bức chúc thư bằng mật mã

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Chương I

Nguyên bản tiếng Pháp: Les Six Compagnons au Village Englouti 

HỒ NHÂN TẠO

- Lại uống nữa hay sao? Chúng mình vừa nghỉ cách đây nửa giờ cơ mà!

- Mặt trời tai ác làm tao toát hết mồ hôi, phải để tao nhúng ướt đầu tóc cái đã.

Nha-phơ-rông đặt chân xuống đất rồi hạ chiếc xe đạp máy xuống cỏ, xong chạy ù xuống suối té nước lên đầu, lên mặt bằng thích thì thôi. Những đứa khác cũng làm theo. Nước mát lạnh, chỗ này lại có bóng cây, chẳng có gì phải chê nữa.

La Ghiơ, tay chơi kèn ác-mô-ni-ca vào loại chúa đề xuất:

- Chúng mình tranh thủ lúc này ăn cái đã các cậu ạ.

Cậu ta lúc nào cũng thấy đói mà hễ đói thì chẳng được trò trống gì hết.

Nhưng sự dừng lại đột xuất này chỉ có con chó Ka-Phi tinh khôn của Ti-đu là thích thú nhất. Nó phởn phơ lội xuống suối rồi lên rũ lông rũ lá bắn nước tung tóe đầy bọn trẻ.

Cuộc pic-nic kết thúc. Bit-xtêck, tay đầu bếp của đoàn hỏi:

- Mô-bơ-rắc còn xa nữa không?

Ti-du giở bản đồ ra xem:

- Còn những ba lăm kilômét, còn lên dốc xuống dốc nhiều. Ít ra phải giờ rưỡi nữa mới đến.

Đây là lần đầu tiên những người "Bạn đồng hành" đến vùng Mát-xíp Xăng-tơ-ran (Massif Central hay còn gọi là Plateau Central (Cao nguyên trung phần) diện tích bằng 1/5 nước Pháp, địa thế từng lớp cao dần có nhiều ngọn núi có tiếng như Forez, Auvergne, Limoussin…). Đáng lẽ phải chuẩn bị bạt nghỉ đêm như thường khi cắm trại thì lúc này họ lại thuê nhà trọ bình dân. Ma-đi là cô gái độc nhất trong đoàn được phân công đảm nhiệm việc đó.

Sau khi đã nghỉ ngơi mát mẻ và ăn xong, những người "Bạn đồng hành" lại nổ máy phóng đi, trong lúc đó con Ka-Phi cũng phốc kịp lên thùng đèo hàng sau xe gắn máy của Ti-đu. Lúc này đã bốn giờ chiều, cái nóng đầu tháng tám thật gay gắt. Nắng xiên khoai rọi vào gáy, Ma-đi và Ti-đu phải buộc túm bốn góc chiếc mùi soa làm mũ, còn anh chàng Tông-đuy thì đáng lẽ giữ nguyên chiếc mũ nồi muôn thuở khi nào cũng nằm nguyên trên cái đầu trọc do một thứ bệnh hồi bé gây nên thì nay cậu đành phải cất đi để lộ cái sọ dừa nhẵn bóng, ánh lên dưới tia nắng mặt trời.

Ti-đu lăn bánh đầu tiên, dẫn đầu cả đoàn, bởi cái thùng rơ-moóc của cậu hơi nặng nên cậu phải điều tiết tốc độ chung. Thình lình cậu reo lên:

- Hồ nước kia rồi! Tớ vừa thoáng thấy!

Các bạn của cậu nhấn ga làm cho máy nổ của các xe rú lên mãnh liệt.

- Hồ nước!

Lại đến lượt Nha-phơ-rông reo lên. Nhưng ngay sau đó cậu thấp giọng nói:

- Ồ! Mà nó gần cạn các cậu ạ! Tai hại chưa!

Tất cả đổ xuống một cái dốc dài thoai thoải, mười lăm phút sau đã có mặt trên hồ. Thực ra thì mức nước không còn cao như thường ngày, ít ra đã thấp hơn mười mét. Toàn bộ xung quanh đã trơ ra một giải đất trống màu vàng nhạt trông rất buồn tẻ.

Tông-đuy vừa xoa xoa cái đầu nhẵn thín nóng bừng vừa than thở:

- Chúng mình thật xúi quẩy! Đến phải “gút bai” bơi lội mất thôi!

Ma-đi có vẻ lạc quan hơn:

- Mưa một trận lại đầy ngay thôi. Ta đi tìm nhà nghỉ cái đã.

Họ leo lên làng Mô-bơ-rắc. Nhà cửa ở đây thấp lè tè lợp bằng loại ngói La Mã như thời xưa. Một bà bán hàng thực phẩm chỉ cho họ đến nhà trọ Ca-bơ-rét cách thị trấn mấy bước chân.

Họ không cần phải gõ cửa. Nhà trọ vẫn mở.

- Này, có ai trong nhà không?

Một người đàn ông đứng tuổi, cũng chẳng rõ độ bao nhiêu, hiện ra trong phòng rộng, hơi tối do những tấm lá chắn cửa được kéo xuống để che bớt nắng và che ruồi. Vợ của ông ta có vẻ trẻ hơn đứng sau ông. Ti-đu hỏi chủ nhà:

- Ông là ông Pu-giát phải không ạ?

- Đúng đấy!

- Chúng tôi từ Ly-ông đến bằng xe gắn máy muốn thuê nhà ông trong tháng tám này được không?

Người chủ trại gật đầu dẫn mọi người vào nhà mà không quên cả con Ka-Phi.

- Con chó đẹp quá! Của cô phải không?

- Vâng, nó là của anh bạn Ti-đu của chúng cháu - Ma-đi đáp - Anh ấy nuôi và dạy nó nhưng tất cả chúng cháu cũng đều chăm sóc. Ông yên tâm, nó được huấn luyện tốt, nó không cắn ông đâu, đừng sợ!

- Tôi yêu súc vật lắm - người đàn ông nói - Trước đây tôi cũng có một con béc-giê vùng Py-rê-nê để chăn cừu và bò cơ đấy. Bây giờ tôi chưa có con nào để thay nó; chó to thì đắt và nuôi dạy tốn kém lắm... còn những con chó cảnh thì chỉ phù hợp với sở thích của các bà thành phố thôi.

- Các cô, các cậu có muốn xem chỗ nghỉ không? - Người đàn bà hỏi - Tôi sẽ dẫn các cô cậu. Ở đây không khí mát lành chứ không ô nhiễm như ở Li-ông đâu, lại yên tĩnh nữa... Và sáng ra các cô các cậu còn được nghe thấy tiếng chim đánh thức nữa.

Bà dẫn những người "Bạn đồng hành" đến cuối trại, trong những gian phụ. 

- Các cô các cậu coi, chồng tôi và tôi già rồi không còn đủ sức để nuôi bò, vắt sữa nữa. Chúng tôi chỉ còn có năm con cừu cái thôi. Bọn trẻ nhà tôi không kế tục cái công việc này... Chúng đã đi làm ở thành phố, ở Cơ-léc-mông Phe-răng. Vậy là chúng tôi đã cải tạo cái chuồng bò thành nhà trọ bình dân. Đây là phòng nghỉ, các cô các cậu có thể nấu nướng ở đó được, cái buồng lớn có hai giường đôi và cái buồng nhỏ có một giường con. Phòng tắm ở bên cạnh. Trong đó có gương... Không biết các cô các cậu sẽ sắp xếp như thế nào? Tôi báo cho các cô các cậu là chỉ có năm chỗ mà các cô các cậu lại có những sáu người.

Ti-đu đáp:

- Ông bà khỏi lo, chúng tôi có mang theo giường dã chiến, chúng tôi tự giải quyết lấy.

Nhà trọ khá sạch sẽ, cửa sổ có ri-đô. Cả đoàn tỏ ra hài lòng. Họ để quần áo, đồ đạc ở phòng nghỉ mà bà chủ trại gọi là "phòng ngoài".

Người chồng hồi nãy đến giờ vẫn đi theo, ông nói:

- Bây giờ các bạn trẻ hãy cụng ly với tôi. Ta uống với nhau chút ít để chúc mừng các bạn đã đến với gia đình tôi.

Những người "Bạn đồng hành" đã uống no ở suối nhưng họ nể lòng vợ chồng ông chủ trại nên không tiện từ chối. Họ uống thứ rượu vang bản địa chua loét, ê cả răng. Rồi câu chuyện giữa chủ và khách bắt đầu rôm rả.

Người đàn ông nói:

- Đúng là các bạn trẻ đã không gặp may. Có thể là năm nay tôi chỉ nhận có các bạn thôi. Các bạn thấy đấy, người ta đang rút cạn nước của hồ nhân tạo; chả là họ phát hiện có những vết nứt rạn trong đập; vì vậy mà không có câu cá, bơi lội gì cả... Nhưng các bạn có thể đi bộ, leo núi, dạo chơi. Ở nông thôn chẳng thiếu cách gì tiêu khiển. Rồi các bạn sẽ thấy, ở đây các bạn sẽ thích cho mà xem.

Nha-phơ-rông, Nha-phơ-rông "oắt con" như mọi người thường gọi vì cậu nhỏ con nhất trong bọn mặc dầu cậu cùng tuổi với họ, không thể không trề môi ra khi nghe nói như vậy. Là một tay bơi cự phách nên cậu ta chỉ nghĩ đến bơi lội và đi tắm thôi.

Ma-đi quan tâm đến cái đập, lên tiếng hỏi:

- Ở vị trí của hồ nước, ngày xưa là gì ạ?

- Trước kia dưới đáy hồ là một thung lũng, làng Mô-bơ-răc cũ ở ngay thung lũng đó.

- Thế cái đập này xây dựng từ năm nào?

- Đã được mười lăm năm rồi. Đây là lần đầu tiên người ta tháo cạn nước... Miễn cái đó có lợi. Việc hàn gắn tu bổ đáng lẽ làm từ năm ngoái cơ, cũng vào cái dịp này khi con sông Xê-un chảy vào lưu vực gần như cạn nước nhưng đầu tháng tám thì ở đây bị những trận mưa dữ dội làm cho mực nước lại dâng cao. Ban quản lý đập đã quyết định hoãn tu sửa và mực nước hồ lại trở lại bình thường.

- Cái làng chìm dưới thung lũng có sao không ạ?

- Độ ba mươi nóc nhà phải dùng mìn phá đi, cả cái nhà thờ đạo nữa. Ôi! Thật xót xa khi thấy những tàn tích đổ nát sẽ trồi lên. Những người của làng Mô-bơ-răc cũ lấy làm đau lòng khi họ phải lìa bỏ nơi ở đời này qua đời khác của mình để dời đi nơi khác. Một người trong số họ, có thể nói là đã mất trí. Nước đã dâng lên nhưng anh ta vẫn nấp trong một chỗ đổ nát. May mà những người thợ bơm xả nước đã cứu anh ta thoát chết. Người ta đặt cho anh ta cái tên là Găm-ba-đu (Từ chữ Gambader là nhảy nhót, mà ra. ND.), bởi vì anh ta có cái tật đi cà nhắc, vừa đi vừa nhảy. Anh sống cô đơn trong một lán nhỏ tự tay anh làm lấy… Thế nào rồi các bạn cũng có dịp gặp anh ta, dễ nhận ra thôi mà. Từ khi có những biến cố đó râu ria anh không thèm cạo nữa, cứ đễ bù xù, lòa xòa trông đến kỳ quặc.

Bà vợ nói thêm:

- Người ta nói chú thím của anh ta nuôi anh ta từ tấm bé; họ giàu lắm. Trước khi xả nước vào hồ một thời gian, họ bị mất trộm rất lớn. Chú thím của anh ta chết trong một tai nạn ô tô trước một tuần khi có lệnh rời làng. Như vậy đấy, các cô cậu xem khi xây cái đập này cũng có một số người phải chịu thảm hoạ.

Ông chủ trại nhấc chai rượu vang định rót thêm vào các cốc nhưng những người "Bạn đồng hành" từ chối. Họ xin phép đứng lên, viện cớ đi sắp xếp đồ đạc và mua thức ăn tối bởi vì thức ăn đã hết dọc đường.

Khi bọn trẻ chỉ có một mình với nhau, Nha-phơ-rông phàn nàn:

- Chúng mình rồi sẽ buồn như chuột chết. Bây giờ mình mới hiểu vì sao tiền thuê nhà ở đây lại rẻ đến thế. Chỉ có chúng mình là những thằng ngu mới đâm đầu vào rọ...

Tông-đuy nói thêm:

- Mà chúng ta còn đi đâu được nữa cơ chứ trong khi chúng ta chỉ có hai cái giường dã chiến mà tăng bạt cũng chẳng có nữa.

- Ôi dào! Bà chủ trại, bà ấy đã nói có lý - Ma-đi nói - Ở đây ít ra chúng ta cũng có dịp để cho các lá phổi hoạt động dễ dàng hơn.

Sự bố trí sắp xếp chẳng có gì phức tạp. Ma-đi ngủ ở buồng nhỏ vốn là gian để đồ trước đây. La Ghiơ và Bít-xtêck nằm chung một giường đôi, còn một giường đôi nữa thì Tông-đuy và Nha-phơ-rông. Ti-đu thì ngủ trên chiếc giường dã chiến gần con chó của cậu.

Khi họ rời trại Ca-bơ-rét thì đã bảy giờ tối. Cuộc dạo của họ quanh làng rất nhanh. Chỉ có độc một cửa hàng thực phẩm nên chẳng còn đâu nữa mà chọn. Bít-xtếck sắp bước vào thì Ma-đi lại nhìn thấy tấm biển hàng cửa một quán ăn kiêm nhà trọ ở góc đường phía bên kia: Tiệm ăn bờ hồ". Cô nói:

- Cậu đã mệt rồi, tội gì mà phải lăn vào bếp. Nếu các món ăn không đến nỗi đắt thì chúng mình cứ ăn ở quán cho rồi. Chúng mình còn nhiều tiền, bởi vì chúng mình đã lao động cả tháng bảy cơ mà.

Họ đến gần quán ăn, nhìn vào tấm gỗ dán quảng cáo có vẽ một người đầu bếp chỉ tay vào các món ăn trong ngày. Tông-đuy nói:

- Thực ra thì chẳng đắt, ta có thể ăn được đấy! Mình thích món khoai tây rán, phải ăn cho đã đời mới được.

La Ghiơ mỉm cười:

- Với cái giá đó thì mình tin thế nào cậu cũng bội thực cho mà xem...

- Thôi ta vào đi!

Họ đẩy cửa. Một người đàn bà còn trẻ chào đón họ:

- Các cô cậu dùng bữa tối chứ?

- Cho sáu suất!

Phòng ăn khá rộng, đủ cho bốn mươi chỗ mà chỉ lèo tèo có hai ông khách đang ngồi ở một bàn gần cửa sổ.

Nha-phơ-rông nói to với Ma-đi:

- Khách ăn ít nhỉ?

Bà chủ quán nghe thấy, vội đáp:

- Đấy là vì hồ cạn nước, chứ những năm trước thì đông lắm, không còn chỗ, đến nỗi chúng tôi không phục vụ kịp. Các cô cậu định ngồi ở đâu nào? Ở đây nhé? Cái bàn này rộng, thoải mái đấy!

Rồi bà nói thêm:

- Các cô các cậu ghé qua hay định nghỉ lại lâu?

- Chúng tôi trọ ở nhà trọ bình dân, ở trại ông Pu-giát.

- Ra vậy, quán Ca-bờ-rét! Nếu các cô cậu định dùng cơm thường xuyên ở tiệm đây, tôi sẽ tính giá phải chăng... các cô cậu cứ suy nghĩ đi.

- Đúng vậy, để chúng tôi nghĩ xem - Ti-đu trả lời.

Bọn trẻ ngồi vào chiếc bàn rộng. Hai ông khách kia vẫn còn chờ thức ăn. Họ trạc bốn mươi trông có vẻ rầu rĩ.

La Ghiơ nhận xét:

- Nếu họ trọ đây để nghỉ hè thì có gì là vui thú? Chỉ có việc đi câu mà cấm là hết.

- Theo mình nghĩ thì đây là hai kỹ sư theo dõi mực nước hồ. Ma-đi nói.

- Chắc không phải, - Tông-đuy bác lại - Kỹ sư thì họ phải ở trạm thủy văn dưới chân đập ấy chứ.

Suốt bữa ăn những người "Bạn đồng hành" chỉ có đoán vui với nhau về nghề nghiệp của hai người không quen biết đó và tại sao họ lại ở đây một mình trong cái xứ sở hẻo lánh này, chẳng có gia đình vợ con gì cả; nếu không có cái hồ thì chẳng có gì là quyến rũ đối với họ.

Ăn xong, hai người khách lên phòng, Ma-đi bèn hỏi bà chủ tiệm ăn là những ông kia có phải là khách du lịch qua đây hay là khách trọ thường xuyên. Bà chủ tiệm ăn trả lời:

- Khách trọ thường xuyên. Họ đến đây từ năm ngoái khi người ta định bắt đầu tháo nước hồ. Họ ở đây mười lăm ngày. Năm nay họ định ở lại lâu. Đó là mấy ông địa chất. Tôi cho là họ có công việc liên quan đến cái hồ, đến mực nước cạn, đến cái làng chìm ở dưới đáy hồ.

La Ghiơ nói:

- Ma-đi này, cậu xem đấy, có chuyện gì là bí ẩn đâu. Tớ đánh cuộc là cậu hay nghĩ ra hàng lô hàng lốc những chuyện không đâu vào đâu.

Đáng lẽ ăn xong là về ngay thì bọn trẻ lại nán lại ở quán ăn. Tông-đuy đặc biệt phấn chấn. Cậu đã ngốn hết đĩa khoai rán mà bà chủ đã tiếp thêm đồng thời cũng hào phóng đến mức cho con Ka-Phi cả một đĩa súp.

Khi họ ra khỏi tiệm ăn đi về nhà trọ Ca-bơ-rét thì trời đã tối mịt. Đi đến những ngôi nhà cuối cùng trong làng thì con Ka-Phi gầm gừ. Họ giáp mặt với một người đàn ông râu tóc bù xù, má và cằm bị che lấp bởi bộ râu rậm và dài. Người lạ mặt lắp bắp điều gì đó rất khó hiểu, có thể là những lời chửi đổng và giơ một chiếc gậy lên doạ. Ti-du phải ghìm con chó sắp lao vào người đó để bảo vệ những người chủ của nó. Thế là người đàn ông lủi ngay vào bóng tối. Bọn trẻ còn nghe được bước chân lật bật của người đó trên nền đường.

- Chắc là Găm-ba-đu mà ông Pu-giát đã kể chuyện - Ma-đi nói - Giá như chỉ có một mình tớ thì tớ đã chết khiếp. Mong rằng chúng ta sẽ không thường xuyên gặp phải con người đó!

Cô kéo các bạn đi nhanh hơn. Về đến nhà trọ thì bà Pu-giát đã chuẩn bị sẵn giường chiếu cho họ. Nha-phơ-rông "oắt con" kêu lên:

- Ngủ trên vải cơ à? Hãy nghe mình đây: Chúng ta đã tư sản hoá! Lần sau nhất định chúng ta phải nghỉ ở palátxơ (Palace - khách sạn cao cấp. ND.).

Trong lúc này không ai ngủ được nhất là Ma-đi trong gian buồng để đồ đạc. Nhạy cảm trước thiên nhiên (như tất cả bọn con gái mà La Ghiơ nhận xét) cô bé suy nghĩ về những khách trọ ở tiệm ăn. Bà chủ quán đã nói về những nhà địa chất. Lời nói đó có vẻ còn mập mờ, chưa rõ. Vì lợi ích gì mà họ lại đến sớm trước khi nước hồ rút cạn? Phải chăng họ có ý định nghiên cứu đất đai còn ngập nước? Rồi cô lại tự chế giễu mình:

“Ta quả là điên! La Ghiơ đã có lý. Ở đâu ta cũng cho là bí hiểm cả. Tốt nhất là hãy cứ ngủ đi!”

Cô nằm sấp, vùi đầu vào gối như cô đang tìm cách ẩn náu. Ẩn náu cái gì?... Một mối nguy hiểm ư?

Chương II

GĂMBAĐU

Những "Bạn đồng hành" đến Mô-bơ-rắc đã gần một tuần. Mặc dù không có nước mà nô đùa bơi lội nhưng họ không cảm thấy buồn chán. Họ nghĩ rằng sự không cạn hết của một cái hồ cũng có thể có cái hấp dẫn của nó. Mới đến họ đã vui đùa, theo dõi mức nước xuống, cứ mỗi ngày nó cạn đi một mét. Nước rút, trơ ra những thân cây, những bờ đá của hàng rào cũ và những con đường quanh có dẫn vào làng Mô-bơ-rắc cũ.

Mặt khác, những bữa cơm ăn ở quán hàng là những buổi chuyện trò tiêu khiển. Bít-xtếck nhận thấy sau một chuyến dài leo núi, cậu chẳng còn phải lo toan đến bếp núc nữa.

Quán ăn lúc nào cũng vắng khách; hoạ hoằn mới có dăm ba người đi du lịch dừng lại ăn một bữa cơm hoặc nghỉ lại một đêm; không có ai lưu lại lâu. Những người “Bạn đồng hành” nói với nhau: "Chúng mình làm gì bên bờ hồ cạn nước này?"

Rồi họ lại ra đi, xa hơn.

Chỉ có hai nhà địa chất là yên phận. Đã nhiều lần Ma-đi muốn bắt chuyện với họ. Cô đã phí nhiều công sức nhưng xem ra hai người đàn ông đó không phải là những người bẻm mép hay chuyện trò.

Những ngày thời tiết âm u, sáu bạn trẻ ngồi lại ở nhà trọ nói chuyện vãn với nhau, chơi tu-lơ-khơ, xì tẩy hay đánh cờ.

Như thường lệ Ti-đu khi nào cũng thức dậy trước tiên, hầu như cùng lúc với ông mặt trời. Một hôm, vừa lăn ra khỏi giường dã chiến, cậu liếc mắt qua cửa sổ thấy chính giữa hồ trồi lên một mảng tường mà hôm qua vẫn chưa thấy. Cậu tự nhủ: đó là tàn tích sót lại của nhà thờ đạo.

Cậu muốn đánh thức tất cả dậy nhưng mọi người còn ngủ say nên không nỡ. Cậu đã cùng với con Ka-phi ra khỏi nhà rồi bước xuống sát mép nước. Bỗng nhiên cậu trông thấy một bóng người đang cà nhắc cà nhắc đi trên đất mới nổi lên ở lòng hồ. Với dáng đi tập tễnh đó, cậu nhận ngay ra Gămbađu.

"Anh ta đi đâu thế nhỉ? - Ti-đu tự hỏi - Tắm ư? Không có lẽ, vì trời còn lạnh".

Người đàn ông đó đi khập khểnh đến sát mép nước, rồi anh ta dừng lại một lát, nhìn chằm chằm vào những tàn tích đổ nát vừa trồi lên. Phải chăng anh ta muốn nhìn cho thật gần chăng. Anh lội xuống nước. Nước đã nhanh chóng lút đến bắp chân, rồi đầu gối, rồi đến thắt lưng. Anh có nhào xuống để bơi không?  Không! Anh vẫn bước lên, dò dẫm. Nước đã đến ngực, chỉ trừ có nửa phần trên người là chưa ngập. Anh lảo đảo.

Bất thình lình, anh hẫng chân, chới với như người không biết bơi, giãy giụa như vịt bị cắt tiết.

"Sao ngu thế!" Ti-đu chỉ kịp thốt lên - "Người đó khéo chết đuối mất! Phải cứu ngay mới được!"

Ti-đu cấp tốc cởi bỏ quần áo, chỉ bận mỗi chiếc si líp, vội lao xuống mép nước. Không may, mới được vài bước đã sa lầy. Nếu chờ để rút được chân ra khỏi bùn thì người kia đã chết đuối. Anh gọi con chó:

- Ka-phi, lao ra! Ngoạm vào người ấy, đừng để chìm!

Con Ka-phi không để phải nói tới lần thứ hai. Nó nhảy xuống bơi nhanh đến chỗ người đang vùng vẫy, chơi vơi mỗi lúc mỗi đuối sức. Chỉ một khắc sau, con chó đã bơi sát đến người bị nạn. Lúc này nó còn do dự. Chắc nó nhớ nhiều lần anh chàng cà nhắc đã dơ gậy lên trước những người chủ của nó.

- Ngoạm lấy anh ta! Đừng để anh ta đau! Tao sẽ đến ngay!

Ti-đu lại ra lệnh cho con chó của mình. Cậu lao xuống nước và chỉ vải sải bơi, đã đến được sát Gămbađu và con chó.

- Giúp tao cùng kéo anh ấy vào bờ, Ka-phi!

Gămbađu đã hết giãy giụa, đầu đã nhô lên được trên mặt nước và cứ để vậy cho Ti-đu và con chó dìu vào bờ. Trong khoảnh khắc, Gămbađu bất động, nằm im lìm; mê man. Nhưng khi Ti-đu lật anh nằm úp sấp, làm vài động tác trên lưng để anh nôn nước trong bụng ra thì anh mới ngồi lên được.

- Sao... sao tôi đến nỗi này?

- Anh hụt chân khi lội xuống nước. Anh không biết bơi à?

Anh ta lắc đầu. Ti-đu lại hỏi:

- Anh định đi đâu?

- Tôi ... tôi không ngờ ... không ngờ là nước sâu đến thế. Tôi muốn ra chỗ bức tường để về nhà.

- Anh run rẩy bẩy thế kia! Anh đừng mặc ướt như thế, cần phải về nhà thay quần áo ngay.

Gămbađu nhìn thẳng và Ti-đu bằng cặp mắt tím bầm; da mặt anh xanh xao màu đồng thau, tóc tai bù xù và râu ria xồm xoàm màu nâu sẫm.

Ti-đu nói tiếp:

- Anh cố đứng lên. Tôi mặc quần áo xong, tôi dẫn anh về.

Những người "Bạn đồng hành" đã biết cái lán của Gămbađu mà trong làng người ta gọi đó là "Lều vịt". Bọn trẻ học sinh này thường đi qua trước cái “lều vịt” thấy Gămbađu đứng đó với vẻ mặt dữ tợn, cái gậy lúc nào cũng cầm ở tay, vung lên chửi rủa:

- Bọn lạ mặt kia! Cút ngay đi!

Sau lần được cứu hộ này, thái độ của anh đã khác. Chúng thấy vẻ mặt anh đau khổ hơn là dữ tợn. Anh không còn lời lẽ và dáng vẻ của một con người hâm hấp, mất trí.

Khi Ti-đu mặc xong quần áo, dẫn anh về. Anh nói:

- Đúng thế thật. Đáng lẽ ra tôi phải nghĩ là mực nước còn cao.

 Anh để cho Ti-đu đi với anh rất tự nhiên, nhưng khi về đến cái "lều vịt" của anh thì anh nói:

- Chưa bao giờ có ai đến cái lán của tôi cả... Tôi không cho vào… Còn anh, anh lại là chuyện khác, anh đã cứu tôi, anh vào đi!

Anh ẩy cửa. Cái lán của anh gồm hai phòng, cứ cho là hai phòng đi, hai cái hộp bằng ván ghép, một bề hai mét, một bề ba mét ở một phía, còn phía kia là bếp nấu với một chiếc bàn mà trên mặt để bề bộn những bát đĩa lổn nhổn, một chiếc tủ bằng gỗ mộc và một cái chảo cũ ba chân như người ta thường thấy ngày xưa ở nông thôn. Gămbađu nói:

- Anh ngồi xuống đi! Tôi thay quần áo một lát rồi tôi trở lại.

Nhân khi Gămbađu đi ra, Ti-đu đảo mắt  một lượt qua mớ đồ đạc linh tinh, lỉnh kỉnh không có trật tự đó, thế nhưng cậu cũng nhận ra là gian phòng không đến nỗi quá bẩn thỉu, chắc đôi khi anh ta cũng có đưa qua vài lát chổi để quét tước.

Khi anh trở lại, râu tóc vẫn bù xù, bàm xoàm, nhưng quần áo đã thay khô ráo. Với một thái độ lo lắng, anh cất tiếng hỏi:

- Anh làm gì ở bờ hồ mà sớm thế?

- Tôi có thói quen dậy sớm, rồi dắt chó đi dạo. Anh đã nhiều lần dơ gậy lên dọa nó nhưng cái đó không ngăn cấm được nó bơi ra cứu anh đấy. May mà nó bơi ra kịp.

Người đàn ông có tật đi cà nhắc đó nhìn con chó, đánh bạo xoa nó. Ka-phi ngọ nguậy cái đuôi. Gămbađu mỉm cười, một nụ cười ngập ngừng, bẻn lẻn làm sáng lên khuôn mặt xấu xí của anh. Rồi vầng trán của anh tự nhiên xẩm lại, trở nên rầu rĩ. Anh hỏi:

- Các anh làm gì ở Mô-bơ-rắc, anh và các bạn anh? Ở đó làm gì mà bơi lội dược?

- Chúng tôi đi dạo núi với nhau, không được hay sao?

- Chỉ có thế thôi à?... Có lẽ các anh chờ cho cái vũng hoàn toàn khô nước chứ gì?

- Nói thật với anh là có như thế, chúng tôi mới có dịp thấy được những tàn tích của làng xóm cũ chôn sâu dưới nước.

- Các anh tìm cái gì ở đó?

- Chẳng tìm gì cả, thành thực mà nói chỉ xem thôi.

- Anh có biết hai người đàn ông nghỉ trọ ở quán ăn không?

- Chúng tôi gặp họ những khi chúng tôi dùng bữa ở đó.

- Các anh nên dè chừng. Đó là những tên găng-xtơ (tên cướp) đấy. Chúng chờ cho nước hồ thật cạn chứ có phải như các anh chỉ để xem tàn tích đổ nát thôi đâu.

- Tại sao? Tôi nghĩ họ là những nhà địa chất. Chắc họ đến để nghiên cứu lớp trầm tích và bùn lắng đọng khi cạn nước?

- Không! Tôi nói cho anh rõ: chúng là những tên găng-xtơ. Chúng đã ở đây từ năm ngoái khi người ta bắt đầu mở cửa van đập nước cơ đấy.

Gămbađu giơ hai bàn tay xiết lại như ra hiệu bóp cổ người nào đó.

Ti-đu nhấn mạnh:

- Dưới đáy hồ, ngoài bùn lầy ra thì có gì mà tìm?

Gămbađu nhíu đôi mày rậm rì lại. Nét mặt của anh biểu lộ sự giận dữ:

- Tìm cái gì à?... Cái đó không liên quan gì đến anh. Cái đó tôi đã nói quá rõ rồi còn gì... Thôi, anh đi đi...

Anh dơ cái gậy lên. Ka-phi nhe răng và gầm gừ rất dữ.

- Thôi được. Ti-đu- nói. Nếu như anh còn giữ một điều gì đó bí mật thì tôi cũng chẳng yêu cầu anh nói ra làm gì.

Thế rồi Ti-đu ra khỏi lán cùng với con chó Ka-phi của mình.

Khi cơn giận đã nguôi nguôi, Gămbađu lại gọi Ti-đu trở lại, nhưng Ti-đu đã đi xa.

Chương III

BỨC THƯ BẰNG MẬT MÃ

Về đến nhà trọ Ca-bơ-rét, Ti-đu thấy các bạn mình đang xúm xít trong "phòng ngoài" để ăn sáng. Ma-đi nói đùa: 

- Cậu đi đâu về thế? Ngắm mặt trời mọc trên mặt hồ cạn nước à? Sáng nay cậu đã thấy những tàn tích đổ nát trồi lên chưa? 

- Rồi! Các cậu hình dung xem, anh chàng Gămbađu không biết bơi mà lại mon men đến chỗ đó. May mà mình với con Ka-phi đến kịp. Chúng mình đã cứu anh ta khỏi chết đuối. Cái anh chàng Gămbađu ấy đã làm cho mọi người phải sợ; đúng là một con người hết sức kỳ quặc. Anh ta cho rằng những người lạ đến đây chỉ làm hại anh ta, đặc biệt là những người quan tâm đến việc rút cạn nước hồ. 

- Cả bọn mình nữa chứ? 

- Đối với chúng ta thì ít thôi. Mình đã nói cho anh ta tin là chúng ta đến Mô-bơ-rắc không phải vì chuyện đó; trái lại chúng ta hết sức tiếc bởi việc tháo nước hồ mà chúng ta mất bơi lội. Theo mình hiểu thì anh ta tin ở chúng ta. Trái lại, anh ta nghi ngờ và dè chừng hai người khách nghỉ ở quán trọ. Đã có lúc mình nghĩ là anh ta sắp nói ra một điều gì bí mật, thế rồi đột nhiên anh ta im bặt. Tự nhiên anh ta nỗi đóa lên với mình và tống cổ mình ra khỏi lán của anh ta. 

Tông-đuy gật đầu, giơ tay lên gãi cái sọ dừa nhẵn thín dưới chiếc mũ nồi của cậu. 

- Ti-đu này, cậu có chắc là anh ta lẩn thẩn không, không mất trí như người ta đồn đại đấy chứ? 

- Có khả năng sự mất trộm ở trang trại của chú anh ta và cái chết phũ phàng của chú thím anh, rồi cái làng cũ bị phá đi trước khi xây dựng đập nước và xả nước ngập hồ, tất cả những cái đó cộng lại đã ít nhiều tác động đến thần kinh của anh? Nhưng cái đó xảy ra đã mười lăm năm nay. Mình không có một ấn tượng nào là có một ai đó đã mất trí. Gămbađu ngờ vực những người lạ quan tâm đến việc làm cạn hồ nước, chắc là anh ta có một lý do gì đó thôi.  

Những người "Bạn đồng hành" suy nghĩ. La Ghiơ hỏi: 

- Cậu có nghĩ là nếu bọn mình đến thăm anh ta, liệu anh ta có tống cổ ra khỏi cửa không? 

- Chúng ta cứ thử xem - Nha-phơ-rông gợi ý, - nhưng đừng có cái vẻ là chủ tâm đến thăm. Chiều nay khi tản bộ, chúng ta đi một vòng, lúc đó đến cây Thánh-giá-Nghiêng thì quay lại qua trước cái “lều vịt" của anh ta. 

Trong bữa ăn ở quán cơm, những người "Bạn đồng hành" quan sát kỹ hai người khách lạ nhưng thái độ của họ chẳng có gì khác thường. Rồi họ về nhà trọ xỏ giầy leo núi, gọi con Ka-phi lúc nào cũng phởn phơ, để đi dạo. Họ leo lên ngọn đồi sau Mô-bơ-rắc-Thượng, xong họ lại xuống dốc theo con đường mòn dẫn về trước lán của Gămbađu. 

Nghe tiếng bước chân, người đàn ông đi cà nhắc mở cửa ra, lăm lăm chiếc gậy trong tay (vả chăng nhiều lần như vậy mà Ti-đu đã thấy). Tưởng anh ta nổi khùng thì ngược lại, anh đứng im rồi thả rơi chiếc gậy, hai tay vỗ lên đùi mà gọi: 

- Lại đây, nào, con chó ngoan của ta! Lại đây nào? 

Ka-phi do dự, nhìn chủ nó và chủ nó nói thầm: 

- Đi đi! Lại với anh ấy đi! Anh ấy không làm hại mày đâu! 

Con chó chạy đến gần Gămbađu và để cho anh ta vuốt ve. Rõ ràng là Gămbađu hài lòng, anh cũng gọi luôn cả nhóm học sinh: 

- Hê, các bạn trẻ? Các bạn cũng vậy, lại đây nào các bạn! 

Anh thân mật giang rộng hai tay. Ti-đu nói nhỏ: 

- Lại đi các bạn, nhưng chớ tò mò làm anh ta phật ý thì phiền. Có thể anh ta lại nổi máu tam bành như sáng nay. 

Tất cả bước vào, ùn lại trong bếp đang chập chờn một làn khói mỏng phơn phớt xanh bay lên từ mấy que củi đã tàn. Trên bàn vẫn ngổn ngang những bát đĩa như sáng nay. 

Trong chiếc chậu rửa bằng kẽm chất đầy soong chảo, bát đĩa bẩn và đủ thứ. 

Ma-đi không thể không tủm tỉm cười về sự lộn xộn đó. 

- Đừng chế giễu tôi, cô bé thân mến ạ. - Gămbađu nói - một tên đàn ông nhiều tuổi, sống một mình như tôi không có cái khiếu về nội trợ. Ngồi xuống đi! Cả sáu bạn nhỏ, ngồi xuống đi! 

Ngồi xuống? Chỉ có hai chiếc ghế! Gămbađu chạy đi tìm được một chiếc ghế đẩu trong phòng của anh rồi vừa thu dọn một góc bàn vừa nói rằng nó vẫn chắc chắn, có thể làm chỗ ngồi. Anh nói thêm: 

- Tôi muốn mời các bạn uống chút gì đó nhưng tôi chỉ có nước trong thôi. Vang thì đắt quá... Nước ở Mô-bơ-rắc sạch, không ô nhiễm đâu mà sợ. 

Ghế ngồi đã thiếu, cốc chén cũng hiếm hoi. 

Gămbađu chỉ có ba chiếc cốc, những chiếc cốc sứt sẹo và cáu vàng. 

- Chúng tôi vẫn uống nước trắng đấy chứ - Ma-đi nói - Chúng ta có thể cho đầy nước vào cái bình này rồi chúng ta ngửa cổ mà tu như vẫn tu khi cắm trại cũng được chứ sao? 

Cái bình được chuyển từ tay người này qua tay người khác một vòng rồi cuối cùng đến tay Gămbađu và đặt xuống bàn. Anh nói: 

- Nhìn các bạn, không có chút gì là kiêu kỳ. Các bạn thật là tốt! Thế các bạn từ thành phố nào đến? 

- Li-ông. 

- Các bạn giản dị như những người nhà quê chúng tôi. 

Gămbađu lấy làm sung sướng. Anh cười vui vẻ, biết mình đang nói chuyện với ai, chứng tỏ anh chẳng có tí gì là hung dữ như ở địa phương này đã đồn đại về anh. Nét mặt anh giãn ra, một thoáng buồn hiện lên trong đôi mắt anh. 

- Liệu các bạn, các bạn cũng coi tôi là thằng điên ư? 

- Nhất định không!- Tất cả bọn trẻ đồng thanh đáp. 

- Thế nhưng, cách đây mười lăm năm, có thể nói tôi đã là một người mất trí... Nhờ trời tôi đã trở lại bình thường như mọi người. Nhưng đấy, trong làng này người ta tin tôi vẫn như vậy... bởi vì tôi sống trong cái lán do tự bàn tay tôi làm nên này. 

Ma-đi nói: 

- Chúng tôi biết chuyện đó. Trong thời gian xây dựng đập nước, anh đã gặp nhiều điều bất hạnh, hết việc này đến việc kia... 

- Ai nói cho các bạn biết? 

- Vợ chồng người chủ trại mà chúng tôi ở trọ, ông bà Pu-giát. 

- À! Nhà trọ Ca-bơ-rét?... Họ đã kể cho các bạn?... Chính xác thì họ nói với các bạn những gì nào? 

- Họ nói rằng trong một tai nạn, anh đã mất đi người chú và người thím nuôi dạy anh.., rằng trang trại của chú thím anh bị cướp trước mấy ngày lúc xả nước vào hồ sau khi xây xong đập nước. 

- Họ không nói cho các bạn biết là chú tôi rất giàu mà tôi lại không nhận được chút gì thừa kế à? 

- Thế chú anh không để lại cho anh gì cả ư? Chú anh truất quyền thừa kế của anh? 

Gămbađu không trả lời. Bởi Ma-đi đã đặt ra câu hỏi đó, anh phóng một cái nhìn nhọn hoắt vào cô bé và chau mày lại. Ma-đi hiểu rằng mình đã quá thóc mách không giữ được ý tứ. Một phút im lặng. Sợ phải thấy Gambađu nổi giận, Ti-đu vội nhảy xuống khỏi góc bàn mà cậu đang ngồi và đi ra. 

- Đừng! - Gămbađu ngăn lại.- Các bạn đừng đi. Tôi có đôi điều muốn thổ lộ với các bạn..., những điều mà tôi không bao giờ tin ai để nói ra cho họ biết. 

Ti-đu lại ngồi xuống. Ngập ngừng giữa ý muốn nói ra và sự còn nghi ngại, Gămbađu vặn xoắn hai bàn tay, tỏ ra bối rối. Rồi anh bắt đầu: 

- Chú tôi yêu tôi lắm. Chú tôi không truất quyền thừa kế của tôi. Ông đã để lại cho tôi một chúc thư ở Phòng Công chứng Xanh-phơlua. Trong chúc thư ông để lại trang trại cùng các nhà phụ và ruộng đồng cho một người cháu khác. Phần còn lại của gia tài có nghĩa là vàng thì thuộc về tôi, để phục vụ cho việc học hành của tôi. Tôi muốn trở thành một bác sĩ thú y. Tôi yêu quý súc vật lắm.

- Thế của cải đó đã mất đi trong vụ trộm à? 

Gămbađu lắc đầu: 

- Chú tôi là một người thông minh và thận trọng. Ông không để một số của lớn như vậy dưới đáy một cái chảo hay giữa một chồng chăn gối, hoặc trong tủ như một số người nhà quê đã làm. Những tên trộm cướp thường lấy đi những đồ đạc ít có giá trị như ti vi, vài đồng ngân phiếu, những tờ giấy bạc trong một cái ví. 

- Thế còn những cửa cái đó ra sao? Chú anh không nói rõ cho anh biết nơi giấu vàng à? 

- Chú tôi không hề thốt ra lời nào. Lúc đó tôi còn quá trẻ... Nhưng chú tôi đã dạy cho tôi học thuộc một bài thơ không đầu không đuôi và sẽ giải thích cho tôi vào ngày mà ông cảm thấy sắp từ giã cõi đời. Nhưng cái chết của chú tôi đã xảy ra đột ngột và quá phũ phàng. 

Những người "Bạn đồng hành" suy nghĩ. 

- Anh cho rằng bài thơ đó là chìa khoá của một bí mật phải không? Anh còn giữ bài thơ đó chứ? 

- Nó biến mất trong vụ cướp đó cùng với những giấy tờ khácnhưng tôi đã thuộc nhập tâm. Tôi đã viết ra bằng giấy trắng mực đen một cách chính xác, phòng khi tôi đãng trí. 

- Chúng tôi có thể xem được không? 

- Nó được giấu trong phòng của tôi ở một chỗ bí mật. Tôi chỉ đọc cho các bạn nghe thôi. 

Anh ngồi lặng đi một lúc rồi bắt đầu đọc bằng một giọng đều đều bài thơ Ca ngợi mặt trăng. 

Những người "Bạn đồng hành" chăm chú nghe anh đọc. Bài thơ này có nghĩa như thế nào? Gămbađu điều chỉnh lại nhịp thở rồi nói thêm: 

- Những chữ cái đầu tiên của mỗi dòng viết bằng mực đỏ còn tất cả là bằng mực đen. Tôi đã nghĩ là những chữ viết hoa bằng mực đỏ đó xếp lên nhau thì có thể hợp thành một câu. Nhưng không, cái đó chẳng có ý nghĩa gì cả.  

- Có thể chính đó là một bản mật mã chăng? - Ti-đu có ý kiến trước. 

- Một bản mật mã à? Thế là thế nào? 

- Một bức thư mã hoá. Những chữ viết hoa đầu dòng đó có thể xê dịch lên hoặc xuống một hai ba nấc hoặc nhiều hơn trong bản thứ tự chữ cái abc... Trong một bài, các chữ thường gặp là chữ "e". Trong bài thơ của anh theo tôi thì chữ "g" thường nằm đầu dòng, nếu dịch lên hai nấc thì nó biểu thị cho chữ "e". Cứ như thế thì sự giải mã chỉ còn là một trò chơi thôi. Anh có thể cho chúng tôi mượn bài thơ đó của anh được không? Với sáu người chúng tôi, biết đâu chúng tôi có thể hiểu được ẩn ý của bài thơ. 

Gămbađu suy nghĩ rồi lắc đầu: 

- Ồ không! Bằng bất cứ giá nào tôi cũng không thể rời nó ra được.

- Thế thì anh có đồng ý ngày mai chúng tôi lại đến đây để chúng ta cùng nghiên cứu tập thể được không? 

Gămbađu do dự rồi tuyên bố: 

- Đồng ý! Sáng mai tôi sẽ chờ các bạn. 

Đêm đã xuống. Những người "Bạn đồng hành" ra khỏi “lều vịt”. Về đến nhà trọ Ca-bơ-rét họ bàn luận về bài thơ lạ lùng Ca ngợi mặt trăng đó. Theo Tông-đuy thì có một số đoạn không phải là thiếu chất thơ nhưng một số câu thì chẳng gắn tí gì vào nội dung ca ngợi mặt trăng cả. 

- Thôi đừng đoán già đoán non nữa, vì ngày mai  chúng ta còn gặp lại Gămbađu cơ mà - Nha-phơ-rông cắt ngang câu chuyện đang nói dở. 

Tối hôm đó họ lại tự nấu lấy ăn mà không ăn ở nhà hàng, một phần vì kinh tế eo hẹp nhưng cái chính là Bít-xtếck phàn nàn là đã để xoong nồi của cậu mốc meo lên. 

Ăn xong, đầu óc vẫn còn lương vướng về bài thơ của Gămbađu, thấy bí họ rủ nhau đi dạo ban đêm cho sảng khoái. Lúc này mặt trăng rất sáng, Ma-đi ngân nga một câu thơ "Lưỡi liềm vàng ối trong cánh đồng sao!". La Ghiơ khen: 

- Hay đấy chứ! Thơ của cậu đấy à? 

- Không, của Victo Hugô đấy. 

Họ đi qua làng rồi đi theo một con đường nhỏ dẫn đến hồ nước. Bỗng nhiên, khi đến gần một lùm cây, Ka-Phi đừng lại và sủa inh ỏi, rồi nó thận trọng bước lên. Các cô cậu chủ đi theo nó. Nha-phơ-rông thầm thì: 

- Hình như ... phải rồi, một chiếc tăng... những người cắm trại. 

Màu sắc cái tăng hoà lẫn với màu sắc cây lá. Tông-đuy nói: 

- Hôm qua mình qua đây thì những người cắm trại này đã có đâu. 

Để khỏi gây phiền cho các nhà du lịch, họ đi lối khác để tránh, rồi về nhà ngủ. 

Nằm trên giường, Ma-đi không tài nào ngủ được, cứ trăn trở nghĩ về bài thơ của Gămbađu. Nhưng nó dài và khó quá, lẫn lộn lung tung. Thôi, để mai, ngày mai sẽ rõ". 

Ngủ muộn nhưng sáng hôm sau, cô là người dậy sớm nhất, trước cả Ti-đu. Cô bé đến các cửa để đánh thức các bạn. 

- Dậy đi, các ông lười ơi. Mặt trời đã lên lâu rồi và Gămbađu đang chờ chúng ta đấy! 

Nửa giờ sau, cả đoàn rời nhà trọ Ca-bơ-rét, đi xuyên qua làng im lìm ngủ say để đến "lều vịt". 

Nha-phơ-rông có vẻ ngờ ngợ cất tiếng nhận xét: 

- Này, Gămbađu ngủ mà vẫn để nguyên cửa thế? Anh ta có tiếng là đa nghi cơ mà. 

Tất cả thận trọng đến gần, Ma-đi cùng con Ka-Phi đi lên trước. Đột nhiên cô kêu ré lên: 

- Ôi! Có chuyện gì xảy ra rồi

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro