brising 31-37(ban tho)

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương 30 

Roran ngồi xổm trên mặt đất ,nhìn chằm chằm qua tấm lưới đan bởi những cành liễu .

Gần 200 mét phía xa, 53 người lính & lái bò ngồi quanh 3 bếp lửa, ăn bữa tối của họ khi màn đêm vội vã buông xuống mặt đất. Những người giải quyết xong bữa tối, đang nghỉ ngơi bên bờ 1 con sông vô danh, rộng & fủ đầy cỏ. Mấy con bò đừng thành 1 hình nửa vòng tròn lởm chởm quanh mấy bếp lửa. Rất nhiều con bò tập tễnh ăn cỏ sau trại , thi thoảng lại rống lên với nhau . Gần 20 mét phía dưới dòng , 1 gò đất mềm nhô lên cao khỏi mặt đất, cản bước bất kì kẻ nào tấn công hay rút chạy khỏi cái góc chết đó.

"Họ đang nghĩ gì vậy?" Roran lấy làm lạ. Chỉ cần cẩn thận khi đang trong vùng địch ,dựng trại phòng thủ (trong khi họ đang trong lòng Đế quốc). Nghĩa là tìm 1 địa thế có thể bảo vệ phía sau. Nhưng dù vậy cũng fải cẩn thận chọn nơi nghỉ chân nào có thể rút lui khi bị mai phục. Như thế này, thiệt dễ như ăn kẹo cho Roran & những chiến binh khác dưới quyền của Martland ,lướt qua những bụi cây họ đang nấp & dồn những người lính của Đế chế vào ô đất hình chữ V tạo bởi dòng sông & mô đất, nơi họ có thể thong thả mà tiêu diệt từng người. Những người lính đã được huấn luyện lại có thể mắc lỗi rành rành như vậy khiến Roran bối rối. Có lẽ họ từ 1 thành phố, anh nghĩ Hoặc là ít kinh nghiệm, Roran cau mày. Vậy tại sao họ lại được giao nhiệm vụ cho 1 chiến dịch quan trọng như thế này?".

"Anh có phát hiện ra cái bẫy nào ko?", Roran hỏi. Anh không cần quay đầu lại cũng biết Carn ngay bên cạnh mình, cùng với Halmar & 2 người khác. Trừ 4 tay kiếm gia nhập đội của Martland thế chỗ những người đã hi sinh hoặc bị thương quá nặng trong trận đánh trước, Roran đã kề vai chiến đâu với tất cả mọi người trong đội. 

Không muốn đơn độc, Roran tin tưởng họ bằng cả mạng sống của mình, khi anh biết sự tin tưởng của họ dành cho anh. Như thể có 1 sợi dây ràng buộc họ với nhau vượt qua tuổi tác, thân phận. Sau trận đánh đầu tiên, Roran cảm thấy bất ngờ khi anh ,cũng như bọn họ, có thể cảm thấy thân thiết với đồng đội như vậy.

"Không có gì để nói cả" Carn thì thầm " Nhưng mà..."

"Họ có thể nghĩ ra những câu thần chú mà anh ko thể dò ra được , phải, phải. Nhưng có pháp sư nào đi với họ ko?"

"Ko chắc lắm, nhưng ko, tôi nghĩ vậy"

Roran vạt sang 1 bên đám lá liễu để nhìn rõ hơn cách bố trí đàn bò."Tôi ko thích điều này", anh lầm bầm " 1 pháp sư hộ tống đoàn khác. Sao ko fải đoàn này?"

" Họ ít người hơn anh tưởng"

"Mmh." Roran gãi râu, vẫn lo lắng trước sự bất cần của đám lính. "Liệu họ có dụ ta tấn công? Họ không có vẻ sẵn sàng cho điều đó, nhưng lộ diện bây giờ cũng nguy hiểm đủ đường. Cái bẫy nào họ đang dành cho chúng ta? Không còn ai khác trong vòng 90 dặm quanh đây , Murtagh & Thorn thì đc nhìn thấy lần cuối đang bay về phương bắc từ Feinster. "Gửi tín hiệu đi", Roran nói. "Nhưng bảo với Martland rằng tôi lo lắng về việc họ dựng trại như thế này. Có thể họ là những thằng khờ hoặc là họ có được sự bảo vệ vô hình bởi phép thuật hay những trò ma quỷ của tên vua." 

Im lặng, và rồi " Tôi đã nhắn. Martland có nói ông ấy cũng có cùng mối bận tâm như anh, nhưng trừ phi anh muốn cong đuôi chạy về với Nasuada, còn không, chúng ta sẽ thử vận may của chính mình."

Roran càu nhàu, quay về phía những người lính. Anh ra hiệu bằng cằm, rồi cùng với những người lính khác, bò nhanh tới nơi họ để ngựa lại.

Tới nơi, Roran leo lên lưng Hoả Tuyết.

"Họ! Đứng yên, chàng trai" anh thì thầm, vuốt ve Hoả tuyết khi con ngựa hất đầu lên. Trong ánh sáng mờ, bờm & lông Hoả tuyết lấp lánh ánh bạc. Không phải lần đầu, Roran ước con ngựa ít bị nhận ra hơn, màu hồng hoặc hạt dẻ chẳng hạn.

Lấy tấm khiên đc treo trên yên ngựa, Roran luồn tay qua dây đai & kéo chiếc búa ra khỏi thắt lưng.

Roran nuốt khan, nắm chặt chiếc búa,1 sự căng thẳng quen thuộc chạy qua vai, .

Khi 5 người đã sẵn sàng, Carn giơ 1 ngón tay, mí mắt khép hờ, đôi môi khẽ giật giật như thể đang nói chuyện với chính mình. 1 con dế gáy gần đó. 

Mí mắt Carn chợt mở ra. "Hãy nhớ, nhìn thẳng xuống đất cho đến khi các anh quen được với ánh sáng, và ngay cả khi đó, cũng đừng nhìn lên bầu trời." Sau đó tay pháp sư bắt đầu niệm cổ ngữ , những từ ngữ khó hiểu đầy phép thuật.

Roran che người lại bằng chiếc khiên, ngồi lệch 1 bên trên yên ngựa khi 1 tia sáng trắng ,sáng như ánh mắt trời giữa trưa chiếu xuống khoảnh đất. Ánh sáng phát ra từ đâu đó phía trên căn lều & Roran phải cố ngăn mình tìm chính xác xuất phát điểm của nó .

Hét lớn, anh thúc vào sườn con Hoả tuyết & khom người lại khi con chiến mã lướt đi. Phía bên kia, Carn & những người lính khác hành động tương tự, vung vũ khí của họ lên. Cành cây đập mạnh vào đầu & vai của Roran, trước khi Hoả tuyết phóng khỏi bụi cây & phi nước đại hết tốc lực về phía doanh trại.

2 nhóm kị binh khác, 1 của Martland, 1 của Ulhart cũng lao ầm ầm về phía doanh trại, 

Lính & lái bò thét lên báo động, nhắm mắt lại. Lảo đảo như người mù, chúng sờ soạng tìm vũ khí vừa cố xếp đội hình đẩy lùi cuộc tấn công.

Roran không cố gắng làm Hoả tuyết chậm lại. Thúc con ngựa nhanh hơn, Roran đứng hẳn lên , giữ chặt bằng tất cả sức mạnh khi Hoả tuyết nhảy qua khoảng trống hẹp giữa 2 con bò. Hàm răng của anh va vào nhau lập cập khi chạm đất. Hoả tuyết đá đất tơi vào 1 trong những ngọn lửa trại làm tàn lửa bắn tung toé. 

Những người còn lại trong đội của Roran cũng nhảy qua những con bò. Họ sẽ chăm sóc những tên lính ở sau, Roran chỉ phải lo những tên phía trước. Hướng Hoả tuyết về phía 1 tên lính, Roran đập vỡ mũi tên lính bằng cán búa, máu đỏ bay vụt qua mặt anh. Roran kết liễu tên lính với 1 cú đập nữa vào đầu trước khi gạt thanh kiếm từ 1 tên khác. Bên phía kia, Martland,Ulhart & những người lính cũng họ cũng nhảy vào trại, tiếp đất trong tiếng lách cách của móng ngựa & tiếng kêu chói tai của áo giáp, vũ khí. 1 con ngựa rống lên & gục xuống khi 1 tên lính xiên nó bằng giáo.

Roran lại chặn thanh kiếm, đập gãy xương tay tên lính, buộc hắn fải buông kiếm . Ko dừng lại, Roran đập vào giữa chiếc áo trấn thủ đỏ của tên lính, khiến hắn gãy xương ức, vết thương đau đớn khiến hắn thở hổn hển, gục xuống.

Roran ngồi lại yên ngựa, tìm kiếm đối thủ tiếp theo. Bắp thịt của Roran rung lên với niềm hứng khởi điên rồ. Mọi thứ xung quanh anh rõ ràng & sắc xảo như được khắc trên kính. Roran cảm thấy mình ko thể bị thương, cảm thấy mình vô địch. Thời gian dường như bị kéo dãn & trôi 1 cách chậm chạp đến nỗi nghe tiếng bướm đêm đập cánh như thể nó đang bay qua hũ mật chứ ko fải ko khí.

1 đôi bàn tay kẹp chặt lưng áo giáp của Roran & kéo mạnh anh khỏi lưng Hoả tuyết, ném anh xuống nền đất cứng, hơi thở thoát ra hết khỏi lồng ngực Roran. Đôi mắt anh lập loè & tối sầm trong giây lát . Khi đủ sức nhìn lại, anh thấy tên lính đầu tiên anh tấn công đang ngồi trên ngực , bóp cổ mình. Tên lính che kín nguồn sáng Carn đã tạo ra trên bầu trời. 1 quầng sáng trắng bao quanh đầu & vai hắn, khuôn mặt hắn ngập trong bóng tối. Roran ko thể nhìn rõ khuôn mặt của hắn trừ những chiếc răng hở loé sáng.

Tên lính siết chặt những ngón tay của hắn quanh cổ Roran, khiến Roran phải thở hổn hển. Roran mò tìm cây búa đánh rơi nhưng nó ngoài tầm với. Gồng cứng cổ ngăn ko cho tên lính bóp nát sự sống của mình, anh móc con dao găm từ chiếc thắt lưng, đâm xuyên qua áo giáp, qua lớp áo trấn thủ & xuyên qua xương sườn bên trái.

Tên lính ko chút ngần ngại cũng chẳng nới tay .

1 tràng cười điên dại tuôn ra từ tên lính. Đầu óc quay cuồng, tim ngừng đập cùng nỗi ghê tởm khiến cho dạ dày Roran lạnh toát vì khiếp sợ. Anh nhớ lại những âm thanh anh đã nghe thấy khi nom Varden đánh nhau với những người ko biết đau đớn trên cánh đồng cỏ cạnh sông Jiet. Trong thoáng chốc, anh đã hiểu tại sao những tên lính lại chọn địa điểm cắm trại bất lợi như vậy. Chúng ko quan tâm có dính bẫy hay ko, khi chúng ta ko thể làm đau chúng. 

Sao đỏ, sao vàng nhảy múa trong mắt Roran . Lảo đảo trong trạng thái vô thức, Roran rút mạnh con dao ra, đâm vào nách tên lính, xoắn mạnh . Máu nóng bắn ra nhưng tên lính dường như ko để ý. Vạn vật vỡ ra thành muôn vệt sáng khi tên lính lại đập đầu Roran xuống đất .1 lần . 2 lần. 3 lần. Roran cố gắng nâng hông lên, đẩy tên lính ra nhưng ko thành. Mắt ko nhìn thấy gì nữa, tuyệt vọng , anh đâm vào nơi đoán là mặt tên lính & cảm thấy con dạo chạm vào 1 miếng thịt mềm. Roran rút dao về 1 cách yếu ớt & đâm lại về hướng đó, cảm thấy như đâm vào đầu 1 khúc xương.

Sức ép quanh cổ Roran tan biến.

Roran nằm trên đất, ngực nặng trịch, rồi lăn tròn, nôn mửa, cổ họng khô cháy, Vừa thở hổn hển vừa ho, Roran lảo đảo đứng lên , trông thấy tên lính nằm sõng soài bất động ngay bên cạnh, con dao găm nhô ra từ mũi hắn.

"Đánh vào đầu", Roran hét lên,dù cổ họng khô cháy "Vào đầu".

Anh để con dao lại trên mũi tên lính, vớ cây búa trên nền đất bị giày xéo, tranh thủ nhặt 1 cây giáo bị bỏ rơi cùng với cái khiên. Nhảy qua tên lính, Roran chạy về phía Halmar, đang đứng đọ kiếm với 3 tên lính cùng 1 lúc. Trước khi mấy tên lính kịp nhận ra, Roran nện mạnh vào đầu 2 tên gần nhất, mũ sắt vỡ thành từng mảnh. Tên thứ 3 để lại cho Halmar, còn anh chạy đi kiếm tên lính đã bị anh đập vỡ mũi (???- Roran đánh ai đầu tiên vậy T.T ) & coi như đã chết. Roran trông thấy tên lính đang ngồi trên 1 bánh xe bò, phun ra từng cục máu khô & cố căng dây cung.

Roran xuyên thủng 1 mắt hắn bằng cây giáo. Những miếng thịt xám ngoét bám vào đầu mũi thương khi anh buông nó ra. ( T.T ) 

1 í nghĩ loé lên trong đầu Roran. Anh phóng ngọn giáo về phía 1 tên lính mặc áo trấn thủ đỏ bên kia đống lửa gần anh nhất - cây giáo xuyên qua người hắn - rồi đẩy nhẹ cán búa vào dưới thắt lưng, Roran căng cây cung của tên lính. Tựa lưng vào bánh xe, Roran bắt đầu bắn những tên lính lao ra từ khu trại, cô gắng kết liễu chúng với 1 mũi tên may mắn trúng mặt , cổ hay tim bằng ko cũng có thể làm chúng bị thương, giúp cho đồng đội của anh có thể hạ chúng 1 cách dễ dàng hơn. Nếu ko có gì khác thì Roran đoán rằng những tên lính sẽ chảy máu đến chết trước khi trận đánh kết thúc.

Sự tự tin trước khi bắt đầu trận đánh đã chuyển thành sự thất vọng. Quân Varden tán loạn, mất hết tinh thần, có người vẫn ngồi trên lưng ngựa, có người ko , và đa số đều đã phải đổ máu. Ít nhất 5 người lính mà Roran có thể chỉ ra, đã chết khi những tên lính họ nghĩ là đã giết được quay lại tấn công họ. Không thể nói bao nhiêu lính đã ngã xuống giữa cái mớ hỗn độn này nhưng Roran có thể nhìn ra Varden còn hơn 25 người hay đại loại vậy. Roran nhận ra "Chúng có thể xé chúng ta ra từng mảnh chỉ với 2 tay không trong khi chúng ta đang cố băm vằm chúng ra". Đưa mắt tìm Hoả tuyết giữa đám hỗn loạn, Roran tìm thấy con bạch mã xa hơn phía dưới dòng sông, đang đứng cạnh 1 cây dương liễu, lỗ mũi mở to, 2 tai bịt tẹt đầu.

Với cây cung trong tay, Roran giết thêm 4 tên lính nữa & làm bị thương hơn 1 tên. Khi chỉ còn 2 mũi tên , Roran phát hiện ra Carn đang đứng bên kia khu trại, đấu tay bo với 1 tên lính bằng 1 góc lều bị cháy. Kéo dây cung cho đến khi mấy sợi lông vũ trên mũi tên chạm vào tai, Roran bắn vào ngực tên lính. Tên lính ngừng lại & Carn chặt đầu hắn. Roran vứt cây cung sang 1 bên, búa trong tay, chạy về phía Carn, la lớn "Anh ko thể giết bọn chúng bằng phép thuật sao?"

Trong 1 thoáng, Carn chỉ có thể thở hổn hển, rồi lắc đầu, trả lời "Câu thần chú nào tôi thốt ra cũng bị vô hiệu". Ánh sáng từ chiếc lều cháy mạ vàng khuôn mặt anh ta.

Roran nguyển rủa. " Đi cùng tôi" anh hét to, nâng chiếc khiên lên.

Vai kề vai, 2 người tiến về phía bọn lính gần nhất: 1 đám 8 tên lính đang bao vây 3 người của Varden. Vài fút sau, ánh vũ khí loé lên loang loáng, Roran nhận những vết thương bất ngờ, da thịt rách bươm. Bọn lính dai sức hơn người thường, chúng không bao giờ né khi bị tấn công & cũng chẳng mảy may gì ngay cả khi nhận những vết thương khủng khiếp nhất. Cố sức quá nhiều, Roran lại buồn nôn, 8 tên lính vừa ngã xuống , Roran cúi người, nôn lại. Anh quệt miệng lau đám mật sót lại.

1 trong 3 người lính họ định cứu đã chết, dao cắm vào cật, 2 người còn trụ lại được tiếp tục nhập bọn vs Roran & Carn, tiếp tục tấn công nhóm lính tiếp theo.

" Dồn chúng về phía dòng sông",Roran hét lớn ( Roran = Rocker ^^ ). Nước & bùn sẽ làm những tên lính khó cử động & có lẽ sẽ giúp Varden thắng thế hơn. 

Cách đó ko xa, Martland sốc lại 1 đội 12 người lính Varden còn đang ngồi trên lưng ngựa, đang làm đúng những gì Roran đã nói: dồn bọn lính xuống dòng nước lấp lánh ánh sáng.

Bọn lính & mấy tên lái bò còn sống vẫn cố kháng cự. Chúng tống khiên vào mấy người lính bộ. Chúng thọc khiên vào ngựa. Nhưng dù chúng chống trả rất hung tợn Varden vẫn buộc chúng lùi từng bước 1 cho đến khi lũ người trong lớp áo trấn thủ đỏ đó đứng ngập nửa gối dưới dòng nước chảy xiết, 1 nửa bị loá mắt bởi ánh sáng kì lạ chiếu vào.

"Dàn hàng", Martland hô lớn, xuống ngựa, đứng dạng 2 chân trên bờ sông "Đừng để chúng lên bờ."

Roran hạ thấp nửa người, ấn mạnh gót chân xuống nền đất mềm cho đến khi thoải mái với tư thế của mình, chờ đợi tên lính to con, đang đứng trước anh vài feet trong dòng nước lạnh, tấn công. Gầm lên 1 tiếng, nước bắn tung toé khỏi vũng nước nông, hắn vung kiếm. Roran đưa khiên lên đỡ, nện trả 1 cú nhưng hắn lấy khiên chặn lại & chém rách chân anh. Sau vài giây giao đấu, ko ai có thể làm bị thương kẻ kia. Bất ngờ, Roran đánh gãy cẳng tay trái tên lính, dồn hắn lùi lại vài bước. Tên lính chỉ cười, thốt ra những tiếng rầu rĩ, lạnh lẽo. 

Roran lo sợ liệu anh & đồng đội có sống sót qua đêm nay. Chúng khó giết hơn cả loài rắn. Chúng ta có thể chém chúng tơi tả, chúng vẫn bổ tới trừ khi có đòn gì đó kết liễu chúng. Suy nghĩ của Roran bị cắt ngang khi tên lính lại lao vào anh, thanh kiếm hình chữ V của hắn lung linh như 1 lưỡi lửa dưới ánh sáng mờ .

Trận đấu bỗng trở thành 1 cơn ác mộng với Roran. Luồng sáng kì lạ trở thành tai hoạ khi ban cho dòng nước & lũ lính 1 diện mạo kì dị , tẩy trắng chúng, & đẩy những cái bóng của chúng thành những vệt dài, mỏng, sắc như dao cạo xuyên qua làn nước,trong khi khắp nơi xung quanh đó, bong tối dày đặc vẫn đang bao phủ. Hết lần này đến lần khác Roran đẩy lùi những tên lính lao lên giết anh, nện búa vào chúng cho đến khi không còn nhận ra hình người , nhưng chúng vẫn không chết. Sau mỗi cú đòn, từng giọt máu đen như mực phủ lên dòng sông, chảy theo dòng nước. Những tiếng loảng xoảng chết người đều đều tiếp diễn khiến cho Roran khó chịu & tê dại. Cho dù anh có cố gắng thế nào đi nữa, luôn luôn có lớp lính khác lao lên hết đâm rồi lại chém . Và những tiếng cười điên dại vẫn ko ngừng vang lên từ những kẻ biết mình đã chết, chỉ còn duy trì hình hài của sự sống khi Varden đang tàn phá cơ thể chúng.

Và rồi im lặng.

Roran vẫn nấp sau chiếc khiên, cây búa giơ lên, thở hổn hển, nhễ nhãi mồ hội & máu. 1 phút trôi qua, Roran dần nhận ra rằng ko còn ai đứng dưới nước trước anh nữa. Roran nhìn qua trái, qua phải 3 lần, không hiểu nổi sao những tên lính quỷ quái đó cuối cùng cũng chết. 1 cái xác trôi ngang qua anh giữa dòng nước lấp lánh.

Roran gầm lên 1 tiếng không rõ rãng, khi 1 bàn tay nắm chặt cánh tay phải của anh, xoay người lại, anh chỉ thấy Carn đang đứng bên cạnh. Người pháp sư nhợt nhạt, lấm tấm vết máu khô, nói" Chúng ta thắng rồi, Roran! Ê? Chúng ta đuổi được chúng rồi."

Roran buông thõng 2 tay, ngả đầu ra phía sau, quá mệt để ngồi nghĩ. Anh cảm thấy....cảm thấy các giác quan sắc bén dị thường và mọi xúc cảm được nhồi sâu trong lòng. Anh hài lòng về điều đó, bằng ko, anh nghĩ mình sẽ phát điên.

"Tập trung lại & kiểm tra mấy cái xe bò!", Martland la lớn. " Càng nhanh chúng ta càng sớm ra khỏi cái nơi đáng nguyền rủa này! Carn, chăm sóc cho Welmar, tôi ko thích trông thấy vết rạch đó."

Bằng 1 nỗ lực phi thường, Roran quay người lại & lê bước qua bờ sông, tiến lại chiếc xe gần nhất. Chớp chớp mắt khi giọt mồ hôi chảy qua lông mày, Roran nhận ra trong đội chỉ còn 9 người trụ lại . Anh dẹp mọi thứ ra khỏi đầu "Ko fải lúc để than khóc."

Khi Martland Redbeard bước ngang qua khu trại giờ chỉ còn là bãi xác chết, 1 tên lính Roran cho là đã chết bật dậy & chặt đứt tay phải bá tước. Bằng 1 động tác thuần thục duyên dáng, ông đá thanh kiếm văng khỏi tay tên lính, quỳ lên họng hắn, và dùng tay trái, rút dao ra khỏi thắt lưng đâm xuyên qua tai trái tên lính, giết chết hắn. Khuôn mặt ông ấy đỏ bừng đầy căng thẳng, Martland kẹp phần còn lại của cổ tay phải xuống dưới nách trái, xua những người đang chạy tới" Để tôi yên!Không nặng lắm đâu. Đến mấy cỗ xe kia! Trừ phi mấy thằng lười các anh nhanh lên còn ko chúng ta sẽ ở lại đây cho đến khi râu tôi bạc như tuyết. Nhanh lên!" Carn từ chối nhúc nhích , dù Martland quắc mắt, quát lớn "Xéo đi, hoặc là tôi sẽ quất roi lên người anh tội trái lệnh".

Carn đỡ cánh tay vụng về của Martland " Tôi có thể gắn nó lại nhưng có lẽ sẽ cần vài phút."

"Ah, đồ chết tiệt, tha cho ta" Martland la lên, rụt cánh tay lại, giấu vào trong áo trấn thủ. "Đừng làm ta cáu nữa, hãy cứu Welmar & Lindel nếu anh có thể. Hãy tính chuyện này sau khi chúng ta bỏ lại những con quái vật này vài dặm. " 

"Có thể quá muộn." Carn nói.

"Đó là lệnh, thưa ngài pháp sư, ko phải lời yêu cầu." Martland lớn tiếng. 

Khi Carn lui xuống, Martland dùng 2 hàm răng thắt lại ống tay áo phía trên cánh tay phải trước khi kẹp lại dưới nách trái. Khuôn mặt vị bá tước lấm tấm mồ hôi " Được rồi! Có đồ gì jấu sau mấy cỗ xe chết tiệt đó?"

"Dây thừng!" ai đó la to.

" Rượu! " (whiskey = whisley + whisky ?! T.T)

Martland cằn nhằn. "Ulhart, ghi lại cho tôi."

Roran júp những người khác xem xét mấy cái xe, thông báo cho Ulhart. Sau cùng, họ giết hết những con bò & đốt những cỗ xe như thường lệ. Mấy người lính bắt lại ngựa, leo lên chúng & buộc những người bị thương vào yên ngựa.

Khi mọi thứ đã sẵn sàng , Carn hướng về phía ngọn lửa sáng trên bầu trời, lẩm nhẩm 1 tràng cổ ngữ dài, lộn xộn. Màn đêm lại bao phủ thế giới. Liếc sang, Roran trông thấy khuôn mặt Carn rộn ràng khi nhìn ngắm những ngôi sao nhợt nhạt trước khi chìm vào bóng tối quen thuộc, anh trông thấy những con bướm đêm màu xám nhạt bay vô hướng trên bầu trời như linh hồn người đã chết.

Tim nặng trĩu, Roran đặt gót chân lên sườn Hoả tuyết, rời khỏi bãi chiến trường.

MÁU TRÊN ĐÁ

Chán nản, Eragon lao ra khỏi căn phòng hình tròn sâu bên dưới trung tâm của Tronjheim. Cánh cửa gỗ sồi đóng sập lại sau lưng nó với tiếng sầm trống rỗng.

Eragon đứng, tay chống hông, ở giữa hành lang hình vòm bên ngoài căn phòng và nhìn trừng trừng sàn nhà, được lát đá hoa nhiều màu với mã não và ngọc bích hình chữ nhật. Từ lúc Orik và nó đến Tronjheim ba ngày trước, mười ba tộc trưởng của các bộ tộc người lùn không làm gì khác hơn là tranh cãi những chủ đề mà Eragon thấy thật tầm phào, như là tộc nào có quyền thả các đàn thú của mình vào các đồng cỏ nào đó đang được nói đến. Khi nó nghe các tộc trưởng tranh luận những điểm tối nghĩa trong bộ luật hợp pháp của họ, Eragon thường muốn quát lên rằng họ đúng là những tên ngốc đui mù sắp sửa dìm toàn bộ Alagaësia xuống dưới quyền cai trị của Galbatorix, trừ khi họ gạt sang một bên những băn khoăn vụn vặt của họ và chọn một người trị vì mới mà không trì hoãn lâu hơn nữa.

Vẫn đang suy nghĩ miên man, Eragon chậm rãi đi xuống hành lang, gần như không chú ý đến bốn người lính gác đang đi theo nó - họ vẫn làm thế khi nó đi bất cứ đâu - cũng như những người lùn mà nó đi ngang qua trong đại sảnh, chào nó với những biến thể của từ "Argetlam." Tệ nhất là Íorûnn, Eragon quyết định. Nữ người lùn đó là grimstborith của Dûrgrimst Vrenshrrgn, một bộ tộc hùng mạnh và ưa chiến tranh, và bà ta đã thể hiện rõ ràng, ngay từ đầu những cuộc thảo luận, rằng bà ta dự định sẽ giành ngôi vua về mình. Chỉ có một bộ tộc khác, Urzhad, là công khai hứa danh dự sẽ ủng hộ sự nghiệp của bà ta, nhưng như bà ta đã nhiều dịp chứng tỏ trong suốt các cuộc họp tộc trưởng, bà ta thông minh, láu cá, và có khả năng xoay chuyển hầu hết các tình huống thành lợi thế cho mình. Bà ta có thể là một nữ hoàng xuất sắc, Eragon thừa nhận với chính mình, nhưng bà ta quá ranh ma, không thể nào biết được liệu bà ta có ủng hộ Varden không một khi bà ta lên ngôi. Nó tự cho phép mình cười một cách châm biếm. Nói chuyện với Íorûnn luôn khiến nó thấy lúng túng. Người lùn công nhận rằng bà ta rất đẹp, và thậm chí so với tiêu chuẩn của con người, vẻ đẹp của bà ta cũng rất ấn tượng. Bên cạnh đó, bà ta dường như đã phát triển một sự mê hoặc với Eragon mà nó không thể thăm dò được. Trong mọi cuộc đối thoại giữa họ, bà ta luôn luôn nói bóng gió về lịch sử và thần thoại của người lùn mà Eragon chẳng hiểu gì cả nhưng điều đó có vẻ là thú tiêu khiển cho Orik và những người lùn khác đến vô tận.

Bên cạnh Íorûnn, hai tộc trưởng khác cũng nổi bật lên là những kình địch cho ngôi vua: Gannel, tộc trưởng của Dûrgrimst Quan, và Nado, tộc trưởng của Dûrgrimst Knurlcarathn. Là những người bảo vệ tín ngưỡng của người lùn, tộc Quan sử dụng ảnh hưởng to lớn giữa các dòng dõi của họ, nhưng cho đến giờ, Gannel cũng chỉ nhận được sự ủng hộ của hai tộc nữa, Dûrgrimst Ragni Hefthyn và Dûrgrimst Ebardac - một bộ tộc chủ yếu tận tụy với nghiên cứu học thuật. Ngược lại, Nado đã tạo dựng được liên minh lớn hơn, bao gồm các tộc Feldûnost, Fanghur, và Az Sweldn rak Anhûin.

Trong khi Íorûnn có vẻ muốn ngôi báu chỉ đơn thuần vì quyền lực mà bà ta sẽ có được, và Gannel không có vẻ thù địch với Varden - mặc dù Eragon không thân thiện với ai trong bọn họ - thì Nado lại công khai và kịch liệt phản đối mọi dính líu đến Eragon, Nasuada, Đế quốc, Galbatorix, Nữ hoàng Islanzadí, hoặc, theo như Eragon có thể nói, bất cứ sinh vật nào ở bên ngoài rặng núi Beor. Bộ tộc Knurlcarathn là bộ tộc của những thợ đá, về người và hàng hóa vật chất, không tộc nào sánh bằng họ, vì mọi tộc khác đều dựa vào ý kiến của họ trong việc đào hầm và xây dựng nơi ở của mình, và ngay cả tộc Ingeitum cũng cần họ để khai thác quặng cho các xưởng rèn của họ. Và nếu khả năng ứng cử vương miện của Nado lung lay, Eragon biết, sẽ có ít hơn các tộc trưởng có chung quan điểm với nó vươn lên thế chỗ ông ta. Az Sweldn rak Anhûin chẳng hạn - bộ tộc này gần như đã bị Galbatorix và nhóm Phản đồ xóa sổ trong cuộc nổi loạn của chúng - đã tuyên bố họ là kẻ thù huyết thống của Eragon trong suốt chuyến viếng thăm của nó đến thành phố Tarnag, và mọi hành động của họ trong các cuộc họp thị tộc đều biểu lộ mối căm hờn không thể xoa dịu đối với Eragon, Saphira, và mọi thứ liên quan đến rồng và những ai cưỡi rồng. Họ đã phản đối cả sự hiện diện của Eragon ở các cuộc họp giữa các tộc trưởng, và do đó làm trì hoãn nghi thức thêm sáu giờ không cần thiết.

Một trong những ngày này, Eragon nghĩ, mình sẽ phải tìm ra một cách để hòa giải với họ. Hoặc là vậy, hoặc là mình sẽ phải kết thúc những gì mà Galbatorix đã bắt đầu. Mình sẽ không sống cả đời trong nỗi sợ hãi Az Sweldn rak Anhûin. Một lần nữa, như nó đã làm rất thường xuyên trong mấy ngày qua, nó chờ đợi sự đáp lời của Saphira trong một lát, và khi thấy điều đó không đến, một nỗi đau dằn vặt quen thuộc đâm vào tâm can nó.

Dù liên minh giữa các tộc có vững chắc đến đâu, vẫn có một nghi vấn về sự không minh bạch. Cả Orik và Íorûnn và Gannel và Nado đều không có đủ hậu thuẫn để chiến thắng trong một cuộc bầu cử đại chúng, vì vậy tất cả họ đều hăng hái tham gia vào việc cố gắng giữ lòng trung thành của những tộc đã hứa sẽ giúp họ, đồng thời cố gắng mua chuộc người ủng hộ của đối thủ. Bất chấp tầm quan trọng của quá trình, Eragon thấy nó cực kỳ nhạt nhẽo và gây bực mình.

Dựa trên giải thích của Orik, Eragon hiểu rằng trước khi các tộc trưởng có thể bầu cho một người cai trị, họ phải biểu quyết xem liệu họ đã sẵn sàng chọn một nhà vua hoặc một nữ hoàng mới chưa, và rằng cuộc bầu cử sơ bộ phải được ít nhất chín phiếu thuận nếu muốn được tính là qua. Cho đến lúc đó, chưa một tộc trưởng nào, kể cả Orik, cảm thấy đủ yên tâm vào địa vị của mình để mang vấn đề ra giải quyết và tiến hành cuộc bầu cử cuối cùng. Như Orik nói, đó là phần phức tạp nhất trong cả quá trình và, trong vài trường hợp, được biết là đã trì hoãn lâu đến phát nản.

Trong lúc cân nhắc tình hình, Eragon thả bộ vu vơ xuyên qua khu phòng bên dưới Tronjheim cho đến khi nó thấy mình đang ở trong một căn phòng khô ráo, bụi bặm với một hàng gồm năm cổng vòm màu đen ở một đầu và một bức phù điêu tạc hình một con gấu đang nhe răng gầm gừ cao cỡ sáu thước. Con gấu có răng bằng vàng và mắt là những viên ruby tròn nhiều mặt.

"Chúng ta đang ở đâu, Kvîstor?" Eragon hỏi, liếc nhìn những người lính gác của nó. Giọng của nó sinh ra những tiếng vang trống rỗng trong căn phòng. Eragon có thể cảm nhận được tâm trí của rất nhiều người lùn ở tầng bên trên, nhưng nó không hề biết làm sao tới được chỗ họ.

Người lính chỉ huy, một người lùn còn khá trẻ không hơn sáu mươi tuổi, bước tới trước. "Những phòng này được khai phá hàng ngàn năm trước bởi Grimstnzborith Korgan, khi Tronjheim còn đang được xây dựng. Chúng tôi không sử dụng chúng nhiều kể từ hồi đó, trừ khi toàn bộ chủng tộc chúng tôi tập trung trong Farthen Dûr."

Eragon gật đầu. "Ông dẫn tôi trở lên bề mặt được không?"

"Dĩ nhiên, Argetlam."

Vài phút đi khần trương dẫn họ đến một cầu thang rộng rãi với bậc thang nông và có kích cỡ của người lùn, dẫn lên khỏi mặt đất đến một hành lang đâu đó ở góc tây nam của đáy Tronjheim. Từ đó Kvîstor dẫn Eragon đến nhánh phía nam trong bốn hành lang dài hàng dặm chia Tronjheim theo bốn hướng la bàn.

Đó cũng là hành lang mà Eragon và Saphira đã đi qua khi lần đầu vào Tronjheim cách đây vài tháng, và Eragon đi xuống, về phía trung tâm thành phố núi, với một cảm giác hoài cổ kỳ lạ. Nó cảm thấy như nó đã già đi vài tuổi trong thời gian chuyển tiếp.

Con đường lớn cao bốn tầng đông đúc những người lùn của mọi bộ tộc. Tất cả bọn họ đều nhận thấy Eragon, nó chắc chắn điều đó, nhưng không phải tất cả đều hạ cố chào nó, và nó biết ơn điều này, vì đỡ cho nó phải nỗ lực đáp lại còn bằng nhiều câu chào hơn.

Eragon cứng đờ người khi nó thấy một hàng người của tộc Az Sweldn rak Anhûin đi ngang qua hành lang. Đám người lùn đồng loạt quay đầu nhìn nó, biểu hiện của họ mơ hồ đằng sau những cái mạng che mặt mà họ luôn mang khi ở nơi công cộng. Người lùn cuối cùng trong hàng nhổ lên sàn về phía Eragon trước khi đi theo hàng qua một cánh cổng tò vò và ra khỏi đại sảnh cùng với đồng đạo của ông ta hoặc bà ta.

Saphira mà ở đây, họ đã chẳng dám xấc xược như thế, Eragon nghĩ.

Nửa giờ sau, nó tới cuối cái hành lang tráng lệ, và mặc dù nó đã đến đó rất nhiều lần trước đây, một cảm giác sợ hãi và kỳ diệu bao trùm lấy nó khi nó bước đi giữa những cây cột bằng đá mã não có chóp bằng kim cương vàng to gấp ba lần một người, và bước vào căn phòng tròn ở trung tâm Tronjheim.

Căn phòng dài hàng trăm thước từ đầu này đến đầu kia, với sàn nhà bằng đá cacnelian láng bóng được chạm hình một cây búa bao quanh bởi mười hai ngôi sao, tộc huy của Dûrgrimst Ingeitum và của vị vua đầu tiên của người lùn, Korgan, người đã khám phá ra Farthen Dûr khi đang đào vàng. Đối diện Eragon ở đầu bên kia là lối vào ba đại sảnh khác, lan tỏa ra khắp thành phố núi. Căn phòng không có trần nhưng kéo suốt lên đỉnh của Tronjheim, khoảng một dặm phía trên đầu. Ở đó mở ra vòm rồng nơi Eragon và Saphira đã trú ngụ trước khi Arya phá vỡ ngôi sao ngọc bích, và rồi đến bầu trời bên trên: một cái đĩa xanh tráng lệ dường như ở xa không tưởng tượng nổi, cứ như được đeo nhẫn bởi cái miệng mở của Farthen Dûr - ngọn núi rỗng cao mười dặm che chở Tronjheim khỏi phần còn lại của thế giới.

Chỉ một lượng rất ít ánh sáng ban ngày thấm xuống dưới đáy của Tronjheim. Thành phố Vĩnh hằng Chạng vạng, thần tiên đã gọi nó như thế. Vì có quá ít ánh sáng mặt trời vào được thành phố núi - trừ nửa giờ chói lọi trước và sau giữa trưa trong suốt thời gian nóng nhất của mùa hè - những người lùn soi sáng bên trong bằng vô số những ngọn đèn lồng không lửa của họ. Hàng ngàn những cái đèn như thế được trưng bày lộng lẫy trong căn phòng. Một ngọn đèn sáng chói treo xen kẽ bên ngoài mỗi cái cột của những mái vòm xếp thành hàng trên mỗi tầng của thành phố núi, và thậm chí còn nhiều lồng đèn hơn được gắn bên trong những mái vòm, đánh dấu những lối vào đến những căn phòng kỳ lạ không được biết tới, cũng như lối đi của Vol Turin, Cầu Thang Vô Tận, xoáy trôn ốc xung quanh căn phòng từ sàn lên đến đỉnh. Ấn tượng gây ra vừa u sầu vừa ngoạn mục. Những ngọn đèn có rất nhiều màu sắc, khiến cho vùng bên trong của căn phòng như được tô điểm bằng những viên đá quý rực rỡ.

Vẻ lộng lẫy của chúng, tuy vậy, lại lu mờ đi bên cạnh sự tráng lệ một viên ngọc thực sự, viên ngọc vĩ đại nhất trong tất cả: Isidar Mithrim. Trên sàn căn phòng, những người lùn đã xây một giàn giáo bằng gỗ đường kính mười tám thước, và bên trong hàng rào ghép bởi những cái xà bằng gỗ sồi, họ đang ráp lại ngôi sao ngọc bị vỡ vụn, lần lượt từng mảnh quý giá, với một sự thận trọng và khéo léo vô cùng. Những mảnh vỡ mà họ chưa lắp được giữ trong những hộp mặt trên mở có lót bằng những ổ len nguyên chất, mỗi hộp được ghi nhãn với một dòng những dấu hiệu nguệch ngoạc. Những cái hộp rải rác khắp một khoảng rộng của khu phía tây của căn phòng mênh mông. Có lẽ khoảng ba trăm người lùn đang ngồi cúi mình trên những cái hộp, mải mê với công việc của mình, cố gắn những mảnh vụn lại với nhau thành một khối liền. Một nhóm khác đang hối hả bắc giàn, hướng vào những mảnh ngọc vụn bên trong, cũng như xây thêm các công trình khác.

Eragon quan sát họ làm việc trong vài phút, rồi đi thơ thẩn tới khu vực sàn nhà mà Durza đã phá vỡ khi hắn và đám chiến binh Urgals của hắn xông vào Tronjheim từ những đường hầm bên dưới. Dùng mũi giày, Eragon gõ vào sàn đá bóng loáng trước mặt. Không còn dấu vết nào những hư hại mà Durza đã gây ra. Những người lùn đã làm được một việc phi thường khi xóa bỏ những tàn tích của Trận chiến Farthen Dûr, mặc dù Eragon hy vọng họ sẽ tưởng niệm về trận chiến bằng một kiểu tượng đài nào đó, vì nó cảm thấy để cho những thế hệ tương lai không quên đi cái giá phải trả bằng máu của người lùn và Varden trong suốt cuộc chiến chống lại Galbatorix, là một điều quan trọng.

Khi Eragon đi về phía giàn giáo, nó gật đầu với Skeg, người đang đứng trên một cái bục từ trên cao nhìn xuống ngôi sao ngọc bích. Eragon đã gặp người lùn mảnh dẻ và nhanh nhảu này trước đây. Skeg là người của tộc Dûrgrimst Gedthrall, và chính ông là người Vua Hrothgar đã giao phó việc khôi phục lại báu vật quý giá nhất của người lùn.

Skeg ra hiệu cho Eragon trèo lên chỗ cái bục. Một khung cảnh lấp lánh những tháp nghiêng nhọn như kim , những đường gờ lấp lánh mỏng như giấy, và những bề mặt lượn sóng nhấp nhô gây khó khăn cho Eragon khi nó gắng sức trèo lên những tấm ván thô kệch. Đỉnh của ngôi sao ngọc nhắc nó nhớ lại về băng trên Sông Anora trong Thung lũng Palancar vào cuối mùa đông, khi băng đã tan ra và đông cứng lại nhiều lần và rất nguy hiểm để đi qua, do những chỗ lồi lên và những lằn gợn mà sự thay đổi nhiệt độ đã gây ra. Chỉ thay vì những màu xanh, trắng, hoặc trong suốt, những tàn dư của ngôi sao ngọc là một màu hồng đỏ mềm mại chứa đầy những vệt màu cam tối bên trong.

"Công việc thế nào?" Eragon hỏi.

Skeg nhún vai và phủi hai tay trong không khí như một đôi bươm bướm. "Vẫn tiến triển như nó phải thế, thưa Argetlam. Cậu không thể hối thúc sự hoàn mỹ."

"Với tôi thì giống như ông đang tiến hành rất khẩn trương."

Skeg gõ gõ một ngón trỏ xương xẩu vào một bên chiếc mũi rộng và tẹt. "Chóp của Isidar Mithrim, mà bây giờ là đáy, Arya đã phá vỡ thành nhiều mảnh lớn, thì cũng dễ ghép lại. Nhưng đáy của Isidar Mithrim, mà bây giờ lại là đỉnh..." Skeg lắc đầu, khuôn mặt nhăn nheo âu sầu. "Lực của cú công phá, cùng tất cả các mảnh vỡ đẩy vào mặt viên ngọc, đẩy xa khỏi Arya và con rồng Saphira, đẩy xuống phía cậu và tên Tà thần đen tối đó... đã làm vỡ các cánh của bông hồng thành những mảnh không thể nhỏ hơn. Và bông hồng, thưa Argetlam, bông hồng chính là chìa khóa của viên ngọc. Nó là phần phức tạp nhất, đẹp nhất của Isidar Mithrim. Và chính nó bị vụn ra nhiều mảnh nhất. Trừ khi chúng tôi có thể ghép lại nó, từng vụn nhỏ ở đúng chỗ của nó, nếu không có lẽ chúng tôi sẽ đưa viên ngọc cho những thợ đá quý của chúng tôi và nhờ họ tán nó ra thành nhẫn cho mẹ của chúng tôi." Những lời nói tuôn ra từ Skeg giống như nước từ một cái vại đầy tràn. Ông ta la hét bằng tiếng Người lùn với một người lùn khác đang bê một cái hộp băng qua căn phòng, rồi giật giật bộ râu trắng của mình và hỏi, "Cậu đã bao giờ nghe kể chi tiết về chuyện Isidar Mithrim đã được chạm khắc như thế nào trong Thời đại Herran chưa Argetlam?"

Eragon lưỡng lự, nghĩ lại những bài học lịch sử của nó ở Ellesméra. "Tôi biết Dûrok là người đã chạm khắc nó."

"Chính xác," Skeg nói, "chính Dûrok Ornthrond - Mắt-Đại-bàng, nếu cậu nói theo ngôn ngữ này. Không phải ông ta khám phá ra Isidar Mithrim, nhưng chính ông ta đã tách lấy nó ra từ phần đá bao xung quanh, chính ông ta chạm khắc nó, và chính ông ta đã đánh bóng nó. Ông ta dành năm mươi bảy năm làm việc với Ngôi Sao Hoa Hồng. Viên ngọc làm ông ta mê mải hơn bất cứ thứ gì khác. Mỗi tối ông ta đều ngồi khom mình trên Isidar Mithrim cho đến tận sáng, vì ông ta đã xác định rằng Ngôi Sao Hoa Hồng phải không chỉ là nghệ thuật mà còn phải là một thứ gì đó đánh động tâm can bất cứ ai nhìn vào nó, và sẽ mang lại cho ông ta một vị trí danh dự ở bàn của các vị thần. Sự hiến dâng của ông lớn đến mức, vào năm làm việc thứ ba mươi hai, khi vợ ông nói hoặc là ông phải chia sẻ gánh nặng công trình của mình với những người học việc của ông, hoặc là bà sẽ rời khỏi lâu đài của ông, Dûrok không nói một lời mà quay lưng lại bà và tiếp tục mài giũa những đường viền của cánh hoa mà ông đã bắt đầu từ đầu năm đó.

"Dûrok làm việc với Isidar Mithrim cho đến khi ông hài lòng với từng đường nét chạm khắc của nó. Rồi ông buông miếng vải đánh bóng của mình ra, bước một bước lùi lại khỏi Ngôi Sao Hoa Hồng, nói, 'Gûntera, che chở tôi; xong rồi,' và ngã xuống sàn chết." Skeg vỗ lên ngực mình, phát ra một tiếng thụp trống rỗng. "Ông ta đã đưa trái tim của mình ra, còn vì điều gì khác nữa mà ông ta đã phải sống?... Đó là thứ mà chúng tôi đang cố gắng tái thiết lập, Argetlam: năm mươi bảy năm tập trung không ngơi nghỉ của một trong những nghệ sĩ tài hoa nhất mà chủng tộc chúng tôi biết tới. Nếu chúng tôi không thể ghép Isidar Mithrim lại như cũ chính xác như nó trước đây, chúng tôi sẽ làm giảm giá trị thành quả của Dûrok đối với tất cả những ai chưa được thấy Ngôi Sao Hoa Hồng." Nắm tay phải lại thành nắm đấm, Skeg đấm lên đùi để nhấn mạnh lời nói của mình.

Eragon tựa vào rào chắn có bờ cao trước mặt và quan sát năm người lùn ở phía đối diện của viên ngọc đang hạ một người lùn thứ sáu xuống thấp, ông này được buộc giữ lại bằng một dây thừng, cho đến khi ông ta treo lơ lửng cách phần gờ sắc nét của viên ngọc rạn nứt khoảng chục phân. Với tay vào trong áo, ông lùn lơ lửng lấy ra một mảnh vụn của Isidar Mithrim từ một cái ví da và, giữ mảnh vụn bằng một cái kềm nhỏ xíu, gắn nó vào một lổ hổng nhỏ phía trong viên ngọc.

"Nếu lễ đăng quang được tổ chức vào ba ngày tới," Eragon nói, "ông có thể chuẩn bị sẵn sàng Isidar Mithrim trước lúc đó không?"

Skeg gõ gõ lên rào chắn bằng cả mười ngón tay, tạo ra một nhịp điệu Eragon không nhận ra được. Ông lùn nói, "Chúng tôi sẽ không gấp gáp như thế với Isidar Mithrim nếu không phải là do lời đề nghị của con rồng của cậu. Sự gấp rút này là xa lạ đối với chúng tôi, Argetlam ạ. Hối hả như những con kiến kích động, đó không phải bản tính của chúng tôi, như là của con người. Chúng tôi vẫn sẽ cố hết sức để có Isidar Mithrim sẵn sàng cho lễ đăng quang. Nếu là ba ngày tính từ bây giờ... không nên quá trông chờ vào triển vọng của chúng tôi. Nhưng nếu là muộn hơn trong tuần này, tôi nghĩ có thể hoàn thành."

Eragon cảm ơn về những dự đoán của Skeg, rồi rời khỏi đó. Với mấy người lính gác theo sát phía sau, Eragon đi tới một trong số rất nhiều nhà ăn chung của thành phố núi, một căn phòng dài, thấp, với những cái bàn đá được xếp thành nhiều hàng ở một đầu, và những người lùn bận bịu với những cái lò bằng hoạt thạch ở đầu bên kia.

Tại đó Eragon ăn bánh mì bột nhào, cá có thịt trắng mà những người lùn đã bắt được trong những cái hồ dưới lòng đất, nấm, và một vài loại củ hầm nhừ mà nó đã ăn trước đây ở Tronjheim nhưng vẫn chưa biết xuất xứ từ đâu. Dù vậy, trước khi nó bắt đầu ăn, nó cẩn thận kiểm tra chất độc trong thức ăn, dùng phép thuật mà sư phụ Oromis đã dạy.

Khi Eragon chiêu mẩu bánh mì cuối cùng bằng một hớp bia điểm tâm loãng, Orik và một nhóm mười chiến binh đi vào tòa nhà. Các chiến binh ngồi vào bàn của họ, chọn vị trí sao cho họ có thể quan sát cả hai lối vào tòa nhà, trong khi Orik đến chỗ Eragon, ngồi xuống cái ghế đá đối diện nó với một tiếng thờ dài mệt mỏi. Ông đặt khuỷu tay lên bàn và chà xát mặt mình bằng hai bàn tay.

Eragon niệm vài câu thần chú để ngăn chặn bất cứ ai nghe lỏm, rồi hỏi, "Ta gặp thêm trở ngại nào sao?"

"Không. Không có trở ngại gì. Chỉ là những cuộc tranh cãi này đang đến đỉnh điểm."

"Tôi có nhận thấy."

"Và mọi người đều nhận thấy sự chán nản của cậu," Orik nói. "Cậu phải điều khiển bản thân mình tốt hơn trong tương lai, Eragon ạ. Để lộ sự yếu đuối dưới bất cứ hình thức nào cho đối phương của cậu sẽ chỉ đẩy mạnh động cơ của họ. Tôi -" Orik chợt im lặng khi một người lùn to béo lắc lư tiến đến và đặt một đĩa thức ăn nóng hổi trước mặt ông.

Eragon cau có nhìn mép bàn. "Nhưng ông có lại gần được ngôi vua thêm chút nào không? Chúng ta có tiến thêm được bước nào với tất cả những chuyện tầm phào lê thê này không?"

Orik giơ một ngón tay lên khi đang nhai một miệng đầy bánh mì. "Chúng ta đã tiến được nhiều. Đừng rầu rĩ quá thế! Sau khi cậu rời đi, Havard đã đồng ý giảm mức thuế trên giá bán muối của Dûrgrimst Fanghur vào Ingeitum, đổi lại là sự cho phép sử dụng đường hầm của chúng tôi đến Nalsvrid-mérna vào mùa hè, để họ có thể săn hươu đỏ tập trung quanh hồ trong những tháng ấm của năm. Lẽ ra cậu phải thấy Nado nghiến răng thế nào khi Havard chấp thuận đề nghị của tôi."

"Ha," Eragon bật ra. "Thuế với hươu - cái gì trong đó liên quan đến việc ai sẽ kề vị Vua Hrothgar? Thành thật với tôi đi, Orik. Địa vị của ông là gì khi so sánh với những tộc trưởng khác? Rồi vụ này còn có thể kéo thêm bao lâu? Mỗi ngày trôi qua, Đế quốc càng có khả năng sẽ khám phá ra mưu kế của chúng tôi và Galbatorix sẽ tấn công Varden khi tôi không ở đó để mà chống lại Murtagh và Thorn."

Orik chùi miệng bằng cái góc khăn trải bàn. "Địa vị của tôi đủ vững chắc. Không ai trong số grimstborithn có sự ủng hộ để kêu gọi biểu quyết, nhưng Nado và tôi có hậu thuẫn mạnh nhất. Nếu một trong hai bọn tôi giành được, cứ cho là hai hay ba bộ tộc nữa, cán cân sẽ nhanh chóng nghiêng về phía người đó. Havard đang dao động rồi. Sẽ không mất nhiều công khích lệ nữa đâu, tôi nghĩ vậy, để thuyết phục hắn chuyển sang phe ta. Tối nay chúng tôi sẽ ăn cùng hắn, và tôi sẽ xem tôi có thể làm gì để hỗ trợ sự khích lệ đó." Orik nuốt trôi một miếng nấm nướng, rồi nói, "Còn khi nào cuộc họp bộ tộc kết thúc, có thể là một tuần nữa nếu chúng ta may mắn, còn nếu không, có thể là hai."

Eragon thấp giọng rủa xả. Nó quá căng thẳng, dạ dày nó khuấy đảo và sôi lên và đe dọa sẽ đẩy ra mấy món mà nó vừa ăn.

Với ngang qua mặt bàn, Orik nắm lấy cổ tay Eragon. "Cậu hay tôi đều không thể làm gì để đẩy nhanh hơn nữa quyết định của hội đồng thị tộc, cho nên đừng để nó làm cậu rối trí quá nhiều. Lo lắng về những gì cậu có thể thay đổi, và để phần còn lại tự nó sắp xếp, được chứ?" Ông thả Eragon ra.

Eragon từ từ thở ra và tựa vào cẳng tay, tì lên bàn. "Tôi biết. Chỉ là chúng ta có quá ít thời gian, và nếu chúng ta thất bại..."

"Chuyện gì phải đến sẽ đến," Orik nói. Ông cười, nhưng đôi mắt buồn và trống rỗng. "Không ai có thể thoát khỏi ý định của số phận."

"Ông không thể chiếm ngôi bằng vũ lực sao?" Tôi biết ông không có nhiều lực lượng đến thế ở Tronjheim, nhưng với sự hỗ trợ của tôi, ai có thể chống lại ông?"

Orik ngừng lại với con dao ở khoảng giữa đĩa và miệng của mình, rồi lắc đầu và tiếp tục ăn. Vừa nhai ông vừa nói, "Một thủ đoạn như thế sẽ biến thành thảm họa."

"Tại sao?"

"Tôi phải giải thích sao? Toàn bộ chủng tộc của tôi sẽ quay sang chống lại chúng ta, và thay vì nắm được quyền điều hành quốc gia, tôi sẽ chỉ thừa kế cái hư danh. Nếu điều đó xảy ra, tôi sẽ không đảm bảo rằng chúng ta sẽ sống để mà thấy được năm mới đâu."

"Chà."

Orik không nói gì thêm cho đến khi thức ăn trong đĩa đã hết. Rồi ông nốc bia đầy miệng, ợ, và trở lại cuộc nói chuyện: "Chúng ta đang giữ thăng bằng trên một đường núi lộng gió với dốc đứng cao cả dặm ở hai đầu. Có quá nhiều người trong chủng tộc chúng tôi ghét và sợ Kỵ sĩ Rồng vì những tội ác mà Galbatorix, bọn Phản đồ, và bây giờ là Murtagh, đã gây ra đối với chúng tôi. Và có quá nhiều trong số họ sợ hãi thế giới nằm bên ngoài những ngọn núi, những đường hầm và những hang động mà chúng tôi ẩn trốn bên trong." Ông xoay xoay cái cốc trên bàn. "Nado và Az Sweldn rak Anhûin chỉ làm tình hình tệ hơn. Họ đùa giỡn trên nỗi sợ của mọi người và đầu độc trí óc của họ để chống lại cậu, Varden, và Vua Orrin.... Az Sweldn rak Anhûin là một điển hình cho những gì mà chúng ta phải vượt qua nếu tôi làm vua. Làm sao đó chúng ta phải tìm ra một cách để xoa dịu những băn khoăn của họ và của những người như họ, vì cho dù là tôi làm vua, tôi sẽ phải cho họ một sự lắng nghe công bằng nếu tôi muốn duy trì sự ủng hộ của các bộ tộc. Một vua hay nữ hoàng người lùn luôn luôn nhân từ với các bộ tộc của mình, cho dù họ có thể là người cai trị mạnh đến đâu, cũng như grimstborithn nhân từ với những gia đình trong tộc của họ." Ngửa đầu ra sau, Orik uống cạn chỗ bia còn lại trong cốc của mình, rồi đặt nó xuống với một tiếng cạch sắc nét.

"Tôi có thể làm gì không, bất cứ tập quán hay nghi lễ nào của các ông tôi có thể cử hành, để làm khuây khỏa Vermûnd và người của ông ta?" Eragon hỏi, nói tên grimstborith hiện tại của Az Sweldn rak Anhûin. "Phải có điều gì đó tôi có thể làm để chấm dứt sự ngờ vực của họ và kết thúc sự hận thù này."

Orik cười và đứng dậy khỏi bàn. "Cậu có thể chết."

Sáng sớm hôm sau, Eragon ngồi tựa lưng vào bức tường cong của căn phòng tròn chìm sâu bên dưới trung tâm Tronjheim, cùng với một nhóm chọn lọc những chiến binh, cố vấn, người hầu, và thành viên gia đình của các tộc trưởng, những người đủ đặc quyền để dự cuộc họp bộ tộc. Các tộc trưởng ngồi trong những cái ghế nặng nề, chạm trổ được xếp xung quanh mép một cái bàn hình tròn, giống như hầu hết đồ vật có tiếng tăm ở những tầng dưới của thành phố núi, mang dấu hiệu của Korgan và tộc Ingeitum.

Lúc đó, Gáldhiem, grimstborith của tộc Dûrgrimst Feldûnost, đang nói. Ông ta lùn, thậm chí đối với một người lùn - có lẽ không cao hơn sáu mươi phân - và mặc áo choàng trang trí bằng màu vàng, nâu nhạt, và xanh dương thẫm. Không như người của Ingeitum, ông ta không cắt tỉa hay bện râu, và bộ râu đổ xuống ngực ông ta như một bụi mâm xôi rối bù. Đứng trên ghế của mình, ông ta thụi xuống mặt bàn láng bóng bằng nắm tay đeo găng của mình và gầm lên, "... Eta! Narho ûdim etal os isû vond! Narho ûdim etal os formvn mendûnost brakn, az Varden, hrestvog dûr grimstnzhadn! Az Jurgenvren qathrid né dômar oen etal -"

"... Không," phiên dịch của Eragon, một người lùn tên Hûndfast, thì thầm vào tai nó. "Tôi sẽ không để điều đó xảy ra. Tôi sẽ không để những tên ngốc không râu, bọn Varden đó, hủy hoại đất nước của chúng ta. Trận chiến với Rồng đã khiến chúng ta yếu kém và không -"

Eragon cố kìm một cái ngáp, chán nản. Nó cho phép tia nhìn của mình trôi dạt vòng quanh cái bàn đá cẩm thạch, từ Gáldhiem đến Nado, một người lùn mặt tròn với tóc màu nâu vàng nhạt đang gật gù tán đồng bài phát biểu sấm rền của Gáldhiem; đến Havard, đang dùng một con dao găm để làm sạch móng tay của hai ngón còn lại của bàn tay phải; đến Vermûnd, mặt nặng nề nhưng lại bí hiểm đằng sau tấm mạng che mặt đỏ tía; rồi đến Gannel và Ûndin, đang ngồi nghiêng vào nhau, thầm thì, trong khi Hadfala, một nữ người lùn cao tuổi, tộc trưởng của Dûrgrimst Ebardac và là thành viên thứ ba trong phe đồng minh của Gannel, đang nhăn nhó với bó giấy da chi chít chữ rune mà bà ta mang theo đến mọi buổi họp; và rồi đến tộc trưởng của Dûrgrimst Ledwonnû, Manndrâth, ngồi nghiêng về một bên Eragon, đang trưng bày cái mũi dài và rũ xuống của mình rất ấn tượng; đến Thordris, grimstborith của Dûrgrimst Nagra, nó không thấy nhiều ngoài mái tóc nâu vàng lượn sóng, xõa xuống quá vai và nằm cuộn trên sàn trong một cái bím tóc dài gấp đôi chiều cao của bà ta; đến phần sau đầu của Orik khi ông ta ngồi thượt xuống một bên ghế; đến Freowin, grimstborith của Dûrgrimst Gedthrall, một người lùn hết sức to béo đang dán mắt vào khối gỗ mà ông ta đang bận chạm khắc vào đó một hình gì đó trông giống như một con quạ gù lưng; và rồi đến Hreidamar, grimstborith của Dûrgrimst Urzhad, người mà, tương phản với Freowin, gọn gàng và rắn chắc, với hai cẳng tay cuốn dây và mặc áo giáp với mũ giáp đến mọi cuộc họp; và cuối cùng đến Íorûnn, với làn da nâu sẫm bị hư hại bởi một vết sẹo mảnh hình lưỡi liềm cao phía trên xương gò má, với mái tóc sáng như xatanh chòi ra từ bên dưới cái mũ giáp bạc được chế tác theo hình một đầu sói đang nhe nanh, với bộ áo váy đỏ son và chiếc vòng cổ bằng ngọc lục bảo lấp lánh gắn những hình vuông bằng vàng có khắc những dấu hiệu bí ẩn.

Íorûnn nhận thấy Eragon đnag nhìn mình. Một nụ cười uể oải hiện ra trên môi bà ta. Với một sự buông thả khêu gợi, bà ta nháy mắt với Eragon, che khuất đi một con mắt hình hạnh nhân trong một khoảng thời gian bằng hai nhịp tim.

Má Eragon ngứa râm ran khi máu dồn lên, và chóp tai nó nóng bừng. Nó chuyển hướng tia nhìn và trở lại với Gáldhiem, ông này vẫn đang bận ra vẻ giáo chủ, ngực ông ta phập phồng như một con bồ câu khệnh khạng.

Vì Orik đã yêu cầu, Eragon duy trì vẻ thản nhiên trong suốt cuộc họp, che giấu phản ứng của nó khỏi những ai đang quan sát. Khi hội đồng thị tộc nghỉ để ăn trưa, nó nhào đến chỗ Orik, cúi thấp để không ai khác nghe thấy, nó nói, "Đừng tìm tôi ở bàn của ông. Tôi đã chán ngấy với ngồi và nói rồi. Tôi sẽ đi khám phá mấy đường hầm một lát."

Orik gật đầu, tỏ vẻ bị phân tâm, và lẩm bẩm đáp lời, "Cứ làm như cậu muốn, chỉ cần đảm bảo là cậu ở đây khi chúng tôi tiếp tục; sẽ không thích đáng nếu cậu trốn, cho dù những cuộc nói chuyện này có nhạt nhẽo đến đâu."

"Được rồi."

Eragon lách ra ngoài phòng hội nghị, cùng với đám đông người lùn đang háo hức chờ bữa trưa của mình, và nhập bọn với những vệ sĩ của nó trong hành lang bên ngoài, nơi họ đang chơi xúc xắc với những người lính nhàn rỗi từ các tộc khác. Với những người lính của nó theo sau, Eragon lao đi theo hướng bất kỳ, cho phép chân nó mang nó đến bất cứ chỗ nào trong khi nó cân nhắc những phương pháp hàn gắn những phe phái người lùn bất đồng thành một khối thống nhất chống lại Galbatorix. Nó bực bội nhận thấy những phương pháp mà nó mường tượng ra quá xa vời, và thật lố bịch khi tưởng tượng là chúng có thể thành công.

Eragon chú ý rất ít đến những người lùn mà nó gặp trong những đường hầm - ngoài lẩm bẩm những câu chào do phép lịch thiệp đòi hỏi - và thậm chí đến những chi tiết xung quanh nó, tin tưởng rằng Kvîstor có thể dẫn đường cho nó trở về phòng hội nghị. Mặc dù Eragon không xem xét chi tiết bề ngoài khu vực xung quanh, nó vẫn giữ dấu vết tâm trí của mọi sinh vật nó có thể cảm nhận được trong bán kính vài chục thước, thậm chí đến cả con nhện nhỏ nhất đang trốn tránh đằng sau cái mạng của nó trong góc một căn phòng, vì Eragon không muốn bị bất ngờ bởi bất cứ ai có thể đang đi tìm nó.

Cuối cùng, khi nó dừng lại, nó ngạc nhiên thấy mình đang ở trong chính căn phòng bụi bặm mà nó đã phát hiện ra trong những lần lang thang hôm trước. Ở đó bên trái nó vẫn là năm cửa vòm đen xếp thành hàng dẫn đến những hang động nó chưa từng biết, trong khi ở bên phải nó vẫn là bức phù điêu chạm khắc phần đầu và vai của một con gấu đang nhe răng. Ngạc nhiên vì sự trùng hợp, Eragon thả bộ đến chỗ bức tượng đồng và nhìn lên những cái răng nanh bóng loáng của con gấu, thắc mắc không biết cái gì đã kéo nó lùi lại.

Một lát sau, nó đi đến cửa vòm ở giữa trong năm cái và nhìn qua đó. Hành lang hẹp phía bên kia hoàn toàn không có đèn và nhanh chóng mờ nhạt vào sự lãng quên mềm mại của bóng tối. Thận trọng bước tới, Eragon thăm dò chiều dài đường hầm và vài căn phòng bỏ không mà nó dẫn đến. Nửa tá nhền nhện và một nhóm rải rác những con sâu bướm, những con cuốn chiếu, và những con dế mù là những cư dân duy nhất. "Xin chào!" Eragon gọi, và lắng nghe khi cái hành lang dội lại giọng nói của nó với âm lượng nhỏ dần. "Kvîstor," Eragon nói, nhìn ông ta, "chẳng lẽ không ai sống trong những chỗ cổ xưa này hết sao?"

Người lùn nét mặt khỏe khoắn trả lời, "Có một số. Một số knurlan kỳ quặc, đối với chúng những không gian hiu quạnh không một bóng người là niềm vui thú lớn hơn sự đụng chạm của bàn tay người vợ hay âm thanh tiếng nói của bạn bè. Chính là một gã như thế đã cảnh báo chúng tôi về sự tiếp cận của đoàn quân Urgals, nếu cậu nhớ, Argetlam. Tuy chúng tôi không nói nhiều về điều đó, còn có những kẻ đã phạm luật của vùng đất này, và những kẻ đã bị các tộc trưởng đày xử tử trong thời hạn nhiều năm hoặc, nếu phạm tội quá nghiêm trọng, sẽ là trong toàn bộ phần đời còn lại. Tất cả những kẻ đó đều như những xác chết biết đi đối với chúng tôi; chúng tôi tránh xa những kẻ đó nếu gặp chúng ở bên ngoài đất của chúng tôi và treo cổ chúng nếu chúng tôi bắt được chúng bên trong lãnh thổ."

Khi Kvîstor nói xong, Eragon nói nó đã sẵn sàng rời khỏi đó. Kvîstor dẫn đầu và Eragon đi theo ông ta ra khỏi cánh cửa vòm mà họ đã đi qua lúc vào, ba người lùn còn lại ở ngay phía sau. Họ đi chưa được hơn sáu thước khi Eragon nghe thấy một tiếng lướt nhẹ mơ hồ từ phía sau, mơ hồ đến mức có vẻ Kvîstor không nhận thấy.

Eragon liếc lại sau. Bằng ánh sáng màu hổ phách thắp bởi những cái đèn lồng không lửa treo ở hai đầu hành lang, nó thấy bảy người lùn trang phục hoàn toàn màu đen, mặt họ che vải đen và chân họ được quấn bằng giẻ, đang chạy về phía nhóm của họ với một tốc độ mà Eragon cho rằng là lãnh vực chỉ có ở thần tiên, Tà thần, và những sinh vật khác mang dòng máu phép thuật. Trong tay phải của họ là những con dao găm dài và sắc với lưỡi dao nhợt nhạt lấp lóa màu sắc lăng kính, trong khi bên tay trái, mỗi người họ mang một tấm khiên kim loại với những cái đinh nhọn nhô ra từ mấu lồi. Tâm trí của họ, giống như của Ra'zac, bị ẩn đi khỏi Eragon.

Saphira! là ý nghĩ đầu tiên của Eragon. Rồi nó nhớ ra nó đang đơn độc.

Xoay người để đối mặt với đám người lùn mặc đồ đen, Eragon với lấy thanh kiếm cong của nó đồng thời mở miệng để hét lên báo động.

Nó đã quá trễ.

Ngay lúc từ đầu tiên rung lên trong họng nó, ba trong số những người lùn lạ mặt đã tóm được người vệ sĩ ở xa nhất của Eragon và vung những con dao găm chập chờn của họ lên để đâm ông ta. Nhanh hơn cả lời nói hoặc ý thức, Eragon nhấn chìm toàn bộ sức sống của mình vào dòng chảy phép thuật và, không dựa vào cổ ngữ để xây dựng thần chú, mà đan kết lại cấu trúc của thế giới thành một mô hình dễ chịu hơn đối với nó. Ba người lùn đang đứng giữa nó và những kẻ tấn công bay về phía nó, như bị giật mạnh bằng những sợi dây vô hình, và đáp lên chân mình bên cạnh nó, không bị thương, nhưng bị mất phương hướng.

Eragon nhăn mặt vì sự suy giảm sức mạnh đột ngột.

Hai trong số những người lùn mặc đồ đen nhào tới nó, đâm vào bụng nó bằng những con dao găm khát máu. Kiếm trong tay, Eragon gạt được cả hai cú ra đòn, kinh ngạc vì tốc độ và sự hung ác của họ. Một trong số những người lính của nó nhảy tới, hét lên và vung cây rìu của mình vào những kẻ sắp trở thành thích khách. Trước khi Eragon có thể túm lấy áo giáp của ông lùn mà kéo ông ta lại an toàn, một lưỡi kiếm trắng, quằn quại như có những ngọn lửa ma quái, xuyên thủng cái cổ quấn dây thừng của ông lùn. Khi người lùn ngã xuống, Eragon nhìn lướt qua gương mặt méo mó của ông ta và sốc khi nhận ra Kvîstor - và cổ họng ông ta chảy ra đỏ rực như thể nó đang bị phân hủy xung quanh con dao găm.

Không thể để chúng làm trầy da mình, Eragon nghĩ.

Phẫn nộ vì cái chết của Kvîstor, Eragon đâm thật nhanh vào tên sát nhân, gã lùn áo đen không có cơ hội tránh cú ra đòn và gục xuống chết dưới chân Eragon.

Bằng tất cả sức mạnh, Eragon hét lên, "Đứng đằng sau tôi!"

Những vết nứt hẹp chia cắt sàn nhà và những bức tường, và những viên đá rơi từ trần xuống khi giọng nó dội lại xuyên suốt hành lang. Những tên lùn đang tấn công chùn bước trước uy lực giọng nói không kiềm chế của nó, rồi lại tiếp tục thế công.

Eragon rút lui vài thước để tạo khoảng trống cho nó di chuyển, không bị vướng các xác chết và cúi người xuống thấp, đảo lưỡi kiếm cong qua lại, như một con rắn sẵn sàng tấn công. Tim nó đập nhanh gấp hai lần bình thường, và mặc dù cuộc chiến chỉ mới bắt đầu, nó đã phải thở dốc rồi.

Hành lang rộng hai thước rưỡi, đủ rộng cho ba trong số sáu đối thủ còn lại của nó tấn công nó cùng một lúc. Chúng tản ra, hai tên cố tấn công hai bên sườn trái và phải của nó, trong khi tên thứ ba đánh thẳng vào nó, chém với một tốc độ điên cuồng vào chân và tay nó.

Sợ phải đấu với những tên lùn theo cách mà lẽ ra nó đã áp dụng nếu họ sử dụng những thanh kiếm thường, Eragon dồn lực chân xuống sàn và nhảy tới trước. Nó quay người nửa vòng và đạp chân lên trần. Bật ra và quay nửa vòng nữa, nó tiếp đất bằng cả chân và tay khoảng một thước đằng sau ba tên lùn. Ngay khi họ bổ vể phía nó, nó bước tới trước và chặt đầu cả đám bọn họ với chỉ một cú ra đòn trái tay.

Dao găm của họ rơi lách cách xuống đất, sớm hơn mấy cái đầu một lát.

Tung mình qua những cái xác cụt đầu, Eragon xoay người trong không trung và tiếp đất tại đúng chỗ mà nó đã xuất phát.

Nó không hề sớm một chút nào.

Một làn gió cù vào cổ nó khi mũi một con dao găm lao sượt qua họng nó. Một lưỡi kiếm nữa giật mạnh gấu xà cạp của nó, cắt nó mở toang. Nó nao núng và vung kiếm, cố tìm khoảng trống để chiến đấu. Lẽ ra vòng phép của mình phải bẻ hướng kiếm của chúng đi chứ! nó hoang mang nghĩ.

Một tiếng hét không chủ tâm thoát ra khỏi họng nó khi nó dẫm phải một lớp máu trơn khiến nó mất thăng bằng và ngã đổ ra đằng sau. Với một tiếng nghiến lạo xạo nghe phát khiếp, đầu nó va chạm với nền đá. Ánh sáng xanh nhá lên trước mắt. Nó thở hổn hển.

Ba người lính còn lại của nó nhảy trùm lên nó, đồng loạt vung rìu của họ lên, dọn dẹp khoảng trống bên trên Eragon và cứu nó khỏi cú đâm của những con dao găm chớp nhoáng.

Đó là tất cả thời gian Eragon cần để hổi phục. Nó bật thằng dậy và, tự rủa xả mình vì đã không thử điều này sớm hơn, hét vang câu thần chú trói buộc với chín trong số mười hai từ ngữ chết người mà Oromis đã dạy nó. Tuy nhiên, ngay khoảnh khắc nó phóng thích phép thuật của mình, nó từ bỏ ngay câu thần chú, vì những tên lùn áo đen được bảo vệ bởi rất nhiều vòng phép. Nếu được gia hạn thêm mấy phút, nó đã có thể tránh được hoặc phá hủy những vòng phép, nhưng phút có lẽ cũng tương tự như ngày trong một trận chiến cỡ này, khi mà từng giây đều dài như một giờ. Thất bại với ma thuật, Eragon gồng cứng suy nghĩ của mình thành một ngọn giáo cứng như sắt và phóng đến chỗ mà nó đoán là ý thức của một trong những tên lùn áo đen. Ngọn giáo trượt khỏi một loại áo giáp tinh thần mà Eragon chưa hề đụng phải trước đây: trơn trượt và liền một mảnh, có vẻ không bị phá vỡ bởi những mối lo âu tự nhiên đối với những sinh vật đang vướng vào một cuộc tranh đấu đến chết.

Một kẻ nào khác đang bảo vệ chúng, Eragon nhận ra. Có nhiều kẻ đứng sau cuộc tấn công này hơn là chỉ có bảy tên ở đây.

Trụ lên một chân, Eragon nhào tới và lưỡi kiếm của nó xuyên qua đầu gối tên tấn công ngoài cùng phía bên trái, máu bắn vọt ra. Tên lùn sẩy chân, và những vệ sĩ của Eragon đổ về phía hắn, túm chặt tay tên lùn để hắn không thể vung được thanh kiếm tàn khốc, rồi chặt mạnh xuống hắn.

Tên gần hơn trong hai tên còn lại đưa khiên lên đề phòng cú ra đòn Eragon sắp sửa nhắm vào hắn. Triệu tập toàn bộ giới hạn sức mạnh, Eragon chém vào cái khiên, định cắt nó và cả cánh tay bên dưới làm đôi, như nó thường vẫn làm với thanh Zar'roc. Tuy nhiên, trong sự kích thích của cuộc chiến, nó đã quên không tính đến tốc độ không thể lý giải của tên lùn. Khi lưỡi kiếm của nó đến gần mục tiêu, tên lùn nghiêng cái khiên của hắn, làm chệch hướng cú ra đòn về một bên.

Hai chùm tia sáng tóe ra từ bề mặt tấm khiên khi thanh kiếm sượt qua phần trên, rồi đến mũi đinh thép gắn ở giữa. Xung lượng đẩy lưỡi kiếm đi xa hơn Eragon dự tính, và nó tiếp tục bay xuyên không khí cho đến khi nó đập cạnh vào một bức tường, làm chấn động cả cánh tay Eragon. Với một tiếng động trong như pha lê, lưỡi của thanh kiếm cong vỡ thành hàng tá mảnh vụn, để lại một mũi nhọn kim loại lởm chởm dài hai chục phân thò ra khỏi chuôi.

Choáng váng, Eragon buông thanh kiếm gãy ra và nắm lấy vành khiên của tên lùn, vật lộn với hắn tới lui và gắng hết sức giữ cho tấm khiên ở giữa mình và con dao găm lóe hào quang với những màu sắc mờ đục. Tên lùn mạnh không thể tin được; hắn chống đỡ được nỗ lực của Eragon và thậm chí còn thành công trong việc đẩy nó lui một bước. Nhả tấm khiên ra bằng tay phải nhưng vẫn giữ chặt bằng tay trái, Eragon thu tay lại và giáng lên tấm khiên mạnh hết mức có thể, đấm xuyên qua lớp thép đã tôi một cách dễ dàng như thể nó được làm bằng gỗ mục. Nhờ những cục chai sần trên các khớp ngón tay, nó hoàn toàn không thấy đau bởi cú va chạm.

Lực của cú đấm ném tên lùn văng vào bức tường đối diện. Đầu hắn ngoẹo trên cái cổ không xương, tên lùn đổ xuống đất, như một con rối bị cắt hết dây.

Eragon rút tay lại qua cái lỗ lởm chởm trên tấm khiên, bị trầy da vì phần kim loại rách toạc, và rút con dao săn của nó ra.

Rồi tên cuối cùng trong đám người lùn mặc đồ đen tấn công nó. Eragon gạt đỡ con dao găm của hắn hai lần... ba lần... và rồi cắt xuyên qua tay áo có lót của tên lùn và rạch vào tay cầm dao của hắn từ cùi chỏ đến cổ tay. Tên lùn rít lên vì đau, đôi mắt xanh da trời trở nên điên tiết bên trên miếng vải che mặt. Hắn phát động một chuỗi những cú ra đòn, con dao găm rít lên trong không khí nhanh hơn mức mà mắt có thể theo kịp, buộc Eragon phải nhảy đi để tránh lưỡi dao chết người. Tên lùn đẩy mạnh thế công. Trong vài thước, Eragon tránh được hắn thành công, cho đến khi gót chân nó va vào một cái xác và, trong nỗ lực bước vòng quanh cái xác, nó vấp và ngã vào bức tường, làm thâm tím vai mình.

Với một tiếng cười hiểm độc, tên lùn lao bổ vào, đâm xuống lồng ngực đang phơi ra của Eragon. Quăng một cánh tay lên trong nỗ lực vô ích bảo vệ bản thân, Eragon lăn xa hơn xuống dưới hành lang, biết rằng lần này may mắn của nó đã hết và sẽ không thể thoát được nữa.

Khi nó quay hết một vòng và trong giây lát, mặt nó xoay vể phía tên lùn một lần nữa, Eragon liếc con dao lờ mờ đang đâm xuống da thịt nó, như một tia sét từ trên cao. Rồi, nó ngạc nhiên khi thấy mũi con dao đâm trúng một cái đèn lồng không lửa gắn trên tường. Eragon vặn mình lăn ra ngoài trước khi nó có thể nhìn thấy gì thêm, nhưng một khoảnh khắc sau đó, một bàn tay nóng bỏng dường như tấn công nó từ đằng sau, ném nó bay ít nhất sáu thước xuyên qua hành lang, cho đến khi nó dừng lại đập vào gờ của một cái cổng tò vò đang mở, ngay lập tức bổ sung thêm một tổ hợp những vết trầy xước và thâm tím khác. Một tiếng nổ bùm làm điếc tai nó. Cảm thấy như thể có ai đó đang lùa những mảnh vụn vào trong màng nhĩ nó, Eragon chụp tay lên đầu và cuộn người thành một quả bóng, hú lên.

Khi tiếng động và cơn đau đã dịu đi, nó hạ tay xuống và lảo đảo đứng lên, nghiến chặt răng vì những vết thương trên người thông báo sự hiện diện của chúng bằng vô số cảm giác khó chịu. Lảo đảo và rối bời, nó nhìn chằm chằm về phía vụ nổ.

Vụ nổ đã phủ đen một khoảng dài hơn ba thước trong hành lang bằng bồ hóng. Những tàn tro mềm mại cuộn lên trong không trung, cũng nóng như không khí từ trong một cái lò rèn được hun nóng. Tên lùn vừa nãy sắp sửa giáng đòn vào Eragon nằm trên mặt đất, thảm hại, cơ thể phủ đẩy vết bỏng cháy. Sau vài cơn co giật nữa, hắn bất động. Ba vệ sĩ còn sống của Eragon nằm ở rìa của đám bồ hóng, nơi mà vụ nổ đã quẳng họ ra. Ngay khi nó nhìn, họ lảo đảo đứng dậy, máu nhỏ giọt từ tai và những cái miệng há hốc của họ, râu họ cháy xém và rối bời. Những đường nối chạy dọc vành áo giáp của họ sáng rực màu đỏ, nhưng lớp da lót áo giáp của họ có vẻ đã bảo vệ họ khỏi điều tệ nhất từ sức nóng.

Eragon bước tới một bước, rồi dừng lại và rên rỉ khi một cơn đau bùng ra giữa hai xương vai của nó. Nó cố xoay tròn cánh tay để cảm nhận phạm vi của vết thương, nhưng khi da nó giãn ra, cơn đau trở nên quá mãnh liệt khiến nó không thể tiếp tục. Gần như mất ý thức, nó tựa người vào tường để chống đỡ. Nó liếc nhìn tên lùn bị cháy lần nữa. Chắc mình cũng phải gánh thương tích tương tự như thế trên lưng.

Tự bắt mình tập trung, nó đọc lại hai câu thần chú được sáng tạo ra để chữa những vết bỏng mà ông Brom đã dạy nó trong suốt những chuyến đi. Khi chúng có hiệu lực, nó cảm thấy như nước mát êm dịu đang chảy dọc lưng nó. Nó thở dài nhẹ nhõm và đứng thẳng dậy.

"Các ông có bị thương không?" nó hỏi khi mấy người vệ sĩ tập tễnh bước tới.

Người lùn đi đầu nhăn mặt, vỗ vỗ vào tai mình, và lắc đầu.

Eragon lầm bầm nguyền rủa và chỉ khi đó nó mới nhận thấy nó không thể nghe được giọng nói của nó. Một lần nữa rút năng lượng dự trữ từ bên trong cơ thể, nó niệm thần chú khôi phục lại kết cấu bên trong tai của nó và của họ.

Khi câu thần chú kết thúc, một sự ngứa ngáy đến rát da bò ngoằn ngoèo trong tai nó, rồi mất dần cùng với câu thần chú.

"Các ông có bị thương không?"

Người lùn ở bên phải, một người lực lưỡng với bộ râu hình cái chạc, ho và nhổ ra một cục máu đông, rồi càu nhàu, "Không gì mà thời gian không chữa được. Cậu thì sao, Khắc-tinh-của-Tà-thần?"

"Tôi sẽ sống."

Kiểm tra sàn nhà trên từng bước chân, Eragon bước vào khu vực phủ đen bồ hóng và quỳ xuống bên cạnh Kvîstor, hy vọng nó vẫn có thể cứu ông ta khỏi nanh vuốt thần chết. Ngay khi nó nhìn lại vào vết thương của ông ta, nó biết điều đó là không thể.

Eragon cúi đầu, ký ức về cuộc đổ máu làm đau xót tâm hồn nó. Nó đứng dậy. "Tại sao cái đèn lại phát nổ?"

"Chúng chứa đầy hơi nóng và ánh sáng, Argetlam," một vệ sĩ trả lời. "Nếu chúng bị vỡ, tất cả sẽ thoát ra cùng một lúc và lúc đó tốt hơn là nên đứng xa xa ra."

Ra dấu về phía những xác chết nhàu nát của những kẻ tấn công, Eragon hỏi, "Ông có biết chúng là người tộc nào không?"

Người lùn với bộ râu hình chạc lục lọi quần áo của vài tên lùn áo đen, rồi nói, "Barzûl! Chúng không mang dấu hiệu nào trên người để cậu có thể nhận ra, Argetlam ạ, nhưng chúng mang cái này." Ông ta đưa ra một cái vòng đeo tay làm bằng lông ngựa tết lại có gắn những viên thạch anh tím tròn, láng bóng.

"Nó có nghĩa gì?"

"Loại thạch anh tím này," ông lùn nói, và gõ gõ vào một trong những viên ngọc với một cái móng tay đầy vệt bồ hóng, "loại thạch anh đặc biệt này, nó chỉ mọc trên bốn vùng của rặng Beor, và ba trong số đó thuộc về Az Sweldn rak Anhûin."

Eragon nhăn mặt. "Grimstborith Vermûnd sắp đặt cuộc tấn công này sao?"

"Tôi không thể nói chắc, thưa Argetlam. Có khả năng một tộc khác đã để cái vòng lại cho chúng ta tìm thấy. Họ có thể muốn chúng ta nghĩ rằng đó chính là tộc Az Sweldn rak Anhûin, như thế chúng ta sẽ không nhận ra kẻ thù thực sự là ai. Nhưng... nếu tôi phải đánh cược, Argetlam, tôi sẽ cược một xe đầy vàng rằng chính bọn Az Sweldn rak Anhûin chịu trách nhiệm trong vụ này."

"Quỷ tha ma bắt chúng đi," Eragon lẩm bẩm. "Cho dù là kẻ nào, quỷ tha ma bắt chúng." Nó siết chặt hai nắm tay để ngăn chúng run lên. Bằng một bên giầy, nó đá vào những con dao găm hình lăng trụ mà bọn sát nhân đã sử dụng. "Những câu thần chú trên những vũ khí này và trên những... những gã đàn ông" - nó hất cằm ra dấu - "đàn ông, người lùn, thế nào cũng mặc xác, chúng phải đòi hỏi một lượng nội lực kinh khủng, và tôi không thể tưởng tượng ra được độ phức tạp của những từ ngữ. Thực hiện chúng sẽ rất khó và nguy hiểm...." Eragon nhìn lần lượt những vệ sĩ của mình và nói, "Vì các ông là các nhân chứng của tôi, tôi thề sẽ không để cuộc tấn công này, cũng như cái chết của Kvîstor, thoát khỏi sự trừng phạt. Dù bất cứ một bộ tộc hay những bộ tộc nào gửi những tên sát thủ mặt thú này đến, tôi mà biết được tên chúng, chúng sẽ ước sao chưa bao giờ nghĩ đến việc tấn công tôi và, bằng việc tấn công tôi, tấn công vào Dûrgrimst Ingeitum. Điều này tôi thề với các ông, như một Kỵ sĩ Rồng và như một thành viên bằng hữu của Dûrgrimst Ingeitum, và nếu bất cứ ai hỏi các ông, hãy nhắc lại lời hứa của tôi với họ như tôi đã nói với các ông."

Những người lùn cúi đầu trước nó, và người có râu hình chạc đáp lời, "Vì cậu ra lệnh, chúng tôi sẽ tuân theo, thưa Argetlam. Cậu làm vinh dự ký ức về vua Hrothgar bằng những lời nói của cậu."

Rồi một người lùn khác nói, "Dù là bất cứ bộ tộc nào, chúng đã xâm phạm luật về lòng hiếu khách; chúng đã tấn công một vị khách. Chúng còn không cao quý bằng lũ chuột, chúng là những menknurlan." Ông ta nhổ lên sàn, và những người kia nhổ cùng ông ta.

Eragon đi đến chỗ những tàn tích của thanh kiếm của nó. Nó quỳ xuống đám bồ hóng và, dùng đầu ngón tay, chạm vào một trong những mảnh vỡ bằng kim loại, lần theo hai cạnh tả tơi của nó. Chắc mình đã chém vào cái khiên và bức tường rất mạnh, áp đảo cả những thần chú mà mình dùng để tăng cường sức mạnh cho lưỡi kiếm, nó nghĩ.

Rồi nó nghĩ, Mình cần một thanh gươm.

Mình cần một thanh gươm của Kỵ sĩ.

♣ ♣ ♣

VẤN ĐỀ VIỄN CẢNH

Cơn gió-hơi-nóng-ban-ngày-trên-đất-bằng, khác với gió-hơi-nóng-ban-ngày-trên-đồi, di chuyển. Saphira điều chỉnh góc nghiêng của cánh để cân bằng với những thay đổi trong tốc độ và áp suất của không khí đang chống đỡ trọng lượng của nó hàng trăm thước bên trên vùng đất cháy nắng phía dưới. Nó nhắm hai bên mí mắt đôi lại một lát, đắm mình vào chiếc giường bằng gió mềm mại, cũng như cái ấm của những tia sáng ban ngày đang tỏa chiếu lên bề dài gân guốc của nó. Nó tưởng tượng cái cách ánh sáng chắc hẳn làm vảy của nó lấp lánh và cái cách những kẻ nhìn nó lượn vòng trên trời phải kinh ngạc trước cảnh tượng đó, và nó ngâm nga vì thích thú, hài lòng biết rằng nó là sinh vật đẹp nhất Alagaësia, bởi kẻ nào có thể hy vọng sánh được với sự tráng lệ của những cái vảy của nó; và cái đuôi dài thon nhọn; và đôi cánh, thật cân đối và chuẩn dáng; và những cái móng vuốt cong; và những cái răng nanh trắng dài, với chúng nó có thể cắt lìa cổ một con bò hoang chỉ với một cú ngoạm? Không phải Glaedr-vảy-vàng, anh rồng bị mất một chân trong thời suy tàn của Kỵ sĩ. Cũng không phải Thorn hay Shruikan, vì chúng đều là nô lệ của Galbatorix, và sự nô lệ trói buộc của chúng đã xoắn vặn tâm trí chúng. Một con rồng đã mất sự tự do được làm những gì mà nó thích thì hoàn toàn chẳng phải rồng nữa. Ngoài ra, chúng là đực, và những con đực có thể rất oai vệ, nhưng chúng không thể bao hàm được vẻ đẹp giống như nó. Không, nó là sinh vật lộng lẫy nhất của Alagaësia, và rõ ràng là phải như thế.

Saphira ngoe nguẩy thỏa mãn từ đỉnh đầu đến chóp đuôi. Hôm nay là một ngày hoàn hảo. Sức nóng từ mặt trời làm nó cảm thấy như nó đang nằm trong một cái tổ bằng than đá. Dạ dày nó đầy căng, trời trong xanh, và chẳng có gì nó phải chú ý đến, ngoại trừ đề phòng những kẻ thù có thể muốn đánh lộn, việc mà đằng nào thì nó cũng làm, như một thói quen.

Hạnh phúc của nó chỉ có một thiếu sót, nhưng đó là một thiếu sót sâu sắc, và càng nghĩ đến nhiều, nó càng thấy bất mãn, cho đến khi nó nhận ra rằng nó hoàn toàn không thấy thỏa mãn gì nữa; nó ước Eragon ở đó để chia sẻ ngày hôm nay với nó. Nó gầm gừ và nhả ra một tia lửa ngắn màu xanh từ giữa hai hàm, đốt nóng không khí trước mặt nó, rồi siết họng lại, cắt đứt dòng chất cháy. Lưỡi nó ngứa ran vì những tia lửa đã chạy qua. Lúc nào thì Eragon, Eragon-người-gắn-kết-với-tâm-trí-và-trái-tim nó, sẽ liên lạc với Nasuada từ Tronjheim và yêu cầu nó, Saphira, đến gặp anh ta? Nó đã thuyết phục anh ta tuân lệnh Nasuada và đi đến những-ngọn-núi-cao-hơn-nó-có-thể-bay, nhưng bây giờ đã quá lâu rồi, và Saphira cảm thấy lạnh lẽo và bụng dạ trống rỗng.

Có một hình bóng trong thế giới, nó nghĩ. Đó chính là thứ làm mình lo lắng. Có gì đó không ổn với Eragon. Anh ấy đang gặp nguy hiểm, hoặc anh ấy đã gặp nguy hiểm gần đây. Và mình không thể giúp anh ấy. Nó không phải một con rồng hoang. Từ khi nó nở ra, nó đã chia sẻ toàn bộ cuộc đời nó với Eragon, và không có anh ta, nó chỉ còn lại một nửa chính mình. Nếu anh ta chết vì nó không có ở đó để bảo vệ anh ta, nó sẽ không có lý do nào để sống tiếp, ngoại trừ để trả thù. Nó biết nó sẽ xé xác những tên sát nhân thành từng mảnh và rồi nó sẽ tấn công vào thành phố tăm tối của tên-phản-bội-phá-trứng, kẻ đã cầm tù nó suốt bao nhiêu thập kỷ, và nó sẽ cố hết sức để kết liễu hắn, bất chấp điều đó đồng nghĩa với cái chết chắc chắn cho nó.

Saphira gầm gừ lần nữa và đớp một con chim sẻ nhỏ xíu đã ngu ngốc bay vào tầm răng của nó. Nó hụt, con chim sẻ vút qua và bay tiếp mà không bị tổn hại gì, càng làm tâm trạng tồi tệ của nó thêm trầm trọng. Trong một lát, nó cân nhắc việc đuổi theo con chim sẻ nhưng rồi quyết định không đáng cho nó phải bận tâm đến một nhúm xương và lông vụn vặt như thế. Nó thậm chí còn không ra một bữa ăn vặt ra trò.

Nghiêng người trên gió và vung cái đuôi theo hướng đối diện để thuận tiện cho cú xoay, nó quay vòng tròn, xem xét mặt đất ở xa phía dưới và tất cả những thứ đang nhốn nháo cố gắng trốn khỏi cặp mắt thợ săn của nó. Thậm chí từ độ cao hàng trăm thước, nó vẫn có thể đếm được số lông trên lưng một con diều hâu non đang bay là là trên những cánh đồng lúa mì được trồng ở phía tây Sông Jiet. Nó có thể thấy một vệt mờ từ màu lông nâu của một con thỏ lao tới chỗ an toàn trong hang của mình. Nó có thể nhận ra một đàn nhỏ những con hươu đang co rúm lại bên dưới những cành nhánh của những bụi cây lý chua mọc thành đám dọc theo một phụ lưu của Sông Jiet. Và nó có thể nghe thấy những tiếng kêu the thé của những con thú sợ hãi đang cảnh báo cho bầy đàn về sự hiện diện của nó. Những tiếng kêu chập chờn của chúng làm nó hài lòng; con thịt của nó sợ nó là chỉ có đúng. Nếu có lúc nào mà nó thấy sợ chúng, nó sẽ biết đó là lúc nó phâi chết.

Xa hơn vài dặm lên ngược dòng, quân Varden đã tụ tập tựa vào Sông Jiet như một bầy hươu đỏ trên mép một vách đá. Quân Varden đã đến chỗ giao nhau ngày hôm qua, và từ lúc đó, có lẽ một phần ba số người-và-là-bạn và đám Urgals-và-là-bạn và lũ ngựa-nó-không-được-ăn đã lội qua dòng sông. Đoàn quân di chuyển quá chậm, đôi lúc nghĩ đến sự ngắn ngủi của cuộc đời họ, nó tự hỏi làm sao con người có thời gian để làm bất cứ việc gì khác ngoài việc di chuyển. Sẽ tiện hơn nhiều nếu họ biết bay, nó nghĩ, và thắc mắc tại sao họ không chọn làm như thế. Bay thật là dễ, điều này không ngừng làm nó thấy khó hiểu tại sao lại có bất cứ sinh vật nào cứ dính lấy mặt đất. Ngay cả Eragon cũng giữ lại sự gắn bó với mặt-đất-cứng-mềm, khi nó biết anh ta có thể tham gia vào bầu trời với nó bất cứ lúc nào chỉ đơn giản bằng việc bật ra mấy từ cổ ngữ. Nhưng mặt khác, không phải lúc nào nó cũng hiểu hành động của những kẻ đi chập chững trên hai chân, cho dù họ có tai tròn, tai nhọn, hay có sừng hay lùn đến mức nó có thể đè bẹp họ dưới hai bàn chân nó.

Một chuyển động thoáng qua về phía tây bắc thu hút sự chú ý của nó, và nó nghiêng về phía đó, tò mò. Nó thấy một hàng bốn mươi lăm con ngựa đang mệt mỏi lê bước về phía nhóm Varden. Hầu hết những con ngựa đều không có người cưỡi; do đó, nó không có suy nghĩ gì cho đến khi nửa giờ nữa đã trôi qua và nó có thể nhìn ra từ gương mặt của những người đang cưỡi ngựa rằng đó có thể là nhóm của Roran đang trở về sau cuộc tấn công của họ. Nó thắc mắc chuyện gì đã xảy ra làm giảm quân số của họ đến thế và cảm thấy một thoáng bứt rứt vì lo lắng. Nó không bị ràng buộc với Roran, nhưng Eragon quan tâm đến anh ta, và đó là lý do đủ để cho nó lo lắng về phúc lợi của anh ta.

Phóng tâm trí của nó xuống dưới về phía nhóm Varden lộn xộn, nó lần tìm cho đến khi tìm thấy điệu nhạc trong tâm trí của Arya, và khi nàng tiên đã nhận ra nó và cho nó tiếp xúc với ý nghĩ của cô, Saphira nói, Roran sẽ tới đây trước chiều tối. Tuy nhiên quân số nhóm anh ta bị giảm thiểu nghiêm trọng. Một thảm họa nào đó đã xảy ra với họ trong chuyến đi này.

Cảm ơn, Saphira, Arya nói. Ta sẽ báo cho Nasuada.

Khi Saphira rút khỏi tâm trí Arya, nó cảm thấy sự tiếp xúc từ một cuộc lùng soát của Blödhgarm-lông-sói-xanh-đen. Tôi không phải một con chim vừa nở, nó cáu kỉnh. Ông không phải kiểm tra sức khỏe tôi mỗi vài phút như thế.

Mi có lời tạ lỗi nhún nhường nhất của ta, Bjartskular, chỉ là mi đã đi được khá lâu rồi, và nếu bất cứ ai đang quan sát, họ sẽ bắt đầu thắc mắc sao mi và -

Rồi, biết rồi, nó cằn nhằn. Thu ngắn sải cánh, nó nghiêng xuống dưới, cảm giác về trọng lượng rời khỏi nó, và xoay tròn theo những đường xoắn ốc uể oải khi nó nhào xuống về phía dòng sông khoa trương chán ngắt. Tôi sẽ ở đó ngay.

Ba trăm thước bên trên mặt nước, nó giang cánh và cảm thấy sức căng trên màng bay của nó khi gió ép lên chúng một lực khổng lồ. Nó chậm lại gần như đứng yên, rồi để không khí tràn ra khỏi cánh và lại bay nhanh một lần nữa, lướt vào trong phạm vi ba chục thước từ mặt nước-không-tốt-để-uống màu nâu. Với một cú vỗ cánh thi thoảng để duy trì độ cao, nó bay ngược dòng Sông Jiet, cảnh giác về sự thay đổi đột ngột của áp suất sẽ ảnh hưởng đến khí-lạnh-bên-trên-dòng-nước và có thể đẩy nó vào một hướng ngoài dự định, tệ hơn, vào những cái cây-mũi-nhọn hoặc mặt-đất-làm-gãy-xương.

Nó lướt cao bên trên nhóm Varden đang tụ tập bên cạnh dòng sông, đủ cao để sự xuất hiện của nó không làm mấy con ngựa ngờ nghệch phát hoảng. Rồi, trôi dần xuống trên đôi cánh giữ yên, nó đáp xuống một khoảng trống giữa những cái lều - một khoảng trống Nasuada ra lệnh đặt riêng ra chỉ dành cho nó - và lê bước qua khu cắm trại đến cái lều trống của Eragon, nơi Blödhgarm và mười một thần tiên mà ông ta chỉ huy đang đợi nó. Nó chào họ bằng một cái nháy mắt và một cái búng lưỡi và rồi cuộn mình lại trước lều của Eragon, cam chịu ngủ gà gật và chờ đợi bóng tối như nó sẽ làm nếu Eragon đang thực sự ở trong lều và anh ta và nó là những phái đoàn bay ban đêm. Một việc chán ngắt và nhạt nhẽo, nằm đó ngày qua ngày, nhưng đó là điều cần thiết để tiếp tục giả bộ là Eragon vẫn còn ở cùng Varden, vì vậy Saphira không than phiền, thậm chí nếu sau mười hai giờ hoặc hơn thế ở trên mặt-đất-cứng-lởm-chởm làm bẩn những cái vảy của nó, nó cảm thấy muốn đánh nhau với cả ngàn tên lính, hoặc san bằng một cánh rừng bằng răng và móng và lửa, hoặc vọt lên và bay cho đến khi nó không thể bay được nữa hoặc cho đến khi nó đi đến tận cùng của đất, nước, và không khí.

Gầm gừ với chính mình, nó lấy móng nhào nặn mặt đất, làm mềm đất, rồi đặt đầu nó vắt ngang cẳng chân và đóng mí mắt trong lại, như thế nó có thể nghỉ ngơi mà vẫn quan sát được những ai đi ngang qua. Một con chuồn chuồn vo ve trên đầu nó, và không phải lần đầu nó thắc mắc là cái gì đã thúc đẩy những kẻ đần độn tầm thường đặt tên thứ côn trùng đó theo tên chủng tộc của nó. Trông nó chả có gì giống rồng cả, nó càu nhàu, rồi trôi vào một giấc ngủ thư thái.

Vòng-lửa-lớn-trên-trời khép lại ở đường chân trời khi Saphira nghe thấy những tiếng kêu la hò hét chào mừng, có nghĩa là Roran và những chiến hữu của anh đã đến khu cắm trại. Nó đánh thức mình dậy. Như những lần trước, Blödhgarm nửa hát nửa thầm thì một câu thần chú tạo ra một chân dung ảo của Eragon, cái do vị thần tiên tạo ra đó bước ra khỏi lều và trèo lên lưng Saphira, ngồi đó và nhìn quanh tạo ra một sự mô phỏng hoàn hảo của một sự sống độc lập. Nhìn bề ngoài, hình ảnh này không có khiếm khuyết nào cả, nhưng nó lại không có tâm trí của riêng nó, và nếu bất cứ điệp viên nào của Galbatorix cố nghe trộm suy nghĩ của Eragon, chúng sẽ khám phá ra sự lừa đảo ngay lập tức. Bởi vậy, sự thành công của âm mưu phụ thuộc vào Saphira chở hình ảnh này đi qua khu cắm trại và biến khỏi tầm nhìn càng nhanh càng tốt, và phụ thuộc vào hy vọng rằng danh tiếng của Eragon quá ghê gớm, sẽ làm chùn bước những tên theo dõi bí mật khỏi nỗ lực lượm lặt thông tin về Varden từ tâm trí nó, vì e ngại nó trả thù.

Saphira đứng dậy và lao xuyên qua khu cắm trại, mười hai thần tiên chạy thành đội hình xung quanh nó. Mọi người nhảy tránh khỏi đường của họ, gọi to, "Chào, Khắc-tinh-của-Tà-thần!" và "Chào, Saphira!", làm ngời lên cảm giác ấm áp trong dạ dày nó.

Khi nó đến chỗ cái lều-nhộng-bướm-đỏ-gấp-cánh của Nasuada, nó cúi xuống và chui đầu vào trong lỗ hổng tối dọc trên một bức vách, nơi những vệ sĩ của Nasuada đã kéo một ô vải sang một bên cho nó sử dụng. Blödhgarm tiếp tục bài hát nhẹ nhàng của mình, và bóng ma Eragon trèo khỏi Saphira, bước vào cái lều đỏ thẫm, và, khi nó đã ở ngoài tầm nhìn của những kẻ đang trố mắt nhìn từ bên ngoài, tan ra thành hư không.

"Ngài có nghĩ mưu mẹo của chúng ta đã bị khám phá ra không?" Nasuada hỏi từ cái ghế tựa cao của mình.

Blödhgarm cúi đầu với một cử chỉ thanh nhã. "Một lần nữa, Tiều thư Nasuada, tôi không thể nói chắc. Chúng ta sẽ phải đợi và xem liệu Đế quốc có hành động lợi dụng sự vắng mặt của Eragon trước khi chúng ta biết câu trả lời cho câu hỏi đó."

"Cảm ơn ngài, Blödhgarm. Vậy thôi."

Với một cái cúi chào nữa, vị thần tiên rút khỏi lều và chọn một vị trí khoảng vài thước đằng sau Saphira, canh gác bên sườn nó.

Saphira nằm xuống và bắt đầu liếm sạch những cái vảy xung quanh cái móng thứ ba của bàn trân trái trước của nó, giữa chỗ đó đã đóng những vệt đất sét trắng khô xấu xí mà nó nhớ nó đã giẫm lên khi nó ăn con mồi cuối cùng.

Không đến một phút sau, Martland Râu đỏ, Roran, và một người-đàn-ông-tai-tròn, nó không nhận ra người này, bước vào cái lều đỏ và cúi chào Nasuada. Saphira ngừng việc làm sạch để nếm không khí bằng lưỡi của mình và nhận ra mùi máu khô, mùi mồ hôi chua đắng, mùi ngựa và da hòa lẫn, và, mờ nhạt nhưng không thể nhầm lẫn, mũi gai nhọn của nỗi sợ con người. Nó kiểm tra bộ ba lần nữa và thấy người đàn ông râu đỏ dài đã mất cánh tay phải, rồi trở lại việc đào đất sét từ xung quanh vảy của mình.

Nó tiếp tục liếm láp bàn chân, hoàn lại vẻ sạch sẽ rực rỡ của từng cái vảy, trong khi Martland, rồi đến người-đàn-ông-tai-tròn-là-Ulhart, rồi đến Roran, kể lại câu chuyện máu lửa của họ và những kẻ thích cười mà không chịu chết vào những lúc được phân công phải chết, và nhất quyết tiếp tục chiến đấu rất lâu sau khi Angvard đã gọi tên chúng. Như thông lệ, Saphira giữ yên tĩnh trong khi những người khác - cụ thể là Nasuada và cố vấn của cô, Jörmundur-chân-dài-mặt-hốc-hác - thẩm vấn các chiến binh về chi tiết nhiệm vụ xúi quẩy của họ. Saphira biết đôi khi Eragon thấy khó hiểu tại sao nó không tham gia nhiều hơn vào những cuộc đối thoại. Lí do im lặng của nó rất đơn giản: ngoại trừ Arya và Glaedr, nó chỉ cảm thấy thoải mái nhất khi truyền đạt tư tưởng với Eragon, và theo ý nó, hẩu hết những cuộc đối thoại chẳng là gì hơn sự do dự vô nghĩa. Cho dù tai tròn, tai nhọn, có sừng, hay lùn, những kẻ hai-chân có vẻ khoái do dự. Brom không do dự, một điều mà Saphira thích ở ông. Với nó, những lựa chọn rất đơn giản; hoặc là có một hành động nó có thể thực hiện để cải thiện tình hình, và nó sẽ thực hiện trong những trường hợp đó, hoặc là không, và mọi điều khác nói về chủ đề đó đều chỉ rặt là những tiếng ồn vô nghĩa. Trong bất cứ trường hợp nào, nó cũng không tự làm mình lo lắng về tương lai, ngoại trừ đối với Eragon. Nó luôn lo lắng, về anh ta.

Khi đã hoàn tất những câu hỏi, Nasuada bày tỏ lời chia buồn của mình về cánh tay bị mất của Martland, rồi cho Martland và Ulhart đi, trừ Roran, cô nói, "Anh đã chứng tỏ được lòng can trường của mình một lần nữa, Cây-búa-dũng-mãnh. Tôi rất hài lòng về năng lực của anh."

"Cảm ơn Tiều thư."

"Những người chữa trị giỏi nhất của chúng ta sẽ chăm sóc Martland, nhưng ông ấy vẫn cần thời gian để hổi phục từ những thương tích của mình. Nhưng kể cả khi đó, ông ấy cũng không thể chỉ đạo những trận đánh như thế này chỉ với một tay. Từ bây giờ, ông ấy sẽ phải phục vụ Varden từ đằng sau chiến tuyến, không phải đằng trước nữa. Tôi nghĩ, có lẽ, rằng tôi sẽ thăng cấp cho ông ấy và cho ông ấy làm cố vấn quân sự của tôi. Jörmundur, ông nghĩ sao về ý đó?"

"Tôi nghĩ đó là một ý tưởng xuất sắc, thưa Tiểu thư."

Nasuada gật đầu, vẻ hài lòng. "Tuy nhiên, điều đó nghĩa là, tôi phải tìm đội trưởng khác cho anh phục vụ, Roran à."

Roran liền nói, "Thưa Tiểu thư, thế còn quyền chỉ huy của riêng tôi? Chẳng lẽ tôi chưa chứng tỏ được mình với sự hài lòng của Tiểu thư bằng hai trận đánh này sao, cũng như những thành tích quá khứ của tôi?"

"Nếu anh tiếp tục nổi bật như vậy, Cây-búa-dũng-mãnh, anh sẽ có được quyền chỉ huy của anh sớm thôi. Tuy nhiên, anh phải kiên nhẫn và chờ đợi thêm một thời gian. Chỉ hai nhiệm vụ, dù ấn tượng đến đâu, có thể vẫn chưa cho thấy một cái nhìn toàn diện về cá tính của một người. Tôi là một người thận trọng trong việc giao phó người của tôi cho những người khác, Cây-búa-dũng-mãnh ạ. Trong chuyện này, anh phải theo ý tôi."

Roran nắm chặt đầu của cây búa giắt ở thắt lưng, gân và mạch máu nổi phồng trên tay, nhưng giọng nói anh vẫn giữ vẻ lịch sự. "Dĩ nhiên, thưa Tiểu thư Nasuada."

"Rất tốt. Một người phục vụ sẽ mang đến nhiệm vụ mới cho anh trong ngày hôm nay. Ồ, và lo liệu cho anh một bữa ăn lớn khi anh và Katrina đã hoàn thành việc tổ chức ăn mừng đoàn tụ. Đó là lệnh, Cây-búa-dũng-mãnh. Nhìn anh giống như sắp sửa đổ nhào rồi."

"Dạ, Tiểu thư."

Khi Roran sắp sửa rời đi, Nasuada đưa một tay lên nói, "Roran." Anh ngừng lại. "Vì anh đã chiến đấu với những kẻ không hề biết đau, anh có tin rằng có một sự bảo vệ khỏi đau đớn tương tự như thế sẽ làm cho việc hạ chúng dễ dàng hơn không?"

Roran lưỡng lự, rồi lắc đầu. "Sức mạnh của chúng là điểm yếu của chúng. Chúng không che chắn bản thân như là chúng sẽ làm nếu sợ bị kiếm chém hay tên đâm, và do đó chúng bất cẩn với chính mạng sống của mình. Đúng là chúng có thể đánh tiếp sau khi một người bình thường đã phải gục chết từ lâu, và đó không phải là một lợi thế nhỏ trong chiến trận, nhưng chúng cũng chết nhiều hơn, bởi vì chúng không bảo vệ thân thể mình như là chúng nên làm. Trong sự tự tin tê liệt đó, chúng sẽ đi vào bẫy và những hiểm họa mà chúng ta phải làm mọi điều để tránh. Miễn là tinh thần của Varden giữ vững, tôi tin với những chiến thuật đúng đắn chúng ta có thể đánh bại những con quỷ thích cười đó. Nhưng, nếu chúng ta giống chúng, hai bên sẽ chặt chém nhau đến trôi vào quên lãng luôn, và chẳng bên nào quan tâm cả, vì chúng tôi không có suy nghĩ giữ gìn thân mình. Đó là suy nghĩ của tôi."

"Cảm ơn anh, Roran."

Khi Roran đi rồi, Saphira nói, Vẫn chưa có tin gì của Eragon?

Nasuada lắc đầu. "Chưa, vẫn chưa có gì, và sự yên lặng của anh ta bắt đầu làm tôi thấy lo. Nếu anh ta vẫn không liên lạc với chúng ta trước ngày mốt, tôi sẽ nhờ Arya gửi một thông điệp đến một trong những pháp sư của Orik yêu cầu phản hồi của anh ta. Nếu Eragon không thể đẩy nhanh kết thúc cuộp họp bộ tộc của người lùn, thì tôi sợ là chúng ta không thể trông cậy vào người lùn như là đồng minh trong những trận đánh sắp tới. Điều tốt duy nhất của kết quả tai hại đó là Eragon có thể trở về với chúng ta mà không phải trì hoãn gì thêm cả."

Khi Saphira sẵn sàng rời khỏi cái lều-nhộng-đỏ, Blödhgarm lại triệu hồi hình ảnh của Eragon và đặt nó lên lưng Saphira. Rồi Saphira rút đầu khỏi phạm vi cái lều, và như nó đã làm trước đó, lao xuyên qua khu trại, những thần tiên uyển chuyển giữ đều bước với nó trên suốt đoạn đường.

Khi nó đã tới lều của Eragon và cái bóng-màu-của-Eragon biến mất trong đó, Saphira hạ mình xuống đất và cam chịu chờ đợi thời gian còn lại của ngày trôi qua trong một sự buồn tẻ đơn điệu. Tuy vậy, trước khi nó tiếp tục miễn cưỡng chợp mắt, nó mở rộng tâm trí về phía lều của Roran và Katrina và nhấn vào tâm trí Roran cho đến khi anh ta hạ hàng rào quanh ý thức của mình xuống.

Saphira à? anh hỏi

Chứ anh còn biết ai như em nữa à?

Dĩ nhiên không. Chỉ là em làm anh ngạc nhiên. Anh... à, hơi bận một chút vào lúc này.

Nó nghiên cứu màu sắc cảm xúc của anh, cũng như của Katrina, và thích thú với phát hiện của mình. Em chỉ muốn chào mừng anh quay về. Em mừng vì anh không bị thương.

Suy nghĩ của Roran nháng lên nóng-lạnh-bối-rối, và có vẻ anh gặp khó khăn trong việc tổ chức một câu trả lời mạch lạc. Cuối cùng, anh nói, Em thật tử tế, Saphira.

Nếu anh có thể, hãy ghé chỗ em vào ngày mai, khi chúng ta có thể nói chuyện thật lâu. Em không thể chịu được cứ phải ngồi đây hết ngày này sang ngày khác. Có lẽ anh có thể kể cho em nhiều hơn về Eragon như thế nào trước khi em nở ra cho anh ấy.

Đó... đó là vinh dự của anh.

Hài lòng vì đã thực hiện yêu cầu của phép xã giao tai-tròn-hai-chân bằng việc chào đón Roran, và phấn khởi vì biết ngày tiếp theo sẽ không quá nhàm chán nữa - vì không thể nghĩ được kẻ nào lại dám lờ đi lời mời yết kiến của nó - Saphira tự làm mình thoải mái nhất có thể trên nền đất trần, ao ước, như nó vẫn thường làm, có một cái tổ mềm mại như cái của nó trong ngôi-nhà-cây-đu-đưa-gió của Eragon ở Ellesméra. Một luồng khói thoát khỏi nó khi nó thở dài và ngủ thiếp đi và mơ thấy nó bay cao hơn bất cứ lần bay nào trước đây.

Nó vỗ cánh và vỗ cánh cho đến khi nó vượt lên trên những đỉnh núi không thể với tới của rặng núi Beor. Ở đó nó lượn vòng một lúc, nhìn xuống dưới toàn thể Alagaësia nằm bên dưới nó. Rồi một ham muốn không thể điều khiển được khiến nó muốn leo lên cao hơn nữa và xem nó có thể thấy gì, và thế là nó lại bắt đầu vỗ cánh, và tưởng chừng như trong một cái chớp mắt, nó bay vút lên vượt qua mặt trăng sáng ngời, cho đến khi chỉ còn nó và những ngôi sao bạc treo trên nền trời đen. Nó trôi lững lờ giữa những khoảng trời trong một khoảng thời gian không rõ, nữ hoàng của thế giới tỏa sáng, giống như đá quý bên dưới, nhưng rồi một sự lo lắng đi vào tâm hồn nó, và nó hét lên với suy nghĩ của mình:

Eragon, anh ở đâu!

K K K

NỤ HÔN NGỌT NGÀO

Tỉnh dậy, Roran gỡ mình ra khỏi những cánh tay mịn màng của Katrina và ngồi cởi trần trên mép cái giường mà họ nằm chung. Anh ngáp và dụi mắt, rồi nhìn chăm chăm vào dải ánh lửa nhợt nhạt rực lên giữa hai cánh lều, cảm thấy uể oải và mụ mẫm vì sự kiệt sức ứ đọng. Một cơn ớn lạnh bò lên người anh, nhưng anh ngồi nguyên tại chỗ, bất động.

"Roran?" Katrina hỏi, giọng ngái ngủ. Cô chống người dậy trên một tay và với tay kia tới Roran. Anh không phản ứng khi cô chạm vào anh, xoa tay dọc lưng trên của anh và chà xát cổ anh. "Ngủ đi. Anh cần nghỉ ngơi. Anh sẽ lại phải đi sớm thôi."

Anh lắc đầu, không nhìn cô.

"Sao thế?" Cô hỏi. Ngồi thẳng dậy, cô kéo một cái chăn lên vai, rồi tựa vào anh, má cô làm ấm tay anh. "Anh đang lo lắng về đội trưởng mới của anh hay nơi mà Nasuada sẽ phái anh đi sắp tới?"

"Không."

Cô im lặng một lát. "Mỗi lần anh đi, em cảm thấy càng ít những gì thuộc về con người anh trở về với em. Anh đã trở nên dứt khoát và ít nói... Nếu anh muốn kể cho em những gì đang làm anh lo nghĩ, anh có thể, anh biết mà, nó có kinh khủng thế nào cũng chẳng sao. Em là con gái một người bán thịt, và em đã thấy đủ những người em yêu quý gục ngã trên chiến trường rồi."

"Muốn!" Roran kêu lên, nghẹn thở ở từ đó. "Anh không bao giờ muốn nghĩ lại về nó nữa." Anh siết chặt nắm đấm, hơi thở không đều. "Một chiến binh thực sự sẽ không cảm thấy giống như anh."

"Một chiến binh thực sự," cô nói, "không chiến đấu vì anh ta muốn thế mà vì anh ta phải thế. Một người đàn ông khao khát chiến tranh, một người đàn ông thích thú việc chém giết của mình, anh ta là súc vật và là một con quỷ. Cho dù anh ta giành được nhiều vinh quanh đến thế nào trên chiến trường, điều đó không thể xóa được thực tế rằng anh ra không là gì hơn một con sói điên dại sẽ quay lưng lại bạn bè và gia đình của mình như chính kẻ thù của anh ta vậy." Cô gạt tóc mình khỏi trán anh và vuốt ve đỉnh đầu anh, nhẹ nhàng và chậm rãi. "Anh đã một lần kể cho em rằng 'Bài hát của Gerand' là phần ưa thích của anh trong những câu chuyện của ông Brom, rằng đó là lý do tại sao anh chiến đấu với một cây búa chứ không phải một thanh gươm. Anh nhớ Gerand đã không thích giết chóc đến thế nào và ông ta đã miễn cưỡng thế nào khi lại đưa tay lên không?"

"Nhớ."

"Vậy mà ông ta được công nhận là chiến binh vĩ đại nhất trong thời đại của mình." Cô áp tay lên má anh và xoay mặt anh về phía cô để anh bị buộc phải nhìn chằm chằm vào đôi mắt uy nghiêm của cô. "Và anh là chiến binh vĩ đại nhất mà em biết, Roran à, tại đây hay bất cứ nơi đâu."

Miệng khô khốc, anh nói, "Thế còn Eragon hay -"

"Họ không can trường bằng một nửa anh. Eragon, Murtagh, Galbatorix, thần tiên... tất cả bọn họ bước vào chiến trận với thần chú trên môi và có thể vượt hơn anh rất xa. Nhưng anh" - cô hôn lên mũi anh - "anh không hơn một người thường. Anh đối mặt kẻ thù của mình trên chính đôi chân của mình. Anh không phải một pháp sư, nhưng anh đã kết liễu hai tên sinh đôi. Anh chỉ nhanh và khỏe được như một con người có thể được, nhưng anh không hề tránh né tấn công bọn Ra'zac trong hang ổ của chúng và giải thoát em khỏi hầm ngục của chúng."

Anh nuốt nước bọt. "Anh có vòng phép của Eragon bảo vệ."

"Nhưng hết rồi. Ngoài ra, anh cũng không có vòng phép nào ở Carvahall, nhưng anh có chạy trốn khỏi bọn Ra'zac không?" Khi anh không đáp, cô nói, "Anh không hơn một người thường, nhưng anh đã làm những việc mà cả Eragon hay Murtagh đều không thể. Với em, điều đó khiến anh là chiến binh vĩ đại nhất của Alagaësia.... Em không thể nghĩ ra bất cứ ai trong Carvahall có thể đi một chặng đường dài đến thế để giải thoát cho em."

"Có cha em.", anh nói.

Anh cảm thấy một cơn rùng mình áp vào anh. "Đúng, có ông ấy," cô thì thầm. "Nhưng ông ấy sẽ không bao giờ thuyết phục được những người khác đi theo ông, như anh đã làm." Cô siết chặt tay quanh người anh. "Dù anh đã thấy hay làm bất cứ điều gì, anh sẽ luôn luôn có em."

"Đó là tất cả những gì anh cần," anh nói, và siết chặt cô trong tay anh và ôm cô một chốc. Rồi anh thở dài. "Nhưng anh vẫn ước cuộc chiến này đang đến hồi kết thúc. Anh ước anh lại có thể cày ruộng và nhìn những cây trồng của mình và thu hoạch chúng khi chúng chín muồi. Nghề nông trại là nghề khiến ta kiệt sức, nhưng ít nhất đó là lao động lương thiện. Kiểu giết chóc này không lương thiện. Nó là sự trộm cắp... sự trộm cắp cuộc sống con người, và không một người ngay thẳng nào nên khao khát nó."

"Như em đã nói."

"Như em đã nói." một cách khó khăn, anh bắt mình cười. "Anh đã quên bản thân mình. Anh ở đây đè nặng lên em bằng những rắc rối của anh khi em đã có đủ những lo lắng của riêng em." Và anh đặt một bàn tay lên cái bụng tròn của cô.

"Rắc rối của anh sẽ luôn luôn là rắc rối của em, chừng nào chúng ta còn là vợ chồng," cô lẩm bẩm, và rúc vào tay anh.

"Một số rắc rối," anh nói, "không ai khác đáng phải chịu đựng, đặc biệt là những người mình yêu."

Cô lui khỏi anh một chút, và anh thấy đôi mắt cô trở nên ảm đạm và bơ phờ, như bất cứ khi nào cô rơi vào những nghiền ngẫm về quãng thời gian cô bị giam cầm trong Helgrind. "Không," cô thì thào, "một số rắc rối không ai khác phải chịu đựng cả."

"Ôi, đừng buồn thế." Anh kéo cô lại gần và lắc lư cô tới lui và ao ước bằng tất cả sức mạnh rằng Eragon đã không tìm thấy trứng Saphira ở dãy Spine. Sau một lát, khi Katrina lại trở nên mềm mại trong tay anh, và thậm chí anh cũng không còn thấy quá căng thẳng nữa, anh vuốt ve đường cong ở cổ cô. "Thôi nào, hôn anh thật ngọt đi, rồi chúng ta trở lại giường, anh mệt quá, và anh muốn ngủ."

Cô liền cười với anh, và hôn anh một cách ngọt ngào nhất, và rồi họ nằm xuống giường như trước đó, và bên ngoài cái lều tất cả vẫn tĩnh mịch và yên lặng trừ Sông Jiet, chảy ngang qua khu trại, không bao giờ dừng, không bao giờ ngừng, và giội vào những giấc mơ của Roran, nơi anh tưởng tượng mình đứng trên mũi một con tàu, Katrina cạnh bên, và nhìn chăm chăm cái dạ dày của xoáy nước khổng lồ, Mắt Lợn Lòi.

Và anh nghĩ, Làm sao chúng ta hy vọng thoát được?

K K K

GLÛMRA

Hàng chục thước bên dưới Tronjheim, đá mở ra, dẫn vào một hang động dài hàng trăm thước với một cái hồ đen phẳng lặng không biết độ sâu dọc theo một bên và phần bờ bằng cẩm thạch ở bên kia. Thạch nhũ nâu và trắng ngà nhỏ từ trên trần xuống, trong khi măng đá đâm từ dưới nền lên, và ở nhiều chỗ chúng giao nhau tạo thành những cái cột phồng lên dày hơn cả những cái cây lớn nhất ở Du Weldenvarden. Rải rác giữa những cái cột là những gò phân trộn rải rác những cây nấm, cùng với hai mươi ba cái chòi đá thấp. Bên cạnh mỗi cái cửa chòi là một ngọn đèn không lửa rực lên màu sắt nóng đỏ. Vượt khỏi tầm chiếu sáng của ngọn đèn, bóng tối phủ dày.

Bên trong một cái chòi, Eragon ngồi trong một cái ghế quá nhỏ so với nó, cạnh một cái bàn cẩm thạch không cao hơn đầu gối nó. Mùi của phó mát mềm sữa dê, nấm cắt lát, men bia, thịt hầm, trứng bồ câu, và bụi than đá tràn ngập không khí. Đối diện nó, Glûmra, một nữ người lùn của Gia tộc Mord, bà là mẹ của Kvîstor, người vệ sĩ chết thảm của Eragon, đang khóc than và bứt tóc mình và tự đấm ngực bằng nắm đấm của mình. Những vệt long lanh đánh dấu những nơi mà nước mắt của bà lăn xuống khuôn mặt phúng phính.

Chỉ có hai người họ trong cái chòi. Bốn vệ sĩ của Eragon - quân số họ được bổ sung bởi Thrand, một chiến binh trong đoàn tùy tùng của Orik - đang đợi bên ngoài, cùng với Hûndfast, phiên dịch viên của Eragon, nó đã cho ông rời khỏi căn chòi khi biết Glûmra nói được ngôn ngữ của nó.

Sau vụ mưu sát nhắm vào mình, Eragon đã liên lạc với Orik bằng tư tưởng, và Orik đã khăng khăng yêu cầu Eragon chạy nhanh hết sức có thể đến khu phòng của tộc Ingeitum, nơi nó được an toàn khỏi bất cứ kẻ ám sát nào khác. Eragon nghe theo, và nó ở nguyên đó trong khi Orik đã buộc hội đồng thị tộc phải hoãn cuộc họp đến sáng hôm sau, viện cớ một tình huống khẩn cấp nảy sinh trong bộ tộc của ông ta và yêu cầu sự có mặt ngay lập tức của ông. Rồi Orik diễu hành với những chiến binh can trường nhất và những pháp sư lão luyện nhất của mình đến chỗ xảy ra cuộc mai phục. Họ đã nghiên cứu và ghi chép lại bằng nhiều phương tiện, cả phép thuật lẫn thông thường. Khi Orik đã hài lòng là họ đã nắm được được hết những gì có thể, ông vội vã trở lại những căn phòng của mình, ở đó ông nói với Eragon, "Chúng ta có rất nhiều việc phải làm nhưng lại ít thời gian để làm. Trước khi cuộc họp bộ tộc tiếp diễn vào giờ thứ ba của buổi sáng ngày mai, chúng ta phải cố gắng xác minh chắc chắn ai là kẻ đã sắp xếp cuộc tấn công. Nếu chúng ta có thể, thì chúng ta sẽ có một đòn bẩy có thể sử dụng để chống lại chúng. Nếu không, thì chúng ta sẽ vùng vẫy trong bóng tối, không rõ mặt kẻ thù. Chúng ta có thể giữ bí mật cuộc tấn công cho đến lúc diễn ra cuộc họp, nhưng không lâu hơn. Đám knurlan sẽ nghe thấy tiếng vang của trận đánh khắp các đường hầm bên dưới Tronjheim, thậm chí là ngay bây giờ, tôi biết họ sẽ tìm kiếm nguồn gốc của sự náo loạn, vì sợ có thể sẽ có một vụ sập hang hoặc một tai họa tương tự có thể đánh sập thành phố bên trên." Orik giậm chân nguyền rủa tiên tổ những kẻ đã phái bọn sát thủ đến, rồi chống hai nắm đấm lên hông, "Một trận chiến thị tộc đã đe dọa chúng ta, nhưng bây giờ thì nó đang đứng ngay trên ngưỡng cửa rồi. Chúng ta phải hành động thật nhanh nếu muốn ngăn chặn số mệnh đáng sợ đó. Có những knurlan để tìm, những câu hỏi để thẩm vấn, những đe dọa để đưa ra, những vụ hối lộ để đề nghị, và những cuộn giấy để ăn cắp - và tất cả trước khi trời sáng."

"Thế còn tôi?" Eragon hỏi.

"Cậu nên ở yên đây cho đến khi chúng ta biết liệu Az Sweldn rak Anhûin hay một tộc khác có thế lực lớn hơn tập trung ở nơi nào khác để giết cậu. Và, miễn là chúng ta có thể giữ kín khỏi những kẻ tấn công liệu cậu còn sống, đã chết, hay bị thương, chúng ta càng có thể khiến chúng không chắc chắn về độ an toàn của đá dưới chân chúng".

Lúc đầu Eragon đồng ý với đề xuất của Orik, nhưng khi nó nhìn ông lùn hối hả phát tán chỉ thị, cảm giác không yên và bất lực của nó tăng lên. Cuối cùng, nó tóm lấy cánh tay Orik và nói, "Tôi mà ngồi đây ngắm tường trong khi ông tìm kiếm mấy tên khốn gây ra vụ này, chắc tôi nghiến răng mình ra bột mất. Phải có gì đó tôi có thể làm để giúp... Thế Kvîstor thì sao? Có ai trong gia đình ông ta sống ở Tronjheim không? Đã ai nói với họ về cái cái chết của ông ấy chưa? Bởi vì nếu chưa, tôi sẽ là người mang tin tức cho họ, vì chính tôi là người ông ấy đã chết trong lúc bảo vệ."

Orik hỏi thăm lính của ông, và từ họ ông biết được rằng Kvîstor thực sự có gia đình ở Tronjheim, hay chính xác hơn, bên dưới Tronjheim. Khi ông nghe vậy, Orik nhăn nhó và làu bàu một từ kỳ lạ bằng tiếng Người lùn. "Họ là những cư dân dưới sâu," ông nói, "những knurlan đã từ bỏ bề mặt Tronjheim để xuống thế giới bên dưới, trừ những cuộc cướp phá ở bên trên. Họ sống ở đây, bên dưới Tronjheim và Farthen Dûr, đông hơn ở bất cứ chỗ nào khác, bởi vì họ có thể lộ diện trong Farthen Dûr và không có cảm giác thực tế là họ đang ở bên ngoài, điều mà hầu hết bọn họ không thể chịu được, họ quá quen với những không gian đóng kín. Tôi không biết Kvîstor là một trong số họ."

"Ông có phiền không nếu tôi đi thăm gia đình ông ta?" Eragon hỏi. "Giữa những căn phòng này, có cầu thang dẫn xuống, đúng chứ? Ta có thể đi mà không ai biết."

Orik nghĩ một lúc, rồi gật đầu. "Cậu nói đúng. Đường đi đủ an toàn, và không ai sẽ nghĩ đến việc tìm cậu giữa đám cư dân dưới sâu. Họ sẽ đến đây trước tiên, và ở đây thì ngược lại, họ sẽ tìm cậu.... Đi đi, và đừng trở lại cho đến khi tôi gửi tin nhắn cho cậu, thậm chí nếu Gia tộc Mord có đuổi cậu đi và cậu phải ngồi trên một cái măng đá cho đến sáng. Nhưng mà, Eragon này, cẩn thận đấy; những cư dân dưới sâu phần nhiều luôn khư khư cho bản thân, và họ khó tính kinh khủng khi nói về danh dự của họ, và họ có những tục lệ kỳ quặc của riêng họ. Đi đứng cẩn thận, như cậu đang đi trên đá phiến sét mục vậy, được chứ?"

Và thế là, với Thrand thêm vào nhóm vệ sĩ, và Hûndfast đồng hành với họ - và với một thanh kiếm ngắn của người lùn giắt quanh hông - Eragon đến cầu thang gần nhất dẫn xuống dưới, và theo đó, nó tiến sâu vào trong lòng đất hơn bất cứ lần nào đã từng trước đây. Và đúng lúc đó, nó thấy Glûmra và thông báo với bà về sự qua đời của Kvîstor, và hiện giờ nó ngồi nghe khi bà ta đau buồn vì đứa con chết thảm, xen kẽ những tiếng gào khóc không lời và những từ rời rạc bằng tiếng Người lùn hát lên trong một âm điệu ám ảnh và nghịch tai.

Lúng túng vì cường độ nỗi đau của bà ta, Eragon liếc nhanh ra khỏi khuôn mặt bà. Nó nhìn cái bếp lò bằng hoạt thạch màu xanh lục đứng dựa vào một bức tường và những hình khắc mòn vẹt về những thiết kế hình học trang trí các cạnh lò. Nó xem xét tấm thảm màu nâu và lục trải trước lò sưởi, và thùng đánh kem ở góc, và thực phẩm dự trữ treo thòng xuống từ xà nhà. Nó nhìn chăm chăm một khung dệt vải bằng gỗ đặc đứng bên dưới một cửa sổ tròn với kính bằng thủy tinh màu hoa oải hương.

Rồi, vào cao điểm của tiếng than khóc, Glûmra lôi kéo ánh mắt Eragon khi bà đứng dậy từ cái bàn, đến chỗ quầy hàng, và đặt bàn tay trái lên cái thớt. Trước khi Eragon có thể ngăn lại, bà ta lấy ra một con dao khắc và cắt đứt lóng tay đầu tiên của ngón út của mình. Bà ta rên rỉ và nhân nó lên gấp đôi.

Eragon bật dậy nửa chừng với một tiếng kêu không chủ ý. Nó thắc mắc cơn loạn trí nào đã quật ngã người phụ nữ lùn và liệu nó có nên cố gắng kìm nén bà ta không, sợ rằng bà ta sẽ tự gây thêm thương tích cho bản thân. Nó mở miệng để hỏi liệu bà ta có muốn nó chữa trị vết thương không, nhưng rồi nó đổi ý, nhớ lại những lời cảnh cáo của Orik về những tục lệ kỳ quặc của những cư dân dưới sâu và ý thức mạnh mẽ về danh dự. Có thể bà ta sẽ coi lời đề nghị là một sự sỉ nhục, nó nhận ra. Ngậm miệng lại, nó lại hạ người xuống cái ghế nhỏ quá cỡ của nó.

Sau một lát, Glûmra ngồi thẳng lại, hít sâu một hơi, rồi lặng lẽ và điềm tĩnh rửa sạch phần đầu ngón tay chảy máu của mình bằng rượu mạnh, bôi lên đó một thứ thuốc mỡ màu vàng, và băng bó vết thương. Khuôn mặt tròn vành vạnh của bà ta vẫn còn tái nhợt vì cú sốc, bà ngồi vào cái ghế đối diện Eragon. "Tôi cảm ơn cậu, Khắc-tinh-của-Tà-thần, vì đã đích thân mang cho tôi tin tức về số phận đứa con của tôi. Tôi mừng vì biết nó đã chết một cách kiêu hãnh, như một chiến binh phải thế."

"Ông ấy là người dũng cảm nhất," Eragon nói. "Ông ấy có thấy kẻ thù của chúng tôi nhanh nhẹn như thần tiên, nhưng ông ấy vẫn xông tới để bảo vệ tôi. Sự hi sinh của ông đã cho tôi thời gian để thoát khỏi những lưỡi dao của chúng và đồng thời để lộ ra sự nguy hiểm của bùa phép yểm trên vũ khí của chúng. Nếu không có hành động của ông ấy, tôi không nghĩ hiện giờ tôi có thể ở đây."

Glûmra chậm rãi gật đầu, mắt nhìn xuống, vuốt phẳng mặt trước cái áo váy. "Cậu có biết ai chịu trách nhiệm trong cuộc tấn công này vào bộ tộc chúng tôi không, Khắc-tinh-của-Tà-thần?"

"Chúng tôi chỉ nghi ngờ thôi. Grimstborith Orik đang cố xác minh sự thật ngay lúc chúng ta nói chuyện."

"Có phải là Az Sweldn rak Anhûin?" Glûmra hỏi, sự phỏng đoán sắc sảo của bà làm nó ngạc nhiên. Nó cố hết sức che đậy phản ứng của mình. Khi nó giữ im lặng, bà nói, "Tất cả chúng tôi đều biết mối huyết thù của chúng đối với cậu, Argetlam; mọi knurla bên trong dãy núi núi này đều biết. Vài người trong số chúng tôi đã tỏ ra ủng hộ sự chống đối của họ đối với cậu, nhưng nếu chúng thực sự nghĩ đến chuyện giết cậu, thì chúng đã đánh giá lầm hướng của đá và đã tự kết tội chúng vì điều đó."

Eragon nhướn một bên lông mày, quan tâm. "Kết tội? Như thế nào?"

"Chính là cậu, Khắc-tinh-của-Tà-thần, đã kết liễu Durza, do đó cho phép chúng tôi bảo vệ Tronjheim và sự sống bên dưới khỏi nanh vuốt của Galbatorix. Chủng tộc chúng tôi sẽ không bao giờ quên điều đó khi mà Tronjheim vẫn còn đứng vững. Và có lời đồn từ những đường hầm rằng rồng của cậu sẽ khôi phục lại Isidar Mithrim?"

Eragon gật đầu.

"Cậu thật là tốt, Khắc-tinh-của-Tà-thần. Cậu đã làm nhiều điều cho chủng tộc chúng tôi, dù bất cứ tộc nào đã tấn công cậu, chúng tôi sẽ chống lại chúng và báo thù."

"Tôi đã thề trước các nhân chứng," Eragon nói, "và tôi thề với bà nữa, rằng tôi sẽ trừng trị bất cứ kẻ nào đã phái những tên sát nhân đâm lén đó tới và tôi sẽ khiến chúng phải ước rằng chúng chưa bao giờ nghĩ ra một việc làm bẩn thỉu đến vậy. Tuy nhiên -"

"Cảm ơn cậu, Khắc-tinh-của-Tà-thần."

Eragon lưỡng lự, rồi cúi đầu. "Tuy nhiên chúng tôi không được phép làm bất cứ điều gì có thể dẫn động một cuộc chiến tranh thị tộc. Không phải bây giờ. Nếu phải dùng đến vũ lực, chính Grimstborith Orik sẽ quyết định khi nào và ở đâu chúng tôi phải rút kiếm, bà đồng ý chứ?"

"Tôi sẽ nghĩ về những gì cậu vừa nói, Khắc-tinh-của-Tà-thần," Glûmra đáp. "Orik là..." Dù bà ta đang định nói gì tiếp, điều đó kẹt lại trong miệng bà ta. Mí mắt dày của bà ta sụp xuống và bà ta nghiêng ra trước một lát, nhấn bàn tay bị thương của mình lên bụng. Khi cơn đau qua đi, bà đứng thẳng dậy và áp mu bàn tay lên má đối diện và lắc lư sang hai bên, rên rỉ, "Ôi, con trai của tôi... con trai đẹp đẽ của tôi."

Đứng dậy, bà lảo đảo đi vòng quanh cái bàn, hướng về phía một bộ sưu tập kiếm và rìu gắn trên tường sau lưng Eragon, bên cạnh một hốc tường phủ một tấm rèm bằng lụa đỏ. Sợ rằng bà ta định gây thêm thương tích cho bản thân, Eragon bật dậy, làm đổ nhào cái ghế gỗ sồi trong cơn hấp tấp. Nó với đến chỗ bà và rồi thấy rằng bà ta đang đi về phía hốc tường phủ rèm, không phải đám vũ khí, và nó giật tay mình về trước khi nó mạo phạm.

Những cái khoen bằng đồng thau khâu ở mép trên mảnh vải xếp nếp bằng lụa va vào nhau lách cách khi Glûmra dẹp mảnh vải sang một bên làm lộ ra một cái kệ sâu và tối chạm khắc những dấu hiệu và hình thù chi tiết đến kinh ngạc, Eragon nghĩ nó có thể ngắm nhìn chúng hàng giờ và vẫn không thể nắm bắt được chúng trọn vẹn. Trên cái kệ thấp đó là tượng của sáu vị thần chính của người lùn, cùng với chín thực thể khác mà Eragon không biết, tất cả được chạm khắc với những nét đặc trưng và tư thế được cường điệu hóa để truyền đạt hiệu quả hơn những đặc tính của hình tượng được miêu tả.

Glûmra lấy ra một cái bùa bằng vàng và bạc từ lớp áo lót của mình, hôn lên nó rồi áp nó vào chỗ hõm ở cổ họng mình khi bà quỳ xuống trước hốc tường. Giọng bà ta thăng giáng trong những đoạn nhạc kì lạ của người lùn, bà bắt dầu ngâm nga một khúc ai ca bằng ngôn ngữ của mình. Giai điệu làm mắt Eragon nhỏ lệ. Trong vài phút, Glûmra hát, rồi bà chìm vào im lặng và tiếp tục nhìn chằm chằm những bức tượng nhỏ, và khi bà nhìn chúng, những đường nét trên khuôn mặt bị tàn phá bởi đau buồn của bà dịu đi. Và ở nơi mà trước đó Eragon đã thấy chỉ có giận dữ, đau khổ, và tuyệt vọng, thì nét mặt bà ta mang một khí sắc chấp nhận điềm tĩnh, sự thanh thản, và một sự siêu nghiệm uy nghi. Một ánh sáng êm dịu dường như tỏa ra từ nét mặt bà. Khi sự biến đổi của Glûmra hoàn tất, Eragon gần như không nhận ra bà ta.

Bà nói, "Tối nay Kvîstor sẽ ăn tối trong lâu đài của Morgothal. Tôi biết điều đó." Bà hôn cái bùa một lần nữa. "Tôi ước tôi có thể ăn cùng nó, cùng với chồng tôi, Bauden, nhưng vẫn chưa phải thời điểm của tôi để được ngủ trong hầm mộ của Tronjheim, và Morgothal từ chối cho những ai đẩy nhanh hành trình của mình vào lâu đài của ông. Nhưng sớm hay muộn, gia đình chúng tôi sẽ lại đoàn tụ, bao gồm tất cả những tổ tiên của chúng tôi từ khi Gûntera sáng tạo ra thế giới từ bóng tối. Tôi biết điều đó."

Eragon quỳ xuống cạnh bà, bằng giọng khàn khàn, nó hỏi, "Làm sao bà biết?"

"Tôi biết vì nó là như thế." Cử chỉ của bà chậm rãi và kính cẩn, Glûmra chạm đầu ngón tay vào những bàn chân được chạm trổ của những vị thần. "Làm sao có thể khác được? Bởi vì thế giới không thể tự tạo ra nó hơn là một thanh gươm hay một cái mũ giáp, và bởi những đấng duy nhất đủ năng lực để tạo hình cho cõi trần và thiên đường là những đấng có quyền năng siêu phàm, nên chúng ta phải tìm kiếm câu trả lời ở những vị thần. Tôi tin tưởng họ để giao phó sự công bằng của thế giới, và bởi niềm tin của tôi, tôi giải phóng con người tôi khỏi gánh nặng của xác thịt tôi."

Bà nói với một sự tin tưởng đến mức, Eragon đột nhiên cảm thấy mong muốn được chia sẻ với niềm tin của bà ta. Nó ao ước được quẳng sang một bên những ngờ vực và sợ hãi của mình để biết rằng, đôi lúc dù thế giới có thể xấu xa đến thế nào, cuộc sống không phải chỉ đơn thuần là hỗn loạn. Nó ước được biết chắc chắn rằng nó là ai sẽ không chấm dứt ngay cả khi một thanh kiếm chặt lìa đầu nó và rằng một ngày nó sẽ được gặp lại ông Brom, cậu Garrow, và mọi người khác mà nó đã quan tâm và đã đánh mất. Một khao khát dữ dội được hy vọng và an ủi choán hết tâm trí nó, làm nó rối loạn, khiến nó chấp chới trên bề mặt quả đất.

Còn lúc này.

Một phần trong nó giữ nó lại và không cho phép nó giao mình cho những vị thần người lùn và trói buộc nhân dạng và ý thức về phúc lợi của mình vào một thứ mà nó không hiểu. Nó cũng gặp khó khăn trong việc thừa nhận rằng nếu các vị thần thực sự tồn tại, thì những vị thần người lùn là duy nhất. Eragon chắc chắn rằng nếu nó hỏi Nar Garzhvog hay một thành viên của những bộ tộc du mục, hay thậm chí là những linh mục áo đen của Helgrind, rằng thần của họ có thật hay không, họ cũng sẽ tán dương uy thế những vị thần của họ một cách sôi nổi y như Glûmra. Mình phải làm sao để biết tôn giáo nào là tôn giáo đích thực? nó tự hỏi. Chỉ vì một ai đó theo một đức tin nào đó không nhất thiết có nghĩa đó là con đường đúng.... Có lẽ không một tín ngưỡng nào chứa đựng toàn bộ sự thực về thế giới. Có lẽ mỗi tín ngưỡng chứa đựng một mảnh rời của sự thực và trách nhiệm của chúng ra là nhận biết những mảnh rời đó và hợp nhất chúng lại. Hoặc có lẽ những thần tiên đã đúng và không hề có thần. Nhưng làm sao mình biết chắc?

Thở dài thườn thượt, Glûmra lẩm nhẩm mấy từ bằng tiếng Người lùn, rồi đứng dậy và kéo tầm rèm lụa phủ lên hốc tường. Eragon cũng đứng dậy, nhăn mặt khi những cơ bắp đau nhức vì trận chiến bị kéo giãn, theo bà đến chỗ cái bàn, rồi nó ngồi lại vào ghế. Từ một tủ đá đặt trong tường, bà lùn lấy ra hai cái vại thiếc, rồi lấy ra hai bọng đầy rượu từ chỗ treo trên trần và rót ra cho cả bà và Eragon. Bà đưa vại của mình lên và phát biểu một lời nâng cốc uống mừng bằng tiếng Người lùn, mà Eragon cố gắng bắt chước, rồi họ uống.

"Thật là tốt," Glûmra nói, "khi biết rằng Kvîstor vẫn sống tiếp, khi biết rằng ngay lúc này nó được khoác áo choàng hợp với một ông vua trong khi nó hưởng thụ bữa tiệc tối trong lâu đài của Morgothal. Cầu mong nó đạt được nhiều vinh quang khi phục vụ các vị thần!" và bà lại uống.

Khi nó đã uống cạn, Eragon bắt đầu chào từ biệt Glûmra, nhưng bà khoát tay ngăn nó. "Cậu có một chỗ ở chưa, Khắc-tinh-của-Tà-thần, an toàn khỏi những kẻ muốn cậu chết?" Eragon bèn nói với bà việc nó phải giữ mình ẩn bên dưới Tronjheim cho đến khi Orik gửi tin nhắn cho nó. Glûmra gật đầu với một cái giật cằm ngắn và dứt khoát và nói, "Vậy thì cậu và người của cậu phải đợi ở đây cho đến khi tin nhắn đến, Khắc-tinh-của-Tà-thần. Tôi nhất quyết điều đó." Eragon bắt đầu phản đối, nhưng bà lắc đầu. "Tôi không thể cho phép những người đã chiến đấu cùng con trai tôi phải chờ mòn mỏi trong cái ẩm và bóng tối của những cái hang trong khi tôi vẫn có sự sống trong xương của tôi. Cho gọi người của cậu đi, chúng ta sẽ ăn và vui vẻ trong buổi tối ảm đạm này."

Eragon nhận ra rẳng nó không thể rời đi mà không làm Glûmra phật ý, nên nó gọi mấy người lính và người phiên dịch của nó. Họ cùng nhau giúp Glûmra chuẩn bị bữa tối gồm bánh mì, thịt, và bánh nướng, và khi mọi thứ đã sẵn sàng, bọn họ cùng ăn uống và nói chuyện đến tối muộn. Glûmra đặc biệt sôi nổi; bà uống nhiều nhất, cười lớn nhất, và luôn luôn là người đầu tiên đưa ra những nhận xét hóm hỉnh. Ban đầu Eragon bị sốc vì cách cư xử của bà, nhưng rồi nó nhận thấy những nụ cười của bà không bao giờ với tới đôi mắt bà , và khi bà nghĩ không có ai đang nhìn, sự vui vẻ rút khỏi gương mặt bà và biểu hiện của bà lại trở nên yên tĩnh ảm đạm. Làm cho họ hài lòng, nó nghĩ, là cách mà bà tổ chức kỉ niệm cho kí ức về con trai bà, cũng như cách để né tránh khỏi đau buồn trước cái chết của Kvîstor.

Tôi chưa bao giờ gặp ai giống như bà trước đây, nó nghĩ khi nó quan sát bà ta.

Rất lâu sau nửa đêm, ai đó gõ cửa căn chòi. Hûndfast mở ra một người lùn giáp trụ đầy đủ có vẻ cáu kỉnh và không thoải mái; ông ta cứ liếc về phía những cái cửa chính và cửa sổ và những góc tối. Với một tràng từ bằng cổ ngữ, ông ta thuyết phục Eragon rằng ông ta là người chuyển tin của Orik, và ông ta nói, "Tôi là Farn, con trai của Flosi.... Thưa Argetlam, ngài Orik yêu cầu cậu trở về với tất cả sự khẩn trương có thể. Ông ấy có những thông tin quan trọng nhất liên quan đến những sự kiện ngày hôm nay."

Ở ngưỡng cửa, Glûmra tóm lấy cẳng tay trái của Eragon với những ngón tay như thép, và khi nó nhìn xuống đôi mắt cứng rắn của bà, bà nói, " Hãy nhớ lời thề của cậu, Khắc-tinh-của-Tà-thần, và đừng để những tên sát hại con trai tôi thoát được mà không bị trừng phạt!"

"Tôi sẽ không quên," nó hứa.

K K K

HỘI ĐỒNG THỊ TỘC

Những người lùn đứng canh bên ngoài khu phòng của Orik mở toang cánh cửa đôi dẫn vào bên trong khi Eragon bước về phía họ.

Lối vào trước mặt dài và trang trí lộng lẫy, được trang hoàng bởi ba ghế ngồi hình tròn phủ vải đỏ xếp thành một hàng kéo xuống đến giữa phòng. Những bức màn thêu trang trí các bức tường, cùng với những ngọn đèn không lửa ở khắp mọi nơi của người lùn, trong khi trần nhà được chạm trổ để mô tả một trận chiến nổi tiếng trong lịch sử người lùn.

Orik đang đứng bàn bạc với một nhóm chiến binh của mình và vài người lùn râu xám của Dûrgrimst Ingeitum. Khi Eragon đến gần, Orik quay sang nó, nét mặt dữ tợn. "Tốt, cậu đã không chậm trễ! Hûndfast, anh có thể lui về doanh trại của mình rồi. Chúng tôi cần nói chuyện riêng tư."

Phiên dịch viên của Eragon cúi đầu và biến mất qua cái cổng vòm phía bên trái, bước chân ông ta vang dội trên sàn đá mã não láng bóng. Khi ông ta đã ở ngoài tầm nghe, Eragon nói, "Ông không tin ông ta?"

Orik nhún vai. "Tôi không biết tin ai lúc này; càng ít người biết chúng ta đã khám phá ra những gì, càng tốt. Chúng ta không thể liều để cho tin tức rò rỉ sang tộc khác trước ngày mai. Nếu bị thế, điều đó chắc chắn đồng nghĩa với một cuộc chiến thị tộc." Những người lùn đằng sau ông lẩm bẩm với nhau, có vẻ luống cuống.

"Thế tin tức của ông là gì?" Eragon lo lắng hỏi.

Những chiến binh tập trung sau lưng Orik dời sang một bên, để lộ ra trong góc ba người lùn bị trói người đẫm máu nằm chồng chất lên nhau. Người lùn nằm dưới cùng rên rỉ và đá chân trong không khí nhưng không thể giải thoát mình ra khỏi bên dưới những tên bạn tù.

"Bọn nào đây?" Eragon hỏi.

Orik đáp, "Tôi đã nhờ vài thợ rèn của chúng tôi kiểm tra những con dao găm mà những kẻ tấn công mang theo. Họ xác nhận sự lành nghề của một trong số đó là của Kiefna Mũi-dài, một thợ rèn kiếm của tộc chúng ta, đã giành được rất nhiều tiếng tăm."

"Như thế ông ta có thể cho chúng ta biết ai đã mua những con dao đó và do đó kẻ thù của chúng ta là ai?"

Một tiếng cười cục cằn làm rung bộ ngực của Orik. "Hầu như không, nhưng chúng tôi đã truy dấu được những con dao găm từ Kiefna đến một tay sản xuất vũ khí ở Dalgon, cách đây rất nhiều dặm, hắn ta đã bán chúng cho một knurlaf với -"

"Một knurlaf?" Eragon hỏi.

Orik cáu kỉnh. "Một phụ nữ. Một phụ nữ với bảy ngón mỗi bàn tay đã mua những con dao găm hai tháng trước."

"Thế ông đã tìm ra bà ta chưa? Không thế có quá nhiều phụ nữ có số ngón tay như thế."

"Thực ra, tình trạng đó là khá phổ biến trong chúng tôi," Orik nói. "Kể cả là thế đi0, sau khá nhiều khó khăn, chúng tôi đã xoay sở định vị được bà ta ở Dalgon. Lính của tôi ở đó đã thẩm vấn bà ta một cách tỉ mỉ nhất. Bà ta thuộc tộc Dûrgrimst Nagra, nhưng theo như chúng tôi có thể xác định được, bà ta đã hành động theo ý muốn cá nhân, và không theo lệnh nào từ những người đứng đầu tộc của bà ta. Từ bà ta, chúng tôi xác định được rằng một người lùn đã thuê bà ta để mua những con dao găm rồi giao cho một tay buôn rượu và hắn sẽ mang chúng đi từ Dalgon. Kẻ thuê người phụ nữ không cho bà ta biết những con dao sẽ được đưa đến đâu, nhưng bằng cách hỏi những thương gia của thành phố, chúng tôi đã phát hiện ra rằng hắn đi trực tiếp từ Dalgon đến một trong những thành phố được quản lý bởi Dûrgrimst Az Sweldn rak Anhûin."

"Như thế chính là bọn chúng!" Eragon kêu lên.

"Hoặc thế hoặc có thể là một ai đó muốn chúng ta nghĩ đó chính là chúng. Chúng ta cần nhiều chứng cứ hơn trước khi chúng ta có thể xác minh được chắc chắn tội lỗi của Az Sweldn rak Anhûin." Một tia sáng lóe lên trong mắt Orik, và ông giơ một ngón tay. "Thế là, với phương pháp của một thần chú rất, rất thông minh, chúng tôi đã vạch lại lộ trình của bọn sát thủ ngược lại qua các đường hầm và hang động và lên đến một khu vực bỏ hoang ở tầng thứ mười hai của Tronjheim, tách khỏi đại sảnh phụ của nhánh phía nam của góc phía tây, dọc theo...thôi, được rồi, cái đó không quan trọng. Nhưng một hôm nào đấy tôi sẽ phải dạy cậu cách các phòng được bố trí trong Tronjheim, để nếu có lúc nào cậu cần tìm một địa điểm bên trong thành phố một mình, thì cậu còn có thể. Dù thế nào thì, con đường dẫn chúng tôi đến một nhà kho bỏ hoang nơi mà ba tên kia -" ông ra dấu về phía những tên lùn bị trói -"đang ở. Chúng không ngờ đến chúng tôi, và do đó chúng tôi có thể bắt sống chúng, dù chúng đã cố tự sát. Không dễ dàng gì, nhưng chúng tôi đã phá tung tâm trí của hai trong số chúng - để lại tên thứ ba cho những grimstborithn khác thẩm vấn tùy ý - và chúng tôi đã khai thác mọi thứ chúng biết về vụ này." Orik lại chỉ vào những tên tù nhân. "Chính là bọn này đã hỗ trợ cho bọn sát thủ tấn công, cung cấp dao và quần áo đen, và cho chúng ăn và trú ẩn tối hôm qua."

"Chúng là ai?" Eragon hỏi.

"Ha!" Orik kêu lên, và nhổ xuống sàn. "Chúng là Vargrimstn, những chiến binh đã tự cách chức mình và giờ không thuộc tộc nào cả. Chả ai giải quyết những tên rác rưởi như thế trừ khi chúng bị lôi kéo vào những hành vi côn đồ và không muốn ai biết đến cả. Về ba tên đó thì là như thé. Chúng nhận lệnh trực tiếp từ Grimstborith Vermûnd của Az Sweldn rak Anhûin."

"Không còn nghi ngờ gì sao?"

Orik lắc đầu. "Không nghi ngờ gì cả; chính Az Sweldn rak Anhûin đã cố giết cậu, Eragon ạ. Chúng ta có thể sẽ không bao giờ biết được có tộc nào khác tham gia với chúng trong vụ tấn công này hay không, nhưng nếu chúng ta vạch trần sự phản bội của Az Sweldn rak Anhûin, điều đó sẽ buộc bất cứ kẻ nào khác có liên quan đến âm mưu này phải làm ô danh những kẻ đồng mưu trước đây của chúng; phải từ bỏ, hoặc ít nhất là trì hoãn, những cuộc tấn công xa hơn vào Dûrgrimst Ingeitum; và, nếu việc này được xử lý thích đáng, phải đưa tôi lá phiếu của chúng cho ngôi vua."

Một hình ảnh nháng lên trong tâm trí Eragon về lưỡi kiếm lăng trụ lòi ra từ sau cổ của Kvîstor và biểu hiện đau đớn của ông ta khi ngã xuống sàn, rồi chết. "Chúng ta sẽ trừng phạt Az Sweldn rak Anhûin như thế nào vì tội này? Có nên giết Vermûnd không?"

"A, cứ để việc đó cho tôi," Orik nói, gõ nhẹ lên cánh mũi. "Tôi có một kế hoạch. Nhưng chúng ta phải bước đi thật cẩn thận, vì đây là một tình huống thuộc loại vô cùng tinh vi. Một sự phản bội như thế chưa hế xảy ra trong nhiều năm rồi. Là người ngoài, cậu không thể biết chúng tôi thấy kinh tởm thế nào khi phát hiện ra một trong số chúng tôi lại tấn công một vị khách. Việc cậu là Kỵ sĩ tự do duy nhất chống lại Galbatorix càng làm cho cuộc tấn công trở nên tồi tệ hơn. Có thể cuộc đổ máu tiếp theo là cần thiết, nhưng vào lúc này, nó sẽ chỉ dẫn đến một cuộc chiến thị tộc khác."

"Một cuộc chiến thị tộc có thể là cách duy nhất để giải quyết Az Sweldn rak Anhûin," Eragon lưu ý.

"Tôi nghĩ là không, nhưng nếu tôi lầm và chiến tranh là không thể tránh khỏi, chúng ta phải đảm bảo rằng đó là một cuộc chiến giữa những bộ tộc còn lại với Az Sweldn rak Anhûin. Điều đó sẽ không quá tệ. Cùng nhau, chúng ta có thể nghiền bẹp chúng trong vòng một tuần. Nhưng một cuộc chiến tranh bộ tộc mà chia ra hai hoặc ba phe sẽ hủy diệt đất nước chúng tôi. Cho nên, điều then chốt là trước khi chúng ta rút kiếm của mình ra, chúng ta phải làm cho các tộc khác thấy được những gì Az Sweldn rak Anhûinn đã làm. Để được như thế, liệu cậu có cho phép các pháp sư từ các bộ tộc khác nhau kiểm tra ký ức của cậu về cuộc tấn công để họ có thể thấy chuyện đã xảy ra giống như chúng ta sẽ nói, và rằng chúng ta không dựng chuyện đó lên vì lợi ích của chính mình?"

Eragon lưỡng lự, không thật lòng muốn mở trí óc mình cho người lạ, rồi hất đầu về phía ba tên lùn nằm chất đống lên nhau. "Thế chúng thì sao? Ký ức của chúng không đủ thuyết phục các bộ tộc khác về tội lỗi của Az Sweldn rak Anhûin sao?"

Orik nhăn nhó. "Có thể, nhưng để cho thấu đáo, các tộc trưởng sẽ nhất quyết thẩm tra ký ức của chúng ngược lại cậu, và nếu cậu từ chối, Az Sweldn rak Anhûin sẽ quả quyết rằng chúng ta đang che giấu điều gì đó khỏi hội đồng thị tộc và rằng những lời buộc tội của chúng ta không hơn gì những điều bịa đặt vu khống."

"Được rồi," Eragon nói. "Nếu phải làm, thì tôi phải làm. Nhưng nếu những pháp sư lạc vào những nơi họ không được phép, dù là vô tình, tôi sẽ không có lựa chọn nào khác hơn là đốt cháy những gì họ thấy ra khỏi tâm trí họ. Có vài điều tôi không thể cho phép mọi người biết đến."

Gật đầu, Orik nói, "Đồng ý, tôi có thể nghĩ ra ít nhất một mẩu thông tin ba chân sẽ khiến chúng tôi khiếp vía nếu nó được loan báo khắp vùng, nhỉ? Tôi chắc chắn các tộc trưởng sẽ chấp nhận điều kiện của cậu - vì tất cả bọn họ đều có những bí mật của riêng mình mà họ sẽ không muốn bị bàn tán đó đây - cũng như tôi chắc chắn là họ sẽ ra lệnh cho các pháp sư của họ phải tiến tới, bất chấp nguy hiểm. Cuộc tấn công này có khả năng khuyến khích một sự náo động như thế trong chủng tộc chúng tôi, các grimstborithn sẽ cảm thấy bắt buộc phải xác minh sự thật về nó, mặc dù điều đó có thể bắt họ trả giá bằng những pháp sư cao tay nhất."

Đứng dậy, ưỡn thẳng người, Orik ra lệnh chuyển những tên tù nhân ra khỏi lối vào được trang hoàng và cho giải tán tất cả cấp dưới, trừ Eragon và một lực lượng gồm hai mươi sáu chiến binh giỏi nhất của ông. Vung tay một cách thanh nhã, Orik nắm lấy khuỷu tay trái của Eragon và dẫn đường cho nó vào những phòng bên trong của khu phòng. "Tối nay cậu phải ở yên đây, với tôi, tại đây Az Sweldn rak Anhûin sẽ không dám tấn công đâu."

"Nếu ông định ngủ," Eragon nói, "tôi phải cảnh bào ông, tôi không thể nghỉ ngơi, không phải đêm nay. Máu trong người tôi vẫn còn khuấy đảo vì sự hỗn loạn của cuộc chiến, và ý nghĩ của tôi cũng không thoải mái tương tự như vậy."

Orik đáp, "Nghỉ hay không tùy cậu; cậu không được quấy nhiễu giấc của tôi, vì tôi sẽ kéo một cái mũ len dày trùm qua mắt. Tuy nhiên, tôi khẩn thiết mong cậu hãy cố mà bình tâm lại - có thể với vài kỹ thuật mà thần tiên đã dạy cậu - và hồi phục sức mạnh mà cậu có. Ngày mới đã ở trước mặt chúng ta rồi, và chỉ còn lại vài giờ trước khi hội đồng thị tộc được tập hợp lại. Chúng ta cần phải tươi tỉnh hết mức có thể cho những gì sắp đến. Những gì chúng ta làm và nói hôm nay sẽ quyết định vận mệnh sau cùng của người của tôi, đất nước của tôi, và toàn phần còn lại của Alagaësia.... A, đừng nhìn khó chịu thế về cái miệng! Thay vì thế hãy nghĩ về điều này: cho dù thành công hay thất bại đang chờ chúng ta, và tôi tất nhiên hy vọng chúng ta chiến thắng, tên tuổi của chúng ta sẽ được nhớ đến cho đến ngày tận thế vì cách chúng ta đã xử sự trong cuộc họp bộ tộc này. Đó ít nhất là một thành tích để làm cậu no bụng bằng lòng kiêu hãnh! Chúa hay thay đổi, và cái bất diệt duy nhất mà chúng ta có thể trông mong chính là cái mà chúng ta đạt được qua những việc làm của chúng ta. Danh vọng hay ô nhục, một trong hai cái đó thích hợp để quên đi khi cậu đã ra đi từ vương quốc này."

Vào khuya đêm đó, trong những giờ yên ắng trước buổi sáng, suy nghĩ của Eragon đi lang thang khi nó ngồi ngủ trong vòng tay ghế lót đệm của một cái trường kỷ của người lùn, và trạng thái ý thức của nó tan vào những hình ảnh tưởng tượng lộn xộn của những giấc mơ tỉnh. Tuy nhiên nó vẫn nhận thức được những hình khảm của những tảng đá màu gắn trên bức tường đối diện nó, nó cũng ý thức được, như một miếng vải lót rực rỡ phủ lên những hình khảm, những khung cảnh về cuộc sống của nó trong Thung lũng Palancar trước khi định mệnh trọng đại và đẫm máu xen vào cuộc sống của nó. Tuy nhiên, những khung cảnh đó xa rời khỏi sự thực đã được thiết lập, và nhấn chìm nó vào những trạng thái tưởng tượng được dựng lên từng phần từ những mảnh vỡ của những gì đã thực sự xảy ra. Trong những khoảnh khắc cuối cùng trước khi nó tỉnh lại từ trạng thái ngẩn ngơ, những hình ảnh đó lung linh và trở nên hiện thực một cách mạnh mẽ.

Nó đang đứng trong xưởng của chú Horst, những cánh cửa ở đó để mở, lỏng lẻo trên bản lề, giống như những thằng ngốc ngoác miềng cười nhăn nhở. Bên ngoài là một đêm không sao, và bóng tối chi phối tất cả dường như đè lên viền của lớp ánh sáng đỏ mờ đục tỏa ra từ những viên than đá, cứ như háo hức muốn ngấu nghiến mọi thứ bên trong phạm vi của khối cầu đỏ hoe đó. Bên cạnh cái lò rèn, chú Horst hiện ra to lớn như một người khổng lồ, những cái bóng nhảy múa trên khuôn mặt và bộ râu của ông trông thật đáng sợ. Cánh tay lực lưỡng của ông giơ lên và hạ xuống, và một tiếng lanh lảnh như tiếng chuông làm rung động không khí khi cái búa của ông giáng xuống đầu của một thanh thép sáng rực màu vàng. Những tia lửa bùng ra rồi tiêu tan trên mặt đất. Người thợ rèn đập thanh kim loại thêm bốn lần nữa; rồi ông nhấc thanh thép ra khỏi cái đe và nhúng nó vào một thùng dầu. Những ngọn lửa như những bóng ma, xanh và mỏng như tơ, lóe lên dọc theo bề mặt dầu rồi biến mất với một tiếng rít giận dữ. Bỏ thanh thép ra khỏi cái thùng, chú Horst quay về phía Eragon và cau mày với nó. Ông nói, "Sao mày lại đến đây, Eragon?"

"Cháu cần một thanh gươm của Kỵ sĩ Rồng."

"Biến đi. Tao không có thời gian để rèn cho mày một thanh gươm Kỵ sĩ đâu. Mày không thấy là tao đang làm việc với cái treo nồi của Elain à? Bà ấy phải có nó trong trận chiến. Mày đi một mình à?"

"Cháu không biết."

"Cha mày đâu? Mẹ mày đâu?"

"Cháu không biết."

Rồi một giọng nói mới vang lên, một giọng nói được đánh bóng với sức mạnh và quyền lực, và giọng đó nói, "Thợ rèn tốt, nó không đi một mình. Nó đi với ta."

"Thế ông là ai?" Horst gặng hỏi.

"Ta là cha nó."

Giữa hai cánh cửa mở to, một dáng vẻ to lớn vây bọc bởi ánh sáng nhợt nhạt hiện ra từ bóng tối đông đặc và đứng trên ngưỡng cửa của xưởng rèn. Một cái áo choàng đỏ phần phật trên đôi vai rộng hơn cả của một tên Kull. Thanh Zar'roc lập lòe trong tay trái người đàn ông, sắc bén như sự đau đớn. Qua khe hở của cái mũ sắt sáng loáng, đôi mắt xanh dương của ông ta soi vào Eragon, ghim nó xuống đất, như một mũi tên xuyên qua một con thỏ. Ông ta nâng tay kia của mình lên và đưa về phía Eragon. "Con trai ta, đi với ta. Cùng với nhau chúng ta có thể hủy diệt Varden, giết Galbatorix, và chinh phục toàn thể Alagaësia. Nhưng hãy đưa ta trái tim con, và chúng ta sẽ là bất khả chiến bại."

"Đưa cho ta trái tim con, con trai."

Kêu lên tắc nghẹn, Eragon nhảy ra khỏi cái ghế và đứng nhìn chằm chằm sàn nhà, nắm tay nó siết chặt, ngực nó phập phồng. Những người canh gác của Orik liếc nó tò mò, nhưng nó phớt lờ họ, quá rối loạn để có thể giải thích sự bộc phát của nó.

Vẫn còn sớm, vì thế sau một lát, Eragon lại ngồi xuống ghế, nhưng sau đó, nó duy trì cảnh giác và không cho phép mình chìm vào vùng đất của những giấc mơ, vì sợ những hình ảnh có thể giày vò nó.

Eragon đứng tựa lưng vào tường, tay đặt trên đốc thanh kiếm của người lùn, nhìn các tộc trưởng đi thành hàng vào phòng hội nghị hình tròn chôn sâu bên dưới Tronjheim. Nó đặc biệt để ý đến Vermûnd, grimstborith của Az Sweldn rak Anhûin, nhưng nếu người lùn che mạng đỏ tía đó có ngạc nhiên vì thấy Eragon còn sống và khỏe mạnh thì ông ta cũng không thể hiện ra.

Eragon cảm thấy giày của Orik thúc vào giày nó. Không rời mắt khỏi Vermûnd, Eragon cúi xuống Orik và nghe ông thì thào, "Nhớ, bên trái và xuống dưới ba ô cửa," ám chỉ nơi mà Orik đã chốt một trăm lính của mình mà không cho các tộc trưởng khác biết.

Cũng thì thào, Eragon nói, "Nếu máu phải đổ, tôi có nên chớp cơ hội mà khử con rắn Vermûnd đó không?"

"Trừ khi hắn cố làm thế với tôi hay cậu, không thì làm ơn đừng." Một tiếng cười thầm phát ra từ Orik. "Gần như không thể làm các grimstborithn khác quý mến cậu.... À, tôi phải đi đây. Cầu nguyện Sindri ban cho may mắn chứ? Chúng ta chuẩn bị mạo hiểm vào một biển dung nham mà chưa ai dám vượt qua trước đây đâu."

Và Eragon cầu nguyện.

Khi tất cả các tộc trưởng đã ngồi vào xung quanh bàn ở giữa căn phòng, những người quan sát từ vòng ngoài, bao gồm Eragon, chọn chỗ ngồi cho mình trong số những cái ghế xếp vòng tròn đặt tựa vào bức tường chạm khắc. Nhưng Eragon không ngồi thoải mái vào ghế như những người lùn khác, mà ngồi ở mép ghế, sẵn sàng đánh nhau ngay khi thấy dấu hiệu nguy hiểm nhỏ nhất.

Khi Gannel, chiến binh-linh mục mắt-đen của Dûrgrimst Quan, đứng dậy và bắt đầu nói bằng tiếng Người lùn, Hûndfast khép nép lại gần cánh phải của Eragon và lẩm nhẩm dịch không ngừng. Ông lùn nói, "Chào mừng một lần nữa, những ngưòi bạn tộc trưởng của tôi. Nhưng cho dù có thích đáng hay không, tôi vẫn phân vân, vì một số tin đồn gây nhiễu loạn - tin đồn của tin đồn, nếu đó là sự thật - đã tới tai tôi. Tôi không có thông tin nào ngoài những lời nói mơ hồ và gây lo lắng này, cũng như bằng chứng để theo đó tìm ra một lời kết tội cho những hành động xấu. Tuy vậy, vì hôm nay là ngày của tôi để điều hành sự kiện này, cuộc hội họp của chúng ta, tôi đề nghị chúng ta hãy tạm hoãn cuộc tranh luận hệ trọng nhất của chúng ta lại chốc lát, và nếu các vị tán thành, cho phép tôi đưa ra một vài câu hỏi cho hội đồng."

Các tộc trưởng thì thầm với nhau, và rồi Íorûnn, Íorûnn rạng rỡ má núm đồng tiền, nói, "Tôi không có phản đối gì, Grimstborith Gannel. Ông đã khơi gợi trí tò mò của tôi bằng những lời bóng gió khó hiểu này. Hãy cho chúng tôi nghe những câu hỏi mà ông có."

"Đúng vậy, cho chúng tôi nghe đi," Nado nói.

"Cho chúng tôi nghe đi," Manndrâth và tất cả các tộc trưởng còn lại, kể cả Vermûnd, nhất trí.

Đã nhận được sự tán thành mà mình yêu cầu, Gannel tỳ các khớp ngón tay của ông lên bàn, im lặng một lát để tập trung sự chú ý của mọi người trong phòng. Rồi ông nói. "Ngày hôm qua, trong khi chúng ta đang ăn trưa ở những địa điểm đã được chọn, những knurlan ở khắp nơi trong các đường hầm bên dưới góc phía tây của Tronjheim đã nghe thấy một tiếng huyên náo. Các báo cáo về độ ầm ĩ của nó là không giống nhau, nhưng thực tế là đã có nhiều người như vậy nhận thấy nó trên một phạm vi rộng, chứng tỏ nó không phải là một sự náo động nhỏ. Giống như các vị, tôi đã nhận được một cảnh báo thường lệ về một vụ sập hầm có thể đã xảy ra. Tuy nhiên, điều mà các vị có thể không ý thức được, là chỉ hai giờ sau -"

Hûndfast ngập ngừng, và nhanh chóng thì thầm, "Từ này rất khó diễn tả bằng ngôn ngữ này. Những-người-chạy-trong-đường-hầm, tôi nghĩ vậy." Và rồi ông ta tiếp tục dịch:

"- những-người-chạy-trong-đường-hầm đã phát hiện ra vết tích của một trận chiến phi thường bên trong một trong số những đường hầm cổ mà ông tổ danh tiếng của chúng ta, Korgan Râu-dài, đã khai phá. Trên sàn phủ đầy máu, các bức tường phủ đen bồ hóng từ một cái lồng đèn mà một chiến binh với lưỡi kiếm bất cẩn đã chọc thủng, các vết nứt chia cắt bề mặt đá xung quanh, và ngổn ngang khắp nơi là bảy thân thể nát nhừ và cháy thành than, với những dấu hiệu chứng tỏ có những thân thể khác đã bị mang đi. Và đây cũng không phải những tàn tích của những cuộc giao tranh nhỏ mơ hồ từ Trận chiến Farthen Dûr. Không! Vì máu chỉ vừa mới khô, bồ hóng vẫn còn mềm, những vết nứt mới bị vỡ ra là rõ ràng nhất, và, tôi được cho biết, những tàn dư của phép thuật hùng mạnh vẫn có thể được phát hiện ra bên trong khu vực đó. Thậm chi bây giờ, vài người trong sô những pháp sư giỏi nhất của chúng tôi đang nỗ lực xây dựng lại một hình ảnh bản sao của những gì đã xảy ra, nhưng họ có ít hy vọng thành công, vì những thứ có liên quan được bao bọc bởi bùa phép rất ranh ma. Như vậy câu hỏi đầu tiên của tôi cho buổi họp này là: có bất cứ ai trong các vị có hiểu biết sâu hơn về sự việc bí ẩn này không?"

Khi Gannel kết thúc bài nói của mình, Eragon duỗi chân ra sẵn sàng bật dậy nếu những tên lùn che mạng tía của Az Sweldn rak Anhûin động đến kiếm của chúng.

Orik hắng giọng nói, "Tôi tin rằng tôi có thể thỏa mãn một chút sự tò mò của ông về điểm đó, Gannel. Tuy nhiên, vì câu trả lời của tôi cần thiết phải là một câu trả lời dài, tôi đề nghị ông hỏi những câu hỏi khác của ông trước khi tôi bắt đầu."

Trán Gannel tối lại bởi một cái cau mày. Gõ gõ các đốt ngón tay lên bàn, ông nói, "Được thôi.... Về những điều có liên quan rõ ràng tới tiếng va chạm của vũ khí trong những đường hầm của ngài Korgan, tôi đã có những báo cáo về rất nhiều knurlan đi lại trong Tronjheim và, với ý định ngấm ngầm, đã tập hợp ở nhiều nơi thành những nhóm lớn có trang bị vũ khí. Những điệp viên của tôi đã không thể xác định các chiến binh thuộc tộc nào, nhưng nếu bất cứ ai trong hội đồng này cố gắng sắp đặt lực lượng của mình một cách lén lút trong khi chúng ta đang tham gia vào cuộc họp quyết định ai sẽ kế vị Vua Hrothgar, thì điều đó sẽ ám chỉ những động cơ thuộc loại đen tối nhất. Như vậy câu hỏi thứ hai của tôi cho buổi họp này là: ai là người chịu trách nhiệm cho cuộc vận động thiếu suy nghĩ này? Và nếu không ai sẵn lòng thừa nhận hành vi không đúng đắn này, tôi đề nghị một cách kiên quyết nhất rằng chúng ta hãy ra lệnh trục xuất tất cả binh lính, không phân biệt bộ tộc, ra khỏi Tronjheim trong thời hạn cuộc họp và rằng chúng ta hãy lập tức cử ra một ngôn-luật-viên để điều tra những việc này và quyết định ai là người chúng ta phải khiển trách."

Sự tiết lộ, câu hỏi, và kiến nghị sau đó của Gannel đã gợi lên một cuộc đàm luận sôi nổi xôn xao giữa các tộc trưởng, với những người lùn tung ra những lời buộc tội, phủ nhận, rồi buộc tội ngược lại lẫn nhau với độ cay độc ngày càng tăng, cho đến cuối cùng, khi một Thordris tức phát điên la lối với một Gáldhiem mặt đỏ gay, Orik lại hắng giọng, khiến mọi người ngừng lại và nhìn chăm chăm vào ông.

Bằng một giọng ôn hòa, Orik nói, "Điều này tôi cũng tin là có thể giải thích cho ông, Gannel, ít nhất là trong phần này. Tôi không thể nói về những hoạt động của các tộc khác, nhưng vài trăm lính đang hối hả trong những đại sảnh của người hầu trong Tronjheim là của Dûrgrimst Ingeitum. Điều này tôi công khai thừa nhận."

Tất cả đều yên lặng cho đến khi Íorûnn nói, "Và ông có lời giải thích nào cho hành động mang tính tham chiến này, Orik, con trai của Thrifk?"

"Như tôi đã nói lúc trước, thưa Íorûnn xinh đẹp, câu trả lời của tôi phải là một câu trả lời dài, nên nếu ông, Gannel, có bất cứ câu hỏi nào khác để hỏi, tôi đề nghị ông hãy đưa ra luôn."

Gannel cau mày sâu hơn cho đến khi đôi lông mày lồi ra của ông gần như chạm nhau. Ông nói, "Tôi sẽ giữ lại những câu hỏi khác của tôi vào lúc này, vì tất cả chúng đều liên quan đến những câu tôi đã đưa vào cuộc họp, và có vẻ chúng tôi phải đợi trên sự thích thú của ông được biết thêm bất cứ điều gì về những đề tài đó. Tuy nhiên, vì ông có liên quan chặt chẽ đến những hoạt động đáng ngờ này, một câu hỏi mới đã nảy ra với tôi mà tôi phải hỏi ông một cách rành mạch, Grimstborith Orik. Vì lý do nào mà ông đã rời khỏi cuộc họp ngày hôm qua? Và cho tôi cảnh báo ông, tôi sẽ không cho phép bất cứ một sự thoái thác nào. Ông đã cho biết là ông có hiểu biết về những vụ việc này. Được, giờ là lúc cho ông tự mình cung cấp một sự giải thích đầy đủ, Grimstborith Orik."

Orik đứng dậy ngay khi Gannel ngồi xuống và nói, "Tôi rất sẵn lòng làm điều đó."

Hạ thấp cái cẳm râu ria của mình cho đến khi nó chạm vào ngực, Orik dừng lại một thoáng và rồi bắt đầu nói bằng một giọng vang dội, nhưng ông không bắt đầu như Eragon đã mong đợi, cũng như Eragon đã phỏng đoán, hay hội đồng đã mong đợi. Thay vì mô tả nỗ lực lấy mạng Eragon, và từ đó giải thích tại sao ông đã kết thúc buổi họp trước thời hạn, Orik mở đầu bằng việc thuật lại, vào bình minh của lịch sử, chủng tộc người lùn đã di cư như thế nào từ những cánh đồng đã từng xanh tốt của Sa mạc Hadarac đến rặng núi Beor, nơi họ đã khai quật những đường hầm dài vô số dặm của mình, xây những thành phố tráng lệ của mình cả bên trên và bên dưới mặt đất, và tiến hành những cuộc chiến đầy sức sống giữa những bè phái của họ, cũng như với rồng, những sinh vật mà, trong hàng ngàn năm, những người lùn vẫn đánh giá bằng một sự kết hợp giữa ghét, sợ, và kính nể một cách bất đắc dĩ.

Rồi Orik nói về sự xuất hiện của thần tiên ở Alagaësia và thần tiên đã chiến đấu với rồng như thế nào cho đến khi họ gần như tiêu diệt lẫn nhau và, kết quả, hai chủng tộc đã nhất trí ra sao để sáng tạo ra những Kỵ sĩ Rồng để duy trì hòa bình về sau này.

"Và sự đáp lời của chúng ta như thế nào khi chúng ta biết được ý định của họ?" Orik gặng hỏi, giọng nói ông ngân vang trong căn phòng. "Chúng ta có yêu cầu được dự phần vào hiệp ước của họ không? Chúng ta có mong muốn được chia sẻ khả năng trở thành Kỵ sĩ Rồng không? Không! Chúng ta trung thành với con đường cũ của chúng ta, lòng căm hờn cũ của chúng ta, và chúng ta phản đối ngay cả cái ý nghĩ ràng buộc với loài rồng hay cho phép bất cứ ai bên ngoài vương quốc kiểm soát chúng ta. Để bảo tồn uy quyền của chúng ta, chúng ta đã hy sinh tương lai của mình, vì tôi tin rằng nếu ai đó trong số Kỵ sĩ Rồng là knurlan, Galbatorix có thể đã không bao giờ gây dựng được quyền lực. Thậm chí nếu tôi lầm - và tôi không có ý làm giảm giá trị của Eragon, người đã chứng tỏ mình là một Kỹ sĩ giỏi - rồng Saphira có thể đã nở ra cho một người trong chủng tộc chúng ta mà không phải là một con người. Và khi đó những vinh quang nào có thể thuộc về chúng ta?"

"Thay vì thế, tầm quan trọng của chúng ta trong Alagaësia đã bị hạ thấp kể từ khi Nữ hoàng Tarmunora và người trùng tên Eragon hòa giải với loài rồng. Ban đầu địa vị bị hạ thấp của chúng ta không quá đắng để nuốt trôi, và thường thì từ chối dễ hơn là chấp nhận. Nhưng rồi lũ Urgals đến, và rồi là con người, và thần tiên cải thiện những thần chú của họ để con người cũng có thể là Kỵ sĩ. Và rồi chúng ta có yêu cầu được dự phần vào hiệp ước của họ, như đó là... quyền của chúng ta không?" Orik lắc đầu. "Lòng kiêu hãnh của chúng ta sẽ không cho phép điều đó. Tại sao chúng ta, chủng tộc lâu đời nhất trên vùng đất này, lại cầu xin thần tiên ân huệ từ phép thuật của họ? Chúng ta không cần phải trói buộc định mệnh của chúng ta với loài rồng để bảo vệ chủng tộc chúng ta khỏi diệt vong, như là thần tiên và loài người. Chúng ta lờ đi, dĩ nhiên, những trận chiến mà chúng ta đã tiến hành giữa chính chúng ta. Những cuộc chiến đó, chúng ta lập luận, là những việc riêng tư và không liên can đến ai khác hết."

Các tộc trưởng đang lắng nghe cựa quậy. Nhiều người trong số họ có biểu hiện không hài lòng với sự phê phán của Orik trong khi những người còn lại có vẻ dễ tiếp thu những lời bình luận của ông hơn và có vẻ trầm ngâm.

Orik tiếp tục: "Trong khi những Kỵ sĩ trông nom Alagaësia, chúng ta đã hưởng thụ thời kỳ thịng vượng tuyệt vời nhất chưa từng được ghi chép trong biên niên sử của vương quốc. Chúng ta phát triển hưng thịnh hơn bất cứ khi nào trước đây, nhưng chúng ta vẫn không có góp phần gì vào nguyên nhân của điều đó: những Kỵ sĩ Rồng. Khi những Kỵ sĩ sụp đổ, vận mệnh chúng ta cũng dao động, nhưng một lần nữa, chúng ta không có góp phần gì vào nguyên nhân của điều đó: những Kỵ sĩ. Tôi cho rằng, cả hai tình trạng trên đều không thích hợp cho một chủng tộc có tầm cỡ như chúng ta. Chúng ta không phải là một đất nước của những đầy tớ lệ thuộc vào những ý tưởng thất thường của những ông chủ ngoại quốc. Những kẻ không phải là hậu duệ của Odgar và Hlordis cũng không có quyền thao túng vận mệnh của chúng ta"

Lời lập luận này được các tộc trưởng thích hơn; họ gật đầu và mỉm cười, và Havard thậm chí vỗ tay vài cái ở lời cuối cùng.

"Giờ cân nhắc kỷ nguyên hiện tại của chúng ta," Orik nói. "Galbatorix đang nắm thế lực, và mọi chủng tộc đều chiến đấu để duy trì quyền tự do cai trị. Hắn đã trở nên rất hùng mạnh, lý do duy nhất chúng ta vẫn chưa phải nô lệ của hắn, cho đến giờ, chính là hắn chưa quyết định bay ra trên lưng con rồng đen của hắn và tấn công trực tiếp chúng ta. Nếu hắn làm vậy, chúng ta sẽ sụp đổ trước hắn như cây non trước tuyết lở. May mắn là, có vẻ hắn bằng lòng với việc chờ cho chúng ta chém giết và mở đường đến cổng thành trì của hắn ở Urû'baen. Bây giờ, tôi xin nhắc quý vị rằng trước khi Eragon và Saphira hiện ra ướt nhẹp và lê bước đến ngưỡng cửa trước của chúng ta, với một trăm tên Kull đang la ó ngay sát gót, hy vọng duy nhất của chúng ta đánh bại Galbatorix là một ngày nào đó, ở nơi nào đó, Saphira sẽ nở ra cho Kỵ sĩ mà nó chọn lựa và người bí ẩn này sẽ, có thể, may ra, nếu chúng ta may mắn hơn mọi con bạc đã từng thắng một cú tung xúc xắc, có khả năng lật đổ Galbatorix. Hy vọng? Ha! Chúng ta thậm chí không có hy vọng; chúng ta có hy vọng của hy vọng. Khi Eragon lần đầu trình diện, rất nhiều người trong số chúng ta đã mất tinh thần vì bề ngoài của cậu ta, kể cả chính tôi. 'Nó chỉ là một cậu bé,' chúng ta đã nói. 'Sẽ tốt hơn nếu cậu ta là một thần tiên,' chúng ta đã nói. Nhưng nhìn xem, cậu ta đã chứng tỏ bản thân mình là hiện thân của mọi hy vọng của chúng ta! Cậu ta kết liễu Durza, và từ đó cho phép chúng ta cứu sống thành phố yêu quý nhất của chúng ta, Tronjheim. Rồng của cậu ta, Saphira, đã hứa sẽ trả lại cho Ngôi Sao Hoa Hồng vẻ huy hoàng trước đây. Trong Trận chiến Cánh Đồng Cháy, cậu ta đã đánh đuổi Murtagh và Thorn, nhờ vậy giúp chúng ta chiến thắng ngày đó. Và nhìn xem! Cậu ta giờ đây đã khoác vẻ bề ngoài của một thần tiên, và nhờ những ma thuật kỳ lạ của họ, cậu ta đã nhận được tốc độ và sức mạnh của họ."

Orik giơ một ngón tay nhấn mạnh. "Hơn thế nữa, Vua Hrothgar, bằng sự thông tuệ của mình, đã làm điều mà không một vị vua hay grimstborith nào khác từng làm; ngài đề nghị nhận Eragon vào Dûrgrimst Ingeitum và làm cậu ta trở thành một thành viên của chính gia đình ngài. Eragon không có nghĩa vụ phải chấp nhận đề nghị này. Thực tế, cậu ta nhận thức được rất nhiều gia tộc của Ingeitum phản đối điều đó, và nói chung rất nhiều knurlan sẽ không coi đó là một ân huệ. Nhưng bất chấp những sự can ngăn đó, và bất chấp thực tế rằng cậu ta đã bị ràng buộc lòng trung thành với Nasuada, Eragon vẫn đón nhận món quà của Vua Hrothgar, biết hoàn toàn rõ rằng điều đó sẽ chỉ làm cho cuộc đời mình khó khăn hơn. Như chính cậu ta đã nói với tôi, Eragon đã thề lời đại thệ trước Tim của Đá vì ý thức về nghĩa vụ mà cậu ta cảm thấy đối với tất cả chủng tộc trong Alagaësia, và đặc biệt là đối với chúng ta, bởi vì chúng ta, bằng hành động của vua Hrothgar, đã cho cậu ta và Saphira thấy một lòng tốt đến vậy. Nhờ vào thiên tư của Vua Hrothgar, người Kỵ sĩ tự do cuối cùng của Alagaësia, và là hy vọng duy nhất của chúng ta chống lại Galbatorix, đã tự do lựa chọn trở thành một knurla toàn diện chỉ trừ dòng máu. Kể từ đó, Eragon đã tôn trọng luật lệ và truyền thống của chúng ta với tất cả sự hiểu biết của mình, và cậu ta đã mong muốn học hỏi nhiều hơn về văn minh của chúng ta để cậu ta có thể chứng tỏ lòng kính trọng đối với ý nghĩa đích thực của lời thề. Khi Vua Hrothgar ngã xuống, bị quật ngã bởi tên phản bội Murtagh, Eragon đã thề với tôi trước mọi hòn đá của Alagaësia, và cũng ở cương vị một tộc viên của Dûrgrimst Ingeitum, rằng cậu ta sẽ đấu tranh để trả thù cho cái chết của Vua Hrothgar. Cậu ta đã gửi cho tôi lòng kính trọng và sự phục tùng bởi tôi là một grimstborith, và tôi tự hào coi cậu ta là nghĩa đệ của tôi."

Eragon liếc nhìn xuống, má và chóp tai nó nóng bừng. Nó ước Orik đừng quá thoải mái tán dương nó như thế; điều đó chỉ làm địa vị của nó khó giữ vững hơn trong tương lai.

Khoát tay bao quát các tộc trưởng còn lại, Orik kêu lên, "Mọi điều chúng ta có thể ao ước ở một Kỵ sĩ Rồng chúng ta đều đã nhận được ở Eragon! Cậu ta tồn tại! Cậu ta hùng mạnh! Và cậu ta đã che chở người của chúng ta theo cách mà chưa có Kỵ sĩ nào từng làm!" Rồi Orik hạ tay xuống, hạ cả giọng nói của mình, cho đến khi Eragon phải gắng sức để nghe những lời của ông. "Nhưng chúng ta đã đáp lại tình bạn của cậu ta như thế nào? Chỉ toàn bằng những cái cười nhạo, sự xem thường và sự gắt gỏng oán hận. Tôi nói, chúng ta là một chủng tộc vô ơn, và trí nhớ của chúng ta là quá dai cho chính những tốt đẹp của chúng ta.... Thậm chí có những kẻ đã tràn đầy sự căm hờn cay độc, họ đã dùng đến bạo lực để làm nguôi cái khát từ cơn giận của họ. Có lẽ họ vẫn tin là họ đang làm những gì tốt nhất cho người của chúng ta, nhưng nếu vậy, thì tâm trí họ mốc meo như một miếng phó mát lâu năm. Nếu không, tại sao họ lại cố giết Eragon?"

Các tộc trưởng đang lắng nghe im lặng hoàn toàn, mắt họ dính chặt vào gương mặt Orik. Sự tập trung của họ quá mãnh liệt, tộc trưởng to béo Freowin, đã dẹp việc chạm khắc hình con quạ và khoanh tay lại trên cái bụng phì nhiêu của mình, mang một cái vẻ không khác gì một bức tượng lùn.

Với những đôi mắt nhìn mình không chớp, Orik thuật lại cho hội đồng về việc bảy tên lùn trang phục đen đã tấn công Eragon và cận vệ của nó như thế nào trong khi họ đang lang thang trong những đường hầm ngoằn ngoèo bên dưới Tronjheim. Rồi Orik cho họ biết về cái vòng đeo tay tết bằng lông ngựa gắn những viên thạch anh tím mài tròn mà những lính gác của Eragon đã tìm thấy trong một trong những cái xác.

"Đừng nghĩ đến chuyện buộc tội cuộc tấn công này lên bộ tộc chúng tôi chỉ với một bằng chứng tầm thường như thế!" Vermûnd kêu lớn, bật dậy. "Một người có thể mua những thứ trang sức rẻ tiền như thế ở hầu hết các chợ trong vương quốc này!"

"Đúng thế," Orik nói, nghiêng mình về phía Vermûnd. Bằng một giọng bình thản và với nhịp độ nhanh, Orik tiếp tục kể cho những khán giả của mình, như ông đã kể với Eragon tối trước đó, người của ông ở Dalgon đã xác nhận với ông ra sao rằng những con dao găm lung linh mà những tên sát thủ sử dụng được rèn bởi thợ rèn Kiefna, và cả việc làm thế nào người của ông đã khám phá ra rằng gã lùn mua những vũ khí đó đã sắp đặt vận chuyển chúng từ Dalgon đến một trong những thành phố do Az Sweldn rak Anhûin giữ.

Thấp giọng lẩm bẩm nguyển rủa, Vermûnd lại bật đứng dậy. "Những con dao đó có thể chưa bao giờ đến được thành phố chúng tôi, và thậm chí nếu có, ông cũng chẳng thể rút ra kết luận nào từ sự kiện đó! Nhiều knurlan thuộc rất nhiều tộc sống bên trong những bức tường của chúng tôi, cũng như bên trong những bức tường của Hang Bregan chẳng hạn. Điều đó chằng cho biết gì cả. Cẩn trọng những gì ông sắp nói, Grimstborith Orik, vì ông không có lý lẽ nào để chĩa những lời cáo buộc đó vào tộc của tôi."

"Tôi cũng có quan điểm như ông, Grimstborith Vermûnd," Orik đáp. "Bởi vậy, tối qua, những pháp sư của tôi và tôi đã tái lập lộ trình của những tên sát thủ ngược lại nơi xuất phát của chúng, và trên tầng mười hai của Tronjheim, chúng tôi đã bắt giữ ba knurlan đang ẩn trốn trong một kho chứa bám bụi. Chúng tôi đã công phá ý thức của hai trong số chúng và, từ chúng, chúng tôi biết chúng đã cung cấp lương thực cho bọn sát thủ trong vụ tấn công. Và," Orik nói, giọng ông trở nên cay nghiệt và ghê gớm, "từ chúng, chúng tôi đã biết được nhân dạng của người điều khiển chúng. Tôi nói tên ông, Grimstborith Vermûnd! Tôi nói ông Kẻ sát nhân và Phá-thệ. Tôi nói ông là kẻ thù của Dûrgrimst Ingeitum, và tôi nói ông là một kẻ phản bội đồng loại của mình, vì chính ông và tộc của ông đã cố sát hại Eragon!"

Cuộc họp bộ tộc nổ ra thành một cuộc hỗn loạn khi mọi tộc trưởng, trừ Orik và Vermûnd, bắt đầu la hét và vung tay và mặt khác, cố chế ngự cuộc đối thoại. Eragon đứng dậy và nới lỏng thanh kiếm đi mượn của nó khỏi vỏ, rút ra hơn một phân, như thế nó có thể phản ứng với bất cứ một tốc độ nào nếu Vermûnd hay một trong những tên lùn của ông ta chọn thời điểm đó để tấn công. Tuy nhiên Vermûnd không chuyển động, cũng như Orik; họ nhìn chằm chằm vào nhau như những con sói đối địch và không chú ý gì đến những rối loạn xung quanh.

Cuối cùng khi Gannel đã tái lập được trật tự, ông nói, "Grimstborith Vermûnd, ông có thể bác bỏ những cáo buộc này không?"

Bằng một giọng đều đều và vô cảm, Vermûnd đáp , "Tôi phủ nhận chúng với mọi cái xương trong người tôi, và tôi thách thức bất cứ ai chứng tỏ được chúng là thỏa đáng với một ngôn-luật-viên."

Gannel quay sang Orik. "Vậy thì, hãy đưa ra chứng cứ của ông, Grimstborith Orik, để chúng tôi có thể phán quyết liệu chúng có hiệu lực hay không. Có năm ngôn-luật-viên ở đây ngày hôm nay, nếu tôi không lầm." Ông ra dấu về phía bức tường, nơi năm người lùn râu trắng đứng và cúi đầu. "Họ sẽ đảm bảo rằng chúng ta không lạc ra khỏi ranh giới của luật pháp trong quá trình điều tra. Chúng ta tán thành chứ?"

"Tôi tán thành," Ûndin nói.

"Tôi tán thành," Hadfala nói và tất cả các tộc trưởng còn lại nói theo bà ta, trừ Vermûnd.

Đầu tiên, Orik đặt cái vòng thạch anh tím lên mặt bàn. Mỗi tộc trưởng nhờ một trong những pháp sư của mình kiểm tra nó, và tất cả đều nhất trí chứng cứ đó chưa đủ thuyết phục.

Rồi Orik nhờ một hầu cận mang vào một cái gương gắn trên một cái kiềng bằng đồng. Một trong những pháp sư thuộc đoàn tùy tùng của ông niệm một câu thần chú, và trên bề mặt bóng loáng của cái gương xuất hiện một hình ảnh của một căn phòng nhỏ, chất đầy sách. Một thoáng trôi qua, rồi một người lùn lao vào phòng và cúi đầu về phía hội đồng từ bên trong cái gương. Bằng giọng hổn hển, ông ta giới thiệu mình là Rimmar, và sau đó tuyên thệ bằng cổ ngữ để đảm bảo sự trung thực của mình, ông ta kể với hội đồng làm thế nào ông ta và những trợ thủ của mình đã khám phá ra những điều liên quan đến những con dao mà những kẻ tấn công Eragon đã sử dụng.

Khi các tộc trưởng đã thẩm vấn xong Rimmar, Orik bảo những chiến binh của mình mang vào ba tên lùn mà tộc Ingeitum đã bắt giữ. Gannel ra lệnh cho chúng tuyên thệ trung thực bằng cổ ngữ, nhưng chúng nguyền rủa ông ta và nhổ lên sàn và từ chối. Rồi các pháp sư từ tất cả các tộc nhập vào suy nghĩ của chúng và xâm chiếm ý thức chúng, moi lấy thông tin mà hội đồng bộ tộc yêu cầu. Không phản đối gì, các pháp sư chứng thực những gì Orik đã nói.

Sau cùng, Orik gọi đến Eragon làm chứng. Eragon cảm thấy hồi hộp khi nó đi đến chỗ cái bàn và mười ba tộc trưởng dữ tợn đang nhìn nó chăm chăm. Nó nhìn ngang qua căn phòng chằm chằm vào một xoắn màu trên một cái trụ cẩm thạch và cố lờ đi nỗi lo của mình. Nó lặp lại những lời thề chân thực như một trong những pháp sư đã nói với nó, và rồi, không nói hơn mức cần thiết, Eragon kể lại với các tộc trưởng nó và các lính gác của nó đã bị tấn công như thế nào. Sau đó, nó trả lời những câu hỏi không thể tránh khỏi của những người lùn và sau đó cho phép hai trong số các pháp sư - những người Gannel đã chọn ngẫu nhiên trong số những người được tập hợp - để kiểm tra ký ức của nó về vụ việc. Khi Eragon hạ thấp hàng rào xung quanh tâm trí nó, nó nhận thấy hai pháp sư có vẻ e sợ, và nó cảm thấy an ủi một chút vì điều đó. Tốt, nó nghĩ. Họ sẽ ít có khả năng đi lang thang vào những nơi không nên nếu họ thấy sợ mình.

Với sự nhẽ nhõm của Eragon, cuộc thanh tra trôi qua không có rắc rối nào, và những pháp sư chứng thực cho phần báo cáo của nó với các tộc trưởng.

Gannel đứng dậy khỏi ghế và gọi các ngôn-luật-viên, hỏi họ: "Các vị đã thỏa mãn với chất lượng của những bằng chứng mà Grimstborith Orik và Eragon Khắc-tinh-của-Tà-thần đã đưa ra chưa?"

Năm người lùn râu trắng cúi đầu, và người lùn ở giữa nói, "Chúng tôi đã thỏa mãn, thưa Grimstborith Gannel."

Gannel lẩm bẩm, có vẻ không ngạc nhiên. "Grimstborith Vermûnd, ông chịu trách nhiệm trong cái chết của Kvîstor, con trai của Bauden, và ông đã nỗ lực giết một vị khách. Vì việc đó, ông đã mang đến sự ô nhục cho toàn thể chủng tộc chúng ta. Ông nói sao về điều này?"

Tộc trưởng của Az Sweldn rak Anhûin ấn bẹp tay xuống bàn, mạnh máu nổi phồng lên dưới lớp da nâu. "Nếu tên Kỵ sĩ Rồng này là một knurla toàn diện chỉ trừ dòng máu, vậy thì hắn không phải là khách và bọn ta có thể đối xử với hắn như với bất cứ kẻ thù nào ở một tộc khác."

"Tại sao, điều đó thật ngớ ngẩn!" Orik kêu lớn, gần như líu lưỡi vì giận dữ. "Ông không thể nói cậu ấy -"

"Hãy bớt lời, nếu ông vui lòng, Orik," Gannel nói. "La hét sẽ không giải quyết việc này. Orik, Nado, Íorûnn, vui lòng đi cùng tôi."

Lo lắng bắt đầu làm Eragon day dứt khi bốn người lùn đi ra và bàn bạc với các ngôn-luật-viên trong vài phút. Chắc chắn họ sẽ không để Vermûnd thoát được sự trừng phạt chỉ bởi một trò bịp bợm miệng lưỡi nào đó! nó nghĩ.

Trở lại bàn, Íorûnn nói, "Các ngôn-luật-viên đều nhất trí. Tuy Eragon là một thành viên ràng buộc bởi lời thề của Dûrgrimst Ingeitum, nhưng cậu ấy cũng giữ những vị trí quan trọng bên ngoài vương quốc của chúng ta: cụ thể, đó là một Kỵ sĩ Rồng, đồng thời là một đại diện chính thức của Varden, gửi đến bởi Nasuada để chứng kiến lễ đăng quang của người cai trị kế tiếp của chúng ta, và cũng là một người bạn có ảnh hưởng lớn với Nữ hoàng Islanzdí và chủng tộc của bà nói chung. Vì những lý do đó, Eragon xứng đáng với sự hiếu khách tương tự như chúng ta sẽ dành cho bất cứ một đại sứ viếng thăm nào, thái tử, quốc vương, hay bất cứ một yếu nhân nào khác." Nữ người lùn liếc về một bên Eragon, đôi mắt tối, lóe sáng của bà đậm nét trên tứ chi nó. "Tóm lại, cậu ấy là vị khách danh dự của chúng ta, và chúng ta phải đối đãi với cậu ấy như là... mà mọi knurla không mất trí cần phải biết."

"Đúng, cậu ấy là khách của chúng ta," Nado đồng tình. Môi ông ta mím chặt và trắng bệch và má ông co rúm, như ghể ông ta vừa mới cắn một quả táo chỉ để phát hiện ra nó vẫn chưa chín.

"Giờ ông nói sao, Vermûnd?" Gannel vặn hỏi.

Đứng dậy khỏi chỗ ngồi, người lùn che mạng tía nhìn quanh bàn, lần lượt nhìn chằm chằm vào các tộc trưởng. "Tôi nói điều này, và hãy nghe cho rõ, các grimstborithn: nếu bất cứ tộc nào vung rìu chống lại Az Sweldn rak Anhûin bởi những lời buộc tội giả dối này, chúng tôi sẽ coi đó là một hành động chiến tranh, và chúng tôi sẽ đáp lại tương tự. Nếu các vị bỏ tù tôi, cả điều đó chúng tôi cũng coi là một hành động chiến tranh và chúng tôi sẽ đáp lại tương tự." Eragon thấy cái mạng của Vermûnd giật giật, và nó nghĩ tên lùn có thể đang cười ở bên dưới. "Nếu các vị tấn công chúng tôi theo bất cứ cách nào, cho dù bằng thép hay bằng lời nói, không cần biết lời khiển trách của các vị ôn hòa đến cỡ nào, chúng tôi sẽ coi đó là một hành động chiến tranh, và chúng tôi sẽ đáp trả tương tự. Trừ khi các vị nóng lòng muốn xé tan đất nước chúng ta thành ngàn mảnh đẫm máu, tôi khuyên các vị hãy để cuộc thảo luận sáng nay trôi đi theo gió và, ở đúng chỗ của nó, hãy lấp đầy tâm trí các vị với những suy nghĩ ai sẽ là người cai trị tiếp theo trên ngôi báu cẩm thạch."

Các tộc trưởng ngồi yên lặng một lát.

Eragon đã phải cắn lưỡi nó để khỏi nhảy lên bàn và chửi Vermûnd cho đến khi những người lùn đồng ý treo cổ hắn lên vì những tội ác của hắn. Nó tự nhắc mình rằng nó đã hứa với Orik là nó sẽ nghe theo chỉ dẫn của Orik khi đối phó với hội đồng thị tộc. Orik là tộc trưởng của mình, và mình phải để ông ta đối phó với việc này theo cách mà ông ta thấy là thích hợp.

Freowin gỡ tay ra và đập xuống mặt bàn bằng một bàn tay đầy thịt. Bằng giọng nam trung khàn khàn vang khắp phòng, dù có vẻ không lớn hơn một lời thì thầm, ông lùn to béo nói, "Ông đã làm ô nhục chủng tộc chúng ta, Vermûnd. Chúng tôi không thể giữ lại danh dự knurlan của mình và phớt lờ sự xúc phạm của ông."

Người phụ nữ lùn cao tuổi, Hadfala, sắp xếp lại các bó giấy chi chít chữ rune và nói, "Ông mong đạt được gì, ngoài sự sụp đổ của chúng ta, bằng việc giết Eragon? Thậm chí nếu Varden có thể lật đổ Galbatorix mà không cần đến cậu ấy, những đau đớn nào mà rồng Saphira sẽ giáng xuống chúng ta nếu chúng ta giết chết Kỵ sĩ của nó? Nó sẽ làm Farthen Dûr tràn ngập máu của chính chúng ta."

Không một lời nào từ Vermûnd.

Tiếng cười phá vỡ sự yên lặng. Âm thanh quá bất ngờ, ban đầu Eragon không nhận ra nó đang phát ra từ Orik. Tiếng cười dịu xuống, Orik nói, "Nếu chúng ta chống đối lại ông hay Az Sweldn rak Anhûin, ông sẽ coi đó là hành động chiến tranh ư, Vermûnd? Được thôi, vậy chúng tôi sẽ không chống đối lại ông, hoàn toàn không."

Lông mày Vermûnd nhô ra. "Làm sao điều này lại cho ông sự thích thú đó?"

Orik lại cười khẽ. "Bởi tôi đã nghĩ đến một điều mà ông không nghĩ đến, Vermûnd. Ông muốn chúng tôi để yên cho ông và tộc của ông? Thế thì tôi đề nghị với hội đồng thị tộc rằng chúng ta sẽ làm theo nguyện vọng của Vermûnd. Nếu Vermûnd đã tự hành động theo ý mình mà không phải như một grimstborith, ông ta sẽ bị đày xử tử vì những tội lỗi của mình. Do đó, hãy để chúng tôi xét xử tộc của ông như đối với một người; hãy để chúng tôi trục xuất Az Sweldn rak Anhûin khỏi trái tim và trí óc chúng tôi cho đến khi họ chọn thay thế Vermûnd bằng một grimstborith khác với khí chất có chừng mực hơn và cho đến khi họ công nhận tội lỗi của mình và ăn năn về nó với hội đồng thị tộc, thậm chí nếu chúng ta phải chờ cả ngàn năm."

Lớp da nhăn nheo quanh mắt Orik tái đi. "Ông sẽ không dám đâu."

Orik cười. "A, nhưng chúng tôi sẽ không đụng một ngón tay đến ông và đồng loại của ông. Chúng tôi chỉ đơn giản là phớt lờ ông và từ chối giao thương với Az Sweldn rak Anhûin. Ông sẽ tuyên chiến vì chúng tôi không làm gì cả chăng, Vermûnd? Vì nếu hội đồng nhất trí với tôi, đó chính xác là những gì chúng tôi sẽ làm: không gì cả. Ông sẽ dùng mũi kiếm bắt chúng tôi phải mua mật ong và vải và đồ trang sức thạch anh của ông chăng? Ông không có lính để bắt chúng tôi phải làm thế." Quay về phía những người còn lại ở bàn, Orik hỏi, "Các vị còn lại nói sao?"

Hội đồng thị tộc không mất nhiều thời gian để quyết định. Từng người một, các tộc trưởng đứng dậy và biểu quyết trục xuất Az Sweldn rak Anhûin. Thậm chí Nado, Gáldhiem, và Havard - đồng minh xưa của Vermûnd - cũng ủng hộ đề xuất của Orik. Với mỗi biểu quyết xác nhận, da mặt Vermûnd trước đó còn rõ nét trở nên càng lúc càng trắng bệch, cho đến khi ông ta trông như một con ma ăn vận trang phục kiếp trước của ông.

Khi cuộc biểu quyết đã xong, Gannel chỉ về phía cửa và nói, "Xéo đi, Vargrimstn Vermûnd. Hãy rời khỏi Tronjheim ngay hôm nay và mong không ai trong Az Sweldn rak Anhûin gây rắc rối cho hội động thị tộc cho đến khi họ đáp ứng những điều kiện chúng tôi đã đặt ra. Cho đến lúc những điều đó xảy ra, chúng tôi sẽ tẩy chay mọi thành viên của Az Sweldn rak Anhûin. Tuy nhiên, hãy biết điều này: kể cả tộc của ông có thể tự miễn thứ cho chính họ về sự hổ thẹn của họ, thì ông, Vermûnd, sẽ mãi mãi là Vargrimstn, thậm chí cho tới ngày chết của ông. Đó chính là ý nguyện của hội đồng thị tộc." Tuyên bố xong, Gannel ngồi xuống.

Vermûnd ở nguyên chỗ cũ, vai ông ta rung lên với một cảm xúc mà Eragon không nhận ra được. "Chính các ngươi là những kẻ đã làm ô danh và phản bội chủng tộc chúng ta," hắn gầm gừ. "Bọn Kỵ sĩ giết tất cả người của tộc chúng ta, trừ Anhûin và những người lính của bà. Các người mong chúng ta quên điều này ư? Các người mong chúng ta tha thứ điều này ư? Ha! Ta nhổ lên nấm mồ tổ tiên các người. Chúng ta ít nhất cũng không để mất râu của chúng ta. Chúng ta sẽ không nhảy lên sung sướng với cái con rối của đám thần tiên này trong khi những thành viên gia đình đã chết của chúng ta vẫn thét gọi sự báo thù."

Phẫn nộ siết chặt Eragon khi không ai trong số các tộc trưởng đáp lại, và nó sắp sửa trả lời sự đả kích của Vermûnd với những lời cay độc của chính nó khi Orik liếc nó và lắc đầu thật nhẹ. Một cách khó nhọc, Eragon giữ cơn giận trong lồng ngực, mặc dù nó tự hỏi sao Orik lại để cho một sự sỉ nhục kinh khủng như vậy qua đi mà không phản bác.

Đó gần như là... Ồ.

Đẩy người khỏi bàn, Vermûnd đứng dậy, tay nắm lại thành nắm đấm và vai ông ta gù lên. Ông ta tiếp tục nói, nhiếc móc và miệt thị các tộc trưởng với sự căm giận tăng dần cho đến lúc ông ta la lối thật lực.

Tuy nhiên, cho dù những lời nguyền rủa của Vermûnd tệ hại đến mức nào, các tộc trưởng không đáp lại. Họ nhìn chằm chằm vào khoảng không, như thể đang trầm tư về những tình huống khó xử phức tạp, và mắt họ trượt khỏi Vermûnd mà không dừng lại. Khi, trong cơn thịnh nộ, Vermûnd tóm lấy Hreidamar ở phía trước áo giáp của ông ta, ba trong số lính gác của Hreidamar nhảy tới và kéo Vermûnd ra, nhưng khi họ làm thế, Eragon nhận thấy biểu hiện của họ ôn tồn và không biến đổi, như thế họ chỉ đơn thuẩn là giúp Hreidamar làm ngay ngắn áo giáp của mình. Khi họ thả Vermûnd ra, những người lính không nhìn vào ông ta nữa.

Một cơn ớn lạnh trườn lên xương sống Eragon. Những người lùn hành động như thế Vermûnd đã ngừng tồn tại. Như vậy đây là ý nghĩa của việc bị trục xuất khỏi những người lùn. Eragon nghĩ nó thà bị giết còn hơn phải chịu đựng một số phận như thế, và trong một khoảnh khắc, nó cảm thấy một dao động vì thương hại cho Vermûnd, nhưng lòng thương hại của nó biến mất ngay khoảnh khắc tiếp theo khi nó nhớ lại vẻ mặt lúc chết của Kvîstor.

Với lời nguyền rủa cuối cùng, Vermûnd sải bước ra khỏi phòng, theo sau bởi những người thuộc tộc của ông ta, đã hộ tống ông ta đến cuộc họp.

Không khí giữa các tộc trưởng khác lắng dịu đi ngay khi hai cánh cửa đóng sập sau lưng Vermûnd. Một lần nữa những người lùn lại nhìn ngó xung quanh không hạn chế gì, và họ tiếp tục nói chuyện ầm ĩ, bàn tán xem họ sẽ cần làm gì tiếp với Az Sweldn rak Anhûin.

Rồi Orik gõ lên mặt bàn bằng quả táo ở chuôi dao găm của mình, và mọi người quay lại để nghe ông. "Giờ chúng ta đã giải quyết xong Vermûnd, còn một vấn đề nữa tôi muốn cuộc họp xem xét. Mục đích chúng ta tập hợp tại đây là để bầu ra người kế nhiệm Vua Hrothgar. Tất cả chúng ta đều có nhiều điều để nói về chủ đề này, nhưng tôi tin giờ là thời điểm chín muồi để dẹp lời nói ra sau và để hành động nói thay cho chúng ta. Vì vậy tôi kêu gọi hội đồng hãy quyết định liệu chúng ta đã sẵn sàng hay chưa - và theo ý tôi, chúng ta còn hơn cả sẵn sàng - để tiến hành cuộc biểu quyết cuối cùng ba ngày sau kể từ lúc này, theo như luật của chúng ta. Biểu quyết của tôi, như tôi đưa ra, là rồi."

Freowin nhìn Hadfala, bà này đang nhìn Gannel, ông này đang nhìn Manndrâth, ông này đang giật giật cái mũi của mình và đang nhìn Nado, ông này đang lún sâu vào cái ghế của mình và đang nhai nhai bên trong má.

"Rồi," Íorûnn nói.

"Rồi," Ûndin nói.

"...Rồi," Nado nói, và cả tám tộc trưởng còn lại cũng vậy.

Vài giờ sau, khi hội đồng nghỉ ăn trưa, Orik và Eragon trở lại khu phòng của Orik để ăn. Không ai nói gì cho đến khi họ vào khu phòng, đã được phòng bị chống nghe trộm. Tại đó Eragon cho phép mình cười. "Ông đã lên kế hoạch trục xuất Az Sweldn rak Anhûin ngay từ đầu, đúng không?"

Vẻ thỏa mãn hiện trên mặt, Orik cũng cười và vỗ bụng. "Tôi có. Đó là hành động duy nhất tôi có thể thực hiện để không chắc chắn dẫn đến chiến tranh thị tộc. Chúng ta vẫn có thể có chiến tranh, nhưng sẽ không phải do chúng ta gây ra. Nhưng tôi không cho một tai họa như thế có thể xảy ra. Chỉ với mức độ ghét cậu, tôi nghĩ hầu hết Az Sweldn rak Anhûin sẽ hoảng sợ vì những gì Vermûnd đã làm trên danh nghĩa của họ. Tôi nghĩ ông ta sẽ không giữ chức grimstborith được lâu đâu."

"Và bây giờ ông đã đảm bảo cuộc biểu quyết cho vị vua mới -"

"Hoặc nữ hoàng."

"- hoặc nữ hoàng mới sẽ diễn ra." Eragon ngập ngừng, miễn cưỡng làm giảm niềm vui chiến thắng của Orik, nhưng rồi nó hỏi, "Ông có thực sự có được hậu thuẫn cần thiết để giành ngôi không?"

Orik nhún vai. "Trước sáng nay, không ai có được sự hậu thuẫn cần thiết. Bây giờ cán cân đã chuyển rồi, và vào lúc này, sự đồng tình đã nằm bên chúng ta. Chúng ta cũng có thể tranh thủ thời cơ; chúng ta sẽ không bao giờ có một cơ hội ngon ăn hơn thế này đâu. Dù thế nào, chúng ta không thể để cho cuộc họp bộ tộc lề mề lâu thêm nữa. Nếu cậu không quay về Varden sớm, có thể sẽ mất tất cả."

"Chúng ta sẽ làm gì trong lúc đợi cuộc biểu quyết?"

"Trước hết, chúng ta sẽ tổ chức ăn mừng thành công của chúng ta bằng một chầu," Orik tuyên bố. "Sau đó khi chúng ta đã no nê rồi, chúng ta sẽ tiếp tục như trước: nỗ lực tập hợp thêm phiếu bầu trong khi giữ vững phần mà chúng ta đã giành được."

Răng của Orik lóe lên màu trắng bên dưới rìa bộ râu khi ông ta lại cười. "Nhưng trước khi chúng ta chén đến một miếng thịt, cậu phải chú ý một điều, mà cậu đã quên mất."

"Cái gì?" Eragon hỏi, khó hiểu vì sự khoái trá rõ ràng của Orik.

"Tại sao, cậu phải triệu hồi Saphira đến Tronjheim, dĩ nhiên rồi! Liệu tôi có trở thành vua hay không, chúng ta sẽ tôn lên một tân vương trong thời gian ba ngày. Nếu Saphira định dự buổi lễ, nó sẽ cần bay gấp để có thể đến đây trước lúc đó."

Kêu không thành tiếng, Eragon chạy đi tìm một cái gương.

K K K

BẤT TUÂN

Đất đen tươi tốt áp vào tay Roran mát lạnh. Anh nhặt một cục đất xốp và bóp vụn nó trong các ngón tay, công nhận rằng nó ẩm ướt và chứa đầy lá, thân cây, rêu, và các chất hữu cơ khác đang phân hủy, những thứ cung cấp thức ăn tuyệt hảo cho cây trồng. Anh áp nó vào môi và lưỡi mình. Vị rất sống động, có chứa hàng trăm mùi vị khác nhau, từ núi nghiền vụn đến những con bọ hung và gỗ mục và phần chân rễ mềm mại của cỏ.

Đất trồng tốt đây, Roran nghĩ. Anh hồi tưởng về Thung lũng Palancar, và anh lại nhìn thấy mặt trời mùa thu lướt ngang qua ruộng lúa mạch bên ngoài ngôi nhà của gia đình anh - những hàng ngay ngắn thân cây vàng óng đu đưa trong gió nhẹ - với Sông Anora về phía tây và những đỉnh núi phủ tuyết nhô cao trên cả hai phía thung lũng. Đó là nơi mình nên ở, cày ruộng và xây dựng một gia đình với Katrina, không phải tưới mặt đất bằng chất lỏng từ chân tay người ta.

"Này!" Đội trưởng Edric quát, chỉ về phía Roran từ trên ngựa. "Chấm dứt vụ lãng phí thời gian của cậu đi, Cây-búa-dũng-mãnh, đừng để tôi đổi ý và cho cậu đứng gác với đám cung thủ!"

Phủi tay vào cạp quần, Roran đứng dậy từ tư thế quỳ. "Rõ, thưa ngài! Tuân lệnh!" anh nói, nén mối ác cảm của mình đối với Edric. Từ lúc gia nhập đội quân của Edric, Roran đã cố nắm bắt những gì có thể về lai lịch của ông ta. Theo những gì anh nghe được, Roran kết luận Edric là một chỉ huy giỏi - nếu không Nasuada đã không giao cho ông ta đảm trách một nhiệm vụ quan trọng như thế - nhưng ông ta có cá tính rất khó chịu, và ông ta kỷ luật lính của mình chỉ vì những sai lệch nhỏ nhất trong những bài luyện tập được đưa ra, Roran chán nản nhận ra điều đó sau ba dịp khác nhau trong ngày đầu tiên của anh với đội của Edric. Roran tin rằng, đó là một kiểu chỉ huy làm suy yếu tinh thần người lính, cũng như làm trì trệ óc sáng tạo và sáng kiến của những người dưới mình. Có khi Nasuada giao mình cho ông ta vì chính những lý do đó, Roran nghĩ. Hoặc có lẽ đây là một bài kiểm tra khác của cô ta. Có lẽ cô ta muốn biết liệu mình có thể nén được kiêu hãnh lại đủ lâu mà làm việc với một người như Edric hay không.

Trở lên lưng Hỏa Tuyết, Roran đi đến phía trước hàng dọc gồm hai trăm năm mươi người. Nhiệm vụ của họ rất đơn giản; vì Nasuada và Vua Orrin đã rút phần lớn lực lượng của họ ra khỏi Surda, Galbatorix có vẻ đã quyết định tranh thủ sự vắng mặt của họ và tàn phá khắp đất nước vô phương tự vệ, cướp bóc các thị trấn và làng mạc và thiêu rụi mùa màng cần thiết để hậu thuẫn cho cuộc xâm chiếm Đế quốc. Cách đơn giản nhất để loại bọn lính là cho Saphira bay ra mà xé xác chúng thành từng mảnh, nhưng trừ khi nó bay đến chỗ Eragon, chứ mọi người đều nhất trí rằng sẽ rất nguy hiểm cho Varden nếu vắng nó quá lâu. Vì thế Nasuada đã gửi đội của Edric đến để đẩy lui quân lính, và quân số của chúng, theo như các gián điệp của Nasuada đã ước lượng lúc đầu, là vào khoảng ba trăm. Tuy nhiên, hai ngày trước, Roran và những người lính còn lại đã choáng váng khi họ bắt gặp những dấu vết chỉ ra rằng lực lượng của Galbatorix là gần tới bảy trăm.

Roran gò cương Hỏa Tuyết đến bên cạnh Carn đang ngồi trên con ngựa cái có đốm của anh ta và gãi cằm trong khi đang nghiên cứu những đường nét trên mặt đất.

Trước mặt họ là một thảm cỏ gợn sóng rộng mênh mông, điểm trên đó lác đác một vài cây liễu và cây dương. Những con diều hâu săn mồi từ trên cao, trong khi bên dưới, thảm cỏ đầy những tiếng rít của chuột, thỏ, những con gặm nhấm đang đào bới, và những con thú hoang khác. Bằng chứng duy nhất cho thấy con người đã từng ở đây là những vệt cỏ bị giẫm đạp hướng về chân trời phía đông, đánh dấu đường đi của bọn lính.

Carn liếc nhìn mặt trời ban trưa, da quanh đôi mắt ủ rũ co lại khi anh nheo mắt. "Chúng ta phải bắt kịp chúng trước khi bóng dài hơn chiều cao của ta."

"Và sau đó chúng ta sẽ khám phá ra liệu bên ta có đủ đông để dẹp được chúng không," Roran lẩm bẩm, "hay là chúng sẽ đè bẹp chúng ta. Chỉ lần này thôi, tôi muốn chúng ta đông hơn quân nó."

Một nụ cười nham hiểm hiện trên mặt Carn. "Với Varden thì luôn là vậy."

"Vào đội hình!" Edric hét lớn, thúc ngựa đi xuống vệt đường dẫn xuyên qua thảm cỏ. Roran đóng chặt miệng và thúc gót chân vào sườn Hỏa Tuyết khi đoàn quân theo bước người đội trưởng.

Sáu giờ sau, Roran ngồi trên Hỏa Tuyết, nấp bên trong một nhóm cây sồi mọc dọc theo bờ một dòng suối nhỏ phẳng lặng phủ đầy những đám cây cói và hai bên bờ nổi đầy tảo. Qua mớ cành cây đan xen trước mặt, Roran nhìn chăm chú một ngôi làng đổ nát có đường bao bọc với không hơn hai mươi căn nhà. Roran quan sát với cơn giận càng lúc càng tăng khi các dân làng đã phát hiện ra đám quân lính đang tiến tới từ phía tây rồi thu gom vài bọc tài sản và chạy trốn về phía nam, hướng tới trung tâm Surda. Nếu Roran có quyền quyết định, anh sẽ cho dân làng biết sự có mặt của họ và đảm bảo rằng họ sẽ không phải mất nhà của mình, nếu như anh và những người đồng hành có thể ngăn chặn điều đó, vì anh nhớ rõ nỗi đau và sự tuyệt vọng cũng như cảm giác vô vọng khi anh rời bỏ Carvahall, và anh sẽ giúp họ thoát khỏi điều đó nếu anh có thể. Anh cũng sẽ yêu cầu đàn ông trong làng chiến đấu cùng mình. Thêm mười hay hai chục bộ vũ khí nữa có thể đồng nghĩa với sự khác biệt giữa chiến thắng và thất bại, và Roran biết rõ hơn hầu hết mọi người về lòng hăng hái khi người ta chiến đấu để bảo vệ nhà của mình. Tuy nhiên, Edric đã phản đối ý tưởng đó và nhất quyết rằng Varden phải ẩn nấp trong những ngọn đồi phía đông nam của làng.

"May mắn là chúng đi bộ," Carn lẩm bẩm, nói về cột quân lính màu đỏ đang diễu hành về phía ngôi làng. "Chứ không chúng ta sẽ không đến đây trước được."

Roran liếc nhìn lại về phía những người đang tập trung sau lưng. Edric đã cho anh quyền chỉ huy tạm thời đối với tám mươi mốt chiến binh. Trong số họ có người dùng kiếm, dùng giáo, và nửa tá cung thủ. Một trong những người bạn của Edric, Sand, chỉ huy một đội tám mươi mốt người nữa, trong khi Edric đích thân lãnh đạo phần còn lại. Cả ba nhóm tập trung áp vào nhau giữa đám cây sồi, và Roran nghĩ đó là một sai lầm; khi họ phá bỏ thế yểm trợ thì thời gian để sắp xếp đội hình sẽ chính là thời gian cho bọn lính bố trí phòng thủ.

Nghiêng đầu về phía Carn, Roran nói, "Tôi không thấy tên nào có dấu hiệu bị cụt tay què chân hay thương tích đáng kể gì khác, nhưng thế cũng chẳng chứng tỏ được gì. Cậu có thấy bất cứ tên nào là người không biết đau không?"

Carn thở dài. "Ước gì tôi thấy. Em họ anh thì được, vì Murtagh và Galbatorix là hai pháp sư duy nhất mà Eragon nên sợ, còn tôi chỉ là pháp sư còi, mà tôi cũng không dám kiểm tra đám lính. Nếu có bất cứ pháp sư nào cải trang trong bọn, chúng sẽ biết tôi do thám ngay, và khả năng là tôi không thể phá được ý thức của chúng trước khi chúng báo động cho đồng bọn là ta đang ở đây."

"Có vẻ mỗi lần chuẩn bị đánh nhau chúng ta đều có cuộc thảo luận kiểu này," Roran nhận xét, quan sát lực lượng của bọn lính và cố quyết định xem dàn quân thế nào là tốt nhất.

Carn cười, nói, "Không sao. Tôi chỉ hy vọng chúng ta cứ thảo luận thế đi, bởi vì nếu không -"

"Một hoặc cả hai ta đã toi -"

"Hoặc Nasuada đã chia lại chúng ta sang hai đội trưởng khác nhau -"

"Rồi sau có thể chúng ta vẫn toi, bởi vì sẽ chẳng có ai yểm trợ chúng ta," Roran kết luận. Một nụ cười nở trên môi. Đó đã là trò đùa quen thuộc của họ. Anh rút búa ra khỏi thắt lưng và nhăn mặt khi cái chân trái của anh nhói đau ở chỗ mà con bò đã dùng sừng làm rách thịt anh. Cáu kỉnh, anh với tay xuống xoa bóp chỗ đau.

Carn nhìn thấy liền nói, "Ổn chứ?"

"Không giết được tôi đâu," Roran nói, rồi cân nhắc lại lời của mình. "À, có thể có, nhưng trời tru đất diệt nó đi nếu tôi đợi ở đây trong khi cậu ra chém mấy con lừa hậu đậu kia thành vụn."

Khi bọn lính tới làng, chúng diễu hành thẳng qua làng, chỉ dừng lại để phá sập cửa chính mỗi nhà và ngó vào các phòng xem có ai trốn bên trong không. Một con chó chạy ra từ sau một cái thùng đựng nước mưa, lông cổ dựng đứng, bắt đầu sủa bọn lính. Một tên trong bọn bước tới trước phi cây giáo của hắn ra, giết chết con chó.

Ngay lúc tên đầu tiên trong bọn lính tiến đến đầu kia của làng, Roran siết chặt tay quanh cán búa, sẵn sàng xông trận, nhưng rồi anh nghe thấy một tràng những tiếng la chói lói, và một cảm giác sợ hãi túm chặt lấy anh. Một toán lính đi ra từ căn nhà áp chót, kéo theo ba người đang vùng vẫy: một người đàn ông tóc bạc cao gầy, một phụ nữ trẻ áo cánh tả tơi, và một thằng nhỏ không hơn mười một tuổi.

Mồ hồi túa ra trên trán Roran. Bằng một giọng đều đều, thấp và chậm, anh bắt dầu nguyền rủa, nguyền rủa ba nạn nhân vì đã không bỏ trốn cùng làng xóm, nguyền rủa bọn lính vì những gì bọn chúng đã làm và có thể sắp làm, nguyền rủa Galbatorix, và nguyền rủa bất cứ ý tưởng nào của số phận đã gây nên tình cảnh như thế này. Sau lưng anh, anh ý thức được đồng đội của anh cựa quậy và lẩm bẩm giận dữ, nóng lòng muốn trừng trị bọn lính vì sự tàn bạo của chúng.

Lục soát hết các nhà, bọn lính quay lại đường cũ đến giữa làng và lập thành một nửa hình tròn nham nhở vây quanh các tù nhân của chúng.

Hay! Roran thầm reo lên khi bọn lính quay lưng lại nhóm Varden. Kế hoạch của Edric chính là chờ cho chúng làm vậy. Trong trạng thái sẵn sàng phát lệnh tấn công, Roran nhỏm người khỏi yên cương khoảng chục phân, toàn thân căng lên. Anh cố nuốt, nhưng cổ họng quá khô.

Tên sĩ quan chỉ huy bọn lính, tên duy nhất ngồi trên ngựa, xuống ngựa và trao đổi vài lời không thể nghe thấy với người đàn ông tóc bạc. Không hề cảnh báo, tên sĩ quan rút thanh kiếm cong và chặt đầu người đàn ông, rồi bật lùi lại để tránh dòng máu phun ra. Người phụ nữa thét lên thậm chí còn lớn hơn trước đó.

"Xông lên," Edric nói.

Roran mất nửa giây mới lĩnh hội được từ mà Edric vừa điềm tĩnh thốt ra chính là câu lệnh mà anh đang chờ đợi.

"Xông lên!" Sand hét lên phía bên kia Edric, phi nước đại ra khỏi bãi sồi cùng với người của mình.

"Xông lên!" Roran hét, thúc gót vào sườn Hỏa Tuyết. Anh cúi người đằng sau tấm khiên của mình khi Hỏa Tuyết chở anh lao xuyên qua đám cành cây, rồi lại hạ khiên xuống khi đã ra ngoài, phi xuống sườn đồi, với tiếng móng ngựa vang rền xung quanh. Tha thiết muốn cứu mạng người phụ nữ và cậu bé, Roran thúc Hỏa Tuyết phi hết tốc độ. Nhìn lại, anh phấn khởi thấy nhóm người của anh đã tách khỏi nhóm Varden còn lại mà không có vấn đề gì nhiều; ngoài vài người bị tụt lại sau, còn phần lớn tập hợp lại thành một nhóm duy nhất không tới chục thước sau lưng anh.

Roran lướt mắt sang Carn đang cưỡi ngựa trong nhóm tiên phong của Edric, cái áo choàng xám của anh ta tung phần phật trong gió. Một lần nữa, Roran ước gì Edric cho họ được ở cùng một nhóm.

Theo lệnh của ông ta, Roran không đâm thẳng vào làng, mà hơi lái sang trái và đi vòng qua các nhà để ép sườn bọn lính và tấn công từ một hướng khác. Sand cũng làm vậy ở cánh phải, trong khi Edric và lính của ông xông thẳng vào làng.

Một dãy nhà che khuất những tiếng va chạm lúc đầu, nhưng Roran nghe thấy những tiếng la hét đồng thanh vang lên, rồi một chuỗi những tiếng tưng tưng kim loại kỳ lạ, và tiếp đến là tiếng la hét của người và ngựa.

Bụng dạ Roran rối lên vì lo lắng. Tiếng động gì thế? Chẳng lẽ là cung kim loại? Có cả loại này sao? Không bận tâm đến nguyên nhân, anh biết lẽ ra không thể có nhiều tiếng ngựa kêu đau như thế. Tay chân anh phát lạnh khi nhận ra với sự chắc chắn tuyệt đối rằng cuộc tấn công đã gặp rắc rối và trận chiến có thể đã thất bại rồi.

Anh giật mạnh cương Hỏa Tuyết khi họ đi ngang ngôi nhà cuối cùng, hướng con ngựa về phía trung tâm làng. Sau lưng anh, người của anh cũng làm theo. Hai trăm thước trước mặt, Roran thấy ba hàng lính đang đóng giữa hai ngôi nhà, chặn đường họ. Bọn lính có vẻ không hề sợ sệt những con ngựa đang lao về phía chúng.

Roran lưỡng lự. Lệnh cho anh rất rõ ràng: anh và người của anh lo sườn phía tây và mở đường xuyên thủng đội quân của Galbatorix cho đến khi họ nhập lại với Sand và Edric. Nhưng Edric đã không cho Roran biết anh phải làm gì trong trường hợp lao thẳng vào bọn lính không còn có vẻ là một ý tưởng hay nữa, khi anh và người của mình đã vào vị trí. Và Roran biết nếu anh làm trái lệnh đã ra, kể cả là để ngăn người của anh khỏi bị tàn sát, anh sẽ mắc tội bất tuân thượng lệnh và Edric có thể trừng trị anh vì điều đó.

Rồi bọn lính quẳng những cái áo choàng lụng thụng của chúng sang một bên và đưa nỏ lên vai.

Khoảnh khắc đó, Roran quyết định anh sẽ làm bất cứ điều gì để đảm bảo rằng Varden sẽ thắng trận này. Anh sẽ không để bọn lính tiêu diệt lực lượng của anh với một loạt tên duy nhất chỉ vì anh muốn tránh những hậu quả không dễ chịu của việc trái lệnh đội trưởng.

"Nấp đi!" Roran hét lên, giật mạnh đầu Hỏa Tuyết sang phải, bắt con vật ngoặt ra phía sau ngôi nhà. Một tá mũi tên găm vào mặt bên căn nhà chỉ một giây sau đó. Nhìn quanh, Roran thấy tất cả lính của mình đã xoay sở cúi xuống sau mấy ngôi nhà gần đó trước khi bọn lính bắn, chỉ trừ một người. Người lính quá chậm chân này nằm đổ máu trên đất, hai mũi tên xuyên qua ngực anh ta. Mũi tên đục thủng áo giáp anh ta như thể nó không dày hơn một mảnh giấy lụa. Hoảng sợ vì mùi máu, ngựa của anh ta tung vó lên và trốn khỏi làng, để lại một đám bụi cuộn lên phía sau.

Roran với tay lên túm lấy cạnh một cái xà ở mặt bên ngôi nhà, giữ Hỏa Tuyết đứng yên một chỗ trong khi anh tuyệt vọng cố tính toán cách hành động. Bọn lính đã trói chặt anh và đồng đội; họ không thể bước trở ra khoảng trống mà không bị lãnh tên khắp người, họ sẽ biến thành nhím ráo.

Một nhóm lính của Roran tiến đến chỗ anh từ một căn nhà được căn của anh che một phần khỏi tầm nhìn của bọn lính. "Làm sao đây, Cây-búa-dũng-mãnh?" họ hỏi. Họ không có vẻ khó chịu với việc anh đã làm trái lệnh; ngược lại, họ nhìn anh với biểu hiện của một sự tín nhiệm mới.

Nghĩ nhanh hết sức, Roran đưa mắt nhìn xung quanh. Anh tình cờ nhìn thấy một một cái cung cùng một ống đựng tên buộc sau yên ngựa của một người trong nhóm. Roran mỉm cười. Chỉ vài người trong nhóm là cung thủ, nhưng tất cả bọn họ đều mang theo cung tên để săn bắn lấy thức ăn và giúp nuôi quân khi họ đang ở giữa nơi hoang dã mà không có hỗ trợ từ nhóm Varden.

Roran chỉ căn nhà anh đang tựa vào và nói, "Lấy cung của các anh rồi trèo lên mái, vừa bao nhiêu người thì lên bấy nhiêu, nhưng nếu các anh quý trọng mạng mình, hãy ở ngoài tầm nhìn cho đến khi tôi bảo làm ngược lại. Và khi tôi bảo, hãy bắn và cứ bắn cho đến lúc các anh hết sạch tên hoặc cho đến khi tên cuối cùng chết. Hiểu chứ?"

"Rõ, thưa ngài!"

"Vậy đi đi. Những người còn lại, tìm các căn nhà mà các anh có thể tận dụng để tỉa bớt bọn lính. Harald, nói cho tất cả mọi người biết, rồi tìm mười người dùng giáo và mười người dùng kiếm giỏi nhất trong số chúng ta và đưa họ đến đây càng nhanh càng tốt."

"Tuân lệnh!"

Với một động tác nhanh nhẹn, người lính vội vàng thi hành. Những người gần Roran nhất lấy cung và ống tên của họ từ sau yên cương rồi đứng lên lưng ngựa, trèo lên mái nhà tranh của căn nhà. Bốn phút sau, phần lớn người của Roran đã vào vị trí trên mái của bảy căn nhà khác nhau - khoảng tám người một mái - và Harald đã quay lại cùng với số người được yêu cầu.

Roran nói với những người lính đang tụ tập quanh anh, "Rồi, giờ nghe đây. Khi tôi phát lệnh, những người ở trên sẽ bắt đầu bắn. Ngay khi mũi tên đầu tiên bay vào bọn lính, chúng ta sẽ xông ra và cố giải cứu Đội trưởng Edric. Nếu chúng ta không thể, chúng ta sẽ phải làm sao cho mấy cái áo đỏ kia biết mùi thép lạnh. Các cung thủ chắc sẽ làm bọn lính bối rối đủ cho ta lại gần chúng trước khi chúng kịp dùng đến mấy cái nỏ. Hiểu rồi chứ?"

"Rõ, thưa ngài!"

"Thế thì bắn!" Roran hét lên.

Với những tiếng thét đến lạc giọng, những người lính trên mấy căn nhà nhô ra khỏi rìa mái và đồng loạt nhả tên vào bọn lính phía dưới. Cơn mưa tên rít lên trong không khí như những con chim bách thanh khát máu lao xuống con mồi của mình.

Một khoảnh khắc sau, khi những tên lính bắt đầu gào thét đau đớn vì những vết thương, Roran nói, "Giờ xông lên!" và nện gót chân vào Hỏa Tuyết.

Cùng nhau, anh và người của mình phi nước đại vòng qua căn nhà, kéo những con chiến mã của mình quẹo ngặt đến mức họ gần như lộn nhào. Trông cậy vào tốc độ của mình và trình độ của những cung thủ bên trên, Roran lượn vòng qua đám lính, chúng đang vùng vẫy một cách hỗn loạn, cho đến khi anh đến địa điểm cuộc tấn công tai họa của Edric. Mặt đất ở đó loang đầy máu, và những xác chết của rất nhiều chiến binh chiến mã rải rác khắp khoảng trống giữa các căn nhà. Lực lượng còn sót lại của Edric đang phải đánh giáp lá cà với bọn lính. Roran ngạc nhiên thấy Edric vẫn còn sống, đang chung lưng chiến đấu với năm người lính của ông.

"Đi cùng tôi!" Roran hét lên với những người đi cùng anh khi họ lao vào trận chiến.

Bằng hai cú đá bất ngờ, Hỏa Tuyết hạ gục hai tên lính, đánh gãy tay cầm kiếm và phá thủng lồng ngực chúng. Hài lòng với chiến mã, Roran quai búa tứ tung, gầm gừ trong sự hân hoan điên cuồng của trận chiến khi anh đốn ngã hết tên này đến tên khác, không một tên nào có thể trụ được với những đòn tấn công tàn bạo của anh. "Theo tôi!" anh hét lên khi anh lên ngang hàng với Edric và những người còn sống sót khác. "Theo tôi!" Trước mặt anh, trận mưa tên vẫn tiếp tục đổ xuống bọn lính, buộc chúng phải che chắn bằng khiên đồng thời cố gắng né gạt những thanh kiếm và mũi giáo của quân Varden.

Khi anh và lính của mình đã vây quanh nhóm Varden đang đứng, Roran hét lên, "Lui! Lui! Về chỗ mấy cái nhà!" Từng bước một, tất cả bọn họ rút lui cho đến khi họ ở ngoài tầm chém của bọn lính, và rồi họ quay đầu và chạy thẳng về phía căn nhà gần nhất. Bọn lính bắn và giết mất ba người Varden trên đường chạy, nhưng phần còn lại đến được căn nhà mà không bị thương tích nào.

Edric ngồi sụp xuống cạnh căn nhà, hớp hơi để thở. Khi đã nói lại được, ông ra dấu về phía người của Roran và nói, "Can thiệp rất đúng lúc và rất được hoan nghênh, Cây-búa-dũng-mãnh, nhưng sao ta lại thấy cậu ở đây, mà không phi ra từ giữa đám lính, như ta trông đợi?"

Rổi Roran giải thích những việc mình đã làm và chỉ cho ông thấy những cung thủ trên mái nhà. Trán Edric sa sầm khi ông nghe Roran báo cáo. Tuy nhiên ông không truy cứu Roran vì sự bất tuân thượng lệnh của mình mà chỉ nói, "Cho những người kia xuống ngay. Họ đã thành công trong việc phá hàng ngũ bọn lính. Giờ chúng ta phải trông cậy vào việc chơi kiếm trung thực để loại chúng."

"Chúng ta còn quá ít người để tấn công trực tiếp bọn lính!" Roran phản đối. "Chúng áp đảo ta còn hơn ba trên một."

"Thế thì ta sẽ lấy can trường bù số lượng!" Edric rống lên. "Ta được biết là cậu có can đảm, Cây-búa-dũng-mãnh, nhưng rõ ràng lời đồn đã lầm và cậu nhát như một con thỏ đế đang run vậy. Giờ thì làm như ta nói, và đừng chất vấn ta lần nữa!" Người đội trưởng chỉ một người của Roran. "Cậu kia, cho ta mượn con ngựa." Sau khi người lính xuống ngựa, Edric trèo lên và nói, "Một nửa số các cậu lên ngựa, theo ta; ta đi tiếp viện cho Sand. Những người khác, ở lại với Roran." Đá vào sườn con ngựa, Edric phi nước đại cùng những người ông chọn theo, phi từ nhà này sang nhà khác khi tìm đường đi vòng qua đám lính đang túm tụm ở trung tâm ngôi làng.

Roran lắc đầu tức giận nhìn họ rời đi. Anh chưa từng bao giờ để cho ai chất vấn lòng can đảm của mình mà không đáp lại lời chỉ trích bằng lời hoặc bằng những cú đánh. Tuy nhiên khi mà trận chiến còn tiếp diễn thì sẽ không thích đáng cho anh đối đầu với Edric. Được lắm, Roran nghĩ, ta sẽ cho Edric thấy lòng can đảm mà ông ta tưởng mình thiếu. Nhưng đó sẽ là tất cả những gì ông ta lấy được của mình. Mình sẽ không cho cung thủ ra đối mặt với bọn lính khi mà ở vị trí hiện giờ họ an toàn hơn và hiệu quả hơn.

Roran quay lại xem xét những người mà Edric đã để lại cho anh. Trong số những người mà họ cứu được, Roran mừng vì thấy Carn, trầy xước và máu me, nhưng về tổng thể, vô sự. Họ gật đầu với nhau, và Roran nói với cả nhóm: "Các anh đã nghe Edric nói. Tôi không đồng ý. Nếu làm theo ý ông ta, tất cả chúng ta sẽ tàn đời thành một đống trước khi mặt trời lặn. Chúng ta vẫn có thể thắng trận này, nhưng không phải bằng cách bước thẳng vào chỗ chết! Chúng ta thiệt về số lượng, thì có thể bù lại bằng khôn ngoan. Các anh biết tôi đã đến gia nhập Varden như thế nào. Các anh biết tôi đã từng chiến đấu và đánh bại Đế quốc, và chỉ trong một làng như vậy thôi! Chuyện này tôi làm được, tôi thề với các anh. Nhưng tôi không thể làm một mình. Các anh có theo tôi không? Nghĩ kĩ đi. Tôi sẽ nhận trách nhiệm vì bỏ qua lệnh của Edric, nhưng ông ta và Nasuada có thể vẫn trừng phạt bất cứ ai có liên quan."

"Thế thì họ là đồ ngốc," Carn làu bàu. "Họ thích chúng ta chết ở đây à? Không, tôi nghĩ là không. Anh có thể tin tưởng tôi, Roran."

Ngay khi Carn tuyên bố, Roran thấy những người khác giữ thẳng vai, cân lại hàm và mắt họ bừng cháy với quyết tâm mới, và anh biết họ đã quyết định chia sẻ số phận với anh, cho dù là vì họ không muốn bị tách ra khỏi pháp sư duy nhất của đội. Rất nhiều người là những chiến sĩ Varden đã nợ ơn cứu mạng của một thành viên trong Du Vrangr Gata, và những kỵ binh mà Roran đã gặp thà tự đâm vào chân mình còn hơn là ra chiến trận mà không có một pháp sư ở kề bên.

"Được," Harald nói. "Anh cũng có thể tin tôi, Cây-búa-dũng-mãnh."

"Vậy theo tôi!" Roran nói. Với tay xuống, anh kéo Carn lên lưng Hỏa Tuyết ngồi sau anh, rồi khẩn trương đưa nhóm của mình quay lại vòng qua làng đến chỗ những cung thủ trên mái nhà vẫn tiếp tục bắn tên vào bọn lính. Trong lúc Roran và người của anh phi từ nhà này sang nhà khác, các mũi tên vù vù sướt qua họ - âm thanh nghe như những con côn trùng khổng lồ giận dữ - và một cái thậm chí còn xuyên một nửa qua khiên của Harald.

Khi họ đã an toàn sau chỗ nấp, Roran bảo những người trên ngựa đưa cung tên cho những người dưới đất, và những người này lại trèo lên mái tham gia với các cung thủ kia. Khi họ trèo lên theo lời anh, Roran ra hiệu với Carn, anh này đã nhảy khỏi Hỏa Tuyết ngay khi họ dừng lại, và nói, "Tôi cần một thần chú của cậu. Cậu có thể che chắn cho tôi và mười người khác khỏi bị tên bắn không?"

Carn ngần ngừ. "Bao lâu?"

"Một phút? Một giờ? Ai mà biết?"

"Che chắn từng đấy người khỏi một nắm tên thôi sẽ nhanh chóng vượt quá giới hạn của tôi... Nhưng nếu anh không phiền nếu tôi chặn những mũi tên trên đường bay, tôi có thể bẻ hướng của chúng khỏi các anh, như thế -"

"Thế cũng được."

"Chính xác anh muốn tôi bảo vệ ai?"

Roran chỉ những người anh chọn để đi cùng mình, và Carn hỏi tên từng người họ. Đứng gù vai lên, Carn bắt đầu lẩm nhẩm bằng cổ ngữ, mặt tái đi và căng thẳng. Ba lần anh ta cố tung phép, nhưng cả ba lần đều hỏng. "Xin lỗi," anh nói, run run thở ra. "Tôi không tập trung được."

"Chết tiệt, đừng xin lỗi," Roran làu bàu. "Làm đi!" Nhảy khỏi Hỏa Tuyết, anh nắm lấy hai bên đầu Carn, giữ anh ta đứng yên. "Nhìn tôi này! Nhìn thẳng vào mắt tôi này. Đúng rồi. Cứ nhìn tôi... Tốt. Giờ đặt phép xung quanh chúng tôi đi."

Nét mặt Carn thư thái và vai anh thả lỏng, rồi với một giọng tự tin, anh lặp lại câu thần chú. Ngay khi bật ra từ cuối cùng, anh khẽ đổ vào tay Roran trước khi hồi phục lại. "Xong rồi," anh nói.

Roran vỗ nhẹ vào vai anh ta, rồi lại trèo lên Hỏa Tuyết. Lướt mắt qua mười kỵ sĩ, anh nói, "Yểm trợ sau lưng và hai cánh của tôi, nhưng cứ ở sau tôi chừng nào mà tôi vẫn còn vung được búa."

"Tuân lệnh!"

Hãy nhớ, những mũi tên không thể làm hại được các anh nữa. Carn, anh ở đây. Đừng cử động quá nhiều; giữ sức đi. Nếu anh thấy không thể duy trì được thần chú nữa, ra hiệu cho chúng tôi trước khi cậu kết thúc. Đồng ý không?"

Carn ngồi trên bậc cửa của căn nhà, gật đầu. "Đồng ý."

Siết lại tay quanh khiên và búa, Roran hít thật sâu, cố trấn tĩnh. "Cố lên nào," anh nói, và chắt lưỡi cho Hỏa Tuyết chạy.

Với mười người lính cưỡi ngựa sau lưng, Roran phi ra giữa con đường đất chạy giữa các căn nhà và đối diện bọn lính một lần nữa. Năm trăm tên hay khoảng đó trong đoàn quân của Galbatorix vẫn đang ở trung tâm ngôi làng, hầu hết bọn chúng đều cúi hoặc quỳ đằng sau khiên của mình trong khi cố gắng lên lại nỏ. Thỉnh thoảng một tên lại đứng lên và nhả một mũi về phía các cung thủ trên mái nhà trước khi lại thụp xuống đằng sau cái khiên khi một mũi tên xé gió bay qua chỗ hắn vừa mới đứng. Khắp khoảng trống vương vãi xác người là những mũi tên rải rác đầy mặt đất, như lau sậy đâm ra từ đất đẫm máu. Vài chục thước phía bên kia bọn lính, Roran có thể thấy một nhóm thân thể vùng vẫy, và anh cho rằng đó là chỗ mà Sand, Edric, và bất cứ thứ gì còn lại trong lực lượng của họ đang chiến đấu với bọn lính. Nếu người phụ nữ trẻ và cậu bé đang ở trong khoảng trống, anh không nhận ra họ.

Một mũi tên lao đến Roran. Khi mũi tên còn cách ngực anh không tới một thước, nó đột ngột đổi hướng và bay nghiêng đi, trượt khỏi anh và đồng đội. Roran nao núng, nhưng mũi tên đã bay qua rồi. Họng anh nghẹn lại, và nhịp tim tăng gấp đôi.

Liếc xung quanh, Roran phát hiện một cái xe hàng đổ vỡ tựa vào một căn nhà về bên trái. Anh chỉ vào nó và nói, "Kéo cái kia ra đây và lật ngược nó lại. Chắn bớt càng nhiều đường càng tốt." Anh hét lên với các cung thủ, "Đừng để bọn lính lẻn sang đánh từ hai cánh! Lúc nào chúng xông vào ta, làm mỏng lực lượng chúng đi càng nhiều càng tốt. Còn lúc nào hết tên là xuống gia nhập với bọn tôi ngay lập tức!"

"Tuân lệnh!"

"Coi chừng bắn nhầm bọn tôi, không tôi thề là tôi sẽ ám nhà các anh đến ngày tận thế!"

"Tuân lệnh!"

Thêm nhiều mũi tên nữa bay vào Roran và những người lính, nhưng trong mọi trường hợp các mũi tên đều trượt khỏi vòng bảo vệ của Carn và đổi hướng đâm vào tường hoặc xuống đất hoặc biến luôn lên trời.

Roran nhìn người của anh kéo cái xe hàng ra đường. Khi họ gần xong, anh ngẩng đầu, hít hơi đầy phổi, rồi hướng giọng nói về phía bọn lính, anh rống lên, "Này bọn chó thối tha rúm ró kia! Xem mười một người bọn ta chặn đường bọn mày đây. Thắng bọn tao, và bọn mày sẽ được tự do. Thử dùng tay đi nếu chúng mày có gan. Sao? Do dự à? Dũng khí đàn ông của chúng mày đâu rồi, bọn giòi bọ biến dạng, bọn sát nhân mặt heo bệnh hoạn kia? Cha chúng mày là đồ ngu si chảy nhớt đáng lẽ phải chết chìm từ lúc mới sinh! Đúng, và mẹ chúng mày là đồ nhếch nhác vô giá trị, là thê thiếp của lũ Urgals!" Roran cười thỏa mãn khi vài tên trong bọn lính hú lên giận dữ và bắt đầu nhục mạ lại anh. Tuy nhiên, một tên trong bọn có vẻ đã mất tinh thần chiến đấu tiếp, vì hắn bật dậy và chạy về phía bắc, che chắn mình bằng cái khiên và nhảy nhặng xị từ bên này sang bên kia trong nỗ lực tuyệt vọng tránh né các cung thủ. Bất chấp nỗ lực của hắn, nhóm Varden bắn hắn chết tươi trước khi hắn chạy được hơn ba mươi thước. "Ha!" Roran kêu lên. "Đồ hèn, tất cả chúng mày, đồ chuột sông chấy rận! Nếu tin này cho chúng mày thêm can đảm, thì cho chúng mày biết: Roran Cây-búa-dũng-mãnh là tên của tao, và Eragon Khắc-tinh-của-Tà-thần là em họ tao! Giết được tao, lão vua thối tha đó sẽ thưởng chúng mày chức bá tước đấy, có khi còn hơn. Nhưng chúng mày sẽ phải giết tao với một lưỡi gươm; nỏ của chúng mày không ích gì với tao đâu. Tới đi, đồ ốc sên; đồ con đỉa; đồ ve trắng chết đói! Tới hạ tao đi nếu chúng mày có thể!"

Những tiếng hét xông trận vang lên xôn xao, một nhóm ba chục tên lính liệng mấy cây nỏ đi, rút những thanh kiếm sáng loáng ra, và, khiên giơ cao, chạy về phía Roran và người của anh.

Qua vai phải của mình, Roran nghe Harald nói, "Thưa ngài, chúng đông hơn ta nhiều."

"Đúng," Roran nói, dán chặt mắt vào bọn lính. Bốn tên trong số chúng vấp ngã và nằm bất động trên đất, bị xuyên thủng bởi vô số mũi tên.

"Nếu cả bọn đánh cùng một lúc, chúng ta không có cơ đâu."

"Đúng, nhưng không đâu. Nhìn xem, chúng bối rối và mất tổ chức rồi. Chắc chỉ huy của chúng gục rồi. Miễn là chúng ta giữ vững đội hình, chúng không đè bẹp được ta đâu."

"Nhưng mà, Cây-búa, chúng ta cũng không thể giết hết từng đấy tên được!"

Roran liếc Harald ở phía sau. "Chắc chắn có thể! Chúng ta chiến đấu để bảo vệ gia đình chúng ta và để giành lại nhà và đất của chúng ta. Còn chúng chiến đấu là vì Galbatorix bắt chúng làm thế. Chúng không có được trái tim cho trận đánh này. Cho nên hãy nghĩ về gia đình anh, nghĩ về nhà anh, và nhớ rằng anh đang bảo vệ những điều đó. Một người đàn ông chiến đấu vì những điều lớn lao hơn bản thân anh ta có thể giết bay một trăm tên lính!" Trong lúc nói, Roran nhìn thấy trong tâm trí anh hình ảnh Katrina trong bộ váy cưới màu xanh dương, và anh ngửi thấy hương thơm từ da cô, và anh nghe thấy giọng nói câm lặng của cô trong cuộc nói chuyện của họ khuya đêm đó.

Katrina.

Rồi bọn lính đã ở trước mặt họ, và trong một lát Roran không nghe thấy gì ngoài những tiếng thịch thịch của kiếm nảy ra khỏi khiên của anh và tiếng loảng xoảng khi búa của anh giộng xuống mũ sắt và những tiếng kêu la của bọn lính khi chúng bẹp rúm dưới búa của anh. Bọn lính quăng mình vào anh với sức mạnh tuyệt vọng, nhưng chúng không phải đối thủ của anh và đồng đội. Khi anh hạ gục tên lính cuối cùng, Roran phá ra cười phấn khởi. Thực là vui khi được nghiền nát những kẻ sẽ làm hại vợ và đứa con chưa chào đời của anh!

Anh vui mừng thấy không một ai trong số lính của anh bị thương nghiêm trọng. Anh cũng nhận thấy trong cuộc đụng độ, vài cung thủ trên mái đã xuống khỏi mái nhà và chiến đấu trên lưng ngựa với họ. Roran cười toe với mấy người mới và nói, "Chào mừng đến với trận chiến!"

"Nhiệt liệt là khác!" một người đáp lại.

Đưa cây búa phủ máu của anh chỉ vào lề đường bên phải, Roran nói, "Anh, anh, và anh, chất đống mấy cái xác ra kia. Dùng thêm cái xe để tạo ra một cái phễu, như thế mỗi lượt sẽ chỉ có hai hay ba tên xông vào được thôi."

"Rõ, thưa ngài!" những người lính trả lời, nhảy khỏi lưng ngựa.

Một mũi tên rít lên lao vào Roran. Anh phớt lờ nó và tập trung vào nhóm lính chính, ở đó có một toán nữa, có lẽ khoảng một trăm tên, đang tụ tập lại chuẩn bị cho trận kịch chiến thứ hai. "Nhanh lên!" anh hét lên với những người đang dời chỗ mấy xác chết. "Chúng đến ngay trước mặt rồi. Harald, đi giúp đi."

Roran liếm môi, hồi hộp khi nhìn người của anh làm việc trong khi bọn lính đang đến gần. Anh nhẹ nhõm nhìn bốn người Varden kéo cái xác cuối cùng vào chỗ và trèo trở lên ngựa trước khi toán lính bổ tới.

Những căn nhà ở hai bên đường, cũng như cái xe hàng lật ngược và rào chắn kinh khủng bằng xác người, làm chậm và ngăn cản dòng lính, cho đến khi chúng gần như bị tắc lại khi đến được chỗ Roran. Đám lính bị ép lại quá chật, chúng vô phương thoát khỏi những mũi tên cắm xuống chúng từ phía trên.

Hai hàng lính đi đầu mang giáo, và chúng dùng để đe dọa Roran và những người Varden khác. Roran né được ba nhát đâm, nguyền rủa vì anh không thể với quá được cây giáo bằng cái búa của mình. Rồi một tên đâm trúng Hỏa Tuyết vào phần vai, Roran cúi rạp ra trước để khỏi bị quẳng xuống đất khi con ngựa hí vang và lồng lên.

Khi Hỏa Tuyết hạ trở xuống, Roran trượt ra khỏi yên, giữ con ngựa ở giữa anh và hàng rào lính dùng giáo. Hỏa Tuyết nhảy lên khi một cây giáo nữa xuyên vào da nó. Trước khi bọn lính có thể làm nó bị thương tiếp, Roran giật cương Hỏa Tuyết và bắt nó nhảy lùi ra sau cho đến khi đủ khoảng trống giữa những con ngựa khác để nó có thể xoay trở. "Yah!" anh hét lên, và phát vào mông con ngựa, cho nó phi nước đại ra khỏi làng.

"Tránh đường!" Roran gầm lên, vẫy nhóm Varden. Họ tạo một khoảng trống cho anh giữa đám ngựa của họ, và anh lại vọt lên hàng đầu của trận chiến, giắt búa vào thắt lưng.

Một tên lính thọc giáo vào ngực Roran. Anh chặn nó bằng cổ tay, bị cái cán bằng gỗ cứng làm thâm tím, rồi giật cây giáo khỏi tay tên lính. Hắn ngã dập mặt xuống đất. Quay cây giáo trong tay, Roran đâm tên lính, rồi nhào ra trước và đâm luôn hai tên nữa. Roran đứng rộng chân, trụ vững hai chân trên nền đất tươi tốt nơi mà một lần nữa anh lại mong ước được gây dựng mùa màng, rồi vung vẩy cây giáo vào đám lính, hét lớn, "Tới đi, lũ khốn đê tiện! Giết tao đi nếu chúng mày làm được! Tao là Roran Cây-búa-dũng-mãnh, và tao không sợ thằng nào cả!"

Bọn lính bước tới trước, ba tên bước qua xác các đồng đội cũ của chúng để giao chiến với Roran. Nhảy sang một bên, anh xiên cây giáo vào hàm tên ngoài cùng bên phải, làm tan tành răng của hắn. Máu loang ra trên lưỡi giáo khi anh rút nó ra và, quỵ xuống một gối, anh xuyên thủng tên ở giữa vào dưới cánh tay hắn.

Một va chạm làm rung động vai trái Roran. Khiên của anh dường như nặng hơn gấp đôi. Đứng dậy, anh thấy một cây giáo đang ghim vào tấm ván gỗ sồi trên khiên của anh, và tên lính còn lại của bộ ba nhào vào anh với một thanh kiếm tuốt trần. Roran đưa cây giáo lên quá đầu như là anh đang chuẩn bị ném nó và, khi tên lính chùn bước, anh đá vào giữa hai chân hắn. Anh giải quyết hắn với một cú duy nhất. Trong khoảng tạm lắng ngắn ngủi tiếp theo, Roran gỡ cái khiên vô dụng khỏi tay và liệng nó cùng với cây giáo đang găm vào xuống dưới chân bọn lính, hy vọng làm rối chân chúng.

Thêm nhiều tên lính bước tới, nao núng vì nụ cười toe toét hung tợn và cây giáo của Roran. Một núi xác người mọc lên trước mặt anh. Khi nó lên đến ngang hông anh, Roran nhảy lên cái khe hẹp đẫm máu, và anh đứng nguyên ở đó, bất chấp khó giữ thăng bằng, vì độ cao cho anh lợi thế. Vì bọn lính buộc phải trèo lên một dốc xác người để với đến chỗ anh, nên anh có thể giết cả mớ bọn chúng khi chúng vấp phải một cái tay hay một cái chân hay giẫm lên cái cổ mềm oặt của một trong số những người tiền nhiệm hay trượt chân trên một cái khiên nằm nghiêng.

Từ vị trí cao của mình, Roran có thể thấy những tên lính còn lại đều đã tham gia vào cuộc tấn công, trừ hai chục tên ở đầu kia làng vẫn đang đánh với lính của Sand và Edric. Anh nhận ra anh sẽ không thể nghỉ ngơi gì nữa cho đến khi trận chiến kết thúc.

Thời gian trôi qua, Roran lãnh thêm hàng tá vết thương. Nhiều vết thương không đáng kể - một vết cắt ở mặt trong cẳng tay, một ngón tay gãy, một vết rách dọc sườn chỗ mà một con dao găm đã rạch xuyên áo giáp - nhưng những vết khác thì không. Một tên nằm trên đống xác đã đâm Roran vào bắp chân phải, làm anh cà nhắc. Không lâu sau đó, một tên to đùng chắc nịch bốc mùi hành và phó mát ngã đè lên Roran và, trong hơi thở hấp hối, hắn đâm một mũi tên vào vai trái Roran, khiến sau đó anh không thể nhấc tay mình lên quá đầu. Roran cứ để mũi tên găm vào thịt, vì anh biết anh có thể chảy máu đến chết nếu rút nó ra. Đau đớn trở thành cảm giác thống trị anh; mọi cử động của anh đều gây ra những đau đớn mới, nhưng đứng yên có nghĩa là chết, do đó anh tiếp tục tung ra những cú chết người, bất chấp những thương tích và bất chấp sự kiệt sức.

Thỉnh thoảng Roran ý thức được nhóm Varden ở sau lưng hoặc bên cạnh anh, như khi họ ném một cây giáo ngang qua anh, hay khi một lưỡi gươm phóng qua vai, hạ gục một tên sắp sửa đánh vỡ sọ anh, nhưng chủ yếu Roran đơn độc đối diện bọn lính, do đống xác mà anh đang đứng ở trên và khoảng trống giới hạn giữa cái xe hàng lật ngược và mấy căn nhà. Phía trên, các cung thủ vẫn còn tên tiếp tục bắn yểm trợ, những mũi tên xám lông ngỗng của họ đâm thấu bất kể xương hay gân.

Lâu sau đó, Roran ném cây giáo của mình vào một tên lính, và khi mũi giáo đâm vào áo giáp hắn, cái cán liền nứt ra và tách dọc. Tên lính có vẻ bất ngờ vì thấy mình còn sống, vì hắn ngập ngừng trước khi vung kiếm lên trả đòn. Sự chậm trễ bất cẩn của hắn cho phép Roran cúi xuống bên dưới thanh thép đang rung lên và nhặt một cây giáo khác trên mặt đất, rồi dùng nó kết liễu tên lính. Roran chán nản và phẫn nộ nhận thấy cây giáo thứ hai cũng không trụ được tới một phút trước khi vỡ tan trong tay anh. Ném những mảnh vụn vào bọn lính, Roran lấy một cái khiên từ một cái xác và rút búa ra khỏi thắt lưng. Ít nhất, cây búa của anh chưa bao giờ làm anh thất vọng.

Kiệt quệ chứng tỏ là kẻ thù lớn nhất của Roran khi mấy tên cuối cùng trong bọn lính từ từ tiếp cận, tên nào cũng đợi đến lượt mình đấu với Roran. Tứ chi anh nặng nề và thiếu sức sống, thị lực anh chập chờn, và có vẻ anh không hít đủ không khí, vậy mà làm cách nào đó anh vẫn triệu tập được sức mạnh để hạ gục đối thủ tiếp theo của mình. Do phản xạ của anh chậm đi, bọn lính gây thêm cho anh vô số vết cắt và thâm tím mà trước đó anh đã có thể tránh dễ dàng.

Khi khoảng trống hiện ra giữa mấy tên lính, và qua đó Roran thấy không gian rộng mở, anh biết cuộc thử thách của anh đã gần kết thúc. Anh không tỏ ra khoan dung với mười hai tên cuối cùng này, chúng cũng không hề yêu cầu điều đó, mặt dù chúng không thể hy vọng vượt qua được anh và nhóm Varden đằng sau. Chúng cũng không hề cố chạy trốn. Thay vào đó, chúng nhào vào anh, gầm gừ, chửi rủa, chỉ mong muốn giết kẻ đã tàn sát bao nhiêu đồng đội của chúng trước khi chúng tới được khoảng trống.

Ở một mức nào đó, Roran khâm phục lòng can đảm của chúng.

Tên bắn xuyên ngực bốn tên trong bọn, quật ngã chúng. Một mũi giáo ném ra từ đâu đó sau lưng Roran trúng xương đòn tên thứ năm, hắn cũng đổ xuống cái giường xác chết. Thêm hai cây giáo nữa chọn được nạn nhân, và rồi bọn lính đến được chỗ Roran. Tên đi đầu chặt vào Roran bằng một cái rìu gắn đinh. Mặc dù Roran có thể cảm thấy đầu mũi tên nghiến vào xương, nhưng anh vẫn vung tay trái lên dùng khiên chặn cái rìu. Hú lên vì đau và điên tiết, cũng như khát khao cháy bỏng được kết thúc trận đánh, Roran quay vòng cây búa và kết liễu tên lính với một quả vào đầu. Không dừng lại, Roran nhảy tới trên cái chân lành lặn và nện tên tiếp theo liền hai quả vào ngực trước khi hắn có thể phòng thủ, đập vỡ xương sườn hắn. Tên thứ ba tránh được hai đòn của Roran, nhưng rồi Roran lừa hắn với một cú nghi binh và khử luôn hắn. Hai tên cuối cùng kéo về Roran từ hai phía, chém vào mắt cá anh khi chúng trèo lên đỉnh của đống xác. Sinh lực bùng lên, Roran cầm cự với chúng trong một lúc lâu và mệt nhọc, cả hai bên cùng cho và nhận thương tích, cho đến cuối cùng anh giết một tên bằng cách đục thủng mũ giáp của hắn và tên kia bằng cách đập gãy cổ hắn với một cú chuẩn xác.

Roran chao đảo rồi gục xuống.

Anh thấy mình được đỡ dậy, liền mở mắt ra và thấy Harald đang kề một túi rượu vào miệng mình. "Uống đi," Harald nói. "Anh sẽ thấy đỡ hơn."

Ngực phập phồng, Roran vừa hớp hơi vừa uống vài ngụm. Rượu ấm làm cay xè khoang miệng méo mó của anh. Anh cảm thấy chân mình vững lại và nói, "Ổn rồi, anh cứ thả tôi ra."

Roran tựa vào cây búa và quan sát chiến trường. Lần đầu tiên anh nhận thức được đống xác người đã dâng cao đến thế nào; anh và đồng đội phải đứng cao ít nhất là sáu mét trong không trung, gần như ngang nóc mấy căn nhà ở hai bên. Roran thấy hầu hết bọn lính chết vì tên bắn, nhưng kể cả thế, anh biết tự anh cũng đã tàn sát một lượng vô kể.

"Bao... bao nhiêu?" anh hỏi Harald.

Người lính máu me đầy người lắc đầu. "Sau ba mươi hai thì tôi mất dấu. Chắc người khác biết đấy. Những gì anh đã làm, Cây-búa-dũng-mãnh... Chưa bao giờ tôi thấy một kỳ công như vậy, bởi một người với khả năng của người thường. Rồng Saphira đã chọn đúng; người trong gia đình anh đúng là những chiến binh không giống ai. Không một sinh vật nào sánh được can trường của anh, Cây-búa ạ. Dù hôm nay anh đã tàn sát bao nhiêu, tôi -"

"Một trăm chín mươi ba!" Carn kêu lên, trèo lên chỗ họ.

"Cậu chắc không?" Roran hỏi, nghi ngờ.

Carn gật đầu khi anh đến chỗ họ. "Chính xác! Tôi đã quan sát, và tôi đếm rất cẩn thận. Một trăm chín mươi ba tên, là - chín mươi tư nếu anh tính cả cái thằng mà anh đâm thủng ruột trước khi đội cung xử hắn."

Con số làm Roran sững sờ. Anh không ngờ con số tổng thể lại lớn đến thế. Anh bật ra một tiếng cười khan. "Tiếc là không có thêm. Thêm bảy thằng nữa là tôi có chẵn hai trăm."

Những người khác cũng cười.

Lo lắng phủ lên gương mặt gày gò, Carn đưa tay đến cái chốt đâm ra từ vai trái Roran, nói, "Đây, để tôi xem vết thương cho."

"Không!" Roran nói, và gạt tay anh ta ra. "Có thể có những người khác bị nặng hơn tôi. Xem cho họ trước đi."

"Roran, có mấy vết cắt có thể nguy hiểm tính mạng nếu tôi không cầm máu lại. Sẽ chỉ mất -"

"Tôi ổn," anh càu nhàu. "Cứ mặc tôi."

"Roran, nhìn lại anh kìa!"

Anh nhìn rồi ngoảnh đi. "Vậy thì nhanh nhanh lên." Roran nhìn chăm chăm bầu trời quang đãng, tâm trí trống rỗng khi Carn kéo mũi tên ra khỏi vai anh và lẩm nhẩm vài câu thần chú. Ở mỗi chỗ thần chú phát tác, Roran cảm thấy da anh ngứa lên và ngọ nguậy, tiếp theo đó là sự sung sướng khi cơn đau chấm dứt. Khi Carn đã xong, Roran vẫn đau, nhưng không quá đau nữa, và tâm trí sáng sủa hơn trước.

Việc chữa trị làm Carn xám mặt và run rẩy. Anh tì vào đầu gối cho đến khi cơn run rẩy ngừng lại. "Tôi sẽ đi..." Anh ngừng lại lấy hơi. "...đi giúp những người bị thương khác." Anh đứng thẳng người và tìm đường trèo xuống dưới, lắc lư như đang say rượu.

Roran nhìn anh ta đi, lo lắng. Rồi anh chợt thắc mắc về số phận những người còn lại trong đoàn của họ. Anh nhìn về phía đầu kia của làng, không thấy gì ngoài những thân thể vương vãi, một số trong trang phục đỏ của Đế quốc, số khác là len nâu của Varden. "Edric với Sand sao rồi?" anh hỏi Harald.

"Tôi xin lỗi, Cây-búa, nhưng tôi không thấy gì ngoài tầm gươm của tôi."

Gọi mấy người vẫn đứng trên mái nhà, Roran hỏi, "Edric với Sand sao rồi?"

"Chúng tôi không biết, Cây-búa!" họ đáp.

Dùng búa giữ thăng bằng, Roran từ từ trèo xuống đống xác người, với Harald và ba người khác bên cạnh, họ băng qua trảng trống ở trung tâm làng, xử tử bất cứ tên lính nào còn sống. Khi họ đến rìa trảng trống, nơi số Varden chết thảm vượt trội số quân lính, Harald đập kiếm lên khiên kêu lên, "Có ai còn sống không?"

Một lúc sau, một giọng nói đáp lại từ phía những căn nhà: "Xưng tên đi!"

"Harald và Roran Cây-búa-dũng-mãnh và những người Varden khác. Nếu ngươi phục vụ Đế quốc, thì hãy đầu hàng đi, vì đồng đội của ngươi chết hết rồi và ngươi không thể đánh được bọn ta đâu!"

Từ đâu đó giữa mấy căn nhà có tiếng loảng xoảng kim loại rơi, và rồi một hai người một, các chiến binh Varden hiện ra từ chỗ trốn và đi khập khiễng ra trảng trống, nhiều người đang dìu những đồng đội bị thương. Họ tỏ vẻ sửng sốt, và vài người bị dính rất nhiều máu, khiến Roran lúc đầu nhầm họ với những tên lính bị bắt. Anh đếm được hai mươi tư người. Trong số những người đi sau cùng có Edric, đỡ theo một người bị mất cánh tay phải trong trận đánh.

Roran ra hiệu, và hai người của anh vội tới đỡ cho Edric. Người đội trưởng thẳng người dậy. Từng bước chậm chạp, ông đến chỗ Roran và nhìn thẳng vào mắt anh, vẻ mặt khó hiểu. Cả ông và Roran đều không chuyển động, và Roran nhận thấy khoảng đất trống trở nên đặc biệt yên lặng.

Edric là người đầu tiên nói. "Bao nhiêu người của cậu còn sống?"

"Hầu hết. Không phải toàn bộ, nhưng hầu hết."

Edric gật đàu. "Còn Carn?"

"Cậu ấy sống... Thế còn Sand?"

"Một tên bắn trúng anh ta lúc hắn tấn công. Anh ta chết chỉ vài phút trước." Edric nhìn trượt qua Roran, rồi nhìn về phía đống xác chết. "Cậu làm trái lệnh ta, Cây-búa-dũng-mãnh."

"Vâng."

Edric đưa một bàn tay mở về phía anh.

"Đội trưởng, không!" Harald kêu lên, bước tới trước. "Nếu không nhờ Roran, chúng tôi đã chẳng còn ai đứng đây. Và lẽ ra ngài phải thấy anh ấy đã làm những gì; anh ấy tự tay giết gần hai trăm tên!"

Lời cầu xin của Harald không gây ấn tượng gì với Edric, ông tiếp tục đưa tay ra. Roran cũng giữ nguyên vẻ thản nhiên.

Harald liền quay sang anh nói, "Roran, anh biết mọi người là của anh. Nói đi, chúng tôi sẽ -"

Roran liếc mắt ra dấu cho anh ta yên lặng. "Đừng ngốc thế."

Edric nói qua đôi môi mỏng, 'Ít nhất cậu cũng không hoàn toàn mất khôn. Harald, ngậm cái miệng cậu lại trừ khi cậu muốn dẫn đầu đám ngựa thồ suốt đường về."

Nâng cây búa lên, Roran đưa cho Edric. Rồi anh mở khóa thắt lưng, thanh kiếm và dao găm của anh treo ở đó, và anh cũng nộp luôn cho Edric. "Tôi không có vũ khí nào khác," anh nói.

Edric gật đầu dữ tợn, và ngoắc cái dây lưng lên vai. "Roran Cây-búa-dũng-mãnh, bằng việc này ta sa thải cậu khỏi đội. Ta có lời hứa danh dự của cậu rằng cậu sẽ không cố bỏ trốn chứ?"

"Thưa có."

"Vậy thì cậu có thể trở nên hữu ích ở chỗ nào cậu có thể, nhưng trong mọi trường hợp khác, cậu sẽ cư xử như một tù nhân." Edric nhìn quanh và chỉ vào một người lính, "Fuller, cậu sẽ nhận vị trí của Roran cho đến khi chúng ta trở lại trụ sở chính của Varden và Nasuada sẽ quyết định phải làm gì về việc này."

"Rõ, thưa ngài," Fuller nói.

₪ ₪ ₪

Trong vài giờ, Roran cúi người cùng các chiến binh khác thu nhặt các xác chết của người bên họ và chôn trên con đường rìa làng. Trong lúc làm việc, Roran nhận ra chỉ có chín người trong số tám mươi mốt lính của anh bị chết trong trận đánh, trong khi Edric và Sand đã mất gần một trăm năm mươi người, và Edric lẽ ra đã mất nhiều hơn, không kể một nhóm lính đã đi theo Roran sau khi anh đến cứu họ.

Khi họ đã mai táng xong những người thương vong, nhóm Varden nhặt lại các mũi tên, rồi dựng một giàn thiêu ở giữa làng, lột bỏ quân trang của bọn lính, kéo chúng lên trên đống gỗ, rồi châm lửa. Những cái xác cháy làm bốc đầy trời những cột khói đen nhờn mỡ kéo lên phải đến hàng dặm. Qua làn khói, mặt trời nhìn như một cái đĩa dẹt màu đỏ.

Không thể tìm thấy người phụ nữ trẻ và cậu bé mà bọn lính đã bắt giữ. Vì không thấy xác của họ trong số xác chết, Roran đoán hai người đã trốn khỏi làng khi trận chiến nổ ra, và anh nghĩ đó là điều hay nhất mà họ có thể làm. Anh chúc họ may mắn, dù họ đã đi bất cứ đâu.

Roran ngạc nhiên và vui mừng thấy Hỏa Tuyết chạy nước kiệu vào làng vài phút trước khi nhóm Varden chuẩn bị rời đi. Ban đầu con ngựa bất kham và cảnh giác, không cho phép ai đến gần, nhưng bằng cách nói chuyện nhẹ nhàng với nó, Roran đã xoay sở trấn tĩnh được con ngựa đủ để làm sạch và băng bó vết thương ở vùng vai của nó. Vì cưỡi Hỏa Tuyết lúc nó còn chưa lành hoàn toàn là không khôn ngoan, Roran buộc nó vào trước mấy coan ngựa thồ, và con ngựa tỏ ra không thích ngay lập tức, nó cụp tai lại, quất đuôi sang hai bên, và cong môi lên để nhe răng ra.

"Ngoan nào," Roran nói, vuốt ve cổ con ngựa. Hỏa Tuyết đảo tròng mắt nhìn anh và hí khẽ, tai nó từ từ thả lỏng.

Rồi Roran nhảy lên một con ngựa thiến vốn thuộc về một người Varden đã chết và đi đến cuối hàng người tập trung giữa những căn nhà. Roran tảng lờ nhiều cái liếc nhìn của họ, mặc dù anh thấy phấn khởi khi vài người bọn họ lẩm bẩm, "Làm tốt lắm."

Trong lúc ngồi đợi Edric ra lệnh xuất phát, Roran nghĩ đến Nasuada và Katrina và Eragon, và một cảm giác sợ hãi bao trùm suy nghĩ của anh khi anh tự hỏi liệu họ sẽ phản ứng ra sao khi biết sự nổi loạn của mình. Roran gạt bỏ những lo lắng của mình một giây sau đó. Mình đã làm những gì đúng đắn và cần thiết, anh tự nhủ. Mình sẽ không hối tiếc, không cần biết kết quả có thể ra sao.

"Đi thôi!" Edric hét lên từ phía đầu đoàn người.

Roran thúc con ngựa đi nhanh hơn, và anh cùng những người khác đồng loạt tiến về phía tây, ra khỏi làng, bỏ lại đống xác lính cháy dần vào hư không.

Chương 37: Thông Điệp Trong Gương

Ánh bình minh phủ khắp người Saphisra, thấm vào người một sự ấm áp dễ chịu.

Cô nàng nằm phơi nắng trên một phiến đá bên trên căn lều bọc vải trống trơn của Eragon chừng vài bộ. Hành động đêm qua: bay trinh sát các cứ điểm của triều đình, việc mà cô ả làm mỗi đêm kể từ khi Nasuada gởi Eragon tới núi rỗng ruột Farthen Dûr, đã khiến cô nàng uể oải. Những chuyến bay này thật cần thiết để che dấu sự vắng mặt của Eragon, nhưng chương trình này khiến cô nàng bị hao mòn thể lực, mặc dù màn đêm không khiến cô ả hoảng sợ, nhưng cô nàng không phải là kẻ có thói quen sống về đêm, vả lại cô ta không thích làm chuyện gì mà có tính đều đặn như vậy. Hơn nũa, phải một khoảng thời gian dài người Varden mới di chuyển từ chỗ này sang chỗ khác, cho nên hầu hết thời gian là cô nàng bay qua bay lại cùng một phong cảnh mỗi đêm. Lần kích thích duy nhất là cô nàng phát hiện tên chậm tiêu rồng vảy đỏ Thorn đang bay thấp ở chân trời đông bắc buổi sáng hôm trước. Hắn không có quay lại đối phó với cô nàng nhưng lại tiếp tục lên đường hướng sâu về phía triều đình. Khi Saphira báo cáo lại điều này, Nasuada, Arya và các người lùn canh giữ Saphira đã phản ứng như một bầy chim sẻ bị hoảng sợ, la hét rên rỉ với nhau rồi phóng đi tứ phía. Họ còn khăng khăng muốn tên tóc xanh đen như sói Blödhgarm, bay với cô nàng làm thế thân cho Eragon, dĩ nhiên cô nàng từ chối. Cho phép thần tiên đặt một nhân ảnh ma nước của Eragon lên lưng là một chuyện, nhưng cô nàng không sẵn lòng để ai khác ngoài Eragon cưỡi trừ khi là trong một trận chiến không thể tránh khỏi, nhưng cho dù thế cũng chưa chắc được.

Saphira ngáp dài, duỗi chiếc chân trước bên phải, vươn các ngón có móng trong lòng bàn tay. Lại lần nữa thư giãn, cô nàng cuộn đuôi quanh người và sửa tư thế đầu và bàn tay một chút, viễn cảnh của hươu và các con mồi khác trôi từ từ qua tâm trí của cô nàng.

Không lâu sau, cô ả nghe tiếng chân lạch bạch của ai đó chạy qua dinh trại, hướng về phía căn lều bướm nhộng cách xếp đỏ của Nasuada. Saphira không chú tâm tới âm thanh này; đám người truyền tin lúc nào cũng luôn gấp rút đi tới đi lui.

Vừa khi tính chợp mắt, Saphira nghe tiếng một người nữa chạy nhanh qua, rồi sau một chút, thêm hai người nữa. Không cần mở mắt, cô nàng thò lưỡi ra nếm không khí. Không phát hiện được mùi lạ nào. Quyết định rằng lần náo động này không đáng điều tra, cô nàng thiếp đi mơ đến nhảy xuống bắt cá ở một hồ nước lạnh trong xanh.

Tiếng la hét tức giận đánh thức Saphira.

Cô nàng không nhúc nhích nằm lắng nghe một đám người hai giò tai tròn cãi lộn với nhau. Bọn họ quá xa để có thể nghe được chuyện gì, nhưng từ âm điệu có thể thấy bọn họ giận đến mức sẵn sàng giết người. Tranh chấp đôi khi xảy ra giữa người Varden, giống như bất cứ tộc lớn nào, nhưng chưa bao giờ cô nàng nghe kể đám hai chân này cãi dai với nhiều cảm xúc như vậy.

Mạch máu đập nhè nhẹ ở gáy Saphira khi đám hai chân càng lúc càng hò hét lớn hơn. Cô nàng co vuốt trên mặt đá và sau tiếng rạn, từng mảng đá thạch anh văng ra dưới móng vuốt cô nàng.

"Ta sẽ đến ba mươi ba," cô nàng nghĩ, "và nếu bọn họ còn không dừng thì họ nên hy vọng là chuyện gì khiến họ nổi giận đáng phá ngang giấc nghỉ ngơi của người con của gió này."

Khi đếm đến bảy hai mươi, bọn hai chân đã yên lặng trở lại. "Cuối cùng cũng xong!" nhích người sang tư thế thoải mái hơn, cô nàng chuẩn bị quay về giấc ngủ vốn đang rất cần thiết.

Tiết sắt thép leng keng, tiếng cỏ vải da sột xoạt, tiếng móng bọc nện xuống đất, lại còn mùi không thể lầm lẫn của chiến sĩ da đen Nasuada thoảng qua phía Saphira. "Gì đây?" cô nàng ngạc nhiên rồi một ý nghĩ muốn gầm lên một tiếng cho mọi người hoảng sợ bỏ chạy để cô nàng được một mình yên tịnh thoáng qua đầu.

Saphira mở một mắt và thấy Nasuada và sáu vệ sĩ sải bước tới chỗ cô nàng đang nằm. Saphira hạ lệnh cho vệ sĩ dừng chân ở phía đầu thấp của phiến đá coi chừng Blödhgarm và một số người lùn khác, lúc đó vẫn còn đang cãi nhau trên một dải cỏ nhỏ, rồi sau đó cô mới tự mình trèo lên phiến đá.

"Xin chào Saphira," Nasuada nói. Cô mặc một bộ áo đỏ, màu sắc tương phản với cành lá xanh tươi của cây táo phía sau lưng. Ánh sáng phản chiếu từ vảy của Saphira điểm lốm đốm lên mặt cô.

Saphira nháy mắt đáp lễ, cảm thấy không cần thiết phải đáp lại bằng lời.

Sau khi liếc nhìn xung quanh, Nasuada bước đến gần bên tai Saphira và thì thầm: "Saphira, ta cần nói chuyện riêng với cô. Cô có thể thăm dò ý nghĩ trong đầu ta nhưng ta lại không thể thăm dò. Vậy cô có thể ở trong đầu ta để ta có thể truyền đạt những thứ ta muốn nói và cô có thể nghe được?"

Saphira vươn người về phía cô gái đang mệt mỏi căng thẳng này, truyền đạt tới cô ấy sự bực bội vì không ngủ được rồi nói: "Ta có thể thăm dò cô được nhưng ta cũng không bao giờ làm vậy khi không được cô cho phép."

"Đương nhiên," Nasuada trả lời. "Ta hiểu mà." Lúc đầu, Nasuada chỉ nhận được những hình ảnh và cảm nhận rời rạc của nàng: một thòng lọng treo cổ trống không, máu ở dưới đất, những khuôn mặt gầm gừ, khiếp sợ, mệt mỏi, định lực nhẫn tâm ngấm ngầm. "Tha thứ cho ta," Nasuada nói, "hôm nay ta đã ráng hết sức rồi. Nếu ý tưởng của ta trải quá nhiều nơi, thì xin hãy chịu đựng với ta một chút."

Saphira lại nháy mắt. "Chuyện gì mà làm khuấy động người Varden vậy? Một nhóm đàn ông nóng tính cãi lộn đánh thức ta trong giấc ngủ, và trước đó, ta có nghe một số người truyền tin chạy qua doanh trại.

Nasuada mím môi quay lưng lại Saphira khoanh hai tay, gác cánh tay còn bàn tay thì nắm lại. Màu sắc trong ý tưởng của cô trở nên đen nhứ mây đêm, đầy vẻ chết chóc và bạo lực. Sau khi ngưng một lúc lâu trái với bản sắc hàng ngày, cô nói: "Một người đàn ông Varden tên Othmund, lén vào doanh trại Urgals tối qua và giết chết ba tên trong lúc bọn chúng đang say ngủ bên lửa trại. Đám Urgals không có bắt được Othmund lúc đó, nhưng sáng nay hắn ta tự nhận chiến tích cho vụ này và khoe khoang khắp quân đội. 

"Tại sao hắn ta làm như vậy?" Saphira hỏi, "bộ đám Urgals giết gia đình của hắn ta à?"

Nasuada lắc đầu: "Ta thật gần mưốn là như vậy, nếu vậy thì đám Urgals đâu có giận dữ như vậy; trả thù, ít nhất bọn họ hiểu điều này. Không phải, đây là phần lạ trong vụ việc này; Othmund ghét đám Urgals không ngoài nguyên do gì khác chính là vì họ là Urgals. Họ chưa bao giờ có gì sai trái với hắn, hoặc với người thân hắn, vậy mà hắn vẫn thù ghét người Urgals với từng thớ thịt của hắn. Ta chỉ biết có vậy sau khi nói chuyện với hắn mà thôi."

"Cô tính xử hắn ta cách nào đây?"

Nasuada nhìn Saphira một lần nữa, một nét buồn sâu thẳm lộ ra trong mắt nàng. "Hắn ta sẽ bị treo cổ vì tội ác này. Khi ta chấp nhận xác nhập Urgals vào với người Varden, ta đã ra sắc lệnh bất kỳ ai tấn công Urgals sẽ bị trừng phạt như thể hắn ta tấn công một người bình thường khác. Ta không thể lật ngược lời nói của mình."

"Cô có hối hận vì lời hứa hẹn này không?"

"Không. Mọi người cần biết rằng ta không tha thứ những hành động như vậy. Nếu không, bọn họ đã trở mặt với tụi Urgals ngay ngày Nar Garzhvog và ta có hiệp định. Bây giờ, ta lại phải cho bọn họ thấy đã hứa là làm. Nếu không làm vậy thì sẽ có nhiều vụ giết chóc, rồi sau đó giống Urgals sẽ tự làm chủ lấy vấn đề này, rồi cả hai giống sẽ lại đòi bẻ cổ nhau nữa. Việc Othmund sẽ bị chết là đáng lắm cho việc giết hại giống Urgals và cho việc chống lại mệnh lệnh của ta, nhưng ôi thôi, Saphira, người Varden sẽ không thích chuyện này. Ta đã phải hy sinh cả tính mạng để giành lấy sự trung thành của bọn họ, nhưng giờ đây, họ sẽ ghét ta vì đã mang Othmund đi treo cổ... Họ sẽ ghét ta vì đã đánh đồng sinh mạng của giống Urgals với của loài người." Nasuada hạ hai tay xuống rồi nhét vào ống tay áo. "Và ta không thể nói là ta thích chuyện này hơn họ. Cho dù mọi cố gắng của ta về việc đối xử rộng mở, công bằng đối với họ, như chính cha ta mong muốn, ta cũng không tự kềm chế được nhớ lại những cảnh giống Urgals giết hại người Varden trong trận chiến Farthen Dûr. Ta không tự kềm chế được nhớ lại những câu truyện thiếu nhi về giống Urgals càn quét các đồi núi, giết người vô tội trong giấc ngủ. Ta không tự kềm chế được nhớ lại tất cả những việc này, Saphira, và ta tự hỏi có phải là mình đã quyết định đúng đắn hay không."

"Cô không kềm chế được là vì cô là loài người," Saphira nói, cố gắng an ủi Nasuada. "Nhưng cô cũng không cần bị ràng buộc bởi những thứ người chung quanh tin tưởng. Cô có thể trưởng thành vượt quá giới hạc sắc tộc nếu cô có ý chí. Nếu những việc trong quá khứ có thể dạy chúng ta điều gì thì đó là các vua, hoàng hậu và các lãnh tụ có thể kéo gần các sắc dân lại với nhau là những người đạt được những điều tốt nhất cho Alagaësia. Xung đột và nóng giận là những thứ chúng ta luôn phải giới hạn, nhưng cũng không nên đào sâu mối quan hệ với những kẻ cựu thù. Nên ghi nhớ sự nghi ngờ đối với giống Urgals vì chính họ đáng bị vậy nhưng cũng nên ghi nhớ quan hệ giữa người lùn và rồng từng không khác gì giữa nhân loại và giống Urgals. Loài rồng chúng ta đã từng gây chiến tranh với người lùn và đã có thể diệt tộc bọn họ. Những việc này đã từng là sự thật nhưng nay đã không còn, vì có những người như cô, dám gạt căm thù sang một bên thắc chặc mối quan hệ bằng hữu mà xưa nay chưa hề có.

Nasuada đẩy mạnh trán vào ngang một bên hàm của Saphira rồi nói: "Cô rất là uyên bác, Saphira."

Saphira lấy làm buồn cười, ngẩng đầu lên và lấy mũi cọ vào trán của Nasuada: "Ta chỉ nói lên sự thật mà ta cảm nhận được, không hơn không kém. Nếu cô cho đó là khôn ngoan thì thật là hoan ngênh; nhưng mà ta tin cô có đủ trí khôn ngoan cần thiết. Xử tử Othmund có lẽ sẽ phật lòng người Varden, nhưng phải cộng thêm nhiều việc khác nữa để có thể phá vỡ lòng sùng bái của người Varden đối với cô. Hơn nữa ta tin chắc cô có thể tìm ra cách để xoa dịu bọn họ.

"Ài," Nasuada vừa nói vừa chùi khoé mắt: "Đương nhiên rồi." Sau đó cô mỉm cười, vẻ mặt đã hoàn toàn thay đổi. "Nhưng Othmund không phải là lý do ta đến tìm cô. Eragon vừa liên lạc với ta và yêu cầu cho cô gia nhập hành động với anh ta tại Farthen Dûr. Mấy người lùn..."

Saphira ngửa cổ hống một tiếng lớn lên trời, lửa từ trong bụng khè ra khỏi miệng từng mảng bập bùng. Nasuada lảo đảo bước ra sau trong khi mọi người chung quanh đứng lặng đó nhìn chằm chằm tới Saphira. Saphira nhỏm lên lắc một cái từ đầu tới đuôi, lúc này cô đã hoàn toàn quên đi sự mệt nhọc, cánh giang rộng ra chuẩn bị phi hành.

Đám vệ sĩ của Nasuada tính đi về phía cô nhưng cô ra dấu cản bọn họ lại. Một màn khói thổi qua ngưòi khiến cô phải lấy dải áo vừa che mũi vừa ho. "Sự hăng hái của cô thật đáng tuyên dương Saphira, nhưng..."

"Eragon có bị thương tích hay không?" Saphira hỏi. Cô ả hơi hoảng khi thấy Nasuada ngập ngừng.

"Anh ta khỏe như mọi khi," Nasuada trả lời. "Nhưng, có một chuyện... xảy ra... hôm qua."

"Chuyện gì?"

"Anh ta và đám vệ sĩ bị tập kích."

Cả người Saphira đều không nhúc nhích trong lúc Nasuada kể lại cuộc đối thoại giữa cô và Eragon. Sau đó, Saphira nhe răng: "Dûrgrimst Az Sweldn rak Anhûin nên biết ơn là ta không có ở đó với Eragon; Ta sẽ không để bọn chúng trốn thoát dễ dàng như vậy sau khi muốn giết anh ấy."

Nasuada cười mỉm nói: "Vì thế cho nên cô ở đây có lẽ là tốt hơn."

"Có lẽ vậy," Saphira cũng đồng ý rồi hà ra một đám khói nóng bỏng trong lúc cái đuôi lúc lắc. "Tuy vậy huyện này không làm ta ngạc nhiên. Mỗi lần Eragon và ta rời nhau, thể nào cũng có người tập kích anh ấy. Thật khiến vảy toàn thân ta ngứa ngáy mỗi khi để anh ấy rời khỏi tầm mắt hơn vài tiếng đồng hồ."

"Anh ta có thừa khả năng để tự bảo vệ mà."

"Đúng vậy, nhưng đám kẻ thù của chúng ta cũng không tệ." Saphira nôn nóng, cả người dịch chuyển, giơ cánh càng cao hơn. "Nasuada, ta thật muốn rời khỏi đây. Còn chuyện gì khác ta cần biết không?"

"Không," Nasuada nói. "Bay nhanh tới nơi Saphira, đừng chậm trễ tới ngay Farthen Dûr. Ngay khi cô rời khỏi đây, chúng tôi chỉ còn vài ngày ngắn ngủi trước khi triều đình nhận ra là ta đã không còn gởi cô và Eragon đi trinh sát trên không nữa. Galbatorix có thể quyết định tấn công chúng tôi trong lúc cô bỏ đi, nhưng mỗi giờ cô vắng mặt khả năng sẽ càng tăng lên. Còn nữa, ta thích có cả hai người bọn cô với chúng tôi khi tập kích Feinster. Chúng tôi có thể lấy được thành này không cần cô, nhưng sẽ tốn thêm nhiều sinh mạng lắm. Nói ngắn gọn một chút, vận mạng của toàn dân Varden tùy thuộc vào tốc độ của cô."

"Chúng ta sẽ nhanh như gió bão." Saphira đảm bảo.

Sau khi Nasuada chào tạm biệt và cất bước đi khỏi phiến đá, Blödhgarm và các thần tiên khác đổ xô tới cạnh Saphira buộc yên ghế của Eragon lên lưng Saphira rồi chất một đống thực phẩm và dụng cụ cần thiết lên đó như thể cô nàng đang chuẩn bi bay với Eragon. Thật sự thì cô nàng không cần những thứ này cũng như không với ra sau được, nhưng để đánh lừa kẻ địch, cô ả bắt buộc phải mang theo những thứ này. Sau khi cô nàng đã sửa soạn xong, Blödhgarm chắp tay xéo ngực theo cử chỉ tôn kính của các thiên thần và nói bằng cổ ngữ: "Tạm biệt Saphira Vảy Sáng. Chúc cô và Eragon mau trở về với chúng ta mà không hề hấn gì."

"Tạm biệt, Blödhgarm"

Saphira chờ cho các thần tiên tóc xanh đen như sói kia tạo ra một nhân ảnh ma nước của Eragon rồi bóng ma kia bước ra khỏi lều đạp lên chân trước rồi leo lên vai cô. Khi Blödhgarm gật đầu cho biết bóng ma Eragon kia đã yên vị, cô nàng vỗ cánh phóng lên khỏi phiến đá.

Khi cả người rới xuống phía cái lều xám bên dưới, cô nàng phẩy cánh lần nữa đẩy người rời xa mặt đất cứng kia. Cô nàng quay về hướng Farthen Dûr và bắt đầu bay lên tần khí quyển lạnh bên trên, hy vọng tìm đước làn gió ổn định để trợ lực cho chuyến phi hành.

Cô nàng bay một vòng quanh bờ sông đầy gỗ mà người Varden dừng chân hồi tối, toàn thân cảm thấy vui sướng mãnh liệt. Không còn phải chờ trong lúc Eragon đi phiêu lưu mà không có cô. Không còn phải tốn cả đêm bay qua bay lại một chỗ. Và cũng không còn phải để cho đám người dám khiến cho người bạn đồng tâm hợp ý của cô trốn chạy khỏi sự phẫn nộ của cô! Saphira hả họng thiệt lớn thét tiếng vui mừng tự tin cho cả thế gìới hay, thách đố bất kỳ thánh thần nào dám thách thức cô ả, vì cô nàng chính là con của Iormûngr và Vervada, hai con rồng dũng mãnh nhất trong thế hệ của họ.

Khi vừa đạt đến cao độ khoảng một dặm ở trên Varden và tìm được một cơn gió thuận hướng tây nam, Saphira xoay người nương theo chiều gió bay trên phất phới trên vùng đất đai đang thấm nhuần ánh mặt trời.

Cô ả nghĩ trong đầu: "Em đang trên đường tới đây, tiểu ca!"

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#brising