C4.NMTCTT

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Put your story text here...Chương 4 :

1. Phân tích vai trò của TCDN ? Liên hệ việc phát huy vai trò trong 1 DN ở VN hiện nay mà bạn biết

Vai trò của tài chính doanh nghiệp

Tài chính doanh nghiệp là khâu cơ sở của hệ thống tài chính, trực tiếp gắn liền và phục vụ quá trình sản xuất kinh doanh ở các đơn vị cơ sở, nơi trực tiếp sáng tạo ra sản phẩm quốc dân. Mặt khác, tài chính doanh nghiệp còn tác động quyết định đến thu nhập của các khâu tài chính khác trong hệ thống tài chính. Tài chính doanh nghiệp được xem là một công cụ có vai trò quan trọng trong quản lý kinh doanh, thể hiện qua các mặt sau:

- Tổ chức huy động các nguồn lực tài chính nhằm đáp ứng kịp thời và đầy đủ nhu cầu vốn cho SXKD của doanh nghiệp.

Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, khi các doanh nghiệp tự hạch toán kinh doanh, việc thu hút, huy động kịp thời và đầy đủ các nguồn vốn phục vụ các hoạt động SXKD của doanh nghiệp là vô cùng quan trọng, có tác động trực tiếp đến kết quả kinh doanh và khả năng phát triển của doanh nghiệp. Lúc này, tài chính doanh nghiệp thể hiện rõ vai trò trong việc tìm kênh huy động vốn, xác định đúng đắn nhu cầu vốn cần thiết cho hoạt động của doanh nghiệp trong từng thời kỳ. Tiếp đó là lựa chọn các phương pháp và hình thức huy động vốn thích hợp, đáp ứng kịp thời các nhu cầu về vốn để hoạt động của doanh nghiệp được thực hiện một cách nhịp nhàng, liên tục với chi phí huy động thấp nhất. Khả năng và trình độ tốt của người quản lý sẽ khiến vai trò đó của tài chính doanh nghiệp phát huy ở mức cao nhất, mang lại hiệu quả huy động tối ưu nhất các nguồn vốn cho doanh nghiệp.

- Tổ chức sử dụng vốn tiết kiệm và hiệu quả.

Việc tổ chức sử dụng vốn một cách tiết kiệm và hiệu quả được coi là điều kiện tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp. Trong cơ chế thị trường, việc sử dụng vốn cần phải lựa chọn, tính toán rất kỹ để đảm bảo chi phí thấp nhất và đạt được kết quả mong muốn, dựa trên cơ sở đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn của doanh nghiệp. Tài chính doanh nghiệp có vai trò quan trọng trong việc đánh giá và lựa chọn dự án đầu tư, chọn ra dự án đầu tư tối ưu. Việc đầu tư sử dụng vốn một mặt phải thu hồi và bảo toàn được vốn, mặt khác phải sử dụng các biện pháp để tăng nhanh vòng quay vốn và nâng cao khả năng sinh lời của vốn. Để phát huy vai trò này cần phải xây dựng các kế hoạch sử dụng vốn thật chi tiết, kiểm định chặt chẽ, đảm bảo hiệu quả tối đa việc sử dụng vốn của doanh nghiệp.

- Công cụ kích thích và điều tiết kinh doanh

Vai trò điều tiết và kích thích SXKD của tài chính doanh nghiệp là kết quả tổng hợp của việc vận dụng hài hoà các chức năng của tài chính doanh nghiệp trong việc giải quyết và đảm bảo lợi ích kinh tế của các chủ thể liên quan trong quá trình hoạt động SXKD của doanh nghiệp. Vai trò này được thể hiện thông qua việc tạo sức mua hợp lý để thu hút vốn đầu tư, lao động, vật tư, dịch vụ, đồng thời xác định giá bán hợp lý khi tiêu thụ hàng hoá, cung cấp dịch vụ và thông qua hoạt động phân phối thu nhập của doanh nghiệp, phân phối quỹ khen thưởng, quỹ lương, thực hiện các hợp đồng kinh tế ...

- Giám sát, kiểm tra chặt chẽ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

Tình hình tài chính của doanh nghiệp là tấm gương phản ánh trung thực nhất mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Chức năng giám đốc của tài chính doanh nghiệp được thể hiện ở vai trò giám sát, kiểm tra chặt chẽ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bằng đồng tiền, thông qua các chỉ tiêu tài chính như hệ số nợ, cơ cấu vốn, kết cấu tài chính, khả năng thanh toán, khả năng sinh lợi, hiệu quả sử dụng vốn... từ đó có thể nhận biết được thực trạng quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để phát hiện và khắc phục những vướng mắc, tồn tại, lành mạnh và tối ưu hoá các quá trình kinh doanh và tài chính của doanh nghiệp.

Vai trò của tài chính doanh nghiệp được phát huy và có tác động tích cực hay thụ động phụ thuộc vào nhận thức cùng sự vận dụng các chức năng của tài chính và môi trường kinh doanh, cơ chế tổ chức tài chính doanh nghiệp và các nguyên tắc cần quán triệt trong mọi hoạt động tài chính doanh nghiệp

2. Vốn kinh doanh là gì ? Đặc trưng cơ bản của vốn KD ? Ý nghĩa nghiên cứu ?

Vốn kinh doanh là biểu hiện bằng tiền của giá trị các tài sản được đầu tư, sử dụng cho các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp

Đặc trưng cơ bản của vốn KD :

• Vốn kinh doanh được thể hiện bằng một lượng tài sản có thực

• Vốn kinh doanh phải được tích luỹ ở một mức độ đủ lớn để tiến hành hoạt động kinh doanh

• Vốn kinh doanh phải thường xuyên vận động nhằm mục đích sinh lời

3. Nguồn vốn kinh doanh là gì ? Trình bày cơ cấu nguồn hình thành vốn KD của DN ? Ý nghĩa của việc nghiên cứu ?

Vốn kinh doanh là biểu hiện bằng tiền của giá trị các tài sản được đầu tư, sử dụng cho các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp

Huy động vốn kinh doanh

Để tiến hành bất kỳ một quá trình sản xuất kinh doanh nào cũng cần phải có vốn. Vốn là điều kiện tiên quyết, có ý nghĩa quyết định tới các bước tiếp theo của quá trình kinh doanh. Để tiến hành sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp dùng vốn đó để mua sắm các yếu tố của quá trình sản xuất kinh doanh như sức lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao động. Do sự tác động của lao động vào đối tượng lao động thông qua tư liệu lao động mà hàng hoá dịch vụ được tạo ra và tiêu thụ trên thị trường. Cuối cùng, các hình thái vật chất khác nhau đó được chuyển hoá về hình thái tiền tệ ban đầu. Toàn bộ giá trị ứng ra ban đầu và các quá trình tiếp theo cho sản xuất kinh doanh được gọi là vốn. Vốn được biểu hiện cả bằng tiền lẫn cả giá trị vật tư tài sản và hàng hoá của doanh nghiệp, tồn tại dưới cả hình thái vật chất cụ thể và không có hình thái vật chất cụ thể. Từ đó có thể hiểu, vốn kinh doanh của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản hữu hình và tài sản vô hình được đầu tư vào kinh doanh nhằm mục đích sinh lời.

Vốn kinh doanh trong các doanh nghiệp là một quỹ tiền tệ đặc biệt. Vốn kinh doanh của doanh nghiệp nhằm phục vụ cho sản xuất kinh doanh tức là mục đích tích luỹ. Vốn kinh doanh của doanh nghiệp nhằm phục vụ cho sản xuất kinh doanh. Vốn kinh doanh phải đạt tới mục tiêu sinh lời và vốn luôn thay đổi hình thái biểu hiện, nó vừa tồn tại dưới hình thái tiền vừa tồn tại dưới hình thái tài sản phi tiền tệ như vật tư hoặc tài sản vô hình, nhưng kết thúc vòng tuần hoàn phải là hình thái tiền.

Cũng có thể hiểu vốn kinh doanh là toàn bộ lượng tiền ứng ra ban đầu cho kinh doanh, vận động và chuyển hoá hình thái biểu hiện trong quá trình kinh doanh.Vốn kinh doanh phải có trước khi diễn ra các hoạt động sản xuất kinh doanh và không mất đi trong quá trình đầu tư sử dụng. Để đảm bảo sự tồn tại phát triển của doanh nghiệp số tiền thu được do tiêu thụ sản phẩm phải đảm bảo bù đắp toàn bộ các chi phí đã bỏ ra và có lãi. Số tiền đã ứng ra ban đầu không những chỉ được bảo tồn mà còn được tăng thêm do hoạt động kinh doanh mang lại, phục vụ việc duy trì và mở rộng quy mô quá trình SXKD, tích luỹ vốn cho quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp. Nếu vốn kinh doanh phải giảm hoặc bị mất đi thì quy mô kinh doanh sẽ bị thu hẹp, hoạt động SXKD bị ảnh hưởng tiêu cực, thậm chí doanh nghiệp có thể lâm vào tình trạng phá sản.

Vốn kinh doanh của doanh nghiệp có thể được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau. Nguồn vốn kinh doanh của doanh nghiệp có thể được hiểu là toàn bộ các nguồn tài chính mà doanh nghiệp có thể khai thác, huy động được để tạo nên vốn kinh doanh của mình. Nguồn vốn kinh doanh cho biết phương thức khai thác, tạo vốn tài trợ cho các hoạt động SXKD của doanh nghiệp, đồng thời còn cho biết trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp đối với mỗi loại nguồn vốn.

Nguồn vốn kinh doanh của có thể được chia thành hai loại khác nhau: nguồn vốn chủ sở hữu và nguồn vốn huy động.

 Nguồn vốn chủ sở hữu: là nguồn vốn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp. Một phần cơ bản của số vốn này là do các chủ sở hữu của doanh nghiệp góp khi thành lập doanh nghiệp và góp bổ sung sau khi doanh nghiệp được thành lập, phần còn lại được tích luỹ và bổ sung từ lợi nhuận của doanh nghiệp. Các loại hình doanh nghiệp khác nhau thì có nguồn vốn chủ sở hữu cơ bản khác nhau:

Nguồn vốn từ NSNN cấp: là nguồn vốn Nhà nước cấp cho các doanh nghiệp Nhà nước lúc mới thành lập. Nguồn vốn này hiện nay có xu hướng giảm đáng kể cả về tỷ trọng lẫn số lượng. Các doanh nghiệp Nhà nước phải chủ động bổ sung bằng các nguồn tài trợ khác.

Nguồn vốn do chủ doanh nghiệp bỏ ra trong các doanh nghiệp tư nhân. Nguồn gốc của nguồn vốn này là tiền để dành, tích luỹ từ trước của các nhà đầu tư tư nhân khi đứng ra thành lập doanh nghiệp.

Nguồn vốn liên doanh, liên kết: là những nguồn đóng góp theo tỷ lệ theo cam kết giữa các chủ đầu tư khi thành lập doanh nghiệp để cùng kinh doanh và cùng hưởng lợi nhuận.

Nguồn vốn bổ sung bằng cách kết nạp thêm các thành viên mới: khi cần mở rộng quy mô kinh doanh, các doanh nghiệp thuộc loại hình công ty có thể huy động tăng thêm vốn bằng cách kêu gọi thêm các nhà đầu tư mới. Phương thức tài trợ theo nguồn vốn này thường dẫn đến tình trạng là các nhà đầu tư cũ phải phân chia quyền kiểm soát doanh nghiệp và lợi ích kinh tế cho các nhà đầu tư mới.

Nguồn vốn từ lợi nhuận sau thuế: trong quá trình hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp có thể làm tăng nguồn vốn sở hữu bằng hình thức tự tài trợ từ nguồn lợi nhuận. Tuy vậy, nguồn vốn tài trợ này lệ thuộc nhiều vào quy mô lợi nhuận kiếm được trong quá trình kinh doanh của doanh nghiệp.

Nguồn vốn từ phát hành cổ phiếu: là nguồn vốn trong các công ty cổ phần do các cổ đông đóng góp. Mỗi cổ đông là một chủ sở hữu của công ty và chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trên trị giá cổ phần mà họ nắm giữ.

Ngoài ra, nguồn vốn chủ sở hữu còn được bổ sung từ một số nguồn khác như quỹ đầu tư phát triển, quỹ dự trữ tài chính... của doanh nghiệp.

Nguồn vốn chủ sở hữu có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho chủ doanh nghiệp chủ động hoàn toàn trong sản xuất. Chủ doanh nghiệp có cơ sở để chủ động trong đầu tư lâu dài, kịp thời đưa ra các quyết sách quyết định trong kinh doanh để đạt được các mục tiêu của mình mà không phải tìm kiếm và phụ thuộc vào nguồn vốn tài trợ. Nguồn vốn này tạo ra năng lực tài chính mang lại sự an toàn, uy tín trong kinh doanh và không tạo áp lực về thời gian sử dụng đối với doanh nghiệp.

Tuy nhiên, nguồn vốn này thường bị hạn chế về quy mô nên không đáp ứng mọi nhu cầu về vốn cho SXKD, mặt khác, việc sử dụng vốn này không chịu sức ép về chi phí sử dụng vốn và có thể thiếu sự kiểm tra, giám sát hoặc tư vấn của các chuyên gia, các tổ chức như trong sử dụng nguồn vốn đi vay, dẫn đến không chú ý đầy đủ đến hiệu quả đầu tư của nguồn vốn này.

 Nguồn vốn huy động: Đây là nguồn vốn mà doanh nghiệp khai thác, huy động được từ các chủ thể khác nhau nhưng phải hoàn trả trong một thời hạn nhất định. Đối với số vốn này, doanh nghiệp chỉ được sử dụng có thời hạn và phải hoàn trả theo những ràng buộc nhất định, do đó nguồn vốn huy động còn được gọi là các khoản nợ phải trả. Nguồn vốn này được cấu thành từ các bộ phận cơ bản sau:

Nguồn vốn vay: đây là nguồn vốn mà các doanh nghiệp thường khai thác, huy động khi thiếu vốn cho SXKD. Các doanh nghiệp có thể vay vốn từ các ngân hàng thương mại, các công ty tài chính, các HTX tín dụng và các đối tượng khác. Trong điều kiện hiện nay, nguồn vốn tín dụng được coi là nguồn vốn dễ dàng khai thác, làm tăng vốn kinh doanh, đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn cho đầu tư và tạo sự chia sẻ về lợi ích kinh tế giữa các nhà đầu tư và nhà nước. Tuy nhiên quá trình khai thác và hoàn trả có thể phát sinh những trở ngại về các điều kiện ràng buộc cũng như thủ tục giấy tờ. Hơn nữa, chi phí sử dụng nguồn vốn này nói chung còn khá cao nên thường đi cùng yêu cầu phải tối đa hiệu quả sử dụng.

Các nguồn vốn chiếm dụng hợp pháp như tiền lương, bảo hiểm xã hội, tiền thuế chưa nộp, các khoản mua chịu, trả chậm tiền mua hàng hoá, dịch vụ... là những nguồn vốn mà doanh nghiệp có thể sử dụng trong một thời gian ngắn hạn nhằm giải quyết phần nào nhu cầu vốn trong kinh doanh. Tuy nhiên, với việc chiếm dụng này doanh nghiệp phải lưu ý đến khả năng thanh toán kịp thời các khoản nợ khi đến hạn, các quy định về pháp luật mà doanh nghiệp phải tuân thủ như thời hạn nộp thuế, xử phạt...

Nguồn vốn phát hành trái phiếu: Đối với các doanh nghiệp được quyền phát hành trái phiếu thì đây là một nguồn vốn khá hữu ích, giúp doanh nghiệp có thể huy động vốn từ công chúng. Tuỳ theo từng loại hình doanh nghiệp, mà luật pháp cho phép quyền phát hành trái phiếu để huy động vốn. Tuy nhiên không phải trái phiếu nào cũng hấp dẫn đối với công chúng. Chỉ có những doanh nghiệp uy tín, kinh doanh có hiệu quả thì mới có khả năng huy động được vốn thông qua kênh này.

Việc huy động các nguồn vốn này rất quan trọng đối với doanh nghiệp để đảm bảo cung ứng đầy đủ, kịp thời vốn cho sản xuất kinh doanh. Với sức ép về chi phí sử dụng vốn vay và thời hạn hoàn trả vốn sẽ thúc đẩy doanh nghiệp sử dụng vốn tiết kiệm và hiệu quả.

Mỗi một loại hình doanh nghiệp cũng chỉ có thể khai thác huy động vốn trên một số nguồn nhất định. Đối với công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân ngoài nguồn vốn tự có của mình thì có thể vay của các tổ chức tài chính trung gian để bổ sung vốn SXKD nhưng không thể sử dụng giải pháp phát hành chứng khoán. Trong khi đó, đối với các công ty cổ phần, nguồn vốn đến từ hoạt động phát hành chứng khoán lại là chủ yếu. Việc nghiên cứu các nguồn vốn không chỉ giúp cho doanh nghiệp lựa chọn và khai thác nguồn vốn phù hợp mà còn hướng doanh nghiệp đó các biện pháp huy động vốn nhanh, đáp ứng kịp thời cho nhu cầu của doanh nghiệp với chi phí thấp nhất và sử dụng hợp lý nhất các nguồn vốn thu được.

Đối với các doanh nghiệp, khi có nhu cầu đầu tư dài hạn trước hết phải huy động nguồn vốn từ bên trong (vốn chủ sở hữu), chỉ khi thiếu hụt vốn thì doanh nghiệp mới bổ sung bằng nguồn vốn bên ngoài. Nguồn tài trợ bên ngoài là cần thiết nhưng ko nên trông đợi quá mức vào nguồn vốn đó. Nhìn chung, việc huy động vốn là một vấn đề hết sức quan trong của doanh nghiệp. Mỗi nguồn vốn đều có ưu điểm và nhược điểm riêng nên phải có kế hoạch lựa chọn, cân nhắc kỹ càng trước khi huy động.

4. Vai trò của TCDN ? Chức năng giám đốc của tài chính đc thể hiện ntn trong hoạt động TCDN ?

Vai trò của tài chính doanh nghiệp

Tài chính doanh nghiệp là khâu cơ sở của hệ thống tài chính, trực tiếp gắn liền và phục vụ quá trình sản xuất kinh doanh ở các đơn vị cơ sở, nơi trực tiếp sáng tạo ra sản phẩm quốc dân. Mặt khác, tài chính doanh nghiệp còn tác động quyết định đến thu nhập của các khâu tài chính khác trong hệ thống tài chính. Tài chính doanh nghiệp được xem là một công cụ có vai trò quan trọng trong quản lý kinh doanh, thể hiện qua các mặt sau:

- Tổ chức huy động các nguồn lực tài chính nhằm đáp ứng kịp thời và đầy đủ nhu cầu vốn cho SXKD của doanh nghiệp.

Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, khi các doanh nghiệp tự hạch toán kinh doanh, việc thu hút, huy động kịp thời và đầy đủ các nguồn vốn phục vụ các hoạt động SXKD của doanh nghiệp là vô cùng quan trọng, có tác động trực tiếp đến kết quả kinh doanh và khả năng phát triển của doanh nghiệp. Lúc này, tài chính doanh nghiệp thể hiện rõ vai trò trong việc tìm kênh huy động vốn, xác định đúng đắn nhu cầu vốn cần thiết cho hoạt động của doanh nghiệp trong từng thời kỳ. Tiếp đó là lựa chọn các phương pháp và hình thức huy động vốn thích hợp, đáp ứng kịp thời các nhu cầu về vốn để hoạt động của doanh nghiệp được thực hiện một cách nhịp nhàng, liên tục với chi phí huy động thấp nhất. Khả năng và trình độ tốt của người quản lý sẽ khiến vai trò đó của tài chính doanh nghiệp phát huy ở mức cao nhất, mang lại hiệu quả huy động tối ưu nhất các nguồn vốn cho doanh nghiệp.

- Tổ chức sử dụng vốn tiết kiệm và hiệu quả.

Việc tổ chức sử dụng vốn một cách tiết kiệm và hiệu quả được coi là điều kiện tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp. Trong cơ chế thị trường, việc sử dụng vốn cần phải lựa chọn, tính toán rất kỹ để đảm bảo chi phí thấp nhất và đạt được kết quả mong muốn, dựa trên cơ sở đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn của doanh nghiệp. Tài chính doanh nghiệp có vai trò quan trọng trong việc đánh giá và lựa chọn dự án đầu tư, chọn ra dự án đầu tư tối ưu. Việc đầu tư sử dụng vốn một mặt phải thu hồi và bảo toàn được vốn, mặt khác phải sử dụng các biện pháp để tăng nhanh vòng quay vốn và nâng cao khả năng sinh lời của vốn. Để phát huy vai trò này cần phải xây dựng các kế hoạch sử dụng vốn thật chi tiết, kiểm định chặt chẽ, đảm bảo hiệu quả tối đa việc sử dụng vốn của doanh nghiệp.

- Công cụ kích thích và điều tiết kinh doanh

Vai trò điều tiết và kích thích SXKD của tài chính doanh nghiệp là kết quả tổng hợp của việc vận dụng hài hoà các chức năng của tài chính doanh nghiệp trong việc giải quyết và đảm bảo lợi ích kinh tế của các chủ thể liên quan trong quá trình hoạt động SXKD của doanh nghiệp. Vai trò này được thể hiện thông qua việc tạo sức mua hợp lý để thu hút vốn đầu tư, lao động, vật tư, dịch vụ, đồng thời xác định giá bán hợp lý khi tiêu thụ hàng hoá, cung cấp dịch vụ và thông qua hoạt động phân phối thu nhập của doanh nghiệp, phân phối quỹ khen thưởng, quỹ lương, thực hiện các hợp đồng kinh tế ...

- Giám sát, kiểm tra chặt chẽ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

Tình hình tài chính của doanh nghiệp là tấm gương phản ánh trung thực nhất mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Chức năng giám đốc của tài chính doanh nghiệp được thể hiện ở vai trò giám sát, kiểm tra chặt chẽ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bằng đồng tiền, thông qua các chỉ tiêu tài chính như hệ số nợ, cơ cấu vốn, kết cấu tài chính, khả năng thanh toán, khả năng sinh lợi, hiệu quả sử dụng vốn... từ đó có thể nhận biết được thực trạng quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để phát hiện và khắc phục những vướng mắc, tồn tại, lành mạnh và tối ưu hoá các quá trình kinh doanh và tài chính của doanh nghiệp.

Vai trò của tài chính doanh nghiệp được phát huy và có tác động tích cực hay thụ động phụ thuộc vào nhận thức cùng sự vận dụng các chức năng của tài chính và môi trường kinh doanh, cơ chế tổ chức tài chính doanh nghiệp và các nguyên tắc cần quán triệt trong mọi hoạt động tài chính doanh nghiệp

**** Chức năng giám đốc là chức năng mà nhờ đó quá trình giám đốc bằng đồng tiền được thực hiện đối với quá trình phân phối của tài chính nhằm đảm bảo cho các quỹ tiền tệ luôn được tạo lập và sử dụng đúng mục đích đã định.

Mục đích của giám đốc tài chính là xem xét tính hiệu quả của quá trình phân phối, phát hiện ra những mặt được và chưa được của quá trình phân phối. Để biết được rằng phân phối như vậy đã đúng chưa? đã công bằng chưa? đã đúng mục đích chưa? Có hiệu quả chưa? Nếu có hiệu quả thì tiếp tục phân phối. Nếu chưa hiệu quả thì điều chỉnh để việc phân phối hợp lý và hiệu quả hơn trong việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ.

Chức năng giám đốc của tài chính doanh nghiệp được thể hiện ở vai trò giám sát, kiểm tra chặt chẽ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bằng đồng tiền, thông qua các chỉ tiêu tài chính như hệ số nợ, cơ cấu vốn, kết cấu tài chính, khả năng thanh toán, khả năng sinh lợi, hiệu quả sử dụng vốn... từ đó có thể nhận biết được thực trạng quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để phát hiện và khắc phục những vướng mắc, tồn tại, lành mạnh và tối ưu hoá các quá trình kinh doanh và tài chính của doanh nghiệp.

Giám đốc tài chính luôn gắn liền với việc xem xét các chỉ tiêu tài chính và các chuẩn mực trong quá trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ. Ví dụ: Khi quản lý tài chính trong doanh nghiệp người ta phải căn cứ vào các quy định, các quy chế quản lý tài chính của Nhà nước, của Bộ, của cấp trên như: văn bản luật, các thông tư, nghị định, các nội quy, quy chế của công ty...để làm căn cứ cho quá trình giám đốc được chính xác và hiệu quả. Chính các chuẩn mực trong quá trình tạo lập và sử dụng quỹ tiền tệ đã đưa tới khả năng tự kiểm tra, giám sát của mỗi chủ thể một cách hiệu quả nhất. Khi phân phối sai mục đích thì phát hiện để sửa...

Trong hoạt động của Tài chính doanh nghiệp giám đốc tài chính kiểm tra quá trình huy động sử dụng vốn của doanh nghiệp, kiểm tra tình hình thực hiện doanh thu, chi phí, lợi nhuận của doanh nghiệp thông qua đánh giá các chỉ tiêu tài chính doanh nghiệp, đặc biệt là quá trình phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp xem đã hợp lý chưa...

5. K/n chi phí, thu nhập của DN ? Có người nói : thu nhập tăng lên đồng nghĩa với lợi nhuận DN tăng lên ? Bình luận ý kiến ?

CP Là biểu hiện bằng tiền của những hao phí về các yếu tố có liên quan và phục vụ cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong một khoảng thời gian nhất định

TN Là toàn bộ lượng giá trị được tạo ra từ các quá trình kinh doanh trong một khoảng thời gian nhất định để bù đắp các khoản chi phí, tái tạo vốn kinh doanh và góp phần tạo ra lợi nhuận doanh nghiệp

Lợi nhuận là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nó được biểu hiện là chênh lệch giữa thu nhập đạt được trong kỳ với chi phí đã bỏ ra để có được thu nhập đó trong một thời kỳ nhất định.

6. TCDN là gì ? So sánh với NSNN ?

Tài chính doanh nghiệp là hệ thống các quan hệ kinh tế dưới hình thái giá trị phát sinh trong quá trình hình thành, phân phối và sử dụng các nguồn tài chính, các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp nhằm góp phần thực hiện các mục tiêu của doanh nghiệp

Ngân sách nhà nước là hệ thống các quan hệ kinh tế giữa nhà nước với các chủ thể trong xã hội dưới hình thái giá trị, phát sinh trong quá trình nhà nước tạo lập, phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của nhà nước (NSNN) nhằm đảm bảo cho việc thực hiện các chức năng của nhà nước về mọi mặt.

Đặc điểm TCDN:

• Tài chính doanh nghiệp luôn gắn liền và phục vụ cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp : Mọi quan hệ tài chính phát sinh đều gắn liền với quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, không có quan hệ tài chính phát sinh tách rời với quá trình sản xuất kinh doanh.

• Tài chính doanh nghiệp gắn liền với hình thức pháp lý của từng doanh nghiệp : Ứng với mỗi một loại hình sở hữu của doanh nghiệp, tài chính của doanh nghiệp đó có những đặc điểm đặc trưng riêng

Phương thức huy động vốn

Phương thức đầu tư

Phân phối thu nhập sau thuế của doanh nghiệp ...

• Tài chính doanh nghiệp luôn gắn liền với chế độ hạch toán kinh doanh : Nguyên tắc cơ bản của chế độ hạch toán kinh doanh: "LẤY THU BÙ CHI VÀ ĐẢM BẢO CÓ LÃI"

Đặc điểm NSNN:

• Hoạt động của NSNN gắn liền với quyền lực kinh tế, chính trị của nhà nước được NN tiến hành trên cơ sở luật định.

• Các hoạt động thu - chi NSNN luôn gắn chặt với việc thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của NN trong từng thời kỳ.

• Hoạt động thu - chi của NSNN chứa đựng các quan hệ kinh tế, quan hệ lợi ích nhất định trong đó lợi ích quốc gia, lợi ích của tổng thể được đặt lên hàng đầu và chi phối các lợi ích khác.

• Hoạt động thu - chi cuả NSNN mang tính không hoàn trả trực tiếp là chủ yếu.

• NSNN mang tính kế hoạch và cân đối : Tính kế hoạch: Dự toán thu, chi NSNN + Tính cân đối: Cân đối giữa thu và chi NSNN

• Hoạt động thu-chi của NSNN gắn chặt với thực trạng của nền kinh tế và các phạm trù gía trị như giá cả, lãi suất, tỉ gía hối đoái...

• Hoạt động thu-chi NSNN thực chất là sự phân chia nguồn lực tài chính quốc gia nhằm giải quyết hài hoà các mối quan hệ về lợi ích kinh tế giữa các chủ thể trong xã hội.

Vai trò của TCDN:

- Tổ chức huy động các nguồn lực tài chính nhằm đáp ứng kịp thời và đầy đủ nhu cầu vốn cho SXKD của doanh nghiệp.

- Tổ chức sử dụng vốn tiết kiệm và hiệu quả.

- Công cụ kích thích và điều tiết kinh doanh

- Giám sát, kiểm tra chặt chẽ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

Vai trò của NSNN

• Ngân sách nhà nước là công cụ huy động nguồn tài chính để đảm bảo các nhu cầu chi tiêu của nhà nước

• NSNN là công cụ để điều tiết vĩ mô nền kinh tế - xã hội

- Là công cụ để định hướng sản xuất kinh doanh xác lập cơ cấu kinh tế hợp lý của nền kinh tế quốc dân :

- Là công cụ để điều tiết thị trường, bình ổn giá cả và kiểm soát lạm phát :

• Là công cụ để điều tiết thu nhập giữa các thành phần kinh tế và các tầng lớp dân cư nhằm đảm bảo công bằng xã hội.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#nmtctt