boykawasaki

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Trang

Câu 5. Sản xuất hàng hóa là gì? Nó ra đời và phát triển như thế nào?Nó có ưu việt gì so với kinh tế tự nhiên? 2

Câu 6. Hàng hóa là gì? Phân tích các thuộc tính của hàng hóa và lượng giá trị của hàng hóa? 2

Câu 7. Tiền tệ xuất hiện như thế nào trong lịch sử phát triển của sản 3

xuất và trao đổi hàng hóa? Bản chất và chức năng của tiền tệ? 3

Câu 8. Cơ sở khách quan và những tác dụng của quy luật giá trị trong 5

nền sản xuất hàng hóa. 5

Câu 9. Thị trường là gì? Vai trò của nó trong nền sản xuất hàng hóa. 6

Quy luật cung - cầu và tác động của nó trên thị trường như thế nào? 6

Câu 10. Sự chuyển hóa tiền tệ thành tư bản 8

Câu 11. Thế nào là tư bản bất biến và tư bản khả biến? Việc phân chia 10

tư bản thành hai bộ phận như vậy có ý nghĩa gì? Thế nào là tỷ suất 10

giá trị thặng dư? 10

Câu 12. Thế nào là giá trị thặng dư? Giá trị thặng dư tuyệt đối, giá trị 11

thặng dư tương đối và giá trị thặng dư siêu ngạch? Vì sao nói sản 11

xuất giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư 11

bản? 12

Câu 13. Tích lũy tư bản là gì? Những nhân tố nào ảnh hưởng đến quy 14

mô tích lũy tư bản? Thế nào là tích tụ, tập trung và cấu tạo hữu cơ 14

của tư bản? 14

Câu 14. Thế nào là tuần hoàn và chu chuyển của tư bản? Những nhân 16

tố nào làm tăng tốc độ chu chuyển tư bản? Ý nghĩa thực tiễn của việc 16

nghiên cứu vấn đề này? 16

Câu 15. Thế nào là lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận? Chúng có quan hệ 17

gì với giá trị thặng dư và tỷ suất giá trị thặng dư? 17

Câu 16. Tư bản thương nghiệp và tư bản cho vay được hình thành như 18

thế nào? Bản chất của lợi nhuận thương nghiệp và lợi tức là gì? 18

Câu 17. Các hình thức địa tô chủ yếu và bản chất của địa tô tư bản chủ 19

nghĩa (R) là gì? Ý nghĩa của việc nghiên cứu địa tô đối với việc giải 20

quyết các vấn đề ruộng đất? 20

Câu 18. Thế nào là công ty cổ phần và thị trường chứng khoán? Vai trò 21

của chúng trong nền kinh tế hàng hóa? 21

Câu 19. Vì sao có sự chuyển biến từ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh 22

sang chủ nghĩa tư bản độc quyền? Các hình thức chủ yếu và bản 22

chất kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền là gì? 22

Câu 20. Nguyên nhân của sự chuyển biến chủ nghĩa tư bản thành chủ 24

nghĩa tư bản độc quyền nhà nước? Đặc trưng, những hình thức biểu 24

hiện và cơ chế điều tiết nền kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền 24

Câu 5. Sản xuất hàng hóa là gì? Nó ra đời và phát triển như thế nào?Nó có ưu việt gì so với kinh tế tự nhiên?

Trong lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội, có hai hình thức sản xuất rõ rệt là: sản xuất tự cấp tự túc và sản xuất hàng hóa.

Sản xuất tự cấp, tự túc là sản xuất sản phẩm để thỏa mãn nhu cầu của người sản xuất trong nội bộ đơn vị kinh tế. Còn sản xuất hàng hóa là sản xuất ra sản phẩm để bán, các quan hệ kinh tế giữa những người sản xuất biểu hiện qua việc mua bán sản phẩm của nhau trên thị trường.

Sản xuất hàng hóa đã ra đời trong hai điều kiện lịch sử:

+ Có sự phân công lao động xã hội:

Phân công lao động xã hội là kết quả của sự phát triển lực lượng sản xuất, biểu hiện ở sự chuyên môn hóa sản xuất. Do phân công lao động xã hội, mỗi người hoặc mỗi nhóm người chỉ sản xuất một hoặc một số sản phẩm nhất định. Mỗi người (hoặc mỗi nhóm người) đều thừa sản phẩm do mình sản xuất ra nhưng lại thiếu các loại sản phẩm khác. Do đó, việc trao đổi sản phẩm trở thành tất yếu và có lợi đối với mọi người sản xuất.

+ Có chế độ tư hữu. Điều đó làm cho những người sản xuất độc lập với nhau; họ sản xuất dựa trên cơ sở tư liệu sản xuất của họ và sản phẩm lao động thuộc quyền chi phối của họ.

Chế độ tư hữu làm cho những người sản xuất độc lập với nhau, còn phân công lao động xã hội lại làm cho họ phụ thuộc vào nhau.

Sản xuất hàng hóa ra đời chính là để giải quyết mâu thuẫn này.so với sản xuất tự cấp tự túc, sản xuất hàng hóa có nhiều ưu việt đặc biệt:

- Thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, tiết kiệm, tăng năng suất lao động.

- Làm cho sản xuất gắn liền với tiêu dùng, sản phẩm thường xuyên được cải tiến chất lượng, hình thức phù hợp với nhu cầu, thị hiếu người tiêu dùng.

- Thúc đẩy nhanh chóng quá trình xã hội hóa sản xuất, tích tụ và tập trung sản xuất, mở rộng sự giao lưu thị trường trong nước và quốc tế.

- Là cơ sở thúc đẩy quá trình dân chủ hóa, bình đẳng, tiến bộ xã hội, phá vỡ tính bảo thủ, trì trệ, phường hội của kinh tế tự nhiên, tự cấp tự túc v.v..

Tuy nhiên, sản xuất hàng hóa có mặt trái của nó như việc làm phân hóa người sản xuất thành giàu nghèo và nhiều hiện tượng tiêu cực như làm hàng giả, lừa lọc

Câu 6. Hàng hóa là gì? Phân tích các thuộc tính của hàng hóa và lượng giá trị của hàng hóa?

1. Hàng hóa là một vật phẩm của lao động có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người và đi vào tiêu dùng thông qua trao đổi (mua - bán).

2. Hàng hóa có hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị.

a) Giá trị sử dụng

-Giá trị sử dụng của vật phẩm là công dụng của nó, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người như gạo để ăn, vải để may mặc, nhà để ở...

-Giá trị sử dụng của vật phẩm do thuộc tính tự nhiên của vật phẩm quy định. giá trị sử dụng là một phạm trù vĩnh viễn.

-Trong kinh tế hàng hóa, giá trị sử dụng là vật mang giá trị trao đổi.

b) Giá trị

-giá trị hàng hóa là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa đó

- giá trị là cơ sở của giá trị trao đổi; còn giá trị trao đổi là

hình thức biểu hiện của giá trị.

- Giá trị phản ảnh mối quan hệ xã hội giữa những người sản xuất

hàng hóa. Do đó, giá trị là một phạm trù lịch sử, chỉ tồn tại trong

kinh tế hàng hóa.

3. Lượng giá trị của hàng hóa.

-Nếu giá trị là lao động xã hội của những người sản xuất hàng

hóa kết tinh trong hàng hóa thì lượng giá trị chính là lượng lao

động xã hội hao phí để sản xuất ra hàng hóa.

-Trong sản xuất hàng hóa, hao phí lao động cá biệt tạo thành giá

trị cá biệt của hàng hóa. Trên thị trường, không thể dựa vào giá trị

cá biệt để trao đổi mà phải dựa vào giá trị xã hội của hàng hóa.

Giá trị xã hội của hàng hóa được tính bằng thời gian lao động xã

hội cần thiết (tất yếu) để sản xuất một loại hàng hóa nào đó. Đó là

thời gian cần thiết để sản xuất hàng hóa trong điều kiện sản xuất

trung bình của xã hội với trình độ kỹ thuật trung bình, trình độ

thành thạo trung bình, cường độ lao động trung bình

-Giá trị hàng hóa thay đổi phụ thuộc vào năng suất lao động.

giá trị của hàng hóa biến đổi tỷ lệ nghịch với năng suất lao động.

Câu 7. Tiền tệ xuất hiện như thế nào trong lịch sử phát triển của sản

xuất và trao đổi hàng hóa? Bản chất và chức năng của tiền tệ?

1. Lịch sử ra đời của tiền tệ và bản chất của nó.

Tiền tệ xuất hiện là kết quả của quá trình phát triển của sản

xuất và trao đổi hàng hóa, và cũng là kết quả của quá trình phát

triển các hình thái giá trị của hàng hóa.

Hình thái giá trị đầu tiên là hình thái giản đơn hay ngẫu nhiên.

Người sản xuất làm ra sản phẩm dùng không hết (như lúc được

mùa chẳng hạn), thừa ngẫu nhiên, đem trao đổi và ngẫu nhiên

gặp một loại hàng hóa nào đó; việc trao đổi diễn ra theo một tỷ lệ

cũng ngẫu nhiên và giản đơn: hàng đổi lấy hàng.

Ở hình thái này, hàng hóa thứ nhất (aHA) biểu hiện giá trị của

nó ở hàng hóa thứ hai (bHB), còn hàng hóa thứ hai đóng vai trò là

vật ngang giá

Khi phân công lao động xã hội phát triển đến mức độ nào đó,

chủng loại hàng hóa trao đổi trên thị trường nhiều hơn, thì một hàng

hóa có thế gặp và trao đổi với nhiều hàng hóa khác.

Đó là hình thái giá trị mở rộng.

Khi phân công lao động xã hội phát triển hơn nữa, làm cho sản

xuất hàng hóa cũng phát triển, trao đổi hàng hóa trở nên thường

xuyên và phổ biến hơn. Để cho sự trao đổi được thuận lợi, người ta

chọn một hàng hóa nào đó làm vật ngang giá chung.

Đó là hình thái chung của giá trị. Vật ngang giá chung có thể

trao đổi trực tiếp với một hàng hóa bất kỳ. Nó trở thành môi giới,

thành phương tiện để trao đổi. Khi sản xuất và trao đổi hàng hóa

phát triển hơn, thị trường được mở rộng, người ta chọn bạc và

vàng làm vật ngang giá chung là thuận lợi hơn cả. Lúc đó, hình

thức tiền của giá trị ra đời.

Khi bạc và vàng cùng được dùng làm chức năng tiền tệ thì chế

độ tiền tệ gọi là chế độ song kim. Khi chỉ còn vàng độc chiếm vai

trò tiền tệ thì chế độ tiền tệ được gọi là chế độ bản vị vàng.

Khi tiền tệ xuất hiện, thế giới hàng hóa phân ra hai cực: một

phía, là các hàng hóa thông thường; một phía là hàng hóa đóng vai

trò tiền tệ. Như vậy, tiền tệ là một loại hàng hóa đặc biệt, dùng

làm vật ngang giá chung cho tất cả các hàng hóa, là sự thể hiện

chung của giá trị và lao động xã hội, nó biểu hiện quan hệ sản

xuất giữa những người sản xuất hàng hóa do quá trình phát triển

lâu dài của sản xuất và trao đổi hàng hóa tạo ra. Đó là nguồn gốc

và bản chất của tiền tệ.

2. Chức năng của tiền tệ.

Tiền tệ có năm chức năng:

a) Thước đo giá trị

Tiền tệ làm được thước đo giá trị vì bản thân nó cũng là một

hàng hóa, cũng có giá trị như các hàng hóa khác. Để làm được

thước đo giá trị, mỗi quốc gia có một đơn vị tiền tệ nhất định.

Giá trị của mỗi hàng hóa được biểu hiện bằng một số tiền nhất

định, đó là giá cả của hàng hóa.

Giá trị là cơ sở của giá cả, nhưng do quan hệ cung cầu, giá cả có

thể lên xuống xung quanh giá trị. Tuy vậy, xét trong phạm vi toàn

xã hội trong thời gian nhất định thì tổng số giá cả bằng tổng số giá

trị của hàng hóa.

b) Phương tiện lưu thông

Làm phương tiện lưu thông, tiền tệ đóng vai trò môi giới, trung

gian trong trao đổi hàng hóa và dưới hình thức tiền mặt. Nó vận

động theo công thức H-T-H (H = hàng; T = tiền).

Số lượng tiền này được xác định bằng quy luật lưu thông tiền tệ

như sau:

c) Phương tiện cất trữ

Khi làm chức năng này, tiền tệ rút khỏi lưu thông và đi vào

"kho" cất trữ. Tiền cất trữ phải có đủ giá trị. Người ta thường cất

trữ vàng và bạc.

d) Phương tiện thanh toán

Kinh tế hàng hóa phát triển đến một trình độ nào đó sẽ sinh ra

việc mua bán chịu. Khi đó, tiền có chức năng làm phương tiện

thanh toán: trả tiền mua chịu, trả nợ...

Chức năng này càng phát triển, càng làm tăng thêm sự phụ

thuộc lẫn nhau giữa những người sản xuất và trao đổi hàng hóa.

e) Tiền tệ thế giới

Khi trao đổi hàng hóa vượt khỏi biên giới một quốc gia, quan hệ

buôn bán giữa các nước hình thành, thì tiền tệ làm chức năng tiền

tệ thế giới.

Tiền tệ là sản phẩm khách quan của lịch sử phát triển sản xuất

và trao đổi hàng hóa. Nó là loại hàng hóa đặc biệt, đóng vai trò vật

ngang giá chung, làm được nhiều chức năng phục vụ cho sản xuất

và trao đổi hàng hóa. Trong xã hội có giai cấp, giai cấp thống trị

thường sử dụng tiền tệ làm công cụ phục vụ cho lợi ích của giai cấp

mình.

Câu 8. Cơ sở khách quan và những tác dụng của quy luật giá trị trong

nền sản xuất hàng hóa.

1. Cơ sở khách quan và yêu cầu của quy luật giá trị.

Quy luật giá trị là quy luật kinh tế của nền sản xuất hàng hóa.

Ở đâu có sản xuất hàng hóa thì ở đó có quy luật giá trị hoạt động

một cách khách quan.

Quy luật giá trị đòi hỏi việc sản xuất và trao đổi hàng hóa, phải

dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết, có nghĩa là:

- Trong sản xuất, nó đòi hỏi người sản xuất luôn luôn có ý thức

tìm cách hạ thấp hao phí lao động cá biệt xuống nhỏ hơn, hoặc

bằng hao phí lao động xã hội cần thiết.

- Trong lưu thông, nó đòi hỏi việc trao đổi hàng hóa phải dựa

trên nguyên tắc ngang giá.

Quy luật giá trị hoạt động thông qua sự lên xuống của giá cả

trên thị trường. Nó có mối quan hệ hữu cơ với quy luật cung - cầu.

Khi cung lớn hơn cầu thì giá cả nhỏ hơn giá trị. Khi cung nhỏ hơn

cầu thì giá cả lớn hơn giá trị.

2. Tác dụng của quy luật giá trị.

Quy luật giá trị hoạt động ở trong mọi phương thức sản xuất có

sản xuất hàng hóa, nhưng đặc điểm hoạt động, vai trò và tác dụng

của nó khác nhau, vì nó bị các quy luật kinh tế đặc thù của

phương thức sản xuất đó chi phối.

Trong điều kiện nền sản xuất hàng hóa dựa trên cơ sở chế độ tư

hữu giữ vai trò thống trị, quy luật giá trị hoạt động một cách tự

phát và có bốn tác dụng chủ yếu sau:

- Tự phát điều tiết các yếu tố sản xuất (tư liệu sản xuất và sức

lao động) vào các ngành, các khu vực khác nhau của nền sản xuất

xã hội, thông qua sự biến động của cung - cầu thể hiện qua giá cả

trên thị trường.

- Tự phát điều tiết lưu thông hàng hóa. Thông qua sự biến động

(chênh lệch) của giá cả, hàng hóa từ nơi có giá cả thấp sẽ được di

chuyển về nơi có giá cả cao.

- Tự phát kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, tăng

năng suất lao động, làm cho lực lượng sản xuất phát triển.

- Tự phát làm phân hóa người sản xuất thành giàu và nghèo.

Trong điều kiện chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế nhiều thành

phần trong đó thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể làm

nền tảng, còn thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo thì

vai trò của quy luật giá trị về cơ bản không còn như trước. Tuy

nhiên nó vẫn thực hiện chức năng điều tiết, kích thích và đào thải

vốn có của nó.

Trong điều kiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế còn

nhiều thành phần, còn nhiều loại quy luật đặc thù hoạt động đan

xen vào nhau, làm cho sự hoạt động của quy luật giá trị vừa có

tính tự phát vừa có tính tự giác, tuy vẫn có đầy đủ các tác dụng

trên.

Vấn đề quan trọng là phải nhận thức và vận dụng quy luật giá

trị bằng các chính sách kinh tế phù hợp trên cơ sở khoa học, nhằm

thực hiện có hiệu quả những mục tiêu kinh tế - xã hội.

Câu 9. Thị trường là gì? Vai trò của nó trong nền sản xuất hàng hóa.

Quy luật cung - cầu và tác động của nó trên thị trường như thế nào?

1. Thị trường và cơ chế thị trường

a) Thị trường là nơi diễn ra mối quan hệ kinh tế giữa những

người trao đổi hàng hóa theo quy luật của sản xuất và lưu thông

hàng hóa; là tổng hợp các mối quan hệ lưu thông hàng hóa và lưu

thông tiền tệ.

- Nó phản ánh nhanh nhậy quan hệ cung cầu, là nơi phát tín

hiệu thông tin về sự biến động của nền kinh tế, giúp cho việc điều

chỉnh sản xuất, hình thành nên những tỷ lệ cân đối giữa sản xuất

và tiêu dùng, giữa cung và cầu, giữa sản xuất và lưu thông.

- Thị trường là nơi thừa nhận cuối cùng công dụng xã hội đối với

sản phẩm và lao động chi phí để sản xuất ra nó. Do đó, nó kích

thích những người sản xuất và trao đổi hàng hóa giảm chi phí sản

xuất và lưu thông, cải tiến chất lượng, quy cách, mẫu mã, hình

thức cho phù hợp nhu cầu, thị hiếu người tiêu dùng.

b) Cơ chế thị trường là guồng máy hoạt động của hệ thống các

thị trường trong nền kinh tế hàng hóa, điều tiết quá trình sản

xuất và lưu thông theo yêu cầu khách quan của các quy luật của

thị trường (quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh

tranh, quy luật lưu thông tiền tệ...). Vì vậy, cơ chế thị trường quy

định những người sản xuất và trao đổi hàng hóa phải sản xuất

theo cơ cấu hợp lý chủng loại hàng hóa, giá cả bao nhiêu, lưu

thông hàng hóa như thế nào...

Thị trường và cơ chế thị trường có những khuyết tật nhất định,

như:

- Tính tự phát dẫn tới sự hỗn độn trong nền kinh tế.

- Kích thích lợi ích cá nhân, lợi ích cục bộ, nhưng lại xem nhẹ lợi

ích xã hội, lợi ích toàn thể.

- Chỉ phản ánh nhu cầu trước mắt, không vạch rõ nhu cầu tương

lai.

- Những chỉ số kinh tế như giá cả, lợi nhuận,... thường xuyên

biến động làm cho người sản xuất và lưu thông hàng hóa khó định

hướng, thường bị động đối phó, nhiều lúc gây ra sự lãng phí lao

động xã hội.

lượng dự trữ về kinh tế và những chính sách phù hợp như kế hoạch,

thuế, hợp đồng kinh tế để cùng với thị trường điều khiến sự hoạt

động của nền kinh tế theo định hướng và mục tiêu đã xác định.

2. Quy luật cung - cầu.

a) Cơ sở khách quan của quy luật cung cầu

Cung phản ánh khối lượng sản phẩm hàng hóa được sản xuất và

được đưa ra thị trường để thực hiện (để bán).

Cung do sản xuất quy định, nhưng không đồng nhất với sản

xuất.

Cầu phản ánh nhu cầu tiêu dùng có khả năng thanh toán của xã

hội. Do đó, cầu không đồng nhất với tiêu dùng, vì nó không phải là

nhu cầu tự nhiên, nhu cầu bất kỳ theo nguyện vọng tiêu dùng chủ

quan của con người, mà phụ thuộc vào khả năng thanh toán.

Cung - cầu có mối quan hệ hữu cơ với nhau, thường xuyên tác

động lẫn nhau trên thị trường; ở đâu có thị trường thì ở đó có quy

luật cung - cầu tồn tại và hoạt động một cách khách quan.

b) Cung - cầu tác động lẫn nhau

Cầu xác định cung và ngược lại cung xác định cầu. Cầu xác định

khối lượng, chất lượng và chủng loại cung về hàng hóa. Những

hàng hóa nào tiêu thụ được mới được tái sản xuất. Ngược lại, cung

tạo ra cầu, kích thích tăng cầu thông qua phát triển số lượng, chất

lượng, chủng loại hàng hóa, hình thức, quy cách và giá cả của nó.

Cung - cầu tác động lẫn nhau và ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả.

Đây là sự tác động phức tạp theo nhiều hướng và nhiều mức độ

khác nhau.

Quy luật cung - cầu tác động khách quan và rất quan trọng. Nếu

nhận thức được chúng thì có thể vận dụng để tác động đến hoạt

động sản xuất kinh doanh theo chiều hướng có lợi cho quá trình

tái sản xuất xã hội.

Nhà nước có thể vận dụng quy luật cung - cầu thông qua các

chính sách, các biện pháp kinh tế như: giá cả, lợi nhuận, tín dụng,

hợp đồng kinh tế, thuế, thay đổi cơ cấu tiêu dùng... để tác động vào

các hoạt động kinh tế theo quy luật cung - cầu, duy trì những tỷ lệ

cân đối cung - cầu một cách lành mạnh và hợp lý.

Câu 10. Sự chuyển hóa tiền tệ thành tư bản

Chủ nghĩa tư bản ra đời khi có hai điều kiện: có một lớp người

được tự do về thân thể nhưng lại không có tư liệu sản xuất; và tiền

của phải được tập trung vào tay một số người, với một lượng đủ

lớn, để lập các xí nghiệp.

1. Công thức chung của tư bản.

a) So sánh công thức lưu thông hàng hóa giản đơn với công thức

chung của tư bản

Lưu thông hàng hóa giản đơn vận động theo công thức:

H-T-H (1). Trong công thức này, tiền tệ không phải là tư bản.

Tiền tệ chỉ trở thành tư bản trong những điều kiện nhất định.

Mọi tư bản đều xuất hiện từ một khối lượng tiền nhất định và

vận động theo công thức: T-H-T' (2). Đây là công thức chung của tư

bản, vì mọi tư bản đều vận động theo công thức này.

Giữa công thức (1) và công thức (2) có những điểm khác nhau:

- Về điểm xuất phát và kết thúc quá trình vận động trong công

thức 1 là H (Hàng); trong công thức 2 là T (Tiền).

- Về trình tự của quá trình vận động: Trong công thức 1 bán

trước, mua sau; trong công thức 2 mua trước, bán sau.

- Về mục đích của quá trình vận động:

Trong công thức 1 là giá trị sử dụng; trong công thức 2 là giá trị.

Ở đây, tiền thu về (T') phải lớn hơn tiền ứng trước (T) một lượng là

t. Do đó T' = T + (T'. Số tiền trội lên so với tiền ứng ra ban đầu là

giá trị thặng dư, ký hiệu là (m).Như vậy, số tiền ứng ra ban đầu (T) với mục đích đem lại giá trị

thặng dư cho người chủ có tiền được gọi là tư bản. Qua đó, đi đến

kết luận: Tiền tệ chỉ trở thành tư bản khi được dùng để mang lại

giá trị thặng dư cho nhà tư bản.

b) Mâu thuẫn của công thức chung của tư bản

Lý luận giá trị đã chứng minh rằng:

Giá trị của hàng hóa do lao động của những người sản xuất

hàng hóa tạo ra trong sản xuất. Nhưng nhìn vào công thức T-H-T'

người ta dễ lầm tưởng rằng tiền tệ cũng tạo ra giá trị khi vận

động trong lưu thông.

Thực chất thì bản thân tiền, dù ở ngoài hay ở trong lưu thông,

cũng không tự lớn lên được. Tiền không thể sinh ra tiền là điều

hiển nhiên.

Còn lưu thông thuần túy, dù diễn ra ở bất cứ hình thức nào, kể cả

việc mua rẻ bán đắt, cũng không làm tăng thêm giá trị, không tạo ra

giá trị thặng dư; ở đây chỉ có sự phân phối lại lượng giá trị có sẵn

trong xã hội mà thôi bởi nếu mua rẻ thứ này thì sẽ lại phải mua đắt

thứ kia; bán đắt thứ này thì lại phải bán rẻ thứ khác, vì tổng khối

lượng hàng và tiền trong toàn xã hội ở một thời gian nhất định là

một số lượng không đổi.

Tuy vậy, không có lưu thông cũng không tạo ra được giá trị thặng

dư. Do đó, mâu thuẫn của công thức chung của tư bản là giá trị

thặng dư không do lưu thông đẻ ra nhưng lại được tạo ra thông qua

lưu thông.

Sở dĩ như vậy vì nhà tư bản tìm được trên thị trường một loại

hàng hóa đặc biệt có khả năng tạo ra giá trị thặng dư cho mình. Đó

là hàng hóa sức lao động.

2. Hàng hóa sức lao động.

Sức lao động là toàn bộ thể lực và trí lực của con người, là khả

năng lao động của con người. Sức lao động là yếu tố cơ bản của mọi

quá trình sản xuất. Nó chỉ trở thành hàng hóa khi có hai điều

kiện:

- Người có sức lao động được tự do thân thể, được quyền làm chủ

sức lao động của mình để có thể đi làm thuê (bán sức lao động).

- Họ không có tư liệu sản xuất và của cải khác để sinh sống,

buộc phải đi làm thuê, tức là bán sức lao động của mình. Sức lao

động khi trở thành hàng hóa, nó vừa có hai thuộc tính như hàng hóa

thông thường vừa có đặc điểm riêng.

- Giá trị hàng hóa sức lao động cũng bằng lượng lao động xã hội

cần thiết để sản xuất và tái sản xuất ra nó. Nhưng việc sản xuất

và tái sản xuất ra sức lao động phải được thực hiện bằng cách tiêu

dùng cho cá nhân. Vì vậy, lượng giá trị hàng hóa sức lao động

bằng lượng giá trị những tư liệu sinh hoạt cần thiết về vật chất và

tinh thần để nuôi sống người công nhân, gia đình anh ta và chi phí

đào tạo công nhân theo yêu cầu của sản xuất. Vì vậy, giá trị hàng

hóa sức lao động phụ thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể của mỗi

quốc gia trong từng thời kỳ nhất định.

- Giá trị sử dụng hàng hóa sức lao động là công dụng của nó để

thỏa mãn nhu cầu người mua là sử dụng vào quá trình lao động.

Khác với hàng hóa thông thường, hàng hóa sức lao động khi được

sử dụng, nó tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân nó.

Đó chính là nguồn gốc của giá trị thặng dư.

Hàng hóa sức lao động là điều kiện để chuyển hóa tiền tệ thành

tư bản. Đây cũng chính là chìa khóa để giải quyết mâu thuẫn

trong công thức chung của tư bản.

Như vậy, tiền tệ chỉ trở thành tư bản khi nó được sử dụng làm

phương tiện để mang lại giá trị thặng dư cho người có tiền và

người có tiền phải tìm được một loại hàng hóa đặc biệt - hàng hóa

sức lao động.

Câu 11. Thế nào là tư bản bất biến và tư bản khả biến? Việc phân chia

tư bản thành hai bộ phận như vậy có ý nghĩa gì? Thế nào là tỷ suất

giá trị thặng dư?

1. Tư bản bất biến và tư bản khả biến

Để tiến hành sản xuất, nhà tư bản phải ứng tiền ra để mua tư

liệu sản xuất và sức lao động, nghĩa là biến tư bản tiền tệ thành

các yếu tố của quá trình sản xuất. Các yếu tố này có vai trò khác

nhau trong việc tạo ra giá trị thặng dư.

- Trong sản xuất, công nhân sử dụng tư liệu sản xuất để chế tạo

ra sản phẩm. Tư liệu sản xuất có nhiều loại, có loại như nhà

xưởng, kho tàng, thiết bị, máy móc được sử dụng trong một thời

gian dài, hao mòn dần qua nhiều chu kỳ sản xuất, nên giá trị của

nó được chuyển từng phần vào sản phẩm. Có loại như nguyên liệu

nhiên liệu, vật liệu phụ tiêu hao toàn bộ qua một chu kỳ sản xuất,

nên giá trị của nó được chuyển nguyên vẹn ngay vào sản phẩm

mới.

Như vậy, dù giá trị tư liệu sản xuất được chuyển dần từng phần

hay chuyển nguyên vẹn ngay vào sản phẩm, bộ phận tư bản tồn

tại dưới hình thức tư liệu sản xuất có đặc điểm chung là giá trị của

chúng được bảo tồn không có sự thay đổi về lượng và chuyển vào

sản phẩm mới trong quá trình sản xuất.

Bộ phận tư bản này gọi là tư bản bất biến (ký hiệu bằng C).

- Bộ phận tư bản tồn tại dưới hình thức sức lao động có tính chất

khác với bộ phận tư bản bất biến (C).

Trong quá trình sản xuất, bộ phận tư bản này có sự thay đổi về

lượng, tăng lên về số lượng giá trị, vì đặc điểm của giá trị sử dụng

của hàng hóa sức lao động là khi được đem tiêu dùng thì nó tạo ra

một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân nó - gọi là tư bản

khả biến (ký hiệu bằng V).

- Việc phân chia tư bản thành tư bản bất biến và tư bản khả

biến vạch rõ nguồn gốc của giá trị thặng dư là do lao động làm

thuê của công nhân tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không. Hiện

nay, giai cấp tư sản sử dụng máy móc hiện đại tự động hóa quá

trình sản xuất đối với một số sản phẩm. Trong điều kiện sản xuất

như vậy, tư bản bất biến có vai trò quan trọng quyết định việc

tăng năng suất lao động, nhưng cũng không thể coi đó là nguồn

gốc của giá trị thặng dư. Suy đến cùng, bộ phận tư bản khả biến

tồn tại dưới hình thức sức lao động (chân tay và trí óc) mới là

nguồn gốc sinh ra giá trị thặng dư tư bản chủ nghĩa.

2. Tỷ suất giá trị thặng dư

Tỷ suất giá trị thặng dư là tỷ lệ phần trăm giữa giá trị thặng dư

và tư bản khả biến. Tỷ suất giá trị thặng dư ký hiệu là m' và được

xác định bằng công thức:

m

m' = --- x 100%

v

Tỷ suất giá trị thặng dư vạch rõ trình độ bóc lột của nhà tư bản

đối với lao động làm thuê, đồng thời nó cũng nói lên ngày lao động

được phân chia thành hai phần - thời gian lao động cần thiết và

thời gian lao động thặng dư - như thế nào.

Câu 12. Thế nào là giá trị thặng dư? Giá trị thặng dư tuyệt đối, giá trị

thặng dư tương đối và giá trị thặng dư siêu ngạch? Vì sao nói sản

xuất giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư

bản?

1. Giá trị thặng dư, giá trị thặng dư tuyệt đối, giá trị thặng dư

tương đối và giá trị thặng dư siêu ngạch.

- Giá trị thặng dư là phần giá trị dôi ra ngoài giá trị sức lao

động, do công nhân làm thuê tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không.

Giá trị thặng dư phản ánh bản chất của quan hệ sản xuất tư

bản chủ nghĩa - quan hệ bóc lột của nhà tư bản đối với lao động

làm thuê.

Để thu được giá trị thặng dư, có hai phương pháp chủ yếu:

phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và phương pháp

sản xuất giá trị thặng dư tương đối.

- Giá trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư thu được do kéo

dài ngày lao động vượt khỏi giới hạn thời gian lao động cần thiết.

Ngày lao động kéo dài trong khi thời gian lao động cần thiết không

đổi, do đó thời gian lao động thặng dư tăng lên.

Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là cơ sở chung của chế độ tư

bản chủ nghĩa. Phương pháp này được áp dụng phổ biến ở giai

đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, khi lao động còn ở trình độ thủ công

và năng suất lao động còn thấp.

Với lòng tham vô hạn, nhà tư bản tìm mọi thủ đoạn để kéo dài

ngày lao động, nâng cao trình độ bóc lột sức lao động làm thuê.

Nhưng một mặt, do giới hạn tự nhiên của sức lực con người; mặt

khác, do đấu tranh quyết liệt của công nhân đòi rút ngắn ngày lao

động, cho nên ngày lao động không thể kéo dài vô hạn. Tuy nhiên,

ngày lao động cũng không thể rút ngắn đến mức chỉ bằng thời gian

lao động tất yếu. Một hình thức khác của sản xuất giá trị thặng dư

tuyệt đối là tăng cường độ lao động. Vì tăng cường độ lao động cũng

giống như kéo dài thời gian lao động trong ngày, trong khi thời gian

lao động cần thiết không thay đổi.

- Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được do rút

ngắn thời gian lao động tất yếu trên cơ sở tăng năng suất lao động

xã hội. Việc tăng năng suất lao động xã hội, trước hết ở các ngành

sản xuất ra vật phẩm tiêu dùng, sẽ làm cho giá trị sức lao động

giảm xuống do đó, làm giảm thời gian lao động cần thiết. Khi độ

dài ngày lao động không thay đổi, thời gian lao động cần thiết

giảm sẽ làm tăng thời gian lao động thặng dư - thời gian để sản

xuất ra giá trị thặng dư tương đối cho nhà tư bản.

- Để giành ưu thế trong cạnh tranh, để thu được nhiều giá trị

thặng dư, các nhà tư bản đã áp dụng những tiến bộ kỹ thuật mới vào

sản xuất, cải tiến tổ chức sản xuất, hoàn thiện phương pháp quản

lý kinh tế, nâng cao năng suất lao động. Kết quả là, giá trị cá biệt

của hàng hóa thấp hơn giá trị xã hội. Nhà tư bản nào thực hiện

được điều đó thì khi bán hàng hóa của mình sẽ thu được một số giá

trị thặng dư trội hơn so với các nhà tư bản khác.

Phần giá trị thặng dư thu được trội hơn giá trị thặng dư bình

thường của xã hội được gọi là giá trị thặng dư siêu ngạch.

Xét từng đơn vị sản xuất tư bản chủ nghĩa, giá trị thặng dư siêu

ngạch là hiện tượng tạm thời cục bộ. Nhưng xét về toàn bộ xã hội

tư bản, giá trị thặng dư siêu ngạch là hiện tượng tồn tại thường

xuyên. Vì vậy, giá trị thặng dư siêu ngạch là một động lực mạnh

nhất thúc đẩy các nhà tư bản ra sức cải tiến kỹ thuật, tăng năng

suất lao động.

Giá trị thặng dư siêu ngạch và giá trị thặng dư tương đối đều

dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động. Cái khác nhau là ở chỗ giá

trị thặng dư tương đối thì dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động

xã hội; còn giá trị thặng dư siêu ngạch thì dựa trên cơ sở tăng

năng suất lao động cá biệt.

2. Sản xuất giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản của chủ

nghĩa tư bản.

Quy luật kinh tế cơ bản là quy luật phản ánh bản chất và mục

đích của một phương thức sản xuất. Mỗi phương thức sản xuất có

một quy luật kinh tế cơ bản.

Bị tước đoạt hết tư liệu sản xuất công nhân buộc phải bán sức

lao động cho nhà tư bản. Lao động không công của công nhân làm

thuê là nguồn gốc của giá trị thặng dư, nguồn gốc làm giàu của

nhà tư bản.

Sản xuất giá trị thặng dư là mục đích duy nhất của nền sản

xuất tư bản chủ nghĩa. Vì mục đích đó, các nhà tư bản sản xuất

bất cứ loại hàng hóa nào, kể cả vũ khí giết người hàng loạt, miễn

là thu được nhiều giá trị thặng dư. Phương tiện để đạt mục đích là

tăng cường bóc lột công nhân làm thuê trên cơ sở phát triển kỹ

thuật, tăng cường độ lao động, kéo dài ngày lao động, tăng năng

suất lao động v.v..

Sản xuất giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản của chủ

nghĩa tư bản. Nội dung của quy luật là tạo ra ngày càng nhiều giá

trị thặng dư cho nhà tư bản bằng cách tăng cường các phương tiện

kỹ thuật và quản lý để bóc lột ngày càng nhiều lao động làm thuê.

Quy luật giá trị thặng dư có tác dụng mạnh mẽ trong nhiều mặt

của đời sống xã hội. Một mặt, nó thúc đẩy kỹ thuật và phân công

lao động xã hội phát triển, làm cho lực lượng sản xuất trong xã hội

tư bản chủ nghĩa phát triển với tốc độ nhanh và nâng cao năng

suất lao động. Mặt khác, nó làm cho các mâu thuẫn vốn có của chủ

nghĩa tư bản, trước hết là mâu thuẫn cơ bản của nó - mâu thuẫn

giữa tính chất xã hội của sản xuất với sự chiếm hữu tư nhân tư

bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất - ngày càng gay gắt.

Câu 13. Tích lũy tư bản là gì? Những nhân tố nào ảnh hưởng đến quy

mô tích lũy tư bản? Thế nào là tích tụ, tập trung và cấu tạo hữu cơ

của tư bản?

1. Tích lũy tư bản và nhân tố ảnh hưởng đến quy mô của tích

lũy.

- Tích lũy tư bản là biến một phần giá trị thặng dư thành tư bản

để mở rộng sản xuất, tăng thêm quy mô bóc lột.

Tích lũy tư bản là tất yếu khách quan do quy luật kinh tế cơ

bản, quy luật giá trị và cạnh tranh... của phương thức sản xuất tư

bản chủ nghĩa quy định. Nguồn gốc duy nhất của tư bản tích lũy

là giá trị thặng dư; thực chất của tích lũy tư bản là biến một phần

giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm để mở rộng sản xuất.

- Quy mô tích lũy phụ thuộc vào khối lượng giá trị thặng dư và

tỷ lệ phân chia giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm và thu

nhập (bộ phận giá trị thặng dư nhà tư bản tiêu dùng cho cá nhân).

Nếu tỷ lệ phân chia không thay đổi, thì quy mô tích lũy phụ thuộc

vào các nhân tố làm tăng khối lượng giá trị thặng dư như:

+ Tăng cường bóc lột sức lao động. Nhân tố này biểu hiện ở chỗ

cắt xén tiền công, tăng cường độ lao động đối với công nhân làm

thuê.

+ Tăng năng suất lao động xã hội. Đây là đòn bẩy kinh tế mạnh

mẽ và có tác dụng thiết thực đối với tích lũy.

+ Sự chênh lệch ngày càng lớn giữa tư bản sử dụng (tức giá trị

máy móc, thiết bị được sử dụng) và tư bản tiêu dùng (tức giá trị

tiêu hao của máy móc, thiết bị đó qua mỗi chu kỳ sản xuất).

+ Quy mô tư bản ứng trước. Quy mô tư bản ứng trước càng lớn,

càng có điều kiện phát triển nhanh, do đó tích lũy ngày càng

nhiều.

2. Tích tụ tư bản.

Tích tụ tư bản là sự tăng thêm quy mô tư bản cá biệt bằng cách

tư bản hóa một phần giá trị thặng dư. Tích tụ tư bản là kết quả

trực tiếp của tích lũy tư bản. Chẳng hạn, một tư bản 1.000 đôla

cộng thêm 100 đôla giá trị thặng dư tư bản hóa thành một tư bản

lớn hơn là 1.100 đôla.

Tích tụ tư bản là một tất yếu. Trước hết đó là do yêu cầu của

quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản, của cạnh tranh và

của tiến bộ kỹ thuật. Đồng thời trình độ bóc lột và khối lượng giá

trị thặng dư bóc lột được ngày càng tăng trong quá trình phát

triển của chủ nghĩa tư bản là điều kiện vật chất làm cho khả năng

tư bản hóa giá trị thặng dư biến thành hiện thực tích tụ tư bản.

3. Tập trung tư bản.

Tập trung tư bản là sự tăng thêm quy mô tư bản bằng cách kết

hợp nhiều tư bản nhỏ thành một tư bản lớn hơn. Thí dụ: một tư bản

3.000 đôla hợp lại với một tư bản 2.000 đôla thành một tư bản lớn

hơn là 5.000 đôla.

Tập trung tư bản thường diễn ra bằng hai phương pháp. Phương

pháp cưỡng bức và phương pháp tự nguyện. Phương pháp cưỡng

bức thể hiện ở chỗ: trong quá trình cạnh tranh, các nhà tư bản lớn

thôn tính các nhà tư bản nhỏ phá sản. Ở phương pháp tự nguyện

trong quá trình cạnh tranh, các nhà tư bản không phân thắng bại,

họ liên hiệp lại và tổ chức các công ty cổ phần để tránh khỏi sự phá

sản và có đủ sức mạnh cần thiết cho cạnh tranh trên phạm vi mới.

Nếu tích tụ tư bản làm tăng quy mô tư bản xã hội và phản ánh

mối quan hệ trực tiếp giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản

thì tập trung tư bản không làm tăng quy mô tư bản xã hội mà chỉ

phân phối lại và tổ chức lại tư bản xã hội; nó phản ánh quan hệ

trực tiếp giữa các nhà tư bản.

Tích tụ và tập trung tư bản có quan hệ với nhau và tác động

thúc đẩy nhau. Tích tụ tư bản làm tăng quy mô tư bản cá biệt

khiến cho cạnh tranh gay gắt hơn, dẫn đến sự tập trung tư bản.

Tập trung tư bản tạo ra điều kiện để tăng cường bóc lột giá trì

thặng dư và đẩy mạnh tích tụ tư bản.

4. Cấu tạo hữu cơ của tư bản.

- Trong quá trình tích lũy tư bản, cơ cấu tư bản dần dần thay

đổi. Các bộ phận của tư bản có sự thay đổi không giống nhau. Cấu

tạo của tư bản gồm có hai mặt: mặt vật chất và mặt giá trị.

+ Cấu tạo của tư bản về mặt vật chất gồm có tư liệu sản xuất và

sức lao động. Tỷ lệ giữa số lượng tư liệu sản xuất và số lượng sức

lao động sử dụng tư liệu sản xuất đó gọi là cấu tạo kỹ thuật của tư

bản.

+ Cấu tạo của tư bản về mặt giá trị gồm có tư bản bất biến và tư

bản khả biến. Tỷ lệ giữa tư bản bất biến và tư bản khả biến gọi là

cấu tạo giá trị của tư bản.

+ Cấu tạo kỹ thuật và cấu tạo giá trị có quan hệ chặt chẽ với

nhau. Để chỉ mối quan hệ chặt chẽ đó, C.Mác dùng khái niệm cấu

tạo hữu cơ của tư bản. Vậy cấu tạo hữu cơ của tư bản là cấu tạo

giá trị của tư bản do cấu tạo kỹ thuật quy định và phản ánh

những thay đổi của cấu tạo kỹ thuật.

Cấu tạo hữu cơ của tư bản thay đổi tùy theo mức độ phát triển

của lực lượng sản xuất.

Ở giai đoạn công nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa, phát triển công

nghiệp cơ khí, cấu tạo hữu cơ của tư bản tăng lên rất nhanh.

Nhưng hiện nay có nhiều ngành công nghiệp sản xuất ra các máy

móc, thiết bị kỹ thuật mới rẻ hơn so với các máy móc, thiết bị kỹ

thuật cũ mà chính nó thay thế, hoặc đang phát triển ngành có cấu

tạo hữu cơ thấp như lĩnh vực dịch vụ. Vì vậy, hiện nay xu hướng

tăng lên của cấu tạo hữu cơ của tư bản không rõ rệt ở một số

ngành. Vấn đề này cần được nghiên cứu kỹ hơn.

Câu 14. Thế nào là tuần hoàn và chu chuyển của tư bản? Những nhân

tố nào làm tăng tốc độ chu chuyển tư bản? Ý nghĩa thực tiễn của việc

nghiên cứu vấn đề này?

1. Tuần hoàn của tư bản.

- Mọi tư bản sản xuất trong quá trình vận động đều qua ba giai

đoạn, tồn tại dưới ba hình thức và thực hiện ba chức năng.

Giai đoạn I, tư bản mang hình thức tiền tệ, thực hiện chức năng

mua các yếu tố sản xuất tư liệu sản xuất và sức lao động;

Giai đoạn II, tư bản mang hình thức tư bản sản xuất, thực hiện

chức năng sản xuất ra hàng hóa và tạo ra giá trị thặng dư;

Giai đoạn III, tư bản mang hình thức tư bản hàng hóa với chức

năng thực hiện giá trị và giá trị thặng dư.

- Sự vận động của tư bản qua ba giai đoạn, tồn tại dưới ba hình

thức, thực hiện ba chức năng, rồi quay về hình thức xuất phát của

nó, gọi là tuần hoàn của tư bản.

2. Chu chuyển của tư bản.

Nếu được xem xét như là quá trình định kỳ đổi mới diễn ra liên

tục, lắp đi lắp lại, thì sự tuần hoàn của tư bản sản xuất được gọi là

chu chuyển của tư bản. Chu chuyển của tư bản nói lên tốc độ vận

động của tư bản nhanh hay chậm.

- Nhân tố làm tăng tốc độ chu chuyển của tư bản.

Nghiên cứu tốc độ chu chuyển của tư bản, chúng ta cần nghiên

cứu thời gian chu chuyển của tư bản. Thời gian chu chuyển của tư

bản là khoảng thời gian từ khi tư bản ứng ra dưới một hình thức

nhất định đến khi nó trở về hình thức đó nhưng có thêm giá trị

thặng dư. Như vậy, để chu chuyển một vòng, tư bản phải trải qua

hai giai đoạn lưu thông và một giai đoạn sản xuất. Do đó, muốn

tăng tốc độ chu chuyển của tư bản phải giảm bớt thời gian lưu

thông và thời gian sản xuất của nó. Muốn giảm bớt thời gian lưu

thông, phải có phương tiện giao thông vận tải tốt, đầy đủ và thuận

tiện; đồng thời, các sản phẩm sản xuất ra phải có giá trị sử dụng

cao, giá thành hạ, hợp thị hiếu người tiêu dùng. Muốn giảm thời

gian sản xuất phải tăng năng suất lao động, giảm thời gian gián

đoạn bằng cách ứng dụng khoa học kỹ thuật v.v..

- Nghiên cứu chu chuyển của tư bản, cần hiểu được việc chu

chuyển hai bộ phận giá trị của tư bản sản xuất là tư bản cố định

và tư bản lưu động.

+ Tư bản cố định là bộ phận của tư bản sản xuất (nhà xưởng,

thiết bị, máy móc) tham gia toàn bộ vào quá trình sản xuất, nhưng

giá trị của nó được chuyển dần dần vào sản phẩm. Tư bản cố định

sử dụng lâu dài và bị hao mòn dần. Có hai loại hao mòn: hao mòn

hữu hình và hao mòn vô hình. Hao mòn hữu hình là hao mòn về

giá trị sử dụng, do quá trình sử dụng và do tác động của tự nhiên

mà bị hao mòn. Còn hao mòn vô hình là hao mòn về giá trị do quá

trình hiện đại hóa của khoa học kỹ thuật, nhiều máy móc mới được

sản xuất ra tốt hơn với giá rẻ hơn, làm cho máy móc cũ đang được

sử dụng bị giảm giá trị ban đầu.

+ Tư bản lưu động là bộ phận của tư bản sản xuất (nguyên liệu,

nhiên liệu, vật liệu phụ...) được tiêu dùng hoàn toàn trong một chu

kỳ sản xuất và giá trị của nó được chuyển toàn bộ vào sản phẩm.

- Nghiên cứu chu chuyển của tư bản là vấn đề có ý nghĩa thực

tiễn trong việc sử dụng tiền vốn trong sản xuất và kinh doanh hợp

lý, nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao. Cần tăng tốc độ chu chuyển tư

bản cố định, tận dụng tối đa công suất máy móc, thiết bị. Phải đẩy

nhanh tốc độ xây dựng để đưa công trình vào sản xuất càng sớm

càng tốt.

Câu 15. Thế nào là lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận? Chúng có quan hệ

gì với giá trị thặng dư và tỷ suất giá trị thặng dư?

1. Lợi nhuận và quan hệ giữa lợi nhuận với giá trị thặng dư.

- Lợi nhuận:

Hao phí lao động thực tế của xã hội để sản xuất hàng hóa là c +

v + m. Nếu gọi G là giá trị hàng hóa thì: G = c+v+m.

Chi phí sản xuất tư bân chủ nghĩa là c+v. Nếu ký hiệu chi phí

sản xuất tư bản chủ nghĩa là K thì:

Khi c +v chuyển thành K thì số tiền nhà tư bản thu được trội

hơn so với chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa. Số tiền trội hơn đó

được quan niệm là sự tăng lên của toàn bộ tư bản ứng trước và gọi

là lợi nhuận, ký hiệu là P.

Nếu hàng hóa bán đúng giá trị thì G = K+m sẽ chuyển hóa

thành G = K+P. Nhìn bề ngoài, tưởng như với lượng tư bản ứng

trước (c+v), nhà tư bản thu được lợi nhuận, tức lợi nhuận là do

toàn bộ tư bản ứng trước tạo ra.

- Mới nhìn thì P=m, có khác nhau thì chỉ là ở chỗ khi nói giá trị

thặng dư là hàm ý so sánh với tư bản khả biến (v); còn khi nói lợi

nhuận lại hàm ý so sánh với tư bản ứng trước (c+v).

Về thực chất, lợi nhuận là hình thức biến tướng của giá trị

thặng dư. Lợi nhuận che dấu bản chất bóc lột của chủ nghĩa tư

bản. Nguồn gốc của lợi nhuận chính là giá trị thặng dư do lao động

sống của công nhân làm thuê tạo ra; lợi nhuận là hình thức biểu

hiện của giá trị thặng dư.

Trong thực tế, nhiều trường hợp cụ thể, lợi nhuận và giá trị

thặng dư có thể không trùng khớp với nhau. Lợi nhuận có thể lớn

hơn hoặc nhỏ hơn giá trị thặng dư, do nó phụ thuộc vào giá bán

của hàng hoá cao hoặc thấp do quan hệ cung - cầu quy định.

Nhưng, xét trên phạm vi toàn xã hội, tổng số lợi nhuận bằng tổng

số giá trị thặng dư.

2. Tỷ suất lợi nhuận và quan hệ giữa nó với tỷ suất giá trị thặng

dư.

Tỷ suất lợi nhuận là tỷ lệ phần trăm giữa giá trị thặng dư và

toàn bộ tư bản ứng trước, ký hiệu bằng p' được xác định bằng công

thức:

+ Nếu xét về chất, p' nói lên mức độ doanh lợi của tư bản đầu tư

và chỉ ra cho các nhà tư bản thấy đầu tư vào ngành nào có lợi hơn.

Còn m' biểu hiện mức độ bóc lột của tư bản đối với lao động làm

thuê.

Câu 16. Tư bản thương nghiệp và tư bản cho vay được hình thành như

thế nào? Bản chất của lợi nhuận thương nghiệp và lợi tức là gì?

- Tư bản thương nghiệp là một bộ phận tư bản được tách ra khỏi

tư bản công nghiệp, hoạt động trong lĩnh vực lưu thông hàng hóa.

Nó là cầu nối liền sản xuất và tiêu dùng, phục vụ cho quá trình

thực hiện hàng hóa của tư bản công nghiệp và có vai trò quan

trọng trong tái sản xuất tư bản xã hội nói chung và tư bản công

nghiệp nói riêng. Tư bản thương nghiệp ứng thêm tư bản giúp nhà

tư bản công nghiệp hoạt động trong khâu thực hiện giá trị thặng

dư, do đó, tư bản công nghiệp không phải đầu tư bổ sung tư bản,

hoặc giảm quy mô sản xuất để hoạt động lưu thông mà có điều

kiện tập trung tư bản, chuyên môn hóa, mở rộng sản xuất. Đó là

nguyên nhân khiến tư bản công nghiệp phải "nhường" một bộ

phận giá trị thặng dư cho tư bản thương nghiệp. Tư bản thương

nghiệp không tạo ra giá trị và giá trị thặng dư, nhưng vẫn thu được

giá trị thặng dư dưới hình thức lợi nhuận thương nghiệp.

Tư bản công nghiệp "nhường" một phần giá trị thặng dư cho tư

bản thương nghiệp theo tỷ suất lợi nhuận bình quân (p) và được

thực hiện bằng thu chênh lệch giữa giá mua và giá bán. Vậy bản

chất lợi nhuận thương nghiệp là một phần giá trị thặng dư do công

nhân tạo ra trong quá trình sản xuất.

Nhưng hình thức lợi nhuận thương nghiệp làm cho người ta dễ

tin tưởng lưu thông sinh ra lợi nhuận và nguồn gốc giá trị thặng

dư càng bị che dấu. Ngoài một phần giá trị thặng dư do nhà tư bản

công nghiệp nhường cho, tư bản thương nghiệp còn thu được một

phần thu nhập của người tiêu dùng bằng cách mua rẻ bán đắt và bóc

lột lao động thặng dư của nhân viên thương nghiệp.

- Tư bản cho vay là một bộ phận của tư bản công nghiệp tách ra

hoạt động trong lĩnh vực lưu thông tiền tệ. Sự hình thành tư bản

cho vay là kết quả của sự phát triển quan hệ hàng hóa - tiền tệ đạt

đến trình độ xuất hiện tư bản tiền tệ tạm thời nhàn rỗi (các loại

quỹ khấu hao, quỹ mua nguyên vật liệu chưa dùng đến, quỹ lương

chưa đến kỳ trả, tiết kiệm...) trong khi lại có những người cần tư

bản để mở rộng sản xuất hoặc thiếu tư bản lưu động... Tư bản cho

vay thực hiện vai trò môi giới giữa người cho vay và người đi vay,

là nơi tập trung, điều hòa, sử dụng hợp lý, có kết quả các nguồn

vốn tiền tệ của xã hội, thúc đẩy quá trình tái sản xuất và quá

trình xã hội hóa.

Phải chú ý những đặc điểm đặc biệt của tư bản cho vay: - quyền

sở hữu tách rời quyền sử dụng; người bán không mất quyền sở hữu;

giá cả do giá trị sử dụng quyết định; quan hệ bóc lột tư bản chủ

nghĩa bị che dấu.

Nếu không phải đi vay, tư bản công nghiệp độc chiếm giá trị

thặng dư; nhưng do vay vốn nên nó phải nhường một phần giá trị

thặng dư cho nhà tư bản cho vay vì đã sử dụng tư bản của họ. Như

vậy, hoạt động trong lĩnh vực lưu thông tiền tệ, tư bản cho vay

không tạo ra giá trị và giá trị thặng dư, nhưng nó được phân phối

giá trị thặng dư dưới hình thức lợi tức cho vay (Z). Vậy lợi tức

chính là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư, nguồn gốc của

nó là giá trị thặng dư do lao động làm thuê tạo ra trong quá trình

sản xuất. Thực chất lợi tức cho vay biểu hiện quan hệ bóc lột tư

bản chủ nghĩa mở rộng ra trong lĩnh vực phân phối.

Xét về mặt lượng, lợi tức nói chung phải nhỏ hơn lợi nhuận bình

quân (P) và lớn hơn 0: 0 < Z <P; và phụ thuộc vào quan hệ cung

cầu trong lĩnh vực này ở từng thời kỳ.

Câu 17. Các hình thức địa tô chủ yếu và bản chất của địa tô tư bản chủ

nghĩa (R) là gì? Ý nghĩa của việc nghiên cứu địa tô đối với việc giải

quyết các vấn đề ruộng đất?

Đặc điểm nổi bật của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong

nông nghiệp là chế độ độc quyền ruộng đất. Các yếu tố cần thiết

cho sản xuất nông nghiệp tư bản chủ nghĩa thuộc ba chủ sở hữu

khác nhau (địa chủ độc quyền ruộng đất, tư bản nông nghiệp sở

hữu các tư liệu sản xuất khác, như máy móc..., còn công nhân

nông nghiệp sở hữu sức lao động).

Quan hệ xã hội đối với ruộng đất cũng bao gồm ba giai cấp đó.

Tư bản kinh doanh nông nghiệp phải thuê ruộng đất; thuê công

nhân để sản xuất, do đó, phải trích một phần giá trị thặng dư cho

địa chủ dưới dạng địa tô. Bản chất của địa tô tư bản chủ nghĩa khác

với địa tô phong kiến. Địa tô tư bản chủ nghĩa là hình thức biến

tướng của giá trị thặng dư, là một phần giá trị thặng dư do công

nhân nông nghiệp tạo ra mà nhà tư bản kinh doanh nông nghiệp

phải trả cho địa chủ. Do sự tách rời quyền sở hữu với quyền sử

dụng ruộng đất, giai cấp địa chủ, với tư cách là người sở hữu, thu

địa tô, nhà tư bản là người kinh doanh ruộng đất - người sử dụng

đất đai, thu được lợi nhuận.

Địa tô tư bản chủ nghĩa là bộ phận lợi nhuận siêu ngạch ngoài số

lợi nhuận bình quân (P) của tư bản đầu tư trong nông nghiệp do

công nhân nông nghiệp tạo ra và nộp cho địa chủ. Có các hình thứ

- Địa tô chênh lệch (Rcl) là phần lợi nhuận phụ thêm, ngoài lợi

nhuận bình quân, thu được trên ruộng đất có điều kiện sản xuất

thuận lợi hơn (về độ màu mỡ và vị trí thuận lợi). Đó chính là số

chênh lệch giữa giá cả sản xuất chung của nông phẩm sản xuất

trên ruộng đất xấu nhất và giá cả sản xuất cá biệt của nông phẩm

trên ruộng đất tốt và trung bình.

Địa tô chênh lệch Rcl được chia thành hai loại:

+ Rcl I: là địa tô thu được trên ruộng đất có độ màu mỡ tự nhiên

và vị trí thuận lợi hơn.

+ Rcl II: là địa tô thu được gắn liền với đầu tư thêm tư bản cho

việc thâm canh tăng năng suất để thu lợi nhuận siêu ngạch. Trong

thời gian hợp đồng thuê đất, Rcl II thuộc nhà tư bản.

- Địa tô tuyệt đối là lợi nhuận siêu ngạch ngoài lợi nhuận bình

quân () hình thành do cấu tạo hữu cơ () của tư bản trong nông

nghiệp thấp hơn trong công nghiệp Psn = (c+v+m) - (c+v+)... Địa

tô tuyệt đối gắn liền với sở hữu ruộng đất nhất thiết phải nộp cho

địa chủ, dù ruộng đất đó thuộc loại xấu nhất.

- Địa tô độc quyền thu được trên những khu đất trồng được các

cây quý hiếm, hoặc có vị trí đặc biệt về công nghiệp, thương mại,

dịch vụ.

Nghiên cứu địa tô tư bản chủ nghĩa, ngoài mục đích vạch rõ quan

hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa trong nông nghiệp, chúng ta còn rút ra

cơ sở lý luận để đề ra các đường lối, chính sách đối với nông nghiệp

nhằm kích thích nông nghiệp phát triển, kết hợp hài hòa các lợi ích

trong nông nghiệp cũng như giữa nông nghiệp với các ngành khác.

Thí dụ, xây dựng chính sách thuế nông nghiệp đúng đắn hợp lý

nhằm khai thác được mọi tiềm năng ở nông thôn; tránh độc quyền

trong phân phối ruộng đất, tạo điều kiện cho cạnh tranh trong nông

nghiệp và giữa nông nghiệp với các ngành sản xuất khác; vận dụng

lý luận về địa tô chênh lệch để khuyến khích mọi ruộng đất được

khai thác bảo đảm công bằng xã hội (Rcl I); đề ra chính sách giao

quyền sử dụng ruộng đất lâu dài để khuyến khích người nông dân

đầu tư thâm canh, cải tạo đất đai (Rcl II)...

Câu 18. Thế nào là công ty cổ phần và thị trường chứng khoán? Vai trò

của chúng trong nền kinh tế hàng hóa?

Công ty cổ phần ra đời do lực lượng sản xuất phát triển mạnh

mẽ, đó là hình thức tập trung vốn để mở rộng sản xuất, giành lợi

thế trong cạnh tranh.

- Công ty cổ phần là loại xí nghiệp lớn mà tư bản của nó được

hình thành từ sự liên kết nhiều tư bản cá biệt và tiết kiệm của các

cá nhân bằng việc mua cổ phiếu.

+ Cổ phiếu là một thứ chứng khoán có giá ghi nhận quyền sở

hữu và quyền hưởng một phần thu nhập của công ty dưới hình

thức lợi tức cổ phần. Lợi tức cổ phần phụ thuộc mức doanh lợi của

công ty cổ phần. Cổ phiếu mất giá trị khi công ty bị phá sản.

+ Cổ đông là những người mua cổ phiếu. Cổ đông được tham gia

đại hội cổ đông, bầu cử ban quản trị và thông qua các quyết định

của công ty.

Trong chủ nghĩa tư bản, chỉ cần nắm được một số cổ phiếu đáng

kể là đã khống chế, thao túng cả công ty.

+ Trái khoán là hình thức vay tiền do công ty phát hành. Người

mua trái khoán hưởng lợi tức cố định và được hoàn trả.

- Thị trường theo nghĩa thông thường là tổng hợp các điều kiện

thực hiện hàng hóa; là tổng hợp các mối quan hệ lưu thông hàng

hóa và lưu thông tiền tệ.

Thị trường chứng khoán hình thành trong nền kinh tế thị

trường hay trong nền kinh tế hàng hóa đã phát triển cao. Thị

trường chứng khoán là nơi giao dịch mua bán các loại chứng

khoán (cổ phiếu, trái khoán, kỳ phiếu, văn tự cầm cố và công trái).

Thị trường chứng khoán nhạy bén nhanh với các biến động

trong đời sống, là "phong vũ biểu" của nền kinh tế. Bởi vì, thị giá

cổ phiếu, giá cả các chứng khoán liên quan đến tình hình kinh

doanh của các công ty, đến tỷ suất lợi tức ngân hàng mà các chứng

khoán mang lại thu nhập cho người sở hữu nó. Giá cả chứng

khoán tăng lên là biểu hiện của nền kinh tế đang phát triển; nếu

ngược lại, là biểu hiện sự sa sút hay khủng hoảng của nền kinh tế.

Trong chủ nghĩa tư bản, thị trường chứng khoán trở thành lĩnh

vực đầu cơ làm giàu của những nhà tư bản lớn.

Đối với nước ta, với chủ trương đẩy mạnh nền kinh tế hàng hóa

nhiều thành phần, việc nghiên cứu và sử dụng công ty cổ phần và

thị trường chứng khoán có vai trò rất quan trọng.

Chúng có tác dụng:

- Là đòn bẩy để tập trung các nguồn vốn nhàn rỗi trong mọi

tầng lớp nhân dân, trong các đơn vị tập thể trong nước cũng như

ngoài nước.

- Kết hợp chặt chẽ các lợi ích kinh tế.

- Gắn vấn đề sở hữu với quyền sử dụng.

- Kết hợp sức mạnh của các hình thức sở hữu, các thành phần

kinh tế.

- Tạo các mối liên kết và đa dạng hóa các hình thức kinh tế.

- Huy động vốn đồng thời tăng tốc độ chu chuyển đồng vốn và

giảm tiền mặt trong lưu thông.

Câu 19. Vì sao có sự chuyển biến từ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh

sang chủ nghĩa tư bản độc quyền? Các hình thức chủ yếu và bản

chất kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền là gì?

Chủ nghĩa tư bản độc quyền là giai đoạn phát triển cao của chủ

nghĩa tư bản. Nó xuất hiện vào cuối thế kỷă XIX đầu thế kỷ XX, là

sự phát triển tất yếu từ chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh. Đó là

vì:

Một là, với sự phát triển của khoa học tự nhiên, những phát

minh kỹ thuật được áp dụng làm cho lực lượng sản xuất cuối thế

kỷ XIX có những bước nhảy vọt như phương pháp luyện kim mới,

máy cắt gọt kim loại, những động cơ đốt trong và những phương

tiện vận tải mới ra đời. Muốn sử dụng những thành tựu nói trên

của khoa học - kỹ thuật, cần có nguồn vốn lớn. Điều này đòi hỏi sự

tập trung tư bản và tập trung sản xuất.

Hai là, trong cuộc cạnh tranh khốc liệt, tư bản vừa và nhỏ bị

phá sản hàng loạt, còn các nhà tư bản lớn thì phát đạt, tư bản

được tập trung với quy mô ngày càng lớn.

Ba là, khủng hoảng kinh tế của thế giới tư bản chủ nghĩa, đặc

biệt là cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1873, càng đẩy nhanh sự

tích tụ, tập trung tư bản và tập trung sản xuất.

Sự tập trung sản xuất được thực hiện bằng cách thôn tính lẫn

nhau giữa những xí nghiệp lớn và nhỏ và bằng cách tự nguyện

thỏa thuận giữa các nhà tư bản.

Tích tụ và tập trung sản xuất đến mức độ nào đó tất yếu dẫn

đến độc quyền, vì số ít các xí nghiệp lớn dễ thỏa hiệp thống nhất

với nhau hơn là nhiều xí nghiệp nhỏ. Mặt khác, sự cạnh tranh

giữa các xí nghiệp quy mô lớn sẽ gay gắt hơn, đề ra khuynh hướng

thỏa hiệp để nắm độc quyền.

Mới đầu, các tổ chức độc quyền phát triển trong một số ngành

nhất định; sau đó, theo mối liên hệ dây chuyền, nó được mở rộng

ra các ngành khác, với các hình thức chủ yếu:

+ Các-ten là loại liên minh độc quyền về giá cả, thị trường; các

thành viên trong tổ chức độc quyền này vẫn độc lập cả trong sản

+ Xanh-đi-ca là loại tổ chức độc quyền mà các thành viên độc lập

về mặt sản xuất; ban quản trị đảm nhiệm việc lưu thông.

+ Tờ-rớt là tổ chức độc quyền điều hành tập trung. Các hoạt

động sản xuất, tiêu thụ sản phẩm đều do một ban quản trị đảm

nhiệm. Các nhà tư bản tham gia tờ-rớt mất hết quyền độc lập cả

trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.

+ Công-xoóc-xi-om là tổ chớp độc quyền cao, hỗn hợp những nhà

tư bản lớn, những xanh-đi-ca, tờ-rớt... kể cả những ngành không

liên quan với nhau về kỹ thuật sản xuất. Tổ chức độc quyền này

thống nhất về mặt tài chính và phụ thuộc vào một nhóm tư bản

kếch xù.

+ Công-gơ-lô-mê-rát là tổ chức lũng đoạn khổng lồ đặt dưới sự

kiểm soát về tài chính và quản lý chung của một nhóm tư bản độc

quyền lớn nhất. Quy mô và phạm vi của nó vượt ra cả ngoài biên

giới quốc gia.

- Bản chất kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền:

Độc quyền ra đời từ tự do cạnh tranh, nó loại bỏ sự thống trị của

tự do cạnh tranh. Nhưng độc quyền không thủ tiêu được cạnh

tranh, mà ngược lại, cạnh tranh càng trở nên gay gắt. Bản chất

kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền vẫn dựa trên cơ sở chiếm

hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Quan hệ độc

quyền giữ vị trí thống trị trong nền kinh tế với sự độc chiếm các

nguồn nguyên liệu, phương tiện vận tải, thị trường vốn, nhân

công. Vẫn giá trị thặng dư là quy luật kinh tế cơ bản, song biểu

hiện bề ngoài của nó đã chuyển từ quy luật lợi nhuận thành quy

luật lợi nhuận độc quyền cao. Với sự thống trị của độc quyền, mâu

thuẫn vốn có của chủ nghĩa tư bản càng thêm sâu sắc.

Câu 20. Nguyên nhân của sự chuyển biến chủ nghĩa tư bản thành chủ

nghĩa tư bản độc quyền nhà nước? Đặc trưng, những hình thức biểu

hiện và cơ chế điều tiết nền kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền

Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là hình thức phát triển

cao của chủ nghĩa tư bản độc quyền. Nó là sự kết hợp sức mạnh

của các tổ chức độc quyền với sức mạnh nhà nước thành một cơ chế

thống nhất bảo vệ lợi ích của giai cấp tư bản độc quyền, duy trì và

củng cố chế độ tư bản chủ nghĩa.

Tiền đề khách quan cho chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước

ra đời là tích tụ tư bản và tập trung sản xuất trong điều kiện

thống trị của các tổ chức độc quyền cùng với những nguyên nhân

trực tiếp là hàng loạt mâu thuẫn bên trong và bên ngoài của chủ

nghĩa đế quốc, đặc biệt là mâu thuẫn sâu sắc giữa tính chất xã

hội hóa của sản xuất và sự chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa

về tư liệu sản xuất. Việc xã hội hóa cao của lực lượng sản xuất do

quá trình tập trung, chuyên môn hóa, tổ hợp liên hợp hóa nền

sản xuất xã hội cùng với những thành tựu mới của tiến bộ khoa

học - kỹ thuật đã tạo nên một cơ cấu kinh tế đồ sộ; nó đòi hỏi có

sự điều tiết xã hội đối với quá trình sản xuất.

Mặt khác, cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật đẩy nhanh quá

trình xã hội hóa lực lượng sản xuất, biến đổi cơ cấu sản xuất. Điều

đó đòi hỏi lượng tư bản lớn để cải tạo cơ cấu sản xuất, đổi mới tư

bản cố định, nghiên cứu, thực nghiệm, ứng dụng thành tựu khoa

học - kỹ thuật, nhưng các tổ chức độc quyền không tự giải quyết

nổi, cần có sự tham gia của nhà nước.

- Sự thu hẹp hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc cùng với

sự ra đời của hệ thống đối lập là các nước xã hội chủ nghĩa, buộc

bọn tư bản độc quyền phải nắm lấy nhà nước, biến nhà nước thành

công cụ bảo vệ, phục vụ lợi ích của chủ nghĩa tư bản độc quyền.

Với sự cải biến nào đó về hình thức quan hệ sản xuất, nhưng

chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước vẫn mang những đặc trưng

cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa; nó chỉ là sự

phát triển ở mức độ cao của chủ nghĩa tư bản độc quyền với những

đặc trưng sau:

+ Nhà nước thực hiện chức năng điều tiết kinh tế vĩ mô, lãnh

đạo đời sống kinh tế từ một trung tâm.

+ Nhà nước phục vụ toàn diện nhu cầu của tư bản độc quyền;

ngược lại, tư bản độc quyền nắm và sử dụng sức mạnh bộ máy nhà

nước bằng một hệ thống tác động qua lại phức tạp giữa nhà nước

và các tổ chức độc quyền.

+ Nhà nước tham gia có mức độ việc điều tiết, giới hạn sự tự do

hoạt động của tư bản, gắng điều hòa mâu thuẫn và hậu quả tiêu

cực do thống trị của độc quyền sinh ra.

Những hình thức biểu hiện của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà

nước:

+ Nhà nước là chủ kinh doanh, tức là hình thành, phát triển sở

hữu nhà nước: sở hữu của độc quyền nhà nước phục vụ lợi ích tư

bản độc quyền. Sở hữu nhà nước hình thành bằng cách quốc hữu

hóa tư bản chủ nghĩa, đầu tư xây dựng mới, góp cổ phần với tư bản

tư nhân... Nhà nước quốc hữu hóa để cứu tư bản tư nhân khỏi phá

sản; đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng ít lợi nhuận, vốn lớn; đầu tư

nghiên cứu, ứng dụng khoa học - kỹ thuật...

+ Nhà nước thực hiện chính sách thu nhập: phân phối lại thu

nhập của các xí nghiệp nhà nước có lợi cho tư bản độc quyền. Với

"hệ thống bảo hiểm xã hội" nhà nước điều tiết các quan hệ phân

phối, làm lợi cho các tổ chức độc quyền.

+ Nhà nước điều tiết nền kinh tế bằng việc sử dụng các hệ thống

tài chính, tín dụng, tạo thị trường, can thiệp vào quan hệ kinh tế

quốc tế.

Với sự xuất hiện của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, cơ

chế điều tiết nền sản xuất xã hội có bước ngoặt lớn. Đó là sự kết

hợp hữu cơ giữa sự điều tiết của quan hệ thị trường với sự điều tiết

tập trung của nhà nước. Các tổ chức độc quyền điều tiết vi mô

bằng các kế hoạch trên cơ sở nghiên cứu kỹ lưỡng thị trường. Nhà

nước giữ vai trò điều tiết vĩ mô bằng việc dự báo, dự đoán và định

hướng từng thời kỳ, với các công cụ chương trình hóa kinh tế chính

sách cơ cấu và các hệ thống tài chính tín dụng, chính sách đầu tư...

Như vậy, cơ chế điều tiết nền kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc

quyền nhà nước tạo ra sự phối hợp điều tiết hợp lý hơn tính tự

phát của cơ chế thị trường trong tự do cạnh tranh tư bản chủ nghĩa.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro