Cac bai viet Lenin

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Đặt văn bản tại đây...Cách mạng vô sản và tên phản bội cau-xky

Cách mạng vô sản

Tôi đã bắt đầu viết một cuốn sách với nhan đề như thể nhằm phê phán cuốn "Chuyên chính vô sản" của Cau-xky vừa mới xuất bản ở Viên. Nhưng vì công việc tôi làm còn lâu mới xong, nên tôi quyết định đề nghị ban biên tập báo "Sự thật" dành chỗ cho một bài ngắn cũng về chủ đề ấy.

Hơn bốn năm của một cuộc chiến tranh phản động và hao tổn nhất đã mang lại những hậu quả của nó. Người ta cảm thấy ngọn gió của cách mạng vô sản đang lên ở châu âu: ở áo, ở ý , ở Đức, ở Pháp, thậm chí ở cả Anh nữa (chẳng hạn, bài "Những lời thú nhận của một nhà tư bản" mà chúng ta thấy đăng hồi tháng Bảy trên "Tạp chí xã hội chủ nghĩa", một tạp chí cơ hội chủ nghĩa cực đoạn, do một người nửa tự do chủ nghĩa, Ram- xây Mác - Đô-nan, chủ biên, là một chứng cớ rất tốt).

Và chính hồi đó, vị lãnh tụ của Quốc tế II, ông Cau-xky đã cho xuất bản một cuốn sách về chuyên chính vô sản, nghĩa là về cách mạng vô sản, một cuốn sách còn trăm lần đê tiện, đáng ghét và phản bội hơn cuốn sách lừng danh "Những tiền đề của chủ nghĩa xã hội" của Béc-stanh. Ngót 20 năm đã trôi qua kể từ khi cuốn sách phản bội đó ra đời; và hôm nay đây, Cau-xky lại lặp lại và phát triển luận điệu phản bội đó!

Trong cuốn sách đó, chỉ có một phần không đáng kể là nói riêng về cuộc cách mạng bôn-sê-vích Nga. Cau-xky nhắc lại y nguyên những luận điệu thâm thuý kiểu men-sê-vích khiến cho công nhân Nga chỉ có ôm bụng mà cười thôi. Các bạn đọc hãy tưởng tượng xem, chẳng hạn, người ta gọi là "chủ nghĩa Mác", cái nghị luận - có xen kẽ những đoạn trích dẫn trong các bài viết nửa tự do chủ nghĩa của anh chàng nửa tự do chủ nghĩa Ma-xlốp, - nói rằng nông dân giàu đang ra sức chiếm đoạt ruộng đất (thật là một điều mới mẻ!), giá cả lúa mì cao là có lợi cho họ, v.v... Đã thế, "nhà mác-xít" của chúng ta lại còn tuyên bố một cách kiêu kỳ, sặc mùi tự do chủ nghĩa, như thế này: " ở đây, người bần nông được coi" (nghĩa là được những người bôn-sê-vích trong nước Cộng hoà xô-viết coi) "là một sản phẩm thường xuyên và phổ biến của cuộc cải cách ruộng đất xã hội chủ nghĩa của "chuyên chính vô sản" (sách của Cau-xky, tr. 48).

Như thế há chẳng phải là rất hay đó sao? Một nhà xã hội chủ nghĩa, một nhà mác-xít mà lại ra sức chứng minh cho chúng ta thấy tính chất tư sản của cuộc cách mạng, và do đó đã khinh miệt, hoàn toàn theo tinh thần của Ma- xlốp, Pô-tơ-rê-xốp và bọn dân chủ - lập hiến, tổ chức nông dân nghèo ở nông thôn.

"Việc tước đoạt những nông dân giàu chỉ gây thên một nhân tố rối ren và nội chiến mới trong quá trình sản xuất, là quá trình đòi hỏi nhất thiết phải có sự yên ổn và an toàn mới kiện toàn được" (tr. 49).

Thật là kỳ quái, nhưng đó lại là một sự thật. Chính Cau-xky đã viết điều đó trên giấy trắng mực đen, chứ không phải Xa-vin-cốp hay Mi-li-u-cốp!

ở nước Nga, chúng ta đã nhiều lần thấy những người khoác áo "mác-xít" bênh vực bọn cu-lắc nên những luận điệu của Cau-xky không làm cho chúng ta ngạc nhiên. Nhưng đối với độc giả châu âu, có lẽ nên nói kỹ hơn về sự phục tùng giai cấp tư sản một cách hèn nhát như thế và về tâm lý sợ sệt như thế của phái tự do đối với nội chiến. Còn đối với công nhân và nông dân Nga thì chỉ cần vạch ra cho họ thấy hành đồng phản bội của Cauixky - là đủ.

Chín phần mười cuốn sách của Cau-xky, hoặc gần như thế, là để chuyên nói về một vấn đề lý luận chung có một ý nghĩa quan trọng bậc nhất, đó là vấn đề: quan hệ giữa chuyên chính vô sản và chế độ "dân chủ". Chính trong vấn đề đó, ta thấy rất rõ Cau-xky đã hoàn toàn đoạn tuyệt với chủ nghĩa Mác.

Với cái giọng hết sức nghiêm túc và hết sức "thông thái", Cau-xky quả quyết với độc giả của y rằng theo Mác thì "chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản" không phải là "một hình thức quản lý" gạt bỏ dân chủ, mà là một trạng thái, tức là: "một trạng thái thống trị". Còn sự thống trị của giai cấp vô sản, với tư cách là đa số trong dân cư, thì có khả năng thực hiện được trong điều kiện hết sức tôn trọng dân chủ, và Công xã Pa-ri, chẳng hạn, chính là chuyên chính vô sản, thì đã được bầu lên bằng đầu phiếu phổ thông. Và Mác, khi nói tới chuyên chính của giai cấp vô sản, không coi đó là "một hình thức quản lý" (hay hình thức chính quyền, Regierungsform), điều đó dường như đã được "chứng minh ngay bằng việc chính Mác đã cho rằng Anh và Mỹ có khả năng quá độ (lên chủ nghĩa cộng sản) bằng con đường hoà bình, nghĩa là bằng con đường dân chủ" (tr. 20 - 21).

Thật là kỳ quái, nhưng đó lại là sự thật! Cau-xky đã lập luận đúng như thế và y còn kịch liệt công kích những người bôn-sê-vích là đã vi phạm "dân chủ" trong hiến pháp của họ, trong toàn bộ chính sách của họ, đồng thời y cũng luôn luôn ra sức tuyên truyền một "phương pháp dân chủ, chứ không phải chuyên chính".

Như thế là chạy hẳn sang hàng ngũ bọn cơ hội (kiểu bọn cơ hội Đức: Đa-vít, Côn-bơ và những cột trụ khác của phái xã hội - sô-vanh, hay kiểu bọn Pha-biêng và phái độc lập Anh, hay kiểu bọn cải lương Pháp và ý ), tức là bọn đã tuyên bố thẳng thắn và trung thực hơn rằng họ bác bỏ học thuyết của Mác về chuyên chính vô sản, vì theo họ, học thuyết đó trái với chế độ dân chủ.

Như thế là hoàn toàn quay trở về quan điểm của chủ nghĩa xã hội Đức trước Mác: mong muốn một "nhà nước nhân dân tự do", tức là quan điểm của bọn dân chủ tiểu tư sản là bọn không hiểu rằng bất cứ nhà nước nào cũng là một bộ máy để một giai cấp này trấn áp giai cấp khác.

Như thế là hoàn toàn phủ nhận cách mạng của giai cấp vô sản, thay cách mạng đó bằng lý luận của phái tự do về "tranh thủ đa số", về "lợi dụng chế độ dân chủ"! Tất cả những điều Mác và Ăng-ghen đã tuyên truyền và chứng minh trong bốn chục năm trời, từ năm 1852 đến 1891, rằng giai cấp vô sản nhất thiết phải "đập tan" bộ máy nhà nước tư sản, đều bị tên phản bội Cau-xky hoàn toàn quên mất, bóp méo cả và vứt đi hết.

Phân tích tỉ mỉ những sai lầm lý luận của Cau-xky, tức là nhắc lại những điều tôi đã nói trong "Nhà nước và cách mạng". Trong bài này không cần phải làm điều đó. Tôi chỉ xin nói vắn tắt như sau:

Cau-xky đã phủ nhận chủ nghĩa Mác khi quên rằng bất cứ nhà nước nào cũng là một bộ máy để một giai cấp này trấn áp giai cấp khác, rằng nền cộng hoà tư sản dân chủ nhất cũng là một bộ máy để giai cấp tư sản áp bức giai cấp vô sản.

Chuyên chính vô sản không phải là một "hình thức quản lý", mà là một nhà nước thuộc một kiểu khác, nhà nước vô sản, một bộ máy để giai cấp vô sản, trấn áp giai cấp tư sản. Trấn áp như vậy là cần thiết, vì giai cấp tư sản sẽ luôn luôn chống lại một cách điên cuồng, khi nó bị tước đoạt.

(Viện cớ rằng trong những năm 70, Mác đã thừa nhận Anh và Mỹ có khả năng quá độ hoà bình lên chủ nghĩa xã hội [1], như thế là nguỵ biện, hay nói cho dễ hiểu hơn, như thế là hành vi của một kẻ gian dối dùng trích dẫn và dẫn chứng để lừa người. Một là ngay từ hồi đó, Mác cũng đã coi khả năng ấy là một ngoại lệ. Hai là hồi đó, còn chưa có chủ nghĩa tư bản độc quyền, tức là chủ nghĩa đế quốc. Ba là hồi đó, ở chính nước Anh và nước Mỹ, chưa có (hiện nay đã có) tập đoàn quân phiệt với tư cách là bộ phận chủ chốt trong bộ máy nhà nước tư sản).

Ở đâu có áp bức, thì ở đó không thể có tự do, không thể có bình đẳng,v.v... Vì thế nên Ăng-ghen nói: "chừng nào giai cấp vô sản còn cần đến nhà nước thì nó cần đến nhà nước không phải là vì tự do, mà là để trấn áp kẻ thù của mình; và khi nào có thể nói đến tự do thì nhà nước sẽ không còn tồn tại với tư cách là nhà nước nữa". [2]

Chế độ dân chủ tư sản, tuy giá trị không thể phủ nhận của nó là ở chỗ đã giáo dục và rèn luyện giai cấp vô sản đứng lên đấu tranh, nhưng trước sau nó vẫn chật hẹp, giả dối, lừa bịp, giả mạo, nó luôn luôn vẫn là một thứ dân chủ đối với những kẻ giàu và là một trò bịp bợm đối với những người nghèo.

Chế độ dân chủ vô sản trấn áp những kẻ bóc lột, trấn áp giai cấp tư sản; do đó, nó không giả dối, nó không hứa hẹn cho bọn chúng tự do và dân chủ; nhưng đối với những người lao động thì nó đưa lại cho họ một chế độ dân chủ thật sự. Chỉ có nước Nga xô-viết mới mang lại cho giai cấp vô sản và tuyệt đại đa số nhân dân lao động nước Nga một quyền tự do và một nền dân chủ chưa hề có, không thể có được và không thể quan niệm được trong bất cứ một nước cộng hoà dân chủ tư sản nào, vì nó đã tước đoạt, chẳng hạn, các cung điện và các biệt thự của giai cấp tư sản (không tước đoạt như vậy thì tự do hội họp chỉ là giả dối), đã tước đoạt các nhà in và giấy của bọn tư bản (nếu không thì tự do báo chí của đa số nhân dân lao động trong nước chỉ là lừa dối), đã thay chế độ đại nghị tư sản bằng một tổ chức dân chủ, tức là các Xô-viết, 1000 lần gần "nhân dân" hơn, "dân chủ" hơn cái nghị viện tư sản dân chủ nhất. Và vân vân.

Cau-xky đã vứt bỏ... "đấu tranh giai cấp" áp dụng vào chế độ dân chủ! Cau-xky đã trở thành một tên phản bội hoàn toàn, một tên đầy tớ của giai cấp tư sản.

Nhân dịp này, không thể không nhận xét về vài điều châu báu của sự phản bội đó.

Cau-xky buộc phải thừa nhận rằng tổ chức xô-viết có ý nghĩa không những đối với nước Nga mà còn đối với cả thế giới nữa, rằng nó là một trong số "những hiện tượng quan trọng nhất ở thời đại chúng ta", nó hứa hẹn có được một "tác dụng quyết định" trong "những cuộc đấu tranh" vĩ đại "giữa tư bản và lao động" sau này. Nhưng lặp lại những luận điệu cao siêu của bọn men-sê-vích là bọn đã bình yên vô sự chạy sang phía giai cấp tư sản để chống lại giai cấp vô sản, Cau-xky "suy luận ra" rằng: với tư cách là "tổ chức đấu tranh" thì Xô-viết là tốt, nhưng với tư cách là "tổ chức nhà nước" thì Xô-viết không tốt.

Thật là tuyệt diệu! Vô sản và nông dân nghèo hãy tổ chức nhau lại thành các Xô-viết đi! Nhưng, - cầu trời phù hộ cho các bạn! Các bạn đừng có thắng! Các bạn chớ có nghĩ đến thắng! Hễ mà các bạn thắng giai cấp tư sản thì hỏng bét cả, vì các bạn không nên trở thành các tổ chức "nhà nước" trong một nhà nước vô sản. Chính sau khi đã thắng rồi, các bạn phải tự giải tán đi!!

Chà, Cau-xky mới thật là một "nhà mác-xít" tuyệt diệu làm sao! Chà, Cau-xky thật là "nhà lý luận" vô song về mặt phản bội!

Điều châu báu số hai. Nội chiến là "kẻ tử thù" của "cách mạng xã hội", vì như chúng ta từng nghe nói, cách mạng xã hội "cần phải có an ninh" (cho những kẻ giàu có ư?) "và an toàn" (cho những nhà tư bản ư?).

Các bạn vô sản châu âu! Chừng nào các bạn còn chưa thấy có một giai cấp tư sẩn không thuê mướn bọn Xa-vin-cốp và Đan, Đu-tốp và Cra-xnốp, bọn Tiệp và bọn cu-lắc đi đánh các bạn trong cuộc nội chiến thì các bạn chớ có nghĩ đến cách mạng làm chi!

Hồi 1870, Mác đã viết: hy vọng chủ yếu là chiến tranh sẽ dạy cho công nhân Pháp biết sử dụng vũ khí [3]. Sau 4 năm chiến tranh, "nhà mác-xít" Cau-xky lại không mong công nhân sử dụng vũ khí để đánh giai cấp tư sản (nhờ trời phù hộ! Chắc là điều đó không hoàn toàn "dân chủ" đâu), mà... mong bọn tư bản tốt ký kết một hoà ước tốt!

Điều châu báu số ba. Nội chiến còn có mặt xấu nữa là: nếu trong "chế độ dân chủ", "thiểu số được bảo vệ" (nhân tiện phải nhắc rằng đó là sự bảo vệ mà những người bênh vực cho Đrây-phuýt ở Pháp, hay những người như Liếp-nếch, Ma-clin, Đép-xơ trong thời gian gần đây, đã thể nghiệm sâu sắc) thì trong nội chiến (xin lắng nghe! Xin lắng nghe cho kỹ!) "kẻ thua có thể bị tiêu diệt hoàn toàn".

Đó, cái ông Cau-xky này há chẳng phải là một nhà cách mạng chân chính đó ư? ông ta hết lòng tán thành cách mạng... nhưng chỉ với điều kiện là cách mạng được tiến hành không có đấu tranh mạnh mẽ chữa đựng nguy cơ tiêu diệt! ông ta đã hoàn toàn "khắc phục" sai lầm cũ của ông già Ăng-ghen là người đã từng nhiệt liệt ca ngợi tác dụng giáo dục của các cuộc cách mạng bạo lực[4]. Chính Cau-xky, với tư cách là nhà sử học "nghiêm túc", đã hoàn toàn từ bỏ các sai lầm của những người nói rằng nội chiến tôi luyện những người bị bóc lột và dạy cho họ lập lên một xã hội mới không có kẻ bóc lột.

Điều châu báu số bốn. Về ý nghĩa lịch sử, chuyên chính của những người vô sản và những người tiểu thị dân trong cuộc cách mạng 1789 có gì là vĩ đại và bổ ích không? Hoàn toàn không. Vì Na-pô-lê-ông đã nhảy lên vũ đài. "Chuyên chính của các tầng lớp dưới mở đường cho chuyên chính của thanh kiếm" (tr. 26). Nhà sử học "nghiêm túc" của chúng ta, cũng như cả bọn tự do chủ nghĩa mà ông ta đã đi theo, tin chắc rằng trong những nước không trải qua "chuyên chính của các tầng lớp dưới", như nước Đức chẳng hạn, thì không có chuyên chính của thanh kiếm. Nước Đức chưa bao giờ khác nước Pháp bởi một nền chuyên chính của thanh kiếm, thô bạo hơn, xấu xa hơn, đó là điều vu khống do Mác và Ăng-ghen đã tưởng tượng ra khi hai ông nói dối một cách trắng trợn rằng cho đến ngày nay, trong "nhân dân" Pháp, những người bị áp bức đã tỏ ra yêu tự do và tỏ ra tự hào hơn những người bị áp bức ở Anh hay ở Đức, rằng nước Pháp được như thế chính là nhờ có những cuộc cách mạng của nó.

... Thôi thế là đủ lắm rồi! Muốn nếu lên tất cả những điều châu báu của sự phản bội của tên phản bội đểu cáng Cau-xky thì phải viết riêng một cuốn sách.

Không thể không nói đến "chủ nghĩa quốc tế" của ông Cau-xky. Cũng là vô tình mà Cau-xky đã cho ta thấy rõ về vấn đề đó, khi ông ta dùng những từ nói lên sự đồng tình sâu sắc nhất của ông ta, để mô tả chủ nghĩa quốc tế của bọn men-sê-vích là những người Xim-méc-van - như ông Cau-xky ngọt ngào đã quả quyết với chúng ta - và là - các bạn đừng cười! - "anh em" của những người bôn-sê-vích nữa đấy!.

Đây, ông ta đã mô tả một cách ngọt ngào "chủ nghĩa Xim-méc-van" của phái men-sê-vích như sau:

"Phái men-sê-vích muốn thực hiện một nền hoà bình phổ biến. Họ muốn rằng tất cả các nước tham chiến sẽ chấp nhận khẩu hiệu: hoà bình không thôn tính, không bồi thường. Chừng nào mục tiêu đó chưa đạt được thì theo họ, quân đội Nga cần phải sẵn sàng chiến đấu..." Song, những người bôn-sê-vích tai ác "đã làm tan rã" quân đội và đã ký kết cái hoà ước Brét tai ác... Và Cau-xky tuyên bố một cách hết sức rõ ràng rằng cần phải duy trì Quốc hội lập hiến, rằng những người bôn-sê-vích không nên giành chính quyền.

Như vậy thì chủ nghĩa quốc tế là ở chỗ ủng hộ chính phủ đế quốc "nước mình", cũng như phái men-sê-vích và phái xã hội chủ nghĩa - cách mạng đã ủng hộ Kê-ren-xki; là ở chỗ bưng bít các hiệp ước bí mật của chính phủ đó, lừa dối nhân dân bằng những lời đường mật: chúng tôi "đòi", họ nói thế, các con dã thú phải trở thành hiền lành, chúng tôi "đòi" các chính phủ đế quốc phải "chấp nhận khẩu hiệu hoà bình không thôn tính, không bồi thường".

Theo Cau-xky, đó là chủ nghĩa quốc tế.

Nhưng theo chúng tôi, đó là một sự phản bội hoàn toàn.

Chủ nghĩa quốc tế là ở chỗ đoạn tuyệt với những người xã hội sô-vanh (tức là bọn vệ quốc) của nước mình và với chính phủ đế quốc của nước mình, tiến hành đấu tranh cách mạng chống lại chính phủ ấy, lật đổ nó, sẵn sàng hy sinh những lợi ích dân tộc lớn nhất (thậm chí phải ký hoà ước Brét) nếu điều đó có lợi cho sự phát triển của cách mạng công nhân quốc tế.

Chúng ta hiểu rõ ràng Cau-xky và bè lũ (thuộc loại Stơ-rơ-ben, Béc-stanh v.v.) rất "bực tức" về việc ký hoà ước Brét; họ muốn chúng ta có một "cử chỉ"... là trao ngay lập tức chính quyền ở Nga vào tay giai cấp tư sản! Những anh chàng tiểu tư sản Đức đần độn nhưng rất tốt và rất nhã nhặn ấy không muốn cho nước Cộng hoà xô-viết vô sản, - chế độ cộng hoà đầu tiên trên thế giới đã dùng cách mạng đánh đổ chủ nghĩa đế quốc trong nước, - lại đứng vững được cho đến ngày cách mạng châu âu bùng nổ, đồng thời lại nhen lên những đám lửa ở các nước khác (bọn tiểu tư sản sợ đám cháy ở châu âu, họ sợ nội chiến phá huỷ "an ninh và an toàn"). Không. Họ muốn rằng ở tất cả các nước, chủ nghĩa dân tộc tiểu tư sản, cái chủ nghĩa tự xưng là "chủ nghĩa quốc tế", sẽ đứng vững được nhờ "tính ôn hoà và tử tế" của nó. Nước Cộng hoà Nga hãy cứ là nước tư sản và... hãy cứ đợi... Thế là trên trái đất này, tất cả mọi người sẽ đều là những người tiểu tư sản dân tộc chủ nghĩa tốt bụng, ôn hoà, không có đầu óc xâm lược; và chủ nghĩa quốc tế chính là ở chỗ ấy!

Chính đó là điều mà bọn Cau-xky ở Đức, bọn Lông-ghê ở Pháp, bọn độc lập (I. L. P) ở Anh, Tu-ra-ti và "anh em" của hắn ta về mặt phản bội ở ý , v.v. và v.v.., nghĩ đến.

Hiện nay, chỉ có những người quá ngu độn mới không thấy rằng chúng ta không những chỉ đúng trong việc đánh đổ giai cấp tư sản (cùng bọn tôi tớ của chúng, bọn men-sê-vích và bọn xã hội chủ nghĩa - cách mạng) ở nước ta, mà còn đúng trong việc kỳ hoà ước Brét sau khi giai cấp tư sản trong phe Đồng minh bác bỏ lời kêu gọi công khai về việc các nước ký hoà ước chung, lời kêu gọi được chứng thực bằng việc công bố và đoạn tuyệt với các hiệp ước bí mật. Trước hết, nếu như chúng ta không ký hoà ước Brét, thì như thế là chúng ta lập tức để cho chính quyền rơi vào tay giai cấp tư sản Nga, và do đó làm cho cách mạng xã hội chủ nghĩa thế giới phải chịu tổn thất lớn nhất. Thứ hai, nhờ những hy sinh dân tộc, chúng ta đã duy trì được một ảnh hưởng cách mạng quốc tế, khiến cho hiện nay Bun-ga-ri đã trực tiếp noi gương chúng ta, áo và Đức thì đang sôi sục, cả hai phe đế quốc đó đều suy yếu, còn chúng ta đã được củng cố và đã bắt đầu xây dựng được một đạo quân vô sản chân chính.

Theo sách lược của tên phản bội Cau-xky, bây giờ công nhân Đức phải sát cánh với giai cấp tư sản mà bảo vệ tổ quốc và phải hết sức sợ nổ ra cuộc cách mạng ở Đức, vì người Anh có thể bắt họ phải chịu một hoà ước mới như Brét. Đó chính là hành vi phản bội. Đó chính là chủ nghĩa dân tộc tiểu tư sản.

Còn chúng ta, chúng ta nói: việc để cho U-cra-i- na bị xâm chiếm là một hy sinh dân tộc vô cùng to lớn, nhưng việc đó đã tôi luyện và củng cố hàng ngũ những người vô sản và nông dân nghèo U-cra-i- na là những chiến sĩ của cách mạng công nhân thế giới. U-cra-i- na đã bị đau khổ, nhưng cách mạng quốc tế lại được lợi, vì nó đã làm "ruỗng nát" quân đội Đức, đã làm suy yếu chủ nghĩa đế quốc Đức, đã làm cho công nhân cách mạng Đức, U-cra-i- na và Nga gần gũi nhau.

Nếu chỉ tiến hành một cuộc chiến tranh mà có thể lật đổ được cả Vin- hem lẫn Uynh-xơn, thì đương nhiên là "dễ chịu hơn" rồi. Nhưng đó là vô lý. Chúng ta không thể lật đổ được chúng bằng một cuộc chiến tranh ngoài nước. Nhưng chúng ta có thể đẩy nhanh sự tan rã nội bộ của chúng. Chúng ta đã làm được điều đó bằng cuộc cách mạng xô-viết, vô sản, trên một quy mô to lớn.

Công nhân Đức sẽ đạt được thành tựu còn to lớn hơn, nếu họ đứng lên làm cách mạng mà không tính đến những hy sinh dân tộc (chỉ có như thế mới là chủ nghĩa quốc tế), nếu họ nói (và chứng minh bằng hành động) rằng đối với họ, lợi ích của cuộc cách mạng công nhân quốc tế cao hơn cả sự toàn vẹn lãnh thổ, sự an toàn và sự an ninh của một nhà nước dân tộc nào đó, tức là của chính ngay nước họ.

Điều bất hạnh và điều nguy hiểm to lớn nhất đối với châu âu, chính là chỗ ở châu âu không có chính đảng cách mạng. Có đảng của những kẻ phản bội, như bọn Sai-đê-man, bọn Rơ-nô-đen, bọn Hen-đéc-xơn, bọn Ve-bơ và bè lũ, hoặc đảng của những bọn tôi tớ như Cau-xky. Không có chính đảng cách mạng.

Dĩ nhiên, một phong trào cách mạng mạnh mẽ của quần chúng có thể sửa chữa được thiếu sót đó, nhưng sự thật đó vẫn là điều bất hạnh lớn và điều nguy hiểm lớn.

Chính vì thế nên phải tìm đủ mọi cách để lật mặt nạ những kẻ phản bội như Cau-xky, và do đó, ủng hộ những nhóm cách mạng của những người vô sản thực sự quốc tế chủ nghĩa, đã có ở trong tất cả các nước. Giai cấp vô sản sẽ mau chóng lìa bỏ bọn đầu hàng và bọn phản bội mà đi theo các nhóm đó, và trong những người của các nhóm đó, họ sẽ bồi dưỡng ra những lãnh tụ của họ. Không phải là vô cớ mà giai cấp tư sản ở tất cả các nước lại la lối về "chủ nghĩa bôn-sê-vích thế giới".

Chủ nghĩa bôn-sê-vích thế giới sẽ thắng giai cấp tư sản thế giới.

Sự thật, số 219, ngày 11 tháng Mười 1918

Ba nguồn gốc và ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác

1913s

Tác giả: V.I.Lênin

Nguồn: Nhà xuất bản Sự Thật

Trong toàn thế giới văn minh, học thuyết của Mác đã gây ra sự thù địch mạnh nhất và lòng căm thù lớn nhất của toàn bộ khoa học tư sản (cả của giới quan phương lẫn của phái tự do), là khoa học xem chủ nghĩa Mác như một loại "tông phái có hại". Không thể trông mong có một thái độ nào khác thế được, vì trong một xã hội xây trên đấu tranh giai cấp thì không thể có một khoa học xã hội "vô tư" được. Bằng cách này hay cách khác, toàn bộ khoa học của giới quan phương và của phái tự do đều bênh vực chế độ nô lệ làm thuê, còn chủ nghĩa Mác thì tuyên chiến quyết liệt với chế độ nô lệ ấy. Mong đợi có một khoa học vô tư trong một xã hội xây dựng trên chế độ nô lệ làm thuê là một sự khờ dại ngây thơ không khác gì mong đợi các chủ xưởng tỏ ra vô tư trong vấn đề xem có nên bớt lợi nhuận của tư bản để tăng tiền công cho công nhân không.

Nhưng chưa phải thế là hết. Lịch sử triết học và lịch sử khoa học xã hội chỉ ra một cách hoàn toàn rõ rằng chủ nghĩa Mác không có gì là giống "chủ nghĩa tông phái", hiểu theo nghĩa là một học thuyết đóng kín và cứng nhắc, nảy sinh ở ngoài con đường phát triển vĩ đại của văn minh thế giới. Trái lại, tất cả thiên tài của Mác chính là ở chỗ đã giải đáp được những vấn đề mà tư tưởng tiên tiến của nhân loại đã nêu ra. Học thuyết của ông ra đời thành sự thừa kế thẳng và trực tiếp học thuyết của các đại biểu xuất sắc nhất cho triết học, chính trị kinh tế học và chủ nghĩa xã hội.

Học thuyết của Mác là học thuyết vạn năng vì nó chính xác, nó hoàn bị và chặt chẽ; nó cung cấp cho người ta một thế giới quan hoàn chỉnh, không thoả hiệp với bất cứ một sự mê tín nào, một thế lực phản động nào, một hành vi nào bảo vệ áp bức của giai cấp tư sản. Nó là kẻ thừa kế chính đánh nhất của tất cả những cái tốt đẹp nhất mà loài người đã sáng tạo ra hồi thế kỷ XIX: triết học Đức, chính trị kinh tế học Anh và chủ nghĩa xã hội Pháp.

Chúng tôi sẽ nói vắn tắt về ba nguồn gốc và ba bộ phận cấu thành đó của chủ nghĩa Mác.

I

Triết học của chủ nghĩa Mác là chủ nghĩa duy vật. Trong suốt toàn bộ lịch sử hiện đại của châu ¢u và nhất là vào cuối thế kỷ XVIII, ở nước Pháp, nơi đã diễn ra một cuộc quyết chiến chống tất cả những rác rưởi của thời trung cổ, chống chế độ nông nô trong các thiết chế và trong những tư tưởng thì chủ nghĩa duy vật là triết học duy nhất triệt để, trung thành với tất cả mọi học thuyết của khoa học tự nhiên, thù địch với mê tín, với thói đạo đức giả v.v.. Cho nên, những kẻ thù của phái dân chủ hết sức tìm cách "bác bỏ", phá hoại, vu cáo chủ nghĩa duy vật và bên vực các loại chủ nghĩa duy tâm triết học là chủ nghĩa mà bằng cách này hay cách khác, rút cuộc lại đều luôn luôn bênh vực hay ủng hộ tôn giáo.

Mác và ¡ng-ghen kiên quyết bảo vệ chủ nghĩa duy vật triết học và đã nhiều lần vạch rõ rằng mọi khuynh hướng ly khai cơ sở ấy là hết sức sai lầm. Quan điểm của hai ông được trình bày rõ rệt nhất và tỉ mỉ nhất trong những tác phẩm của ¡ng-ghen: "Lút-vích Phơ-bách" và "Chống Đuy-rinh", những sách này cũng như "Tuyên ngôn của Đảng cộng sản", đều là những sách gối đầu giường của mọi công nhân giác ngộ.

Nhưng Mác không dừng lại ở chủ nghĩa duy vật của thế kỷ XVIII, ông đẩy triết học tiến lên nữa. ¤ng làm cho triết học trở nên phong phú bằng những thành quả của triết học cổ điển Đức và nhất là của hệ thống triết học Hê-ghen, là hệ thống, đến lượt nó, lại dẫn tới chủ nghĩa duy vật Phơ-bách. Trong số những thành quả đó thì thành quả chủ yếu là phép biện chứng, tức là học thuyết về sự phát triển, dưới hình thức hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và không phiến diện, tức là học thuyết về tính tương đối của nhận thức của con người, nhận thức này phản ánh vật chất luôn luôn phát triển không ngừng. Những phát hiện mới đây của khoa học tự nhiên - như ra-di-om, điện tử, sự biến hoá của nguyên tố - đều xác nhận một cách tuyệt diệu chủ nghĩa duy vật biện chứng của Mác, bất chấp những học thuyết của các nhà triết học tư sản cùng với việc họ "lại" quay về với chủ nghĩa duy tâm đã cũ kỹ và thối nát.

Nghiên cứu sâu hơn và phát triển chủ nghĩa duy vật triết học, Mác đã đưa học thuyết đó tới chỗ hoàn bị và mở rộng học thuyết ấy từ chỗ nhận thức giới tự nhiên đến chỗ nhận thức xã hội loài người. Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học. Sự hỗn độn và tuỳ tiện từ trước đến nay vẫn thống trị trong các quan niệm về lịch sử và chính trị đã được thay thế bằng một lý luận khoa học hết sức hoàn chỉnh và chặt chẽ, nó chỉ cho ta thấy rằng do sự phát triển của lực lượng sản xuất mà từ một chế độ sinh hoạt xã hội này đã nảy sinh ra và phát triển lên như thế nào một chế độ sinh hoạt xã hội khác, cao hơn, - chẳng hạn như chủ nghĩa tư bản nảy sinh ra như thế nào từ chế độ nông nô.

Nhận thức của con người phản ánh giới tự nhiên đang tồn tại độc lập đối với con người, nghĩa là phản ánh vật chất đang phát triển, thì sự nhận thức xã hội của con người (nghĩa là các quan điểm và học thuyết khác nhau về triết học, tôn giáo, chính trị, v.v.) cũng thế, nó phản ánh chế độ kinh tế của xã hội. Các thiết chế chính trị đều là kiến trúc thượng tầng, xây dựng trên một cơ sở kinh tế. Chúng ta thấy, chẳng hạn, những chính thể khác nhau của các nước hiện đại ở châu ¢u đều được dùng để củng cố quyền thống trị của giai cấp tư sản đối với giai cấp vô sản như thế nào.

Triết học Mác là một chủ nghĩa duy vật triết học hoàn bị, nó đã cung cấp cho loài người và nhất là cho giai cấp công nhân, những công cụ nhận thức vĩ đại

Sau khi nhận thấy rằng chế độ kinh tế là cơ sở trên đó kiến trúc thượng tầng chính trị được xây dựng lên thì Mác chú ý nhiều nhất đến việc nghiên cứu chế độ kinh tế ấy. Tác phẩm chính của Mác là bộ "Tư bản" được dành riêng để nghiên cứu chế độ kinh tế của xã hội hiện đại, nghĩa là xã hội tư bản chủ nghĩa.

Chính trị kinh tế học cổ điển hồi trước Mác thì hình thành ở Anh là nước tư bản phát triển nhất. A-đam Xmít và Đa-vít Ri-các-đô, qua việc nghiên cứu chế độ kinh tế, đã mở đầu lý luận về giá trị lao động. Mác đã tiếp tục sự nghiệp của hai người đó. ¤ng đã mang lại cho lý luận đó một cơ sở chặt chẽ và phát triển lý luận đó một cách nhất quán. ¤ng chỉ ra rằng giá trị của mọi hàng hóa được quyết định bởi số lượng thời gian lao động xã hội tất yếu để sản xuất ra hàng hoá ấy.

ở chỗ nào mà các nhà kinh tế học tư sản nhìn thấy quan hệ giữa vật với vật (hàng hoá này đổi lấy hàng hoá khác), thì ở đó, Mác đã tìm thấy quan hệ giữa người với người. Sự trao đổi hàng hoá biểu thị sự liên hệ giữa những người sản xuất riêng lẻ với nhau, do thị trường làm trung gian. Tiền tệ xuất hiện có nghĩa là mối liên hệ ấy ngày càng thêm chặt chẽ, gắn bó toàn bộ sinh hoạt kinh tế của những người sản xuất riêng lẻ thành một chỉnh thể không thể phân chia. Tư bản xuất hiện có nghĩa là mối liên hệ ấy tiếp tục phát triển cao hơn nữa: sức lao động của con người trở thành hàng hoá. Công nhân làm thuê bán sức lao động của mình cho người chủ ruộng đất, chủ nhà máy, chủ công cụ lao động. Người công nhân dùng một phần ngày lao động để bù vào chi phí nuôi bản thân và nuôi gia đình minh (tiền công); còn phần kia thì làm công không, tạo ra giá trị thặng dư cho người tư bản, đó là nguồn lợi nhuận, nguồn giàu có của giai cấp tư bản.

Học thuyết về giá trị thặng dư là viên đá tảng của học thuyết kinh tế của Mác.

Tư bản, do lao động của công nhân tạo ra, đè nặng lên người công nhân, làm phá sản các tiểu chủ và tạo ra một đạo quân thất nghiệp. Trong công nghiệp, thắng lợi của sản xuất lớn thì thấy rõ được ngay; nhưng cả trong nông nghiệp, chúng ta cũng thấy một hiện tượng tương tự như thế: ưu thế của nông nghiệp tư bản chủ nghĩa quy mô lớn tăng thêm, việc dùng máy móc ngày càng phát triển, kinh tế nông dân bị siết chặt trong sợi dây thòng lọng của tư bản tiền tệ, bị suy tàn và phá sản vì kỹ thuật lạc hậu của mình. Trong nông nghiệp, nền sản xuất nhỏ có những hình thức suy tàn khác, nhưng chính sự suy tàn đó là một sự thật không thể bàn cãi được.

Đánh bại sản xuất nhỏ, tư bản đưa đến chỗ nâng cao năng suất lao động và tạo ra một địa vị độc quyền cho những công ty của các nhà đại tư bản. Bản thân sản xuất ngày càng được xã hội hoá, - hàng chục vạn và hàng triệu công nhân gắn chặt với nhau trong một cơ cấu kinh tế có kế hoạch, - nhưng sản phẩm của lao động chung thì lại do một nhúm nhà tư bản chiếm hữu. Tình trạng vô chính phủ trong sản xuất, những cuộc khủng hoảng, sự chạy đua điên cuồng đi tìm thị trường, tình trạng đời sống của quần chúng nhân dân không được đảm bảo đều tăng lên.

Khi làm cho công nhân càng lệ thuộc vào tư bản, chế độ tư bản chủ nghĩa tạo ra sức mạnh vĩ đại của lao động liên hợp.

Mác đã nghiên cứu sự phát triển của chủ nghĩa tư bản từ những mầm mống đầu tiên của kinh tế hàng hoá, tức là từ sự trao đổi đơn giản, cho đến những hình thức cao nhất của nó, tức là sản xuất lớn.

Và kinh nghiệm của tất cả các nước tư bản chủ nghĩa cũ cũng như mới, ngày càng chứng tỏ rõ ràng cho một số công nhân ngày càng đông thấy rằng học thuyết ấy của Mác là đúng.

Chủ nghĩa tư bản đã thắng trên toàn thế giới, nhưng thắng lợi ấy chẳng qua chỉ là màn mở đầu cho thắng lợi của lao động đối với tư bản mà thôi.

III

Khi chế độ nông nô bị lật đổ và khi xã hội tư bản "tự do" đã ra đời thì lập tức người ta thấy rõ rằng tự do ấy có nghĩa là một chế độ áp bức và bóc lột mới đối với người lao động. Các học thuyết xã hội chủ nghĩa bắt đầu mọc ra, đó là sự phản ánh và sự phản đối ách áp bức ấy. Nhưng chủ nghĩa xã hội lúc đầu chỉ là chủ nghĩa xã hội không tưởng. Nó chỉ trích, lên án và nguyền rủa xã hội tư bản; nó mơ ước xoá bỏ xã hội này và tưởng tượng ra một chế độ tốt đẹp hơn; nó tìm cách thuyết phục những người giầu để họ thâý rằng bóc lột là không có đạo đức.

Nhưng chủ nghĩa xã hội không tưởng không thể vạch ra được lối thoát thực sự. Nó không giải thích được bản chất của chế độ làm thuê trong chế độ tư bản, cũng không phát hiện ra được những quy luật phát triển của chế độ tư bản và cũng không tìm được lực lượng xã hội có khả năng trở thành người sáng tạo ra xã hội mới.

Tuy nhiên, những cuộc cách mạng bão táp, ở khắp châu ¢u và nhất là ở Pháp, nổ ra kèm với sự sụp đổ của chế độ phong kiến, của chế độ nông nô, thì ngày càng chứng tỏ rằng đấu tranh giai cấp là cơ sở và động lực của toàn bộ quá trình phát triển.

Không một thắng lợi nào về tự do chính trị giành được từ trong tay giai cấp chủ nô, mà lại không gặp một sức phản kháng quyết liệt. Không một nước tư bản chủ nghĩa nào được thành lập trên một cơ sở ít nhiều tự do, dân chủ, mà lại không có một cuộc đấu tranh sống mái giữa các giai cấp khác nhau của xã hội tư bản.

Thiên tài của Mác là ở chỗ ông là người đầu tiên đã từ đó rút ra và triệt để vận dụng cái kết luận do lịch sử toàn thế giới chỉ ra. Kết luận đó là học thuyết đấu tranh giai cấp.

Chừng nào người ta chưa biết phân biệt được lợi ích của giai cấp này hay của giai cấp khác, qua những câu nói, những lời tuyên bố và những lời hứa hẹn nào đó có tính chất đạo đức, tôn giáo, chính trị và xã hội, thì trước sau bao giờ người ta cũng vẫn là kẻ ngốc nghếch bị người khác lừa dối và tự lừa dối mình về chính trị. Những kẻ chủ trương cải cách và cải thiện sẽ còn bị bọn bênh vực cái cũ lừa bịp mãi, nếu họ chưa biết rằng tất cả những chế độ cũ, dầu dã man và thối nát đến đâu đi nữa, cũng đều được những lực lượng của giai cấp thống trị này hay giai cấp thống trị khác ủng hộ. Và muốn đập tan sự phản kháng của những giai cấp thống trị ấy, thì chỉ có một cách là: tìm ngay trong xã hội xung quanh chúng ta, những lực lượng có thể - và, do địa vị xã hội của chúng ta mà phải - trở thành những lực lượng có khả năng quét sạch cái cũ và tạo ra cái mới, rồi giáo dục và tổ chức những lực lượng ấy để đấu tranh.

Chỉ có chủ nghĩa duy vật triết học của Mác là đã chỉ cho giai cấp vô sản con đường thoát khỏi chế độ nô lệ tinh thần, trong đó tất cả các giai cấp bị áp bức đã sống lay lắt từ trước tới nay. Chỉ có học thuyết kinh tế của Mác là đã giải thích được địa vị thực sự của giai cấp vô sản trong toàn bộ chế độ tư bản chủ nghĩa.

Trên toàn thế giới, kể từ châu Mỹ đến Nhật, từ Thụy-điển đến Nam Phi, những tổ chức độc lập của giai cấp vô sản đang tăng thêm. Giai cấp vô sản tự giáo dục và tự bồi dưỡng trong khi tiến hành cuộc đấu tranh giai cấp của nó, nó thoát khỏi những thiên kiến của xã hội tư sản, ngày càng đoàn kết chặt chẽ lại và biết đánh giá đúng mức những thành tích của nó, nó tôi luyện lực lượng của nó và lớn lên không gì ngăn nổi.

"Giáo dục", số 3, tháng Ba, 1913

Bàn về chế độ hợp tác xã

Tôi thấy hình như chúng ta không chú ý đầy đủ đến chế độ hợp tác xã. Chưa chắc mọi người đều hiểu được rằng sau Cách mạng tháng Mười và không vì chính sách kinh tế mới (trái lại, về mặt này, phải nói: chính vì có chính sách kinh tế mới), chế độ hợp tác xã ở nước ta đã có một ý nghĩa hoàn toàn đặc biệt. Trong những ước mơ của những người đề xướng ra chế độ hợp tác xã trước đây, có khá nhiều ảo tưởng. Những ảo tưởng đó thường buồn cười vì nó kỳ quặc. Nhưng kỳ quặc ở chỗ nào? ở chỗ họ không thấy được ý nghĩa cơ bản, chủ yếu của cuộc đấu tranh chính trị của giai cấp công nhân để lật đổ sự thống trị của bọn bóc lột. Hiện nay, ở nước ta đã lật đổ được sự thống trị của bọn bóc lột, và nhiều ước mơ kỳ quặc, thậm chí lãng mạn, thậm chí tầm thường của những người để xướng ra chế độ hợp tác xã trước đây, đã trở thành một sự thật không có gì là giả tạo nữa.

Thật vật, ở nước ta, vì chính quyền nhà nước đã do giai cấp công nhân nắm, vì mọi tư liệu sản xuất đều do chính quyền nhà nước nắm, nên trên thực tế, chúng ta chỉ còn có việc đưa nhân dân vào các hợp tác xã. Khi nhân dân đã vào hợp tác xã tới một mức đông nhất, thì chủ nghĩa xã hội - cái chủ nghĩa xã hội mà trước đây những người tin chắc một cách có lý vào tính tất yếu của đấu tranh giai cấp, đấu tranh giành chính quyền, v.v..., đã chế nhạo rất đúng, đã chê cười, khinh miệt, - tự nó sẽ được thực hiện. Nhưng không phải tất cả các đồng chí đều rõ rằng hiện nay, chế độ hợp tác xã đối với chúng ta ở Nga, có một ý nghĩa to lớn, vô hạn. Qua chính sách kinh tế mới, chúng ta đã nhượng bộ người nông dân được coi là thương nhân, nhượng bộ nguyên tắc thương nghiệp tư nhân; chính do đó mà có (trái với ý nghĩ của một số người) ý nghĩa lớn lao của chế độ hợp tác xã. Thực ra mà nói, tất cả những điều mà chúng ta phải làm, dưới chế độ chính sách kinh tế mới, là ở chỗ tập hợp những tầng lớp nhân dân Nga thật sâu rộng vào các hợp tác xã, vì hiện nay, chúng ta đã tìm ra được mức độ kết hợp lợi ích tư nhân, lợi ích thương nghiệp tư nhân với việc nhà nước kiểm soát và kiểm tra lợi ích đó, mức độ làm cho lợi ích tư nhân phục tùng lợi ích chung, điều mà trước đây là nan giải đối với rất nhiều người xã hội chủ nghĩa. Thật vậy, chính quyền nhà nước chi phối những tư liệu sản xuất chủ yếu, giai cấp vô sản nắm chính quyền, giai cấp vô sản đó liên minh với hàng triệu tiểu nông và tiểu tiểu nông, giai cấp vô sản nắm vững quyền lãnh đạo nông dân, v.v..., - phải chăng đó không phải là tất cả những điều cần thiết để có thể xây dựng từ chế độ hợp tác xã, và chỉ riêng từ chế độ hợp tác xã mà trước đây chúng ta khinh miệt nó vì coi đó là có tính chất con buôn, và giờ đây, dưới chính sách kinh tế mới, về một vài mặt nào đó, chúng ta vẫn có quyền coi như thế, - phải chăng đó không phải là tất cả những điều cần thiết để xây dựng một xã hội xã hội chủ nghĩa toàn vẹn hay sao? Đó chưa phải là xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa, nhưng đó là tất cả những cái cần thiết và đầy đủ để tiến hành công việc xây dựng đó.

Đó chính là điều mà nhiều người công tác thực tiễn của chúng ta coi nhẹ. Họ khinh miệt chế độ hợp tác xã, họ không thấy được rằng chế độ ấy có một ý nghĩa đặc biệt trước hết là về phương diện nguyên tắc (nhà nước nắm quyền sở hữu tư liệu sản xuất), sau nữa là về phương diện bước quá độ sang một chế độ mới bằng con đường giản đơn nhất, dễ dàng nhất, dễ tiếp thu nhất đối với nông dân.

Thế mà đó lại là điểm chủ yếu. Tưởng tượng ra đủ thứ dự án về hội công nhân để xây dựng chủ nghĩa xã hội, đó là một việc, còn học cách thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội đó, sao cho bất cứ người tiểu nông nào cũng đều có thể tham gia sự nghiệp ấy, lại là một việc khác. Chính giai đoạn ấy, hiện nay chúng ta đã đạt tới. Tuy đã đạt tới giai đoạn đó, nhưng chắc chắn là chúng ta khai thác nó rất chưa đầy đủ.

Khi chuyển sang chính sách kinh tế mới, chúng ta đã làm quá đáng, không phải vì chúng ta đã quá coi trọng nguyên tắc công thương nghiệp tự do, mà vì chúng ta đã quên mất chế độ hợp tác xã, vì hiện nay chúng ta coi nhẹ chế độ hợp tác xã, vì chúng ta đã bắt đầu quên ý nghĩa lớn lao của chế độ hợp tác xã về hai phương diện đã nói trên.

Bây giờ, tôi muốn nói với bạn đọc về điều mà thực tế người ta có thể và phải làm ngay, xuất phát từ nguyên tắc "hợp tác" đó. Ngay từ bây giờ, người ta có thể và nên dùng phương pháp nào để phát triển nguyên tắc "hợp tác" ấy sao cho bất cứ ai cũng thấy rõ ý nghĩa xã hội chủ nghĩa của nó?

Về mặt chính trị, cần làm thế nào để chẳng những các hợp tác xã, nói chung và luôn luôn được hưởng một số ưu đãi, mà số ưu đãi này còn phải là những ưu đãi thuần tuý vật chất (tỷ suất tiền lời trả cho ngân hàng, v.v...). Nhà nước cần bỏ ra cho hợp tác xã vay một số vốn cao hơn dù chỉ đôi chút so với số vốn cho xí nghiệp tư nhân vay, thậm chí nâng số vốn ấy lên ngang với vốn cho công nghiệp nặng vay, v.v...

Mỗi chế độ xã hội chỉ nảy sinh ra nếu được một giai cấp nhất định nào đó giúp đỡ về tài chính. Chẳng cần phải nói cũng thấy rằng sự ra đời của chủ nghĩa tư bản "tự do" đã tồn hàng trăm, hàng trăm triệu rúp. Hiện nay, chúng ta phải hiểu và thực hành cái sự thật này là: trong lúc này, chế độ xã hội mà chúng ta phải ủng hộ hơn hết là chế độ hợp tác xã. Nhưng phải ủng hộ nó theo đúng nghĩa của từ ủng hộ; nghĩa là ủng hộ không phải bất cứ sự trao đổi hợp tác xã nào; chúng ta phải hiểu đây là ủng hộ những sự trao đổi hợp tác xã được quần chúng nhân dân chân chính thực sự tham gia. Cho những nông dân tham gia trao đổi hợp tác xã hưởng một món tiền thưởng, đó là một phương thức hoàn toàn đúng đắn; nhưng đồng thời phải kiểm tra tình hình tham gia đó, xem sự tham gia đó là tự giác và có ích đến mức nào, - đó là then chốt của vấn đề. Khi một người công tác hợp tác xã đến một thôn để xây dựng một cửa hàng hợp tác thì nói cho đúng ra, dân cư hoàn toàn không tham gia việc xây dựng ấy. Nhưng khi thấy có lợi cho bản thân họ, họ sẽ tìm cách mau chóng tham gia hợp tác xã đó.

Vấn đề này còn có một mặt khác nữa. Đứng trên quan điểm của người châu âu "văn minh" (trước hết là có học thức) mà nói thì chúng ta chỉ cần làm thêm rất ít nữa là toàn thể dân cư sẽ tham gia tích cực, chứ không phải tiêu cực vào hoạt động hợp tác xã. Thật ra, chúng ta "chỉ" còn cần làm cho dân cư nước ta "văn minh" đến mức họ thấy rõ tất cả lợi ích của việc tham gia đó. "Chỉ" cần thế thôi. Tất cả sự khôn ngoan mà chúng ta cần có lúc này để chuyển sang chủ nghĩa xã hội là ở chỗ đó. Nhưng muốn làm được chữ "chỉ" đó, cần phải có cả một cuộc cách mạng, cả một thời kỳ phát triển văn hoá của toàn thể quần chúng nhân dân. Vì thế, quy tắc của chúng ta là phải hết sức ít dùng biện pháp cao xa và hình thức mơ hồ. Về phương diện này, chính sách kinh tế mới là một bước tiến, vì nó thích hợp với trình độ của người nông dân bình thường nhất, nó không đề ra với nông dân những yêu cầu quá cao. Nhưng muốn thông qua chính sách kinh tế mới mà làm cho toàn thể dân cư tham gia hợp tác xã thì cần phải có cả một thời kỳ lịch sử. Cứ cho là công việc trôi chảy, chúng ta cũng phải mất một thời gian 10 hay 20 năm mới có thể vượt qua được thời kỳ lịch sử ấy. Nhưng đó vẫn là một thời kỳ lịch sử đặc biệt, và nếu không trải qua thời kỳ lịch sử ấy, không làm cho mọi người đều có trình độ học vấn phổ thông, không có một trình độ hiểu biết đầy đủ về công việc, không giáo dục đầy đủ cho dân cư biết dùng sách báo, không có cơ sở vật chất cho việc đó, không có những sự đảm bảo nào đó, chẳng hạn để chống nạn mất mùa, nạn đói, v.v..., - không có tất cả những điều đó thì chúng ta sẽ không thể đạt được mục đích. Hiện nay, toàn bộ vấn đề là phải biết kết hợp cái đà cách mạng, cái nhiệt tình cách mạng đã được chúng ta biểu lộ và biểu lộ đầy đủ, và đã đạt đến kết quả hoàn toàn, - là phải biết kết hợp cái đó (ở đây tôi cố ý nói như vậy) với bản lĩnh của một thương nhân thông minh và có học; cái bản lĩnh đó hoàn toàn đủ để thành một người công tác hợp tác xã giỏi. Nói bản lĩnh của một thương nhân, là tôi muốn nói đến bản lĩnh của một thương nhân văn minh. Đó là điều cần được khắc sâu vào óc của những người Nga hoặc những nông dân vẫn tưởng rằng được nào đã đi buôn thì ắt là biết buôn bán. Nghĩ như vậy là hoàn toàn không đúng. Người đó có buôn bán thật, nhưng từ việc buôn bán đến việc có bản lĩnh của một thương nhân văn minh, còn cách nhau rất xa. Người đó buôn bán theo phương thức á châu; nhưng muốn là một thương nhân thật sự thì lại phải buôn bán theo phương thức âu châu kia. Và muốn được như thế thì người đó còn phải trải qua một thời kỳ lâu dài nữa.

Tôi xin kết thúc: phải cho chế độ hợp tác xã hưởng một số những đặc quyền kinh tế, tài chính, ngân hàng; sự ủng hộ mà nhà nước xã hội chủ nghĩa của chúng ta mang lại cho nguyên tắc tổ chức mới của dân cư phải là như vậy. Nhưng đó mới chỉ là những nét lớn của vấn đề; vì còn cần phải xác định, quy định tỉ mỉ mặt thực tiễn nữa, nghĩa là chúng ta còn phải xác định những thể thức "tiền thưởng" (và những điều kiện cấp tiền thưởng" cấp cho hợp tác xã, nhưng thể thức làm cho chúng ta có thể giúp đỡ có hiệu quả các hợp tác xã và đào tạo những xã viên hợp tác xã văn minh. Và khi các tư liệu sản xuất đã thuộc về xã hội, khi giai cấp vô sản, với tư cách là giai cấp, đã thắng giai cấp tư sản - thì chế độ của những xã viên hợp tác xã văn minh là chế độ xã hội chủ nghĩa

Ngày 4 tháng Giêng 1923.

Mỗi lần nói đến chính sách kinh tế mới, tôi đều dẫn chứng bài tôi viết năm 1918 về chủ nghĩa tư bản nhà nước . Điều đó đã nhiều lần làm cho một số đồng chí ít tuổi đâm ra hoài nghi. Nhưng những vấn đề mà các đồng chí đó hoài nghi nhất lại là những vấn đề chính trị trừu tượng.

Các đồng chí cho rằng không thể gọi một chế độ trong đó tư liệu sản xuất đã thuộc về giai cấp công nhân và chính quyền nhà nước cũng đã thuộc về giai cấp công nhân, là chủ nghĩa tư bản nhà nước. Nhưng các đồng chí đó không thấy rằng tôi dùng danh từ "chủ nghĩa tư bản nhà nước": thứ nhất là để vạch rõ mối liên hệ lịch sử giữa lập trường của chúng ta hiện nay với lập trường của tôi trước đây trong lúc tranh luận chống những người cộng sản gọi là phái tả; ngay hồi đó, tôi cũng đã từng chứng minh rằng chủ nghĩa tư bản nhà nước cao hơn chế độ kinh tế tồn tại lúc này ở nước ta; hồi đó, điều quan trọng đối với tôi là quy định mối liên hệ kế thừa giữa chủ nghĩa tư bản nhà nước thông thường với chủ nghĩa tư bản nhà nước không thông thường, thậm chí còn khác thường nữa, mà tôi đã giới thiệu với bạn đọc trong khi trình bày chính sách kinh tế mới. Thứ hai, điều mà tôi luôn luôn quan tâm tới, là mục đích thực tiễn. Mà mục đích thực tiễn của chính sách kinh tế mới của ta là cấp những tô nhượng; trong điều kiện nước ta, tô nhượng dĩ nhiên phải là một hình thức thuần tuý của chủ nghĩa tư bản nhà nước. Cần phải hiểu như vậy những lập luận của tôi về vấn đề chủ nghĩa tư bản nhà nước.

Nhưng còn một phương diện khác của vấn đề, trong đó chúng ta có thể phải viện đến chủ nghĩa tư bản nhà nước, hoặc ít ra cũng cần phải viện đến một cái gần giống như chủ nghĩa tư bản nhà nước. Tôi muốn nói đến chế độ hợp tác xã.

Rõ ràng là, trong một nước tư bản chủ nghĩa, hợp tác xã là những tổ chức tư bản tập thể. Cũng rõ ràng là trong hoàn cảnh kinh tế hiện nay của nước ta, đương lúc chúng ta kết hợp những xí nghiệp tư bản tư nhân (nhưng chỉ xây dựng trên đất đai thuộc về xã hội, và cũng chỉ dưới sự kiểm soát của chính quyền nhà nước thuộc về giai cấp công nhân) với những xí nghiệp kiểu xã hội chủ nghĩa chính cống (tư liệu sản xuất thuộc về nhà nước; đất đai xây dựng xí nghiệp và toàn bộ xí nghiệp cũng thuộc về nhà nước) thì phát sinh ra vấn đề một kiểu xí nghiệp thứ ba, tức là xí nghiệp hợp tác xã, là loại xí nghiệp, trước đây, về phương diện nguyên tắc, chưa thành một loại riêng biệt. Dưới chủ nghĩa tư bản tư nhân, xí nghiệp hợp tác xã khác với xí nghiệp tư bản chủ nghĩa, cũng như xí nghiệp tập thể khác với xí nghiệp tư nhân. Dưới chủ nghĩa tư bản nhà nước, xí nghiệp hợp tác xã khác với xí nghiệp tư bản nhà nước, trước hết ở chỗ nó là xí nghiệp tư nhân, sau nữa ở chỗ nó là xí nghiệp tập thể. Dưới chế độ hiện nay của chúng ta, xí nghiệp hợp tác xã khác với xí nghiệp tư bản tư nhân, ở chỗ nó là xí nghiệp tập thể, nhưng nó không khác xí nghiệp xã hội chủ nghĩa, nếu miếng đất trên đó nó được xây dựng và những tư liệu sản xuất đều thuộc về nhà nước, nghĩa là về giai cấp công nhân.

Đó là một điểm mà ở nước ta, trong lúc bàn về hợp tác xã, người ta không chú ý đầy đủ. Người ta quên mất rằng do đặc điểm của chế độ chính trị nước ta mà hợp tác xã ở nước ta có một ý nghĩa hết sức đặc biệt. Nếu không kể những tô nhượng, - nhân tiện cũng nói thêm là những tô nhượng đó ở nước ta không phát triển rộng lắm, - thì thường thường trong hoàn cảnh nước ta, chế độ hợp tác xã là hoàn toàn đồng nhất với chủ nghĩa xã hội.

Tôi xin nói rõ ý kiến của tôi. Những kế hoạch của các nhà đề xướng ra chế độ hợp tác xã trước kia, kể từ Rô-bớc ô-oen trở đi, đều là ảo tưởng ở chỗ nào? ở chỗ họ không chú trọng đến những vấn đề cơ bản như đấu tranh giai cấp, việc giai cấp công nhân giành lấy chính quyền, việc lật đổ nền thống trị của giai cấp bóc lột, mà lại mơ tưởng dùng chủ nghĩa xã hội để hoà bình cải tạo xã hội hiện đại. Vì vậy, chúng ta có đủ lý do để nói rằng chủ nghĩa xã hội "hợp tác xã" ấy là thuần tuý ảo tưởng, lãng mạn, thậm chí tầm thường, vì họ mơ tưởng rằng chỉ cần tập hợp dân cư vào các hợp tác xã là có thể biến kẻ thù giai cấp thành người hợp tác giai cấp, biến đấu tranh giai cấp thành hoà bình giai cấp (thành hoà bình xã hội, như người ta thường nói).

Xét về nhiệm vụ cơ bản của thời đại chúng ta, chắc chắn là chúng ta có lý, vì không có đấu tranh giai cấp để giành lấy chính quyền nhà nước thì không thể thực hiện chủ nghĩa xã hội được.

Nhưng các bạn hãy xem, tình hình đã thay đổi biết bao, khi chính quyền nhà nước đã thuộc về giai cấp công nhân, quyền lực chính trị của bọn bóc lột đã bị lật đổ, và mọi tư liệu sản xuất đã nằm trong tay giai cấp công nhân (chỉ trừ những tư liệu sản xuất mà nhà nước công nhân còn tự nguyện giao cho bọn bóc lột, theo chính sách tô nhượng, trong một thời gian và với những điều kiện nào đó).

Ngày nay, chúng ta có quyền nói rằng đối với chúng ta, sự phát triển đơn thuần của chế độ hợp tác là đồng nhất (có tính đến ngoại lệ "nhỏ" đã nói trên kia) với sự phát triển của chủ nghĩa xã hội; và đồng thời chúng ta buộc phải thừa nhận là toàn bộ quan điểm của chúng ta về chủ nghĩa xã hội đã thay đổi về căn bản. Sự thay đổi căn bản đó là ở chỗ: trước đây chúng ta đã đặt và không thể không đặt trọng tâm công tác của chúng ta vào đấu tranh chính trị, vào cách mạng, vào việc giành lấy chính quyền, v.v... Ngày nay, trọng tâm ấy đã chuyển sang công tác hoà bình tổ chức "văn hoá". Tôi dám quả quyết rằng trọng tâm của chúng ta đã chuyển sang hoạt động giáo dục, nếu không có những mối quan hệ quốc tế, không có nghĩa vụ phải bảo vệ vị trí của ta trên phạm vi quốc tế. Nhưng nếu gác tình hình quốc tế ra mà chỉ nói đến quan hệ kinh tế trong nước của chúng ta thì trọng tâm công tác của chúng ta hiện nay quả thật là xoáy vào hoạt động giáo dục.

Hiện nay chúng ta có hai nhiệm vụ chủ yếu có ý nghĩa đánh dấu thời đại. Nhiệm vụ thứ nhất là cải tạo bộ máy quản lý hoàn toàn vô giá trị mà thời đại cũ đã để lại toàn bộ cho chúng ta; trong năm năm đấu tranh, chúng ta chưa kịp cải tạo được cái gì đáng kể trong bộ máy đó, và chúng ta cũng không thể làm kịp được. Nhiệm vụ thứ hai của chúng ta là tiến hành công tác văn hoá trong nông dân. Mà công tác văn hoá trong nông dân lại nhằm mục tiêu kinh tế - đó chính là thực hiện chế độ hợp tác xã. Nếu chúng ta tổ chức được toàn thể nông dân vào hợp tác xã thì chúng ta đứng vững được hai chân trên miếng đất xã hội chủ nghĩa. Nhưng điều kiện đó bao hàm một trình độ văn hoá nhất định của nông dân (chính là nông dân với tư cách là một khối quần chúng đông đảo), cho nên nếu không có cả một cuộc cách mạng văn hoá thì không thể nào thực hiện được việc hợp tác hoá hoàn toàn ấy.

Những kẻ đối địch với chúng ta đã nhiều lần nói với chúng ta rằng chúng ta đẫ làm một việc điên rồ là định xây dựng chủ nghĩa xã hội trong một nước không đủ trình độ văn hoá. Nhưng bọn chúng đã lầm mà cho rằng chúng ta không bắt đầu từ chỗ đáng lẽ phải bắt đầu, đúng theo lý thuyết (của đủ loại những bọn thông thái rởm), rằng ở nước ta, cách mạng chính trị và xã hội đã đi trước cuộc đảo lộn văn hoá, cuộc cách mạng văn hoá mà gi

Bàn về lịch sử vấn đề chuyên chính

Vấn đề chuyên chính vô sản là vấn đề căn bản của phong trào công nhân hiện đại ở tất cả các nước tư bản, không trừ một nước nào. Muốn giải thích thấu đáo vấn đề đó, cần phải hiểu lịch sử của nó. Trên phạm vi quốc tế, lịch sử của học thuyết về chuyên chính cách mạng nói chung và về chuyên chính vô sản nói riêng trùng với lịch sử của chủ nghĩa xã hội cách mạng và đặc biệt là trùng với lịch sử của chủ nghĩa Mác. Thứ nữa - và đây hiển nhiên là điểm quan trọng nhất - lịch sử tất cả các cuộc cách mạng của giai cấp bị áp bức và bị bóc lột chống lại những kẻ bóc lột là tài liệu và nguồn nhận thức chủ yếu nhất của chúng ta về vấn đề chuyên chính. Ai không hiểu rằng bất cứ giai cấp cách mạng nào muốn thắng lợi đều tất yếu phải thực hành chuyên chính, thì người đó không hiểu gì lịch sử các cuộc cách mạng hoặc không muốn biết gì về mặt này.

Trên phạm vi nước Nga, đứng về lý luận mà nói, cương lĩnh của Đảng công nhân dân chủ - xã hội Nga, do bộ biên tập báo "Bình minh" và "Tia lửa", hay nói cho đúng hơn là, do G. V. Plê-kha-nốp thảo ra hồi 1902 - 1903, rồi sau được bộ biên tập đó sửa đổi, chỉnh lý và thông qua, đã có một ý nghĩa hết sức đặc biệt. Trong cương lĩnh đó, vấn đề chuyên chính vô sản đã được đề ra một cách rõ ràng và rành mạch, hơn nữa, vấn đề được đề ra chính là do cuộc đấu tranh chống Béc- stanh, chống chủ nghĩa cơ hội. Nhưng cái có ý nghĩa trọng đại nhất thì rõ ràng lại là kinh nghiệm của cuộc cách mạng, nghĩa là kinh nghiệm năm 1905, ở Nga.

Ba tháng cuối năm 1905 - tháng Mười, tháng Mười một và tháng Chạp - là một thời kỳ dấu tranh cách mạng có tính chất quần chúng, mạnh mẽ và rộng rãi phi thường, là thời kỳ kết hợp hai phương thức đấu tranh mạnh mẽ nhất: bãi công chính trị có tính chất quần chúng và khởi nghĩa vũ trang. (Xin nói thêm rằng, ngay từ tháng Năm 1905, đại hội bôn-sê-vích, tức "Đại hội III của Đảng công nhân dân chủ - xã hội Nga", đã coi "nhiệm vụ tổ chức giai cấp vô sản để đấu tranh trực tiếp chống chế độ chuyên chế bằng con đường khởi nghĩa vũ trang" là "một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất và cấp thiết nhất của đảng" và giao cho tất cả các tổ chức của đảng phái "nghiên cứu tác dụng của những cuộc bãi công chính trị có tính chất quần chúng, có thể có một ảnh hưởng quan trọng trong thời kỳ đầu và trong quá trình của cuộc khởi nghĩa").

Lần đầu tiên trong lịch sử toàn thế giới, cuộc đấu tranh cách mạng đã phát triển đến một trình độ và đã có được một sức mạnh khiến cho khởi nghĩa vũ trang kết hợp với bãi công có tính chất quần chúng, cái vũ khí riêng đó của giai cấp vô sản. Rõ ràng là kinh nghiệm ấy có một ý nghĩa quốc tế đối với hết thảy mọi cuộc cách mạng vô sản. Và người bôn-sê-vích đã nghiên cứu kinh nghiệm ấy một cách hết sức chú ý và hết sức sốt sắng, cả trên phương diện chính trị, lẫn trên phương diện kinh tế của nó. Tôi sẽ đưa ra sự phân tích các tài liệu hàng tháng về các cuộc bãi công kinh tế và chính trị hồi 1905, về những hình thức kết hợp giữa hai loại bãi công đó, về trình độ phát triển mà cuộc đấu tranh bãi công lúc đó đã đạt được lần đầu tiên trên thế giới; bản phân tích ấy, tôi đã cho đăng trong tạp chí "Giáo dục" năm 1910 hoặc 1911 và được đăng lại vắn tắt trên báo chí bôn-sê-vích ở nước ngoài hồi đó.

Bãi công có tính chất quần chúng và khởi nghĩa vũ trang tất phải đặt vấn đề chính quyền cách mạng và chuyên chính thành vấn đề trước mắt vì các hình thức đấu tranh đó nhất định dẫn đến (trước hết, trong phạm vi địa phương) việc truất bỏ chính quyền cũ, đến việc giai cấp vô sản và các giai cấp cách mạng giành lấy chính quyền, đến việc trục xuất bọn địa chủ, đôi khi đến việc chiếm các nhà máy, v.v... Cuộc đấu tranh cách mạng có tính chất quần chúng của thời kỳ đó đã làm xuất hiện các tổ chức xưa nay chưa từng thấy trong lịch sử thế giới, như các Xô - viết đại biểu công nhân, rồi sau đó các Xô - viết đại biểu binh sĩ, các uỷ ban nông dân, v.v... Thành thử những vấn đề cơ bản (Chính quyền xô-viết và chuyên chính vô sản) mà hiện nay những công nhân giác ngộ trên toàn thế giới đang chú ý tới, đều đã được đề ra trong thực tiễn từ cuối năm 1905 rồi. Nếu các đại biểu xuất sắc của giai cấp vô sản cách mạng và của chủ nghĩa Mác chân chính, như Rô-da Lúc- xăm-bua, đều thấy rõ ngay được ý nghĩa của kinh nghiệm thực tế đó và đều phân tích một cách có phê phán kinh nghiẹm đó trong các hội nghị và trên báo chí, thì tuyệt đại đa số đại biểu chính thức của các đảng dân chủ - xã hội và xã hội chủ nghĩa chính thức, trong đó có bọn cải lương chủ nghĩa và những kẻ sau này sẽ là bọn thuộc loại những "phần tử phái Cau-xky", "phần tử phái Lông-ghê", các tín đồ của Hun-quýt ở Mỹ, v.v..., lại tỏ ra hoàn toàn không thể hiểu được ý nghĩa của kinh nghiệm đó và không thể làm được nhiệm vụ những nhà cách mạng của họ, nghĩa là hoàn toàn không thể tiến hành được công tác nghiên cứu và tuyên truyền những bài học của kinh nghiệm ấy.

ở Nga, liền sau khi cuộc khởi nghĩa vũ trang tháng Chạp 1905 thất bại, những người bôn-sê-vích và men-sê-vích đã tổng kết ngay kinh nghiệm đó. Công tác này sở dĩ phải tiến hành đặc biệt gấp rút là vì tháng Tư 1906, ở Xtốc-khôn, có cuộc đại hội gọi là "Đại hội thống nhất của Đảng công nhân dân chủ - xã hội Nga", trong đó những người bôn-sê-vích và men-sê-vích hợp nhất với nhau trên hình thức, đã cử đại biểu đến dự. Hai phái đó đã chuẩn bị đại hội ấy với sự cố gắng phi thường. Đầu 1906, trước khi đại hội họp, hai phái đã công bố các dự thảo nghị quyết của mình về tất cả các vấn đề quan trọng nhất. Các dự thảo đó được in lại trong tập sách của tôi: "Báo cáo về Đại hội thống nhất của Đảng công nhân dân chủ - xã hội Nga (thư gửi công nhân Pê-téc-bua)", Mát - xcơ - va, 1906 (khoảng 110 trang, mà gần một nửa là văn bản các dự thảo nghị quyết của hai phái và các nghị quyết được đại hội thông qua dứt khoát), là những tài liệu quan trọng nhất để hiểu được cách đặt vấn đề hồi bấy giờ.

Những cuộc tranh luận về ý nghĩa của các Xô - viết hồi đó đều đã gắn với vấn đề chuyên chính rồi. Ngay trước cách mạng tháng Mười 1905, những người bôn-sê-vích đã từng đặt vấn đề chuyên chính ra rồi (xem tập sách của tôi "Hai sách lược của Đảng dân chủ - xã hội trong cuộc cách mạng dân chủ", Giơ-ne-vơ, tháng Bảy 1905, đăng lại trong tập "Trong 12 năm"). Phái men-sê-vích đã tỏ thái độ phủ nhận khẩu hiệu "chuyên chính" này. Phái bôn-sê-vích nhấn mạnh rằng Xô - viết đại biểu công nhân "thực tế là mầm mống của chính quyền cách mạng mới", như nguyên văn trong bản dự thảo nghị quyết của phái bôn-sê-vích (xem trang 92 trong "Báo cáo"). Phái men-sê-vích tuy có thừa nhận tầm quan trọng của các Xô - viết, có đồng ý "góp sức thành lập" các Xô - viết, v.v., nhưng họ không coi Xô - viết là mầm mống của chính quyền cách mạng, nói chung họ không nói đến một "chính quyền cách mạng mới" kiểu đó hoặc kiểu na ná hư thế, họ hoàn toàn gạt bỏ khẩu hiệu chuyên chính. Chẳng khó gì mà không thấy được rằng tất cả những sự bất đồng ý kiến hiện nay của chúng ta với phái men-sê-vích đã từng có mầm mống trong cách đặt vấn đề này như vậy. Cũng chẳng khó gì mà không thấy được rằng phái men-sê-vích (người Nga hoặc không phải người Nga, kiểu các phần tử phái Cau-xky, phần tử phái Lông-ghê, v.v.), qua cách họ đặt vấn đề, đã và đang tỏ ra là những kẻ cải lương chủ nghĩa hoặc những kẻ cơ hội chủ nghĩa, những kẻ ngoài miệng thì thừa nhận cách mạng vô sản, nhưng thực tế lại bác bỏ cái quan trọng và cơ bản nhất trong khái niệm cách mạng.

Trước cách mạng 1905, trong cuốn "Hai sách lược" nói trên, tôi đã từng phân tích lỹ lẽ của phái men-sê-vích buộc tội cho tôi là "vô hình trung đã đem khái niệm chuyên chính thay thế cho khái niệm cách mạng" ("Trong 12 năm", tr. 459). Tôi đã chứng minh chi tiết rằng chính là do cách buộc tội như vậy, mà phái men-sê-vích đã bộc lộ chủ nghĩa cơ hội của chúng, bản chất chính trị thật sự của chúng là những kẻ phụ hoạ của phái tư sản tự do, là những kẻ tuyên truyền ảnh hưởng cho chúng trong nội bộ giai cấp vô sản. Khi cách mạng đã trở thành một lực lượng không thể chối cãi, thì bọn thù địch của cách mạng bắt đầu "thừa nhận cách mạng", tôi đã nói như vậy khi nêu (vào mùa hè 1905) cái ví dụ về phái tự do ở Nga chủ trương chế độ quân chủ - lập hiến. Ngày nay, năm 1920, người ta có thể nói thêm rằng ở Đức và ở ý , phái tư sản tự do, hoặc ít ra là những kẻ có học thức nhất và khôn khéo hất trong bọn chúng, đều sẵn dàng "thừa nhận cách mạng". Nhưng khi "thừa nhận" cách mạng và đồng thời lại từ chối không chịu thừa nhận chuyên chính của một giai cấp nhất định (hoặc của những giai cấp nhất định), thì phái tự do và bọn men-sê-vích ở Nga hồi đó, phái tự do ở Đức lẫn ở ý hiện nay, những tín đồ của Tu-ra-ti và Cau-xky, đã để lộ rõ chính cái chủ nghĩa cải lương của chúng và tỏ ra hoàn toàn không xứng đáng là những người cách mạng.

Vì khi cách mạng đã trở thành một lực lượng không thể chối cãi được, khi cả phái tự do đã "thừa nhận" cách mạng, khi các giai cấp thống trị không những nhận thấy, mà còn cảm thấy sức mạnh không gì thắng nổi của quần chúng bị áp bức, thì toàn bộ vấn đề - đối với các nhà lý luận cũng như đối với những ai thực tế lãnh đạo chính trị - là ở chỗ định nghĩa cách mạng đúng theo quan điểm giai cấp. Thế nhưng không có khái niệm "chuyên chính", thì không thể có cái định nghĩa chính xác đó theo một quan điểm giai cấp được. Không chuẩn bị cho chuyên chính, không thể là người cách mạng thực sự được. Hồi 1905, bọn men-sê-vích đã không hiểu được chân lý đó; năm 1920, những người xã hội chủ nghĩa ý , Đức, Pháp và ở các nước khác cũng không hiểu được chân lý đó, họ sợ "những điều kiện" nghiêm ngặt của Quốc tế cộng sản, họ là những kẻ có thể ngoài miệng thì thừa nhận chuyên chính, nhưng thực tế lại không thể chuẩn bị cho chuyên chính. Cho nên, sẽ khong phải là một việc làm không đúng lúc nếu thuật lại một cách chi tiết sự giải thích những quan điểm của Mác mà tôi đã đưa ra hồi tháng Bayr 1905 để chống lại bọn men-sê-vích Nga, song sự giải thích đó cũng thích hợp cho cả bọn men-sê-vích ở Tây âu năm 1920 nữa (thay cho việc nêu tên các báo, v.v., tôi chỉ nói phái men-sê-vích hoặc bôn-sê-vích thôi):

"Trong các chú thích của mình về những bài viết của Mác mà Mê-rinh cho đăng trên "Báo Rê-na-ni mới" năm 1848, ông ta có kể lại rằng sách báo tư sản cũng còn trách cứ "Báo Rê-na-ni mới" là báo này tuồng như đã đòi hỏi phải "thiết lập ngay tức khắc nền chuyên chính, coi đó là phương sách duy nhất để thực hiện dân chủ" (Marx' Nachla, t. III, tr. 53). Theo quan điểm tư sản tầm thường, thì khái niệm chuyên chính và khái niệm dân chủ loại trừ lẫn nhau. Không hiểu lý luận đấu tranh giai cấp, chỉ quen thấy trên vũ đài chính trị sự tranh chấp vô vị giữa các nhóm, các phái trong giai cấp tư sản, người tư sản cho chuyên chính là thủ tiêu mọi quyền tự do và mọi sự bảo đảm dân chủ, là độc đoán dưới các hình thức khác nhau, là mọi sự lạm dụng quyền lực để mưu lợi ích riêng cho người độc tài. Thật ra, chính quan điểm tư sản tầm thường đó lại toát ra ở bọn men-sê-vích nước ta, chúng giải thích rằng những người bôn-sê-vích sở dĩ ưa thích khẩu hiệu "chuyên chính", là vì Lênin "rất muốn được nếm hạnh phúc" ("Tia lửa", số 103, tr.3, cột 2). Để giải thích cho bọn men-sê-vích hiểu khái niệm chuyên chính giai cấp khác với khái niệm độc tài cá nhân, và nhiệm vụ của chuyên chính dân chủ khác với chuyên chính xã hội chủ nghĩa, thì có lẽ bàn đến quan điểm của "Báo Rê-na-ni mới"sẽ không phải là vô ích.

Ngày 14 tháng Chín 1848, báo đó viết: "Sau một cuộc cách mạng, bất kỳ tổ chức nhà nước lâm thời nào cũng đều đòi hỏi một nền chuyên chính và đồng thời một nền chuyên chính cương quyết. Ngay từ buổi đầu, chúng ta đã trách cứ Cam-phau-den (thủ tướng nội các, sau ngày 18 tháng Ba 1848) là đã không hành động theo lối chuyên chính, đã không lập tức đập tan và không quét sạch những tàn dư của các thiết chế cũ. Thế cho nên, trong khi ngài Cam-phau-den đang say mê với những ảo tưởng lập hiến, thì chính đảng bị đánh bại (tức chính đảng của thế lực phản động) đã củng cố được vị trí của nó trong bộ máy quan liêu và trong quân đội, thậm chí đã cả gan lại tiến hành đấu tranh công khai ở nơi này nơi nọ".

Mê-rinh nói rất đúng là những câu nói trên đây đã tóm tắt những điều "Báo Rê-na-ni mới" bàn luận chi tiết trên các bài báo dài của nó về nội các Cam-phau-den, thành một vài điểm. Những câu nói đó của Mác đã dạy chúng ta những gì? Dạy rằng chính phủ cách mạng lâm thời phải hành động theo lối chuyên chính (đây là điểm mà bọn men-sê-vích - những kẻ sợ không dám nói đến khẩu hiệu: chuyên chính - hoàn toàn không thể hiểu được); rằng nhiệm vụ của chuyên chính đó là phải tiêu diệt các tàn dư của những thiết chế cũ (đó chính là điều đã được nêu rõ trong nghị quyết Đại hội III của Đảng công nhân dân chủ - xã hội (bôn-sê-vích) Nga về việc đấu tranh chống thế lực phản cách mạng, và đã bị bỏ qua trong nghị quyết của phái men-sê-vích, như chúng ta đã chỉ ra ở trên). Sau cùng, ba là những câu nói đó cho ta thấy là Mác đã trách mắng thậm tệ các nhà dân chủ tư sản vì họ có "những ảo tưởng lập hiến" trong thời kỳ cách mạng và nội chiến công khai. ý nghĩa các câu nói đó lộ ra đặc biệt rõ ràng trong bài báo của "Báo Rê-na-ni mới" số ra ngày 6 tháng Sáu 1848.

Mác viết: "Hội đồng dân biểu lập hiến phải trước hết là một hội đồng tích cực, tích cực cách mạng. Nhưng Hội đồng dân biểu Phran-pho140 lại làm cái việc như học trò làm bài tập về chế độ đại nghị và mặc cho chính phủ tự do hành động. Ta cứ cho rằng cái hội đồng bác học đó, sau khi thảo luận kỹ lưỡng, đã lập được chương trình nghị sự tốt nhất và đặt được một hiến pháp tốt nhất. Nhưng nếu các chính phủ Đức lúc đó đã đặt lưỡi lê vào chương trình nghị sự rồi, thì phỏng chương trình nghị sự rồi, thì phỏng chương trình nghị sự tốt nhất đó và hiến pháp tốt nhất đó có ích gì cho chúng ta?".

Đó là ý nghĩa của khẩu hiệu: chuyên chính...

Các vấn đề trọng đại trong đời sống các dân tộc chỉ có thể giải quyết được bằng sức mạnh mà thôi. Bản thân các giai cấp phản động lại thường là những người đầu tiên hay dùng đến bạo lực, đến nội chiến, thường "đưa lưỡi lê vào chương trình nghị sự", như chế độ chuyên chế Nga đã từng làm như thế và đang tiếp tục làm như thế một cách có hệ thống và không thay đổi, ở khắp mọi nơi, mọi chỗ, từ ngày 9 tháng Giêng đến nay. Và một khi đã có tình hình như thế, một khi lưỡi lễ đang thực sự được đưa lên hàng đầu trong chương trình nghị sự chính trị, một khi khởi nghĩa đã rõ ràng là cần thiết và cấp bách, thì những ảo tưởng lập hiến và những bài tập về chế độ đại nghị theo lối học trò sẽ chỉ còn dùng để che đạy sự phản bội của giai cấp tư sản đổi với cách mạng, che cái cách thức mà giai cấp tư sản "rời bỏ" cách mạng mà thôi. Chính lúc đó là lúc mà giai cấp thật sự cách mạng phải đề ra khẩu hiệu chuyên chính" .

Trước cách mạng tháng Mười 1905, lập luận của những người bôn-sê-vích về chuyên chính là như thế đó.

Sau kinh nghiệm của cuộc cách mạng đó, tôi phải phân tích tỉ mỉ vấn đề chuyên chính trong cuốn "Thắng lợi của phái dân chủ - lập hiến và nhiệm vụ của đảng công nhân", Pê-téc-bua 1906 (tập sách này đề ngày 28 tháng Ba 1906). Tôi sẽ dẫn ra những lý lẽ quan trọng nhất trong tập sách đó, đồng thời nói rõ rằng tôi bỏ một loạt danh từ riêng, mà chỉ nói là bọn dân chủ - lập hiến hoặc bọn men-sê-vích thôi. Nói chúng, tập sách đó nhằm chống lại bọn dân chủ - lập hiến và phần nào nhằm chống lại những người theo xu hướng tự do không đảng phái, nửa dân chủ - lập hiến, nửa men-sê-vích. Nhưng vì thực chất hết thảy những điều bàn về chuyên chính cũng chính là nói về bọn men-sê-vích, bọn này trong vấn đề đó đã luôn luôn rời vào lập trường của bọn dân chủ - lập hiến.

"Chính trong lúc ở Mát - xcơ - va sắp ngừng tiếng súng, trong lúc chế độ chuyên chính quân sự và cảnh sát đang hoành hành điên cuồng, trong lúc những cuộc hành hình và tra tấn dã man đối với quần chúng đang diễn ra khắp nước Nga, thì báo chí của bọn dân chủ - lập hiến lại lên tiếng phản đối việc phái tả dùng bạo lực, phản đối các uỷ ban bãi công của các đảng cách mạng. Bọn giáo sư dân chủ - lập hiến, bọn đem bán khoa học của mình đi để phục vụ bọn Đu-ba-xốp đã đi đến chỗ giải thích danh từ "chuyên chính" thành "sự bảo vệ được tăng cường". Những "nhà khoa học" đã xuyên tạc ngay cả cái tiếng la-tinh mà họ dạy trong trường trung học, hòng làm giảm ý nghĩa của đấu tranh cách mạng. Các ngài dân chủ - lập hiến, xin các ngày hãy ghi nhớ mãi rằng chuyên chính có nghĩa là chính quyền không bị hạn chế, dựa vào sức mạnh chứ không dựa vào pháp luật. Trong thời nội chiến, bất kỳ chính quyền nào giành được thắng lợi cũng chỉ có thể là chính quyền chuyên chính mà thôi. Nhưng vấn đề là ở chỗ có thể có chuyên chính của một thiểu số đối với đa số, chuyên chính của một bè lũ cảnh sát đối với nhân dân, song cũng có thể có chuyên chính của đại đa số nhân dân đối với một nhúm những kẻ áp bức, những kẻ cướp bóc và những kẻ chiếm đoạt chính quyền nhân dân. Qua việc xuyên tạc một cách tầm thường khái niệm khoa học về "chuyên chính", qua việc la ó phản đối việc phái tả dùng bạo lực trong thời kỳ phái hữu tha hồ dùng bạo lực một cách bất hợp pháp nhất và bỉ ổi nhất, - qua việc đó các ngày dân chủ - lập hiến đã chỉ rõ thế nào là lập trường của "những kẻ thoả hiệp" trong cuộc đấu tranh cách mạng quyết liệt. Khi cuộc đấu tranh trở nên quyết liệt, thì "kẻ thoả hiệp" giấu mặt một cách hèn nhát. Khi nhân dân cách mạng đã chiến thắng (ngày 17 tháng Mười), thì "kẻ thoả hiệp" lại bò ra khỏi hang, khoác lác khoe mẽ, nói năng thao thao bất tuyệt và hò hét điên cuồng: bãi công chính trị "vinh quang" thay! Khi bọn phản cách mạng thắng, thì "kẻ thoả hiệp: lại bắt đầu giả nhân giả nghĩa tuôn ra vô số những lời giáo huấn và khuyên răn những người chiến bại. Bãi công thắng lợi là "vinh quang". Bãi công thất bại là phạm tội, là dã man, ngu ngốc, vô chính phủ. Khởi nghĩa thất bại là hành động điên rồ, là sự hoành hành của những lực lượng mù quáng, là man rợ, là ngu ngốc. Tóm lại, phẩm chất chính trị và đầu óc chính trị của kẻ "thoả hiệp" là bò rạp trước mặt người nào mạnh nhất hiện nay, quấn chân những ai đang đấu tranh, cản trở khi thì phe này, lúc thì phe khác, làm suy yếu cuộc đấu tranh, làm nhụt ý thức cách mạng của nhân dân đang liều chết đấu tranh cho tự do" .

Ta hãy bàn tiếp. Bây giờ dẫn ra những lời giải thích về vấn đề chuyên chính đã dùng để phản đối ngài R.Blan-cơ, sẽ là hoàn toàn đúng lúc. Năm 1906, trong một tờ báo, - xét bề ngoài tưởng nó không thuộc đảng phái nào, nhưng kỳ thực lại là của phái men-sê-vích, - ngài R. Blan-cơ ấy đã trình bày những quan điểm của bọn men-sê-vích mà ngài tán tụng là "đã cố gắng hướng phong trào dân chủ - xã hội Nga đi theo con đường của phái dân chủ - xã hội quốc tế, đứng đầu là Đảng dân chủ - xã hội Đức vĩ đại".

Nói cách khác, cũng như bọn dân chủ - lập hiến, R. Blan-cơ đã đem bọn men-sê-vích "có lý trí" - ông ta coi Đảng dân chủ - xã hội Đức là đảng men-sê-vích - mà so sánh với những người bôn-sê-vích là những nhà cách mạng không có lý trí, không mác-xít, phiến loạn, v.v. Đó là một thủ đoạn thông thường của phái quốc tế những người xã hội - tự do, những người hoà bình chủ nghĩa, v.v., bọn này, ở tất cả các nước, đang ca tụng bọn cải lương chủ nghĩa, bọn cơ hội chủ nghĩa, phái Cau-xky, phái Lông-ghê, là những người xã hội chủ nghĩa "có lý trí", khác với những người bôn-sê-vích là những kẻ "điên rồ".

Đây là cách tôi trả lời ngài R. Blan-cơ, trong tập sách của tôi viết vào năm 1906:

"Ngài Blan-cơ đem so sánh hai thời kỳ của cách mạng Nga với nhau: thời kỳ thứ nhất bao gồm thời gian vào khoảng từ tháng Mười đến tháng Chạp 1905. Đó là thời kỳ bão táp cách mạng. Thời kỳ thứ hai là thời kỳ hiện tại, thời kỳ mà đương nhiên chúng ta có quyền gọi là thời kỳ thắng lợi của bọn dân chủ - lập hiến trong các kỳ bầu cả Đu-ma, hoặc thậm chí, nếu có thể liều lĩnh đoán trước được, đó là thời kỳ Đu-ma của bọn dân chủ- lập hiến.

Về thời kỳ đó, ngài Blan-cơ nói rằng thời đại tư tưởng và lý trí lại đến rồi và có thể trở lại sự hoạt động tự giác, có kế hoạch, có hệ thống. Trái lại, ngài Blan-cơ cho đặc điểm của thời kỳ thứ nhất là sự tách rời giữa lý luận và thực tiễn. Tất cả những nguyên tắc và tất cả các tư tưởng dân chủ - xã hội đều đã biến mất, sách lược mà những người sáng lập ra Đảng dân chủ - xã hội Nga vẫn luôn luôn rêu rao thì đã bị bỏ quên và chính ngay những cơ sở của thế giới quan dân chủ - xã hội cũng đều bị nhổ bật tận gốc.

Lời khẳng định cơ bản đó của ngài Blan-cơ có một tính chất thực tế thuần tuý. Toàn bộ lý luận mác-xít đã không phù hợp với "thực tiễn" của thời kỳ bão táp cách mạng nữa.

Có thật như vậy chăng? "Cơ sở" đầu tiên và chủ yếu của lý luận mác-xít là gì? Cơ sở đó là: giai cấp cách mạng triệu để duy nhất trong xã hội hiện thời, và do đó là giai cấp đi tiên phong của mọi cuộc cách mạng, chính là giai cấp vô sản. Thử hỏi rằng cơn bão táp cách mạng có nhổ bật tận gốc cái "cơ sở" đó của thế giới quan dân chủ - xã hội không? Ngược hẳn lại, nó chỉ chứng thực một cách sáng tỏ nhất rằng cơ sở đó là đúng. Chính giai cấp vô sản đã là chiến sĩ chủ yếu và lúc đầu gần như là chiến sĩ duy nhất của thời kỳ đó. Dường như lần đầu tiên trong lịch sử thế giới, cách mạng tư sản đã được đánh dấu bằng việc sử dụng trên một phạm vi rộng lớn chưa hề thấy ở ngay cả các nước tư bản tiên tiến nhất, một vũ khí đấu tranh thuần tuý vô sản: bãi công chính trị có tính chất quần chúng. Giai cấp vô sản dã tiến hành đấu tranh, một cuộc đấu tranh trực tiếp có tính chất cách mạng trong lúc bè lũ Xtơ-ru-vê và bè lũ Blan-cơ kêu gọi tham gia Đu-ma Bu-lư-ghin, trong lúc các giáo sư dân chủ - lập hiến kêu gọi sinh viên vùi dầu vào học. Với cái vũ khí đấu tranh vô sản của mình, giai cấp vô sản đã giành lại cho nước Nga toàn bộ cái "hiến pháp" - nếu có thể nói như vậy - mà từ đó về sau người ta chỉ phá hoại, cắt xén và xuyên tạc đi thôi. Tháng Mười 1905, giai cấp vô sản đã áp dụng cái thủ đoạn sách lược đấu tranh mà, nửa năm trước, đã được nói đến trong nghị quyết Đại hội III bôn-sê-vích của Đảng công nhân dân chủ - xã hội Nga, nghị quyết đã đặc biệt lưu ý người ta đến tầm quan trọng trong việc kết hợp bãi công chính trị có tính chất quần chúng với khởi nghĩa; chính sự kết hợp đó là đặc điểm của toàn bộ thời kỳ "bão táp cách mạng", của suốt cả quý cuối năm 1905. Như vậy, nhà tư tưởng của giai cấp tiểu tư sản của chúng ta đã bóp méo tình hình thực tế một cách vô liêm sỉ nhất, trắng trợn nhất. ông ta không dẫn ra được một sự kiện nào chứng minh sự tách rời giữa lý luận mác-xít và kinh nghiệm thực tiễn của cơ "bão táp cách mạng"; ông ta đã mưu toan che giấu đặc điểm căn bản của cơn bão táp đó, cái đặc điểm đã chứng minh một cách chói lọi nhất "tất cả những nguyên tắc và tất cả các tư tưởng dân chủ - xã hội", "tất cả những cơ sở của thế giới quan dân chủ - xã hội" là đúng.

Nhưng cái gì là nguyên nhân thật sự đã thúc đẩy ngài Blan-cơ có ý kiến sai lầm kỳ quặc cho rằng các nguyên tắc và tư tưởng mác-xít đã biến mất trong thời kỳ "bão táp" đó? Nghiên cứu tình hình ấy thật là thú vị: nó lại một lần nữa vạch trần cho ta thấy rõ bản chất chính trị thật sự của giai cấp tiểu tư sản.

Căn cứ vào các phương pháp hoạt động chính trị, vào những phương pháp sáng tạo lịch sử của nhân dân mà xét, thì thời kỳ "bão táp cách mạng" và thời hiện tại, thời kỳ "của bọn dân chủ - lập hiến", khác nhau chủ yếu ở chỗ nào" Trước hết và chủ yếu là ở chỗ, trong thời kỳ "bão táp" người ta đã áp dụng một số phương pháp đặc biệt của sự sáng tạo ấy chưa từng thấy trong các thời kỳ khác của sinh hoạt chính trị. Đây là những phương pháp quan trọng nhất trong nhứng phương pháp đó: 1) nhân dân "giành lấy" tự do chính trị, thực hiện quyền tự do đó mà không cần bất kỳ pháp quyền nào, luật lệ nào, cũng không bị một sự hạn chế nào (tự do hội họp, dù chỉ là ở các trường đại học, tự do báo chí, tự do lập hội, tự do họp đại hội, v.v.); 2) thành lập các cơ quan mới của chính quyền cách mạng: các Xô - viết đại biểu công nhân, binh sĩ, công nhân đường sắt, nông dân; các cơ quan chính quyền mới ở nông thôn và thành thị, v.v., v.v. Các cơ quan đó hoàn toàn do những tầng lớp cách mạng trong dân cư lập ra, các cơ quan đó được lập ra bất chấp mọi pháp luật và mọi quy tắc, hoàn toàn chỉ bằng con đường cách mạng, đó là sản phẩm của sự sáng tạo độc đáo của nhân dân, là biểu hiện tính chủ động của nhân dân đã thoát khỏi hoặc đang thoát khỏi những xiềng xích cảnh sát cũ. Các cơ quan đó rốt cuộc vẫn chính là những cơ quan chính quyền, mặc dù các cơ quan này đang còn ở trạng thái manh nha, đang còn có tính chất tự phát, vẫn chưa có hình thù cố định, thành phần và chức năng của chúng chưa rõ ràng. Các cơ quan đó hoạt động giống như một chính quyền, chẳng hạn chiếm các nhà in (ở Pê-téc-bua), bắt giữ bọn quan lại cảnh sát nào ngăn cản không cho nhân dân cách mạng thực hiện các quyền của mình (cũng có những ví dụ như thế ở Pê-téc-bua, nơi mà cơ quan chính quyền mới đó đang còn non yếu nhất và chính quyền cũ đang còn mạnh nhất). Các cơ quan đó hoạt động với tính cách là một chính quyền, hiệu triệu toàn dân đừng có giao tiền cho chính phủ cũ. Các cơ quan đó đã tịch thu tiền của của chính phủ cũ (các uỷ ban bãi công của công nhân đường sắt ở miền Nam) và đem chi dùng cho những nhu cầu của chính phủ mới của nhân dân; cố nhiên đó là mầm mống của một chính phủ mới của nhân dân mới, hay nếu muốn nói là chính phủ cách mạng cũng được. Xét tính chất chính trị và xã hội của những mầm mống ấy, thì đó là chuyên chính, trong trạng thái manh nha, của những phần tử cách mạng trong nhân dân; ngài Blan-cơ và ngài Ki-dê-vét-te, các ngài hẳn lấy làm lạ về cái dó sao? Các ngài lại không coi đó là "sự bảo vệ được tăng cường", mà các nhà tư sản coi ngang như chuyên chính, saô? Chúng tôi đã từng nói với các ngài rằng các ngài chẳng hiểu gì về cái khái niệm khoa học: chuyên chính. Chúng tôi sẽ giải thích ngay cho các ngài hiểu khái niệm đó, nhưng trước hết chúng tôi chỉ ra cái "phương pháp" hành động thứ ba của thời kỳ "bão táp cách mạng": nhân dân dùng bạo lực để chống lại những kẻ đã áp bức nhân dân.

Các cơ quan chính quyền do chúng tôi miêu tả trên đây đều là những cơ quan chuyên chính đang trong trạng thái manh nha, vì chính quyền đó không thừa nhận bất kỳ chính quyền nào khác, bất kỳ pháp luật nào, bất kỳ quy tắc nào, do bất cứ ai định ra. Chính quyền không bị hạn chế, bất kể luật pháp, dựa vào sức mạnh, hiểu theo nghĩa trực tiếp nhất, đấy chính là chuyên chính. Nhưng sức mạnh mà chính quyền mới đã dựa vào và đang tìm cách dựa vào lại không phải là sức mạnh của lưỡi lê nằm trong tay một nhúm quân nhân, cũng không phải là sức mạnh của "sở cảnh sát", không phải là sức mạnh của tiền bạc và cũng không phải là sức mạnh của bất cứ thiết chế nào được thiết lập trước đây. Hoàn toàn không phải như vậy. Các cơ quan chính quyền mới không có vũ khí, không có tiền bạc, mà cũng không có các thiết chế cũ. Sức mạnh của những cơ quan chính quyền mới - ngài Blan-cơ và ngài Ki-dê-vét-te có thể hình dung được không? - không giống chút nào với những công cụ bạo lực cũ, không giống chút nào với sự "bảo vệ được tăng cường", nếu không phải là nói đến sự bảo vệ được tăng cường của nhân dân chống lại sự áp bức của các cơ quan cảnh sát và các cơ quan khác của chính quyền cũ.

Vậy sức mạnh đó dựa vào đâu? Nó dựa vào quần chúng nhân dân. Đó là điều làm cho chính quyền mới ấy căn bản khác với tất cả mọi cơ quan trước kia của chính quyền cũ. Các cơ quan chính quyền cũ là những cơ quan thi hành quyền lực của một thiểu số người đối với nhân dân, đối với quần chúng công nông. Còn các cơ quan chính quyền mới lại là những cơ quan thi hành quyền lực của nhân dân, của công nhân và nông dân đối với một thiểu số, đối với một nhúm những tên cảnh sát áp bức, đối với một nhúm quý tộc và quan lại có đặc quyền. Đó là sự khác nhau giữa chuyên chính chống nhân dân với chuyên chính của nhân dân cách mạng, điều đó, xin ngài Blan-cơ và ngài Ke-dê-vét-te hãy nhớ kỹ lấy! Chính quyền cũ là chuyên chính của một thiểu số, chỉ dựa vào nhữngthủ đoạn cảnh sát xảo quyệt, chỉ dựa vào việc đẩy quần chúng nhân dân xa chính quyền, không cho nhân dân tham gia chính quyền và giám sát chính quyền, thì mới có thể đứng vững nổi. Chính quyền cũ một mực không tin quần chúng, hoảng sợ ánh sáng, dùng thủ đoạn dối trá để đứng vững. Chính quyền mới là chuyên chính của tuyệt đai đa số, có thể đứng vững được và đã đứng vững được, chỉ là nhờ sự tín nhiệm của đông đảo quần chúng, chỉ là vì nó đã thu hút toàn thể quần chúng tham gia chính quyền một cách hết sức không hạn chế, một cách rộng rãi và mạnh mẽ nhất. Không có gì là che giấy, là bí ẩn, là quy định, là hình thức cả. Anh là một công nhân phải không? Anh muốn đấu tranh để giải phóng nước Nga thoát ách thống trị của một nhúm cảnh sát áp bức ư? Thế thì anh là đồng chí của chúng tôi. Anh hãy chọn ngay lập tức, ngay bây giờ, người đại biểu của anh; tuỳ anh chọn thế nào cho tiện thì chọn, chúng tôi sẽ sẵn lòng và vui vẻ nhận người đó làm một thành viên bình đẳng trong Xô - viết đại biểu công nhân của chúng tôi, trong Uỷ ban nông dân, trong Xô - viết đại biểu binh sĩ, v.v., v.v.. Đấy là một chính quyền hành động công khai, không giấu giếm quần chúng, một chính quyền dẫ gần đối với quần chúng, trực tiếp từ quần chúng mà ra, đấy là cơ quan trực tiếp của quần chúng nhân dân, đấy là biểu hiện ý chí của họ. Đấy là chính quyền mới, hay nói cho đúng hơn, là mầm mống của chính quyền mới, vì thắng lợi của chính quyền cũ đã xéo chết rất sớm những chồi nhú của cây non.

Ngài Blan-cơ hoặc ngài Ke-dê-vét-te, có lẽ các ngài sẽ hỏi là ở đây có cần gì đến "chuyên chính", cần gì đến "bạo lực" đâu? Đông đảo quần chúng lại cần phải dùng bạo lực để chống một nhóm người ư? Hàng chục và hàng trăm triệu người liệu có thể là những người chuyên chính đối với hàng nghìn, hàng vạn người được chăng?

Những kẻ lần đầu tiên thấy dùng danh từ chuyên chính theo một ý nghĩa mới đối với họ thì thường đặt vấn đề như vậy. Người ta chỉ quen thấy có chính quyền cảnh sát và chuyên chính cảnh sát thôi. Họ lấy làm lạ rằng lại có thể có một thứ chính quyền không có loại cảnh sát nào, có thể có một thứ chuyên chính không có cảnh sát. Các ngài nói rằng hàng triệu người không cần đến bạo lực để chống lại hàng nghìn người ư? Các ngài lầm rồi, và các ngài lầm là vì các ngài không xem xét hiện tượng trong quá trình phát triển của nó. Các ngài quên rằng chính quyền mới không phải từ trên trời rơi xuống, mà nó đã xuất hiện, nó phát triển song song với chính quyền cũ, chống lại chính quyền cũ, trong cuộc đấu tranh chống chính quyền cũ. Không dùng bạo lực đối với bọn áp bức nắm trong tay các công cụ và các cơ quan chính quyền, thì không thể giải thoát nhân dân khỏi ách áp bức được.

Ngài Blan-cơ và ngài Ke-dê-vét-te, bây giờ tôi xin cử ra một ví dụ nhỏ thật đơn giản giúp các ngài có thể lĩnh hội được cái đạo lý sâu xa ấy mà trí lực của một phần tử dân chủ - lập hiến khó bề tiếp thu nổi, cái đạo lý "khiến cho phần tử đó choáng đầu hoa mắt". Các ngài hãy cứ tưởng tượng câu chuyện A- vra-mốp đã tra khảo và hành hạ Xpi-ri-đô-nô-va mà xem. Giả thử là Xpi-ri-đô-nô-va được hàng chục và hàng trăm người không có vũ khí ủng hộ. A- vra-mốp chỉ có một nhúm người Cô-dắc. Nếu Xpi-ri-nô-mô-va bị hành hạ ở nơi khác chứ không phải ở một phòng giam, thì nhân dân sẽ làm gì? Chắc hẳn nhân dân sẽ dùng đến bạo lực để chống lại A- vra-mốp cùng bọn tay sai nó. Có lẽ nhân dân sẽ hy sinh mất một vài chiến sĩ bị A- vra-mốp bắn chết, nhưng nhân dân sẽ dùng bạo lực tước vũ khí của A- vra-mốp và bọn Cô-dắc, và rất có thể là giết ngay tại trận một vài người, nếu có thể gọi chúng là người, trong bọn chúng, bọn còn lại, nhân dân sẽ đem tống giam trong một nhà lao nào đó để chấm dứt những hành vi ngang ngược của chúng và để truy tố chúng trước toà án nhân dân.

Ngài Blan-cơ và ngài Ke-dê-vét-te, các ngài thấy không, khi A- vra-mốp và bọn Cô-dắc hành hạ Xpi-ri-đô-nô-va, thì chính đó là chuyên chính quân sự và cảnh sát đối với nhân dân. Khi nhân dân cách mạng (có khả năng đấu tranh chống bọn áp bức, chứ không phải chỉ biết có khuyên răn, giáo huấn, thương tiếc, chỉ trích, than vãn và đau buồn đâu, không phải là người tiểu tư sản thiển cận, mà là người cách mạng) dùng bạo lực để đối phó với A- vra-mốp cùng bè lũ, thì đấy là chuyên chính của nhân dân cách mạng. Chính đấy là chuyên chính, vì đấy là chính quyền của nhân dân đối với A- vra-mốp, một thứ chính quyền không bị một luật pháp nào hạn chế cả (một người tiểu tư sản có lẽ sẽ phản đối việc dùng bạo lực để giải thoát Xpi-ri-đô-nô-va khỏi tay A- vra-mốp: vì, theo như họ, làm như vậy là bất "hợp pháp"! chúng ta liệu có một "đạo luật" nào cho phép giết A- vra-mốp không? chả phải là đã có một số nhà tư tưởng tiểu tư sản nào đó đã xây dựng nên một thứ lý luận không chống lại điều ác bằng bạo lực, là gì?). Khái niệm khoa học về chuyên chính không phải cái gì khác hơn là một chính quyền không bị cái gì hạn chế cả, không bị bất cứ luật pháp nào hạn chế, hoàn toàn không bị một quy tắc nào hạn chế cả, và trực tiếp dựa vào bạo lực. Khái niệm: "chuyên chính" không có nghĩa gì khác hơn là cái nghĩa đó; hãy nhớ kỹ lấy điều đó, các ngài dân chủ - lập hiến ạ. Thứ đến, qua ví dụ mà chúng ta đã cử ra, chúng ta thấy rằng đấy chính là chuyên chính của nhân dân, vì nhân dân, quần chúng dân cư, vẫn còn chưa có tổ chức và "ngẫu nhiên" tập hợp nhau lại ở một nơi nào đó, đã tự mình trực tiếp bước lên vũ đài, tự mình tiến hành xét xử và trừng phạt, thực hành chính quyền, lập nên pháp quyền cách mạng mới. Sau cùng, đấy chính là chuyên chính của nhân dân cách mạng. Tại sao lại chỉ là của nhân dân cách mạng thôi, chứ không phải của toàn dân? Vì trong quần chúng nhân dân luôn luôn bị chà đạp một cách tàn khốc nhất bởi các chiến công của bè lũ A- vra-mốp, đã có những người suy nhược về thể xác, hoảng sợ, những người tinh thần bị bạc nhược, chẳng hạn, vì cái lý luận không chống lại điều ác bằng bạo lực, hoặc bị bạc nhược không phải vì một lý luận nào đó, mà chỉ đơn thuần vì những thiên nhiên, những tập tục, óc thủ cựu; những người thờ ơ, những kẻ mà người ta gọi là bọn người tầm thường, bọn tiểu tư sản, họ thấy tốt nhất là tránh xa cuộc đấu tranh quyết liệt, lờ đi hoặc thậm chí tránh mặt đi (kẻo mắc phải tai bay vạ gió!). Bởi vậy, không phải toàn dân, mà chỉ có nhân dân cách mạng thực hành chuyên chính thôi, tuy nhiên nhân dân cách mạng không hề sợ toàn thể nhân dân, họ lại làm cho toàn dân biết rõ những nguyên nhân và những chi tiết của các hành động của họ, họ sẵn lòng kêu gọi toàn dân tham gia không những vào việc quản lý nhà nước, mà còn vào chính ngay chính quyền và vào ngay cả việc tổ chức nhà nước nữa.

Như vậy, cái ví dụ giản đơn mà chúng ta nêu ra đã chứa đựng tất cả những yếu tố của khái niệm khoa học về "chuyên chính của nhân dân cách mạng", cũng như của khái niệm "chuyên chính quân sự và cảnh sát". Từ cái thí dụ giản đơn, mà ngay một giáo sư uyên bác thuộc phái dân chủ - lập hiến cũng có thể hiểu được ấy, chúng ta có thể chuyển sang những hiện tượng phức tạp hơn trong đời sống xã hội.

Cách mạng, hiểu theo nghĩa hẹp và nghĩa trực tiếp của danh từ đó, chính là một thời kỳ trong cuộc sống của nhân dân, thời kỳ mà mối căm phẫn đã tích luỹ được từ hàng thế kỷ đối với những chiến công của bè lũ A- vra-mốp, đã nổ ra không phải thành lời nói suông, mà thành hành động, thành hành động không phải của những cá nhân riêng lẻ, mà là của quần chúng nhân dân gồm hàng triệu người. Nhân dân đã thức tỉnh và vùng dậy để tự giải phóng khỏi bè lũ A- vra-mốp. Nhân dân đã giải phóng được khỏi tay bè lũ A- vra-mốp vô số Xpi-ri-đô-nô-va trong cuộc sống nước Nga, họ đã dùng bạo lực để chống lại bè lũ A- vra-mốp, họ đã nắm lấy chính quyền để trị bè lũ A- vra-mốp. Dĩ nhiên, việc đó không phải là tiến hành một cách giản đơn và "ngay một lúc" như trong ví dụ chúng tôi đã dẫn và nói giản đơn đi để cho ngài giáo sư Ki-dê-vét-te hiểu được cuộc đấu tranh đó của nhân dân chống lại bè lũ A- vra-mốp, cuộc đấu tranh hiểu theo nghĩa hẹp và nghĩa trực tiếp của danh từ đó, cái quá trình nhân dân loại trừ bè lũ A- vra-mốp như vậy, đòi hỏi nhiều tháng nhiều năm "bão táp cách mạng". Cái quá trình nhân dân loại trừ bè lũ A- vra-mốp như vậy chính là nội dung thực sự của cái người ta gọi là cuộc cách mạng Nga vĩ đại. Căn cứ vào những phương pháp sáng tạo lịch sử mà xét, thì cái quá trình loại trừ đó tiến hành dưới những hình thức mà chúng tôi vừa mô tả khi bàn về cơn bão táp cách mạng, tức là: nhân dân giành lấy tự do chính trị, nghĩa là cái quyền tự do mà bè lũ A- vra-mốp đã ngăn cản không cho thực hiện; nhân dân lập nên một chính quyền mới, chính quyền cách mạng, một chính quyền chống lại bè lũ A- vra-mốp, một chính quyền chống lại bọn áp bức trong chế độ cảnh sát cũ; nhân dân dùng bạo lực để chống lại bè lũ A- vra-mốp, để thủ tiêu, tước vũ khí và triệt nọc những con chó điên ấy, tất cả bè lũ A- vra-mốp, bè lũ Đuốc-nô-vô, bè lũ Đu-ba-xốp, bè lũ Min ấy, v.v., v.v...

Nhân dân dùng những phương sách đấu tranh bất hợp pháp, không theo quy tắc nào, không có kế hoạch, không có hệ thống, họ giành lấy tự do, thiết lập một chính quyền mới, một chính quyền không được một ai chính thức thừa nhận cả, một chính quyền cách mạng, một chính quyền thực hành bạo lực để chống lại bọn áp bức nhân dân, như vậy có tốt không? Có, rất tốt. Đó chính là sự biểu hiện cao nhất của cuộc đấu tranh của nhân dân để giành tự do. Đó là đã đến một thời kỳ vĩ đại, thời kỳ mà các mơ ước của những con người ưu tú của nước Nga muốn được tự do, đều đã trở thành hiện thực rồi, thành sự nghiệp của bản thân quần chúng nhân dân chứ không phải của những anh hùng đơn độc. Cái đó cũng tốt như việc quần chúng giải phóng (đã nói trong ví dụ của chúng tôi) Xpi-ri-đô-nô-va thoát khỏi nanh vuốt của bọn A- vra-mốp, như việc quần chúng dùng bạo lực để tước vũ khí bọn A- vra-mốp, và làm cho bọn này không còn gây tác hại được nữa.

Thế là ở đây chúng ta đề cập đến điểm trung tâm của những ẩn ý và những mối lo sợ của bọn dân chủ - lập hiến. Người dân chủ - lập hiến chính là nhà tư tưởng của giai cấp tiểu tư sản, vì nó đem dùng vào chính trị, vào việc giải phóng toàn dân, vào cách mạng, cái quan điểm của con người tầm thường, con người mà như trong ví dụ của chúng tôi về việc A- vra-mốp hành hạ Xpi-ri-đô-nô-va, đã mưu toan giữ chân quần chúng lại, đã khuyên họ không nên vi phạm pháp luật, chớ có vội giải thoát người bị nạn khỏi bàn tay của một tiên đao phủ là kẻ đã hành động nhân danh chính quyền hợp pháp. Đương nhiên, trong ví dụ của chúng tôi, cái con người tầm thường đó chỉ là một quái vật về mặt đạo đức nhưng, xét về mặt toàn bộ cuộc sống xã hội, thì tính chất kỳ quái về mặt đạo đức đó của người tiểu tư sản, - chúng tôi xin nhắc lại, - là một đặc tính có tính chất xã hội chứ hoàn toàn không có tính chất cá nhân, một đặc tính có lẽ do những thiên kiến - đã ăn sâu trong đầu óc nhiều người - của pháp luật học tư sản và phi-li- xtanh tạo nên.

Tại sao ngài Blan-cơ lại cho là không cần chứng minh cái sự kiện là, trong thời kỳ "bão táp", tất cả những nguyên tắc mác-xít đều bị lãng quên hết? Vì ông ta đã xuyên tạc chủ nghĩa Mác và biến nó thành chủ nghĩa Bren-ta-nô 144, coi những "nguyên tắc" như: nhân dân giành tự do, lập nên chính quyền cách mạng, dùng bạo lực, đều là những "nguyên tắc" không mác-xít. Quan điểm đó toát ra trong toàn bộ bài viết của ngài Bla-cơ, và không những chỉ trong bài viết của ngài đó, mà cả trong các bài viết của tất cả mọi phần tử dân chủ - lập hiến, của tất cả các tác giả trong phe tự do và cấp tiến, là những kẻ hiện đang ca tụng Plê-kha-nốp về lòng yêu mến của ông này với bọn dân chủ - lập hiến, kể cả những phần tử phái Béc- stanh của tạp chí "Vô đề" như ngài Prô-cô-pô-vích, bà Cu- xcô-va và tutti quanti

Bây giờ, ta hãy nghiên cứu xem quan điểm đó phát sinh như thế nào và tại sao nó nhất định phải phát sinh ra.

Quan điểm đó trực tiếp phát sinh từ quan điểm của Béc- stanh hoặc, nói rộng hơn, từ quan điểm cơ hội chủ nghĩa của đảng dân chủ - xã hội ở Tây âu. Các sai lầm của quan điểm đó, mà "phái chính thống" đã bóc trần một cách có hệ thống và một cách toàn diện ở Tây âu, hiên đang được nhập cảng "lén lút" vào Nga, nhưng được gia giảm khác đi và dưới một lý do khác. Phái Béc- stanh đã thừa nhạn và hiện vẫn thừa nhận chủ nghĩa Mác, trừ mặt trực tiếp cách mạng của chủ nghĩa Mác. Chúng coi đấu tranh nghị trường không phải là một phương sách đấu tranh, đặc biệt có giá trị trong những thời kỳ lịch sử nhất định nào dó, mà là hình thức đấu tranh chủ yếu và gần như duy nhất, khiến cho việc "dùng bạo lực", việc "giành chính quyền", việc "chuyên chính" trở nên vô ích. Đó là cái lối xuyên tạc chủ nghĩa Mác một cách tầm thường, tiểu tư sản, mà hiện giờ, ngài Blan-cơ và các ngài khác thuộc phái tự do vẫn ca tụng Plê-kha-nốp, đang đem vào nước Nga. Họ đã quá quen việc xuyên tạc đó đến mức mà thậm chí họ xét thấy không cần phải chứng minh rằng các tư tưởng và các nguyên tắc mác-xít đều đã bị lãng quên mất trong thời kỳ bão táp cách mạng.

Vì sao quan điểm đó phải xuất hiện? Vì nó rất phù hợp với địa vị giai cấp và lợi ích của giai cấp tiểu tư sản. Nhà tư tưởng của cái xã hội tư sản "đã được tẩy rửa" thừa nhận tất cả các phương pháp đấu tranh của đảng dân chủ - xã hội, chỉ trừ những phương pháp mà nhân dân cách mạng dùng trong thời kỳ "bão táp" và được đảng dân chủ - xã hội cách mạng tán thành và ủng hộ. Lợi ích của giai cấp tư sản đòi hỏi giai cấp vô sản tham gia đấu tranh chống chế độ chuyên chế, nhưng chỉ đòi hỏi một sự tham gia không trở thành sự thống trị của giai cấp vô sản và của nông dân, một sự tham gia không hoàn toàn xoá bỏ các cơ quan cũ của chính quyền cảnh sát, của chế độ chuyên chế và chế độ nông nô. Giai cấp tư sản muốn bảo tồn các cơ quan đó và chỉ đặt các cơ quan này dưới quyền giám sát trực tiếp của mình thôi; nó cần các cơ quan đó để chống lại giai cấp vô sản, vì nếu đem phá huỷ hoàn toàn các cơ quan đó đi thì sẽ làm cho cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản tiến hành được thuận lợi quá. Thế cho nên, lợi ích của giai cấp tư sản, về mặt là giai cấp đòi hỏi phải có chế độ quân chủ và thượng nghị viện, đòi hỏi không được thực hiện chuyên chính của nhân dân cách mạng. Giai cấp tư sản nói với giai cấp vô sản rằng: hãy đấu tranh chống chế độ chuyên chế đi, nhưng đừng đụng đến các cơ quan chính quyền cũ, - tôi đang cần đến chúng. Hãy đấu tranh "trong nghị viện" tức là đấu tranh trong giới hạn mà tôi đã thoả thuận với chế độ quân chủ để quy định cho anh; hãy đấu tranh thông qua các tổ chức, không phải là thông qua những tổ chức như các uỷ ban tổng bãi công, các Xô - viết đại biểu công nhân, binh sĩ, v.v., mà là thông qua những tổ chức được luật pháp, - do tôi đã thoả thuận với chế độ quân chủ mà quy định, - thừa nhận, ấn định phạm vi hoạt động và làm cho không nguy hại đối với tư bản.

Do đó, người ta hiểu vì sao giai cấp tư sản khi nói đến thời kỳ "bão táp" đã tỏ thái độ khinh thường, miệt thị, phẫn nộ, căm ghét, nhưng lúc nói đến thời kỳ lập hiến được Đu-ba- xốp bảo vệ, thì lại tỏ ra khoái trá, vui thích, trìu mến không bờ bến như thái độ của giai cấp tiểu tư sản... đối với thé lực phản động vậy. Đó cũng vẫn là đặc tính cố định và không thay đổi của bọn dân chủ - lập hiến: muốn dựa vào nhân dân nhưng lại sợ tinh thần chủ động cách mạng của nhân dân.

Chúng ta cũng hiểu vì sao giai cấp tư sản lại sợ cơn "bão táp" tái diễn, hơn là sợ lửa, vì sao họ lại phủ nhận và che giấu những yếu tố của một cuộc khủng hoảng cách mạng mới, vì sao họ lại cứ duy trì và truyền bá trong nhân dân những ảo tưởng lập hiến.

Bây giờ, chúng tôi đã giải thích đầy đủ vì sao ngài Blan-cơ và đồng bọn của ngài dó lại tuyên bố rằng trong thời kỳ "bão táp", các nguyên tắc và tư tưởng mác-xít đều bị lãng quên. Cũng như tất cả mọi người tiểu tư sản, ngài Blan-cơ thừa nhận chủ nghĩa Mác, trừ nội dung cách mạng của nó, ông ta thừa nhận các phương pháp đấu tranh của đảng dân chủ - xã hội, trừ những phương pháp nào cách mạng nhất và trực tiếp cách mạng nhất.

Thái độ của ngài Blan-cơ đối với thời kỳ "bão táp" là thái độ điển hình nhất chứng tỏ rằng giai cấp tư sản không hiểu được các phong trào vô sản, việc giai cấp tư sản sợ cuộc đấu tranh gay go và quyết định, thù ghét tất cả những biểu hiện của cái phương pháp cứng rắn, đập tan các thiết chế cũ và là phương pháp cách mạng, - theo nghĩa đen của danh từ đó, - dùng để giải quyết các vấn đề xã hội và lịch sử. Ngài Blan-cơ đã tự phản lại mình, đã để lộ ngay tất cả cái đầu óc thiển cận tư sản của mình. ông ta đã nghe thấy nói và đọc thấy rằng trong thời kỳ bão táp, những người dân chủ - xã hội đã phạm "sai lầm", thế là ông ta vội kết luận và tuyên bố một cách quá tự tin, vũ đoán và vô căn cứ ngay rằng tất cả các "nguyên tắc" của chủ nghĩa Mác (mà ông ta chẳng hiểu chút nào hết!) đều đã bị lãng quên cả. Về vấn đề các "sai lầm" đó, chúng ta nói rằng: trong quá trình phát triển của phong trào công nhân, trong quá trình phát triển của đảng dân chủ - xã hội, đã bao giờ có một thời kỳ, trong đó người ta lại không mắc phải sai lầm này hay sai lầm nọ không? Trong đó, người ta lại không thấy có những sự ngả nghiêng về phía hữu hoặc về phía tả không? lịch sử của thời kỳ đấu tranh nghị trường của Đảng dân chủ - xã hội Đức, thời kỳ mà bọn tư sản thiển cận trên toàn thế giới coi là cái giới hạn cuối cùng, không thể vượt qua được, phỏng lại không đầy dẫy những sai lầm nào đó chăng? Nếu như ngài Blan-cơ không phải là người hoàn toàn không hiểu biết gì, về các vấn đề của chủ nghĩa xã hội, thì không khó gì mà ngài ấy không nhớ đến Muyn-béc-gơ, đến Đuy-rinh, đến vấn đề Dampfersubvention, đến "phái trẻ", đến phái Béc- stanh và rất nhiều chuyện khác nữa. Nhưng điều quan trọng đối với ông ta, lại không phải việc nghiên cứu quá trình phát triển thực sự của đảng dân chủ - xã hội, mà ông ta chỉ cần thu nhỏ quy mô của cuộc đấu tranh vô sản cũng đủ làm vẻ vang cho cái đầu óc tư sản nghèo nàn của đảng dân chủ - lạp hiến của ông ta rồi.

Thật ra, nếu chúng ta căn cứ vào việc đảng dân chủ - xã hội đi chệch khỏi con đường quen thuộc, "bình thường" của nó, mà xét vấn đề, thì ta sẽ thấy rằng, ngay cả về mặt ấy nữa, thời kỳ "bão táp cách mạng" cũng vẫn chứng minh rằng, so với thời kỳ trước, đảng dân chủ - xã hội đã đoàn kết và nhất trí về tư tưởng nhiều hơn chứ không phải kém hơn. Sách lược trong thời ký "bão táp" không làm cho hai cánh của đảng dân chủ - xã hội xa nhau, mà rõ ràng là làm xích lại gần nhau. Về vấn đề khởi nghĩa vũ trang, xưa kia thì có những ý kiến bất đồng, nay đã có sự nhất trí trên quan điểm. Những người dân chủ - xã hội thuộc hai phái đó đều công tác trong các Xô - viết đại biểu công nhân, các cơ quan có tính chất độc đáo đó của chính quyền cách mạng manh nha, đã thu nạp binh sĩ và nông dân vào các Xô - viết đó, đã cùng với các chính đảng cách mạng tiểu tư sản công bố những tuyên ngôn cách mạng. Về các vấn đề thực tiễn, trước kia trong thời kỳ chưa nổ ra cuộc cách mạng, đã có những cuộc tranh luận với nhau, đến nay đã nhất trí rồi. Ngọn triều cách mạng đã đẩy lùi những sự tranh chấp, buộc người ta phải chấp nhận một sách lược chiến đấu, gạt bỏ vấn đề Đu-ma, đặc vấn đề khởi nghĩa vào chương trình nghị sự, làm cho phái dân chủ - xã hội và phái dân chủ tư sản cách mạng gần lại với nhau để hành động trực tiếp. Trong báo "Tiếng nói miền Bắc" phái men-sê-vích và phái bôn-sê-vích đã cùng nhau kêu gọi bãi công và khởi nghĩa, yêu cầu công nhân cứ tiếp tục đấu tranh chừng nào chính quyền chưa nắm trong tay mình. Tình thế cách mạng tự nó đã đề ra những khẩu hiệu thực tiễn. Người ta chỉ tranh luận về những chi tiết trong việc đánh giá các sự biến mà thôi. Như tờ "Bước đầu" chẳng hạn, đã coi việc các Xô - viết đại biểu công nhân là những cơ quan tự trị có tính chất cách mạng, tờ "Đời sống mới" thì coi Xô - viết đại biểu công nhân là những cơ quan manh nha của chính quyền cách mạng, những cơ quan này đoàn kết giai cấp vô sản với phái dân chủ cách mạng. Tờ "Bước đầu" thiên về chuyên chính vô sản. Tờ "Đời sống mới" thì giữ quan điểm chuyên chính dân chủ của giai cấp vô sản và nông dân. Nhưng tất cả mọi thời kỳ phát triển của bất cứ đảng xã hội chủ nghĩa nào ở châu âu há lại không chỉ cho chúng ta thấy sự bất đồng ý kiến tương tự như thế trong nội bộ đảng dân chủ - xã hội hay sao?

Không, việc ngài Blan-cơ bóp méo vấn đề và xuyên tạc trắng trợn lịch sử hôm qua, chỉ chứng tỏ rằng chúng ta đang đứng trước một điển hình về sự tầm thường tư sản, sự tự phụ tự mãn, cho rằng thời ký bão táp cách mạng là điên rồi ("tất cả mọi nguyên tắc đều bị lãng quên hết", "bản thân tư tưởng và lẽ phải thông thường hầu như mất hẳn"), còn những thời kỳ đè bẹp cách mạng và "tiến bộ" tiểu tư sản (được bè lũ Đu-ba- xốp che chở) lại là những thời kỳ hoạt động có lý trí, tự giác và có hệ thống. Sự nhận xét có so sánh đó về hai thời kỳ (thời kỳ "bão tám" và thời kỳ của bọn dân chủ - lập hiến) đã như một sợi chỉ đỏ quán triệt suốt toàn bộ bài viết của ngài Blan-cơ. Khi lịch sử nhân loại tiến lên với tốc độ của đầu máy xe lửa, thì đó là "bão táp", là "thác chảy", là tất cả mọi "nguyên tắc và tư tưởng" đều "mất hết". Khi lịch sử vận động với tốc độ của cái xe bò, thì đó là lý trí và là tính kế hoạch. Khi bản thân quần chúng nhân dân, với tâm lý đơn sơ thuần phác của họ, với tinh thần kiên quyết giản đơn và chất phác của họ, đã bắt đầu sáng tạo ra lịch sử, đem những "nguyên tắc và lý luận" thể hiện trực tiếp và tức khắc trong thực tế, thì lúc đó người tư sản đâm sợ và gào lên rằng "lý trí lùi vào phía sau" rồi (phải chăng trái lại thế, hở vị anh hùng của giai cấp tiểu tư sản? phải chăng chính lúc đó là lúc xuất hiện trong lịch sử, cái lý trí của quần chúng chứ không phải lý trí của những cá nhân riêng lẻ? phải chăng chính lúc đó, lý trí của quần chúng trở thành một lực lượng sống và có giá trị, chứ không phải một lực lượng trừu tượng?). Khi phong trào trực tiếp của quần chúng bị những cuộc bắn giết, hành hình, những trận đánh đập, nạn thất nghiệp và nạn đói đè bẹp, khi những con bọ rệp giáo sư khoa học được Đu-ba- xốp nuôi dưỡng, đã từ trong tất cả những kẻ hở bò ra, và bắt đầu vì nhân dân và nhân danh quần chúng mà giải quyết công việc, phản bội và bán những lợi ích của quần chúng cho một nhúm người có đặc quyền, thì hình như các hiệp sĩ của giai cấp tiểu tư sản cho rằng lúc đó là lúc bắt đầu thời đại của sự tiến bộ yên tĩnh và thanh bình, rằng "bây giờ quay lại với tư tưởng và lý trí". Bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu, người tư sản cũng vẫn trung thành với mình; dù các bạn lấy tờ "Sao Bắc cực", hay tờ "Đời sống chúng ta", dù các bạn đọc Xtơ-ru-vê hoặc Blan-cơ thì đâu đâu cũng thế cả, chỗ nào cũng đều có cái cách đánh giá thiển cận, theo kiểu giáo sư và thông thái rởm, cứng đờ và quan liêu ấy về các thời kỳ cách mạng, và thời kỳ cải lương chủ nghĩa. Thời kỳ cách mạng là thời kỳ điên rồ, tolle Jahre, thời kỳ mất hết sự suy nghĩa và lý trí. Thời kỳ cải lương chủ nghĩa là thời kỳ hoạt động "tự giác và có hệ thống".

Các bạn đừng có hiểu sai những lời tôi nói. Các bạn chớ có cho là ở đây tôi bàn đến việc các ngài Blan-cơ và đồng bọn thích thời kỳ này hoặc thời kỳ kia hơn. Vấn đề hoàn toàn không phải là thích cái gì hơn: sự kế tiếp các thời kỳ lịch sử không lệ thuộc vào những ý thích chủ quan của chúng ta. Vấn đề là, trong sự phân tích các đặc điểm của một thời kỳ nào đó (hoàn toàn không lệ thuộc vào những ý thích hoặc thiện cảm của chúng), các ngài Blan-cơ và bè lũ đã xuyên tạc chân lý một cách vô liêm sỉ. Vấn đề là phương diện sáng tạo lịch sử, thì chính các thời kỳ cách mạng là những thời kỳ rộng lớn hơn, phong phú hơn, tự giác hơn, có kế hoạch và có hệ thống hơn, dũng cảm hơn và chói lọi hơn, so với các thời kỳ tiến bộ tiểu tư sản dân chủ - lập hiến và cải lương chủ nghĩa. Thế nhưng, các ngài Blan-cơ thì trình bày sự việc một cách ngược lại! Họ muốn đem tính chất nghèo nàn nói thành sự phong phú về mặt sáng tạo lịch sử. Họ coi cái hiện tượng quần chúng bị chà đạp hoặc bị áp bức mà không hoạt động, là sự chiến thắng của "tính hệ thống" trong hoạt động của bọn quan lại, của bọn tư sản. Họ kêu lên rằng tư tưởng và lý trí đã biến mất cả rồi, khi cái thời bọn cạo giấy đủ loại, bọn penny-a-liner (bọn nhà văn bán chữ để sống) thuộc phái tự do, cắt ngang cắt dọc các dự luật theo lối quan liêu, được thay thế bằng một thời kỳ hoạt động chính trị trực tiếp của đám "bình dân", là những người đã hoàn toàn, thẳng tay và ngay lập tức đập tan các cơ quan áp bức nhân dân, chiếm lấy chính quyền, giành lấy tất cả những cái được coi là sở hữu của đủ mọi loại bóc lột nhân dân, tóm lại là, khi mà chính tư duy và lý trí của hàng triệu người bị áp bức đã thức tỉnh, không những chỉ để đọc sách, mà còn để hành động, để có một hành động sống của con người, để sáng tạo ra lịch sử".

Các cuộc tranh luận về chuyên chính, diễn ra hồi 1905 - 1906 ở Nga, là như thế.

Bọn Đít-man, Cau-xky, Cri-xpin, Hin-phéc-đinh ở Đức, Lông-ghê và bè lũ ở Pháp, Tu-ra-ti và bầu bạn ở ý , Mác - Đô-nan và Xnao-đen ở Anh, v.v., thực tế đã nhận xét về chuyên chính đúng hệt như nhận xét của ngài R. Blan-cơ và bọn dân chủ - lập hiến ở Nga hồi 1905 vậy. Họ chẳng hiểu thế nào là chuyên chính cả, họ không biết chuẩn bị cho chuyên chính, họ không thể nào hiểu nổi và thực hiện được chuyên chính.

20. X. 1920.

Theo đúng bản thảo Đăng ngày 9 tháng Mười một 1920 trên tạp chí "Quốc tế cộng sản", số 14

Ký tên: N. Lê-nin.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro