các danh tướng Việt Nam

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

Danh_tuong_Viet_Nam_-_Tap_1

by Unknown

(Đinh Tiên Hoàng chia nứớc ra làm mười đạo và dự định sẽ tuyển mộ quân lính như sau : mỗi đạo gồm 10 quân, một quân gồm 10 lữ, mỗi lữ gồm 10 tốt, mỗi tốt gồm 10 ngũ, mỗi ngũ gồm 10 người. Theo đó thì quân số sẽ lên tới một triệu người. Tuy nhiên, đó chỉ là lí thuyết, là ước vọng mà thôi. Lê Hoàn được thăng tới chức Thập Đạo Tướng Quân, tức là chức võ quan cao cấp nhất thời Đinh. Chức này, Lê Hoàn được tấn phong vào năm Tân Mùi (971).

Đinh Tiên Hoàng có ba người con trai được sử sách chép tới. Con trưởng là Đinh Liễn, người từng cùng Đinh Tiên Hoàng dẹp loạn mười hai sứ quân. Tháng năm (nhuận) năm Kỉ Ti (969) Đinh Liễn đã được phong làm Nam Việt Vương. Năm Nhâm Thân (972) Nam Việt Vương Đinh Liễn được cử làm sứ giả sang nhà Tống. Năm Ất Hợi (975), Nam Việt Vương Đinh Liễn được nhà Tống phong làm Khai Phủ Nghi Đồng Tam Ti, hàm Kiếm&nb­sp;&nb­sp;Thái Sư, tước Gi­ao Chỉ Quận Vương. Tóm lại, việc kế vi trong tương lai của Đinh Liễn đã rất rõ. Nhưng, tháng giêng năm Mậu Dần (978), Đinh Tiên Hoàng vì quá yêu mến người con út còn nhỏ tuổi là Hạng Lang nên đã lập Hạng Lang làm Thái Tử. Việc này khiến cho Đinh Liễn uất ức. Đầu năm Kỉ Mão (979), Đinh Liễn đã giết chết Hạng Lang. Và, đến tháng mười năm ấy, thì cả Đinh Tiên Hoàng lẫn Đinh Liễn đều bị bề tôi nhỏ là Đỗ Thích giết hại.

Con thứ của Đinh Tiên Hoàng là Đinh Toàn, do bà Hoàng Hậu Dương Vân Nga sinh hạ vào năm Giáp Tuất (974). Năm Mậu Dần (978), khi Hạng Lang được phong làm Thái Tử thì Đinh Toàn được phong làm Vệ Vương. Cuối năm 979, khi Đỗ Thích giết hại cả Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn, triều đình bèn tôn Đinh Toàn (lúc này mới 5 tuổi) lên ngôi Hoàng Đế. Tháng 7 năm Canh Thìn (980), trước nguy cơ bị quân Tống xâm lâng, triều đình bèn tôn quan Thập Đạo T

Đã trị nước thì dân được yên.

Danh lẫy lừng thiên hạ,

Tiếng vang khắp xa gần.)

Đền thờ Lý Thường Kiệt được lập nên rất nhiều nơi trong khắp đất nước ta. Và ngày nay, không ít những ngôi đền này vẫn còn được lưu giữ.

2. VẬN NƯỚC LÂM NGUY

Vào khoảng giữa thế kỉ thứ XI, bởi những cuồng vọng của nhà Tống, một lần nữa, vận nước lại lâm nguy. Triều Lý và Đại Việt chỉ có thể tồn tại và phát triển khi giành được toàn thắng trong cuộc chiến dấu chống quân Tống xâm lăng.

Bấy giờ ở trên đất Trung Quốc, triều Tống điêu đứng bởi một loạt những mâu thuẫn và xung đột khá gay gắt. Trước hết là về mặt đối ngoại, uy danh của nhà Tống càng ngày càng bị suy giảm mạnh mẽ, đặc biệt là đối với hai nước Đại Liêu và Tây Hạ ở phía Bắc của nhà Tống.

(Liêu&nb­sp;hay&nb­sp;Đại Liêu&nb­sp;là quốc gia của người Khiết Đan, thành lập trong thời Ngũ Đại Thập Quốc của Trung Quốc. Lúc đầu, nhà Tống đánh giá rất thấp tiềm lực của Đại Liêu, nhưng đến khi đánh giá đúng thì đã quá muộn. Nhà Tống từng hai phen đem quân đánh vào Đại Liêu (năm 979 và năm 986) nhưng cả hai phen đều bị đại bại. Năm 1004, đến lượt Đại Liêu chủ động đem quân tấn công nhà Tống. Quân Đại Liêu đã tến đến sát kinh đô của nhà Tổng và buộc nhà Tống phải kí hàng ước, nạp cho Đại Liêu mỗi năm 200.000 tấm lụa và 100.000 lạng bạc. Năm 1042, Đại Liêu bắt nhà Tống phải nạp thêm lụa và bạc nhiều hơn trước nữa. Đỉnh cao nhất là sự kiện năm 1075. Năm đó Đại Liêu bắt nhà Tống phải cắt dâng 700 dặm đất.

Tây Hạ&nb­sp;là quốc gia của người Đảng Hạng, nằm ở phía Tây Bắc Trung Quốc. Quốc gia này thành lập năm 1032. Khi mới thành

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.

(Sông núi nước&nb­sp;Nam,&nb­sp;Nam&nb­sp;đế ở,

Rành rành ghi rõ ở sách trời.

Cớ sao lũ giặc dám xâm phạm,

Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời).

Được tin thất bại này, Quách Quỳ tức giận trút mọi tội lỗi cho Miêu Lý và anh xử tử viên tướng mà hắn cho là kiêu ngạo này. Tuy nhiên, cũng nhờ thất bại của Miêu Lý mà Quách Quỳ và Triệu Tiết không thể coi thường khả năng đề kháng của quân ta.

Sau thất bại của Miêu Lý; chờ đợi mãi vẫn không thấy thủy quân đến để chở quân vượt sông, Quách Quỳ và Triệu Tiết bèn hạ lệnh đóng bè để cho quân tràn sang bờ nam sông Cầu. Bè không phải là một phương tiện vận chuyển tốt, cho nên, chính quyết định của Quách Quỳ và Triệu Tiết đã tạo điều kiện cho quân đội của Lý Thường Kiệt ứng phó một cách rất ung dung. Bấy giờ, mỗi chuyến bè chỉ chở được tối đa là 500 quân sĩ mà thôi, thời gi­an vận chuyển lại rất lâu, do vậy, chuyến sau chưa kịp sang thì binh sĩ qua chuyến trước đã bị tiêu diệt hết. Quách Quỳ và Triệu Tiết đành phải hạ lệnh đình chỉ kế hoạch dùng bè để vượt sông.

Quân Tống buộc phải đóng lại ở bờ bắc sông Cầu. Chúng chia làm hai khối lớn. Khối thứ nhất do đích thân Quách Quỳ cầm đầu. Khối thứ hai do Triệu Tiết cầm đầu. Hai khối cùng&nb­sp;án binh bất động,&nb­sp;quyết chờ thủy binh tới. Quách Quỳ đã buộc phải ra lệnh : "Bây giờ, ai bàn tới tấn công sẽ bị chém đầu".

Mùa xuân dần dần trôi qua. Ở bờ bắc sông Cầu, quân Tống càng ngày càng lún sâu vào thế bi động và lúng túng, khủng hoảng. Chúng muốn vượt sông Cầu nhưng không sao vượt được. Chúng chờ thủy binh nhưng thủy binh lại bị chặn đứng ở vùng duyên hải Đông Bắc. Chúng muốn đánh m binh ta có thể vượt sông Lục Nam, sông Thương, sông Cầu tiến sâu vào địa bàn vùng đông-​bắc, có thể xuôi sông Bạch Đằng, sông Thái Bình ra biển, có thể theo sông Đuống về Thăng Long. Ởây có khoảng 400 chiến thuyền và hơn 20.000 quân, tất cả đặt dưới sự chỉ huy của Hoằng Chân và Chiêu Văn.

- Một bộ phận thủy binh khác do Lý Kế Nguyên chỉ huy, tiến ra đóng giữ ở vùng duyên hải đông-​bắc, sẵn sàng đánh trả đạo thủy binh của nhà Tống. Quân số và phương tiện chiến đấu của bộ phận này cụ thể ra sao, hiện chúng ta vẫn chưa rõ, chỉ biết là nhỏ hơn so với bộ phận thủy binh do Hoằng Chân và Chiêu Văn chỉ huy, nhưng lại đủ lớn để có thể chủ động tổ chức những trận đánh quyết liệt với đạo thủy binh của giặc.

Ngày 8-1-1077, bộ binh giặc vượt ải Nam Quan để tiến vào lãnh thổ nước ta. Ngày 18-1-1077, giặc đã áp sát vùng bờ bắc sông Cầu và tại dây, cuộc tấn công của chúng bị chặn đứng. Quân Tống không sao vượt nổi chiến tuyến sông Cầu. Mọi mưu toan và cố gắng của chúng đều bi đánh bại.

Ở bờ bắc sông Cầu, quân Tống đành phải chia làm hai khối lớn, lập trại đóng giữ để chờ thủy binh. Khối thứ nhất do phó tướng Triệu Tiết cầm đầu, đóng ở bờ bắc bến Như Nguyệt (nay là xã Mai Đình, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Gi­ang). Khối thứ hai do chánh tướng Quách Quỳ chỉ huy, đóng cách Triệu Tiết khoảng 15 cây số về phía đông. Chúng nôn nóng chờ đợi đạo thủy binh, vì chỉ khi nào có thêm thủy binh, chúng mới có thể tiến hành vượt sông Cầu một cách thuận lợi. Nhưng, thủy binh của chúng lại không sao có thể đến được.

Tại miền duyên hải đông bắc, tướng Lý Kế Nguyên đã lập công lớn. Ông đã chỉ huy thủy binh, chặn đứng giặc ở Vĩnh An, kế hoạch cấp tốc hành quân để hỗ trợ cho bộ binh của chúng bị thất bại. Từ Vĩnh An, giặc điên cuồ lại với (Trần) Thủ Độ. (Trần) Thủ Độ sợ việc này mà tiết lộ ra thì cả họ sẽ bị giết hết, bởi vậy, đem gia quyến vào trong cung cấm. (Trần) Thủ Độ sai đóng chặt hết các cửa thành và cửa cung, canh giữ cẩn mật, không cho các quan vào chầu hầu. (Trần) Thủ Độ lại loan báo :

- Bệ hạ nay đã có chồng rồi.

Các quan ai nấy đều vâng lời, xin chọn ngày để vào chầu. Tháng ấy (tháng mười, năm 1224 - NKT), ngày 21, các quan đều vào lạy mừng. (Nhà vua) xuống chiếu rằng :

- Nước Nam Việt ta, từ xưa đã có đế vương trị vì. Triều Lý ta vâng chịu mệnh trời, có được bốn biển, các bậc tiên thánh nối nhau giữ ngôi hơn hai trăm năm. Nay, Thượng Hoàng (chỉ vua Lý Huệ Tông - NKT) có bệnh, không có con trai nối dõi, khiến cho thế nước nghiêng ngửa nguy nan. Trẫm nhận minh chiếu, cố gượng lên ngôi, thực là việc từ xưa chưa từng có. Khốn thay, trẫm là nữ hoàng, tài đức đều thiếu, không ai giúp đỡ, trong khi đó thì giặc cướp nổi lên như ong, không sao giữ nổi ngôi báu nặng nề được. Trẫm từng dậy sớm thức khuya, những lo không cáng đáng nổi nên vẫn tìm người hiền lương quân tử để cùng điều khiển chính sự, khẩn khoản đã đến mức tận cùng. Kinh Thi có câu :&nb­sp;Quân tử tìm bạn, tìm mãi chẳng ra, thức ngủ trăn trở, lâu thay, lâu thay. Nay trẫm một mình suy đi tính lại, thấy duy chỉ có Trần Cảnh là người văn chất đủ vẻ, thực đúng là hiền nhân qutử, uy nghi rất đường hoàng, văn võ gồm tài như thần như thánh, dù là Hán Cao Tổ hay Đường Thái Tông (hai vị vua sáng nghiệp của nhà Hán và nhà Đường ở Trung Quốc - NKT) cũng không thể hơn được. Trẫm từ lâu đã nghĩ kĩ, xét việc nên nhường ngôi báu để thỏa lòng trời, cũng là để thỏa lòng riêng của trẫm, mong sao (được người) đồng tâm hiệp lực, cùng lo việc nước và hưởng phúc thái bình. Vậy, bố cáo khắp thiên hạ để mọi người cùng biết.

Ngày Mậu Dần là ngày 11 tháng chạp (năm Giáp Thân, 1224 - NKT) vua (Lý) Chiêu Hoàng mở hội lớn ở điện Thiên An, ngư trên sập báu, các quan mặc triều phục vào chầu, cùng lạy dưới sân. Vua Lý Chiêu Hoàng bèn trút bỏ áo ngự, mời Trần Cảnh lên ngôi Hoàng Đế, đổi niên hiệu là Kiến Trung năm thứ nhất, đại xá thiên hạ, xưng là Thiện Hoàng (tức là vị Hoàng Đế được nhường ngôi - NKT) sau lại đổi là Văn Hoàng. Bầy tôi dâng tôn hiệu là Khải Thiên Lập Cực Chí Nhân Chương Hiếu Hoàng Đế. Trần Thủ Độ được phong làm Quốc Thượng Phụ, nắm giữ mọi việc cai trị trong nước" .(Đại Việt sử kí toàn thư,&nb­sp;bản kỉ, quyển 4, tờ 33a-​b và 34a-​b).

- Ngay sau khi Trần Cảnh được tôn lên ngôi vua, Trần Thủ Độ đã nhanh chóng tiến hành một loạt các biện pháp nhằm củng cố địa vị của họ Trần trên vũ đài chính trị. Thân phụ của Trần Cảnh là Trần Thừa được gi­ao trọng trách điều khiển các việc trong triều còn Trần Thủ Độ thì đích thân đem quân đi đàn áp các thế lực chống đối.

Bấy giờ, tướng Đoàn Thượng chiếm cứ ở mạn Hồng Châu. Đoàn Thượng xưng vương và ngang nhiên chống lại triều Lý từ năm 1212. Đến đây, Đoàn Thượng vẫn tiếp tục chiếm cứ Hồng Châu và đối địch với họ Trần.

Năm 1219, đến lượt Nguyễn Nộn (một cư sĩ người ở Bắc Ninh) nổi lên chống triều Lý. Cũng tương như Đoàượng, về sau, khi triều Trần được dựng lên, Nguyễn Nộn quyết không chịu thần phục.

Ngoài hai thế lực nói trên, họ Trần còn vấp phải sự chống đối mạnh mẽ của nhiều thế lực khác, đặc biệt là sự chống đối của quý tộc họ Lý dưới nhiều dạng thức và mức độ khác nhau.

- Cũng ngay sau khi Trần Cảnh được tôn lên ngôi vua, Trần Thủ Độ đã áp dú lần, vua (Trần) Thái Tông muốn cho người anh của (Trần) Thủ Độ là An Quốc làm Tể Tướng, (Trần) Thủ Độ tâu :

- An Quốc là anh thần, nếu cho là (An Quốc) giỏi hơn thần thì thần xin trí sĩ, nếu cho thần giỏi hơn An Quốc thì không thể trao cho An Quốc chức ấy. Còn như nếu để cả hai anh em cùng làm Tể Tướng thì công việc của triều đình rồi sẽ ra sao.

Nhà vua nghe vậy bèn thôi.” (Đại Việt sử kí toàn thư,&nb­sp;bản kỉ, quyển 5, tờ 29-a&nb­sp;).

- Công lao xây dựng bộ luật thành văn cho triều Trần là của những người thuộc thế hệ sau của Trần Thủ Độ, nhưng sinh thời, Trần Thủ Độ đã có đóng góp không nhỏ cho việc ban hành những quy định mang tính pháp luật và ông là người nêu cao tấm gương tuân thủ những quy định mang tính pháp luật đó. Sử cũ đã trân trọng chép lại mẩu chuyện rất cảm động về sự ứng xử trong khuôn khổ phép nước của ông :

“Vua (Trần) Thái Tông lấy được thiên hạ, tất cả đều nhờ ở mưu mẹo và sức lực của ông, vì thế, ông được nhà nước tin cậy, quyền át cả vua. Bấy giờ, có kẻ muốn đàn hặc ông, bèn vào gặp vua (Trần) Thái Tông, vừa khóc vừa tâu rằng :

- Bệ hạ thì còn thơ ấuTrần) Thủ Độ thì quyền át cả vua, xã tắc rồi sẽ ra sao ?

Vua (Trần) Thái Tông lập tức ra lệnh, lấy xe ngự đến dinh của (Trần) Thủ Độ, bắt cả người đàn hặc kia đi theo, nói lại những lời người ấy đã nói với vua cho (Trần) Thủ Độ nghe. (Trần) Thủ Độ trả lời :

- Quả đúng như lời hắn nói.

(Nói xong), lấy ngay tiền lụa thưởng cho người ấy. Linh Từ Quốc Mẫu (chỉ vợ của Trần Thủ Độ là bà Trần Thị Dung - NKT) có lần ngồi kiệu qua thềm cấm, bị người quan hiệu ngăn lại. Bà về dinh, vừa khóc vừa nói với (Trần) Thủ Độ rằng :

- Mụ này là vợc khẳng định Trinh Công Chúa là con gái đầu lòng, những người con trai kế tiếp hiện vẫn chưa biết chắc thứ bậc anh em trước sau cụ thể ra sao. Trên đây chỉ là sự sắp xếp tạm thời, dựa tren cơ sở chủ yếu là suy đoán trật tự thông thường của cách đặt tước hiệu mà thôi

Trước khi qua đời, Trần Hưng Đạo có dặn các con của ông rằng : "Ta chết thì phải hỏa táng, lấy hũ tròn đựng xương, bí mật chôn trong vườn An Lạc rồi san đất và trồng cây như cũ để người đời không biết chỗ nào".&nb­sp;(Đại Việt sử kí toàn thư,&nb­sp;bản kỉ, quyển 6, tờ 10-b). Có lẽ cũng vì thế mà ngày nay, đền thờ Trần Hưng Đạo được dựng lên ở rất nhiều nơi trên đất nước ta, nhưng ngôi mộ thực sự của Trần Hưng Đạo thì chưa rõ ở vị trí cụ thể nào.

Cuộc đời của Trần Hưng Đạo là cuộc đời của một nhà đạo đức, của một người luôn luôn nêu cao và quyết tâm giữ vững tình đoàn kết keo sơn vì nghĩa cả. Ông là biểu tượng sáng ngời của tinh thần trung quân ái quốc. Sách&nb­sp;Đại Việt sử kí toàn thư&nb­sp;đã trân trọng chép những lời thật cảm động về đức độ của ông :

"Quốc Tuấn là con của An Sinh Vương. Khi mới chào đời, thầy tướng xem xong liền nói:

- Con người này về sau có thể giúp nước cứu đời.

Lớn lên, (Quốc Tuấn) khôi ngô và thông minh hơn người, đọc nhiều sách vở, trí gồm đủ cả văn lẫn võ. Trước đó, An Sinh Vương vốn có hiềm khích với Chiêu Lăng (chỉ vua Trần Thái Tông - NKT), để bụng căm ghét, cho nên, tìm người tài giỏi khắp bốn phương để dạy cho Quốc Tuấn. Khi sắp qua đời, An Sinh Vương cầm tay Quốc Tuấn và trối trăng lại rằng :

- Nếu con không vì cha mà lấy được thiên hạ thì ở nơi suối vàng, cha không sao nhắm mắt đươm kể tội :

- Loạn thần đều do tặc tử mà ra !

Nói rồi định giết Quốc Tảng. Hưng Vũ Vương hay tin, vội tới khóc van xin chịu tội thay, bấy giờ, Quốc Tuấn mới tha. Ông dặn Hưng Vũ Vương rằng :

- Sau này, khi nào ta chết, phải đợi đến lúc đậy nắp quan tài lại rồi mới cho Quốc Tảng vào viếng"&nb­sp;(Đại Việt sử kí toàn thư,&nb­sp;bản kỉ, quyển 6, tờ 9-b và 10-a).

Đối với vua, Trần Hưng Đạo một lòng cung kính trung thành, đối với quý tộc và đồng liêu, Trần Hưng Đạo mực thước giữ đức hòa thuận, đối với quân sĩ và trăm họ, Trần Hưng Đạo nặng lòng thương yêu. Trần Hưng Đạo đã để lại cho muôn đời lời nói chứa chan tâm huyết của một bậc nặng lòng ưu thời mẫn thế: "Nới sức dân làm kế rễ sâu gốc vững, ấy là thượng sách giũ nước" ((Đại Việt sử kí toàn thư,&nb­sp;bản kỉ, quyển 6, tờ 9 a-b).

Trần Hưng Đạo là một nhà văn hóa lớn của nước nhà. Cống hiến của ông trải rộng trên nhiều lĩnh vực khác nhau, to lớn và sâu sắc. Chỉ cần một&nb­sp;Hịch&nb­sp;tướng sĩ&nb­sp;vănkhông thôi, tên tuổi của ông cũng đã đủ để bất diệt với lịch sử, huống chi, sự nghiệp của ông nào phải chỉ có bấy nhiêu.

Trần Hưng Đạo là người đã có công khai sinh ra nền khoa học quân sự nước ta. Trước Trần Hưng Đạo, bao thế hệ anh hùng hào kiệt đã chiến đấu và chiến thắng, góp phần đắc lực vào việc làm phong phú kho tàng kinh nghiệm chống xâm lăng. Nhiều bậc anh hùng hào kiệt đã thực sự tiến tới đỉnh cao của nghệ thuật cầm quân, thậm chí là đỉnh cao điêu luyện của loại hình nghệ thuật đặc biệt này. ưng, một nền khoa bọc thực sự với đầy đủ ý nghĩa của từ này, thì phải đợi đến Trần Hưng Đạo mới chính thức được khai sitràn sang nước ta. Ngoài ra, đạo quân l00.000 tên do Toa-đô chỉ huy, trước đó đã có mặt ở Chiêm Thành, cũng được lệnh rời Chiêm Thành để đánh vào mặt&nb­sp;Nam&nb­sp;của Đại Việt. Sát cánh với Thoát-​hoan và Toa-đô còn có nhiều tướng lĩnh dày dạn trận mạc khác. Tính ra, cứ khoảng sáu người dân Đại Việt (bất kể già trẻ gái trai), phải đương đầu với một tên giặc Nguyên hung hăng, tàn bạo và thiện chiến. Lịch sử kim cổ đông tây, quả thật là cực kì hiếm có một cuộc đối đầu nào hoàn toàn không cân xứng như vậy.

Cuộc chiến tranh&nb­sp;xâm&nb­sp;lược lần thứ ba&nb­sp;diễn ra vào cuối năm 1287 đầu năm 1288. Để có thể tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược này, Hốt-​tất-​liệt đã buộc phải ban bố hai quyết định rất quan trọng. Một là đình chỉ cuộc chiến tranh xâm lược Nhật Bản đã được chuẩn bị công phu trước đó, nhằm dốc toàn lực cho cuộc tấn công vào nước ta. Hai là tìm cho bằng được những nguyên nhân thất bại thảm hại của chúng ở nước ta trong các cuộc chiến tranh xâm lược lần thứ nhất và lần thứ hai. Hốt-​tất-​liệt đã huy động năm mươi vạn quân, gi­ao cho Thoát-​hoan làm tổng chỉ huy. Sát cánh với Thoát-​hoan là một loạt những tướng lĩnh khét tiếng như Ô-​mã-nhi, Áo-​lỗ-xích, Phàn Tiếp, Tích Lệ Cơ, Trương Văn Hổ… Điều đáng nói là lần này, bên cạnh lực lượng kị binh và bộ binh hùng hậu, Hốt-​tất-​liệt còn thành lập một đạo thủy binh, gi­ao cho Ô-​mã-nhi cầm đầu. Thủy binh vừa là một lực lượng tác chiến nguy hiểm, lại vừa là lực lượng hỗ trợ đắc lực cho kị binh và bộ binh vượt sông. Ngoài ra, Hốt-​tất-​liệt còn lập thêm một đoàn thuyền lương, gi­ao cho tướng Trương Văn Hổ chỉ huy. Đây là việc làm tỏ quyết tâm khắc phục nạn thiếu lương thực và các vật dụng rất thiết yê.v. Đó chưa phải là tất cả, nhưng đó thật sự là những gì tốt đẹp được truyền tụng mãi không thôi. Ngờ vực và xích mích mất dần, mối quan hệ thân thiện cũng dần dần dược xác lập, quý tộc và tướng lĩnh cao cấp hoan hỉ với bầu không khí trong lành, đủ để có thể sát cánh cùng nhau bàn chuyện quốc gia đại sự.

Bước thứ hai :&nb­sp;Tạo lập và ra sức bảo vệ cốt lõi bền vữngcủa&nb­sp;&nb­sp;khối đoàn hết trong nội bộ quý tộc và tướng lĩnh cao cấp.

Thắng lợi của bước thứ nhất tuy rất to lớn, nhưng, thắng lợi đó chỉ mới tạo ra được một khối người không xích mích với nhau, chưa đủ sức để tạo được một khối đoàn kết thực sự theo đúng nghĩa của từ này. Bằng tất cả đức độ và uy tín chính trị đặc biệt của mình, Trần Hưng Đạo đã tác động một cách rất tích cực và có hiệu quả đến quyết định vô cùng quan trọng của triều Trần :&nb­sp;triệu tập hội nghị Bình Than (năm 1282).

Đây là cuộc hội nghị của những người giữ trọng trách lãnh đạo sự nghiệp giữ nước. Sở dĩ gọi là hội nghị Bình Than vì cuộc hội nghị này được tổ chức tại bến Bình Than. Bến Bình Than là một trong những bến của sông Bình Than tức sông Lục Đầu. Từ Bình Than, binh thuyền có thể men theo những con sông lớn ể đến lên các địa phương vùng Đông Bắc, và cũng từ Bình Than, thủy quân có thể dễ dàng tiến ra sông Bạch Đằng. Nói khác hơn, đây là một trong những vị trí rất quan trọng, nằm sát ngay miền duyên hải Đông Bắc nước ta.(Bến Bình Than nay thuộc xã Trần Xá, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương). Hội nghị Bình Than chỉ bàn đến hai vấn đề thiết yếu nhất. Diễn đạt theo cách nói hiện đại, thì hai vấn đề đó là xác định ph nặng lòng tị hiềm đã bắt đầu tìm đường bỏ trốn khỏi đất nước. Một trong những người đầu tiên, tiếc thay, lại là con trai trưởng của Trần Liễu, anh của Trần Hưng Đạo.

“Mùa thu, tháng 7 (năm Bính Thìn, 1256 - NKT), Vũ Thành Vương là ( Trần) Doãn đem cả nhà trốn sang nước Tống. Thổ quan (của nhà Tống) ở phủ Tư Minh là Hoàng Bính, bắt và đem nạp lại cho ta.

(Trần) Doãn là con của An Sinh Vương (tức Trần Liễu - NKT) do bà Hiển Từ sinh hạ. An Sinh Vương vốn có hiềm khích với Nhà vua, rồi bà Hiển Từ cũng qua dời, cho nên (Trần Doãn) bị thất thế, chạy trốn sang nước Tống. Vua thưởng tiền lụa cho (Hoàng) Bính, đồng thời, hạ lệnh phòng giữ biên giới rất nghiêm ngặt.&nb­sp;&nb­sp;(Đại Việt sử kítoàn&nb­sp;thư,&nb­sp;bản kỉ, quyển 5, tờ 21 b).

Dẫu có thân sinh là người từng xung đột, đem quân đánh lại Nhà vua, dẫu có anh ruột là người đang tâm bỏ trốn khỏi đất nước và dẫu chính bản thân mình cũng đang bị không ít triều thần nghi hoặc, Trần Hưng Đạo vẫn được vua Trần lúc đó là Trần Thái Tông (1226-1258) tin cậy mà trao phó trọng trách trấn giữ vùng biên cương phía Bắc của nước nhà :

"Tháng 8 (năm Đinh Tị, 1257 - NKT), chủ trại Quy Hóa là Hà Khuất sai người chạy trạm về báo rằng có sứ giả của nhà Nguyên sang. Tháng 9, (Nhà vua) xuống chiếu, ra lệnh cho các tướng tả hữu đem quân thủy và quân bộ ra ngăn giữ ở biên giới.&nb­sp;&nb­sp;Tất cả đặt dưới sự chỉ huy của (Trần) Quốc Tuấn. Mùa đông, tháng 11, lệnh truyền cả nước sắm vũ khí.” (Đại Việt sử kí&nb­sp;toàn&nb­sp;thư,&nb­sp;bản kỉ, quyển 5, tờ 22a).

Khi nhận trọng trách này, Trần Hưng Đạo chưa đầy ba mươi tuổi, nhưng, vị tướng quân còn rất trẻ ấy đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình, xứng đáng với niềm tin cậy lớn laotriều đình và của các tươc nghiệt của mùa hè ở nước ta lại đang đến dần, con đường duy nhất của quân Nguyên lúc này là rút lui. Chúng thực sự hoang mang nên đã bàn với nhau rằng :

“Ở Gi­ao Chỉ không có thành trì để giữ, không có lương thực để ăn, mà thuyền lương của Trương Văn Hổ không đến. Vả lại khí trời nóng nực, lương hết, quân mệt, không lấy gì chống giữ lâu được, lấy làm hổ thẹn cho triều đình, chi bằng nên toàn quân mà về thì hơn".

Trước tình hình như vậy, Trần Hưng Đạo chủ trương tổ chức uy hiếp liên tục, buộc địch phải tháo chạy nhanh và sẽ đánh trận quyết định với quân xâm lăng trên đường chúng tháo chạy. Đây là chủ trương rất táo bạo và sáng tạo. Cũng như nhiều vị tướng lĩnh đương thời, Trần Hưng Đạo từng đọc rất kĩ và hẳn&nb­sp;&nb­sp;nhiên là từng chịu ảnh hưởng ở một mức độ nhất định nào đó của lí luận quân sự Trung Quốc cổ dại. Nhưng, nếu như Tôn Tử của Trung Quốc - nhà binh pháp có ảnh hưởng mạnh nhất đến các tướng lĩnh phương Đông - chủ trương rằng : “Hễ địch rút lui về nước thì không nên bao vây ngăn chặn. Khi tiến hành bao vây dịch thì nên để hở một phía chứ không nên vây kín. Nếu đối phương đã đến lúc khốn cùng thì cũng không nên bức bách họ quá”… thì ngược lại, Trần Hưng Đạo chủ trương thúc ép đối phương phải tháo chạy đề rồi đánh trận quyết định khi đối phương đang trên đường tháo chạy ấy. Và, đó là chủ trương hoàn toàn đúng đắn.

Đầu tháng 4 năm 1288, quân Nguyên bắt đầu buộc phải rút khỏi nước ta. Chủ tướng của giặc là lhoát-​hoan quyết định&nb­sp;&nb­sp;hoạch rút quân cụ thể

- Kị binh và bộ binh do đích thân Thoát-​hoan chỉ huy, từ Vạn Kiếp tiến lên Lạng Sơn, rồi từ đó kéo về Trung Quốc.

- Thủy binh do Ô-​mã-nhi chỉ huy, được tăng cươ và nặng lòng ái quốc trong khắp mọi thời. Lời ấy mãi mãi tỏa sáng trong sử sách của dân tộc ta.

13 - TRẦN QUANG KHẢI (1241 - 1294)

"(Trần) Quang Khải lúc thì làm tướng võ, khi thì làm tướng văn, giúp cho đế nghiệp của nhà Trần, uy danh sánh ngang với (Trần) Quốc Tuấn. Khi mất (Trần Quang Khải) hưởng thọ 54 tuổi. Ông có để lại cho đời tập thơ&nb­sp;Lạc đạo.&nb­sp;Con ông là Văn Túc Vương (Trần) Đạo Tái cũng có tiếng là người văn hay. Cháu ông là Uy Túc Hầu (Trần) Văn Bích, làm quan được phong tới hàm Thái Bảo. Chắt của ông là Chương Túc Hầu (Trần) Nguyên Đán cũng có danh vọng rất lừng lẫy. Xem thế cũng đủ biết phúc đức của dòng Trần Quang Khải sâu rộng và bền bỉ dường nào. Trước sau họ đều gắn bó với nghiệp của nhà Trần".

Khâm định Việt sử thông giám cương mục

(chính biên, quyển 8, tờ 22)

Trần Quang Khải là con của vua Trần Thái Tông và bà Hoàng Hậu Thuận Thiên. Con trưởng của Trần Thái Tông là Trần Quốc Khang (cũng do bà Hoàng hậu Thuận Thiên sinh hạ, nhưng thân sinh là Trần Liễu, anh ruột của vua Trần Thái Tông. Trần Quốc Khang được phong tước Tĩnh Vương), kế đến là Trần Hoảng (tức vua Trần Thánh Tông : 1258 - 1278). Ông là Hoàng Tử thứ ba. Sau ông là các vị Hoàng Tử khác như Trần Nhật Vĩnh, Trần Ích Tắc v.v…

Trần Quang Khải chào đời vào tháng 10 năm Tân Sửu (1241), được phong là Chiêu Minh Đại Vương vào tháng 11 năm Mậu Ngọ (1258). Tháng 3 năm Tân Dậu (1261) ông được phong hàm Thái úy và đến tháng 10 năm Nhâm Ngọ (1282) thì được phong hàm Thái Sư, chức Thượng Tướng Quân.

Khi còn tuổi ấu thơ, Trần Quang Khải đã có lần lâm bệnh nặng, tưởng đã không cứu nổi. Về lần lâm bệnh nặng này của ông, sử cũ chép rằng :

"(Trần) Quang Khải lúc mới sinh, phát chứng bệnh lên cơn (Trần) Khánh Dư nói với Trung Sứ rằng :

- Nay nếu lấy quân pháp mà xử, tôi xin cam chịu tội. Nhưng, tôi xin được khất vài ba ngày để mưu lập công rồi về chịu trận búa rìu cũng chưa vội gì.

Viên Trung Sứ cũng nghe theo lời xin đó. (Trần) Khánh Dư đoán rằng binh thuyền của giặc đã qua thì ắt đoàn thuyền tải lương phải theo sau, bèn thu tập tàn binh để đợi chúng. Chẳng bao lâu sau đó, đoàn thuyền tải lương của giặc quả nhiên xuất hiện. (Trần Khánh Dư) đánh bại chúng, bắt được quân lương và khí giới của giặc nhiều không kể xiết. Tù binh cũng rất đông. (Ông) lập tức sai người chạy ngựa đem tin thắng lợi tấu trình. Thượng Hoàng liền tha tội cho, không hỏi đến nữa.”

Thắng lợi của Trần Khánh Dư trong trận Vân Đồn có ý nghĩa hết các to lớn đối với thắng lợi chung của cuộc chiến tranh quốc lúc bấy giờ. Thắng lợi đó đã đẩy ân xâm lăng vào chỗ yếu không cách gì có thể khắc phục được, đó là thiếu lương thực, thiếu vũ khí. Thượng Hoàng Trần Thánh Tông đã tỏ ra hết sức nhạy bén trước thắng lợi đặc biệt này của Trần Khánh Dư. Sử cũ chép :

"(Thượng Hoàng) nói :

- Chỗ trông cậy của quân Nguyên là lương thực và khí giới thì nay đã bị ta bắt được. Nhưng, nếu chúng còn chưa biết thì có thể lại hung hăng chăng ?

(Nói rồi) bèn sai thả những tên lính giặc đã bị bắt cho về doanh trại của quân Nguyên để chúng báo tin. Quân Nguyên quả nhiên phải rút. Vết thương (chiến tranh) lần này không thê thảm như trước. (Trần) Khánh Dư có phần công lao ở trong đó".

Thắng lợi của Trần Khánh Dư ở Vân Đồn còn để lại cho lịch sử chống xâm lăng bài học lớn, đó là bài học về tấn công vào hậu cần của quân xâm lăng. Một khi tiêu diệt được nguồn hậu cần của giặc thì thắng lợi chung cuộc cũng kể như đã mở ra.

Thắng lợi của Trần Khánh Dư ở Vân Đồn to lớn và có ý nghĩa sâu sắc đến mức khiến cho hậu thế quên hết mọi chuyện không hay về ông để nhớ mãi ông - danh tướng của dân tộc.

16 - TRẦN QUỐC TOẢN (1267 – 1285)

"Hoài Văn tuổi trẻ, ch

Cờ đề sáu chữ, quyết vào lập công".

Đại Nam quốc sử&nb­sp;diễn&nb­sp;ca.

Các tác giả&nb­sp;Sổ&nb­sp;tay nhân&nb­sp;vật&nb­sp;lịch sử Việt&nb­sp;Nam&nb­sp;cho hay, Trần Quốc Toản thuộc dòng dõi nhà vua và sinh vào năm Đinh Mão (1267). Và, lại thêm một lần nữa, chúng tôi chép lại với tất cả sự trân trọng và tin cậy, chứ sử cũ không hề cho biết một điều gì cụ thể về năm sinh của vị danh tướng trẻ tuổi này.

Trần Quốc Toản sinh ra và lớn lên trong không khí cả nước náo nức chuẩn bị chiến đấu chống quân Nguyên sang cướp phá và xâm lược nước ta lần thứ hai (1285).

Năm 1282, triều Trần đã chức một cuộc hội nghị quân sự rất đặc biệt tại bến Bình Than. Sử gọi đó là hội nghị Bình Than. Tham dự hội nghị này là các quý tộc và các vị tướng lĩnh cao cấp nhất của nhà Trần. Bấy giờ, Trần Quốc Toản tuy là quý tộc đã được phong tới tước Hầu - Hoài Văn Hầu - nhưng vì còn ở tuổi vị thành niên nên không được tham dự. Hoài Văn Hầu lấy đó làm điều hổ thẹn. Sử cũ chép chuyện này như sau :

"Khi ấy, Hoài Vần Hầu là Trần Quốc Toản cũng theo xa giá (đến dự hội). Vì còn ở tuổi vị thành niên, Trần Quốc Toản không được vào dự bàn, nên lấy làm xấu hổ và căm tức lắm, tay đang cầm quả cam mà bóp nãi không phải ở chủ của nó. Quân dân (nước tôi) vì lòng trung phẫn mà tự thích chữ vào cánh tay đó thôi. Quốc Vương (nước tôi) không biết việc đó. Tôi là trung thần, há lại không có hai chữ đó hay sao ?

Nói xong thi đưa cánh tay cho Ô-​mã-nhi xem. Ô-​mã-nhi liền nói :

- Đại quân của ta từ xa tới, sao nước người không chịu quay giáo đến nhận mệnh mà lại còn chống trả. Lấy càng bọ ngựa ra mà chống xe thì sự thể liệu sẽ ra sao.

(Đỗ) Khắc Chung nói :

- (Ấy là bởi) hiền tướng không noi theo kế sách của Hàn Tín (danh tướng Trung Quốc người đời Hán-​NKT) đi đánh dẹp nước Yên (tên một tiểu vương quốc ở Trung Quốc thời cổ đại - NKT) đóng quân ở nơi biên ải, gửi thư báo tin trước. (Bấy giờ), nếu nước tôi không chịu thếu mới là có lỗi. Nay bứt bách lẫn nhau, có khác gì lời cổ nhân nói, rằng thú cùng đường thì sẽ cắn lại, chim cùng lối thì sẽ mổ lại, huống chi là con người ?

Ô-​mã-nhi nói :

- Đại quân ta mượn đường để đi đánh Chiêm Thành. Quốc Vương của ngươi nếu đến hội kiến thì cõi bờ đâu bị xâm phạm, dân tình sẽ được yên ổn. Nay nếu cứ cố chấp thì chỉ trong khoảnh khắc, núi non sẽ hóa thành đất bằng, vua tôi các ngươi sẽ hóa thành cỏ nát.

Khi (Đỗ) Khắc Chung về rồi, Ô-​mã-nhi nói với các tướng tả hữu rằng :

- Người này ở vào lúc bị uy hiếp mà lời lẽ ứng đối vẫn tự nhiên; không chịu hạ thấp danh giá của chủ, ấy là Chích; không thèm nịnh ta, ấy là Nghiêu; (ví việc đánh ta thì) nói là chó cắn người lạ, giỏi lắm thay. (Đi sứ mà như thế) thì có thể nói là không làm nhục mệnh vua. Nước họ còn có người tài như vậy thì chưa dễ gì mưu tính được.

Nói rồi, sai người đuổi theo (Đỗ) Khắc Chung, nhưng không kị̉) có nghĩa là vui vẻ, sắc sảo, mau chóng… Trang viết nhỏ này chỉ nói về danh tướng Nguyễn Khoái mà thôi.

Nguyễn Khoái sinh và mất năm nào, quê quán ở đâu, hiện tại vẫn chưa ai rõ. Sử cũ chỉ cho biết rằng, Nguyễn Khoái là tướng chỉ huy quân Thánh Dực dưới thời vua Trần Nhân Tông (1278-1293) và từng dũng cảm lập công lớn trong hai cuộc chiến tranh vệ quốc chống quân Nguyên xâm lược lần thứ hai (1285) và lần thứ1288).

Thời Trần, quân Thánh Dực là một trong nhũng đơn vị quân chủ lực của triều đình. Tướng chỉ huy đội quân đó, ngoài tài năng và uy tín còn phải có một quá trình thử thách khá lâu dài. Từ thực tế; này, chúng ta có thể ước đoán rằng, Nguyễn Khoái đã trở thành võ quan của triều Trần khoảng cuối đời vua Trần Thánh Tông (1258-1278) hoặc đầu đời vua Trần Nhân Tông.

Trong cuộc chiến tranh lần thứ hai (1285), hoạt động chủ yếu của Nguyễn Khoái là đem đội quân Thánh Dực theo hầu cận để bảo vệ Thượng Hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông, đồng thời, sẵn sàng thực hiện mọi mệnh lệnh chiến đấu do Thượng Hoàng và Nhà vua ban ra. Cả hai nhiệm vụ này, Nguyễn Khoái đã hoàn thành một cách xuất sắc. Ông đã lập công lớn trong việc tấn công vào đội quân của tướng giặc là Toa-đô. Bấy giờ quân của Toa-đô từ đất Chiêm Thành tiến ra, hòng kết hợp với quân chủ lực của Thoát-​hoan, tạo thành hai gọng kìm nguy hiểm, từ Nam lên và từ Bắc xuống, để bóp nát chủ lực của ta. Trải ba năm chinh chiến (1282-1285), đạo quân của Toa-đô tuy đã bị thiệt hại nhiều, nhưng vẫn thực sự là một đạo quân mạnh. Từ khi tướng chỉ huy quân đội nhà Trần ở phía Nam là Trần Kiện đầu hàng, tinh thần của đạo quân Toa-đô có phần phấn chấn hơn. Cuối mùa xuân năm Ất Dậu (1285). Toa-đô hùng hổ tiến ra vùng châu thổ sông Hồng. Sử cũ chép :

“Toa-đô từ Chiêm Thành kéo ra đánh phá và cướp bóc suốt dọc đường đi. Chúng trèo đèo vượt sông, từ châu Ô, châu Lý, châu Hoan và châu Ái, tiến ra Tây Kết. Nhà vua bàn với quần thần rằng :

- Giặc đi xa muôn dặm để mưu cướp nước người ta (đây chỉ nước Chiêm Thành - NKT), do không chiếm được nên mới bỏ đi. Nay nhằm lúc chúng đang mỏi mệt mà đem quân ta đã được nghỉ ngơi dưỡng sức để ra đối địch, đánh ngay trậ đầu thì ắt chúng sẽ mất hết nhuệ khí và sẽ bị phá tan.

Bàn xong đâu đấy rồi, Nhà vua liền hạ lệnh cho Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật và Chiêu Thành Vương (chưa rõ tên), cùng với Hoài Vần Hầu Trần Quốc Toản và tướng quân Nguyễn Khoái đem quân tinh nhuệ đi đón đánh. Khi quân ta tiến đến Hàm Tử, hai bên đánh nhau rất quyết liệt.”

Như vậy là, trước khi trở thành một trong những tướng chỉ huy chiến dịch Tây Kết, Nguyễn Khoái đã tham gia vào chiến dịch Hàm Tử. Thắng lợi của chiến dịch Hàm Tử có ảnh hưởng to lớn và mạnh mẽ đến thắng lợi của chiến dịch Tây Kết, và ngược lại, thắng lợi của chiến dịch Tây Kết vừa có tác dụng củng cố thắng lợi của chiến dịch Hàm Tử, vừa có ý nghĩa mở đường cho thắng lợi của một loạt chiến dịch sau đó, đẩy quân Nguyên vào thế khủng hoảng nghiêm trọng để rồi cuối&nb­sp;&nb­sp;cùng là bị thất bại hoàn toàn.

Trong cuộc chiến tranh chống quân Mông-​Nguyên xâm lược lần thứ ba (1288), tướng Nguyễn Khoái lại tiếp tục lập được chiến công vẻ vang, góp phần to lớn vào thắng lợi chung của cả dân tộc. Bấy giờ, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn quyết đánh trận quyết chiến chiến lược với quân Mông-​Nguyên ở Bạch Đằng. Đây là trận thủy chiến có quy mô lớn, được tổ chức theo kế hoạch kết hợp chật chẽ giữa mai phục với bao vây. Đội quân Thánh Dực do Nguyễn Khoái chỉ huy có nhiệm vụ dũng mãnh tấn công, chia cắt đội hi]]>

Danh_tuong_Viet_Nam_-_Tap_2

by Unknown

Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi&nb­sp;vi thần,&nb­sp;khiến cho kiến ăn thủng lá rồi lấy lá ấy mà thả xuống nước sông. Lá theo dòng nước trôi mãi. Nhiều người bắt được, mật truyền cho nhau rằng đó là mệnh trời, vì thế, đã nô nức kéo đến tụ nghĩa dưới ngọn cờ của Lê Lợi. Và quan trọng hơn, khắp nơi đã sẵn sàng để ủng hộ Lê Lợi tùy theo khả năng cũng như điều kiện cụ thể của mỗi vùng.

- Chuẩn bị về lực lượng và tổ chức

Đồng thời với quá trình chuẩn bị về dư luận, Lê Lợi đã gấp rút chuẩn bị cả về lực lượng và tổ chức. Về lực lượng, ngoài các bậc anh hùng hào kiệt, Lê Lợi chủ trương phải tập hợp và huy động cho bằng được sức mạnh cũng như trí tuệ của những người bị quân Minh bức hiếp bóc lột nặng nề nhất, những người ở dưới đáy sâu nhất của xã hội. Nói theo cách nói của Nguyễn Trãi là :

“Nêu hiệu gậy làm&nb­sp;cờ,

Tập hợp bốn&nb­sp;phương manh lệ.”

(Nguyễn Trãi&nb­sp;-&nb­sp;Bình Ngô đại cáo)

Lúc đầu, số người tìm đến với Lê Lợi chưa nhiều, nhưng sau đó đất quê hương của Lê Lợi trở thành nơi quy tụ ngày càng dông đảo nghĩa sĩ bốn phương. Để che mắt kẻ thù, cũng là để thuận tiện trong việc quản lí, Lê Lợi chia họ thành từng nhóm nhỏ, dựng trại rải rác ở nhiều khu vực quanh Lam Sơn. Những nhóm này vừa khai khẩn đất đai và tích trữ lương thực, vừa thường xuyên luyện tập võ nghệ để sẵn sàng chờ ngày ra quân. Lê Lợi cẩn trọng chọn người gi­ao việc, cốt để phát huy hết n đô hộ trên toàn cõi nước ta, theo Lê Lợi và Nguyễn Trãi, Lam Sơn phải đồng thời tấn công trên rất nhiều mặt trận khác nhau, như : quân sự, chính trị, binh vận và đặc biệt là ngoại gi­ao.&nb­sp;Quân trung từ mệnh tập&nb­sp;là tác phẩm tập hợp những văn kiện quan trọng, thể hiện những hoạt động vừa độc đáo lại vừa phong phú của Lam Sơn trên tất cả các mặt trận sôi động này.

Về quân sự, Lê Lợi và Nguyễn Trãi cho rằng, không nên đánh vào thành, vì đánh vào thành là hạ sách, ngược lại, phải biết khéo léo đánh vào lòng người. Và, về kỉ luật, Lê Lợi cho rằng, phải xây dựng một đội quân trên dưới như cha con một nhà, Lam Sơn trước hết phải là đội quân nhân

III - DỰNG CỜ XƯỚNG NGHĨA

"Chính lúc nghĩa binh mới nổi,

Là khi thế giặc đang hăng.”

(Nguyễn Trãi&nb­sp;-&nb­sp;Bình Ngô đại cáo)

Ngày mồng 2 tết năm Mậu Tuất (tức là ngày 7-2-1418), Lam Sơn long trọng làm lễ tế cờ xuất trận. Bấy giờ, Lê Lợi xưng là Bình Định Vương và sát cánh với Lê Lợi là 35 võ tướng (trong&nb­sp;Đại Việt thông sử, Lê Quý Đôn đã thống kê cả một danh sách đến 51 người, nhưng trong&nb­sp;Đại Việt sử kí toàn thư, thì tất cả chỉ có 30 nhỏ. Đây theo&nb­sp;Lam Sơn thực lục) cùng một số quan văn, 200 quân Thiết Đột, 200 nghĩa sĩ, 200 dũng sĩ, tổng cộng khoảng chừng 2000 người và 14 con voi chiến. Đó là những con số phản ánh kết quả của một quá trình chuẩn bị rất công phu, nhưng, nếu so với quân cướp nước và bè lũ tay sai thì đó chỉ mới là một lực lượng rất bé nhỏ. Tương quan thế và lực giữa đôi bên hoàn toàn không cân xứng. Trong hoàn cảnh cực kì khó khăn như vậy, Lam Sơn phải chiến đấu trước hết bằng ý chí phi thường của mình và bằng niềm tin sắt đá vào sự ủng hộ mãnh liệthi quân Minh buộc phải cút khỏi nước ta, danh nghĩa nói trên chẳng những không cần thiết mà còn hoàn toàn không thể dùng. Ngày 14 tháng 4 năm Mậu Thân (1428), Lê Lợi chính thức lên ngôi Hoàng Đế, lấy lại quốc hiệu cũ là Đại Việt, đặt niên hiệu là Thuận Thiên. Triều Lê chính thức được dựng lên kể từ đó. Để phân biệt với triều Lê mở đầu là Lê Hoàn, sử gọi triều Lê mở đầu từ Lê Lợi là Hậu Lê.

Ngay sau khi lên ngôi Hoàng Đế, Lê Lợi đã tiến hành một loạt những biện pháp cấp bách khác nhau, trong đó, nổi bật nhất là các biện pháp sau đây :

- Xây dựng một bộ máy chính quyền mới theo một mô thức cũng&nb­sp;&nb­sp;hoàn toàn mới. Nếu thời Lý và thời trần, nhà nước là nhà nước của quý tộc, thì từ đây, nhà nước là nhà nước của quan lại. Lớp quan lại đầu tiên, phần lớn đều xuất thân từ dội ngũ những người có công lao trong sự nghiệp chiến đấu chống quân Minh, nhưng sau đó, chủ yếu là xuất thân từ khoa cử.

Thực hiện lời hứa "cứu dân" mà Lê Lợi đã nhiều lần nhấn mạnh khi lãnh đạo cả nước vùng lên đánh đuổi quân Minh đô hộ, năm 1429, chính sách "quân điền" được ban hành. (Quân điền là chính sách chia ruộng đất công của các làng xã thành từng phần bằng nhau, sau đó, đem cấp lại cho xã dân mỗi người một số phần khác nhau, tuỳ theo chức tước và địa vị xã hội của họ). Chính sách này đã làm cho tất cả mọi người trong xã hội đều có ruộng đất để cày cấy, tức là làm cho tính chất giải phóng của cuộc chiến tranh giải phóng càng trở nên sâu sắc. Đất nước nhờ đó mà bắt đầu bước vào một gi­ai đoạn bừng bừng khí thế hồi sinh.

Nhanh chóng thiết lập mối bang gi­ao hữu hảo với nhà Minh, nhằm tránh những hiểm họa binh đao lâu dài cho đất nước. Về phương châm chung của việc thiết lập mô trong tư dinh của ông ngoại là quan Tư Đồ Trần Nguyên Đán. Ông là con trai của Nguyễn Phi Khanh (tức Nguyễn Ứng Long) và Trần Thị Thái.

Tổ tiên Nguyễn Phi Khanh vốn người làng Chi Ngại, huyện Phượng Sơn (nay thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương), sau dời về làng Nhị Khê (tức làng Ngọc Ổi cũ), huyện Thượng Phúc (nay thuộc huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây). Thời trai trẻ Nguyễn Phi Khanh nổi tiếng hay chữ, nhưng vì nhà nghèo nên phải đi làm gia sư cho gia đình quan Đại Tư Đồ Trần Nguyên Đán.

Khác với Nguyễn Phi Khanh, Trần Thị Thái sinh trưởng trong một gia đình đại quý tộc. Phả hệ nhà ngoại đã được chính Nguyễn Trãi dựng lại, theo đó thì :

- Vua đầu triều Trần là Trần Thái Tông (1226 - 1258) có người con thứ ba (em của nh Vương Trần Quốc Khang và Trần Hoảng, tức vua Trần Thánh Tông : 1258 - 1278) tên là Trần Quang Khải. Sinh thời, Trần Quang Khải được phong tới tước Chiêu Minh Đại Vương, vì thế, sử vẫn thường kị tên húy mà gọi ông là Chiêu Minh Đại Vương. Chiêu Minh Đại Vương Trần Quang Khải là một trong những danh tướng, từng lập công xuất sắc trong sự nghiệp chống quân xâm lược Mông - Nguyên.

- Chiêu Minh Đại Vương Trần Quang Khải có khá nhiều con, tuy nhiên, nổi bật hơn cả vẫn là Văn Túc Vương Trần Đạo Tái "mới mười bốn tuổi đã thi đậu Bảng Nhãn, triều (Trần) Thánh Tông đặc ân ban cho văn phục cốt tỏ ý đặc biệt yêu quý. (Ông được) khen là người có tài như Quản Trọng và Gia Cát Lượng, nên (triều đình) định dùng vào việc lớn, nhưng chưa kịp thì (Văn Túc) Vương đã qua đời sớm." (Nguyễn Trãi -Chuyện cũ về&nb­sp;Băng Hồ Tiên Sinh).

- Con của Văn Túc Vương Trần Đạo Tái là Uy Túc Vương Trần Văn Bích, người có nhiều công lao trong việc giúp rập triều Trần Minh Tông (1314 - 1329), được phong tói hàm Nhập Nội Thái Bảo.

- Một trong những người con của Uy Túc Vương Trần Văn Bích là Trần Nguyên Đán (1326 - 1390). Sinh thời, Trần Nguyên Đán từng làm quan, trải thờ đến bốn đời vua Trần là Trần Dụ Tông (1341 -1369), Trần Nghệ Tông (1370 - 1372), Trần Duệ Tông (1372 - 1377) và Trần Phế Đế (1377 - 1388). Trần Nguyên Đán cũng là một trong những người có công dẹp loạn Dương Nhật Lễ (cuối năm 1369 đầu năm 1370), nhờ vậy, được phong dần lên tới hàm Nhập Nội Kiểm Hiệu, Đại Tư Đồ, Bình Chương Quân Quốc Trọng Sự. Ngay từ khi&nb­sp;&nb­sp;mới tham gia triều chính, Trần Nguyên Đán đã nhìn thấy nguy cơ sụp đổ không thể nào tránh khỏi của triều Trần. Ông từng nhiều lần can ngăn nhà vua nhưng không được, vì thế, bèn lui về ở ẩn. Nguyễn Trãi cho biết :

"Từ khi họ Hồ được tiến dụng thì giá ngầ bắt đầu đông (ý nói rằng mưu thoán đoạt đã bắt đầu xuất hiện - NKT). Công (chỉ Trần Nguyên Đán - NKT) nói :

- Phàm là bậc quân tử, thấy việc có thể làm là phải làm ngay. không để đến phút chót.

Thế rồi Công dựng động Thanh Hư ở núi Côn Sơn, huyện Phượng Sơn (nay thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương - NKT) để làm chỗ lui về nghỉ ngơi. Động ấy làm xong, vua (Trần) Duệ Tông tự viết tặng ba chữ lớn là&nb­sp;Thanh Hư Động&nb­sp;vào phía trước mặt bia. Sau, (Thượng Hoàng Trần) Nghệ Tông lại còn tự chế ra bài minh, khắc vào lưng bia.

Công tuy nương náu chốn suối rừng mà chí tôn thờ xã tắc vẫn chưa một ngày nào nguôi. Việc đi, việc ở, hay việc động, việc tĩnh… Công đều có ý can gián, nhưng rốt cuộc (Trần) Nghệ Tông cũng không xét đến. Bởi lẽ này, uy thế của họ Hồ ngày càng thịnh, kẻ xu phụ cũng ngày càng đông, thế nước ngày một yếu, không sao vực nổi được nữa. Từ đó, ý định xin về trí sĩ của Công càng dứt khoát." (Nguyễn Trãi -&nb­sp;Chuyện cũ về&nb­sp;Băng Hồ Tiên Sinh)

Tuy dứt khoát nhưng cũng phải đợi đến sau năm 1380 Trần Nguyên Đán mới có̃A TẠI LAM&nb­sp;SƠN

“Rồng thiêng (chừ) bay trên Lam Kinh.”

(Nguyễn Trãi&nb­sp;-&nb­sp;Chí Linh sơn phú)

Hiện tại vẫn chưa rõ, Nguyễn Trãi đã thoát khỏi cảnh bị gi­am lỏng tại kinh Thăng Long bằng cách nào và vào thời điểm cụ thể nào, chỉ biết là ông đã tới gặp Lê Lợivà tham gia khởi nghĩa Lam Sơn nay trong những ngày khó khăn gi­an khổ nhất. Ông đến Lam Sơn cùng một lượt với Trần Nguyên Hãn.

Tháng 2 năm Bính Thân (1416), Lê Lợi long trọng tổ chức&nb­sp;Hội thề Lũng Nhai, Nguyễn Trãi có vinh dự được tham gia và có trong danh sách mười chín người cuả cuộc hội thề lịch sử này. Bấy giờ, có bao nhiêu anh hùng hào kiệt từ khắp bốn phương tìm đến với Lam Sơn là có bấy nhiêu người bừng bừng ý chí quyết tâm xả thân vì nghĩa cả cứu nước cứu dân. Tuy nhiên, bên cạnh sự đồng nhất thiêng liêng ấy, mỗi người còn có một hành trang riêng. Với Nguyễn Trãi, hành trang riêng ấy chính là cuốn&nb­sp;Bình Ngô sách&nb­sp;-&nb­sp;&nb­sp;tác phẩm kết tinh những suy nghĩ sâu sắc tuyệt vời của ông về kế sách đánh đuổi quân Ngô (tức giặc Minh).

Bình Ngô sách&nb­sp;tuy đã thất truyền, nhưng, theo lời đề tựa của Ngô Thế Vinh (1803-1856, người huyện Nam Chân, nay là huyện Nam Ninh, tỉnh nam Định, đỗ Tiến Sĩ năm 1829) trong&nb­sp;Ức Trai thi tập&nb­sp;thì đó là sách đã “hiến mưu chước lớn, không nói đến việc đánh vào thành mà lại khéo nói đến việc đánh vào lòng người". Lê Lợi đánh giá rất cao giá trị của&nb­sp;Bình Ngô sách,&nb­sp;do vậy, đã phong cho Nguyễn Trãi chức Tuyên Phụng Đại Phu, Hàn Lâm Thừa Chỉ và luôn giữ Nguyễn Trãi ở bên cạnh để tiện bàn mưu tính kế. Đáp lại niềm tin cậy lớn lao của Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã không ngừng có những cống hiến càng xuất sắc cho Lam Sơn.

III - CHIẾN LƯƠn cứu nước, cứu nhà là hànhộng biểu thị đỉnh cao của đại nghĩa và chí nhân:

"Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,

Quân điếu phạt trước lo khử bạo."

(Nguyễn Trãi&nb­sp;-&nb­sp;Bình Ngô đại cáo)

+&nb­sp;Để nhân dân không quản ngại gi­an khổ, kể cả hi sinh, một lòng một dạ trung thành với ngọn cờ của Bình Định Vương Lê Lợi, việc kích động lòng yêu nước thiết tha phải bắt đầu từ hai nội dung cốt yếu nhất. Một là khơi dậy niềm tự hào dân tộc, lòng tự hào về nền văn hiến cổ kính của nước nhà :

"Như nước Đại Việt ta từ trước,

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,

Bắc&nb­sp;-&nb­sp;Nam&nb­sp;bờ cõi đã chia,

Phong tục mỗi nơi một khác.”

(Nguyễn Trãi&nb­sp;-&nb­sp;Bình Ngô đại cáo)

Và nội dung thứ hai là, phải làm sao để nhân dân nhận thức được một cách đầy đủ và sâu sắc rằng, cứu nước cũng tức là cứu nhà, muốn giải phóng mình khỏi kiếp bị đọa đày thì trước hết phải đồng tâm hiệp lực giải phóng đất nước khỏi ách đô hộ của quân Minh.

+&nb­sp;Để phân hóa và cô lập cao độ kẻ thù của dân tộc, nghĩa quân Lam Sơn phải triệt để lợi dụng những vết rạn nứt, những mâu thuẫn và đặc biệt là những xung đột trong nội bộ chúng.

- Về phương châm tiến hành, Nguyễn Trãi cho rằng, chiến lược đánh vào lòng người phải được thực hiện bằng cách phối hợp một cách nhịp nhàng giữa ba mặt trận rất lợi hại khác nhau, đó là : chính trị, binh vận và ngoại gi­ao. Tác dụng phi thường của cả ba mật trận này sẽ thật khó mà hình dung hết được :

“Ngã mưu phạt nhi công tâm, bất , Lý Triện và Lưu Nhân Chú được lệnh đem hai ngàn tinh binh và hai thớt voi, gấp rút đi thực hiện nhiệm vụ này. Chỉ ba ngày sau khi nhận lệnh, các tướng đã sắp đặt đội ngũ chỉnh tề. Với một cuộc hành quân kiên quyết, táo bạo và cấp tốc, Bùi Bị và các vị tướng nói trên đã giải phóng được hầu hết đất Thanh Hóa, buộc giặc phải co về cố thủ trong thành Tây Đô. Từ đây, miền đất rộng lớn và liên hoàn từ Thanh Hóa trở vào Nam đã thuộc về Lam Sơn. Chiến công này của Bùi Bị cùng các tướng Đinh Lễ, Lê Sát, Lý Triện và Lưu Nhân Chú, có ý nghĩa rất lớn lao đối với toàn bộ quá trình phát triển và những thắng lợi rất vang dội của Lam Sơn sau đó. Cơ hội để đưa Lam Sơn từ một cu vũ trang phát triển thành một cuộc chiến tranh giải phóng có quy mô cả nước đã bắt đầu mở ra.

- Một trong những vị tướng chỉ huy xuất sắc đạo quân thứ hai của Lam Sơn ở vùng ngoại vi Đông Quan

Tháng 9 năm 1426, Lê Lợi và Bộ chỉ huy Lam Sơn quyết định đưa hơn một vạn quân, luồn sâu vào vùng còn tạm bị quân Minh chiếm đóng, tiến ra khu vực ngoại vi của thành Đông Quan, vừa ráo riết hoạt động, vừa trực tiếp uy hiếp sào huyệt lớn nhất của chúng là thành Đông Quan. Hơn một vạn quân này được chia làm ba đạo khác nhau và được gi­ao cho một loạt tướng lĩnh xuất sắc của Lam Sơn chỉ huy. Bấy giờ, Bùi Bị có vinh dự được cùng với các tướng Lưu Nhân Chú, Lê Trương và Lê Ninh chỉ huy đạo quân thứ hai. Nhiệm vụ của đạo quân này là :

+&nb­sp;Băng qua đất&nb­sp;Nam&nb­sp;Định, Hà&nb­sp;Nam&nb­sp;ngày nay, tiến xuống vùng Thái Bình và Hưng Yên ngày nay, giải phóng vùng hạ lưu sông Hồng, hỗ trợ đắc lực cho đạo quân thứ nhất và đạo quân thứ ba hoạt động.

+ Sẵn sàng đợi đánh lực lượng của giặc, nhâừ rất sớm, nhưng có lẽ ông cũng bắt đầu sự nghiệp của mình từ vị trí của một nghĩa sĩ bình thường. Sử cũ nhắc đến tên của Đỗ Bí lần đầu tiên vào tháng 4 năm Mậu Tuất (1418) :

"Vua (chỉ Lê Lợi - NKT) bèn thu quân, cùng với Lê Lễ (tức Đinh Lễ - NKT), Phạm Vấn, Đỗ Bí, Nguyễn Xí và Lê Đạp, tạm náu ở Linh Sơn. Hơn ba tháng trời chỉ dùng măng tre và rễ cỏ để ăn cho qua bữa" (Đại Việt thông sử, Đế kỉ, Đệ nhất).

Nhưng, từ khi Lam Sơn bất đầu tấn công ồ ạt vào Nghệ An, tên tuổi của Đỗ Bí lại nhanh chóng nổi lên. Ông thực sự là một vị tướng có tài. Binh nghiệp của ông được ghi nhận chủ yếu qua mấy sự kiện lớn sau đây :

- Tham gia chỉ huy trận Khả Lưu (1424)

Bấy giờ, quân Lam Sơn đã chiếm được Trà Lân - một vị trí hết sức quan trọng, nằm án ngữ ngay trên mạch lưu thông phía tây của Nghệ An. Giặc tức tối điều quân lên Trà Lân, quyết bóp nát lực lượng chủ lực của Lam Sơn tại đấy. Muốn đến Trà Lân, giặc phải đi qua ải Khả Lưu mà Khả Lưu là một vùng đất hiểm, chiếm được Khả Lưu là chiếm được lợi thế, từ đó, có thể khống chế và dễ dàng đánh vào Trà Lân. Nhạy bén trước thực tế này, Lê Lợi và Bộ chỉ huy Lam Sơn đã quyết đinh điều quân đến chiếm giữ trước ở vùng Khả Lưu, bám lấy đất hiểmể chặn đứng cuộc hành quân đàn áp nguy hiểm này. Hơn một chục các tướng lĩnh được huy động đến để phối hợp cầm quân đánh giặc ở Khả Lưu, trong số đó có Đỗ Bí. Và, tất cả các tướng đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được gi­ao. Trận Khả Lưu là một trong những trận thắng vang dội nhất của nghĩa quân Lam Sơn tại Nghệ An. Từ trận thắng này, tình hình ngày càng thay đổi theo chiều hướng có lợi cho Lam Sơn&nb­sp;thần truyện)

Lưu Nhân Chú người xã An Thuận Thượng, huyện Đại Từ, nay là xã Vân Yên, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên. Hiện nay vẫn chưa ai rõ Lưu Nhân Chú sinh vào năm nào. Lí lịch xuất thân của Lưu Nhân Chú chỉ được sử cũ ghi chép rất vắn tắt. Đại để, tuổi trẻ của ông rất nghèo khó. Ông phải buôn bán lặt vặt để kiếm sống. Gia phả nhà họ Lưu cho biết thêm vài chi tiết nữa, theo đó thì họ Lưu đã ba đời nối nhau làm quan ở Thái Nguyên, từng được nhà Trần phong tới tước Hầu. Khi Lê Lợi chuẩn bi dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, Lưu Nhân Chú cùng cha là Lưu Trung đã hăng hái đến hưởng ứng. Năm 1416, Lưu Nhân Chú là một trong số 19 người tham dự Hội thề Lũng Nhai, là thành viên đầu tiên của Bộ chỉ huy Lam Sơn, chức vụ cụ thể lúc bấy giờ là phó chỉ huy vệ binh trong đội quân Thiết Đột. Lưu Nhân Chú đã liên tục có nhiều cống hiến lớn cho nghĩa quân Lam Sơn nói riêng và cho sự nghiệp cứu nước cứu dân ở đầu thế kỉ thứ XV nói chung. Tên tuổi của ông gần liền với mấy sự kiện lớn sau đây :

- Tham gia chỉ huy trận Khả Lưu - Bồ Ải (1424)

Tháng 10 năm 1424, Lam Sơn đã táo bạo đánh vào Nghệ An để“tìm đất đứng chân". Cuộc tấn công này đã khiến cho quân Minh rất bối rối. Tướng giặc là bọn Trần Trí và Phương Chính đã lập tức cho quân đuổi theo. Chúng dự kiến sẽ bất ngờ đánh vào Trà Lân, tiêu diệt bộ phận quan trọng nhất của lực lượng Lam Sơn tại đây. Nhưng mưu toan đánh bất ngờ của chúng đã sụp đổ, bởi trước đó Lê Lợi đã cho các tướng đem quân tới chiếm lĩnh Khả Lưu là "vùng đất hiểm”, nằm án ngữ ngay dọc đường tiến vào Trà Lân. Lê Lợi và Bộ chỉ huy Lam Sơn đã khôn khéo tổ chức thành công hai trận mai phục liền. Trận thứ nhất khiến cho Trần Trí và Ph vào Xương Gi­ang bắt đầu. Lưu Nhân Chú có vinh dự được tham gia chỉ huy cuộc tập kích đó.&nb­sp;Minh sử&nb­sp;chép rằng :

“Giặc (chỉ quân ta - NKT) cho voi chiến xông bừa vào rồi cùng nhau hô to rằng ai hàng thì sống, ai chống thì chết. Thế trận quân ta (chỉ quân Minh - NKT) rối loạn, bị giết hoặc bị đuổi chạy dài. Toàn quân tan vỡ cả.”

Tất cả tướng lĩnh chỉ huy của quân Minh tại đây, từ Đô Đốc Thôi Tụ và Thượng Thư Hoàng Phúc trở xuống, đều bị bắt sống hoặc bị giết. Toàn bộ quân Minh bị giết và bị bắt sống, chỉ một tên duy nhất sống sót và chạy về được Trung Quốc mà thôi.

Thắng lợi của trận quyết chiến chiến lược Chi Lăng - Xương Gi­ang là thắng lợi chung của Bộ chỉ huy và toàn thể nghĩa sĩ Lam Sơn nhưng trong đó, đóng góp của Lưu Nhân Chú là rất đáng kể. Ông là một trong số không nhiều các tướng của Lam Sơn đã có vinh dự tham gia chỉ huy hầu như tất cả các cuộc tập kích suốt từ Chi Lăng đến Xương Gi­ang và trận nào ông cũng đều lập công xuất sắc.

- Làm con tin giữa sào huyệt giặc (1427)

Sau trận đại thắng ở Chi Lăng - Xương Gi­ang, tư thế của L&nb­sp;&nb­sp;Sơn là tư thế hiên ngang ở trên đầu thù. Với tư thế đó, Lam Sơn hoàn toàn có thể tiêu giệt toàn bộ lực lượng của Vương Thông đang cố thủ trong thành Đông Quan bằng một trận đánh chớp nhoáng. Nhưng, Lam Sơn đã không làm như vậy. Trước sau như một, Lê Lợi, Nguyễn Trãi và đa số các vị tướng lĩnh trong Bộ chỉ huy Lam Sơn vẫn kiên trì thực hiện chủ trương “thương lượng”, nhằm buộc quân Minh phải rút khỏi nước ta. Nói theo cách nói của Nguyễn Trãi là :

“Chỉ cần vẹn đất,

cốt sao an ninh.”

(Nguyễn Trãi&nb­sp;-&nb­sp;Chí Linh sơn phú)

Để thuyết phục kẻ thù, Lê Lợi và Bộ chỉ huy Lam Sơn đã đồng ý trao đổi con tin với Vng. Trần Nguyên Hãn - ngàn năm còn mãi tên ông.

TRỊNH KHẢ (&nb­sp;? - 1451)

"Vung gươm ở Nhân Mục và Tam Gi­ang&nb­sp;: khiến Vương Thông muốn vỡ mật&nb­sp;;

Tung hoành ở Lê Hoa và Lãnh Thủy&nb­sp;: khiến Mộc Thạnh phải hoảng hồn.”

Lời chế văn của vua Lê Thái Tổ

dẫn lại trong&nb­sp;LỊCH TRIỀU HIẾN CHƯƠNG LOẠI CHÍ

(Nhân vật chí)

Trịnh Khả người làng Kim Bôi, huyện Vĩnh Ninh. Nay đất làng quê ông thuộc huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Các tác giả của&nb­sp;Sổ tay nhân vật lịch sử Việt Nam&nb­sp;nói là ông sinh năm 1403, nhưng, đối chiếu với hành trạng cuộc đời ông trong ghi chép của sử cũ, thì năm sinh này không đúng.

L Quý Đôn cho biết :

“Tổ tiên ông (Trịnh Khả) từng làm quan thời Trần và từng lập công khi đánh giặc Nguyên. Cha (Trịnh Khả) là (Trịnh) Quyện, làm Chánh Tổng.&nb­sp;Ông có bốn người con trai, (Trịnh) Khả là con út."&nb­sp;(Đại Việt thông sử - Chư thần truyện).

Về thời trai trẻ của ông, sử cũ viết :

"Năm lên mười sáu tuổi, một hôm, ông dắt trâu đi cày về ngồi nghỉ trước cổng một ngôi chùa trên núi. Khi ấy, có viên tướng nhà Minh từ thành Tây Đô đến, thấy vẻ mặt ông thì ưa, liền bắt về làm gia nô. Ít lâu sau, hắn xem tướng ông và nói rằng :

- Thằng bé này mình rồng, mắt hổ, khỏe hơn cả mọi lính tráng trong ba quân. Ngày sau thế nào hắn cũng sẽ được cầm cờ mao và tiết việt (ý nói làm tướng - NKT).

Thế rồi hắn nói tiếp&nb­sp;:

- Ngày sau, kẻ đánh đuổi ta tất phải là&nb­sp;&nb­sp;mày, phải trừ ngay đi để khỏi lo về hậu họa.

Ông nghe thế thì sợ quá, qua bên kia sông Mã, ẩn trong nhà người cô ở xã Diên Phúc. Quân Minh đuổi theo bắt mà không được, liền bắt bố ông là (Trịnh) Quyện cốt để buộc ông trở lại, ̀i làng Dựng Tú, sách Đức Gi­ang, huyện Lương Gi­ang (nay là xã Kiên Thọ, huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa). Hiện vẫn chưa rõ ông sinh vào năm nào.

Lê Lai là người đã có mặt bên cạnh Lê Lợi ngay trong những ngày đầu tiên của quá trình chuẩn bị gi­an nan cho cuộc khởi nghĩa này. Lê Lai là một trong số 19 người tham dự&nb­sp;Hội thề Lũng Nhai&nb­sp;tổ chức vào mùa xuân năm 1416. Ở hội thề này, tên của Lê Lai xếp ngay sau tên của Lê Lợi (Danh sách 19 người này, theo gia phả một s̔9; dòng họ hiện còn lưu giữ được thì gồm có : Lê Lợi, Lê Lai, Lê Thận, Lê Văn An, Lê Văn Linh, Trịnh Khả, Trương Lôi, Lê Liễu, Bùi Quốc Hưng, Lê Ninh, Lê Hiểm, Vũ Uy, Nguyễn Trãi, Đinh Liệt, Lưu Nhân Chú, Lê Bồi, Nguyễn Lý, Đinh Lan và Trương Chiến).

Bấy giờ, gần như cả gia đình Lê Lai đều là tướng sĩ của Lam Sơn. Ngoài Lê Lai và đến Lam Sơn cùng lúc với Lê Lai còn có anh trai của Lê Lai là Lê Lạn và ba người con của Lê Lai là Lê Lư, Lê Lộ và Lê Lâm.

Thực chất,&nb­sp;Hội thề Lũng Nhai&nb­sp;chính là buổi lễ ra mắt dưới dạng thật đặc biệt và cũng rất độc đáo của Bộ chỉ huy Lam Sơn. Từ đây công cuộc chuẩn bị cho khởi nghĩa Lam Sơn được tiến hành có tổ chức chặt chẽ hơn hẳn thời kì trước đó. Đầu năm 1418, cờ nghĩa cứu nước cứu dân đã phất phới tung bay ở Lam Sơn. Bấy giờ, Lê Lợi xưng là Bình Định Vương và tất cả các tướng trong Bộ chỉ huy Lam Sơn đều được trao chức tước. Lê Lai được phong tước Quan Nội Hầu, chức Tổng Quản trong phủ Đô Tổng Quản. Quan Nội Hầu là tước vị cao nhất mà Lê Lợi đã phong cho các tướng dưới quyền. Tổng Quản là chức đứng đầu, còn phủ Đô Tổng Quản là cơ quan trực thuộc Bộ chỉ huy, chịu trách nhiệm về hậu cần, xây dựng đại bản doanh và bảo vệ Bình Định Vương Lê Lợi cùng các tướng trong Bộ chỉ huy. Sử cũ chép rằng Lê Lai luô đánh và bắt được Lê Lai rồi đem ông vào trong thành (Tây Đô) xử bằng cực hình nặng hơn hẳn những hình phạt thường dùng." (Lam Sơn thực lục, Quyển 1. Phần đầu của đoạn trích này, sử cũ cũng có chỗ chép hơi khác. Đại để, Lê Lợi tự ví mình với Lưu Bang khi bị Hạng Võ bao vây ở Huỳnh Dương, tình thế rất nguy cấp. Dũng tướng của Lưu Bang là Kỷ Tín đã cải trang làm Lưu Bang ra hàng khiến cho Hạng Võ tưởng thật mà giết chết rồi lui quân, Lưu Bang nhờ đó mà thoát nạn. Sau, Lưu Bang dựng nên nhà Hán. Nhắc xong sự tích ấy, Lê Lợi hỏi các tướng rằng, có ai dám làm như Kỷ Tín hay không&nb­sp;?)

Giặc cứ tưởng Lê Lai là Lê Lợi nên rất lấy làm hí hửng. Chúng vội rút quân về thành Tây Đô. Nhân cơ hội đó, Lê Lợi cùng tất cả tướng sĩ của mình trở về Lam Sơn. Một cơ hội khôi phục lực lượng lại đến.

Sự hi sinh anh dũng của.Lê Lai đã cứu sống Lê Lợi cùng Bộ chỉ huy Lam Sơn và tất cả nghĩa sĩ bị bao vây ở núi Chí Linh. Tấm gương lẫm liệt của Lê Lai đã kích động mạnh mẽ tinh thần chiến đấu ngoan cường của toàn bộ lực lượLê Lai là biểu tượng của lòng trung nghĩa phi thường, của khí phách hiên ngang, bất khuất.

Năm 1428, ngay sau khi vừa lên ngôi Hoàng Đế, Lê Lợi đã truy tặng Lê Lai là&nb­sp;Đệ Nhất Khai Quốc Công thần, hàm Thiếu Úy, đồng thời, sai Nguyễn Trãi soạn hai đạothệ từ&nb­sp;(văn thề) để mãi mãi ghi nhớ công lao của Lê Lai, đúng như lời khấn mười năm trước đó. Một là&nb­sp;Tiên ước thệ từ&nb­sp;và hai là&nb­sp;Lai công thệ từ. Cả hai đạo thệ từ nói trên đều được Lê Lợi trân trọng cất vào tủ vàng trong cung điện của mình.

Gia đình Lê Lai có năm người cùng kề vai sát cánh và chiến đấu ngoan cường dưới ngọn cờ của Lê Lợi, thì cả năm người đều anh dũng hi sinh :

ư cũ. Về phần mình, Lê Lợi cũng cho rút quân về Khả Lưu, tu chỉnh dinh trại và đồn lũy, chuẩn bi cho trận đánh mới với quân Minh. Nhưng, đóng quân lâu dài ở Khả Lưu, đối với Lam Sơn là điều khó khăn không dễ gì khắc phục được. Một viên tướng của Lam Sơn, quê ở Nghệ An là Nguyễn Vĩnh Lộc đề nghị : hãy giả đốt dinh trại, vờ như để rút quân, cốt để giặc mắc mưu mà xua quân đuổi theo. Ta nhân đó đặt phục binh để đánh thì chắc sẽ thắng lớn. Lê Lợi và Bộ chỉ huy Lam Sơn đồng ý với đề nghị này. Sử cũ ghi chép như sau :

“Bấy giờ, lương thực của giặc khá nhiều mà quân lương của ta thì không đủ dùng cho mười ngày.Vua nói với các tướng rằng&nb­sp;:

- Giặc cậy có nhiều lương nên cố giữ vững thành để tính kế lâu dài. Ta lương ít, không thể cầm cự lâu với chúng được.

(Nói rồi), Vua liền hạ lệnh đốt hết dinh trại và nhà cửa rồi giả cách rút lên vùng thượng lưu, nhưng sau đó thì bí mật quay trở lại đặt phục binh để chờ. Giặc tưởng là quân ta đã bỏ chạy, liền vội cho quân lên chiếm lấy khu dinh trại của ta, đắp thành xây lũy (để giữ lấy chỗ hiểm). Nhưng, Vua đã nhân đêm tối, bố trí xong phục binh. Giặc không ngờ, vừa tiến đến thị bị qua xông ra. Bọn Lê Sát, Lê&nb­sp;&nb­sp;Bị (tức Bùi Bị - NKT), Lê Vấn (tức Phạm Vấn - NKT), Lê Lễ (tức Đinh Lễ - NKT); Lê Nhân Chú (tức Lưu Nhân Chú - NKT), Lê Ngân, Lê Chiến (tức Trương Chiến - NKT), Lê Tôn Kiều, Lê Khôi, Lê Bôi, Lê Văn An…đều đua nhau lên trước để phá thế trận của giặc. Giặc thua to, bỏ chạy tán loạn. Ta chém được nhiều không kể xiết.&nb­sp;&nb­sp;Chiến thuyền của chúng ngổn ngang, xác chết nghẽn cả nước, khí giới vất như núi, như gò. Trong trận này, ta bắt sống được tướng giặc là Chu Kiệt và giết được tướng giặc là Hoàng Thành, bắt sống được hơn một ngàn quân Minh. Ta thừa thặp công lớn nhất :

"Ông cùng các tướng tấn công, phá tan được trận giặc, chém hơn năm vạn thủ cấp, bắt sống Đô Đốc Thôi Tụ, Thượng Thư Hoàng Phúc và hơn ba vạn quân địch. Quân trang khí giới thu được nhiều không biết bao nhiêu mà kể. Nước Nam ta, từ thời Trần bắt được Ô Mã Nhi và Tích Lệ Cơ cho đến lúc ấy, có lễ chưa có trận thắng quân phương Bắc nào lại to lớn như vậy." (Đại Việt thông sử -&nb­sp;Chư thần truyện).

Nhờ những công lao nói trên, năm Thuận Thiên thứ nhất (tức là năm 1428) Lê Sát được phong là Nhập Nội Kiểm Hiệu Tư Khấu, Bình Chương Quân Quốc Trọng Sự, hiệu là Suy Trung Tán Trị, Hiệp Trung. Mưu Quốc Công Thần. Tháng 5 năm 1429, triều Lê lập biển khắc tên 93 vị Khai Quốc Công Thần, thì tên của Lê Sát vinh dự được khắc ở hàng thứ hai. Cũng năm đó, ông được phong tước Huyện Thượng Hầu. Và, đến năm 1433, Lê Sát được phong hàm Đại Tư Đồ.

Năm 1434, Lê Sát được trao quyền Tể Tướng. Đó chính là tột đỉnh danh vọng của ông.

*

*&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;*

Sinh thờ Lê Sát là người rất có tài, đặc biệt là tài cầm quân, nhưng ông thường khiến cho người ta sợ mà theo nhiều hơn là&nb­sp;&nb­sp;cho người ta phục mà theo. Ông được trao quyền cao chức trọng, nhưng về phương châm chính trị, ông không phải là người sâu sắc, đó âu cũng là “nhân vô thập toàn" vậy. Sử cũ viết về ông như sau :

“Ông hăng hái lo tròn bổn phận phò vua và sửa sang các việc,&nb­sp;&nb­sp;dám can gián và nói điều ích nước, nhưng, ông là võ tướng, ít hiểu đại thể chính trị, xử việc thường theo ý riêng, tính thẳng thắn nhưng làm mà ít nghĩ đến hậu họa. Lại nữa, ông là người nóng tính, vì ghét Tư Khấu Lưu Nhân Chú nên đã kiếm cớ vu cáo để giết đi, lại còn đang tâm mà đuổi cả người em (Lưu Nhân Chú là̃n tội chết cho Cao Sư Đãng, Vua đã sắp nghe theo, nhưng Lê Sát lại nói :

- Trước đã nghe lời bọn (Nguyền) Thiên Hựu nên không giết Nguyễn Đức Minh, khiến chúng dám bỏ thư nặc danh vu tội cho nhau, nay lại muốn tha người này thì lấy gì để răn kẻ khác?

(Nguyễn) Thiên Hựu không dám nói thêm nữa. (Lê Sát) bèn sai đem (Cao Sư Đãng) đi chém đầu. Hôm sau, gặp cơn mưa nhỏ, Lê Sát bèn nói ở trong triều rằng :

- Nếu nghe lời của các Ngôn Quan thì làm gì có trận mưa này.

Lê Ngân cười nói :

- Giết nhiều kẻ ác thì mưa nhiều, chỉ hiềm là xương người chất đầy đường, khó đi lại mà thôi.

Chuyện khắc nghiệt của ông đại loại&nb­sp;là như thế.

(Bấy giờ), quan giữ chức Đồng Tri Bắc Đạo là Bùi Ư Đài tâu xin chọn các bậc kì lão vào chầu để khuyên răn Nhà vua và xin đặt chức Sư Phó đ chỉ bảo cho các quan. Lê Sát thấy lời tâu ấy thì giận lắm, xin gi­ao (Bùi) Ư Đài cho ngục quan xét hỏi, ghép (Bùi Ư Đài)&nb­sp;&nb­sp;vào tội li gián vua tôi. Nhà vua không nghe. Lê Sát tâu đi tâu lại đến ba bốn lần mà Nhà vua vẫn không chịu. Bọn (Nguyễn) Thiên Hựu, (Bùi) Cầm Hồ, và cả quan Hữu Bật là Lê Văn Linh đều đồng ý với Lê Sát. Nhà vua bất đắc dĩ phải đày Bùi Ư Đài đi xa nhưng lòng Vua đã bắt đầu ghét bỏ Lê Sát". (Đại Việt thông sử -&nb­sp;Chư thần truyện).

Sự ghét bỏ của vua Lê Thái Tông đối với Lê Sát càng ngày càng rõ, rất tiếc là Lê Sát nhận biết điều này quá chậm. Ông say sưa với quyền lực mà quên cả việc đề phòng hậu họa. Và, tháng 6 năm 1437, đại họa bắt đầu giáng xuống đầu ông. Tháng ấy, vua Lê Thái Tông xuống chiếu nói rằng :

- Lê Sát chuyên quyền, ghét người tài, giết (Lưu) Nhân Chú để ra oai, truất quyền của Trịnh Khả để mong người ta phục, bãi chức tước của (Bùi) Ư Đài để khiến cho trận quyết chiến chiến lược Tốt Động - Chúc Động :

Năm 1426, sau khi đã giải phóng được một vùng đất rộng lớn và liên hoàn từ Thanh Hoá trở vào Nam, Lê Lợi và Bộ chỉ huy Lam Sơn quyết định tấn công ra Bắc. Hơn một vạn quân sĩ và một loạt tướng lĩnh, chia làm ba đạo khác nhau, được lệnh nhanh chóng thi hành quyết định này. Ba đạo này cụ thể như sau :

- Đạo thứ nhất gồm bơn ba ngàn quân và một thớt voi, do các tướng Phạm Văn Xảo, , Trịnh Khả và Đỗ Bí chỉ huy, tiến ra uy hiếp mặt nam của thành Đông Quan, đồng thời, sẵn sàng chặn đứng viện binh của giặc rất có thể sẽ tràn từ Vân Nam sang.

- Đạo thứ hai gồm hơn hai ngàn quân và một thớt voi, do các tướng Bùi Bị, Lưu Nhân Chú, Lê Trương và Lê Ninh chỉ huy, đánh vào khu vực hạ lưu sông Hồng và sẵn sàng chặn đánh bọn giặc từ các thành Nghệ An và Tây Đô tháo chạy ra Bắc. Đạo này vừa xuất phát thì được Lê Lợi cho thêm hơn hai ngàn quân và một thớt voi&nb­sp;&nb­sp;nữa, gi­ao cho hai tướng Lê Bồi và Lê Vị Canh chỉ huy, nhanh chóng tiến theo để tiếp ứng. Đạo quân thứ hai vì thế mà có lực lượng hùng hậu nhất.

- Đạo quân thứ ba gồm hơn 2000 quân, do hai tướng Đinh Lễ và Nguyễn Xí chỉ huy. Đạo này cũng tiến ra vùng phía nam của thành Đông Quan, vừa phô trương thanh thế để uy hiếp quân Minh, vừa sẵn sàng phối hợp với các đạo quân khác để giải phóng vùng&nb­sp;&nb­sp;đồng bằng và trung du phía Bắc. Đây là đạo quân giữ vị trí tiếp ứng cho đạo quân thứ nhất, nhưng là một đạo riêng biệt chứ không phải như lực lượng tiếp ứng do Lê Bồi và Lê Vị Canh chỉ huy. Và, đạo quân này vì một vài lí do riêng nên đã tiến hơi chậm so với dự kiến ban đầu.

Trong ba đạo quân nói trên, đạo quân do các tướng Phạm Văn Xảo, Lý Triện, Trịnh Khả và Đỗ Bí chỉ huy là lập đươtriều đình luận công ban thưởng, Phạm&nb­sp;&nb­sp;Văn Xảo được ban quốc tính là họ Lê, được thăng hàm Thái Bảo. Tháng 5 năm Thuận Thiên thứ hai (1429), tên ông được khắc ở hàng thứ ba trong bảng danh sách các Khai Quốc Công Thần, thăng hàm Thái Phó, tước Huyện Thượng Hầu. Tiếc thaychưa kịp hưởng phú quý vinh hoa thì đã bị gièm pha, rồi bị giết hại. Vụ án Phạm Văn Xảo và Trần Nguyên Hãn được sử cũ chép lại như sau :

“Nguyên do là bởi vua Lê Thái Tổ (tức Lê Lợi - NKT) tuổi cũng đã khá cao lại lắm bệnh mà con trưởng là Quận (Lê Tư Tề) thì tính nết gàn dở, điên rồ, Thái Tông (tức Hoàng Tử Lê Nguyên Long, người về sau làm vua, miếu hiệu là Lê Thái Tông - NKT) còn quá nhỏ, trong lúc đó Phạm Văn Xảo và Trần Nguyên Hãn đều là những bậc Khai Quốc Công Thần, lắm công lao, được người đương thời trọng vọng. Trần Nguyên Hãn vốn là dòng dõi quý tộc họ Trần xưa, Phạm Văn Xảo là người kinh thành Thăng Long, (Lê) Thái Tổ lo rằng nếu vua nhỏ tuổi lên cầm quyền, thì những người này sẽ nuôi chí khác, cho nên, bề ngoài tuy tỏ ra trọng vọng, nhưng bên trong thì vẫn chất chứa nghi ngờ. Bọn Đinh Bang Bản, Lê Quốc Khí, Trình Hoàng Bá,&nb­sp;&nb­sp;Nguyễn Tông Chí và Lê Đức Dư đoán biết được ý Vua, liền tranh nhau dâng mật sớ lên, khuyên Vua phải quyết trừ bỏ đi. Những ai mà chúng không bằng lòng đều bị chúng vu cho là bè đảng (của Phạm Văn Xảo và Trần Nguyên Hãn), bị đem ra xét xử và bị cầm tù rất đông. Các quan ai ai cũng đều sợ miệng lưỡi của chúng. Sau này, vua Lê Thái Tổ hối hận, thương hại người ấy bị giết oan, lại biết rõ bọn Lê Quốc Khí đều chỉ là hạng tiểu nhân xảo quyệt, nên rất ghét chúng, khiến chúng đều bị đuổi. Vua xuống chiếu cho trăm quan biết rằng, bọn Lê Quốc Khí, Trình Hoàng Bá, Lê Đức Dư… dẫu có tài cán cũng không được dùng lại nữa. Trong đám bề tôi, giá thử có kẻ làm phản, cần phải tố cáo, thì cũng­con ông đều là những người

- Mười người con gái thì có một người là Hoàng Hậu và một người là Cung Tần.

- Mười lăm người con trai thì có :

+&nb­sp;Ba người được phong tước Hầu.

+&nb­sp;Hai người được phong tước Bá.

+&nb­sp;Hai người được phong làm Tả Đô Đốc.

+&nb­sp;Một người được phong làm Thượng Thư.

+&nb­sp;Một người làm Tham Đốc.

Trong số các con trai của Lê Niệm, người được sử sách đề cập tới nhiều hơn cả là Lê Chí, người khi sống được phong tới tước Quỳnh Quận Công và khi mất (năm 1505) được truy tặng tước Hoài Quốc&nb­sp;Công.

THAY LỜI BẠT

Hồi ở Việt Bắc, tôi rất thích đi hái măng. Lúc đầu, tôi cứ nghĩ rằng hái măng là một việc dễ, chẳng dè, có đi mới biết là cũng khó khăn lắm. Thứ măng đã trồi lên khỏi mặt đất, tuy có thể kiếm nhanh nhưng ăn lại dở. Ngon nhất hạng vẫn là măng củ, thứ măng

thật non, còn nằm ở dưới đất, chưa kịp trồi lên. Muốn hái được thứ măng này, trước hết phải biết định hướng măng mọc, sau lại còn phải biết ước lượng chính xác khoảng cách từ gốc ra đến chỗ măng lên mà đào. Không biết định hướng đúng, lại cũng chẳng biết ước lượng khoảng cách cho chính xác, thì rốt cuộc, chỉ hao công tốn sức mà hái chẳng được bao nhiêu.

Chuyện hái măng kể cũng lạ. Đã có lần tôi cần mẫn đào bới kiếm tìm đến nát cả một khoảnh lớn, lòng những cầm chắc l]]>

Danh_tuong_Viet_Nam_-_Tap_3

by Unknown

Trận Đông Triều&nb­sp;(1-1741) : ba viên tướng của chúa Trịnh bị bắt

Sau trận thắng lớn ở Khoái Châu, uy thế của nghĩa quân Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ ngày một lên cao. Trịnh Doanh rất căm tức nhưng cũng không dám mạo hiểm đem đại quân đi đàn áp như trước nữa. Tuy nhiên, để hạn chế bớt những ảnh hưởng ngày càng rộng lớn và mạnh mẽ của Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ. Trịnh Doanh liền sai đem quân ra án ngữ ở mạn Đông Triều. Tham gia bộ chỉ huy đạo quân khá lớn này gồm có :

- Võ quan cao cấp, Đốc Lãnh Thượng Đạo Hải Dương là Đặng Đình Luận làm tổng chỉ huy.

- Văn quan giữ chức Hiệp Đồng là Trần Trọng Liêu và Nhữ Trọng&nb­sp;Thai.

Có quân số khá đông, lại được trang bị đầy đủ, các tướng chỉ huy đạo quân này rất chủ quan. Bấy giờ, Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ chỉ chủ trương đầm chừng, để cho quân của chúa Trịnh có thể dễ dàng tiến ra Đông Triều như kế hoạch chúng đã dự kiến. Điều này khiến cho Đặng Đình Luận đã chủ quan lại càng thêm chủ quan. Sau vài ba trận giả thua, Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ liền cho người tới giả vờ xin hàng. Đặng Đình Luận tưởng thật, cho nên, không hề phòng bị gì cả. Chẳng dè, nhân đêm tối, Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ tung quân đánh gấp. Toàn bộ các tướng Đặng Đình Luận, Trần Trọng Liêu và Như Trọng Thai đều bị bắt sống.

Cuộc đụng độ lần thứ hai vơy lực lượng của Nguyễn Hữu Cầu ở đây không nhiều, liền tung quân vừa đánh vừa tìm đường tiến về khu vực sông Tranh để hội nhập với quân Hoàng Ngũ Phúc. Trong trận kịch chiến với quân của Hoàng Ngũ Phúc và Hoàng Công Kỳ, nghĩa quân Nguyên Hữu Cầu đã giết được một viên tì tướng của họ Trịnh là Trịnh Bá Khâm cùng nhiều binh sĩ của hắn.

Bất ngờ đánh chiếm Kinh Bắc, khiến cả Thăng Long phải một phen hoảng loạn (5-1744)

Mưu kế của Vũ Khâm Lân kể cũng khá hiểm, chỉ tiếc cho Vũ Khâm Lân là Nguyễn Hữu Cầu còn có mưu kế hiểm hơn. Sau khi giết được Trịnh Bá Khâm, Nguyễn Hữu Cầu vừa bí mật bố trí nghi binh ở khu vực cửa Ngư Đại, vừa lặng lẽ kéo quân về Kinh Bắc. Chỉ trong một thời gi­an rất ngắn, nghĩa quân Nguyễn Hữu Cầu đã chiếm được sông Thọ Xương. Tại đây, ông gấp rút cho đắp lũy để chốự, đồng thời, bày chiến thuyền theo thế trận rất sẵn sàng.

Bấy giờ, Kinh Bắc là một trong những trọng trấn, vì thế vào năm 1741, chúa Trịnh Doanh đã cho hai võ quan cao cấp là Nguyễn Huy Nhuận và Trần Đình Cẩm làm Chưởng Đốc, chỉ huy lực lượng quân sự ở trấn này. Đến tháng 5 năm 1744, không rõ vì lí do gì, trấn Kinh Bắc chỉ còn một Chưởng Đốc là Trần Đình Cẩm nữa mà thôi. Nghe tin nghĩa quân Nguyễn Hữu Cầu mới kéo tới, Trần Đình Cẩm lập tức giành thế chủ động tấn công. Từ đất Thiết Sơn, Trần Đình Cẩm tiến đến Trai Thị và tại đây, một trận kịch chiến đã xảy ra. Trần Đình Cẩm đại bại, phải lui về Thị Cầu còn nghĩa quân Nguyễn Hữu Cầu thì nhân đà thắng lợi đã đánh đuổi rất gấp. Cùng đường, Trần Đình Cẩm phải rút quân vào thành Kinh Bắc, nhưng một lần nữa. Nguyễn Hữu Cầu cho quân quyết đánh đến cùng. Thành Kinh Bắc bị hạ. Quan Đốc Đồng Kinh Bắc là Vũ Phương Đề cùng với kiệt, Nguyễn Hữu Cầu không sao chống đỡ nổi. Ông bí mật cho quân lui ra vùng cửa biển, dùng thuyền men theo duyên hải mà tiến ra Bắc. Nhưng, thật không may cho Nguyễn Hữu Cầu, ông và các nghĩa sĩ kiên trung vừa ra đi chưa được bao lâu thì bão biển nổi lên, thuyền vỡ chìm gần hết. Không còn cách nào khác hơn được nữa, Nguyễn Hữu Cầu và tàn quân đành dắt nhau vào ẩn náu tạm trong dãy Hoàng Mai (ở xã Hoàng Mai, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An). Chưa kịp dựng trại thì đã bị tướng của Phạm Đình Trọng là Phạm Đình Sĩ bất ngờ dẫn quân đánh ập vào. Nguyễn Hữu Cầu thua trận, bị bắt và bị đóng cũi giải về Thăng Long.

Trong những ngày bị gi­am cầm tại Thăng Long, Nguyễn Hữu Cầu đã có ý định tổ chức vượt ngục nhưng không thành. Anh hùng lỡ vận vẫn hiên ngang ! Nơi ngục tối, Nguyễn Hữu Cầu vẫn giữ vững khí phách quật cường của mình. Ông có để lại cho đời bài thơChim trong lồng&nb­sp;với lời lẽ rất cảm động.

Tháng 3 năm 1751, Nguyễn Hữu Cầu bị Trịnh Doanh xử tử cùng một lần với Nguyễn Danh Phương. Ông được coi là vị anh hùng nông dân Đàng Ngoài lớn nhất thế kỉ thứ XVI­II. Trong kí ức bất diệt của nhân dân, tên tuổi của Nguyễn Hữu Cầu mãi mãi tỏa sáng. Ông được các thế hệ nhân dân yêu nước trìu mến gọi với tên gọi thật thân thương là&nb­sp;Quận He.

03. HOÀNG CÔNG CHẤT (? - 1769)

&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;Mãnh Thiên hang thẳm, núi cùng,

Hãy còn Hoàng Chất lâm tùng dấn thân.

(Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái :&nb­sp;Đại&nb­sp;Nam&nb­sp;quốc sử diễn ca)

Nơi chôn nhau cắt rốn

Khi Hoàng Công Chất lớn lên, mâu thuẫn của xã hội Đàng Ngoài đã trở nên rất gay gắt. Hàng loạt những cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ đã liên tiếp nổ ra. Một trong những trung tâm sôi động của cuộc chiến đấu quyết liệt đương thời chính làương ông. Hoàng Công Chất đã tham gia một cách rất tự nhiên vào phong trào chung ấy.

Bốn năm chiến đấu quyết liệt đầu trên (1739-1743)

Năm 1739, khi Nguyễn Tuyển và Nguyễn Cừ khởi nghĩa ở Ninh Xá, Vũ Trác Oánh khởi nghĩa ở Mộ Trạch thì Hoàng Công Chất cũng dựng cờ xướng nghĩa ở Đông Yên. Chỉ trong một thời gi­an rất ngắn, ảnh hưởng của Hoàng Công Chất đã lan rộng khắp vùng Sơn&nb­sp;Nam. Phát huy khả năng giỏi thủy chiến của các nghĩa sĩ, bám chặt và triệt để tận dụng địa hình lợi hại của vùng đầm lầy sông nước, Hoàng Công Chất đã khôn khéo tổ chức nhiều trận tấn công hiểm hóc gây cho tập đoàn thống trị họ Trịnh nhiều tổn thất rất nặng nề.

Tháng 1 năm 1740, ngay sau khi giành được ngôi chúa một cách khá êm thấm từ tay anh ruột là Trịnh Gi­ang, Trịnh Doanh đã hạ lệnh thẳng tay đàn áp tất cả các cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ. Binh lính được cấp tốc tuyển thêm. Những nhân vật thân tiquân đi đàn áp Hoàng Công Chất. Không may cho Đinh Văn Gi­ai, mọi cố gắng lúc này hầu như không mang lại hiệu quả đáng nói nào:

"Giặc cỏ (chỉ nghĩa quân Hoàng Công Chất - NKT) tung hoành bạo ngược, càng ngày càng dữ. Dân vùng Hải Dương và Kinh Bắc không ngày nào được yên.” (Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Chính biên, quyển 39, tờ 35).

Để cứu văn tình hình, Trịnh Doanh sai hoạn quan Hoàng Công Kỳ đi làm Trấn Thủ của trấn Sơn&nb­sp;Nam. Hoàng Công Kỳ còn được kiêm giữ chức Thống Lãnh, chỉ huy cuộc đàn áp ở vùng này. Tuy xuất thân là hoạn quan nhưng Hoàng Công Kỳ rất được Trịnh Doanh tin cậy, ủy thác nhiều trọng trách ở triều đình và nhiều phen gi­ao việc cầm quân. Chính Hoàng Công Kỳ là kẻ đã đ khốc liệt nghĩa quân của Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ và Nguyễn Hữu Cầu. Cùng với hoạn quan Hoàng Ngũ Phúc và một loạt tướng lĩnh cao cấp khác như Đinh Văn Gi­ai, Phạm Đình Trọng… Hoàng Công Kỳ là một trong những chỗ dựa quan trọng của Trịnh Doanh. Cũng do từng trải nhiều năm cầm quân đi trấn áp, Hoàng Công Kỳ rất thông thạo địa hình vùng đồng bằng sông Hồng. Tóm lại, đối mặt với một tướng sừng sỏ như Hoàng Công Kỳ là khó khăn không nhỏ của nghĩa quân Hoàng Công Chất.

Bắt giết Hoàng Công Kỳ (1745), đánh cho Đinh Văn Thản phải hoảng sợ mà chết (1761)

Tháng 12 năm 1745, Hoàng Công Kỳ lấy danh nghĩa là quan Trấn Thủ kiêm Thống Lãnh, trực tiếp đi kiểm tra việc xây dựng đồn lũy và kế hoạch bố phòng của các địa phương trong trấn Sơn Nam. Cứ như nhận xét của sử cũ thì Hoàng Công Kỳ tuy là tướng có tài nhưng bản tính rất chủ quan. Hoàng Công Chất cũng biết rất rõ điều đó cho nên đã khôn khéo bố trí một trận mai phục, quyết trừng trị đích đáng viên tướng đầu sỏ này. Và cơ hội tốt đã&nb­sp;&nb­sp;đến với Hoàng Công Chất vào tháng 12 năm 1745.

Bấy giờ, nhận được t̀ đang chú tâm lo củng cố địa vị của mình, nghĩa quân Hoàng Công Chất đã đánh bảy trận lớn. Cụ thể như sau:

- Trận thứ nhất&nb­sp;: đánh vào Mai Châu (nay thuộc tỉnh Hòa Bình, khu vực nằm sát với Mộc Châu của tỉnh Sơn La).

-&nb­sp;Trận thứ hai&nb­sp;: đánh vào Mộc Châu (nay thuộc tỉnh Sơn La, khu vực nằm sát với Mai Châu của Hòa Bình).

-&nb­sp;Trận thứ ba&nb­sp;: đánh vào Quan Gia (nay thuộc Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa).

- Trận thứ tư&nb­sp;: đánh Cổ Lũng (nay thuộc Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa).

-&nb­sp;Trận thứ năm&nb­sp;: đánh Thiết Ứng (nay thuộc Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa).

- Trận thứ sáu&nb­sp;: đánh Ái Chử (nay thuộc Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa).

- Trận thứ bảy&nb­sp;: đánh Bất Một (nay thuộc Lang Chánh, tỉnh Thanh Hóa).

Tin cáo cấp liên tiếp đưa về, bá quan văn võ ai cũng lấy làm lo ngại. Trịnh Sâm vội vã hạ lệnh thành lập một guồng máy chỉ huy cuộc trấn áp gồm các nhân vật chủ chốt như sau :

- Thiếu Phó Phương Nghĩa Hầu Trịnh Phương làm tổng chỉ huy, đồng thời, trực tiếp cầm đầu đạo quân đi càn quét ở Hưng Hóa. (Theo&nb­sp;Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Chính biên, quyển 43, tờ 14 thì Trịnh Phương là người thuộc dòng họ của chúa Trịnh. Ngoài ra, các chi tiết khác về lai lịch cuộc đời Trịnh Phương hiện vẫn chưa rõ).

- Điển Vũ Hầu Nguyễn Trọng Điển chỉ huy đạo quân đi càn quét ở Thanh Hóa. (Nguyễn Trọng Điển còn có tên là Nguyễn Trọng Thân, người làng Quế Ổ, huyện Quế Dương (nay thuộc Bắc Ninh), con của Tạo Sĩ Nguyễn Trọng Uông).

- Trấn Thủ Thanh Hóa, là Nguyễn Đình Diễn có nhiệm vụ đem hết quân bản bộ ra hợp sức chiến đấu với đạo quân của Nguyễn Trọng Điển. (Nguyễn Đình Diễước, theo Trịnh Doanh, chính là nghĩa binh của Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Cầu, Hoàng Công Chất… còn như giặc có thể dẹp sau chính là nghĩa binh của Nguyễn Danh Phương. Xuất phát từ nhận định đó, Trịnh Doanh chủ trương tập trung lực lượng đàn áp Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Cầu, Hoàng Công Chất, đồng thời, hạ lệnh cho Trấn Thủ Sơn Tây tạm chấp nhận đề nghị xin hàng của Nguyễn Danh Phương.

Bất ngờ đánh vào Bạch Hạc (1744), phá vòng vây của tướng Văn Đình Ức ở Nghĩa Yên và xây căn cứ mới ở Thanh Lãnh

Tháng 11 năm 1744, lợi dụng lúc chúa Trịnh Doanh đang phải lúng túng huy động lực lượng đối phó với nghĩa quân của Nguyễn Hữu Cầu và Hoàng Công Chất, Nguyễn Danh Phương đã táo bạo cho quân đánh chiếm Việt Trì (Việt Trì ở đây là tên thôn. Lúc này, thôn Việt Trì thuộc làng Bạch Hạc, huyện Bạch Hạc. Nay đất này thuộc huyện Phong Châu, tỉnh Phú Thọ) và sau đó là tung hoành khắp cả vùng Bạch Hạc. Trước đó chỉ mấy ngày, Trịnh Doanh vừa nhận được tin Trương Khuông bị Nguyễn Hữu Cầu đánh cho tơi bời ở Ngọc Lâm, kế tiếp là Đinh Văn Gi­ai bị Nguyễn Hữu Cầu đánh cho đại bại tại Xương Gi­ang, cho nên, rất lấy làm tức tối. Tướng Văn Đình Ức lập tức được lệnh chiêu mộ thêm quân sĩ để đi bình định đất Bạch Hạc (Văn Đình Ức người làng Lạc Phố, huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh đỗ Tạo Sĩ (Tiến Sĩ võ). Ông sinh ra trong một gia đình nối đời là võ quan cao cấp :ông nội là Cổn Quận Công Văn Đình Nhân, cha là Điều Quận Công Văn Đình Dẫn, bản thân ông cũng được phong là Quảng Quận Công. Con ông là Tạo Sĩ Văn Đình Cung). Văn Đình Ức nắm quyền chỉ huy khoảng vài vạn quân, thanh thế rất hùng mạnh. Với quân số áp đảo như vậy, Văn Đình Ức hi vọng sẽ nhanh chóng bóp nát lực lượng của Nguyễn Danh Phương. Nhưng, Văn Đình Ức đã lầm. Mợ́ng, chứa thóc để làm kế lâu dài. (Nguyễn Danh Phương) lại còn tự tiện giữ mối lợi về sản xuất và buôn bán chè, sơn, tre, gỗ… ở miền thượng du, chưa kể xưởng khai thác mỏ ở Tuyên Quang, do đó mà thóc gạo và của báu chất cao như núi. Hắn (chỉ Nguyễn Danh Phương - NKT) chia quân đóng giữ những nơi hiểm yếu để chống lại quan quân. Triều đình bao phen cất quân đánh nhưng hắn lại đem của đến đút lót, mà các tướng thì hám lợi, cứ dung túng cho giặc (chỉ nghĩa quân Nguyễn Danh Phương - NKT), cốt bảo toàn lấy tấm thân, vì thế, giặc càng ngày càng vững vàng. Trải hơn mười năm trời, (Nguyễn) Danh Phương nghiễm nhiên là vua một nước đối địch với triều đình vậy.” (Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Chính biên, quyển 41, tờ 3 và 4).

Tháng 12 năm 1750, các đạo quân của chúa Trịnh phối hợp đánh mạnh vào lực lượng của Nguyễn Danh Phương ở khu vực Thanh Lãnh. Bấy giờ, khu vực này do hai người em của Nguyễn Danh Phương là Nguyễn Văn Bì và Nguyễn Văn Quảng trông coi. Bởi quá bất ngờ, cả Nguyễn Văn Bì và Nguyễn Văn Quảng đều bị bắt. Nhưng, quan quân của họ Trịnh chưa kịp vui mừng thì Nguyễn Danh Phương đã kịp thời đem binh sĩ tới. Từ chỗ chủ động đi tấn công và bao vây, các tướng lĩnh của chúa Trịnh buộc phải lâm vào thế bị tấn công, bị bao vây và có nguy cơ bị tiêu diệt hết. Chúng bèn thả Nguyễn Văn Bì và Nguyễn Văn Quảng để đổi lại là được tháo lui.

Sau trận Thanh Lãnh, Nguyễn Danh Phương mở rộng phạm vi hoạt động của nghĩa quân ra nhiều vùng lân cận. “Các huyện thuộc những phủ như Tam Đái, Lâm Thao và Đà Dương đều bị (Nguyễn Danh) Phương chiếm cứ”. Lo sợ trước sự phát triển mạnh mẽ của nghĩa quân, Trịnh Doanh đã tự mình làm tướng, đem đại binh đi đánh dẹp. Trước khi xuất quân, Hoàng Ngũ Phúc và Đỗ Thế Gi­ai (người làng Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, Hà(Nguyễn) Danh Phương thua trận, đành phải đốt đồn lũy rồi nhân đêm tối chạy trốn.

Quan quân đuổi theo, bắt được (Nguyễn) Danh Phương tại làng Tĩnh Luyện, huyện Lập Thạch." (Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Chính biên, quyển 41, tờ 7 và 8).

Sau hơn mười năm chiến đ̐ường và thông minh, đến đây, cuộc khởi nghĩa do Nguyễn Danh Phương lãnh đạo đã bị đè bẹp. Nguyễn Danh Phương bị bắt và bị giết cùng một ngày với Nguyễn Hữu Cầu.

Nguyễn Danh Phương là một trong những danh tướng xuất thân áo vải lừng danh nhất Đàng Ngoài. Cuộc đời oanh liệt của ông đã khiến cho không biết bao nhiêu tướng lĩnh cao cấp của Đàng Ngoài phải thất điên bát đảo. Ông chưa từng được học ở bất cứ một trường võ bị nào, nhưng, tài năng quân sự của ông thì các võ quan chuyên nghiệp đương thời chưa dễ đã sánh được. Nói khác hơn, ông chính là tướng tài trong số những tướng tài vậy.

05. LÊ DUY MẬT (? - 1770)

“Lê Duy Mật là người chí thân của vua Lê, đau về nỗi nhà Lê không sao ngóc đầu lên được nên đã đem thân ra xa mãi chốn núi rừng để đánh giặc. Việc Lê Duy Mật làm có thể gọi là danh chính ngôn thuận, không thể ví như bọn giặc cỏ được. Dẫu rằng lòng trời chẳng còn muốn giúp nhà Lê, khiến cho việc của Lê Duy Mật không thể thành công, nh+2;ng, nói về nghĩa lớn vua tôi thì không bao giờ mai một được."

(Lời cẩn án&nb­sp;của các sử gia thời Nguyễn trong&nb­sp;Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Chính biên, quyển 37, tờ 25

Chuyện bắt đầu từ trong hoàng cung

Tháng 4 năm Kỉ Dậu (1729), chúa Trịnh lúc bấy giờ là Trịnh Cương đã ép vua Lê Dụ Tông (tên thật là Lê Duy Đường, ở ngôi 1705-1729, làm Thượng Hoàng 1729-1731, mất tháng 1 năm 1731, thọ 51 tuổi) phải nhường ngôi cho con thứ là Lê Duy Phường (cũng là cháu ngoại của chính Trịnh Cương). Lê Dụ Tông sợ bị chúa Trịnh bức bách, cho nên đã lặng lẽ chấp nhận việc này. Lê Duy Phường ở ngôi được ba năm thì bị chúa Trịnh lúc đó là Trịnh Gi­ang vu cho tội thông dâm với vợ của cha hắn là Trịnh Cương rồi phế làm Hôn Đức Công. Tháng 9 năm 1732, Lê Duy Phường bị Trịnh Gi­ang giết khi mới vừa 26 tuổi. Sự kiện này đã tạo ra một làn sóng phản kháng mạnh mẽ trong hoàng tộc cũng như bá quan văn&nb­sp;võ.

Lợi dụng sự bất bình này, tháng 12 năm Mậu Ngọ (1738), Lê Duy Mật (là con thứ của vua Lê Dụ Tông), Lê Duy Chúc (là con thứ của vua Lê Hy Tông 1675-1705, chú ruột của Lê Duy Mật, Lê Duy Quy) và Lê Duy Quy (là con thứ của vua Lê Dụ Tông) đã cùng với một loạt văn thần và võ tướng khác, như Phạm Công Thế (người làng Hoàng Xá, huyện Đông Quan nay là xã Phương Đông, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình, đỗ Tiến Sĩ năm 1727), Vũ Thước, Lại Tế Thế … v.v. đã bí mật họp bàn tính kế đốt kinh thành, lật đổ Trịnh Gi­ang. Nhưng, kế lớn chưa kịp tiến hành đã bị bại lộ và Trịnh Gi­ang đã thẳng tay đàn áp. Lê Duy Quy chạy đi Cẩm Thủy (Thanh Hóa) và sau đó thì lâm bệnh và mất. Lê Duy Mật và Lê Duy Chúc thì chạy đến Nghi Dương (một trong những huyện của phủ Kinh Môn, Hải Dương). Ở Nghi Dương chưa được bao lâu thì Lê Duy Chúc cũng lâm bệnh mà qua đời. Lực lượng hoàng tộc nhà Lê quyết chí chống lại họ Trịnh, lúc ấy chỉ còn lại một mình Lê Duy Mật nữa mà thôi.

Từ đây, một cuộc khởi nghĩa lớn do Lê Duy Mật cầm đầu đã hình thành ở vùng thượng du phía tây của Thanh Hóa. Khẩu hiệu đầu tiên của Lê Duy Mật là&nb­sp;Phù Lê diệtTrịnh.&nb­sp;Tuy không tạo được sức hút mạnh mẽ đối với toàn xã hội, nhưng chính khẩu hiy lại có tác dụng khá to lớn đối với đội ngũ trí thức Nho học đương thời. Có không ít Nho sĩ đã hăng hái tề tựu da là Hồ Hưng Dật. Ông đến Nghệ An vào năm 960 và chẳng bao lâu thì đã có sản nghiệp lớn. Vào thời Lý, hậu duệ của Hồ Hưng Dật đã có người được cưới Công Chúa của vua Lý, trở thành Phò Mã của nhà Lý.

Hậu duệ đời thứ mười hai của Hồ Hưng Dật là Hồ Liêm đã di cư từ Nghệ An ra Thanh Hóa. Tại Thanh Hóa, Hồ Liêm trở thành con nuôi của quan Tuyên úy là Lê Huấn, vì thế, chi họ Hồ ở Thanh Hóa cũng có một thời mang họ Lê. Cháu bốn đời của Hồ Liêm là Hồ Quý Ly - người đã lật đổ triều Trần và lập ra triều Hồ (1400-1407).

Tổ tiên đời thứ nhất và đời thứ hai của ba anh em Tây Sơn tại xứ Đàng Trong tên là gì, hiện vẫn chưa được rõ, chỉ biết đời thứ ba, tức thân sinh của Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ là Hồ Phi Phúc. Hồ Phi Phúc không ở ấp Tây Sơn Nhất nữa mà di cư về ấp Kiên Thành (nay thuộc xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). "Ở đây còn di tích&nb­sp;Gò Lăng,&nb­sp;theo nhân dân địa phương là vườn ở và nền nhà cũ của ông bà Hồ Phi Phúc - Nguyễn Thị Đồng”. Bấy giờ, ấp Kiên Thành có nhiều thôn, nơi Hồ Phi Phúc định cư đầu tiên là thôn Phú Lạc. Ở Phú Lạc một thời gi­an ngắn, Hồ Phi Phúc lại di cư đến quê vợ - bà Nguyễn Thị Đồng - là thôn Kiên Mỹ (cũng thuộc ấp Kiên Thành). Khu đất xưa kia là nhà của ông bà Hồ Phi Phúc ở thôn Kiên Mỹ, ấp Kiên Thành, nay chính là khu đất đại để tương ứng với&nb­sp;Bảo tàng Tây Sơn&nb­sp;(huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Nơi đây còn có một cây me và một giếng nước cổ là hai chứng tích vườn xưa của ông bà Hồ Phi Phúc - Nguyễn Thị Đồng.

Như vậy, dòng dõi Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ từ Đàng Ngoài vào Đàng Trong, trải bốn đời, đã định cư ở bốn địa chỉ khác nhau như sau :

01 - HƯNG NGUYÊN (Nghệ An).̀&nb­sp;thầy giáo Hiến.&nb­sp;Thầy giáo Hiến từng là một trong số những môn khách của quan Nội Hữu Trương Văn Hạnh. Khi Nội Hữu Trương Văn Hạnh bị tên quyền thần Trương Phúc Loan giết hại, thầy giáo Hiến chạy về dạy học tại An Thái (nay thuộc xã An Nhơn, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định. Trường học do thầy giáo Hiến mở tại An Thái chỉ tồn tại trong một thời gi­an ngắn mà thôi. Khi thầy giáo Hiến về Tây Sơn, trường này cũng không còn nữa). Sau, ông về hẳn Tây Sơn và trở thành gia sư của ba anh em Tây Sơn. Thầy giáo Hiến cũng là người giàu lòng yêu nước thương dân và chính lòng yêu nước thương dân đó đã có ảnh hưởng không nhỏ tới cả ba anh em Tây Sơn. Nhưng, điều rất quan trọng mà ba anh em Tây Sơn thụ bẩm được ở thầy giáo Hiến không phải chỉ là văn chương chữ nghĩa và lòng yêu nước thương dân. Vốn dĩ là môn khách của quan Nội Hữu Trương Văn Hạnh, từng sống và làm việc ở ngay trong phủ chúa Nguyễn, thầy giáo Hiến còn cung cấp cho ba anh em Tây Sơn những thông tin đầy đủ và chính xác về nội tình thối nát của tập đoàn thống trị họ Nguyễn đương thời. Đây chính là cơ sở thực tiễn để về sau,&nb­sp;&nb­sp;ba anh em Tây Sơn có thể căn cứ vào đó mà nêu lên được khẩu hiệu phân hóa kẻ thù một cách rất lợi hại.

Như trên đã nói, thân phụ của ba anh em Tây Sơn là Hồ Phi Phúc, còn thân mẫu là Nguyễn Thị Đồng. Nơi định cư của hai ông bà là thôn Phú Lạc, ấp Kiên Thành (nay thuộc xã Bình Thành, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Nơi đây, ngoài di tích&nb­sp;Gò Lăng&nb­sp;còn có di tích được nhân dân địa phương gọi là&nb­sp;Hai&nb­sp;hố Nguyệt.&nb­sp;Di tích này nằm ở dưới chân núi Ngang, tương truyền, đó là mộ của hai ông bà Hồ Phi Phúc và Nguyễn Thị Đồng. Mộ đã bị triều Nguyễn khai quật đầu thế kỉ thứ XIX nên chỉ còn hai cái hố mà thôi.

Ông bà Hồ Phi Phúc và Nguyễn Thị Đồng sinh hạ đ̣ là người được trời sai xuống hay bị trời đày xuống ? Một mối nghi hoặc khác lại nổi lên. Nguyễn Nhạc biết và lại khôn khéo nghĩ cách phá tan sự nghi hoặc ấy.

Nhận mệnh trời trên đỉnh Trung Sơn :&nb­sp;Ở Phú Lạc có khá nhiều núi non, nhưng nổi danh hơn cả vẫn là Trung Sơn. Núi này còn có nhiều tên gọi khác như Hòn Sung, Hòn Sưng, Độc Nhũ Sơn, Độc Xỉ Sơn. Tuy chỉ cao khoảng hơn 400 mét, nhưng Trung Sơn vẫn được coi là một trong những ngọn núi thiêng. Sự tích Chàng Lía kể rằng, khi mẹ Chàng Lía qua đời, Chàng Lía đội quan tài trên đầu, một tay thì giữ, một tay cầm cái mâm vụt mạnh. Mâm bay, Chàng Lía nhanh chân nhảy lên và cứ thế bay mãi, bay mãi đến đỉnh Trung Sơn thì đừng lại. Chàng Lía đã mai táng mẹ ở đó. Hiện nay trên đỉnh Trung Sơn còn có một tảng đá bằng phẳng, hình chữ nhật, bên cạnh lại có hai tảng đá vuông vức chồng lên nhau, người địa phương nói đó là mả của mẹ Chàng Lía.

Thời bấy giờ, Trung Sơn có rất nhiều cọp, vì thế, hầu như chẳng mấy ai dám bước chân lên. Một hôm, Nguyễn Nhạc tổ chức một bữa tiệc linh đình trong nhà mình. Trong số khách mời có khá nhiều vị Tù Trưởng, những người vốn dĩ rất cả tin nhưng cũng rất đa nghi. Đêm khuya, khi tiệc vừa tàn thì bỗng thấy trên đỉnh Trung Sơn lửa sáng rực trời và tiếp đó là tiếng chiêng trống rộn rã nổi lên. Nguyễn Nhạc cùng với nhiều vị Tù Trưởng rủ nhau cầm đuốc đi lên xem chuyện gì đã xảy ra. Khi đến nơi, họ bỗng thấy ở chỗ mả của mẹ Chàng Lía, có nhiều người ăn mặc thật dị kì, nắm tay nhau múa hát theo nhịp trống nhịp chiêng chung quanh một đống lửa lớn. Đang lúc kinh ngạc và lo sợ thì bỗng có một người cao lớn nhất, ăn mặc dị kì nhất, bước ra và dõng dạc nói :

- Truyền cho Nguyễn Nhạc tới đây của hắn là Nguyễn Hữu Chỉnh đem sắc, ấn, cờ và kiếm đến ban cho Nguyễn Nhạc. Cuộc tấn công của quân Trịnh vào lực lượng của Tây Sơn cũng đình chỉ kể từ đó. Tây Sơn nhờ vậy mà được thảnh thơi ở mặt Bắc để tập trung đối phó ở mặt&nb­sp;Nam.

3. Nhanh chóng giành lại đất Quảng&nb­sp;Nam&nb­sp;và từng bước tìm cách lợi dụng những xung đột trong nội bộ chính quyền họ Trịnh.

Sử cũ viết rằng :

"Bấy giờ, Hoàng Ngữ Phúc đóng quân ở Châu Ổ lâu ngày, bệnh dịch phát sinh, quân sĩ nhiều người bị chết, bèn bí mật tính kế lui quân. Nguyễn Nghiễm và Nguyễn Lệnh Tân thì muốn tiếp tục đóng giữ Quảng&nb­sp;Nam, cắt đặt quan lại ở các địa phương trong vùng. (Hoàng) Ngũ Phúc không theo cách ấy, liền cho người chạy gấp về triều đề nghị cho rút quân ra Thuận Hóa, đất Quảng&nb­sp;Nam&nb­sp;sẽ tính toán sau. Trịnh Sâm y cho" (Khâm định Việt sử thông giám cương mục,&nb­sp;Chính biên, quyển 44, tờ 28).

Ngay khi quân Trịnh vừa rời khỏi Quảng&nb­sp;Nam, Nguyễn Nhạc liền lập tức cho lực lượng của mình đến tiếp quản ngay. Phương châm chung của Nguyễn Nhạc là lặng lẽ, mềm dẻo nhưng kiên quyết. Hệ thống chính quyền do quân Trịnh mới dựng lên đều được thay thế bởi chính quyền của Tây Sơn. Việc thay thế diễn ra khá êm thắm, tránh được những xung đột không cần thiết với quân đội họ Trịnh ở phía bắc đèo Hải Vân. Sử cũ viết tiếp :

"Sau khi chiếm cứ được Quảng Nam, (Nguyễn) Văn Nhạc bèn sai thuộc hạ là Đỗ Phú Tuấn ra xin với Trịnh Sâm để được làm Trấn Thủ ở vùng đất này. Trịnh Sâm ngại việc dùng binh, bèn nhân đó chuẩn y cho. (Nguyễn) Văn Nhạc sắm sửa vũ khí, tích trữ lương thực, đắp lũy nơi hiểm yếu, đóng giữ nơi quan ải, dần dần trở lại thể hùng cường. Phó Đốc Thing không nhỏ đến lực lượng của quân đội họ Trịnh tại Thuận Hóa. Nguồn cung cấp của hậu phương bị suy giảm và chính điều đó đã khiến cho các tướng của họ Trịnh ở đây không dám tổ chức những cuộc hành quân nào đáng kể nữa. Thực tế này đã được Nguyễn Nhạc triệt để lợi dụng. Bấy giờ, Tây Sơn chỉ để một bộ phận ở phía bắc, còn thì tập trung về phía nam, chẩn bị đánh những trận đánh quyết định với tập đoàn họ Nguyễn.

4. Người hoạch định chủ trương và cũng là người từng trực tiếp chỉ huy quân Tây Sơn tấn công vào sào huyệt cuối cùng của họ Nguyễn tại Gia Định.

Khi mới khởi&nb­sp;nghĩa, Nguyễn Nhạc xưng là&nb­sp;Đệ Nhất Trại Chủ.&nb­sp;Đó là danh xưng khiêm nhượng, phù hợp với thực lực của Tây Sơn trong gi­ai đoạn chiến đấu đầu tiên. Khi thực hiện chủ trượng tạm thời hòa hoãn với quân Trịnh để cứu Tây Sơn khỏi thế "lưỡng đầu thọ địch", Nguyễn Nhạc đã vui vẻ nhận danh xưng&nb­sp;Tây Sơn Hiệu Trưởng, Tiên Phong Tướng&nb­sp;Quân&nb­sp;do Hoàng Ngũ Phúc thay mặt chúa Trịnh trao cho. Một lần nữa, đó cũng là sự nhún nhường cần thiết, phù hợp với tương quan thế và lực giữa Tây Sơn với quân đội họ Trịnh và giữa Tây Sơn với quân đội họ Nguyễn lúc bấy giờ.

Sau khi lấy lại được đất Quảng&nb­sp;Nam, sự nhún nhường của Tây Sơn là không cần thiết nữa. Vấn đế hàng đầu của Tây Sơn lúc này là phải làm sao nhanh chóng phát triển thực lực, từng bước hạ gục kẻ thù này đến kẻ thù khác. Một danh xưng lớn hơn và phù hợp hơn là hết sức quan trọng đối với Tây Sơn lúc này. Xuất phát từ thực tế đó, năm 1776, anh em Tây Sơn đã quyết định về danh xưng mới như sau :

-o quân này của họ Nguyễn buộc phải rút lui.

Như vậy là năm 1782, cùng với em là Nguyễn Huệ và các tướng lĩnh dưới quyền khác, chỉ với một cuộc hành quân, ba lần lâm trận, Nguyễn Nhạc đã đánh gục quyết tâm của Nguyễn Ánh và của những kẻ ủng hộ Nguyễn Ánh. Trong gi­ai đoạn này, đây là lần thể hiện tài năng quân sự của Nguyễn Nhạc rõ nét nhất. Sinh ra và lớn lên ở vùng rừng núi Tây Sơn, nhưng, Nguyễn Nhạc đã tự cho thấy khả năng điều khiển thủy chiến rất sắc sảo của ông. Đó là nét độc đáo trong tài năng quân sự của Nguyễn Nhạc, cũng là nét độc đáo chung trong tài năng quân sự của ba anh em Tây Sơn.

5. Vẫn biết tất nhiên là như thế, nhưng…

Sau trận tấn công vào Gia Định (tháng 3 năm Nhâm Dần, 1782), nếu như vai trò của Nguyễn Nhạc trong quản lí nhà nước có phần nổi bật lên, thì ngược lại, vai trò của ông trong chỉ huy trận mạc dần dần bị mờ nhạt. So với các lãnh tụ khác của phong trào Tây Sơn, Nguyễn Nhạc là người bị phong kiến hóa sớm nhất và cũng sâu sắc nhất.

Tại thành Hoàng Đế ở Quy Nhơn, quyết định đúng đắn và táo bạo cuối cùng của Nguyễn Nhạc có lẽ là cho quân tấn công vào lực lượng quân Trịnh ở Phú Xuân nói riêng và Thuận Hóa nói chung. Nhưng, lần này Nguyễn Nhạc chỉ hoạch định chủ trương chứ không hề trực tiếp cầm quân tham chiến. Người chỉ huy xuất sắc trận đánh quan trọng này là Nguyễn Huệ. Giữa năm Bính Ngọ (1786), Nguyễn Huệ càng các tướng dưới quyền, chia quân đánh mạnh vào lực lượng quân Trịnh. Chỉ trong một thời gi­an rất ngắn, hơn ba vạn quân Trịnh đóng tại đây đã bị quét sạch khỏi lãnh thổ Đàng Trong.

Nhân đà thắng lợi, Nguyễn Huệ cho quân vượt sông Gi­anh, tiến thẳng ra Bắc, đập tan cơ đồ thống trị của họ Trịnh, dựng lại triều Lê tàn tạ vố́a trước tự dưng rối loạn. Nguyễn Huệ tới để kiểm tra nguyên do thì thấy có hai con rắn đen cực lớn nằm chắn ngang đường, cả hai đều vươn cổ lên, há miệng đỏ như đang ngậm máu. Quân sĩ Tây Sơn cho đó là điềm chẳng lành nên ngần ngại, không dám hăng hái đi tiếp. Nguyễn Huệ lập tức xuống ngựa, cung kính thi lễ và khấn rằng&nb­sp;:

- Nay, anh em chúng tôi xuất quân là vì đại nghĩa. Nếu biết trước là sự nghiệp của chúng tôi sẽ thành công thì kính xin Xà Thần (Thần Rắn) mở lối cho chúng tôi đi, còn như nếu biết trước được rằng chúng tôi chỉ uổng công vô ích thì xin Xà Thần hãy trị tội mình tôi mà tha cho hết thảy nghĩa sĩ đều được trở về với gia đình, vợ con.

Không ngờ, Nguyễn Huệ vừa khấn xong thì cả hai con rắn đen cực lớn kia đều quay đầu lại, thoăn thoắt tiến lên phía trước, mở đường cho cả đạo binh cùng đi. Đi được một quãng đường khá xa thì bỗng một con rắn lao nhanh vào bụi rậm và chốc lát sau thì trở ra, miệng ngậm một thanh long đao có cán màu đen, vươn cổ lên "trao" cho Nguyễn Huệ. Đó là thanh long đao cực bén, thế gi­an không ai có được. Nguyễn Huệ kính cẩn nhận lấy thanh long đao và thề sẽ vì đại nghĩa cứu dân, vì ân huệ của Xà Thần mà chiến dấu đến cùng. Hai con rắn đen nghe Nguyễn Huệ thề xong thì biến mất. Về sau, để tưởng nhớ ơn đức lớn lao của Xà Thần, Nguyễn Huệ đã cho dựng miếu thờ. Miếu ấy lâu ngày đã bỏ hoang tàn, di tích còn lại chính là Miếu Xà đã nói ở trên.

2. Tổng chỉ huy xuất sắc trận Phú Yên&nb­sp;(năm 1775&nb­sp;:&nb­sp;năm 22&nb­sp;tuổi),&nb­sp;tạo ra bước ngoặt quan trọng cho toàn bộ quá trình phát triển mạnh mẽ sau đó của phong trào Tây Sơn

Năm 1774, lợi dụng lúc chúa Nguyễn đang phải lúng túng đối phó với hàng l Đỗ Thanh Nhơn bắt đầu. Lý Tài tuy chỉ mới về đầu hàng, nhưng, lực lượng quân lính mà Lý Tài nắm được cũng khá lớn. Tháng 10 năm 1776, Nguyễn Phúc Dương cũng trốn về được ở Gia Định và dùng Lý Tài làm vây cánh cho mình. Cộng thêm số quân lính tùy tùng của Nguyễn Phúc Dương nữa, thanh thế của Lý Tài tăng lên rất nhanh. Đỗ Thanh Nhơn tự nhận là người không chịu đội trời chung với Tây Sơn. Đội quân do Đỗ Thanh Nhơn lập ra mang tên là Đông Sơn, theo cách giải thích của chính Đỗ Thanh Nhơn, cũng chỉ cốt để tỏ cái chí đối nghịch sâu sắc với Tây Sơn mà thôi.

Khi Lý Tài đem quân về Gia Định, Đỗ Thanh Nhơn buộc phải bỏ Gia Định mà chạy về Ba Giồng (nay thuộc Tiền Gi­ang). Nguyễn Phúc Thuần bị Lý Tài bắt được và sau đó lại bị Lý Tài ép phải nhường ngôi cho Nguyễn Phúc Dương. Bởi lẽ này, xứ Đàng Trong từ đây có đến hai chúa, một là Thái Thượng Vương Nguyễn Phúc Thuần và hai là Tân Chính Vương Nguyễn Phúc Dương. Lý Tài được phong làm Bảo Giá Đại Tướng Quân. Cuộc xung đột nội bộ này đã làm cho thế và lực của tập đoàn họ Nguyễn bị suy giảm khá mạnh.

Lúc này, tình hình Quảng Nam đã tạm ổn, Bộ chỉ huy Tây Sơn quyết định cử Nguyễn Huệ làm Tổng chỉ huy cuộc tấn công vào Gia Định. Tháng 3 năm Đinh Dậu (1777), đại binh Tây Sơn do Nguyễn Huệ cầm đầu, chia làm hai đạo cùng tiến

Đạo thủy binh là đạo quân chủ lực, do Nguyễn Huệ trực tiếp chỉ huy, vượt miền duyên hải khu vực Nam Trung Bộ ngày nay, đánh thẳng vào cửa Cần Giờ, sau đó, tấn công vào các đơn vị quân đội chúa Nguyễn đóng ở chung quanh thành Gia Định.

Đạo bộ binh nhỏ hơn, gồm chủ yếu là các đơn vị Tây Sơn đang đóng tại Phú Yên, có nhiệm vụ đánh mạnh vào khu vực tương ứng với các tỉnh ngày nay như Khánh Hòa, Ninh Thuận và Bình Thuận, rồi tiến thẳng vào Gia Định.

Để đối phó với cuộc tấn công của lực lượng thủy bộ Tây Sơn, tập đoàn họ Nguyễn quyết định phải chủ động vạch kế hoạch phòng ngự và khi thời cơ đến thì kiên quyết tổ chức phản công. Tân Chính Vương Nguyễn Phúc Dương tự mình làm tướng, đem một đạo quân khá lớn đến Trấn Biên để sẵn sàng chặn đứng lực lượng bộ binh của Tây Sơn. Lý Tài cùng với Thái Thượng Vương Nguyễn Phúc Thuần chỉ huy quân sĩ giữ vững thành Gia Định để khi thủy binh Tây Sơn đã mệt mỏi với trận đánh thành cam go thì sẽ tung quân ra đánh trận quyết định. Các tướng cầm quân đóng giữ ở các địa phương thì phải chuẩn bị trong tư thế có thể đi ứng cứu bất cứ lúc nào. Xét về phương diện lí thuyết, đây là một kế hoạch đối phó rất chắc chắn, khả năng thành công cũng rất cao. Tuy nhiên, điều mà tập đoàn họ Nguyễn không lường trước được là tài chỉ huy vừa táo bạo, thần tốc lại vừa biến hóa lạ lùng của Nguyễn Huệ. Diễn biến của trận đánh vì thế mà rất gọn gàng.&nb­sp;&nb­sp;

Trước hết, thủy binh do Nguyễn Huệ trực tiếp cầm đầu đã đánh thẳng một mạch từ Cần Giờ lên Gia Định và chẳng mấy chốc thì thành Gia Định thất thủ, Lý Tài phải bỏ cả Thái Thượng Vương Nguyễn Phúc Thuần mà chạy vế Hóc Môn.

Đạo quân do Tân Chính Vương Nguyễn Phúc Dương chỉ huy mới giáp c với Tây Sơn mấy trận ở Trấn Biên đã tỏ ra khó bề chống đỡ. Nguyễn Phúc Dương rút về Gia Định, tưởng để tăng cường sức mạnh cho Lý Tài, nhưng, đến nơi thì Lý Tài đã bại trận, Nguyễn Phúc Dương phải cùng Nguyễn Phúc Thuần chạy ra Hóc Môn với Lý Tài.

Sau khi chiếm được thành Gia Định, Nguyễn Huệ cho một đạo quân ra Hóc Môn để truy kích Lý Tài đến cùng. Lý Tài đang điên cuồng chống trả và tình thế chiến trận đang ở lúc rất gay go thì một viên tướng của chúa Nguyễn là Trương Phúc Thận đem quân tới cứu. Lý Tài lầm tưởng đó là quân Đông Sơn của Đỗ Thanh Nhơn, cho nên, đã vội vã tháo chạy. Trương Phúc Thận tự thấy không đủ sức để đối địch với Tây Sơn, bèn dẫn Thái Thượng Vương Nguyễn Phúc Thuần và Tân Chính Vương Nguyễn Phúc Dương về Tranh Gi­ang (nay thuộc Tiền Gi­ang).

Quân tan, lực kiệt… không còn con đường nào khác, Lý Tài phải chạy vế Ba Giồng là khu vực đóng quân của Đỗ Thanh Nhơn. Cơ hội trả thù của Đỗ Thanh Nhơn đã đến. Hắn cho quân đánh úp, bắt sống Lý Tài đem về giết đi. Cuộc xung đột giữa&nb­sp;&nb­sp;Thanh Nhơn với Lý Tài đến đó là chấm dứt và mâu thuẫn nội hộ của tập đoàn họ Nguyễn cũng nhờ đó mà giảm dần. Bấy giờ, trong tôn thất họ Nguyễn có một nhân vật rất trẻ nhưng cũng rất đáng gờm là Nguyễn Ánh. Lúc này, Nguyễn Ánh dựa vào Đỗ Thanh Nhơn, khiến cho thế lực của Đỗ Thanh Nhơn phát triển rất nhanh. Tại Tranh Gi­ang, tập đoàn họ Nguyễn quyết định một kế hoạch đối phó mới, theo đó thì :

- Tân Chính Vương Nguyễn Phúc Dương và tướng Trương Phúc Thận chỉ huy lực lượng đóng tại Tranh Gi­ang.

- Thái Thượng Vương Nguyễn Phúc Thuần chỉ huy lực lượng

đóng tại Tài Phụ (nay thuộc Tiền Gi­ang).

- Nguyễn Ánh và Đỗ Thanh Nhơn chỉ huy lực lượngng tại Gia Khê (nay thuộc Kiên Gi­ang).

Ba cánh quân, ba vị trí, thủy bộ cùng phối hợp, sẵn sàng gi­ao tranh với Tây Sơn và ứng cứu cho nhau khi cần… Một lần nữa, xét về mặt lí thuyết, đây quả thật là kế hoạch rất chặt chẽ. Những, cũng một lần nữa, kế hoạch của đến tháng 9 năm 1777 thì bị xử tử tại Gia Định. Bấy giờ, tôn thất họ Nguyễn chỉ còn có Nguyễn Ánh là trốn thoát được.

Với cuộc tấn công vào Gia Định lần này, Nguyễn Huệ đã làm sụp đổ hoàn toàn cơ đồ thống trị của họ Nguyễn được tạo lập trước đó hơn hai trăm năm, thực hiện thắng lợi trọn vẹn mục tiêu lớn nhất của Tây Sơn đặt ra trong thời kì chuẩn bị khởi nghĩa. Cũng với cuộc tấn công dũng mãnh này, Nguyễn Huệ đã giải phóng được một vùng đất rộng lớn, nhanh chóng tăng cường sức người và sức của, khiến Tây Sơn có thể vững vàng bước vào những trận chiến đấu mới, lớn hơn và quyết liệt hơn.

Đến đây, thiên tài quân sự của Nguyễn Huệ bước vào thời kì nở rộ, phong phú và xuất sắc lạ thường. Các tướng lĩnh của họ Nguyễn đều xem ra không đáng là đối thủ của Nguyễn Huệ. Năm 1778, Nguyễn Nhạc xưng là Tây Sơn Vương, Nguyễn Huệ nhờ những công lao xuất sắc trong hơn bảy năm chiến dấu, đặc biệt là ở trận Phú Yên (1775) và trận Gia Định (1777) nên đã được phong làm Long Nhương Tướng Quân.

4. Cùng với anh là Tây Sơn Vương Nguyễn Nhạc chỉ huy cuộc tấn công vào Gia Định lần thứ tư (năm 1782 : năm 29 tuổi), đánh cho Nguyễn Ánh phải đại bại.

Sau khi hoàn thành xuất sắc cuộc tấn công vào Gia Định lần thứ hai, Nguyễn Huệ trở về Quy Nhơn, gi­ao vùng đất mới được giải phóng cho một số tướng lĩnh quản lí. Nhân cơ hội đó, Nguyễn Ánh và bè lũ lập tức nổi lên. Đất Gia Định chẳng mấy chốc đã bị Nguyễn Ánh chiếm lại. Lực lượng Tây Sơn ở Gia Định không sao chống đỡ nổi, đành phải cấp báo về Quy Nhơn. Do chỗ nhận định rằng Nguyễn Ánh chỉ là một kẻ tuổi đời còn quá trẻ, năng lực chỉ huy vức phản công. Ngoài ra, Nguyễn Ánh còn sắp sẵn một đội chiến thuyền khác, do đích th Nguyễn Ánh chỉ huy, có thể đến ứng cứu cho Tống Phước Thiêm bất cứ lúc nào. Bộ binh của Nguyễn Ánh thì tập trung chủ yếu ở khu vực thành Gia Định. Nơi đây, hệ thống đồn lũy được tu bổ cẩn thận, khả năng phòng thủ rất cao.

Về phần Tây Sơn, trận đánh quyết liệt đầu tiên là trận sông Ngã Bảy ở Cần Giờ. Trận này do đích thân Nguyễn Huệ chỉ huy. Nhân lúc thuận chiều gió, Nguyễn Huệ đã cho dùng hỏa công, khiến cho thủy quân Tống Phước Thiêm hoàn toàn bị bất ngờ về cách đánh, đội ngũ rối loạn, chẳng mấy chốc đã bị đại bại. Nguyễn Ánh tới cứu cũng không sao có thể xoay chuyển được tình thế, đành tháo chạy thục mạng. Tàu chiến của Manuel bị vây chặt và sau đó bị thiêu trụi, Manuel chịu chết cháy.

Tàn binh của Nguyễn Ánh và Tống Phước Thiêm chạy về Gia Định, kết hợp với lực lượng bộ binh đang đóng tại đây để tính kế chống trả. Ở Gia Định, Nguyễn Ánh có ba căn cứ rất vững chắc. Một là thành Gia Định, hai là đồn Bến Nghé và ba là đồn Thị Nghè. Trong thế chân vạc lợi hại này, Bến Nghé và Thị Nghè giữ vị trí yểm trợ rất đắc lực cho thành Gia Định. Cả thành lẫn đồn đều được xây dựng rất kiên cố. Bấy giờ, thân cây dừa được dùng làm kè đỡ, súng lớn cũng không dễ gì phá hủy được. Nhưng, chỉ trong một trận giáp chiến, quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy cũng đã đánh bật được Nguyễn Ánh ra khỏi ba căn cứ kiên cố nói trên. Nguyễn Ánh phải chạy về Ba Giồng. Tại đây, chưa kịp củng cố đội ngũ để đối phó thì tin bại trận cứ liên tiếp chuyển về và quân Tây Sơn cũng đang ồ ạt tiến tới, cho nên, Nguyễn Ánh lại phải tháo chạy. Lần này, Nguyễn Ánh chỉ còn lại đúng 150 người bỏ Ba Giồng, băng qua Hậu Gi­ang, sang cả

Khi quân Tây Sơn liên tiếp tổ chức những cuộc tấn công vào Gia Định thì ở Xiêm La, tình hình chung cũng rất bi đát. Bấy giờ, quân Miến Điện liên tiếp tấn công Xiêm La và gi­ai cấp thống trị của Xiêm La đã tỏ ra rất bạc nhược, không đủ tinh thẩn và ý chí, càng không đủ uy tín và năng lực để lãnh đạo sự nghiệp chống xâm lăng. Quân Miến Điện đã chiếm được kinh đô của Xiêm La lúc đó là Ayuthaya và tàn phá đất Xiêm La một cách khủng khiếp

Trước hiểm họa đó, người Xiêm La và những kiều dân làm ăn sinh sống trên đất Xiêm La đã đồng tâm hợp lực để tổ chức cuộc kháng chiến chống Miến Điện. Trong cuộc chiến đấu ngoan cường ấy, một nhân vật đặc biệt đã nổi lên, đó là Tak Sin. Tak Sin cũng tức là Phìa Tak, là Trịnh Tân, Phi Nhã Tân hay Trịnh Quốc Anh, xuất thân là một thương nhân gốc Trung Quốc. Ông đã lãnh đạo Xiêm La đánh tan quân Miến Điện và nhờ có công lao đặc biệt này, sau chiến thắng, Trịnh Quốc Anh được tôn lên ngôi vua (1767 - 1782) của Xiêm La.

Trong những năm trị vì của Trịnh Quốc Anh. Xiêm La đã phục hưng khá nhanh. Từ vị trí của một nước luôn bị các thế lực cát cứ hoành hành, Xiêm La đã trở thành một vương quốc có chính quyền tập trung chuyên chế vững mạnh. Từ tư thế của một nước bị tấn công xâm lược triền miền, Xiêm La trở thành kẻ đi tấn công xâm lược nước khác. Nhưng, về cuối đời, Trịnh Quốc Anh đã mắc phải hai ác tật. Một là bị bệnh phong (dân gi­an gọi là bệnh cùi), vì thế, sử vẫn gọi Trịnh Quốc Anh là&nb­sp;phong vương(ông vua bị bệnh phong) và hai là bị bệnh điên, cho nên, sử cũng gọi ông là&nb­sp;cuồng vương&nb­sp;(ông vua bị bệnh điên).

Sau khi đã củng cố được địa vị của mình trên vũ đài chính trị Xiêm La, Trịnh Quốc Anh đã xua quân sang tấn công xâm lược Chân Lạp. Viên tướng được Trịnh Quốc Anh trao phó trọng trách cầm quân sang Chân Lạp là C Tổng chỉ huy đặt đại bản doanh tại Mỹ Tho và hai là quân xâm lược Xiêm La đặt đại bản doanh tại Trà Tân.

Như trên đã nói, quân Xiêm La gồm tổng cộng khoảng năm vạn tên. Quân bản bộ của Nguyễn Ánh có khoảng từ ba tới bốn ngàn tên nưa. Đó là đội quân vừa đông vừa mạnh, được trang bị vào loại hiện đại nhất vùng Đông Nam Á lúc bấy giờ. Về phần mình, quân Tây Sơn có chừng vài vạn. Tuy quân số có ít hơn nhưng trang bị thì cũng không phải là quá thua kém.

Đến Mỹ Tho, nhận thấy Trà Tân là cứ điểm tập trung rất đông quân Xiêm, đưọc canh phòng rất cẩn mật, vì thế Nguyễn Hụệ chủ trương nhử địch ra khỏi Trà Tân để đánh một trận sống còn với chúng. Và, Nguyễn Huệ đã đồng thời kết hợp một cách khôn khéo&nb­sp;&nb­sp;hai hoạt động hoàn toàn khác nhau.

Một&nb­sp;là&nb­sp;giả vờ xin giảng hòa với quân Xiêm để phân hóa nội bộ kẻ thù. Một tù binh người Chân Lạp đã được Nguyễn Huệ cử làm sứ giả, đem của cải đến đại bản doanh của quân Xiêm La và nói rằng :

"Tân triều (ý muốn chỉ Tây Sơn - NKT) và cựu triều (ốn chỉ tập đoàn Nguyễn Ánh - NKT) của nước chúng tôi giành đất và giành dân với nhau, chẳng thể nào dung tha cho nhau được. Nước chúng tôi cùng với Xiêm La xa xôi và cách trở, trâu ngựa không đánh hơi nhau được, chắng hay là Vương Tử (chỉ Chiêu Tăng và Chiêu Sương - NKT) đến chốn này làm gì ? Chi bằng hai nước chúng ta hãy hòa hiếu với nhau, xong việc, chúng tôi sẽ thẹo lệ tiến cống, như thế có phải là được lợi lâu dài không ? Vậy, việc cựu chúa (chỉ Nguyễn Ánh - NKT) của nước chúng tôi xin để mặc chúng tôi tự lo liệu, xin Vương Tử chớ bận tâm lo lắng việc giúp đỡ".

Chiêu Tăng và Chiêu Sương cũng là hai viên tướng lòng dạ rất nham hiểm, chúng muốn "tương kế tựu kế", lợi dụng việc Nguyễn Huệ xin giảng hòa để do thám tình hình bố phòng của Tây Sơn. Về phần mình, Nguyễn Huệ cũng vờ như không hề hay biết, cứ "ngày ngày sai người sang mời quân Xiêm đến xem chiến thuyền và khoe bày mọi chiến cụ của mình. Khi quân Xiêm về thì tặng cho vóc lụa". Kết quả là Chiêu Tăng và Chiêu Sương ngày một hí hửng, vì cho là Nguyễn Huệ hao tiền tốn của mà vẫn mắc mưu, còn Nguyễn Ánh thì ngày một nghi kỵ Chiêu Tăng và Chiêu Sương. Mối bất hoà trong nội bộ kẻ thù bộc lộ cũng ngày một sâu sắc. Để xóa tan sự ngờ vực của Nguyễn Ánh, chính Chiêu Tăng đã có lần thề thốt rằng :

"Tôi phụng mệnh Quốc vương mình đem quân vượt biển đến giúp, nay chưa phân thắng bại mà tôi lại tham của cải thì có khác gì thú phản chủ ? Nếu vì hám lợi mà để thua trận, làm nhục đến quốc thể, thì làm sao tôi có thể trốn khỏi tội trời tru đất diệt ? Xin chớ nghi ngờ."

Hai là,&nb­sp;tranh thủ thời gi­an hòa hoãn rất ngắn ngủi nói trên, Nguyễn Huệ nhanh chóng bố trí trận địa để chuẩn bị quyết chiến với quân xâm lược. Đoạn sông Tiền, từ Rạch Gầm về đến cù lao Thới Sơn được chọn làm chiến trường chính. Lực lượng Tây Sơn được huy động đến ở đây gồm đủ cả thủy binh lẫn bộ binh, trong đó thủy binh giữ vai trò quan trọng nhất. Dcủa Nguyễn Huệ là sẽ tiêu diệt quân Xiêm La và quân bản bộ của Nguyễn Ánh bằng một trận mai phục. Chiến thuyền Tây Sơn được Nguyễn Huệ mai phục sẵn ở Rạch Gầm và ở rạch Xoài Mút, tức là ở nơi hoàn toàn bất ngờ đối với quân Xiêm La, bởi vì trước đó, chúng từng được phép tới nơi đóng quân của Nguyễn Huệ, từng có dịp qua lại nhiều lần trên chính đoạn sông này.

Điều không ngơy rất được chúa Trịnh Sâm (1767-1782) và đặc biệt là vợ của Trịnh Sâm (bà Đặng Thị Huệ) sủng ái. Năm 1782, Hoàng Đình Bảo bị kiêu binh nổi loạn giết chết. Nguyễn Hữu Chỉnh bơ vơ vì không còn biết nương tựa vào ai, bèn chạy vào Nghệ An. Cùng chạy loạn một lần với Nguyễn Hữu Chỉnh còn có tướng Hoàng Viết Tuyển. Đến Nghệ An, Nguyễn Hữu Chỉnh bàn với Võ Tá Dao là Trấn Thủ ở đấy một kế hoạch làm phản khá táo bạo, nhưng thấy Võ Tá Dao chần chừ nên Nguyễn Hữu Chỉnh và Hoàng Viết Tuyển vội chạy vào Quy Nhơn, xin đầu hàng Nguyễn Nhạc. Nguyễn Nhạc rất mừng vì chẳng đánh mà vẫn bắt được tướng của họ Trịnh, chẳng mất công sai người đi do thám mà vẫn nắm được khá tỉ mỉ tình hình của Đàng Ngoài. Nguyễn Nhạc gi­ao Nguyễn Hữu Chỉnh cho Nguyễn Huệ và đến đây thì Nguyễn Hữu Chỉnh được Nguyễn Huệ dùng vào việc li gián Phạm Ngô Cầu với Hoàng Đình Thể. Bấy giờ Nguyễn Hữu Chỉnh được lệnh viết thư bí mật hẹn với Hoàng Đình Thể về việc Hoàng Đình Thể sẽ&nb­sp;&nb­sp;quy hàng Tây Sơn, nhưng, bức thư ấy lại vờ để cho Phạm Ngô Cầu bắt được. Từ đó, Phạm Ngô Cầu luôn nghi ngờ Hoàng Đình Thể.&nb­sp;&nb­sp;

Điều không may cho Phạm Ngô Cầu là cũng vào lúc bấy giờ Phạm Ngô Cầu có cử Nguyễn Phu Như đến Quy Nhơn, mượn tiếng trao đổi về biên giới để dò la tin tức, nhưng, chính Nguyễn Phu Như lại khuyên các lãnh tụ Tây Sơn nên sớm đem quân ra đánh lấy Thuận Hóa. Cũng qua Nguyễn Phu Như, Nguyễn Huệ biết rõ Phạm Ngô Cầu là kẻ rất mê tín, vì thế, một nhân vật khác được đóng giả vai thầy coi tướng số từ xa tới để coi tướng số cho Phạm Ngô Cầu. Và, theo lời khuyên của thầy coi tướng số này, Phạm Ngô Cầu đã lập đàn tràng cúng tế rất trọng thể tại chùa Thiên Mụ.

Đúng lúc nội bộ các tướng lĩnh của quân Tṛi miền trong cuộc chiến đấu ngoan cường chống cả thù trong lẫn giặc ngoài.

Tháng 8 năm 1786, sau khi dựng lại triều Lê vốn đã rất tàn tạ, Nguyễn Huệ trở về Quy Nhơn. Chuyến này, Nguyễn Huệ trở về cùng với Nguyễn Nhạc (Sau khi nhận được tin báo của Nguyễn Huệ là sẽ tiến quân ra Thăng Long. Nguyễn Nhạc rất lo lắng, bèn vội vã đuổi theo. Đến đây, cả hai anh em cùng về Quy Nhơn).

9. Tổng chỉ huy trận quyết chiến chiến lược Ngọc Hồi - Đống Đa (năm 1789 : năm 36 tuổi), quét sạch 29 vạn quân Mãn Thanh và bè lũ tay sai phản quốc Lê Chiêu Thống ra khỏi bờ cõi.

Tình hình Đàng Ngoài sau khi Nguyễn Huệ rút quân về Nam

Một trong những viên tướng có công rất nổi bật đối với Tây Sơn năm 1786 là Nguyễn Hữu Chỉnh. Chính Nguyễn Hữu Chỉnh đã bàn mưu đánh vào quân Trịnh ở Thuận Hóa. Sau chiến dịch Thuận Hóa, chính Nguyễn Hữu Chỉnh đã tiếp tục bàn mưu đem quân đội Tây Sơn đánh ra Đảng Ngoài, đồng thời là tướng tiên phong của Nguyễn Huệ trong cuộc tấn công táo bạo này. Người đầu tiên đánh vào Vị Hoàng là Nguyễn Hữu Chỉnh. Người đầu tiên đánh vào Thăng Long cũng là Nguyễn Hữu Chỉnh. Và, cũng chính Nguyễn Hữu Chỉnh đã bàn với vua Lê Hiển Tông đem Ngọc Hân Công chúa gả cho Nguyễn Huệ. Tóm lại, Nguyễn Hữu Chỉnh đã cố làm tất cả mọi điều, cốt tạo niềm tin đối với Nguyễn Huệ. Nhưng, Nguyễn Huệ lại không tin ở con người này, bởi lẽ, Nguyễn Hữu Chỉnh đến với Tây Sơn, bất quá chỉ do thất thế và cô thân sau những cuộc tranh giành quyền lực giữa các phe phái của Đàng Ngoài mà thôi.

Xuất phát từ nhận định về bản chất con người của Nguyễn Hữu Chỉnh như vậy, canh ba đêm ngày 17 tháng 8 năm 1786, Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ sai người vào từ biệt vua Lê (Lê Chiêu Thống - cháu đích tôn của vua Lê Hiển Tông) rồi bí mật hạ lệ bôn tẩu khắp đó đây, cho nên, Sùng Nhượng Công Lê Duy Cận mới được trao chức ấy.&nb­sp;Hai là&nb­sp;thành lập một guồng máy chính quyền của Tây Sơn đóng tại kinh đô Thăng Long để cai quản đất Đàng Ngoài. Đứng đầu guồng máy chính quyền này là Ngô Văn Sở. Sát cánh với Ngô Văn Sở trong guồng máy chính quyền này, bên cạnh một số tướng lĩnh của Tây Sơn, còn có một số cựu thần của nhà Lê. Họ là những trí thức nhạy bén với thời cuộc, cũng là những người thực sự giàu nhiệt huyết và tài năng. Chính họ đã có đóng góp rất đáng kể vào những thắng lợi của Tây Sơn sau đó. Chúng ta có thể kể tên sáu nhân vật tiêu biểu sau đây :

- Ngô Thì Nhậm (1746-1803) người làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, nay là thôn Tả Thanh Oai, xã Tả Thanh Oai, huyện Thanh Trì, Hà Nội. Ngô Thì Nhậm đỗ Tiến năm 1775. Ông là con của Hoàng Giáp Ngô Thì Sĩ (1725-1780).

- Phan Huy Ích (1751 - 1822) người làng Thu Hoạch, huyện Thiên Lộc, nay là xã Thạch Châu, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Ông là con của Tiến Sĩ Phan Huy Áng (cũng tức là Phan Huy Cận : 1733-1800), anh của Tiến Phan Huy Ôn (1755-1786). Phan Huy Ích

- Nguyễn Thế Lịch (1750-1829) cũng tức là Nguyễn Gia Phan, người làng Yên Lũng, huyện Từ Liêm, nay là thôn Yên Lũng, xã An Khánh, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây. Ông đỗ Tiến Sĩ năm 1775.

- Ninh Tốn (1744-1790) người làng Côi Trì, huyện Yên Mô nay là xã Yên Mỹ, huyện Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình, đỗ Tiến Sĩ năm 1778. Ông là dòng dõi của Tiến Sĩ Ninh Đạt, cháu của Hoàng Giáp Ninh Địch.

- Nguyễn Du (1754 - ?) người làng Viên Ngoại, huyện Chương Đức nay là xã Viên Ngoại, huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Tây, đỗ Tiến Sĩ năm 1785.

- Nguyễn Bá Lan (175′7 - ?) người làng Cổ Linh, huyện Gia Lâm, nay thuộc Hà Nội, đỗ Tiến Sĩ năm 1785.

Trong sáu nhân vật nói trên, Ngô Thì Nhậm và Phan Huy Ích có vị trí và ảnh hươống sót lại liều chết tìm đường chạy nhanh về Thăng Long. Những, đến Đầm Mực (nay thuộc xã Vĩnh Quỳnh, huyện Thanh Trì, Hà Nội) thì gặp quân mai phục do Đô Đốc Bảo bố trí sẵn. Và, một trận đánh đã diễn ra tại đây. àn bộ quân giặc chạy đến vùng Đầm Mực đều bị giết hoặc bị bắt sống. Như vậy là chỉ với một buổi sáng, quân Tây Sơn đã đập tan đồn Ngọc Hồi, mở tung cánh cửa sắt che chở mặt nam kinh thành Thăng Long để rồi nhanh chóng tiến thẳng vào sào&nb­sp;&nb­sp;huyệt của giặc. Đây là trận phối hợp tuyệt vời giữa hai binh chủng chính là bộ binh và tượng binh, đây cũng là trận kết hợp chặt chẽ giữa tấn công trực diện với bí mật bao vây và tiêu diệt. Đè bẹp được lực lượng quân Mãn Thanh ở Ngọc Hồi cũng có nghĩa là Tây Sơn bắt đầu nắm được phần đại thắng ở trong tay.

Đồng thời với cuộc tấn công vào Ngọc Hồi, đạo quân Tây Sơn do Đô Đốc Đặng Tiến Đông chỉ huy cũng đánh mạnh vào Đống Đa. Cầm đầu quân Mãn Thanh ở Đống Đa là Sầm Nghi Đống. So với những tướng lĩnh cao cấp dưới trướng của Tôn Sĩ Nghị thì Sầm Nghi Đống kém cỏi hơn cả. Quân do tướng Sầm Nghi Đống quản lĩnh cũng chủ yếu là quân ô hợp. Nhưng, do đóng giữ ở một vị trí thuận lợi, lại ở ngay cửa dẫn vào Thăng Long, Sầm Nghi Đống có không ít lợi thế. Tổ chức tấn công vào Đống Đa không đơn giản một chút nào cả. Tương tự như ở Ngọc Hồi, quân Tây Sơn đánh vào Đống Đa do Đô Đốc Đặng Tiến Đông chỉ huy gồm chủ yếu là bộ binh và tượng binh. Quân số Tây Sơn tuy không dông nhưng rất tinh nhuệ và linh hoạt. Vào khoảng cuối canh tư (gần ba giờ sáng) của đêm mồng năm Tết Kỉ Dậu (nhằm ngày 30-1-1789), cuộc tấn công vào Đống Đa bát đầu. Chỉ trong chốc lát, hàng ngàn quân Thanh đã bị giết, Sầm Nghi Đống hốt hoảng chui vào đồn để cố thủ mà chờ viện binh. Đúng lúc đó, nhân dân các địa phương ở chung quanh đã lấy rơm rạ bện thành con cúi, châm lửa vào, cầm lên rồi vừa đi vừa múa. Khi ấy, sương mù còn dày đặc, xa trông những con cúi đã châm lửa ấy chẳng khác gì rồng lửa, vì thế, gọi là&nb­sp;hỏa long trận.&nb­sp;Tuyệt vọng vì biết không thể nào chống đỡ nổi, Sầm Nghi Đống đã thắt cổ tự tử. Hàng trăm thuộc hạ trung thành của Sầm Nghi Đống cũng tự sát theo chủ. Đống Đa bị hạ, đường Tây Sơn tiến thẳng vào đ̐bản dinh của Tôn Nghị đã thênh thang.

Bấy giờ, Tôn Sĩ Nghị liên tiếp nhận được tin bại trận từ khắp nơi truyền về, chưa kịp nghĩ cách ứng phó thì đã thấy bốn bề lấp loáng hỏa long trận và những đơn vị đầu tiên của quân&nb­sp;&nb­sp;Tây Sơn dũng mãnh xông vào. Ngựa không kịp đóng yên, người không áp mặc giáp, dẫn bọn kị binh của mình bỏ trốn trước, qua cầu phao, nhằm thẳng hướng bắc mà chạy thục mạng, đó là hình ảnh thảm hại của Tôn Sĩ Nghi sáng mồng năm Tết Kỉ Dậu (1789). Quân Mãn Thanh thấy chủ tướng chạy thì cũng tranh nhau tìm đường chạy theo. "Chúng tranh nhau qua cầu để sang sông, xô đẩy nhau rơi xuống nước chết không biết bao nhiêu mà kể". Sợ quân Tây Sơn cũng sẽ dùng cầu phao mà vượt sông truy đuổi, Tôn Sĩ Nghị đã hạ lệnh chặt đứt cầu phao. Hành động tàn ác đó đã khiến cho hàng vạn quân lính của Tôn Sĩ Nghị bị chết đuối, "nước sông Nhị vì thế mà tắc nghẽn, không chảy được". Số quân Thanh còn kẹt lại ở bờ&nb­sp;Nam&nb­sp;thì đi cướp giật thuyền của dân mà sang bờ Bắc, nhưng, quân đông mà thuyền ít, chúng tranh giành&nb­sp;nhau, chém giết nhau, khiến thuyền chìm, người chết. Và, đúng lúc chúng đang hoảng sợ đến tột độ thì quân Tây Sơn ập tới. Tất cả đều bị giết hoặc bị bắt làm tù binh. Đó thực sự là một ngày thảm hại. V&nb­sp;(coi trọng sản xuất nông nghiệp) nhưng không&nb­sp;ức thương&nb­sp;(ức chế sự phát triển của thương mại). Đó là điểm độc đáo trong chính sách kinh tế của Quang Trung. Và, cũng dưới thời Quang Trung, các ngành kinh tế thủ công nghiệp đều có cơ hội để phát triển.

Trong văn hóa, Quang Trung đặc biệt coi trọng việc học. Đầu năm 1789, với&nb­sp;Chiếu tập học,&nb­sp;Quang Trung đã thể hiện khá rõ hoài bão lớn của mình về việc mở mang nền giáo dục. Đặc biệt, Quang Trung rất đề cao chữ Nôm, muốn biến chữ Nôm thành chữ viết chính thức của nước nhà. Chính Quang Trung đã quyết định thành lập viện Sùng Chính (cơ quan chuyên trách về giáo dục của triều đình, đồng thời cũng là cơ quan chuyên lo phiên dịch các sách chữ Hán ra chữ Nôm).

Tuy bận rộn với ngổn ngang công việc, nhưng Quang Trung vẫn không quên lưu tâm đến hoạt động của các tôn giáo, đến sự có mặt của các giáo sĩ phương Tây ở nước ta. Nhìn chung, thái độ của Quang Trung là rất chân thành.

*

*&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;*

Sau khi tình hình trong vùng đất do Quang Trung quản lí đã tương đối ổn định, Quang Trung quyết định dốc lực lượng đánh trận cuối cùng với Nguyễn Ánh. Bấy giờ, Nguyễn Lữ đã mất, Nguyễn Nhạc thì cầu an, tự mãn… chỉ có Quang Trung mới có thể đảm nhận được trọng trách này. Đàng sau Nguyễn Ánh lúc này còn có cả thực dân phương Tây, và quan trọng hơn, Nguyễn Ánh đã chiếm lại được Gia Định, biến Gia Định thành một sào huyệt kiên cố và nguy hiểm. Trước khi xuất quân, ngày 10 tháng 7 năm Nhâm Tuất (nhằm ngày 27-8-1792), Quang Trung đã truyền hịch đến nhân dân cùng quan lại hai phủ Quy Nhơn và Quảng Ngãi. Nhưng, rất tiếc là khi công việc chuẩn bị đang được tiến hành một cách khẩn trương và thuận lợi thì đêm ngày 29 tháng 7 năm Nhâm Tí (nhằm ngày 16-9-1792), Quang Trung sản xuất. Nguồn thứ hai là huy động đóng góp của nhân dân nhiều địa phương khác nhau. Việc huy động này gặp rất nhiều khó khăn, bởi vì, nếu không thận trọng sẽ rất dễ bị chúa Nguyễn phát hiện và đàn áp. Nguồn thứ ba là tịch thu kho tàng của chúa Nguyễn. Nguồn này chỉ trở nên đáng kể sau khi khởi nghĩa Tây Sơn bùng nổ mà thôi.

Tạo nguồn thu và tìm cách tích trữ được lương thực đã là khó, bảo vệ lương thực đã tích trữ được lại còn khó hơn. Và, công việc đặc biệt khó khăn này được Bộ chỉ huy Tây Sơn tin cậy gi­ao cho đảm trách, mặc dù khi bắt tay vào việc chuẩn bị khởi nghĩa, Nguyễn Lữ còn ở tuổi vị thành niên. Cùng hợp tác đắc lực và rất có hiệu quả với Nguyễn Lữ là một người vợ lẽ của Nguyễn Nhạc. Nhưng, nếu người vợ lẽ của Nguyễn Nhạc gần như chỉ đứng ra tổ chức sản xuất và tích trữ lương thực ở ngay trên chính vùng quê thân thuộc của mình, thì Nguyễn Lữ là người chịu trách nhiệm trông coi nhiều hoạt động hậu cần ở nhiều khu vực khác nhau. Năm 1771, khi Nguyễn Nhạc dựng cờ xướng nghĩa, Nguyễn Lữ đã chuẩn bị khá chu tất cho mọi nhu cầu của quân đội Tây Sơn trong những cuộc chiến đấu quyết liệt đầu tiên. Bấy giờ không phải chỉ có lương thực và thực phẩm mà cả đến vũ khí cùng các loại quân trang, quân dụng… Nguyễn Nhạc đều tin cậy ủy thác cho Nguyễn Lữ đảm&nb­sp;trách.

Như trên đã nói, ở Tây Sơn có một ngọn núi mang tên là núi Lãnh Lương. Núi này nguyên tên là núi Đồng Phong, nằm sát bên một thung lũng nhỏ mà kín đáo có tên gọi là Hóc Yến. Núi Đồng Phong là kho quân nhu lớn nhất của Tây Sơn. Trước khi tiến xuống vùng đồng bằng, nghĩa quân Tây Sơn đến núi Đồng Phong để nhận lương thực, thực phẩm và tất cả trang thiết bị cần thiết khác, vì thế, núi Đồng Phong mới cong Định Vương, cai quản miền đất dại để tương ứng với Nam Bộ ngày nay.

Năm 1787, Nguyễn Lữ qua đời, do chưa rõ năm sinh nên chưa rõ ông hưởng thọ bao nhiêu tuổi, tuy nhiên, điều chắc chắn có thể khẳng định là năm đó, Nguyễn Lữ chỉ mới trong độ tuổi từ ngoài ba mươi đến ba mươi lăm mà thôi.

Khi chuẩn bị khởi nghĩa, Nguyễn Lữ là tướng hậu cần xuất sắc. Mọi thắng lợi của nghĩa quân Tây Sơn lúc ấy đều gắn liền với những cố gắng và thành công của Nguyễn Lữ trong việc chăm lo hậu cần.

Khi Tây Sơn phát triển mạnh mẽ, Nguyễn Lữ là một trong những vị tướng cầm quân xuất sắc. Trong năm lần tấn công vào Gia Định, Nguyễn Lữ từng một lần là tổng chỉ huy và một lần là đồng chỉ huy. Cả hai lần đó, Nguyễn Lữ đều lập được công lao lớn.

Tuy nhiên, khi được trao trách nhiệm đứng đầu một vùng đất rộng lớn và có vị trí chiến lược rất quan trọng thì vai trò của Đông Định Vương Nguyễn Lữ mờ nhạt dần. Nguyễn Lữ đã tỏ ra thiếu kiên quyết và sắc sảo trong nhiệản lí đất Gia Định. Ông bỏ Gia Định về Quy Nhơn rồi qua đời tại đó. Quả đúng là giành được chính quyền đã khó, giữ được chính quyền còn khó hơn. Với sự nghiệp giành chính quyền, Nguyễn Lữ là một ngôi sao sáng, tuy nhiên, khi phải kiên quyết giữ vững chính quyền, ngôi sao Nguyễn Lữ đã sớm tắt lịm. Tiếc thay !

CHƯƠNG THỨ BA

DANH TƯỚNG TÂY SƠN

I - TIỂU DẪN

Trong lịch sử việt Nam, có lẽ không mấy ai phải chịu sự thiệt thòi lớn lao như các danh tướng Tây Sơn. Họ có cả một đời xông pha oanh liệt với hàng loạt những võ công kiệt xuất, nhưng, sc khi trở thành một trong những vị hổ tướng của Tây Sơn, Trần Quang Diệu từng có mối quan hệ khá thân tình với Nguyễn Nhạc, và như vậy, cũng có thể đoán định là tuổi tác của Nguyễn Nhạc với Trần Quang Diệu, bằng hoặc giả là chênh lệch nhau không bao nhiêu. Khi Nguyễn Nhạc dựng cờ xướng nghĩa ở Tây Sơn, Trần Quang Diệu là một trong số những người nhiệt liệt hưởng ứng sớm nhất. Ông (và vợ là Bùi Thị Xuân) được Bộ chỉ huy Tây Sơn tin cậy, trao phó những chức vụ ngày càng lớn.

Năm 1788, Trần Quang Diệu đã sát cánh với Quang Trung Nguyễn Huệ trong cuộc hành quân thần tốc ra Bắc để chuẩn bị cho trận quyết chiến chiến lược với quân Mãn Thanh. Và, trong trận Ngọc Hồi - Đống Đa (Tết Kỉ Dậu, 1789), Trần Quang Diệu là một trong những vị tướng đã lập công xuất sắc. Bấy giờ, nếu các Đô Đốc như Đặng Xuân Bảo, Nguyễn Văn Lộc, Nguyễn Văn Tuyết, Đặng Tiến Đông (?) được trao quyền chỉ huy những đạo quân&nb­sp;&nb­sp;riêng, thì các tướng lĩnh cao cấp khác như Ngô Văn Sở, Phan&nb­sp;&nb­sp;Văn Lân, Võ Văn Dũng, Trần Quang Diệu,… lại cùng với Quang&nb­sp;&nb­sp;Trung Nguyễn Huệ, chỉ huy đạo quân chủ lực, đánh thẳng vào Hà Hồi và Ngọc Hồi. Thắng lợi vang dội ở Hà Hồi và đặc biệt, là&nb­sp;&nb­sp;Ngọc Hồi đã chứng tỏ biệt tài cầm quân của Quang Trung Nguyễn Huệ và các vị tướng lĩnh Tây Sơn, trong đó có Trần Quang Diệu.

Nhờ công lao trong cả quá trình tham gia khởi nghĩa, năm 1790, Trần Quang Diệu được Quang Trung Nguyễn Huệ bổ làm Đốc Trấn Nghệ An. Với chức vụ đó, Trần Quang Diệu đã cùng với Trấn Thủ Nguyễn Văn Thận, nhanh chóng ổn định xã hội, tạo điều kiện cho nhân dân trấn Nghệ An có thể yên tâm làm ăn sinh sống.&nb­sp;

Cũng trong thời gi­an làm Đốc Trấn Nghệ An, cùng với Trấn Thủ Nguyễn Văn Thận, Trần Quang Diệu đã có công tổ chức thực hiện việc xây dựng Phượng Hoàng Trung Đ>

Nghĩa là :

Ngựa trắng (chừng như) vẫn rong ruổi ở chiến chiến trường xưa

Tướng quân (từng trải) trăm trận, tiếng tăm lừng lẫy.

CHƯƠNG THỨ TƯ

PHỤ LỤC

I - ĐẶNG TIẾN ĐÔNG (1738 -&nb­sp;?)

01. TIỂU DẪN

Ngọc Hồi - Đống Đa là một trong những trận quyết chiến chiến lược lừng lẫy vào hàng bậc nhất của lịch sử dân tộc. Người trực tiếp vạch kế hoạch là vị Tổng chỉ huy thiên tài của trận đánh lịch sử này là Quang Trung Nguyễn Huệ. Tuy nhiên, bên cạnh Quang Trung Nguyễn Huệ và sát cánh chỉ huy chiến đấu đầy hiệu quả với Quang Trung Nguyễn Huệ còn có một loạt các tướng lĩnh xuất sắc khác, trong đó có vị Đô Đốc được nhiều tài liệu thư tịch cổ chép là Đô Đốc Long, thi thoảng cũng có tài liệu chép là Đô Đốc Mưu.

Trong&nb­sp;Tây Sơn lương tướng ngoại truyện, Nguyễn Trọng Trì (1854-1922) có chép chuyện Đô Đốc Long và cho biết đầy đủ cả họ lẫn tên của vị Đô Đốc này là Đặng Văn Long (người huyện Tuy Viễn, phủ Quy Nhơn, nay thuộc huyện Tây Sơn, tỉnh Bình ĐN83;nh). Tuy nhiên, phân tích kĩ tài liệu này thì thấy Đô Đốc Đặng Văn Long là một tướng trong đạ;o quân chủ lực do Quang Trung Nguyễn Huệ trực tiếp chỉ huy chứ không phải là vị Đô Đốc chỉ huy một trong năm đạo quân tham gia trận Ngọc Hồi - Đống Đa. Đặng Văn Long có vẻ như là một tướng tiên phong của Quang&nb­sp;&nb­sp;Trung Nguyễn Huệ chứ không phải là Đô Đốc chỉ huy một đạo quân riêng. Cũng trong&nb­sp;Tây sơn lương tướng ngoại truyện,&nb­sp;Đô Đốc Đặng Văn Long chừng như chỉ tham gia chiến đấu ở trận Hà Hồi và Ngọc Hồi chứ không hề đánh trận Đống Đa.

Vậy ngựa của Ngô Thì Nhậm thì họ Đặng xưa vốn là họ Trần, tương truyền thuộc dòng dõi Trần Hưng Đạo. Đến đầu đời Lê, Trần Văn Huy đỗ Tiến lấy tự là Đặng Hiên nên từ đó, con cháu lấy tự của cha làm họ rồi chuyển từ họ Trần sang họ Đặng. Ngoài cách giải thích đó, một số con cháu họ Đặng còn lưu lại truyền thuyết cho rằng, vào đời Mạc, họ này có nhiều "phù Lê diệt Mạc" nên bị nhà Mạc truy lùng và từ đấy, đổi ra họ Đặng. Điều chắc chắn là từ đời Đặng Huấn có công phù Lê, dòng họ Đặng trở thành một dòng họ lớn có nhiều người đỗ đạt và làm quan to trong suốt thời Lê - Trịnh. Vùng Chương Mỹ còn lưu hành nhiều câu hát về dòng họ Đặng ở Lương Xá như sau :

Giàu thì Quảng Bị, Bối Khê,

Làm quan&nb­sp;Lương Xá, ngoại&nb­sp;đê Đại Từ.

Hay :

Bao&nb­sp;giờ&nb­sp;chợ Chúc hết người

Sông Ninh hết nước, Đặng này hết quan.

Đặng Tiến Đông là con trai thứ tám của Dận Quận Công Đặng Tiến Cẩm và bà vợ lẽ thứ năm là Phạm Thị Yến. Vào thời Lê mạt, cả gia đình ông, từ ông cha đến anh em, chú bác đều là những quan lại tướng soái cao cấp, giữ nhiều chức tước quan troường, một sức sống đang vươn lên. Hơn một tháng sau, đoàn quân “áo vải cờ đào” và người anh hùng của họ rút về&nb­sp;Nam, trao trả quyền hành lại cho nhà Lê. Nhưng rồi triều đình vua Lê mà bấy lâu nhân dân và sĩ phu Bắc Hà vẫn kì vọng, lại có dịp bộc lộ tính chất nhu nhược, bất lực hoàn toàn của nó. Chiếc ngai vàng ọp ẹp của nhà Lê vốn đã rệu rạo, nay càng ngả nghiêng trước tình trạng cực kì hỗn loạn của Bắc Hà. Quân Tây Sơn vừa rút, Lê Chiêu Thống đã cảm thấy “một nước trống rỗng” và vội “viết thư triệu hết những người thế gia và bầy tôi cũ dấy quân về bảo vệ hoàng thành". Nhân đấy, "bọn hào mục các nơi chiếm giữ châu quận, chiêu tập binh mã, đều mượn danh nghĩa “bảo vệ” Nhữngạng vô lại đánh giết lẫn nhau, trong nước thành ra rối loạn”. Bọn con cháu chúa Trịnh như Trịnh Lệ, Trịnh Bồng, bọn tướng tá cũ như Đinh Tích Nhưỡng, Hoàng Phùng Cơ, Dương Trọng Tế… đều nổi dậy tranh giành, đánh giết nhau và ức hiếp nhân dân thậm tệ. Vua Lê lại bị đặt vào địa vị bù nhìn. Dưới sự hoành hành của bọn tướng quân phiệt, “ngay giữa ban ngày, thủ hạ ra sức cướp bóc dân cư gần kinh thành, không có hiệu lệnh ngăn cấm. Mọi người đều cho là không còn hi vọng gì cả”. Nhân cơ hội đó, cuối năm 1786, Nguyễn Hữu Chỉnh lấy danh nghĩa tôn phò vua Lê, chiêu tập binh mã ở Nghệ An rồi kéo ra Thăng Long. Đến lượt Nguyễn Hữu Chỉnh lại thâu tóm mọi quyền hành ở Bắc Hà,&nb­sp;"quyền Chỉnh thật ngang với nhà vua, thế của Chỉnh có thể lật nghiêng cả nước".&nb­sp;Từ một phần tử phong kiến thất thế ở Bắc Hà, Nguyễn Hữu Chỉnh phải theo Tây Sơn để gầy dựng lực lượng, nay lại phản bội Tây Sơn, âm mưu làm bá chủ Thăng Long. Dưới sự chuyên chế của Chỉnh, tình hình Bắc Hà càng rối loạn :&nb­sp;“Lòng&nb­sp;người lìa tan, quan văn, quan võ ai cũng chán nản … Bọn hào mục gi­an ác ở đâu thì tụ họp ở

Sau khi đánh tan giặc ngoại xâm, Đặng Tiến Đông vẫn giữ nhiều chức vụ quan trọng trong chính quyền Tây Sơn, tiếp tục đóng góp công sức vào công cuộc xây dựng đất nước. Dưới triều Quang Trung (1788-1792), ông giữ chức Vệ Quốc Thượng Tướng Quân, Trấn Thủ hai xứ Thanh Hoa và Nghĩa An (thời Tây Sơn gọi trấn Nghệ An là Nghĩa An hay Trung Đô). Có lẽ ông giữ chức vụ đó cho đến năm 1790 là khi Quang Trung cử con là Nguyễn Quang Bàn làm Đốc Trấn Thanh Hoa và tướng Trần Quang Diệu làm Đốc Trấn Nghĩa An. Theo bài văn bia của chùa Thủy Lâm do Phan Huy Ích soạn khắc vào năm Cảnh Thịnh thứ năm (1797) và bài minh do Trần Bá Lãm soạn khắc vào chuông chùa Trăm Gi­an (thôn Tiên Lữ, xã Tiên Phương, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây) vào năm Cảnh Thịnh thứ hai (1794), thì trong thời Quang Toản (1792-1802), ông giữ chức Đại Tướng Thống Vũ Thắng Vệ Thiên Hùng Hiệu.

Ngoài việc nước, trong thời gi­an làm quan trong triều Tây Sơn Đặng Tiến Đông còn chăm lo tu bổ một số đền chùa ở quê hương. Trải qua nhiều năm biến loạn của thời Lê, dân làng Lương Xá có một bộ phận lưu tán đi các nơi. Ông đã chiêu tập dân làng trở về quê hương, khai khẩn đất đai, mở mang thôn xóm. Ông cúng cho làng 600 quan tiền và 17 mẫu ruộng tốt để tu bổ chùa Thủy Lâm, đền thờ họ Đặng, và làm chi phí thờ cúng hàng năm. Ông còn sửa sang lại chùa Trăm Gi­an, đúc chuông cho nhà chùa (năm 1794) và cúng 80 quan tiến, 8 mẫu ruộng làm hậu Phật.

Chùa Trăm Gi­an còn giữ được một bức tượng Đặng Tiến Đông mà nhân dân địa phương thường gọi là “tượng quan Đô”. Bài văn bia&nb­sp;Đặng&nb­sp;tướng công bi&nb­sp;dựng trong chùa và gia phả một số chi họ Đặng cho biết bức tượng tạc vào năm Cảnh Thịnh thứ hai (năm 1794), lúc Đặng Tiến Đông 56 tuổi. Các tài liệu trên chép là “tượng truyền thần”&nb­sp;tạc vào lúc "sinh&nb­sp;thời"&nb­sp;của ông. Caượt đè bẹp tất cả thù trong lẫn giặc ngoài, làm rạng rỡ truyền thống ngoan cường và bất khuất của tổ tiên ta. Và, cũng chính sức mạnh vĩ đại đó đã có tác dụng phân hóa sâu sắc đối với đội ngũ gi­ai cấp phong kiến thống trị đương thời. Không ít sĩ phu yêu nước và thức thời đã hiên ngang đứng hẳn về phía Tây Sơn, có nhiều cống hiến lớn lao đối với Tây Sơn, cũng là cống hiến lớn lao cho lịch sử dân tộc. Tuy đến với Tây Sơn sớm muộn có khác nhau và tuy mức độ cống hiến cũng không đồng nhất, nhưng, hình ảnh của tất cả những sĩ phu yêu nước và thức thời ấy đều được sử sách ghi lại một cách rất trân trọng.

ướng Việt&nb­sp;Nam&nb­sp;(Tập 3) xin hân hạnh giới thiệu ba gương mặt tiêu biểu của những sĩ phu yêu nước và thức thời này, đó là Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích và Nguyễn Thiếp. Ba nhân vật đặc biệt này tuy chưa bao giờ trực tiếp cầm quân xông pha trận mạc, nhưng, với tầm nhìn và phép ứng xử tuyệt vời của mình, họ đã có ảnh hưởng rất quan trọng đối với hoạt động và thắng lợi chung của phong trào Tây Sơn. Xuất phát từ nhận thức đó, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu dưới đây vài&nb­sp;trang lược truyện về Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích và Nguyễn Thiếp.

02. NGÔ THÌ NHẬM (1746 - 1802)

"Ngọc tốt giấu kín nơi sâu,

Rồng thần lặn không kẻ thấy.

Chờ khi người biết đến mình,

Chí lớn nọ đem ra vùng vẫy.

Giúp tám cực mà chuyển&nb­sp;xoay,

Vỗ chín cõi yên rường mối."

(Ngô Thì Nhậm&nb­sp;:&nb­sp;Mộng Thiên Thai phú)

Ngô Thì Nhậm sinh ngày 11 tháng 9 năm nh Dần (1746

Lời ấy là lời thực sự tin cậy của Nguyễn Huệ đối với Ngô Thì Nhậm và Ngô Thì Nhậm cũng đã hoàn toàn xứng đáng với lòng tin cậy lớn lao ấy của Nguyễn Huệ.

Cuối năm 1788, hai mươi chín vạn quân Mãn Thanh mượn cớ có Lê Chiêu Thống cầu cứu, đã giương ngọn cờ chính trị giả hiệu là “phù Lê diệt Tây Sơn” để tràn sang xâm lược nước ta. Trước tình thế đó, Bộ chỉ huy Tây Sơn đã họp để bàn kế sách đối phó. Ngô Thì Nhậm là một trong số những thành viên tham dự cuộc họp quan trọng này. Lúc đầu, ý kiến của các thành viên không nhất trí với nhau. Đại để có hai loại hình ý kiến chính như sau:

-&nb­sp;Loại hình ý kiến&nb­sp;thứ nhất&nb­sp;cho rằng, họ được Nguyễn Huệ gi­ao trách nhiệm ở lại giữ thành và giữ đất, vậy thì hễ giặc đến là phải liều chết mà đánh, không cần phải bàn luận gì nhiều. Chủ xướng loại hình ý kiến này là Đại Tư Mã Ngô Văn Sở. Rõ ràng, đây là loại hình ý kiến thể hiện một tinh thần trách nhiệm rất cao, nhưng đó là thứ tinh thần trách nhiệm cứng nhắc, không tính toán đến kết quả cuối cùng sẽ ra sao.

- Loại&nb­sp;hình&nb­sp;ý kiến thứ hai&nb­sp;cũng có điểm tương đồng với loại hình ý kiến thứ nhất, đó là phải quyết đánh quân xâm lăng, nhưng khác hẳn về phương thức đánh. Họ cho rằng, muốn đánh và đánh thắng quân Mãn Thanh, trước hết phải đem quân lên biên ải, kế thừa kinh nghiệm mai phục của Lê Lợi thuở trước, đánh phủ đầu bằng nhiều trận lớn nhỏ ngay khi chúng vừa đặt chân lên lãnh thổ nước ta, thì mới có thể giữ yên được bờ cõi. Chủ xướng loại hình ý kiến này là Võ Văn Dũng và Phan Văn Lân. Đây là nh đô được, tùy con mắt tinh tường của Phu Tử xét và định đoạt. Chọn nhanh nhanh lên. Ủy cho quan Trấn Thủ là (Nguyễn Văn) Thận xây dựng cung điện, nội trong ba tháng phải xong để tiện cho vua ra ở).

Nguyễn Thiếp đã chọn địa điểm đóng đô mới cho chính quyền Quang Trung Nguyễn Huệ ở khoảng giữa núi Kỳ Lân và núi Phượng Hoàng của Nghệ An. Kinh đô mới này được đặt tên là&nb­sp;Phượng Hoàng Trung Đô.&nb­sp;Núi Phượng Hoàng tức là núi Dũng Quyết hay núi Quyết, còn núi Kỳ Lân tức núi Mèo. Phía trước của Phượng Hoàng Trung Đô là sông Lam. Công cuộc xây dựng Phượng Hoàng Trung Đô đang tiến hành dở dang thì Quang Trung Nguyễn Huệ đột ngột qua đời. Vua kế vị là Quang Toản không tiếp tục sự nghiệp này nữa, vì thế, Phượng Hoàng Trung Đô chưa bao giờ thực sự là kinh đô cả. Ngày nay, Phượng Hoàng Trung Đô vẫn còn một số dấu tích.

Như vậy Nguyễn Thiếp là một trong số những nhân vật đặc biệt, để lại dấu ấn khá rõ rệt trong thời Quang Trung trên nhiều lĩnh vực hoạt, động khác nhau. Cuộc gặp gỡ giữa Quang Trung Nguyễn Huệ với La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp cũng là một trong những cuộc gặp gỡ khá độc đáo của thế kỉ thứ XVI­II. Nguyễn Huệ tỏ ra rất trân trọng tài năng của Nguyễn Thiếp, nhiều lần sai quan lại cao cấp đến mời Nguyễn Thiếp, sau lại tự mình đến gặp Nguyễn Thiếp. Và, cảm động trước sự ân cần thật sự chân tình đó, Nguyễn Thiếp đã dốc lòng vì Quang Trung Nguyễn Huệ, vì sự nghiệp cao cả của Tây Sơn.

Dưới thời Quang Trung, La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp là một nhà giáo lớn, một người có công đối với nền giáo dục. Chính ông là Chánh Chủ Khảo trong khoa thi Hương đầu tiên của chính quyền Quang Trung tổ chức tại Nghệ An năm 1789 và cũng chính ông là người được Quang Trung tin cậy gi­ao phó cho việc khảo xét tài năng và đức]]>

Danh_tuong_Viet_Nam_-_Tap_4

by Unknown

1. Nam Việt : do Triệu Đà lập ra vào năm 206 TCN, truyền được tất cả 95 năm (từ năm 206 TCN đến năm 111 TCN) với 5 đời nối nhau trị vì. Năm 179 TCN, Nam Việt đã đánh tan chính quyền của An Dương Vương rồi thống trị Âu Lạc liên tục trong 68 năm (từ năm 179 TCN đến năm 111 TCN).

2. Tiền Hán (cũng tức là Tây Hán) : do Lưu Bang (tức Hán Cao Tổ) lập ra vào năm 206 TCN, truyền được 214 năm (từ 206 TCN đến năm 08) với 13 đời nối nhau trị vì. Năm 111 TCN, nhà Tiền Hán đã lật nhào được cơ đồ của Nam Việt và thay Nam Việt thống trị Âu Lạc liên tục trong 119 năm (từ năm 111 TCN đến năm 08).

3. Nhà Tân : do Vương Mãng lập ra năm 08, truyền được 17 năm với hai đời nối nhau trị vì. Nhà Tân đã thay nhà Tiền Hán thống trị Âu Lạc trong 17 năm (từ năm 08 đến năm 25).

4. Hậu Hán (cũng tức là Đông Hán) : do Lưu Tú (tức Hán Quang Vũ) lập ra năm 25 (sau khi tiêu diệt được nhà Tân), truyền được 195 năm với 13 đời nối nhau trị vì. Nhà Hậu Hán thay nhà Tân thống trị Âu Lạc trong 195 năm (từ năm 25 đến năm 220).

5. Nhà Ngô : do Tôn Quyền (Ngô Đại Đế) lập ra năm 222, truyền được 58 năm với 4 đời nối nhau trị vì. Ngô là một trong ba nước của thời hỗn chiến Ngô-​Thục-​Ngụy (sử thường gọi đó là thời Tam Quốc). Trên danh nghĩa thì nhà Ngô đã thay Hậu Hán (tức Đông Hán) thống trị Âu Lạc liên tục trong 58 năm (từ năm 222 đến năm 280).

6. Nhà Tấn : do Tư Mã Viêm (Tấn Vũ Đế) lập ra năm 265 nhưng phải đến năm 280 mới thực sự nắm được quyền chi phối phần lớn lãnh thổ Trung Quốc. Tuy không liên tục nhưng nhà Tấn cũng truyền được 155 năm với 15 đời nối nhau trị vì. Trên danh nghĩa thì nhà Tấn đã thay nhà Ngô thống trị Âu Lạc liên tục trong 140 năm (từ 280 đến 420). Lịch sữ tướng) chiếm một tỉ lệ không nhỏ. Trong truyền thuyết dân gi­an, những nữ quan cao cấp nhất của Hai Bà Trưng thường được gọi là Công Chúa (ví dụ như Bát Nàn Công Chúa, Thánh Thiên Công Chúa, Lê Chân Công Chúa…). Cũng có khá nhiều ý kiến cho rằng đó là tước hiệu do Hai Bà Trưng chính thức phong tặng, song, điều này chưa có gì để bảo đảm chắc chắn cả. Theo chúng tôi thì có lẽ đấy cũng chỉ là những vinh hiệu do người đời sau vì kính trọng mà thêm vào. Dưới đây là một vài con số về đội ngũ quan lại của chính quyền Trưng Nữ Vương :

&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp; - Trong phạm vi ba tỉnh Hà Tây, Vĩnh Phúc và Phú Thọ có đến 75 tướng của Hai Bà Trưng, gồm 56 nam và 19 nữ.

&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp; - Theo thống kê của Chi hội Văn nghệ dân gi­an tỉnh Vĩnh Phú (nay tách thành hai tỉnh Vĩnh Phúc và Phú Thọ) thì toàn tỉnh Vĩnh Phú cũ có đến 62 tướng của Hai Bà Trưng, gồm có 30 nam và 32 nữ.

.

&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp; Tất nhiên, không phải bất cứ nữ tướng nào về sau cũng đều trở thành nữ quan và ngược lại, không phải bất nữ quan nào cũng đều xuất thân là nữ tướng, nhưng, sự có mặt của khá đông nữ quan trong guồng máy chính quyền Trưng Nữ Vương là điều có thật. Nói khác hơn, bản thân cấu trúc của chính quyền Trưng Nữ Vương cũng đã thể hiện khá rõ vai trò và vị trí của người phụ nữ. Những người từng chứng tỏ ý chí và tài năng trong sự nghiệp giành độc lập đến đây lại tiếp tục thể hiện bản lĩnh và quyết tâm của mình trong sự nghiệp giữ độc lập.

. Có lẽ quận Nhật Nam do ở quá xa nên việc quản lí của chính quyền Trưng Nữ Vương không được chặt chẽ như tại hai quận Gi­ao Chỉ và Cửu Chân. Từ câu ghi chép ngắn gọn này, chúng ta có thể suy đoán rằng khởi nghĩa Hai Bà Trưng tuy giành thắng lợi trên một phạm vi địa lí rất rộng lớn, đ́i chỉ xin được nhấn mạnh thêm một khía cạnh rất cụ thể rằng, từ sự nghiệp của Hai Bà Trưng, ý thức dân tộc của ít nhất là một bộ phận xã hội đã bước đầu được nâng cao, nền tảng ra đời của dân tộc dã xuất hiện. Nói theo sách nói của Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái thì đấy chính là sự báo phục lại cũng chính là sự bá vương :

Ba năm gánh vác sơn hà,

6. KẾT CỤC CỦA MỘT CUỘC ĐỌ SỨC KHÔNG CÂN XỨNG

&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp; Mãi đến hơn hai năm sau ngày đại bại thảm hại của Thái Thú Tô Định, triều đình Hán Quang Vũ mới đủ bình tĩnh và quyết tâm để xua quân đi đàn áp. Thực ra thì lúc bấy giờ, nhà Hậu Hán cũng đang gặp phải một số khó khăn, ví dụ :

&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp; - Những cuộc nổi dậy liên tiếp của nhân dân Trung Quốc ở Thanh Châu, Từ Châu, U Châu và Kí Châu (bốn châu này nay thuộc hai tỉnh Sơn Đông và Hà Bắc của Trung Quốc).

&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp; - Cuộc khởi binh khá lớn do Lý Quảng cầm đầu ở vùng Hoãn Thành (nay thuộc tỉnh An Huy của Trung Quốc).

&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp; - Những cuộc đấu tranh của nông dãn Trung Quốc ở Ích Châu (nay thuộc tỉnh Vân Nam của Trung Quốc).

, cuộc đàn áp với quy mô rất lớn và quyết tâm rất cao của triều đình Hán Quang Vũ bắt đầu :

.

.

.

, vào cuối thời nhà Tiền Hán, quận Gi­ao Chỉ có 746.237 suất đinh, quận Cửu Chân có 166.113 suất đinh và quận Nhật Nam có 69.485 suất đinh, tổng cộng cả ba quận là 981.835 suất đinh. Từ cuối thời nhà Tiền Hán sang đầu thời nhà Hậu Hán (thời Hai Bà Trưng khởi nghĩa và giành được chính quyền) trước sau chỉ cách nhau một khoảng thời gi­an rất ngắn, cho nên, số suất đinh tăng lên không đáng kể. Cứ giả dụ (dẫu trong thực tế thì không thể như thế) rằng tất cả mọi suất đinh đều là lính thì thử thách đối với Trưng Nữ Vương cũng cực kì cam go.

Quân sĩ của Trưng Nữ V chúng tôi đã thu tập được một lượng truyền thuyết và thần tích không nhỏ. Và, dưới đây là phần phản ánh những kết quả khảo sát riêng đó. Như trên dã nói, phần này chỉ phản ánh “một cách làm riêng ” và ở chừng mực nào đó là có ý nghĩa bổ sung chứ không hề trái ngược hay phản bác thành quả của những người đi trước. Cuối cùng, danh sách Các tướng lĩnh xuất sắc của Hai Bà Trưng được trôn trọng giới thiệu dưới đây được sắp xếp theo thứ tự vần chữ cái của tiếng Việt hiện đại.

1. Ả Chàng (hay Ngọc Trinh Công Chúa)

Ngọc Trinh cũng tức là Lê Ngọc Trinh hay Ả Chàng. Hai tên gọi đầu có lẽ là do người đời sau kính cẩn đặt cho, chứ tên gọi phổ biến nhất vẫn là Ả Chàng. Theo thần tích ở đền Lũng Ngoại (cũng tức là đền Lũng Ngòi, nay thuộc xã Lũng Hoà, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc) thì Ả Chàng là em ruột của Ả Chạ (còn có tên khác là Ngọc Thanh). Hai chị em cùng nổi tiếng xinh đẹp và khoẻ mạnh.

Cha mẹ chẳng may nối nhau qua đời sớm, Ả Chạ vì có nhan sắc hơn người nên bị quan đô hộ ở địa phương bắt về làm thiếp và sau đó chưa được bao lâu thì mất, Ả Chàng tức giận, tập hợp lực lượng để chống quan lại nhà Hậu Hán. Binh sĩ Tô Định hễ đi qua khu vực Lũng Ngoại thì thế nào cũng sẽ bị Ả Chàng bất ngờ tấn công. Giặc phải bao phen thất trận, lòng rất oán ức nhưng chưa biết đối phó bằng cách nào.

Khi được tin Hai Bà Trưng phát động khởi nghĩa ở Hát Môn, Ả Chàng liền đem quân theo về. Nhờ lập được nhiều công lao nên sau khi dẹp yên Tô Định, Ả Chàng được Trưng Nữ Vương phong làm Công Chúa, chức Đại Tướng. Khi Mã Viện đem quân sang đàn áp, Ả Chàng đã chỉ huy cuộc chiến đấu rất dũng cảm tại Gò May (nay cũng thuộc xã Lũng Hoà, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc).

Tương truyền, có lần đang đã hoàn toàn đúng khi định sử dụng mĩ hiệu Lệ Hải đặt trước tước vị Bà Vương để phong cho Bà.

và mãi mãi toả sáng trong sử sách cũng như trong kí ức của các thế hệ nhân dân yêu nước :

Tùng sơn nắng quyện mây trời,

Dấu chân Bà Triệu rạng ngời sử xanh.

IV - DANH TƯỚNG LÝ BÔN - VỊ HOÀNG ĐẾ ĐẦU TIÊN CỦA LỊCH SỬ,

NGƯỜI KHAI SINH RA NƯỚC VẠN XUÂN

Cứu dân đã quyết lời thề

Văn thần võ tướng ứng kì đều ra

Tiêu Tư nghe gió chạy xa

Đông Tây muôn dặm quan hà quét thanh

Vạn Xuân mới đặt quốc danh

Cái nguyên Thiên Đức, đô thành Long Biên.

&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp; (Đại Nam quốc sử diễn ca)

1. TÌNH HÌNH ĐẤT NƯỚC TỪ SAU THẤT BẠI CỦA BÀ TRIỆU ĐẾN GIỮA THẾ KỈ VI

. Trung Quốc lại lâm vào tình cảnh loạn lạc chưa từng thấy. Chính vì sự loạn lạc chưa từng thấy đó, ách đô hộ của các triều đại phong kiến Trung Quốc ở nước ta có phần được nới lởng hơn. Ở đây sự nới lỏng bất quá chỉ vì cơ quan đầu não của bọn đô hộ là triều đình trung ương do trải hàng loạt những cuộc xung đột ác liệt triền miên đã không còn đủ tiềm lực để có thể hung hăng như trước nữa.

&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp; Để tránh loạn lạc và sự tham tàn của các tập…

&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp; Bấy giờ, ở khắp ba quận Nhật Nam, Cửu Chân và…

&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp; 1. Khởi nghĩa Lữ Hưng năm 262, chống ách đô hộ của nhà Ngô.

&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp; 2. Khởi nghĩa Triệu Chỉ năm 299 chống ách đô hộ của nhà Tấn.

&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp; 3. Cuộc phản kháng của Lương Thạc từ năm 317 đến năm 323 đối với triều đình nhà Tấn.

&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp; 4. Cuộc tấn công vào chi ta nên mau ra tay liều chết, cố sức mà đánh lấy. Không cớ gì cứ phải dừng lại để lỡ mất thời cơ.

.

.

Lý Nam Đế là hiện thân của tư tưởng dùng bạo lực để giành lại chính quyền. Cuộc đời của ông đã tỏ rõ khả năng tập hợp và huy động sức mạnh của cả nước vào quá trình đấu tranh giành chính quyền theo con đường bạo lực. Điếu đáng tiếc là Lý Nam Đế tuy đã chuẩn bị rất công phu nhưng lại thiếu ý thức kiên quyết và triệt để trong đấu tranh, thiếu tinh thần chủ động tấn công giặc. Để cho Tiêu Tư và phần lớn lực lượng của viên quan đô hộ khét tiếng tàn bạo này có thể dễ dàng chạy thoát là biểu hiện rõ nhất của sự thiếu ý thức kiên quyết và triệt để trong đấu tranh. Giặc tuy thua trận đầu nhưng vẫn bảo tồn được lực lượng để có thể bình tĩnh tổ chức các trận ph (ản công và Lý Nam Đế đã phải trả giá quá đắt cho sự thiếu triệt để đó.

Diễn biến chung của các trận tại thành Tô Lịch rồi thành Gia Ninh và đặc biệt là ở hồ Điển Triệt cho thấy tư tưởng phòng ngự đã hoàn toàn chi phối tư duy quân sự của Lý Nam Đế. Nắm chắc được nhược điểm này, Trần Bá Tiên đã lập tức tổ chức tấn công. Thời tiết tuy có góp phần tạo thêm điều kiện thuận lợi cho Trần Bá Tiên nhưng cũng không hề gây bất lợi cho thuỷ quân của Lý Nam Đế. Đã bị tư tưởng phòng ngự chi phối lại còn mất cảnh giác ngay khi biết rõ kẻ thù đang đóng dinh trại ở sát bên cạnh mình và đang lăm le tổ chức tấn công mình thì thất bại của Lý Nam Đế là điều không thể nào tránh khỏi. Không ai dám khẳng định rằng, nếu Lý Nam Đế chủ động tấn công thì nhất định sẽ giành được trọn vẹn thắng lợi, nhưng rõ ràng là nếu biết chủ động tấn công thì ít nhất Lý Nam Đế cũng không thể bị đại bại nhanh chóng và bị tổn thất quáước mất nhà tan lại phải chịu thêm nạn bị bọn quan quân đô hộ tước đoạt trắng trợn, dân khắp cõi đương thời ai ai cũng đều căm tức. Mâu thuẫn xã hội ngày càng trở nên gay gắt và đó chính là nguyên nhân sâu xa dẫn tới những cuộc vùng lên tấn công không khoan nhượng vào toàn bộ cơ đồ thống trị của bọn ngoại bang. Hai lãnh tụ cũng là hai danh tướng nổi tiếng nhất thế kỉ VII chính là Lý Tự Tiên và Đinh Kiến.

2. HAI CON NGƯỜI, MỘT KHÍ PHÁCH

. Tuy nhiên, nếu góp nhặt những ghi chép tản mạn của các thư tịch cổ (của ta và của cả Trung Quốc) chúng ta cũng có thể sơ bộ phác hoạ được vài nét về sự nghiệp của Lý Tự Tiên và Đinh Kiến như sau :

việc phòng bị không được cẩn trọng. Hai là bản thân Lưu…

tuy đã nhận được lời cầu cứu của Lưu Diên Hựu nhưng không đem quân đi cứu. Phùng Tử Du có hai lí do để không đi cứu. Một là vì không ưa gì Lưu Diên Hựu nên thấy Lưu Diên Hựu gặp nạn thì mừng thầm, kể như may mắn có cơ hội “mượn tay kẻ thù tiêu diệt đối thủ”. Hai là Phùng Tử Du cứ để mặc cho Lưu Diên Hựu và Đinh Kiến đánh nhau, bên nào thắng hay không bên nào thắng thì rốt cuộc cũng đều có lợi cho Phùng Tử Du bởi vì đến lúc đó, Phùng Tử Du chỉ cần đem một đạo quân nhỏ đến để “dẹp loạn” cũng có thể dễ dàng thành công và như thế sẽ có cơ may được triều đình biết đến. Tuy nhiên, toan tính của Phùng Tử Du chỉ đúng được một nửa mà thôi.

Thúc thủ trong phủ thành, cả tinh thần lẫn thể xác của Lưu Diên Hựu đều bị suy kiệt, khả năng chống đỡ ngày một yếu dần, để rồi cuối cùng, Lưu Diên Hưu đã bị lực lượng nghĩa binh Đinh Kiến giết chết. Toàn bộ chính quyền của An Nam Đô Hộ Phủ tan rã. Và trong chỗ không ngờ, kế hoạch “mượn tay kẻ thù tiêu diệt đối thủ”, của Phùng Tử Du đã hoàn tất. Sau thắng lợi này, Đinh Kiến vào tiếp quản phủ thành và nhanh chóng xây dựng một cơ quan quyền lực mới do ông đứng đầu.

đi đàn áp Đinh Kiến.

Bấy giờ, chính quyền của Đinh Kiến còn quá non trẻ, lực lượng quân sĩ mới nhóm họp tuy có tinh thần chiến đấu rất cao nhưng khả năng và kinh nghiệm trận mạc thì còn quá ít ói, cho nên, Tào Huyền Tĩnh đã triệt để lợi dụng tình hình này để liên tục tổ chức những cuộc tấn công lớn. Dù dã anh dũng chống đỡ một cách ngoan cường nhưng nghĩa quân Đinh Kiến vẫn không sao có thể đẩy lùi được Tào Huyền Tĩnh. Đinh Kiến bị kẻ thù giết hại và cuộc khởi nghĩa do ông cầm đầu đến đó cũng bị dập tắt, ách đô hộ của nhà Đường lại được tái lập trên đất nước ta.

Đinh Kiến là hiện thân của ý chí quật cường và khí phách hiên ngang, của quyết tâm giành lại độc lập và chủ quyền cho non sông đất nước. Ông thực sự xứng đáng được xếp vào hàng những tên tuổi lớn của truyền thống quật khởi, đặc biệt là truyền thống quật khởi thể hiện trong thời Bắc thuộc.

VII. MAI THÚC LOAN VỚI CUỘC QUYẾT CHÍ ĐẠI ĐỊNH ĐẦU THẾ KỈ VI­II

Mai Thúc Loan ở Hoan Châu

Quân ba mươi vạn ruổi vào ải xa

Hiệu cờ Hắc Đế mở ra

Cũng toan quét dẹp sơn hà một phương.

(Đại Nam quốc sử diễn ca)

Bộ chính sử đầu tiên của nước ta có đề cập tới nhân vật Mai Thúc Loan là ĐẠI VIỆT SỬ KÍ TOÀN THƯ (Ngoại kỉ, quyển 5, tờ 4-b) nhưng tất cả cũng chỉ gồm vỏn vẹn chừng độ ba bốn chục chữ và tất nhiên là số lượng những thông tin quan trọng hầu như không có gì đáng kể. Mấy thế kỉ sau, các sử gia trong Quốc Sử Quán Triều Nguyễn với việc biên soạn bộ KHÂM ĐỊNH VIỆT SỬ THÔNG GIÁM CƯƠNG MỤC (Tiền biên, quyển 4, tờ 21), đành là có cố gắng sưu tầm thêm tư liệu và ghi chép về nhân vật Mai Thúc Loan tương đối dài hơn, song, mức độ cũng chỉ rất giản lược.̀ các khu vực lân cận vào năm cuối cùng của niên hiệu Đại Lịch (tức là năm 779) thì tính từ đó cho đến năm Phùng Hưng qua đời (năm 791) cũng đã dài đến 12 năm. Xuất phát từ thực tế rất rõ ràng và không thể nào phủ nhận này, chúng ta hoàn toàn có thể kết luận rằng chính quyền tự chủ do Phùng Hưng lập ra đã tồn tại trước sau khoảng hơn mười năm. Đó là một khoảng thời gi­an có độ dài rất đáng kể, và quan trọng hơn, với khoảng thời gi­an tồn tại rất đáng kể như vậy, nhận thức của hậu thế về quy mô cũng như tầm vóc sự nghiệp của Phùng Hưng cũng sẽ khác hơn trước.

3. TRẬN QUYẾT ĐẤU THỨ HAI : ĐẬP TAN TOÀN BỘ GUỒNG MÁY ĐÔ HỘ CỦA GIẶC

), hai anh em Phùng Hưng và Phùng Hãi liễn lập tức tập hợp lực lượng, ồ ạt tấn công vào sào huyệt kiên cố nhất của quân đô hộ lúc bấy giờ là thành Tống Bình. Mưu sĩ Đỗ Anh Hàn nguyên là một trong những vị Tù Trưởng rất có danh tiếng của vùng đất Đường Lâm, đồng thời cũng chính là người đồng hương của hai anh em Phùng Hưng và Phùng Hãi. Khi Phùng Hưng và Phùng Hãi dựng cờ xướng nghĩa, Đỗ Anh Hàn là người dã hăng hái đến tham gia hướng ứng đầu tiên. Ông đã nhanh chóng trở thành một vị dũng tướng trực tiếp cầm quân, về sau, ông là một mưu sĩ rất giàu tài năng và là một chỗ dựa thật sự tin cậy của nghĩa quân. Cống hiến của Đỗ Anh Hàn đối với nghĩa quân Phùng Hưng là rất đa dạng và rất lớn lao.

&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp; Trước sức mạnh của cuộc tấn công táo bạo này, “(Cao) Chính Bình vừa lo sợ lại vừa phẫn uất mà chết”. Các bộ chính sử xưa đều chép là sự kiện này diễn ra vào tháng 4 năm Tân Mùi (791). Tuy nhiên, rất nhiều công trình khảo cứu sử học Việt Nam đã được công bố từ trước đến nay (trong đó có cả một số công trình của chúng tôi) do những hạn chế đô hộ nhà Đường bị phá vỡ, chính quyền tự chủ do Phùng Hưng đứng đầu đã được xây dựng và hiên ngang tồn tại biệt lập với chính quyền đô hộ của giặc. Ở gi­ai đoạn hai, với quá trình kiên quyết bao vây và không ngừng gây sức ép bằng thực lực quân sự của chính mình, cuối cùng, nghĩa quân Phùng Hưng đã chiếm được thành Tống Bình và nắm quyền kiểm soát toàn cõi trong một thời gi­an ngắn.

4. ĐOẠN KẾT CỦA MỘT KHÚC TRÁNG CA

)…

) do chưa rõ năm sinh nên cũng chưa rõ là khi mất ông hưởng thọ bao nhiêu tuổi. Sau sự ra đi rất đột ngột của Phùng Hưng, một cuộc khủng hoảng rất đáng tiếc đã diễn ra ngay trong chính quyền tự chủ còn rất non trẻ mà nguyên do chủ yếu chỉ là vấn đề chọn người xứng đáng lên kế vị. Bấy giờ, có hai phe cánh đối nghịch với hai chủ trương cũng rất khác nhau đã hình thành. Phe thứ nhất gồm khá đông các tướng lĩnh và quan lại (nhưng chưa rõ ai là người cắm đầu) chủ trương chọn Phùng Hãi vì cho rằng Phùng Hãi là em ruột của Phùng Hưng, người có nhiều công lao, giàu kinh nghiệm chỉ huy và là người đã lớn tuổi, đủ chín chắn cũng như uy phong để có thể xử lí và quyết đoán mọi việc. Phe thứ hai (đại diện là nhân vật Bồ Phá Cần) cho là phải chọn Phùng An vì Phùng An là con trai của Phùng Hưng, là người duy nhất có đủ danh nghĩa chính thống để đảm bảo sự xứng hợp với cái gọi là “đại đạo cha truyền con nối”. Theo ghi chép của Lý Tế Xuyên thì Bồ Phá Cần là người có võ nghệ cao cường, rất khoẻ mạnh và cũng rất hung hãn còn Phùng Hãi là người rất nhún nhường, nên cuối cùng, phe Bồ Phá Cần thắng thế. Phùng An - một người cạn nghĩ và rất ngây thơ trong nhận thức chính trị được đưa lên kế vị. Ngay sau khi lên ngôi, Phùng An đã làm hai việc. Một là tôn cha làm Bố Cái Đại Vương. (Tục bấy giờ gọi cha là Bố, mẹ là Cái. cho kể như không còn gì đáng kể nữa.

3. TRẦN QUÝ KHOÁNG - NGỪOI QUẢ CẢM ĐẢM NHẬN SỨ MẠNG KẾ TỤC SỰ NGHIỆP CỦA TRẦN NGỖI

&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp; Bấy giờ, cái chết oan ức của Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân đã khiến cho khá đông nghĩa sĩ của Trần Ngỗi bị hoang mang và không ít người trong số họ đã mất hẳn niềm tin vào lãnh tụ của chính mình mà điển hình hơn cả có lẽ là Đặng Dung (con của Đặng Tất) và Nguyễn Cảnh Dị (con của Nguyễn Cảnh Chân). Hai ông tuy không hề từ bỏ lí tưởng xả thân đánh giặc cứu nước nhưng cũng không thể chấp nhận tiếp tục làm tướng cho Giản Định Đế Trần Ngỗi là người đã giết hại cha mình. “Con Nguyễn Cảnh Chân là (Nguyễn) Cảnh Dị và con của Đặng Tất là (Đặng) Dung, vì giận về nỗi cha họ bị chết oan nên đã đem quân Thuận Hoá về Thanh Hoa, đón quan Nhập Nội Thị Trung Trần Quý Khoáng về Nghệ An rồi tôn lập làm Hoàng Đế”. Ngày 17 tháng 3 năm Kỉ Sửu (1409), tại Chi La (nay đất này thuộc huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh), Trần Quý Khoáng đã chính thức lên ngôi Hoàng Đế và đặt niên hiệu là Trùng Quang. Trong guồng máy triều đình hoàn toàn mới mẻ này, Nguyễn Suý là Thái Phó, Nguyễn Cảnh Dị là Thái Bảo, Đặng Dung là Đồng Bình Chương Sự, Nguyễn Chương là Tư Mã…

&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp; Một cuộc khởi nghĩa, một kẻ thù chung, một sự nghiệp lớn chỉ mới bắt đầu, khó khăn đang chồng chất, vậy mà tiếc thay, nghĩa sĩ và nhân dân yêu nước đương thời đã có đến hai vị Hoàng Đế. Trên khắp thế gi­an này, một trong những nỗi lo lắng thuộc vào hàng đáng kể nhất có lẽ là… thừa Vua ! Bấy giờ, chính quyền của Trần Ngỗi đóng ở Ngự Thiên còn Chính quyền của Trần Quý Khoáng thì đóng ở khu vực Chi La. Trên thực tế thì giữa hai guồng máy chính quyền của Trần Ngỗi và Trần Quý Khoáng lúc bấy giờ cũng đã bắt đầu có nhưng Phụ dò biết được đại binh của Trần Quý Khoáng đang ở Bình Than nên lập tức cho quân tới tấp tấn công. Bấy giờ, nhiệm vụ tổ chức chống đánh quân Minh ở Hàm Tử, ngăn không cho Trương Phụ tiến vào khu vực Bình Than đã được Trần Quý Khoáng trao cho tướng Đặng Dung. Nhưng vì “quân ít mà lương ăn thì cũng đã cạn”, Đặng Dung không thể nào cầm cự nổi. Trần Quý Khoáng thấy rõ nguy cơ bị thất bại hoàn toàn nên đã cấp tốc hạ lệnh rút về Nghệ An. Tức tối vì không bắt được Trần Quý Khoáng, Trương Phụ đã tiến hành những cuộc đàn áp dân lành rất tàn khốc. “Trương) Phụ đi đến đâu là giết chóc đến đó. Có nơi xác người chất thành núi, có nơi chúng mổ bụng lấy ruột người quấn vào thân cây hoặc lấy mỡ người đem rán. Có nơi thì chúng lấy người đem đốt hoặc nướng làm trò chơi. Thậm chí có nơi chúng mổ bụng đàn bà đang mang thai, cắt lấy hai tai của hài nhi để về gi­ao nộp… Dân khắp mọi vùng từ kinh thành đến các lộ đều phải lần lượt chịu hàng. Ai chưa bị giết thì chúng bắt làm nô tì rồi đem đi bán, mỗi người một nơi, tan tác hết cả”.

&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp; Về tội ác “trời không dung đất không tha” của Trương Phụ, các sử thần của Quốc Sử Quán triều Nguyễn nghiêm phê rằng : “Trương Phụ học được từ Minh Thành Tổ thủ đoạn tàn khốc là một người phạm tội dây dưa đến mười họ nên mới dám bạo ngược giết chết dân của trời như thế. Kẻ bất nghĩa tất nhiên là cuối cùng sẽ chuốc lấy cái chết, dùng sức mạnh để cướp nước người có phải là dễ đâu.”

&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp; Sau khi Trần Quý Khoáng rút về Nghệ An. toàn bộ chính quyền của nhà Hậu Trần từ Thanh Hoa trở ra Bắc cũng lần lượt bị tan rã và do vậy, khó khăn của nghĩa quân Trần Quý Khoáng ngày càng thêm chồng chất.

5. BA LẦN SAI SỨ - BA LÂ và quan Thẩm Hình Bùi Nột Ngôn được cử làm Phó Sứ. Ngoài tờ biểu văn xin cầu phong, phái bộ sứ giả này còn mang theo khá nhiều phẩm vật quý giá để dâng tiến. Rất tiếc là viên Chánh Sứ Hồ Ngạn Thần đã không đủ năng lực và phẩm hạnh để có thể làm tròn bổn phận được gi­ao nên khi về nước liền bị Trần Quý Khoáng sai bắt gi­am rồi giết chết.

&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp; Lần thứ ba là vào tháng 4 năm Quý Tị (1413). Bấy giờ, Trần Quý Khoáng đóng ở Hoá Châu còn đất Nghệ An thì tướng tổng chỉ huy của quân Minh là Trương Phụ chiếm giữ. Lần này, người được cử làm Chánh Sứ là Nguyễn Biểu và khi đến khu vực đặt đại bản doanh của Trương Phụ tại Nghệ An, Nguyễn Biểu đã bị Trương Phụ giết chết.

&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp; Tóm lại, chỉ trong vòng hai năm (từ mùa hè năm 1411 đến mùa hè năm 1413), Trần Quý Khoáng đã ba lần chủ động sai sứ giả ra đi nhưng cả ba lần đều bị bế tắc và thất bại. Các vị Chánh Sứ hoặc Phó Sứ như Nguyễn Nhật Tư, Lê Ngân, Nguyễn Biểu… đều bị giặc giết hại. Riêng Hồ Ngạn Thần, với những hành vi và lỗi lầm thật khó bễ tha thứ khi đi sứ, tiếng là sau đó bị Trần Quý Khoáng giết mà thực lại chẳng khác gì tự ông đã giết chết chính ông.

&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp; Với Trần Quý Khoáng, ba lần sai sứ là ba lần bế tắc và thất bại nhưng với toàn thể nhân dân yêu nước và đặc biệt là đối với các bạc hào kiệt ưu thời mẫn thế lúc bây giờ, thực tế thất bại của cả ba lần ấy đã để lại một bài học rất lớn, đó là khi thực lực chưa đủ mạnh thì không thể nào tranh biện lẽ đúng sai cùng quân cướp nước được.

6. THÂN DẪU MẤT VẪN NGỜI NGỜI TIẾT THÁO

&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp; Mùa xuân năm Quý Tị (1413), Trần Quý Khoáng đã cố gắng mở một cuộc tấn công ra Bvà củng cố ý thức giữ quân ngũ thật nghiêm, về việc thực hiện các biện pháp đúng đắn nhằm kịp thời chấn chỉnh tinh thần chiến đấu của binh sĩ trước khi xông trận mà danh tướng Đặng Tất đã để lại, quả thật là rất xứng đáng được hậu thế trân trọng kế thừa.

&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp; c) Tiếc thay, sau trận Bô Cô…

&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp; Rất tiếc là sau trận đại thắng vang dội ở Bô Cô, giữa Giản Định Đế Trần Ngỗi và hai vị danh tướng là Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân đã nảy sinh sự bất đồng mà tất cả chỉ xoay quanh việc sắp xếp thứ tự ưu tiên giải quyết các vấn đề lớn đặt ra lúc ấy giờ. Sử cũ chép rằng :

&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp; Hoàng Đế nói với quân sĩ rằng:

&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp; - Nay nên thừa thế chẻ tre, hãy đánh theo lối cuốn chiếu thẳng một mạch, nhanh như sét đánh khiến giặc không kịp bịt tai, ta cứ tiến ra thành Đông Quan thì chắc chắn là sẽ phá tan được chúng.

&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp; Nhưng (Đặng) Tất lại tâu :

&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp; - Trước hãy nên bắt hết bọn giặc vẫn còn sống sót, không nên để mối lo về sau."

&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp; Bởi sự khác biệt ý kiến như vậy, Giản Định Đế Trần Ngỗi trở nên chần chừ, không dám quyết đoán gì cả. Nhân cơ hội đó, quân Minh từ thành Đông Quan đã tiến gấp vào để cứu viện, nhờ đó, Mộc Thạnh mới dễ dàng thoát được. Về phần mình, Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân vẫn trước sau như một, nhất quyết chủ trương phải nhanh chóng sai người đi khắp các địa phương lùng bắt cho hết bọn tàn binh của giặc, do vậy, sức mạnh của lực lượng nghĩa quân cũng dần dần bị phân tán, khả năng tổ chức tấn công và phòng ngự đều bị suy giảm.

&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp; Đúng lúc nội bộ bắt đầu có sự rạn nứt rất đáng lo ngại như vậy thì viên hoạn quan Nguyễn Quỹ cùng với một kẻ học trò rất giảo hoạt là Nguyễn Mộng Trang lại xúc xiểm tâu với Giản Định Đế Trần Ngỗi rằng : “Đặng Tất và Nguyễn Cảnh Chân đã chuyên quyền, tự ý bổ dụng người này hoặc cất nhắc người khác, nếu không sớm liệu tính đi thì về sau thật khó lòng mà chế ngự được”.

&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp; Trần Ngỗi nghe xong, vội vã cho triệu Đặng Tất…

&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp; Trái ngược hẳn với nhận xét của Phan Phu Tiên, đồng thời, bộc lộ chính kiến của mình một cách rõ ràng hơn cả có lẽ là Hoàng Giáp Ngô Thì Sĩ. Ông viết : “Đặng Tất đã trù tính rất kĩ. Khi ấy, Mộc Thạnh mới sang, vượt đường xa ngàn dặm, quân sĩ vừa đói lại vừa mỏi mệt, chúng thoát chết được ở Bô Cô đã là may mắn lắm, còn như Trương Phụ thì đúng là một tên cáo già, nó chẳng khác gì con hổ lặng lẽ ngồi nhìn ở Đông Đô. Nếu vội đem đội quân cô độc của mình mới từ xa kéo đến mà đánh thì chưa dễ gì giành được phần thắng, vạn nhất mà cả trước mặt lẫn sau lưng đều có giặc, không lấy đâu ra quân lương cứu viện thì có phải là dấn thân vào chỗ chết hay không ? Cho nên, thà cứ tạm nghỉ ngơi cho điều độ mới là kế vạn toàn. Đặng Tất cũng là bậc tướng quân giàu trí lực đấy chứ. Giá thử cứ sử dụng hết mưu kế của ông thì nhất định quân Minh sẽ vấp phải một phen khốn đốn, quyết không thể nói rằng nước ta là chỗ không có người được”.

&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp; d) Đặng Dung - một tấm gương sáng ngời về tạm gác thù nhà để quyết đền nợ nước

&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp; Thân sinh của Đặng Dung vốn là một vị danh tướng giàu tài năng và đã từng lập được nhiều công lao to l nhưng lại không biết mặt để có thể nhộn ra hắn, vì thế, (Trương) phụ liền nhảy sang thuyền nhỏ chạy thoát. Quân Minh bị tan vỡ đến quá nửa, thuyền bè, khí giới bị đốt phá gần hết, thế mà bọn (Nguyễn) Suý không biết hợp sức để cùng đánh. (Trương) Phụ biết quân của (Đặng) Dung ít nên lập tức quay lại đánh. (Đặng) Dung đành phải chịu thất bại, quân sĩ chạy tan tác hết.”. Các sử gia trong Quốc Sử Quán triều Nguyễn chép đến đây đã phải lấy làm tiếc rẻ mà hạ bút viết Lời phê rằng : “Trời nuông tha Trương Phụ”. Về trận ác Chiến diễn ra ở Thái Gia, Tiến Sĩ Ngô Sĩ Liên từng viết một lời bàn khá dài, trong đó có đoạn : “(Đặng) Dung nhân lúc nửa đêm cho quân đến đánh úp doanh trại giặc, khiến cho chủ tướng của giặc phải hoảng sợ chạy trốn, đốt được thuyền bè và khí giới của giặc, nếu không phải là bậc tướng tài thì chẳng thể làm được như thế. Song, cuối cùng (Đặng Dung) vẫn bị thất bại, đó là bởi tại trời. Nhưng, thất bại mà vẫn vinh quang là vì sao vậy? Bọn (Đặng) Đung vì đại nghĩa mà quyết không thèm sống chung với giặc, thề sẽ tiêu diệt sạch lũ chúng nên đã hết lòng phò tá Trùng Quang Đế dụng mưu khôi phục. Trong khoảng 5 năm kiên trì đánh giặc, dẫu có lúc thất trận mà ý chí vẫn không hề nao núng, khí thế vẫn rất hăng, mãi tới lúc hoàn toàn kiệt sức mới chịu dừng. Lòng trung với nước của bề tôi như vậy thiết tưởng đến trăm đời sau vẫn còn thấy rõ.”.

&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp; Tháng 11 năm Quý Tị (1413) Đặng Dung cùng với Nguyễn Cảnh Dị bị Trương Phụ bắt sống khi đang tìm đường tạm lánh sang Xiêm La (tức là Thái Lan ngày nay) để tính kế lâu dài. Vì liên tục lớn tiếng chửi mắng quân giặc nên Nguyễn Cảnh Dị đã bị Trương Phụ hạ lệnh giết ngay khi vừa bị bắt. Ngay sau đó, Trương Phụ liền sai người dừng chiến thuyền cặn kẽ,

&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp; Vó câu nghìn dặm tuyết xông pha.

,

&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp; Khương quế(258) thêm cay tính tuổi già.

&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp; Việc nước một mai công ngõ vẹn.

danh tiếng dõi lâu xa.

&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp; Nguyên văn bài hoạ của Nguyễn Biểu :

&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp; Tiếng ngọc từ vâng trước bệ hoa,

&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp; Ngóng tai đồng vọng thuở thi ca.

&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp; Đường mây gió kị lần lần trải,

&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp; Ải tuyết cờ mao thức thức pha.

&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp; Há một cung tên lồng chí trẻ,

&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp; Bội mười vàng sắt đúc gan già.

.

ba ngàn dám ngại xa.

Phụ lục 7

VĂN TẾ NGUYỄN BIỂU

Trùng Quang Đế Trần Quý Khoáng

&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp; Than rằng :

&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp; Sinh sinh hoá hoá, cơ huyền tạo mờ…

&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp; Sắc sắc không không, bụi hồng trần phơi phới.

&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp; Bất cộng thù, thiên địa chứng cho,

&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp; Vô cùng hận, quỷ thần thề với.

&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp; Nhớ thuở tiên sinh cao giơ mũ trãi,

&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp; Chăm chắm ở nơi đài gián, đành làm cột đá đêương Sự Đặng Dung.

&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp; Ngay sau khi Trần Quý Khoáng lên ngôi Hoàng Đế,…

&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp; Trận thắng quan trọng, có ý nghĩa mở đầu cho sự nghiệp cầm quân của Nguyễn Suý có lẽ là trận Bài Lâm, diễn ra vào tháng 9 năm Tân Mão (1411). Bằng lối đánh úp rất bất ngờ vốn là sở trường riêng của mình, Nguyễn Suý đã tiêu diệt hoàn toàn lực lượng quân Minh đóng tại đây và bắt giết được tên tay sai của giặc là Nguyễn Chính.

&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp; Tháng 6 năm Nhâm Thìn (1412), Nguyễn Suý và các tướng lĩnh xuất sắc nhất của nghĩa quân như Đặng Dung và Nguyễn Cảnh Dị đã có một cuộc đọ sức quyết liệt với quân Minh ở Mô Độ. Nhưng đang lúc đôi bên chưa phân thắng bại thì do hợp đồng tác chiến và nhất là mệnh lệnh chỉ huy thiếu chặt chẽ. Nguyễn Suý và Nguyễn Cảnh Dị đã rút lui quá sớm. Tướng giặc là Trương Phụ đã triệt để khai thác chỗ yếu kém này để điên cuồng tổ chức phản công. Nghĩa quân phải chịu tổn thất rất nặng nề.

&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp; Tháng giêng năm Quý Tị (1413), Nguyễn Suý và Nguyễn Cảnh Dị theo Trùng Quang Đế Trần Quý Khoáng, đem quân vượt biển tiến ra tận Vân Đồn để đồng thời thực hiện ba nhiệm vụ khác nhau. Một là thăm dò thực lực của quân Minh ở vùng duyên hải đông bắc, hai là sẵn sàng tổ chức tấn công giặc khi có điều kiện và ba là thu gom lương thực cho nghĩa quân. Nguyễn Suý đã rất cố gắng nhưng rất tiếc là lực bất tòng tâm. Tháng ba cùng năm 1413 ông buộc phải theo Trùng Quang Đế Trần Quý Khoáng và các tướng lĩnh khác trở về Nghệ An, lúc đi quân sĩ mười phần thì khi về chỉ còn lại chừng ba bốn phần.

&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp; Tháng 9 năm Quý Tị (1413), Nguyễn Suý là một trong những vị tướng có vinh dự được trực tiếp cầm quân tham gia vào trận tấn công rất lớn ở Thái Giaư.

NGUYỄN KHẮC THUẦN

TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH

&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp; I. TÀI LIỆU CHỮ HÁN CỦA TRUNG QUỐC

&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp; 01. Âu Dương Tu - Tống Kỳ : TẤN THƯ. Súc Ấn Bách Nạp Bản Thương Vụ Ấn Thư Quán.

&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp; 02. Âu Dương Tu - Tống Kỳ : TÂN ĐƯỜNG THƯ. Súc Ấn Bách Nạp Bản. Thương Vụ Ấn Thư Quán.

&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp; 03. Ban CỐ : TIỀN HÁN THƯ. Súc Ấn Bách Nạp Bản. Thương Vụ Ấn Thư Quán.

&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp; 04. Cát Hồng : BÃO PHÁC TỬ NỘI NGOẠI THIÊN. Súc Ấn Bách Nạp Bản. Thương Vụ Ấn Thư Quán.

&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp; 05. Cốc Ứng Thái : MINH SỬ KỈ SỰ BẢN MẠT. Súc Ấn Bách Nạp Bản. Thương Vụ Ấn Thư Quán.

&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp; 06. Hoài Nam Vương Lưu An : HOÀI NAM TỬ. Súc Ấn Bách Nạp Bản. Thương Vụ Ấn Thư Quán.

&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp; 07. Lịch Đạo Nguyên : THUỶ KINH CHÚ. Súc Ấn Bách Nạp Bản. Thương Vụ Ấn

Thư Quán.

&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp; 08. Ngụy Trưng : TUỲ THƯ. Súc Ấn Bách Nạp Bản. Thương Vụ Ấn Thư Quán

&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp; 09. Phạm Việp : HẬU HÁN THƯ. Súc Ấn Bách Nạp…

&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp; 10. Phòng Kiều : TẤN THƯ. Súc Ấn Bách Nạp Bản. Thương Vụ Ấn Thư Quán

&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp; 11. Trần Thọ : TAM QUỐC CHÍ. Súc Ấn Bách Nạp Bản. Thương Vụ Ấn Thư Quán.

&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp; 12. Tư Mã Thiên : SỬ KÍ TƯ MÃ THIÊN. Súc Ấn Bách Nạp Bản. Thương Vụ Ấn

Thư Quán.

&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp; 13. Nhạc sử : THÁI BÌNH HOÀN VŨ KÍ. Kim Lăng ấn bản.

&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp; 14. Thung Đình Ngọc : MINH SỬ. Súc Ấn Bách Nạp Bản. Thương Vụ Ấn Thư Quán

&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp; II. TÀI LIỆU CHỮ HÁN CỦA VIỆT NAM

&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp; 01. Khuyết danh : ĐẠI VIỆT SỬ LƯỢC.

&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;&nb­sp;ử Việt Nam…

(165) KHÂM ĐỊNH VIỆT SỬ THÔNG GIÁM CƯƠNG MỤC (Tiền biên, quyển 4, tờ 3). Tác giả xin được chú thích thêm rằng Đại Đồng là niên hiệu của Lương Vũ Đế (502-549). Trong thời gi­an 47 năm ở ngôi, Lương Vũ Đế sử dụng tất cả 7 niên hiệu khác nhau mà Đại Đồng là niên hiệu thứ năm, được dùng từ năm 535 đến năm 546.

(166) Chữ Phiêu cũng đọc là Thiêu, vì thế, Dương Phiêu còn được đọc là Dương Thiêu.

(167) ĐẠI VIỆT SỬ KÍ TOÀN THƯ (Ngoại kỉ, quyển 4, tờ 16-a).

(168) Diêu Tư Liêm (Trung Quốc) : TẦN THƯ. Súc Ấn Bách Nạp…

(169) Theo thần tích đền Thanh Liệt thì Phạm Tu hi sinh vào…

(170) Gia Ninh lúc bấy giờ là tên một huyện của quận Gi­ao Chỉ. Nay, đất đai của huyện Gia Ninh xưa tương ứng với một vùng rộng lớn nằm giáp giới giữa Hà Nội, Hà Tây, Vĩnh Phúc với Phú Thọ. Tuy nhiên trung tâm của huyện Gia Ninh có lẽ là ở huyện Yên Lạc của tỉnh Vĩnh Phúc ngày nay.

(171) Thành Gia Ninh nay thuộc xã Gia Ninh, huyện Yên Lạc,…

(172) Nay là vùng Lập Thạch, tỉnh Vĩnh Phúc.

(173) Phan Huy Lê - Trần Quốc Vượng - Hà Văn Tấn - Lương…

(174) ĐẠI VIỆT SỬ KÍ TOÀN THƯ (Ngoại kỉ, quyển 4, tờ 16-b…

(175) Dân các làng thuộc hai xã Cổ Tiết và Văn Lang vẫn…

(176) ĐẠI VIỆT SỬ KÍ TOÀN THƯ cho biết Lý Nam Đế mất vào tháng 3 năm Mậu Thìn (548) : “Lý Nam Đế ở động Khuất Lão lâu ngày, nhiễm lam chướng, lâm bệnh mà mất”. (Ngoại kỉ, quyển 4, Triệu Việt Vương kỉ, tờ 18-a).

(177) ĐẠI VIỆT SỬ KÍ TOÀN THƯ (Ngoại kỉ, quyển 4, tờ 18a-​b).

(178) KHÂM ĐỊNH VIỆT SỬ THÔNG GIÁM CƯƠNG MỤC (Tiền biên, quyển 4, tờ 7).

(179) Nhà Lương chia châu Cửu Đức cũ thành ba châu là Đức…

(180) Diêu Tư Liêm (Trung Quốc) : TRẦN THƯ. Súc Ấn Bách Nạp Bản. Thương Vụ Ấn Thư Quán

(181) Ái Châu nay đại để tương ứng với địa phận tỉnh Thanh…

(182) ĐẠI VIỆT SỬ KÍ TOÀN THƯ

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#nỏm