của chúng ta, bọn họ đến thì có thể làm gì nào? Thần sẽ phái người đi thông báo cho Đồng Vũ, báo bọn họ đến Tần Lĩnh tránh mặt”.

Thấy Triệu Quang Mỹ vẫn bất an, trong lòng Hồ Hỉ Nhi thầm thấy khinh bỉ, nhưng vẫn kiên nhẫn an ủi: “Thiên tuế cũng không cần phải lo lắng quá, cấm quân lần này đến tiêu diệt phỉ mà thôi, cấm quân tiêu diệt phỉ sẽ không thể thiếu được sự trợ giúp của sương quân qua. Ngài là vương gia, tuy nói cấm quân không thuộc tiết chế của ngài, nhưng bất kể là có cử động gì thì La Khắc Địch đó cũng không thể vượt mặt vương gia, tự động quyết định được.

Bây giờ Đồng Vũ binh cường tướng mạnh, nhưng muốn qua ngày cũng phải nhờ tới sự chống đỡ của ngài, sương quân Quan Trung bây giờ liên tục thảm bại, nếu như không phải vương gia ngài hòa giải từ trong, che giấu trách nhiệm của tướng lĩnh sương quân thì rất nhiều tướng lĩnh sớm đã bị bãi miễn chức vị rồi. Bên Đồng Vũ càng hiểm độc thì những tướng lĩnh đành phải đầu quân dựa vào ngài càng nhiều, không cần nói tương lai, mà cho dù bây giờ ngài cũng không phải là một vương gia hữu danh vô thực để cho người ta tùy ý xâu xé”.

Triệu Quang Mỹ nghe xong thoáng có chút lo lắng, nhưng thần sắc tái nhợt trên mặt cũng dần tan biến, Hồ Hỉ Nhi lại nói: “Cấm quân tiêu diệt phỉ sẽ luôn phải mượn lực của sương quân ta, bất kể là có hành động gì, La Khắc Địch vẫn phải trình báo cho vương gia biết. Muốn sương quân ta trợ giúp thì ta có thể xin triều đình điều thêm quân lương, lương thảo, quân giới, võ bị, bọn họ lần này đến rõ ràng là vì thực lực của vương gia, vương gia nên thấy vui mừng mới đúng”.

Triệu Quang Mỹ chán nản thở dài nói: “Ôi, ta vốn không có ý mơ ước đến ngôi vị hoàng đế, thực ra trong dân gian có nhiều lời đám tiếu nói, tiên đế băng hà không phải là do bạo bệnh, thực ra là do đương kim hoàng thượng hạ độc thủ. Ta vốn không tin, dù sao cũng là huynh đệ đồng bào, hắn sao có thể... Nhưng Đức Siêu cũng chết một cái không rõ nguyên nhân, sao có thể không làm người khác nghi ngờ được chứ? Ta ở Biện Lương hết sức cẩn thận, sợ quan gia bắt được nhược điểm gì của ta, nhưng cuối cùng vẫn bị hắn đuổi tới Trường An, kỳ thật cho dù bị hắn bãi miễn vương tước, nhưng ta cũng không dám có chút phản ý. Nhưng e là... Chỉ cần ta sống thì hắn cũng sẽ không chịu buông tha cho ta...”.

Hồ Hỉ Nhi nói: “Việc đã đến nước này, vương gia cũng không cần phải suy nghĩ nhiều. Vương gia là con cháu hoàng thất, lẽ nào lại không có trí hướng bằng Dương Hạo ở Hà Tây sao? Chỉ cần việc này thì bảo tọa cửu ngũ chí tôn trong tương lai sẽ là của ngài, còn ai đám đối chọi lại ngài nữa? Cho dù không phồn vinh giàu có nhưng chỉ cần chiếm được Quan Trung thì vương gia cũng có thể mở đất xưng đế, tự cư một phương”.

Triệu Quang Mỹ cúi đầu ủ rũ nói: “Nói thì dễ vậy, nhưng Hà Tây vốn không phải là lãnh thổ Tống Quốc, ở đó tạp Hồ tụ cư, không phục giáo hóa, muốn tự cư một phương, bao thổ xưng vương đương nhiên dễ dàng, nhưng Quan Trung thì sao?”.

Hồ Hỉ Nhi ngắt lời nói: “Quan Trung là cột sống của thiên hạ, rồng của Trung Nguyên, tây có Đại Tán Quan, đông có Hàm Cốc Quan, Đồng Quan, nam có Vũ Quan, bắc có Kim Tỏa, tứ phương quan ải, hơn nữa lại là cao nguyên. Lưỡng đạo Tần Lĩnh vốn đã chắc chắn, đất đai phì nhiêu, dân chúng giàu có, phù sa nghìn dặm, là chỗ của hưng vương. Nếu như không phải bây giờ bị ngăn cách thì lúc đầu khi tiên đế đã định đô ở Trường An, bây giờ vương gia đã trở thành lưu thủ Trường An, đây không phải là thiên ý hay sao? Lúc đầu Tần quốc có thể lấy thất quốc Đông Kiết Quan Trung, thì giờ vương gia chẳng lẽ lại không làm được?”.

Triệu Quang Mỹ mặc dù lòng rất lo lắng, nhưng không phải hoàn toàn không có kiến thức, hắn lập tức lắc đầu nói: “Trước khác nay khác, sao có thể so sánh chứ. Thời Tần vương, đông phương lục quốc đều có tính toán riêng, Lũng Hữu Ba Thục lại nằm gọn hết trong tay Tần quốc, Tần quốc nam có Vu Sơn Kiềm Trung, đông có Hào Hàm, phía sau không phải lo lắng, có thể toàn tâm đông hướng. Còn ta bây giờ thì ở trong tình hình nào chứ? Ba Thục trong tay triều đình, chỉ có Quan Trung, sao có thể bàn đến việc thiên hạ chứ?”.

Hồ Hỉ Nhi nói: “Đợi khi vương có được Quan Trung trong tay thì lẽ nào không thể lấy Ba Thục ở phía nam chứ?”.

Triệu Quang Mỹ cười lạnh nói: “Hồ tộc Lũng Hữu chịu sự khống chế của triều đình. Quan Trung bây giờ lại là vùng tiếp nhưỡng với Lũng Hữu, cũng nằm trong tay Hồ tộc, Hùng quan ở bên ngoài. Đối với bản vương mà nói, một khi tạo phản, dụng binh với Ba Thục, cho dù phía đông có Hào Hàm chống đỡ, có thể ngăn được đại quân triều đình bên ngoài thì triều đình cũng sẽ xúi giục Mãn tộc phá hoại tâm phúc của ta”.

Mắt thấy Triệu Quang Mỹ đã đồng ý cùng làm chuyện này, bây giờ lại do dự không quyết, trong lòng Hồ Hỉ Nhi thầm thấy khinh bỉ, long sinh cửu từ, mỗi người một khác, người này không bằng Triệu Khuông Dận, so với nhị ca Triệu Quang Nghĩa của hắn còn kém xa không chỉ một bậc, thật không biết lão tộc trưởng sao lại chọn một kẻ vô dụng như thế này, nhưng bọn họ đã đầu tư cực đại, lại cũng không thể dễ dàng buông tay.

La Khắc Địch vừa đến Trường An, tất nhiên muốn tới bái kiến Tề Vương, La Khắc Địch đó được Triệu Quang Nghĩa trọng dụng, là tâm phúc đáng dựa, tất nhiên sẽ là một nhân vật cực kỳ cơ cảnh, đến lúc đó Tề Vương nếu như vẫn ở trong trạng thái này thì chẳng phải sẽ làm cho hắn nghi ngờ sao? Nghĩ tới đây, Hồ Hỉ Nhi đành phải tiết lộ một chút, làm cho hắn bình tĩnh lại nói: “Vương gia, ngài bây giờ chỉ cần lo chuyện Quan Trung, còn về Lũng Hữu hoàn toàn không cần phải lo”. Triệu Quang Mỹ kinh ngạc ngẩng đầu: “Sao cơ? Có nghĩa là sao?”.

Hồ Hỉ Nhi mỉm cười một cách thần bí, hỏi ngược lại: “Vương gia cho rằng thần có thể lấy được mấy nghìn con ngựa từ đâu cho Đồng Vũ chứ?”.

Bên ngoài cửa có tiếng một thị vệ tâm phúc cao giọng bẩm báo: “Báo, vương gia thiên tuế, xe binh của khu mật viện sứ La Khắc Địch La đại nhân đã đến dưới thành Trường An”. Triệu Quang Mỹ kinh ngạc, nhảy dựng lên khỏi ghế: “Nhanh như vậy sao?”.

Hồ Hỉ Nhi nói: “Nghĩa quân nổi đậy ở Ba Thục, Ba Thục trở thành một vùng tan nát, triều đình không muốn bọn họ lại loạn ở Quan Trung nữa, La Khắc Địch đến không có ý gì tốt, ta phải nhanh chóng thông báo cho Đồng Vũ để chuẩn bị. Vương gia nhất thiết phải bình tĩnh, nếu như sợ để lộ sơ hở gì thì gặp hắn một chút rồi giả bệnh đi nghỉ ngơi, dám chắc hắn sẽ không dám quấy rầy vương gia”.

Hồ Hỉ Nhi nói xong liền vội vã rời đi, Triệu Quang Mỹ nhìn theo bóng hắn, nghĩ lại câu nói vừa nãy hắn hỏi mình, càng nghĩ càng thấy kinh hãi: “Câu nói lúc nãy của hắn có ý gì? Ta hợp tác với chúng phải chăng ngay từ đầu đã sai rồi? Nếu như thật sự có một ngày đại kế thành công, ta... Liệu có trở thành một con rối trong tay bọn chúng không?”.

Không sai, cung đã bắn thì tên không thể quay lại, hắn bây giờ đã không thể quay đầu nữa rồi.

“Báo, La đại tướng quân đã vào thành”.

“Báo, La đại tướng quân đã đi tới lưu thủ phủ”.

Một loạt các thông báo liên tiếp làm cho Triệu Quang Mỹ phải chau mày, tuy nói với thân phận vương gia tôn quý của mình sẽ không phải đích thân đi tiếp hắn, nhưng phái người đi trước cũng coi như là xem trọng và lễ ngộ với La Khắc Địch rồi, sao La Khắc Địch lại phải vội vã như vậy? Trực tiếp tiến vào thành Trường An?

Trong lòng Triệu Quang Mỹ không vui, hắn vào sau hậu trái thay quan y chính thức, rồi trở lại ngồi yên tại chỗ cũ, một lát liền có thị vệ báo La Khắc Địch đã đến bên ngoài phủ môn. Triệu Quang Mỹ liền phái người mở cửa nghênh đón hắn, chốc lát hắn lại thấy có mấy mươi thị vệ mặc giáp vây quanh một vị tướng quân trẻ tuổi đi vào, không nhìn sắc phục của những thị vệ đó, Triệu Quang Mỹ cũng nhận ra đó là thượng quân cấm quân. Đám thị vệ này người nào cũng cao trên một mét chín, đội binh như vậy trừ thượng quân cấm quân ra thì không có đội thứ hai. Đội quân này tuyệt đối là bộ đội tinh nhuệ chính thống nhất của hoàng đế.

“Khu mật viện sứ La Khắc Địch, bái kiến Tề Vương thiên tuế”. Vừa thấy Triệu Quang Mỹ, La Khắc Địch liền chắp quyền dùng quân lễ tham kiến. Triệu Quang Mỹ giơ tay miễn lễ, cười nói: “La tướng quân miễn lễ, nghe nói tướng quân vào Quan Trung trợ giúp bản vương bình phản, bản vương thật vui không gì bằng. Ha ha ha, tướng quân cả đường vất vả rồi, nào nào, mời ngồi”.

La Khắc Địch tạ lễ, ngồi xuống ghế của khách, chờ thị tỳ dâng trà xong liền nói thẳng vào chủ đề: “Hạ quan lần này đến Quang Trung là phụng chiếu tiêu diệt phỉ, cả chặng đường nhìn vào các hành động của phỉ ở Quang Trung, hạ quan đã nghĩ ra một số cách, muốn thương nghị với vương gia, thỉnh vương gia cho ý kiến”.

“Tính tình người này quá thật có chút nóng vội”. Triệu Quang Mỹ nghĩ, xua xua tay, thị tỳ gia nô lập tức lui xuống, đám nô bộc vừa lui, La Khắc Địch lập tức đứng dậy, lấy trong tay áo ra một ống hoàng lăng, cười hòa khí nói: “Trong kinh có ý chỉ, mời Tề Vương tiếp chỉ”.

*

* *

Chủng Phóng nói: “Cấm quân sau khi vào Thục, Tề vương đó không thể kịp thời thông báo các tin tức cho Đồng Vũ như bây giờ. Nhân mã của Đồng Vũ trước mắt đã không còn là đối thủ của cấm quân, nên thông báo cho bọn họ sớm chuẩn bị, lúc vạn bất đắc dĩ có thể tránh về Lũng Hữu, Dương tướng quân nghĩ như thế nào?”.

Dương Kế Nghiệp tiếc nuối nói: “Nếu như hỏi ta, ta cảm thấy cần phải để bọn họ quay về Ba Thục, có sự tiệp ứng của Vương Tiểu Ba, cho dù Tống quân có bố trí trùng trùng quan ải ven đường thì cũng đừng mơ ngăn cản được bước chân của bọn họ. Binh mã triều đình đông đảo, điều động một lần không phải dễ. Để cho bọn họ dắt mũi cấm quân quay trở lại Ba Thục Quan Trung, mới có thể tiêu hao được thực lực của chúng. Đại vương bây giờ đã có Hà Tây, Lũng Hữu cũng sớm sẽ có bố trí cho nên Ba Thục càng trở nên trọng yếu.

Nhớ lại lúc đầu, Tần muốn lập lục quốc, đã nuốt Ba Thục trước. Hán Cao Tổ cũng chiếm Ba Thục đầu tiên, đô ở Nam Trịnh, xuất ở Trần Thương, định tam Tần, chiến với Huỳnh Dương, Thành Cao, thiên hạ dần dần quy thuộc Hán. Tấn muốn diệt Ngô, Hoàn Ôn, Lưu Dụ bắc phạt, Vũ Văn Thái diệt Lương, người Tùy bình Trần, Đường bình Tiêu Tiễn, Tống mưu đồ Trung Nguyên... Đều không bỏ qua việc chiếm Thục đầu tiên, đây gọi là muốn lấy Giang Nam thì phải mưu đồ Thục trước, lấy được Thục, Giang Nam mới có thể bình, chiếm Ba Thục mà giành thiên hạ, thượng đủ để làm vương, thứ đủ để làm bá. Đáng tiếc, đại vương lại không có ý gì với Trung Nguyên”.

Chủng Phóng mỉm cười nói: “Lũng Hữu nhìn xuống Quan Trung, là cánh của Tần Lũng, chỉ cần chúng ta có được Lũng Hữu thì lo gì không có được Quan Trung? Nếu như Quan Trung rơi vào tay thì Ba Thục cũng không thoát được. Trước mắt, cho dù Đồng Vũ có thể trở về Ba Thục cũng không thể để họ trở về, bây giờ là lúc xây dựng cho Tống Quốc một cục diện thái bình, tứ hải hài hòa.

Triệu Quang Nghĩa không phải là người an phận thù thường, cũng không phải là một kẻ... [Thiếu một đoạn]

o O o

-----oo0oo-----

: Tây Hạ Vương

 Chương 76: Tam Gia Điếm 

Dưới tượng Phật có một thạch bàn rất bằng phẳng, lúc trước đám hoàng thất quý tộc đời Đường vẫn thường tế lễ long trọng ở đây, nhưng nay thạch bàn đ lại rộng rãi lạnh ngắt, ngay cả du khách cũng không có lấy một người. Vì hôm nay có mưa, mưa không lớn, nhưng liên miên không dứt như tơ kéo, nó lại làm cho người ta ưu sầu không vui nhất.

Hai bên đầu sân, mỗi bên có một chiếc xe hoa mỹ, một bạch y nhân và một hắc y nhân đang đứng yên lặng đối diện nhau, phía sau lưng họ, mỗi người có một nữ tử duyên dáng, đứng cầm chiếc ô bằng giấy dầu che cho họ. Chiếc ô che được đầu họ thì hơn một nửa người các mỹ nhân đều lộ ra dưới mưa, làm ướt đẫm y phục của họ, nhưng hai nữ tử lại không động đậy chút nào.

Hắc y nhân là Thôi Đại Lang, nữ tử đứng sau lưng che ô cho hắn là thị thiếp Thạch Ngữ Xương của hắn. Thạch cô nương lông mày như viễn sơn, mắt như nước mùa thu, mắt ngọc mày ngà. Nữ tử đứng đối diện nàng cũng là một kiều nữ xinh đẹp, khí chất không kém nàng chút nào, có điều, nam tử mặc công phục màu trắng đứng trước nàng lại kém xa Thôi Đại Lang về vẻ trẻ trung và to lớn. Đó là một lão giả tóc hoa râm, tuy khí độ ung dung, nhưng vẫn rất có tướng không giận mà phát uy, dù sao tuổi cũng đã lớn, đứng ở đó cũng không thể hiên ngang như Thôi Đại Lang.

Nhìn thân người phía sau của hai thị thiếp họ cũng có thể đoán được hai người này đã đứng nói chuyện khá lâu rồi, trong ánh mắt Thôi Đại Lang cũng đã có chút mệt mỏi.

“Trịnh bá, với thế lực lớn mạnh của Kế Tự đường ta, bất luận là làm chuyện gì cùng đều nên cầu yên ổn. Bá là tiền bối, tin rằng những đạo lý này bá còn hiểu hơn cháu, hy vọng Trịnh bá vẫn kịp thời thu tay lại”.

Lão giả đối diện cười nói: “Ha ha ha, Đại Lang, cho dù cha cháu còn sống cũng không dám giáo huấn lão phu như vậy đâu, dù sao cháu cũng chỉ là con nghé mới sinh thôi”.

“Cháu không phải đang giáo huấn tiền bối, chỉ là khuyên giải thôi, có nghe hay không là do Trịnh bá”. Thôi Đại Lang cũng cười lạnh lùng: “Triệu Quang Mỹ trong triều đình đã hoàn toàn mất đi căn cơ, cũng không có tư cách hiệu triệu thiên hạ, không chống đỡ nổi với một trận đấu, hoàn toàn không đáng để nâng đỡ trợ giúp. Trịnh bá, vãn bối xin khuyên bá một câu cuối cùng, hãy sớm thu tay lại đi”.

Lão giả cơ hồ như muốn nói ra, người mà hắn muốn nâng đỡ thật sự chính là hoàng tử của tiên đế Triệu Đức Phương, nhưng cuối cùng cũng nhẫn nhịn được, chỉ mỉm cười nói: “Lão phu phải ăn muối còn nhiều hơn cháu ăn cơm, ta muốn làm gì, làm như thế nào cũng không cần cháu phải chỉ điểm”.

Thôi Đại Lang gật đầu, quay người đi, vừa đi vừa nói: “Thất tông ngũ tính đồng khí liên chi, Trịnh gia có nạn, Thôi gia cháu sẽ không ngồi nhìn, chỉ muốn cho tiền bối biết, vãn bối đã nhận được tin, quan gia đã phát giác ra hành động của Triệu Quang Mỹ ở Trường An, e rằng rất nhanh sẽ có hành động gây bất lợi cho Tề Vương. Trịnh bá, bá hãy tự thu xếp nhé”.

Lông mày lão giả run lên, ánh mắt vốn ôn thuận bình thản đột nhiên sắc nhọn như kiếm. Nhưng Thôi Đại Lang vẫn chỉ quay lưng về phía hắn, hoàn toàn không quay đầu lại. Hắn bước thẳng lên xe, Thạch cô nương thu ô lại và vào xe, buông mành xe xuống, phu xe quất roi, ngựa liền phi thẳng về phía trước.

Trên khuôn mặt lão giả là vẻ lo lắng bất định, hắn đứng dưới đại Phật, một hồi lâu không nhúc nhích.

“Lão gia...”. Mỹ nữ đứng phía sau khẽ gọi, lão gia ngẩn ra một hồi lâu, mới lẩm bẩm nói: “Lời này của hắn... Là có ý gì? Lẽ nào Triệu Quang Nghĩa thật sự đã phát giác ra? Cục diện Trường An vẫn chưa thể hoàn toàn nắm trong tay. Nếu như thật sự, thì...”.

Sắc mặt lão giả dần tái xanh đi, mỹ nữ bên cạnh thấy vậy cũng không dám nói nữa, chỉ lăng lặng đứng một bên.

“Sẽ không đâu, chúng ta làm việc vô cùng cẩn thận, triều đình sao có thể phát hiện...”. Lão giả chưa nói hết câu, cơ thể đột nhiên chấn động, xoay người bước đi. Mỹ nhân bên cạnh vội vàng một tay cầm ô, một tay túm tà váy chạy đuổi theo. Lão giả cất bước lên xe, ngồi vào chỗ của mình, không thèm phủi bọt nước trên áo, liền liên tiếp ra lệnh: “Mau, mau, lập tức về thành”.

Chiếc xe vừa động, mỹ nhân vừa mới vào xe chưa kịp ngồi vào chỗ liền lảo đảo, ngã vào lòng hắn, lập tức nàng ngồi ngay ngắn sang một bên, có chút lo lắng nói: “Lão gia, bên Trường An đã đầu tư rất lớn, sẽ không... Sẽ không xảy ra chuyện chứ?”.

Lão giả rất lo lắng, cau mày lại, hơi vuốt râu nói: “Về thành, nếu như có tin tức thì bên Biện Lương sẽ lập tức đến, bất kể như thế nào cũng phải thông báo cho Hồ Hỉ Nhi trước, bảo hắn tăng cường phòng bị ở bên đó”.

Lão giả vừa nói đến đây thì trong màn mưa phùn dày đặc đột nhiên có một kỵ mã xuất hiện, xung quanh xe ngựa có thị vệ, vừa mới dừng ngựa ở phía trước, lại phát hiện ra đó là người của phủ, phu xe vội ghìm ngựa lại, người đó vội vã phi tới bên cạnh xe, thấp giọng nói mấy câu qua cửa sổ xe, rồi trình thư tín lên. Lão giả nắm chặt thư tín trong tay, ngồi dựa vào thành xe, sắc mặt hết sức đáng sợ, mỹ nhân lo lắng nói: “Lão gia...”.

Lão giả từ từ nghiến hàm răng lại, phát ra một câu nói: “Triều đình đã phát giác ra sự bất thường, hạ chiếu bắt Tề Vương tiến kinh, đầy Triệu Phổ đến Viễn châu. Triệu Quang Nghĩa... Động thủ rồi”. Mỹ nhân cũng lộ ra vẻ lo lắng hơn: “Lão gia...”. Lão giả cắn răng mím môi nói: “Thôi gia đáng chết! Dám làm hỏng chuyện tốt của ta”.

Mỹ nhân bên cạnh liền nói: “Lão gia, chắc không phải là do Thôi gia làm chứ. Nếu triều đình phát hiện phía sau Triệu Quang Mỹ là có sự tồn tại của Kế Tự đường ta thì đối với Thôi Đại Lang cũng không có lợi ích gì...”.

“Ha ha ha...”. Lão giả cười lạnh nói: “Nàng không nghe Thôi Đại Lang nói sao, tiên cầu tuệ, tái cầu tiến. Kế Tự đường từ đầu năm đã bước tới một triều đại khác rồi, vấn đề nội bộ càng lúc càng nhiều, Đường gia không phục sự điều động, Trịnh gia ta lại hành động riêng. Nếu như có thể mượn tay triều đình, làm đại thương nguyên khí hai nhà ta, thì đối với Thôi gia hắn chỉ có lợi, làm gì có hại?”.

Mỹ nhân nói: “Lão gia, phải chăng là hành động của Thôi thị hay không thì sau này có cơ hội sẽ tra xét tìm chứng cứ, việc cấp bách bây giờ chính là Trường An. Cục diện Trường An vừa mới mở ra, chúng ta bây giờ vẫn chưa nắm chắc có đủ lực lượng để công khai làm địch với triều đình. Nếu triều đình đã phát giác ra thì nên dứt khoát vứt bỏ Triệu Quang Mỹ, đưa người của chúng ta lập tức tản đi. Nếu không thì...”.

“Không!”. Lão giả ngồi thẳng người, nghiêm nghị nói: “Bên công chúa đã chuẩn bị động rồi, với sự hợp lực của Tề Vương và hoàng tử, lại có sự phối hơp của chúng ta cùng mấy vạn đại quân thì tuy không thể tiến vào đánh lấy Trung Nguyên, nhưng dựa vào địa thế Quan Trung tự thủ vẫn có thể làm được. Chỉ cần Quan Trung đứng vững chân thì lão phu sẽ có cách thuyết phục Thượng Ba Thiên xuất đầu tương trợ”.

Hắn cười lạnh lùng, nói: “Triều đình bây giờ đã trợ giúp Lý Kế Quân, Dạ Lạc Hột và Thượng Ba Thiên phân quyền, sớm đã làm cho hắn bất mãn, lão phu đã đầu tư cho hắn cực đại. Bây giờ... Là lúc lấy lại cả vốn lẫn lãi”.

Tiểu mỹ nhân thở dài nói: “Lão gia, nguy hiểm như thế thần thiếp luôn cảm thấy không ổn. Nhiều năm như vậy Trịnh gia ta đều nhẫn nhịn được, bây giờ hà tất phải nóng vội nhất thời”.

Lão giả trầm mặt xuống, nói: “Trịnh gia chúng ta vốn đặt chân ở đông nam. Sự bại vong liên tục của Mân Hán làm cho Trịnh gia ta đại thương nguyên khí. Cho đến khi muốn dời về Trung Nguyên thì cả Trung Nguyên đã bị người ta thâu tóm hết, mắt thấy Tống Quốc nhất thống thiên hạ, dù thế nào cũng sẽ có quốc vận một, hai trăm năm. Nếu như vậy, thì Ẩn tông của chúng ta sẽ trở thành Ẩn tông vĩnh viễn, không có ngày được lộ diện. Giống như đại tộc thế gia của chúng ta, muốn tồn tại tiếp, phải như thuyền chạy ngược dòng, không tiến mà lùi. Sự lớn mạnh của cả Kế Tự đường không đại biểu cho sự lớn mạnh của Trịnh gia ta. Lúc này tuy khó khăn, nhưng thiên hạ mới định, lòng người chưa ổn, chúng ta cũng chỉ có cơ hội này thôi, nếu như đợi tứ hải thái bình thì... Ha ha ha!”.

Mỹ nhân không nói nữa, lão giả thò đầu ra khỏi cửa sổ, trầm giọng ra lệnh: “Bên Biện Lương vẫn làm theo kế hoạch cũ, dốc toàn lực giúp công chúa, hoàng tử thoát thân. Thông báo cho Trường An, tập kết tất cả sương quân đã trung thành với Tề Vương và nhân mã của Đồng Vũ, lập tức hành động”.

*

* *

Trong phủ đồng bình sự Triệu Đức Phương là một không khí bận rộn, người người vui sướng, hân hoan. Hôm nay hoàng tử Đức phương sắp được phong thân vương rồi. Ở hậu trạch, trong phòng ngủ Triệu Đức Phương lại yên tĩnh nhưng ấm áp.

Triệu Đức Phương, một đứa trẻ mười sáu tuổi đã sắp thành người lớn rồi, so với tỷ tỷ Vĩnh Khánh đã cao hơn một chút, chỉ là dung nhan vẫn có chút non nớt.

Bộ y phục rất phức tạp, trong ngoài tới năm chiếc, bên ngoài còn mặc theo ba bốn lớp bào, trang phục này là để chuẩn bị cho lễ ban phong long trọng. Bên ngoài có rất nhiều nội thị, cung nữ đang bận rộn, chỉ còn Vĩnh Khánh giúp đệ đệ của mình chuẩn bị ăn mặc. Lúc này, nàng không phải là một người xuất gia tứ đại giai không nữa, chỉ là một người tỷ tỷ cốt nhục tình thâm.

“Đức Phương, đã đọc thuộc ‘Khai bảo thông lễ’ rồi chứ? Đến lúc đó đừng đọc sai đấy”.

“Ừm!”. Triệu Đức Phương đứng đó, mặc cho tỷ tỷ mình sửa soạn, chỉ đáp lên một tiếng lo lắng.

Vĩnh Khánh giúp nó đeo ngọc bội vào, dịu dàng nhắc nhở: “Hoàng đế sẽ cừ hành lễ sắc phong ở điện Văn Đức, sắc phong chia thành hai bộ phận, đầu tiên là người ta sẽ dâng sách thư lên, sẽ do tể tướng tuyên đọc, đệ phải chú ý nghe, sau đó hoàng đế sẽ giao cho đệ ấn tỷ. Sau khi thụ phong, đệ sẽ dùng ấn tỷ đóng dấu lên sách thư, nội thị sẽ dẫn đệ lui ra, ở cửa thánh điện đệ phái bái một lần, sau đó trong cung sẽ có người đưa đệ về phủ”.

“Vâng”.

“Sau khi trở về, nơi đây sẽ trở thành vương phủ rồi, đệ cất sách thư và ấn tỷ rồi đi nghỉ ngơi một chút, sau buổi chiều đệ phải nhập cung, dùng lễ để tạ ơn hoàng thúc phụ. Nhớ kỹ, sách thư ấn tỷ đệ đều phải mang theo người, không được để trong phủ. Khi quay lại cung, đệ phải nói theo những gì tỷ tỷ đã dạy. Quan gia ban cho đệ vương tước này chẳng qua chỉ là để cho người trong thiên hạ đều tán thưởng hắn là người hòa thiện, hậu đãi con cháu tiên đế, cho nên tất sẽ để đệ đến Sùng Hiếu am, những chuyện còn lại giao hết cho tỷ tỷ, từ đầu đến cuối đệ đều không biết gì cả. Hiểu chưa?”.

o O o

-----oo0oo-----

: Tây Hạ Vương

 Chương 77: Một Cục Đá Hạ Ba Con Chim 

Triệu Đức Phương vô cùng căng thẳng, cúi đầu xuống khẽ vâng một tiếng.

“Đức Phương”. Vĩnh Khánh công chúa hai tay nắm lấy vai nó: “Ngẩng đầu lên, nhìn tỷ tỷ”.

Triệu Đức Phương từ từ ngẩng đầu, công chúa Vĩnh Khánh nhìn chằm chằm vào mắt nó, nói từng chữ một: “Không phải lo lắng, vương vị này vốn là của đệ, là hắn nợ đệ, hiểu không?”.

“Vâng”. Triệu Đức Phương nuốt nước bọt, thần sắc bình tĩnh trở lại.

“Bình tĩnh lại, chúng ta chết còn không sợ, thì còn gì phải lo nghĩ nữa? Huyết hải thâm thù của cha và đại ca, không ai có thể giúp chúng ta báo, chỉ có thể dựa vào chính chúng ta! Tỷ tỷ không chỉ vì báo thù cho cha và đại ca mà còn muốn nỗ lực nhất để bảo đảm an toàn cho đệ, bây gờ chúng ta không nỗ lực một phút thì đệ sẽ càng nguy hiểm. Sau ba năm, năm năm, chúng ta cho đù có đột nhiên chết, thì trong triều cũng sẽ không ai lấy làm lạ, không ai hiểu cả, vì thế... Đợi đến lúc đó hắn sẽ không còn gì phải kiêng nể cả, hiểu không?”.

“Vâng”. Lần này Triệu Đức Phương liền nắm chặt tay, dứt khoát gật đầu.

Bên ngoài cửa có người nhẹ giọng báo: “Vương gia, thái tử tới rồi”.

“Thái tử?”. Triệu Đức Phương kinh ngạc, lại quay về vẻ hoang mang.

“Trấn tĩnh một chút”. Công chúa Vĩnh Khánh, mỉm cười: “Lòng dạ người đó còn hiểm độc hơn rắn rết, khi hắn càng muốn hại người thì càng tỏ ra thân thiết với người đó, càng muốn làm ra vẻ muốn làm ra vẻ đối tốt với người. Tỷ tỷ không yên tâm. Thái tử và cha ngài hoàn toàn đi trên hai con đường, tỷ sợ đệ sẽ xảy ra chuyện trước khi nghi lễ tiến hành. Tỷ đã đùng cách kéo dài thời gian, mời thái tử đến, có thái tử hộ giá, đệ sẽ được bình an vô sự”.

Nàng vỗ vỗ vai đệ đệ, nói: “Bây giờ tỷ tỷ không tiện xuất hiện, đệ đã chuẩn bị xong rồi, đến tiền đình gặp thái tử đi, cùng hắn vào cung, tỷ tỷ... Sẽ ở Sùng Hiếu am chờ đệ”.

Phủ môn mở rộng, hai huynh đệ Triệu Nguyên Tá, Triệu Đức Chiêu rời khỏi phủ. Khi hai người tiến cung, ở cánh cửa góc hậu viện cũng khẽ mở ra, hai nữ ni yên lặng rời khỏi.

“Lâm Nhi, nói với viên ngoại Kiến Cao, động thủ”. Đứng ở cửa Sùng Hiếu am, Vĩnh Khánh trầm giọng nói.

Nữ ni Lâm Nhi đáp một tiếng, rồi quay người đi về hướng đông, công chúa Vĩnh Khánh đứng chốc lát rồi đi vào trong.

“Trụ trì!”.

“Am chủ!”.

Trở lại thiền viện của trụ trì bên ngoài thiền phòng, Đinh Ngọc Lạc mặc một bộ tăng y màu xám, đang quét hành lang. Đối mặt nhau, Vĩnh Khánh khẽ gật đầu với nàng, Đinh Ngọc Lạc biết ý, lập tức bỏ chổi xuống, đi về phía nàng, hai người đi qua cọ nhẹ vai vào nhau.

Đinh Ngọc Lạc bước nhanh ra ngoài am, Vĩnh Khánh đứng lại một lát bên ngoài thiền phòng của mình, rồi bước vào hậu viện.

*

* *

Sau giờ ngọ, ở gần Sùng Hiếu am đột nhiên có một đội cấm quân chạy tới, đầu tiên là phong tỏa Sùng Hiếu am, đuổi hết những người bán rong và những kẻ du đãng gần đó đi hết, sau đó tướng lĩnh cấm quân xuống ngựa, thống lĩnh một đội sĩ binh tiến vào Sùng Hiếu am một cách rất có quy củ.

Am chủ ở đây chính là công chúa Vĩnh Khánh, hoàng thất quý trụ, ai dám thất lễ với nàng, có một chút lễ tiết cũng là cần thiết. Cho nên tướng quân đó vừa vào trong tự liền bảo sĩ binh đứng lại, một mình đi thỉnh kiến am chủ Hạo Như đại sư, sau khi nhận được sự cho phép của nàng mới rất hòa khí mà sơ tán hương khách tín đồ.

Qua hơn nửa canh giờ, một đội nghi trượng rất dài đi tới Sùng Hiếu am, từ xa đã có thể nhìn thấy võng lọng vàng rực, người đi đường mới biết hôm nay thánh thượng giá lâm Sùng Hiếu am. Người đến không chỉ là Triệu quan gia, còn có Tống hoàng hậu, hoàng thái tử, và Kỳ vương vừa mới tấn phong Triệu Đức Phương.

Triệu Đức Phương thụ phong Kỳ vương, được dùng nghi trượng vương tước triều đình đưa tới vương phủ, sau giờ ngọ, triều hội đã tan, lại nhập cung tạ lễ hoàng đế, Hoàng đế và Kỳ vương cùng nói chuyện nhà với sự kề cận của hoàng thái tử, mẫu hậu của Kỳ vương đương nhiên cũng nên được mời ra để thể hiện hòa khí một nhà.

Tống hoàng hậu đến, nói rằng hoàng nhi đã trưởng thành, anh linh tiên đế cũng được an ủi, hai mẫu tử họ ôm nhau khóc lớn. Ngay sau đó họ lại tạ ơn quan gia, nói qua nói lại, lại nói đến công chúa Vĩnh Khánh. Công chúa Vĩnh Khánh lần này nằm ngoài thụ phong, không thể trực tiếp nhập triều đường, hơn nữa nàng đã xuất gia. Lần này, gia nhân hoàng thất đoàn tụ, duy chỉ có nàng là không có ở đây, đó cũng là một việc đáng tiếc.

Kỳ vương Triệu Đức Phương liền đưa ra gợi ý muốn cùng mẫu hậu cùng đến Sùng Hiếu am, vừa gặp tỷ tỷ, vừa nhân chuyện thụ phong vương tước mà thắp hương cho tiên đế, Sùng Hiếu am là nơi công chúa Vĩnh Khánh cầu phúc cho tiên đế và hoàng gia, chăm sóc cho linh vị của tiên đế. Triệu Đức Phương vừa nói, thái tử Triệu Nguyên Tá liền nói thêm vào, và cũng đề nghị cho hắn được cùng đi bái tế tiên đế.

Yu cầu của Triệu Đức Phương hợp tình hơp lý, hơn nữa lúc này đang là lúc cả nhà hòa hợp, Triệu Quang Nghĩa đương nhiên không muốn phản lại ý của bọn họ, liền đáp ứng luôn, hơn nữa hắn cũng muốn đi cùng. Từ sau khi hắn hạ lệnh bắt tam đệ Triệu Quang Mỹ hồi kinh, Triệu Quang Nghĩa tuy chưa sai hoàng thành ty thâm nhập vào dân gian xem phản ứng của dân chúng, thì cũng biết dân gian tất sẽ có rất nhiều ngôn từ gây bất lợi cho hắn, bây giờ hắn phong Triệu Đức Phương làm vương, lại cùng đi bái tế tiên đế, cũng có thể cải thiện được chút ít hình tượng.

Trong am Sùng Hiếu, công chúa Vĩnh Khánh cùng chúng ni ra cung nghênh thánh giá, Triệu Quang Nghĩa dẫn cả nhà đi tế bái tiên đế, ở đây từ khi định làm hoàng gia tự miếu, Triệu Quang Nghĩa chỉ mới đến có một lần. Lần này đến bái tế tiên đế, hắn cũng muốn đi xem xét xung quanh, mắt thấy nơi này đã đầy đủ hơn trước, Triệu Quang Nghĩa liên tục gật đầu.

Vĩnh Khánh và Triệu Đức Phương sau khi cùng sóng vai đi, mắt thấy Đức Phương chốc chốc lại đưa tay ấn bụng, Vĩnh Khánh không khỏi có chút căng thẳng, liền hỏi: “Làm sao vậy, trong người có chỗ nào không khỏe à? Đã ăn gì ở trong cung?”.

Triệu Đức Chiêu nhỏ tiếng nói: “Không phải, là ấn tỷ quá nặng, đai thắt lại chặt, e là sẽ để lộ vết tích”. Triệu Quang Nghĩa quay đầu cười nói: “Tỷ đệ hai người đang nói gì thế?”. Vĩnh Khánh không đổi sắc mặt, trấn tĩnh nói: “Kỳ vương có chút cấp bách, bần ni đưa đệ ấy ra ngoài một chút”.

Triệu Đức Phương là nam nhân, trong am lại đều là nữ ni, đương nhiên không có ai thích hợp hơn tỷ tỷ của nó. Triệu Quang Nghĩa gật gật đầu, Vĩnh Khánh liền đưa Triệu Đức Phương rời khỏi. Đến được chỗ hoang vắng không người liền cởi đai bào ra, hóa ra sách thư và ấn tỷ của Triệu Đức Phương đều ở trên người, vì bào phục long trọng được thắt đai ngọc, nên càng dễ để lộ ra dấu vết của ấn tỷ, Vĩnh Khánh thấy vậy liền nói: “Đưa cho tỷ trước, để trong người tỷ, đợi lát nữa sẽ đưa cho đệ”.

Người nàng nhỏ nhắn, lại mặc tăng y, tăng y lại không thắt đai, cho nên bên hông buộc một cái ấn tỷ cũng không vấn đề gì. Hai tỷ đệ mặc lại xong xuôi, lại trở về hậu am, dẫn quan gia đi thăm một hồi, rồi dẫn hắn vào trong khách đường ở hậu am tọa lạc. Mọi người đều ngồi xuống, công chúa Vĩnh Khánh chắp hai tay nói: “Hoàng đệ tuổi đã không còn nhỏ, đã được phong vương tước, đây là ân điển của quan gia, Vĩnh Khánh tuy đã xuất gia, duy chỉ có một chuyện không yên tâm chính là tiêu đệ này. Quan gia đối với nó như từ phụ, Vĩnh Khánh cũng yên tâm rồi. Vĩnh Khánh xin thay hoàng đệ tạ ơn quan gia”.

“Haizz, người một nhà đừng khách khí như thế. Vĩnh Khánh này, cháu nói như thế là coi như người ngoài rồi”. Triệu Quang Nghĩa cười nói. Từ cửa khách đường xuất hiện một nữ ni trẻ tuổi, trong tay bưng một bàn trà. Trong đám thị vệ đại nội, thái giám và cung nữ đứng ở cửa, có hai cung nữ đưa tay chắn đường nàng ta, kiểm tra từ trên xuống dưới, không phát hiện bất cứ vũ khí nào, lúc này mới cho nàng ta vào.

Nữ ni đó khoan thai bước vào, đi tới bên cạnh kỷ án, nhẹ nhàng đặt bàn trá xuống, cầm bình rót trà vào chén. Triệu Quang Nghĩa ngẩng đầu liếc nhìn nữ ni một cái, thấy lông mày nữ ni như một bức tranh, mắt hạnh má đào, bất giác cảm thấy có chút kỳ lạ. Trong am đương nhiên đều là nữ nhân, có điều đa phần là dung mạo đoan chính, nếu nói về xinh đẹp thì càng ít, trong thế gian này tuy không thiếu nữ nhân, nhưng nữ nhân mỹ lệ bất đắc dĩ đi vào con đường xuất gia quả thật quá ít.

Có điều, Triệu Quang Nghĩa dù sao cũng là thiên tử nhất triều, nơi đây lại là am đường Phật gia, tuy cảm thấy nữ ni này thanh rú, xinh đẹp, nhưng hắn cũng không dám nhìn nhiều, chỉ liếc mắt một cái rồi thu lại ánh nhìn. Có điều ánh mắt vừa thu lại thì Triệu Quang Nghĩa trong lòng chợt lóe lên, hình như phát giác được chuyện gì đó. Ánh mắt này! Ánh mắt của nữ nhân này hình như đã từng gặp ở đâu, trẫm sao lại có thể quen biết với một nữ ni?

Thấy tách trà đã được rót đầy, Triệu Quang Nghĩa bất giác cười lên, nhưng lập tức trong đầu hắn hiện lên một thân hình, đó là ở Lạc Dương, đó là một ngày mùa đông, hắn và Mộ Dung Cầu Túy từ bên bờ Lạc Hà trở về, phía trước có một nữ tử áo trắng thắt đai, khoan thai đi qua. Khi nàng quay đầu lại, dung nhan kiều diễm đó, con ngươi kiều diễm đáng sợ đó, một kiếm đáng sợ đó...

Triệu Quang Nghĩa đột nhiên ngẩng đầu lên, đôi mắt như tĩnh thủy Quan Âm chợp động, trong con người phát ra đằng đằng sát khí, vẫn là đôi mắt vừa kiều diễm vừa đáng sợ đó, nhất chiêu song quỷ phách môn hướng thẳng về ngực hắn.

“Động thủ rồi, mọi người cẩn thận”.

*

* *

Phía dưới cầu Kim Lương, Ngõa Từ Châu Tây, Chiết Tử Du trầm giọng hạ lệnh với ba người đang ngồi cùng bàn, Chiết Tử Du mặc một bộ huyền y, ngồi trong một lán trà bên góc cầu, xung quanh người qua người lại, nhưng cũng chẳng có mấy người chú ý đến cái góc đó, Trúc Vận và Cẩu Nhi ngồi hai bên cùng gật đầu. Đứng dậy ra khỏi lán trà, Cẩu Nhi đội nón, buông mành che xuống, che đi dung nhan của mình rồi chạy như bay trên đường. Trúc Vận đi tới một chỗ không xa lắm, khi chui ra từ một cái ngõ nhỏ thì lập tức biến thành một tiểu ăn mày quần áo rách nát, cầm một cây cẩu bổng, nhanh chóng rời khỏi đó.

Trương Thập Tam ngồi đối diện cũng từ từ bước ra khỏi lán trà, miệng vẫn ngậm một cọng cỏ, đứng dưới bóng của lán trà, nhẹ nhàng làm động tác xoa cổ, ở trong đám người qua lại đông đúc trên đường, đột nhiên có một số người cũng đồng thời làm động tác đó, người đánh xe, người gánh hàng, du đãng trên đường... Mười mấy người cùng tiến về hướng đông tây. Một người bán hàng đang đẩy chiếc xe một bánh đi bán táo đột nhiên đẩy khách hàng đang mặc cả ra, đẩy xe đi, người mua hàng ngạc nhiên nói: “Sao thế? Bán hàng mà cũng nóng nẩy như vậy sao, ta mới mặc cả bớt hai đồng mà, này, thêm cho ông một đồng nữa, bốn đồng có bán không?”.

Qua hơn một năm chuẩn bị, cộng thêm vô số lần diễn tập, một khi bắt đầu hành động thì tốc độ cũng vô cùng nhanh chóng và đạt hiệu quả cao, các nơi đều hành động tiến triển, thuận lợi, thêm nữa tin tức đã nhanh chóng đưa đến lán trà ở Ngõa Từ Châu Tây. Tuy từ đầu đến cuối nàng không hề rời khỏi lán, nhưng lấy lán trà làm trung tâm, tất cả các thông lộ đều lập thành một mạng nhiện, mà nàng là con nhiện chúa. Bất kể một nơi nào có chuyện đều có thể nhanh chóng truyền tin về đây, bất kỳ nơi nào phát hiện ra tình huống chưa từng xuất hiện trong các lần điễn tập, nàng đều có thể nhanh chóng bổ sung thay đổi, đảm bảo sự thống suốt không trở ngại.

Quan Lăng độ (bến đò Quan Lăng), tên là độ nhưng bên cạnh nó lại không hề có con sông nào, cũng không biết cái tên này được đặt từ bao giờ, ở đây là ngã rẽ của con đường đi tới Nam Đới Môn hướng về đông nam mười dặm. Hai bên đầu đường có hai dãy nhà, bên trái là dãy nhà của tuần kiểm ti, bên phải là thuế lại ti. Người không nhiều, vì người thông hành qua đây vốn cũng ít, nhưng lại phải thiết lập hữu ti, vì từ đây có thể vòng qua quan khẩu Biện Lương, trực tiếp lấy hàng giao hàng trên thuyền.

Vì bình thường không có chuyện gì, tuần kiểm và thuế lại chỉ để lại vài người canh giữ, những người khác thường rời chỗ đóng quân, không ở đây. Lúc này từ phía xa có ba chiếc xe đi tới, xe cũng không coi là đẹp đẽ quý giá gì, chỉ là vừa nhìn đã cảm thấy rất chắc chắn, bánh xe cao hơn nửa người, xe như vậy tốc độ đi rất nhanh, chạy rất xa, mà mỗi chiếc xe đều do bốn con ngựa kéo, những người có thể dùng ngựa kéo là không nhiều, một chiếc xe bốn con ngựa kéo lại càng ít. Mấy tên thuế lại đang uể oải phơi nắng liền lập tức lấy lại tinh thần.

Con đường này ngoài việc thuận tiện buôn lậu trốn thuế thì thực ra không dễ đi, cũng không phải là đường giao thông chủ yếu, từ khi thiết lập trạm thuế lại và tuần kiểm ở đây, những kẻ muốn trốn thuế không còn đi đường này nữa, đi qua đây cũng chỉ là một số dân chúng thôn trang quanh đây muốn vào thành, tiền kiếm cũng chẳng được mấy. Bây giờ nhìn thấy tình hình này, có vẻ có thể kiếm chác được chút rồi. Nếu như trên xe có hàng hóa triều đình cấm bán thì lại có thể thu được một khoản lớn.

“Ha ha ha, xem ra ông trời muốn thưởng cho ta, muốn đi cũng không đi được, vận khí đến rồi, cho dù có tường thành cũng không cản được”. Lão Trương thuế lại chỉnh đốn lại mũ và trang phục, hứng chí bước lên trước, vận khí của hắn quả thật không tồi, vừa bước lên đã nhìn thấy màu đỏ rồi.

Lão Trương mở to đôi mắt như cá chết lên, kinh ngạc nhìn bạo dân tạo phản một lời cũng không nói mà đã giết chết quan, hắn từ từ ngã xuống. Từ trên xe, mười mấy đại hán thân hình thấp nhưng cường tráng nhảy xuống, tay cầm lợi đao, chia nhau chạy vào hai dãy nhà bên đường, sau hàng loạt tiếng kêu thảm, tất cả lại yên tĩnh.

Những thi thể nằm la liệt trên đất bị kéo đi, vết máu dưới đất cũng được phủ cát lên che giấu, ba chiếc xe tứ mã đứng ở bên ngoài hàng rào quan khẩu. Phu xe cũng không thèm xuống xe, ngồi yên trên đó, trong tay nắm chặt chiếc roi ngựa, hình như chuẩn bị dương roi khởi hành.

Trong tuần kiểm ti, có mấy người cầm đao đi ra, trong thuế phú ti có mấy viên thuế lại đầu đội mũ đỏ bước ra, đứng ở đó bắt đầu chấp hành công vụ, so với đám lại dịch trước đó còn trang nghiêm hơn cả trăm lần.

*

* *

Thành tây Biện Lương, Vạn Thắng môn. Lạc đà, xe bò đều chất đầy hàng hóa. Hồ thương đến từ Tây Vực ở trong thời tiết thịnh hạ mà vẫn mặc áo da dê, hét lớn các xe ngựa chuẩn bị kiểm dấu xuất thành, không ông chủ Hồ thương đó, một đại hãn mắt báo râu quai nón lại đột nhiên kêu đau bụng như cắt, rồi ngã từ trên ngựa xuống, lăn lộn trên đất, làm cho đám quan binh thủ môn hết cả hồn. May mà từ Vạn Thắng môn đi quay trở lại không xa là hiệu thuốc Kinh Khuông, mấy kẻ sai vặt nhận tiền thưởng rồi dẫn mấy thủ hạ của Hồ thương chở đại hán đó đến tiệm thuốc để chẩnbốc thuốc.

Thiếu mất người chủ sự, không có người lo cho hàng hóa, không có người giao nộp thuế thành môn, đội ngũ to lớn bị ùn tắc lại ở cổng. Xe, hàng hóa, lạc đà đều đứng đầy cổng thành, người qua người lại, ngửi thấy mùi hôi thối từ đám súc vật, không khỏi đều bịt mũi lại qua đường. Binh sĩ thủ thành cũng rất bực bội, may mà cổng thành còn có chỗ thông gió, cũng không quá khó chịu.

Nhiều xe, lạc đà và đồ như vậy, nếu đột nhiên xảy ra chuyện cấp bách, chỉ cần đẩy một chút là đã có thể bịt kín cổng thành, cổng thành cũng không đóng được, nhưng Biện Lương thái bình đã lâu, lại không có đại địch lâm cảnh, ai lại nghĩ tới điểm này chứ?

Tình hình tương tự cũng đã được diễn ở khắp các nơi, thủy đạo, lục đạo, đại đạo, tiểu đạo, các loại công cụ giao thông, các con đường giao thông, các nơi đều đã bố trí xong, nếu như tất cả thuận lợi thì đều sẽ được thông báo tin tức kịp thời đến lán trà ở Ngõa Từ Châu Tây.

Trong tất cả các tin tức được gửi về, tin làm cho Chiết Tử Du lưu tâm nhất đương nhiên là tình hình bên Sùng Hiếu Am.

“Cái gì? Hoàng đế cũng đến Sùng Hiếu am sao?”. Nghe được tin này, đôi lông mày của Chiết Tử Du không khỏi nhíu lên: “Hoàng đế sao lại cũng đến đó? Một khi hoàng đế đi thì cảnh bị sẽ rất nghiêm mật, hơn nữa bọn họ lại phải luôn đi theo hoàng đế, ít nhất cũng không thể hoàn toàn rời khói tầm mắt của hoàng đế, vậy làm thế nào mới có thể thoát thân?”.

Chiết Tử Du gõ nhẹ mấy ngón tay xuống bàn, thần sắc có chút nghiêm trọng: “E rằng chuyện này có biến”. Trương Thập Tam đứng dậy nói: “Ngũ công tử, để ta đi một chuyến, đích thân xem tình hình bên đó, nếu không, vạn nhất Đinh đại tiểu thư...”.

Chiết Tử Du khẽ lắc đầu: “Không, chỉ cần bọn họ có thể viện cớ ra ngoài, chỉ cần thời gian một tuần trà, cũng có thể chui ra được từ động đó, chúng ta bây giờ chỉ có thể yên lặng quan sát tình hình thôi, đừng đánh rắn động cỏ”.

Lại một tin tức nữa được đưa đến, ở bên Tĩnh Hậu chỉ phát hiện có hai chiếc thuyền chuẩn bị viễn hành, hơn nữa phát hiện có hai người của nha môn tuần kiểm hà đạo lên thuyền kiểm tra, nhưng lại không hề thấy xuống khỏi thuyền.

Tiếp theo đó, phía nam lại đưa đến tin tức, người đợi ở xung quanh Quan Lăng độ phát hiện tình hình bên tuần kiểm ti Quan Lăng độ có gì đó khác lạ, tuần kiểm và thuế lại canh giữ nhiều hơn bình thường không chỉ một lần, mà còn mặt mày rất lạ. Hơn một năm nay bọn họ sớm đã tìm hiểu rõ tất cả lộ tuyến dự phòng, Quan Lăng độ có bao nhiêu người, tên là gì, dáng vẻ ra sao, tính khí như thế nào... Họ hoàn toàn nắm rõ. Sau khi cảm thấy kỳ lạ, hai chiếc xe thử đi qua nhưng không dừng lại, chỉ vứt chút tiền xuống giả tiền thuế, rồi khi ra khỏi tầm mắt của người ở tuần kiểm ti, người trên xe lập tức nhảy xuống bờ rừng và quay ngược lại, mò đến kiếm tra phía sau các dãy phòng tuần kiểm ti, phát hiện trong phòng có mấy thi thể, hóa ra người của tuần kiểm ti đã bị giết sạch. Đương nhiên, hắn cũng không quên báo cáo chuyện bên ngoài Quan Lăng độ có ba chiếc xe tứ mã đặc biệt đang đậu.

Trương Thập Tam cũng nhíu mày: “Kỳ lạ thật, thật là kỳ lạ, qua hơn một năm chuẩn bị, các con đường mà chúng ta dự hành bình thường có chuyện gì chúng ta đều nắm rõ hết, mỗi lần diễn thử đều không có chuyện gì kỳ lạ xảy ra, sao bây giờ lại có vẻ có tà môn vậy? Hình như có người đã chọn hôm nay làm đối tác với ta, rất nhiều nơi đều có chuyện này chuyện kia, những chuyện trước đó chưa từng gặp, nhưng Quan Lăng độ thật sự rất cổ quái, dám giết quan rồi giả mạo sao? Lẽ nào bọn chúng còn muốn thu thuế lâu dài ở đó sao?”.

“Sao có thể như vậy được?”. Chiết Tử Du cảm thấy có chút mông lung: “Không hay rồi”.

Nghĩ lại, nàng đột nhiên nhớ tới một tình huống không có khả năng nhất, nhưng lại là cách giải thích hợp lý duy nhất. Nàng đột nhiên đứng dậy, cười lạnh nói: “Khá khen cho một Vĩnh Khánh công chúa! Ngay cả bản cô nương cũng dám giỡn mặt, nàng ta không sợ chơi với lửa sao?”. Trương Thập Tam không hiểu hỏi: “Gì cơ?”.

Chiết Tử Du vội vã ra lệnh: “Mau, lập tức thông báo cho Trúc Vận và Tiểu Nga bỏ kế hoạch cũ, mau đến rừng Cô Nhạn gần Sùng Hiếu am đợi lệnh, ta lập tức sẽ đi tìm Ngọc Lạc!”. Nói rồi nàng bước ra ngoài nhanh như gió.

Trương Thập Tam vẫn không hiểu, nhưng nhìn sắc mặt lạnh lùng của Chiết Tử Du, hắn biết sự việc rất nghiêm trọng, không dám nhiều lời, chỉ liên tục đáp tiếng, sau đó cũng vội vã đi.

o O o

-----oo0oo-----

: Tây Hạ Vương

 Chương 78: Trời Không Phù Hộ.

Bích Túc đột nhiên xuất chưởng, đôi thiết chưởng đập nứt đá đập thẳng về phía ngực của Triệu Quang Nghĩa.

Kẻ thù đang ở trước mặt, đôi tay chỉ cần đánh trúng ngực của Triệu Quang Nghĩa thì hắn có mười phần nắm chắc xuyên thẳng qua được phủ tạng hắn. Trong nháy mắt sẽ làm cho lục phủ ngũ tạng của Triệu Quang Nghĩa nát vụn, cho dù là thần tiên cũng đừng mơ cứu được tính mạng hắn. Công phu thấu cốt kình mà hắn khổ luyện không giống các loại công phu khác, chỉ cần đánh trúng vào phủ tạng của đối phương thì tuyệt đối là một đòn chí mạng.

Oan hồn của Thủy Nguyệt đang ở chốn u minh nhìn hắn, hắn sắp có thể báo thù cho nữ nhân hắn yêu thương rồi. Song chưởng xuất kích ra, đồng thời hai chân hắn cũng vẽ một đường lực đạo, nhất kích đắc thủ, hắn sắp có thể xuyên qua được rồi, phải nhanh chóng cho tên thái tử gia này một chưởng chí mạng trước khi các cao thủ đại nội phản ứng lại.

Hắn đã đồng ý với công chúa Vĩnh Khánh, sẽ vì nàng mà giết chết một người, hắn không muốn nợ nàng. Sau khi một kích đắc thủ, hắn cần phải nhanh chóng chạy trốn, đương nhiên thoát được là tốt, không thoát được thì hắn chết cũng không còn gì hối tiếc. Chỉ cần đại thù của Thủy Nguyệt có thể báo, hắn coi như đã hoàn thành tâm nguyện của mình rồi. Giơ tay nhấc chân giết chết một hoàng đế và một thái tử. Lấy cơn giận của thất phu làm khăn tang cho thiên hạ, oanh liệt như vậy cả đời này cũng đáng.

Nhưng hắn tuyệt đối không ngờ rằng Triệu Quang Nghĩa lại nhận ra hắn. Là một thích khách, điều mà hắn không đạt nhất không phải là lòng gan dạ, quyết tâm, dũng khí hay võ công của hắn, mà lại là dung mạo đặc biệt của hắn.

Ngày đó, khi ở đầu đường Lạc Dương, hắn chỉ quay mặt ra thoáng nhìn một cái thì đôi mắt đào hoa đó đã lưu lại rất sâu trong ký ức của Triệu Quang Nghĩa, vừa rồi khi mới nhìn hắn, đột nhiên đã làm cho hắn cảnh giác.

Bích Túc nam sinh nữ tướng, cho hắn cơ hội tiếp cận với Triệu Quang Nghĩa, nhưng đôi mắt đào hoa này lại cũng phá hỏng đại kế vốn một kích tất thành của hắn. Đúng là thành cũng vì nó, bại cũng vì nó. Khi song chưởng của hắn đưa ra, Triệu Quang Nghĩa đã cảnh giác ngẩng đầu lên, kinh ngạc nhìn song chưởng lao về phía mình. Triệu Quang Nghĩa theo phản xạ nghiêng người sang một bên, giơ cánh tay phải lên đỡ. Song chưởng của Bích Túc đập vào cánh tay và đầu vai hắn, Triệu Quang Nghĩa hét to lên một tiếng, chỉ cảm thấy vai đau nhức đến tận xương, còn cánh tay thì đã bị gãy.

Bích Túc vốn muốn một chưởng giết chết Triệu Nguyên Tá đang ngồi bên cạnh, rồi nhanh chóng xuất kích với Triệu Quang Nghĩa, nhưng đáng tiếc tình thế có biến, không ngờ một chưởng chí mạng của hắn lại bị Triệu Quang Nghĩa thần xui quỷ khiến tránh được. Hắn vẫn chưa nhận ra rằng đây là vì đôi mắt của mình quá đặc biệt, dẫn tới sự cảnh giác của Triệu Quang Nghĩa, chỉ là thầm hối tiếc. Nhưng động tác dưới chân hắn rất nhanh, thân hình đã bật lên, muốn quay người lại cũng không kịp nữa. Trong lòng Bích Túc rất hận, quyết định giải quyết Triệu Nguyên Tá rồi quay người đuổi theo Triệu Quang Nghĩa, cho dù không thể thoát thân thì xuống dưới cừu tuyền làm bạn với Thủy Nguyệt cũng tốt.

Không ngờ Triệu Quang Nghĩa bị hắn đánh một chưởng ngã lên tháp, tuy rất đau đớn, nhưng mắt thấy nữ ni ác độc đang xông về phía con trai mình, dù sao cũng là cốt nhục chí thân, sao có thể thấy chết không cứu. Hắn dùng tay trái đập một cái, mấy chiếc án bay lên không trung, lao về phía Bích Túc, đồng thời hắn hét lên: “Hộ giá, có thích khách”.

Triệu Quang Nghĩa không biết nội công, thứ hắn luyện là thực đả ngạnh công pháp, nhưng ngạnh công cũng tốt, bất kỳ một loại võ công nào, khi luyện đến cảnh giới đăng phong tạo cực thì đều là một công phu tốt đủ để giết người. Triệu Quang Nghĩa đã làm phủ doãn Khai Phong mười năm rồi, nhưng võ công của hắn lại thay đổi. Nếu như giao thủ chính diện, cộng thêm vận dụng kỹ xảo và thân pháp thì hắn không phải là đối thủ của Bích Túc.

Nhưng công phu hai mươi mấy năm so với công phu mà Bích Túc chỉ khổ luyện ba bốn năm thì so về nền tảng hắn vẫn chắc chắn hơn, công lực hùng hậu hơn. Toàn lực của quyền này cũng không phải là yếu, thiết chưởng đập một cái, cái kỷ án xoay vòng vòng rồi xé gió lao về phía Bích Túc. Chiếc kỷ án đương nhiên sẽ nhanh hơn động tác của con người, nó đập mạnh vào sau lưng Bích Túc. Bích Túc nghe tiếng gió, vốn đã định tránh ra, nhưng một kích không đáng là gì, chỉ cầu để lại được tính mạng của kẻ thù tại nơi này, cho nên hắn không tránh ra.

Hắn để mặc cho chiếc kỷ án đập vào lưng, kỷ án vỡ vụn, Bích Túc không tránh, vẫn lao thẳng về phía Triệu Nguyên Tá, chỉ là lưng chịu một kích giống như thiết chùy, động tác bị chậm hơn một chút. Triệu Nguyên Tá cũng biết võ công, so với hắn không chỉ kém một bậc, nhưng trong lúc quá kinh ngạc vẫn có thể tránh ra phía sau theo bản năng, chưởng này chưa thể đập trúng.

Bích Túc gào lên một tiếng, vốn đã dùng hết sức tiếp tục tiến về phía trước thì cánh tay phải đột nhiên lại giơ dài ra hơn nửa thước, giống như cánh tay đó có thể tự dài ra được.

Võ công của hắn là loại công phu hỗn tạp, hắn đã theo Trúc Vận và cha của nàng học được rất nhiều loại công phu tạp kỹ, Nhu thái cực, tẩu bát quái, hữu thần thông tí quyền, vừa rồi nhất thủ đó chính là thông tí quyền. Bích Túc vốn đã dùng hết lực, nhưng đã mượn chiêu thức này để cánh tay phải có thể đài ra hơn thêm nửa thước, quyền này đã đập trúng vào Triệu Nguyên Tá, Triệu Nguyên Tá lập tức bị chặt đứt hai xương sườn, kêu lên một tiếng rồi máu phun ra tung tóe, phun cả vào mặt Bích Túc.

Người Triệu Nguyên Tá bay lên, đập vào tường rồi rơi xuống đất, lập tức hôn mê. Nếu như không phải Triệu Quang Nghĩa nhanh chóng đánh cái kỷ án đó ngăn cản thì hắn đã mất mạng dưới chưởng này của Bích Túc, cho dù có giữ được tính mạng thì lục phủ ngũ tạng cũng bị trọng thương.

Bích Túc liên tục xuất hai quyền, quyền thứ nhất làm thương hoàng đế, quyền thứ hai làm thương thái tử, đáng tiếc hai đòn này đều không phải là đòn chí mạng. Mắt hắn không khỏi tức muốn nổ tung ra, hắn nảy người quay thân, giống như một con hổ điên, lại lao về phía Triệu Quang Nghĩa. Cánh tay phải của Triệu Quang Nghĩa mềm nhũn buông xuống, hoàn toàn không thể dùng lực, cho dù hắn có một làm thần đế một tay thì cũng phải dưỡng thương rồi thích ứng với vận động một tay đã, bây giờ hắn hoàn toàn không thể đánh trả lại. Triệu Quang Nghĩa lo lắng chạy vào trong thiện phòng, hất mọi thứ ra để ngăn cản sự truy sát của hắn.

Tình hình này rất giống với lúc thích khách Kinh Kha thích sát Tần vương. Hai người đuổi nhau trong phòng như trò mèo đuổi chuột, hắn cũng không có cách nào khác là phải đuổi theo. Bích Túc đuổi giết phía sau, bình phong, ghế... bay tứ tung ra chặn đường hắn. Tất cả các chướng ngại vật có thể ném ra đều được ném, chỉ kéo dài được một chút thời gian thì đám thị vệ đại nội đã xông vào thiện phòng.

Khi vừa thấy Bích Túc đang giơ chưởng đuổi theo Triệu Quang Nghĩa, trong lòng Vĩnh Khánh tim đập thình thịch, thấy Triệu Quang Nghĩa bị thương nhưng không chết, trái tim nàng liền trầm lại, đợi khi thị vệ đại nội xông vào, nàng biết đại thế đã mất. Lúc này mà không giết được Triệu Quang Nghĩa thì ngay cả ba người nhà nàng cũng sẽ không thoát được, cho nên nàng vờ hoảng loạn, vừa kêu lớn bắt thích khách, vừa kéo Tống hoàng hậu và Triệu Đức Phương tháo chạy khỏi thiện phòng.

Hoàng đế gặp thích khách, đám thị vệ đều luống cuống chân tay, vội vã xông vào thiện phòng, cũng có mấy người muốn bảo vệ nương nương và Kỳ vương, công chúa ra ngoài, nhưng Vĩnh Khánh công chúa liền hô lớn: “Thái tử bị thương, đang hôn mê bất tỉnh, mau vào cứu thái tử, thích khách chỉ có một, ta ở đây không sao”. Liền đuổi được bọn họ đi.

Vĩnh Khánh mang Tống hoàng hậu và Triệu Đức Phương trốn vào căn phòng bên cạnh, ở đây sớm đã đào một ám đạo thông với đất, cả nhà trốn vào địa đạo đó, lập tức đóng cửa đá lại. Có mấy thái giám và cung nữ nhìn thấy, bất giác há mồm trợn mắt. Nhất thời hoàn toàn không hiểu tình hình gì đang xảy ra, chỉ biết công chúa đã đưa nương nương trốn vào ám thất để đảm bảo an toàn.

Trong địa đạo, cho dù trên tường có cắm đuốc, nhưng vẫn hết sức tối tăm.

Những bước chân hỗn loạn truyền tới, Vĩnh Khánh đi đầu, vội vã dẫn Tống hoàng hậu và Triệu Đức Phương chạy về phía trước, phía sau là nha hoàn thân cận của nàng, cùng nàng xuất giá nữ ni Lâm Nhi. Từ xa xa, ở phía sau truyền đến những âm thanh mạnh va đập vào đá, đó là tiếng có người đang dùng sức phá cửa động, muốn đuổi vào.

Chạy một mạch về phía trước, đường đi nhỏ hẹp đã rộng hơn, xuất hiện một không thất vuông vắn, trong thất có đặt một chiếc bàn, trên chiếc bàn đặt lộn xộn mấy bộ y phục, một phu nhân và một thiếu niên đang đứng cạnh bàn. Ánh đuốc trong động lập lòe chiếu vào khuôn mặt họ, hiện lên dung nhan có phần u ám. Y phục mà phu nhân cùng thiếu niên này mặc giống y hệt với y phục của Tống hoàng hậu và Triệu Đức Phương. Tống hoàng hậu và Triệu Đức Phương chạy tới tĩnh thất, vừa thấy có người, lại ăn mặc giống hệt mình, không khỏi như nhìn thấy quỷ, nhưng công chúa Vĩnh Khánh lại không chút kinh ngạc.

Lâm Nhi đưa tay lên tường tìm kiếm một chút, kéo tay một cái, một đống bùn đất liền đổ xuống, để lộ ra một cửa động tối đen như mực. Công chúa Vĩnh Khánh liền vội vã quay đầu lại nói: “Mau lên! Mẫu hậu, người và Đức Phương mau theo Lâm Nhi rời khỏi đây”.

Tống hoàng hậu kinh ngạc: “Vĩnh Khánh, con không đi cùng chúng ta sao?”.

“Mẫu hậu, con sẽ đi tìm hai người, bây giờ con vẫn chưa thể rời khỏi đây. Mọi người đi trước đi!”.

“Không được, muốn đi thì chúng ta cùng đi. Vĩnh Khánh...”.

Công chúa Vĩnh Khánh nghiêm giọng nói: “Mẫu hậu, nếu như còn chần chừ thì tất cả tâm huyết của con gái đều sẽ uổng phí hết, ba mẫu tử ta nếu như chôn xương ở đây. Vĩnh Khánh chết cũng không tiếc, nhưng Đức Phương vạn nhất có mệnh hệ gì thì cha từ đây sẽ không có người hương khói! Mẫu hậu, đại cục làm trọng, mong người mang Đức Phương rời khỏi đây, con gái tự có cách thoát thân!”.

Tống hoàng hậu trên con đường chạy trốn, tim đập loạn như muốn rớt ra khỏi lồng ngực, bà vừa không nỡ bỏ lại Vĩnh Khánh, vừa lo lắng truy binh đuổi đến. Đang lúc do đự thì nghe nàng nhắc đến Triệu Đức Phương, nhớ tới giọt máu nối dõi duy nhất của vong phu, nên cũng không thể khước từ được nữa, đành phải cất bước, kéo Triệu Đức Phương đi. Lâm Nhi lấy một ngọn đuốc từ trên tường xuống, bước trước vào con đường hầm, dẫn đường đi: “Nương nương, hãy đi theo nô tì”.

Triệu Đức Phương vội nói: “Tỷ tỷ, sao tỷ không đi theo đệ? Nếu tỷ không đi Đức Phương cũng không đi, cho dù có chết thì cả nhà chúng ta cùng chết!”.

Nó đang muốn chạy trở lại thì Tống hoàng hậu liền nắm chặt tay nó, giữ chặt rồi kéo đi, nó không thể thoát được: “Đức Phương, mau đi theo mẫu hậu, tỷ tỷ sẽ đi gặp chúng ta, trên đường nhất thiết phải cẩn thận!”.

Công chúa Vĩnh Khánh vội vàng đẩy đệ đệ của mình vào trong động, rồi nàng nhanh chóng cầm những bản gỗ dựng lại. Phu nhân và thiếu niên đóng giả làm hoàng hậu và Triệu Đức Phương khí sắc đều tái nhợt, sợ hãi tim đập chân run, nhưng họ cũng hiểu sự tình khẩn cấp, vội giúp công chúa Vĩnh Khánh nhặt gỗ lên chặn cửa động lại, rồi vội vã quét bùn đất ướt lên.

Cửa động sau khi bị đóng, dưới ánh đèn mờ ảo, nhìn thoáng sẽ không có gì khác thường, công chúa Vĩnh Khánh lúc này mới dừng lại. Nàng không lập tức hành động mà nghiêng tai nghe ngóng động tĩnh, những tiếng rầm rầm truyền đến, biết được cửa động đã bị phá, truy binh rất nhanh sẽ xử lý đống đá và đuổi tới. Lúc này nàng liền lấy một bó đuốc từ trên tường xuống, nói với hoàng hậu giả và Kỳ vương giả: “Đi theo ta, Sùng Hiếu Khải Tây, Cô Thần Lâm”.

o O o

-----oo0oo-----

: Tây Hạ Vương

 Chương 79: Kỳ Lộ 

Đinh Ngọc Lạc liếc nhìn, nhận thấy vẻ sợ hãi hoảng loạn của hoàng hậu và Kỳ vương, trong lòng nghĩ thầm: “Đúng là hoàng thất quý trụ, nâng niu từ bé, không thể chịu đựng được sóng gió gì. Duy chỉ có nữ tử nhỏ tuổi như công chúa Vĩnh Khánh đã từng tu hành mấy năm, thân là một am chủ, nàng đã từng trải nhiều sự, gặp nguy nan vẫn có thể bình thản”.

Đinh Ngọc Lạc mỉm cười nói: “Ngọc Lạc hiểu rõ, Ngọc Lạc nghe nói quan gia cũng đến Sùng Hiếu am, vốn đã rất lo lắng, Ngọc Lạc lo rằng nương nương và điện hạ không thể thoát thân. May là các vị đến đúng lúc bằng không không biết việc này sẽ kéo dài bao lâu. Các vị đến là tốt rồi, chỉ cần cứu được các vị, ta cũng đã giúp được cho nhị ca một việc lớn”.

Nàng quay người lấy ra hai bộ y phục, nói: “Truy binh trong chốc lát sẽ đuổi tới, tình thế cấp bách, xin nương nương và điện hạ hãy thay y phục trước, một lát nữa ta cũng phải đổi xe, Ngải Phàm Hải, hãy hầu hạ điện hạ thay áo!”.

Một người diện mạo bình thường, thân thể cường tráng vội đáp một tiếng rồi lập tức đứng dậy. Hắn đưa tay kéo, tấm vải được kéo ra ngăn kín chính giữa thùng xe, chắn cho hắn với “Triệu Đức Phương”. Đinh Ngọc Lạc cười nhìn “Tống hoàng hậu”, điềm tĩnh nói: “Tình thế nguy cấp, xin nghe theo lời tiểu nữ. Nương nương và điện hạ hãy thay hai bộ y phục này, Ngọc Lạc sẽ đợi ở phía sau”, nói rồi nhẹ nhàng lui ra ngoài.

Ngọc Lạc vừa đi ra, “Tống hoàng hậu” lập tức quay sang nhìn Vĩnh Khánh, ngập ngừng nói: “Công...”.

Từ mắt Vĩnh Khánh lộ ra chút vẻ quở trách, “Tống hoàng hậu” thấy thế nhất thời sợ hãi mà cúi đầu xuống, lặng lẽ lui lại nửa bước, không dám nói nữa, Vĩnh Khánh hạ giọng nói: “Mọi việc đã có ta, mẫu hậu không cần phải quá lo lắng, người mau thay y phục đi!”.

Tống hoàng hậu gật đầu, vội vàng cầm lấy bộ quần áo, Vĩnh Khánh cũng lấy một bộ, nàng cởi bỏ xiêm y, nhưng vừa cởi bộ tăng bào nàng cảm thấy toàn thân như rã rời, vẻ điềm tĩnh nàng mà cố gắng duy trì đến lúc này đã hoàn toàn biến mất, hai chân mềm nhũn, nàng đành phải ngồi tựa trên băng ghế...

“Là ta đã cứu ngươi, nếu không ngươi đã sớm mất mạng ở trong cung, ngươi nợ ta một ân tình”.

“Đúngvậy!”.

“Cho dù ngươi võ công cái thế, nhưng không thể tiếp cận được hắn, chỉ dựa vào một mình ngươi, muốn báo thù e là khó như lên trời, ta có thể cho ngươi cơ hội, đổi lại ngươi hãy giúp ta giết một kẻ, ngươi đồng ý chứ?”.

“Rất công bằng!”.

“Tốt rồi! Ta sẽ tạo cho ngươi cơ hội được xuất hiện ngay cạnh hắn. Đến lúc đó, trưởng tử của hắn đương kim thái tử cũng xuất hiện, việc ngươi cần làm chính là giúp ta giết hắn!”.

“Ta đồng ý!”.

Nghĩ đến những lời từng nói với Bích Túc, trong lòng Vĩnh Khánh tràn ngập cảm giác thất vọng xen lẫn thất bại. Rất lâu sau đó nàng mới thở dài một tiếng, trong lòng tự nhủ: “Suýt chút nữa đã thành công! Bây giờ... Ta chỉ hy vọng kế thứ hai có thể thuận lợi...”.

*

* *

Tại phật đường Sùng Hiếu am xác người ngổn ngang bừa bãi...

Các ni cô trong am bất kẻ già trẻ đều bị canh giữ tại đại điện, họ nom nớp lo sợ, không hiểu rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì.

Nơi phật đường, Triệu Quang Nghĩa giận đùng đùng, bên cạnh hắn là thi thể của bốn đại nội thị vệ võ công thâm hậu, đã thảm từ dưới thiết chưởng của Bích Túc. Triệu Quang Nghĩa biết rõ võ công của những thị vệ bên cạnh mình, trong bốn người đó ít nhất có hai người tài giỏi xuất chúng, từng khổ luyện công phu, được mệnh đanh là đao thương bất nhập. Tuy nhiên hai thị vệ đó trong phút chốc một người bị đả một chưởng trúng trán, đầu bị đập vỡ, não tương bắn tung tóe, người kia bị đả trúng ngực, hung cốt rụng rời, cả phần ngực vỡ vụn.

“Nếu song chưởng của tên thích khách này thực đả trúng ngực ta như thế...”. Triệu Quang Nghĩa nghĩ đến mà lạnh toát cả sống lưng.

Lúc này, khắp người Bích Túc đầy máu, bị hai thị vệ lực lưỡng khoảng tứ tuần siết chặt hai cánh tay, ghì mạnh về phía sau. Vết thương trên người hắn nhiều nhưng lại không đáng kể, người mà hắn đã từng theo học là một sát thủ cao minh nhất, kẻ mặt đầy sát khí nhất chưa chắc có võ công cao cường, họ thân kinh bách chiến, hiểu rõ làm thế nào để bảo vệ mình khi đối mặt với tình thế lấy ít địch nhiều, am tường những chỗ yếu hại trên nhân thể, tận lực chuyển động nhanh chóng lướt thân thể khỏi đao thương, nữu khúc chi thể, tránh gặp tổn thương trí mạng.

Khi thấy Triệu Quang Nghĩa được thị vệ bao quanh bảo vệ, Bích Túc vốn đã định chạy trốn, bảo toàn tính mạng hữu dụng này để sau này còn có cơ hội, nhưng hắn không thể đào tẩu được nữa. Mắt cá chân trái hắn bị một kiếm đả trúng, cước chân không khỏi trọng thương, công phu phi thụ tẩu bích đã tổn hại đến tám phần, hắn không thể chạy trốn được, cuối cùng ít không địch được nhiều, sức cùng lực kiệt, quan quân thị vệ đã bắt được hắn.

Nhìn kỹ thái tử Nguyên Tá đang bị hôn mê, phát hiện ra thái tử bị trọng thương nhưng không trí tử, Triệu Quang Nghĩa thấy nhẹ cả người, vội vàng hét lớn: “Người đâu, mau đưa thái tử hồi cung, gọi ngự y đến chuân trị!”.

Bên này hầu cận ba chân bốn cẳng nâng thái tử lên, hai tên thái giám và hai cung nữ hoảng hốt chạy đến tiếp đỡ, nơm nớp lo sợ nói: “Bẩm quan gia, trong lúc thích khách hành thích, Tống nương nương, Kỳ vương điện hạ và công chúa đã lui về phòng kế bên. Thực ra... Đã mở một mật động, họ đã chui... Chui vào đó...”.

Triệu Quang Nghĩa trừng mắt nhìn, quát lên: “Ngươi tận mắt trông thấy?”.

Tên tiểu thái giám không biết rằng đại họa sắp lâm đầu, liên tục gật đầu bẩm tấu: “Vâng, nô tài tận mắt nhìn thấy”.

Triệu Quang Nghĩa đột ngột đứng dậy, hắn giơ tay đoạt lấy thanh trường kiếm trong tay một thị vệ nói đoạn đâm thẳng vào ngực tên thái giám, tiểu thái giám chỉ kịp kêu thảm một tiếng, tiếp đó bị Triệu Quang Nghĩa đá văng ra một cước.

“Rõ ràng là đồng bọn của tên thích khách đã bắt Tống nương nương và cả hoàng tử lẫn công chúa đi, ngươi lại dám ăn nói hồ đồ!”.

Triệu Quang Nghĩa lại nhấc thanh kiếm đầy máu lên, hắn tức giận chém giết một tên thái giám khác, tiểu thái giám đó không cách nào tránh được, bị hắn chém ngã kêu thảm thiết xuống nền đất, hung dữ đến mức hai cung nữ ngay đó phải quỳ rạp xuống đất, không ngừng dập đầu vái lạy: “Quan gia tha mạng, xin quan gia tha mạng...”.

Triệu Quang Nghĩa bất giác bớt tức, bốn tên nô tài quanh hắn trong chốc lát đều bị chém chết, hắn cắm thanh trường kiếm đẩy máu xuống đất, mới bớt chút tức giận, lớn tiếng quát to: “Tên thích khách vẫn còn đồng bọn, chúng đã bắt cả Tống nương nương, Kỳ vương và cả công chúa, các ngươi còn không mau đuổi theo!”.

Cả toán thị vệ đang câm như hến vội đồng thanh đáp một tiếng, các thị vệ khác lập tức chạy đến, họ hướng đến phía mật động phong tử kia để truy tìm.

“Ngươi tới đây!”. Triệu Quang Nghĩa chỉ tay gọi một tên đại nội thị vệ, hắn lấy từ hông áo một lệnh ngọc bài, quát: “Đi, lập tức lệnh cho phủ Khai Phong đem quân tuần sát quan điện, tam ban lục tuần mọi nha dịch, phong tỏa cả Khai Phong phủ cho ta, truy bắt bằng được hung thủ, giải cứu Tống nương nương, Kỳ vương và công chúa Vĩnh Khánh. Hào lệnh các lộ tuần kiểm ti, phong tỏa đường thủy lẫn bộ, lục soát mọi nơi giao thông yếu đạo, truyền lệnh cấm quân tứ xuất tập nã, trọng điểm soát tây hướng và nam hướng cho ta!”.

“Tuân chỉ!”. Tên thị vệ cung đáp tiếp lấy lệnh bài rồi vận thân lui đi. Triệu Quang Nghĩa lại cho gọi kẻ khác, điềm nhiên nói: “Các ngươi vốn ti giữ hoàng thành lại là một đám phế vật, một đám phế nhân vô dụng! Hãy lệnh cho Chân Sở Qua, án này trẫm giao cho hắn toàn quyền thụ trách. Nếu không bắt được đồng phạm, cứu thoát Tống nương nương, điện hạ và công chúa trở về thì bảo hắn đem đầu đến đây gặp trẫm!”.

Những vị nhân tài làm ti chức hoàng thành này đều là tâm phúc của Triệu Quang Nghĩa, cũng là những người hiểu rõ suy nghĩ của hắn nhất, biết rằng lời nói của thánh thượng là thực ý, lần tẩu động lần này là do thánh thượng thực sự tức giận, tuy hoàng thành ti đô chỉ dạng sứ Chân Sở Qua từng là thân tín làm việc bên cạnh thánh thượng khi còn ở Tiềm Đế, nhưng lần này nếu hoàng thành ti không lập được công tích thì cái đầu trên cổ Chân đại nhân khó mà bảo toàn được, cho nên vội vàng đáp một tiếng rồi vội vàng lui ra ngoài.

Triệu Quang Nghĩa quay người đi đến trước mặt Bích Túc, tức giận đến mức mắt nổi tia máu đỏ thẫm, lớn tiếng quát hỏi: “Ngươi, ai đã sai ngươi làm việc này, đồng phạm còn có những kẻ nào?”.

Bích Túc nhìn chằm chằm vào kẻ thù trước mặt, lòng hận thù cứ thế phun trào nhưng hai tay hắn bị thị vệ siết chặt, không tài nào nhúc nhích được. Nghe thấy lời Triệu Quang Nghĩa, hắn cười nhạt khinh miệt đáp: “Ngươi làm nhiều điều gian ác, tội vô khả xá, ta đâu chỉ nghĩ sẽ giết ngươi mà sẽ giết ngươi hàng nghìn hàng vạn lần! Ngươi hỏi ta ai sai ta giết ngươi sao? Ha ha hạ kẻ đứng sau ta ở chính trong am này!”.

“Cái gì?”. Mặt Triệu Quang Nghĩa biến sắc, võ sĩ chung quanh vội vàng cầm chặt kiếm mà xông lên, gắt gao bao quanh bảo vệ Triệu Quang Nghĩa.

Khóe mắt Bích Túc sắc lên, hắn tiếp tục nói: “Nàng ấy tâm hoài chí thiện, từ như giang hải. Nhưng nàng... Lại bị kẻ gian tặc ngươi hại chết, nàng ấy đã trở thành phật, trở thành bồ tát, nàng ở trên trời chứng kiến mọi điều, ta... Chính là hộ pháp kim cương của nàng, không giết được kẻ gian tặc ngươi ta thể không làm người!”.

Tâm hoài chí thiện, từ như giang hải, nhưng lại bị ta giết? Là người trong am này, đã biến thành phật? Đây... Không phải là nói đến hoàng huynh sao. Tục ngữ có câu thiên gia nguyên thân, nhưng hoàng huynh là chân mệnh thiên tử, đối với huynh đệ thật tình như tay chân ruột thịt, người hiền từ như vậy chẳng phải chính là hắn ta sao? Linh vị của hắn ta được lập tại Sùng Hiếu am này, đây vốn là nơi được xây dựng để dùng cho hoàng huynh, tên thích khách này nói vậy chính là nói đến hắn ta còn gì?

Triệu Quang Nghĩa nghe thấy thế trong lòng kinh sợ, không dám để cho hắn nói thêm nữa. Triệu Quang Nghĩa giật lấy một thanh cương đao, nói đoạn giơ đao lên chém, Triệu Quang Nghĩa vội nói: “Nói bậy, nói bậy, ngươi rõ ràng là do Tề Vương sai khiến, âm mưu làm phản, còn dám ăn nói hàm hồ!”.

Lưỡi đao chém xuống, hướng thẳng vào cánh tay Bích Túc, tên vệ sĩ nắm chặt tay Bích Túc bấy giờ bỗng cảm thấy nhẹ tênh, chăm chú nhìn lại thì cánh tay hắn đang giữ đã bị chặt đứt. Hắn đang cầm giờ đây là cả cánh tay máu chảy ròng ròng, máu tười bắn tung tóe vấy lên đầy người hắn.

Bích Túc kêu lên một tiếng đau đớn, cơ hồ như sắp bất tỉnh nhưng hắn cắn răng chịu đựng, không can tâm thất thanh kêu than trước mặt kẻ thù Triệu Quang Nghĩa. Khi nghe thấy lời nói của Triệu Quang Nghĩa, trong lòng hắn chút xao động, Tề Vương đương nhiên hắn biết, hắn hận Triệu Quang Nghĩa là mối hận huyết hải thâm thù, chỉ mong một nỗi huynh đệ tên gian tặc này xảy sự tương tàn, Tống Quốc đại loạn, mọi oán hận trong lòng hắn liền tiêu tan, lập tức hô lên: “Không sai, chính là tam đệ của ngươi phái ta giết chết ngươi! Ngươi tội ác tày trời, người người đều hận, đến cả tam đệ một thịt của người cũng muốn giết ngươi, ha ha ha ha!”.

Bích Túc bị chặt đứt cánh tay, máu chảy ròng ròng như trút nước, cơ thể hắn vốn đã mất nhiều máu, giờ cánh tay đứt lìa, máu lại càng chảy nhiều hơn. Hắn gồng mình nói được ra những lời này, mặt đã trắng bệch như tờ giấy. Nếu không phải có kẻ khác đang siết chặt cánh tay còn lại thì hắn sớm đã ngụy ngã xuống nền đất.

Triệu Quang Nghĩa bị hắn chém vào cánh tay, hoàng nhi lại bị đánh đến hôn mê bất tỉnh, vốn dĩ cực kỳ hận hắn, muốn chặt đứt cả tay lẫn chân hắn, bắt hắn sống để hành hạ hắn cho đến chết. Nhưng khi nghe những lời này, hắn vui như vớ được ngọc bảo. Cương đao định chém xuống toan dừng lại, quát lên: “Mau cầm máu cho hắn, nhốt vào thiên lao cho ta, lệnh cho hoàng thành ti canh giữ nghiêm ngặt!”.

“Tam đệ à tam đệ, nay đã có cớ để giết ngươi, ta dù có bị gãy cánh tay nhưng diệt trừ được mầm họa này cũng đáng lắm!”.

Mắt Triệu Quang Nghĩa đầy sát khí, hắn đắc ý suy ngẫm, chợt nhớ ra việc Tống hoàng hậu. Triệu Đức Phương và Vĩnh Khánh chạy thoát: “Chỉ dựa vào ba người các ngươi, có thể chạy thoát khỏi tay trẫm sao? Cô nhi quả mẫu các người, tên Triệu Đức Phương ủy mị nhu nhược không quyết nổi điều gì, chỉ phận hai nữ nhi, trẫm vốn định buông tha cho, nay chính các người tự tìm đường chết, đừng trách trẫm lòng đạ độc ác!”.

*

* *

Sau khi rời khỏi Cô Nhạn Lâm của Sùng Hiếu am, ba mẫu tử Vĩnh Khánh được miệt vu bên trong xe ngựa, trên đường trải qua bao nhiêu hung hiểm. Họ lại thực không biết rằng, họ rời đi quá là chậm chạp, Đinh Ngọc Lạc đã chuẩn bị kỹ lưỡng, Chiết Tử Du lại dốc sức hoàn thiện kế hoạch vốn định ban đầu, việc chạy trốn được chuẩn bị chu đáo, tiến hành thuận lợi, họ đã bình yên ra khỏi thành Biện Lương trước khi triều đình kịp phong tỏa cửa thành, theo đông rồi lại hướng bắc, tiếp tục chạy về tây. Lúc thì đi thuyền rồi chuyển sang cưỡi ngựa, ngồi xe kiệu. Đồng thời mỗi lần chuyển phương là họ lại thay đổi y phục, cứ để cho phong vũ bám lấy thay đổi dung nhan của họ, nếu gặp người mặc giống hệt mình, họ lập tức chuyên hướng đi ngược lại.

Trong thành Biện Lương, nghi binh bủa vây tứ phía, thoát chạy bốn phương tám hướng, nghi binh bên phía Chiết Tử Du nhiều đủ để làm triều đình tin tưởng chuyển hướng, phía Trịnh gia Kế Tự đường cũng cho điều nghi binh đi, dẫn đến việc tin báo cho triều đình đâu đâu cũng đáng khả nghi, thế nên việc triều đình muốn cường lực đại thế truy tìm bản tra cũng... thành ra gặp nhiều khó khăn.

Lộ đường mà Đinh Ngọc Lạc đi lại đem theo người ngựa và ba người Vĩnh Khánh, dọc đường chạy gấp, chưa đến nửa tuần hương thì trạm gác phía sau đã bị quan quân kiểm tra nghiêm ngặt. Điểm then chốt mà họ tháo chạy được là nhờ có tốc độ, tuy không thể đạt đại tổc chạy đến Hà Tây nhưng càng chạy xa thành Biện Lương, hy vọng thoát thản càng lớn. Vì nếu dựa vào dụng võ giao tranh để mở đường tháo chạy là việc đơn giản với một võ sĩ một người một ngựa, tuy nhiên đây lại là một hoàng hậu. một công chúa lại còn cà Kỳ vương, nhiều nhất thì cũng chi cưỡi qua thái bình mã, muốn họ ngoan ngoãn phi ngựa nước kiệu thực là không thể. khó tránh khỏi bị người bắt được.

Trên đoạn đường bôn ba, Vĩnh Khánh tuy sớm biết tất phái chịu gian khổ. nhung những gian khổ này lại vượt xa mức tướng tượng của nàng, Ý chí của nàng mạnh mẽ cũng không thể chịu đựng được nhiều khổ ải như vậy, đi đến ngày thứ ba, toàn thân như rà ròi xương cốt, bủn rủn vô lực. đến xe cũng không ngồi nổi nữa.

Lúc này nàng mới hiểu được Đinh Ngọc Lạc đã chuẩn bị kỹ lưỡng tới nhường nào. suy tính đến cả khả năng chịu đựng gian khổ của ba người họ. khi "Tống hoàng hậu" và "Kỳ vương" mệt mỏi đến mức mặt mày vàng vọt. Vĩnh Khánh cũng toàn thân đau nhức, không thể chịu đựng được nữa thì Đinh Ngọc Lạc cũng đột nhiên dừng lại. đưa họ đi thay đổi y phục và cải trang rồi mới bộ hành đến sơn ao.

Vừa đến nơi. "hoảng hậu" và "Kỳ vương" bất chấp cả thể diện thiên gia, ngồi phịch xuống trên bãi cỏ, không động đậy như tê liệt. Duy chi có Vĩnh Khánh tuy chân tay rã rời vô lực nhung vẫn chút rụt rè gắng chịu. Đinh Ngọc Lạc lấy lương khô và nước uống phân phát cho họ. ba người chi uống chút nước, mệt mòi tới mức không còn hứng thú để ăn nữa.

Vĩnh Khánh mệt cũng không muốn nói thành lời. nhưng nàng nhanh chóng phát hiện ra. Lần nghỉ này khác hẵn với những lần trước. Mọi lần khi dừng nghi. Đinh Ngọc Lạc thường thúc giục họ ăn nghi, phục hồi thể lực. sau đó trù hoạch việc thay đổi y phục, đổi xe ngựa. Nhưng lẩn này. sau khi đua họ đến sơn cốc. Đinh Ngọc Lạc liên tục đứng trên cao nhìn quanh phía xa. không hề đến cạnh họ. cũng không giục thay đồ. Vĩnh Khánh trong lòng không khòi nghĩ: "Quái lạ. lẽ nào tiền lộ đã tuyệt? Hay là, bị triều đình phát hiện ra rồi?"

Nhớ tới việc lưu lại dấu vết trên đường trốn chạy, sự phán đoán này dường như là đúng, nhưng Vĩnh Khánh lại không hề sợ hãi, nàng ngược lại càng tức giận, huyết mạch sôi sục, trong lòng thản nhiên trào lên một sự chờ đợi.

Ngay từ đẩu nàng đã không định chạy trốn. nàng trốn là vì muốn bị bắt đi. Đây lại trở thành bước cuối trong kế hoạch nàng tỉ mỉ bày tính, cũng sự hy sinh cuối cùng để có thê bảo toàn tính mạng huynh đệ. bảo toàn huyết mạch của phụ hoàng nàng. Bây giờ chuyện duy nhất nàng lo lắng, chi là không biết trong lúc mình kiệt lực hao tám suy nghĩ, vị huynh đệ kia có bình an thoát chạy được hay không.

Nàng không thể nuốt nổi bánh bao và khô thịt trong tay nữa. nàng đứng dậy. đi về phía Đirih Ngọc Lạc. Đinh Ngọc Lạc đang chăm chú nhìn phía xa nên không biết nàng tới chỗ mình, Vĩnh Khánh toan mở lời, đột nhiên từ phía trước bên ngoài sơn cốc có bổn năm người cưỡi khoái mã phi đến. Vĩnh Khánh giật minh đến mức tim nhảy dựng lên: Giờ khắc cuối cùng này. đã tới rồi ư?

o O o

-----oo0oo-----

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro