C6. Cấu tạo chung của máy cày đĩa:

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

C6. Cấu tạo chung của máy cày đĩa:

Cày đĩa có 2 loại: loại mỗi đĩa lắp ở một trục và loại tất cả các đĩa cùng lắp vào một trục. Một cày đĩa có thể có 2, 3 đĩa đến 7, 8 đĩa; cày có thể là loại móc, cũng có thể là loại treo.

Bộ phận làm việc của cày là những đĩa dạng chỏm cầu bằng thép, được mài sắc ở mép đĩa.

Các thông số cấu tạo đĩa là bán kính hình cầu R tạo nên đĩa chỏm cầu, đường kính D của hình tròn cạnh sắc của đĩa - nằm trong mặt phẳng cạnh sắc (ta quy ước gọi là đường kính tròn cạnh sắc), bề dày của đĩa và góc mài sắc mép đĩa (cạnh sắc).

Cạnh sắc của đĩa theo phương y lệch đi so với phương chuyển động của cày một góc (anpha) (hình 1-27) gọi là góc tiến của cày, anpha = 30 ÷ 45 độ. Mặt phẳng đĩa (mặt phẳng cạnh sắc) nghiêng so với phương thẳng đứng Z một góc (beta) gọi là góc đặt của đĩa (hình 1-26). Đối với cày mỗi đĩa một trục thì beta = 0 ÷ 20 độ, đối với cày các đĩa lắp trên một trục beta = 0.

Khi cày tương đối sâu thì đường kính đĩa có thể đến 600 ÷ 800 mm và số lượng đĩa của mỗi cày không nhiều (chừng 3÷4 đĩa). Khi thiết kế cày có các thong số anpha và beta thì người ta cấu tạo mỗi đĩa một trục riêng và lắp vào một trụ riêng.

Khi thiết kế các cày có cấu trúc các đĩa lắp trên cùng một mặt phẳng, thì cày giống như bừa, chỉ khác là ở cày có 1 hàng đĩa. Để làm sạch bề mặt đĩa, chống dính đất và tăng thêm khả năng lật đất người ta lắp bánh xe ở cuối cày, bánh xe có thể có cấu tạo như 1 con dao đĩa, có góc tiến ngược với góc tiến của cày. Người ta sử dụng một bánh tựa để điều chỉnh độ nông sâu và giữ cho cày làm việc và là điểm đỡ chho cày khi đặt trên mặt sàn.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro