bỏng hóa chất

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Bỏng hóa chất

Bỏng hóa chất

            Tổn thương do các hoá chất gây ra  khi tác dụng trên da và niêm mạc phụ thuộc vào:

            - Đặc tính hoá học và vật lý của hoá chất.             

            - Nồng độ hoá chất.            

            - Thời gian tác dụng.                 

            - Đặc điểm vùng cơ thể bị.                

            - Cách thức và thời gian được cứu chữa kỳ đầu.              

            Trong thời bình, tỷ lệ bỏng hoá chất chiếm khoảng 5-6% trong các loại bỏng. Trong quân đội và trong chiến tranh còn bị bỏng  do các nhiên kiệu lỏng của tên lửa và các hoá chất quân sự gây loét rộp da. Một số hoá chất khi tác dụng trên da và niêm mạc còn ngấm theo đường mạch máu vào cơ thể và có thể dẫn tới tử vong. 

            Các hoá chất gây tổn thương bỏng gồm:

            - Dung dịch các axit mạnh.      

            - Muối một số kim loại nặng.           

            - Dung dịch các chất bazơ mạnh.        

I. BỎNG AXIT:         

Thường gặp bỏng do 2 nhóm chính: axit kim loại và axit hữu cơ.  

A. Cơ chế gây bỏng:           

            Khi axit tiếp xúc với da sẽ làm ngưng kết protein của  mô và hút nước của tế bào, hoá hợp với protein thành protein axit. Nồng độ axit càng đậm đặc và thời gian tiếp xúc kéo dài thì hiện tượng ngưng kết càng nhanh và mạnh, bỏng càng sâu.

B. Đặc điểm lâm sàng:       

1. Đau rát, nóng khi bị. Trạng thái đau xuất hiện muộn. Nếu là các dung dịch axit loãng, đau kéo dài vài ngày.        

2. Tổn thương bỏng thường xuất hiện dưới hình thể các vết mầu khác nhau tuỳ loại axit.         

- Bỏng axit H2SO4 mầu xám rồi thành mầu nâu.       

- Bỏng HNO3 lúc đầu mầu vàng rồi chuyển thành mầu sẫm.   

- Bỏng HCL mầu vàng nâu.                  

- Bỏng axit Tricloroaxetic: mầu trắng.

- Bỏng axit Flohydric: mầu đỏ với hoại tử ở trung tâm.

- Bỏng axit Phenic: mầu xanh sẫm hoặc mầu vàng đỏ

3. Tổn thương bỏng axit có hình giọt nước chảy hoặc vết mực rơi hoặc thành một đám hoại tử khô. Vết bỏng lúc đầu không có viền viêm đỏ bao quanh, nhưng từ ngày thứ 12 trở đi xuất hiện viêm xung huyết phù nề bao quanh.   

            4. Bỏng nông do axit: ngày thứ 4-10 lớp hoại tử của thượng bì sẽ bong, lộ một nền biểu mô non hoặc mô hạt có các đảo biểu mô. Da non hoặc sẹo bỏng mầu hồng hoặc thẫm màu hơn da lành. Bỏng trung bì thường dễ lành sẹo lồi.                 

            5. Bỏng sâu do axit: Khi khám thấy vết bỏng lõm xuống so với vùng da lành xung quanh. Vết bỏng mất cảm giác hoàn toàn, phù nề phất triển mạnh và kéo dài.        

            Hoại tử bỏng rụng từ ngày thứ 18-30 trở đi. Mô hạt hình thành.       

            6. Một số axit gây độc cho cơ thể như axit focmic, axit cromic, axit muriatic, axit sunfuric.               

C. Cách sử trí và điều trị:                 

Phải được tiến hành ngay sau khi bị bỏng:     

            - Nếu axit dính vào quần áo và giầy dép nhanh chóng cởi bỏ quần áo vào giầy dép.                

            - Dùng nhiều nước lạnh dội lên vùng bỏng hoặc ngâm vùng bỏng vào nước để hoà loãng nồng độ axit vơí thời gian trên 10-15 phút và nếu bị bỏng do axit hydroflohydric thì ngâm rửa nước lạnh phải dài thời hạn hơn, sau đó dùng thuốc để trung hoà.           

            - Trung hoà axit bằng dung dịch Natri bicacbonat 10-20%, nước xà phòng, nước vôi nhì 5% có thể dùng bột phấn viết, xà phòng đánh răng, bột hydroxyt magie rắc hoặc xoa trên tổn thương  bỏng.                

Đối với một số loại axit: sau khi dùng dung dịch kiềm:

            - Axit hydroflohydric: dùng bột Sulphat magie rắc vào vết bỏng và tiêm canxi glueonat vào vết bỏng và tiêm canxi glueonat vào dưới vết bỏng.                

            - Axit cacbolic: dùng dầu thảo mộc, glycerin, rượu cồn.         

            - Axit phenic, phenol: dùng dầu thảo mộc băng lại.             

Nếu bệnh nhân uống phải axit thì xúc miệng bằng Natricacbonat 5% sau đó cho uống nước lòng trắng trứng gà, số lượng tuỳ theo lượng axit uống vào nhiều hay ít. Không nên uống Natricacbonat 5% có thể gây chướng khí  làm giãn dạ dày cấp hoặc có thể thủng dạ dày và ống tiêu hoá.           

             Cũng không nên đặt thông vào dạ dày để rửa vì có thể làm thủng dạ dày.

II. BỎNG BAZƠ:                

A. Cơ chế gây bỏng:          

1.Làm tan rã protein các mô và kết hợp với các protein đã bị lỏng ra thành proteinat kiềm.              

            2. Tạo ra một quá trình xà phòng hoá với các chất béo của một tế bào cơ thể.         

            - Vôi sống (CaO) khi gặp nước (H2O) tạo thành vôi tôi Ca(OH)2 quá trình phản ứng nhiệt (nhiệt độ tới 150oc) và vôi tôi là một bazơ mạnh (pH: 13,1).          

            - Amonihydroxit (NH4OH: khi hít thở nhiều khí amoniac (NH3) sẽ hội chứng phù nề thanh khí quản và dẫn tới phù phổi cấp.             

B. ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG:                       

a. Hình thái tổn thương hay gặp:               

1. Nốt phồng trên nền da xung huyết, phù nề.               

2. Hoại tử ướt màu xám.                  

3. Bỏng nông và bỏng sâu xen kẽ.                      

4. Đau nhức kéo dài, biến chứng nhiễm khuẩn, viêm mủ thường gặp nhiễm khuẩn mủ xanh.                    

b. Triệu chứng toàn thân:             

            1. Ngay sau khi bỏng phải rửa hoặc ngâm vào nước sạch để hoà loãng nồng độ bazơ.                  

            2. Sau khi dùng nước rửa, sử dụng các dung dịch axit như axit axetic 6%, dung dịch amoniclorua (NH4Cl) 5%, axit boric. Nếu không có dung dịch trên dùng nước dấm, nước chanh, nước đường 20%.                  

            Bỏng do vôi tôi: sau khi dùng dung dịch axit boric 3% để rửa  phải dùng dung dịch amoniclorua 10% rửa sạch các vết vôi tôi còn sót lại. Sau đó băng bằng axit boric 3%.                  

            3. Điều trị toàn thân. Cần điều trị dự phòng sốc, lợi niệu, kháng sinh liều cao, truyền máu dịch thể.              

III. MỘT SỐ LOẠI BỎNG KHÁC:             

            Bỏng do nhựa đường nóng: Dùng hỗn hợp dầu thảo mộc (3 phần) và dầu hoả (1 phần) để lau rửa sạch nhựa đường nóng lỏng dính vào da. Lau vùng mặt, cổ, ngực để người bị bỏng dễ thở rồi lau tiếp các vùng khác.

BỎNG ĐIỆN

I.Đại cương 

            Khi luồng điện dẫn truyền vào cơ thể sẽ gây các tổn thương bệnh lý toàn thân hoặc tại chỗ.

Cần phân biệt 2 loại tổn thương:  

            - Do tia lửa hồ quang điện

            - Do luồng điện dẫn truyền vào cơ thể.

Bỏng do tia lửa điện: có nhiệt độ rất cao từ 3200 - 48000C, thời gian tác dụng rất ngắn 0,2 - 1,5 giây; 80% nhiệt năng bức xạ ánh sáng của tia lửa điện là chùm tia hồng ngoại thường gây nên bỏng nông, bỏng các phần hở của cơ thể và bỏng phía cơ thể hướng về phía tia lửa điện. Nếu điện thế cao trên 1000 von có thể gây bỏng trung bì và bỏng sâu.

            Tổn thương do luồng điện dẫn truyền vào cơ thể bao gồm: tổn thương tại chỗ (bỏng) và tổn thương toàn thân (ngừng hô hấp, ngừng tim, sốc điện). Sét đánh cũng là một hiện tượng bỏng điện có hiệu thế cao hàng triệu von.

II. Cơ chế bỏng điện

            Tính chất nặng của bỏng do luồng điện phụ thuộc vào các yếu tố:

            1. Kiểu dòng điện: một chiều hoặc xoay chiều.      

            2. Hiệu thế dòng điện: cao thế hoặc hiệu thế thấp.

            3. Điện trở của mô cơ thể.

            4. Cường độ dòng điện khi truyền qua cơ thể.

            5. Thời gian dòng điện truyền qua cơ thể.

            6. Đường truyền qua cơ thể.

            Luồng điện có hiệu thế cao là từ 1000 von đến 50.000 von

            Luồng điện khi dẫn truyền qua cơ thể sẽ theo con đường nào ít điện trở nhất. Luồng điện đi qua tim, não thường gây nguy hiểm đến tính mạng người bị bỏng.

            Khi luồng điện qua cơ thể gặp các phần có điện trở lớn (da, xương) thì điện năng sẽ biến thành nhiệt năng theo định luật Joule - Lentz.

                                     Q calo = 0,24 I2RT

III. Tổn thương bệnh lý chung

A. Toàn thân 

            Điện lực càng lớn thì kích thích càng mạnh hệ thần kinh trung ương và các trung khu điều chỉnh tuần hoàn hô hấp, hệ thần kinh thực vật gây hiện tượng ức chế mạnh và rối loạn cấp các chức phận sống của cơ thể, biểu hiện bằng các rối loạn bệnh lý cấp sau đây:

                        Có 4 mức độ:

            Nhẹ: cơ bị co cứng lại, tri giác còn nguyên vẹn

Vừa: các cơ co cứng mạnh, nếu ở trên cao, người bị nạn có thể bị giật bắn người ra, rơi xuống và mất tri giác.

            Nặng: mất tri giác, rối loạn hoạt động tim (rung thất) rối loạn hô hấp (ngừng hô hấp).

            Rất nặng: chết lâm sàng. Luồng điện có hiệu thế thấp thường gây tử vong do rung thất ngừng tim. Luồng điện có hiệu thế cao gây tử vong do ngừng hô hấp.

            Nếu được cứu chữa kịp thời và tổn thương toàn thân không quá nặng người bị sẽ thoát khỏi tình trạng trên và bước vào các thời kỳ của bệnh bỏng với các đặc điểm sau đây:

            - Sốc bỏng: thường có suy thận cấp, nước tiểu có hemoglobin (huyết sắc tố) và myoglobin (sắc tố cơ).

            - Nhiễm độc nhiễm khuẩn nặng. Thiếu máu do chảy máu thứ phát. Loét cấp đường tiêu hoá. Suy mòn bỏng phát triển nhanh.

- Rối loạn cảm giác, vận động, bệnh lý tâm thần sau khi khỏi bỏng.

B. Tổn thương tại chỗ:

1.Bỏng điện thường sâu, tổn thương tại chỗ biểu hiện ở điểm vào và ra của luồng điện, vị trí thường gặp là bàn tay, bàn chân. ở trẻ em có thể bỏng miệng, môi, lưỡi do ngậm vào cực điện. Điện trở càng cao, cường độ của luồng điện càng lớn và thời gian tác dụng càng lâu thì tổn thương tại chỗ càng sâu rộng.

            2. Tổn thương là các đám da hoại tử hình tròn hoặc bầu dục màu vàng đục hoặc xám đen, than hoá. Giới hạn tổn thương không dễ dàng, trong những ngày đầu khó chẩn đoán chính xác độ sâu của .bỏng

            3. Nếu bỏng sâu thường các lớp cân, cơ, gân cũng bị hoại tử. Đối với các vùng thành ngực, thành bụng khi hoại tử rụng có thể làm lộ hở hốc phế mạc. Đối với vùng xương sọ, xương trán có thể thấy hoại tử xương và thủng dẫn tới chứng viêm màng não. Đối với các chi thể thường có các tổn thương mạch máu gây chảy máu thứ phát, tổn thương thần kinh gây liệt. Có khi toàn bộ chi bị tổn thương (hoại tử, than hoá) đòi hỏi phải cắt cụt chi sớm.

            4. Trong bỏng điện thường xuất hiện hoại tử thứ phát các mô phát sinh do sự nghẽn các mạch máu, do các cục huyết khối hình thành trong lòng các mạch, do tổn thương thành mạch. Những ngày đầu có thể thấy vết bỏng có giới hạn nhất định, nhưng trong thời gian sau vùng đó như bị thiếu máu, cơ, gân bị hoại tử thứ phát.

            5. Do các đặc điểm trên nền bỏng điện thường có các biến chứng tại chỗ và khi khỏi thường để lại các di chứng gây tàn phế.

IV. Dự phòng và điều trị.

A. Dự phòng:

            Chấp hành đúng qui chế an toàn sử dụng điện, bảo vệ tốt những nguồn điện không để hở mạch và đưa các công tắc điện lên cao tránh trẻ em nghịch phải. Có đủ cầu chì bảo hiểm đúng qui cách để tự cắt điện khi xảy ra sự cố. Không để trẻ nhỏ nghịch các dụng cụ điện.

B. Điều trị:

            Cần phải tìm mọi cách để cắt nguồn điện và cứu người bị ra khỏi nguồn điện bằng cách cắt ngay cầu dao, tháo bỏ cầu chì. Đối với người bị  dùng que gỗ khô gỡ dây điện ra và  kéo người bị nạn ra ngoài vùng nguy hiểm (kéo tóc, quần áo). Sau đó phải làm ngay hô hấp nhân tạo bóp tim ngoài lồng ngực, thổi ngạt ngay tại nơi bị. Tránh mất thời gian mang bệnh nhân đi mà không cấp cứu ngay tại chỗ. Nếu có điều kiện tiêm thuốc trợ tim kích thích hô hấp. Khi tự thở và tim đập trở lại lúc đó mới đặt vấn đề băng bỏng, giảm đau và chuyển người bệnh đến cơ sở điều trị gần nhất. Cần chú ý chữa suy thận cấp, theo dõi nước tiểu về số lượng, màu sắc, pH, tỷ trọng 2-3 giờ một lần đồng thời xét nghiệm về tế bào cặn lắng, huyết sắc tố, phong bế nôvôcain dung dịch 0,25% hai bên quanh thận, cho thuốc lợi tiểu thẩm thấu Manitol, huyết thanh kiềm, dung dịch nôvôcain 0,13%, dung dịch có trọng lượng phân tử nhỏ.

            Chống nhiễm khuẩn: băng sạch vết thương, phong bế Novocain vào gốc chi, biến hoại tử ướt thành hoại tử khô. Tiêm kháng sinh dưới hoại tử, kháng sinh toàn thân, cắt bỏ sớm hoại tử. Sử trí các tổn thương sâu. Nếu toàn chi thể bị hoại tử phải cắt cụt kịp thời. Chú ý cầm máu tốt trong phẫu thuật. Khi hoại tử ở các vùng có mạch máu lớn phải đề phòng chảy máu thứ phát nếu có đứt mạch phải  kịp thời cầm máu rồi  thắt buộc mạch vùng lành trên nơi bị tổn thương.

            Khi xương sọ  bị tổn thương, cần khoan nhiều lỗ qua lớp xương chết tới phần lành tạo cho tổ chức hạt mọc cần ghép da kịp thời các vùng đã cắt bỏ hoại tử hoặc các vùng có tổ chức hạt. Cần theo dõi phát hiện và điều trị các biến chứng, viêm màng não, áp xe não dưới vùng hoại tử.

            Khi bỏng điện gây tổn thương các xương cần lấy bỏ các lớp xương chết đến vùng xương có rỉ máu và chờ mọc mô hạt sẽ ghép da.

            Các di chứng tại chỗ của bỏng điện đòi hỏi các phẫu thuật tạo hình phục hồi hình thể hoặc chức năng sau khi người bệnh đã khỏi bỏng.

THUỐC NAM ĐIỀU TRỊ BỎNG

I. Mở đầu:          

Đã từ lâu trong dân gian Việt Nam và nhiều nước đã dùng các loại thuốc sử dụng cây con để điều trị các bệnh nói chung và vết thương bỏng nói riêng. Là nguồn dược liệu sẵn có, chế biến đơn giản, điều trị có hiệu quả.       

            Ngày nay việc kết hợp y học cổ truyền và  y học hiện đại là việc làm đúng đắn có ý nghĩa. Đem lại hiệu quả kinh tế cao, cứu chữa được nhiều bệnh nhân.         

            Có rất nhiều thuốc chữa bỏng sử dụng cây và con, điều trị toàn thân và tại chỗ. Nhưng để có được kết quả về khoa học và thực tiễn phải trải qua nhiều giai đoạn:

- Phát hiện (trong dân gian)            

- Kiểm tra về dược học, độc học, vi sinh.              

- Thử nghiệm trên động vật              

- Kiểm tra về cận lâm sàng               

- Nghiên cứu ứng dụng lâm sàng diện hẹp              

- Đánh giá kết quả lâm sàng ở một nơi thực hiện, ở một số bệnh viện có khả năng.              

- Tổng hợp.              

- Sản xuất, đóng gói, phát hành.                 

            Trong dân gian đã có nhiều cách điều trị bỏng nhưng có những cách điều trị không đúng cho toàn thân và taị chỗ như: Bôi mực tàu, thuốc đánh răng, ngâm bùn, ngâm vào nồi nước giải, bôi mắm, bôi tương...                       

            Vì vậy cần phải nắm được một số thuốc nam để điều trị khi có bệnh nhân bỏng.              

II. CÁC LOẠI THUỐC ĐÃ ĐƯỢC DÙNG:                  

1. Các bước tiến hành khi sử dụng:   

            

  1.1. Sơ cứu bỏng:              

            - Làm ngay khi bị bỏng                  

            - Phải loại trừ tác nhân, ngâm lạnh ngay trong nước sạch 30 phút để giảm nhiệt độ, giảm đau, giảm nề, băng ép vừa.            

  1.2. Điều trị thực thụ:           

            - Xác định diện tích, độ sâu bỏng.           

            - Điều trị toàn thân: Nếu có sốc hoặc đe doạ sốc phải truyền dịch hoặc uống dịch thể sớm (Oresol), giảm đau.             

            - Điều trị tại chỗ: xử trí bỏng kỳ đầu cơ ban: nhanh, sạch, lấy bỏ các dị vật, các phần da hoại tử đã bong.                     

            - Sau đó đưa thuốc điều trị tại chỗ.               

2. Nhóm thuốc tạo màng:

  2.1. Nguyên lý:               

            Các thuốc tạo màng có nồng độ Tanin cao (khoảng 30%). Tanin làm kết tủa Protein tiết ra từ vết thương tạo thành màng, dính vào vết thương bỏng tạo thành màng, dính vào vết thương bỏng. Khi khỏi sẽ từ bong màng.           

  2.2. Chỉ định:                   

            Dùng trong bỏng nông độ II, III, vùng bỏng chưa bị nhiễm trùng (thời gian 1-2 ngày đầu) diện tích dùng dưới 20% diện tích cơ thể.             

  2.3. Chống chỉ định:                  

            Bỏng sâu, bỏng ở mặt cổ, tầng sinh môn, các ngón tay, ngón chân, không bôi kín chu vi chi (để chống garo tự nhiên do màng thuốc).              

  2.4. Cách sử dụng thuốc:                    

            Phun, rắc, bôi lên trên mặt vết bỏng một lớp mỏng (0,5-1mm). Bệnh nhân sẽ bị sót 10-15 phút rồi sẽ hết. Sau khi dùng thuốc khoảng 7 giờ sẽ tự khô hoặc dùng sức nhiệt để sấy (bóng điện, máy sấy tóc). Tiết kiệm băng gạc.                  

2.5. Một số loại thuốc tạo màng:       

            * B76 - chế biến từ cây xoan trà, dạng bột hoặc keo. Thành phần có: Tanin 32%, gôm nhựa 14%, Flavon 5,4%, dầu béo, Quinon - sử dụng trên vết bỏng, trên đường khâu vết mổ vô trùng.                    

            * Kháo nhớt, kháo nhậm, hu đay, săng lẻ, cao lá sim, cao sến (cao sến ngoài tác dụng tạo màng còn dùng tẩm vào gạc băng kín, để chống nhiễm trùng).            

            * Chitosan: Chế xuất từ vỏ tôm.       

3. Nhóm thuốc làm rụng hoại tử bỏng sâu:          

            Việc loại trừ sớm hoại tử bỏng  là việc cần thiết để chống nhiễm độc, nhiễm trùng, ghép da sớm. Có nhiều biện pháp:              

- Bằng phẫu thuật cắt bỏ hoại tử sớm.           

- Dùng hoá chất axit Salicilic 40%      

- Men Trypsin, Chymotrypsin        

- Thực vật: Dùng Papain (mủ đu đủ), Bromelain (nõn dứa)               

Các loại thực vật làm rụng họai tử chậm hơn hoá chất.         

Thời gian sử dụng: Tuần thứ 2 sau bỏng (8-10 ngày). Diện tích dùng một lần dưới 10% diện tích cơ thể  (vì còn có điều kiện ghép da).             

4. Nhóm thuốc kháng hoặc ức chế vi khuẩn:          

            * Berberin (từ cây vàng đắng) dạng viên để uống. Dạng dung dịch 1% để băng. Đã từ lâu Berberin được sử dụng rộng rãi, không phải mua  Furacilin của nước ngoài.             

            * Nước sắc lá móng, lá sòi, dung sạn, mã đề, lân tơuyn, tinh dầu chàm...      

            * Hiện đang sử dụng nhiều cao lá sến (Madhuxin), dạng cao và dầu. Đã kết hợp với một số cây khác (lân tơuyn, phá cố chỉ, lá diếp cá, bạch hào xà, lá dâu, hoa hoè) có tên là Selafin.                 

5. Nhóm thuốc tái tạo vết thương:            

Thuốc này kích thích tổ chức hạt phát triển, kích thích biểu mô.Sử dụng muộn.

* Dampomat: thuốc của sư cụ Đàm Lương, thành phần có hồng đơn, mật đà tăng, sáp ong, dầu luyn... thường sử dụng trong những vết loét nhỏ, không cần ghép da, thay băng tự liền.                   

* Ngoài ra còn dùng: Dầu gan cá thu, mỡ rau má, kem nghệ (kem nghệ ngoài việc kích thích liền da còn có tác dụng làm giảm bớt thay đổi màu sắc của sẹo. Ngoài ra còn có tác dụng tốt trong viêm bàng quang...)         

* Mật ong, mỡ trăn, ca trứng gà cũng được sử dụng trong những vết loét lâu liền, bỏng sâu, diện hẹp, làm tăng cường dinh dưỡng tại chỗ. Là môi trường ưu trương chống phù nề, giảm mức độ nhiễm khuẩn.                 

6. Nhóm tác dụng lợi tiểu:                    

Có thể dùng trong thời kỳ nhiễm độc, nhiễm khuẩn: Hay dùng              

- Nước sắc râu ngô            

- Lá rau ngót tươi giã lấy nước để uống.                      

7. Nhóm thuốc chống sẹo lồi:                              

Hiện nay còn vướng mắc về cơ chế và điều trị sẹo lồi. Nhưng để có tác dụng bổ sung trong các biện pháp chống sẹo lồi thì dùng:              

            Rau má tươi, khô, sắc lấy nước uống hàng ngày, còn có chế phẩm viên Ramasol.                   

8. Nhóm có tác dụng che phủ tạm thời vết bỏng:                    

* Da ếch, da lợn (dị loại)             

Sử dụng dạng tươi hoặc bảo quản đông khô, tiệt trùng bằng tia gama tác dụng là một màng sinh học để:                  

- Hạn chế thoát huyết tương            

- Hạn chế vi khuẩn xâm nhập             

- Giảm đau                      

- Kích thích biểu mô và kích thích tổ chức hạt                    

Có thể dùng đơn thuần hoặc kết hợp khi ghép da tự thân kiểu Mowlem jackson hoặc ghép da mắt lưới kiểu Sandwich.          

I. SỬ DỤNG THUỐC NAM CHỮA BỎNG: 

- Trên thế giới: 

+ DavidClegbern (1858) đề xuất phương pháp dùng Tanin để làm đông dịch tiết ở vết bỏng, kết tủa Protein tạo thành một màng thuốc che phủ vết bỏng. 

+ Bettman, A.G (1935) dùng dung dịch axit Tanic 5% và dung dịch Nitrat bạc 10% bôi lên vết bỏng. 

+ Có tác giả dùng bột Alumin rắc lên vết bỏng nông, dùng Azosuluamid + Tiritricene, hoặc các chất tạo màng bằng Polyrethan, Polyretrafluoroethylen, Polyvinyl, Polyvinyllcool, các chất tạo keo đơn phân tử bôi lên vết bỏng nông. 

- Ở Việt Nam: y học cổ truyền đã phân loại bỏng do nước sôi, bỏng do lửa, có nêu trạng thái ngạt thở do khói đen. Các vị danh y Tụê Tĩnh và Hải Thượng Lãn Ông đã nêu nhiều vị thuốc và bài thuốc chữa bỏng. Trong nhân dân cũng lưu truyền nhiều bài thuốc chữa bỏng tốt. 

Trong y lý y học cổ truyền có nêu phải làm mát cái nóng đã nhập vào cơ thể và chống độc, giải độc cơ thể, bồi bổ tâm dịch, chống thoát nước, điều hoà khí huyết, bồi bổ âm dương, bồi dưỡng cơ thể, khôi phục tinh thần. 

- Tuệ Tĩnh đã khuyên dùng nước tiểu của trẻ khoẻ mạnh để uống khi bị bỏng và dùng lá củ cải giã nát lấy nước uống để chữa ngạt thở do hít thở khói. 

- Trong cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, tại các vùng giải phóng, khu căn cứ và tại chiến trường đã sử dụng nhiều thuốc chữa vết bỏng có nguồn gốc tự nhiên từ các kinh nghiệm dân gian. 

- Trong nhiều năm gần đây chúng ta đã thừa kế nghiên cứu ứng dụng được một số thuốc nam chữa bỏng. 

II. CÁC NHÓM THUỐC ĐIỀU TRỊ TẠI CHỖ VẾT THƯƠNG BỎNG: 

A. Các thuốc làm se khô và tạo màng thuốc che phủ vết thương bỏng mới: 

Cao đặc xoan trà: thuốc bỏng chế từ vỏ cây xoan trà (chrospondias axillarisHill - Roxd họ Anacardiacea) (ký hiệu B76); cao đặc xoan trà có tỷ trọng d: 1,22 - 1,24; độ nhớt n = 5,36 poises; pH: 7,0; cặn khô: 50%; chứa các thanh phần: Tanin 32,1%; gôm nhựa:14%; Flavon: 5,4%; dầu béo: 1,37%; quinon: 0,5%. Cao đặc được chuyển sang dưới dạng bột thuốc khô màu nâu mịn, tan nhanh trong nước nóng. 

Tác dụng: Sau khi rắc, phun thuốc, lớp thuốc này kết hợp với các dịch huyết tương và thành phần mô liên kết trung bì, gắn chặt và bám vào vết thương bỏng mới tạo thành một màng thuốc che phủ vết thương bỏng. Màng khô nhưng không nứt nẻ và không cản trở các động tác của người bị bỏng.

- Thuốc có tác dụng làm giảm thoát huyết tương ra ngoài vết bỏng và giảm bội nhiễm trên vết bỏng. 

- Đây là phương pháp hở không cần băng, tiết kiệm thuốc và bông, băng, gạc, giảm đau đớn cho bệnh nhân, không còn mùi hôi. 

- Thời gian khỏi của bỏng nông giảm ngắn được từ 2 - 5 ngày. màng thuốc sẽ tự rụng hoặc được cắt bỏ khi bỏng nông đã khỏi. 

Chỉ Định: Cao đặc xoan trà (thuốc bỏng B76) được dùng bôi, rắc, phun, trên các vết thương bỏng nông sau khi đã được sử lý vô khuẩn kỳ đầu theo các qui tắc đã nêu chung (rửa sạch, cắt bỏ vòm các nốt phỏng, rửa vô khuẩn, thấm khô). 

Chống chỉ định: Vết bỏng sâu, vết bỏng đã nhiễm trùng.

Vết bỏng ở vùng mặt, tầng sinh môn, bỏng vùng khớp vận động, bỏng ở bàn ngón tay, bàn ngón chân, bỏng ở đầu mặt cổ. 

Không bôi kín chu vi chi thể để tránh hiện tượng chèn ép kiểu garo

Thuốc bỏng chế từ các cây khác có tác dụng tương tự như:

Lá sim (Rhodomyrius, tometasa, Wight), Kháo nhậm (Machilus odoretissimanees laurace), kháo vàng (Machlus bonii H. Lee - laurace), Hu đay 

(Trema augustifola B.I, Ulmaceae), Săng lẻ (Lagerstroemia, tomentosa, lythraceae), Sú (Aegiceras cornin culatum Gacrin, Myrsinnaceae), Nâu (Dioscorera eirrhosa eirrhsa lour, Dioscoreaceae), Sòi (Sapium sibyferum L.Euphorbiaceae), Sến (Madhuca pasqiueri - Dubard - H, Sapoteceae)

B. Nhóm thuốc làm rụng nhanh các hoại tử ở vết bỏng: 

1.Mã đề: (Plantago majorr var, astica Decaisne họ Plataginaceae). 

- Tác dụng: loại trừ tổ chức hoại tử, có tác dụng ức chế sự phát triển của Staphylcoccus aureus, ít tác dụng với Pseudomonas acruginosa, kích thích tái tạo tổ chức. 

- Cách dùng: cao mã đề bôi hoặc nước ép để rửa, giã lá để đắp trên vết thương, thuốc mỡ mã đề dùng để đắp vết thương bỏng. 

2. Nghệ: (Curcuma longo Lin, họ Zingiberaceae) là một cây thuốc dân gian. Đối với vết thương, vết bỏng dùng nước ép nghệ, kem nghệ 5% trên vết thương, vết bỏng. 

- Tác dụng loại trừ mô hoại tử, có tác dụng kháng khuẩn, kem nghệ ảnh hứng rõ đến sự phát triển của Staphylococcus aereus và nấm Candida albican, kích thích tái tạo mô. 

3. Dung dịch mủ đu đủ: 2-10% dùng băng gạc có thấm ướt liên tục trên vết thương, vết bỏng hoặc dùng nhỏ giọt liên tục trên vết hoại tử bỏng, có tác dụng làm rụng hoại tử do tác dụng của men Papain. 

4. Bấn: còn gọi là bạch đồng nữ (Clerodeadroa paniculatumlin), hoặc xích đồng nam (Cerodondron infortunatum họ Verbenaceae). 

- Dùng 1kg cành lá hoa tươi rửa sạch + 10 lít nước lã 

Đun sôi 30 phút lọc lấy nước, giỏ giọt liên tục hoặc ngâm vết thương ngày 2 lần mỗi lần 1 giờ. 

5. Dứa xanh: (Ananas Satrivalin. Họ dứa Bromeliaceae). 

Dùng quả dứa xanh băm nhỏ giã lấy nước rửa và đắp trên vết thương, vết bỏng có hoaị tử. Trong nước dứa xanh có men Bromelain. 

6. Ráy dại: (Colocasia macrorhira Schott họ ráy Araceae) dùng củ ráy giã lấy bột rắc lên vết thương vết bỏng có hoại tử. 

C. Nhóm thuốc có tác dụng ức chế vi khuẩn, kháng khuẩn: 

1. Vàng đằng: (Coxinium musitatum Pierre. Họ tiết dê Menis permaceae). 

Dùng dăm cây phơi khô sắc lấy nước ở nồng độ 2/1000. Có tác dụng kháng khuẩn tạo vòng vô khuẩn với các loại tụ cầu, Proteurs, Enterobacter, Klebsiella. 

Dử dụng: nhỏ giọt liên tục hoặc đắp gạc thuốc trên vết thương, vết bỏng. 

2. Lân tơ uyn (Raphydophora decursiva schott họ ráy Araceae) 1kg dây vải và cô lại còn 700 ml dung dịch. Có tác dụng ức chế một số vi khuẩn mủ xanh. 

3. Bột bù cu vẽ: (Byria fructiso Hook - họ thuầ dầu Euphozbiacceae) vỏ cây cạo lấy bột rắc lên vết bỏng đã rửa sạch.

4. Lá sắn thuyền: (Eugenia resinos gapner họ Sim - Myrtaceae) giã lá sắn thuyền hoặc dùng bột đắp trên vết bỏng. 

5. Sài đất: (Wedelia Calendulacea less. Họ Cúc Compisitae) dùng cây tươi 100gam giã với một ít muối ăn, cho thêm 100ml nước đun sôi để nguội trỗn lẫn vắt lấy nước chia 2 lần uống trong 24 giờ, bã dùng đắp trên vết bỏng. 

6. Lá móng tay: (Lansonia inermislin - họ Lythraceae), nước sắc tác dụng với trực khuẩn mủ xanh. 

7. Lá sòi: (Saquium sebiferum Roxd - họ euphorbiaceae) nước sắc có tác dụng ức chế trực khuẩn mủ xanh. 

8. Lá dung sạn: (Symphocos cochinchinenseslin - họ iridaceae), nước sắc tác dụng với trực khuẩn mủ xanh. 

9. Sâm đại hành: (Eleuthrine subaphylla gapner - họ iriceae), nước sắc tác dụng với trực khuẩn mủ xanh. 

10. Xuyên tâm liên: (Andrographis paniculatanees - họ Acanthceae), nước sắc ức chế một số vi khuẩn, có tác dụng cầm máu tại chỗ. 

11. Lá diếp cá: (Houhynia cordata- họ saururaceae), dùng giã ép nước, nước sắc tác dụng với trực khuẩn mủ xanh. 

12. Sến: (Madhuca pasquieri - Dubảd H. họ Sapotaceae) dưới dạng thuốc Maduxin, Maduxin oil có tác dụng ức chế khá với trực khuẩn mủ xanh, tụ cầu vàng, E. coli, prteus. Là một thuốc dùng tẩm gạc thay băng có tác dụng tốt

D. Nhóm thuốc ảnh hưởng đến tái tạo mô hạt và biểu mô hoá ở vết bỏng: 

1. Nghệ: (Curcuma longolin - họ gừng Zingiberaceae). Dùng nước ép, creme nghệ có tác dụng giảm mùi hôi, ảnh hưởng tốt đến quá trình sẹo hoá. Dùng để băng các loét điểm tỳ. 

2. Mỏ quạ: (Cudranis tricuspidata bureau họ dâu tầm Moracead), nước sắc, vừa có tác dụng ức chế vi khuẩn, vừa kích thích mọc mô hạt. 

3. Rau má: (Centella asiatca uro - họ Umbelliferae) dùng dưới hình thức thuốc mỡ, viên. Có tác dụng tốt đến quá trình tổng hợp collagen. Hoạt chất Madecassol có tác dụng tốt với mô liên kết. Dùng để dự phòng và chữa sẹo sơ, sẹo phì đại, sẹo lồi. 

4. Cao mỡ vàng: (thừa kế của sư cụ Đàm Lương) gồm mật đà tăng, hồng đơn, sáp ong, dầu thực vật. Dùng để chữa các vết bỏng loét lâu liền. 

5. Dầu mù u - nghệ: Có tác dụng kích thích biểu mô hoá vết bỏng, được một số bệnh viện phía nam dùng có kết quả. 

6. Mật ong và cao trứng gà: cũng có tác dụng tốt đến quá trình tái tạo vết bỏng.

 

THUỐC ĐIỀU TRỊ TẠI CHỖ VÀ VẬT LIỆU CHE PHỦ VẾT BỎNG

 

Phần I  Thuốc điều trị tại chỗ vết bỏng

            

I.Đại cương

-   Tổn thương bỏng là nguồn gốc gây ra mọi rối loạn bệnh lý trong bệnh bỏng

-                                                                     Dùng thuốc điều trị tại chỗ tổn thương bỏng nhằm hạn chế hoặc cắt bỏ yếu tố bệnh lý này

Thuốc điều trị tại chỗ vết bỏng gồm các nhóm thuốc:

·         Thuốc kháng khuẩn vết thương bỏng

·         Thuốc làm rụng hoại tử bỏng

·         Thuốc kích thích tái tạo vết bỏng

·         Thuốc làm se khô và tạo màng che phủ vết bỏng         

-                                                                     Trong điều trị bỏng hiện đại, việc sử dụng các vật liệu thay thế da đang là  một vấn đề được cả thế giới quan tâm.

-                                                                      Khám vết bỏng hàng ngày là công việc thường xuyên của bác sỹ điều trị bỏng để bổ xung chẩn đoán độ sâu của bỏng và chỉ định thuốc điều trị tại chỗ và toàn thân phù hợp

II. Các thuốc điều trị tại chỗ vết bỏng 

II.1.  Thuốc ức chế vi  khuẩn vết thương bỏng 

       +Yêu cầu của một thuốc kháng khuẩn vết bỏng

          Có tác dụng với các vi khuẩn gây nhiễm khuẩn vết bỏng với tỷ lệ kháng thuốc thấp nhất

          Không hoặc ít gây hại cho mô lành và tế bào lành

                        Không hoặc ít  có tác dụng phụ

                        Thấm sâu vào các mô

1.1.Cream Silver sulfadiazine 1%

        Đặc tính và tác dụng: Là sự kết hợp của bạc (Ag) với một sulfamide.  Được sản xuất từ 1960, dưới dạng cream nồng độ 1% màu trắng không tan trong nước. Đây là một thuốc kháng khuẩn sử dụng tại chỗ vết bỏng khá thông dụng hiện nay.

-                                                                     Thuốc ít hoặc không gây đau

-                                                                     Thuốc ít thấm sâu vào hoại tử

-                                                                     Thuốc có phổ kháng khuẩn rộng với nhiều loại vi khuẩn như S.aureus, E.coli, Klebsiella, P.aeruginosa, Proteus, Enterobacteraceae và cả C.albicans

Chỉ định:

-                                                                     Điều trị vết thương bỏng nông và sâu

Chống chỉ định:

-                                                                     Sau mổ ghép da

-                                                                     Phụ nữ có thai những tháng cuối, trẻ sơ sinh (vì gây vàng da)

-                                                                     Dị ứng với các thành phần của thuốc

Cách dùng

    Thuốc được dùng đắp vào vết thương bỏng mới (sau khi đã được xử trí vết thương kỳ đầu tốt) có thể đắp trực tiếp thuốc lên vết thương hoặc tẩm vào gạc. Thay băng ngày một lần hoặc hai lần

Tác dụng phụ:

     Silver sulfadiazine 1% (SSD 1%) có thể gây giảm bạch cầu . Dấu hiệu này xảy ra thường sau 2-3 ngày sử dụng thuốc khi đắp diện tích rộng. Triệu chứng này thường gặp từ  5-15% bệnh nhân

Một số biệt dược thường gặp:

-                                                                     Silvadene (Hoa kỳ)

-                                                                     Flammazin (Pháp)

-                                                                     Silvin (Pakistan)

-                                                                     Silvirin (ấn độ)

-                                                                     Sulfadiazin bạc (Xí nghiệp dược phẩm TW Huế)

-                                                                     ...

1.2 Axit Boric.

     Đây là một axit yếu, thuốc được sử dụng dưới dạng dung dịch 3% hoặc dạng bột tinh thể màu trắng , đóng gói 10 gam

     Axit boric có tác dụng ức chế sự phát triển của trực khuẩn mủ xanh.

     Chỉ định

- Điều trị vết thương nhiễm trực khuẩn mủ xanh

-  Sử dụng để trung hoà vết bỏng do vôi tôi nóng

    Chống chỉ định: Các loại bỏng khác

   Cách dùng: Tẩm thuốc vào gạc đắp lên những vùng vết thương có nhiễm  trực khuẩn mủ xanh, tẩm thuốc vào gạc đắp lên vết thương bỏng vôi, chỉ đắp diện tích khoảng 10%

     Chú ý khi sử dụng: Không dùng ở diện tích quá rộng vì  có nguy cơ thuốc gây nhiễm toan chuyển hoá.

1.3  Dung dịch Nitrat bạc (AgNO3)

 Đặc tính: Thuốc có tác dụng diệt trực khuẩn mủ xanh, thuốc ít gây dị ứng

 Chỉ định: Những vết bỏng nhiễm trực khuẩn mủ xanh

 Chống chỉ định: Những vết bỏng khác

 Cách dùng: Tẩm thuốc vào gạc, đắp vào những vùng nhiễm trực khuẩn mủ xanh

 Dạng thuốc: Dung dịch 0,5%;  0,25% đóng trong chai màu. Nhược điểm của thuốc là đắp tốn gạc, gây đen đồ vải.

Chú ý khi sử dụng: Chỉ đắp với diện tích dưới 10% diện tích cơ thể vì thuốc gây hạ natri và clo máu, gây kiềm chuyển hoá và methemoglobin

1.4. Mỡ Maduxin

  Đặc điểm và tác dụng: Maduxin (Madhuxin) là thuốc dạng mỡ màu nâu đen được nấu từ lá  của cây sến (Madhuca pasquieri – Dubard H. Sapotaceae). Maduxin oil là cao của lá sến , dầu hạt sến và vaselin. Maduxin được nghiên cứu bào chế từ  1990-1995 (Lê Thế Trung, Nguyễn Liêm, Trần Xuân  Vận). Đây là thuốc chữa nhiễm khuẩn vết bỏng có hiệu quả. Thuốc có tác dụng với tụ cầu vàng, trực khuẩn mủ xanh. E.coli, Proteus... 

    Gạc tẩm thuốc đắp vào vết thương làm giảm tiết dịch, giảm mùi hôi. Thuốc kích thích biểu mô hóa ở bỏng nông và tạo mô hạt ở bỏng sâu. Thuốc có tác dụng tốt với bỏng vôi.   

   Chỉ định: điều trị vết bỏng nông, bỏng sâu và bỏng vôi;

   Chống chỉ định: Sau mổ ghép da

   Cách dùng: Sau khi làm sạch vết thương, tẩm thuốc vào gạc, đắp lên vết thương, thay băng ngày một lần hoặc ngày hai lần.

  Nhược điểm: Thuốc thường gây đau cho bệnh nhân và làm đen vải trải.

II.2. Thuốc làm rụng hoại tử bỏng :

       Có bản chất là các men tiêu huỷ protein có nguồn gốc từ  hoá chất,động vật, thực vật và  vi sinh vật 

·                                                                               Từ hoá chất (các axit yếu): mỡ Axit salyxilic 40%

Chỉ định và cách dùng:

-                                                                     Dùng ở hoại tử khô từ tuần thứ hai sau bỏng

-                                                                     Diện tích dùng một lần dưới 10% diện tích cơ thể

-                                                                     Đắp thuốc trực tiếp lên hoại tử, dùng thuốc cách ngày (Bôi thuốc dày khoảng 1mm)

Chống chỉ định.

Hoại tử ướt

Trạng thái toàn thân nặng (Suy tim mach, suy hô hấp...) vì dùng thuốc thời gian kéo dài có thể gây nhiễm toan chuyển hoá.

·                                                                               Nguồn gốc động vật: Các men Trypsin, pepsin, chymotrypsin..

·                                                                               Từ thực vật: men papain (từ mủ quả đu đủ), bromelain (từ quả dứa) có tác dụng làm tiêu sợi tơ huyết và ức chế đông vón tiểu cầu

Từ vi sinh vật: các men do vi khuẩn tiết ra như  Streptokinaza (do liên cầu khuẩn tiết ra), Subtilain (do Bacillus subtilistiết ra). Chế phẩm Travase đã từng được áp dụng trên lâm sàng có kết quả tốt

II. 3 Thuốc kích thích tái tạo vết bỏng (kích thích biểu mô và tạo mô hạt)

   Trong nhóm thuốc này có nhiều loại thuốc như:

-                                                                     Các thuốc mỡ: Dầu gan cá thu, dầu gấc (Bản chất là các vitamin A,D)

-                                                                     Thuốc mỡ chế từ  rau má, madecasol

-                                                                     Thuốc kem nghệ.

-                                                                     Thuốc Dampommade (mỡ cao vàng) , đây là bài thuốc thừa kế của sư cụ Đàm Lương ở Chùa Trắng. Thành phần gồm có: Hồng đơn, sáp ong, mật đà tăng, dầu luyn....

Chỉ định: - Sau mổ ghép da 5-7 ngày

- Vết bỏng chậm liền, vết loét lâu liền diện tích hẹp 

Chống chỉ định: Diện tích rộng (vì trong thành phần có chì), mỗi lần chỉ đắp dưới 5% diện tích cơ thể

Cách dùng: Tẩm thuốc vào gạc đắp vào vết thương có tác dụng kích thích biểu mô hoá ở những vùng có mô hạt diện tích hẹp và được sử dụng ở những vết loét lâu liền. Thay băng ngày một lần , hoặc thay băng cách ngày.

II.4. Thuốc tạo màng che phủ vết bỏng (Thuốc tạo màng)

      Thành phần của thuốc có tanin có tác dụng làm đông dịch vết thương, kết tủa protein, liên kết các tơ collagene tạo thành một màng .

       Một số thuốc nam có tác dụng làm se khô và tạo màng thuốc như cao đặc lá sim  cao kháo nhậm, cao kháo vàng, hu đay, cao lá tràm, chè dây... và  đặc biệt là thuốc bỏng chế từ vỏ cây xoan trà (Lê Thế Trung, Nguyễn Văn Đồng, Nguyễn Liêm, Đoàn Thế Luỹ và CS- B76).

       Cao đặc vỏ cây xoan trà  có tỷ trọng d:1,22-1,24, độ nhớt n=5,36 poises, pH:7, Tanin:32,1%, gôm nhựa 14%, flavon 5,4%, dầu béo 1,37%...

       Dạng thuốc bột khô, màu nâu , tan nhanh trong nước nóng (thuốc bột B76)

Chỉ định: Dùng cho bỏng mới, bỏng nông, vết bỏng chưa nhiễm khuẩn

Chống chỉ định:

-    Bỏng sâu

-                                                                     Vết bỏng đã nhiễm khuẩn hoặc ô nhiễm nặng

-                                                                     Bỏng vùng khớp

-                                                                     Bỏng vùng mặt cổ, tầng sinh môn, sinh dục

-    Bỏng do vôi tôi nóng

Cách dùng: Bột B76 được rắc lên vết bỏng sau khi đã được xử lý vô khuẩn kỳ đầu  vết thương, cắt vòm nốt phỏng, bỏng chi thể không bôi kín chu vi, bôi mặt trước, mặt sau chi thể

Chú ý: Thuốc gây đau xót trong 15-30 phút sau khi phun thuốc , do đó phải giảm đau tốt cho người bệnh.

Theo dõi sau đắp thuốc

-                                                                     Sấy khô bằng đèn hoặc bằng máy sấy

-                                                                     Rạch màng thuốc khi có dấu hiệu: phù nề, trèn ép tuần hoàn đầu chi hoặc có mủ ở dưới màng thuốc

-                                                                     Nếu tiến triển tốt, 10-15 ngày  màng thuốc tự bong và vết bỏng liền

       

Phần II: sử dụng các loại Da và vật liệu thay thế da

Phần II: sử dụng các loại Da và vật liệu thay thế da

III.1. Mục đích

-                                                                     Giảm đau cho người bệnh

-                                                                     Hạn chế mất dịch, máu qua vết thương

-                                                                     Hạn chế nhiễm khuẩn vết bỏng

-                                                                     Kích thích biểu mô hoá ở bỏng nông, kích thích tạo mô hạt ở bỏng sâu

III.2 Một số vật liệu che phủ tạm thời

III.2.1 Phân loại

Vật liệu có nguồn gốc từ da:

     Da dị loại: Da ếch tươi, da ếch đông khô tiệt khuẩn bằng tia gamma, da lợn tươi đông lạnh

     Da đồng loại: da tử thi, da lấy từ thân nhân người bị bỏng

Vật liệu có nguồn gốc sinh học tổng hợp: màng Biobrane, Intergra, Dermagraft, collagene, ...

III .2.2. Chỉ định:

-                                                                     Các vết bỏng độ II, III nền sạch.

-                                                                     Đắp vào nền vết thương sau khi cắt bỏ hoại tử

-                                                                     Đắp vào nền mô hạt xấu, chuẩn bị ghép da tự thân

-                                                                     Đắp vào những diện mô hạt rộng (khi chưa có điều kiện ghép da tự thân)

III.2.3 Chống chỉ định:

-                                                                     Hoại tử bỏng sâu

-                                                                     Vết thương bỏng bẩn và ô nhiễm nặng

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#force