Bút ký-Lenghiabk05

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Người của rừng

Cập nhật lúc 15:18, Thứ tư, 24/11/2010 (GMT+7)

Vừa đi được vài bước, ông Phiên bỗng "à" một tiếng rồi quay lại:

- Quên rồi!

- Việc gì thế ông? - Tôi hỏi.

- Con dao. Tôi đã quen, cứ ra khỏi nhà là phải có nó.

Lát sau, ông trở lại với con dao rừng cán dài.

Nhìn ông bây giờ không khác gì một thổ dân: Mũ cối, giày vải, dao quắm, tay nải vải. Ðã vào tuổi sáu tám, hơn tôi vài ba tuổi, nhưng ông còn trẻ và khỏe. Dù dãi dầu mưa nắng nhưng da vẫn hồng hào săn chắc. Tôi nhìn bước đi ông thoăn thoắt, nghe giọng nói sang sảng, thầm nghĩ, người như ông còn thọ lắm.

- Ông được mấy anh, chị rồi?

- Bảy. Ông xem đẻ có khiếp không! Lấy vợ từ năm mười bảy tuổi, mười chín tuổi đã có con. Quê tôi hồi ấy như thế chứ như bây giờ phải mang tôi ra xử chém - ông cười vang.

Ông dẫn tôi ngược lên núi, men theo con đường mòn, luôn tay phát những cành cây chìa ra cản lối đi. Mới chỉ leo một đoạn, tôi đã thở dốc, mồ hôi vã ra như tắm. Ông ái ngại nhìn tôi:

- Mẽ ông không quen với núi rừng. Cố đi đoạn nữa rồi nghỉ.

Tôi và ông dừng lại chỗ bóng mát của mấy cây dẻ. Phía trước mặt tôi là hồ rộng và ba bề bốn bên là núi rừng xanh ngắt. Tít xa xa lại trùng điệp núi. Người ta gọi dải đất này là đại ngàn - ngàn Bảo Ðài, dãy núi án ngữ một vùng đông bắc của tỉnh Bắc Giang cho đô thành. Ngày xưa đây là nơi phòng thủ từ xa để bảo vệ kinh đô của nhiều vương triều và cũng là nơi ẩn nấp, lánh loạn của nhiều quan quân triều đình. Tôi gợi chuyện:

- Cũng lạ, ông lại lên đây. Nghe nói nhà ông ở Bảo Ðài rộng lắm, những hai chục gian ngói lại bao nhiêu chậu cây cảnh.

Ông tủm tỉm cười:

- Thế mới có chuyện. Chả là thế này...

Thì ra vốn là người mê cây cảnh, ông theo người ta mách đã vào rừng Bảo Sơn để kiếm cây, hoa lạ. Nhà ông ở Bảo Ðài, giáp với Bảo Sơn. Lần ấy, ông kinh ngạc nhận ra rừng Bảo Sơn có quá nhiều đồi núi trống chứ không như người bạn kể. Ông kinh ngạc cũng phải. Nghe người Bảo Sơn nói lại, chỉ cách đó vài năm - tức là từ năm 1980 trở về trước - rừng xã này còn hổ, báo, cây cối bạt ngàn, âm u, đi cả ngày không bị nắng. Vậy mà bây giờ... Chuyện vào Bảo Sơn cũng qua đi, ông cũng biết vậy vì vẫn còn đang công tác trong ngành công nghiệp tỉnh.

- Vậy là năm 1996, ông mới vào đây? - Tôi giục ông kể tiếp khi ông lúi húi gỡ cái dây gì đó trong bụi cây.

- Hả? Vào đây ư? Năm 1997 - ông trở lại chỗ tôi ngồi - Phải nói cụ thể đầu cuối câu chuyện thế này...

Những năm chín mươi của thế kỷ trước, cây vải thiều của Lục Ngạn (xuất xứ từ Hải Dương) sau bao năm ủ ê, lãng quên bỗng trở nên sáng giá. Vải thiều Lục Ngạn trùng điệp khắp đồi bãi, và lập tức lan rộng ra các huyện trung du, miền núi Bắc Giang. Ấy là cây xóa đói, giảm nghèo, cây triệu phú. Về hưu sớm, gọi là hưu non vì gia cảnh, ông Phiên nghĩ ngay tới đồi núi trọc bỏ hoang hóa ở Ðại Ngàn Bảo Sơn. Ðến đây, ông mới cảm nhận hết xót xa cay đắng khi rừng bị tàn phá - nhất là khi nhiều người thờ ơ với rừng và tiếp sức cho kẻ phá rừng. Thế là gom góp số tiền của gia đình, ông mua bốn héc-ta của một người quen ở Bảo Sơn với cái giá chưa đầy ba triệu đồng.

- Giời ạ, sao rẻ thế? Bán cứ như cho! - Tôi ngắt ngang câu chuyện.

- Tiền hồi ấy có giá - ông cự lại - Nói thật với ông, tôi cũng mua liều, bị khối người chê trách, mỉa mai. Giá mà ông, không chắc đã mua vì trông quang cảnh thảm lắm.

Sự thảm lắm là vì đồi núi trọc loang lổ bên cạnh những khu rừng rỗng với cây hoang dại. Hàng ngàn trâu, bò thả rông trong rừng. Người ta đốt rừng để có cỏ non cho chúng. Rừng dẻ bị đốn sạch. Chả là củi dẻ có giá rất cao. Người làng xã, người tứ xứ kéo vào phá rừng, phá lấy phá để - từ cây quý để làm nhà cửa cho tới cây thập cẩm làm củi. Cũng chả có lực lượng nào giữ nổi. Ðã thế vải thiều ở đây sụt giá khủng khiếp, cho mà vẫn không đắt vì chất lượng quả kém, lại thêm đường đất xa xôi. Bởi vậy mấy trang trại cạnh vườn ông Phiên đã phải ngán ngẩm từ bỏ mộng ước, hồ hởi nhượng lại lâm viên cho ông Phiên mà thâm tâm nghi ngờ, giễu cợt kế hoạch tái tạo rừng của người mua. Nhờ thế, chỉ trong mấy năm, ông Phiên đã mua lại các trang trại để  bây giờ có tới 100 ha rừng.

- Thế nào ông, ta đi tiếp chứ?

Ông phăm phăm đi trước, luôn miệng giới thiệu về các cây lấy gỗ, ăn quả mới trồng. Xa một quãng ở phía trước là rừng keo, bạch đàn, tiếp đến là dẻ. Ở sườn núi thoai thoải gần hồ là dứa. Phía trên mấy quả núi là lát hoa, tre Bát Ðộ, là xà cừ, vải thiều, xoài... Tôi nghe biết vậy, chứ thực tình vừa đi vừa phải chú ý tới đường vì có quá nhiều cây chắn ngang.

- Ông tài thật. Từ đồi núi trọc thành rừng, nhìn bên ngoài cứ ngỡ là rừng nguyên sinh.

Ông Phiên oang oang:

- Tài cán gì đâu. Mình quyết tâm nhưng lại gặp thời, gặp người. Không có Nhà nước hỗ trợ, hẳn chẳng thành.

Ông bảo rằng, người dân phá rừng do chủ yếu là đói. Ðói thì đầu gối phải bò. Những năm chín mươi, dân vùng này túng thiếu quá. Ruộng thì cấy một vụ mà cũng không ăn chắc, vì trông vào nước trời. Hệ thống thủy lợi không có. Ðường đất xa xôi, khó đi. Vậy chỉ có vào rừng khai thác lâm sản để kiếm sống.

'Tôi nghĩ, trồng rừng khó nhưng khó hơn cả là bảo vệ. Một người trồng, trăm người phá thì tài thánh cũng chịu. Mà giữ mấy chục héc-ta ban đầu, nay là trăm héc-ta, có mấy chục người giữ cũng không xuể. Vậy là phải nhờ cả cộng đồng, tức là phải được lòng dân...'.

Việc đầu tiên ông làm là mở đường. Trước, từ bản người Tày gần nhất cũng không có đường vào rừng. Rồi lại phải có nước để trồng trọt. Vậy là ông  bán xe máy để dồn tiền làm đường, làm đập, tổng cộng hơn hai chục triệu đồng. Ðó là năm 1997. Số tiền ấy ở thời điểm đó cũng không phải là nhỏ. Tiếp đến, ông mắc điện từ ngoài vào nơi mình ở. Năm 1998 có dự án PAM (tổ chức của Chương trình lương thực thế giới). Ông được tham gia do có kế hoạch cụ thể trồng rừng. Nhờ có gạo cung cấp suốt ba năm mà ông nuôi nhân công. Về tiền công, ông trả bằng củi. Hồi đó người dân lên rừng đốn cây để làm củi, gánh gồng ra bán ở chợ. Người làm cho ông được cơm ăn, củi bán, vậy là yên tâm.

Ngồi hàn huyên với ông mới thấy ông tài thu phục lòng dân. Ông sẵn sàng cho bà con trong bản mượn tiền mua trâu, bò, mượn đồi để trồng ngô, sắn; gần gụi bà con người Tày dù họ ở khá xa - cách ba, bốn cây số. Ông bảo người đốn tỉa cây rừng bó củi khô để từng chỗ. Ðám trẻ lên chặt trộm cây, giờ chỉ có việc cõng vác bó củi sẵn về nhà. Chúng vui vẻ sẵn sàng cuốc hố trồng cây, tưới trồng cho ông. Có hôm muộn, ông nấu cơm cho chúng ăn. Những rừng dẻ tái sinh vô vàn quả. Ông cho mọi người đến thu hoạch, không lấy tiền. Vậy nên rừng dẻ được giữ nguyên. Rồi ông lập ra hội trồng rừng trong xã, kết hợp với nhà trường trong việc bảo vệ rừng. Mấy năm lại đây, vùng này đã có hệ thống thủy lợi. Dân cấy hai vụ lúa, phát triển cây màu. Công cuộc đổi mới đất nước đã làm dân no ấm. Bây giờ chả có người nào lên rừng đốn củi vì giá củi không bõ công mang về.

'Ông hỏi tôi có cách nào để trồng nhanh rừng? - Ông Phiên tươi cười, quay sang tôi - Phải lấy ngắn nuôi dài; phải kết hợp các loại cây, các loại hình kinh tế. Tôi trồng keo, bạch đàn nhưng ban đầu cũng phải có vải thiều, xoài, mít, cam. Rồi cây Hibicus. Rồi nuôi bò, dê. Rồi thả cá...'.

Ông có người con làm ở Hà Nội đưa về nhà mấy cân hạt Hibicus. Cây này có hoa để làm rượu vang. Ðây là thứ cây còn quá xa lạ ở vùng đất này. Ðược biết chắc chắn có nơi tiêu thụ, ông cho nhiều gia đình gieo hạt. Giống cây này rất hấp dẫn mà chẳng phải chăm sóc. Với hợp đồng đã ký một nhà máy, ông trở thành đại lý tiêu thụ. Số tiền 200 triệu đồng thu được ông dồn cho nuôi bò, dê, lợn rừng. Tiền lãi, ông đầu tư cho cây, cho cá. Khi ế tắc cây hoa này, ông chuyển sang nuôi trồng khác. Bây giờ ông là chủ của trang trại rừng đồi với 100 ha, trong đó có 30 ha dẻ, còn lại là bạt ngàn keo tai tượng, keo lai rồi đến lát hoa, muồng, tre, nhãn, hồng, vải thiều và hai héc-ta hồ suối. Cách đây hai năm, ông dựng một căn nhà sàn đồ sộ mua từ Lạng Sơn. Tôi bảo:

- Nay ông là tỷ phú rồi. Ông đang ngồi trên đống vàng đống bạc, sống trọn đời cũng chẳng lo hết tiền.

Ông Phiên tủm tỉm cười:

- Ðúng tôi là tỷ phú nhưng là tỷ phú gió, cây cối, môi trường, tĩnh tâm, yên ả. Tôi đủ ăn đủ mặc rồi. Chỉ cần riêng lương hưu, vợ chồng tôi cũng đủ sống. Tôi trồng rừng, giữ rừng cũng là vì muốn rừng còn mãi mãi  chứ đâu chỉ nhằm kinh doanh nhất thời. Có khu rừng hiện nay cũng là nhờ con cháu tôi hết sức ủng hộ. Ông bảo, không có con cái đổ tiền vào thì tôi làm sao gánh vác nổi. Mà cũng không có Nhà nước giúp sức, tôi có sức đâu để đeo đuổi nguyện ước của mình.

- Thế ra nhà ở Bảo Ðài, ông bỏ không?

- Hiện giờ nhà ấy vẫn đóng cửa, nhờ đứa cháu trông. Năm 1997, tôi một mình vào đây, dựng lều cỏ ở. Năm sau, vợ tôi tới. Vậy là đã mười một năm rồi vợ chồng tôi ở chỗ này, và chắc chắn sẽ sống hết đời. Ngày nghỉ, ngày Tết, con cháu ở thành phố Bắc Giang, Hà Nội đều về trang trại này.

- Liệu có con cháu nào sẽ về đây kế nghiệp ông?

- Cũng chả biết nữa. Nhưng tôi tin sẽ có thằng con khi về hưu gánh cơ đồ này - ông vỗ mạnh vào cánh tay tôi - Từ đồi trống núi trọc, nay đã là vô vàn rừng. Tôi làm được nên nhiều người cũng làm theo. Bây giờ mới phục hồi được cái danh rừng đại ngàn. Ông tính, thế có sướng không?

Theo ông, tôi đứng dậy, mải miết leo tới sườn núi - nơi vừa dặm ít keo lai. Gió ào ạt thổi từ khe núi làm run bần bật những tàu lá trước mặt. Phía trước là hồ xanh ngắt bị chặn bởi cái đập vừa tân tạo sau mùa lũ, là những đồi núi trập trùng xanh ngắt - xanh đến nao lòng, và chếch một bên là căn nhà sàn bề thế  mà duyên dáng nép mình bên chân núi trong thấp thoáng rặng cây. Ðúng là sơn thủy hữu tình.

- Tôi sẽ biến nơi đây là khu du lịch sinh thái. Sẽ tôn tạo đường. Sẽ mở rộng hồ suối. Sẽ có chùa đàng hoàng. Ông biết không, nơi đây thời nhà Mạc đã từng có đại bản doanh, và đã có chùa. Dấu tích đền, chùa vẫn còn ở ngay sườn núi này - chỗ lâm viên của tôi. Mà này...

Vẫn đứng trên sườn núi, ông Phiên say sưa kể về những dự định tới, những  cái còn ẩn chứa của vùng đất nơi đây. Tôi nghe câu được câu chăng vì đang mải mê ngắm phong cảnh tuyệt đẹp từ trên cao, và cả vì tiếng nước suối róc rách hư thực đâu đây, vì tiếng chim hót ríu ran bốn bề khắp sườn núi.

Phải rõ lâu, tôi mới bừng tỉnh để cùng ông Phiên  xuống núi.

ÐỖ NHẬT MINH

Đi đón mùa xuân

Một năm 12 con giáp. Rừng khộp Tây Nguyên có hai lần thay áo, phô phang hết vẻ đẹp rực rỡ của mình trước đất trời cao nguyên.Lần thứ nhất là vào khoảng tháng con rồng đem nước về hạ giới, khi mưa đã tưới đãm khắp những cánh rừng,dòng sống, con suối.Tấm áo xanh nõn nà của rừng khộp nhìn thật thích mắt. Không phải màu lá cây thẫm như rừng cao su sau khi bật lên những ,mầm non đo đỏ.Sắc xanh rừng khộp mùa mưa có một chút màu mạ non, một chút màu lá cây sáng, trên một thảm cỏ ống xanh đậm.Điều dó làm say đắm ánh mắt không chỉ của mặt trời mỗi ngày treo trên ngọn rừng, mà còn cả sự ngưỡng mộ của con người trước sự mỡ màng, mươn mướt của cả một cánh rừng bạt ngàn, dường như còn rất ngay hàng thẳng lối nữa.Màu xanh tươi tắn đó khiến cho tâm hồn trở nên thư thái lạ lùng.

Thời gian thứ hai là cuối mùa đông, khi gió xuân tràn về len lỏi vào từng ngóc ngách của đại ngàn.rừng khộp rủ rê nhau thay chiếc áo màu đỏ tươi, cháy rừng rực hết mình dâng đón chúa xuân về bằng tất cả vẻ đẹp của đất trời cao nguyên , trước khi trút hết lá, trơ lại những cành khẳng khiu chờ đợi mùa mưa đến. Lá khộp mùa xuân của rừng Trường Sơn đã đi vào, đẫ trường tồn trong thi ca và âm nhạc qua bài hát «  Lá đỏ » của nhạc sỹ Hoàng Hiệp phổ thơ Nguyễn Đình Thi. Thiên nhiên quả là người họa sỹ vĩ đại .

Chúng tôi, những nhạc sỹ, ca sỹ, nghệ sỹ nhiếp ảnh, nhà văn, nhà báo của Hội văn học nghệ thuật Đăk Lăk, không chỉ đến với đơn vị kết nghĩa là đồn biên phòng Bo Heng, mà còn đi đón xuân Giáp Thân trong cái đẹp đến ngẩn ngơ của rừng khộp

( không biết rừng mùa xuân biên giới Tây Nam «  đốt » của các nghệ sỹ nhiếp ảnh hết mấy cuộn phim ? ).

Vậy mà 5 năm rồi tôi mới được trở lại đồn biên phòng Bo Heng. Nhiệm vụ mới cũng không cho được đến với rừng rừng thường xuyên như hồi còn ở Đài Tiếng nói Việt Nam.Thế nên vẻ đẹp vắng lặng của rừng vào mùa lá đỏ khiến tôi xúc động đến lạ, cứ như vừa gặp lại được điều gì thân quen lắm.Một gia đình nhà công đủng đinh dắt nhau băng qua đường, đám gà rừng lông đuôi dài thượt táo tác trước mũi xe, càng khiến mọi người xôn xao. Bồi hồi nhớ thời mà mỗi khúc quanh của những con đường rừng, là một nỗi phấp phỏng lo ngại Phulro có thể chặn đánh bất cứ lúc nào, chỗ nào.

Rừng xuân hôm nay bình yên quá. Sự bình yên mà những người lính trẻ, ít hơn tuổi con gái tôi đang ngồi trên giảng đường trường đại học, lại phải gánh trên vai trách nhiệm gìn giữ thật nặng nề mà Tổ quốc và nhân dân giao phó.

Chúng tôi đến vào hai ngày nghỉ cuối tuần, nhưng 50% quân số của ba đồn vẫn đang trên đường tuần tra mật phục trên gần 70km đường biên.Lại nhớ Noel năm 2001, 167 thanh niên dân tộc nghe theo lời kẻ xấu, tụ tập nhau trong rừng Đăk Min để vượt biên giới trái phép, nhờ sự phối hợp kịp thời của bộ đội biên phòng, nhanh chóng triển khai lực lượng nên đã giải tán được .từ tháng 10-2002 đến nay, các đồn thường xuyên hoạt động dài ngày trên đường biên, đã ngăn chặn không để xảy ra vụ vượt biên nào nữa.Không chỉ canh phòng, bộ đội còn kết hợp với các lâm trường và lực lượng kiểm lâm ngăn chặn và bắt giữ những vụ khai thác lâm sản trái phép, đi hàng chục cây số tham gia công tác vận động quần chúng, góp phần chống mê tín, xóa đói giảm nghèo, tham mưu và giúp đỡ chính quyền các địa phương vùng có 100% đồng bào dân tộc thiểu số theo đạo Tin lành, hay như bon Đăk Me có một số người vượt biên đang ở Mỹ thường gửi tiền,hàng về, hoặc bon Đăk Lót trước đây có hộ thiếu ăn đến 6 tháng trong năm, nay không còn phải phá rừng làm thêm rẫy nữa. Những hộ di cư tự do mang theo súng tự tạo từ phía Bắc vào, đã tự nguyện giao nộp tất cả. Hai năm qua không có trường hợp vượt biên nào. Có nghĩa là không chỉ rừng bình yên, mà đời sống chính trị, kinh tế cũng đã tương đối ổn định.

Trách nhiệm cao cả ấy, chưa cần đến tận đồn biên chúng tôi đã được chứng kiến, khi gặp hai người lính có gương mặt và trang phục là lạ mang ba lô căng phồng đi bộ ngược chiều, bạn đồng nghiệp văn nghệ - trung tá Lê Huy Thành ( người của Bộ chỉ huy biên phòng cùng đi) – đã đề nghị dừng xe để xuống hỏi cho cặn kẽ. Hóa ra họ là hai người lính đường biên phía Campuchia, qua xin hỗ trợ gạo và rau, theo cam kết giữa hai bên.Bởi phía bạn không có đường cho xe tiếp tế, nên lương thực, thực phẩm của ba đồn bên ấy, đều do cả ba đồn Việt Nam dọc tuyến hỗ trợ tất. Đấy cũng là một trong những nhiệm vụ chính trị của lính biên phòng Đăk Lăk. Huy Thành lên xe nói như thanh minh vì sự cẩn trọng của mình :

-

Thấy rau cải là biết của bộ đội ta trồng, nhưng vẫn phải hỏi.

Ôi, chúng tôi thêm kính trọng ý thức trách nhiệm của các anh chứ ! Vì chính bộ đội biên phòng của mình có phải không khó khăn vì việc tiếp tế lương thực, thực phẩm đâu.Mùa khô còn khả dĩ, chứ mùa mưa thì thật đúng nghĩa với sự chia sẻ cả những gì ít ỏi các anh có đấy. Bởi con đường này, mặc dù cấp phối đã rộng ra gấp đôi, chiếc xe Toyota 12 chỗ ngồi của Hội văn nghệ không hề bị va quẹt với lau lách xào xạc hai bên đường như 5 năm trước đây, chạy với tốc độ 25 km/giờ, mà qua dốc Ba tầng vẫn cứ như xóc cua. Có lúc xe còn nghiêng hẳn về một phía, đến thót cả tim.

5 năm có thể chưa là bao đối với một đời người, nhưng đối với đồn biên phòng Suối nhỏ - Bo Heng, đã có nhiều đổi thay. Vẫn là bày chó và heo đông đến hàng chục con chạy về đầy sân khi nghe tiếng kẻng báo ăn mỗi chiều ( cảm hứng cho chuyện ngắn hay «  Tiếng gọi hoang dã » của Ngọc Thanh đã đăng trên tạp chí văn nghệ Cư Yang Sin đấy), những luống rau xanh đến mát mắt giữa trưa cao nguyên nắng đổ lửa  ( rau ở toàn tuyến mỗi năm cung cấp cho các bếp từ 15-16 tấn, ăn không hết, cá đánh ở suối cũng tới 1,5 tấn/ năm ).Đồn nào cũng có thêm đàn bò hơn chục con uể oải nhai lại dưới bóng râm của rừng cây. 5 năm trước, các chỉ huy băn khoăn vì có đến 100% cán bộ chiến sỹ phải qua «  cửa ải » sốt rét, thì hôm nay bệnh này đã bị hạn chế đến mức tối đa.

Bên cạnh những căn nhà cấp 4 cũ kỹ thuở nào,là vẻ khang trang của doanh trại Bo Heng mới khánh thành tháng 5-2003, màu vôi còn tươi nguyên ( chỉ đồn Nậm Na và Đăk Đam là vẫn còn nhà cũ). Sân chào cờ , sân bóng chuyền tráng xi măng sạch và đẹp hẳn lên với hàng cây blang hoa trắng đang chúm chím đung đưa trong gío.Những cây hoa sữa nổi tiếng của Hà Nội, cũng đã bén rễ trên con dốc quanh vào đồn.Điện máy nổ đêm đêm sáng trưng rừng, anten chảo và 3 chiếc tivi để lính theo dõi cả Seagem lẫn Para geam nét hơn cả ở Buôn Ma Thuột.Lần trước chúng tôi đến, cả ba đồn không có lấy một chiếc xe máy công. Về Bộ chỉ huy họp, chỉ có mỗi một cách là cuốc bộ vài chục cây số để đón xe đò.Nay ba đồn có chung một chiếc xe Wat. Đồn nào cũng có từ 2-3 chiếc xe máy Dream, các chỉ huy cơ động trên địa bàn rất dễ dàng. Báo chí do bưu điện huyện chuyển vào đến tận Bo Heng chậm lắm cũng chỉ 2 ngày. Gạo hết, có thể điện thoại ra đại lý ngoài huyện chở vào ngay trong ngày, cũng như có thể gọi thẳng về tất cả mọi miền quê trên khắp đất nước, khi cần.Bảng ghi nội dung sinh hoạt hàng tuần trong phòng giao ban chi huy , thấy có mục «  Tối thứ 7 – tập khiêu vũ ». Tất cả chỉ để cho câu nói quen thuộc «  Đồn là nhà biên giới là quê hương » thực sự ấm lòng chiến sỹ, chứ không chỉ là một câu khẩu hiệu mang tính hô hào.Chẳng thế mà chàng lính trẻ Nguyễn Quốc Hoàn rủ rỉ tâm sự :

-Lúc chiều đứng trên vọng gác, nghe bài hát « Đêm biên cương nghe em hát dân ca » của cô, cháu nhớ nhà lắm, nhưng vẫn rất yên tâm. Vì so với cha anh ngày trước, chúng cháu bây giờ đi nghĩa vụ là quá sướng.

Nếu nhớ rằng có một thuở thanh niên các dân tộc thiểu số Tây Nguyên bị tuyên truyền trốn tránh đi nghĩa vụ quân sự, sẽ thêm trân trọng sự gắn bó với đồng đội, với biên giới, yêu và tự hào cùng đôi quân hàm xanh màu lá rừng, để ngày nay nhiều chiến sỹ, ngay cả những anh em người dân tộc thiểu số như Y Ken ( đồn Bo Heng), Y Lâm A Yun ( đồn Nậm Na) ...sau khi được bộ đội cho đi học văn hóa hết lớp 12, đều có nguyện vọng xong nghĩa vụ sẽ trở thành quân nhân chuyên nghiệp. Một thượng úy Y Thơm Niê Kdam đã tốt nghiệp đại học biên phòng, nay là phó đồn Đăk Đam, rất yên tâm với vị trí công tác.Nhiều chiến sỹ khác được kết nạp vào Đảng ngay trong thời gian thi hành nghĩa vụ. Chỉ riêng năm 2003 và đầu năm 2004, đồn Bo Heng kết nạp và xong thủ tục cho 4 đảng viên mới ; đồn Nậm Na kết nạp 3, trong đó có một chiến sỹ người Mnông. Đồn Đăk Đam có thêm hai đảng viên trẻ. Chi bộ của cả ba đồn nhiều năm nay đều liên tục được công nhận danh hiệu «  Trong sạch vững mạnh ».

Chiến sỹ cứ hai năm xong nghĩa vụ sẽ được trở về quê hương.Còn cán bộ, chỉ huy thì lại khác. Một trung tá Phạm Xuân Hoài đã liên tục 26 năm gắn bó với biên giới Tây Nguyên, xuân 2003 lần đầu tiên mới được ăn tết cùng gia đình.Cuộc đời binh nghiệp nơi biên cương đã gắn bó với các anh như một điều dĩ nhiên của cuộc sống, để anh nói đến lý tưởng, đến việc tiếp tục ở trong quân ngũ phục vụ Tổ quốc, dù đã đến thời điểm có thể được phục viên, bằng một giọng cứ nhẹ tênh, rằng  :

- Tổ chức còn yêu cầu, sức khỏe còn tốt, vẫn tiếp tục sống với biên giới, bởi đã chót yêu và gắn bó suốt một đời rồi.

( lại còn động viên cả con trai lớn khi học xong lớp 12 sẽ thi vào đại học biên phòng nữa chứ .)

Một Lê Quang Cảnh chẳng kịp về đưa vợ đi sinh, chỉ tranh thủ đến đón hai mẹ con ra viện, rồi lại vội vàng trở về đồn ngay.Ôi những người vợ lính biên phòng, chắc chắn chị nào cũng đều đã từng có lần tủi thân với sự thiếu vắng của người bạn đời những lúc khó khăn nhất, nhưng vẫn nén lòng để chồng ra biên ải. Bởi đó luôn luôn là “ chuyện thường ngày của lính biên phòng ” , như lời các anh vẫn tự động viên mình và động viên nhau.Phải chăng vì vậy mà thượng úy Nguyễn Tuấn Anh 29 tuổi, đẹp trai như một diễn viên điện ảnh, ra trường từ năm 1996 đến nay, hết đồn 1, đồn 8, nay là đồn Bo Heng, hỏi đến bạn gái mặt cứ đỏ nhừ như vừa uống rượu, lảng ra sân đánh bóng chuyền với chiến sỹ.Hay quân nhân chuyên nghiệp Đinh Văn Giang, đã gần 40 “ cái” xuân xanh, vẫn chưa cùng ai ( rụt rè thế, lại ở tít trong rừng sâu, quen được ai chứ?).Chính các anh là những tấm gương mẫu mực giáo dục lòng yêu nước, yêu quê hương, gắn bó với quân ngũ cho các thế hệ chiến sỹ trẻ.

Trò chuyện cùng Nguyễn Văn Liêm, quê ở Nam Định, em hồn nhiên kể :

- Đi bộ đội, vào đến đây mới lần đầu tiên biết thế nào là rừng. Nhưng mà bây giờ đã yêu rừng lắm rồi.

Hay chiến sỹ Tuấn bị bọ cạp cắn, đồng đội phải cõng anh cắt rừng 20km đi cấp cứu. Nhưng vừa khỏi đã quay trở lại với điểm tuần tra ngay.Hoặc chiến sỹ Y Ken, người dân tộc Êđê, ở huyện Krông Ana ( Đăk lăk) là con út trong mộtg ia đình có 5 anh em cùng đi bộ đội tất, không chỉ vì muốn nối nghiệp cha, mà còn tự hào khi được góp sức bảo vệ quê hương. Ai cũng thấy mình lớn hẳn lên khi mặc trên người bộ quân phục và mang đôi quân hàm xanh như cánh én mùa xuân.

Gắn bó với biên giới và đồng bào dân tộc thiểu số bản địa nhiều năm, các anh chẳng âu lo gì cho bản thân, chỉ mong muốn làm sao cho cải thiện thật sự đời sống vật chất và tinh thần cho bà con vùng dân tộc  vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới còn đang gặp rất nhiều những khó khăn. Hầu như chỉ huy đồn nào cũng trăn trở với tình trạng dân phía Bắc di cư tự do vẫn không chấm dứt, chính sách dân tộc chậm triển khai hoặc thực thi sai. Lo lắng vì bà con ở xa, thiếu quá nhiều thông tin mà dễ bị bọn xấu lợi dụng. Nhiệm vụ chính của bộ đội biên phòng chỉ là nắm tin tức, tình thế, nhưng làm được gì cho địa phương là lại xắn tay áo làm ngay.

Sự “ khám phá ” đời sống tinh thần của bộ đội biên phòng đã khiến chỉ hai ngày với các đồn cánh Trung, mà ân tình giữa văn nghệ sỹ với chiến sỹ đã sâu nặng lắm. Những cuộc giao lưu không chỉ còn là biểu diễn của các ca sỹ, nhạc sỹ, mà là hòa chung tiếng đàn, lời ca, lẫn điệu xoang Tây Nguyên.Cả chỉ huy – như trung tá Nguyễn Đình Vinh, thượng úy Y Thơm, đến các chiến sỹ Nguyễn Văn Huy, Y Lâm…cũng hát say sưa, thậm chí song ca cùng các ca sỹ .Hồng Lê đã thật sung sướng khi chiến sỹ đồn Đăk Đam đội lên đầu cho chị chiếc “ vòng nguyệt quế” kết bằng lá hoa rừng, như chiếc vương miện tôn vinh, dành cho giọng hát giải nhất Sao mai Đăk kăk 2003, mùa xuân này đã vượt đường rừng xa, mang tiếng hát đến với bộ đội biên phòng.

Xe chúng tôi về Buôn Ma Thuột với những nhánh mai rừng khép nụ mà chiến sỹ đồn Đăk Đam tặng, như chở theo cả mùa xuân về với cuộc sống nơi phố phường ồn ĩ.Để lại đằng sau không chỉ rừng xuân lá đỏ, hoa vàng yên tĩnh, mà còn cả tấm lòng hướng về hậu phương của những người lính canh giữ nơi biên cương tổ quốc. và tôi, như vẫn nhìn thấy ca sỹ Hồng Lê dịu dàng hát giữa những ánh mắt ngưỡng mộ ngời sáng của các chàng lính trẻ :

“ Người chiến sỹ canh phòng biên giới

Chiều mỗi chiều anh cũng hát say mê

Em có về điệu lý để trao anh….”(*)

Hồn quê trong doanh trại


Ngày đăng:  24/02/2012 4:05:20 CH 


Tới thăm khu chăn nuôi của Trung đoàn Thủ đô, Sư đoàn Quân Tiên phong chúng tôi có cảm giác lạc vào một sở thú. Một đàn đà điểu 50 con xô lại đón khách với những tiếng kêu líu kíu thân thiện; 300 con cá sấu thân xù xì mốc thếch nằm ườn sưởi nắng trong chuồng; 35 chú lợn rừng lông gáy dựng tua tủa, mõm dài nanh hếch chạy lốc nhốc; 10.000 mái gà Ai Cập đẻ trứng tác râm ran...

Khu trồng trọt, một khu vườn bát ngát với nhiều loại rau quả được qui hoạch “đẹp đến từng chi tiết”. Giáp Tết, những khoảnh vườn cải giống đang trổ hoa vàng; những vườn cải bắp cuốn xanh. Những giàn đậu Hà Lan hoa tím biếc. Những vườn ớt trái chín đỏ tươi…

Bao quanh khu vườn là một hệ thống kênh mương thả đầy súng đang nở hoa tím ngát, hai bờ mương là những hàng nhãn tỏa bóng sum suê… Điều đặc biệt là ở giữa khu trồng trọt này có một vườn ươm giống hoa với đủ chủng loại: Hồng, lan, đồng tiền, thược dược...

Trung tá Trần Ngọc Ánh, Chủ nhiệm Hậu cần Trung đoàn nói, lính Hà Nội rất yêu hoa, bởi thế Trung đoàn đã thành lập vườn ươm này để cung cấp giống hoa cho các đơn vị. Thảo nào doanh trại của Trung đoàn Thủ đô nhiều hoa thế. Hoa treo trên giàn, hoa gắn vào gốc cây, hoa nở trong bồn, hoa dọc lối đi…

Nhìn những người lính trẻ ngồi trên những ghế đá dưới tán cây mở vở ôn bài, những giò phong lan buông hoa đung đưa trên đầu, bên cạnh bức tượng Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh, chúng tôi có cảm giác đang đứng trong một công viên giữa Hà Nội. Nhà văn Phạm Duy Nghĩa đã phải thốt lên: “Một doanh trại quá giàu… chất thơ!”

Vâng, “chất thơ” mà nhà văn họ Phạm trầm trồ là thành quả của những người lính Trung đoàn Thủ đô vốn có truyền thống tài hoa. Và cái cách tăng gia sản xuất của những người lính Trung đoàn Thủ đô cũng mang phong cách của người Hà Nội, tạo ra những sản phẩm mang dấu ấn phố phường.

Thượng tá Phó sư đoàn trưởng Sư đoàn Quân Tiên phong Vũ Đình Lâm nói, tăng gia sản xuất phải gắn với xây dựng cảnh quan môi trường. Quân đội đã có cuộc vận động xây dựng môi trường văn hóa doanh trại với ba tiêu chí là  “xanh – sạch – đẹp”, nhưng ở đơn vị chúng tôi muốn đưa thêm vào tiêu chí “sáng” nữa. SÁNG – XANH – SẠCH – ĐẸP. Cảnh quan xanh sạch đẹp sẽ làm sáng tâm hồn người chiến sĩ… 

v:shapes="_x0000_i1025"> 

*

*    *

Trung đoàn 12, Sư đoàn Sao Vàng là đơn vị đã giành Giải đặc biệt xuất sắc trong Hội thi Nuôi quân giỏi, quản lí tốt toàn quân năm 2009. Năm ấy có thông tin Trung đoàn đang gặp một “khó khăn lớn” là rau quả tăng gia… nhiều quá, bộ đội ăn không hết, chỉ riêng Tiểu đoàn 2 đã dư hàng chục tấn.

Để kiểm chứng, đoàn nhà văn Văn nghệ Quân đội đã tìm lên đơn vị. Chúng tôi theo Đại úy Lưu Văn Vượng, Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 2 ra thăm khu tăng gia. Một cảnh tượng đẹp đến mê hồn với những khu vườn rau xanh mướt cạnh một ao cá rộng có những chú trắm to đen lừng lững đang nổi trên mặt nước. Một vườn bí đỏ quả nào quả ấy to như những chiếc mũ cối nằm ngổn ngang, lăn lóc trên mặt đất.

Đại tá nhà văn Sương Nguyệt Minh vốn tính hoài nghi, ông bảo, đã có nơi khi đoàn thăm quan đến, người ta đi mua thêm quả rồi đem keo con voi gắn vào dây bí, dây bầu; hoặc mượn gà dân thả thêm vào chuồng cho đông đúc.Thế nên ông để nguyên giày đen lội hẳn vào vườn vạch cuống xem từng quả một rồi mới gật gù: “Đúng là những quả bí thật! Phục quá! Ở đây cứ như trại thí nghiệm của trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội”…

Năm nay chúng tôi lại lên Trung đoàn 12. Vẫn khung cảnh của một đơn vị nề nếp, khang trang, sạch đẹp. Vẫn khu tăng gia trù phú với hàng trăm loại hoa màu nằm bên dòng sông Thương thơ mộng. Những câu khẩu hiệu rất vui kiểu “Rau xanh cao cấp, cá chất lượng cao”… được kẻ nắn nót trên những cột bảng biển đặt dọc theo đường đi trong khu tăng gia.

Theo lời của Thượng tá Chính ủy Nguyễn Văn Bóng thì “ở Trung đoàn 12 không có diện tích đất thừa”. Chỗ nào trồng được cây gì là bộ đội trồng cây đó theo đặc tính, công dụng của từng loại cây. Ngoài “phong độ” trồng trọt vẫn giữ được, năm nay đơn vị này đang đẩy mạnh chăn nuôi. Những khu chăn nuôi tập trung với nhiều loại gia súc gia cầm: bò, dê, gà, lợn… Nhiều nhất là lợn. Hiện toàn Trung đoàn có tới gần 1000 đầu lợn thịt, và 40 đầu lợn nái. Trung úy Phạm Quang Anh là người được đơn vị cử đi học hai năm ở Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội, giờ về phụ trách kĩ thuật trại chăn nuôi lợn thịt, còn Trung úy Trần Sỹ Hoàng, người phụ trách trại lợn giống của Trung đoàn.

Trần Sỹ Hoàng là lính vận tải gốc, nhưng vì đam mê chăn nuôi mà tình nguyện nhận nhiệm vụ “bà đỡ” cho những “nàng nái sề” của đơn vị. Nuôi lợn nái là một công việc đòi hỏi không chỉ trách nhiệm, mà còn cả tình cảm. Hoàng nói: “Mỗi con nái ở đây đều có một đặc điểm riêng, bởi thế em phải lập hồ sơ chi tiết với 40 “sản phụ” của em. Đấy các nhà văn xem, tất cả thông tin về tình trạng sức khỏe, ngày giờ phối giống, dự báo ngày giờ đẻ… của các nàng em đều phải cập nhật thường xuyên trên những tấm bảng này.”

Hoàng hiểu tỉ mỉ tính ăn nết đẻ của từng con nái, thậm chí còn biết chính xác số lượng lợn con khi còn trong bụng mẹ. Trong đàn nái có một con luôn đẻ rất sai, được Hoàng đặt cho cái tên trìu mến: Nàng Siu. “Nàng Siu của em nặng 250 cân. Lứa này nàng sẽ đẻ 18 con, lâm bồn vào khoảng 1 giờ sáng ngày 21 tháng 12. Ca đẻ của nàng kéo dài tới mấy tiếng. Lại sắp mệt với nàng đây!” 

Dù đã quen với việc đỡ đẻ cho lợn, nhưng trước mỗi một ca đẻ mới Hoàng vẫn cảm thấy lo lắng. Anh chỉ vào một con nái đang nằm lim dim mắt cho bầy con trắng hồng mũm mĩm ụt ịt rúc vào bầu vú, kể: “Em phải khổ sở với ca đẻ của nàng Xuê này đấy. Vì nó mà vợ chồng em suýt nữa giận nhau.”

 Số là, hơn tháng trước Hoàng xin đơn vị về gấp để đưa vợ đi đẻ Nhưng thật oái oăm, khi người vợ đang chờ lên bàn sinh thì đơn vị cũng điện thông báo cho anh biết là nàng Xuê cũng đang quầy quã vượt cạn mãi mà không đẻ nổi, có nguy cơ chết. Nhận tin, anh bồn chồn ruột gan như lửa đốt. Con Xuê vốn khó đẻ. Những lần trước anh đã vất vả lắm mới giúp được nó qua cơn sinh nở. Thế mà lần này anh, người hiểu con Xuê nhất lại không có mặt ở trại.

Trong tình thế ấy anh chỉ còn cách hướng dẫn anh em trên trại đỡ đẻ cho Xuê qua điện thoại. Nào là tiêm cho nó một mũi trợ sức, rồi đặt nó nằm ở tư thế nghiêng phải, xoa và ấn bụng nó đều, ban đầu nhẹ, sau mạnh dần từ trên xuống dưới. Nếu nó vẫn không đẻ được thì phải lùa chăn qua bụng nó, rồi anh em khiêng nhếch nó lên, vân vân và vân vân…

Tiếng kêu trong phòng chờ sinh của vợ. Tiếng điện thoại từ đơn vị réo về… Anh cứ hết chạy vào đấm lưng cho vợ rồi lại chạy ra điện thoại, mặt mũi ướt đầm mồ hôi. Thấy thế vợ anh cáu tiết hét ầm lên: Anh yêu lợn hơn vợ à!? Anh ngớ người ra một lúc rồi chỉ còn biết gãi đầu trần tình: Thì em đã có anh ở đây, lại có cả bác sĩ, hộ lí, y tá… Còn con Xuê… Nghe chồng nói vậy, chị vợ chỉ còn nước cười như mếu.

*

*    *

Lữ đoàn công binh 249 hiện nay đảm nhiệm hai nhiệm vụ quan trọng: Làm đường tuần tra biên giới tại Sơn La và ứng cứu lụt bão từ địa bàn Quân khu 4 trở ra. Đây chính là đơn vị đã tổ chức lắp đặt thành công hai chiếc cầu phao nổi tiếng: Cầu phao Chèm năm 2008 và cầu phao Đuống năm 2009. Có nhiều đóng góp quan trọng trong công tác huấn luyện sẵn sàng chiến đấu, tham gia giải tỏa ách tắc giao thông, cứu hộ cứu nạn… nên Lữ đoàn 249 đang được đề nghị phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân thời kì đổi mới.

Trước khi đến Lữ đoàn công binh 249, chúng tôi đã đinh ninh rằng, với đặc thù một đơn vị hoạt động phân tán như thế thì công tác tăng gia sản xuất chắc không được chú trọng. Nhưng chúng tôi đã nhầm to. Thượng tá Lữ đoàn trưởng Nguyễn Hữu Hùng cho hay, tăng gia sản xuất là nhu cầu tự thân của lính công binh, dù ở trong hay ngoài đơn vị. Vì thế những phân đội đi trực ứng cứu lụt bão, tàu dừng ở đâu là tổ chức tăng gia ở đó; những phân đội đi làm công trình, xe đi đến đâu là cây trồng vật nuôi đi theo đến đó.

Ông kể rằng, anh em làm đường tuần tra biên giới ở Sốp Cộp, Sơn La đã vào các làng bản mua lợn Mán về chăn. Cứ làm xong một đoạn đường là chiến sĩ lại đưa lợn lên máy xúc di chuyển đến lán mới. Do yêu quí lợn quá mà các chiến sĩ chăm sóc hơi… quá tay, thành ra lợn Mán béo tròn béo quay, toàn mỡ là mỡ…

Theo cảm nhận của chúng tôi, Lữ đoàn công binh 249 là một trong những đơn vị có qui hoạch tăng gia sản xuất đẹp nhất toàn quân. Vị trí đóng quân của Lữ đoàn có đồi núi, sông hồ tạo nên một bức tranh thiên nhiên sơn thủy hữu tình, và đơn vị đã khéo léo tô điểm vào bức tranh ấy bằng những cụm tăng gia sinh động.

Theo Thượng tá Chủ nhiệm Nguyễn Viết Đạt thì Lữ đoàn đã cho lập bảng qui hoạch tổng thể tăng gia trên sơ đồ trước, qua nhiều cấp góp ý, điều chỉnh rồi mới bắt tay thực hiện để có những hồ rộng cá quẫy lao xao được kè bằng gạch bê tông hình lục lăng tạo nên những đường viền trang trí bắt mắt, trên bờ là những hàng tre Bát Độ xõa bóng xạc xào. Khu chuồng trại nuôi lợn, đà điểu, lợn Mán… sạch sẽ ngăn nắp. Vườn rau rộng hơn 10.000m2 được xây dựng cơ bản, có hệ thống đường phân lô, phân thửa, có hệ thống tưới nước tự động, trồng đủ các loại rau cao cấp, rau trái vụ, rau trồng luống, rau leo giàn…

Ở đơn vị này cũng nuôi nhiều loài gia cầm, gia súc. Nhưng nhiều nhất  là gà. Hàng ngàn con gà ri đủ sắc màu được thả kiếm ăn nhởn nhơ trên những quả đồi trồng toàn đu đủ cao sản quả sai lốc nhốc như lợn con bám từ gốc tới ngọn. Thượng tá Nguyễn Viết Đạt tự hào khoe: Đu đủ thì mỗi năm đơn vị “hái vội” cũng được hơn 6 tấn! Còn gà đồi, theo thống kê chưa đầy đủ thì toàn Lữ đoàn hiện có hơn 3000 con!

Tôi hỏi, gà nhiều như thế thì đơn vị bán hay ăn? Thượng tá Nguyễn Viết Đạt nói ngay, lính ăn là chủ yếu. Tiền ăn binh chủng của lính công binh cộng thêm chế độ ăn công trường của đơn vị đủ để bộ đội ăn uống tươm tất, thế nên cứ thịt gà nhà nuôi mà ăn cho nó lành! Khi xuống thăm nhà bếp của một tiểu đoàn, chúng tôi đã rất ngạc nhiên khi lần đầu tiên thấy một chiếc máy vặt lông gà hiện diện trong một doanh trại quân đội!

Khi được hỏi đơn vị bảo đảm chế độ ăn Tết cho các phân đội công tác xa như thế nào, Thượng tá Lữ đoàn trưởng Nguyễn Hữu Hùng cho biết, Tết nào đơn vị cũng chỉ để vài người ở lại trông coi máy móc, còn rút hết về đơn vị. Đối với anh em công tác xa, được trở về đơn vị vào dịp Tết giống như được trở về nhà.

*

*     *

Bước vào doanh trại của Lữ đoàn xe tăng 201, ấn tượng đầu tiên đối với chúng tôi là bưởi. Bưởi được trồng rất nhiều xung quanh khu nhà ở, nhà bếp và cả trên đường ra thao trường. Có lẽ cán bộ chiến sĩ của Lữ đoàn 201 phần lớn tốt nghiệp từ các trường đào tạo Tăng – Thiết giáp ở vùng đất bưởi Vĩnh Phúc, Phú Thọ nên rất yêu loài cây này.

Những cây bưởi đủ mọi lứa tuổi, có những cây đã ngả dáng cổ thụ, có những cây đang tuổi sung mãn và có cả hàng trăm cây mới trồng tại vườn cây ăn quả rộng 5000m2 của Lữ đoàn. Dưới một gốc bưởi quả sai trĩu trịt gần nhà bếp chúng tôi thấy treo tấm biển KHÔNG HÁI BƯỞI. Tôi ngạc nhiên hỏi, sao bưởi đã chín vàng mà lại không hái? Đại tá Chủ nhiệm Hậu cần Đinh Công Thống mỉm cười: “Để cho… đẹp!”

Nghe câu trả lời, chúng tôi ngỡ ngàng mất một lúc rồi ngắm kĩ những cành bưởi sà vào cửa sổ doanh trại. Quả là đẹp thật! Cành bưởi treo những trái tròn trĩu xuống gợi cảm giác về sự no đủ. Hãy thử tưởng tượng, vào mùa xuân, cả không gian rộng lớn này sẽ tràn ngập những làn hương thanh khiết của hoa bưởi. Những làn hương hoa sẽ làm “mềm” tâm hồn của những người lính tăng suốt ngày phải tiếp xúc với những cỗ chiến xa thép.

Có lẽ trong các binh chủng thì lính tăng là những người vất vả nhất. Chứng kiến một buổi huấn luyện ở Lữ đoàn 201, chúng tôi thấy những người lính phải vác những hòm đạn và bình điện hàng trăm cân chạy băng băng từ kho ra nạp vào xe; suốt cuộc tập luyện, họ phải ngồi trong bụng cỗ chiến xa nóng hầm hập như một lò hơi để liên tục đạp côn phanh, kéo cần lái, nạp đạn, ngắm bắn…, những thao tác đòi hỏi người lái phải bỏ ra một lực tới mấy chục ki lô gam mới thực hành nổi. Bởi vậy khi buổi tập kết thúc, toàn thân lính tăng mồ hôi ướt đầm, lấm lem dầu mỡ. Nhìn cảnh ấy, chúng tôi không khỏi ái ngại. Ngày nào cũng huấn luyện thế này, lấy đâu quần áo để thay cho kịp? 

Đại tá Đinh Công Thống cho biết: Để đảm bảo sức khỏe cho chiến sĩ xe tăng, đơn vị đã có nhiều chế độ chăm sóc đặc biệt. Sau mỗi buổi huấn luyện lính tăng đều được tắm nước nóng, quần áo giặt xong đã có phòng sấy.

Nói rồi ông đưa chúng tôi tới thăm cụm công trình được xây dựng từ nguồn thu tăng gia sản xuất có giá hơn 200 triệu đồng, bao gồm bếp hơi, lò đun nước nóng và căn phòng sấy có công suất sấy 200 bộ quần áo/ mẻ, hoạt động theo nguyên lí trích nhiệt từ lò hơi nấu ăn của nhà bếp kết hợp hệ thống quạt gió, quần áo ướt được móc theo dãy, chỉ 40 phút sau là đã khô roong.

Thế nên các chiến sĩ xe tăng sau khi tắm giặt xong là có thể ung dung ngồi câu cá trong mấy chiếc ao rộng của đơn vị. Tiếng reo vui thi thoảng lại rộ lên khi những “cần thủ” giật được những chú cá to. Mấy anh nuôi thì sốt sắng mang chậu ra đựng cá mang vào bếp chế biến.

Sau một ngày tiếp xúc với tiếng gầm của động cơ, tiếng nổ của đạn pháo…, được thư thái cầm cần câu giải trí như thế quả là khoảng thời gian quí giá đối với những người lính xe tăng. Ngắm những người lính ngồi câu dưới gốc bưởi bên bờ ao, chúng tôi cảm giác như đang đứng giữa một làng quê ấm áp.

*

*    *

Sư đoàn Phòng không 365 có hẳn một khu tăng gia tập trung với diện tích gần 40.000 m2 . Chúng tôi tới khu tăng gia này vào một buổi sáng và đã chứng kiến một hình ảnh vô cùng ấn tượng: dưới tán rừng chuối xanh um là một thảm trứng vịt lát trắng mặt đất. Trung úy Lê Văn Tám, người phụ trách tổ tăng gia hồ hởi khoe: “Bọn em nuôi 5000 vịt đẻ, các nàng ngày nào cũng đẻ sòn sòn hơn bốn ngàn trứng. Đội tăng gia của bọn em có 9 người, tất cả phải xoay trần ra nhặt trứng từ lúc từ mờ sáng cho tới tám, chín giờ mới hết!”

Chúng tôi ngồi với nhau dưới tán nhãn cổ thụ. Lê Huy Tám lễ mễ bê ra một rổ trứng luộc nghi ngút khói, cất giọng mời đúng kiểu một chàng nông dân hiếu khách: “Của nhà làm được, mời các nhà văn thưởng thức trứng sạch!” Thượng tá Cù Hoành Hưng, Phó Chủ nhiệm Hậu cần Sư đoàn 365 cho biết, trứng từ trại chăn nuôi này cả sư đoàn ăn không hết. Và tất nhiên trứng được bán ra ngoài. Dân quanh vùng cực kì thích “trứng vịt bộ đội” bởi quả to, nhiều lòng đỏ nhưng lại rẻ hơn trứng bên ngoài mấy giá.

Câu chuyện của chúng tôi bị ngắt quãng liên tục bởi trung úy Lê Huy Tám chốc chốc lại phải đứng lên để… bán trứng. Những chiếc xe máy của dân vào mua trứng đều phải đứng ngoài cổng, và trứng được các chiến sĩ khiêng ra bằng sọt. Và thêm một lần nữa chúng tôi bất ngờ, là bởi xưa nay tôi biết trứng chỉ được bán tính theo đơn vị quả hoặc chục (12 trứng một chục), nhưng ở khu tăng gia của Sư đoàn phòng không 365, trứng được bán tính theo… tạ. Ba triệu sáu trăm ngàn đồng một tạ!

Ngoài trứng vịt, Sư đoàn 365 có một đặc sản nữa là chuối tiêu hồng. Theo lời của Trung úy Lê Huy Tám thì loài chuối này ngày xưa rất khó trồng, vì thế nó cực kì quí hiếm, chỉ được dành để tiến vua. Khi qui hoạch khu tăng gia tập trung, Sư đoàn nhận thấy chất đất nơi đây phù hợp với chuối tây nên đã dành cho loài cây này tới 2 ha và trồng xen một ít chuối tiêu hồng.

Khi những cây chuối tiêu hồng cho quả vụ đầu, những người lính đã vui mừng khôn xiết khi ngắm những quả chuối to, khi chín thì vỏ căng nhẵn, vàng óng, mùi vị thơm ngon rất chi là quí phái. Quả là danh bất hư truyền. Anh em bèn mang chuối tiêu hồng ra chợ tiếp thị để thăm dò thị trường, và kết quả ngoài sức tưởng tượng: Một nải chuối tiêu hồng vào dịp Tết được trả tới 80.000 đồng! Một buồng chuối hơn chục nải mà bán được cả triệu đồng, quả là như mơ.

Vậy là quyết tăng diện tích. Nhưng những cây chuối quí giống như những nàng công chúa đài các, khó chiều, chỉ xanh tốt được vụ đầu, vụ sau cứ lả dần. Nhìn vườn chuối cứ còi cọc rồi héo rũ, Lê Huy Tám buồn lắm. Anh đã quyết định nhổ chuối lên để… khám. Và anh đã nhận ra rễ chuối đã bị một loài sâu ăn cụt.

Thế là mua sách kĩ thuật về đọc, vào làng hỏi những cụ già về kinh nghiệm trồng chuối, và anh đã tìm được một phương pháp trồng rất đơn giản: Con chuối trước khi trồng thì gọt bớt rễ, nhúng vào nước vôi, khi chuối đẻ con thì bỏ đi hết, chỉ dành lại một cây kế cận.

Nói thì dễ, nhưng để thực hiện công đoạn này đối với rừng chuối cả ngàn cây là điều khó khăn, đòi hỏi phải bỏ ra nhiều công sức. Nhân lực ở đâu? Nghe tôi hỏi, Trung úy Lê Huy Tám cười cười chỉ vào… đàn vịt: “Nhân lực ở đây! Vịt là loài rất ưa ăn mầm chuối, vì thế khi mỗi gốc đã tạo được một con chuối kế cận bọn em thả vịt vào. Mầm nào nhú lên là vịt xơi ngay. Và phân vịt thải ra lại bón cho gốc chuối, một mối quan hệ hai bên cùng có lợi còn gì!”

Vốn là con nông dân quê Thanh Hóa, khi nhập ngũ Tám được đi học ngành kĩ thuật. Nhưng vì yêu chăn nuôi trồng trọt mà Tám được điều về phụ trách khu tăng gia tập trung này. Đội tăng gia với quân số chưa bằng một tiểu đội của Tám đảm nhiệm một khối lượng công việc khổng lồ: Ngoài 5000 vịt đẻ còn có 800 con vịt thịt, 200 con lợn, 1.400 con gà thịt, 200 gà đẻ, 500 con ngan cùng mấy hồ cá rộng...

Quanh năm suốt tháng họ làm nhiệm vụ một cách say mê cần mẫn trong cái “nông trại” của mình để mang lại nguồn lãi cho đơn vị từ 110 đến 130 triệu đồng. Sản phẩm từ bàn tay họ làm ra không những làm ấm lòng chiến sĩ trong đơn vị, mà còn cho cả những người dân địa phương. Đứng trong vườn chuối đang đồng loạt cho buồng lúc lỉu, Trung úy Lê Huy Tám nói vui: “Tết này những nải chuối tiêu hồng của những người lính phòng không sẽ được tiến cho… bộ đội và nhân dân, góp hương sắc vào mùa xuân quê hương!”.

*

*     *

Theo lời của Đại tá Lê Thành Vinh, Trưởng phòng Sản xuất Cục quân nhu, Tổng cục Hậu cần thì công tác tăng gia sản xuất của quân đội ta đã tiến từ mô hình “quanh bếp quanh vườn” lên tăng gia tập trung qui mô cấp trung đoàn, sư đoàn, đã và đang mang lại lợi ích to lớn: Cải thiện bữa ăn bộ đội, đầu tư mua trang thiết bị huấn luyện, làm công tác chính sách… Nếu như trước đây các đơn vị tăng gia sản xuất chủ yếu là để lấy cái ĂN, thì bây giờ đã hướng tới cái ĐẸP.

Ngoài giá trị vật chất, tăng gia sản xuất còn mang lại giá trị tinh thần vô giá. Mỗi người lính khi nhập ngũ đều mang trong mình một quê hương, được hiện hữu qua những vật nuôi, cây trồng quen thuộc. Dù ở bất cứ quân binh chủng nào, dù ở biên giới khắc nghiệt hay hải đảo xa xôi thì người lính đều có nhu cầu đưa những hình ảnh thân quen máu thịt của quê nhà vào đơn vị, tạo nên cái hồn quê ấm áp trong doanh trại. Chính cái hồn quê này sẽ nuôi dưỡng tâm hồn người lính… 

Câu cá giữa đại dương


Ngày đăng:  10/05/2011 4:10:38 CH 


Theo chân biên đội tàu Vạn Hoa 731, Vạn Hoa 732 của Hải đoàn M29, những con tàu đầu tiên của Quân chủng Hải quân thực hiện nhiệm vụ khai thác cá ngừ đại dương đồng thời làm nhiệm vụ quan sát ngăn cản và xua đuổi tàu nước ngoài xâm phạm lãnh hải nước ta (và trong tương lai không xa đây cũng sẽ là lực lượng nòng cốt đưa ngư dân tiến ra biển lớn), chúng tôi bắt đầu chuyến hành trình gian khổ cùng những khám phá đại dương vô tận.

4 giờ chiều, sau khẩu lệnh của Thuyền trưởng “Toàn tàu báo động rời bến mạn phải”, con tàu rúc lên ba hồi còi ngân vang đầy lưu luyến. Dẫu tiếng chào nhau tạm biệt, tiếng gọi nhau thu dây í ới nhưng theo tôi đây vẫn là thời gian êm đềm nhất của chuyến đi, bởi sau đó, khi đồng loạt bốn động cơ của máy chính, máy phát điện, máy cấp đông hầm lạnh cùng vận hành thì cùng với sóng gió của biển cả, tiếng ồn và sức nóng đó đã tạo nên một môi trường lao động vô cùng khắc nghiệt.

Sau hơn 38 tiếng đồng hồ hành trình, vượt qua gần 400 hải lý, Thuyền trưởng xác định đã đến vị trí ngư trường đánh bắt. Hiện sóng gió được xác định trên cấp 7, tàu thuyền của ngư dân có lẽ không trụ được nên cả nửa ngày mà chúng tôi chỉ gặp một vài chiếc tàu câu của ngư dân Khánh Hòa. Biên đội HQ - 731, HQ – 732 là thế hệ những con tàu câu đầu tiên của Quân chủng Hải quân được đóng mới với công nghệ hiện đại và chắc chắn, được trang bị gần như đầy đủ các loại phương tiện hoạt động dài ngày trên biển, sẵn sàng nhận nhiệm vụ kể cả trong những ngày bão giông.

Cá ngừ thuộc họ cá bạc má, phân bố ở tầng nước trên và thường ưa thích hoạt động, kiếm ăn ở môi trường có nhiệt độ dao động từ 24 đến 28oC. Thuyền trưởng quyết định thả mẻ câu thứ nhất. Tàu tiến ba, tốc độ từ năm đến sáu hải lý một giờ, đó là tốc độ thích hợp để thả câu. Quả phao đầu tiên của vàng câu được tung xuống biển. Đây là những quả phao hiện đại có gắn đèn tín hiệu và thiết bị báo định vị trên biển. Mọi hoạt động nhất nhất đều thao tác như một guồng máy thuần thục, nhịp nhàng và chuẩn xác. Người se dây, người móc mồi, người điều khiển tời, chỉ cần một sai sót nhỏ cũng đều làm ảnh hưởng rất lớn đến quy trình vận hành của con tàu. Hơn sáu tiếng đồng hồ sau, đường câu dài hơn ba mươi hải lý đã được yên vị dưới biển sâu đón đợi những con mồi lớn.

Giữa đại dương mùa này không khí oi ả làm cho người ta rất nhanh mệt. Bầu trời như nửa cái thau đồng khổng lồ úp xuống. Cái nắng của miền nhiệt đới hầm hập như nung nóng mặt biển khiến cho cái nhức nhối càng thêm khó tả. Mồ hôi, nước biển đọng trên áo quần lúc khô thành những mảnh muối trắng loang lổ.

Người xưa thường ví đi biển là “ăn cơm dương gian, làm việc với Hà bá” quả không sai. Sáu tiếng đồng hồ đợi cá mắc câu cũng là lúc mọi người tranh thủ nghỉ ngơi và tàu quay về vị trí thả quả phao đầu tiên. Thường thì khi đi biển tàu đều chuẩn bị rất nhiều sách báo, băng hình, karaoke để giải trí, nhưng khi hết ca lao động phần lớn anh em đều rất mệt mỏi chỉ muốn được ngủ để phục hồi sức khỏe.

Trên đài canh - căn phòng nhỏ cao nhất bên cạnh ca bin lái - tiếng tạch tè cứ đều đặn vang lên, hai tiếng một một phiên không kể ngày đêm. Hoạt động của con tàu, tình hình mặt biển và hoạt động của ngư dân trong tầm kiểm soát liên tục được thông báo đầy đủ về Sở Chỉ huy.

Tới bữa, mọi người thay nhau vừa trực hành trình vừa “nạp năng lượng”. Đi biển, lúc sóng to gió lớn làm việc đã vất vả mà khi ăn cũng không hề nhàn hạ. Người được phân công trực nồi cơm còn đỡ, chứ nếu phải trực xoong canh là phải cảnh giác cao độ. Đoán có con sóng to ập đến là phải bê ngay xoong canh lên giảm lắc, đợi con sóng yên mới hạ xoong xuống tiếp tục bê bát. Có lần con sóng lắc mạnh, xoong canh đang trượt trên mặt bàn nhôm với tốc độ nhanh, người trực vội chụp giữ lấy xoong, tức thì toàn bộ canh bị hất tung ra ngoài.

Khó khăn nhất trong một chu kỳ hoạt động là thu câu.

Tám tiếng đồng hồ ròng rã với sự tập trung gần như toàn bộ nhân lực trên boong đằm mình vật lộn với đường dây câu và sóng gió. Không có cá thì buồn, nhưng khi có cá thì… mệt. Con cá lớn vẫy vùng giữa đại dương luôn có một sức mạnh khủng khiếp. Bởi thế những “ngư ông - lính” phải học theo cách của Xan-ti-a-gô, nhân vật trong tiểu thuyết Ông già và biển cả của nhà văn Hemingway. Khi cá còn sức hung hăng nó có thể kéo cả người vào dây câu xuống đáy biển. Thế nên dây câu sẽ được thả lỏng để các chú “lồng” thoả mái, rồi lại được kéo dần, kéo dần vào phía tàu. Phải “dìu” mấy chục phút cho cá mệt lử mới kéo chúng áp vào mạn tàu rồi thả “chụp” xuống ngoạm chặt chú cá cứng đầu, ba bốn người lựa theo từng nhịp bập bềnh mà con tàu đang chồi sụt trước sóng mới ì ạch kéo được con cá lên boong.

Cá được câu lên, việc quan trọng nhất là phương pháp xử lý, bảo quản, bởi thị trường tiêu thụ cá ngừ đại dương là các nước Đông bắc Á. Người Nhật Bản, Hàn Quốc thường ưa chuộng các món ăn tươi sống, đặc biệt là cá ngừ, vì thế tiêu chuẩn cấp đông bảo quản cá tươi nguyên vô cùng quan trọng. Đưa cá lên boong, bóc mang, mổ lấy ruột ra rồi đưa vào khoang làm lạnh. Khoang lạnh theo công nghệ mới là một khoang riêng biệt chứa đầy nước luôn luôn duy trì độ lạnh và độ mặn theo tiêu chuẩn.

Càng về đêm sóng nổi lên càng mạnh. Những con sóng lừng lững như mái nhà bổ ập xuống, con tàu bị hất lên chòng chành, chao đảo, nhiều lúc chân vịt không chạm nước quay không tải làm cho động cơ rồ lên. Về khuya, mọi người đều ướt sũng, tay chân nhợt nhạt, mệt và rét nhưng không ai nói một lời nào, chỉ tập trung cao độ vào công việc.

“Dây câu bị đứt rồi !”, ai đó kêu lên và mọi người thấy đường dây thu câu nhẹ bỗng trên tay mình. Vài người xúm lại xác định nguyên nhân. “Vết đứt ngọt dường như có ai cắt”, Ngành trưởng boong khẳng định và giải thích: “Thi thoảng vẫn xảy ra trường hợp các đường câu của các tàu thả chồng lên nhau, tàu thả trước bị tàu thả sau đè lên. Khi thu câu, nếu vướng, họ được phép cắt đường câu phía trên và phải nối lại cho bạn tàu. Nhưng ở đây họ không làm theo quy ước đó, và giờ tìm lại đoạn còn lại là một việc không hề dễ dàng chút nào”.

Sự việc được nhanh chóng báo lên Thuyền trưởng. Sau khi hội ý chớp nhoáng, xác định hướng gió, dòng hải lưu và ước lượng sự trôi dạt của quả phao gần nơi bị đứt, mệnh lệnh được đưa xuống: “Mọi người về vị trí quan sát ở mũi và hai bên thân tàu, rọi đèn pha thay nhau tìm kiếm”.

 Sóng gió to, biển tối đen như căng một mành lụa ngay trước mắt mọi người. Sáng hơn đến 50 lần đèn ôtô mà ánh đèn pha của tàu rọi không tới 100m. Phía sau, chân vịt sục khuấy nhanh nhẹn phụt ra luồng nước chứa những hạt lân tinh li ti kéo dài thành một dải như quầng bụi sáng sau sao Chổi. Bình thường khi yên ả và thư thái nhìn hiện tượng ấy ai cũng có thể thành nhà thơ như chơi. Vậy mà lúc này mọi người chỉ cố căng mắt tìm kiếm và đưa ra những dự đoán.

Quần đảo gần ba giờ đồng hồ chúng tôi mới tìm được quả phao đang trôi dạt, cách vị trí bị đứt khoảng 10 hải lý. Có những tiếng thở phào như trút được gánh nặng pha lẫn nỗi bực dọc. Nhanh chóng thu hồi dây câu và tời quay lại tiếp tục hoạt động bình thường.

 Từ ca bin lái, thỉnh thoảng Thuyền trưởng lại bật loa nội bộ thông báo cấp gió, cấp sóng và nhắc nhở mọi người thận trọng trong lao động. Những lúc sóng to gió lớn Thuyền trưởng thường không chịu nhường vô lăng cho ai. Vẻ từng trải của một người đi biển lâu năm làm cho mọi người yên tâm rất nhiều. Sinh ra ở một huyện vùng biển tỉnh Quảng Bình, dáng vóc vập vạp, khỏe mạnh, mái tóc rễ tre lúc nào cũng lòa xòa trước trán, ông là típ người ăn to nói lớn. Ông có một câu nói rất hay dành cho lính biển: “Không có người lính say sóng, chỉ có người lính thiếu tinh thần rèn luyện”.

 Kinh nghiệm đi biển của thủy thủ đoàn có dư nhờ đúc rút trong những lần tàu đi trực bảo vệ chủ quyền, nhiều lần tàu ra khơi khi bão còn tung hoành trên đầu để thực hiện nhiệm vụ cứu hộ ngư dân trên biển. Thế nhưng, câu cá ngừ đại dương lại là một công việc hoàn toàn mới mẻ đối với những người được đào tạo bài bản chuyên ngành Điều khiển tàu quân sự từ Học viện Hải quân và Trường Trung cấp tàu Hải quân. Quay qua đưa ly cà phê đen đặc quánh cho Chính trị viên vẫn còn thức, Thuyền trưởng hạ giọng: “Nếu ngày mai còn sóng gió thế này chắc ta phải nghỉ câu anh ạ.” Chưa dứt lời, một con sóng trắng xoá dựng ngang trước mũi tàu. Thuyền trưởng đứng bật lên khỏi ghế lái và thét lớn: “Mọi người cẩn thận!”

Con sóng đập vào khiến cho tàu giây lát khựng lại và dựng lên, hẫng hụt rơi xuống một khoảng không, mũi tàu chúi sâu xuống biển. Cột nước tràn qua phủ kín boong rồi đổ ập vào ca bin. Con tàu kêu răng rắc trong tiếng nước đập ùng oàng. Phía ngoài, mọi người nơi tời thu câu vội vã bám chắc vào thành tàu khi cột nước như dòng lũ cuốn qua. Ba người trong số họ không phản ứng kịp với sức mạnh bất ngờ nên bị cột nước xô dạt, đập mạnh vào thành tàu.

Cơn trước qua nhanh, cơn sau lại lừng lững tiến vào, con tàu nằm trong điểm võng sâu nhất của hình sin sóng. Trước sau sóng chắn như núi. Tôi thoáng nghĩ, nếu không có gió, nếu nước dội âm chắc chắn sẽ có tiếng vọng thật sâu khi ta thét gọi tên mình.

Sau con sóng to, mọi người lao lại dìu đỡ nhau. Chỉ có Xuân Vinh bị nặng nhất. Sự cố bất ngờ làm chân anh bị xé rách một vệt khá dài và sâu, máu chảy khá nhiều làm cho anh chàng vốn có vóc dáng to khỏe, nặng tới gần 70 kg phải suýt xoa, rên rỉ. Mọi người nhanh chóng đưa Vinh vào phòng xử lý vết thương.

Việc tạm ổn, Ngành trưởng boong nhắc mọi người quay lại guồng tời tiếp tục thu câu. Lúc này ai ai cũng đều chăm chú, khẩn trương và cẩn trọng hơn rất nhiều.

 Trời bắt đầu dần sáng, bụi nước và gió thi nhau phả vào tàu phần phật, chiếc phao câu cuối cùng rời mặt biển. Mọi người chợt thấy rã rời vì đói và rét, mệt mỏi và căng thẳng sau chuyến thu câu kéo dài gần 11 tiếng đồng hồ trong sóng gió. Sau khi xem xét cẩn thận vết thương của Vinh thấy máu vẫn thấm đỏ sau nhiều lần bông băng, Thuyền trưởng quyết định “Mọi người tắm nước ngọt, thay đồ và về phòng nghỉ ngơi. Tàu hành trình về đảo Phú Quý để bác sỹ xử lý vết thương cho Vinh”.

Hai mươi lăm tiếng đồng hồ vội vã hành quân về đảo Phú Quý là quãng thời gian nghỉ ngơi quý giá cho mọi người. Sau khi được băng bó vết thương xong Vinh đã cố nài nỉ được quay về tàu, nhưng Thuyền trưởng kiên quyết yêu cầu anh nằm lại điều trị tại đảo, khi nào khỏi thì theo tàu ngư dân vào đất liền về đơn vị.

Gửi gắm các y bác sỹ trạm xá đảo Phú Quý và dặn dò thương binh xong, tàu chúng tôi lại vội vã quay lại ngư trường. 

*
*      *

 Sau 28 ngày đêm thức cùng biển, chiến đấu cùng sóng gió, con tàu được lệnh quay về đất liền. Ngành trưởng boong hồ hởi thông báo sau một hồi cộng trừ, tính toán: “Cả to lẫn nhỏ được 95 con cá ngừ đại dương, ngót nghét ba tấn tư; cá cờ, cá kiếm, cá thu không dưới hai tấn tám”. Thuyền trưởng hỉ hả:“Coi như lời hứa của tập thể tàu trước chỉ huy Hải đoàn khi giao nhiệm vụ đã được thực hiện”. Ai cũng thở phào thanh thản hướng về đất liền với một nỗi niềm khát khao thầm kín và mãnh liệt. Gần một tháng miệt mài trong công việc để hôm nay chợt nhớ về đất liền bằng một cảm xúc rưng rưng. 40 tiếng hành trình về bến dài gần bằng 28 ngày ngoài biển. Rồi Núi Lớn, Núi Nhỏ… của Vũng Tàu cũng hiện lên xa xa…

Tôi chợt nghĩ: có đi biển đối đầu cùng sóng gió, học cách đứng vững chãi trên mặt boong, học cách ăn trong khi con sóng nhồi dọc nhồi ngang; học cách nén cảm xúc vào công việc và học cả cách lèn chặt mình giữa những gối chăn cho tàu lắc bên này đập bên kia mà giữ cho giấc ngủ sâu, tiêu tán mệt nhọc… mới hiểu rõ những người đi biển sống thực thế nào.

Đất nước hình chữ S như một cơ thể mạnh mẽ ưỡn ngực ra Biển Đông, vùng biển trải đều trên ba nghìn km có hàng ngàn hòn đảo lớn nhỏ, xa gần, tựa như những pháo đài bất khuất, gần gũi mà thiêng liêng làm sao. Có một lần đến với biển, ăn ngủ làm việc trên những con tàu mới cảm thấy yêu sao những con người đang ngày đêm lênh đênh trên những con tàu kiên cường tiến ra biển, làm chủ biển.

Hơn 10 giờ sáng, tàu chúng tôi tiến vào cửa sông Dinh. Phía trước chúng tôi là một đoàn ghe của ngư dân khoảng 20 chiếc trong đám rước Lễ hội cá Ông, lễ hội thường niên của những người đi biển cầu an và cầu mong trúng mùa cá lớn.

Tàu rúc lên ba hồi còi chào cảng. Trong đám đông đón chào với những bàn tay vẫy, tôi nhìn thấy Xuân Vinh. Dẫu chân còn băng trắng nhưng anh vẫn cố bước qua chiếc cầu tàu đơn sơ xuống boong nắm chặt tay những người đồng đội của mình.

Tôi bước vội lên bờ, ngồi bệt xuống nền bê tông cảng, nhắm mắt lại hồi lâu. Mặt cảng nóng ran nhưng lại chòng chành cứ như tôi vẫn còn ngồi trên con tàu đang vượt sóng. Tôi chợt thấy cay cay nơi sống mũi vội đứng dậy ngửa mặt lên trời hít một hơi thật dài tràn căng lồng ngực và gọi thành tiếng: “Đất liền ơi!”. 

Khúc quê


Ngày đăng:  01/04/2012 5:00:00 SA 


Ông mổ những nhát cuốc xuống đất đồi vừa được thấm mưa hai hôm qua, những nhát cuốc kèm những lời chửi bới, thi thoảng ông dừng lại ngoảnh miệng vào, tức giận: Păm! Păm! Păm!

Ông vào chuồng bò mặt phừng phừng vừa xúc phân vào cái giành, vừa pằm pằm pằm, rồi ông bê nó đến chỗ đất vừa cuốc, nghiêng cái giành lắc, chia phân cho đất và pằm pằm pằm…

Những tràng păm păm pằm lẫn vào cây cối trên đồi, dưới ruộng, lẫn vào rất nhiều tiếng chiu chít của sẻ đồng, tan vào không gian.

Buổi chiều. Trong ngôi nhà bên kia đồi lại vọng ra những tràng rủa xả, ông đi ra thềm, lại lẫn vào trong nhà, lại đi ra thềm lải nhải, rủa rả.

Người hàng xóm nói, cái ông này chiều qua họp xã cũng to tiếng rồi, cơ khổ! Mà có lẽ lại rượu đấy! Từ tối qua đã nghe những tràng pằng pằng pằng...

Ông dậy từ sáng sớm, đó là thói quen nhiều chục năm nay. Ông bảo vì cái bỏ vào miệng mà phải lăn ra làm lụng. Trước đây dậy sớm làm việc này việc kia, bây chừ bắt đầu già, không ra bác, chẳng ra ông, dậy là ho khạc, ù ì, nghĩ ngợi. Bữa nay trở mùa, đau mỏi khắp, vợ hờn, lại “bỏ đi cho ông biết mặt”, kể lúc đau mỏi có vợ đấm bóp cho nghĩ cũng sướng. Nhưng ông biết, bà chỉ đi đến nhà con cháu chứ đi đâu, hờn dỗi dăm ba ngày lại về.

Sáng sớm tơ mơ không thấy gì, dậy là làm ngay cái nghi thức ấy. Ông tỏ ra quan trọng. Hàng chục năm nay, dậy là mò ra bụi chuối đái vào cái chum vỡ ngang, nước đái cũng phải quí, đỡ bao nhiêu phân tro, đi đâu buồn đái thì thôi, nếu sắp về nhà rồi thì kiểu gì cũng nhịn mang về cho cái chum vỡ. Sướng chứ. Sự tồn tại, hứng đựng của nó thế mà đáng nghĩ, hàng chục năm gắn bó với nó, quen lắm. Ai lại gắn với vại nước tiểu đến vậy. Ông thấy phải coi trọng nó, nó còn có ích hơn chán vạn đứa được làm người.

Gió mùa về rần rật, lạnh, tối qua trật nghe thời tiết, dạo này không hiểu sao không chăm chú được, đang nghe ti vi mà nghĩ lung tung khi nào. Vài năm lại đây mua được cái ti vi đen trắng, dậy sớm, thêm thói quen mở ti vi. Dạo đầu còn ham chứ thật thì ông nghe ti vi cũng mệt, nhìn nhòe mắt, mà nghe cũng không hiểu cho lắm, có lẽ ông kém sức. Lúc khỏe, thức sớm, đi cày sớm, cày một chặp rồi lên bờ ngồi ăn uống hút xách, khoai lang nước chè cũng thấy sướng, giờ làm gì cũng thấy sức hèn, những cái sướng mất hết dần, đôi lúc nhớ đến mà thèm ngẩn.

 Bữa nay dậy, trời lạnh, nhóm lửa lên rồi ngồi lỳ ra mãi, rét mướt mà có ngọn lửa thì sướng, tự nhiên nhớ ra món khoai lang nấu với nếp, xéo dẻo. Lâu lắm rồi bỗng thấy thèm cái món này vô kể, thế đấy, đời chỉ có những chuyện vặt vãnh thế thôi.

Mặt trời lên quá một cây sào, ông ra vườn ngó nghiêng rồi vô chuồng dắt bò đi, dáng ông gầy nhỏ bên con bò mông đít đủng đỉnh, nó dừng bước nghếch cổ ọ lên một tiếng vang dài.

- Ông Ngạc ơi, đi họp.

- Họp chi lắm, còn phải cho bò ăn.

Ông hàng xóm gọi oang oang, có lẽ không nghe ông Ngạc nói lại vì cứ đạp xe tơi tới.

- Ông Ngạc ơi, họp, họp.

Lại một ông hàng xóm nữa kêu đi họp, ông Ngạc đã cho bò xuống bờ ruộng đầu kia. Những âm thanh vọng lại: Pằm pằm pằm…

Xòm Ươn


Ngày đăng:  26/03/2012 2:43:49 CH 


Sóc Tà Peng Ruông sau trận càn của bộ binh, rồi xe tăng Mỹ chà xát, nhiều người dân bị thương trong lúc đang chạy vô chùa lánh hạn. Khi xe tăng rút đi, quân y cử tôi cùng anh Dũng bên khoa ngoại đi cứu chữa cho bà con. Từ căn cứ trong rừng tràm ra tới sóc dân hơn ba cây số. Sau khi băng bó vết thương, cho thuốc kháng sinh, thuốc giảm đau xong, chúng tôi giao lại cho đội cấp cứu của địa phương. Nhưng đơn vị vẫn phân công tôi hàng ngày đi thay băng, theo dõi sự hồi phục của những người bị thương.

Khoảng 10 giờ sáng, không nghe bên báo vụ báo tình hình có động, nghĩa là địch chưa có kế hoạch đánh vùng này. Đang là tháng 10 dương lịch năm 1970. Dân ở đây trồng tràm bằng cách lên mô đất, trồng thẳng hàng, các khe đường mương nước mưa đầy ắp, đi phải lội bộ, nước có chỗ tới lưng quần, nhưng không có xuồng vì đây không phải là vùng sông nước.

Như thường lệ, tôi đi một mình. Thùng thuốc, khẩu AK, băng đạn, thêm hai trái lựu đạn mãng cầu nên mang khá nặng. Đi được khoảng nửa đường, nghe âm âm từ hướng biên giới Việt Nam tiếng máy bay khu trục bay đến càng lúc càng gần. Do đang mùa mưa nên hầm hố bị lạng đi nhiều. Đơn vị tôi lại vừa chuyển qua điểm khác sáng nay nên muốn quay lại cứ cũng không được. Đám khu trục đã bắt đầu dội bom từ rừng trúc ra sóc dân. Tôi lội hết sức tới một gò mối không lớn lắm, có một công sự tôi với anh Dũng mới đào hôm trước. Chui xuống công sự một mình sợ thiệt. Tôi cứ đưa mặt chỗ miệng công sự quan sát. Sáu chiếc khu trục bấm bom tọa độ phía rừng trúc, kéo dài theo đường tràm, hướng về phía chùa lớn Tà Peng Ruông.

Tôi chui lên, men theo đường mương tràm vô sóc. Lúc đó nghe tiếng lội gần tôi lắm. Nước động mạnh, tôi ngồi thụp xuống mương tràm. Băng đạn, khẩu AK, thùng thuốc đã cuộn hết vô tấm nylon kéo theo trên mặt nước. Tôi nín thở. Rừng tràm tối âm u, cộng với khói bom cháy từ rừng trúc, rừng tràm chồi, lại thêm tiếng dội của bom, tiếng nổ của các loại cây rừng nên không thấy, không nghe tiếng gì rõ cả. Bom vẫn dội ầm đùng phía bìa rừng tràm. Chết! Nó sắp bỏ tới đây rồi! Ngang qua trước mặt tôi, tôi thấy một cô gái cõng trên lưng một người bị thương. Nhưng loạt bom tới đã nhồi chúng tôi như nhồi bột. Tôi hét to:

- Chị gì ơi! Đem người bị thương lên gò mối đi…

Cô gái mắt sáng lên, mừng như đang té giữa biển nước níu được phao. Một loạt bom nữa gần hơn, nước dội lên cuồn cuộn. Hai tay tôi với cô gái nắm chặt, ôm người đó ở giữa. Bom làm chúng tôi tức ngực, bị sàng qua sàng lại như ngồi xuồng. Người bị thương mặt tái nhợt, mềm nhũn, bất động. Máu từ vết thương ở bụng dưới cứ tuôn ra. Tôi lấy bông gòn trám kín vết thương, rồi cứ bụm bàn tay thật chặt không cho chảy máu nữa. Chắc phải đến nửa tiếng lũ giặc trời mới bỏ đi. Lúc đó, tôi với cô gái dìu người bị thương ra khoải rừng tràm, đặt anh ta lên gò đất cao, kéo thẳng tay chân, coi khắp người có bị thương chỗ nào nữa không. Lúc đó, cô gái mới hỏi tôi:

- Cô giáo Phượng không nhìn ra em sao?

- Ôi, em Xòm Ươn tóc dài đây mà… Mà em gặp người này ở đâu vậy?

- Dạ, sáng nay em với cha đi thăm bà ngoại, cha biểu em về trước còn cha ghé chợ. Em đang đi thì máy bay bắn tới. Em chạy vô rừng tràm, thấy anh này nằm kế một cái công sự. Em nghĩ, nếu đem ảnh xuống công sự, một lát kéo lên không nổi, nên cõng ảnh lần theo đường mương đi về phía chùa…

- Được rồi, tim anh ấy đập mạnh hơn hồi nãy một chút rồi, em lấy thuốc trợ tim chích cho anh ấy đi, rồi rút nắm gòn ra, nếu còn chảy máu thì chích thuốc cầm máu.

Cô gái hỏi rụt rè:

- Cô giáo cho em làm hả?

Cô gái tên Xòm Ươn là học trò lớp cứu thương do ông sóc trưởng nhờ bộ đội Việt Nam hướng dẫn về sơ cấp cứu khi có đồng bào bị thương. Tôi là một giáo viên dạy băng bó. Trong trận bom đánh trúng chùa, dân bị thương nhiều, Xòm Ươn cùng tôi và anh Dũng cấp cứu, sơ cứu cho mọi người. Con gái Khmer không để tóc dài, nhưng Xòm Ươn thì ngoại lệ. Cô thích để tóc từ nhỏ. Giờ đang tuổi mười chín, tóc sắp chấm gót chân. Xòm Ươn là cô học trò thông minh, học tiếp thu nhanh nhất, như hôm nay thực hành trên cơ thể người bị thương cô làm rất thuần thục, nhanh gọn.

Phải gần một tiếng đồng hồ người bị thương mới tỉnh. Anh đòi uống nước. Tôi lấy bông gòn thấm nước trong bi đông đưa cho Xòm Ươn:

- Em nhỏ chừng bốn năm giọt thì ngừng. Sau đó cho uống từng giọt nhiều hơn một chút, cho đỡ hóc cổ thôi, chớ uống nhiều, vết thương ra máu lại là chết đó.

Lấy băng cuộn thấm nước lau mặt cho người bị thương, tôi hỏi:

- Anh tên gì? Có phải là bộ đội không?

Anh chưa nói gì. Đôi mắt đã khá lanh lợi. Anh cứ nhìn tôi và Xòm Ươn lạ lắm. Chúng tôi chưa hiểu chuyện gì. Anh cười, cái môi khô nứt rãn ra chắc đau lắm nên nhăn nhó, tay ôm vết thương nằm dưới sườn bên trái, cố gắng lắm anh mới nói được, giọng khàn đặc:

- Mặt… hai… chị…

Lúc đó tôi mới nhớ hai đứa chưa rửa mặt. Nào đất, nào bùn, nào bụi khói bom, chắc nhìn giống thổ địa lắm. Chúng tôi rửa, lau mặt rồi, người bị thương nhìn chúng tôi rất thân thiện. Và anh dừng mắt thật lâu trước gương mặt Xòm Ươn. Cô gái quả rất xinh đẹp. Khuôn mặt cô trắng hồng chứ không đen giống các cô gái Khmer khác. Trên khuôn mặt tròn, có đôi mắt to và nét nào cũng rõ ràng: cặp chân mày đậm nhưng mảnh, lông mi dày cụp xuống, cái mũi cao thẳng, cái miệng khắc đôi môi trái tim lúc nào cũng như đậu sẵn nụ cười. Thấy người bị thương nhìn Xòm Ươn như thôi miên, tôi hỏi nhắc lại:

- Anh cho tôi biết, anh có phải bộ đội không? Anh ở đâu?

Lúc đó anh mới bừng tỉnh:

- À, phải, phải. Tôi tên Kỳ, ở Quân giới của Quân khu 2. Tôi đi công tác lẻ, pháo bắn bị thương. Tôi nhớ mình bò, trườn lâu lắm… Không biết lúc nào cứ có cảm giác bồng bềnh giống như được ai cõng vậy… Khi tỉnh lại thấy cô gái này cho tôi giọt nước…

Nhìn lưng áo và xà rông của Xòm Ươn còn dính đầy máu, Kỳ ngừng nói, vẻ mặt thật xúc động:

- Bây giờ tôi mới biết là… cô gái này đã…cõng tôi… qua trận bom ác liệt vừa rồi…

Phải tính chuyện đưa anh Kỳ tới trạm nào đây. Quân y thì cách chỗ này mười cây số. Đơn vị anh Kỳ chuyển địa bàn liên tục, nhất thời chưa tìm được. Đơn vị tôi cũng mới chuyển đi nơi khác. Tôi còn đang phân vân thì Xòm Ươn đề nghị:

- Cô giáo à! Em nói cái này. Hay cứ đưa anh bộ đội tới nhà em đi…

- Bộ binh càn, làm sao em giấu anh ấy được.

- Không sao đâu! Nó mới càn qua chắc chưa đánh nữa đâu. Em chăm sóc ít hôm cho anh đỡ rồi tính tiếp.

Ba lô của anh Kỳ đã cháy mất hết. Tôi với Xòm Ươn lột vỏ cây tràm do chủ rừng đốn còn ngâm nước bỏ đống dưới đường mương, cột võng của tôi vô, hai đứa khiêng anh Kỳ về nhà Xòm Ươn. Riêng tôi đơn vị chưa nhắn tin nên vẫn ở lại sóc Tà Peng Ruông giúp trị bệnh cho bà con Khmer. Thời gian đó tôi giao thùng thuốc, dụng cụ, bông băng cho Xòm Ươn và hai cô học trò nữa tự xử lý bệnh, băng rửa vết thương, tôi chỉ kiểm tra, chỉ bảo thêm. Không thấy ai liên lạc, thì ra giặc đang có cuộc càn dài ngày vô sóc Tà Peng Ruông. Xòm Ươn có anh cả tên Ka Long, là thầy giáo dạy học trường gần xã. Anh về bảo:

- Con gái Khmer không để tóc dài, mày để mai mốt lính Mỹ - Ngụy đánh vô nó nói mày là Việt Cộng nó giết cha mẹ, giết hết cái sóc này, mày phải cắt  tóc đi…

- Cho em để tóc dài em bới lên được không anh Ka Long?!

- Thì anh nói vậy đó, mày nghe hay không tùy mày, có điều không được mang điều ác tới bà con phum, sóc.


Thật ra, mấy lần cha đã bảo Xòm Ươn cắt tóc rồi. Cô sợ và cũng đã xiêu lòng tính cắt bỏ tóc. Nhưng từ ngày cô gặp bộ đội nữ Việt Nam… Ôi, tóc người nào người nấy dài như suối, đen mượt… Cô lại quyết tâm không cắt nữa. Có lần, Xòm Ươn than với tôi:

- Em thích tóc của cô, của bộ đội nữ lắm. Em cũng muốn giữ mãi tóc của mình, nhưng anh hai Ka Long rầy lắm, anh không cho.

Lần này anh Ka Long rất kiên quyết. Xòm Ươn khóc như mưa. Anh Kỳ còn yếu lắm nhưng cũng đi tìm tôi. Tôi đang dạy hát múa cho đám trẻ bên sân chùa. Khi nghe rõ đầu đuôi, tôi nghĩ: Ka Long nói như vậy mình cũng phải khuyên Xòm Ươn thôi.

Anh Ka Long còn nói tiếp  hết sức rõ ràng:

- Cắt ngắn rồi phải đem tóc đó đi đốt, chớ không được cất trong nhà. Đã có người ở sóc kế bên, tiếc tóc, cất trong tủ, lính Ngụy lục soát được, nó nói cô gái đó là bộ đội giả dạng con gái Khmer hoạt động hợp pháp. Nó bắn chết cả nhà, rồi đốt hàng xóm nữa…

Chơi thân với Xòm Ươn, nên thường ngày tôi cũng gọi cha mẹ cô là cha mẹ. Tôi vào cuộc bằng cách thắp ba nén nhang trên bàn thờ ông nội Xòm Ươn, rồi quay lại nói:

- Thưa cha, thưa mẹ, thưa anh Ka Long. Thời gian con và anh Kỳ sống ở đây được gia đình ta và bà con trong sóc giúp đỡ rất nhiều. Con biết lúc này đây gia đình cũng không muốn làm cho em Xòm Ươn buồn. Nhưng Xòm Ươn à! Dù nhỏ hơn cô có hai tuổi, mà đã gọi là cô, thì hãy nghe cô giáo khuyên em nghen: Cô với anh Kỳ phải đi rồi. Nếu có giặc càn vô đây chúng tôi không giúp được gì cho bà con, có khi còn gây nguy hiểm cho mọi người. Thời gian gần một tháng ở đây, chúng tôi giúp bà con đào hầm trú ẩn, đào công sự trong vườn nhà, vườn chùa… Xòm Ươn cùng các anh chị trẻ ở đây phải biết tự bảo vệ mình, bảo vệ sóc, phum của em.

- Cô ơi, còn tóc của em? Đem đốt sao?

Lúc đó, anh Kỳ xúc động cao độ, anh bước tới trước mặt anh Ka Long nói:

- Thưa anh Ka Long, cô Xòm Ươn đã cứu tôi thoát chết, còn chăm sóc tôi thời gian qua thật chu đáo, chân tình. Tôi nghĩ một người con gái gan dạ, có tấm lòng nhân hậu như thế là được sự giáo dục rất kỹ càng, khuôn phép của gia đình. Hôm nay tôi nhờ anh xin phép hai bác cho tôi được giữ tóc của cô Xòm Ươn làm kỷ niệm.

Tôi toát mồ hôi hột. Đây là điều cấm kỵ, vì như vậy sẽ mất duyên con gái người ta… Tôi lo sự phản ứng của gia đình làm ảnh hưởng tới quan hệ tốt đẹp của bộ đội Việt Nam và nhân dân Khmer trong sóc. Nhưng không ngờ cha lên tiếng:

- Tao thấy thằng bộ đội đó nó hiền, lại đứng đắn, tao bằng lòng để nó giữ tóc cho con gái tao.

Tôi thở phào nhẹ nhõm cả người. Mẹ đã đưa tôi cây kéo. Quả thật, tôi không nỡ đoạn mái tóc dài gần chấm gót của Xòm Ươn. Nó dài, đen bóng, mượt như nhung. Gần như không có một sợi nào so le cả. Xòm Ươn nói với tôi trong nước mắt:

- Từ nhỏ tới giờ, mẹ vò lá rau muống vắt lấy nước cho em gội đầu…

Tôi vỡ lẽ… Thảo nào mà tóc Xòm Ươn đẹp, dày như thế… Phải đến gần hai tiếng đồng hồ mới đoạn được tóc của Xòm Ươn. Bà mẹ đỡ mớ tóc dài của con gái, nói với anh Kỳ:

- Người Khmer có tục đốt tóc chứ không chôn. Bây giờ mẹ trao cái tóc dài này cho bộ đội. Bộ đội Kỳ hãy giữ giùm cho con gái của mẹ. Cầu cho bộ đội mau lành vết thương, mạnh khỏe để đi đánh thằng Mỹ, đừng cho nó vô giết bà con Việt Nam cũng như bà con Khmer nữa. Mẹ cảm ơn bộ đội.

Bà rút hai sợi buộc chặt phía đầu mới cắt rồi trân trọng đỡ đuôi tóc bằng hai tay trao cho anh Kỳ…

*     *


*


Địch đánh vào sóc Tà Peng Ruông thật. Tôi với Kỳ phải trở về đơn vị. Kỳ biết tiếng Khmer không nhiều, nhưng trước khi chia tay, anh Ka Long cho phép Kỳ và Xòm Ươn gặp nhau nói chuyện. Anh Kỳ hỏi Xòm Ươn có muốn lấy tóc lại không. Cô trả lời:

- Không đâu, anh cứ giữ giùm em đi. Khi nào Mỹ không còn đánh nữa anh cho em xin lại.

Cuối năm 1971, tôi có dịp đi công tác về sóc Tà Peng Ruông ghé thăm gia đình Xòm Ươn, cả nhà đã chuyển ra chợ xã buôn bán. Có chú hàng xóm tới đưa cho tôi khúc ống tre hơn gang tay, vòng tròn đo hơn mười phân. Chú hàng xóm nói:

- Giặc Mỹ bỏ bom,  rồi hai ngày sau tôi lượm được cái này sau vườn chùa. Cô là bộ đội Việt Nam, tôi gởi cô coi giùm cái gì trong đó, rồi gởi cho chủ của nó giúp tôi.

Tôi bần thần, không gặp được Xòm Ươn, lại không gặp được anh Kỳ. Trời đã về chiều, tôi cám ơn chú hàng xóm rồi chia tay mấy em học lớp cứu thương khi trước, trở về căn cứ…

Tuy ống tre bị cháy nám đen nhưng dòng chữ ghi bằng nước sơn màu đỏ đậm vẫn đọc được. Tôi đọc mà lòng xúc động, mắt rưng rưng nhòa lệ.

“Tóc em dài không biên giới, Xòm Ươn thương mến của tôi”.

Tôi kiên trì nhắn tìm anh Ka Long và biết anh đã chuyển lên dạy học ở trường huyện.

Sợ thất lạc ống tre, tôi phải nhờ một em gái học trò cũ trao tận tay anh Ka Long. Ít lâu sau tôi nhận được thư của chính Xòm Ươn viết:

- Cô giáo ơi! Em nhận được ống tre cô gởi cho em rồi. Nhưng anh Kỳ đâu hả cô? Cô bảo ảnh viết thư cho em nghen, chữ Việt Nam cũng được, miễn nét chữ giống như trên ống tre là em biết ảnh viết gì rồi…

Em chúc cô mạnh khỏe, đẹp mãi, trẻ trung mãi… Em rất mong tin… của bộ đội… Kỳ…

Tôi bâng khuâng như mất mác điều gì rất quý báu. Tôi tìm mãi mà không biết Kỳ ở đâu. Nhưng tôi vẫn thầm báo với Kỳ: Suối tóc dài không biên giới của anh đã về đến tay chủ cũ của nó…


Đêm xuân


Ngày đăng:  22/01/2012 5:00:00 SA 


1.
Sau trận đánh vào chi khu quân sự Cam Lộ trong dịp Tết Mậu Thân, đại đội tôi được lệnh lùi ra xây dựng trận địa chốt trên một mỏm núi có tên Mõm Ngựa. Gọi thế bởi cái mỏm ấy nằm ở điểm tận cùng của một dãy núi, trông hao hao dáng một con ngựa đang phi nước đại. Vào những hôm thời tiết xấu, thường có một đám mây trắng vần vũ quanh mỏm núi, khiến tôi cứ luôn nghĩ con ngựa chiến ấy, đã mệt mỏi đang thở phì phò, sùi cả bọt trắng ra hai bên lỗ mũi.

Trong đội hình phòng ngự của đại đội trên Mõm Ngựa, tiểu đội tôi được bố trí ở điểm ngoài cùng, nơi có hai cái hang đá - chỗ hai lỗ mũi của con ngựa. Một hang dành riêng cho đài quan sát của đội trung đoàn, một hang do tiểu đội tôi chốt giữ. Nhiệm vụ của chúng tôi là bảo vệ khu vực ngoài cùng của Mõm Ngựa và bảo vệ đài quan sát.

Chúng tôi chỉ biết đài quan sát bố trí ở cái hang cao hơn, gọi là hang trên, tiểu đội chúng tôi sẽ bố trí trận địa trước cửa hang dưới. Hành quân leo núi suốt buổi, chừng bốn giờ chiều thì chúng tôi tới nơi. Nhìn thấy hang tối om, cậu Lân lắc đầu quầy quậy: “Em không chui vào cái hang ấy đâu! Ai biết trong ấy có bao nhiêu loại rắn rết?”. Tiểu đội trưởng Lưu nhìn những vỉa đá trước cửa hang rồi quả quyết đặt ba lô xuống.

- Cái hang này rất “lí tưởng” để xây dựng trận địa phòng ngự.

 Nói rồi anh chui vào, một lát sau anh lộn trở ra, nhăn nhó:

- Toàn cứt dơi! Tởm không chịu được chúng mày ạ.

Tuy rất ngán mùi phân dơi, nhưng chúng tôi vẫn phải chọn cái hang làm nơi trú ẩn. Cao điểm này có cấu tạo địa chất nửa đất nửa đá, chỉ có thể khoét được vài cái công sự chiến đấu chứ đào hầm tránh bom tránh pháo sẽ rất khó khăn, hễ đào sâu xuống chừng hơn một mét là gặp đá tảng rồi.

- Bắt tay vào việc thôi. Trời tối sập xuống bây giờ.

Tiểu đội trần lưng ra dọn dẹp chừng hơn một giờ đồng hồ thì tạm ổn, riêng cái mùi phân dơi thì tiểu đội trưởng bảo phải đợi đến khi trời tối, có sương mù, đốt lửa lên hun thì may mới cải thiện được tình hình. Tiểu đội phó Nga chọn ngách trong cùng của hang, trải lá làm đệm, nằm vắt chân chữ ngũ nhìn lên mấy cái nhũ đá, hả hê tuyên bố:

- Nằm trong này chắc gáo phải biết, chúng mày ạ. Bom tấn của thằng Mỹ cũng là muỗi!

Tiểu đội trưởng Lưu chỉ ra cửa hang:

- Nhưng cửa hang này nằm đúng hướng pháo địch từ phía Cam Lộ - Đông Hà tương lên. Nó cho một quả thì ra bã hết!

Tiểu đội phó nhấm nhẳn đáp:

- Nó bắn cả trăm quả chắc gì đã trúng cái lỗ này. Mà trúng… chắc gì đã bị thương… bị thương cũng chưa chắc đã chết!

Tiểu đội trưởng Lưu nhăn mặt.

- Lý với chả lẽ. Nằm đấy mà lý sự cùn, hối mấy đứa xuống suối lấy nước đi. Trận địa còn chưa bị lộ nên mới dễ thở thế này. Nay mai, khéo không mò xuống lấy được nước mà uống đâu.

Tiểu đội phó Nga uể oải ngồi dậy khoát tay chỉ tôi và cậu Lân.

- Hai thằng thu tất cả bi đông của tiểu đội rồi theo tao xuống suối lấy nước. Nước còn trong bi đông nhớ đổ vào cái xông B để tối nấu cơm.

  Tôi gom chín cái bi đông lại đeo lủng lẳng quanh người. Lân nhìn lũ bi đông chép miệng. “Vẫn còn đủ cả chín cái bi đông nhưng tiểu đội chỉ còn bảy thằng”. Tiểu đội phó Nga gằn giọng “Vớ vẩn! Còn bảy thằng là nhiều đấy. Tiểu đội 7 chỉ còn ba đứa thì sao?”.

Tôi và Lân không nói gì nữa, lúc cúc đi theo tiểu đội phó. Đi mất chừng ba mươi phút, chúng tôi mới tới khe suối. Rừng chiều yên tĩnh lạ lùng, nghe rõ cả tiếng suối chảy róc rách, tiếng gió ào qua tán rừng xào xạc. Không một tiếng pháo kích. Lũ máy bay trinh sát OV10 cũng đi đâu hết cả. Từ sáng tới trưa lúc nào chúng chẳng vo ve trên bầu trời? Tôi bỗng nhớ ra một điều không đâu.

- Anh Nga ơi, hôm nay mới là mồng ba Tết đấy.

- Tết nhất cái con khỉ! Múc nước nhanh lên để còn về hang. Yên tĩnh thế này là sắp có chuyện đấy.

Có chuyện thật. Chúng tôi chưa kịp về hang thì bỗng nghe có tiếng rú trên đầu - B52 rồi! Nằm xuống đi! Tiểu đội phó Nga hét lên. Ngay sau đó là tiếng bom nổ rền, mặt đất rung lên bần bật. Dứt ba loạt bom, tiểu đội phó Nga bật dậy:

- Bom xa, về hang ngay!

Chúng tôi vừa kịp lao vào hang thì loạt bom tiếp theo nổ rền. Lần này gần hơn rất nhiều. Có lẽ ngay mé bờ suối, nơi chúng tôi vừa lấy nước. Tiểu đội trưởng Lưu đứng bên cửa hang nhìn ra phía những đụn khói đang đùn lên, gật gù:

- Số các cậu còn đỏ lắm! Không mất cái bi đông nào chứ?

Chúng tôi kiểm lại, không mất cái bi đông nào.

2.

Trời chưa tối nhưng cao điểm đã chìm trong sương mù. Sương mù dầy đến nỗi nước đọng thành hạt lã chã trên những tán cây. Trời rất lạnh. Chúng tôi gom được một ít củi khô đưa vào hang. Tiểu đội trưởng Lưu hạ lệnh nổi lửa, vừa nấu cơm, vừa sưởi ấm.

Tiểu đội vừa ăn cơm tối xong thì có khách tới thăm. Đó là hai anh bên đài quan sát của trung đoàn sang chơi. Một anh tự xưng là Tu, trợ lí tác chiến của trung đoàn hỏi:

- Các cậu có bị ảnh hưởng gì bởi trận bom hồi chiều không?

- Ổn cả. Nó mới chỉ ném bom phía dưới chân cao điểm thôi. Các anh không sao chứ?

- Không sao. Nhưng mới chỉ là khúc dạo đầu thôi. Cấp trên vừa có điện nhắc nhở bọn mình phải cẩn thận. Có vẻ như chúng nó đã dò ra đài quan sát của ta. Rồi anh chỉ vào người đi cùng.

- Đây là cậu Khai, tổ trưởng trinh sát pháo binh. Bọn Mỹ trên căn cứ 241 và trong Đông Hà - Cam Lộ đang điên đầu vì bị pháo của ta nện cho mấy trận ra trò. Tổ trinh sát của các cậu ngồi trên này từ đầu chiến dịch, làm ăn khá lắm.

ôi nhìn anh tổ trưởng trinh sát pháo cứ thấy ngờ ngợ, lát sau mới dám rụt rè hỏi:

- Em… nom anh quen quen… có phải anh là… thầy Khải không ạ?

Anh tổ trưởng trinh sát nhìn tôi một lát rồi gật đầu.

- Mình đúng… từng là thầy giáo… chẳng lẽ cậu quê Phúc Thọ?

- Thế thì đúng rồi… thầy là thầy giáo dạy toán của bọn em hồi em học trường cấp 2 Phụng Thượng…

- Phải rồi… mình từng dạy mấy năm ở Phụng Thượng trước khi đi bộ đội. Sao mình… không nhận ra cậu nhỉ?

Tôi lúng túng:

- Em học lớp 7B. Hồi đó… em học toán hơi kém… thầy… cho em xơi ngỗng suốt.

Thầy Khải cười:

- À… học toán kém một chút… nhưng  ra chiến trường thì cũng chẳng sao - Thầy vỗ nhẹ vào vai tôi - Bộ binh cũng ít phải tính toán mà. Cứ nâng súng nhằm thẳng vào thằng Mỹ rồi xiết cò… pằng… pằng… Thế cậu đã hạ được thằng Mỹ nào chưa?

- Em chưa… vừa rồi… đại đội em làm đơn vị dự bị. Sau trận toàn đi tải thương với khênh người chết! Chả biết bao giờ mới được đánh một trận ra trò.

- Rồi cậu sẽ sớm được đánh giáp lá cà với bọn Mỹ thôi. Chỉ có cánh tớ là chắc chẳng khi nào có dịp. Biết tính toán tí chút nên vào bộ đội tớ liền bị điều về làm kế toán cho pháo binh. Ra trận nửa năm nay rồi mà chưa biết mặt thằng Mỹ nó vuông hay tròn. Suốt ngày lại vẫn quẩn quanh với những con số, với bảng Lôgarit, thước kẻ, êke… Vẫn y như thời làm giáo làng.

- Trận vừa rồi pháo mình bắn hay lắm. Bọn bạn em ở đại đội đột kích nó kể thế. Là do trinh sát pháo các thầy tính toán giỏi thôi.

- Đúng thế đấy - Anh trợ lí tác chiến xác nhận - Đài trinh sát này làm nhiệm vụ chỉ thị mục tiêu cho pháo binh bờ Bắc. Trận vừa rồi pháo bờ Bắc bắn rất chuẩn. Do công của thầy giáo cậu cả đấy!

  Tôi không biết việc tính toán đường đạn cho pháo bắn nó khó thế nào, nhưng tôi tin thầy giáo của tôi nhất định phải rất giỏi tính toán. Hồi còn đi học, từ cấp một đến cấp ba, tôi đều sợ môn toán. Kì kiểm tra nào vượt qua được điểm trung bình là tôi mừng lắm rồi.

- Thầy còn nhớ cậu Dũng không ạ? Dũng “sậy”. Cái thằng cao ngổng cao ngồng ấy. Nó là học sinh giỏi toán chắc thầy phải nhớ chứ?

- Nhớ… nhớ. Dũng 7B thì mình nhớ. Cậu ấy đi thi học sinh giỏi của tỉnh đoạt giải nhì cơ mà. Chắc chắn cậu ấy sẽ đi theo con đường toán học.

Tôi thở dài buông một câu:

- Cậu ấy… chết rồi thầy ạ.

Thầy Khải sửng sốt.

Chết rồi à? Nó… cũng đi bộ đội à?

- Cùng đi một đợt với em… nó đã có giấy báo đi học nước ngoài. Nhưng… không hiểu sao cứ nằng nặc đòi đi bộ đội…

- Tình nguyện à? Sao cậu ấy lại… nông nổi thế. Sau này… đất nước sẽ cần đến rất nhiều những tài năng toán học… mà nó cũng… hi sinh trong trận Cam Lộ hôm mồng một Tết vừa rồi à?

- Không ạ. Nó bị vì pháo địch bắn trúng đội hình hôm đi lấy gạo để chuẩn bị vào chiến dịch.

Thầy Khải bỗng thở dài, lẩm bẩm.

- Vớ vẩn hết sức!

- Em cũng thấy… vớ vẩn quá.

Chúng tôi ngồi bên bếp lửa trò chuyện một lúc thì thầy Khải và anh trợ lí tác chiến ra về.

Khách vừa ra khỏi hang, thằng Lân đã chọc tôi:

- Thầy trò nhà cậu sao thế? Gặp nhau ngoài chiến trường mà khách sáo quá!

- Thì tớ cũng nhận ra ông ấy đấy chứ… Bây giờ thì ông ấy hiền thế, chứ hồi còn dạy bọn này, ông ấy cũng dữ dằn lắm.

Tiểu đội trưởng Lưu tiễn khách về rồi quay vào nhắc:

- Thôi, đi ngủ lấy sức ngày mai còn đào trận địa. Đứa nào đến phiên gác thì phải ra cửa hang cảnh giới chứ không được ngồi bên bếp lửa mà ngủ gật đâu nhé. Trợ lí tác chiến vừa nhắc phải cảnh giác với bọn biệt kích thám báo đấy.

Tiểu đội phó Nga buông một câu.

- Có cho kẹo chúng nó cũng chẳng dám mò lên đây!

- Ngay khi đánh bom rải thảm xong là chúng nó bắn pháo liên tục để ngăn ta di chuyển, khắc phục hậu quả. Vậy mà từ chập tối tới giờ, tịnh không thấy quả pháo nào rơi vào dãy cao điểm này. Không chừng đám biệt kích Mỹ đang bò lổm ngổm ngoài kia rồi cũng nên. Vậy nên, súng đạn lúc nào cũng phải sẵn sàng.

Cắt gác xong, tiểu đội đi ngủ. Chỉ một lát, trong hang đá lạnh, thum thủm mùi phân dơi đã vang lên tiếng ngáy của những người lính. Chúng nó ngủ ngon thật. Riêng tôi, phần vì lạnh, phần vì cuộc gặp gỡ bất ngờ với thầy Khải khiến tôi trằn trọc mãi. Nhớ Dũng “sậy” quá. Nó chết thật bất ngờ và tức tưởi với cái ba lô chật căng, nặng trĩu những gạo, cá khô, ca la thầu, mắm kem… Nói thật, chết thì ai mà chẳng sợ, nhưng là người lính mà phải hi sinh ở tuyến sau thì thật đáng tiếc. Lúc chiều, khi nằm tránh bom, tôi cũng sợ phát khiếp khi nghĩ mình có thể chết với đống bi đông nước lủng củng trên người. Nhưng có lẽ chiến tranh là thế, ai có thể chọn được cho mình thời điểm phải hi sinh, ai có thể tự chọn cho mình tư thế khi ngã xuống dưới mưa bom, bão đạn?

3.

Tiếng súng nổ ran vào lúc nửa đêm đã bất ngờ dựng cả tiểu đội chúng tôi dậy. Tiểu đội trưởng Lưu đoán việc như thần. Đám biệt kích Mỹ vẽ mặt đã mò lên cao điểm. 

- Tất cả sẵn sàng chiến đấu! - Rồi anh quay sang tôi - Cậu và Lân giữ cửa hang. Anh em còn lại theo tôi lên chi viện cho đài quan sát.

- Cho em đi với!

Tôi gọi với theo, nhưng tiểu đội trưởng đã cùng anh em trong tiểu đội mất hút trong màn sương dày đặc. Một lát sau, từ trên đỉnh núi vang lên vài loạt súng. Những tiếng súng lọt thỏm trong màn sương dày, yếu ớt và hiền lành. Có vẻ vô hại như những tiếng pháo tép trẻ con thường chơi vào những đêm xuân.

Nửa tiếng sau tiểu đội trưởng Lưu cùng cả tiểu đội trở về, người nào người nấy ướt sũng sương đêm. Tôi và Lân cời lửa lên, bỏ thêm củi để anh em hơ quần áo.

- Anh em trên ấy bắn gục được ba thằng Mỹ - Tiểu đội trưởng vừa tháo giày ra vừa hướng về phía tôi thông báo - Nhưng bọn nó cũng đã kịp quăng hai quả lựu đạn vào hang của đài quan sát. Thầy giáo của cậu bị thương rồi.

Tôi dợm đứng dậy theo phản xạ.

- Anh em trinh sát đưa ông ấy về tuyến sau rồi. Ông ấy bị vào bụng, mất hơi nhiều máu. Nhưng chắc là không sao đâu.

- Chắc là thế…

Tôi lí nhí nói theo mà cũng chẳng hiểu sao mình lại tin thế. Tôi tin thầy giáo tôi không thể chết. Một ngày nào đó thầy sẽ trở về đài quan sát, tiếp tục những bài toán phức tạp của mình. Những bài toán sẽ gieo rắc cái chết và sự kinh hoàng lên đầu kẻ thù bởi sự chính xác đến lạnh lùng của nó.

Còn tôi, tôi vẫn chưa làm được gì. Chưa nổ được một phát súng nào về phía kẻ thù, ngay cả khi thầy giáo của tôi đang gặp nguy nan. Hình như tiểu đội trưởng hiểu được tâm trạng của tôi, liền bước tới vỗ vai an ủi.

- Yên trí đi. Còn nhiều dịp mà. Cờ bạc ăn nhau về sáng!

Sau một hồi ồn ào, cả tiểu đội đi ngủ lại. Chỉ một lát chúng nó lại gáy vang. Riêng tôi, vẫn không sao ngủ được. “Cờ bạc ăn nhau về sáng”. Sao tiểu đội trưởng của tôi lại an ủi tôi bằng một câu lạ lẫm như vậy nhỉ?

Tết nhà nghèo


Ngày đăng:  25/01/2012 2:00:00 CH 


Sa

u này, khi đã đi nhiều nơi, chứng kiến nhiều cách ăn tết, tôi nhận ra, càng nghèo càng mong đến tết. 

Hồi nhỏ, ba anh em tôi hay đếm ngược. Hôm nay còn chín mươi ngày nữa là tới tết. Hôm nay còn bảy mươi sáu ngày. Hôm nay còn ba mươi tám ngày …

Lớn lên một chút, hai anh đi học xa nhà, còn mình tôi đếm ngược. Bấy giờ, đếm ngược còn thêm một niềm mong mỏi nữa: Mong hai anh về nhà ăn tết.

Chị gái tôi mất từ lúc tôi mới ba tuổi, nên hai anh cũng làm chị của tôi luôn. Anh cả hay sửa những cái quần áo cũ của anh thành quần áo cho tôi, còn anh thứ thì hay cắt tóc, buộc tóc. Bố tôi dạy con rất tài, không bao giờ có chuyện anh xưng “mày – tao” với em, không bao giờ có chuyện anh “uýnh” em, không bao giờ có chuyện anh để cho em làm việc nặng hơn anh.

Rồi tôi còn nghiệm ra, cái gì mình càng mong càng lâu đến. Đếm ngày mãi mới đến tết. Nhưng tết đến rồi thì lại đi rất nhanh. Những năm đầu tôi đi xa nhà, khi các anh đã vợ con đề huề, thì lại đến lượt cả nhà mong con gái, con rể, cháu ngoại về. Tôi biết là, có thức gì ngon mẹ tôi cũng sẽ gói thật kĩ, cất thật kĩ, bụng bảo dạ: Để phần cho con Bống, con Nhi. Mặc dù cho đến bây giờ, việc ăn gì, uống gì đã chẳng còn quan trọng nữa. Nhưng những cái tết đủ đầy, lại không khiến người ta nhớ bằng những cái tết đói nghèo.

Một trong những cái tết mà mẹ tôi cho đến giờ vẫn hay nhắc tới nhiều nhất, là cái tết năm 1979. Cả nhà, cả làng phải đi sơ tán. Nhưng khổ nỗi, trong chuồng còn con lợn bảy tám chục cân, chăm bẵm nuôi nấng mấy tháng trời, chỉ mong đến tết bán đi lấy tiền chi tiêu. Gặp phải thời loạn, còn mải chạy, có cho không cũng chẳng ai buồn lấy chứ nói gì đến bán. Thấy bố mẹ tôi tính tính toán toán mãi không ra, anh cả tôi bảo:

 Thôi, bố mẹ cứ đưa các em đi đi. Con ở lại trông con lợn. 

Chẳng còn cách nào khác, bố mẹ tôi đành phải để anh tôi ở lại nhà, với một con chó, để trông con lợn cho nó khỏi chết đói, chết rét.

Mẹ tôi mỗi lần nhắc lại, thế nào cũng rơm rớm nước mắt:

 Cả nhà đi rồi mới thấy ân hận. Càng nghĩ càng thương thằng M. Lợn thì lợn, chả lợn thì thôi chứ, ai lại bắt con ở lại trong ì ùng đạn pháo như thế. Nhỡ nó tương cho một quả thì làm sao. 

May mà không có quả đạn, quả pháo nào lạc vào nhà tôi. Anh tôi, con chó, cả lợn nữa đều bình yên vô sự khi bố mẹ tôi đưa tôi với anh thứ quay về.

Cái tết thứ hai mà mẹ tôi hay nhắc, là cái tết gần hơn một chút. Khi cả hai anh của tôi đều đã học đại học. Một anh ở Thái Nguyên, một anh ở Hà Nội. Thời ấy, nhà nào có con đi học đại học thì cơ bản chỉ thiệt ở chỗ không có người lao động thôi, chứ cũng không tốn kém gì mấy. Vì tiền ăn, học, ở đều được bao cấp cả. Nhưng cũng vì bao cấp nên lúc nào ăn cũng đói. Anh thứ của tôi vốn ăn rất chậm. Cả nhà ăn xong từ bao giờ anh vẫn cứ ngồi nhẩn nha nhai. Nói như bố tôi là: Có cháy nhà thì nó cũng vẫn cứ ăn cho xong đã. Mẹ tôi suốt ngày than thở:

Con ơi, nhà mình nghèo mà con lại học ở đâu cái thói nhà giàu thế hở. Cứ cái đà này, đi học đại học thì chỉ có chịu đói suốt năm suốt tháng thôi. Mình ăn xong một bát thì bạn bè đã vét sạch xoong cơm rồi còn đâu.

Anh cả tôi thì thủng thẳng:

Mẹ chẳng phải lo. Lúc cần phải “chiến đấu” thì nó khắc khôn ra.

Anh cả nói đúng thật. Vì  chỉ sau một năm đi học đại học, anh thứ của tôi đã đẩy tốc độ ăn lên gấp… 3 lần.

Nhưng vẫn đói. Có ăn nhanh tới 5 lần thì vẫn đói, vì cơm – có lúc còn phải trộn bo bo – luôn luôn ít so với nhu cầu của đám sinh viên đang tuổi lớn.

Cái tết đó, theo tiêu chuẩn phân chia của lâm trường, thì bố mẹ tôi được cả thảy 14kg cả thịt, xương, mỡ lợn. Bố tôi vẫn chế biến đủ món: Bánh chưng với thịt ba chỉ, giò xào với mũi và tai lợn, canh măng nấu với xương và chân giò, nem quấn với thịt băm, còn mỡ thì rán hết lên, cho vào một cái xoong nhôm treo trên gác bếp chống chuột. Tất nhiên là mỗi món đều phải độn nhiều thứ khác, thịt thà chỉ là cái cớ thôi. Vì nếu chế biến theo đúng quy chuẩn nhà bếp thì hai anh tôi chỉ chén trong một ngày mùng Một là hết veo.

Khoảng ngoài mùng mười tháng Chạp thì hai anh tôi về. Mẹ tôi nhìn hai con, nước mắt ròng ròng. Vì cả hai giống hệt hai cái mắc áo di động. Gầy giơ xương, “má hóp đít tóp”. Anh cả tôi cười hì hì: Mẹ ơi, không gầy thì làm sao gọi là sinh viên hở mẹ?

Dạo ấy sinh viên được nghỉ tết dài, khoảng 2 tháng gì đó. 2 tháng này trong nhà có gì mẹ tôi mang hết ra cho các anh chén bằng sạch. Trước khi đi, mẹ tôi bắc một cái sào lên cành cây to, móc cái cân vốn để cân lợn vào đấy, rồi bắt hai anh lần lượt đánh đu lên xem mỗi người được bao nhiêu cân. Và, trời ạ, anh cả tôi tăng 6kg, anh thứ tôi tăng 8kg so với lúc mới về nhà.

Bố tôi bảo:

Thế là cả cái tết có 14 cân thịt, hai đứa này chén cả. Còn bố mẹ với cái T nhịn.

Mẹ tôi thì cười ra nước mắt:

Chúng nó  tăng còn nhanh hơn cả lợn.

Trước khi hai anh về trường, mẹ tôi đùm cho mỗi anh một bọc. Nào là lạc rang muối, nào là gạo, nào là cam giữ lại từ trước tết. Bố tôi còn lôi từ dưới đáy ao lên hai cái bánh chưng nữa. Dạo ấy, còn chưa biết cái tủ lạnh là gì. Cách giữ bánh chưng an toàn nhất là dìm xuống đáy ao. Nước ao mùa đông lạnh buốt, giữ thực phẩm rất tốt. Cũng có năm, lúc bố tôi lôi bánh chưng lên thì chỉ còn… hai cái vỏ. Vì năm ấy ấm trời, cá chui ra khỏi chỗ trú, đói bụng, moi hết ruột bánh chưng.

Sau này, khi đã chúng tôi đã trưởng thành, đã cất cánh bay đi, hàng xóm đều nói rằng: Bố mẹ tôi đã nhìn rất xa về một tương lai sáng sủa cho các con. Những năm đói khổ nhất, đói đến vàng mắt, mà ông bà lại nghĩ tới việc cho các con đi học. Trong khi nếu chúng nó ở nhà, lao cả ra bãi vàng mà đào với người ta thì đã có chỉ nọ, cây kia lận lưng rồi.

Cũng có đận, bãi đào vàng nở bung khắp cả sườn đồi, bờ sông, lòng khe lòng suối, đáy ao đáy hồ, thiên hạ hốt vàng ào ào, mua sắm tiện nghi, xây nhà xây cửa, trong khi nhà mình vẫn tính ăn từng bữa. Bố mẹ tôi cũng sốt ruột lắm. Một lần duy nhất, bố mẹ tôi bàn nhau lên bưu điện thị xã, đánh cho anh cả tôi một bức điện: Mẹ ốm, về ngay. Anh cả tôi mang bức điện ấy lên xin nhà trường, được cho nghỉ một tuần. Về đến tận cổng vẫn không dám đánh tiếng, vì sợ mẹ ốm thật, mà chắc phải ốm nặng lắm mới đánh điện gọi con về.

Ở nhà một tuần, lao ra bãi vàng, anh tôi kiếm được hai chỉ vàng. Mẹ tôi mừng húm. Bà chích cái cạp quần của anh tôi ra, khâu hai chỉ vàng vào đấy, rồi dặn: Con mang về Hà Nội mà bán. Rồi gửi cho em S. một nửa để nó mua thêm gạo nấu ăn cho đỡ đói. Lại còn dặn thêm: Dè sẻn thôi con nhé! Mẹ tôi dặn thế là thừa, vì theo như anh tôi thì, sinh viên với nhau, nghèo cả, thằng nào giấu diếm ăn riêng món gì, bị bạn bè phát hiện, nặng thì uýnh cho một trận, nhẹ thì tẩy chay toàn phần. Cho nên, hai chỉ vàng chia đôi ấy, chắc cũng chỉ một tuần, nửa tháng là “ra đi”.

Giờ, trong những cái tết đủ đầy, được ngồi bên nhau, với những đứa con đã bắt đầu thay thế vị trí của bố mẹ, lại thấy nhớ đến chừng nào những cái tết xửa xưa.


Vui như cái Tết Bính Thìn


Ngày đăng:  23/01/2012 2:00:00 SA 


Ấy là tôi muốn nói đến cái Tết mang tên Rồng năm 1976. Khi ấy, tôi là lính Trường Sơn, vừa tròn hai mươi tuổi. Tốt nghiệp cấp ba vào bộ đội chưa được hai năm, cấp bậc hình như chỉ mới binh nhất hay hạ sỹ gì đó. Thực ra, niềm vui của tôi trong cái Tết Bính Thìn ấy không liên quan tới chuyện cấp bậc chức vụ nhưng cũng bắt chước các vai chèo khi ra sân khấu phải xưng danh nên tôi cũng tự giới thiệu mình sơ qua như thế. Chuyện của tôi cũng chẳng quan hệ chi tới rồng rắn cả chỉ là một kỷ niệm vui vui của đời lính xảy ra vào đúng năm Rồng.

Chao ơi, mới đó mà đã ba mươi sáu năm rồi. Tính năm là 36, tính tháng là 432, tính ngày là 13.140. Cũng khơ khớ đấy, thời gian cứ mặc nhiên trôi đi và vô tình để lại dấu vết trên khuôn mặt, dáng vóc con người. Mới ngày nào, da căng mắt sáng, long lanh lung linh chất trai trẻ nay mặt đã ngang dọc nếp nhăn, đầu lém đém hai thứ tóc, nhìn chậm, đi chậm, nói chậm. Nói tóm lại, cái chi chi cũng chậm chạp rề rà.

Có làm thơ cũng chỉ là để an ủi động viên cái độ xế chiều lưng lửng của mình, kiểu như : Hạnh phúc là được trông cây/ heo may lá rụng xuống tay đồi mồi/ tóc xanh đứng ngắm chân trời/ hoa râm ngồi nhặt hoa rơi bên đường. Biết, biết chứ, ai mà chẳng đến lúc hoa râm, thế nhưng vẫn nhớ, vẫn tiếc cái thuở ban đầu lưu luyến ấy. Hồn nhiên. Trong trẻo. Đam mê. Dẫu là lính tráng vẫn hội tụ đủ đầy khí chất của tuổi trẻ như quãng xuân phơi phới khởi đầu năm vậy.

Đấy, vẫn là cái tật của người hơi hơi cao tuổi. Rề rề rà rà mãi vẫn chưa vào chuyện chính. Thôi, thì tôi bắt đầu đây. Năm 1976 với tôi là một năm vui. Mùa xuân Đại thắng vừa đi qua một năm. Ánh sáng hòa bình tràn ngập muôn nơi, Nam Bắc thống nhất, non sông thu về một mối, không khí khải hoàn vẫn còn rạo rực trong lòng.

Ai đã trải qua chiến tranh, đã từng sống trong bom đạn, mỗi ngày mỗi đêm phải đối mặt với mất mát đau thương thì càng trân trọng quý giá sự bình yên của Đất nước. Tôi nhớ, Phạm Tiến Duật đã từng viết trong một bài thơ: Dù ăn muối suốt đời/ Còn hơn là có giặc. Hạnh phúc lớn nhất của một Đất nước có lẽ là hòa bình. Và, theo chiều ngược lại thì chiến tranh chính là nỗi bất hạnh lớn nhất của một dân tộc. Nhìn ra thế giới hôm nay tôi càng thấm thía điều đó.

Tôi có niềm vui của một người dân sống trong không khí hòa bình sau những năm tuổi thơ sống trong bom đạn. Tôi có niềm vui đoàn tụ của hai miền Bắc Nam sau bao nhiêu năm chia cắt. Tôi có niềm vui của người lính đứng trong đội ngũ của đoàn quân chiến thắng. Niềm vui chung thật lớn lao và trong năm 1976 tôi lại được cộng thêm niềm vui khởi nguyên lâng lâng trong trẻo của một người lính cầm bút.

Tôi tập tọe làm thơ từ khi đang còn học cấp ba. Những bài thơ tràn cảm xúc nhưng thật ngô nghê non nớt về nghệ thuật nếu bây giờ đọc lại. Kiểu như là : Mưa rơi dây muống vườn cà/ Cây tre ướt lá con gà ướt lông...Vì mê thơ nên tôi coi những Phạm Tiến Duật, Hoàng Nhuận Cầm, Nguyễn Duy, Nguyễn Đức Mậu, Anh Ngọc... – những người lính làm thơ- là thần tượng.

Vì mê thơ nên tôi tìm đọc Văn nghệ quân đội từ thời lớp 8. Bộ đội đi B ghé lại làng, thấy các anh lính trẻ măng đọc Văn nghệ quân đội, tôi sán vô làm quen để mượn xem. Thơ. Truyện ngắn. Tôi đọc hết. Những con chữ đen kịt in trên những trang giấy màu nâu đã khai mở trong tôi tình yêu văn chương đẹp đẽ. Tôi ao ước trở thành một người lính cầm bút như các anh.

Và, có lẽ từ tình yêu văn chương ban đầu đó mà tôi như kẻ điếc không sợ súng cầm bút làm thơ. Tôi đã trở thành người lính từ mùa hạ năm 1974 nhưng để trở thành nhà thơ được đóng dấu của Hội Nhà văn Việt Nam thì phải chờ đến 26 năm sau (đầu năm 2000). Tuy nhiên, để tìm ra một cái mốc ghi nhận chặng đời sáng tác của mình thì tôi không thể không chọn cái Tết Bính Thìn năm 1976 ấy.

Những ngày giáp Tết, sự mong đợi nhất của tôi là được sớm đọc Văn nghệ Quân đội số Xuân. Lính trẻ, Tết ở doanh trại, xa dân, chủ yếu là tán phét với nhau cho đỡ nhớ nhà, nhớ người yêu nếu trái tim chàng nào đã thấp thoáng một bóng hồng nào đó.

Năm ấy, tôi chưa được cô gái nào yêu nên Tết đến thú nhất vẫn là đọc Văn nghệ quân đội. May cho tôi, còn mươi ngày nữa mới hết năm cũ mà Văn nghệ quân đội số Xuân Bính Thìn đã thơm phức trên tay chiến sỹ rồi. Tôi ngắm nghía trang bìa rồi mở ra từng trang. Số Tết nên giấy trắng hơn, nhiều minh họa đẹp và tên các bài thơ in màu đỏ.

Và, tôi đã sửng sốt, ngạc nhiên khi thấy tên mình xuất hiện trên một bài thơ đã gửi khá lâu cho Văn nghệ quân đội bên cạnh những cái tên lẫy lừng như Phạm Ngọc Cảnh, Anh Ngọc, Nguyễn Đức Mậu, Vương Trọng... Trời ơi, bài Trên đường hành quân tôi viết đầu năm 1975. Được chứng kiến những đoàn quân hừng hực khí thế vào chiến trường trên đường Trường Sơn huyền thoại tôi đã viết bài thơ này và liều mạng gửi cho Tạp chí mình rất yêu mến.

Xin nói rõ thêm là trước đó tôi đã gửi nhiều bài nhưng mới được một lần nhận được thư của biên tập viên đại ý, cảm ơn bạn và mong tiếp tục cộng tác. Gửi mãi, gửi mãi mà không được in, nản lòng lắm, định thôi luôn. Nào ngờ, bây giờ đây, rỡ ràng trước mắt tôi bài thơ thương mến của mình : Tiếng chim điểm nhịp hành quân/ Cờ lau mở trận trắng ngần gió bay/ Hương hoa rừng khéo nở đầy/ Đọng trên sắc áo dạn dày nắng sương/ Phải chăng qua những nẻo đường/ Ở đâu đất cũng yêu thương tận lòng/ Ông cha vạn thuở anh hùng/ Hóa thành sông núi nhịp cùng ta đi.

Tám câu thôi, cả lục cả bát mộc mạc đơn sơ thật thà hóa thành niềm vui mênh mang của tôi. Tôi mừng, mừng quá, không nói nên lời. Những giọt nước mắt vui chảy xuống thấm ướt bài thơ đầu tiên in Văn nghệ quân đội của mình.

Chỉ có vậy thôi mà. Một kỷ niệm đẹp trong đời lính, trong đời làm thơ của tôi. Ba mươi sáu năm rồi mà tôi vẫn còn rưng rưng khi hồi tưởng lại ngày xa ấy. Đúng là, vui như cái Tết Bính Thìn!

Đất Rừng U Minh Thượng

Như đã hẹn, đoàn câu chúng tôi 10 người có mặt tại con hẻm trước nhà anh Thôi(Anh Châu đã giới thiệu về anh Thôi trong ký sự UMT kỳ trước). Đúng 7h00 tối chúng tôi xuất phát. Ngồi trên xe mà lòng tôi nôn nao không ngủ được, có lẽ đây là chuyến đi câu xa nhất từ trước tới giờ của tôi.

U Minh Thượng - một trong những địa danh nổi tiếng trong tác phẩm Đất Rừng Phương Nam đã được chuyển đổi thành phim của nhà văn Đoàn Giỏi. Chắc hẳn các bạn cũng đã từng một lần xem bộ phim này. Riêng tôi rất thích bộ phim này vì nó mô tả rất trung thực, sống động về con người và cảnh vật thiên nhiên hoang dã của một vùng Đất rừng phương Nam - UMT, mà đến tận bây giờ tôi mới có dịp được khám phá một chút về một vùng của đất rừng phương Nam này - vùng rừng Quốc Gia U Minh Thượng qua chuyến du câu dã ngoại mà HQBC tổ chức. Nhân tiện đây tôi cũng xin cảm ơn tất cả các anh trong HQBC đã tổ chức chuyến đi này và không biết nói gì hơn ngoài hai chữ : " Tuyệt vời ".

Bây giờ tôi xin kể lại cho các bạn nghe về chuyến du câu cá Lóc này nhé. Từ thành phố HCM đi xe ô tô đến tận cổng rừng Quốc gia U Minh Thượng mất khoảng 10 tiếng đồng hồ kể cả ăn tối và uống cà phê... Để câu được trọn vẹn 2 ngày thứ 7 & chủ nhật các bạn phải xuất phát từ thành phố HCM lúc 7h00 tối, đến nơi là vừa kịp mua vé vào câu luôn (Đúng 5h00 sáng phòng vé mới mở cửa bán vé, có đến sớm cũng phải đợi). Mua vé xong xe vào bến ghe mất khoảng 15 phút, chất đồ xuống ghe đi vào điểm câu (có rất nhiều điểm câu tùy các bạn chọn hoặc có thể nhờ luôn người chở ghe chỉ điểm câu). Từ bến ghe vào một điểm câu trung bình mất khoảng hơn 1 tiếng đồng hồ qua các kênh rạch chính. Hai bên dọc bờ kênh là rừng lau sậy ngút ngàn, khu chúng tôi vào câu được gọi là láng 8 & láng 14. Ngày đầu chúng tôi câu ở láng 14, ngày cuối câu ở láng 8. Ghe chở chúng tôi đến điểm câu thì thả chúng tôi xuống, mỗi người 1 xuồng, 1 cây chống xuồng. Điểm câu là một trảng rộng nhìn hút tầm mắt, chỉ thấy xung quanh là nước, rong, bèo và rất nhiều những bụi bồn bồn cao khoảng 1,5 m nhìn không thấy bên kia. Cách đây 4, 5 năm, nơi đây chính là khu rừng tràm bị bốc cháy mà báo chí đã đăng tải. Bây giờ nước ngập hết chỉ còn lác đác một vài cây tràm còn sống vươn mình giữa một vùng bao la là nước (Ngọn cờ hiệu cao 10 m cắm làm mốc để xác định vị trí quay về chính là buộc vào những cây tràm còn sót này). Nơi đây cũng có thể coi là vương quốc của loài cá Lóc bởi sự phát triển phong phú của các thảm thực vật & các loài côn trùng,... là nơi có đầy đủ thức ăn nuôi sống các loài cá quanh năm.

Một điều vô cùng quan trọng khi câu cá Lóc ở đây là bạn phải biết "chống xuồng" và giữ thăng bằng khi đứng rê cá Lóc trên xuồng. Các bạn cứ hình dung khi câu rê cá Lóc trên bờ đã khó khăn rồi thì sẽ thấy hết những khó khăn khi câu rê cá Lóc trên xuồng. Cũng giống như anh em, tôi phải mất chừng 30 phút để làm quen với chiếc xuồng và cây chống, học cách neo xuồng vào cột chống bằng 1 sợi dây thun do anh Châu làm tặng mọi người (Vụ này chắc anh Châu học được từ anh Thôi nhưng 1 dây thì không chắc bằng 2 dây như anh Thôi sử dụng). Tôi đã quan sát rất kỹ việc anh Thôi neo xuồng câu, anh Thôi dùng 2 cây sào 1,5m/cây làm ở nhà mang đi chống 2 bên mạn thuyền đoạn ở giữa xuồng có khoan 2 lỗ nhỏ 2 bên, dùng 02 dây thun giống như của anh Châu phát cho anh em để neo xuồng, rất chắc chắn, tôi có cảm giác là anh đang đứng trên bờ câu vậy. Quay lại vấn đề "chống xuồng", tại sao không phải là "chèo xuồng" mà cứ phải là "chống xuồng", xin thưa với các bạn rằng, tôi đã phải bỏ nguyên gần một ngày câu để theo anh Thôi học hỏi và vỡ lẽ rằng tại sao mình câu cá không ăn??? Các bạn có biết không, dưới mặt nước là lớp rong dầy kết tảng với nhau, khi chèo xuồng các bạn nhất định đụng phải lớp rong đó tạo thành chuyển động liên kết kéo dài, trong vòng bán kính 5m -10m mặt nước sủi bọt như tăm cá do đám rong gây ra. Như vậy khi bạn chèo xuồng vô tình bạn đã đuổi cá đi, con cá ở thiên nhiên khi động là chạy hết, lấy gì mà câu. Còn "chống xuồng" như anh Thôi thì phải học, thuyền như lướt trên mặt nước, đi nhanh ít tốn thời gian di chuyển, thời gian câu nhiều hơn, cây chống xuồng chống xuống rút lên nhẹ nhàng không một gợn sóng vì vậy anh Thôi câu được nhiều cá là điều dễ hiểu (Tất nhiên còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác nữa - Biết chết liền à ).

Bây giờ tôi tường thuật việc tôi bắt con cá Lóc đen hơn 2 kg giữa mênh mông biển nước UMT nhé. Nói thật với các bạn là từ lúc về đến giờ vẫn còn run... Ngày đầu tiên vô láng 14 câu, sau khi làm quen với xuồng xong mỗi người đi một hướng tìm lõi câu cho mình, vì lần đầu tới đây chưa quen địa hình, lại không đứng trên xuồng được lên tôi chèo đại tìm một chỗ để câu. Phải mất gần 40 phút khua nước mới đến được một lõi câu, ra cần móc nhái và câu sau khi đã neo xuồng cẩn thận. Mọi việc dở khóc, dở cười bắt đầu từ đây. Vừa mới vung cần quăng mồi thì xuồng tròng trành vội buông cần xuống chộp liền cây sào cắm lấy lại thăng bằng mà không kịp nhìn con nhái rơi chỗ nào trước mặt nữa, thế này thì làm sao mà câu được. Rút kinh nghiệm lần này một tay bám vào cây sào, còn quăng một tay, quá gần... thôi kệ còn hơn khối anh em, trong đầu thầm nghĩ. Sau khoảng 2 tiếng đồng hồ, mọi việc có vẻ suôn sẻ, lúc này lấy được thăng bằng nên quăng câu ngon lành tuy không được xa. Nhìn đồng hồ 9h30 mà vẫn chưa có em nào táp mồi mặc dù 4 phía cá quẫy, táp đùng đùng, chẳng biết quăng câu hướng nào??? Mỏi tay quá, thôi chèo về gần cây cờ hiệu vừa câu vừa nghỉ vậy. Lại mất 30 phút chèo xuồng cách cờ hiệu khoảng 60m thấy có đám súng và rong bên cạnh đám bèo lớn bèn dừng lại câu. Rút kinh nghiệm lần trước, lần này cắm sào cho chắc rồi đứng câu xem sao. Nói xong làm liền, nhún nhún mấy cái thấy có thể đứng được liền bám cây sào nhỏm dậy. Lại phải mất gần 20 phút để quen với tư thế câu mới. Dần dần cũng quen, nhưng tần xuất câu thì quá thấp. Nhìn đồng hồ 11h45 bụng bảo dạ đúng 12h00 nghỉ ăn cơm, chợt có gợn sóng từ mép bèo lao về phía con nhái đang rê và....bụp... một tiếng táp khô khan gọn ghẽ, dây nhợ căng như dây đàn, giật mình hạ cần giật mạnh....kịch... đầu cần oằn xuống, tôi bắt đầu thu dây....chú cá bị đóng lưỡi đau bắt đầu quẫy đùng đùng, bèo và rong bắn tung tóe xung quanh, cả một vùng ước chừng 2m vuông nổi sóng. Bỗng tôi cảm giác có một lực kéo rất mạnh từ phía con cá như muốn lôi tôi xuống nước, vội bám vào cây chống tôi ngồi xuống lòng xuồng cho chắc ăn. Tôi vẫn gim cần và từ từ thu dây, xuồng vẫn chao đảo mỗi lần con cá ghì lại,lúc này có lẽ con cá đã mệt sau khi giằng co với tôi nên ngoan ngoãn nhô cái đầu lên mặt nước... vừa nhìn thấy mắt tôi hoa lên... con gì thế này???Định thần nhìn kỹ lại bề ngang của cái đầu khoảng 15cm, to thế này làm sao mà bắt được giữa mênh mông là nước??? Chợt nhớ anh Phi đang câu phía trước cách khoảng 60-70 thước bèn gọi anh chi viện, khốn khổ cái thân tôi vì ngược gió mà anh Phi đâu có nghe thấy gì... trong tíc tắc tôi quyết định một mất một còn với nó, phía dưới nó là gần 2m nước + bùn lún + rong dầy...lội ư... không chơi dại, mất thì thôi, nhỡ sảy ra chuyện gì thì khổ gđ, vợ con. Thế là tôi quyết định cẩu thẳng em nó lên, trước khi cẩu em nó, tôi mở nắp túi đựng cá sẵn để cách chỗ tôi ngồi khoảng 1 cánh tay, kéo em nó vào sát bên hông xuồng rồi 1..2..3..Em nó ngoan ngoãn nằm gọn trong túi, rất cẩn thận tôi đóng khóa miệng túi chỉ chừa vừa đủ một bàn tay cầm kìm thọc vô gỡ lưỡi. Ok, xong đời em! Nhìn đồng hồ mất đúng 25 phút. Quá đã... quá đã... Suốt cả buổi chiều hôm đấy tôi không câu được con nào nữa. Cuối giờ chiều tập chung về hầu như ai cũng có cá, chỉ 1,2 người là chưa có. Lần đầu tiên tôi câu được con cá Lóc to như thế và cũng là con cá lớn nhất trong ngày.

Ngày hôm sau cũng như thường lệ, anh em thức dậy lúc 4h00 sáng sửa soạn chuẩn bị vô câu ngày thứ 2. Lần này đoàn câu ở láng 8, là nơi câu mà các anh trong HQBC đã đi tiền trạm trước. Ở đây dễ câu hơn bên láng 14 và cá cũng nhiều hơn, hôm nay thì ai cũng có cá, lớn nhỏ đủ cả : Lóc, Dầy, Rô đồng, Rô biển, Thác lác... Riêng tôi hôm nay chỉ đi theo anh Thôi, kiện tướng câu cá Lóc Q6 để học hỏi và giải đáp một số điều mà bản thân không hiểu. Sau cùng tôi chúc tất cả các cần thủ câu được nhiều cá. Chúc các hội câu ngày một phát triển lớn mạnh. Vài dòng chia sẻ cùng anh em sau chuyến khám phá Đất rừng phương nam - Rừng Quốc gia U Minh Thượng.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro