boku25 da

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Hình tượng sông đà

“Chúng thủy giai đông tẩu

Đà giang độc Bắc lưu”

            Mọi dòng sông đều chảy về hướng đông song chỉ có sông Đà chảy về Bắc. Nguyễn Tuân đi nhiều, thăm thú cảnh vật khắp nơi, nhưng vào chuyến thăm Tây Bắc, ông ưng con sông Đà lắm. Có lẽ ông đã tìm được ở sông Đà một cái gì đó giống mình: vừa cao cường bí ẩn nhưng cũng rất trữ tình. Đến với tùy bút “Người lái đò sông Đà”, ta không chỉ bắt gặp cảnh sắc hùng vĩ, tráng lệ của sông núi mà còn thấy được chất tài hoa, uyên bác, mang dấu ấn rất riêng trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân. Tất cả dồn tụ lại hợp lên hình ảnh sông Đà.

            Nguyễn Tuân ham khám phá. Thế nên vào thời điểm năm 1960, còn gì thú vị hơn khi đến với sông Đà. Con sông vừa nguyên sơ lại đầy tính cách. Nguyễn Tuân gặp sông Đà như hai người tri kỷ gặp nhau. Viết về sông Đà, có cái gì đó khiến ta liên tưởng như tác giả đang viết về chính mình. Có lẽ vì vậy mà con sông hiện lên trog những trang tùy bút của nhà văn cá tính vô cùng. Hung bạo là hung bạo nhất, thơ mộng thì cũng thơ mộng đến ngọn bờ.

            Sông Đà là cái tên thượng nguồn của con sông. Đó là cong sông tiền sử nhất, nguyên sơ nhất ở miền Bắc nước ta. Đoạn thượng nguồn con sông dữ dội và hung bạo. Không chạy dọc cả con sông, Nguyễn Tuân chỉ dành hết bút lực mà miêu tả sông Đà ở thượng nguồn, nơi hiện lên sự sục sôi, nghiệt ngã và đầy thử thách.

            Dữ dội của con sông không chỉ có thác đá mà còn là cảnh đá bờ sông dựng vách thành hiểm trở. Ở khía cạnh này, con sông như một bờ hoang tiền sử. Chỗ ấy hai bên bờ sông hẹp lại “ngồi trong khoang đò qua quãng ấy…chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời.”. Có chỗ con nai con hổ đã từng có lần vọt qua bờ bên kia. Hay đại loại ta cứ thử tưởng tượng khi đi giữa một con phố hẹp “ngóng vọng lên khung cửa sổ trên cái tầng nhà thứ mấy vừa tắt phụt đèn điện”. Con sông trở nên hoang vắng cổ xưa và có cái gì đó bí hiểm vô cùng.

            Hùng vĩ của con sông còn ở tiếng gầm thét:” hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gùn ghè suốt năm”. Âm mthanh của nước đổ ra như tiếng người, cũng oán trách, cũng kêu van rồi lại khiêu khích cọc cằn chế nhạo. Nguyễn Tuân tả con sông mà như đang tả người vậy. Hay dòng sông chính là nỗi niềm dân tộc, là lời của cha ông vọng về từ phía quá khứ, vọng về biết bao nhiêu trận kịch chiến đã có trên sông?

            Cả đoạn văn hầu như chỉ thấy Nguyễn Tuân sử dụng thủ pháp đối lập của văn học lãng mạn để khơi gợi cho người đọc những hình dung về sự dữ dội của con sông. Lúc ấy, dòng sông không khác gì dòng lử, bức bối khó chịu, bứt rứt vô cùng. Tiếng gầm thét của thác nước như đang lồng lộn giữa rừng vầu, rừng tre lứa đổ lửa.” Rồi xoáy nước giống như những cái giếng sâu “nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”. Có khi lại giống hàng ngàn con đom đóm đang châm lửa vào ngọn sóng. Dòng sông dữ dội hung tợn thật nhưng nghe đâu nó như đang gợi lên cái bất an của con người. Dòng sông cuộn mình dạy sóng như lịch sử, như đất nước ta chẳng mấy lúc nào bình yên. Sau cách mạng, cái nhìn thiên nhiên của Nguyễn Tuân thường gắn liền với cái nhìn con người, cái nhìn lịch sử và dân tộc. Tùy bút này là một cái nhìn như thế.

            Nói cái dữ dội, nghiệt ngã của dòng thác sông Đà, ta không thể quên những bãi đá. Mà chính xác hơn, phải gọi là “những thạch trận”. Đá ở đây được bố trí chu đáo lắm! Mỗi hòn có một tâm thế riêng, một nhiệm vụ, một tính cách như chính con người vậy. Đá cũng chia làm ba hàng chặn trên sông. Có hòn làm nhiệm vụ “mồi nhử” các thuyền. Hòn khác lại là một boong ke. Còn hòn thì làm nhiệm vụ tấn công bện vệ oai phong lẫm liệt. Tất cả tạo nên một “thế trận” thực sự không chỉ đe dọa nhà dò mà khiến chúng ta, không ít thig nhiều nghĩ nó như một chiến trường cổ xưa thực sự. Phải chăng những hòn đá nhấp nhổm kia lại chính là những người lính biên cương nhấp nhổm không bao giờ yên được? Dòng sông càng miêu tả, càng giống thế giới con người. Càng giống như tiếng nói của cha ông đang vọng về từ quá khứ bốn ngàn năm dựng và giữ nước. Có lẽ chăng đó chính là cái tạo nên phần hồn cho dòng thác sông Đà? Tạo cho con sông không chỉ là một thực thể thiên nhiên mà còn giống như một chứng nhân lịch sử.

            Sông đà dữ dội khiến nhà đò ngay cả những ai non tay lái, yếu thần kinh chỉ cần nghe đã phát hoảng. Ấy vậy mà đoạn sông nước hiền hòa như một cố nhân.

            Ngồi trên máy bay nhìn xuống “con sông đà tuân dài như một áng tóc trữ tình, đầu tíc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mùi khói Mèo đốt nương xuân”. Thật là một khung cảnh hết sức thơ mộng, diệu huyền. Rồi sông Đà không giống như sông Gâm, Lô lúc nào cũng chỉ xanh màu canh hến. Sông đà đẹp bởi màu xanh ngọc bích vào mùa xuân. Sang thu nước sông “lừ lừ chính đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận giữ ở một người bất mãn, bực bội gì mỗi độ thu về”.

            Nhìn cảnh “bờ sông đà, bãi sông đà, chuồn chuồn, bươm bướm trên sông” mà “vui như thấy nắng giòn tan sau kỳ mưa giầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”. Có chỗ đoạn sông lặng như tờ gợi miền cổ tích xa xưa hay có lúc ngồi đò, ta bắt gặp hình ảnh “một con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi ánh sương, chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên mũi đò”. Đúng là nhìn cảnh ấy chẳng ai dám tin dòng sông phía trên lúc nào cũng sẵn sàng “ăn chết” bất cứ một cái thuyền nào sơ hở. Cảnh về đoạn sông này trữ tình và thơ mộng, huyền diệu biết bao.

            Ở mỗi tác phẩm, Nguyễn Tuân lại cho người đọc thấy được phong cách, tài năng về nghệ thuật của mình. Ở “người lái đò sông Đà”, ta thấy một Nguyễn Tuân tài hoa với giác quan nghệ sữ sắc nhòn cùng kho chữ nghĩa phong phú, về nhiều khía cạnh. Mỗi lần đọc lại tác phẩm là lại cảm nhận được thế giới của dòng sông nhưng lần nào cũng thấy nó vòng ra bao điều mới mẻ về thế giới con người. Phải chăng đó chính là điều đã tạo nên tính hẫn dẫn đa chiều của hình ảnh con sông?

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro