Các giải pháp để tăng năng lực cạnh tranh về giá của các doanh nghiệp VN

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

LỜI NÓI ĐẦU

* * *

Trong tác phẩm Toàn tập, nhà xuất bản Tiến bộ, Matxcơva, 1981, V.I.Lênin đã chỉ rõ: “Nghiên cứu sự phát sinh, phát triển và suy tàn của những quan hệ quan hệ sản xuất của 1 xã hội nhất định trong lịch sử, là nội dung của học thuyết kinh tế của Mác”. Bên cạnh đó trọng tâm là học thuyết giá trị và học thuyết giá trị thặng dư. Học thuyết giá trị là xuất phát điểm trong toàn bộ lý luận kinh tế của Các Mác, ông nghiên cứu mối quan hệ giữa người với người, thông qua mối quan hệ giữa vật với vật. Cơ sở về kinh tế để xác lập quan hệ đó chính là lao động, cái thực thể, yếu tố cấu thành lượng giá trị hàng hóa.

Trong quá trình nghiên cứu lí luận về lượng giá trị hàng hóa của Các Mác, nhóm xin đưa ra một số giải pháp để tăng năng lực cạnh tranh về giá của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay.

A. Lý luận về lượng giá trị hàng hóa của Mác

I. Hàng hóa:

1. Khái niệm:

Hàng hóa là sản phẩm của lao động, nó có thể thỏa mãn những nhu cầu nhất định nào đó của con người thông qua trao đổi, mua bán.

Hàng hóa có thể ở dạng hữu hình như: sắt, thép, lương thực, thực phẩm, … hoặc ở dạng vô hình như những dịch vụ thương mại, vận tải hay dịch vụ của giáo viên, bác sĩ, nghệ sĩ, …

2. Hai thuộc tính của hàng hóa:

a. Giá trị sử dụng của hàng hóa:

Giá trị sử dụng của hàng hóa là công dụng của hàng hóa có thể thỏa mãn nhu cầu của con người, công dụng này là do thuộc tính tự nhiên của vật thể hàng hóa quyết định.

b. Giá trị của hàng hóa:

Giá trị của hàng hóa là lao động kết tinh trong hàng hóa, được tạo ra trong sản xuất nhưng chỉ biểu hiện ra trong trao đổi với các hàng hóa khác. Hay một cách đơn giản hơn nữa thì giá trị của hàng hóa là sự hao phí lao động của con người. Chính nhờ cơ sở chung đó mà các hàng hóa có thể trao đổi được với nhau.

* Nhận xét:

Hai mặt thuộc tính của hàng hóa có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, thống nhất với nhau, nhưng ở đây là sự thống nhất của hai mặt đối lập. Vì vậy, bất kỳ một vật nào muốn trở thành hàng hóa đều phải có đủ hai thuộc tính giá trị và giá trị sử dụng, nếu thiếu một trong hai thuộc tính đó, sản phẩm không thể là hàng hóa.

II. Lượng giá trị hàng hóa:

1. Thước đo lượng giá trị hàng hóa:

Giá trị của hàng hóa là do lao động xã hội, lao động trừu tượng của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Vậy, lượng giá trị của hàng hóa được đo bằng lượng lao động tiêu hao để sản xuất ra hàng hóa đó. Lượng lao động tiêu hao đó được tính bằng thời gian lao động. Song lượng giá trị của hàng hóa không phải do mức hao phí lao động cá biệt hay thời gian lao động cá biệt quy định, mà nó được đo bởi thời gian lao động xã hội cần thiết.

Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian cần thiết để sản xuất ra một hàng hóa trong điều kiện bình thường của xã hội, tức là với một trình độ kĩ thuật trung bình, trình độ khéo léo trung bình và cường độ lao động trung bình so với hoàn cảnh xã hội nhất định.

2. Cấu thành lượng giá trị hàng hóa:

Trong quá trình sản xuất, lao động cụ thể của người sản xuất có vai trò bảo tồn và di chuyển giá trị của tư liệu sản xuất vào sản phẩm, đây là bộ phận giá trị cũ trong sản phẩm.

Còn lao động trừu tượng (biểu hiện ở sự hao phí lao động sống trong quá trình sản xuất ra sản phẩm) có vai trò làm tăng thêm giá trị cho sản phẩm, đây là bộ phận giá trị mới của sản phẩm.

3. Các nhân tố ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa.

Do thời gian lao động xã hội cần thiết luôn thay đổi, nên lượng giá trị của hàng hóa cũng là một đại lượng không cố định. Sự thay đổi lượng giá trị của hàng hóa tùy thuộc vào nhân tố: Năng suất lao động, mức độ phức tạp của lao động.

a. Năng suất lao động.

Năng suất lao động là năng lực sản xuất của lao động, nó được tính bằng số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc số lượng thời gian cần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm.

Những yếu tố ảnh hưởng đến năng suất lao động: Trình độ thành thạo của người lao động; sự phát triển của khoa học kỹ thuật và trình độ ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất; các yếu tố xã hội của quá trình sản xuất, đặc biệt là năng lực của người quản lý; và các điều kiện tự nhiên.

Năng suất có thay đổi theo chiều nghịch đến lượng giá trị của một đơn vị hàng hóa và không ảnh hưởng đến số lượng giá trị được tạo ra trong một khoảng thời gian. Qua đó, năng suất lao động đã phản ánh được mức độ hiệu quả trong việc sử dụng lao động.

b. Mức độ phức tạp của lao động.

Lao động giản đơn là lao động không cần phải trải qua một quá trình học tập lâu dài hay chi phí tốn kém đã có thể hoạt động được. Lao động phức tạp là lao động theo một nghề chuyên môn nhất định, lao động này phải trải qua quá trình luyện tập, chi phí tốn kém thì mời trở nên lành nghề. Lao động phức tạp là bội số của lao động giản đơn nên trong cùng một thời gian, lao động phức tạp tạo ra nhiều giá trị hơn lao động giản đơn.

III. Sự chuyển hóa giá trị thành giá cả:

Giá cả sản xuất là giá cả bằng chi phí sản xuất cộng với lợi nhạuận bình quân. Giá trị là cơ sở của giá cả sản xuất, giá cả sản xuất là phạm trù kinh tế tương đương với phạm trù giá cả. Nó cũng là cơ sở của giá cả trên thị trường. Giá cả sản xuất điều tiết giá cả thị trường, giá cả thị trường xoay quanh giá cả sản xuất.

Như vậy, xét trong nền kinh tế hàng hóa Việt Nam hiện nay thì khi giá trị hàng hóa chuyển hóa thành giá cả sản xuất thì quy luật giá trị có hình thức biểu hiện thành quy luật giá cả sản xuất.

B. Giải pháp tăng năng lực cạnh tranh về giá của các doanh nghiệp ở nước ta hiện nay

I. Cạnh tranh:

Cạnh tranh là sự ganh đua về kinh tế giữa những chủ thể trong nền sản xuất hàng hóa nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất, tiêu thụ hoặc tiêu dùng hàng hóa, từ đó thu được nhiều lợi ích nhất cho mình.

Cạnh tranh có vai trò rất quan trọng và là một trong những động lực mạnh mẽ nhất thúc đẩy sản xuất phát triển. Nó buộc người sản xuất phải thường xuyên năng động, nhạy bén trong mọi hoàn cảnh, và luôn bình tĩnh xử lý mọi tình huống. Bên cạnh đó, cạnh tranh cũng có những mặt tiêu cực, thể hiện ở cạnh tranh không lành mạnh, gây tổn thất nặng nề cho cá nhân, xã hội, …

Năng lực cạnh tranh là thuật ngữ được dùng để nói đến các đặc tính cho phép một hãng cạnh tranh một cách có hiệu quả với các hãng khác nhờ có chi phí thấp hoặc sự vượt trội về công nghệ và kỹ thuật trong so sánh quốc tế.

Nhưng ở đây, do giới hạn của đề bài, chúng ta chỉ đề cập đến việc cạnh tranh về giá của các doanh nghiệp Việt Nam trên lĩnh vực sản xuất.

II. Thực trạng và giải pháp để tăng năng lực cạnh tranh về giá của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay.

Các doanh nghiệp Việt Nam đang đứng trước những thách thức và cơ hội to lớn, đòi hỏi phải đáp ứng yêu cầu ngày càng gay gắt của cơ chế kinh tế thị trường và sức ép hội nhập quốc tế. Nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam trong bối cảnh hội nhập, các doanh nghiệp cần phải giải quyết một số vấn đề sau:

Đầu tiên là vấn đề năng suất lao động. Năng suất lao động là năng lực sản xuất của lao động, nhưng được tính bằng số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc số lượng thời gian cần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm. Nên muốn tăng khối lượng hàng hóa sản xuất thì phải giảm thời gian lao động cần thiết dể sản xuất ra 1 đơn vị hàng hóa. Để làm giảm giá trị của 1 đơn vị hàng hóa thì phải tăng năng suất lao động lên (vì giá trị hàng hóa tỉ lệ nghịch với năng suất lao động).

Có hai loại năng suất lao động: năng suất lao động cá biệt và năng suất lao động xã hội. Tuy nhiên, trên thị trường, hàng hóa được trao đổi không phải theo giá trị cá biệt mà là giá trị xã hội. Vì vậy mà các doanh nghiệp cần đặc biệt chú ý tới năng suất lao động xã hội nếu muốn sản phẩm của mình có khả năng cạnh tranh trên thị trường.

Tuy nhiên, năng suất lao động lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố như:

+ Trình độ chuyên môn, khả năng làm việc của người lao động.

+ Mức độ phát triển của khoa học kĩ thuật và trình độ ứng dụng tiến bộ kĩ thuật vào sản xuất, hiệu quả của tư liệu sản xuất.

+ Các điều kiện tự nhiên, xã hội.

* Xét trên thực trạng của các doanh nghiệp Việt Nam:

Năng suất lao động thấp, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm cao làm yếu khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt. So sánh giữa sản phẩm trong nước với các nước như Trung Quốc, Thái Lan, Malaysia, Philipines, … thì các sản phẩm sản xuất của các doanh nghiệp Việt có giá thành cao hơn từ 1.58 đến 9.25 lần mặc dù giá nhân công lao động thuộc lại thấp so với các nước trong khu vực.

Thiết bị kỹ thuật – công nghệ nước ta lạc hậu từ 20 đến 30 năm, cá biệt có trường hợp 50 năm so với nhiều nước trong khu vực và trên thê giới. Chỉ có 10% các nhà nghiên cứu Việt Nam được tiếp cận với thiết bị thí nghiệm có trình độ tương đương với các quốc gia Đông Nam Á khác, cơ cấu tuổi cán bộ nghiên cứu cao, trung bình là 55 – 60 tuổi. Hiệu suất sử dụng thiết bị thấp, chỉ khoảng 25 – 30 %, … Công nghệ lạc hậu dẫn đến chi phí nhân công cao mà giá trị gia tăng của sản phẩm lại thấp. ặt khác, lao động dư thừa về số lượng, song lại yếu về chất lượng.

* Ta có thể đưa ra một số giải pháp để tăng năng suất lao động, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh cho các doanh nghiệp Việt Nam:

+ Cải tiến khoa học kĩ thuật.

Nâng cao nhận thức của mọi thành viên trong từng doanh nghiệp, không chỉ từ đội ngũ lãnh đạo, quản lý mà ngay cả đội ngũ người lao động về ý nghĩa sống còn của việc giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm và nâng cao chất lượng sản phẩm, thực hành tiết kiệm trong doanh nghiệp.

Khơi dậy khả năng sang tạo, phát huy trí tuệ của từng cá nhân và tập thể nhằm tìm cách tối thiểu hóa chi phí sản xuất, đặc biệt là chi phí nguyên liệu, chi phí quản lý doanh nghiệp …

Với hiện trạng công nghệ và thiết bị sản xuất lạc hậu như hiện này của các doanh nghiệp Việt Nam dẫn tới tình trạng định mức tiêu hao chi phí nguyên vật liệu lớn và phát sinh thêm nhiều chi phí cho sửa chữa, bảo dưỡng. Do đó, trước mắt cần đẩy mạnh đầu tư và thay thế một số loại thiết bị, máy móc sản xuất quá lạc hậu, cho năng suất thấp và tiêu hao năng lượng lớn. Tuy nhiên, trong điều kiện nhiều doanh nghiệp cũng thiếu vốn, tiềm lực tài chính chưa đủ mạnh để đầu tư đồng bộ công nghệ và thiết bị, thì các doanh nghiệp này cần chủ động trong việc liên kết, hợp tác kinh doanh với nhau. Sự hợp tác liên kết giữa các doanh nghiệp thuộc các ngành khác nhau sẽ giúp các doanh nghiệp giảm thiểu những khó khăn về tài chính, công nghệ, vốn, thị trường, … và đẩy mạnh nội lực phát triển cho doanh nghiệp.

Ngoài ra nhà nước nên có thêm những biện pháp hỗ trợ cho các doanh nghiệp phát triển, như tổ chức một cơ quan hỗ trợ tư vấn về thiết bị, công nghệ mới, hiện đại, thích hợp và cung cấp thông tin công nghệ, thị trường cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tạo lập và phát triển thị trường công nghệ, tạo điều kiện để các doanh nghiệp này tăng cường cạnh tranh sản xuất, tạo ra nhiều loại sản phẩm. Từ đó, nhà nước đã giúp cho các doanh nghiệp nâng cao được năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, có thêm một tiềm lực mới trong công cuộc hội nhập quốc tế.

+ Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp.

Để có được đội ngũ lao động đủ khả năng đáp ứng được yêu cầu kinh doanh trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt của thị trường mở cửa, cần tập trung thực hiện các giải pháp sau:

Tiến hành sắp xếp bố trí hợp lý đội ngũ cán bộ quản lý và lao động hiện có ở các doanh nghiệp. Cần phát hiện người có năng lực, bố trí họ vào những công việc phù hợp với ngành nghề, trình độ và năng lực sở trường. Bổ sung những cán bộ, lao động đủ tiêu chuẩn, có triển vọng phát triển, đồng thời thay thế những cán bộ, nhân viên không đủ năng lực, không đủ tiêu chuẩn, vi phạm pháp luật và đạo đức. Đây là giải pháp quan trọng để nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả công tác của đội ngũ cán bộ hiện có mà chưa cần đến việc đào tạo, bồi dưỡng.

Tạo sự gắn bó về quyền lợi và trách nhiệm của người lao động với doanh nghiệp bằng các chính sách như: đầu tư cho đào tạo, bảo đảm công ăn việc làm ổn định cho người lao động kể cả khi có biến động, xây dựng chế độ tiền lương và thưởng theo hướng khuyến khích người lao động có những đóng góp tích cực cho sự phát triển của doanh nghiệp. Đa dạng hóa các kỹ năng và đảm bảo khả năng thích ứng của người lao động khi cần có sự điều chỉnh lao động trong nội bộ doanh nghiệp. Biện pháp này sẽ giúp các doanh nghiệp có thể dễ dàng điều chỉnh lao động khi có những biến động, giảm được chi phí để tuyển dụng hay thuyên chuyển lao động.

Tiêu chuẩn hóa cán bộ, lao động trong doanh nghiệp. Ở mỗi ngành nghề, vị trí công tác, cung bậc công việc đòi hỏi kiến thức, kỹ năng về chuyên môn khác nhau. Do đó tiêu chuẩn hóa cán bộ phải cụ thể hóa đối với từng ngành nghề, từng loại công việc và phải phù hợp, đáp ứng được yêu cầu phát triển trong từng thời kỳ. Khi xây dựng hệ thống tiêu chuẩn, cần phải tham khảo điều kiện khu vực và đặc thù của Việt Nam, tôn trọng tính văn hóa kinh doanh của doanh nghiệp.

Áp dụng cơ chế bổ sung và đào thải nhân lực để duy trì đội ngũ cán bộ quản lý kinh doanh, nhân viên tinh thông nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu cạnh tranh của thị trường. Đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, lao động để có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, sử dụng thành thạo vi tính, am hiểu thị trường thế giới và luật lệ buôn bán quốc tế.

Bên cạnh đó, nguồn nhân lực của các doanh nghiệp cần được nâng cao tay nghề, tăng sự phức tạp trong lao động, … có thể, doanh nghiệp sẽ tổ chức đào tạo, bổ sung kiến thức cơ bản cho người lao động, … từ đó mới tăng được sức cạnh tranh.

Tiếp theo là vấn đề cải thiện mức độ phức tạp của lao động. Vấn đề này là một vấn đề bức xúc của xã hội. Có thể dễ dàng thấy rằng, lao động ở Việt Nam chủ yếu là lao động giản đơn, người lao động không có kiến thức nền tảng mà chủ yếu làm việc theo kinh nghiệm, … . Đây chính là nguyên nhân cơ bản làm cho giá thành nhân công Việt Nam rẻ hơn rất nhiều lần so với các nước trong khu vực hay trên thế giới. Sau đây là một số giải pháp nhằm nâng cao trình độ tay nghề của người lao động, qua đó mà sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp được nâng lên.

+ Một là, Kích thích người lao động chủ động tham gia vào quá trình đào tạo: Mở rộng đào tạo là biện pháp quan trọng và là con đường cơ bản để nâng cao tốt nhất cho người lao động. Việc người lao động chủ động tham gia đào tạo có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả đào tạo, từ đó hình thành tính chủ động và tự giác trong việc tham gia đào tạo. Từ đó, tác động trực tiếp đến nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, mở rộng tri thức, khả năng sáng tạo, phát minh, óc tưởng tượng và các kỹ năng thực hành nghề nghiệp của từng nhân viên.

+ Hai là, nội dung đào tạo phải gắn liền với chiến lược phát triển Kinh tế – Xã hội trong xu thế hội nhập. Xác lập và thực thi phương án đào tạo, cần suy xét tình hình phát triển đào tạo phải theo hướng chuyên sâu nhằm đáp ứng được mong muốn của người lao động và nhà tuyển dụng.

+ Ba là, Chính phủ phải tăng cường chi phí đầu tư cho giáo dục theo hướng đào tạo trọng điểm. Tăng cường đầu tư ngân sách nhà nước cho giáo dục cả về số lượng tuyệt đối và tỷ trọng: Gia tăng đầu tư trang thiết bị, phòng thí nghiệm, phương tiện giảng dạy cho các trường đại học và cao đẳng trong toàn vùng.

Triển khai mô hình liên kết giữa giáo dục và đào tạo với doanh nghiệp, giữa các trường nghề với các trường đại học, cao đẳng trong nước. Đây là mô hình đào tạo có hiệu quả nhằm khắc phục tình trạng: Nội dung, chương trình, quy mô và cơ cấu đào tạo xa rời với thực tế. Mô hình này sẽ thỏa mãn nhu cầu nguồn nhân lực cho doanh nghiệp, thông qua đào tạo doanh nghiệp đánh giá được chất lượng đào tạo và có ý kiến phản hồi để điều chỉnh nội dung, chương trình và phương pháp đào tạo. Sự tham gia của doanh nghiệp trong đào tạo là cơ sở để quán triệt nguyên lý giáo dục “Học đi đôi với hành”, “Nhà trường gắn liền với lao động sản xuất” có như vậy mới đáp ứng được yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực .

Khai thác tối đa các nguồn đầu tư khác bằng phương thức “Xã hội hóa giáo dục”, nhằm đẩy nhanh đầu tư cơ sở vật chất và trang thiết bị xây dựng các trường đạt chuẩn quốc gia. Tạo điều kiện và khuyến khích mở các trường cao đẳng cộng đồng ở các tỉnh có sự hỗ trợ của các đại học ngoài vùng để mở các phân hiệu đào tạo nguồn nhân lực. Chẳng hạn: Muốn đào tạo được 1 Kỹ sư nông nghiệp thì điều đầu tiên là chúng ta phải định hướng rõ ràng cho người học hiểu sẽ được học cái gì? Học môn gì? Những môn học đó sẽ giúp ích được gì và sẽ bổ trợ cho những môn học nào khác và khi học xong thì các Kỹ sư tương lai này sẽ làm được những việc gì để phát triển kinh tế – xã hội? Tránh tình trạng người đào tạo của Việt Nam cái gì cũng biết, cái gì cũng hay nhưng cuối cùng thì chẳng có gì là giỏi.

Vì vậy, phải đổi mới phương pháp giảng dạy, nghĩa là không dạy theo kiểu tổng quát chung chung mà phải đi sâu vào từng khía cạnh, từng lĩnh vực cụ thể để tránh tình trạng đào tạo xa vời thực tế. Thay đổi phương pháp đào tạo ngay từ đầu là một việc làm thật sự cần thiết và quan trọng, có như vậy mới hy vọng nâng cao chất lượng đào tạo và đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp.

Bên cạnh đó tăng cường đào tạo lại lao động, bồi dưỡng tay nghề, kỹ năng với những tiêu chuẩn chất lượng mới được quy định nhằm nâng cao chất lượng lao động. Với điều kiện là các cơ sở dạy nghề phải được đăng ký chính thức, đạt được những chỉ tiêu chất lượng và những văn bằng chứng chỉ do các cơ sở này cấp phải được cơ quan quản lý nhà nước công nhận.

+ Bốn là, Xây dựng chiến lược hợp tác quốc tế về đào tạo nhân lực khoa học có trình độ cao. Nhận thức được vai trò quan trọng của hợp tác quốc tế, các quốc gia đi đầu trong ASEAN đều coi trọng hợp tác quốc tế và đẩy nhanh hội nhập trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực. Trên cơ sở so sánh những mặt mạnh, mặt yếu về tiềm lực khoa học với các đối tác nước ngoài mà đề ra các chương trình hợp tác về đào tạo. Tập trung đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao, có chuyên môn và trình độ quản lý phục vụ cho các doanh nghiệp. Khẩn trương đào tạo đội ngũ giảng viên cho các trường dạy nghề. Trước mắt, chú trọng đào tạo ngắn hạn với tạo nguồn phát triển lâu dài, cân đối phát triển giáo dục đào tạo với tăng cường dạy nghề. Bên cạnh việc xây dựng hệ thống trường dạy nghề, cần xây dựng và mở rộng hệ thống trường Cao đẳng cộng đồng ở tất cả các tỉnh, thành trong vùng theo hình thức đào tạo từng học phần khác nhau, cũng như thiết kế chương trình học và thời gian học theo nhu cầu, phù hợp đối với tình hình phát triển Kinh tế – Xã hội.

+ Năm là, Có chế độ đãi ngộ đặc biệt để phát triển đội ngũ giảng viên nhằm khuyến khích họ tham gia tích cực vào sự nghiệp giáo dục đào tạo nhân tài. Áp dụng hàng loạt các chính sách cải thiện đời sống và điều kiện làm việc của Giảng viên như: Chế độ tiền lương; tiền thưởng; xây dựng cư xá giảng viên; tăng kinh phí cho việc thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học, ứng dụng, kiểm nghiệm lý thuyết; áp dụng chế độ đãi ngộ đặc biệt đối với những giảng viên là Giáo sư, Tiến sỹ… nhằm giúp họ yên tâm gắn bó lâu dài với nghề.

+ Sáu là, Đa dạng hóa các hình thức đào tạo: Đào tạo ở nước ngoài, đào tạo tại chỗ, mời chuyên gia sang giảng dạy, xây dựng các dự án quốc tế về đào tạo nhân lực có trình độ cao nhằm đáp ứng kịp thời cho nhu cầu nguồn nhân lực phục vụ phát triển Kinh tế – Xã hội.

KẾT LUẬN

* * *

Trên đây là những giải pháp nhóm chúng em đưa ra nhằm tăng khả năng cạnh tranh về giá cho các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay dựa trên những lý luận về lượng giá trị hàng hóa của Mác. Một số biện pháp trên đã được các doanh nghiệp áp dụng và đã thu được những kết quả nhất định. Điều đó cho thấy lý luận về lượng giá trị hàng hóa nói riêng và lý luận kinh tế Mác nói chung có nội dung đúng đắn và vẫm còn giữ nguyên giá trị cho đến ngày hôm nay.

Hơn thế nữa, trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Đảng và chính phủ cần nắm vững và vận dụng một cách sáng tạo những lý luận để đưa kinh tế nước ta phát triển một cách nhanh chóng và bền vững.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro

#xxx