các nền văn minh trên thế giới1

Màu nền
Font chữ
Font size
Chiều cao dòng

1.Nền Văn Minh Lưỡng Hà

2.Lịch Sử Chiêm Tinh Học Ai Cập

3.Lịch sử Chiêm Tinh Học Ai Cập (P2)

4.Đế Quốc Ai Cập

5.Đế Quốc Ai Cập (P2)

6.Bí ẩn Kim Tự Tháp Mặt Trời

7.Người lùn Munayi

8.Đế Quốc Ai Cập (P3)

9.La Mã cổ đại

10.Thành phố truyền thuyết Atlantis

11.Vì sao ĐQ La Mã bị tiêu diệt (P1)

12.Vì sao ĐQ La Mã bị tiêu diệt (P2)

13.Vì sao ĐQ La Mã bị tiêu diệt (P3)

14.Vương quốc huyền thoại Etruscan

NỀN VĂN MINH LƯỠNG HÀ

Lưỡng Hà nằm giữa hai con sông Tigris và Euphrates là một trong những vùng đất phì nhiêu ở Tây Á - nơi mà người Hy Lạp cổ đại gọi là Mesopotamia, xuất hiện nhiều quốc gia bao gồm cả Babylon, Assyria, Phenicia và Palestine - hiện nay đang có nhiều tranh chấp với nước láng giềng Do Thái về lãnh thổ - có một nền văn minh hội tụ và tổng hợp của nhiều nền văn hóa tác động lẫn nhau. Nói chung lại đây là nền văn minh Tây Á đã đóng góp không nhỏ vào kho tàng văn hóa của nhân loại.

Lưỡng Hà là một dải đất phì nhiều, mầu mỡ thuận lợi cho việc canh tác, như trồng các loại hoa quả như trồng nho, hoặc đại mạch hay olive v.v.. Ngoài ra người vùng Lưỡng Hà lúc bấy giờ còn chú trọng về chăn nuôi gia súc cũng như phát triển cả nghề đánh cá, đem lại một nguồn lợi thiên nhiên không nhỏ cho quốc gia này.

Đặc biệt Lưỡng Hà có được khí hậu nóng ẩm hạp với việc canh tác, sản xuất được các thực vật có thể nói là đa dạng, lại hàng năm vào tháng Năm hàng năm có nước lũ của hai dòng sông đổ về phù sa mầu mỡ đổ vào vùng đồng bằng giúp cho hoa màu phong phú. Các cư dân nhiều địa phương khác hội tụ về đây càng ngày càng nhiều, và cũng

chính vì vậy mà sinh ra nhiều tranh chấp về quyền lợi, tạo ra các mối chia rẽ khiến Lưỡng Hà khó lòng thống nhất được.

Nền văn minh cổ đại xuất hiện trước nhất ở lưu vực Lưỡng Hà từ người Sumeria từ vùng núi phương Đông di cư đến vào thiên niên kỷ thứ lV Tr.CN.

Tại vùng Nam Lưỡng Hà bắt đầu vào đầu thiên niên kỷ thứ III Tr. CN. mọc lên những thành thị xuất hiện tại vùng đồng bằng, kết hợp lại với các vùng đất phù nhiêu chung quanh lập thành các quốc gia đầu tiên tại ở đây.Người giữ chức vụ tối cao của các bang đó lúc bây giờ gọi là Patesia. Quốc gia này cai trị bởi các Hội đồng bô lão, Hội Đồng Nhân Dân,coi như là Lưỡng viện. Các Hội Đồng này bầu ra các nhà lãnh đạo, các viên chức hành chánh để điều hành guồng máy quốc gia. Thống nhất được vùng Lưỡng Hà này do từ thành bang Lagate vào thế kỷ thứ XXV Tr. CN., nhưng sau đó thì quyền bá chủ của Sumeria lại lọt vào tay của thành bang khác : đó là thành bang Uruk.

Dần dà trung tâm kinh tế Lưỡng Hà không còn ở miền Nam Lưỡng Hà nữa do vấn đề địa lý phải đưa lên miền Bắc nơi lưu vực có hai dòng sông gần nhau nhất mà thành phố Akkad - nơi tiếp các sự di chuyển đường thủy được xem là thuận lợi cho việc chuyển vận mà Nam Lưỡng Hà không có điều kiện như vậy.

Thành phố được xem là lớn nhất của miền Bắc Lưỡng Hà là Akkad, gần với Baghdad ngày nay, trung tâm của các con đường buôn bán vùng Sumeria, Iran, Tiểu Á, Capcase, Địa Trung Hải... Đến năm 2300 Tr. CN Lưỡng Hà thống nhất nhờ thành phố lớn Akkad bắt đầu phát triển được, từ đó đất nước trở nên giàu mạnh, nhưng thực sự phồn vinh là dưới triều đại Naramine vào những năm từ 2270 đến 2254 Tr. CN. Tuy nhiên, sự thống nhất và phồn vinh này không được bao lâu thì Lưỡng Hà bị chia cắt và sự thịnh vượng không còn tồn tại nữa. Và mải đến năm 1950 Tr.CN. Lưỡng Hà lại bị thuộc về Semitic.

Dù Lưỡng Hà trải qua bao nhiêu thời kỳ thăng trầm nền kinh tế vẫn giữ lấy nông nghiệp làm chính. Các công trình thủy lợi được xây dựng lên để dẫn thủy nhập điền, về ngũ cốc như các giống lúa lúa mì, lúa mạch, các loại đậu loại vừng v.v...cũng như chà là, lê, táo...là các loại trái cây được xem là phát triển nhất của đất nước này vẫn đóng vai trò chủ đạo. Đó là chưa kể các nông trại nuôi gia súc, như bò,trâu,cừu,lừa v.v... đến gia cầm như gà,vịt, ngỗng và... cả nghề đánh cá nữa cũng vẫn được chú trọng.

Ngoài ra Lưỡng Hà cũng đặc biệt chú trọng đến việc sản xuất vũ khí để phòng vệ và chế tạo đồ trang sức - phục vụ cho nhu cầu làm đẹp của phụ nữ, các nghề thuộc da, canh cửi nhất, nghề mộc... Tuy Lưỡng Hà có gần đủ mọi thứ song về ngành kiến trúc về mặt kỹ thuật vẫn còn chưa tiến triển.

Về chế độ gia đình Lưỡng Hà thuộc về phụ hệ có quyền đa thê, quyền này được thừa nhận. Các con cái đều có quyền thừa kế và đối xử như nhau. Xã hội có nhiều giai cấp, giai cấp thượng tằng là các chủ nô gồm thành phần các nhà quyền quí, các tư sản cũng như các tăng lữ, có quyền chiếm hữu được ruộng đất và tài sản công cộng... có quyền thuê mướn người làm nô lệ v.v...

Về văn hóa, tôn giáo lúc bấy giờ giữ một vị thế quan trọng trong đời sống tâm linh của người Sumeria, người Akkad... Họ thờ cúng đa thần và do đó họ có lắm chuyện thần thoại. Tuy vậy, đối với cái chết họ quan niệm giản đơn hơn Ai cập.

Chính thời kỳ có tôn giáo ra đời đã đem lại cho nền văn học nghệ thuật một mức độ cao hơn. Gần như hầu hết các tác phẩm của Lưỡng Hà lúc bấy giờ đều ghi lại những bài thơ, các câu ca dao nói lên tinh thần dân tộc liên quan đến nền văn minh hoặc cung cách của đời sống v.v... Đặc biệt hai tác phẩm được xem là xuất sắc nhất đó là: tác phẩm Enuma Elit và Anh Hùng Ca Glingamete mà nội dung của hai tuyệt tác này nói về SỰ SÁNG TẠO CỦA VŨ TRỤ và giải đáp cái gì sẽ tồn tạn tại vĩnh viễn ở trần gian này.

Các công trình đồ sộ của Lưỡng Hà như cung điện đến đền miếu được cất trên những bệ cao và tất cả đều dùng bằng vật liệu gạch đá. Cung điện được xem là một công trình vĩ đại nhất của bang Lagate vào thế kỷ thứ XXll Tr.CN. đó là cung điện của Judea. Judea là vị hoàng đế của thành Lagate. Thời kỳ này các lịch pháp Âm, Dương lịch cũng đã ra đời và các đài Chiêm tinh còn rải rác tại nhiều nơi được xem là những di tích lịch sử của một nền văn minh cổ đại ở Tây Á.

Lịch Sử Chiêm Tinh Học Ai Cập 

Chiêm tinh học đã đóng một vai trò quan trọng trong xã hội kể từ khi bắt đầu có nền văn minh thế giới và thậm chí có thể đã có từ trước đó. Lịch sử chiêm tinh học đã có từ rất lâu; người ta tin rằng nguồn gốc của nó bắt đầu ở Hy Lạp. Tuy nhiên, theo nghiên cứu mới nhất của các nhà khoa học, chiêm tinh học đã ra đời trước đó rất nhiều và người Ai Cập cổ đại đã ứng dụng thuật ''bói toán'' này để tiên đoán hầu hết các vấn đề diễn ra trong cuộc sống thường nhật. 

Những người Sumerian là cư dân đầu tiên định cư tại Mesopotamia từ khoảng 4.000 năm trước Công nguyên và là những người đầu tiên thờ Thần Mặt trời, Thần Mặt trăng và Thần Tình ái. Họ coi những vị thần này như là những đấng tối cao che chở cho cuộc sống bình yên của họ. Tên của Thần mặt trăng là Wanna; Thần mặt trời là Utu; và Thần Tình ái là Inanna. Và những người Sumeria chỉ thờ có 3 vị thần này; nhưng thực tế thì có rất nhiều vị thần khác cũng không kém phần quan trọng được thờ trong các lăng tẩm của người Sumerian. Người Akkandoan ở gần khu vực Sumer cũng chọn Thần Mặt trời, Mặt trăng và thần Tình ái để thờ; và chỉ thay tên của những vị thần này mà thôi. Nói chung hầu hết các bộ lạc đều thờ ba vị thần này, chỉ có điều với tên gọi khác nhau. Việc đặt tên cho các vị thần do các thành viên của cộng đồng đó quyết định, gắn với một dấu tích nào đó của cộng đồng. 

Thầy tu là những người đầu tiên đảm trách công việc ''giao tiếp'' với các đấng thần linh. Do vậy mà hệ thống đền thờ miếu mạo được tạo ra và hàng trăm nghìn người với nhiều vai trò khác nhau đã đến đây theo yêu cầu của các vị linh mục chức cao; nhạc sĩ... Một trong những vị thầy tu này đã trở thành nhà vua. Vị vua này đã lập một ''cung điện'' riêng và đặt dưới sự cai quản của một nhà chiêm tinh học. Người này sẽ là một nhà ''thông ngôn'' diễn giải về bầu trời, những dự báo về các hiện tượng tự nhiên như nguyệt thực, nhật thực... Và người ta còn nói rằng ''thầy tu'' là những nhà chiêm tinh học đầu tiên. Để có thể ''giao tiếp'' được với các vị thần thì phải lập những ''đền thờ'' trên những ngọn núi cao. Những ''đền thờ'' qua thời gian sẽ ngày một phát triển thành những công trình kiến trúc lớn hơn được gọi là ''ziggurats''. 

Những thầy tu người Sumerian được xem là những nhà chiêm tinh học và họ phải có nhiệm vụ dự đoán chính xác các hiện tượng tự nhiên, mà thời đó người ta còn gọi là các hiện thuộc về các đấng siêu nhiên. Thời đó, người ta xem việc tiên tri là một loại hình nghệ thuật hơn là khoa học vì các thày tu đã không đủ tài năng để ''biến hoá tinh xảo'' mọi sự vật hiện tượng. Tuy nhiên, họ đã có những thành công bước đầu trong việc dự đoán hiện tượng nguyệt thực; tiếp đó với sự hỗ trợ của toán học dẫn đến việc hình thành và phát triển của luật về thiên văn học (Đây là đặc điểm để giúp các nhà khoa học phân biệt được sự khác nhau giữa thiên văn học và chiêm tinh học). 

Thiên văn học là những nghiên cứu khoa học về vũ trụ, về các vì sao, về hành tinh và những chuyển động của chúng. Chiêm tinh học là những nghiên cứu tiền khoa học về những ảnh hưởng của nó đối với những hoạt động của con người. Các thầy tu thực sự rất chú trọng việc dự đoán các hiện tượng tự nhiên (thời tiết, vũ trụ) để thể hiện sức mạnh quyền lực của họ. Tuy nhiên, bằng những nỗ lực của mình; họ tập trung đến sự phát triển của loại hình chiêm tinh học. Họ đã đặt được lịch, xác định chu kỳ hoạt động của mặt trời, mặt trăng; các hành tinh và các vì sao. Họ có thể chia một năm thành 12 tháng dựa trên 12 chu kỳ của mặt trăng trong một năm. 

Vào năm 1.300 trước Công nguyên, thuật bói toán dựa vào ngày sinh bắt đầu hình thành. Thuật bói toán hay còn gọi là ''Tử vi'' là những tiên đoán căn cứ vào thời điểm mà những vì tinh tú xuất hiện và sự tác động con người. 

Kỷ nguyên Assynian đã đánh dấu một bước tiến mới trong sự phát triển của chiêm tinh học. Giai đoạn này kéo dài từ năm 1.300 đến 600 trước Công nguyên. Người Assynian đã phát hiện ra các chùm sao; thực tế họ đã định vị được 18 vì sao nằm trong một chùm. Đến năm 600 trước Công nguyên, họ phát hiện ra rằng một số các vì sao hợp lại; một số các vì sao khác biến mất để hình thành chùm sao có tên là Zodial. 

Người Assynian đã chú trọng đến 5 hành tinh và những chuyển động của chúng đối với các chùm sao này. Lý do vì sao họ lại chú trọng như vậy vì họ tin rằng những hành tinh này là các vị thần hay ít nhất là ngôi nhà của các vị thần. Tên của những hành tinh này cũng quen như tên mặt trời hay tên mặt trăng chỉ được thay bằng tên của người Hy Lạp sau đó là tên của người Roman; cuối cùng là tên tiếng Anh. Tên các hành tinh vào thời Assynian như sau: Sun = Shamash (Mặt trời); Moon = Sin (Mặt trăng), Venus = Ishtar (Sao Kim), Mercury = Nebo (Sao Thuỷ), Mar = Nergal (Sao Hoả), Satum = Ninurta (Sao Thổ); Tupite = Marduk (Mộc). 

Thời kỳ tiếp theo trong lịch sử của thuật chiêm tinh là thời kỳ Babylon Mới (600 - 300) trước Công nguyên. Các nhà chiêm tinh học nổi tiếng của thời kỳ này là Kiddinu, Berossus, Autipatrus, Aichinop và Sudines. Thời kỳ này được biết đến nhờ những lời tiên tri; điểm báo về những sự kiện chính xuất hiện. 

Người Hy Lạp bắt đầu gây nhiều ảnh hưởng lớn đến chiêm tinh học vào thế kỷ thứ 14 và 15 trước Công nguyên. Đây là thời kỳ của những nhà tiên phong nổi tiếng về khoa học hiện đại như Plato; Pitago, người ta đã khẳng định được thuyết ''trái đất quay xung quanh mặt trời''. Trong khi đó, nhà khoa học Euduxers lại cho rằng chiêm tinh học là điều nực cười; không ai tin vào những lời tiên tri về cuộc sống lại dựa vào ngày sinh của mình. Tuy nhiên, các nhà chiêm tinh học như Gritodemus; Apollognius vẫn tiếp tục công việc nghiên cứu về chiêm tinh hay tử vi bói toán. 

Lịch Sử Chiêm Tinh Học Ai Cập (P2)

Người La Mã cổ đại không chấp nhận thuật ''chiêm tinh'' hoặc bói toán này. Nhưng vào khoảng năm 250 trước Công nguyên; một số lượng dân cư khá đông trở nên quan tâm đến chiêm tinh học nhưng nhiều kẻ bảo thủ thì đấu tranh chống lại hầu hết các tín ngưỡng, kể cả Đạo Thiên chúa. Họ đưa ra nhiều lý lẽ logic để chống lại những người tin vào ''tử vi'' bói toán; và cho rằng những người sinh ra cùng ngày cùng giờ thì có nhiều số phận khác nhau; những người sinh ra khác ngày khác giờ thì lại chết cùng giờ. 

Tuy nhiên, chiêm tinh học vẫn lan rộng sang khu vực Thành La Mã bất chấp những cố gắng để trục xuất các nhà chiêm tinh học ra khỏi đế chế. 

Nhưng cuối cùng thì chiêm tinh học vẫn được chấp nhận và hầu hết người La Mã cổ đại đã chịu chấp thuận một khía cạnh của giáo dục từ người Hy Lạp. Nếu người La Mã không cho phép du nhập chiêm tinh học vào nền văn hóa của mình thì mọi thứ đã khác xa so với những gì đóng góp của người Ai Cập đối với nghệ thuật. 

Vào năm 331 trước Công nguyên, Alexarder đã thiết lập ra thành phố Alexandnia. Đây là mốc đánh dấu giai đoạn khởi đầu của Graeco Roman trong lịch sử Ai Cập. Alexandnia trở thành một trong những thành phố Alellnistoc nổi tiếng. Hellnism là một thuật ngữ miêu tả cách sống của người Hy Lạp. Khi người La Mã bắt đầu quyền cai trị thì Alexandnia đã duy trì tiếng tăm của mình như trung tâm các hoạt động văn hoá. Cho đến khi Alexandnia bắt đầu quyền cai trị thì cách mạng khoa học cũng chấm dứt và mọi người đã tin vào chiêm tinh học. Lúc này người ta bắt đầu biết đến tiếng tăm của Claudine Potelen. Thực chất thì Claudus Potelenry không có gì nổi tiếng; người ta chỉ biết đến ông là một người Hy Lạp. Nhưng ông là một nhà chiêm tinh học người Ai Cập; một nhà toán học; một nhà địa lý học đã sống ở gần Alexandnia. ít nhiều thì những hình ảnh của ông cũng là những thông tin tác động đến cuộc sống của Ptolemy. 

Ptolemy nghiên cứu các dữ liệu về những nhà chiêm tinh học trước đó để vẽ ra, phác thảo ra bản đồ của một nghìn ngôi sao. Ông đã thu thập được 48 chòm sao và miêu tả được các kinh tuyến, vĩ tuyến, kinh độ, vĩ độ của trái đất. Ptolemaic tin rằng trái đất là trung tâm vũ trụ và đã nỗ lực để nghiên cứu học thuyết này. Tại sao nhiều hành tinh chuyển động theo thời gian, theo quỹ đạo xung quanh trái đất. Ông cũng đưa ra lý thyết mỗi hoạt động lại quay theo một quỹ đạo nhỏ hơn và một quỹ đạo lớn hơn. Lý thuyết này có tên gọi ''epicyle''. Và lý thuyết này vẫn tồn tại trong vòng 1.400 năm; cho đến thuyết "trái đất quay xung quanh mặt trời" được tìm ra. 

Ptolemy cũng theo đuổi những lĩnh vực nghiên cứu khác nhau. Ông viết sách về địa lý mà ở đó là bản đồ, kinh tuyến; vĩ tuyến. Ông cũng nghiên cứu về sự khúc xạ ánh sáng trong cuốn sách Quang học. Ông cũng viết cuốn sách mang tên ''Mathematical Treatise in 4 Books'' và nó là nền tảng cho sự phát triển của ''chiêm tinh học'' hiện đại đã phổ biến ở Phương Tây lúc bấy giờ. Tên cuốn sách mà chúng ta dùng cho việc bói toán ngày nay là ''Tetrabiblo'' không còn dữ liệu nào về việc Ptolemy đã tiến hành nghiên cứu như thế nào; tuy nhiên người ta vẫn cho rằng tất cả những gì Ptolemy đạt được là nhiều dự đoán chính xác nhất. 

Không còn phiên bản gốc nào về việc cuốn Tetrabiblo vẫn còn tồn tại. Tất cả còn lại chỉ là những bản dịch và các bản sao; cuốn cũ nhất là Arbic có từ năm 900 sau Công nguyên. Vì những bản dịch tiếng Latinh trở nên quen thuộc đối với người châu Âu. Phiên bản tiếng Anh cũng được chuyển dịch từ tiếng Hy Lạp vào năm 1940. Có 4 cuốn sách viết về công việc nghiên cứu này và mỗi cuốn đề cập đến từng khía cạnh khác nhau của chiêm tinh học.

- Cuốn thứ nhất đề cập đến lý do của Ptolemy trong việc áp dụng chiêm tinh học trong cuộc sống. 

- Cuốn thứ 2 Tetrabibalo nói về những mối liên quan của chiêm tinh học các nước. 

- Cuốn thứ 3 đề cập đến con người; nói về những khái niệm về ngày sinh 

- Cuốn cuối cùng là đề cập đến các vấn đề nghề nghiệp hôn nhân con cái, đi lại... 

Tetrabiblos bao gồm tất cả những nghiên cứu về chiêm tinh học, việc khía cạnh khác cũng được đề cập đến nhưng tất cả những gì chúng ta biết đến về chiêm tinh học đều bắt nguồn từ công việc nghiên cứu này. 

Một số nhà phê bình cho rằng, cuốn sách chứa đựng khá nhiều mâu thuẫn ngay trong tư tưởng của Ptolemy. Hơn nữa ông đã không tính đến hiện tượng sự chồng chéo giữa các chòm sao và những chòm sao trở nên lớn hơn qua thời gian (5/300 năm) nhưng tại sao ông lại không xác nhận và giải thích về sự huyền bí này trong nghiên cứu của mình. 

Có một số vấn đề về mối tương quan giữa chiêm tinh học và các mùa. Ông tin rằng khái niệm thời gian là hoàn hảo đối với việc bói toán theo ngày sinh; và khái niệm thời gian đến với mỗi người là tương đối khó, dẫn đến một số sai sót trong nghiên cứu của ông. Nhưng nhìn chung các nội dung trong Ietrabiblos không có nhiều giá trị tính đến ngày nay. 

Một số nhà chiêm tinh học Ai Cập nối gót Ptolemy nghiên cứu về chiêm tinh học như Paul Alexandnia, Hephestion... Họ nghiên cứu thêm về Tetrabibleo của Ptolemy. Khoảng năm 800 sau Công nguyên; chiêm tinh học bị rơi vào quyên lãng một thời gian. Và sau đó hồi sinh vào thế kỷ thứ 8 khi người Hồi giáo bắt đầu tin vào ''chiêm tinh học'' Hellenistoc. Đó là Almumasar, một nhà trí thức theo đạo Hồi, ông đã mang niềm tin về chiêm tinh học như chúng ta đã biết đến với thế giới phương Tây. 

Tóm lại, Ai Cập là đất nước có nhiều đóng góp quan trọng đối với sự phát triển của chiêm tinh học, những thăng trầm trong lịch sử Ai Cập đã để lại dấu ấn đậm nét trong sự phát triển của ngành chiêm tinh học. Những đóng góp này thực sự có ý nghĩa đối với sự phát triển và tiến hoá của nhân loại.

Đế quốc Ai Cập 

Tôn giáo Ai-cập

Huân tước Flinders Petrie, nhà Ai-cập học trứ danh, nói rằng tôn giáo nguyên thủy của Ai-cập là độc thần giáo. Nhưng trước khi thời kỳ lịch sử bắt đầu, đã phát triển một tôn giáo trong đó mỗi bộ lạc có vị thần riêng, hình dung bằng một con vật.

Ptah (Apis) là thần của thành Mem-phi, hình dung bằng con bò.

Amon, thần của thành Thèbes, hình dung bằng con chiên đực.

Hathor, nữ thần thượng đẳng của Ai-cập, hình dung bằng con bò cái.

Mut, vợ của Amon, hình dung bằng con kên kên.

Horus, thần của từng trời, hình dung bằng con chim ó.

Ra, thần mặt trời, hình dung bằng con diều hâu.

Set (Sa-tan), thần của biên giới phía Ðông, hình dung bằng con cá sấu.

Osiris, thần của kẻ chết, hình dung bằng con dê. Isis, vợ của nó, hình dung bằng con bò cái.

Thoth, thần của trí khôn, hình dung bằng con khỉ không đuôi.

Heka, một nữ thần, hình dung bằng con nhái.

Nechebt, nữ thần của Nam bộ, hình dung bằng con rắn.

Bast, một nữ thần, hình dung bằng con mèo.

Còn nhiều thần khác nữa. Các Pha-ra-ôn được tôn làm thần. Sông Ni-lơ là sông thánh.

Lịch sử Ai-cập đương thời dân Y-sơ-ra-ên làm nô lệ tại Ê-díp-tô

Ðang khi dân Y-sơ-ra-ên kiều ngụ tại Ai-cập, thì nước nầy tiến thành một đế quốc cai trị cả thế giới (mà người ta biết thời đó). Khi dân Y-sơ-ra-ên ra đi, Ai-cập bèn suy yếu, trở nên một cường quốc hạng nhì và cứ ở địa vị ấy mãi. Từ thời Giô-sép cho đến sau khi dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập, đã có các triều đại sau nầy:

Triều đại thứ 13,14,17.-- 25 vua. Cai trị ở phương Nam, còn dòng Hyksos cai trị ở phương Bắc. Ðây là một thời kỳ rất rối loạn.

Triều đại thứ 15,16.-- 11 vua. Dòng Hyksos, hoặc các vua chăn chiên, là một giống Sémitique từ Á-châu đến chinh phục Ai-cập. Họ là bà con gần với người Do-thái, từ phương Bắc tràn xuống, thống nhứt quyền cai trị Ai-cập và xứ Sy-ri. Người ta thường cho rằng Apepi đệ nhị, thuộc triều đại thứ 16, là Pha-ra-ôn đã đại dụng Giô-sép. Ðang khi dòng Hyksos trị vì, thì dân Y-sơ-ra-ên được địa vị tối huệ trong xứ. Nhưng khi dòng Hyksos bị triều đại thứ 18 đuổi đi, thì chánh phủ Ai-cập thay đổi thái độ, bắt đầu dùng những biện pháp đàn áp để kéo dân Y-sơ-ra-ên vào vòng tôi mọi.

Triều đại thứ 18: 13 vua. 

Triều đại thứ 19: 8 vua.

Hai triều đại nầy đã đưa Ai-cập lên địa vị đế quốc cai trị cả thế giới (mà người ta biết thời đó). Dưới đây là tên các vua thuộc hai triều đại nầy:

Amosis (Ahmes, Ahmose).-- 1580 T.C.. Ðuổi dòng Hyksos đi. Bắt xứ Pa-lét-tin và xứ Sy-ri làm chư hầu của Ai-cập.

Amenhotep (Amenophis).-- 1560 T.C.

Thothmes (Thothmes, Thutmose).-- 1540 T.C.. Cầm quyền cai trị tới sông Ơ-phơ-rát. Lăng tẩm đầu tiên đục trong vầng đá.

Thothmes đệ nhị.-- 1510 T.C.. Hatshepsut, chị cùng cha khác mẹ và cũng là vợ của ông, thật đã cầm quyền cai trị. Thường đem quân tấn công miền sông Ơ-phơ-rát.

Thothmes đệ tam.-- 1500 T.C.. Hoàng hậu Hatshepsut, là chị cùng cha khác mẹ của ông, đã cầm quyền phụ chánh trong 20 năm đầu đời trị vì của ông. Dầu ông khinh dể bà nầy, nhưng bà đã hoàn toàn cai trị ông. Sau khi bà qua đời, thì ông một mình trị vì 30 năm. Ông là người chinh phục oai hùng nhứt trong lịch sử Ai-cập. Ông khắc phục xứ Ê-thi-ô-bi, cai trị đến tận miền sông Ơ-phơ-rát, tiến đánh xứ Pa-lét-tin và Sy-ri 17 lần. Ông đã tổ chức Hải quân. Ông đã thâu trữ rất nhiều của cải và thực hiện nhiều công trình kiến trúc vĩ đại. Ông ghi công nghiệp của mình rất tỉ mỉ trên các bức tường và đài kỷ niệm. Lăng tẩm ông ở tại thành Thèbes, và xác ướp của ông hiện nay ở tại kinh thành Le Caire (Ai-cập). Nhiều người cho rằng ông là vua đã hà hiếp dân Y-sơ-ra-ên. Nếu vậy, thì hoàng hậu Hatshepsut trứ danh chính là con gái Pha-ra-ôn đã cứu vớt, trưởng dưỡng Môi-se, và trở nên người bạn oai quyền của Môi-se.

Hatshepsut.-- Con gái của Thothmes đệ nhứt. Làm phụ chánh cho em cùng cha khác mẹ và chồng của mình, là Thothmes đệ nhị, và cho em cùng cha khác mẹ của mình là Thothmes đệ tam trong 20 đầu đời trị vì của vua nầy. Bà là hoàng hậu trứ danh đầu tiên trong lịch sử. Bà là bậc phụ nữ rất có tiếng tăm, là một trong những người cai trị nước Ai-cập oai hùng hơn hết. Ðã cho tạc nhiều tượng hình dung mình như một bậc trượng phu. Mở mang đế quốc. Xây cất nhiều đài kỷ niệm, hai tháp lớn tại Karnak, và miễu thờ đồ sộ tại Deir El Bahri trong đó có bày nhiều tượng của bà. Thothmes đệ tam ghét bà, và khi bà qua đời, một trong những hành động đầu tiên của ông là bôi xóa tên bà khỏi mọi đài kỷ niệm và hủy phá hết tượng của bà. Những tượng của bà ở Bahri bị đập ra từng mảnh, quăng vào một hầm đá gần đó. Tại đây, nó bị cát bay phủ kín, và mới đây, nhơn viên Bảo-tàng-viện Thủ đô đã tìm được những mảnh tượng nầy.

Amenhotep đệ nhị.-- 1450 T.C.. Nhiều học giả cho ông nầy là Pha-ra-ôn đương thời dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập. Ông duy trì đế quốc do Thothmes đệ tam sáng lập. Xác ướp của ông ở trong lăng tẩm tại thành Thèbes.

Thothmes đệ tứ.-- 1420 T.C.. Người ta tìm thấy chiếc xe ngựa mà ông đã dùng. Xác ướp của ông hiện nay ở tại kinh thành Le Caire.

Amenhotep đệ tam.-- 1415 T.C.. Ðế quốc lên tới cực điểm vinh quang. Luôn luôn xâm lăng xứ Pa-lét-tin. Xây cất những miễu thờ đồ sộ. Xác ướp của ông hiện nay ở tại kinh thành Le Caire.

Amenhotep đệ tứ.-- Năm 1380 T.C.. Ông là một nhà cải cách tôn giáo, chớ không phải một chiến sĩ. Dưới đời trị vì của vua nầy, Ai-cập mất đế quốc ở Á-châu. Ông toan thiết lập độc thần giáo, là sự thờ lạy mặt trời. Vì các tế sư ở thành Thèbes phản đối chương trình của ông, nên ông dời thủ đô qua Amarna. Nếu dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập dưới đời trị vì của Amenhotep đệ nhị, mấy chục năm trước, thì phong trào độc thần nầy có thể do ảnh hưởng gián tiếp của các phép lạ Môi-se đã làm.

Semenka.-- 1362 T.C.. Một vua nhu nhược.

Tutankhamen.-- 360-1350 T.C.. Con rể của Amenhotep đệ tứ. Ông là một trong những vua Ai-cập tầm thường, vào lúc chấm dứt thời kỳ vinh quang nhứt của lịch sử nước ấy. Nhưng ngày nay ông nổi danh vì cớ những vật báu lạ lùng và sự huy hoàng của lăng tẩm ông, do nhà khảo cổ Howard Carter khám phá được năm 1922. Xác ướp của ông vẫn ở trong lăng tẩm. Quan tài phía trong chứa xác ướp làm bằng vàng khối. Xe ngựa và ngai của ông vẫn còn đó. Ðây là lăng tẩm của một Pha-ra-ôn chưa bị trộm cắp mà người ta khám phá được.

Ay (Eye) và Setymeramen.-- 1350 T.C.. Hai ông vua nhu nhược.

Harmhab (Harembeb).-- 1340 T.C.. Khôi phục sự thờ lạy Amon.

Ramsès đệ nhứt.-- 1320 T.C..

Seti (Sethos) đệ nhứt.-- 1319 T.C.. Xứ Pa-lét-tin được khôi phục. Bắt đầu xây cất lâu đài đồ sộ tại Karnak. Xác ướp của ông hiện nay ở tại kinh thành Le Caire.

Ramsès đệ nhị.-- 1300 T.C.. Trị vì 65 năm. Ông là một trong những Pha-ra-ôn oai hùng nhứt, mặc dầu kém Thothmes đệ tam và Amenhotép đệ tam; nhưng ông là một nhà đại kiến trúc, một nhà quảng cáo đại tài, và hơi có óc sang đoạt, vì trong một vài trường hợp, ông đã nhận công nghiệp của các tiên vương của mình. Ông khôi phục đế quốc từ xứ Ê-thi-ô-bi tới sông Ơ-phơ-rát. Nhiều lần ông đã xâm lăng và cướp phá xứ Pa-lét-tin. Ông hoàn thành lâu đài đồ sộ tại Karnak cùng nhiều công trình kiến trúc lớn lao khác, như thành lũy, kinh đào, miễu thờ, do công lao xây cất của bọn tôi mọi bắt được trên chiến trường, hoặc của đoàn lũ người da đen từ phương Nam xa xôi đem về, và cũng của giai cấp cần lao bổn quốc. Những bọn người nầy làm lụng khó nhọc tại hầm đá hoặc lò gạch, hoặc kéo tảng đá lớn trên đất mềm.

Merneptah.-- 1235 T.C., có người tưởng ông nầy là Pha-ra-ôn đương thời dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập. Xác ướp của ông ở tại kinh thành Le Caire. Phòng thiết triều của ông tại thành Mem-phi (Ô-sê 9:6) đã do phái đoàn của Bảo tàng viện Ðại học đường Pennsylvania phám phá được.

Arnenmeses, Siptah, Seti đệ nhị.-- Ba vua nhu nhược.

Đế quốc Ai Cập (P2)

Ai là Pha-ra-ôn trong sách Xuất Ê-díp-tô ký?

Có hai ý kiến đáng kể hơn hết:

Amenhotep đệ nhị.-- (1450-1430 T.C.), hoặc Merneptah (1235-1220 T.C.).

Nếu dân Y-sơ-ra-ên rời khỏi Ai-cập dưới đời trị vì của Amenhotep đệ nhị, thì Thothmes đệ tam là vua đã hà hiếp dân Y-sơ-ra-ên rất tàn khốc, còn chị của ông lại trưởng dưỡng Môi-se. Người chị nầy chính là hoàng hậu Hatshepsut trứ danh. Những thực sự trong đời trị vì của bà ăn hiệp với truyện tích Kinh Thánh một cách lạ lùng dường nào! Bà chú ý đến các mỏ ở vùng Si-na-i, và đã trùng tu miễu thờ ở Serabit mà Môi-se có lẽ đã xem thấy khi ông có cơ hội làm quen với vùng Si-na-i nầy. Lại nữa, khi Môi-se sanh ra, thì Thothmes đệ tam còn thơ ấu, và Hatshepsut làm phụ chánh. Ðến khi bà qua đời, thì dân Y-sơ-ra-ên càng bị hà hiếp tàn khốc hơn, và Môi-se chạy trốn. Mấy điều nầy cũng giải thích một phần nào cái uy tín của Môi-se tại Ai-cập.

Nếu dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập dưới đời trị vì của Merneptah, thì Ramsès đệ nhị là vua đã hà hiếp dân Y-sơ-ra-ên rất tàn khốc, còn con gái ông đã trưởng dưỡng Môi-se.

Như vậy, Môi-se đã được trưởng dưỡng hoặc dưới đời trị vì của Thothmes đệ tam, hoặc dưới đời trị vì của Ramsès đệ nhị, -- cả hai ông nầy đứng trong hàng các vua danh tiếng nhứt Ai-cập.

Và Môi-se đã dẫn dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập hoặc dưới đời trị vì của Amenhotep đệ nhị, hoặc dười đời trị vì của Merneptah.

Dầu sao đi nữa, người ta cũng đã tìm được xác ướp của cả bốn vua nầy. Vậy, bây giờ ta có thể thấy bộ mặt thực của Pha-ra-ôn đương thời Môi-se, -- với chính Pha-ra-ôn đó, Môi-se đã có liên quan rất mật thiết.

Khám phá được các xác ướp

Năm 1871, trên một ghình đá chưa từng có ai để chơn tới, ở phía sau thành Thèbes, một người Ả-rập đã khám phá được một ngôi mộ chứa đầy bửu vật và quan tài chứa 40 xác ướp của những vua và hoàng hậu Ai-cập. Anh ta giữ bí mật trong 10 năm để bán các bửu vật ấy cho du khách. Những bửu vật của các vua oai hùng nhứt thời xưa bắt đầu thấy lưu hành. Các nhà chức trách của Bảo tàng viện Le Caire bèn đi đến thành Thèbes để điều tra. Họ tìm được người Ả-rập nầy. Bằng cách cho tiền, tra khảo và dọa nạt, họ đã bắt anh ta chỉ chỗ đó cho. Các xác ướp không ở trong phần mộ nguyên thủy, nhưng bị dời tới một nơi giấu bí mật từ thuở xưa vì đã sớm xuất hiện những kẻ chuyên nghiệp quật mồ để ăn trộm. Những xác ướp nầy đã được dời về Le Caire.

Pha-ra-ôn đương thời dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập:

Amenhotep đệ nhị hay là Merneptah?

Các bằng cớ tỏ ra là Amenhotep đệ nhị.-- 1. Các thơ tín Amarna gởi cho Amenhotep đệ tam và Amenhotep đệ tứ, khẩn cấp xin Pha-ra-ôn tiếp viện, tỏ ra rằng thời ấy (theo niên hiệu sớm hơn của việc dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập), xứ Pa-lét-tin đang bị mất về tay người "Habiri." Ðây là một đoạn trích lục: "Người Habiri đang chiếm thành trì, đô thị của ta, tiêu diệt các quan cai trị của ta, cướp phá toàn xứ của vua. Xin vua gởi quân sĩ đến mau chóng. Nếu nội năm nay, không gởi quân sĩ đến, thì toàn xứ sẽ mất khỏi tay vua."

Nhiều học giả cho rằng người "Habiri" tức là người "Hê-bơ-rơ;" như vậy, đây là thơ của người từ xứ Ca-na-an mô tả cuộc chinh phục xứ ấy bởi tay Giô-suê. Còn các nhà học giả quả quyết dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập nhằm niên hiệu muộn hơn, thì cho rằng người "Habiri" có thể là những kẻ trước đó đã xâm lăng hoặc di cư (I Sử ký 4:21-22; 7:21).

2. Khảo cổ học chứng thực rằng thành Giê-ri-cô đã sụp đổ khoảng năm 1400 T.C.. Tấn sĩ John Garstang, người đã đào bới khắp vùng Giê-ri-cô, tin quyết điểm nầy.

Các bằng cớ tỏ ra là Merneptah.-- Tấm bảng "Y-sơ-ra-ên" của Merneptah.-- Năm 1906, Huân tước Flinders Petrie tìm thấy một phiến thiểm trường thạch đen có ghi chép những cuộc chiến thắng của Merneptah, nhằm năm thứ 5 đời trị vì của ông. Phiến đá nầy cao hơn ba thước tây, và bề ngang hơn một thước rưỡi, hiện nay bày trong Bảo-tàng-viện Le Caire. Chữ "Y-sơ-ra-ên" được ghi ở giữa dòng thứ hai, tính từ dưới lên. Ðây là bản ký văn: "Ca-na-an bị cướp phá. Y-sơ-ra-ên bị hoang vu; dòng dõi nó không còn nữa. Ðối với Ai-cập, xứ Pa-lét-tin đã trở thành một quả phụ." Ký văn nầy dường như ngụ ý nói đến việc dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập. Câu: "Dòng dõi nó không còn nữa" có thể chỉ về sự tiêu diệt những con trai nhỏ tuổi. Vì các vua thời xưa không hề chép việc chi trừ ra những cuộc chiến thắng của mình, nên sự thực có lẽ là như vầy: Dầu cố hết sức ngăn cản dân Y-sơ-ra-ên ra đi không được, nhưng ông cũng ghi chép sự họ ra đi khỏi Ai-cập như là mình đã thắng dân ấy.

Các học giả đã quyết đoán dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập nhằm niên hiệu sớm hơn, thì cho rằng ký văn nầy ngụ ý nói đến việc Merneptah xâm lăng xứ Pa-lét-tin chừng 200 năm sau khi dân Y-sơ-ra-ên đã định cư trong xứ Ca-na-an .

2. Ramsès đệ nhị tự nhận rằng mình đã xây cất hai thành Phi-thom và Ram-se với nhơn công Y-sơ-ra-ên (Xuất Ê-díp-tô ký 1:11).

Năm 1883, ông Naville đã tìm ra vị trí thành Phi-thom. Trên cổng thành, ông thấy một bi văn của Ramsès đệ nhị: "Ta đã xây thành Phi-thom ở cửa phía Ðông của sông Ni-lơ."

Ông tìm thấy một tòa nhà có tường dày phi thường, trên gạch có khắc tên Ramsès đệ nhị. Chỉ có một lối vào do mái nhà. Ðây là những kho tàng mà dân Y-sơ-ra-ên đã xây cất.

Năm 1905, ông Petrie tìm ra vị trí thành Ram-se. Năm 1922, tại thành Bết-san (I Sa-mu-ên 31:10), thuộc xứ Pa-lét-tin, ông Fisher, nhơn viên Bảo-tàng-viện Ðại học đường Pennsylvania, đã tìm thấy một tấm bia của Ramsès đệ nhị, cao chừng 2 thước rưỡi, rộng chừng 80 phân, trên đó ghi khắc rằng ông "xây cất thành Rase với nhơn công của bọn tôi mọi Sémitique thuộc Á-châu (Hê-bơ-rơ)."

Như vậy, hai bi văn nầy chỉ rõ Ramsès đệ nhị là Pha-ra-ôn đã truyền xây cất hai thành nầy cho mình, và là kẻ đã hà hiếp dân Y-sơ-ra-ên; và như vậy, cũng chỉ rõ người kế vị ông, là Merneptah, chính là Pha-ra-ôn đương thời dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập. Tuy nhiên, người ta biết rằng Ramsès đệ nhị là một tay hay sang đoạt, đã nhận một số đài kỷ niệm của các vị tiên đế là của mình, và truyền ghi khắc tên mình trên những đài kỷ niệm ấy. Các nhà học giả chấp nhận niên hiệu sớm hơn của việc dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập và chấp nhận Thothmes đệ tam là vua đã xây cất hai thành nầy, đều cho các bi văn trên đây có nghĩa là Ramsès đệ nhị đã xây cất lại hoặc sửa chữa hai thành nầy với công lao của những người Hê-bơ-rơ không cùng ra đi với Môi-se.

Về đại cương, chúng tôi nghĩ rằng các bằng cớ chứng rõ hơn rằng Amenhotep đệ nhị chính là Pha-ra-ôn đương thời dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập.

Di tích thành Thèbes

Di tích thành Thèbes mà người Y-sơ-ra-ên đã dự phần xây cất, thật là di tích vĩ đại nhứt thế giới. Vị trí thành Thèbes ở trên cả hai bờ sông Ni-lơ, trong một đồng bằng hình bán nguyệt, giữa các ghình đá phía Ðông và phía Tây. Di tích thành Thèbes chiếm một khu vực chừng 5 dặm từ Ðông qua Tây, và 3 dặm từ Bắc xuống Nam. Không một đô thị nào có nhiều miễu thờ, cung điện và đài kỷ niệm bằng đá như vậy. Ðá chạm những màu lộng lẫy hơn hết và óng ánh vàng thật. Thèbes trở nên một đô thị lớn dưới triều đại thứ 12, tức là 2000 năm T.C., đương thời Áp-ra-ham. Thành nầy được vinh quang từ 1600 đến 1300 T.C., là khoảng dân Y-sơ-ra-ên kiều ngụ tại Ai-cập; chắc nhiều đền đài tráng lệ của nó do công lao khó nhọc, mồ hôi và máu của bao nhiêu ngàn tôi mọi Y-sơ-ra-ên, không sao đếm xiết. Thành bị quân A-sy-ri hủy phá năm 661 T.C., rồi được xây cất lại, rồi lại bị quân Ba-tư triệt hạ năm 535 T.C.. Thành bị hủy hoại bởi một nạn động đất năm 27 T.C., và từ đó tới nay, chỉ còn là một đống hoang tàn.

Miễu đồ sộ thờ thần Amon

Tại Karnak, thuộc khu phía Ðông thành Thèbes, có một công trình kiến trúc vào hạng đồ sộ nhứt. Phần chính giữa của công trình kiến trúc nầy gọi là Lâu đài có trụ đỡ; người ta đã tưởng tượng Lâu đài nầy sừng sững đương thời vinh quang và đã nắn lại kiểu mẫu của nó, đem bày tại Bảo-tàng-viện Thủ đô. Trên cổng chính đi vào có một vầng đá dài chừng 13 thước tây và cân nặng 150 tấn. Có 134 cây trụ lớn, mà 12 cây chính giữa cao chừng 24 thước tây và đường kính gần 4 thước. Trên đỉnh một cây trụ nầy đủ chỗ cho 100 người đứng.

Hai ngọn tháp của hoàng hậu Hatshepsut, mà một còn đứng nguyên, cao chừng 31 thước tây, cân nặng 150 tấn, có bi văn ghi rằng nó được chở về trên 30 chiếc thuyền ghép lại, gồm 960 tay chèo, từ các hầm đá cách xa 150 dặm.

Đế quốc Ai Cập (P3)

Sau nạn nước lụt ít lâu, nước Ai-cập được sáng lập bởi Mích-ra-im, con trai của Cham. Nó được gọi là "xứ của Cham."

Dầu nền văn minh được mở mang tại xứ Ba-by-lôn, dưới đời trị vì của Nim-rốt, Sargon và Hammurabi, nhưng nó đã tấn triển mau lẹ hơn tại Ai-cập, dưới 12 triều đại đầu tiên, bao gồm thời kỳ giữa nạn nước lụt và Áp-ra-ham.

31 triều đại của Manetho. -- Manetho, người Ai-cập, khoảng 250 năm T.C., đã chép lịch sử Ai-cập, sắp đặt thành 31 triều đại, từ Menes, vua đầu tiên trong lịch sử, đến khi A-lịch-sơn đại đế, vua Hy-lạp chinh phục Ai-cập, năm 332 T.C.. Cho tới ngày nay, người ta vẫn thừa nhận lịch sử Ai-cập thời xưa gồm 31 triều đại; về đại cương, các sự khám phá của khảo cổ học đã xác chứng thật có 31 triều đại ấy.

Thoạt tiên, Ai-cập gồm một số nhóm gia tộc, hoặc bộ lạc nhỏ, mỗi nhóm gọi là một "nước." Họ có thời kỳ "tiền sử," nghĩa là một thời kỳ trước khi ghi chép những biến cố thời nay, duy có những thần, á thần và vua sống lâu trong thời nguyên thủy. Họ biết dùng vàng, bạc, đồng, chì và đá lửa. Họ có chữ viết và biết đóng tàu.

Ba thời kỳ trọng đại của lịch sử Ai-cập là:

Nước thời cổ: Triều đại thứ 3 tới triều đại thứ 6. Kỷ nguyên xây cất Kim tự tháp. Theo nhiều ý kiến khác nhau, các triều đại nầy ở vào những khoảng giữa 4000 năm T.C. tới 2000 năm T.C.; nhưng thường thì cho là vào khoảng 2700 năm T.C..

Nước khoảng giữa: Triều đại thứ 11 và 12. Kỷ nguyên đào kinh. Ðây là một thời kỳ rất thạnh vượng. Khoảng 2000 năm T.C. Thời Áp-ra-ham.

Thời kỳ đế quốc: Triều đại 18 và 19. 1600-1200 T.C. Ðế quốc thứ nhứt cầm quyền cả thế giới mà người ta biết hồi đó. Cai trị từ xứ Ê-thi-ô-bi đến sông Ơ-phơ-rát. Ðây là thời kỳ dân Y-sơ-ra-ên kiều ngụ tại Ai-cập.

Niên biểu Ai-cập đã được thành lập khá đúng từ năm 1600 T.C.; nhưng trước đó, thì rất mơ hồ. Vậy, các nhà Ai-cập-học chỉ định khác nhau về niên hiệu của Menes, vua thứ nhứt của thời kỳ lịch sử, như sau nầy: Petrie, 5500 T.C.; Mariette, 5000; Brugsch, 4500; Chabas, 4000; Lepsius, 3900; Bunsen 3600; Hall, 3500; Breasted 3400; Barton 3400; Meyer 3300; Scharff, 3000; Poole 2700; G. Rawlinson 2450; Wilkinson 2320; Sharpe 2000. Như vậy, ta có thể thấy rằng Petrie và Breasted, là hai nhà Ai-cập-học trứ danh nhứt, sai biệt nhau tới hơn 2000 năm đối với khởi điểm của lịch sử Ai-cập. Hai ông nầy cũng sai biệt nhau cả ngàn năm về niên hiệu của các Kim tự tháp, và 700 năm về thời kỳ các Hyksos (dòng vua trị vì đương thời dân Do-thái kiều ngụ tại Ai-cập). Ngày nay người ta có khuynh hướng hạ thấp các niên hiệu trong niên biểu Ai-cập và Ba-by-lôn, cho rằng Kim tự tháp Lớn được xây cất khoảng 2400 hoặc 2500 năm T.C.

Niên biểu của Kinh Thánh và niên biểu của Ai-cập. -- Người Ai-cập có truyền thuyết rằng nạn nước lụt xảy ra trong thời tiền sử. Nền văn minh Kim tự tháp phát triển sau nạn nước lụt. Phải có đủ thì giờ cho gia quyến Nô-ê sanh con đẻ cháu rất đông đúc. Kinh Thánh dường như đặt nạn nước lụt vào khoảng 2400 T.C.; còn các nhà Ai-cập-học tính đổ đồng rằng thời kỳ lịch sử Ai-cập bắt đầu khoảng 3000 năm T.C. (xem ở trên); như vậy là đặt ở 600 năm trước nạn nước lụt những biến cố đáng phải xảy ra lâu lắm sau nạn nước lụt. Ðó dường như là một mâu thuẩn giữa niên biểu Ai-cập và niên biểu Kinh Thánh. Nhưng dựa vào đoạn luận về niên biểu Ai-cập trên đây, ta có thể nhận xét rằng một vài nhà Ai-cập học đem khởi điểm của thời kỳ lịch sử Ai-cập xuống sau 2400 năm T.C.; và ta phải nhớ rằng bản Septante và bản Ngũ kinh Sa-ma-ri đẩy niên hiệu Kinh Thánh cho nạn nước lụt lui về 3000 T.C. (xem dưới mục "Niên biểu Cựu Ước"). Như vậy, chỉ có vài hệ thống niên biểu Ai-cập mâu thuẩn với vài hệ thống niên biểu Kinh Thánh; còn những niên biểu khác thì phù hợp hoàn toàn.

Lịch sử Ai-cập thời kỳ Áp-ra-ham

Thời đại thứ nhứt.-- Menes (Mena), vua lịch sử thứ nhứt, củng cố nhiều bộ lạc khác nhau, và thống nhứt Thượng-Ai-cập với Hạ-Ai-cập. Ông chiếm cứ vùng Si-na-i và khai thác các mỏ lam ngọc ở đó. Một vài nhà học giả cho rằng ông là một với Mích-ra-im, con trai của Cham. Có lẽ ông gần đồng thời với Nim-rốt; đang khi Nim-rốt đặt nền tảng của đế quốc chủ nghĩa giữa các tiểu bang của xứ Ba-by-lôn, thì Menes cũng làm việc ấy tại Ai-cập. Người ta tìm thấy phần mộ ông tại Abydos, và trong đó có một cái bình tráng men xanh lá cây có khắc tên ông. Triều đại nầy có 9 vua.

Triều đại thứ hai.-- 9 vua. Những tên Sémitique chỉ tỏ cuộc giao dịch với Ba-by-lôn. Khai thác các mỏ ở vùng Si-na-i.

Triều đại thứ ba.-- 5 vua. Tiếp tục khai mỏ ở vùng Si-na-i. Ðóng tàu dài chừng 48 thước để buôn bán tại vùng Ðịa trung hải; tổ chức hàng hải tới xứ Li-ban. Bắt đầu kỷ nguyên Kim tự tháp. Zozer xây cất "Kim tự tháp có bậc" tại Sakkarah, cách thành Mem-phi (xem Ô-sê 9:6) 2 dặm về phía Tây, có 6 từng có sân thụt vô trong, gần giống như các miễu tháp của xứ Ba-by-lôn vậy. Sau đó, Snefru (Seneferu) bắt chước Zozer, nhưng lấp kín các từng có sân thụt vô, làm thành các sườn phẳng phiu. Ðó thật là Kim tự tháp đầu tiên, tại Meydum, gần Sakkarah.

Triều đại thứ tư.-- 7 vua. Tuyệt điểm của kỷ nguyên Kim tự tháp. Xây cất 3 Kim tự tháp của Chéops (Khufu), Khafre (Cephren), Menkure (Menkaura) tại Gizeh, cách kinh thành Le Caire 8 dặm về phía Tây. Lớn nhứt là Kim tự tháp của Chéops, một trong những vua hùng mạnh nhứt của Ai-cập. Rồi tới Kim tự tháp của Khafre, có khắc tượng nhân sư (sphinx) mà mặt là chính mặt ông. Còn trong Kim tự tháp của Menkure thì người ta tìm thấy chính xác ướp của ông.

Triều đại thứ năm.-- 9 vua. Tiếp tục khai mỏ ở vùng Si-na-i. Cử các phái đoàn thương mại vượt Ðịa trung hải, tới các xứ Phê-ni-xi, Sy-ri và Ô-phia (ICác Vua 9:28).

Người Ai-cập rất mạnh tin có đời sau. Ở vườn phía Tây Kim tự tháp của hoàng hậu Khent-Kawes, thuộc triều đại thứ 5, người ta đã thấy một chiếc tàu dài chừng 36 thước, ngang chừng 5 thước, mà bà đã cho khắc sâu vào đá để chở linh hồn bà qua thế giới bên kia. Lăng tẩm của các Pha-ra-ôn (vua Ai-cập) chứa nhiều vật báu của thế giới nầy mà họ tưởng có thể đem theo qua thế giới bên kia.

Triều đại thứ sáu.-- 6 vua. Nước thời cổ chấm dứt. Pepi đệ nhị, vua thứ năm, trị vì 90 năm; đó là đời trị vì lâu dài nhứt trong lịch sử.

Các triều đại thứ bảy, tám, chín, mười.-- 20 vua. Thời kỳ phân tán; nhiều nước giao tranh với nhau.

Triều đại thứ mười một.-- 7 vua. Khởi đầu nước hùng mạnh ở khoảng giữa; nước nầy tồn tại suốt triều đại thứ 12.

Triều đại thứ mười hai.-- 8 vua. Amenembet đệ tam xây cất miễu thờ Serabit tại vùng Si-na-i; tại đây, Petrie mới tìm thấy lối viết có chữ cái cổ nhứt thế giới. Có nhiều cuộc giao dịch với xứ Sy-ri. Ðào một con kinh từ sông Ni-lơ tới Hồng hải. Senusert đệ nhứt xây tháp hình chóp (obélisque) tại thành Ôn (Sáng thế ký 41:45), đến nay vẫn còn. Người ta thường nghĩ rằng Senusert đệ nhị chính là Pha-ra-ôn khi Áp-ra-ham ghé thăm Ai-cập.

Các kim tự tháp Ai-cập không giống những miễu tháp Ba-by-lôn, vì trên chót những miễu tháp nầy có xây nơi thờ lạy các thần; còn Kim tự tháp chỉ là mộ phần cốt để vĩnh cửu hóa vinh quang của các Pha-ra-ôn đã xây cất nó. Sự ham mê Kim tự tháp bắt đầu từ triều đại thứ nhứt, và tới triều đại thứ tư thì lên đến cực độ.

Kim tự tháp lớn của Chéops.-- Ðây là công trình kiến trúc vĩ đại nhứt của các thời đại. Chiếm một khoảng hơn 5 mẫu tây và cao chừng 155 thước tây (nay còn chừng 145 thước). Tính phỏng để xây cất nó, phải dùng 2.300.000 phiến đá, mỗi phiến dày đổ đồng gần 1 thước tây và cân nặng đổ đồng 2 tấn rưỡi. Xây bằng nhiều lớp phiến đá vôi đẽo sơ sài, ngoài cùng là lớp phiến đá hoa cương chạm trổ tuyệt xảo và ráp nhau rất khít. Những phiến đá của lớp ngoài cùng nầy đã bị bóc và đem dùng xây cất kinh thành Le Caire. Giữa sườn phía Bắc có một lối đi rộng gần 1 thước tây, cao chừng 1 thước 25, dẫn vào một phòng đục trong đá nguyên khối, ở dưới mặt đất chừng 33 thước tây và cách đỉnh Kim tự tháp gần 200 thước tây. Giữa phòng nầy và đỉnh Kim tự tháp lại có hai phòng khác, có nhiều tranh vẽ và tượng chạm mô tả chiến công của vua nầy. Xác ướp của Chéops không có ở đó.

Xây cất thể nào?-- Người ta dùng dụng cụ bằng đá và bằng đồng mà lấy đá từ một hầm đá cách xa 12 dặm về phía Ðông, thả trôi qua sông Ni-lơ trong mùa lụt, rồi có những đoàn người vô tận dùng dây kéo trên con đường rất dài thoai thoải mà họ đã đắp cho công cuộc xây cất nầy. Họ dùng những cái nêm có đáy như cái nôi mà kéo đá lên và đưa tới đúng chỗ; những cái nêm nầy liên tiếp đưa qua một phía gióng, rồi lại qua phía kia. Tính ra phải có 10 vạn người làm việc luôn 10 năm để đắp xong đường đất trên đây, rồi phải mất 20 năm nữa mới xây xong chính Kim tự tháp. Hết thảy là lao công cưỡng bách, giai cấp thợ thuyền và tôi mọi bị kéo đi làm việc, dưới cái roi da tàn nhẫn, không chút thương xót của bọn đốc công.

Tánh cách quan trọng.-- Ðiểm kỳ lạ của các Kim tự tháp là nó được xây cất ngay lúc khởi đầu lịch sử. Huân tước Flinders Petrie gọi Kim tự tháp của Chéops là "công trình kiến trúc lớn lao nhứt và tính đúng nhứt mà thế giới từng mục kích." Bách khoa Từ điển Brilannica luận rằng: "Sức óc mà Kim tự tháp chứng minh thật lớn bằng sức óc của bất cứ người nào ngày nay."

Nước Ai-cập và Kinh Thánh

Trước hết, Ai-cập có dòng dõi của Cham đến cư ngụ. Áp-ra-ham đã ở Ai-cập ít lâu. Gia-cốp cũng vậy. Giô-sép cầm quyền nước Ai-cập. Dân tộc Hê-bơ-rơ, trong thời ấu trĩ, đã ở Ai-cập 400 năm. Môi-se là con nuôi của một hoàng hậu Ai-cập, và khi được dự bị làm nhà lập pháp của nước Y-sơ-ra-ên, ông đã được dạy cho mọi khôn ngoan và tri thức của nước Ai-cập. Sa-lô-môn đã cưới con gái của một Pha-ra-ôn (vua) Ai-cập. Tôn giáo Ai-cập, là sự thờ bò con, đã trở thành tôn giáo của nước Y-sơ-ra-ên ở phương Bắc. Giê-rê-mi đã qua đời tại Ai-cập. Từ kỳ Lưu đày cho đến thời Ðấng Christ, có rất đông người Do-thái ở Ai-cập. Bản dịch Cựu Ước "Septante" đã được thực hiện tại Ai-cập. Ðức Chúa Jêsus ở Ai-cập ít lâu đương thời thơ ấu. Ai-cập đã trở nên một trung tâm quan trọng của đạo Ðấng Christ lúc khởi đầu.

Ai-cập

Một thung lũng rộng từ 2 đến 30 dặm, và rộng trung bình chừng 10 dặm, bề dài 750 dặm; có sông Ni-lơ chảy từ Aswan tới Ðịa-trung-hải, qua đầu phía đông của sa mạc Sahara, mỗi bên đều có một cao nguyên hoang vu, cao chừng 310 thước.

Ðáy thung lũng có phù sa đen rất tốt lắng xuống đóng kín, từ cao nguyên xứ A-bít-si-ni đổ xuống; phù sa nầy phì nhiêu vô song, và luôn luôn đổi mới vì sông Ni-lơ tràn lút hằng năm.

Thung lũng nầy được dẫn thủy nhập điền từ lúc khởi đầu lịch sử, do một hệ thống kinh đào cùng hồ chứa nước rộng lớn và kỹ xảo. Ðập Aswan, do người Anh xây ít lâu nay, hiện chế ngự sự tràn lụt của sông Ni-lơ, và nạn đói chỉ là chuyện quá khứ.

"Ai-cập được sa mạc bao quanh, cô lập hóa và che chở; tại đây, đại đế quốc thứ nhứt trong lịch sử đã được phát triển; cũng tại đây, những chứng cớ của nền văn minh thượng cổ đã được bảo tồn hơn nơi nào hết."

Ngày nay, dân số chừng 16 triệu; đương thời đế quốc La-mã, dân số có 7 triệu; đương thời dân Y-sơ-ra-ên kiều ngụ, có lẽ cũng chừng đó hoặc kém.

Trung châu là một hình tam giác, và là nơi cửa sông Ni-lơ mở rộng. Miền nầy đo được chừng 100 dặm từ Bắc tới Nam, và chừng 150 dặm từ Ðông tới Tây, tức là từ Port Said tới Alexandrie. Ðây là miền phì nhiêu nhứt nước Ai-cập, xứ Gô-sen, trung tâm cư trú chính của người Y-sơ-ra-ên, là phần phía Ðông của trung châu nầy.

Bí ẩn Kim tự tháp Mặt trời

Người ta biết đến "Kim tự tháp Mặt trời" chỉ trong 500 năm trở lại đây. Kỳ quan này còn có thể gọi là "Kim tự tháp Thời đại", vì theo một truyền thuyết cổ xưa của Mexico, kim tự tháp này đánh dấu nơi thời đại bắt đầu.  

Kim tự tháp được dựng lên cách đây gần 2.000 năm như một đài tưởng niệm, một nơi để tôn thờ những vị thần vĩ đại và có lẽ cũng là lăng mộ của nhà thống trị đã xây dựng công trình. Cao 60 m so với đồng bằng trong thung lũng Teotihuacan thuộc vùng cao nguyên miền trung Mexico khí hậu lạnh khô, kim tự tháp là thành tựu kiến trúc tinh xảo nhất ở Teotihuacan, thành phố lớn đầu tiên của Mexico cổ đại.

Số liệu thực tế

Giai đoạn I: Xây dựng khoảng năm 300 TCN đến năm thứ nhất sau Công nguyên, trên một móng thấp nằm ngay phía trên phòng trong của hang, móng khác nhỏ hơn ở hướng tây phía trên và ở phía đông lối vào hang. 

Giai đoạn II: Kim tự tháp đầu tiên xây dựng vào khoảng năm thứ 100. Mỗi cạnh đáy khoảng 184 m, chiều cao khoảng 46 m.

Giai đoạn III: Kim tự tháp sau cùng được hoàn thành khoảng năm 50-225 sau CN. Mỗi cạnh đáy khoảng 226 m, chiều cao khoảng 75 m kể cả ngôi đền trên đỉnh đã bị tàn phá.

Teotihuacan trong thiên nhiên kỷ 1 TCN chỉ là một trong hai thành phố thịnh vượng thuộc thung lũng Mexico, mỗi thành phố đều nằm trong vùng đồng bằng tựa lưng vào núi. Một vài trăm năm TCN, Teotihuacan lâm vào tình thế hiểm nghèo, sau cùng chôn vùi thành phố này dưới dòng dung nham.

Dân tị nạn tìm thấy một quê hương mới ở Teotihuacan, nơi họ cùng con cháu tiếp tục xây dựng các công trình lớn nhất Mexico cổ đại. Đó là hai kim tự tháp khổng lồ (kim tự tháp "Mặt trời" và "Mặt trăng"), một đường đắp cao đồ sộ để hành lễ ("Đại lộ tử thần"), một tập hợp các phức hợp khổng lồ ("Ciudadela", hay Thành lũy, khu "Đại phức hợp") và sau cùng các ngôi nhà của chính họ cùng các khu phức hợp căn hộ.

Vì thế, thành phố Teotihuacan phát triển bao quanh Kim tự tháp Mặt trời với mạng lưới đô thị có dân định cư chiếm diện tích 20 km², dân số hơn 100.000 người.

Hình vẽ núi và hang động của Teotihuacan 

Giới học giả cho rằng dân tị nạn tự nguyện xây dựng hai công trình này, do các nhà cai trị Teotihuacan giám sát, và để phục vụ các vị thần linh thiêng của thành phố. Họ cũng cho rằng phong cảnh đầy rẫy thần linh, ắt hẳn dân tị nạn xem núi và hang động cũng là nơi linh thiêng, đầy uy lực, trong khi thung lũng Teotihuacan là sự liên kết thuận lợi của các đặc tính này.

Ngay trung tâm thành phố tương lai, một hang động hướng mặt về phía Tây, hướng mặt trời lặn dựa vào những ngày quan trọng về nông nghiệp và thiên văn nào đó. Trên hang người ta xây dựng một ngôi đền vào thế kỷ 1 TCN vốn là công trình lâu đời nhất nằm ở địa điểm Kim tự tháp Mặt trời, gồm nhiều mô đất lớn phía trên lối vào hang và phòng bên trong hang.

Đứng ở lối vào hang, nhìn về hướng Bắc, vuông góc với tầm nhìn phía Tây, có thể nhìn thấy hẻm núi trên đỉnh núi thiêng của thành phố. Đầu thế kỷ 1 sau CN, lực lượng lao động của Teotihuacan xây dựng con đường đắp cao ngày nay gọi là Đại lộ tử thần, đầu phía Nam con đường nằm ở lối vào hang, đầu phía Bắc nằm ở chân núi, nơi đây người ta xây Kim tự tháp Mặt trăng, công trình kiến trúc đồ sộ đầu tiên của thành phố.

Đến cuối thế kỷ, công việc tập trung vào việc mở rộng ngôi đền trong hang đến tận Kim tự tháp Mặt trời. Người ta chỉ hiểu biết sơ sài về các giai đoạn xây dựng, các cuộc khai quật sau này cuối cùng mới tìm ra lời đáp trọn vẹn cho câu hỏi kim tự tháp trải qua bao nhiêu lần tái xây dựng.

Thế nhưng, ai cũng biết rõ phần móng của kim tự tháp là hình vuông khổng lồ, mỗi cạnh 349 m. Trong chu vi này, phiên bản áp chót của kim tự tháp được xây dựng trên một nền hình vuông, mỗi cạnh khoảng 184 m, đạt đến độ cao khoảng 46 m. Phần lõi gồm lớp tro núi lửa đầm chặt, gạch bùn phơi nắng và sỏi núi lửa phủ một lớp vữa dày làm từ nhiều loại sỏi núi lửa, bên ngoài là lớp vữa đá vôi và lớp sơn.

Trên đỉnh kim tự tháp là ngôi đền, có thể là hai ngôi đền giống hệt nhau, thờ hai vị thần chính của thành phố, nam thần Bão và nữ thần Lớn. Trung tâm hành lễ của Teotihuacan mở rộng vào thế kỷ 2 sau CN, đường đi đắp cao mở rộng về phía nam, gia cố bên sườn bằng các ô vuông khổng lồ.

Trước năm 225 sau CN, Kim tự tháp Mặt trời có hình dạng gần giống hình dạng ngày nay, không kể sự sụp đổ của phần đỉnh và bề mặt. Kim tự tháp hoàn chỉnh đo được khoảng 226 m chéo quy cạnh đáy, nhỏ hơn đường chéo góc ở cạnh Kim tự tháp lớn Khufu ở Ai Cập. Chiều cao, kể cả ngôi đền trên đỉnh khoảng 75 m, bằng một nửa kim tự tháp ở Khufu.

Bổ sung vào kim tự tháp đầu tiên là các thanh giằng cấu trúc, ngày nay có thể nhìn thấy vì bề mặt bị phá hủy. Các trụ chống tường mở rộng hướng lên tận phía đỉnh, khoảng cách giữa các trụ chống ắt hẳn đã được lấp đầy, toàn bộ bề mặt được bao phủ bằng một khối xây dài 7 m, một lớp sỏi núi lửa nghiền, sau cùng là vữa vôi và sơn.

Di chuyển vật liệu xây dựng đền 

Để xây dựng đền, phải cần đến một khối lượng vật liệu rất lớn, nhưng vật liệu lấy từ đâu, vận chuyển ra sao? Nhiều giả thiết, vật liệu kềnh càng như đá bọt, sỏi và đá tảng bằng tro núi lửa đầm chặt có thể được khai thác từ bên dưới kim tự tháp. Các cuộc nghiên cứu hệ thống hang động bên dưới Teotihuacan gần đây cho thấy có nhiều hang động từng được cho là mang tính chất tự nhiên, nhưng thực ra, những mỏ đá sau này sử dụng cho các mục đích hành lễ là hang động linh thiêng nằm bên dưới Kim tự tháp Mặt trời đã được gọt đẽo và độn đầy công phu.

Để vận chuyển vật liệu xây dựng, các nhà cai trị và quy hoạch sử dụng dân số đang gia tăng của thành phố Teotihuacan, những người làm việc tích cực nhất ở các thời điểm trong năm khi rỗi việc canh tác dựa trên hệ thống thủy lợi kéo dài từ thành phố xuống tận hồ.

Nếu ước tính thật chi tiết rằng, một người lớn thông thường có thể tham gia công trình 100 ngày mỗi năm, dân số thành phố vào thời điểm khoảng 100 sau CN là 100.000 người, thì họ phải góp thêm hàng triệu ngày công mỗi năm, vận chuyển vật liệu bằng thúng và thực hiện các công việc khác.

Như vậy, việc xây dựng Kim tự tháp mặt trời mất bao lâu? Nếu thử tính toán thể tích kim tự tháp hơn 1 triệu m3, khoảng 30 triệu thúng, mỗi công nhân mỗi ngày đi năm chuyến từ mỏ đá đến công trường, cần đến 6 triệu ngày công, có nghĩa 6.000 công nhân hoàn tất công trình trong 10 năm.

Toàn bộ bề mặt 50.000 m2 được trát vữa, lớp đầu bằng bùn và sỏi núi lửa, sau cùng là lớp vữa đá vôi từ các thung lũng gần đó. Việc xử lý vôi ngốn hết toàn bộ các khu rừng và vì không thể thay đổi điều kiện sinh thái trong thung lũng nên sự xói mòn ngày nay vẫn còn nhìn thấy.

Các nhà cai trị thành phố hoàn tất Kim tự tháp Mặt trời với ngôi đền (hay nhiều đền) trên đỉnh rộng và thiết kế lại phần nền phía trên lối vào hang. Sự bổ sung này mang đến cách thiết kế kiến trúc dễ phân biệt, trở thành dấu ấn kiến trúc của Teotihuacan: vách tấm móng gồm nhiều pa-nô dài nằm ngang trên đỉnh các móng nghiêng, gọi là kiểu talud-rablero, không tìm thấy ở Kim tự tháp Mặt trời.

Sau khi hoàn tất Kim tự tháp Mặt trời, công trình chấm dứt để tu bổ thêm phần trung tâm nghi lễ dân sự trong thành phố. Truyền thống ban đầu của các nhà cầm quyền Teotihuacan đầy quyền năng đã mở đường cho một phong cách lãnh đạo mang tính tập thể nhiều hơn, có lẽ là đại biểu cư dân trong các khu phức hợp căn hộ, vẫn còn người ở trong 400-500 năm sau.

------------

Người lùn Munayi

Năm 1837, ở gần thị trấn Cosaoke của Bang Ohio - Mỹ, người ta đã phát hiện thấy mộ địa của người lùn. Hài cốt được phát hiện ở đây đều cao không đến 90cm. Nhưng do gần nơi mai táng không hề phát hiện được bất cứ văn vật nào nên các nhà khảo cổ đã gặp nhiều khó khăn trong việc xác định nền văn hóa và niên đại sống của những người lùn này. Tuy nhiên, từ số lượng hài cốt đào được trong huyệt mộ có thể thấy nơi đây dân cư tập trung khá đông đúc.

Khoảng 100 năm sau, ở gần thị trấn Gasper của Bang Wyoming - Mỹ, một đội khảo trắc quặng vàng khi làm nổ vách đá đã phát hiện thấy một bộ hài cốt Munayi. Bộ hài cốt Munayi này hai chân xếp vòng, hai tay đặt trên đầu gối sống động như một tượng Phật. Nhìn tướng mạo, bộ hài cốt giống như một người đàn ông trung niên, da hằn đầy nếp nhăn, mũi cao vút, trán rộng, miệng rộng nhưng môi mỏng. Tuy nhiên chiều cao của ông chỉ có 37cm. Bộ hài cốt Munayi này đã thu hút sự chú ý của rất nhiều nhà nhân loại và khảo cổ học.

Họ đã tiến hành nghiên cứu tỷ mỷ bộ hài cốt ấy nhưng không thu được kết quả gì khả quan. Có người cho rằng, đó là một vị thủ nho. Nhưng từ góc độ sinh lý, có người cho rằng ông ta không phải là thủ nho mà là một người lùn. Bên cạnh đó, người ta còn tập trung phân tích vấn đề: Tại sao bộ hài cốt Munayi này lại xuất hiện ở đây? Có người phán đoán đây có thể là tổ tiên của người Indian. Ý kiến này không được đồng tình vì không có căn cứ. Một vài năm sau, bộ hài cốt Munayi được một thương gia Mỹ mua và đưa đến New York. Sau khi được Viện bảo tàng ở Mỹ chụp X-quang và qua chứng minh thế hệ nhân loại học xác nhận đích xác, các chuyên gia đưa ra phán đoán, đây là một người 65 tuổi. Lúc đó, có người nói: trong lịch sử của người Indian ở Shosonisi  và Crao của Wyoming đã từng có truyền thuyết về sự tồn tại của người lùn. Vậy Munayi này có thuộc về tộc người lùn đó không?

Các chuyên gia cho rằng, người lùn không phải là thu nhỏ, không phải bị ngừng phát triển vì khuyết thiếu một yếu tố nào đó của cơ thể mà không đạt được chiều cao bình thường của con người.

Tương truyền 1.000 năm trước đã có một bộ tộc người lùn tập trung ở một vài khu vực thuộc Ba Lan. Sau khi nghiên cứu vô số các hài cốt của họ, giáo sư Tylunniya của trường Đại học Buchis đã cho rằng, dân tộc thấp bé này có lẽ sống vào khoảng thế kỷ I trước Công nguyên. Về sau, một hài cốt người lùn được phát hiện ở Sayasas nước Pháp đã chứng minh: Những bộ xương này đều phát dục bình thường, tỷ lệ thích hợp và không hề có vết tích dị dạng nhưng chiều cao của họ chỉ từ 50-70cm.

Trên Trái đất chúng đa đang sống thực sự đã từng xuất hiện tộc người lùn? Nếu như có thì tại sao các tư liệu văn hiến cổ đại lại không hề ghi chép lại? Cho đến ngày nay chúng ta vẫn chưa có được kết luận xác thực

La Mã Cổ Đại

La Mã cổ đại là một nền văn minh đã từng tồn tại ở châu Âu, Bắc Phi, và Trung Đông từ năm 753 trước C.N. và sụp đổ vào năm 476 sau C.N.. Trong nhiều thế kỉ, người La Mã kiểm soát toàn bộ Tây Âu và tất cả vùng lãnh thổ bao quanh biển Địa Trung Hải và một số vùng đất bao quanh Biển Đen 

Thời kì Quân chủ

Thành phố Rome phát triển từ những khu định cư trên và xung quanh đồi Palatine, xấp xỉ mười tám dặm từ biển Tyrrhenia (một phần của biển Địa Trung Hải) trên dòng sông Tiber. Tại vị trí này sông Tiber có một hòn đảo mà ở đó có thể lội qua sông. Do dòng sông và chỗ cạn, Rome ở vị trí quyết định đối với giao thông và buôn bán. Trong truyền thuyết của người La Mã, Rome được xây dựng bởi Romulus vào ngày 21 tháng 4 năm 753 trước C.N. Romulus, người mà tên đã được coi là sinh ra tên của thành Rome, là người đầu tiên trong 7 vị vua của Rome mà người cuối cùng là Tarquin Kiêu hãnh bị phế truất vào năm 510 hay 509 trước C.N khi La Mã Cộng hoà được thiết lập. Những vị vua thần thoại hay bán thần thoại là (theo thứ tự thời gian): Romulus, Numa Pompilius (Vua hiền Numa), Tullus Hostilius, Ancus Marcius, Tarquinius Priscus, Servius Tullius, và Tarquinius Superbus (Tarquin Kiêu hãnh).

Thời kì Cộng hoà

La Mã Cộng hoà được thành lập vào năm 509 trước C.N, theo những tác giả về sau như Livy, khi nhà vua bị hạ bệ, và một hệ thống dựa trên những quanh chức hành chính địa phương được bầu ra hằng năm. Quan trọng nhất là hai quan chấp chính tối cao, những người cùng nhau áp dụng quyền hành pháp, nhưng phải đấu tranh với Hội đồng Nguyên lão cứ lớn lên về qui mô và quyền lực cùng với lực lượng của nền Cộng hoà. Các chức vị quan toà lúc đầu chỉ được giới hạn cho quí tộc nhưng sau này được mở rộng cho cả người bình dân. Người La Mã dần dần đánh bại những dân tộc khác trên bán đảo Italy, chủ yếu liên quan đến những bộ tộc Ý khác (thuộc dòng Ấn- Âu) như người Samnite và Sabine, nhưng cũng có cả người Entrusca. Mối đe doạ cuối cùng cho đế chế La Mã ở Italy đến khi Tarentum, một thuộc địa lớn của Hy Lạp, nhận được sự giúp đỡ của Pyrrhus thành Epirus vào năm 282 T.C.N. Trong nửa sau của thế kỉ thứ 3 trước C.N, Rome xung đột với Carthage trong 2 cuộc chiến tranh Punic, xâm chiếm Sicily và Iberia. Sau khi đánh bại Macedonia và người Seleucid vào thế kỉ thứ 2 T.C.N, người La Mã trở thành những người chủ không thể chối cãi của vùng Địa Trung Hải. Xung đột nội bộ giờ đây trở thành mối đe doạ lớn nhất đối với nền Cộng hoà. Hội đồng Nguyên lão, khư khư giữ lấy quyền lực cho mình, liên tục phản đối những cải cách đất đai quan trọng. Một hậu quả không lường trước được từ cải cách quân sự của Gaius Marius đó là quân lính thường có lòng trung thành với chỉ huy của họ nhiều hơn đối với thành phố, và một vị tướng hùng mạnh như Marius hay đối thủ của ông Lucius Cornelius Sulla, có đủ khả năng uy hiếp buộc thành phố và Hội đồng Nguyên lão phải nhượng bộ . Vào giữa thế kỉ thứ nhất trước Công nguyên ba người đàn ông, Julius Caesar, Gnaeus Pompeius Magnus, và Marcus Licinius Crassus, đã nắm quyền kiểm soát không chính thức của chính phủ cộng hoà thông qua một hiệp uớc bí mật được biết đến như là Chế độ Tam hùng đầu tiên. Caesar có thể hoà hợp với những đối thủ Pompey và Crassus, cả hai đều là những người cực giàu với quân đội riêng và sự nghiệp thượng nghị sĩ, và hành động vì lợi ích của cả hai người khi bầu chọn quan chấp chính tối cao, trước khi dùng cương vị thống đốc của mình như người cầm quyền của Gaul để tự mình có được danh tiếng quân sự. Sau cái chết của Crassus và sự sụp đổ của chế độ Tam hùng, một sự tách biệt giữa Caesar và Hội đồng Nguyên lão đã dẫn tới nội chiến, với Pompey dẫn đầu lực lượng của Hội đồng. Caesar chiến thắng và được phong làm nhà độc tài suốt đời sau khi từ chối tước hiệu quốc vương . Tuy nhiên, ông ta chiếm lấy quá nhiều quyền lực quá nhanh đối với một vài thượng nghị sĩ, và bị ám sát trong một âm mưu được tổ chức bởi Brutus và Cassius vào ngày 15 tháng 3 năm 44 T.C.N. Một chế độ Tam hùng thứ 2, bao gồm người thừa kế đã được chỉ định của Ceasar Octavian và những cựu trợ thần Mark Antony và Marcus Aemilius Lepidus, lên nắm quyền, nhưng những thành viên của nó nhanh chóng rơi vào một cuộc đấu tranh giành quyền thống trị. Trong nỗ lực cuối giành chính quyền Cộng hoà, Octavian đánh bại Antony tại trận chiến Actium vào năm 31 T.C.N và thôn tính những vùng lãnh thổ của Cleopatra, người vợ phương Đông( và ở Rome, bị khinh miệt) của Antony. Octavian giữ lại Ai Cập như là thuộc địa không chính thức của nhà vua, bảo đảm một thu nhập để lấy lòng những cư dân thủ đô. Giờ đây ông ta nắm lấy quyền lực gần như tuyệt đối với tư cách là thống soái quân sư, người bảo vệ duy nhất của quần chúng, và quyền lực tối cao trên lãnh thổ La Mã, và lấy tên Augustus. Những xác lập hiến pháp trên (đã biến Rome từ một nước cộng hoà thành một đế quốc. Người kế vị được chỉ định của Augustus, Tiberius, lên nắm quyền mà không có cuộc đổ máu nào (thậm chí còn không có nhiều sự kháng cự), và như vậy đã hoàn thành công trình của ông.

Thời kì Đế quốc

Trong thời kì Đế quốc, La Mã đối đầu những cuộc xâm lược của “người dã man” và những khó khăn khác. Để đối phó tốt hơn với nhiệm vụ giữ cả đế chế lại với nhau, hoàng đế bắt đầu chỉ định các tướng trấn giữ các vùng, làm xuất hiện các quyền lựa tập trung chia La Mã thành 2 phần Đông và Tây

Sụp đổ

Theo Edward Gibbon, Đế quốc La Mã đã không chống cự được cuộc xâm lược của người dã man do sự mất lòng tin đối với các cư dân. Họ đã trở nên lười biếng và uỷ mị, giao phó nghĩa vụ bảo vệ Đế chế của họ cho bọn lính đánh thuê người dã man. Vai trò của lực lượng quân đội người dã man trở nên dày đặc và ăn sâu đến nỗi họ có thể dễ dàng vượt mặt Đế chế. Những người La Mã, Gibbon nói, đã trở thành ẻo lả như phụ nữ và không muốn sống theo kiểu quân sự. Thêm vào đó, Gibbon cũng ám chỉ vai trò của Thiên chúa giáo trong sự sụp đổ của Rome. Thiên chúa giáo, ông nói, đã tạo ra niềm tin vào một thế giới khác và gợi ý rằng có một cuộc sống tốt đẹp hơn sau cái chết. Điều này cổ vũ sự thờ ơ giữa những công dân La Mã tin rằng họ sẽ có một cuộc sống tốt hơn sau khi họ chết, do đó huỷ hoại ý muốn của họ về việc duy trì và hi sinh vì Đế chế. Thêm nữa , sự nổi lên của Thiên chúa giáo cũng tạo ra một sự xác định tư hữu quan trọng hơn nhà nước, làm thu nhỏ hơn mong muốn đưa những nhu cầu của nhà nước lên trên của bản thân. Giải thích này được nhìn nhận với thái độ hoài nghi bởi đế chế chỉ bị tan rã ở phía Tây, trong khi ở phía Đông, Đế chế vẫn tiếp tục như là Đế quốc La Mã Phương Đông. Trong Đế quốc La Mã, từ “người dã man” chỉ bất cứ ai không phải là một công dân La Mã, và được áp dụng chủ yếu cho những bộ tộc Bắc Âu ngoài tầm ảnh hưởng của nền văn hoá Roma.

ìm thấy dấu tích thành cổ Atlantis 

Trên những bức ảnh vệ tinh phía nam Tây Ban Nha, các nhà khoa học đã nhận ra các đặc điểm trên mặt đất rất phù hợp với mô tả của học giả Hy Lạp cổ đại Plato về thành phố truyền thuyết Atlantis.

Theo tiến sĩ Rainer Kuehne, thuộc Đại học Wuppertal ở Đức, "hòn đảo" Atlantis mà Plato nói tới có lẽ đơn giản chỉ là vùng bờ biển phía nam Tây Ban Nha, bị một trận lụt phá huỷ vào giữa năm 800 đến 500 trước Công nguyên. Trên vùng đầm lầy mặn được gọi là Marisma de Hinojos, gần thành phố Cadiz này, Kuehne đã nhận ra hai cấu trúc hình chữ nhật trong bùn và các phần của những vòng đồng tâm có thể từng bao quanh chúng. 

Những vòng tròn đồng tâm bao quanh khu vực ngôi đền.  

"Plato viết về một hòn đảo có đường kính 5 stade (925 mét), được bao quanh bởi vài cấu trúc hình tròn - những vòng tròn đồng tâm - một số chứa đất và số khác chứa nước. Trong các bức ảnh của chúng tôi có các vòng đồng tâm y như vậy", Kuehne nói. 

Ông cũng tin rằng những cấu trúc chữ nhật có thể là vết tích của một ngôi đền "bạc" được hiến cho thần biển Poseidon và một ngôi đền "vàng" dâng tặng cho Cleito và Poseidon - tất cả đều được mô tả trong tác phẩm Critias của Plato. 

Tuy nhiên, kích cỡ "hòn đảo" và các vòng của nó trên vệ tinh lại lớn hơn chút ít so với lời kể của Plato. Kuehne cho biết có thể có hai cách giải thích cho hiện tượng này: Thứ nhất, Plato có thể đã đánh giá thấp quy mô của Atlantis. Thứ hai, đơn vị đo đạc cổ đại mà nhà học giả sử dụng - stade - có thể lớn hơn 20% so với cách lý giải hiện nay. 

Hình ảnh tái tạo thành phố Atlantis theo mô tả của Plato. 

Nếu lời giải thích thứ hai là đúng, thì một trong những cấu trúc chữ nhật trên "đảo" hầu như khớp hoàn toàn với kích thước của đền thờ Poseidon trong tài liệu của Plato. 

Những cấu trúc này được nhận ra đầu tiên bởi Werner Wickboldt, một nhà văn và là một người say mê Atlantis, từng nghiên cứu ảnh chụp trên khắp vùng Địa Trung Hải để tìm kiếm vết tích của thành phố mà Plato ghi lại. "Đây là địa điểm duy nhất dường như phù hợp với mô tả của Plato", ông nhận định. Wickboldt cũng bổ sung rằng người Hy Lạp có lẽ đã nhầm lẫn một từ Ai Cập cổ để chỉ bờ biển với một từ có nghĩa "hòn đảo" trong quá trình chuyển ngữ câu chuyện về thành phố Atlantis. 

Ngoài ra, Plato cũng đề cập tới một đồng bằng thuộc Atlantis. Tiến sĩ Kuehne cho biết đó có thể là đồng bằng mở rộng ngày nay từ bờ biển phía nam Tây Ban Nha tới thành phố Seville. Những vùng núi cao mà học giả Hy Lạp nói tới có thể là vùng Sierra Morena và Sierra Nevada. "Plato viết rằng Atlantis rất giàu đồng đỏ và các kim loại khác, trong khi quả thực đồng đỏ xuất hiện rất nhiều trong các mỏ quặng của vùng Sierra Morena", ông nói thêm. 

Kuehne cũng nhận thấy cuộc chiến tranh giữa thành Atlantis và các vùng phía đông Địa Trung Hải theo mô tả của Plato gần giống với cuộc tấn công vào Ai Cập, Cyprus và vùng cận đông trong thế kỷ 12 trước Công nguyên, do những kẻ xâm lược bí hiểm còn được gọi là Người từ biển thực hiện. Từ đó, ông giả thuyết rằng người Atlantis và Người từ biển thực chất là một. Nếu điều đó là đúng, thì thành phố và xã hội Atlantis có thể trùng với nền văn hoá Tartessos thời kỳ đồ Sắt ở vùng phía nam Tây Ban Nha, hoặc với một nền văn hoá đồ Đồng khác chưa được biết tới. 

Truyền thuyết về Atlantis đã ăn sâu vào trí tưởng tượng của các học giả trong nhiều thế kỷ. Tài liệu sớm nhất về vùng đất hư ảo này dường như xuất hiện trong các cuốn sách của Plato về Critias và Timaios. Mô tả của ông về một vùng đất giàu có đến khó tin, tuyệt đẹp và có nền văn minh tiến bộ cao đã thu hút nhiều nhà thám hiểm cất công tìm kiếm vị trí của nó. Một giả thuyết gần đây cho rằng Atlantis chính là hòn đảo Spartel, một bãi bùn nông trong eo biển Gibraltar đã chìm xuống biển khoảng 11.000 năm trước. 

Vì sao đế quốc La Mã bị tiêu diệt? (P1)

Những phế tích của đế chế La Mã có thế này còn rải rác rất nhiều ở châu Âu. 

Dĩ nhiên đã có câu trả lời của các nhà sử học. Ở đây, trong một vị thế khác, các nhà xã hội học và nhân loại học muốn khảo sát vấn đề sụp đổ của đế quốc La Mã dưới góc độ "tính văn hóa" để nhìn thấy một đáp án khác thuộc về những chiều sâu nhân văn.

Vào thời cổ đại, người La Mã thường thực hiện việc hôn nhân theo 4 hình thức. Một là cướp đoạt; hai là thể nghiệm; ba là cộng thực; và bốn là mua bán. 

Hình thức thứ nhất có tính cưỡng chiếm, xảy ra vào thời nguyên thủy. Khi nhân khẩu tăng trưởng, hình thức này được chuyển sang dạng thể nghiệm, tức là nam nữ sống chung một thời, sau đó mới xác định hôn nhân chính thức. Chỉ cần hai bên chung sống liên tục từ một năm trở lên, gia đình cô gái sẽ không còn quyền gia trưởng, và cô ta sẽ thuộc quyền của chồng và gia đình chồng. Thế nào là chung sống liên tục? Người La Mã quan niệm nếu rời bỏ người chồng trên danh nghĩa 3 ngày 3 đêm, coi như cô gái phải làm lại từ đầu. 

Thứ ba là hình thức hôn nhân cộng thực (cũng gọi là hôn nhân tôn giáo) được cử hành long trọng và theo những nghi thức phức tạp. Hôn lễ gồm 3 giai đoạn chính: tống thân (đưa dâu), nghinh thân (đón dâu) và cộng thực (thành thân). Thứ tư là hình thức hôn nhân mua bán. Hình thức này coi phụ nữ như một thương phẩm: Người đàn ông chỉ cần 5 người làm chứng và một người phụ trách chiếc cân là có thể mua được vợ. Trước những nhân chứng, chú rể một tay cầm một vật có giá trị xác định, một tay cầm khối đồng tuyên bố: "Theo luật pháp La Mã, vật này là sở hữu của tôi, tôi dùng đồng và chiếc cân để mua lấy". Sau khi đặt đồng lên cân, anh ta được gia trưởng trao quyền làm chủ người vợ. Đây là hình thức hôn nhân đơn giản được lưu hành rộng rãi nhất ở La Mã thời đó.

Xã hội La Mã cổ đại tuyệt đối hóa quyền của người chồng. Chồng có thể bỏ vợ bất kỳ lúc nào. Trái lại, người vợ luôn phải trung thành. Nếu bắt quả tang vợ ngoại tình, chồng có quyền giết vợ tại chỗ. Thậm chí chỉ cần nghe dư luận đồn đại vợ mình lăng nhăng, người chồng đã có thể "xử lý".

Đến năm 195 trước Công nguyên, phụ nữ La Mã vùng lên, lập thành đội ngũ vây kín Viện Nguyên lão, đòi quyền tự do. Từ lúc đó, không khí nghiêm khắc trong gia đình dần dần không còn nữa và dẫn đến sự phá sản nền đạo đức cũ. Thời này, mục đích chính của người đàn ông trong việc lập gia đình là để có của hồi môn. Vì thế chỉ cần người vợ không làm phiền mình, người chồng có thể cho cô ta tùy ý trong cách sống. Do đó đến khoảng thế kỷ thứ II trước CN, phụ nữ La Mã dần dà thoát khỏi sự ràng buộc của gia đình. Hiện tượng ngoại tình và đời sống tình dục của họ cũng phóng khoáng không thua đàn ông. Trước đấy người phụ nữ không có quyền ly hôn, nhưng bây giờ họ có thể ly hôn với bất kỳ lý do nào. Đến nỗi một nhà thơ đương thời đã mỉa mai:

Trong 5 mùa đông

Nàng thay đến 8 chồng

Và tự hào muốn khắc kỳ công lên bia mộ!

Sự lỏng lẻo của gia đình khiến các ông chồng cực kỳ bất mãn. Vì thế hoàng đế Augustus đã ban bố pháp lệnh: Nếu phát hiện vợ tư thông, người chồng phải ly hôn, nếu không sẽ bị nghiêm trị. Theo điều luật này, "dâm phụ" sẽ bị lưu đày đến một hòn đảo không có dấu chân người và không có quyền tái hôn. Còn "dâm phu" phải lưu đày đến một hòn đảo khác. Thậm chí đàn ông có vợ dan díu với kỹ nữ chưa đăng ký vẫn bị kết tội. Vì thế, số kỹ nữ đến đăng ký tăng vọt lên, đến nỗi nhiều danh môn quý phụ cũng xin đăng ký làm kỹ nữ!

Khởi đầu sự phá sản

Vào thời kỳ cuối của chế độ Cộng hòa, kịch viện và đấu trường phát triển rộng rãi ở La Mã khiến điều kiện gặp gỡ nam nữ dễ dàng hơn. Ở những sân khấu ngoài trời, trai gái có thể ngồi lẫn lộn để xem kịch hoặc đấu vật. Đây là điều kiện thuận lợi để tình yêu nảy nở tự do.

Vào thời viễn cổ, người La Mã ít bàn về văn hóa do họ dồn hết tinh lực vào chiến tranh. Vì thế họ thích nói về kỷ luật, trách nhiệm, hơn là về tính văn hóa. Nhưng khi đại đế quốc La Mã kiến lập, người La Mã trở thành ông chủ của nhiều tài sản kếch xù và các nô lệ, cuộc sống xa hoa đã làm họ thay đổi. Ý thức về "tính" cũng biến dạng. Để thấy rõ sự chuyển hóa này, chúng ta có thể khảo sát sự sùng bái các vị thần của người La Mã. Đầu tiên họ sùng bái những hình tượng lạnh lùng, nghiêm túc, biểu trưng cho đạo đức trừu tượng có ý nghĩa bảo vệ người La Mã. Tiêu biểu nhất là nữ thần lửa bếp - người bảo vệ cho sự thịnh vượng quốc gia và sự bình yên của gia đình. Trong nhiều tác phẩm điêu khắc cổ La Mã, vị nữ thần này được tạo hình rất đoan trang, tư thế chính trực mặc dù hoàn toàn khỏa thân.

Để thờ phụng vị nữ thần, người ta lựa chọn 6 trinh nữ từ những gia đình quyền quý. Từ lúc lên mười, 6 thiếu nữ trên được đưa vào đền để tuyệt đối hiến thân cho nghi thức thuần túy tôn giáo trong 30 năm. Đạo đức của những nữ tế nhân được coi là bảo chứng thiêng liêng về sự hưng vượng của quốc gia.

Vì sao đế quốc La Mã bị tiêu diệt? (P2)

Năm 216 trước Công nguyên, đại quân La Mã thất trận. Cho đây là điềm gở, xuất phát từ sự băng hoại đạo đức của 6 nữ tế nhân, người ta đã cho xử tử họ. Thế nhưng, sau khi đã chinh phục được những vùng đất rộng lớn, dân La Mã lại đột nhiên chuyển ra phóng túng và sùng bái tửu thần Hy Lạp.

Khoảng đầu thế kỷ 2 sau Công Nguyên, người La Mã chuyển sang suy tôn thần Venus. Đây là vị thần đại diện cho tình yêu và tính dục. Vì thế cuộc sống tình dục của người La Mã đã trở nên cực kỳ phóng túng. 

Thời kỳ này, luật pháp La Mã rất trọng nam khinh nữ. Theo quy định, một cô gái muốn về nhà chồng phải có của hồi môn là 150 bảng vàng (khoảng 68 kg), và phải nộp cho nhà chồng trong hạn kỳ 3 năm. Chính vì thế, khi gả con gái út, triết gia Cicero (106 - 45 trước CN) phải tán gia bại sản, thậm chí phải trù tính kế hoạch ly hôn cho con gái để thu lại của hồi môn. Để tránh khỏi phí tổn quá lớn, nhiều người La Mã đã chọn cách giết chết con gái. Và chính luật pháp cũng quy định rằng cha mẹ phải dưỡng dục tất cả các con trai, nhưng trái lại, chỉ có trách nhiệm nuôi đứa con gái thứ nhất mà thôi. Điều này dẫn tới tình trạng trai thừa gái thiếu. Phụ nữ trở thành đối tượng săn lùng ráo riết của đàn ông. Vì thế, hiện tượng thiếu nữ thất trinh rất phổ biến trong xã hội.

Sau khi La Mã chinh phục thế giới, sự tự do tình dục của phụ nữ cũng được nới rộng, nhất là đối với các quý phụ. Không gian giao tiếp khoáng đạt đã phá vỡ nền tảng đạo đức cũ. Người La Mã rất thực tế, họ coi tình ái là một hoạt động nhục thể, có liên quan mật thiết đến tiền bạc và không có ý nghĩa gì về tinh thần. Họ tuyệt đối không có kiểu tình yêu thuần túy tinh khiết của Plato. Xuất phát từ nhận thức bản chất nhục thể là công cụ của tính ái, và tính giao là hành vi tự nhiên giữa hai giới, các chàng trai và các cô gái La Mã đã thoải mái hẹn hò và thực hiện ân ái theo sự tự nguyện đôi bên. Bất kỳ ở đâu, trong phòng, ngoài đồng nội, nơi hành lang, tự miếu, đấu trường. Nói chung, người La Mã yêu nhau cực kỳ tự nhiên.

Thời đó, các kỹ nữ trang điểm rất công phu, khêu gợi. Họ thường đứng đón khách làng chơi dưới những "Fornices" (lầu xanh), vì thế đã nảy sinh nguồn gốc của động từ fornicity (tính giao). Khi phân tích các di tích trên cổ thành Pompeii, các nhà nghiên cứu nhận định: "Trong số những chữ viết và vết khắc thô thiển nơi tường vách và cột trụ hành lang thành Pompeii, hai từ felicitas và felix, có nghĩa là vui sướng và khoái lạc, đập vào mắt nhiều nhất". 

Khoả thân là mốt của người La Mã cổ đại mà biểu hiện rõ nhất là nhà tắm công cộng. Với lý do tắm gội, họ thoải mái cởi bỏ trang phục trước mắt mọi người không chút e ngại. Thậm chí phụ nữ La Mã còn cho phép nam nô lệ thoa dầu, massage thân thể. Đôi khi họ cũng đồng ý cho những nô lệ của mình khỏa thân và tiến hành "tính giao". Không phải chỉ khỏa thân trong gia đình, nơi nhà tắm, người La Mã còn buôn bán nô lệ khỏa thân. Nói chính xác hơn, khi mua bán nô lệ nơi quảng trường, người La Mã cho họ thoát y toàn thân để tiện việc lựa chọn. Trong những thành thị lớn ở La Mã cổ đại, hầu như ngày nào cũng diễn ra cảnh mua bán như thế. Bất kể ở điều kiện thời tiết nào, người nô lệ da đen bị đem bày bán cũng hoàn toàn khoả thân. Họ đứng trên một "khán đài chuyển động" để người mua có thể dễ dàng quan sát, sờ mó, định giá, trả giá.

Số nô lệ ở La Mã rất nhiều. Trong thành phố, cứ khoảng 3 cư dân lại có 1 nô lệ. Con số nô lệ còn cao hơn nhiều lần ở khu vực ngoại thành. Trong các gia đình La Mã, nam chủ nhân chiếm hữu nô lệ như công cụ lao động; nữ chủ nhân biến nam nô lệ thành công cụ hưởng lạc. Hình ảnh về sự phóng túng của tính dục lan tràn khắp xã hội. Trước khi kết hôn, hầu như cô gái nào cũng đã từng "tận hưởng" với nô lệ của mình.

Đề phòng việc mang thai, phụ nữ quý tộc yêu cầu nô lệ phải chấp nhận một số hình thức thiến, hoặc thực hành các hình thức giao hoan mà không gây "hậu quả". Để giữ bí mật cho mình, phụ nữ La Mã còn bắt những nam nô lệ tình dục phải chịu cảnh bị chọc cho mù mắt.

Tại La Mã cổ đại, thoát y vũ là thú tiêu khiển phổ biến. Cách thoát y của các cô gái La Mã rất nhẹ nhàng, đôi khi họ chỉ cần di chuyển ngược chiều, y phục sẽ tự động rơi xuống. Kịch trường La Mã cũng rất phóng khoáng, có thể diễn bất kỳ tác phẩm khêu gợi nào. Mô thức cố định của kịch là cảnh bắt quả tang cô gái khỏa thân. Bất kỳ nam hay nữ diễn viên đều có thể tùy hứng biểu diễn những động tác kích thích dục tính. Tuy vậy, trong lĩnh vực kịch nghệ, địa vị của nữ diễn viên vẫn rất thấp so với nam diễn viên, tương tự vị trí của kỹ nữ, gái bán bar ngoài xã hội.

Ngoài việc phóng túng nơi kịch trường, người La Mã cổ đại còn có cách thể hiện tính dục nơi đấu trường. Ví dụ ở các võ trường giác đấu, khán giả có thể xem những tay tử tù biểu diễn cảnh thần Athis bị thiến đầy máu me, hay cảnh thần Mythi thoát y. Khi Cơ đốc giáo bị bức hại, nhiều nữ tín đồ đã bị ép đến đấu trường biểu diễn. Trước mắt 2 vạn khán giả, bọ bắt buộc phải thoát y để giác đấu với bò tót...

Vì sao đế quốc La Mã bị tiêu diệt? (P3)

Sự phóng túng tính dục của người La Mã được đẩy lên cao điểm qua hình mẫu một nhân vật trứ danh thời đó: hoàng hậu Theodore. Từ một diễn viên ca kịch, từng đóng vai khỏa thân, Theodore đã leo lên địa vị quý tộc, trở thành một nữ hoàng đầy quyền lực và dâm đãng.

Sử gia Procopius (499 - 565), trong cuốn Bí sử, đã viết về người phụ nữ lừng danh này như sau: "Ở Byzantine có một người tên là Akamas, chuyên quản lý các động vật ở đấu trường. Mặc dù mạnh như gấu, nhưng đến thời Anasthatus chấp chính, ông ta đã mắc đột bệnh và qua đời, để lại 3 người con gái: Komith, Theodore và Anasthania, trong đó cô lớn nhất là Komith mới lên 7. Người vợ cải giá. Sau khi trưởng thành, cả 3 cô gái đều rất xinh đẹp, được mẹ cho phép đi biểu diễn trên sân khấu. Do không được huấn luyện chuyên nghiệp về ca múa, Theodore chỉ có thể dựa vào sắc đẹp và tuổi trẻ của mình để chinh phục khán giả. Trong nhiều vở kịch, nàng chấp thuận đóng vai khỏa thân một cách tự nhiên. Từ đó, trong những buổi yến tiệc sang trọng của các gia đình quyền quý, Theodore đều được mời tới để vũ thoát y...". 

Nhờ sắc đẹp và sự phóng đãng, Theodore nhanh chóng nổi tiếng, và trở thành tình nhân của hoàng đế Byzantine. Sau khi được "thăng cấp" quý tộc, Theodore kết hôn với vua La Mã Justinian. Lúc đó nàng mới 16 tuổi. Theodore cùng chấp chính với Justinian trong tư cách hoàng hậu. Nàng được ghi nhận là một nữ hoàng quyền lực và đầy dục vọng. Cho dù các sử gia không tiếc lời bình luận về tính dâm đãng của nàng, nhưng họ cũng phải thừa nhận năng lực của Theodore trong vai trò phụ tá Justinian.

Như vậy, trong đời sống tình ái, người La Mã đã rất coi trọng và tôn vinh khoái lạc. Nhưng họ lại lơ đãng một nhiệm vụ quan trọng, đó là "duy trì nòi giống". Một trong những nguyên nhân đẩy La Mã đến chỗ suy vong là hiện tượng giảm thiểu nhân khẩu một cách nghiêm trọng. Vì thế trong khoảng năm thứ 18 đến năm thứ 9 trước CN, đại đế Augustus (năm 63 trước CN - 14) phải ban bố pháp lệnh mới, quy định quả phụ phải tái giá trong vòng hai năm sau ngày chồng mất. Bất kể ai ly hôn, đều phải đi bước nữa trong thời hạn 18 tháng. Đàn ông không kết hôn, không được thừa kế tài sản. Vợ chồng không có con chỉ được hưởng một nửa di sản của cha ông. Pháp lệnh mới cũng phóng khoáng hơn, cho phép người không cùng giai cấp có thể kết hôn. Người tự do và các nô lệ đã được trả tự do cũng có thể thành vợ chồng. Hơn nữa, nguời đông con sẽ được tưởng thưởng.

Nhưng pháp lệnh của Augustus không đạt được hiệu quả mong muốn vì chủ nghĩa hưởng lạc đã ăn sâu vào đời sống người La Mã. Nhiều người rất sợ có con, và họ dùng biện pháp tránh thai. Mặt khác, dân số La Mã giảm thiểu còn có một nguyên nhân căn bản nữa, đó là đại đa số đàn ông La Mã mất khả năng có con, và phụ nữ mắc chứng vô sinh. Có thể kể 3 nguyên nhân chính sau:

Một là ẩm tửu quá độ. Rượu có thể kích thích tính dục, nhưng lại chế ngự khả năng sinh sản. Một điều tra mới nhất cho thấy, trong 14.000 người nghiện rượu nặng, có tới 1.400 người hoàn toàn mất khả năng sinh con. Người La Mã nổi tiếng là dân tộc "túng tửu cuồng hoan", nhiều người đàn ông có thói quen uống rượu tại nhà tắm công cộng từ trưa hôm trước đến tận ngày hôm sau.

Hai là tắm gội quá mức. Nhà tắm công cộng La Mã nổi tiếng không phải là nơi tắm đơn thuần mà còn là không gian giao tiếp xã hội. Đàn ông La Mã thường có mặt hàng ngày tại địa điểm này, và đôi khi họ tắm từ nửa ngày đến... cả ngày. Nghiên cứu cho thấy, việc ngâm mình quá lâu trong nước nóng làm hạn chế việc sản sinh tinh trùng, ảnh hưởng đến khả năng sinh nở. Nhiệt độ bình thường của dịch hoàn thấp hơn thân nhiệt và các bộ phận khác trong cơ thể, trong khi nhiệt độ nước ở nhà tắm La Mã luôn luôn duy trì ở khỏang 43 độ C, nên dịch hoàn bị ảnh hưởng, dẫn tới nhiều trường hợp vô sinh ở đàn ông.

Ba là nhiễm độc chì mạn tính. Theo nghiên cứu của một nhà xã hội học Mỹ, người La Mã bị chứng nhiễm độc này khiến đàn ông không có con, còn phụ nữ thường đẻ non hoặc thai nhi chết khi vừa lọt lòng. Nguyên do là người La Mã thường sử dụng ống dẫn nước, ly tách, nồi niêu bằng chì. Về phía phụ nữ, họ dùng quá nhiều mỹ phẩm pha bột chì nên rất dễ nhiễm độc.

Vào thời kỳ cuối, do ngâm mình quá lâu trong nước nóng và bị nhiễm độc chì, dân số La Mã giảm đáng kể. Mặt khác, vì sa đà quá đáng vào chuyện tình dục, họ hoàn toàn mất nhuệ khí, thiếu vũ dũng. Cuối cùng, binh lực của họ ngày càng suy yếu, đế quốc La Mã đã nhanh chóng bị tiêu diệt.

Tìm thấy vương quốc Etruscan huyền thoại?

Những bãi đã trắng này có thể là di tích của chợ trung tâm vương quốc Chamars.  

Vương quốc hư ảo của hoàng đế Lars Porsena đang phơi bày dần ra trên những ngọn đồi Tuscan gần Florence, Italy. Được gọi là Chamars, vùng đất này từng là thành bang phồn thịnh nhất của nền văn minh Etruscan - nền văn minh thống trị phần lớn lãnh thổ Italy trước thời đế chế La Mã.

Chamars, nơi hoàng đế Porsena cai trị trong thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên, cũng là nơi giới sử học cho rằng Porsena đã phát động cuộc chiến thành công nhất của mình trước đạo quân La Mã, nhằm giành lại ngai vàng cho vị hoàng đế đi đày Tarquinius Superbus. Porsena bao vây thành phố, nhưng sau cùng đã chấp nhận rút lui trong hoà bình. 

Nếu được xác nhận là đúng, phát hiện sẽ giúp làm sáng tỏ một trong những nhóm người bí hiểm nhất châu Âu, đồng thời mở ra khả năng tìm thấy vị trí ngôi mộ của hoàng đế Porsena. Ngôi mộ này, theo nhà sử học Pliny the Elder, gồm một mê cung rộng 18 mét vuông, với một kim tự tháp trên đỉnh. Còn truyền thuyết thì cho rằng nó được trang điểm với một cỗ xe vàng, 12 con ngựa vàng, một con gà mái vàng và 5.000 quả trứng vàng.

"Không nói đến truyền thuyết, tôi tin rằng khu vực tìm được chính là Chamars. Đây là thành phố Italy lớn nhất trước thời đế chế La Mã, đại diện cho toàn bộ nền văn minh Etruscan, từ điểm khởi nguồn cho đến thời kỳ suy tàn", Centauro nhận định.

Sống trong một liên minh lỏng lẻo các thị trấn rải rác từ sông Po ở phía bắc tới vùng Campania ở phía nam, người Etruscan đã xây dựng nên nền văn minh tiên tiến nhất của Italy trước thời La Mã. Họ xuất hiện trong lịch sử Italy khoảng năm 900 trước Công nguyên và dần chiếm lĩnh hầu hết lãnh thổ này trong khoảng 5 thế kỷ. Vào năm 90 trước Công nguyên, sau nhiều thế kỷ suy thoái, họ trở thành các công dân La Mã.

Không có tác phẩm văn chương nào ghi lại nền văn hóa của người Etruscan. Cũng rất ít dấu vết trong ngôn ngữ khó hiểu phi Ấn-Âu của họ còn được lưu lại. Chỉ có những ngôi mộ trang trí cầu kỳ là cung cấp cho chúng ta đôi nét thoáng qua về thế giới của họ.

Centauro tin rằng Chamars nằm kẹp giữa dãy núi Calvana của vùng Prato và núi Morello của vùng Florence, trong một vùng ngoại ô xa xôi. Và thực tế, khu vực rộng lớn này đã từng hé lộ những phát hiện quan trọng.

Hai thế kỷ trước, những công nhân xây nhà đã khai quật được một cổ vật cực kỳ giá trị - bức tượng đồng về một người đàn ông trẻ có tuổi khoảng 500-800 trước Công nguyên, nay được đặt tại bảo tàng Anh. 

Còn tuần trước, các công nhân khi đào móng để xây dựng một kho hàng đã tình cờ bắt gặp những dấu vết mà các nhà khảo cổ gọi là "một trong những thành phố Etruscan nguyên vẹn nhất từng được khám phá ở Tuscany". Có niên đại từ thế kỷ 5 trước Công nguyên, khu định cư này được xây dựng trên bờ sông Bisenzio, ngay bên ngoài cái mà Centauro khẳng định là tường thành phòng thủ của Chamars.

"Thành phố chắc chắn đã bị bỏ rơi. Có lẽ nước sông Bisenzio đã tràn vào đó", Gabriella Poggesi, nhà khảo cổ tham gia đợt khai quật cho biết. Tuy vậy, ông không bình luận về giả thuyết của Centauro, cho rằng có mối liên hệ giữa thành phố mới tìm được và vương quốc Chamars.  

Centauro tin rằng khu định cư mới tìm thấy chỉ là một trong số vài khu định cư nằm trong tường bao của vương quốc Chamars. Ông cùng cộng sự đang xem xét chi tiết tất cả những phát hiện trong khu vực gần thành phố. Nhóm của Centauro đã khám phá ra các bức tường đá quây quanh một khu vực rộng 18 km2. Trong khu vực này, có rất nhiều mộ, móng nhà rộng và một hệ thống các kênh dẫn nước phức tạp cũng như bể nước nhân tạo.

Gần cánh phía đông của các bức tường thành này là một vùng thôn quê có tên gọi Chiuso. Centauro cho rằng đó chính là Clusium, một khu dân cư nằm trong vương quốc Chamars, từng bị tướng La Mã Silla tấn công và bao vây vào năm 89 trước Công nguyên.

Nếu Centauro đúng, phát hiện này sẽ xác minh cho giả thuyết của Pliny về mộ phần của hoàng đế Lars Porsena. Pliny viết rằng thi hài hoàng đế được chôn "dưới thành phố Clusium", với những cái chuông và chuỗi hạt treo khắp nơi, ngân nga lên khi gió thổi qua chúng.

Tuy nhiên, các quan chức địa phương đến nay vẫn từ chối đề nghị cho phép khai quật khu vực này.

Nhiều chuyên gia nghi ngờ những dấu vết đổ nát mà Centauro tìm thấy là của Chamars, thay vì thế, họ tin rằng thành phố cổ này nằm ở vùng Chiusi, tây nam Florence ngày nay.

Bạn đang đọc truyện trên: Truyen2U.Pro