Bóng ma Brown Lady ám lâu đài Raynham Hall

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Bóng ma của bà Brown Lady gắn liền với bức ảnh cùng tên nổi tiếng, đã từng gây nên nhiều tranh cãi về sự tồn tại của thế giới ma quỷ.

Bức ảnh cùng tên nổi tiếng

Lần đầu tiên được công bố vào năm 1936, bức ảnh quả thực đã gây nên một cơn chấn động mạnh bởi tính huyền bí của nó. Có nhiều luồng ý kiến khác nhau. Người thì cho là đây là một sản phẩm của công nghệ, người thì tin rằng đây là con ma có thật.

Ngoài bức ảnh gây tranh cãi, Brown Lady còn gắn liền với những câu chuyện bí ẩn khác. Người ta cho rằng Brown Lady là Dorothy Walpole, nữ chủ nhân trước kia của lâu đài. Do ngoại tình, bà đã phải chịu cái chết tủi nhục đến độ không thể siêu thoát và linh hồn bà vẫn còn ám ảnh toàn lâu đài này. Brown Lady là cách người ta gọi bà bởi theo lời kể thì bà luôn xuất hiện trong bộ đồ màu nâu.

Năm 1713, người ta kể rằng phu nhân Robert Walpole của toà lâu đài đã nhìn thấy bóng ma của Brown Lady. Sau đó còn có cả hoàng đế George IV, Lucia C Stone, đại tá Loftus...

Năm 1836, một nhân vật là đại uý Marryat cùng hai người khách cũng bất ngờ đối mặt với Brown Lady. Tuy vô cùng sợ hãi nhưng Marryat đã kịp dùng súng bắn vào bóng ma. Tất nhiên sau đó chỉ có những vết đạn in lại trên tường. Năm 1926, lại có 2 chú bé khẳng định mình đã thấy Brown Lady. Lời kể về Brown Lady vẫn tiếp tục nhưng tới nay cũng không ai còn thấy bà nữa.

Lâu đài Raynham Hall

2. Bloody Marry hoặc Mary Worth

Câu chuyện kể rằng Mary Worth là một cô gái vô cùng xinh đẹp. Nhưng số phận nghiệt ngã đã khiến cô phải chịu một tai nạn khủng khiếp. Cô đã bị một chiếc xe đâm vào dẫn đến khuôn mặt hoàn toàn bị biến dạng trông rất đang sợ. Điều này làm mọi người xa lánh Mary. Và cũng từ đó, sự hận thù đã biến Mary thành một phù thuỷ chuyên đi ám ảnh mọi người (cũng có chuyện nói rằng Mary chết và trở thành hồn ma lang thang).

Vào buổi tối, nếu bạn bước vào phòng, soi mình trong gương và gọi tên Mary Worth 100 lần thì cô ta sẽ hiện ra. Mary sẽ... cào xé khuôn mặt của bạn, làm bạn phát điên hoặc thậm chí giết chết bạn. Đó là những lời kể trong những câu chuyện về Mary. Nó đáng sợ đến nỗi người ta còn chả dám thử để xem thực hư thế nào.

Vào buổi tối, nếu bạn bước vào phòng, soi mình trong gương

và gọi tên Marry Worth 100 lần...

Có rất nhiều người tin vào Mary Worth, đặc biệt là các thiếu nữ trẻ. Câu chuyện về người phụ nữ này cũng đã được chuyển thể thành phim và thu hút nhiều sự chú ý.

3. Borley - ngôi nhà ma ám nặng nhất nước Anh

Đây được coi là ngôi nhà ma ám nặng nhất nước Anh. Trước đây trên vị trí xây dựng nó có một tu viện của những thầy tu theo dòng Benedictine. Sau đó nó trở thành vật sở hữu của dòng họ Waldergrave trong 3 thế kỷ. Cho đến khi một người cháu của dòng họ này quyết định xây dựng một ngôi nhà trên khu tu viện cũ thì hàng loạt chuyện kỳ lạ bắt đầu xảy ra.

Ngôi nhà Borley năm 1892

Người ta nói rằng trông thấy sự lảng vảng của một xe ngựa và bóng ma của một nữ tu sĩ. Rồi còn có cả hình ảnh một tu sĩ trong chiếc áo xám cứ lẩn quẩn trong nhà. Những điều đáng sợ đó đã làm mọi người nhớ tới câu chuỵện về đức cha Henry Dawson Ellis Bull - người đã từng ở đây trong quá khứ. Do quan hệ lén lút với một nữ tu sĩ và bị phát hiện nên ông đã bị xử tử. Nữ tu sĩ kia cũng chung số phận. Chính vì vậy mà linh hồn của họ vẫn cứ ám ảnh ngôi nhà, không chịu ra đi.

Những năm 1920 ngôi nhà được Lionel A. Foyster và người vợ của ông sở hữu. Và câu chuyện kỳ lạ về bóng ma của cha Henry vẫn chưa kết thúc ở đây. Đó là khi bà vợ của Lionel nói rằng có một thế lực tâm linh nào đó đã khoa cửa nhốt bà ta trong phòng, rồi đẩy bà ta ra khỏi giường của mình. Những hòn đã cứ tự động bay đập vào cửa sổ, và những dòng chữ kỳ lạ bỗng nhiên xuất hiện trên tường...

Harry Price một nhà săn ma nổi tiếng đã từng có những cuộc điều tra tại ngôi nhà Borley và từng chứng kiến bóng ma nữ tu sĩ tại đây.

Năm 1936, ngôi nhà Borley bị cháy đem theo luôn truyền thuyết ma quỷ. Nhưng rồi sau đó lại có người nói rằng dưới đám cháy người ta tìm thấy thi thể của nữ tu sĩ xấu số kia. Những câu chuyện vẫn tiếp tục, người ta vẫn tới đây để mong được nhìn thấy bóng ma của ngôi nhà Borley.

Dạ Đàm Tùy Lục(hậu Liêu Trai

Vương Khản là con thứ ba một gia đình nông dân sống ở ẩn trong núi. Một hôm Khản đang dấy cỏ ngoài đồng, bỗng một cơn gió lớn đùng đùng nổi dậy, làm cát bay đá chạy trời đất tối sầm. Khản đang tính tìm chỗ ẩn nấp, chợt thấy một người con gái, áo quần hoa lệ, nhưng đầu tóc rối bù, chân không hài vớ, từ đằng xa hộc tốc chạy tới phía chàng. Nàng vừa chạy vừa kêu gọi Khản:

- Tam lang , cứu thiếp với!

Trong lúc vội vàng hoảng hốt, Khản chẳng kịp tìm hiểu cho rõ lý do tại sao, buột miệng bèn hỏi:

- Cứu nàng bằng cách nào?

Người con gái đáp:

- Xin cho thiếp núp nhờ ở dưới chuồng cỏ , lát nữa có cơn lốc kéo đến, chính là kẻ đuổi bắt thiếp đấy. Nhờ chàng nói dối dùm thiếp đã chạy về hướng Tây rồi nhé! Nói xong liền lẩn vào trong chuồng cỏ.

Lát sau, quả nhiên có một cơn lốc xoáy từ Ðông Bắc thổi đến, cao lớn lừng lững như một cái tháp Phật, cuồng bạo và mãnh liệt như ngựa lồng, vây chung quanh thửa ruộng của Khản mấy vòng, làm cho lá rơi cây rụng tơi tả.

Khản y lời người con gái dặn, lấy tay chỉ về hướng Tây, để đánh lừa cơn lốc .

Lập tức có một tràng sấm nổ vang trời, và cơn lốc như hiểu ý người , ào ào chuyển hướng thổi về phía Tây, khiến cho Khản vô cùng ngạc nhiên và kinh dị.

Chừng đến lúc hết cơn lốc, Khản mở cửa chuồng cỏ, đã thấy người con gái ngồi núp trong đó, đang xé quần để lấy vải quấn chân.

Nàng thấy Khản đến, thì nhoẻn miệng cười duyên, lấy tay vấn lại mái tóc. Trên trán hãy còn lấm lấm mồ hôi, hơi thở chưa được đều đặn bình thường.

Khản để ý nhìn kỹ nàng, thấy mày ngài, khõe mạnh, diễm lệ ít có vừa mừng vừa ngạc nhiên, bèn lấy giọng ôn tồn an ủi nàng rằng.

- Kẻ đuổi bắt nàng đã đi xa rồi, nàng không việc gì phải sợ hãi nữa . Nhưng ta không tin, như thế mà được coi là đã thi ân cho nàng rồi sao ?

Người con gái đứng dậy vái chàng, cảm tạ rằng:

- Ân sâu đức rộng, thiếp xin ghi nhớ suốt đời.

Khản nói:

- Như vậy, nàng định lấy gì để trả ơn cho ta?

Ðáp :

- Lụa là gấm vóc châu báu ngọc ngà, thiếp xin để chàng chọn lựa?

Khản cười. nói:

- Ta đâu có cần đến những thứ đó. Ðiều ta muốn, thì nó to lớn vô cùng !

Vậy có thể cho thiếp biết được không ?

Khản chỉ cười. không chịu nói ra Người con gái hơi lộ sắc hờn giận nhìn Khản , nhưng lại tươi cười ngay, nói đùa:

- Chàng thật là đại bất lương, thiếp không thể nào không trở thành kẻ phụ ơn được.

Nói xong muốn bỏ đi , Khản dang tay chặn nàng lại, nhưng nàng đã lẹ làng và nhanh như hơi gió, luôn qua nách của Khản, khiến cho chàng không sao bắt kịp. Rồi thoắt biến mất, không thấy hình tích gì nữa. Khản ta vỡ niềm hy vọng, vừa buồn vừa hận , rầu rầu vác cày trở về nhà.

Lúc đi gần đến đầu chiếc câu gỗ, đã thấy người con gái ngồi ở trên một phiến đá phía bên kia bờ suối.

Nàng thấy Khản đến, tươi cười nói:

- Hẳn chàng đã cho thiếp là kẻ vong ân bội nghĩa rồi phải không ?

Khản thình lình gặp lại nàng, đổi buồn làm vui, sắc mặt vui vẻ hòa dịu hẳn lên, hỏi:

- Nàng đã thoát khỏi tai nạn, chẳng tìm chỗ an nhàn mà đến, sao còn lưu luyến chốn này làm gì ?

Người con gái vội vã chạy đến nắm lấy tay Khản, đáp:

- Ðùa với chàng một chút , nỡ nào lại giận nhau vậy. Nếu chàng cho thiếp là kẻ vong ân phụ nghĩa, ấy là chàng chỉ mới biết đá, mà chẳng biết vàng . Xin chàng cứ cho thiếp theo về , đừng coi thiếp là thứ rau hoang cỏ dại mà bỏ nhau nhé.

Khản nghe nàng nói vậy, thì mừng cuống bèn dắt nàng về nhà mình.

Năm Khản vừa đúng hai mươi mốt tuổi thì cha mẹ đã qua đời, chỉ còn mỗi người em gái. Mọi điều trong nhà đều do em chàng lo liệu. Người em thấy Khản dẫn một người con gái vừa trẻ vừa đẹp về nhà thì lấy làm ngạc nhiên , hỏi dò lai lịch.

Khản cũng đem hết câu chuyện thuật lại cho em nghe.

Em chàng nhìn kỹ người con gái một lúc rồi tươi cười bảo chàng:

- Ðẹp như chị ấy thế này, em còn thương nữa là anh!

- Không có gì phải lo lắng lắm. Ngại nhất à cái mụ Tám Chung, hàng xóm nhà mình, thường nhật vẫn ngôi lê đôi mách, đặt điều bịa chuyện khắp làng, thì nay mụ ta đã bõ đi mất tích không về nữa. Em thấy chị ấy có vẻ ngoài tú lệ, nhẹ nhàng, tất cũng là người thông minh, khéo léo có thể dựa dẫm vào nhau chung sống qua ngày được, chỉ sợ anh phận mỏng phúc bạc, không có duyên với chị ấy mà thôi .

Người con gái đứng dậy, sửa lại nếp áo, rồi nghiêng mình thi lễ , cảm tạ người em của Khản:

- Tôi mang ơn lớn của Tam Lang, nên nguyện đem thân về hầu hạ chàng cho phải nghĩa. Chỉ sợ cô nương không có bụng dung nạp chứa chấp mà thôi. Nếu như cô nương đã có lòng thương tưởng, thì mọi việc xin để tôi gánh vác, tất sẽ được tốt đẹp, vững vàng còn lời người đàm tiếu chớ nên để ý làm gì vội.

Em Khản được người con gái khen ngợi tâng bốc như vậy lại càng hoan hĩ hơn , đi giết ngay gà, làm cơm để cho hai người làm lễ hợp cẩn .

Từ đấy vợ chồng ăn ở với nhau rất là hòa mục đầm ấm . Em chồng chị dâu mà chẳng hề có chút hiềm khích nào .

Khản hỏi về gia tộc , thân thế thì nàng đáp:

- Thiếp là gái làng Lương, họ Bạch , năm nay vừa mười chín tuổi. Thiếp mồ côi cha mẹ từ hồi còn nhỏ, một thân một mình không chỗ nhờ cậy. Hôm qua, ngẫu dạo du Xuân, chẳng ngờ gặp phải con Tịnh gió nó bức bách, may được chàng cứu, bằng không đã về chầu Diêm Chúa rồi.

Khản lại hỏi:

- Vậy, trước kia nàng chỉ có một mình thì sống ở đâu ?

- Thiếp chẳng có nhà cửa chi cả. Ngày ngày phiêu bạc lưu lãng như cánh bèo trôi. May là táp vào những nơi yên ổn, nên không bị những kẻ cường bạo khinh khi hà hiếp.

- Như thế thì sinh sống bằng cách nào?

- May vá đôi chút mà thôi.

Người em gái của Khản nói xen vào:

- Miễn sao tâm hồn trong sạch thì dù có lưu lãng vô gia cư đáng kể gì . Từ nay, anh lo cầy cấy, chị lo bếp nước, còn em lo việc cơm ra đồng cho anh, thì ta lo gì không tạo một gia đình đầm ấm êm đẹp . Trước hết, ngày mai anh nên mua một sắp vải bố, để may quần áo cho chị ấy . Con nhà nông lẽ nào lại ăn mặc sặc sỡ thế này .

Khản nói:

- Loại vải bố lúc này hiếm. sợ không mua được .

Bạch nữ nói:

- Chuyện đó không khó khăn gì cả. Thiếp có cất dấu được mười sấp vải loại đó, để ở bên dưới bệ thờ trong miếu thổ địa cạnh bờ suối. Nhờ chàng chịu khó ra lấy mang về .

Lúc đầu, Khản không tin. Sau bi vợ thôi thúc , đành phải đi vậy. Quả nhiên lấy được mười sấp vải bố mang về đưa cho người em gái.

Em chàng hỏi:

- Cổ miếu hoang lương, chị dấu vải ở đấy từ bao giờ ?

Bạch nữ tính tình cực kỳ thông tuệ. Nữ công, gia chánh chẳng việc gì nàng không biết, không rành.

Người em gái của Khản so với nàng không bằng, nên càng tỏ kính nể người chi dâu hơn.

Gặp năm bị hoàng trùng, mấy chục mẫu ruộng của gia đình Khản số thâu chỉ còn lại có hai ba phần. Hai anh em Khản ngày đêm âu sầu lo lắng. Ðói, rét còn có thể chịu đựng được , chứ tiền thuế thì không có không xong.

Duy chỉ mình Bạch nữ thì vẫn vui vẻ , không lấy đó làm lo .

Khản bàn với em đến vay tiền của lão phú hộ họ Ngưu, nhưng Bạch nữ cản lại nói:

- Chàng và tiểu cô tính vậy là sai, theo thiếp nghĩ, lão bá hộ họ Ngưu chỉ là một tên nô lệ của tiền bạc, chẳng phải là con người tử tế đâu. Nếu chẳng có uy thế để mà làm cho lão ta nể vì thì dầu là thân tộc, bằng hữu chí thiết đến nhờ vả, lão ta cũng lờ đi. Huống hồ, chàng chỉ là một kẽ xa với lão , lại ít tuổi, chưa có uy tín gì, đến vay lãi chỉ xấu hổ thêm thôi. Không đời nào lão cho vay đâu.

Chi bằng cứ thuận thiên mệnh, việc đến lúc nguy sẽ có cách giải . Xin chàng và tiểu cô hãy yên lòng chờ đợi.

Khản không nghe. cứ áo quần tề chỉnh đến nhà lão Ngưu để mượn tiền. Quả nhiên đúng như lời tiên liệu của Bạch nữ . Khản bị lão Ngưu phũ phàng từ chối. Chàng ôm hận lủi thủi trở về nhà, thì lại gặp viên nã thuế đứng chờ ở cửa. Y trông thấy Khản thì lập tức lớn giọng hạch sách , núm chặt lấy chàng, không chịu thả ra.

Khản hết lời biện giải, phân trần rồi mời y vào ngồi trong nhà.

Sau đó, chàng vào trong phòng cùng vợ và em bàn cách đối phó. Bạch nữ hỏi:

- Thuế đòi bao nhiêu ?

Khản đáp:

- Cả số thuế thiếu năm trước là hơn ba lạng.

- Thiếp lại cứ tưởng nợ ngàn , nợ vạn, chỉ ngần ấy có gì mà không trả nổi . Làm thiếp tốn mất mấy ngày phân vân tính toán. Ở dưới viên gạch. nằm về góc phía Bắc của miếu thổ địa, thiếp có dấu một chum bạc, chàng hãy đến đó đào lên mà lấy trả tiền thuế, vẫn còn dư nhiều để làm kế sinh nhai.

Bất ngờ được nghe Bạch nữ nói như thế, Khản hết sức mừng rỡ, nhưng rồi lại ngờ cho đó chỉ là những lời nói bông lơn của vợ. Em chàng phải thúc dục:

- Chuyện mười xấp vải lúc trước đã đúng , thì lần này chắc cũng không phải sai đâu. Anh nên đi ngay đi. đừng chậm trễ do dự nữa.

Khản bèn leo qua bức tường sau nhà , vội vàng đến thẳng miếu thổ địa , đào chỗ viên gạch mà vợ chàng đã chỉ, thì quả nhiên đào được một cái chum bằng đất nung đen. Mở nắp ra coi, thấy đầy ấp trắng xóa những thỏi bạc. Khản mừng cuống lên như học trò nghèo đi thi trúng tuyển, vội vã trụt bỏ hết áo quần ra gói bạc lại , rồi vác lên vai , tông ngồng trở về nhà , trả đủ số cho viên lại dịch đến nã thuế, còn đãi y một bữa no say.

Số bạc còn lại. Khản đem đổi được trăm lượng vàng bèn tậu ruộng , cất nhà, mỗi ngày một giàu. Việc buôn bán nhất nhất đều nghe lời vợ . Trong vòng có hai năm, lãi bồi lãi Khản trở thành người giầu có nhất làng.

Bạch nữ thấy Khản thường nghĩ ngợi về chuyện không có con kế tự, thì lấy làm không vui, bảo Khản rằng:

- Chàng vừa mới được no cơm ấm áo là đã nghĩ ngay đến chuyện lấy vợ bé. Người đâu sao bạc bẽo thế!

Khản đáp:

- Chẳng phải là ta phụ tình nàng đâu, chỉ vì sợ đời ta hết rồi, sẽ không có người lo lắng hương hỏa cho tổ tiên mà thôi.

- Nếu muốn vậy, xin chàng đừng lo nghĩ chi nhiều nữa, để thiếp sinh cho chàng một đứa con vậy.

Khản cười cho là nàng đùa.

Tối hôm ấy, hai vợ chồng ngồi ở trong phòng, Bạch nữ dặn Khản là đừng đi ngủ trước, rồi nàng lên giường, buông mùng một mình ở trong đó, miệng lảm nhảm một hồi. Chừng ăn vừa xong một bữa cơm, thình lình Khản nghe có tiếng trẻ con oe oe khóc, rồi Bạch nữ đi ra thay quần áo. bảo chàng:

- Chàng vào mà thăm con!

Khản vô cùng sợ hãi, mở màn ra coi, thấy một đứa con trai, quấn gọn trong chiếc tã, nằm ở trên giường, mặt mũi xinh đẹp như một bức tranh.

Khản vừa mừng vừa lo. vội vàng báo cho người em gái biết. Em chàng cũng lấy làm hoan hỷ, bèn đặt tiệc ngay ở trong phòng để ăn mừng. Bạch nữ sau khi sinh nở vẫn ăn uống cười nói như lúc thường chẳng kiêng cữ gì.

Anh em Khản đều thầm cho lạ lùng, bèn đặt tên cho đứa bé là Dị Sinh .

Cùng ấp với Khản, có một người phú hộ họ Lưu, gia tư cực vạn. Ông ta có người con tên là Tuyền , là học trò Quốc Học ở kinh sư. đã hai mươi tuổi mà chưa có vợ, nghe đồn em Khản là người vừa dẹp vừa hiền thục , bèn nhờ mai mối đến hỏi.

Khản định nhận lời, nhưng Bạch nữ hết sức ngăn cản, cho là không nên.

Khản nói:

- Người ta là gia đình hào phú, lại trọng lễ nghĩa. Tuyền cũng là người thiếu niên anh tuấn thực thà, tiểu cô về làm dâu nhà ấy cũng là xứng đáng, sao khanh lại cản trở?

Rồi không nghe, cứ tự ý gả em cho nhà họ Lưu. Bạch nữ đành thở dài, bảo Khản:

- Vợ chồng là duyên số trời định. Cưỡng lại, chỉ chuốc lấy những điều không may mà thôi. Họ Lưu với thiếp trước từng có hiềm khích với nhau. Nay dù là thân tộc, thiếp cũng tránh vậy, nếu Tuyền đến chơi, đừng để cho Tuyền gặp mặt thiếp, bằng cố ép. Ắt sẽ sinh ra tai họa. Xin chàng nhớ kỹ, đừng quên .

Chừng đến khi em Khẩn lấy Tuyền rồi. thì vợ chồng hòa mục, rất là êm ấm.

Tuyền vẫn nghe đồn Bạch nữ là người nhan sắc diễm kiều, lòng muốn đến gặp. Tuyền đã nhiều lần xin với Khản, đều không được Khản đồng ý, bèn mưu tính với vợ đặt tiệc rượu mời Khản đến ăn, rồi thừa cơ đi tiểu, một mình lén đến nhà Khản.

Khi tuyền đến nơi. gặp đúng lúc Bạch nữ đang cho con bú ở sân.

Tuyền đường đột tìm đến chắp tay vái chào, khiến cho Bạch nữ bị bất ngờ không kịp né tránh, vội vã đưa tay áo lên che mặt, đứng sững sờ bất động.

Tuyền nhìn kỹ nàng một hồi lâu, bỗng tỏ ra kinh hoàng sợ hãi: hoảng hốt ba chân bốn cẳng chạy một mạch về nhà. Về đến nhà, sắc mặt hãy còn tái xám như tro. Hai anh em Khản đều ngạc nhiên, gạn hỏi duyên cớ, Tuyền phải trấn tĩnh một lúc thật lâu, mới lấy lại tinh thần, quay ra hỏi lại Khản rằng:

- Tẩu tẩu là con gái nhà ai? Huynh đệ và tẩu tẩu lấy nhau được mấy năm rồi. Trong chuyện này có nhiều điều quái dị, xin huynh cho đệ biết cặn kẽ, đừng dấu diềm chi cả . Mới đầu Khản còn chống chế, che đậy, không muốn nói thực. Tuyền thấy vậy, mới nghiêm sắc mặt, trịnh trọng bảo với Khản rằng:

- Anh em trong nhà, là tình chí thân cốt nhục, huynh đừng dấu diếm . Sỡ dĩ đệ nằng nặc mà cật vấn huynh như vậy là có thâm ý cả. Sao huynh lại coi đệ là người xa lạ đến thế .

Em Khản đã lâu, vốn cũng có bụng nghi ngờ, nay nghe chồng nói thế , thấy cũng hữu lý, bèn hùa thêm vào.

Khản bất đắc dĩ đành phải thú thực. Tuyền nói:

- Như thế là huynh gặp hồ ly rồi đấy .

- Làm sao mà hiền đệ biết ?

Tuyền bèn kể :

- Chẳng dấu gì huyng cả . Ðã lâu đệ vốn có hâm mộ tẩu tẫu là người hiền thục , trong bụng vẫn áy náy là không được kiến diện bao giờ. Lúc nãy mời huynh đến ăn, chỉ cột để giữ huynh lại đây, rối đệ một mình thừa cơ đến bái phỏng tẩu tẩu. Chừng đến nhà huynh, thì lại gặp tẩu tẩu ở ngoài sân. Ðệ không ngờ tẩu tẩu lại xinh đẹp đến thế, nên cố ý nhìn kỹ, té ra, chẳng phải ai xa lạ, tẩu tẩu chính là kẻ đã từng gieo tai họa cho đệ.

Nguyên trước đây ba năm, một hôm đi ra đồng thăm mộ, giữa đường gặp mọt người con gái rất đẹp, bụng có ý yêu thầm. Chẳng ngờ, lúc về đến nhà đã thấy cô ta ở trong phòng. Nàng tự giới thiệu là họ Bạch, cùng đệ vốn có mối duyên tiền kiếp. Lúc đó, đệ sướng đến tê người, chẳng cố kỵ chi cả , bèn cùng nàng gần gũi giao hoan.

Ðược gần hai tháng , người đệ cứ mỗi ngày một hao mòn gầy guộc. Cha mẹ đệ biết là bị chồn ám, tìm trăm phương nghìn kế chữa trị mà chẳng khỏi . Sau phải đem lễ vật đến cầu phép của đạo sĩ họ Phương ở Sơn Ðông. Ðược đạo sĩ trao cho hai lá bùa, trên viết chữ đỏ, dặn về nhà thì đốt một là ở giữa trung đường, còn một lá thì lên cất giữ cẩn thận, vài năm sau sẽ có cơ hội dùng Cha mẹ đệ ngay ngày hôm ấy làm theo lời dạy của đạo sĩ . Ðệ thấy một ông thần, to lớn như những ông tượng bằng đất ở trong các miếu, xông vào trong phòng lùng bắt người con gái. Nàng sợ hãi hoảng hốt, tóc tai rối bời, độn theo gió đào tẩu, bị vị thần đuổi theo truy nã. Về sau không trở lại nữa. Hôm đó chính là ngày huynh gặp tẩu tẩu. Ðệ biết, trong việc gối chăn, huynh rất yêu thương mê đắm tẩu tẩu , tất sẽ không tin lời nói của đệ. Dù lá bùa kia vẫn còn không đủ làm bằng cớ. Tuy nhiên giả như tẩu tẩu là hồ ly thì người thường phát ra một mùi dị hương nồng nàn kỳ lạ, và hay kín đáo đưa tay nắn đốt xương cùng ở đít, không để cho ai sờ tới. Nếu quả đúng như thế, thì tẩu tẩu là hồ ly không sai.

Khản nghe lời Tuyền kể chỉ há hốc mồm, trợn mắt ngạc nhiên, muốn nói mà không nói được.

Em Khản nói:

- Việc tẩu tẩu có thường sờ đốt xương cùng hay không thì em không được biết. Duy mùi dị hương thì có thật . Xin anh tính kế sớm đi, đừng để chuyện xẩy ra, sau hối không kịp.

Khản ngẩng mặt lên trời thở dài:

- Cứ như lời em nói, thì vợ ta là hồ ly không còn nghi ngờ gì nữa. Nhưng từ ngày lấy nhau, gia đình ta nhờ nàng mà giàu có ấm no. Con ta nhờ nàng mà có người nuôi nấng, em cũng nhờ nàng mà lấy được tấm chồng tử tế. Ơn của nàng đối với họ Vương ta thật là to lớn. Người ta bảo rằng " Lấy đức báo oán , chứ không lấy oán báo đức" . Huống hồ, nàng lại là người yêu hiền thục, chẳng có gì độc hại.

Dù rằng có khác loài đi nữa, nỡ nào mà bỏ nàng cho đành. Thôi ! Thôi ! anh xin hai em đừng nói những lời bất nhẫn như vậy nữa. Anh không nghe đâu.

Tuyền cố khuyên:

- Con ong nó còn có nọc độc, huống hồ ly là loài yêu mị . Huynh như chẳng nghe lời chúng em, thì huynh chỉ có một con đường duy nhất là tử lộ mà thôi.

Sau khi Khản ra về , người em gái trong lòng không yên, lén đem lá bùa của chồng đem đốt ở trước cửa buồng nhà Khản. Khoảng khắc, nổi lên mặt trận cuồng phong dữ tới, rồi Bạch nữ từ trong chạy ra , được vài bước thì té xuống đất, hóa thành một con chồn đen chạy lung ra cỗng đào tẩu, đằng sau có một cơn lốc xoáy đuổi gấp theo, nhanh như điện chớp, phút chốc không còn thấy hình tích gì nữa.

Khản được tin, tinh thần chấn động, khóc rống lên thảm thiết.

Mấy ngày sau chẳng ăn uống gì, cứ tưởng niệm đến Bạch nữ rồi bi phẫn mà chết.

Còn lại một mình Dị Sinh mà thôi.

Dế Chọi - Liêu trai - 4/23/2007 10:26:17 AM

Thời Tuyên Đức (1) trong cung rất chuộng chơi chọi dế, hàng năm bắt dân gian cung tiến. Trò đó không phải nảy sinh từ đất Thiểm Tây mà do viên quan huyện lệnh huyện Hoa Âm muốn lấy lòng quan trên đem tiến một con. Quan tỉnh thâý nó chọi hay quá đòi phải cung tiến thường xuyên. Quan huyện lại đòi lý trưởng phải cung cấp. Ngoài chợ bọn tay chơi tìm mua được con nào tốt, đem nhốt vào lồng nuôi, nâng giá lên thành hàng quý lạ. Còn bọn lý dịch giảo hoạt lấy lệ cung tiến dế, sách nhiễu dân chúng. Mỗi đầu dế phải nộp, đủ làm khuynh gia bại sản mấy nhà.

Huyện ấy, có người tên Thành Danh đã là một đồng sinh (2) nhưng không theo học tiếp nữa. Anh ta vốn người chất phác, ít nói, cho nên bọn hương chức quyền thế ép phải giữ chân chức dịch trong làng. Tuy nhiên phương bách kế từ chối nhưng vẫn không thoát. Mới chưa đầy một năm mà gia sản nhỏ mọn của anh ta cơ hồ đã kiệt. Gặp vụ nộp dế, Thành không dám bổ bán sách nhiễu dân mà nhà thì không còn gì để bù, bởi thế lo buồn quá chỉ muốn chết đi cho rảnh. Người vợ khuyên can:

- Chết thì được việc gì, chi bằng tự tìm bắt lấy, muôn một may ra được con nào chăng.

Thành cho là phải, từ đó cứ sáng đi tối về, tay xách ống tre , lồng tơ, đủ cách bới đất lật đá tìm hang, mọi nơi tường đổ, bờ hoang bãi cỏ. Cũng có lần moi được vài ba con, nhưng vừa yếu lại vừa bé, không đủ quy cách. Quan trên cứ hạn mà trách phạt, quá hơn chục ngày Thành phải chịu đòn trăm gậy, đôi mông máu me be bét mà chẳng có con dế nào để nộp. Về nhà anh ta lăn lộn, trăn trở trên giường, chỉ còn nghĩ đến chuyện tự tử mà thôi.

Lúc ấy, trong thôn có cô đồng gù mới đến, có tài bói toán cầu thần. Vợ Thành chạy tiền đến bói. Gái tơ, nạ dòng kéo đến chật cổng ngõ. Trong nhà buồng kín che mành, cửa bày hương án. Nguời đến bói thắp hương sì sụp lễ. Cô đồn đứng bên hướng lên không trung khấn thay mồm mấp máy thì thầm không biết nói những gì. Mọi người xung quanh cung kính đứng nghe. Lát sau trong mành ném ra mảnh giáy ghi rõ những lời truyền phán chỉ bảo, không mảy sai lẫn lộn.

Vợ Thành nộp tiền trước án rồi cũng thắp hương làm lễ như những người trước. Độ giập bã trầu thì mành động có mảnh giáy ném ra. Giở ra xem, không thấy chữ, chỉ có hình vẽ: ở giữa là đền gác như kiểu chùa Phật; đằng sau dưới ngọn núi nhỏ lổn nhổn những mô đất kỳ quái, những bụi gai tua tua, một chú dế "thanh ma" nằm phục, bên cạnh là con ếch trong tư thế định nhảy ra. Xem mà không hiểu ra sao, chỉ thấy qua chú dế dường như có bao hàm ẩn ý về việc mình cầu khẩn, cho nên vợ Thành bọc giấy vào người, đem về đưa chồng xem. Thành xem trăn trở tự nhủ: "Phải chăng bức vẽ này chỉ cho ta chỗ bắt dế?". Ngắm kỹ hình vẽ thấy giống như Đại Phật Các ở mé đông thôn. Bèn gượng dậy, cầm theo bức vẽ, chống gậy lần ra mé sau chùa. Ở đó có một ngôi mộ cổ trên gò cây cỏ um tùm. Lần theo xung quanh mộ thấy đá lởm chởm rất giống hình vẽ. Thành vạch cây vén cỏ, căng mắt dỏng tai như đi tìm mũi kim hạt cải, nhưng không thấy dấu vết gì cả. Bỗng có một con ếch nhảy vọt ra, Thành kinh ngạc vội đuổi theo, ếch lẫn vào đám cỏ. Thành dõi theo hướng, lần tìm thấy một chú dế núp dưới gốc gai. Thành chộp vội, nhưng dế đã chui tọt vào trong hang. Lấy cỏ nhọn chọc, nó vẫn nằm lỳ trong ấy. Sau khi đem ống phung nước vào, bị sặc, một chú dế cực to khỏe mới thòi ra. Tóm được chú ta, nhìn kỹ: mình to, đuôi dài, cổ xanh, cánh vàng. Thành vô cùng mừng rỡ liền nhốt vào lồng mang về. Cả nhà ăn mừng, cho bắt bắt được trân châu bảo ngọc cũng không bằng. Rồi thả vào bồn, nuôi nấng hàng ngày bằng thóc ngâm sữa, thịt cua luộc, chắm sóc chí chút từng li từng tí, đợi đến kỳ hạn nộp quan.

Thành có đứa con trai lên chín, thấy bố đi vắng liền mở trộm bồn ra xem. Dế thừa cơ vọt ra. Thằng bé đuổi theo mãi vồ được vào tay thì dế đã gãy cẳng bẹp bụng, chết ngay tức khắc. Nó sợ quá chạy mách mẹ. Mẹ vừa nghe xong, mặt nhợt như chết rồi, quắt mắng ầm lên:

- Thật là tiền oan nghiệp chuớng! Chết đến nơi rồi! Bố về sẽ cho mày biết!

Thằng bé khóc lóc bỏ đi. Lát sau Thành về, nghe vợ kể lại mà lạnh toát xương sống, đi tìm con thì con đã biến đâu không biết. Mãi sau mới vớt được xác con dưới giếng. Chuyển giận thành thương, Thành vật ra kêu trời muốn chết. Nhà tranh bặt khói, vợ chồng im lặng nhìn nhau không còn gì nữa. Trời gần tối mới đem chiếu cỏ liệm thây con, ôm ấp vỗ về thì thấy con còn thoi thóp thở. Mừng quá! Nửa đêm con sống lại. Hai vợ chồng hơi yên tâm. Song đứa con vẫn cứ trơ ra như khúc gỗ, bằn bặt ngủ lịm.

Thành nhìn cái lồng dế rỗng không lại như đứt hơi, tắc họng, không nghĩ gì đến con nữa. Suốt một đêm ròng không hề chợp mắt. Mặt trời mọc, Thành vẫn nằm dài lòng buồn rười rượi. Bỗng nghe bên ngoài có tiếng dế gáy, vội nhỏm dậy nhìn ra thì dế vẫn còn đó. Thành mừng quá vồ lấy. Kêu to một tiếng, dế nhảy bật đi. Tay Thành chộp được thì thấy dường có dường không. Mở ra, dế lại nhảy vọt mất. Thành đuổi theo đến góc tường, không thấy nó đâu. Hoản hốt nhìn quanh bốn phía thấy nó đã nép trên vách. Nhưng con này vừa nhỏ vừa ngắn, đỏ đen nham nhở, không phải con trước. Thành cho là hạng bét không thèm để mắt mà cứ quanh quẩn đi tìm con trước. Bỗng dế con từ trên vách nhảy xuống tọt ngay vào tay áo Thành. Ngắm kỹ, đầu vuông đùi dài, dáng ve sầu, cánh hoa mai, có vẻ tốt. Thành hơi mừng giữ lấy định đem lên công đường nộp, song chỉ lo sợ không được vừa ý quan, mới nghĩ cách cho chọi thử xem sao.

Một chàng trai tay chơi trong thôn nuôi được một chú dế nòi đặt tên là "Cua xọc xanh", hàng ngày đem chọi với dế của đồng bọn đều thắng cả. Chàng ta muốn giữ để kiếm lời, ai trả giá cao mấy cũng chưa chịu bán. Nhân qua nhà thăm Thành, thấy dế Thành nuôi, chàng ta bịt miệng cười và đưa dế mình, bỏ vào lồng để đánh. Nhìn thấy dế người vừa to vừa cao, Thành lại càng xấu hổ, không dám đưa dế mình ra. Chàng trai cố ép. Thành nghĩ: "Nuôi vật hèn kém cuối cùng cũng vô dụng, chi bằng đem chọi lấy một tiếng cười." Thành đưa dế vào bồn đấu. Chú dế con nằm ẹp xuống không dám động đậy. Chàng trai cười ngất, cầm cái lông lợn chọc vào râu, nó vẫn nằm im. Chàng trai lại cười, lại chọc. Dế con nổi giận, xông thẳng ra, phấn chấn cất tiếng gáy ke ke. Rồi vểnh râu, cong đuôi nhảy xổ vào cắn cổ địch thủ. Chàng trai hốt hoảng xin ngưng chọi. Dế con dõng dạc cất tiếng gáy như báo cho chủ biết mình vừa thắng cuộc. Thành chứng kiến cảnh ấy, vui mừng vô cùng.

Đang khi cùng nhau ngắm nghía dế con thì một con gà sán lại gần mổ dế. Thành hoảng, đứng dậy thét đuổi. May mà gà mổ khôngt trúng. Dế co càng nhảy một phát đến hơn một thước. Gà đuổi sấn theo, dế đã nằm dưới móng gà. Thành thảng thốt không biết làm thế nào để cứu dế, chỉ còn dậm chân thất sắc. Nhưng sao gà cứ vươn cổ, sã cánh? Nhìn kỹ thì dế đã bám trên mào gà cắn chặt lấy không buông. Thành vừa kinh ngạc vừa mưng, vội bắt lấy dế bỏ vào lồng.

Hôm sau, Thành đem dâng quan huyện. Quan huyện thấy dế quát ầm lên. Thành thuật lại chuyện lạ về con dế ấy, nhưng quan không tin. Đem chọi với các con khác, dế Thành đều thắng. Đem thử với gà quả như lời Thành nói. Quan trên thưởng cho Thành và hiến dế lên tỉnh. Quan tỉnh vui lòng lắm liền bỏ dế vào lồng vàng tiến vua, lại dâng sớ tâu rõ cái hay của nó. Đã vào cung rồi, dế còn phải tỉ thí với khắp các loại dế kì hình dị dạng của cả thiên hạ dâng tiến như dế bướm, dế bọ ngựa, dế dầu, dế "trán tơ xanh"... con nào cũng chịu thua cả. Còn điều kỳ lạ hơn nữa, ở trong cung con dế của Thành mỗi khi nghe tiếng đàn cầm, đàn sắt lại nhảy múa theo các tiết điệu. Hoàng thượng hết sức đẹp lòng, rộng ơn ban thưởng, xuống chiếu cấp cho quan tỉnh ngựa hay, vải quý. Quan tỉnh không quên nguồn gốc dế nên ít lâu sau tiến cử quan huyện là người "tài năng ưu diệt" có thể thăng cấp. Quan huyện sướng quá cho Thành được miễn sai dịch; lại dặn học quan cho Thành thi lấy học vị tú tài.

Còn con Thành hơn năm sau tinh thần trở lại như cũ và kể rằng: Mình đã hóa thành dế, lanh lẹ, chọi giỏi, nay mới thực sống lại. Quan tỉnh biết rõ chuyện ấy, lại hậu thưởng cho Thành. Chỉ mấy năm thôi, Thành đã có ruộng đồng trăm khoảnh, lầu gác nguy nga, trâu dê đầy đàn. Ra khỏi nhà thì áo cừu, ngựa xe vượt cả các bậc quyền thế.

Đại Nam

Hề Thành Liệt là một sĩ nhân ở Thành Ðô. Có một vợ và một thiếp. Người thiếp họ Hà, tiểu tự là Chiêu Dung. Người vợ chết sớm, bèn lấy vợ kế họ Thân, tính đố kỵ nhau, ngược đãi người thiếp họ Hà sinh được một con trai đặt tên là Ðại Nam. Hề lâu nay không trở về, Thân gạt Hà ra, không thổi cơm chung, cứ ngày ngày đong phần thóc cấp cho. Ðại Nam lớn dần, thóc ăn không đủ nữa. Hà phải dệt vải để phụ vào phần ăn, không dám xin thêm. Ðại Nam thấy ở trường học, trẻ con ngâm nga đọc sách, cũng muốn đi học. Mẹ cho là hãy còn bé quá, nhưng cũng dắt đến trường cho học thử, để con chán phải bỏ. Ðại Nam sáng dạ, sức học gấp đôi các trẻ khác. Thầy làm lạ, tình nguyện không đòi tiền học. Hà bèn cho con theo học thầy, biếu lễ chút đỉnh. Ðược hai, ba năm đã học thông kinh sách. Một hôm, đi học về nói với mẹ rằng:

- Trong trường có năm sáu đứa đeo lấy cha xin tiền mua quà bánh, sao con lại không có cha?

Mẹ nói:

- Chờ lúc nào con lớn lên, mẹ sẽ cho con biết.

Ðại Nam hỏi:

- Con nay đã bảy, tám tuổi, bao giờ mới là lớn?

Mẹ bảo:

- Con đến trường đi qua miếu đức quan Thánh thì nên vào lạy, ngài sẽ phù hộ cho chóng lớn.

Ðại Nam tin lắm, ngày hai buổi đi qua đều vào lạy. Mẹ biết thế, hỏi:

- Con khấn điều gì?

Cười đáp:

- Chỉ xin sang năm ngài cho con lớn bằng đứa mười lăm, mười sáu tuổi.

Mẹ cười. Song Ðại Nam sức học và hình vóc đều lớn như nhau, mới mười tuổi mà như mười ba mười bốn tuổi; những văn bài cậu làm, bài nào văn chương cũng trôi chảy. Một hôm, nói với mẹ rằng:

- Trước kia mẹ nói, con lớn lên mẹ sẽ cho biết cha ở đâu, bây giờ đã đến lúc rồi đấy!

Mẹ bảo:

- Chưa đâu, chưa đâu!

Lại hơn một năm nữa, đã như người lớn hẳn hoi, càng gạn hỏi luôn luôn. Mẹ bèn thuật lại ngành ngọn. Ðại Nam nghe nói, thương cảm khôn xiết, múôn đi tìm cha. Mẹ nói:

- Con hãy còn non trẻ quá, cha còn hay mất chưa biết, làm sao tìm được ngay?

Ðại Nam không nói gì mà bỏ đi, đến giữa trưa không về, bèn đến hỏi ở trường, thì thầy nói sau giờ cơm sớm chưa trở lại trường. Mẹ cả kinh cho là Ðại Nam bỏ học, bỏ tiền ăn ra thuê người đi tìm kiếm khắp nơi mà không có tung tích gì.

Ðại Nam ra khỏi cửa, mù mờ chẳng biết nên đi đâu, cứ thẳng đường mà đi miết. Gặp một người đang định đi Quỳ Châu, nói mình họ Tiền. Ðại nam ăn xin và đi theo. Tiền bực đi chậm quá, thuê cho một con lừa, tiền lưng cạn hết. Ðến Quỳ, cùng nhau ngồi ăn, Tiền lén bỏ thuốc vào thức ăn, Ðại Nam mê man bất tỉnh. Tiền chở đến một ngôi chùa lớn, giả thác là con mình, không may bị ốm giữa đường, hết tiền ăn, muốn đem bán cho nhà chùa. Tăng đồ thấy mặt mũi khôi ngô khác thường, tranh nhau mua. Họ Tiền lấy được vàng rồi ra đi. Tăng chúng đổ thuốc cho Ðại Nam, dần dần tỉnh, sư cụ trụ trì biết tin đến xem, thấy tướng mạo rất lạ, gạn hỏi ngọn ngành, lại càng thương, bảo các tăng giúp tiền bạc rồi cho đi.

Có thư sinh họ Tưởng ở Lô Châu, đi thi trượt trở về, trên đường gặp hỏi biết duyên cớ, khen là hiếu, kết làm bạn đồng hành. Ðến Lô Châu, cho ở trong nhà mình hơn một tháng, gặp ai cũng hỏi. Có người mách rằng trong đám thương nhân đi Mân có người họ Hề, bèn từ biệt họ Tường để đi Mân. Tưởng giúp cho áo quần giày dép, xóm làng cũng góp nhau giúp tiền ăn. Trên đường gặp hai khách buôn vải đi Phúc Thanh, mời cùng kết bạn đường. Ðược vài ngày, khách dòm được tiền trong đãy của Ðại Nam, bèn đem đến chỗ vắng, trói tay trói chân, cướp hết mà đi. Vừa có ông cụ họ Trần người Vĩnh Phúc đi qua đấy, cởi trói, dìu lên xe, chở về nhà mình. Ông cụ là một nhà cự phú, thương nhân các trấn phần lớn đều từ cửa nhà cụ mà ra. Cụ dặn các khách buôn Nam Bắc hỏi dùm tin tức của Hề, và giữ Ðại Nam ở lại làm bạn đọc sách với các con mình. Ðại Nam bèn ở lại, không đi đây đi đó nữa, từ đó nhà càng xa, tin tức càng nghẽn.

Hà Chiêu Dung sống cô quạnh ba bốn năm, Thân thị xén bớt phần ăn, đè nén đến điều, bắt phải tái giá. Hà tự làm lấy mà ăn, ý chí không lung lay. Thân ép bán cho một lái buôn Trùng Khánh. Lái buôn bắt cóc đem đi. Ðến đêm, Hà lấy dao cứa cổ. Lái buôn không dám bức, chờ cho vết thương lành lặn, đem bán lại cho một khách buôn ở Diêm Ðình. Ðến Diêm Ðình, Hà tự xẻ lồng ngực, lộ rõ phủ tạng. Người khách buôn hốt quá, lấy thuốc ra buộc vết thương; khỏi rồi, chỉ muốn làm vãi. Người khách buôn bảo rằng:

- Tôi có người bạn buôn, không có bộ phận của đàn ông, chỉ muốn tìm người may vá trong nhà, ở với người ấy cũng không khác gì làm bà vãi, mà lại cũng có thể bù lại chút vốn tôi bỏ ra.

Hà nghe theo. Người khách buôn cho xe đưa đi. Ðến cửa, chủ nhân chạy ra, thì là chàng Hề. Số là Hề đã bỏ nghiệp nho mà đi buôn. Người bạn buôn thấy không có vợ bèn đem Hà thị tặng cho. Gặp nhau kinh ngạc, buồn thương, kể lể những nỗi khổ sở. Hề mới biết là mình đã có con, đi tìm cha chưa về. Hề bèn dặn các quán trọ, dò hỏi tin tức Ðại nam, mà Chiêu Dung tự phận thiếp nay trở thành chính thất. Nhưng trải qua nhiều bước gian truân, yếu đau lắm bệnh, không thể gánh vác được mọi việc, bèn khuyên chồng lấy vợ lẽ, Hề trông gương tai hoạ lúc trước, không chịu nghe theo. Hà nói:

- Nếu thiếp là kẻ tranh giành ngôi thứ ở nơi giường chiếu, thì trong mấy năm nay đã theo người ta mà đẻ con rồi, có còn được đoàn tụ với nhau như ngày nay nữa đâu! Vả chăng cái ách mà người ta đặt lên cổ mình, còn đau đớn âm ỷ ở trong lòng, lẽ nào tới phiên mình mình lại đem đặt lên cổ người khác!

Hề bèn dặn bạn khách buôn mua cho một cô người thiếp già, tuổi hơn ba mươi. Qua nửa năm, khách quả mua được thiếp đem về. Khi vào cửa, thì lại chính là người vợ họ Thân. Người nào người nấy nhìn nhau lạ lùng, kinh hãi. Trước đó, Thân thị ở một mình được một năm, người anh tên là Bao khuyên tái giá. Thân nghe theo, duy ruộng nương thì bị con cháu trong họ ngăn không cho bán. Chỉ bán các vật sở hữu, tích cóp được mấy trăm đồng vàng, đem về nhà anh. Có người lái buôn ở Bảo Ninh, nghe nói thị giàu, có cả một hòm tư trang, bèn lót nhiều tiền cho Bao để lừa phỉnh thị mà cưới làm vợ. Nhưng người lái buôn thì già khụ và tàn phế, chẳng còn sức làm đàn ông nữa. Thân oán giận anh mình, không yên phận làm vợ, hết doạ thắt cổ trên giường, lại đe gieo mình xuống giếng, quấy nhiễu không chịu nổi. Lái buôn giận, lục soát tiền bạc lấy hết, định đem bán làm thiếp, nhưng ai cũng chê đã lỡ thì rồi. Lái buôn ta đi Quỳ Châu, đem thị đi cùng, gặp người khách buôn cùng một cửa hiệu với Hề, vừa may lại trúng ý định, bèn mua mà mang đi. Ðến khi gặp Hề thì vừa thẹn, vừa sợ, nói không ra một tiếng. Hề hỏi lại người khách buôn cùng cửa hiệu cũng biết đại khái, bèn nói:

- Nếu gặp người đàn ông khoẻ mạnh, thì đã ở lại Bảo Ninh, đâu có gặp nhau ở đây nữa! Âu cũng là số cả! Nhưng nay ta mua thiếp chứ không phải cứơi vợ, vì thế, trước hết hãy vào lạy Chiêu Dung để đúng lễ vợ cả vợ bé đã!

Thân lấy làm xấu hổ, Hề nói:

- Xưa kia còn làm vợ cả thì như thế nào?

Hà khuyên nên miễn cho thị, nhưng Hề không chịu, cầm gậy đứng trước mặt cưỡng ép. Thân bất đắc dĩ cũng phải lạy, nhưng trước sau vẫn không chịu hầu hạ, chỉ làm lụng ở phòng khác. Hà đều khoan dung cho hết, cũng chẳng nỡ xét nét siêng năng hay lười biếng. Mỗi khi chuyện trò yến ẩm cùng Chiêu Dung, Hề cứ gọi Thân thị đến hầu hạ bên cạnh. Hà muốn thay thế bằng một con hầu, Hề không nghe. Gặp lúc quan huyện lệnh họ Trần tên Tự Tông, đến nhậm chức ở Diêm Ðịnh. Hề có việc tranh chấp nhỏ với người làng, họ bèn kiện Hề tội cưỡng bức vợ cả làm vợ lẽ. Trần Công không xét, quát mắng đuổi ra. Hề mừng lắm, nói riêng với Hà, ca ngợi ông huyện nhân đức.

Một đêm, canh đã khuya, tiểu đồng gõ cửa vào báo quan huyện lệnh đến. Hề hốt quá, vội vàng mặc áo xỏ giày, thì quan đã vào nhà trong, lại càng hoảng, không biết làm thế nào. Hà nhìn kỹ, vội vàng đi ra, nói rằng: “Con ta đây mà!” Rồi khóc lên. Trần Công bèn sụp xuống đất, nức nở nghẹn ngào. Sô là Ðại Nam từ khi theo họ của cụ Trần đến nay đã nên quan. Lúc ông mới từ kinh đô chuyển đến, có vòng đường đi qua cố hương, mới biết hai mẹ đều đã cải giá, gục đầu thương cảm. Người trong họ biết Ðại Nam đã là quan sang, đem nhà ruộng trả lại cả. Ông cho đầy tớ ở lại để sửa sang, xây cất, mong có ngày cha lại trở về. Rồi được bổ nhiệm ở Diêm Ðình, lại múôn bỏ quan để tìm cha. Cụ Trần ra sức khuyên can. Vừa gặp lúc có người thầy bói bèn xin một quẻ. Thầy bói nói:

- Nhỏ thành lớn, thiếu thành trưởng, tìm trống được mái, tìm một được hai; quẻ này đi làm quan thì tốt.

Trần Công bèn đi nhậm chức. Vì không tìm được hai thân, nên làm quan mà không dám ăn mặn, uống rượu. Ngày hôm ấy, nhận được đơn kiện của người làng, thấy nói đến họ Hề, có ý ngờ, lén sai người tâm phúc đi hỏi han, quả đúng là cha, bèn thừa lúc đêm tối, đi ra theo kiểu “vi hành”; gặp lại mẹ chàng tin thầy bói là thần kỳ. Khi trở về, dặn chớ tiết lộ, đưa hai trăm đồng vàng, bảo bố sửa soạn hành trang trở về làng cũ. Bố tìm đến nơi thì nhà cửa mới mẻ, nuôi thêm hai người hầu ngựa cưỡi, nghiễm nhiên là một đại gia.

Thân thị thấy Ðại Nam giàu sang thịnh vượng thì lại càng hổ thẹn. Người anh là Bao nghe tin, đâm đơn lên quan, muốn giành lại ngôi vợ cả cho em mình. Quan điều tra được thực tình. Giận nói:

- Ðã tham của, khuyên em tái giá hai lần đổi chồng, còn mặt mũi nào mà tranh giành cả lẽ như ngày xưa?

Bèn truyền đem Bao ra đánh roi rất nặng.

Từ đó, danh phận rõ ràng, Thân cam phận bé mọn thờ Hà như chị, thì Hà cũng lấy nghĩa mợ cả đối xử với Thân như em, quần áo, ăn uống không một thức gì tranh phần dùng riêng. Trước kia, Thân vẫn sợ Hà phục thù, đến đây lại càng thẹn thùng, hối hận. Hề cũng quên điều ác ngày xưa của thị, cho phép người nhà gọi bằng thái mẫu, chỉ có phong tặng là không được mà thôi.

Pho Tượng Quan Âm

Vượt qua được ba chặng sông Trường Giang lên mạn ngược quả thật kinh tâm động phách, nguy hiểm vạn phần. Dẫu sao cuối cùng tôi cũng đến được phủ đệ của viên tri phủ từ quan về ở ẩn nơi đây. Ông này là người nổi danh trong giới sưu tầm cổ ngoạn, bút thiếp và tranh vẽ. Có người bảo rằng khi còn tại quyền, ông ta lắm phen lợi dụng thế lực để cưỡng đoạt nhiều món đồ cổ quí giá. Mỗi khi ông ta chủ tâm lấy món gì, dù đồng khí hay tự họa, nếu dùng tiền mua không xong thì phải đủ mọi cách có bằng được mới thôi. Người ta kể rằng nhà kia không chịu bán một món đồ đồng đời Thương, ông ta đã làm cho họ phải nhà tan, người chết. Những điều ấy thật khó mà kiểm chứng, hoặc có khi vì ghét bỏ mà người ta bịa đặt không chừng, nhưng tính thích đồ cổ như chính mạng mình của ông ta thì ai cũng biết. Vả lại, trong bộ sưu tập của ông ta có những món trên đời hiếm thấy.

Viên hưu quan tiếp tôi tại căn phòng phía Tây. Đi qua ba dẫy nhà mới đến khách sảnh. Phòng khách của một người chuyên về cổ ngoạn mà sao chẳng có món gì đặc biệt ngoài những bàn ghế bằng gỗ gụ, trên mặt lót da báo. Nhưng toàn cục xem ra đầy vẻ phong nhã, giản phác chứng tỏ chủ nhà là người có khí tượng cao nhân. Tôi vừa tiếp chuyện, vừa quan sát chiếc bình màu huyết dụ, cắm một cành mai in lên nền núi cao ngoài song cửa. Sát bên phòng khách là một vườn hoa.

Viên tri phủ nói năng thật từ hòa, dễ mến. Có thể vì tuổi già nên ông không còn sắc mắc nhưng cứ như con người trước mặt thì thật khó mà có thể bảo ông ta tàn nhẫn như lời đồn. Ông ta tiếp tôi chẳng khác gì một người bạn cũ đến thăm. Còn tôi thì hơi nóng ruột vì những gì tôi dặn người giới thiệu tôi chuyển lời sao mãi không thấy nhắc tới, hay vị hưu quan vì tuổi già nên đã lẫn rồi chăng?

Tôi quả thực kính trọng con người này, dám về đây tự cất một căn nhà để tiêu dao ngày tháng. Vì thế tôi không thể đường đột mà chỉ lịch sự khen qua về những đồ cổ quí giá ông đã sưu tầm được mà thôi. Ông lão mỉm cười:

- Hôm nay thì người ta bảo là của tôi, nhưng một trăm năm sau thì lại về tay người khác rồi. Ông xem, có nhà nào mà giữ được một món đồ đến hơn trăm năm đâu. Đồ cổ cũng có số mệnh của nó, nếu nó biết, hẳn nó cũng cười chúng ta đấy.

Nói đến đây, dường như thú vị, ông già lấy ra một cái tẩu thuốc ngậm trên môi.

- Thật thế ư?

- Đương nhiên là thế.

Tôi e dè hỏi lại:

- Ngài nói như thế là nghĩa làm sao?

- Bất cứ món nào, hễ là đồ cổ đều có nhân cách riêng, sinh mệnh riêng.

- Tiên sinh nói vậy chẳng lẽ nó cũng có linh hồn ư?

Ông già hỏi ngược lại:

- Thế theo ông thì linh hồn là cái gì? Linh hồn chẳng qua là nói về cái đời sống, mà hễ có đời sống thì hẳn có linh hồn. Ví thử như một nghệ phẩm, người nghệ sĩ đem hết sức tưởng tượng và sinh lực của mình dồn vào đó, có khác gì người mẹ đem khí huyết của mình nuôi cái bào thai. Một khi sinh lực người nghệ sĩ đem vào tác phẩm, thì tác phẩm đó ắt có sinh mệnh, còn hoài nghi gì nữa? Có khi vì sinh mệnh của tác phẩm mà người nghệ sĩ phải mất mạng như trường hợp pho triển ngọc Quan Âm của tôi.

Tôi vốn dĩ chỉ muốn đến xem một bức viết danh quí, trước nay chẳng hề nghe nói đến triển ngọc Quan Âm, mà nói đúng ra chẳng mấy ai biết. Tôi chỉ vô tình hỏi không ngờ lại được nghe một câu chuyện lạ lùng. Khi ông ta nói về lịch sử của pho tượng này, tôi thật cũng chưa biết ông ta nói gì, nhưng cốt ý đến xem chữ nên tìm cách quay trở lại đề tài. Tôi chỉ tay lên một bức thủ cảo:

- Đương nhiên là trong tác phẩm phải thể hiện được phần nào con người của tác giả, và đó chính là một phần của con người lưu cho hậu thế rồi còn gì.

- Ông nói không sai, cái gì tốt đẹp cũng còn lại cái sinh mệnh cũng như nghệ gia có con có cháu vậy.

Viên tri phủ khi nói tới đây xem chừng tin vào quan điểm của mình lắm.

- Nếu như trong khi sáng tạo tác phẩm, nghệ gia phải hi sinh tính mạng của mình thì đó là trường hợp pho tượng ngọc của tiên sinh chăng?

- Pho tượng Quan Âm thì tình trạng lại đặc biệt, tác giả không chỉ vì tác phẩm mà chết, nhưng cái chết của ông ta thật cũng xứng đáng - vì hoàn thành được một tác phẩm như thế rồi nằm xuống thì cũng không uổng một đời.

Ngưng lại một chút, ông ta nói tiếp:

- Nếu ông xem pho tượng này thì sẽ cảm thấy như vì tác phẩm mà ông ta sinh ra, rồi cũng vì tác phẩm mà phải hi sinh tính mệnh. Nếu không như thế, thật không thể nào hoàn thành được tác phẩm này.

- Nếu thế ắt hẳn phải là một vật quí giá phi thường, chẳng hay chúng tôi có duyên được xem chăng?

Tôi phải khẩn khoản đến nửa ngày, ông lão mới bằng lòng cho tôi xem. Những đồ trân quí, ông ta để trên lầu hai, còn riêng pho tượng ngọc thì để tận lầu ba.

- Tác giả của nó là ai vậy?

- Tên ông ta là Trương Bạch, trên đời chẳng ai biết đến đâu. Tôi nghe được câu chuyện về đời ông ta từ nữ trụ trì ở am Kê Minh, và tôi phải hiến cho ni cô ở am này một tài sản lớn - cho mụ trụ trì già giảo hoạt - bà ta mới chịu giao cho tôi pho triển ngọc Quan Âm. Khi đó, người chủ của pho tượng này qua đời rồi, nó vào tay tôi thật đáng hơn ở trong am nhiều.

Pho tượng nhỏ được khắc bằng một khối ngọc cực kỳ trong trắng, đặt trên một cái bệ bằng ngọc xanh trong một cái hộp pha lê ngay giữa lầu ba, chung quanh có song sắt đúc hoa nặng nề, không ai lay nổi.

- Ông thử đi vòng quanh mà xem, mắt pho tượng lúc nào cũng nhìn theo ông đấy.

Nghe ông ta nói, pho tượng này quả thực lạ thường. Tôi đi quanh một vòng, mắt pho tượng đích thực lúc nào cũng theo dõi tôi không ngoa. Thế nhưng hình dáng Quan Âm thật buồn, tưởng như diễn tả đúng vào lúc đang toan bay lên, một tay giơ cao, đầu hơi ngửng về phía sau, một tay phải đưa ra phía trước, linh động chẳng khác gì một nữ nhân hòa ái trong lúc thương tâm, tựa như Quan Âm bồ tát sắp bay lên trời còn cố giơ tay ban phúc cho chúng sinh. Thế nhưng nhìn vào khuôn mặt thì không cảm thấy hình ảnh giáng phúc. Một pho tượng chỉ cao mười tám phân, mà người điêu khắc nên nó có thể làm cho kẻ xem khó có thể quên vì ngay cả y phục cũng đặc biệt sáng tạo.

- Tại sao người ni cô lại có được pho tượng này?

- Ông nhìn kỹ tư thế của điêu tượng này, trong đôi mắt chứa đầy yêu thương, sợ hãi, thống khổ.

Nói tới đây ông ta ngưng lại một chút, rồi thốt nhiên tiếp:

- Thôi mình xuống dưới lầu, tôi sẽ kể cho ông nghe từ đầu đến cuối.

Người ni cô ấy tên là Mỹ Lan, khi sắp chết mới kể câu chuyện này. Cũng có thể bà ni cô trụ trì thuật lại cho tôi không hoàn toàn đúng, có thêm thắt cho câu chuyện thêm sinh động nhưng viên tri phủ ngoài việc đổi một số tên đất, xác quyết với tôi chuyện này không sai. Cũng theo như bà trụ trì, người ni cô này trầm mặc, ít nói, khi còn sống chẳng truyện trò với ai bao giờ.

Vào khoảng hơn một trăm năm trước, Mỹ Lan khi ấy là một thiếu nữ đang tuổi thanh xuân, sống trong trạch đệ quan trấn thành Khai Phong. Nàng vốn là con gái duy nhất của Trương thượng thư, xinh đẹp bội phần. Cha cô là người cực kỳ nghiêm chính, nhưng với con lại cưng chiều vô cùng. Cũng như bao nhiêu quan to thời đó, trong gia phủ có rất nhiều họ hàng thân thích ở, người nào biết chữ thì làm việc quan, người nào dốt nát thì làm việc nhà.

Một hôm, có một đứa cháu họ xa đến Trương phủ. Tên anh ta là Trương Bạch, rất thông minh, hoạt bát đầy vẻ tinh anh. Tuy mới mười bảy tuổi nhưng thân hình cao lớn, ngón tay búp măng dài, không có vẻ nào một cậu bé nhà quê. Cả phủ ai cũng mến anh ta nhưng ngặt vì không biết chữ nên phu nhân giao cho Trương Bạch việc tiếp khách.

Anh ta hơn Mỹ Lan một tuổi, cả hai đều còn trẻ con, thường hay chơi đùa với nhau. Trương Bạch hay kể chuyện đồng quê cho Mỹ Lan nghe và cô nàng thích lắm. Qua độ hơn mười ngày, mọi người đã bớt vồn vã, phần vì chàng ta tính tình lạ lùng thích tìm nơi cô tịch, phần khác lơ đễnh hay quên việc, nên thường bị mắng. Vì thế phu nhân cho anh ta ra coi vườn và xem chừng Trương Bạch thích việc này hơn.

Trương Bạch vốn là kẻ trời sinh thích sáng tạo, không thích theo lối người thường học hành. Được sống chung với chim chóc, cỏ hoa có vẻ thích thú, vừa đi vừa gọi, tưởng như một vì chúa tể quần sinh. Nếu không ai để ý đến anh chàng thì anh ta lại làm được nhiều điều lạ. Không ai dạy mà anh ta biết vẽ. Khi rảnh rỗi anh ta làm được những chiếc đèn lồng tuyệt đẹp, hay lấy đất sét nặn chim nặn thú trông như sống thực.

Đến năm mười tám tuổi, xem ra anh ta vẫn chẳng có gì gọi là sở trường. Thế nhưng vì đâu mà lôi cuốn Mỹ Lan, nàng cũng không biết nữa. Trương Bạch thân hình cao ráo, thanh tú, ngoài cha cô ai ai cũng mến gã. Hai anh em họ ngày càng thân nhau, nhưng một điều rõ ràng là hai người cùng họ làm sao có thể lấy nhau.

Một hôm, Trương Bạch nói với phu nhân anh ta muốn đi kiếm nghề để học. Anh ta đã kiếm ra một cửa hiệu bán ngọc khí, và đã nói với người ta để xin học việc. Phu nhân thấy vậy cũng ưng vì càng ngày anh ta và Mỹ Lan xem càng thân thiết quả không hay. Tuy nhiên Trương Bạch vẫn sống trong phủ, tối tối lại về và càng có nhiều chuyện để kể cho Mỹ Lan nghe.

Phu nhân mới nói với con rằng:

- Mỹ Lan, con và biểu huynh con đều đã lớn khôn, tuy là anh em họ, nhưng hai người không được gặp nhau nữa.

Nghe mẹ dặn, Mỹ Lan càng nghĩ càng buồn. Trước đây nàng chưa bao giờ nghĩ rằng mình đã yêu Trương Bạch. Tối hôm đó, nàng vào hoa viên gặp anh ta. Ngồi dưới ánh trăng, trên một phiến đá, Mỹ Lan nói cho Trương Bạch nghe lời mẹ.

- Này anh Bạch, mẹ em dặn là em không được gặp anh nữa.

Nói đến đây, hai má nàng ửng hồng.

- Đúng rồi, chúng ta đều đã lớn.

Cô gái cúi đầu làm như tự hỏi mình:

- Thế ư, vậy là thế nào?

Trương Bạch choàng một tay qua lưng Mỹ Lan nói:

- Thế có nghĩa là em càng ngày càng làm cho anh say mê, càng ngày càng làm cho anh muốn gặp. Nếu em ở bên cạnh anh, anh thấy vui sướng, nếu em không ở bên anh, anh thấy tịch mịch thê lương.

Mỹ Lan thở dài hỏi lại:

- Thế bây giờ anh vui lắm ư?

Giọng Trương Bạch trở nên trìu mến:

- Phải rồi. Có em ở bên cạnh, tâm hồn anh xao xuyến khác thường. Mỹ Lan, em là của anh mà anh cũng là của em.

- Chắc anh biết rồi, em không thể nào lấy anh được. Chẳng bao lâu cha mẹ em sẽ gả chồng cho em.

- Đừng em, đừng nói chuyện ấy.

- Thế nhưng anh cũng nên biết như thế chứ.

- Anh chỉ biết cái này thôi.

Nói đến đây Trương Bạch kéo Mỹ Lan vào lòng:

- Từ thuở khai thiên lập địa, em vì anh mà sinh ra, anh cũng vì em mà có mặt trên đời, anh không bao giờ để em đi. Anh yêu em không biết bao nhiêu mà kể.

Mỹ Lan vùng ra khỏi tay Trương Bạch, đi một mạch về phòng.

Tình yêu chớm nở trong tuổi thanh xuân thật bồi hồi, mà khi cả hai bên đều hiểu rằng họ ở trong một hoàn cảnh ngang trái thì lại càng thấy thấm thía mùi vị vừa ngọt ngào, vừa đắng cay. Đêm hôm ấy, Mỹ Lan trằn trọc, khi thì nghĩ đến lời mẹ dặn, khi thì nhớ lại những gì Trương Bạch nói với mình lúc ban chiều, như chỉ một đêm mà nàng trở nên khác hẳn. Hai người càng muốn thoát ra khỏi sợi dây ái tình, càng thấy mình bị trói chặt. Cả hai cùng cố tránh mặt nhau. Ba ngày sau, Mỹ Lan e e ấp ấp đến kiếm Trương Bạch. Vì hai người chỉ lén gặp nhau, lửa tình càng thêm mãnh liệt. Hôm ấy, ái tình của tuổi xuân, êm đềm của nuối tiếc, sâu xa của thề nguyền, ngọt ngào hơn, mà cũng đắng cay hơn. Hai người cùng biết rằng họ không thể nào cưỡng lại được quyền của đấng sinh thành. Nhưng họ không biết phải làm gì, chỉ biết yêu.

Cứ như phong tục thời ấy, cha mẹ Mỹ Lan ngấm nghé một thư sinh cho con nhưng nàng cực lực từ chối. Có lần nàng còn nói nàng không muốn lấy chồng khiến cho mẹ nàng giật mình. Nhưng Mỹ Lan tuổi cũng còn nhỏ, nên hai ông bà cũng có ý muốn để nàng ở nhà thêm vài năm.

Trong thời gian ấy, Trương Bạch vẫn tiếp tục đi học nghề. Trong nghề khắc tượng, anh ta cảm thấy mình có thiên tư, chẳng khác gì một người được sinh ra để làm việc này, nên chẳng bao lâu đã trở thành một người thợ xuất sắc. Anh ta mê điêu khắc lạ lùng, mỗi khi làm việc quên ăn quên ngủ, ngay cả những chỗ tỉ mỉ nhất cũng thập toàn thập mỹ, khiến cho ông thầy dạy cũng phải kinh ngạc. Những nhà phú quí càng ngày càng đến đặt mua nhiều hơn.

Một hôm, nhân lễ thọ của hoàng hậu, cha Mỹ Lan quyết định dâng một lễ vật tuyệt hảo, nên tìm được một khối ngọc lớn, loại thượng đẳng. Theo ý của phu nhân, ông tự mình đem đến nơi Trương Bạch làm việc nói rõ nguyên nhân. Khi xem những tác phẩm của anh ta, ông càng thán phục.

- Này cháu, đây là một lễ vật dâng lên hoàng hậu, nếu cháu làm khéo, ta sẽ thưởng một món tiền lớn.

Trương Bạch xem kỹ khối ngọc, lấy tay vuốt ve tảng đá chưa từng đẽo gọt, trong lòng vui sướng vô cùng. Chàng nói rằng đã lâu vẫn mong có cơ hội tạc một pho tượng Quan Âm, và tin rằng sẽ hoàn thành một nghệ phẩm cổ kim chưa từng có.

Trong khi điêu khắc, Trương Bạch không cho ai xem và khi xong, quả nhiên pho tượng Quan Âm là một tác phẩm tuyệt hảo, đúng qui củ từ xưa truyền lại. Từ nghi thái, phong tư, chỗ nào cũng hoàn toàn. Hơn nữa chàng còn làm được một điều chưa ai có là ở hai tai pho tượng khắc hai vòng đeo chuyển động được. Trái tai cũng thật tinh xảo, chỗ dày mỏng, chỗ lên xuống chẳng khác gì người thật. Thêm một nét, khuôn mặt pho tượng y hệt Mỹ Lan.

Viên thượng thư vui mừng không sao kể xiết. Trong bao nhiêu bảo vật của hoàng cung, không gì có thể sánh với pho tượng này. Ông bảo:

- Khuôn mặt cháu khắc sao giống hệt Mỹ Lan.

Trương Bạch đắc ý đáp:

- Dạ đúng vậy. Chính nàng là cảm hứng cho cháu.

Ông quan thưởng cho Trương Bạch một món tiền lớn, rồi tiếp:

- Thôi, từ nay sự thành danh của cháu không còn là vấn đề nữa. Ta đã cho cháu cơ hội này, vậy phải biết ơn ta nhé.

Trương Bạch thế là đã nổi tiếng, nhưng điều tâm nguyện của chàng lại chưa thành. Thành danh mà làm gì nếu không có được Mỹ Lan. Chàng biết rằng nguyện vọng ấy không sao thành được, nên làm việc không còn hứng thú, nhiều mối hàng lớn cũng chẳng buồn nhận. Chẳng biết sao hơn, ông chủ phường khắc chỉ còn có nước thở dài.

Đến nay, Mỹ Lan đã hai mươi mốt tuổi, đáng lẽ phải là tuổi vui tươi của một thiếu nữ chưa chồng. Đúng lúc ấy, có người đã mai mối nàng cho một gia đình rất thế lực, và nàng không còn cách gì lần khân được nữa. Chẳng bao lâu hai bên đã cử hành lễ đính hôn, troa đổi lễ vật cực kỳ long trọng.

Mỹ Lan và Trương Bạch thất vọng vô cùng, tưởng muốn phát điên nên bàn nhau trốn đi. Mỹ Lan tin rằng tài nghệ của Trương Bạch chắc đủ nuôi thân nên chỉ đem theo một ít tư trang, tính sẽ đi đến một nơi thật xa sinh sống. Hai người định một đêm kia sẽ theo vườn hoa phía sau mà đi. Nào ngờ đêm ấy, một lão bộc nhìn thấy hai người ở trong hoa viên nên đâm nghi, vì chuyện hai người thì cả nhà ai ai cũng rõ. Ông lão không muốn để cho phủ quan thượng thư mang tiếng xấu nên ra giữ chặt Mỹ Lan lại. Không cách gì hơn, Trương Bạch xô lão ra. Tuy lảo đão, lão nhất định không buông, chàng bèn đấm cho một quả. Ông ta ngã văng vào tòa giả sơn, đầu đập vào một cạnh đá, gục xuống tắt thở. Hai người thấy ông ta chết, hoảng sợ vội chạy ngay.

Sáng hôm sau, trong nhà phát hiện hai người tư bôn, ông lão bộc táng mệnh. Quan thượng thư giận đến cực điểm:

- Ta nhất định sẽ cho tìm khắp thiên hạ đem chúng nó về giải quan trị tội.

Khi ra khỏi kinh đô, đôi nhân tình không dám ngừng bước, cứ đi thẳng nhưng tránh những thành thị lớn. Vượt sông Trường giang, vào đến Giang Nam. Trương Bạch nói với Mỹ Lan:

- Anh nghe nói Giang Tây có nhiều ngọc đẹp.

Mỹ Lan ngần ngừ hỏi lại:

- Anh vẫn còn định khắc ngọc sao? Nét khắc của anh ai cũng nhận được, chỉ nhìn qua là biết thôi.

Trương Bạch nói:

- Thế mình chẳng định khắc ngọc kiếm sống là gì?

- Đó là chuyện tính khi lão Đái không chết. Bây giờ ai cũng cho là mình mưu sát lão. Anh làm việc khác không được sao? Như làm đèn lồng hay nặn đất sét anh vẫn làm thuở nào?

- Chẳng lẽ anh lại làm những việc ấy. Anh đã nổi danh khắc ngọc rồi mà!

- Thì chính là phiền ở chỗ đó.

- Anh nghĩ rằng mình không nên lo quá. Giang Tây cách kinh đô cả hơn nghìn dặm, chắc chẳng ai biết đến mình đâu.

- Hay anh đổi cách đi, đừng khắc cái gì thật đẹp, chỉ cốt sao bán được là đủ rồi.

Trương Bạch cắn môi, không nói một lời. Chẳng lẽ chàng cũng như bao nhiêu người thợ ngọc tầm thường khác, ẩn tính mai danh, sống thừa sống nhục? Chính mình hủy diệt nghệ thuật của mình chăng? Hay để cho nghệ thuật hủy diệt mình? Quả thực chàng chưa hề nghĩ đến tình cảnh này.

Thế nhưng trực giác của đàn bà không sai. Mỹ Lan e rằng điêu khắc những vật tầm thường không hợp ý chồng. Sau khi qua khỏi Trường Giang, một sức mạnh vô bờ lôi cuốn Trương Bạch khiến hai vợ chồng theo đường cái quan đi Giang Tây. Từ Giang Tây họ đi qua những ngọn núi hùng vĩ tỉnh Quảng Đông, qua các đồng bằng. Hai người không ngừng ở Nam Xương mà đi thẳng tới Cát An. Khi tới Cát An, người vợ lại năn nỉ xin chồng cải trang. Xứ Giang Tây nổi tiếng về đất sét, có những đồ sứ tuyệt đẹp. Nhưng làm đồ sứ Trương Bạch cũng không hài lòng, chàng nói:

- Nếu có làm đồ sứ, người ta cũng nhận ra tài của anh. Ở đây có làm đồ ngọc chắc cũng không sao đâu.

Lời đề nghị đó ngược với linh tính của đàn bà. Mỹ Lan chẳng biết sao hơn, đành chiều ý chồng. Nàng nói:

- Anh ơi, vì em trăm lần ngàn lần anh đừng nổi danh nữa nhé. Hai đứa mình hiện đã khổ sở đến mức này, nếu như anh lại nổi danh thì mình chỉ còn có chết mà thôi.

Mỹ Lan sợ mà nói như thế, nhưng nàng cũng hiểu rằng, chồng nàng nếu không hoàn thành những vật thập toàn thập mỹ, thì đâu chịu cam lòng. Chàng là người yêu thích vẻ đẹp, có trình độ nghệ thuật cao siêu, lại tự hào về tác phẩm của mình, thêm lòng đam mê ngọc khí. Tránh sai dịch bắt bớ hay không là ở chàng. Thật là đầy đắng cay trong cái bi kịch này.

Trương Bạch lấy châu báu của vợ bán đi, mua về đủ các loại ngọc khác nhau mở một tiệm nhỏ. Mỹ Lan xem chồng làm, thường phải nói:

- Thôi đẹp rồi, người khác không ai làm đẹp đến thế đâu. Vì em đi, anh đừng phí công thêm làm gì, để vậy thôi.

Trương Bạch chỉ còn có nước nhìn nàng mà chua chát mỉm cười. Lúc đầu, chàng chỉ tạc các vòng đeo tai thường thôi. Thế nhưng mỗi loại ngọc có cái hồn riêng của nó, mỗi loại phải dùng một cách khác nhau. Dùng ngọc khắc vòng đeo tai, dẫu đẹp mấy cũng chẳng khác gì đào tiên cho khỉ hái, không đáng gì. Thành thử chàng vẫn lén - lúc đầu trong lòng bất an nên chàng phải dấu vợ - điêu khắc đôi ba vật đẹp tuyệt trần, để lộ chút thiên tài. Vừa làm xong là có người mua ngay, thật là mèo mù vớ cá rán. Mỹ Lan lại cầu khẩn chồng:

- Anh ơi, em lo quá. Tên tuổi anh mỗi lúc lại nổi như cồn. Em lại đang có thai, anh nên giữ gìn một chút mới phải.

- Có con ư? Thế thì mình là một tiểu gia đình rồi còn gì?

Chỉ trong khoảnh khắc, chàng thấy những gì Mỹ Lan lo lắng chẳng qua chỉ như người nước Kỷ lo trời sập, lập tức tiêu tan. Mỹ Lan nói một mình:

- Mình sống như thế này thật hạnh phúc.

Những gì Mỹ Lan nói không sai. Chỉ một năm sau, danh của tiệm Bảo Hòa đã vững. Bảo Hòa là tên cửa hiệu của Trương Bạch. Những người giàu có trong vùng ai cũng lại mua ngọc khí của chàng, cả thành Cát An ai cũng biết. Ngay cả những người từ tỉnh đi ghé ngang qua thấy ngọc đẹp cũng mua.

Một hôm, có một người vào tiệm, nhìn quanh quất một hồi rồi hỏi chàng:

- Có phải ông là Trương Bạch, bà con của Trương thượng thư ở phủ Khai Phong không?

Trương Bạch nằng nặc chối, nói từ trước tới nay chưa tới phủ Khai Phong bao giờ. Người đó có vẻ nghi, chăm chú nhìn Trương Bạch một hồi rồi nói:

- Nghe giọng ông đúng là người phương Bắc, thế ông đã có vợ chưa nhỉ?

- Có vợ hay chưa có vợ liên quan gì đến ông?

Mỹ Lan ở trong nhà ghé mắt qua khe cửa dò thám. Khi người nọ đi khỏi, nàng cho chồng hay gã là một viên thư lại trong phủ của thân phụ nàng. Chính đồ ngọc của Trương Bạch đã làm lộ thân thế chàng.

Hôm sau, người đó lại đến. Trương Bạch nói:

- Tôi nói cho ông hay, tôi không hiểu ông định làm trò gì?

- Tốt lắm. Để tôi nói cho ông hay về gã Trương Bạch này. Y phạm tội mưu sát, lại còn dụ dỗ tiểu thư con quan Thượng Thư, ăn cắp châu báu vàng bạc. Nếu như ông muốn cho tôi tin ông không phải là Trương Bạch thì mời bà nhà ra cho tôi xin một chén trà. Nếu như không phải là Trương tiểu thư thì thôi.

- Tôi mở tiệm ở đây làm ăn đứng đắn, hẳn hòi. Nếu ông muốn làm phiền tôi, tôi sẽ đuổi ông ra khỏi cửa.

Người nọ cười khẩy một tiếng rồi đi ra. Vợ chồng Trương Bạch vội vàng thu nhặt những ngọc khí và đồ quí giá, thuê một cái thuyền gỗ, trời chưa sáng đã vội vàng ngược giòng sông chèo đi. Lúc đó đứa con mới được ba tháng.

Âu cũng là vận mệnh xui xẻo, hay trời làm ra thế nên đến Cống Huyện thì đứa nhỏ khởi bệnh, không thể không ngừng lại. Một tháng trời đi thuyền tiền bạc tiêu hết sạch. Trương Bạch đành phải lấy ra một món ngọc khí tuyệt đẹp bán cho một gã lái buôn họ Vương. Đó là một con chó, mắt nửa thức, nửa ngủ.

Tên lái buôn vừa thấy đã reo lên:

- Ôi chà, đây là ngọc của tiệm Bảo Hòa đây mà ! Không đâu có thể làm được mà cũng không đâu bắt chước được.

Trương Bạch mừng thầm:

- Vâng, tôi mua ở Bảo Hòa đấy.

Cống Huyện nằm ở chân một dãy núi cao. Lúc đó trời đang mùa đông. Trương Bạch càng thích cảnh trí và không khí trong lành. Hai vợ chồng bàn nhau ở lại đây. Khi đứa nhỏ khỏi bệnh, Trương Bạch lại bắt đầu tính chuyện mở tiệm. Cống Huyện là một thành phố lớn, nên ho đi cách đó chừng hai mươi dặm cho chắc ăn. Trương Bạch bàn với vợ bán đi một món ngọc khí làm vốn. Mỹ Lan hồ nghi hỏi:

- Tại sao anh lại phải bán ngọc?

- Có thế mới đủ tiền mua hàng.

- Kỳ này anh nên nghe lời em, mở một tiệm bán đồ sứ.

- Sao lại ...

Chưa dứt câu, Trương Bạch đã hiểu ý vợ.

- Thì tại anh không nghe lời em, suýt nữa mình bị bắt. Đồ ngọc với anh chẳng khác gì tính mệnh, bộ anh không nghĩ đến vợ con hay sao? Đợi bao giờ êm êm hãy nghĩ tới việc khắc ngọc.

Bất đắc dĩ, Trương Bạch phải mở tiệm bán đồ sứ, bán những tượng đất nung. Chàng nặn vài trăm tượng Phật. Mỗi đầu tháng, khi thấy những lái ngọc đi từ Quảng Châu qua, lòng chàng lại nao nao nghĩ đến điêu khắc. Khi đi ngang qua các tiệm bán ngọc, nhìn những món đồ xấu xí bày bán, máu nóng lại nổi lên bừng bừng. Về nhà nhìn thấy những tượng đất đang phơi, chàng lấy ngón tay di nát cả.

- Hừ, đất bùn. Ta có thể khắc ngọc mà sao phải đi nặn đất bùn.

Nhìn thấy chồng lên cơn giận dữ, Mỹ Lan sợ lắm vội khuyên:

- Thế anh không sợ chết sao?

Một hôm, gã lái buôn họ Vương gặp Trương Bạch, mời chàng vào nhà uống nước, mong mua thêm được vài món ngọc. Trương Bạch hỏi:

- Ông đi đâu về thế?

- Tôi đi Cát An về đây.

Gã mở bọc ra, nói:

- Này ông xem, đồ của tiệm Bảo Hòa bây giờ thế này đây.

Trương Bạch lặng thinh không trả lời. Khi gã Vương lôi ra một con khỉ bằng mã não, chàng la lên:

- Đồ giả rồi.

Gã Vương thở dài:

- Ông nói không sai. Mặt con khỉ chẳng có thần khí. Nghe ông nói, ông có vẻ rành ngọc lắm nhỉ.

Trương Bạch lạnh nhạt đáp:

- Thì đương nhiên tôi rành.

- A, thì ra thế. Hôm trước ông có bán cho tôi một con chó, chẳng dấu gì ông, tôi bán lời gấp trăm lần. Ông còn món nào khác không?

- Để tôi cho ông xem con khỉ bằng mã não thứ thiệt của tiệm Bảo Hòa.

Trương Bạch dẫn gã Vương về nhà, cho y xem con khỉ mã não chàng khắc hồi ở Cát An. Gã lại năn nỉ hết lời để chàng bán lại cho món ngọc đó. Hôm sau, họ Vương đến Nam Xương khoe ầm lên với các bạn ngọc khác là y mua lại được từ tay một gã bán đồ sứ, rồi chép miệng:

- Người như thế mà có những món ngọc đẹp, kể cũng lạ.

Độ sáu tháng sau, ba người nha dịch đến tiệm, đem theo công sự bắt hai vợ chồng giải về kinh đô. Tên bí thư của Trương thượng thư cũng đi theo. Trương Bạch nói:

- Để chúng tôi lấy ít đồ mang theo.

Mỹ Lan cũng tiếp lời chồng:

- Chúng tôi đem ít đồ cho cháu bé.

Rồi dọa thêm:

- Các ngươi đừng quên rằng nó là cháu ngoại quan thượng thư, đi đường nếu nó bệnh, các ngươi phải chịu trách nhiệm.

Những tên nha dịch vốn đã được lệnh quan thượng thư đi đường phải lo cho chu đáo nên đâu dám từ chối. Trương Bạch và vợ ra đằng sau, bọn công sai chờ đằng trước. Quả thực là một cuộc biệt ly đau lòng. Trương Bạch hôn vợ, rồi hôn con, theo cửa sổ thoát ra ngoài. Mỹ Lan nói vói theo:

- Đời em lúc nào cũng yêu anh, nhưng anh đừng khắc ngọc nữa nhé.

Hai người nhìn nhau một lần cuối. Khi Trương Bạch đã đi khuất, Mỹ Lan mới quay vào. Nàng cố gắng trấn tĩnh, một mặt dọn đồ, một mặt giả vờ nói chuyện với chồng. Nàng ra ngoài giao cho một tên nha dịch bế con rồi quay vào trong. Đến khi bọn công sai khởi nghi, xông vào tìm thì Trương Bạch đâu còn nữa.

Khi Mỹ Lan về đến nhà, mẹ nàng đã mất, cha đã già đi nhiều. Nàng quì xuống xin lỗi cha, nhưng quan thượng thư mặt lạnh như tiền. Chỉ đến khi trông thấy đứa cháu ngoại, ông mới dịu đi một chút. Cũng may, Trương Bạch đã trốn được, chứ nếu như bắt được y, ông cũng không biết xử sao cho phải. Thế nhưng ông vẫn không thể nào tha thứ cho Trương Bạch được vì y đã làm hỏng đời con ông, làm gia đình ông tan nát.

Qua mấy năm, không ai nghe tin tức gì của Trương Bạch cả. Một hôm quan tri châu họ Dương ở Quảng Châu lên kinh đô. Trương thượng thư thiết yến tiếp Dương tri châu tẩy trần. Trong khi hai người đàm đạo, Dương tri châu cho hay ông có mang theo một pho tượng ngọc cực quí giá, không kém gì pho tượng Quan Âm mà Trương thượng thư dâng lên hoàng hậu ngày nào. Dáng cũng tương tự, mà nét khắc cũng không sai bao nhiêu. Ông định dâng lên hoàng hậu để cùng với pho tượng cũ thành một đôi.

Bàn tiệc ai cũng hoài nghi vì không ai tin có thể có người khắc được pho tượng đẹp như thế. Dương tri châu cao hứng:

- Thế thì để tôi đem ra mời quí vị coi.

Khi bữa ăn xong, bàn đã dọn dẹp, Dương tri châu sai lính hầu mang ra một hộp gỗ bóng như mun, mở đem pho tượng Quan Âm để trên bàn. Cả phòng bỗng nhiên không một tiếng động. Chính là pho tượng Quan Thế Âm đại từ, đại bi với nét buồn mênh mang.

Một tì nữ vội vàng vào báo cho Mỹ Lan hay. Khi Mỹ Lan từ vườn sau lên thoạt nhìn pho tượng để trên bàn, mặt nàng bỗng xanh như tàu lá. Nàng lẩm bẩm:

- Chàng lại khắc ngọc nữa rồi. Chính là của chàng.

Cố gắng trấn tĩnh, Mỹ Lan lắng nghe xem Trương Bạch còn sống hay đã chết. Một người khách hỏi:

- Chẳng hay người nghệ sĩ ấy còn sống chăng?

Dương tri châu đáp:

- Con người ấy kể ra thật là lạ lùng. Y không phải là một thợ ngọc thường. Tôi biết được y là do cô cháu gái kể lại. Khi cháu tôi đi lấy chồng có mượn của nhà tôi một cái vòng đeo tay cổ. Vòng này nguyên có một đôi, trên có khắc hai con rồng quấn vào nhau, cực kỳ tinh mỹ. Cô ta sơ ý chẳng may đánh vỡ, sợ lắm vì không thể nào mua đâu mà đền, mà cũng chẳng có ai khắc đẹp như vậy. Cô ta đi lùng khắp các tiệm bán ngọc, nhưng đâu đâu cũng nói là bây giờ không ai có thể làm được như thế. Không biết sao hơn, cô nàng mới dán giấy khắp phố để tìm người.

Không bao lâu, có một người áo quần lam lũ đến nhận làm. Khi đem chiếc vòng ra cho y xem, y bảo y có thể làm được và quả nhiên y khắc một chiếc vòng y hệt chiếc kia. Đó là lần đầu tôi nghe nói đến y.

Sau đó, khi tôi nghe nói hoàng hậu đang đi tìm người nào có thể khắc được một pho tượng giống như pho tượng Quan Âm bà đang có để thành một đôi, tôi nghĩ ngay đến người này. Tôi mua được ở Quảng Châu một khối ngọc tuyệt đẹp nên mời gã ta lại. Khi gã đến, có vẻ như sợ hãi lắm chẳng khác gì một tên ăn trộm bị bắt. Tôi phải mất biết bao công phu mới nói cho y hay là muốn khắc một pho tượng Quan Âm. Khi tôi nói về đôi vòng tai có thể xoay được dường như gã có điều úy kị.

Gã đi chầm chậm vòng quanh khối ngọc, xem kỹ mọi góc độ một lần. Tôi hỏi:

- Ông thấy sao? Khối ngọc này có tốt không?

Anh ta ngẩng đầu nhìn tôi, giọng lộ chút tự kiêu:

- Khối ngọc này dùng được, khắc tốt lắm. Đã bao nhiêu năm nay, tôi đi kiếm một khối ngọc trắng, nay đã thấy đây. Đại nhân, tôi sẽ khắc một pho tượng, nhưng không muốn ai làm rộn - tôi muốn làm gì thì làm, đừng ai quấy rầy tôi.

Tôi dọn cho anh ta một phòng, trong phòng chỉ giản dị có một cái giường và một cái bàn cùng các vật dụng cần thiết. Người này lạ thật, chẳng nói chuyện với ai, còn có vẻ thô lỗ với những người đem đồ vào cho y.

Khi y bắt đầu vào việc, tưởng chừng như có thần linh nhập vào người. Sau năm tháng làm việc, y cũng không cho tôi ngó tới một lần. Lại thêm ba tháng nữa, y mới đem thành phẩm ra ngoài. Tôi vừa nhìn thấy, chân tay bủn rủn đứng không vững, chẳng khác gì quí vị mới rồi. Y nhìn tác phẩm của mình, mặt lộ một vẻ vô cùng kỳ bí. Y nói:

- Đại nhân, tôi muôn vàn cảm tạ ngài. Pho tượng này chính là lịch sử đời tôi.

Tôi chưa kịp đáp lời, gã đã đi mất dạng. Tôi cho người đi tìm nhưng chẳng thấy anh ta đâu, biến mất vô hình vô ảnh.

Bỗng một tiếng đàn bà rú lên thảm thiết từ trong nhà đưa ra, nghe rợn người. Tiếng kêu như xé ruột gan, ai nấy đều chết lặng. Lão thượng thư lật đật chạy vào, Mỹ Lan đã nằm sóng sượt dưới đất. Một người bạn thân cận với gia đình thượng thư, thấy Dương tri châu nghi hoặc, ghé tai nói nhỏ:

- Tiếng kêu đó chính là của tiểu thư Mỹ Lan, con gái quan thượng thư. Tôi có linh cảm rằng, người nghệ sĩ này chẳng ai xa, chính là chồng của tiểu thư tên Trương Bạch.

Khi Mỹ Lan tỉnh lại, nàng chạy ra như mê như tỉnh, vuốt ve pho tượng. Nàng ôm lấy pho tượng vào lòng, tưởng như ôm Trương Bạch trong tay. Ai ai cũng thấy, khuôn mặt của pho tượng và Mỹ Lan y hệt nhau, chính là một người.

Khi Dương tri châu nghe xong câu chuyện, ông nói với Mỹ Lan:

- Này cháu, cháu giữ lấy pho tượng này. Ta kiếm một lễ phẩm khác dâng lên hoàng hậu cũng được. Pho tượng này sẽ làm cháu nguôi ngoai phần nào. Cháu chưa gặp lại chồng, có pho tượng này cũng đỡ nhớ.

Từ ngày đó, mỗi ngày Mỹ Lan thêm tiều tụy, như người nhiễm phải một căn bệnh lạ lùng. Khi ấy, Trương thượng thư chỉ mong tìm ra Trương Bạch, bao nhiêu chuyện cũ bỏ qua hết. Mùa xuân năm sau, Dương tri châu cho người đến báo, ông đã tìm đủ mọi cách mà không sao tìm ra được tung tích của chồng Mỹ Lan.

Hai năm qua, một cơn ôn dịch lan đến toàn thành. Đứa con của Trương Bạch cũng nhiễm bệnh chết. Mỹ Lan cắt tóc, vào một am ni cô xuất gia, chỉ mang theo duy nhất pho tượng Quan Âm. Cứ như bà ni cô trụ trì, nàng sống một mình một thế giới riêng, không cho một ai vào phòng, kể cả chính bà.

Bà ni cô cũng kể cho quan thượng thư nghe, đêm đêm nàng hay ngồi viết những lá thư dài đem đốt trước pho tượng. Nàng không tiếp xúc với ai, nhưng tựa hồ rất sung sướng mà cũng chẳng làm hại ai.

Mỹ Lan tu ở đó chừng hai mươi năm thì chết. Pho tượng Quan Âm bằng xương bằng thịt tuy chết đi nhưng pho tượng ngọc vẫn còn lại với nhân gian.

Tế Điên Hoà Thượng

Đôi Lời Tự Minh

Nhân một ngày đầu xuân, lang thang trên nẻo đường Chợ Lớn, chợt thấy một hiệu sách bán các loại sách cũ bằng chữ Nho. Tạt vào xem, nhìn khắp các giá sách thấy có một cuốn đã cũ, ngoài bìa đề TẾ ĐIÊN HOÀ THƯỢNG, với lấy dỡ xem thì ra là chuyện của Lý Tu Duyên, một vị La Hán giáng trần, làm nhiều điều phúc thiện nhưng lại giả điên để che mắt tục. Thấy cuốn chuyện hay hay có tính cách vượt ngoài "ngã chấp" thế thường, tỷ như chuyện Lỗ Trí Thâm nên phỏng dịch để rộng đường phán định.

Tế Điên Tăng vốn là một vị Hòa Thượng hữu danh trong Phật. Giáo Sử thời Tống, luật học uyên thâm, trí thức siêu việt, hành động tuyệt kỳ.

Tự cổ chí kim người ta thường khổ tâm thắc mắc hai thái cực Đạo, Đời đôi khi hiểu lầm đến thành xa cách. Truyện Tế Điên Tăng chính là một cái gạch nối dung hòa cả Đạo lẫn Đời bởi hành động có lúc vượt ngoài khuôn khổ thuyền gia mà đó mới chính là tác động của khách tu thuyền.

Đức và tài là hai điều kiện nghìn xưa mến chuộng mà nghìn sau cũng noi gương. Đọc chuyện Tế Điên Tăng chúng ta sẽ thấy được cái tâm đức cao sáng tuyệt vời và sẽ phải tán thưởng cao tài của người đạt đạo.

Nếu đã có một vị Tăng ca vang câu:

Tri thời, đạt thế phương toàn thiện

Diệu ngộ tam thừ vị tất nan.

Nghĩa là:

Biết thời, biết thế, đôi đường vẹn,

Bước tới Liên Đài cũng dể thôi.

Thì quả là vị đó đã đạt được cái tinh thần cao đẹp của Tế Điên Tăng vậy.

Cuốn chuyện đã nát nhầu, câu văn lại quá cổ, người dịch lại không có ý kiến gì thêm bớt cho đượm nồng hương vị tân phong. Lẽ dĩ nhiên có thể là một món ăn quá cũ, nhàm chán cho những ai ưa loại tân tiến. Nhưng dịch giả còn một chút hy vọng nơi độc giả khoan lượng không tìm cái đẹp ở câu văn mà tìm cái cao tuyệt ở hành động và ý tứ.

Cư Sĩ Khánh Vân

HỒI THỨ NHẤT

Núi Thiên Thai Mậu Xuân Cầu Tự

Chùa Quốc Thanh La Hán Giáng Trần

Đây nói chuyện về đời Tống niên hiệu Thiệu Hưng năm đầu, trong trào có một người họ Lý tên Khiêm, điển tự Mậu Xuân làm quan tới chức Kinh Doanh Tiết Độ Sứ, nguyên quán ở Thái Châu thuộc tỉnh Triết Giang có vợ là Mông Thị. Cả hai vợ chồng đều là người hiền lành hay làm việc bố đức thi ân, cứu giúp những người cùng khốn hoặc không may gặp bước lỡ làng.

Nhân vì khi ấy triều đình gặp tôi gian, nịnh thần cầm quyền, Lý Mậu Xuân ngao ngán buồn rầu không còn thiết chi danh lợi quyền thế liền dâng biểu xin về hưu dưỡng già.

Sau khi được nhà vua ưng thuận, vợ chồng đưa nhau về Triết Giang vui thú cảnh quê . Vốn ôm ấp tâm tư nhàn hạ nay được trở về, vợ chồng càng thêm tăng gia làm điều phúc thiện. Ngoài việc thiết lập một trang trại rộng rãi khang trang, Lý Mậu Xuân còn giúp đỡ hầu hết dân chúng trong vùng khiến được an cư lạc nghiệp. Dân làng được nhờ ơn huệ chẳng ít, nên người người đều xưng tụng mệnh danh là Lý Thiện Nhân.

Một hôm, sau khi rảnh rỗi, Lý Mậu Xuân dạo cảnh đồng quê, chợt thấy hai người bàn tán dưới gốc cây bàng. Động tính hiếu kỳ liền đứng lại nghe, nghe xong mặt buồn rười rượi, quay gót trở về. Vừa tới cổng trang, Mông thị thấy chồng đi chơi về mà sắc không được vui liền đón lại hỏi:

- Chẳng hay vì sao phu quân đi chơi về mà mặt mày có sắc thái buồn. Xin cho thiếp rõ, hoặc giả có phân chia cùng phu quân được phần nào chăng?

Nghe vợ ôn tồn thỏ thẻ, Mậu Xuân càng đượm vẻ buồn bực thở dài và đáp:

- Phu nhân khá biết, ta nhân ngắm cảnh Tây Hồ nghe được hai người ngoài nói chuyện phê bình về nhà ta chỉ được cái dấu ác phô lành chứ còn những việc thường làm không phải thật là chân chính.

Mông thị ngạc nhiên hỏi lại:

- Vì sao mà họ lại cho mình như vậy?

- Họ nói nếu ta thật bụng hiền lành sao lại không có con? Người dẫu xưng tụng nhưng trời cao lẽ nào không mắt. Thần Phật sao chẳng trụ trì. Chỉ khi nào ta có con khi ấy mới thực là nhà phúc thiện. Vì nghe vậy mà ta cảm xúc đau buồn.

Mông thị khuyên chồng cưới vợ bé để mong có người nối nghiệp hương hỏa. Mậu Xuân liền nói:

- Phu nhân khuyên ta như thế là đã sai rồi. Ta nay tuổi ngót năm mươi, há làm chuyện thất đức, thất nghĩa, lãng quên đi cái nghĩa tào khang được vậy sao?

Như mà Thần Phật chẳng dứt hương lửa nhà ta thì tuổi phu nhân hãy còn sinh đẻ, cần chi phải cưới người khác cho thêm phiền phức gia đình.

Phu Nhơn liền bàn:

- Tướng công như đã có lòng nghĩ đến thiếp và nhứt định không lấy vợ bé, sao ta không đến các nơi cảnh chùa vái lạy Thần Phật cầu tự con ư ?

Mậu Xuân cho là có lý, ít ngày sau hai vợ chồng rủ nhau đến làng Vĩnh Minh phía Bắc núi Thiên Thai du ngoạn.

Người trong xứ nghe có Lý Viên Ngoại vãn cảnh nhân mách rằng: Trong chùa Quốc Thanh thường có nhiều linh ứng, hễ ai đến cầu đều được như nguyện.

Vợ chồng họ Lý nghe mách lòng rất vui mừng liền ở trọ lại nhà người quen, trai giới đủ ba ngày rồi mới sửa sang lễ vật, lên chùa lễ Phật.

Đường đi vào chùa, tùng trúc xanh tươi, đây đó chim ca, vượn hót, một giòng suối biếc róc rách chạy dài, hai vợ chồng thuê kiệu tìm đường lên núi Thiên Thai.

Tới chân núi, cảnh trí càng thêm u nhã, rừng cây xanh tốt xen lẫn non cao, hai vợ chồng xuống kiệu đi bộ, len theo con đường mòn bờ suối, đi chừng mười dặm, xa xa có một ngôi cổ tự to rộng trang nghiêm nằm cạnh sườn non cao ngất, thông reo vi vút hoà theo nhạc suối lời chim. Những bông hoa dại thập thò trong kẽ đá. Cửa tam quan đã hiện ra trước mắt, Mậu Xuân lòng thấy lâng lâng, do cảnh luyến người, phảng phất như vào nơi thoát tục.

Vừa đến chân chùa, vợ chồng Mậu Xuân được chư tăng đón tiếp đưa vào yết kiến Đại Đức Tri Khách dùng trà. Lý Phu Nhân sai bày lễ vật và dâng cúng 10 nén bạc ròng. Trí Khách Tăng sai các tiểu hoa đăng dâng lễ lên chùa rồi thân dẫn vợ chồng Mậu Xuân lên lễ Phật.

Sẵn lòng thành kính, sẵn tâm thiện lương, hai vợ chồng Mậu Xuân van vái hầu khắp nơi. Vừa lúc ấy Tính Không Trưởng Lão nghe có Lý viên ngoại đến vãn cảnh chùa liền ra phương trượng tiếp đón. Vợ chồng Mậu Xuân cung kính hành lễ chào vị trưởng lão trụ trì xong liền ngỏ ý mình cùng kể hết nguyên nhân sự việc, cúi xin phương trượng chỉ bảo mọi duyên. Tính Không vốn biết họ Lý là người phúc đức liền thân dẫn lên nơi Đại Hùng bảo điện lễ Tam Bảo và chính trưởng lão lên dâng hương làm lễ kỳ nguyện.

Lễ xong, trưởng lão đưa vợ chồng họ Lý đi xem lễ các nơi thờ tự khác. Bất cứ chỗ nào Lý phu nhân cũng van vái khấn cầu, chợt đến bàn thờ 18 vị La Hán, Phu nhân vừa thắp hương vái lạy thì một vị trong ngôi thứ 4 nghiêng đổ. Tính Không trưởng lão thấy vậy vỗ tay vừa cười vừa nói:

- Lành thay, lành thay! Ta chúc cho viên ngoại trở về chuyến này tất sinh quý tử.

Mậu Xuân vui mừng khôn xiết, từ biệt phương trượng ra về. Hơn một tháng sau qua ûnhiên phu nhân có tin mừng, Mậu Xuân lo nuôi a hoàn để đỡ tay chân cho vợ.

Thấm thoát mười tháng dần qua, một hôm trong nhà hồng quang sáng chói, mùi hương thơm ngát xông lên. Mậu Xuân đang ngồi nơi thơ phòng đọc kinh thì a hoàn chạy vào báo cho biết phu nhân hạ sanh công tử.

Nghe báo, Mậu Xuân lòng mừng khôn xiết, liền chạy sang thăm viếng, thấy phu nhân đang thiêm thiếp giấc nồng sau cơn mệt mỏi còn công tử thì cứ khóc thét lên hoài, tự nhiên lòng buồn rầu, cái vui cái buồn ngay trong khoảnh khắc thay nhau len vào tâm khảm.

Được ba ngày, các thân bằng quyến thuộc nghe tin Lý viên ngoại có quý tử đều lục đục viếng thăm. Mậu Xuân bận rộn tiếp đón ngày đêm, đãi đằng đủ mặt. Chợt gia nhân vào báo:

- Ngoài cửa có một vị Thiền Sư xưng là Tính Không ở Chùa Quốc Thanh đem lễ vật đến mừng.

Mậu Xuân vội vàng thân ra nghinh tiếp. Vừa vào đến nơi, đại sư hỏi ngay:

- Công tử có bình an chăng?

Mậu Xuân có hơi không vui đáp:

- Thật chẳng dám dấu đại sư, trẻ ấy từ khi sinh ra chỉ luôn luôn khóc, cho đến bây giờ vẫn chưa hết, tôi thật buồn rầu, chẳng hay đại sư có cách chi chữa khỏi được chăng?

Tính Không liền dạy:

- Viên ngoại hãy bồng ra cho coi.

Mậu Xuân nói:

- Trẻ mới sinh ba ngày, bồng ra ngoài e có nhiều điều bất tiện.

Tính Không bảo:

- Không sao, cứ bồng ra đây, ta có cách chữa chạy.

Mậu Xuân thấy nói không hại gì mới vào phòng tự ẵm con ra. Các bạn thân đều bu lại mà xem, thấy công tử nghi dung đoan chính, tướng mạo tốt tươi, duy có điều luôn mồm gào khóc, làm thế nào cũng không nín được.

Tính Không bước lại xem qua chợt bảo:

- Ngươi đã xuống đây sao còn khóc mãi ?

Công tử vụt nín khóc, toét miệng ra cười. Cả nhà khôn xiết mừng vui. Tính Không vuốt tóc đứa bé, miệng lâm râm khấn nguyện. Công tử liền nín khóc hẳn, rồi day qua nói cùng viên ngoại:

- Viên ngoại hãy để tôi nhận công tử làm học trò và đặt tên cho công tử là Lý Tu Duyên được chăng?

Mậu Xuân vui mừng quá sức liền thưa:

- Xin theo lời đại sư chỉ dạy.

Rồi ẵm con đem vào nhà trong rồi sai bày tiệc linh đình thết đãi bạn bè và dọn riêng một tiệc chay thỉnh Tính Không đại sư thu nạp.

Tiệc tan ai nấy ra về, Tính Không trưởng lão cũng dặn dò đôi câu rồi ngỏ lời từ biệt. Mậu Xuân thân tiễn hơn một dặm đường mới trở lại.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#fantasy