Các khía cạnh cơ bản của nghiên cứu lý thuyết liên văn hoá

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

1. Các khía cạnh cơ bản của nghiên cứu lý thuyết liên văn hoá.

Trong lĩnh vực liên văn hóa, con người buộc phải tiếp xúc với một loạt các nguyên tắc cơ bản đã được những người đi trước đề ra, cả trong những tình huống thực của giao tiếp liên văn hóa, lẫn trong những nhận định, nghiên cứu và lý thuyết về liên văn hóa. Tuy nhiên, những gì đã từng được xem là nguyên tắc cơ bản này không hẳn là bất di bất dịch, và lịch sử nghiên cứu cũng như sự trải nghiệm và độ lùi cần thiết đã cho phép các nhà nghiên cứu nhìn nhận lại chúng một cách trọn vẹn, sáng suốt và đúng đắn hơn.

1.1. Giao tiếp với kẻ khác

Đạo lý về cái khác biệt, bản sắc và tương tác

Ngay trong lĩnh vực triết học, khái niệm cái khác biệt (altérité) vẫn luôn là một đề tài lớn và rất được quan tâm khai thác.

Đạo lý về cái khác biệt được xây dựng giữa một bên là chủ nghĩa tương-đối-một-cách-tuyệt-đối (do coi trọng quá mức sự khác nhau), và một bên là một cách nhìn nhận thuần túy phổ-quát-chủ-nghĩa (không có sự phân biệt).

Giao tiếp và tương tác với Kẻ khác giả định có tồn tại một mối quan hệ giữa người và người. Muốn thế, Kẻ Khác phải được xem là một chủ thể thực sự với tư cách là một con người, vừa giống Tôi nhưng đồng thời cũng khác Tôi, là một alter ego (cái tôi khác) có thể đem ra đối chiếu và đối địch.

1.2. Tính phổ quát, tính đặc thù và tính đa dạng

Trước khi xem xét mối quan hệ giữa bộ ba tính đa dạng, tính đặc thù, tính phổ quát (diversité, singularité, universalité), cần xác định rõ giới hạn của mỗi một khái niệm cấu thành bộ ba đó. Trước tiên, theo M.Abdallah Pretceille, không được nhầm lẫn tính phổ quát (universalité) với tính đại cương hay chung chung (généralité): một khi được xem như giáo điều, tính đại cương hay chung chung sẽ ngăn trở việc nhận thức sự đa dạng của thực tại. Tính phổ quát cũng cần được phân biệt với tính phổ quát chủ nghĩa (universalisme) là một dạng thoái hóa của nguyên tắc phổ quát. Mặt khác, trong khi cái toàn thể (totalité) bóp chẹt và khước từ cái đa dạng (divers), thì cái phổ quát lại xuất phát từ cái đa dạng. Cũng cần tránh nhầm lẫn giữa sự khác nhau (différence) và tính đặc thù (singularité): sự khác nhau giả định có một thái độ phán xét, một chuẩn mực, nó lấy tộc mình làm trung tâm và mang nặng dấu ấn của một chủ thể; trái lại, tính đặc thù được xác định trong một chiều hướng năng động và có sự hỗ tương qua lại giữa hai chủ thể.

Như thế, bộ ba liên văn hóa tính đa dạng, tính đặc thù, tính phổ quát có ý nghĩa như thế nào? Tính đặc thù liên quan đến một cá thể, một con người, nó được khám phá nhờ một tiến trình đi từ tính phổ quát đến tính đa dạng và ngược lại. Nó là cái cho phép tính phổ quát không biến thoái thành tính đại cương hay chung chung và tính đa dạng thành sự khác nhau (M.Abdallah Pretceille). Cách tiếp cận liên văn hóa dựa trên hệ bộ ba khái niệm đó không phải là một cơ cấu cứng nhắc với ba thành phần, mà có tính mềm dẻo trong cách đặt vấn đề, nhằm phát hiện hơn là xác định, nhằm thấu hiểu hơn là giải thích.

Khả năng tự bóc tách, tha giác và thấu thị

Trong giao tiếp liên văn hóa, một khía cạnh cần lưu ý khác là thao tác tách xa ra hay gần lại đối với bản thân (và văn hóa của bản thân) hay đối với Kẻ khác (và văn hóa của Kẻ khác). Nhìn chung, thái độ lấy tộc mình làm trung tâm không chỉ tồn tại trong các xã hội phương Tây, mà gắn với bản thân sự đa dạng của các nền văn hóa. Quả thật, không có khả năng tự giải thoát khỏi bản thân sẽ dẫn đến hai hiện tượng: về mặt tâm lý, sẽ lấy bản thân làm trung tâm (égocentrisme), và về mặt văn hóa, sẽ lấy tộc mình làm trung tâm (ethnocentrisme). Theo M.Abdallah Pretceille, thái độ lấy tộc mình làm trung tâm hay xem bản thân là trung tâm gắn một cách tự nhiên, hữu cơ với các nhóm người và các cá nhân, nó chỉ trở nên bệnh hoạn nếu cá nhân hay nhóm người đó không có khả năng tự tách khỏi chính mình, khỏi nhãn hiệu của mình. Chỉ có thể giảm bớt phần nào tính chủ quan này nếu ta có ý thức về tính chủ quan của bản thân, về tình trạng ăn sâu bén rễ của mình. Chính theo chiều hướng đó mà con người cần học cách tự bóc tách (décentration), tự giải thoát đối với bản thân, đối với văn hóa, tri thức cũng như tư tưởng.

Tương tự như thế, T.Todorov đã tiếp thu ý tưởng của Lévi Strauss về tiến trình nghiên cứu dân tộc học cũng như về phương thức thấu hiểu Kẻ khác và văn hóa của Kẻ khác. Theo Lévi Strauss, đó là một quá trình bao gồm: (1) một thao tác tự tách khỏi văn hóa của bản thân, (2) một bước đến gần văn hóa của Kẻ khác, (3) rồi một bước tự tách khỏi văn hóa này (một khi đã được trang bị thêm một cách nhìn khác đối với văn hóa của chính mình), và (4) cuối cùng là một sự tiến gần trở lại với nền văn hóa của bản thân (với khả năng nghiên cứu văn hóa của mình cũng như văn hóa khác). T.Todorov nhận định: thời điểm quan trọng nhất trong quá trình này không phải là lúc tự tách khỏi Kẻ khác và văn hóa của Kẻ khác, mà là lúc tự tách khỏi bản thân và văn hóa của bản thân.

Trong tiến trình tự bóc tách, tự giải thoát khỏi các nền văn hóa đó, đương nhiên không thể tránh khỏi những đánh giá méo mó, lệch lạc, do ảnh hưởng của văn hóa của bản thân. Do đó, theo G.Dereveux, thái độ cần có không phải là kêu ca than vãn, mà phải ý thức rằng đó là những nguyên nhân dứt khoát có khả năng gây nhầm lẫn.

Bên cạnh đó, tha giác (empathie) cũng được xem như một ý niệm cần thiết trong việc thấu hiểu Kẻ khác. Tha giác khác với thiện cảm: đó là một tiến trình tri giác, trong khi thiện cảm lại thuộc về tình cảm. Những khái niệm cơ bản của tiến trình tha giác là tha giác ngoại (allo empathie, nhìn Kẻ khác với đôi mắt của Kẻ khác) và tha giác tự thân (auto empathie, cảm nhận và đoán nhận Kẻ khác trong tương quan với Tôi). Tiến trình tha giác chủ yếu tồn tại giữa người và người, và điều quan trọng ở đây không phải là bản thân Kẻ khác, mà là những mối tương quan giữa Tôi (Tôi-cá nhân hoặc Tôi-tập thể) và Kẻ khác.

Cuối cùng, nguyên tắc thấu thị (exotopie) của M.Bakhtine được định nghĩa theo ngôn từ của T.Todorov là một sự khẳng định tính bên ngoài của kẻ khác đồng thời với việc nhìn nhận anh ta như một chủ thể. Trong Mỹ học về sáng tạo ngôn ngữ, M.Bakhtine khẳng định: Một sự thấu hiểu tích cực không tự khước từ chính mình, vị trí của mình trong thời gian, không khước từ văn hóa của mình và không quên điều gì. Điều quan trọng trong hoạt động thấu hiểu, đối với người thấu hiểu, chính là sự thấu thị của riêng mình trong thời gian, trong không gian, trong văn hóa - đối với điều anh ta muốn thấu hiểu. Theo M.Bakhtine, con người không thể thực sự nhìn thấy vẻ bên ngoài của mình và hiểu nó như một tổng thể, và những tấm gương soi cũng như những bức ảnh chụp cũng không thể giúp gì được cho anh ta: vẻ bên ngoài thực sự của anh ta chỉ có thể được nhìn thấy và thấu hiểu bởi những người khác, nhờ sự thấu thị của họ về không gian, và nhờ họ là những kẻ khác.

Học để có khả năng tự bóc tách, tha giác và thấu thị được xem là những ý niệm góp phần hình thành một phương thức ứng xử đúng đắn với bản thân và với Kẻ khác, trong tình huống giao tiếp liên văn hóa.

1.3. Khôi phục giá trị của những stéréotype

Stéréotype, chưa có từ tương ứng chính xác trong tiếng Việt, được hiểu là những hình ảnh có sẵn, có tính cố định về bản thân hay về kẻ khác, có tính đại diện cho một nhóm người, một nền văn hóa. Stéréotype thường được quan niệm là một trong những trở lực gây vấp váp nguy hại nhất trong tiếp xúc với Kẻ khác văn hóa. Tuy nhiên, trên thực tế nghiên cứu có hai xu hướng đối lập: xu hướng thứ nhất cho rằng stéréotype là kết quả của một sự vận hành khiếm khuyết, thậm chí bệnh hoạn của những quá trình nhận thức; đối với xu hướng thứ hai, stéréotype lại là những quan niệm xuất phát từ cách thức mà con người xử lý thông tin một cách tự nhiên, đó là kết quả của sự vận hành thông thường về nhận thức. Những nhà nghiên cứu thuộc xu hướng thứ hai này kêu gọi giải oan cho một số lượng lớn những người thiện chí đã cảm thấy có tội khi bản thân họ có những stéréotype và có ý muốn khước từ chúng (G.Verbunt).

Tất nhiên chúng ta không chối bỏ những nguy cơ của việc viện dẫn một cách vô tội vạ những stéréotype trong giao tiếp liên văn hóa, khi mà ở tình huống cùng quẩn mọi thứ đều được giải thích dựa vào việc cá nhân đó thuộc về nhóm người này hay nhóm người khác, do những tính cách tích cực hay tiêu cực mà người ta tưởng rằng đã biết về nhóm người đó. Tuy nhiên, ít ra là trong bước đầu tiếp xúc với Kẻ khác văn hóa, những stéréotype cho phép chúng ta nhận dạng và đoán định về Kẻ khác và bắt đầu cuộc trao đổi. Việc gán cho Kẻ khác một hay những đặc tính sẵn có đó có thể được điều chỉnh dần hồi, qua tiếp xúc và hiểu biết lẫn nhau. C.Charnet khẳng định: Khi gặp gỡ những người xa lạ, muốn nhận dạng người đối thoại với mình, chúng ta thường xác định anh ta bắt đầu từ những tiền giả định về cộng đồng mà anh ta thuộc về, rồi dần dà qua tương tác, chúng ta điều chỉnh sự đánh giá ban đầu đó.

Dù thế nào chăng nữa, cũng không thể tránh khỏi những stéréotype, chúng luôn hiện hữu, có sẵn, và khuynh hướng cầu viện đến những stéréotype là một ứng xử được thừa nhận là tiềm ẩn nhưng có thật trong tương quan của con người với Kẻ khác. Mặt khác, trước xu hướng không thừa nhận stéréotype và vai trò của chúng trong việc xử lý thông tin, P.Guerlain nhận định: ...không có gì là định kiến trong việc nhận thức những sự khác nhau giữa các quốc gia, và ta cần tiếp tục nghiên cứu chúng với những ngôn từ đã được gột rửa khỏi các nội hàm có tính phân biệt chủng tộc nhưng không rơi vào những cấm kỵ mê muội mới. Tương tự như vậy, A.Taguieff nhận xét: Định kiến cơ bản nhất là ở chỗ tin rằng mình không có một định kiến nào: đó là một thái độ cực kỳ tự phụ.

Theo R.Amossy, từ những năm 50 của thế kỷ 20, nhiều nhà nghiên cứu ngành tâm lý xã hội học Mỹ hoặc dựa trên các công trình của Mỹ đã đặt lại vấn đề về những tiêu chí kết án stéréotype. Stéréotype có tính cố định và cứng nhắc - nhưng phải chăng phần lớn những khái niệm và tín ngưỡng cũng không tránh khỏi tỏ ra vô cùng cứng nhắc và không dễ gì thay đổi ? Stéréotype sơ đồ hóa và xếp loại, nhưng những tiến trình đó là không thể thiếu đối với nhận thức, ngay cả trong trường hợp chúng dẫn đến một tình trạng đơn giản hóa và đại cương hóa có khi quá đáng. Chúng ta cần chắp thêm vào những mô hình đã tồn tại những gì chúng ta nhìn thấy để có thể thấu hiểu thế giới, dự báo và điều chỉnh những ứng xử của mình. Trong chiều hướng đó, giá trị của stéréotype có thể được phục hồi và có thể nói đến những chức năng xây dựng của nó. Tuy nhiên, ta cũng không quên rằng trong tình hình hiện nay, bên cạnh sự đánh giá tích cực đó vẫn song song tồn tại một xu hướng gán cho stéréotype những ý nghĩa tiêu cực.

1.4. Từ nguyên tắc khoan dung đến sự rèn luyện về xung đột

Trong giao tiếp liên văn hóa, đối diện với Kẻ khác vừa giống Tôi lại vừa khác Tôi, khoan dung là một thái độ thường được khuyên nên có, nó đối lập với thái độ cuồng tín hay bài ngoại. Tất nhiên như thế là hợp lý, nhưng thái độ khoan dung cũng phải được đặt đúng vị trí của nó, nếu không sẽ dẫn đến những tổn thất vô cùng tai hại. Trước tiên, T.Todorov cảnh báo: Có thể cái mà chúng ta tưởng là khoan dung chỉ là sự dửng dưng, Không còn là sự chấp nhận những giá trị khác nhau, mà là thái độ dửng dưng trước những giá trị, sự khước từ bước vào bên trong thế giới của kẻ khác: kẻ khác không quấy rầy gì tôi vì họ không đáng kể. Mặt khác, T.Todorov cũng cho rằng sự khoan dung chỉ là một đức tính nếu những đối tượng để khoan dung là thực sự vô hại, như những thói quen ăn mặc, ăn uống, vệ sinh của Kẻ khác, khác với chúng ta. Ngược lại, khoan dung là không đúng chỗ nếu những ''đối tượng'' đó là những phòng hơi ngạt, hoặc là, để lấy một thí dụ xa hơn, những sự hiến tế mạng người ở những cư dân Aztèques: thái độ duy nhất có thể chấp nhận đối với họ là sự kết án (cho dù sự kết án đó không dạy bảo cho chúng ta biết liệu chúng ta có phải can thiệp để ngăn chặn những hành động đó hay không, và phải ngăn chặn như thế nào). Như thế, vấn đề không phải là gạt bỏ sự khoan dung, nhưng nó không có chỗ đứng trong những nguyên tắc cơ bản của việc phán xét. Nếu các phòng hơi ngạt và sự hiến tế mạng người là đáng lên án, đó là do chúng ta dựa vào những nguyên tắc tuyệt đối đòi hỏi chẳng hạn sự công bằng về quyền lợi của mọi con người và tính cách bất khả xâm phạm của bản thân họ. Như thế cái cần quan tâm chú trọng ở đây chính là những giá trị xuyên văn hóa (valeurs transculturelles). Tính phổ quát của loài người phải được quan niệm không phải theo chiều hướng là nền văn hóa này xét trên tổng thể là cao hơn hay thấp hơn nền văn hóa kia, mà theo chiều hướng là một yếu tố nào đó thuộc một nền văn hóa (văn hóa của chúng ta hay một văn hóa khác), hay một ứng xử văn hóa nào đó là đáng kết tội hay đáng ngợi ca.

Mặt khác, hoàn cảnh chính trị, xã hội, kinh tế ở đó diễn ra giao tiếp liên văn hóa là không thể bôi xóa đi được. Hơn nữa, mỗi một cá nhân đều mang trong mình một lịch sử, đó là lịch sử của dân tộc, của cộng đồng, của cả cá nhân, lịch sử này ít nhiều gắn với những xung đột lịch sử và nhân loại. Lựa chọn thái độ bằng mọi cách lẩn tránh những xung đột, sự đối đầu, không nhắc đến những điều đó sẽ chỉ là một chính sách đà điểu, là không dám nhìn thẳng sự thật, từ khước nhận định về sự khác biệt và cách ứng xử thích đáng. Ý kiến của F.Fouquet đã được M.Abdallah Pretceille dẫn ra như sau: cần học tập để có được sự can đảm của tính tương tác chủ quan, là cách duy nhất để tự làm giàu bản thân, điều đó không có nghĩa là biến tất cả các cách làm, cách nghĩ, cách tồn tại khác thành của mình, mà thừa nhận những phương thức đó như những lời giải đã được minh chứng, cũng có những giới hạn và hạn chế như những phương thức của bản thân mình, thuộc một ngữ cảnh khác ngữ cảnh của chính mình. M.Abdallah Pretceille kết luận: sự gặp gỡ giả định có đối đầu, thậm chí xung đột, trong tính phức tạp toàn vẹn của nó và trong tính đa thanh, và động thái liên văn hóa là một động thái có tính dao động được tạo nên từ những thao tác được định hướng lại không ngừng, xuất phát từ những tiêu cự khác nhau.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro