Bộ Bộ Sinh Liên 4

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Bộ Bộ Sinh Liên

Tác giả: Nguyệt Quan

Ebook by: Kiếm Giới

 Quyển 4: Đoạt Thử Thiên Can Nhất Trì Bích

Chương 133: Con đường gian nan đến thành công.

Thành Quảng Nguyên ở phía xa, Dương Hạo vui mừng khôn xiết, vỗ tay: “Oa, chúng ta đã đến Quảng Nguyên rồi sao?”

Bích Túc mặt mày ảm đạm bò lên xe, ngẩng đầu lên nói: “May mà chưa chết còn đến được Quảng Nguyên, trước tiên phải đi tìm lang y chữa trị cho ngươi cái đã, nếu cứ thế này, cái mạng chó của ngươi sẽ nằm ở đây”.

Dương Hạo lắc đầu nói: “Trách ai được đây, uống nước còn không xong, ngươi không biết gì còn la ó, đi một đoạn kéo một đoạn, chúng ta trên đường tới đây nếu lạc cũng không sợ, có thể tìm được đường về”.

Bích Túc trừng mắt, gắt giọng: “Đi đường của ngươi đi, ngươi là thể loại gì”.

Dương Hạo cho một tràng: “Ta nói cho mà hay, ở đây không có ai, ngươi không cần cải trang thành nữ nhi nữa”.

“Ai muốn cải trang thành nữ cơ chứ”. Bích Túc quắc mắt, sắp khóc: “Ngươi cho rằng ta làm nũng ngươi sao? Ta đây cũng có khí phách, trời ơi, chết ta rồi chết ta rồi, ngươi dừng xe đi, ta...ta còn phải đi...”

Xe chưa dừng, Bích Túc liền ôm bụng tuồn xuống xe, Dương Hạo lắc đầu cho xe dừng lại.

Hai người khi ở Ngưu Thủ trấn đã chuẩn bị kỹ, Bích Túc dùng lông lợn làm một bộ râu, Dương Hạo dán lên mặt thành râu quai nón, Dương Hạo khuôn mặt vốn thanh tú nhưng hóa trang đã trở thành một người uy phong lẫm liệt.

Bích Túc là nam tử hán nhưng dáng vẻ lại nữ nhi, chỉ cần mặc bộ quần áo nữ nhi lên, dù không cần hóa trang thì nét thanh tú của hắn đã làm trái tim người ta rung rinh rồi, nếu không còn vẻ phong trần thì sẽ giống một bà già Nương gia.

Hai người giả trang thành vợ chồng rồi đi về hướng tây. Dương Hạo tự xưng mình là quân thị vệ của Quảng Nguyên. Lần này về nhà thành thân, nghe nói tây bắc chiến sự đã bắt đầu liền vội vã về nhập quân. Mang theo nương tử. Dương Hạo bên mình có mang theo một mỹ nữ, ngay cả quan phủ có bức ảnh mặt hắn cũng không nhận ra hắn, huống chi quan huyện. Án này vốn vẫn chưa khắt khe tra xét người đi đường để tìm Dương Hạo. Bọn chúng thấy tráng sĩ có mang theo một mỹ nữ về quê để tòng quân đánh giặc. Hơn nữa hắn lại có lệnh bài, ai dám gây khó dễ cơ chứ. Vì vậy hai người yên tâm đi trên đường.

Bích Túc tuy là tên trộm, xong hắn chịu khổ được. Lặn lội đường xa kể cũng làm khổ hắn, vì vậy trên đường đi qua một cái thôn trang thì hắn trộm được một chiếc xe ngựa. Có xe, hai người đi nhanh hơn rất nhiều.

Hôm qua đi trên đường hơn trăm dặm mà thời tiết lại nóng bức. Bích Túc không nghe Dương Hạo khuyên, hắn thấy nước hồ trong suốt nên vục mặt uống vài ngụm nước, ít lúc sau bụng đau quần quại. May hai người đi đoạn đường không có ai. Hoa quả, đồ ăn cũng mang theo kha khá, Dương Hạo pha chút nước muối cho hắn uống, th thoảng uống một ngụm, rồi nhanh chóng tới Quảng Nguyên, nếu không thì, đời tên giả nữ nhi õng ẹo này sẽ thành tro tàn rồi.

Qua một hồi lâu, Bích Túc uể oải đi từ bụi cỏ đi ra, mặt tái vàng, chả có chút sức lực nào đi về phía xe ngựa, dẫm lên cỏ ven đường, rên rỉ nói: “Đi nhanh đi, nếu không làm chút thuốc uống thì đời ta tàn rồi, người toát cả mồ hôi lạnh”.

Dương Hạo vung roi ngựa, Bích Túc nằm trên xe lẩm bẩm: “Giờ tới Quảng Nguyên, ngươi định thế nào, tòng tuân nhập ngũ làm đại đầu binh không?”

Dương Hạo đáp: “Ừ, trên chiến trường phải có lập trường. Trừ khi lúc đó không còn đường thoát. Mà ngươi không phải lo, ta và ngươi có duyên với nhau lắm. Ta và ngươi tình huynh đệ cả chặng đường. Ta nay bình yên chạy tới Quảng Nguyên cũng nhờ có ngươi giúp. Tình nghĩa này, ngươi cứ dàn xếp thỏa đáng ta mới an tâm ra đi.

Thật ra Dương Hạo kiến thức về quân ngũ hắn chẳng biết tí nào. Một lớp, một hàng có bao nhiêu người hắn chỉ biết đại khái, huống hồ nói đến quân đội. Quân đội biên chế thì không biết, vũ khí trang bị thì không biết dùng, quan bậc chức vụ cũng không biết nốt, kiến thức đơn giản nhất hắn cũng không biết thậm chí còn không cần phải nói đến doanh trại, mai phục, chém giết nơi chiến trường, cách chỉ huy quân. Thế mà hắn còn kiêu ngạo cho rằng kiến thức của mình hơn người và có thể làm chỉ huy, chỉ huy cả một đội quân chiến đấu. Hắn không làm quan được, lại sợ làm lính, bọn thổ phỉ cho nhát đao là chết, quân đội không thể cần một người không có kiến thức quân đội như hắn làm binh ăn lương.

Nhưng hắn giờ muốn đập đổ thế lực Đinh gia, nhưng ngoài con đường vào quân ngũ thì liệu có cách nào khác không? Hắn không nghĩ ra, không nghĩ ra thì đành đi con đường duy nhất, dù gian khổ có thể chết bất cứ lúc nào. Có quan hệ với Trình tướng quân, chưa chắc hắn đã chết.

Dương Hạo muốn tâm sự với ai đó, nhưng lại không tiện tâm sự với Bích Túc. Bích Túc nghe xong câu trả lời của hắn liền nghĩ lung tung, hắn bò về phía trước, quát tháo như một con chó sắp chết: “Dương lão đại, nói thật, nghĩ trước nghĩ sau cũng nghĩ không ra, áo giáp là cái thể loại gì nhỉ. Nhập ngũ á, ngươi còn tỉnh táo đấy chứ, thật sự muốn tham gia vào trận chiến sao, ngươi phó mặc cuộc đời ngươi sao?”

Dương Hạo cười, nói: “Thực ra, với bản lĩnh của ngươi, nếu không làm tên trộm nữa mà làm một quân sĩ, biết đâu lại có tương lai thì sao?”

Bích Túc nhếch mép nói: “Ngươi thôi đi, ta giỏi như thế này, mà ở trên chiến trường lại chẳng dùng chút võ công nào. Chém giết nhau ở chiến trường, cứ cho một nhát đao thì được gọi là giỏi, tài nghệ của kẻ giang hồ không phải ở chiến trường. Mấy năm nay, một tên trộm như ta tuy không có tiền đồ gì cả, nhưng nếu như ngươi có thể là một quan chức gì đó dưới trướng của Trình tướng quân, thì ta sẽ đi theo ngươi làm quân sĩ”.

Dương Hạo cười nói: “Được, nếu thực như ngươi nói, nhất định ta sẽ mời ngươi làm trợ thủ đắc lực của ta. Giờ phải vào thành trước, tìm một nơi khám bệnh cho ngươi cái đã, trị được bệnh rồi mới hoàn lương được”.

Bích Túc tức giận nói: “Hoàn lương cái cóc khô, nói vậy nghĩa là, ta là một tên yêu quái?”

Lúc ấy đã gần đến cửa thành, trên đường có vài người qua lại. Người đi đường cứ nhìn chằm chằm vào cái xe của bọn chúng, Bích Túc lớn tiếng: “Nhìn cái gì mà nhìn, chưa nhìn thấy ai xinh đẹp thế này à?”

Mấy người đó nhìn Bích Túc, đẹp thì đẹp thật nhưng điên như vậy, liền sợ đến mức tản ra ngay lập tức.

Trước khi hai người vào thành thì rẽ vào một chỗ vắng, Bích Túc trở lại là một trang nam tử, lau sạch vết hóa trang trên khuôn mặt, vén rèm xe sang một bên rồi bước xuống. Bích Túc lúc ấy mặc một cái tăng bào, sau khi bỏ tóc giả xuống, đầu hắn lại trọc lông lốc, giống như một sư tiểu.

Có tấm bài của Trình tướng quân, hai người nghiễm nhiên đi vào thành, rồi đi tìm lang trung, kê và mua xong đơn thuốc, Dương Hạo để Bích Túc ở một quán nhỏ rồi chạy tới Trình phủ.

Đã nửa năm nay mới quay lại Trình phủ, cảnh vật vẫn y nguyên, thậm chí vẫn còn mấy tên canh cửa ngày xưa, nhưng lúc này Dương Hạo trong lòng có cảm giác gì đó rất lạ. Hắn không chần chừ nữa, vội lấy tấm bài đưa cho mấy tên canh cổng, bọn chúng chạy vào báo. Một lúc sau, một tên quản gia bước ra, từ xa thấy Dương Hạo, lão quản gia kêu lên: “Chao ôi, cháu đích tông của ta, sao giờ ngươi mới đến”.

Dương Hạo ngạc nhiên, nói: “Lão quản gia, ngươi có ý gì?”

Trình lão quản gia nói: “Ta đây sớm đã thay tên đổi phận cho ngươi, nghe nói ngươi có ý định nhập ngũ nên đã sắp xếp một chức dành cho ngươi rồi. Nhưng hôm nay tướng quân lại xuất chinh rồi, sao ngươi đến được đây.... ha ha, tốt rồi, tốt rồi, ở đây không phải là nơi nói chuyện, vào trong nhà đi”.

Dương Hạo đi theo Trình quản gia vào trong phủ, nói: “Lão quản gia, Dương Hạo chưa từng nhận thư tín của quý phủ, thế ngươi viết thư khi nào?”

Lão quản gia của Trình phủ ngạc nhiên nói: “Chưa đến sao? Làm sao có thể như vậy được cơ chứ, Diệp nhà xe đã đi xe uy tín như vậy, lão hán đã nói rõ phải có chữ ký của ngươi thì mới chứng tỏ là đã nhận mà, bọn họ chưa đưa thư đến sao. Chà…, việc này cũng không xong, sau này ta sẽ tìm bọn họ tính sổ, nhận tiền của lão hán này, việc quan trọng như vậy, bọn họ nào dám làm lỡ việc”.

Dương Hạo ngạc nhiên: “Lão quản gia đã từng gửi thư cho ta sao? Điều này...không biết bức thư của lão quản gia viết gì?”

Trình lão quản gia đưa sang phòng bên cạnh, bảo người đi pha trà, ngồi xuống, thở dài một tiếng nói: “Hạo ca, ngươi bỏ lỡ một cơ hội tốt rồi”.

Dương Hạo trở nên lo lắng, vội hỏi: “Lão quản, rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì, ngươi nói rõ ra đi”.

Trình lão quản gia khi ở ngoài quản lý binh sĩ, chuyện to nhỏ của Trình phủ đều do lão già này quản lý, có thể coi là người tin cậy nhất của Trình tướng quân, lão ta biết rất nhiều bí mật, quản gia bình thường không thể giỏi hơn lão ta, lão ta thở dài: “Việc này vốn là một việc rất bí mật, không thể nói rõ ra được, song hôm nay việc này được coi là chẳng còn bí mật gì nữa. Lão hán nói cho ngươi hay. Hai tháng trước, tướng quân đại nhân nhà ta nhận được mật hàm, nói quan gia muốn ngự giá thân chinh đánh dẹp bắc hán, cần chuẩn bị đội quân tây bắc một cách tốt nhất.

Đại nhân nhà ta được tin, nghĩ đến ngươi, muốn cho ngươi một cơ hội thể hiện bản thân. Đất tây bắc này, nếu muốn thăng quan thì chỉ có con đường lập công mới thăng quan nhanh nhất, nhưng ngươi chưa từng là thiên binh, vội vã nhập ngũ, thì làm sao làm quan được, chi bằng cho ngươi một chức quan nhỏ, làm thân binh bảo vệ tướng quân, nhưng lại sợ không biết bao giờ mới có cơ hội lập chiến công. Nếu cho ngươi ra chiến trường chém giết, mà trên chiến trường đao thương lại không có mắt, đến đại tướng quân chưa chắc đã lo được cho mình thì ai có thể chăm sóc cho ngươi đây, ngươi là đại ân nhân của Trình gia ta, ngộ nhỡ nếu mất đi cơ hội này, lão gia nhà ta sẽ rất áy náy. Lần này, quan gia nhà ta lại thân chinh đi dẹp bắc hán rồi, quan gia anh minh, võ nghệ cao cường, lần này đích thân dẫn đại quân tây chinh, ít nhất cũng có bảy phần thắng. Tướng quân nhà ta muốn sắp xếp cho ngươi làm đưa thư, với chức thông tin liên lạc giữa doanh trại đại tướng quân và quan gia”.

Trình lão quản gia cảm thấy miệng hơi khô, uống một hớp nước, lại tiếp tục nói: “Ngươi cũng không nên xem thường sứ giả đưa thư trong quân đội, chức này cũng được phân làm ba, sáu, chín loại, làm sứ giả thông tin liên lạc ở các doanh trại, chức đó cũng không phải là chức thấp. Công việc nhẹ nhàng, ít nguy hiểm, khi quan nhà thắng trận, đương nhiên không thể thiếu công của ngươi nên ngươi cũng sẽ được thưởng.

Đến lúc đó tướng quân nhà ta đương nhiên sẽ có lý do để đề bạt ngươi thăng chức, ngươi là một người nhanh trí, làm việc lại tháo vát, hơn nữa lại có đại nhân nhà ta giúp đỡ, sau ba năm bảy năm còn sợ không thể trở thành một nhân vật quan trọng của điệp báo quân tây bắc sao? Còn có thể được phái làm một kẻ mà chủ tướng tin cẩn, uy phong làm sao!”

“Trời ơi, đây không phải là quan văn trong quân đội, mà là quan văn đứng đầu các quan văn, không cần đến đao thương nhưng lại có quyền lớn nhất trong tay”. Dương Hạo tuy chưa từng tòng quân, song cũng biết chức quan cai quản thư từ trong quân đội không chỉ là một hệ thống truyền, nhận thông tin đơn thuần, nó là một chuỗi hệ thống điệp báo, thông tin. Nếu có thể ở trong hệ thống này, trở thành một mắt xích quan trọng, có thể hô mưa gọi gió, rồi có một ngày thành quan cai quản người khác thì có thể đứng vững ở vùng đất tây bắc, như vậy thì không còn gì để nói.

Nghe xong, Dương Hạo tim đập thình thịch, hơi chút căng thẳng, chưa suy nghĩ được sâu xa, Trình Thế Hùng tuy cảm ơn đại ân của hắn đối với Trình gia, có lòng muốn báo đáp, sắp xếp cho hắn một chức quan gì đó thì cũng được coi là trả được đại ân rồi, hà tất phí tâm tổn sức sắp xếp hắn đi hành dinh Hoàng Đế, thổi phồng công lao thay hắn, dễ dàng giao cho hắn một chức vô cùng quan trọng. Chưa nói đến hắn có năng lực như vậy hay không? Đề bạt một người mới như vậy trong quân đội của Trình Thế Hùng, cũng cần lo lắng đến sự ghen ghét của các quan lại. Nhiệt tình như vậy, chẳng lẽ không có nguyên do nào chăng?

Sự sắp xếp này hay là sự thành công mà Chiết cô nương “Hoa đào vẫn cười trước gió xuân” đem lại. Chiết cô nương lấy suy nghĩ chiến lược đã nói hôm ở bên hắn nói với cha của cô ta là tướng quân Đại Chiết, nào là “Tập trung ngựa, thống nhất sử dụng”, “Trong bị động nắm thế chủ động, tập trung lực lượng, thúc đẩy ưu thế cục bộ, chủ động tạo chiến tranh có lợi cho mình”, Những lời này vừa nói ra khiến đại tướng quân tay cầm đại quân, quyền thế tung hoành hiểu ra, vừa mừng vừa sợ.

Vị lão tướng sa trường này chưa từng nghĩ đến việc phải thay đổi hệ thống dụng binh mà các tiền bối để lại, nhưng không có nghĩa là ông ta không nhìn ra được mặt tốt của việc thay đổi này, Chiết Tử chỉ nói lại một lần lời của Dương Hạo, đối với tình hình tây bắc, sự thay đổi này được coi là rất lớn.

Biện pháp này của Dương Hạo thật sự có hiệu quả, hơn nữa đối với người Tống đang thiếu ngựa mà nói, có điều kiện như hiện nay sẽ phát huy được sức chiến đấu đến mức cao nhất, có hiệu quả nhất. Là nhân tố quyết định chiến thắng ở chiến trường.

Bất kì yếu tố nào cũng được đề cao như thiên thời, địa lợi, nhân hòa, quân bị, hậu cần, trình độ chỉ huy của các quan, sức chiến đấu và tinh thần, chúng đều có sự ảnh hưởng đến sự thành bại của chiến dịch và sự thay đổi cả một chiến cục, có thể nắm được lực lượng linh hoạt hùng mạnh, sự linh hoạt khi đối phó với quân địch trong thời gian dài, thuận lợi cho việc nắm giữ được một quân cờ mạnh.

Cách đơn giản như vậy, không biết có bao nhiêu danh tướng vì đã quen với cách cũ mà không nghĩ tới việc phải thay đổi nó. Tư duy mới này là của World Warli người Đức đầu tiên đã nghĩ đến và dùng cho quân sự, họ lấy chiến xe của Tank làm thành một tập đoàn lao vào chiến đấu, lúc đó lấy sự phân tán của Tank sắp xếp làm đại quân Anh Pháp phụ trợ quân sĩ, tạo thành cuộc công kích chí mạng cho họ. Nó mở ra dòng suy nghĩ chiến đấu mới cho người chỉ huy quân sự.

Chiết gia dựa vào cách này đem tập trung ngựa để sử dụng, khi đối địch với quân tây bắc quả nhiên có hiệu quả, trước đây người ta nghĩ rằng muốn chiến thì chiến, không muốn chiến thì đi, chủ động thao túng hoàn toàn quân sĩ. Nó làm tiêu tán nhuệ khí của địch, đặc biệt là bọn tây bắc đang làm loạn, Chiết gia ra nhập binh chủ chốt, từng bước làm doanh trại, tập trung một kỵ binh tinh nhuệ bất ngờ tìm địch để đánh, tiêu diệt mấy ngàn quân tinh nhuệ của địch, trong thời gian ngắn đã dẹp loạn được quân phản loạn.

Thấy cách của Dương Hạo thực sự là có hiệu quả, Chiết cô nương vốn có ấn tượng ban đầu tốt đối với hắn, nay lại càng ưu ái hắn hơn nên lập tức đề bạt Dương Hạo với Cửu thúc của cô. Cửu thúc của Chiết cô nương là người phụ trách điệp báo của Chiết gia, Chiết cô nương tuy không làm việc dưới quyền của ông ấy, nhưng kì thực lại giống như quân sư của ông. Có Chiết cô nương tiến cử, lại thấy lời nói của hắn có ảnh hưởng lớn với chiến thuật của quân Chiết gia, nên Cửu thúc đồng ý. Nhưng muốn đề bạt, trọng dụng một người bình thường không phải chuyện đơn giản, Cửu thúc giờ vẫn không muốn cho Dương Hạo biết là Chiết gia đã đồng ý, bèn nói là sang hỏi ý Trình Thế Hùng, coi như thử hắn thêm một lần nữa.

Dương Hạo có đại ân với Trình gia, nay ý của Chiết gia như vậy, Trình Thế Hùng còn có gì mà không đồng ý. Chỉ là các thông tin tình báo thông qua hệ thống truyền tin của quân bưu, mà quan gia muốn ngự giá thân chinh, hắn thì chưa tới, tai mắt của triều đình đã trải rộng tây bắc, Trình Thế Hùng không muốn để lại chút sơ xuất nào bèn bảo lão quản gia viết một phong thư, thông qua đường đi dân bưu thông báo cho Dương Hạo biết mà kịp thời đến, để tiện cho việc sắp xếp việc cho hắn.

Trong phong thư đó đương nhiên sẽ nói chi tiết như vậy, sẽ không hứa hẹn cho hắn chức quan nào, sau này cho hắn những gì đều viết lên, thư đã để lộ ra một cơ hội tốt là nếu hắn có ý tòng quân, rời xa nơi này, đi theo Trình tướng quân thì hãy kịp thời đến. Ai biết lá thư đó sau khi được gửi đi đã bị thất lạc, mãi đến khi Trình Thế Hùng xuất binh, quan gia xuất chinh mà vẫn không thấy hắn xuất hiện. Trình Thế Hùng chỉ nói hắn không có chí lớn, không có ý định rời xa quê hương tòng quân xuất chinh, ngũ cô nương phủ Châu Chiết gia lại càng thất vọng hơn.

Có trời mới biết tạo hóa hay trêu người, Đinh đại công lúc đó đã để ý đến Dương Hạo, giờ cơ hội trong tay hắn tự nhiên mất đi..

Dương Hạo thầm nghĩ nếu có một cơ hội như vậy, thì chẳng khác nào ra nhập vào cơ quan đặc biệt của thế quân tây bắc, hơn nữa rất dễ có khả năng thăng quan tiến chức, với chức quan ấy, lãnh đạo không biết bao nhiêu lực lượng lớn, lúc ấy về Phách Châu báo thù rửa hận cha con Đinh Đình Huấn, Đinh Thừa Nghiệp, muốn làm điều đó thật không dễ. Nay cơ hội đã mất rồi sao?

Hắn vội vàng hỏi: “Lão quản gia, ta đến muộn một bước, nay đã không kịp rồi sao?”

Lão quản gia nói: “Ngọn lửa chiến tranh hôm nay đã dấy lên một đạo lý tòng quân lâm trận. Nếu đến sớm 1 tháng trước có thể có chỗ cho ngươi trong quân đội, đến giờ thì gạo đã nấu thành cơm. Bây giờ, quan gia đã đích thân đến chiến trường, chiến sự ác liệt. Nếu ngươi vội vàng ra nhập đội quân, thì lập tức ủy thác cho ngươi một chức quan trọng là truyền tin giữa các trại. Nhưng ngươi không hiểu quy tắc gì cả, một ngày làm binh cũng không. Thì tướng quân nhà ta cũng không giám mạo hiểm”.

Dương Hạo nghe xong đầu cúi xuống, buồn bã không nói câu gì. Lão quản gia thấy vậy liền an ủi hắn: “Song, ngươi cũng không cần sốt ruột quá, ngươi còn trẻ, còn nhiều cơ hội. Trận này, thắng được coi là thắng lớn, nhưng nếu là người Khiết Đan xuất binh, chúng ta lại chưa chắc đã diệt được nước Bắc Hán, trận này còn phải đánh nữa, tướng quân nhà ta sẽ cố đề bạt ngươi, ngươi không phải lo không có ngày tòng quân”.

Dương Hạo thở dài nói: “Không dấu gì lão quản gia, lần này tại hạ thực sự không chớp được cơ hội. Nhưng tại hạ sớm đã có ý định dốc sức cho Trình đại tướng quân, làm hay không làm quan…thì để lần khác, nhưng lần này chiến sự đang tới lúc gấp rút, đây là một cơ hội để rèn luyện bản thân, Dương Hạo thực sự không muốn ở Quảng Nguyên ngồi chờ cơ hội sau. Lão quản gia có cách nào, có thể cho tại hạ chạy đến trước quân Trình tướng quân, hiến cái mạng này cho tướng quân không?

“Điều này…” Lông mày hoa râm của lão quản gia nhíu lại, trầm ngâm nói: “Hạo ca nhi, hôm nay chiến sự tới lúc gấp rút, đang dốc sức cho quân đội, người mà chưa từng lãnh đạo quân binh như ngươi thì không thể có chức tước gì. Nếu có làm thì cũng chỉ là một tiểu tốt đứng hò hét trung phong trước trận, ngươi…còn muốn đi không?”

Dương Hạo hơi trầm ngâm, rồi kiên định nói: “Đi, đương nhiên là ta muốn đi! Một cơ hội tốt đã bị ta bỏ lỡ, nhưng ta sẽ không bỏ lỡ cơ hội thứ hai này hoặc chính ta sẽ làm ra cơ hội cho mình. Nhưng nếu như ở lại trong thành Quảng Nguyên này, thì ta tuyệt đối không có bất cứ cơ hội nào nữa!”

Hai hàng lông mày của lão quản gia nhíu lại, trầm giọng khen: “Được lắm, có chí lắm. Vậy ta sẽ nghĩ ra cách cho ngươi tới trước quân, còn về có cơ hội hay không, thì xem vận may của ngươi vậy!”

 Chương 134: Vây thành.

Hán Đô thành, quân Tống tứ phía vây lấy thành, tiếng giết rung trời.

Đây là một chiến trường chỉ có máu và lửa, khắp nơi là sự anh dũng đấu tranh, sĩ tốt hò hét rung trời,khắp nơi là vũng máu đã vĩnh viễn ở trên xác tử thi. Có lẽ trước đây không lâu, những thi thể này là một hán tử sống sờ sờ; Trong thiên binh vạn mã này, chỉ là một tiểu tốt không quan trọng, nhưng trong nhà, lại là một người đàn ông cao hơn cả trời một đầu, là một người cha còn cao hơn cả quân binh ba phần, là một trụ cột trong gia đình, hôm nay lại chỉ là một cái hài cốt mà không ai thèm liếc một cái.

Nếu có quân Bắc Hán từ đầu thành xuống dưới thì có thể nhìn thấy một mảng màu đỏ dưới thành, như ngọn lửa hợp thành một biển lửa, khiến người ta nhìn mà khiếp sợ. Đó là Phạm Dương Mạo cấm quân tinh nhuệ của Bắc Tống. Người ngựa quá một vạn, lúc này dưới thành quân ngựa đâu chỉ có một vạn, xem ra có đầu rơi máu chảy, khí thế của cái chết nhẹ tựa lông hồng.

Trên thực tế, quân coi giữ thành nếu như không chán sống thì sẽ không xem cảnh tượng này, dưới thành sắp xếp một loạt nỏ tiễn, bắn lên đầu thành ào ào, trong sự đả kích mãnh liệt của bão tố, lại có hơn trăm hòn đá vứt xuống, có hòn đá đến 50kg vứt xuống, mỗi một khối đá vứt xuống, dưới đất bay lên một màu khói bụi vàng dày đặc, đất thành Bắc Hán phải được hàng trăm hàng nghìn lỗ.

Thành trì là nơi lấy chất liệu ngay tại chỗ. Đất vàng do bị nện mạnh xuống nên dinh dính, đất quánh lại, kết thành một loại kiên cố giống như xi măng vậy, tính dẻo của nó còn hơn cả xi măng, giờ nó đã trở thành một thành trì cứng hơn đá.

Nếu như bức tường thành chỉ xây bằng gạch đá đơn thuần, đá to như vậy đã làm vỡ nó, thì thành rất dễ bị vỡ vụn.

Quân đầu thành Bắc Hán cũng đang ngoan cường đánh trả quân Tống dưới thành, sau những tiếng ào ào của hàng loạt tiễn, ngay lập tức có sự đánh úp như châu chấu từ đầu thành xuống quân Tống dưới thành. Hòn đá bắn mạnh về phía quân Tống, tốc độ mà mắt thường có thể thấy là sự xoay tròn chậm rãi trong không trung, một tiếng nện ầm xuống mặt đất, tạo thành một cái hố bùn nhão sâu ba thước, đất nhanh chóng văng ra phía trước với cự li khoảng mười trượng, hòn đá lớn lăn qua, một con đường máu….

Hai bên đã giằng co nửa tháng ở cái thành này. Cùng với việc Triệu Khuông Dận phái binh lính tiêu diệt các huyện bên ngoài đô thành Bắc Hán, đại quân trực tiếp phá Bắc Hán. Nửa tháng sau, tổn thất của hai bên đều vô cùng lớn, so sánh với nhau thì tổn thất của quân Bắc Hán trong thành không lớn bằng quân Tống dưới thành.

Dù họ thừa dũng cảm hy sinh tính mạng để chiếm đất thì trong kho phủ đô thành cũng có đủ lương thực và vũ khí, nhưng quân Đại Tống ngự giá thân chinh lần này, lại vẫn có một nhược điểm chí mạng: lính hơi ít.

Mười lần quân Tống đánh thành mới bằng quân thủ bắc, họ vũ khí trang bị dùng không hết, lương thực cung ứng chất đống như núi, sau đó thức ăn lại không ngừng chuyển đến, mà trong thành tiêu hao đi một ít que tên, họ không thể không nhặt que tên mà quân Tống bắn vào trong thành, như vậy mới đảm bảo yêu cầu cho quân thủ đầu thành. Cuộc đọ sức ở chiến trường, ở một mức độ lớn hơn là sự đọ sức của hai nước, sức mạnh của Đại Tống bây giờ so với Bắc Hán, lẽ nào có thể giống nhau.

Tình thế bắt buộc của Quan Gia ở trận chiến này. Năm nay, Triệu Quan Gia vừa mới có bốn mươi mốt tuổi.

Năm nay là năm mà kinh nghiệm, tinh lực, trí tuệ của hắn đã đạt đến đỉnh cao. Hắn tài trí mưu lược kiệt xuất. Còn có con mắt chiến lược nhìn được cục diện trận chiến. Hắn biết, giờ đấu tranh cho sự sống còn của Nam Đường, Nam Hán, Ngô Việt, thậm chí là Minh Giáng, cát cứ địa Trần Hồng tiến vào đều chịu không nổi một đòn đánh. Sớm muộn gì trong trận chiến hắn sẽ đối đầu với cường địch của hắn: Khiết Đan. Cho nên đã đến.

Lần này hắn ngự giá thân chinh thảo phạt Bắc Hán. Mục đích của hắn chính là thừa dịp nội bộ nước Bắc không ổn định, họ sẽ xâm lược về phía nam, đó là một điểm quan trọng để giành chiến thắng Bắc Hán. Làm chuẩn bị để sau này thảo phạt Khiết Đan lấy mười sáu châu.

Lúc này Triệu Quan gia không chỉ có tài trí mưu lược kiệt xuất. Vũ dũng ở con người hắn chưa từng bị lùi nửa phần. Giờ hắn là một cái côn bàn long. Đánh tan Triệu Khuông Dận tám mươi tư quân châu. Dưới sự lãnh đạo của hắn. Cấm quân Đại Tống, người như hổ, ngựa như rồng. Con đường hướng về phía tây thế như phá trúc. Đến một cái tượng muốn ngăn cản đều không gặp phải. Đến quân Bắc Hán, tên được gọi là tướng quân vô địch Lưu Thừa Nghiệp cũng sẽ bị một trận thất bại tan tác. Nhìn gió mà chạy. Thành trì huyện châu bên ngoài Bắc Hán đã rơi vào tay hắn. Nay chỉ còn lại một tòa thành đơn độc, là điểm tựa cuối cùng của Bắc Hán. Ở đây, hắn cuối cùng đã gặp phải một trận khó khăn. Cũng là trận cuối cùng mà hắn ngự giá thân chinh.

Sức ngựa Triệu Khuông Dận rất mạnh. Trước mắt đô thành Bắc Hán lung lay rơi xuống. Tòa thành như chiếc lá cô độc giữa cơn sóng gió động trời. Bất cứ lúc nào cũng sẽ có nguy cơ gặp nạn. Nhưng luôn xuất hiện một lần nữa ở trên ngọn sóng. Đầu thành, dưới thành tựa như một chiếc đài có máy chém giết không biết mệt. Mạng người bị cắt nhanh như bay.

Kinh nghiệm phong phú về trận chiến của Triệu Quan Gia. Chưa chắc tướng lĩnh nhân hậu đã thương xót cho mạng người vô tội. Hắn không phải không biết dùng thủ đoạn tàn khốc này tấn công sẽ phải trả giá bằng sự hy sinh rất lớn. Như vậy cần bao nhiêu mạng người đi lấp đây, mới lấp bằng được, dòng sông bảo vệ thành cuối cùng không còn cách nào mà vượt qua. Nhưng tiễn ở trên cung, không thể không bắn, không tốc chiến không được.

Hai mươi năm trước, hắn quách uy, tấn công thành trong sông với thời gian là một năm, trận chiến vây thành kéo dài đến một năm, hao tổn vô số lương thảo, nhưng thương vong lại ít, cuối cùng hắn đã có trong tay chiếc thành đó, nhưng ai có thể cho Triệu Khuông Dận hắn thời gian dài như vậy?

Muốn tốc chiến tốc thắng sao? Hơn mười năm trước, so với một đời giỏi giang vinh dự ngự giá thân chinh, tấn công các châu thành của Triệu Khuông Dận hắn càng có tài trí mưu lược kiệt suất. Chinh phạt được hơn trăm nghìn tráng đinh ở Tống Châu, Trần Châu, Từ Châu, Túc Châu, Hứa Châu, Thái Châu… Hơn một tháng ngày đêm không ngừng đốt đèn để đánh trận đêm, trái lại thành Thọ Châu im hơi bất động.

Máy ném hỏng đến mấy trăm cái, chỉ là gần trăm vạn hòn đá thì có thể san bằng thành Thọ Châu, nhưng đại tướng Nam Đường Lưu Nhân Chiêm dù chết cũng bảo vệ thành trì, thành Thọ châu cuối cùng cũng chưa bị chiếm, mãi đến khi các châu huyện xung quanh đều thuộc về tay người Tống, cờ Nam Đường vẫn tung bay trên thành Thọ châu. Mãi về sau, hắn bệnh nặng hôn mê, tướng bộ sợ mất vía hiến thành đầu hàng.

Nay quân thủ của đô thành Bắc Hán này cũng không phải trên dưới một lòng, không phải ai cũng không sợ chết. Năm ngày trước, tướng thủ thành nam Bắc Hán mất, sự tấn công như vũ bão của quân Tống làm cho Bắc Hán sợ tới mức hồn phi phách tán, ra khỏi thành đầu hàng, nhưng sau khi giết quân giam, hắn tự ra khỏi thành mà không cho thuộc hạ biết. Không nói lời nào, lại không cờ trắng đánh, xuất đắc thành lai, chưa nói lời nào thì bị một tên tiểu giáo quân Tống tiến đến giơ đao chém hắn ra làm đôi. Vị tướng quân này hỗn loạn chết trong tay tên tiểu giáo quân Tống, vì hắn lâm trận mà quy thuộc quân địch, người thân lại bị quân thủ thành xử trảm ở đầu thành, đến lúc này, tướng thủ có ý đầu hàng thì cũng kiên định sự tín nhiệm, tử thủ thành trì, mong đại quan người Khiết Đan đến viện trợ.

Không thể công phá từ bên trong, chinh phạt điều dân phu phá thành như thế nào đây? Khu tây bắc, cả miền bắc đất rộng người thưa.

Nay mới không đến năm vạn hộ dân, hắn phải đi nơi nào tìm được nhiều người như vậy để giúp cuộc chiến thành Thọ châu, thành Trung châu, chỉ có thể là đô thành Bắc Hán, đó là hy vọng cuối cùng của người dân Bắc Hán, chống cự của họ so với Thọ châu phải ngoan cường bao nhiêu lần?

Binh lực trong tay hắn hiện giờ vốn chỉ đủ tiêu diệt lần này đến lần khác tất cả quân đội trong đô thành Bắc Hán, nhưng điều kiện cần là Bắc Hán phải cùng hắn ra khỏi thành quyết chiến, nếu muốn công thành nhanh nhất thì lấy đô thành Bắc Hán đánh xuống chinh phạt dân phu hoặc đại cử tăng binh, nhưng… hắn có binh để mà tăng không?

Binh trong nước không thể lại điều động nữa, các nước Kinh, Hồ, Thục đã bị hắn diệt, nhưng vẫn chưa diệt triệt để, cần một lượng lớn quân đội đóng quân; Nam Đường, Nam Hán hai nơi đó cũng cần trọng binh đóng quân, phòng ngừa bọn họ nhân cơ hội cho một miếng vào giữa tim; Mở cửa dưới thành cũng cần phải đóng quân, loạn thế năm đời đến nay, tự cầm binh, đại tướng dã tâm nhiều lắm, không phòng ngự sẽ có người nhân cơ hội mà tạo phản; Bên tây bắc người Khương đang làm loạn, cũng phải có quân trấn áp; Đặc biệt là người Khiết Đan, quân địch mạnh nhất, Đại Tống của hắn mới thành lập được hơn năm mươi năm, người Khiết Đan hiện nay không còn là bộ lạc liên minh, khi lâm trận vội vàng tập hợp các quân hung nô dã man tác chiến như trước kia nữa.

Chính thể của họ như một Trung Nguyên, là đế quốc chế độ phong kiến; Về kinh tế có người Khiết Đan du mục, người Hán làm nông nghiệp ở mười sáu châu Yến Vân; về mặt quân sự vẫn duy trì dũng võ dân tộc du mục; Về địa lí họ chiếm cứ địa thế hiểm yếu nhất; Về quân bị thì có Đại Tống, võ bị tấn công còn thiếu nhiều nhất là: chiến mã. Quân địch này, sẽ là một kình địch duy nhất mà hắn phải đối mặt. Chỉ cần Đại Tống phạt Hán, họ nhất định đến trợ giúp, nhưng tên đó có đến hay không?

Lần này hắn ngự giá thân chinh, đã nghĩ đến khả năng bắc quốc xuất binh, vì vậy mới phân binh ra nhiều con đường, vây thành viện trợ, trước tiên phải dọn sạch quân địch bên ngoài, cuối cùng mới là chiến lược phá đô thành Bắc Hán. Đại quân có 4 đường, đường thứ nhất trực tiếp tấn công đô thành Bắc Hán. Còn đoạn đường bắc xuyên qua Vân Lĩnh, cắt đứt con đường giao thông đường bộ lớn nhất của Bắc Hán với Khiết Đan, phòng ngừa quân Hán chạy về phía bắc, người Khiết Đan tiếp ứng phía nam. Đường thứ ba là đại quân đóng ở bên sông theo hướng đông, phòng ngừa người Khiết Đan phái quân trợ giúp. Hắn đích thân dẫn đại quân đi theo con đường thứ tư, mục tiêu cũng là đô thành Bắc Hán. Nay đến đại quân mà hắn đích thân dẫn cũng đã phái vào chiến trường, nhưng hắn muốn công phá cái thành này vẫn thiếu độ chín muồi, nhưng không được điều động đại quân cảnh giới hai đường, nếu không thì lúc nào đó quân Khiết Đan đột nhiên bị giết, đó không phải vấn đề có hay không có đô thành Bắc Hán, mà là vấn đề có ung dung rút quân được hay không.

Triệu Khuông Dận lo lắng nhìn về phía bắc, phía thảo nguyên sa mạc lớn mênh mông gió mạnh, cửa ải hiểm yếu, có mắt nhìn xa trông rộng hay không, tạm thời đặt ở nội bộ tranh chấp, giải vây cho Bắc Hán sao? Nếu không muốn nhanh chóng tấn công đô thành Bắc Hán, họ lại xuất binh ra giúp đỡ, há chẳng phải lại vô công mà phản sao?

Triệu Khuông Dận nhìn một hồi lâu, thành trì bị vây đến mức nước còn không chảy qua được, tòa thành này sớm muộn sẽ nằm trong tay hắn, Hoàng Đế trong thành sớm muộn cũng sẽ giống như những đế vương khác, phục tùng dưới chân của hắn, nhưng ông trời có cho hắn đủ thời gian công thành hay không?

Thành như hòn đảo cô độc, từ đỉnh núi nhìn xuống, hàng vạn hàng nghìn quân tốt, giống như đàn kiến hôi. Hắn cũng từng là một con kiến hôi trong số đó, đến nay, hắn đã khoác hoàng bào, trở thành thiên tử. Thiên tử giận dữ, trăm vạn kẻ nằm xuống, máu chảy ngàn dặm, dù hắn có muốn hay không, đôi tay này đã nhuốm máu, chỉ vì…hắn là Thiên tử!

Triệu Quan Gia nhìn về chiến trường, lo lắng, trong lúc không nhìn thấy thiên binh vạn mã, chỉ có một “con kiến hôi” chưa mặc quân phục, đang vội vã đi về doanh trại của Trình Thế Hùng, Trình Thế Hùng thuộc quân tây bắc của phủ châu Chiết gia, lần này bị điều tới với nhiệm vụ chủ yếu là phụ trách dẹp yên châu huyện bên ngoài đô thành Bắc Hán, đồng thời phụ trách việc hộ tống các con đường vận chuyển lương thực cung ứng.

Viên hổ tướng không cần xếp vào cùng với quân tây bắc có kinh nghiệm chiến đấu phong phú, mà lấy cấm quân đi đầu trận, Triệu Quan Gia tự có dự định của hắn, hắn chẳng những muốn một tay có Bắc Hán, còn muốn lộ vẻ quân uy, gõ núi làm hổ sợ.

Trình Thế Hùng mừng rỡ, vũ trang Bắc Hán huyện trấn bên ngoài đều bị hắn đuổi, chém giết, dọn sạch bên ngoài xong liền đến trước quân báo chưa phải ra hiệu phủ châu Chiết gia, hắn cũng chưa bao giờ chủ động mời tham chiến. Mấy ngày này dốc sức phòng ngự, phụ trách cấm quân đánh thành tây, thương vong vô cùng nhiều, Triệu Quan Gia không thể không để bọn họ nghỉ ngơi và hồi phục sức lực, Trình Thế Hùng lúc này gánh vác một nhiệm vụ là tấn công thành tây.

Nhắc đến Trình Thế Hùng, là một chiến tướng trời sinh. Người giống như hắn ta, trời vì chiến trường mà sinh ra hắn, không biết hắn đọc bao nhiêu binh thư. Triệu Quát có một người cha dụng binh như thần, thủa nhỏ đã học được cách này, danh tướng thiên hạ vượt được qua hắn là rất ít, nhưng vào chiến trường thực sự thì hoàn toàn không đúng. Tôn Vũ và hắn na ná nhau, cùng không phải là một tiểu tốt làm nên, là đại tướng thì có thể bách chiến bách thắng.

Chưa đọc qua bộ binh thư nào, không có thầy nào dạy bảo cả, toàn dựa vào sự chém giết ở chiến trường, tinh thông chiến trận cũng không nằm ở “khoa ban” dưới danh tướng mà xuất thân, bắt đầu từ một tiểu tốt sát thần, chiến thần, bất bại, đến chữ cũng không biết, chỉ biết cong cung bắn tên vào con chim thì trở thành một danh tướng như vậy. Trình Thế Hùng không biết hắn có nhiều bộ hạ cam tâm chịu chết như thế, cũng không biết nhiệm vụ quan trọng được Chiết gia giao cho, thân phận của người ngoài độc dẫn quân đi trấn phủ tây thùy. Nhưng mãi đến trước hôm nay, hắn là người nhàn nhạ nhất ở đô thành Bắc Hán.

Giờ nhận nhiệm vụ tấn công tây thành, Trình Thế Hùng tập trung hơn mười hòn đá vứt xuống, công phá thành trì, làm vỡ một chỗ tường thành, làm hỏng chiếc cửa sau tây thành, múa trường kích, lãnh binh công kích.

Tuy sách lược công kích của quân ta, là quân thủ trong thành chiếm địa lợi, không cần đến nhiều binh mã, nhưng dựa vào kiêu dũng của Trình Thế Hùng, liên tiếp phát lên trung phong cũng không thể tiến thêm, ngược lại mất đi rất nhiều thi thể.

Dương Hạo đi theo tiểu giáo đến bên hắn ta, Trình Thế Hùng vừa mới lùi xuống trước trận tiễn, trống trận ầm vang, Trình Thế Hùng bị trúng tiễn lùi lại, lộ ra một cơ thể cơ bắp cứng như sắt đá, trên người vừa có mồ hôi vừa có máu. Hơn hẳn cánh tay của Dương Hạo to và thô, hắn vừa mới nhổ đầu tên, máu thịt như rơi một mảng ra, đúng lúc đó có tên quân y, hắn cả đầu đầy mồ hôi băng bó cho Trình Thế Hùng. Tên quân y này không phải là y thuật thấp kém, cũng không phải lần đầu nhìn thấy máu nơi chiến trường, nhưng thật khó để đối đãi chủ nhân Trình Thế Hùng, hắn không đổ mồ hôi không được.

Trình Thế Hùng đại mã kim đao ngồi ở đằng kia, quân y ở một bên giúp hắn rửa sạch máu bẩn, bôi thuốc cho hắn, nhưng Trình đại tướng quân trái lại không nghỉ ngơi, ngồi ở đó, râu quai nón như gai, hai mắt điềm tĩnh, hai tay thỉnh thoảng giơ lên múa múa , nghiêng trái nghiêng phải: “Tên trộm kia, hôm nay giết”.

Kẻ địch chỉ biết ám tiễn làm thương người, làm sao mà ló mặt ra được để quyết một trận.

“Ngươi đi, ngươi đi, vứt tiếp mấy hòn đá xuống, cho lão Trình ta đây cửa thành của chúng”.

“Điều doanh trại bên trái xuống nghỉ tạm, đổi doanh trại bên phải lên, hắn dùng ám tiễn làm thương ta, thì lão tử sẽ dùng chiếc xe chiến kéo chết hắn, ta xem thành này còn thủ được đến khi nào”.

“Báo! Đại tướng quân, mũi tên không đủ dùng nữa”.

“Biến, việc này mà cũng báo tướng quân à? Khi ngươi thành thân ngươi có cần bổn tướng quân thay ngươi đi động phòng hay không? Tên thiếu thì phải đi sang doanh trại Quan Gia xin, Hoàng Đế lão tử có thể để binh đói sao? Quan quân nhu ngươi làm kiểu gì đấy, thứ chó như ngươi không có mắt”.

Trong tiếng cười của vài tên thân binh, tên quan quân nhu đó mặt xám xịt chạy ra, Trình Thế Hùng nghe thấy có tiếng giết không được liền mạch ở phía trước, liền đứng dậy quát lớn: “Bà mày, sao có thể thả lỏng tinh thần dũng cảm như vậy, kẻ lâm trận mà sợ hãi, giết không tha!”

Có người vội la lên: “Đại tướng quân, không phải lấy uy chiến, sự thực là mũi tên không đủ, không có cách nào áp chế quân địch đầu thành, đợi tên được chuyển đến chúng ta lại ra lệnh tấn công”.

Tiểu giáo dẫn đường vội vàng tiến lên phía trước, chắp tay bẩm: “Báo…Đại tướng quân, người phủ đại tướng quân đến rồi”.

“Hả, người nào tới hả? Lão nương ta có chuyện hay là nhi tử của ta lại gây chuyện hả?” Trình Thế Hùng quay người, xương hông bị đụng một cái, cái băng vải mà lão lang trung khó khăn lắm mới băng được cho hắn bị xộc xệch, hắn xô mạnh làm tên đó văng đi ba thước xa, mông ngồi bệt luôn xuống đất.

“Chao ôi, xin lỗi ngươi, ngươi xem đầu ngươi à, ta cũng không chú ý đến”. Trình Thế Hùng bước lại, nâng lão lang trung dậy giống như nâng con gà con, không khỏi ngạc nhiên nói: “Ồ, chính là ngươi, ngươi đến đây kiểu gì?”

Lão lang trung nọ lau trán mồ hôi, quấn lại vài vòng băng vải, nhặt vải trên mặt đất, tiếp tục băng bó cho Trình Thế Hùng, Trình Thế Hùng quay đầu lại quát: “Ngươi…không làm binh của lão tử chết không yên sao? Còn đi làm tên hò hét. Ta đây đợi mũi tên đưa đến sẽ đi công thành”. Dặn dò xong xoay người lại hỏi: “Ngươi đi kiểu gì tới trước hai quân đấy?”

Dương Hạo vội bước lên phía trước nói: “Đại tướng quân, tại hạ nghe tướng quân xuất chinh, có lòng đến đây dốc sức, đáng tiếc thay khi đến Quảng Nguyên thì tướng quân đã xuất binh rồi, tại hạ không muốn ăn bám ở lại Quảng Nguyên, có lão quản gia giúp đỡ, mới đến được đây”.

Trình Thế Hùng dậm chân nói: “Tiếc, tiếc sao không sớm đến, ta đây nghĩ rằng ngươi lưu luyến quê hương không muốn tòng quân cơ”. Trước mặt mọi người, hắn không tiện nói rõ quá đành đi về chỗ ngồi, lão lang trung kia bị hắn dắt về, Trình Thế Hùng nói lớn: “Ngươi đến, ngươi đến, ngay chiến sự đang tới lúc gấp rút, ta đây không có thời gian sắp xếp cho ngươi, chỉ là ngươi đã vào đến trong quân, nhưng không có việc nào nhẹ nhàng cho ngươi làm, ngươi tuy là ân nhân của ta, nhưng một khi đã tòng quân, tất cả đều theo quân pháp, Trình lão ta đây không thể nói chuyện tình cảm với ngươi được, ngươi biết chứ?”

Dương Hạo nghe nói vậy hết sức mừng rỡ, vội tiến lên mấy bước vái dài một vái: “Thuộc hạ biết ạ, dù là chức gì, Hạo cũng can tâm tình nguyện nhận”.

“Ừ được, tốt rồi, chúng ta phải nói rõ ràng mới dễ làm việc. À đúng rồi, Dương Hạo…ngươi sửa lại tên họ khi nào?”

Dương Hạo kể lại một lần câu chuyện đáng buồn đó, trong đó tuy có rất nhiều tình tiết chưa nói kỹ, song tình tiết đại khái đó cũng đủ để hiểu rồi. Dương Hạo dứt lời, nói: “Tại hạ đến bước đường cùng này, nghĩ đến con đường ra duy nhất, chính là đầu quân vào quân của Trình tướng quân. Thực mà nói, Dương Hạo lần này tòng quân vào quân của đại tướng quân cũng là nguyện vọng của bản thân, cũng không tránh khỏi có ý tránh họa. Nếu đại tướng quân có điều gì lo lắng thì xin nói thẳng, tại hạ sẽ lập tức đi ngay, sẽ không làm khó đại tướng quân nữa”.

Trình đại tướng quân ngẩng mặt lên trời cười lớn, vung một tay lên, vất vả cực nhọc của lão lang trung đáng thương lúc nãy lại công toi rồi: “Chuyện này được coi là lớn, không phải là giết một đôi gian phụ sao, giết thì giết, nhìn bộ dạng của ngươi mới giết có hai người, ha ha ha ha, tay Trình lão tướng ta không biết đã giết 800 hay 1000 mạng nữa, chẳng phải trời không dung đất không tha sao?”

Dương Hạo nghe xong dựng tóc gáy: “Như vậy chẳng phải là không có luật pháp sao?”

Hắn thử thăm dò nói: “ Đại tướng quân nhưng…chưa hiểu ý của tại hạ, người mà tại hạ giết không giống với người mà đại tướng quân giết trên chiến trường, nay sợ rằng phủ Phách châu đã dán bảng văn, lệnh truy nã ta đã trải khắp thiên hạ”.

Trình Thế Hùng trừng mắt, hắc một tiếng nói: “Hạo ca nhi, ngươi biến Trình lão ta là một lão đại thô sao, đến sự thể thế này còn không hiểu sao? Giết người đền mạng mà, phải không?”

Dương Hạo gật đầu một cái, Trình Thế Hùng bèn nặng nề nói một câu: “A…phi! Có bao nhiêu người đã nằm dưới tay của Trình lão tướng ta, Phách châu chi phủ dám đến địa bàn của lão tử bắt người sao? Cho hắn mượn một cái gan đi! Ngươi chỉ cần lưu ý thế này, không thay tên đổi họ, họ cũng phải giả câm giả điếc. Sau này chỉ cần ngươi lập công, Trình lão ta đây sẽ viết một lá thư, gọi họ đến xóa án của ngươi, ngươi sẽ đi lại bình thường trong thiên hạ.

Cái gì gọi là Phiên trấn cơ chứ, cái này gọi là Phiên trấn. Khẩu khí thật lớn, uy phong thật lớn!

Dương Hạo vui vẻ vái chào, cung kính tạ ơn, nói: “Đa tạ Trình đại tướng quân, từ hôm nay trở đi, Dương Hạo cam tâm tình nguyện là quân tốt đứng trước ngựa trong quân bách chiến của đại nhân, phơi bày ruột gan, chết mà không hối hận

Dương Hạo nói xong những lời ấy, thì nghe thấy một âm thanh trong trẻo dịu dàng cười nói: “Được, một quân tốt đứng trước ngựa trong quân bách chiến. Trong thơ Hán Xương Lê có câu này, quân tốt trước ngựa vốn chỉ bị người ta thao túng, tình thế bi thảm, dùng ngươi một lát, có một loại phong thái dũng cảm là: “Nghĩa chi sở tại, tuy thiên vạn nhân ngô vãng hỹ!”

 Chương 135: Đêm tối tập kích doanh trại địch.

Dương Hạo nhìn lại, không khỏi giật mình, trước mắt người này tuy chính thức nói chỉ gặp qua một lần, nhưng muốn bảo hắn quên đi con người này thật không dễ, người này chính là lúc đầu ở Phách châu đã từng nói chuyện với vị này trong phòng Triệu huyện úy công Phách châu. Vị Trình Áp Tư này nay cũng mặc giáp y, bội kiếm bên mình, xem ra càng thêm khí khái.

Dương Hạo không biết hắn có biết án mình đã gây ra ở Phách châu hay không, nhưng Trình Đức Huyền đã cười, dường như không biết án mạng hắn gây ra ở Phách châu vậy, cũng chưa từng nghe chuyện hắn, Trình Áp Tư bước về phía trước, chắp tay làm quân lễ với Trình Thế Hùng: “Hạ quan đã nhìn phòng ngự sử Trình”.

“A, thì ra là Trình Đô đã đến”. Lão lang trung đó khó khăn lắm mới băng bó được cho hắn, Trình Thế Hùng vẫy tay, cười ha ha và đứng lên. Tuy nói chức vị của hai người còn kém nhau vài cấp, song Trình Thế Hùng là người hoàng đệ triệu quang nghĩa, nay lại nghe dùng ở bên Quan Gia, một chút lễ khi gặp mặt cũng cần lắm chứ.

Dương Hạo đứng một bên, nghĩ thầm: “Vị Trình áp tư này sao chưa về thành Biện Lương, nhưng lại chạy đến dưới thành Bắc Hán này, đô giám ư? Chắc muốn lên chức quan, nhưng không biết phải phụ trách việc gì đây.

Trình Đức Huyền chắp tay nói: “Quân gọi ta Tiểu Trình, tướng quân đây…bị thương rồi sao?”

“Hắc hắc, vết thương nhỏ, không đáng kể, như muỗi đốt thôi mà, Trình lão ta đây đang chờ mũi tên chuyển đến, mũi tên vừa chuyển đến, ta đây sẽ đích thân mang binh đi công phá thành, toà thành này như thép, ta đây cũng muốn gõ cho nó một cái”.

Trình Đức Huyền nói: “Hạ quan lần này đến, là theo lệnh của Quan Gia, tướng quân hãy tạm hoãn công thành”.

Trình Thế Hùng sửng sốt, hai hàng lông mày chụm lại, nói: “Trình đô giám, nhắc đến Quan Gia ở đây có ý gì, là không tin khả năng của Trình lão ta đây sao?”

Trình Đức Huyền bật cười nói: “Tướng quân không phải giận dữ như vậy. Hiện nay, các đường, người, ngựa tứ thành đều đã có người đi truyền dụ chỉ vây mà không tấn, hạ trại, đào hố cản trở ngựa, phòng ngừa quân thủ trong thành thừa cơ đánh lén, Quan Gia tự có con đường chiến thắng”.

“Ồ?” Sắc mặt Trình Thế Hùng lúc này mới dịu đi, nói: “Nếu như vậy, Trình lão sẽ phục lệnh đó”.

Trình Đức Huyền lúc này mới liếc mắt nhìn Dương Hạo một cái. Mặt cười mà như không cười nói: “Vị mã tiền tốt huynh này, hình như ta và ngươi đã từng gặp nhau ở Phách châu phủ nha. Ai chà…Ngươi xem trí nhớ của ta, không nhớ nữa rồi, không nhớ nữa rồi. Danh tính của ngươi là…”

“Tại hạ Dương Hạo. Vừa vào quân ngũ. Làm viêc dưới trướng của Trình tướng quân”. Dù Trình Đức Huyền hắn giả bộ không biết hay là có ý hạ mình xuống một cấp. Lúc đó Hạo chỉ có thể nói như thế mà thôi.

Trình Đức Huyền vỗ trán một cái. Bộ chợt hiểu ra sự việc: “Đúng rồi, ta có chút ấn tượng về ngươi, hóa ra là Dương huynh, vừa mới vào trong quân ngũ. Ta và ngươi từ nay về sau là chiến hữu trong quân đội rồi. Ha ha ha, đại tướng quân thật biết nhìn thấy giá trị của nhân tài. Dương huynh có thể làm việc thoải mái dưới trướng của Trình tướng quân rồi”.

“Đâu có, đâu có…” Dương Hạo khiêm tốn nói. Trình Đức Huyền bèn nói với Trình Thế Hùng: “Quân lệnh của đại tướng quân, hạ quan đã truyền đến, nay xin phép cáo từ”. Sau đó lại quay sang Dương Hạo cười nói: “Dương huynh, đợi chiến sự xong, ta ngươi nếu có duyên, bổn quan ra sẽ mời rượu ngươi”.

“Dạ không dám, không dám. Nên là tại hạ mời đại nhân mới phải”. Đợi đến khi Trình Đức Huyền cất bước đi khỏi, Trình Thế Hùng mới nói: “Hạo ca nhi, sao ngươi nhận ra người này?”

Dương Hạo nói: “Thuộc hạ khi ở Phách Châu, hắn đi quan sát thăm dò Phách Châu Tri phủ, nên đã từng gặp thuộc hạ một lần. Song, lúc đó hắn vẫn là áp tư phủ Khai Phong, nay sao lại trở thành đô giám rồi?

Trình Thế Hùng cười hắc hắc nói: “Một chức quan mà Quan Gia ban cho là thiếu suy nghĩ, ủy thác cho hắn, hắn tạm thời ở quân tiền tìm hiểu quân cơ, lo liệu quân lương mà thôi. Hạo ca nhi, ngươi và hắn không thân, Trình lão ta muốn khuyên ngươi vài câu, tên này có việc thì ba phần cười, vô sự thì cười ba phần, xem ra để không mất lòng nhau, nhưng người như này rất khó để qua lại, ngươi nay vừa mới vào làm việc, trước mặt những người này, nói chuyện hay làm việc cũng phải cẩn thận, thận trọng, không được dễ dàng nói rõ điều gì.

Dương Hạo vội nói: “Đa tạ đại nhân chỉ giáo, vừa rồi hắn chỉ khách khí với thuộc hạ mà thôi, làm sao có chuyện mời ta uống rượu. Hơn nữa, hôm nay Dương Hạo làm việc dưới trướng của đại nhân, cũng là một thành viên trong quân ngũ, đại nhân xưng hô với thuộc hạ có thể trực tiếp gọi tên họ, và tuyệt đối không nên khách khí như vậy, trong khi hành ngũ, hết thảy cứ như quân pháp, không phải nể tình, đó là sự chỉ giáo của đại nhân”.

Trình Thế Hùng cười hà hà nói: “Được, vậy chúng ta sẽ không cần tư tình, công tư phân minh. Nay Quan Gia hạ lệnh, vây mà không thay đổi, bổn tướng quân muốn triệu tập sở bộ, tiếp tục bố trí. Ngươi vừa đầu quân, mọi việc không quen, tạm thời làm một quân thân đi theo ta nghe ngóng”.

“Thuộc hạ tuân mệnh!” Dương Hạo chắp tay hành lễ, tuy không được đúng lắm nhưng cũng long trọng và nghiêm trang.

Trình Thế Hùng cười lớn quát: “Giáp lai!”

Lập tức có hai gã thân binh cầm mũ giáp, khoác lên người Dương Hạo, Dương Hạo lúc tuy nay là thân binh nhưng đến mũ giáp cũng không biết đội, bèn nhìn sang bên cạnh. Mũ giáp đội chỉnh tề, huýt sáo đeo bảo kiếm cẩn thận, lại đội cái mũ không vành cho hắn, mới vừa rồi còn là một tên Đại Hán thô lỗ bị chê cười nhạo báng, nay đã trở thành một quân thân, hắn liếc mắt nhìn tướng quân.

Dương Hạo nhìn, trong lòng dâng lên một cảm giác khó tả, nhưng phần nhiều là hàm ý kính trọng, đây mới là phong thái hàng ngũ chân chính, không biết đến bao giờ mới có thể như hắn.

Tướng quân thắng hàng trăm trận chiến, mình có một ngày có chiến công như vậy không?

Triệu Khuông Dận xử lý xong việc trong cái trại lớn có đội quân của hắn, thì có công văn quan trọng từ Khai Phong truyền đến, tiểu hoàng môn theo bên người lập tức dùng lụa vàng gói lại để vào một cái tráp, bên ngoài lại bọc bằng lụa vàng, trong tay một minh hổ, trên người là một cái dây được buộc chặt, Triệu Khuông Dận làm đại lễ, rồi sau đó quay người đi ra trại.

Ngoài trại sớm đã có chiến mã chờ, tên sứ giả dẫn ngựa đi, đi đến chỗ cánh cửa, lại có một cấm quân Đại Hán uy phong lẫm liệt ở đó, người nắm cương ngựa, tên sứ giả hô một tiếng, hơn trăm chiến sĩ nhất tề lên ngựa giơ roi ra, theo hắn phi ra doanh trại.

Triệu Khuông Dận làm vài động tác vặn người, suy nghĩ một lát rồi hỏi: “Trình Đức Huyền tới chưa?”

Một tiếng nói nhỏ bên tiểu hoàng môn: “Quan Gia, Trình Đức Huyền sớm đã ở ngoài trại rồi”.

“Bảo hắn vào đây!”

Trình Đức Huyền tiến vào, Triệu Khuông Dận nói: “Trình Đức Huyền, trẫm theo kế của ngươi, đã tạm hoãn công thành, nhưng bên ngươi bao lâu mới có thể hoàn thành?

Trình Đức Huyền cung kính nói: “Quan Gia, vi thần đã làm, khoảng mười ngày có thể chuẩn bị sẵn sàng”.

Triệu Khuông Dận lắc đầu: “Mười ngày…Trẫm không chờ lâu như vậy được, chỉ cho ngươi thời gian là năm ngày”.

Trình Đức Huyền buồn nói: “Quan Gia, việc lớn như vậy, thời gian năm ngày, sợ là khó mà chuẩn bị sẵn sàng. Hay Quan Gia nới rộng ra mấy ngày nữa”.

Triệu Khuông Dận mỉm cười nói: “Trẫm có thể ra hạn cho ngươi, thì ai ra hạn cho Trẫm đây?”

Trình Đức Huyền im lặng một lúc, nói: “Quan Gia nói…”

Triệu Khuông Dận lặng lẽ nói: “Sợ chuyện gì, đến chuyện gì, người Khiết Đan vẫn xuất binh”. Hắn gõ gõ vào tập sách, ánh mắt lộ vẻ phấn chấn: “Đến là tốt, người có cái nhìn sâu xa, mới xứng là đối thủ của Trẫm. Nay chúng ta muốn xem họ đến trước hay là Trẫm có thành Bắc Hán trước”.

Hắn quắc mắt đứng lên, trầm giọng nói: “Trẫm…điều cho ngươi ba nghìn kiện tốt, chỉ cho ngươi thời gian là năm ngày, trong năm ngày, ngươi phải chuẩn bị sẵn sàng, có thể tiêu diệt được Bắc Hán hay không đều nằm ở đây, nếu có được thành này, ngươi sẽ lập công đầu”.

Mặt Trình Đức Huyền lộ vẻ vui mừng, hắn lùi ba bước rồi quỳ xuống nói: “Vi thần sẽ lên đường ngay, bất luận như thế nào, trong vòng năm ngày sẽ đến phúc chỉ”.

Ba ngày.

Quân Đại Tống bỏ thói quen mỗi ngày thay nhau lập chiến công, ngày nào cũng thảnh thơi, đào móc chiến hào, chất đất củng cố tường, cắm cọc chặn ngựa, đóng cọc vào trại trại, xem ra như vậy, như họ từ Khai Phong nơi xa xôi đến không phải để công thành, ngược lại như chạy đến nơi này để trấn thủ doanh trại vậy.

Quân Tống làm như vậy, quân thủ thành càng lo lắng đề phòng, không biết quân Tống đang làm trò gì. Có người đề xuất với Hoàng Đế Lưu Kế Nguyên của Bắc Hán thế này, bất kể quân Tống có mục đích nào, họ ở đô thành Bắc Hán đóng quân tất có mưu kế, có thể phái binh đi phá hủy công sự và doanh trại của người Tống. Lúc này có người lên tiếng phản đối, đề xuất đến việc cũ là hậu châu thái tổ Quách Uy công thành giữa sông, nói Triệu Khuông Dận bắt chước kế của Hậu Châu thái tổ, ta không thể trúng gian kế của quân địch, cứ an tâm thủ thành, chờ người Khiết Đan viện quân.

Lưu Thị là hậu duệ của người Sa Đà, người Sa Đà lúc đầu từng là lính đánh thuê của Đại Đường, nhiều lần nhận sự chiêu mộ của Đại Đường nam chinh bắc chiến, thay Đại Đường sát phạt thiên hạ, cuối cùng lại hung ác táng tống Đại Đường, gây họa cho Trung Nguyên mấy chục năm, ngược lại hôm nay Lưu Tri Viễn sinh trong thâm cung, lớn lên trong vòng tay của phu nhân, dù không có dũng võ của tiên tổ, không có trí tuệ của tiên tổ, ý kiến của đại thần hắn nghe tai này ra tai kia, bản thân không có một chút chủ ý quyết đoán, cuối cùng bèn chọn kế chiết trung, lệnh đại tướng Lưu Kế Nghiệp đêm tối tập kích doanh trại quân địch, quấy nhiễu quân Tống.

Lưu Kế Nghiệp là đệ nhất danh tướng của Bắc Hán, hắn vốn họ Dương, gọi là Dương Trọng Quý, Lân Châu Dương Trọng Huân là một trong những thế lực hai Phiên trấn lớn tây bắc, là em ruột của hắn. Dương Thị vốn theo về với Bắc Hán, nhưng đợi đến khi Đại Tống quật khởi, thế lực có thể sánh với tây bắc, Dương Trọng Huân liền đầu quân vào Đại Tống, mà huynh trưởng của hắn Dương Trọng Quý trái lại lại đầu quân vào Bắc Hán, và nhận quốc họ mà Hoàng Đế ban thưởng, sửa lại thành Lưu Kế Nghiệp.

Lưu Kế Nghiệp xưng danh tướng quân vô địch ở Bắc Hán, đây là một danh hiệu đến từ trận đấu giữa người Khiết Đan và hắn. Đừng xem Bắc Hán một khi có việc thì có người Khiết Đan nhất định đến viện, đó là vì lợi ích của chính người Khiết Đan, khi Đại Tống chưa phát binh đánh Bắc Hán, Bắc Hán và người Khiết Đan đã thường xuyên phát sinh chiến trận, cái này trong chiến đấu có quy mô nhỏ,

Lưu vô địch tự biết khí phách lòng quân không thể dùng, nay vẫn đau khổ chống đõ, toàn vì các sĩ tốt vẫn mong muốn một hy vọng cuối cùng: “Khiết Đan xuất binh. Lúc này thủ thành, quấy nhiễu quân địch với những chuyện vô bổ, một khi thất bại, còn muốn dựa thêm vào sự hao tổn. Nhưng thánh chỉ đã truyền, hắn trái lại không dám không tuân lệnh, đành phải trở về mang ra 600 tên võ sĩ kiêu dũng thiện chiến mà hắn đã chọn tuyển tỉ mỉ cùng với trường thương, người và ngựa, chờ đêm khuya tĩnh lặng, đánh úp doanh trại địch.

 Chương 136: Còn kém ba đao.

Tối hôm đó, Dương Hạo đang luyện đao dưới ánh trăng

Một góc của doanh trại là nhà bếp, lúc này ánh trăng sáng như gương, củi chất đống ở khoảng đất trống cao như núi, Dương Hạo cầm lấy một cái cọc dựng đứng nó trên mặt đất, hai tay cầm đao, nín thở, huơ đao chém xuống, lực chỉ có bảy phần, cọc gỗ phát ra một tiếng vang “Bang”, cọc tách ra làm đôi, mũi đao cách mặt đất chỉ có ba tấc.

Trên tay hắn gân đã nổ lên, giờ hai bàn tay đều đã quấn vải. Cánh tay hắn khi vừa vung lên thì đau nhức, nhưng hắn vẫn cắn răng chịu. Hắn giờ đã mất đi cơ hội một bước lên trời, hy vọng dựa vào chính sức lực của mình, con đường sự nghiệp của hắn sẽ thành công.

Trong doanh trại này, vũ lực tối thiểu cần có là phải tự bảo vệ, cùng với chiến sự, đại tướng quân thân còn chưa lo được, ai đến lo cho mình? Lúc đó hắn có tài kinh bang tế thế cũng bị binh đại đầu cho một nhát đao là chết. Cần có sức mà tự bảo vệ mình, dựa vào thân phận của hắn hiện nay, không thể có thân binh bảo vệ, vậy cần nắm được lực lượng quân sự nhất định. Mỗi ngày chém năm trăm nhát đao là nhiệm vụ mà hắn tự giao cho mình.

Mỗi ngày ở bên Trình Thế Hùng, học hắn cách lo liệu quân vụ, học hắn cách xét hỏi tuần doanh, học hắn cách giao tiếp như thế nào với lũ binh đại đầu… Đêm khuya, hắn tới bên cạnh nhà bếp, làm nghĩa vụ bổ củi. Năm trăm nhát đao, nghe tưởng dễ, nhưng khi thực hiện, hắn mới biết, năm trăm nhát đao này, mỗi nhát đều ngưng tụ tinh thần và khí lực của hắn, vận dụng cách môn hạ vận lực mà Trình tướng quân chỉ bảo, cần tiêu hao biết bao sức lực, nhưng hắn vẫn kiên cường, không quản mưa gió, tối qua mưa tầm tã, năm trăm đao trong mưa như con chó chết bò về ổ chó ngủ.

“Soạt! Bốn trăm chín mơi bảy…”

Lưng của Dương Hạo cong xuống đau nhức, vừa dựng thẳng một cái cọc gỗ, lấy đao cắm xuống đất nghỉ tạm. Mỗi một đao, hắn đều không muốn tùy tiện chém xuống, hắn cần phải vận khí một cách chính xác rồi mới xuất đao, năm trăm đao, mỗi đao đều không thể không chấp hành theo cách Trình tướng quân dạy, tuyệt đối không lãng phí một đao, tuyệt đối không lơ là một chút khí lực.

Hắn lại một lần nữa giơ đao lên, thân hình vững như núi, hai tay nắm lấy đao, mũi đao nhẹ nhàng nâng quá đỉnh đầu, ánh mắt tựa hư mà thực, chằm chằm nhìn cây cọc gỗ ấy.

Ánh sáng mặt trăng sáng loáng trên mũi đao, như nước chảy bấp bênh, 497 nhát đao chém xuống, hắn giữ đao ổn định trong tay đã vô cùng mất sức rồi.

Đúng lúc đó. Hắn đột nhiên nghe thấy một âm thanh ồn ào. Yên lặng lắng nghe. Dương Hạo bước nhanh lên phía trên, nhìn về đống củi xa xa. Chỉ nghe thấy tiếng chém giết từ phía bắc truyền đến. Tiếng kim loại không ngừng bên tai, lòng hắn không khỏi lo lắng: “Quân Bắc Hán tập doanh, bọn họ đêm hôm đánh úp doanh trại phía bắc, là để đả kích tinh thần quân sĩ Tống ta, hay định chọc thủng vòng vây, chạy về hướng thảo nguyên chăng?

Lúc này trong doanh trại chuông cảnh báo đã vang lên. Trình Thế Hùng cũng nhanh chóng từ trong trại lớn đi ra. Trình Thế Hùng trị quân có cách của hắn, quân biên không được trang bị bằng cấm quân. Thoạt nhìn cao thấp mập ốm. Không giống với cấm quân, ai ai cũng đều là đại hán dũng mãnh có cùng chiều cao. Nhưng mọi năm phòng thủ chịu rét chịu khổ. Sức chiến đấu và kinh nghiệm chiến đấu của họ trái lại ngang ngược hơn so với cấm quân bất bại trong chinh chiến Trung Nguyên. Đặc biệt là lọ vừa mới bị điều lên một tuyến. Tinh lực sĩ tốt dư thừa. Sớm đã chuẩn bị ứng biến tốt. Trong doanh trại yên tĩnh. Không có tiếng ồn nào.. Dương Hạo vội vã trở về, nơi đó ngược lại trở thành nơi yên tĩnh. Nhìn thấy doanh trại trật tự ngay ngắn. Dương Hạo không khỏi xấu hổ.

Trình Thế Hùng biết hắn ở sau doanh trại luyện đao. Thấy đầu hắn mồ hôi nhễ nhại chạy tới liền không trách cứ. Ngược lại còn an ủi nói: “Không cần phải lo sợ. Càng gần việc lớn, càng phải bình tĩnh.

Ngươi vừa mới nhập ngũ. Đợi đánh được vài trượng, nếu lại nghe thấy tiếng kêu thì phải giữ bình tĩnh”.

Hắn leo lên đài vọng thăm dò xem trận ở phương bắc. Ở đây do có một góc thành trì che chắn. Chỉ có thể mơ hồ nhìn thấy thành bắc, phương hướng thì ánh lửa bập bùng. Tiếng giết rung trời. Trình Thế Hùng nói: “Quân Bắc Hán tập kích đêm đóng quân ở thành bắc. Thành bắc là quân bộ cấm quân do Triệu tướng quân coi giữ . Người này kiêu dũng thiện chiến. Cơ trí đa mưu. Quân Bắc Hán chưa chắc bỏ qua.

Dương Hạo là thân binh của hắn thì sẽ theo hắn, hắn hỏi: “Tướng quân. Chúng ta không cần phái binh qua chi viện sao?

Trình Thế Hùng nói: “Bóng đêm tối mù, tình địch không rõ, há có thể hành động khinh suất. Một khi trúng kế điệu hổ ly sơn, hoặc kế sở dụ mai phục thì làm sao? Ngươi nhớ kĩ, nhưng phàm là loại ban đêm tập kích doanh trại, tất cả doanh trại không thể phó viện cẩu thả, mặc dù bắt được tín hiệu viện trợ bị tập kích doanh trại cũng phải rất cẩn thận, tất cả doanh trại hô ứng mà đi. Quân địch phá doanh trại thành công, cũng chỉ có một doanh trại bị loạn, nếu trận cước tự loạn, vội vàng phó viện, một khi trúng kế địch, vậy thì sẽ thua thê thảm, không thể có đường sống nữa.

Dương Hạo kính cẩn thưa: “Vâng, thuộc hạ xin thụ giáo”.

Tiếng chém giết, giằng co ở thành bắc trong khoảng thời gian không đến hai nén hương thì yên tĩnh trở lại, sau đó doanh trại phòng ngự thành bắc đã phát hiện quân địch đã có tín hiệu chiêng trống rút lui. Đánh lén chính là đánh nhằm lúc đối phương không chú ý, một khi đối phương đã chuẩn bị hoặc ứng biến kịp thời thì điều kiện đánh lén cũng mất đi, một tướng lĩnh sáng suốt ngay lập tức sẽ lui binh mà không phải thay đổi cuộc chiến đánh lén thành trận quyết chiến.

Trình Thế Hùng cười ha ha, ngáp dài nói: “Đồ ranh con, chúng ta không đi công thành, bọn chúng còn nhàn nhã đi đánh lén, haiz…cởi áo giáp về ngủ đi".

Dương Hạo theo hắn bước xuống một cái thang, trở về doanh trại của chủ soái, lúc này hắn đã nắm được các bộ phận tạo thành áo giáp cùng cách mặc nó, hắn thấy Trình Thế Hùng bỏ mũ bỏ áo khoác, bèn nói: “Mới vừa rồi tin cảnh báo đột nhiên truyền đến, thuộc hạ thấy cảnh tấn đến từ bắc thành, còn phỏng đoán quân hán phải chăng nhân đêm hôm phá vòng vây chạy về phía thảo nguyên, nay thấy mục đích của chúng là muốn nhiễu loạn tinh thần của quân ta, tướng quân không lo chúng sẽ lại tập kích doanh trại ta sao?”

Trình Thế Hùng nói: “Đêm hôm tập kích, loại này nhằm lúc đối phương không để ý đánh, một khi bị người ta biết tỏng âm mưu quỷ kế thì không thể đánh được nữa. Tình cảnh này xem ra quân địch nửa đêm đánh úp không phải là vì muốn phá vòng vây mà là để làm nhiễu loạn tinh thần quân sĩ ta, hắc! nay các doanh trại đã có sự đề phòng rồi, bọn chúng còn dám trở lại nữa không? Ngươi cũng đi ngủ đi”.

Dương Hạo nói: “Dạ vâng, mời đại tướng quân đi ngủ trước, thuộc hạ đã lệnh cho mình mỗi ngày phải bổ đủ năm trăm nhát đao, hôm nay còn kém ba đao”.

Trình Thế Hùng bật cười nói: “Nhưng ba đao ấy hôm nay có thể bỏ qua, đi ngủ đi”.

Dương Hạo hơi do dự nói: “Ngày nào cũng luyện đao, thuộc hạ nếu hôm nay với lí do là vì một người mà thiếu đi ba đao, thì ngày mai sẽ có một lí do khác để giảm đi mười đao, càng ngày càng giảm xuống, cuối cùng sẽ không thực hiện được nhiệm vụ mình đề ra cho mình, cho nên số đao chỉ có thể tăng lên mà không thể giảm đi”.

Trình Thế Hùng ngạc nhiên nhìn hắn một cái, cười ha ha nói: “Tiểu tử tốt, được lắm, vậy ngươi đi đi, luyện xong đao thì đi ngủ sớm đi”.

Lúc này, đại tướng phương bắc Lưu Kế Nghiệp đã lặng lẽ tập trung 600 tên kỵ binh tinh nhuệ bên trong cánh cửa. Hai mươi tên bắn nỏ đã được phái ra ngoài, bọn chúng ẩn mai phục, có nhiệm vụ là bắn chết binh ở trạm canh gác phòng thủ của doanh trại Trình Thế Hùng.

Chân tướng mục tiêu mà hắn đêm nay đánh úp không phải doanh trại phía bắc mà là doanh trại phía tây. Trong bốn doanh trại ngoài thành, chỉ có doanh trại phía tây không phải do cấm quân khống chế mà là trong tay nắm chiết thị tây bắc, hơn nữa quân đội của họ vừa mới đổi lại phòng ngự ra trận, tinh thần, lòng quân, sức chiến đấu chưa từng chịu nhục, không phải là trận mạnh nhất, điều này cũng chính là một trong những nguyên nhân mà Trình Thế Hùng phỏng đoán hắn sẽ không đến.

Nhưng Lưu Kế Nghiệp cứ làm ngược lại với cách của đối phương, trong con mắt của hắn, tinh thần của doanh trại phía tây đang thịnh cho nên không chú ý đến đề phòng, điều này chính là một cơ hội tốt để đánh úp. Nếu đánh úp doanh trại phía tây mà thành công thì triều đình sẽ trách sự lơ là mất cảnh giác của doanh trại phía tây, để địch nhân cơ hội. Mà doanh trại phía tây thuộc về Chiết thị, bọn quân sĩ tất cũng sẽ oán trách binh mã triều đình thấy chết mà không cứu. Bọn chúng một khi mà rời trung tâm, binh mã vây thành sẽ không là một khối đá nữa, Bắc Hán sẽ có cơ hội, Lưu vô địch chính là vô địch, không phải binh của hắn kiêu dũng với người Khiết Đan, cũng không phải là hắn lấy võ công để đánh với vạn địch, mà chính là vì mưu lược cùng chiến thuật của hắn.

Vờ đánh úp doanh trại phía bắc, khi các doanh trại đều bỏ sức chú ý, hai mươi tên thần tiễn dưới tay hắn đã lén lút che đậy nơi dừng chân của Trình Thế Hùng hướng về doanh trại phía tây ngấm ngầm bắn chết các tên ở vọng gác, rửa sạch cự mã lộc sừng, làm tốt công tác chuẩn bị để kỵ binh của hắn đột ngột đánh úp.

Phía trước hết thảy đã chuẩn bị sẵn sàng, phát ra hỏa tín hiệu về phía hắn, Lưu Kế Nghiệp lập tức mở to cửa thành, đích thân dẫn 600 tráng sĩ nhanh chóng tiến đến đại doanh trại của Trình Thế Hùng như vũ bão.

Dương Hạo vừa mới đi tới đống củi bên cạnh doanh trại, giơ cây đại đao lên, tiếng chém giết từ phía trước doanh trại truyền tới, Dương Hạo giật mình, cầm đao nhanh chóng chạy về phía doanh trại chủ soái, thì thấy y bào của Trình Thế Hùng nửa hở, đang thắt lại dây đai, chạy từ trong trại chạy ra.

Hắn đoán tối nay quân địch sẽ không đánh úp lần thứ hai nữa, cởi sạch quần áo, trong áo bào còn chưa mặc quần áo bên trong, nửa thân ngực còn phơi ra để rõ chút lông ngực, xem ra Trình tướng quân vẫn buồn ngủ. Hắnđi giày, song dây tất vẫn chưa thắt, khăn trên đầu cũng đã bỏ đi, tóc tai bù xù, dáng vẻ giống như vừa mới bị một phu nhân sư tử hà đông đuổi từ trên giường xuống.

Trước doanh trại đã dấy lên ngọn lửa, bởi trung sĩ trong doanh trại lớn vì quân Bắc Hán đánh lén thành bắc không có kết quả đã luông lỏng cảnh giác, cho nên chiêu này của Lưu Kế Nghiệp “Hồi mã thương”, quả thực ứng phó không kịp. Họ vừa mới cởi bỏ áo giáp, nay lại vội vàng mặc vào, chờ đến lúc nhắc đao ra khỏi doanh trại, kỵ binh Bắc Hán đã đánh tới như vũ bão, khắp nơi lửa cháy nghi ngút, đến chiếc xe cỏ cũng bị thiêu trụi, khiến cho doanh trại đại loạn.

Trình Thế Hùng vì bản thân sai lầm khi liệu việc, tức điên người lao ra khỏi doanh trại, vội vàng thắt chặt áo bào, tiếng như xé gió: “Quân địch đánh úp?”

Sớm đã có người đến trước vài bước, quỳ gối bẩm: “Khởi bẩm đại tướng quân, mấy trăm kỵ binh quân Bắc Hán đêm hôm đánh úp quân ta, ngựa dẫm đạp lên các doanh trại, giống như muốn xuyên qua doanh trại phía trước, giết thế trận của đại tướng quân, xin mời đại tướng quân định đoạt”.

Trình Thế Hùng hét lớn: “Địch vừa đến chỗ ta, ta sẽ nghênh địch đi, chuẩn bị ngựa, theo ta giết địch”.

Một thân quân vội vàng khuyên nhủ: “Đại tướng quân, trước doanh trại hỗn loạn, ta địch khó phân, trong bóng đêm không thể liều lĩnh được, chi bằng chúng ta bảo vệ thế trận cũ, xin đại tướng quân nhanh chóng điều động các doanh trại đến viện trợ”.

Thân binh vội vàng nói, Trình Thế Hùng mắng hắn, rồi nhảy lên một con chiến mã, cây đuốc sáng rực, chỉ thấy hắn râu tóc như bay, hai mắt long sòng sọc, tiếng hét như sấm rền vang trời: “Theo ta giết địch!” Dứt lời liền cầm cương ngựa, xung trận về phía trước doanh trại, nơi ánh đèn và sự chém giết.

 Chương 137: Chiến sĩ.

Thân binh vừa nhìn thấy Trình đại tướng quân ra ngoài chém giết thì như ong vỡ tổ xung trận về phía trước doanh trại. Thân binh đều là dũng sĩ mà Trình Thế Hùng đích thân tuyển chọn. Ai cũng là người không sợ chết, trong đó có vài tên là giang hồ đã gác kiếm. Sau đó được Trình Thế Hùng chiêu mời đến.

Dương Hạo cầm đao theo đám thân binh tiến ra ngoài phía trước doanh trại. Nhưng trong lòng lại nghĩ: “Mới vừa rồi ngươi còn nói đêm tối đen thui, tình địch không rõ, không thể tự loạn trận cước được. Chưa từng nghĩ lời này có thể cầm ra để giáo huấn người khác. Đến cái đầu của bản thân như vuốt râu hổ. Trình đại tướng quân đánh nhau như vậy kể ra cũng lỗ mãng thật”.

Theo một vị tướng quân như này, hắn cũng không biết họa hay là phúc. Lúc này không rảnh suy nghĩ nhiều, chỉ lo phóng về phía trước, đợi hắn xông vào doanh trại phía trước, chỉ thấy Trình Thế Hùng đại kích huy vũ. Đã đánh chết bao nhiêu bọn kỵ sĩ đánh úp. Hắn lớn tiếng quát tháo. Móng chiến mã chồm lên phía trước. Hí một hồi dài. Đại kích trong tay hắn đã chọc trúng một kỵ sĩ trong quân địch.

Tên kỵ sĩ nọ tay bị thương, đau nhức ở huyệt đan điền. khẽ nói: “Mở”.

Chỉ nghe thấy một tiếng “leng keng”. Thương kích tương giao. Đại kích của Trình Thế Hùng bật ra. Với thần lực của Trình Thế Hùng, ít ai chịu được một đòn của hắn. Tên này lại có thể chặn được đòn đại kích của hắn. Trình Thế Hùng không khỏi kinh ngạc. Giờ hắn mới gặp một tên địch mạnh như vậy.

Tên địch này chắc chắn là Kế Nghiệp. Lưu Kế Nghiệp dùng một cây đại thương, suất 600 tên kỵ sĩ lao như mưa vào doanh trại quân địch. Thừa lúc tướng sĩ trong doanh trại Trình Thế Hùng không kịp phản kích liền phi ngựa dẫm lên các doanh trại. Khắp nơi phóng hỏa làm hỗn loạn. Tiến đến giết chủ soái trong doanh trại phía trước. Mục đích của hắn là bắt tặc bắt tướng. Nếu như không thực hiện được mục đích này, không giết nổi chủ tướng chủ soái của đối phương thì cũng phải làm cho quân chủ soái bị nhiễu loạn, khiến cho chủ soái không thể chỉ huy được nữa. Lúc đó cho dù quân địch người đông thế mạnh, trong đêm tối mù mịt không ai có thể điều độ chỉ huy, sẽ biến thành một toán tan rã. Chiến lực theo đó mà tan. Lúc đó quân địch dù có mười vạn tên cũng như một đám đợi làm thịt. Còn có thể ngăn cản nổi hắn một con sói liều chết sao?

Không ngờ hắn vẫn chưa phá tan được quân cuối cùng trước doanh trại. Trong bóng đêm có một tên Đại Hán thúc ngựa phi như bay đến. Phát ra tiếng hò hét kinh thiên động địa từ xa, lập tức giữ quân sĩ khắp trại hỗn loạn. Quân Tống hoảng loạn, dưới sự chỉ huy từ tướng lớn đến tướng nhỏ tổ chức lại thành sự phản kháng. Đại hán sử kích lại càng bổ thẳng đến. Cây đại kích trong tay đâm vào những tên dũng sĩ đánh úp. Lưu Kế Nghiệp thấy tên này rất có kĩ thuật đánh. Hơn nữa một tiếng hét lớn có thể làm ba quân ngưng lại. Hắn là chủ tướng của quân này. Trình Thế Hùng lập tức đề mã nghênh đón. Hai người đánh một trận lâu.

Một tốp thân binh chạy từ doanh trại chủ soái tới. Lưu Kế Nghiệp và Trình Thế Hùng một nhát kích một nhát thương. Đã được mấy chục hiệp. Lúc này tình hình xung quanh đối với phía Lưu Kế Nghiệp mà nói càng đánh càng không có lợi. Lần này đánh úp tuy làm loạn doanh trại thành công. Nhưng không thể làm loạn trận thế của quân địch. Quân của Trình Thế Hùng lúc này vẫn vững vàng như núi, hỗn loạn đang dần dần lắng xuống, người ngựa trong doanh trại đang từ từ tới gần đây. Thế ám hình hợp vây đến trận đánh úp này đã mất đi ý nghĩa vốn có của nó.

Nếu như Lưu Kế Nghiệp có thể ám sát Trình Thế Hùng, thì cái chết của Trình Thế Hùng sẽ khiến cho doanh trại thành tây từ ổn định trở nên hỗn loạn. Nhưng hắn không phải là đối thủ của Trình Thế Hùng. Nói về mưu lược, hắn mạnh hơn Trình Thế Hùng. Nói về võ nghệ, cây đại thương của hắn so với cây đại kích cử trọng của Trình Thế Hùng. Rõ ràng là kém một bậc.

“Thôi đi, lại xuống nữa, toàn bộ 600 tráng sĩ sẽ chôn vùi ở doanh trại này”. Lưu Kế Nghiệp thầm than cơ hội đã mất, hắn hoảng loạn trèo lên ngựa đi. Cao giọng hét lớn: “Các huynh đệ binh sĩ, theo ta quay về doanh trại”.

Lưu Kế Nghiệp giật đầu ngựa đi về. Võ công của hắn, hơn nữa lại có con chiến mã tốt. Thật không có mấy người ngăn nổi hắn. Nhưng những kỵ sĩ mà hắn mang đến đã bị sĩ tốt của quân Tống ghìm chân. Nào nói đi là đi ngay, Trình Thế Hùng thấy hắn bỏ chạy, nào chịu thôi. Vội vàng đi theo sau hắn.

Lúc này trước doanh trại là bức tranh hỗn chiến. Dù trên chiến trường trận đấu kịch liệt. Nhưng đối với Dương Hạo lần đầu lên chiến trường mà nói, đã khiến hắn vô cùng bị chấn động.

Hóa ra đây là chiến trường. Người giống như dã thú vung đao múa thương. Tròng mắt đỏ ngàu liều mạng chém giết. Nào thì run sợ, nào thì máu tanh, nào thì cảnh tàn khốc, nếu không đặt mình trong cảnh tượng đó thì khó mà cảm nhận được

Hắn giết người, giết hai mạng người, hơn nữa là một đao mà chết. Nhưng so với hiện nay, quân Bắc Hán và Tống cùng chém giết nhau, không khác gì giết gà giữa ban ngày ban mặt. Trong lúc phẫn nộ giết người và đối thủ bị tiêu diệt tàn khốc trên chiến trường lạnh lẽo vốn hoàn toàn khác nhau. Khó trách Tần Vũ Dương mười hai tuổi giết người không ghê tay. Nhưng đến Tần Vương đại điện sắc mặt trái lại tái nhợt. Luống cuống hốt hoảng. Hắn không sợ chết, và không phải hắn chưa từng thấy dân chợ búa chịu cái chết giữa mặt phố.

Hàng vạn hàng nghìn sĩ tốt hò hét chém giết. Hàng trăm tên dũng sĩ quơ đao kiếm bên người hắn. Đầu lâu và máu quân định la liệt, làm cho Dương Hạo lần đầu ở chiến trường chán nản. Hắn nhìn thấy những đồng đội của mình lăn xuống ngựa, liều mạng với những dũng sĩ quân Bắc Hán, nhưng không nên xông lên như thú vật nuốt chửng lấy quân địch thế này.

“Mau tránh ra”.

Dương Hạo đứng cầm đao. Sợ hãi xem cảnh tượng không lãng mạn, không bi tráng trước mặt. Toàn là máu tanh cùng những trận chém giết điên cuồng. Bỗng nhiên chân hắn trượt một cái. Cái trượt này lực vô cùng lớn, khiến cho người Dương Hạo lăn ra chỗ khác, lúc hắn ngã xuống thì thấy một ánh sáng sắc lạnh chợt lóe. Khó khăn lắm hắn mới đứng thẳng được.

Là thân vệ Thạch Song của Trình Thế Hùng. Thạch Song hơn hắn không nổi vài tuổi. Khuôn mặt đầy đặn nhưng giống một đồ phu gần bốn mươi tuổi. Bình thường cũng ít nói cho nên Dương Hạo tuy cũng là thị vệ nhưng không thân với hắn. Không ngờ vào thời khắc quan trọng lại là hắn cứu mạng Dương Hạo.

Thạch Song nhìn thấy hắn giơ đao đứng ở chỗ đó nhìn ngang nhìn ngửa. Có dáng vẻ thấp thỏm. Thật không có gì mà trách cứ cả vì người vừa mới vào chiến trường phần lớn đều như vậy, nhưng chỉ cần bò ra từ trong đống người chết một lần thì lần sau lại lên chiến trường. Hắn sẽ từ một tên trông cửa cho chó thành một con sói thảo nguyên.

Hắn đang đánh giáp lá cà với địch. Thấy một tên cầm đao quân Bắc Hán lăn xuống ngựa bổ một nhát mạnh vào Dương Hạo, bèn vội vàng đến trước một bước, một chân đá văng Dương Hạo ra, cứu lấy cái mạng của tân binh mới này. Nhưng cái chân đó của hắn không kịp nhận thế. Cương đao tàn nhẫn của chiến sĩ Bắc Hán bổ trúng, hắn đau đớn kêu lên một tiếng, người đổ phía trước.

Một vài tên Bắc Hán cưỡi ngựa đánh úp, người người cưỡi tuấn mã, mặc áo giáp, tay cầm cung tên. Đao để bên sường, còn tay kia cầm trường thương. Trên ngựa dùng thương, xuống ngựa dùng đao. Bắn tên từ xa. Thân mặc áo giáp. Để tận lực bảo vệ lực lượng tinh nhuệ của bản thân, Lưu Kế Nghiệp có thể được coi là hao tổn bao tâm sức, trong tình cảnh trứng chọi đá ở trong thành Bắc Hán, bọn chúng được trang bị đầy đủ như vậy để đánh vũ trang, hắn đã dốc hết lực lượng lớn nhất của mình.

Nhưng mà hắn thực sự đánh giá sai phản ứng của Trình Thế Hùng, và cũng không ngờ rằng quân nhân mã của Trình Thế Hùng lại nghiêm ngặt như vậy. Sau khi đánh úp thành công không thể tạo thành bùng nổ doanh trại vì dựa vào tiếng tăm của Trình Thế Hùng chỉ một tiếng thét đã khống chế được thế loạn, do vậy khả năng sống sót của hàng trăm chiến sĩ quân hắn cực kỳ nhỏ bé.

Nhưng những con hổ mà Lưu Kế Nghiệp mang đến đều là những dũng sĩ dám chết. Võ sĩ lúc nãy bổ một đao trúng vào chân của Thạch Song. Nhân lúc người hắn ngã quỵ đổ về phía trước liền xông đến một bước. Đao trong tay thuận thế vung lên, một tiếng “Phốc” chặt đứt cánh tay của hắn.

Chưa từng nói một tiếng cảm ơn với hắn, chưa từng có một khuôn mặt tươi cười hữu hảo khi nhìn thấy hắn. Chiến hữu ấy cứu cái mạng của hắn, đến một tiếng cảm ơn hắn cũng chưa nói thì đã chết, Dương Hạo ngây ra: Đây là chiến trường tàn khốc, nhưng ai nói nó không bi tráng và lãng mạn? Sau những vết máu tanh kia, trong những cái tàn nhẫn của quân địch ai bảo không có một tình nghĩa huynh đệ nồng đậm tình đồng chí?

Mắt hắn đỏ dần lên, các chiến sĩ dùng hết mọi thủ đoạn liều mạng mà giết địch. Lộ ra sự điên cuồng của máu tàn nhẫn. Hắn hét lớn một tiếng, vung đao nhằm hướng tên võ sĩ Bắc Hán kia bổ đao xuống. Trong lúc nổi giận điên cuồng, cả người hắn toàn máu là máu. Cái chết của Thạch Song tựa như một lượng sát khí và dũng khí cực mạnh cho hắn. Bổ một nhát đao xuống hắn hét lớn một tiếng, như điên cuồng vậy.

Nhưng trong tâm hồn hắn vẫn bảo trì một con đường rõ ràng. Vẫn nhớ như in một câu của Trình Thế Hùng nói với hắn: “Thế không thể dùng mãi, phúc không thể hưởng mãi, cái lợi không thể chiếm hết. Làm việc là một đạo lý, dùng đao giết người cũng như vậy, mỗi nhát đao ngươi đều cần chú tâm tập trung tinh thần. Nhưng mỗi nhát đao đều phải lưu lại ba phần, lúc xuất đao thu đao cũng phải nhanh. Thế đao liên miên như cuồng phong bạo vũ. Khiến đối thủ đến thời gian thở cũng không có”.

Dương Hạo trong lòng nhớ kỹ những lời dặn dò của Trình Thế Hùng. Giờ cái gì là đao pháp cao minh cũng không cần hiểu. Khí của bản thân không được coi là cao minh. Sự dũng mãnh, khí huyết trong lúc phẫn kích, hắn ghi nhớ cách dùng đao vận lực mà Trình Thế Hùng dạy. Một đao bổ xuống, đúng là đằng đằng sát khí. Đao pháp sắc bén. Tên võ sĩ đó của Bắc Hán bị hắn đoạt được tiên cơ, hắn lên một đao, xuống một đao, phải một đao, trái một đao. Bổ liên tiếp, không ngừng xuống. Tên đó đã mất tay, Dương Hạo chém xuống một đao, “Phốc” một tiếng, đầu người bay lên, một dòng máu tươi phun cao hai thước.

Máu nóng phun lên mặt. Hắn thò tay vuốt một cái, bèn quát to một tiếng. Cương đao giơ lên hơi cong, rồi xông ra phía sau chiến sĩ Bắc Hán giơ đao lên. Bổ mạnh xuống một nhát đao giống như bổ cây dọc đường. Một âm thanh phát ra, tách cột sống của tên chiến sĩ Bắc Hán ra làm đôi, nhát đao cách đốt sống đuôi của tên đó chỉ có ba tấc.

Quân Tống đó bị hắn cho một nhát đao hung mãnh. Trong ánh lửa hừng hực chỉ thấy mặt mũi Dương Hạo dữ tợn đầy máu me.

Còn về Trình Thế Hùng, hắn theo sát đại doanh của Lưu Kế Nghiệp. Ban đầu còn có vài tên thân binh muốn đuổi theo. Kết quả địch ta bị hỗn chiến, mất đi bóng dáng chủ tướng. Sau khi Trình Thế Hùng đoán rằng quân địch sẽ không đánh úp nữa bèn yên tâm không lo lắng gì. Kết quả lại bị quân Lưu Kế Nghiệp đánh lén. Thực sự mà nói, các bộ hạ của hắn đã cho hắn một cái bạt tai để sáng mắt ra. Trình Thế Hùng vừa xấu hổ vừa giận. Phẫn nộ vì giá trị của mình đã giảm. Hắn đuổi theo sau ngựa của Lưu Kế Nghiệp, chỉ muốn giết tên đại tướng kia.

Ngựa của Lưu Kế Nghiệp đi được nửa đường thì ngoảnh đầu nhìn lại. Không một binh một tốt nào được hắn mang về. Tóc tai rối bời. Trình Thế Hùng trường kích cầm trong tay, đuổi đến tận cùng, lại còn kêu u..wa… Lưu Kế Nghiệp tức giận. Hắn giật cương ngựa quay lại tái chiến với Trình Thế Hùng. Giao tranh hơn mười hiệp, vai phải của hắn bị Trình Thế Hùng dùng trường kích đâm thủng một lỗ. Lưu Kế Nghiệp giật cương ngựa tháo chạy. Chạy tới dưới tường thành, phía trước lại là chiến hào cự mã vừa rộng vừa sâu. Lưu Kế Nghiệp xoay người xuống ngựa. Bỏ ngựa nhảy xuống chiến hào.

“Bỏ chạy à. Đánh một trận xem nào. Mẹ kiếp. Lại còn vượt vào chiến.

Khí phách trong lòng Lưu Kế Nghiệp là vô địch. Thế nhưng đánh đơn chính là sở trường của Trình Thế Hùng. Mới vừa rồi giao đấu, hắn đã biết võ nghệ của mình không bằng Trình Thế Hùng. Huống chi lúc này lại bị thương, nhảy xuống dòng sông bảo vệ thành. Bơi đến chân thành. Kêu lên để cứu trợ.

Trình Thế Hùng đương nhiên sẽ không bơi qua sông bắt hắn. Chỉ đứng trên bờ sông mà chửi.

Quân thủ đầu thành Bắc Hán nghe thấy tiếng kêu ở dưới thành lập tức chưng đèn đuốc lên. Nhưng nhìn không rõ người dưới chân thành, tên tướng lĩnh từng biết Lưu Kế Nghiệp cũng không nhận ra âm thanh quen thuộc của hắn. Vội vàng gọi người dùng dây trói cái tên đó vào. Cho hắn ngồi vào một cái khung, kéo vị đại tướng quân mặt mũi đầy bụi đất đến đầu thành.

Trình Thế Hùng chỉ về phía thành đầu chửi té tát. Lo lắng trong thành phái người đi tìm. Lúc đó mới xoay người lên ngựa trở về doanh trại. Trong doanh trại lúc này đã kết thúc cuộc chiến. Các doanh trại đang được dọn dẹp sạch sẽ. Thân binh của Trình Thế Hùng đang lo lắng, đến khi nhìn thấy Trình Thế Hùng, bọn họ mới yên tâm.

Hơn trăm cây đuốc được thắp sáng để đón Trình Thế Hùng trở về. Sĩ tốt trong doanh trại nghe nói Trình đại tướng quân vô sự liền cất tiếng hoan hô. Tiếng hoan hô liên tiếp không dứt. Dương Hạo cũng đứng trong đó, cảm nhận được tầm ảnh hưởng của con người Trình Thế Hùng. Quả thực lực lượng của Trình Thế Hùng là rất lớn.

“Ta cũng có thể như vậy không?” Dương Hạo cảm thấy miệng hơi khô

Trình Thế Hùng đã nhìn thấy cái mặt dính đầy máu đen của hắn trong ánh đuốc cháy bập bùng. Với dáng vẻ đó rất xấu xí, nếu để cho một tiểu nương tử nhìn thấy thì có thể gặp ác mộng cả đêm. Nhưng trong con mắt của Trình Thế Hùng, đó là một huân chương vinh quang nhất của một chiến sĩ.

Trước mặt người khác hắn không có biểu hiện quan tâm đến dh thái quá, chỉ là thoáng nhìn qua rồi trở về đại doanh trại. Sau khi vào doanh trại, hắn mới dặn dò. Lệnh người ngay lập tức báo cáo cụ thể tình hình đánh úp của quân địch đêm nay với quan gia. Truyền tin bằng tiếng trống và ánh đèn tới các doanh trại và đại quân vây thành ở đông nam bắc.

Dương Hạo quan sát. Trước doanh trại: Chuyện binh trí tù quét sạch chiến trường, Trình Thế Hùng không hỏi một câu. Hoàn toàn giao cho tướng thủ doanh trại phụ trách. Các tướng quan khác dưới trướng hắn cũng đều nghiêm túc. Không ai rời khỏi đội ngũ chạy tới hỏi han sự an nguy của chủ soái. Chỉ lấy tín hiệu ra hỏi han. Sau khi biết Trình Thế Hùng bình yên vô sự thì các doanh trại liền tắt đèn. Một màn đêm yên lặng bao trùm. Dường như đêm nay chưa từng xảy ra một trận huyết chiến nào cả. Dương Hạo không kìm được âm thầm phục cách trị quân của Trình Thế Hùng.

Lại nói về chủ soái. Trình Thế Hùng và các thân binh cùng đến nhà bếp góc doanh trại. Tận tay vộc nước từ trong giếng lên. Các binh sĩ dùng nước lau lau những vết máu khô bám trên người. Trình Thế Hùng giống như bọn binh sĩ bình thường, cũng cởi trần. Nếu như không phải tay hắn bị thương, thì hắn cũng xách được xô nước lên.

Nước giếng mát. Bọn lính cười hì hì múc nước rửa sạch vết máu trên người. Chiến hữu, huynh đệ của bọn họ, có người thì đã chết, có vài người thì bị thương ở tay chân. Hôm nay sẽ ở lang trung trị dưỡng vết thương, nhưng trên mặt của các binh sĩ, Dương Hạo hoàn toàn không nhìn ra một chút đau đớn và tưởng nhớ gì cả. Dù mới vừa rồi trải qua một trận chiến. Cái chết có thể không chút do dự thay bạn chiến đỡ một đao. Lấy đao thương viết nhân sinh. Cái chết nhẹ tựa lông hồng chính là Đại Hán tây bắc. Vì cái chết của Thạch Song luôn đọng trong lòng Dương Hạo mỗi khi hắn nhìn thấy một vài huynh đệ tốt bỏ thân mình. Cũng nên mở lòng mình ra đi. Vì cái chết của Thạch Song mà nỗi buồn giận chất chứa trong lòng hãy quét sạch đi.

Hắn cởi khăn trên đầu ra, khiến mái tóc dài xõa xuống; Cởi chiến bào của mình dính máu ra. Cởi trần giống các chiến hữu của hắn. Kéo một thùng nước lên. Dội từ đỉnh đầu dội xuống. Tay xoa xoa người. Ngửa đầu nhìn bầu trời đen ngòm mà tĩnh mịt. Trên trời có vô số ngôi sao. Bên đó có một ngôi sao sáng nhất, nhất định là linh hồn của Thạch Song.

“Huynh đệ, được lắm. Nhìn ngươi điềm đạm ít lời thế này. Lần đầu ra trận giết địch mà hung hãn như vậy, giống binh tây bắc chúng ta lắm lắm. Không để cho đại tướng quân của chúng ta phải xấu hổ”. Khi trở về, Phạm Lão Tứ vỗ bả vai Dương Hạo khích lệ.

Tân binh luôn bị người ta xa lánh, ức hiếp. Dù Trình Thế Hùng đã từng gọi hắn là “Hạo ca nhi”. Nếu hắn là một loại vô dụng. Như vậy sẽ không có ai để mắt đến hắn. Trên chiến trường. Muốn đoạt được sự tôn trọng của người khác thì phải dựa vào một đao một thương. Trận chiến ngày hôm nay. Dương Hạo đã rất dũng cảm. Lại nói về chủ soái. Thân binh thị vệ đã tản đi, bọn chúng đều quay về trại nghỉ ngơi. Trình Thế Hùng đang định vào trại, đột nhiên dừng chân, thầm nói: “Dương Hạo”. Trại của Dương Hạo đóng ở bên phải trại của đại tướng quân. Hắn đang vào trại, tai dường như nghe thấy một âm thanh nào đó liền dừng bước, xoay người: “Tướng quân”.

“Ba đao của ngươi đêm nay đã luyện xong chưa?”

Dương Hạo hơi ngây người ra. Hiểu được ý của tướng quân liền cười. Chắp tay ôm quyền trịnh trọng nói: “Bẩm đại tướng quân, ba đao đó, thuộc hạ đã bổ xong rồi”.

Trình Thế Hùng vuốt râu, nghiêng đầu nhìn hắn. Đèn đuốc trong trại hắt ra chiếu vào hai mắt hắn, nói: “Cọc người này so với cọc gỗ kia, ngươi thấy thế nào?”

Dương Hạo thở dài, đáp: “Không dễ bổ ạ”.

Trình Thế Hùng cười ha ha. Một tay vén rèm đi vào trại: “Nghỉ ngơi đi, đại trượng phu muốn nổi tiếng hơn người. Thế giới này còn có cọc người cho ngươi chặt đấy”.

 Chương 138: Thế sự xoay vần.

Sau khi Lưu Kế Nghiệp chọn trở về thành, 600 tráng sĩ của hắn mang tế hiếu bái, đau khổ khóc thất thanh. Qua trận đánh này. Hoàng Đế Lưu Kế Nguyên không lòng dạ nào run sợ, đối với đề nghị nửa đêm đánh úp lại không dám nhận, chỉ lệnh đóng chặt cửa bốn thành, phòng ngừa quân Tống lại tấn công thành. Vị Hoàng Đế Hậu Hán này mỗi ngày ở trong cung khuyết lên núi nhìn về phía xa, ngóng trông về hướng bắc, giống như hòn đá vọng phu. Sứ giả cầu viện của hắn sớm đã được phái đi, nhưng người Khiết Đan trái lại từ đầu chí cuối chưa từng lộ diện. Chẳng lẽ Phụ Hoàng Đế đã từ bỏ Nhi Hoàng Đế hắn này hay sao? Theo dòng thời gian trôi qua, Lưu Kế Nguyên càng ngày càng tuyệt vọng.

Hai ngày nay, Dương Hạo và Trình Thế Hùng thân mật, khăng khít, Dương Hạo lên một bổn phận quy tắc là một đời hình thành nếp sống của mình, hào hoa phong nhã, hình ảnh của binh khôn lỏi đã không còn tồn tại nữa, hắn giờ đã càng ngày càng giống một binh rồi.

Một ngày đội quân tốt gồm hắn cùng với Phạm Lão Tứ, Lưu Thế Hiên, Đái Lĩnh rời khỏi đại doanh, nhằm hướng tây nam càn quét. Vì trong quân nhận được tin, bị tàn binh Bắc Hán đánh cho hai ngày nay phá hủy con đường lương thực, tập kích đội ngũ quân nhu từ Quảng Nguyên chạy tới. Do nhiệm vụ ban đầu của người ngựa Trình Thế Hùng là phụ trách càn quét bên ngoài, từ đó Quan Gia chỉnh đốn đôi chút, cấm quân vốn vây thành và tấn công thành tây sau đó điều lên tiền tuyến, thay Trình Thế Hùng làm một bộ phận phòng ngự. Khiến con đường nhân mã mà hắn xuất động đảm bảo được an toàn. Dương Hạo vốn là thân binh của hắn, không cần chấp hành nhiệm vụ như vậy, nhưng Trình Thế Hùng ngoài miệng tuy nói trong quân doanh công tư phân minh, đối với sự quan tâm của hắn để hắn phụ trách nhiệm vụ này, trong đó không phải không có ý rèn luyện cho hắn.

“Dương sai sử, phía trước có một thôn, có lẽ có tàn binh bại tướng của Bắc Hán trốn trong thôn. Chúng ta có nên đi lục soát một phen không?”

Phạm Lão Tứ chỉ vê một thôn trang ở phía trước và hỏi ý kiến Dương Hạo. Phạm Lão Tứ và Lưu Thế Hiên là “Soa sử” một đường nhân mã, là quan, nhưng chưa có cấp bậc, chỉ là tống lĩnh trăm mười danh sĩ tốt, Dương Hạo là thân binh của Trình Thế Hùng, sau khi được phái đi, tạm thời nhận chức quan “Sai sử”, là người phụ trách đội ngũ này, song đồng nghĩa với “Sai sử” là một tiểu quan, đến phẩm cấp cũng không có.

Dương Hạo nhìn về phía trước, chỉ thấy trên đồng bằng có một cái thôn, thôn ấy rách nát, nghèo nàn vô cùng, nhà tranh vách đất, trước thôn lại có một cái sông nhỏ chảy qua, xung quanh trông rất hoang vu, dù cho có cả tàn binh Bắc Hán, cũng không có cách nào mai phục ở đây. Bèn vuốt cằm nói: “Ta dẫn binh vào trong kia trước, Lưu đại ca, Phạm đại ca, các ngươi ở bên cạnh chiếu ứng.

Dương Hạo lần đầu cầm binh, tuy nói thủ hạ chỉ có hơn trăm danh binh lính, là một chức quan còn nhỏ hơn cả bật mã ôn, nhưng có bất cứ quyết định gì đều phải hết sức cẩn thận, nhất là quan tâm các sĩ tốt. “Các huynh đệ xông vào cho ta”, nào là coi người khác làm huynh đệ của mình, ngay cả vài binh lính này cũng là một ruột mù chữ với nhau, cũng có thể phân rõ. Hắn ghi nhớ “Phải ưu tiên sĩ tốt mới được sĩ tốt ủng hộ”.

Dương Hạo nói xong không đợi bọn chúng từ chối, liền dẫn một đường người ngựa vào trong thôn đó trước. Trong thôn im ắng, một đội đại binh khiên thương tiến vào, cũng không làm náo động cảnh tượng, thôn nhỏ này thực sự là rất nghèo, tựa như một cái cây già cỗi chỉ có vẻn vẹn hai chiếc lá, xác xơ không có một chút sức sống.

Dương Hạo không chỉ tìm mỗi chỗ sân, mỗi căn phòng, cái sân vỡ, hắn chỉ đi dọc về phía trước men theo con đường lớn, đi thẳng đến cuối thôn, ở con đường chủ yếu đều sắp xếp cảnh bị, lúc này mới ra phía sau vẫy tay ra hiệu, Phạm Lão Tứ và Lưu Thế Hiên hai tên đó lập tức ra lệnh cho bộ đội sở thuộc tản ra, tìm kiếm từng căn hộ, đuổi bọn dân trong trôn ra.

Dân làng lâu đời đều sống ở đây, từ sinh đến tử không đi đến nơi nào mà có bán kính hơn 20 dặm, sinh ở đây, chết cũng ở đây. Chỉ muốn chết ở nơi này, cho dù nơi đây là một nơi cằn cỗi. Cho nên ở đây không có chút kiến thức gì, nhưng khi nhìn thấy binh Đại Tống, binh Chiết gia, binh Bắc Hán, binh Khiết Đan, thậm chí bọn thổ phỉ hỗn tạp Tây Vực từ xa tới, khi dân chúng bị đuổi từ trong nhà ra, Dương Hạo không thấy khuôn mặt họ có chút gì kinh ngạc mà là một vẻ đờ đẫn.

Thôn này có già có trẻ, có nam có nữ, nhưng có một điều không ngoại lệ đó là thân hình cò hương, quần áo rách nát, có vài nhà nghèo đến mức bọn trẻ con không có quần áo mà mặc, cuốn một cái chăn đơn rách nát đi ra.

Dương Hạo nhíu nhíu mày, nói với Phạm Lão Tứ: “Dân thôn quá khổ, không có một tên nào làm binh ăn cơm kẻng, thôi, không cần làm khó bọn họ nữa”.

Phạm Lão Tứ nhếch mép cười nói: “Haha, Dương chỉ sử không cần phải lo lắng, nhà trong thôn này ngoài rách nát còn có cái chăn sắp rách, ở đâu còn có thứ gì, các huynh đệ không coi thường”.

Dương Hạo tay cầm đao, ánh mắt đảo qua người bọn thôn dân, nhìn thấy một vài cô nương, mặt mày xanh xao vàng vọt, bèn nói: “Ồ, còn có một điều, không được hiếp dâm đàn bà con gái”.

Phạm Lão Tứ nói: “Điều này, Phạm Lão Tứ dám vỗ ngực bảo đảm với Dương chỉ sở, chúng ta dưới trướng của Trình đại tướng quân, công thành chiếm đất, cương trận chém giết, chuyện nhặt được tiền tài là có, đại tướng quân cũng không cấm, nhưng chữ “Dâm” này, Trình gia quân chúng ta tuyệt không xúc phạm”.

Phạm Lão Tứ vừa dứt lời, thì nghe thấy một tiếng khóc của một phu nhân truyền tới: “Quân gia khai ân, bỏ qua cho mẫu tử tôi, ai da…”

Dương Hạo nheo mày, lập tức cất bước đi về phía căn phòng đó, Phạm Lão Tứ vừa nãy to mồm trước mặt Dương Hạo, nay nghe thấy động tĩnh này, cũng không biết là có phải tên quân tốt nào đó thấy sắc sinh ham muốn không, không khỏi hậm hực mà mắng một câu, theo Dương Hạo bước nhanh đến.

Dương Hạo đi đến cái sân nọ, thì nhìn thấy một tên sĩ tốt tay cầm đao đang xông vào phòng, một phu nhân chặn cánh tay hắn lại, đồng thời cầu khẩn một cách đau khổ nói: “Quân gia, tiểu phu nhân ta không có lừa ngươi, thật không lừa ngươi…”

Dương Hạo nhìn tình cảnh này không giống quân tốt ức hiếp đàn bà, vẻ giận dữ trên mặt mới dịu đi, trầm giọng hỏi: “Xảy ra chuyện gì?”

Quân tốt nọ quay đâu lại nhìn, thấy Dương Hạo vội vàng vung tay vứt mụ đàn bà đó ra, nói: “Dương chỉ sử, thuộc hạ phụng mệnh lục soát phòng, mang tất cả dân thôn ra ngoài, nhưng mụ đàn bà này lại mượn cớ là con trai mụ mắc bệnh lạ không được nhìn trực tiếp ánh sáng mặt trời, ta nghĩ, trong phòng này ắt có điểm khả nghi”.

“Ồ?”Dương Hạo nhìn mụ đàn bà đó, tuổi tác mụ này không đến mức quá già, cảm thấy chỉ khoảng đầu ba mươi, nhưng tóc đã hoa râm, sắc mặt tiều tụy, dáng vẻ có vài phần giống lão nương. Dương Hạo giọng hơi run: “Đại tẩu chớ khóc lóc, nhi tử của ngươi bao nhiêu tuổi rồi, mắc bệnh gì, sao lại không được gặp ánh sáng mặt trời?”

Mụ đàn bà đó thấy hắn nói chuyện ôn hòa, liền bổ nhào tới chân hắn, rơi lệ khẩn cầu nói: “Vị thái úy, xin ngài thương xót, bỏ qua cho ta, bỏ qua cho nhi tử của ta, nhà ta nghèo, nào dấu giếm gì hán binh, ta không dám lừa gạt, con ta từ nhỏ đã mắc căn bệnh quái gở này, bình thường thì không sao, nhưng một khi gặp ánh sáng mặt trời thì toàn thân sẽ nổi mụn nước, dẫn đến thối rữa, nguy hiểm tới tính mạng. Những điều mà ta nói đều là thật, trong thôn già trẻ trai gái ai ai cũng biết, tuyệt không dám lừa gạt Thái úy”.

Phạm Lão Tứ giận giữ nói: “Ngươi mụ đàn bà ăn nói hồ đồ, con ngươi rốt cuộc là người hay quỷ? Trong thiên hạ, nào có căn bệnh sợ gì không sợ, lại sợ gặp ánh nắng bao giờ, ngươi rõ ràng là xuất ngôn bừa bãi, lừa gạt chúng ta!”

Mụ đàn bà nọ bị hắn quát, sợ đến mức cả người run bắn lên, Dương Hạo phất tay bảo Phạm Lão Tứ dừng lại, hắn khom lưng nâng mụ đàn bà đó lên, nói nhỏ: “Bổn chi sử phụng lệnh lục soát quân tàn phiệt Bắc Hán, căn phòng này nhất định phải lục soát, ngươi nói con ngươi không thể nhìn thấy ánh nắng, ta đây vào thử xem thế nào, được không?”

Mụ đàn bà nọ chưa trả lời, Phạm Lão Tứ đã nói: “Nếu như vậy, thuộc hạ vào trong lục soát”. Dứt lời hắn nhấc chân đá văng cửa phòng xông vào. Dương Hạo cảm kích tấm lòng yêu mến của hắn đối với mình, nhưng tác phong lỗ mãng đó thật không xứng, hắn hơi nhíu mày, đi theo phía sau vào phòng.

Cửa phòng bị đá văng ra, một tia sáng hắt vào, hình lên một cái hình chữ nhật ở trên mặt đất, ở cái giường đối diện, có một cậu bé ngồi chồm chỗm với cái thân gầy trơ xương, cố nhấc cái cánh tay gầy tong teo lên để che ánh sáng cho đỡ chói mắt.

Phạm Lão Tứ vào phòng nhìn hắn một cái, hắn nắm chặt cương đao đi lục soát một lượt, nhưng căn phòng rách nát này đến đồ dùng trong nhà cũng không có, xung quanh trống rỗng, làm sao dấu người được.

Dương Hạo đi vào trong phòng, nhìn thấy đứa bé đó, liền nói: “Đóng cửa phòng”.

Các danh sĩ tướng đi theo sau vội vàng đóng cửa phòng lại. Trong phòng ánh sáng dần tắt, tay của cậu bé kia mới dần dần buông xuống, đôi mắt nhìn về phía Dương Hạo. Hắn gầy đến đáng thương, cổ bé tí đỡ lấy cái đầu tương đối to, da hắn trắng bệch, con ngươi hơi vàng, ngồi chồm hỗm ở đầu giường giống như một con chó con, nhưng ánh mắt hắn lại giống một con sói.

Dương Hạo đi từng bước qua hắn, mụ đàn bà nọ vội vàng nói: “Thái úy lão gia”. Mụ ta muốn chạy lại ôm lấy nhi tử của mình thì bị quân sĩ giữ lấy.

Dương Hạo ôn tồn hỏi: “Tiểu tử kia, ngươi tên gì?”

Tên đó không đáp, chỉ dùng ánh mắt đối địch nhìn hắn, Dương Hạo mỉm cười nói: “Mẫu thân ngươi không gạt ta, ta tin lời nói của bà ấy”.

Ý nghĩ đối địch trong mắt cậu bé đó lập tức mất đi. Thế giới tâm linh của trẻ con thật đơn giản, yêu đơn giản, hận đơn giản, hơn nữa dễ dàng thỏa mãn, Dương Hạo vừa nói tin mẫu thân hắn thì hắn đã tin tưởng Dương Hạo, chút thân thiết và có phần cảm kích.

“Ngươi từ nhỏ sinh ra đã mắc bệnh này à, không bao giờ ra ngoài chơi à?”

Lúc này, tên nó mới nói: “Có ra ngoài, mẫu thân ta mỗi tối đều đưa ta ra ngoài chơi, khi không có mặt trăng thì châm đèn lồng, trong thôn này ai cũng biết ta, ta còn trèo lên cây lấy trứng chim cơ mà, nhưng…chưa có ai chơi với ta. Những đứa trẻ khác những lúc ấy đều đã ngủ rồi.”

“Ừ”. Dương Hạo xoa xoa đầu hắn, tóc rất ít. Hắn biết, đứa trẻ này mắc chứng bệnh da liễu rất lạ, trong một vạn người chưa chắc đã có một người mắc chứng bệnh này, trước mắt đứa trẻ này là một trong số đó. Ở thời đại này, một người chỉ có thể buổi tối mới gặp người. Sống trong sự gian khổ như vậy, nhà lại quá nghèo, vĩnh viễn sẽ không trở thành một trụ cột trong gia đình được, nhưng mẫu thân vẫn rất yêu thương, quan tâm đến nó. Có thể nói, hai bọn họ sống trong một cái thôn nhỏ nghèo nàn này thật không dễ dàng.

Dương Hạo hỏi: “Ngươi tên là gì?”

“Gọi ta là Cẩu Nhi”

“Không có đại danh à?”

“Không có, tên của ta chẳng bao giờ dùng đến. Trừ mẫu thân ta ra, ta không có người nào bên cạnh nữa, cũng không có ai gọi ta cả”.

Dương Hạo nghe xong, trong lòng chua chát, hắn là một cô nhi, nhưng đứa trẻ này lại còn cô độc hơn cả hắn. Dương Hạo im lặng một lát, sờ tay vào bụng, lấy ra bốn mươi quan tiền. Đó là một tháng quân lương của hắn. Dương Hạo để tiền ở đầu giường. Sau đó xua tay với Phạm Lão Tứ và các quân sĩ nọ nói: “Chúng ta đi thôi”.

Ánh mắt của Cẩu Nhi nhìn theo hắn. Đợi đến khi Dương Hạo bước ra cửa, hắn vội vàng hỏi: “Đại thúc, ngươi tên là gì?”

Dương Hạo quay đầu nhìn hắn, cười nói: “Đại thúc tên Dương Hạo, nhớ chưa?”

Cẩu Nhi nghiêng đầu, có vẻ nó đang cố gắng nhớ lấy cái tên này, sau đó nó gật đầu nói: “Dương Hạo đại thúc, ta nhớ kỹ rồi”.

Dương Hạo lắc đầu cười, vì hắn nhất thời rung động, nên tiện tay để lại tiền quân lương tháng này cho hai mẹ con đáng thương đó, nhưng không thể mỗi lần nhìn thấy những người đáng thương mà giúp đỡ họ như vậy, làm sao giúp bọn họ được cả đời. Hành động đó, hắn không để bụng.

Rời khỏi hộ gia đình đó, Dương Hạo lại lục soát một lần nữa trong thôn, thôn này nằm trên con đường vận chuyển lương thực từ Quảng Nguyên đến dưới thành Bắc Hán, nhưng trong thôn lại không có tung tích gì của tàn quân Bắc Hán, hỏi thôn dân của thôn này cũng không có chút tin tức nào. Lúc này đã qua giờ ngọ, tuy không phải lúc giữa trưa mặt trời chói chang, nhưng mặt trời chiếu xuống vẫn nóng như lửa đốt, Dương Hạo bảo đội quân lại đi lục soát một lượt nữa rồi quay trở lại con đường.

Khi ánh mặt trời không còn nóng như lúc nãy nữa, Dương Hạo dẫn người đi về hướng đô thành Bắc Hán. Đi qua một con đường núi, nhìn thấy một tòa thành cô độc ở một đồng bằng rộng lớn trước mắt, Dương Hạo hơi thẫn thờ, hơn trăm danh tướng sĩ cũng ngây ra.

Trước mắt vốn là một thành trì hùng vĩ. Dưới thành là một loạt doanh trại san sát nhau, cờ cắm ở doanh trại như mây, trống trận như sấm. Xung quanh thành trì có vô số chiến sĩ của Phạm Dương Mạo đang chém giết công thành, mũi tên bay qua bay lại như mây đen. Mấy trăm hòn đá được vứt xuống đất như vũ bão.

Nhưng bây giờ, cảnh tượng đó không nhìn thấy nữa. Doanh trại trải dài, không có đại quân tứ phía công thành nữa, không có mưa bão mũi tên nữa. Không có những hòn đá tảng ở trên khiến người ta phải khiếp sợ nữa. Nước sông cuồn cuộn đến, bao phủ lấy nửa thành, đô thành Bắc Hán hôm nay đã là một mảnh đại dương mênh mông.

 Chương 139: Một kế cũng không thành.

Gần đây nước mưa rất dư thừa, sông lớn sông nhỏ tràn nước, nhưng mà không hiểu sao lại làm cho đô thành Bắc Hán biến thành một mảnh đại dương mênh mông thế này?

Đang lúc quân Tống hoảng loạn tìm kiếm đội ngũ mình, Dương Hạo trong lòng chợt lóe lên một ý nghĩ, hắn đã hiểu được: “Dẫn nước vào thành, đây là việc Tống quân mượn hiện tượng tự nhiên của thiên nhiên để vào thành”.

Dương Hạo vừa mới nghĩ đến đây, thì nghe thấy một tiếng trống trận, trong sơn cốc có nước sông vọt tới, đột nhiên giết được vô số binh tốt, xem trang phục biết ngay là cấm quân Đại Tống. Bọn họ quai thuyền nhỏ đi, nhiều chiếc thuyền được đóng bằng gỗ mộc, buộc với nhau thành bè gỗ lớn, trên thuyền và trên bè chứa cung, nỏ cứng, binh sĩ mượn sức mạnh của dòng chảy, không cần mất lực chèo thuyền, liền nổi trống xông đến cửa nam đô thành Bắc Hán.

Từ xưa đến nay, mượn sức mạnh tự nhiên đâu chỉ có thiên quân vạn mã, Quan Vân Trường nước ngập bảy quân, đều là lợi dụng địa thế, mượn sức mạnh của nước lửa tự nhiên, con người đã nghĩ ra cách như vậy, nhưng đây là một thành trì cao to hùng vĩ, thành được xây dựng dày rộng và rắn chắc, trận này sử dụng nước lũ thì có tác dụng gì không?

“Mau nhìn kìa, mau nhìn kìa, đó là người ngựa của bộ quân đô ngu hầu Triệu tướng quân”. Có vài tên binh sĩ nhìn thấy cờ cắm xung quanh mấy cái bè lớn, bèn hưng phấn hét to lên. Bọn họ đứng ở trên triền núi nhìn, chỉ thấy bộ quân đô ngu hầu Triệu tướng quân suất lĩnh các loại thuyền đơn sơ, bè gỗ kéo đến dưới chân thành Bắc Hán.

Trong thành sớm có quân Bắc Hán phục kích, chúng lập tức phát ra một trận mũi tên dày đặc như mưa đến phía bọn đang kéo đến. Bởi vì nước lũ ngập đến nửa thành, vị trí mà bọn họ cách đầu thành đã rất gần rồi, nhưng trên những chiếc thuyền mộc thật không dễ điều khiển, cũng không thể mang theo vũ khí công thành quá nặng, lại không thể linh hoạt trốn tránh mũi tên của quân địch bắn ra, đúng là có cái lợi mà cũng có cái hại, cấm quân Đại Tống tuy kiêu dũng thiện chiến, lần công kích này vẫn là sự phản lại của vô số mũi tên đang bắn như mưa.

Lập tức quân Tống vốn đóng ở doanh trại phía nam phát ra tín hiệu công kích, một tên trong quân Tống hào hứng tham chiến, áo giáp, chèo thuyền nhỏ, đánh trống trận kích dương tinh thần, không ngờ đầu thành tên bắn như bay, ngay cả chỗ trốn tên cũng không có, thân binh đứng dẹp lại một mé của con thuyền nhỏ dùng khiên làm vật che chở lấy tấm thân, chỉ không cẩn thận lộ ra một khe hở, thì sẽ có một mũi tên nhọn nào đó bắn trúng đầu hắn, chủ tướng chết, sĩ tốt sẽ tản mạn, đợt công kích thứ hai này lại thất bại rồi.

Lập tức, một bên của Tống quân tạm thời yên lặng, các tướng lĩnh ở tình huống này đang thương nghị đối sách. Dương Hạo nhìn sơn cốc nơi mà họ xuất binh, bèn vội vàng đi bắt chuyện các sĩ tốt, nói: “Đi, chúng ta nhanh đi về cùng với nhân mã đại đội.

Bọn họ đi dọc theo con đường triền núi, khó khăn lắm mới đi đến được cốc giấu binh, phát hiện ra một lá cờ của quân Tống, đột nhiên nghe binh sĩ hô: “Trình tướng quân nhà ta xuất binh rồi”.

Dương Hạo nghỉ chân vừa nhìn, quả nhiên quân Tống lại phát binh, trên lá cờ viết chữ Trình, dưới cờ là một đại kích, một Trình Thế Hùng ngang nhiên đứng đó. Lúc này gặp, quân Tống không khỏi khiến cho sức lực cứng cáp lên, trước thân Trình Thế Hùng có mấy chục cây gỗ đã được xếp, trên bè gỗ chất đống vô số cây cỏ gỗ vụn, chỉ khiến mấy tiểu giáo đang ở hai bên bè gỗ khống chế phương hướng, điều khiển ở dưới thành Bắc Hán.

Khi chiếc bè gỗ được mang đến cửa nam thành thì bị cháy, quân Tống biết thuộc tính của nước liền nhảy xuống đằng sau bơi, từng bè gỗ liên tiếp được đánh lên nam thành môn, lửa cháy rừng rực, khói đặc cuồn cuộn, khiến cho quân Bắc Hán thủ trên thành lầu cũng nhảy lên hai bên tường xem. Lửa cháy ngày một to, cả mặt nước ánh đỏ.

Dương Hạo vừa quan sát cuộc chiến, vừa nhìn tòa sơn cốc, trong sơn cốc sớm đã có người nhìn thấy đội ngũ của họ, đã phái người nghênh tiến lên đây, hỏi rõ là nhân mã phụ trách càn quét bên ngoài trở về, bèn chỉ dẫn cho bọn họ chỗ trận ban đầu. Dương Hạo đợi người, không vội đến thành trì của mình, chỉ ở triền núi nhìn tướng quân nhà mình công thành.

Mấy chục cây gỗ được xếp lại cùng một chỗ, ngọn lửa nghi ngút tận trời được nửa canh giờ, Trình Thế Hùng, lên giọng quát: “Bắn tên!”

Phía sau ầm ầm hô vang, một chiếc bè khổng lồ hơn chiếc bè gỗ của Trình Thế Hùng điều khiển phía trước nhằm hướng cửa thành, trên bè gỗ cócái nỏ lớn, đó là “Nỏ bát ngưu”, mấy chục người giương cung bắn tên, trên nỏ bát ngưu, ở giữa là một cự tiễn thô hơn đầu cây thương, ước chừng có vài cái tên ở ba nhánh nhỏ, được gọi là “Một thương tam kiếm tiễn”, tiễn vừa bắn, bắn lên cửa lớn đang bị thiêu cháy, cửa thành vốn đã bị lửa cháy sạch lung lay muốn đổ, không chịu được khi bị thương nặng như vậy liền đổ xuống, nước lũ cứ thế mà tràn vào, Trình Thế Hùng mừng rỡ, vừa ra hiệu lệnh tam quân thừa cơ vào thành, không ngờ tòa thành đó lay động, cột trụ đỡ thành không nổi, hơn nữa lại chịu sức mạnh của nước lũ, được một lúc thì đổ sụp xuống.

Tòa thành lớn vừa đổ, nước lũ tràn vào dâng lên khoảng hai trượng, mấy con thuyền, mấy cái bè được xông vào trước nhất, bè của Trình Thế Hùng bị đẩy về phía sau, nếu không có hắn lấy cây đại kích chống xuống giữ bè, lúc này có rất nhiều binh sĩ trên bè ngã dúi dụi. Thành đã đổ, tuy thành bị ngập trong nước nhưng có nó làm vật cản, nước lũ bao lấy thành, đặc biệt là một góc của thành còn dựng thẳng trên mặt nước, cản trở sự tiếp cận của bè gỗ và thuyền. Tướng thủ đầu thành Bắc Hán là Lưu Kế Nghiệp, thấy tình hình như vậy thầm kêu may mắn, vội vàng tổ chức cung nỏ bắn lên thuyền và bè, ngăn cản bọn họ tới gần.

Lưu Kế Nghiệp đứng ở thành đầu, vừa chỉ huy, vừa cầm đại cung, tự mình nhằm hướng quân Tống bắn tên, hắn có tài bắn cung như thần, bắn không hỏng phát nào, dây cung vừa kêu, tất có một tên trong quân Tống ngã xuống. Trình Thế Hùng đứng ở trên bè gỗ lắc lư, dưới chân lại không có chỗ bám vững chắc, dũng võ ngày thường đến sáu phần cũng không phát huy được, đại kích trong tay không phát huy được tác dụng của nó, hắn bèn rút ra một bội kiếm đỡ lấy cơn mưa tiễn ở thành đầu, nếu không thận trọng thì sẽ bị Lưu Kế Nghiệp bắn trúng, bên cạnh hắn vài tên thân binh bị tiễn của Lưu Kế Nghiệp bắn trúng đâm thủng qua ngực, nằm gục xuống.

Trình Thế Hùng hận đến mức nghiến răng nghiến lợi, hét lớn: “Bắn nỏ bát ngưu, cho bổn tướng quân thành đầu”.

Chiếc nỏ bát ngưu lại thay đổi tác dụng, một mũi tên ngắn và thô được dây cung giữ chặt, một loạt tên được bắn lên tường thành, nhằm thẳng hướng tường mà bắn, chỉ cần bè có thể tiếp cận được với tường thành, các binh sĩ có thể mượn “Cái thang tử” do mũi tên tạo thành mà trèo vào thành, nhưng thành đầu tiễn phát như mưa, vũ khí phòng bị lại không thiếu, bè gỗ vốn không được như lúc đầu đang tăng tốc đến bên dưới thành, lúc này thật khó để tiến gần.

Hai bên quyết chiến một hồi lâu, vô số xác người chết, khi tác chiến, trong thành lại đẩy ra một cái bao cỏ to, che lấp đi lỗ hổng khi thành bị đổ. Thứ cỏ đó bị ướt, khó mà bị cháy. Tuy ướt nhưng vẫn giữ được sự mềm của cỏ, không phải là sợ cung nỏ bắn tên, mà còn là một đống cỏ lớn, đến gần rồi mà vẫn không có cách nào leo lên được, cỏ này chất đống, hy vọng tường thành bị công phá để vào thành càng một xa vời.

Triệu Khuông Dận nhìn về phía xa xa, hắn hận một nỗi năm đó không đích thân khoác áo giáp chiến đấu nơi chiến trường, nhưng hắn giờ là vua của một nước, đích thân xông trận đã trở thành một giấc mơ xa vời. Huống hồ, hắn đích thân ở chiến trường thì có thể công thành chiến thắng hay không? Trong thành không biết có bao nhiêu vị tướng thủ chỉ huy, lại có thể lâm nguy không loạn, chuyển điều kiện vốn bất lợi của quân Tống thành điều kiện dễ thủ thành, vào thời điểm này nước lũ ngập hết lần này tới lần khác, nhưng lại không mượn được sức nước của nó, có đại quân trong tay mà không dùng được, lòng của Triệu Khuông Dận rối như tơ vò. Phía bắc…Người Khiết Đan ở phía bắc đang cưỡi ngựa tới gần.

“Truyền lệnh, Minh Kim thu binh!” Triệu Khuông Dận nghiến chặt răng phát lệnh thu binh.

Ba trận mất đi vô số binh lính, Minh Kim quân Tống đã thu binh.

Sắc trời ảm đạm, dòng lũ đã chảy nhanh hơn, trên dòng nước đục có những chiếc lá héo, xa xa, trong dòng nước chảy, có rất nhiều thi thể của các tướng sĩ. Trong một mảnh đại dương mênh mông, đô thành Bắc Hán như một cái pháo đài lớn lơ lửng trên mặt nước, không ai biết nó có thể chịu được đến lúc nước lũ rút, người Khiết Đan tới hay không, nhưng ít nhất, đến bây giờ, nó vẫn đang yên lành đứng đó.

Tàn dương như máu, Dương Hạo cùng plt, lth ngồi sóng vai ở hòn đá chỗ sườn núi.

Hòn đá bị mặt trời chiếu một ngày, giờ ngồi lên nó vẫn cảm thấy nóng nóng, rất thoải mái. Đã xế chiều rồi, nhưng bởi vì không có gió, nên nóng bức khác thường.

Lúc này nếu trên trời có vài đám mây đen, tiếp đó mang theo những hạt mưa phùn, thì cả trời đất sẽ mát mẻ, trong lành biết mấy, nhưng rõ ràng trước mắt bọn họ là một mảnh đại dương mênh mông, nước lũ mà người này tạo ra không làm thay đổi được khí trời nóng bức, đây là sự khác nhau của thiên uy và nhân lực. Thiên tử trong hành doanh, giờ phút này thiên uy ra sao, phải chăng đang nổi trận lôi đình?

Ba người ngồi trên hò đá, nhìn về phía xa xa, thành ì tự nhiên nó có vẻ xa lạ, plt khẽ thở dài: “Hôm nay chúng ta không sợ bị quân Hán đánh úp nữa, nhứng muốn công thành, thì khó khăn hơn. Đại tướng quân đi hành doanh đàm phán chuyện quân cơ, cũng không biết Quan Gia có thể nghĩ ra Pháp Nhi hay không?

Lth chỉ vào thành trì xa xa nói: “Thành kia tuy lấy đất vàng xây nhưng //, hơn nữa tường thành rất dày, nước vỗ vào không sụp, hôm nay nước lũ thay đổi, càng khó//.

Dương Hạo trầm ngâm một lát rồi nói: “Thời tiết hôm nay cực kỳ nóng bức, nếu nước vỗ vào mà không sụp, nếu chặn dòng nước lại thì sao? Các ngươi có thể nhớ đến mặt đất đã bị ướt, rồi lại bị mặt trời chiếu rọi, nó nổi cuồn cuộn một lớp da. Nếu tường thành gặp nước một thời gian rồi lại bị ánh mặt trời chiếu rọi, nhất định sẽ nứt ra, có thể lúc đó chỉ cần thò tay đẩy nhẹ một cái, toàn thành sẽ sụp ngay tức khắc”.

Plt nói: “Cách này được đấy, có thể làm theo như vậy, Dương chỉ sử là người thân tín với đại tướng quân, không ngại nói chủ ý này cho đại tướng quân chứ?”

“Các ngươi đang nói chuyện gì vậy?” Phía sau truyền đến một âm thanh nặng nề của một người, ba người nhìn lại, vội vàng nhảy bật lên phủi tay làm lễ: “Đại tướng quân đã trở về”.

“Ừ!” Trình Thế Hùng lúc không đánh trận thì không ra dáng một tướng quân, hắn phủi tay, đi lại đặt mông lên một tảng đá lớn, nhíu mày nhìn về tòa thành trì phía xa xa, thuận miệng nói: “Ngồi”.

Plt cùng lth không phải là thân binh của hắn, dù sao cũng kém hắn một bậc, thấy đại tướng quân tới, có chút câu nệ vội vang nói: “Thuộc hạ không dám làm phiền đại tướng quân suy nghĩ, xin phép cáo lui”.

Trình Thế Hùng tức giận nói: “ Nghĩ cái cóc khô, chết nhiều người như vậy, toàn thành này vẫn nằm yên bất động, chi bằng ngày đêm đánh nhau dưới thành, thì có thể có cơ hội, đó là chủ ý của Trình Đức Huyền…”

Nói đến đây, hắn đột nhiên ý thức được có cái gì đó không ổn, đưa ra chủ ý tuy là Trình Đức Huyền, nhận chủ ý đó lại là Quan Gia, nói như vậy có chút bất kính. Tuy nói trước mắt ba người này đều là dưới trướng của mình, hắn cũng không tiện nói thêm gì nữa, bèn vỗ tay nói: “Các ngươi đi đi”.

Ba người vội vàng lui ra, Trình Thế Hùng quay đầu nhìn lại, lại nói: “Dương Hạo, ngươi ở lại”.

Dương Hạo dừng chân, hai tên kia vội vàng rời đi, Trình Thế Hùng hỏi: “Ngươi lúc nãy nói cách gì, cái gì mà vừa thấm vừa phơi nắng?”

Dương Hạo nói cách nghĩ của mình một lần nữa cho Trình Thế Hùng. Trình Thế Hùng cười nói: “Nói thì dễ, ngươi cũng biết khi xây thành dùng đất vàng nên không thấm nước, tường thành rất chắc, ngươi cũng biết thành đó dày như vậy, đủ bốn lớp đấy, sao có thể lấy tòa thành một lớp ra so đo. Cách của ngươi, nước phải được thấm thành ít nhất mười ngày, nước mới có thể thẩm thấu tường thành được, lúc đó lại dùng ba đến năm ngày để bịt lỗ hổng, nước lũ không tràn vào nữ, rồi phơi nắng năm bảy hôm, thì tường thành mới có khả năng nứt được ra, cách tính này..sợ là...ước chừng mất một tháng”.

Dương Hạo nói: “Đại tướng quân, chúng ta công thành đã một tháng nay, chết đi biết bao nhiêu huynh đệ rồi, nhưng chưa tiến vào thành được nửa bước, giờ tốn thêm thời gian là một tháng nữa thì có thể dễ dàng mà lấy được thành, chẳng lẽ không chờ sao?

Trình Thế Hùng lắc đầu, khẽ thở dài nói: “Đúng vậy, chúng ta thực là không chờ nổi”.

Hắn đứng lên đi lên phía trước vài bước, đứng ở trên vách núi này nhìn tòa thành cô độc, sau đó ánh mắt chậm rãi nhìn sang hướng bắc, chỉ một ngón tay về nơi đó nói: “Sáng sớm ngày mai, chúng ta phải nhổ trại, đưa quân vào bách cốc trú”.

Dương Hạo ngẩn người: “Đi vào đó làm gì ạ, lại phát hiện ra đoạn đường nào có người ngựa Bắc Hán sao?”

Trình Thế Hùng trầm giọng nói: “Không phải binh Bắc Hán, mà là binh Khiết Đan, người kđ xuất binh rồi”.

Dương Hạo nghe xong thì giật mình, hung nô Hán, Đột Quyết của Đường, kđ của Tống, Nữ Chân, Mông Cổ, một vài dân du mục thảo nguyên đến từ phương bắc, xưa nay chính là vũ lực mang tính chất tiến công của nông canh Trung Nguyên đối với người hán Trung Nguyên, bọn họ mỗi người đều là ác mộng dân tộc chiến mà trời sinh ra, môi trường sống rất đặc biệt, thúc đẩy bọn họ từ đầu đến cuối có tướng sĩ, sự kiêu dũng của bọn họ, Dương Hạo sớm biết rõ trong các quyển sách sử, nay…cần đối với họ sao?

Trình Thế Hùng thản nhiên nói: “Bổn tướng cũng vừa được tin này, người kđ chia làm hai đường, một đường do nam viện tể tướng Da Luật Sa, dực vương Da Luật quân mạnh và đại tướng Da Luật Oa ca, trong Da Luật Đức, ///, binh //suất đi đường sông, một đường khác do nam viện đại vương Da Luật Tà Chẩn, bắc viện đại vương Da Luật Ốc Chất, xuyên qua Vân Linh mà đến, hai đường đại quân xa hô ứng, hình thành thế kiềm, hung hăng xông đến”.

Dương Hạo nghe xong giật mình nói: “Người kđ bày chiến trận rộng như vậy sao? Điều này…không phải là phát binh lực khuynh quốc sao?”

Trình Thế Hùng mỉm cười nói: binh khuynh quốc chưa chắc. Chiến tướng Bắc quốc nhu mây, cũng không chỉ vài tên tướng lĩnh, song lần này phái đến đều là đại tướng nổi danh của bọn chúng. Quan Gia thương nghị chuyện quân cơ còn hết lời khen hoàng đế kđ cơ mà”.

Dương Hạo vui vẻ nói: “Hết lời khen sao? Nhưng Quan Gia đã có kế sách ứng phó hay chưa?”

Trình Thế Hùng thôi không cười nữa: “Cũng không phải là vì điều này. Hoàng đế Bắc quốc Phủ Lập, trong nước có rất nhiều đại tướng không phục. Ở tình cảnh này, nếu hoàng đế Bắc quốc chỉ lo lắng đến sự an toàn ngôi vị hoàng đế, cân đong so tính chuyện trước mắt, tất nhiên không muốn xuất binh tương trợ Bắc Hán. Nhưng mà, nếu hắn có đủ thông minh, nhìn xa trông rộng. thì nhất định sẽ nắm chắc cơ hội này, các tộc người thảo nguyên có sức lớn, nếu dựa vào chinh phục họ để ôm lấy ngôi vị hoàng đế, nhất định sẽ hoạn vô cùng. Nếu như hắn thuyết phục được các bộ, lấy lí do bảo vệ kđ, phát binh đến cứu viện Bắc Hán để lấy sự đoàn kết, thì vị hoàng đế kđ này rất khôn khéo, Quan Gia là anh hùng trọng anh hùng, nhưng hắn phát binh. Chúng ta đánh Bắc Hán sẽ rất mất sức”. 

Dương Hạo nói: “Như vậy qg lệnh đại tướng quân đóng ở bách cốc, nhưng để ngăn người kđ tấn công tới sao?”

Trình Thế Hùng nói: “Không sai, lần này thảo phạt Bắc Hán một phen, qg đang trong tình thế bắt buộc, chinh điều đội quân lớn và lương thảo, há vô công mà phản sao? qg lúc đầu phát binh thì lo lắng người kđ sẽ xuất binh, sớm đã lệnh hai viên đại tướng Phan Mỹ, Quách Tiến canh giữ ở thiên hà, lại lệnh cho Lý Kế Huân, Hà Kế Quân canh giữ ở trên Vân Lĩnh, một thủy một lộ canh ở yếu đạo, nhưng qg vẫn không yên tâm, ngươi phải biết rằng một khi để cho người kđ xông thẳng vào, quân Bắc Hán trong thành trong ứng ngoài hợp, lúc đó đại quân của ta sẽ rất nguy hiểm, qg sợ sẽ không thể bình yên nam phản. nên lại phái lão Trình ta đi đóng ở bách cốc, tùy lúc xuất binh tiếp ứng cho Phan, Lý hai đường nhân mã. Còn về Bắc Hán này…”

Trình Thế Hùng lắc đầu thở dài nói: “Nếu là vài lộ đại quân đều có thể ngăn được bước của người kđ. Kiên trì trên một tháng, Bắc Hán này sẽ thuộc về quân Tống, nếu..nếu không thì, sợ qg gặp phải điều này lại vô công mà phản. Ôi, Bắc Hán này. Thật là xương khó gặm. Từ thời Quách Uy, đánh tiến đánh lui, lặp đi lặp lại đến hôm nay, Bắc Hán càng đánh càng nghèo, càng đánh càng phá, nhưng dưới sự trợ giúp của người kđ, nó lại không thể đổ xuống”.

Dương Hạo lo lắng hỏi: “Thế theo tướng quân, chúng ta có thể chặn chân kị binh tinh nhuệ người kđ một tháng không?”

Trình Thế Hùng trầm mặc nói: “Còn chưa xuất chiêu, ai biết ai thắng ai thua? Song…theo dự đoán của ta, nếu chỉ huy tốt, khả năng thắng có mấy phần, nhưng người kđ kì thực ngẫm nghĩ lại, chúng ta muốn ở cửa nhà người kđ chặn ngăn cản họ một tháng, sợ…khó mà làm được. Ta đây đoán, qg cũng nghĩ như vậy, chỉ là không cam lòng mà thôi, qua mấy ngày nữa, nếu không có hy vọng đánh thành Bắc Hán, sợ rằng qg sẽ thay đổi chủ ý mà rút binh”.

Dương Hạo đứng ở phía sau hắn, nhìn thấy thành trì bị nước lũ vây quanh, trầm mặc một hồi lâu, nói: “Tướng quân, nếu như phen này không diệt được Bắc Hán, nhưng cũng chưa chắc vô công mà phản. Kì thực, thần hạ có một cách, cách này không thực hiện được ở Trung Nguyên, nhưng trên mảnh đất tây bắc Quảng Nguyên, tin rằng sẽ có hiệu quả. Thuộc hạ tin rằng, cách này chỉ cần sử dụng, quân Bắc Hán không diệt thì cũng bị diệt, chỉ có điều…kế này tuy không cần đao thương chết chóc, phiền phức trong đó trái lại ít hơn ngoài chiến trường, không biết qg có thu nhận cách này không?”

Trình Thế Hùng xoay người, hứng thú nói: “Hả, ngươi lại có cách có thể không đụng đao thương mà lại diệt được Bắc Hán? Nói cho bổn tướng quân nghe coi.

Dương Hạo chỉ một ngón tay xuống núi, nói kế hoạch của mình: “Kế này là… rút củi dưới đáy nồi!”

 Chương 140: Tăng liền ba cấp.

Dương Hạo nói: “Tướng quân xem, chúng ta ban đầu nhìn không ra, nhưng lúc này, nhìn từ đây xuống, trong một mảnh đại dương mênh mông, song là một tòa thành cô độc, một khi nước lũ rút, toàn thành này làm sao tồn tại được nữa?”

Không để cho Trình Thế Hùng suy ngẫm, Dương Hạo vung tay từ từ lên nói: “Dựa vào dân chúng các huyện Bắc Hán xanh xao ốm yếu, nhà không có lương thực, dân chúng nhìn mà tưởng là ăn mày, dân chúng cung ứng thuế ruộng trong mồ hôi và nước mắt cho triều đình Bắc Hán, duy trì sự hiếu kính với người Khiết Đan, duy trì quân bị quân lương của họ, duy trì cuộc sống của bọn giàu có.

Khu tây bắc vốn hoang vắng, dân số không nhiều bằng Trung Nguyên, di chuyển cũng nhanh, nếu chúng ta có thể dời dân chúng đi nơi khác, Bắc Hán sẽ ra sao đây? Chỉ còn lại tòa thành mà thôi, không có dân chúng, ai đến nuôi bọn chúng? Không có dân chúng, tổn thất của binh sĩ lấy đâu mà bù vào? Không có quân đội và thuế ruộng, bọn chúng lấy gì để bảo vệ Bắc Hán? Khi đó bọn chúng không chết mới lạ”.

Trình Thế Hùng nghe xong, vỗ đùi, vui vẻ nói: “Tuyệt, cách này được…à không, cách này quá được, Trình lão ta đây sao không nghĩ ra nhỉ, quả nhiên là kế tuyệt diệu, ha ha ha…”

Dương Hạo cười nói: “Bề trên, chưa từng để ý tới tiểu dân. Tiểu dân như cây cỏ trước gió mưa, bất kì ai có binh, đều dẫm đạp lên một phen, nhưng bất kể là ai, đều không rời xa được tiểu dân hèn mọn này, vì dân là gốc rễ, những lời này không phải ta nói xuông. Bề trên ai cũng không thể rời xa dân chúng, rời xa họ, thì sẽ mất đi gốc rễ. Một khi bọn chúng mất đi giá trị lợi dụng, người Khiết Đan sẽ không đến giúp đỡ bọn chúng nữa.

Nhưng làm như vậy cũng không đơn giản hơn đánh giặc. Thậm chí còn nhiều phiền phức, dù đưa họ đến một mảnh đất giàu có màu mỡ, nhưng vì chưa từng đi đâu vượt khỏi lãnh thổ quốc gia nên dân chúng sẽ sợ hãi, sẽ lo lắng, di dời như thế nào đây, nhiều người như vậy sắp xếp ăn uống hộ dân như thế nào, di dời dân đi đâu, đến lúc đó phân chia đất đai như thế nào, trấn an ra sao, những việc này thật khó mà giải quyết thỏa đáng…”

Trình Thế Hùng vui vẻ nói: “Ta chỉ phụ trách đánh giặc, những việc này giải quyết như thế nào không liên quan đến ta. Cần gì phải đau đầu, để cho Quan Gia và các văn võ bá quan đau đầu vậy, hắc hắc, việc này không nên chậm trễ, ta đây đi nói với Quan Gia cái đã”.

Hắn vỗ mạnh vào bả vai Dương Hạo khen: “Ngươi được lắm, ngươi thực sự rất được, ha ha ha…”

Dương Hạo bị hắn vỗ đôi bàn tay thô kệch vào vai đau nói, nhìn Trình Thế Hùng đi nhanh thoăn thoắt, hắn cười đau khổ vài tiếng, ngẩng đầu lên nhìn trời, thầm nghĩ: “Ta đến lúc luyện đao rồi”. Hắn buộc đao thật chặt, cũng đi xuống sườn núi.

Triệu Khuông Dận cùng văn võ bá quan bàn bạc một lúc lâu, lập tức rời khỏi trại, hắn ngồi ở đó bất động, giờ có rất nhiều sự chọn lựa khiến hắn khó mà bỏ qua. Lần này xuất binh là vì Bắc Hán, Bắc Hán một miếng thịt mỡ ở trước mắt, cho hắn thời gian là một tháng, thì có thể lấy được, nhưng người Khiết Đan cuối cùng vẫn xuất binh.

Thực lực của Khiết Đan giờ đang trên hắn, hơn nữa gần người Khiết Đan quá, bọn họ thúc ngựa giơ roi, nếu ngặp trở ngại thì sao, gần người Khiết Đan đến nỗi dường như sáng đi chiều đến, mình ở bên này, chiến trận lại kéo quá dài rồi. Giờ vẫn không phải lúc quyết chiến một trận sống mái với người Khiết Đan, hắn ý thức được, nếu chiến đấu với người Khiết Đan, cần phải chuẩn bị tốt, giải quyết được mọi nỗi lo lắng, tích góp thuế ruộng, chuẩn bị đầy đủ để chĩa mũi nhọn vào vũ khí và chiến thuật của kỵ binh phương bắc. Nay cần phải có trận đánh ác liệt trước cửa nhà người Khiết Đan, đó là cử chỉ khôn ngoan. Nhưng nếu thắng nhỏ, không có sức đuổi theo, nếu bị đại bại, hai cái chân này cũng không chạy qua được bốn chân của người Khiết Đan, lúc ấy sợ đội quân tinh nhuệ phải cho ở đây.

Nhưng mà, trước đây chinh chiến với quân Bắc Hán, người Khiết Đan luôn kịp thời xuất binh quấy nhiễu, kiến vũ khí của hai bên không tài nào sử dụng được, thành công lần này vẫn đang hi vọng, mà lùi bước như vậy sao? Cơ hội tiếp theo, lại phải đợi đến khi nào?

Triệu Khuông Dận trong lòng đang cân nhắc, thì một tên tiểu hoàng môn rón rén bước vào trại lớn, cong lưng bẩm: “Quan Gia, phòng ngự sử Quảng Nguyên Trình Thế Hùng cầu kiến”.

“Hả?” Triệu Khuông Dận nhướng đôi lông mày, nói: “Gọi hắn vào yết kiến”.

Trình Thế Hùng di vào trại lớn, thấy Quan Gia mặc quân trang, cười tươi như hoa đứng ở đằng kia đợi hắn, tiến lên phía trước đón hắn, hắn còn chưa kịp quỳ gối làm lễ, Triệu Khuông Dận đã tiến lên một bước, nâng hắn dậy nói: “Trình tướng quân không cần đa lễ, giờ không phải lúc lên triều, đến đến đến, ngồi xuống nói”.

Cạnh tên tiểu hoàng môn có một cái ghế, hắn đứng chắp tay trước ngực, sau đó Triệu Khuông Dận quay về chỗ ngồi, Trình Thế Hùng lúc này mới hành lễ, rồi mới đặt mông ngồi xuống.

Triệu Khuông Dận mặt mày hớn hở nói: “Trình tướng quân đi mà quay lại, là có chuyện gì cần nói cho Trẫm biết sao?”

Trình Thế Hùng chắp tay nói: “Là…thần lúc nãy về doanh trại, dặn dò thuộc hạ tướng lĩnh chuẩn bị chu đáo cho ngày mai khởi hành, sau đó truyền tín dụ của Quan Gia cho thân tín biết, bên cạnh thần có một tân binh, hắn biết quân ta giờ đang tiến thoái lưỡng nan nên dâng lên một kế, thần càng nghĩ càng thấy có lý, cho nên vội vàng chạy đến báo cho Quan Gia biết”.

Triệu Khuông Dận thích nhất võ tướng thật thà thẳng thắn, mà Trình Thế Hùng lại là tướng của Chiết gia, nay tuy xưng thần với hắn, nhưng trên thực thế hắn lại nghe lệnh của Chiết gia. Trong lòng đã có chủ ý mời chào, nay nghe được tin đó liền khen: “Được, Trình tướng quân không những dũng mãnh vô địch trên chiến trường, mà còn có thể bày mưu tính kế, Trẫm rất vui mừng, ngươi nói đi, diệu kế đó là gì?”

Trình Thế Hùng liền nhắc đến Dương Hạo, Triệu Khuông Dận nghe xong trầm ngâm không nói gì, Trình Thế Hùng thấp thỏm lo lắng, hỏi dò: “Quan Gia thấy kế này không được sao? Tân binh này của thần, mới nhập ngũ không lâu, kiến thức tuy còn nông cạn, nếu không nói là kém, xin Quan Gia chớ trách”.

Triệu Khuông Dận lắc lắc đầu, liếc nhìn hắn một cái nói: “Tân binh này của ngươi, hắc hắc, làm một tân binh thật là đáng tiếc”.

Trình Thế Hùng nghe hiểu ý, không kìm được vui vẻ nói: “Quan Gia thấy có được không?”

Triệu Khuông Dận đang định trả lời, tiểu hoàng nhi đứng ở cửa lại khẽ giọng lên tiếng: “Khởi bẩm Thánh Thượng, Trình Đức Huyền cầu kiến”.

Quan thần Đại Tống đều gọi Hoàng Đế là Quan Gia, đây là cách xưng hô vô cùng thân thiết mà không mất đi sự cung kính, trường hợp chính thức còn gọi là Thánh Thượng, Trình Thế Hùng là ngoại thần, trước mặt hắn, tiểu hoàng nhi đó đã sửa, dùng cách gọi chính thức.

Triệu Khuông Dận không muốn làm cho Trình Thế Hùng tránh né, để tránh kế của hắn không bị coi là kế của người ngoài, nhân tiện nói: “Cho hắn vào”.

Trình Đức Huyền vào trong trại, sau khi nhìn thấy Quan Gia ngồi ở trên ghế, ngồi bên cạnh là Trình Thế Hùng, vội làm lễ với Hoàng Đế. Triệu Khuông Dận bảo hắn đứng dậy, sau hỏi: “Trời đã tối, Trình khanh đến gặp Trẫm có chuyện gì?”

Trình Đức Huyền nhìn Trình Thế Hùng, thấy Hoàng Đế không có ý tránh né hắn, vẻ mặt ôn hòa nói: “Thánh Thượng, vi thần suy nghĩ không chu đáo, làm xảy ra trận lụt này, chưa đạt được hiệu quả, hơn nữa lại một thời gian dài làm trễ việc quân ta công thành, hôm nay đến đây nhận tội với Thánh Thượng”.

Triệu Khuông Dận xua tay nói: “Thôi, đây không phải lỗi của ngươi. Xem ra, Trẫm chỉ hận kế của ngươi đã muộn rồi, haiz, nếu quân ta một đường dưới thành Bắc Hán dùng kế này mà không tấn công, lúc này Bắc Hán vẫn nằm trong tay Trẫm”.

Trình Đức Huyền thấy mình vẫn chưa bị trách tội, trong lòng vui mừng, vội nói: “Vi thần thấy người Khiết Đan vẫn phát binh, để cho chúng ta thời gian không nhiều, lúc nãy đứng ở đằng xa trông về đô thành Bắc Hán, nghĩ cách xem làm thế nào, tự nhiên nghĩ được một kế, đến dâng lên cho Bệ Hạ.

“Ồ?” Triệu Khuông Dận rất ngạc nhiên, lúc nãy Trình Thế Hùng vừa mới hiến kế, nay Trình Đức Huyền lại đến hiến kế, xem ra cơ hội lấy lại Bắc Hán vẫn còn. Hắn vui vẻ nói: “Trình khanh mời, có diệu kế gì thì trình lên đi”.

Trình Đức Huyền chắp hai tay, cung kính nói: “Thánh Thượng, kế này của thần, tên là kế rút củi dưới đáy nồi”.

“Á!” Trình Thế Hùng quát to một tiếng, tay chỉ vào Trình Đức Huyền, nói luôn một câu: “Tân binh của ta đến chỗ ngươi sao?”

Đột nhiên nhớ tới có Hoàng Đế ở đó, vội bịt miệng lại.

Triệu Khuông Dận biết ý nghĩ của hắn, cười nhìn hắn một cái, rồi nói: “Rút củi dưới đáy nồi? Thế nào là rút củi dưới đáy nồi? Ngươi nói tường tận về cách đó đi”.

“Vâng, thần tuân chỉ”. Trình Đức Huyền tò mò nhìn Trình Đức Huyền thấp thỏm không ngồi yên, bình tĩnh lại, cao giọng nói: “Thánh Thượng, trước khi chặt cây thì phải tỉa lá, sau đó mới đi chặt gốc. Nay ngoài Bắc Hán có sự trợ giúp của Khiết Đan, trong có dân chúng nộp thuế, thiên binh của Đại Tống ta trong thời gian ngắn không thể công thành thành công. Sức sống của Bắc Hán ba năm, năm năm nữa hồi phục, lần sau thảo phạt lại phải hao tài tốn của. Vi thần nghĩ, nơi tây bắc hoang vắng, cái quý giá nhất chính là dân cư. Nếu quân ta phải rút lui, thì không thể không lui, làm thế nào để làm cho dân chúng trong thành Bắc Hán theo Đại Tống ta đây? Mất đi dân chúng, Bắc Hán làm sao có thể tồn tại được, không cần công thành mà tự sụp đổ thôi”.

Triệu Khuông Dận gật đầu nói: “Ngươi nói rõ cho ta nghe”.

“Vâng, Thánh Thượng, thật may mắn vì Thánh Thượng sớm đã có sự phòng ngự, giờ quân đang thông thiên hà, Lý tướng quân cắm ở Vân Lĩnh, đã phòng bị quân Khiết Đan lui tới, lại có Trình tướng quân ở bách cốc tiếp ứng, nhân cơ hội này, nếu chúng ta cố gắng đưa người Bắc Hán hướng Đại Tống, đoạn tuyệt con đường tiếp ứng của Bắc Hán. Như vậy, không cần thời gian vài năm, Bắc Hán sẽ bị diệt vong. Chỉ là, làm như thế nào, bố trí ổn thỏa ra sao, trấn an ra sao, nếu mà làm kích động lòng dân hoặc làm cho dân chúng bị chết, mất đi lòng dân, như vậy thì thật là không ổn”.

Trình Đức Huyền có tài ăn nói, phân tích rõ ràng lợi và hại, dễ hiểu, có sức thuyết phục hơn so với Trình Thế Hùng, Triệu Khuông Dận nghe gật đầu lia lịa, Trình Đức Huyền thấy vậy, trong lòng mừng thầm, vấn đề giờ là Triệu Khuông Dận sẽ quyết định ra sao, có thể bù đắp lại lỗi của hắn, không ngờ Triệu Khuông Dận nghe không có biểu hiện gì, đợi hắn nói xong, chỉ gật đầu, thản nhiên nói: “Trình khanh lo lắng quốc sự, hiến kế cho ta, Trẫm khen ngợi và khuyến khích. Kế này, Trẫm sẽ gọi các quan lại thương lượng, trời đã tối, Trẫm cũng đi nghỉ đây. Trình khanh, hai ngươi cũng lui ra đi’.

Trình Thế Hùng, Trình Đức Huyền vừa rồi thấy hắn gật đầu liên tục, thấy rõ vẻ vui mừng rồi lại nói một câu như vậy, hai người nhất tề ngẩn ra, vội vàng rút lui, cáo biệt đi ra.

Vừa ra trại, Trình Đức Huyền chắp tay cười nói với Trình Thế Hùng: “Trình tướng quân, hạ quan không nghĩ ngươi cũng ở đây, hôm nay công thành, sự dũng mãnh của Trình tướng quân khiến lệnh quan rất khâm phục, trên chiến trường, hổ tướng thắng được Trình tướng quân thật không nhiều”.

Đây vốn là một câu khen, nhưng Trình Thế Hùng trái lại không khách khí như lần trước, hắn không khen không chê lên tiếng: “Dũng mãnh như thế nào, nhưng chẳng phải vẫn chưa chiếm được thành sao? Việc này không nhắc đến nữa, ngày mai bổn tướng quân sẽ xuất binh đi bách cốc, giờ ta phải về chuẩn bị đã, xin cáo từ”. Dứt lời hắn nghênh ngang bỏ đi.

Trình Đức Huyền ngạc nhiên chắp tay, nhìn bóng dáng của Trình Thế Hùng thầm nghĩ: “Ta nào có đắc tội ngươi? Ngươi không chiếm được thành kia, há phải giận cá chém thớt sao? Thật là…thô lỗ”. Hắn lắc đầu, phẩy tay áo bỏ đi.

Trình Thế Hùng vừa đi vừa mắng thầm: “Tên chết tiệt, lão tử không thể ăn nói được như ngươi, Quan Gia vẻ nho nhã hơn một cây đại thụ, lại anh minh, nhưng nếu ngươi lại đến chiếm công lao dưới tay ta. Quan Gia nếu tính công này chỉ là của ngươi, ta tuyệt đối sẽ không bỏ qua”.

Trình Thế Hùng bao che, nếu không thì nào có nhiều kiêu binh vì hắn mà thề sống chết, nay Trình Thế Hùng hiến kế với Quan Gia, thực sự là không biết hắn lại hiến kế này, cũng không gọi là cướp công. Nhưng hắn thấy Trình Đức Huyền mồm miệng lanh lợi, sức thuyết phục tốt hơn hắn, hắn hiến kế trước không bằng Trình Đức Huyền hiến kế sau, cảm thấy hổ thẹn với thuộc hạ của mình, công này tự nhiên lại thuộc về Trình Đức Huyền.

Quan Gia đang nhìn bức bản đồ trong trại lớn. Bản đồ vô cùng đơn sơ, chỉ có mấy vị trí con công Sơn Xuyên trọng yếu, Triệu Khuông Dận chỉ chỉ vào vị trí của thành Bắc Hán, chậm rãi quan sát.

Cắm quân phía bắc Vân Lĩnh, phía đông thông thiên hà, đoàn bách cốc của hai người, có ba nơi là cửa ải hiểm yếu, nhưng giữa ba nơi còn vô số sông ngòi sơn cốc, người Khiết Đan và người Bắc Hán vô cùng quen thuộc với con đường nơi đây, một khi thông hành bí mật yếu đạo, bị họ bất chợt xông vào thì tác dụng của ba nơi đó sẽ hoàn toàn bị đánh mất.

Địa thế cho thấy, đó là một dải núi non trùng điệp, đó là vùng đất hướng nam là lòng chảo, phía tây và phía đông đều là núi non, toàn bộ lòng chảo như bị vây ở giữa một vùng săn bắt, đô thành Bắc Hán chính là con mồi, một khi qua được cửa ải hiểm yếu, đô thành Bắc Hán từ con mồi trở thành mồi nhử, người thợ săn ngược lại sẽ trở thành mục tiêu bị người săn bắn. Mười lăm, mười sáu vạn lấy bộ binh là chủ yếu, lục chiến một tháng đều mệt mỏi tinh thần lẫn thể xác, lại thếu đi chiến xa chở đội ngũ trang bị cần thiết để kháng cự với kỵ binh, một khi binh hổ lang mà đến thì sẽ ra sao?

Không thể tồn tại ý tưởng may mắn, trên chiến trường có thể có may, song thống soái lại không thể mang sự may mắn đó đến, giờ nên làm tốt công tác chuẩn bị, nếu bỏ chạy thì lần sau khi tấn công Bắc Hán nó sẽ hồi phục lại sức sống, nhưng mang dân chúng Bắc Hán cùng đi thì chính lại không đơn giản.

Nếu như có thể để cho dân chúng ở mấy châu huyện còn sót lại của Bắc Hán đi vào trong đất liền, dù chỉ đi một phần ba, thì Bắc Hán nãy cũng sẽ bị sụp đổ, song…việc di dời, bố trí ổn thỏa mà Dương Hạo và Trình Đức Huyền đề xuất cho thấy di dân có thể thành công hay không, đây mới là vấn đề quan trọng.

Trẫm hiện giờ sẵn sàng ra trận, nam chinh bắc thảo, ý đồ thống nhất thiên hạ, đánh là cờ hiệu của nhân nghĩa. Nếu lần này di dân phụ nữ và trẻ em an bài không tốt, gây ra sự chết chóc, khác gì trực tiếp giết hại dân chúng Bắc Hán. Việc này một khi bị lan truyền ra, sẽ nhận được sự chỉ trích của thiên hạ, đó là điều khó tránh. Trẫm muốn dùng kế này, nhưng trước tiên phải bố trí ổn thỏa di dân mới được”.

Tay của Triệu Khuông Dận chỉ vào hướng bản đồ, rò rò tìm một vòng xung quanh Bắc Hán, sau đó đi vòng theo hướng đông nam, chỉ vào hà bắc tây lộ, hà bắc đông lộ, kinh tây tây lộ, kinh đông tây lộ…

Hà Nam, Sơn Đông, khu vực này tương đối ổn định, cũng khá giàu có, nhưng trong chốc lát sắp xếp hơn hai vạn hộ vào trong cư dân, sợ rằng quan địa phương không cai quản được, nhưng có thể đi theo một đường mà vào, từng bước sắp xếp, bố trí cho từng cụm dân Bắc Hán vào, bố trí ổn thỏa theo bốn đường.

Nhưng hướng đông, toàn bộ tuyến đường tiến vào dường như đều là vắt ngang, giống như một con rắn, theo tốc độ đột phá của kỵ binh Khiết Đan, nếu con đường vắt ngang gặp trở ngại, sợ rằng các nơi đóng quân khó ngăn cản, mà đại quân của mình lại hết cách tiếp ứng chu toàn.

Một con đường khác là di dân đến con đường hướng nam, tiến vào đường quân Vĩnh Hưng, hướng Phủ châu, giữa sông, trì hoãn sự di dời, con đường này, càng đi phía nam càng an toàn, nhất là khi qua Hoàng Hà, người Khiết Đan nào dám truy đuổi nữa, nhưng như vậy, nhân khẩu thì cần sắp xếp vào khu chia cắt thế lực Chiết gia, lực lượng bọn họ lớn mạnh, sợ rằng khó mà làm cho họ phục tùng. Giải quyết được Bắc Hán rồi, ngộ nhỡ tây nam lại sinh sự, như vậy chẳng phải vừa được vừa mất sao?

Triệu Khuông Dận suy nghĩ mãi, cuối cùng quyết định, xoay người quay lại trước bàn, cao giọng dặn dò: “Đi, truyền ý chỉ của Trẫm, Trình Thế Hùng an bài cho Dương Hạo có công tiến vào đó, đặc biệt sẽ được thăng cấp, cần giám sát, di dân khâm sai phó sử, lệnh Trình Thế Hùng cho hắn một đường nhân mã, lập tức bắt tay vào việc di dân Bắc Hán. Lại truyền ý chỉ của Trẫm, huề thăng đô giam Trình Đức Huyền là dẫn tiến phó sử, nhẫn nại di dân khâm sai chính sử, toàn quyền phụ trách chuyện dân chúng Bắc Hán. Quan phủ bên đường đóng quân, tiện cho việc di dân của hai vị đó, nhất quyết không được mắc sai lầm”.

Vừa ghi lại cuộc sống hàng ngày, phác thảo thánh dụ cho cuộc sống hàng ngày của dân, Quan Gia được tin một tiểu tốt dưới trướng Trình Thế Hùng là đô giam bát phẩm, hai người cả ngày đi theo hầu hạ Thiên tử, hiểu biết sâu rộng, mặt không ngừng lộ ra vẻ kinh ngạc.

Đô giam là chức quan, là quan bát phẩm. Từ một tên tiểu tốt, một tên tiểu lại, nếu làm theo con đường làm quan bình thường thì mức độ khó không thua gì từ chuyển từ làm công sang làm viên chức chính thức của quốc gia. Hơn nữa quan viên Đại Tống chia làm chín phẩm, người này từ vô cấp lên luôn bát phẩm, bỏ qua tòng cửu phẩm, cửu phẩm, tòng bát phẩm, đây là liền một lúc lên ba cấp.

Trình Đức Huyền vốn là đô giam bát phẩm, nay là là phó sử, là quan chính thất phẩm, tăng liền hai cấp ving quang hơn Dương Hạo làm quan từ một tiểu tốt, tăng liền ba cấp vinh dự làm giám thị, không khỏi ngán ngẩm.

Đừng nhìn hậu nhân xem hí kịch, quan thất phẩm trên sân khấu đều là quan tép riu, đó là vì nhân vật trong vở kịch là tướng quân Đế vương, kì thực quan thất phẩm không được coi là nhỏ, là bác học tài tử xuất thân tiến sĩ, cũng không phải ai cũng đều có cơ may làm quan thất phẩm này.

Hiện giờ triều đình Đại Tống, quan nhất nhị phẩm là hư chức, dùng để chỉ cho tuổi già, chỉ dùng cho lão thần có công lao. Triều đình trong chướng bách khoa toàn thư phần nhiều là từ nhị phẩm, quan lại bắt đầu từ chính tam phẩm, quan lại từ ngũ phẩm tương đương với chức quan lớn. Chức quan này tốt như vậy, quận vương Hàm An Đại Tống Hàn Thế Trung sau này, lúc thanh niên thì lưu manh, người ta gọi là Bát Hàn ngũ, chỉ vì xuất thân hèn mọn, sau khi hắn tham gia quân ngũ rồi lập chiến công, song cũng là thừa tiết lang tòng cửu phẩm. Tuy nói làm quan sau này khó hơn khi khai quốc, bởi vậy cũng thấy thăng quan khó khăn đến thế nào.

Cho nên nói, tiếp cận với thiên nhan tốt ở chỗ này, dựa vào sự tôn trọng Đế vương, hắn vị tất nhớ rõ các chức quan nhỏ, cho nên dốc lòng tận tụy, cấp bậc quan sẽ không thấp.

Thánh chỉ Tề đã đưa cho Quan Gia xem, Triệu Quan Gia đã xem sơ qua một lần, gật đầu đồng ý. Lần lượt có thái giám tới truyền chỉ. Triệu Khuông Dận suy nghĩ một lát. Lại gọi một tiểu hoàng môn, trầm giọng nói: “Đi, đi gọi Trình Đức Huyền cho trẫm, Trẫm muốn dặn hắn cái này”.

Tiểu hoàng môn phụng lệnh, nhanh như chớp đi tìm Trình Đức Huyền, Trình Đức Huyền nhận thánh chỉ, biết được mình làm khâm sai thiên sứ, thăng liền hai cấp, vui sướng khôn nguôi, vừa nghe Thánh Thượng gọi đến, vội vàng chuẩn bị vào trại của Quan Gia, bái tạ thiên ân.

Triệu Khuông Dận khen ngợi hắn, sau đó mới nói: “Trình Đức Huyền, mai Trẫm giao cho ngươi một đoàn người ngựa, thu thập dân chúng xa gần của Bắc Hán, mềm nắn rắn buông. Đưa bọn họ di dời về hướng Tống cảnh. Kế rút củi dưới đáy nồi này, là ngươi và Trình Thế Hùng lần lượt dâng lên cho Trẫm, Trẫm trọng người, thưởng phạt phân minh, liền giao việc lớn cho hai ngươi làm. Còn về phần quan phủ bên đường, đóng quân, hai ngươi duy trì đến tết Thiên Tử thì có thể nhờ lực lượng giúp đỡ”.

“Vâng, vi thần tuân lệnh”.

“Ngươi tới”. Triệu Khuông Dận bảo hắn tới bản đồ phía trước. Chỉ vào hướng bắc hà tây lộ, bắc hà đông lộ, kinh đông tây lộ, nói: “Trẫm lệnh cho ngươi đưa dân chúng đến đây, tản mác bố trí thỏa đáng, cho đến kinh đông đông lộ. Đây là tuyến đường di dân, ngươi phải cố gắng đi theo tuyến đường này”.

“Vâng”.

“Nhưng trên chiến trường, tình thế thay đổi trong nháy mắt. Nếu người Khiết Đan tới, được tin Trẫm sẽ đi theo sau dân chúng dọc đường chặn đường đuổi giết, mà nếu Trẫm lại không thể phát binh ngăn chặn, thì ngươi thực sự không đi hướng đông được…”

Ánh mắt của Triệu Khuông Dận từ từ rời hướng tây nam, ngón tay hất mạnh một cái, trầm giọng nói: “Vậy đi tây nam đi, dẫn dân chúng Bắc Hán dời theo hướng châu phủ Duyên An, sắp xếp cho bọn họ ở đó. Đây là cách bất đắc dĩ, không nhất thiết đi thì không cần phải đi, nhưng nếu liên quan tới sự an nguy của bách tính. Ngươi cũng tùy cơ ứng biến”.

Trình Đức Huyền trong lòng hiểu rõ, trầm giọng nói: “Vâng, vi thần sẽ cố gắng hết sức, không phụ sự ủy thác của Thánh Thượng”.

Lúc này Dương Hạo đang ở giữa núi luyện đao, mồ hôi nhễ nhại bổ xuống bốn trăm lẻ một đao, vừa ngẩng đầu lên thì thấy một tiểu hoàng môn đang vào trong doanh trại, Dương Hạo tò mò nhìn theo hắn, rồi lại chăm chú nhìn vào đao, hắn vẫn không biết tại sao mình được thăng quan, hơn nữa lại thăng liền một lúc ba cấp.

 Chương 141: Hai điểu nhân.

Vào một buổi sáng ngày thứ hai, Chính Phó Sứ Giả Khâm Sai của di dân mặc quan y vào trướng để tham kiến Hoàng Đế.

Triệu Đại vừa khen ngợi và khích lệ Nhị Nhân của hắn một lần nữa, lại nói quân tình cấp bách, lệnh cho Nhị Nhân nhanh chóng chuẩn bị, di chuyển dân chúng. Nhị Nhân nhận lệnh rồi lui ra ngoài, đi điểm thu người và ngựa của mình.

Trình Thế Hùng chỉnh đốn ba quân, đã sắp rút trại khởi doanh để đuổi theo Bách Cốc. Nhìn thấy Dương Hạo vinh quang trở về, Trình Thế Hùng há to miệng cười lớn, thật là vui hơn cả khi hắn được thăng chức. Đám thủ hạ thân binh của Trình Thế Hùng cũng đều nồng nhiệt vây lấy Dương Hạo, sờ vào quan y, chạm vào mũ quan của hắn, nói cười cung hỉ kèm theo một chút ngưỡng mộ.

Trình Thế Hùng nhìn thấy đám quân vây lấy Dương Hạo nói cười không dứt, hoàn toàn không có sự trang nghiêm của quân đội, còn đại quan ăn mặc chỉnh tề như mình thì đứng bên cạnh hô hậu lệnh mà cũng quên mất mình lúc nãy cũng đã cười híp cả mắt, giống như bọn họ, không ra thể thống gì. Hắn hắng giọng một tiếng, quát nói: “Được rồi được rồi, đợi xong chiến sự rồi thì để Tiểu Dương mời mọi người đi uống rượu, lúc đó cười nói không muộn, trận phát binh sắp tới đều phải làm theo quy củ một chút cho lão Trình ta

Sau khi quát đám thân binh lùi ra, Trình Thế Hùng liền cười lớn: “Phụng thánh dụ, bản tướng quân dẫn theo một nghìn tinh binh đến nghe ngươi điều động. Ngươi là người của lão Trình ta, ngươi có tiền đồ rồi, mặt của ta cũng vẻ vang hơn, như vậy, ta sẽ lại phong tặng ngươi năm trăm người. Người và ngựa của lão Trình ta đều ở đây, tuỳ cho ngươi chọn.”

Dương Hạo nghe thấy, trong lòng vô cùng cảm kích, hắn liếc nhìn Trình Thế Hùng, nhìn thấy hắn thật sự đang vui mừng cho mình, lại vái chào một cái, không nói gì thêm, đại ân không cần đáp trả. Hắn đi về phía đội quân đang đứng chỉnh tề, nghiêm túc như sơn, ánh mắt từ từ di chuyển, chỉ và nói: “Phạm Lão Tứ, Lưu Thế Hiên, tất cả bước ra khỏi hàng.”

Hai người này đã từng mấy lần qua lại với hắn, hai bên cũng có chút giao tình, thuận tay đương nhiên là sẽ điều lại. Hai người họ đi theo sau Dương Hạo bước về phía sau đội quân, thỉnh thoảng lại gọi ra một số quan binh có chút quen thuộc. Dương Hạo biết Trình Thế Hùng lần này xuất binh là có kẻ địch hiểm ác cần đánh, do đó hắn không chọn những kẻ tinh nhuệ. Điều này đã lọt vào mắt Trình Thế Hùng, hắn liền ngăn Dương Hạo lại, chủ động giúp hắn chọn lựa nhân mã có thể đánh tốt. Dương Hạo vội vàng cảm ơn nói: “Tướng quân, ty chức lần này đi chủ yếu là chuyển cư dân Bắc Hán đi, không phải l đánh trận ác liệt với Đoàn Bách Cốc như tướng quân, những tướng tinh nhuệ vẫn nên để lại chỗ tướng quân là được rồi.”

Trình Thế Hùng nói: “Bản tướng dùng binh không phải chỉ dựa vào mấy người này. Cứ để bản tưởng chọn người hộ ngươi là được rồi, ngươi là người bản tướng tiến cửa với quan gia, lần này ngươi là Phó Sứ, chuyện này ngươi phải làm cho thật tốt, đừng để cho bản tướng mất mặt là tốt rồi.”

Dương Hạo không lay chuyển được ý tốt của hắn, đành phải làm theo sự sắp xếp đó. Lúc này cơ cấu phân công trong quân đội đa phần là dựa vào bốn cấp: Sương, quân, doanh, đô. Một sương thì quản mười quân, một quân thì quản năm doanh, một doanh lại quản năm bộ, mỗi bộ đều có khoảng một trăm người. Dương Hạo nhận lệnh của Hoàng Đế, sẽ dẫn hai doanh nhân mã, Trình Thế Hùng lại cấp thêm cho hắn một doanh người, quản lí 1500 quân, chỉ huy ba doanh, 6 phó chỉ huy, 15 đô đầu, đó đều là những tướng lĩnh có kinh nghiệm chiến trận phong phú.

Sau khi sắp xếp xong, Trình Thế Hùng liền nhổ trại đuổi theo Đoàn Bách Cốc. Còn Dương Hạo thì dẫn theo 1500 quân vội vàng đuổi theo tụ hợp với Trình Đức Huyền. Trình Đức Huyền nhận được 2000 cấm quân, vì hắn là Chính Sứ, để hắn có thể hoàn thành thuận lợi nhiệm vụ di dân trọng đại, Triệu Đại đã đem một phần chiến xa và ngựa trong quân giao cho hắn, bây giờ đều dùng để chở lương thực, thậm chí các công cụ vận chuyển càng nhiều thì lại cần hai vị Khâm Sai tự mình chuẩn bị.

Hai người gặp nhau, vội vàng bàn bạc một lúc, định ra địa điểm tụ hợp, rồi mỗi người đều tự dẫn quân đi tìm cư dân Bắc Hán. Hai người đều dùng một đô một quân, phân tán người ra khắp nơi, đem tất cả những cư dân Bắc Hán có thể tìm được chuyển đến địa điểm tụ hợp đợi lệnh, rồi chuẩn bị lên đường.

Dương Hạo tập hợp tam doanh nhân mã của mình, trực tiếp trao quyền cho họ, nói: “Các ngươi lần này đi hãy tìm đến những huyện trấn có nhiều khu vực, cư dân ở đó nhiều một chút, thời gian của chúng ta có hạn, nội trong năm ngày, có thể tìm được bao nhiêu thì tính bấy nhiêu. Trung nguyên tuy đất đai rộng lớn, nhưng những dân chúng cả đời chưa rời khỏi cửa chưa chắc đã chịu rời đi, các ngươi hãy nói thật nhiều về sự phông hoa của Trung Nguyên cho họ nghe, mềm rắn kết hợp, có thể doạ, nhưng không được giết người, không được cướp bóc, kẻ vi phạm sẽ xử theo quân pháp.”

Dương Hạo cẩn thận căn dặn rất nhiều, đám quân đều có thể hiểu được, lập tức hô một tiếng rồi tản ra. Đám quân này mấy ngày trước đã từng cùng Trình Thế Hùng đi càn quét bên ngoài phạm vi thành Bắc Hán, nên đối với địa lí xung quanh đều rất thông thuộc. Nơi nào phồng hoa, nơi nào người đông, bọn họ đều có dự liệu trong lòng. Những đại binh này khí thế hừng hực xông lên. Bất kể là huyện thành hay là thôn trấn, lần trước thì thấy người bắt đinh, nhưng lần này không những bắt đinh mà cả nam nữ già trẻ đều không tha.

Trong những huyện thành, thôn trấn này có nhiều hộ lớn vừa nhìn thấy quân mã đến thì bất kể là đánh cờ hiệu, khua chiêng gõ trống theo lệm thì đều cất hết trâu dê tiền bạc. Đám đại binh này cũng lại đi xung quanh cửa nhà, nhưng trở ngại này cũng không là gì, càng những hộ trong nhà có tiền, gia đinh khoẻ lao động nhiều, xe lừa xe ngựa không ít, thì lại càng là đối tượng di rời của Tống binh.

Dưới sự đe doạ của đao thương, những hộ lớn giàu có này đành phải thấp thỏm không yên dắt lừa ngựa, bọc những túi nhỏ, lưu luyến nhìn nhà cửa vườn tược nồi niêu chum vại rồi bước lên đường. Ba bốn đại binh cầm đao thương áp tải hàng trăm dân chúng đang bước một bước lại quay đầu ba lần nhìn, giống như ngựa đang phi về địa điểm tập hợp vậy. Những Tồng quân còn lại tiếp tục đuổi vào những thôn trại.

Đối với những bách tính nghèo khổ thì Tống quân lại khoe khoang với họ sự phồn hoa của Trung Nguyên.

Khoe khoang Đại Tống giàu có như thế nào, dân chúng nhiều của cải như thế nào, đó thật sự là mảnh đất vàng, đi rồi sẽ có việc để làm. Mỗi người đều được ăn thịt uống rượu, những người canh giữ cổng thành đều mặc lụa là gấm vóc, họ so với Huyện Thái Gia của Bắc Hán còn giàu hơn nhiều. Một mặt lại doạ bọn họ, nói người Khiết Đan muốn hoán đổi một vị Hoàng Đế khác. Vị Hoàng Đế này mắt xanh tóc đỏ, đó là quỷ thác sinh chuyển kiếp, thích ăn tim người, tàn bạo vô cùng. Lần này người Khiết Đan được hắn phái đến là để bắt người, hắn muốn biến cả Bắc Hán thành một mảnh đất không một cọng lông. Chúng doạ đến nỗi những thôn dân không có kiến thức đều sửng sốt, ngẩn người ra.

Những lời nói này tất nhiên là do Dương Hạo nghĩ ra để tuyên truyền cho dân chúng nông thôn. Những lời này đối với những người dân một chữ bẻ đôi cũng không biết và thiếu kiến thức là một đòn sát thương lớn, vì họ rất tin vào nó. Tiếp đó những người dân này sẽ sợ hãi rồi đi theo Tống quân, rời bỏ quê nhà nơi mà cha ông đời này qua đời khác đều sinh ra, lớn lên và chết đi ở đó.

Nhà họ bốn bề đều là vách tường, hoàn toàn không có thứ gì đáng để thu dọn, cả nhà già trẻ vác một túi lương thực, xách một cái nồi to, tất cả mọi thứ trong nhà đều mang lên người, tốc độ tập trung còn nhanh hơn cả những phú hộ.

Ngày hôm nay, Triệu quan gia nhận được tin tức tình báo quân cơ, Tể Tướng Nam Viện Khiết Đan – Da Luật Sa, Ký Vương – Da Luật Địch Liệt, Chủ Soái Đại Tướng Quân – Da Luật Oa Ca, Da Luật Đức Lý, Lệnh Ổn Đô Mẫn, Tường Ổn đã đuổi đến Thông Thiên Hà.

Người đóng thủ ở Thông Thiên Hà chính là Tống tướng Phan Mỹ, Quách Tiến. Hai viên tướng này kinh nghiệm chiến trận vô cùng phong phú, đều là những danh tướng hàng đầu của Đại Tống. Đặc biệt là Phan Mỹ, người này trong Bình thư (*) “Dương Gia Tướng” đã được miêu tả là dựa vào những mối quan hệ với đàn bà mà được làm Thái Soái, là tên gian thần số một của Đại Tống, chuyên môn hãm hại Dương Gia Tướng. Hắn còn là danh tướng đầu tiên diệt Kinh Hồ, diệt Hậu Thục khi Đại Tống khai quốc, thậm chí sau đó còn diệt Nam Hán, diệt Nam Đường, diệt Bắc Hán. Trong những trận đại chiến diệt quốc này, hắn đều là chủ tướng, người này túc trí đa mưu, có thể xuất trinh thiện chiến, cho nên công lao của hắn so với công lao của cả nhà Dương Gia Tướng gộp lại vẫn nhiều hơn một bậc.

Tể Tướng Nam Viện Khiết Đan Da Luật Sa cũng là một viên tướng dũng mãnh trên chiến trường, nhưng đối với Phan Mỹ kẻ đã sớm có chuẩn bị kĩ càng thì hắn không phải là đối thủ.

Hắn vội vàng đuổi đến Thông Thiên Hà, những tham mã trinh sát phía trước đã qua sông, tìm kiếm bốn hướng không thấy có mai phục, rồi hướng về bên kia sông phát ra tín hiệu. Da Luật Sa nóng lòng định bơi qua, hắn muốn cướp công đầu ở vị trí Nam Viện Đại Vương, Bắc Viện Đại Vương, nên khi vừa nhìn thấy phía bờ đối diện không có mai phục và nghĩ rằng quân Tống đang công kích Bắc Hán, sẽ không sắp xếp nhân mã ở đây để ngăn cản người Khiết Đan, cho nên hắn vô cùng mừng rỡ, không chờ hậu quân đuổi đến mà lập tức hạ lệnh qua sông, rồi xung phong dẫn đầu, cùng với Ký Vương Da Luật Địch Liệt đi trước.

Bất ngờ, khi đại quân của hắn lội qua được nửa đường thì bỗng nghe thấy một tiếng pháo vang ra từ trong sơn cốc, dư âm dội vào chưa dứt thì lại nghe thấy tiếng những con trâu điên chạy truyền ra từ Hà Cốc, một ngọn sóng lớn cao hơn cả hai con ngựa đứng chồng lên nhau cuốn theo cả cát bụi sỏi đá, cây cối, gào thét mà xô lên, làm cho người ngựa Khiết Đan tách làm đôi.

Da Luật Sa và Da Luật Địch Liệt đã qua sông quay lại trợn mắt há mồm nhìn. Liêu tướng – Da Luật Đức Lý đang dẫn quân qua sông đã bị một hàng cây đập nát cả người à ngựa, con trai của Da Luật Sa – Da Luật Oa Ca cũng biến thành một con cóc chết trong Thông Thiên Hà, vô số binh tướng Khiết Đan đang qua sông cũng bị hất tung không biết tới phương nào.

Hai viên tướng Lệnh Ổn Đô Mẫn, Tường Ổn đợi áp phái sau trận đang đuổi đến, chỉ có thể ghìm ngựa đứng ở bên bờ sông, nhìn Tể Tướng và Ký Vương ở bên bờ kia bị Phan Mỹ, Quách Tiến cùng binh mã hai bên xông tới giết. Đầu tiên là một trận cung tiễn dày đặc giết chết vô số dũng sĩ, sau đó là phóng ra đao thương, bắt đầu giết hại hàng loạt.

Lúc này, Thành Đức Huyền và Dương Hạo đảm nhiệm chức Chính – Phó Sức Khâm Sai đang làm việc với khí thế ngất trời. Người ngựa của Trình Đức Huyền không quen thuộc đường đi trong thành trì như người ngựa của Dương Hạo, nhưng thứ nhất là hắn có rất nhiều người, so với Dương Hạo thì nhiều hơn năm bộ người ngựa, hai là hiệu xuất làm việc của chúng nhanh hơn nhiều Dương Hạo, cho nên dân chúng tìm được cũng nhiều hơn.

Dưới sự gợi ý của Trình Đức Huyền, binh mã thủ hạ của hắn hoàn toàn không cần dùng biện pháp vừa đấm vừa xoa tuyên truyền cái gì cả, chỉ cần nhìn thấy thôn trấn, thì chúng liền vào cướp, cướp người, cướp xe lừa ngựa. Còn tất cả những thứ dùng để đi và tiền bạc thì đều cho phép dân chúng mang đi, còn những vật nặng rườm rà thì ép họ bỏ lại.

“Ngươi tiếc à? Được rồi, cho một mồi lửa đốt sạch, xem người còn gì để lưu luyến không. Muốn vác lương thực à? Không cần ngươi phải bận tâm, quan gia đã phát một xe lớn lương thực rồi, chúng ta vốn đang chuẩn bị đánh Bắc Hán, và sau khi đánh xong Bắc Hán dùng để bình định bách tính trong thành, nhưng bây giờ đều cho các ngươi ăn rồi, còn sợ gì không nắm được đầu của các ngươi.”

Hai người phụng chỉ làm Khâm Sai, thiên sứ Đại Tống lại đi cướp người như trong trận đấu, người ngựa phi trên thảo nguyên ngày càng nhiều. Những người ở đây giàu nghèo đều có, đại hộ tiểu dân rất nhiều, nhưng vẫn không giống như cái thôn mà hai ngày trước Dương Hạo đã lục soát, tất cả đều giống như nạn dân, trong đó không thiếu những phúc thẩm ăn mặc lụa là gấm vóc, béo trắng mũm mĩm, và những đại tiểu thư xinh đẹp nõn nà. Có một số đại binh không tránh khỏi bao vây lấy những đại tiểu thư, tuy chưa từng có người dám làm gì, nhưng mồm miệng cũng lợi dụng được không ít, chuyện kéo ra giữa đường sờ mó cũng có.

Trình Đức Huyền và Dương Hạo lo lắng có kẻ nhân cơ hội này để cướp bóc tài sản, sàm sỡ đàn bà, vi phạm quân quy. Vì vậy, một mặt nhắc lại quân kỉ, một mặt tự mình điều động đám thân quân giúp duy trì kỉ luật trên mảnh đất người ngựa đang tập trung ngày càng nhiều này. Thời gian mới có mấy ngày đã quản lí được tất cả ngay ngắn rõ ràng, lại có chút dáng vẻ như chính phủ lâm thời.

(*) Bình thư: Một hình thức văn nghệ dân gian của Trung Quốc, khi kể một câu chuyện dài dùng quạt, khăn làm đạo cụ.

 Chương 142: Một đế một hậu.

Thông Thiên Hà vừa đánh một trận thì Phan Mỹ và Quách Tiến đã giành được toàn thắng, giết hơn 8000 địch, Tể Tướng Nam Viện Khiết Đan - Da Luật Sa, Ký Vương – Da Luật Địch Liệt bị chém đầu, Lệnh Ổn Đô Mẫn, Tường Ổn đứng song song cách một dòng sông với Phan Mỹ và Quách Tiến, không dám ngông cuồng tiến đến.

Tin tức đã truyền đến hành doanh của Hoàng Đế, Triệu Khuông Dận mừng rỡ, lập tức thông báo toàn quân truyền lệnh khen thưởng, rồi treo đầu của người Khiết Đan mà tiền tuyến gửi về lên cột cao, đả kích sĩ khí của thủ quân Bắc Hán. Trong một khoảng thời gian sau, Triệu Đại vô cùng hứng khởi chỉ muốn đi thẳng đến Tháp Vân Lĩnh nếu như có thể làm cho địch thiệt hại nặng, không chừng ngay cả Phiên Toả cũng phải bại, tân Hoàng Đế Khiết Đan sẽ chịu sự công kích của bách quan, lúc đó người Khiết Đan thân mình còn lo chưa xong, thì mưu đồ muốn lấy Bắc Hán của Đại Tống cũng có hi vọng. Tiếp đó, hắn lập tức truyền lệnh, lệnh cho Trình Thế Hùng dẫn một bộ người ngựa đuổi đến Tháp Vân Lĩnh, xây dựng phòng tuyến ở đó.

Bộ quân của Trình Thế Hùng vẫn chưa đuổi đến Tháp Vân Lĩnh thì trên Tháp Vân Lĩnh lại truyền đến một tin tức vô cùng quan trọng, Đại Vương Nam Viện Khiết Đan, Đại Vương Bắc Viện Khiết Đan liên kết cùng tiến đến, công kích mạnh vào Tháp Vân Lĩnh. Tống quân thiện thủ, còn kị binh của Khiết Đan ở trên ngọn hùng lĩnh này lại không có đất dụng võ, kết quả là bị hai viên hổ tướng Lý Kế Huân, Hà Kế Quân đánh giết đại bại. Một trận kịch chiến, bắt sống được Thứ Sử Vũ Châu Khiết Đan – Vương Ngạn Phù, chém đầu hơn 1000 quân, đoạt được hơn 600 con ngựa và bắt 300 binh lính Bắc Hán, 160 binh lính Khiết Đan làm tù binh

Triệu quan gia nghe được tin thì vô cùng mừng rỡ, nhất thời hả lòng hả dạ, đang suy tính có nên hạ lệnh cho Trình Thế Hùng, Dương Hạo tạm dừng chuyện di dân lại, trực tiếp tấn công thẳng vào đô thành của Bắc Hán. Hắn triệu tập quần thần, trong khi còn chưa bàn bạc tìm ra được đối sách, thì đột nhiên có một tham mã phi nhanh tới báo. Bên ngoài núi khoảng trăm dặm đột nhiên xuất hiện hành tung của người Khiết Đan, hơn một nghìn đội quân tiên phong đang tập kích bất ngờ đến đây, rốt cuộc số lượng địch là bao nhiêu thì vẫn đang trong sự thăm dò.

Triệu Khuông Dận nghe vậy vô cùng kinh hãi, lập tức điều động ba quân, bỏ qua đô thành của Bắc Hán mà hướng về phía bắc để bày thế trận nghênh chiến. Triệu Khuông Dận vẻ mặt bình tĩnh, nhưng trong lòng cũng âm thầm kinh hãi: “Đám người ngựa Khiết Đan này rốt cuộc là đến từ đâu? Là Thông Thiên Hà, Tháp Vân Lĩnh xảy ra biến cố gì lớn, hay là người Khiết Đan có một mật đạo khác? Bất kể là thế nào đi nữa, nếu như người Khiết Đan đột phá cửa ải hiểm yếu đuổi giết đến phía trước, thì lực lượng quân hùng hậu bố trí ở phía trước cũng trở thành vô dụng, sau khi người Khiết Đan và binh mã Bắc Hải hợp lực lại thì e rằng mình muốn rút êm cũng không được nữa.”

Triệu Khuông Dật một mặt lệnh cho người đi thông báo tin tức cho Trình Đức Huyền, bất kể là tìm được bao nhiêu dân thì đều phải nhanh chóng quay lại nước Tống; một mặt hắn phái người đi thông báo cho Trình Thế Hùng đem quân đến cứu viện. Còn về tuyến Tháp Vân Lĩnh, Thông Thiên Hà, hắn cũng phái người đến để hiểu thêm quân tình, lệnh cho họ từ từ điều động, chuẩn bị rút lui, sợ họ sẽ gặp nguy hiểm, gặp phải mai phục của người Khiết Đan. Triệu Khuông Dật trao cho họ toàn bộ quyền điều khiển quân cơ, được lệnh tự chọn đường đi, phân đường trở về, đem quân tụ họp tại thành.

Lúc này kỵ binh của Khiết Đan đang trở mình ở Ngũ Hầu Cốc, ra khỏi Phi Hồ Cốc, từ từ đi ra khỏi mật đạo. Đội quân tiên phong đã phi ngựa đến thành Bắc Hán để thăm dò tình hình, sáu đội kị binh tiền quân đã bày thế trận bên ngoài cốc, chủ soái bảo vệ chủ tướng đang đi từ trong cốc ra.

Vị chủ tướng của đại quân Khiết Đan này mặc một trường bào cổ tay hẹp màu chàm, bên ngoài mặc giáp vẩy có khoá, trước ngực là một tấm hộ tim phát sáng, mũ đội đầu được trang trí thêm lông cáo màu trắng tinh, trên đỉnh còn có bó lông vũ rất dài bay phấp phới. Khuôn mặt như ngọc, môi đỏ răng trắng, hào khí bừng bừng phấn chấn, lộ ra vẻ xinh đẹp hết sức quyến rũ. Đó chính là một viên nữa tướng tuấn tú trẻ tuổi.

Nữ tướng dung mạo mĩ miều này chính là Hoàng Hậu Bắc Quốc – Tiêu Xước Tiêu Viêm Viêm, nhìn nàng mắt ngọc mày ngài, ấn đường điểm một nốt đỏ thắm, dưới sườn có đeo kiếm, trên vai lại mang cung, sau lưng là một lọ lông đại bàng, hồng nhan kiều diễm nhưng không che mất vẻ anh tuấn.

Bên trái nàng là bóng của một viên hổ tướng, chính là đại hán đã từng dẫn nàng mạo hiểm vào Quảng Nguyên để thích sát Trình Thế Hùng, người thay tên Hán là Hàn Đức Nhượng, tên Khiết Đan là Da Luật Long Vận, là người giữ quyền đóng thủ ở Nam Kinh của nước Khiết Đan.

Bên phải Tiêu Hoàng Hậu cũng là một viên tướng lĩnh còn trẻ và dũng mãnh, con ngươi tinh tường, khí khái hào hùng. Hắn là hoàng tộc Khiết Đan, vừa được đề bạt lên làm Đại Thích Ẩn Tư, nắm giữ chánh giáo và hoà giải những tranh chấp trong nội bộ hoàng tộc Khiết Đan. Hắn vốn là Phò Mã Khiết Đan. Phò Mã là tiếng hán, ở Khiết Đan người ta gọi là “Xá Lợi”, “Sa Lý” có nghĩa là dùng sĩ, đó là danh hiệu của những người không có chức vị mà dũng mãnh trong quý tộc Khiết Đan. Bây giờ khi tân Hoàng Đế đăng cơ, đã giao chức cho hắn, người này đã quyết tâm dôc hết lòng phục vụ vì tân Hoàng Đế. Tên của hắn là…Da Luật Hưu Ca.

Hàn Đức Nhượng và Da Luật Hưu Ca bây giờ vẫn chưa có tư cách độc lập dẫn đại quân, họ chỉ có thể là tướng lĩnh nghe lệnh bên cạnh Tiêu Xước. Nhưng đại soái thống binh thực sự đang ở trong sáu trận bên ngoài cốc. Tất cả quân binh đều đợi lệnh của người này. Đó là lão tướng, đại tổng quản binh mã Khiết Đan – Da Luật Qua Liệt, người này thông minh khác thường, rất được lòng quân dân, là một minh tướng Khiết Đan.

Đám quân ngay ngắn có thứ tự từ từ đi ra khỏi cốc, xếp thành một đại trận bên ngoài cốc, Da Luật Qua Liệt phi ngựa đến bên cạnh Tiêu Xước, Tiêu Xước hỏi: “Qua Liệt tướng quân, tình hình Bắc Hán bây giờ như thế nào?”

Da Luật Qua Liệt chắp tay nói: “Khởi bẩm Tiêu Hậu, Bắc Hán chiếm thành khổ chiến, quân Tống vẫn chưa rời xa, chúng dẫn nước vào thành, bây giờ đại dương mênh mông vừa mới rút, thành Bắc Hán vẫn nằm trong tay Lưu Thị, nhưng hiểm nguy khó lường.

Tiêu Hậu khẽ nhếch mày lá liễu, hai con mắt quyến rũ nhìn lướt qua quân trận, hỏi: “Nam Viện Đại Vương, Bắc Viện Đại Vương công phá Tháp Vân Lĩnh, Tể Tướng Nam Viện Da Luật Sa, Ký Vương Da Luật Địch Liệt công phá Thông Thiên Hà, tình hình thế nào rồi?”

Da Luật Qua Liệt lại nói: “Tiêu Hậu, Nam Viện Đại Vương, Bắc Viện Đại Vương tấn công Tháp Vân Lĩnh thất bại; Da Luật Sa, Da Luật Địch Liệt lỗ mãng hấp tấp, gặp phải mai phục ở Thông Thiên Hà, tổn thương hơn một nửa. Nhưng đại quân lớn như thế này đã kìm hãm thành công hai đoàn quân của Phan Mỹ và Lý Kế Huân.”

Tiêu Xước mỉm cười, đôi mắt quyến rũ như đoá tường vi nở: “Rất tốt, mặc kệ bọn chúng, lập tức phát binh, thẳng đến thành Bắc Hán, cùng với binh mã Bắc Hán trong ngoài kết hợp, nếu như bắt được Tống Đế thì có phải hi sinh lớn nữa cũng đáng.”

“Mạt tướng tuân mệnh!” Lão tướng Da Luật Qua Liệt hất chòm râu đã bạc trắng của mình, phi ngựa quay về bản trận, giương cờ lên, tiếng kèn lệnh thê lương vang vọng, từng đội quân Khiết Đan bắt đầu đi về phía trước.

Gót sắt đạp xuống đất, từng đội kị binh chậm rãi tiến về trước, đợi đến khi kéo dài khoảng cách với hậu trận thì liền quất ngựa chạy như băng, trông như là một rừng cây cối bằng thép đang di động, đao thương giơ lên, không có người hét, không có ngựa hí. Trong sự trang nghiêm lại trào dâng lên những luồng sát khí.

…………………………………………� � � �………………………………………

Trong doanh trại quân Tống, chư tướng đang góp lời khuyên Hoàng Đế.

“Thánh Thượng, lần này chủ tướng Khiết Đan là Đại Tổng Quản binh mã Khiết Đan – Da Luật Qua Liệt, người này giỏi về định kế, dùng binh cay độc. Bây giờ bên Phan Tướng Quân, Lý Tướng Quân đang bị người Khiết Đan vây hãm, nhất thời không có cách nào trở lại tri viện. Người Khiết Đan tiến quân thần tốc, xông thẳng tới đây, mục tiêu chính là Thánh Thượng, Thánh Thượng nên sớm lui binh.”

“Thánh Thượng, chúng ta lần này Bắc thượng, mục tiêu là Bắc Hán chứ không phải là Khiết Đan. Bất luận là quân giới hay bố trí, đều không thích hợp để tác chiến với một đội đại kị binh. Chúng ta nên lựa thời cơ mà quyết định nhanh, lập tức rút lui.”

“Thánh Thượng, phía trước là núi xanh, không sợ không có củi đốt…”

“Thánh Thượng, lần này lui rồi thì còn có thể từ từ bố trí lại.

Nếu như đợi người Khiết Đan bày xong thế trận, dùng kị binh để làm tê liệt đường rút của quân ta, đến lúc đấy muốn lui cũng chỉ có thể chọn con đường hà cốc thung lũng khó đi thôi, lúc đó những quân giới, lương thực mà chúng ta tích luỹ được như núi sẽ đều phải vứt đi, không có cách nào mang về được…”

“Thánh Thượng…”

“Tất cả không phải nói nữa.” Triệu Khuông Dận đang ở trong trướng bước nhanh ra, đột nhiên dừng lại, trầm giọng nói: “Trẫm không phải là muốn liều lĩnh. Nhưng Trẫm không thể thoái lui bây giờ, chúng ta phải khống chế người Khiết Đan ở đây, để cho hai đại quân của Phan Mỹ, Lý Kế Huân có thể thoát thân. Đồng thời, chúng ta đánh giặc ở đây mới có thể cho Trình Đức Huyền, Dương Hạo thêm chút thời gian, để họ di chuyển được dân Bắc Hán đến Đại Tống ta. Vì hai đại quân của Phan Mỹ và Lý Kế Huân mà Trẫm cần lưu lại đây. Vì hàng vạn bách dính Bắc Hán, Trẫm cũng cần lưu lại đây.”

Hắn thở từ từ, nói: “Một khi thế lực của địch mạnh lên, quân chúng ta sẽ dốc núi đổ đèo, men theo đường hà cốc sơn lũng mà quay về phía nam. Kị mã người Khiết Đan dù có kiêu dũng đến mức nào thì tới nơi đó cũng không có đất dụng võ, còn về lương thảo và quân giới…”

Triệu Khuông Dận cười nhạt nói: “Cho dù tất cả để lại cho chúng, thì có thể đủ cho chúng ăn trong bao lâu chứ? Trong lòng Trẫm một vạn dân chẳng nhẽ lại thấp hơn một trăm vạn hộc lương thực ư.”

Chúng tướng nghe Hoàng Thượng nói như đinh chém sắt, không khỏi quay mặt nhìn nhau, không khuyên răn nữa, ở một bên sớm đã có hai quan văn bước lên trước tán dương: “Thánh Thượng lấy dân làm trọng, quả là một đấng quân chủ nhân từ…”

Người Khiết Đan đến rất nhanh, cơ hồ như không chậm hơn tam mã của quân Tống. Triệu Khuôn Dật vừa mới đem quân rút về phía dưới thành Bắc Hán, căn cứ vào địa thế để bày bố trận phòng ngự, thì kị binh tiên phong của người Khiết Đan đã đến được phía dưới thành Bắc Hán. Chúng khua chiêng gõ trống, truyền tin vào trong thành. Hoàng Đế Bắc Hán – Lưu Kế Nguyên đang trông chờ mòn mỏi trong thành sớm đã đứung trước cung điện nhìn thấy rất rõ, vừa nhìn thấy binh mã Khiết Đan đến, vui mừng đến mức khoa tay múa chân, cơ hồ như muốn nhảy ngay từ trên lầu xuống.

Hắn vội vàng chạy đến đại điện, lệnh cho thị vệ truyền chỉ phái Lưu Kế Nghiệp, Phùng Tiến Kha nhanh chóng dẫn binh xuất thành dẫn kị binh Khiết Đan đi tìm Tống quân, rồi lại lệnh cho Mật Sứ - Mã Phong nhanh chóng thu dọn kho lương, lục soát đáy kho để chuẩn bị hiếu kính cho đại tướng Khiết Đan, khao kị binh Khiết Đan. Rồi hắn chạy nhanh về hậu cung, chải đầu chỉnh sửa quần áo, cắt lại chòm râu để chuẩn bị đích thân khua chiêng gõ trống, dẫn các tần phi đi nghênh đón quân Khiết Đan.

Triệu Khuông Dật mở thế trận, yên lặng chờ quân Khiết Đan đến. Hắn biết đây sẽ là một trận đánh ác liệt, lợi dụng nội bộ Khiết Đan náo loạn sẽ phát binh thảo phạt Bắc Hán, đó là một nước cờ hiểm, người Khiết Đan nếu như vướng mắc với nội loạn thì sẽ không chịu phát binh, nhưng một khi phát binh rồi thì tạm thời sẽ để lại mâu thuẫn nội bộ, cùng nhau đối phó với bên ngoài. Điều này đối với Bắc Đế Da Luật Hiền mà nói, không tiếc tất cả mọi thứ cũng phải mưu đoạt thắng lợi.

Bây giờ người Khếit Đan đã đột phá hiểm ái đuổi giết đến phía trước, cục diện vốn có lợi với mình thoắt cái đã trở thành bất lợi. Hai đại quân đã bị buộc chân ở bên ngoài, binh mã trong tay mình từ xa mà đến, khổ chiến hơn một tháng, tướng soái binh sĩ đều trở nên mệt mỏi, không còn chút sức lực nào, hắn biết biện pháp tốt nhất lúc này chính là lui quân, hơn nữa là lập tức lui binh, không một chút do dự lui binh.

Nhưng hắn nhất định phải đánh mấy trận, cho dù những trận này có thất bại thì chỉ cần hai đại quân ở phía sau địch có thể tranh thủ rút lui được, thì sẽ giúp Trình Đức Huyền, Dương Hạo có thêm thời gian di dân. Như vậy từ phía chiến lược mà nói hắn cũng đã thắng lợi.

Song, lúc này đối với lực tổng binh phái ra và quyết tâm trợ giúp của người Khiết Đan khi Nam hạ hắn vẫn không hiểu lắm. Hắn lại không biết kẻ đối địch với hắn lúc này không phải chỉ là một Đại Tổng Quản binh mã Khiết Đan, mà còn là người sắp sửa triển khai đại chiến ở đây. Trận chiến này là trận chiến của một Đế một Hậu, Đế của Tống quốc, Hậu của Khiết Đan.

Sau khi tin tức được truyền ra từ trong quân, Trình Đức Huyền và Dương Hại vô cùng kinh ngạc, họ không nghĩ rằng người Khiết Đan lại đến nhanh như vậy, may mà lần này nơi mà họ đi tìm dân chúng Bắc Hán lại hướng về phía xa đội tiên phong Khiết Đan, sau đó cứ tìm theo hướng ngược lại, thì có thể tránh được. Đám sĩ tốt đi đi về sẽ về rất lãng phí thời gian, hơn nữa mấy đoàn người đi xa nhất của họ cũng đang nhanh chóng quay trở về, không cần phải đợi quá lâu.

Hai người họ lập tức chuẩn bị, đưa tất cả người già yếu phụ nữ trẻ nhỏ và lương thực lên hết các loại xe kéo to nhỏ, buộc chặt xe lại, làm tốt công việc chuẩn bị cho hành quân đường dài, chờ người phi ngựa đi triệu tập binh tốt các ngả trở về, liền đem hơn một vạn hộ, năm vạn dân chúng đã tìm được vội vàng lên đường trở về Tống.

 Chương 143: Hải thị thận lâu.

Trên con đường cổ của Quảng Nguyên, một đoàn người dài uốn lượn như con rắn.

Từ xa nhìn lại hình như là một đội quân, vì có rất nhiều người mặc áo giáp, binh sĩ cưỡi ngựa cầm thương dài đi tới, khi đi lại gần hơn một chút thì giống như một đoàn thương gia, vì trong đội ngũ có rất nhiều chiếc xe to nhỏ với quy cách khác nhau, có lừa có ngựa, thậm chí có cả lạc đà; lại gần hơn nữa lại giống một đoàn người đi chạy nạn, dân chúng nghèo khổ quần áo rách rưới, có cả những đại hộ giàu có mặc gấm vóc lụa là, tất cả đều đang đi cùng nhau, đi từ từ trong hoang dã. Có một số đại hán Tây Bắc, một ngày nóng nực như vậy mà mặc một chiếc áo da dê rách, trên người bốc ra một mùi rất khó ngửi, bốn mùa xuân hạ thu đông họ cũng chỉ có một chiếc áo này mà thôi.

Đây chính là đám dân chúng mà Trình Đức Huyền và Dương Hạo đem từ Bắc Hán về, đại đa số trông còn nghèo khổ hơn ăn mày ở Trung Nguyên. Còn Hoàng Đế Bắc Hán Lưu Kế Nguyên lúc này đang ở trong cung điện biết được tin thì vô cùng đau xót, đó là một phần ba số dân của nước Bắc Hán.

Mặt trời chói chang nhô lên, không khí bốc hơi, một trận gió cuốn theo hơi nóng đến, làm cho người ta hoàn toàn không cảm thấy mát mẻ. Hơi híp mắt nhìn về phía xa, cảnh vật trong làn khí nóng chập chờn dao động như ảnh trong nước. Mọi người đều sức cùng lực kiệt, mà đám binh sĩ vẫn không ngừng thúc giục. Binh sĩ bây giờ biết rằng Hoàng Đế Bệ Hạ đang vì họ mà cản ở phía sau, đang khổ chiến với người Khiết Đan, phải nhanh chóng rời xa nơi nguy hiểm. Họ biết rằng dân chúng đang không khỏi oán thán. Một mặt họ vứt bỏ hết những lời oán thán đó, một mặt họ dùng đao thương uy hiếp, rồi tiếp tục tiến về phía trước.

Một chiếc xe lừa trước mặt đã lọt vào hố, con đường cổ này mấy ngày trước có trận mưa rất lớn, nên ở đây sinh ra một số hố nước, bên ngoài đã khô ráo, nhưng bên trong vẫn còn bùn lầy. Con lừa đó đã dùng hết sức nhưng vẫn không thể kéo xa đi qua. Đám dân chúng đi từ một phía tới. Có chút hờ hững đứng nhìn một cụ già ở phía trước xe đang bạt mạng dắt con lừa và một người đàn bà đang đẩy xe ở phía sau. Không có một ai đến giúp một tay. Họ vốn không quen biết. Lúc này, những người có lòng cảm thông hình như đều bị sự mệt mỏi và cái nắng cay độc của mặt trời hành hạ hết rồi.

“Mau lên, mau lên. Các ngươi sao lại chậm chạp, mau đi nhanh.” Hai kịbinh phát hiện ra có chút khác thường, liền phi ngựa tới, giơ thương dài ra quát lớn.

Người đàn bà sắp phát khóc. Lắp bắp đáng thương giải thích: “Quân gia, không phải là tiểu dân không đi, mà là chiếc xe này bị sa lầy rồi.”

Dương Hạo phi ngựa tới, hỏi: “Xảy ra chuyện gì vậy? Ý, là bà sao?”

Hắn nhìn người đàn bà ấy có chút quen mặt, nhìn kĩ lại, đột nhiên nhớ ra bà ta là người mà hôm đó hắn vào trong thôn tìm tàn binh Bắc Hán đã từng gặp. Người đàn bà này vừa nhìn cũng nhận ra hắn, mừng rỡ gọi: “Dương lão gia.”

Dương Hạo xuống ngựa bước tới nói: “Không cần phải gọi là lão gia. Gọi một tiếng đại nhân là được rồi. Đại tẩu, đứa bé trong nhà bà đâu?”

Lúc này có người trong xe gọi vọng ra: “Dương Hạo đại thúc.”

Dương Hạo quay sang nhìn vào xem, chỉ thấy chiếc rèm vải hoa được vén lên một góc, có một đứa bé đang ngồi co quắp tận sâu bên trong xe. Chỉ có hai con mắt là sáng long lanh, dùng một cái nhìn đầy rạng rỡ và trìu mến nhìn hắn, nhưng nhìn không rõ mặt đứa trẻ đó, chỉ cảm thấy có vẻ hơi nhem nhuốc, vẫn giống như một con cún con, bên cạnh nó là một đống xoong chảo chum vại.

“Cẩu nhi. Mọi người cũng bị đưa đến đây sao?” Dương Hạo kinh ngạc hỏi: “Đến đây, đại thúc giúp cháu đẩy xe ra.”

Dương Hạo dùng hết sức để đẩy xe, nhưng chiếc xe đã bị lún sâu, những đồ vật linh tinh nhét đầy xe đã làm nó quá nặng, con lừa ở phía trước kéo một cái, bộ phận trục xe có chút vặn vẹo, nếu còn dùng thêm lực lớn thì e rằng chiếc xe sẽ nứt ra bốn năm phần. Dương Hạo phía sau hoàn toàn không dùng thêm được sức nữa, mặt đỏ lên. Đang muốn hét hai binh sĩ đến giúp nâng xe, thì ở một phía xa bỗng truyền đến tiếng kêu khàn khàn: “Mộc Ân, đi giúp một tay đi.”

Dương Hạo quay đầu nhìn, chỉ nhìn thấy một đại hán mặt đầy râu quai nón đang đứng trong một chiếc xe, đỉnh đầu bù xù. Vị đại hán này thực ra ít nhất đã 50 tuổi rồi, râu và tóc đều đã hoa râm, khuôn mặt đầy nếp nhăn như khắc. Dương Hạo vừa nhìn đã ngộ nhận rằng đó là một đại hán chỉ vì trông người này thật sự vạm vỡ lực lưỡng. Hắn đang ngồi khoanh chân trong xe, lại cho người ta có cảm giác như cây tùng trên thái sơn, như tảng đá dưới đông hải, cao ngạo, mạnh mẽ.

Người này vừa cất tiếng ra lệnh thì một đại hán ngồi cạnh xe lập tức nhảy xuống. Dương Hạo và đôi mắt đầy bể dâu nhìn xa trông rộng gặp nhau, đảo mắt nhìn vị đại hán, nhất thời lại bị doạ cho sợ hãi. Trời nóng vô cùng, vị đại hán này để lưng trần trụi, cơ thể ngăm đen với những bắp thịt phơi dưới ánh mặt trời cuồn cuộn như những gò đất, rắn chắc như sắt đúc.

Nhìn hắn chắc phải cao trên dưới một mét chín, cho dù khổ người của dân chúng vùng Tây bắc thường khá cao, nhưng dáng của người này vẫn làm cho người ta kinh ngạc, đặc biệt là hắn không chỉ cao mà còn rất cường tráng. Nếu như đứng so với hắn thì Dương Hạo chỉ cao trên eo hắn một chút.

Vị đại hán này đi đến phía sau xe, nhìn dò xét trên dưới, lưng cong xuống, hai cánh tay đưa xuống nhấc chiếc xe. “Hey” một tiếng kêu trầm vang lên. Chiếc xe đã được hắn nhấc lên. Hắn nhấc chiếc xe qua chô khe, lại nhẹ nhàng đặt xuống. Xem ra rất dễ dàng. Cẩu nhi ở bên trong xe như có thừa sức lực kêu “Aizaa” một tiếng, vội vàng đỡ đống đồ liểng xiểng như muốn rơi xuống.

Đại hán nhếch mép cười. Lại như không có chuyện gì xảy ra, đi về phía xe của mình, cầm chiếc rơi lớn giơ lên. Phi chiếc xe về phái trước. Dương Hạo để ý thấy chiếc xe đó là dùng hai con la khỏe kéo. Trên xe chỉ ngồi hai đại hán cao to tóc hoa râm, hơn nữa sau khi xe đi qua lại có mười mấy hán tử đang đi theo sau, có vẻ đều là tôi tớ của họ. Nhìn dáng vẻ như vậy, có lẽ người này là một phú thân hào thương. Nhưng nhìn quần áo và những thứ bố trí trong xe lại như không phải. Đặc biệt là đám đại hán đi theo sau, người nào người nấy quần áo tả tơi, còn kém ăn mày mấy phần.

Sự tò mò chỉ loé lên trong lòng, hắn liền đứng bên cạnh xe, vừa dắt ngựa đi, vừa nói chuyện với người đàn bà. Hoá ra nhà chồng người đàn bà này họ mã, chồng sớm đã chết trong binh tai, để lại hai mẹ con nương tựa vào nhau mà sống, mẹ con họ bị binh lính của Trình Đức Huyền ép ra đây, họ đành phải phục tùng, lại sợ đứa trẻ bị ánh mặt trời chiếu đốt nên đã thỉnh cầu một người già trong thôn để chừa lại một chỗ cho đứa con trai.

Sau khi hỏi rõ sự tình, Dương Hạo liền nói: “Đại tẩu, cả chặng đường này nhất định sẽ rất vất vả. Nhưng đến được Trung Nguyên rồi cuộc sống sẽ tốt hơn nhiều so với ở Bắc Hán. Ở đó giàu có, lại có thể tuỳ ý tìm được kế mưu sinh, cuộc sống của hai người cũng khá hơn nhiều so với ở đây. Hai người cứ yên tâm mà đi đi, có chuyện gì cứ nói với ta một tiếng, nếu có thể giúp ta nhất định sẽ giúp.”

Đại tẩu liên tục cảm ơn. Dương Hạo quay người lên ngựa, phi về phía trước. Cẩu Nhi ở trong xe vội kêu lên: “Dương Hạo đại thúc.”

Dương Hạo hắng ngựa, quay lưng cười nói: “Cẩu Nhi, gọi đại thúc có chuyện gì vậy?”

Cẩu Nhi đôi mắt hấp háy nhìn Dương Hạo, lại không dám thò đầu ra, chỉ nói: “Đại thúc, đại thúc cũng phải đến Trung Nguyên định cư à?”

Dương Hạo cười nói: “Đại thúc không đi đến Trung Nguyên, nhưng đại thúc sẽ hộ tống mọi người đến đó.”

“Ồ…”

Cẩu Nhi có chút thất vọng. Nghĩ nghĩ rồi lại hỏi: “Đại thúc, thúc tối nay có thể ở cùng Cẩu Nhi không? Cẩu Nhi vẫn chưa từng rời xa thôn, chưa từng nhìn thấy trời đất bên ngoài. Tối nay ở đây nhiều người như vậy, rất náo nhiệt. Nhưng mẹ sợ tản đi sẽ không tìm thấy xe của mình nữa, nên không có phép cháu đi lại xung quanh.”

Mã đại tẩu vội quát lớn: “Thật không hiểu chuyện, Dương lão gia…Dương đại nhân có rất nhiều việc phải làm, cả một ngày không biết đã mệt đến thế nào, làm gì có thời gian đi cùng với con.”

Cẩu Nhi trề cái môi nhỏ ra, Dương Hạo cười nói: “Được rồi, nếu như tối nay có thời gian, đại thúc sẽ dẫn cháu đi dạo trên thảo nguyên này và nói chuyện nhé.”

Cẩu Nhi nghe thấy liền cười tươi, kiềm chế không được hưng khởi nói: “Vâng. Dương Hạo đại thúc, tối nay Cẩu Nhi chờ thúc.”

Dương Hạo cười rồi đạp hai chân vào hông ngựa, phi về phía trước, xa xa nhìn về chiếc xe được mười mấy vị đại hán hộ tống. Hắn đột nhiên nghĩ đến điều ngờ vực lúc nãy, lại tiến gần đến. Nghiêng đầu nhìn vào trong xe, chỉ thấy một người già ngũ tuần đang cầm một cái túi da dê từ bên chỗ ngồi, đang vặn mở nắp túi đổ đầy nước từ trong đó vào mồm, nhìn dòng nước chảy tràn ra hai bên mồm, có vẻ như đó là rượu chứ không phải nước thường.

Nhìn thấy Dương Hạo đang nhìn về phía hắn. Người già hơi mỉm cười, Dương Hạo nói: “Lão bá làm gì vậy? Cơ thể thật khoẻ mạnh.”

Người già cười nhạt nói: “Ta là người mệnh khổ, lận đận long đong nửa đời người, chỉ dựa vào nuôi ngựa mà sống, lại chẳng thể nói là có gia nghiệp gì. Hôm nay được Trình đại nhân đưa đến Trung Nguyên. Ha ha ha, không chừng sẽ được sống những ngày tốt đẹp, ta rất vui mừng.”

Dương Hạo nhìn thấy hắn có vẻ nghĩ một đằng nói một nẻo. Nghĩ hắn nhất định có điều giấu diếm, xem ra đội quân của mình đúng là long xà hỗn tạp, mọi loại người đều có. Hắn đang muốn nói xa nói gần hỏi thêm lần nữa, thì đột nhiên nghe thấy phía trước truyền đến một trận chửi mắng ồn ào, liền thúc ngựa phi đến trước.

Cả chặng đường tới đây, tuy là hộ tống dân chúng đến nước Tống, đến bây giờ vẫn chưa gặp phải quân Khiết Đan, cũng chưa từng gặp đạo tặc, nhưng chuyện nhỏ chuyện lớn lại không ngừng xảy ra, có người trốn chạy, có người ẩu đả, có người lạc đội, có người phát bệnh, những đại quân này làm gì còn tâm trí để mà giảng giải đạo lí với người khác nữa, những chuyện này luôn không thể phân biệt được phải trái đúng sai, không thể phân biệt ai đúng ai sai, mà chỉ có thể dùng quyền để phân định. Vì một chút cãi cọ mà làm cho dân chúgn oán giận. Hai vị Khâm Sai Trình Đức Huyền và Dương Hạo cứ phải chạy qua chạy lại để giải quyết mâu thuẫn, làm an lòng dân. Quả thật là mệt vô cùng.

Vừa nhìn thấy đằng trước có người tụ tập, Dương Hạo lại lo rằng dân chúng được hộ tống và đám binh sĩ lại xảy ra mâu thuẫn, lập tức phi ngựa như bay tới. Đến được phía trước lại chỉ nhìn thấy mấy tên binh sĩ của mình đang cầm thương vây quanh một người, Phạm Lão Tứ đang hô lớn nói cái gì đó.

Người đó nhìn có vẻ khoảng trên dưới 40 tuổi, cơ thể hơi gầy, khuôn mặt hắn yếu ớt, tóc đen nhánh, hai con mắt nhỏ như kiểu luôn ngủ không tỉnh, dưới mép là lưa thưa ít râu, mặt một chiếc áo dài vừa rách vừa bẩn, trên đầu là một búi tóc dùng một cây xiên túm rối, có chút giống một kẻ đi vân du bốn phương.

Dương Hạo phi ngựa đến, cất cao giọng hỏi: “Đã xảy ra chuyện gì vậy?”

Người đó nhìn thấy có người đến, từ từ ngẩng đầu lên nhìn. Khi nhìn thấy dung mạo của Dương Hạo, hắn vội ngây người ra, lại nhìn kĩ một lần nữa. Hai con mắt như luôn không mở ra đột nhiên sáng lên như sao mờ, lại có chút chói mắt.

Nhưng Dương Hạo lại không hề nhìn vào thấy, hắn nhìn về phía Phạm Lão Tứ hỏi xong mới lại quay đầu nhìn người đó. Sự ngạc nhiên trên khuôn mặt người đó đã biến đi, hai con ngươi cũng không sáng lên nữa.

Phạm Lão Tứ vừa nhìn thấy Dương Hạo đến liền chắp tay bẩm báo: “Đô giám đại nhân, chúng ta vừa mới dò đường phía trước, thì nhìn thấy người này lấm la lấm lét trốn trong bụi cỏ, nghi rằng hắn là chó săn dò thám của Khiết Đan, nên bắt hắn đến truy hỏi, hắn lại nói là đang đi đại tiện ở trong bụi cỏ, nhìn thấy người ngựa đại quân đến nên không dám ra ngoài, vì vậy mới trốn ở trong đó.”

“Sao cơ?” Dương Hạo nghi hoặc nhìn về phía cái người có tướng mạo rất bình thường kia, lại nhìn về cánh đồng bát ngát phía sau, hỏi: “Một người lại một mình đến thảo nguyên Tây Bắc hoang vu này, nói xem để làm gì?”

Phạm Lão Tứ nói: “Thuộc hạ cũng đang nghi ngờ điều này, cổ đạo hoang dã ít có người qua lại, nếu thật có người đến đây thì chí ít cũng phải đi cùng mấy chục người mới có thể an toàn. Đột nhiên một mình chạy đến đây, khó tránh khỏi có điều nghi ngờ.”

Lúc này người đó chợt nhún vai, cúi đầu hướng về Dương Hạo, nói: “Vô lượng thiên tôn. Vị Thái Uý này xin nghe ta nói. Bần đạo là một khổ hành đạo nhân, trời nam đất bắc, chu du thiên hạ, mấy ngày trước vốn theo một thương đoàn qua đây, nhưng lại bị cường đạo tập kích, những thương nhân đó đều đã tháo chạy, bần đạo và họ đã li tán, rồi lạc đường đến đây. Bần đạo cũng là người Hán, thật sự không phải là gian tế Khiết Đan, cúi xin Thái Uý minh giám.”

“Ồ.” Dương Hạo lại nhìn kĩ hắn, hỏi: “Đạo trưởng tu hành ở đâu?”

Người đó vươn bộ ngực lên, mỉm cười nói: “Trong lòng có đạo, thì khắp thiên hạ có nơi nào là không thể tu hành?”

“Ồ. Thế đạo trưởng từ đâu tới?”

“Bần đạo đến từ nơi đến.”

“Thế đi về đâu?”

“Đi về nơi phải về.”

Dương Hạo mỉm cười rồi nhẹ nhàng nhấc cánh tay phải lên, chỉ xuống dưới, thản nhiên nói: “Đánh hắn cho ta.”

Mấy binh sĩ lập tức vứt thương xuống, chạy đến tay đấm chân đạp.

“Ôi ôi, tha mạng cho ta. Xương cốt của bần đạo…aiya…không thể chịu nổi quyền cước của quân gia đâu…ai ya…”

Lão đạo bị mấy binh sĩ đánh cho hoa mắt chóng mặt, người cuộn tròn trên mặt đất kêu rên không ngừng. Rồi hắn chợt cảm thấy quyền cước trên người hắn đã dừng lại, mở to mắt ra nhìn, liền thấy vị Dương Thái Uý đang ngồi xổm phía trước mặt hắn, cười mà như không cười nhìn hắn, lão đạo lắp bắp nói: “Thái…Thái Uý…”

Dương Hạo dùng roi ngựa nhẹ nhàng hất cằm hắn, cười nói: “Đạo trưởng tu hành ở đâu, từ đâu đến?”

“Bần đạo tu hành ở Thái Hoa Sơn Vân Đài Quan. Đến từ Thái Hoa Sơn.”

“Đi về đâu?”

“Lên núi Tử Vi bên ngoài Nhạn Môn Quan để tìm đạo hữu.”

“Tôn hiệu của đạo trưởng là gì?”

“Bần đạo là Phù Diêu Tử.”

“Ha ha. Ngươi xem , nếu sớm nói thì đã không bị ăn đòn.”

Dương Hạo đứng dậy nói: “Phía trước đang có đại chiến, cửa ải này ngươi không thể qua được, hay theo người ngựa của ta quay về, một khi vào được lãnh thổ hoàng toàn khống chế của người Tống ta, thì lúc đó muốn đi đâu thì tuỳ ngươi. Phạm Lão Ngũ, trông chừng hắn, không cho phép người này rời khỏi đội quân ta.” Nói xong liền nhảy lên ngựa phi đi.

Lão đạo toát ra đầy hơi lạnh. Đứng lên trong tiếng người nhe răng nhếch miệng của đám binh sĩ, nhìn theo bóng Dương Hạo đang dần xa, trong lòng thầm nghĩ: “Ngươi, cái đồ yêu nghiệt, thật dám ra tay ư. Lão đạo ta năm nay đã sống đến 99 tuổi, còn chưa từng bị người ta đánh…”

Dương Hạo phi ngựa trở về, Trình Đức Huyền liền ra đón, hỏi: “Xảy ra chuyện gì vậy?”

Dương Hạo thắng ngựa nói: “Không có chuyện gì cả, gặp phải một đạo nhân lôi thôi, cũng không nhìn ra điều gì đáng nghi, nhưng để cho an toàn nên ta đã lệnh cho binh sĩ xem chừng hắn, bắt hắn đi theo chúng ta, đến khi vào lãnh địa của Trung Nguyên rồi thì sẽ thả hắn đi.”

Trình Đức Huyền nghe xong tán thành nói: “Dương Đô Giám suy nghĩ thật chu đáo. Chuyến đi lần này của chúng ta nhìn có vẻ an nhàn, nhưng thực ra nguy hiểm trùng trùng.”

“Đúng vậy.” Dương Hạo lau lau mồ hôi trên, nhìn về phía đội quân dài dằng dặc, nhăn mày nói: “Đã đi được ba ngày rồi, cũng không biết tình hình chiến sự của quan gia như thế nào rồi, thật làm cho người ta lo lắng. Chúng ta nên đi nhanh hơn nữa, mới có thể thoát khỏi nguy hiểm.”

Trình Đức Huyền cười gượng nói: “Nhưng tốc độ này đã không thể nhanh hơn được nữa, thời thiết nóng bức, trong hàng ngũ có rất nhiều người già trẻ nhỏ và phụ nữ. Nếu như phía sau có truy binh thì khỏi phải nói, nhưng bây giờ gió yên biển lặng, lại bắt họ nhanh chóng lên đường, mấy vạn người này làm sao chịu?”

Dương Hạo lắc đầu nói: “Ta thà đi tiếp như thế này còn hơn là thật sự có truy binh đằng sau, nếu không…chúng ta sẽ chính là mục tiêu, mang nhiều người như vậy, muốn thoát khỏi truy kích của kị binh Khiết Đan không phải là chuyện dễ.”

Trình Đức Huyền gật gật đầu, trong lòng thầm lo lắng, phi ngựa rời đó đã ba ngày rồi, ba ngày sóng yên biển lặng, nhưng càng bình yên thì lòng hắn càng bất an. Nếu như quan gia giành được thắng lợi thì không có lí nào lại không phải người báo cho họ tình hình chiến sự, hành quân về phía đông là do một mình tay quan gia chỉ định, hắn không thể không tìm được người. Do đó, chỗ quan gia mãi không có tin tức gì, lẽ nào đại quân triều đình đã…”

Hắn lắc lắc đầu, thầm an ủi: “Sẽ không đâu. Nếu như quan quân triều đình thật sự đại bại, thì quân lính tan rã sớm đã tháo chạy, tuy người Khiết Đan hung hãn như vậy lẽ nào lại có thể một hơi ăn hết được hơn mười vạn người ngựa sao? Nói như vậy, hai quân hẳn là sẽ giằng co với nhau, nếu như thế mình dẫn đầu mấy trăm vạn dân sẽ có thể rời khỏi nơi nguy hiểm, nhanh chóng đến được chỗ an toàn.” Nghĩ như vậy, lòng hắn bình tĩnh hơn.

Dương Hạo ghìm ngựa nhìn trước nhìn sau. Hơi nhăn mày nói: “Trình huynh. Lúc này mặc dù sóng yên biển lặng, nhưng luôn không có tin tức của phía sau, việc đề phòng vẫn cần phải làm. Huynh xem, đội ngũ tuỳ tùng hộ vệ của chúng ta kéo quá dài, còn nữa, nhưng chiến xa cũng đều hỗn tạp trong đoàn xe của dân chúng, như vậy, một khi có người đến đột kích thì rất khó có thể phát huy tác dụng. Thực ra những dân chúng này đều là những lương dân an phận thủ thường, một binh trông chừng một nghìn người cũng sẽ không có người dám phản kháng lại. Chúng ta nên để lực lượng quân tập trung lại bảo vệ cho hậu trận.”

Trình Đức Huyền tuy có tài kiếm thuật, nhưng thực ra hắn chỉ giỏi văn tài y, chứ hoàn toàn không hiểu binh pháp, còn không hiểu biết nhiều bằng những gì Dương Hạo biết được khi xem tivi. Nghe thấy Dương Hạo nói vậy liền đáp lại: “Quan gia phái cho chúng ta mấy nghìn binh này, một là để áp tống dân chúng, phong có kẻ gây náo loạn; hai là đề phòng sơn tặc thổ phỉ chặn đường cướp. Nếu thật sự người Khiết Đan đuổi tới, thì ba nghìn binh của chúng ta có phòng thủ thì cũng được ích gì?”

Dương Hạo nói: “Nếu như thật sự có chuyện đó, thì ba nghìn quân của chúng ta ít nhất cũng có thể chống cự lại được một lúc. Nếu không tập trung lại thì sẽ bị chia rẽ ngay.

Trình Đức Huyền lắc đầu, lại gật đầu, thở dài nói: “Được rồi. Vậy sắp xếp như ngươi nói đi. Nhưng đội quân người ngựa của chúng ta không nên thật sự dùng vào việc này mới tốt.”

※※※※※※※※※※※※※※※※

Bóng đêm đã trùng xuống. Cái nóng khắc nghiệt của ban ngày đã được quét sạch, gió trên thảo nguyên cũng lạnh hơn. Nhiều người như vậy, lại đa phần là những người không có kinh nghiệm đi xa, nên tuy đã là ngày thứ ba, nhưng muốn thu xếp ổn thoả cho tất cả bọn họ cũng mất khá nhiều sức lực.

Dương Hạo đã đi xem xét qua một lượt các binh sĩ đi áp ở phía sau, rồi cứ ba đến năm tốp lại tập hợp thành một nhóm. Xong việc hắn liền đi qua bên cạnh đám dân chúng đang đốt lửa nấu lương khô để ăn. Đi chưa xa thì đột nhiên nghe thấy có người gọi: “Dương Hạo đại thúc.”

Dương Hạo dừng bước quay người thì nhìn thấy Cẩu Nhi đang vừa đi vừa nhảy từ chỗ đống lửa về phía mình, mẹ của nó đang đốt lửa để nấu chút lương thực mà binh sĩ đã phát cho, nhìn thấy đứa con chạy ra khỏi thì vội vàng gọi nó, Cẩu Nhi quay đầu nói: “Mẹ. Con đi chơi cùng với Dương Hạo đại thúc.”

Dương Hạo giơ tay vẫy vẫy với Mã đại tẩu, nói: “Đại tẩu, cho Cẩu Nhi đi với ta đi, một lát ta sẽ đưa nó về.” Mã đại tẩu lên tiếng đồng ý, rồi lại ngồi xổm bên đống lửa.

Dương Hạo nắm bàn tay nhỏ nhắn gầy yếu của Cẩu Nhi, cười nói: “Cẩu Nhi, từ mặt trời xuống dưới núi chính là thiên hạ của cháu, ha ha. Mẹ cháu chăm sóc cháu rất vất vả, không được nghịch ngợm nhé.”

Cẩu Nhi ngây thơ đáp: “Cẩu Nhi rất nghe lời mẹ, từ trước đến nay không có nghịch ngợm.”

“Thật không? Mới vừa rồi thúc thấy có người đang nằm nghỉ bên cạnh đống lửa, tại sao lại nhìn thấy cháu hình như đang trêu chọc người ta nhỉ?”

Cẩu Nhi che miệng cười: “Dương Hạo đại thúc, thúc không biết rồi. Hôm nay có một người ăn mặc cực kì quái dị mới đến, mẹ nói ông ta là người xuất gia, gọi là đạo sĩ. Đạo sĩ này rất kì quặc. Khi mọi người đi thì ông ta lại ngủ, vừa đi vừa ngủ. Khi mọi người dừng lại, ông ta vẫn còn ngủ, cũng đòi người ta đồ ăn. Lúc nãy đống lửa vừa mới bốc lên thì ông ta đã nằm ngủ mất rồi. Cẩu Nhi lấy cọng cỏ chọc vào mũi ông ta mà ông ta cũng không tỉnh.”

“Ồ.” Vừa nghe Cẩu Nhi nói vậy, Dương Hạo đã biết đó là ai. Sớm đã thấy người này có gì đó kì quặc. Hôm nay nhìn thấy biểu hiện của hắn, thật sự có chút dáng vẻ của kì nhân giang hồ.

Kì nhân giang hồ, tài nghệ có cao bao nhiêu thì cũng có cao hơn Trình Đại Tướng Quân không? Dương Hạo cười một lát, lại quay đầu nhìn. Chỉ nhìn thấy đạo sĩ đó đang nằm nghiêng, tay để lên trán ngủ rất ngon, một chùm râu bị gió thổi đang hơi bay bay trong ánh lửa.

“Dương đại thúc, Cẩu Nhi…Cẩu Nhi đói rồi.”

Dương Hạo quay đầu lại, cầm bàn tay nhỏ của đứa bé, nói: “Cẩu Nhi mấy ngày nay đã ăn gì rồi?”

Cẩu Nhi vui mừng, giơ ngón tay ra đếm và nói: “Mấy ngày nay được ăn rất nhiều thứ, có bánh nang, có màn thầu, còn có cơm gạo trắng. Rất thơm, rất thơm. Từ sau khi cha mất, Cẩu Nhi chưa từng được ăn nhiều thứ ngon như vậy. Trước đây, mỗi khi đến tết may mắn lắm thì Cẩu Nhi cũng chỉ có thể ăn được một miếng.”

Dương Hạo trong lòng có chút thương xót, nói: “Đi thôi, đi ăn tối với đại thúc nào, ở chỗ đại thúc không những có bánh nang, còn có cả thịt nữa, rất thơm.”

Hắn quay đầu nói một tiếng với Mã đại tẩu ở phía xa, rồi nắm bàn tay nhỏ của Cẩu Nhi đi về phía trại của mình. Đến được chỗ của hắn thì tân binh đã nấu xong cơm rồi. Màn thầu, cơm, canh thịt thơm phưng phức. Cẩu Nhi nhìn thấy thèm đến nuốt nước bọt, Dương Hạo cười cười rồi gọi tân binh đem đến cho đứa nhỏ một bát đầy, mình cũng bê lấy một bát, vừa ăn vừa hỏi: “Cẩu Nhi, cháu chỉ có biệt danh này thôi sao, tại sao cha cháu lại không đặt một cái tên cho cháu?”

Cẩu Nhi đang ăn ngấu ăn nghiến, nghe thấy liền dừng đũa lại. Buồn bã nói: “Cha nói, nhà nghèo, gọi Cẩu Nhi cho dễ nuôi. Cha nói, đợi khi nào Cẩu Nhi lớn sẽ đặt một cái tên hay cho Cẩu Nhi, nhưng…sau đó, loạn binh đánh giết tới, cha đã chết rồi…”

Dương Hạo nhìn đứa bé, thực ra Cẩu Nhi trông rất thông minh lanh lợi. Chỉ có điều đến tối lại xuất hiện bệnh lạ, da tái nhợt đi. Hoàn cảnh gia đình lại khó khăn, làm cho nó thiếu chất dinh dưỡng. Nhìn dáng vẻ của nó có chút giống như củ cà rốt nhỏ. Dương Hạo cười nói: “Đừng buồn nữa, hay là…đại thúc giúp đặt tên cho Cẩu Nhi nhé?”

“Được ạ, được ạ” Ánh mắt Cẩu Nhi sáng lên, vội vàng bê bát chạy đến ngồi phía trước hắn: “Đại thúc, thúc đặt tên gì cho Cẩu Nhi?”

“Ừm...” Dương Hạo nhìn ngọn lửa phía trước, nói: “Cháu à, trời sinh đã có bệnh lạ, chỉ đêm mới phát tác, mãi mãi không thể nhìn thấy ánh sáng mặt trời. Trong cuộc sống của cháu, thứ khó có nhất chính là ánh sáng, cho nên…ta sẽ gọi cháu là Mã Diệc nhé. Chữ Diệc này có bốn ngọn lửa, bù đắp cho cái thiếu mất trong cuộc sống của cháu.”

“Mã Diệc…” Cẩu Nhi lẩm bẩm nhắc đi nắhc lại cái tên, đột nhiên nắm lấy tay Dương Hạo. Vui mừng nói: “Đại thúc. Cháu nhớ kĩ rồi. Sau này cháu tên là Mã Diệc, thúc có thể dạy cháu viết tên cháu không?”

Dương Hạo thuận tay với lấy một cành củi, vẽ ngay ngắn xuống dưới đất hai chữ “Mã Diệc”. Cẩu Nhi vội vàng vét mấy hạt cơm còn thừa lại trong bát đưa vào mồm, rồi cũng nhặt lấy một cành củi, quỳ xuống đất, cầm học viết từng nét một, ánh lửa chiếu vào mặt nó, có vẻ rất chăm chỉ.

“Nhóc này, buồn ngủ chưa, ta nên đưa cháu về nhà, nếu không mẹ cháu lại lo lắng.”

Cẩu Nhi ngẩng mặt lên cười nói: “Cháu không buồn ngủ. Ban ngày ngủ đủ rồi.” Nó nhảy lên, chỉ tay vào đám người ở phía xa xa, vui vẻ nói: “Cháu từ trước tới giờ chưa từng có buổi tối mà lại có nhiều người ở cùng với cháu như vậy, thật náo nhiệt.”

Dương Hạo mỉm cười, nắm tay nó. Kéo đứa trẻ cô đơn, rất dễ vì một chút thoả mãn mà vui vẻ đó đi lên phía sườn núi cao, rồi cùng nhìn đoàn người dài như một con hoả long. Sau đó quay về phía đông nam, ôm lấy đứa trẻ, chỉ tay về phía xa, nói: “Cẩu Nhi, cháu nhìn bên kia kìa. Chúng ta sẽ phải đi một con đường rất xa rất xa, qua một con sông rất rộng rất rộng, rồi đến một thành trì rất lớn rất lớn.

Thành trì đó gọi là Khai Phong. Sau khi tất cả các nước trong thiên hạ đều chìm vào màn đêm thì những ngọn đèn ở đó lại sáng và nhiều như sao trên trời. Đó là thành duy nhất trên thế giới không có ban đêm. Người trong ngôi thành đó nhóm lửa nấu cơm không giống như chúng ta dùng củi để đốt, mà là dùng đá màu đen. Cháu nói xem có vui không?

Điều vui nhất chính là mỗi tối, ở đó lại có rất nhiều rất nhiều người, nhiều hơn gấp mười lần chúng ta ở đây, họ mặc những bộ quần áo xinh đẹp, đi vào trong thành phố đêm náo nhiệt. Đến đó rồi, cháu mãi mãi sẽ không cô đơn như bây giờ. Cho dù ngày ngày cháu chỉ có thể ra ngoài vào ban đên, nhưng vẫn sẽ nhìn thấy chợ phiên, cửa hàng, tửu lầu, quán trà mở cửa giống như ban ngày. Ở đó, cháu có thể tìm thấy rất nhiều bạn, sẽ không còn cần mẹ cháu dẫn đi nữa, không phải cầm một ngọn đèn lồng đi trong thôn tĩnh mịch, một mình trèo cây lúc nửa đêm nữa…”

Cẩu Nhi đôi mắt lấp lánh, lẳng lặng nghe, trong ánh mắt càng lúc càng sáng lên, nó nhẹ nhàng hỏi: “Đại thúc. Đó…chính là Đại Tống?”

Dương Hạo một cánh tay ôm đứa trẻ, cái dáng gầy gò của nó trông như một con mèo không có sức lực. Dương Hạo mỉm cười nói: “Đúng vậy, nơi đó chính là Đại Tống, là nơi giàu có nhất thiên hạ.”

“Vậy…tại sao đại thúc không đến đó sống?”

“Ha ha. Ở đó tuy tốt, nhưng đại thúc còn có rất nhiều việc phải làm. Đợi đại thúc làm xong tâm nguyện, có lẽ…sẽ đến đó sống.”

Ánh mắt Dương Hạo từ từ nhìn quay sang hướng đông, nụ cười dần tan biến, con mắt trở nên mông lung: Mẹ già Dương Thị, Đại Lương ca, Tao Trư Nhi. Còn có người mà làm người khác phải thương – La Đông Nhi, khuôn mặt như hiện ra rõ rệt, dường như đang nổi lên trên bầ trời đêm. Đang mỉm cười với hắn…

Hắn hít hít cái mũi, ngăn dòng nước mắt mình. Đứa trẻ trong lòng tuy mãi mãi chỉ có thể sống trong màn đêm, nhưng trái tim thơ ngây của nó lại chưa từng bị nhiễm bụi trần. Dương Hạo không muốn để nó biết trên đời này còn có nhiều chuyện tàn khốc, những trái tim cay nghiệt độc ác như vậy…

Cẩu Nhi được đưa về bên cạnh mẹ. Có lẽ là vì xung quanh có rất nhiều người, nó cả đời chưa từng nhìn thấy nhiều người như vậy, hoặc cũng có lẽ là vì Dương Hạo đêm nay đã kể cho nó những thứ bên ngoài thế giới kia, vì thế vui mừng quá mà không ngủ được, cứ kéo kéo tay mẹ, kể những thứ đã được nghe. Nó rất tự hào vì nó biết được nhiều thứ mà mẹ nó không biết, nó có kiến thức hơn mẹ. Nó biết thiên hạ này rất lớn, ngồi xe cưỡi ngựa cũng phải đi rất xa rất xa. Nó biết nơi mình cần đi phải vượt qua một con sông rất rộng, nó biết bên kia sông là một cái thành, đó là thành phố duy nhất trong thiên hạ mà đêm cũng náo nhiệt như ngày, khắp nơi đều là đèn, giống như sao trên trời vậy.

Nó chớp chớp mắt, nhìn lên những ông sao lấp lánh trên bầu trời, thầm nghĩ : “Nơi đó không phải là giống như thiên cung, nơi ở của thần tiên ư?”

“Đúng rồi. Mẹ, còn có một chuyện lớn nữa. Con bây giờ có tên rồi, là Dương Hạo đại thúc đặt tên cho con. Mẹ…mẹ.”

Đứa trẻ ngồi dậy, trề trề cái môi. Vì cả ngày đã mệt mỏi nên Mã đại thúc đáp đại mấy câu với đứa con lúc này đang chưa chịu ngủ.

Buổi tối mới là thế giới của nó. Chỉ có buổi tối mới là lúc tinh thần nó tốt nhất. Nó không muốn ngủ, một mình đứng dậy, chạy đến bên đống lửa, lấy một cảnh củi đang cháy từ trong đó ra, khua khua lên cho tắt lửa đi, rồi ngồi bên cạnh đó. Nghiêng đầu chăm chỉ vui vẻ viết tên của mình: “mã Diệc, bốn chữ lửa. Tên đại thúc đặt thật là hay.”

“A…a…a” Đạo nhân ngủ say như heo chết không biết từ lúc nào đã ngồi dậy, ngáp mấy cái nói: “Tiểu quỷ, người ta mới chỉ đặt cho ngươi một cái tên mà đã vui vậy sao? Ngươi phải cẩn thận đấy. Thiên hạ này có rất nhiều người xấu, đừng để bị người khác lừa mà bán mất đấy, đến lúc đó xem ngươi còn vui mừng đếm bạc hộ người ta không?”

“Ngủ đi ông, đi cả chặng đường đều ngủ gật, bây giờ lại tỉnh táo thế, Dương Hạo đại thúc là người tốt, sẽ không hại tôi đâu. Nếu ông nói xẵ Dương Hạo thúc, tôi sẽ không để ý đến ông đâu.” Cẩu Nhi nói xong, tức giận quay lưng lại với hắn ta, lại viết tên mình lên mặt đất.

Đạo nhân lôi thôi cười híp cả mắt, lại nằm xuống, gối đầu lên cánh tay, hai chân duỗi dài, nhìn sao trên trời. Thần sắc lại trở nên cổ quái: “Lão đại tu cả một đời đạo pháp, nhưng đây vẫn là lần đầu tiên gặp phải chuyện kì lạ như thế này, lại gặp một người kì quái như thế. Lão đạo có thể đi theo hắn, xem xem người này rốt cuộc là thứ gì. Không chừng lão đạo có thể vì đó mà biết được thiên cơ. Lão yêu đạo Thuần Dương Tử. Ha ha, để hắn đợi vài ngày nữa ở quan ngoại vậy, hắn đã sống lâu như vậy, không thể nói chết là chết ngay được. Dương đo giám trước mắt lại là một kì nhân có thể gặp mà không thể cầu.”

※※※※※※※※※※※※※※※※� � � �※※※※.

Trời vừa sáng, đám binh lính đã hối thúc mọi người dậy, ăn chút đồ ăn sáng rồi lên đường. Chặng đường mỗi ngày đều rất dài và vô vị, ngay đã đám binh lính cũng tê hết cả chân. Bất luận là trước hay sau thì đều là những cánh đồng bát ngát mờ mịt. Vùng đất này giống như đất sa đất thổ, không có cây lớn, chỉ có một ít cây bụi thấp bé. Cả chặng đường nếu ngẫu nhiên nhìn thấy mấy con linh dương đang ăn có ở trên núi thì cũng bị đoàn người lớn làm cho kinh động, không biết chạy về hướng nào.

Thời tiết càng ngày càng lớn, khi mặt trời lên cao đến ba sào, thì người người đều toát mồ hôi như tắm. Ngay cả binh sĩ cưỡi trên ngựa cũng có chút không chịu được. Dương Hạo và Trình Đức Huyền đứng song song ở bên đường, nhìn về phía xa nói: “Trình đại nhân, nếu cứ tiếp tục thế này thì ban ngày sẽ không có cách nào đi tiếp được. Huynh xem xem nếu như ban ngày tìm một nơi nào râm mát để mọi người nghỉ, rồi ban đêm lại lên đường, thế nào?”

Trình Đức Huyền nói: “Mấy vạn người ngựa, đến tối sợ không quản hết được. Đặc biệt là phụ nữ, người già và trẻ nhỏ. Còn có rất nhiều người mắc bệnh về mắt, đêm xuống không nhìn thấy gì. Nói thì dễ nhưng nếu thật sự hành quân đêm thì đội quân có tốt chất mới làm được, chú đám ô hợp này thì…”

Hắn vừa nói đến đây thì đột nhiên có người kêu thét lên, tiếng gào thét này như bị truyền nhiễm, nhanh chóng tụ thành những tiếng gào thét cực lớn, Trình Đức Huyền rút kiếm ra khỏi vỏ, quát lớn: “Xảy ra chuyện gì?”

Một tên binh sĩ chỉ lên trên trời đáp lớn: “Đại nhân. Mau nhìn xem, mau nhìn, trên trời là người ngựa của chúng ta.”

“Cái gì?” Trình Đức Huyền ngẩng đầu nhìn. Chỉ nhìn thấy một trận sóng trên bầu trời mờ mịt. Một bức tranh hơi mơ hồ dần dần hiện ra rõ rệt. Bức tranh đó đang chuyển động, cực lớn, che khuất cả bầu trời mặt đất. Chiếm vị trí một phần ba bức tranh đó chính là một sườn núi, từ sườn núi đó nhìn xuống thấy vô số quân Tống và dũng sĩ Khiết Đan đang chém giết nhau. Cảnh tượng rất rõ rệt, giống như một trận đại chiến đang diễn ra ngay trước mắt họ vậy. Tàn khốc, thảm thiết, nhưng lại không có bất cứ một âm thanh nào, cho nên càng làm cho nó có vẻ quái dị.

“Hải Thị Thận Lâu.” Dương Hạo kinh ngạc hét lớn. Trình Đức Huyền vốn cũng có chút kinh hãi, thì vừa nghe Dương Hạo hét lên bất giác cũng thầm nói “Thật xấu hổ”. Kì cảnh Hải Thị Thận Lâu hắn đã từng đọc qua trong cổ thư, nhưng đây là lần đầu tiên nhìn thấy, cho nên lúc nãy vừa nhìn đã có chút thất thần, lại còn nghĩ là do yêu quái làm ra. May mà chưa nói gì, nếu không thì sẽ cho mọi người thấy mình thật nông cạn.

Nhưng đám binh sĩ, đặc biệt là dân chúng thì đều không biết Hải Thị Thận Lâu là thứ gì. Có một số người dân kinh hãi hét lên “Thiên binh thiên tường.”, rồi vội vàng nằm sấp xuống đất ngẩng đầu lên. Cũng có rất nhiều binh sĩ hoang mang không biêt phải làm gì. Chỉ tay lên trời hét lớn: “Nhân mã của chúng ta tại sao lại trên trời? Lại còn cả bọn cẩu Khiết Đan nữa, xảy ra chuyện gì vậy?”

Trình Đức Huyền nhăn mày quát: “Trấn tĩnh lại, hô ầm ỹ như thế còn ra thể thống gì nữa.” Nhưng những người hắn có thể quát dừng lại cũng chỉ có mấy người bên cạnh, còn một đoàn người dài như con rắn, khắp nơi đêu kêu gào thì hắn làm sao có thể ngăn được.

Dương Hạo ngẩng đầu lên, mắt nhìn chằm chằm vào đó. Không biết kì cảnh Hải Thị Thận Lâu đến khi nào sẽ biến mất. Trên bầu trời, đám người Khiết Đan đang dần chiếm được ưu thế. Quân Tống đang dần dần lui bước, để lại vô số thi thể. Bức tranh luôn được quan sát từ trên sườn núi xuống phía dưới, giống như có một người đang đứng ở trên đó, nhìn sự tranh giành sống chết của hai đại quân trong sơn cốc và sườn núi.

Đột nhiên, một lá cờ lớn từ từ rơi xuống đất, chiếc cờ đó chính là chiếc được cắm thẳng trên sườn núi, nên khi nó rơi vào trong bức tranh thì lập tức bao phủ toàn bộ màn trời. cả bầu trời đều là đại kì chữ Tống màu vàng hơi đỏ, đại kì từ từ rơi xuống, liền nhìn thấy vô số người Khiết Đan đang cầm loan đao xông lên núi giống như những con sói, sau đó là hình một đôi giầy chiến đầu phượng đang đạp mạnh lên chiếc cờ bị đổ, một bóng người từ từ hiện lên, chiếm cả màn trời.

Đầu tiên là bóng người thon thả, sau đó nàng ta từ từ quay lưng lại, chỉ nhìn thấy nàng ta mặc một chiếc áo giáp vảy cá, ở eo có thắt tám chiếc váy chiến thêu hình phượng, phía trước ngực là tấm kính hộ tâm sáng lấp lánh, chiếc mũ hộ đỉnh đều được làm bằng lông cáo. Đỉnh đầu là một bó lông vũ đang bay phấp phới. trên vai có vắt một con thú đang trừng mắt. Phía sau là lọ cũng tiễn. Nàng có đôi mắt hạnh nhân, mày lá liễu, miệng nhỏ anh đào, giữa hai hàng lông mày có một nốt chấm đỏ. Trong cái xinh đẹp có cả uy lực không thể xâm phạm. Lúc này, nàng ta đang đứng gần đó, chân dẫm mạnh lên đất. Những cái lông vũ trên đầu dựng thẳng lên trời, trông giống như Đại Thánh thần giới.

Rất nhiều người đang cuống quýt khấu đầu, hô vang: “Quan âm nương nương hiển linh.”

Họ chỉ nhìn thấy người con gái này đang đưa ánh mắt sáng trong như ánh mùa thu nhìn về phía xa, mỉm cười, khua tay lên, thì rất nhiều dũng sĩ Khiết Đan liền xông lên núi như hổ như sói.

Trên trời lại có một làn sóng chập chờn, bóng dáng yêu kiều của nữ tướng bắt đầu méo dần. Lờ mờ còn có thể nhìn thấy một trận tạp loạn diễn ra khi đội quân Khiết Đan xông lên núi. Ngay sau đó thì đốt lửa lên, đốt đỏ cả bầu trời, lửa cháy nuốt hết tất cả, nữ tướng xinh đẹp đó không hề mất đi sự anh dũng, dần dần biến mất trong biển lửa.

Trình Đức Huyền kêu lớn lên một tiếng, quay đầu cười: “Dương Đô Giám thật là có kiến thức, ta cũng từng đọc được những ghi chép về việc này trong cổ thư. Nghe nói thế gian có ảo ánh. Nó có thể nuốt cả mây, huyễn hoá lên các tầng lớp, nhân vật xe ngựa. Tất cả những gì lúc nãy chúng ta nhìn thấy, nghĩ rằng…Dương Đô Giám, ngươi làm sao vậy, sắc mặt tại sao lại trở nên khó coi vậy?”

Dương Hạo mặt xanh xao nói: “Trình đại nhân, cảnh Hải Thị Thận Lâu này thực không phải là do ảo yêu biến thành, mà là do thời tiết nóng quá, không khí bị đốt nóng. Nó giống như một tấm gương, đem tất cả cảnh tượng in lên bầu trời, chiếu lại một cảnh đang diễn ra ở nơi khác.”

Trình Đức Huyền nói: “Ồ, đúng là nguyên nhân này. Dương Đô Giám thật là hiểu rộng. Trình mỗ còn…” Câu nói vẫn chưa nói hết thì sắc mặt của hắn bống biến đổi: “Dương Đô Giám, ngươi nói…?”

Dương Hạo trầm giọng nói: “Không sai, tất cả những cảnh tượng diễn ra lúc nãy đều là thật, hơn nữa nó đang xảy ra.”

Trình Đức Huyền sắc mặt từ từ thay đổi. Ánh mắt dừng lại nói: “Dương Đô Giám, ngươi nói…quân ta bại rồi?

Dương Hạo hơi lắc đầu, nói: “Chưa chắc, nên nói là…quân ta lui rồi.”

Trình Đức Huyền hơi ngẩn ra, liền hiểu ngay sự khác biệt giữa những từ này. Bại là bị uy lực cực lớn của địch làm cho lui về, còn rút lui là hoàn thành nhiệm vụ ngăn cản di chuyển của địhc, hai cái này không giống nhau. Nhưng, Dương Hạo làm sao biết được quân Tống là lui hay là bại?

Hắn nghi ngờ hỏi: “Dương Đô Giám, cảnh tượng lúc nãy quân ta rõ ràng là bại. Ngươi nói quân ta rút lui chứ không phải là bại, ngươi dựa vào đâu vậy?”

Dương Hạo nói: “Dựa vào đám lửa lớn trên trời.”

“Lửa?”

“Không sai. Ngọn lửa này từ đâu mà tới? Người Khiết Đan không có lí do gì để phóng hoả. Khi chúng đang chiếm thế thượng phong mà lửa lớn sẽ không có lợi cho chúng tiến công. Như vậy ngọn lửa này là do quan gia phóng. Mục đích là gì? Là để ngăn địch mà thôi. Huynh xem chỗ lương thực kia vốn không dễ cháy, nhưng lại cháy lớn như vậy, tất là đã được tưới dầu. Nếu như không phải là quân ta có ý định rút lui mà là trận chiến đã bại thì sao lại có thể làm ra một ngọn lửa to đến thế?”

Trình Đức Huyền nghe thấy Dương Hạo nói thế liền thức tỉnh, không khỏi vui vẻ nói: “Không sai, không sai. Dương Đô Giám nói đúng. Nếu quân ta đã chủ động rút lui, thì thương vong tổn thất chắc sẽ không lớn.”

Dương Hạo thở dài nói: “Nhưng…chúng ta mấy ngày nay đi quả thật là không nhanh, trừ phi là người Khiết Đan không muốn đuổi đến, nếu không…chỉ dựa vào chút binh mã này thì chúng ta có thể chạy đi đâu?

Trình Đức Huyền vừa nghe lập tức đơ người ra. Tất cả sự vui mừng đều tan biến hết.

 Chương 144: Gấp rút đánh một trận.

Đại quân và di dân chống chọi với cái khắc nghiệt của mặt trời mà tiến về phía trước. Bất chấp sự oán trách của dân chúng, đám binh sĩ vẫn dùng đao thương ép họ phải đi tiếp. Bây giờ là lúc chỉ có thể dựa vào nắm đấm để nói lí thôi.

Mọi người đều chảy mồ hôi như tắm, Ngay cả Trình Đức Huyền và Dương Hạo ngồi trên ngựa cũng mặt mũi đầy bụi bẩn nhếch nhác, rồi cứ như thế đuổi sát chậm chạp. Buổi trưa ngày thứ hai họ đã bị kị binh tiên phong Khiết Đan đuổi đến.

Chính ngọ vừa qua, đoàn xe vừa ăn xong bữa trưa, đang vội vàng lên đường, đột nhiên một con chim bay nhanh trên không trung, lướt qua đầu họ và bay về phía trước. Dương Hạo kéo ngựa quay đầu lại, nhìn về phía xa, chỉ nhìn thấy trên mặt đất xuất hiện một điểm màu đen, điểm đen này nhanh chóng biến thành lớn, dần dần nhìn rõ đó là một đội kị binh đang phi nhanh về phía mình.

Dương Hạo khuôn mặt biến sắc, hét lớn: “Không hay rồi, người Khiết Đan quả nhiên đã đuổi đến.”

Những kẻ đang đuổi đến đây đương nhiên cũng có thể là Tống quân, nhưng thời tiết nóng như thế này, không chỉ người không chịu được mà ngay cả ngựa cũng chịu không nổi. Nếu như đằng sau là kị mã của Tống quân, thì họ chẳng có lí nào lại phi nhanh như thế cả, cho nên lúc này tuy không nhìn rõ hình dạng và trang phục của đội binh mã đó nhưng cũng có thể đoán chắc được họ là người Khiết Đan.

Trình Đức Huyền lúc này cũng đã nhìn thấy truy binh, lập tức rút kiếm hét lớn: “Nhanh, nhanh, tiến nhanh về phía trước. hiệu lệnh cho tất cả mọi người lập tức tiến về phía trước. Có thể vứt được cái gì thì cứ vứt…Hoảng hốt cái gì… ngươi… ngươi… ngươi, kẻ nào chạy loạn không nghe hiệu lệnh giết không tha.”

Trình Đức Huyền lần đầu nhận nhiệm vụ quan trọng như thế này, kinh hãi rút kiếm cầm chặt trong tay, nói năng thì loạn lên, phía hậu trận có một người phi ngựa đến, người nay mặc áp giáp chỉnh tề, hắn phi ngựa tới trước mặt hai vị Khâm Sai, bẩm báo: “Hai vị đại nhân, chúng ta không thể đi tiếp nữa, trừ phi bỏ lại đám dân chúng này, nếu không chúng ta hoàn toàn không thể thoát khỏi truy binh. Lúc này nếu trốn chạy tình thế nhất định sẽ đại loạn, binh sĩ cũng đã sức tàn lực kiệt, không dám chống chọi lại, vậy thì đại cục sẽ bị phá tan. Theo mạt tướng nghĩ, đội tiên phong của người Khiết Đan tuy là tinh nhuệ, nhưng người lại không nhiều, chúng ta không hẳn là không thể đánh một trận, bây giờ cần phải nhanh chóng bày binh bố trận để nghênh tiếp.”

Tên tiểu tướng này sinh ra vốn đã thông minh, lại mặc thêm bộ áp giáp trông lại càng anh tuấn. Vì thời tiết nóng bức, khuôn mặt trắng của hắn đỏ lên, chảy đầy mồ hôi. Dương Hạo vừa nhìn đã nhận ra người này tên là La Khắc Địch, lo cho việc từ quan đến quân, thống soái hai nhìn cấm quân. Là Phó Thủ của Đô Chỉ Huy Sứ. Trong biên chế của bốn cấp sương, quân, doanh, đô thì đã là tướng lĩnh cao cấp bậc một. Vì hắn chịu sự quản lí của cấm quân, thuộc quản chế của Trình Đức Huyền, cho nên Dương Hạo và hắn qua lại không nhiều.

Trình Đức Huyền quát lớn: “Kị binh chạy nhanh như hổ báo. Chúng ta mới có năm vạn dân đã mệt rồi, làm sao có thể đánh với chúng một trận chứ? La quân chủ, ngươi nghe bản quan ra lệnh đây. Nhanh chóng đưa binh đi ngăn cản quân địch. Bản quan và Dương Đô Giám đưa người gấp rút lên đường, đưa được bao nhiêu thì đưa bấy nhiêu. Còn hơn là dừng lại ở đây chờ chết.”

La Khắc Địch vội nói: “Đại nhân, nơi đây địa thế rộng lớn bằng phẳng, mạt tướng cho dù có đưa binh nghênh địch, nhưng quân địch chưa chắc đã nghe theo sự bài bố của chúng ta. Nếu như địch vòng ngựa qua chiếc xa của chúng ta, tấn công dân chúng thì lúc đó sao có thể ngăn cản được đội binh lang sói? Đại nhân, bây giờ chỉ có thể thu nạp nhân mã chuẩn bị chiến đấu tại chỗ, còn chần chừ sẽ không được nữa.”

Dương Hạo lập tức tỏ thái độ, cao giọng nói: “Trình đại nhân, hạ quan cho rằng lời nói của La quân chủ rất đúng. Nếu như chúng ta một mực tháo chạy thì cả đoàn người đều sẽ kéo dài thành một con rắn, một khi bị người Khiết Đan cắt đứt thì chỉ có thể để chúng tuỳ ý chém giết thôi. Bây giờ xem ra kị binh tiên phong của Khiết Đan quả thật không nhiều người, chi bằng làm theo La quân chủ, đấu một trận với chúng

Dương Hạo chưa từng dẫn dắt binh và cũng chưa từng đọc qua binh thư, nhưng hắn biết nhận ra người tài giỏi. Trình Đức Huyền quả thật là học cao hiểu rộng, nhưng không có nghĩa là hắn tinh thông binh pháp, có kinh nghiệm chiến trận phong phú. Cho dù trong lòng Dương Hạo cũng giống như Trình Đức Huyền, vừa gặp sự truy đuổi của kị binh Khiết Đan, hắn vốn đã muốn tháo chạy, chạy càng nhanh càng tốt, càng xa càng tốt, nhưng hắn tin tưởng vào La Khắc Địch kẻ xuất thân từ trong quân ng, những lời hắn nói tất có lí lẽ của nó. Mình không hiểu không có nghĩa là người khác nói không đúng. Lúc này nếu như đem tất cả hi vọng đặt lên người một tên xuất thân thư sinh như Trình Đức Huyền thì chi bằng làm theo La Khắc Địch còn hơn.

La Khắc Địch nào có biết vị Khâm Sai Dương Hạo như đang ngồi trên đống lửa, chỉ như bệnh nguy kịch cần tìm đại phu nên mới đặt trọng trách này lên người hắn thôi. Hắn còn nghĩ rằng vị quan thăng liền ba cấp này rất có tầm mắt, không khỏi khâm phục

Trình Đức Huyền thấy truy binh ngày càng gần, nhất thời không chú ý, đành nói: “Vậy được, La Chỉ Huy, bản quan tạm thời giao cho người binh quyền, ngươi nói xem, chúng ta nên bày trận thế nào?”

La Khắc Địch vui mừng nói: “Hai vị đại nhân. Hai vị nhìn về phía bên kia xem, cách đây hai dặm là một ngọn núi hoang vu, thỉnh hai vị đại nhân nhanh chóng đưa dân chúng rời khỏi con đường lớn, di chuyển đến núi, mạt tướng sẽ tập trung chiến xa yểm hộ đằng sau, cứ theo địa thế mà ngăn cản truy binh, người Khiết Đan không thể vòng ra sau tập kích chúng ta, tiếp theo đó chỉ cần đánh một trận với ta, ta sẽ có cơ hội sống.”

Trình Đức Huyền đã buông quyền nên cũng không bừa bãi đưa ra chủ ý nữa, tình hình trước mắt không còn làm theo ý của hắn, liền nói: “Được, Dương đại nhân, chúng ta nhanh chóng đưa dân chúng lui ra phía bên trái chân núi.”

Lập tức ra lệnh, trong một thời gian ngắn, trên cả chặng đường có người lớn tiếng hô ngựa, có tiếng ngựa hí lừa kêu, có người khóc hét, có người chửi mắng, nhưng lại không có ai chần chừ chậm chạp. Cả một đoàn người lớn hoang mang vội vã rời khỏi đường chính, đi theo sự dẫn dắt của quân Tống đến phía chân núi chọc, trên đường nhân mã đã không còn, nhưng lại để lại rất nhiều sọt chum vại, giống như một thành phố bị cướp bóc vậy.

Đám người Lưu Thế Hiên, Phạm Lão Tứ hô khản cả giọng, vội vàng hối thúc dân chúng như thúc bò dê lên núi tập trung. Dân chúng khi đã tụ tề lại thì sợ hãi nhìn về phía đội kị binh Khiết Đan đang càng lúc càng gần. La Khắc Địch nhìn thấy kị binh tiên phong Khiết Đan đã đến, lập tức tập trung tất cả chiến xa bày bố thành hai đại trận hình hình tam giác rỗng giữa có hai lớp bên trong và bên ngoài, rồi lệnh cho đám cũng tiễn lấy chiến xa làm vật che người, đứng ở bên trong. Thế trận đã bày ra, đứng cản phía trước mặt dân chúng, cách họ chỉ một bước tiễn.

Theo sự chỉ huy thì hai viên tướng Từ Hải Ba, Hách Long Thành lần lượt dẫn hai đội quân, một là cấm quân, hai là kị binh và sĩ tốt do Trình Thế Huyền giao phó cho, xếp thành hai trận nhỏ như cánh chim nhạn ở hai bên trái phải xa trận, bảo vệ dân chúng. Hai đoàn người ngựa kị binh này ở bên trong, tương giáo ở bên ngoài, bộ binh ngồi xổm xuống, chống thương xuống đất, vô số những cây thương lớn từ từ giơ lên phía trước, giống như một rừng gang thép nhọn hoắt vậy. Đại trận vừa mới ra được hình thế ban đầu thì La Khắc Địch lại phi ngựa tới kêu người thông báo cho hai Khâm Sai Trình Đức Huyền và Dương Hạo tập trung thân binh của họ chuẩn bị hành động. Nhưng khi vừa nhìn thấy đại trận và hai trận nhỏ còn chưa kịp đến bổ sung viện trợ thì đội kị binh Khiết Đan đã đuổi giết đến nơi.

Đoàn kị binh này quả thực như La Khắc Địch đã phân tích, đám tiểu binh tiên phong người Khiết Đan này biết được dân chúng Bắc Hán bị bắt đến đây, Hoàng Đế Bắc Hán Lưu Kế Nguyên đau đớn như mẫu thân phụ thân qua đời vậy, nhìn thấy nữ chủ Khiết Đan liền khóc lóc kể ấm ức của mình.

Tiêu Hậu sau khi nghe xong ngọn nguồn sự việc cũng biết được kế này của người Tống quả thật là cay nghiệt, nếu như thật sự để cho chúng đạt được thì Bắc Hán không tới hai năm sẽ bị diệt vong. Tuy người Khiết Đan lần này xuất binh chủ yếu là muốn loại trừ xung đột nội bộ, nhưng nếu như không thể giữ lấy Bắc Hán, thì việc hi sinh để duy trì Bắc Hán bấy lâu nay cũng trở thành công cốc. Vì thế, sau khi chủ lực Tống quân của Triệu Khuông Dận chủ động rút rui, thì nàng ta đã lập tức phái hơn ngàn người phân chia ra tìm kiếm, một là muốn tìm ra hướng đi của chủ lực Tống quân, hai là muốn tìm nhưng dân chúng Bắc Hán bị đưa đi.

Người dẫn đầu đoàn kị binh tên là Kha Phi Bào, đó là thủ hạ của Ký Vương Da Luật Địch Liệt đã mất mạng tại trận Thông Thiên Hà. Da Luật Địch Liệt tính tình táo bạo, dụng binh luôn chỉ có tiến mà không có lùi, nhưng tướng mà hắn đề bạt đương nhiên cũng là người có tính tình hợp với hắn, đa số đều là những kẻ rất sôi nổi và cuồng vọng, khi đánh trận chỉ nghĩ đến dùng sức mạnh chứ không có kế sách. La Khắc Địch chỉ sợ chúng không chịu xông lên thôi, nếu như chúng tấn công lên một bên cánh quân của mình thì thế trận vừa bố trí khó có thể hô ứng với ba trận phía trước..…

Kha Phi Bào mắt thấy dân chúng Bắc Hán bị dẫn đi, cho rằng đại công đang ở ngay trước mặt, lập tức vui mừng nhìn về phía trước. Hắn liên tục thúc ngựa, gào thét ầm trời, chỉ muốn chém giết tan tác quân Tống trước mặt, nào có nghĩ đến những điểm mạnh và yếu của địch.

Đội quân Khiết Đan này đều do hắn bố trí, mỗi tên đều rất ngang tàng,hề coi ai ra gì. Lần này Tiêu Hậu đại thắng, ngay cả Hoàng Đế Đại Tống cũng phải tháo chạy, càng làm cho chúng không coi đoàn quân Tống đang di dân ra gì, mắt thấy Tống quân bày binh bố trận nhiều người hơn mình, nhưng đám kị binh Khiết Đan lại không một chút sợ hãi, người như hổ, ngựa như long, bừng bừng nhuệ khí xông tới đại trận của quân Tống, ý đồ muốn một trận phá huỷ sạch xa trận của quân Tống, giết sạch giống như giết dê giết lợn vậy: “Đầu quân Tống có thể đem về lĩnh thưởng, còn trong đám dân kia lại có vô số những cô nương xinh đẹp. Ha ha. Chuyến đi tốt đẹp này chúng ta đã giành được, có lẽ là do lão nhân gia Ký Vương phù hộ.”

La Khắc Địch cưỡi ngựa đứng trước trận, ngồi trên yên ngựa cầm trường thương, nhìn thấy kị binh của địch phi nhanh không giảm tốc độ cũng không có ý đồ tránh trận xe ra để tấn công vào hai bên cánh quân, không khỏi mừng thầm trong lòng. Hắn thầm tính toán tốc độ của địch, nhìn thấy bụi bay mù mịt khi địch phi tới thì lập tức giơ thương lên, hét lớn: “Bắn tên.”

Cung tên sớm đã được lên dây, một loạt tên được ào ạt bắn ra. Sự phối hợp của cung thủ trong quân Tống là nhiều nhất, binh sĩ trong mỗi một Đô thì đao thủ có 8 người, thương thủ có 16 người, còn lại 70 người là cung thủ, binh sĩ cận chiến là ít nhất. Trận tên này bao phủ cả bầu trời, khi từ trên không trung bắn xuống thì đúng là lúc kị binh tiên phong của Khiết Đan xông đến gần.

Tên bay như mưa, thế tấn công của kị binh Khiết Đan đang rất gấp gáp, hơn nữa đa phần lại không có phòng bị, cho nên lập tức bị bắn cho người ngã ngựa đổ. La Khắc Địch cầm thương giơ lên, lại hét lớn: “Bắn tên.”

Đợt cung tên thứ hai lại bắn ra, người Khiết Đan dựa vào ngựa nhanh, đấu chọi với cả mưa tên mà gào thét xông lên, bất chấp người chết người bị thương. Đến khi trận tên thứ ba bắn ra thì người Khiết Đan đã xông tới phạm vi gần một trăm bước chân, khuôn mặt dữ tợn của kẻ xông lên đầu tiên đã có thể nhìn thấy rất rõ.

La Khắc Địch lạnh lùng hô lên: “Giương nỏ, bắn!”

Đám binh lính phía sau lập tức phất cờ, những người dùng nỏ này đều là những lão binh có kinh nghiệm chiến trường phong phú, thấy phía trước quân địch đã gần tới lại không hề hoang mang sợ hãi. Nghe theo hiệu lệnh của chỉ huy, họ đứng phía sau những chiến xa làm tấm chắn, đều hạ quyết tâm cao, chân dẫm vững xuống đất, cong người, thở chầm chậm, giương nỏ lên, cho tiễn vào, chỉ nghe thấy những tiếng “soạt soạt”, rồi lập tức vô số nhưng tên nỏ từ hai bên cánh quân phóng đến đội kị binh Khiết Đan.

Nỏ tiễn so với cung tiến thì có uy lực hơn, nó có tầm bắn thẳng. Lúc này khi quân Khiết Đan đã tiến tới gần thì nỏ tiễn lại càng dễ ngắm chuẩn, lập tức những nỏ tiễn bay đến đám kị binh Khiết Đan đang tới gần. Nhìn thấy đám kị binh đang xông đến gần bị nỏ tiễn làm cho ngã xuống, vì chúng đang xông lên rất nhanh nên có rất nhiều binh mã dính nỏ tiễn bị trượt ngã xa đến cả hai ba trượng, làm cho đám quân đằng sau phải dừng bước lại, La Khắc Địch lập tức phát ra mệnh lệnh chủ động tấn công: “Chiến xa, xông trận.”

Hàng chục chiếc chiến xa xông lên phía trước chém giết, quay vòng tròn quanh đám kị binh Khiết Đan mà thế trận đã hỗn loạn. Bất kì một loại quân nào cũng đều có ưu nhược điểm của nó, nếu như Kha Phi Bào lợi dụng đặc điểm tính cơ động của kị binh rất cao để công kích vào hai bên của quân Tống thì sẽ ép cho xa trận chuyển động hỗn loạn, rồi chỉ huy quân lên chém giết, như vậy thì xa trận của La Khắc Địch nhất định sẽ khó phát huy uy lực như thế này. Bây giờ tiên cơ của Kha Phi Bào đã thất bại, kị binh bị sa vào xa trận, thật là còn kinh khủng hơn cả bộ binh.

Dương Hạo xa xa nhìn chỉ thấy chiến pháp xa trận của Tống quân giống như chiến thuật xe tăng của hậu thế, lấy hoả pháo để công kích tới phía xa, lại dựa vào mặc giáp để xông tới, bộ binh ở phía sau đi theo sẽ được tiện lợi hơn. Giờ phút này là như thế, chiến xa xông lên vây hãm kị binh, đám binh lính đi theo xe khua đao múa kiếm, chặt đầu chém đứt chân ngựa, những tinh binh Khiết Đan còn không kịp thi triển thủ cước thì đã lâm vào thế trận, chiến mã không biết trốn tránh nên kị binh lập tức bị giết chết.

Loại chiến thuật này bày bố trên bình nguyên để đối phó với kị binh là thủ đoạn có lợi nhất, sau này quân Tống trong các chiến dịch Đại Nghi Trấn, Thác Cao đều đánh bại kim quân, đó là đều dùng chiến thuật này. Dũng sĩ phương bắc cũng phải thừa nhận rằng quân đội Trung Nguyên thứ lợi hại nhất vẫn là cung tiễn, thứ nhì là đại đao rìu nặng, còn những thứ khác thì không đáng sợ. Bầy giờ lại có sự phối hợp vừa vặn của đội kị binh Khiết Đan làm cho quân Tống có thể thi triển một cách hoàn mĩ chiến thuật tấn công xa trận trùng đao này.

…………………………………………� � � �…………………

Cẩu Nhi không dám nhìn ánh sáng mặt trời, trốn trong xe, lơ lắng hỏi: “Ây, lão đạo sĩ, Dương Hạo đại thúc có đánh thắng được người Khiết Đan không?”

Lão đạo sĩ tỉnh mà như không tỉnh nhìn về đại chiến mà không nói một lời nào. Cẩu Nhi lại nói: “Đạo sĩ, Dương đại thúc của ta không sao chứ?”

Lão đạo sĩ đưa tay vuốt chòm râu mà không thèm để ý đến nó, Cẩu Nhi đành phải thay đổi giọng: “Ây, lão đạo gia gia, ông nói cho ta biết đi mà.”

Nó thấy lão đạo sĩ tóc đen sì, có vẻ trẻ hơn nhiều so với Lưu gia gia, nhưng nếp nhăn trên mặt thì không ít, liền khôn ngoan thay đổi, gọi hắn là gia gia, làm cho hắn bật cười nói: “Dương Hạo đại thúc của ngươi đang đứng ngay ngắn yên vị ở chỗ kia quan sát trận chiến mà không phải dùng một đao nào, cũng không phải bắn một cái tên nào, hơn một trăm thân binh bên cạnh đang bảo vệ hắn, hoàn toàn không phải rút đao ra trận, thì hắn có thể xảy ra chuyện gì chứ.”

Cẩu Nhi nghe thấy lúc này mới mới yên tâm, vỗ ngực nói: “Đại thúc không có xông lên trận thì tốt rồi, đạo sĩ gia gia, ta nghe thấy bên ngoài kia tiếng gáo thét rất kinh khủng, chúng ta có thắng không?”

Phù Diêu Tử nhăn mắt nhìn xa xa, chỉ thấy thân binh của La Khắc Địch đang dùng chiến xa xông vào trận địa của địch, lợi dụng ưu thế trang bị trùng trùng mà áp chế được không gian cơ động của kị binh Khiết Đan, làm chi địch hoàng toàn mất đi ưu thế chiến đấu cơ động linh hoạt. chỉ huy Tống quân ở hai bên cánh đều là những lão tướng nơi sa trường có kinh nghiệm phong phú, lúc này cũng đã nắm bắt được chiến cơ, nhanh chóng dẫn kị binh và bộ binh đi theo hai hướng bao vây hai bên ngoài, bộ binh thì tấn công trận địch, kị binh thì men theo đánh phía sau địch, rất muốn đem cả nghìn binh Khiết Đan dìm chết ở đây, liền tươi cười nói: “Thắng rồi, thắng rồi, ngươi không cần phải lo nữa, kị binh Khiết Đan đơn độc đánh tới lại tự bỏ mạng. Trận này bại tan tác rồi.”

Cẩu Nhi nghe thấy vô cùng vui mừng, chỉ giận mình không thể ra ngoài tận mắt nhìn thấy uy phong thắng lợi của Dương Hạo đại thúc. Uy phong của Dương Hạo đại thúc? Đó là điều đương nhiên, hắn không xông lên trận thì cũng có sao, trong lòng Cẩu Nhi hắn luôn là một đại quan, cho dù không có xông trận thì trận chiến này cũng nhất định là do Dương Hạo đại thúc đích thân chỉ huy.

Trong lòng Cẩu Nhi “Dương đại tướng quân”có tài sách lược như Gia Cát Lượng, dũng mãnh như Tử Long. Dương Hạo lúc này đứng song song với Trình Đức Huyền, há mồm trợn mắt nhìn Tống quân đang đánh cho người Khiết Đan tan tác. Nhưng Tống quân trận này tuy là thắng một cách dễ dàng, nhưng hắn cũng biết rằng không phải là không có sự may mắn, nếu như đội quân Khiết Đan thật sự tề tụ đầy đủ thì ngay cả nhân vật anh hùng như Triệu Khuông Dận cũng chưa chắc đã có thể dẫn đại quân đi xa như vậy.

Nhìn thấy hai vị chỉ huy sứ Từ Hải Ba và Hách Long Thành từ hai bên cánh quân bao vây tới, đại cục đã được định, Trình Đức Huyền không khỏi mừng rỡ nhìn ra xa, giống như trận chiến này cũng có công lao của hắn vậy, mặt mày hớn hở nói: “Thiên binh của Đại Tống ta quả là thần dũng, ha ha, người Khiết Đan tuy thế lực hung hãn, nhưng lại không biết tấn công. Dương Đô Giám, ngươi xem quân ta có thể tiêu diệt hết được đội kị binh đó không?”

Dương Hạo nhẹ nhàng lắc đầu, nói: “Đại nhân, trừ phi là đám Khiết Đan này không có ý định tháo chạy, nếu không muốn giết sạch chúng e rằng…rất khó.”

Lúc này đã có một đám binh Khiết Đan thấy thế trận bất ổn nên đã tìm đường tháo chạy, Trình Đức Huyền thở dài, tiếc nuối nói: “Thật đáng tiếc, quả là đáng tiếc, nhưng bản quan thấy trận này có thể địch lại kị binh Khiết Đan, làm chúng phải bỏ chạy, thế cũng là đủ rồi.”

Dương Hạo thấy hắn có chút đắc ý liền nhắc nhở, nói: “Trình đại nhân, bây giờ cá đã lọt lưới chạy thoát, e rằng rất nhanh sẽ có đại đội kị binh đuổi đến. Trận này tuy thắng nhưng mục đích của chúng ta là đem mấy vạn dân chúng này an toàn về đến đất Tống. E rằng nhiệm vụ lần này sẽ thêm phần khó khăn.”

Trình Đức Huyền hơi nhăn mày, nghĩ nghĩ rồi nói: “Chúng ta nếu muốn nhanh chóng đến đại thành cố thủ gần nhất thì phải mất bao lâu?”

Dương Hạo suy nghĩ một lát rồi nói: “Còn khoảng 600 dặm.” Giọng hắn có chút mệt mỏi: “Chúng ta mang theo người già và trẻ nhỏ, thì chặng đường này e rằng không chạy khỏi kị binh Khiết Đan.”

Trình Đức Huyền có chút khinh miệt nhìn Dương Hạo, nói: “Dương đại nhân sợ rồi à?”

Dương Hạo nén tức giận, nói: “Đại nhân, hạ quan thực sự sợ rồi, không vì an nguy bản thân thì cũng vì an nguy của mấy vạn dân chúng. Bây giờ người Khiết Đan đã đuổi đến, lại phát hiện hành tung của chúng ta, sợ rằng chúng ta không thể đem những dân chúng này bình an trở về đất Tống. Nếu như…chúng ta bây giờ chia thành hai hướng như quan gia đã chỉ định, một hướng nam, một hướng tây, qua sông, đi men theo An Phủ thì sao nhỉ?

Trình Đức Huyền do dự một hồi, nhẹ nhàng lắc đầu. Dương Hạo lại nói: “Từ chỗ này hướng về phía đông là một đường thẳng, một vùng bằng phẳng rất dễ để truy đuổi, hơn nữa con đường này cách Bắc quốc rất gần, chúng có thể đuổi đến từ phía sau, cũng có thể thông báo cho quân trong thành lập tức đến truy kích. Chúng ta mang một đoàn người dài như rắn thế này thì khả năng muốn an toàn tiến vào nơi không nguy hiểm là rất nhỏ. Nếu như chúng ta lập tức thay đổi lộ trình, đi men theo dãy núi về phía nam, và về phía tây, vượt sông mà đi về tây bắc thì người Khiết Đan sẽ tuyệt đối không dám đi sâu vào bên trong đất Tống để truy đuổi đến đó, chỉ có như vậy thì chúng ta mới có thể an toàn mà đến nơi thôi. Bây giờ chúng ta mới chỉ thắng một trận nhỏ, đúng là có tác dụng làm cho địch cảm thấy nghi ngờ. Kị binh sẽ đuổi đến phía trước tìm kiếm, tuyệt đối sẽ không nghĩ rằng chúng ta đột nhiên đã thay đổi hướng đi, đợi đến lúc chúng phát giác ra thì chúng ta đã đến được bên kia Hoàng Hà rồi, lúc đó chúng ta có thể yên bình mà không tổn thất một binh một mã, an toàn đến đất Tống rồi.”

Dương Hạo nói rất thấu tình đạt lí, nhưng Trình Đức Huyền biết rằng Triệu Khuông Dận hoàn toàn không hi vọng phải đem dân chúng đi qua phạm vi thế lực của Chiết Thị tây nam, nếu như không phải là vạn bất đắc dĩ thì hắn không muốn đi con đường này. Nếu như có thể đưa toàn bộ dân chúng an toàn trở về theo hướng đông thì công lao này sẽ hoàn mĩ hơn, mới có thể có được sự ưu ái của quan gia. Hắn do dự một lúc rồi cười nói: “Dương đại nhân nói có chút phóng đại rồi, người Khiết Đan còn đang ở khắp nơi tìm kiếm đại quân nhân mã của quan gia, nào có thể điều động lượng binh lớn đến truy sát chúng ta, các vị tướng quân anh dũng thiện chiến, có họ bảo vệ ngăn địch, chúng ta lại ngày đêm đi về phía đông thì làm sao lại không thể an toàn tuyệt đối về đến đất Tống chứ?”

Dương Hạo còn định nói thêm thì Trình Đức Huyền đã phi ngựa đến phía trước, lạnh lùng nói: “Người Khiết Đan đã thoái lui. Chúng ta đi kiểm tra binh mã đã, còn chuyện thay đổi lộ trình thì tạm gác lại.”

Nhìn thấy Trình Đức Huyền dẫn đám tuỳ tùng của hắn vui mừng dương dương tự đắc ảnh hưởng đến nhưng binh sĩ bị thương máu me đầy người, Dương Hạo nhẹ nhàng lắc đầu, thở dài nói: “Không sợ địch mạnh như hổ, chỉ sợ chiến hữu ngu như heo, ngươi không thể không đem hàng vạn tính mạng của dân chúng vào tuyệt cảnh sao.”

Phạm Lão Tứ nhai nhuyễn cọng cỏ rồi nhổ ra, u ám nói: “Đại nhân, chỉ cần đem đầu heo làm thịt, thì còn sợ ai kéo chân sau nữa?”

Dương Hạo biết giữa hai người thuộc địa vị cao thì phải nể mặt mũi, nhưng Chiết Thị ở tây nam và triều đinh có ngăn cách, lại làm cho giữa đám quân binh và binh mã triều đình “Kinh Hà nước trong, Vị Hà nước đục” (phân biệt rõ ràng), hai bên hoàn toàn không có chút thân thiện nào.

Nhưng hắn lại không nghĩ rằng đám binh tốt Phạm Lão Tứ lại hoàn toàn không coi uy nghiêm triều đình ra gì, lại dám nói những lời đại nghịch bất đạo như vậy. Hắn sợ Phạm Lão Tứ thật sự sẽ gây ra đại hoạ tru di cửu tộc, vội vàng nghiêm giọng nói: “Sao lại nói ra những lời hạ lưu như vậy, hãy thu lại những lời đầy giọng điệu của thổ phỉ giang hồ đó lại. Chớ có đem đại hoạ đến cho ta đấy.”

Phạm Lão Tứ vừa bị hắn quát thì vẻ mặt u ám đã tan biến, thay vào đó là vẻ mặt gian trá. Hắn vặn vặn hai tay, cười khan nói: “Ty chức chỉ là nói cho sướng mồm thôi, đại nhân sao lại coi là thật như thế, hì hì, đùa chút thôi, chỉ là đùa thôi.”

Dương Hạo vừa bực mình lại vừa buồn cười, trừng mắt nhìn hắn, lúc này mới vỗ ngựa đi về phía Trình Đức Huyền

Nhìn thấy đội quân Khiết Đan điên cuồng như gió, lại cuồn cuộn như nước chảy, đám dân chúng kinh hãi run sợ gào thét lên, người già ngũ tuần dáng vẻ khôi ngô lại không buồn không vui, chỉ thản nhiên liếc mắt nhìn quân Tống đại thắng trở về, khoanh hai tay lại, nhíu nhíu hai mắt nhìn lên trời, trên bầu trời có một con diều hâu đang bay lượn mấy vòng, rồi lay động cánh bay về phía bắc, hắn thở dài, hơi lắc đầu nói: “Con đường phía trước gập gềnh chông gai, e rằng khó đi.”

Một đại hán Mộc Ân ngồi bên cạnh trầm ngâm nói: “Người Khiết Đan có hùng ưng truyền tin tức, e rằng kị binh trong Bắc quốc sẽ nhanh chóng đuổi đến. Con đường phía trước đã không còn an toàn, chúng ta có cần đi nhắc nhở hai đại nhân Tống quốc không?”

Người già cười nhạt nói: “Đi để làm cái gì?”

Mộc Ân vội nói: “Chủ thượng. Nếu như người Khiết Đan đuổi giết đến, trong chiến loạn e rằng sẽ làm bị thương chủ thượng, chúng ta…”

Người già lạnh lùng nói: “Lão phu cả đời nước chảy béo trôi tuỳ cho người ta xếp đặt, sống những ngày như một thi thể sống, hôm nay có gục xuống thì còn có gì trông mong nữa? Sống một ngày lại phải tính một ngày, người Tống cũng được, người Khiết Đan cũng được, cũng có liên quan gì đến ta?”

“Chủ thượng…”

“Yên tâm một chút đi.” Người già nói xong, hai mắt nhắm lại, Mộc Ân muốn nói lại thôi, hắn dậm mạnh chân, nhìn theo hướng con hùng ưng biến mất, thở dài một tiếng.

 Chương 145: Khí phách nam nhi.

Điều Dương Hạo lo lắng cuối cùng cũng thành sự thật, bọn họ chỉnh đốn hàng ngũ, tiếp tục đi về phía đông, nhưng ngày thứ hai khi đi tới Sát Hồng Lĩnh thì bị một đoàn người Khiết Đan đuổi đến. Đội quân nghìn người này đã gặp đội kị binh Khiết Đan bị đánh tan rã và biết được đại quân mà Tiêu Hậu lệnh đi tìm đang ở phía trước, hơn nữa quân lính hộ tống chỉ trên dưới ba nghìn người, bọn chúng liền phái người đi truyền tin tức, đồng thời nhanh chóng đuổi đến.

Thủ lĩnh của đội quân Khiết Đan lần này đã nhận được sự giáo huấn của Kha Phi Bào, không dám khinh xuất đánh nhau với đội xe Tống quân nữa, mà ra sức phát huy đặc điểm của kị binh, vừa tiến vừa kùi, vừa trái vừa phải, cả đội quân như gió lốc. Lợi dùng khoái mã mà mì nhanh đến trận địa. Xa trận của quân Tống không thể dùng được vào việc lớn, ba nghìn bộ tốt lại không có cách nào bảo vệ chu toàn cho mấy vạn bách tính. Họ đều đã mệt mỏi kiệt sức với chiến thuật cơ động trên dưới trái phải của kị binh Khiết Đan.

Cũng may là vùng này rừng núi rậm rạp rất nhiều, La Khắc Địch phái hai tướng tài Hách Long Thành, Từ Hải Ba ngăn cản địch ở phía sau, còn Trình Đức Huyền và Dương Hạo đưa dân chúng đi xuyên vào rừng sâu, lúc này trời đã tối dần, mặt trời đã xuống núi, người Khiết Đan sẽ không dám mạo hiểm truy đuổi vào trong rừng. sau khi đám người La Khắc Địch hoàn thành nhiệm vụ ngăn cản địch cũng đuổi kịp đoàn người. Lúc này tất cả tướng sĩ Tống quốc đã chỉ còn không quá 2300 người, rất nhiều người đã bị thương.

Buổi sáng ngày thứ ba, đoàn người cuối cùng đã đi ra khỏi khu rừng rậm, Trình Đức Huyền đi ra ngoài, đứng phía dưới một cây tùng cao lớn thở phào nhẹ nhõm, hắn ngẩng đầu nhìn sắc trời, đã nhận ra phương hướng, nói: “Người Khiết Đan đi rất nhanh, chúng ta phải tăng tốc, lệnh xuống phía dưới, vứt bỏ tất cả những thứ đồ nặng, chỉ còn lại năm ngày lương thực, tất cả phải dốc toàn sức đi về phía trước.

Dương Hạo cuối cùng không thể kiềm chế được nữa, hắn phi ngựa đến trước mặt Trình Đức Huyền, nói: “Trình đại nhân, hạ quan có lời muốn nói.”

Trình Đức Huyền sắc mặt trầm xuống, quát: “Dương đại nhân, bản khâm sai đã có quyết định rồi.”

Dương Hạo nén giận nói: “Trình đại nhân, không phải là hạ quan kháng lệnh, nhưng thật sự chúng ta không thể đi tiếp được nữa. Trình đại nhân, hãy nhìn kĩ xem, bên cạnh chúng ta bây giờ còn lại bao nhiêu tướng sĩ? Đại nhân hãy nhìn cả năm nghìn bách tính này, có rất nhiều người già yếu, phụ nữ và trẻ nhỏ, họ đã không thể chống đỡ được với cuộc hành quân gấp này nữa, lẽ nào đại nhân bảo họ bỏ tất cả cha mẹ con nhỏ ở lại đây để lên đường sao?”

Dương Hạo chất vấn hắn như vậy trước mặt mọi người, làm cho Trình Đức Huyền có chút khó xử, sắc mặt của hắn xanh xám lại, phẫn nộ quát: “Dương Đô Giám, ngươi định uy hiếp ta, một mực ngăn cản, rốt cuộc là muốn gì?”

Dương Hạo lớn tiếng nói: “Bẩm đại nhân, bây giờ chúng ta chỉ còn trên dưới hai nghìn tướng sĩ, phần lớn đều đã bị thương, luân phiên hành quân tác chiến. Cho dù người Khiết Đan đã phát hiện ra ý đồ của chúng ta thì ta vẫn có thể dựa vào dãy núi liên hoàn này, kị binh của chúng sẽ không phát huy được uy lực to lớn vốn có, như vậy chúng ta cũng sẽ có cơ hội thoát thân. Nhưng nếu tiếp tục hành quân ư? Lại đi về phía trước, đó chính là một thảo nguyên hoang dã, lúc đó quân địch đuổi đến, chúng ta chạy không được, đánh cũng không lại, ngay cả lợi thế địa hình cũng không có. Hai nghìn tướng sĩ, năm vạn dân chúng lẽ nào lại vì chúng ta mà bỏ mạng ở trên thảo nguyên hoang vu, biến thành một đống xương trắng hay sao?”

La Khắc Địch trên cánh tay quấn vải đang thấm máu ra, đám người Từ Hải Ba, Hách Long Thành cũng đều bị thương khắp nơi, chọ ghìm cho ngựa nghỉ chân, lạnh lùng nhìn hai vị Chính Phó Sứ, hai người họ sẽ quyết định sự sống chết của hàng vạn sinh linh.

Trình Đức Huyền đột nhiên giận dữ, lớn tiếng quát: “Dương Hạo, ngươi năm lần bảy lượt nói những lời uy hiếp người khác, rốt cuộc là ngươi có ý đồ gì, nói đi.”

Dương Hạo không hề sợ hãi, thản nhiên nói: “Trái tim này của Dương Hạo nhật nguyện soi chiếu, liệu có thể có ý đồ gì chứ?”

Trình Đức Huyền cười lạnh một tiếng, nghiêm giọng nói: “Dương Hạo, ngươi vốn là một tiểu dân vùng quê, đừng có quên đấy. Là quan gia đã mở mồm đề bạt ngươi lên làm chức Phó Khâm Sai, Tây Tường Đô Giám, quan gia ân trọng như núi. Chúng ta không thể quên được bổn phận của một thần tử. Ngươi cứ quanh co lòng vòng chính là muốn mấy vạn dân này phải đi về hướng tây nam, ngươi dám nói ngươi không có ý đồ riêng sao?”

Dương Hạo nghe thấy những lời vạch trần của hắn, mặt không khỏi biến sắc, một vài người bằng hữu của hắn đã từng sóng vai ngăn địch, liên thủ đẫm máu nhưng lại làm tướng lĩnh của hai phe triều đình và Chiết Thị. Nghe hắn đã nói ra chuyện này mấy tướng sĩ mà dẫn đầu là Hách Long Thành đều không tránh khỏi thầm nghĩ: “Chẳng lẽ Dương tướng quân thật sự cố ý muốn đem năm vạn dân chúng này đến tây nam?” Còn đám tướng sĩ dẫn đầu là La Khắc Địch thì thấy thần sắc của họ có chút không tự nhiên, nhất thời cũng không tránh khỏi nghi ngờ, không khí lậo tức trở nên quái dị

Dương Hạo cười lớn, cầm roi ngựa chỉ vào Trình Đức Huyền, mắng lớn: “Nếu là chuyện khác thì ta còn nhịn ngươi, nhưng lại tận mắt chứng kiến ngươi đen vô số tính mạng dân chúng đi vào con đường tuyệt mệnh, Dương Hạo ta đã không thể nhẫn nhịn được nữa. Ngươi, cái tên thất phi, đợi đến khi chúng ta rơi vào đường cùng không có lối đi thì ngươi có mấy cái mạng cũng không để đền hết được cho năm vạn dân đâu.”

Trình Đức Huyền thẹn quá thành giận, hai hàng lông mày dựng lên, quát: “Dương Hạo, ngươi to gan thật, ngươi ôm ý đồ riêng, không nghe theo ý ngươi thì liền muốn xông tới bản quan, đợi khi nào về đến đất Tống, bản quan nhất định sẽ nói tội ngươi trước mặt quan gia, bây giờ à, ha ha. Ta mới là Khâm Sai Chính Sứ, lời của ta chính là thánh chỉ, ai dám làm trái? Đứng ra nói xem.”

Hắn trừng hai mắt lên, nhìn lướt qua mặt đám tướng sĩ, đám tướng sĩ đều cúi đầu xuống. Trình Đức Huyền đắc ý cười lạnh một tiếng, quát: “Tiếp tục đi về phía đông, tất cả hậu quả tự bản quan gánh chịu. Đi!”

Dưới sự ra lệnh của hắn, dòng người khổng lồ dần dần đi về phía đông. Dương Hạo tức giận nổi đầy gân xanh trên trán. Hắn ghìm ngựa đứng ở chỗ cũ. Mắt nhìn đám dân chúng như một đàn bò dê bị lủi thủi đi quan mình. Mình chức vị thấp, không có cách nào kháng cự lại tên Khâm Sai Chính Sứ do Hoàng Đế cử ra này. Đang lúc không biết làm thế nào thì đột nhiên có người ht lớn: “Mau nhìn kìa, mau nhìn, phía xa có một đoàn người ngựa đang đến.”

“Trời ơi, là từ phía trước tới, chúng đã bao vây phía trước ta.”

“Đại Mao, Nhị Mao, mẹ của đám trẻ ơi, mau chui vào rừng đi.”

“Không được chạy loạn, ai dám lộn xộn, giết ngay không cần hỏi.”

“Nương tử, đừng sợ hãi, ta đang đi tiện, lập tức sẽ ra…”

Đang trong lúc hỗn loạn, một binh sĩ quát lớn: “Không cần phải hoảng sợ, không phải hoảng sợ, những người đang đến là quân của Đại Tống.”

“Cái gì?” Trình Đức Huyền nghe thấy thì vui mừng khôn xiết, vội vàng phi ngựa tới, kêu lên: “Là binh mã của Đại Tống sao? Thật là binh mã của Đại Tống sao?”

Tên binh sĩ chỉ về phía xa nói: “Đại nhân xem, đội quân đó mang cờ không phải chính là cấm quân Đại Tống sao?”

Trình Đức Huyền nhín chăm chú, thấy đội nhân mã ấy đi đầu là Phạm Dương Mão, trên đầu đội mũ tua đỏ như một ngọn lửa, trái tim đang nặng nề lập tức được thả lỏng, hắn ngửa mặt lên trời cười lớn nói: “Ha ha ha, binh mã triều đĩnh đã đuổi tới phía trước đón chúng ta rồi, lần này cuối cùng cũng đã an toàn. Ha ha ha. Mau mau theo bản Khâm Sai đi nghênh đón, xem xem người đến là đoàn binh mã nào.”

Trình Đức Huyền vui sướng hân hoan, thúc nựa giơ roi lên phi về phía đoàn nhân mã. Vừa đi chưa được mấy trăm bước thì phía sau một người phi ngựa như bay đuổi đến, lập tức kị sĩ nắm lấy cương ngựa của hắn, trầm giọng nói: “Trình đại nhân, không được lỗ mãng, đoàn ngựa này có chỗ cổ quái.”

Trình Đức Huyền ngẩn ra, quay đầu lại nhìn, hoá ra đó là La Khắc Địch, không khỏi thừa dịp lên mặt quát lớn: “La tướng quân, ngươi cũng bị Dương Hạo đầu độc rồi à, đoàn người ngựa phía trước có gì cổ quái chứ?”

La Khắc Địch sắc mặt nghiêm lại, hắn không trả lời, chỉ giơ trường thương lên, nghiêm giọng quát: “Bước lên ba bước dàn trận, cẩn thận đề phòng.”

Tướng sĩ Tống quân lập tức chạy lên phía trước, đứng chắn trước mặt dân chúng, rồi vội vàng bày thế trận hình X. Thế trận này rất thích hợp để phòng ngự, hơn nữa có thể tuỳ cơ mà di chuyển đội hình, làm cho trung tâm phòng ngự có thể từ trước chuyển sang hai bên cánh trái phải. Đồng thời, các cung tiễn thủ cũng bước lên trước, đao gươm thủ đứng ở phía sau, kị binh xếp thành ba hàng cũng có mục đích phòng ngự.

Một thế trận nhanh chóng được dựng lên nhưng chưa kịp hoàn chỉnh thì kị binh Tống quân phía trước mặt đã phi đến. Vừa nhìn thấy dưới chân núi là thế trận nghênh chiến của Tống quân, thì người cưỡi ngựa đi đầu liền cười lớn mấy tiếng, cầm cung lên tay, không nói gì, bắn ra một mũi tên, người bắn mặc y phục quan văn. Trình Đức Huyền đứng ngẩn ra phía trước trận.

La Khắc Địch thấy vậy liền vội vàng giơ thương lên nghênh tiếp, “Phập” một tiếng, chọc trúng vào mũi tên nhọn, hắn vốn biết được rằng cây thương này có thể đỡ được mũi tên đang bay kia, nên không muốn vội vàng xông ra. Tướng lĩnh Tống quân ăn mặc rất nho nhã dùng một cây cung cứng làm bằng gỗ, khi tiễn và thương giao nhau, thì cánh tay La Khắc Địch vốn đã bị thương vì chấn động mạnh mà lại nứt ra, cánh tay vừa lỏng ta thì mũi tên cũng hơi mất đi phương hướng. “Xoẹt” một tiếng, thoắt cái đã bay qua đầu Trình Đức Huyền, không những làm bay mũ quan của hắn mà ngay cả tóc hắn cũng bị làm bung rối ra. Trình Đức Huyền kinh hãi kêu lên, vỗ cho ngựa bước đi.

La Khắc Địch kêu lớn: “Bảo vệ Khâm Sai đại nhân.” Nói dứt lời thì thúc vọt lên phía trước, đi theo hướng ‘Tống quân Chỉ Huy Sứ’ đang cầm tên, vị ‘Chỉ Huy Sứ’ này nhìn thấy hắn tránh được mũi tên của mình, thần sắc lộ ra vẻ tức cười, hắn giơ cung lên, bắn liền ba phát về phía La Khắc Địch, nhưng đều bị cây thương của La Khắc Địch ngăn lại. Nhìn thấy La Khắc Địch đang dần lại gần, người đó liền đeo cung lên, lấy ra một cây thương, hung hăng xông về phía La Khắc Địch. Lúc này La Khắc Địch mới biết ‘Tống quân Chỉ Huy Sứ’ chính là một đại hán mắt chột, có một con mắt bị mù.

Hoá ra ‘Tống quân Chỉ Huy Sứ’ này chính là em ruột của Nhạn Cửu – Lư Nhất Sinh. Bắc Đế Da Luật hiền khổ vì nội bộ phân tranh, đã không thể dùng vũ lực giải quyết lại không có cách nào hiệu lệnh các bộ, nên Hoàng Thủ Tiêu Náo đã hiến một kế, đó là đã chiêu mộ Lư Nhất Sinh, một tên đại đạo tặc đã sớm có quan hệ làm ăn buôn bán qua lại với Tiêu Gia, rồi bí mật giao cho hắn chức Tướng Quân, ban vàng ngọc gấm vóc vô kể, giờ lệnh cho hắn đóng giả cấm quân Đại Tống, tập sát bộ tộc Khiết Đan làm cho họ phẫn nộ, rồi sau đó mời Nam Viện Đại Vương Da Luật Ốc Chất, Đại Tổng Quản binh mã Da Luật Qua Liệt và tân nhiệm Đại Dịch Ẩn Da Luật Hưu Ca ra mặt điều đình, cuối cùng làm ch các bộ Khiết Đan vứt bỏ tranh chấp hoàng vị, đồng lòng đánh Hán.

Lư Nhất Sinh đã hoàn thành sứ mạng bí mật của hắn, vốn đang định cho cờ Tống một mồi lửa thì đột nhiên nhận được mật chỉ, lệnh hắn lập tức xuất binh nam hạ, ngăn cản di dân Bắc Hán xuống phía đông. Lư Nhất Sinh rất nhạy bén, liền mặc quân phục Tống quân, chỉ có điều lần trước mặc y phục này người bị hại là dân chúng Bắc quốc, còn lần này lại là đều đối phó với người Trung Nguyên.

Nhưng bọn chúng mặc y phục quân Tống có thể lừa gạt được dân chúng Bắc quốc, lại không thể lừa được La Khắc Địch, người xuất thân từ cấm quân. Bọn cướp cưỡi ngựa coi trọng kẻ kiêu dũng. Đội cấm quân là một đội quân phối hợp chặt chẽ với nhau thành một thể thống nhất, kị nhất là độc lập hành động, vì thế trong những lần huấn luyện và tiến công bình thường thì làm thế nào phải sắp xếp bố trí cho thật quy củ. Lư Nhất Sinh là người không có kinh nghiệm nên khi vẫn chưa tiến tới gần đã để lộ sơ hở, La Khắc Địch vốn tính cẩn thận bỗng nhiên nảy sinh cảnh giác.

Lư Nhất Sinh cũng rất nhạy bén, vừa biết mình bị lộ liền không giả mạo nữa, lập tức thừa lúc trận thế của quân Tống chưa triển khai thì phát lệnh tấn công toàn diện.

Rất nhiều Tống quân tuy đã nghe theo mệnh lệnh của La Khắc Địch bày trận hình phòng ngự, nhưng thứ nhất là tốc độ không nhanh, thứ hai tận mắt nhìn thấy đoàn người ngựa đang xông tới là rõ ràng là mang cờ hiệu Đại Tống, trong lòng khó tránh khỏi do dự, vì thế mà khi vừa xông trận thì đã lộ ra rất nhiều kẽ hở, bị bị bọn cướp đánh cho tan nát, xông vào trong trận, đến lúc này lũ cướp như cá gặp nước, còn quân Tống thì ngay cả tiễn cũng chưa kịp phóng ra, rất nhanh sẽ bị bại.

Tướng sĩ Tống quân phần lớn trên người đã bị thương, lai luân phiên khổ chiến mệt mỏi vô cùng, thế trận một khi đã bị phá loạn thì làm sao còn là đối thủ của chúng nữa.

Lư Nhất Sinh vốn thủ hạ chỉ có hơn nghìn người, đều là những mã tặc cướp của đánh nhau ở giữa vùng đất của Bắc quốc và Đại Tồng, lần này lẻn vào Bắc quốc tập sát các bộ lạc du mục, dưới sự thả lỏng của Da Luật Hiền mà luôn thuận lợi, nhất thời tiếng tăm vang xa, lập tức có rất nhiều tên thổ phỉ trên thảo nguyên đến đầu quân, thời gian chỉ mới hai tháng mà hắn đã hội tụ được ba nghìn tên. Binh mạnh ngượi tráng, lần này đánh đến thật sự là rất có uy phong.

Quân Tống ứng phó không kịp, thế trận một khi đã bị loạn thì ngay cả sự chỉ huy điều động cũng không có tác dụng nữa, đành phải vừa đánh vừa chạy, men theo rừng núi sơn cố tản lùi về hướng nam, đến tận trưa hôm sau mới chạy đến Phù Vân sơn cốc. Lúc này mới dựa vào địa hình cửa cốc có lợi mà vững chân, lệnh cho dân chúng vứt bỏ lừa ngựa đi vào cốc, còn quân tống thì ở lại cửa cốc chiến đấu với mã tặc.

Ở cửa Phù Vân cốc, dân chúng đang vội vàng tiến về trước, quan binh đẫm máu cản phía sau, Trình Đức Huyền đứng ở chỗ cao, thấy hơn bốn nghìn dân chúng không kịp vào trong cốc đã bị Tống quân giả ngăn lại ngoài cốc, ngay cả hai nghìn quân anh dũng thiện chiến của mình cũng bị chia làm đôi, không khỏi đau lòng.

Hắn quát lớn một tiềng, rút kiếm ra xông vào trận địch. Trình Đức Huyền là một tay kiếm giỏi, khuyết điểm chỉ là dũng khí và kinh nghiệm. Lần này trong cơn bi phẫn, kiếm pháp cũng sắc bén hơn, liên tiếp mấy tên địch bị hắn chém chết. Trình Đức Huyền trong lòng rát hận, cho dù đã cắt đứt chân tay của đối phương làm cho nó không có cách nào đánh tiếp nữa, những vẫn cứ xông lên lấy đi tính mạng của nó. Nhìn dáng vẻ tóc tai bù xù của hắn cũng thấy đáng sợ.

La Khắc Địch sợ Khâm Sai sẽ xảy ra chuyện nên đành phải đi theo từng bước không rời để bảo vệ hắn. Quay mắt lại thấy Phó Khâm Sai cũng đang cầm đao đích thân xông vào giết địch, La Khắc Địch vội vàng phái mấy thân binh ra hộ vệ bên cạnh Dương Hạo. Dương Hạo đánh không lại những tên mã phỉ ngày đêm đao thương đẫm máu kia, nhưng cho dù hắn ở đến bất kì chỗ nào thì bên cạnh luôn có mấy tên thân binh đi theo bảo vệ. Có người cầm trường thương, có người cầm đoản đao da thuẫn, có người thì cầm nỏ, chỉ cần hắn hô lên thì đã có rất nhiều tên thổ phỉ bị giết mà mình thì không bị thương gì.

Trong sơn cốc đã không thể đi thêm xe ngựa nữa, xe đều bị vứt ở bên ngoài. Lão giả khôi ngô lúc này cũng đã xuống xe, được Mộc Ân vội vàng đỡ vào trong cốc.

Đột nhiên những mũi tên lạc hướng bay đến, Mộc Ân, người vẫn luôn chú ý quan sát ở phía sau tay trần không kịp cứu viện, liền hét lớn mà đưa cánh tay ra ngăn ở phía sau gáy lão giả.

Nội trong vòng mười bước, cái tên đó đã bay cắm phập vào cánh tay hắn, lại xoẹt một đường sau gáy lão giả, lão giả nhăn mày lại, không không có chút hoảng sợ. Lúc này Mộc Ân liền kêu lớn lên một tiếng: “Bảo vệ Chủ Thượng!” Rồi quay người chạy đến cửa cốc. 

Trong đám dân chúng đột nhiên có hai người nhảy ra, đưa lão giả đến cạnh gốc cây, cùng lúc đó lại có mười mấy đại hán xông ra cửa cốc đi theo phía sau Mộc Ân. Lão giả gọi với một tiếng, Mộc Ân cơ thể to lớn, thủ cước tinh nhanh vừa chạy đã đi xa mười mấy trượng, nên làm sao có thể nghe được tiếng hắn gọi, lão giả đành phải cười gượng lắc đầu, ngồi xuống để hai đại hán băng bó vết thương cho.

Mộc Ân xông ra khỏi cốc, đưa tay lên một cái thì “tách” một tiếng, cái thân tiễn trên tay đã đứt làm đôi, hắn nhổ đầu tiễn ra, xé toạc một cái chiếc áo bào, lộ ra một bộ lông ngực đen sì, rồi ngửa mặt lên trời hét lên một tiếng, rồi tung như bay nhảy vào trận địa

Một tên mã tặc một tay cầm đao xông lên, chỉ nhìn thấy một cơ thể to lớn đột nhiên thoáng một cái đã đến trước mặt mình, tên mã tặc ngẩn ra, chỉ nhìn thấy hai con ngươi to tròn đang phẫn nộ, miệng mở, răng lộ ra. Sau đó hô lên một tiếng mà đánh vào ngực hắn.

“Bộp” một tiếng. Vì dùng lực quá mạnh mà quyền sắt đó thoắt cái đã đánh gãy xương ngực hắn, còn vì tốc độ quá nhanh cho nên năng lượng đều trút lên cơ thể tên mã tặc. Chưa đợi tên mã tặc ra quyền thì Mộc Ân đã đứng ở bên cạnh hắn. Người không biết sự tình lại cho rằng đại hán lộ ngực trần này rất yếu, quyền cước không có tác dụng.

“Ặc… ặc…” tên mã tặc trợn trừng hai mắt, cơ thể hắn co quắp lại, một dòng máu đen sì chảy ra từ mồm của hắn, Mộc Ân sớm đã quay người bỏ đi, nhặt một cây cung bên cạnh một Tống quân đã chết, bàn tay to liứn nắm chặt, lại rút một cái tên từ trong hộp đựng tên ra cắm xuống đất, rồi đứng hiên ngang ở đó như tảng đá, đưa ba mũi tên lên cung, nhẹ nhàng kéo dây cung, lập tức căng hết dây, rồi thả dây cung lên, ba mũi tên liền bắn ra, lao thẳng tới ba tên mã tặc, làm chúng ngã nhào xuống.

Hơn mười đại hán chạy ra cửa cốc cũng giống như Mộc Ân, đều nhặt cung tên lên, lập tức mũi tên bay ngang lên trời, vang lên những tiếng xoẹt xoẹt trong gió, dây cung vừa động thì có người lại ngã xuống, quả thật là như có thần giúp. Đại chiến hai bên ở cửa cốc thoát cái đã biến thành màn biểu diễn kĩ nghệ bắn tên của mười mấy đại hán, hoặc là liên hoàn, hoặc là một lúc ba tên, nhìn hoa cả mắt.

Những người này chẳng những tiễn không chệch phát nào, mà còn bắn nhanh lạ thường, thời gian để những binh sĩ bình thường bắn ra một mũi tên thì họ có thể bắn được năm, sáu mũi, có mười mấy đại hán như thế chấn thủ ở cửa cốc không thua gì bảy tám mươi thần tiễn thủ của quân Tống liên kết chống địch. Đám mã tặc liên tụcêu lên thảm thiết, rồi lần lượt mất mạng.

Lư Nhất Sinh nhìn thấy uy lực của cửa cốc như vậy không khỏi kinh ngạch, vội vàng dừng tiến công, chỉ lệnh thủ hạ dùng cung chống trả, lập tức một cơn mua tên xuất hiện, tạo ra áp chế đối với đối phương. La Khắc Địch nhìn thấy tình thế vậy liền lệnh giơ những tấm thuẫn lên để bảo vệ hai vị Khâm Sai lùi ra khỏi vùng nguy hiểm.

Lúc này dân chúng trong cốc cũng vội vàng đi. Hai bên đấu tiễn, rất nhiều múi tiễn bay vào phía người dân làm họ bị thương. Tai không ngừng nghe thấy những tiếng kiêu khóc thảm thiết phát ra. Những người dân này ngay cả thời gian đi xem cũng không có, họ chỉ có thể nhìn chằm chằm vào đường dưới chân để đi, biết rằng đi càng xa thì cơ hội sống càng lớn.

Cẩu Nhi được đạo sĩ ôm vào trong lòng, mẹ của nó đang đi mở đường ở phía trước, cũng đang cố gắng chen chúc trong đám người để có thể đi về phía trước. Khi ánh mặt trời trong sơn cốc chiếu vào người thì lại được một đại thúc cao lớn che chắn cho. Mỗi khi đi đến những chỗ có ánh sáng mặt trời thì lão đạo lại giơ cái tay áo lớn lên che đầu cho nó.

Cẩu Nhi trèo lên vai lão đạo ngồi, nhìn về phía xa để tìm kiếm Dương Hạo, nhưng trong cục diện hỗn loạn như vậy, nó làm sao có thể nhìn thấy bóng dáng Dương Hạo.

Đột nhiên, từ phía mã tặc có hai mũi tên mất hướng bay lên không, trên không trung lại vẽ ra hai đường vòng cung, rồi bay về phía sau đạo sĩ. Đúng lúc Cẩu Nhi đang tìm bóng dáng Dương Hạo nhìn thấy, nhất thời sợ hãi hồn phi phách tán. Nó đưa một cánh tay ra chỉ vào hai mũi tên nhọn hoắt đang bay tới, muốn dùng mồm để nói nhưng vì sợ hãi quá mà không thể phát ra tiếng, chỉ có thể dùng tay để chỉ, khuôn mặt lộ ra vẻ sợ hãi vô cùng.

Hai mũi tên thoắt một cái đã bay đến, nhanh như ánh chớp điện. Cẩu Nhi sợ hãi đến mức muốn nhắm mắt lại, nhưng chính vào lúc đó thì nhìn thấy lão đạo đầu không quay lại, chỉ giơ tà áo ra vung lên, rất nhanh rồi thu tà áo trở lại, hai mũi tên kia liền biến mất vào hư không. Cẩu Nhi nhìn thấy cảnh tượng kì lạ như vậy, hai mắt đang mở to lại càng to hơn, chỉ “A a” mà không nói ra lời.

Lão đạo rung tay áo một cái thì hai mũi tên từ trong tay áo rơi xuống đất, Cẩu Nhi ngạc nhiên hỏi: “Đạo sĩ gia gia, ông…ông là thần tiên à?”

Lão đạo cười nói: “Đứa trẻ ngốc này. Ngươi đã từng nhìn thấy một thần tiên nào mà quá giản dị như ta chưa?”

“Cẩu Nhi chưa từng gặp thần tiên, nhưng…nếu ông không phải là thần tiên thì làm sao lại dùng tay áo thoắt cái đã có thể bắt được hai mũi tên đó? Đạo sĩ gia gia, ông có bản lĩnh tốt như vậy tại sao lại không cứu mọi người?”

“Ngươi là đồ con nít, không ai để ý đến người, sao ngươi lại thương tiếc cho người khác.”

Lão đạo vừa nói vừa quay đầu lại nhìn, bùi ngùi thở dài nói: “Đường, Lương, Tấn, Hán, Chu, đến bây giờ là Tống. Hoàng Sào giết người, Vương Tiên Chi giết người, Chu Ôn Sát giết người, Sa Đà Nhân giết người….haizzz, chuyện giết qua giết lại như thế này lão đạo ta đã nhìn suốt mấy mươi năm rồi, sớm đã chán ghét. Đây là việc của Đế Vương, người ngoài cuộc chỉ cầu đạo trời. Khổ lạc trong nhân gian ta có thể quản được bao nhiêu chứ…”

“Đạo sĩ gia gia nói gì vậy, Cẩu Nhi không hiểu.”

Lão đạo cười nói: “Đạo sĩ gia gia nói là ta không phải là thần tiên, cơ thể toàn xương này của ta cũng không thể cứu được nhiều người, pháp thuật ta dùng lúc nãy mỗi ngày chỉ có thể làm được ba lần thôi, ngươi nói ta có thể làm gì nào?

Nhóc con, ngươi không được nói cho người khác nghe nhé, nói ra thì nó sẽ không linh nữa đâu. Ngươi xem những tên cường đạo kia hung ác như vậy, một khi không thể dùng pháp thuật phòng thân thì ta chẳng phải là bị ngươi hại chết rồi sao? Đến lúc đó, lão đạo nhất định sẽ trách ngươi hại ta, mỗi đêm đều đến tìm ngươi, bay bay trên bầu trời trừng mắt nhìn ngươi. Ngươi sợ không?”

Cẩu Nhi sợ hãi giơ hai tay liên tục xua xua: “Đạo sĩ gia gia, ngươi đừng doạ Cẩu Nhi, Cẩu Nhi nhát gan lắm, Cẩu Nhi không nói với người khác là được chứ gì, không nói với ai cả.”

Lão đạo cười ha ha, Cẩu Nhi sợ hãi liếc nhìn hắn, nói: “Đạo sĩ gia gia, pháp thuật của ông có thể dạy cho Cẩu Nhi không?”

“Sao cơ? Cái con tiểu nha đầu này học nó làm cái gì?”

“Ta học nó để có thể bảo vệ cho người ta yêu mến.”

“Ồ. Thế ngươi muốn bảo vệ ai?”

Cẩu Nhi đếm đếm đầu ngón tay, nói: “Ta muốn bảo vệ mẹ, vì mẹ đã sinh ta nuôi ta. Ta muốn bảo vệ Dương Hạo đại thúc vì Dương Hạo đại thúc đối với ta tốt nhất, thúc không muốn người xấu ức hiếp mẹ và ta, còn cho ta ăn thịt. Ta còn muốn bảo vệ Lưu gia gia, vì khi người trong thôn bị quan binh bắt đi hết, thì chỉ có một mình ông ấy là chịu để ta ngồi trong xe của ông…”

Lão đạo nhếch râu mép lên, giả vờ giận dỗi nói: “Sao cơ. Ngươi muốn học bản lĩnh của lão đạo mà lại không bảo vệ cho lão đạo à?”

Cẩu Nhi mở to hai mắt, kì lạ nói: “Ông tự biết pháp thuật mà, còn cần người khác bảo vệ sao?”

Phù Diêu Tử cười ha ha: “Có lí, ha ha. Hoá ra tiểu nha đầu ngươi cũng không ngốc.” Hắn cười cười rồi xoa đầu Cẩu Nhi. Để một người không thân cận xoa đầu vốn là chuyện làm người ta phản cảm nhất, nhưng khi lão đạo xoa đầu Cẩu nhi thì Cẩu Nhi lại cảm thấy cánh tay đó truyền đến một cảm giác từ từ tan ra, làm cho nó không hề cảm thấy xa lạ.

“Đạo sĩ gia gia, ông có đồng ý dậy ta không?”

“Ừm, chuyện này, đạo sĩ gia gia phải suy nghĩ kĩ đã.”

Con ngươi của Cẩu Nhi tròn vo quay vòng vòng, hứa nói: “Nếu như ông dậy Cẩu Nhi phép thuật thì đến tối khi đi ngủ Cẩu Nhi sẽ không dùng cỏ khô trêu ông nữa.”

“Được được, ta sẽ nghĩ, nhưng lão đạo chỉ thu nhận đồ đệ lanh lợi thôi.”

“Cẩu Nhi không lanh lợi sao? Nếu ông dạy Cẩu Nhi pháp thuật thì Cẩu Nhi sẽ đấm chân cho ông.”

“Ha ha ha…”

“Ừm…, còn đấm lưng cho ông nữa.” Cẩu Nhi tiếp tục nói

Lão Đạo sờ mũi không nói gì.

“Mùa hè quạt cho ông, mùa đông đốt lò sưởi cho ông.”

“Hình như cũng có lợi nhỉ?”

“Ông đồng ý rồi sao?”

“Ta đâu có nói gì…”

Ngoài cửa côc tiếng chém giết như những con thú không ngừng vọng lại. Trong cốc khắp nơi đều là những nạn dân đang hoảng loạn tìm đường trốn, chỉ có một già một trẻ trong cái cảnh hỗn loạn ấy mà vẫn còn có tâm tình như vậy.

Tống quân hộ vệ dân chúng vừa đánh vừa lui, đi xuyên qua cốc, lại có một con sông rộng khoảng 100m. Sau khi chạy một mạch qua rừng rậm, lúc này mới thoát được sự truy đuổi của đám người Lư Nhất Sinh, họ dừng lại đóng doanh trại bên trên sườn núi.

Khi đã rời khỏi nguy hiểm, mọi người ý thức được mình vẫn còn sống, lúc này tinh thần đang tê liệt của họ mới thức tỉnh dậy. Những người đã mất đi người thân ngồi kêu gào thảm thiết, những người có thân nhân li tán thì tìm kiếm người nhà trong đám người đang hoặc đứng hoặc nằm, vừa đi vừa khóc, còn có rất nhiều dân chúng bị thương đang rên rỉ đau đớn không ngừng.

Đám Tống quân phòng thủ may mắn sống sót thì đứng thành những tốp ở bên ngoài, họ âm thầm băng những vết thương cho chiến hữu, bỏ mũ và áo giáp nặng nề xuống, cố gắng chống chọi cơ thể mệt mỏi đi tìm những cây củi cỏ dại để nhóm lửa nấu cơm. Ngọn lửa hồng chiếu lên khuôn mặt họ, làm nó mờ nhạt đi. Họ là những chiến sĩ kiên cường mạnh mẽ hơn rất nhiều người bình thường, nhưng cũng không biết rằng ngày mai họ có thể chống chọi được với bao nhiêu tên địch, không biết họ có còn sống để trở về cố hương hay không. Kiềm chế, tất cả mọi nơi đều mang một không khí kiềm chế, nó làm cho người ta mệt mỏi, làm cho người ta cảm giác như không thể thở nổi. Dương Hạo bước những bước chân nặng trình trịnh vào giữa đám binh lính và dân chúng, thậm chí còn không dám nhìn họ nhiều, hắn cảm thấy mình chính là đao phủ. Nếu như không do chủ ý của hắn, thì những dân chúng này sẽ không vứt bỏ nhà cửa ruộng vườn để bây giờ trở thành như vậy, nếu như không do chủ ý của hắn thì đám binh sĩ này cũng sẽ không vô cớ mà bị chết oan ở đây.

Trong rừng cây, một cái trướng vải mới được dựng lên, Trình Đức Huyền ngồi trên đống cỏ êm ái, ngu ngốc run sợ nói: “Nguy hiểm thật, không ngờ người Khiết Đan lại cải trang thành Tống quân, may mà La Khắc Địch nhận ra sơ hở của chúng, nếu không thì…”

Nghĩ lại mũi tên hung ác của Lư Nhất Sinh, Trình Đức Huyền vẫn còn sợ, trên hắn còn để lại một vệt máu, đó là do ba mũi tên đã bắn sượt qua, bây giờ vẫn còn cảm thấy rất đau.

“Hiện giờ nên làm sao mới tốt đây, xem ra Dương Hạo đã nói không sai, người Khiết Đan quả nhiên là phái quân xuyên qua cảnh giới đuổi đến đây. Hai ngày này chúng ta đã vượt qua những ngọn núi, dựa vào lợi thế địa hình, mỗi lần đều có thể có hoặc không có huy hiểm, nhưng nếu cứ tiến về phía trước, hành quân thẳng đến Minh Cố, đó là một bình nguyên rộng lớn mênh mông bằng phẳng, nếu như bị người Khiết Đan đuổi đến thì liệu có còn may mắn sống sót như hôm nay không?”

Trình Đức Huyền trong lòng rối loạn, đang thầm tự nhủ, thì một người thị vệ đem một bát nước bước vào, kính cẩn nói: “Trình đại nhân, uống miếng nước trước đã, cơm một lát sẽ nấu xong.”

Trình Đức Huyền lúc này mới cảm thấy khát và đói bụng, hắn vội đứng lên, sửa sang một chút quần áo đầu tóc, rồi nhận bát nước. Người thân binh đó lại lặng lẽ lui ra. Trình Đức Huyền cảm thấy thái độ của người thân binh đó có chút lạnh nhạt, nhưng lại chỉ có thể cười một cách bất lực với hắn. Quan vị và quyền lực không phải lúc nào cũng có tác dụng, trong tình thế như bây giờ đối với một số sự phản đối không lời của một số binh sĩ, thì hắn chỉ có thể coi như không nhìn thấy.

Hắn nhấp một miếng nước ấm, đang suy nghĩ đến hành động của ngày mai thì nghe thấy mấy tiếng “Pang pang pang”, ngẩng đầu lên nhìn thấy Dương Hạo đang lạnh lùng đứng ở cửa trướng, mấy tiếng vừa nãy là hắn dùng đao đập vào cây cột ở cạnh đó.

Dương Hạo bước tiến vào trong trướng vải, tiến gần tới Trình Đức Huyền, nhìn thẳng vào mắt hắn nói: “Khâm sai đại nhân, khi rời khỏi Mã Nguyên, Hoàng Đế Bệ Hạ đã giao vào tay chúng ta 3500 dũng sĩ mạnh như hổ long, 5 vạn dân chúng. Bây giờ…Nhân mã của chúng ta không hơn nghìn người, số còn lại đa phần là bị thương, 5 vạn dân đã bị cướp mất 4000 người, rất nhiều người vợ con li tán, đang kêu khóc thảm thiết ở ngoài kia. Ty chức đến đây to gan xin thỉnh cầu, xin Khâm Sai đại nhân lấy tính mạng của dân chúng và tướng sĩ làm trọng, hãy nhìn vào tình cảnh trước mắt của chúng ta mà lập tức thay đổi lộ trình.”

Trình Đức Huyền sắc mặt lạnh lùng, quát lớn: “Dương Hạo, ngươi vẫn chưa từ bỏ ý định sao? Ta hỏi ngươi, nếu như bây giờ chúng ta thay đổi đường xuống phía Nam, chuyển sang hướng Đông thì ngươi có thể bảo đảm rằng người ngựa Khiết Đan sẽ không đuổi đến không?”

Dương Hạo trầm giọng nói: “Không thể, nhưng tình thế bây giờ đã quá rõ ràng, hành tung của chúng ta đã bị người Khiết Đan nắm được, nếu cứ đi theo hướng đông thì sẽ đến một bình nguyên rộng 300 dặm, đó chính là một bãi săn phù hợp nhất để cho người Khiết Đan giết người. Ngài nói xem chúng ta nên chọn thế nào?”

Trình Đức Huyền là Chính Sứ Khâm Sai, đồng thời hắn còn là người của Nam Nha Triệu Quang Nghĩa, không nể mặt thì cũng phải nể mũi. Nếu như không phải là bắt buộc thì Dương Hạo hoàn toàn không muốn xảy ra xung đột với hắn. Nhưng nhìn thấy quyết định của Trình Đức Huyền sẽ quyết định tất cả mạng sống của mấy vạn dân, mấy nghìn vạn quân đã hi sinh vô ích, thì Dương Hạo không thể ngồi nhìn.

Đi đến bước này, nếu như cứ tiếp tục đi tiếp thì họ sẽ không thể đưa dân chúgn an toàn trở về đất Tống, đến bước này rồi thì người Khiết Đan cũng không còn dư sức đưa dân chúng trở lại Bắc Hán, nhưng họ vẫn phái quân đuổi theo ngăn lại, chứng tỏ chúng có ý đồ khác. Thà rằng giết sạch 5 vạn dân cũng không để Đại Tống đưa họ đi. Sự hung hãn tàn bạo của người Khiết Đan sớm đã vang danh khắp thiên hạ, chúng không sợ lại phải nhuốm thêm máu tanh. Nhưng nếu như 5 vạn dân này bị chết thì Hoàng Đế Đại Tống tất sẽ bị chửi rủa sau lưng, lẽ nào Trình Đức Huyền không nhận ra được điều đó?

Trình Đức Huyền mặt biến sắc, nghiêm giọng nói: “Thật là truyện cười, chúng ta bây giờ cách Minh Cố còn bao xa? Đã không đến 300 dặm nữa, chúng ta đem theo 5 vạn dân, vắt cạn sức lực, hi sinh biết bao tính mạng binh sĩ mới đến được đây, giờ ngươi lại bảo bản quan quay đầu nam hạ, lại đi về phía Nam, vượt qua núi cao, dãy núi rộng, mấy vạn dân chúng căn bản không thể leo núi được, đến lúc đó ta chỉ có thể quay đầu về hướng tây mà đi thôi. Người ngựa của ta đã không còn nữa, tất cả lương thực cũng không còn, nếu quay đầu lại thì chúng ta sẽ có bao nhiêu người sống được đây?”

Dương Hạo buồn bã nhìn hắn, lắc đầu: “Ta không biết, ta chỉ biết hôm nay tới bước đường này đều là do Trình đại nhân ngươi cố chấp tạo thành, ngươi còn dám hỏi ta sao? Ta biết bây giờ quay đầu xuống phía nam rồi chuyển về hướng tây đã mất đi thời cơ tốt nhất, 5 vạn dân của chúng ta rất có thể ngay cả nửa cơ hội sống cũng không có. Nhưng…tiếp tục đi về hướng đông thì chết là chắc chắn, quay đầu nam hạ thì sẽ có chút cơ hội sống. Chúng ta còn có lựa chọn khác sao?”

Bên ngoài trướng, không biết từ lúc nào những thương binh, đô đầu, ngu hầu, chỉ huy đã lặng lẽ quây tụ lại, tạo thành một đám đen lớn, tất cả mọi người không ai nói gì, chỉ nín thở ngồi nghe hai vị Khâm Sai đại nhân đang đấu khẩu.

Trong trướng, khuôn mặt Trình Đức Huyền đỏ lên. Vô cùng phẫn nộ nói: “Ngươi một điều không thể, hai điều không biết, lẽ nào ngươi muốn bản quan đem tính mạng của tướng sĩ và dân chúng đi mạo hiểm sao? Nam hạ, hướng tây. Ngươi thì chỉ biết nam hạ rồi đi theo hướng tây thôi, vậy ngươi có biết bây giờ chúng ta đã cách đất Tống rất gần không? Đi theo hướng đông, cứ đi theo hướng đông 200 dặm nữa thì chúng ta đã an toàn rồi. Lúc này mà quay đầu nam hạ? Ngu xuẩn! Có đồ ngu xuẩn mới làm thế! Dương Hạo, ngươi đừng cho rằng bản quan không biết ngươi có ý đồ gì. Ngươi là người của Trình Thế Hùng, là môn hạ của Chiết Thị, tây bắc tây nam đất rộng người thưa, muốn dựa vào lợi thế đó để nuốt mất 5 vạn dân. Ngươi một mực muốn dẫn họ đi theo hướng tây chính là thụ ý của Trình Thế Hùng, phải không? Ngươi. Rõ ràng là người của Chiết gia.

Dương Hạo cũng tức giận, mặt đỏ lên gân giọng quát lớn: “Lão tử là ai không quan trọng, điều quan trọng trước mắt chính là 5 vạn dân mà chúng ta vừa đấm vừa xoa kéo họ tới đây, chúng ta đã hứa rằng sẽ cho họ một cuộc sống tốt hơn Bắc Hán, chứ không phải là để chúng ta dẫn họ đi tìm đường chết. 3500 binh ăn cơm nhà binh thì làm việc binh, hi sinh tính mạng là lẽ đương nhiên, nhưng chết cũng phải chết cho đáng, bên ngoài kia còn 1000 binh, có cấm quân, có biên quân, ta không quan tâm là họ ăn cơm Triệu gia hay ăn cơm Chiết gia, ta chỉ biết chúng ta đã từng sóng vai tác chiến, chúng ta từng liên thủ giết địch, chúng ta là đồng đội, chúng ta là huynh đệ, có đường sống thì quyết không để huynh đệ đi vào đường chết.”

Bên ngoài trướng, những binh sĩ cho dù là bị chặt mất tay chân, chị bắn vào ngực cũng không rơi lệ, thì lúc này lại có rất nhiều người lặng lẽ ngẩng đầu lên lau nước mắt

“Hỗn xược, to gan!” Trong trướng Trình Đức Huyền vừa giận vừa thẹn, vội vàng quát: “Ngươi không cần phải yêu ngôn mê hoặc mọi người. Ta là Khâm Sai, ý của ta chính là ý của quan gia. Kháng mệnh Khâm Sai là kháng lại thánh dụ, là đại nghịch bất đạo, là tội tru di cửu tộc! Là…”

Dương Hạo giận giữ, những gì kiêng nể đều vứt hết lên chín tầng mây. Hắn đầu quân tây bắc vốn là muốn làm một chức quan nào đó, để báo ân oán Bá Châu, nhưng nhiều ngày như vậy, tận mắt nhìn thấy tướng sĩ chiến đấu đẫm máu, vai hắn bất giác cảm thấy nhiều hơn một phần trách nhiệm, hắn không thể có lỗi với sự hi sinh của nhiều chiến hữu như vậy, không để họ phải chết một cách vô nghĩa như thế.

Dương Hạo huyết khí trào dâng, hắn hét lớn: “Ngươi bớt lấy thánh chỉ ra ép ta đi, khi tình hình bất lợi thì chọn con đường thứ hai là nam chuyển sang tây, qua Hoàng Hà, rồi đi men theo An Phủ, lấy an nguy của dân chúng làm trọng, đây chính là lời quan gia chính miệng nói ra, Dương Hạo ta sẽ không đi theo con đường của ngươi đâu!”

“Bản quan là Chính Phó Khâm Sai, há lại dung thứ cho những lời xằng bậy của ngươi? Cho dù bản quan có đưa ngươi xuống địa ngục thì ngươi cũng phải không do dự mà đi theo ta.”

“Ta không xuống địa ngục, ai thích thì cứ xuống.”

“Ngươi láo xược!”

“Ngươi thật to gan!”

“Ha, cứ để ngươi nói đấy, đồ đáng chết, xem ngươi làm gì nào. Dương mỗ ta chẳng tiếc tấm thân này, Hoàng Đế ta còn dám kéo xuống ngựa, lẽ nào lại còn sợ một loại Khâm Sai như ngươi sao?”

“Ngươi….”

“Đạo bất động bất tương vi mưu, từ bây giờ ngươi và ta sẽ phân ra hai đường, ai đi đường người nấy!” Dương Hạo nói xong thì quay ra khỏi trướng, Trình Đức Huyền tức giận há mồm cứng lưỡi.

Đến khi ra bên ngoài, Dương Hạo mới phát hiện ra có một đám người lớn đang ngồi đen một mảng, đều yên lặng không một tiếng động quanh trướng. Dương Hạo đứng lại, có một chút hổ thẹn nhìn họ; binh sĩ, quân hiệu, đô đầu, ngu hầu, chỉ huy…, tất cả binh sĩ đều nhìn hắn, những binh sĩ này không hẹn trước mà cùng giơ hai tay lên, chắp cánh tay nặng trình trịch về phía hắn.

Dương Hạo ngẩn ra, mắt hắn nhoà đi, hắn mở miệng ra lại không nói câu gì. Hắn từ từ chắp hai tay lại, tay trái như mặt trăng, tay phải như mặt trời, hai đầu tay chắp vào nhau hướng về phía binh lính.

Đầy vẻ quang minh lỗi lạc, đầy nhiệt huyết.

Trong trướng, Trình Đức Huyền chán nản ngồi đó, hắn không phải là không hiểu những gì Dương Hạo lo lắng, nhưng hắn chỉ có thể ôm ý chí như của con bạc, tiếp tục kiên trì hướng đi của mình.

Lúc này nếu đồng ý với ý kiến của Dương Hạo, dẫn mấy vạn dân quay đầu nam hạ chẳng khác nào chứng minh những gì hắn luôn kiên trì làm là sai lầm, như vậy tất cả sẽ vứt hết, đến khi luận công lao thì hắn một tấc cũng không có, rồi đám Giám Sát Ngự Sử lại hùa nhau vào viết tấu chương vạch tội hắn.

Khi đó hắn sẽ phải chịu trách nhiệm với cái chết của hơn hai nghìn tướng sĩ, với cái chết của bốn nghìn dân chúng rơi vào tay giặc, hắn phải chịu trách nhiệm vì đã đưa mọi người vào con đường chết…hắn sẽ phải chịu trách nhiệm nặng như vậy sao?

Nhưng nếu như trên con đường chỉ còn hơn 200 dặm, trên bình nguyên rộng lớn mênh mông mà không xuất hiện một người Khiết Đan nào thì hắn sẽ dễ dàng đưa thành công đám dân chúng vào đất Tống, lúc đó hắn sẽ là Khâm Sai đầu tiên di dân được dân chúng Bắc Hán, công lao của hắn rất vĩ đại, tiền đồ to lớn sẽ có được dễ như trở bàn tay. Thậm chí trong sử sách cũng sẽ lưu lại tên hắn. Điều này…còn không đáng để làm sao?

Mặc dù thất bại, chỉ cần hắn quyết không thay đổi con đường khác, thì rất lâu sau cũng sẽ không có ai có thể chứng minh rằng con được thứ hai nhất định là con đường có thể đi tốt hơn. Như vậy cho dù hắn có chết trên con đường về đất Tống thì hắn vẫn có thể giữ lại được cái danh quyên thân cho đất nước. Vì thế hắn không được chọn. Bất kể là còn đường hắn đang đi có sai, nhưng bây giờ hắn chỉ có thể đi tiếp mà thôi, đem tất cả mọi người theo hắn lên đường, đã sai rồi thì chỉ có thể sai đến cùng, hắn không có cách nào quay đầu lại được.

Ý chí đã quyết, Trình Đức Huyền cắn răng chậm rãi ngẩng đầu lên, cây đuốc đang được cắm nghiêng trong trướng đang cháy hừng hực, ngọn lửa chiếu vào hai con ngươi có chút điên cuồng của hắn, mơ hồ ánh lên màu đỏ. “Tách tách” tiếng nhựa thông bị đốt kêu nhè nhẹ lên, trong tai Trình Đức Huyền như nghe thấy tiếng chém giết liên tục, tiếng thương đao đánh lên, khoé mắt hắn không khỏi nhăn lại.

Ở một bên góc rừng, có một cái trướng to khác, trong trướng cũng đang cháy một cây đuốc. Dưới đất còn đốt một đống lửa nhỏ, trên ngọn lửa dùng mấy cây gỗ thô làm một cái giá, rồi dùng một thanh sắt uốn cong một đầu treo lên làm cái móc.

La Khắc Địch khoanh chân ngồi cắt những cành cỏ dày để làm đệm nằm, hắn nhìn chăm chú vào Dương Hạo người đang ngồi đối diện mình.

La Khắc Địch đã bỏ áo giáp ra, hắn cởi trần, một miếng vải đã được băng trước ngực hắn. Xem ra vết thương rất nghiêm trọng, nhưng thần sắc của hắn thì khá tốt, hắn một tay cầm hũ đầy nước rót cho Dương Hạo, còn tay kia lại không chút cử động, đến khi bát nước đã đầy hắn mới lại treo hũ nước trở lại lên giá

Dương Hạo không đặt bát nước xuống đất, hai tay đặt lên đùi, trầm giọng nói: “La quân chủ. Ngươi xuất thân từ quân ngũ, nguy cơ trước mắt ngươi chắc hiểu rõ hơn ta. Trận chiến đẫm máu lần này người ngựa của chúng ta đã tổn thất hơn nửa, sức cùng lực kiệt, đã không thể tiếp tục chiến đấu, còn những dân chúng kia đã vứt đi một lượng lớn xe cộ, tổn hại rất nhiều lừa ngựa. Mặc dù nơi đây cách Minh Cố chỉ còn hơn 200 dặm, nhưng với tình hình của chúng ta bây giờ thì chưa đến được đó toàn quân đã bị tiêu diệt, tiếp tục tiến về phía trước chỉ còn một con đường chết. Chúng ta phải quyết định thật nhanh, lập tức thay đổi đường đi, nam hạ rồi chuyển sang tây, như vậy mới có khả năng cứu được mấy vạn tính mạng.”

La Khắc Địch hai tròng mắt buông xuống, nhìn vào bát nước bập bềnh, chậm rãi nói: “Dương đại nhân, chuyện này đại nhân nên bàn với Trình đại nhân mới phải.”

Dương Hạo trầm giọng nói: “Trình Đức Huyền vốn là người thông minh, nhưng càng là người thông minh, một khi đã đi vào ngõ cụt thì lại càng kiên trì theo ý nghĩ của mình, vô cùng ngang ngạch cố chấp…còn ngu xuẩn hơn cả heo. Hắn bây giờ vẫn kiên quyết đi theo hướng đông, hắn làm như vậy sẽ có rất nhiều người bị kéo xuống âm tào địa phủ. Ở đây ngươi là Thống Soái cao nhất trong quân, ta hi vọng ngươi có thể cùng ta ngăn cản hắn.”

La Khắc Địch cười cười, nhẹ nhàng lắc đầu: “Dương đại nhân, ngài ấy là Khâm Sai, ngài bảo mạt tướng phải ngăn cản như thế nào?”

“Tướng ở bên ngoài quân mệnh thì không phải nghe. Ta hi vọng tướng quân có thể phối hợp với ta quay đầu về hướng nam.”

La Khắc Địch thở dài, tỏ ra khó xử nói: “Dương đại nhân, tuy nói tướng ở ngoài quân mệnh thì không phải nghe, nhưng bây giờ Khâm Sứ của quan gia đang ở trong quân. Ngài ấy chính là đại diện cho quân mệnh. Nếu coi như không có thì chẳng phải là dối mình dối người sao. Khi mạt tướng thống lĩnh binh đã nhận được lệnh là tất cả nghe theo sự dặn dò của Trình đại nhân. Quân lệnh đã hạ xuống thì cho dù là núi đao biển lửa ta cũng chỉ có thể xông lên mà thôi. Cũng có nghĩa là quân lệnh cho dù có sai thì ta vẫn phải tuân theo.”

Dương Hạo rất thất vọng, cười gượng nói: “Thôi vậy, ngươi cố chấp như thế ta thấy… có lẽ là có chút hoang đường, nhưng ta biết chính vì sự cố chấp này mới nhận được rất sự kính nể của mọi người. Ta không làm khó ngươi nữa. La quân chủ, trên cả chặng đường may mà có ngươi mưu trí dũng mãnh, chúng ta mới có thể chống cự được đến ngày hôm nay. Dương mỗ bây giờ phải lui về, duy có một thỉnh cầu mong La quân chủ đáp ứng.”

“Dương đại nhân xin cứ nói.”

“Sáng ngày mai, ta sẽ đưa bộ quân nhân mã đi về phía nam. Nếu như dân chúng đồng ý đi theo thì xin La tướng quân đừng ngăn cản, họ bây giờ còn có thể sống, cũng công lao của tướng quân và rất nhiều tướng sĩ đã hi sinh máu tươi của bản thân và tính mạng để đổi lấy, ta tin rằng tướng quân cũng không muốn họ phải chết một cách oan uổng. Dương mỗ chỉ nói vậy thôi, xin cáo từ.”

Dương Hạo đứng dậy, chắp tay chào hắn rồi quay người bước đi.

La Khắc Địch khoanh chân ngồi một chỗ, lẳng lặng nhìn hắn. Dương Hạo vừa mới bước đến cửa thì La Khắc Địch đột nhiên nói: “Trận huyết chiến hôm nay, mạt tướng đã bị thương.”

Dương Hạo dừng lại, quay người, lông mày hơi nhíu lên, có chút kinh ngạc khi nghe thấy hắn nói điều này.

La Khắc Địch tiếp tục nói: “Vết thương của mạt tướng rất nặng, không chừng ngày mai sẽ hôn mê không thể tỉnh lại.”

“Sao cơ? Nghĩa là sao?” Ánh mắt Dương Hạo sáng lên.

Ánh mắt La Khắc Địch buông xuống, trầm giọng nói: “Một lát nữa mạt tướng sẽ hạ lệnh cho một đội quân, hiệu dụ cho tất cả các tướng sĩ: hành trình trở vệ Đại Tống cực kì nguy hiểm. Bản tướng quân không thể nắm trong tay toàn quân cùng một lúc, nên để cho Hách Long Thành tướng quân tạm thời thay chức bản tướng, nghe theo sự điều động của Hách Long Thành tướng quân.”

Chỉ Huy Hách Long Thành chính là người của Trình Thế Hùng, như vậy là nói…

Nghĩ tới đây, Dương Hạo vừa mừng vừa sợ, khi nhìn vị thiếu niên tướng quân này lại có cảm giác nghiêm nghị đến đáng kính, hắn vui vẻ nói: “Đa tạ La tướng quân.”

La Khắc Địch mỉm cười, nói: “Dương đại nhân bảo trọng.”

 Chương 146: Đoạt tiết.

Trời đã sáng, Trình Đức Huyền vội vàng thức dậy, sai người làm chút đồ ăn, rồi lệnh cho thị vệ đi triệu tập tất cả tướng lĩnh từ cấp Đô Đầu trở lên đến trước trướng Khâm Sai nghe lệnh.

Bên ngoài doanh trướng của hắn binh sĩ đã chuyển hơn mười tảng đá lớn đến làm ghế ngồi, xếp thành hai dãy trái phải. Một lúc sau, những Đô Đầu, Ngu Hầu, Chỉ Huy Sứ lần lượt bước vào ngồi xuống hai bên. Tuy tình cảnh bây giờ có chút hỗn loạn, nhưng áo giáp đều rất chỉnh tề, tư thế ngồi rất kiên cường như cây tùng. Không khí trước trướng Khâm Sai lập tức trang nghiêm hơn rất nhiều.

Trình Đức Huyền luôn chú trọng vẻ bề ngoài nhất, cho dù trong hoàn cảnh như thế nào hắn vẫn ăn mặc rất cẩn thận tỉ mỉ, khoác bộ quan phục mới giặt hôm qua và đã được phơi nắng, buộc chặt đai ngọc, đeo bội kiếm, lại xoa xoa vết thương trên trán hôm qua, rồi đội mũ quan vào thật chặt, xong mọi thứ mới bước ra khỏi trướng. Khi đến cửa trướng hắn hắng nhẹ một tiếng, tướng lĩnh hai bên đều hướng nhìn hắn.

Trình Đức Huyền chân bước vững vàng, tay cầm vào vỏ kiếm bước đi, phía sau hắn hai hàng thị vệ cũng không rời, hai người phía trước cầm Tiết giơ lên, đi về phía sau Trình Đức Huyền.

Sử Tiết của Khâm Sai chẳng qua chỉ là một thân trúc được trang trí bằng lông thú, nhưng cái vật bằng trúc này lại thể hiện thân phận Khâm Sai, không thể xem thường được. Triều đình lệnh cho tướng lấy Tiết làm tín, Khâm Sai giữ Tiết thì có thể điều động chỉ huy đội quân. Còn Việt (một loại binh khí thời xưa) lại là một cây rìu đồng màu vàng rất sắc, chất đồng khá mềm, vốn không thích hợp dùng trên chiến trận, nhưng có thể dùng để chặt đầu. Chiếc Việt này chính là "Thượng phương bảo kiếm", có thể trực tiếp chém đại thần triều đình kháng mệnh.

Trước đây Trình Đức Huyền triệu tập chúng tướng đến nghị sự rất ít khi bầy ra các thứ binh khí như thế này, nhưng hôm nay hắn đem Tiết - Việt ra, quả thật làm cho người ta phải ngạc nhiên. Nhưng điều mà càng làm cho người ta không ngờ tới chính là Trình Đức Huyền vừa xuất hiện thì hai hành quan viên đều đứng dậy chắp tay hành quân lễ, những ánh mắt đó rõ ràng là nhìn thấy hai vật Tiết - Việt thị vệ đang cầm ở phía sau, nhưng chúng tướng lại không hề tỏ ra kinh ngạc một chút nào, hoặc có thể nói là từ đầu đến cuối trên mặt tất cả tướng lĩnh không có bất kì một sự thể hiện cảm xúc nào.

Trình Đức Huyền hơi nhăn mày, mắt lướt qua một lượt, trầm giọng nói: "La Quân Chủ sao vẫn chưa tới? Thân làm tướng lĩnh cấm quân, lẽ nào không biết đến giờ mà tướng không tới thì sẽ bị tội chặt đầu sao?"

Hách Long Thành bước lên một bước, chắp tay nói lớn: "Hồi bẩm Khâm Sai, La Quân Chủ hôm qua chiến đấu bị thương, giữa đêm vết thương trở nên nghiêm trọng, sốt rất cao, khó có thể đến trước trướng nghe lệnh, đặc biệt lệnh mạt tướng thay mặt thỉnh tội."

Trình Đức Huyền nhìn khắp người hắn, chiếc đâu mâu (mũ đội khi ra trận) đội rất chỉnh tề, bộ áp giáp trên người leng keng, ngữ khí rất cung kính, liền gật đầu vừa ý, trầm giọng nói: "Biết rồi. Chư vị tướng quân, nơi đây cách Minh Cố thành đã không đến 300 dặm, bản quan quyết định lập tức tập hợp mọi người, đi vòng qua ngọn núi trước mặt, nhanh chóng tiến về Minh Cố. Chúng tướng các bộ, coi chừng dân chúng, nửa canh giờ sau sẽ nhổ trại khởi hành, không được chậm chễ!"

Dương Hạo lạnh lùng nói: "Hành tung đã bị bại lộ, ý đồ đã bị địch nắm chắc trong tay, hổ lang cũng đã nhe nanh, lẽ nào Trình đại nhân muốn thúc mấy vạn dân chúng làm bò dê trên bãi săn sao?"

Trình Đức Huyền mắt đầy sát khí, cười lạnh nói: "Dương đại nhân muốn như thế nào?"

Hắn bây giờ bầy ra trận binh khí lớn như thế chính là vì những lời đêm qua Dương Hạo đã nói. Hắn biết rằng hôm nay Dương Hạo sẽ một mình dẫn quân đi nam hạ, chỉ đợi hắn mở miệng phản bác sẽ dùng Tiết - Việt chặt đầu hắn, bây giờ Dương Hạo quả nhiên đã đứng ra, Trình Đức Huyền cười thầm nhìn hắn, ánh mắt như đao đang chuyển động.

Dương Hạo phủi áo, mạc nhiên nói: "Dương mỗ sẽ không đi theo ngươi về hướng đông, ta sẽ dẫn nhân mã nam hạ, lấy phía tây tìm con đường sống."

Trình Đức Huyền ngẩng mặt lên trời cười lớn: "Dương Hạo, ngươi năm lần bảy lượt công kích bản quan, bản quan lấy đại cục làm trọng nên đều không tính toán với ngươi, bây giờ ngươi lại dám to gan lấy tay che trời, dám độc hành, bản quan có thể tha cho nngươi, nhưng quốc pháp quân luật không thể tha cho ngươi. Người đâu, bắt Dương Hạo lại cho ta."

Trình Đức Huyền vừa quát lên thì phía sau thị vệ đã nhận được sự dặn dò của hắn lập tức đứng ra, trong tay cầm thương chạy tới phía Dương Hạo. Phía sau Dương Hạo cũng có một số người bước ra, chống đỡ lại với thương của thị vệ. Mấy người này chính là Phạm Lão Tứ và mấy bộ hạ của hắn. Mấy binh sĩ này tay đều cầm nỏ, giơ nỏ lên, mũi nỏ dày đặc.

Phạm Lão Tứ hai tay cầm nỏ, khuôn mặt lạnh lùng nói: "Mấy huynh đệ thu thương lại cho ta. Lão tử ta gan nhỏ, ai dám làm loạn khiến cánh tay này của ta cũng run run, thì cái mạng nhỏ của ngươi cũng xong đấy."

Trình Đức Huyền tím mặt nói: "Dương Hạo, ngươi muốn tạo phản? Được, được lắm, bản quan sớm đã biết ngươi cái loại ở biên thuỳ hoang dã không có vương pháp, các tướng quan còn không bắt tên phản nghịch này lại cho ta? Từ chỉ huy, ngươi còn đợi gì nữa?"

Trình Đức Huyền nhìn thấy cấm quân Từ Hải Ba đứng ngây người ra một chỗ, hình như bị cảnh tượng trước mắt làm cho kinh hãi. Trình Đức Huyền không khỏi phẫn nộ, bây giờ La Khắc Địch thương nặng, đại tướng quân triều đình duy nhất mà mình có thể dựa vào chính là Từ Hải Ba, vậy mà tên ngu ngốc này lại không lập tức điều binh khống chế Dương Hạo và đám phản nghịch, còn đứng ngây ra một chỗ.

Nghe thấy Trình Đức Huyền quát lớn, Từ Hải Ba hai mắt nhìn xuống, chắp tay nói: "Khâm Sai đại nhân, mạt tướng không phải là quan cao nhất ở đây, việc tranh chấp của các bị Khâm Sai, mạt tướng khi chưa nhận được tướng lệnh của quân chủ thì không dám can thiệp."

Trình Đức Huyền dường như tức không thể thở nổi, lớn tiếng mắng: "Khốn kiếp, La quân chủ đã bị trọng thương hôn mê, lẽ nào ngươi muốn bản quan đi kêu hắn hạ lệnh?"

Từ Hải Ba mặt không chút thay đổi, thẫn thờ trả lời: "La quân chủ trọng thương, đêm qua đã chỉ định một tướng khác thay quyền."

Trình Đức Huyền phẫn nộ quát: "Là ai thay cầm quyền, ra đây!"

"Mạt tướng ở đây!" Hách Long Thành lên tiếng bước tới, rút kiếm ra khỏi bao, thần sắc hung tợn quát lớn: "Phụng lệnh của quân chủ, Hách Long Thành bây giờ thay chức Quân Đô Ngu Hầu, tam quân tướng sĩ nghe theo sự điều động của bản quan, không biết Khâm Sai đại nhân có phân phó gì?"

Trình Đức Huyền đang rất nôn nóng, quên mất rằng hắn là người của Trình Thế Hùng, liền chỉ vào Dương Hạo, quát lớn: "Phân phó gì nữa? Còn hỏi bản quan phân phó gì à? Ngươi còn không bắt tên cuồng đồ miệt thị triều đình, vong ân phụ nghĩa kia lại?"

"Mạt tướng tuân mệnh! Người đâu, các ngươi còn không lập tức bắt tên cuồng đồ miệt thị triều đình, vong ân phụ nghĩa kia lại, còn đợi đến khi nào nữa?"

Hách Long Thành vừa hô một tiếng thì mười mấy tên hổ lính liền rút đao ra, giơ tiễn, sát khi đùng đùng xông lên, bao vây Trình Đức Huyền và người của hắn vào giữa. Nhìn thấy tình hình như thế, không ai dám động đậy, lập tức bị coi như là đống thịt thối.

Trình Đức Huyền vừa sợ vừa giận: "Ngươi...Hách Long Thành, ngươi muốn tạo phản?"

Dương Hạo mỉm cười, đưa hai ngón tay ra, nhẹ nhàng đẩy cái mũi thương ở trước ngực hắn ra, lạnh lùng nói: "Thánh Thượng có chỉ, nếu như phía trước bị ngăn trở không tiến về đông được thì có thể lựa thời cơ cắt đứt, nam hạ tây hành có thể tránh được địch thì hãy rời dâm chúng đến Phủ Châu, Lân Châu, Duyên An Phủ. Trình Đức Huyền có ý đồ riêng, cố chấp đông hành, không để ý tới tính mạng của tướng sĩ và mấy vạn dân chúng, phụ lòng thánh ân. Người đâu, lấy Tiết - Việt của hắn cho ta!"

Hách Long Thành quát mấy thị vệ của Trình Đức Huyền: "Các ngươi vẫn chưa chịu lui xuống."

Mấy tên thị vệ quay sang nhìn nhau, cùng hạ mũi thương xuống, lùi về sau. Lưu Thế Hiên bước ra, coi như bên cạnh không có ai, đi qua Trình Đức Huyền, đoạt lấy Tiết - Việt Khâm Sai từ hai tên thị vệ.

"Các ngươi..." Trình Đức Huyền tay chân lạnh toát, nhất thời chỉ cảm thấy không luống cuống. Hắn là một quan văn luôn làm việc ở Nam Nha phủ Khai Phong, dưới chân thiên tử luật pháp rất nghiêm, quan lại ở đó thận trọng, làm việc như những tảng băng mỏng, ai lại có thể tưởng tượng rằng sẽ có một người to gan che trời dám chống lệnh Khâm Sai Thiên Sứ. Nhưng hắn lại quên rồi, làm binh ba tháng không được phát lương thì dám giết quan tạo phản. Triều đình từ trước đến nay chuyện quân binh tạo phản đều có, bây giờ mọi chuyện đã có Dương Hạo gánh vác, thì cái đám người chết tiệt này có coi hắn ra gì.

Dương Hạo một tay cầm Tiết, một tay cầm Việt, cao giọng quát: "Từ đây hướng đông, bình nguyên khoảng 200 dặm, người Khiết Đan mắt dữ thèm thuồng chính là đang ngồi chờ chúng ta tự bước chân vào tuyệt cảnh. Vì sự an nguy của mấy vạn dân và tướng sĩ, bản quan quyết định, bỏ hướng đông, chuyển sang nam hạ, tránh mũi nhọn của địch, tìm một đường sống khác, các doanh trại nhanh chóng về trận của mình, tập hợp người ngựa, giám sát dân chúng, nửa canh giờ sau nhổ trại lên đường."

"Bản tướng tuân mệnh!" Chúng tướng rào rào đồng ý, rồi chỉ nghe thấy tiếng áo giáp từng lớp như lá cây kêu leng keng, tiếng giầy dẫm đất rầm rầm, trong chốc lát, từ chỉ huy cho tới đô đầu tướng quan các doanh đều đã đi hết không còn một ai.

Trình Đức Huyền đứng cô lẻ một mình tại trận, vô cùng oán hận nhìn Dương Hạo, tay nắm chuôi kiếm mà hơi run run. Phạm Lão Tứ nhíu mày, cầm nỏ trong tay khua lên, Trình Đức Huyền cắn chặt răng, cánh tay cầm kiếm cuối cùng cũng bỏ ra, từ từ buông xuống.

Phạm Lão Tứ há mồm ra, "Phì'' một cái, nhổ ra một cọng cỏ, hắn lắc lắc đầy, lập tức hai thân binh chạy tới lấy kiếm của Trình Đức Huyền.

Dương Hạo quay người bước đi, từ từ nói: "Trình đại nhân, con đường còn lại hãy để Dương mỗ dẫn mọi người đi, ngài có thể nghỉ ngơi rồi."

Trình Đức Huyền cười khẩy nói: "Dương Hạo, ngươi đoạt Tiễn Việt của ta, trong mắt không có triều đình. Thành, ngươi có thể thoát được tội. Bại, thiên cổ sẽ chửi rủa tên ngươi, ngươi sẽ một mình phải gánh chịu. Ta thật không ngờ ngươi lại là một người ngu xuẩn đến vậy."

Dương Hạo dừng bước, lại quay về sau: "Trình đại nhân hà tất phải nổi giận? Thứ mà Dương mỗ đoạt lấy không phải là Tiết Việt mà là trách nhiệm, thành bại thế nào tuỳ hậu nhân nói đi, khả năng Dương mỗ có hạn, chỉ có thể vì người trước mắt, chuyện trước mắt mà chịu trách nhiệm thôi!"

Đoàn người ngựa gặp nhiều khó khăn hoạn nạn này cuối cùng cũng quay đầu về phía nam, cho dù đồi núi rừng rậm khó đi, nhưng trên con đường này không phải khổ cực mà chạy. Dân chúng còn có cái để ăn, đặc biệt là rừng cây râm mát, lại có nhiều nước sông nước suối, cũng coi như là được hưởng thụ trong cái nắng chói chang của mặt trời.

La Khắc Địch nằm trên một cái cáng được làm tạm, vết thương của hắn không phải là thực sự nghiêm trọng nhưng Trình Khâm Sai vẫn còn ở trong quân ngũ, nếu như hắn khỏi quá nhanh thì sẽ chẳng ra sao trước mặt Trình Khâm Sai, cho nên hắn vẫn phải diễn thêm mấy ngày nữa. Dương Hạo đi ở bên cạnh hắn, nhìn thấy mấy bóng người cao lớn ở trong đám dân, nói: "Bản quan cũng nhìn không ra lai lịch của mấy người này. Hôm đó ở Phù Vân Cốc, nếu như không có mười mấy thủ hạ của người già này dùng kĩ nghệ thần tiến tương trợ, vừa rút lui vừa dùng tiễn thuật ngăn cản, làm cho người Khiết Đan giả cấm quân kia phải buông tha, thì e rằng chúng ta không dễ có thể thoát được. Từ đó có thể thấy họ không có ý đối địch với chúng ta. Trong đám cỏ dại sẽ có rất nhiều hào kiệt, phía tây bắc là nơi nổi tiếng với võ công, có rất nhiều đại hộ nuôi những dũng sĩ tài ba."

Dương Hạo nhẹ nhàng thở dài nói: "Chỉ có điều trông bộ dạng của hắn không giống đại hộ, không khỏi làm người ta hoài nghi."

Phạm Lão Tứ chen lời nói: "Đại nhân, mười mấy thủ hạ của hắn đều có tiễn thuật thần thông, nếu đánh tay không cũng là một đối thủ cừ, một đại hào nuôi bán ngựa trong nhà có mấy cao thủ như vậy cũng có thể, nhưng mười mấy thủ hạ tài ba như vậy thì người thường không dễ có được."

Dương Hạo nói: "Đúng vậy, ngươi ở tây bắc làm binh đã từng nghe nói tới người họ Mộc chưa? Ta hỏi thân phận của hắn, nhưng hắn một mực không trả lời. Có điều mười mấy bộ hạ trung thành của hắn đều nói hắn họ Mộc, trong đó lấy Mộc Ân là trưởng."

Phạm Lão Tứ lắc đầu nói: "Chưa từng nghe nói qua. Không giấu gì đại nhân, trước đây Phạm Lão Tứ ta là mã tặc, anh hùng trên cái đất Tây Bắc này ta, cho dù chưa từng nhìn thấy hết tất cả, nhưng nhất định cũng phải nghe nói qua, trong đó tuyệt đối không có ai họ Mộc."

Dương Hạo nói: "Điều này cũng thật kì lạ, từng có người nghe thấy Mộc Ân gọi lão giả là chủ thượng, xưng hô như vậy ta cảm thấy thân phận người này không hề thấp."

"Chủ thượng?" Phạm Lão Tứ vuốt vuốt râu nói: "Chẳng lẽ đám người đó không phải là người Hán? Theo thuộc hạ biết người Đảng Hạng Khương (một nhánh của dân tộc Khương - TQ), cận thị của Thổ Phiên các bộ đều cung kính gọi người đứng đầu là 'Chủ thượng'. À...đại nhân, ngài nói xem họ có phải là người Đảng Hạng Khương không?"

Dương Hạo kì quái hỏi: "Làm sao mà biết được?"

Phạm Lão Tứ nói: "Người Đảng Hạng Khương đặc biệt sùng bái màu trắng, cho nên tự gọi là 'Đại Bạch Thượng Quốc, người già đấy và mười mấy người bên cạnh cho dù bên ngoài mặc y phục nhiều màu, nhưng lớp áo bên trong lại có màu trắng. Hơn nữa người Đảng Hạng Khương rất hiếu chiến, khi bị ngoại tộc xâm lược làm tổn hại thì nhất định phải báo thù, nếu chưa báo được thù thì sẽ đi chân trần bẩn thỉu, cấm ăn thịt. Khi nào giết được kẻ thù thì mới có thể khôi phục bộ dạng ban đầu. Ta nghe nói hôm ấy mười tám tráng sĩ đột nhiên ra tay tương trợ chính là vì lão giả kia đã bị người Khiết Đan làm bị thương, thế nên Mộc Ân và đám thủ hạ mới nổi giận lôi đình như vậy, họ xé nát quần áo, bất chấp sinh tử, nhanh nhẹ dũng mãnh, nhìn quả thật giống tác phong của người Đảng Hạng Khương.

Phạm Lão Tứ càng nói càng cảm thấy rất có khả năng, liền nói: "Đại nhân nếu cảm thấy khả nghi thì để thủ hạ đi hỏi xem, đừng lo bọn họ võ công cao cường, 'Hổ giỏi không bằng lang nhiều', bây giờ họ ở trong quân chúng ta thì sẽ không phải sợ họ làm loạn."

Dương Hạo vội lắc đầu: "Với tình hình bây giờ, thêm một chuyện không bằng bớt một chuyện, ta cũng chỉ là trong lòng có chút nghi ngờ thôi. Họ bây giờ đang đi trên cùng một sợi dây với chúng ta, chớ chọc giận bọn họ để tạo thêm sóng gió. Chỉ cần họ không sanh sự thì không cần phải để ý đến lai lịch."

Phạm Lão Tứ gượng ép đồng ý, La Khắc Địch hỏi: "Dương đại nhân, khi chúng ta trốn vào sơn cốc, tất cả những lương thực mang theo đã không còn nhiều, mấy ngày nay hành quân, lương thực trước mắt đã cạn kiệt, từ đây hướng phía nam rồi về phía tây, trên đường ít có người, lại càng không có thành lớn, không có chỗ để bổ sung lương thực, điều này Dương đại nhân phải chú ý tới."

Dương Hạo nói: "Hai ngày nay chúng ta đã bắt đầu tiết kiệm rồi. Ở đây đều là núi non, mỗi khi đến chỗ đóng quân ta cũng sai người đi săn bắn thú hoang, hái quả dại, xuống sông bắt cá, lấy đó để bù đắp số lương thực không đủ. Đợi khi ra khỏi rừng thì tốc độ chắc sẽ nhanh hơn, ta nghĩ vẫn có thể chống chọi tiếp."

Hắn thở dài, nhìn đội quân đang khó nhọc tiến vào rừng rậm, lẩm bẩm nói: "Càng khó chống cự thì chúng ta càng phải chống cho bằng được."

Trời đã dần tối, người ngựa đã đóng quân trong rừng, dân chúng như đã thành thói quen, không cần người khác phải ra lệnh, sau khi sắp xếp ổn thoả mọi thứ thì trai tráng khoẻ mạnh sẽ tản ra bốn hướng, đi hái quả, đào rau củ dại, bắt những con chuột, thú nhỏ để thay thế cho gạo.

Lão giả ngồi xuống dưới một gốc cây đại thụ có cái rễ như sừng con rồng. Mộc Ân dặn dò mấy tiếng, liền có mấy đại hán chia nhau vào rừng săn mồi. Bọn họ không có binh khí, nhưng khi trở về thì mỗi người luôn bắt được mấy con thú, làm người khác thấy mà thèm.

Mộc Ân lấy một cái túi da từ chỗ lão giả, chạy tới dòng suối trong vắt. Lão giả có chút mệt mỏi, ngồi tựa vào cây, những tia nắng còn sót lại len qua kẽ lá chiếu xuống khuôn mặt hắn, lão giả mơ hồ nhìn về phía trước, chỉ cảm thấy cuộc đời của mình thật li kì. Hắn chưa từng nghĩ mình sẽ có ngày hôm nay, vô duyên vô cớ lại thành dân Hán, rồi hồ đồ đi về hướng đông, đến giờ lại tiến vào những dãy núi rừng rậm liên miên này.

Hắn là người Đảng Hạng, tám bộ lớn nhất trong Đảng Hạng lần lượt là: Tây Phong Thị, Phí Thính Thị, Vãng Lợi Thị, Pha Siêu Thị, Dã Ly Thị, Phòng Đương Thị, Mễ Cầm Thị, Thác Bạt Thị. Trong đó Thác Bạt Thị vốn xuất thân từ tộc Tiên Ti, là một bộ mạnh nhất trong các bộ của Đảng Hạng. Còn hắn vốn chính là con của thủ lĩnh bộ lạc lớn nhất này, hắn tên Lý Quảng Sầm.

Nhưng đối với hắn mà nói, phận là con thủ lĩnh bộ tộc, con của Định Nan Quân Tiết Độ Sứ sở hữu Hạ Châu, Hựu Châu, Ngân Châu, Tĩnh Châu, Ngũ Châu lại không đáng để chúc mừng, ngược lại còn là căn nguyên gây nên sự đau khổ cho cuộc đời hắn.

Làm con trai của Thác Bạt Thị Tộc, hắn từ nhỏ đã bị người ta đưa đến một bộ lạc cường mạnh khác là Thổ Phiền Phan Tư La làm con tin, phụ thân hắn là tộc trưởng Thác Bạt, là người đứng đầu các bộ tộc Đảng Hạng, là Định Nan Quân Tiết Độ Sứ được Đại Đường khâm phong. Nhưng hắn...lại chỉ có thể sống từ nhỏ đến lớn ở trong bộ tộc khác, bị người ta coi là con tin.

Khi hắn 15 tuổi, theo ước định, cha của hắn sẽ đón hắn trở về và thay vào đó là một đứa con trai khác tiếp tục làm con tin, nhưng vào chính lúc đó, cha hắn dinh bệnh nặng, sau khi tam thúc của hắn nắm giữ ba quân, Hậu Đường mượn sóng đẩy thuyền, đem chức Định Nan Tiết Độ Sứ chính thức giao cho thúc hắn, tiếp đó Lý Quảng Sầm, người kế thừa liền ở trong tình cảnh khó xử

Đối với bộ Thổ Phiền mà nói, hắn đã mất đi tác dụng của con tin. Đối với các bộ Đảng Hạng mà nói hắn là người kế thừa hợp pháp nhất, nhưng người Đảng Hạng bây giờ đã có một Tiết Độ Sứ mới, ai dám mạo phạm, thay hắn lộ diện?

Vẫn có một người, người đó chính là tứ thúc của hắn Tuy Châu Thứ Sử - Lý Di Mẫn, Lý Di Mẫn nghe nói tam ca đoạt quyền vị của cháu, chỉ từ xa Hạ Châu mà mắng chửi không ngừng. Hắn lập tức phất cờ tạo phản, không còn nể tình nghĩa với tam ca, đồng thời phái người đi đón cháu về địa bàn của mình.

Kết quả là khi tín sứ của tứ thúc ngày đêm rong ruổi ngàn dặm đến Tuy Châu thì tứ thúc của hắn đã binh bại và bị bắt, bị chính huynh mình cầm đao chặt đầu, Lý Quảng Sầm đã rời khỏi Thổ Phiền nhưng vẫn là cô nhi như trước, chỉ có điều ngoài mấy tuỳ thị phụng mệnh cha hắn ở bên hắn thì hắn lại có thêm mười mấy đại hán hết mực trung thành do tứ thúc phái đến.

Định Nan Ngũ Châu đã trở thành địa bàn của tam thúc, hắn chỉ là một đứa trẻ không nơi nương tựa, có bản lĩnh gì để đoạt lại quyền lực vốn thuộc về mình? Hắn chẳng nhưng không có sức chống lại mà còn không ngừng chạy trốn, đề phòng người tam thúc phái tới truy giết, hắn đã đem họ Lý mà Đại Đường ban tặng đổi thành họ Mộc, rồi lang bạt trên thảo nguyên, từ một thiếu niên anh khí bừng bừng, rồi lưu lạc đến khi thành một lão già đầu đã đầy tóc trắng, thì cuộc sống của hắn vẫn chưa từng được yên ổn.

Ba năm trước đây, tam thúc của hắn cuối cùng cũng chết. Con của tam thúc trở thành Định Nan Quân Tiết Độ Sứ mới. Khi Lý Quảng Sầm nghe thấy tin này, trong lòng không chút sợ hãi, lận đận nhiều năm như vậy, hắn cơ hồ như đã quên mất hình dáng Hạ Châu bây giờ như thế nào rồi.

Nhưng chính vào lúc ấy, các bộ Đảng Hạng xé cờ nổi dậy tạo phản. Các bộ luôn bị bộ lạc Thác Bạt áp chế nhiều, lần này thay đổi tân chủ, những kẻ kiêu ngạo bất thuận liền liên thủ lại khiêu chiến với quyền uy vô thượng của Định Nan Quân Tiết Độ Sứ mới.

Lý Quảng Sầm đã quên mất mình là người Đảng Hạng, quên mất Hạ Châu, nhưng các bộ Đảng Hạng vẫn chưa quên rằng hắn mới chính là chủ nhân thật sự của Định Nan Ngũ Châu, họ không quên rằng hắn vẫn đang lưu lạc ở trên thảo nguyên. Cho nên một mặt khởi binh, một mặt phái người đến thảo nguyên tìm kiếm, muốn hắn khởi cờ hiệu, hiệu triệu càng nhiều người Đảng Hạng quy phục.

Lý Quảng Sầm không muốn trở vệ, ý chí mạnh mẽ của hắn khi còn thiếu niên đã sớm chết rồi, bây giờ hắn chỉ muốn mang theo bộ lạc mà mình đã gây dựng được sống trên thảo nguyên. Nhưng, có những chuyện không do bản thân làm chủ, sứ giả Đảng Hạng hết lời cầu khẩn, đám thuộc hạ cũng không cam tâm luồn cúi, Lý Quảng Sầm đành phải dẫn mọi người trở về Hạ Châu, nơi mà hắn đã quên đường về.

Nhưng, vận mệnh lại đùa với hắn. Lần này giống như ba mươi năm trước hắn ngàn dặm rong ruổi trở về Tuy Châu, những dũng sĩ Đảng Hạng vội vã khởi sự, không có kế hoạch cẩn thận, lương thực không đủ, cho nên họ đã đến Phủ Châu cướp lương thảo. Ai ngờ Chiết Gia Phủ Châu đột nhiên thay đổi chiến pháp truyền thống mấy trăm năm nay, lại đem tất cả quân mã tập trung đánh mấy trận cơ động với họ, đội quân xé cờ tạo phản khi còn chưa chính thức giao tranh với Lý Quang Duệ ở Hạ Châu thì đã bị Chiết Gia đánh cho tan đàn xẻ nghé, việc tạo phản đã thất bại.

Lý Quảng Sầm vừa đi đến nửa đường nếu lúc này lại tiếp tục nam hạ thì sẽ chẳng còn ý nghĩa gì nữa, nên hắn đã đem theo gần một nghìn dũng sĩ luôn theo hắn viễn trinh trở về thảo nguyên bảo vệ bộ lạc, hắn đã lưu lại trên đất Bắc Hán, rồi đem những đồ vốn mang theo làm quân tư đi bán. Nhưng ai mà ngờ được lúc này Bắc Hán lại xảy ra chiến tranh với Đại Tống. Hắn vô duyên vô cớ bị bắt lại, trở thành một thành viên trong đại quân chạy nạn.

Nghĩ lại hơn nửa đời sóng gió của mình, Lý Quảng Sầm tự cười giễu cợt: Hắn cả đời này số trời đã định làm kẻ thất bại, là một tội nhân bị người ta vứt bỏ, bây giờ vô cớ lưu lạc đến đất Tống, cũng tốt, thiên hạ này tuy lớn, nhưng lại chẳng có chỗ cho hắn, vậy đến Tống quốc làm một bách tính bình thường vậy. Ở nơi đó hắn không phải gánh vác những trách nhiệm nặng nề, không cần phải gánh những kỳ vọng của nhiều người như vậy, những bộ lạc trên thảo nguyên kia đã mất đi hắn, một thủ lĩnh cả đời làm bạn với thất bại có lẽ sẽ tốt hơn.

Lý Quảng Sầm đang nghĩ miên man bất định thì Mộc Ân đã mang nước đến, quỳ một đầu gối xuống đất, cung kính dâng nước về phía hắn, Lý Quảng Sầm nhận lấy túi nước, uống một ngụm, lông mày hắn hơi nhăn lại, hắn thích rượu, luôn mang bên mình ít rượu, nhưng trên chặng đường này sớm đã uống hết rồi.

Cách đó không xa, Dương Hạo đang đứng trong đám dân chúng đang tụ lại thành những tốp ba đến năm người hỏi han ân cần, nhìn thấy phản ứng của lão giả liền bước tới.

"Lão trượng, uống một hớp đi." Dương Hạo lấy một túi da từ phía hông ra, đưa vào tay Lý Quảng Sầm, rồi mỉm cười.

Lý Quảng Sầm hoài nghi nhìn hắn, mở nút gỗ túi da ra, một mùi thơm nồng của rượu liền bay ra, Lý Quảng Sầm hai mắt không khỏi sáng lên, lập tức nắm chặt lấy miệng túi da như đoạt được vàng vậy.

Dương Hạo cười ha ha lên: "Lão trượng thích vậy ta tặng luôn cho ông. Nhưng loại mĩ rượu này Dương mỗ cũng chỉ có một túi, uống hết rồi sẽ không có nữa đâu, lão trượng vẫn phải tiết kiệm chút nhé, muốn thì uống một ngụm cho đỡ thèm là được rồi."

Dương Hạo thực ra là không có rượu ngon, túi rượu này là khi lui quân ở cửa Phù Vân Cốc, hắn đã tiện tay nhặt lấy trong đám đồ đạc dân chúng đã bỏ lại, hắn vốn tưởng rằng đó là một túi nước, mang theo để phòng chạy trốn giữa đường khát nước không chịu được, nhưng khi vào trong rừng thì mọi thứ đã thay đổi, không hề thiếu nước, cho nên túi rượu này cũng không bị bỏ đi.

Lý Quảng Sầm gật gật đầu, vội vàng uống một hớp, hắn nheo mắt lại, ngậm hớp rượu một lúc để thưởng thức vị tinh tế của rượu rồi mới nuốt xuống, khuôn mặt màu xám đỏ của hắn lộ ra một nụ cười đầy thoả mãn

Một đại hán trở về, xách theo ba con gà rừng và một con thỏ, Lý Quảng Sầm gọi hắn lại, lấy con thỏ và một con gà từ trong tay hắn ra đặt trước mặt Dương Hạo nói: "Của ngài đó."

Dương Hạo biết hắn đang lấy vật đổi vật, nên cũng không từ chối, liền nhận hai con mồi. Lý Quảng Sầm vui vẻ, hắn ngửi ngửi mùi rượu, rồi đậy nút lại, đặt túi rượu vào trong lòng mình, vỗ vỗ như bảo bối vậy, một lúc mới hỏi: "Dương đại nhân, chúng ta còn bao lâu nữa mới có thể ra khỏi cánh rừng này?"

Dương Hạo nói: "Ta đã hỏi những quân sĩ quen thuộc địa hình gần đây, theo như tốc độ bây giờ thì ngày mai chúng ta có thể ra ngoài. Đến lúc đó tốc độ sẽ nhanh hơn nhiều, ngoài việc đi về hướng tây của rừng chúng ta còn phải đi vào một mảnh đất khô cằn trước không có thôn sau không có quán nữa, có lẽ mọi người sẽ phải vất vả mấy ngày, nhưng sẽ không cần phải lo lũ chó Khiết Đan truy đuổi, sẽ tốt hơn nhiều mấy ngày trước.

Lúc này một binh lính vội vàng tìm đến, nghiêm nghị nói: "Dương đại nhân, Hách tướng quân mời ngài đến một lát."

----- Dương Hạo gật đầu chào Lý Quảng Sầm, đứng dậy bước đi, Lý Quảng Sầm nhìn theo bóng hắn, lòng có chút do dự, vội gọi: "Dương đại nhân."

Dương Hạo mỉm cười xoay người lại hỏi: "Lão trượng còn có chuyện gì sao?"

Lý Quảng Sầm trịnh trọng nói: "Đại nhân nếu như sớm nam hạ, thì tất sẽ thái bình. Nhưng lúc này mới ép dân chúng quay về phía nam, khó khăn lại trùng trùng. Khi lão phu còn trẻ đã từng bị người ta truy sát, đại mạc thảo nguyên, hoang sơn dã linh đều đã từng là nơi ẩn trốn của ta. Không phải là đến được những vùng dễ đi thì tốc độ sẽ nhanh hơn, nếu con người càng mệt mỏi thì tốc độ càng chậm.

Đặc biệt là khi đến hoang nguyên bốn phía không thấy bến bờ thì người có ý trí kiên cường cũng sẽ rơi vào tuyệt vọng, liệu có thể nhanh hơn được ai. Những bách tính bình thường đa phần cả đời không ra khỏi cửa, thì sự tuyệt vọng khi bản thân rơi vào tử cảnh sẽ đáng sợ hơn cả khi gặp kị binh Khiết Đan, một khi đã xảy ra rối loạn thì hậu quả sẽ rất khó lường.

Nụ cười trên mặt Dương Hạo đã biến mất, Lý Quảng Sầm lại nói: "Trong rừng có quả dại rau dại để hăn, miễn cưỡng còn có thể qua được ngày, nhưng một khi đã đến hoang nguyên, lại thiếu lương thực, trong lòng sẽ nảy sinh sự tuyệt vọng, bụng lại không có gì ăn, đến lúc đó...Hơn nữa, bây giờ chỉ toàn ăn các loại quả dại rau dại, ăn gió nằm sương, nên đã có người ngã bệnh, thời tiết nóng như vậy, người lại đông, một khi phát sinh dịch bệnh thì sẽ vô cùng nguy hiểm."

Dương Hạo càng nghe sắc mặt càng trầm xuống, Lý Quang Sầm nói: "Dương đại nhân, kẻ địch của ngài và kẻ địch của Trình đại nhân không giống nhau, nhưng sự nguy hiểm đáng sợ lại không hề kém kẻ địch của hắn, thậm trí khó khăn còn lớn hơn hắn. Có thể đưa mọi người thoát ra hay không thì lần này ngài phải đấu với trời, đấu với người, đấu với chính mình và đấu với sinh mạng. Không được khinh xuất."

Dương Hạo hơi ngẩn người ra, nghiêm nghị làm lễ nói: "Đa tạ lão trượng đã nhắc nhở, Dương mỗ hiểu rồi."

Hắn quay người, vừa bước đi mấy bước thì thấy cách đó không xa, Trình Đức Huyền bị Lưu Thế Hiên trông giữ đang chắp hai tay lạnh lùng nhìn hắn, ánh mắt giống như một con kền kền đang bay thâm thấp để chờ người ta chết sẽ lập tức bay xuống hút máu, thấy vậy hắn không khỏi rùng mình.

 Chương 147: Địa ngục, thiên sứ.

Dương Hạo đã từng thử hai ngày không ăn cơm xem mùi vị thế nào, thực ra cũng không có gì là to tát lắm, chỉ có hơi đói một chút. Trước đây hắn chưa từng thử ba bữa không ăn cơm có giác gì, mà bây giờ cả ba ngày mỗi bữa chỉ cùng Phạm Lão Tứ và Lưu Thế Hiên uống một bát cháo loãng, trong bụng luôn không có gì nhét đầy vào, hắn cảm thấy mắt mình xanh đi.

Đói cũng chỉ là một chuyện, hoang nguyên buồn tẻ, mênh mông vô hạn làm cho tinh thần người ta mệt mỏi, không có cách nào chịu nổi. Ba ngày rồi, bất kể là có đi bao nhiêu dặm, mọi người nhìn hướng về phía xa, nhưng tất cả những cảnh tượng mà họ nhìn thấy chỉ là một mảnh đất cằn cỗi, cơ hồ như không có bất cứ một thứ gì khác, nó làm cho người ta có cảm giác bi thương, dường như ba ngày rồi mà chẳng đi được bao xa.

Dương Hạo nhớ tới ở kiếp trước hắn đã từng nhìn thấy trên một cuốn tạp chí có nói đến một phương pháp thi hành hình phạt tàn khốc nhất, phương pháp đó không phải là móc hàm treo lên cây, cũng không phải là dùng sắt đốt đỏ hay nước sôi, mà là dùng một căn phòng tuyệt đối yên tĩnh, cho người ta vào đó không nghe không hỏi gì cả, chỉ trong mấy ngày tinh thần người đó sẽ sụp đổ, rồi đối mặt hỏi thì sẽ không có bất kì bí mật nào có thể giấu được.

Dương Hạo luôn không thể lí giải được phương pháp này rốt cuộc có gì mà đáng sợ thế, nhưng bây giờ có lẽ hắn đã hiểu. Một cảnh tượng thảo nguyên hoang vu không một chút thay đổi này chẳng có gì khác căn phòng không có nửa tiếng động cả. Chúng đều có thể phá huỷ hoàn toàn ý chí của con người, làm người ta muốn vứt bỏ hết tất cả, nằm xuống chỗ nào đó chờ chết.

Con đường họ đang đi giống như một chữ "C", sau mấy trận hỗn loạn, bây giờ cần phải quay về hướng khởi đầu, rồi tiếp tục hướng về phía tây nam, chỉ đi trên con đường oan uổng này đã đủ làm cho người ta tan thương rồi. Lại còn đói, tuyệt vọng, mặt trời thì lại nắng chói chang. Như gặp quỷ vậy, không những cảnh vật bốn phương không có một chút thay đổi, mà mặt trời rực rỡ trên bầu trời cũng luôn ở một chỗ, như nuốt mất từng giọt nước trên cơ thể họ.

Cho dù khi họ rời khỏi rừng cây đã mang tất cả đồ dùng ra đựng đầy nước, hơn nữa nhiều lần nhắc nhở dân chúng phải dùng tiết kiệm, nhưng nhiều dân chúng không hiểu được sự nghiêm trọng của việc này nên mới có ba ngày mà rất nhiều người đã không con chút nước nào. Ngoài số ít người đã từng viễn hành nhịn cơn khát nên để dành lại được chút nước thì những người khác chỉ có thể trơ mắt ra trông chờ mỗi ngày quân nhân phát cho họ ít nước để sống. Thời tiết quá nóng, mọi người đụng chạm vào nhau còn nóng hơn, trong cổ họng như muốn phát hoả.

Ba ngày tới, mọi người cũng chỉ biết đờ đẫn nhìn về phía trước, chậm chạp đi theo những bước chân của người khác, khi có người ngã gục xuống cho dù là người thân thì họ cũng không có sức mà đỡ dậy. Có người nhân lúc đêm xuống mà tháo chạy, nhưng người tháo chạy thì chỉ có chết nhanh hơn thôi, đại đội quân không chừng khi đi đến chỗ đó thì sẽ thấy trên sa mạc có một thi thế bị mặt trời chiếu khô, cơ thể này đã mục khô không thể nào nhận diện được, một ngày trước hắn vẫn là một thành viên trong đoàn người.

Binh sĩ bây giờ cũng không có gì khác dân chúng, những vật mà họ phải mang theo đều đã vứt hết, bao gồm cả áo giáp, duy chỉ có một điều làm người ta an ủi đó là họ dù sao cũng là một chiến sĩ lăn lộn trên chiến trận, họ vẫn còn có thể duy trì được sự giám chế, nghe theo mệnh lệnh, nên lúc này toàn đội ngũ không bị tan vỡ.

Mặt trời cay độc đã xuống núi, nhưng những cơn gió chầm chậm thổi tới một luồng hơi nóng hầm hập, mọi người không còn sức lực nằm lăn lóc trên cát, chỉ còn lại một chút nước lại không nỡ uống mà chỉ dám liếm liếm một chút, ai biết được ngày mai có thể tìm thấy được nguồn nước không, bây giờ mỗi người đều biết nước vô cùng quý giá.

Con đường họ đi là một dòng sông cổ, chất kiềm ở phía dưới lớp bùn đất nổi lên làm nơi này trở thành một vùng khô cằn, cát đất có kiềm theo gió thổi bay khắp nơi, đến nghìn trăm năm sau đã làm cho đám cây cối vốn đã hiếm có chết đi và biến vùng này thành sa mạc, ngay cả những cây dại có sức sống kiên cường nhất cũng không còn mấy. Trên dòng sông cổ này có một số cái cây không biết đã sống cách đây bao nhiêu năm đang nằm ngửa trên mặt đất, có thể thấy ở đây đã từng có sự sống.

........Lương thực, đó chính là thứ duy nhất mà binh sĩ không vứt bỏ đi, bây giờ Dương Hạo đã thực hành việc quản chế quân sự, lương thực sẽ do binh sĩ bảo quản, thống nhất sử dụng, mỗi ngày sẽ nấu cháo, bất kể là binh tướng sĩ hay là dân chúng thì mỗi người đều chỉ được một bát, nó có thể miễn cưỡng duy trì sự sống, sẽ không để người ta phải chết, nhưng một bát cháo loãng cho vào bụng lại càng làm tăng cơn đói lên, khiến người ta đói đến mức muốn ăn cả thịt người.

...... Trình Đức Huyền vốn luôn mang một điệu cười nham hiểm, đợi xem trò cười của Dương Hạo, nhưng bây giờ hắn ngay cả sức để thù hận cũng không còn, đội quân dừng lại hắn liền bổ nhào xuống mặt đất thở hổn hển, tiết kiệm từng phần thể lực của mình. Lúc này ngay cả hắn, kẻ luôn ngóng chờ thất bại của Dương Hạo cũng mong mỏi có thể sớm một ngày ra khỏi nơi này. Hắn không sợ chết, nhưng hắn không ngờ rằng sự dày vò này lại làm cho con người ta đau khổ đến vậy.

.......Ở phía bên trái một mảnh đất có mọc thưa thớt mấy bụi lau, cỏ lau là loại cây có thể chịu khô nước nên vẫn sống được. Có một số người đang đào mấy bụi lau lên, phía dưới lớp đất cát có chút ẩm ướt, không chừng rễ của những cây cỏ lau này lại có thể ăn được.

Dân chúng phân tán đi tìm thức ăn thì phát hiện có một vũng nước bùn, không to lắm, rộng khoảng hai trượng, nước ở đấy vốn không phải là đục lắm nhưng vì bị họ nhảy vào tranh cướp nên trở thành bãi nước đục ngầu. Nhưng cho dù là nước bùn đục thì trong mắt họ nó vẫn là thứ quý giá. Họ tiếp tục đánh giết nhau, chỉ đến khi binh lính dùng gươm đao can thiệp thì mới dẹp được trận chiến sinh tử.

Vũng nước đục ngầu đó rất nhanh đã bị bọn họ chia cắt ra, những dân chúng vừa nghe được tin tức thì ngồi một cách tuyệt vọng trên bờ, một người có khuôn mặt đôn hậu trên dưới tam tuần đang cầu xin người ta cho dù chỉ là một giọt nước, hắn nói con hắn còn chưa đến một tuổi, mẹ nó lại không có sữa...

Hắn ấp a ấp úng chưa nói hết lời thì nước đã bị người ta uống cạn, hắn chỉ có thể chán nản xoay người trở về. Có mấy người không cam tâm lại đào bới mặt đất hi vọng có thể tìm thấy dù là một con giun. Trong đó có một người trung niên trông khá mập mạp, mặc một chiếc áo vải lụa nhàu nát, còn có vân kim tuyến ở trên, xem ra đó là một viên ngoại. Nhưng tiền của hắn bây giờ không thể sai khiến được những kẻ hầu mà trước đây như những con chó con chỉ suốt ngày ngồi xổm dưới chân hắn chờ nghe lệnh nữa, từng người đang vì một miếng ăn, một hớp nước mà tranh đoạt nhau, không phân biệt cao thấp giàu nghèo, bây giờ thật sự chúng sinh đã bình đẳng...

Quan binh bắt đầu phát nước uống, tuy chỉ có một ít, thật sự là rất ít, nhưng dân chúng vẫn phải chen nhau đi xếp hàng.

Lão đạo Phù Diêu Tử cẩm một chút nước quý báu của hắn chen ra khỏi đám người, có chút mờ mịt nhìn vào đám dân nửa người nửa quỷ kia, trong mắt có chút thương cảm, nhưng hắn cũng bất lực.

Khi hắn ở Tiết Cốc, có thể nội trong một buổi sáng không ăn không uống, công phu mà hắn tu luyện đã đến mức binh sĩ tinh luyện khó có thể làm hắn bị thương. Nhưng hắn dù sao cũng không phải là thần tiên, hắn không thể hô phong hoán vũ làm cho nơi này rơi xuống một cơn mưa giảm cái nắng hạn, hắn cũng không biết thuật Ngũ Quỷ Chuyển Mây, để đem tất cả chỗ dân chúng này ra khỏi tuyệt cảnh. Với cái tuổi đã gần một trăm của hắn thì khi ở Hoa Sơn hắn có thể nhẹ nhàng hành tẩu như thường. Nhưng hắn đang ở trên một hoang mạc, cũng không thể bay trên đất liền một ngày cả trăm dặm. "Đạo sĩ gia gia, ta đã lấy được nước rồi, chúng ta về đi." Cẩu Nhi kéo tay áo lão đại sĩ. Mấy ngày nay Cẩu Nhi và lão đạo sĩ cả ngày chỉ thích ngủ này đã trở thành đôi bạn không tuổi nương tựa vào nhau. Phù Diêu Tử đang thất thần chợt tỉnh lại, hắn đem nước của mình đổ vào trong bát của Cẩu Nhi, tự thầm chế giễu cười: "Ai sẽ nhớ tới hắn, hắn là kẻ đã được bách tính gần Hoa Sơn tôn làm chân nhân, là lão đạo trăm tuổi Thuỵ Tiên Nhân, giờ đây cũng có một ngày thê thảm như vậy, dưới thiên uy ai có thể chống lại chứ?

Chính vào lúc này, hắn đã nhìn thấy Dương Hạo.

Dương Hạo nhăn mày, bước từng bước trên cát nóng bỏng. Hắn rất kì lạ, bản thân sao lại có sức sống mãnh liệt đến vậy, một người trước nay chưa từng phải chịu cái khổ nào như hắn lại vẫn có thể đứng được, sau khi dừng đoàn quân lại vẫn có thể chống chọi mà đi xem xét tình hình một lượt. Có lẽ chỉ vì trong đầu hắn luôn có một ý chí chống chọi, hắn biết mình lúc này không thể gục xuống, nếu như hắn cũng ngã khuỵu thì mấy vạn người này liệu có một người nào có khả năng đi ra khỏi đây không, tất cả mọi người sẽ phải phơi xác trên dòng sông cổ này.

Lúc này, mọi lời an ủi, cổ vũ đều vô hiệu, trên thức tế lúc này không có một người dân nào muốn nghe theo những lời hắn đảm bảo, cũng không còn sức đứng dậy gây chuyện nữa. Dương Hạo đi qua cửa thấy lão giả và mười mấy đại hán đang ngồi trong đám dân chúng, bọn họ cũng mệt mỏi không còn ra dáng người, nhưng ít nhất họ còn có kinh nghiệm sống tại chốn hoang vu. Ở đây cho dù bản lĩnh của họ cũng không thể săn bắn được gì, nhưng trước khi rời khỏi rừng rậm họ đã giữ trữ một ít thức ăn và nước, nên trông sắc mặt họ vẫn khá hơn nhiều so với đám dân chúng kia.

Thấy ánh mắt Dương Hạo hướng về phía mình, Lý Quảng Sầm cười gượng với hắn một cái rồi lắc đầu.

Dương Hạo thở dài, xoay người trở về. Đột nhiên, hắn thấy một nam nhân nhân lúc trời tối kéo một nữ nhân chui vào trong một cái khe nhỏ, Dương Hạo rất sửng sốt, lập tức nắm chặt thanh đao ở eo đi theo vào trong.

Hắn luôn lo lắng có người vì tuyệt vọng mà bộc lộ bản tính ti tiện vô sỉ ra, làm những chuyện ác động trời oán người oán, nhưng từ trước đến nay trong đội quân vẫn luôn được coi là khá bình yên, nhưng không ngờ chuyện hắn lo lắng nhất đã xảy ra. Chu này một khi đã phát sinh thì lập tức sẽ truyền nhiễm như ôn dịch, sẽ biến tất cả mọi người thành kẻ điên. Hắn tuyệt đối không thể để những chuyện như thế này xảy ra, hắn thậm chí còn không kịp gọi thêm mấy binh sĩ, vội vàng đi theo họ.

Khi chạy tới chỗ khe sâu đất vàng, Dương Hạo chân trượt một cái và làm lăn những lớp đất cát xốp xuống sườn dốc. Hắn dừng bước lại, ngẩng đầu lên nhìn, chỉ thấy trong khe động không xa có một người phụ nữ đang bị đẩy xuống đất, người nam nhân đó xông tới, vừa vội vàng cởi áo ra, vừa ôm vừa hôn người phụ nữ.

Dương Hạo vô cùng tức giận xông lên đá nam nhân kia ra, cầm thanh đao gí vào cổ hắn quát lớn: "Gan chó của ngươi thật lớn, đang làm gì vậy?"

Người đó bị Dương Hạo đã văng ra, nằm dưới đất cát thở hổn hển, nhìn hắn chắc khoảng trên dưới 30 tuổi, dung mạo có chút thô tục, nhưng cơ thể thì lại rất tráng kiện, hắn liếm liếm môi hét lên: "Ngươi...ngươi đang làm gì vậy, ngươi dựa vào cái gì mà phá hỏng chuyện tốt của lão tử?"

Dương Hạo áp mũi đao lại gần, quát lớn: "Bản quan sớm đã có lệnh, kẻ nào to gan dám *** phụ nữ thì giết! Lẽ nào ngươi không nghe thấy sao?"

Người kia cười lớn nói: "Người nào*** phụ nữ cơ? Ta và ả một người muốn đánh một người không muốn chống cự, chúng ta không muốn chết như vậy, chúng ta muốn trước khi chết thì được sống, việc của nguơi à?"

"Sao cơ?" Dương Hạo ngẩn ra, quay đầu nhìn người phụ nữ, nàng ta chắc khoảng 27, 28 tuổi, tuy trên mặt đầy bụi bặm của đoạn đường bôn ba, y phục cũng bẩn thỉu do lầy lội, nhưng nhìn nàng cũng có chút sắc đẹp, nàng đang nửa che nửa hở chỗ ngực bị cởi, mơ hồ lộ ra một một bả vai trắng ngần, cơ thể như một viên ngọc châu, có chút mùi vị phụ nữ đã chín muồi.

Vì Dương Hạo đột nhiên xông vào nên người phụ nữ này vội vã ngồi dậy che vạt áo, cúi đầu không dám ngẩng lên.

Khuôn mặt ửng đỏ. Nam nhân đó khuôn mặt đầy vẻ lưu manh nằm dưới đất, lấy ra từ trong lòng một túi và lắc lắc, trong bình vang ra tiếng của nước. Lúc này âm thanh đó quả thật như tiếng tiên nhạc, có thể làm say tâm trí con người. Người phụ nữ đó lập tức ngẩng đầu dậy, nhìn vào túi nước mà hắn đang nắm chặt trong tay, liếm liếm đôi môi đang khô nứt, trong ánh mắt lộ ra vẻ thèm khát.

"Nàng cho ta tấm thân của nàng, ta sẽ đưa chút nước này cho, bây giờ một miếng nước ngay cả hoàng kim cũng không thể đổi được, trao đổi này rất công bằng, nói không chừng nàng còn có lợi hơn ý chứ. Thế nào? Nàng muốn thì cứ tới đây."

Người phụ nữ nuốt nước bọt do dự liếc nhìn Dương Hạo một cái, nam nhân kia cười ha ha: "Con mẹ nó, thật buồn cười, mạng sắp mất rồi còn sợ người khác nhạo báng ư? Nếu nàng không muốn thì ta sẽ uống hết, đến lúc đó đừng có hối hận đấy."

Nam nhân vừa nói vừa mở nút túi nước, làm bộ chuẩn bị uống, người phụ nữ kia hét lên: "Ta muốn, đem túi nước kia cho ta, cho ta!" Vừa nói xong thì đứng dậy lao bổ tới cướp túi nước.

Dương Hạo ngẩn người ra, thu đao lại, không còn sức lực mà chúc mũi đao xuống đất, nam nhân kia đắc ý nhìn hắn một cái, rồi bế người phụ nữ kia đặt xuống đất. Ngay trước mặt Dương Hạo, hắn xé bỏ y phục của người phụ nữa. Người phụ nữ nằm dưới đất đã hoàn toàn không còn để ý tới việc mình bị lột sạch y phục trước mặt một nam nhân khác, nàng chỉ ôm chặt lấy túi nước vào lòng, nhắm chặt hai mắt, chỉ nghe thấy tiếng nam nhân như con dã thú ở trên người.

Khi toàn bộ y phục bị cởi ra, để lộ một cơ thể trắng nõn nà, Dương Hạo liền quay người đi, tai nghe thấy những tiếng thở gấp gáp từ phía sau vọng lại, hắn dùng đao lê xuống dưới lớp bùn đất, khó khăn lắm mới trèo ra được sườn khe, đi về phía doanh trại của mình, hoàn toàn không quay đầu lại.

Mấy tướng lĩnh La Khắc Địch, Hách Long Thành, Từ Hải Ba đang ngồi vây xung quanh thương nghị cái gì đó, vừa nhìn thấy hắn đến liền vội vã đứng dậy. La Khắc Địch giọng khàn khàn nói: "Dương đại nhân, mảnh đất khô cằn này chúng ta chưa ai từng đến, cần mấy ngày nữa mới có thể ra khỏi được thì không ai biết, bây giờ cho dù binh sĩ của chúng ta cũng...lương thực và nước uống không thể chống cự được mấy ngày nữa, cứ tiếp tục thế này e rằng..."

Con đường này là do hắn chọn, cho dù cũng từng có người chửi rủa hắn sao lúc đầu không đi về Minh Cố, cho dù bị người Khiết Đan sớm đã chờ sẵn ở đó giết sạch thì cũng chết nhanh hơn, sẽ tốt hơn kiểu chịu tội nửa sống nửa chết như thế này. Nhưng đám tướng lĩnh này lại chưa từng có lời oán trách hắn. Dương Hạo không nói gì, nhưng trong lòng lại vô cùng cảm kích. Nghe La Khắc Địch nói xong hắn xấu hổ thở dài, nói: "Đây đều là lỗi của ta, thật không ngờ chặng đường tháo mạng này không những làm tiêu tốn hết số quân nhu mà còn làm cho thể lực của mọi người cũng tiêu hao đi nhiều, đã không thể chống đỡ nổi bôn ba như thế, là ta đã kéo mọi người vào con đường tuyệt vọng."

La Khắc Địch vọi nói: "Đại nhân đừng nên nói như vậy, người Khiết Đan đã nắm vững ý đồ của đông tiến của chúng ta, mà cách Minh Cố lại là một cách đồng 200 dặm bát ngát, là địa điểm tốt để chúng đi săn, chúng không ở chỗ nào đó bày binh mai phục chờ chúng ta sa lưới mới là lạ đó. Muốn trách chỉ trách chúng ta không sớm nghe theo lời đại nhân khuyên can, nếu như sớm nam hạ về phía tây thì với những quân lương của chúng ta cũng sẽ không rơi vào cảnh chật vật như thế này."

Dương Hạo cười gượng nói: "Bây giờ nói những điều này thì có ích gì? Không những dân chúng đang tuyệt vọng, thực ra ngay cả ta...ôi!"

La Khắc Địch nói: "Dương đại nhân, mạt tướng đang cùng chư vị tướng quân thương nghị, nếu chúng ta tiếp tục đi như vậy thì chỉ có con đuờng chết. Ta nghĩ hay chúng ta phái người ra ngoài, nghĩ cách vận lương cứu viện. Như vậy chúng ta sẽ có hi vọng, có thể chống chọi được thêm mấy ngày, đi cũng sẽ nhanh hơn. Nếu như chúng ta bên này đi tới, đồng thời đội vận lương cũng tiếp ứng đến thì chặng đường sẽ giảm được một nửa, không chừng có thể cứu vãn được tính mạng của chúng ta."

Dương Hạo nhìn hắn, không nói lời nào.

La Khắc Địch kì quái nói: "Dương đại nhân, ngài làm sao vậy?"

Dương Hạo chua chát nói: "Phái mấy người ra ngoài thì được. Nhưng mọi người nhìn mảnh đất hoang vu này xem, có thể có bất kì một đánh dấu hay nhận dạng đường đi không? Phái người đi, họ mang được lương thực về, nhưng làm thế nào để liên lạc được với chúng ta, làm thế nào để biết chúng ta đang ở đâu, làm sao có thể tiếp ứng cho chúng ta? Trên một mảnh đất không có bất cứ thứ gì có thể làm dấu được, cho dù họ có mang theo cả vạn người, chia nhau đi tìm chúng ta thì hai bên cũng không thể phát hiện ra được đối phương.

Mấy vị tướng quân nghe đến đó cũng ngẩn ra, sự hứng khởi trên mặt lập tức tan biến, La Khắc Địch cũng không khỏi ủ rũ, làm thế nào để liên lạc đây? Làm thế nào để liên lạc? Hắn cười cay đắng, chán nản ngồi sụp xuống đất. Mấy người đó hoặc ngồi hoặc đứng, ngẩn ngơ không nói như một tảng đá, một khúc gỗ. Ánh mặt trời chiếu vào người, kéo dài bóng của họ ra, càng kéo càng dài.

Đêm đã khuye, Dương Hạo gối đầu lên đất cát vừa với mơ màng thiếp đi thì Phạm Lão Tứ vội vã đi tới, thấp giọng nói: "Đại nhân, đại nhân, mau đứng lên."

Dương Hạo bị làm cho tỉnh giấc, hắn ngồi vụt dậy, ngạc nhiên hỏi: "Xảy ra chuyện gì vậy?"

"Đại nhân chớ có lên tiếng." Phạm Lão Tứ nhìn xung quanh, gấp gáp nói: "Đại nhân, sang một bên nói chuyện."

Dương Hạo vội vàng đứng dậy, đi theo hắn sang một chỗ, Phạm Lão Tứ nói: "Đại nhân, vừa mới có một người chết."

Mấy ngày nay ngày nào mà chẳng có mấy người chết? Dương Hạo có chút tê người, hắn ngạc nhiên nói: "Người chết là ai, là tướng lĩnh trong quân chúng ta sao?"

Phạm Lão Tứ lắc đầu nói: "Không phải, là một người dân. Nhưng đạo sĩ mà chúng ta bắt được nói người này mắc phải ôn dịch. Đại nhân, ty chức cũng thấy giống, nghe người nhà hắn nói, sáng hôm nay hắn vẫn rất khoẻ, nhưng xế chiều lại đổ bệnh, kết quả là mặt trời vừa lặn thì hắn đã chết rồi. Đại nhân, trong đoàn người chúng ta nếu như đã sinh ra ôn dịch thì quả thật là gọi trời trời không đáp, gọi đất đất không linh, thuộc hạ không dám làm to chuyện, bằng không một khi tin tức truyền ra, sợ rằng ngay cả sĩ tốt của chúng ta cũng sẽ chạy trốn một nửa."

Dương Hạo trong lòng trở nên căng thẳng, vội nói: "Đi, chúng ta đi xem một chút, đã có ai biết chuyện này rồi?"

Phạm Lão Tứ vừa đi vừa nói: "May là bây giờ bất kể có người sinh bệnh hay chết đi thì người bên cạnh cũng chẳng buồn hỏi. Bây giờ ngoài ta, Lưu Thế Hiên và mấy tên thị vệ tuyệt đối tin tưởng ra thì chỉ có người nhà kẻ đó và lão đạo sĩ biết, ta đã khống chế tất cả họ rồi. Đại nhân, chuyện đã quá cấp bách, không thể có dạ đàn bà được, ngài xem chúng ta có nên đem tất cả người nhà kẻ đó và lão đạo sĩ..."

Nắm đấm tay hắn hung hăng giơ xuống đất, Dương Hạo đột nhiên đứng lại, nhưng không phải nhìn về phía hắn mà nhìn tới một đống lửa cách đó vài bước, bên cạnh đống lửa có mấy người đang nằm ngủ, có hai người đang ngồi, hắn đột nhiên cảm giác một bóng người trong đó có một chút quen thuộc, làm cho hắn không khỏi bước chậm lại.

Đó là một phu nhân, từ góc độ của Dương Hạo, chỉ có thể nhìn thấy một bên mặt nàng, đó chính là người lúc sẩm tối vì một miếng nước mà đã bị tên vô lại đó làm nhục. Nàng ngồi khoanh chân lại, trong lòng ôm một đứa trẻ, bên cạnh có một nam nhân đang quỳ, hắn dùng toàn thân để che túi nước, lén lút cho đứa trẻ uống mấy ngụm, rồi vội vàng giấu túi nước vào trong lòng, nhìn thấy trên miệng đứa con trai còn vương ít nước, khuôn mặt đôn hậu của hắn lộ ra một vẻ vui mừng: "Nương tử, may mà có nàng, nếu không thì con trai chúng ta đã...chỗ nước này nàng lấy ở đâu ra vậy, đây chính là nước đã cứu mạng chúng ta."

Phu nhân đó áp má mình vào má đứa trẻ, yếu ớt nói: "Nước này là...là nô gia đã xin được từ một người hảo tâm."

"Là ai mà có lòng tốt như vật, ta đã từng nói hết lời với người ta mà vẫn không thể xin được chút nước nào. Chiều này, Ngưu lão gia phải dùng hai đĩnh vàng mới đổi lại được một túi nước đấy. Nương tử, ân tình của người ta lớn như vậy, nàng nên dẫn ta đi cảm tạ người ta mới phải."

"Việc này...ừm..." Vị phu nhân nói ấp a ấp úng, tinh thần có chút hỗn loạn, chính vào lúc này, bọn họ chợt chú ý tới Dương Hạo đang đứng yên lặng một bên nhìn. Nam nhân đó vội giấu túi nước vào trong ngực, sợ bị hắn cướp đi. Còn vị phu nhân đó đã nhận ra Dương Hạo, cho dù bây giờ Dương Hạo không mặc quan y, không đeo đao , nàng nhìn một cái vẫn có thể nhận ra.

Khuôn mặt nàng đột nhiên trắng bệch ra như tuyết, mặt cắt không còn giọt máy, nàng giống như một tù nhân đợi chết, nhìn Dương Hạo một cách tuyệt vọng, cơ thể không khỏi phát run, ánh mắt lộ ra một vẻ cầu xin đau xót.

Dương Hạo đã hiểu được, hắn nhìn nam nhân đó, lại nhìn đứa con chưa đầy tuần tuổi trong lòng, mắt có chút nóng lên, hắn từ từ đi lại gần, nhẹ giọng nói: "Đại tẩu, ở đây buổi sáng tuy nóng, nhưng buổi tối lại lạnh, cẩn thận đừng để đứa trẻ bị phong hàn."

Nhẹ nhàng nựng má của đứa trẻ, Dương Hạo lại cười với nam nhân đó: "Nước, là bản quan cho đại tẩu, tiếc là... Ta cũng chỉ có một chút này thôi, cố gắng kiên trì tiếp nhé, cho dù thế nào ta cũng sẽ nhất định đưa mọi người ra khỏi đây, nhất định thế!"

Hắn nhẹ nhàng vỗ vào vai nam nhân, rồi từ từ đứng dậy bước về phía trước. Phạm Lão Tứ đi theo phía sau, nhìn thấy Dương Hạo đang bước đi, đột nhiên giơ tay áo lên xoa xoa khoé miệng...

Cái tử thi đó đã được người của Phạm Lão Tứ bí mật đêm đến một góc hẻo lánh, còn người nhà của hắn đã được tập trung lại, khóc nhỏ nức nở. Lão đạo Phù Diêu Tử đang ngồi khoanh chân dưới đất, vẫn còn bộ dạng nửa tỉnh nửa ngủ, trên mặt có chút nặng nề

Dương Hạo bước lại, chắp tay nói: "Đạo trưởng, xin mời qua bên này nói chuyện."

Phù Diêu Tử vuốt cằm, đứng dậy theo hắn sang một bên. Phạm Lão Tứ ra một hiệu lệnh kì quái với thủ hạ của hắn, đám binh lính lập tức tản ra bốn hướng, âm thầm hình thành một thế bao vây xung quanh họ, tay cũng nắm chặt đao hơn, mắt Phù Diêu Tử lướt qua, lơ đễnh nhìn sang Dương Hạo

Dương Hạo trịnh trọng hỏi: "Đạo trưởng thông y thuật?"

Phù Diêu Tử vuốt cằm một cái nói: "Bần đạo đối với thuật Đan Thạch Kỳ Hoàng có biết một chút ít."

Dương Hạo lại hỏi: "Người đó...quả thật là bịôn dịch sao?"

"Đúng vậy, bệnh ôn dịch này phát tác rất nhanh, một khi sinh bệnh chỉ cần nửa ngày có thể phát tác, mất mạng cực nhanh, lợi hại hơn cả binh đao."

Dương Hạo lòng trầm xuống, đi qua đi lại mấy bước, nói: "Dịch chứng, một khi đã truyền ra..., đạo trưởng, bây giờ, ta muốn hỏi là người nhà của hắn có khả năng bị nhiễm bệnh không?"

Phù Diêu Tử lắc đầu nói: "Bây giờ vẫn chưa có triệu chứng truyền nhiễm, có điều mấy vạn người này có bị lây truyền ôn dịch hay không thì vẫn chưa thể biết được."

Dương Hạo nhăn mày nói: "Điều bản quan lo lắng chính là điều này. Mấy vạn dân nếu như ôn dịch nảy sinh thì sẽ lan tràn rất nhanh."

Hắn bỗng ngẩng đầu lên, hỏi: "Đạo trưởng đối với bệnh này có cách nào trị không?"

Phù Diêu Tử thở dài một tiếng, lắc đầu nói: "Bần đạo có thể trị, nhưng không có thuốc, bần đạo cũng chịu thôi."

Dương Hạo buồn rầu ngẩng đầu lên, nhìn bầu trời với những ngôi sao đang lấp lánh, cười đau khổ nói: "Những điều ta có thể làm ta đều đã làm hết rồi. Những chuyện còn lại đành phải xem người thôi, mong trời rủ lòng thương cho chúng ta một con đường sống."

Hắn quay đầu gọi: "Phạm Lão Tứ."

Phạm Lão Tứ lập tức lên tiếng và chạy tới, tay nắm chặt đao, ánh mắt đầy sát khí nhing Phù Diêu Tử, nói: "Đại nhân xin ra lệnh."

"Ngươi đem theo mấy người, dùng vải che miệng bịt mũi, chuẩn bị chút củi rồi đem thi thể đi thiêu."

"Vâng, đại nhân, nhưng..." Dương Hạo vốn đã chuẩn bị rời đi, thì nghe thấy lời nói lấp lửng liền quay đầu lại, chỉ nhìn thấy Phạm Lão Tứ đang nháy mắt ra hiệu với hắn, rồi hướng về lão đạo sĩ, Dương Hạo chợt hiểu ra, vỗ trán quay người nói: "Đúng rồi, mấy ngày nay mệt mỏi quá nên cũng hồ đồ rồi."

“Người nhà của người đó và vị đạo trưởng này ngươi đem họ đi cách đoàn quân ra rồi trông chừng họ, nếu như sáng mai không có dấu hiệu khác thường gì thì mới thả cho họ tự do. Nhưng phải cực kì nghiêm ngặt, không được để họ tung tin ra, gây hỗn loạn khủng hoảng."

Phạm Lão Tứ ngẩn ra, đành phải miễn cưỡng đáp đồng ý. Phù Diêu Tử có chút kinh ngạc, khi nhìn lại Dương Hạo thì ánh mắt trở nên khác thường.

Dương Hạo lòng đầy phiền não trở về, hắn tưởng tượng tới hình ảnh mấy vạn dân bị nhiễm ôn dịch rồi lần lượt chết, không khỏi rối bời. Hắn chợt bừng tỉnh khi bị một người va vào, người đó kêu lên một tiếng, đứng không vững, ngã sấp xuống bên cạnh hắn, sau đó chỉ thấy một bóng nhỏ chồm lên người đó người đó lập tức kêu lên mấy tiếng rồi hất bóng đen đó ra, không ngờ tốc độ của bóng đen kia lại nhanh kinh người đến vậy, n lại chồm lên người đó, hung hãn cắn vào mặt hắn.

Dương Hạo chợt rùng mình, cứ tưởng là có một loại thú nhỏ nào đó đang làm hại người, liền nhìn gần lại, mới biết đó là một đứa trẻ đang nhảy lên trên người đó và hung hăng cắn, người đó liên tục đập đánh lại, tiếng kêu thảm thiết động trời, nhưng vẫn không thể hất được đứa trẻ đó ra, ở đằng xa có mấy người dân đang đứng lên nhìn, nhưng lại không có ai tới xem.

"Dừng tay lại cho ta!" Dương Hạo nghiêm giọng quát, rồi bước lên trên túm vào lưng đứa trẻ nhấc ra, đứa trẻ vừa nghe thấy giọng hắn lập tức vui mừng lớn tiếng gọi:" Dương Hạo đại thúc."

Dương Hạo lúc này mới nhận ra đứa trẻ như con sói nhỏ đấy lại chính là Cẩu Nhi, Dương Hạo vội hỏi: "Cẩu Nhi, cháu đang làm gì vậy?"

Cẩu Nhi vừa nhìn thấy hắn thì vẻ hung dữ trên khuôn mặt đã biến mất, cái miệng nhỏ nhắn của nó dẹt ra và khóc ầm lên, nói: "Đại thúc, kẻ xấu này nhân lúc mẹ Cẩu Nhi đang ngủ say liền lấy trộm túi nước. Nước mà quân gia mỗi ngày phát chỉ có một chút, là mẹ khó khăn lắm để dành lại phòng lúc nhỡ nhàng. Kẻ xấu này, Dương Hạo đại thúc, thúc phải giúp Cẩu Nhi."

Dương Hạo vừa nghe xong thì vô cùng tức giận, bước lên trước nắm cổ vai áo của hắn kéo lên, nhìn chằm chằm vào hắn, lòng càng phẫn nộ: "Lại là ngươi sao? Ngươi nghĩ đao của bản quan ăn kiêng ư? Dám để rơi vào tay ta."

Hoá ra người này chính là kẻ lúc sẩm tối đã lấy nước để đổi lấy tấm thân phu nhân đó. Tên khốn nạn này dám dùng nước của mình để phá hoại sự thanh bạch của người ta, rồi lại đi ăn trộm nước của người khác, Dương Hạo tức đến run cả người, nếu như lúc này trong tay có đao thì hắn nhất định sẽ chặt tên này ra làm hai nửa, không cần nói thêm lời nào nữa."

Người đó bị hắn túm chặt cũng phản kháng lại, chỉ cười ha ha nói: "Ngươi muốn giết ta à? Làm đi, làm đi. Đổng Thập Lục ta sớm đã biết không thể sống ra ngoài được, sống thêm một ngày cũng chỉ khổ thêm một ngày thôi, ta bây giờ cái gì cũng không sợ, lẽ nào lại sợ chết sao."

Dương Hạo nổi gi nói: "Nếu ngươi đã muốn chết thì tại sao lại còn lấy trộm nước của người khác?"

Kẻ đó thở dài, tlẩm bẩm nói: "Ta thật sự muốn chết..., cho nên mới muốn trước khi chết được sống vui vẻ một tí...ta muốn tự sát, nhưng lại không thể xuống tay tàn nhẫn với bản thân mình, khát quả thực là khó chịu, nên mới đi trộm nước. Bây giờ nếu đa rơi vào tay ngươi, ngươi cứ giết ta là tốt rồi. Dù sao thì ta cũng chỉ chết sớm trước ngươi một hai ngày thôi, các ngươi cuối cùng cũng sẽ đi theo ta, ha ha ha..."

Dương Hạo sát khí nổi lên, giọng đáng sợ nói: "Bản quan không chỉ muốn giết ngươi, mà còn muốn róc thịt ngươi, để ngươi lưu lại đây làm cô hồn dã quỷ, ngươi không cần phải lo cho chúng ta, chúng ta nhất định sẽ đi được ra ngoài."

"Ha ha ha, buồn cười thật. Ngươi dựa vào cái gì mà đòi thoát ra ngoài? Ngươi có biết rằng từ hoang mạc này đến Ngọ Cốc cây cối um tùm phải mất bao nhiêu ngày không? Dựa vào tốc độ của đoàn người này thì ít nhất cũng phải mất 7 ngày, 7 ngày đấy! Ha ha, đến được Ngọ Cốc thì sao chứ, vẫn không có lương thực, từ đó đến Quảng Nguyên lại mất 10 ngày nữa, 10 ngày đấy, chúng ta còn phải chống cự 17 ngày nữa? Chi bằng xuống 18 tầng địa ngục còn thoải mái hơn một chút."

Cơ thể Dương Hạo như bị chấn động, thất thanh nói: "Ngươi nói cái gì? Lẽ nào...ngươi đã từng đi con đường này?"

Đổng Thập Lục, kẻ một lòng muốn chết bị đưa đến trước mấy vị tướng quân, hắn cắn chặt răng không chịu nói gì cả. Hách Long Thành tướng quân nói ngon ngọt cả nửa ngày mà hắn không chịu nói liền lật mặt, sai mấy thân binh chân đấm tay đá cho hắn một trận, Đổng Thập Lục đã thành một con quỷ con. Sống mũi của hắn bị đánh gẫy, miệng đầy răng cũng bị rụng gần hết, mũi và miệng đầy máu, bàn tay co quắp như móng gà, vì năm đầu ngón tay của hắn đều đã bị đánh trật khớp. Đổng Thập Lục không thể chịu được nữa, kêu thảm thiết và khai ra.

Hoá ra, người này giống Dương Hạo, đều là người của Phủ Bá Châu. Vì rượu say tranh kỹ nữ mà giết người, bị quan phủ phán án tử hình. Nhưng khi chiếu phê đỏ của triều đình vẫn chưa xuống tới thì hắn đã vượt ngục bỏ trốn. Hắn tháo chạy đương nhiên là không thể chạy về phía Trung Nguyên, nếu sang phía nam thì sự khống chế của quan phủ càng lớn, hắn chỉ còn một con đường là đi về phía tây bắc.

Nhưng vì mấy con đường từ Bá Châu đến tây bắc đều đã bị triều đình khống chế, để không bị quan phủ bắt được, hắn đã đi con đường sông cổ mà một phạm nhân cùng trong ngục đã nói đến. Trong ngục có một lão tặc đã từng nhiều lần đi qua con đường này, hắn đã vẽ đường đi cho Đổng Thập Lục xem, Đổng Thập Lục đã ghi nhớ kĩ con đường, rồi bắt đậu lập kế hoạch vượt ngục, mật đạo này chính là đường sông cổ mà đám người Dương Hạo đang đi.

Con đường này hắn đã từng bước đi tới, kí ức về chặng đường trốn thoát đó hắn vẫn còn nhớ như in, làm sao mà hắn có thể quên được? Đổng Thập Lục lúc đầu sau khi vượt qua được con đường chết vốn muốn đi về phía nam đến thành Quảng Nguyên, nhưng khi đến được gần Quảng Nguyên thì mới phát hiện trên cổng thành có dán cáo thì truy bắt hắn, vì thế hắn lại phải tháo chạy về phía bắc, đi một mạch đến Bắc Hán, ai mà biết được lần này lại rơi vào tay đội quân Đại Tống như cá sa lưới vậy.

Lúc trước, khi đi con đường này, hắn đã chuẩn bị đầy đủ lương thực, nước uống và một số thuốc cần dùng, tất cả đều đầy đủ. Nhưng lúc này hắn như đang đi vào tuyệt vọng, bây giờ đội quân di dân của Dương Hạo có đem tất cả mọi thức nặng nhọc vứt lại ở cửa Phù Vân Cốc thì theo hắn nghĩ làm sao có thể sống để đến được Ngọ Cốc?

Sau khi biết rõ ràng chân tướng, Đổng Thập Lục bị dẫn xuống dưới, Dương Hạo gọi mấy vị đại tướng đến ngồi quanh đống lửa, vẻ mặt hứng khởi nói: "Chư vị tướng quân, ta nghĩ...những gì chư vị bàn bạc lúc nãy, bây giờ đã có điểm dựa để làm rồi."

Đám người La Khắc Địch suy nghĩ cũng rất nhạy bén, vừa nghe hắn nói lập tức nhớ ngay đến Đổng Thập Lục, La Khắc Địch nói: "Đại nhân, chẳng lẽ ngài muốn lợi dụng tên Đổng Thập Lục này để giải thoát cho chúng ta sao?"

Dương Hạo nói: "Không sai, hắn đã từng đi qua con đường này, hơn nữa lại đã từng đến Quảng Nguyên. Quả thực là trời đã rủ lòng thương, đã cho chúng ta một người dẫn đường. Ý của ta là, chúng ta sẽ phái người ngựa ngày đêm chạy tới Quảng Nguyên tìm lương thực, rồi dùng xe ngựa chở về, cùng lúc này thì đoàn người của chúng ta sẽ dốc toàn lực đuổi về phía trước, khi đã gặp được nhau...khi đã gặp được nhau thì thời gian chỉ mất có một nửa. Chúng ta muốn thoát ra khỏi tuyệt cảnh này không phải là không có khả năng."

Chúng tướng lập tức phấn chấn lên, Từ Hải Ba nghĩ một lúc, nói: "Quan gia đã hạ dụ, hai vị Khâm Sai có thể điều động lương thảo, dân dịch thậm chí là quan binh nơi gần nhất tương trợ. Chúng ta muốn lấy lương thảo ở Quảng Nguyên và dùng dân dịch vận chuyển đến thì phải có Khâm Sai cầm Tiết mới có quyền này. Bây giờ...nhưng chẳng lẽ lại Dương đại nhân lại đích thân đi sao?

Dương Hạo hơi trầm ngâm, nói: "Không được, đại quân tây phản là chủ ý của ta, Dương mỗ đã thể là sống chết với dân chúng, quyết không rời đi." Hách Long Thành không nhẫn nại được, nói: "Dương đại nhân, ngài không rời khỏi đây thì ai sẽ đi đây? Người bên cạnh đi thì làm gì có quyền lực để điều động lương thực, dân dịch, quan binh."

Dương Hạo do dự nói: "Nếu như...chúng ta xin Trình đại nhân đi một chuyến thì sao?"

Đám tướng lĩnh La Khắc Địch, Từ Hải Ba, Hách Long Thành nghe xong nhất tề lắc đầu, ngay cả bọn thân binh đằng sau cũng lắc đầu liên tục như sóng. Hách Long Thành là người của Trình Thế Huyền, nói chuyện hoàn toàn không chút kiêng nể gì: "Dương đại nhân là quân tử lỗi lạc, cũng cần phải phòng mưu đồ của kẻ tiểu nhân. Tên Trình Đức Huyền hận không thể ăn thịt, uống máu của ngài, ngài nếu để hắn đi Quảng Nguyên thì chẳng khác nào tự đâm đao vào mình"

Dương Hạo lắc đầu nói: "Hách tướng quân nghĩ sai rồi, Dương mỗ không phải là không có sự phòng bị với hắn, việc này không chỉ để một mình hắn đi làm, sự việc quan trọng liên quan đến mấy vạn người, cho dù hắn có hận Dương Hạo ta cũng tuyệt đối không dám động tay chân làm hỏng chuyện này, Trình Đức Huyền là người thông minh, hắn sẽ không vì chút oán hận mà không tính tới lợi hại, làm ra chuyện ngu xuẩn đâu."

Cho dù là nói như vậy nhưng mấy người này vẫn không dám đem hi vọng của cùng c mình giao cho một kẻ bây giờ đang bị họ giam lỏng, ngay cả tướng lĩnh cấm quân Từ Hải Ba cũng không kiêng nể nói: "Không sợ nhật vạn chỉ sợ vạn nhất. Nếu như Trình Đức Huyền không dụng tâm để làm việc, hoặc cố ý trì hoãn, đến lúc đó chúng ta phải làm sao? Bây giờ xem ra chỉ có thỉnh Dương đại nhân đi một chuyến thì chúng ta mới yên tâm được. Việc ở đây ngài cứ yên tâm, Tiết - Việt cho dù ngài có cầm đi thì chúng ta cứ gạt hắn ra, không thừa nhận thân phận Khâm Sai của hắn thì hắn còn có thể làm gì chứ."

Chúng tướng đều đồng thanh, Dương Hạo không biết phải làm thế nào đành chấp nhận nói: "Được rồi, chúng ta hãy sai Đổng Thập Lục vẽ địa đồ ra, phải hết sức chuẩn xác, ta nghĩ bên cạnh Ngọ Cốc có một dòng sông, cũng dễ tìm. Mọi người đêm nay nghỉ một chút, đến sáng mặt trời lên sẽ lên đường, chớ đừng để mất phương hướng, đợi khi tới Ngọ Cốc, thì nghỉ ở đó đợi. Theo như tốc độ của chúng ta, từ đây đến Quảng Nguyên cần 17, 18 ngày, nhưng nếu ta ngưỡi ngựa ngày đêm phi nhanh thì chỉ cần 3 đến 4 ngày có thể tới được Quảng Nguyên. Ta sẽ lập tức mở kho quan lấy lương thực, điều động lừa ngựa dân phu, đem lương thực trở về một cách nhanh nhất. Nếu như tất cả đều thuận lợi thì trước sau sẽ gặp lại mọi người ở Ngọ Cốc.

La Khắc Địch phấn chấn nói: "Được, quyết định như vậy. Sáng sớm ngày mai xin mời Dương đại nhân lên đường. Mạt tướng sẽ đem đem tin Khâm Sai đại nhân đích thân đến Quảng Nguyên vận lương thông báo cho toàn thể quân dân, nhất định sẽ làm phấn chấn khí thế quân dân, mọi người sẽ kiên trì đến Ngọ Cốc chờ tụ hợp với Khâm Sai. Đợi đến khi tất cả nước và lương thực đều hết thì mạt tướng sẽ đem mấy con ngựa còn lại giết cho mọi người bớt đói, chắc có thể chống cự đến được chỗ đó."

Ngày thứ hai, khi trời mới tờ mờ sáng, Dương Hạo liền đem theo Phạm Lão Tứ, Lưu Thế Hiên và vài tên thân binh lên đường, còn có cả Đổng Thập Lục mặt mũi bầm dập và lão đạo Phù Diêu Tử cũng đi theo. Dương Hạo lo lắng trong quân sẽ xảy ra ôn dịch tràn lan, nên cũng muốn lấy thêm cả thuốc về, mà lão đạo Phù Diêu Thử lại biết cách trị nên đương nhiên phải dắt hắn theo.

Đây là một đội quân kì quái, một người xuất gia không hỏi thế sự, một tử tù tháo chạy đến Bắc Hán, một gia đinh luôn muốn làm quan để trở về Bá Châu báo thù, còn có mấy tên mã tặc đã tòng quân.

Đoàn người này không có một ai là đại hiệp vì dân vì nước, nhưng nhiệm vụ trọng đại cứu mạng mấy vạn dân lúc này lại được đặt lên vai họ. Họ thúc ngựa phi nhanh trên thảo nguyên, ánh sáng mặt trời rực rỡ chiếu vào lưng, nó đang mang hi vọng của cùng của mấy vạn dân quân...

 Chương 148: Khâm sai ăn mày.

Hôm nay là ngày mừng thọ 52 tuổi của Tri Phủ Quảng Nguyên Từ Phong Thanh. Từ sáng sớm đã có nườm nượp quan khách đến, những chiếc xe ngựa chở đầy vàng bạc không ngừng được đưa tới. Từ Tri Phủ mặc y phục Thọ Tinh Ông có thêu hoa văn cây tùng, con sếu và hoa mai, cười cười nắm hai tay vào với nhau rồi đứng trên bậc cao của nhị đường đích thân đón khách,

Trong Từ phủ, người đang nói cười đều là những kẻ giàu có quyền thế, tới tham dự không có một dân đen nào, một lát sau, đủ các loại lễ vật quý báu đều đã bày chật hai bên nhị phòng. Từ Tri Phủ là người có tiền nên làm việc gì cũng dễ, hắn nhìn quan khách rồi cười: "Ai ya ya, Phũng Lão vất vả rồi, vất vả rồi. Aiyaa, Đỗ Cử Nhân, lễ trọng quá, lễ trọng quá. Ai yaaa, Lạc Quan Sát, bây giờ quan gia đang trinh phạt Bắc Hán, đang khổ chiến với Khiết Đan, Từ mỗ chỉ là một văn nhân, không có sức để lên trận giết địch, đành phải chấn thủ hậu phương, chẳng có công lao gì, làm người ăn lộc vua thấy thật là hổ thẹn, buổi mừng thọ nhỏ làm sao lại dám nhận hậu lễ như này?"

Những người đến chúc mừng lại không khỏi phải buông lời khen ngợi, tán dương hắn đã làm yên hậu phương, làm việc đâu ra đấy. Không ngừng cứu vận chuyển cứu trợ chiến sự tiền tuyến. Tuy công danh không hiển, nhưng thực sự có công với đất nước, có công với dân, làm cho Từ Phong Thanh vui vẻ mặt mày hớn hở

Đợi khi khách đã đến gần hết, trong Từ phủ đã bày xong thịnh yến. Những nhân gia trong đại hộ thường rất quy củ, tiền đường là tán tiệc, trung đường là quý binh, hậu đường là nữ khách. Từ Tri Phủ là văn nhân nên bố trí những vật dụng trong phòng đều rất trang nhã, trung đình là một hồ nước lớn, trong hồ có hòn non bộ, cây tử đằng, cây cầu với đình nhỏ. Trong nước là những cây sen xanh mọc thành một mảng, những con cá chép đang bơi lội tung tăng; đưa mắt lên trên nhìn sẽ thấy trong cái tán lá cây sum suê lộ ra một góc hồng lâu của nhà sau, thật là tiên cảnh nhân gian.

Trong hồ không chỉ có một cái đình mà có rất nhiều, được bố trí như hình hoa mai, ở giữa là cái to nhất, trong các đình đều có bày tiệc rượu khoản đãi các cao bằng quý hữu. Mọi người đều đã lần lượt ngồi xuống, chúc Lão Thọ Tinh, rồi giơ những chén rượu lên, rượu đã qua tam tuần nên mặt mọi người đều đã bắt đầu nóng. Phía dưới hiên lại có đàn sáo nhã nhạc, thật là làm cho người ta không cảm thấy cái khổ sở của mùa hè.

Từ Phong Thanh đã nhận mấy chén rượu chúc thọ của người ta, say khướt giơ chén rượu lên, cao giọng nói với các tân khách trong đình: "Chư vị hảo hữu, chư vị hảo hữu, xin nghe Từ mỗ nói."

Tân khách trong các đình cũng dừng chúc rượu nhau, nhìn về phía hắn, Từ Phong Thanh một tay cầm chén, một tay vuốt râu, mỉm cười nói: "Chư vị. Ta phòng ngự ở Quảng Nguyên, để Trình Thế Hùng Trình đại nhân phái nam nhi trên đất Quảng Nguyên này đi theo Thánh giá trinh phạt Bắc Hán, thật cực khổ vất vả. Từ mỗ và Trình tướng quân cùng coi quản Quảng Nguyên, giờ Trình tướng quân đã trinh phạt Bắc Quốc, Từ mỗ lòng rất mong nhớ. Ở đây, Từ mỗ xin đề nghị, chúng ta cùng nâng cốc chúc quan gia đánh bại Khiết Đan, bình phạt Bắc Hán, mở rộng biên cương bờ cõi. Chúc cho Trình đại tướng quân uy hiếp có hiệu lực, giương cờ thắng lợi, mã đáo thành công, gia quan tấn tước, từng bước thăng cao."

"Xin mời, xin mời..." Các tân khách nghe xong đều rào rào hưởng ứng, đứng dậy đi tới phía bắc đình, nâng chén lên, thần sắc kính nể, giơ chén về phía Từ Tri phủ tỏ ý chúc mừng. Những lời chúc mừng còn chưa nói xong thì đã nghe thấy bên cửa có những tiếng ầm ầm hỗn tạp, mọi người đều ngạc nhiên nhìn ra, chỉ thấy một đám bảy, tám tên ăn mày đầu bù tóc rối xông vào. Những gia đinh đốn khách muốn ngăn trở thì bị một tên ăn mày cao lớn đẩy một cái, trượt chân ngã xuống hồ sen. Những chiếc lá sen xanh ngắt lay động, đợi đến lúc hắn đứng dậy thì đã có một con ếch ngồi chỗm chệ trên đầu mắt đang nhìn bốn hướng.

Từ Phong Thanh vừa sợ vừa giận: "Làm sao lại có cái lý đó, đám ăn mày này từ đâu đến đây làm loạn hả?"

Chiến sự phương bắc kịch liệt, có một số lưu dân đã đến Quảng Nguyên, Quảng Nguyên là một thành lớn do Quân chấn phát triển lên, tuy không thể dung nạp nhiều cư dân, nhưng vẫn có thể chứa thêm một số lưu dân nữa. Từ Phong Thanh hôm nay mừng thọ, có ý phát cháo cứu tế trong thành, một là thể hiện công đức, hai là tránh lưu dân đến làm loạn, chưa từng nghĩ rằng có người lại dám to gan động trời xông vào phủ hắn.

Mấy tên ăn mày này đã xông vào trung đường, không nói lời nào chạy thẳng vào đại đình ở giữa Từ Phủ, lúc này ở cửa lớn mới xuất hiện lão quan gia của Từ Phủ, bước chân lảo đảo, nhìn thấy cảnh hỗn loạn trong trung đường không khỏi vội vàng luốn cuống.

Mấy tên ăn mày đó xông đến, chiếm chỗ của các tân khách, đầu cũng không ngẩng lên, như lang như hổ vươn tay tới bốc thức ăn nhanh như gió cho lên mồm. Nhìn quần áo họ rách nát, nhuốm đầy bùn đất, trong đó có một người có một bàn tay co quắp giống như móng gà, chỉ còn một tay có thể sử dụng được, nhưng hắn cướp đồ ăn vẫn nhanh hơn người khác.

Quảng Nguyên Thông Phán Trương Thắng Chi nhìn thấy cảnh này thì vô cùng phẫn nộ, lớn tiếng quát: "Làm gì có cái lý đó, đám ăn mày này từ đâu đến mà dám làm loạn yến tiệc mừng thọ của Tri Phủ đại nhân, người đâu, người đâu, bắt đám ăn mày to gan này lại cho bản quan, ta sẽ trừng trị chúng thật nặng."

Có một tên ăn mày trong đó cúi thấp đầu xuống, cũng không thèm để ý xem bên trong cá trong thịt có xương hay không, chỉ đem thất cả nuốt hết vào mồm, khi nghe thấy Trương Thông Phán ra lệnh như vậy thì hắn liền ôm một bình mĩ tửu, vừa ngẩng đầu lên uống ực ực, một tay vừa tháo cái gói đồ trên vai, vứt xuống trước mặt Trương Thắng Chi.

Túi đồ rơi xuống thì bị mở ra, bên trong lộ ra bên trong hai thứ đồ, một vật giống như sào trúc, mỗi đốt lại quấn một ít lông thú, lúc này nó trông rất bẩn nên không nhìn rõ lông thú đó có màu gì; vật còn lại là một đầu rìu đã gãy mất cán dài màu vàng, trên đầu rìu còn khắc những hoa văn vô cùng tinh xảo.

Trương Thắng Chi sai người cúi đầu xem, kinh ngạc hỏi: "Đây là cái gì?"

Trương Thông Phán đã nhận ra, hắn nhìn hoa văn tinh xảo trên chiếc đầu rìu không khỏi kinh ngạc, vội vàng cúi người xuống nhặt lên xem thật kĩ. Sau đó lại cầm cây sào trúc ngắn có gắn lông thú lên, lập tức nhận ra, kinh hãi nói: "Đây là Tiết - Việt Khâm Sai?''

"Cái gì?" Từ Tri Phủ nghe thấy vội vàng bước lên phía trước mặt Trương Thông Phán. Hắn cẩn thận xem những vật trong tay Trương Thông Phán. Kinh ngạc quay người về đám ăn mày nói: "Ngươi...ngươi...các ngươi...là ai?"

Hắn nhảy một bước tiến về phía trước, chén rượu trên tay bắn tung toé lên cổ áo. Từ Tri Phủ lại như bừng tỉnh. Hắn nhìn thấy một tên ăn mày đầu tóc rối bù ngồi đối diện đang xé thịt gà, uống mĩ tửu, rồi vứt xương gà xuống, mỡ dính đầy mồm, hắn lấy tay quệt một cái, rồi nhấc hai tay lên vén những sợi tóc dài đang bay phất phơ trước mặt, mập mờ cười nói: "Từ đại nhân, đã lâu không gặp."

"Ngươi...ngươi là ai, ngươi quen bản quan sao?" Từ Phong Thanh nhìn khuôn mặt gầy gò, đầy râu, cáu đầy bụi bẩn, kinh ngạc hỏi.

Người này không để ý đến Từ Tri Phủ, quay sang nói với hai bên: "Mọi người ăn ít một chút, chúng ta đã rất đói, thoắt cái đã ăn no căng thì dạ dày sẽ không chịu nổi đâu."

Trong những người này chỉ có một lão ăn mày thần sắc ung dung một chút, ăn cũng không nhiều lắm, hắn chỉ ăn mấy miếng thịt, uống mấy chén rượu rồi đặt xuống, nghe thấy lời người ăn mày lúc nãy nói thì hơi gật gật đầu. Hắn cũng đang muốn muốn mở mồm nhắc nhở. Lão ăn mày đầu tóc cũng rối bù bẩn thỉu, y phục rách nát như lưới đánh cá.

Tên ăn mày lúc nãy lại thúc giục mấy lần nữa, mấy tên ăn mày còn lại mới tiếc nuối mà buông tay xuống, nhưng hai con mắt đói khát vẫn cứ nhìn chằm chằm vào rượu thịt trên bàn, không chịu rời đi. Người đó cười gượng nói, lại hất tóc lên, đứng dậy chắp tay nói: "Từ đại nhân không nhận ra ta sao? Ta là Đinh Hạo ở Bá Châu...à, ta vốn họ Đinh, nhưng bây giờđổi theo họ mẹ là Dương rồi. Tại hạ Dương Hạo, đã từng gặp đại nhân mấy lần, đại nhân có nhớ tiểu công tử của Trình tướng quân mùa đông năm ngoái bị kẻ xấu bắt đi..."

Từ Phong Thanh "A" lên một tiếng. Chỉ tay vào hắn kinh ngạc nói: "Ngài là Đinh Hạo, không đúng, ngài là Dương Hạo, bản quan biết, bản quan đương nhiên biết, thánh dụ sớm đã ban xuống, hiểu dụ cho các châu các phủ. Bản quan biết chuyện Dương Hạo Dương đại tướng quân phụng thánh dụ đi di dân Bắc Hán về đất tống. Nhưng, ngài...ngài làm sao lại đến đây, lại còn biến thành bộ dạng này?"

"Một lời không thể nói hết được Từ đại nhân ạ, bây giờ cứ trì hoãn mỗi khắc là lại không biết được có bao nhiêu người đang đói chết trên hoang nguyên, thực sự là không thể đợi được nữa. Dương mỗ đã đem Tiết - Việt đến cho đại nhân xem, đại nhân biết ta là Khâm Sai thì càng tốt. Đi đi đi, chúng ta vừa đi vừa nói chuyện..."

Dương Hạo bước đi, nắm lấy tay từ Phong Thanh đi ra ngoài, Từ Phong Thanh kinh ngạc nói: "Dương Hạo, à không...Dương đại nhân, chúng ta đi đâu vậy?"

Dương Hạo vừa đi vừa nói: "Đi đến kho lương Quảng Nguyên Phủ!"

Nhưng vị khác trong các bàn tiệc khác nhìn thấy đám ăn mày xông vào chiếm bữa tiệc, ăn uống nhồm nhoàm, vẫn chưa hiểu chuyện gì xảy ra thì đã thấy một tên ăn mày trong đó nhảy ra rồi kéo Từ Tri Phủ đi. Trương Thông Phán và mấy quan viên cùng bàn tiệc cũng khong ngăn cản, rồi lại chạy đi theo sau họ, mấy tên ăn mày bẩn thỉu nhìn thấy thế cũng bước theo ra ngoài, đám tân khách không khỏi vừa kinh ngạc vừa hiếu kì, vội vàng bỏ chén rượu xuống chạy theo. Mấy tên đầy tớ nhanh nhẹn chạy vào hậu đường thông báo. Khi Từ phu nhân và Từ tiểu thư cùng đem theo một đám quý phụ vội vã chạy đến trung đình thì chỉ nhìn thấy một đống hỗn độn, nhưng không một bóng người.

※ ※ ※ ※ ※ ※ ※ ※ ※ ※※ ※ ※ ※ ※ ※ ※ ※ ※ ※ ※ ※ ※ ※

Trên con đường lớn của Quảng Nguyên xuất hiện một kì cảnh mà trăm năm khó thấy, Tri Phủ đại nhân bị bảy, tám tên ăn mày tóc tai bù xù vây quanh đi về phía trước, vừa đi Từ Tri Phủ lại vừa quay đầu thầm thì điều gì đó với một tên ăn mày bên cạnh.

Phía sau bọn họ còn có một người đi sát theo, đó là Thông Phán đại nhân cực kì uy nghiêm, Thông Phán đại nhân tay trái còn cầm một cái đầu rìu, tay phải cầm một cái sào trúc có gắn lông thú, thở hổn hển chạy theo.

Phía sau nữa lại là mấy gia đinh trông cửa Từ Phủ tay cầm thương, cuối cùng là một tốp quan cao, phú thân và học giả uyên thâm mặc những y phục làm từ gấm, trong đó còn có một lão già chạy thở không ra hơi, đổ mồ hôi như tắm, lại vẫn không đuổi kịp lên, nhưng không chịu tụt lại phía sau.

Dân chúng lấy làm kì lạ, quay sang hỏi nhau nhưng vẫn không biết được ngọn ngành, liền chạy theo sau. Kẻ bán hàng đang đẩy xe, phu nhân đang ôm con, lão thái thái đang đi dạo...ngày càng nhiều dân chúng không biết chuyện gia nhập vào dòng người tiến về phái trước.

Dương Tấn Thành Dương Bổ Đầu đang tuần tra thành, thời tiết nóng nực, Dương Bổ Đầu mệt mỏi vô cùng, hắn vừa trốn đến một tiệm trà ngồi uống mấy hớp thì khi ngẩng đầu lên liền nhìn thấy vô số dân chúng đang chạy vui vẻ trên đường, làm hắn giật mình đến mức hất cả chén trà lên người tuần bổ trước mặt.

Hắn nhảy xuống, hoảng hốt gọi: "Xảy ra chuyện gì vậy, có phải là lưu dân gây chuyện không?"

Mấy người tuần bổ nhìn nhau không hiểu xảy ra chuyện gì, Dương Tấn Thành vội vàng bảo một người lớn tuổi nhất chạy về nha môn gọi thêm người, mắt thấy dân chúng đông như lũ bão, hắn vô cùng sợ hãi, liền điều động nha dịch, tuần bổ, dân ráng đền nghe lệnh, rồi chạy đến thành thủ tướng quân báo tin, tiếp đó hắn dẫn mấy tuần bổ chạy lên phía trước dân chúng.

Từ Phong Thanh nghe Dương Hạo nói rõ ràng chân tướng sự việc một lần, thở hổn hển kêu khổ nói: "Aiyoo Dương đại nhân, bản quan sớm đã nhận được lệnh dụ của triều đình, tất cả các quan phủ đều muốn tận lực làm việc, ngài là Khâm Sai, lại có cả Tiết - Việt, cũng giống như là Thánh Thượng đang đích thân tới, bản quan nào dám không thuận theo. Nhưng... tồn lương ở Bá Châu phủ quả thực là không có nhiều lắm. Kho trữ quan lương vừa mới được xây dựng xong, còn chưa thể trữ lương thực. Lương thực trong kho lương cũ mấy ngày trước đã được áp tải đến Bắc Hán, lương thực còn lại cũng chỉ đủ dùng cho dân chúng trong nửa tháng nữa thôi, đội xe lương của Bá Châu vẫn còn chưa đến, nếu như đại nhân đem hết lương thực đi, vạn nhất xe lương gặp trục trặc thì thành Quảng Nguyên sẽ bị náo loạn..."

Dương Hạo ngắt lời nói: "Đại nhân, nếu như ngài nhìn thấy cảnh thê lương của đoàn quân di dân thì nhất định sẽ không do dự đem lương ra. Đây là lương cứu mạng, trì hoãn không được, trước tiên hãy xếp lương lên xe để ta mang đi, rồi Từ đại nhân lại nhanh chóng đến các thành trấn gần đây thu mua, hoặc mượn dùng đề phòng lúc Quảng Nguyên nguy cấp."

Từ Phong Thanh cũng không còn cách anò khác, Dương Hạo đã tìm đến tận cửa rồi, hắn không thể đặt mình ngoài cuộc. Nếu như để mặc mấy vạn dân chúng đói chết, ngôn quan h, Ngự Sử Quan Sát các đạo các lộ có thể không kết tội hắn sao, lúc đó hắn bất luận thế nào cũng không thể thoát được liên can, vì vậy đành phải đau khổ đồng ý.

Nhưng hắn đã nghĩ lại, làm vẻ buồn rầu nói: "Vẫn không được, Dương đại nhân, lương thực cung cấp cho mấy vạn dân thì phải cần bao nhiêu xe? Xe áp tải lương đến Bắc Hán vẫn chưa thấy trở về, bây giờ số xe trong phủ chẳng có mấy chiếc dùng được."

Dương Hạo nghe xong lòng chợt trầm xuống, hắn đột nhiên nhớ tới Diệp gia bán xe mà lần trước khi vừa đến Quảng Nguyên đã từng đi qua, không khỏi vui mừng nói: "Không phải lo nhiều thế, bản quan là Khâm Sai, là người có quyền điều động dân xa dân phu, việc không thể chậm trễ, chúng ta chia làm hai bên, Từ đại nhân đến kho lương điểm quân, lệnh cho người nhanh chóng đóng bao chuẩn bị chuyển đi.

Bản quan cầm Tiết Việt đến Diệp gia mượn xe mượn người."

Hắn vừa xoay người bước đi thì đột nhiên dừng lại: "Không được, những người dân bình thường thì làm sao nhận ra cái gì là Tiết Việt, Từ đại nhân, ta vẫn phải mượn ngài mấy quan viên và binh sĩ để tỏ uy phong mới được. Đúng rồi, ở đây còn có một đạo trưởng..."

Dương Hạo kéo Phù Diêu Tử đến trước mặt, Từ Phong Thanh vừa nhìn đã nhân ra đó rõ ràng là một tên ăn mày áo rách như lưới cá, nào có giống đạo nhân. Dương Hạo nói: "Trong nạn dân đã có dấu vết ôn dịch, cần phải có một số thuốc để trị, thỉnh đại nhân phái người đi theo đạo trưởng này để tìm thuốc, sau đó cùng vận chuyển đến Ngọ Cốc."

Từ Phong Thanh vội vàng quay đầu dặn dò: "Trương Thông Phán, ngài mau chóng đi theo Dương Khâm Sai đến Diệp gia mượn xe, điều động dân dịch dân phu. Mấy người các ngươi cũng đi theo Khâm Sai đại nhân, kẻ nào dám kháng chỉ thì tống luôn vào ngục. Sài Chủ Bộ, ngươi theo vị đạo trưởng này đi tìm thuốc, cần bất kì loại thuốc nào thì các tiệm thuốc to nhỏ đều phải đưa ra không được kháng cự, những loại thuốc đã lấy đi thì ghi lại, bản quan sẽ thỉnh triều đình phát bạc, đến lúc đó sẽ trả."

 Chương 149: Tương ngộ trên đường đi.

Trương Thông Phán và Sài Chủ Bộ vội vàng nhận lệnh, Vương Chủ Bộ đem theo mấy người đi cùng Phù Diêu Tử lấy thuốc. Trương Thông Phán đem mấy quân binh đi theo Dương Hạo về phía đường lớn Tây Giác Lầu. Còn Từ Phong Thanh tự mình đem theo số người còn lại đến kho lương.

Dương Hạo gấp rút đến tây thành, những người dân đang đi phía sau Từ Tri Phủ cũng đi cùng hắn để xem, nhưng không ai gây phiền toái cho hắn cả. Mắt đã thấy địa phận tây thành, từ phía trước con đường lớn đột nhiên có một công tử nho nhã, tay cầm một cái lồng chim, lắc lắc đầu đi tới.

Vị công tử đó cứ đi thẳng tới, đang cảm thấy phong cảnh làm vui lòng người, "Ánh xuân" đẹp vô hạn, đột nhiên nhìn thấy một tên ăn mày vội vã chạy tới thì có chút ngẩn ra, lại nhìn thấy phía sau tên ăn mày đó có bảy, tám đại binh đi theo. Vị công tử này đột nhiên thay đổi sắc mặt, quay đầu bỏ chạy.

Dương Hạo người tuy đã đến Quảng Nguyên nhưng lòng lại vẫn ở hoang mạc, làm gì còn tâm trí để ý đến chuyện người khác, nên không quan tâm tới hắn. Vị công tử phía trước càng chạy càng hoảng. Hắn phát hiện ra mình rẽ bên nào thì đại binh lại cũng rẽ bên đấy, mình đi tránh sang một bên thì đoàn binh cũng đi theo. Trước mắt đã là cổng nhà mình rồi, vị công tử này chạy toát hết cả mồi hôi. Chợt hắn dậm mạnh chân nói: "Thôi đi, thôi đi, các người không phải đuổi nữa, ta thả con anh vũ này đi rồi mà vẫn chưa được sao?"

Tên ăn mày chẳng thèm để ý đến hắn, chạy vọt qua người, một tay cầm một chiếc rìu, tay kia cầm sào trúc, chẳng ai thèm để ý đến hắn. Ngay cả những binh sĩ cầm thương cũng chạy vọt qua người hắn. Vị công tử này lòng đầy ngạc nhiên, xách lồng chim nhìn theo đám người đó chạy vào trong nhà mình, liền chạy theo sau.

Hoá ra vị công tử này chính là thiếu gia Diệp Chi Tuyền của Diệp gia, lần trước khi từ Nghênh Xuân Các đi ra thì bị Trình đại tướng quân giận dữ không đâu thẳng mặt mắng chửi cho một trân, rồi thả đi 60 con hùng ưng đắt tiền mà hắn mua về, từ đó hắn đã mắc phải chứng bệnh "Sợ hãi quân nhân".

Hắn thích nuôi chim, mang lồng chim đi dạo, lại sợ bị quan binh nhìn thấy sẽ bắt phải thả, thế nên mỗi lần đi trên đường nhìn thấy quan binh là lại trốn ngay đi xa. Gần đây Trình Thế Hùng dẫn binh đi tham chiến Bắc Hán, trong Quảng Nguyên chỉ còn lưu lại một bộ phân nhân mã thủ thành, trên những con đường trong thành khó mà nhìn thấy được quan binh, vì thế hắn mới có thể tuỳ ý mà đi lại, không ngờ rằng hôm nay vừa ra cửa chưa lâu thì lại gặp phải họ.

Diệp Chi Tuyền về đến nhà, nhìn vào trong không khỏi bất ngờ, thấy cha mình đang dẫn cả nhà già trẻ quỳ xuống sân, bên trên bậc cao là một kẻ ăn mày tóc dài vắt qua vai đang đứng, một tay cầm rìu một tay cầm cái gậy như chổi lông gà, Diệp Chi Tuyền bất giác vừa kinh ngạc vừa giận, xông lên phía trước nói: "Ban ngày ban mặt mà tên ăn mày ngươi lại dám vào đây mà cầm rìu doạ nạt hả?"

Hắn vừa nói đến đây thì đột nhiên nhớ tới mấy quan binh đang đứng ở trong sân, cường đạo đánh cướp mà quan binh lại không giúp khống chế sao, rốt cuộc là xảy ra chuyện gì, chẳng lẽ lại có chuyện gì mà bản công tử không biết sao?

Lúc này hắn nhìn thấy cha hắn quay đầu lại, nghiêm giọng quát: "Tiểu súc sinh, còn không mau quỳ xuống!"

"Cha...."

"Quỳ xuống!"

Diệp Chi Tuyền vội vàng quỳ xuống, Diệp lão gia quay người lại, nói: "Khâm sai đại nhân, tiểu nhi lỗ mãng không hiểu chuyện, Khâm Sai đại nhân xin đừng trách tội."

"Khâm Sai đại nhân?"

Diệp Chi Tuyền chỉ cảm thấy như trời đất xoay chuyển, như mây sương che trời che biển. Trong nhà mình tuy là có một số tiền để không, nhưng dù sao thì cũng chỉ là một tiểu thương, cho dù có đi cầu xin thì quan phủ cũng chẳng thèm đến cửa, nhưng Khâm Sai...Khâm Sai là người mà Hoàng Thượng phái xuống, là sứ giả, sứ giả đến nhà mình làm cái gì, làm sao lại...làm sao sứ thần của thiên tử lại còn rách nát hơn cả ăn mày vậy?"

Dương Hạo ôn hoà nói: "Ông chủ Diệp, sự việc can hệ đến tính mạng của mấy vạn sinh linh, vẫn mong ông chủ Diệp trượng nghĩa tương trợ. Bản quan lần này đến đây là thay mặt cho triều đình, ngươi yên tâm, nếu như xe ngựa dân phu có thương tổn gì thì triều đình sẽ bồi thường. Những tổn thất do trưng dụng xe làm cho việc buôn bán đình tệ quan phủ cũng sẽ bồi thường thoả đáng."

Ông chủ Diệp ngẩng đầu lên, cảm động nói: "Khâm Sai đại nhân đừng nói như vậy, tiểu nhân tuy là một tiểu thương, nhưng cũng hiểu được đại nghĩa, cho dù đội xe của ta tất cả đều bị huỷ thì cũng là đáng. Việc này có thể đến với Diệp gia thì cũng là vinh dự cho Diệp gia. Xe lừ ngựa của Diệp gia mỗi ngày đều đi khắp nơi, không ở Quảng Nguyên, nhưng tiểu nhân sẽ lập tức bắt đầu chuẩn bị, điều động tất cả xe, phu xe đang ở Quảng Nguyên đến kho phủ nghe sự sai khiến của đại nhân."

Dương Hạo cảm thấy rất xúc động, hắn không ngờ trong dân gian lại có một người hiểu chuyện như vậy, một người làm buôn bán lại biết rõ lễ nghĩa như thế, hắn vội vàng đưa Tiết Việt vào tay Trương Thông Phán, bước lên trước đỡ ông chủ Diệp dậy, vui mừng nói: "Ông chủ Diệp thâm hiểu đại nghĩa, bản quan sẽ nói chuyện này cho Từ Tri Phủ, đặc biệt sẽ lên triều khen ngợi ông chủ Diệp."

Ông chủ Diệp nghe vậy vội vàng nói không dám, trên trán lộ rõ vẻ mừng rỡ. Tiền hắn có, duy chỉ có danh tiếng, vinh quang là không thể dựa vào gia tài vạn quan mà có thể có được. Nếu như triều đình khen ngợi một tiếng "Nghĩa thân hỉ sĩ", thì từ nay về sau Diệp gia ở trên cái đất tây bắc này sẽ không còn là một tiểu thương đơn giản như cũ nữa. Nhưng ông chủ Diệp cũng là thành tâm thành ý muốn giúp nan dân, bây giờ bất ngờ lại nhận được những lời hứa của Khâm Sai đại nhân như vậy nên rất vui. Hắn quay người nói với nhi tử: "Con à, lần này chúng ta cứu giúp nạn dân là một nghĩa cử hành thiện lớn, con hãy đích thân dẫn đội xe đi theo Khâm Sai đại nhân đến Ngọ Cốc đi."

"Sao cơ? Con?" Diệp Chi Tuyền đang quỳ một bên như chẳng có chuyện gì nào biết khổ tâm của phụ thân, không nghĩ rằng cái cụm từ "Nghĩa thân thiệt sĩ" lại chụp lên đầu mình, vừa nghe thấy lời này liền ngẩng đầu lên, chỉ vào mũi mình nói.

※ ※ ※ ※ ※ ※ ※ ※ ※ ※ ※ ※ ※ ※ ※ ※ ※ ※ ※ ※ ※ ※ ※ ※ ※

Khi Dương Hạo đi đến kho lương thì Từ Tri Phủ đang chỉ huy nẻngười đóng bao lương để đợi vận chuyển. Nhìn thấy Dương Hạo đi tới thì hắn vội vàng chạy lại nghênh tiếp, chắp hai tay nói: "Dương đại nhân. Có thể điều được xe không?"

Dương Hạo nói: "Diệp gia tuy là buôn bán vận chuyển nhưng các xe đều đã chuyển hàng đi xa. Bây giờ số xe còn lại trong thành cũng không còn nhiều, những chiếc xe vận chuyển hàng hôm nay đã về thì đều được dừng lại rồi, chỉ đợi xếp lương thực lên là lập tức đi. Còn có một số xe chở khách cũng cần phải nói rõ tình hình cho khách nghe, bồi thường tiền đi lại cho họ, rồi sẽ lập tức đi.

Nhưng...những chiếc xe này chỉ vận lương không đã không đủ rồi, ta vốn ngoài muốn mang đủ số lương và dược thảo đi, còn muốn để chống một ít xe để trở người già trẻ nhỏ và người mắc bệnh nữa, như vậy tốc độ có thể nhanh hơn, cách thì tốt nhưng bây giờ không thể thực hiện được."

Từ Phong Thanh vội vàng nói: "Dương đại nhân chớ lo lắng, đại nhân cứ vận chuyển lương trở về trước, mấy ngày sau bản phủ sẽ cố gắng thu xếp chuẩn bị thêm một đội xe nữa, những lương thực còn lại sẽ gấp rút đuổi theo sau tiếp ứng. Đúng rồi, phía bắc bây giờ chiến sự ra sao rồi? Có cần quan binh áp tống không? Thật không dám giấu, Quảng Nguyên bây giờ quan binh thủ thành cũng không nhiều lắm, bản quan cũng không thể tìm được đâu ra nhiều người, khấu trừ nhân mã hộ thành thì đưa cho ngài 300 binh miễn cưỡng vẫn có thể được."

Dương Hạo lắc đầu, thầm nghĩ: "Phía bắc bây giờ đều đang đánh loạn, nếu thư thật sự không may mắn gặp phải quân Khiết Đan thì 300 người của ngươi cũng không đủ nhét vào kẽ răng, phái đi thì cũng có tác dụng gì." Hắn đang định cự tuyệt thì đột nhiên nhìn thấy Dương Tấn Thành mang theo một đám tuần bổ nha sai đang đứng cạnh đó, đây đều là người mà hắn gọi từ nha môn. Dương Tấn Thành đến đây mới biết mình đã sợ bóng sợ gió, hoá ra chỉ là Khâm Sai triều đình tới Quảng Nguyên là để trưng thu lương thảo. Có điều vị Khâm Sai này lại là người hắn quen biết. Thời gian mới có nửa năm mà người ta từ một tiểu quản sự của Đinh gia đã trở thành đường đường Khâm Sai trên triều đình, bát phẩm đô giám, Dương Tấn Thành đứng một bên nhìn, quả thật rất ngưỡng mộ.

Dương Hạo nhìn thấy hắn, vốn mồm định nói từ chối nhưng lại thôi, chỉ tay vào Dương Tấn Thành cười nói: "Từ địa nhân, bản quan không cần binh tướng của ngài, chỉ hi vọng ngài có thể cho ta mượn một đám tuần bổ sai nha thôi, thế nào?"

Từ Tri Phủ rất ngạc nhiên, nói: "Dương đại nhân là nói...chúng ...bọn chúng?"

Hắn chỉ vào đám người Dương Tấn Thành, Từ Tri Phủ cười nói: "Bọn chúng ngoài việc tuần tra thành, quảng trị an, phòng gian cấm bạo, tra áp buôn lậu, bắt cướp bóc, vô lại ẩu đả, đuổi đám điêu dân buôn bán làm loạn ra thì còn có tác dụng khác gì nữa?"

Đám người Dương Tấn Thành nghe thấy vừa ngượng vừa xấu hổ. Bộ ngực vừa ưỡn lên thoắt cái đã lại lặng lẽ khom xuống.

Dương Hạo lắc đầu nói: "Từ đại nhân nói sai rồi. 'Quả quýt dày có móng tay nhọn, muối bỏ đậu phụ'. Việc mà 3000 tinh binh không làm được thì ta lại có thể mượn 300 quản thành...à không, 300 tuần bổ nha sai để làm cho đâu ra đấy thôi."

Đám người Dương Tấn Thành thấy thế liền dương dương tự đắc, lại ưỡn ngực lên.

Từ Phong Thanh chợt hiểu ra, nói: "Dương đại nhân là muốn...để bọn họ đi quản lý chỗ dân Bắc Hán đang di rời?"

Dương Hạo nói: "Không sai, gần 5 vạn người, già trẻ gái trai, xấu tốt đủ cả, ăn uống bừa bãi, tiến hành đóng doanh trại lại giống như một đại quân thành phố di động.

Những quan binh trên chiến trường chém giết địch thì không hề mơ hồm nhưng để họ quản lý dân chúng thì lại không được, ngoài hô đánh hô giết ra họ cũng không biết làm gì khác. Những chuyện này lại là việc mà tuần bổ nha dịch quý phủ giỏi nhất."

Từ Thanh Phong nói: "Muốn mượn tuần bổ sai dịch cũng được, nhưng bản quan tổng cộng chỉ có 500 nha sai, cho ngài mượn 300..." Hắn do dự một chút rồi đột nhiên nói: "Thôi vậy, vẫn là chuyện của Khâm Sai đại nhân bên đó gấp gáp hơn, bản quan ở đây đành phải để những người còn lại khổ cực một chút vậy."

Dương Hạo nghe thấy thì vui vẻ nói: "Đa tạ Từ Tri Phủ, 5 vạn quân dân đều sẽ cảm tạ công đức của Từ đại nhân."

Chính vào lúc này, có người phi ngựa tới, hắn ghìm ngựa lại, nhìn thấy kho lương đang rất bận rộn, có nhiều người đang đổ đầy lương vào bao, liền hét lớn: "Lương trữ Sử đại nhân ở đâu, tại hạ là Tín Sử của Đinh gia Bá Châu, lương thực Đinh gia vạn chuyển lập tức sẽ vào thành. Xin mời đại nhân chuẩn bị điểm thu."

Dương Hạo hơi rùng mình, hắn đột nhiên ngẩng đầu lên: "Đinh gia Bá Châu!"

Khi nghe thấy mấy từ Đinh gia Bá Châu phát ra từ miệng của người khác hay phát ra từ miệng mình hắn đều không có cảm giác gì, nhưng bây giờ lại nghe thấy tráng đinh vận lương của Đinh gia trang nói ra bốn chữ này, lại như là tiếng sấm mùa xuân đầu tiên, thoắt cái đã làm chấn động tâm tư đã bị khoá lại rất lâu của hắn.

Những từ này hắn đã từng nghĩ rằng sau khi trải qua những trận chiến đẫm máu trên chiến trường, rồi sự tranh giành sinh tử trong chặng đường bôn ba đã làm nó phai nhạt đi. Nhưng bây giờ đột nhiên nó lại hiện lên một cách rõ ràng như mới trong đầu hắn.

Người mẹ già kêu ca, lại có chút hèn nhát, cả một đời chỉ muốn ở lại Đinh gia, nhưng đối với hắn thì hết mực yêu thương; Tao Trư Nhi một người huynh đệ hay trốn trong động đất đợi hắn để chia sẽ những chuyện hay ho, một người cả một đời chỉ muốn có được một nữ nhân; một La Đông Nhi dịu dàng trong sáng như một suối nước trong. Nụ cười, tướng mạo của họ như hiện lên rõ mồn một trước mặt hắn, giống như những vết thương bị từng đao từng đao cứa vào tim đã kết khô máu, lại một lần nữa chảy ra dòng máu đỏ.

Từ Tri Phủ đã nhìn thấy sứ giả đến báo tin, lại quay đầu nhìn Dương Hạo, hắn đột nhiên hoảng sợ: Vị Khâm Sai đại nhân mặc giống ăn mày này không biết từ lúc nào hai mắt lệ đã chảy...

Dương Hạo cùng Từ Tri Phủ cưỡi ngựa chạy ra ngoài thành, gia đinh của Đinh gia đã được cho về trước, Từ Tri Phủ lệnh cho đội xe Đinh gia tạm thời ở ngoài thành, không cần vào bên trong, đám gia đinh này mơ hồ không biết lần này có giống lần trước không, lại vì những chuyện gì đó mà đắc tội với quan phủ, nên đều vội vàng chuồn mất

Từ Tri Phủ mặc dù là quan văn nhưng cũng biết cưỡi ngựa, nhưng hắn cũng chỉ có thể cưỡi ngựa lành, ngựa phi nhanh thì lại không thể, may mà bây giờ vẫn còn phải đợi Phù Diêu Tử đi thu thập thảo dược và đợi xe của Diệp gia tập trung lại nên nhất thời không cần nhanh chóng lên đường, vì thế Dương Hạo có thể từ từ cưỡi ngựa đi với hắn ra ngoài thành.

Khi đội xe Đinh gia đến thì bọn họ đã có sẵn xe ngựa hơn nữa đều đã quen chạy đường dài, lương thực cũng sớm đã buộc chặt cẩn thận, Dương Hạo liền quyết định trực tiếp vận chuyển một phần số lương thực này đến Ngọ Cốc, ngay cả xe ngựa và phu xe cũng đều có thể trưng thu được.

Ngựa đi về phía đông thành, mãi mới đến được ngã tư, thì nhìn thấy một đoàn người đang từ từ đi tới, vừa đúng lúc ngăn bước chân của họ. Đó là một hộ gia đình đang bê linh cữu, nhìn thấy có vẻ như là một đại hộ, người trong gia tộc và gia đinh cũng không ít, hơn một trăm người đang mặc áo tang, cầm phướn chiêu hồn, rải dọc hai bên đường là tiền giấy. Tám đại hán phía trước khiêng một chiếc quan tài, đi phía trước quan tài là một tăng nhân mặc áo cà sa, mồm lẩm bẩm tụng kinh.

Chiếc quan tài đó và cả trăm người đưa tang đã đứng chật cả đường, làm cho người ta lùi lại cũng không được, hơn nữa làm tang người chết là việc lớn, quan phủ cũng không thể không tôn trọng tục dân gian, Từ Tri Phủ liền cau mày nói: "Dương Tấn Thành, bảo bọn chúng đi nhanh đi, bản quan còn có chuyện phải làm."

Dương Tấn Thành đang định thúc ngựa lên trước thì Dương Hạo ngăn lại, nói: "Thôi vật, thuốc và xe của chúng ta vẫn chưa tập trung xong, không thiếu nửa khắc này. Nhà có tang sự, vốn đã là chuyện bi thương, không cần phải thúc giục họ nữa." Dương Hạo vừa nói vừa nhìn kĩ về đoàn người, nhất thời ngây ra.

Thời Hán Nguỵ cao tăng thường mặc áo cà sa màu đỏ, thời Đường Thống lại mặc cà sa màu tím và màu đỏ tươi, chiếc áo cà sa mà vị cao tăng này mặc chính là màu tím, trên đầu đội mũ tì lô. Chỉ thấy cao tăng đó đi từ từ từng bước, miệng lẩm bẩm tụng kinh, trong tay cầm chuông kim cương lắc lắc.

Vị cao tăng đó môi hồng răng trắng, lại có vẻ tuấn tú, lại nhìn thấy mặc áo cà sa, đội mũ tăng, trông rất giống Đường Tam Tạng tái thế, nhìn thấy bộ dạng đó Dương Hạo không khỏi kêu thất thanh: "Bích Túc!"

Bích Túc đang bị ánh nắng chiếu vào làm cho loá mắt, cố gắng lắm mới ngẩng đầu lên để đọc kinh thì đột nhiên nghe thấy có tiếng người gọi tên tục của mình. Nhổ vào! Lão tử căn bản chưa từng xuất gia, còn không phải là đang đuổi vịt lên giá sao...

Hắn vội vàng ngẩng đầu lên, thì nhìn thấy một tên ăn mày cưỡi ngựa đến, bên cạnh là những nhân vật cưỡi ngựa tỏ vẻ rất uy nghiêm, ngoài hai kẻ ăn mày bẩn thỉu ra thì còn có một văn sĩ mặc cẩm y dài, tuần bổ mặc hồng bào, làm hắn không khỏi có chút kinh ngạc.

Dương Hạo xoay người xuống ngựa, đứng bên ven đường nói: "Bích Túc, ngươi...ngươi làm sao lại đi làm hoà thượng vậy? Ta là Dương Hạo đây."

"Dương Hạo?" Bích Túc vô cùng vui mừng, liên mồm hỏi: "Ta nghe nói ngươi đã làm Khâm Sai, nhưng sao bộ dạng ngươi lại ra thế này, đang cải trang vi hành à?"

"Vi hành cái gì chứ."

Dương Hạo oán trách nói: "Đừng nhắc tới nữa, cả đoạn đường bị bọn chó Khiết Đan đuổi giết, ta vội vàng đưa người đi theo hướng khác, lần này trở về đây là để trưng thu lương thực của Từ đại nhân Quảng Nguyên. Ngươi xuất gia rồi sao?"

"Xuất gia cái khỉ gì."

Bích Túc nhổ một miếng nước bọt nói: "Tiền mà ngươi để lại vốn là có thể dùng đủ, ai ngờ tên đại phu tầm thường không có bản lĩnh gì, thu tiền chữa bệnh lại cao. Hắn nói cái gì mà chiến sự phía bắc rất căng thẳng, rất nhiều thuốc đã bị quan phủ thu mua mang đi, cho nên tiền thuốc mới đắt lên mấy lần, ta cũng không biết là thật hay giả, nhưng lúc đó cả ngày nằm bò ở Hàng Đầu, đành phải làm theo hắn vậy. Aiyo, ta đúng là hổ lạc vào bình dương bị chó lừa mà, cứ như vậy đến khi bệnh của ta khỏi thì tiền cũng hết sạch, nợ người ta cả một khoản lớn tiền ăn và ở..."

Dương Hạo nhìn huynh đệ mình, không tin nói: "Dựa vào bản lĩnh của ngươi, kiếm một chút tiền đâu có khó?"

Bích Túc trừng hai mắt lên nói: "Dễ? Dễ cái gì? Phía bắc đại chiến, trong thành Quảng Nguyên mỗi ngày đều có người kiểm tra lai lịch, ta ở trong khách điễm mà đám tuần bổ không biết đã đến bao nhiêu lần, trong đó lại có một người biết ta, biết được thân phân ta, rồi cảnh cáo ta không được gây án tại Quảng Nguyên.

Bây giờ không giống như xưa nữa, kẻ nào dám làm loạn sẽ bị trị tội nặng gấp 10 lần, kẻ bị chặt đầu trước mặt mọi người cũng có. Ta tuy là có thể kiếm ra tiền, nhưng lại không có lệnh bài xuất thành, lúc đó còn không để người ta bắt lại được sao...haizzz, thật sự bất lực, đành phải vào làm rửa chén cho tiệm ăn, làm tiểu nhị, những khoản nợ này không biết đến bao giờ mới có thể trả hết được, ngươi đi vinh quang làm Khâm Sai đại sứ, ta lại ở tiệm ăn làm tiểu nhị, khổ quá..."

Bích Túc nói có vẻ rất bi thương, Dương Hạo nghe xong cơ hồ như cũng có chút đồng tình. Khi mấy người họ vào thành, đã thấy những quan binh thủ thành đang khám xét rất nghiêm ngặt người ra vào, những nạn dân từ phía xa chạy trốn đến đều bị kiểm tra từ đầu đến chân rất tỉ mỉ. Nếu như không phải là đám người Phạm Lão Tứ trên người có đeo lệnh bài quan binh thì hắn cũng không thể vào được thành, biết rằng những lời này của Bích Túc không sai, liền nói: "Là do ta suy nghĩ không chu đáo, vậy ngươi làm sao lại...?"

Bích Túc cười ha ha, dương dương tự đắc nói: "Thiên hạ không tuyệt đường sống của con người. Phụ thân của Tiền viên ngoại chết, muốn làm một cái tang thật lớn, lại không tiếc tiền mời hoà thượng trong Phổ Tế Tự làm pháp sự, liền tìm hai hoà thượng tha phương trong thành Quảng Nguyên, lại chê họ quá xấu xí, nên đã mướn ta làm đại hoà thượng chủ trì pháp sự. Nói rằng sẽ thay ta trả tiền ăn ở."

Gần đó có một người mập mạp khuôn mặt rỗ, mặc một chiếc áo hiếu, trong tay cầm một cây gậy tang, nghe thấy lời này của Bích Túc thì lập tức giận tím mặt. Có lẽ đó chính là đại hiếu tử Tiền viên ngoại, nghe nói kẻ giống ăn mày là Khâm Sai, lại thấy người đứng bên cạnh là Tri Phủ lão gia nên không dám làm gì.

Dương Hạo nghe vậy liền đi lại xem mặt hai tên hoà thượng thật, chỉ thấy một tăng nhân mặc áo xám, một người có lông mày thô ác, mũi to xấu, một người có vẻ đôn hậu tráng kiện, cánh tay to eo tròn, giống như Sa hoà thượng và Trư Bát Giới tái thế, nếu như kết hợp thêm tiểu đồng đang cầm phướn chiêu hồn phía trước thì có thể diễn một vở "Tây du kí" rồi.

Bích Túc kể xong nỗi khổ, hai mắt chợt sáng lên nói: "Dương Hạo, à không, Dương Khâm Sai, Dương Sứ Giả. Chúng ta là hoạt nạn gặp nhau, bây giờ ngươi đã làm quan lớn rồi, không thể quên tình nghĩa huynh đệ, bên cạnh ngươi có thiếu người không? Nếu như ngươi đồng ý, ta có thể đi theo ngươi, vì ngươi mà trải giường gấp chăn, bưng trà rót nước và...phì phì phì, mấy ngày nay quen làm việc ở tiệm ăn rồi nên thuận mồm nói. Ta sẽ dắt ngựa cho ngươi, đứng trước trướng nghe lệnh, được không?"

Dương Hạo nghiêm mặt nói: "Không giấu gì ngươi, ta là Khâm Sai, bây giờ lại không phải là đang hưởng phúc, ngươi thật sự muốn đi theo ta?"

Bích Túc nhảy lên nói: "Đồng ý đi, đồng ý đi. Đương nhiên là đồng ý đi cùng rồi, thà dắt ngựa cho hảo hán cũng không làm ông của tiểu nhân, ai mà lại không muốn đi lên chỗ cao chứ, ngươi xem xem, mới có mấy ngày mà đã sóng vai đứng sóng vai cùng Tri Phủ lão gia rồi. Trong cái khổ lại có cái phúc, người ngay thẳng mà. Ngươi đợi một chút..."

Bích Túc quay người lại, đến trước quan tài, chỉnh lại mũ, rung rung áo cà sa tím, một người đang cầm linh vị đứng phía trước quan tài, một người cầm bát hương đều không biết vị hoà thượng này muốn làm cái gì, chỉ thấy hắn đi đến trước bát hương, cầm lấy một cây kim, xâu vào một sợi chỉ đỏ rồi cắm cây kim vào trong tịnh sa, tay trái nắm vào đầu sợi chỉ đỏ, tay phải cầm kiếm chỉ vào tịnh sa, niệm niệm nói: "Cố Tiền Hâm Long, bần tăng Không Tuệ hiện có mật pháp siêu độ giải thoát làm cho ngài rời xa cái khổ đau để về nơi cực lạc. Sự sinh tử ngài phải dùng tâm để nghe, thật thành tâm. Minh thử lí, phát đại tâm, thành phật đạo, độ chúng sinh, đừng để lỡ lương cơ thiện duyên cuối cùng.

Cố Tiền Hâm Long, nghe kĩ! Nghe kĩ! Dựa giáo mà phụng hành! Kinh Kim Cang nói rằng: "Tất cả đều có pháp, như mộng huyễn bọt nước, như lộ cũng như chớp, nên làm như đã thấy" . "Phàm là có tương, đều có hư vong, nhược kiến chư tương phi tương, tức kiến như lai." Ngài nếu như đã quan hành lên cảnh giới không trung, thì phải giải thoát, vĩnh biệt khổ não mà hưởng khoái lạc....

Bích Túc nói xong, liền đến trước quan tài, chắp tay hành lễ. Nhặt cái lĩnh trắng vắt qua quan tài lên, cởi nút thắt ra. Tụng: "Trần duyên đã hết, giải thoát tất cả. Nguyện chư công đức, ta tin Tiền Hâm Long thí chủ sẽ sinh nơi cực lạc, vứt bỏ hết bụi trần, giải thoát thành phật..."

Bích Túc dùng giọng điệu của một đại hoà thượng thi hành pháp sự nên làm khi đưa quan tài xuống đất, xong việc hắn vỗ vỗ hai tay, toàn thân nhẹ nhàng đi quay trở lại, nhìn vào Tiền lão gia đang đứng ngây người ra, nói: "Việc đã xong rồi, ngài chỉ cần đưa phụ thân ngài chôn xuống là được. Bần tăng bây giờ phải đi rồi."

Dương Hạo kinh ngạc nói: "Ngươi...từ lúc nào mà đã học được cách làm pháp sự vậy?"

Bích Túc chỉ vào hai tên hoà thượng thật nói: "Học theo họ."

Dương Hạo thở phì một cái, cười nói: "Ngươi quả thật là lắm mưu đồ."

Bích Túc nghiêm trang nói: "Ngươi nghĩ rằng ta muốn học thuộc chắc? Ta không hết lòng không được, ta sợ bị lão quỷ Tiền gia đó đối phó, lúc đó thì làm sao mà chịu đựng được?"

Dương Hạo nghe xong thì á khẩu không nói được gì nữa: "........"

 Chương 150: Diệp thiếu gia bắc du..

Bên ngoài đông thành, đội xe Đinh gia kéo dài cả vài dặm, mấy tiểu quản sự đều chạy đến phía trước hỏi xem xảy ra chuyện gì, nhưng đại quản sự Lý Thủ Ngân cũng không biết rõ sự tình, rồi chợt có người chạy tới báo cáo, nói đích thân Tri Phủ đại lão gia ra lệnh đội vận lương Đinh gia đứng ngoài thành đợi, không được phép vào trong thành.

Đại quản sự Lý Thủ Ngân ngẩn ra, thời tiết nóng như thế này làm cho toàn thân hắn toát đầy mồ hôi, mồ hôi trên mặt men theo cổ áo mà chảy xuống.

Năng lực làm việc của hắn có hạn, lại vì cũng tự biết mình vụng về nên ít tranh chấp với người ta, cũng chẳng trông mong gì vào cái chức đại quản sự. Nhưng đại quản sự Đinh Hạo mắc hoạ, Liễu Thập Thất Liễu đại quản sự giảo hoạt cũng xong đời, cuối cùng không ngờ hắn lại dễ dàng ngồi được vào cái chức đó, trở thành ngoại viện đại quản sự.

Nhưng dù sao thì năng lực của hắn cũng không đủ, nên khi gặp những tình huống đặc biệt hắn cũng chỉ biết trơ mắt ra nhìn.

Bây giờ Đinh gia là do nhị thiếu gia cai quản, Dương Dạ là nội viện quản sự, Lý Thủ Ngân là ngoại viện quản sự.

Trong thành, Trần Phong Điều phụ trách cai quản năm cửa tiệm, Đinh gia bây giờ đã lập lên chức đại tổng quản, do Nhạn Cửu gia nắm toàn cục. Chuyến vận lương lần này rất trọng đại, Nhạn Cửu gia vốn muốn đi cùng hắn để xem xét tình hình ở Quảng Nguyên, nghĩ là sẽ không có vấn đề gì ngoài ý muốn xảy ra.

Rồi hắn đột ngột bỏ đi, nói là có việc riêng cần giải quyết, khi quay về sẽ lại đến Quảng Nguyên tìm Lý Thủ Ngân để cùng trở về Bá Châu. Nhưng không ngờ rằng, khi Nhạn Cửu gia không có ở đây lại xảy ra chuyện này.

Lý Thủ Ngân rất sợ, lần trước vì chậm trễ mà làm lỡ giao lương, họ bị Quảng Nguyên Ngự Sử Trình Thế Hùng tống đến quân doanh bỏ hoang ở tây thành đợi đến mười ngày, lần này ngay cả thành cũng không được vào, không biết Đinh gia đã lại làm gì để Từ lão gia không vui?

Mấy đại tiểu quản sự đang suy nghĩ đoán mò thì nhìn thấy bên trong thành có một đội nhân mã đi tới. Bây giờ vào thành đều được phòng bị rất nghiêm, rất nhiều dân chúng đang xếp thành một hàng dài để đợi kiểm tra, khi đoàn người kia ra tới cổng thì những dân chúng đó đều bị đẩy sang hai bên.

Nhìn thấy đoàn người đó hầu như đều cưỡi ngựa to, trong đó có mấy người đội mũ quan, mặc hồng bào của tuần phủ, tri phủ lão gia. Lý Thủ Ngân dắt theo đám người đại tiểu quản sự đi nghênh tiếp.

Nhìn thấy một con ngựa phi tới trước tiên, Lý Thủ Ngân vội vàng cúi lậy một cái: "Lão gia, quản sự Đinh gia Lý Thủ Ngân ở Bá Châu đã áp tải lương đến, không biết bao giờ mới có thể vào thành để giao lương." Hắn do dự một lúc rồi cẩn thận hỏi: "Vị lão gia này, chúng ta lần này không có chậm trễ giao lương chứ?"

Người kia lập tức người lên: "Ha ha ha. Không có. Ta cũng không phải là lão gia, vị này mới là Tri Phủ lão gia của chúng ta."

Người đó chính là Dương Tấn Thành, hắn phi ngựa dạt sang một bên, Lý Thủ Ngân mới chỉ nghe tới Tri Phủ lão gia chứ nào có từng được gặp, hai chân chợt mềm nhũn ra, quỳ sụp xuống nói: "Thảo dân Lý Thủ Ngân bái kiến Tri Phủ đại lão gia."

Lý Thủ Ngân hơi choáng váng, thầm nghĩ: "Lần trước người mà có chức quan lớn nhất đã được gặp chính là Thương Đại Sử, là quan lão gia từ cửu phẩm, Thương Đại Sử chỉ là một người coi kho lương, còn vị Tri Phủ lão gia này lại là người cai quản cả thành Quảng Nguyên và huyện trấn gần đấy, cũng không biết là đại quan mấy phẩn, ngài ấy...làm sao lại đích thân đến đây?"

"Ừ..." Từ Tri Phủ vuốt vuốt râu, dùng giọng quan hỏi: "Lương...chuyển đến rồi à?"

"Đồi đại lão gia, chuyển đến rồi, chuyển đến rồi, lần này lương thực rất nhiều. Để trữ đủ ở trong kho quan, Đinh gia đã thu mua cả nửa năm, lần này đã mang hết đến đây rồi."

Lý Thủ Ngân không dám lớn giọng, bên trong người như đang đánh trống ngực nói lắp bắp một câu với vị đại nhân này, hắn có chút cảm giác nghẹt thở.

"Ừ, rất tốt, rất đúng lúc, ha ha ha..., Khâm Sai đại nhân, lần này việc của ngài và việc của ta đều đã được giải quyết rồi, ngài xem xem, ngài cần bao nhiêu lương thực thì hãy tuyên chỉ với hắn đi."

Lý Thủ Ngân vừa nghe thấy phía sau Tri Phủ đại nhân còn có một vị Khâm Sai đại đại đại lão gia nữa, liền sợ hãi vô cùng.

Hắn trước đây chỉ từng nghe thấy chức quan Khâm Sai này trong kịch văn, mà làm sao vị Khâm Sai của Hoàng Đế lại đến đây?

Dương Hạo luôn nhìn dò xét vào đoàn người của đội xe Đinh gia, trong đó có rất nhiều người hắn quen biết, nhìn họ Dương Hạo cũng lại có một cảm giác gì đó, khi Từ Từ Phong Thanh quay đầu hỏi hắn, hắn mới đạp vào hông ngựa tiến về phía trước. Lạnh lùng đáp lời.

Vừa nhìn thấy vó ngựa của Khâm Sai đi tới trước mặt, đám người Lý Thủ Ngân cả đầu cũng không dám ngẩng lên, chỉ cảm thấy giọng nói của vị quan này có chút quen thuộc, lúc này mới nghe vị Khâm Sai nói: "Lý Thủ Ngân, bản Khâm Sai phụng hoàng lệnh di dân Bắc Hán về đất Tống, đang cần phải huy động lương thảo cứu trợ di dân..

Các ngươi đến rất đúng lúc, bản Khâm Sai có Tiết Việt, có quyền trưng thu dân dịch, dân vật, bây giờ ngươi đưa một phần số lương thực của phủ Quảng Nguyên cho bản Khâm Sai mang đi, đồng thời điều động xe và phu xe của ngươi đi theo."

Lý Thủ Ngân nghe thấy Dương Hạo gọi tên mình thì vô cùng ngạc nhiên, ngẩng đầu lên, lúc trước chỉ nghe thấy giọng của Dương Hạo khá quen, bây giờ lại nhìn rõ dung mạo của vị Khâm Sai ăn mày này, dù sao cũng là người đã sống với nhau bao nhiêu năm rồi, vừa nhìn đã có thể nhận ra thân phận của hắn, bất giác kinh ngạc kêu lên: "Dương Hạo!"

Dương Tấn Thành quát lớn: "To gan! Đây là Khâm Sai đại nhân, ngươi lại dám gọi thẳng tên huý của ngài, ngươi không muốn sống nữa à?"

"Tiểu nhân mạo phạm, tiểu nhân mạo phạm." Lý Thủ Ngân vội vàng cúi đầu xuống, lòng thầm nghĩ: "Kì lạ thật, kì lạ thật, còn chưa tới một tháng, sao hắn có thể làm được Khâm Sai. Khâm Sai tại sao lại trông thảm hơn cả ăn mày?"

Dương Hạo lúc này cũng không có thời gian để nói nhiều với hắn, hắn và Từ Tri Phủ bàn bạc với nhau vài câu, rồi định lượng số lương thực, sau đó phóng ngựa lên trước, từ trong đoàn chở lương chọn ra những con lừa ngựa khoẻ mạnh, xe chắc chắn, cho xe ngựa đứng xếp sang một bên.

Sau đó Dương Hạo lại chọn ra một số phu xe, bảo họ ở ngoài thành đợi, rồi quay về phía bắc, không để ý đến những người ở Đinh gia đang thì thầm to nhỏ, vừa sợ hãi vừa tỏ ra kính cẩn nữa, chỉ cùng Từ Tri Phủ vội vàng trở vào thành.

Khi tới được kho lương thì Phù Diêu Tử đã đem thuốc trở lại, và một lúc sau thì xe của Diệp gia cũng đuổi tới. Sau vài canh giờ, Diệp công tử mới khóc lóc thảm thương mang nốt mười mấy chiếc xe ngựa lớn cuối cùng đến, nói:

"Khâm Sai đại nhân, số xe mà Diệp gia có thể điều động được đều đã ở đây cả." Dương Hạo nói: "Cũng đủ rồi, chúng ta chuẩn bị lên đường. Từ đại nhân, Dương Hạo sốt ruột muốn trở về, không thể cùng ngài nói chuyện nhi được. Nếu có cơ hội, chúng ta sẽ gặp lại, Dương Hạo sẽ bày tiệc rượu cảm tạ."

Từ Phong Thanh vội nói: "Đều là vì việc công, Dương đại nhân đừng nói những lời khách khí như thế."

Dương Hạo mỉm cười, rồi chắp tay vái chào chúng quan, nói mấy câu, thì lại nghe thấy phía sau có tiếng ồn ào. Dương Hạo quay người lại nhìn, thì thấy một tốp người vây thành một vòng tròn. Phạm Lão Tứ, Lưu Thế Hiên đang đứng khuyên giải ở đấy

Dương Hạo đi tới xem xét, thì thấy Bích Túc đang kéo lấy một lão đạo, tức giận đến nỗi mặt đỏ cả lên: "Là ông, là ông, chính là ông, nếu như không phải ông đã ăn trộm túi tiền của gia gia, thì gia gia làm sao lại rơi vào cảnh thảm thương như thế này, ông...cái lão đạo chết tiệt này, bây giờ rơi vào tay ta, ta sẽ không để ông yên đâu."

Phù Diêu Tử cười khan nói: "Lời này của tiểu thí chủ nói sai rồi, nếu không có bần đạo mượn mất tiền của thí chủ, thì hôm nay thí chủ có cơ hội tham gia vào làm người của Khâm Sai đại nhân không? Một ẩm một trác, chẳng lẽ là tiền định. Tiểu thí chủ, bần đạo là một người xuất gia, thí chủ cứ kéo kéo như vậy còn ra thể thống gì nữa."

Bích Túc tức giận quát: "Ai là thí của ông? Ông là lão đạo, ta là hoà thượng, bản đầu trọc ta và ông không độ trời chung, tiền của ta đâu?"

Phù Diêu Tử hai tay xoè ra: "Tiêu hết rồi."

Bích Túc kêu thảm một tiếng: "Aaaaa! Ông là người xuất gia thì cần gì nhiều tiền thế, đó là 100 xâu đấy."

Phù Diêu Tử đảo đảo con ngươi, phản đối nói: "100 xâu mà nhiều sao, khi lão đạo ở Hoa Sơn, đám đồ đệ đồ tôn hiếu kính dâng tặng cực phẩm trà, mỗi lạng cũng đã 10 xâu tiền."

Bích Túc tức khí cười nói: "Xem như ông lợi hại, ta cũng không tính với ông nữa, nếu như ông đã có nhiều tiền như vậy thì trả lại tiền cho ta."

Phù Diêu Tử cười lắc đầu: "Tiểu thí chủ lại nói sai rồi, ngài xem bộ dạng bây giờ của bần đạo, lục cả người liệu có thể tìm ra một đồng không? Ha ha ha, tiểu thí chủ sau này đi theo Khâm Sai đại nhân lại còn phải lo nghĩ tiền bạc sao?

Đợi đến ngày thí chủ có được tiếng tăm, quay đầu nhìn lại, 100 xâu tiền đó có đáng là gì? Bần đạo thấy thí chủ rất có tuệ căn, mới có lòng điểm hoá, người khác có muốn lão đạo làm phép cho, lão đạo cũng chẳng muốn đưa tay ra ý chứ."

Bích Túc phẫn nộ, lập tức cởi áo cà sa ra: "Đến đây đến đây, để ông xem tuệ căn của gia gia, dám làm chuyện đó hả..."

Phạm Lão Tứ, Lưu Thế Hiên và đám tuần phủ nha bên cạnh che miệng cười trộm, Dương Hạo nhìn thấy vội vàng quát ngăn lại: "Bích Túc, không được vô lễ, trước mặt các vị đại nhân mà dám làm chuyện mất thể thống. Nếu như ngươi đã theo ta thì sau này phải bỏ ngay đi những cái thói ngỗ ngược của thổ phỉ nghe chưa."

Phạm Lão Tứ cười ha ha rồi bước lên trên nắm vào vai Bích Túc, nói: "Được rồi, được rồi, không phải chỉ là 100 xâu tiền thôi sao, đợi hoàn thành nốt chuyến đi tồi tệ này, vinh quang lên làm quan thì 100 xâu tiền ấy còn sợ không kiếm lại được sao?"

Lập tức có mấy người bước lên nói qua lại vài câu, lúc này mới khuyên được Bích Túc buông tay ra, Phù Diêu Tử đứng ở bên cạnh nghe thấy liền thầm cười khà khà.

Đoàn xe đã đến tụ họp với đoàn xe Đinh gia đang đứng đợi ngoài cổng thành, mang theo 50 xe lớn chở đầy lương thực, vội vàng khởi hành đi về phía bắc, Dương Hạo đã trưng dụng được 50 xe lớn của Đinh gia, hơn một trăm dân phu. Còn Lý Thủ Ngân, hắn không hề yên tâm chút nào, nhưng vẫn đành phải kiên trì đi cùng.

Dặn dò những người quản sự khác vào trong thành đợi Nhạn Cửu gia quay lại rồi cùng trở về.

Dương Hạo đã ngồi trên một chiếc xe lớn, chiếc xe vòng qua đường lớn bắc thành, lúc này Dương Hạo mới hỏi tình hình Đinh gia ở Bá Châu: "Lý quản sự, Đinh gia trang bây giờ như thế nào rồi?"

Lý Thủ Ngân sớm đã biết hắn sẽ vặn hỏi mình, trong lòng cũng đã có chuẩn bị. Tuy biết hắn là Khâm Sai, nhưng dù sao cũng là người quen, nên cũng không cảm thấy lo lắng như khi gặp Từ Tri Phủ, liền cười bồi nói: "Đinh quản...

Dương đại nhân, ngài muốn biết chuyện gì?"

Dương Hạo lạnh lùng cười một cái: "Ngươi biết được những gì thì cứ nói đi, đường còn rất dài, ta đều muốn nghe tất cả."

Lý Thủ Ngân nghĩ nghĩ rồi nói: "Từ sau khi Dương đại nhân ra đi, Đinh gia chúng ta đã xảy ra rất nhiều chuyện."

"Sao cơ? Kể ta nghe."

"Liễu Thập Nhất Liễu quản sự...chết rồi?"

Lý Thủ Ngân nói xong, hai mắt nhìn chằm chằm vào sắc mặt của Dương Hạo, nhưng Dương Hạo không có chút biểu hiện nào, hắn có chút thất vọng, liền nói tiếp: "Ông ấy và Đổng quả phụ chết trên giường, bị người ta đùng đao chém chết, rất thảm. Nhưng đáng tiếc...hung thủ đến bây giờ vẫn chưa điều tra ra.

Thông Phán Bá Châu Triệu Kiệt Triệu đại nhân phái một Bổ Khoái lão gia đi tra án, nhưng cả ngày ông ấy chỉ đến hai nhà nguyên cáo ăn uống, ăn đến mức mà cả hai nhà đều không chịu nổi, cuối cùng đành phải cung kính đưa trả Bổ Khoái lão gia hồi thành, án mạng một đao hai thi thể bây giờ đã không còn được giải quyết nữa."

"Sao cơ?" Dương Hạo nghe đến đây thì nét mặt hơi thay đổi, trong lòng dậy lên một sự ấm áp và cảm kích, thầm nghĩ: "Triệu huyện uý, huynh đệ sẽ ghi nhớ chuyện này."

Lý Thủ Ngân lại nói: "Còn nữa, lão gia cũng đã qua đời rồi."

"Cái gì?" Dương Hạo chợt quay đầu lại, nhìn chằm chằm vào hắn: "Ngươi nói cái gì?"

Lý Thủ Ngân có chút sợ hãi, trong miệng tiểu dân đã tương truyền, Khâm Sai là người có quyền tuỳ ý giết người, trong lòng hắn nghĩ Dương Hạo là người đã giết Liễu Thập Nhất và Đổng Lý Thị, tuy nói rằng mình chưa từng đắc tội hắn, nhưng Đinh gia lại có lỗi với hắn, mình lại là quản sự Đinh gia, hắn có thể vì tức giận chuyện khác mà lấy mất mạng mình, lập tức thật cẩn thận nói: "Vâng, lão gia thực ra là bệnh nặng kéo dài rất lâu, mấy ngày đó có lẽ là quá mệt mỏi, đến đêm thứ ba từ sau khi Dương đại nhân đạp cửa đi ra thì lão gia qua đời."

Dương Hạo im lặng một hồi lâu không nói gì.

Kẻ đầu sỏ hại chết Đông Nhi hắn đã giết rồi. Bây giờ chỉ còn lại hung thủ đã ép mẹ hắn phải chết là Đinh Đình Huấn và Đinh Thừa Nghiệp. Không ngờ, Đinh Đình Huấn cũng đã chết, phụ thân mang cùng một huyết thống này khi sống là kẻ thù, sau khi nghe thấy tin về cái chết của hắn Dương Hạo không có chút thương cảm, thù hận cũng tiêu tan, chỉ còn lại một mảng trống không mơ hồ.

Thấy hắn ngẩn ra nhìn về phía trước không nói gì, Lý Thủ Ngân không biết phải chăng là nên tiếp tục nói, đành phải rụt rè mà đợi ở bên cạnh.

Qua một lúc sau, Dương Hạo mới trầm giọng nói: "Còn có chuyện gì nữa, tiếp tục nói đi."

"Vâng..." Lý Thủ Ngân biết những chuyện mà hắn hỏi về Đinh gia nhất định là có liên quan đến hắn, nếu như đem mấy chuyện linh tinh như nhà Lưu Minh sinh con trai, tiểu tử Cao Nhị xem trộm cô nương Hoắc gia tắm bị cha nàng đánh gẫy hai xương sườn ra nói thì sợ rằng vị Khâm Sai này sẽ nổi giận, liền nói kể tiếp những chuyện đại sự của Đinh gia: "Lão gia chết rồi, đại thiếu gia hôn mê không tỉnh, bây giờ Đinh gia... Là do Nhị thiếu gia trông nom. Nhị thiếu gia đặt ra một chức là đại tổng quản, do Cửu gia...Nhạn Cửu đ nhận, còn đề bạt Dương Dạ làm nội viện quản sự, ta...làm ngoại viện quản sự..."

Dương Hạo cười lạnh một tiếng, đột nhiên hỏi: "Đại tiểu thư bây giờ thế nào rồi?"

Lý Thủ Ngân biết ở trong Đinh gia ngoài đại thiếu gia, thì chỉ có Đinh đại tiểu thư là thân thiết với Dương Hạo, vì thế hắn luôn không dám nói về tình hình của đại tiểu thư, chỉ sợ chọc giận Dương Hạo, nhưng lúc này đã bị hắn hỏi đến nên đành phải trả lời: "Đại tiểu thư..., khi lão gia còn sống, đã từng nghĩ sẽ gả đại tiểu thư cho Tư gia công tử. Tư gia công tử tên là Tư Mặc Lâm, là con nhà quan, xem ra cũng rất môn đăng hộ đối.

Sau khi lão gia qua đời, nhị thiếu gia nói hôn sự đã do lão gia định khi còn sống, cho nên tạm thời không làm tang, mà chuẩn bị hôn sự cho đại tiểu thư trước, vì thế sẽ không bị coi là thành thân trong tang lão gia, không bị coi là vi phạm lễ chế...

Dương Hạo hơi nhăn mày lại, Lý Thủ Ngân lại nói: "Nhưng đại tiểu thư kiên quyết không chịu, hai tỷ đệ cuối cùng đã xảy ra động thủ trước linh đường, đến khi Nhạn Cửu ra khuyên ngăn thì nhị thiếu gia mới chịu lùi một bước, nói nói nữ tử chịu tang một năm là đủ rồi, một năm sau sẽ làm hôn sự. Nhưng đại tiểu thư nói cả đời sẽ không gả cho ai, cũng không cần ai phải chuẩn bị hôn sự, hai người họ....tranh cãi rất kịch liệt..."

"Còn gì nữa?"

"Lão gia được chôn tại núi Mào Gà, đại tiểu thư rời đi, nói muốn đến sống gần mộ lão gia để túc trực bên linh cữu. Còn nói ngọn núi đó non xanh nước biếc, sẽ đưa đại thiếu gia đến đó dưỡng bệnh, không ở trong phủ cùng nhị thiếu gia nữa. Nhưng đại thiếu phu nhân lại không muốn chuyển đi, khi ta đến Quảng Nguyên thì cô tẩu ác độc đang vì việc này mà xảy ra tranh chấp."

Dương Hạo không thể nói rõ được cái cảm giác trong lòng mình. Nói là mình trở về Bá Châu sớm muộn cũng sẽ tìm Đinh Thừa Nghiệp tính nợ, nhưng món nợ này phải tính như thế nào đây? Cái chết của lão nương chính là do Đinh Thừa Nghiệp hãm hại mình mà ra. Bây giờ cho dù đã làm quan rồi, nhưng chẳng nhẽ có thể bắt cả nhà hắn phải đền mạng sao? Hắn không có quyền lực đó, triều Tống cũng khó mà dung thứ được cho những quan lại tàn ác như thế.

Nhưng nếu không trừng trị tên súc sinh Đinh Thừa Nghiệp thì hắn không cam tâm. Đám người Phạm Lão Tứ ra tay rất tàn ác, hơn nữa đã từng làm mã tặc, dựa vào giao tình cùng sống chết bấy lâu nay giữa hắn và họ thì muốn họ giúp diệt trừ Đinh Thừa Nghiệp không phải là chuyện khó, họ nhất định sẽ đồng ý.

Những con người ấy tuy là đã làm binh, trong mắt có quân kỉ, nhưng lại không có vương pháp. Nhưng Đinh Ngọc Lạc thì phải làm sao? Cho dù Đinh Thừa Nghiệp có làm sai cả nghìn cả vạn chuyện nhưng hắn vẫn là người của Đinh gia, là người kế thừa hương hoả duy nhất của Đinh gia, với tính cách của Đinh Ngọc Lạc, nàng cho dù có rất hận Đinh Thừa Nghiệp, nhưng một ngày nào đó Đinh Thừa Nghiệp gặp nạn, nàng sẽ thà chết cũng phải bảo vệ chu toàn cho hắn.

Nhìn thấy trên trời có một con diều hâu đang bay qua bay lại, lòng Dương Hạo chợt có chút ngưỡng mộ. Nếu như mình đầu thai thành một con diều hâu thì tốt biết bao, có thể dang cánh bay lượn trên chín tầng mây, nhìn xuống tứ hải, bất kể là đến đâu thì đều có thể tự do độc lập như vậy.

Trong thế giới sinh linh đó chỉ có đơn giản là ta sống ngươi chết, không có nhiều ái hận tình thù như nhân gian. Ngươi còn hạnh phúc hơn nhiều Dương Hạo ta.

Trong đội xe, Diệp Chi Tuyền đại thiếu gia lúc này cũng ngẩng đầu lên nhìn con diều hâu: "Mi so với con chim mà ta đã bỏ ra mười quan tiền để mua về còn uy vũ hơn nhiều, xem đôi cánh kìa, cứng chắc như sắt, bản công tử đã chơi biết bao nhiêu chim, nhưng chưa từng có con nào lại có phong thái như mi, nếu như mang được mi trở về thành thì còn không làm cho lũ chim trong thành phải ngưỡng mộ đến chết sao? Đi về phía bắc thảo nguyên chắc chắn hùng ưng không ít, ta phải nghĩ cách bắt một con mang về mới được, nếu không chẳng phải là 'đi vào núi châu báu mà trở về tay không' à"?

Nghĩ như vậy, Diệp Chi Tuyền lập tức hăng hái bàn bạc tính kế với đám gia nhân đi cùng. Trong lòng hắn, lần này đi hộ tống lương cũng coi như là một chuyến du ngoạn.

 Chương 151: Người thường

Ngày thứ tư, sắp đến Tử Ngọ Cốc rồi.

Dương Hạo trở nên căng thẳng, hắn không biết La Khắc Địch mang theo đội ngũ lánh nạn khổng lồ có thể đuổi đến đây hay không, thúc ngựa chạy nhanh về phía cánh đồng hoang vu, đuổi tới thành Quảng Nguyên, rồi lại trở về, quất roi thúc ngựa trở về. Đủ dùng bẩy ngày, khoảng thời gian đó theo lý mà nói, quân đội của La Khắc Địch đi đến Tử Ngũ Cốc cũng khó khăn lắm, đấy là nói nếu bọn chúng có thể chịu đựng được.

Lúc hắn đi, quân đội trong tay còn lương thực và nước uống, mỗi ngày tiết kiệm một chút, có thể khiến cho số đông tiếp tục đi đường, đương nhiên, trong quá trình này thể chất suy nhược, người già nhiều bệnh vì thiếu nước, thiếu lương thực, sợ rằng sẽ cầm cự không nổi. Dương Hạo lúc đuổi từ trong cánh đồng hoang vu ra, mảnh đất cạnh hoang mạc đã thấy được một chút nước, có nước rồi, người ngựa của Khiết Đan dù không có lương thực, làm thịt mười mấy con chiến mã dư thừa cho mọi người thịt luộc canh uống, thì cũng có thể gắng sức qua được nơi này.

Nhưng đây chỉ là cách nghĩ của hắn mà thôi, càng gần Tử Ngũ Cốc, hắn càng lo lắng, hắn lo không gặp ai, hắn sợ chỉ là số người ít ỏi nhìn thấy đi ra sa mạc. Dương Hạo không chịu được, bèn gọi Bích Túc, Phạm Lão Tứ và Lưu Thế Hiên. Bốn kị sĩ phóng ngựa về phía Tử Ngũ Cốc trước.

Con đường của bốn người Dương Hạo đi là con đường men theo một dòng sông. Dòng sông này chính là xuất phát từ Tử Ngũ Cốc, Tử Ngũ Cốc hướng đông tây, kẹp giữa hai núi là một sơn cốc, nước trong sơn cốc chảy ra miệng cốc thì quay về hướng nam, chảy đến thành Quảng Nguyên. Lòng sông rộng, đó là vì có nước lũ, nay nước sông chỉ chiếm độ rộng là 1/3 so với đường sông, còn lại là cỏ dại mọc um tùm. Cỏ dại ở bãi làm cho mặt đất có độ dẻo cực lớn, đủ để chịu được trọng lượng của xe ngựa và chiến mã.

Đến chỗ Tử Ngũ Cốc, đi hơn hai mươi dặm về hướng bắc là tới thảo nguyên, nhưng thảo nguyên đó phía trước là một dãy núi cao trùng điệp, không có đường đi. Lúc đầu Trình Thế Hùng phái bắc quân thượng và quân của Quan Gia hợp sức thảo phạt Bắc Hán, tới Tử Ngũ Cốc này cũng phải chuyển hướng tây, đi một vòng rộng, thì mới trở lại hướng Bắc Hán được. Nếu không thì lúc đầu khi di dân, Triệu đại cũng sẽ không chọn con đường hướng tây hoặc hướng đông. Một mình không có sự lựa chọn trực tiếp nam hạ Quảng Nguyên.

Nhưng bây giờ dân tị nạn nếu đến Tử Ngũ Cốc, mà lại còn đi vòng qua núi, lúc này có nhiều hơn một sự lựa chọn con đường trực tiếp nam hạ Quảng Nguyên, thì Dương Hạo sẽ cùng các tướng lĩnh suy nghĩ thêm, nghĩ đến con đường của bước tiếp theo hành động, là trực tiếp xuyên qua con đường phía tây của Tử Ngũ Cốc, đi phủ Châu, vùng Lân châu đủ để bố trí ổn thỏa dân chúng, hay là ven sông đi đến Quảng Nguyên.

Thành Quảng Nguyên là nơi mà không thể chứa được số dân đông thế này, đất đai xung quanh quá cằn cỗi, cũng không thích hợp để khai khẩn đất đai, nhưng có thể có một thời gian ngắn nghỉ ngơi, sau đó mới quyết định đưa người dân đi đâu. Dương Hạo trong lòng ý thức được sau khi đến thành Quảng Nguyên, sẽ đưa nạn dân phân tán ra Trung Nguyên, hắn đoán được một chút phần nào ý nghĩ của Quan Gia.

Lo lắng cho sự an nguy của nạn dân, muốn sau khi bọn họ đi sẽ sắp xếp bước tiếp theo, Dương Hạo có con ngựa đi nhanh đã đến Tử Ngũ Cốc trước. Phóng ngựa lên một cái sườn núi cỏ um tùm, nhìn về cảnh trước mắt, “tách” nước mắt Dương Hạo rơi xuống. Ai bảo nam nhi nước mắt không có âm thanh cơ chứ? Thấy cảnh tượng ấy mà rơi lệ!

Trước mắt là một đại quân chạy nạn dài dằng dặc, trước không thấy đầu, chưa vào sơn cốc, hậu không thấy đuôi, dân đi đến không ngừng. Đội ngũ này binh không giống binh, dân không giống dân, ai ai cũng có vẻ khác thường, dìu già dắt trẻ, chạy thất tha thất thểu về phía sơn cốc. Bất kể thế nào, bọn họ còn phải sống, phải sống. Đến Phạm Lão Tứ, Lưu Thế Hiên là kiêu binh giết người không chớp mắt, nhìn thấy cảnh tượng trước mắt, đôi mắt đều đỏ ngầu lên.

“Đi, chúng ta qua đó, bảo mọi người ở đây nghỉ ngơi dưỡng sức, nói với bọn họ, lương thực sắp đến rồi”. Dương Hạo giơ tay về phía trước, chạy xuống trước. Phạm Lão Tứ, Lưu Thế Hiên và Bích Túc áo cà sa cũng theo đó mà xuống.

“Ta là khâm sai Dương Hạo, La tướng quân ở đâu?”

Dương Hạo đến gần chỗ đó, ghìm ngựa lại, chặn một tên dáng vẻ quân sĩ hỏi. Trong tay hắn còn có một cây thương, lúc này dùng báng súng chống xuống, làm ra vẻ lung lay sắp đổ.

Tên đó vừa nghe hỏi xong thì mừng rỡ, nói: “Khâm sai đại nhân, khâm sai đại nhân, ngài đã về rồi đấy à. La tướng quân ở phía sau”.

Dương Hạo thấy hắn có vẻ mệt mỏi, bèn nói: “Ngươi nghỉ ngơi đợi chút sẽ có lương thảo đến”.

Tên kia nói: “Không nghỉ được, ngựa người Khiết Đan không biết từ đâu mà xông ra, đại quân tập trung, La tướng quân chỉ thị tôi khẩn cấp đưa người vào trong sơn cốc ẩn nấp, lệnh cho binh cản phía sau, nếu muộn, kị binh Khiết Đan vây đánh sau lưng, chúng ra không còn gì nữa”.

“Cái gì?” Lòng Dương Hạo lập tức nặng trĩu, bây giờ, tình hình như vậy, đại quân người Khiết Đan tập trung, lúc này còn dùng đại quân gì cơ chứ. Chỉ mất đi một ngàn người, thì có thể giết một vạn dân như giết gà giết chó. Lẽ nào…lẽ nào kết quả chung quy là thất bại trong gang tấc, ông trời cũng muốn diệt vong ta sao?

Nhất thời, tay chân Dương Hạo lạnh toát, chỉ nghe tên sĩ binh kia lại nói: “Đại quân của Quan Gia cũng đến rồi, đang đứng sóng đôi với kị binh tinh nhuệ Khiết Đan, chúng ta cần phải nhanh chóng vào cốc, lánh quân tiên phong”.

Dương Hạo vừa nghe những lời này, lòng lúc nãy nặng trĩu đã hồi phục trở lại, nói: “Đại quân Quan Gia cũng đến rồi sao?”

“Ở phía sau, đều đang ở phía sau”. Tên sĩ binh chỉ về phía sau của đội ngũ, Dương Hạo không nói gì. Lập tức thúc ngựa phi về phía đội ngũ. Phạm Lão Tứ và Lưu Thế Hiên hét lớn phía sau hắn: “Mọi người đi nhanh một chút, lương thực sắp tới rồi, vào trong sơn cốc ăn cơm, mọi người đi nhanh chút đi”.

Dân chúng chân mềm như bún nghe được tin này lập tức phấn chấn hẳn lên, họ đem hết sức lực cuối cùng, tốc độ đi nhanh hơn một chút. Dương Hạo chạy đến phía cuối của hàng ngũ, lúc này người không nhiều lắm, thưa thớt vài người. Dương Hạo quan sát một lúc thấy La Khắc Địch đứng ở trên sườn núi cao chỉ tay thúc giục số người tuy không nhiều ở phía sau đi nhanh lên.

Dương Hạo thúc ngựa đi tới, lên sườn núi, cao giọng nói: “La Khắc Địch!”

La Khắc Địch nghe tiếng quay đầu lại nhìn, vừa thấy hắn, mừng như điên nói: “Đại nhân, lương thực đến rồi sao?”

Dương Hạo đứng ở trên sườn núi, ngẩn người nhìn về phía trước, không nói được lời nào.

Trước mắt hắn là một đồng bằng, trên đồng bằng là hai quân trận khổng lồ đang từ từ điều động. Dương Hạo nhìn qua cách bày trận của La Khắc Địch. Nhưng trận nhỏ mấy nghìn nhân mã vội vàng bày ra so với trận lớn trước mắt, thực mà nói khác một trời một vực, đại trận trước mắt khiến người ta nhìn thấy đã hoa mắt chóng mặt. Trước đây, xem phim, đọc bình sách, sự huyền diệu của trận pháp thật khó giải thích, đại trận mê hoặc ở trước mắt, hai đại trận dày đặc sát khí thực ra mà nói là trẻ con qua nhà nhà, nực cười.

Đây mới là trận chiến chân chính, không có nhiều sức tưởng tượng, cũng không có gì là rườm rà, nói đến cùng, trận pháp kì thực chính là sự phân phối hợp lý của các binh chủng, sự sắp xếp hợp lý của các quân doanh gánh vác những nhiệm vụ khác nhau.

Sĩ tốt công thủ, một hình thức bảo vệ đội hình cần thiết. Nếu không thì mấy vạn người một khi đầu quân vào quân đội, ngay lập tức sẽ trở thành hỗn trận không có trật tự, căn bản không thể nào điều hành chỉ huy phát huy được uy lực.

Có trận hay vô trận, điều kiện chỉ huy lúc đó, tố chất binh sĩ và hạn chế về vũ khí có thể là một tiêu chuẩn quan trọng phát huy được sức chiến đấu mạnh nhất không. Mấy năm trước, quân Tần lấy yếu thắng mạnh. Càng đánh càng thắng. Cuối cùng lại thất bại thảm hại ở trận chiến Phì thủy. Vương Mãnh dựa vào chục vạn bộ tốt, mấy mươi vạn kỵ binh đã thắng trong trận chiến.

Dương Hạo đứng ở trên sườn núi, đồng bằng trước mắt, hướng mà lũ nạn dân chạy tới là trống rỗng, đây là một gò đất. Phía bắc của nó chính là quân trận quân Tống khổng lồ. Tiên phong trận, sách tiên phong trận, đại trận, tiền trận, người què mã trận, vô đích phân mã, cự hậu trận, sách điện hậu trận…

Nhìn qua, đó là một tiểu quân trận giống như vô số tạc, phủ, cứ, tỏa, trùy, kiềm, tạo thành một cỗ máy giết người tinh vi, tuy giữa mỗi tiểu trận đều có khoảng cách rộng, nhưng không có người nào dám khinh suất đi vào, nếu không thì mấy trăm người, đội quân trên nghìn người cũng đủ để trong nháy mắt bị đập nát.

Gò đất nam diện, cũng chính là một mặt mà bọn họ lui tới, lại có thể là trận doanh của người Khiết Đan, thật không biết đại doanh họ làm sao có thể quanh quẩn ở trước mặt quân Tống được, chặn đường đi của họ, người Khiết Đan cũng có bộ tốt, nhưng giống như cùng quân Tống bố trí người bắn nỏ vượt qua bẩy thành vậy, sự bố trí kị binh trong quân bọn chúng cũng vượt qua được bẩy thành.

Tiền quân kị binh Khiết Đan đang bố xe huyền trận, đây là một loại chiến thuật đột kích kị binh năm xưa của Hán Phiêu Kị đại tướng quân bỗng nhiên có bệnh mà nghiên cứu ra, từng kỵ binh chùy hình trận đang sắp xếp có thứ tự, trước sau, phải trái, sử dụng binh khí không giống nhau, khoảng cách giữa các kỵ binh cũng không giống nhau, giữa chiến mã để ra một khoảng trống vừa đủ, khi họ xung phong, bộ tốt quân địch có thể né tránh nhường đường.

Nhưng…đội quân kỵ binh cũng có mấy chục loại, thậm chí mấy trăm loại, hơn nữa một tốp kỵ binh đều là sai liệt, một khi để bọn chúng phát huy được uy lực đột xuất, bọn chúng có thể giống như máy diệt cỏ, quét sạch gọn mọi thứ trước mắt. Bọn chúng là những cung binh không có chuyên môn, Tống binh cần huấn luyện một thời gian dài cho các cung binh đủ tư cách, ai cũng có thể cưỡi ngựa trên thảo nguyên mà vẫn bắn được tên trúng đích.

“Dương đại nhân, Dương đại nhân!”

“A…a…sao vậy? Sao vậy? La tướng quân không sao chứ?”

La Khắc Địch lắc lư muốn ngã, mà vẫn vui vẻ nói: “Dương đại nhân, mạt tướng không hoàn thành nhiệm vụ được giao phó. Dân chúng…ta đều đưa về rồi”.

Phạm Lão Tứ thúc ngựa đi tới, cầm vào vai hắn, nhấc hắn lên chiến mã, Dương Hạo nói: “Lão Tứ, nhanh đưa La tướng quân đến phía sau, ta đi sau”.

Phạm Lão Tứ đồng ý một tiếng, không để ý La Khắc Địch kháng nghị, chở hắn chạy về phía sau. Dương Hạo ngẩng đầu nhìn quân trận Tống quân, đại quân đó đã bố trí thành hình, gần với sn cốc, quân được tập quân bố trí là kỵ binh quân Tống, xem ra chính là do đội quân kỵ binh này như hổ rình mồi ở đằng kia, đối đầu người ngựa Khiết Đan sợ khi đánh úp đội quân nạn dân sẽ bị bọn chúng hai cánh quân công kích, lúc này mới buông đội quân gọi là hoa tử, duy trì trạng thái giằng co với Tống quân.

Mắt thấy đại chiến hết sức căng thẳng, Dương Hạo không rỗi mà xem nhiều. Nắm bắt cơ hội xuống sườn núi, hô to với số dân không nhiều: “Nhanh, vào cốc ngay lập tức, vào đến sơn cốc rồi thì ăn cơm! Bên này phải đánh nhau rồi, đi nhanh lên!” Quay đầu lại nói với Lưu Thế Hiên: “Ngươi đi mau, thúc đội quân lương thảo nhanh lên, cũng dấu vào trong cốc đi, hai quân một khi xảy ra chiến, sợ rằng sẽ quét sạch hậu binh”.

Lưu Thế Hiên biết sự khẩn trương của sự việc, vội vàng đồng ý rồi đi.

Lúc này, chỉ thấy một phu nhân xoay người nhìn về hướng cửa cốc, một lão già khuôn mặt hoảng hốt, Dương Hạo nổi giận đùng đùng thúc ngựa đi đến quát: “Còn không mau vào cốc, các ngươi còn định làm gì nữa?”

Mụ phu nhân kia khóc nói: “Con của ta, con của ta, nó bị lạc ở bên ngoài”.

Một lão già nói: “Mã đại tẩu, thật sự xin lỗi. Lão đây…lão đây…ngươi không thể ra ngoài được, nếu không thì đâu còn mạng sống”.

Dương Hạo giật mình nói: “Mã đại tẩu? Con ngươi…Cẩu Nhi làm sao cơ?”

Mụ kia nhìn lại thấy là hắn, không khỏi vừa mừng vừa sợ: “Dương đại nhân, Cẩu Nhi mắc bệnh, ta không ôm được nó, nhờ Lưu đại thúc giúp, ai ngờ…”

Lão già kia dậm chân nói: “Lão đây cũng không còn sức nào nữa. Cũng là bất đắc dĩ, cầu khẩn một lão già giúp đỡ, ai ngờ…ai ngờ thấy hai bên đánh nhau, lão đây khiếp đảm, để đứa trẻ ở phía trước, ôi, lão đây xin lỗi ngươi Mã đại tẩu…”

Nói xong lão già kia rơi lệ, Dương Hạo nghe xong ngẩng đầu nhìn về phía đất trống trải bên kia, chỉ thấy chiến mã trong doanh trại người Khiết Đan đang xôn xao. Đối diện với doanh trại quân Tống, phía sau có một đám thương binh và cung nỏ phối hợp đang nhằm phía trước thẳng tiến.

Tam quân hơi động, như vọng hết vào Thái sơn. Bước đi mạnh một chút, âm thanh có thể nghe thấy.

Dương Hạo không khỏi lo lắng.

Ở thời đại vũ khí lạnh, không cần biết ngươi có dũng cảm tam quân, khi không có chiến hữu che dấu, đối mặt với một hai mười cây thương thì chỉ có chết chắc. Một khi giống như đơn binh ở thời đại vũ khí nóng, đi nhanh hay chạy xung phong, tốc độ xung phong sẽ hình thành thế đại loạn, đó là một thương binh chỉ là đưa cho quân địch đồ ăn. Hắn ở trong quân lăn lộn nhiều, đã biết trong trận tác chiến với số lượng tập hợp nghìn quân vạn mã, loại nghi thức duyệt binh là hình thức kết trận, trên thực tế chính là dấu hiệu mở đầu cuộc chiến.

Một khi khai chiến, vạn tên bay, nghìn quân vạn mã dẫm đạp lên chiến trường, chớ nói một đứa nhỏ đã mắc bệnh, đang đứng ở mảnh đất giao hai trận xung phong, ai còn có thể có đường sống cơ chứ?

Dương Hạo đứng ở chỗ cao, vội vàng dõi mắt nhìn xuống dưới. Bỗng nhiên, giữa hai quân đối chọi nhau, hắn nhìn thấy một thân hình gầy gò ốm yếu đang lò dò đi về phía trước. Có lẽ là cảm thấy sát khí đằng đằng của hai quân giao phong, thứ bé nhỏ đó đang cố gắng đi về phía trước, nhưng vì quá yếu, không chạy nổi mấy bước thì ngã xuống, có lẽ đôi chân đã bị thương nhưng hắn vẫn cố gắng bò về phía trước.

Là Cẩu Nhi! Dương Hạo trong lòng lo lắng, là một thân hình gầy gò ốm yếu, sinh ra chưa bao giờ nhìn thấy mặt trời, một đứa trẻ chỉ sống về đêm nhưng tấm lòng mở ra sáng như mặt trời. “Dương Hạo đại thúc!” Tiếng gọi đó như vang vọng bên tai, Dương Hạo lòng như lửa đốt, trầm giọng nói: “Nhanh vào cốc, ta đi cứu người!” Dứt lời thúc ngựa mạnh, lao ra khỏi cốc.

Hắn phi băng băng qua người Bích Túc, thò tay lôi đi, kéo chiếc áo cà sa của Bích Túc xuống, cầm gọn trong tay, gió thổi vù vù, chiến trận nguy hiểm song phương mấy chục vạn đại quân kề nhau.

Mặt trời chói chang, gò đất hai bên thiên quân vạn mã sát khí đằng đằng, kiếm kích sát khí đè lên bầu trời đang nắng chói. Lúc song phương đang điều quân đại chiến, Dương Hạo thúc ngựa một mình phóng từ cốc ra.

Tuy nghìn vạn người, ngô vãng hĩ!

Việc này, không có liên quan đến đại nghĩa, chỉ vì một tiếng “Dương Hạo đại thúc”.

 Chương 152: Ngươi là phật tương lai

“Leng keng leng keng…” Thương binh Tống quân áo giáp leng keng, tay cầm lá chắn trường thương, sắp đội hình dày đặc, ước chừng có hai mươi cách sắp xếp, bốn mươi liệt, trường thương giơ lên cao, đi đến phía trước như rừng rậm, theo đó hét lớn, tất cả binh tốt đan xen thế quỳ một gối xuống đất, trường thương chĩa về phía trước, xếp thành một trận thương phòng ngự lập thể.

Hai cánh trận thương, tay lao và tay cung của cánh trận tiên phong cũng xếp thành một đội ngũ chỉnh tề đi nhanh về phía trước, khoảng cách gần như vậy, khoái mã vừa xông ra, bọn chúng chỉ cần bắn ba phát tên, là giữa các quân trận sẽ để lại cho bọn chúng đường qua lại đại trận trung quân, đại trận trung quân là trung không, bộ quân tay thương đao dựa vào trận hình dày đặc này mà sắp xếp đại trận ngay ngắn, theo đó có thể mở “cửa” thả bọn chúng lùi vào, phía ngoài bố trí đao thương, phía trong bố trí cung nỏ, phối hợp tác chiến.

Đối diện, huyền trận xe trùy hình của thiết kỵ Khiết Đan cũng đã bố trí sẵn sàng, hàng xếp ở trước nhất là chiến sĩ binh khí nặng như liên trùy, lang nha bổng, đại kích, lửa xoa…, binh khí nặng đều được đặt ở nơi xúc tu, lúc này bọn chúng đã cầm cung ở tay, một tay từ từ lấy tên sau lưng, cong đao như cỏ, phản quang như ánh sáng ở mặt nước.

Bây giờ chỉ cần ra lệnh một tiếng, thì hàng ngàn mũi mâu sẽ chồng chất, hàng vạn tên bay đến, chính tại lúc này đây, “hí…”, một tiếng ngựa hí vang, quân Tống đang di chuyển vào trong sơn cốc bỗng lao ra một con ngựa, nhằm hướng trước trận hai quân mà phi đến.

Con ngựa này đến bất ngờ, tướng sĩ hai bên không khỏi không nhìn về phía hắn, chỉ thấy một con ngựa nhằm hướng trước trận hai quân vọt tới, một tên như ăn mày, áo quần tung bay, tay không vũ khí, một tay giơ lên cao, trong tay không phải là cờ, mà là một chiếc cà sa màu tím, cà sa đón lấy hướng gió, như đôi cánh con chim ưng.

Lúc này bất luận Khiết Đan nước Tống hay là tạp hồ tây vực, phần lớn đều theo tín ngưỡng Phật giáo, mắt thấy một tên binh không giống binh, dân không giống dân, trong tay giơ cao chiếc áo cà sa, binh sĩ hai bên đều không tránh khỏi ngạc nhiên.

Tim Dương Hạo đập thình thịch, máu sôi sùng sục, dường như quả tim của hắn đã chạy lên trên cổ họng. Hắn cũng biết, không cần chủ tướng hai bên hạ lệnh tấn công, chỉ mất đi một tiểu tốt giơ một mũi tên, tính mạng của hắn coi như kết thúc là bỏi vì bản thân lao ra tạo tiền đề cho sự phát động trước, bản thân mình càng cần trở thành sự tổng hợp của Dương Tam Lương và Dương Thất Lang trong truyền thuyết, bước chân ngựa Dương Tam Lương như dẫm bùn, Dương Thất Lang là người có tài sau Dương Tam Lương, Dương Thất Lang chỉ làm vợ chồng với nương tử Đỗ Kim Nga một đêm, sau đó bản thân lại một mình chết đi, toàn gia coi như hết.

Nhưng mà lúc này, hắn bất chấp nhiều như vậy, hắn thậm chí không nhìn vào đôi mắt chứa nỗi sợ hãi của đại quân hai bên, hắn chỉ là chăm chăm lao như điên, tìm hình bóng của Cẩu Nhi. Chiếc áo cà sa trong tay, hắn cũng chỉ là nhất thời có ý định, còn lại tia may mắn nào đó, hy vọng các quân tốt hai bên có thể hơi nghi ngờ, nương tay mà thôi.

Trong quân trận Khiết Đan, có một chiếc xe nhung to lớn, trong quân trận quân Tống, có cái ô Hoàng La cao, hai vị anh chủ đều quyết sống mái một phen và chú ý đến một con ngựa đột nhiên giết ra.

Triệu Khuông Dận cảm thấy hơi ngạc nhiên, vội vàng dặn dò, bỏ cờ hiệu ra, tướng sĩ ba quân giữ thế chuẩn bị bữa tiệc phát động, bữa tiệc này là sự cọ sát những chiếc áo giáp vòa với nhau, tiếng rền vang của binh khí.

Trên chiếc xe nhung trong quân trận Khiết Đan đối diện, có một ngọc nhân, mặc giáp, giữa hai hàng lông mày có một cái chấm đỏ.

Lông mi của người đó hơi nhướng lên, thân thể mềm mại, tò mò nhìn tên quái nhân tay cầm áo cà sa, bàn tay trắng nõn hơi hơi đưa lên, đứng ở trên xe đạp một cái “Na khả nhi…”, rồi đưa chiếc sừng trâu lên thổi vài tiếng.

“Na khả nhi” ở Khiết Đan được dân chăn nuôi gọi là “Ha lợi xuất”, là một võ trang thị vệ thân cận nhất bên cạnh người quyền quý, tiền quân Khiết Đan chăm chú nhìn Dương Hạo.

Lúc này, trên xe nhung Tiêu Hậu có một cô nương đột nhiên kêu lên: “Hạo ca ca, là Hạo ca ca!”

Cô nương này vừa kêu vừa nhảy dựng lên, lo sợ nói: “Hoàng hậu nương nương, xin người để tôi qua đó, đó là…đó là Hạo ca ca của tôi”.

Cô nương này đích thị là La Đông Nhi, nàng vội vàng cầu xin, không ngừng quay đầu lại nhìn Dương Hạo phóng ngựa như bay, sợ rằng rời mắt đi sẽ mất đi hình bóng hắn.

“Ô? Hắn…là người đàn ôngngươi?” Tiên hậu mỉm cười nhìn Đông Nhi, La Đông Nhi gật đầu, Tiên Hậu nói: “Được lắm, ngươi thật có con mắt nhìn và chọn người đàn ông”.

La Đông Nhi biết bà ấy thân phận cao quý, không dám kéo ống tay áo, chỉ cố gắng cầu khẩn: “Hoàng Hậu nương nương, xin người cho tiểu nữ qua đó gặp hắn”.

Tiên Hậu hừ một tiếng nói: “Ta để ngươi đi, thì ai để ta đi đây?”

“A?” La Đông Nhi mở to mắt, không hiểu Tiêu Hậu đang nói gì.

Tiêu Hậu thở dài, trở về chiếc ghế da sói, thản nhiên nói: “Thiên quân vạn mã há là chuyện đùa, bổn hậu đây chưa hạ lệnh bắn tên, chỉ là tò mò xem hắn muốn làm gì mà thôi, đưa ngươi qua đó sao?”

“Hoàng hậu nương nương…” La Đông Nhi như muốn khóc lên, đành vậy, nhấc chân váy nhảy xuống khỏi xe nhung, chiếc xe nhung cao lớn, bánh xe cao như người nàng, nhảy xuống suýt ngã, nàng cũng không cần quan tâm, gắng sức chạy như điên về phía trước.

Nhưng đại trận trung quân cách tiền quân còn khá xa, một hàng chiến mã đứng bất động. nàng nhảy xuống nhìn thấy khắp nơi đều là chân ngựa, đến đường còn không nhìn thấy, khoái mã của Hạo ca ca chạy đến đâu nàng cũng không biết, biết làm sao đây, trong lòng quýnh lên, nước mắt chảy xuống dàn dụa.

Bên cạnh có một tên mặt mũi thanh tú nhảy xuống khỏi chiến mã, nhẹ nhàng an ủi: “Đông Nhi cô nương, bây giờ đại chiến hết sức căng thẳng, nếu cô lao ra đó, một khi chiến trận phát động, thì sẽ bị dẫm đạp lên. Hay là cô lên xe đi, chỉ cần còn sống, thì sợ gì không gặp nhau.

La Đông Nhi kéo lấy tay hắn, khóc lóc nói: “Da Luật đại ca, Đông Nhi biết ngươi cũng có việc, nhưng ngươi đưa ta qua đó được không?”

Da Luật Hưu ca cười đau khổ lắc đầu, La Đông Nhi tuyệt vọng, không kìm được vịn vào bánh xe khóc to lên, ánh mắt Da Luật Hưu ca thương tiếc, hắn muốn đưa tay an ủi nàng, nhưng nhìn thấy băng vải chảy máu lại hơi chần chừ, nên chỉ thở dài.

Dương Hạo vừa nhìn thấy Cẩu Nhi, không khỏi mừng rỡ như điên. Hắn không có ý náu mình, giục ngựa chạy tới trước mặt Cẩu Nhi, Dương Hạo ghìm ngựa lại, hắn xuống ngựa, dưới sự chú ý của hơn mười vạn đại quân hai bên, quỳ một gối xuống và nói: “Cẩu Nhi”.

“Dương Hạo đại thúc, ta tìm không thấy mẫu thân, Cẩu Nhi sắp chết rồi…”

“Cẩu Nhi sẽ không chết, có đại thúc đến cứu ngươi rồi!” Dương Hạo lấy chiếc áo cà sa, cuốn Cẩu Nhi vào bên trong, ôm vào lòng, Cẩu Nhi ôm chặt cổ hắn, má giáp má Dương Hạo, nói nhỏ: “Cẩu Nhi khát quá, đại thúc, có nhiều người quá…đang làm gì vậy…

Dương Hạo ôm Cẩu Nhi đi về bên ngựa, chuẩn bị lên ngựa, nhưng kĩ thuật cưỡi ngựa có hạn, hơn nữa lại còn ôm một đứa trẻ, ba bốn lần đều không lên được ngựa, quân Tống bên phải cũng lo lắng thay cho hắn, binh Khiết Đan đối diện không chịu nổi nữa, một tên râu dài phẫn nộ nói: “Tên hán nhân kia, thật to gan nhưng lại không có sức lực gì cả, đến một con búp bê cũng không cứu được, nhìn ngứa mắt…”

Hắn mắng nhiếc Dương Hạo, lè lưỡi, lại định giơ tên lên bắn.

Dương Hạo vất vả lắm mới ôm được Cẩu Nhi lên ngựa, sĩ tốt hai bên cùng thở phào nhẹ nhõm. Dương Hạo đạp vào bụng ngựa, lao như bay trước sự hò reo của hai quân.

Tiêu Hậu nhìn theo bóng dáng đang lao như bay kia, bàn tay trắng nõn vỗ mạnh một cái, đôi mắt quyến rũ lộ ra vẻ sát khí.

“U….u…” mấy chục chiếc sừng trâu thổi lên.

“Tùng…tùng…” lúc đó, quân Tống đối diện cũng không để lỡ cơ hội đánh trống trận.

“Giết!” Tiếng như sấm rền, hàng vạn mũi tên được phát ra, bay vù vù đen xì trên bầu trời.

Bích Túc đứng ở cửa cốc, chỉ thấy mũi tên bay như mưa che lấp bầu trờ, thiết kỵ Khiết Đan phi ra, cuồn cuộn như nước lũ, quân Tống đối diện dường như ngọn núi đứng bất động, sóng lớn và núi cao sẽ đụng nhau. Dương Hạo lại đang đơn thương độc mã, ở ranh giới của hai bên, phi về cốc trong cơn mưa mũi tên trên không trung.

Bích Túc đứng ở đó, lẩm bẩm: “Đại hòa thượng nói, phật là người từng trải, người là phật tương lai, theo ta nghĩ, Dương Hạo ơi Dương Hạo, ngươi bây giờ đã thành Phật rồi”.

 Chương 153: Ngự phong Phù Đao Tử

Miệng cốc đang đợi vài binh sĩ của Dương Hạo thấy hắn yên ổn mà làm phản, quát to lên một tiếng, vừa đói vừa mệt nên tiếng hét không có chút sức lực nào cả, hoàn toàn bị đè nặng bởi tiếng la hét của đại quân hai bên ngoài cốc.

Mã đại tẩu vừa nhìn thấy Dương Hạo đến, vội vàng nhận lấy Cẩu Nhi từ Dương Hạo, rơi lệ chuẩn bị quỳ xuống. Dương Hạo thở phì phò nói: “Chớ khách sáo như vậy, mau mau vào cốc đi”.

Hắn nói với Bích Túc: “Ngươi đi xem xe lương thực đến hay chưa, nếu đến rồi, bảo chúng nhanh chóng vào cốc, phát cơm rang, phát cho mọi người đỡ đói, ta ở đây xem tình hình cái đã”. Bích Túc liền đồng ý, Mã đại tẩu ôm Cẩu Nhi trong lòng, theo họ đi vào trong cốc.

Miệng cốc là miệng loa hướng về phía đông nam. Vì những khu vực bên ngoài cốc là núi cao, sau đó mới là một đồng bằng, cho nên nước sông vừa chảy vào miệng cốc liền đổi hướng sang phía nam, nước sông chảy hình chữ dĩ, đoàn xe đi men sông đến. Địa thế phía trước tương đối cao, như vậy họ sẽ không bị thiết kỵ Khiết Đan đang giao chiến với quân Tống phát hiện, phải vào trong cốc.

Lúc này đoàn xe vừa mới quẹo vào trong cốc, trên con đường này bọn chúng tận dụng được hai chiếc xe trống làm nơi rang cơm xong trước phân phát cho dân, dân chúng, sĩ tốt tay cầm cơm rang nuốt với nước sông, dù đang đại chiến với người Khiết Đan bên ngoài cũng phải nuốt cơm rang xuống rồi tính sau. Mắt Đổng Thập Lục thấy cảnh hỗn loạn trong cốc, mắt chuyển hướng, nhân cơ hội không ai để ý luồn đi phía sau.

La Khắc Địch cùng Hắc Long Thành, Từ Hải Ba vừa nuốt cơm rang vừa bàn bạc, mấy tên tướng lĩnh đang bàn bạc việc trở về, muốn đợi xem tình hình đại chiến hai bên. Lúc này Đinh Hạo trên sườn núi, đang nhìn xuống phía dưới.

Binh chủng lấy bộ binh làm chủ đối với binh chủng lấy kỵ binh làm chủ, thực mà nói vị tất không thể chiến thắng. Nếu là ở vùng núi, khe sâu, đầm lầy, không chừng còn có thể đại chiếm thượng phong, nhưng ở trên cánh đồng bao la đồng bằng, bọn chúng nhất định sẽ khổ. Đặc biệt là kỵ binh quân địch bọn họ có một nhược điểm chí mạng, đó là thắng khó đuổi, bại khó chạy. nên doanh trại quân Tống bây giờ về cơ bản áp dụng thủ thế, dựa vào sự tiêu hao lượng mũi tên của địch ngoài miệng cốc, rõ ràng là có ý đồ muốn che chở cho dân chúng. Mà bộ binh bị va chạm mạnh với kỵ binh của địch, bắt đầu từng bước tiến về phía trước, nhằm hướng trung quân kỵ binh. Tốc độ di chuyển rất chậm, bọn chúng cần di chuyển chậm như vậy để bảo đảm mật độ trường thương như rừng, mới có thể triệt tiêu ưu thế tấn công của kỵ binh Khiết Đan.

Kỵ binh Khiết Đan dưới sự chỉ huy của trung quân, cánh tả đi theo hình vòng cung tấn công đại trận quân Tống, kỵ binh cánh hữu giữ chặt đội ngũ kỵ binh quân Tống, ý đồ tiêu diệt lực lượng quân Tống, nhưng kỵ binh Tống lại dựa vào sơn cốc, bên cạnh có tiên phong thương trận, tiếp xúc với kỵ binh Khiết Đan rất có hạn, tạm thời chưa thua.

Theo sự chiến đấu kịch liệt, chiến trận song phương có lay động chút ít, phạm vi chiến trường bắt đầu có xu thế được mở rộng ra, binh lính đã khuếch tán sang hai bên, tới gần sơn cốc, lúc La Khắc Địch đến cửa cốc, chỉ thấy một bầu trời tên. Chém giết rung trời, binh lính ào lên đánh như thủy triều mênh mông mãnh liệt, tuy nhìn tưởng hỗn loạn, nhưng thực chất nó có sự sắp đặt.

La Khắc Địch quan sát trận nói: “Hai bên ta và địch vội vã tiếp chiến, tuy bày ra thế trận hơi vội, kỳ thực vẫn không đủ. Trận này do ta đến chỉ huy, theo tốc độ di chuyển của quân địch tấn công. Chiến trận khổng lồ, chúng ta ít nhiều cũng ăn may”.

Dương Hạo thấy đại trận quân Tống bất động dưới sự tấn công của quân địch như một màn thủy triều mênh mông, các doanh trại lớn nhỏ đều liên kết với nhau, hơn nữa lại có thể thẳng tiến tấn công, kỵ binh Khiết Đan như một dòng lũ đang cuộn trôi doanh trại quân Tống. Từ đầu chí cuối không thể tấn công, rõ tàng quân Tống chiếm thế thượng phong, không khỏi ngạc nhiên hỏi.

La Khắc Địch nói: “Tác chiến ở đồng bằng, kỵ binh địch chiếm lợi thế. Tuy trước mắt quân ta có thể giằng co với địch, không phân cao thấp, nhưng dưới tình hình của các quân sĩ, một bộ phận quân địch bất kể bị thương, các kỵ binh còn lại đều có thể nhanh chóng bồi thường những sơ hở, mà quân ta đều là bộ tốt, nhưng có một doanh trại bị chiếm đóng, các doanh trại khác chỉ có thể vứt đi, mà không thể viện trợ. Chiến đấu gian khổ, như tằm ăn rỗi.

Đại quân Quan Gia và ta cũng không liên lạc, lần này đột nhiên xuất hiện, phải trở về Trung Nguyên, mà người Khiết Đan đã lấy được tin tức, dựa vào sự cơ động của kỵ binh, vây chặn. Quan Gia chưa từng nghĩ đến khả năng chúng ta đột nhiên xuất hiện, vội vàng bố trí nhất quán đại quân Tống ta chuẩn bị, thời khắc then chốt kỵ binh ta và địch bị thương nặng để ở bên cạnh, chúng ta rút lui, người Khiết Đan hiển nhiên cũng chú ý tới sự thay đổi này, tiêu diệt kỵ binh quân ta là sự đột phá của họ”.

Dương Hạo biết lắng nghe, há dám đàm luận binh pháp của triều đình, lúc này mới dò hỏi: “Tướng quân, chúng ta nên làm thế nào đây?”

“Lui, chỉ có dẫm vào cái bọc của chúng ta. Quan Gia mới có thể ung dung nghênh địch”.

“Lui sao? Hướng tây hay hướng nam?”

“Hướng tây, men theo con đường phía tây sơn cốc. Phía nam một bên là quân doanh của Khiết Đan, Khiết Đan chỉ phân một nghìn địch ra, chúng ta vạn vô sinh lý”.

Dương Hạo chắp tay nói: “Vậy thì đi. Trong lúc mười mấy vạn đại quân đang vì chúng ta mà chiến đấu, thời cơ chỉ lướt qua, lập tức lên đường”.

Lúc này Đổng Thập Lục đang dắt ngựa vào cửa cốc, lên ngựa vội vàng đi, hắn hoảng hốt khi đi theo con đường cong cong men theo sông hình chữ dĩ, mà vách núi lại thẳng đứng. Vừa đi qua vách núi, thì thấy kỵ binh Khiết Đan đầy núi như hổ sói đang phi đến.

Bọn họ tấn công một lúc lâu, đội hình cũng hơi toán loạn, đã tản ra hai cánh, có vài tên tốt đã lên sườn núi, lúc này Đổng Thập Lục mới đi men theo ven sông, bọn chúng nhìn từ cao xuống, không qua được mắt chúng.

Đổng Thập Lục hoảng hốt, hai tay run rẩy, nói: “Ta không phải quân Tống, ta không phải quân Tống”.

Chủ tướng ra lệnh một tiếng, đại chiến địch ta nổ lên. Lúc này trong mắt binh sĩ Khiết Đan chỉ có địch và ta, nào có người khác, Đổng Thập Lục vừa ló mặt ra, vù vù, hắn liền bị hàng loạt tên bắn, trước ngực, dưới sườn, đầu cũng bị trúng vài mũi tên, giống như con nhím lăn xuống ngựa, thiết kỵ Khiết Đan dẫm đạp lên người hắn, vội vàng tiến đến bọc đánh qt ở cốc khẩu.

La Khắc Địch thúc giục người vào trong cốc khẩu, giục dân chúng vừa mới uống được một hớp nước, ăn chút cơm rang tiếp tục đi về hướng tây.

Nhiều người quá mệt mỏi, chỉ biết rằng bên ngoài hai quân đang giao chiến, sẽ không có ai đến bắt nạt họ nữa. Dù ai đó quát to đến mấy cũng không thể đứng dậy nổi nữa.

Lúc này Dương Hạo phái ba trăm nha sai lên chiến trường, chúng giương nanh múa vuốt hòa vào đám người, vung dây sắt trong tay múa, bọn chúng đánh người cực kỳ điệu nghệ, nhìn đã thấy hung hãn. Đánh thật đau, không thương hại. Chỉ thấy họ như đàn hổ, bỏ chút sức lực thì có rất nhiều già trẻ bị ném lên xe. Không để ý tới dân chúng khác, áp giải những người này nhanh chóng vào sâu trong cốc.

Có vài tên dân đã biết tâm lý của đám đông, người người không ai di chuyển, rõ ràng biết cảnh đao thương, nhiều người không biết nguy hiểm là gì, nếu có người di chuyển trước, bọn họ sẽ bắt đầu sợ hãi mà di chuyển, lại có vài tên binh sĩ thúc giục, bị các tên sai dịch tuần bổ mở đường phía trước cho họ vào dọc theo sơn cốc.

Trời tối, một vầng trăng rằm treo lơ lửng giữa không trung, chiếu sáng sơn cốc tối tăm.

Trong cốc đốt lửa trại, một vài tên dân chúng ăn hai bát cháo, thì bị cấm không cho ăn bên xe lương thực nữa, nên chúng vẫn có cảm giác thèm khát.

Phù Dao Tử chỉ huy cho mấy người sắc nồi thuốc, ông trời không thương, dân chạy nạn không thể khống chế được đại dịch bệnh, nhưng phần lớn binh sĩ dân chúng thể chất đã quá yếu, có vài người còn bị mắc bệnh dịch, Phù Dao Tử lấy ra dược liệu trị dịch bệnh, trong đó có vài thứ có lợi cho cơ thể, lúc đó lấy ra thuốc để cho mọi người dùng.

Xem ra khí sắc mọi người vẫn tốt, tuy họ giờ vẫn no nên trong lòng không thấy sợ hãi, phần lớn dân chúng giống như cây cỏ khô héo gặp một đêm mưa phùn, có nắng thì tinh thần sẽ trở lại.

Cẩu Nhi nằm trong lòng mẹ, tay bưng bát thuốc, chiếc miệng nhỏ xíu khó khăn lắm mới nuốt được thuốc, đây là phần thuốc nhỏ mà Phù Dao Tử kê, nói là nếu uống hết thì ngay ngày mai có thể chạy nhảy, nếu không thì bệnh tình ngày một nặng, Dương thúc thúc sẽ rất buồn, Cẩu Nhi nghe xong những lời đó mới chịu uống thuốc, nếu không nói như thế, làm sao mà uống được thứ thuốc đắng ấy.

Mọi người ngồi tụm ba tụm năm, kể ra những niềm vui sống sót sau tai nạn, cái được nói nhiều nhất chính là khâm sai Dương Hạo hôm nay đã cứu được cô nương Cẩu Nhi. Điều mà dân chúng để ý không phải là sự dũng mãnh hai lần trước của Dương Hạo mà là hắn đã làm dân chúng hài lòng vì đã cứu một tiểu đồng nhỏ tên gọi Cẩu Nhi, một tiểu dân tính mạng như con chó.

Đường đường là một khâm sai, vì một tiểu dân tội chi mà chịu chết, đây mới là điều bọn họ để ý. Vì họ chính là tiểu dân, tự nhiên cảm thấy kính phục, ước gì quan trong thiên hạ đều giống như Dương khâm sai thương dân như con, vì thế mà không có bất cứ lời nói nào chê bai Dương Hạo.

Mã đại tẩu ôm Cẩu Nhi, vừa cho nó uống, vừa nói chuyện với mọi người về chuyện Dương Hạo một mình cưỡi ngựa xông ra giữa trận địa cứu Cẩu Nhi về. Cẩu Nhi nằm trong lòng mẹ, hai mắt vụt sáng lên, nghe mẫu thân kể lại chuyện, uống từng hớp thuốc cũng cảm thấy không đắng nữa.

Trình Đức Huyền ngồi ở đằng sau, mỉm cười nghe Mã đại tẩu kể chuyện. Hắn chẳng có chút gì giống quan, quần áo tả tơi, tóc tai rối bù, tuy cách nước sông không xa nhưng hắn cũng chưa đi rửa mặt.

Mọi người nghe lời Mã đại tẩu kể, chậc lưỡi tán thưởng Dương Hạo, Trình Đức Huyền cũng hùa theo. Nghe thấy dân chúng nói sau này sẽ cho Dương Hạo làm cái ô của vạn dân, đức chính bia, Trình Đức Huyền đột nhiên chen lời nói: “Nếu không có Dương khâm sai, chúng ta mấy vạn người đã hóa xương khô rồi, vì vậy nên cảm ơn Dương khâm sai. Sau khi đến nơi định cư, sợ không có tiền làm ra chiếc ô vạn dân và đức chính bia tặng cho Dương khâm sai. Hơn nữa Dương khâm sai trải qua bao gian nguy, một khi mang theo chúng ta an toàn tiến vào trong Tống cảnh, nhất định sẽ đi gặp Quan Gia, Dương khâm sai sẽ có công lớn, Quan Gia nhất định sẽ thăng quan tiến chức, chúng ta không biết đến bao giờ nhìn thấy khâm sai đại nhân nữa. Theo ta, chúng ta sau khi đến Tống cảnh, chúng ta sẽ khấu đầu, nói một tiếng vạn tuế, chúc một tiếng vô cương, như thế là được”.

“Vạn tuế”, “Vạn thọ vô cương” những lời chúc mừng tốt đẹp từ thời xuân thu đến đời hán đều là những lời chúc may mắn, không đặc chỉ phẩm cấp có thể dùng. Thời Hán Vũ Đế mới trở thành những lời ca tụng đối với các quan, nhưng văn hóa dân gian quá thấp cho nên vẫn bắt chước mà chưa sửa.

Cuối thời Đường, nhiều khi ngày lễ ngày tết dân chúng chúc nhau còn lấy vạn tuế ra để chúc nhau. Dân gian còn lấy vạn tuế để đặt tên, cho nên đâu đâu cũng thấy vạn tuế, có phụ nhân đứng ở cửa xoa thắt lưng gọi: “Vạn Tuế, tên nhóc ranh kia có về nhà ăn cơm không hả. Sư cha thằng Vạn Tuế, đi tìm đứa con vô liêm sỉ kia đi!”

Chính là Đại Tống bây giờ, các nơi như Quảng Nam vào đêm giao thừa, bách tính môn dân cùng vỗ tay hô vang vạn tuế. Từ vạn tuế ai ai cũng biết, nói với Hoàng Đế là chuyện sau này trong triều Tống khi văn hóa đã cao.

Nhưng lúc ăn tết, khi gặp đồng hương, cùng chắp tay nói: “vạn tuế, vạn tuế”, đêm giao thừa cùng nói: “vạn tuế, vạn tuế”. Tiểu dân chỉ muốn biểu đạt tình cảm của chính mình, nhưng lại chưa nghĩ đến cái lý trong đó.

Trình Đức Huyền thừa lúc không ai chú ý, cười lặng lẽ rời khỏi đám người.

Lúc này Dương Hạo đang tắm ở giữa sông, tuy là mùa hè, nhưng nước sông vẫn có chút mát mát. Hắn tắm gội sạch sẽ từ đầu tới chân, lúc này mới trần truồng đi đến bên bờ lấy quần áo mặc, cuốn tóc cẩn thận.

La Khắc Địch bước lại, thì hắn cũng vừa tắm xong, bụng no, lại tắm rửa sạch sẽ, hắn trở lại hình tượng tướng quân khôi ngô tuấn tú. Thắt lưng, bên hông đeo kiếm sáng loáng. Dũng khí bừng bừng.

“Dương đại nhân”.

“La tướng quân, vọng gác đã sắp xếp ổn thỏa chưa?”

“Sắp xếp ổn thỏa rồi, năm dặm có hai trạm canh, nếu có tin gì sẽ lập tức báo về”. La Khắc Địch khổ sở cười nói: “Trạm canh gác này có còn hơn không, người Khiết Đan nếu cưỡi ngựa đuổi theo, bọn họ sẽ kịp thời báo cáo. Chúng ta cũng không kịp chạy. Ta chỉ trông chờ Quan Gia, hy vọng Quan Gia có thể đả thương nặng người Khiết Đan. Nơi này dù sao cũng là Tống cảnh, tuy xung quanh không có viện trợ, người Khiết Đan cũng không dám kéo dài, nếu chúng ta thất bại, tất nhiên sẽ bỏ chạy, chúng ta có thể cùng nhau chạy.

Dương Hạo lắc đầu nói: “La tướng quân, cách nghĩ của ta khác ngươi, chiến trường máu ngoài cốc kia, nếu người Khiết Đan thắng, ta đoán bọn chúng sẽ không đuổi nữa, ngược lại sẽ truy kích quân Quan Gia để mở rộng thành quả chiến đấu. Hoàn toàn tương phản, nếu người Khiết Đan bại, hoặc không chiếm được bên Quan Gia, sợ rằng…bọn chúng sẽ không bỏ qua chúng ta, bọn chúng sẽ hung hăng tiến vào Tống cảnh, nếu như không chiếm được cái gì bên Quan Gia, lại không tiêu diệt được đội ngũ di dân của chúng ta, như vậy bọn chúng sẽ làm thế nào?”

Nói về cách đánh giặc, Dương Hạo không bằng La Khắc Địch, tuy nói Dương Hạo trước đây chưa từng nghe chức quan to nào, nhất thời lạc vào thế giới này, thực sự thấu triệt hơn La Khắc Địch, nghe Dương Hạo nói xong, La Khắc Địch không khỏi ngạc nhiên nói: “Ta mong người Khiết Đan có thể ăn may trong tay Quan Gia, nghe ngươi vừa nói, nếu Quan Gia ăn may chúng ta mới có thể an toàn sao?”

Dương Hạo cười khổ sở lắc đầu, những lời này không nên nói nhiều, hắn liền hỏi: “Trình đại nhân tìm được rồi sao?”

La Khắc Địch nói: “Vừa mới tìm được, Trình khâm sai hiện giờ cũng rất chật vật, bảo binh sĩ chiếu cố cho ông ấy. Song xem ra ông ta hiện giờ an phận hơn rồi, thần sắc cũng đỡ oán giận”.

Dương Hạo nói: “Ông ta oán hay không, ta cũng không quan tâm nhiều nữa, lúc đầu dốc toàn lực, đoạt tiết kháng lệnh, Dương mỗ nghĩ đến mấy trăm quân. Nay chỉ cần chúng ta bình yên đến Tống cảnh, thì đó đã là công lớn rồi. Ngay cả Quan Gia, cũng sẽ không so tính tội đoạt tiết”.

La Khắc Địch do dự một lát nói: “Đại nhân quang minh lỗi lạc, nhưng Trình đại nhân là thân tín nam nha của Triệu đại nhân, Triệu đại nhân có thể làm hoàng đế. Dương đại nhân, mạt tướng có cái này, không biết nên nói sao”.

“Nói đi!”

La Khắc Địch thành khẩn nói: “Đại nhân, trên quan trường, bạn bè là có phúc cùng hưởng, nếu không nhận sự giúp đỡ, cùng lệ thuộc nhau, lại còn tâm đầu ý hợp bao nhiêu năm, lúc đề cập tới chiến tranh chính trị của ngươi và các quan khác, phần lớn đều phải khoanh tay đứng nhìn. Huống chi đối phương lại lớn như vậy, mà Dương đại nhân về cơ sở quan trường quá nông, nói thực ra là không có một người bạn, cho nên…cây lớn đến mấy cũng không bằng có một người bạn, trừ những tên không thể làm bạn, nếu có thể giải trừ lòng căm thù của hắn, cũng còn tốt hơn là làm thù địch.

Dương đại nhân, trước đây, ngươi cùng Trình đại nhân chính kiến bất đồng liên quan đến sự sống còn của mấy vạn người, lúc đó không muốn đắc tội hắn cũng không được. Nhưng hôm nay hướng tây đã là sự thực không thể thay đổi,…Dương đại nhân có thể thử làm hòa với hắn một phen?”

Dương Hạo nghe xong có chút động lòng nói: “La tướng quân xem, ta nên làm hòa với hắn như nào?”

La Khắc Địch nói: “Dương đại nhân nếu không ngại làm hòa với hắn, thì sau khi đưa mấy vạn dân đến nơi an toàn, phục chỉ Thánh Thượng. Công lao này, không ngại cho hắn. Như vậy việc đoạt tiết hắn sẽ tự nhiên im bặt không nhắc đến, có chúng ta ở đó, hắn nhận ơn huệ của người không thể để cho người khác biết, hắn mất đạo nghĩa trước, rồi sẽ chịu sự hèn mọn của bách quan. Một khi coi ngươi như tiểu nhân, còn muốn làm bạn tri kỷ. Lúc đó hắn tất chịu cô lập của bách quan.

Nhưng nếu ngươi xem hắn là kẻ địch, bất đồng. Cho dù ngươi có vì dân chúng hay không. Hắn vẫn khăng khăng dời dân chúng về Trung Nguyên, cho nên quản gia cho dù trách hắn hồ đồ, cũng không bị xử trảm. Đại Tống ta còn ít có đại thần mưu phản đại nghịch phải chết, cùng lắm thì cũng chỉ là lưu đày. Có nam nha Triệu đại nhân, chẳng bao lâu lại sẽ dùng lại hắn. Lúc đó hắn chính là chính địch của ngươi. Dương đại nhân hà tất phải tranh giành. Lợi hại trong đó, mạt tướng chỉ nói đến đây, đại nhân tự hiểu.

Dương Hạo vui vẻ nói: “La tướng quân, Dương mỗ cho ngươi là một cây thương dũng mãnh vô địch, oai hùng vũ phu, không thể ngờ tâm tư ngươi lại sạch sẽ như vậy, nhìn thấu triệt với con đường làm quan”.

La Khắc Địch cười gượng nói: “Mạt tướng tuy là quan võ, gia phụ lại là quan văn, gia phụ trong năm triều Đường Tấn Hán Chu Tống mà không ngã, người đời gọi là một cây thông không già, Tiểu La mưa dầm thấm đất, ít nhiều cũng kế thừa phần nào”.

Dương Hạo rất vui khi nghe hắn nói, cầm tay hắn cười to.

Phù Dao Tử bận rộn nấu thuốc, đợi đến khi phát hết cho mọi người thì đã nửa đêm, dân chúng đi đi lại lại, không biết tìm chỗ Mã đại tẩu làm gì. Lão đạo ngồi trên mặt đất, rung đùi nói: “Tiểu nữ, ngươi không phải cứ đến tối là tinh thần tỉnh táo sao? Sao rồi? Bệnh không đỡ à?”

Cẩu Nhi gối vào đùi của mẫu thân ngủ ngon lành. Nghe thấy tiếng nói liền tỉnh giấc, nàng ta hừ một tiếng rồi nói: “Không phải đâu, không ai nói chuyện với ta, ta lại không dám đi quấy rầy Dương thúc thúc, chắc thúc thúc đang rất mệt, một mình ở đây thật chán ngắt”.

Nói xong nàng xoay người ngồi dậy, sờ sờ trán nói: “Nhưng lão đạo sĩ kia cho ta uống thuốc thật sự linh nghiệm, ta đã tốt lên bảy tám phần rồi”.

Phù Dao Tử tự đắc cười nói: “Đương nhiên rồi. Người ngoài đều nói là tiên đan đấy, đến miệng con nhà đầu ngươi thì nó thành đắng, thật là uổng công ta”.

Cẩu Nhi làm cái mặt quỷ với hắn, cười nói: “Vốn đã đắng rồi, chẳng lẽ lại không phải sao?” Nàng hất cằm, hai mắt sáng lên nghĩ một lúc lâu, bông nhiên nói: “Đạo sĩ, hôm nay…Cẩu Nhi mà bị vứt ở trên chiến trường không ai quan tâm, may mà có Dương đại thúc mạo hiểm tới cứu đấy”.

Phù Dao Tử mỉm cười nói: “Ừ, chuyện này đã được truyền đi, Lão đạo cũng nghe nói rồi, này yêu nghiệp…À! Dương Hạo quả là có một trái tim từ bi”.

Cẩu Nhi trịnh trọng nói: “Cho nên, đạo sĩ à, ngươi nhất định phải dạy cho ta phép thuật”.

Phù Dao Tử sửng sốt: “Điều này có liên quan gì đến phép thuật?”

Cẩu Nhi nghiêm túc nói: “Cha ta nói, nhận của người một ơn huệ thì phải báo đáp. Ta nhận ơn huệ của người ta, ngươi nói xem nếu ta không học phép thuật, thì làm sao báo đáp được?”

Phù Dao Tử sờ sờ mũi, cười khan nói: “Này, cô bé như ngươi không cần phải như vậy đâu”.

Cẩu Nhi nói: “Thế thì không được, có ơn thì phải báo đáp chứ, đạo sĩ ơi, ngươi dạy ta phép thuật đi được không?” Vừa nói vừa ôm chân đạo sĩ: “Đạo sĩ mệt rồi à, Cẩu Nhi đấm chân cho đạo sĩ nhé. Cẩu Nhi biết đạo sĩ là người tốt, ngươi nhất định sẽ không làm Cẩu Nhi thất vọng mà”.

Phù Dao Tử cười đau khổ nói: “Này, lão đạo sĩ ta có một trái tim nhân hậu, nó đã bị ngươi thuyết phục rồi”.

Hắn xoa đầu Cẩu Nhi, nhìn lên ông trăng, nói: “Hắn có thể bồi dưỡng đạo đức cá nhân. Đứa trẻ này biết ơn biết nghĩa. Đạo sĩ ta đây thì sao? Thật hổ thẹn”.

Cẩu Nhi nói: “Đạo sĩ, ngươi nói cái gì ta không hiểu”.

Phù Dao Tử cười nói: “Lão đạo nói, ngươi không phải quấy, lão đạo sẽ nhận ngươi là đồ đệ, ngươi nghe hiểu chưa?”

Cẩu Nhi vui mừng nói: “Đa tạ sư phụ, thế…từ giờ trở đi, Cẩu Nhi chính là đồ đệ của ngươi rồi”.

Phù Dao Tử cười to nói: “Đúng, ta là một sư phụ, lão đạo có một đệ tử tên Cẩu Nhi gọi ta là sư phụ, ha ha ha”.

Lúc trời rạng sáng, lúc mọi người đang ngủ say. Cốc thật vắng vẻ, tựa hồ chim chóc cũng không tỉnh giấc.

Đột nhiênPhù Dao Tử hé mắt ra, thấy ánh sáng lóe lên rọi vào mắt, xoay người ngồi dậy. Hắn nhìn thấy Cẩu Nhi đang ngủ say, ánh mặt trời dìu dịu.

Hắn nhẹ nhàng nâng đầu Cẩu Nhi dậy, cho nó gối vào một tảng đá lớn, sờ tóc nó. Cười hắc hắc nói: “Tiểu nữ à, ngươi gọi ta là đạo sĩ, ta phải bảo vệ cho ngươi chu toàn, mấy chục năm không dính dáng tới trần thế, lão đạo giờ đây đã phá lệ rồi”.

Hắn đứng dậy, chạy, hắn chạy năm dặm.

Đôi giày cỏ dẫm lên đám cỏ xanh biếc, ống tay áo bay bay, như thần tiên.

Phía trước, tiếng chân như sấm, kỵ binh Khiết Đan đã tới.

 Chương 154: Lui ngàn quân

Một đội quân Khiết Đan đang men theo đường trong cốc đến, nhờ có ánh sáng buổi sớm, bọn chúng cưỡi ngựa phi nhanh hơn. Kỵ binh này là một nghìn người Khiết Đan, có nam viện Đại vương Da Luật tà chẩn bộ hạ một tên đại tướng.

Đại chiến ngoài cốc đánh đến chạng vạng tối, hai bên đều tự thu binh. Quân Tống hơi suy sụp hơn, nhưng người Khiết Đan thương vong càng thêm thảm. Triệu Khuông Nghĩa vì phòng quân địch nhắm đêm hôm tập kích doanh trại, liền thu thập đội ngũ, từ từ lui về phía sau, cắm trại trên núi cao, giảm áp lực tứ phía bị đánh, cứ như vậy, vốn để che dấu đội ngũ dân chạy nạn lùi vào một bên cốc khẩu, cũng rút kỵ binh về.

Không ngoài sự dự đoán của Dương Hạo, lần này Tiêu Hậu dẫn đại quân chặn trước Triệu Khuông Dận, nếu Tiêu Hậu chiến thắng trận này, thì bà ta có thể sẽ bỏ qua đám đại quân tị nạn đang trốn vào trong cốc. Giờ đội quân Khiết Đan không thắng như dự định, lực của bọn chúng đặt ở trên đám dân tị nạn.

Cuộc chiến máu lửa một ngày, Tiêu Hậu tự biết mình không thể chiến thắng Hoàng đế Đại Tống Triệu Khuông Dận, đây là Tống cảnh, đại quân của bà ta chỉ có thể tốc chiến tốc thắng, đã không nắm chắc phần thắng, Tiêu Hậu quyết định, sau khi hạ trại thì theo đại quân hành động, thương binh, bộ binh chọn tuyến đường đi theo núi về Bắc quốc, ấn đại quân thành bộ tộc, bộ lạc chia thành mấy đường, lệnh cho các bộ thừa lúc đêm tối đi ra khỏi doanh trại, giết “cỏ cốc” ở Tống cảnh, bù những hao tổn thuế ruộng của lần viễn chinh này, sau đó tự mình chọn con đường về nước, đồng thời lệnh cho nam việc Đại vương Da Luật Tà Trân phái người ngựa đuổi theo giết đội ngũ đang di chuyển.

Dân cư cũng rất quan trọng, nếu bắt vài trai tráng cùng nữ nô, có thể bán được với giá cao, hơn nữa đuổi giết nạn dân không chịu nổi một đòn này dễ hơn so với việc công thành lược trại đi ngăn cản người Tống, Trạch Si coi việc này là béo bở, lòng vui như mở hội, đợi đến khi sắc trời sáng sáng, chiến mã có thể đi, hắn liền nhanh chóng đuổi vào cốc.

Sơn cốc này không phải là một đường thẳng, có nhiều chỗ cong, nhưng hai bên lại dựng thẳng đứng, trong cốc rất bằng phẳng, hiếm thấy có tảng đá nào lớn, không ngờ bị người phục kích, thúc ngựa lao nhanh, đang rong ruổi thức chiến mã thì nó hí dài, suýt làm hắn ngã xuống ngựa.

May cho Trạch Si đã có sự chuẩn bị tâm lý trước, vội vàng kẹp chặt bụng ngựa, ghìm cương ngựa và quát: “Súc sinh, muốn làm phản phải không?” Con chiến mã như bị điên, cứ nhảy chồm lên không thôi, nghe hắn quát, lúc này bọn kỵ binh đều sợ hãi, nghe chiến mã hí một hồi inh tai, con ngựa điên, nhẩy loạn lên, lăn lộn vài vòng, thậm chí còn đứng cắn xé lẫn nhau.

Một con chiến mã ngã về phía trước, đầu va vào chân con ngựa Đạc Si, một tiếng gãy giòn, chân ngựa bị gãy, chến mã của hắn hí một tiếng rồi ngã xuống đất, Đạc Si cũng ngồi không vững ngã xuống, hai người hai ngựa cùng ngã xuống.

Đặc Si chẳng ra sao, thuộc hạ của hắn lại càng bất kham, vài con chiến mã đó phóng nhanh về phía trước, bông nhiên phi vào cái dây cản ngựa của đối phương, có con ngựa bị ngã xuống, có con ngựa thì sợ hãi, có con thì phát điên cắn vào con ngựa khác, những kỵ binh đến sau không kìm được ngựa, ào ào phi lên trên, càng thêm hỗn loạn, có nhiều kỵ binh ngã ngựa, bị vô số vó ngựa dẫm lên phát ra những tiếng kêu thảm thiết, có nhiều kỵ binh và ngựa ngã xuống dưới sông.

Đặc Si hốt hoảng bò lên, chỉ thấy một con chiến mã quay đầu chực chạy trốn, nhưng bị bọn chiến mã đông nghịt chặn lại, hí dài một tiếng, chạy như điên vào vách tường, “Ầm” một tiếng, một cái đầu ngựa to va phải vách tường nham thạch đã phong hóa, con chiến mã đó bị đụng cho đầu vỡ toang, chết ngay tại chỗ.

Đặc Si tóc gáy dựng đứng, không có quân địch, hắn không nhìn thấy quân địch,nhưng đột nhiên những con chiến mã đều phát điên, những con chiến mã đã được huấn luyện hắn hoi cũng sợ hãi, nhìn thấy binh lính cùng chiến mã hoảng loạn, sau đó thì bị hất khỏi lưng ngựa, bị hơn một ngàn con ngựa cắn xé nhau dẫm lên binh sĩ, Đặc Si hoảng hốt, không biết phải làm thế nào, mặt hắn đỏ gay, lòng thầm nghĩ: “Tại sao lại như vậy? Tại sao? Hay là chúng ta đang va phải tới yêu ma quỷ quái cỏ cây?”

Lúc này, hắn mới phát hiện cây cối hoa cỏ xung quanh đều phát run khi đón ánh sáng ban mai, nước sông dâng lên cuồn cuộn, bọt bay tung tóe, ở dưới chân hắn có một chút bọt nước, chân ngựa run rẩy. Trong đôi mắt ngựa chảy máu, thật khổ không sao tả siết.

Ngoài con đường phía trước, Phù Diêu Tử đứng bên cạnh hòn đã trong cốc, hắn ta người nhỏ, mặc bộ quần áo xám. Trời còn chưa sáng hẳn, nhưng không ai nhìn thấy bộ dạng của hắn. Hai ống tay áo của hắn bay bay như cánh, như bị một sợi vô hình nâng tay áo bay. Cái bộ dáng ngủ không tỉnh của hắn giờ không thấy, đôi mắt hắn sáng như điện, gáy thô xù xì gấp đôi, gân nổi lên như rắn, hắn có dáng vẻ đang hét dài một tiếng, nhưng miệng lại không phát ra âm thanh.

Tai người thì không thể nghe được sóng âm với âm tần cao đang hét ra, dường như có thực chất, nước sông được kích thích sôi lên, cây cỏ run lên. Hai bên vách tường hợp âm thanh đó lại, nó có tác dụng khuếch đại âm thanh, loại âm thanh này tai người không thể nghe được tần sóng âm thành gấp đôi, không biết mà cứ phóng vào sâu trong cốc, chỉ có ngựa mới có thể nghe thấy âm thanh cao tần sóng đó.

Những con ngựa đang ở nửa đường ngoài không dám tiến vào, chúng không bị sóng âm cao tần đó tra tấn, vô số chiến mã phát điên dẫm đạp lên nhau, quay đầu bỏ chạy, kỵ binh trên ngựa ngã xuống, hoặc là dẫm lên người chủ nhân, hàng nghìn kỵ binh bị chết dưới tiếng kêu của Phù Diêu Tử.

Trạch Si đứng ở đó, hoảng sợ nhìn cảnh hỗn loạn, binh sĩ ngã xuống, không hiểu sao làm cho mặt hắn đỏ gay, hắn hoàn toàn không hiểu nguyên nhân dẫn đến cảnh tượng trước mắt hắn. Hắn năm tuổi đã cưỡi ngựa như bay, mười một tuổi giết sói, mười ba tuổi giết người, thiên quân vạn mã phía trước hắn, hắn không hề sợ hãi, nhưng đối với những thứ không sợ được, hắn lại trở nên sợ hãi.

Trước mắt hắn như có ma quỷ, hắn trơ mắt nhìn bọn kỵ binh đang bị hoảng loạn, hơn nữa không thấy bóng dáng quân địch nào, trong lòng hắn thực sự sợ hãi. Trạch Si không dám kêu lên tiếng nào, bỏ đội ngũ đang hoảng loạn chạy, như đằng sau đang có con quỷ vô hình đuổi theo hắn, hắn chạy không dám quay đầu lại.

Đội ngũ tiếp tục hành trang để lên đường, hai tên cảnh trạm canh gác cũng chạy trở về, không ai biết ngoài hai mươi dặm đường núi đã xảy ra chuyện gì. Lão đạo Phù Diêu Tử cũng trong số đó, vẫn là cái bộ dáng ngủ không tỉnh, vừa đi đường vừa ngáp, mà cái thói quen hoạt động về đêm, ban ngày ngủ của Cẩu Nhi đang tựa vào vai hắn, sáng ngày hôm qua được uống thuốc thảo dược do hắn bào chế giờ đang ngủ rất say.

Mặt trời ló ra, đám mây cũng xuất hiện trên bầu trời.

Cảnh sắc tươi đẹp giữa bầu trời trống.

Loan Đao Tiểu Lục và Thiết Ngưu đang kiên nhẫn nằm ở trong bụi cỏ, không có gió thooirn mồ hôi ra nhễ nhại, bọn chúng không động đậy. Châu chấu nhảy lên cái cổ của bọn chúng, cắn cắn bọn chúng, nhưng bọn chúng vẫn không hề động đậy.

Ở sơn đạo, có hai con chiến mã đang từ từ đi tới, hai kỵ binh đó rõ ràng là người Khiết Đan, xem ra do cuộc chiến với quân Tống, bọn chúng bị thương nặng, lúc bắc phản bị rớt ở phía sau.

Thấy hai tên đó đi tới, Loan Đao Tiểu Lục và Thiết Ngưu đột nhiên nhảy ra khỏi bụi cỏ, Thiết Ngưu vươn người nhảy lên, nắm tay lại cho một cú đấm vào mặt của hai tên đó, võ sĩ Khiết Đan kêu lên một tiếng, máu trong miệng phun ra.

Loan Đao Tiểu Lục như con vượn nhảy lên lưng ngựa, vung roi lên, thúc ngựa đi. Thiết Ngưu theo sát từng bước, dùng đầu gối thúc cho tên võ sĩ Khiết Đan đó một quyền, ôm lấy đầu hắn mà vặn, kết thúc đời hắn.

“Nhanh lên, cẩn thận bị người khác nhìn thấy”. Tiểu Lục nói, hai người liền nhanh chóng đem thi thể kéo vào sâu trong bụi cỏ, sau đó hai người cưỡi ngựa vào rừng.

Hai tên đó ngồi trong rừng, ăn pho mát, thịt khô và sữa ngựa ở trên lưng ngựa tên Khiết Đan, Thiết Ngưu nuốt miếng thịt khô xong, nói: “Tiểu Lục nhi, tính cả hai tên lúc nãy, chúng ta đã giết được chín tên, lúc nào thì đi Quảng Nguyên tìm đại ca đây?”

Loan Đao Tiểu Lục vui mừng ra mặt nói: “Ta nói rồi, giết đủ một trăm, thì sẽ đi đến chỗ đại ca nhận tội. Nếu ngươi sợ thì đi trước đi”.

“Ai nói ta sợ cơ chứ?” Thiết Ngưu trừng mắt nói, thì thầm: “Đây không phải vì bọn Khiết Đan càng ngày càng ít, cơ hội ra tay cũng không nhiều nữa đâu?”

Loan Đao Tiểu Lục nói: “Lần sau sẽ giết bọn còn sống, hỏi xem tình hình bọn chúng”.

Đúng lúc này, ngoài rừng vọng đến một âm thanh quát mắng, hai tên này nhảy dựng lên, thuận tay cầm lấy binh khí của hai tên Khiết Đan phi ra ngoài rừng, con đường ngoài rừng nhỏ hẹp, hai tên Khiết Đan đang đánh với một tên mặc hán phục, hai tên này vừa nhìn thấy, lập tức chạy nhanh đến, thừa lúc hai tên kia không để ý, giết một tên, còn tên kia thì ghìm đao vào cổ.

Tên kia thở hổn hển trước thi thể của tên Khiết Đan, xoay người lại chỉ thấy hắn mặt mũi bầm dập, môi sưng phồng lên, nhưng vẫn nhận ra được, đó là huynh đệ Đại Đầu.

“Pi” Loan Đao Tiểu Lục nhổ nước bọn khinh thường vào khuôn mặt của Đại Đầu, áp tải tên binh Khiết Đan đó rồi đi.

Thiết Ngưu nói với Đại Đầu: “Nhớ mang cái thi thể kia đi, tránh bọn chó Khiết Đan”. Nói xong quay người bỏ đi.

“Thiết Ngưu, mang ta đi với”. Đại Đầu khẩn cầu: “Nhiều người nhiều nhân lực, dễ giết bọn chó Khiết Đan”.

“Thiết Ngưu, chần chừ gì nữa, đi thôi”. Loan Đao Tiểu Lục quát, Thiết Ngưu nói: “Cho dù ta đồng ý ngươi, Tiểu Lục cũng không đồng ý, tính của hắn không phải ngươi không biết, ngươi…tự bảo trọng nhé”.

Đại Đầu thất vọng bò dậy, nhìn bóng dáng họ đi, hét một tiếng: “Thiết Ngưu”

Thiết Ngưu quay đầu nhìn hắn, không nói lời nào. Đại Đầu nghiêm nghị nói: “Ta không biết, ta còn có thể giết vài tên Khiết Đan nữa, nếu ta chết rồi, hãy thay ta…nói với đại ca tiếng xin lỗi”. Nói xong hắn lau nước mắt, quay đầu đưa thi thể kia vào bụi cỏ. Thiết Ngưu do dự một lát, rồi dậm chân bước nhanh.

Loan Đao Tiểu Lục đem tên Khiết Đan kia áp giải vào trong rừng, để đao vào cổ họng hắn, hung hăng hỏi: “Nói, đại đội nhân mã của bọn ngươi giờ đến đâu rồi?”

Thiết Ngưu đồng ý, quay đầu nhìn về phía ngoài rừng, Đại Đầu đã không thấy đâu nữa, hắn thở dài một tiếng. Vốn ba người phải che chở La Đông Nhi đi Quảng Nguyên tìm Dương Hạo, nhưng do chiến sự, các con đường đều bị tuần kiểm tra, phải có quan dẫn mới đi được, ba người họ tìm không thấy đường dẫn quan bằng, ba tên và một tiểu nữ. Ở thời đại rời xa cha mẹ, càng phải tự lực cánh sinh. Bình thường thì con đường vốn không thể đi về phía tây, nhưng Loan Đao Tiểu Lục mấy năm nay làm lưu manh nên không lo.

Hắn hỏi thăm nhiều người, rồi đã thấy một con đường bí mật. Con đường này chính là Dương Hạo đợi người đi qua. Thế là ba người chuẩn bị nước và lương khô mang La Đông Nhi lên đường.

Con đường kia là đi qua một mảnh đất sỏi đá, cũng không cần phải mang theo lương khô ăn trong nhiều năm, nhưng con đường nhỏ. Bọn chúng từ cánh đồng hoang vu đến, mỗi ngày dựa vào ánh mặt trời để xác định phương hướng, đi về phía cốc. Lúc sắp đến Tử Ngọ cốc, mặt đất đã có nước, bèo, rong…

Con đường họ đi đều có lương khô, La Đông Nhi có thể cầm cự được, ba người có thói quen uống rượu ăn thịt. Thế là đi săn bắt chút chim muông về nướng ăn, Loan Đao Tiểu Lục tìm được một cái bóng cây râm mát, cho đại tẩu nghỉ tạm, mình cùng Thiết Ngưu đi săn dã thú.

Có nước và lương thảo, các món ăn dân dã cũng có nhiều, gà gô, gà rừng, vịt rừng, chó…hai người đi săn mấy con gà rừng, đuổi theo một con chó, kết quả cách chỗ La Đông Nhi và Đại Đầu ngày càng xa, đúng lúc này, quân Khiết Đan xuất hiện.

Tự nhiên nhìn thấy kỵ binh Khiết Đan, La Đông Nhi và Đại Đầu sợ đến mức hồn bay phách tán, lập tức chạy đi trốn. La Đông Nhi chỉ là một tiểu nữ, mặc váy khó chạy, chạy được một đoạn ngã nhào xuống, Đại Đầu phải chạy lại dìu, chỉ thấy mấy chục kỵ binh đuổi theo, giương cung bắn tên từ xa, mấy mũi tên bắn trượt qua hắn, Đại Đầu sợ toát mồ hôi hột.

Loan Đao Tiểu Lục ngày thường rất thích đánh nhau, Đại Đầu mặc dù cũng hay đánh nhau với người khác, nhưng nhìn thấy những tên giết người trong chớp mắt, hắn chỉ muốn trốn đi thật xa. La Đông Nhi tự biết mình khó có thể chạy thoát, kêu to lên: “Nhanh chạy đi, nhanh lên, đừng quan tâm đến ta nữa”.

Đại Đầu do dự, có một mũi tên bắn xoẹt qua đầu của hắn, Đại Đầu sợ phát khiếp, hắn chưa bao giờ thấy như vậy, lại nghe thấy La Đông Nhi thúc giục như vậy, liền bỏ nàng một mình chạy thục mạng.

Khó khăn lắm mới chạy được vào trong rừng, Đại Đầu quay đầu nhìn, chỉ thấy La Đông Nhi run rẩy đứng lên, nhổ cái thoa trên đầu, đâm vào cổ họng mình, Đại Đầu vừa xấu hổ vừa giận mình, giận chính mình quá nhát gan vô dụng, đường đường là đấng nam nhi mà không cứu được một vị phụ nhân, còn không bằng chết quách đi, bản năng sợ hãi, khiến chân hắn như có lực, cắm đầu chạy vào trong rừng.

Hắn vào sâu trong rừng, lúc này mới bắt đầu gặp được Loan Đao Tiểu Lục cùng với Thiết Ngưu, mới khóc lóc như vậy, hắn nói ra cái kết cục ban nãy, làm cho Loan Đao Tiểu Lục giận tím mặt, bị Thiết Ngưu và Loan Đao Tiểu Lục đánh cho một trận, tuyệt giao, không nhận hắn làm huynh đệ nữa, hai người bỏ hắn lại rồi đi.

Đại Đầu đi theo bọn họ xa xa phía sau, cho rằng mình phải chết mới có thể rửa sạch được nỗi nhục này. Lúc chạy trốn hắn chỉ nghĩ cho sự an toàn của mình, lúc này khi tỉnh ngộ lại, mới bị Loan Đao Tiểu Lục và Thiết Ngưu mắng cho một trận, hắn thấy, cái chết không đáng sợ như vậy, giờ không chỉ có lương tâm đang dày vò, từ nhỏ huynh đệ đã nương tựa nhau mà sống, giờ vị xa lánh ruồng bỏ, như vậy sống làm gì nữa, chi bằng chết đi để khỏi đau lòng.

Nhưng giờ chuyện sống chết cũng đã là quá muộn. nghĩ đến lúc La Đông Nhi cầm cái thoa đâm vào cổ họng, lúc đó vẫn có khả năng sống sót. Nơi nghỉ ngơi của bọn chúng đã biến thành trận địa của người Khiết Đan, chiến mã như mây, muốn tìm thi thể La Đông Nhi để chôn cũng không được.

La Đông Nhi lúc đó vẫn chưa chết hẳn, người Khiết Đan lúc đó vừa mới đuổi tới cốc khẩu thì phát hiện ra có người, lập tức gọi nhau đến, khiến cho tiên phong đại tướng quân Luật Hưu Ca chú ý, hắn muốn bắt người sống. Hỏi rõ lai lịch của người này, thế là phi ngựa đuổi theo, xa xa gặp nàng tự sát, Luật Hưu Ca không nghĩ ngợi gì, bắn tên.

Dựa vào kỹ thuật bắn tên như thần của hắn, trong vòng trăm bước, mũi tên bắn thẳng vào tay La Đông Nhi, La Đông Nhi bị đau, chiếc thoa cầm trong tay bị rơi xuống đất.

Luật Hưu Ca phi ngựa như bay đến trước mặt nàng, xoay người đem nàng lên lưng ngựa. Theo quy định trên thảo nguyên, trên chiến trường, ai đoạt được nô lệ, đều được tính là tài sản tư hữu của hắn, muốn đánh hay giết là do hắn. Nhưng những nhân vật bậc cao Khiết Đan, phần lớn đều có văn hóa Trung Nguyên, dù họ có thèm nhỏ dãi những mảnh đất ở Trung Nguyên, nhưng vẫn hâm mộ văn hóa và con người Trung Nguyên. Luật Hưu Ca thủa nhỏ đã đọc các sách của Trung Nguyên.

Thường ngày cướp được người hầu, hắn phần lớn sẽ ban cho các tướng tá, lần này hắn thấy dung mạo của La Đông Nhi đẹp, điềm đạm, đáng yêu, khác với những cô gái Trung Nguyên, trong lòng thấy tiếc, nên để nàng ở lại. Nhưng thấy La Đông Nhi có ý tự sát, bị bắt đến đây, nên chắc chắn phải đề phòng. Chỉ sợ nếu mạnh tay, bông hoa đó sẽ héo tàn trong tay mình, nên mới gọi người đến băng bó vết thương lại, nói giọng an ủi, nghĩ rằng với năng lực của mình, sẽ khiến nàng ngoan ngoãn phục tùng mình.

Lúc này Hoàng Hậu Khiết Đan Tiêu Xước dẫn đại đội nhân mã đến, Da Luật Hưu Ca là tướng lĩnh dưới bà ta, ngạc nhiên khi thấy Luật Hưu Ca bên mình có một cô gái Trung Nguyên, tò mò gọi nàng lên xe nhung, nàng kể ra quãng đường đi tìm chồng. Tiêu Xước chưa bao giờ có cảm tình với loại người Trung Nguyên, nhưng lại thích nét dịu dàng của loại người này.

Nàng tuy tính cách cương nghị, không giống nữ nhi bình thường, được gả vào trong quan trường lấy sự an nguy của hoàng thất làm nhiệm vụ của mình, tuy thân trùm khăn, nhưng lại coi mình là một nam nhi bình thường, trái lại dù sao nàng cũng chỉ là một thiếu nữ mười sáu mười bảy tuổi, nhiều lúc khó tránh khỏi buồn khổ, cho nên có ý lưu lại nữ nhi nhà Hán ở bên cạnh mình. Tiêu Hậu thương lượng xong, Da Luật Hưu Ca nào dám không đồng ý, lúc sau, xảy ra trận chiến hai quân, dt tay cầm áo cà sa, một mình một ngựa đi cứu người.

Tất cả những điều này, Loan Đao Tiểu Lục và Thiết Ngưu tự nhiên chẳng hay biết gì, bọn họ nghe Đại Đầu nói đại tẩu đã chết, tự nhiên cảm thấy hổ thẹn với đại ca, nên thừa lúc có hai tên lính Khiết Đan bị thương liền ra tay báo thù cho đại tẩu, sau đó đi tìm Dương Hạo để nhận tội. Đại Đầu giờ đã vứt đi sự nhút nhát, đi theo bọn họ, đánh úp những người Khiết Đan để chuộc tội, hy vọng có thể nhận được sự tha thứ từ huynh đệ của mình.

“Đi thôi, không thì sẽ có người đến đấy, chúng ta không phải có đội quân tiến vào Tử Ngũ cốc rồi sao, chúng ta đuổi theo xem có cơ hội không”. Mai phục đến lúc hoàng hôn, lại giết đi mấy tên binh Khiết Đan rớt lại phía sau, người Tiểu Lục có đao, Loan Đao Tiểu Lục đứng lên từ bụi cỏ, nhìn về Tử Ngọ cốc xa xa, nói với Thiết Ngưu.

Đại Đầu ẩn trong bụi cỏ, cũng chờ binh Khiết Đan rớt lại sau để ra tay, hắn thường nhìn chỗ mà Loan Đao Tiểu Lục và Thiết Ngưu mai phục. Tính cách của hắn yếu đuối nhất trong ba người, hắn đều bị Loan Đao Tiểu Lục và Thiết Ngưu sai đâu đánh đó, chưa bao giờ tự mình làm cái gì, tuy Loan Đao Tiểu Lục và Thiết Ngưu đều là huynh đệ của hắn, nhưng hắn chỉ là con tép hôi, điều này chả trách khiến hắn kinh hoàng khi gặp chuyện lớn thế này.

Lúc này tuy hắn đã đánh cược với bản thân báo thù cho đại tẩu, kỳ thật ra mà nói vẫn chưa phải là chủ ý của bản thân hắn, tất cả vẫn do Tiểu Lục và Thiết Ngưu quyết định. Nhưng hắn nấp trong bụi cỏ một hồi, dò xét một lúc lâu, vẫn không thấy Tiểu Lục và Thiết Ngưu có động tĩnh gì, Đại Đầu luống cuống, vội vàng đến nơi bọn họ ẩn nấp, thì đã không thấy bóng dáng họ đâu, Đại Đầu tìm kiếm một phen, đứng dưới ánh mặt trời mờ mịt xế chiều, đột nhiên có cảm giác bị cái thế giới này bỏ rơi, cô đơn chỉ muốn chết quách đi.

Đội ngũ đi về phía tây đi ra khỏi Tử Ngọ cốc, trước mặt bắt đầu xuất hiện một thảo nguyên rộng lớn, hoa cỏ tươi tốt, mây trắng bay lơ lửng trên bầu trời xanh, ngoài đội quân đông kìn kịt, con đường đó hiếm thấy có người đi đường, khắp nơi đều là cảnh vật của thảo nguyên.

Đi ra khỏi sườn núi vài dặm là một rừng cây bạch dương lớn, tán cây màu xanh lục, phía dưới là những mảnh giống như tuyết. Ngẩng đầu nhìn, đám mây trắng trên bầu trời xanh tựa hồ có thể giơ tay là chạm tới. Diệp Đại Thiếu ung dung nằm trên nóc xe ngựa, dưới thân là tấm cỏ xanh thật mềm, nằm vắt chép hai chân nhìn bầu trời.

Hắn là thiếu gia Diệp gia, tự mình tìm lấy một vị trí thích hợp, đặc quyền tất nhiên là có. Về cơ bản, Diệp Đại Thiếu chưa từng chịu khổ, hắn chưa bị bọn binh Khiết Đan đuổi theo, bắt khuôn mặt nhỏ trắng của hắn đi Bắc quốc làm nô lệ cũng được ăn no, mỗi tội đồ ăn không ngon bằng ở nhà, nhưng về cơ bản, hắn như đang đi du xuân.

Ôi, trời thật là xanh. Ôi, thảo nguyên thật là đẹp. Ôi, những con diều hâu thần thông.

Diệp Đại Thiếu híp mắt, nhìn lên những cánh chim trên bầu trời, có cảm giác như quen lắm.

Những con diều hâu này không phải lần trước ta đã gặp rồi sao? Hắc hắc, thế thì thật là có duyên, Diệp Đại Thiếu cười càng giống kẻ trộm, giống như một con sói trộm ba con gà, thật đắc ý.

“Ta nói, lái xe nhanh lên, ồ, mông của Lưu Đại, có nói ngươi đâu, chỉnh xe xa đại đội đi, nếu không thì con diều hâu kia sẽ không mắc câu”. Diệp Đại Thiếu đặn dò, vẫn nằm trên nóc xe bất động. Phu xe theo lời dặn của hắn, lái xe rời khỏi đại đội, đi về phía bên phải thảo nguyên, lái tới một sườn núi thì dừng lại. Bên phải là thảo nguyên mênh mông, địa thế tuy nhấp nhô, nhưng nhấp nhô ít, xa xa nhìn như con sóng.

Trên xe của hắn, có hai ba sợi giống dây câu và mấy con bồ câu nhử diều hâu, cho dù xe được lái đến đâu, chim bồ câu đều bay theo, nhưng từ đầu đến cuối không có cách nào bay cao, mà bay thì cũng không bay xa được. Diệp Đại Thiếu không mất nhiều sức với mấy con bồ câu này lắm, nhưng vì để huấn luyện chúng nghe lời không bay loạn lên, lại mất công vài ngày luyện.

Trên bầu trời con diều hâu đã sớm chú ý tới con bồ câu, nó sẽ không ngoạm một miếng, tự mình đi bắt sống ngay trên bầu trời. Nhưng thủ đoạn chủ yếu của nó là theo dõi tình địch đang ăn hoặc không có ai để ý thì bổ nhào xuống.

Lúc này vừa thấy chim bồ câu bay khỏi khoảng không của đại quân nhân mã, một cánh diều hâu bay nhanh tới, nó xoanh quanh một vòng trên không, bỗng nhiên dừng lại, lao nhanh xuống, ập đến, móng vuốt sắc chụp lấy con bồ câu béo múp đang bay lượn ở thấp.

“Ha ha ha, gian sảo như ma, cũng dám uống nước rửa chân của lão nương à”. Diệp Đại Thiếu nhìn thấy con diều hâu kia mắc mưu, mừng rỡ, hắn hí hửng hét: “Mau mau, thu dây, thu dây”.

Diệp Chi Toàn vừa nói xong, không đợi người khác có phản ứng gì, liền bổ nhào vào bên cạnh xe, xoắn chặt thu dây lại. Chiếc dây vừa dẻo vừa nhỏ, không thể lấy tay kéo, phía dưới bánh xe có vài cây gỗ, Diệp Chi Toàn buộc dây vào đó vội cho bánh xe chuyển động, sợi dây thắt vào con diều hâu lôi lại. Kì lạ là, con chim bồ câu không ngừng vỗ cánh theo con diều hâu kia, không biết nó có phải không nỡ bỏ đồ ăn hay không dám chạy khỏi con diều hâu đó.

Nhìn vào nơi một bồ câu, một diều hâu rơi đến, phu xe Diệp gia trùm chăn vào con diều hâu và bồ câu, Diệp Đại Thiếu như bắt được vàng, nhanh chóng quỳ xuống đất, tóm chặt lấy đôi cánh chim diều dâu, nói: “Mau mau, gỡ móng vuốt của nó đi. Ôi, nhìn ngươi vụng về chưa kìa, làm thương chân nó thì nó tàn tật à, lại đây lại đây, ngươi giữ cánh nó, ta đến gỡ”.

Xa xa, Dương Hạo nghe Lý Quang Sầm và Mộc Ân ở trong xe kể chuyện thảo nguyên, ba người say sưa nói chuyện, lúc đang nói chuyện, đột nhiên thấy Diệp Đại Thiếu rời khỏi đại đội một cách không chính đáng, một mình lái xe đến cái sườn núi, ngồi chồm hỗm ở đằng kia không biết là làm cái gì, cười khổ sở, nói tội với Lý Quang Sẩm, liền phóng ngựa về hướng hắn.

Nhìn vào cái chăn, chỉ thấy người con bồ câu ngoài cánh và cổ, các chỗ khác đều bị dây trói dai mà nhỏ quấn quanh, như sa vào lưới đánh cá vậy, đầu con diều hâu như móc câu quắp lấy con bồ câu, móng vuốt cong sắc bị cuốn bởi dây rợ, dẫy dụa muốn thoát ra. 

Diệp Đại Thiếu vùa cẩn thận gỡ móng vuốt con diều hâu, vừa nói một tràng giáo huấn: “Nhìn thấy chưa, phải như này này, duỗi chân sau của nó ra, để chỗ này vào chỗ này, móng diều hâu bị lôi ra, nó sẽ không bị thít vào nữa. Hắc hắc, diều hâu ơi diều hâu, đây là con diều hâu mà tự tay ta bắt”.

Diệp Đại Thiếu đang dương dương tự đắc, thì phu xe đột nhiên hô lên: “Đại Thiếu, có người, có phải là người Khiết Đan không?”

Diệp Đại Thiếu hoảng sợ, quay đầu nhìn, quả nhiên, xa xa có hơn trăm kỵ binh và hai chiếc xe ngựa đang đi đến chỗ bọn họ, bọn kỵ sĩ này cũng đã phát hiện ra họ, lập tức có hai con ngựa phi đến, rồi đến gần bọn chúng hỏi han, sườn núi có thật nhiều nhân mã, trước không thấy đầu, sau không thấy đuôi, đúng là thật khó nhìn thấy cảnh tượng này trên thảo nguyên, hai kỵ sĩ dù kiến thức rộng rãi cũng thấy kinh ngạc.

“Các ngươi là ai? Nếu có ý đồ bất chính, nhìn thấy chưa, phía sau ta là thiên quân vạn mã”. Diệp Đại Thiếu cũng không quan tâm xem sau mình có thiên quân vạn mã.

Hai tên kỵ sĩ tuy thấy hắn mặc hán phục, lại nói tiếng hán, hoài nghi nhìn hắn, sau vẫn dùng giọng Khiết Đan hỏi: “Các ngươi là ai, sao nhiều người thế…đây là bộ tộc nào di chuyển đến?”

Diệp Đại Thiếu kinh ngạc nói: “Á? Các ngươi nói tiếng mẹ gì đấy?”

Hai kỵ binh kia nghe xong thở dài, cần biết Khiết Đan quay về Bắc quốc mười sáu châu, ở đó phần lớn là người hán, Khiết Đan vì quản lý người hán và khu này, bố trí cho nam viện Đại vương chuyên quản lý khu người hán này, ở toàn Bắc quốc thực thi một quốc gia hai chế độ, tiếng hán từ đó mà thành ngôn ngữ thứ hai của Khiết Đan. Mà hán phục càng là bộ quần áo mà quý tộc Khiết Đan thích mặc, cho nên lúc nãy tuy nhìn thấy Diệp Đại Thiếu mặc hán phục, nhưng hai kỵ binh lại không dám lơ là.

Bọn chúng là thương nhân, chúng ôm mấy thứ đồ, được phân biệt là dẫn quan bình lộ Đại Tống, dẫn quan bình lộ của Khiết Đan còn có một vật thông hành đảng hạng Khương bộ, vật thông hành đảng hạng dân tộc Thổ Phiên nếu trên đường gặp thế lực nào đó, bọn chúng chỉ cần giơ cái tín vật này ra, ngoại trừ gặp bọn cướp, lúc đó chỉ có giơ tay mà cho một đập. Giờ biết đội ngũ kì quái kia là người hán, bọn chúng mới yên tâm, vì chúng cũng là người hán.

Bọn chúng nhìn thủ thế của đội hình đội ngũ chiến đấu phía sau, lại chuyển sang nhìn Diệp Đại Thiếu hỏi: “Hóa ra các ngươi cũng là người hán, nhưng các ngươi đây…nhiều người thế này, đang làm gì vậy?”

“Chúng ta…”. Bị hỏi, Diệp Đại Thiếu hơi buồn, nói với bọn chúng là từ Tây Vực đi du hành, ngươi hỏi hắn rốt cuộc là có ý gì, hắn thật sự vẫn chưa nghĩ đến, ngẩn ra mới nhớ đến lần này bị cha đuổi đi, hình như là hộ tống một tốp gọi là bọn ăn xin đi Phủ châu…

Lúc này, kỵ sĩ nhận được tín hiệu an toàn, có hai chiếc xe ngựa đi gần lại, xe ngựa đang dừng, vén mành che phía trước xe ngựa ra, có một thiếu nữ nhanh nhẹn đi ra, nàng đứng ở càng xe, hỏi giòn tan: “Gặp phải kẻ nào vậy?”

Diệp Đại Thiếu vừa nhìn thấy vị cô nương đó, hai mắt sáng lên: vị nương tử này, dung mạo thật kiều diễm làm sao, hàng mày lá liễu, mắt quả anh đào, miệng chúm chím, quần áo xanh màu lá mạ, tay áo ngắn, eo nhỏ nhắn, chân dài, đôi mắt long lanh như nước mùa thu.

Mỹ nhân đó đang nhìn ngơ ngác, nhớn nhớn hàng mi nhìn, mắt trợn tròn, miệng anh đào nhỏ rộng ra, hai tay chống vào eo thon, tay chỉ vào mắt hắn mà rít lên: “Nhìn cái gì vậy, cẩn thận cô nương ta móc mắt chó của ngươi ra”.

Diệp Đại Thiếu không biết làm thế nào, cười ha ha nói: “Cô nương chớ tức giận, tại hạ cũng không dám mạo phạm cô nương, không biết cô nương tính danh là gì?”

Cô nương nọ đảo mắt, nói: “Bổn cô nương hỏi ngươi trước, ngươi trả lời trước đi”.

Diệp Đại Thiếu lấy một chân dẫm vào móng vuốt con diều hâu phịch một cái, chỉnh quần áo lại chỉnh tề, nhã nhặn chắp tay nói: “Thiếu sinh Quảng Nguyên đông hành thiếu Đông gia Diệp Chi Toàn, không dám thỉnh giáo danh tính của cô nương là gì?”

Cô nương kia nói: “Ồ, hóa ra là Diệp gia xe hành, ngươi không dám thỉnh giáo danh tính của bổn cô nương, thế thì không cần nói nữa vậy”.

Cô nương nhắc làn váy lên, tiến lại đến bên sườn núi: “Diệp gia các ngươi buôn bán gì vậy, lại có thể gặp các người ở đây”. Cô nương đó tiến đến phía trước sườn núi nhìn, nói: “Oa! Quả nhiên không hổ hẹn là Tây Bắc đệ nhất xe hành, các ngươi lại có thể‭ột lần vận chuyển nhiều người khách như vậy sao?”

Dương Hạo giục ngựa chạy tới, bộ dáng thiếu nữ, giật mình nói: “Đường…cô nương”.

Cô nương đó nhìn khinh khỉnh, nói: “Phí lời, không phải cô nương lẽ nào là thiếu gia? Ngươi…cái loại ngươi…là ai?”

 Chương 155: Nhất báo hoàn nhất báo

Dương Hạo hạ thấp người nói: “Ta tên Dương Hạo”.

Đường Diễm Diễm đập đập vào não nói: “Ồ, là Dương Hạo sao? Ngươi ở đây làm gì?”

Diệp Đại Thiếu vội nói: “Đường cô nương? À, Đường cô nương, vị đại nhân này là phụng chỉ khâm sai”.

Đường Diễm Diễm lúc này mới giật mình: “Phụng chỉ khâm sai? Là ngươi? Ngươi làm quan khi nào vậy, phụng chỉ gì, khâm sai gì cơ?”

Lúc này một người đàn ông trung niên ở trên xe ngựa phía sau chậm rãi đi lên sườn núi, nghe Đường Diễm Diễm nói những lời này vẻ mặt ngạc nhiên nói: “Khâm sai? Vị nào là khâm sai?” Hắn khinh khỉnh nhìn Dương Hạo ăn mặc rách nát, lại quay sang nhìn Diệp Chi Toàn ăn mặc giống công tử, bước nhanh về phía trước, làm lễ nói: “Không biết nên xưng hô thế nào đây?”

Lão trung niên ấy có khuôn mặt sáng sủa chính là cậu của Đường Diễm Diễm, thương nhân muối Lý Ngọc Xương, ở các thời đại thu muối luôn là món lời kếch xù, Lý Ngọc Xương là người buôn muối, nhà cửa giàu có, buôn bán ở khắp tây bắc. Bất luận là tây bắc Đại Tống, hay là Khiết Đan, đảng hạng, dân tộc Thổ Phiên, Hồi Hất, không thể thiếu muối, cho nên thế lực phức tạp của Lý Ngọc Xương ở toàn tây bắc đi lại tự do, lần này đi từ bộ lạc Hồi Hất về Phủ châu.

Đường Diễm Diễm tức giận chỉ tay vào mặt Dương Hạo: “Cậu, tên này mới là khâm sai”.

Diệp Chi Toàn bên cạnh lóng ngóng cầm lấy con diều hâu, trên chân con diều hâu đó đã bị dây thừng buộc chặt, nó bị rơi xuống bụi cỏ, không ai nhìn thấy.

Biết Dương Hạo là khâm sai, lần này phụng chỉ đón dân Bắc Hán rời đến Phủ châu, Lý Ngọc Xương rất vui, ki của dân ở khu vực tây bắc giàu có, buôn bán của hắn càng thêm tốt hơn. Nhân mã của hắn và đội quân của Dương Hạo xen lẫn nhau, cùng xuất phát hướng tây nam.

La Khắc Địch đợi tướng lĩnh gặp Dương Hạo mang về một đội người, đều tò mò lên xem, biết được Lý viên ngoại là người thân của tướng quân Trình Thế Hùng, đều vội chắp tay lạy. Hạo Long Thành Thị là đại tướng dưới trướng Trình Thế Hùng và Lý Ngọc Xương, đại tiểu thư Đường Diễm Diễm quen nhau, cùng nhau hàn huyên một lúc.

Dương Hạo thấy Đường đại tiểu thư, trong lòng có chút thiếu tự tin, sau khi thay họ tiến cử cấm quân hoa sen như La Khắc Địch, Lưu Hải Ba…thủ tá tướng lĩnh. Thấy hai bên nói chuyện vui vẻ, liền lặng lẽ rút lui. Hắn đến chiếc xe có Cẩu Nhi ngồi, Cẩu Nhi nhìn thấy hắn, lập tức vui sướng nhoài người về phía hắn.

Cẩu Nhi xưa nay đều là ban ngày ngủ, tối thức. Nhưng đó là lúc ở nhà của nàng, giờ mấy vạn nhân mã đều hoạt động ban ngày, đứa trẻ đó vốn thích náo nhiệt, thì làm sao ngủ được, cho nên ngày ngày đều ghé mắt qua cửa xe nhìn dòng người đi đường. Vừa nhìn thấy Dương đại thúc đến, nàng vội nói: “Dương Hạo đại thúc, vừa có một vị họ Diệp bắt được con diều hâu rất lớn, con chim ấy thật hung dữ, móng vuốt của nó lại sắc nhọn, đấy, thúc xem, ở đằng kia kìa”.

Dương Hạo cười nói: “Đại thúc thấy rồi. Ngươi thích con chim nhỏ không, nếu như thích, đại thúc sẽ nói với Diệp công tử bắt mấy con cho ngươi chơi, nhưng con diều hâu thì rất ác, ngươi không chơi được, nó không những biết cào làm da người xước ra, mà còn mổ người nữa”.

Cẩu Nhi liên tục gật đầu.

Trên xe phía trước, Diệp Đại Thiếu khoanh chân ngồi, kiểm tra hai chân của con diều hâu, thở dài nói: “Tiếc thay, tiếc thay, móng vuốt của ngươi đã bị gẫy rồi, không biết có thể trở lại bình thường được hay không”.

Bích Túc ở một bên lấm la lấm lét nhìn, hất cằm nói: “Móng vuốt không có thịt, mọc tốt. Mà mọc hay không mọc liên quan gì? Theo ta tốt nhất là vặn đầu, ướp gia vị, nướng lên ăn”.

Diệp Đại Thiếu liếc nhìn tên đần độn đó, quay đầu đi không thèm để ý đến hắn.

Lúc này, Đường Diễm Diễm đã đổi con ngựa khác, cưỡi ngựa hiên ngang đi đến bên Dương Hạo, chậc chậc mồm nói: “Này,tên họ Dương kia, bổn cô nương vừa mới nghe người nói về chuyện ngươi một mình cứu người giữa hai quân trận, ái chà, thật giỏi đấy, người rất cừ, nhưng mấy chục vạn đại quân, có một người chỉ cần nhổ nước miếng cũng có thể làm ngươi chết đuối, ngươi…”

Nàng ta nhìn thấy Cẩu Nhi đang vín vín vào thành xe, đột nhiên nói: “Là ngươi cứu đứa trẻ này hả?”

“Vâng”. Dương Hạo đi bên cạnh xe, vuốt đầu Cẩu Nhi mà nói: “Cũng không có gì là to tát cả, nhưng trượng phu thì có khí dũng, trở về hai chân tôi mềm nhũn, như không xuống ngựa được vậy, ha ha”.

Lúc này, Lý Ngọc Xương cũng đã đuổi kịp, nhìn thấy dân chúng đang nhìn Đường Diễm Diễm, bèn không nề hà nói: “Diễm Diễm, ngươi một tiểu thư khuê các, không được ra nói lung tung. Nếu không người ta cười cho đấy”. Đường Diễm Diễm hứ một tiếng nói: “Tiểu thư khuê các là phải ngày ngày trốn trong xe sao? Trời nóng thế này, cả ngày ngồi trong xe, tiểu thư khuê các sẽ biến thành cái gì đây. Cậu à, cậu không cần ngày ngày nói với cháu những điều đó nữa, được không cậu? Này cô bé, trèo vào trong xe làm gì đấy, xuống mau, tỉ tỉ đưa ngươi đi cưỡi ngựa chơi”.

Đường Diễm Diễm lúc ở phủ Quảng Nguyên, cả ngày cùng Đường Đệ Trình chơi đùa, giờ thì rất thích trẻ con, nhìn thấy Cẩu Nhi ngoan ngoãn như vậy, cũng muốn chơi với nó. Cẩu Nhi thấy nàng cưỡi ngựa đi chơi trông rất oai phong, trong lòng rất ngưỡng mộ, nghe nàng nói xong, thì buồn rầu cúi đầu xuống, nhẹ lắc đầu.

Dương Hạo thở dài nói: “Đứa trẻ này sinh ra đã mắc một căn bệnh lạ, không thể gặp ánh mặt trời, nếu bị ánh mặt trời chiếu vào, da sẽ bị phồng lên, nếu không băng thuốc kịp da thịt sẽ bị thối rữa. Ở đây có nhiều người, cho nên nó mới ở trên xe nhìn, nếu như bình thường thì…nó đều là ban ngày ngủ, ban đêm mới thức đi lại một chút”.

Nói ra những lời này, lại khiến cho bản năng làm mẹ của Đường Diễm Diễm chạnh lòng, lúc nhìn Cẩu Nhi, ánh mắt nàng có chút xót xa.

“Hôm nay ánh mặt trời không gắt lắm, nếu che ô, thì có lẽ là không sao đâu, nếu chẳng may bị ánh mặt trời làm tổn thương, chẳng phải là còn có lão đạo ta sao”. Phù Diêu Tử nằm ở một góc xe, ngáp một cái dài rồi ngồi dậy.

Đường Diễm Diễm nghe xong mừng rỡ nói: “Thế thì tốt rồi, bổn cô nương có cái ô giấy dầu ở trên xe, tiểu tử kia, ngươi chờ chút, tỉ tỉ sẽ mang đến đưa ngươi cưỡi ngựa đi chơi”.

“Diễm Diễm, ài, con bé chết tiệt ngươi…” Lý Ngọc Xương lắc đầu, hắn quay đầu nhìn lão đạo kia, có chút không vui nói: “Vị này chính là?”

Dương Hạo vội vàng giới thiệu: “Lý viên ngoại, vị này chính là đạo trưởng Phù Diêu Tử, y thuật của đạo trưởng rất tinh thông”.

Lý Ngọc Xương vuốt vuốt râu, mặt lộ vẻ xem thường, nhưng hắn đang nghĩ gì đó, vội chuyển giọng, chần chừ một lúc rồi hỏi: “Đạo hiệu của đạo trưởng là…Phù Diêu Tử? Ồ…không biết đạo trưởng tu hành ở tiên phủ nào?”

Lão đạo liếc nhìn hắn không nói gì, Dương Hạo nói tiếp: “Vị đạo trưởng này tu hành ở Thái Hoa Sơn, cái gì Quan Lai, ha ha ha, ta cũng không nhớ rõ lắm”.

“Gì cơ?” Lý Ngọc Xương kinh ngạc, nhìn trên nhìn dưới càng giống với đạo sĩ ăn mày, đột nhiên xoay người xuống ngựa, cung kính nói: “Tại hạ là Lý Ngọc Xương Phủ châu, năm ngoái đã từng đến Thái Hoa Sơn thắp hương, tiếc rằng Ngọc Xương không có phúc, chưa từng diện yết tiên trưởng, không ngờ hôm nay lại có duyên gặp chân nhân, thật là có phúc ba đời”.

Phù Diêu Tử ngửa mặt lên trời cười ha ha nói: “Tiên trưởng, chân nhân cái gì, bần đạo chỉ là một tên thích ngủ mà thôi. Ta đây khổ cực từ nhỏ, chưa từng có ngày nào vui vẻ, cháu gái ngươi muốn đưa đồ đệ của ta cưỡi ngựa đi chơi, viên ngoại cản làm chi?”

Lý Ngọc Xương giật mình nói: “Cái gì cơ? Đứa trẻ này là đồ đệ của chân nhân sao? Ôi…, thất kính thất kính, chân nhân dặn dò như vậy, có thể cùng lệnh cao túc kết giao, đó là phúc của Diễm Diễm. Dương Hạo thấy hắn như vậy, cung kính với đạo sĩ này, không khỏi cảm thấy kì quái. Lão đạo này lai lịch ra sao? Hắn nhìn qua một lượt, lão đạo này có cái tóc con quạ, nếp nhăn trên mặt tuy nhiều, xem ra khoảng sáu mươi tuổi, dung mạo không có gì là đẹp đẽ, lại mặc một bộ quần áo rách rưới, nào biết người dung mạo xấu xí đó lại là một thế ngoại cao nhân, Hoa Sơn có thế ngoại cao nhân này sao?

Dương Hạo đột nhiên nhớ đến một người: Tiên ngủ Trần Đoàn, đạo sĩ này có một chỗ ở Hoa Sơn vào thời Tống Thái Tổ, thực là nhân vật nổi tiếng trong giới đạo gia, nhưng Trần Đoàn có phải là đạo hiệu Phù Diêu Tử, hắn không biết, tiên ngủ Trần Đoàn, mặt mũi hẳn phải hồng hào lắm, nhất phái tiên phong đạo cốt? Có phải là người trước mặt mình không đây?”

Phù Diêu Tử thấy Lý Ngọc Xương như vậy, cười hắc hắc, lại chui vào trong xe tiếp tục ngủ, tên Lý Ngọc Xương dắt ngựa đi theo đoàn xe, trước mặt không dám xoay người lên ngựa.

Lúc này Đường Diễm Diễm đã phi ngựa chạy tới, lấy được chiếc ô dầu, lnc vội vàng bỏ ngựa ra đón, Đường Diễm Diễm không vui nói: “Cậu, ngươi còn muốn ngăn ta sao?”

Lý Ngọc Xương cười nói: “Nào có, đến đây, đến đây, cậu giúp ngươi ôm cô bé này lên ngựa, Diễm Diễm, ngươi cẩn thận chút nhé, chớ để ngã bị thương vị tiểu huynh đệ này, tiểu huynh đệ lại đây, ta ôm ngươi lên ngựa đi chơi”.

Cẩu Nhi tuy tuổi còn nhỏ, nhưng cũng biết ai thật sự có thiện ý với nàng, vừa nhìn thấy Lý Ngọc Xương nịnh mình như vậy, giả vờ yêu quý mình đến ôm, liền tránh ngay sang một bên, Lý Ngọc Xương lấy làm xấu hổ. Dương Hạo vội đến nói: “Ha ha, đứa trẻ này từ nhỏ chưa từng giao tiếp với người ngoài, có chút sợ hãi, để ta đến giúp”. Nói xong Dương Hạo nhảy xuống ngựa, thò tay ra ôm Cẩu Nhi, Cẩu Nhi tự đứng dậy, Đường Diễm Diễm vội mở ô che, ô giấy dầu màu trắng, bên trên vẽ ba ông hoa đào, có một cái cán dài, ánh sáng dưới tán ô ấm áp. Cẩu Nhi ngồi lên ngựa, Đường Diễm Diễm sờ cánh tay của nàng, thấy toàn xương cốt như củi, chạnh lòng, liền dịu dàng cười nói: “Ngươi tên là gì?”

“Ta là Mã Diệc”. Cẩu Nhi nói, quay đầu nhìn Dương Hạo cười, Dương Hạo đại thúc đặt tên, đó nhất định phải rất hay, có bốn chữ hỏa cơ mà.

“Được tiểu Mã Diệc, hai chân kẹp chặt một chút, cầm lấy yên ngựa, không phải sợ, tỉ tỉ sẽ cầm ô, không đi nhanh đâu, đi nhé…”. Hai chân của Đường Diễm Diễm thúc ngựa đi, mang Cẩu Nhi lần đầu biết đến việc cưỡi ngựa đi về phía trước.

Nhìn Cẩu Nhi không ngừng cười khanh khách trên lưng ngựa, Dương Hạo cũng thấy vui. Hắn đi mau, sóng vai cùng Lý Ngọc Xương, ra vẻ ngẫu nhiên nói: “Lý viên ngoại cũng biết Phù Diêu Tử chân nhân ư?”

Lý Ngọc Xương quay đầu nhìn Phù Diêu Tử đang ngủ trên xe, nhỏ giọng nói: “ Đó là chuyện tất nhiên rồi, Phù Diêu Tử chân nhân tiếng tăm khắp nơi, Quan Gia Đại Tống ta đã từng may mắn gặp chân nhân. Bây giờ chân nhân cũng là thượng khách của Quan Gia, song…ta thật không ngờ tới Phù Diêu Tử chân nhân không ở Thái Hoa Sơn hưởng phúc, lại có thể xuất hiện ở nơi này”.

Dương Hạo nhướn nhướn mũi, hỏi: “Phù Diêu Tử chân nhân…tên tục là Trần Đoàn?”

Lý Ngọc Xương xua tay: “Chớ nói, chớ nói, chớ nói hẳn tên tục ra”.

Quả nhiên là hắn, tiên ngủ Trần Đoàn ở Hoa Sơn, thuộc hạ của Tống Thái Tổ. Dương Hạo nhớ tới tên đạo sĩ này, chính mình đã sai Phạm Lão Tứ đánh cho hắn một trận, đường đường là Trần Đoàn lão tổ! Lại có thể…Môi Dương Hạo run lên.

Người có tâm tư đơn giản rất dễ làm bạn với những người có tâm tư đơn giản. Cẩu Nhi mê mẩn cưỡi ngựa, cả ngày đều cùng với Đường Diễm Diễm, một lớn một nhỏ cười đùa.

Dương Hạo còn phát hiện ra mỹ nữ cũng có tác dụng rất lớn đối với việc làm vệ sinh. Tướng lĩnh trong hàng ngũ mấy ngày này trước khi xuất phát vội vàng, đều đã lôi thôi lếch thếch, mặt mũi lem luốc không cần phải nói, tóc tai rối bù đã thành thói quen. Nhưng Đường Diễm Diễm và Cẩu Nhi trở về, ai ai cũng thích thập tam nương, đi theo nàng về thì phát hiện ngu hậu La Khắc Địch tự quân, chỉ huy sứ Lưu Hải Ba, Hách Long Thành, mấy viên đại tướng đều ăn mặc chỉnh tề, tinh thần phấn chấn, giống như duyệt binh trước mặt quan gia vậy, cái đó được gọi là tinh thần.

Hoàng hôn, cạnh hồ nước, mấy viên đại tướng chỉ huy binh sĩ hạ trại nghỉ ngơi, như đánh máu gà vậy, dắt ngựa đi đến bên hồ, tắm sạch sẽ cho ngựa, sau đó lại xách nước vào trong rừng tắm rửa sạch sẽ, Dương Hạo ngồi ở trên bãi cỏ ở sườn núi, nhìn các hoạt động của họ, lắc đầu cười.

Cảnh bên hồ rất đẹp, cây cỏ xanh rờn, rừng cây xanh xanh. Chân trời ráng đỏ, nước hồ như bị lửa đốt vậy.

Tắm dưới trời đất này, đẹp không sao tả xiết, khiến người ta vui vẻ, thoải mái.

“Này, sao ngươi không đi tắm đi?” Dương Hạo đang say sưa ngắm cảnh, Đường Diễm Diễm cầm roi ngựa phe phẩy đi đến, đặt mông xuống ngồi cạnh Dương Hạo.

“Hả?” Dương Hạo giật mình, quay đầu nhìn về dưới núi, lại quay nhìn Đường Diễm Diễm, mặt nghệt ra.

Đường Diễm Diễm trợn mắt: “Có mông thì ta ngồi, ngươi có ý gì?”

Dương Hạo chỉ xuống dưới sườn núi: “Bọn họ…đang tắm mà”.

Trước sườn núi là hồ nước xanh biếc, bên phải sườn núi là một rừng cây, có vài tên tướng, quân tốt cầm lấy quần áo che thân, sau đó đi xách nước. Nếu đứng ở chỗ bằng, có vài cái cây và quần áo chắn, nếu nhìn thấy cũng chỉ thấy hai cái chân, nhưng từ trên sườn núi nhìn xuống thì…

Đường Diễm Diễm nhìn thoáng qua, thở dài một tiếng: “Ta có làm chuyện gì đâu, cách xa như vậy, cũng không nhìn thấy cái gì cả, không phải sợ”.

Dương Hạo không nói gì, nữ nhân không phải là thường rụt rè sao, tại sao trước mắt mình lại là một nữ nhân khác người thế này?

Nữ nhân khác người này vỗ vào vai của hắn, cười hì hì nói: “Này, Dương Hạo kia, ngươi rất được đấy nhé”.

“Hả? Ta? Được ở điểm gì?” Dương Hạo không hiểu nàng đang nghĩ gì mà nói vậy.

“Ta nghe Tiểu Diệc nói rồi”. Đường Diễm Diễm khen: “Ngươi tìm bại quân ở nước Hán, gặp mẹ con họ, cho họ chút tiền. Trước hai quân trận, đại chiến hết sức căng thẳng, ngươi liều chết cứu người, có nhân có nghĩa lắm. Nhớ khi ở Quảng Nguyên, nếu không là ngươi, Đường đệ của ta đã bị bọn buôn người bắt cóc rồi, xem ra ngươi thực sự rất nhiệt tình, nhưng không giống như ngươi nói, chỉ là cái dũng đơn thuần. Có lòng chắc chắn sẽ được báo đáp, ngươi giờ là khâm sai rồi, sau khi là khâm sai có công nhất định sẽ được thăng quan, ta đây xin chúc mừng ngươi trước”. Dương Hạo cười nói: “Vốn dĩ, ta vẫn mong ngóng mình có thể thăng quan, nhưng con đường này, ta mới biết muốn thăng chức quan cao lên thì cần phải có bao nhiêu mạng người. Haiz, ta giờ không nghĩ nhiều, chỉ cần có thể mang những người này đến nơi an toàn là tốt lắm rồi”.

Nói đến đây, nàng ta đột nhiên biến sắc, lập tức nhảy dựng lên nói: “Cẩn thận, có rắn!”

“Ở đâu? Ở đâu?”. Đường Diễm Diễm kinh hãi, nhảy dựng lên, gần bên hắn, tay nắm chặt đoản kiếm.

Dương Hạo chỉ: “Ngươi nhìn xem, ở đó”.

Đường Diễm Diễm tập trung nhìn theo tay hắn chỉ, dở khóc dở cười, chỉ thấy một con rắn nhỏ màu xanh cỏ, dài hơn cái đũa một chút, đang trườn về phía trước.

Đường Diễm Diễm đứng thẳng người nói: “Nhìn ngươi kìa, chỉ là một con rắn nhỏ không độc, một chân dẫm phát là chết, làm gì đến mức kinh ngạc như vậy”.

Khi không thấy con rắn đâu nữa, hắn mới thổi phù một tiếng, nói: “Những động vật khác còn được, ta sợ rắn. Những con rắn mềm mềm, màu sắc sặc sỡ, nhìn thấy tóc gáy ta dựng thẳng đứng. Nói thật, ta thà gặp một lũ sói, làm thức ăn cho chúng, cũng không muốn gặp những con rắn này, bị chúng trườn đi trườn lại trên người”.

Đường Diễm Diễm cười một cách ngu ngốc nói: “Hóa ra Dương Hạo cưỡi ngựa một mình cứu người trong thiên quân vạn mã là như vậy, còn sợ rắn hơn cả tiểu nữ ta, nói ra người ngoài cười rụng cả răng mất”.

“Người ngoài dù cười rụng cả răng, sợ vẫn là sợ”. Dương Hạo nói rồi quay đầu lại, tự nhiên hai mặt của họ chạm gần nhau, vội lui ra sau hai bước. Đường Diễm Diễm cười nói: “Trên người ta nào có con rắn nào, ngươi sợ cái gì?”

Dương Hạo nói nghiêm túc: “Vẫn nên giữ khoảng cách. Nam nữ gần nhau quá, sẽ không tốt, sẽ là chuyện bàn luận của người khác”.

Hai má trắng nõn của Đường Diễm Diễm đỏ ửng, nói: “Ta và ngươi có cái khỉ gì mà dị nghị. Đúng, nói đúng đấy, cho nên càng phải cẩn thận, bằng không sẽ thành bị dị nghị sao?”

Đường Diễm Diễm cười nhạt nói: “Ai dám dị nghị bổn cô nương? Bổn cô nương sợ ai nói xấu nào?” Dương Hạo xua tay nói: “Ngươi nếu không sợ, vậy chúng ta ngồi xuống nói chuyện tiếp nào”.

Đường Diễm Diễm hừ một tiếng nói: “Bổn cô nương không có hứng nữa”. Nói xong chắp tay sau lưng, quay người đi, đi được bảy tám bước, môi nàng chu lên nói: “Anh hùng sợ rắn cỏ, hì hì, ha ha…”

Nhìn bóng Đường Diễm Diễm, lòng Dương Hạo buồn rười rượi, Đường Diễm Diễm eo thon, chân dài, có một mùi thơm không thể tả. Dáng người thon khiến Dương Hạo nhớ tới một hình bóng xinh đẹp đã cùng ở với hắn: Nếu như, nàng vẫn còn sống, ta và nàng sẽ ngồi chỗ này đây ngắm cảnh, như vậy thì thật tuyệt…nhưng…Dương Hạo lại nhìn về phía đám mây ráng đỏ phía chân trời, thở dài một tiếng: Y nhân đã ở thiên đường, ta đây vẫn ở nhân gian.

Sự đẹp đẽ của thảo nguyên của thiên đường.

Lều trại dựng giống như cái nấm trắng mọc trên thảo nguyên xanh biếc. Đây là quân doanh, giống chỗ tây bắc, nơi mà bọn Dương Hạo nghỉ chỉ có một ngày.

Đây là quân nhân mã của Tiêu Hậu tự dẫn binh. Sau khi người Khiết Đan tự hành động xong, phía bắc Đại Tống tùy ý cướp bóc tàn sát bừa bãi một phen, sau đó lần lượt phản Khiết Đan. Về theo con đường hướng đông, cũng có về theo đường hướng đông, chỉ cần tránh được dãy núi vắt ngang Quảng Nguyên ở phương bắc, dựa vào tốc độ nhanh của ngựa bọn chúng cũng không đi được.

La Đông Nhi ngồi ở trên càng xe, vắt hai chân, hai tay chống vào quai hàm nhìn về phương xa, như mất hồn. Nàng từ Phách Châu đi ra, một lòng nghĩ rằng tìm Hạo ca ca, một ngày nào đó, thiên quân vạn mã, thương kích như rừng, nàng cuối cùng đã gặp được Hạo ca ca rồi, Hạo ca đơn thương độc mã, phi tới trước quân trận, chỉ vì cứu lấy một đứa trẻ.

Lúc đó, chỉ cần có một tên sĩ binh giương cung bắn tên, thì sẽ lấy đi cái mạng của hắn. Dù sao, việc này cũng chính là dũng khí, không phải vũ lực. Nhưng, đến những thanh niên Khiết Đan giết người trong chớp mắt cũng giơ ngón cái lên tán thành khen ngợi hắn.

“Đó là người đàn ông của ta”. Nhìn thấy vẻ mặt khâm phục của thanh niên Khiết Đan, La Đông Nhi vịn vào lan can của xe nhung, trong lòng ngập tràn sự tự hào. Nào có nữ nhân nào không hy vọng người đàn ông của mình đội trời đạp đất, nhận được sự ngưỡng mộ của các nam tử hán? Người đàn ông của ta là một đại anh hùng, đến quân địch cũng khâm phục, nhìn thấy bộ mặt hung ác của các võ sĩ Khiết Đan cũng không sợ. Nhưng…khi nào ta mới có thể gặp Hạo ca ca đây? Ta giờ đang trên đường đi Khiết Đan, họ lại đến Tống quốc chúng ta “cắt cỏ” rồi, quân đội của một nước cũng cần làm những hành động của bọn cướp. Khó mà tưởng tượng nổi người hạ lệnh là Hoàng Hậu nương nương, một người đàn bà đẹp, làm sao có thể trong chớp mắt nói đến chuyện xuất thương và giết? Người Bắc quốc thật khác với người Trung Nguyên chúng ta, Hoàng Hậu nương nương của người Trung Nguyên chúng ta hiền thục, sáng suốt làm chủ hậu cung, mãi mãi không thể mặc áo giáp, đưa binh rong ruổi ngàn dặm, bôn ba nơi chiến trường.

Nghe nói đến Hoàng Hậu nương nương của người Khiết Đan, lãnh thổ của họ rộng hơn của Đại Tống rất nhiều, phía đông giáp Hoàng Hải, phía tây giáp Kim Sơn, diện tích của lãnh thổ là ngàn dặm, mở mang khôn cùng. Ta chuyến này đi, còn có cơ hội gặp lại Hạo ca ca không? Khi nào mới có thể khẩn cầu Hoàng Hậu nương nương khai ân thả ta đây?

La Đông Nhi thở dài, chợt nghe thấy tiếng bước chân bước đến, La Đông Nhi quay đầu nhìn, chỉ thấy Da Luật Hưu Ca mặc một bộ quần áo hán, soải bước đi đến, cách ăn mặc có phần thô kệch, bộ tóc con quạ vắt sang một bên vai, nước chảy từng giọt, có lẽ là vừa tắm rửa xong.

La Đông Nhi vội vàng đứng dậy, học giả người Khiết Đan xưng hô với hắn là: “Hưu Ca đại nhân”.

Da Luật Hưu Ca nhìn thấy nàng vội cười nói: “Không cần giữ lễ tiết, ngươi ngồi đi”. Hắn đứng, nhìn xung quanh một lượt, lẩm bẩm: “Quái, lúc này, nó nên sớm quay về rồi chứ”.

La Đông Nhi sợ hãi hỏi: “Hưu Ca đại nhân đang tìm gì vậy?”

Da Luật Hưu Ca nói: “Đang tìm con chim ưng diều hâu của ta, thật lạ, bay qua bay lại, lúc này, bất luận là thế nào cũng phải quay trở lại rồi chứ, con chim đó tự tay ta luyện, nó sẽ không đi kiếm ăn linh tinh, hiếm có ai có thế bắn được nó, nên chắc chắn sẽ không sao”.

Da Luật Hưu Ca nhướn mày, tay buông thõng đi đi lại lại, cúc áo ngực không cúc, ngực có lông giống như đầu sói, nhìn vô cùng hung ác, La Đông Nhi không khỏi sợ hãi, lùi lại mấy bước.

Da Luật Hưu Ca nhìn thấy hành động của nàng, nở nụ cười: “Sợ à?”

La Đông Nhi gật gật đầu, lại sợ chọc giận hắn, vội giải thích: “Ta sợ…con sói hung ác kia”.

“Sói? Sói được coi hung ác hơn người sao”. Da Luật Hưu Ca ngồi dậy khỏi càng xe, nhìn về thảo nguyên phía trước, từ từ nói: “Sói chỉ có khi đói mới vì mạng sống của mình mà bắt giết con mồi, khác với người, người thì vì quyền thế, vì tiền tài mà giết người…Ngươi nói xem…sói so với người, cái nào ác hơn?”

“Đương nhiên là…người hung ác hơn”.

La Đông Nhi nhớ đến bọn người Hán đang hung ác đốt lửa cướp bóc, lấy hết dũng cảm, trả lời Da Luật Hưu Ca.

Đáng tiếc thay cho đạo lý đối nhân xử thế, nàng thật non nớt trước Da Luật Hưu Ca, Da Luật Hưu Ca liếc mắt nhìn nàng một cái rồi mỉm cười nói: “Cô nương đây đang khiển trách bọn ta xâm lấn Trung Nguyên sao? Quân quốc đại sự, ngươi không hiểu, ha ha, vậy ta nói một chút ngươi có thể hiểu được”.

Hắn đứng dậy, hai tay vắt ở phía sau bước chậm rãi vài bước, đứng lại nhìn về phía thảo nguyên, tuy quần áo nửa mở, nhưng dáng người rất cao lớn, đầy khí phách: “Cô nương, hôm nay ngươi trách ta dẫn quân xâm chiếm Trung Nguyên, nhưng ngươi đừng quên, là người Tống các ngươi đánh Bắc Hán trước, mục đích đánh Bắc Hán là để làm gì? Triệu Hoàng Đế ngự giá thân chinh, chẳng lẽ chỉ vì mấy thành mấy huyện sao, mười mấy vạn quân dân thì sao? Chúng ta giờ không phát binh, thì sau này người Tống các người cũng sẽ chiếm lãnh thổ của chúng ta”.

Hắn đứng yên một chỗ, chỉ tay về phía nam nói: “Các ngươi phát binh bắc thượng là để làm gì? Là để ăn hay là để mặc? Đều không phải, phương bắc chúng ta nghèo khổ gấp hàng trăm lần Đại Tống. Người Hán các ngươi phát binh chỉ là để chiếm đất, có công trạng, làm rạng rỡ Đế Vương. Nhưng chúng ta thì sao?”

Chúng ta là bộ lạc trên thảo nguyên, hàng năm đều phải du mục hàng ngàn dặm, chỉ vì kiếm miếng ăn. Nhưng chúng ta quá khổ rồi, gặp thiên tai trắng, trời mưa tuyết, vô số bò dê chết lạnh, rồi gặp thiên tai đen, súc vật thiếu nước, bệnh tật hoành hành, súc vật béo gầy giảm, đẻ non, có rất nhiều súc vật chết, dân du mục phải làm sao? Trong mắt các người dân Khiết Đan đều là sói hung ác, nhưng dê đói phải ăn cỏ, sói đói thì ăn gì? Lẽ nào phải chịu đói mà chết sao?

Ở trên thảo nguyên, có cây cỏ tươi tốt, hai bộ lạc cùng một bộ tộc còn đấu tranh vì sự sống chết, huống hồ để sống. Nhị Lang Nhà Hán suy yếu và đổi vị trí cho người Khiết Đan chúng ta, các ngươi sống trên thảo nguyên, chúng ta sống ở trung thổ, các ngươi thì ngày ngày muốn đánh phía nam, làm chủ ở những nơi phồn hoa”.

Hắn quay đầu nhìn La Đông Nhi, nhe răng ra như con sói vậy, khóe miệng nhếch lên, có ý châm chọc nói: “Nhiều năm như vậy, người Khiết Đan chúng ta không đi về phía nam, Trung Nguyên có thể thái bình không? Không, người Hán các ngươi vì quyền thế địa vị, luôn đánh giết, giết bao nhiêu người rồi, làm bao nhiêu thủ đoạn tàn khốc rồi, lẽ nào không ác hơn bọn người Khiết Đan ta sao? Đợi đến Đại Tống thâu tóm được các nước xung quanh, thống nhất thiên hạ, nhất định lòng tham vẫn chưa đủ, lúc đó sẽ lấy luôn mười sáu châu U Vân, tất cả đất đai màu mỡ, các ngươi đều chiếm rồi. Những nơi hiểm yếu, các ngươi đều trấn giữ rồi, chúng ta thì sao, có lẽ sẽ bị phó mặc sống chết đuổi đến những nơi hoang vu hẻo lánh, cùng là người, dựa vào cái gì mà như vậy? Lẽ nào công nghĩa nhân đạo, người Hán các ngươi hưởng phúc, dựa vào cái gì mà vũ lực với chúng ta?

Nếu dựa vào đạo lý công nghĩa, thì có thể ngồi xuống bàn bạc, Trung Nguyên màu mỡ, phồn hoa, cũng phân cho người Khiết Đan chúng ta một ít, người Trung Nguyên dám không? Được, Da Luật Hưu Ca ta cũng không cho rằng trên thế giới này có công nghĩa chân chính gì nữa, tất cả đều nói chuyện bằng lực lượng. Nếu người Hán các ngươi có lực lượng thì sao? Các ngươi sẽ dựa vào cái gì yêu cầu chúng ta phải giữ nguyên hiện trạng? Cô nương, ngươi là người Hán, ngươi cảm thấy chúng ta nói không đúng. Nếu, ngươi là người Khiết Đan thì sao? Ngươi sẽ nghĩ thế nào?”

La Đông Nhi tức giận, chỉ trích: “Hưu Ca đại nhân, nếu cướp bóc lương thảo chỉ vì mạng sống, tàn sát vô số bách tính tay không vũ khí, hiếp dâm hán gia nữ tử, lại có thể có lí do đường hoàng sao?”

Da Luật Hưu Ca cười nhe răng ra nói: “Điều ta nói là lý do chiến tranh, về cơ bản là ở chỗ này, về phần chiến loạn, có rất nhiều việc từ đơn giản thành phức tạp, cũng không phải người phát động chiến tranh có thể khống chế được. Những dũng sĩ nghèo như chúng ta được gọi là ăn mày, cần phải cổ vũ bọn họ dũng mãnh tác chiến, chúng ta lại không có phần thưởng gì, thế nên đành phải dựa vào bọn họ chém giết. Trung Nguyên các người khi sát phạt, bên nghèo khổ chẳng phải làm qua sự việc này sao? Đã là đối thủ ngươi chết ta sống, còn mong bên hai bàn tay trắng chúng ta hào hoa phong nhã đối với quân địch, vậy không phải là chuyện đáng cười sao?”

Quý tộc Khiết Đan xưa nay chẳng những mặc hán phục, nói tiếng hán, những tác phẩm như Kinh thi, Lễ ký, Xuân thu, Luận ngữ…đều được bọn họ học thấu. Da Luật Hưu Ca thao thao bất tuyệt nói những điều này, thấy La Đông Nhi không lên tiếng, không khỏi cười ha ha.

Hắn xoay người nhìn về phía chân trời ráng đỏ, tự nhiên nghĩ đếncảnh chiều hôm, tiếng cười chợt tắt, sắc mặt trầm trọng nói: “Quái, nó vẫn chưa về, nó đi truyền quân lệnh của Tiêu Hậu, nếu đi nhầm đường, lỡ đại sự mất. Không được, ta phải đi gặp Hoàng Hậu nương nương bẩm báo một tiếng, lúc bất đắc dĩ, ta dẫn một đạo quân nhân mã xuống phía nam tiếp ứng mới được”.

Nghĩ đến đây, Da Luật Hưu Ca vội vàng buộc lại quần áo, huýt sáo, con ngựa đang ăn cỏ lập tức chạy tới, bờm ngựa bay trong gió như ngọn lửa.

Da Luật Hưu Ca vươn tay một cái, nhảy lên trên lưng ngựa, hắn nghiêng đầu phóng đi, ánh mắt sáng quắc nhìn La Đông Nhi: “Cô nương, ngươi nhất nhất đi, hay là ngươi yên tâm đi với Khiết Đan chúng ta đi. Đến đó, ngươi sẽ thấy rằng, nam nhi Khiết Đan chúng ta, cũng có những anh hùng hiên ngang lẫm liệt. Song, cái mà người Hán các ngươi giữ gìn là cái nghĩa của người Hán, cái mà nam nhi chúng ta giữ gìn là cái nghĩa của người Khiết Đan. Ngươi sẽ phát hiện ra, nữ tử Khiết Đan chúng ta, là vợ hiền mẹ tốt. Con sói thảo nguyên trong mắt các ngươi kỳ thực rất có tình có nghĩa, có huyết có nhục. Ta mong, ngươi sẽ thích nơi này, thích người ở nơi đây, mãi mãi ở lại đây!”

Da Luật Hưu Ca nói xong, thúc ngựa đi như bay về chiếc trại lớn của Hoàng Hậu.

 Chương 156: Hồ nước gợn sóng.

Đường Diễm Diễm trong lòng nhảy dựng lên, nàng rất muốn bẻ nhánh cây tùng, che khuất mắt mình, nhưng tay nàng nắm vào nhánh cây đó lại không thể nhúc nhích. Nàng muốn di chuyển đôi mắt mình, nhưng mắt cứ chăm chăm vào cơ thể trần truồng của Dương Hạo, không thể khống chế không nhìn xuống dưới được…nói đến cùng, một thiếu nữ luôn có cảm giác tò mò và thần bí trước một cơ thể của người khác giới.

Cẩu Nhi bên cạnh, khiêm tốn nhìn theo Diễm Diễm tỉ tỉ nói: “Diễm tỷ tỷ, cơ thể Dương Hạo đại thúc tại sao lại không giống ta?”

“Cái gì không giống cơ?” Đường Diễm Diễm sắc mặt nhử lửa đốt, lắp bắp hỏi lại.

Cẩu Nhi chỉ vào Dương Hạo, ánh đèn yếu ớt treo trên nhánh cây gần với bộ lưng của Dương Hạo, muốn nhìn nhưng lại sợ nhìn rõ vật ấy, Đường đại tiểu thư muốn giả vờ như không nhìn thấy không được. Cẩu Nhi tò mò hỏi: “Cái thứ ấy của Dương Hạo đại thúc, thật to, sao ta lại không có?”

Tay của Đường Diễm Diễm như vị ong đốt, rụt lại, tối đêm có gió, lá cây che, tay nàng va phải nhánh cây kia phát ra tiếng động tương đối lớn, may không bị Dương Hạo phát hiện. Đường Diễm Diễm không nói gì, xoay người đi, Cẩu Nhi bị sương, nhìn sang bên trái để nhìn thấy Dương Hạo tắm, lại nhìn sang phải để nhìn Đường Diễm Diễm vội vàng bỏ chạy, cắn ngón tay suy nghĩ một chút, cuối cùng cũng đuổi theo Đường Diễm Diễm.

“Diễm tỷ tỷ, ngươi chạy gì cơ chứ, đại thúc sẽ không phát hiện ra chúng ta đâu”.

Tuy nói dưới ánh trăng không thấy sự thay đổi của màu da, trước mặt lại là một đứa trẻ không hiểu chuyện, Đường Diễm Diễm vẫn cảm thấy mặt mình nóng ran, nàng nói nhỏ: “Muộn rồi, chúng ta đi về ngủ thôi”.

Cẩu Nhi chạy theo nàng, nghiêng đầu nghĩ nghĩ, vẫn không chịu được kéo vạt áo nàng, dựa vào tinh thần siêng năng ham học hỏi, bám riết lấy không chịu buông tha hỏi: “Diễm tỷ tỷ, vì sao Dương Hạo đại thúc lớn không giống ai cả, nhất là cái thứ kỳ quái đó…Ai zô…”

Đường Diễm Diễm dừng chân quay người, Cẩu Nhi nhìn Diễm Diễm tỷ, Đường Diễm Diễm trừng mắt, xấu hổ thành giận nói: “Vì ngươi còn nhỏ, hiểu chưa? Đợi ngươi lớn rồi, đợi ngươi lớn…đợi ngươi lớn, ngươi sẽ giống như hắn…”

Cẩu Nhi giật mình, thất thanh kêu lên: “Thật sao?”

“Phí lời, ngươi lớn rồi, tự nhiên sẽ to như vậy thôi…ai zô, ta nói cái này với đứa trẻ như ngươi làm gì nhỉ, thật là…” Đường Diễm Diễm dậm chân, nói: “Không được hỏi nữa, cái gì cũng thấy hỏi”.

Nàng đi được hai bước, lại quay đầu lại dọa: “Chuyện tối nay, không được nói với ai, nghe chưa? Đến mẹ ngươi, ngươi cũng không được nói, nếu không thì…thì sau này tỷ tỷ không thích ngươi nữa, không cho ngươi cưỡi ngựa đi chơi nữa”.

Cẩu Nhi sợ hãi, ở trên đời này, ngoài mẫu thân, dương thúc thúc và sư phụ, thì chỉ có mỗi Đường tỷ tỷ tốt nhất. Mẫu thân ít nói, sư phụ thích ngủ, Dương Hạo đại thúc lại quá bận, chỉ có mỗi Đường tỷ tỷ đưa Cẩu Nhi đi chơi, Cẩu Nhi sợ Diễm Diễm không chơi cùng nữa, liền gật đầu cam đoan nói: “Diễm tỷ tỷ, ta sẽ không nói với bất kỳ ai cả, ta cam đoan, nếu ngươi không tin, chúng ta ngoắc tay”.

Đường Diễm Diễm dở khóc dở cười, hạ giọng nói: “Được lắm, không cần ngoắc tay đâu, Diễm tỷ tỷ tin ngươi. Đi đi đi, nhanh về ngủ thôi”.

“Vâng vâng”. Cẩu Nhi đáp một tiếng, chạy theo. Chạy được vài bước, nàng nhấc quần, cúi đầu tò mò nhìn xuống, vẫn không hiểu tại sao mình giờ không có, đợi lớn lên mới có thứ kỳ lạ đó, mẫu thân là người lớn, nhưng sao bà ấy không có?

Cẩu Nhi vì bệnh tật, từ nhỏ đã xa cách với các bạn cùng tuổi, phụ thân lại mất sớm, mẫu thân và Cẩu Nhi sống nương tựa lẫn nhau, ban ngày trong nhà, tối mới ra ngoài chơi, không có cơ hội chơilũ nam nhi, không có khái niệm nam nữ. Mã đại tẩu là giới phụ nữ trong thôn, cả ngày làm lụng vất vả kiếm kế sinh nhai, hơn nữa Cẩu Nhi tuổi còn nhỏ, càng không thể nói với nàng kiến thức về phương diện này.

Cẩu Nhi chỉ cho rằng mình và mẫu thân lớn lên bình thường, thấy Dương Hạo khác người, lấy làm ngạc nhiên, lúc này mới chạy đến bên Đường Diễm Diễm, kết quả là được một câu trả lời khó giải thích, lại còn không cho nàng hỏi thêm. Cẩu Nhi đáng thương mang trong lòng câu hỏi đó chạy về, nằm ở bên cạnh sư phụ thích ngủ, nhìn lên bầu trời đầy sao, cảm thấy thiên hạ thật to lớn, thật là có đủ những cái lạ.

Đường Diễm Diễm nhanh chóng trở về xe của mình, nằm yên, nàng ấn ấn ngực của mình, tim vẫn đập nhanh.

“Không sao, không sao, đây là nhất báo hoàn nhất báo, sẽ không có ai biết, nhất định sẽ không có ai biết”. Đường Diễm Diễm tự an ủi mình, bỗng nhiên nhíu mày lại: “Làm cho ta luống cuống cả lên, cái tên Mã Diệc chết tiệt này”.

Đường Diễm Diễm ảo não kéo lấy chắn, che hai má đang nóng ran, đầu cứ nghĩ đến việc vừa xảy ra. Hơn nữa…càng không muốn nghĩ thì nó càng nhớ lâu: “Trời đất ơi, bổn cô nương bị tên chết tiệt kia hại chết rồi…”

Đường đại tiểu thư cắn răng mắng mỏ, không biết tên chết tiệt kia trong lòng nàng là Dương Hạo hay là Mã Diệc.

Trời sáng, đội ngũ tiếp tục đi về hướng tây.

Lương thực có đủ khi đi con đường này, lại không bị binh đuổi theo làm phiền, phong cảnh thảo nguyên đẹp hơn cánh đồng hoang vu không biết bao nhiêu lần, tinh thần của dân chúng cũng đã hồi phục trở lại, mặt bọn họ bắt đầu lộ ra những nụ cười, bắt đầu có những câu chuyện gia đình được kể, trong đội ngũ còn có những người cất lên tiếng hát, tiếng hát thật chất phác, tràn ngập sự hoan hỉ.

Dương Hạo cùng Lý Ngọc Xương cưỡi ngựa song song đi tới, trò chuyện với nhau.

Lý Ngọc Xương hai ngày này luôn đi bên cạnh xe của Phù Diêu Tử, Phù Diêu Tử là nhân vật thần tiên sống trong lòng hắn, nghe nói năm đó Quan Gia được hắn chỉ bảo, lúc này mới đi vào quân ngũ, thành vị chủ đứng đầu thiên hà, nếu mình có thể được hắn chỉ bảo, sự nghiệp Lý gia nhất định sẽ lên tầm cao mới. Người thường như mình mà được hắn hóa phép, nếu như làm hắn vui, hắn sẽ tự tay luyện cho mấy viên đan dược, khiến cho sức khỏe dẻo dai, sống lâu cũng nên.

Tiếc thay Phù Diêu Tử cả ngày chỉ ngủ, tiểu đệ của hắn là Mã Diệc lại không muốn gần hắn, thế là Lý Ngọc Xương cả ngày bên Dương Hạo kết giao. Dựa vào con mắt tinh thông của một người làm ăn buôn bán, tự nhiên thấy sư đồ của Phù Diêu Tử có cảm tình không bình thường với Dương Hạo mà kết giao, chính là một trò chơi trong tay của kẻ buôn bán.

Dương Hạo đi chậm, tiện hỏi: “Lý viên ngoại ngoài buôn bán muối, thì không làm gì khác nữa sao?”

Lý Ngọc Xương cười hà hà nói: “Cũng không hẳn là như vậy, lão phu vận chuyển muối, bán muối, không bán lẻ, bởi vậy đi một chuyến khì đã mất một khoảng thời gian rồi, trong nhà nuôi bao nhiêu người như vậy không thể để miệng ăn núi lở, cho nên cái gì có thể kiếm tiền, ta nên làm cái đó, song đó chỉ là việc trong thời gian ngắn, hiệu buôn bán của Lý gia vẫn chủ yếu buôn muối là chính”.

Dương Hạo gật đầu, hắn viên viên roi ngựa trong lòng bàn tay, trầm ngâm một lát nói: “Như vậy, không biết Lý viên ngoại có làm sửa cầu, xây phòng hay không?”

Lý Ngọc Xương ngẩn người ra, bật cười nói: “Cái này, ta cũng có đề cập tới, Phủ châu Triết gia dựng thêm quân doanh thì có hiệu Lý gia ta phụ trách bộ phận xây dựng, còn có mấy tòa bảo tháp cùng chùa miếu trong thành Phủ châu cần sửa lại, song…đó chỉ là mấy năm đầu. Đại đa số dân chúng đều bảo những người bạn của họ đến xây phòng, cho nên ngoài quan phủ kiến tu nha môn, kiến tạo quân doanh, tu sửa sơn môn của chùa, còn chung quy, dựa vào việc tiêu thụ gỗ đá, xây dựng phòng cũng chẳng kiếm được bao tiền. Sao vậy, Dương khâm sai có ý làm buôn bán sao?

Dương Hạo lắc đầu, nói: “Lý viên ngoại xem, có nhiều dân chúng thế này có lẽ phải lên đến hàng vạn hộ, tây bắc tây nam đất đai rộng rãi, chỗ đó có thể để cho họ ở, nhưng bọn họ giờ cần một nơi để an cư. Nếu đợi họ đến mới bố trí, chỉ sợ luống cuống gấp gáp quá, sợ rằng quan lại Phủ châu không đáp ứng kịp. Nếu giờ có người đến đó trước mua ít gỗ và đá, làm nhà, đến lúc dân chúng đi đến đó thì có thể dàn xếp ổn thỏa, như vậy thì thật tốt”.

Dương Hạo bấm tay nói: “Đầu tiên, dân chúng từ Bắc Hán di dời đến Tống cảnh, Quan Gia Đại Tống ta vì rộng lòng nhân ái, nhất định sẽ ban thưởng đất vườn, ban cho tiền tài làm nhà cửa. Trước khi ta đi, Quan Gia đã có sự sắp xếp đó, nếu có người làm xong nhà cho dân chúng đến ngụ cư, triều đình sẽ cấp vốn để xây dựng nhà cửa, những thương gia làm theo yêu cầu của dân chúng, cái này có lợi lắm, há không tốt sao?”

Dương Hạo còn chưa nói hết, Lý Ngọc Xương liền vỗ trán, giật mình tỉnh ngộ. Lời nói của Dương Hạo kỳ thật có chỗ cần nói thêm, ví dụ nói quan phủ nơi đó sắp xếp cho dân chúng di dời này, thì có thể trích cấp tiền của triều đình xây dựng nhà cửa cho bản thân mà không thông qua hiệu buôn. Lại thêm một ví dụ nữa, lúc quan phủ sắp xếp cho dân chúng đến nơi nào đó, giờ vẫn chưa định, đất đai sắp xếp thế nào chưa định, thì làm sao có thể xây dựng chỗ ở đây?

Nhưng những điều này đối với Lý Ngọc Xương mà nói là không vấn đề, hắn vốn là một đại thương nhân dựa vào Đường gia, mà Đường gia lại dựa vào nhà tài chính lớn Triết gia.

Phải thám thính xem quan phủ sắp xếp di dân, và chuyện xây dựng bó lại, đối với người khác thì khó, đối với hắn rõ ràng là một chuyện dễ dàng, Dương Hạo chỉ nói một nửa, hắn liền ngộ ra thương cơ nằm trong đó.

Lần này từ Hồi Hột trở về, bọn Lý gia làm ăn buôn bán muối có lợi nhuận lớn nhất cũng phân chặng rồi, lần sau các nơi vận chuyển muốn, cần đến cuối thu, khoảng thời gian này sắp xếp ổn thỏa cho mấy vạn dân di rời là một cơ hội kiếm tiền lớn, Lý Ngọc Xương mừng ra mặt, xoa tay liên tục nói: “Ai zô, khâm sai đại nhân suy nghĩ thật sâu xa, một lời thôi mà đã đánh thức giấc mộng của ta. Nói như vậy, ta nên mau chóng về Phủ châu chuẩn bị trước mới được”.

Dương Hạo chắp tay cười nói: “Như vậy là tốt nhất, việc này nếu làm tốt, Lý viên ngoại không chỉ có lợi mà còn có cái danh làm việc thiện nữa, đến lúc đó, tây bắc tây nam đều ca tụng, Lý viên ngoại không những có danh tiếng trong bách tính, triều đình quan phủ cũng sẽ hết lời khen ngợi”.

Lý Ngọc Xương cười ha ha, không chờ đợi nói: “Nói vậy, lão phu không thể đi chậm với khâm sai được rồi, ta cần nhanh chóng trở về. Lão phu đi cáo biệt La tướng quân rồi cùng đoàn người mau chóng về Phủ châu đây”.

Lý Ngọc Xương chắp tay, thúc ngựa phi về phía trước.

Một lát sau nhân mã Lý Ngọc Xương tụ lại một chỗ, La Khắc Địch thúc một con ngựa nghênh đón hướng Dương Hạo, đến gần phía trước ghìm dây cương cười: “Nghe nói, khâm sai đại nhân đã chỉ một con đường tài lộ cho Lý viên ngoại?”

Dương Hạo cười nói: “Thương nhân mà, vô lợi bất khởi tảo, dù sao cũng để cho hắn kiếm tiền, hơn nữa khoản tiền của triều đình là nhất định cần trích cấp, dân cúng cũng có thể tí chịu sự dày vò, vừa đến nơi thì có chỗ ở, cũng dễ trấn an lòng người. Huống hồ, Lý viên ngoại là một thương nhân có địa vị trong xã hội, làm chuyện đó sẽ chiếu cố đến thanh danh một chút, nếu như thợ quan phủ đi làm, chỉ sợ ăn bớt nguyên vật liệu, những căn phòng này không chịu nổi khi gió thổi, mưa rào, người gặp họa chẳng phải là dân chúng sao? Vậy điều này cũng là cái lợi nên làm”.

La Khắc Địch vuốt cằm cười nói: “Nói đúng lắm, vẫn là Dương đại nhân chu đáo. Mạt tướng thầm nghĩ đưa dân chúng đến nơi bình an thôi, còn những việc sau đó chưa nghĩ đến, thật đáng xấu hổ”.

Hai người đang nói chuyện, Lý Ngọc Xương nhanh chóng trở về, đến bên xe ngựa của Phù Diêu Tử cung kính thi lễ, nói: “Đạo trưởng, đệ tử Lý Ngọc Xương được vô mộng chân nhân chỉ bảo ra sai lầm, tránh được kiếp nạn. Đồng hành cùng tiên trưởng và vô mộng chân nhân là tốt lắm rồi, dựa vào tình nghĩa, hy vọng tiên trưởng có thể thưởng cho tình nhỏ của ta”.

Dương Hạo đã biết thân phận thực sự của Phù Diêu Tử, nên cũng có vài phần tò mò kính sợ nhân vật truyền kỳ này.

Tuy nói cho đến tận bây giờ, hắn chưa thấy tên này bỏ ngủ để làm việc chính sự. Nhưng La Khắc Địch lại không biết thân phận của Phù Diêu Tử, thấy Lý viên ngoại cung kính như vậy, lấy làm lạ.

Phù Diêu Tử đang ngủ trên xe, Lý Ngọc Xương nói xong, hắn ngáp dài một ngáp rồi ngồi dậy, liếc mắt nhìn Lý Ngọc Xương, vuốt râu cười nhạt nói: “Bần đạo ở đâu đâu đều có thể ngủ, núi đá đất hoang, khu nhà cao sang, chẳng có gì khác nhau. Mỗi tội tiểu đồ nhi, thể chất quá yếu, màn trời chiếu đất như vậy không tốt cho nó. Bần đạo đang muốn tìm một nơi cho nó điều trị, sau đó mang theo về Hoa Sơn. Nói như vậy, bận đạo cũng muốn quấy rầy Lý thí chủ”.

Lý Ngọc Xương lấy làm vui mừng, vội nói: “Trong nhà đệ tử có mấy chỗ lịch sự tao nhã, xin mời tiên trưởng và lệnh cao đồ cùng đi, đệ tử nhất định sẽ sắp xếp thỏa đáng, sau đó sẽ sắp xe để đưa tiên trưởng và lệnh cao đồ về Thái Hoa Sơn.

Hôm nay phá lệ, Đường Diễm Diễm Đường đại tiểu thư không giống con ngựa hoang không đi trước cậu nữa. Nàng nói mấy ngày nay sức khỏe không được tốt, không muốn đi nhanh, Lý Ngọc Xương cũng hết cách, nhìn vào phạm vi thế lực Chiết Thị, không có nguy hiểm gì, Lý Ngọc Xương sắp xếp hai mươi võ sĩ chăm sóc nàng, đích thân mình mang theo đại đội nhân mã đi trước.

Đến chiều tối, cắm trại trên cỏ. Lộ trình một ngày rưỡi đi về phía trước thì phải đi qua một dòng sông, thì sẽ vào phạm vi thế lực Chiết Thị, quân dân đều rất vui.

Chỉ có Diệp Đại Thiếu, buồn thiu nhìn vào con diều hâu bị thương một bên móng. Hắn rất muốn bắt con diều hâu này về, nhưng tiếc là một ngày buồn bã, cũng không thấy bóng con diều hâu nữa.

Dương Hạo sắp xếp ổn thỏa cho dân chúng, cưỡi ngựa tuần tra như thường lệ, đợi đến khi hắn về đội ngũ thì Đường Diễm Diễm khi nhìn thấy hắn, mặt đỏ ửng lên như tôm chín.

Dương Hạo vừa nghe nói mấy ngày nay không thoải mái, cho nên không đi trước cậu, đoán là bệnh phụ nữ nên không qua hỏi thăm. Lúc này nhìn thấy nàng đi tới, mặt đỏ như tôm chín, cảm thấy rất ngạc nhiên, liền xoay người xuống ngựa nói: “Đường cô nương, trời rất nóng sao?”

Đường Diễm Diễm không thấy thoải mái, cho dù đã ăn mặc chỉnh tề trước mặt Dương Hạo, nhưng khi nhìn hắn, cô lại không nghĩ được gì, ngượng ngùng, muốn trốn đi nhưng không kịp nữa, né tránh suy nghĩ rồi cười nói: “À…đúng vậy…trời…rất nóng”.

Dương Hạo ngẩng đầu nhìn, giờ đã không còn mặt trời gay gắt nữa, thật không hiểu ra sao, hắn lấy túi nước trên lưng ngựa xuống, cười nói: “Giờ trời cũng được coi là đẹp rồi, cô nương nếu thấy khô nóng, đi rửa mặt đi, như vậy sẽ khoan khoái hơn”.

“Đa tạ”. Đường Diễm Diễm không dám nhìn thẳng vào mặt Dương Hạo, sau đó lấy ra một chiếc khăn trắng nõn nhẹ nhàng thấm nước, rồi đưa trả túi nước cho hắn, xấu hổ cười: “Đa tạ ngươi, Dương đại nhân”.

“Không cần đâu”. Dương Hạo cười, cầm lấy túi nước nhìn nàng. Hắn cảm thấy vị cô nương trước mặt mình có gì đó hơi lạ, không thể nói rõ lạ ở điểm nào.

Đột nhiên, trong đầu hắn chợt lóe lên: Đúng rồi, thẹn thùng. Nàng đang thẹn thùng. Biều hiện của nàng bây giờ là thẹn thùng.

Điều này làm sao có thể được, Đường đại tiểu thư mà biết thẹn thùng sao? Đường đại tiểu thư thẹn trước mặt đàn ông sao?

Dương Hạo ý thức được ngẩng đầu lên nhìn, ồ, mặt trời quả nhiên ở đằng tây. Đường Diễm Diễm bị ánh mắt của Dương Hạo làm cho không tự nhiên, nàng ta dùng khăn lau mặt, trốn tránh ánh mắt của Dương Hạo, rồi tự nhiên từ thẹn thùng thành tức giận, không kìm được gắt giọng: “Ngươi làm cái gì vậy, chẳng có ai nhìn người như ngươi cả”.

Dương Hạo cười nói: “Thôi được rồi, mới vừa rồi ta còn tưởng cô nương ốm cơ. Giờ thì ta yên tâm rồi”.

Đường Diễm Diễm chán nản: “Ngươi có ý gì, bổn cô nương tính tình không tốt sao?”

Dương Hạo vội vàng xua tay nói: “Không phải, không phải, ta không có ý vậy, ta nói là…”

Đường Diễm Diễm ánh mắt đột nhiên lóe sáng lên, quát: “Không được cử động”.

Dương Hạo ngẩn người, chỉ thấy Đường Diễm Diễm rút đoản kiếm bên hông “Xoẹt” một tiếng, Dương Hạo tuy biết tính nàng nóng nảy, nhưng không tin nàng lại rút kiếm ra đâm mình, cười nói: “Đường cô nương, ta nào có trêu chọc gì cô đâu? Ngươi không có bệnh, thì trở lại bình thường đi”.

Đường Diễm Diễm bị hắn nói châm chọc như vậy, tức đến mức nghiến răng, nhưng lúc này không hơi đâu giận rỗi với hắn, nàng nắm chặt chuôi kiếm, cong người, kêu lên: “Đừng nói nữa, có rắn, ngươi không được động đậy, nhất định không được nhúc nhích”.

Dương Hạo giật mình, hắn đứng im không nhúc nhích, mắt nhìn theo ánh mắt của Đường Diễm Diễm, quả nhiên nhìn thấy có một con rắn to màu sắc sặc sỡ, đầu nó dữ tợn đang ngóc lên khỏi mặt đất, lè lưỡi.

Con rắn này đột nhiên xuất hiện ở chỗ của dân chúng đang nghỉ ngơi, đầu nó ngóc lên rất cao, đong đưa, cách chỗ Dương Hạo chỉ có hơn một mét.

Mặt Dương Hạo trắng bệch trong phút chốc, bị con rắn đó nhìn chằm chằm, nửa người hắn tê cứng. Dương Hạo sợ rắn, thực sự là rất sợ, trong tất cả các loài động vật, hắn sợ nhất là những sinh vật mềm mềm bò trườn trên đất, ngay cả đến con rắn cỏ không độc, theo bản năng, nếu nhìn thấy, hắn sẽ toát mồ hôi hột.

Răng Dương Hạo va vào nhau lạch cạch, hắn run run nói: “Ta…ta phải làm sao bây giờ?”

“Đừng nhúc nhích, ngươi không được nhúc nhích, tránh quấy nhiễu nó, đợi ta cho một kiếm thì nó sẽ chết toi”. Đường Diễm Diễm nói rồi giơ kiếm ra, cổ tay ném mạnh ra.

“Xoẹt”. Kiếm quang lóe lên, cùng lúc đó, con rắn nhảy dựng lên, răng nanh nhe ra, căn vào cổ tay của Dương Hạo.

Dương Hạo choáng váng, Đường Diễm Diễm cũng choáng váng, chỉ thấy chuôi kiếm cắm vào bụi cỏ, còn đuôi kiếm còn đang bay trên không trung.

Thấy con rắn cắn phải tay xong thì lập tức quay đầu lỉnh vào bụi cỏ, Đường Diễm Diễm nhảy dựng lên, hét: “Tên ngốc kia, nó cắn ngươi mà ngươi cũng không động?”

Dương Hạo cười nói: “Là ngươi bảo ta không được động mà”.

Đường Diễm Diễm tức sôi người, nói: “Ta bảo ngươi chết, ngươi có đi không?”

Dương Hạo cười hề hề nói: “Ta tưởng võ công của cô rất cao cơ…”

Đường Diễm Diễm không nói lý: “Võ công của ta rất cao, nhưng thân thủ của con rắn đó cũng không tồi mà”.

Dương Hạo: “…”

Đường Diễm Diễm nhìn hắn rồi ngạc nhiên nói: “Ơ, sao mặt ngươi lại đen xì thế này?”

“Trời ạ”. Dương Hạo bi phẫn kêu lên một tiếng, người như khúc gỗ đổ xuống đất.

Đường Diễm Diễm đứng ngơ ngác một lúc, rồi hét thật to: “Người đâu, cứu…”

“Lão từ đầu, ngươi không cần giúp, khoản này không phát tới tay ngươi…”

“Đại nương ca, ngươi còn sống hay đã chết, ta…ta thường mơ thấy ngươi…”

“Nương, ta sẽ trở về, có Đông Nhi bên cạnh rồi, ngươi đừng lo lắng thay ta, nhi tử đã lớn rồi…”

“Đông Nhi, ta đồng ý che chở cho nàng, để nàng cả đời không tủi thân nữa, không bị ức hiếp nữa, Đông Nhi, ta…ta xin lỗi nàng…”

Đường Diễm Diễm ngồi bên cạnh Dương Hạo, nghe những lời nói đứt quãng, mãi đến khi hắn ngủ say, mới cẩn thận rút ngón tay khỏi bàn tay của hắn.

Dương Hạo nằm ở trong xe lớn của Đường Diễm Diễm, nằm ở nơi mềm mại như vậy, mùi thơm tỏa ra từ chăn, sắc mặt không còn khó coi nữa.

Đường Diễm Diễm ngồi dựa vào một bên cửa sổ, tay chống cằm, nhìn hắn, trong lòng có cảm giác đau nhói.

Lần đầu quen hắn là ở trong chùa Phổ Tế, hắn luống cuống, dấu vết hoạt động bại lộ. Gặp lại hắn, là trong nhà chồng cô, hắn gặp chuyện bất bình, người nhiệt tình cứu Đường đệ trở về. Lần thứ ba gặp hắn, là ở bữa tiệc mừng thọ Lão Thái Quân. Lần nữa gặp hắn, hắn mặc quần áo rách rưới cùng tên ăn mày, nhưng giờ đã là khâm sai phụng chỉ, quan viên triều đình.

Cẩu Nhi nói, khi hắn đuổi theo quân Hán, không cho binh sĩ bắt nạt cô nhi quả phụ, còn để lại vài đồng bạc. Dân chúng di rời nói, mười mấy vạn đại quân hai nước bảo vệ nghiêm mật, trên chiến trường kiếm kích như núi, hắn chẳng có gì, đơn thương độc mã xông lên chiến trận chỉ vì cứu một đứa trẻ. Hình tượng của hắn bỗng nhiên cao lớn, rồi lại bỗng nhiên thấp kém, bỗng nhiên lười biếng, bỗng nhiên nghĩa hiệp vô song.

Giờ những lời nói ngắt quãng của hắn, Đường Diễm Diễm mơ hồ hiểu được những sự việc mà mình không biết, nàng chưa bao giờ nghĩ đến hắn đã phải chịu khổ như vậy, yêu một người yêu đến mức khắc cốt ghi tâm như vậy. Những người đàn ông mà nàng gặp, hoặc là quá phóng đãng không kiềm chế được, hoặc là say mê công danh, ai trọng tình như này chưa?

“Dương Hạo…” Đường Diễm Diễm khẽ gọi, dùng tay tô tô lại lông mày rậm rạp của hắn, sau đó lau mồ hôi trên mặt hắn, mặt nàng chưa từng lộ ra vẻ dịu dàng như vậy…

Ngón tay ngọc nhẹ nhàng vuốt ve hàng mày của Dương Hạo, đột nhiên giật mình, nàng rụt tay lại, mắt nhìn đi chỗ khác: Hắn…ngày gặp ở trong chùa Phổ Tế, chưa từng nhìn ta tắm sao?

Ta hôm qua nhìn thấy hắn rồi, tuy nói là bị Mã Diệc xúi đi, nhưng nếu như hắn hỏi, ta mặc dù không thẹn, nhưng ta sẽ thừa nhận sao?

“Nếu…hắn nhìn thấy thân thể của ta…”

Răng Đường Diễm Diễm cắn nhẹ vào môi đỏ mọng, mặt tự nhiên đỏ bừng, người nóng ran: “Này oan gia…hắn rốt cuộc đã nhìn thân thể của ta chưa?”

Nhưng lệnh ổn đô mẫn và tường ổn đường từ đầu chí cuối chưa đợi mệnh lệnh của Da Luật Hưu Ca, lại đợi đại quân Phan Mỹ từ trên trời rơi xuống, bị Phan Mỹ cắt đường lui của chúng, mấy con đường mà đại quân binh mã đi qua đều bị Phan Mỹ giết chết, con đường hiểm yếu khó đi cũng bị quân Tống bố trí binh chặn, chúng đã trở thành cá trong chậu.

Lệnh Ổn Đô Mẫn và Tường Ổn Đường dẫn binh tấn công mấy lần, kết quả lại bị hao binh tổn tướng. Phía sau là thành kiên cố khó phá được của quân Tống. Giờ là giữa trưa, quân Tống đã ngừng tấn công. Nhưng thấy tình hình như bây giờ, họ không biết sau khi mặt trời ngày mai mọc lên, còn có thể nhìn nó lặn được nữa không.

Tại sao con chim diều hâu của Da Luật Hưu Ca vẫn chưa truyền tin, lẽ nào…lẽ nào Hoàng Hậu vốn có ý tặng mạng của họ? Khốn Thú bình thường ngồi ở giữa Lệnh Ổn Đô Mẫn và Tường Ổn Đường ở đống lửa không hẹn mà cùng có câu hỏi này.

Tiêu Tư Ôn giết Tiên Đế, lập Da Luật Hiền làm Đế, Bạch Cam Bộ vẫn đứng về phe phản đối, còn ra tay với bộ lạc Tiêu Thị. Cho đến Tống quân luồn vào Khiết Đan, tập kích tiêu diệt mấy bộ lạc nhỏ của Bạch Cam Bộ, chúng mới đồng ý nhất trí phân tranh đối ngoại, phát binh giữ Bắc Hán, đuổi người Tống. Lẽ nào…Hoàng Hậu nương nương mượn đao giết người chăng?

Nếu không, Da Luật Sa đại nhân, Da Luật Địch Liệt đại nhân dũng mãnh thiện chiến, luôn dũng mãnh phi thường, người Tống làm sao có thể liệu trước được mà phục binh và thiên hà, giết hai đại nhân của bộ tộc ư? Nếu không thì, tại sao tinh binh cuối cùng của bộ lạc lại trì trệ mệnh lệnh rút quân, đại quân của người Tống lại như trời giáng, tăng tốc xuất hiện ở sau mình, cắt đứt tất cả đường lui?

Nghi ngờ một lát được nảy sinh, sẽ giống như một hạt mầm, mọc rễ nảy mầm trong lòng người, Lệnh Ổn Đô Mẫn và Tường Ổn Đường đều hoài nghi tất cả những nguyên nhân thất bại là người khác gây nên, sau khi cân nhắc lại, bọn chúng đã hoàn toàn tin vào phán đoán của mình nhìn về phương bắc xa xôi, bọn chúng hận tới mức nghiến răng nghiến lợi. “Các dũng sĩ! Chúng ta bị lừa rồi, chúng ta không bại trong tay người Tống, là chúng ta bị một đao sau lưng. Giờ chúng ta giết! Vứt bỏ tất cả để xông ra trận, không tiếc bất kỳ sự hy sinh nào, chỉ cần dũng sĩ của Bạch Cam Bộ rút ra một cái, chúng ta sẽ không chết vô nghĩa! Bất kể ai trốn chạy, cần nói với tộc người của chúng ta cái bất công của chúng ta, nói với tất cả các bộ tộc hữu hảo kết giao của Bạch Cam Bộ chúng ta, đòi công lý ở Tiêu Thị!”

Lệnh Ổn Đô Mẫn giơ tay đuốc, một tay kia nắm chặt, mắt mở to nhìn về hướng những võ sĩ Khiết Đan mà hô vang, các võ sĩ Bạch Cam Bộ vẻ mặt bi phẫn, bỗng nhiên bị người một nhà bán đứng khiến chúng cảm thấy cái chết của bản thân mình cũng không phải anh hùng bước đường cùng, giống như vị Sở Bá Vương trong sách sử của người Hán.

Không ai nghĩ rằng con đường đánh chém cướp bóc của chúng có phải là đánh sâu vào hướng Tống cảnh hay không, không ai nghĩ rằng nếu như khi đường lui sẽ bị quân Tống cắt đứt chúng nếu như kịp thời vứt bỏ tất cả của cải, thừa dịp quân Tống vẫn chưa vây kín thì có thể tấn công ra bên ngoài. Chúng chỉ biết rằng, chúng đã bị người một nhà bán đứng, cho nên chúng cho dù đánh bại cũng không mất đi sự quang vinh, bọn chúng chưa mất đi cái sĩ diện của chiến sĩ Bạch Cam Bộ.

Bảy ngàn dũng sĩ Bạch Cam Bộ giơ đuốc, gào thét, rít gào, đạo nghĩa không cho phép chùn bước tấn công đại doanh quân Tống, bày thế trận chờ quân địch giống như những con thiêu thân lao vào lửa.

Được biết sự mất tích của con thần ưng, Tiêu Hậu lo buồn cho Da Luật Hưu Ca, chúng lo lắng người. Tiêu Hậu lo lắng ngoài sự cố con thần ưng truyền tin, hai tên Lệnh Ổn Đô Mẫn và Tường Ổn Đường sẽ không biết tiến lui thế nào, liều chết mà tấn công, nhưng một khi vào Trung Nguyên, hao binh tổn tướng trở về, mâu thuẫn giữa Đường Thị và Bạch Cam Bộ. Cho nên nghe nói con chim diều hâu kia mà Da Luật Hưu Ca nuôi dưỡng không về, vì vậy quyết định Da Luật Hưu Ca dẫn một đội kỵ binh tinh nhuệ xuống phía nam tiếp ứng.

Đương nhiên, Tiêu Hậu dù lo lắng tinh binh Bạch Cam Bộ bị giảm, nhưng cũng lại lo lắng cho tác phẩm văn xuôi của Da Luật Hưu Ca bị ảnh hưởng, thất thủ ở Trung Nguyên, nghiêm lệnh là xuống phía nam tiếp ứng ở vùng biên giới Tống cảnh, dù không có tin tức xác thật của hai tên Lệnh Ổn Đô Mẫn, thì cũng không có khả năng thâm nhập.

Đêm, sắc trời đã tối, không nhìn rõ con đường nữa, Da Luật Hưu Ca mới bảo quân đội dừng lại nghỉ ngơi ngay tại chỗ. Nơi hắn d뮧 lại chính là nơi mà hôm qua đội quân Dương Hạo đi qua. Chiến tướng có kinh nghiệm hạ trại ngay ngoài trời, chọn một địa điểm thích hợp, dễ chạy dễ phòng thủ đánh lén, thứ hai là phải thích hợp chắn gió phòng mưa. Cho nên chỉ cần quan sát nhanh một lượt, Da Luật Hưu Ca liền chọn được chỗ nghỉ giống với chỗ của La Khắc Địch đã chọn. Ba nghìn quân tinh nhuệ xuống ngựa hạ trại, lập tức phát hiện ra có dấu tích của người, hơn nữa lại có số dân rất đông.

Da Luật Hưu Ca vội vàng bật đèn lồng đi soi xét mọi nơi một lúc, từ các dấu vết trên thảo nguyên còn lưu lại, thì chúng có xe có mã nhưng không nhiều, phần lớn đều là số quân ngũ, ít nhất là trên vạn người. Hắn còn phát hiện nhân mã đã từng đóng quân ở đây mới rời khỏi nơi này không lâu, theo tốc độ của ba nghìn thiết kỵ, sáng mai khởi hành, giữa trưa mai có thể đuổi theo bọn họ.

Trên thảo nguyên có thể có bộ lạc nào di chuyển một lần mà hơn vạn người sao? Da Luật Hưu Ca lập tức nghĩ đến đội quân di dân Bắc Hán từ Tử Ngọ cốc. Từ nơi này, nếu chúng đi ra khỏi Tử Ngọ cốc là đi tới phương hướng này, lẽ nào Đạc Thứ không hoàn thành nhiệm vụ sao?

Da Luật Hưu Ca nhíu mày nhìn lên thảo nguyên, nơi này đã là Tống cảnh rồi, dù nơi này không có bóng người, cũng không có Tống binh gác. Hắn quyết định, sáng sớm ngày mai phái một số kỵ binh tiếp tục đuổi theo hướng nam, nghe ngóng tin tức của Lệnh Ổn Đô Mẫn, còn hắn sẽ dẫn đại quân đuổi theo đội quân vạn dân di chuyển Trung Nguyên, nếu chúng thực sự dời theo phương bắc, chỉ đi qua chỗ này thôi, lần này cũng không phải là chuyến vô ích.

Chủ ý đã định, Da Luật Hưu Ca lập tức dặn dò ngay, hiệu lệnh toàn quân chuẩn bị kỹ càng.

Lúc Diệp Đại Thiếu đang ôm phiền muộn lưu luyến con chim ưng diều hâu, thì hắn tuyệt đối sẽ không nghĩ tới vì mình đã bắt được chim ưng, nguyên nhân làm cho người Khiết Đan mấy chục năm chiến loạn.

Đương nhiên, hắn càng không nghĩ đến, bởi vì săn được con diều hâu này, cho hắn một màn biểu diễn đặc sắc của nửa tháng tây vực du ngoạn. Trận này chính ngọ ngày mai sẽ được biểu diễn, diễn viên là ba nghìn năm trăm dũng sĩ Khiết Đan, hơn bảy ngàn chiến mã, cùng với hơn bốn vạn quân dân di dời của Đại Tống và Bắc Hán, mà diễn viên chính là: Khiết Đan đại thích ẩn ti Da Luật Hưu Ca, khâm sai di rời dân chúng Dương Hạo Ca.

 Chương 157: Quân cờ có chí tiến thủ.

Khi trời sắp sáng, những hạt mưa rơi tí tách xuống, đợi đến khi ánh mặt trời chiếu sáng hẳn thì mưa to tầm tã.

Dương Hạo nằm ở trong hương khuê của Đường Diễm Diễm. Chiếc giường thơm tho, thực sự đây là một lần hắn ngủ ngon như vậy trong nhiều ngày nay. Do được chữa trị kịp thời, lại kịp thời hút bỏ độc tố, cho nên lúc sáng sớm Dương Hạo đã tỉnh lại, hắn mở mắt ra, thì nhìn thấy Đường Diễm Diễm đang quỳ gối bên chiếc giường nhỏ, nghiêng đầu ngủ say, liền nhanh chóng nhắm mắt lại.

Cảm giác không có động tĩnh gì, hắn mới từ từ mở mắt, Đường Diễm Diễm còn đang ngủ say, khuôn mặt nhỏ nhắn đỏ bừng, lông mi được cắt tỉa gọn gàng, ngủ rất say. Miệng nhỏ nhắn như đóa hoa, chiếc mũi xinh xinh, nàng trong lúc ngủ say không còn thấy cái bộ dáng đanh đá như mọi ngày nữa, chỉ còn cảm giác nàng rất đẹp.

Ngoài xe trời mưa to tầm tã, tiếng nước mưa rời ào ào.

Nhưng dáng vẻ ngủ ngon lành của thiếu nữ lại khiến cho người ta cảm thấy không chán ghét thiên nhiên bên ngoài nữa, Dương Hạo nhìn đại tiểu thư được nuông chiều từ bé, nhường cho mình chiếc giường nghỉ ngơi, lòng hắn có chút ấm áp.

Mưa như trút nước, trong xe hơi ẩm, Dương Hạo nhìn thấy Đường đại tiểu thư dựa vào chiếc đệm, ngồi như vậy nghỉ ngơi, hắn kéo chăn đắp cho nàng, khi vừa mới kéo chăn, lại nhớ đến hai người tuy một ở trên giường một ở dưới giường, nếu như cùng đắp một chiếc chăn thì không đủ, cũng không biết khi vị tiểu thư này khi tỉnh dậy thấy đắp chăn cùng hắn thì sẽ tức giận đến mức nào, nhưng nếu không đắp chăn thì sợ nàng sẽ nhiễm lạnh, lúc đang do dự như vậy, đột nhiên nghe thấy tiếng gõ ở cửa xe, Dương Hạo vội vàng nhắm mắt lại.”

“Chuyện gì vậy?” Đường đại tiểu thư bị tiếng ồn làm cho tỉnh giấc, thấy mấy người La Khắc Địch mặc áo tơi đứng ở trước xe, nàng trừng mắt lên hỏi.

“Đường cô nương, Dương đô lâm đã đỡ hơn chưa?” La Khắc Địch khách khí hỏi, trước mặt mỹ nữ, phần lớn người đàn ông đều sẽ trở nên nhã nhặn hơn, nhất là tướng quân có kinh nghiệm nơi chiến trường lâu năm.

“Hả…” Đường Diễm Diễm vừa mới tỉnh ngủ, nhìn thấy trong xe mình có một người đàn ông đang ngủ, nàng vội chuyển người, cúi lưng xuống nhìn sắc mặt Dương Hạo, nhẹ nó với hắn: “Này, Dương Hạo, Dương Hạo…”

Dương Hạo chậm rãi mở mắt ra, nhìn Đường Diễm Diễm, ngạc nhiên hỏi: “Đường cô nương, ta…ta sao lại ngủ ở đây, ai zô, vết thương của ta…khỏi chưa?

Đường Diễm Diễm mừng rỡ, nói: “Ngươi có thể nói chuyện được rồi sao? Xem ra ngươi không thể chết được, quả nhiên là tai họa nghìn năm. La tướng quân tìm ngươi sao?”

Dương Hạo ngồi dậy. Hắn trúng độc rắn, cơ thể không bị thương quá lớn, một khi tỉnh lại thì bình phục hẳn, Dương Hạo thấy mưa to như trút, nước mưa chảy theo áo tơi xuống bọn người La Khắc Địch, nhưng trong xe lại không thể chứa được nhiều người như vậy, liền vội hỏi: “La quân chủ, Lưu chỉ huy, Hách chỉ huy. Nếu mưa to thế này, sao dám làm phiền các ngươi…”

La Khắc Địch vui mừng nói: “Khâm sai đã tỉnh lại rồi. Chúng ta yên tâm rồi, thuốc chữa rắn quả nhiên có tác dụng. Dương đại nhân, ngươi xem, giờ mưa to tầm tã. Chúng ta đợi mưa nghỉ ngơi hay là vẫn bất chấp mưa tiến lên?”

Dương Hạo nhìn thoáng qua tấm màn che, mưa to tầm tã, nhìn ra phía ngoài, xa xa một mảnh mênh mông. Xung quanh những con ngựa có vài tên dân chúng khoác áo tơi đi lại trên bãi cỏ, giờ đa số dân chúng đã có áo tơi che mưa. Chỉ là vì mưa to không thể đốt lửa, cơm sáng chưa ăn, có vài phụ nữ và trẻ con đang ăn lương khô từ hôm qua còn lại.

Dương Hạo nhìn lên không trung, mây dày đặc, không thấy ánh mặt trời. Bèn nói: “La tướng quân, còn có lộ trình nửa ngày nữa thì đến Trục Lãng Xuyên rồi. Ta thấy nên đi tiếp tới thì tốt hơn, quân đội của chúng ta đến lều cũng không có, thì ở lại đây, dân chúng cũng chỉ có thể dầm trong mưa, mưa hôm nay cũng không biết đến khi nào mới ngớt, ngộ nhỡ mưa lâu, lại không thể nhóm lửa thổi cơm, thì càng khổ hơn, sớm xuất phát đi là tốt nhất. Không biết La tướng quân ý thế nào?”

La Khắc Địch vui vẻ nói: “Mạt tướng cũng có ý này, nếu như vậy, Lưu chỉ huy, Hách chỉ huy, các ngươi dặn dò bên dưới đi, chúng ta ngay lập tức xuất phát, nhanh chóng lên đường”.

Còn nửa ngày nữa thì đến Trục Lãng Xuyên rồi, qua cái sông kia thì tiến vào phạm vi tây bắc Chiết Thị, điều này có nghĩa là ngay lập tức đi đến thảo nguyên lớn rộng không một bóng người, hơn nữa ở nơi thảo nguyên rộng lớn cũng không có chỗ trú mưa, vì vậy mệnh lệnh được tiến hành, dân chúng cũng không một câu oán hận, lần lượt đứng dậy, du già dắt trẻ tiếp tục khởi hành.

Dương Hạo ngồi ở trong xe ngựa xa hoa của Đường Diễm Diễm, nhưng thật ta khó mà có cơ hội hưởng thụ. Ở trong xe bày rất nhiều mỹ vị. Đây là những thứ mà nhà giàu có đã chuẩn bị sẵn, cô nương này thích ăn đồ ăn vặt, nên ở đó có đầy những món điểm tâm thịt khô và mứt.

Đường Diễm Diễm lấy đến ra một cái bàn nhỏ, sau đó để cao lương mỹ vị bày lên. Dương Hạo ngồi ở trên giường, Đường Diễm Diễm quỳ đối diện, xem ra giống người tỳ nữ đang hầu hạ chủ nhân dùng bữa. Đãi ngộ như vậy, khiến Dương Hạo thấy hơi ngạc nhiên.

“Ồ, ngươi muốn uống chút gì không?” Hôm nay thái độ của Đường đại tiểu thư rất tốt, có cảm giác hơi buồn cười, đó là sự dịu dàng khó mà có được. Dường như nước mưa đã làm cho nàng hạ hỏa, dù cười nói với Dương Hạo. Nhưng Dương Hạo lại không biết sự thay đổi tâm tình của nàng, còn cho rằng đó là sự đãi ngộ chăm sóc với bệnh nhân.

Người hầu lấy ra hai chén bạch ngọc, lại lấy ra một cái bình gốm sáng như ngọc, rót hai chén rượu ngon, cười với Dương Hạo.

Màu rượu đỏ, mùi thơm của rượu xông vào mũi, thật khiến cho người ta hút hồn, Dương Hạo do dự một chút mới nói: “Cái này, ta sợ độc tố trên người chưa hết, không tiện uống rượu. Đa tạ nhã ý của cô nương”.

“Ồ, ta quên mất”. Đường Diễm Diễm nói: “Thế ngươi uống chút nước cũng được, thức ăn này dù ngươi ăn được hay không, thì cứ ăn, chớ làm ra vẻ khách khí. Nếu đói thì cũng đừng trách ta”.

“Ha ha, sẽ không như vậy đâu”. Dương Hạo cười đáp. Cầm lên một miếng thịt khô ăn, nói lời cảm tạ: “Đường cô nương, đa tạ ngươi, chẳng những cứu mạng của ta, còn cho ta chỗ giường này nghỉ ngơi, giờ lại khoản đãi như vậy, Dương Hạo thật sự vô cùng cảm kích”.

Đường Diễm Diễm nhíu mày, che miệng cười nói: “Thấy ngươi nhã nhặn nói chuyện như vậy, thật sự là không quen. Bổn cô nương cũng không làm được gì cả, ngươi không cần khách khí như vậy”.

Lúc này nghe thấy ngoài xe có tiếng nói kỳ lạ: “…”

Dương Hạo vừa đem miếng thịt khô đưa tới ngang miệng, nghe thấy âm thanh này liền ngẩn người ra: “Trong đội ngũ của chúng ta có người Nhật Bản sao?”

Đường Diễm Diễm cũng ngẩn người ra: “Người Nhật Bản sao? Không phải đó chứ?”

Nhật Bản ban đầu được gọi là Oa Quốc(người Nhật Bản theo cách gọi của người Trung Quốc thời xưa – dịch giả chú thích), một Oa sáu Quốc, sau dần dần học văn hóa Trung Quốc, hiểu được nghĩa xấu chứa đựng trong chữ Oa, thì không thấy vui mừng nữa, vì nơi này gần mặt trời nhất liền tấu trình lên Đại Đường thiên quốc lên triều tặng tên cho. Tên Nhật Bản từ đó mà ra. Dân gian lúc ấy có thói quen gọi Nhật Bản là “Nhật Bản” hoặc “Phù Tang”( theo thần thoại, ngoài biển có cây dâu lớn, tương truyền mặt trời mọc lên ở đây – dịch giả chú thích). Song Dương Hạo theo bản năng kêu lên cái tên này, Đường Diễm Diễm vẫn biết hắn nói gì.

Đương lúc hai người nói chuyện, phu xe nói câu gì, thì tên đó lại lớn tiếng kêu lên: “lang a, lang a, a sư bặc thú…”

Dương Hạo vén rèm lên xem thì thấy một tên choàng áo tơi đang đứng trong mưa, Dương Hạo thấy hắn là Bích Túc, không khỏi ngạc nhiên, vội nói: “Bích Túc, một đêm không thấy, sao ngươi nói là ra nước ngoài, nhanh lên xe đi”.

Bích Túc vui mừng, vội vàng nhảy lên xe. Dương Hạo mới sực nhớ ra trên xe có chủ, liền quay sang nhìn Đường Diễm Diễm ra vẻ xin lỗi. Đường Diễm Diễm nhướn nhướn mũi, cau mày, hừ nói: “Nhìn ta làm cái gì, bổn cô nương là người không thân cận sau? Chiếc xe này hôm nay do ngươi làm chủ, ngươi tự nhiên làm chủ đi”.

Bích Túc lên xe, cởi áo tơi ra rồi vào xe. Đường Diễm Diễm nhường sang một bên, tuy nói khoang xe không rộng lắm, nhưng nếu để hai ba người ngồi cũng không đến nỗi chật chội lắm. Bích Túc ngồi xuống, thấy trên bàn nhiều đồ ăn, nói: “Oa…một buổi trưa thật mệt…”

Dương Hạo lúc này mới nhìn thấy môi hắn bị sưng vù lên, không ngậm được môi lại, đầu lưỡi bên trong cũng sưng phồng lên, ngạc nhiên nói: “Ta cho rằng những lời ngươi nói là tiếng Nhật cơ, miệng ngươi làm sao vậy?”

Bích Túc buồn rười rượi, hoa chân múa tay vui sướng nói: “A cắt tới ốc oa, hào đều đều lý, lang hưu giới lực tất hạ a tôn…”

Dương Hạo thấy hắn chỉ vào Đường Diễm Diễm, rồi một lúc sau chỉ vào hắn, rồi lại chỉ vào chính hắn, không biết đang nói cái gì, không hiểu ra sao.

“Câm miệng, nói cái chết tiệt gì đấy, ta thay ngươi nói”. Đường Diễm Diễm mắt lạnh lùng trợn mắt với hắn, tức giận, Bích Túc liền im lặng, hắn nhìn sang Dương Hạo, chỉ chỉ Đường Diễm Diễm, ý bảo nàng nói.

Đường đại tiểu thư nghiêm nghị nói: “Lúc ngươi trúng độc ngất xỉu, ta liền hô to cứu mạng, hắn liền nhảy lại. Ta bảo hắn giúp ngươi hút nọc rắn ra, thân binh hắn có rất nhiều tài lẻ, lại còn có thuốc rắn, cho ngươi một chút, quả nhiên có hiệu quả. Nhưng ai biết được, hắn chữa được lại cho ngươi nhưng lại mang vạ vào thân, lúc ngươi đang hôn mê bất tỉnh, miệng hắn lại bị sưng lên.

Bích Túc nước mắt nước mũi nhìn xuống miệng mình, gật đầu lia lịa, tỏ ý Đường Diễm Diễm nói không sai, Dương Hạo biết độc rắn không thấy máu là không phát tác, cho dù hút sạch độc tố là sẽ không nguy hiểm nữa, nhưng, nghĩ đến bệnh của Bích Túc, Dương Hạo biết nguyên nhân miệng hắn sưng lên là do đâu.

Chính bản thân mình cũng không ngờ hút máu độc ra thì mình lại qua cơn nguy kịch, lại còn được nằm giường thơm an dưỡng, có mỹ nữ chăm sóc, nhưng Bích Túc hắn…thật là…

Dương Hạo rất cảm kích nói: “Bích Túc huynh, đa tạ ơn cứu mạng của ngươi, nếu không có ngươi cứu tính mạng của ta thì ta sẽ không còn sống nữa. Ngươi có muốn ăn chút gì không?”

Hắn ân cần đưa miếng thịt bò qua cho Bích Túc, Bích Túc lắc đầu một cách tội nghiệp, chỉ chỉ vào miệng của mình, nói: “Lang áo oa. Ốc mệt sư oa”.

Dương Hạo nghe không hiểu, tắc đầu nhìn sang Đường đại tiểu thư phiên dịch, Đường Diễm Diễm cũng không hiểu gì, Dương Hạo nghĩ một lúc, mới biết hắn muốn nói: “Dương Hạo à, ta mệt chết mất, mượn nơi nghỉ ngơi một lát”. Hắn liền hỏi lại Bích Túc, Bích Túc mừng rỡ, vội gật đầu lia lịa, Dương Hạo liền nhìn sang Đường Diễm Diễm, Đường Diễm Diễm mí mắt trĩu xuống, cắn môi, nhìn sang bên Dương Hạo, ý là do hắn quyết định.

Dương Hạo gật đầu đồng ý, Bích Túc vui mừng, liền ngồi sang một mên, nhìn hai người ăn đồ ăn.

Mưa nhỏ dần, gió cũng lặng, phía trước truyền đến một tràng hoan hô, nghe được đại khái là tiếng hô “Cầu Trục Lãng, Cầu Trục Lãng”. Xe dừng lại, Dương Hạo đang nói chuyện với Đường Diễm Diễm, nghe tiếng hoan hô, liền vui vẻ nói: “Hay làđã đến Cầu Trục Lãng?”

Nàng kéo rèm cửa sổ, thì nhìn thấy gió đã lặng, trời đã sáng dần, quay đầu lại nói với bọn Bích Túc nói: “Này, thời tiết đã như thế này, ngươi là đàn ông, còn không mau xuống xem thế nào đi?”

Bích Túc nhận cái lườm của nàng, liền chạy ba chân bốn cẳng. Dương Hạo không ngăn cản kịp, liền nói: “Đường cô nương, ta cũng muốn xuống xem”.

Đường Diễm Diễm chuyển từ giận sang mừng, liền nói: “Tốt, ta cũng không giận gì, chỉ sợ một mình ngươi trong xe vô vị. Đi, ta đưa ngươi xuống, cẩn thận chút, vết thương của ngươi chưa khỏi hẳn đâu”.

Đường Diễm Diễm mở của xe đi ra, mở ô, quay đầu lại đỡ Dương Hạo. Dương Hạo vốn muốn từ chối, nhưng thấy nàng tự nhiên thân thiện như vậy, nên chính mình cũng không thể làm kiêu. Liền đưa tay ra cho nàng đỡ xuống.

Vừa ra khỏi xe, không khí tươi mới trên thảo nguyên, Dương Hạo hít hơi thở sâu, nhìn thấy dân chúng đi dạo hướng về trước.

Cỏ ướt sũng, hai người sóng vai nhau đi, dân chúng bỏ áo tơi ra, ô hoa giấy, dưới ô là một đôi nam nữ, trai anh tuấn, nữ xinh đẹp, lững thững đi, tay áo bay nhè nhẹ, dân chúng nhìn thấy bọn họ, liền hô vang, đi theo phía sau họ.

Trục Lãng Xuyên, Trục Lãng Xuyên, Trục Lãng Xuyên là Trục Lãng Xuyên.

Cầu đó thật giống Trục Lãng Xuyên, nước gầm rít phía trên, không xa chính là thác nước chênh lệch cực đại của lòng sông với mực nước biển, sóng đập mạnh, hơi nước bay lên trên mười trượng, hơi nước đón gió thổi tới.

Cầu rộng hai trượng, trên cầu đều là ván gỗ, hai bên là dây xích quấn quanh, mỗi năm Chiết gia đều phái người tu sửa một lần, vì cầu này để mua bán lương thực, nên có rất nhiều thương nhân bỏ vốn tu sửa, cho nên đầu cầu khắc tên những người đã quyên tặng, trong đó có tên của Lý Ngọc Xương.

“Dương đại nhân, đến Cầu Trục Lãng rồi”.

Dương Hạo vừa đi đến, La Khắc Địch nghênh đón vui sướng kêu lên.

Dương Hạo cũng vui ra mặt, hắn gật đầuSức khỏe đã không có gì đáng ngại, nhìn cây cầu, Dương Hạo nói: “Cầu tuy rộng, người lại đông, mưa nên cầu trơn, bảo dân chúng đi lại cẩn thận qua cầu”.

La Khắc Địch gật đầu đồng ý, dân chúng bắt đầu đi qua cầu. Nhiều người như vậy, sắp đến trưa mới đi qua được quá nửa, phía sau còn có xe ngựa. Dương Hạo nhìn thấy Lý Quan Sầm đang đi tới, liền cười với hắn.

Lý Quang Sầm cũng vuốt cằm hỏi thăm, hắn đối với tên thanh niên này có cảm giác rất tốt, trong những đại nhân mà hắn gặp ở thảo nguyên, phần nhiều đều kiêu ngạo, mà quan lại của Trung Nguyên hoặc là khó tiếp xúc, hoặc là bọn chúng đều miệt thị người khác, nhưng vị khâm sai đại nhân họ Dương này không phải người như vậy, nhất là hắn rất nhân từ đại nghĩa, càng làm Lý Quang Sầm khâm phục, hắn đã coi thanh niên này như anh em kết nghĩa.

“Đường cô nương, cô cũng nên xe mà qua cầu trước đi. Ta là khâm sai, phải chăm sóc người ngựa xong sẽ qua”. Thấy xe ngựa của Đường Diễm Diễm đi lại, Dương Hạo tiện nói vậy.

“Được, ngươi vết độc chưa lành, cẩn thận chút nhé”. Đường Diễm Diễm nói: “Cho ngươi ô này”.

Dương Hạo cầm lấy ô, Đường Diễm Diễm cười với hắn, rồi xoay người lên xe.

Xe ngựa đi tấp nập, người thân của già trẻ trai gái đều đi bên xe, Dương Hạo dặn mọi người cẩn thận qua cầu, đột nhiên có một con ngựa đi đến, đạp nước mưa văng tung tóe, đi vọt tới đầu cầu hô to: “Dương khâm sai, không xong rồi, người Khiết Đan đuổi đến nơi rồi”.

“Cái gì?” Dương Hạo giật mình, hắn không thể nghĩ tới là người Khiết Đan đuổi theo. Đứng lên trên một hòn đá quay đầu lại nhìn, quả nhiên nhìn thấy một đội kỵ binh phi đến.

“Nhanh, nhanh lên, mau qua cầu nhanh”, có người vội hét to, một phụ nhân kêu lên, đứa trẻ thì khóc, xe ngựa bị hỏng.

“Tướng sĩ cấm quân, theo ta cản địch phía sau”.

La Khắc Địch kêu lên, ném luôn áo tơi, dù bị nước mưa dội vào người hắn cũng ném đi, chỉ mặc một chiếc áo, chộp lấy cây đại đao, liền chạy ngay về phía sau, vừa đi vừa hô to: “Cầm thương kiếm, cầm đao kích, chớp cơ hội, trảm bọn địch”.

Các quân sĩ cấm quân đều hưởng ứng. Cầm lấy thương kích chạy về phía sau, Dương Hạo mặc áo giáp của Hách Long Thành vào, kêu lên: “Hách tướng quân, mấy trăm người các ngươi, lại không có chiến mã, quyết chiến với quân địch thế nào đây?”

Hách Long Thành nhếch miệng cười: “Trên chiến trường, mỗi người đều là một quân cờ, chỉ có thắng bại toàn cục”.

Hắn nói một cách tự nhiên, nhưng ngữ khí lại lộ vẻ không hài lòng, lạnh lùng: “Khi cần vứt bỏ, thì không phải do dự. Giờ chúng ta là cái bỏ đi rồi. Khâm sai đại nhân, mấy vạn dân quân, giao cho ngươi vậy”.

Hắn múa đao, cao giọng quát: “Tướng sĩ cấm quân dũng mãnh phi thường như vậy, tây bắc chúng ta chẳng lẽ không bằng hắn sao? Theo ta giết địch, tử chiến chiến trường, xông lên!”

 Chương 158: Gãy cầu.

Sự tấn công của kỵ binh vào mấy vạn dân đang đi quả thực là một hồi ác mộng, may mắn thay phần lớn dân chúng đã qua cầu. Ác mộng bây giờ chính là sự gánh vác do La Khắc Địch và những nam nhi đang sục sôi khí thế chiến đấu.

Trận chiến xưa nay là dũng sĩ thắng, trí giả bại. Vì gặp song phương chiến đầu căn bản không kịp đối binh lực, binh chủng tiến hành theo sự phân phối hợp lý, cũng không tài nào bố trí được chiến thuật thỏa đáng nhất, nhưng thế lực lại chênh lệch nhau như vậy, người dũng cảm nhất định có thể chống lại chăng?

Huống hồ quân đuổi theo lại không phải bình thường. Bọn chúng là binh hổ sói, thống soái của chúng rút thanh kiếm ra khỏi vỏ, thể hiện tài năng của mình.

Gió gào thét bên tai, tiếng vó ngựa chạy ra trận nhanh. Thảo nguyên, ánh mắt của Da Luật Hưu Ca nhìn theo không chớp mắt, mưa to khiến cho bọn chúng truy kích thêm phần khó khăn hơn, may mắn là vết tích của mấy vạn dân đi qua không dễ bị nước mưa xóa nhòa, bọn chúng cuối cùng cũng đuổi kịp.

Nhìn về phía dân quân đã qua cầu được một nửa, Da Luật Hưu Ca vội vàng hô, bổ mạnh một đòn về phía trước, bất chấp gió mưa đi đến, gió thổi vù vù, tuy là mùa hè nhưng hắn lại lạnh thấu xương, mặt xanh mét, cổ họng lạnh nên cứng ngắc, hắn kẹp chặt bụng ngựa, đi tới, chiến mã tuy được đổi liên tục, nhưng lúc này nó cũng thở nặng nề, nhưng dù cho thế nào đi nữa, hắn vẫn đuổi đến kịp.

Hắn phải ngăn chặn sự di chuyển của đại quân, hắn còn muốn bắt sống tên kia nữa, tên đó là tên đã làm cho La Đông Nhi yêu say đắm. Hắn là con chim ưng trên bầu trời, văn thao võ lược.

Hắn không tin trên đời này có ai giỏi hơn hắn, hơn nữa còn nói về sự ái mộ của phía nữ. Cây cầu kia như đóa hoa lđn, dựa vào cái gì mà khăng khăng từ chối hắn?

Mưa là lạnh, tim hắn nóng rực lên, tai hắn văng vẳng đoạn đối thoại với lđn.

“Đại nhân, xin ngài rủ lòng thương buông tha cho ta về nước Tống được không?”

“Ở đây có gì là không được chứ? Ta là Khiết Đan đại dịch ẩn ti, là hoàng tộc. Tuy rằng chúng ta nghèo hơn nước Tống, nhưng ta đảm bảo với nàng sẽ được hưởng vinh hoa phú quý, ta thực sự thích ngươi, hơn nữa, bổn đại nhân vẫn chưa có vợ, ta có thể lấy ngươi làm phu nhân của ta”.

“Đại nhân, Đông Nhi đã gả cho người ta rồi”.

“Ha ha, Có liên quan gì tới chuyện này sao? Đàn ông trên thảo nguyên chúng ta không bằng đàn ông Trung Nguyên các ngươi sao, ta thích một người con gái, thì giống như cưỡi ngựa bắt bằng được con mồi vậy, nhất định phải khiến cho người đó thành người của mình. Còn về phần đã từng gả cho người, có quan trọng gì đâu”.

“Đại nhân, Đông Nhi sẽ không yêu ngài được đâu. Khi ta đâm chiếc thoa vào tim, thì là thời khắc trọn đời này ta sẽ là người của người ta rồi, ta không cần biết người đó là hèn mọn hay là anh hùng”.

“Nàng biết hay không, theo quy định của Trung Nguyên, người mà ai đó mang về là của người đó, chủ nhân có thể tùy ý xử lý”.

“Đại nhân…ta không sợ chết, ta có thể chết ngay bây giờ”.

“Nàng…!”

Da Luật Hưu Ca ngẩng mặt lên, nước mưa rơi vào khuôn mặt hắn, hắn ngửa mặt rít gào một lúc.

“Thật sao? Cho dù hắn hèn mọn hay là anh hùng, ta muốn bắt hắn, trói vào dây xích, làm con chó giữ nhà cho ta. Ta xem đến lúc đó, nàng có tình nguyện theo con chó đó không hay là hắn còn muốn làm tên đàn ông đầu đội trời chân đạp đất”.

Da Luật Hưu Ca thò tay vung trường kích, nước mưa văng khắp nơi, giơ trường kích lên.

“…”

Nếu như lúc này có người nhìn từ trên cao xuống, sẽ nhìn thấy thiết kỵ Khiết Đan đi tới, thế giống như một mũi thên bắn ra. Theo động tác của Da Luật Hưu Ca, tất cả các kỵ sĩ đều chuẩn bị ngựa và dây cương, nghiêm túc dừng ngựa lại ở sau trận. Các kỵ sĩ trong tay có vũ khí, cúi người đi. La Khắc Địch và hơn trăm dũng sĩ phía sau chạy như bay.

Hơn trăm dũng sĩ, thân áo vải, tay cầm cương đao, nghênh diện hướng thiết kỵ Khiết Đan.

Chúng đang tự tìm đường chết!

Chúng là một lũ bỏ đi, một đám chiến sĩ không có chí tiến thủ, sứ mệnh duy nhất là hy sinh.

Mỗi dũng sĩ Khiết Đan đều hiểu, dưới sự vọt mạnh của thiết kỵ, không thể hợp thương tự bảo vệ mình, theo sự nghênh diện toán loạn mà xông tới, chính là tự tìm đường chết. Vài tên Tống này vốn không nghĩ chiến thắng, cũng không nghĩ rằng sẽ sống mà trở về, mục đích duy nhất của chúng là kéo dài thời gian. Dũng sĩ! Người người đều thích thập tam nương, dù là địch của chúng.

Không ai hạ lệnh nhưng tất cả các binh sĩ Khiết Đan không hẹn mà cùng giơ binh đao lên, là sự chào hỏi với các võ sĩ quân Tống, cũng biểu thị sự chào hỏi một cách quang minh. Nếu lúc này vạn tên bắn lên, quân Tống xông đến thì sẽ đưa tướng sĩ tới đường chết, không ai sống sót. Nhưng chúng lại không có ý định dùng tên, chúng đường đường chính chính giết chết quân địch.

“Giết!” La Khắc Địch giơ đại đao, đi nhanh về phía trước, khoảng cách chỉ còn ba trượng. Liền đổi thế, quỳ xuống đất, theo đó trượt về phía trước. Cỏ ướt dễ trơn, thấy hắn trượt xuống, mọi người cũng nhanh chóng trượt về phía trước, lúc này thiết kỵ Khiết Đan đến liền va chạm với hắn, một tiếng nện ầm vang trên mặt đất, liền đẫm vào một cái hố ở trên cỏ, nước mưa té lên.

Một tên kỵ sĩ lấy đao định đâm vào cổ họng La Khắc Địch, nhưng binh đao của La Khắc Địchỡ được, bị mẻ một chút. La Khắc Địch quỳ người trượt về trước, người ngửa ra sau, tên kỵ sĩ kia tuy sắp đè ép hắn, nhưng lại đâm phải khoảng không, trượt qua trán hắn, một đao của La Khắc Địch lại đâm vào chân ngựa.

Hắn vốn dĩ không dùng lực bổ về phía trước, chỉ là dùng đao đâm vào đùi ngựa, ngựa vọt về phía trước, đao trượt về sau, chân ngựa bị chém phải.

Chiến mã ngã xuống, tên kỵ sĩ kia ngã xuống theo, lăn bảy tám vòng, bị một con ngựa khác dẫm phải. Kỵ sĩ khác trên lưng ngựa vội vàng ghìm ngựa né tránh, ngựa trượt một chân, ngã xuống, hắn thoát ra không kịp, một chân lập tức bị đè gãy.

Giữa tiếng kêu gào thê thảm, hắn nhìn theo một tên chân đầy bùn đất lấm lét chạy qua, đó là một tên binh sĩ quân Tống, mưa như này nếu đi ủng thì như thêm mười cân đeo vào chân. Bọn chúng chẳng những cởi áo giáp, đến ủng cũng vứt bỏ.

Trường kích vung lên, chặt đứt một cái chân ngựa, quân Tống vốn không hơi đâu lấy cái kích của tên kỵ binh ngã ngựa, lập tức lăn lộn mà vào, hai chân của ngựa bị chặt. Chúng không muốn thắng, không muốn giết người, hôm nay chỉ muốn giữ lũ chiến mã ở tại đây.

Những tên võ sĩ Khiết Đan rớt khỏi ngựa rút đao ở thắt lưng đuổi theo quân Tống, nhưng chúng không đuổi được, chúng không để ý tới đao thương đang múa may phía sau, chúng bổ phải chém trái, mục tiêu duy nhất là: chặt chân ngựa.

Cậy khỏe mạnh, Da Luật Hưu Ca đưa một kích nghênh diện đánh bọn quân Tống vọt tới, hắn khinh khỉnh nhìn quân Tống một cái, rồi thúc mã phóng về phía trước. Lúc này không hơi đâu theo cùng trận chiến, mục đích của hắn không nằm ở mấy thứ vứt đi này.

Nhưng, có một tốp vứt đi này lại xông đến, người lên trước cầm đại đao, uy phong lẫm liệt, không hề sợ hãi, chính là đông bắc Chiết phủ chỉ huy Hách Long Thành.

Da Luật Hưu Ca dựng mày, trường kích nhằm hướng cổ họng của Hắc Long Thành, không ngờ…cự ly là ba trượng, Hách Long Thành bèn cuộn người lăn trên đất, trong lúc một người một ngựa lộn xộn, hắn bèn nhảy người quỳ, vung đao giết.

Mấy trăm đồ bỏ đi ấy, mấy trăm đao thương ấy, mục tiêu đều là chân ngựa.

Dân chúng ở đầu cẵ lao như điên về phía trước. Nỗi sợ hãi không phải là đao kiếm đơn thuần, mà là đao kiếm đánh úp ngay trước mắt. Chúng giờ theo bản năng hốt hoảng xông lên.

Hai chiếc xe ngựa tắc ở đầu cầu, dân chúng chỉ có thể nhích từng bước theo phía trước, có người trượt chân, liền ngã xuống nước sông cuồn cuộn, âm thanh kêu chưa dứt đã không thấy người đâu nữa.

Dương Hạo la hét khản cả giọng, vốn không một ai nghe lệnh hắn. Tướng sĩ quân Tống dùng máu tươi và sinh mệnh làm thời gian để tận dụng cơ hội, chúng sắp bị chôn vùi ngay chỗ này, Dương Hạo rút đao xông lên.

“Phốc! Phốc!” Máu tươi bắn tung tóe, hai tên dân đang bon chen ở đằng kia bị hắn cho một đao. Một tên là thanh niên, một người là phụ nhân thập tam nương.

Mắt thấy khâm sai điên lên cầm đao giết người, dân chúng đều ngây người ra.

“Đẩy xe đi, nhường đường, không được chen chúc nhau, không thì ta sẽ giết chết bất luận tội”.

Dương Hạo lớn tiếng quát: “Nhưng nếu còn có một người dân chưa từng qua cầu, bổn khâm sai sẽ không đi nửa bước. Nghe rõ chưa? Đẩy xe đi nhường đường”. Dương Hạo bị nói vậy, già trẻ trai gái đều hợp sức đẩy xe, Dương Hạo đứng bên cạnh quan sát.

Mau chóng lên cầu theo thứ tự.

“Dương Tấn Thành, đứng lại!”

Dương Hạo thấy trong đám người có vài tên hoang mang rối loạn đi về phía trước, chúng mặt bộ quần áo quan, là nha sai từ Quảng Nguyên tới. Mấy tên nha sai này chưa từng xông pha trận mạc, tuy cũng có kinh nghiệm truy bắt, nhưng lại không thể so sánh với chiến trường, hoàn toàn là hai chuyện khác nhau, bọn chúng giờ sợ ngây người, sắc mặt trắng bệch.

“Khâm…khâm sai đại nhân…” Dương Tấn Thành đứng lại lắp bắp nói.

Dương Hạo lạnh lùng nói: “Để cho huynh đệ của ngươi đi trước, ngươi đi cuối cùng. Lại đây, lương thực không cần nữa, gỡ hết dây thừng xuống, cột vào hòn đá ở đầu cầu”.

“Khâm…khâm sai đại nhân…người…”

Dương Hạo nhìn dũng sĩ đang ngăn cản kỵ binh địch, gằn giọng quát: “ Gẫy cầu”.

Chiến sĩ quân Tống đang giao chiến với người Khiết Đan bị ngã xuống từng tên từng tên một, Dương Hạo lòng đau như cắt. Dân chúng đều đã qua cầu, lúc này mới ý thức được vấn đề nghiêm trọng thế nào, ai làm gẫy cầu? Cầu phải gẫy, bằng không tướng sĩ quân Tống sẽ hi sinh vô ích, nhưng…ai làm gẫy cầu?

Ánh mắt của Dương Hạo nhìn về hơn mười tên nha sai, nói: “Đi! Nhanh qua cầu!”

“Vâng, vâng, vâng”. Dương Tấn Thành cùng đám người như được đại xá, lập tức bổ nhào qua cầu. Dương Hạo nhìn về phía đầu cầu, cây trường dao từ đầu chí cuối chưa rơi xuống, mỉm cười, đi lại đó nhặt lấy một chiếc roi ngựa mà người ta vứt bỏ.

Cán thật dài, roi thật dài, hắn đã từ lâu chưa cầm roi ngựa.

Tướng sĩ quân Tống dường như không còn bị đuổi bắt nữa, có vài tên bị người Khiết Đan bắt. Da Luật Hưu Ca đã dẫn đại quân đánh tới đầu cầu.

Dương Hạo quay đầu nhìn Dương Tấn Thành đang đợi đám người đang bổ nhào về đầu cầu đối diện. Phần đất bên ngoài mấy chục mét có rất nhiều người đứng ở trên đầu cầu đối diện, nhìn thẳng vào hắn, ở đó có mặt Lý Quang Sầm, có Mộc Ân, có Đường Diễm Diễm, có Bích Túc, có Diệp công tử, còn có Trần Đức Huyền nữa.

Tiếng sóng ào ào, hơi nước đầy trời, ở phía sau hắn là dũng sĩ Khiết Đan như sói như hổ xông đến. Lúc nhìn thấy Đường Diễm Diễm đang chạy về, Dương Hạo vội vàng chỉ tay về phía nàng, chỉ lên trời, chỉ xuống đất, chỉ chỉ…

Hắn nghiêm túc thủ thế, hắn không hiều ngôn ngữ của người câm người điếc, chỉ là dùng vài thế có thể đủ giải thích, biểu đạt điều mình muốn nói: “Chủ ý là do ta đưa ra, trong lòng ta vốn có chuyện chưa dứt, nhưng hiện tại đã không còn quan trọng nữa rồi. Sứ mệnh của ta đã hết, nhưng ta không làm cho quân dân thất vọng. Trời đất bao la, nếu có duyên, chúng ta sẽ gặp nhau ở kiếp sau…”

Đường Diễm Diễm đứng ở bờ bên kia, mấy tên nha sai đều đã qua cầu, Dương Hạo lại một mình ở lại đầu cầu, nàng cũng hiểu hắn sẽ làm gì. Lòng nàng đột nhiên đau không nói thành lời, mắt nàng dàn dụa nước mắt.

Nàng nhìn Dương Hạo, chăm chú nhìn Dương Hạo. Lúc hắn chỉ chỉ vào bản thân, lại chỉ vào nàng, lòng nàng run lên. Nàng cố gắng lý giải những lời bộc bạch: “Kỳ thực, lòng ta cũng đã có nàng. Ta sẽ không quên nàng, mấy ngày quen nàng, cùng đồng hành trên thảo nguyên, ta rất vui. Nếu có duyên, chúng ta kiếp sau gặp lại”.

Nàng đã có tình với Dương Hạo, nhưng lúc này khi tháy Dương Hạo lúc sắp chết thổ lộ tâm tình của mình với nàng, cảm xúc của nàng dâng trào, không là chính mình nữa, Đường Diễm Diễm khóc òa.

Nàng lần đầu thích một người đàn ông, chính là người đàn ông này…sắp chết! Lòng nàng vỡ vụn. Nước mắt không kìm được tuôn trào, hai mắt đẫm lệ, thấy Dương Hạo chuyển người bổ nhào về phía thiết kỵ Khiết Đan.

 Chương 159: Tử sinh.

Ba!...

Một tiếng nổ vang trời.

Tiếng nước ào ào, quân dân bờ bên kia không nghe được; tiếng chân ầm ầm, võ sĩ Khiết Đan xông lại cũng không nghe được, nhưng trong lòng của bọn chúng không hẹn mà cùng run lên một lúc, dường như chiếc roi rút ra từ trong lòng bọn chúng.

Đó là lấy một cái dây từng cuốn lại thẳng tắp, ra sức kéo hướng dòng nước chảy. “Ba ba ba!” lại vài âm thanh của dây thừng, xèo xèo vang lên. Đá lớn hơi lay động, dây xích trên hòn đá đó cũng bị kéo nghiêng sang một bên, phát ra âm thanh ầm ầm khi ma xát với hòn đá. Lũ binh Khiết Đan xông lại phát hiện ra ý đồ của hắn, bọn chúng lập tức đều lần lượt treo đao thương lên, cầm cung rút tên.

Dương Hạo quýnh lên, chạy đến giữa dây thừng, kéo dây lại, nhưng một mình hắn đủ sức để kéo dây sao? Nhưng lúc này hắn không nghĩ gì nhiều, chỉ muốn thêm thắp vài phần sức vào đó.

Giống như gẫy cầu, hắn vội nghĩ tới lúc làm gãy cầu thì người phải ở đầu cầu, không nghĩ rằng lúc làm gãy cầu thì cần phải ở lại một người, việc ngay trước mắt, chỉ có thể là chính mình ở lại. Đương nhiên, lúc đó hắn đã nghĩ tới chuyện này, có mười phần thì tám chín phần vẫn là chọn mình ở lại.

Vì những người bên bờ bên kia vô chủ, nếu tùy ý mà chỉ định một người thì người đó có quyền không làm cầu gãy, thì sẽ bị mọi người trách móc, hoặc cầu sẽ gẫy sớm, người dân không kịp qua cầu. Hơn nữa những chiếc xe đã qua sông, nếu hắn bỏ dân chúng mà chạy sang bờ bên kia, nếu hắn đi sang bên kia trước, dân chúng tất sẽ chết vô số, số có thể qua cầu cũng không là bao.

Cho nên hắn chỉ có thể ở lại bờ bên này.

Tên bay vù vù. Dương Hạo “Ai ui” một tiếng, vai trúng một mũi tên. Dương Hạo cắn răng chịu đựng, sờ vào bả vai bị bắn trúng tên. Đúng lúc này, Mấy con ngựa phía trước cũng bị trúng mấy tên, cố gắng chịu đau, vó ngựa cào cào mặt đất, hí một tiếng dài rồi lao về phía trước, sau cơn mưa bùn đất nhão nhoét. Dưới đất chôn hòn đá tảng to chắn dòng nước. “Bùm” một tiếng, cái cột trụ bị nhổ tận gốc, chiếc cầu rớt xuống dòng sông, ngựa cố gắng hết sức cũng không được, tất cả đều rơi xuống sông.

Dương Hạo ở giữa dây thừng, mọi người ở bờ bên kia hô vang, ngựa cùng rơi xuống nước sông cuồn cuộn, vì cột trụ nặng nên bọn chúng bị kéo vào dòng nước xoáy, không thấy tăm hơi.

“Hí……” Một đàn ngựa hí vang, một chiến mã Khiết Đan đứng lên, dẫm lên những mảnh đá vỡ vụn, bọn chúng vỗ nhẹ gáy ngựa. Nhìn về bờ bên kia, chỉ còn lại một nửa trên bờ, một nửa còn lại đã bị nhấn chìm trong nước.

Trận chiến này đối với những tên chinh chiến cả đời như bọn chúng, thực sự là không có gì nguy hiểm, nhưng những cảnh tượng này quả thực chưa từng có. Nam nhi đại trượng phu, võ tướng, quan văn, bọn chúng đều cam chết mà có những cống hiến, hành động vĩ đại, sức chiến đấu của mỗi chiến sĩ Khiết Đan như nửa cây cầu kia, rung động không thôi.

Bờ bên kia, vô số dân chúng quỳ rạp xuống đất.

Dương Hạo là một viên quan tốt, La tướng quân là một binh tốt, một quan văn một quan võ, sự hy sinh của hai người này khiến chúng dân khắc cốt ghi tâm. Lập tức đứng ở bờ tây của Trục Lãng Xuyên, chúng đã từ một dân bh trơt thành dân Đại Tống chân chính. Da Luật Hưu Ca ngồi thẳng lưng trên ngựa, nhìn xuống con sông, sau đó ánh mắt chuyển sang nhìn bờ bên kia. Tiếc nuối thở dài một tiếng. Cuối cùng đám dân đã bị chúng đưa đi Tống cảnh. Cuối cùng…chưa từng giao chiến với tình địch đã trở thành ma sông.

Lúc hắn xông lại, thì thấy rõ diện mạo của Dương Hạo, vai Dương Hạo bị hắn bắn trúng một mũi tên, hắn muốn bắt sống Dương Hạo, coi Dương Hạo như con chó chết mang về trại, để cho người đàn bà kia xem người đàn ông giống con chó này còn có gì đáng để yêu, đáng để tiếc nữa không, tiếc là mình và hắn vẫn chưa từng đọ sức với nhau.

Hắn nhìn Dương Hạo, trong lòng lẩm bấm: “Thật là chưa từng đọ sức không?”

Tên Tống tự mình dẫn quân, một mình cản ở đầu cầu phía sau, nhất định hắn không phải là người Tống bình thường, tên này nhất định là quan người Tống, rất có thể hắn là người chỉ huy đội ngũ này. Đấu trí, đấu dũng trong mấy ngày này, thật là chưa từng đọ sức với nhau không?

Da Luật Hưu Ca hơi chút khó chịu, tên đó không những đã từng đọ sức với hắn, hơn nữa còn đọ sức với Tiêu Hậu, với mười mấy vạn đại quân Khiết Đan, hắn đã thắng, tuy hắn chết, nhưng kết quả vẫn là: Hắn đã thắng!

Có rất nhiều dân chúng bên bờ bên kia khóc lóc, với cự ly gần như vậy, nếu bị thiên hạ bắn tên, nhất định sẽ chết chắc một vài người Tống, nhưng…lúc này, còn có ý nghĩa gì nữa đâu. Cầu đã gẫy, hắn còn cần xuất đao sao? Lưỡi đao được cho vào vỏ đao “Keng” một tiếng, Da Luật Hưu Ca thở dài một tiếng rồi cưỡi ngựa đi.

Đúng lúc đó, hắn nghe thấy từng đợt hô hoán…không, không phải hô hoán, mà mà tiếng hoan hô, từng đợt hô liên tiếp, giống như sóng rít gào. Da Luật Hưu Ca quay đầu nhìn lại, chỉ thấy vô số dân chúng bên bờ bên kia nhảy nhót vui sướng, không hiểu vì sao người Tống lại hoan hô như vậy.

Lúc này có một binh lính thuộc hạ đứng ở trên bờ sông hô vang, Da Luật Hưu Ca phi ngựa trở về, nhìn về giữa sông, không khỏi ngạc nhiên.

Một tên, cầm lấy chiếc dây thừng, từng bước một đi lên từ giữa sông, mũi tên ở vai hắn không biết là do va chạm hay là do nước sông đập vào, đã không còn thấy vết tích gì nữa, một chút máu tươi ở vai rỉ ra. Hắn chui ra từ dưới sông lên. Hắn đi lên cầu vô cùng khó khăn.

Da Luật Hưu Ca nửa muốn cong cung nửa không, võ sĩ Khiết Đan đều nhìn thống soái của bọn chúng, lão bách tính ở bên bờ bên kia cùng lo lắng.

Đường Diễm Diễm khóc sướt mướt khi thấy Dương Hạo từ đáy nước đi lên, vừa cười vừa nhảy múa, lúc này chú ý tới động tĩnh bên bờ bên kia. Không khỏi hồn phi phách tán, đứng ở trên bờ chỉ là một âm thanh hướng về phía Dương Hạo.

Dương Hạo lúc này như đứng ở mặt cầu đang rung kịch liệt, nó rung chuyển khiến người ta nhìn không rõ, nhưng hắn vất vả lắm mới đứng vững trên cầu, lúc này nếu như không tập trung tinh thần thì không thể đứng thẳng được, nào có thời gian đâu mà chú ý người khác khóc la thế nào.

Nếu như mưa dầm liên miên mấy ngày thì cung tên và dây cung bị ẩm, ảnh hưởng tới việc sử dụng nó.

Nhưng cung tiễn đã được che đậy cẩn thận, với cả chỉ bị một trận mưa nên ảnh hưởng cũng không lớn, nên cung tên vẫn có thể sử dụng bình thường.

Dây cung kéo ra, nếu kéo căng thì cung sẽ cong hình bán nguyệt. Da Luật Hưu Ca cầm cung trong tay nhắm trúng ngực của Dương Hạo.

Bờ bên kia yên tĩnh trở lại, sau một lúc thì phát ra những tiếng gào thét về phía Da Luật Hưu Ca, hắn không để ý, trong mắt hắn bây giờ chỉ có một mũi tên, trong tim hắn chỉ có một người. Tay giờ chỉ cần buông lỏng một chút, thì cái mạng người ở trên cầu kia sẽ chết hẳn, mặc dù nước mưa, hướng gió đều ảnh hưởng tới độ chuẩn xác, nhưng Da Luật Hưu Ca vẫn rất tin tưởng sẽ ngắm bắn xuyên tim Dương Hạo, dồn hắn vào chỗ chết.

Người bên bờ bên kia không la hét nữa, các binh tướng thuộc hạ của Da Luật Hưu Ca cũng không hò hét nữa, chỉ có tiếng nước ầm ầm chảy từ thác xuống. Người trên chiếc cầu gãy cũng không quay đầu lại, còn đang cố gắng leo từng bước lên.

Da Luật Hưu Ca nhìn thấy hắn bị rơi chiếc ủng, chân trần đạp lên mặt cầu, đi từng bước một lên bờ. Mưa phùn bám trên cung, tên của hắn, nhiều hạt mưa phùn ngưng tụ lại thành giọt nước mưa, long lanh giống như nước mắt của người phụ nữ.

Cung vẫn căng, ít ai có thể giữ cái tư thế cầm cung bất động lâu như vậy, nhưng Da Luật Hưu Ca lại làm được. Tay hắn vững vàng cầm cung.

Lúc này đây, đột nhiên váo vài tên binh sĩ quân Tống không hẹn mà cùng nhảy xuống đầu cầu, tay nắm tay, cố gắng kéo Dương Hạo lên. Cầu gãy bị nghiêng, đầu Dương Hạo còn ở bên ngoài, Da Luật Hưu Ca vẫn nhắm bắn trúng hắn. Nhưng hắn thấy hoàn cảnh này không khỏi giật mình, lập tức cất tiếng cười to: người đàn bà mà hắn thích, người đàn ông bị hắn nhìn, quả nhiên sẽ là đối thủ của hắn. Trong tiếng cười ấy, hắn cài cung vào lưng, mũi tên bị hắn ném đi.

“Đi!” Da Luật Hưu Ca không chần chừ. Nói rồi thúc ngựa, phi về hướng thảo nguyên. Ba nghìn thiết kỵ đi theo hắn, binh mã bờ bên kia vui mừng.

Dương Hạo trèo đến đầu cầu, ngẩng đầu nhìn. Có vô số bàn tay đưa về phía hắn, Dương Hạo giơ tay ra, không biết là nắm được vào bàn tay của ai. Hai chân hắn vừa chạm đất, thì tiếng hô vang lại nổi lên. Có vô số người ôm lấy hắn, Dương Hạo thậm chí không nhớ mặt bọn họ, chỉ thấy họ ôm mình rất chặt, cảm thấy sự vui mừng của họ, vì vậy cũng ôm chặt lấy họ.

“Ô, tóc này, này ngực này, này sống lưng này…”

Bên tai hắn là một tiếng gọi mảnh mai, Dương Hạo chuyển người thì thấy, người đó tiếng cười hòa lẫn trong nước mắt, đó chẳng phải là con cọp mẹ…Đường Diễm Diễm sao?

 Chương 160: Vạn tuế.

Ở đây vẫn là một thảo nguyên. Dù nó có đổi thay nhanh chóng, nhưng nó vẫn để lại cho người ta một cảm giác, đã đến nơi này, thì sẽ có cảm giác mê man thay đổi trong chớp mắt, mà cảm giác đó rất thật. Cảm giác nhà là gì, chính là sự yên tĩnh.

Tất cả mọi người đều tụ tập trên đồng bằng. Dương Hạo cưỡi ngựa. Dước sự bảo vệ của binh sĩ và đám người. Đang đi, tự nhiên dân chúng đứng lại. Trước mặt là một sườn núi cao.

Hắn biết, âm thanh của hắn không thể khiến cho mỗi người khó nghe, nhưng vẫn âm thanh khàn khàn ấy. Cố gắng đem hết sức lực còn lại hô vang về phía dân chúng: “Các đồng hương, ở đây, chúng ta an toàn rồi. Các ngươi nhớ cho rõ. Từ hôm nay trở đi, các ngươi là người Tống.

Giọng nói của hắn có phần nghẹn ngào: “La quân chủ, Lưu chỉ huy sứ, Hách sai sứ. Đã dẫn ba nghìn năm trăm những tướng sĩ quân Tống khí khái, dùng tính mạng mình, đổi lấy cơ hội sống sót cho chúng ta”.

Hắn giật đầu ngựa, hướng nó về hướng đông, nhẹ nhàng tiến lên vài bước. Giật dây cương ngựa, đứng lặng yên. Những dân chúng sống sót sau trận tai nạn dìu già dắt trẻ không nói lời nào, đi theo về hướng đông.

Mưa bụi bay theo gió nhè nhẹ ở phía trước chỗ bọn chúng đứng, nhưng phương hướng mà bọn chúng đi. Mưa đã ngừng. Phía đông mặt trời đã ló ra, phía tây vẫn còn mưa. Chỗ sông, chân trời, một chiếc cầu vồng vắt qua. Chiếc cầu vồng ấy có phải là con đường mà các anh hùng khí khái đang yên nghỉ không?

Dương Hạo cảm thấy buồn, thở dài, lấy lại tinh thần nói: “Mọi người nghỉ chút đi, sau đó tiếp tục lên đường. Lý Ngọc Xương Lý viên ngoại đã nhanh chóng về trước. Tin tức của chúng ta đến đã bẩm báo cho Phủ châu Đại tướng quân biết. Chiết đại tướng quân Phủ châu sẽ nhanh chóng phái người đến tiếp ứng cho mọi người, dàn xếp cho hết thảy mọi người. Từ nay về sau ở đây, chính là quê hương của các ngươi”.

Dân chúng yên lặng, sau đó có tiếng hoan hô: Không bao giờ phải lo lắng sợ hãi nữa, sẽ không bao giờ bị lưu lạc nữa. Dàn xếp xong, lũ tiểu dân này không mong gì nhiều, chỉ mong có thể sống cuộc sống thái bình mà thôi, nhưng những ngày này, đã trải qua quá nhiều sự sinh tử và đẫm máu. Giờ, mãi đến giờ, cuối cùng đã an toàn rồi. Đã cảm nhận được không khí hiện tại như mùi vị của sự thái bình và yên tĩnh. Tiếng cười của dân chúng có thể bay cao, mỗi người dùng mỗi cách riêng để biểu thị sự vui mừng, sự may mắn khi biết chính mình còn sống sót.

Trong đám dân chúng, tự nhiên có vài người quỳ rạp xuống, hô vang những tiếng hô từ đáy lòng về phía Dương Hạo: “Vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế”.

Vài người làm vậy nên mọi người đều làm theo, những người xung quanh thấy đám người này như vậy cũng quỳ rạp xuống hướng Dương Hạo. Dáng vóc tiều tụy của chúng vẫn thể hiện được lòng biết ơn vô hạn: “Vạn tuế, vạn tuế”. Ban đầu chỉ là một nhóm người quỳ rạp, rồi một lúc sau, cả một đám đông nghìn nghịt đều hưởng ứng theo, đều quỳ theo xuống.

Trong số đó có người không biết vị đại nhân đó tên là gì, có nhiều người không biết xưng hô với vị quan này là gì, nhưng chúng đều biết chính vị đại nhân này đã đơn thương độc mã cứu một đứa trẻ mang bệnh giữa quân trận hai bên. Bọn chúng cũng biết chính vị này là một đại nhân quan văn không giỏi võ nghệ đã cùng các võ tướng ở lại bờ bên kia cuối cùng. Hắn từ bỏ hy vọng sống của chính mình, làm gẫy cái cầu kia. Bọn chúng cũng đều biết, chính con người trên ngựa này đã đưa bọn chúng từ cõi chết đi ra, cho chúng một sinh mạng mới.

“Vạn tuế, vạn tuế, vạn tuế”.

Không có từ nào ngoài những từ này, chúng chỉ là dùng những ngôn ngữ đơn giản biểu thị sự vui sướng và cảm kích. Lúc đầu có phần lộn xộn, rồi rất nhanh đã là vạn dân chúng thống nhất nói một từ. Âm thanh ngắn gọn vang đến trời xanh, vang khắp ruộng đồng mênh mông. Ngay cả mưa phía trước dường như cũng phải giật mình.

Mưa, ngớt rồi.

Vào lúc những âm thanh vạn tuế vang lên, Dương Hạo không còn nghe được.

Người quỳ xuống càng ngày càng nhiều, âm thanh vạn tuế ngày một vang dội. Ban đầu Dương Hạo nghe rõ, về sau thì quá sợ hãi vì âm thanh quá lớn, nhưng những âm thanh nghe được chỉ là mấy người phía trước, vì họ không ngừng hô, đợi đến khi phía sau đều quỳ xuống và hô vang thì không tài nào ngừng hô được nữa.

Phóng tầm mắt nhìn, toàn bộ bình nguyên đều là người quỳ rạp. Trong đám người đó chỉ có vài người còn đứng. Lý Quang, Diệp Đại Thiếu, Đường Diễm Diễm, Bích Túc và những người nhà của bọn chúng. Trình Đức Huyền lẳng lặng đứng dưới sườn núi, không mừng không vui, không chút biểu hiện.

Đột nhiên, Dương Hạo quay người, chạy hai bước về hướng đông nam, vén áo bào lên, nhìn về phía phủ Khai Phong mà quỳ rạp xuống.

Vô số lão bách tính ở xung quanh hoan hô, hắn khấu đầu hô: “Vạn, vạn vạn tuế, vạn tuế, vạn tuế, vạn tuế. Ngô Hoàng vạn tuế, Ngô Hoàng vạn tuế…”

Thấy Dương Hạo quỳ xuống, âm thanh vô vang của dân chúng cũng ngừng lại. Đám dân chúng ở gần nghe rõ Dương Hạo hô, lập tức khấu đầu theo và hô: “Vạn tuế, vạn tuế, Ngô Hoàng vạn tuế”.

Khẩu hiệu hoan hô mới từ chỗ Dương Hạo nhanh chóng lan truyền ra, trở thành âm thanh hô của hàng vạn dân. Tướng sĩ quân Tống sau Dương Hạo lần lượt quỳ xuống theo. Mấy vạn quân dân đi theo Dương Hạo đồng loạt hô to: “Ngô Hoàng tuế, Ngô Hoàng vạn tuế”.

Đường Diễm Diễm lấy ra một chiếc khăn tay nhỏ rất thục nữ, định lau mặt dơ bẩn, lại thu vào. Nàng khom lưng, kéo lấy vạt áo của người quỳ phía trước, rồi từ từ quỳ xuống. Ánh mắt nhìn về phía Dương Hạo, ngập tràn sự khâm phục.

Quỳ phía trước là Bích Túc, thấy chiếc áo cà sa của mình bị Đường Diễm Diễm lấy làm chiếc đệm quỳ chân. Cao tăng Bích Túc hơi chút khó chịu. Lý Quang nhìn Dương Hạo, ánh mắt hiện lên sự tán thưởng. Hắn cười cười, có ý với bảo các bộ hạ đứng xung quanh cùng quỳ xuống.

Trình Đức Huyền ngây ra. Mãi đến khi hắn phát hiện ra toàn bộ cách đồng bát ngát chỉ còn một mình hắn đứng chỏng trơ. Lúc này mới quỳ ngay xuống. Khấu đầu, hô to: “Vạn tuế, vạn tuế, vạn vạn tuế”.

Vừa vào phạm vi thế lực Chiết thị, Dương Hạo mới phát hiện ở đây khác xa với Quảng Nguyên. Ở đây vẫn có thảo nguyên và đất đai rộng lớn, nhưng ở đây nhiều non nhiều nước. Núi là những núi nguy hiểm, nước là nước độc. Thôn trang ở đây nhỏ, phần lớn đều là thành lũy hoặc sơn trại sống kiểu bộ tộc. Hoặc dựa vào núi vào nước, đều là những chỗ hiểm yếu.

Thành ở đây xây bằng đất, núi đá, có chỗ xây bằng đá, nhưng không nhiều, thành lũy sơn trại trong khu Chiết phủ có xây bằng đá, còn lại bên ngoài khu đó thì toàn xây bằng đất. Nhưng loại đất này cực kỳ chắc chắn, nó cứng và rắn.

Thấy đội ngũ của Dương Hạo không có cờ hiệu, quần áo rách nát đi theo một đoàn đến. Thành lũy sơn trại trên đường phát ra tiếng kêu. Tất cả phụ nữ trẻ em đều trốn vào thành lũy. Những cánh cửa to, những nơi hiểm yếu, những tên cầm mâu cầm thương đi qua đi lại. Ở đây, vì hằng năm gặp những bộ lạc du mục Khiết Đan phương bắc và bộ lạc tây bắc. Thậm chí còn có sự đánh úp bộ lạc. Dường như mỗi người thanh niên ở đây đều được huấn luyện có tố chất của chiến sĩ. Chúng có cách riêng của mình để ứng phó với quân đội.

Dương Hạo vốn không muốn đi quấy rầy dân trong làng, nhưng lương thảo còn không nhiều, phần lớn đều đã bị rơi xuống cầu. Mặc dù đại tướng quân Phủ châu một khi biết tin, sẽ mau chóng phái người đến nghênh đón. Nhưng nhiều người như vậy làm sao có thể cả ngày không vào. Đại quân nhân mã đến chiều tối ngày thứ hai, những lương thực mang theo đã thiếu. Lúc này đã là hoàng hôn, thấy phía trước có một tòa thành lũy cao to dựa vào núi. Ánh mặt trời đã bị núi chắn, chiếu chênh chếch vào thành lũy dựa vào núi đó. Đội ngũ dừng lại, tới cửa xin viện trợ. Trong thành sớm đã có sự chuẩn bị, nhiều tráng đinh sau khi giấu mũi tên, giả vờ như không có động tĩnh gì với đội quân này. Dương Hạo liền giơ hai tay, một mình tiến về phía trước, ngửa mặt trông lên, chỉ thấy một tấm biển treo cao trên cửa thành, phía trên có ghi ba chữ mơ hồ “Mục Kha Trại”.

Dương Hạo vừa nhìn lên thì có một mũi tên bay vèo từ trên trại xuống. Bắn vào mũi ủng của hắn. Trên thành vọng ra một âm thanh: “Còn tiến về trước một bước. Còn dám đi tới. Bắn”.

Dương Hạo ngửa đầu, chắp tay về phía trước, cao giọng nói: “Bổn quan là khâm sai đặc sứ Đại Tống Dương Hạo nhận nhiệm vụ di dời dân. Dẫn bốn vạn dân Bắc Hán di dời tới tây bắc. Trên đường đi qua nơi này. Vì lương thảo hết, cần viện trợ gấp. Không biết phía trên vị nào là trại chủ, xin hãy đáp lời”.

Dương Hạo đứng một mình ở phía trước. Trên trại có một người đi ra. Một thiếu niên khoảng mười bảy mười tám tuổi. Anh dũng hơn người, vô cùng tuấn tú, người mặc một bộ quần áo xám, cầm cung đeo kiếm, uy phong lẫm liệt, hắn đứng ở đầu thành, một chân đạp lên tên bắn. Trên cung là một mũi tên, lạnh lùng nhìn Dương Hạo: “Ngươi…là khâm sai Đại Tống?”

 Chương 161: Say rượu.

Dương Hạo cao giọng nói: "Chính là bản quan."

Thiếu niên ở trên trại ung dung cười, lớn tiếng cười nào nói: "Khâm sai triều đình? Quan viên triều đình đến đây chúng ta cũng đã từng gặp một số, nhưng không phải là khâm sai. Khâm sai có bộ dạng rách nát như ngươi chúng ta cũng chưa từng gặp. Vùng này không yên ổn, luôn có những kẻ ngu dốt muốn đến đánh cướp nhà cửa, giả mạo nạn dân lừa gạt trại môn cũng có, giả mạo quan binh đến cướp cũng có, các ngươi nhiều người như vậy, ai biết được các ngươi rốt cuộc là ai."

Dương Hạo chắp tay nói: "Vị tráng sĩ này, xin mời. Bản quan có Tiết - Việt khâm sai, nếu như quý trại chủ không tin thì có thể sai một người đến kiểm tra."

Người trong trại cười lớn: "Ngươi, tên hán tử này nói chuyện thật thú vị, cái gì mà Tiết - Việt khâm sai, chúng ta là dân thường sao có thể nhận ra mấy thứ đó chứ.

Một quân sĩ đằng sau Dương Hạo phẫn nộ quát: "Sứ giả khâm sai Đại Tống ở đây, đám các ngươi còn không chịu ra nghênh đón, đây là miệt thị triều đình, không sợ mất đầu sao?"

Người trên trại đó hoàn toàn không để tâm, chỉ cười khẩy nói: "Ngươi doạ cái gì? Ngươi dám tiến thêm một bước nữa thử xem đầu của ta rơi hay một kiếm đâm xuyên tim ngươi?"

Thứ người này nhặt lên là một chiếc cung săn, nhưng nhìn thấy hắn đang áp sát mũi nhọn vào phía trước người Dương Hạo, câu nói này không phải là lời nói dối, người quân sĩ đó quả thật không dám bước lên trước để chết oan uổng. Địa giới Phủ Châu từ mấy trăm năm trước đã nằm dưới sự thống trị của Chiết Thị, dân chúng ở đây tuy biết Chiết Thị đã quy thuận triều đình Đại Tống, nhưng trong lòng chỉ biết đến Triết đại tướng quân, ai mà để ý khâm sai hay là ai."

Huống hồ những năm gần đây, triều đình mà Phủ Châu đã từng quy phục cũng nhiều rồi, Hậu Đường, Hậu Tấn, Hậu Chu, Hậu Hán, Đại Tống, ai mạnh hơn thì quy phục kẻ đó, chuyện này đã trở thành chuyện bình thường như cơm bữa rồi. Mười năm trước, đại tướng quân Triết Đức quân phạt Bắc Hán, chiếm lĩnh Sa Cốc Nham, chém đầu năm trăm cấp làm lễ tấn kiến, sẵn sáng góp sức cho Đại Tống.

Khi hắn vào triều gặp quân vương, đương kim Đại Tống gia đã hậu đãi ban tặng cho hắn, cũng tại điện Kim Loan chính miệng đã hứa: "Con cháu của ngươi sau sẽ được cai quản các việc của Phủ Châu."

Lời hứa này của Triệu Khuông Dận có nghĩa là gì? Chính là nói Chiết Thị Phủ Châu đời đời kiếp kiếp có thể giữ và cai quản mảnh đất này, Chiết đại tướng quân trên ngựa là người đứng đầu phủ võ tướng, xuống ngựa là đứng đầu phủ quan văn, võ văn đều nắm cả, có quyền tự điều động binh mã, có quyền tự định đoạt phú thuế, binh quy về sự điều khiển của hắn, độc giữa vùng Tây Bắc này!

Việc này chính là quan gia Đại Tống chính thức thừa nhận địa vị phiên trấn của Chiết Thị Phủ Châu.

Cho nên những dân chúng thô lỗ bạo ngược phía Tây Bắc này sẽ không để tâm đến mấy câu doạ dẫm của Tống binh.

Bích Túc thấy dân chúng trong trại quá cảnh giác, không chịu tin những lời Dương Hạo nói, trong đội quân có rất nhiều phụ nữ và trẻ nhỏ không thể không nghỉ ngơi và ăn uống, hắn nhìn chiếc áo cà sa trên người mình chợt nghĩ đến chuyện Dương Hạo lúc trước cầm áo cà sa xông lên trận, hắn thầm nghĩ sao mình không thử làm một đại anh hùng, bây gi thiên hạ phần lớn là thờ phụng Bồ Tát, mình sao không thử một phen làm đạo cao tăng, nếu có thể bảo dân chúng trên trại mở cửa, thì mình sẽ giống như một đại anh hùng xoay chuyển dông tố.

Nghĩ đến đây Bích Túc như mở cờ trong bụng, hắn vội vàng chỉnh lại trang phục, bước dài lên phía trước, một tay giơ lên tuyên một tiếng Phật hiệu, nghiêm trang nói: "A di đà phật..., vị tiểu thí chủ trên trại xin nghe ta nói, vị Dương thí chủ này đích thực là khâm sai triều đình, vì bị người Khiết Đan truy sát, cho nên mới rách rưới như thế này, người xuất gia không biết nói dối. Ngài hãy mở cửa ra đi, có thể tiếp đón khâm sai là sự vinh hạnh của thí chủ. Tiểu thí chủ chớ bỏ lỡ, mau đi tìm đại nhân nhà thí chủ ra đây, a di..."

Bích Túc hí hửng nói rồi bước lên trước, nhưng chỉ nghe thấy một tiếng "Phụt". Lại là một mũi tên bay tới, mũi tên bay từ trên xuống dưới, Bích Túc chỉ cảm thấy hoa mắt, mũi tên đó như đi sượt qua sống mũi, đang đâm xuống đất giữa hai chân hắn, Bích Túc dùng đối mắt chọi gà nhìn chằm chằm vào mũi tên ở dưới chân, cảm thấy kinh hãi đến mức mồ hôi lạnh toát ra đầm đìa, may mà miệng của hắn đã tiêu sưng rồi, nếu không mũi tên đó chắc đã cắm xuyên qua chỗ môi sưng của hắn.

Bích Túc ngẩng đầu đang chửi lớn, thì đột nhiên tỉnh ra, nhớ rằng đằng sau đang có vô số dân chúng đang nhìn, mình lúc này đang giả làm cao tăng đại đức. Bích Túc liền nén giận, làm động tác chấn tĩnh, mỉm cười nói: "Tiểu thí chủ, hãy dập cơn tức. Lời của bần tăng không tin thì thôi. Nếu thí chủ rộng lòng mở cửa thì những ngày sau Chiết đại tướng quân tất sẽ có ban thưởng. Thực ra ngài không mở cửa cho chúng ta vào cũng không sao, chỉ là mất đi một số lương thực mà thôi."

"Còn muốn bước đến?" Thiếu niên trên trại cười khẩy, nhìn thấy hoà thượng tóc ngắn còn bước lên phía trước, lại giơ mũi tên ra, nhắm thẳng bắn xuống đất phía trước chân hắn, Bích Túc nhớ đến uy phong ngày đó của Dương Hạo, làm sao có thể tỏ ra yếu thế được, hắn trầm giọng xuống, từ từ bước lên phía trước, nói: "Tiểu thí chủ, bần tăng là người xuất gia, tay không một tấc sắt, lẽ nào ngài cũng không tin sao."

Lời vẫn chưa nói xong thì Bích Túc kêu thảm lên một tiếng. Thiếu niên trên trại lại bắn ra một mũi tên, thiếu niên này cũng lo lắng những người dưới trại kia thật sự là di dân Bắc Hán, vạn nhất làm thương người thì dù sao cũng sẽ bị trừng phạt, hắn chỉ muốn ngăn cản họ không tiến gần thôi, phòng ngừa họ xong lên cửa, nhưng thiếu niên tính tình như Thập Tam Nương này (Thập Tam Nương là một nữ tử cổ đại, dũng mãnh phi thường, chuyên bắt cường đạo) khó mà tránh khỏi có chút khoe khoang, mũi tên này quả thật là rất nguy hiểm.

Giầy của Bích Túc sớm đã bị rách ra, đầu ngón chân cái lòi ra ngoài, thiếu niên trên trại đã tính toán sai lầm, mũi tên này đã bắn sượt qua giầy hắn, lập tức ngón chân cái bị lột một mảng thịt ra.

Mười đầu ngón chân liền tim, đau đến nỗi Bích Túc thu cả người lại mà ôm lấy chân, miệng chứi lớn: "Ai ya ya, ngươi...cá tên con ở nuôi, dám bắn vào chân ta, đau chết mất. Dương Hạo, khâm sai, đại ca của ta...ngươi phải thay ta báo thù! Chúng ta đừng khách khí với họ nữa, chúng chỉ là một đám tráng dân hèn mọn, có bản lĩnh gì chứ, chúng ta có binh, đánh thẳng vào, đánh thẳng vào, lão nạp sẽ bắt con thỏ nhà ngươi rồi chặt chân, móc mắt...!ai ya..."

Thiếu niên trên trại nghe hắn chửi khó nghe như vậy cũng nhức lỗ tai, sắc mặt lạnh xuống, tay đưa ra sau lấy một mũi tên đưa lên cung, lạnh lùng quát: "Tên hoà thượng giả kia, ngươi thì niệm kinh gì cơ chứ, đến đến đây, lại niệm một câu nghe thử."

"Tên tiểu súc sinh kia không biết trời cao đất dày, bản đại soái..." Bích Túc hung hăng ngẩng đầu lên, thấy cung tên đang nhằm thẳng mặt mình, ánh mắt thiếu niên đầy sát khí, lập tức cười khan, đổi giọng nói: "A di đà phật, bần tăng đã thất thố, thiện tai thiện tai."

Đúng vào lúc này thì Đường Diễm Diễn từ phía sau chạy tới, xe của nàng chạy ở đoạn trung hậu, chân núi này đường rất khó đi, người ngựa lại nhiều, nàng đợi không chịu đường liền bỏ xe lại đi bộ tới, thấy phía trước trại Mục Kha có Dương Hạo đang đứng dưới, trên người còn đang cắm một mũi tên, vội vàng chạy tới nói: "Dương Hạo...đại ca, xảy ra chuyện gì vậy?"

Dương Hạo nhìn thấy nàng, sợ người đứng ở phía trước cửa nhiều quá, người thiếu niên kia càng căng thẳng, vội vàng quay người nói: "Ta đang muốn vào trại mượn lương thực, muội lùi xuống đi, tránh để họ bắn tên."

"Mượn lương sao? Chỉ là mượn lương thôi mà, tại sao lại thành ra như thế này?" Đường Diễm Diễm kinh ngạc nhìn Bích Túc bên cạnh, chỉ thấy Bích Túc đứng ôm chân giống như một con khỉ lớn, ở chỗ đó, trên đầu ngón chân còn đang có máu chảy ra, Đường Diễm Diễm không hiểu gì ngẩng đầu lên nói: "Mục gia tỷ tỷ, tại sao lại xung đột với khâm sai Đại Tống và nhưng dân chúng quan binh vậy?"

Thiếu niên trên trại kinh ngạc nói: "Đường tiểu muội, là muội sao, muội...sao lại lẫn lộn với bọn chúng?"

Dương Hạo kinh ngạc hỏi: "Đường cô nương...muội và ả ta...quen nhau?"

Bích Túc nước mắt lưng trọng nói: "Đường cô nương...cô nương nói ả...là đàn bà?"

Sau khi Đường Diễm Diễm nói rõ tình hình với "thiếu niên" trên trại, thì dân tráng bắt đầu trừ bỏ hoài nghi. "Thiếu niên" trên trại và Đường Diễm Diễm đối đáp vài câu, rồi nói: "Tiểu muội đợi chút." Liền quay lưng lại.

Đường Diễm Diễm quay đầu nói với Dương Hạo: "Các sơn trại phía dưới Phủ Châu đều là nửa dân nửa binh. Các trại chủ đều là nửa dân nửa quan, đều trực thuộc Chiết đại tướng quân. Đường gia muội làm ăn rất lớn, cũng đều quen biết với các trại chủ. Mục Kha trại ở đây là do hai tộc người lớn Mục và Kha hợp lại thành, người lúc nãy là con gái, tên là Mục Thanh Tuyền, là con gái của Mục lão trại chủ, là bạn rất tốt của muội từ trước đến nay. Cô ấy có bốn huynh trưởng, ba tam huynh đệ, một tiểu đệ còn nhỏ, ngoài ra đều làm việc dưới sự chỉ huy của Chiết đại tướng quân..."

Lúc này cánh cửa bị đóng chặt đã được mở ra, chỉ thấy mấy dân tráng trong trại đang đặt những tảng đá ở cánh cửa sang hai bên, hai hàng dân tráng cầm thương đứng xếp dọc bên trong. Một đôi thanh niên bước từng bước lớn ra, hai người đều mặc trang phục ngắn, trang sức có chút giống thợ săn, một nam tử lông mày rậm đen như mực, nữ tử cải trang nam đứng bên cạnh giống như Mục Thanh Tuyền mà Đường Diễm Diễm đã nói.

Hai người bước ra cổng, nam tử lông mày dày lập tức đi về phía Dương Hạo, chắp tay thi lễ nói: "Thảo dân Kha Trấn Ác đã từng gặp khâm sai đại nhân."

Dương Hạo ngạc nhiên, nói: "Kha Trấn Ác!"

Hán tử thanh niên kinh ngạc nói: "Đúng vậy, khâm sai đại nhân...ngài nhận ra ta sao?"

"Không nhận ra, chỉ là thấy cái tên này rất có uy lực, bản quan...điều này...ha ha ha..."

Kha Trấn Ác cười, thi lễ nói: "Lúc nãy không biết thân phận thực sự của đại nhân, phu nhân ta đã mạo phạm đến đại nhân, xin thứ tội."

Dương Hạo thấy người thanh niên này ngũ quan ngay ngắn chỉnh tề, lông mày rậm mắt to, chỉ cảm thấy bộ dạng này quả thực là chà đạp lên cái tên hay như con dơi bay trên trời Kha Trấn Ác. Lúc này nử tử Thập Tam Nương mặc trang phục nam ở bên cạnh không để ý tới chắp tay thi lễ mà tuỳ tiện nói: "Dương khâm sai, thảo dân đã mạo phạm rồi." Nói xong thì hai mắt trừng trừng lên nhìn Bích Túc ở cạnh đó.

Vị đại cô nương này có chút trung tính, lông mi dài, tóc mai lất phất, tay dài chân dài, đầy sức sống, trông giống như một con báo cái tiềm ẩn sức mạnh, nhưng đôi mắt thì vừa đen vừa sáng, lông mi dài cong vút, lúc trừng mắt lên lại rất có mùi vị đàn bà.

Dương Hạo nghe thấy Kha Trấn Ác gọi đại cô nương đầy dũng mãnh nam nhi này là phu nhân thì biết đó là thê tử của Kha Trấn Ác, vội chắp tay nói: "Không biết không có tội, Kha phu nhân là vì sự an toàn của sơn trại, cẩn thận cũng là có lý, không cần phải khách khí."

Bích Túc ở bên nghe thấy thầm nói: "Được, mũi tên này coi như uổng công, ta thật đúng là ăn no rỗi việc, rõ ràng biết nơi rừng hoang nước độc này có điêu dân mà còn tự tìm..."

Sau khi làm lễ xong với Dương Hạo, Mục Thanh Tuyền lập tức đến chỗ Đường Diễm Diễm, thân thiết nói: "Tiểu muội, lâu rồi không gặp, đại tỷ thật nhớ muội quá. Muội tại sao lại theo những người này. Lần này đến đây thì ở với tỷ mấy bữa nhé..."

Phía bên kia Kha Trấn Ác liền nói: "Khâm sai đại nhân, trại chủ và gia phụ đang ở hậu sơn, thảo dân đã phái người đi thông báo rồi, đợi một lát sẽ đến nghênh đón, chỉ có điều, số người của ngài nhiều quá, trong sơn trị không thể ở nhiều như vậy."

Dương Hạo vội nói: "Những người này lặn lội đường xa, đều đã kiệt sức, hơn nữa bây giờ đã đến Tây Bắc, sắp xếp như thế nào còn phải cần nghe theo ý kiến của Chiết đại tướng quân, để phân tán ra hay là tập trung lại một chỗ bây giờ chưa thể biết được, cho nên bản quan cũng không vội lên đường. Ngươi xem ở bên đó có một cánh rừng, hiện nay thời tiết nóng bức, bắc trướng cũng đủ để hcúng ta ở, chỉ là có hai chuyện xin thỉnh Kha tráng sĩ hiệp trợ. Một là lương thực, hai là thảo dược trị thương dịch, một số dụng cụ nấu nướng và chăn gối cũng cần. Kha tráng sĩ yên tâm, những thứ mượn dùng triều đình nhất định sẽ bồi thường."

Hắn cũng nhìn những người ở đây đối với triều đình không thiện cảm lắm, cho nên cũng không lấy Tiết Việt ra để ra lệnh mà nói chuyện cũng rất khách khí.

Kha Trấn Ác cười nói: "Khâm sai nói gì vậy, khâm sai đại nhân trên đường qua đây thì trại Mục Kha ta sẽ dốc hết sức làm chủ. Chư vị đại nhân hãy thỉnh vào trong nghỉ ngơi, những người già phụ nữ trẻ nhỏ cũng có thể sắp xếp vào trại nghỉ, chỉ là nhân mã đại đội quả thực không tiếp đãi được, một lát ta sẽ phái trang đinh ra giúp sắp xếp trong rừng, những lương thực, muối, thuốc cần dùng sẽ mang đến sau."

Dương Hạo vui mừng liên tục cảm tạ. Lúc này Kha Trấn Ác liền gọi trang đinh ra dẫn người ngựa đến khu rừng bên cạnh.

Trong rừng đã được bố trí xong, có người mang gạo và rau cỏ đến. Trong rừng vốn có rất nhiều muỗi nhưng sau khi vơ cỏ đốt lửa lên thì đã sạch sẽ yên tĩnh, đợi những trướng cỏ được dựng lên thì để từng hộ dân chúng vào trong, nó giống như một doanh trại hoang dã vậy, lại cũng có chút tao nhã.

Còn bên khâm sai đại nhân thì phải khoản đãi hơn, nhận ân tình lớn như thế của người ta, Dương Hạo đương nhiên là rất vui lòng, cho nên không hề làm ra vẻ quan với Kha Trấn Ác. Ở bên kia Mục Thanh Tuyền đang nắm tay tâm sự hàn huyên với Đường Diễm Diễm, cũng không biết đang nói chuyện gì, đến khi Dương Hạo vào trại với kéo tay vào theo.

Mục lão trại chủ và thông gia Kha lão trại chủ nghe thấy khâm sai Đại Tống di dân đến đây đã vội vàng chạy từ hậu sơn về, đứa con trai của ông ta mới 11 tuổi, trông rất tinh quái, dung mạo có bảy, tám phần giống Mục Thanh Tuyền, họ Mục tên Vũ. Chả trách khi nhìn thấy nhiều người như vậy, đứa trẻ này lại vô cùng hưng phấn, nó không đi cùng khâm sai mà lại theo trang đinh vào rừng xem náo nhiệt.

Hai lão trại chủ mời Dương Hạo vào phòng lớn của trại rồi lập tức bày tiệc rượu thiết đãi.

Trong sơn trại này những đồ ăn ngon đều là những thứ quý hiếm rừng hoang, dùng bát lớn uống rượu, bát lớn đựng thức ăn, ngay cả một cái đĩa tinh xảo cũng không có, trứng gà tráng cũng chỉ dùng cái chậu lớn để đựng, cái chậu đó đủ để đặt cả 80 quả trứng gà vào đó, khi vừa bê lên đã làm cho Dương Hạo kinh ngạc vô cùng, không biết trong sơn tại này lại có tác phong thô tục như vậy.

Dương Hạo và Tam Giáo Cửu đều rất có tài giao tiếp, nên khi cùng hai vị trại chủ nói chuyện đương nhiên cũng rất ăn ý, chẳng cần nhiều thời gian mà họ đã gọi nhau là huynh đệ, họ cảm thấy vị quan này rất biết làm việc, đại sự tiểu tiết đều rất thuận mắt, đầu tiên còn khách khí nhưng một sau đã vô cùng thân thiết, tiếp theo đó liền mang sơn tửu tự làm ra cùng nhau ép uống. Đến lúcnày Dương Hạo mới biết phong tục ép rượu sớm đã được hình thành, tuy đầu đã khá choáng váng nhưng cũng không thể từ chối được sự nhiệt tình của họ.

Loại rượu này là rượu làm từ quả rừng, cũng là rượu hoa quả ch chua ngọt ngọt, độ không cao nhưng độ ngấm về sau lại đủ. Hơn nữa chiếc bát lớn uống rượu quả làm người ta sợ. Một bát rót hết, thức ăn chưa ăn được mấy miếng mà bụng đã phình ra tròn xoe. Mới một bữa cơm mà mặt Dương Hạo đã đỏ như lửa, ý rượu hoà hợp.

Ở sơn trại này quan hệ giữa nam và nữ không nghiêm khắc như Trung Nguyên, nữ không phải ăn ở một chỗ khác, có thể uống rượu cùng một bàn. Đường Diễm Diễm lúc đầu còn có chút ngại ngùng trước hai vị lão trại chủ Mục Kha và hai vị lão phu nhân, nhưng khi bát rượu đã uống vào bụng thì hai má đỏ ứng lên, lời cũng nói nhiều hơn.

Nàng khoa chân múa tay, những chuyện nói ra đều không ngoài chuyện của Dương Hạo. Từ khi Dương Hạo cứu đường đệ của nàng ở đường Quảng Nguyên đến khi làm những đồ chơi đáng yêu cho đường đệ, rồi hắn lại tức khí mắc Lục đại minh sĩ, người nói có hình có sắc, người nghe thì mặt mày hớn hở. Vừa mới nghe thì Dương Hạo đã nhìn lại bản thân mình, hình như hắn đã quên mất thân phận khâm sai của mình.

Đường Diễm Diễm lại nói tiếp, lại kể về những sự tích anh hùng đáng ca đáng khóc trên đường của Dương Hạo. Làm cho Mục Thanh Tuyền vốn không coi Dương Hạo ra gì cũng phải động lòng, nàng nhìn dò xét Dương Hạo từ trên xuống dưới, rồi bê bát rượu lên uống, nói: "Là một hán tử, ta đã xem thường ngài rồi, nào, Dương khâm sai, ta kính ngài!"

Dương Hạo bê bát rượu lớn lên, vẫn còn chưa kịp nói lời khách khí thì người ta, Mục đại cô nương đã đứng lên, ừng ực uống cả bát rượu vào bụng mà mặt không thay đổi thần sắc. Dương Hạo trợn cả hai mắt lên, đành phải cố sức uống hết bát, khi ngồi xuống chỉ cảm thấy bụng như sắp vỡ ra.

Đến khi rượu tan thì hai mắt Dương Hạo trở nên mơ hồ, đã không nhận ra đường đi nữa. Hắn muốn đi cũng không thể. Mục Kha trại chủ quá nhiệt tình, những người trong núi này rất thẳng tính, khi đã nhìn bạn không thấy thuận mắt mà bạn lại khách khí thì họ sẽ không xem bạn là bạn bè. Khi thấy bạn thuận mắt thì cho dù nhìn thế nào đi chăng nữa cũng cảm thấy dễ chịu.

Bây giờ Dương Hạo trong lòng hai vị lão trại chủ đã có khá nhiều trọng lượng, đương nhiên muốn giữ lại để tiếp đãi, làm sao có thể để cho hắn dễ dàng rời đi được, vì thể liền sắp xếp chỗ nghỉ ngơi trong sơn trại cho hắn. Đám người Bích Túc, Diệp đại thiếu gia cũng vì đó mà được ở lại trong sơn trại.

Trong khuê phòng của Kha phu nhân Mục Thanh Tuyền.

Kha phu nhân bản tính nam nhi, trong khuê phòng ngoài những vật dụng cần phải có của nữ nhân ra thì dường như không thể nhìn thấy những thứ xinh đẹp yểu điệu của nữ nhi. Hôm nay Đường Diễm Diễm đã đến, Kha đại hiệp liền bị phu nhân đá một cước khỏi giường, hai tỷ muội thân thiết đêm nay sẽ nằm trên giường tâm sự.

Đường Diễm Diễm đôi mắt mơ màng dựa vào trướng, còn đang hưng phấn khua tay múa chân: "Tỷ tỷ, tỷ nói xem, huynh ấy năm lần bảy lượt gặp đại nạn không chết, phải chăng là thần tiên phù hộ?

Huynh ấy... Từ khi chui từ dưới dòng nước lên, trái tim đang đập thình thịch của người ta thoắt cái đã không đập nữa, ngẩn ra một hồi lâu, mãi mới có thể thở được. Con người này, thật là..."

Mục Thanh Tuyền rót cho nàng ta một bát trà, quay người ngồi trên giường, cười nói: "Được rồi được rồi. Muội uống nhiều quá rồi, ngoan nào, uống chút trà rồi nằm xuống nghỉ đi, muội đã nói cả buổi tối về hắn rồi."

Đường Diễm Diễm cười ngốc nghếch nói: "Thật vậy sao, sao muốn chẳng cảm giác thấy gì? Đúng rồi tỷ tỷ, tỷ đến đây đến đây. Muội...muội nói thầm với tỷ một câu."

"Muốn nói gì đây, muội đúng là...tiểu nha đầu này..." Mục Thanh Tuyền bê bát trà đến, Đường Diễm Diễm nhảy bổ tới tai nàng, dùng cái kiểu nói thầm mà người đứng ngoài cửa cũng có thể nghe thấy rõ ràng được để nói: "Tỷ tỷ, lúc nãy trên bàn rượu, có câu muội vẫn chưa nói, thực ra...lần đầu tiên muội gặp huynh ấy ở trong chùa Phổ Tế. Muội đã hoài nghi...huynh ấy trong chùa Phổ Tế đã nhận ra thân phận muội rồi."

Mục Thanh Tuyền rất ngạc nhiên, vội quay đầu lại nhìn ngó, dùng tay che mồm Đường Diễm Diễm lại, sắng giọng nói: "Muội muội ngốc của ta ơi, muội nói linh tinh cái gì vậy. Cô nương gia của tôi ơi, lời này không nói bừa được."

"Muội không phải là chỉ nói với mỗi tỷ thôi sao, trên bàn rượu muội đâu có nói gì, tỷ nghĩ...tỷ nghĩ muội ngốc lắm sao, hi hi hi...."

Đường Diễm Diễm cười khúc khích, thấy vậy Mục Thanh Tuyền không nhịn được cười, nhưng sự hiếu kì trong lòng nàng lại nổi lên, nghĩ nghĩ rồi hỏi: "Muội nói hắn đã nhìn ra thân phận "thập tam nương" của muội, sao lại có thể khẳng định như vậy? Hắn làm sao lại nhận ra được thân phận của muội?"

Đường Diễm Diễm vừa nãy giọng còn to ầm lên nhưng bây giờ lại nhỏ nhẹ giống như con mèo, nàng lê cái bộ dạng say xỉn đó đến sát vai Mục Thanh Tuyền và nói, Mục Thanh Tuyền cảm thấy lỗ tai ngưa ngứa, khó khăn lắm mới nghe nói hết, vội vào ngoáy ngoáy lỗ tai, Đường Diễm Diễm nghiêm chỉnh nói: "Muội không phải là hoài nghi mà là khẳng định! Huynh ấy nhất định đã nhìn ra thân phận muội."

Mục Thanh Tuyền nhìn nàng, chần chừ nói: "Tiểu muội, muội không phải là đã thích vị Dương khâm sai đó chứ?"

"Sao lại có thể?" Đường Diễm Diễm phản bác lại theo bản năng, làm ra vẻ khinh thường.

Mục Thanh Tuyền đong đưa con ngươi, cười đùa nói: "Tiểu muội, ta chẳng phải là đã nhìn thấy muội mở mồm là nói về nam nhân đó sao. Còn nữa, muội nói hắn đã biết thân phận muội, ha ha, một đại cô nương giống như bị người ta ném vào bồn tắm mà lại không hề tức giận, thích mà lại không nói ra được, còn nói là không thích sao, ai mà tin được?"

Đường Diễm Diễm mặt đỏ tía tai nói: "Ai nói muội không tức giận, ai nói muội thích huynh ấy chứ, muội hận không thể đập dẹt huynh ấy rồi vo lại thành viên ý chứ, chức quan của huynh ấy tuy không phải là to nhưng lại là khâm sai, muội không thể không nghĩ cho Đường gia. Hơn nữa muội cũng không chịu thiệt. Hi hi, muội nói với tỷ nhé, tỷ không được nói với ai đâu đấy, tỷ tỷ, muội nói cho tỷ nghe, có một buổi tối vào một hôm..."

Thân hình của nàng lại ngã vào người Mục Thanh Tuyền, Mục Thanh Tuyền lại nghiêng tai nghe mấy tiếng, nhưng không nghe rõ, đành phải hỏi lại: "Muội nói cái gì? To lên một chút."

"Muội muội không thể nói cho tỷ, hihi, chuyện này không thể nói được."

Mục Thanh Tuyền vừa tức vừa buồn cười: "Nha đầu thối. Cơ thể ngọc ngà thanh khiết của mình cũng bị người ta nhìn thấy hết rồi, còn có gì mà không thể nói chứ?"

Đường Diễm Diễm làm mặt xấu, nói: "Nói cho tỷ rồi tỷ lại bắt nạt huynh ấy, hi hi, cứ không nói cho tỷ đấy."

Mục Thanh Tuyền bất đắc dĩ trợn mắt lên nói: "Nha đầu này, thật là say không nhẹ, được rồi, được rồi, không nói thì thôi, mau đi, mau cởi xiêm y ra nằm xuống nghỉ đi."

"Muội không!" Đường Diễm Diễm nghiêng vai hất tay Mục Thanh Tuyền ra, mắt nhìn bốn hướng, đột nhiên hỏi: "Tỷ tỷ, muội có nhớ là trên người tỷ có thuốc kim sang (thuốc trị vết thương do đao kiếm gây ra) đã điều chế xong không, nó ở đâu rồi?"

Mục Thanh Tuyền ngạc nhiên hỏi: "Muội muốn cái đó để làm gì?"

"Huynh...huynh ấy bị trúng tên, trên đường chỉ có lấy tạm dược thảo chữa qua, làm gì có kim sang dùng được như Mục gia nhà tỷ, tỷ...tỷ cầm một bình đến đây, muội đi...giúp huynh ấy bôi thuốc.

"Muộn như thế này rồi, chi bằng ta bảo trang đinh một tiếng, kêu họ mang đến..."

"Đưa cho muội đi, muội sẽ mang đến đó."

"Việc này...vậy để ta đưa muội đi, trong núi trời tối đường khó đi."

"Không cần đâu, sơn trại này không phải là lần đầu muội đi mà, quen lắm rồi."

Đường Diễm Diễm phân bua, đến khi Mục Thanh Tuyền lấy thuốc từ trong tủ ra thì vội vàng giành lấy và cất vào trong áo, chạy như bay ra khỏi cửa. Mục Thanh Tuyền đuổi theo ra đến cửa thì thấy bóng nàng ta đã tung bay đi xa rồi, liền lắc lắc đầu thở dài nói: "Còn muốn nặn người ta thành viên ư...sắp sửa biến người ta trở thành báu vật rồi. Ta thấy nên để công công, cha chuẩn bị hậu lễ rồi, đại tiểu thư Đường gia...trái tim xuân đã động lòng rồi..."

Gió trong núi ban đêm rất lạnh, ánh trăng đêm nay lại mềm mại như nước.

Đường Diễm Diễm cầm đèn lồng, lắc lư đi trên đường núi, trong rừng cô liêu, bóng cây đong đưa, tiếng côn trùng kêu vang, nghe có vẻ rất yên bình.

Phía trước là đến chỗ ở của Dương Hạo, Đường Diễm Diễm đi cùng với phu nhân Kha Trấn Ác đưa Dương Hạo đến đây đương nhiên là biết hắn ở đâu. Nàng yên lặng đứng dưới gốc cây nhìn về căn phòng có ánh sáng lập loè nơi không xa, trái tim bập bềnh phơi phới như nước chảy.

Một lúc sau, nàng như nghĩ đến chuyện gì đó, liền bước nhẹ đến bên bờ sông, đặt chiếc đèn lồng ở bên cạnh, rồi ngồi xổm xuống, dùng hai tay vốc nước lên mặt, một lúc lại soi mình xuống mặt nước, tuy dưới ánh trăng chẳng có gì nhìn rõ cả, nhưng nàng vẫn rất cẩn thận chỉnh lại đầu tóc, cẩn thận súc miệng. Đến khi nàng tự hà hơi, tự cảm thấy không còn mùi rượu nữa mới mỉm cười. Một tiểu mĩ nữ thanh khiết đáng yêu, lại có chút tinh linh kì lạ đã hồi phục lại sắc thái anh hùng vốn có.

Sau khi cho nước lên mặt, cơn say của nàng liền tỉnh hơn một chút. Đột nhiên lại thấy do dự. Nửa đêm nửa hôm lại chạy đến thăm bệnh đưa thuốc, hình như...lờ mờ...hình như...là có chút không hợp lý lắm, nhưng...huynh ấy...huynh ấy vẫn chưa ngủ. Nhất định là đau quá không ngủ được? Ta đến đưa thuốc lẽ nào là việc không nên? Đương nhiên là nên, rất hợp lý, ai dám nói ta lắm chuyện?

Đường đại tiểu thư nghĩ đến đây thì cảm thấy không sợ gì nữa, cầm đèn lồng lên. Cửa sổ phòng Dương Hạo hắt ra ánh sáng mập mờ của đèn dầu, giống như là một sợi dây vô hình đang kéo bước chân Đường Diễm Diễm đến đó, giống như một con thiêu thân lao vào ngọn đèn vậy.

Trong bụi cỏ bên dòng sông có mấy con đom đóm bị bước chân của nàng làm kinh sợ mà bay cả lên, xoay vòng quanh, trong ánh mắt của nàng điểm những đốm lửa đang nhảy múa, con ngươi vừa đen vừa sáng cũng thấp thoáng chút điểm sáng.

Dương Hạo còn chưa ngủ, hắn đã sai người vào cánh rừng xem tình hình của mấy vạn dân chúng, biết rằng mọi chuyện đều được sắp xếp ổn thoả thì mới yên tâm. Dương Hạo không thể uống rượu dồn dập, nhưng uống từ từ thì có thể, vì khả năng giải rượu của hắn nhanh, khoảng một thời gian lại uống một bát trà thì lại ngồi nói chuyện với Bích Túc, thần trí đã tỉnh táo hơn nhiều.

Khi Bích Túc rời đi thì hắn cũng nằm xuống nghỉ ngơi, bên đầu vai vẫn còn cảm giác đau đớn, nhất thời khó có thể ngủ được, chính vào lúc này thì có tiếng gõ nhẹ cửa, hắn còn tưởng rằng Bích Túc đi rồi lại quay trở lại, nên vẫn nằm trên giường và chỉ nói một tiếng: "Vào đi."

Cánh cửa kọt kẹt mở ra, Đường Diễm Diễm bước vào nhìn thấy hắn đang nằm quay lưng mà ngủ, liền mỉm cười một cái. Nàng rón rén bước tới, hạ thấp người ngồi xuống phía sau hắn, đưa tay ra định đặt lên vai Dương Hạo, nhưng đột nhiên lại thu lại, chần chừ một lúc mới đưa một đầu ngón tay ra chọc chọc vào hắn.

Dương Hạo đầu cũng không quay lại nói: "Còn không ngủ, làm gì vậy?"

Đường Diễm Diễm nhỏ tiếng nói: "Vết thương của huynh còn đau không?"

"Còn một chút, có lẽ đã mưng mủ rồi, đêm đã khuya mà lại quấy rối người ta, ngày mai nhớ mang ít thảo dược đến là được. Cái tên này, đừng có giả nữ nhi nữa, phát điên vì rượu rồi hả."

Đường Diễm Diễm ngẩn ra, cái gì mà giả nữ nhân, nàng không hiểu. Bị người đàn ông mà mình thích nói như vậy..., thật là...rất bị tổn thương.

Cúi đầu nhìn xuống, ngực của mình quả thật không đầy đặn như Mục tỷ tỷ, Đường Diễm Diễm bất giác cảm thấy nản lòng, nghĩ: Người ta tuổi còn nhỏ mà, lại không phải là phát triển nhanh. Tiếp đó nàng ưỡn ngực lên, có chút không vui hỏi: "Bản cô nương rất giống nam nhân sao?"

"Sao cơ?" Lần này nghe giọng không giống, Dương Hạo vội quay lại, bả vai đau nói liền kêu lên một tiếng, lúc này mới nhìn rõ, bất giác thất thanh nói: "Đường cô nương ư? Ta còn tưởng là tên tiểu tử Bích Túc đang trêu chọc ta. Thật xin lỗi, thành thật xin lỗi. Sao cô nương lại tới đây?"

Đường Diễm Diếm vừa nghe đã cảm thấy vui mừng, nhưng vẫn ưỡn ngực lên: "Thuốc kim sang của Mục gia rất có tiếng, muội biết bả vai huynh bị thương nên mang thuốc đến cho huynh."

Dương Hạo vội nói: "Phiền tới cô nương rồi, cứ đặt xuống đâu đi, một lát ta sẽ kêu Bích Túc đến bôi giúp."

Đường Diễm Diễm nói: "Đại nam nhân tay chân thô bạo, sao có thể làm tốt được việc này. Huynh cởi áo ra, muội giúp huynh."

Dương Hạo ngại ngùng nói: "Việc này...không tốt đâu."

Đường Diễm Diễm thầm nghĩ: "Có gì mà không tốt? Toàn thân huynh còn có chỗ nào mà ta chưa nhìn thấy chứ?" Nghĩ như vậy, mặt của nàng chợt nóng lên, liền trừng mắt hạt hạnh nhân lên nói: "Chuyện này thì có sao chứ? Mấy ca ca nhà muội cởi trần bả vai, lưng muội đã nhìn nhiều rồi, huynh là một đại nam tử, sao lại lề mệ chậm chạp như vậy, quay lại đây, cởi xiêm y ra, muội giúp huynh bôi thuốc xong sẽ đi."

Dương Hạo do dự một lúc rồi quay người lại, cởi áo trên ra, để lộ một bả vai, cơ thể này quả thật là rắn chắc, chỗ mũi tên bắn vào đã được băng bó, ẩn hiện vết máu thấm ra.

Khuôn mặt Đường Diễm Diễm có chút nóng lên, giúp hắn cởi bỏ băng ra. Từng vòng được cởi ra, vết thương trên bả vai hắn chính là mũi tên nanh sói, mũi tên trong nước bị những sợi dây thừng quấn quanh kéo căng rơi ra, nó đã làm mất một miếng thịt, nhưng nơi máu thịt lẫn lộn, mấy cây cỏ đắp tạm màu xanh cơ hồ đã trở thành màu đen. Đường Diễm Diễm chợt thấy đau lòng, nàng dùng ngón tay nhẹ nhàng chạm vào, hỏi: "Huynh còn đau không?"

Dương Hạo nói: "Ừ, có đau một chút, ha ha ha. Không sao, đau mới tốt. Ta nghe nói người trên thảo nguyên này thường dùng mũi tên tẩm thuốc độc, bị những mũi tên đó bắn trúng thì sẽ không đau, nhưng muốn trị khỏi thì lại không dễ, ta cũng coi như là may mắn rồi."

Đường Diễm Diễm đứng dậy cầm ngọn nến trên bàn đến, nhẹ nhàng đặt ở trên giường, rồi lấy cây trâm hơ lên ngọn lửa, cẩn thận giúp hắn bôi dược thảo.

Động tác mềm mại làm Dương Hạo cũng cảm thấy sự ân cần của nàng, nghĩ lại những chuyện mà từ khi họ quen nhau, bất giác thở dài một tiếng. Đường Diễm Diễm nhẹ nhàng bôi thuốc, mi mắt hơi nhíu lên, hỏi: "Thở dài cái gì?"

Dương Hạo nói: "Duyên phận của con người thật khó đoán được. Khi mới quen biết cô nương, cô nương có thái độ hung dữ, Dương Hạo lại có chút kinh hãi run sợ, lúc nào cũng muốn trốn khỏi cô nương, thật là không ngờ lại có ngày hôm nay, chúng ta đồng cam cộng khổ, chạy trốn ý trời, còn có thể...được cô nương ân cần chăm sóc như thế này nữa."

Cánh tay Đường Diễm Diễm chợt dừng lại, nhìn chăm chú vào ngọn lửa hồng, nghĩ đến những chuyện từ khi họ gặp nhau, nhất thời cũng ngẩn ra, một chốc lát nàng mới định thần lại, vừa cần thận bôi thuốc cho vết thương, vừa hất hất mấy sợi tóc mai đang buông nhẹ xuống, dịu dàng cười nói: "Huynh nói cũng đúng, sau này, tuy biết huynh đã cứu đường đệ của muội, hơn nữa còn giúp chúng ta chửi mắng tên mọt sách trong tiệc rượu của lão thái quân, nhưng...muội vẫn thấy huynh đáng ghét. Nhưng...huynh vừa rời đi thì muội lại rất nhớ huynh..."

Nói đến đây nàng vội cho vào thêm một câu: "Thật đấy, muội không lừa huynh. Khả năng ghi nhớ người của muội rất giỏi. Tuy muội không nhớ được tên huynh nhưng hình dáng của huynh muội lại nhớ rất rõ, khi gặp huynh trên thảo nguyên, đầu tóc bù xù, quần áo tả tơi, nhưng muội vừa nhìn đã có thể nhận ra huynh. Chuyện này...có lẽ là duyên phận..."

Nàng xấu hổ liếc nhìn hắn, lại nhìn thấy tấm lưng rắn chắc của Dương Hạo: "Huynh...huynh có cảm giác này với muội không?"

Dương Hạo hơi ngẩn ra, cảm thấy những lời này của nàng có chút không thích hợp lắm, liền cười khan nói: "Việc này ư...ta là một người khá một lòng một dạ."

"Là có ý gì?"

"Nhìn thấy cô nương thì muốn chạy, đã rời xa rồi thì đương nhiên là vẫn muốn chạy."

"Huynh..." Đường Diễm Diễm giơ tay muốn đánh, nhưng nhớ tới khi hắn sắp chết bên sông đã thật lòng tỏ tình với mình, trong lòng lại chợ có cảm giác ngọt ngào, liền tha thứ cho cái miệng lưỡi trơn tru của hắn, nàng cúi đầu xuống, ngại ngùng nói: "Huynh...huynh khi ở bên bờ sông...huynh đã ra hiệu. Có thế...có thể nói cho người ta biết là có ý gì không, người ta không...không có hiểu."

Nói đến đây thì nàng xấu hổ không thể ngẩng đầu lên, trái tim như con nai đang sợ hãi muốn chạy ngay ra khỏi lồng ngực. Nàng thật sự muốn được nghe chính miệng Dương Hạo nói ra với mình, nhưng nàng cũng đã biết Dương Hạo sẽ nói gì nên vui mừng mà khó tránh khỏi lo lắng.

Thuốc đã bôi xong, Đường Diễm Diễm nhẹ nhàng quấn hai vòng băng trước ngực lại. Gục đầu xuống một lúc lâu mà không thấy Dương Hạo thổ lộ. Đường Diễm Diễm bất giác kinh ngạc ngẩng đầu lên: "Sao vậy?"

Dương Hạo ngẩn ra nghĩ, lắc đầu nói: "Lúc sắp chết có rất nhiều tâm nguyện, rất nhiều tâm tư muốn bộc bạch cùng người ta đều muốn nói cho người ta biết. Người chết như ngọn đèn đã tắt, chẳng mấy ngày mà mục nát, những gì có thể giữ lại chỉ có mấy lời nói và một chút niềm tin mà thôi. Nhưng, bây giờ không chết được, trong lòng đột nhiên trở nên mệt mỏi, lại không có tâm sự muốn nói cho người khác nữa rồi."

Đường Diễm Diễm vô cùng thất vọng, Dương Hạo đang ngồi quay lưng lại với nàng dường như không có một chút cảm giác, hắn lạnh lùng cười, cảm khái nói: "Nam và nữ không giống nhau, như không mà có, nam nhân thích mang tâm tư của mình giấu vào trong lòng, mà không phải nói với người đó. Nam nhân càng thích hành động!"

Nụ cười trên khoé môi của hắn có chút lạnh lùng, trong mắt lại trở nên mạnh mẽ hơn, thầm nghĩ ngợi: "Nếu ta đã không chết thì những tâm nguyện kia nhất định sẽ phải đi hoàn thành cho bằng được. Cái chết của mẹ, cái chết của Đông Nhi đều là do sự hãm hại của Đinh Thừa Nghiệp mà ra. Món ân oán này ta nhất định sẽ trở lại Bá Châu, làm một nhát cho nó kết thúc!"

Đường Diễm Diễm ở đằng sau nghe hắn lẩm bẩm như vậy lập tức tai nóng tim đập loạn lên: "Hành động? Huynh...huynh ấy là có ý gì? Muốn hành động như thế nào? Nếu như muốn hôn ta...ta có cần phải cự tuyệt không?"

Một lát sau cơ thể mềm mại của Đường Diễm Diễm như căng ra giống dây cung, hai tai dựng lên, giống như một con thỏ đang cảnh giác, đáng tiếc Dương Hạo không có hành động gì, chỉ ngồi yên một chỗ. Đường Diễm Diễm thở phào một hơi, lại không cảm thấy có chút thất vọng nào nữa, tâm sự của nữ nhi Thập Tam Nương quả thật là khó đoán.

Dương Hạo ngửi thấy mùi rượu thoang thoảng, lại nhìn thấy mặt Đường Diễm Diễm đỏ lên như ngọn lửa, bất giác Dương Hạo hỏi: "Loại rượu này uống có vị chua ngọt, độ ngấm quả thật là không nhỏ, Đường cô nương, cô không sao chứ?"

"Muội...muội không sao." Đường Diễm Diễm mấp máy môi, ngay cả thở cũng không dám, bàn tay nhỏ của nàng đang bận rộn ở phía trước ngực Dương Hạo, ngón tay nhẵn nhụi đang trêu đùa ngực của Dương Hạo, Dương Hạo tuy đối với nàng luôn không có ý nghĩ khác, nhưng bây giờ một thiếu nữ dung nhan xinh đẹp đang đứng trước mặt bất giác cũng hơi động lòng. Hắn cũng không dám nói gì nữa. Căn phòng trở nên tĩnh mịch, chỉ nghe thấy hơi thở của hai người, ngược lại càng bớt đi chút không khí mập mờ.

Đường Diễm Diễm vội vàng băng bó cẩn thận vết thương cho Dương Hạo. Bây giờ một bên đùi đã ngồi lâu đến mức tê cả đi, nàng kêu "ôi cha" lên một tiếng , nhấc đùi lên, đúng vào lúc này thì "rầm", cánh cửa mở ra. Đường Diễm Diễm rất ngạc nhiên, lập tức bỏ chân xuống. Cả người đứng không vững mà ngã nhào về phía Dương Hạo, xô hắn ngã xuống giường.

Bả vai của Dương Hạo va vào giường, đau đến mức kêu cả lên, Đường Diễm Diễm luống cuống, hai tay đưa ra trước ngực hắn, chỉ muốn kéo hắn lên, nhưng một chân nàng đang bị tê, cảm giác khi vừa chạm vào thì nửa thân tê dại quả thật là khó hình dung được, động cũng không thể động, chỉ có thể kêu a a không ngừng.

Diệp đại thiếu gia tay đang cầm chặt một con cú mèo vừa mới bắt được, đứng ngẩn ra ở trước cửa. Hắn vốn muốn bắt con này là để tỏ lòng thành kính với Dương Hạo, nhưng ai ngờ lại nhìn thấy cảnh tượng này.

Chỉ thấy tiểu mỹ nhân Đường Diễm Diễm đổ mồ hôi mà nằm trên lòng Dương Hạo, kêu a a không ngừng. Dương Hạo phía dưới bị váy của Đường Diễm Diễm che phủ...

Tư thế này của hai người...!

Dương Hạo ngẩng đầu lên thì thấy Diệp công tử đang há mồm ra đứng nhìn, trong tay còn cầm một con cú mèo, hai mắt của Diệp công tử và con cú mèo đều kinh ngạc nhìn chằm chằm vào mình, không khỏi giơ tay lên xua xua, kêu ca oan ức: "Diệp công tử, ta không có làm gì cả..."

Diệp công tử giật mình một cái, lúc này mới nhớ ra thân phận khâm sai của đối phương, vội xua hai tay nói: "Dương khâm sai, ta không nhìn thấy gì cả!" Nói rồi quay đầu chạy mất.

"Đường cô nương...nhìn thì có vẻ là một nữ tử thuần khiết đáng yêu, lại...lại ngay cả một động tác có độ khó cao như thế mà cũng làm ra được, thật là cao thủ trên chiến trường tình yêu. Tiếc cho ta đã xem nàng là nữ thần, hoá ra lại là một thần nữ."

Diệp đại thiếu gia nghĩ đến đây không chịu nổi, bất giác thấy bi thương trong lòng, trái tim như đã vỡ ra vậy...

 Chương 162: Đế minh.

Trong cùng một đêm đó

Phủ cốc, cô sơn, đủ các loại hoa.

Một ít thức ăn, một bát canh đậm.

Chén và đĩa là do kĩ thuật làm đồ sứ mà Ngô Việt Yến Tử làm ra, rượu là loại rượu nho Lương Châu rất ngọt.

Thức ăn là một ít thịt dê non nướng, còn lấy cá chép dưới sông Hoàng Hà làm nguyên liệu nấu món ăn, thịt tươi thơm mát, cuối cùng là dùng thịt dê, củ sen, sơn dược, hoàng kỳ, hoàng tửu cho vào bếp lửa hầm đến chín nhừ mà thành một bát canh bát trân.

Trong đình có hai người đàn ông trung niên đang ngồi, đều mặc áo vải mềm mại, tóc thắt dây gọn gàng, ung dung tự tại.

Bốn góc đình đều có treo đèn lồng, mơ hồ ẩn hiện bóng dáng hai người. Một người dáng vẻ khôi ngô tuấn tú ung dung ngồi trên ghế đá mà cũng như con hổ đang canh giữ long bàn. Nhìn tướng mạo của hắn, mặt thì như trái táo, hai con mắt như phượng hoàng, bộ ngực vạm vỡ; một người thì da trắng bóc, giống như một văn sĩ, nhưng liếc nhìn thì thần quang lại rất nghiêm nghị, cũng có cả uy nghi làm người khác phải sợ.

Hai người này vừa nhìn đã biết là nhân vật trong tay có nắm trọng quyền, nói một không hai. Giữa từng cử chỉ cũng phát ra uy nghi. Từ xưa dân gian đã nói: "Sơn Đông xuất tướng, Sơn Tây xuất tướng." Hai vị đại hán Sơn Tây quả thực chính là võ tướng oan phong lẫm liệt. Người trung niên có khuôn mặt trái táo kia chính là Chiết Ngự Huân, chủ của Phủ Châu, người đối diện có khuôn mặt văn sĩ trắng chính là Dương Sùng Huân, chủ của Lân Châu.

Những mỹ thực trên bàn cực kì ngon miệng, nhưng hai người dường như không động đũa đến mấy, Dương Sùng Huân nhăn mày, gọi tên tự của Chiết Ngự Huân: "Thế Long à, quan gia thân phạt Bắc Hán tay không trở về, nhưng ngài ấy vẫn chưa trở về Biện Lương mà đã bắt đầu đại thưởng quần thần. Lần này Dương gia ta không có công lao gì lại cũng được ca ngợi, ca ca ta thụ phong làm thượng quốc trụ, tiết độ sứ Hà Đông, quan gia lần này đến khí thế không thể coi thường."

Chiết Ngự Huân mỉm cười, vuốt râu nói: "Ha ha, Trọng Văn huynh, quan gia còn đối với Chiết gia ta rộng rãi hơn, đã phong ta làm Trịnh Quốc Công, thế nào, còn cao hơn hai phẩm cấp so với huynh, huynh nói xem hai chúng ta khi nào sẽ đi đây?"

Hắn nhỏ hơn Dương Sùng Huân một tuổi, cho nên gọi Dương Sùng Huân là huynh. Dương Sùng Huân nghe thấy lời này liền nói: "Thế Long, đệ nói lời này có ý gì, lẽ nào Dương Sùng Huân ta mà đệ cũng không tin, lại còn ra oai với ta, chúng ta một khi đã vào triều làm quan thì sẽ như rồng bị trói dưới nước, hổ lạc vào bình dương vậy, phú quý thì không phải lo nhưng cơ nghiệp tổ tông lại hoàn toàn rơi vào tay người ta, đừng mơ tưởng mà lấy về. Lần này ta đến đây không phải là muốn tìm đệ bàn bạc tìm cách sao?"

Chiết Ngự Huân hai tay xua xua, bất lực nói: "Quan gia điều đại binh quay trở về nhưng lại không về kinh thành, hơn mười vạn tinh binh mắt trừng nhìn vào Tây Bắc, gia quan tấn tước triệu chúng ta tiến kinh hphúc, thành ý lớn như vậy...ha ha ha! Nếu như chúng ta làm ngược lại ý tốt của quan gia, nói không chừng chức quan này cũng chẳng còn, ngay cả đầu cũng mất, huynh nghĩ đại quân của quan gia ăn chay à?"

Dương Sùng Huân nhăn mày nói: "Đại quân của quan gia canh chừng tây bắc mà không về kinh, rõ ràng là đang doạ chúng ta, ta không tin ngài ấy dám dùng binh với chúng ta."

Chiết Ngự Huân liếc nhìn hắn một cái, cười mà như không cười nói: "Nếu như thật muốn dùng binh đối phó chúng ta thì cũng chưa chắc đã không thể. Nhưng...ngài ấy phải giải quyết nỗi phiền muộn lớn ở phía nam trước đã, lúc này ư, ngài ấy sẽ không dùng binh với chúng ta đâu. Nhưng...quan gia đã hạ chỉ rồi, huynh nói chúng ta có đi không? Không đi là kháng chỉ, ngài ấy sẽ nhận nhịn lúc này, nhưng sớm muộn cũng sẽ động thủ với chúng ta, lẽ nào chúng ta còn có thể đi đầu quân cho đám Bắc Hán đến thân mình còn khó giữ sao? Hay là dứt khoát hàng phục Khiết Đan, tự mình làm chủ, làm một hoàng đế? Ha ha, ta vốn là hậu duệ của hoàng thất, cùng thuộc Hồ tộc, đối với người Khiết Đan cũng có cấm kị, Khiết Đan rất ngưỡng mộ văn hoá Trung Nguyên, Dương đại tướng quân như huynh là người hán, đại ca của huynh lại là người của Bắc Hán, nếu đầu quân sẽ rất được trọng dụng..."

Dương Sùng Huân đập bộp bàn một cái, đột nhiên đứng lên, trầm giọng nói: "Xem ra Dương mỗ lần này đến đây là sai lầm. Thôi, ta tự trở về Lân Châu, quan gia dựng thế uy hiếp ở Thái Sơn, Dương Sùng Huân ta thế đơn độc, tuyệt đối không địch lại được, đành giao Lân Châu đến Biện Lương làm một vị quan yên ổn vậy. Chỉ không biết một khi Lân Châu ta thất thủ thì Phủ Châu của đệ còn giữ vững được không thôi."

Dương Sùng Huân nói xong thì cất bước đi, Chiết Ngự Huân giơ chén rượu lên tự uống một mình, cũng không để ý đến Dương Sùng Huân nữa, đến khi Dương Sùng Huân lên ngựa chuẩn bị ra khỏi cửa của hoa viên thì Chiết Ngự Huân mới buông chén rượu xuống, lớn tiếng gọi: "Trọng Văn huynh xin dừng bước."

Dương Sùng Huân đột nhiên quay người lại, hai hàng lông mày nhếch lên nói: "Sao thế, Chiết tướng quân muốn trói Dương mỗ để dẫn đi báo công với quan gia sao?"

Chiết Ngự Huân tươi cười bước đến, ngăn trước hắn, dáng vẻ uy nghiêm không còn sót lại một chút nào, khuôn mặt tươi cười giống như một tên vô lại: "Ha ha ha, Trọng Văn huynh xin dập lại cơn tức, chớ trách, chớ trách, ta cũng chỉ là muốn biết cách nghĩ thật lòng của huynh nên mới bộc trực như vậy thôi. Đến đây, đến đây, ngồi xuống, ngồi xuống, thời tiết nóng nực, khó trách huynh bốc hoả. Người đâu, mang cho Dương tướng quân một bát mai chua đang được ướp lạnh trong nước giếng."

Dương Sùng Huân cười gượng nói: "Thế Long, đệ..., cái con người này...từ nhỏ đã giảo hoạt như vậy, thật là thiệt thòi cho đệ khi làm chủ của Phủ Châu, bá của Vân Trung, nhìn bộ dạng khinh nhờ của đệ, thật là..., thôi đi thôi đi, uống nước mai chua gì chứ, ta bây giờ chẳng muốn ăn gì cả, đệ mau nói đi, có cách nào lay chuyển quan gia mà không bị mất hoà khí không?"

Chiết Ngự Huân kéo hắn quay trở về bàn rượu, cái vẻ lưu manh đã được thu lại, nghiêm nghị nói: "Trung Văn huynh thẳng thắn như vậy thì Thế Long sẽ nói rõ vậy. Mười năm trước phụ thân ta nương tựa vào Đại Tống, khi vào triều gặp mặt, quan gia đã chính miệng hứa rằng Chiết gia ta sẽ đời đời kiếp kiếp được cai quản Phủ Cốc, tự điều chỉnh quân và thu thuế, lúc này thời gian đã qua mười năm, hài cốt gia phụ còn chưa lạnh, lời nói của quan gia còn văng vẳng bên tai, giờ đã có sự chú ý đến Phủ Châu của ta.

Ha ha! Huynh nghĩ ta cam tâm tình nguyện sao? Nhưng dù sao chúng ta cũng ở dưới mái nhà c người ta. Biện Lương, chúng ta không đi, nhưng khuôn mặt này cũng không thể bị xé rách, phải làm cho triều đình cam tâm tình nguyện để chúng ta lưu lại mới được."

Dương Sùng Huân mắt sáng lên, nghi ngờ hỏi: "Thế Long, đệ không phải nói úp mở nữa, nói thẳng ra đi, làm thế nào để quan gia cam tâm tình nguyện cho chúng ta ở lại?"

Chiết Ngự Huân mỉm cười nói: "Đương nhiên là...dưỡng, phỉ, tự, trọng!"

Dương Sùng Huân trợn mắt lên nói: "Phỉ từ đâu đến? Phải dưỡng lớn bao nhiêu phỉ?"

Chiết Ngự Huân trợn mắt tỏ ra xem thường, nói: "Từ nhỏ huynh đã ngốc hơn ta, đến bây giờ vẫn ngốc như thế."

Dương Sùng Huân tức giận nói: "Phí lời, ai mà lại so bì được với người của Chiết gia đa mưu quỷ kế, lão Dương gia chúng ta trung hậu, làm sao có thể nghĩ ra lắm mưu mẹo thế, mau nói đi. Phỉ ở đâu?"

Chiết Ngự Huân cười ha ha chỉ một ngón tay về phía tây nam, Dương Sùng Huân kinh ngạc nói: "Người Đảng Hạng? Không phải chứ...bảy bộ Đảng Hạng làm phản, Hạ Châu Lý Quang Duệ khoanh tay đứng nhìn, lần đó đệ ăn no không có việc gì làm nên phái binh đến đó đánh tan tác chúng rồi, bây giờ chỉ còn chừa lại mấy con cá nhỏ, còn có thể gây ra sóng gió gì chứ?"

Chiết Ngự Huân mỉm cười nói: "Trung Văn huynh, chúng ta đến xem tình thế phía tây bắc, phía bắc, đông bắc chúng ta là Bắc Hán, Khiết Đan; phía nam, đông nam là Đại Tống; phía tây, tây nam là Định Nan Quân Tiết Độ Sứ Lý Quang Duệ. Lý Quang Duệ vẻ ngoài thì thuần phục Tống, nhưng thực ra còn bất thuận hơn cả hai chúng ta, mà thế lực của hắn còn lớn nhất trong ba chúng ta, nếu như triều đình muốn thu nạp binh quyền của chúng ta thì uy hổ của quan gia sẽ trực tiếp nhắm thẳng vào đầu Lý Quang Duệ, huynh nghĩ xem...hắn sẽ sống được tiêu diêu tự tại như bây giờ không?"

Dương Sùng Huân kinh ngạc nói: "Lẽ nào đệ muốn...liên thủ đồng minh với Lý Quang Duệ?"

Hạ Châu Định Nan Quân và Vĩnh An Quân của Phủ Cốc vì muốn chiếm được địa bàn mà bao nhiêu năm nay trinh phạt không ngừng, sau khi tự đầu quân cho Đại Tống thì bề ngoài đều là thần của một triều, nhưng bên trong thì không ngừng ngầm chống đối, những chuyện cố ý xúi bẩy chém giết lẫn nhau giữa các bộ, các tộc người là chuyện bình thường, nếu nói chúng một lang một sói có thể thành đồng mình thì quả thật là chuyện khó tin."

Chiết Ngự Huân cười nói: "Liên thủ không phải là giả, đồng minh lại chưa chắc. Lý Quang Duệ cũng lo lắng cái đuôi hổ của Triệu Khuông Dận sẽ quét lên đầu hắn, có chúng ta ở đây trấn thủ, tuy chúng ta với hắn coi nhau chẳng ra gì, động một cái còn muốn đánh một trận, nhưng dù sao thì vẫn thuận mắt hơn so với Triệu Khuông Dận, đúng không? Da không tồn tại thì lông đâu thể bám theo? Cho nên, hắn cũng muốn để chúng ta ở lại đây, nên đương nhiên sẽ cùng phối hợp với chúng ta. Ta đã cho người ẩn danh tính để trợ giúp thất bộ Đảng Hạng một chút binh giáp vũ khí tiền lương củi thảo, mấy ngày nay thất bộ Đảng Hạng lại muốn khởi binh, lúc đó chỉ cần Lý Quang Duệ Hạ Châu giả bệnh, không thể xuất binh thì Chiết Ngự Huân ta..."

Hắn cười khan hai tiếng, nói: "Chức trách đều ở đây, Chiết đại tướng quân ta đương nhiên là sẽ xuất binh, nhưng một khi đã đánh trận thì cứ giả đò bại, ta sẽ tỏ ra bất lực và phải kéo theo lão ca, đến lúc đó chúng ta sẽ đánh tan thất bộ Đảng Hạng, vì triều đình huynh nói xem quan gia còn có ý muốn chúng ta đến Biện Lương uống trà trong hoàn cảnh cấp bách không?"

Dương Sùng Huân vừa nghe đã vô cùng vui mừng, liên tục nói: "Đệ đã có kế hay như thế sao không sớm nói ra, hại ta lo lắng, thật là chẳng ra sao cả. A a..." Hắn chỉ vào Chiết Ngự Huân, chợt hiểu ra, nói: "Đây có phải là chủ ý của tiểu yêu nữ nhà đệ nghĩ ra không?"

Chiết Ngự Huân trừng mắt lên nhìn: "Nói cái gì vậy, ta đường đường là Vĩnh An Quân Tiết Độ Sứ, dưới trường mười vạn đại quân, lệnh cờ một khi phất lên là vô số đầu người rơi xuống, uy phong thống soái một phương như vậy mà lại không nghĩ ra được một kế sách như vậy sao?"

Dương Sùng Huân châm chọc cười nói: "Thôi đi mà, tiểu muội của đệ không có phát triển vóc dáng mà chỉ phát triển tầm nhìn thôi, mấy tiểu tử nhà ta và tiểu tử nhà đệ cũng được coi như là tinh ranh, nhưng có đứa nào mà không bị con búp bê tiểu muội đệ làm cho quay vòng lòng, ngay cả chúng ta mấy năm nay cũng vì nó mà cũng bị chịu thiệt thòi. Tiểu muội đó của đệ, ha ha ha.

"Khụ khụ, thôi đi, thực ra tiểu muội ta rất thông minh, thông minh hơn người, hiểu không?" Chiết Ngự Huân tức khí cái chính lại.

Dương Sùng Huân không nhìn rõ ánh mắt của Chiết Ngự Huân đang ám chỉ mà vẫn còn cười: "Đúng vậy, thông minh, rất thông minh, so với hồ li chín đuôi còn thông minh hơn. Cũng không biết có đại nam tử nào dám lấy nó không nữa, một nữ nhi lợi hại như vậy ai lấy về còn không bị nó ức hiếp cả đời không ngẩng đầu lên được chứ? Ha ha, tưởng tượng đến con quỷ đen đủi trong tương lai sẽ lấy nó mà ta vui vẻ vô cùng, ha ha ha ha ha ha......"

"Bộp!" Bả vai Dương Sùng Huân đột nhiên bị đập nhẹ một cái, một giọng nói thanh thoát ngọt ngào vang lên từ đằng sau: "Dương đại ca, đại tỷ ta là đại tẩu của huynh, nói ra thì chúng ta cũng là họ hàng, huynh lại nói xấu cô nương nhà người ta sau lưng như thế, vạn nhất tội danh này bị truyền ra ngoài thì ta tương lai thật là không thể gả cho người khác được rồi, vậy sao sống tốt đây?"

Dương Sùng Huân giật mình một cái, dựng cả tóc gáy lên, hắn nhếch nhếch mép, đột nhiên cái khó ló cái khôn, lảo đảo bước lên phía trước hai bước, kêu "ôi ôi" mấy tiếng, nói: "Rượu này uống nhiều quá rồi, ta...ta có chút đau bụng, ta đi vệ sinh một lát." Nói rồi đầu cũng không quay lại chuồn mất.

Sau lưng hắn xuất hiện một thiếu nữ mặc áo xanh, khuôn mặt hạt dưa, mắt to, mắt ngọc mày ngà, kiều diễm như người, đó chính là Chiết đại cô nương Chiết Tử Du. Dưới ngọn đèn ngắm mỹ nữ, nhan sắc cũng tăng lên ba phần, Chiết Tử Du lúc này cười mới xinh đẹp làm sao, cả một vẻ uyển chuyển.

Nàng nhìn thấy hình bóng bối rối rời đi của Dương Sùng Huân thì hơi cau cau cái mũi, ngồi xuống bên bàn, hỏi: "Đại ca, mọi việc đã tính toản ổn thoả chưa?"

Dáng vẻ uy phong lẫm liệt lúc nãy của Chiết Ngự Huân thoắt cái đã thay đổi, lộ ra một điệu cười có pha chút nịnh hót: "Tiểu muội quả nhiên thần cơ diệu toán, ta đã phái người đi nói với Lý Quang Duệ, con hồ li tinh đó đã hiểu ngầm trong lòng. Nhưng thất bộ Đảng Hạng cùng dồn dập tới, không thể dễ dàng để chúng lớn mạnh được, nếu không Lý Quang Duệ áp chế không nổi, địa giới Phủ Châu chúng ta lại hoả chiến liên miên, việc này còn phải suy nghĩ tính toán cẩn thận. Đúng rồi, mấy ngày nữa con trai của Lý Quang Duệ là Lý Kế Quân sẽ đến đây bàn bạc chuyện này với ta, muội có muốn thay đại ca đi nói chuyện với hắn không?"

Chiết Tử Du bĩu môi nói: "Chuyện của nam nhân, muội chẳng muốn để bận tâm. Nếu còn tham gia tiếp thì muội sẽ thật sự giống như Dương Sùng Huân nói, muốn gả cũng không gả đi được."

Chiết Ngự Huân chà xát tay, cười bồi nói: "Sao lại thế được, muội của ta muốn có nhân tài thì có nhân tài, muốn có vóc dáng thì có vóc dáng, muốn có tướng mạo thì có tướng mạo, muốn có thế gia thì có thế gia, còn có thể không gả đi được sao? Muội muốn ai, nếu hắn không chịu lấy thì gan hắn thật lớn, muội nói với ta, đại ca sẽ chặt đầu hắn."

Chiết Tử Du làm mặt xấu với hắn, nhảy lên cười nói: "Cho dù huynh có nói ba hoa chích choè như thế thì muội cũng không lộ diện thay huynh đâu. Huynh tự đi đi, muội nghe nói đạo nhân hay ngủ mà sống ở Hoa Sơn đã đến Phủ Cốc, bây giờ đang dừng bước ở Tây Vân Quan - Lạc Hà Sơn, ngày mai muội sẽ đến Tây Vân Quan ăn chay tránh nóng, gặp vị thần tiên sống, qua mười ngày nửa tháng thời tiết mát mẻ hơn thì muội sẽ trở về.

Chiết Ngự Huân oán trách nói: "Muội, cái đứa tiểu nha đầu này, sinh ra vốn đã thông minh, khi cha còn sống xem trọng muội nhất. Bây giờ đại ca một mình đảm đương mọi chuyện, muội lại không chịu giúp đại ca làm chút việc. Đặc Sứ Hạ Châu muội không quan tâm thì cũng không cần phải lên núi chứ, tiếng tăm của đạo sĩ hay ngủ ta cũng đã từng nghe thấy, nhưng lẽ nào muội lại muốn theo ông ta tu tiên học đạo sao? Ta còn đang muốn muội đi sắp xếp cho dân chúng di dân đến Đại Tống nữa, vị khâm sai của họ tên là gì nhỉ, tên là Đinh Hạo gì đó, bọn họ đã đến đất Phủ Châu, có tới mấy vạn người liền, muốn sắp xếp ổn thoả quả thực không dễ."

Chiết Tử Du vốn đã đi rồi, nhưng vừa nghe thấy lời này thì đột nhiên dừng bước, hai mắt phát sáng lên: "Đinh Hạo? Huynh nói Đinh Hạo?"

Chiết Ngự Huân đập đập trán nói: "Uống nhiều quá, không phải là Đinh Hạo, là Dương Hạo."

Chiết Tử Du vô cùng thất vọng, xua tay nói: "Được rồi được rồi, bất kể hắn là Dương Hạo hay là Dương Cao, huynh là đại tướng quân Phủ Châu, huynh tự nghĩ cách đi, muội lên núi tránh nóng học đạo."

Chiết Tử Du nói xong thì nhún nha nhún nhảy chạy về phía trước, Chiết Ngự Huân nghiêng đầu, bĩu môi, hất những lọn tóc mai dài sang hai bên, đôi lông mày dựng lên, mắt đan phượng híp vào, tự nói: "Rốt cuộc là Đinh Hạo hay là Dương Hạo nhỉ, ôi cha...quả thật là uống nhiều rồi, chẳng thể nhớ ra được..."

Sau khi Trình Thế Hùng trở về Quảng Nguyên liền phái người mang tấu trình tình hình quân cho hắn biết, bên trên tấu sớ có viết tình hình trường mắt của Đinh Hạo và công cán của hắn, cũng đã nhắc đến chuyện bây giờ hắn đổi tên thành Dương Hạo. Nhưng tấu trình của hắn lại đến cùng lúc với ý chỉ thăng quan muốn hắn vào thành "hưởng phúc" của triều đình, Chiết Ngự Huân lại không biết tâm sự của tiểu muội nhà mình cho nên chỉ coi Dương Hạo như một người binh thường, lúc này hắn đang suy nghĩ xem phải cự tuyệt như thế nào chuyện vào kinh, nào còn nhớ được người ta rốt cuộc họ Đinh hay họ Dương.

Nếu không phải sáng hôm nay Lý Ngọc Xương đến Phủ Châu nói chuyện khâm sai di dân Bắc Hán đên đất của hắn thì hắn hoàn toàn không nhớ tới người này. Chiết Ngự Huân vỗ vỗ trán, không muốn nghĩ đến dương dê gì nữa, quay đầu nói với bụi hoa: "Trung Văn huynh à, tiểu muội ta đã đi rồi, huynh có thể ra được rồi."

Dương Sùng Huân lấm la lấm lét chui từ bụi hoa ra, lòng vẫn còn sợ hãi nói: "Mẫu thân à, đừng để nó thấy con, nó sẽ không để con còn ra hình dạng gì đâu."

Chiết Ngự Huân nói: "Không cần sợ, tiểu muội ta đã không còn nghịch ngợm như lúc nhỏ nữa rồi. Việc mà lần trước huynh bị nó làm cho sống dở chết dở ta nhớ đó đã là chuyện 5 năm trước rồi. Lúc đó vẫn chỉ là một đứa nhóc, bây giờ muội muội của ta đã trưởng thành rồi, huynh xem nó duyên dáng yêu kiều, dịu dàng như nước, hiền thục đoan trang, có tri thức hiểu lễ nghĩa, là một khuê các đầy đủ phẩm chất mà."

Dương Sùng Huân nghe thấy vậy thì kinh ngạc thất sắc, bỗng nhiên quay người nói: "Chiết tiểu muội!"

Khoảng không phía sau nào có bóng người, Dương Sùng Huân mới quay người lại, bán tín bán nghi nói: "Nó đã không ở đây mà đệ còn tâng bốc nó như thế sao, xem ra...xem ra tiểu muội này thật sự lớn rồi."

Chiết Ngự Huân dương dương tự đắc nói: "Đúng thế, muội muội của ta mà. Được rồi, chúng ta không nói chuyện này nữa, còn chuyện liên quan đến kích động thất bộ Đảng Hạng tạo phản thì còn phải chờ Lý Quang Duệ phái đến mới tính kĩ càng kế sách. Bây giờ khâm sai triều đình đã đem mấy vạn di dân Bắc Hán đến đây, dân số tăng là chuyện tốt, nhưng chúng ta nếu như không muốn vào triều, quan gia kế này không được lại tính kế khác, phái lưu quan đến quản lý bốn vạn hán dân, cắm rễ lâu ngày ở đây thì đó sẽ trở thành đại hoạ trong lòng chúng ta, việc này ta và huynh phải tính toán thật kĩ."

Dương Sùng Huân hơi thay đổi nét mặt: "Không phải là không thể, Triệu quan gia không phải là võ phu, đầu óc của ngài ấy cực kì thâm hiểm."

Chiết Ngự Huân cười lạnh lùng, lúc này mới lộ ra một vài phần sát khí lạnh lùng: "Cho nên, sắp xếp như thế nào cho bốn vạn dân, tiếp đón khâm sai Đại Tống như thế nào thì ta và huynh...còn phải bàn bạc thật kĩ...."

Dương Sùng Huân nói: "Vậy, sao không tách rời họ đến các nơi khác nhau?"

Chiết Ngự Huân nói: "Tây bắc ta đất rộng người thưa, dân chúng đa phần nhiều y tộc, tập trung cư ngụ ở pháo đài sơn trại, không thể so được với thành đài Trung Nguyên, huynh bảo ta sắp xếp chỗ nào, xếp xen mấy vạn dân chúng không cùng họ vào nhà ai cho đủ, họ lại chịu đồng ý sao? Nếu như tách ra nhỏ một chút thì huynh muốn ta sắp xếp đến năm nào tháng nào?"

Dương Sùng Huân nói: "Vậy đệ nghĩ thế nào?"

Chiết Ngự Huân híp đôi mắt đan phượng lại, mỉm cười nói: "Huynh xem, nếu như chúng ta sắp xếp cho họ đến Lô Hà Lĩnh...thì thế nào?"

Dương Sùng Huân kinh ngạc: "Cái gì? Chuyện này...làm được sao?"

Chiết Ngự Huân dường như bĩu môi ra giống Quan Vân Trường, hất tóc mai, cười nói: "Dân chúng mà quan gia Đại Tống đem tới, huynh và ta đều là thần tử của Đại Tống, dù thế nào di dân mà quan gia Đại Tống mang tới sao lại cũng chỉ do mình ta sắp xếp? Mảnh đất đó đất tốt ngàn dặm, thảo nguyên nước xanh, chỉ có điều vì đó là cùng ranh giới tiếp giáp của ba nhà ta, huynh và hắn, vì thế đã trở thành mảnh đất không ai quản, cũng may thảo nguyên đó bị vứt xó, ta đem họ sắp xếp ở đó thì chính là lợi dụng phế thải, có gì mà không thoả đáng?"

Khiết Đan ngẩn người ra hồi lâu, giơ ngón tay trở lên, nói: "Sự thâm hiểm của đệ quả thật là có mấy phần phong thái năm xưa của bá phụ."

Chiết Ngự Huân chắp tay, cười nói: "Hổ thẹn, hổ thẹn, quá khen rồi, quá khen rồi!"

Sáng sớm ngày thứ hai, sau khi thức dậy súc miệng rửa mặt, Dương Hạo liền được đưa đến gian phòng khách, hai lão trại chủ Mục Kha đã nhiệt tình tiếp đón. Lần này là tiệc nhỏ, chỉ mời một mình Dương Hạo mà thôi. Dương Hạo đến bàn thì thấy mới sáng sớm mà đã bày rượu, bất giác thấy kinh hãi, liên tục từ chối. Hai vị lão trại chủ thấy hắn nhất định không chịu uống, cũng may lúc này không phải là mới nghênh đón vào trại nên cũng không miễn cưỡng nữa.

Hai vị lão trại chủ là người thích rượu như mạng sống, Dương Hạo không uống thì họ tự rót tự uống, vô cùng vui vẻ.

Dương Hạo lướt mắt nhìn quanh, thấy Đường Diễm Diễm không có ở đây, nàng và hai nhà Mục Kha đã quen biết nhiều năm, Kha thiếu phu nhân Mục Thanh Tuyền cũng ở đây, nhưng lại không thấy bóng dáng Đường Diễm Diễm đâu, không khỏi ngạc nhiên.

Mục Thanh Tuyền thấy hắn mắt liếc ngang liếc dọc, liền nhịn cười nói: "Đường tiểu muội nói hôm nay không được khoẻ, ta đã sai người mang chút đồ ăn đến phòng cho Đường tiểu muội rồi, cho nên không đến đây."

Mục Thanh Tuyền trong lòng rất tò mò, đêm qua khi Đường Diễm Diễm trở về thì khuôn mặt lúc tức giận lúc vui mừng, vẻ mặt rất cổ quái, hỏi gì cũng không trả lời, dáng vẻ ngại ngùng trước đây Mục Thanh Tuyền chưa từng thấy. Nàng thật sự rất muốn biết rốt cuộc đã có chuyện gì xảy ra.

Nàng và Đường Diễm Diễm đã có giao tình lâu năm, lại là vì tính cách hợp nhau, đều là có khí khái phóng khoáng của nam tử. Nhưng bây giờ thấy dáng vẻ đó của Đường Diễm Diễm lại giống như mình mấy ngày trước khi thành thân, lúc nóng lúc lạnh vậy. Mục Thanh Tuyền không biết giữa hai người này đã xảy ra chuyện gì, đoán có lẽ là đã xảy ra những hành động thân mật gì đó. Lúc này lại nhìn Dương Hạo, không khỏi có chút coi hắn là muội phu, nhìn kĩ con người này, tướng mạo cũng anh tuấn, cũng xứng với muội tử, trong lòng bất giác cảm thấy có chút thích thú.

Dương Hạo bị người khác nói trúng tâm ý, khuôn mặt nóng lên, lại bị ánh mắt sắc bén của nàng nhìn thăm dò, không khỏi càng thêm chột dạ, vội vàng trả lời lung tung mấy tiếng, rồi cúi đầu ăn cơm. Ở bên kia, Kha Trấn Ác thấy thê tử của mình cứ nhìn chằm chằm vào Dương Hạo không thôi, liền có chút ghen nổi lên. Nhưng hắn vốn sợ vợ, lại thêm cha, mẫu thân, nhạc phụ, nhạc mẫu đều ở đây nên quả thực rắm cũng không dám đánh một cái. T_T

Dương Hạo vừa động đũa thì bả vai lại đau, cảm giác đau này không giống với cảm giác trầm trọng đau tê lúc trước, kim sang dược rất có tác dụng, Dương Hạo có thể cảm thấy vết thương của mình đang tốt hơn. Nghĩ lại đêm qua sau khi Diệp Chi Tuyền sau khi đi, Đường Diễm Diễm một câu cũng không nói, kéo cái chân đang bị tê đứng dậy khập khiễng chạy mất, dáng vẻ vô cùng đáng yêu, trong lòng hắn bất giác trào lên một cảm giác ấm áp.

Được người ta quan tâm, chăm sóc mãi mãi là thứ mà Dương Hạo không có cách nào cự tuyệt. Từ nhỏ đến lớn, thứ hắn thiếu thốn nhất chính là tình thân, tình bạn, cho nên đối với tình cảm hắn đặc biệt coi trọng và nâng niu. Sự dịu dàng của Đường Diễm Diễm như một nhát dao đã khắc một vết tích vào trong lòng hắn.

Ăn cơm xong, Mục lão trại chủ nói: "Dương khâm sai, lão hán đã sau người đi thông báo cho Xích quân chủ đang đóng quân ở đây rồi, Xích quân chủ nhận được tin tức sẽ tới ngay. Bây giờ lão hán sẽ dẫn khâm sai đại nhân đến sau núi săn bắn, được không? Mùi vị của những con dã thú do đích tay mình săn được mùi vị không tồi đâu."

Dương Hạo vội nói: "Đa tạ Mục lão trại chủ, nhưng Dương Hạo đang có vết thương trên người, quả thực không tiện du sơn, hơn nữa nói thật là quá mệt rồi, Dương mỗ muốn về phòng nghỉ ngơi một lát, rồi ra ngoài trại xem tình hình dân chúng."

Mục lão trại chủ cười ha ha nói: "Lão hán là người thô lỗ, quên mất là Dương khâm sai đang bị thương, vậy được, dù sao núi non ở đây hoang vu, cũng chẳng thể nói là cảnh đẹp, vậy...mời Dương khâm sai về phòng nghỉ ngơi. Một lát lão hán sX鮧 khâm sai đại nhân đến xem xét tình hình dân chúng Bắc Hán."

Chỗ ở của Dương Hạo vốn ở ngay cạnh chỗ của Mục lão trại chủ, họ cùng nhau trở về, khi Dương Hạo về tới thì Mục lão trại chủ đã sai người mang trà đến, ngồi uống trà một lát với Dương Hạo, khi hai vị lão trại chủ đang định đứng dậy cáo từ thì chợt nghe thấy tiếng hét chói tai: "Chim ưng của ta, aaaaaaaaaaaa........"

Tiếng đứa trẻ vẫn chưa tới lúc vỡ giọng, vừa kêu lên thì đã thấy the thé, làm cho Dương Hạo và hai vị lão trại chủ phải giật mình.

Chỉ nghe thấy đứa trẻ kêu: "Ngươi là con rùa khốn khiếp, ta nói con chim ưng của ta nuôi không thấy đâu, hoá ra là bị ngươi bắt mất, còn...còn...bứt hết lông trên người nó nữa, tiểu gia sẽ giết chết ngươi, aaaaa..."

Tiếp theo đó là tiếng kêu thảm thiết của Diệp đại thiếu gia: "Cứu mạng với khâm sai đại nhân, tên Bích túc khốn nạn kia chỉ biết đứng xem vui thôi à...ta đền ngươi tiền, tha mạng cho ta..."

Dương Hạo và hai lão trại chủ quay sang nhìn nhau, vội vàng ra cửa, thì thấy Diệp Chi Tuyền trong tay đang xách một con gà chụi lông, đang chạy loạn trong sân, phía sau còn có một đứa nhỏ, đó chính là Mục Vũ mụn con nhỏ của Mục lão trại chủ. Thiếu niên này trước ngực đeo một túi dao, phía trước có cắm một dãy các phi đao hình lá liễu, hắn đuổi đánh phía sau Diệp Chi Tuyền, bất ngờ phi một cái dao ra, nhưng cái dao đó không thật sự muốn lấy mạng hắn, lại giống như sở thích của tỷ tỷ nó, chỉ thích phi dao nhắm sát vào người ta, doạ làm cho Diệp Chi Tuyền chạy tán loạn quanh sân. Bích Túc vì chân bị thương, cái chân đó bị quấn băng như bánh trưng vậy, công phu xoay người không thể thi triển ra được, Diệp Chi Tuyền chạy qua người hắn thì hắn chỉ có thể dùng chiếc chân còn lại để nhảy tránh ra, nhìn tình hình của hai tên đó trong thật là thảm hại.

"Tiểu Vũ, dừng tay!" Mục lão trại chủ nhìn thấy vậy thì vội vàng quát lên, thiếu niên đó vẫn còn đuổi theo, Mục lão trại chủ đành phải đuổi đến tóm lại kẹp chặt vào sườn, ông ấy tát cho nó một cái, quát: "Cái đứa ranh con này, muốn tạo phản à?"

Khuôn mặt trứng gà của tiểu vũ tức đến đỏ cả lên, chỉ tay vào Diệp Chi Tuyền nói: "Hắn! Cha hỏi hắn đi! Hắn bắt trộm chim ưng của con, còn nhổ hết lông của nó, cha xem, cha xem..."

Mọi người đều nhìn kĩ mới phát hiện ra con gà chụi lông trong tay Diệp Chi Tuyền lại là một con cú mèo (cú mèo là một loại chim ưng) đã bị nhổ sạch lông, đã chẳng còn một nửa dáng vẻ của cú mèo nữa, chỉ có hai con mắt là có chút thần thái giống thôi, có điều không biết là bị Diệp Chi Tuyền xách ngược lên hay là vì không chịu nổi ánh sáng ban ngày mà Dương Hạo nhìn thấy hai mắt mày xanh của nó như đang bị choáng váng...

Diệp Chi Tuyền vừa nhìn thấy đứa trẻ bạo ngược bị tóm lại liền làm vẻ mặt cầu xin nói: "Ta...ta quả thực không biết con cú mèo này là có người nuôi."

Dương Hạo bất đắc dĩ nhìn hắn nói: "Cho dù là ngươi không biết, nhưng ngươi...cũng đâu cần phải nhổ sạch lông của nó thế, ngươi xem, bây giờ nó giống như một con gà chụi lông vậy, làm sao có thể trả lại cho người ta đây?"

"Ta..." Diệp Chi Tuyền lập tức á khẩu không nói được gì, hắn sao có thể nói rằng đêm qua nhìn thấy cảnh tượng nữ thần trong lòng hắn và Dương Hạo đang ở tư thế đó, nên đau lòng cầm con cú mèo nhổ lông cho bớt tức.

Mục Vũ nghe thấy lại tức giận hét lớn: "Ta khó khăn lắm mới bắt được nó, khó khăn lắm mới nuôi nó thành thục, kết quả lại bị ngươi làm thành thế này, ngươi đền nó cho ta đi, đền đi."

Dương Hạo vừa nghe xong thì bất giác vui mừng nói: "Tiểu huynh đệ, hoá ra là đẹ thích nuôi chim, chi bằng như thế này đi, ta sẽ bảo hắn đi bắt một con hùng ưng thật sự về cho đệ, đệ không cần làm khó hắn nữa, được không?"

Mục Vũ khinh thường nói: "Dựa vào hắn sao? Tiểu gia ta cũng có bản lĩnh, chim ưng cũng từng bắt được mấy con, nhưng không phải chết thì tàn tật, nhìn dáng vẻ của hắn như vậy thì làm được gì, một chút công phu quyền cước cũng không có, còn có thể bắt được hùng ưng thật sự sao?"

Dương Hạo cười nói: "Tiểu huynh đệ, bắt chim ưng không nhất thiết là phải có võ nghệ. Đệ không bắt được chim ưng nhưng vị Diệp công tử này lại có thể bắt được một con hùng ưng hoàn toàn lành lặn không chút tổn thương nào cho đệ đó."

Mục Vũ không phục hỏi: "Huynh dám đánh cược với ta không?"

"Sao lại không dám, cược thế nào?"

Mụ Vũ chỉ vào Diệp thiếu gia nói: "Nếu như hắn có thể bắt được một hùng ưng thật sự mà không bị tổn thương nào thì ta nhận huynh làm đại ca, đem tất cả võ nghệ trên người cho huynh. Còn nếu như hắn không bắt được thì, hi hi hi!"

Nó nhìn chằm chằm vào đầu Diệp Chi Tuyền nói: "Ta muốn nhổ sạch lông từ đầu đến chân của hắn, để cho hắn biến thành giống như con cú này của ta."

Dương Hạo vừa nghe đã không chút do dự, lập tức nói: "Được, chúng ta nhất ngôn cửu đỉnh."

Diệp Chi Tuyền không kịp ngăn cản, trong lòng thầm nói: "Đây gọi là đánh cược gì chứ, ngươi thắng hắn coi ngươi là đại ca, ngươi thua thì bản thiếu gia lại chịu khổ, một chút tổn thất khâm sai ngươi cũng không phải chịu sao?"

Mấy người con của Mục lão trại chủ đều có năng lực trước quan tiền, bây giờ Dương Hạo là khâm sai, nghĩ rằng tất sẽ có tiền đồ lớn, cậu con trai bảo bối này nếu theo hắn thì tiền đồ phía trước nhất định sẽ tốt hơn cả mấy ca ca của nó, cho nên Mục lão trại chủ vừa nghe thấy hai người đánh cược với nhau thì trong lòng đã mang một thái độ đầy lạc quan, hoàn toàn không hề ngăn trở, còn buông đứa trẻ ra.

Mục Vũ lập tức bước tới, nói với Dương Hạo: "Nào, đến đây, chúng ta đập tay làm thề, huynh là người lớn, lại là khâm sai, sau khi đập ba quyền thì không được đổi ý."

Dương Hạo thầm cười trong bụng: "Mục Vũ này đúng là vẫn mang tâm tính trẻ con, Diệp thiếu gia cho dù không có bắt được hùng ưng về thì vẫn có thể mua lấy một con, đâu thể để nó nhổ hết tóc được. Tên tiểu tử này có chút võ nghệ, điều khó có được chính là một ngày nào đó khi nó đầu quân cho mình, thì Mục Kha trại này cũng trở thành chỗ dựa của mình, mấy người con khác của Mục lão trại chủ lại đang làm quân quan ở Chiết phủ, vậy thế lực về người của mình cũng mở rộng thêm một bước rồi, cuộc mua bán này đúng là không lỗ chút nào." Sau đó hắn không hề do dự, đưa tay ra đâp "bộp bộp bộp" ba cái với đứa trẻ.

Đứa trẻ này sức lực không nhỏ. Ba quyền vừa đập vào thì bả vai đang bị thương của Dương Hạo lập tức bị đau, nhưng không muốn thiếu niên này xem thường nên mặt hắn cũng không nhăn.

Bích Túc ở phía không xa bất giác nói: "Ý? Bả vai Dương Hạo bị trúng thương, vết thương còn rất nghiêm trọng, sao lại khỏi nhanh như vậy?"

Diệp đại thiếu gia ôm con cú mèo chụi lông, lòng thầm chua xót, tỏ ra kì quặc nói: "Ngài ấy không khỏi nhanh mới lạ đấy, dược bổ không bằng thực bổ, thực bổ không bằng âm dương bổ..."

 Chương 163: Người đến Phủ Cốc.

Dương Hạo đã thắng.

Diệp công tử chơi chim quả thật là có tài nghệ, mới qua thời gian hai ngày mà đã bắt được một con chim ưng, đó là một con hùng ưng thảo nguyên thực sự, mà lại còn là một con tiểu ưng, đây không phải là con cú mèo mà Mục Vũ chơi, làm cho Mục Vũ nhay nhót lên sung sướng, Diệp công tử vốn trong mắt hắn bị coi là kẻ thù đã lập tức được coi như là thần tiên, được nó bái làm sư phụ nuôi chim.

Mục Vũ vì ván cá cược này mà mơ hồ trở thành người của Dương Hạo. Nhưng trước mắt Dương Hạo đối với việc di dân đến đâu ở thì vẫn là một ẩn số, hơn nữa tuổi của Mục Vũ thực tế là quá nhỏ, muốn đến nha môn làm việc thì cũng phải lớn thêm hai tuổi nữa, cho nên trước mắt vẫn không thể đi theo được.

Ở Mục gia đã hai ngày rồi, đến ngày thứ ba, người mà Chiết đại tướng quân phái đến nghênh tiếp khâm sai và di dân đã đến, người đó chính là hạ bộ của Chiết đại tướng quân Đô Ngu Hầu - Mã Tông Cường, người đi cùng với hắn là Quân Đô Chỉ Huy Sứ - Xích Trung.

Mã Tông Cường là một người trẻ tuổi mới có 20 tuổi đầu, ở tây bắc, những chiến sĩ khi mới có 13, 14 tuổi đã cầm đao ra trận giết vô số địch thì nhiều vô kể, nhưng hơn 20 tuổi đầu mà đã lên tới chức quan Đô Ngu Hầu thì quả hiếm gặp, người này chắc chắn là tâm phúc của Chiết Ngự Huân. Còn Xích Trung Quân Đô Chỉ Huy Sứ thì đã hơn 40 tuổi, mắt sâu hoắm, mũi chim ưng, có chút huyết thống người Hồ, tay cầm thiết giáp leng keng, rất có phong thái người học võ.

Dương Hạo mượn phòng khách của Mục gia để gặp hai vị tướng quân, đợi dâng trà nóng lên thì Mã Tông Cường mặt mày vui vẻ nói: "Dương khâm sai, từ khi biết khâm sai mang theo di dân Bắc Hán đến đây thì tiết độ sứ đại nhân vui mừng không thôi, vốn muốn đích thân tới đây nhưng không có cách nào vì công vụ bận rộn không dứt ra được, vì thế đã đặc biệt ra lệnh mạt tướng thay ngài ấy đến trước, cung nghênh khâm sai đại nhân và dân chúng đến Phủ Châu. Để biểu thị long trọng, Xích tướng chủ sẽ đích thân đưa binh mã hộ tống mọi người."

Xích Trung hai tay chắp lại, lớn tiếng nói: "Bản quan có thể vì sứ giả khâm sai mà tiên phong thì thật là vinh hạnh vô cùng."

Dương Hạo vội nói: "Quân chủ khách khí rồi, bây giờ dân chúng đã có thể bình yên tới đất Phủ Châu, nhiệm vụ di dân của sứ mạng khâm sai ta cũng đã hoàn thành, Dương Hạo chức vị thấp, không dám nhận lễ cuẩ hai vị đại nhân. Dương Hạo đã đến đây thì tất nhiên sẽ nghe theo sự sắp xếp của Tiết Độ Sức đại nhân. Nhưng trong lòng ta vẫn còn một nghi vấn, Mã tướng quân, không biết Tiết Độ Sứ định sắp xếp như thế nào cho mấy vạn dân chúng? Dương Hạo theo lý thì nên đến Phủ Cốc để gặp Tiết Độ Sứ đại nhân, nhưng mấy vạn dân chúng này đi bộ đường xa tới, người ngựa ồ ạt, tiết độ sứ thương cảm dân chúng, nếu như đã sắp xếp chỗ ở thì vẫn nên trực tiếp đưa dân chúng tới chỗ ở cho thoả đáng đã."

Mã Tông Cường cười nói: "Chuyện này Dương khâm sai không phải lo, tiết độ sứ đại nhân đã tìm một nơi tốt cho mấy vạn dân chúng. Ở chỗ đó non xanh nước biếc, đât phì nhiêu, có thể trồng trọt và chăn nuôi, mấy vạn dân chúng chắc chắn có thể sống được, cũng không cần phải lo kế sinh nhai sau này. Viên ngoại Lý Ngọc Xương đã đến đó trước để dựng nhà cho dân chúng, tất cả nhưng lương thực, trâu cày, lưỡi cày cần có trước khi triều đình cấp phát thì tiết độ sứ đại nhân cũng sẽ điều động mượn từ nơi khác, chắc chắn sẽ dàn xếp xong xuôi."

Dương Hạo vô cùng vui mừng, đưa được những người này đến đây thì sứ mệnh của hắn cũng đã kết thúc. Những chuyện sắp xếp còn lại là chuyện của triều đình, hắn vốn không muốn để tâm lo lắng nhưng nhiều ngày khổ cực sớm chiều ở chung, sinh tử cùng nhau, nên hai bên đều có cảm tình, mỗi lần vào rừng sâu thăm bách tính, những sự hoan nghênh và ủng hộ mà hắn nhận được làm cho hắn có thể cảm nhận được sâu sắc khát vọng được nương tựa sinh sống yên ổn của dân chúng đối với hắn, cái cảm giác trách nhiệm cũng vì đó mà không thể bỏ đi.

Sau khi bàn bạc với hai vị tướng quân, nghỉ ngơi một lát thì Dương Hạo cáo từ đám người ở Mục Kha trại, đưa dân chúng đến Phủ Cốc. Mấy vạn dân chúng tốc độ đi luôn chậm chạp, nhưng chậm thì cũng có lúc đi đến đích, mấy ngày đi đường, ngày mai đến Phủ Cốc rồi, Dương Hạo vui mừng vô cùng, trằn trọc trong trướng một lúc lâu mà không ngủ được, tự nhiên đứng phắt dậy ra bên ngoài.

Nơi đây là một vùng thảo nguyên, xung quanh là người ngựa hộ vệ của Xích Trung, ở giữa là nơi nghỉ ngơi của dân chúng. Dân chúng đều được Ỡtrong trướng, trên những cái trướng không hề có đèn dầu, chỉ có xung quanh đám binh sĩ là đốt mấy đống lửa, giống như sao lấp lánh trên bầu trời.

Dương Hạo bước tới chỗ cao của sườn núi, ngồi xuống bãi cỏ, dưới bầu trời yên tĩnh đưa mắt nhìn về hướng Phủ Cốc, tâm hồn của hắn nhất thời có chút lơ lửng. Mấy lần thoát mạng trong cái chết bây giờ trọng trách đã được giao lại, hắn cảm thấy rất nhẹ nhõm, nhưng lại có chút hư không mờ mịt. Một nam nhân phải luôn có chút trách nhiệm, có chút việc cần đảm đương thì mới có động lực và ý nghĩa của cuộc sống.

Nhưng, trách nhiệm bây giờ đã hết, thật sự thoải mái nhẹ nhõm sao? Bá Châu. Bá Châu, Dương Hạo không kìm nổi mà quay đầu nhìn lại, ở Bá Châu có những tháng ngày gian khổ nhất của hắn, cũng có những kí ức ngọt ngào nhất, bây giờ tất cả đều như những cảnh tượng huyền ảo, khi quay đầu lại, hắn đã chỉ còn một thân một mình.

"Bá Châu à, Đinh Thừa Nghiệp!" Nghĩ đến nỗi đau, hai tay của Dương Hạo lại nắm thật chặt.

"Dương Hạo!" Phía sau đột nhiên có tiếng người truyền đến, Dương Hạo hơi giật mình, hai bàn tay nắm chặt dần buông lỏng ra, hắn quay đầu lại nhìn,thì thấy Đường Diễm Diễm đang đứng dưới sườn núi. Chiếc áo choàng buộc trên vai nàng đang bay nhè nhẹ trong gió, tóc nàng cũng bay lất phất qua mặt, đôi mắt lấp lánh giống như ánh sáng sáng ngời của những vì sao trên trời.

"Đường cô nương, cô vẫn chưa ngủ sao?"

Đường Diễm Diễm mỉm cười, hai tay cầm mép áo choàng, bước từng bước tới. Những bước đó vừa yên lặng lại vừa mềm mại, giống như một con mèo đang đi nhẹ trên cỏ vậy. Dương Hạo lần đầu tiên nhìn thấy nàng đi đường mà lại lộ ra mùi vị nữ nhân như vậy. Từ sau đến đó, đây là lần đầu tiên hai người trong đêm tối gặp nhau.

"Huynh cũng vậy mà." Đường Diễm Diễm thoải mái ngồi xuống bên hắn, nghiêng mặt nhìn Dương Hạo, có lẽ là đã gần nhà nên dũng khí của nàng cũng đã mạnh mẽ lên, thần sắc điềm tĩnh hơn.

Dương Hạo cố ý không nhắc đến sự xấu hổ của đêm hôm trước, hắn hiền từ mỉm cười, nói: "Chặng đường này là đấu với trời đất, chốc chốc lại đấu với kẻ địch như lang như sói, mấy lần thoát chết, giờ thấy sắp hoàn thành sứ mạng rồi, nhưng lòng lại cảm thấy có gì đó mờ mịt và hư không, lại không thể ngủ được."

Đường Diễm Diễm mỉm cười: "Thật là không thể hiểu được tâm tư của nam nhân các huynh, có gì mà mờ mịt chứ, giao đi cái trách nhiệm này thì người sẽ nhẹ nhõm hơn, nên vui mừng mới phải, chuyện lần này đô giám huynh chắc lại được thăng quan chứ?"

"Có lẽ thế." Dương Hạo nhìn về phía xa buồn buồn mỉm cười: "La Khắc Địch chết rồi, Từ Hải Ba chết rồi, Hách Long Thành cũng chết, còn có rất nhiều tướng sĩ, rất nhiều dân chúng, ta bây giờ vẫn sống, chỉ cảm thấy ...ta sống mà nợ họ rất nhiều, thăng quan ư...ta chẳng thấy vui mừng gì, ngược lại còn thấy bất an."

"Huynh này, không cần phải làm khổ mình như thế được không?" Đường Diễm Diễm cầm tay xúc động dịu dàng nói với hắn.

Bàn tay của nàng man mát, hình như vừa mới tắm xong, làn da trơn mềm: "Huynh không nợ ai gì cả, những gì cần làm huynh đã làm rồi, hơn nữa còn làm rất tốt. Huynh không biết rằng bây giờ dân chúng tin tưởng và ủng hộ huynh như thế nào sao. Muốn làm cho cả nghìn gia vạn hộ đến từ các châu huyện khác nhau đều kính trọng một người thật là khó, huynh biết không? Huynh đã làm được, huynh chính là một đại anh hùng đáng nể. Anh hùng không nhất định phải khua đao múa kiếm chặt đầu người, những gì huynh bỏ ra không hề ít hơn so với những tướng sĩ đã chết."

Dương Hạo có chút ngạc nhiên nhìn nàng, không ngờ từ một nha đầu luôn cho hắn cảm giác điêu ngoa dã man lại cũng có một mặt dịu dàng mềm mại như nước, dịu dàng động lòng người như vậy. Đường Diễm Diễm bị hắn nhìn như vậy lại đột nhiên năm tay người ta nên bất giác khuôn mặt nóng lên, vội vàng thu tay về, xấu hổ nói: "Thực ra...người ta cũng không phải là điêu ngoa như vậy, chỉ là...trong nhà chỉ có đám ca ca đệ đệ, đường huynh, đường đệ, không có một tỷ muội nào, người ta bị lẫn trong bọn họ, nói chuyện to thành quen rồi, muội không nói to thì họ sẽ không sợ muội."

Dương Hạo không nhịn được mà cười, Đường Diễm Diễm vội nói: "Muội nói thật mà..."

"Ta đương nhiên là tin rồi." Dương Hạo mỉm cười nhìn khuôn mặt xinh đẹp của nàng, không hiểu sao lại đột nhiên nhớ tới cái ngày hôm đó ở chùa Phổ Tế đã nhìn thấy cái eo thon nhỏ xinh đẹp, cánh tay trắng mịn đẫy đà, giống như một quả đào đang chín đỏ. Khuôn mặt này, khuôn mặt đó, cứ giao thoa với nhau xuất hiện trong đầu, đều là những cảnh tượng làm người ta khó quên. Một nữ tử điêu ngoa đột nhiên hiền dịu như nước giống như một người đẹp lạnh lùng đột nhiên mỉm cười xinh tươi vậy, rất có hiệu quả công kích thị giác, làm cho người ta phải động lòng trắc ẩn.

Đường Diễm Diễm bị đôi mắt sáng quắc của hắn nhìn vào làm cho tâm trí hoảng loạn, nàng vô thức mà thu người lại, thấp giọng hỏi: "Sao vậy?"

Trong lòng Dương Hạo đột nhiên hiện lên một cảnh tượng thanh lệ khác, giống như một cánh hoa sơn chi đang cúi đầu xuống, làm tỉnh lại thần trí của hắn, hắn lắc lắc đầu, ngọn lửa trong ánh mắt đột nhiên ảm đạm đi: "Không có gì, cô nương sớm về ngủ đi. Ta ngồi đây một lát rồi cũng về nghỉ."

Hắn quay đầu, ngẩng mặt lên nhìn bầu trời đầy sao. Đường Diễm Diễm yên lặng nhìn hắn một lát rồi cũng ngẩng đầu lên theo, những thứ lọt vào mắt nàng là những vì sao lấp lánh, nhưng hình ảnh xoay trong tâm trí nàng, quanh quẩn trong đầu nàng lại là bóng hình hắn. Trong nhà huynh đệ rất nhiều, nàng đã không phải là lần đầu tiên tiếp cận gần như thế với nam nhân, nhưng tại sao lần này lại căng thẳng, tim lại đập nhanh, mặt lại nóng lên như vậy?

Giống như uống một hũ rượu say thì phải, ngất ngây vui vẻ một hồi lâu rồi nàng không kìm được, kéo kéo bả vai Dương Hạo, thấp giọng hỏi: "Chuyện này xong rồi, huynh có thể ở lại đây không?"

Dương Hạo định thần lại, chần chừ nói: "E rằng...chuyện này không do ta làm chủ."

Đường Diễm Diễm ngượng ngùng nói: "Người ta là muốn hỏi ý của huynh mà, nếu như huynh muốn ở lại đây thì ta có thể bảo tam ca đi nói tốt cho huynh, huynh ấy và đại công tử Chiết phủ vốn có giao hảo, nói hộ huynh mấy lời thì rất dễ, chỉ là...sợ huynh không nỡ rời xa thế giới phồn hoa của Trung Nguyên thôi.

Dương Hạo nói: "Thế giới phồn hoa của Trung Nguyên?" Trong lòng hắn có chút thở dài, nói: "Ta trước đây từng nghe nói một câu, người ta nói, nếu trong lòng bạn là thiên đường thì dù thân ở dưới địa ngục cũng là thiên đường. Nếu lòng bạn là địa ngục thì ở trên thiên đường cũng là địa ngục. Không có người thân, bằng hữu, không có một người sớm tối ở bên, dù có đến Trung Nguyên phồn hoa thì có thể làm gì được?"

Đường Diễm Diễm khuôn mặt đỏ lên, nàng...cuối cùng đã nghe được chính miệng Dương Hạo thổ lộ rồi. Tiểu cô nương trong lòng tràn đầy vui mừng, xấu hổ một lúc, cúi đầu xuống, nghẹ nhàng nói: "Huynh...trong lòng huynh có ta...ta rất vui..."

"Sao cơ?" Dương Hạo tỏ rõ sự ngạc nhiên, lập tức tỉnh ngộ. Nàng ấy tưởng rằng...người sớm tối ở bên mà mình nói là nàng ấy...sao lại có thể gây ra hiểu lầm như vậy chứ? Đông Nhi vừa mới qua đời không lâu, bóng hình xinh đẹp còn đang ẩn hiện trước mắt, vết thương trong lòng Dương Hạo vẫn chưa lành, tuy nói vị cô nương trước mắt rất làm người ta động lòng, hắn cũng thích tính cách thoải mái như vậy, nhưng thật sự chưa từng nghĩ đến phát triển thêm một bước.

Lúc này nhìn thấy cô nương nhà người ta hiểu nhầm ý của mình, hơn nữa thổ lộ tình ý của nàng, Dương Hạo mới nhận ra sự nghiêm trọng của vấn đề. Trong lòng cô nương này đại khái có được một tình lang thì vạn sự đã đủ rồi. Nhưng hắn đã qua cái tuổi nằm mơ rồi, sao có thể chỉ nghĩ về tình ái mà không tính toán cái khác?

Lần này đoạt tiết là đại nghịch bất đạo, trong triều tất có ngự sử tốt tội. Nhưng thành công đưa mấy vạn dân chúng Bắc Hán trở về, đồng thời bảo toàn danh tiếng của quan gia, làm suy yếu nghiêm trọng thực lực của Bắc Hán, đối với Đại Tống mà nói có công lao như khai phá đất. Phần công tội này rốt cuộc là thưởng hay phạt thì đều nằm ở ý của quan gia. Bây giờ tự mình không thể biết, hắn sao có thể suy nghĩ chuyện gia thất?

Bá Châu là nơi hắn nhất định phải quay trở về để giải quyết ân oán, không có tội chứng của Đinh Thừa Nghiệp thì quan cũng khó có thể xử, nếu như dùng đến lực lượng riêng thì hậu quả rất khó đoán trước được. Hơn nữa, Đường Diễm Diễm lại là đại tiểu thư Đường gia, Đường gia tiền nhiều thế mạnh, chưa chắc đã coi một quan viên bát phẩm như hắn ra gì, có thể gả đại tiểu thư Đường gia cho hắn sao? Đường gia dựa vào Chiết gia, nếu như lấy Đường đại tiểu thư thì có nghĩa là mình sẽ đứng bên phía Chiết gia. Hắn còn nhớ trong lịch sử thời Tống làm gì có phiên trấn nào mà có thể đấu ngang hàng với Triệu quan gia đến cùng, cuối cùng còn bị thu lại sạch sẽ. Đến lúc đó ngồi cùng một con thuyền đang chìm, có đáng không?

Đã có những suy nghĩ như vậy, Dương Hạo vội vàng nói cho rõ ràng: "Đường cô nương, cô hiểu nhầm ý của ta rồi, Dương Hạo bây giờ còn chưa có ý định thành gia lập thất."

Đường Diễm Diềm liền xấu hổ, cằm của nàng đã sắp cúi tới ngực, đưa tay lên lấy áo che mặt, ngại ngừng nói: "Người ta...người ta đâu phải muốn huynh lập tức lấy đâu."

Hỏng rồi, chuyện càng ngày càng nghiêm trọng, khuôn mặt Dương Hạo có chút tái đi, lắp bắp nói: "Cô nương...ta...ta là nói, ta bây giờ còn mang nhiều gánh nặng, tiền đồ chưa định, không muốn đề cập đến nhi nữ tư tình."

"Cái gì?" Đường Diễm Diễm đột nhiên ngẩng đầu lên, sắc mặt có chút trắng bệch ra: "Huynh...huynh như thế là có ý gì? Huynh nếu như đối với muội...đối với muội không có tình ý gì, vậy...khi ở cầu Trục Lãng Xuyên, tại sao...lại thổ lộ với muội như vậy?"

Dương Hạo ngạc nhiên nói: "Ở Trục Lãng Xuyên? Ta ở trên Trục Lãng Xuyên thổ lộ với cô bao giờ?"

Đường Diễm Diễm tức giận, nhảy lên nói: "Huynh có phải là muốn chơi trò xỏ lá không vậy? Lúc đó huynh chỉ tay vào muội, lại chỉ vào tim, chỉ lên trời, chỉ xuống đất..." Đường Diễm Diễm nhấn mạnh từng từ giải thích một lượt, làm cho Dương Hạo há mồm trợn mắt, hắn không ngờ việc đoán đố đấy lại gây ra hiểu lầm lớn như vậy, Dương Hạo thấp thỏm lo âu, vội đứng dậy, giải thích một lượt ý mình vốn muốn nói.

Đường Diễm Diễm nghe xong thì như sấm đánh bên tai, nàng không ngờ rằng tất cả lại là tự mình đa tình, nhất thời vừa xấu hổ vừa ngượng, trong lòng lại có một mùi vị khó chịu mà trước đây chưa từng có. Cánh mũi nàng động đậy, trong hai con mắt đã chứa đầy nước mắt.

Dương Hạo nhìn thấy nàng lệ ướt đôi mi thì trong lòng rất bất an, vội nói: "Cô nương quốc sắc thiên tư, tại hạ đã lọt vào mắt xanh, đó là phúc phận của Dương Hạo, nhưng, Dương Hạo trên mình mang quá nhiều trách nhiệm, nào dám đưa ra lời thề hẹn với người khác? Nào có thể xứng đáng với thâm tình như vậy của cô nương..."

"Huynh cút đi cho ta!" Đường Diễm Diễm khuôn mặt xanh lét, oán hận chỉ vào chóp mũi hắn nói.

"Đường cô nương....."

Đường Diễm Diễm từ xấu hổ trở nên tức giận, đã rút kiếm ra khỏi vỏ: "Huynh cút đi cho ta, lập tức cút đi, còn không cút đi sao!"

Dương Hạo tự biết thân hình mình dài hơn nhiều con sâu, Đường đại cô nương cho dù nhắm sai đầu thì thanh kiếm đó cũng sẽ không thất thủ, bây giờ cô ấy đang tức khí lên tận đầu, không nên trêu chọc nàng, vì vậy vội vàng không dừng bước rời đi.

Đường Diễm Diễm cầm kiếm đứng ở đó, cắn chặt răng nhìn Dương Hạo chạy về phía xa, đột nhiên chém loạn xạ, khóc ầm lên: "Huynh được lắm, được lắm, muội bảo huynh cút mà huynh cút thật, huynh là đồ khốn nạn không có lương tâm..."

Lúc này Trình Đức Huyền ở trong một cái trướng chung cùng với quan ghi chép đang ngồi quanh chân ngồi dưới đèn viết t kí, mơ hồ nghe thấy có người chửi lớn "đồ khốn nạn", hắn chợt chột dạ dựng tai lên, nghe thật kĩ, nhưng lại không nghe thấy tiếng gì. Trình Đức Huyền không yên tâm liền vồi vàng đứng dậy ra cửa trướng, hắn thò đầu ra giống như một con chuột từ dưới đất chui lên nhìn xung quanh, không thấy động tĩnh gì mới quay trở lại dưới ngọn đèn, cầm bút lên lại viết: "... Dương Hạo thừa nước đục thả câu, làm cho dân chúng hô vang 'vạn tuế, vui đến mức không thể tự kiềm chế. Gặp thần và tướng sĩ cấm quân đứng mà không chịu quỳ, mới cảnh giác, vội xuống ngựa mà quỳ lạy về phia đông, lớn tiếng hô 'ngô hoàng vạn tuế'...

Trình Đức Huyền viết xong thư cho Triệu Quang Nghĩa, cẩn thận xem lại dưới ngọn đèn dầu, thấy không còn chỗ nào sai sót liền nhếch môi cười lạnh lùng nham hiểm. Hắn thổi thổi vết mực, rồi gấp bức thư cất vào trong ngực, đưa tay ra phất tắt ngọn nến một cái, nụ cười nham hiểm cũng tắt trong bóng đêm.

Khi trời sáng, Dương Hạo mặc quần áo sẵn sàng, vừa mới vén trướng lên thì nhìn thấy đô ngu hầu Mã Tông Cường của quân Phủ Cốc đã đứng ngay ngắn trước mặt, làm hắn giật cả mình, Dương Hạo liền lùi một bước, chắp tay nói: "Mã tướng quân đến rồi à, có chuyện gì sao?"

Mã Tông Cường ho một tiếng, nói: "Dương khâm sai, trời vẫn chưa sáng hẳn, Đường cô nương đã mang người đi rồi."

Dương Hạo cả kinh, thất thanh nói: "Sao cơ? Đi đâu rồi?"

"Trở về Phủ Cốc."

Dương Hạo lúc này mới yên tâm, hắn thầm nghĩ: "Ta tiền đồ bây giờ còn chưa biết ra sao, nào có thể nói chuyện tình ái định thân với người ta được chứ, một người đã bị ta hại rồi vẫn chưa đủ sao? Đường cô nương, sự khổ tâm này của ta cũng không mong cô hiều, đau lâu chi bằng đau ngắn, Dương Hạo thật sự xin lỗi."

Hắn thở dài, cố làm ra vẻ ung dung nói: "Ha ha, Đường cô nương có 20 vị võ sĩ dũng cảm đi cùng, vốn không cần phải đi chầm chậm cũng chúng ta, muốn đi trước thì cứ đi trước thôi."

Mã Tông Cường thần sắc có chút kì quái nói: "Đường cô nương trước khi đi còn nhờ ta gửi lại ngài một câu."

Dương Hạo căng thẳng, chột dạ hỏi: "Đường cô nương nói gì?"

Mã Tông Cường càng tỏ ra cổ quái: "Đường cô nương nói, cô ấy sẽ cùng với đám huynh đệ Đường môn đợi ở Phủ Cốc, món nợ ở chùa Phổ Tế cả vốn lẫn lãi nhất định sẽ tính cẩn thận với Dương đại nhân..."

Dương Hạo vừa nghe xong thì đơ ra như phỗng.

Mã tướng quân thấy tình hình như vậy thì thầm nghĩ ngợi: "Thật là đáng thương, nhìn thế này thì Dương khâm sai thật sự đã nợ người ta rất nhiều tiền....."

× × × × × × × × × × × × × × × × × × × × × × × × × × × × × × ×

Phủ Cốc, trăm hoa đua nở, nội đường bạch hổ của tiết độ sứ quân Vĩnh An, Chiết Ngự Huân cả người mặc quân phục, đang ngồi thẳng ngay ngắn.

Tiết độ sứ có sáu đạo tinh lễ, hai môn nhã kì, có quyền làm việc ở khai nha phủ nội, theo ngày mà đến tiết đường. Vì tiết đường thường bố trí ở phía tây phủ đệ, còn bạch hổ tượng trung cho phương tây, vì vậy người ta gọi là bạch hổ tiết đường. Bạch hổ đường là nơi quân cơ trọng địa, tương đương với bộ quân bị tư lệnh của hậu thế, nhưng việc không phải là quân cơ đại sự thì không thể làm ở đây.

Lúc này Chiết Ngự Huân ngồi trên ghế cao, phía trước có mười mấy viên hổ tướng đang mặc áo giáp đang đứng, Chiết Ngự Huân uy phong lẫm liệt, cao giọng điểm tướng điều binh, giọng nói có lực, chúng tướng nhận lệnh đồng thanh đáp. Sau khi ra lệnh xong thì Chiết Ngự Huân đập bàn đứng lên, nói với chư tướng đang đứng nghiêm như núi: "Chư tướng chia ra dẫn quân canh phòng nghiêm ngặt khắc nơi, đề ngừa thảo khấu vào làm loạn, bản tướng giờ phải đích thân dẫn quân đi dẹp loạn thất bộ Đảng Hạng, các vị tướng quân hãy lui ra đi."

Chúng tướng đồng thanh hô, áo giáp hình lớp cá va vào nhau kêu leng keng, rồi từ từ lui ra bên ngoài, nhận lệnh cầm binh chia ra đi trấn giữ các vùng hiểm yếu. Ngựa phi như bay, những người đi theo Chiết tướng quân đi bình phản thì vào hiệu trận đợi lệnh, còn có cả quân tư mã, văn thư, thư ký, truyền lệnh của truyền lệnh, điều binh của điều binh, phát lương của phát lương, một cảnh tượng thật náo nhiệt.

Khi mọi người đều lui ra hết thì trên đường nghị sự chỉ còn năm tướng lĩnh đứng trơ trọi, năm vị tướng này ngoài một người khoảng 30 tuổi thì những người còn lại đều là tiếu niên tướng quân, tuy là mặc quân phục nhưng xem ra tuổi lại chưa quá 16, 17 tuổi. Vị tướng tam tuần là em ruột của Chiết Ngự Huân, Chiết Ngự Khanh, bốn vị tướng kia là con trai của Chiết Ngự Huân: Chiết Duy Chính, Chiết Duy Tín, Chiết Duy Xươngvà con trai của Chiết Ngự Khanh là Chiết Hải Siêu.

Người ngoài đã đi hết, Chiết Ngự Khanh liền tiến lên trước, chắp tay nói: "Đại ca, chiến trận đao thương không có mắt, lần này huynh đi phải cẩn thận."

Chiết Ngự Huân cười ha ha nói: "Ôi, đệ lại không phải là không biết ý đồ ta đi lần này, có gì mà nguy hiểm chứ? Ha ha, có điều lần này ta đi cho dù là giả dạng nhưng nhất thời cũng không dễ trở về, nếu không sẽ khó mà nhìn mặt quan gia. Ta đã dâng tấu sớ lên quan gia, một là muốn nói rõ chuyện này, Đảng Hạng thất bộ làm loạn, Chiết mỗ ta vì nước tận trụng, đích thân đi thảo phạt giặc.

Thứ hai, chính là muốn bẩm tấu với quan gia chuyện mấy vạn di dân Bắc Hán đã bình an tới Phủ Châu, tiết độ sứ ta đã sắp xếp cho họ ở vùng Lô Hà Lĩnh thảo nguyên xinh đẹp, đất đai màu mỡ cả nghìn dặm.

Con trai của Chiết Ngự Huân - Chiết Duy Xương chen lời vào nói: "Cha cha, e rằng một khi quan gia biết được rõ địa hình vùng đó sẽ biết cha có lòng cảnh giác với triều đình."

Chiết Duy Xương năm nay mới 12 tuổi, tuổi quả thực là rất nhỏ, nhưng phía tây bắc tạp hồ và phía bắc người Khiết Đan đa phần là 12, 13 tuổi đã lên trận giết địch, Chiết Duy Xương thân làm con trại Chiết đại tướng quân, tuy không cần tuổi nhỏ ra trận giết địch, nhưng mỗi lần mở tiết đường điều binh khiển tướng thì Chiết Ngự Huân cũng đều để nó mặc áo giáp đứng bên để khai sáng trí tuệ.

Nghe thấy nó hỏi thì Chiết Ngự Huân cười ha ha, hắn xuống khỏi ghế thống soái, vỗ vỗ vào vai con trai nói: "Xướng Nhi, Triệu quan gia còn cần phải hiểu về địa lý vùng đó mới biết được tâm ý của cha sao? Nhưng thấy sóng gió Tây Bắc nổi lên, cha lại đích thân xuất trinh, trong lòng ngài ấy đã hiểu rõ hết rồi. Chỉ là trong tình thế nguy hiểm thì không tiện vạch mặt nhau ra thôi. Cha cho ngài ấy một bậc thang, ngài ấy buông cho ta một bước, mọi người đều được ngày nào qua ngày ấy."

Nói xong, Chiết Ngự Huân quay đầu nói với Chiết Ngự Khanh: "Đệ à, Lô Hà Lĩnh là thổ danh địa phương, vì trong sớ huynh tâu có chút mơ hồ, quan gia nhất thời sẽ không hiểu được có vấn đề gì, đợi khi ta đi rồi, vị khâm sai đó đến thì đệ nhất định phải giữ hắn ở Phủ Châu, lệnh cho người khác dẫn dân chúgn đến Lô Hà Lĩnh."

"Giữ hắn lại Phủ Châu? Ý của đại ca là..."

"Không sai, giữ hắn lại Phủ Châu. Nếu như hắn theo đến Lô Hà Lĩnh phát hiện ra địa thế nhỏ bé của vùng đó rồi lập tức nói rằng không ổn thì phải làm sao? Chúng ta theo quan gia, cho dù là giả khách khí, thì bây giờ vẫn phải giả khách khí tiếp, nếu cùng lột mặt nạ của nhau ra thì cả hai đều khó coi cả. Cho nên, đệ phải giữ hắn lại Phủ Châu, hắn thích tiền thì cho hắn tiền, thích rượu thì cùng uống với hắn, thích nữ nhân à, Duy Chính này, bảo mấy đám bạn của con dẫn hắn đi tìm hoa hỏi liễu là được, tóm lại để hắn ở lại cùng Phủ Châu, phải để di dân Bắc Hán định cư xong không thể thay đổi được mới thôi."

Chiết Ngự Khanh và bốn người con cháu đồng thời chắp tay, đồng thanh nói: "Mạt tướng tuân lệnh!"

Chiết Ngự Huân hất tà áo, mắt đan phượng híp lại, cười ha ha.

Khi Dương Hạo đưa dân chúng đến Phủ Cốc thì tới một lỗi rẽ, viên quan được phái dẫn dân chúng đến Phủ Cốc liền đưa họ đi về phía tây, nói là đến Lô Hà Lĩnh, đại tướng Xích Trung dân binh theo hộ vệ. Còn Dương Hạo được mời vào trong phòng, gặp nhân vật quan trọng của Phủ Cốc.

Vị Chiết đại tướng quân này sắp xếp đâu ra đấy, dân chúng bất kể là đi đến đâu thì bảo trại địa phương đều sẽ mang cháo mang lương thực đến tiếp vô cùng chu đáo, lần này còn có cả Xích Trung đại tướng cho quân bảo vệ xung quanh cho nên Dương Hạo không cần phải lo lắng.

Thực tế hắn lo cũng vô dụng, nhiệm vụ khâm sai của hắn là đưa dân chúng an toàn đến đây, sứ mệnh đã hết. Bây giờ sắp xếp di dân như thế nào thì là chuyện của quan phủ địa phương, đã không cần hắn phải lo nữa rồi. Nhưng chức danh khâm sai này của hắn vẫn chưa phục chỉ, tiết việt vẫn trong tay, người nhà Chiết đại tướng quân bán mặt cho Triệu quan gia nên vẫn phải khách khí với hắn như vậy, nếu không hắn dựa vào quyền vị chức quan mà chống lại, nên Quân Đô Ngu Hầu Mã Tông Cường kông dám trừng mắt khi nói chuyện với hắn, ai lại dám không nói chuyện khách khí với hắn chứ.

Phủ Châu thành phân thành nam thành và bắc thành, hai thành cách nhau một con sông, tạo thành cái sứng. Bắc thành xây tại Sơn Lương, mặt nhìn ra Hoàng Hà, lưng áp vào vách núi đá, địa thể hiểm yếu, dễ thủ khó tấn công. Có tứ đại môn đông tây nam bắc và hai tiểu môn tiểu nam, tiểu tây. Các phía đầu thành đều xây thành lầu; kiến trúc nam môn, bắc môn và tiểu tây môn xây ủng thành (bức thành nhỏ ở ngoài cổng thành), tạo cho ngôi thành trì một bức tường đồng vách sắt. Chiết phủ đệ được xây ở trong thành này.

Phía nam bắc thành có một dãy núi có ngạch sâu áp vàp phía bắc Hoàng Hà, tên là Doanh Bàn Lĩnh, nơi đó có đóng trọng binh. Phía bắc bắc thành là trạm dịch Thạch Chuỷ, cũng là khu quân sự cứ điểm quan trọng, bắc thành mặt nhìn ra sông Hoàng Hà, lưng áp vào núi cao, hai bên có cứ điểm binh doanh hiểm yếu, bảo vệ xung quanh vùng chính giữa.

Nam thành phía đối diện địa thể hiểm yếu không bằng bắc thành. Một con sông lớn từ phía bắc vòng qua đông và nhập vào Hoàng Hà, một mặt của thành này hướng ra sông, một mặt hướng về con đường thông lương thực với Lân Châu. Ngoài ra hai bên đều là vách núi hiểm trở, ba mặt dễ thủ khó tấn công, duy chỉ có một mặt là Mã Bình Xuyên, thành này một khi đã mất thì ngàn vạn lần khó mà lấy lại được.

Thành mà Dương Hạo muốn vào chính là nam thành, so với bắc thành thì nam thành phồn hoa giàu có hơn, rất nhiều quan lại chính yếu của Phủ Cốc đều sống ở nam thành. Mắt thấy sắp tới thành, Dương Hạo bất giác lo lắng, với chức quan của hắn hắn đương nhiên là không trông mong Chiết đại tướng quân sẽ xếp quân ra ngoài nghênh đón, nhưng hắn rất sợ Đường đại tiểu thư sẽ kéo đám huynh đệ Đường môn đến cổng thành chờ.

Lần này nếu đến trước Phủ Châu thành mà phía trước cổng thành lại có tới mấy trăm hán tử cường tráng đứng đợi, phía trước có một tiểu nương tử đứng khóc lóc, kéo người kéo ngựa lớn tiếng chửi người thì cảnh tượng đó thật là kinh khủng, mặt của mình cũng không biết giấu đi đâu nữa. Theo như cá tính của Đường Diễm Diễm thì chuyện đó không phải là không thể làm ra.

Cho nên mắt thấy thành trì càng lúc càng gần, Dương Hạo như miếng băng mỏng đang rơi xuống vực sâu, nơm nớp lo lắng đề phòng, Bích Túc đi bên cạnh mặt nhìn chăm chú, bất giác cười nói: "Huynh ngay cả quan gia cũng đã từng gặp mặt, lần này đến gặp tiết độ sứ sao lại căng thẳng thành ra bộ dạng như thế này?"

Dương Hạo xoa xoa cằm, lòng vui trong nỗi khổ: "Bích Túc này, ngươi nói xem ca ca có thật sự có sức hấp dẫn lớn như thế không? Trên chặng đường chỉ toàn đao kiếm này ta không hề chỉn chu trang phục, sao lại có thể thu hút ong bướm tới được?"

 Chương 164: Lòng như có thiên đường.

Dương Hạo bình yên tiến vào thành nam Phủ Cốc, nhưng không hề nhìn thấy một đệ tử Đường môn nào, lúc này lòng mới yên tâm lại. Trình Đức Huyền cũng được dẫn đến trạm dịch, Dương Hạo và Trình Đức Huyền lần lượt được đưa vào các phòng ở, nước nóng đã được chuẩn bị sẵn sàng, mọi người lần lượt tắm rửa thay quần áo, chỉnh lại đầu tóc râu ria. Mã Tông Cường đã ở lại ụ Bách Hoa để thông báo, Vĩnh An Quân tiết độ sứ Chiết Ngự Huân có thể đến gặp họ bất cứ lúc nào.

Sau khi tiến vào thành Phủ Châu, Dương Hạo đã cơ bản hiểu được tình hình trước mắt, biết rằng Chiết đại tướng quân đã đích thân dẫn quân đi diệt thổ phỉ, bây giờ do em ruột của Chiết đại tướng quân làm chủ, đương nhiên nên sang phủ bái kiến. Dương Hạo chuẩn bị sẵn sàng, ngồi trong phòng thầm nghĩ: Ở đây mọi việc đều là do hắn làm chủ, mọi người đều coi hắn là người đứng đầu, chính khâm sai Trình Đức Huyền cơ hồ đã bị mọi người coi như vô hình, đó cũng là việc bất đắc dĩ mà thôi. Nếu như sứ mệnh khâm sai của mình đã hoàn thành thì còn có thể vượt quá chức phận nữa sao? Trên các thông báo của triều đình mà các quan phủ nhận được viết rõ ràng sứ giả khâm sai lấy Trình Đức Huyền làm người đứng đầu, Dương Hạo là phó.

Dương Hạo ngồi trong phòng thầm nghĩ đi nghĩ lại, bất giác nghĩ đến lời thành thật mà La Khắc Địch đã nói với mình trong Ngọ Cốc. Lời nói đó hắn đã thật sự đi vào trong lòng, nhưng trăm chuyện rối ren nào có thời gian hoà hoãn tình cảm với Trình Đức Huyền, hơn nữa khi mới gặp mặt tên Trình Đức Huyền này hắn nhìn thấy ai cũng đều dính trên miệng một nụ cười mỉm như gió xuân, nhưng bây giờ lúc nào cũng hằm hằm u ám. Nếu thời gian không thích hợp thì quả thực là khó có thể tiếp cận được.

Nhưng những tính toán mà hắn đã suy nghĩ khổ tâm vì mình vẫn văng văng bên tai. Xét từ góc độ tình cảm mà nói, Dương Hạo không muốn trái với ý tốt của người bạn quá cố, đồng thời hắn cũng tin tưởng rằng nếu kéo Trình Đức Huyền đến, chia một phần công lao cho hắn thì thực ra là chuyện hai bên cùng có lợi, cái lợi này có liên quan tới bản thân hắn. Trình Đức Huyền đó sẽ không ngu xuẩn mà đem chuyện đoạt tiết để bẩm báo.

Còn về chuyện có thể vì thế mà bỏ hết tất cả hiềm khích với Trình Đức Huyền hay không thì không quan trọng. Trước mắt mới là việc cấp bách, bây giờ đã bày ra rõ ràng hậu sơn vững chắc của Trình Đức Huyền, mình trong chốn quan trường lại chỉ như một mảng lục bình trôi nổi, hoàn toàn không có chỗ bám, lúc này có thể tránh được một cường địch mới là cách làm đúng.

Còn chuyện sau này thì ai mà biết được chứ? Oán hận chất chứa 20 năm của Tể tướng đương triều Triệu Tấn với chi phủ Bá Châu còn không phải là đã nhẫn nhịn đến ngày hôm nay mới có thể tìm được cơ hội phát tác, kéo chi phủ Bá Châu xuống ngựa hay sao? Thành tích của Trình Đức Huyền trong tương lai chưa chắc đã so sánh được với Triệu Tấn, sao biết được địa vị sau này của mình sẽ không cao hơn hắn chứ?

Nghĩ tới đây, Dương Hạo đã ra quyết định, lập tức đi tìm Trình Đức Huyền, muốn hắn cùng đi gặp tiết độ sứ quân Vĩnh An, trên đường đi cũng có thể nói về ý định của mình. Nhưng không ngờ khi đến thì phòng của Trình Đức Huyền trống không, hỏi tiểu lại ở trạm dịch mới biết Trình Đức Huyền đã một mình đi dạo xung quanh rồi.

Dương Hạo quay về nơi ở của mình, trầm tư một lúc, rồi mài mực nhấc bút, dùng cái chữ xấu không thể ngửi được của hắn viết tấu chương, hắn đã viết theo sự dặn dò của La Khắc Địch, đề cập đến sự vô vọng khi đi theo hướng đông và việc quả quyết quay trở lại, còn việc đoạt tiết thì nhẹ nhàng lướt qua, chỉ nói mình và chính khâm sai xảy ra tranh chấp, nhưng dưới sự khuyên nhủ của chư vị tướng sĩ, Trình khâm sai đã biết lắng nghe và quyết ý quay trở về tây, cuối cùng đã bình an trở về đất Tống.

Viết xong tấu chương thì Dương Hạo liền nghĩ có cần phải thương lượng với Trình Đức Huyền một lần không, song nghĩ lại, lại cảm thấy như vậy khó tránh khỏi có chút ban ơn, có thể trình tấu chương trước rồi mới nói chuyện này cho Trình Đức Huyền biết, đây là chuyện lợi cả đôi bên, Trình Đức Huyền chắc chắn theo lý sẽ không từ chối. Lúc đó mình không cần nói gì cả, cả hai đều ngầm hiểu thì nhìn mặt nhau cũng dễ hơn.

Nghĩ đến đây, Dương Hạo liền phái người gọi dịch thừa đến (người chuyên chuyển thư từ công văn ngày xưa). Chữ của Dương Hạo đương nhiên là xấu, tài văn chương cũng chẳng cần phải nói, khi dịch thừa đến trước mặt để đóng phong ấn thì hắn có chút xấu hổ, nhưng không ngờ tên dịch thừa này lại hoàn toàn không hề để tâm đến. Hắn liền cho rằng Đại Tống tuy là là triều đại tài văn phong lưu, nhưng đây dù sao vẫn mới chỉ là đầu triều Tống, triều đình trên dưới có rất nhiều quan viên đều là những người thô kệch. Còn đại nhân vật như Triệu Tấn đã tưng dùng nửa bộ "Luận ngữ" để trị thiên hạ, nhưng đó không phải là khoa trương hắn chỉ dùng nửa bộ "Luận ngữ" đã có thể trị thiên hạ đâu ra đấy mà là hắn đang tự chế giễu mình ngay cả "Luận ngữ" cũng học không hết. Một tể tướng đương triều còn như vậy thì tố chất văn hoá của quan viên cả triều chỉ cần nghĩ cũng đã biết. Tên tiểu lại này nhìn nhiều chữ xấu rồi nên đương nhiên là không thấy lạ.

Dương Hạo sau khi phong ấn bức tấu viết theo cách thức quan viên mà mình đã tưởng tượng rồi đưa cho tiểu lại thông qua quân bưu gửi đến Biện Lương. Hiệu suất làm việc của quân bưu đương nhiên là cao, huống hồ đây là làm việc cho khâm sai. Những việc được bẩm lên Hoàng Đế người dịch thừa sẽ phải ghi vào giấy tờ, rồi lập tức cho người phi ngựa nhanh cả 600 dặm mang đi.

Khi vừa này vừa làm xong thì Mã Tông Cường liền đến chào hỏi, hắn muốn dẫn khâm sai đến gặp tiết độ lưu hậu Chiết Ngự Khanh. Dương Hạo và Mã Tông Cường lại đến chỗ của Trình Đức Huyền, thấy hắn vẫn chưa trở về, không muốn để Chiết tướng quân đợi lâu nên đành phải một mình theo Mã tướng quân đến ụ Bách Hoa gặp Chiết Ngự Khanh.

Trên đường lớn, Trình Đức Huyền đang ung dung tự tại, hắn giống như một người dân bình thường đi dạo phố, lúc thì dừng lại bên đường hỏi giá cả hàng hoá, lúc thì chen vào đám người đông đúc, thích thú thưởng thức trò mãi võ đầu đường với kĩ nghệ đập đá vỡ tan trên ngực, còn ném cho người ta hai đồng tiền. Tướng mạo của hắn ung dung nhưng hai mắt lại luôn cảnh giác nhìn xung quanh. Chặng đường xuống phía nam, Dương Hạo đã sai mấy tên sai nha thân binh của Chiết Thị âm thầm theo dõi hắn, phòng hắn giở trò, chỉ đến khi qua Trục Lãng Xuyên thì mới dừng sự coi lỏng khâm sai này. Nhưng Trình Đức Huyền là người lấy bụng ta so bụng người, luôn sợ Dương Hạo còn âm thầm sắp xếp người theo, hắn bây giờ trong người đang có mật thư rất quan trọng mà.

Trình Đức Huyền đi qua các con phố lớn trong thành Phủ Châu, dạo cả hơn nửa ngày đột nhiên nhìn thấy một cửa hàng, hai mắt hắn liền sáng lên, dừng bước lại. Bụng dạ quỷ quái của hắn không dám thông qua trạm quân bưu dịch để truyền mật tín xuống Biện Lương, nhưng hắn biết Triệu Quang Nghĩa tai mắt khắp nơi, trong các thành lớn thành giàu có trong khắp thiên hạ đều dựng một tín trạm bí mật, hơn nữa tất cả các tín trạm bí mật đều có đánh dấu nhưng không làm người ta quá chú ý, nếu như không phải là người biết tín trạm bí mật thì rất khó có thể nhận ra đánh dấu đó có gì khác thường.

Trình Đức Huyền đương nhiên không thể nhớ rõ Phủ Châu có tín trạm bí mật của Triệu Quang Nghĩa hay không, cũng không biết nếu có thì sẽ được đặt ở đâu, cho nên chỉ có thể ôm hi vọng mà khắp các nơi, bây giờ cuối cùng hắn cũng đã tìm được. Trình Đức Huyền vô cùng vui mừng, hắn đứng lại, cẩn thận phân biệt kĩ, xác định đánh giấu đấy không sai mới nhìn xung quanh và bước nhanh vào trong.

Đây là cửa hàng bán đồ da, thời tiết tháng 7 tháng 8 như thế này thì ai lại đến mua đồ da chứ? Cho nên nhìn chung là không có buôn bán gì, hai tên làm thuê ở quầy đang nằm soài ở quầy lười nhác ngủ gật, thấy Trình Đức Huyền bước vào thì chúng ngẩng đầu lên nhìn, một trong hai tên đó lười nhác hỏi: "Vị khách quan này muốn mua gì?"

Trình Đức Huyền bước chậm vào, bình tĩnh nói: "Ta muốn mua một ít xếp vải gai.", rồi đưa một đầu ngón tay lên chỉ chỉ, Trình Đức Huyền nói.

Tên bán hàng ngáp nói: "Khách quan, xin ngài nhìn cho kĩ, ở đây chúng tôi là cửa hàng bán đồ da."

"Ha ha, bán đồ da chưa chắc là không có vải. Ta đã nghe người ta chỉ mới biết tiệm các ngươi bán vải, chớ nên đuổi khách nhé, sẽ bị trưởng quầy quở trách đấy, hãy mời trưởng quầy các ngươi ra đây nói chuyện!"

Tên bán hàng lúc này mới mở trừng mắt lên, nhìn thăm dò hắn từ trên xuống dưới, thấy hắn thái độ ung dung, điềm tĩnh khí khái, rất giống một nhân vật lớn, liền bán tín bán nghi vén rèm bước vào trong phòng. Một lúc sau, một ông già gày gò có chòm râu sơn dương bước ra, vừa nhìn thấy Trình Đức Huyền liền chắp tay nói: "Lão hủ là trưởng quầy của tiệm này, vị khách quan này muốn mua vải sao?"

"Không sai."

"Nghe giọng của quý khách hình như không phải người đây?"

Trình Đức Huyền mỉm cười, nói với hắn: "Ta đến từ Biện Lương."

"Sao cơ?" Thần sắc của trưởng quầy có chút thay đổi. Ánh mắt trầm xuống, nghe giọng điệu nhẹ nhàng mà dứt khoát thì đột nhiên thay một bộ mặt khác, cười ha ha nói: "Tin tức của khách quan thật là nhanh nhạy. Lão hủ vốn là bán vải nhưng mấy ngày trước có người khách mua hàng không có tiền trả nên lấy một đống vải để trả, vẫn còn chưa biết phải xử lí như thế nào? Không ngờ ngài lại tìm đến tận cửa, không biết khách quan muốn mua bao nhiêu?"

"Ông có bai nhiêu thì ta mua bấy nhiêu."

Lão trưởng quầy nghe xong thì tươi cười nói: "Được được được, đến đây đến đây, xin mời khách quan vào trong, chúng ta nói chuyện chi tiết."

Hai người lần lượt bước vào trong phòng, để lại hai tên trông quầy quay mặt ngơ ngác nhìn nhau: "Trưởng quầy của chúng ta từ lúc nào mà có vải bán thế nhỉ? Sao ta không biết?"

Trong phòng, Trình Đức Huyền và lão trưởng quầy xác nhận thân phận của nhau, Trình Đức Huyền lúc này mới yên tâm, hắn lấy bức mật tín từ trong người ra, nhẹ nhàng đặt lên bàn, đẩy về phái lão trưởng quầy, nghiêm nghị nói: "Bức mật tín này cần phải đưa đến nham nha phủ Khai Phong, tận tay giao cho phủ doãn đại nhân, tuyệt đối không được xảy ra sai sót."

Trưởng quầy vuốt cằm nói: "Vâng, ngày mai ta sẽ bố trí người mang tơ lụa đến phủ Khai Phong, thuận tiện mang mật thư này tới."

Trình Đức Huyền trầm giọng nói: "Không được, như vậy thì bao giờ mới tới được phủ Khai Phong? Đây là đại sự rất cấp tốc, phải lập tức đi, đi trong cả đêm tối, phải đi với tốc độ nhanh nhất để đưa đến tay phủ doãn đại nhân."

"Nhghiêm trọng như vậy sao?" Trưởng quầy có chút kinh ngạc. Nghĩ kĩ lại mới nói: "Đại nhân, chỗ nơi xa xôi này mới được xây dựng không lâu, bình thường cũng không có việc cấp bách gì, vì thế trong tiệm ngoài lão hủ và một đứa cháu ra thì đều là dân chúng bình thường, họ không biết thân phận của lão hủ. Đại sự quan trọng như vậy không thể giao cho họ đi làm được. Cháu của ta thì vừa mới thành thân, hôm qua vừa mới bái đường mà lại bảo nó đi xa như vậy thì không hợp tình lí. Như thế này đi, nếu việc này đã là trọng đại thì lão hủ sẽ đích thân đi một chuyến."

Trình Đức Huyền rất vui mừng, nói: "Lão trưởng quầy vất vả rồi, việc này quả thật là rất quan trọng, liên quan đến bố cục của phủ doãn đại nhân ở tây bắc, cho nên ông nhất định phải cẩn thân, cần phải trong thời gian nhanh nhất đưa được bức mật tín này đến tay phủ doãn đại nhân.

Khi hai người đã bàn xong thì Trình Đức Huyền cáo từ rời khỏi. Hắn vừa bước chân đi thì phái sau lão trưởng quầy đã kêu hai tên người làm đóng cửa tiệm, nói có chuyện gấp phải về quê xử lí, tạm thời tiệm nghỉ mấy ngày, đợi khi nào cháu qua kì thành thân thì lại tiếp tục kinh doanh, rồi hắn vội vàng lên xe ngựa chạy như bay về phía phủ Khai Phong.

Trình Đức Huyền đứng ở đầu đường thấy chiếc xe đã đi xa, cơ hồ như đã nhìn thấy lưỡi đao kề trên cổ Dương Hạo, hắn cảm thấy rất khoái chí. Từ khi bị đoạt tiết đến nay đây là điệu cười đầu tiên thật sự phát ra từ lòng hắn, điệu cười này đầy sự êm dịu.

o0o

Trình Đức Huyền lại hân hoan vui vẻ đi dạo một lúc lâu mới trở về trạm dịch. Vừa bước vào cửa lớn thì một tiểu lại chạy đến cúi đầu nói: "Ngài trở về rồi, Dương khâm sai tìm ngài mấy lần."

Trình Đức Huyền lạnh lùng nói: "Hắn tìm ta làm gì?"

Tiểu lại cười bồi nói: "Mã ngu hầu mời hai vị khâm sai đến phủ để gặp tiết độ lưu hậu đại nhân, nhưng quả thực là không tìm thể tìm thấy đại nhân, cho nên Dương khâm sai đành phải đi một mình. Bây giờ Dương khâm sai trở về rồi thì ngài mới về."

Trình Đức Huyền cười lạnh một tiếng, phất áo đi, trở về phòng của mình ngồi yên, rồi nhâm nhi chén trà lạnh, cửa phòng đột nhiên có tiếng gõ cửa, Trình Đức Huyền quay đầu nói: "Vào đi."

Tiếng cửa cọt kẹt, Dương Hạo đẩy cửa bước vào, vừa nhìn thấy hắn thì sắc mặt Trình Đức Huyền trầm xuống, đặt chén trà lên bàn và lạnh lùng nói: "Khách quý à, Dương đại nhân khó khăn lắm mới bước chân qua cửa Trình Đức Huyền ta, nhưng trong phòng ta một chén trà nóng cũng không có, chỉ có chén trà lạnh này, ngài có muốn uống không?"

Hắn vừa nói lời giễu cợt trong lòng vừa suy nghĩ căng thẳng: "Hắn đến đây làm gì, lẽ nào bị hắn phát hiện có chỗ không ổn rồi sao? Ha ha, đến Khai Phong không phải chỉ có một con đường, cho dù có phát hiện thì hắn cũng không đuổi được."

Dương Hạo không để tâm, mỉm cười chắp tay, thành khẩn nói: "Trình đại nhân, lúc đầu chúng ta cùng góp ý kiến cho quan gia việc di dân Bắc Hán, đó cũng coi như là có chút cùng chí hướng. Nhận được sự tiếp thu của quan gia và chúng ta cùng phụ trách chuyện này. Lần này chúng ta phải cùng nhau sinh tử, cùng hoạn nạn mới đến được hôm nay."

Trình Đức Huyền hừ lạnh một tiếng, lòng thả lỏng nghĩ: "Hoá ra hắn không phát hiện ra gì, vậy hắn đến đây làm gì? Lẽ nào muốn làm lại quan hệ tốt với ta? Ha! Lúc này mới tỏ ra yếu thế với ta, muộn rồi, đã muộn rồi!"

Dương Hạo khẩn thiết nói: "Thực ra hướng đông cũng được, hướng tây cũng tốt, chúng ta đều là muốn hoàn thành sứ mệnh quan gia giao phó. Lúc đó đi về hướng đông tuy đoạn đường còn lại ngắn hơn nhiều, nhưng kị binh Khiết Đan ở trên đoạn thảo nguyên đó rõ ràng là đã bố trí sẵn cạm bãy, nếu Trình đại nhân cố chấp đi theo hướng đông thì không những tự diệt đi tính mạng mình, làm cho mấy vạn quân dân đi vào đường chết, mà còn phụ sự uỷ thác của quan gia. Ta nghĩ Trình đại nhân cũng không muốn có một kết cục như thế. Nếu như nói Trình đại nhân lúc đầu cho rằng con đường mà ta chọn có gì không thoả đáng thì bây giờ chắc cũng đã biết sự chọn lựa của hạ quan quả thực không sai. Hai người chúng ta không hề có thù oán riêng, tất cả đều là vì việc công. Dương mỗ vì sự việc cấp bách mà đã có chút mạo phạm, thỉnh Trình đại nhân có thể rộng lượng cảm thông."

Trình Đức Huyền cười ha ha, ngồi từ từ xuống bên cạnh bàn, vẻ mặt chính khí nói: "Dương đại nhân rất thẳng thắn, vậy Trình mỗ cũng nói thẳng. Ngài chọn tây đi là đúng hay sai, là công hay tội Trình mỗ không tiện xen vào, triều đình tự có xem xét. Còn về hai người chúng ta thì quả thực là không có thù riêng, Trình Đức Huyền ta rất thẳng thắn, quang minh lỗi lạc, cũng sẽ không so đo tính toán thù riêng gì với ngài, việc này ngài cứ yên tâm."

Mũi nhọn của lời nói hắn xoay lại, nói: "Nhưng, sứ giả ta, khi mà ý kiến của ta và ngài không đồng nhất thì vốn phải lấy ý của ta làm chủ,ngài tự ý lấy tiết việt phát khẩu hiệu thi lệnh, chuyển về hướng tây, Trình Đức Huyền ta có thể không tính toán với ngài, nhưng là một thền tử triều đình, chuyện khi quân phạm thượng như vậy, vô số người đều đang nhìn, Trình mỗ ta không dám che giấu, chúng ta phải nói rõ mọi chuyện. Khi ta trở về Biện Lương chuyện này nhất định sẽ bẩm báo cho quan gia biết. Chuyện này ta nghĩ đừng nhắc tới nữa."

Dương Hạo ôn hoà mỉm cười, cũng ngồi xuống bên cạnh, nói: "Trình đại nhân, chúng ta đã hi sinh 3000 tướng sĩ, hi sinh mấy nghìn dân, mới đưa được số dân chúng còn lại đến đây, ngài nghĩ triều đình sẽ cho rằng lúc đó đông hành mới là đúng sao? Đó không phải là gián tiếp thừa nhận sự hi sinh của mấy nghìn tướng sĩ và mấy nghìn dân chúng là vô nghĩa sao?

Nếu như triều đình đã cho rằng tây hành là chính xác thì việc đoạt tiết cũng không phải là tội lớn đầy trời nữa. Nhưng chuyện này trình lên triều đình thì tội danh Dương mỗ coi thường hoàng quyền chắc chắn sẽ bị định, nhưng đến lúc đó thì Dương mỗ công lớn hơn tội, cũng sẽ được giữ lại quan vị hiện nay, nhưng Trình đại nhân ngài không nhìn thấy nguy hiểm, cố chấp đông hành, cuối cùng phút cuối bị ta đoạt tiết việt đổi đường, một cái tội trạng "bảo thủ cố chấp" cũng không thể thoát được. Ngài nói xem, hà tất phải như thế."

Trình Đức Huyền ngẩng cổ lên trời cười ha ha, cuối cùng không nhịn được sự oán hận trong lòng, cười khẩy nói: "Vậy theo Dương đại nhân thì nên làm thế nào? Phải chăng là bản quan dâng tấu, thêu hoa dệt gấm nói hay nói tốt cho ngài, giúp cho Dương đại nhân ngài gia quan tấn tước?"

Dương Hạo mỉm cười nói: "Cũng không phải vậy, Dương mỗ không phải là muốn Trình đại nhân nói mấy lời tốt đẹp trước mặt quan gia. Trên thực tế, phải là Dương mỗ nói mấy lời tốt đẹp trước mặt quan gia cho Trình đại nhân mới đúng. Chuyện đoạt tiết việt chỉ cần ta và ngài bỏ qua không nhắc tới, "kiệu hoa mọi người cùng nhấc", thì ai còn dám tự tìm phiền phức chứ? Quan gia cũng hi vọng mắt nhìn người của ngài ấy là đúng, hai vị khâm sai quyết đoán kịp thời mới cho thấy quan gia dùng người chính xác, quan gia cũng được nở mày nở mặt. Huống hồ những tướng sĩ biết chuyện đều đã cùng sinh tử với chúng ta, sẽ không có người nào nói ra bí mật này đâu."

Trình Đức Huyền căn bản không hề nghe thấy vế sau của những lời này, trong lòng hắn hoàn toàn bị câu "Dương mỗ nói mấy lời tốt đẹp trước mặt quan gia cho Trình đại nhân" gây chú ý, lúc này vội vàng ngắt lời, hỏi: "Dương đại nhân, ngài nói đã nói tốt về ta trước mặt quan gia là có ý gì?"

Dương Hạo chắp tay cười nói: "Thỉnh thứ cho Dương mỗ mạo muội, chưa bàn bạc với Trình đại nhân đã viết tấu chương, lệnh cho dịch thừa đưa đến cho quan gia ròi. Trong tấu sớ kể về việc Dương mỗ tự tiện quyết định lúc lâm nguy, rồi chỗ người quyết sách đi theo hướng tây đã thêm vào tên của Trình đại nhân."

Mặt hắn trở nên nghiêm túc, trịnh trọng nói: "Đương nhiên, những gì mà Dương mỗ thuật lại trọng điểm nằm ở chặng đường đi phía sau, kể những lần gian khổ đấu với trời, đấu với đất, đấu với địch, đề cập đến nhiều nhất là những tướng sĩ đã tắm máu trên chiến trường. Phần công lao này đầu tiên là của những tướng sĩ đã quyên thân vì đất nước như La quân chủ, Lưu chỉ huy sứ, Hách chỉ huy sứ...có bọn họ ở phía trước thì dương mỗ và Trình đại nhân mới có thể lập được công lao này. Phần công lao này sẽ cùng hưởng với Trình đại nhân, chúng ta có thể bỏ đi ân oán trước đây cũng có sao đâu?"

Trình Đức Huyền ngẩn người ra, hoàn toàn đờ đẫn. Hắn hoàn toàn không có cách nào tưởng tượng ra được chuyện sau khi Dương Hạo đoạn tuyệt quan hệ với hắn rồi dùng trò may rủi để lập công công lớn này lại có thể nỡ chia phần công lao đó cho hắn cùng hưởf ng. Không sai, hắn biết cho dù tấu chương của mình đến được Biện Lương dẫn đến sự nghi kị của quan gia thì cũng chỉ là hại Dương Hạo mà thôi, hắn cuối cùng cũng sẽ chịu sự chỉ trích của đám ngự sử vì sự tính toán sai của mình. Vậy thì đã làm sao? Hắn thật sự không chịu được Dương Hạo hơn mình, muốn xui xẻo thì cả hai cùng xui xẻo, như thế trong lòng hắn mới vui một chút. Nhưng...nhưng dương hạo lại khảng khái chia một phần công cho hắn. Hắn là chính khâm sai mà, chỉ cần công lao này có phần của hắn thì hắn sẽ được phần lớn nhất. Huống hồ hắn là người của phủ doãn phủ Khai Phong Triệu Quang Nghĩa, ngài ấy sẽ nâng đỡ cho hắn trước mặt đương kim thánh thượng, phần công lao đầu này ai muốn cướp cũng không cướp nổi. Phủ doãn đại nhân trong lòng đang muốn mở rộng thế lực và sức ảnh hưởng, có được đại công thì phủ doãn đại nhân sẽ đề bạt chức cao hơn cho hắn, còn sợ không thể mở phủ xây nha sao, đúng là một tấc lên mây? Nhưng...nhưng..., tấu chương của mình...một khi cùng lúc đặt lên trước mặt ngự án của quan gia, vậy...quan gia sẽ nghĩ thế nào? Trong tấu chương của mình đã viết Dương Hạo đoạt tiết việt, bất kính bất trung, tham công đoạt quyền, lấy lòng dân, sinh dã vọng, vô liêm sỉ, lập đảng phái, là thần tử đại ác, vương pháp bất dung, hai bức tấu chương ngược hoàn toàn nhau thì quan gia sẽ nghĩ như thế nào? Sẽ coi Trình Đức Huyền hắn ra sao?

Đương kim quan gia không phải là người hồ đồ, hơn nữa ngài ấy lại biết ân trọng nghĩa, rất tán thưởng những người có tình có nghĩa, hai bức tấu cùng đưa đến kinh, mang ra so sánh với nhau thì e rằng chuyện đoạt tiết việt quan gia cũng sẽ không tăng tội.

Còn về tội của hắn, việc này thật là...đây hoàn toàn là mang đá đập xuống chân mình mà.

Nghĩ đến đây tay chân Trình Đức Huyền lạnh toát, mồ hôi chảy ra như tắm, đại khí biến thành hoả nhiệt. Trình Đức Huyền lòng như lửa đốt, có một chút thời gian thôi mà hắn đã ướt sũng người, giống như vừa mới đi ra từ chỗ có nước vậy.

Người thông minh đã từng nói, nếu như trong lòng có thiên đường thì ở đâu cũng là thiên đường. Còn nếu trong lòng là địa ngục thì cho dù thân xác trên thiên đường thì cũng sẽ bị chính mình biến thành địa ngục. Bây giờ Trình Đức Huyền thân như đang trong ngọn lửa nóng chảy, địa ngục này chính là do tự tay hắn tạo nên.

Trình Đức Huyền đầu óc choáng váng, hắn ngẩng đầu lên nhìn Dương Hạo, chỉ cảm thấy bóng Dương Hạo lúc gần lúc xa, như mờ như tỏ, ngọn lửa nóng đang thiêu đốt tin hắn. Đột nhiên hắn đứng dậy, chỉ tay vào Dương Hạo, vừa định mở mồm nói thì lăn đùng xuống đất, trước mắt toàn là sao, không rõ gì cả, chỉ nghe thấy Dương Hạo kêu lên: "Trình đại nhân. Trình đại nhân." Rồi tiếng nước vang lên, chén trà nguội đã đổ đầy vào mặt hắn, sau đó nghe thấy Dương Hạo lớn tiếng hô: "Người đâu tới nhanh, Trình đại nhân bị cảm nắng rồi." Lòng Trình Đức Huyền đang chảy máu, hắn đã không thể chịu được sự dày vò này, đầu ngả ra mê man bất tỉnh."

 Chương 165 Tiệc rượu.

Người tu đạo cho rằng: "Đạo" là lạc của hư vô, là gốc của tạo hoá, là cội nguồn của thần minh, là nguyên của thiên địa, đạo là đạo lí hợp tự nhiên nhất, cho nên những lúc kiến tạo tu hành thường tìm những nơi thiểm linh thuỷ tú và cách tuyệt với sự phồn hoa của thế tục, rồi hết sức tạo cho mình một loại không khí động thiên phúc địa.

Thê Vân Quan ở Lạc Hà Sơn toạ lạc ở trên ngọn núi Thương Sơn cây cỏ rậm rạp được ôm bởi các dãy núi. Nơi đây núi rừng xanh biếc, cảnh sắc âm u tĩnh mịch. Đặt mình trong đó là núi âm u, nước âm u, rừng âm u, đình âm u, cầu âm u, đường âm u, đó là một cảm giác kẻ phàm phu tục tử đều phải lập tức thoát tục.

Men theo các bậc đá đi lên có thể thấy bên cạnh đường núi có suối nước chảy róc rách. Những tiếng lào xào do gió trên núi thổi xuyên qua các khu rừng rậm tạo ra, tiếng gió, tiếng nước trộn lẫn vào nhau, như một dàn âm thanh của tự nhiên.

Bước vào đạo quán sẽ không hề thấy cảnh tượng phồn tạp của hương khói bao quanh như ở tự miếu trong thành phố thế tục, khắp nơi đều tĩnh lạnh, kiến trúc của những ngôi nhà ở đây kết hợp cùng với những cây cổ thụ như tùng xanh, cây bách màu phỉ thuý, những bụi cây mây xanh rờn, thật có cảm giác như động phủ của thần tiên, đây mới là đạo quá thật sự.

Ngôi đạo quá này là do Lý gia quyên tiền xây dựng lên, cho nên cũng không cần tín đồ cung cấp hương hoả, đạo quán chỉ có mấy đạo nhân trông hương hoả. Vô cùng yên tĩnh. Vì Lý Ngọc Xương đã tự biến nơi này thành chỗ tránh nóng của mình, cho nên phong cách kiến trúc không giống như thường, phía sau cùng của đạo quán được xây dựa vào sườn núi, kiến trúc của nó phức tạm hơn nhiều những gian phòng của đạo quán bình thường, có thể cung cấp cho người nhà họ hàng thân thích đến tránh nóng ở.

Lúc này, Cẩu Nhi đang nằm yên trên giường, cửa sổ để mở, bên ngoài là vách núi cao và dốc, có một cây tùng gốc ở trên vách núi, nghiêng thân xuống phía dưới, gần như lơ lửng giữa không trung, lá tùng như cái ô cùng với những đám mây trắng ở phía xa bầu trời xanh đang từ từ trôi hợp lại thành một bức tranh tùng vân rất đẹp. Lại nhìn về phía ngọn núi trước mắt, chỉ thấy những cây tùng đang đung đưa màu xanh cuồn cuộn. Gió thổi qua từng trận, làm cho người ta thoải mái sảng khoái, hoàn toàn không có chút không khí nóng nực của mùa hè nào.

Cẩu Nhi nằm nghiêng người sang một bên, một tay để lên bụng, một tay để hờ lên cằm, hai mắt hơi nhắm, ngủ mà như không ngủ, một lúc lâu nó đột nhiên xoay người ngồi dậy. Giận dỗi vỗ giường nói: "Sư phụ gia gia. Pháp thuật ông dạy cháu hoàn toàn không được, khi muốn hít hơi vào thì ông lại bảo cháu thở ra, khi cần thở ra thì ông lại bảo cháu hít vào, lại còn hóp bụng với cả phình bụng, để ý cái này thì lại quên cái kia, nhớ đến cái kia thì lại không nhớ được cái này, sao có thể ngủ được chứ."

Ở bên trên cành cây tùng khô như con rồng có sừng giữa không trung bên ngoài cửa sổ đột nhiên vọng lại tiếng của Phù Dao Tử: "Ha ha, vội không được, phải từ từ, sư phụ ngươi phải ngộ đạo một giáp, mới có thể lĩnh hội được cách thổ ra nạp vào của nguyên đại đan đấy, đâu phải dễ dàng mà ngươi có thể học được chưa? Lão mũi bò Thuần Dương Tử lấy hai công pháp tu công của hắn để đổi mà sư phụ ngươi cũng không đồng ý đây, ngươi còn kêu ca cái gì, đúng là sống trong phúc mà không biết." Cẩu Nhi tức giạn nói: "Nhưng đây chỉ là cách hít thở, có thể học được bản lĩnh gì chứ?"

Phù Dao Tử cười nói: "Lần này chỉ cần ngươi luyện thuần thục thì cả đời dùng cũng không hết.

Muốn học được bản lĩnh lớn thì ngươi cũng phải học được cái gốc tốt trước đã. Chiêu thức này luyện thành mới có thể học chiêu thức thứ hai, chín chiêu thức công pháp phải học hết, sau khi dịch cân tẩy tuỷ mới có thể học được võ công thượng thừa. Bây giờ vẫn chưa tới lúc ngươi chịu khổ đâu, nếu như không muốn mệt nhọc thì đừng học nữa là được. Dù sao đại thúc Dương Hạo của ngươi cũng làm quan, cũng không cần tiểu nha đầu ngươi phải làm việc gì giúp hắn cả."

Cẩu Nhi nghe thấy "đại thúc Dương Hạo", đành phải chịu thua, lắp bắp nói: "Người ta vẫn chưa học thành mà?"

Rồi lại ngoan ngoãn nằm xuống, nằm nghiêng người, tay lại để lên má, hơi nhắm mắt làm thế "ngủ gật", "ngủ gật" chưa lâu thì nó lại từ từ mở mắt ra, càu nhàu, xoay khắp các hướng. Phù Dao Tử ở chỗ cây tùng vang lên tiếng khiển trách: "Lại phân tâm rồi, đáng đánh!"

Một cái tháp nhỏ liền từ trong cây tùng bắn ra, nhắm trúng vào mông Cẩu Nhi, kêu "ôi cha" một tiếng.

Ôm mông nhảy lên, lớn tiếng kêu: "Sư phụ gia gia, sao lại đánh vào mông cháu, mông đều bị ông đánh sưn cả lên rồi!"

Chính vào lúc này, từ cánh cửa truyền lại một âm thanh: "Cẩu nhi tỷ tỷ, Cẩu Nhi tỷ tỷ!"

Cành cây tùng bên ngoài cửa sổ nhẹ rung, thân hình Phù Dao Từ loé lên, rồi đứng ở giữa phòng, nghe thấy giọng nói thanh thoát của một tiểu nữ: "Lão tiên trưởng, Tử Du lại đến làm phiền rồi."

"Ha ha, Chiết cô nương đến rồi, mời vào đi, lão đạo cũng đang muốn đánh một ván cờ với cô đây."

Cửa vừa mở ra, Chiết Tử Du liền dắt một đứa trẻ bụ bẫm bước vào, Phù Dao Tử cười nói: "Sao thế, lại đến tìm chị Cẩu Nhi chơi à?"

Người bước vào là Chiết Tử Du và đứa cháu Chiết Duy Trung. Chiết Tử Du mới có 16 cái tuổi xuân, đứa cháu lớn của nàng Chiết Duy Chính còn lớn hơn nàng 5 tuổi, đứa cháu thứ hai là Chiết Duy Tín cũng lớn hơn nàng 2 tuổi, đứa cháu thứ ba Chiết Duy Xương bằng tuổi với nàng, chỉ có đứa cháu nhỏ nhất Chiết Duy Trung năm nay mới 5 tuổi, quả thực là nhỏ hơn nàng rất nhiều, cho nên Chiết Tử Du yêu quý nhất đứa cháu này, bình thường luôn dẫn nó đi chơi.

Lần này nó nghe thấy tiểu cô cô muốn lên núi bái thần tiên, nên sống chết cũng đòi đi theo, nhị thúc Chiết Ngự Khanh không cho thì đứa nhóc này nhảy ầm ỹ gào khóc lên, nước mắt nước mũi ròng ròng, Chiết Ngự Khanh quả thật không chịu nổi bộ dạng của nó nên đành phải đồng ý cho muội muội đưa nó đi, l này đứa nhóc mới quệt nước mắt nhe răng ra cười.

Ai mà ngờ được khi đến Thê Vân Quan vừa nhìn cái người được gọi là thần tiên sống hoá ra chỉ là một lão già gầy gò tướng mạo chẳng có gì đặc biệt, cả ngày ngoài ngủ th chỉ có ngủ, còn không vui bằng mấy trò biến hình mà mấy kẻ chuyên diễn xiếc biểu diễn, Chiết Duy Trung lại lập tức ầm ỹ đòi về, làm cho Chiết Tử Du ngứa cả răng, chỉ muốn đập cho nó một trận. Không ngờ lúc này nó lại nhìn thấy Cẩu Nhi, Cẩu Nhi chỉ mới 9 tuổi, lớn hơn nó không nhiều. Có tiểu tỷ tỷ này ở đây làm bạn Chiết Duy Trung mới chịu ở lại. Mỗi ngày sau khi ngủ trưa nó lại đến tìm Cẩu Nhi để chơi.

Chiết Ngự Huân tuy muốn học một chút bản lĩnh, tương lai báo đáp đại thúc Dương Hạo, nhưng vì nó còn nhỏ tuổi, vẫn mang tâm tính trả con, để một đứa trẻ nhỏ như vậy nằm yên không động đậy tập hít thở thì thật khó, thời gian tu thân dưỡng tính còn thiếu rất nhiều. Vừa nhìn thấy Chiết Duy Trung bước vào, cũng coi như là có cơ hội lười biếng, Cẩu Nhi không khỏi mừng rỡ.

Chiết Tử Du cười nói: "Cẩu Nhi, dẫn tiểu Trung ra ngoài sân chơi nhé, để ta và sự phụ muội chơi mấy ván cờ."

Cẩu Nhi đắc ý làm mặt xấu với sư phụ, rồi nắm tay Chiết Duy Trung bước ra ngoài. Trong phòng đã đặt sẵn bàn cờ, Chiết Tử Du cùng đánh cờ với Phù Dao Tử. Chiết Tử Du tài chơi cờ rất cao, nhưng so với sự lão luyện của Phù Dao Từ thì vẫn kém một bậc, nhưng với thực lực chơi cờ của nàng cũng được coi là một đối thủ khó tìm của Phù Dao Tử rồi, cho nên Phù Dao Tử rất thích đấu với nàng.

Phù Dao Tử hạ một nước cờ, rồi nói: "Ngày mai, bần đạo sẽ đưa Cẩu Nhi xuống núi."

Chiết Tử Du rất ngạc nhiên, hỏi: "Ở đây sơn thuỷ hữu tình, rất phù hợp để tránh nóng, tiên trưởng hà tất phải rời đi, hay là Lý gia chăm lo không chu đáo?"

Phù Dao Tử lắc đầu thở dài: "Không phải. Bần đạo đến đây là để gỡ bỏ những nghi ngờ và những điều không hiểu, thế nhưng thiên đạo khó đoán, bần đạo cuối cùng cũng không thể lĩnh hội được. Bần đạo tuổi đã lớn, còn có thể tiêu diêu thế gian được mấy ngày nữa chứ. Bây giờ đã thu nạp tiểu đồ đệ, chi bằng đưa nó về Hoá Sơn, dạy dỗ cẩn thận. Đứa trẻ này nếu ở trong trần thế thì rất khó định tâm theo ta tu hành, chuyện bên ngoài ta cũng không muốn quan tâm nhiều nữa."

Chiết Tử Du thất vọng nói: "Tiểu nữ tử vốn muốn tiên trưởng chỉ bảo một số chuyện, không ngờ...tiên trưởng lại sắp đi."

Phù Dao Tử vuốt râu cười nói: "Chiết cô nương thông minh hơn người, mưu trí thao lược, lão đạo không thể theo kịp, có gì mà chỉ bảo được?"

Chiết Tử Du nói: "Lệnh cao đồ Vô Mộng chân nhân đã từng chỉ giáo cho Lý viên ngoại, giúp ông ấy thoát khỏi đại đạn. Vô Mộng chân nhân tinh thông thuật dịch chiêm (xem quẻ), thuật này lại được truyền từ tiên đạo. Tiên đạo giỏi về dịch lý, dịch tượng, dịch số, dịch chiêm, bây giờ khắp thiên hạ không có người so bì được. Những học vấn tinh thông như vậy tiểu nữ ngu dốt không hiểu."

Phù Dao Tử ánh mắt hơi lộ ra sự vui mừng: "Ha ha, đứa nha đầu này thật là biết nhẫn nhịn, chơi cờ với lão đạo mấy hôm nay mà không chịu hỏi câu nào, giờ nghe nói lão đạo sắp đi mới chịu mở lời, cũng thật là khó cho cô."

Chiết Tử Du hơi nghiêng đầu hé miệng cười.

Phù Dao Tử lại nói: "Thuật bói toán huyền diệu khó giải thích, bất cứ lúc nào cũng có thể dẫn đến các nguyên nhân, thậm chí làm cho cỏi lòng người chủ thay đổi, cho nên...vận mệnh bói toán quả thực rất hư vong xa vời."

Trong ánh mắt Chiết Tử Du lộ ra một vẻ giảo hoạt: "Nếu nói như vậy đương kim quan gia khi chưa thành cữu ngũ chi tôn thì chuyện mà lão tiên trưởng đã có chút chỉ điểm cho quan gia cũng là giang hồ đồn đại sao?"

Phù Dao Tử nhìn chằm chằm vào bàn cờ, hình như đang tính đường đi, tuỳ ý gật đầu nói: "Ờ, đúng vậy. Đồn đại, đương nhiên là đồn đại rôi."

Chiết Tử Du mỉm cười nói: "Hoá ra là như vậy, tiểu nữ ngu muội lại tưởng đó là thật."

Phù Dao Tử thả lỏng thần thái, vừa mới lộ ra một nụ cười thì Chiết Tử Du lại nói: "Nếu thuật bói toán chỉ có thể nói là hư vô xa vời thì tiểu nữ sẽ không coi đó là thật nữa, lão tiên trưởng cứ tuỳ ý nói đi, tiểu nữ vẫn cứ nghe, lão tiên trưởng, ông xem như vậy được không?"

Phù Dao Tử vừa mới đặt quân cờ xuống bàn, nghe thấy lời này lập tức dừng lại, ngón tay trắng như ngọc của Chiết Tử Du đang vân vê con cờ, trên khuôn mặt còn mang một nụ cười nhàn hạ. Tay hai người đều đang cầm quân cờ của mình, yên lặng không động, nhưng trong bàn cờ, Chiết Tử Du đã hạ được một thành.

Phù Dao Tử là người xuất gia, là người được rất nhiều người kính trọng coi là thần tiên sống.

Nhưng thần tiên tuy là không yêu tiền tài, tuy không háo sắc, nhưng lại thích cái danh. Chiết Tử Du muốn hắn tuỳ tiện nói để nghe thử, chẳng nhẽ hắn lại chịu mở mồm nói linh tinh rồi phá hỏng danh tiếng sao?

Phù Dao Tử cười gượng lắc đầu, đặt quân cờ xuống bàn, thở dài một hơi rồi nói: "Lão đạo đã mắc lừa cô rồi, cô là đang buộc lão đạo phải làm thần xấu rồi."

Hắn ngồi thẳng người dậy, nhìn tướng mạo Chiết Tử Du, nói: "Cô nương là nữ tử của Chiết gia Phủ Châu, có thể nói là muốn gió được gió, muốn mưa được mưa, lão đạo quả thật không nghĩ ra còn có cái gì mà cô nương muốn, cái gì mà cô nương không thể nắm chắc được. Cô nương rốt cuộc muốn hỏi những gì?"

Chiết Tử Du cười nói: "Đạo trưởng chắc cũng biết tiểu nữ muốn hỏi gì chứ?"

Phù Dao Tử vuốt râu nói: "Cô nương là kiều nữ xinh đẹp của trời, lại rất trẻ, duy nhất có một điều quan tâm chắc là nhân duyên?"

Đúng vậy, ngoài vị hôn phu tương lai thì còn có gì mà vị kiều nữ của trời như cô ấy không thể nắm chắc chứ? Cũng chỉ có vị hôn phu này, nếu không phải của mình, nếu không phải người nàng thích, thì với sự thông minh trí tuệ và địa vị gia thế của nàng cũng không có cách nào thay đổi được kết quả, nó còn là điều mấu chốt ảnh hưởng đến hạnh phúc cả đời nàng.

o0o

Chiết Tử Du cười nhạt, nói: "Nếu hỏi nhân duyên thì lão tiên trưởng có thể nói cho Tử Du những gì? Côn danh lợi lộc của người đó? Tướng mạo tuổi tác hay là tính tình phẩm hạnh?"

Lão đạo trợn mắt lên nói: "Điều này mà có thể tính toán ra thì còn gọi là xem bói không? Lão đạo rõ ràng trở thành một bà mai rồi."

Chiết Tử Du che miệng cười, nói: "Nếu những thứ đó đã không thể đoán ra thì tiểu nữa hỏi làm gì, rồi suy tính hơn thiệt, tự làm mình phiền não."

"Nếu thế thì thật kì lạ, không phải hỏi nhân duyên vậy cô nương muốn hỏi gì?"

Thần sắc của Chiết Tử Du trở nên nghiêm túc: "Quan gia có ý gọi huynh trưởng ta vào triều làm một vị quan thanh nhàn thái bình, nhưng huynh trưởng lại không muốn bỏ cơ nghiệp tổ tông. Triều đình thế lực lớn, Tử Du lo nghĩ rất nhiều, muốn thỉnh lão tiên trưởng chỉ giáo cho một chút...tiền đồ của gia huynh!"

Sắc mặt Phù Dao Tử hơi thay đổi, trầm ngâm một lát rồi nói: "Đại sự quân quốc, Phù Dao Tử chỉ là người ngoài, sao có thể xen vào, hay là...để ta xem quẻ nhân duyên cho cô nương."

Chiết Tử Du lắc đầu nói: "Không cần."

"Bần đạo có thể giúp cô đoán công danh tiền đồ của người đó."

"Không cần."

"Thôi vậy, lão đạo sẽ tiết lộ thiên cơ, ngay cả tướng mạo của hắn cũng sẽ nói cho cô."

"Không cần!"

"Ôi chà, lão đạo bán một tặng mười vậy, lại tặng cho cô biết tính cách của hắn."

"Không cần!"

Phù Dao Tử nhăn mày nhăn mũi: "Chiết cô nương, sao cô phải làm khó lão đạo vậy."

Chiết Tử Du đột nhiên đứng dậy, chắp hai tay thi lễ: "Xin lão tiên trưởng chiếu cố, chỉ một hai điểm..."

Trong sân, Cẩu Nhi như con khỉ đang từ trên cây nhanh nhẹn trèo xuống, kép tay Chiết Duy Trung ngồi xuống tảng đá, dương dương tự đắc lấy từ trong áo ra mấy quả trứng chim: "Cho đệ này, tiểu Trung."

"Wa, nhiều quá. Một, hai..., nhiều hơn so với hai. Tiểu Trung thích chị Cẩu Nhi nhất, các anh trai của đệ chưa bao giờ giúp đệ lấy trứng chim cả."

"Ha ha, tỷ tỷ cũng thích đệ, cho nên mới giúp đệ. Nếu như mẹ mà nhìn thấy ta trèo cây cao như thế này chắc chắn sẽ mắng ta. Nhưng...ta cảm thấy mấy ngày hôm nay trèo cây đặc biệt nhanh, pháp thuật sư phụ gia gia dạy hình như thật sự có tác dụng."

Chiết Duy Trung dùng hai bàn tay bé bỏng nâng mấy quả trứng lên nói: "Người mà đệ thích rất nhiều, phụ thân, mẫu thân, thúc thúc, thẩm thẩm, cô cô, đại ca, nhị ca, tam ca, đại đường ca..., còn có cả Cẩu Nhi tỷ tỷ nữa." Chiết Duy Trung nói một hơi, một lúc sau lại hỏi: "Tỷ tỷ, người tỷ thích có những ai?"

Cẩu Nhi nghĩ một lát rồi cười nói: "Tỷ tỷ yêu mẹ, thích Dương Hạo thúc thúc, thích sư phụ gia gia, rồi cả đệ nữa."

Hai đứa trẻ đơn thuần mà vui vẻ, những chuyện mà trong mắt người lớn chẳng đáng là gì thì lại có thể làm chúng vui mừng phấn chấn, nói rất hăng say. Bên trong phòng, Chiết Tử Du nghe thấy Phù Dao Tử nói "huyền diệu khó giải thích, như thị mà phi", biết rõ ông ta sẽ không tiến thêm một bước nói rõ nữa, trầm ngâm một lúc rồi nghiêm mặt nói: "Đa tạ lão tiên trưởng đã chỉ điểm, ân đức này Tử Du xin ghi nhớ trong lòng."

Phù Dao Tử hừ một tiếng, mình cả đời tinh minh lại cũng bị mắc lừa người ta, trong lòng quả thực có chút tức giận. Hắn nhìn kĩ tướng mạo Chiết Tử Du, lại liên hệ với dây thiên cơ của người mà mình luôn nghĩ tới, trong lòng bất giác kinh ngạc, hắn luôn suy nghĩ nhưng lại không thể nhìn ra căn nguyên và sự phát triển trong tương lai của con người đó, nhưng từ tướng mạo của nữ tử có quan hệ lớn với con người đó này lại thấy rất kì lạ. Nói như vậy, lẽ nào người đó..."

Nghẫm lại hôm nay mình bị Chiết Tử Du cho mắc bẫy thấy giống với ngày đó bị "thiên cơ" đánh cho một trận, trong lòng lão đạo bỗng nhiên sinh ra sự ranh mãnh, nói: "Vị hôn phu trong tương lai của cô nương cô thật sự không muốn biết sao?"

Chiết Tử Du vui mừng nói: "Lão tiên trưởng chịu nói sao/"

Phù Dao Tử cười ha ha, nói: "Vị hôn phu đó của cô nương công danh tiền đồ phú quý vô cùng, rất xứng đôi. Hơn nữa nhìn cô nương như ngọc như ngà, một vị hôn phu như thế chắc cô nương cũng sẽ hài lòng?"

Chiết Tử Du lòng đầy vui sướng, vội nói: "Thật sao? Chắc chắc không? Không biết tình duyên này của tiểu nữ bây giờ đang ở đâu?" Hết sức tưởng tượng về tướng mạo của vị phu quân của mình, trong đầu nàng lại hiện lên hình ảnh mơ hồ của Đinh Hạo, tim không khỏi đập thình thịch.

Phù Dao Tử "gian kế đã thực hiện được" , thầm nghĩ: "Ngươi là từ thiên cơ mà tới, lão đạo không dây với ngươi, tránh tổn thọ, sự khổ đau này ta sẽ trả lại vào người nương tử ngươi, cũng không phải quá đáng chứ? Dù sao lão đạo không phải là ăn nói bịa đặt, cô ấy bản thân vốn có một kiếp nạn , chỉ có điều là do ngươi giải trừ thôi, ha ha."

Phù Dao Tử chớp chớp mắt, ra vẻ khó hiểu nói: "Đương nhiên biết, chỉ là lão đạo không biết cô nương muốn hỏi người nào thôi?"

Chiết Tử Du vừa nghe thấy thì nhan sắc kiều diễm có chút tái nhợt đi, lắp bắp nói: "Lão tiên trưởng, nhân duyên này tại sao...tại sao lại có thể có hai?"

Phù Dao Tử chầm chậm nói: "Cái này thiên cơ không thể tiết lộ."

Chiết Tử Du lập tức như lớn lên rõ ràng, danh tiếng Phù Dao Tử quá lớn, Chiết Tử Du tuy có huệ chất, thông minh trời ban nhưng đối với bản lĩnh xem bói của hắn, đối với những lời phán của hắn lại rất tin không hề nghi ngờ. Trời sinh âm dương, người có nam nữ. Nam nữ lại khác nhau hoàn toàn, một nam có thể lấy hai nữ, nhưng một nữ đâu thể gả cho hai phu, Phù Dao Tử nói như vậy lẽ nào mệnh mình trắc trở, lại gả cho một người, rồi phu quân chết, lại gả cho một người khác. Việc này bảo người ta phải làm sao đây?

Chiết Tử Du sắc mặt tái nhợt, run run nói: "Lão tiên trưởng, tiểu nữ quả thật rất lo sợ, thỉnh lão tiên trưởng chỉ rõ cho một chút."

Phù Dao Tử nhìn thấy bộ dạng như vậy của nàng bỗng trong lòng cảm thấy có chút hối hận, hôn nhân đại sự không phải trò chơi, lời này đã nói ra rồi e rằng cô nương ấy sẽ khó có những ngày sống vui vẻ. Liền nói: "Cô nương không cần lo lắng, không như cô nương nghĩ đâu. Mệnh của cô phú quý vô cùng, số trời đã định, chỉ có thể có một chồn, có điều trước đó phải trải qua một kiếp nạn, sẽ nảy sinh một ít sóng gió. Ha ha, kiếp hạn cũng là giải hạn, chết là sống. Nếu không có kiếp nạn này thì nào có giải hạn, không có giải hạn thì sao cô nương có thể gặp được ý trung nhân? Ha ha. A, bần đạo đã tiết lộ thiên cơ quá nhiều rồi. Tội lỗi tội lỗi."

Chiết Tử Du thấy những lời hắn nói không giống như mình nghĩ thì mới an tâm lại.

Vội vàng hỏi: "Vậy xin hỏi lão tiên trưởng, cái kiếp này phải phá giải như thế nào?"

Phù Dao Tử nói: "Ha ha, cô nương cứ thuận theo tự nhiên đi, đến lúc đó sẽ tự có người đến giải kiếp, còn người đến giải vây là ai thì thiên cơ này không thể nói, sẽ mất linh."

Chiết Tử Du thấy bộ dạng có vẻ bí mật của hắn thì hận đến mức ngứa cả răng, chỉ muốn ném ngay quân cờ xuống.

Nhưng khuôn mặt của nàng lại nở ra một nụ cười ngọt ngào, lễ phép nói: "Đa tạ lão tiên trưởng, Tử Du biết rồi, đến ngày có thể đạt được tâm nguyện Tử Du nhất định sẽ cùng lang quân lên Thái Hoa Sơn cảm tạ đại...ân...đại đức của ông!"

Phù Dao Tử máu như trào lên, giật mình nghĩ: "Không được, không được, đại nạn sắp giáng lên đầu rồi. Lão đạo ta sắp xong rồi."

.................................

Trình Đức Huyền và Dương Hạo nhận lệnh đi đưa dân chúng về đất Tống, bây giờ chuyến đi đã hoàn thành nhưng trong thánh dụ không có nói sau khi đưa về đất Tống hai người sẽ trở về Biện Lương phục chỉ hai là ở lại đợi quan gia đến chỉ thị, dù sao tẩu biểu đã đưa đến kinh, đành phải ở Phủ Châu chờ tin tức

Mấy ngày này chắc là những ngày nhàn rỗi nhất, nhưng sự mệt mỏi của hai người cũng không ít hơn những ngày đi di dân, vì họ tiệc rượu từ sáng tới tối, không có lúc nào nghỉ ngơi. Từ sau tối hôm tiết độ sứ lưu hậu Chiết Ngự Khanh bày yến tiệc mời hai vị khâm sai thì thiếp mời của các quan viên các cấp như những lớp tuyết liên tục gửi tới. Sự nhiệt tình của những quan viên địa phương này hình như không phải là quan nhỏ thất, bát phẩm mà giống như các đại quan cao quý nhị, tam phẩm triều đình.

Mỗi ngày đều có các quan viên đích thân đến mời, hai người khó từ chối những thịnh tình đó, đành phải gắng gượng đi dự tiệc. Nhưng những bữa tiệc này nhân vật chủ yếu là Dương Hạo, bữa trên bữa dưới ăn mãi không hết, bất kì ai cũng không thể chịu nổi. Hôm nay Dương Hạo quả thực không thể chống đỡ được nỡ, mượn cớ sức khoẻ không tốt mà từ chối khéo. May mà còn có Trình Đức Huyền chịu đi. Có quân bài lớn này đi thì đám quan viên đó mới chịu bỏ qua Dương Hạo, để cho hắn nghỉ ngơi ở trạm dịch.

Dương Hạo không biết Trình Đức Huyền lại mê rượu như vậy. Mỗi lần dự tiếc luôn phải uống say mới trở về. Thực ra từ sau khi hắn bị nắng đến nay tình hình có chút kì lạ. Lúc đó Dương Hạo còn cho rằng hắn vừa mới tỉnh lại tinh thần còn chấn động cho nên sau khi bảo hắn nghỉ ngơi cẩn thận thì đã rời khỏi. Kết quả là từ sau khi bắt đầu tham gia yến tiệc của Chiết Ngự Khanh, Trình Đức Huyền uống rượu liên tục không ngừng, luôn say xỉn không tỉnh, Dương Hạo cảm thấy vô cùng kì lạ, nhưng bộ dạng của hắn như vậy cũng quả thật không có cách nào hỏi han, sau khi khuyên mà hắn không nghe đành phải để hắn đi vậy.

Hôm nay Dương Hạo không đến dự, nhân vật chủ chốt của yến tiệc chỉ còn một mình Trình Đức Huyền, Trình khâm sai vui lòng hả dạ, trong sự tán dương của mọi người lại càng như cá voi uống nước vậy, cũng không biết đã uống hết bao nhiêu bụng rượu, khuôn mặt cũng đã biến thành màu đỏ tím.

Rượu rất đắng, lòng hắn còn đắng hơn, nhưng phải trách ai đây. Khi một người dọn đống đá làm cho người khác vấp ngã cũng là mở đường cho chính hắn đi, cũng như thế, khi làm cho người khác vấp ngã thì chân bị gẫy có thể chính là chân của hắn.

Thứ rượu đắng này chính là do hắn nấu, cũng chỉ có thể di mình hắn uống hết mà thôi.

Chiết Hải Siêu nhẹ nhàng nghiêng người nói với huynh đệ Chiết Duy Chính, thấp giọng cười nói: "Đại ca, hai vị khâm sai này quả thực rất dễ đối phó, ta chưa từng thấy người nào tham rượu như thế, xem ra chỉ cần có rượu cũng đủ để đuổi bọn họ rồi."

Chiết Hải Siêu là đường đệ của Chiết Duy Chính, lớn tuổi hơn một chút so với mấy đệ đệ ruột của hắn, trong gia tộc thì xếp thứ 2, vì vậy Chiết Duy Chính theo sự sắp xếp giữa huynh đệ thì luôn gọi hắn là nhị ca, nghe hắn nói như vậy liền thấp giọng nói: "Nhị ca, không được khinh thường, vị khâm sai này uống rượu giỏi, vị khâm sai kia lại không đến, chớ để hắn thăm dò được tình hình ở Lô Hà Lĩnh, nhỡ hắn chạy đến hỏi thúc phụ mà lúc đó dân chúng còn chưa được sắp xếp thoả đáng thì có lý do gì để không phải đổi một nơi khác chứ?"

Chiết Hải Siêu gật đầu tán thành, nói: "Vị khâm sai đó không thích dự tiệc chi bằng tối nay tiểu đệ hãy mang mấy mỹ nữ đến hầu hạ hắn, là nam tử đang tuổi xuân chẳng có lí nào mà không háo sắc cả?"

Chiết Duy Chính: "Từ từ đã, chức quan của họ không cao, chúng ta ần cần như thế họ đã có chút mơ hồ rồi, nếu lại vồn vập thì e rằng càng khiến họ nghi ngờ. Bất kể vị Dương khâm sai hay là vị Trình khâm sai ham rượu thì ta thấy cũng không giống là loại người hồ đồ, chúng ta vẫn nên thăm dò tình hình của bọn họ mới dùng đúng thuốc để trị được."

Chiết Hải Siêu nói: "Vị Trình khâm sai này ham rượu là một nhược điểm, nghe nói hắn còn là thuộc hạ của đương kim hoàng đệ ở phủ Khai Phong, ha ha, người của Triệu Quang Nghĩa cũng chẳng ra sao. còn về vị khâm sai kia lại là một người không rõ lai lịch, cũng không biết tính cách hắn thế nào, không biết hắn là háo tài hay háo sắc. Nếu đã không biết nhược điểm của hắn thì phải đối phó như thế nào chứ?"

Chiết Duy Chính đang ngồi đối diện với chuyện vận sứ Nhậm Khanh Thư thấy quân đô ngu hầu đang chạm chén với Trình Đức Huyền đang say mờ cả mắt, mỉm cười nói: "Hỏi vị Trình khâm sai này còn sợ không biết được căn nguyên bên trong của vị Dương khâm sai sao?"

o0o

Chiết Hải Siêu bừng tỉnh, lập tức giơ chén lên, cười lớn rồi quay sang chạm bát với Trình Đức Huyền,

"Ha, ngươi...ngươi hỏi Dương Hạo đó à? Hắn...hắn à, hắn vốn không phải là quan."

Trình Đức Huyền cười kinh miệt, đưa ngón út ra khua khua nói: "Hắn vốn là một tiểu quản sự của một viên ngoại ngoài thành Bá Châu, là loại đít chó mà thôi!"

Trình Đức Huyền đã quá say, nói chuyện không còn chút kiêng kị nào nữa, những nỗi khổ tâm mấy ngày nay đều đã tuôn ra hết.

Chiết Duy Chính và Chiết Hai Siêu quay mặt nhìn nhau, thầm nghĩ: "Xem ra, hai vị khâm sai này không hoà thuận với nhau."

Trình Đức Huyền cười khẩy nói: "Các người không biết đâu? Ha ha, tên...tên Dương Hạo này vốn tên...tên là Đinh Hạo, hắn...tham mỹ sắc, dụ dỗ một tiểu quả phụ xinh đẹp, ha ha ha..."

Hắn cười liên hồi, cũng không biết rốt cuộc có chỗ nào đáng cười, cười xong lại uống một chén, nói: "Kết quả cũng không biết vì tình sinh đố kị, hay là...hay là có nguyên nhân gì mà giết người ta rồi bỏ trốn. Hắn...

...Hắn và tên Trình Thế Hùng ở Quảng Nguyên có giao tình cũ, lừa gạt hắn...thu nạp, đổi họ rồi làm...một thân binh, sau đó...sau đó hắn với bản quan cùng góp lời cho quan gia, di dân BắcHán, làm giảm thế lực Bắc Hán.

Vì thế mới lên được...mới...mới lên được đô giám bát phẩm, phó sứ khâm sai. Ha ha, hắn...hắn chẳng qua chỉ là một tù nhân háo sắc giết người mà thôi, khâm sai gì chứ, cái đít chó! Ha ha ha..."

Chiết Duy Xương tuổi còn nhỏ, tuy là tiếp khách nhưng lại chỉ uống mấy chén, luôn ngồi một chỗ gắp thức ăn, nghe đến đây thì đột nhiên ngẩng đầu lên, nói với Chiết Duy Chính: "Đại ca, hắn là do Trình Thế Hùng tiến cử ư? Thế chẳng phải là người của chúng ta sao, sao chưa từng thấy cha nói vậy?"

"Chớ có lên tiếng!" Chiết Duy Chính lườm hắn một cái. Chiết Duy Xương liền lè lưỡi, cúi đầu tiếp tục chiến đấu với bát cơm trắng.

Chiết Duy Chính liếc nhìn Trình Đức Huyền, Trình Đức Huyền lúc này ngồi cũng không vững, nào có thể nghe rõ họ nói cái gì. Chiết Duy Chính mới yên tâm, liền giơ chén rượu lên cười nói: "Nào nào, Trình khâm sai. Bản công tử cũng kính ngài một chén."

"Cạn!" Trình Đức Huyền cầm chén rượu giơ lên, "cạnh" một tiếng, rượu trong chén bắn ra một nửa. Không đợi Chiết Duy Chính khuyên nhủ thì đã đổ hết nửa chén rượu còn lại vào bụng, rồi ném chén rượu sang một bên, đập bàn lớn tiếng nói: "Được là cao mất là nghỉ, đa sầu đa hận ~ cũng lo âu, hôm nay có rượu, hôm nay sẽ say, ngày mai sầu thì ngày mai lại sầu! Chúng ta uống!"

Hắn nắm cả bình rượu, ngẩng cổ lên rót ừng ực vào miệng, Chiết Duy Chính lộ ra một điệu cười, truyền ánh mắt đến Chiết Hải Siêu, nói: "Trình khâm sai uống say rồi, Hải Siêu, đệ và Tông Cường đưa Trình khâm sai về nghỉ ngơi đi."

"Ta không say, ta không say, chúng ta uống. Tiếp tục uống." Trình Đức Huyền vừa nói vừa được Mã Tông Cường và Chiết Hải Siêu đỡ ra, trong tay còn nắm chặt bình rượu đó.

Trình Đức Huyền vừa bước đi thì chuyển vận sứ Nhậm Khanh Thư nghi ngờ nói: "Vị Dương khâm sai đó là người của Trình tướng quân sao? Lạ thật, thế chẳng phải là người của chúng ta à, sao tiết soái không nhắc đến, còn bảo chúng ta cẩn thận đề phòng hắn?"

Chiết Duy Chính cười khổ nói: "Cháu cũng đang cảm thấy khó hiểu đây. Theo lý mà nói nếu hắn là người của chúng ta thì không cần phải đề phòng hắn, nhưng cha lại dặn dò như vậy, chẳng lẽ có ý đồ sâu xa khác?"

Mấy người quay sang nhìn nhau, đều cảm thấy đại soái có sự sắp xếp như vậy tất có thâm ý, còn về rốt cuộc thâm ý ở chỗ nào thì họ nông cạn quả thực không hiểu được.

Họ đương nhiên là không ngờ được Trình Thế Hùng tưởng rằng Dương Hạo đi theo chính khâm sai Trình Đức Huyền nhất định sẽ đưa dân chúng đi theo hướng đông, cho nên trong bẩm báo quân tình chỉ giản lược nhắc đến hướng mà Dương Hạo sẽ đi chứ không nói rõ bây giờ hắn đã đổi họ Dương, tình tiết tỉ mỉ hoàn toàn chưa được nói đến.

Còn Chiết Ngự Khanh lúc đó đang bận rộn bàn bạc làm thế nào để giải được kế "minh thăng ám hạ" (tỏ rõ là thăng chức cao, nhưng ngầm hạ thế lực) của quan gia, nên cũng không để tâm đến chuyện này. Nhưng tín trát bí mật chỉ có Chiết Ngự Huân mới được đọc, ngay cả bào đệ Chiết Ngự Khanh cũng không dám tự tiện mở ra xem những tín kiện liên lạc giữa các đại tướng đóng quân ở khắp nơi. Chỉ có tiểu muộ thân thiết của hắn là Chiết Tử Du vì là thân nữ nhi, cũng không có những cấm kị này, nhưng nàng lại rất ít chủ động đi tra đọc văn kiện quân thư của đại ca mình.

Chiết Duy Tín đang ngồi một bên của Chiết Duy Chính đặt chén rượu xuống, cười nói: "Vậy...chúng ta có còn cần đem tặng hắn mấy nữ nhân không. Đường Tam Nhi hôm qua đã nói với đệ 'Quần phương các' hôm qua có mấy cô nương mới đến, đều là nữ tử Giang Nam, mỗi người đều dung nhan yêu kiều, xinh đẹp vô cùng, hiểu âm luật, có thể ca hát múa, nếu như đại ca đồng ý thì đệ sẽ đi tìm hai cô nương đưa đến cho hắn."

Chiết Duy Chính hừ một tiếng nói: "Tên tiểu tử đệ muốn đi thưởng thức đồ mới mới là thật đấy."

Chiết Duy Tín kêu oan nói: "Sao lại thế được, đệ là người như vậy sao? Nếu không đại ca và đệ cùng đi nhé."

Chiết Duy Xương đang há mồm to ăn cơm liền ngẩng đầu lên nói: "Được được được, chúng ta cùng đi."

Chiết Duy Chính đập bộp một cái vào đầu nó, cười mắng: "Đệ cút đi, đệ mới có mấy tuổi đầu chứ? Chưa đến 15 tuổi, không được phép vào nơi như thế."

Nhậm Khanh Thư mặt trắng râu dài ngồi đối diện hắng một tiếng, nghiêm giọng nói: "Mấy vị hiền điệt (cháu), tiết soái đang chinh chiến tiền phương, lúc này các cháu còn có thể trêu hoa ghẹo nguyệt sao? Để người ngoài thấy sẽ cho rằng các cháu bất hiếu đấy, còn biết rằng chuyến xuất chinh lần này của cha các cháu chỉ là một trò chơi thôi. Thật là chẳng ra sao! Tối nay tiểu cô cô các cháu về phủ rồi, các cháu còn không ở lại đón sao?"

Nhậm Khanh Thư trên dưới tứ tuần, bây giờ là tướng lĩnh cấp cao của họ Chiết, hắn năm xưa từng theo lão soái đi chinh chiến nam bắc, chiến công hiển hách, bây giờ còn làm chuyển vận sứ quân Vĩnh An; nắm chắc các đường vận chuyển thuỷ bộ, bảo đảm hậu cần, giỏi về quản lí, giám sát trách nhiệm của các quan lại địa phương, thực quyền quả thực không nhỏ, được tiết độ sứ Chiết Ngự Huân coi làm huynh đệ.

Thúc phụ đã giáo huấn như vậy thì Chiết Duy Chính không dám cãi lại, đành phải lắp bắp đồng ý, đưa mấy huynh đệ chạy đi. Khi bóng Nhậm Khanh Thư đã rời xa thì Chiết Duy Chính mới giáo huấn lại, nói: "Tên tiểu tử này, thật là không lớn được cái đầu, dám nói những lời như vậy trước mặt đại thúc à?"

Chiết Duy Tín cười khan hai tiếng: "Vậy chúng ta có đi nữa không? Cô cô sắp về rồi, nếu như cô ấy về thì chúng ta muốn đi cũng khó."

Chiết Duy Chính làm mặt khổ nói: "Tiểu cô cô quản chúng ta còn chặt hơn cha, thật sự phải sớm tìm một vị hôn phu hợp như ý nguyện cho cô ấy mới được. Có tiểu cô phu (chồng của cô) chịu sự quản giáo của cô cô thì chúng ta mới được tự do. Ôi! Nhân lúc cô cô chưa về chúng ta mau đi thôi, gọi mấy tên Tiểu Tần, Đường Tam Nhi đến đây, mời cả Dương khâm sai nữa, rượu ngon trong mồm, mỹ nhân trong lòng, ta còn không biết được lòng dạ hắn sao."

。。。。。。。。。。。。。。。。� � � �。。。。。。。。。。。。。。。� � �� ��。。

Chiết Tử Du trở về ụ Bách Hoa, khi xe của nàng đi vào đã là hoàng hôn, ánh sáng da cam đầy trời, mặt trời dần xuống, quạ đen bay quanh quẩn trên các ngọn cây, chuồn chuồn bay thấp xuống, thỉnh thoảng có một chú chim én lại bay vụt qua, không khí nóng nực cũng mát mẻ hơn nhiều, xem ra tối nay sẽ có mưa lớn.

Nàng vốn muốn mời Phù Dao Tử đến phủ ở, nhưng Phù Dao Tử lại không thích những quy định nghiêm ngặt của phủ tướng quân nên đã đến ở phủ của Lý Ngọc Xương.

Ngày mai ông ta dẫn Cẩu Nhi đến gặp Dương Hạo rồi sẽ trở về Hoa Sơn, ở đâu đó một đêm cũng không có gì nên Chiết Tử Du cũng không miễn cưỡng nữa.

Phù Dao Tử nhờ Chiết Tử Du giúp hắn đưa một bức đến núi Tử Vi ở ngoài Nhạn Môn Quan, chuyện nhỏ này đương nhiên Chiết Tử Du sẽ lập tức đồng ý. Vừa về đến phủ nàng đã gọi một vị gia tướng lão thành chín chắn tới, đưa thư và dặn dò ông ấy mang theo mấy người sáng sớm ngày mai lên đường, phải đưa thư đến tận nơi. Chiết Tử Du quay trở về khuê phòng tắm rửa thay y phục, khi nàng bước ra khỏi phòng thì đã đến lúc dùng cơm tối. Nhưng căn phòng đằng sau vốn luôn tấp nập hôm nay lại đột nhiên yên ắng vô cùng, Chiết Tử Du nghĩ rằng mấy ngày nay mình không ở trong phủ nên mấy đứa cháu đều như dê được thả trên thảo nguyên tự do thoải mái, nên cũng không để ý nhiều, nàng dùng bữa với một ít rau thanh đạm, cháo và một chút điểm tâm rồi ra hoa viên đi dạo, vừa mới bước về phía một bụi hoa thì thấy đứa cháu nhỏ Chiết Duy Trung đang đuổi theo sau Chiết Duy Xương, giống như con sâu bám sau lưng vậy.

Khuôn mặt xinh đẹp của Chiết Tử Du nghiêm lại, quát lên: "Chiết Duy Xương, lại đây cho ta!"

Chiết Duy Xương nhỏ hơn tiểu cô cô này hai tuổi, nhưng cô cô là cô cô, là thân muội của cha nó, vai vế có thứ tự, không dám thất lễ. Trên khuôn mặt nó có vẻ sợ hãi muốn chạy trốn, nhưng dưới cái nhìn trừng trừng của Chiết Tử Du thì đôi chân nó lại ngập ngừng bước tới.

Chiết Tử Du hừ một tiếng: "Cái đứa chẳng có tiền đồ gì, vừa nhìn thấy ta đã sợ hãi đến mức đấy, không cần hỏi cũng biết, các ngươi nhất định đã làm chuyện gì đó khuất tất, tự khai mau, nếu để cô cô tra ra thì các ngươi liệu hồn!"

Chiết Duy Xương nhăn nhó nói: "Tiểu cô cô, đại ca, nhị ca chê ta nhỏ nên đến "Quần Phương Các" không cho con đi cùng, ta còn có thể làm được chuyện xấu gì chứ? Ôi trời!" Nó tự biết mình đã nói lỡ, vội kinh hô lên đưa tay che mồm lại.

 Chương 166 Tâm tư nữ nhi.

Thực ra công tử của giới nhà giàu 15, 16 tuổi đã thích trêu hoa ghẹo nguyệt, làm chuyện phong lưu là rất bình thường, Chiết Ngự Huân từ trước đến nay chưa từng hỏi han chuyện này, Chiết Tử Du tuy không có ưa chuyện này nhưng nếu như không phải khi chúng đi mà bị mình bắt gặp thì nàng cũng không quản nhiều.

Các hộ lớn nhà giàu có phần hơi dung túng đối với chuyện này, họ cũng có cái lí của họ. Trong một đại gia tộc, người sau này đứng đầu làm việc chắc chắn phải là nam đinh. Những nam tử trẻ tuổi khi tiếp xúc với nữ sắc thì luôn phải có một quá trình bắt đầu từ ngây ngô đến thành thục. Nếu như quản quá nghiêm với phương diện này thì đợi đến khi chúng lớn lên, bắt đầu thay gia tộc làm những chuyện lớn lại vẫn chỉ là một tiểu tử ngây ngô thuần phác thì khó tránh khỏi nó trở thành một nhược điểm lớn họ, nói không chừng còn bị người có ý đồ xấu lợi dụng. Việc này cũng coi như là một sự rèn luyện cho con cháu.

Cho nên Chiết Tử Du tuy không vui nhưng cũng chỉ hừ một tiếng nói: "Hai tên tiểu tử thối này lại đi lêu lổng với mấy đứa mèo mả gà đồng. Đây còn ra thể thống gì nữa, cha mình đích thân dẫn quân xuất chinh, bẩm lên triều đình nói tình hình phải rất nghiêm trọng, các ngươi lại làm những chuyện xằng bậy như vậy rồi để cho người ta thấy sẽ nghĩ thế nào chứ?"

Chiết Duy Xương cười nói: "Lần này tiểu cô cô nói oan hai ca ca rồi, khâm sai triều đình đã đến Phủ Cốc, theo lời cha dặn thì phải hết sức giữ họ lại đây, hai ca ca tối nay muốn mời vị khâm sai tên Đinh Hạo đi dự tiệc."

Chiết Tử Du bĩu môi nói: "Đường hoàng ghê nhỉ! Sao cơ?" Mắt nàng ngừng lại, hơi thay đổi sắc mặt: "Ngươi nói khâm sai đó là ai cơ?"

"Đinh Hạo." Chiết Duy Xương vỗ đầu nói: "Không phải, hắn bây giờ là Dương Hạo."

Chiết Tử Du lòng rất nghi ngờ, tức khí nói: "Cái gì mà bây giờ với trước đây, hắn rốt cuộc tên là Đinh Hạo hay là Dương Hạo?"

Chiết Duy Xương kể một hơi đầu đuôi mọi chuyện mà nó đã được nghe, Chiết Tử Du nghe xong lập tức ngẩn ra tại chỗ. Đinh Hạo chính là Dương Hạo, Dương Hạo chính là Đinh Hạo, khâm sai Đại Tống bây giờ chính là quản sự ở thành Quảng Nguyên trước đây, sự minh mẫn hơn người của nà cũng không thể tưởng tượng ra được? Chiết Duy Xương nói cái gì? Hắn ở Bá Châu đã thông gian với quả phụ rồi bị bại lộ, người quả phụ đó bị dìm chết còn hắn thì một đao giết chết hai mạng người và trốn chạy lưu vong khắp nơi?

Chiết Tử Du trong lòng vô cùng thất vọng, còn có chút ghen tuông. Nàng và Dương Hạo quen biết không lâu, tuy hai bên nói chuyện ăn ý, nhưng về mặt tình cảm thì không tiến được bước nào. Lúc đó không thể nói ra, lớn đến như thế này rồi nhưng người mà trong lòng nàng ấn tượng nhất chính là Dương Hạo, nếu không phải như vậy thì khi ở trên Thê Vân Quan hỏi Phù Dao Tử về chuyện đại sự cả đời, trong đầu nàng sẽ không hiện lên hình ảnh của Dương Hạo. Nàng thật không ngờ Dương Hạo chẳng qua chỉ là một kẻ tham tình háo sắc, là hạng người tàn nhẫn. Nhưng hắn...sao lại trở thành khâm sai?

Chiết Tử Du tâm trạng rối bời, Chiết Duy Trung luôn đứng bên cạnh nghe họ nói chuyện không nhịn được mà lấy từ trong áo ra mấy quả trứng chin, giơ lên như bảo bối vậy: "Tiểu cô cô, Cẩu Nhi tỷ tỷ nói những quả trứng này nếu ấp có thể nở ra chim con, ta bảo ca ca ấp mà ca ca không chịu."

Chiết Tử Du thấy buồn tẻ, tiện tay xua lên: "Không ấp không được, là tiểu cô cô nói, bảo Duy Xương ấp cho con."

Chiết Duy Trung mừng rỡ, nhảy cẫng lên, dương dương tự đắc nói: "Là tiểu cô cô nói đấy, huynh ấp cho đệ đi, huynh không ấp đệ sẽ khóc rồi cô cô sẽ đánh huynh một trận."

Chiết Duy Xương nghe thấy thì trợn tròn mắt lên: "Không phải chứ cô cô, ta đâu phải là gà mái, sao có thể ấp trứng được."

Chiết Tử Du khuôn mặt lạnh lùng, hừ một tiếng: "Vậy ngươi đi tìm một con gà mái giúp nó đi."

Rồi nàng quay người bước hai bước, đột nhiên dừng lại quay đầu, đôi mắt xinh đẹp như nước mùa thu lướt qua người Chiết Duy Xương, khiển trách: "Còn nữa, cái tên tiểu tử thối nhà ngươi, sau này bớt giả bộ huynh đệ tốt trước mặt ta đi. Đại ca nhị ca ngươi không mang ngươi theo nên ngươi cố tình giả vờ lỡ miệng cáo tội chúng trước mặt ta, sau này còn dám chơi trò đó trước mặt cô cô thì xem ta sẽ dạy bảo ngươi như thế nào."

Ý đồ của Chiết Duy Xương bị bại lộ, lập tức trán đầy mồ hôi, vội vàng vâng vâng dạ dạ, phía đằng sau Chiết Duy Trung sợ nó chạy mất nên kéo tà áo nó lại, năn nỉ nói: "Tam ca, cô cô đã nói rồi, huynh giúp đệ ấp trứng đi, huynh đi tìm gà mái cho đệ đi, nếu không đệ sẽ khóc..."

Trong khuê phòng, Chiết Tử Du ngồi trước bàn trang điểm, dáng vẻ yêu kiều, làn da trắng như tuyết giống như một đoá sen trắng đang nở.

Thiếu nữ trong gương xinh đẹp như hoa, hai mắt sáng như sao, đôi môi hồng đỏ mọng, tuy hơi lớn một chút, nhưng khí chất thanh lệ, phong thái tài hoà tuyệt đại lại đủ để bù đắp những khuyết điểm, bất kể ai vừa nhìn thấy nàng cũng đều sẽ cảm thấy một luồng khí chất hoàn mĩ từ đầu đến chân.

"Ôi, Đinh Hạo, Dương Hạo, ta phải thay đổi cách nhìn cũ thôi..., không ngờ mấy ngày không gặp mà hắn đã một bước lên trời, làm khâm sứ triều đình, càng không ngờ mấy ngày không gặp mà hắn đã làm nhiều chuỵên như vậy."

Chiết Tử Du trong lòng hỗn loạn, tạm thời bỏ qua chuyện gia đình, lại nghĩ: "Quan gia phá cách đề bạt không phải vì huynh tiến sớ có công mà là có ý ban ơn cho Trình Thế Hùng. Với sự thông minh của huynh tất cũng hiểu. Ta luôn mong huynh đến, nhưng...ta nên làm thế nào cho tốt đây?"

Ngẩng đầu nhìn vầng trăng ngoài cửa sổ, Chiết Tử Du thầm nghĩ: "Huynh ấy...bây giờ chắc đang cũng đám hỗn tạp háo sắc Tiểu Tần Đường Tam rượu chè, đợi đến khi trăng lên cao chắc cũng mở lụa đỏ, hạ màn trướng xuống, thưởng thức hương vị dịu dàng rồi." Vừa nghĩ đến đây thì Chiết Tử Du trong lòng liền cảm thấy khó chịu...

Ánh mắt nàng lại từ từ rơi vào tấm gương lục lăng trên bàn trang điểm, tấm gương đó không nhuốm chút bụi nào, trong gương là một dung nhan xinh đẹp tuyệt mĩ. Nàng từ từ đưa ngón tay thon dài trắng bóc ra chạm vào gương, đôi mắt nhìn chằm chằm vào hình mình trong đó.

Ai nói thiếu nữ không hoài xuân, trong lòng mỗi thiếu nữ đều có một chú nai con không an phận, khi nàng lơ đãng thì nó sẽ nghịch ngợm mà nhảy lên mấy cái, làm tình cảm trào dâng.

Đôi môi hồng của người đẹp kiều diễm mê hồn trong gương hé miệng cười, lộ ra hàm răng trắng như ngọc, dường như đang đưa ra một lời mời vô thanh. Là lời mời như thế nào? Nàng cũng không biết, đêm hè làm người ta mệt mỏi vốn đã dễ làm người ta buồn bã, huống hồ trong không trung lại treo một vầng trăng sáng tỏ.

Đoá hoa súng trắng ngần, hé ra màu vàng nhạt của nhị, đoá hoa âm thầm vươn cánh, nhị hoa âm thầm toả mùi hương, nhưng con ong đang ở đâu?

Nàng đột nhiên đứng dậy, đóng cửa sổ, trốn sau bức bình phong rồi cởi áo ra, cơ thể kiều diễm như nhập vào ánh trăng non...

Khi trong gương lại xuất hiện một người thì đã là một thiếu niên mặt mày thanh tú, môi đỏ răng trắng. "Hắn" hé miệng cười, liền lộ ra mấy phần mùi vị đàn bà dịu dàng, còn có chút thông minh cơ trí. Trong gương đồng còn hiện ra một điểm nhỏ, đó là trên đôi tai xinh đẹp có một cái lỗ nhỏ mà nữ nhi hay có để đeo bông tai.

Không cần phải che giấu, khi nữ tử Đường nhân ra khỏi cửa thì thích cải trang làm nam nhân, không phải để che giấu thân phận nữ nhi của mình mà chỉ là muốn đi cho tiện. Từ công chúa quý phu nhân cho đến nữ tử thường dân thì đa phần là rất thích kiểu này. Bây giờ đã trải qua Ngũ Đại (thời có năm triều đại thay đổi thống trị Trung Nguyên), phong tục này cũng không giảm, Chiết Tử Du khi ra khỏi cửa cũng thường cải trang nam nhi.

Nàng đã chỉnh trang lại y phục, liền cầm cái quạt nhỏ, nhẹ nhàng ra khỏi phòng.

"Đại tiểu thư!" Thị tỳ ở bên ngoài vừa định khom lưng cúi chào thì chiếc quạt của nàng đã đặt ở cằm người đó, dặn dò: "Không cần phải hành lễ, kêu người chuẩn bị xe."

"Đại tiểu thư muốn ra ngoài sao?"

"Ừ!" Chiết Tử Du dùng tay xoay xoay chiếc quạt qua các ngón tay rồi trở về lòng bàn tay, chiếc quạt được mở ra, bên trên chiếc quạt có một hình hoa mẫu đơn Lạc Dương, nàng mỉm cười nói: "Đến Quần Phương Các!"

Thị tỳ đó lộ ra vẻ kinh ngạc, nhưng không dám hỏi nhiều, chỉ cung kính vâng một tiếng rồi từ từ lui ra.

"Đến đây, đến đây, Dương khâm sai, chính là ở đây, ha ha ha, mời xuống xe, mời xuống xe..."

Hai huynh đệ Chiết Duy Chính, Chiết Duy Tín ân cần nhường nhau, xe đã dừng, trước mắt là một toà lầu, đèn lồng đỏ treo cao, phía trước lầu đông nghịt người, đúng là một cảnh tượng phồn hoa.

"Hai vị công tử, quả thật là quá khách khí rồi. Dương mỗ trong người không khoẻ, thực sự không tiện uống nhiều."

"Ha ha, vậy thì có sao chứ, hôm nay người mời là bạn trí giao của bản công tử, không phải là quan viên triều đình, chúng ta cứ thoải mái mà ăn uống, chỉ là giết thời gian thôi mà. Lầu này mĩ nữ nhiều như mây, người đẹp vô số, Dương khâm sai cả chặng đường gian khổ cũng nên hưởng thụ mùi vị dịu dàng chứ, nếu không khi cha trở về lại trách huynh đệ ta không tiếp đãi chu đáo, ha ha ha."

Hai huynh đệ Chiết Duy Chính ban ngày nghe thấy Trình Đức Huyền nói như vậy cũng chỉ nghĩ Dương Hạo rất mê mẩn một goá phụ ở quê, người đó chắc chắn rất xinh đẹp, bây giờ chắc chẳng thích gì khác. Còn Dương Hạo cũng biết sau triều tống thì triều Thanh Minh còn tự do hơn nhiều, sĩ đại phu triều Tống nếu dùng tiệc rượu mà không có người đẹp hầu hạ bên cạnh thì thật khó tưởng tượng, chỉ biết rằng tập tục là như thế, nên đành phải nhận lời, cười gượng đồng ý, theo họ đi vào trong.

Ở phía đằng sau đám gia tướng của huynh đệ Chiết Thị và thân tướng Lưu Thé Hiên cùng mấy người nữa cũng đi theo vào. Huynh đệ Chiết Thị này rõ ràng là khách quen của Quần Phương Các, vừa vào cửa thì một ma ma đã chạy tới nghênh tiếp. Nói là ma ma nhưng nữ tử này mặc một y phục màu tím nhạt, tay cầm chiếc quạt phe phẩy, trông rất giống một phu nhân của đại hộ nhân gia, tướng mạo thanh tú, cử chỉ nho nhã.

Ả bước tới cũng chỉ ân cần hỏi han, hàn huyên chốc lát rồi cất cái giọng như con mèo đêm lên: "Các cô nương đâu mau ra tiếp khách nào..."

Chiết Duy Chính cười nói: "Mấy người họ đã tới chưa?"

Ma ma đó cười nói: "Đến rồi, đến rồi, hai vị thiếu gia xin mời lên lầu, vẫn ở chỗ cũ, nô gia không đưa hai vị lên nữa nhé. Hai vị thiếu gia vẫn muốn tìm Hướng Tâm và Hỉ Nhi chứ?

Không biết vị công tử này thích cô nương như thế nào?"

Chiết Duy Chính xua tay nói: "Bà ít giả vờ thôi, chúng ta nghe nói ở đây mới có mấy mĩ nhân Giang Nam đến, chúng ta mới tới đây, chọn mấy cô nương xinh đẹp biết hầu hạ đến đây."

Vị ma ma đó cười nói: "Hai vị thiếu gia thích mới ghét cũ, hai cô gái của tôi mà biết được chắc sẽ lấy nước mắt rửa mặt mất."

Chiết Duy Chính cười ha ha nói: "Huynh đệ chúng ta sao lại có thể thích mới ghét cũ chứ? Chúng ta là thích mới không ghét cũ mới đúng, có điều mới mà không thưởng thức thì sẽ thành cũ, ha ha. Bà mau đi đi, đưa những cô nương xinh đẹp nhất đến đây."

Hai vị công tử rõ ràng là khách quen của chiến trường phong nguyệt. Dương Hạo có chút không thoải mái, hắn cũng không biết những quy tắc của quan khách ở thanh lâu, đành phải ngồi bên cạnh huynh đệ Chiết Duy Chính xem cử động của họ.

Vị ma ma đó cười nói vài câu với hai vị thiếu gia rồi quay người đi gọi mấy cô nương. Ba người họ tự lên lầu, đến tầng thứ ba, chỉ thấy một bức tranh được chạm trổ, xanh vàng huy hoàng, không giống với sự nhã nhặn thân thiết ở dưới lầu. Họ đi vào một gian phòng thì thấy treo một tấm biển có viết Mẫu Đơn Các. Mẫu Đơn là nữ hoàng của các loài hoa, nếu là ở lầu Quần Phương thì Mẫu Đơn các có lẽ là nơi cao nhất của lầu.

Còn chưa tới trước phòng thì Chiết Duy Chính đã lớn tiếng nói: "Đường Tam Nhi, ra đây tiếp khách nào!"

Dương Hạo đến Phủ Châu đã mắc phải chứng bệnh sợ Đường Thị, hắn luôn lo sợ Đường Diễm Diễm sẽ đám dẫn huynh đệ đến tìm hắn gây chuyện, mấy ngày liền không thấy xuất hiện mới yên tâm lại. Bây giờ vừa nghe thấy họ Đường thì trong lòng chợt hồi hộp, thầm nghĩ: "Người họ Đường này không phải là người của họ Đường Thị chứ, mong là không phải."

Lời của Chiết Duy vừa mới dứt thì nghe thấy một giọng the thé nói: "Lão nương đang vui vẻ ở trong phòng, kẻ tiện nhân nào gào gọi nô gia vậy?"

 Chương 167 Lưu Thế Hiên kể chuyện.

Nghe cách xưng đặc biệt "lão nương", Dương Hạo trực tiếp bị mấy công tử quần áo lụa là kích thích.

Vừa mở cửa ra thì một nam tử mặc y phục gấm lụa lắc lư đi ra ngoài, áo ngắn nửa người, tóc dài ngang vai, chân còn chưa đi tất, chỉ đi độc chân một đôi guốc mộc kiểu Đường nhân, phong lưu không ràng buộc, hình dáng phóng đãng.

Người đó tóc dài bay bay, răng trắng, mắt híp, dung mạo có vẻ dâm tiện, dáng người cao hơn 1 mét 9, vừa lộ ra khuôn mặt Dương Hạo đã cảm thấy như có một luồng dâm đãng bay tới, thầm nghĩ: "Đúng là một kẻ dâm đãng."

"Ý, vị ca ca này là công tử nhà nào vậy?"

Đường Tam Nhi ngẩn người ra, hé hàm răng trắng ra cười cười hỏi. Dương Hạo đột nhiên phát hiện người này bất kể là làm ra biểu hiện gì thì chỉ cần cười sẽ lộ ra một mùi dâm đãng không thể giấu được, Dương Hạo không khỏi thầm nghĩ: "Nụ cười dâm đãng của tên Đường Tam Nhi này và ánh mắt đào hoa của Bích Túc cũng coi như là tuyệt đại song kiều, nhất thời không có cái thứ hai."

Chiết Duy Chính cười mắng: "Ngậm cái mồm lại, vị này là Dương khâm sai, phụng thánh dụ di mấy vạn dân đến Phủ Châu ta, cả đường phong trần, khổ cực công cao, bây giờ thân là chủ nhà, chúng ta mời tiệc rượu nhưng ngài ấy quả thật không chịu được rượu, cho nên tối nay mới tìm mấy kẻ du đãng các ngươi đến để giúp Dương đại nhân vui vẻ."

"Ôi chà, ngươi chỉ nói là có quý nhân đến, chứ đã từng nói cho ta biết đấy là khâm sai đại nhân đâu. Đây là ngươi sai rồi. Thật chậm trễ, thất lễ, thất lễ, Dương khâm sai đừng trách tội." Đường Tam Nhi liên tục chắp tay nói.

Dương Hạo không biết Đường dâm đãng và Đường ớt cay có quan hệ gì không, trong lòng có chút chột dạ, vội chắp hai tay cười, nói qua vài câu với hắn. Chiết Duy Chính đẩy Đường Tam Nhi một cái, nói: "Đi đi đi, ngươi đứng chắn ở đây thì chúng ta sao đi vào được."

Hắn quay đầu cười với Dương Hạo: "Dương khâm sai, hôm nay chúng ta cứ coi như người bình thường, bất luận là quan trường tôn ti, chỉ cần thả lỏng chính mình là được. Đường Tam Nhi nói chuyện luôn như thế, ngài quen là tốt rồi, ha ha, ta cũng không gọi ngài là đại nhân nữa, tránh ngài cảm thấy bó buộc, ngài lớn tuổi hơn ta, vậy ta gọi ngài một tiếng Dương huynh nhé. Dương huynh, mời vào..."

Vừa bước vào phòng thì có mấy vị công tử lạch cạch bàn ghế đứng dậy, trang phục người nào người nấy đều không chỉnh tề, mấy con chim oanh yến đáng yêu ở bên cạnh họ cũng đứng dậy nghênh tiếp. Những mĩ nhân mắt ngọc mày ngà này đều đầu tóc châm cài lộn xộn, có vẻ như vừa mới làm trò cùng mấy vị công tử kia. Có điều đây chỉ là một căn phòng bình thường mà lại có nhiều người như vậy, đúng là 'người có khí thế hừng hực ra trận thì không hề kiêng nể sát phạt.'

Họ lúc nãy đều đã nghe rõ Dương Hạo này là khâm sai, nhưng gia thế của họ không phải là bình thường, hơn nữa người Tây Bắc chỉ biết đến Chiết gia, còn vị Triệu quan gia ở Trung Nguyên kia thì bây giờ trong mắt họ cũng không có bao nhiêu phần trọng lượng, cho nên tuy làm ra vẻ cung kính nhưng thật sự không có chút gò bó nào.

Chiết Duy Chính lướt mắt một lượt, ngạc nhiên nói: "Tiểu Tần đâu rồi, ta rõ ràng đã cho người đi gọi hắn rồi mà."

Đường Tam Nhi cười nói: "Tiểu Tần sai người đến nói không tới được, hắn đến nhà ta lấy lòng hổ cái rồi, còn không biết tối nay sẽ phải chịu bao nhiêu khổ cực đây. Chúng ta đều là phong lưu tử, nhưng hắn lại làm vẻ thánh tình, tự chuốc khổ vào thân." Nói rồi lông mày còn nhếch nhếch lên mấy cái. Lời này của hắn không liên quan đến phong lưu, vốn không nên lộ vẻ như thế, nhưng hắn chỉ cần hai môi nhếch lên thì sự dâm đãng như thiên sinh lại tự lộ ra.

Chiết Duy Chính nghe thấy liền nói: "Cái đứa trẻ đáng thương này, tìm ai chẳng được, sao lại thích một con hổ cái thế, tự mình tạo nghiệp chướng, không thể sống nổi. Nào nào, chúng ta vào chỗ uống rượu, không cần để ý đến thứ vô dụng đó nữa."

Đám người lần lượt ngồi vào ghế, đương nhiên Dương Hạo sẽ được mời lên ngồi ghế trên, Đường Tam Nhi đẩy mỹ nhân đang lả lướt dựa vào lòng hắn, nói: "Đi đi đi, chẳng có mắt gì cả, mau đi hầu hạ làm cho Dương huynh của chúng ta vui đi."

Cô nương đó quả thật rất xinh đẹp, ngũ quan tinh tế, cơ thể thon nhỏ, mượt mà yêu kiều, nhẹ nhàng như một đoá hoa đáng yêu. Nghe thấy lời của Đường Tam Nhi, nàng cười một cách quyến rũ, đôi mắt to như biết nói liếc nhìn Dương Hạo, rồi từ từ đi về phía hắn.

Chiết Duy Chính vừa mới ngồi xuống, nghe thấy lời này liền xua tay nói: "Đi đi đi, ai cần cô hầu hạ, bản công tử đã gọi người, sắp đến rồi."

Đường Tam Nhi dương dương tự đắc nói: "Đúng là chọn nữ nhân mà, bản công tử mới là người trong nghề, ta dám chắc các cô nương trong phòng này biết chăm sóc hầu hạ nhất, đây là Ngưng Tuyết cô nương. Hi hi, mọi người chớ thấy nàng nhỏ nhắn trông như nữ đồng, tướng mạo thanh thuần mà nghĩ là non nớt, bộ ngực của nàng đầy đặn, vòng eo thon nhỏ, hơn còn là nữ tử quyến rũ, chuyện phong nguyệt chăn gối tiệc rượu lại cực kì mạnh bạo. Ha ha, bản công tử có pháp nhãn, còn sợ nhìn sai ư. Dương huynh, tối nay huynh thử sẽ biết." Nói rồi đoi lông mày như đã thành thói quen của hắn lại nhếch nhếch lên.

Mấy cô nương trong phòng nghe thấy đều nhẹ nhàng đưa ánh mắt giận hờn làm nũng về phía hắn. Đường Tam Nhi trái ôm phải ấp, mặt mày hớn hở. Ngưng Tuyết cô nương xinh đẹp như đoá hoa nghe thấy Đường Tam Nhi khoa trương mình như thế thì lập tức đỏ hai gò má lên, đưa cánh tay trắng như tuyết lên che miệng mỉm cười, đôi mắt nhìn về phía Đường Tam Nhi, động tác rõ ràng là trông rất hồn nhiên ngây thơ, hơn nữa từ trong người lại toả ra một hương thơm ngây ngất, làm cho người ta ngứa ngáy chân tay.

Nhưng khi mông nàng ngồi ghé vào Dương Hạo thì cơ thể mềm mại toả hương thơm ngào ngạt đó lại dựa sát vào người hắn, rất tự nhiên kéo cánh tay hắn đặt vào em mình, dùng con mắt hạnh nhân nhìn hắn, cười vừa đẹp vừa ngọt, dáng vẻ ấy rõ ràng là như đang nhìn tình lang vừa ý nhất của mình.

Dương Hạo biết đây là thủ đoạn của nữ tử ở lầu xanh, nhưng vẫn có chút không chống đỡ được, bị mùi hương đó quẩn quanh, bị cơ thể ngọc ngà dựa vào, trái tim như trào lên một cảm giác gì đó. Trong lòng không khỏi thầm kêu lên: Chẳng trách người ta nói dịu dàng là nhà của anh hùng, tuy...khụ khụ, mình cũng không được coi là anh hùng gì, nhưng thủ đoạn của nữ nhân này quả thật là lợi hại.

Mọi người đã ngồi vào chỗ của mình, Ngưng Tuyết cô nương khéo léo gắp thức ăn rót rượu cho Dương Hạo. Chiết Duy Chính chính thức giới thiệu: "Dương huynh, để ta giới thiệu một chút. Vị này là Đường Uy (tên thật của Đường Tam Nhi), vị này là Trương Phi, vị này là Lý Trạch Hạo, vị này là Đồng Thăng Điển, còn nữa, vị này là Phương Viên, một số là thiếu gia của các gia đình giàu có quý tộc lớn một phương hoặc là các công tử của các nhà văn võ Tây Bắc ta, đều đã ngưỡng mộ đại danh Dương huynh từ lâu, bây giờ mới được gặp."

"May mắn quá, may mắn quá." Dương Hạo và đám công tử chưa từng quen biết, cũng chưa từng ngưỡng mộ đại danh này cùng chắp tay làm chào hỏi và nở những điệu cười vờ vĩnh, trong đó chỉ có Đương Tam Nhi dâm đãng thì vẫn...

※ ※ ※ ※ ※ ※ ※ ※ ※ ※ ※ ※ ※ ※ ※ ※ ※ ※ ※ ※ ※ ※ ※ ※ ※ ※ ※ ※

Chiết Tử Du xuống xe, ngẩng đầu nhìn lên lầu, hừ nhẹ một tiếng, tay cầm chiếc quạt nhỏ bước vào trong, hai đại hán thần thái cảnh giác, tướng mạo khôi ngô cũng đi sát theo bên cạnh. Một vị ma ma chạy tới, cười nói: "Ôi chà, vị công tử này là lần đầu tiên tới Quần Phương Các phải không?"

Bà ta chạy đến gần, vừa nhìn thấy tướng mạo của Chiết Tử Du thì vẻ mặt đã thay đổi, với kinh nghiệm của bà ta sao có thể không nhìn ra Chiết Tử Du là một nữ nhi chứ. Nữ nhân đến kĩ viện ư? Sao có thể.

Cái tổ ong bướm này mở cũng chỉ chuyên phục vụ nam nhân, nào có nữ nhân đến thanh lâu, chỉ trừ có đến để bắt kẻ gian dâm gây sự.

Chiết Tử Du dừng bước, một vị đại hán ở phía sau bước lên trước, thì thầm mấy câu vào tai vị ma ma đó, ma ma đó vừa nghe xong thì tỏ ra vô cùng ngạc nhiên, hoang mang nhìn Chiết Tử Du, lắp bắp nói: "Nô gia đã từng thấy ngũ...ngũ công tử, không biết công tử muốn nô gia...nô gia làm gì?"

Chiết Tử Du mỉm cười nói: "Hai đứa cháu bất hiếu của ta đã vào phòng nào?"

"Hồi bẩm ngũ công tử, hai vị thiếu gia đã đến...đến phòng có chữ Mẫu Đơn Các rồi."

"Ồ." Chiết Tử Du thu quạt vào trong lòng bàn tay, hai mắt nhíu lại, hỏi: "Có thông đạo ngầm nào không?"

Nàng trước đây thường giúp cửu thúc quản lí tình báo, cơ cấu tình báo của Chiết gia cũng được thiết lập ở thanh lâu, thanh lâu vốn là một nơi tình báo thăm dò tốt nhất, cho nên nàng biết một số chuyện trong thanh lâu cho dù không có mục đích thu thập tình báo, các gian phòng ở thanh lâu cũng đều có chỗ để nhìn trộm, ví dụ như để quan sát những nữ tử vừa mới bị bắt mà có tính tính giữ trinh tiết mạnh phải chăng có thật sự phục vụ hầu hạ khách không.

Ma ma đó vốn muốn phủ nhận nhưng vừa thấy ánh mắt của Chiết Tử Du liền ngoan ngoãn nói: "Có."

"Được, đưa ta đi. Ngươi yên tâm, bản công tử sẽ không sinh sự ở chỗ ngươi đâu."

Ma ma đó bán tín bán nghi, nhưng biết thân phận thật sự của nàng rồi, nào sám có chút ý làm trái, bà ta ngoan ngoãn đưa Chiết Tử Du lên lầu. Đến cầu thang giữa tầng hai và ba thì đúng lúc đó có một hán từ áo vải bước xuống, đối mặt với Chiết Tử Du, cả hai đều ngẩn ra, cảm giác có chút quen mặt.

Nhìn kĩ lại, hán tử đó đột nhiên thất thanh nói: "Ngươi là ngũ..., là ngũ công tử đang ở trước mặt ư?"

Chiết Tử Du nghi ngờ hỏi: "Ngươi là..."

Người đó chắp tay nói: "Thuộc hạ Lưu Thế Hiên, tướng quân dưới trướng Trình tướng quân ở Quảng Nguyên, từng hộ tống ngũ công tử về Phủ Châu."

"A!" Chiết Tử Du đã nhớ ra, đôi mày ngài hơi dướn lên, nói: "Ngài ở đây làm gì?"

Lưu Thế Hiên vội nói: "Hồi ngũ công tử, thuộc hạ phụng chỉ của Trình tướng quân hành sự, bây giờ Dương Hạo Dương khâm sai đã đi về phía trước, hai vị thiếu công tử của Chiết phủ hôm nay mở yến tiệc mời Dương khâm sai đến, cho nên...ti chức đi theo đến đây."

Chiết Tử Du mỉm cười nói: "Đến rồi thì tốt, ngài đi theo ta." Nói rồi nàng đi qua người hắn, Lưu Thế Hiên vội vã đi theo sau. Đến lầu ba chỗ chuẩn bị rẽ vào Mẫu Đơn Các thì bước vào một gian phòng nhỏ yên tĩnh, hai đại hán đứng canh bên ngoài, vị ma ma đó dẫn Chiết Tử Du và Lưu Thế Hiên vào, cũng không biết góc tường làm bằng gì mà khi đưa tay ra kéo một cái thì bức tướng mở ra một lỗ hổng.

Chiết Tử Du xua xua tay, ma ma đó liền biết ý mà lui ra, Chiết Tử Du nhìn qua lỗ hổng đó, phát hiện chỗ bố trí lỗ hổng này đúng là rất tài tình, căn phòng phía đối diện rất to, cho nên khi nhìn qua lỗ hổng có thể thấy tất cả mọi thứ trong phòng, âm thanh cũng nghe rất rõ. Cái lỗ được làm ở một cái góc chỗ phòng đối diện, bên ngoài được đặt một bức bình phong, bình phong đứng sát vào tướng, bên này nhìn qua bình phong đó thì có thể thấy rõ ràng, bên đối diện rất khó phát giác ra điểm này.

Chỗ chủ toạ qua lỗ hổng có thể nhìn thấy trong tầm mắt, mà Dương Hạo lại ngồi ở chỗ đó, Chiết Tử Du đã nhìn thấy Dương Hạo, lòng đột nhiên trào lên một cảm giác thương mến và thân thiết, vốn chỉ là ý nghĩ lờ mờ, một ý niệm về tình bằng hữu đơn thuần, nhưng trong khoảnh khắc nhìn thấy hắn thì đột nhiên tất cả đều thăng hoa, một cảm giác thích thú vui sướng không tên thoắt cái đã trào dâng trong lòng, làm cho toàn thân cảm thấy ấm áp.

Nhưng đưa mắt hơi nhìn xuống thì lại thấy cánh tay lớn của Dương Hạo đang vòng qua ôm eo Ngưng Tuyết cô nương, một cảm giác ghen tuông không nhịn được trào lên, nàng hậm hực che lỗ hổng lại, quay đầu hỏi: "Ta nhớ rõ hắn tên là Đinh Hạo, sao lại đổi thành họ Dương, các ngài không phải là dẫn di dân theo hướng đông sao, sao lại đến đây, kể cho ta nghe nào."

Lưu Thế Hiên chắp tay nói: "Tuân mệnh, ngũ..."

"Chớ có lên tiếng!" Chiết Tử Du vội vàng ngăn lại, nhẹ nhàng mở lỗ hổng ra nhìn vào bên trong, thấy bên kia vẫn đang cười nói, không phát hiện ra điều gì bất thường, lúc này mới yên tâm, nàng lại đóng lỗ lại rồi ra hiệu cho Lưu Thế Hiên, nói: "Nhỏ tiếng thôi, kể chi tiết đi."

Lưu Thế Hiên vội đáp lời đồng ý, hắn không những kể rõ ràng mọi chuyện đã gặp phải mà ngay cả chuyện Dương Hạo phạm án giết người, rồi nguyên nhân hậu quả khi trốn chạy khỏi Bá Châu cũng kể hết ra. Là chiến hữu cùng nhau tắm máu trên chiến trường thì còn gì mà không thể nói chứ, Dương Hạo sớm đã kể hết chuyện mình đã gặp phải cho hắn nghe.

Lưu Thế Hiên kể hết những gì Dương Hạo đã kể ra, Chiết Tử Du cũng đã nghe thấy chuyện này, nhưng từ miệng của những người khác nhau nói ra, dùng những phương thức khác nhau để kể thì cảm giác trong tai người nghe lại hoàn toàn khác nhau.

Chiết Duy Xương thuật lại lời của Trình Đức Huyền, nói là Dương Hạo ham sắc đẹp, dùng thủ đoạn dụ dỗ goá phụ, rồi cùng nàng ta mưu đồ đoạt gia sản nhà mẹ chồng, sự việc bại lộ, dòng họ mở từ đường công thẩm rồi dìm nữ nhân đó xuống sông, Dương Hạo tức giận mà báo thù, giết chết mẹ chồng nàng và một quản sự trong phủ, sau đó chạy trốn đến Quảng Nguyên. Còn Lưu Thế Hiên thì lại kể khác, nói vô cùng chi tiết. Đó là những câu chính miệng Dương Hạo nói, mỗi câu đều thể hiện chân tình của hắn đối với Đông Nhi, sự thương nhớ đối với mẹ già, sự bận lòng đối với huynh đẹ. Tuy Lưu Thế Hiên không phải là người giỏi kể chuyện, nhưng những lời đó nói ra lại làm cho Chiết Tử Du, một người khá cảm tính lòng lại cảm xúc trào dâng, như cơn sóng dập dờn trầm bổng.

Khi Lưu Thế Hiên nói đến việc Dương Hạo bị người ta đổ oan như thế nào, rồi mắt thấy mình sắp bị thiêu sống nhưng vẫn không chịu tiết lộ chân tướng sự việc để bảo vệ thể diện cho Đông Nhi thì sự ghen tuông trong lòng Chiết Tử Du bỗng chốc được quét sạch, khuôn mặt nàng đỏ lên, như thể người mà Dương Hạo chịu hi sinh tính mạng để bảo vệ chính là nàng vậy. Một nam tử trọng tình trọng nghĩa, đáng tin tưởng như vậy làm gì có nữ nhi nào không cảm thấy cảm động với sự quan tâm chăm sóc của hắn chứ?

Khi Lưu Thế Hiên kể đến chuyện Đông Nhi đã vươn người xuất hiện, chịu bao nhiêu lời chửi mắng, rồi bị người ta dìm xuống sông thì trong mắt Chiết Tử Du mơ hồ trào lên giọt lệ, hai bàn tay đã nắm chặt lại. Nàng tư chất thông minh, tài học xuất chúng, hơn nữa còn giúp cửu thúc làm tình báo, có thể nói là kiến thức rộng mỬ nhưng những chuyện dân gian giống như thế thì nàng nào có từng nghe thấy. Nàng cảm thấy nó không thua gì những cảnh thảm thiết bi tráng trên chiến trường cả.

Khi nghe thấy chuyện Dương Hạo nửa đêm lẻn vào Đổng phủ, giết chết đôi cẩu nam nữ, thì đầu quyền của Chiết Tử Du đập xuống một cái, thấp giọng nói: "Giết rất hay! Nếu như hắn mà buông tha cho kẻ thù rồi tự mình chạy trốn thì hắn chính là thiên hạ đệ nhất đại khốn nạn vô lương phụ tình!"

 Chương 168 Công tử luận đạo.

"Ngũ công tử nói đúng, Dương Hạo làm như vậy mới là một hán tử đường hoàng!"

Lưu Thế Hiên mỉm cười, lại nói: "Có điều, nếu như Dương khâm sai chỉ vì người trong lòng mà nóng giận giết người thì đáng khen, nhưng đó cũng chẳng qua chỉ là một hán tử chính trực vùng hương dã, trong thiên hạ này những kẻ vì tình mà giết người, rồi bỏ mạng nơi ngàn dặm nhiều vô kể, Lưu Thế Hiên chưa chắc đã bái phục hắn. Nhưng những hành động tiếp sau đó của Dương khâm sai mới làm cho Lưu Thế Hiên thành tâm bái phục, lần này phụng mệnh Trình tướng quân mà cùng hắn bôn tẩu là vinh hạnh của Lưu Thế Hiên, Dương khâm sai nếu có lệnh gì thì huynh đệ chúng ta sẽ vì hắn mà nhảy vào nước sôi lửa bỏng cũng không từ."

Chiết Tử Du thay đổi nét mặt, nói: "Lời này có nghĩa là sao?"

Lưu Thế Hiên kể chuyện Dương Hạo đoạt tiết như thế nào, hành quân về hướng tây như thế nào, rồi làm thế nào mà vượt qua cái chế ở hà đạo, làm thế nào mà phi ngựa cứu người trước trận ở Ngọ Cốc, rồi làm thế nào mà từ dưới đáy sông trèo lên... Chiết Tử Du nghe thấy thì cảm xúc trào dâng, nhiệt huyết sôi sục, khi Lưu Thế Hiên kể xong cả người nàng ngây ra.

Quả quyết đoạt tiết không chỉ là đại trí mà còn là đại dũng; vì Đông Nhi giết người đó là tư tình; vì người khác mà xông trận là đại đạo; ở Trục Lãng Xuyên vì bảo vệ mấy vạn dân mà không tiếc thân mình đó là hành động đại nhân đại nghĩa. Chiết Tử Du lòng sôi sục, chỉ hận lúc đó mình không ở đấy để có thể tận mắt chứng kiến hắn từ dưới đáy sông rồi nhảy lên như hồng liên, chứng kiến cái giây phút hắn hồi sinh, vì hắn mà thành tâm hét lên một tiếng "giỏi"!

"Ngài lui xuống trước đi!" Chiết Tử Du trầm mặc, nhẹ nhàng xua tay nói: "Chuyện gặp ta hôm nay không được nói với người khác, bao gồm cả Dương khâm sai!"

"Rõ, thuộc hạ hiểu rồi!" Lưu Thế Hiên cung kính đáp, rồi lặng yên lui ra.

Cửa phòng vừa đóng thì Chiết Tử Du lại mở cánh cửa nhỏ trên tường ra, nhẹ nhàng tiếp cận lại. Mang một tình cảm thuỳ mị và kích động nhìn Dương Hạo, lại cảm th không giống, cánh tay lớn mà hắn đặt lên eo cô nương xinh đẹp dường như cũng không còn chướng mắt nữa, nhìn kĩ thì hình như là miễn cưỡng đặt lên, ừ...nhất định là như vậy.

Từ cổ đến nay, anh hùng thì phong lưu đa tình, hắn có thể vì danh tiếng trong sạch của một quả phụ mà không tiếc hi sinh tính mạng, có thể vì một đứa trẻ bệnh tật không thân không thích mà xông lên quân trận, có thể vì mấy vạn dân chúng không liên quan mà xông vào cái chết, một hán tử như vậy đối với một người xuất gia từ đại hộ, quen với cảnh cha và huynh đệ phong lưu như Chiết Tử Du mà nói thì không cảm giác thấy ghê tởm, ngược lại còn cảm thấy đây mới là người có máu có thịt, biết tình biết nghĩa.

Phía đối diện, mấy công tử đang mặt mày hớn hở kể những sự hiểu biết của mình về nữ nhân. Nam nhân mà, ăn cũng là hoa rượu, không nói về nữ nhân chẳng lẽ nói về nhân sinh, nói về lí tưởng? Bạn nghĩ công tử nhà người ta là ai chứ?

Phương Viên thọc tay sâu vào trong lòng một mỹ nữ, dùng lực xoa xoa, xoa làm cho khuôn mặt nữ nhân đỏ ửng lên, nàng thở gấp, còn hắn thì nói: "Bản công tử chỉ thích những cô nương ngực đầy đặn, còn những cái khác thì không so đo nhiều."

Trương Phi trợn mắt nói: "Thế có phải khi ngươi còn nhỏ mẹ ngươi đã thiếu sữa không, vẫn còn muốn ngực căng đầy à, ngươi không sợ xoa đến chán ngấy à."

Đổng Thăng Điển chậm rãi nói: "Theo ta thấy, thưởng thức nữ nhân nên từ bốn phương diện, lần lượt là mắt, tóc, dáng vẻ và chân. Mắt có hấp dẫn hay không, đối với ngũ quan có hiệu quả làm nổi bật hay không. Còn về tóc thì vẫn là cái căn bản của một người đẹp, cơ thể thì không phải nói rồi. Những nữ nhân có cổ tay, eo, mông, da đẹp chưa chắc đã có đôi chân đẹp, cho nên đây là điểm mà nữ tử cực phẩm khó có được nhất. Vì thế theo ta thấy, nữ tử đẹp nhất sẽ phải có đôi chân đẹp nhất. Ha ha, một đôi chân đẹp động lòng người đó mới là nữ tử tràn đầy linh tính và cảm tính, mới có thể có các cảm giác đẹp khác."

Đường Uy tủm tỉm cười, quay đầu nói: "Trạch Hạo huynh hôm nay sao ít lời vậy, có chuyện gì không vui à? Nếu như có thì cứ nói ra, để mọi người giải toả cho."

Lý Trạch Hạo trừng mắt lên nhìn hắn, ngáp nói: "Đêm qua dốc sức ở trong phòng, quả thực là mệt rồi, các người cứ nói chuyện của các người đi, ta ngủ gật lát."

Đường Uy liền cười nói: "Loại nữ nhân mà ta thích nhất là loại mỹ nhân mông to mà không béo, tròn mà không thừa, trơn mà không ngấy, hình như trăng tròn, đó mới là loại ta thích nhất. Thử nghĩ xem, khi vầng trăng chiếu xuống, tăng một phân là béo, giảm một phân là gầy, da thịt mông nhẵn, nếu dưới ngọn đèn lờ mờ mà nhìn thấy những thứ lấm tấm thì thật là kinh, ta sẽ phun ra mất..."

Chiết Duy Tín cười hỏi: "Thứ phun ra là cái gì?"

Lông mày Đường Tam Nhi hơi nháy nháy lên, cười ha ha nói: "Đương nhiên là máu mũi rồi, nếu không thì có thể là gì chứ?"

Mấy nữ nhân đều che miệng cười, Đường Tam Nhi cảm khái nói: "Con đường mông đẹp, bác đại tinh thông đường dài đằng đẵng..."

Dương Hạo lập tức nhớ tới từ: "Bệnh yêu mông!", mấy tên này kẻ mắc bệnh yêu ngực, kẻ yêu chân, kẻ yêu mông, vậy ta mắc bệnh yêu gì?

Vừa nghĩ tới đây thì Chiết Duy Chính đã quay sang hắn nói: "Dương huynh mọi người đều có ý kiến của mình, không biết huynh có cao kiến gì không, có thể nói cho mọi người nghe thử chứ."

Chiết Tử Du ở bên kia đang nghiến răng nghiến lợi thầm chửi: "Cái tên tiểu khốn nạn, xem ta trở về sẽ xử lí các ngươi ra sao." Trong mồm mắng người nhưng tai nàng lại không khỏi tự chủ dướn lên.

Dương Hạo chần chừ không biết trả lời thế nào, Ngưng Tuyết cô nương mỉm cười, ôm chặt eo hắn, đưa khuôn mặt dựa sát vào ngực hắn, nói: "Dương công tử nhà ta hàm súc bên trong, là một quân tử nhã nhặn, các người hỏi như thế công tử sẽ ngại đó."

Mọi người đều cười lớn, Chiết Tử Du thầm hừ một tiếng: "Hồ ly tinh!" Hoàn toàn không cảm thấy trong lời nói của mình có sự ghen tuông.

Khuôn mặt Dương Hạo hơi nóng lên, xoa xoa mũi cười nói: "Ta à..., ha ha, ý kiến của ta có chút giống Đường huynh, một tháp phong nguyệt mới có thể phong tình vô biên mà, ý cảnh trong chỉ có thể hiểu ngầm được, không thể nói ra lời, ha ha..."

Đường Tam Nhi vỗ tay cười lớn: "Không sai, không sai, ý cảnh trong đó chỉ có thể hiểu ngầm mà không thể nói ra. Nhân sinh khó có được một tri kỉ, nào nào nào, chúng ta cùng cạn một li."

Dương Hạo cười gượng giơ li lên uống cạn, Chiết Tử Du ở căn phòng bên đó nghe hắn nói cũng thích mông như Đường Tam Nhi thì mặt đỏ lên khẽ xì một cái, một cánh tay bất giác đưa ra đằng sau xoa mông mình: "Mông của ta có thể coi là mông đẹp không?"

Vừa mới nói xong thì chợt nhớ ra, mặt nàng đỏ tới mang tai: "Phì, nha đầu không biết mắc cỡ, nghĩ linh tinh gì vậy chứ."

Rượu đã qua tam tuần, đám công tử bắt đầu phóng đãng, xoa ngực liếm lưỡi, uống rượu liên tục. Chiết Tử Du tuy là một cô nương thoải mái và không câu nệ tiểu tiết, nhưng nhìn mà cũng đỏ cả mặt lên, nhưng nàng cũng không chịu rời đi, mắt cứ nhìn chằm chằm vào người Dương Hạo.

Biểu hiện của Dương Hạo vẫn được coi như là an ủi Chiết cô nương, hắn chưa hề làm những hành động dung tục nào như mấy tên công tử kia, nhưng...nhưng...nhưng...thứ đáng trời giết! Hắn không động vào nữ nhân kia, nhưng nữa nhân kia lại động vào hắn!

Dương Hạo cũng sắp không chịu nổi rồi, Ngưng Tuyết cô nương thơm như một đoá hoa không hề biết e thẹn, hoàn toàn là một kẻ lẳng lơ. Thấy hắn cứ ngồi như vậy không chịu tiếp cận thì Ngưng Tuyết cô nương đó liền đưa tay ra chủ động cho tay vào trong người hắn, việc này cũng không sao, nhưng cánh tay ngọc ngà của ả lại từ trên đưa thẳng xuống dưới, thủ đoạn nhẹ nhàng vuốt ve phía dưới của hắn như nụ hôn của cá vậy, rất có kĩ thuật, một lúc sau thì trêu ghẹo làm cho hàng lông mày ngang của hắn phải dựng lên, nóng lòng muốn thi triển thủ đoạn hàng yêu phục ma.

Ngưng Tuyết cô nương thấy năng lực của hắn thâm hậu, cũng không kìm được lòng xuân trào lên. Vị hán tử này không chỉ tuấn tú mà cơ thể còn rất rắn chắc, nếu như triền miên với hắn một đêm chắc sẽ rất gay cấn, vì vậy các thủ đoạn càng liên tiếp được thi triển ra.

Dương Hạo không muốn phong lưu với mấy nữ tử trong lầu xanh, nhưng bản năng cơ thể lại không để hắn không chế, trước mắt thấy mọi thứ tiếp tục như vậy, s㠭ình sẽ làm ra chuyện xấu trước mặt mọi người, dù cho mình có thể khống chế được, nhưng những người ở đây càng lúc càng phóng đãng, trông thật chẳng ra sao, lại không tiện lật mặt để làm một chính nhân quân tử cho người ta ghét.

Tình thế cấp bách sinh trí khôn, Dương Hạo vội uống một chén rượu, uống rất vội, lại vung một nửa chén lên người mình, bắn cả lên mặt Ngưng Tuyết cô nương, Ngưng Tuyết cô nương kêu lên một tiếng, rượu đã vào mắt, nước mắt chảy ra, vội rút tay ra lau. Chiết Tử Du bên kia nhìn thấy liền mỉm cười, hình như đã được giải toả.

Dương Hạo lắc người đứng lên, giả vờ say nói: "Chư vị, chư vị, xin nghe Dương Hạo nói một lời."

Từ lúc bước vào phòng, Dương Hạo chỉ mỉm cười hiền hoà chứ chưa từng chủ động làm gì, lúc này hắn vừa mới mở mồm nói thì những công tử kia không khỏi giương mắt lên nhìn, đương nhiên, đang hôn thì vẫn hôn, đang sờ thì vẫn sờ, bọn họ không chậm trễ cả hai. 

Dương Hạo nghiêm mặt nói: "Hôm nay nhận được sự khoản đãi của các vị, Dương mỗ cảm kích vô cùng. Chuyến đi lần này mấy phen ra vào sống chết, bây giờ có thể ngồi đây cùng mọi người hoan lạc, lại có mấy cô nương xinh đẹp hơn người hầu rượu, Dương Hạo quả thật là rất cảm khái."

Dương Hạo nói xong thì không khỏi sụt sịt mấy tiếng, giơ ngón tay làm ra vẻ đang lau giọt lệ nóng, rồi thần sắc phấn khởi lên, xúc động nói: "Chén rượu này Dương mỗ mượn hoa hiến phật, mời mọi người, đa tạ ý tốt lần này của chư vị công tử, chúc chư vị công tử vinh hoa phú quý, tiền đồ rộng mở."

Đám công tử quay mặt nhìn nhau: "Vị huynh đệ này uống nhiều rồi thì phải? Không phải chỉ là kính rượu thôi sao, sao còn chảy cả nước mắt vậy?" Đám người họ đành phải buông các cô nương ra, lần lượt đứng dậy giơ chén đáp lễ.

Dương Hạo cười nói: "Nào, chúng ta cùng rót đầy rượu, giơ chén lên, cạn!"

Một chén đã uống hết, đàm công tử vừa ngồi xuống thì Dương Hạo lại nói: "Chư vị, chúng ta hoan lạc ở đây là đều nhờ vào công lao bảo vệ sự yên bình của tiết độ sứ Chiết đại tướng quân của Vĩnh An quân. Hôm nay Chiết đại tướng quân đã đích thân dẫn quân xuất chinh, dẹp bọn người phản loạn Đảng Hạng, chén thứ hai chúng ta chúc cho chuyến đi lần này của Chiết tướng quân mã đáo thành công, khải hoàn trở về."

Lần này Dương Hạo đã nhắc đến Chiết Ngự Huân, hai cậu con trai của Chiết Ngự Huân là Chiết Duy Chính và Chiết Duy Tín vừa nghe thấy tên cha mình thì lập tức đẩy mĩ nhân trong lòng mình ra, ngồi ngay ngắn, vẻ mặt nghiêm túc, khi hắn nói xong thì hai tay liền bê chén rượu đứng lên, những vị công tử khác cũng lần lượt đứng dậy, chỉ nghe thấy một loạt tiếng lachj cạch của bàn ghế.

Người mà Dương Hạo nói là Chiết đại tướng quân, đó là chủ của Phủ Châu, trong lòng bọn họ còn có trọng lượng hơn cả quan gia, hơn nữa trước mặt lại có hai cậu con trai của Chiết đại tướng quân, cho nên ngay cả quần áo cũng chỉnh đốn lại, tránh để quá mức không chịu nổi. Dương Hạo trên bàn rượu đã lấy cái cớ rất đường hoàng để kính rượu.

Quả thực là một cảnh tượng rất nghiêm túc, làm cho mấy cô nương khó xử, đứng cũng không được, cười đương nhiên cũng không thích hợp, làm ra vẻ nghiêm túc thì quá buồn cười, thần sắc mỗi người đều có chút gượng gạo.

Dương Hạo nói: "Nào, chúng ta cùng rót cho đầy..., giơ chén lên..."

Chén rượu này uống xong thì đám công tử chần chừ ngồi xuống, không biết Dương Hạo còn muốn làm gì nữa. Rượu này muốn kính một chén thì thường sẽ phải đến ba chén, rất ít khi xuất hiện số 2, thực ra thì những vị công tử này cũng đã quá "2" rồi.

Qủa nhiên là không ngoài dự đoán, Dương Hạo vẫn chưa ngồi xuống, thần sắc lại nghiêm túc hơn, thậm chí còn có chút cảm giác thần thánh: "Nói đến Chiết đại tướng quân, bản khâm sai bất giác nhớ đến đương kim quan gia, quan gia đích thân chinh phạt Bắc Hán, lao khổ công cao, vì muốn diệt trừ đại hoạ cho Đại Tống ta mà ăn gió nằm sương, thân ở phía trước sĩ tốt, có một người tốt như vậy Đại Tống thật là có phúc, con dân Đại Tống thật là may mắn, chúng ta thật là may mắn! Nào..."

Dương Hạo còn chưa nói xong thì Chiết Duy Chính đã lặng lẽ xua xua tay, mấy cô nương thật sự cảm thấy mình thân làm kĩ nữ, đứng dậy cũng thì quả chẳng ra sao, nhưng người ta dùng thân phận khâm sai để biểu thị lòng trung thành với Triệu quan gia ở thành Biện Lương, mình đúng là không tiện ngồi ở đây, nên vừa thấy Chiết Duy Chính ra hiệu thì bọn họ như đã hiểu, vội vàng đứng dậy tản ra.

Dương Hạo cười tươi, hai tay bê chén rượu, nhìn xung quanh, giơ chén lên nói: "Nào, chúng ta cùng rót đầy, giơ chén lên."

Đám công tử làm mặt đau khổ nhìn nhau, Đương Tam Nhi bĩu bĩu môi, nói nghiến như răng đau vậy: "Cạn!"

Ở căn phòng yên tĩnh bên cạnh, Chiết Tử Du đang che miệng khẽ cười, đôi mắt to quyến rũ hơi buồn đã uốn thành hình trăng lưỡi liềm xinh đẹp: "Cái tên này, xem ra có vẻ trưởng thành hơn rồi, nhưng...vẫn giống như trước, cơ trí cổ quái, chọc ghẹo cho người ta giận không được mà tức cũng không xong."

Nàng nhẹ cắn môi, đứng thẳng dậy, mỉm cười ngọt ngào với Dương Hạo kẻ đang hoàn toàn không biết có nàng ở đây, rồi xoay người bước ra cửa.

Đêm hôm nay nàng không có phí công đến. Nếu như một nam nhân ở một nơi có thể phóng đãng mà không phóng đãng, biết tự ràng buộc mình như vậy thật là đáng quý. Nàng đi mà trong lòng đầy thoả mãn.

Chiết Tử Du lòng đầy vui mừng nghĩ: "Nếu như hắn bất đắc dĩ mà ở lại đó, làm chuyện trăng gió với mấy ả lầu xanh thì ta...ta cũng sẽ không trách."

Bước ra khỏi cửa, đi trên hành lang, khi vén tà áo xuống lầu Chiết Tử Du chợt nghĩ: "Người ta là gì của hắn chứ, sao lại có thể trách cứ gì được?" Vừa nghĩ đến đây thì mặt liền đỏ lên.

Ra khỏi Quần Phương Các, bước dưới ánh trăng và sao, phe phẩy chiếc quạt, tâm tình của Tử Du cô nương đột nhiên rất tốt đẹp...

 Chương 169: Huynh muội Đường gia 

Bốn chiếc xe ngựa có mui làm bằng gỗ lim cao to tiến vào trong Đường phủ, Đường Uy kéo lê đôi dép mộc cao, tà áo bay bay, tóc bay lất phất, giống như kẻ điên bước xuống xe, lắc lư tiến vào trong phòng, khuôn mặt tươi cười nói với lão quản gia: "Tiểu Tần đâu, đi chưa?"

Lão quản gia Đường phủ nhịn cười nói: "Vừa mới bị đại tiểu thư mắng chửi cho bụi đầy đầu đất đầy mặt rời đi rồi, thiếu gia khuyên đại tiểu thư đi, đối với Tần công tử như vậy quả thật có chút...khụ khụ..."

Đường Uy nhún vai nói: "Khuyên ư? Khuyên như thế nào chứ? Trên dưới phủ ai mà chẳng biết nha đầu điêu ngoa? Đường gia chúng ta nam đinh rất thịnh, từ đời cha ta nam đinh sinh hoài không hết, chính vì nữ nhi ít nên đến đời chúng ta thì mới có một nha đầu này, những gia gia nại nại đều coi nó là bảo bối, ai dám dây vào chứ. Được rồi được rồi, ta đi nịnh nó một chút."

Đường Uy lại lên đôi guốc mộc, "lạp cạp lạp cạp" đi về phía nhà sau giống như mấy chú vịt kêu vậy, hắn đã đi đến khuê phòng của Đường Diễm Diễm, nhẹ nhàng gõ cửa, lớn tiếng nói: "Diễm diễm ơi, tiểu Tần lại làm gì để muội không vui à, nói với tam ca đi." Nói rồi đẩy cửa bước vào thì thấy Đường Diễm Diễm đang ngồi bên giường, cái miệng nhỏ xinh đang vểnh lên, có vẻ tức giận. Đường Uy cười hì hì bước tới ngồi xuống, nắm bả vai nàng, cười thân thiết đúng như một người anh trai, cười nói: "Muội giận gì vậy, tiểu Tần mấy ngày hôm nay không phải là luôn bị muội chọc tức sao, muội không để ý đến hắn thì thôi, sao lại phải tức chứ."

Đường Diễm Diễm trừng mắt lên nói: "Bản cô nương bây giờ cứ nhìn thấy hắn lại bực mình, có được hay không?"

"Được, được, sao lại không được." Đường Uy thở dài nói: "Vậy muội nói đi, rốt cuộc là tức vì chuyện gì, có phải là vì lần trước hắn đi đến lầu xanh cùng tụi ta không? Muội muội này, chuyện đó muội phải nhìn thoáng ra một chút. Hắn thật sự thích muội là được rồi. Chơi bời bên ngoài khó tránh lắm, nam nhân mà, a...đúng không?"

"Đúng cái mông ý!" Đường Diễm Diễm tức khí nói: "Bây giờ cứ nhìn thấy mặt hắn muội lại tức, không phải là tức vì hắn vào thanh lâu mà vì nhìn không ưa hắn. Trước đây, muội không cảm thấy thế nhưng bây giờ càng nhìn càng thấy tên đó nông cạn chẳng có chút hứng thú nào cả, hắn gặp muội thì biết nói gì cơ chứ? Chỉ suốt ngày nói hai nhà Đường Tần môn đăng hộ đối như thế nào, hai người chúgn ta nếu thành thân thì đúng là thêu hoa trên gấm, hai nh càng thêm lớn mạnh, muội làm Tần gia thiếu phu nhân sẽ vui sướng như thế nào. Muội vui sướng sao? Muội sống vui sướng như thế nào thì sao hắn biết được, như thế này gọi là sống vui sướng sao? Huynh xem người ta đấy, tuy xuất thân thấp hèn, nhưng lại lo việc quốc việc dân, có một trái tim đại nhân đại nghĩa, có tình có nghĩa.

So sánh lại thì còn có mùi vị hơn. 'Nếu như trong lòng bạn là thiên đường thì thân ở địa ngục cũng là thiên đường, còn nếu lòng bạn là địa ngục thì thân ở thiên đường cũng là địa ngục'. Huynh nghe thử coi, Tần Dật Vân đã nói ra một lời rất huyền cơ. Hừ! Ở cùng với người như thế cho dù ăn gió nằm sương, ngày ngày khổ cực cũng thấy thú vị; còn ở cùng một tên chẳng có chí lớn thật sự chẳng có chút ý vị nào, lời nói nhàm chán, hắn so với người tađúng là một trời một vực, huynh nói sao muội lại không thấy ghét chứ?"

"Ý, tiểu muội, người mà muội nói...là ai vậy?"

"Huynh ấy..."

Khuôn mặt trứng gà của Đường Diễm Diễm đỏ lên, ánh mắt như có chút giấu diếm, thấy đôi mắt híp híp của Đường Uy đầy vẻ ranh mãnh thì trong đầu nàng thẹn quá thành ra giận, ngang ngược nói: "Cần huynh quản à. Người nói lời này là một thánh nhân thượng cổ, huynh là cái tên chẳng học hành gì cả đương nhiên là không biết rồi, muội hỏi huynh, muội bảo huynh giúp muội dạy bảo tên Dương khâm sai huynh đã đi làm chưa?"

Đường Uy thu tay lại, mệt mỏi nằm xuống giường của muội muội, hai tay đặt lên gối, hai chân thả lỏng xuống đất, hừ hừ nói: "Đi rồi, vừa đi tối nay."

Đường Diễm Diễm lập tức lo lắng, nàng nhìn ca ca, cắn môi, do dự một lúc rồi nhỏ tiếng hỏi: "Huynh thật sự đã đi rồi."

"Ừ." Đường Uy mệt mỏi nói: "Không chỉ mình ta đi còn có Duy Chính, Duy Tín, Phương viên, Trạch Hạo đi cùng, tất cả đều đi. Lần này làm đi làm lại, đứng lên rồi ngồi xuống, ngồi xuống lại đứng lên, làm cho chúng ta mệt chết đi được."

Đường Diễm Diễm nghe thấy thế thì mắt hơi tái đi, một lúc sau nàng đột nhiên cắn răng, voé vào đùi Đường Uy một cái, Đường Uy kêu lên một tiếng, rồi nhảy dựng lên, suýt xoa nói: "Ôi cha, đau chết ta mất, muội làm cái gì vậy tiểu tổ tông của ta?"

"Huynh...huynh...ai cho huynh đánh hắn, người ta...người ta chỉ bảo huynh doạ hắn thôi mà..." Đường Diễm Diễm nhăn nhăn mũi, mắt đỏ lên, nước mắt bắt đầu rơi xuống, thút thít nói: "Các huynh nhiều người như vậy lại đa phần biết võ công, nếu như đánh người ta bị thương thì làm thế nào. Người ta ngã xuống rồi mà các huynh còn đánh, sao lại có thể ức hiếp người như thế, huynh làm cái gì vậy trời..."

Đường Diễm Diễm nước mắt lưng tròng đứng dậy, nói: "Muội đi xem huynh ấy, nếu như huynh thật sự đánh bị thương huynh ấy thì muội sẽ không tha cho huynh đâu."

Đường Uy hất tóc lên, trợn mắt nói: "Ai nói chúng ta đánh hắn chứ? Muội coi tam ca muội như cái chày gỗ thật à. Tốt xấu gì hắnlà khâm sai, không nể mặt tăng cũng phải nể mặt phật, huynh làm sao có thể động thủ với hắn? Đó chẳng phải là tự chuốc phiền phức sao."

"Ơ..." Đường Diễm Diễm kinh ngạc, vội đưa tay áo lên lau nước mắt, hỏi: "Vậy huynh nói cái gì mà ngồi xuống lại đứng lên, đứng lên lại ngồi xuống, còn làm cho các huynh mệt chết, không phải...không phải là đánh huynh ấy ngã xuống sao?"

Đường Uy cười nhăn nói: "Đương nhiên không phải, là chúng ta bị hắn trêu chọc làm cho đứng lên rồi ngồi xuống, ngồi xuống lại đứng lên ý chứ..., haizz, vốn đêm nay muốn vui vẻ ở Quần Phương Các nhưng lại bị hắn làm cho khom lưng như vái người chết vậy, làm mất hết cả hứng."

Đường Diễm Diễm nín khóc cười, nghĩ ngợi rồi đột nhiên trừng mắt lên, quát: "Huynh đưa huynh ấy đến thanh lâu?"

Đường Uy vội vàng xua tay: "Không phải ta, không phải ta, là tentieeur tử Chiết Duy Chính, ai mà biết được, đã tìm mấy mỹ nhân Giang Nam đến vốn là muốn tối nay vui vẻ một chút nhưng lại vị Dương Hạo làm hỏng, đảnh phải ai về nhà nấy, thật là mất hứng."

Đường Diễm Diễm vui mừng nói: "Muội đã nói rồi mà, huynh ấy và mấy công tử áo gấm lụa là các huynh không giống nhau."

Đường Uy liếc mắt nhìn nàng, đột nhiên nói: "Tiểu muội, muội có phải là đã thích cái người tên Dương Hạo đó không?"

"Sao cơ, muội thích huynh ấy?" Đường Diễm Diễm cười nhạt, làm vẻ khinh thường.

Nàng liếc nhìn ca ca, đột nhiên nhăn nhăn mũi, có chút chột dạ hỏi: "Ca ca, biểu hiện của muội rõ ràng vậy sao?"

Đường Uy lắc đầu nói: "Cũng không phải là quá rõ ràng."

Đường Diễm Diễm thở phào, thì nghe thấy Đường Uy lại nói: "Nếu như mù mà nghe thấy lời muội vừa nói thì cũng biết; nếu như điếc nhìn thấy biểu hiện của muội cũng sẽ đoán ra, nếu như vừa mù vừa điếc thì chỉ cần ngửi cái mùi oán hận ghen tuông trên trường muội cũng sẽ ngộ ra."

Đường Diễm Diễm lại vừa ngại vừa tức, giơ chân lên đá một cái, Đường Uy nhanh nhẹn tránh kịp, cười ha ha.

Đường Diễm Diễm bĩu môi, nước mắt vẫn ròng ròng nói: "Ca, người ta thích huynh ấy nhưng huynh ấy không thích người ta. Huynh nói xem phải làm sao đây, người ta...người ta đã thổ lộ với huynh ấy rồi, xấu hổ quá..."

Đường Uy hừ một tiếng, tiện tay lấy một bình sứ nhỏ trong người ra, nói: "Khóc cái gì mà khóc, những gì mà Đường gia ta muốn có được chẳng nhẽ không thể có sao? Cho muội này!"

Đường Diễm Diễm lau nước mắt nhận lấy, mơ hồ hỏi: "Đây là cái gì?"

Đường Uy hãnh diện nói: "Xuân dược."

Đường Diễm Diễm vừa tức vừa xấu hổ, giận hờn nói: "Cái đồ con rùa con vịt, sao lại đưa cho muội thứ này."

Đường Uy thản nhiên nói: "Cái này thì có làm sao đâu, kết quả của hai người vui vẻ nước đến mương với kết quả của bá vương cứng đầu dương cung tới thực ra là giống nhau, căn cứ vào kinh nghiệm giang hồ xông xáo nhiều năm của tam ca, ta cảm thấy phương pháp thứ hai càng trực tiếp và có hiệu quả. Đợi khi hắn thành người của muội rồi thì...ha ha ha, nếu muội thương tiếc cho hắn thì đối tốt với hắn một chút là được rồi."

Đường Diễm Diễm ưỡn ngực lên nói: "Đường Diễm Diễm muội là ai chứ? Thích một nam nhân thì cần hắn cam tâm tình nguyện thích muội mới được. Dựa vào tướng mạo và nhân phẩm của muội, muội không tin huynh ấy không động lòng, không phải là đã nói nữ nhân theo đuổi nam nhân cách mấy tầng lưới sao? Hừ, muội thà bây giờ bỏ qua thân phận mình, thấp giọng với huynh ấy một chút còn hơn, những ấm ức này sẽ có ngày tính hết với huynh ấy. Cái thủ đoạn hạ lưu này chỉ có Đường Tam Nhi huynh mới sử dụng thôi, Đường đại cô nương ta hoàn toàn khinh thường thứ này! Thứ này...sử dụng thế nào vậy?"

Đường Uy lảo đảo, suýt nữa ngã xuống đất.

Đường Uy vừa mới ra cửa phòng của Đường Diễm Diễm thì thấy nhị ca Đường Dũng đang đứng ở cửam thấy hắn bước ra lập tức giơ ngón tay trỏ lên môi, ra hiệu chớ có lên tiếng, Đường Uy đã hiểu ý, hai huynh đệ xoay người không phát ra tiếng động, một trước một sau đi tới phía dàn nho trong sân.

Đường Dũng quay người nói: "Tam ca, ta vừa mới trở vềnghe nói tiểu muội lại mắng chửi đuổi Dật Vân đi, đang muốn đến khuyên một câu."

Hắn hơi nhíu mày nói: "Sao đệ lại cổ vũ nó đi thích tên khâm sai họ Dương gì đó hả. Đường gia chúng ta lập nghiệp ở đây, trong tứ đại gia thì chúng ta chỉ xếp thứ 3, nếu như có thể thông gia với Tần gia thì sau này Đường gia ta sẽ trở thành gia tộc đứng đầu trong tứ đại gia, thế lực bây giờ sẽ được mửo rộng. Hơn nữa, từ phương diện cá nhân mà nói, Dật Vân thực sự là rất xứng, đệ đang làm cái quỷ gì vậy?"

o0o

Cái bộ dạng khi cười không đứng đắn của Đường Uy đã không còn nữa, hắn nghiêm chỉnh nói: "Nhị ca, mấy ngày nay huynh không ở nhà, đệ cùng đại ca đã bàn bạc về sự phát triển của Đường gia sau này."

Hắn giơ tay lên hái xuống một chùm nho rồi đút luôn vào mồm, tiếp tục nói: "Nhị ca, Đường gia sau này không thể chỉ nhìn về tây bắc, nên nhìn về phía xa hơn, phải nhìn về Trung Nguyên."

Sắc mặt Đường Dũng hơi thay đổi, hỏi: "Lời này là sao?"

Đường Uy nói: "Triệu quan gia xuất binh chinh phạt Bắc Hán, lần này tuy là vô công trở về, nhưng Bắc Hán chỉ còn tồn tại trên danh nghĩa, nếu không có sự tiếp ứng của người Khiết Đan thì e là cũng không chống chọi được mấy năm nữa. Thế lực Đại Tống một khi đã đạt được Bắc Hán thì tây bắc cúng ta sẽ bị vây ở giữa. Ta nghĩ huynh cũng biết trước đây không lâu quan gia đã gia phong tấn tước cho Chiết tướng quân và Dương tưới quân Lân Châu, muốn họ vào kinh làm quan, đây chính là một điềm báo trước, quan gia muốn thu phục tây bắc."

Cho dù quan gia bắc có hán, nam có đường, nhất thời sẽ không động võ đối với nơi này, nhưng đó cũng chỉ là chuyện sớm muộn thôi. Chiết tướng quân nuôi phỉ rồi tự chống lại cũng chỉ có thể giải quyết được nguy nan nhất thời thôi, đợi sau khi quan gia xuất thủ...thì phải làm sao? Cho nên, chúng ta phải sớm kéo được quan hệ với Khai Phong, đem chuyện buôn bán mở rộng đến Trung Nguyên. Tần gia và Chiết gia có quan hệ thông gia, mối quan hệ qua lại trước nay thân mật hơn nhiều so với chúng ta, nếu Đường gia ta cũng triệt để đi theo vết tích của Chiết gia, vậy khi muốn đến góp sức cho Khai Phong thì e rằng cũng sẽ bị Triệu quan gia nghi kị, mối thông gia này chẳng qua chỉ là thêu gấm trên hoa thôi, không có tác dụng lớn. Một khi Chiết Thị không chịu bỏ Tây Bắc, động đao kiếm với triều đình, thì chúng ta sẽ bị liên luỵ, chi bằng sớm rời ra xa trước."

Nói đến đây hắn cười lên, đặt chùm nho vào tay nhị ca người có tướng mạo khá giống hắn, lại nói: "Nếu như thiết lập quan hệ với Khai Phong, chúng ta liên kết dựa vào nhau không phải là còn được bảo đảm hơn bây giờ sao? Tiểu muội và Tần Dật Vân trở mặt với nhau, việc này cũng tốt, để cho nó phân tán lòng, thích người khác, cũng để cắt hoàn toàn ý định của Tần gia. Giữa tiểu tử và nhi nữa phân phân hợp hợp, cũng không khiến cho hai nhà Tần Đường trở mặt với nhau. Còn về vị Dương khâm sai đó với tiểu muội thì "chữ 八 (bát) còn thiếu một nét phẩy mà" (vẫn chưa bắt đầu), nếu như mà thành thì tiểu muội đương nhiên sẽ vui, hắn là thân tín của quan gia, Đường gia chúng ta cũng sẽ có thêm một con đường, có gì mà không được chứ. Đệ với đại ca đã bàn bạc rồi, đại ca cũng tán thành ý kiến của ta."

Đường Dũng lúc này cũng đã hiểu, gật đầu nói: "Đệ nói cũng có lí, sống yên ổn phải nghĩ đến ngày gian nguy mới là con đường sinh tồn kế tục của gia tộc." Lông mày hắn hơi nhíu lên, lại nói: "Có điều...đệ cũng quá hồ đồ rồi, sao lại có thể đưa cho tiểu muộ xuân dược chứ, đệ bên ngoài làm loạn như thế nào cũng không sao, nhưng đây là trong nhà, làm huynh thì cũng phải ra dáng huynh một chút chứ."

Đường Uy vừa định giải thích thì nghe thấy từ trong phòng tiều muội phát ra tiếng rít gào: "Đường Uy, cái đồ đáng nghìn đao chém, dám đưa viên tiêu thực để lừa ta!"

Đường Uy vừa nghe thấy thế vội chạy trốn. Cánh cửa mở ra, đột nhiên một hình bóng diễm lệ lao tới, Đường Uy chạy không kịp, vội chạy ngồi xổm dưới giàn nho.......

Trong trạm dịch, Diệp Chi Tuyền bị ngăn ở ngoài cửa, Bích Túc biết được vội ra ngoài nghênh đón, lúc này hắn mới được vào trong. Diệp Chi Tuyền ấm ức đầy bụng nói: "Bản công tử tuy là một dân chúng bình thường, nhưng lần này đã giúp sức cho khâm sai, cũng coi như là người có công mà, cái lũ mắt cho không biết nhìn người, dám không để ta vào. Nếu không phải là khâm sai dặn dò bảo ta sau khi đưa người đi phải quay lại gặp hắn thì ta đã chẳng thèm tới đây làm gì, trong túi có tiền cách điếm nào mà ta chả ở được chứ."

Bích Túc cười nói: "Được rồi được rồi, không cần phải rên rỉ nữa, khâm sai của chúng ta đi vội vã không có tín vật gì giao cho ngươi. Khâm sai đã đi dự yến tiệc rồi. Nào đến đây, vào phòng ta nghỉ ngơi một lát, uống chén trà đã. Thế những dân chúng kia như thế nào rồi, khâm sai vẫn luôn lo lắng cho họ.

Diệp Chi Tuyền nói: "Nói đến nơi đó cũng quả không tồi, hoang dã tươi tốt, màu mỡ phù nhiêu. Có núi có nước, có hồ có đảo. Theo ta thấy muốn sắp xếp cho 10 vạn dân nữa cũng dễ dàng ý chứ. Lý viên ngoại đã cho người đi tới đó trước, đã đào hầm trú ẩn, xây tướng đất. Họ đã dùng mười mấy chiếc nồi lớn để nấu canh gạo nếp, trộn đất vàng làm tường, nghe nói rắn chắc đến mức có thể mài đao được. Cuộc sống rất nhẹ nhàng, xây nhà cũng rất nhanh, chỉ là đa phần vẫn chưa đốt đất nên tường đất vẫn hơi ướt, cũng may là trời mùa hè nên vẫn có thể vào ở được, ai không muốn vào thì có thể ở trên đồng cỏ nghỉ, chờ nhà bớt ướt thì có thể vào ở cũng được. Ý! Ta xem mà cũng thấy thật ngưỡng mộ nhé, như kiểu không phải phí nguyên liệu xây nhà gì, quay đầu lại đòi tiền triều đình, tất cả gạch, ngói, vỗ...và các vật liệu khác đều được tính cả, Lý viên ngoại đúng là kiếm được đầy chén đầy chậu, dựa vào làm quan để kiếm tiền thật dễ."

Bích Túc cười nói: "Ngươi ngưỡng mộ gì chứ, lần này ngươi đi cùng với khâm sai làm việc, không phải là cũng đã dựa vào một vị quan sao? Cho dù Dương khâm sai không đến Quảng Nguyên làm quan thì triều đình vẫn sẽ hậu thưởng cho ngươi, còn sợ quan lại ở Quảng Nguyên sau này không chiếu cố cho gia đình ngươi sao?"

Diệp Chi Tuyền trở nên vui mừng, mặt mày hí hửng cười nói: "Lời này cũng có lí. Có điều...ở nơi đó cái gì cũng tốt, chỉ là có chút không ổn. Ta nghe lão già tự xưng họ Mộc đó nói mảnh đất đó bắc nối Lân Châu, tây nối Hạ Châu, nằm ở nơi giao nhau của bốn thế lực, một khi có chiến sự thì nơi đó sẽ là nơi chịu trận đầu tiên, e rằng...không phải là nơi đất lành."

Bích Túc thay đổi sắc mặt nói: "Có chuyện này sao, chờ khâm sai trở về chuyện này nhất định phải nói với hắn." Hai người đang nói đến đây thì Dương Hạo đã lên xe trở về.

Dương Hạo nhờ rượu để thoái tiệc, vừa về dịch trạm thì Bích Túc đã đưa Diệp đại thiếu gia vào phòng của hắn. Ba người ngồi xuống, nghe Diệp đại thiếu gia giới thiệu về tình hình nơi đó, Dương Hạo không khỏi nhăn mày, chậm rãi đi đi lại lại trong phòng.

Diệp Chi Tuyền bổ sung nói: "Thất bộ Đảng Hạng đang làm loạn, người họ Mục đó nói Dã Ly Thị trong bát thị Đảng Hạng cách Lô Lĩnh Hà gần nhất, phi ngựa nhanh thì hai đến ba ngày sẽ tới, thị tộc này có tính cương quyết ngang tàn nhất, Lô Hà Lĩnh đột nhiên xuất hiện mấy vạn hán dân, e rằng họ sẽ tới sinh sự."

Có lẽ người dân tộc thiểu số đặc biệt có cảm giác tốt lành với chứ "bát". Khiết Đan có bá bộ, Đảng Hạng có bát thị, nữ chân nhân sau này có bát kì. Trái ngược với bát bộ Khiết Đan, trong bát thị Đảng Hạng có một thị đứng đầu là Thác Bạt thị, chỉ có duy nhất thị tộc này dung nhập vào dân tộc Khương. Họ vốn là tộc Tiên Ti, xét về sự xa gần thì thực ra còn có quan hệ gần với Chiết thị ở Phủ Châu, theo hệ tộc thượng thì đều là xuất thân từ Tiên Ti Hoàng tộc. Có điều sau khi Bắc Nguỵ diệt vong thi tộc Tiên Ti ngày càng điêu linh, Thác Bạt tộc dàn dần nhập vào tộc Đảng Hạng Khương

Trong bát thị Đảng Hạng, số người của tộc Thác Bạt là ít nhất, nhưng họ đã từng du nhập vào hoàng tộc của Trung Nguyên, vừa giữ gìn được sự nhanh nhẹn của bộ lạc trên thảo nguyên, lại vừa có đầu óc chính trị, kinh tế mà những người Đảng Hạng Khương không có, cho nên sau khi gia nhập tộc Đảng Hạng Khương thì từng bước đã trở thành tộc đứng đầu trong bát tộc, ngoài ra các tộc còn lại lại phải sống dưới sự thống trị của họ.

Họ có nền văn hoa khác biệt với các tộc khác, Thác Bạt thị đối với các thị tộc các còn hung hãn hơn, cho nên khi thất bộ làm loạn nếu đánh thắng thì được xả giận, đánh không thắng thì nhận thua, đợi lần sau không thể nhịn được lại làm loạn, cứ như vậy mà lặp đi lặp lại, nó đã như chuyện thường ngày.

Họ kiêu dũng nhất trong thất bộ Đảng Hạng thì không còn phải nghi ngờ gì, nhưng lại thiếu binh khí lương thảo, thiếu chỉ huy thống nhất, thiếu thống soái thực sự có thể thống lĩnh toàn cục. Mỗi khi chiến loạn nổi lên, để bảo vệ sự cung ứng lương thảo, những người Đảng Hạng Khương nghèo khổ này lại phải đi cướp bóc của những người hán gần biên cương, như đã thành định luật, nó cũng giống như sự suy đoán và lo lắng của Lý Quang Sầm.

Dương Hạo nghe thấy Diệp Chi Tuyền nói vậy, đã hoàn toàn hiểu được ý đồ của Chiết đại tướng quân. Chiết đại tướng quân đang lo lắng những người dân Bắc Hán này vào đất của hắn sẽ gây bất lợi cho hắn, nếu như một ngày triều đình đóng quan cho lưu quan ở đây, làm lay động căn cơ của hắn thì lúc đó sẽ mượn đao giết người, sẽ diệt trừ tận gốc thế lực của ba bên kia. Nếu như triều đình không muốn dùng tính mạng của mấy vạn dân này để làm lay động đến căn cơ của hắn thì có thể giúp đỡ một tay, giữa ba bên thế lực giúp đỡ một thế lực thân gần nhất với Chiết thị, để tránh người Đảng Hạng trực tiếp xông vào. Nhưng làm như thế thì những dân chúng Bắc Hán khó khăn lắm mới vượt qua kiếp nạn đến đây chẳng phải là bị người ta đưa vào miệng núi lửa bất kì lúc nào cũng có thể bị nổ tung sao?

Dương Hạo trầm ngâm một hồi lâu, đột nhiên ngẩng đầu dậy, nói: "Sáng sớm ngày mai ra sẽ đi gặp Vĩnh An tiết độ sứ lưu hậu...Chiết Ngự Khanh!"

 Chương 170: Tây phương phục tây hành 

Sáng sớm ngày hôm sau, hai huynh đệ Chiết Duy Chính, Chiết Duy Tín đã ngủ dậy, vừa súc miệng rửa mặt, dùng xong bữa sáng thì bị Chiết Tử Du gọi vào phòng lớn, dạy cho hai đứa một bài học nhớ đời. Thực ra việc hai huynh đệ nó thường trêu hoa ghẹo nguyệt không phải Chiết Tử Du không biết, nhưng trước đây không có trách phạt nặng chúng như hôm nay.

Hai huynh đệ không hiểu gì cả, cũng không biết tiểu cô cô hôm nay thấy có chỗ nào khó chịu. Chúng nào có biết cơn giận lần này của Chiết Tử Du không phải vì chúng đến lầu xanh mà là chúng còn đưa Dương Hạo cùng đi. Chiết Tử Du vẫn chưa động lòng cả mười phần, nhưng cũng đã bảy phần rồi. Hai tên khốn này tự mình đi phong lưu cũng không sao, nhưng lại còn kéo theo cả tướng công tương lai của cô cô, nghĩ thế nào thì vẫn thấy tức.

Hai huynh đệ Chiết Duy Chính, Chiết Duy Tín ôm đầy một bụng ấm ức vì bị tiểu cô cô nhỏ hơn cả tuổi chúng mắng thậm mắng tệ, nhưng chúng vẫn phải vâng vâng dạ dạ biểu thị quyết tâm từ giờ về sau "quyết tâm sửa đổi lỗi lầm". Chiết Tử Du lúc này mới nguôi bớt được cơn tức, đang muốn để chúng lấy công chuộc tội, đi đưa Dương Hạo vào Chiết phủ để tìm cơ hội gặp mặt, thì Chiết Duy Xương từ ngoài chạy vào, hắn vừa chạy vừa hét lớn: "Đại ca nhị ca, Dương khâm sai đến rồi, đang cãi nhau với thúc phụ ở nhà chính. A! Tiểu cô cô..."

Chiết Tử Du đột nhiên đứng dậy, hỏi: "Họ đang cãi nhau chuyện gì?" , Chiết Duy Xương nuốt nước bọt nói: "Dương khâm sai không biết từ đâu mà nghe được vùng đất mà cha đưa di dân đến không ổn, sáng sớm nay đã đến gặp thuc phụ, yêu cầu thúc phụ cung cấp địa đồ của Lô Hà Linh và nói rõ lý do tại sao lại chọn nơi đó. Thúc phụ nói những người dân này đã bố trí ở tây bắc, lẽ đương nhiên là làm theo sự sắp xếp của tiết soái, không cần hắn phải bận tâm. Hắn lại nói thánh dụ của quan gia chưa hạ xuống, trách nhiệm khâm sai của hắn chưa hết, nếu thúc phụ không muốn hợp tác thì hắn bất luận như thế nào cũng sẽ đuổi đến Lô Hà Lĩnh tìm hiểu đến tận cùng."

Chiết Tử Du hơi nhăn mày, nhẹ nhàng bước hai bước rồi quay đầu lại hỏi: "Xích Trung bây giờ vẫn ở Lô Hà Lĩnh chứ?"

"Vâng ạ."

Chiết Tử Du trầm ngâm một lúc nói: "Đi nói với nhị thúc, nói ta bảo rằng cứ để Dương khâm sai đó đi đi."

Chiết Duy Xương ngẩn ra, lắp bắp nói: "Nhưng lúc đầu cha nói...", "đồ ngốc!" Chiết Tử Du trừng mắt lên, nói: "Lúc đầu là lúc đầu, bây giờ là bây giờ. Muốn các ngươi lôi kéo hắn, giấu diếm hắn nhưng không phải là người ta đã biết hết rồi sao, còn muốn ngăn hắn lại à. Hắn là khâm sai, không phải là tù nhân, nếu như quyết ý muốn đi thì ngươi phải ngăn trở như thế nào chứ? Đó không phải là thể hiện rõ chúng ta đang chột dạ sao, càng làm hỏng chuyện."

Nàng ngồi xuống nói: "Các ngươi cũng biết, tây bắc chúng ta đất rộng người thưa, tăng thêm 5 vạn dân, mười năm sau có thể là 10 vạn, 15 vạn. Điều đó rất có lợi cho sự phát triển của Chiết gia chúng ta. Điều mà cha các ngươi lo lắng chính là triều đình sẽ khống chế họ trong tay, lợi dụng lực lượng này để gây bất lợi cho Chiết gia. Nhưng nếu như chúng ta đưa 5 vạn dân đó đến chỗ không ai quản, vốn họ không phải là kẻ địch của chúng ta nhưng giờ lại thành kẻ địch rồi. Ta vốn không muốn chen vào chuyện đại sự của Chiết phủ, nhưng bây giờ đại ca không ở đây, ta đành phải hiệp giúp vậy. Chuyện này ta không tiện sắp xếp, ngươi mau đi đi, bảo nhị thúc ngươi đồng ý với hắn, lập tức phái người hộ tống hắn đến Lô Hà Lĩnh." Chiết Duy Xương nghe thấy liền quay người chạy đi.

Nữ nhân chính là có cảm tính như vậy, theo như người khác thấy thì cho dù có sai vạn lần , nhưng chỉ cần có một điều hợp với ý nàng thì nàng nhìn thế nào cũng thấy thuận mắt. Vón quân quốc đại sự nàng chẳng thèm để ý tới nhưng chuyện hôm nay lại có liên quan đến Dương Hạo, nàng liền suy nghĩ hết sức để cho vẹn cả đôi đường, phải giải quyết hết sức thoả đáng chuyện này.

Ở bên kia, Chiết Ngự Khanh nhận được tin báo qua Chiết Duy Xương, hắn vốn cũng biết tiểu muội mình cơ trí, nên liền đổi gió làm theo. Đồng ý phái người đưa Dương Hạo đi đến Lô Hà Lĩnh một chuyến. Đợi khi sắp xếp cho Dương Hạo rời đi hắn lập tức tới nhà sau tìm tiểu muội, muốn hỏi rõ ý đồ của nàng.

Đã đến khuê phòng của tiểu muội, Chiết Ngự Khanh vô cùng ngạc nhiên nói: "Tử Du, muội đang muốn làm gì vậy?" Hắn thấy Chiết Tử Du đã mặc huyền y huyền khố (một loại trang phục xưa), eo đã bước dây, ăn mặc giống như sắp cưỡi ngựa đi xa vậy. Chiết Ngự Khanh vô cùng ngạc nhiên.

Chiết Tử Du thấy hắn đến liền mỉm cười, nói: "Nhị ca, muội vừa mới nghĩ rất kĩ, muốn làm bổ sung mấy việc cho kế hoặc của đại ca."

"Nhị ca, huynh ngồi đi." Chiết Tử Du đưa cho hắn một chén trà, cũng ngồi xuống, chậm rãi nói: "Nhị ca, mấy van dân Bắc Hán vào đất của ta vừa có lợi lại vừa có hại.

Lợi là ở chỗ một ngày nào đó chúng ta có thể sử dụng mấy vạn dân kia, có thể tăng thêm lực lượng. Nhưng nếu như mấy vạn dân kia bị triều đình khống chế thì nó sẽ cắm một cái đinh vào tim chúng ta. Cho nên đại ca mới sắp xếp cho họ ở Lô Hà Lĩnh, mục đích chính là dựa vào sự áp chế của ba thế lực, thì cho dù họ có bị triều đình khống chế cũng không thể sản sinh ra hành động gì."

"Đúng vậy, đại ca chính là có ý này. Thế nào, muội cảm thấy đại ca làm như vậy không thoả đáng sao?"

Chiết Tử Du lắc đầu nói: "Không phải không thoả đáng mà là còn chưa đủ."

"Lời này là sao?". "Sắp xếp cho họ ở đó, tự sinh tự diệt à? Không sai, nếu cứ như vậy thì sự uy hiếp đối với chúng ta sẽ không còn nữa, lực lượng này cũng sẽ tan biến đi. Đây vẫn là cách tính toán tốt nhất, nếu một ngày họ nảy sinh hiềm khích, đầu quân cho Lân phủ cũng được, thế lực và địa bàn của Dương gia đều không bì được với Chiết gia ta, lại là môi răng tương trợ nhau cùng liên minh kháng Hạ Châu. Nhưng nếu như họ vì muốn sống tồn mà đầu quân cho Hạ phủ thì sao?"

Chiết Ngự Khanh chần chừ nói: "Đầu quân cho Hạ Châu ư, không có nhiều khả năng lắm."

Chiết Tử Du mỉm cười nói: "Có gì mà không được? Huynh đừng quên, họ là đến từ Bắc Hán, không phải dân Đại Tống, một ngày nào đó Đại Tống bỏ họ không quan tâm, Chiết gia lại đưa họ vào vùng đất chết, vậy họ phỉa tỏ lòng trung thành với ai đây? Có lý do gì mà không tự tìm đường sống cho mình? Nếu như mấy vạn dân Bắc Hán có nguy hiểm, phẫn nộ thì hoàn toàn có khả năng sẽ đầu quân cho Hạ Châu."

Sắc mặt Chiết Ngự Khanh hơi thay đổi, Chiết Tử Du lại nói: "Hơn nữa, từ phía triều đình mà nói, sắp xếp cho họ ở chỗ đó, triều đình cho dù có muốn bố trí quan cai quản thì cũng sẽ lợi dụng dân chúng làm gì chứ. Nếu như muội là quan gia, mắt thấy dân chúng đã định cư thì chắc chắn sẽ coi họ như đồ bỏ đi, bố trí một quan viên xui xẻo nào đó đến thăm dò nhưng chắc sẽ không bắt họ phải làm gì, một khi họ bị công kích, trách nhiệm giữ đất này sẽ do Chiết gia gánh. Nếu thật sự để họ bị Đảng Hạng tiêu diệt thì há chẳng phải thành cái cớ để quan gia thảo phạt Chiết thị ta sao?"

Chiết Ngự Khanh nghiêm mặt lại, từ từ gật đầu nói: "Tử du nói có lý. Đại ca gấp rút xuất chinh là để ứng phó tạm thời với Triệu quan gia, cho nên suy nghĩ khó có thể chu toàn. Nhị ca muội lại không hiểu mưu lược. Theo như ý kiến của muội thì bây giờ chúng ta nên bổ sung như thế nào?"

Chiết Tử Du nói: "Mảnh đất đó không phải là mảnh đất không tốt, cây cối tươi tốt màu mỡ, quả thực thích hợp cho dân chúng sinh sống. Cái gọi là nguy hiểm không phải là ở trời đất, mà là nhân lực tạo thành. Nơi giao nhau của thế lực ba phía chính là được nhìn dưới góc độ của quan gia Đại Tống, nếu như chúng ta hơi biểu hiện một hcút thiện ý thì có thể lấy được lòng dân trước triều đình, để họ biết rằng cái gọi là nguy hiểm chỉ đến từ phía Đảng Hạng, Chiết gia Phủ châu và Dương gia Lân châu đều là chỗ dựa của họ. Nếu có hi vọng thì họ sẽ không dao động nữa, nguy hiểm sẽ được cứu vãn. Như vậy mới có thể biến địch thành bạn, đó không phải là chuyện tốt sao?"

Chiết Ngự Khanh gấp gáp hỏi: "Cụ thể đi, muội định làm gì?"

Chiết Tử Du nói: "Bây giờ chủ chương của triều đình vẫn chưa ban xuống, chúng ta có thể vượt trước triều đình. Chúng ta sẽ chọn ra một người có uy lực để tạm thời đảm nhận Đoàn Luyện Sứ, để quản lí mấy vạn dân đó. Rồi lại đưa cho họ lương thực, vũ khí, để họ có thể dùng tự bảo vệ. Như vậy, có họ chấn thủ một góc cũng bằng với chúng ta đóng một đại quân ở đó, sau này con đường lương thảo đến hai bên phủ cũng an toàn hơn. Khi triều đình phái quan lại đến thì cũng đã thất thủ rồi, sao có thể dễ dàng thay đổi cục diện được? Với cách làm như thế thì Chiết gia ta chẳng phải là lựa nước đẩy thuyền sao. Dương Kế Huân ở Lân Châu và Phủ châu luôn khăng khít với nhau, cùng tiến cùng lùi, ngoài việc Dương gia thực lực không bằng Chiết gia ra thì còn có một nguyên nhân quan trọng nữa chính là tất cả lương thực được sản xuất ở Lân Châu không đủ để cung cấp cho dân chúng ở đó, cần phải mua lương thực từ nơi khác, con đường lương thực này phải đi qua đất Phủ châu, có thể nói Phủ châu là yết hầu của Lân châu, cho nên hoàn toàn không phải lo hắn tạo phản.”

Chiết Tử Du ngừng lại một lúc rồi nói tiếp

“Vì vậy vận chuyển lương từ Phủ châu đến Lân châu, mỗi lần đều phải điều động đại quân hộ tống, mệt mỏi cho dân chúng và tốn kém, Lý thị ở Hạ châu lại còn thường xuyên dung túng các bộ dưới trướng giả cường đạo đến cướp lương, vì thế hai bên mỗi năm đều có những trận đại chiến. Chỉ có điều Lý gia đã giương cờ hiệu của thổ phỉ, thế lực họ lớn, một ngày nào đó mà lật mặt thì tất sẽ càng không kiêng nể gì, hai nhà Chiết Dương đành phải giả câm giả điếc, coi người mình đánh là thổ phỉ."

Nghĩ đến những nhân tố này, Chiết Ngự Khanh liền nói: "Tử Du nói có lý. Đưa cho họ lương thực và vũ khí thì huynh vẫn làm được, có điều chuyện này muội cũng không cần phải đích thân đi, phái mấy tướng lĩnh thân tín đi đưa là được rồi."

Chiết Tử Du cười nói: "Người của huynh vẫn nên phái đi, muội chỉ là đi xem cho vui thôi, cũng để hiểu thêm chút tình hình, mới có thể có thêm tính toán trong lòng mà đưa ra cách."

Chiết Ngự Khanh nghĩ rằng chuyến đi này cũng không có gì nguy hiểm, liền nói: "Được, vậy muội phải cẩn thận, cần thứ gì chỉ cần nói với Nhậm Khanh Thư bảo hắn sắp xếp là được. Lý Thị Hạ châu lòng tham không đáy, vì muốn chúng phối hợp với chúng ta mê hoặc thất bộ Đảng Hạng làm loạn mà đại ca đã phải cho chúng một món lợi lớn, nhưng mấy ngày nay, tín sứ Hạ Châu lại đến, nói Lý Kế Quân mấy ngày nữa sẽ đến Phủ Cốc, muốn bàn bạc với chúgn ta chuyện mượn đường tiêu thụ da lông, muốn qua đây để không phải bị thu thuế, ta và mấy người phụ tá đang suy nghĩ tìm đ sách. Muội nếu có kịp thời trở về thì tốt nhất, có nữ gia cát muội ở đây thì nhị ca mới yên tâm.

Chiết Tử Du mỉm cười, nói: "Tiểu muội biết rồi, muội sẽ cố gắng trở về sớm."

Nàng nhanh nhẹ quấn tóc lên, dùng một chiếc khăn màu trắng buộc lại, cả người đã chuẩn bị xong, lập tức trở thành một nữ tử anh tuấn thường gia. "Nhị ca, muội đi đây." Chiết Tử Du vừa nói dứt lời thì thấy đứa cháu Chiết Duy Trung đang lắc lư chạy đến, léo nhéo nói: "Ta muốn cô cô, không muốn ấp trứng nữa, ta muốn cùng cô cô đi chơi, không đưa ta đi ta sẽ khóc. Oa oa..." ※ ※ ※ ※ ※ ※ ※ ※ ※ ※ ※ ※ ※ ※ ※ ※ ※ ※ ※ ※ ※ ※ ※ ※ ※ ※ ※ Dương Hạo và Chiết Ngự Khanh thương lượng với nhau, Chiết Ngự Khanh đã giở giọng quan lớn ra, làm cho mọi việc qua quýt. Sứ mệnh của Dương Hạo đã hết, tuy vẫn đang cầm tiết việt, nhưng lại không thể quản chế người ta, hai bên đang đưa ra lý lẽ tranh cãi kịch liệt thì có một công tủe đi tới thì thầm vào tai Chiết Ngự Khanh mấy câu, thái độ của Chiết Ngự Khanh liền thay đổi 180 độ, không những đưa cho hắn bản độ địa lý hình thế của Lô Hà Lĩnh, còn đồng ý phái người dẫn hắn đến đó, rồi khách khí đưa hắn ra cửa.

Dương Hạo trong lòng cảm thấy rất kinh ngạc, nhưng l này hắn còn đang lo cho dân chúng đang bị cắm chốt tại Lô Hà Lĩnh nên cũng không có thời gian nghĩ nhiều về lí do. Hắn vội vàng về trạm dịch, xuống ngựa bước vào sân, thì nghe thấy một giọng nói đầy vui mừng: "Dương Hạo đại thúc!", "Cẩu Nhi?" Dương Hạo vui mừng quay đầu thì thấy từ trong một chiếc xe ở ngoài cửa đang có một đứa trẻ vẫy tay với hắn.

Cũng không biết có phải thời gian này được điều dưỡng tốt hay không mà Dương Hạo phát hiện hai mắt của nó đã có thần, khuôn mặt vốn luôn vàng vọt cũng đã trở nên trắng ra, còn thêm mấy phần hồng hào, giống như người đến là một tiểu cô nương xinh đẹp.

Dương Hạo bước tới, vui vẻ cười: "Cẩu Nhi, mấy ngày nay đi đâu vậy, đại thúc rất nhớ cháu."

Cẩu Nhi lưu luyến nói: "Cháu cũng nhớ đại thúc. Cháu cùng sư phụ gia gia đến Lạc Hà Sơn Thê Vân Quan ở mấy ngày, bây giờ sắp đến Thái Hoa Sơn. Dương Hạo đại thúc, Cẩu Nhi sẽ rất lâu không được nhìn thấy thúc."

Mã đại tẩu từ trên xe bước xuống, làm một lễ với Dương Hạo, chân thành nói: "Dương đại nhân, nếu như không có sự chăm sóc của ngài thì hai mẹ con chúng tôi ở trong binh đao loạn lạc sớn đã thành một đống xương trắng rồi. Lão tiên trưởng thu nhận đưa con này của tôi làm đồ đệ, tôi cũng sẽ theo cùng lên Thái Hoa Sơn. Hôm nay đến đây cũng chỉ muốn nói một lời cám ơn tới đại nhân."

Dương Hạo vội nói: "Mã đại tẩu, người đừng khách khí như vậy. Lão tiên trưởng là một nhân vật có tài. Cẩu Nhi có thể theo ông ấy học nghệ tương lai nhất định sẽ có bản lĩnh lớn, đây là chuyện tốt."

Mã đại tẩu thấy Lý viên ngoại, Chiết cô nương đều cung kính lễ độ với Phù Dao Tử, cũng biết rằng nhân vật này là người có lai lịch không nhỏ, nghe thấy thế lại càng vui mừng hơn, nói: "Dương đại nhân nói đúng, mệnh đứa trẻ này tốt, liên tục gặp được quý nhân."

Mã Diệc lưu luyến không muốn rời, nói: "Dương Hạo đại thúc, đợi Cẩu Nhi học được bản lĩnh lớn của sư phụ gia gia sẽ trở về tìm đại thúc, sẽ ở bên làm việc cho đại thúc, có được không?" Dương Hạo cười nói: "Tốt lắm, đại thúc cầu còn không được ý chứ."

Mã Diệc phấn chấn lên: "Vậy, đại thúc, chúng ta hứa như thế nhé."

"Ha ha, được rồi."

Mã Diệc giơ tay lên, Dương Hạo khom lưng xuống chui đầu vào xe, đập đập tay với bàn tay mềm mại của Cẩu Nhi. Liếc mắt một cái, Dương Hạo thấy Phù Dao Tử cũng ở trong xe, đang nghiêng mình nằm ngủ.

Mã Diệc đập tay ba quyền với hắn thì khuôn mặt nở ra một nụ cười ngọt ngào, nhưng lập tức lại thở dài, nói: "Nhưng Cẩu Nhi mới có 9 tuổi, còn phải mất bao nhiêu năm nữa đây."

Dương Hạo cười nói: "Cũng không lâu đâu, bên ngoài trại có rất nhiều người 12, 13 tuổi đã có thể xông trận giết địch rồi mà, những đứa trẻ Bắc Hán như các cháu có điểm nào kém hơn họ chứ? Lại có còn sự giáo dục của lão tiên trưởng, Cẩu Nhi tương lai nhất định sẽ trở thành người như hổ như báo."

Đôi lông mày mỏng và nét của Cẩu Nhi hơi nhíu lại. A một tiếng rồi nói: "Cần phải giống như lang như hổ sao? Vừa hung dữ lại xấu xí, khó coi chết đi được."

Dương Hạo cười ha ha: "Nói đúng, khi Cẩu Nhi thành nghệ xuống núi gặp đại thúc chắc sẽ mặc một chiếc đạo bào màu vàng hạnh nhân, lưng đeo kiếm, tà áo bay bay, trông giống một vị tiên phong đạo, một tiểu đạo đồng anh tuấn trẻ tuổi, ha ha." Từ một con vịt xấu xí biến thành một nàng thiên nga xinh đẹp cũng như thế. Mã Diệc nghe thấy thế liền mỉm cười, nghĩ đến ngày mình sẽ trở thành như thế, lập tức lòng đầy cảm xúc, những nỗi buồn li biệt cũng đã tiêu tan. Nó chỉ mong ngày đó sớm đến, để mình xinh đẹp xuất hiện trước mặt Dương Hạo đại thúc.

Dương Hạo lại nhìn Phù Dao Tử đang ngủ, nói: "Cẩu Nhi, đại thúc đang có việc gấp phải làm, không thể nói chuyện với cháu quá lâu, cháu học tốt nhé, đại thúc sẽ đợi cháu. "Vâng!". Mã Diệc gật đầu: "Cẩu Nhi đã 9 tuổi rồi, đại thúc vừa nói 12, 13 tuổi đã có thể lên trận giết địch, vậy một, hai, ba, bốn năm cháu sẽ xuống núi tìm đại thúc." "Không phải vội, không phải vội, cháu học thêm một chút bản lĩnh nữa, bản lĩnh càng lớn càng mới có thể giúp cho đại thúc." Dương Hạo cười cười, thực ra cũng không quá để tâm. Trong lòng đứa trẻ này luôn có rất nhiều lí tưởng, nó sẽ theo tuổi mà lớn lên, lý tưởng sẽ khác. Đứa trẻ này bây giờ nghĩ như vậy, nhưng ai biết được sau mấy năm sẽ nghĩ như thế nào.

Hắn thân thiết xoa đầu Cẩu Nhi, nói với Mã đại tẩu: "Mã đại tẩy, Dương Hạo công việc bận rộn, bây giờ phải cáo từ rồi." Mã đại tẩy vội nói: "Dương đại nhân đi cẩn thận." Dương Hạo lại làm một lễ với Phù Dao TỠđang ngủ say, nói từ từ: "Lão tiên trưởng thuận buồm xuôi gió. Cẩu Nhi nhờ cả vào tiên trưởng." Phù Dao Tử vẫn đang chìm vào giấc ngủ, Dương Hạo lại cười với Cẩu Nhi, rồi bước vào trong trạm dịch.

Ne ngựa mà Lý viên ngoại phái tới, chiếc xe đã đi về phía trước. Mã đại tẩu ngồi khoanh chân trong xe, ôm vai con gái nói: "Đứa trẻ ngốc này, nhận ân báo ân là đạo lý mẹ dạy con, cũng không ngăn cản con, nhưng con là nữ nhi, sao có thể ra trận giết địch chứ? Lại còn đòi giúp sức cho Dương đại nhân."

Chẩu Nhi hỏi lại: "Sao nữ nhi lại không được lên trận giết địch, mẹ không phải từ nhỏ đã coi Cẩu Nhi là nam nhi rồi sao."

Mã đại tẩu cốc đầu nó một cái, nói: "Đó là vì cha con luôn muốn có con trai, sau này binh chiến loạn lạc, coi con là nam nhi thì an toàn hơn, thế mà con còn nghĩ mình thật sự là nam nhi sao? Cái đứa không hiểu chuyện, đợi khi con lớn lên sẽ hiểu, trong nha môn hoàn toàn không có việc của nữ nhân."

Cẩu Nhi không phúc lắc đầu nói: "Cẩu Nhi luôn đóng làm nam nhân, đại thúc sẽ thu nạp con."

Phù Dao Tử nằm một bên hơi hé mắt nhìn. Nghe hai mẹ con đang tranh luận, nhưng lòng vẫn đang nghĩ đến núi Tử Vi ở Yến Môn Quan Ngoại: "Người mà Chiết cô nương sai đi giúp đưa thư hộ ta chắc đã lên đường?

Thiên cơ đó, ta đạo hạnh nông cạn, không thể nhìn ra lai lịch của hắn. Lần này phải xem bản lĩnh của Thuần Dương Tử rồi, cũng không biết lão già mũi bò đấy có muốn đi một chuyến không."

 Chương 171: Đột kích 

Kinh kỵ binh của Dương Hạo đuổi theo Lô Hà Lĩnh, vì sợ Chiết Ngự Khanh ngấm ngầm giở thủ đoạn, dẫn bọn họ đi oan uổng một chặng đường, Diệp Đại Thiếu vừa đuổi tới thành Phủ Cốc cũng trở về theo.

Ba ngày rời khỏi Phủ Châu, trời đất dần trở thành càng rộng lớn hơn, mở to mắt nhìn, khắp nơi là cánh đồng bát ngát khôn cùng. Ngọn núi cao xa xa. Cây cối ở những mảnh đất khác nhau thì sắc cây cũng khác nhau. Cảnh rộng rãi, tráng lệ như thần khổng lồ hôm nay vấy bút mực, nhuộm đẫm ra những bức họa sơn thủy.

Có lúc thì lại là một cao nguyên đất vàng không có một sợi cây ngọn cỏ ngọn núi kia là màu vàng của đất, năm này tháng nọ bị mưa cọ rửa, làm cho ngọn núi có những khe rãnh với những hình thù kỳ quái. Còn đất vàng chỗ sườn núi thật tang thương. Đã không biết bao nhiêu năm tháng rồi, vẫn đang lẳng lặng đứng đó, chắc hẳn cũng có lúc có người đi qua, nhưng lại chưa từng để ý đến chúng.

“Dương khâm sai. Phía trước. Sắp vào đến ranh giới Lô Hà Lĩnh rồi”.

Quân đô ngu hầu Mã Tông Cường chỉ tay về phía trước nói: “Ngươi xem, gió từ phía bên kia thổi tới khiến cho thiên nhiên nơi này chia làm hai nửa.. Đoạn này cây cỏ không sống nổi, đất vàng khô cằn. Nhìn sang bên kia khác hẳn, cây cỏ xanh tốt. Đi thêm không xa, còn có một dòng sông lớn. Đó chính là Lô Hà, nối thẳng đến Lô Hà Lĩnh. Dòng sông này lớn rộng, nhưng cả dòng sông đều được bao phủ bởi cây lau. Nhìn qua thì thật khó tìm”.

Dương Hạo nhìn Diệp Chi Ban. Diệp Chi Ban lặng yên gật đầu, cho rằng lời nói của Mã Tông Cường không sai.

Vòng qua ngọn núi phía trước. Mắt mở to, cây cỏ xanh tươi mơn mởn, giống như biển xanh. Cỏ xanh như mảnh vải lụa có màu sắc tươi đẹp, kéo dài tít tắp đến tận chân trời.

Vì cấu tạo và tính chất của đất đai không giống nhau. Nhưng cỏ dại dưới chân núi xanh mơn mởn, nhưng nó hoang vắng, đội nhân mã này đến, giật mình vì dã thú và chim chóc bay ra từ bụi cỏ, điều đó thể hiện sức sống mà đất đai chất chứa.

Dương Hạo thầm nghĩ: “Ở đây đích thực là một đám đất bỏ hoang, nếu như không có chiến tranh. Mảnh đất rộng lớn thế này, chăn thả, thì có thể nuôi sống được bao người đây? Ở đây đất đai phì nhiêu dồi dào hơn gấp hàng trăm lần so với mảnh đất nghèo nàn mà trước bọn chúng ở. Nếu như không có cuộc đua thế lực này, mảnh đất này sẽ trở thành mảnh đất yên vui của dân chúng Bắc Hán định cư, mảnh đất phì nhiêu thích hợp ở lại định cư này sẽ không bị để bỏ không”.

Dương Hạo đi thêm vài bước, lại nghĩ: “Nếu không thể chiếu cố thích đáng đến lợi ích, đứng ở lập trường bất đồng, suy nghĩ về lợi ích cũng không giống nhau. Thiên hạ không ai là không như vậy.

Đại Tống đánh dẹp Bắc Hán là chính nghĩa? Hay là Khiết Đan công kích Đại Tống là chính nghĩa? Đều không phải, đều là lợi ích của mỗi quốc gia mà thôi. Tới Phủ Châu vẫn là như vậy. Trên thực tế, Triệu Quan Gia có lòng, chẳng lẽ ta lại không biết? Ngoại trừ Chiết gia tình đem Phủ Châu cống nạp, đi Phủ Khai Phong dưỡng tuổi già. Nếu không thì họ áp dụng phương pháp cảnh giới cũng là lí do gì. Ta Dương Hạo nghĩ muốn Chiết đại tướng quân thay đổi suy nghĩ, đi đường khác để di dân, thật khó. Đi Lô Hà Tĩnh, ta rốt cuộc đã làm được chuyện gì? Tấu biểu với Quan Gia. Do triều đình đã tạo áp lực cho Chiết gia? Chiết gia hiện nay nghe điều động mà không nghe thông báo, hiện nay tình hình đã như vậy. Triệu Quan Gia cũng không bó buộc Chiết gia quá…”

Nhìn trời đất bao la, Dương Hạo nhướn nhướn hai hàng lông mày. Con đường làm quan của hắn, mưu chức vị, vốn là thù riêng của bản thân, chuyện giờ trở về Phách Châu báo thù rửa hận không có sự sắp xếp nào cả. Nhất là Dương Hạo giờ không thể gánh vác trọng trách, một mình hắn khó mà giải quyết được vấn đề, gánh nặng lại không ngừng rơi vào đôi vai hắn, mà hắn lại không thể ngoảnh mặt làm ngơ. Nghĩ đến Trình Đức Huyền giờ này đang ở Phủ Châu say không dậy nổi, Dương Hạo cười đau khổ, tự nhiên có chút hâm mộ vị đại nhân họ Trình kia.

Đi nửa ngày nữa. Cỏ dại đã tươi tốt, trời trong xanh, gió nhẹ thổi qua, cỏ dại ngả nghiêng theo chiều gió. Bên tai, gió mát đưa tới âm thanh tiếng nước chảy. Nhưng lại không thấy được bóng dáng dòng sông nào, phía bên phải không xa là bụi lau tùng. Cỏ lau mọc kín không kẽ hở, nói vậy nghĩa là dòng sông rộng lớn kia ẩn trong bụi cỏ lau.

Diệp Chi Ban đột nhiên nói: “Dương khâm sai mau nhìn, ở ngọn núi kia, nhìn thấy chưa, ở đó chính là Lô Hà Lĩnh. Sau núi chính là sơn cốc mà dãy núi bao quanh. Nói là sơn cốc chứ kỳ thực trong đó là một đồng bằng rộng lớn, ở bao nhiêu người cũng không là vấn đề”.

Dương Hạo ngẩng đầu nhìn, vui vẻ nói: “Đi, chúng ta tăng tốc lên một chút”.

Mã Tông Cường đứng một bên cười nói: “Dương khâm sai chớ sốt ruột quá. Nhìn tưởng gần, nhưng muốn đến đó thì còn một quãng đường rất dài”.

Những lời này Dương Hạo đã từng được nghe , chỉ là nhất thời hí hửng quá, nghe hắn nói mình mới sực tỉnh là mình thiếu kiên nhẫn. Không khỏi xấu hổ cười, nhưng lòng đã bay lên tới Lô Hà Lĩnh.

Hoàng hôn, cuối cùng thì cũng đến được trước núi. Dương Hạo thúc ngựa đi nhanh hơn, đám người Mã Tông Cường, Bích Túc, Diệp Đại Thiếu cũng đi nhanh về phía trước.

Dưới núi, đột nhiên nghe thấy trên thảo nguyên phía trước xảy ra một trận chiến. Hàng nghìn binh tốt quân Tống dưới chân núi mang thương giáo xếp thành trận hình dày đặc. Chặn lấy cổng núi. Vài trăm danh thân Tống quân hoặc dũng sĩ dân trang khác thủ đao thương, cưỡi chiến mã, đang cùng với mấy trăm kỵ sĩ chém giết.

Quân Tống hoặc dân tráng Hán phục lúc này hiển nhiên biết điểm yếu của mình là ít người, là một bất lợi rất lớn khi đối phương bắn tên. Cho nên sự dũng mãnh của từng người, sáp nhập lại trận chiến với quân địch.

Từng cặp đao chém giết, lúc này nhân mã bên ngoài của đối phương vốn không còn sức lực, vừa hô quát tỏ uy quyền, vừa chú ý đến hướng đi của quân Tống dưới núi, đề phòng bánh xe bị áp sát.

Người Tống nhảy vào trận địa địch quá dũng mãnh. Từng người từng người như hổ, ngựa cũng dũng mãnh không kém. Ở trong trận địch xông đến một luồng gió, rồi đột nhiên có đội ngũ quân Tống lên đến vài trăm người xuất hiện, hơn nữa quân Tống xuất hiện lần này phần lớn là kỵ binh. Quân địch cuối cùng cũng bị giật mình hoảng loạn, có tên la hét. Mấy trăm kỵ sĩ liền lui bước ra phía xa xa.

Dương Hạo nhìn chăm chú, chỉ thấy kỵ binh thúc vào hông ngựa, tuy thần tuấn cao lớn, nhưng người người lại mặc bộ quần áo rách rưới. Phần lớn số người dưới ánh nắng chói chang đều mặc quần áo da dê rách nát. Giống như trên thảo nguyên vì quá nghèo, nên một năm bốn mùa đều chỉ có một bộ quần áo chăn nuôi.

Trong đó có vài tên không tuân thủ, mặc giáp thô sơ, binh khí mà chúng dùng thì có đủ loại. Có vài tên là chăn ngựa thả dê phòng ngừa lũ sói hoang.

Vừa thấy địch tập kết. Mã Tông Cường lập tức tập trung một đội kỵ binh qua trợ giúp, kỳ thực quân địch đó bị đại đội kỵ binh này lừa, những tên dư thừa trong quân Tống chỉ là những chiến ngựa tồi, không thể tham chiến, mang tiếng là chinh chiến nhưng kỳ thực chỉ có hơn hai mươi con ngựa mà thôi.

Những tên chăn nuôi trên thảo nguyên thấy có hiệu lệnh, lập tức bắt đầu lui lại, trong đó có vài tên mặc áo giáp đơn sơ. Đích thị là những nhân vật tướng lĩnh của chi đội này. Đao thương mà chúng sử dụng cũng tương đối sắc bén. Bọn chúng phụ trách việc cản đường phía sau, yểm trợ đại quân rút lui. Dương Hạo lúc này mới nhìn rõ những tên dân trang phục Hán đang cùng với dân chăn nuôi tác chiến chính là Lý Quang Bản thuộc hạ của Đại Hán.

Đại Hán mã thuật đó cưỡi ngựa, võ nghệ cao cường, có bản lĩnh một chấp mười địch. Trong đó Vưu Dĩ Mộc Ân, hắn dùng kích sắt to, múa may tung hoành, giống như mưa rền gió dữ, hắn áp chế, không cho những tên kỵ binh của quân địch mặc nửa giáp thoát.

Kỵ sĩ trên thảo nguyên phần lớn đã bỏ chạy, mấy tên cản phía sau đã né ra chỗ khác. Nhìn thấy những tên đó bị Mộc Ân đuổi khó mà thoát thân, trong đó có một tên thanh niên mặc giáp ngắn, đầu đội một cái mũ sắt không hiểu là kiểu dáng của triều đại Tần Hán gì đó, hắn đột ngột chuyển mình giục ngựa vọt tới hướng Mộc Ân. Giơ tay mác nhắm tim hắn, muốn giải vây cho Mộc Ân, có mười mấy người anh em của Mộc Ân lúc đó cũng xúm lại, nhưng chúng không tiến, dường như vô cùng tín phục vũ khí của Mộc Ân. Chúng đứng đó xem cuộc chiến, chỉ thấy Mộc Ân đơn thương độc mã, tay cầm một cây đại kích. Rong ruổi với chiến mã. Trong phạm vi mấy chục trượng đại chiến với hai tên thiếu niên kéo đèn kéo quân, mang khí phách của Lữ Bố( Tam Quốc), nhưng thực sự không đẹp trai bằng Lữ Bố.

“Za!” Mộc Ân hét lớn một tiếng, trường kích đảo qua, đuôi kích quét trúng mũ của tên tiểu tử kia, chiếc mũ bị bay lên khỏi không trung. Chỉ nghe thấy tên tiểu tử đó kêu lên một tiếng, mớ tóc dài của hắn bay lên. Mộc Ân tiếp tục cho thêm một móc nữa, trường mâu trong tay hắn được bỏ xuống, hắn cười ha ha. Vươn người lên, tóm được thắt lưng của tên tiểu tử đó. Dùng lực ấn mạch hắn ra khỏi ngựa, đánh cho một phát. Trông bên nọ ngó bên kia, dương dương tự đắc.

Các võ sĩ ở xung quanh hô hào ủng hộ. Các kỵ binh quân Tống liên thủ truy kích kỵ binh thảo nguyên không có kết quả vừa trở về. Thấy tình hình như vậy cũng lớn tiếng trầm trồ khen ngợi. Một tên khác khẩn trương, thế như hổ vồ, bổ nhào lên giành người, Mộc Ân cười hắc hắc, tay giơ chiến lợi phẩm ra cho mọi người đang xúm lại vòng vây. Mộc Ân vừa ra đi, liền có hai tên Đại Hán bổ nhào tới, dùng binh khí ngăn thế công của tiểu tử đó, đưa hắn vào trong. Chỉ thấy bọn chúng vây thành một vòng như mèo vờn chuột, cho dù tên tiểu tử đó có muốn thoát khỏi vòng vây cũng bị vũ khí của chúng áp trở về.

Càng gần với chiến mã của chúng, tên tiểu tử bị Mộc Ân bắt càng hét lớn: “Ta cần tự do, không phải lo cho ta, ngươi nhanh đi đi”. Dương Hạo từ xa nghe thấy âm thanh the thé, thật giống với tiếng con gái.

Thấy cái vòng càng ngày càng nhỏ. Mười mấy võ sĩ rất ăn ý với nhau, không hẹn mà cùng một lúc thu đao thương, lấy xuống một cái dây ngựa. Múa trong không trung, mồm theo thói quen, phát ra tiếng kêu khóc, tên tiểu tử đỏ ngầu mắt nhằm hướng Mộc Ân tiến đến, nhưng hắn dùng thương chỉ qua được vài dây thừng. Những dây thừng còn lại cộtvào người hắn, tên Đại Hán cười lớn, cố gắng dùng lực kéo ra. Tên tiểu tử quanh người bị dây thừng thít chặt, treo ở không trung, chiến mã xông ra.

Thấy hai người bị bắt, những tên khác đều bỏ chạy. Quân Tống dưới chân núi thu đao, một vài người dân cũng chạy từ trên núi xuống. Dương Hạo thúc ngựa tiến lên bị dân chúng nhìn thấy, thấy thủ lĩnh của bọn họ là Dương khâm sai xuất hiện. Dân chúng tròn mắt hoan hô.

Thấy Dương Hạo đã cách chức, còn có thể nhận được nhiều sự ủng hộ của dân chúng như vậy, Xích Trung và Mã Tông Cường thấy làm lạ, cùng hướng ánh mắt nhìn Dương Hạo.

Khi cả đội quân về sơn cốc thì trời đã tối, Dương Hạo và Xích Trung, Mã Tông Cường vào một cái nhà hầm đã sửa xong ở trên lưng núi. Đám người được gọi là Mộc lão hán Lý Quang Bản cũng được mời đến. Giờ dân chúng bình thường cũng có thể biết được lai lịch của tên họ Mộc này, lần này đuổi vài cường đạo, người Mộc lão hán đã vô cùng dốc sức. Công phu mà bọn chúng cho rằng cao tuyệt trên lưng ngựa, tài bắn cung điêu luyện, võ công cao cường, ngay cả Xích Trung, Mã Tông Cường cũng phải ngưỡng mộ.

Bùn đất nơi này có tính năng cực dính, Lý Ngọc Xương căn cứ vào thế núi, cố gắng áp dụng cách đào móc, để tiết kiệm bớt nguyên vật liệu là gỗ, đã cố gắng làm nên căn nhà, phòng ở mùa đông ấm, mùa hè mát, vô cùng thích hợp với khí hậu nơi này. Nhà rất chắc chắn, bọn họ vừa vào phòng, lần lượt ngồi xuống, rồi lệnh người mang hai tên tiểu tử kia đến.

Quả nhiên, cái tên tiểu tử mà bị Mộc Ân bắt được là một cô gái. Cô ta mặc một bộ quần áo bằng vải đay thô, bên cạnh có miếng da thuộc được khảm nạm. Nó có tác dụng bảo vệ quần áo, dù cho thế nào đi nữa, bộ quần áo quá lỗi thời, khi đầu gối chỉ cần hơi cong xuống thì chạm phải quần áo, làm cho nó sớm đã rách nát.

Cô gái đó cao và gầy, mũi tu đĩnh. Làn da khỏe mạnh, vô cùng thanh tú đoan trang, mắt lại long lanh như nước hồ mang theo chút dã tính hung ác. Khi nàng nhìn Dương Hạo, Dương Hạo không chút nghi ngờ, nếu giờ để nàng ta giãy giụa khỏi chiếc dây thừng, thì dù chỉ có hai bàn tay trắng, nàng cũng có thể dùng miệng đẻ cắn vào cổ họng của mình.

Sói…nàng ta giống một con sói mẹ nhỏ kiêu ngạo, bên cạnh nàng, tên tiểu tử kia thì sao?

Ánh mắt Dương Hạo chuyển sang nhìn hắn, hắn còn ăn mặc rách rưới hơn cả nàng kia. Bộ quần áo rách nát ôm lấy cơ thể hắn. Hắn càng thêm dã tính và liều lĩnh. Hắn bị trói hai tay bắt chéo sau lưng, hắn đứng sừng sững, khí thế như đứng trên núi cao nhìn xuống. Kiêu, rất kiêu ngạo. Mà ánh mắt của hắn, còn long lanh hơn cả cô gái kia. Nếu như nói cô gái kia ánh mắt có vẻ dã tính hung ác, thì ánh mắt của hắn như có máu bên trong.

Xích Trung lạnh lùng hỏi: “Các ngươi là Đảng Hạng nào?”

Một nam một nữ hai tên đó trừng mắt nhìn không nói, vẻ như không nghe hiểu lời hắn nói.

Xích Trung lạnh lùng cười lớn. Bát Thị Đảng Hạng ban đầu ở Thanh Hải chi đông nam du mục, từ đời Tùy bắt đầu đến Trung Nguyên. Vào giữa đời Đường, đã di rời đến miền bắc Thiểm Tây bây giờ, sớm tiếp xúc với người Hán. Thác Bạt Thị của Đảng Hạng Bát Thị đã từng là Hoàng tộc Bắc Ngụy, Bắc Ngụy nhập Trung Nguyên thì bắt đầu mặc Hán phục, nói tiếng Hán, tiếng dân tộc của chúng giờ có nhiều người không biết nói nữa. Giờ Thác Bạt Thị là thủ lĩnh của Đảng Hạng Bát Thị, tiếng Hán được sử dụng phổ biến trong Đảng Hạng người Khương, nên làm gì có chuyện nghe không hiểu, thấy hắn không nói, Xích Trung cười lạnh mà nói: “Xem ra, bất động là chiêu thức của các ngươi à. Người đâu…”

“Đợi chút!” Trong lúc nguy cấp như vậy, Dương Hạo cười, ngăn cản hắn.

Với vẻ mặt ôn hòa nói: “Hai vị, bổn quan biết, giữa các bộ tây bắc, thường có sự bất hòa.

Nói như vậy, bất luận là Định Nam Quân tiết độ sứ Hạ châu Bổn đại nhân nhỏ vẫn là Lân Châu Dương tướng quân, Phủ cốc Chiết tướng quân. Đều là quan lại ở cùng một điện, đều là tướng lĩnh của Đại Tống. Họ đều là con dân của Đại Tống, giữa các bộ tộc có sự bất hòa. Họ làm quan, chỉ có cố gắng làm hòa, giải quyết, nếu không thì sẽ bị dân chúng thù: Các ngươi là loại người gì, tại sao lại tấn công dân chúng.

Không nói bản quan cũng biết? Nếu các ngươi bị sự sai khiến của ai đó, bị ai đó bắt ép. Bổn quan... sẽ xét xử”.

“Pi! Cẩu quan!” Cô gái kia thóa mạt, suýt nữa thì nhổ vào mặt Dương Hạo, Dương Hạo sờ sờ chút nước bọt đọng trên chóp mũi, quay sang Xích Trung, nói: “Xích quân chủ, hay là ngươi lại hỏi xem”.

Xích Trung nhún bả vai. Hét : “Người đâu…”

“Khoan!” Lại có tiếng nói vang lên. Lý Quang Cử ngồi bên cạnh lên tiếng nhìn sang hai tên kia, mỉm cười nói: “Mấy vị đại nhân, lão phu có câu này. Tuy chúng ta nay đều là con dân của Đại Tống, nhưng phong tục tập quán của vùng thảo nguyên này, vẫn nên tuân thủ, nhập gia tùy tục mà, các người nói xem đúng hay không?”

Dương Hạo càng thêm tò mò về lai lịch của hắn, liền gật đầu nói:

“Không biết Mộc lão muốn nói gì?”

Lý Quang Bản nói: “Quy định trên thảo nguyên, hai quân giao chiến, bên thắng sẽ bắt giữ làm nô tỳ. Theo điều này. Theo lão phu thì những người này quần áo tả tơi, vũ khí lạc hậu. Chắc hẳn là cường đạo trên thảo nguyên. Mồm bọn chúng có thể nói ra câu nào đáng tin đây. Lãng phí thời gian xử lý bọn chúng.

Dương khâm sai, ngươi bảo vệ mấy vạn quân dân chúng ta, an toàn đưa họ đến nơi này, tất cả dân chúng đều cảm động và nhớ rõ ân đức của ngươi. Nhưng chúng ta lại không có lễ vật gì có thể tặng cho khâm sai. Trong lòng vô cùng bất an. Lão phu thấy thiếu nữ này tuy hơi ngang ngược, dung mạo lại xinh đẹp, nếu dạy dỗ thì sẽ hiền dịu hơn. Cô ta là do Mộc Ân bắt về được. Giờ ta làm chủ tặng cô ta cho Dương khâm sai đại nhân, để cô ta trải giường dọn chiếu, bưng trà dâng nước, phụng dưỡng khâm sai, mong rằng Dương khâm sai không từ chối”.

Những lời này vừa nói ra, tên tiểu tử kia sắc mặt biến đổi, Dương Hạo ánh mắt sáng lên, chắc chắn bọn họ có mối quan hệ nào đó. Hai người này là một đôi tình nhân chăng. Dương Hạo thầm khen ý đồ của lão Mộc đó, liền phối hợp với hắn, quay đầu nhìn cô gái kia, biểu hiện dù không thay đổi, bị hắn nhìn chằm chằm như vậy cũng không có biểu hiện sợ hãi gì. Dương Hạo liền tiến đến, cười hắc hắc nói: “Vâng, thật là tốt, chăm chút trang điểm lại, thay trang phục đi sẽ trở thành một thiếu nữ xinh đẹp ngay lập tức. Mộc lão có ý tốt, ha ha, Dương mỗ sẽ nhận”.

 Chương 172: Quyết ý 

“Ngươi dám!” Tên tiểu tử kia nghe Dương Hạo nói xong câu đó giận tím mặt, hắn hét lớn lên, chính xác là tiếng hán rồi.

Dương Hạo mỉm cười nói: “Có gì là không dám chứ? Ngươi là nam nhi ở thảo nguyên, chẳng lẽ lại không biết quy tắc của thảo nguyên? Các ngươi bị Mộc lão bắt được, là tài sản tư hữu của hắn, hắn có quyền đem các ngươi tặng cho người khác. Ở thảo nguyên, các ngươi chẳng lẽ không làm như vậy? Xem các ngươi, sống kiểu gì không biết, có khổ không hả, ngay cả nữ nhân cũng xông ra chiến trường chém giết.

Nói rồi quay sang cười nói với thiếu nữ kia: “Cô nương, theo bổn quan nhé, ta sẽ cho ngươi hưởng vinh hoa phú quý, áo gấm nhung lụa, đương nhiên là sướng hơn sống với bọ lưu manh nghèo nàn trên thảo nguyên này”.

Cô nương kia mặt không có biểu hiện gì, lạnh lùng nói: “Ngươi dám động đến một ngón tay của ta, ta sẽ giết ngươi!”

Xích Trung và Mã Tông Cường đều hiểu ý của Lý Quang Sầm, Mã Tông Cường liền cười nói: “Cô nương, cô không cần phải mạnh miệng như vậy, đợi ngươi thành người của Dương khâm sai, mang thai đứa con của khâm sai, nếu ngươi có ý giết hắn thì cũng tùy ngươi thôi.

Cô gái kia không ngờ mấy tên người Hán này lại vô liêm sỉ như vậy, tức giận mặt ửng đỏ, không biết phải mắng chửi thế nào cho hả dạ. Xích Trung làm bộ đại tướng quân, nghiêm túc nói: “Người đâu, đem cô gái này vào trong phòng của Dương khâm sai, tắm rửa sạch sẽ, ăn mặc xinh đẹp chút, đêm nay bản tướng quân sẽ động phòng”.

Binh Tống đứng ở cửa cười ha ha đi tới, kéo cô gái đó đi. Tên tiểu tử kia vội hét lên: “Thầm Muội Nhi, thả nàng ra, các ngươi là những người Hán vô liêm sỉ, các ngươi muốn làm gì thì cứ nhằm vào ta đây”.

Mã Tông Cường nhìn hắn vài lượt từ trên xuống dưới, lắc đầu nói: “Chỉ sợ ngươi không được…Dương khâm sai để ý tới”.

Lần này thì mọi người ở đó đều bật cười, tên tiểu tử kia trợn mắt nhìn hắn quát: “Tiểu Dã Khả Nhi là hảo hán trên mảnh đất thảo nguyên này, bị các ngươi bắt được, muốn giết muốn xé cũng không là vấn đề. Nhưng nếu như ai đó dám ức hiếp Thầm Muội Nhi của ta, thị tộc của ta sẽ giết các ngươi!”

Ánh mắt Lý Quang Sầm tự nhiên sáng lên, Mộc Ân đứng sau hắn sắc mặt vẫn không có chút thay đổi gì. Xích Trung mỉm cười, vỗ vỗ tay, hai tên binh Tống liền mang Thầm Muội Nhi tới cửa, Thầm Muội Nhi đứng cạnh tên tiểu tử đó.

Xích Trung hỏi: “Ngươi lúc nãy nói…ngươi tên là gì?”

Tên tiểu tử kia đáp: “Tiểu Dã Khả Nhi”.

Lý Quang Sầm tiếp lời: “Bộ tộc Đảng Hạng từ khi di rời đến nay, ngôn ngữ ngày càng hỗn tạp, dùng rất nhiều ngôn ngữ của những bộ tộc xung quanh, có người Hán, Đột Quyết, Khiết Đan…, trong tộc Khiết cũng có từ ‘Na Khả Nhi’, chuyên chỉ thị vệ bên cạnh quý nhân, ý của từ ‘Tiểu Dã Khả Nhi’ cũng tương đương như vậy, cũng chỉ võ sĩ, thị vệ. Người này ắt hẳn là một thị vệ bên cạnh đại nhân thị tộc Dã Li nào đó”.

Tên tiểu tử kia nghe xong ưỡn ngực ra, ngạo nghễ cười nhạt nói: “Ta không phải thị vệ, mà là võ sĩ, chiến sĩ anh vũ nhất của Dã Li Thị, tên của ta là Tiểu Dã Khả Nhi, ta là con của tộc trưởng Dã Li Thị”.

“Con của tộc trưởng Dã Li Thị!” Ánh mắt của mọi người đều đổ dồn lại bàn tán: “Lần này bắt được con cá lớn rồi, nhưng…dường như cũng gặp phải khó khăn. Dã Li Thị là tộc hung ác nhất trong Đảng Hạng Bát Thị, nếu như vạn bất đắc dĩ, ngay cả Hạ Châu Thác Bạt Thị dễ cũng không muốn trêu chọc bọn chúng, hôm nay lại chọc con tộc trưởng bọn chúng, điều này…”

Mọi người lần lượt nhìn sang phía Xích Trung, trong đám người này hắn có quân chức cao nhất. Xích Trung sắc mặt hơi trầm xuống, người hơi nghiêng về phía trước, gằn giọng hỏi: “Dã Li Thị? Các ngươi đến đây làm gì?”

Tiểu Dã Khả Nhi mặt lạnh hỏi ngược lại: “Chiết phủ các ngươi có thể dẫn quân tấn công tộc ta, chúng ta lại không thể tấn công lại Chiết phủ các ngươi sao?”

Xích Trung mắt sáng lên, hỏi: “Nói như vậy có nghĩa các ngươi cần phải tấn công làm thủ, phản kích Phủ Châu? Ta lại hỏi ngươi, ngoài các ngươi ra, còn có mấy bộ nhân mã, chuẩn bị tấn công vài nơi nào của chúng ta?”

Tiểu Dã Khả Nhi ngẩng đầu không nói, Xích Trung thấy vậy, ngồi thẳng người, vẫy tay nói: “Người đâu, đem cô gái này vào phòng cho Dương khâm sai, tắm rửa sạch sẽ, trang điểm xinh một chút, tối nay bổn tướng quân còn động phòng”.

Thầm Muội Nhi nhún vai, tránh tay của hai tên binh Tống, lớn tiếng nói: “Các ngươi không cần phải đa nghi, người của Dã Li Thị quang minh lỗi lạc, nếu chiến với chúng ta một trận, chúng ta sẽ không sợ để các ngươi biết. Chúng ta bị các ngươi truy bắt trốn vào núi hoang, ăn không được ăn, mặc không được mặc, làm gì còn dư lực mà tấn công Phủ Châu. Lần này, là vì khi tộc người chúng ta đến Phủ Châu cảnh nội các người mua thuốc trở về, phát hiện ra có rất nhiều người Hán đặt chân đến Lô Hà Lĩnh, chúng ta mới muốn đến cướp chút thức ăn, muối ăn…”

Xích Trung nhìn nàng thấy không giống nói dối, trầm ngâm một lát rồi nói: “Tạm giữ bọn chúng trước, trông coi cẩn thận, không được để chạy mất”.

Đợi đến khi hai người Tiểu Dã Khả Nhi được giải đi, Xích Trung mới nói: “Không ngờ, chúng ta vừa đến đây, người Đảng Hạng đã đến gây chuyện, giờ chúng ta bắt được thiếu tộc trưởng của Dã Li Thị, việc này…”

Dương Hạo nhân cơ hội nói luôn: “Được lắm, Dương mỗ lần này đến, chính vì việc này. Nơi này cây cỏ tươi tốt, ở đây bố trí được mấy vạn dân chúng, chỉ có điều…nơi đây là điểm giao của các thế lực Lý, Chiết, Dương, thật nguy hiểm, nơi này đứng mũi chịu sào, mấy vạn dân này liệu có được yên ổn. Bổn quan đến chính là muốn xem xem có kế sách nào vẹn toàn để xóa đi cái họa ngầm của dân chúng”.

“Việc này…” Xích Trung ngẩng đầu, nhìn Lý Quang Sầm ngồi ở một bên, đang nghe Dương Hạo nói chuyện. Lý Quang Sầm từ thuở nhỏ đã làm con tin ở bộ tộc Thổ Phiên, thói quen nhìn sắc mặt người, đoán ý người, vừa nhìn lên phía Xích Trung định nói gì đó xong lại thôi, lập tức hiểu ra, hắn mỉm cười, đứng dậy cáo từ nói: “Hai vị đại nhân cần nói công sự, tiểu dân không tiện lưu lại đây, xin cáo từ”.

Lý Quang Sầm cáo từ đi ra, Mộc Ân đứng sau hắn vẫn không có chút biểu hiện nào, yên lặng theo hắn đi ra ngoài. Ra khỏi nhà hầm, chỉ thấy trong sơn cốc còn có rất nhiều dân chúng đang dựng lều tạm trên thảo nguyên để nghỉ ngơi, lều trại chi chít như sao trên trời, giống như những cái nấm trên thảo nguyên.

Tuy vừa mới trải qua một đợt tấn công của tộc người Đảng Hạng, lần này trong ngoài sơn cốc lại đã là sự yên bình, trời chiều, những người dân vất vả đang quây quần tân trang lại nhà, chỉ là một cái lều tạm thời, nhưng họ cũng muốn nó đẹp hơn.

Lý Quang Sầm đứng ở giữa sườn núi, nhìn xuống sơn cốc. Mộc Ân đi đến phía sau lưng hắn, yên lặng một lúc, rồi hạ giọng nói: “Chủ Thượng”.

Lý Quang Sầm cũng không quay đầu lại, chỉ “Ừ” một tiếng.

Mộc Ân thiếu kiên nhẫn, cố lấy lại chút dũng khí và nói: “Chủ Thượng, cái tên Tiểu Dã Khả Nhi là thiếu tộc trưởng Dã Li Thị, quyết tâm mà Dã Li Thị phản Lý Quang Duệ là lớn nhất, thất bộ mời Chủ thượng trở về, trong đó Dã Li Thị cũng là một tộc hăng hái nhất. Giờ chúng ta đã ở đây, tại sao không liên lạc với họ, Đảng Hạng Thất Bộ chỉ cần phụng Chủ Thượng vì cộng chúa, đưa ra mấy nghìn binh tinh nhuệ mà chúng ta đã luyện ra trên thảo nguyên này, có thể tham gia một trận chiến với Lý Quang Duệ hay không? Về phương diện Hạ châu…chỉ cần hiểu được thân phận Chủ Thượng, cũng cần có một vài bộ tộc bị dao động, cần có lòng quy phụ Chủ Thượng”.

Người đàn ông sắt bình thường vẫn thường nói nhiều như vậy, lời nói ra có đạo lý, hoàn toàn không hợp với vẻ bề ngoài lạnh lùng của hắn.

Lý Quang Sầm cởi túi rượu bên hông xuống, cười to và nói: “Mộc Ân, ngươi thật có bản lĩnh, ở lại bên một tên vô dụng như ta, thật là tiếc cho ngươi. Trời đất của ngươi nên ở trên mảnh thảo nguyên rộng lớn này, nếu ngươi có tâm, có thể mang bọn họ cùng đi, bộ lạc đó trên thảo nguyên cũng có thể giao tất cho ngươi, hoặc là…ngươi có thể xông ra một phen chiến đấu đến cùng”.

Mộc Ân sắc mặt biến đổi, quỳ xuống, hai tay để trên đất, hoảng sợ nói: “Chủ Thượng, Mộc Ân hết sức trung thành, nguyện mãi mãi trung thành, không dám sinh ý nào khác. Chủ thượng nói những lời này, Mộc Ân trăm lần chết cũng không dám làm theo”.

Lý Quang Sầm xoay người, nhìn về hướng tây bắc, ánh mắt có chút ướt át nói: “Già rồi, già rồi, chỉ đi đến được đây, ông trời sắp đặt khiến ta cả đời chỉ sống đầu đường xó chợ, cuối cùng đã trở về cái nhà của mình. Ở đây, cách nơi ta sinh ra không xa, lão phu…sẽ sống quãng đời còn lại ở đây…”

Nói rồi, hắn lại uống một ngụm rượu, đi một mình lẻ loi về phía trước. Mộc Ân quỳ ở đằng kia, ngạc nhiên nhìn bóng dáng của hắn không nhúc nhích, thân hình của hắn như khối nham thạch, đắm chìm trong sắc vàng của ánh mặt trời…

Trời đã tối, Mộc Ân cùng vài tên Đại Hán ngồi trên thảo nguyên ngoài lều của Lý Quang Sầm, đống lửa trại cháy rừng rực, gió mang tro lửa bay lại, bay xung quanh chỗ bọn chúng.

Mộc Ân trầm giọng nói: “Điều ta cần nói, đã nói hết rồi. Bây giờ, muốn xem ý của mọi người, bản thân ta, nguyện phụng dưỡng Chủ Thượng, bất luận Chủ Thượng có muốn thu phục Hạ Châu, đoạt cơ nghiệp hay không. Điều này từ đời ông cha ta, bộ lạc đã giao trách nhiệm cho nhà ta: bảo vệ thiếu chủ. Nhưng, chúng ta cũng phải suy nghĩ đến người của chúng ta, họ lưu lạc trên thảo nguyên quá lâu rồi, lẽ nào để họ tiếp tục lưu lạc, quên đi cội nguồn của mình?”

Mọi người trầm xuống một lúc lâu, rồi mới có một người chậm rãi ngẩng đầu và nói: “Đại ca, Chủ Thượng do dự không quyết, chúng ta sao không giúp Chủ Thượng hạ quyết tâm? Chúng ta đi thả Tiểu Dã Khả Nhi ra, nói thân phận Chúa Công cho hắn, Đảng Hạng Thất Bộ nghe được tin này chắc chắn sẽ đón chào. Đến lúc đó, thân phận của Chủ Thượng cũng đã rõ, không muốn đi cũng không được”.

Lại có một tên khác lên giọng phản bác: “Ngươi làm vậy là đại nghịch bất đạo, ép buộc Chủ Thượng”.

Người nọ lặng lẽ nói: “Đúng, nhưng ta làm như vậy là bởi vì Chúa Công do dự, là vì người thân bộ tộc của chúng ta còn đang lưu lạc. Ta chỉ là muốn để Chủ Thượng có tâm chí mạnh mẽ, là một con chim ưng ở thảo nguyên”.

Mười mấy tên Đại Hán mỗi người một câu, có tán thành, có phản đối, Mộc Ân nghe được trong lòng rất phiền não, hoàn toàn không phát hiện ra Chủ Thượng đã lặng lẽ ra khỏi lều trại, một mình đứng ở dưới một gốc cây không xa nghe bọn chúng nói chuyện.

Cái tên đề nghị ý áp đặt cho Chủ Thượng nghe lệnh đứng lên, lạnh lùng nói: “Các huynh đệ không cần làm ồn lên nữa, việc này do ta đi làm, khi Chủ Thượng trách tội, ta sẽ đứng ra chịu tội, chỉ cần Chủ Thượng có tâm có chí, Mộc Khôi chết cũng cam lòng”. Nói rồi phẩy tay áo bỏ đi.

Lý Quang Sầm đứng sau cây đại thụ bất động, rồi giống như bị dính chặt lại không nhúc nhích được. Hắn giơ tay, đờ đẫn một, nhưng vẫn không có sức để buông xuống, khóe miệng chua xót cười: Hắn có thể ngăn cản bọn chúng, chỉ cần hắn đưa ra cái uy quyền của Chủ Thượng, như vậy những tên kia sẽ phục tùng hắn vô điều kiện, nhưng…để tay lên ngực tự hỏi lòng mình, hắn thực sự có quyền như vậy không? Hắn vì tộc người này, để tộc người một câu cũng không hề hoán hận theo hắn lưu lạc đến chân trời góc bể, hắn đã làm được gì?

Lý Quang Sầm yếu sức dựa vào cây, rồi lại uống một ngụm rượu. Hắn giờ đã hết, cho dù vẻ ngoài của hắn vẫn cường tráng là vậy, kỳ thực con người hắn mấy năm nay đã sống rất gian khổ, vì hắn không khống chế được lượng rượu, nên cơ thể suy nhược.

Hắn kết giao với thầy mo Sát Khách Khâm nổi tiếng nhất trên thảo nguyên cũng không thể giúp hắn chăm sóc nổi bản thân mình, dù đã uống thuốc, hắn vẫn không thể bỏ được rượu, thiên hạ không có thần y nào cao thủ có thể chữa bệnh cho một người bệnh như hắn. Nội tạng của hắn đã bị hỏng dần từ năm này qua năm khác, không có ngày nào là tốt đẹp nữa. Giờ chỉ có một cơ thể sắp chết khiến cho các người trong tộc hồi phục lại quyền lực cho hắn và quang minh mà đi chém giết đẫm máu.

Đôi mắt của Lý Quang Sầm đã nhòa lệ, hắn không muốn ở tuổi già này, lại tiếp tục hy sinh nhiều người như vậy. Nhưng, dù không phải vì hắn, chỉ vì những người lưu lạc trên thảo nguyên, còn mong ngóng Chủ Thượng của họ mang họ về với tộc người đã xa cách từ lâu, lẽ nào không nên lợi dụng sự loạn lạc của Thất Bộ? Nhưng mà, hắn đã không thể thúc ngựa đi tung hoành nữa rồi, thuộc hạ của hắn lại không có ai có khả năng thành thống soái được trọng dụng.

Mộc Ân ở trong bộ hạ của hắn được coi là một người nổi bật, nhưng hắn cũng chỉ có thể là một anh hùng ở một mặt nào đó, hắn không phải là đối thủ của Đường Đệ của Hạ Châu kia.

Huống chi, hôm nay chứng kiến, Đảng Hạng Thất Bộ thực sự đã nghèo đến cực điểm, bọn chúng không có lương thực, không có thuốc men, không vũ khí, con hổ không răng thì có thể dọa được ai? Nếu như giao tộc người của mình và Đảng Hạng Thất Bộ này cho Mộc Ân có dũng thiếu mưu, như vậy kết cục duy nhất cũng là đưa bọn chúng vào chỗ chết, chỉ là chết lộng lẫy hơn chút mà thôi, có gì khác nhau đâu chứ.

Lý Quang Sầm đang nghĩ, có mấy tên Đại Hán lặng lẽ giải tán, Mộc Ân đi về phía lều của Lý Quang Sầm, rồi chạy lại thất thanh hét: “Chủ…”

“Ta ở trong này”. Lý Quang Sầm nói lạnh nhạt một câu, rồi chặn giọng Mộc Ân, Mộc Ân vội vàng im tiếng, chạy đến trước mặt hắn nói: “Chủ Thượng, ngươi tỉnh từ bao giờ?”

Lý Quang Sầm không nói câu nào, Mộc Ân hiểu được, hắn nói nhỏ: “Chủ Thượng, Mộc Ân đáng chết. Ta…ta đây phải đi ngăn cản Mộc Khôi”.

“Thôi”. Lý Quang Sầm lạnh lùng nói, chậm rãi đi đến bóng cây, uống một ngụm rượu, nhìn trăng sáng, từ từ nói: “Ngươi đi, mời… Dương Hạo lại đây cho ta”.

Mộc Ân ngạc nhiên ngẩng đầu: “Chủ Thượng, người…cho mời Dương Hạo?”

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro