bone 6

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

TIẾNG TRU

Chắc chắn là một thằng khác trong đám đã truyền đi tin tức về Dagbert, chứ bảo đảm không phải Bragger. Sợ mất hồn vía đến nỗi bổ ngửa ra sàn chẳng có gì hay ho mà khoe khoang cả. 

Lời đồn đại lan nhanh như chớp. Loáng cái thậm chí cả đứa năm nhất lơ mơ nhất cũng đã biết tin: Dagbert Endless dìm chết người. 

Nhưng dìm bằng cách nào? Câu hỏi đó lướng vướng trong tâm trí mọi người. Vô nhà tắm buổi tối, thật dễ nhận thấy bọn nhỏ hứng nước vào bồn cạn như thế nào. Có đứa quyết định không tắm bồn nữa và chọn tắm vòi sen lạnh ngắt trong những phòng thay đồ không được sưởi ấm. Mà là vào tháng hai. Vậy đủ biết chúng lo sợ tới cỡ nào. 

"Chúng mày bị ma quỷ gì ám vậy?" Bà giám thị gầm gừ. "Bọn bay hay kêu rêu là không đủ nước tắm cơ mà. Giờ, tự nhiên đứa nào cũng dửng dưng, chỉ lấy nước hầu như không đủ rửa đầu gối là sao." 

Mọi người bắt đầu lảng tránh Charlie bởi vì Dagbert luôn luôn cặp kè bên cạnh nó. Trong những trò chơi đồng đội, Charlie luôn là đứa cuối cùng được chọn, cứ như thằng mới đến vĩnh viễn dính vào Charlie, và đứa nào chọn Charlie về phe mình tức là phải gánh trách nhiệm về Dagbert-dìm-chết-người luôn. 

Dĩ nhiên cũng có ngoại lệ. Người ta không thể dứt lìa Joshua, Dorcas, hai chị em sinh đôi ra khỏi Dagbert. Vì vậy Charlie đành phải đi chung đám với bọn nó. Việc này khiến nó mệt phờ vì cứ phải nghe bọn chúng bốc phét về những phép kỳ tài của mình. Tuy nhiên, nó cũng ráng xoay xở để biết được điều hữu ích. 

Bọn chúng đang ngồi trong phòng Nhà Vua, chờ giờ bài tập về nhà bắt đầu. Lysander và Tancred chưa tới, Billy đang bận kiếm một cuốn sách tham khảo, Emma tới trễ, còn Gabriel nằm trạm xá dưỡng bệnh sốt siêu vi. 

Charlie đã mở sách lịch sử ra, giả bộ ghi chú về cuộc chiến giành Độc Lập của Mỹ. Tiếng rù rì bàn đối diện được giữ ở mức thầm thì, thỉnh thoảng xen tiếng cười hinh hích của Dorcas. Và rồi, tình cờ, Charlie nghe lỏm: "Bà ấy dạy tao mọi chiêu về ếm bùa quần áo." 

Dorcas đang tám về bà cô Venetia của Charlie. Charlie liền hạ thấp đầu xuống và mở banh tai ra nghe ngóng. 

"Với lại bà ấy đã kể cho tao nghe về lão. Bà ấy muốn lấy lão là vì, thứ nhất, lão giàu có, và thứ nữa, thằng con út của lão được ban phép thuật - chí ít bà Venetia nghĩ nó là..." Dorcas im bặt và Charlie cảm thấy mắt con nhỏ găm vào mình. Nó vẫn cúi thấp, nhưng Dorcas nói tiếp khẽ đến độ nó chỉ nghe bập bõm được vài từ lạ lùng. Như là "Arthur Shellhorn, thuốc độc, chuỗi hạt, suy tim... cỏ mê lú... đám cưới..." 

Thật dễ đoán nội dung còn lại, và Charlie chẳng cần lâu mới suy ra bà cô mình đã làm gì. Ông cậu Paton đã cảnh báo nó bà cô Venetia không ngại làm kẻ sát nhân, và ông nói đúng. Mụ đã đầu độc vợ của Arthur Shellhorn bằng một xâu chuỗi khiến tim bà ngừng đập, xong mụ xông cỏ mê vào áo khoác của Arthur. Và Arthur tội nghiệp bị lừa phỉnh đã nài nỉ bà cô Venetia cưới mình. 

Đến đây thì Lysander và Tancred lướt vô, anh bão tố trông còn xúc động hơn thường lệ. 

"Xin lỗi chúng tôi trễ," Lysander nói. "Chúng tôi đã bận họp. Rất vui thấy các bạn tự giác với công việc của mình. Billy đâu?"

"Đây. Em đây." Billy lệt bệt tuôn qua cửa, với Emma theo sau vài bước. 

Im lặng rớt độp xuống. Tất cả cúi xuống sách vở của mình. Giờ bài tập về nhà bắt đầu. 

Charlie giương mắt dòm những trang giáo khoa lịch sử mà chẳng thấy gì. Đầu óc nó lang bang tận đẩu tận đâu. Nó đang cố tưởng tượng xem có một bà mẹ kế như bà cô Venetia thì thế nào: kẻ đầu độc, phù thủy, tên sát nhân. Nó nóng lòng gặp Ông cậu Paton quá đi mất. Còn những một đêm nữa, nó nghĩ, khi đó nó sẽ thoát khỏi Dagbert Endless. Nó sẽ ngồi ở nhà, ăn bữa tối mê ly của ngoại Maisie. 

Nhưng mà không được thế. 

Vào đêm thứ Năm, chỉ năm phút sau khi đèn tắt, Dagbert quyết định kể chuyện giờ đi ngủ. 

"Nói chuyện sau khi đèn tắt là vi phạm nội quy," tiếng thì thầm nhắc nhở của Charlie chẳng xi nhê gì với Dagbert, cho nên nó nâng tiếng thì thầm lên một nấc nữa. "Cậu sẽ bị cấm túc." 

"Ai bảo?" Dagbert cãi lại. 

"Cứ để nó kể đi," Bragger hăng hái từ phía bên phải Dagbert. 

"Ừ, để nó kể đi," Rupe the thé. "Mày là đồ phá bĩnh, Charlie Bone." 

Fidelio làu bàu. "Rồi mày sẽ không thấy tiệm bán cá của mày vào đêm thứ Sáu đâu, Bertie(1)." 

"Muốn cược không?" Dagbert cười khẩy. "Với lại đừng gọi tôi là Bertie." 

Fidelio lật sấp người xuống và vỗ cho gối của mình phồng lại. 

Gân cổ lên, Dagbert tiếp tục câu chuyện của nó. Một câu chuyện vừa dở vừa được kể tệ. Đương nhiên chả có gì buồn cười mặc dù Rupe và Bragger cứ cười khục khịch. Chuyện về người cá luôn khiến Charlie ngáp. Nó ngáp thật và nhắm mắt lại. 

Hai giây sau, cửa bật mở tung và bà giám thị rầm rập bước vô phòng. Bà ta bật đèn lên. Charlie mở choàng mắt ra, chớp chớp. 

"Ai đang nói?" Bà giám thị hạch hỏi. 

"Cháu," Dagbert mau mắn lên tiếng. "Cháu đang kể chuyện." 

"Mi phạm luật," bà giám thị nói. 

"Cháu á?" Dagbert làm bộ hoài nghi. "Xin lỗi. Cháu thành thật không biết." 

Bà giám thị thở hắt ra bực bội. "Charlie, mày chịu trách nhiệm cậu bé mới đến này. Mày có nhiệm vụ phải bảo cho nó biết luật chứ." 

"Có, ơ, cháu có nói..." Charlie mở miệng. 

"Phạt mày cấm túc," bà cô nạt nộ. "Đến thứ Bảy mày mới được về nhà." 

"Nhưng cháu đã nhắc nó rồi," Charlie phản đối. 

Bà giám thị tắt đèn đi và lộc cộc bước ra, đóng sầm cửa lại sau lưng. 

Bầu thinh lặng bị phá vỡ bởi tiếng ngáy của Bragger và tiếng cười khẩy của Rupe. 

Charlie nằm ngửa, nhìn chòng chọc vào bóng tối. Nó tự nhủ mình cóc quan tâm. Chẳng qua chỉ là thêm một ngày nữa? Nó nằm thức mãi đến hơn nửa đêm và rồi, khi nó vừa thiu thiu ngủ, một âm thanh cắt phăng màn đêm. Một tiếng tru đằng xa, rất xa. 

Có tiếng khăn trải giường sột soạt và Charlie thấy hình thù tròn tròn của cái đầu trắng của Billy Raven. Thằng bé đang ngồi dậy, lắng nghe. Nó hiểu tiếng tru đó nói gì, Charlie nghĩ, không lâu nữa nó sẽ nói cho mình biết. 

Điều cuối cùng trên đời Charlie có thể ngờ là một lời xin lỗi. Ấy thế mà sáng hôm sau, trong bữa sáng, một lời xin lỗi là thứ nó đã nhận được. 

"Xin lỗi chuyện đêm qua," Dagbert nói, nuốt ực một muỗng cháo bột ngô. "Bị cấm túc thì tôi không thể nào chịu được. Những người tôi sống chung sẽ không hiểu nếu tối nay tôi không về." 

"Nhưng cậu đâu cần phải nói chuyện sau khi đèn tắt phải không?" Fidelio trách móc. "Charlie đã nhắc cậu rồi mà." 

Dagbert nhăn mặt, lầu bầu. "Thật khó nhịn." 

Charlie hơi hơi thông cảm cho nó. "Hừm, cậu sẽ không thoát lần thứ hai đâu. Giờ thì chính bà giám thị đã cảnh cáo cậu rồi, cho nên cậu liệu hồn mà kiềm giữ những câu chuyện của cậu lại." 

"Được," Dagbert nghiêm nghị. "Tưởng tượng. Những câu chuyện trong chai." 

Không phải lần đầu tiên Charlie tự hỏi thật ra trong đầu Dagbert đang nghĩ gì. 

Suốt thời gian còn lại trong ngày Charlie rơi vào trạng thái lơ lơ lửng lửng. Tâm trí nó chỉ nôn nóng muốn nghe xem Billy phải nói gì với mình. Chứ việc nó phải ở lại trường một đêm nữa có gì mà quan trọng? 

Vào lúc 4 giờ, lão Weedon mở khóa cổng chính và bọn trẻ xô đẩy nhau ra khỏi học viện. Từ phòng ngủ chung, Charlie và Billy có thể nghe thấy tiếng bọn học trò reo mừng khi vừa được giải phóng khỏi tòa nhà âm u. Charlie dòm qua cửa sổ xuống mảnh sân gạch. Thấy Dagbert Endless đi theo đám đông. Thằng bé là đứa duy nhất không thét rầm lên vui sướng. Mặt nó nghiêm trang, gần như là e sợ. Nó là đứa cuối cùng rời khỏi sân. 

Charlie quay đi khỏi cửa sổ. "Tất cả về hết rồi, Billy." 

Billy đang ngồi trên giường của nó, đầu gối thu lên tới tận cằm. 

"Trước khi tụi mình nói về Dagbert anh muốn biết em đã nghe thấy gì đêm qua," Charlie hỏi. 

"Một tiếng sói tru," Billy đáp. 

"Anh cũng nghe thấy. Em có biết nó có nghĩa gì không?" 

Billy lắc đầu, thụp vai xuống, tự ôm chặt lấy người. "Đó là một tiếng kêu cứu. Nó sợ hãi và cô đơn." 

Charlie nhìn vào đôi mắt to màu rượu vang, được phóng đại bởi cặp mắt kính tròn của Billy. "Em có biết tiếng đó... tiếng tru đó... từ đâu không?" 

"Không biết đích xác. Nó ở xa, xa lắm, có lẽ ở dưới lòng đất. Nó nói nó bị mắc kẹt." 

"Mắc kẹt?" Charlie nói. "Ai đã nhốt nó? Anh tự hỏi." 

Billy nhún vai. "Charlie, em muốn nói với anh về Dagbert. Suốt tuần em đã cố nói, nhưng nó cứ đeo sát anh. Nó gọi em là đồ dị dạng." 

"Nó bảo Gabriel là kẻ thất bại, còn Olivia và Emma thì lôi thôi lếch thếch. Láo." 

Billy chồm tới trước. "Bà bếp trưởng biết cha của Dagbert. Hắn đã dìm chết cha mẹ của bà, quét trôi nhà bà và giết chồng sắp cưới của bà. Tất cả vì bà không cưới hắn." 

"Chờ một phút!" Charlie thốt lên. "Anh nhớ rồi. Bà bếp trưởng cũng đã kể cho anh nghe. Tên hắn là Lord Grimwald." 

"Đúng, Lord Grimwald. May Phúc nói hắn bốc mùi cá tanh, tảo biển, mảnh tàu đắm và người chết đuối. Trong tim hắn có một hạt trai lạnh lẽo, kiểu như hạt cát mắc kẹt trong con trai. Bà bếp trưởng sẽ ra đi. Bà ấy sợ." 

Charlie rớt bịch xuống sàn. "Hả, bà bếp trưởng đi? Không thể nào. Bà ấy là đá nam châm. Bà ấy giữ cân bằng cho nơi này mà. Sao bà phải đi? Đâu ai biết bà là ai." 

"Rất có thể Dagbert sẽ đoán ra," Billy nói cứng. 

Charlie kiên quyết làm bà bếp trưởng đổi ý. Bữa tối nay gặp bà, nó sẽ thuyết phục bà phải ở lại. Nếu không thì ai sẽ chăm sóc Billy trong những ngày dài trường nghỉ học? Thằng nhỏ không có nhà, không cha mẹ, không người thân nào trên đời này để mà nương tựa. Gia đình Bloor luôn hứa hẹn là nó sẽ được nhận làm con nuôi, nhưng điều đó không bao giờ xảy ra, trừ phi ta tính đến vợ chồng nhà de Grey - đã nhận nuôi Billy mà giam cầm nó và đối xử với nó như đầy tớ. 

Bọn trẻ bị cấm túc thường hay phải xơi bữa tối nguội lạnh trong căng-tin. Nhưng khi Billy và Charlie xuống lầu lúc 6 giờ, căng-tin xanh da trời vắng tanh. Ghế chất hết cả lên bàn và một tấm trải ca-rô xanh da trời phủ kín quầy. 

Charlie mở cửa đi vào bếp và ngó quanh quất. Không thấy một mống người. Tất cả nồi niêu xoong chảo nặng nề đều treo vào chỗ, cửa bếp lò đóng lạnh te, đến cả tiếng nước sôi cũng không có. 

"Bọn mày làm gì ở đây?" Một giọng cất lên. 

Charlie quay lại. Đụng mặt đối mặt với vợ của lão Weedon. Mụ Weedon là người mặt thớt, dữ tợn, mắt lồi, thường ngày phụ trách căng-tin xanh lá cây. 

"Cháu tìm bà bếp trưởng," Charlie nói. 

"Bà ta ra ngoài rồi." Đôi môi không máu của mụ Weedon chẹp chẹp một cách cáu kỉnh. 

"Tụi cháu muốn ăn tối." Charlie nhìn Billy, đang đứng hy vọng cạnh một chiếc bàn chất đầy ghế. 

Mụ Weedon liếc qua Billy. "Tao đoán là mày bị cấm túc, phải không Charlie Bone?" 

"Điều đó không có nghĩa là cháu sẽ không được ăn," Charlie ngang ngạnh. 

"Chậc!" Mụ Weedon quay lưng bước ra. "Tụi bay theo tao," mụ nói với lại bọn chúng. 

Căng-tin xanh lá cây cũng trong tình trạng như căng-tin xanh da trời: ghế để hết lên bàn, quầy phủ kín, có điều là bằng một tấm trải màu xanh lá cây. 

"Tao chỉ có đậu nướng thôi," mụ Weedon sấn sổ. "Bọn mày ra ngồi kia," mụ chỉ một cái bàn. "Tao không có bổn phận trực, nhưng bà bếp trưởng đi đột xuất quá, có trời biết đi đâu, gia đình Bloor muốn bữa tối của họ, và tao phải mang lên tận chái phía tây để dọn cho họ, nếu tụi mày cảm phiền." 

Charlie chưa bao giờ biết mụ Weedon lại nói nhiều như thế này. "Bà bếp trưởng chưa đi hẳn đâu ạ?" Nó ngập ngừng dò hỏi. 

"Đi hẳn? Dĩ nhiên là chưa." Đôi mắt lồi của mụ Weedon nheo híp lại. "Sao hỏi vậy? Cái gì khiến mày nghĩ mụ ta sẽ đi hẳn?"

"Không ạ. Chỉ là... tụi cháu thắc mắc." 

Mụ Weedon nhăn nhó lắc đầu. "Mày thắc mắc nhiều quá mức tốt đẹp cho mày." Mụ nện gót đi qua cửa vô nhà bếp. 

Charlie và Billy dỡ hai chiếc ghế xuống khỏi cái bàn mụ Weedon đã chỉ, và ngồi xuống. 

Món đậu được dọn ra không còn ấm nữa. Bánh mì nướng bị cháy và không có lấy một mẩu bơ. Charlie quyết định xin thêm lượt hai. Bảo Billy đi theo mình, nó tới cánh cửa nhà bếp xanh lá cây và ngó vào. Không thấy tăm hơi mụ Weedon đâu cả. 

"Đi," Charlie thì thào. "Vô coi có đồ ăn không. Anh đói chết lên được." 

Chúng rón rén vô nhà bếp. Một hàng hộp thiếc đập vào mắt Charlie. Không nghi ngờ gì, chúng đựng bánh bích quy sô-cô-la và nhân nho. Tụi nhóc nhón mỗi thứ hai chiếc, rồi vừa ăn nhồm nhoàm vừa đi sâu hơn vô phòng. Billy phát hiện một hộp bánh bơ giòn, liền đút một chiếc vô túi quần. Charlie thấy một ổ bánh mì gừng thì bẻ ra lấy một khúc. Nó đã bắt đầu bớt bớt đói. Chúng tới cánh cửa đằng cuối nhà bếp và bước ra một mảnh sân, nơi có một cầu thang đá dẫn lên đường cái. 

"Í, tụi mình có thể ra ngoài bằng đường này," Charlie nói. "Tụi mình có thể lẻn vào thành phố và tìm tới một tiệm cà phê ngon lành và..." 

Cùi chỏ Billy thúc vào mạng sườn Charlie. "Coi kìa!" thằng bé thì thào. 

Ở cuối sân có hai người ngồi chồm hỗm ở trong một góc tối. Thật ra, họ không hẳn là người. Mắt họ sáng quắc như mắt của loài thú ăn thịt và mặt họ lấm chấm những mảng lông. Trong vài giây họ bất động đến nỗi cứ tưởng họ là những pho tượng nhưng, bất thình lình, họ phọt ra một tiếng rên và hấp tấp đi về phía cầu thang. Họ leo cầu thang bằng cả bốn chân, nhảy phóc lên bậc trên cùng nhanh như mèo. Cánh cổng sắt thông ra đường kêu lảnh lót khi hai dáng người đẩy mở nó ra và biến mất. 

Billy bíu chặt lấy cánh tay Charlie. "Họ là cái gì đó?" 

"Anh không biết. Nhưng họ đang đi theo anh." Nó nhận thấy có gì đó ở cái góc hai người lạ hồi nãy vừa ngồi. Hình như là một tô bánh pudding? Nó bước lại gần xem sao. 

"Coi này!" nó la lên. "Cái tô này còn một nửa các món điểm tâm. Đậu phộng, cháo yến mạch, chuối và vài thứ nữa. Trông như có người đem tới cho họ ăn vậy. Lại xem này." 

Trước khi Billy kịp nhúc nhích thì một bàn tay phóng ra khỏi khung cửa đằng sau nó. 

Mụ Weedon chộp lấy đằng sau cổ áo Billy và giật, suýt làm nó nghẹt thở. "Tụi mày vừa mới làm gì đó?" Mụ trợn mắt nhìn Charlie. 

"Tụi cháu đói bụng," Charlie đáp. 

"Đó không phải là lý do để rình mò." Mụ Weedon buông Billy ra và đẩy dúi nó một cái. "Tụi mày có thấy ai ở đây không?" 

"Tụi..." Billy chu mỏ, nhưng Charlie nhanh trí la lớn, cắt lời thằng nhỏ. "Không, không thấy ai." 

"Hừm." Mụ dòm Charlie đầy ngờ vực, đôi mắt muốn lòi ra. "Đi vô." 

Chúng cum cúp tuân lệnh. 

"Tao sẽ báo với tiến sĩ Bloor vụ việc này," mụ Weedon nói khi mụ theo chúng vào căng-tin. "Khôn hồn tụi mày lên thẳng giường đi ngủ đi." 

"Tụi cháu không làm gì sai trái," Charlie phản kháng. 

"Mày chỉ được cái mồm," mụ gầm gừ. 

Chúng nghe thấy tiếng đồng hồ treo tường kêu tích tắc khi bước ra khỏi cửa căng-tin. Charlie lần sờ khúc bánh mì gừng trong túi, mừng rơn là cả hai đã thó được cái ăn trước khi bị tóm. 

Bà giám thị dòm vào kiểm tra bọn nhỏ khi lên phòng tắt đèn. "Ngày mai ông cậu mày sẽ đến đón mày," bà ta nói lạnh trơ. "Mày thật là phiền phức, Charlie Bone." 

"Billy sẽ về nhà với cháu," Charlie bảo. 

Bà giám thị dẩu cớn môi lên nhưng không châm chích gì. Ông cậu Paton đã buộc gia đình Bloor phải ký một thỏa thuận hứa cho Billy nghỉ cuối tuần ở bất kỳ đâu nó muốn. 

Một đêm lạnh tơi bời, chúng rúc vào chăn và ăn bánh lấy được trong nhà bếp. Charlie nhanh chóng ngủ thiếp đi. Nó mơ thấy ba mẹ, đang cưỡi sóng trên con thuyền, xem cá voi hát dưới đại dương. "Chúng hát thật đó con," mẹ nó đã nói vậy. "Con có chắc là không muốn đi không?" 

Charlie thấy mình lắc đầu. Ba mẹ cần thời gian riêng tư bên nhau. Họ đã mất mười năm xa cách nhau; ngoài ra, bản năng mách bảo Charlie rằng mình phải ở lại trong thành phố, nơi mà có quá nhiều người muốn ba nó "biến khỏi trần gian", nơi mà những mưu mô quỷ quyệt đang manh nha, nơi mà các bạn của Charlie liên tục bị nguy hiểm rình rập. 

Trong giấc mơ của Charlie, tiếng cá voi hát từ từ biến thành tiếng ai oán, thê lương, và trong khi lắng nghe nó chợt nhận ra mình đang thức, và một lần nữa, đang lắng nghe tiếng tru tuyệt vọng, từ xa. 

"Billy, em có nghe thấy không?" Charlie thì thào. 

"Có," Billy đáp. "Nó vẫn lặp đi lặp lại những lời: â��Cứu tôi với!'. Charlie, những lời đó như đập thẳng vào tim em. Tụi mình phải làm gì bây giờ?" 

"Cứu nó!" Charlie đáp, mặc dù nó không biết phải cứu cách nào.

BỌ BIẾN DẠNG

Sáng Chủ Nhật, mưa dầm, thỉnh thoảng chuyển mưa tuyết, trôi lượt thượt xuống những tấm kính cửa sổ. Bầu trời tối sụp, xám như chì, nhiệt độ đóng băng. Vẫn không thấy bóng dáng bà bếp trưởng đâu, nên Charlie và Billy phải ăn bữa sáng khốn khổ trong căng-tin xanh lá cây: lại bánh mì nướng cháy, không bơ, không cốm bắp. Chúng đã chắc mẩm là mình phải đứng lên mà không được uống gì thì mụ Weedon đặt kịch một bình nước và hai cái ca xuống bàn chúng. 

"Cháu nghĩ lẽ nào tụi cháu không được một miếng bơ?" Charlie thận trọng hỏi. 

"Mày nghĩ đúng đấy," mụ Weedon nói. 

"Còn mứt?" Billy gợi ý. 

Mụ Weedon lờ tịt thằng nhóc và hằm hằm đi ra. Hai phút sau trở lại với một bình đựng cái gì trắng trắng. "Váng kem đấy," mụ bảo tụi nó. "Rất tốt cho tụi mày." 

Hai thằng nghi ngờ nhìn cái gọi là váng kem. Ngay khi mụ Weedon tếch khỏi, Charlie thò con dao ăn của nó vào bình rồi nhấc ra, dính nhoe nhoét. Nó liếm con dao. "Uuuurrrghh! Kinh tởm." 

Billy lại có quan điểm khác. "Em thích nó," thằng bé trét dày váng sữa vào miếng bánh của nó. "Bánh cháy sẽ đỡ hơn với cái này phết lên." 

Ăn sáng xong chúng lang thang lên phòng Nhà Vua. Không có ai để bảo chúng phải làm gì. Nếu Manfred Bloor ở đó, thể nào hắn cũng ra lệnh chúng phải ra sân chơi. Hắn rất khoái đuổi cổ bọn trẻ ra ngoài trời, đặc biệt là những khi trời lạnh và ẩm ướt. Mà Manfred bấy nay đâu chẳng thấy? 

"Em nghe nói hắn trông như quái vật." Billy liếc quanh căn phòng, nơm nớp sợ Manfred xồ ra từ sau một kệ sách. "Hắn bị gù lưng và què." 

"Anh ngạc nhiên là hắn còn sống," Charlie nói khẽ. "Không nhiều người sống sót nổi sau khi bị báo tấn công đâu." 

"Báo!" Vẻ khiếp đảm pha lẫn trong giọng nói của Billy. "Trông chúng y như mèo bình thường vậy, trừ màu lông." 

"Ừm." Charlie chưa bao giờ ngưng thắc mắc làm thế nào mà ba con mèo, trong vài phút sống còn, lại biến thành báo, có khả năng xé xác người ra thành từng mảnh. À, không thành từng mảnh đâu, nhưng thế là đủ rồi. 

Đến giữa trưa hai thằng quyết định đi tìm bà bếp trưởng. Sau một bữa sáng sơ sài, bao tử chúng đã đánh lô tô rồi. Khi đi xuống cầu thang chính, chúng thấy một bóng người đang băng qua tiền sảnh. Áo chùng đen phủ toàn thân người đó. Chỉ còn nhìn thấy được bàn chân, bọc trong giày bốt đen, bên dưới cẳng chân mặc quần xắn đến mắt cá. Chiếc mũ trùm ụp kín cái đầu bổ về trước, thòi ra từ đôi vai thõng xuống một cách bất tiện, quái dị. 

Hai thằng bé đông cứng lại khi thân hình đội mũ trùm khập khiễng đi tới cánh cửa dẫn vào chái phía tây. Có vẻ bất lực trong cách hắn giật và lắc cái vòng tay cầm, hình như hắn không thể vặn được nó vậy. Nhưng cuối cùng cánh cửa cũng mở ra, và đến khi đó cái hình hài mới quay về phía bọn trẻ. 

Chúng đinh ninh là sẽ thấy một gương mặt cau có, biểu thị sự tức giận vì bị dòm ngó. Nhưng người đàn ông đội mũ trùm không có mặt. Charlie và Billy thấy mình nhìn vào một chiếc mặt nạ trắng khoét hai lỗ xiên xiên, viền bạc và một cái miệng há hoác hình con thuyền. Thế rồi hắn biến mất, lướt qua cánh cửa nhỏ với tốc độ đáng kinh ngạc, bỏ lại hai thằng trơ khấc ra ở cầu thang. 

"Manfred," Billy thì thầm. 

Charlie gật đầu. "Chắc vậy." 

"Em thấy ớn sườn. Em đang cố tưởng tượng gương mặt hắn thế nào." 

"Đừng tưởng tượng," Charlie nói. 

Mãi rốt cuộc chúng tìm ra bà bếp trưởng ở đằng cuối nhà bếp của bà. Bà đang vừa lầm bầm to tiếng một mình vừa thảy hành băm vào một cái chảo kêu xèo xèo. Charlie gọi bà, nhưng không thấy đáp lại, nó bèn chạm nhẹ vào cánh tay bà. Bà bếp trưởng hoảng hồn thét lên và chiếc thìa gỗ bà đang cầm bay vèo lên không. 

"Sao con làm thế?" Bà nói lạc giọng. 

"Tại bà không nghe con gọi, bà bếp trưởng. Bà đang nói chuyện một mình." 

"Thế à? Ồ, ta đã nói gì?" Bà bếp trưởng vuốt thẳng tạp dề và vặn nhỏ ga lại. 

Khi nghe kể về thức ăn mà hai thằng nhỏ đã phải è cổ ra nuốt, bà bếp trưởng bình tâm lại một chút và hứa chúng sẽ có súp thịt trong bữa trưa. "Sau đó có thêm bánh hấp phết táo nữa," bà thêm. "Ta đã làm một ít trong lò để cho nhà Bloor." 

"Bà đã ở đâu vậy, bà bếp trưởng?" Billy hỏi. "Thường bữa sáng nào bà cũng ở đây kia mà." 

"Ta đã ở nhà một người bạn. Có thể nói là suýt nữa ta đã không trở lại. Nhưng bạn của ta đã thuyết phục ta phải trở lại. Bà ấy là người rất nhạy cảm." Bà bếp trưởng mở vung ra và thảy vào chảo một nắm lá gia vị. 

"Ưmm!" Charlie nhắm mắt lại. Mùi thơm từ cái chảo bay ra mê hồn đến độ nó tưởng như mình đang ăn món đó. 

"Chưa xong đâu." Bà bếp trưởng xua hai thằng bé trở lại căng-tin. Vài phút sau bà xuất hiện với hai tô súp thịt bốc khói. 

"Bà sẽ không rời học viện Bloor đâu, bà nhỉ?" Charlie hỏi bà bếp trưởng. 

Bà nhăn mặt. "Billy đã kể cho con nghe về thằng Dagbert đó rồi à?" 

"Con biết rành về Dagbert," Charlie thở dài, "về Lord Grimwald và những gì hắn đã gây ra cho bà. Kinh khủng quá, bà bếp trưởng, nhưng Dagbert không biết bà là ai. Tại sao bà phải sợ nó?" 

"Ta không cưỡng lại được, Charlie. Chỉ cần nghĩ về gia đình đó thôi là ruột gan ta lộn nhào. À, Billy này, con chuột của con bị chuyển đi rồi." 

"Rembrandt? Sao? Sao vậy ạ? Sao nó không thể ở quán Cà Phê Thú Kiểng?" 

"Tại nó tự cảm thấy ô nhục. Về tội ăn cắp bánh bích quy. Thật đáng giận. Con biết bà Onimous yêu thương nó biết chừng nào không. Bà ấy không muốn nó đi, dĩ nhiên rồi, nhưng ông Onimous thì nhất quyết. Ta nghe nói con rắn tội nghiệp nhớ nó kinh khủng, đến nỗi gần mất màu luôn. Nhưng mà thôi, việc đã rồi." 

"Nhưng bây giờ Rembrandt ở đâu?" Billy thất kinh. "Nó có vui không? Nó có thích chỗ ở mới của nó không?" 

"Nó ở tiệm Ấm Đun," bà bếp trưởng thông báo với chúng. "Không thể chôm chỉa được gì ở đó, ngoài trà, tất nhiên. Theo tin tức ta thu thập được thì nó không thích nơi đó cho lắm." Bà quay đi. 

"Tiệm Ấm Đun ở đâu vậy bà?" Billy tha thiết hỏi. 

Bà bếp trưởng ngần ngừ. Đầu óc bà hình như đang ở nơi khác. "Tiệm Ấm Đun," bà lơ đãng, "ở đường Piminy. Hãy hỏi thăm bà Kettle - một người bạn thân của ta. Ăn súp đi kìa." 

Khi bà bếp trưởng đi trở vào bếp, Charlie nhận thấy lò xo đã biến khỏi bước chân của bà. Bà vốn là người quyết đoán và lạc quan, thấy bà buồn nản như vậy khiến nó lo lắng. 

Không lâu sau, bánh hấp phết táo hiện ra tiếp theo súp thịt như đã hứa. Ăn xong, để lại bà bếp trưởng vẫn nói chuyện một mình, Charlie và Billy trở về phòng Nhà Vua. Không có người cai quản nên bọn chúng khó lòng ép mình tự học bài được. 

"Nếu Olivia ở đây chị ấy sẽ rủ tụi mình đi thám hiểm cho coi," Billy hít hà. 

Nhưng Olivia không có ở đó, và nghe nhắc đến tên con nhỏ khiến Charlie lộn tiết. Nó không tài nào quên được cái kiểu con nhỏ hối hả chạy đi, hét bảo nó là đồ dối trá và lừa phỉnh. 

"Đi, tụi mình đi thám hiểm đi," Billy nài nỉ. 

Charlie rên rẩm và đặt sách xuống, bất thần nó bỗng thấy ham thích. "Thì đi." 

Thám hiểm ở đâu? Billy không có đáp số. Không thể là trên gác mái, nơi lão Ezekiel sống chung với những thí nghiệm rùng rợn của lão. Không phải dưới tầng hầm, nơi tiến sĩ Bloor cất giữ những dụng cụ tra tấn cổ xưa, trong đó có những món thấy là dựng óc. Càng không thể ra sân chơi, vì ngoài ấy mưa tuyết đã chuyển thành bức màn mưa đá trắng xóa. 

Cuối cùng chúng quyết định vào phòng Mỹ Thuật. Ngắm tranh luôn luôn là thú tiêu khiển, mặc dù tranh không đẹp gì cho cam. Phòng điêu khắc ở bên dưới trưng bày một số tác phẩm rất ấn tượng. Lysander là nhà điêu khắc tài năng. Những bức tượng của Tancred cũng rất thú vị, có điều không phải lúc nào ta cũng biết đấy là tượng gì. 

Phòng Mỹ Thuật ở ngay đầu kia phòng ngủ chung của chúng và nhìn ra vườn. Hôm nay những cửa sổ dài chỉ nhìn ra được một làn mưa tuyết và mưa đá lay động. Chúng hắt ánh sáng quái gở lên rừng bảng vẽ và giá vẽ. 

"Tụi mình đi xem tượng của Lysander đi," Billy đề nghị. 

Một cầu thang xoáy trôn ốc bằng sắt rèn chạm trổ tinh xảo dẫn xuống phòng điêu khắc. Trong lúc chúng đi xuống, một âm thanh bất thình lình vẳng lên chỗ chúng. Tiếng hát. Hay là tiếng đọc kinh? Có thể là ai? Theo như chúng biết thì không có đứa nào khác bị cấm túc vào cuối tuần này. 

Khi xuống tới phòng điêu khắc, chúng nhón chân vòng qua những khối gỗ, thạch cao và những bức tượng hình thù kỳ lạ. Ở chính giữa phòng dựng tác phẩm của Lysander: một bức tượng cỡ bằng người thật, hình mẹ anh ấy, bà Hortense Sage, và đứa con mới sinh của bà. 

Chúng càng tiến vào căn phòng dài thì tiếng tụng kinh càng rõ dần. Đến khi chúng băng tới đầu kia, không nghi ngờ gì cái tiếng ấy phát ra từ căn phòng sát vách: căn phòng dành cho lớp vẽ năm nhất và lớp may trang phục. 

Charlie đặt tay vào nắm cửa. 

"Mở đi," Billy thì thầm. "Coi đó là ai." 

Charlie mở phăng cửa ra. 

Một tiếng rú lên hoảng hốt, cùng với một đống giấy, kim ghim và vải - hai thằng bé thấy mình nhìn sững vào Dorcas Loom. Trên chiếc bàn rộng trước mặt con nhỏ có một cây kéo khổng lồ, to nhất Charlie từng thấy. Nó còn thấy cả những cái hũ và hộp gỗ, những hộp thiếc nhỏ và những bó dược thảo xếp thành hàng ngay ngắn bên cạnh cây kéo. Chắc chắn bà cô Venetia của nó có dính dáng đến mấy thứ này. 

"Đồ rình mò!" Dorcas gào to. 

Charlie mặc kệ ánh mắt buộc tội của con nhỏ. "Cô làm gì trong trường thế này?" 

"Chứ mày làm gì ở đây?" con bé quật lại, vừa vội vàng đậy một tờ khăn giấy lên cái gì đó màu xanh da trời. Nhưng Charlie đã kịp thấy nó là vật gì. 

"Tôi bị cấm túc," nó nói một cách thờ ơ. "Còn lý do của cô là gì?" 

Đã định thần lại, Dorcas lên giọng kiêu căng. "Tao không cần lý do. Tao làm việc cho bà Venetia của mày." 

"Tôi thấy cô có đủ đồ nghề thích hợp đấy." Charlie cầm một cái hộp thiếc lên và đọc trên nhãn hiệu. "Bọ Biến Dạng. Dùng để..." 

"Trả đây cho tao!" Dorcas giật lấy đáy hộp trong khi Charlie vẫn giữ chặt cái nắp. Và điều tất yếu là cái hộp tách bung ra làm hai phần. 

Một đám mây bọ màu cam đổ ụp ra bàn, phủ kín kéo, kim ghim và ống chỉ cotton. 

"Đồ quỷ!" Dorcas thét gầm, quính quáng lôi các thứ ra khỏi đám bụi cam. "Cút khỏi đây. CÚT MAU!" 

Charlie và Billy đứng ngây ra như phỗng. Ngay trước mắt chúng, những đồ vật bị đàn bọ bám đang từ từ thay đổi hình dạng - chúng kéo dài ra hơn, thon lại, và láng hơn. 

"Chị đang là... làm gì đó, Dorcas?" Billy run rẩy hỏi. 

"Không phải việc của mày," con nhỏ rống như bò bị chọc tiết. "CÚT MAU! CÚT ĐI!" 

Dorcas bắn giạt qua bên bởi một tiếng gầm từ ngưỡng cửa. 

"Mày điếc hả, Charlie Bone?" Lão Weedon quát. "Tao đã lùng sục khắp cái học viện chết tiệt này tìm mày. Đến giờ về nhà rồi. Trừ phi mày định ở đây thêm một đêm nữa." 

"Không, không," Charlie hấp tấp. "Cháu không nghe thấy. Phải Ông cậu Paton..." 

"Hắn không vào. Liên tục gọi cho tao từ cái mobile tàn tạ của hắn. Món đồ phải gió. Thà đừng bao giờ phát minh ra thì hơn. Theo tao thì đó là đồ dùng của quỷ." 

Charlie vù qua lão Weedon, Billy lọt tọt theo sau. Chúng phóng bay lên phòng ngủ chung để lấy giỏ xách và trở xuống tiền sảnh trong vòng ba phút đúng. Lão Weedon ì ạch đuổi theo chúng xuống cầu thang. 

"Chúng mày không xứng đáng một ngày nghỉ," lão vừa làu bàu vừa mở khóa cánh cửa nặng nề. 

Charlie không mất công đối đáp rằng một ngày rời khỏi trường không phải là ngày nghỉ. Rốt cuộc mưa tuyết đã ngừng, nhưng thay vào đó lại là một màn sương đóng băng. Thoạt đầu chúng không nhận ra chiếc xe của Ông cậu Paton đậu bên kia quảng trường. Như thường lệ, đầu ông cúi gằm xuống một quyển sách. Nhưng không như thường lệ, ông không đeo kính đen. 

"Hầu như chả thấy gì trong màn sương này," Ông cậu Paton nhận xét khi bọn nhóc lồm cồm chui vào ghế sau. "Nên ta nghĩ chẳng ai nhìn thấy ta." 

Ông lái xe cẩn thận ra khỏi quảng trường. Trời đã gần tối, đèn đường hiện ra như những vầng sáng dịu nhẹ, treo lơ lửng trong màn sương. 

"Sương gì kỳ quái," Ông cậu Paton nói trong khi nhìn thẳng về trước. "Nó có mùi muối. Chắc từ biển bay vào, có trời biết, cách nhiều dặm chứ ít gì." 

"Biển." Charlie bắt đầu nối kết các sự việc lại với nhau. "Ông cậu Paton, có một thằng bé mới tới trường của con. Nó được ban phép thuật, theo như nó nói, là dìm chết đuối." 

Ông cậu Paton cười khà. "Dìm chết đuối? Vậy chắc là bóng ma từ con tàu đắm hay sao?" 

"Chuyện nghiêm túc đấy ạ, thưa ông Yewbeam," Billy sốt sắng. "Nó dìm chết người ta." 

Charlie thêm. "Cha nó là Lord Grimwald. Người mà đã..." 

"Quỷ thần ơi! Ta hiểu ý con rồi, Charlie. Một kẻ hủy diệt từng có trên đời. Hắn im hơi lặng tiếng đã khá lâu. Ta tưởng hắn chết hay bị chôn vùi đâu đó rồi chứ. Nên nhớ..." Ông cậu Paton nhấn còi với một chiếc xe lù lù hiện ra khỏi màn sương, rồ sát tới thật nguy hiểm. "Dạo này có nhiều vụ đắm tàu gần khu vực của hắn. Phần lớn là ngư dân. Họ giải thích là do thời tiết, nhưng đâu biết chừng, ai ngờ được." 

"Vùng của hắn ở đâu?" Charlie hỏi. 

"Phương Bắc." Ông cậu Paton phẩy bàn tay ra một hướng vô định. "Một trong những hòn đảo. Không ai biết vị trí đích xác. Bọn chúng rất bí hiểm, lũ nhà Grimwald ấy. Lưu truyền rằng khi một đứa con trai trong gia đình tới 12 tuổi thì, hoặc là cha nó hoặc là nó sẽ chết. Không thể nào cả hai cùng sống qua khỏi năm sinh nhật thứ 13 của đứa con trai. Thảm họa gia đình, ta có thể nói thế, nhưng mặt khác, một kẻ dìm chết đuối vẫn tốt hơn là hai." 

Charlie đã mất cha khi còn quá nhỏ nên không nhớ gì về cha. Nhưng bây giờ cha nó đã được tìm thấy, sẽ thật kinh khủng nếu như nó mất cha lần nữa, ở tuổi 12. Nỗi sợ bất giác khiến nó rùng mình, khi nghĩ giờ này ba mẹ đang ở ngoài biển khơi. Thậm chí nó còn nếm thấy vị muối trên môi. 

Chiếc xe giật nảy lên dừng gấp lại vì Ông cậu Paton chợt nhận ra mình đã ở bên ngoài nhà số 9. Khi họ bước ra khỏi xe, màn sương bao kín lấy họ như một tấm màn băng giá. Billy bật ho và ôm bụm lấy ngực, nói lớt đớt. "Nó chui thẳng xuống cổ họng. Như là nuốt trúng len cotton vậy." 

Khi ba ông cháu leo lên những bậc cấp, tiếng chuông nhà thờ bị nghẹt xuyên qua không gian mù sương, Ông cậu Paton nói, "À, nó nhắc ta mới nhớ. Hôm nay là đám cưới của bà cô Venetia đó, Charlie." Ông mở cửa trước ra. 

"Một ngày khủng khiếp cho đám cưới," Charlie bình luận khi bước vào trong nhà. "Xui phải biết, con nghĩ vậy." 

Ông cậu chùi chân vào tấm thảm chùi chân. "Ta không được mời, cũng tự nhiên thôi." 

Hai thằng bé mừng húm vì ngoại Maisie cũng không được mời. Chúng có thể ngồi xơi một bữa trà ngon lành mà không có bộ mặt chàu bạu của nội Bone lù lù bên kia bàn. 

"Phải chi con thấy bà nội của con nhỉ," ngoại Maisie nói. "Rốt cuộc bà ta quyết định đi đám cưới. Vẻ bất bình lộ ra đầy mặt, nhưng bà ta vẫn không thể bỏ lỡ sự kiện này. Bà ta diện màu tím từ đầu đến chân. Đúng, thậm chí đôi giày cũng tím với cái nơ to sụ bên trên. Còn nón thì ôi thôi! Gắn bao nhiêu là nho. Trông như một tô trái cây trộn." 

Hình ảnh gương mặt dài của nội Bone phía dưới những chùm nho màu tím làm Charlie bị hóc khoai tây chiên, cả bàn cười rộ lên, Ông cậu Paton cười to nhất. 

Charlie định đi thăm Benjamin sau bữa trà, nhưng quang cảnh từ cửa sổ nhà bếp nhìn ra chẳng khích lệ chút nào. Những ngôi nhà phía bên kia đường chìm trong bóng tối và sương mù. Tất cả chỉ có thể nhìn thấy những đốm sáng bức bối từ những chiếc xe hơi chạy cực chậm trên đường. 

Billy nuối tiếc nhìn ra cửa sổ. Nó ao ước được đi lấy con chuột cưng của mình nhưng không dám xin xỏ vào một đêm hiểm họa như thế này. 

"Mai tụi mình sẽ đi lấy Rembrandt sớm," Charlie hứa. "Tụi mình sẽ rủ Benjamin với Hạt Đậu đi cùng luôn." 

Đâu đó trong đêm, màn sương mù lờ đờ cuộn đi khỏi, nhường chỗ cho sương giá bao kín lấy thành phố và một vầng trăng tròn hiện ra tít trên trời. Từng mái nhà sáng lấp lánh như rắc bạc. Trong vùng đồng hoang bên kia sông, một sinh vật bị nhốt giữ bắt đầu tru lên thống thiết. 

Sáng Chủ Nhật chào đón hai thằng nhỏ bằng ánh nắng rực rỡ và bầu trời xanh băng giá. Chúng tự làm bữa sáng cho mình - cốm bắp, bánh mì nướng và sữa - trước khi có ai thức dậy. Nhưng ngoại Maisie ráng cố xuống cầu thang trong bộ đồ ngủ màu hồng và những ống cuốn tóc ngay khi chúng vừa ăn xong. 

"Nhớ về nhà vào giờ ăn trưa đấy kẻo không ta sẽ đi theo các con," bà nói. "Đường Piminy ở ngay đằng sau nhà thờ lớn, gần tiệm sách cô Ingledew. Nếu các con muốn ghé ăn trưa ở tiệm sách thì phải gọi điện cho bà biết." 

"Tụi con không tới đó đâu," Charlie ngượng nghịu nói. 

Ngoại Maisie nghẹo đầu qua bên. "Con cãi nhau với một trong những bạn gái đấy à." 

"Con không có bạn gái," Charlie nóng nảy. "Và con chẳng cãi nhau với ai cả." 

Trên đường ra cửa bọn con trai để ý thấy một cái mũ to tướng, màu sắc sặc sỡ đặt trên chiếc ghế trong hành lang. Trông nó đúng là tô trái cây trộn. Cái mũ khiến Billy bật cười khúc khích và Charlie lập tức cảm thấy nhẹ người đi. 

Benjamin luôn sẵn sàng để đi thám hiểm, và Hạt Đậu ở sát cánh bên nó, vui mừng tí tởn khi sợi dây dắt chó được lấy xuống khỏi cái móc trong hành lang. 

Ba mẹ Benjamin đang mải miết làm việc khi ba thằng bé rời nhà số 12. Là thám tử tư có nghĩa là ngày nghỉ cuối tuần cũng bận rộn y như ngày thường. Hôm nay cô chú không ra ngoài điều tra, mà ở trong nhà bếp để thiết kế một diện mạo cải trang tinh vi khác. Họ phải thường xuyên làm mới việc hóa trang của mình khi đang "theo dõi một đối tượng", như cách nói của họ. Có nhiều khi đến cả Benjamin cũng không nhận ra ba mẹ mình. Những lúc như vậy, cô chú rất mãn nguyện, mặc dù Benjamin thì không. 

"Mình ăn trưa ở nhà bồ nhé?" Benjamin hỏi khi chúng đi về phía nhà thờ lớn. 

Charlie nhận ra cô chú Brown hay ỷ vào ngoại Maisie dọn cho con trai mình những bữa thịnh soạn vào cuối tuần. "Dĩ nhiên," Charlie đáp. 

"Billy lấy được Rembrandt xong, tụi mình có tới quán Cà Phê Thú Kiểng ăn quà không?" Benjamin háo hức hỏi. 

"Không," Charlie nói, hơi nhanh. 

Benjamin khựng lại. "Sao vậy?" 

"Có thể nói thế này, Emma và Olivia sẽ ở đó và tụi nó không hân hoan khi gặp mình." 

"Sao vậy?" Benjamin hỏi tiếp 

Charlie kể cho nó nghe về Dagbert. 

"Nhưng bạn bè phải làm lành với nhau chứ," Benjamin kiên quyết. "Bồ có thể giải thích cho tụi nó rằng đó là một sự hiểu lầm khủng khiếp." 

"Không dễ vậy đâu," Billy nói, trong khi Charlie dướn vượt lên trước. "Anh biết đấy, Dagbert đã làm tất cả tụi em điên tiết hết cả lên. Nó gọi em là đồ dị dạng." 

Hạt Đậu kéo Benjamin chạy theo Charlie. Benjamin thở hùng hục. "Mình nghĩ bồ nên xin lỗi." 

"Hừ, không đâu." Charlie bước nhanh hơn nữa. "Chuyện thế là thế." 

Không đúng. Charlie rất muốn xin lỗi Emma và Olivia. Có điều nó không nghĩ ra cách làm điều đó như thế nào. Nó quên phéng là mình phải đi qua khúc cuối ngõ Nhà Thờ Lớn trên đường tới đường Piminy. 

Tiệm sách cô Ingledew lọt thỏm trong ngõ Nhà Thờ Lớn, thuộc dãy nhà gỗ nơi bóng râm nhà thờ lớn đổ xuống. Charlie nhìn khắp con hẻm rải sỏi dẫn tới tiệm sách và quầy quả rẽ vào đường Piminy. Nó thắc mắc Olivia có ở trong tiệm sách với Emma hay không. Tụi nó đang làm gì? Giúp dì của Emma, cô Ingledew, không sai. Chắc là đang phân loại sách, quét bụi những bìa sách bọc da, chùi những gáy sách mạ vàng bao những trang sách mong manh. Hoặc tụi nó đang tưởng tượng một kế hoạch trừng phạt Charlie vì những lời mà nó không bao giờ nói? 

Về mặt nào đó Charlie đã đoán đúng. Emma và Olivia đang ở trong tiệm sách thật, đang tưởng tượng một kế hoạch - chỉ có Olivia tưởng tượng thì đúng hơn. Nhưng kế hoạch đó chẳng liên quan gì đến Charlie. Mà liên quan tới một thử nghiệm. 

Tài phép của Olivia vẫn còn bí mật đối với gia đình Bloor. Chỉ bạn bè cận kề nhất mới biết con nhỏ là người tạo ảo giác. Trong đám biết điều này, vài đứa, gồm Charlie, nghĩ việc con bé bị phát giác chỉ là vấn đề thời gian thôi, bởi vì Olivia là diễn viên. Nó ham vui, và nỗi mê thích dùng tài phép của mình để đùa chơi thỉnh thoảng lại chế ngự, điều khiển nó. 

Chính sự ám ảnh về chim của Emma đã gợi cho Olivia nảy ra một ý tưởng vô cùng nguy hiểm. Emma có thể bay, nhưng trước tiên nó phải biến thành chim mới bay được. Nó hay vẽ chim, sưu tập lông chim, và mê mải ngắm hình những loài chim đã bị tuyệt chủng từ lâu. Buổi sáng hôm đó Emma chợt nảy ra trong óc về một loài chim mà nó chưa bao giờ nghe nói đến. Loài chim này ở trong một quyển sách xưa quý hiếm nhất của dì nó. 

Emma cầm quyển sách vào phòng trong và để mở ra trên đầu gối. "Hãy tưởng tượng nào, Liv! Mình giống như con chim này, mỏ dài thật dài, chân to thật to, nhưng đôi cánh lại bé xíu đến nỗi không thể bay lên khỏi mặt đất." 

Olivia nằm thẳng cẳng trên chiếc ghế xô pha thoải mái của cô Ingledew. Nó đặt tay sau gáy và nhắm mắt lại. "Tớ hình dung được con chim thần đó rồi," nó cười nụ. "Bây giờ tớ tạo con chim đó ra cho bồ thấy nhé, Em? Rồi bồ biến thành con chim đó. Thế là có hai con, và tụi mình sẽ để cho dì của bồ đoán, xem con chim nào là Emma, con nào là ảo ảnh?" Nó mở mắt ra, ngồi bật dậy, vỗ hai tay vào nhau. "Đúng. Tụi mình làm đi." 

Emma nhìn xoáy vào nhỏ bạn, nhíu mày lo lắng. "Tớ không nghĩ vậy đâu, Liv. Vậy không đúng." 

"Có gì mà không đúng? Đi, Em!" 

"Tụi mình không nên... sử dụng tài phép làm vui." 

"Thì sao? Ai nói thế?" 

"Đó là điều tụi mình ai cũng phải biết," Emma cứng cỏi. 

Olivia ngả ịch xuống trở lại đống gối nệm. "Hừ, tớ sẽ làm." 

"KHÔNG, Liv. Làm ơn đừng. Coi chừng bồ..." 

Nhưng con chim thần đang thành hình kìa. Khi Olivia ngoái nhìn qua vai, một mảng lông sặc sỡ hiện ra trên không trung phía sau đầu nó. Emma bất lực nhìn đám lông bắt đầu vào đúng vị trí trong hình hài của một sinh vật đẹp mê hồn. Đôi cánh rộng, cái đuôi xòe ra duyên dáng, mắt đen như hạt huyền, và cái mỏ sắc màu cam. 

Chưa hài lòng với hình dáng con chim, Olivia cho nó bật ra những tiếng cúc cu dài khi nó ép qua khung cửa che rèm vào trong tiệm. 

Đúng lúc đó chuông tiệm sách rung kính coong, cửa mở ra và một phụ nữ cao to xuất hiện ở ngưỡng cửa. 

Cô Ingledew đang dán tựa sách trên quầy chợt ngước lên, bối rối. Hai sự việc cùng xảy ra với cô một lúc. Một, đó là cô đã quên khóa cửa tiệm vào ngày Chủ Nhật và hai, một con chim quái lạ vừa sổng chuồng khỏi sở thú và tìm đường vô tiệm sách của cô. Tình huống thậm chí còn hoang mang hơn khi Emma chạy ù vào phòng, thét to. "Ối không!" Nghe vậy con chim biến phụt vào không khí. 

"Á," vị khách lạ lên tiếng. "Một ảo giác. Thú vị quá." 

Không nghi ngờ gì về vị khách không được chào đón kia. Nhìn mái tóc đen rức, lông mày cao hình cánh cung chắc hẳn Emma sẽ biết đó là bà cô Venetia của Charlie. Nhưng giờ mụ mới thay đổi làm sao! Không còn váy bẩn thỉu và áo khoác thùng thình như dạo gần đây nữa. Người phụ nữ này mặc veston màu hoa tử đinh hương rất lịch duyệt, cổ áo viền lông thú, với đôi giày bốt cũng viền lông thú ở cổ. 

"Ta vừa mới lấy chồng," người phụ nữ nói, đi xuống ba bậc thang vô trong tiệm. Giờ ta là bà Venetia Shellhorn. Ta chuẩn bị đi hưởng tuần trăng mật đây." 

"Vậy ư?" Cô Ingledew nói, không một mảy may tươi tỉnh lên. 

"Đúng. Và ta muốn đưa..." bà cô Venetia ngoái nhìn ra sau vai. "Chúng đâu rồi?" mụ ta cấm cẳn. 

Cửa mở ra, rất chậm. 

"Các con của ta," bà cô Venetia vẫy bàn tay đeo găng ra cửa. 

Đứng ở bậc thang trên cùng là hai đứa trẻ ẻo lả, thương tâm nhất mà Emma từng thấy.

Chiếc ấm của Feromel

Bà cô Venetia vẫy bọn trẻ và chúng lệt phệt tiến tới trước, đứa con gái dẫn đầu, thằng con trai hầu như không nhích tí nào. 

" Đây là Miranda." Bà cô Venetia chộp bàn tay con bé và giằng tới đứng bên cạn mụ. "Nó nhỏ thó so với 7 tuổi, nhỉ? Nhưng Eric, ừm, trời đất, nhìn nó này. Ai mà nghĩ nó 6 tuổi cơ chứ?" Mụ lao xổ ra chỗ thằng bé, cố tóm tay nó nhưng nó lùi phắt lại và đứng dựa vào tựa sách. 

" Lại đây, thằng ngu." Bà cô Venetia xỉa xói. Mụ quay qua cô Ingledew. " Ta được cho biết là thằng cháu trai của ta hay tới đây vào chủ nhật." 

Cô Ingledew nói sẵng. " Không phải luôn luôn." 

"Không thành vấn đề." Bà cô Venetia nhìn Emma. "Ta cho là hôm nay mày sẽ gặp nó, phải không, Ella ... hay gì gì đó?" 

"Ờm..." Emma ấp úng. 

" Mày hãy chuyển chúng cho nó." Bà cô Venetia bảo con nhỏ. 

" Chuyển chúng..." Emma lưỡng lự. "Ý bà là chuyển các con của bà?" 

" Chứ mày nghĩ gì?" Bà cô Venetia đẩy Miranda một phát về phía Emma. 

" Bà không thể để chúng ở đây được," cô Ingledew căm phẫn. 

Bà cô Venetia bước lên các bậc thang, tiếng giày cao gót nện đoàng đoàng như tiếng súng nổ. "Không có ai ở nhà số 9. Paton chắc chắn có ở nhà, nhưng hắn không bao giờ ra mở cửa. Vì vậy ta phải để bọn trẻ ở đây. Chị Eustacia của ta sẽ đón chúng lúc 5 giờ. Ta nghe nói cô làm bánh mì sandwich rất khéo, cô Ingledew." 

"Đây là tiệm bán sách, không phải nhà trẻ." Cô Ingledew giận dữ đến nỗi cô dằn mạnh một cuốn sách quí xuống quầy. 

" Ta làm sao đưa chúng đi tuần trăng mật của ta được hả?" Xong, bà cô Venetia vừa hát vừa lướt ra ngoài đường. "Lũ trẻ nít...Hãy ngoan." 

Cánh cửa kính coong đóng đập lại bỏ lại cô Ingledew chết điếng, nhìn chăm chắm qua đầu Miranda tới Emma. 

"Hừ!" Mãi cuối cùng cô Ingledew mới thốt lên lời. Chắc hẳn cô muốn trút gận xối xả, nhưng hai đứa trẻ trông thiểu não quá, cô nhận ra nếu mình than thở chỉ làm sự tình éo le hơn trước mà thôi. Bà cô Venetia đã lơi dụng bản tính tốt của cô. 

Lúc này hai đứa trẻ đã dính chùm vô nhau. Chúng đứng nắm tay nhau giữa tiệm lấm lét dòm, trước tiên là Emma rồi tới cô Ingledew. Quả thật chúng quá nhỏ so với tuổi chủa chúng. Miranda có tóc màu lông chuột và mắt xám. Nó mặc quần jeans và áo khoác đỏ, chiếc áo hình như đã thu lại mấy cỡ. Ống tay áo thậm chí không che nổi hại cổ tay ốm như chân chim của nó. Mái tóc rối bù của Eric sậm màu hơn, rõ ràng đã lâu rồi chưa được cắt, rủ lộn xộn xuống vai nó thành những nùi rối bong. Nó mặc quần nhung kẻ màu xanh lá cây, bẩn bết nơi đầu gối, áo jacket đen mất tiêu vài cái nút. 

Tim Emma se lại vì chúng. Con nhỏ vốn không thể chịu nổi khi thấy những sinh vật bé nhỏ khốn khổ. " Đến gặp bạn của chị đi." Nó chìa tay ra. " Tụi chị đang vẽ chim. Các em có thích vẽ không. À mà, chị là Emma." 

Miranda nói " Tụi em đi lấy con chó của mình được không?" 

"Chó?" Cô Ingledew nhăn mặt. " Nó đâu?" 

"Chúng cháu phải để nó ở nhà. Nó rất cô đơn. Nó ghét ở một mình lắm." Mắt Miranda rơm rớm nước. 

Olivia chọn đúng khoảnh khắc này để thò đầu ra khỏi tấm rèm. "Ố!" Nó ré lên khi thấy bọn trẻ. " Tớ không biết là có người ở đây. Tớ đang nằm bẹp đề phòng có người thấy con chim." 

"Chim nào?" Eric sáng rỡ lên. 

" Ồ. Thì con chim." Olivia tỉnh bơ. "Em là ai?" 

Bọn trẻ nhìn Olivia chòng chọc, im re. 

"Đây là Miranda và Eric," Emma nói, hơi quá đon đả. "Chúng là em họ...em họ kế mới của Charlie Bone, tớ nghĩ vậy." 

Oliva tròn mắt. " Tội nghiệp không. Chị chả ham bà con gì với gia đình đó. Chị là Olivia." 

"Olivia!" Cô Ingledew gay gắt. "Làm ơn đừng nói kiểu đó về gia đình Charlie." 

"Úi!" Olivia rụt đầu vào. 

"Làm ơn cho tụi cháu đi lấy con chó đi?" Miranda kèo nài. 

Cô Ingledew gãi đầu. "Cô không biết, cưng. Ý cô là, làm sao cháu vô nhà được? Mẹ kế của cháu có để chìa khóa lại cho cháu không?" 

Miranda lắc đầu. 

Cô Ingledew thở dài. " Chờ cô chút. Để cô hỏi ý kiến một người bạn." Cô lấy chiếc moblie của cô từ trong túi quần ra và bắt đầu bấm số. 

Emma lùa hai đứa trẻ vô nhà sau trong khi cô Ingledew gọi cho ông Paton Yewbeam. Miranda và Eric nghi hoặc ngó xung quanh căn phòng đầy sách và cuối cùng quyết định ngồi xuống ghế sô-pha, dính sát vào nhau. 

"Dì của chị có lâu không?" Miranda hỏi. " Chattypatra sẽ ư ử, ư ử đến chừng nào tụi em về với nó." 

"Tên oách quá." Olivia nhận xét. " Gốc gác từ đâu vậy?" 

"Tên nó đã là Cleopatra," Miranda nói. "Nhưng tại vì nó nhiều chuyện quá. Ờm, cứ sủa, tru rồi rên la. Vì vậy mà mẹ..." nó im bặt và nhìn Eric. Thằng bé bặm môi dưới lại nhưng không khóc. "Vì vậy mẹ." Miranda tiếp, "Mẹ em gọi nó là Chattypatra1 

"Hay ghê," Olivia gật gù. 

Cô Ingledew ngó vô phòng và bảo với chúng, chừng nào ông Yewbean tìm được chìa khóa nhà bà cô Venetia, ông sẽ sai Charlie mang tới đây. 

"Vậy sẽ rất lâu?" Đôi môi rướm đỏ của Miranda khẩn nài nhìn cô Ingledew. 

"Cô không nghĩ vậy đâu, cưng. Nào, mấy cưng có muốn giúp Emma làm bánh sandwich không?" 

"Dĩ nhiên rồi," Olivia mau mắn. "Đi thôi, tụi mình kẹp mật ong với chuối, hay là pho mát với nho khô, hay là bưởi với đậu phộng? Hay là xúc xích với cam." 

Cô Ingledew thở phào - Miranda, mê mụ đi theo Olivia vô nhà bếp, Eric bám sát gót. 

Ngay khi cô Ingledew vừa quay ra tiệm thì ông Paton Yewbean gọi báo tin nội Bone đi vắng, đóng cửa rồi, và giờ không cách chi vô phòng bà ta tìm chìa khóa. 

"Ôi, Paton, em không biết phải làm gì nữa. Lũ trẻ đáng thương lắm. Trông chúng rất đau khổ. Em nghĩ con chó sẽ làm chúng vui lên." 

"Bà chị quỷ quái của tôi nghĩ gì thế không biết?" ông Paton cằn nhằn, "Sao lại thảy chúng tới tiệm của em? Này, Julia, anh không biết có được hay không, nhưng anh đoán chắc chắn là bà Venetia hay để chìa khóa cửa dưới một bức tượng thần lùn khổng lồ, gớm ghiếc ở bậc thang trên cùng nhà bà ta." 

"Tượng thần lùn?" Cô Ingledew nói, cô chưa từng léo hánh đến nhà bà Venetia bao giờ. 

"Sinh vật dữ tợn. Bằng đá. Tai to. Mũi dài. Có râu quai nón. Ngồi chồm chỗm. Bàn chân to đùng." 

"Em biết thần lùn," cô Ingledew nói nhanh. "Em chỉ thắc mắc sự khôn ngoan của việc để chìa khóa của dưới tượng thần lùn là gì thôi." 

"Nó không phải là vật sống, Julia thân yêu." 

"Em biết nó không phải là vật sống." Cô Ingledew thở dài não nề. Đôi khi ông Paton không sống cùng thế giới với người khác. "Ý em là nhỡ có người tìm thấy chìa khóa và vô nhà." 

"Nhà đó ai trên đời này muốn vào? Của cải quý giá của bà Venetia toàn những thứ để ếm bùa mà chỉ mình bà ta mới biết cách sử dụng thôi." 

Cô Ingledew chịu thua. "Cảm ơn, Paton. Bọn em sẽ nghĩ kĩ về nó." 

Về phần mình, Ông cậu Paton tự hỏi cô Julia sẽ nghĩ về cái gì. Ông rất yêu mến cô, nhưng đôi khi họ không ở trong cùng tần số. Ngay khi Charlie và đám bạn nó về nhà, ông sẽ bảo nó mau mau tới nhà bà Venetia coi có tìm thấy chìa khóa dưới bức tượng không. "Mà khoan, suy nghĩ lại, tốt hơn để chúng ăn trưa xong ta hẵng nói," Ông cậu Paton độc thoại. 

Trong khi đó Charlie, Billy và Benjamin đang chậm rãi thả bộ trên đường Piminy. Chúng vẫn chưa tìm thấy tiệm Ấm Đun, trong bụng đã bắt đầu nghĩ cái tiệm đó không tồn tại. Đường Piminy chi chít những tiệm nhỏ, kỳ dị, tất cả đều đóng cửa, dĩ nhiên, vì hôm nay là Chủ Nhật. Nào là tiệm pho mát, tiệm làm đèn cầy, tiệm làm giầy, tiệm làm đồ mộc, rồi thì tiệm làm bánh mì, tiệm bán hoa và thậm chí có cả tiệm đá. 

"Tiệm Đá," Charlie lầm bầm, ngó vô cửa sổ tối hù. "Vậy tức là sao?" 

"Chắc là họ bán đồ dùng làm bằng đá?" Benjamin đoán mò. 

Bất chợt Charlie nhận ra một hình khối cao lớn ở bên trong cửa sổ. Nó nhìn kỹ hơn và thốt lên:"Một bức tượng". Khi mắt nó đã quen với bóng tối, nội thất của tiệm dần hiện rõ ra. Bây giờ nó có thể thấy những bức tượng khác: một nhóm tượng những người lính La Mã to bằng người thật; bên cạnh họ là ba người phụ nữ mặt mày hung hãn cằm dùi cui và rìu, lùi xa hơn nữa thì tới một người đàn ông trông giống yêu tinh hơn là con người. Ở gần cuối phòng, bên dưới cửa sổ mái, có một hiệp sĩ cưỡi ngựa cầm thương. Con ngựa của hiệp sĩ có cắm lông chim ở đầu, và bên dưới yên, thân mình nó phủ tấm mền được kết từ lá cây. 

"Ông ta đang đấu thương," Benjamin nói ra vẻ am tường. 

"Tưởng tượng nếu họ sống thì sao nhỉ!" Billy thì thầm. 

Charlie lùi một bước khỏi cửa sổ. Rất có thể, trong thành phố có những con người có khả năng khiến cho tượng sống dậy lắm chứ. 

"Mình ngửi thấy mùi cá," Benjamin nói. "Cả Hạt Đậu cũng ngửi thấy." 

Hạt Đậu đã bươn tới một cửa tiệm đằng phía cuối đường. Chú ta đang đứng giữa vỉa hè và sủa um lên bức xúc. 

"Nó sủa vậy là vì nó thích cá hả?" Charlie hỏi khi nguyên đám chạy hộc tốc về phía con chó vàng. 

"Ghét thì có," Benjamin thở phì phò, tóm lấy vòng cổ Hạt Đậu. 

Nhưng bên trong cửa sổ con chó đang sủa hoàn toàn trống trơn. Một tấm biển đề "CÁ". Những mẫu tự màu xanh da trời in cẩu thả trên nền trắng, trông như viết đè lên dòng chữ gì khác nữa. Thật vậy, nếu nhìn kỹ hơn, ta có thể thấy chữ "Bán thịt" bên dưới tấm biển trắng. 

"Các anh có biết em thấy nó mùi gì không?" Billy nói. 

"Dagbert," Charlie đáp. 

Cả đám trố mắt nhìn cái tiệm trống hoác rồi nhìn lên cửa sổ tầng trên, tự hỏi đây có đúng là nơi Dagbert cư ngụ hay không. Và nếu đúng thì, loại người nào lại làm chủ một cửa tiệm vắng teo với tấm biển quấy quá như vậy. 

"Những người rất lập dị," tiếng ai đó vang lên, dường như đọc được tâm trí của bọn chúng. 

Cả đám quay lại và thấy một phụ nữ đứng bên ngoài một ngôi nhà cách đó ba căn. Mái tóc màu đồng của bà láng đến nỗi trông như bà đội mũ bảo hiểm, chiếc áo bông màu đen bóng đến độ cứ tưởng nó làm bằng thép. Người bà to bề ngang, với đôi vai rộng tạo ấn tượng về một sức mạnh phi thường. 

"Bà đang chờ mấy cưng mãi," người phụ nữ nói. "Bà là bà Kettle, bạn của bà bếp trưởng. Có một con vật nhỏ đang nôn nóng gặp mấy cưng muốn chết." 

"Rembrandt!" Billy kêu lên, chạy thục mạng tới chỗ bà. 

"Cưng là Billy đây mà? Còn cưng chắc chắn là Benjamin rồi, nhìn con chó là biết liền, và cưng là Charlie. Vô đi, mấy cưng, trời lạnh héo queo ngoài đó." Bà Kettle đi vô tiệm, chắc chắn khác một trời một vực so với cái tiệm cá vắng hoe đằng kia. 

Tất cả mọi thứ trong tiệm của bà Kettle hình như đều sáng bóng nhoáng. Chỉ khi mắt Charlie quen với ánh sáng chói lóa xung quanh, nó mới nhận ra vật gì cững đều là ấm đun nước. Đủ mọi hình thù, kích cỡ và màu sắc. Chỗ này ấm chen chúc nhau trên các kệ, chôc kia ấm khoa sắc trên bàn hoặc ngồi riêng lẻ, chễm chệ trên những chân đế. Ở vị trí danh dự đặt một cái ấm đồng lớn nhất mà Charlie từng thấy. Nó hiên ngang đứng đối diện giữa cửa sổ, có hàng loạt ấm khác nhỏ hơn bao quanh; ta có thể thấy hình ảnh lạ lùng, nghiêng nghiêng, mang các sắc thái màu đồng của toàn bộ cửa hàng phản chiếu lên mặt bên sáng hoáng của nó. 

"Cái đấy chỉ để trưng thôi, mấy cưng." Bà Kettle nói khi nhìn theo ánh mắt của Charlie. "Cái ấm chiến nhất của bà ở đằng sau phòng này cơ. Đi với bà nào." Bà lướt qua một ô cửa vòm ở cuối tiệm và ra hiệu cho chúng vô một căn phòng khác, cũng chất đầy ấm đun nước, nhưng phòng này có nhiều không gian hơn một chút xíu. Bốn chiếc ghế bọc đệm chỗ ngồi, không có ấm ở trên, kê quanh một cái bạn nhỏ. 

Billy chả bụng dạ nào để ý đến cái gì. Không sao kiềm chế nổi sự nôn nóng, nó buột mồm:"Nó đâu? Con chuột của cháu đâu?" 

"Ái chà. Bà tự hỏi," bà Kettle ghẹo nó, "cưng tưởng bà quên rồi ư?" 

"Phải," Billy lỡ miệng. "À không. Làm ơn đi, nó đâu rồi?" 

"Có ngay đây!" Bà Kettle khoắng tay vào một trong hàng lô hàng lốc ấm và lấy ra một con chuột đen bóng. 

Billy giật con chuột khỏi tay bà, thét tướng, "Rembrandt!" 

"Nó yêu cái ấm đó lắm," bà Kettle nói. "Nó đã thử tất cả rồi nhưng đó là cái ấm nó thích nhất." 

Benjamin trông lo lắng. "Ừm, bà bán ấm đung nước ạ?" 

"Đừng lo, cưng," bà Kettle nói. "Bà rửa sạch bên trong ấm thường xuyên mà. Chuột có thể là sinh cật dơ dáy đấy chứ?" 

Charlie chợt nghe thấy có tiếng trống vọng đến từ đâu đó phía sau. Hạt Đậu nhắng nhít muốn gặp Rembrandt đến nỗi cái đuôi xù, ngoe nguẩy của nó đập tùng xèng vào hai cái ấm tráng men. 

"Rembrandt không muốn chơi," Billy nói, ôm rịt lấy con chuột. 

Trước một hiệu lệnh từ Benjamin, Hạt Đậu đành miễn cưỡng thôi quật đuôi nhưng tiếng trống lập tức được thay thế bằng tiếng hú inh ỏi từ một cái ấm đang đun trên bếp. 

Bà Kettle cởi áo khoác ra và bảo bọn trẻ làm theo mình. Xem ra nhiệt độ tăng lên ít nhất hai chục độ, Charlie cởi áo len rồi cởi áo jacket của nó ra luôn. 

Bọn con trai ngồi xuống và và bà Kettle rót trà đậm đặc ra bốn cái tách. Benjamin không thích trà nhưng nó hiểu ra mình còn nhận được cái gì khác nữa ở nơi toàn những ấm là ấm này. Nói cho ngay, đó là thứ trà cực ngon, và sau vài ngụm, chúng hoạt bát hẳn lên, kể cả Benjamin. Cứ như là nuốt loại không khí mà làm cho ta thấy nhẹ tênh và tỉnh người ra vậy. 

Trong khi uống trà, bà Kettle kể cho chúng về tiệm cá trên đường này, mặc dù chả đứa nào hỏi bà về chuyện đó. 

â��Nơi đó từng là tiệm bán thịt," bà Kettle nói. "Ông chủ tiệm rất dễ mến, hay cho bà thêm thịt vụn. Ừm, ông ấy bỗng nhiên một sáng thức dậy và ra đi. Không một lời từ biệt.' 

"Chắc tại ông ấy nhận được một lời đề nghị mà ông ấy không thể từ chối," Charlie đoán. 

"Chắc chắn," bà Kettle đồng ý. "Nhưng mấy cưng nghĩ coi, ai đã trả tiền mua cái nơi trái khoáy đó thì phải chuyển cái gì vô đáy chứ. Đằng này, bà chưa bao giờ trông thấy một cái vẩy cá trưng ở cửa sổ nữa là." 

"Nhưng nó có mùi cá," Benjamin chỉ ra. 

"Đích xác." Bà Kettle chồm tới trước. "Mấy cưng biết không, bà nghĩ chữ "CÁ" treo lên cửa sổ chỉ để gải thích cho cái mùi đó thôi. Không phải vì họ bán ca steps gì hết." 

"Ồ," Charlie ngây ra khi hiểu được ngụ ý của bà Kettle. "Nếu ý bà muốn nói có ai ở đó bốc mùi cá thì cháu biết là ai rồi." 

"Thật à?" Đôi mắt màu đồng của bà Kettlr căng tròn lên như trái cam. 

"Nó tên là Dagbert Endless," Charlie bảo với bà . "Hễ nó đi đến đâu, mùi cá theo nó đến đó. Nó nói no có thể dìm chết người. Cha nó là Lord Grimwald, và..." 

"Chúng tôi biết rồi!" Bà Kettle kêu lên. "Hoặc đoán ra rồi. Bà bếp trưởng đã nghi ngờ, nhưng không chắc lắm. Ôi, bà bạn đáng thương của bà, bà hi vọng bà ấy không gặp rắc rối. Bà đã cảnh báo bà ấy đừng đến đây nữa, chúng ta là chỗ bạn thân thiết." 

Charlie nói, " Nhưng cách đây đã lâu, khi Lord Grimwald làm điều ác độc đó..." 

"Chắc chắn hắn đã cưới ai đó rồi,' Billy thêm, "vì vậy hắn sẽ không quấy rầy bà bếp trưởng nữa.' 

"Cũng chẳng có gì khác." Bà Kettle uống hết tách trà của mình. Hình như trà khồn có tác dụng tăng lực cho bà chút nào. Mà đúng ra trông bà ủ ê. "Bà bếp trưởng là chỗ bạn thân thiết," bà lặp lại, lắc đầu. 

Để làm bà vui lên, Benjamin hỏi bà có cái ấm điện nào không. 

Ai dè bà Kettle phẫn nộ. "Cưng gọi thứ đó mà là ấm? Bà thì không. Ấm nước sôi là bởi bếp lò nóng, chứ không phải khi bấm một cái nút. 

Benjamin nở nụ cười tẽn tò. "Cháu xin lỗi." 

Charlie quyết định đã đến lúc ra về. Bọn chúng đến để lấy Rembrandt và chúng đã có con chuột rồi. Nó đứng lên cảm ơn bà Kettle đã mời trà. 

"Không có chi, Charlie Bone. Cưng sẽ đến nữa chứ?" 

Charlie đáp, "Dĩ nhiên ạ." 

Bà Kettle dẫn bọn chúng trở lại phòng trước, nhưng lúc sắp đi qua ô cửa vòm, Charlie chợt dừng lại. Nó chợt cảm thấy có cái gì ở phía bên trái giần giật rất khác thường. Nó phải dựa vô tường để giữ bình tĩnh, và một cảm giác nhồn nhột trong cổ họng khiến nó bật ho. Nó quay đầu lại, rất chậm, và thấy ở trên cái bàn tròn, khuất trong bóng tối xó một vật đen xì, tròn ủm. Trông kĩ hơn nó nhận ra đó là một cái ấm cổ, đen kịt khói muội. 

"Bà đã bảo cưng là cái ấm tốt nhất của bà nằm khuất nẻo mà," bà Kettle bảo khẽ. 

"Cái ấm tốt nhất của bà đây sao?" Charlie tiến lại gần cái vật đen thui. 

"Ừ, cho đến nay." Bà Kettle nói khẽ đến nỗi Charlie hầu như không nghe thấy, nhưng nó cảm nhận được nỗi vui sướng của bà khi nói. "Nó do tổ tiên của bà, Feromel, rèn ra cách đây hơn năm trăm năm. Feromel là thợ rèn kiêm thầy pháp. Ông ấy đã rèn rất nhiều ấm sắt thần kỳ. Có trời biết bây giưof chúng đâu cả rồi." Bà đến đứng ngay sau lưng Charlie. "Cưng là người chu du đúng không, Charlie? Bà đang thắc mắc cưng có cảm thấy nó không?" 

"Cảm thấy?" Charlie đưa tay cầm quai ấm đen cháy, trông mục đến nơi. Nắp ấm có một núm tròn bóng loáng ở giữa. Charlie nhẹ nhàng nhấc nắp ấm lên. Nó nhìn vào vòng nước đen ngòm, "Trong đây đầy nước." 

"Nó luôn luôn đầy nước," bà Kettle bảo. " Luôn luôn. Không thể cạn. Nó có thể sôi cạn nước. Nhưng vào ngày điêu đó xảy ra sẽ là kết thúc..." 

Billy rón rén tới gần họ. "Kết thúc cái gì ạ?" 

"Thế giới?" ánh mắt của Charlie bị mặt nước đen phẳng giữ rịt lại. 

"Kết thúc một cuộc đời," bà Kettle nói. "Đậy nắp lại đi, Charlie, rồi đem nó về cùng với cưng luôn thể." 

"Cháu?" Charlie lật đật đậy nắp lại. 

" Chỉ một thời gian thôi," bà Kettle nhẹ nhàng. "Đúng, Charlie. Feromel muốn cưng giữ nó." 

"Nhưng tại sao?" Charlie ngó trân cái vật hình tròn đen như than, hai tay nó buông thõng bên sường những ngón tay lật bật lo âu. Nó không muốn lấy cái ấm cổ xưa có khả năng dự báo chết chóc này. Bao nhiêu mạng người đã mất, Charlie tự hỏi, trong khi nó sôi cạn đi, hể hả, trong một góc tối ám khói, thấm độc không khí bằng hơi nước hiểm họa của nó. 

"Nó không phải vật xấu đâu, Charlie." Bà Kettle cầm vật gia bảo quý giá lên và trao cho Charlie. Thế là những ngón tay run run của nó nắm chặt quai ấm. 

"Bà hi vọng nó sẽ không bao giờ sôi cạn đi vì cưng, Charlie," bà Kettle nói. "Đây là thời điểm nguy hiểm cho những người như cưng, nhất là khi có dính đến thằng bé người cá đó, thành thử nó rất hay ấm lên. Không cần phải đặt nó trong lò. Cưng có thể đặt nó bất cứ đâu cưng muốn. Nếu có hơi hướng nguy hiểm xảy ra trong không khí, nó sẽ nóng lên. Càng nóng thì cưng càng phải cẩn thận.' Bà mỉm cười khắp lượt với cả đám. "Nào, cứ yên tâm nhé, mấy cưng. Bà sẽ để mắt tới tiệm bán cá." 

Chuáng cảm ơn bà Kettle về trà lần nữa, và vài phút sau, Charlie bước trên đường Primmy với một cái ấm đen tung tẩy trong tay. 

Đến cuối đường, chúng rẽ ngõ quẹo và đâm sầm vào Emma, Olivia và hai đứa bé xíu xiu. 

"Ối, không, không Charlie Bone," Olivia la bai bải rồi chạy mất tăm về phía đường Đối Cao.

Tượng thần lùn

Olivia bắt đầu khiến Charlie khó chịu. "Sao nó bỏ chạy như ma ám thế?" Nó thắc mắc. 

Emma nhìn nó trách móc. "Chứ cậu nghĩ tại sao?" 

Charlie bực tức. "Làm sao Olivia lại tin mình đã nói những điều ấy về nó. Dagbert bịa ra đó. Thằng đấy nói láo. Bồ đâu có tin, phải không Emma?" 

"Ờm..." con nhỏ lúng túng. "Tớ luôn tin khi người ta bảo tớ... không đẹp, hay tớ ngu, hay..." 

"Bồ không nên vậy, đồ..." Charlie kịp dừng lại. "Ý mình là bồ tuyệt đối không đc tin lung tung." 

"Dagbert luôn luôn dối trá," Billy đỡ lời. 

"Nó bảo Billy là đồ dị dạng," Benjamin thêm. 

"Mà Billy có bực mình đâu," Charlie bảo. 

"Đã bực," Billy sửa lại. 

Charlie giả bộ như không nghe thấy. "Và tớ thích các kiểu tóc của bồ, Em." 

Trông bộ Emma tươi lên. Con nhỏ suýt mỉm cười. "Để mình sẽ giải thích tất cả cho Liv. Nó rất nhạy cảm về diện mạo của mình. Nhưng, nói thật, mình nghĩ nó thích phóng đại mọi thứ lên cho kịch tính một chút. Chẳng bao lâu nó sẽ chán mang vẻ mặt cau có, và rồi nó sẽ lại hành xử như chưa từng có chuyện gì xảy ra ấy mà." 

"Mình hi vọng sẽ nhanh nhanh lên," Charlie bảo. 

Thằng bé con nãy giờ cứ dòm trừng trừng cái ấm đen. Thình lình nó hỏi. "Cái gì đó?" 

"Cái này á?" Charlie giơ cái ấm lên với vẻ e dè. "Là cái ấm cũ anh mượn đó mà." 

"Cũ, cũ ơi là cũ," thằng bé nhận xét. 

Emma hét lên. "Xin lỗi, tớ quên mất. Đây là hai đứa em họ của bồ đó, Charlie." 

"Ý bồ nói chúng là ... con của bà dì Venetia?" Charlie bắt đầu lư ý tới cặp đôi cầu bơ cầu bất. "Anh là Charlie," nó cười toe toét với bọn trẻ. "Thì ra ... bà cô của anh là mẹ mới của các em." 

"Tụi em biết rồi," đứa con gái nói. "Em là Miranda và đây là Eric. Tụi em đi lấy con chó của tụi em." 

"Bồ không định đi với tụi này à, Charlie?" Emma mỉm cười đầy sức thuyết phục. "Tớ không thích Nghách Tối, mà Olivia thì về rồi." Nó ôm lấy người và rùng mình. 

"Đi chứ," Charlie nói. 

Nghách Tối không phải là nơi người ta thích đến một mình. Một ngõ hẹp tí,tối om om dẫn vào một khu toàn những tòa nhà cao, xám xịt bao quanh một mảnh sân lổm ngổm đá sỏi. Hầu hết nhà ở đó đều bịt kín mít - cửa lớn thì đóng đinh chết dí còn cửa sổ thì cài thanh chắn. 

Ở cuối mảnh sân có một dãy nhà cắt ngang ngõ hẻm. Nhà nào cũng có những tháp nhọn cao nghệu, nhữnglan can sắt, cửa sổ dài, trên trán tường trang trí những tượng đá hình thù quái đản: người khổng lồ, yêu tinh, thần lùn, quỷ sa tăng và những con thú gớm ghiếc. 

Nhà của bà Cô Venetia ở bên phải, vừa lợp mái mới sáng chói, trông khang trang hơn nhà của bà cô Eustacia ở chính giữa, hay nhà của bà cô Lucretia ở bên trái. 

"Bà cô Venetia vừa dựng lại nhà mới," Charlie nhận xét. " Sau vụ hỏa hoạn trông nó kinh khủng khiếp." 

"Hỏa hoạn?" Gương mặt quắt queo của Miranda rúm lại sợ hãi. "Chuyện xảy ra thế nào?" 

"Ờ ... è ... à, một tai nạn," Charlie lảng tránh. 

Emma nhìn nó một cái, ra điều cảm ơn nó đã không miêu tả chi tiết. Ba cầu thang dẫn lên ba cánh cửa đen; mỗi cánh cửa gắn một con số 13 bằng đồng thau ở chính giữa. 

"Ba số 13," Billy thì thầm. (Đây là nơi khiến người ta phải nói thầm với nhau). "Chắc chú đưa thư sẽ rối tinh rối mù?" 

"Chắc chắn," Charlie thừa nhận. 

Có tiếng rên tru tréo từ bên trong ngôi nhà số 13 thứ ba, và Miranda thét. "Chattypatra đó! Thấy chưa?" 

Chúng chạy băng qua mảnh sân và dừng lại ở chân cầu thang. Hạt Đậu bắt đầu sủa phấn khích. Đuôi nó ngoáy tít hầu như không thấy đâu nữa. 

"Ông của bồ bảo chìa khóa ở dưới bức tượng thần lùn," Emma nói với Charlie. 

"Thần gì?" Nhưng Charlie đã thấy nó: một khối đá lùn tùm hụp, trông như quỷ hiện hình ở góc tối mái hiên. 

"Chị tới đây, Chattypatra," Miranda gọi. "Tới đây." 

Tiếng tru càng dữ dội hơn, biến thành một tràng rú mê sảng, trong khi Hạt Đậu hòa theo bằng tiếng đặc trưng ắng ắng của mình. 

"IM ĐI!" Charlie hét con chó to. 

Benjamin bụm bàn tay quanh mũi Hạt Đậu. "Bồ không cần phải quát nó thế," nó nói như bị xúc phạm. 

"Xin lỗi, chỉ tại mình không suy nghĩ được," Charlie nhìn trừng trừng bức tượng. 

"Có gì phải suy nghĩ? Chìa khóa ở dưới bức tượng." Emma bắt đầu bước lên cầu thang. 

"Đừng, Em." Charlie níu cánh tay con nhỏ. "Cầm cái này." Nó trao cho con nhỏ cái ấm. 

"Ôa, nặng quá." Emma chạm vào hông chiếc ấm đen. "Nó nóng thế." 

"Mình biết." Charlie đã nhận thấy cái ấm đang nóng lên. Có gì nguy hiểm ở nhà bà cô Venetia? Nó bước lên cầu thang trong khi bọn kia vẫn ở dưới sân, nín khe nhìn nó. Nó cúi xuống bức tượng, chợt dừng lại. Bức tượng vừa mới chớp mắt. Lẽ nào đó là hiếu ứng ánh sáng? Hay là bóng của Charlie đổ khuôn xuống khối đá? Không phải. Charlie chắc chắn một mí mắt của bức tượng vừa mới bao lấy con mắt tròn ác nghiệt. Việc xảy ra rất nhanh, hầu như không kịp thời gian cho Charlie ghi nhận. Nhưng đúng là nó đã động đậy. 

Charlie quay lại đám trẻ dưới kia, tất cả đang nhìn lên nó, chăm chú theo dõi, ngoại trừ Eric - thằng bé đang ngó đăm đăm bức tượng với vẻ xa xăm, quái lạ. 

Charlie nín thở, cúi lẹ xuống và đẩy bức tượng ra sau. Chiếc chìa khóa cửa của bà cô Venetia lộ ra. Nó nhặt lên và vẫy vẫy xuống cho bọn kia. 

Cả đám hò reo " Uu-raa!" và chạy ùa lên cầu thang. 

Charlie tra chìa kháo vào ổ ,vặn, và cánh cửa mở ra mà không két lên, huống hồ là tiếng rít dựng gáy như nó đã e ngại. 

Một con chó nhỏ màu trắng bắn ra khỏi ngôi nhà và nhảy gọn vào vòng tay Miranda. 

"Ôi, Chatty, Chatty!" Mắt Miranda có nguy cơ tràn lệ đến nơi. 

Eric mỉm cười, một cách không cưỡng lại được. 

Hạt Đậu mừng quýnh hơn bao giờ hết. Nó giật khỏi tay Benjamin, lao bổ tới, hít ngửi con chó trong tay Miranda. Chattypatra không phản đối; mà thật ra cô nàng sục mõm hít lại và sủa ăng ẳng rất bình thản vào tai chú chàng. 

"Cuộc hôn phối thần tiên," Benjamin thở hắt ra toại nguyện. "Mình luôn biết một ngày nào đó Hạt Đậu sẽ tìm được bạn gái mà." 

Miranda nguýt Benkamin một cái. 

Charlie trả chìa khóa vào chỗ cũ và cả đám tức tốc rút khỏi Ngách Tối. Charlie cảm thấy tội nghiệp hai đứa trẻ sẽ phải trở về, sống với bà cô Eustacia nghiệt ngã. Nó đắn đo liệu mình có nên đề nghị chúng tá túc ở ngôi nhà số 8 không, nhưng có điều gì đó ngăn nó lại, có lẽ là ánh mắt lạnh lùng của Eric và cái kiểu thằng bé cứ liếc trộm chiếc ấm. 

"Này!" Emma trao lại cái ấm cho Charlie. "Ấm gì quái chưa từng thấy. Giờ nó nguội rồi." 

Ngón tay của Charlie nắm quanh quai ấm lạnh ngắt. Nó không hó hé gì tới lịch sử kì lạ của vật này. 

Nhóm trẻ tách ra làm hai khi chúng tới đường Đồi Cao. Bọn con trai Charlie rẽ trái vô đường Filbert, trong khi đám còn lại đi về khu nhà thờ lớn. 

Benjamin cần Charlie hỗ trợ mới kéo được Hạt Đậu khỏi Chattypatra, cô nàng ngoan ngoãn đi bên cạnh Miranda, chốc chốc lại dừng bước và ai oán nhìn về hướng Hạt Đậu. 

"Vậy không công bằng," Billy nói. "Hai con chó đáng ra phải đi cùng với chúng ta." 

"Em có tính cho tụi anh biết chúng nó đang nói gì không?" Charlie hỏi. 

Billy đỏ mặt lên. "Trời, toàn tình yêu không à." 

Benjamin nhướng mày nhìn con chó của nó. "Chẳng hạn?" 

Billy hắng giọng. "Đại khái... à, em là con chó đẹp nhất anh thấy kể từ bữa sáng." 

"Bữa sáng?" Charlie thắc mắc. "Em gọi đó mà là tình yêu?" 

"Đó là thứ nó thích nhất," Benjamin đăm chiêu. "Một miếng bánh nhân thịt bò hấp còn thừa." 

Charlie không hỏi Chattypatra nói gì nữa. Nó nghĩ mình sẽ thất vọng mất. Với lại Billy sẽ ém nhẹm nhiều. Đảm bảo thằng bé ngượng nên không nhắc lại những câu yêu thương ướt át đâu. 

Rembrandt thẳng lên phòng Charlie. Nó không muốn Hạt Đậu đuổi con chuột của nó chạy lòng vòng quanh nhà. 

Ngoại Maisie đã sẵn sàng một trong những bữa trưa hoành tráng nhất của bà. "Ra là các cháu đến nhà số 13?" Bà hỏi khi đám nhóc đang ngấu nghiến món bò rô-ti. "Ông Paton đã kể cho bà nghe tất cả rồi." 

"Tụi cháu đã tìm thấy con chó và Hạt Đậu mến cô nàng ngay." Benjamin trìu mến liếc con chó đang ngồi trong góc, thậm chí không đụng tới cục xương mà ngoại Maisie đã đặt xuống trước mặt nó. 

"Nó tương tư rồi," ngoại Maisie quan sát. "Đó là tình yêu đích thực." Bất thần bà trông thấy cái ấm đen dưới sàn, cạnh chân Charlie . "Gì thế này?" 

"Nó là ... ừm, cái ấm." Charlie đáp. "Con nhận nó ở một tiệm trên đường Piminy, bà Kettle đưa." 

"Chả hiểu sao mà con muốn cái vật cũ mèm đó?" Ngoại Maisie hỏi. "Cái ấm điện của bà là tốt lắm rồi." 

"Cái ấm đó rất đặc biệt." Billy nói. 

"Ààà!" Ngoại Maisie vỡ lẽ ngay. "Ta nghĩ bà Kettle cũng là con cháu Vua Đỏ." 

"Tổ tiên bà ấy là một thợ rèn kiêm thầy pháp," Charlie bảo. "Ông ấy đã làm cái ấm này. Nó có thể... ừm, hữu ích cho con." 

"Hừừ!" Dẫu tự hào về tài phép của Charlie nhưng nhiều khi ngoại Maisie cho đó là điều bất hạnh khùng khiếp. Nó đã bao phen dẫn Charlie tới nguy hiểm, rơi vào những tình huống mà chỉ nhờ may mắn Charlie mới toàn mạng. 

Cửa trước xô đánh ầm rồi những bước chân huỳnh huỵch băng qua hành lang lát gạch bông. Charlie vội dùng chân đẩy cái ấm xa tít vô gầm bàn. Nhưng đã quá trễ. Một phút sau khi cửa mở tung, nội Bone đứng sựng đó, nhìn mọi người trừng trừng. Mắt bà ta lập tức hạ xuống chiếc ấm đen. Làm thế nào mà bà ta luôn nhìn thấy những vật mà Charlie muốn giấu thì quả là điềm bí hiểm. 

"Cái gì đó?" Bà ta chất vấn. 

"Đâu có gì,nội Bone,"Charlie làm mặt ngớ ngẩn. 

"Đừng làm bộ ngu si. Tao thấy rõ mà đâu có gì. Một cái ấm bẩn thỉu. Vứt đi. Tao không muốn chứa nó trong nhà của tao." 

Ngoại Maisie kéo một chiếc ghế ra mời. "Bà muốn ăn trưa không, Grizelda?" 

Không rời mắt khỏi cái ấm, nội Bone nói, " Ta ăn rồi, đừng cố ý làm ta phân tâm." 

Charlie bất chợt hào hứng. "Để nộp cho trường đó, nội Bone. Tụi con bị bắt phải tìm đồ vật cổ xưa cho môn lịch sử. Con thấy tự hào về mình quá." 

Mặt nội Bone hơi hơi mềm đi. Việc ở trường là một ưu tiên trong sách lược của bà ta. Tuy nhiên bà ta vẫn không bị đánh lạc hướng hoàn toàn. "Nó để nộp cho trường sao mày dám bảo là đâu có gì?" 

Charlie cứng hàm. Nó nhìn Billy và Benjamin, hy vọng sự ứng cứu. Bọn này im de trố mắt dòm lại nó, bất lực. 

Nhưng Hạt Đậu đã kịp cứu Charlie. Con chó bự này ghét nội Bone không kể xiết. Chỉ cái mùi của bà ta thôi cũng đủ làm nó phọt ra một tiếng gừ tức giận. 

"Tao đã bảo là không được mang con chó này vô đây kia mà," nội Bone hướng hỏa lực về phía Benjamin. 

"Phải, thưa bà Bone," tiếng Benjamin hầu như tịt mít. 

Ngoại Maisie không đời nào chịu để bữa trưa của mình bị gián đoạn kiểu này. "Lạy trời, Grizelda." Bà dằn mạnh chiếc ghế không. "Nếu bà không muốn ăn thì làm ơn lặng lẽ đi. Bọn trẻ này đang lạnh và đói, và ta sẽ không để bà hoãn bữa ăn nóng sốt của chúng đâu. Con chó đó chẳng làm gì hại cả." 

"Bà coi chừng đấy, Maisie Jones." Nội Bone trong cơn say kiếm chuyện. Có thể thấy rõ điều đó trong nụ cười nham hiểm trên mặt bà ta. "Nếu bà còn đối đầu với ta thì bà sẽ bị đuổi cổ. Đây là nhà của ta và bà được hạ cố cho ở nhờ mà thôi." 

Một giọng cất lên đằng sau bà ta. "Nhà của chúng ta, Grizelda." 

Nội Bone giật mình đánh thót. Bà ta đã không nghe thấy tiếng Ông cậu Paton từ đằng sau đi tới. 

"Hãy thôi nói tào lao và để chúng tôi ăn yên lành." Ông cậu Paton chộp lấy vai bá chị. 

Bà ta vùng khỏi ông, làu bàu trong cổ họng rồi lủi vội lên cầu thang. 

Ông cậu Paton bước vô bếp và ngồi vào chỗ đầu bàn. "Xin lỗi, tôi xuống trễ," ông nói như không có gì xảy ra. 

Bọn con trai phấn chấn hẳn lên, nhưng cố kìm chế, đề phòng nội Bone tìm cách trở xuống hoạch họe chúng. Benjamin bị chướng bụng. Điều đáng phàn nàn duy nhất khi đến nhà Charlie : hình ảnh gây lộn ruột của nội Bone. 

Phần còn lại của bữa ăn trôi qua rất vui vẻ. Đến lúc cắt bánh pudding nho, Charlie đã kể xong cho ông cậu nghe về chuyến thăm bà Kettle và phi vụ giải cứu Chattypatra. 

"Chúng ta hãy xem cái ấm nào," Ông cậu Paton nói khi khi miếng bánh pudding cuối cùng đã biến mất. 

Charlie lấy chiếc ấm đặt lên bàn. 

"Dơ quá," ngoại Maisie cự nự và chồng những cái đĩa không lại. 

Ông cậu Paton đeo kính vào và kéo cái ấm về phía mình. Ông nhắc nắp ấm lên. "Ừm," ông hít ngửi chất lỏng màu đen. "Chẳng có mùi gì," ông nhận xét, "nhưng rõ ràng nó rất, rất, rất xưa rồi." Ông gõ gõ thành ấm. "Sắt. Đúng. Rất lạnh." 

"Đó là vì không có nguy hiểm," Billy nói. 

"Cháu cá là nó vừa mới nóng lên," Benjamin nói, nhìn vô chỗ nội Bone đứng vừa nãy. 

"Bà ấy không nguy hiểm," Charlie nói. "Bà ấy chỉ xấu tính thôi. Nhưng có gì đó rất nguy hiểm ở nhà cô Venetia, có lẽ là..." nó ngại ngần. 

"Có lẽ là cái gì, Charlie?" Ông cậu Paton nhìn qua phía trên cặp kính nửa vầng trăng. 

"Không ạ," Charlie không biết giải thích thế nào về cái chớp mắt của bức tượng thần lùn. Rất có thể đó chẳng qua là nó tưởng tượng mà thôi. 

Ông cậu Paton bảo nó để cái ấm ở trong phòng nó. "Để chỗ khuất ấy, nếu ta là con," ông thêm. "Con không muốn làm mất nó đâu nhỉ." 

Binhg thường hẳn là Charlie đã tới quán Cà Phê Phú Kiểng vào chiều Chủ Nhật. Nhưng hôm nay không có vẻ bình thường. Nó không muốn tái đụng độ Olivia, vả lại , có tin đồn rằng Tancred và Lysander sẽ đưa bạn gái tới đó. Về mặt này mặt khác, Charlie thấy quán Cà Phê Thú Kiểng không phải là nơi thích hợp để dẫn bạn gái tới. Bầu không khí ở đó không thể gọi là lãng mạn được. 

Vì vậy bọn con trai ở lại trong bếp coi tivi, đến khi ánh sáng rời bầu trời và màn đêm sao sa phủ trùm thành phố. 

Đến lúc Benjamin ra về, Hạt Đậu vẫn đượm vẻ khao khát trong đôi mắt nâu to tròn. 

"Chắc mình phải đưa nó trở lại gặp Chattypatra mất," Benjamin nói từ bên kia đường. "Có lẽ cuối tuần sau." 

"Ừ," Charlie đáp. Nó nghĩ đến hai đứa bé con ở Ngách Tối. Nó hi vọng Chattypatra được phép ngủ chung với bọn chúng. 

Charlie nhìn Benjamin đi vô nhà nó xong rồi quay lại leo bậc cấp nhà số 9. Một chuyển động trên đường đập vào mắt nó. Có gì đó vọt ra khỏi một thân cây - vật đó thấp, không hình thù. Nó vội vàng lỉnh vô nhà và đóng sập cửa lại. 

Đó là lúc thắp nến. Ngoại Maisie tắt đèn bếp, còn Charlie tắt đèn hành lang. Nội Bone là người duy nhất trong nhà đã quên mất nề nếp này. Ai nấy tưởng bà ta phải nhớ tài phép của Ông cậu Paton chứ, chỉ tính riêng bao lần bà ta bị tắm mưa thủy tinh. 

"Em thích ánh nến lắm," Billy nói, nó mang con chuột xuống để cho ăn. "Cả Rembrandt cũng thích."' 

"Anh cũng vậy," Charlie nói. 

Quả thật, khung cảnh ấm cúng, trên bếp lò khẽ reo và nến tắm đẫm căn phòng ấm áp trong ánh sáng vỗ về. Sau đó Charlie ra kéo rèm cửa lại, thì bỗng tâm trạng an bình, thoải mái của nó bị xóa tan tức khắc, bởi vì, có hai gương mặt đang nhìn lên cửa sổ - những con mắt vàng ệch lóe lên tia sắc của laoif thú và vầng trán thấp lộ những túm lông. 

Charlie thét thất thanh. 

"Gì đó?" Ông cậu Paton lật đật ùa vô nhà bếp. 

"Là họ," Charlie run rẩy. "Cái vật chúng ta đã thấy bên ngoài Góc Kim Cương." 

Hai hình thù đội mũ trùm liền lùi khỏi cửa sổ. 

Những cặp mắt cháy chĩa về phía ông, rồi hai người lạ co giò chạy trên đường. 

"Dừng lại," Ông cậu Paton gọi. "Cho biết danh tính." 

Những người đội mũ trùm tăng tốc. 

"Này, đừng chạy!!" 

Charlie ra tới cửa vừa kịp thấy ông cậu lao xuống những bậc thang và đuổi theo hai kẻ lạ. Lúc này họ thụp cả bốn xuống mà chạy với tốc độ dữ dội. Nhưng Ông cậu Paton có đôi cẳng dài nhất thành phố. Chỉ với ba cú dướn, ông đã bắt kịp họ. 

"Bắt được rồi!" ông hét, tóm gáy một trong hai kẻ lạ. 

Charlie không rõ chuyện gì xảy ra tiếp theo, bởi vì đèn đường phía trên Ông cậu Paton bất thần nổ tung và thủy tinh xổ như làn mưa bạc xuống cả ba thân hình. 

Một tiếng tru cuồng nộ dội vang phố phường, nối tiếp là tiếng thét đau đớn của Ông cậu Paton. 

"Trời, nó cắn ta!" 

"Không phải nó, thưa ông Yewbeam," một giọng rít rú. "Chúng tôi là con người." 

"Ai..." Ông cậu Paton định nói. 

Nhưng hai sinh vật đã tan biến vào bóng tối.

Săn Sói Hoang

Ngược xuôi đường Filbert, những cửa rà vào và cửa sổ lần lượt mở ra, cái thì bạo dạn, cái thì rụt rè. Tiếng người lao xao chõ vào màn đêm. 

"Chuyện gì đó, hả?" 

"Ai vậy?" 

"Ông Yewbeam nhà số 9." 

"Ông Yewbeam, ông có sao không?" 

Ai đó hỏi, "Có phải nó là sói?" 

Trước khi Ông cậu Paton trả lời gì, Agnes Prout, hàng xóm sát vách của gia đình Yewbeam, hét tướng. "Chắc chắn là chó sói. Nó đã vô thành phố." 

Nghe vậy lập tức năm, sáu cánh cửa vội đóng ập lại. 

Nắm chặt cổ tay, Ông cậu Paton lảo đảo đi ngược về nhà. Khi Charlie chạy tới đón ông, Benjamin và mẹ nó băng ào qua đường, có Hạt Đậu vô cùng sốt sắng dẫn đầu. 

"Bồ có sao không, Charlie?" Benjamin hét. 

"Mình không sao, nhưng ông cậu mình chắc là có." 

Cô Brown kinh hãi nhìn sựng dòng máu chảy dọc xuống những ngón tay của Ông cậu Paton. "Ông Paton, chuyện gì thế ạ? Tôi có thể giúp gì? 

"Không có chi," Ông cậu Paton cộc cằn. "Bà Maisie sẽ băng bó cho tôi." 

"Nhưng người ông đầy thủy tinh." Cô Brown luống cuống nhổ những mảnh vụn trên vai Ông cậu Paton. 

"Làm ơn tránh ra, Patricia," Ông cậu Paton khẩn thiết. "Cô làm đứt tay mình bây giờ," ông bắt đầu leo lên bậc cấp nhà số 9, với Charlie đỡ cùi trỏ ông. 

Mẹ của Benjamin chưa chịu về nhà. Cô kiên quyết đứng trên vỉa hè, nhất định phải moi đến cùng sự huyền bí ở ngay mé cửa nhà mình. "Nó là sói phải không?" Cô nghiêm trang. "Mọi người đang bàn tán. Họ gọi nó là Sói Hoang. Ta có thể nghe tiếng nó tru hàng đêm. Chắc hẳn nó sống trong vùng đồng hoang bên kia sông." 

"Patricia," Ông cậu Paton khẳng định. "Không phải tôi bị sói tấn công." 

"Thế thì là cái gì..." 

"Đó là con người!" Rồi không ngoài nhìn lại, Ông cậu Paton sải bước vô nhà. 

Charlie thấy mình nên có lời. "Xin lỗi," nó quay qua Benjamin và cô Brown. "Ông cậu của cháu bị thương. Chúc ngủ ngon, Benjamin, chúc ngủ ngon, cô Brown." 

"Chúc ngủ ngon, Charlie," Benjamin lo lắng. Vẻ mặt mẹ nó quả quyết: Tôi-sẽ-tìm-bằng-được-sự-thật-của-việc-này. 

Cô Brown đĩnh đạc bước về nhà số 12, Benjamin và con chó theo sát nút. "Mẹ sẽ tìm hiểu tận cùng việc này," cô nói. 

"Gì gì thế này?" Ngoại Maisie hét lên khi Ông cậu Paton loạng choạng vô nhà bếp. 

"Ông cậu Paton bị cắn." Charlie giúp ông cậu ngồi xuống ghế. 

Ông cậu Paton xắn tay áo lên. "Bà vui lòng lấy cho tôi một chậu nước sạch và một ít thuốc sát trùng." 

"Ông có bao giờ bị chó cắn đâu!" Ngoại Maisie hớt hơ hớt hải ra bồn và hứng nước vô chậu. "Khéo ông nhiễm bệnh dại đấy, Paton." 

"Không phải chó cắn," Ông cậu Paton nói yếu ớt. "Chắc chắn không phải là chó." 

"Ơn trời," ngoại Maisie bưng chậu nước tới bên Ông cậu Paton. Cầm cổ tay ông, bà bắt đầu chậm bằng khăn sạch. 

Charlie chợn người khi nhìn những vết răng. Ngoại Maisie chậm liên tục bắt đầu có tác dụng. Khi máu sạch hết, vết thương ở cổ tay lộ rõ ra. 

"Tôi thấy giống như sói cắn," ngoại Maisie nhận xét khi quan sát cổ tay Ông cậu Paton. "Những vết này, hình như là răng năng - răng cửa không sâu thế này, chắc chắn là hai cái răng năng, ở một trong hai bên." 

"Tôi không thể giải thích được." Ông cậu Paton để cho ngoại Maisie băng cổ tay mình bằng một miếng vải voan trắng. "Sinh vật đó nói tiếng người với tôi. Chưa hết, nó còn biết tên tôi." 

"Trời, ai mà tin được!" Ngoại Maisie đứng lên và đem cái chậu trở ra bồn. 

Suốt quãng thời gian đó, Billy ngồi im thin thít, ôm chặt Rembrandt vô ngực. Trông nó vừa sợ hãi vừa hoang mang. 

"Em sao vậy, Billy?" Charlie hỏi. "Em biết những sinh vật đó à?" 

"Không hẳn," Billy nhíu mày sâu hoắm. "Em chỉ đang suy nghĩ thôi." 

"Suy nghĩ gì?" Charlie ngồi xuống sát bên nó. 

"Ừm, thật ra em đang thắc mắc." 

"Thắc mắc gì?" 

"Giọng nói - khi nó tru thì nghe như chúng ta hay nghe thấy ban đêm. Thật khó giải thích, nhưng nó sử dụng cùng một ngôn ngữ." 

"Nhưng tiếng chúng ta nghe thấy ban đêm là sói, Billy cưng à," ngoại Maisie bảo. "Người ta gọi nó là Sói Hoang." 

"Kẻ tấn công tôi hầu như là con người," Ông cậu Paton thêm. 

Billy lễ phép làm mặt bướng bỉnh. "Chúng là một," nó khăng khăng. 

Ông cậu Paton rùng mình thấy rõ. "Trường hợp đó, ta đành kết luận là chúng có họ hàng. Thật tình, ta mệt rũ đến không còn sức mà giải đáp những câu đố này nữa. Ta đi ngủ đây. Tụi nhỏ cũng đi ngủ đi, nhanh lên. Ngày mai còn đi học." Ông đứng dậy, hơi nhăn mặt khi ông nắm bàn tay trái vô lưng ghế mình đang ngồi. 

Ngoại Maisie lắng nghe tiếng Ông cậu Paton lê chân lên cầu thang. Bà lắc đầu. "Ông cậu của con không ổn đâu, Charlie, nếu con hiểu ý ta. Ta cầu cho vết cắn không có nọc độc." 

Charlie không có cơ hội chờ xem vết cắn của Ông cậu Paton có khỏi không. Sáng thứ Hai nào cũng quýnh quáng cả lên. Quần áo nhét vội vô giỏ xách, bữa sáng cập rập, sau đó Charlie và Billy ra khỏi nhà, chạy hộc tốc đến cuối đường Filbert để đón xe buýt của học viện. 

Ngoại Maisie vẫy tay tiễn chúng, hét với theo. "Ta sẽ báo cho các con nếu ông cậu trở nặng. Cẩn thận đấy, các con." 

Lũ trẻ trong học viện không được phép dùng điện thoại, radio hay tivi. Vài đứa nhớ nhà đã lén mang điện thoại di động vô, nhưng trong học viện luôn có gián điệp sẵn sàng tố giác bạn bè để lấy lòng gia đình Bloor. Điện thoại di động luôn luôn bị phát hiện và bị tịch thu, còn chủ nhân thì bị cấm túc. 

Bà bếp trưởng là mối dây liên lạc duy nhất của Charlie với thế giới bên ngoài, nhưng nó e ngại không biết nỗi sợ Lord Grimwald có ngăn bà tiết lộ tức cho nó hay không. 

Suốt cả ngày không thấy bà bếp trưởng xuất hiện trong căng-tin. Tới bữa trà, Charlie nhoài người qua quầy, khẽ hỏi một cô phụ việc nhà bếp thân thiện tên là Valerie, xem có phải bà bếp trưởng bị bệnh không. 

"Cô thấy bà ấy khỏe mà. Chắc bà ấy bận tối mũi nên không ra quầy được." 

Charlie lo lắng. "Cô cho cháu gởi... gởi lời hỏi thăm bà ấy được không?" 

"Được chứ cưng." Cô Valerie nhoẻn miệng cười. 

Bất chợt có tiếng eo éo. "Vậy ra bà bếp trưởng là bạn của anh à?" 

Charlie quay lại. Dagbert đã lẻn đến đằng sau nó từ bao giờ, nhẹ đến nỗi Charlie không biết. 

"Kh... không," Charlie ú ớ. "Chỉ là đồ ăn ngon hơn khi có bà bếp trưởng." 

Đôi mắt xanh lục của Dagbert lóe lên. "Tôi nào co buộc tôi anh gì đâu, Charlie." 

Charlie tất tưởi ra khỏi quầy. Nó không còn muốn ăn nữa. Billy theo nó ra khỏi căng-tin. 

"Có tin gì về ông cậu của anh không?" Billy hỏi. 

"Làm gì có," Charlie dấm dẳng. "Anh chưa gặp bà bếp trưởng." 

Billy lót tót đi khỏi, trông tủi thân ghê gớm. 

Khi bà bếp trưởng không xuất hiện trong bữa ăn sáng thứ Ba, ruột gan Charlie như lửa đốt. 

Fidelio chạy tới Charlie khi nó thơ thẩn trong sân chơi giờ nghỉ giải lao đầu tiên. "Trông em như có mây đen phủ xuống vai vậy." Fidelio đấm nó một cái thân tình. 

"Đâu có!" Charlie đẩy tay bạn đi. 

"Sao gắt gỏng ghê thế!" 

Charlie thấy hối hận. "Em đang lo cho ông cậu của em. Ông bị một... một vật cắn, với lại em cũng lo sốt vó vì chưa thấy bà bếp trưởng đâu, mà Dagbert thì...? 

"Charlie, khoan nào!" Fidelio chặn lại. "Bình tĩnh coi, từ từ kể anh nghe chuyện gì xảy ra." 

Fidelio là người lắng nghe cực giỏi. Charlie nhận thấy đáng lẽ ra mình phải giải bày với anh từ trước rồi mới đúng. Nó tả lại kỳ nghỉ cuối tuần của nó, bắt đầu bằng chuyến đi tới nhà bà Kettle và kết thúc khi ông cậu bị tấn công. "Người ta nhất mực bảo thứ mà tụi em nghe thấy tru ban đêm đó là Sói Hoang, nhưng Ông cậu Paton khăng khăng đó là người. Còn, cái này mới quái dị, Billy bảo giọng của chúng giống nhau." 

"Hừm..." Fidelio dừng lại giữa đường. "Giống nhau?" 

Charlie bỗng dưng xao lãng vì một cảnh tượng rất thú vị. Tancred đang sóng bước cùng một cô gái cực kỳ xinh đẹp, tóc vàng óng thả dập dềnh xuống áo chùng tím tới gần chấm eo. Làn da láng mịn, mội mọng đỏ, đôi mắt xám với hàng mi dài, cong vút. "Hê, đó là bạn... " 

"Bạn gái của Tancred," Fidelio nói nốt. "Tracy Morsell, có biệt danh Kẹo Ngọt đối với dân năm ba." 

"Thật không? Anh biết nhiều ghê." 

"Chứ sao," Fidelio thừa nhận. "Anh dỏng tai nghe ngóng trong sân chơi. Và đằng kia là Emma Tolly tội nghiệp, ôm trái tim tan vỡ." 

Theo ánh mắt của Fidelio, Charlie thấy Emma ngồi cô độc trên một khúc gỗ ở góc sân xa xa. Một chồng sách đặt trên đùi Emma và, dù ở khoảng cách xa thế này cũng có thể thấy rõ con nhỏ đang buồn rười rượi. 

"Nó...?" Charlie quay qua Fidelio. 

"Nó đặc biệt mến Tancred? Thật. Xưa nay em không để ý à?" 

"Em khờ thật," Charlie vỗ trán. "Đúng rồi, giờ anh lại nói ra. Tội nghiệp Em." 

Tiếng tù và đi săn rúc lên khắp sân, gọi bọn trẻ trở vô lớp học, và Charlie chạy tới giúp Emma nhặt đống sách rơi khỏi đùi, văng tứ tung dưới chân con nhỏ - những trang sách bay bay như những đôi cánh trắng trong gió buốt. 

Emma cười cảm kích khi nhận sách từ tay Charlie. "Mình khùng quá mới định học bài ngoài này," nó nhỏ nhẹ. "Mình có một ý nghĩ điên rồ là nếu mình làm hết bài tập về nhà thì tối nay mình sẽ không phải tới phòng Nhà Vua nữa." 

Charlie lắc đầu. "Đâu được, Em. Họ sẽ giao bài khác cho bồ làm." 

"Mình biết." 

Fidelio chờ chúng để cùng đi vô trường. Ba đứa chúng nó làm tốp cuối cùng rời sân chơi. 

Đêm đó Charlie chờ lắng nghe tiếng tru đằng xa. Đêm nay tiếng ọ ẹ và hơi thở nặng nề của bọn con trai đang ngủ quanh nó dường như lớn hơn. Sau đó nó thấy Billy cũng thức giấc. Charlie có thể nhìn thấy cái đầu trắng lòa nhòa của Billy khi nó ngồi dậy ở phía bên kia giường Dagbert. 

"Billy?" Charlie thì thầm. "Em có nghe thấy gì không?" 

"Em có nghe tiếng tru một lần," Billy nói khẽ, "nhưng rất nhỏ." 

"Nó nói gì?" 

"Em không chắc..." Billy đắng đo. "Hình như là â��cha'." 

Bỗng rồi chúng nghe thấy tiếng súng nổ từ xa, không thể lầm lẫn được. 

Rên nhẹ một tiếng, Billy chui tọt xuống tấm trải giường của nó. 

Charlie nằm xuống trở lại gối, thầm nghĩ, Mình hy vọng họ không giết chết nó. 

Tại nhà số 12 đường Filbert, Benjamin Brown vẫn còn thức tỉnh rụi. Nó ước gì có Charlie ở nhà để cùng chia sẻ hai ngày qua với mình. Quá nhiều sự việc đã xảy ra. Đầu đuôi là từ cuộc họp được triệu hồi gấp rút trong hội đồng thành phố. Cô chú Brown quyết định cho Benjamin đi dự cùng. "Sẽ tốt cho con," cô Brown nói. "Con có thể học hỏi được đôi điều." 

Benjamin bán tín bán nghi, tới hồi nó hiểu ra đề tài bàn thảo là về Sói Hoang. Và đúng là nó học được nhiều điều. Trong đó có một điều là người ta thường nói dối khi sợ hãi. 

Nỗi sợ bao trùm tòa nhà nguy nga tối hôm đó. Nỗi sợ hiện lên trong mắt mọi người; nỗi sợ được nghe thấy trong những lời nói rón rén và phập phồng. Benjamin ngồi giữa cha mẹ, ngay hàng ghế đầu. Gia đình Brown muốn quan sát từng chi tiết nhỏ nhất của những sự kiện kiểu như thế này. 

Có năm người ở trên bục. Họ ngồi đằng sau một cái bàn dài, mỗi người có một tập bìa hồ sơ và một ly nước trước mặt. Benjamin nhận ra vị chủ tọa, ông Marchwell, ủy viên hội đồng lỗi lạc, người thường hay tới thăm trường nó; nó cũng nhận ra người hàng xóm sát vách của Charlie, Agnes Prout. 

Ông Marchwell khai mạc phiên kiện cáo bằng một bài diễn văn ngắn. Ông nói với thính giả rằng tất cả họ ở đây là vì những lý do đồng nhất: trước hết, để thảo luận cách thức và phương tiện nhằm xác định "những âm thanh bất thường" (một kiểu mô tả rườm rà về tiếng tru, Benjamin nhận ra vậy) phát ra từ bên kia sông, và thứ hai, để quyết định xem sinh vật chủ thể của "những âm thanh bất thường" đó có đe dọa đến cư dân thành phố hay không. 

Tới đây, Agnes Prout thô lỗ cắt lời ông Marchwell. 

"Đe dọa hay không á? Dĩ nhiên nó đe dọa mười mươi còn gì. Nó là sói đích xác, quỷ tha ma bắt!" 

Vài người vỗ tay tán thưởng cơn giận bột phát này. Benjamin hài lòng là ba mẹ nó vẫn để nguyên tay trên đùi. 

"Chúng ta không biết chắc đó là sói, thưa bà Prout," ông Marchwell nói. 

"Chúng ta biết rõ rành rành," Agnes độp lại. "Chính mắt tôi đã thấy nó. Nó đã cắn ông hàng xóm của tôi, ông Yewbeam. Tôi đã thấy vết thương. Một dòng máu phụt ra từ cổ tay ông ấy - một dòng máu hẳn hoi." 

Cô Brown giơ tay lên. 

Ông Marchwell hơi chồm tới trước. "Cô có ý kiến, cô... è, cô...?" 

"Brown," mẹ của Benjamin đứng lên. "Trish Brown. Tôi muốn nêu bật rằng, ông Yewbeam bảo với tôi là ông ấy bị một con người cắn. Một... người cổ xưa, có lẽ vậy, nhưng chắc chắn không phải là sói." 

Benjamin tự hào về mẹ mình quá đi mất. Nó thậm chí còn tự hào hơn khi mẹ cương quyết giữ lập trường trước những lời phỉ báng, rủa xả từ Agnes Prout. 

"Nhảm nhí. Cô Brown. Phi lý! Hoặc là ông Yewbeam không còn minh mẫn, hoặc là cô điếc. Đó không phải là người. Mà là sói." 

"Nếu ông Yewbeam ở đây..." cô Brown bắt đầu. 

"Ông ta không có ở đây," Agnes cướp lời, "Thế thôi." 

Cô Brown giận đỏ phừng mặt và ngồi xuống. Chú Brown vỗ vỗ lưng cô. 

"Hay lắm, mẹ," Benjamin thì thầm. Mẹ nó cười với nó một nụ cười nhẫn nhịn. 

Benjamin ngước nhìn lên những bóng đèn sáng choang trên trần nhà. Chắc chắn ông cậu của Charlie không thể tới dự cuộc họp này được. Mọi người sẽ bị chụp vô bóng tối, với mưa thủy tinh bao phủ ngay khoảng khắc ông bước qua cửa. 

Cử toạ bắt đầu phừng phừng khí thế. Khắp phòng những cánh tay đưa lên rào rào. Người người la ó không chờ đến lượt mình. Bất lực, ông Marchwell giơ tay lên nài nỉ họ hãy tỏ ra văn minh, cho phép mọi người nghe nhau nói. 

"Tôi đã thấy nó ở đại lộ Cruckton!" 

"Có người bảo tôi nó ở đường Piminy!" 

"Nghe nói nó được trông thấy ở quảng trường Nhà Thờ Lớn!" 

"Nó bắt mèo ăn!" 

"Và cả chó nữa!" 

"Sẽ đến con nít mới sinh cho coi!" 

"Rồi trẻ con!" 

"Phải giết nó!" 

Phải hồi lâu tiếng huyên náo mới dịu bớt, nhưng ông Marchwell là người quyết đoán, và ông đã xoay xở kiểm soát được phần còn lại của buổi họp. Chỉ về cuối, sự cuồng loạn mới ngấm vô trong vài tiếng nói. 

Một phán quyết được đưa ra. Ngài thị trưởng sẽ được báo cáo về sự bức xúc mãnh liệt của cư dân về "cái vật" trong đồng hoang, theo đó một cuộc đi săn sẽ được tổ chức. Bắt buộc truy phải truy kích, phải bắt, hoặc phải giết cái được gọi là Sói Hoang. Vì ban ngày sinh vật đó im tiếng, nên cuộc đi săn sẽ bắt đầu vào lúc sẩm tối, ngay ngày hôm sau. 

Khi cuộc họp giải tán, những tốp nhỏ vẫn còn tụ tập trên vỉa hè bên ngoài tòa thị chính. Benjamin nghe thấy những giọng điệu quá khích. Bạo lực sôi sục trong không khí. Trong nó bỗng dưng nghĩ những con người điên cuồng này còn nguy hiểm hơn bất cứ loài Sói Hoang nào. 

Cô chú Brown lẳng lặng bước về nhà. Benjamin nhìn lên vẻ bất bình trên mặt họ và quyết định không hỏi han gì hết. Đúng vừa lúc leo lên bậc cấp nhà số 12, họ nghe thấy tiếng tru sầu thảm xuyên qua bầu không khí lạnh căm. 

Benjamin rùng mình. "Nó không có vẻ nguy hiểm, mà nghe như nó đang u sầu." 

"Buồn u uất," cô Brown đồng ý. "Có gì đó không ổn trong việc này." 

Năm phút sau, ngồi trong gian bếp ấm và sáng sủa, chú Brown nêu lên những giả thiết. "Thế này nhé. Chúng ta nghe thấy tiếng kêu từ đồng hoang, đúng không? Một con thú kêu, có thể nói vậy, một tiếng kêu mang ý nghĩa gì đó. Kêu cứu. Giờ ông Yewbeam nói â��cái vật' tấn công ông là con người." 

"Ông Paton Yewbeam không ngốc," cô Brown chen vào. "Ông nói nó là con người, và em hoàn toàn tin ông ấy." 

"Anh cũng tin, Trish," người chồng vội nói. "Anh tin. Cái vật mà cắn này có mang đặc điểm thú, vì vậy, có thể có mối liên hệ giữa cái vật trong đồng hoang và kẻ tấn công ông Yewbeam." 

Benjamin chăm chú lắng nghe ba mẹ thảo luận. Được thửa hưởng óc tò mò, nghi ngờ, cũng như khả năng phân tích, diễn giải và linh cảm gấp đôi cha mẹ, bản thân nó hứa hẹn sẽ trở thành một thám tử tài ba. 

"Con có một linh cảm," Benjamin nói. 

Cô chú Brown đánh giá rất cao câu nói này. 

"Linh cảm, ôi, Benjamin!" Cô Brown tỏ ra rất hài lòng. 

"Là gì vậy con? Nói đi!" Chú Brown háo hức nghiên cứu vẻ mặt con trai. 

"Ừm..." Benjamin quyết định kéo dài sự chú ý mà nó đã lôi kéo được. "Ờm, có lần Charlie đã nói với con về một anh học sinh, tên là Asa Pike, chưa hề được trông thấy ở học viện trong học kì này. Anh ta được ban phép thuật, giống như Charlie, chỉ có điều anh ta biến thành thú vào ban đêm." 

Chú Brown gật đầu thiếu kiên nhẫn. "Asa? Phải, ba mẹ biết cậu ta." 

"Ờm..." Benjamin nhấn nhá một lúc. Nét mặt lưu tâm của ba mẹ nó có vẻ rất mãn nguyện. "Điều ba mẹ không biết là Asa, một người có thời từng kề cận Manfred Bloor, ờm, Asa đã giúp Charlie tìm ra ba của nó, và con đoán là Manfred vô cùng tức giận về điều ấy, vì vậy, rất có thể hắn đã nhốt Asa ở đâu đó để trừng phạt." 

Cô chú Brown nhìn con trai với vẻ thán phục và vui mừng khôn xiết. 

"Benjamin, con nói chí phải," chú Brown hồ hởi. 

"Một khi đã nhận ra chính xác tiếng tru đó, vậy con có nghĩ ra cách nào để cứu con vật tru đó không?" Cô Brown hỏi con trai. 

Ở điểm này thì Benjamin nói dối ngây thơ: "Không", trong khi một ý tưởng đang hình thành trong đầu nó. Đằng sau nó, Hạt Đậu đang nằm ngủ sóng sượt trong ổ. Hạt Đậu có thể tìm thấy bất cứ cái gì, Benjamin suy tính. Nếu ngửi được thứ gì thuộc về Asa, thì con chó bự có thể tìm ra anh ta. Benjamin giữ ý kiến này cho riêng mình. Nó không muốn bố mẹ nó giúp. Nó muốn tìm thấy Asa một mình, hay có lẽ cùng với Charlie. 

"Chúng ta phải nhanh chóng làm gì đó ngay," chú Brown nói, "không thì đội săn sẽ giết thằng bé đáng thương đó trước khi họ nhận ra nó là ai. Để anh sẽ đi gặp ngài thị trưởng." 

"Ông ấy không tin anh đâu," cô Brown rầu rĩ. "Ông ấy vốn không quan tâm đến những việc xảy ra ở học viện Bloor. Ông ấy biết về những đứa trẻ được ban phép thuật, dĩ nhiên, nhưng ông ấy không thích thừa nhận điều đó." 

"Để con sẽ suy tính thêm," Benjamin nói. 

Tìm được một thứ thuộc về Asa không dễ như Benjamin tưởng. Nó phát hiện ra rằng chưa từng ai thấy cha mẹ của Asa bao giờ. Không ai biết họ sống ở đâu. Hình như họ không có họ hàng thân thích. Bất cứ thứ gì Asa từng mặc hay từng sờ vào đều nằm sâu trong học viện Bloor, một nơi mà những người như Benjamin không thể nào vô được. Chắc chắn gia đình Bloor sẽ không sốt sắng tham gia cứu Asa. Anh ta đã đổi phe. Họ có thể coi anh ta là kẻ chiêu hồi, một kẻ phản bội. 

Đến lúc Benjamin đi học về ngày hôm sau, đội săn đã sẵn sàng. Hóa ra cả nửa thành phố đi theo dõi. Bốn mười người đàn ông tráng kiện tập hợp trên cây cầu dẫn tới vùng đồng hoang. Chỉ huy là cảnh sát trưởng Constable và cảnh sát viên Wood, một tay súng cừ khôi. Dưới trướng của họ là một đội quân tạp nham, trông quyết chiến trong trang phục hổ lốn - áo khoát có mũ, áo liền quần, áo gió, áo mưa. Đầu họ đội nón len, mũ trùm đầu, mũ nồi và thậm chí cả nón cao bồi. Vài người đi ủng không thấm nước, hoặc giày thể thao nhưng phần lớn đi giày bốt da vững chãi. Một nửa quân số mang súng săn, còn lại cầm đèn nháy và dùi cui. 

Tiếng hò reo vang dậy khi bốn mươi hai người đàn ông rầm rập qua cầu và quẹo phải, đi vô con đường mòn cặp dòng sông. Đi chừng vài mét, con đường mất hút vô những bụi cây thấp rậm rạp - cửa ngõ vùng đồng hoang. 

Đứng trên một lối mòn bên hông dòng sông thành phố, cha của Benjamin theo dõi toàn bộ chiến dịch. Chú ấy trở về nhà trong tâm trạng trĩu nặng, lo âu. 

"Không xong rồi," chú nói với vợ và con trai khi cả nhà ăn trứng bác và rau bina. "Sẽ xảy ra thảm họa mất thôi, hãy nhớ lời ba nói. Với súng ống thế kia, thể nào cũng có người bị giết trong vùng đồng hoang mà chưa chắc đã là cậu bé người sói." 

Benjamin bất giác nghĩ đến Naren, bạn của Charlie. Cô bé sống với cha mẹ nuôi trong căn nhà nhỏ sâu trong vùng đồng hoang. Nơi đó là một bí mật, thơ mộng, là nơi bảo tồn, nương náu của thú bị lạc và bị thương. Liệu nó còn là bí mật khi cả toán người vũ trang súng, dùi cui và đuốc hùng hổ, dẫm đạp cây cối xông đến? 

Ước gì mình có thể bàn tính với Charlie, Benjamin nghĩ. 

Charlie ngủ thiếp đi. Nó choàng tỉnh thì thấy ai đó đang lay vai mình. 

"Charlie, có cái gì ở trên tường đằng sau anh. Chữ." Đó là giọng của Dagbert. 

Charlie ngồi dậy, dụi mắt. 

"Nhìn kìa! Đằng sau anh," Dagbert thúc giục. 

Charlie nhìn quanh. Bức tường phía trên giường nó hiện ra chữ "Tạm biệt". Lọt trong một mảng ánh trăng, những mẫu tự run rẩy, lọng cọng như không chắc mình đã xếp đúng chưa. 

"Naren!" Charlie nói, quên cả thì thầm. "Em đi đâu?" 

Không có thông điệp trả lời. Bức tường vẫn trống không. Mảng ánh trăng biến mất và căn phòng trở lại bóng tối mịt mùng như thường lệ. 

"Cái gì vậy?" Dagbert hỏi.

Cây cầu bất trắc

Chiều thứ Sáu, Billy Raven bỗng đổi ý. Thằng bé bảo với Charlie là nó sẽ không nghỉ cuối tuần ở nhà Charlie nữa. 

"Anh tưởng em muốn giúp tụi anh tìm Asa," Charlie nói. 

Billy chậm rãi tháo dây giày bộ của nó. Chúng đang ngồi trong phòng để áo khoác xanh da trời. Charlie cởi đôi giày đá bóng của nó. Cuối cùng Billy nói: 

"Ở trong vùng đồng hoang. Tất cả muông thú. Không phải là em không thích thú vật, em thích chứ, nhưng chúng nó kêu ghê quá - bao nhiêu thú dồn vô một nơi như đồng hoang, mỗi loài nói bằng một ngôn ngữ khác nhau, nghe bum, bum, chát, chát trong tai em. Em thích ở lại đây với bà bếp trưởng hơn. 

Bọn trẻ sàng tới lui trước mặt chúng, đứa nhảy qua giày, đứa bò lồm cồm dưới băng ghế, đứa tìm quần cộc, áo sơ mi bị thất lạc. Charlie cúi sát xuống Billy. "Em còn để Rembrandt ở nhà anh. Ngoại Maisie sẽ bấn lên cho coi." 

Billy cởi giày ra và ngồi nhìn trao tráo vào chúng. "Có lẽ bà Maisie sẽ mang nó tới đây và để nó lại chỗ bà bếp trưởng." 

Charlie nhún vai. "Để anh hỏi bà xem sao. Ừm, anh đi xếp giỏ đồ xách đây, gặp lại em thứ Hai nha." 

"Chúc may mắn," Billy đáp. 

Charlie đã loay xoay giấu xong mớ đồ của Asa dưới đáy giỏ. Về đến nhà nó lôi chiếc áo khoác với cái nón cũ ra và tống vô tủ quần áo của mình. Benkamin rung chuông đúng lúc nó xuống lầu dùng bữa trà. 

"Hai con định làm gì thế?" Ngoại Maisie hỏi khi hai thằng bước vô bếp. "Trông mặt các con ghi rõ những âm mưu với chuyện thám hiểm kìa." 

â��Vậy ạ?" Benjamin lóng ngóng sờ lên cằm. 

"Nhìn các con là ta biết ngay, cả Hạt Đậu nữa." Ngoại Maisie bắt đầu lục lọi tủ lạnh tìm cục xương đầy thịt mà bà đã để dành cho con chó. 

Charlie không chắc mình nên tiết lộ bao nhiêu cho ngoại Maisie biết. Nó không muốn làm bà lo lắng. "Bọn con có một kế hoạch nho nhỏ cho ngày mai," nó nói bâng quơ. "Chơi trốn tìm với Hạt Đậu." 

"Thế à!" Ngoại Maisie thảy cục xương cho Hạt Đậu. 

Họ ngồi xuống dùng bữa trà. Ông cậu Paton thường không xuống giờ này, cho nên Charlie không quá nôn nao. Nó có thể nói chuyện riêng với ông cậu sau. Nó muốn lời khuyên của ông về dự tính chúng sắp thực hiện. 

"À quên, ông cậu của con đi rồi," ngoại Maisie bảo, bày ra bánh lúa mạch mới ra lò. 

"Đi?" Charlie buột miệng kêu. "Bà nói đi là đi đâu?" 

"Việc gì sốt vó lên thế, Charlie. Ông ấy ra biển như thường lệ ấy mà." 

"Để thăm ông cố?" Charlie hỏi. 

"Đúng vậy. Không được hé một lời với bà Bone đấy, nhớ không. Chúng ta không muốn mụ mà tới đó và quậy tung cả lên."

"Dạ," Charlie lầm bầm. Charlie liếc Benjamin, rõ ràng thằng này cũng đang nghĩ như nó. Mặc dù không mong đợi Ông cậu Paton sẽ đi cùng vô vùng đồng hoang, nhưng chắc chắn chúng cũng an lòng phần nào nếu ông biết về cuộc phiêu lưu và sẵn sàng ra tay giải cứu nếu có gì bất trắc. 

Benjamin đã bồn chồn lắm rồi. Nó lưỡng lự không biết có nên nói cho ba mẹ mình biết mình đi đâu không. Charlie cười trấn an nó. "Fidelio sẽ đi với tụi mình, lại cả Olivia nữa." 

"Ủa?" Benjamin không biết nên mừng rỡ hay bực bội. Olivia quá lòe loẹt so với gu thẩm mỹ của nó. 

"Ta thấy coi bộ nghiêm trọng hơn trò trốn tìm rồi đấy," ngoại Maisie nghi ngờ. "Ta hi vọng các con không làm điều gì dại dột." 

"Không có tí dại dột nào đâu, bà Jones ạ," Benjamin nghiêm trang. 

Một giây sau chuông điện thọai reng. Trước khi ngoại Maisie nhấc máy Charlie đã có cảm giác thắc thỏm là rắc rối thứ hai sắp nổi lên. 

"Điện thoại của con này, Charlie," ngoại Maisie gọi. 

Chân Charlie lết bết vô hành lang. 

"Tươi lên coi, Fidelio, bạn con gọi mà," ngoại Maisie trao ống nghe cho Charlie. 

"Chào, Charlie, tin xấu đây," giọng Fidelio phấn chấn. 

Charlie thở dài. "Gì đây? Đừng nói là này mai anh không thể đi à nha." 

"Xin lỗi, Charlie, anh quên khuấy mất. Anh đã hứa với ba anh về buổi hòa nhạc này rồi. Nó thuộc tua lưu diễn mùa hè. Rất, rất quan trọng. Nó có thể tạo bước ngoặt cho sự nghiệp tương lai của anh..." 

"Ừ, ừ," Charlie ủ rũ. "Được rồi, thần đồng, tụi em sẽ phải đi mà không có anh." 

"Thế cuối tuần tới thì sao?" Fidelio đề nghị. 

"Quá trễ. Asa khôgn chừng đã bị thương. Chúng ta phải tìm thấy anh ấy vào ngày mai." 

"Hoặc đã chết." 

"KHÔNG!" Charlie phản đối. "Em không tin anh ấy chết rồi. Chúc buổi hòa nhạc thành công nha, Fido!" Nó đặt ống nghe xuống. 

Ngoại Maisie nhìn Charlie với vẻ lo thắt ruột khi nó quay lại bàn. "Cái gì mà chết chóc vậy?" Bà hỏi. 

Charlie quyết đinh cho bà biết một phần nhỏ sự thật. "Tụi con đang nói về Sói Hoang. Fidelio nghĩ có thể nó chết rồi. Tụi con đã nghe tiếng súng đêm qua." 

"Đó là tiếng súng săn," ngoại Maisie nói, "Nhưng theo như ta được biết thì họ không giết được con gì cả. Đừng bận tâm, ta chưa nghe thấy tiếng tru hai đêm nay rồi." 

Charlie và Benjamin nhìn nhau. 

Vào sáng thứ Bảy Charlie thức dậy vì một tiếng gõ nhẹ trên ô kính ở cửa phòng nó. Trời vãn tối om om, thoạt đầu nó tưởng là tuyết đập vô cửa sổ. Đến khi nhìn ra thì thấy Benjamin và Hạt Đậu đứng bên dưới cột đèn đường. 

Charlie mặc đồ ấm nhất của mình vào. Trước khi rời phòng, nó đẩy cái ấm đen vô sâu hơn trong ggaafm giường. Cái ấm nóng lên khó chạm vô - dù không đủ nóng để làm nó bị phỏng, nhưng chắc chắn là nóng hơn nhiệt độ phòng. Nếu đây là lời cảnh cáo, Charlie nghĩ, thì giờ mình cũng chẳng thể làm gì được với nó. Charlie đảo mắt khắp phòng tìm con bướm trắng, chiếc gậy phép của nó biến thành - kẻ canh gác căn phòng cho nó. Cuối cùng, Charlie cũng thấy nó trên thanh ray treo rèm, đôi cánh chấm bạc dựng thẳng đứng như cánh buồm. 

"Chúc tớ may mắn đi," Charlie nói. 

Con bướm xòe cánh và đậu xuống vai nó. 

"Bồ được chào đón đi với tụi tớ," Charlie nói. "Rất vui mừng." 

Đến lúc nó mở cửa ra, Benjamin đã có Olivia nhập bọn. Con nhỏ diện áo khoác thủy thủ bằng len thô, giày bốt da nặng chịch và khăn quàng sọc quấn mấy vòng quanh cổ. 

"Sẵn sàng cho bất cứ việc gì!" Olivia hát kíu lo khi nó xông vô hành lang. 

"SSUỴTT!" cả Charlie lẫn Benjamin đều nhắc nó. 

Charlie hất ánh mắt lo lắng lên lầu, đinh ninh là cả hai bà nội, ngoại sẽ ùa ra khỏi phòng họ, nhưng may thay, chắc họ vẫn còn đang ngủ say. 

Olivia giơ lên một chiếc ba lô vạt bải đỏ chói, thì thào: "Đồ ăn đủ cho cả tuần ở đây nè. Tớ đã tấn công tủ lạnh nhà tớ trước khi đi. Tớ bảo với mẹ tớ là tớ qua chơi nhà Emma một ngày, điều đó cũng đúng một phần, Dù gì mẹ tớ phải làm việc và tới đêm Chủ Nhật mới về nhà." 

Charlie quyết định tự mang đồ ăn lấy. Olivia thường ăn những thức ăn lạ lùng, mang những cái tên khó phát âm. Nhón chân đi vô bếp, nó quay ra với một gói bánh bích quy và xúc xích nguội. Nó nhét tất cả vô ba lô của nó, dằn lên trên áo khoác và mũ của Asa. "Đi thôi," nó nói. 

Khi chúng rời khỏi nhà, một hàng ánh sáng xanh lét bắt đầu hiện ra phía trên đồi xa, nhưng khi chúng gần tới dòng sông, ánh sáng nhòa dần và cả bọn bị quăng tòm vô màn trời xám mờ. 

Có hai cây cầu bắc ngang qua sông - một cây cầu sắt cổ xưa, nhỏ hẹp mà hội đồng thành phố đã khuyến cáo là không an toàn để sử dụng, còn cây kia được xây bằng đá vững chãi, rộng, an toàn tuyệt đối. Chrrlie đã dùng cây cầu sắt để đi thăm Naren, nhưng hôm nay nó chọn cây cầu đá. Không việc gì phải làm khó sứ mạng giải cứu của cả bọn. 

Hạt Đậu dường như cũng biết có nhiệm vụ đang chờ mình. Nó chạy đằng trước, im ru gà rù, không một tiếng sủa nào vuột ra khỏi miệng. Chỉ có cái đuôi ngúc ngoắc cật lực là biểu lộ sự kích động của nó. 

Vừa băng qua khỏi cầu, ba đứa trẻ vô con đường mòn mà chỉ vài ngày trước đội đi săn đã hành quân vô cánh đồng hoang. Olivia lôi cậy đèn pin to sụ ra khỏi ba lô của nó. Luồng ánh sáng mạnh từ cây đèn giúp chúng thấy dường qua những bụi cây viền thấp quanh khu rừng. Một khi xa khỏi mé ngoài để vô sâu trong rừng, những bụi mâm xôi và cỏ thô nhám quang dần đi. Chúng thậm chí còn tìm thấy mottj lối mòn hẹp. 

Giờ đã đến lúc tung Hạt Đậu vào hành động. Charlie lôi đống áo choàng với nón từ trong ba lô ra và chìa về phía chú chó. Hạt Đậu hít ngửi. Chợt nó tru lên một tiếng và lùi phắt lại. Thú vật luôn sợ Asa - một sinh vật là người ban ngày, là thú lúc trời tối khiến chúng luôn lo lắng và hoang mang. Bản năng mách bảo chúng phải tránh xa loại này. 

"Tìm đi, Hạt Đậu," Benjamin dỗ dành. "Đi mà. Tụi tao cần mày giúp đó." Nó giật đống đồ từ tay Charlie và đặt xuống đất, vỗ vỗ. "Hạt Đậu, tìm đi." 

Hạt Đậu thận trọng sán lại gần mớ đồ. Nó hít ngửi - cái áo khoác trước rồi đến cái nón. Nó lại tru rống lên, và rồi, bất thần, phóng đi khỏi, chạy dọc theo lối mòn hẹp, thỉnh thoảng lại phóng khỏi lối mòn mà sục sạo trong cỏ, rồi lại chạy tiếp. 

"Nó bắt được mùi rồi," Benjamin la lớn, đuổi theo chú chó của mình. 

"Chắc chắn nó đã tìm thấy gì đó," Olivia tán đồng, chạy theo Benjamin. 

Charlie hốt mũ áo lên và chạy theo cả bọn. Nó ngạc nhiên sao Olivia có thể chạy nhanh thế, cả Benjamin cũng nhanh không kém. Ánh sáng từ cây đèn pin của Olivia lia loạn xạ, chỗ nào cũng soi tới, ngoại trừ mặt đất, thành thử Charlie thấy mình chệch choạc khỏi lối mòn, đâm sầm vô cây cối và lảo đảo vấp dây dây leo. 

Có một tiếng thét ở đằng trước, rồi lại một tiếng nữa. Quá trễ, Charlie tông ầm vô Olivia, trong khi con nhỏ va ình vào Benjamin. 

"Tớ lạc nó rồi," Benjamin nói. 

Một tràng sủa đằng xa thúc cả bọn lại lao tới trước. Mãi cuối cùng, một tia sáng le lói bắt đầu thấm qua cành cây. Tiếng sủa đổi hướng. Cả bọn dừng lại, nghe ngóng. Lúc chỗ này, lúc chỗ kia, lập tức Hạt Đậu ở khắp mọi nơi. Chúng rời khỏi lối mòn và luồn sâu vô rừng cây, để rồi chỉ bị kéo giật lại vì một tiếng sủa nữa. 

"Nó trêu ghẹo tụi mình," Olivia than phiền. "Nó không thể ngửi gì hết. Nó chỉ đùa chơi thôi." 

"Có thể," Benjamin nói. 

Vài phút trôi qua. Tiếng sủa ngưng. Chúng chờ và cứ chờ. Không có gì. Benoamin gọi con chó của mình, nhưng không có tiếng sủa đáp lại. 

"Ăn chút gì đi," Olivia nói, chuyền cho Charlie một thanh sô-cô-la. 

"Tớ không nuốt nổi," Benjamin nói. "Chắc Hạt Đậu gặp nguy rồi chứ không thì nó đã quay trở về. Nó luôn luôn trở về khi tớ gọi mà." 

Khi ánh sáng mùa đông bắt đầu rạng khắp vùng đồng hoang, một luồng gió buốt thốc lên, tiếng âm u, lắc rắc của cành trụi lá nhấn chìm một tiếng tru ở rất xa. 

Da đầu của Charkie rợn lên. "Đó là cái ... vật hay Hạt Đậu?" 

"Không chắc," Benjamin đáp. 

"Dù là gì tụi mình nên tìm hiểu nó thì hơn," Olivia nói. "Gì thì gì, đó là lí do tụi mình ở đây kia mà?" Dẫn đầu, con nhỏ sấp ngửa qua lối mòn, trong khi bọn con trai cắm cổ đuổi theo. 

Charlie không chắc lối mòn sẽ kết thúc ở đâu, khi nào, nhưng nó dần nhận ra đã lạc mất đường rồi và giờ chúng đang đi theo Olivia trên lộ trình mà tất cả phụ thuộc vô con nhỏ. 

"Mình chả biết Olivia có biết cậu ấy đi đâu không?" Charlie nói với Benjamin. 

"Biết chứ,' Olivia đáp lại. "Thính giác của tớ đạt một trăm phần trăm và tớ biết tiếng tru vọng tới từ hướng này." 

Lúc này chúng đã ở nơi rậm rạp dễ sợ của vùng đồng hoang. Cây cối sin sít đến độ mặt trời thấp chỉ lọt được vài tia sáng li ti xuống mặt nền phủ rêu. 

Olivia dừng lại và bọn con trai đuồi kịp con nhỏ. "Tớ đang chờ một tiếng tru nữa," con nhỏ nói. 

Tức thì một tiếng tru nữa vang lên. Nghe đục nghẹt, thê thiết, càng lúc càng gần, cho tới khi Hạt Đậu bất thình lình bắn ra khỏi bụi rậm và lao bổ tới bên chúng. Lông nó dính bết hạt cỏ,tai dạy ngược ra phía sau và mặt dớn dác kinh sợ. 

"Gì vậy, Hạt Đậu?" Benoamon ôm chặt cứng cổ con chó. "Mày đã tìm thấy gì?" 

Hạt Đậu gừ một tiếng giận dữ, rền vang. Nhất định không muốn trở lại nơi nó vừa xồ ra. 

"Chắc nó đã thấy gì đó rồi?" Olivia hỏi. 

"Đã tìm thấy gì đó, tớ nghĩ vậy," Charlie nói. 

"Chỉ cho tụi tao đi, Hạt Đậu." Benjamin cố chui qua mảng bụi rậm trước mặt. 

Hạt Đậu cúi gằm đầu, gừ tiếp. Chợt nó nhảy chồm chồm vòng quanh bọn trẻ, làm như cố ngăn không cho bọn chúng thấy cái thứ mà nó vừa tìm thấy. 

"Được rồi, Hạt Đậu, tụi tao phải tìm ra nó mà!" Charlie hẩy đầu con chó bự đi rồi lội ùm vô đám cành thấp, cho tới khi nó và bọn kia đứng trong một mảng trống nhỏ, có nắng mặt trời. Một đụn lá khô vồng lên ở chính giữa; một ụ đất tựa như nấm mồ. Một bó hoa giọt tuyết cắm ở một đầu ụ đất. 

Ở đầu kia trảng trống, một khối hình ngồi thụp giữa đám rễ cây gồ ghề. Nhanh như chớp, cái hình hài đó quay mặt lại bọn chúng. Không nghi ngờ gì về cái chết mũi hoang dã và mảng trán thấp lông lá. Đó là một trong những sinh vật đã cắn Ông cậu Paton. 

Bọn trẻ hồn xiêu phách tán. Chúng chắc mẩm sẽ thấy Asa, hoặc chí ít là thấy con thú anh ta biến thành. 

"Người ... người là ai?" Charlie tiến sát một bước nữa tới sinh vật nọ. 

Nó gừ Charlie, rồi khóc thút thít. 

Olivia chụp cánh tay Charlie. "Đừng lại gần nó." 

"Không sao, Liv." Charlie gạt tay con nhỏ đi. "Coi kìa, nó ... à, bà ấy (bản năng cho nó biết đó là một phụ nữ)... sẽ không làm hại tụi mình đâu. Bà ấy đang buồn thảm. Có lẽ bà ấy vừa mới chôn ai đó xong." 

"Asa?" Benjamin thì thào. 

Charlie bước lại gần người phụ nữ và ngồi xổm xuống trước mặt bà. "Bà có biết Asa Pike không?" Nó hỏi nhẹ nhàng. 

Từ từ, bà ta quay đầu về phía nó. Nhìn sát trông bà không đến nỗi đáng sợ. Có vẻ hiền lành trong đôi mắt vàng, và một lúm đồng tiền trên gò má tái xám của bà. 

"Tôi là mẹ Asa." Giọng bà yếu ớt và khản đặc. 

"Đó là ..." Charlie ngoái nhìn lại nấm mồ. 

"Cha của Asa." Đôi mắt vàng của người phụ nữ trào đẫm lệ. 

"Người ta đã giết ông ấy?" Charlie hỏi. 

Người phụ nữ e ngại ngước nhìn lên khi Benjamin và Olivia nhích tới gần hơn. Không tiện đứng cao phía trên bà, bọn chúng ngồi quỳ gối xuống đằng sau Charlie. 

"Cháu là Charlie Bone?" Người phụ nữ thở hắt ra não ruột. "Do cháu mà ..." bà nhìn nấm mồ và đôi mắt lại đầm đìa. 

"Cháu rất tiếc nếu cháu đã làm gì khiến bác gặp tai họa," Charlie nói. 

Bà lại thở dài. "Ờ, ờ. Nhưng cháu không thể làm khác được, phải không?" 

Olivia bò lại gần hơn. "Asa chưa chết ạ?" 

Người phụ nữ lắc đầu. "Tôi không biết. Bọn họ đã bắt nó, đã nhốt nó. Nó bị cầm tù trong một cái hang, không thể thay đổi hình dạng từ thú thành người, vì nơi đó tối tăm, vậy đấy. Chúng tôi mang đồ ăn cho nó và bảo nó đừng tru, nhưng nó không thể kìm nổi. 

"Và sau đó đội đi săn tới," Benjamin nói. 

"Và rồi đội đi săn tới," giọng bà thều thào đén nỗi chúng không nghe được. 

Charlie e dè nói tiếp, "Vậy là đội đi săn đã giết chồng bác?" 

Người phụ nữ bắt đầu run bần bật. Giọng bà líu ríu như chim, nức nở, bàn tay những ngón dài, xù lông che lấy mặt. "Họ đã giết ông ấy. Giết rồi. Ông ấy cố đánh lạc hướng họ ra khỏi con trai mình. Một phát súng nổ vang, ông ấy ngã xuống. Tôi đã kéo ông ấy vô bụi rậm, lấy cành, lá phủ lên để họ không tìm thấy ông ấy. Nhưng cái gã bắn ông ấy đã tận mắt thấy ông ấy ngã xuống, thấy mặt đất loang máu nơi ông chồng tội nghiệp của tôi gục ngã. Hắn nghĩ ông ấy lết đi chỗ khác rồi chết, cho nên họ đã bỏ đi rồi." 

"Vậy là họ không tìm thấy Asa," Olivia nói. 

"Đúng thế. Nhưng khi tôi tới, định báo với con trai là cha nó đã ... chết," bà nhắm mắt và gương mặt nhăn nhúm lại, "thì Asa đã đâu mất. Hang của nó trống trơn, cánh cửa chấn song để mở khóa. Bọn họ đã chuyển nó tới nơi sâu hơn trong lòng đất, tôi biết thế, để tiếng tru của nó không còn bị nghe thấy nữa." 

"Bọn họ là ai, bác Pike?" Olivia hỏi. "Phải bác là bà Pike không ạ?" 

Người phụ nữ lộ vẻ ngạc nhiên. "Đúng, đó là tên tôi." 

"Gia đình Bloor bắt Asa phải không ạ? Charlie hỏi. 

"Đúng, bọn chúng." bà hằn học. 

Bọn trẻ nhìn nhau. Chúng nó đi giải cứu Asa, nhưng hóa ra lại tìm thấy mẹ anh ta, người xem ra cần được giúp đỡ không kém gì Asa. 

"Cháu nghĩ tụi cháu nên đưa bác tới nơi ... đến nới an toàn nào đó, bác Pike ạ," Charlie nói, "Để đề phòng đội đi săn trở lại. Nhà của bác ở đâu?" 

"Xa, rất xa." Bà Pike bỗng khật khà khật khưỡng. "Không thể trở về, khi mà con trai của tôi ở đây, bị nhốt đâu đó." 

Olivia đứng lên. "Bác Pike ạ, bác không thể ở trong vung đồng hoang được. Bác sẽ bị gió thổi chết mất. Và như Charlie nói, rất có thể đội đi săn sẽ trở lại." Giờ đã biết tên người phụ nữ, Olivia nói như thể bà là một người bạn. 

Bà Pike trả lời bằng một nụ cười thiểu não. "Tôi không thể bước nổi. Tôi bị ngã khi chuyển chồng tôi. Mắt cá chân của tôi bị trẹo rất nặng." 

"Càng lúc càng tệ hơn," Benjamin lầm bầm. 

Hạt Đậu tru lên thống thiết. Nó vẫn ở đầu kia trảng trống, không hiểu chuyện gì mà nhốn nháo vậy. 

Charlie mải miết suy nghĩ. Chỉ có một nơi duy nhất chúng có thể đưa bà Pike tới: quán Cà Phê Thú Kiểng. 

"Cháu biết người sẽ chăm sóc bác," Charlie nói. "Tên ông ấy là Onimous. Giờ cháu sẽ đỡ bác dậy. Olivia, qua bên kia giúp bác Pike." 

Bà Pike không phản đối khi bọn chúng xốc bà đứng dậy trên cái chân lành lặn, nhưng bà rên thảm thiết khi chúng kéo bà ra xa khỏi nấm mồ. 

Chúng quyết định không trở về lối cây cầu đá. Giờ này lối đi đó nhộn nhịp người qua lại. Chúng buộc phải dùng cây cầu sắt nguy hiểm. Không ai trong chúng nặng lắm, nếu cẩn thận thì có thể băng qua an toàn. Quán Cà Phê Thú Kiểng không xa cầu, và nếu may mắn chúng sẽ tới nơi trước khi ai đó nhận ra con người kỳ quái cà nhắc giữa chúng. 

Chúng tìm lại được lối mòn, và chẳng bao lâu sau, khi rừng cây bắt đầu thưa đi, chúng thấy có hai hàng cột rào gỗ xù xì ở đằng trước. Charlie biết cả bọn đã tới ngôi nhà của ông Bartholomew Bloor. Khu bảo tồn thú hoang. 

Dìu bà Pike, chúng lết vô mảnh sân từng có lần đầy ắp thú. Giờ đây vắng tanh vắng ngắt. 

"Đây là đâu?" Olivia hỏi. 

"Bạn tớ, Naren, sống ở đây," Charlie nói. "Cha bạn ấy không giống như những người nhà Bloor khác. Ông ấy ghét hị. Ông ấy cảm thấy an toàn khi sống tách biệt thành phố, nhưng vẫn gần lâu đài của Vua Đỏ. Ông muốn giữ bí mật nơi này. Chắc ông đã cùng gia đình rời đi ngay sau khi nghe tiếng đội đi săn tiến vô vùng đồng hoang." 

"Tôi biết họ," bà Pike nói khàn khàn. "Họ rất tốt với chúng tôi. Tới xem đi, cậu bé. Coi chừng họ đã đi thật chưa." Bà giãy khỏi Charlie và dựa vô thanh hàng rào trên cùng. 

Charlie chạy tới ngôi nhà và nhìn qua cửa sổ. Cái bàn còn đó, cả hai chiếc ghế, nhưng mọn thứ khác đều biến mất: Tranh ảnh treo trên tường, bóng đèn, ấm đun nước, nồi niêu xoong chảo, bộ tách sứ và đồ lưu niệm mà ông Bartholomew đã sưu tầm trong những chuyến chu du đây đó của mình. Tất cả đều không còn. 

"Không còn ai ở đó," Charlie nói, bước trở lại nhóm người. 

Bà Pike lại rền rĩ. "Ôi, không, không. Rồi họ sẽ ra sao? Đây là nơi rất tốt, họ rất tử tế." 

Bất giác Charlie hiểu ra tại sao bà Pike lại quan tâm đến ông Bartholomew và gia đình ông đến thế. "Bà đã sông ở đây phải không?" nó nói. 

Bà Pike gật đầu. "Ở trong nhà kho, một thời gian." Từ sâu trong cuống họng bà bật ra một âm thanh kỳ cục, đầu bà bổ tới trước và bà bắt đầu tuột luốt xuống đất. 

Olivia chụp lấy bà, vừa kịp lúc. "Bác ấy xỉu rồi. Ai đỡ tay bác ấy mau. Sẽ không dễ đâu." 

Đúng là không dễ. Làm sao có thể nhấc và kéo bà Pike đi tới tận cầu, Charlie không bao giờ biết. Người phụ nữ tội nghiệp hơi tỉnh lại, lết đi được một chút, sau đó xuội lơ trong cánh tay chungd như một xác chết. Cuối cùng khi chúng tới cây cầu, Charlie đau nhừ toàn thân, và nó thấy bọn bạn cũng nhừ tử hệt như mình. Thế nhưng nỗi khó khăn của chúng xem ra mới chỉ bắt đầu. 

"Không an toàn," Olivia tuyên bố, nhìn trân trối vô thanh sắt mỏng manh khuất lấp trong sương mù. 

"Được mà, Liv. Mình đã đi qua nhiều lần rồi," Charlie nói. "Benjamin cũng thế ... cả Hạt Đậu luôn." 

"Mấy người điên rồi," Olivia kêu lên. 

"Đó là cách duy nhất," Benjamin chỉ ra. 

"Thế còn bác ấy thì sao?" Olivia nhìn bà Pike tựa oằn trên vai Charlie. 

Làm như để trả lời con nhỏ, một màn sương giá cuộn về phía chúng, là đà trên sông. Giờ thì chúng không thể thấy gì đằng trước hơn một mét. Olivia huơ huơ cây đèn pin chặn màn sươngddang xồ tới. Chẳng xuyên thủng nó được tí naog. "Vô phương," con nhỏ van vỉ. 

"Tụi mình phải mò đường mà đi," Charlie hăng hái nói. Rốt cuộc cần phải có người lạc quan chứ. "Đi đi. Benjamin, bồ đi trước, một tau vịn lan can, tay kia nắm đuôi áo mình để dẫn đường cho mình. Mình sẽ đi giật lùi và kéo bác Pike, còn Olivia đi cuối cùng để canh chừng bác Pike không ngã lộn qua bên ..." 

"Và kéo cả đám tụi mình theo luôn," Olivia nói thẳng thừng. 

Không đứa nào nghĩ ra kế hoạch nào hay hơn, thế là chúng bắt đầu đoạn đường cam gobanwg qua sông. Chúng chỉ nhích được vài mét thì Benjamin thét thất thanh. "Tay vịn mất rồi ... tớ không thấy ... không thể thấy gì hết. Sương quá dày và ... và ... có gì đó không biết." 

Charlie chộp lấy đoạn thanh vịn cuối cùng trước khi mắt xích bị gãy. Tiếng gầm rú xộc đầy tai nó, và nó kinh hoàng khi thấy nước dội lên chân mình. Không thể thế này được, nó nghĩ. Dòng sông ít nhất phải mười mét bên dưới cầu. Làm sao nó dâng lên tới tận đây được. Nó sực nghĩ tới trò dìm chết người của Dagbert. 

Tiếng í ới chập chờn của Olivia vọng tới Charlie. "Chân tớ ướt sũng rồi nè. Sông này có thủy triều lên xuống không đó? Đằng ấy nghĩ, đây là thời điểm đặc biệt trong năm mà nước dâng cao hay không?" 

Charlie thì phân vân liệu đây có phải là thời điểm để nói dối. Nó biết con sông này không có thủy triều, nhưng nó cần phải giữ vững tinh thần của cả bọn. "Có thể," nó ậm ừ. "Tụi mình phải bò thôi. Vậy an toàn hơn." 

"Nhưng như vậy sẽ ướt hết. Có khi chết duối," Benjamin rú rít. "Tớ không biết miếng tay vịn tiếp theo ở đâu, hoặc nếu có thì... Ối ... Ố!" 

Một quầng sáng bất ngờ tỏa rực khu vực xung quanh chúng. 

"Con bướm của cậu đó," Benjamin thét. "Coi kìa, Charlie! Trên đầu cậu í." 

Charlie ngước lên. Đúng thật, dập dờn không trung phía trên nó là con bướm trắng, dôi cánh bạc phóng ra những luồng sáng rực rỡ. 

"Cảm ơn!" Charlie nín thờ. "Mình chẳng biết làm sao nếu không có bồ, Clearwen!" 

"Tớ thấy tay vịn rồi," Benjamin hét. "Ờ. Nắm được rồi. Đi nào, Charlie." 

Đến giờ, tất cả ba đứa đang bò bằng đầu gối. Vậy là tốt. Charlie cảm thấy mình bay về phía dòng nước. Một tay nó túm chặt bà Pike, còn tay kia, nó bấu chặt cạnh của cây cầu. 

Sợ đông cứng người lại, Benjamin không thể nhích thêm bước nào. "Tụi mình chết đuối mất thôi," nó thét gào. 

"Đúng vậy nếu tụi mình không đi tiếp!" Olivia thét lên. 

Đằng sau con nhỏ, Charlie nhận ra hình thù đen đen của Hạt Đậu, đang bò chậm rãi bằng bụng về phía chúng. Cây cầu bất thần nghiêng dữ dội. Cả đám thét rùm trời khi bị trôi tuột luốt trên cầu, quýnh quíu bám vô bất kì cái gì chộp được. Có tiếng tru hãi hùng, khi Charlie nhìn qua thân hình sóng sượt của bà Pike, nó thấy Olivia, một cánh tay quặp chặt vô thành cầu, tay kia vòng ôm chặt chân bà Pike. Bên kia con nhỏ, cây cầu trống trơn. 

"Phải Hạt Đậu tru không?" Benjamin thét. "Nó có sao không?" 

"Đi đi, Ben," Charlie gầm gừ. 

"Không thể. Mình rớt mất." 

Cả lũ sẽ rớt, Charlie nghĩ, rồi tất cả bọn sẽ rồi đời.Nó mường tượng Hạt Đậu đang vùng vẫy chống lại dòng nước hung dữ. Chú chàng sẽ chẳng cầm cự được lâu. 

Từ từ, cây cầu chao trở lại, tới khi thẳng về như cũ. Cả bọn chờ một cú giật nữa. Không xảy ra. Bỗng nhiên, thanh sắt bên dưới chúng trở nên chắc chắn và vững chãi. Khi Charlie đứng lên, nó cảm tưởng chân mình bám vô cầu như có lực từ. Tuy vậy nó có thể di chuyển khá an toàn. 

"Bồ có cảm thấy gì không?" Nó gọ Benjamin. 

"Có. Có. Giờ mình thấy an toàn rồi," Benjamin đáp. "Đã có thể thấy bờ bên kia, chỗ con bướm của bồ đang bay." 

"Oa!" Olivia đứng hơi dạng hai chân ra. "Kỳ diệu chưa. Nhìn này, chân bác Pike không còn lết dưới cầu nữa." 

"Tụi mình đi đi!" Charlie ngần ngại, rầu rĩ liếc nhìn khoảng trống trên cầu đằng sau Olivia. Nó thấy chếnh chaongd vì thương tiếc. Bây giờ cả bọn có cơ hội lớn để sống sót, nhưng Benjamin sẽ phản ứng thế nào khi nó phát hiện Hạt Đậu đã rơi xuống sông? 

Vùng đồng hoang vẫn chìm lỉm trong sương giá dày đặc, nhưng màn sương đang lùi khỏi mặt nước, và Charlie có thể thấy đầu kia cây cầu, nó nheo mắt lại, ráng dõi ra xa. Liệu có tin được những gì nó đang nhìn thấy kia không? 

"Đằng ấy nhìn gì thế, Charlie?" Olivia hỏi. 

"Có ai ở đầu cầu đằng kia," Charlie khẽ nói. 

"Đâu?" Olivia quay lại. "Ố, oa!" 

"Chẳng phải tớ nhìn lầm chứ?" 

"Không, Charlie," Olivia sợ sệt. "Tớ cũng thấy ông ấy." 

Hình ảnh đó rất mờ. Hầu như nhòa trong màn trời xám xịt, ngoài tấm áo đỏ chói, không nghi ngờ gì, hoặc chiếc mũ giáp viền bạc với chỏm mũ đỏ rực. 

"Một hiệp sĩ," Charlie lầm bầm. 

Benjamin ngoái nhìn lại. Nó quá trễ để nhìn thấy hiệp sĩ, bởi vì ngài đã biến vô màn sương. Tất cả Benjamin thấy là cây cầu trống lỗng. 

"Hạt Đậu đâu? NÔ RƠI RỒI!" Benjamin gào lên. Nó lao trên cây cầu, nhảy phóc tới mặt đất khô ráo và chạy dọc theo bờ sông, cạnh dòng nước xoáy trào.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#123